ngược về thời minh 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 55 - Giáo sỹ Tây Dương

Dương Lăng dời mắt, thấy bên cạnh tiểu công tử trắng ngần này là một vị trung niên đầu đội mũ mềm, vận quan phục ống tay rộng. Người này da dẻ trắng trẻo, khí chất ung dung, tướng mạo giống tiểu công tử kia đến bảy tám phần, có lẽ là một cặp cha con. Có điều vị văn sỹ trung niên này dáng người mập mạp hơn, tháng hai đầu xuân khí trời vẫn lạnh lẽo, ấy vậy mà trên da thịt nhẵn nhụi của ông ta lại lấm tấm mồ hôi.

- Chuyện này...

Dương Lăng có phần lúng túng. Thật tình thì y không hề biết câu nói đó có thật sự bắt nguồn từ kinh phật hay không, nhưng vừa nghe tiểu thư sinh kia một hơi kể ra mấy bộ kinh phật mà mình chưa hề nghe qua thì biết ngay người ta mới đúng là kẻ đọc sách, hơn nữa hiểu biết về phật học rất sâu. Y nào dám đối đáp bậy bạ, chỉ đành cười trừ nói:

- Ờ... Chuyện này, hà hà, tại hạ thích đọc sách nhưng lại không ham mê tìm tòi nghiên cứu, thật sự không nhớ ra được đó là điển cố trong bộ kinh thư nào.

Tiểu thư sinh nọ đảo cặp mắt đen tròn của mình, rồi đột nhiên cười ranh mãnh nói:

- Ta hiểu rồi, vị huynh đài này vốn là thuận miệng nói bừa để chọc cho nương tử được vui, quả nhiên cơ trí! Bội phục! Bội phục!

Người trung niên đứng cạnh bên cười lớn nói:

- Con chớ có ăn nói lung tung!

Tuy là mở miệng trách móc, nhưng giọng ông ta lại rất nhẹ nhàng, cả khuôn mặt toát lên vẻ hiền hậu của người cha, hiển nhiên là rất cưng chiều con mình.

Tiểu thư sinh không phục nói:

- Vốn dĩ là vậy mà. Tỷ tỷ, tướng công nhà tỷ có phải là thường hay nói bậy nói bạ để tỷ được vui không?

Hàn Ấu Nương đỏ mặt, khẽ xì một tiếng, ánh mắt ngọt ngào liếc nhìn Dương Lăng, tình cảm dịu dàng muốn che giấu cũng không được. Người thiếu niên vỗ tay cười nói:

- Trăng hoa đón gió vui xuân mới, hàng liễu bên cầu đắm khói sương (1), đẹp thì đẹp đấy, nhưng làm sao có thể sánh được với vẻ đẹp 'mày tựa núi xuân, mắt như thu thuỷ' của nữ tử khi chìm trong bể tình? Lúc tỷ tỷ nhìn tướng công nhà mình, nụ cười thật xinh, thật ngọt! Có điều đệ thấy tướng công nhà tỷ tướng mạo anh tuấn, tài hoa hơn người, nhất định là rất giỏi cưng nựng người khác. Tỷ tỷ phải trông chừng cẩn thận, kẻo không huynh ấy lại đi trêu hoa ghẹo nguyệt đấy!

Hàn Ấu Nương hứ một tiếng, nhưng vừa định cất lời phản bác thì chợt nhớ đến Mã Liên Nhi. Người con gái xinh đẹp đó, mình là thiếu nữ mà nhìn còn thấy tim đập thình thịch, thế nhưng lại cam tâm tình nguyện đi theo Dương Lăng làm tiểu thiếp. Nói không chừng tướng công thật sự rất giỏi cưng nựng người khác, khiến cho con gái nhà người ta bị mê hoặc rồi trao tim cho chàng. Vừa nghĩ nàng vừa liếc nhìn Dương Lăng với vẻ ai oán.

Người văn sỹ trung niên kia cười lớn, xoa đầu con mình rồi trách:

- Nói xàm!

Dứt lời ông ta quay sang Dương Lăng chắp tay cười nói:

- Vị công tử này, con ta tính tình bướng bỉnh, mong công tử thứ lỗi cho!

Dương Lăng vội đáp:

- Không dám, không dám. Lệnh công tử thông minh lanh lợi, học thức hơn người, như ngọc trong đá, tương lai nhất định sẽ có tài làm Trạng Nguyên.

Tiểu thư sinh nọ nghe xong, vẻ mặt như cười mà không phải cười, thần sắc hơi cổ quái. Dương Lăng thấy vị trung niên kia không xưng họ tên cũng không có ý trò chuyện với mình, bèn cáo từ:

- Tại hạ phải cùng nương tử vào miếu dâng hương, thứ lỗi không hầu chuyện được!

Văn sỹ trung niên cười nói:

- Không sao cả, công tử xin cứ tự nhiên!

Dương Lăng vừa mới kéo Ấu Nương bước dọc theo hành lang mấy bước, tiểu công tử nọ đột nhiên lại gọi với theo:

- Này, huynh đài, huynh vẫn chưa nói vì sao kiếp trước lại quay đầu nhìn ta hơn năm trăm lần đó nhé.

Dương Lăng quay đầu cười nói:

- Chuyện này... Chỉ có hai loại người có thể khiến ta liên tục ngoái đầu lại nhìn: một là giai nhân tuyệt thế vô song, hai là loại vô lại nợ tiền không trả. Không biết tiểu huynh đệ ngươi là loại người nào?

Nói xong y cười lớn rồi kéo Ấu Nương rảo bước bỏ đi.

Tiểu thư sinh vỗ cây quạt nhỏ thếp vàng, nghiêm túc cân nhắc một hồi lâu:

- Gì thế nhỉ... Tuyệt thế giai nhân? Không ổn. Vô lại nợ tiền... Hình như cũng không ổn. Ai da, tiểu tử này chơi mình!

Ngẫm ra được ý xỏ xiên, tiểu thư sinh bèn hậm hực cất bước đuổi theo. Văn sỹ trung niên không kịp ngăn lại, chỉ đành lắc đầu cười, khẽ đưa tay vẫy một cái. Trong hành lang, hơn mười hán tử trước đó vốn trông như những du khách đứng ở xung quanh lần lượt hiện thân, lặng lẽ đi theo ông ta.

Văn sỹ trung niên chậm rãi đi theo sau con trai. Một lão bộc ăn mặc như gia nhân bước đến bên cạnh dìu ông ta, nhỏ giọng nói:

- Lão gia, sắc trời không còn sớm nữa, chúng ta hãy quay về thôi!

Văn sỹ trung niên mỉm cười bảo:

- Ha ha, đứa nhỏ này ngày thường ngay cả một người bạn chơi cùng cũng không có, hiếm khi có được người cãi vặt cùng thế này, cứ để nó chơi thêm một chút đi!

Lão bộc gật đầu, khom lưng dìu vị trung niên hơi mập mạp này vất vả bước vào điện Kim Cương. Bỗng nhiên từ phía điện Thiên Vương ở gian sau vang đến những âm thanh huyên náo. Vẻ mặt người văn sỹ trung niên chợt trở nên căng thẳng, chân bước nhanh hơn, giọng lo lắng:

- Mau đi xem, đã xảy ra chuyện gì vậy?

Băng qua sảnh điện, chỉ thấy trước điện Thiên Vương có vài nhà sư Tây Tạng mặc hồng bào, đội mũ cao đang đứng trên nguyệt đài (*), phía dưới có năm người mặc trường bào đang đứng, còn một người nằm dưới đất, hai bên đang cãi nhau ầm ỹ.

(*): bục có mặt chính nhô ra phía trước, ba mặt đều có bậc lên xuống.

Tiểu thư sinh, Dương Lăng và Ấu Nương đứng cùng một chỗ ngóng cổ xem náo nhiệt. Sáu, bảy hán tử tráng kiện đứng chung quanh bọn họ, có vẻ như cũng là du khách xem náo nhiệt, song lại ngầm vây bọn họ vào giữa để bảo vệ.

Trên đài, những nhà sư Tây Tạng bô lô ba la quát tháo. Dưới đài, những người mặc trường bào thân hình dong dỏng cao cũng vung tay múa chân, to tiếng biện hộ bằng một thứ ngôn ngữ kỳ lạ, bộ dạng trông cực kỳ giận dữ.

Lúc Dương Lăng nhìn thấy trên nguyệt đài là mấy nhà sư Tây Tạng thì đã biết hôm nay vào nhầm cửa chùa, tiếp đó khi thấy mấy người đàn ông mặc trường bào đứng cạnh đỉnh đồng bên dưới bục đài đều là người Tây Dương mũi cao, mắt xanh, thì lại càng cảm thấy kỳ quái hơn. Hai tốp người nước ngoài "ông nói gà bà nói vịt", cãi lộn nhặng xị một hồi lâu, một người Tây Dương dáng cao gầy trong đám người ở dưới bục đài đột nhiên bước ra, mặt đỏ gay, căng họng la lên:

- "Khắp dưới gầm trời, chẳng chỗ nào không phải đất của vua. Trong cả bốn bể, chẳng một ai không là bề tôi của vua." (2)

Các người đuổi bọn ta đi là không đúng lý!

Vị tiểu công tử kia cùng phụ thân đưa mắt nhìn nhau, không nhịn được bật cười. Nhà sư Tây Tạng trên bục cũng hầm hầm nói bằng tiếng Hán:

- Không phải là bọn ta... không thu nhận các người. Nhưng đám hòa thượng Tây Dương các người ý đồ không tốt, đem người mắc bệnh đến đây, sẽ lây nhiễm.

Người Tây Dương ở dưới bục đài lắc đầu lia lịa:

- Không, không, không. Bệnh mà y mắc không phải là ôn dịch, sẽ không lây nhiễm đâu.

Người hai bên đều dùng thứ tiếng Hán giả cầy của mình tranh cãi qua lại, mấy người Dương Lăng đứng ở cạnh bên lúc này mới lờ mờ đại khái hiểu ra được.

Thì ra mấy người Tây Dương này là nhà truyền giáo đến từ Phật Lăng Cơ (tên gọi Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ngày xưa), đã lăn lộn ba năm ở Đại Minh, mấy ngày trước vừa mới thành công thu được một tín đồ đầu tiên của bọn họ ở đất này, đó là một tên ăn mày mắc phải bệnh nan y, toàn thân lở loét, phập phù thoi thóp, thế là liền như đoạt được chí bảo mang y về chùa Hộ Quốc mà mình đang ở nhờ, một mặt chăm sóc y, mặt khác đem giáo lý Thiên Chúa giáo truyền bá. Những nhà sư Tây Tạng lo bệnh tật của kẻ này sẽ lây nhiễm, thương lượng mấy lần vẫn không có kết quả, bèn đuổi bọn họ ra khỏi cửa.

Dương Lăng thấy người mà đám truyền giáo nước ngoài này cứu trợ là người Hán, tuy rằng có phần vì tư lợi, muốn phát triển giáo đồ, nhưng cũng tính là một việc thiện, liền bước lên giúp họ cãi lý. Nhưng mấy nhà sư Tây Tạng kia căn bản bất chấp lý lẽ, không hề có lòng từ bi của người cửa phật.

Tiểu thư sinh cùng phụ thân thì thầm mấy câu, kế đó ngoắc tay gọi một người hầu lại nhỏ giọng căn dặn. Người hầu đó chạy lên nguyệt đài, nói mấy câu với một Lạt ma chấp sự. Vị Lạt ma chấp sự đó nghe nói vị thiện nhân dưới đài muốn quyên góp ba nghìn lạng bạc tiền hương hoả thì mặt mày lập tức tươi roi rói, ngay lập tức đáp ứng yêu cầu thu nhận mấy nhà truyền giáo Tây Dương kia.

Ngôi chùa to lớn này có tới hơn mười gian, muốn an bài một khu phòng độc lập nho nhỏ cho mấy người kia đương nhiên không thành vấn đề. Hôm nay bọn họ chuyện bé xé ra to, muốn đuổi mấy người Tây Dương này đi, nguyên nhân thật sự là vì tuy trong con mắt người Hán thì đám sư sãi Lạt Ma cố nhiên là kỳ quái, nhưng trong mắt các nhà sư này thì những hòa thượng tóc vàng mắt xanh kia còn là những kẻ man di mọi rợ ăn thịt người chưa được khai hóa.

Có được chỗ nương thân, đám truyền giáo vui sướng không thôi, nhao nhao hướng về vị đại thiện nhân và Dương Lăng - người đã lên tiếng cất lời chính nghĩa - tỏ lòng cảm ơn rối rít, rồi sau đó họ tới chỗ ở cũ đem chăn đệm, rương hòm đưa vào hậu viện. Người Tây Dương vóc dáng cao nhất có vẻ như thủ lĩnh của tốp giáo sỹ nọ không ngừng dùng thứ tiếng Hán hết sức kém cỏi của mình để tỏ lòng cảm tạ với Dương Lăng và tiểu thư sinh.

Dương Lăng rất tò mò về những nhà truyền giáo này. Trong ấn tượng của y, các nhà truyền giáo Tây Dương đến Trung Quốc trong thời kỳ đầu vẫn khá văn minh và chính trực, thật sự xuất phát từ tín ngưỡng tôn giáo cuồng nhiệt nên mới không ngại gian khổ đến phương Đông xa xôi truyền đạo, cho nên khi trò chuyện với bọn họ y luôn rất khách sáo.

Những nhà truyền giáo này nhận mệnh lệnh của Tòa thánh đến phương Đông truyền giáo, đi đến đâu cũng gặp trắc trở, có rất ít người chịu để ý đến bọn họ. Lúc này thấy Dương Lăng chủ động bắt chuyện, nhà truyền giáo đó rất hưng phấn, lập tức lắp bắp tự giới thiệu hành trình đến đây của mình.

Thì ra nhà truyền giáo này tên là Sa Tư Các, y và mấy mươi vị giáo sỹ nhận chỉ lệnh của giáo hội Da-tô (Jesus) Phật Lăng Cơ tổ chức thành đoàn đến phương Đông truyền giáo. Ban đầu họ đến được Ấn Độ, nhưng ở đó truyền bá giáo lý lại rất khó khăn và nguy hiểm, một vài giáo sỹ còn vì bất đồng tôn giáo mà đã bị người dân bản xứ đánh chết.

Sau đó bọn họ nghe nói đi tiếp về phía đông có một quốc gia còn hùng mạnh và văn minh hơn, thế là bọn họ rời khỏi Ấn Độ, xuôi theo đường biển để đến Đại Minh, kết quả khi đội thuyền đến Malacca (3) thì bị quân đội nơi đó bắt giữ. Về sau bọn họ mua chuộc lính canh, thông qua thương nhân bản xứ lén vượt biên đến Nhật Bản, sau khi lưu lại vài giáo sỹ ở đó, năm người còn lại đi thuyền tới vùng Giang Chiết, rốt cuộc đã đến được Đại Minh.

Nhưng muốn truyền bá giáo lý Phúc Âm của Thiên Chúa giáo tại vùng đất của người Hán này rõ ràng là có chút khó khăn. Đối với dân chúng thì một vị thần bẻ xương đàn ông để tạo ra đàn bà hiển nhiên là không thần thông quảng đại bằng Nữ Oa nương nương nặn đất thành người. Hơn nữa vị thần Tây Dương kia còn không dạy cho đôi nam nữ đáng thương biết thế nào là liêm sỉ lễ nghĩa, cả ngày để cho bọn họ trần truồng lang thang trong vườn cây ăn quả. Thứ thần chẳng đâu vào đâu này hiển nhiên không có sức hấp dẫn như Phật Tổ Như Lai từ bi hoà nhã và Thái Thượng Lão Quân có thể hàng yêu phục ma rồi.

Cho nên năm nhà truyền giáo này lăn lộn vất vưởng hơn hai năm ở vùng Giang Chiết mà không kiểm nổi một tín đồ, bất đắc dĩ đành phải đến kinh sư, hy vọng có thể được hoàng đế Đại Minh triệu kiến để có cơ hội truyền đạt giáo lý ở Đại Minh.

Để người Hán có thể tiếp nhận dễ dàng hơn, giờ đây bọn họ đổi sang mặc trường bào, học Tứ thư Ngũ kinh. Để phù hợp với quan niệm "Trời tròn Đất vuông" (4) của người Trung Quốc, họ thậm chí đã vẽ lại một phần bản đồ thế giới mà mình mang theo, đặt vị trí của Trung Quốc ở chính giữa, có thể nói là đã dốc sạch vốn liếng ra rồi. Đáng tiếc quan viên bộ Lễ nghe nói bọn họ không phải là sứ giả đại diện cho tiểu bang dị quốc đến yết kiến thiên triều thì đã đuổi bọn họ đi ngay, đến giờ còn chưa gặp được Hoàng đế mà bọn họ đã sắp trở thành ăn mày rồi.

Tiểu thư sinh nọ nghe xong cảm thấy khá thú vị, không nhịn được bèn chen miệng vào:

- Quốc gia của các người ở đâu? Rộng chừng nào vậy?

Sa Tư Các lắp bắp nói:

- Ở phương Tây, rất xa rất xa, phải ngồi thuyền rất rất lâu. Quốc gia của chúng tôi vốn cực kỳ nhỏ, còn không lớn bằng vùng Giang Chiết, nhưng hai mươi năm trước nữ vương Castilla thành hôn cùng quốc vương Aragón (5) của chúng tôi, hai nước đã sát nhập lại. Đất nước của chúng tôi bây giờ đã lớn hơn rất nhiều, còn lớn hơn vùng Giang Chiết một chút.

Chương 56 - Đêm mê ly

Tiểu thư sinh không nhịn được bèn cười nói:

- Phí hơi cả ngày trời, vẫn chỉ là một vùng Giang Chiết thôi mà. Làm sao ở đó các ngươi có thể để cho phụ nữ làm quốc vương được nhỉ? Bà ta cưới người khác thì lấy cả quốc gia đem làm của hồi môn à?

Dương Lăng cười nói với y:

- Quốc gia phương tây đúng là có thể để cho phụ nữ làm vua. Ngươi chớ thấy quốc gia Phật Lăng Cơ bé nhỏ mà lầm, hải quân của bọn họ rất hùng mạnh, hiện tại có thể nói là tung hoành bốn biển, gần như không có đối thủ. Ở nơi đó, bọn họ có một loại hoạt động nổi tiếng nhất gọi là đấu bò tót, thú vị hơn nhiều so với mấy trò đá gà chọi dế của bọn trẻ con Đại Minh chúng ta. Đấu sỹ bò tót tài giỏi có thể một kiếm đâm xuyên tim một con bò đực khổng lồ nặng cả nghìn cân.

Sa Tư Các trở nên hưng phấn, vội nói:

- Thật khó tin! Ngài đã đến quốc gia của chúng tôi sao? Ở Đại Minh có rất ít người biết tới chuyện ở nước chúng tôi. Lạy Chúa, thậm chí có người nói ở đó chúng tôi ăn thịt người nữa cơ.

Y nhún nhún vai, vẻ mặt vô tội, nói tiếp:

- Thượng đế chứng giám, trên đường đến phương đông, chúng tôi cũng sợ nhất là gặp phải tộc mọi ăn thịt người.

Dương Lăng nghe thấy thế thì cười ầm lên. Vị văn sỹ trung niên nọ hứng thú quan sát y một chút, mỉm cười không nói gì. Tiểu thư sinh nghe Dương Lăng khen ngợi hải quân của Phật Lăng Cơ hùng mạnh thì lấy làm không phục, vốn định nhắc đến hạm đội khổng lồ dưới trướng Trịnh Hòa với bảy lần đến đại dương phía tây (1) của bản triều, bỗng nghe đến võ sỹ đấu bò gì đó, lập tức nảy sinh hứng thú, vội hỏi:

- Võ sỹ đấu bò gì thế? Ngươi hãy mau nói cho ta nghe, chơi hay lắm sao?

Đang định trả lời, Dương Lăng chợt nhìn thấy Ấu Nương đang đứng ở một bên hiếu kỳ nghe mình giảng giải, y không khỏi giật thót người. Y vốn là một tú tài nơi sơn thôn hẻo lánh, dựa vào cái gì mà biết tường tận những chuyện nơi đất khách quê người? Mặc dù không lo Ấu Nương sẽ vì vậy mà nghi ngờ gì, nhưng nếu để cho nàng hỏi tới thì sẽ không tránh khỏi phải tốn nhiều nước bọt giải thích một phen. Thế là y cười ha hả nói:

- Đấu bò thật sự không phải là trò cho con nít chơi, rất là nguy hiểm đó. Nếu ngươi có hứng thú, ngày thường rảnh rỗi hãy đến thăm mấy vị hoà thượng Tây Dương đây, hỏi bọn họ một chút không phải sẽ biết ngay sao? Ta và nương tử còn có việc, không thể để chậm trễ quá lâu, phải cáo từ chư vị rồi.

Tiểu thư sinh trợn mắt, miệng lẩm bẩm:

- Đấu bò rất hay sao? Chờ ta lớn thêm một chút ta sẽ đấu một trận, không những đấu bò mà ta sẽ đấu cả hổ nữa! Hừ, dám xem thường ta sao?

Sa Tư Các nghe Dương Lăng nói xong thì vội vàng cất tiếng:

- Khách nhân tôn quý, xin hãy chờ một chút, tôi có vài món lễ vật nhỏ tặng cho các vị.

Y vội vã cầm một chiếc rương nhỏ lên, lấy ra vài món đồ, cầm trên tay rồi nói:

- Hôm nay đa tạ các vị đã giúp đỡ, ở đây có mấy món đồ nhỏ, xin tặng cho các vị làm lễ vật.

Trong tay y cầm hai chiếc đồng hồ quả quýt và một cái lăng kính tam giác. Trong hai chiếc đồng hồ quả quýt bằng bạc đó, một cái trên vỏ khắc bộ xương khô, cái còn lại khắc cây thánh giá. Tiểu thư sinh rất hiếu kỳ, không hề khách sáo cầm lấy ngắm nghía. Vị văn sỹ trung niên nọ hiển nhiên cũng chưa từng thấy qua thứ này, mặt đầy vẻ tò mò, song lại chỉ mỉm cười đứng bên cạnh con mình xem y cầm chơi.

Sa Tư Các miệng cười toe toét chỉ cho tiểu thư sinh đó cách sử dụng lăng kính tam giác và đồng hồ quả quýt. Tiểu thư sinh nghe xong liền cầm lăng kính tam giác chạy qua một bên soi lên ánh đèn quan sát, sau đó tíu tít nói với phụ thân về cảnh tượng mới lạ vừa nhìn thấy.

Nhìn những món đồ của Sa Tư Các, Dương Lăng thầm nghĩ: "Những nhà truyền giáo này phần lớn đều tinh thông triết học, vật lý, hoá học, nếu triều đình nhà Minh có thể xem trọng bọn họ, để những nhà truyền giáo này làm môi giới, tăng cường giao lưu văn hoá và khoa học kỹ thuật giữa phương Đông và phương Tây, có lẽ chúng ta sẽ không gặp phải tình trạng bế quan tỏa cảng, mọi phương diện dậm chân tại chỗ, khiến cho sau này Mãn Thanh nhập quan, hàng trăm nghìn người Hán phải chết, càng sẽ không xuất hiện cục diện bốn trăm triệu đồng bào bị người ta ức hiếp mổ xẻ ở thời cận đại. Nếu Hoàng đế đã yêu thương thái tử, mà vị Hoàng đế Chính Đức tương lai này lại khá ham chơi, vậy mình có thể lợi dụng một chút, có lẽ ngày mai tiến cung nên dâng chút lời ’sàm ngôn’”.

Nghĩ đến đây, y bèn thấp giọng nói với Sa Tư Các:

- Sa Tư Các tiên sinh, tại hạ dày mặt muốn xin tiên sinh một cây thánh giá và một chiếc đồng hồ quả quýt. Đối với quý quốc và giáo lý của các vị, ta cũng có đôi chút hiểu biết, khi nào thuận tiện ta sẽ góp lời với triều đình, hy vọng có thể khơi dậy sự trọng thị của triều đình, cho phép các vị gây dựng giáo hội, tuyên truyền giáo lý.

Sa Tư Các nghe vậy thì vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, run giọng hỏi:

- Ngài là quan viên hay là quý tộc triều đình? Ngài có thể gặp được Hoàng đế bệ hạ sao?

Dương Lăng vội nói:

- Nhỏ tiếng chút đi! Hà hà, Sa Tư Các tiên sinh không cần hoài nghi, ngày mai ta sẽ vào cung gặp Hoàng đế.

Sa Tư Các mừng đến mặt mày rạng rỡ, vội vàng tháo cây thánh giá đeo trên cổ xuống, xong lại chạy đến chỗ một chiếc rương khác lấy ra thêm một chiếc đồng hồ quả quýt. Xem ra bọn họ cũng biết "mật ngọt chết ruồi" thì sẽ dễ được người ta tiếp nhận hơn là "Thượng đế yêu thương nhân loại", cho nên lúc đến phương Đông đã mang theo không ít lễ vật.

Sa Tư Các trịnh trọng trao lễ vật vào tay Dương Lăng, nói:

- Ngài là quý nhân của chúng tôi, rất hy vọng có thể nhận được sự giúp đỡ của ngài.

Dương Lăng gật đầu mỉm cười, đoạn cất cao giọng nói với tiểu thư sinh:

- Tiểu huynh đệ, sau này gặp lại!

Tiểu thư sinh đó đang áp một chiếc đồng hồ quả quýt vào tai, tò mò lắng nghe tiếng tích tắc, tích tắc bên trong, nghe vậy bèn vẫy tay tiễn y. Xoay người đi được vài bước, Dương Lăng chợt quay đầu lại mỉm cười rồi nói với Sa Tư Các:

- Đúng rồi, nếu giáo sỹ tiên sinh muốn tuyên truyền giáo lý, có thể thử truyện trò với các cụ bà láng giềng trước xem sao, có lẽ sẽ dễ thành công hơn đấy.

Sa Tư Các lấy làm kỳ quái hỏi:

- Tại sao?

Dương Lăng bắt chước y nhún vai, cười nói:

- Tình hình các nước bất đồng, những thứ mê tín của chế độ phong kiến này, à, những chuyện này, ở nơi này của chúng ta phụ nữ lúc nào cũng là những người thích tin theo trước. Ha ha ha, cáo từ!

Dương Lăng và Ấu Nương rời khỏi chùa Hộ Quốc. Đi dọc theo con phố lớn được một lát, Hàn Ấu Nương đột nhiên kéo ống tay áo y, bẽn lẽn quay đầu nhìn về phía chùa Hộ Quốc, ấp úng nói:

- Tướng công, chúng... chúng ta không xin tượng phật sao?

Thấy nét mặt e thẹn của nàng lúc cố lấy can đảm nói ra những lời như vậy trông hết sức mê người, Dương Lăng nhịn không được bèn cố ý trêu:

- Thôi, trời đã tối rồi, hôm khác chúng ta hẵng đi.

Hàn Ấu Nương lại giật giật ống tay áo y, trề môi, cúi gằm mặt, chẳng nói chẳng rằng, tựa như cô bé đáng thương đang bị ức hiếp. Dương Lăng thấy vậy thì thầm ngứa ngáy trong lòng, không nhịn được bèn thấp giọng cười nói:

- Nương tử bé bỏng, mong sớm bị tướng công ”hiếp đáp” đến thế cơ à? Ha ha, về nhà đi, tướng công đã xin được tượng phật rồi.

***

Hàn Ấu Nương đặt chậu nước rửa chân bên cạnh Dương Lăng, ngồi xổm tháo giày cho y, sau đó hỏi:

- Tướng công, mau nói cho thiếp đi, chàng xin được tượng phật lúc nào vậy?

Hàn Ấu Nương ngâm chân Dương Lăng vào trong nước, vừa nhẹ nhàng chà chân cho phu quân, vừa ngước mắt nhìn y. Dương Lăng lấy từ trong ngực ra cây thánh giá nọ, tay cầm sợi dây, y vừa cười hề hề vừa lắc lư nó ở trước mặt nàng. Cặp mắt Ấu Nương sáng lên, vội vàng chùi tay vào vạt áo rồi cầm cây thánh giá lên xem.

Chớp chớp hàng mi dài, nàng chăm chú nhìn một hồi lâu rồi nhíu mày tò mò hỏi:

- Tướng công, đây là ông phật nào vậy? Thật là quái lạ, sao lại mặc ít đồ như thế chứ?

Ánh mắt Dương Lăng đảo như rang lạc, tiện miệng đáp:

- Thì cũng giống như mấy La Hán mà nàng thấy trong chùa đó, rất nhiều người đều để trần cánh tay. Ông Phật này thì để trần cả đùi.

- Ưm!

Ấu Nương lại nghiêng đầu xem xét một hồi, không yên tâm hỏi:

- Tướng công, ông phật râu xồm đùi trần này có linh không vậy? Đã khai quang chưa?

Dương Lăng đáp:

- Quang rồi, sao lại không quang, quang nữa thì sẽ thành ở trần đó (2). Vị thần này tên là Cơ Đốc, nàng có thấy quan cao nhất trong Cẩm Y vệ chúng ta được gọi là Đề đốc không? Đề đốc tức là trông coi, giám sát, cai quản và dẫn dắt Cẩm Y vệ đó, đủ lợi hại chưa? Cơ... Đốc này à, đương nhiên là giám sát và cai quản… - Nói đến đây y chợt cười hề hề, không dám đùa giỡn lung tung nữa. (Chữ “Cơ” trong tiếng Trung phát âm là “ji”, mà “ji ji” là từ để chỉ dương vật của đàn ông, có lẽ Dương Lăng đang định nói tới cái này.)

Trước kia y không hề tin vào thần thánh, nhưng từ lúc đầu thai chuyển thế đến nay, có vài chuyện y thật sự không dám đem ra bông đùa.

Dương Lăng ngó xuống, thấy Hàn Ấu Nương đang cúi đầu chăm chú rửa chân cho mình, khuôn mặt xinh xắn toát lên vẻ hiền thục của người vợ đảm đang, cánh môi cong cong mỉm cười, mê người khôn tả.

Cô bé xinh đẹp trẻ tuổi này bất kể nghèo khó khổ sở thế nào vẫn luôn theo sát bên y, xem y như bầu trời, như tính mạng của chính mình, chưa từng cất một lời oán thán. Y thì lúc nào cũng ngây ngây ngô ngô, gặp sao hay vậy, may mắn lắm mới có được vị trí như ngày hôm nay. Nhưng nếu không có bờ lưng non nớt của Ấu Nương ở phía sau gánh đỡ mà không hề oán trách một lời ấy, y không biết liệu mình có phải đã sớm biến thành một đống xương mục rồi hay không. Vân vê sợi dây chuyền bạc trong tay, nhìn cây thánh giá bằng bạc ròng đó, Dương Lăng bỗng nhớ tới câu thề mà rất nhiều người đã trang trọng cất lên lúc thành hôn:

"Em bằng lòng làm vợ của anh. Suốt cuộc đời này, dù hạnh phúc hay đau buồn, dù giàu sang hay nghèo khổ, dù khỏe mạnh hay bệnh tật, em đều sẽ luôn hết lòng với anh, không xa rời anh, mãi mãi ở bên anh!"

Trong những người từng nói câu nói này, không biết có bao nhiêu người đã thật sự thực hiện được nó? Nhưng Dương Lăng không chút nghi ngờ rằng mặc dù Ấu Nương không biết và cũng sẽ không nói câu thề đó, nhưng không những nàng đang thực hiện nó, mà sẽ còn mãi tiếp tục làm như vậy.

Dương Lăng cũng âm thầm cất lời thề: “Ấu Nương, chúng mình đã từng đùm bọc lẫn nhau, sau này cũng sẽ không bỏ rơi nhau. Ấu Nương, nàng chính là của cải quý giá nhất của ta.”

Lòng y nóng ran, bất thình lình rút chân ra xỏ vào giày, khom người bế Ấu Nương lên. Ấu Nương kêu lên một tiếng, giọng hoảng hốt:

- Tướng công, chàng làm gì vậy?

Dương Lăng đặt nàng lên đầu giường, khẽ bảo:

- Ngồi ngay ngắn lên nào, nàng đã vì tướng công mà nếm biết bao cay đắng, chịu biết bao đau khổ, mãi cho đến hôm nay mới là đêm động phòng hoa chúc chân chính từ sau khi nàng được gả cho ta, nhưng tướng công lại không có rượu thơm nến đỏ, không có khách chúc đầy nhà. Lúc vừa mới đến nhà chồng, vì tướng công mà nàng đã phải uất ức tự mình kéo khăn đỏ trùm đầu(3). Đêm nay, hãy để tướng công rửa chân cho nàng, hầu hạ nàng để chuộc tội!

- Gì cơ?

Ấu Nương nghe xong, khuôn mặt tràn ngập sự hoảng sợ, giãy nãy nói:

- Không thể được! Tướng công, chàng vạn vạn lần không thể làm thế được. Phụ nữ hầu hạ đàn ông của mình là điều nên làm, là bổn phận, nhưng tướng công mà rửa chân cho thiếp thì sẽ bị giảm phúc đó!

Dương Lăng giữ chặt lấy hai chân nàng, ngâm chúng vào trong nước, giọng cương quyết bảo:

- Ngồi yên nào! Chỉ được cái nói mò, chân Ấu Nương đẹp như vậy, tướng công có thể rửa chân cho nàng, đó là phúc khí của tướng công. Đấy không phải là giảm phúc, phải là thêm phúc mới đúng.

Chân Ấu Nương co rúm, ngón chân khẽ gập lại, mặc cho y nhẹ nhàng xoa bóp. Đôi chân ngọc nhỏ bé thanh tú ấy mỹ lệ vô ngần, đường cong bàn chân mềm mại đẹp đẽ, gầy mà không để lộ xương.

Trên đỉnh đầu khẽ vang lên tiếng nức nở, từng giọt từng giọt nước mắt nhỏ xuống chậu nước, Dương Lăng đành phải lên tiếng:

- Ấu Nương, nàng khóc gì chứ? Hôm nay là ngày vui của chúng ta, phải vui lên, nếu không sẽ xui xẻo lắm đấy!

- Ưm!

Ấu Nương vội lau nước mắt, rưng rưng nói:

- Tướng công, sớm mai canh mấy chàng lên triều vậy, để thiếp còn gọi chàng dậy.

Dương Lăng nghĩ ngợi một chút rồi đáp:

- Là canh ba giờ dần. Ha ha, nha đầu ngốc, giờ là lúc đêm xuân nghìn vàng của chúng mình, thế mà nàng lại còn nghĩ ngợi đến mấy chuyện đó.

Ấu Nương cắn môi, cười thẹn thùng. Lòng bàn chân vừa bị Dương Lăng gãi nhẹ, nàng liền rụt chân về vì nhột, miệng khẽ rên rỉ một tiếng. Dương Lăng ngẩng đầu, chỉ thấy hàng mi nàng cong cong, bờ môi hơi vểnh, một vẻ tựa vui tựa hờn, quyến rũ đến thấu xương, khiến con tim y không kìm nổi phải xao động. Cuối cùng y đã biết được thế nào mới là điên đảo tâm hồn.

Đêm, đã bắt đầu.

Chương 57 - Đêm xuân ngắn ngủi

Thổi tắt đèn? Không được!

Trốn vào trong chăn thoát y? Không được!

Dưới sự cấm cản của đấng lang quân "bạo chúa", Hàn Ấu Nương đành phải nhắm mắt trút bỏ xiêm áo, để lộ một thân hình mịn màng mềm mại. Ngay trước mắt Dương Lăng bất chợt chói lòa, cái yếm đỏ tươi cùng chiếc quần lót màu hồng sen mỏng manh không cách nào che giấu được thân thể thanh cao thoát tục của nàng, tấm thân thiếu nữ gần như phơi trần trong ánh sáng lờ mờ càng khiến người ta phải hoa mắt.

Trông thấy ánh mắt si dại của Dương Lăng, Ấu Nương ngượng ngùng "ưm" một tiếng rồi vội vàng xoay người, đưa tấm lưng trắng mịn về phía y.

Dương Lăng nín thở sáp lại gần, nhẹ nhàng đẩy Ấu Nương xuống giường, rồi bất chợt đưa tay giật chiếc quần lót của nàng. Ấu Nương yêu kiều kêu lên “ối” một tiếng, bàn tay không kịp giữ lại, chiếc quần đã bị y kéo tuột xuống. Ấu Nương ngượng quá, vội ôm lấy gò má nóng hổi của mình, đôi chân liên tục đạp xuống chiếc đệm giường tỏ vẻ phản kháng, bờ mông tròn lẳn trắng phau lúc lên lúc xuống đập thẳng vào mắt Dương Lăng.

Trông Ấu Nương lúc này tựa như một trái đào mật chín mọng và thơm ngát, từ eo trở xuống, đường cong mê người dọc hai bên thân nàng lượn xuống tạo nên một vẻ thanh nhã và gợi cảm vô cùng, lại thêm sự uốn lượn lên xuống nhịp nhàng trên làn da mịn màng nõn nà ấy thật khiến người ta không kìm nổi những ý nghĩ ám muội. Làn da nàng mịn màng như trứng gà bóc dưới ánh sáng lại lộ ra vẻ óng ánh lung linh, thực khiến người ta phải nuốt nước miếng ừng ực.

Dương Lăng nuốt nước bọt, ngón tay vuốt nhẹ theo cặp chân thanh tú săn chắc của Ấu Nương mơn trớn lên trên. Đôi chân khả ái của Ấu Nương hơi co lại, hai mắt cá chân yêu kiều dính sát vào nhau, cặp đùi khép chặt đến nỗi một ngón tay cũng không chen được vào.

Cảm giác được sự căng thẳng của nàng, Dương Lăng khẽ mỉm cười. Y từ tốn cởi bỏ áo quần rồi nhẹ nhàng trườn lên tấm thân non nớt láng mịn của Ấu Nương. Ấu Nương lập tức cảm nhận được thân thể trần trụi của tướng công, mặt nàng càng đỏ hơn, nhưng lại không dám giãy giụa nữa.

Dương Lăng nhẹ nhàng đưa tay lần mò khám phá, khẽ thò vào trong chiếc yếm xoa nắn bầu ngực xinh xắn của nàng. Dưới sự vân vê của y, nhũ hoa nho nhỏ đã nhanh chóng săn cứng. Dần dần, hoà cùng sự âu yếm nhẹ nhàng mà điêu luyện của Dương Lăng, hơi thở dồn dập của Ấu Nương đã chuyển thành những tiếng rên rỉ đầy khêu gợi. Dưới những cái vuốt ve mơn trớn của y, thân thể nàng khẽ run lên từng chập, bên dưới đã bắt đầu ẩm ướt.

Một cảm giác trước nay chưa từng đó lan tỏa khắp người Ấu Nương , vừa khiến nàng hoang mang, lại vừa đem đến cảm giác khoan khoái lạ kỳ khó mà diễn tả bằng lời. Nàng ngượng đến nỗi da thịt toàn thân đều ửng lên màu phấn hồng khêu gợi. Giọng run rẩy ngọt ngào, nàng cầu khẩn:

- Tướng công, xin... xin chàng... tắt đèn đi!

- Không! - Dương Lăng hôn phớt trên lưng nàng một cái rồi si mê nói:

- Ta muốn nhìn nàng, nếu để cho vẻ mỹ lệ thế này lặng chìm trong bóng tối, ông trời sẽ không tha cho ta đâu. Ta muốn nhìn nàng, dù có qua một trăm, một nghìn năm nữa, ta cũng sẽ vẫn nhớ tới cái đêm mà Ấu Nương xinh đẹp đã dâng hiến tình yêu và thân thể của nàng ấy cho ta.

Hàn Ấu Nương lấy tay che lấy khuôn mặt đỏ bừng, lời tán tụng vừa dịu dàng vừa chứa chan tình cảm của phu quân khiến nàng như ngây ngất. Ngón tay của Dương Lăng nhẹ nhàng tháo nút thắt trên chiếc yếm duy nhất còn lại trên người nàng rồi giật nhẹ ra. Sống lưng Ấu Nương thẳng tắp, xuôi theo đó xuống dưới là một khe trũng bí ẩn mà vô cùng đẹp đẽ. Nút thắt chiếc yếm vừa bị cởi ra, khi tấm thân mềm mại của nàng được lật lại, phần khuôn mặt lộ ra sau hai bàn tay đều đã đỏ bừng.

Dương Lăng hài lòng chống người dậy, hai mắt loé lên ngọn lửa của tình yêu. Khi y vừa tính sáp lại mơn trớn cặp môi anh đào của Hàn Ấu Nương, nàng bỗng nhiên "a" lên một tiếng, thình lình bỏ hai tay ra, mở mắt căng thẳng hỏi:

- Tướng công, chàng đã đeo tượng phật chưa?

Chỉ thấy ngay trước tấm ngực trần của Dương Lăng, cây thánh giá nọ đang đung đưa chậm rãi. Ấu Nương ngượng chín người, vội vã nhắm mắt lại. Động tác ngây thơ cùng thân thể trẻ trung của nàng toát ra sức hấp dẫn mạnh mẽ, khiến cho hơi thở Dương Lăng lập tức trở nên gấp gáp hơn.

Y không nhịn được nữa, lập tức cúi xuống hôn lên bầu ngực xinh xắn của Ấu Nương, một cánh tay mò xuống vuốt ve bờ eo thon thả của nàng, khiến cho vùng bụng phẳng lì kia căng cứng lại. Ngón tay y lướt qua nơi nào, da gà liền nổi lên nơi ấy.

Dương Lăng chăm chú nhìn hàng mày liễu của nàng, khẽ lấy chân tách hai chân nàng ra, ngực đè lên thân thể nhỏ nhắn của nàng. Trực giác của phụ nữ khiến Ấu Nương bất giác trở nên yên lặng, cặp mắt đen láy mở ra đầy hoảng sợ. Hai cánh tay thon thả của nàng bấu chặt vào cánh tay Dương Lăng, cơ thể run rẩy đợi chờ thời khắc căng thẳng đó.

Cặp mắt của Dương Lăng bỗng cũng trở nên đen tuyền, miệng nhẹ gọi tên Ấu Nương, lại hơi nâng người lên, rồi cuối cùng khẽ khàng cất tiếng:

- Ấu Nương, tướng công đến đây.

- Đừng! Khoan đã, tướng công! - Ấu Nương bỗng nhiên kêu lên. Dương Lăng vội vàng ghìm cương trước vực, giật mình hỏi:

- Sao thế Ấu Nương? Nàng... Nàng không muốn...?

Ấu Nương đỏ mặt đáp:

- Không, không phải. Tướng công, chàng ngồi dậy đi, thiếp... thiếp quên khăn trắng...

Vừa nói nàng vừa thẹn thùng quay đầu qua phía bên, cố vươn tay sang chỗ chiếc chăn vẫn còn xếp bên cạnh. Tối nay lúc trở về nàng đã đi tìm chiếc khăn trắng nghiệm hồng mà mẹ tặng khi xuất giá, sau đó lặng lẽ nhét dưới đáy chăn của mình. Trong thời khắc chỉ mành treo chuông, rốt cuộc nàng kịp nhớ ra, may mà chưa làm lỡ đại sự.

Dương Lăng thấy nàng lôi tấm khăn trắng tinh ra, giống như là phất cờ trắng đầu hàng, thì không khỏi có cảm giác dở cười dở khóc. Nàng là người vợ mà y yêu thương nhất, trong lúc này đây y chỉ muốn nàng có thể ghi nhớ khoảnh khắc ngọt ngào và niềm hạnh phúc khi hai người thuộc về nhau trong lần đầu tiên này chứ không phải là nơm nớp lo sợ nằm lên chiếc khăn nhỏ xíu kia, mọi tâm tư đều tập trung chờ đợi y kiểm nghiệm sự trinh trắng của nàng. Y hy vọng Ấu Nương cũng có thể hưởng thụ khoái lạc cùng y chứ không phải chỉ một mực hiến dâng.

Ấu Nương đang mím môi lúng túng muốn lót khăn trắng dưới mông mình, Dương Lăng chợt giật lấy nó vứt sang một bên. Nàng tròn xoe mắt sửng sốt, lắp bắp nói:

- Tướng... tướng công, chàng... chàng làm gì vậy?

- Không cần cái đó, rườm rà quá đi. Nương tử à, phải có hứng… thú, hiểu không?

- Đi… Đi đâu? (Trong tiếng Trung chữ “thú”(qù) đọc giống chữ “đi”(qù), Ấu Nương nghe nhầm – ND.)

Dương Lăng đưa hai tay lần xuống dưới mông Ấu Nương, xoa bóp hai bờ mông tròn lẳn của nàng, khoé miệng mang theo một nụ cười mỉm đầy mê hoặc. Y kề bên tai nàng khẽ nói:

- Đi đến đây này. Tướng công không muốn cầm quân đối trận. Đêm nay tướng công muốn cướp trại công thành, để tiểu nương tử võ nghệ siêu quần của ta phải giơ tay đầu hàng...

...

Toàn bộ thể xác và tâm hồn của hai người hoà quyện vào nhau, dư âm của cuộc mây mưa càng làm cho cả 2 cảm thấy tâm hồn dào dạt và vô cùng thỏa mãn. Trong lần đầu đón nhận "mưa móc" Ấu Nương đã "đầu hàng" tới ba lần, sau đó Dương Lăng mới được tận hứng trong cơn khoái cảm, rồi y ôm nàng chìm vào giấc ngủ say.

Đang ngủ say sưa không biết trời trăng mây nước, Dương Lăng đột nhiên choàng tỉnh. Y mở mắt ra, chỉ thấy Ấu Nương đã mặc xiêm y, khoác áo dài, đang ngồi bên cạnh đẩy khẽ y:

- Tướng công, nên thức dậy rồi. Tướng công, hôm nay phải lên triều đó.

Dương Lăng lờ đờ ngó ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài trời vẫn tối như bưng, quay đầu nhìn lại, dưới ánh đèn hắt sáng, Ấu Nương sau khi đón nhận mưa móc lúc này vẫn còn mặt mày ngây ngất, tóc mai rối loạn, vẻ thiếu phụ thướt tha ấy đẹp đến nỗi khiến người phải nín thở.

Con tim Dương Lăng thoáng xao động, y đưa tay kéo nàng ôm vào lòng, hôn phớt lên môi nàng rồi cười nói:

- Trời còn tối mà, gọi tướng công dậy sớm như vậy, có phải là muốn tướng công trò chuyện cùng nàng không? Đêm qua tướng công mệt quá, cho nên... gần gũi nàng xong thì đã ngủ luôn.

Ấu Nương được y ôm vào lòng, con tim vui phơi phới, lại nghe y nhắc đến cái chuyện vừa xấu hổ vừa ngọt ngào kia, khuôn mặt càng đỏ ửng lên, nhất thời cả người mềm nhũn. Nàng vốn đang nũng nịu lay Dương Lăng dậy, nhưng giờ lại cảm thấy mình vừa bị tướng công ôm vào lòng thì ngay cả tay cũng đã mềm nhũn, không còn chút sức lực, thế là không kìm nổi vừa ngượng ngùng vừa quýnh quáng kêu lên:

- Tướng công, chàng mau dậy đi! Không còn sớm nữa đâu, sắp đến giờ Dần rồi. Thiếp đã làm xong bữa sáng, hôm nay chàng phải đi diện kiến hoàng đế đó!

- Hả? - Dương Lăng giật nảy mình. Y vốn chẳng có bao nhiêu ấn tượng với giờ Dần, giờ Mão gì gì đó của thời đại này, nhất thời không nghĩ rằng bây giờ bên ngoài mới chỉ có vẻ như hơn bốn giờ sáng mà đã đến giờ rồi.

Lúc này thì Dương Lăng cũng quýnh quáng lên, vội vàng trở mình ngồi dậy. Vừa ngồi dậy, y bỗng phát hiện trên đệm có một miếng vá vuông vắn. Tấm đệm giường này là tấm đệm được hai người mang theo từ Dương Gia Bình, do họ tạm thời chưa có thời gian mua sắm vật dụng mới. Tuy rằng trên đệm có mấy vết vá, nhưng Dương Lăng nhớ là chỗ này không hề bị rách. Y lấy làm lạ hỏi:

- Ấu Nương, chỗ này bị rách lúc nào vậy? Đừng có vá tới vá lui nữa, chi bằng hôm nào đó chúng ta đi mua ít vải bông làm lại giường đi!

Ấu Nương cụp hàng mi xuống, mặt đỏ như vải điều. Nàng thẹn thùng lấy từ sau lưng ra một miếng vải đã được gấp lại ngay ngắn, bẽn lẽn nói:

- Còn không phải đều là do chàng..., đây là... chuyện trọng đại của nữ nhi, thiếp lại không thể để lại ở chỗ đó, ngượng chết đi được.

Dương Lăng dòm dòm, miếng vải đó rõ ràng là mới vừa được cắt từ tấm đệm ra, hơn nữa, tuy đã được gấp lại, nhưng bên trên vẫn thoáng lộ ra màu đỏ.

- Ớ?... Ý? Ồ...

***************************

Mặt trời đã lên cao được ba con sào, Dương Lăng đang đứng bên ngoài điện Trung Hoà, bụng đói lép kẹp. Cái lão Hoàng đế này cũng thật làm cao quá đi, nếu đã không muốn tiếp kiến sớm thì bắt người ta dậy sớm thế để làm cái quái gì cơ chứ?

Lần đầu lên triều, hơn nữa lại không quen thuộc kinh thành, cho nên cơm sáng còn chưa kịp ăn thì Dương Lăng đã phải lật đật ba chân bốn cẳng chạy đến Tử Cấm Thành. Cũng phải nói là các quan viên trong triều đình này đều dậy rất sớm, lúc Dương Lăng đến nơi thì đã có rất đông đại thần đang chầu chực bên ngoài Ngọ môn.

Lúc được Lưu Cẩn dẫn vào hoàng cung thông qua lối nhỏ, Dương Lăng còn tưởng là mình được đãi ngộ đặc biệt, không ngờ rằng lại bị đưa thẳng đến điện Trung Hoà, sau đó được cho hay rằng Hoàng đế đã lên dự buổi tảo triều (1), khi về mới gặp y.

Chờ từ lúc trời còn tù mù cho đến tận hừng đông, rồi từ lúc hừng đông đến tận bây giờ, Dương Lăng uể oải nhìn cái bóng dưới chân mình, sau đó lại bắt đầu ngó nghiêng xung quanh. Lưu Cẩn dẫn y đến chỗ này xong thì không biết đã lặn đi đâu mất, để y đứng chờ một mình ở đây. Trước điện, thị vệ nghiêm mắt nhìn thẳng, không hề liếc y lấy một cái. Dương Lăng cũng không dám chủ động bắt chuyện. Những cung nữ thi thoảng ra vào điện thì dường như lại rất có hứng thú với y, lần nào cũng đưa mắt liếc nhìn.

Dương Lăng cũng trộm ngắm bọn họ. Tuy có câu rằng "con gái mười tám không có ai là xấu", nhưng phần lớn những cung nữ này cũng chỉ là dung mạo đoan trang, vóc dáng cân đối, không được như trên ti vi, cung nữ người nào người nấy đều xinh đẹp mê người. Dương Lăng ngó một hồi rồi cũng bắt đầu “nghiêm mắt nhìn thẳng” luôn.

Đang khi cái bụng lại "ùng ục" kháng nghị một hồi, Dương Lăng chợt trông thấy trước điện có một đội ngũ đang đi tới, phía trước là một vị tướng quân cao lớn dẫn đầu đội nghi trượng. Phía sau, bên dưới tán lọng màu vàng là một chiếc long liễn (*) được khiêng bởi tám gã thái giám đang đi về phía y. Tinh thần Dương Lăng lập tức trở nên phấn chấn.

(*: nguyên văn là "bộ liễn", một loại kiệu tám người khiêng của vua)

Vừa trông thấy long liễn, bọn cung nữ, thị vệ, thái giám gần xa lần lượt đều quỳ xuống đất. Vừa mới ưỡn lưng xong, Dương Lăng cũng vội vàng bắt chước quỳ theo. Đội ngũ đông đảo cuồn cuộn đi qua bên người y, tiến thẳng vào trong điện Trung Hoà, căn bản chẳng ghé mắt nhìn tới những người bên cạnh.

Dương Lăng vừa quỳ dưới đất vừa thầm lắc đầu, hoàng đế bất quá làm việc ở ngay trong nhà, vậy thì kiếm nhiều kẻ rảnh rang như vậy để làm gì chứ? Nhưng mà quả thực y không biết, đội nghi trượng này vẫn còn là ít. Nếu như hôm nay là ngày cử hành hội triều lớn thì trong đội nghi trượng còn sẽ có hai con hổ, báo, bốn con voi, năm chiếc lễ xa, đội ngũ đó càng đông đảo và hoành tráng hơn thế này nhiều. Đế vương đương nhiên phải có phong phạm của đế vương, mà phong phạm chính là dựa vào sự hoành tráng

Thấy một con kiến đang từ bên gối bò nhanh qua, Dương Lăng co ngón tay búng nó sang một bên. Con kiến lăn mấy vòng trên mặt đất rồi cuộn người lại giả chết. Một lát sau, phát hiện không có nguy hiểm gì, nó lại lật đật bò dậy rồi vội vã trốn đi.

Khoé miệng Dương Lăng không khỏi hơi nhếch lên, thoáng lộ một nụ cười: trong mắt hoàng đế, mình chẳng phải cũng chỉ như là một con kiến thôi sao. Y hơi ngẩng đầu, đội nghi trượng vẫn đang đi về phía trước, những kẻ cầm cờ, cầm lọng, cầm kim qua (2), nườm nượp nối đuôi nhau không dứt. Thấp thoáng dưới những lá cờ, một góc trời xanh thẳm và cao vời vợi hiện ra.

Dương Lăng nhìn đến ngơ ngẩn, trong lòng thầm nghĩ: “Hôm nay, có thể đi đến nơi trung tâm quyền lực của thiên hạ, mình đã không còn là một con kiến cỏn con nữa. Nếu cho mình thời gian và cơ hội, dưới bầu trời của trang lịch sử này, liệu mình sẽ là một lá cờ ngạo nghễ tung bay rồi tan biến theo năm tháng, hay là một toà lầu sừng sững mãi mãi không đổ sụp?”

Đội nghi trượng chia ra đứng ở hai bên hành lang, im lìm bất động. Phỏng chừng hoàng đế lão gia cũng đã đói, thế nên phải uống chút trà, ăn chút điểm tâm. Mãi một hồi lâu rất lâu sau mới thấy một tên thái giám đi ra ngoài cửa điện Trung Hoà, vung phất trần lên, giọng the thé gọi:

- Tuyên thị độc Dương Lăng tiếp kiến!

Lúc đi Lưu Cẩn đã dạy y một số lễ nghi căn bản của cung đình, thế nên Dương Lăng nghe xong bèn vội vàng bước lên, cất cao giọng nói:

- Thần Dương Lăng xin vâng mệnh.

Tiểu thái giám đó hơi mỉm cười nói:

- Dương thị độc, mời theo ta vào! - Nói đoạn hắn xoay người đi trước. Dương Lăng cúi đầu rảo bước vào theo.

Ở tiền thế, lúc đi thăm Cố Cung y cũng đã đến điện Trung Hoà này, nhưng bố cục và cách bài trí bên trong hiện giờ rõ ràng có chỗ không giống. Dương Lăng cũng không dám ngó nghiêng lung tung, chỉ cố theo chân tên tiểu thái giám đó đi vào trong. Đi đến cuối tấm thảm đỏ tươi, tiểu thái giám chợt lánh sang một bên, cao giọng nói:

- Thị độc Dương Lăng bái kiến hoàng thượng.

Dương Lăng biết người ngồi bên trên nhất định là đương kim thiên tử - hoàng thượng Hoằng Trị. Y quỳ xuống đất, hai bàn tay hướng về phía trước và áp xuống tấm thảm, dập trán lên đầu ngón tay, lấy đủ hơi rồi cất cao giọng nói:

- Vi thần Dương Lăng khấu kiến hoàng thượng.

Phía trên, một giọng nói khoan thai thanh nhã cất lên:

- Miễn lễ, bình thân!

- Tạ ơn bệ hạ! - Dương Lăng đứng dậy, cung kính lui qua một bên, đầu hơi cúi, mắt nhìn qua mũi tới thẳng chỗ tim. Tuy rằng trong lòng y cũng muốn tận mắt nhìn diện mạo vị hoàng đế Hoằng Trị này một chút, nhưng con mắt lại không dám ngó lung tung. Ánh mắt y chỉ khẽ động đậy, trông thấy phía trước có một đôi giày thuộc loại dành cho quan lại, dường như còn có một vị quan viên khác đang ở đây.

Giọng nói ung dung thanh nhã kia lại cất lên:

- Lưu khanh, cứ như vậy đi. Khanh hãy soạn chỉ nói với quốc vương Triều Tiên rằng thái tử tuổi còn nhỏ, vốn không cần dâng nữ tử tới làm gì. Có điều trẫm vẫn niệm tình hắn có lòng, mặc dù những nữ tử đó ai nấy đều da dẻ thô ráp, vừa béo vừa lùn, không được tốt lắm, song trẫm đều đã phong làm nữ quan.

Dương Lăng nghe mà méo mồm, thiếu chút nữa thì không nhịn được mà bật cười thành tiếng. Có lẽ lúc soạn chỉ vị Lưu đại nhân này sẽ không đưa nguyên lời nói thẳng như vậy vào, nhưng được chính tai nghe hoàng đế ban xuống thánh dụ thú vị như thế, quả thực cũng rất hiếm có.

Chỉ nghe vị Lưu đại nhân đó cười ha hả nói:

- Thần nghĩ quốc vương Triều Tiên cũng biết là thái tử nhỏ tuổi, cho dù có dâng lên nữ tử xinh đẹp thì cũng khó có thể được yêu thích, vậy nên đã lựa vài ả mà có cho đi cũng không tiếc để tống đến chỗ bệ hạ đấy.

Hoàng đế Hoằng Trị nghe xong cũng không kìm nổi cười rộ, rồi lão hổn hển nói:

- Vẫn là khanh mồm mép lanh lợi! Ha ha, hắn nhỏ mọn nhưng trẫm thì không thể hẹp hòi, lễ vật tặng lại không được làm mất khí phách của thiên triều ta. Đi đi, tự đi soạn chỉ là được.

- Vâng, thần tuân chỉ. - Vị Lưu đại nhân đó đáp lời, sau đó khom người lui ra.

Dương Lăng cũng nghe nói vị vua Hoằng Trị này chỉ yêu thương mỗi một mình đưong kim hoàng hậu, không lập thêm phi tần nào nữa. Hiện giờ thái tử lại nhỏ tuổi, nói không chừng quốc vương Triều Tiên lại thật sự có ý định này.

Vị Lưu đại nhân kia ở trước mặt hoàng đế mà vẫn dám bông đùa, chắc hẳn là cận thần được sủng ái bên cạnh Hoằng Trị, nhưng không biết là vị nào. Lão ta có quyền soạn chỉ... Nghĩ đến đây, trong lòng Dương Lăng máy động, chợt nhớ ra người đương thời khi bình luận về ba vị đại học sỹ trong triều có nói "Lý Công mưu trí, Lưu Công quyết đoán, Tạ Công ngay thẳng", chẳng lẽ vị Lưu đại nhân này chính là đại học sỹ Lưu Kiện (3)?

Lúc này chợt nghe Hoằng Trị nói:

- Ngươi chính là Dương Lăng ư? Ồ, tuổi so với thái tử cũng không lớn hơn bao nhiêu, tốt lắm, tốt lắm... A, ngươi là..., Dương khanh, ngẩng đâu lên đi!

Chương 58 - Đối đáp lung tung

Vốn Dương Lăng không hề có cảm giác kính sợ Thiên tử như những kẻ đọc sách đương thời, hơn nữa con người ta khi đói cũng rất thiếu kiên nhẫn cho nên y hoàn toàn chẳng có tâm tình để nói mấy câu của kẻ nô tài như kiểu "hạ thần sợ là…”, “hạ thần không dám…" gì gì đó, rồi còn phải đợi Hoàng đế cười vang mấy tiếng, phất tay phán cho một câu "Trẫm xá tội cho ngươi". Thế nên vừa nghe vua Hoằng Trị nói xong, y lập tức ngẩng đầu, đưa mắt nhìn ra đằng sau long án (bàn làm việc của vua).

Vị Hoàng đế này dáng người hơi mập một chút, trông rất uy nghi. Đầu ông ta đội mũ Dực Thiện (*), người vận long bào cổ chật, ống tay áo rộng, mặt mũi trông hơi quen quen. Trông thấy tướng mạo của y, vua Hoằng Trị bỗng dưng đứng dậy, lông mày hơi nhướng lên, cười ha hả nói:

- Hoá ra là ngươi!

(*) Xem :http://www.cchmi.com/Portals/0/dianc...4%E5%86%A0.jpg)

Dương Lăng "a" một tiếng, chợt nhớ tới cặp cha con mình đã gặp tối qua. Thì ra bọn họ là..., Dương Lăng vừa vui mừng vừa kinh ngạc thốt:

- Thì ra Hoàng thượng là...

Hoàng đế Hoằng Trị vội ho một tiếng, đưa mắt ra hiệu cho y. Dương Lăng lập tức tỉnh ngộ, vội vàng nuốt nửa câu còn lại vào bụng. Thời đó, Hoàng đế cải trang vi hành là một hành động đủ để khiến bá quan dâng sớ can ngăn. Tuy rằng hiện thời chung quanh đều là những kẻ hầu hạ cận kề Hoàng đế, chuyện Hoàng đế lén rời cung trong lòng bọn họ cũng biết rõ đến tám, chín phần, thế nhưng nói công khai trước đám đông thì lại là chuyện khác.

Thấy y khá cơ trí, ánh mắt Hoằng Trị không khỏi lộ ra vẻ hài lòng. Ông ta từ tốn ngồi xuống, mỉm cười bảo:

- Hoá ra là ngươi à, trẫm đọc đến tên của ngươi, mới sực nhớ ra thì ra ngươi chính là viên Dịch thừa ở Kê Minh đã chấp bút viết ra sự thật, chỉ rõ những thói xấu đương thời của bản triều đó. Ha ha ha, ngươi có biết chỉ vì một phong thư của ngươi mà giờ đây triều đình của trẫm đã cãi nhau ghê gớm lắm không?

Vừa nói ông ta vừa vê vê hàng lông mày, khuôn mặt tuy tươi cười, song lại thoáng lộ ra vẻ mệt mỏi khó che giấu. Không nằm ngoài dự đoán của Cẩm Y đề đốc Trương Tú, hôm nay tảo triều, bộ Hộ đã dâng sổ sách lên để biện giải cho mình, rũ bỏ trách nhiệm. Lúc đầu Hoằng Trị vốn chỉ ra lệnh cho Tam Pháp ty thương nghị xử phạt Hà tham tướng, thế nhưng giờ đây Hà tham tướng đã ở trong đại lao của bộ Hình hơn nửa tháng, bá quan trong triều thì lại dẹp y sang một bên mà bắt đầu quay sang cãi vã nhau, những chuyện dù có liên quan hay không đều được lôi ra tất tần tật, khiến Hoằng Trị nhức đầu không chịu nổi.

Thấy Hoàng thượng lộ vẻ mệt mỏi, một thái giám già chầu bên cạnh vội bước đến trước mặt, mở một chiếc hộp nhỏ. Dương Lăng ngửi thấy một mùi thơm nhàn nhạt, đưa mắt nhìn, chỉ thấy trên miếng gấm lót trong hộp có đặt một viên thuốc màu đỏ lớn bằng quả nhãn. Hoằng Trị nhón lấy viên thuốc đưa vào miệng rồi nhấp một hớp trà nuốt xuống.

Trong lòng Dương Lăng thầm máy động. Trong ấn tượng của y, các Hoàng đế triều Minh phần lớn đều đoản thọ, dường như không mấy người sống quá bốn mươi, nguyên nhân chính là vì bọn họ luôn lấy Đạo giáo làm quốc giáo, cá đời Hoàng đế đều thích uống đan dược do đạo sỹ luyện ra. Những đan dược này tuy có thể làm đầu óc tỉnh táo, nâng cao tinh thần, nhưng phần lớn đều mang độc tố mãn tính. Chẳng lẽ thứ Hoằng Trị uống cũng là loại đan dược kiểu này hay sao?

Thấy y ngẩn người, Hoằng Trị còn tưởng y bị lời mình vừa nói ban nãy làm cho hoảng sợ, bèn cười bảo:

- Ha ha! Ngươi ở nơi thấp hèn nhưng vẫn không quên lo lắng cho đất nước, trẫm rất lấy làm mừng, Dương khanh chớ nên lo sợ!

- Vâng!

Dương Lăng nhân cơ hội cố lấy can đảm tâu:

- Khải bẩm Hoàng Thượng, ở Kê Minh thần từng theo đại quân giao chiến cùng giặc Thát, cho nên đối với tình hình lúc bấy giờ cũng hiểu rõ được phần nào. Thần nghĩ, người Thát Đát tụ hợp hơn hai vạn quân xâm phạm Đại Minh ta, đại quân hai ngả Trác huyện và Xích huyện đều lập được công lao, cánh quân ở Hoài Lai tuy có phần tổn thất, nhưng công tội cũng đủ bù trừ. Thần mạo muội... nghĩ... Hà tham tướng quả không đến mức phải bị định tội.

Trong lòng Dương Lăng thật ra cũng khá thông cảm với vị Hà tham tướng nọ. Tuy rằng ông ta cũng có tư tâm, không điều động bộ đội chủ công chính quy đi chiến đấu với địch trước, nhưng khi đối mặt với giặc Thát, quả thật cũng đã vắt sức lo nghĩ, không dám buông lơi. Nếu như lúc đó không phải do hai vị Giám quân ba lần bảy lượt thúc giục, chưa hẳn ông ta đã nóng vội tiến công như vậy.

Giờ đây ông ta lại bị giam vào đại lao trở thành con dê thế tội, Dương Lăng cảm thấy có phần quá hà khắc. Cho nên y thừa dịp Hoàng đế đang cao hứng mà lấy can đảm tâu trình quan điểm của mình. Sau khi nói xong, tim y cũng đập thình thịch, trong lòng cực kỳ căng thẳng, chỉ lo vị Hoàng đế này cũng thuộc loại người buồn vui thất thường.

Uống viên thuốc màu đỏ kia xong, tinh thần Hoằng Trị đã tốt hơn rất nhiều, nghe được lời của Dương Lăng, ông bèn liếc nhìn y, hứng thú hỏi:

- Ngươi thử nói xem, vì lý do gì mà không nên trị tội hắn?

Sớm nay lên triều, bộ Binh, bộ Công, bộ Hộ, Ngũ Quân đô đốc phủ lại cãi nhau loạn cả lên, Hoằng Trị đau đầu chính là bởi chuyện này. Thế nhưng lúc này ông ta đã ở thế cưỡi lưng cọp, nếu như Dương Lăng có thể đưa ra một lý do giúp Hà tham tướng thoát tội, vậy thì những kẻ đòi trừng trị hắn cũng sẽ bỏ qua, quan viên các bộ tự nhiên sẽ không kỳ kèo chuyện này mãi nữa. Đây chính là kết cục mà Hoằng Trị đang cần vào lúc này.

Dương Lăng nghe Hoằng Trị nói bằng giọng ôn hoà, dũng khí vì thế cũng tăng lên, y sắp xếp lại dòng suy nghĩ một chút rồi tâu:

- Hoàng Thượng! Người Thát Đát dùng năm nghìn kỵ binh tinh nhuệ tấn công Kê Minh, lúc ấy quân phòng thủ trong thành không tới bốn trăm, may nhờ thành lũy kiên cố, hoả pháo lợi hại mới có thể tạm thời giữ vững. Nhưng ngay khi cổng thành bị đại pháo của giặc Thát bắn vỡ, sinh mạng hơn vạn dân chúng trong thành đã như chỉ mành treo chuông. Nếu không nhờ có Hà tham tướng kịp thời dẫn quân kéo đến cứu, trăm họ toàn thành làm sao thoát được cảnh lầm than, thành Kê Minh cũng nhờ thế mà không rơi vào tay giặc. Đây là một công.

Lúc tuyết lớn phủ dày trên núi, Hà tham tướng nóng lòng giết địch nên trúng phải mai phục. Đây là một tội. Như vậy là công tội có thể bù trừ.

Sau khi quân ta sa vào mai phục của quân địch, Hà tham tướng có thể dứt khoát cho lui quân, khiến quân Thát không thể bày trận có sức sát thương lớn, giảm thương vong của quân ta đến mức thấp nhất, sau đó quả thật chiến trận diễn ra không khác mấy so với giao phong chính diện. Vì vậy tuy chuyện trúng kế là thật, nhưng tổn thất lại không hẳn đã đạt đến mức như bị trúng kế.

Dương Lăng không hề đề cập đến những tổn thất về ngựa, chiến xa và quân nhu mà lúc quân Minh tranh nhau bỏ chạy trối chết ra khỏi cốc đã vứt bỏ lại, càng không đề cập đến sự can thiệp ngu xuẩn của hai vị Giám quân không hiểu gì về việc quân. Lúc này y vẫn còn thấp cổ bé họng, nếu nói ra chỉ e hiệu quả không lớn, ngược lại sẽ còn tự lôi mình vào cái vòng xoáy to lớn này.

Kế đó y liền lái câu chuyện qua hướng khác:

- Khải bẩm Hoàng Thượng! Vì thế nên thần cho rằng, binh sỹ Hà tham tướng không đông bằng đối phương nhưng lại đạt được kết quả chiến đấu như vậy, vẫn có thể xem là một viên lương tướng. Nếu trách phạt quá nặng, e sẽ khiến tướng sỹ tiền phương e ngại, sau này giao chiến với địch sẽ không dám liều mạng, chỉ mong không sơ sẩy, chẳng cầu có công lao. Đến lúc đó ai nấy lâm địch đều e dè chùn bước, chẳng phải khiến quân Thát càng thêm kiêu ngạo ư?

- Ồ...!

Hoằng Trị khẽ gật gù, như có điều nghĩ ngợi. Thoạt tiên nhận tin báo từ khoái mã của Lưu Cẩn, biết tiền phương hao binh tổn tướng, ông nổi cơn giận dữ nên mới lập tức lệnh cho Cẩm Y vệ giải Hà tham tướng về kinh luận tội.

Từ xưa, chốn quan trường là nơi mà người ta chỉ quan tâm tới lợi ích của bản thân, kẻ làm quan trong triều chỉ lấy việc "đoán mò ý vua" làm mục tiêu hàng đầu. Nếu Hoàng thượng muốn trừng trị một người nào đó, bọn họ sẽ vắt óc suy nghĩ gán tội danh cho kẻ ấy để Hoàng thượng có thể trừng trị hắn một cách “công bằng chính trực”. Những người phẩm đức cao thượng một chút, chỉ cần không ném đá khi người ta rơi xuống giếng đã là tốt lắm rồi. Có mấy ai lại chịu vì kẻ đó mà nói ra sự thật?

Những điều mà Dương Lăng vừa nói ra, đây là lần đầu tiên Hoằng Trị được nghe thấy, cho nên trong lòng lập tức máy động. Ông luôn tiếc nuối là mình không có tài như Thái tổ, Thành tổ, có thể vung roi nơi Tái Ngoại, khiến cho giặc Thát vừa nghe gió đã phải chạy dài. Nhưng là Thiên tử của Đại Minh, ông vẫn hy vọng ít nhất mình có thể khiến giặc Thát không dám tuỳ tiện xâm phạm biên giới, để cho con dân Đại Minh không đến nỗi bị quân man di chà đạp.

Có trừng trị một Hà tham thướng hay không, đó không phải là vấn đề lớn, nhưng nếu hình phạt quá nghiêm khiến biên quân sau này cứ sợ bóng sợ gió trong chiến đấu, thật không phải là điều hoàng đế Hoằng Trị mong muốn.

Xem ra hồi phong ba "luận tội" khiến cho kinh sư chao đảo lần này có thể lắng lại tại đây rồi. Hoằng Trị âm thầm tính toán trong lòng, chủ định đã có, song vẻ mặt vẫn thản nhiên như không, ông cười rồi hỏi tiếp:

- Vương Thủ Nhân ở bộ Binh đã dâng lên một tấu chương, tỏ ra rất mực tôn sùng đạo luyện binh mà ngươi đề cập đến. Hôm nay ngươi cứ nói thoải mái, để trẫm xem thử nó có chỗ nào độc đáo nào!

Dương Lăng có phần sầu não, trong bụng nhủ thầm: "Rốt cuộc Thị độc là làm cái gì đây? Chẳng lẽ không phải là làm bạn học với con trai ông sao? Sao lại giống như đang mời thầy về dạy thế này? Bộ còn muốn kiểm tra trước hay sao?" Thế nhưng y lại không rõ, Hoàng đế phải lo nghĩ rất nhiều việc, nếu ông có lòng muốn kiểm tra bản lãnh của một người nào thì chính là có ý quý tài muốn trọng dụng. Nếu đổi lại là một vị quan thành thạo quy tắc quan trường, lúc này nhất định sẽ phấn chấn tinh thần, hận không thể trổ hết thập bát ban võ nghệ ra lập tức để chiếm cảm tình của Hoàng đế.

Dương Lăng suy nghĩ một lúc, thầm so sánh một số tình hình bản thân quan sát được và tình hình quân đội đời sau, rồi nói:

- Khải bẩm Hoàng Thượng! Thần thấy tướng lĩnh trong quân đội năng lực không đồng đều, tuy có tướng quân dũng mãnh, nhưng phần nhiều chỉ coi trọng sức mạnh cá nhân, không hề có sở trường về trị quân.

Hơn nữa, thiên hạ hiện giờ trọng đạo khinh khí (Đạo ở đây là đạo lý, lý luận, còn khí tức là những thứ kỹ thuật, dụng cụ - ND.), trọng văn khinh võ, quân công trăm trận không bằng một bài văn chương cẩm tú, khiến đa phần những người văn võ song toàn đều bỏ võ mà theo văn, thế nên lương tướng càng thêm khó cầu.

Vả lại trong quân đội hiệu lệnh thì không đồng nhất, vũ khí giáp trụ thì không giống nhau, lương thảo cung ứng cũng không đồng đều, thường ngày huấn luyện cực ít, cho dù có sức chiến đấu cũng khó mà phát huy. Ở Kê Minh thần thường được thấy quân đội thao diễn, lúc ấy cờ xí rợp trời, áo quần rực rỡ, đao thương sáng loáng, chiên trống rền vang, trông rất oai nghiêm hùng tráng. Thế nhưng vì phần lớn thời gian binh sỹ chỉ diễn tập trên những trận hình như thế này, xem trọng bề ngoài mà không quan tâm đến hiệu quả thật, cho nên thật sự không có bao nhiêu tác dụng.

Quân đội cần phải luyện tập hằng ngày, cho dù thế nào đi chăng nữa cũng phải bỏ ra một chút thời gian vào diễn tập dã chiến, như thế thì tân binh mới có thể trở thành binh sỹ lão luyện, binh sỹ lão luyện mới có thể trở thành tinh binh. Khi ấy quân đội Đại Minh ta với hoả khí được trang bị, nhất định sẽ là một mũi nhọn sắc bén. Nếu dùng tốt, giặc Thát sẽ không chịu nổi một đòn. Nhưng binh khí dù tốt thì cũng phải có người sử dụng, trong khi đó quân sỹ bây giờ kẻ biết dùng súng đạn đã là khó kiếm, đừng nói là thành thạo. Cho nên, thần nghĩ rằng luyện binh bằng thực chiến mới là cách hữu hiệu nhất để quân đội mạnh lên.

Sắc mặt Hoằng Trị hơi sầm xuống. Cái tệ nạn "tướng không biết quân, quân không biết tướng" không phải là ông không biết, nhưng chia tách binh lực, hạn chế binh quyền là thủ đoạn quan trọng để đế vương nắm vững quân quyền. Nếu cho phép tướng lĩnh hoàn toàn khống chế quân đội, thao luyện diễn tập thường xuyên, vậy chẳng phải là trao quyền hành vào tay kẻ khác hay sao?

Thoáng thấy sắc mặt của Hoằng Trị, Dương Lăng biết là hỏng bét rồi. "Từ xưa đến nay, đế vương lo nhất chính là chuyện soán ngôi đoạt quyền, những gì mình nói chẳng phải là phạm vào điều kiêng kỵ của lão ta sao?" Nghĩ thế y bèn vội vàng nói tiếp:

- Cho nên thần nghĩ, có thể tuyển chọn lương tướng làm giáo đầu chuyên trách luyện binh, cứ nghìn người thì lập thành một đoàn, huấn luyện cho họ năng lực chủ động tác chiến và ứng biến khi lâm địch. Đến khi chiến sự nổ ra, người cầm quân chỉ cần đứng giữa điều khiển, cho dù chủ soái không có mặt, sự phối hợp giữa các đạo quân cùng lắm cũng chỉ bị sai lệch một chút, tuyệt đối sẽ không xuất hiện cục diện ‘tướng soái vắng mặt thì toàn quân tan vỡ’.

Nói tóm lại, thần cho rằng từ xưa đến nay vua chúa các đời đều là trọng tướng không trọng binh, thường có câu rằng ‘ba quân dễ kiếm một tướng khó cầu’, nhưng dùng phép luyện binh này thì lại là trọng binh không trọng tướng. Hãy xem kỵ binh tinh nhuệ của Mông Cổ năm xưa, những tướng lĩnh cầm quân của họ có mấy ai đã từng đọc qua binh thư chiến sách, hiểu biết văn thao võ lược? Nếu toàn quân đều dũng mãnh thiện chiến, cho dù không có lương tướng thì cũng có ai có thể địch lại đây?

Y phải cố nghĩ cách chuyển đổi một số thuật ngữ hiện đại thành lời mà Hoằng Trị có thể hiểu được rồi nói cho ông ta nghe, cho nên có chỗ diễn đạt không được trọn ý. Thật ra, điều mà y muốn nói chính là tăng cường năng lực chủ động tác chiến của các đơn vị cấp độ từ đoàn trở xuống trong quân đội, tướng lĩnh cao cấp chỉ phụ trách đứng giữa điều khiển mà không phải tự làm hết mọi việc. Làm như vậy mặc dù là trao quyền nhiều hơn cho quân đội, nhưng quyền lực thực chất của các tướng lĩnh cao cấp lại không có gì thay đổi, cho nên thực tế thì quyền kiểm soát của Hoàng đế lại càng tăng thêm.

Hoằng Trị nghe đến phần sau, lờ mờ cảm thấy nội dung mà y nói dường như vừa có thể tránh xảy ra tình trạng thần tử nắm giữ binh quyền mà sinh lòng tạo phản, lại vừa có thể đề cao năng lực tác chiến của quân Minh, nhưng nhất thời lại không hiểu thấu được hoàn toàn.

Ông đang định hỏi thêm, cụ thể hơn thì vị thái giám già bên cạnh khẽ bước lên thấp giọng nhắc:

- Bệ hạ, ngọ triều sắp bắt đầu rồi, người xem...

Hoằng Trị khẽ ồ một tiếng rồi bảo Dương Lăng:

- Ừm, lời ái khanh rất có lý, trẫm sẽ cân nhắc. Người đâu, thưởng cho Dương Lăng ngự bài đi lại trong cung, ban cho xuất thân đồng tiến sỹ, bắt đầu nhậm chức Đông cung Thị độc ngay trong hôm nay. Hãy đưa Dương khanh đến Xuân Phường đi!

- Tạ ơn Hoàng Thượng!

Dương Lăng quỳ xuống tạ ơn, hai tay tiếp nhận một miếng ngọc bài cho phép ra vào cấm cung mà thái giám đưa cho, sau đó đi theo tên tiểu thái giám đã dẫn y đi vào lui ra ngoài.

Dương Lăng đi theo tên tiểu thái giám qua cổng Càn Thanh, thẳng đến Xuân Phường, nơi thái tử ở. Sau khi bước vào một tòa cung điện, Dương Lăng đứng chờ ở ngoài cửa, còn tên tiểu thái giám vào trong bẩm báo. Một lúc sau, cửa cung điện mở ra, một viên quan trạc ngũ tuần bước ra, phất ống tay áo, hầm hầm bỏ đi, không thèm liếc Dương Lăng lấy một cái.

Dương Lăng đang ngẩn người nhìn theo bóng lưng ông ta thì tên tiểu thái giám đưa tin cũng đã bước ra theo. Y nhìn về phía Dương Lăng nói:

- Dương thị độc, giờ ngài hãy chờ ở đây đi! Cốc công công đã biết rồi, chờ một lát Thái tử gia sẽ triệu kiến ngài. Ta về trước đây.

Dương Lăng đứng nguyên tại chỗ, chờ cho đến khi gót chân mỏi nhừ. Thấy trong cung này bốn bề tĩnh mịch, không hề có cung nữ, thậm chí thái giám cũng không thấy một ai, y nhân cơ hội khom lưng vận động thân thể đang mỏi nhừ một chút. Bỗng nhiên lưng y chợt trầm xuống, ngay sau đó vai như bị siết lại, tựa như có vật gì đó đang bò lên vai y, Dương Lăng sợ hãi giật nảy mình.

Y vừa xoay đầu, một khuôn mặt Thiên Lôi lông lá vừa vặn đối diện với y. Trên khuôn mặt xấu xí đó, một cặp mắt nhỏ xíu xoay tròn đang trừng mắt nhìn y không chớp.

Dương Lăng kinh hoảng la to một tiếng. Không đợi y tóm lấy, khuôn mặt Thiên Lôi kia còn bị tiếng la của y làm cho hoảng sợ hơn, lập tức rụt đầu lại, thoắt một cái đã phóng tót lên đầu y. Lúc này, từ nơi cửa điện phụ vọng lại giọng đùng đục bể tiếng của một thiếu niên:

- Cốc Đại Dụng, Lý đại học sỹ đã đi chưa? Úi, ngươi là ai? Đừng có cử động lung tung kẻo tiểu hầu nhi của ta nổi nóng! Cẩn thận không nó cào khắp mặt ngươi đó!

Chương 59 - Đào tạo cướp biển

Dương Lăng quay đầu nhìn lại, thấy một cậu thiếu niên đứng ngay sau lưng mình đang vỗ tay cười lớn. Tiếng cười còn chưa dứt, cậu ta vừa thấy mặt y thì đột nhiên trợn mắt há mồm, ngớ người chăm chăm nhìn y, một lúc lâu sau mới phấn khích hô to:

- Là ngươi à? Ngươi là thị độc của ta sao? Cái gã... gã Dương Lăng, dịch thừa ở Kê Minh chính là ngươi hả?

Vừa rồi Dương Lăng được diện kiến Hoằng Trị nên đã sớm biết tiểu thư sinh mà mình gặp hôm qua chắc chắn là Chính Đức rồi, cho nên cũng không bị bất ngờ. Y cười gượng, cúi đầu trả lời:

- Thái tử điện hạ! Vi thần chính là Dương Lăng, xin thứ cho vi thần không thể làm lễ với Thái tử được, vì... vì...

Chu Hậu Chiếu cười hì hì, khoát tay nói:

- Không cần hành lễ, không cần hành lễ! Ngày nào cũng làm lễ, phiền chết đi được!

Lúc này, một gã thái giám béo ú đang dắt theo một con chó đen lớn cao bằng nửa thân người từ trong cung điện đi ra, hắn cười hì hì:

- Thái tử gia! Vừa rồi nô tài thật sự là sợ chết khiếp đó. Con chó này trốn trong tủ chẳng chịu ngoan ngoãn gì cả, lão nô đã vứt mấy cục xương thịt vào trong rồi mà nó vẫn ư ử suốt, suýt chút nữa thì bị Lý học sỹ phát hiện.

Dương Lăng cẩn thận quan sát Cốc Đại Dụng. Y thấy hắn vóc người mập lùn, mặt tròn, mày rắn, mắt lươn, khuôn mặt tươi tắn. Nếu không sớm biết sự tích về sau của kẻ này thì Dương Lăng thực sự cho rằng hắn rất hòa ái tốt bụng, khiến người khác cực kì yêu mến.

Chu Hậu Chiếu cười như một đứa trẻ đắc ý, hỏi gã:

- Đại Dụng! Lý thái phó đi rồi sao?

Cốc Đại Dụng cười vuốt đuôi:

- Chỉ trong hai canh giờ mà Thái tử gia chui ra chui vào nhà xí tới tám lần, Lý đại nhân sớm đã khó chịu rồi. Mặc dù hôm nay ngài ấy không phải chầu triều sớm nhưng phải tới dự ngọ triều, vừa nãy không chờ được nữa nên đã xin cáo lui trước rồi.

Chu Hậu Chiếu cười ha hả, y nhón mũi chân bước đi, lắc lư người ba lần, vươn cổ thẳng đơ, giống như một con lật đật, nói chậm rì rì:

- Quân tử cầu học đạo - không cầu ăn uống, quân tử lo không học được đạo - không lo nghèo. Kẻ làm quân vương - phải biết nhân từ, kẻ làm bề tôi - phải biết cung kính, kẻ làm con - phải biết hiếu thuận, kẻ làm cha - phải biết nhân từ, giao thiệp với người khác - phải biết giữ chữ tín....

Chu Hậu Chiếu đọc xong liền cau mày than thở:

- Thánh nhân chỉ nói một câu về lễ, nghĩa, nhân, trí, tín, Lý đại học sĩ lại lôi ra một đống dẫn chứng, trích dẫn đủ thứ kinh thư điển tịch, đã giảng giải mất bảy ngày trời rồi. Ta thấy thật kỳ quặc, cái đầu của thánh nhân trông nó như thế nào nhỉ, lúc nói ra câu đó, ông ta có thực sự nghĩ nhiều và kỹ như vậy không? Muốn dạy ta trở thành quân vương thì phải giảng đạo trị quốc chứ, sao mà mỗi câu đều cứ phải lôi bằng được các bậc thánh nhân từ cả nghìn năm trước vào, như kiểu nếu không làm thế thì người khác sẽ không phục vậy. Thực sự là cực kỳ nhạt nhẽo, ta nghe mà chán muốn chết.

Y phất tay, giống như vừa trút được gánh nặng:

- Đi rồi thì tốt, đi rồi thì tốt! Ông ta đi rồi thì ta cũng trở vào trong thôi!

Chu Hậu Chiếu đưa tay huýt gió gọi con khỉ đang ngồi chồm hỗm trên đầu Dương lăng nhưng nó vẫn nghìn ngang nhìn ngửa, không buồn để ý tới y. Chu Hậu Chiếu nhếch miệng cười:

- Xem ra con khỉ của ta rất thích ngươi đó, đi thôi! Dương thị độc! Chúng ta vào trong nào!

Dương Lăng méo mặt bám theo sau Chu Hậu Chiếu bước vào thư phòng dành cho Thái tử đọc sách. Tuy gọi là thư phòng nhưng lại giống một cung điện lớn, rất vắng vẻ, chỉ có hai gã tiểu thái giám phục dịch đứng ngay sát cửa. Thấy con khỉ ngồi chồm hỗm trên đầu Dương Lăng, hai tên này không nhịn được phải che miệng cười trộm.

Chu Hậu Chiếu thoải mái ngồi xuống một cái ghế thấp được sơn sáng bóng, liếc nhìn Dương Lăng với vẻ vô cùng hứng thú, đoạn vui vẻ cười bảo:

- Tới đây nào! Dương thị độc ngồi đi! Để ta bảo Đại Dụng cho ngươi xem trò khỉ cưỡi chó, còn có phi qua vòng lửa, rất hay đó.

Dương Lăng cẩn thận ngồi xuống sau một cái bàn. Chu Hậu Chiếu lấy mấy trái cây trên đĩa ném xuống dưới đất, con khỉ đang trên đầu Dương Lăng liền lao xuống nhặt, ngồi xổm dưới đất gặm ăn.

Chu Hậu Chiếu bảo Cốc Đại Dụng:

- Ta đói rồi, mang tới đây cho ta chút đồ ăn đi!

Cốc Đại Dụng đang buộc con chó vào cây cột trong điện, nghe xong liền bảo mấy câu với tên thái giám trước mặt, tên thái giám đó phóng đi như bay.

Nơi Thái tử đọc sách chỉ có thái giám, không có cung nữ hầu hạ. Chỉ một lát sau, tám tên tiểu thái giám bưng mâm đi vào. Vốn Dương Lăng đang đói meo, ngửi thấy mùi thức ăn, bụng y liền sôi ùng ục.

Tiểu Thái tử thính tai nghe được, thế là bèn vừa cười vừa chỉ về phía trước Dương Lăng nói:

- Bày ở đó, bày ở đó! Nếu như trong cung của Thái tử ta mà có người chết đói thì đúng là chuyện khiến người ta cười đến rụng răng mất!

Chu Hậu Chiếu nói xong liền cười hì hì đứng lên, tùy tiện bước tới ngồi xuống bên cạnh Dương Lăng, đưa cho y đôi đũa bạc, nói:

- Ăn đi, nếm thử xem thức ăn trong cung của ta thế nào!

Dương Lăng thấy vị hoàng đế Chính Đức trong truyền thuyết này chẳng hề có vẻ kiêu căng phách lối chút nào, cảm giác gò bó liền biến mất. Có Dương Lăng ngồi cùng, dường như Chu Hậu Chiếu ăn cũng ngon miệng hơn, y vừa ăn vừa nói với Dương Lăng:

- Hôm nay ngươi không tới nghe Lý thái phó giảng bài cho nên buổi chiều cũng chẳng có gì để giảng giải cho ta cả nhỉ! Phải rồi, hôm qua ngươi có nói tới thứ gì đó gọi là đấu bò tót, mau kể cho ta nghe đi!

Dương Lăng vốn cho rằng thị độc chỉ cần nghe giảng cùng với thái tử, không để cho Thái tử quá buồn chán là được, giờ nghe ý tứ của Chu Hậu Chiếu, dường như thị độc còn phải phụ trách giải đáp thắc mắc khi Thái tử tự học. Nếu như quả thật vị Thái tử này chuyên cần hiếu học, tên thị độc dốt nát mình đây chắc sẽ lộ tẩy ngay tại chỗ mất?

Dương Lăng nghĩ tới đó không khỏi mừng thầm, y vừa nhấm nháp của ngon vật lạ do ngự trù nấu nướng vừa kể về môn thể thao đấu bò tót ở Tây Ban Nha cho Chu Hậu Chiếu nghe. Hiểu biết của Dương Lăng về môn thể thao này rất ít ỏi, thế nên y chỉ tập trung kể những chuyện cười về những đấu sĩ bò tót sẩy tay bị bò tót đuổi loạn khắp sân và bị húc văng khỏi đấu trường. Dương Lăng vốn giỏi mồm mép, lại cố ý thêm mắm thêm muối, không chỉ Chu Hậu Chiếu say mê mà ngay cả Cốc Đại Dụng và những tiểu thái giám dâng cơm đang đứng ở bên cạnh cũng nghe đến nhập thần.

Dương Lăng thấy Cốc Đại Dụng đang cười ngặt nghẽo mà trong lòng thầm cảm thấy xấu hổ, trước mặt mình là những ai chứ? Một kẻ là hôn quân tương lai nổi tiếng dâm đãng, còn kẻ kia là tên đại gian đại ác lừng danh. Còn mình thì sao? Mang tiếng là thị độc nhưng lại đóng vai một tên lộng thần, một tên hề mua vui cho Thái tử.

Không sai, y chẳng có dã tâm gì cả, thế nhưng đã tới cái thế giới này rồi, y không thể biến mình thành một khán giả thờ ơ với sự đời được. Về mặt tình cảm y cũng chẳng khác gì những người Hán hiện nay, trang bi thảm nhất trong lịch sử Trung Quốc đối với y vốn chỉ là lịch sử, là quá khứ đã qua, y chẳng thể làm gì được, nhưng bây giờ, hết thảy còn chưa diễn ra. Đế quốc Đại Minh lúc này vẫn là quốc gia giàu có nhất thế giới, vận mệnh đã sắp đặt y tới trước mặt quân vương của Đại Minh, lẽ nào y lại không bỏ ra một phần sức lực?

Sự suy tàn của triều Minh chủ yếu là do tư duy của bọn họ quá bảo thủ. Kẻ thống trị, thậm chí cả giai cấp thống trị đều mù quáng tự cao tự đại, bế quan tỏa cảng. Bây giờ là thời điểm cả thế giới đang phát triển mạnh cùng chủ nghĩa tư bản đang chuyển mình, nếu như Trung Quốc có thể giữ mối liên hệ mật thiết với thế giới thì tư tưởng và nhận thức của cả giai cấp thống trị sẽ ngầm chịu ảnh hưởng, nhất định sẽ có thể phát triển theo hướng tích cực hơn.

Người trước mặt mình là ai chứ? Là Hoàng đế Đại Minh tương lai đó! Đại Minh lúc này đang thiếu thứ gì? Chính là thiếu chí tiến thủ! Nếu như có thể khiến vị Thái tử trước mặt này nhìn xa trông rộng hơn, ở thời kỳ quân quyền tối cao này, một suy nghĩ của y cũng có thể sinh ra tác dụng không để đoán trước được với sự phát triển của lịch sử. Lịch sử... thực sự là không thể thay đổi sao?

Dương Lăng nghĩ tới đó, trong lòng thầm thấy rộn ràng. Y cố giữ bình tĩnh, nói với Chu Hậu Chiếu:

- Thái tử, nếu người thích nghe, vi thần có thể kể mấy chuyện khác cho người.

Chu Hậu Chiếu vui mừng quá đỗi, bèn gật đầu liên tục. Mặc dù y là Thái tử nhưng đời sống tinh thần lại kém xa trẻ em thời hiện đại, dùng từ khô khan vô vị để hình dung cũng không quá đáng chút nào. Lúc này nghe Dương Lăng kể những chuyện mới lạ y mới biết trên thế giới này còn có rất nhiều thứ đặc sắc và hay ho như thế, cũng biết trời đất rộng lớn đến mức nào. Vốn đang nghe đến say mê nên Dương Lăng vừa đề nghị như vậy, cậu thiếu niên Chính Đức bèn vội vàng bảo với Cốc Đại Dụng:

- Đại Dụng! Kêu người báo với Trí Vân thiền sư hôm nay không học Phạn văn nữa!

Dương Lăng nghe vậy thì rất ngạc nhiên, không ngờ Chu Hậu Chiếu còn học cả ngoại ngữ nữa. Mà qua cách y tùy ý bảo thái giám hủy giờ học, rất hiển nhiên là môn học đó không phải do hoàng đế sắp xếp cho y. Hình tượng Chính Đức này khác rất xa kẻ hoang dâm vô độ, vô công rồi nghề mà Dương Lăng biết.

Dương Lăng thong thả kể chuyện cướp biển Tây Ban Nha. Những nữ vương cướp biển tóc đỏ, thuyền trưởng cướp biển chột mắt được y gia công gộp lại thành một chuyện. Vẫn duy trì được sự thú vị cho câu chuyện, y còn kể thêm về việc tranh chấp bá quyền trên biển của các nước châu Âu đang diễn ra vào thời điểm hiện tại. Thậm chí y còn hư cấu thêm một nước tương tự với Đại Minh ở bờ kia đại dương, nằm cách Đại Minh còn xa hơn các nước Ả-Rập, y kể lại câu chuyện từ lúc nó hùng mạnh, giàu có, cho đến khi suy bại, chịu đủ sự lăng nhục.

Chuyện cướp biển đầy hấp dẫn khiến Chu Hậu Chiếu vốn thích phiêu lưu nghe đến mê mẩn. Dương Lăng bắt đầu kể đến đoạn các nước châu Âu vì tranh giành quyền bá chủ trên biển, bề ngoài thì tuyên bố không đội trời chung với cướp biển nhưng lại ngấm ngầm nuôi dưỡng và sai chúng tấn công thuyền buôn nước khác. Cốc Đại Dụng ở bên hơi chau mày, tỏ ra khinh thường các nước nhỏ man di này không biết sĩ diện.

Tiểu Chính Đức thì lại xoa tay, giọng say mê:

- Hay quá, có triều đình chống lưng phía sau, lại không làm mất thể diện của triều đình, chuyện làm ăn lãi như vậy, cướp biển lại hay như vậy, ngay của ta cũng muốn thử một phen, há há há...

Dương Lăng mỉm cười. Trước mặt y là một cậu nhóc chưa hiểu mấy về phải trái đúng sai, là một tờ giấy trắng có thể tô cũng có thể xóa. Lý học sỹ dạy cho y lễ nghĩa liêm sỉ, dạy cho y lối tự mãn của thiên triều; Cốc Đại Dụng lại dạy y ăn chơi hưởng lạc, hoang dâm vô độ; vậy thì phải để cho Dương Lăng ta dạy y nhìn ra thế giới, hướng lòng tham lam và dã tâm ra bốn bể!

Giáo dục, phải bắt đầu từ bé... Chương 60: Hải đồ Trịnh Hòa

Nước Thiên Phương, quốc gia cổ có nền văn minh tự cung tự cấp, có quá nhiều điểm giống với triều Minh đến nỗi Chu Hậu Chiếu không biết tự lúc nào đã coi nó chính là quốc gia của mình, cảm tình với Thiên Phương quốc tự nhiên tăng lên.

Khi y nghe tới đoạn quốc gia hùng mạnh này dần dần tụt hậu so với các nước phương tây, trong khi các nước phương tây bước vào thời kỳ Phục hưng, khoa học kỹ thuật phát triển, Thiên văn, Vật lí, Hóa học đều tiến bộ cực nhanh, đã mài đao xoèn xoẹt với ý đồ xâu xé chiếc bánh ngọt Thiên Phương, mà đất nước Thiên Phương lại mù quáng tự cao tự đại, không ngừng suy bại, khiến cho y tức đỏ mặt, căm hận đập bàn chửi:

- Tên hoàng đế đó thực là cực kì ngu xuẩn, làm ta tức chết mất!

Nghe tới quân đội tám nước dựa vào thuyền chắc pháo mạnh, chỉ vài nghìn người ít ỏi mà tấn công được vào kinh sư của Thiên Phương quốc, thiêu rụi cả một công trình vĩ đại có một không hai được xây dựng bởi sức lực của cả nước, ngay cả Cốc Đại Dụng cũng tức giận đến mặt nổi gân xanh, the thé nói:

- Hoàng đế nước đó thật quá ngu xuẩn, mấy chục vạn đại quân mà lại không chặn nổi vài nghìn quân ít ỏi! Đáng thương! Đáng hận!

Dương Lăng than thở:

- Ban đầu những quốc gia đó so với nước Thiên Phương đều nghèo túng như ăn mày, nhưng bọn họ không hề tự đại, lại rất chú trọng giao lưu. Quốc gia này phát minh ra khoái thuyền, quốc gia khác liền lập tức học được. Quốc gia kia phát minh được đại pháo có tầm bắn xa và uy lực lớn hơn pháo Đại tướng quân, ngay lập tức có nuớc phái người tới học tập, sau đó phát minh ra đại pháo còn lợi hại hơn. Bọn họ phát triển không ngừng, còn nước lớn kia thì lại bế quan tỏa cảng, cho rằng mình đứng đầu thiên hạ, sao mà không bại cho được?

Chu Hậu Chiếu lại đập bàn nói:

- Cái loại thuyền cướp biển ba cột buồm với thuyền nhỏ có nhiều buồm đó thì lợi hại lắm hay sao? Ta thấy rằng chính nước Thiên Phương kia mới là kẻ vô dụng, nếu gặp phải đại chiến hạm của bổn triều thì... hừ hừ!

Y quay sang hỏi Cốc Đại Dụng:

- Đại Dụng, bản vẽ bảo thuyền đi Tây dương từ thời Vĩnh Lạc (1) để ở đâu rồi? Mang tới đây cho ta, để Dương thị độc xem xem, so với thuyền nhỏ của Tây phiên kia thì ai hơn ai?

Cốc Đại Dụng khom lưng, khuôn mặt béo tròn tươi cười kèm theo sự kính cẩn, trả lời:

- Bẩm thái tử gia, tất cả bản đồ biển, bản vẽ bảo thuyền của chuyến Trịnh công công tới Tây dương vốn giao cho bộ Công ở Nam Kinh, thời hoàng đế Anh Tông đã chuyển đến bộ Binh ở kinh sư, lúc ấy định dùng khi vượt biển đến phương Tây lần nữa. Nhưng thị lang Lưu Đại Hạ nghe được chuyện này, cảm thấy việc lưu thông với phương tây làm hao tài tốn của, chẳng có ích gì, bản đồ biển này quả là mầm họa quốc gia, cho nên y đã giấu nó đi. Nô tài phỏng đoán rằng, bây giờ nó vẫn còn bị quẳng trong đại khố của bộ Binh.

Dương Lăng nghe xong người run lên, buột miệng nói:

- Gì cơ? Tấm bản đồ kia vẫn chưa bị đốt đi sao?

Y nói xong mới nhận ra là đã lỡ lời, trong lòng hối hận không thôi. Mặc dù y nhớ trong sách sử có nói rằng hải đồ kia đã bị Lưu Đại Hạ, một kẻ chính trực nhưng thiển cận, đốt mất rồi, nhưng lại không nhớ chuyện xảy ra khi nào, nếu như hiện tại vẫn chưa xảy ra việc này, há không phải khiến người ta nghi ngờ sao?

Cốc Đại Dụng cười híp mắt lườm y, thầm nghĩ:

"Quả nhiên tên Dương Lăng này là người của Cẩm Y vệ, vòi của bọn họ vươn rộng thiệt, ngay cả chuyện cực kỳ bí mật này mà cũng biết, hé hé! Tiếc là y có biết nhưng lại không kĩ càng tỉ mỉ như mình."

Cốc Đại Dụng cố ý khoe khoang, đắc ý cười:

- Dương thị độc có chỗ không biết rồi, chuyện đó chỉ là truyền bậy mà thôi. Lúc đó Lưu Đại Hạ chỉ là một thị lang nho nhỏ, mặc dù y không muốn cho hoàng đế thấy tấm hải đồ đó nhưng cũng không có gan đốt nó đâu. Những thứ đó chất đầy cả năm hòm lớn đó, nếu như y muốn đốt đi, há có thể che mắt người khác? Chẳng lẽ y không cần mạng nữa hay sao? Ha ha, lúc đó y thuyết phục thượng thư bộ Binh là đại nhân Hạng Trung. Hạng đại nhân cho rằng lời hắn nói có lí mới ngầm ưng thuận cho y giấu thứ đó đi, chỉ tâu dối với hoàng đế Anh Tông là công văn từ Nam Kinh chuyển đến quá nhiều, không tìm thấy tung tích, dự tính nếu như hoàng đế Anh Tông đòi gấp quá thì lại mang trình lên. Thực ra lúc đó hoàng đế Anh Tông cũng có nhớ đến chuyện này nhưng khi biết công văn đã bị thất lạc thì cũng không để tâm cho lắm, chính vì thế mà chuyện này đã được giấu đi.

Dương Lăng bán tín bán nghi hỏi:

- Lời Cốc công công nói là thật sao? Bản hải đồ đó .... đến bây giờ mà vẫn còn sao?

Chu Hậu Chiếu cười ha hả:

- Cốc Đại Dụng nghe nhiều nhớ lâu, đây chính là sở trường của y. Đại Dụng đọc sách không nhiều nhưng trí nhớ lại rất tốt, y nói còn tất nhiên là còn rồi. Y vốn phục vụ tại Đông Xưởng. Mũi của bọn Đông Xưởng còn thính hơn Đại Hắc của ta đó.

Vốn tám năm trước, hoàng đế Hoằng Trị đã từng sủng tín đại thái giám Lý Quảng, một thời nịnh phật nịnh đạo, luyện đan luyện dược, khiến cho khắp triều đình tràn ngập khói đen khí độc. Lúc đó Cốc Đại Dụng được mấy tên gian hoạn Lý Quảng, Dương Bàng sủng ái nên được nghe không ít chuyện. Sau đó Lý Quảng thấy nhóm Lưu Đại Hạ dựa vào đám trung thần được Hoằng Trị tin tưởng mà liên tục dâng tấu phê bình, chỉ trích bọn chúng kéo bè kéo cánh che mắt chủ làm chuyện xấu, nên đã phái Cốc Đại Dụng điều động đội ngũ Đông Xưởng sưu tầm tư liệu của nhóm người này, muốn lật đổ bọn họ.

Cho nên trong lòng Cốc Đại Dụng biết rất rõ những chuyện to nhỏ mà Lưu Đại Hạ đã làm. Thế nhưng thời vận của y không tốt, cả bộ tài liệu vừa mới thu thập xong thì Lý Quảng đã bị bệnh chết rồi. Hoàng đế Hoằng Trị vẫn tiếp tục u mê không tỉnh ngộ đã phái người tới nhà y tìm kiếm thiên thư. Kết quả là thiên thư không tìm được mà lại tra ra một lượng lớn vàng bạc châu báu, lúc này mới tin chuyện đám thần tử nói Lý Quảng làm việc tất trách, chuyên nhận hối lộ. Đến lúc này cả phe cánh của Lý Quảng mới hoàn toàn sụp đổ, cả đám thân tín bọn chúng bị thất sủng. Cốc Đại Dụng bị Vương Nhạc Vương công công, thủ lĩnh mới của Đông Xưởng, đuổi ra khỏi đó, phải chịu đựng biết bao năm, hao tổn biết bao tâm sức mới được làm kẻ hầu bên người thái tử.

Nghe được lời khen của Chu Hậu Chiếu, Cốc Đại Dụng cười híp mắt, khom khom người, nói:

- Tạ ơn Thái tử gia đã khen ngợi! Tuy nhiên thoáng cái đã qua bao nhiêu năm rồi, lão nô lo rằng đống giấy tờ đó không được bảo quản tốt, nếu như bị ẩm mốc, chuột gặm rồi thì có lẽ chẳng thể dùng được nữa.

Dương Lăng vừa mừng vừa sợ, nói với Chu Hậu Chiếu:

- Thái tử! Năm xưa những bản vẽ sơ đồ chế tạo thuyền này, không biết đã hao tốn tâm trí của biết bao nhiêu người thợ giỏi, tuy rằng bây giờ chưa chắc đã tái tạo được chiến hạm khổng lồ như hồi đó, nhưng để chế tạo ra những chiếc thuyền nhỏ hoàn mỹ thì chúng rất có giá trị tham khảo. Những tấm hải đồ kia mới là những thứ hiếm có hơn. Biển khơi rộng lớn hơn lục địa rất nhiều, mỗi tấm bản đồ đường biển đều phải hao tốn luợng lớn tiền bạc mới vẽ nên đuợc đó.

Chu Hậu Chiếu không biết vì sao y lại xúc động như vậy, nhìn hắn một cách khó hiểu, trầm ngâm nói:

- Ừm.... Lưu Đại Hạ? Lão già này bây giờ là thượng thư bộ Binh, muốn lấy được thứ này từ tay lão, sợ rằng....

- Sao? Ngay cả thái tử cũng không thể lấy được thứ này từ trong tay lão ư?

Dương Lăng nghe xong liền vô cùng thất vọng.

Chu Hậu Chiếu bị y kích động, liền ưỡn ngực lên nói:

- Lưu Đại Hạ tuy là sủng thần bên cạnh phụ hoàng nhưng lão cũng không dám đắc tội với ta, chỉ là... dù sao lão cũng là quan nhất phẩm, người mà ta phái đi chỉ muốn làm lấy lệ thì không phải là tay trắng trở về sao?

Dương Lăng đảo mắt, nói:

- Nếu như vậy thì tự thân thái tử gia phải đi một chuyến hay sao?

Chu Hậu Chiếu cười ha hả:

- Nếu ta tự thân đi lấy thứ đó thì tin rằng lão cũng không dám không đưa cho ta, nhưng mà...

Y nhăn nhó một hồi rồi nói tiếp:

- Ta muốn xuất cung một chuyến, còn khó hơn lên trời. Một năm, chỉ có phụ hoàng dắt ta ra ngoài dăm ba lần đó thôi. Mấy ngày nữa kỳ thi Đình sẽ bắt đầu, các vị sư phụ của ta đều lo việc tuyển người cho kỳ thi mùa xuân nên không ai tới dạy cả. Phụ hoàng sợ ta bỏ bê việc học hành nên đã sắp xếp mấy thứ khỉ gió cho ta viết, còn ra lệnh cho tả hữu thứ tử của Xuân Phường luân phiên giám sát, thực sự là một tấc khó rời đó.

Xuân Phường là nha môn trực thuộc thái tử cung, do hai quan Tả Xuân Phường tả thứ tử và Hữu Xuân Phường hữu thứ tử phụ trách quản lý việc học của thái tử. Những viên quan đảm nhiệm chức thứ tử này đều cương trực thẳng thắn, thậm chí trong đó còn có vài người thuộc đám hàn lâm học sĩ ngu dốt cổ hủ, trước giờ lục thân bất nhận, chí công vô tư. Có bọn họ đốc thúc, chính ra còn khủng khiếp hơn tự thân đại học sĩ giảng bài, Chu Hậu Chiếu nghĩ tới liền đau đầu không ngớt.

Dương Lăng biết những bản thiết kế chiến hạm và tấm bản đồ hàng hải hiển thị phía Nam Hải và con đuờng sang phuơng Tây do rất nhiều thợ giỏi vẽ ra vẫn còn trong nhân gian, làm sao hắn có thể để yên cho nó bị tiêu hủy được, nhất thời trong lòng lập tức ngứa ngáy vô cùng. Y thấy Thái tử khó xử, liền vội vàng hỏi:

- Thế trong tình huống thế nào thì quan viên Xuân phường mới không thể giám sát Thái tử đọc sách vậy?

Cốc Đại Dụng trả lời thay:

- Dương thị độc, nếu như thân thể Thái tử bất an thì mới có thể tạm dừng lớp học.

Dương Lăng vui mừng:

- Thế thì tốt rồi! Chỉ cần Thái tử giả vờ bệnh là xong, phải không?

Chu Hậu Chiếu trợn mắt, gắt lên:

- Nói dễ vậy à? Nếu ta bảo thân thể bất an thì chẳng phải cả đám Thái y viện sẽ xông ngay tới cuốn lấy ta mà khám bệnh sao? Đến lúc sự việc bị bại lộ, nhất định phụ hoàng sẽ trách móc ta đó.

Xem ra, tình cảm của Chu Hậu Chiếu với phụ hoàng của y rất tốt. Hậu Chiếu vừa kính vừa sợ, không hề muốn chọc ông tức giận. Dương Lăng cười nói:

- Thế thì có gì là khó? Thái tử chỉ cần nói bị đau đầu, mặc cho y thuật của ngự y thần thông đến đâu cũng chỉ có thể dặn Thái tử cố gắng tính dưỡng, tuyệt không có ai dám nói Thái tử không có bệnh.

Chu Hậu Chiếu nửa tin nửa ngờ hỏi:

- Quả thực là như vậy sao? Trong Thái y viện có mấy vị quốc y thánh thủ đáng gờm lắm đó.

Dương Lăng tràn đầy tự tin, giả làm bộ dạng của một lão thần ung dung đáp:

- Thái tử cứ yên tâm! Chỉ cần dùng kế này là nhất định có thể bịt được tai mắt của ngự y.

Não bộ là bộ phận phức tạp nhất của con người, dù y học hiện đại phát triển đến đâu cũng không thể chẩn đoán hết bệnh tật của nó. Lúc y làm công tác bồi thường tại công ty bảo hiểm, nếu như gặp phải khách hàng là bạn học, thân thích của mình thì sẽ bày cho họ biện pháp này. Chỉ cần tới bệnh viện nói là bị đau đầu, kể cả là đang khỏe mạnh hoạt bát thì cũng không có máy móc nào có thể chứng minh y nói dối.

Y không tin rằng thần y cổ đại dùng cách bắt mạch cũng dám nói rằng một người không có bệnh, trừ phi người đó một tên lang băm chuyên bốc phét. Trước mặt vị đương kim thái tử này, dù cho là lang băm có lòng lừa đảo cũng không dám bảo đảm y không có bệnh, lỡ ra y thực sự có bệnh mà làm chậm trễ việc điều trị thì liền phạm tội mất đầu ngay.

Chu Hậu Chiếu nghe vậy vui mừng, nhảy lên cười nói:

- Há há há! Như thế rất hay, ngày mốt là kỳ thi mùa xuân, quá trưa ngày mai ta sẽ bắt đầu đau đầu!

Y uy phong lẫm lẫm chỉ Cốc Đại Dụng nói:

- Đại Dụng, gọi Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành, Cao Phượng, La Tường, Ngụy Bân, Khâu Tụ, Trương Vĩnh ra đây cho ta. Đám người thối tha các ngươi tụ tập lại rồi tính toán kế hoạch làm sao để ta lẻn được ra khỏi cung, ha ha ha ha.....

Dương Lăng nghe Hậu Chiếu nhắc đến những cái tên quen thuộc trên, không khỏi cười khổ trong lòng. Xem ra hôm nay Kinh Sư Bát Hổ đều đã tề tựu tại Đông cung. Thế nhưng y đang muốn Chính Đức theo đường lối của mình vạch ra, tạm thời phải dựa vào tám kẻ này.

Bởi vì Dương Lăng muốn tạo nên tất nhiên không phải là một tên "hoàng đế phóng đãng", cũng không phải là một vị vua như “Nghiêu Thuấn" trong mắt đám tiên sinh phẩm hạnh, sĩ tử đại phu. Những người thống trị Trung Quốc bị những lời bịa đặt "Trung Quốc là trung tâm của thiên hạ" mê hoặc quá lâu rồi do đó bọn họ đã chùn chân mỏi gối, rất thiếu dã tâm. Đám sĩ tử đó già cỗi cổ hủ, chăm chăm theo gia pháp tổ tông, gương cũ không đổi, tầm nhìn hạn hẹp.

Đầm nước đọng này chỉ cần có một con suối mới chảy vào, hậu thế sẽ có một cục diện hoàn toàn khác. Thế nhưng hiện tại y cũng giống như đang chơi với lửa, nếu như dẫn đường không cẩn thận, Chính Đức khó thành ngọc báu; có dã tâm mà bất tài, hắn sẽ biến thành một tên bạo quân cực kỳ hiếu chiến, như vậy chi bằng cứ để cho hắn trở thành một thiên tử phong lưu chìm trong phụ nữ còn hơn.

“Ta sẽ thành hay bại đây? Nếu như bại rồi, trăm năm sau, người đời sau sẽ bình luận thế nào.....?"

Khóe miệng Dương Lăng nhếch một nụ cười khổ quái dị, dường như y nghe thấy lời thuyết minh hùng hồn mở đầu một bộ phim kiếm hiệp:

"Thời Chính Đức, gian tặc Dương Lăng và Bát Hổ cấu kết với nhau hãm hại trung thần, làm cho triều cương đại loạn, dân chúng lầm than, nhân sĩ giang hồ hiệp nghĩa đồng loạt nổi lên phản kháng, tạo ra bao khúc ca tráng lệ..." Chương 61 – Học sinh bất lương

“Lứa tuổi thiếu niên nhi đồng là lúc mà thân thể đang phát triển, không được ngủ đủ sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự trưởng thành của cả tâm hồn và thể xác.” Dương Lăng vừa ngáp dài vừa thầm lầm bầm trong bụng, nếu không phải còn vài phần tự biết mình, nhất định lúc này y sẽ trịnh trọng đưa ra lời kháng nghị như thế với vị Thị giảng học sỹ Tạ Thiên đang thao thao bất tuyệt trước mặt.

Mộc Trai tiên sinh đang giảng bài đến lúc hưng phấn, nước bọt bắn tứ tung. Lúc này Chu Hậu Chiếu đang ngồi nghiêm trang sau bàn, vai kề vai với Dương Lăng, vẻ mặt đờ đẫn, ánh mắt ngây ngốc, trạng thái hóa đá này đã kéo dài được gần một buổi sáng rồi.

Nhưng từ nửa canh giờ trước Dương Lăng đã bắt đầu ngáp ngắn ngáp dài. Kể từ cái ngáp đầu tiên của y, như có bệnh truyền nhiễm, hai gã học sinh bất lương bắt đầu ngáp liên tục không ngừng.

Sau khi ngáp xong, nước mắt trào ra khiến đôi mắt họ ươn ướt. Tạ Thiên nhìn thấy cảnh này thì lại cho rằng Thái tử và Dương thị độc bị nội dung đặc sắc và sinh động trong bài giảng của mình làm cho cảm động, nên lão càng giảng càng hăng.

Dương Lăng lại chán nản ngáp thêm cái nữa, sau đó lặng lẽ bĩu môi khinh thường. Chưa nói tới chuyện phải học từ sáng sớm, những bài giảng của lão thư sinh cổ hủ này quả thực là quá mức khô khan vô vị. Nghe nói trong ba vị sư phụ của Chu Hậu Chiếu thì ông này giảng bài chán nhất, quả đúng không sai. Có lẽ những nội dung đó là tài liệu giảng dạy tiêu chuẩn của các vị Thái phó từ cổ tới kim, chúng được giảng cả ngàn năm rồi, biển cả cũng biến thành nương dâu, vậy mà chúng nó vẫn chẳng có gì thay đổi, vừa không liên quan tới thực thế, lại chẳng nói gì tới tương lai. Còn về cục diện thế giới ư? Chuyện đùa! Trong mắt Tạ đại học sỹ, ngoại trừ Đại Minh ra thì còn có thế giới gì nữa chứ? Càng đáng ghét hơn nữa là tay đại học sỹ này còn ỷ vào công phu đủ để thi đỗ Trạng Nguyên của bản thân, toàn bới móc nội dung trong những cuốn sách lạ hoắc đi cùng với những chữ hiếm gặp, dường như không làm như thế thì không đủ thể hiện sự bác học của ông ta vậy.

Dương Lăng đưa tay lên bóp trán, giả bộ như đang cúi đầu trầm tư, rồi dựa vào sự yểm hộ của bàn tay y bắt đầu liếc mắt quan sát cái giá bày đồ cổ ở bên cạnh. Trên chiếc giá được làm bằng gỗ lim này bày một loạt những vật kỳ trân hiếm có, ánh mắt Dương Lăng dừng lại trên một chiếc hồ lô sáng bóng được làm bằng bạch ngọc.

Chiếc hồ lô bạch ngọc này đẹp thật, vừa nhìn là biết giá tiền không thấp, đường cong mỹ lệ kia cứ tựa như… tựa như thân thể Ấu Nương vậy. Chất ngọc long lanh, đường cong mềm mại, hà hà, thường ngày ta cứ bị bờ vai thon gọn cùng với cái eo nhỏ như lưng ong của Ấu Nương lừa, tưởng rằng thân hình nàng chỗ nào cũng đều nhỏ nhắn lung linh như vậy. Khi nàng nằm sấp trên giường, mái tóc dài đen nhánh che đi một nửa khuôn mặt mỹ lệ đỏ bừng như lửa, cặp vai thon be bé và bờ eo nhỏ xinh xinh kia lại càng tôn lên cặp mông tròn xoe đẫy đà phía dưới cùng với đôi đào tiên vô cùng dụ người ở phía bên trên.

Theo những động tác điên cuồng của mình, cặp đùi trắng nõn vừa mềm mại vừa đầy chất đàn hồi kia cứ đưa qua đưa lại, thật khiến người ta phải hoa mắt đắm say. Vào lúc mà Ấu Nương dường như không nhịn nổi nữa, nhưng lại vẫn nhẫn nhịn ngoan cường, tiếng rên rỉ kia mới thật hấp dẫn làm sao, đưa tay sờ vào chỗ nào cũng thấy mềm mại mịn màng như ngọc, sảng khoái vô cùng, thật khiến người ta phải tiêu hồn lạc phách. Sau khi điên đảo một trận xong, ôm thân thể mịn màng trần trụi của nàng trong lòng, để nàng ngồi lên gối, hai người cũng không nói năng gì, cứ để mặt kề sát mặt, lặng lẽ ngồi yên, nghe tiếng nàng thở, cảm nhận tim nàng đập, ôi chao, cảm giác đó mới thân thiết làm sao…

Thật là yêu nàng chết mất! Ngày mai nhất định phải tranh thủ thời gian đi mua cho nàng bộ bàn trang điểm, gương soi, màn lưới, chăn lụa,… Mình phải dốc hết sức để nàng có thể sống thật vui vẻ; một nương tử tốt như thế, không thể bạc đãi nàng được! Một cô gái mới có mười sáu tuổi đầu, ở thời hiện đại thì vẫn còn được ba mẹ nuôi nấng và chăm sóc, vậy mà ngày ngày nàng đều phải giặt giũ quần áo nấu nướng cơm nước cho mình, lại lo hết việc nhà, sáng sớm canh tư đã phải dậy làm cơm. Ôi, trong mắt nàng, nàng là cây tầm gửi sống dựa vào mình, nhưng trong lòng mình, nàng mới là cái cây cao để mình dựa dẫm.

Đang lúc Dương Lăng suy nghĩ vu vơ, chợt vạt áo y bị Chu Hậu Chiếu giật giật. Y sững người, bèn ngẩng đầu nhìn lên, trên chiếc bàn trước mặt đột nhiên nghe bộp một tiếng, thì ra Tạ Thiên vừa dùng chiếc thước trong tay gõ mạnh một cái xuống bàn, sau đó chắp tay sau lưng đi ra chỗ khác, lạnh lùng hỏi:

- Dương thị độc thấy bài giảng của ta thế nào?

- Dạ? À, tuyệt lắm, tuyệt lắm! Thật là nghe xong như tỉnh cơn mê, đề hồ quán đỉnh (1)!

Dương Lăng giật nảy mình, lập tức rời khỏi cơn tưởng tượng.

Gã huynh đệ chung hoạn nạn Chu Hậu Chiếu của y ở bên cạnh che miệng cười thầm trước tai họa mà y gặp phải, đồng thời hai tay linh hoạt kết thành một cái đại thủ ấn ở dưới bàn. Thật không nhìn ra Chu Hậu Chiếu học cái này nhanh như thế, chỉ thấy mấy cái kim cương ấn, sư tử ấn, trí quyền ấn, nhật luân ấn, bảo bình ấn (3) được mười ngón tay của hắn bắt liên tục, động tác vừa nhanh vừa khéo, khiến người ta nhìn mà hoa hết cả mắt, đồng thời trong miệng hắn còn khẽ lẩm bẩm: “Ta quán, ta quán, ta quán quán quán, bảo bình quán đỉnh, nhị lợi năng thành kim cương vương quảng đại phật ngữ quán đỉnh, mật tam thậm thâm quán đỉnh, vô nhị vô biệt đại lạc quán đỉnh…” (3)

Đang khi Chu Hậu Chiếu quán đỉnh đến say mê, Tạ Thiên chợt hỏi:

- Thái tử mặt mày rạng rỡ, nhất định là đã lĩnh ngộ được nhiều điều, xin Thái tử hãy giải thích một chút được chăng?

- A! Dạ? Cái gì?

Chu Hậu Chiếu chậm rãi ngẩng đầu lên, khuôn mặt lập tức trở nên giống như một thằng đần, ngây người nhìn Tạ Thiên. Dương Lăng nhìn hắn với vẻ đồng cảm, trong lòng cũng sinh ra nhiều cảm xúc.

Đứa nhỏ này thực sự là học nhiều quá đến nỗi sắp trở thành thằng ngốc rồi.Thực ra, hắn cũng thật đáng thương. Học sinh thời hiện đại khi đi học còn có giờ thể dục, âm nhạc, mỹ thuật gì đó để tiêu khiển một chút, nhưng tiểu tử này thì cả ngày toàn phải nghe giảng bài về chính trị với văn học.

Dương Lăng khẽ ho một tiếng, đưa ngón tay lên day day trán. Chu Hậu Chiếu thấy thế liền lập tức hiểu ý, nhăn mặt nói với Tạ Thiên:

- Tạ đại học sỹ! Đầu ta hơi đau, ối chao, cứ hơi suy nghĩ một chút là lại đau.

Dương Lăng lén giơ ngón tay cái lên bên dưới gầm bàn. Khóe miệng Chu Hậu Chiếu hơi mấp máy đoạn hắn cũng đáp lại y bởi động tác Giống hệt. Cốc Đại Dụng đứng hầu một bên đã lâu, lúc này nghe thấy vậy bèn lao nhanh ra, bộ dạng như một tên hán gian đang cầm theo khẩu súng mauser. Gã kiễng chân nhìn trái ngó phải, đoạn thất thanh kêu to như có cướp tới nhà:

- Thái tử gia đau đầu sao? Người đâu, người đâu rồi, mau đi gọi thái y, chậm là ta lấy đầu ngươi đó!

Tên tiểu thái giám đang đứng ở cửa bèn lao đi như một làn khói. Tạ Thiên vừa thổi râu vừa trừng mắt một hồi lâu rồi cũng chỉ đành lắc đầu thở dài, thầm nghĩ: “Hôm qua Lý Đông Dương nói Thái tử một tiết học chạy đi nhà xí tới tám lần. Hôm nay mình lên lớp thấy y không đi nhà xí thì đã mừng thầm rồi, chẳng ngờ hôm nay đít y không sao thì cái đầu lại sinh bệnh. Chà, Thái tử lười học như thế, biết làm sao đây?”

Tạ Thiên lòng đầy phiền muộn rời khỏi cung Thái tử, trên đường còn gặp ba vị Thái y đang xắn quần chạy vội, đằng sau là một đám tiểu dược đồng lưng khoác hòm thuốc chạy theo.

Tạ đại học sỹ đứng trong cung suy nghĩ hồi lâu: “Thái tử là Hoàng đế tương lai, y ham chơi không chú ý học tập như vậy thực không phải là chuyện nhỏ! Mình được bệ hạ tin cậy giao cho dạy dỗ Thái tử, nhất định phải cúc cung tận tụy, gan óc lầy đất cũng không nề hà. Hiện giờ Thái tử ham chơi như thế, cho dù có đắc tội với Thái tử cũng nhất định phải bẩm với Hoàng thượng mới được.”

Tạ Thiên suy nghĩ xong xuôi bèn xoay người đi thẳng đến cung Càn Thanh.

***

Tại Ngự Thư phòng trong cung Càn Thanh, lúc này Hoằng Trị đang nổi cơn lôi đình, lão ném mạnh phong thư cấp báo quân tình xuống bàn, tức giận nói:

- Bọn Bắc Nguyên Thát Đát này thực quá ngông cuồng. Tiểu vương tử vừa mới cướp bóc quay về xong, Hỏa Sư lại mang ba ngàn quân đi vòng qua biên quân ở Hoài Lai, tập kích Diên Khánh từ con đường nhỏ trong núi. Nếu không nhờ có Trác Du Kích nhanh chóng tiếp viện, bọn chúng chẳng phải là sẽ tiến dần từng bước, đánh thẳng đến kinh sư hay sao?

Gã thái giám Miêu Quỳ đứng hầu bên cạnh bèn khẽ cất tiếng:

- Hoàng thượng chớ giận! Hỏa Sư chỉ có vẻn vẹn ba ngàn nhân mã, hắn xâm nhập Đại Minh ta tựa như một con cá trê bơi vào biển lớn, có thể gây ra sóng gió gì chứ? Đại Minh ta binh cường mã tráng, chỉ có điều quốc thổ của chúng ta quá rộng lớn, cần chia binh ra trấn thủ, chỗ nào cũng phải đề phòng. Một bên phòng thủ, một bên tấn công, quyền chủ động nằm trong tay địch thủ, chúng ta khó mà giữ được vẹn toàn, đám người hoang dã kia chẳng hề kiêng kị gì, do đó mới có thể thừa lúc chúng ta sơ suất mà xâm nhập. Lão nô chỉ cần năm ngàn binh mã, nhất định sẽ có thể đuổi Hỏa Sư ra khỏi biên cương, đánh cho hắn tơi bời tan tác, từ nay không dám tùy tiện khai chiến nữa.

Lưu Kiện vừa mới phụng chiếu vào cung nghe thế bèn vội tâu:

- Bệ hạ! Hiện giờ Trác Chí Kỳ và Lưu Anh đã dẫn quân đánh đuổi Hỏa Sư rồi. Người Mông Cổ thạo việc cưỡi ngựa cướp bóc, tới lui như gió, nếu tùy tiện xuất binh e rằng sẽ lao sư động chúng, hao tổn tiền tài, đồng thời cũng khó mà tìm được tung tích địch, xin bệ hạ suy nghĩ kỹ!

Hoằng Trị nghe thế thì không khỏi do dự. Miêu Quỳ nghe nói Hỏa Sư chỉ có ba ngàn người, nóng lòng muốn lập công, vừa nghe Lưu Kiện khuyên can bèn vội tâu:

- Bệ hạ! Hỏa Sư chỉ dẫn theo có ba ngàn quân mà dám xâm phạm Đại Minh, cướp bóc phá hoại như ở chỗ không người, nếu không trừng phạt thật nghiêm, chỉ e người Mông Cổ sẽ càng ngày càng ngông cuồng kiêu ngạo.

Lý Đông Dương vội vàng can gián:

- Bệ hạ, dẫn quân viễn chinh nào phải chuyện tầm thường, binh mã lương thảo đều phải chuẩn bị, khi chuẩn bị đủ xong thì Hỏa Sư đã ở xa ngoài ngàn dặm rồi. Huống chi thần nghe nói tên Hỏa Sư này mặt đỏ như lửa, vóc người to lớn, kiêu dũng thiện chiến, sức mạnh tuyệt luân, cho dù có đuổi kịp thì cũng chưa chắc đã làm gì được hắn. Hơn nữa Hỏa Sư chính là con rể của Khả hãn Bắc Nguyên Mãn Đô Cổ Lặc, hắn chỉ dẫn theo một cánh quân đơn lẻ ba ngàn người xâm nhập nước ta, lại trang bị gọn nhẹ như thế, một khi ra khỏi cửa quan nhất định sẽ có đại quân tiếp ứng. Nếu chúng ta chủ động xuất binh, e là cần có binh lực đông gấp năm lần địch, nếu không sẽ khó mà làm nên chuyện gì.

- Chuyện này…

Vốn trong lòng Hoằng Trị rất ngưỡng mộ Thái tổ và Thành tổ với thành tích văn trị võ công, nghe nói người Mông Cổ ngông nghênh như vậy, rất muốn xuất binh đánh một trận. Nhưng ông ta trước giờ rất coi trọng ý kiến của triều thần, huống chi giờ lại là hai trọng thần Lưu Kiện và Lý Đông Dương cùng tỏ ý phản đối, Hoằng Trị không khỏi cảm thấy do dự, khát vọng muốn xuất binh cũng nguội đi nhiều.

Chính vào lúc này, một viên hoạn quan bước vào bẩm báo:

- Hoàng thượng! Tạ đại học sỹ cầu kiến.

Hoằng Trị vô cùng mừng rỡ, vội bảo:

- Mau, mau triệu ông ta vào!

Tạ Thiên bước nhanh vào trong Ngự Thư phòng, vừa định báo chuyện Thái tử ham chơi chợt phát hiện Lưu Kiện và Lý Đông Dương đều ở đây, ông bất giác ngẩn người, lời đã lên đến miệng cũng đành nuốt xuống.

Ông và Lưu Kiện, Lý Đông Dương cùng làm quan trong triều, tuy giao tình không tệ nhưng cũng không muốn ở trước mặt bọn họ mà kể chuyện kia ra, như thế chẳng phải chứng tỏ bản thân bất tài, không dạy được học trò hay sao? Chương 62 - Tam công nhất lão

Thấy Tạ Thiên, Hoằng Trị mừng rỡ:

- Ái khanh đến thật đúng lúc, trẫm đang định sai người đến Đông cung tìm khanh đây.

Trông thấy hai vị đại học sỹ Lưu Kiện và Lý Đông Dương đều có mặt, Tạ Thiên ngạc nhiên hỏi:

- Bệ hạ, đã xảy ra chuyện lớn gì sao?

Đứng ở một bên, Lưu Kiện thuật lại cho Tạ Thiên biết tin tiểu vương tử Bá Nhan Khả Hãn của Bắc Nguyên vừa rút quân thì Hỏa Sư lại đi đường vòng đánh sâu vào trong biên giới để cướp bóc, sau đó lại nhắc lại những ý kiến bất đồng vừa rồi một lượt. Tạ Thiên nghe xong liền lắc đầu quầy quậy, sau đó tâu với hoàng đế Hoằng Trị:

- Bệ hạ, việc binh đao là thứ hung khí của thiên hạ, cái dũng cũng là thứ hung đức trong thiên hạ, ấy đều không phải thứ mà người quân tử nên dùng!

Dân Mông Cổ dã man, coi giết chóc như cầy cấy. Nếu thượng quốc thiên triều ta cũng bắt chước bọn chúng, lấy đạo người đối đãi người, khó tránh khỏi sẽ gây ra chiến tranh dồn dập, trăm họ lầm than, ruộng đồng bỏ hoang, cỏ gai mọc rậm, như thế há chẳng phải đã trái với đạo nhân nghĩa sao?

Đại Minh ta là nước văn minh lễ nghĩa, vừa không cần cướp đoạt của cải của người khác, lại chẳng mong nô dịch bọn người hoang dã man di, cớ gì phải xuất binh viễn chinh chứ? Giờ đây thiên hạ thái bình, chính trị trong sạch, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, duy chỉ phải lo việc thiên tai nhân họa. Theo thần thấy, chúng ta chỉ cần phái tướng thủ cửu biên (*), canh phòng nghiêm ngặt, ngăn bọn man di ngoài biên cương là được rồi.

Hỏa Sư đã có thể theo đường mòn tập kích Diên Khánh, rõ ràng là phòng tuyến biên thuỳ của ta đã có sơ hở. Thần cho rằng nên đắp thêm Trường Thành đoạn Bát Đạt Lĩnh ở Diên Khánh, xây dựng biên thành, đóng binh trấn giữ, đại sự tất sẽ ổn định.

(*): Cửu biên bao gồm Liêu Đông, Tuyên Phủ, Đại Đồng, Duyên Tuy, Ninh Hạ, Cam Túc, Kế Châu, Thái Nguyên, Cố Nguyên.

Nghe lý luận của lão, Hoằng Trị hơi cảm thấy không vui. Việc binh là thứ hung khí của thiên hạ ư? Không có thứ hung khí này, Đại Minh từ đâu mà có? Cái dũng là thứ hung đức trong thiên hạ ư? Thế nhưng mỗi một vị hoàng đế khai quốc, kể cả Thái Tổ, Thành Tổ, có ai mà không dùng binh đao để bình thiên hạ chứ? Chẳng lẽ phải đợi hoàng đế triều trước thoái vị hay sao?

Nhưng những lời Tạ Thiên nói đều là câu chữ của các bậc Tiên hiền, tuy Hoằng Trị là đế vương nhưng cũng không thể phản bác thẳng thừng. Trong mắt của những kẻ có học trong thiên hạ, văn chương đạo đức của các bậc Tiên hiền chính là khuôn vàng thước ngọc, mãi mãi bất khả xâm phạm. Hết cách, Hoằng Trị đành buồn bực nói bằng giọng không vui:

- Thôi, trẫm đã truyền Thượng thư bộ Binh Lưu Đại Hạ vào cung rồi, cứ chờ nghe ý kiến của ông ta rồi hãy quyết định chuyện này vậy.

Một lát sau, bên ngoài ngự thư phòng vang tới một giọng nói sang sảng tựa chuông đồng:

- Thần, Thượng thư bộ Binh Lưu Đại Hạ, phụng chiếu tấn kiến!

Hoằng Trị nghe vậy bèn tức tốc triệu vào. Lưu Đại Hạ là một ông già đã bảy mươi, râu tóc bạc phơ nhưng tinh thần vẫn quắc thước, vóc người cao lớn, lời nói và cử chỉ đều toát ra vẻ dũng mãnh, rất có uy phong của một người cầm quân. Triều đại của Hoằng Trị có hai vị thượng tướng quân già như Hoàng Trung(*): một là Lưu Đại Hạ, vị kia là Vương Việt (1), đều là "gừng càng già càng cay".

(*): Lão tướng nhà Thục trong Tam Quốc Chí

Phẩm hàm và công trạng của Vương Việt thậm chí còn trên Lưu Đại Hạ. Năm xưa ông ta từng là Thượng thư bộ Binh, sau cai quản toàn bộ tam biên (*), năm bảy mươi tuổi còn đích thân cầm quân viễn chinh, ruổi ngựa đến dưới núi Hạ Lan, tập kích phá tan doanh trại dài mười dặm của tiểu vương tử, thu được được vô số lạc đà, ngựa, bò, dê và vũ khí. Ông ta lắm mưu nhiều kế, đánh cho tiểu vương tử vừa nghe thấy tiếng là bỏ chạy, được luận công tấn thăng hàm Thiếu bảo. Cai quản tam biên, nắm quyền đại tướng, cả triều đại nhà Minh cũng chỉ có một mình ông ta mà thôi.

(*): Chỉ ba vùng Diên Tuy, Cam Túc, Ninh Hạ.

Đáng tiếc khi ấy chính là giai đoạn mà đại gian thần thái giám Lý Quảng – kẻ cổ xuý cho phong trào trường sinh bất lão, thành tiên, thành đạo - nắm quyền. Vương Việt biết rõ mình làm tướng ở biên cương, phải viễn chinh Thát Đát xa mấy nghìn dặm, sợ nhất chính là có người trong triều cản trở ở sau lưng, bởi một khi lương thảo ngắt quãng, hậu cần gián đoạn, thì sẽ bị rơi vào tình trạng cô lập.

Để được sự ủng hộ của Lý Quảng, không đến nỗi phải chịu đủ khó khăn trên đường viễn chinh, Vương Việt sai người kết giao mua lòng hắn ta, thậm chí còn chia cho hắn một phần chiến công. Được lợi ích, lại có cả chiến công, lúc ấy Lý Quảng mới tận tâm tận lực kiến nghị với hoàng đế khiến cho triều đình dốc sức ủng hộ Vương Việt.

Nhưng sau khi Lý Quảng bị bệnh mất, trong nhà lục được vô số vàng bạc châu báu, bị định tội đại gian đại ác, không chỉ bè đảng bọn Lý Quảng bị sụp đổ, mà Vương Việt vì có quan hệ mật thiết với hắn nên cũng bị đám ngự sử ngôn quan dâng tấu hạch tội đủ điều, trách mắng là bè đảng gian thần.

Trong mắt của những kẻ thư sinh đó, một khi gian thần lộng quyền, cho dù chỉ lo giữ thân mình thì cũng không được làm trái với lời dạy của các bậc Tiên hiền thuở xưa, dù cho có là "vờ thuận a dua để đạt mục đích" cũng tuyệt đối không được. Huống chi bất luận bây giờ ông nói lời vàng ngọc như thế nào, ai biết được lúc trước ông nghĩ gì chứ? Chẳng phải lúc nào ông cũng xoen xoét "ta không vào địa ngục thì còn ai vào địa ngục" ư? Vậy ông hãy xuống địa ngục đi!

Vương Việt dẫn quân rong ruổi nghìn dặm, phá địch như chẻ tre, ở tuổi thất thập cổ lai hi mà còn đánh cho thiết kỵ Mông Cổ không còn manh giáp, rốt cuộc không những không được vùi thây nơi sa trường mà còn bị bọn ngôn quan của Đốc Sát Viện hết kẻ này đến kẻ khác dâng tấu mắng chửi, uất ức mà chết.

Lưu Đại Hạ là trọng thần trong triều, lần lượt phò tá ba vị hoàng đế Anh Tông, Hiến Tông, Hiếu Tông, là nguyên lão tam triều đức cao vọng trọng. Lão là người làm việc quả quyết, giỏi việc binh đao, lại vô tư chính trực, cho nên dù bọn Lưu Kiện vẫn luôn xem thường võ tướng, nhưng lại khá kính trọng vị Lưu thượng thư này.

Lưu Đại Hạ xem xong tấu báo quân tình liền trầm ngâm một hồi lâu, rồi sau đó khẽ lắc đầu nói:

- Bệ hạ, thần cũng cho rằng... nên canh phòng nghiêm ngặt chứ không nên đưa quân ra biên ải!

Lưu Kiện, Tạ Thiên, Lý Đông Dương nghe vậy đều thở phào nhẹ nhõm.

Miêu Quỳ lại đưa mắt nhìn trời, vô cùng tức giận. Lão biết, tuy Lưu Đại Hạ nói vậy phần lớn là do việc công, nhưng trong đó chưa hẳn đã không có chút tư tâm nào. Lưu Đại Hạ cùng nội quan (thái giám) trong triều tranh đấu đã nhiều năm, coi hoạn quan như rắn rết, chỉ cần là kiến nghị mà do nội quan đưa ra, bất luận đúng sai trong lòng lão cũng đều phát sinh vài phần cảnh giác.

Thuở Trịnh công công bảy lần đến đại dương phía Tây, thế lực hoạn quan đang hùng mạnh. Lưu Đại Hạ cho rằng viễn dương đến nước khác là sai lầm về mặt chính trị, là điều động binh lực một cách vô bổ, lại sợ thế lực hoạn quan mượn chuyện này để phát triển quyền lực, trở thành đại họa cho triều đình, do đó khi Anh Tông muốn tiếp tục viễn hành, lão liền bất chấp lý lẽ mà can ngăn. Nghe nói bản đồ hàng hải của Trịnh công công đã bị hủy trong tay lão.

Năm Thành Hóa thứ mười bảy, An Nam (Việt Nam) xâm lấn Lào, thất bại. Khi ấy Uông công công Uông Trực muốn thừa cơ chiếm lại An Nam đã không còn ngoan ngoãn vâng lời Đại Minh, bèn nhờ bộ Binh tìm lại bản đồ của An Nam trước kia.

Lưu Đại Hạ cho rằng một khi chiến sự nổ ra, thua thì tử thương thảm trọng, thắng thì thế lực hoạn quan mạnh lên, vì vậy lại đem bản đồ An Nam giấu mất, không chịu giao. Chính sách bế quan tỏa cảng, tự bảo vệ mình rất được bọn sỹ phu tán đồng, cho nên ngay cả kẻ quyền khuynh triều chính như Uông Trực cũng không có cách nào gây khó dễ cho lão.

Giờ đây lão nói như vậy, chẳng lẽ là sợ hoạn quan sẽ lại đắc thế một lần nữa? Miêu Quỳ vừa nghĩ vừa lạnh lùng liếc nhìn lão, ánh mắt đầy vẻ oán hận. Nhưng Lưu Đại Hạ là thần tử được Hoằng Trị sủng ái nhất hiện nay, lão ta cai quản vùng Hoàng Hà, quét sạch phản tặc, đốc quản quân lương, làm quan thanh liêm, có thể nói là trên dưới triều đình ai nấy đều ca ngợi. Tuy rằng Miêu Quỳ cũng được sủng ái, nhưng cũng không dám khinh suất dây vào.

Hoằng Trị nghe vị dũng tướng này cũng nói như vậy, trong lòng cảm thấy thất vọng vô cùng. Ông nói với giọng không phục:

- Thái Tổ, Thành Tổ từng mấy lần xuất quân ra ngoài biên ải, đánh cho người Mông thất bại thảm hại, khiến người Mông về sau thấy cờ xí của Đại Minh ta liền phóng ngựa tránh xa, quân ta muốn đánh một trận mà cũng không được. Khi xưa đã oai phong như thế, cớ gì bây giờ lại không thể?

Lưu Đại Hạ chắp tay thưa:

- Bệ hạ thần vũ chẳng kém gì Thái Tổ, Thành Tổ, nhưng ngày nay binh mã kém xa khi trước, vả lại thuở ấy triều đình thường xuyên điều cả chục vạn đại quân ra sa mạc. Hiện nay quân binh Đại Minh ta chỉ giỏi thủ không giỏi công, việc chiến tranh không thể tùy tiện phát động. Trong tình thế hiện giờ, thủ là thượng sách, chiến là hạ sách.

Ba vị đại học sỹ vuốt râu mỉm cười, tỏ ý tán thành. Hoằng Trị thở dài bảo:

- Ái khanh hiểu rõ việc quân, khanh đã nói như vậy, tất là hữu lý. Nếu không có lời hay của mấy vị ái khanh, trẫm nhất thời giận dữ kích động, suýt nữa đã làm hỏng đại sự rồi.

Lưu Kiện cúi đầu tán dương:

- Bệ hạ lắng nghe lẽ phải, quả thật là minh quân trên đời.

Hoằng Trị cười gượng khoát tay, kế đó lại hỏi Lưu Đại Hạ:

- Theo ái khanh, trẫm nên xử trí chuyện này như thế nào đây?

Lưu Đại Hạ thoáng ngẫm nghĩ một chút rồi đáp:

- Lời của ba vị đại học sỹ rất có lý. Thần cũng nghĩ rằng nên hạ lệnh cho tướng lĩnh biên cương nghe ngóng địch tình, phòng thủ nghiêm ngặt, đề phòng quân địch xâm phạm. Ngoài ra nên xây đắp thêm một đoạn trường thành ở Bát Đạt Lĩnh, lập cửa ải để chống địch, đồng thời cho trọng binh đồn trú ở lân cận, xây dựng trạm canh và phong hỏa đài tại những con đường núi và đường giao thông quan trọng từ Quan Thành lên phía bắc. Nếu thi hành song song những kế sách này, kinh sư nhất định sẽ vững như bàn thạch.

Hoằng Trị ung dung ngồi trên long ỷ, gật gù nói:

- Cứ theo lời khanh vậy, Lưu đại học sỹ hãy soạn chỉ đi!

- Vâng, thần xin cáo lui!

Hoằng Trị khoát tay, nhìn mấy vị trọng thần bên người lần lượt cất bước lui ra, trong lòng thất vọng: "Tiểu vương tử tập kích biên giới trong đêm giao thừa, ba cánh đại quân ta đã dễ dàng giành lại đất đai bị mất trong nháy mắt. Chẳng lẽ vừa rời khỏi biên ải, mãnh hổ này thật sự sẽ biến thành con mèo hay sao? Ôi, có lẽ bọn họ đã đúng, chính trị và quân sự nửa do sức người, nửa do sức trời, gây dựng cơ nghiệp đã gian nan, bảo vệ cũng không phải dễ..."

***

Thái y quả nhiên không dám phán bừa là Thái tử không bị bệnh, càng không dám tuỳ tiện bốc thuốc, chỉ dám kê đại mấy toa thuốc an thần, căn dặn Thái tử nghỉ ngơi nhiều một chút rồi lui ra. Dương Lăng mỉm cười nói với Thái tử:

- Điện hạ, sáng ngày mai chúng ta cứ y kế mà làm, vi thần tạm xin cáo lui đây.

- Được, sáng ngày mai ngươi hãy ở ngoài cửa hậu cung chờ ta!

Chu Hậu Chiếu khoát tay, trong lòng thì đang nghĩ về chuyện khác. Tối hôm qua hắn được xem bọn La Tường, Cao Phượng biểu diễn kịch đèn chiếu (2) đến nửa đêm, giờ lại thấy thèm được xem tiếp. Tạ đại học sỹ đã đi, gã đang muốn gọi bọn họ đến diễn tiếp.

Nhìn vẻ mặt hắn, Dương Lăng tỉnh bơ vái sâu một vái, xong quay sang gật đầu chào Cốc Đại Dụng ở cạnh, rồi chậm rãi lui ra. Qua hai ngày tiếp xúc, y cũng thấy được cái đám Bát hổ(*) hiện hoàn toàn chưa có dã tâm chính trị gì. Nhưng vì bọn chúng lựa ý hùa theo Thái tử, giúp cho hắn vui, cho nên các hành động và việc làm hiện tại lại khiến cho chúng khó tránh khỏi sẽ bước đi trên con đường ấy.

(*): "Bát hổ" gồm: Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành, Cao Phượng, La Tường, Nguỵ Bân, Khâu Tụ, Cốc Đại Dụng, Trương Vĩnh.

Hiện giờ y mới vừa kết bạn với Thái tử, còn Bát hổ lại chăm sóc Chu Hậu Chiếu từ nhỏ cho đến lớn, luận cảm tình tuyệt đối y không thể bằng bọn chúng được. Nếu để Bát hổ nảy lòng nghi kỵ y, tuỳ tiện nói xấu mấy câu trước mặt Thái tử, đến lúc ấy cái chức thị độc này của y cũng khỏi cần làm tiếp nữa. Hơn nữa Thái tử đang ở trong thời kỳ tâm lý nổi loạn của tuổi teen, nếu y học theo các vị trung thần hết mực khuyên ngăn, e rằng chỉ tạo ra hiệu ứng ngược.

Cho nên Dương Lăng không dám để lộ chút vẻ phản cảm nào trên mặt. Y chỉ hy vọng rằng với nỗ lực của bản thân sẽ có thể khiến cho vị hoàng đế mà theo quỹ đạo lịch sử ban đầu sẽ là một gã hôn quân này sẽ khác đi đôi chút so với lịch sử. Có điều... tuy nói tuổi thiếu niên là lúc dễ uốn nắn nhất, nhưng mà... vỏn vẹn chỉ có hai năm, ài, thời gian không chờ mình, đành cố hết sức thôi.

***

Đường Hộ Quốc Tự, một kẻ áo vải đầu bù tóc rối cưỡi một thớt ngựa gầy.

Hà tham tướng dò hỏi mãi mới tìm đến được cửa nhà Dương Lăng.

Từ khi bị áp giải vào kinh nhốt vào đại lao bộ Hình đến nay đã được hơn nửa tháng, mãi đến hôm nay gã mới được phóng thích ra khỏi ngục, giáng làm Phó thiên tổng, phải đi đến vùng Quảng Tây xa xôi để nhậm chức.

Hơn nửa tháng nay, rốt cuộc gã đã được biết thế nào gọi là thế sự vô thường, thế nào gọi là thói đời nóng lạnh. Đám bè bạn năm xưa cũng có vài kẻ đang làm quan trong kinh, nhưng không một kẻ nào dám ra mặt nói giúp gã một câu công đạo.

Người nhà gã hay tin xấu, bèn bảo tam đệ gã mang rất nhiều vàng bạc vào kinh vận động, lo lót. Nhưng đây là vụ án do Thiên tử yêu cầu xét xử, lại cuốn bộ Binh, bộ Công, bộ Hộ, Ngũ Quân đô đốc phủ vào vòng tranh cãi, lúc này người ta tránh còn không kịp, ai dám đưa chân bước vào trung tâm cơn bão chứ? Vì vậy chỉ muốn tìm người nói giúp vài câu thôi mà cũng không được.

Lúc đó gã lại nghe tin mẹ già tuổi gần bảy mươi vì hay tin gã phạm tội bị giam vào đại lao, có thể sẽ nguy tới tính mạng mà lòng lo lắng khiến bệnh ngày một nặng thêm, hiện giờ bệnh tình nghiêm trọng, thậm chí trong nhà đã chuẩn bị sẵn quan tài, áo liệm đầy đủ cả. Thế là lòng gã càng như có lửa đốt, bi phẫn khôn cùng.

Chánh giám quân Diệp ngự sử là một gã quan văn, lại đã chết trên chiến trường. Không ai muốn bất chấp liêm sỉ, có thể khiến cho thân bại danh liệt mà đi tố cáo một thư sinh đã "chết trận" chốn sa trường, huống chi còn có gần trăm ngòi bút của Đốc Sát viện ra sức ủng hộ gã ta.

Còn vị Lưu công công đó lại là hoạn quan trong đại nội, là tâm phúc bên cạnh Thái tử, tuy rằng hiện giờ không quyền không thế, nhưng rất được Thái tử coi trọng. Hơn nữa lão là giám quân do đích thân thánh thượng cắt cử, chỉ trích lão sẽ khó tránh có ý ngầm nói thánh thượng dùng người không sáng suốt, cho nên càng không có kẻ nào dám vạch lỗi của lão ta.

Thế là người phải gánh chịu hết thảy mọi tội danh và trách nhiệm này không còn ai khác ngoài gã.

Thoạt đầu Hà tham tướng nghĩ rằng cùng lắm mình sẽ chỉ bị phán tội tham công rơi vào bẫy địch, nặng nhất cũng chỉ là tước quan giáng chức mà thôi. Sau đó khi thấy quan cai ngục vốn lúc đầu còn có chút ý tốt với mình ngày càng trở nên lạnh nhạt, về sau thậm chí còn không cho phép gia quyến vào thăm, đến lúc đó gã mới cảm thấy không ổn. Đến khi tam đệ dùng tiền hối lộ cai ngục, lén vào thăm gã, gã mới hay non nửa quan viên kinh sư đều đang bị cuốn vào trong vụ luận tội này.

Hà tham tướng lập tức ngã lòng nản chí. Gã ở trong quan trường lâu năm, sao lại không biết quy củ của quan trường chứ? Chuyện đã ầm ĩ lên đến mức này, kết quả của vụ luận tội tất nhiên sẽ đi vào ngõ cụt. Muốn tháo gỡ những mối rắc rối ấy, mười phần thì có tám, chín là sẽ bắt gã chết thay, phủi tay cho xong hết mọi chuyện.

Hà tham tướng ngậm ngùi căn dặn tam đệ không cần lãng phí tiền bạc ở trong kinh thành vận động nữa, hãy tức tốc trở về quê chăm sóc mẹ già. Sau đó gã lại đau khổ nhờ em trai chuẩn bị thêm một cỗ áo quan, rồi buồn bã nói:

- Mẹ già đau ốm liệt giường, ta thân là con trưởng lại không thể ở bên cạnh báo hiếu, chỉ đành xuống suối vàng tiếp tục phụng dưỡng mẹ mà thôi.

Tam đệ của gã trào lệ mà đi, từ lúc đó Hà tham tướng chỉ ôm lòng chờ chết. Mấy ngày nay, tóc đen trên đầu gã đều đã biến thành hoa râm. Hôm nay khi Cẩm Y Vệ cầm thánh dụ đến đại lao bộ Hình, Hà tham tướng vẫn ngỡ rằng giờ chết đã tới, không ngờ nghe được lại là tin mình được thả ra khỏi ngục.

Hà tham tướng vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Gã dò hỏi thị vệ Cẩm Y Vệ mới hay dịch thừa Kê Minh là Dương Lăng đã vào kinh làm thái tử thị độc. Không ngờ cái tên dịch thừa nhỏ nhoi mà vốn chưa từng được gã để vào mắt khi đó lại trượng nghĩa trực ngôn, liều chết khuyên can, bù công đắp tội cho gã ở trước mặt bệ hạ, nên giờ gã mới được sống sót rời khỏi đại lao.

Tuy bộ Binh giáng gã xuống làm Phó thiên tổng, đày tới tận Quảng Tây xa xôi, nhưng so với tâm lý trông chờ cái chết, đây đã là kết cục không thể tốt hơn rồi.

Đường dài mới biết ngựa hay, ở lâu mới thấu được thay lòng người. Hiện giờ trong lòng Hà tham tướng, Dương Lăng không khác gì cha mẹ tái sinh ra gã. Tuy loại võ tướng truyền thống như gã có rất nhiều tật xấu và khuyết điểm, nhưng tấm lòng trung nghĩa chính trực cùng với tâm lý có ơn tất mong được báo cũng là tiêu chuẩn đạo đức đã được gieo sâu vào lòng từ bé.

Hà tham tướng cũng không cần phải đi Quảng Tây nhậm chức ngay, nhưng trong nhà mẹ già bệnh nặng khó qua, nếu trước khi mẹ chết không thể gặp mặt một lần thì gã thật sẽ hối hận vô cùng, cho nên nóng lòng muốn về quê. Vừa nhận văn thư bổ nhiệm của bộ Binh xong, gã lập tức chạy đến Dương phủ, định bụng bái tạ ân nhân cứu mạng xong là sẽ lập tức lên đường.

Vừa đến trước cửa nhà Dương Lăng, thấy trên cửa treo chiếc khoá đồng, Hà tham tướng không khỏi ngẩn người. Theo lời người của Cẩm Y Vệ kể thì khi Dương thị độc vào kinh, phu nhân của y cũng đi theo cùng, sao trong nhà lại không có ai như thế này chứ?

Một lão già bày sạp bán đế lót giầy, khăn thêu lẫn hạt dưa, táo tầu trong ngõ trông thấy gã bèn cất cao giọng hỏi:

- Này, ngươi là ai thế? Là khách nhà Dương thị độc Dương đại nhân à?

Hà tham tướng dắt ngựa bước qua, ôm quyền hỏi:

- Vâng, lão ca quen người nhà họ Dương sao? Thế có biết người Dương phủ đi đâu rồi không?

Lão già dương dương tự đắc đáp:

- Biết chứ, sao không biết cho được!? Nhà ta ở sát bên nhà họ Dương đấy! Dương đại nhân là thị độc bên cạnh thái tử, là cận thần bên cạnh thiên tử, mỗi ngày đại nhân đều vào hoàng cung, ta sao lại không biết chứ?

Ta đã cố ý dậy thật sớm mới thấy được hình dáng của Dương đại nhân khi đi chầu đấy! Chậc, chậc, ta thì chưa gặp thiên tử bao giờ, nhưng người bên cạnh thái tử đã là một nhân vật như vậy, có thể tưởng tượng được tướng mạo của vạn tuế gia sẽ như thế nào rồi đấy. Nếu không sao người ta lại nói hoàng đế là chân long, là Tử Vi Tinh Quân (*) trên trời xuống cõi phàm chứ...

(*): Mỗi ngôi sao được đặt một tên riêng. Theo thần thoại Trung Quốc thì mỗi ngôi sao có một vị Tinh quân trông coi, mỗi vị Tinh quân đó lại có một tên riêng, sao Tử Vi đại diện cho bậc đế vương.

Hà tham tướng nhíu mày nghĩ bụng: "Sao người ở nơi này lại nói lắm thế nhỉ? Vừa mở lời là đã là một tràng bất tận, đợi thêm lát nữa ai mà biết được lão ta sẽ nói đến tận đâu ."

Gã vội ngắt lời lão già:

- Vậy xin hỏi lão ca có biết người nhà Dương đại nhân đi đâu không?

Bị ngắt ngang lời, lão già hơi cảm thấy khó chịu. Lão khoát tay nói:

- Dương đại nhân đương nhiên là đang ở trong cung cùng với thái tử gia rồi, thế mà cũng phải hỏi? Còn Dương phu nhân thì đã ra ngoài mua đồ ăn rồi. Dương đại nhân đó là người bên cạnh thái tử gia cơ đấy, hê hê, vậy mà thanh liêm lắm đó, cả kiệu phu cũng không thuê, đến giờ mỗi ngày vẫn đi bộ đến Tử Cấm Thành, trong nhà thì một mình Dương phu nhân giải quyết mọi việc. Dương phu nhân này quả thật là người vợ xinh đẹp hiền thục, dáng người như hoa như ngọc, thật xứng với một nhân vật tuấn tú như Dương đại nhân...

Hà tham tướng vái sâu, cảm tạ:

- Đa tạ lão ca!

Đoạn gã xoay người quay lại đi tới trước cửa nhà Dương Lăng, đứng lặng im hồi lâu, rồi đột nhiên buông cương ngựa, quỳ sụp gối dập đầu xuống đất.

Lão già bán tạp hoá trợn mắt nhìn gã đàn ông đầu bù, tóc hoa râm, dáng người gầy gò đen đúa, râu ria xồm xoàm đang quỳ gối dập đầu trước cửa nhà Dương Lăng. Sau khi cung kính dập đầu ba cái, gã đàn ông nhảy phóc lên ngựa, ra roi phóng vút đi.

Một lúc lâu sao lão già mới sực tỉnh, nhếch cái miệng đã rụng hết răng lên. Trăm nghìn câu chuyện bắt đầu được ấp ủ trong trí tưởng tượng phong phú của lão. Chương 63: Bát Hổ dạo phố

Ngày hôm sau, do Thái tử "bị bệnh" không cần phải vào cung nên Dương Lăng được ngủ nướng, mãi đến tận giờ thìn hai khắc y mới từ trong mộng tỉnh dậy. Nắng xuân tươi thắm len qua song cửa trải xuống chăn, ánh sáng êm dịu sáng sủa.

Con mèo nhỏ Ấu Nương đang rúc vào ngực y ngủ ngon lành. Mái tóc đen nhánh mềm mại che khuất nửa khuôn mặt thanh tú của nàng. Trên gương mặt xinh đẹp, hàng mi dài khép ngủ cong vút mê người đang khẽ rung rinh.

Khuôn mặt trắng nõn thanh tú của nàng thật hấp dẫn, dù khóe mi vẫn toát ra vẻ ngây thơ và trong sáng, nhưng đã điểm xuyết hương vị của phụ nữ. Dương Lăng yêu mến nhìn cô gái nhỏ đang nằm trong lòng, nhẹ nhàng co tay gối đầu, không dám cử động mạnh sợ làm nàng tỉnh giấc.

Mấy bữa qua phải vào cung sớm nên y cảm thấy khổ khôn tả. Hôm qua đã nói với nàng hôm nay không cần phải vào cung sớm, lúc này thấy nàng ngủ thoải mái, Dương Lăng mới giật mình nhận ra mỗi ngày nàng đều phải gọi mình dậy, mỗi lần tỉnh giấc thức ăn đã luôn được bày sẵn. Không những phải dậy sớm, trong lòng nàng lúc nào cũng phải lo tới những việc này nên lúc ngủ cũng không được ngon giấc, nhất định thân thể nàng càng thêm mệt mỏi.

Dù mệt mỏi rã rời nhưng chỉ một chốc sau Ấu Nương đã tỉnh dậy. Mở mắt thấy phu quân đã tỉnh, nàng vội le chiếc lưỡi nhỏ xinh, xấu hổ hỏi:

- Ơ kìa, tướng công đã tỉnh rồi à? Thật là... thiếp lại ngủ quên mất.

Dương Lăng thấy nàng hốt hoảng định bò dậy, liền vươn tay giữ vai nàng lại, mỉm cười bảo:

- Hai ngày nay nàng dậy sớm quá, tối... còn dọn dẹp tắm rửa, lại ngủ quá muộn. Dù sao hôm nay ta cũng không cần phải đi sớm, nghỉ ngơi thêm một lát nữa đi.

Ấu Nương nghe y nói những lời yêu thương, mặt nàng hồng phơn phớt, vừa thẹn vừa vui, liếc mắt nhìn lại, vâng một tiếng rồi ngoan ngoãn rúc vào lòng y, thỏ thẻ làm nũng:

- Ừm! Hai ngày nay, thiếp cũng không biết sao nữa. Nhất là hôm nay, thiếp cảm thấy các khớp xương đều ê ẩm, người mềm nhũn cả ra, lại chẳng muốn nhúc nhích gì nữa. Lúc còn ở nhà với bố mẹ, ngày nào thiếp cũng phải dậy sớm luyện võ, bây giờ thì càng ngày càng lười rồi.

Dương Lăng thấy nàng kêu thân thể ê ẩm, chẳng muốn cử động thì vội hỏi:

- Sao lại thế? Có phải là bị trúng gió rồi không?

Vừa hỏi y vừa rờ trán nàng, chỉ thấy hơi ươn ướt nhưng lại mát, không nóng chút nào.

Trước giờ thân thể Ấu Nương vẫn khỏe mạnh, từ bé chưa từng bị bệnh vặt, cho nên nàng cũng không để tâm lắm, còn tưởng là do hai ngày qua mới bị phá thân, tướng công đòi hỏi quá độ, việc xấu hổ này đâu thể nói ra được, vì thế nàng khẽ cười:

- Không sao đâu, thiếp luyện võ từ nhỏ, thân thể khỏe mạnh lắm, nếu thực sự bị cảm mạo phong hàn thật, thiếp đi tìm thầy lang bốc vài thang thuốc là được.

Dương Lăng sờ trán nàng không thấy bị sốt, nên cũng bớt lo, lại thấy bộ dáng yêu kiều nhõng nhẽo đáng yêu của nàng chan chứa phong tình của gái mới lấy chồng, sự quyến rũ này khác hẳn nét ngây thơ xinh tươi ngày trước, lửa lòng bỗng bùng lên. Ôm nàng sát hơn, y cười ranh mãnh:

- Nào, để tướng công giúp Ấu Nương xoa bóp cho đỡ mệt.

Trong chăn, bàn tay xấu xa đang "do thám" áo lót của Ấu Nương, lén lút lần mò tới bộ ngực mịn màng mềm mại của nàng, sờ nắn nhẹ nhàng. Ấu Nương khẽ lườm y, mặt nàng đỏ ửng lên thật mê người.

Ấu Nương lặng im, ngây ngất, mặc cho Dương Lăng nghịch ngợm bộ ngực của mình. Bị y vuốt ve một lúc, thân thể bắt đầu không được tự nhiên, chỉ cảm thấy đê mê, thế nhưng cái cảm giác uể oải khó tả khiến nàng không muốn cục cựa. Nàng hổn hển mắng khẽ:

- Tướng công đừng nghịch nữa! Chẳng phải chàng nói còn phải vào cung một chuyến sao? Chàng hãy mau dậy súc miệng thay đồ đi, thiếp chuẩn bị bữa sáng cho chàng.

Dương Lăng thấy nàng e lệ rụt rè cũng không nỡ ép buộc, bèn thơm nhẹ lên má nàng, rồi cười hì hì nói:

- Nếu nàng mệt thì cứ nghỉ ngơi đi! Tướng công ăn tạm thứ gì đó trên đường cũng được rồi.

Nào chịu như vậy, Ấu Nương vừa gượng dậy mặc quần áo vừa hỏi:

- Tướng công, hôm qua chàng vừa về Liễu Bưu lại mời chàng tới Bắc trấn phủ ty để làm gì thế? Chẳng phải bây giờ chàng đang làm việc ở chỗ Thái tử rồi sao?

Nhân lúc nàng đứng dậy, Dương Lăng vỗ một phát vào cặp mông đẫy đà vênh vểnh của nàng, cười trả lời:

- Dù sao đã khoác chức quan của Cẩm Y vệ thì cũng phải được cắt cử đi làm việc cho họ chứ. Trương đề đốc sợ ta chưa thể xử lý công vụ nên tạm thời phái ta làm mấy việc nhàn hạ, chuyên phụ trách công văn của Nam trấn phủ ty trình lên kinh sư.

Ấu Nương nhanh nhẹn vấn tóc, khẽ ồ một tiếng, nghiêng đầu hỏi:

- Tướng công, Nam trấn phủ ti quản lý những gì vậy?

Dương Lăng đáp:

- Nam trấn phủ ty quản lý hình danh trong vệ và những sự vụ của quân tượng. Hình danh chính là phụ trách việc xét xử, còn quân tượng thì là các thợ chế tạo khôi giáp, quân giới, hỏa tiễn, súng hoả mai, thậm chí cả chiến thuyền, chiến xa, tất cả đều do Nam trấn phủ ty quản lý.

Hình danh trong vệ mà Dương Lăng nói chỉ phụ trách xét xử những người phạm tội bên trong Cẩm Y vệ. Còn bình thường quan lại và tướng lĩnh phạm tội đều giao cho Tam Pháp ty cai quản. Cho nên phạm vi phụ trách hình danh của Nam trấn phủ ty hơi giống một tòa án binh cỡ nhỏ. Còn như việc quản lý quân tượng, nếu như ở thời hiện đại tất nhiên là một ngành khá quan trọng, nhưng tại thời đại này thì việc trông nom công nhân kỹ thuật không được tính là một thứ gì to tát lắm.

Ấu Nương đương nhiên không biết những điều này. Dương Lăng ăn xong bữa sáng, dặn dò Ấu Nương nếu thấy khó chịu thì cứ lên giường nghỉ, còn mình thì khoác bọc áo quần đã chuẩn bị từ trước, ung dung đi thẳng đến cổng sau của kinh thành.

Lúc này trời còn sớm nhưng những cửa hàng lân cận kinh thành đã mở cửa kinh doanh rồi. Bấy giờ địa vị của thương nhân trong xã hội rất thấp, nhưng lợi nhuận cực lớn của buôn bán khiến nhiều người thèm thuồng. Do đó một số nhà dòng dõi công thần huân khanh bèn cử quản gia tới vùng phụ cận hoàng thành, lấy danh nghĩa cá nhân quản gia mở cửa hàng,kỳ thực việc đầu tư, kinh doanh, lợi nhuận đều nằm trong tay bọn họ. Dần dần tự phát hình thành nên một khu chợ bán hàng cao cấp tại nơi này.

Dương Lăng tới một tiệm trà ở sát cửa hậu cung, gọi một bình trà và chút hạt dưa, vừa uống vừa chờ. Chờ được nửa canh giờ, y thấy cửa cung mở ra, hai mươi mấy tên thái giám đẩy mấy xe chở nước ra khỏi cửa cung.

Nội cung thường thường cử người tới Ngọc Tuyền sơn múc nước suối hảo hạng dâng đế vương và đám phi tần uống. Tuy rằng thông thường lúc trời còn chưa sáng đã xuất phát rồi, nhưng rời cung vào lúc này cũng là chuyện bình thường, cho nên đám du khách và thương nhân đang nhốn nháo rộn ràng chung quanh cũng không chú ý lắm.

Dương Lăng quan sát cẩn thận, thấy trong đám người đó có vài thái giám hơi cúi đầu liếc ngang liếc dọc. Trong đó có một tiểu thái giám nhỏ tuổi đi cạnh cái bánh xe to tướng của chiếc xe chở nước, nhìn ngó láo liên tứ phía. Dương Lăng vừa nhìn qua đã nhận ra người đó chính là Chu Hậu Chiếu, vội vàng chạy tới đón.

Chu Hậu Chiếu mặc y phục của tiểu thái giám đang nhìn đông nhìn tây, Dương Lăng sáp đến níu lấy tay áo hắn, thấp giọng gọi:

- Thái tử!

Chu Hậu Chiếu giật mình, ngẩng đầu trông thấy y, nét mặt không khỏi lộ vẻ mừng rỡ. Dương Lăng vội vàng khoát tay ra hiệu đừng lên tiếng. Lưu Cẩn cũng đang đi bên cạnh Chu Hậu Chiếu, trông thấy Dương Lăng, lão liền mỉm cười chào.

Dương Lăng vác gói đồ đi theo bọn họ một hồi tới một tiệm gỗ. Các loại gỗ thượng hạng trên khắp cả nước được chuyển tới tiệm này, họ còn mời rất nhiều thợ cả đến làm mộc, có thể chế tác tại chỗ các loại đồ dùng trong nhà với đủ kiểu dáng khác nhau thoả mãn yêu cầu của đám quan to quý tộc. Do đó bên cạnh cửa hàng có một lối nhỏ dẫn đến xưởng mộc riêng của tiệm.

Dương Lăng kéo Chu Hậu Chiếu một cái, Chu Hậu Chiếu cũng hiểu ý, nhân lúc mọi người không chú ý, theo Dương Lăng rẽ vào ngõ nhỏ. Dương Lăng bước vội mấy bước, thấy xung quanh không có ai, quay người lại vừa định lên tiếng, liền thấy một đám người đi theo sau Chu Hậu Chiếu. Y mắt tròn mắt dẹt, hoảng hốt hỏi:

- Sao.... sao mà... các vị công công đều tới vậy?

Hôm qua bọn họ đã thỏa thuận Lưu Cẩn và Trương Vĩnh sẽ theo Chu Hậu Chiếu nhân cơ hội xe chở nước rời cung mà lẻn ra. Cốc Đại Dụng và Mã Vĩnh Thành thì ở lại Đông cung để che mắt; còn bọn Cao Phương, La Tường, Ngụy Bân, Khâu Tụ thì không được giao việc gì.

Bởi vì đám Bát hổ không phải toàn là người trưởng thành, còn có những thái giám trẻ mới hai mươi tuổi, nếu như đều theo ra ngoài thì quá lộ liễu, hơn nữa y còn sợ bọn họ xúi giục Chu Hậu Chiếu gây chuyện. Còn Trương Vĩnh, Lưu Cẩn, một kẻ trưởng thành lão luyện, một kẻ cơ mưu thâm sâu, có bọn họ đi theo phối hợp là tương đối ổn thỏa. Dè đâu lúc này y nhìn lại thấy đủ cả tám người chẳng thiếu một ai đều theo ra khỏi cung.

Ngụy Bân thấy Dương Lăng hoảng hốt, cười hề hề:

- Dương tướng công không cần phải lo lắng! Tối qua hoàng thượng vừa mới tới thăm Thái tử, vả lại hôm nay bên quân đội có tin cấp báo, hoàng thượng và ba vị đại học sĩ cùng các vị thượng thư của bộ Binh, bộ Công đang nghị sự! Còn người của bộ Lễ, bộ Hộ đều đang phải tuần tra trường thi kỳ thi Xuân. Không có chuyện gì đâu!

Dương Lăng cười khổ một tiếng, y biết rõ mấy kẻ này đời nào bỏ qua cơ hội lấy lòng thái tử. Dương Lăng đành phải nói:

- Các vị công công nói cũng phải, chỉ là.... trước đó hạ quan không hiểu tình hình, cho nên chỉ chuẩn bị ba bộ quần áo...

Khâu Tụ vội đáp:

- Không sao cả, chúng ta đều đã tự chuẩn bị y phục rồi.

Gã ngó quanh bốn phía, thấy ở giao lộ chỉ thỉnh thoảng có mấy người đi qua, cũng không quá để ý đến trong ngõ, liền vội vàng cởi áo bào thái giám, tháo nón xuống, trên người đã mặc sẵn một bộ quần áo sĩ tử bình thường, trên đầu đội một chiếc khăn thư sinh, cải trang rất nhanh chóng. Gã vốn là một hoạn quan, thiếu khí chất mạnh mẽ của đàn ông nên mặc bộ y phục này, tuy da hơi đen nhưng lại thật giống kẻ đọc sách yếu đuối.

Chu Hậu Chiếu, Lưu Cẩn, Trương Vĩnh được Dương Lăng chuẩn bị đủ áo quần rồi nên không phải ăn mặc rườm rà như vậy. Mấy người kia đổi y phục xong liền đứng chắn phía trước, ba người còn lại cũng vội vã thay đổi áo quần, cả mười người đều ăn mặc kiểu văn nhân. May mắn là đúng dịp kỳ thi Xuân, sĩ tử văn nhân khắp nơi tụ tập tới kinh sư, khắp thành Bắc Kinh đều là người đọc sách, nên bọn họ cũng không khiến người khác nghi ngờ.

Dương Lăng hỏi:

- Thái tử, bây giờ chúng ta tới bộ Binh chứ?

Chu Hậu Chiếu vừa rời khỏi hoàng cung, như chim xổ lồng, như cá gặp nước. Ngày trước hắn rời khỏi cung toàn do phụ hoàng đưa đi, có rất nhiều thị vệ ngầm bảo vệ nghiêm ngặt, chỉ đi tới những chốn ít người lai vãng; chưa bao giờ hắn được như hôm nay tự mình ra ngoài. Hắn như nhà quê lên phố, thấy cái gì cũng mới lạ. Nếu như bây giờ tới bộ Binh náo loạn một trận, rồi tới nơi khác dạo chơi thì chắc chắn không vui nữa, làm sao hắn chịu đi luôn bây giờ. Thế là Chu Hậu Chiếu vội vàng khoát tay đáp:

- Đừng gấp, đừng gấp! Chúng ta đi dạo khắp nơi trước đã.

Dương Lăng không biết làm sao, đành phải theo hắn đi lang thang trong chợ. Chu Hậu Chiếu thấy trong chợ bán rất nhiều thứ không có trong cung nên rất thích thú. Ngộ tính của tên nhóc này rất tốt, thấy người khác mặc cả, trả giá quyết liệt đến không biết đường nào mà lần bèn ngứa ngáy trong lòng, thấy thích thứ nào cũng tới hỏi giá, sau đó học theo người ta mặc cả.

Mặc dù hắn không biết giá cả nhưng Bát hổ lại khá rành rẽ. Có bọn họ ở bên giúp đỡ, dù Chu Hậu Chiếu không đến nỗi tiêu tiền như nước, nhưng hễ đã mặc cả xong thứ gì thì phải mua luôn. Bấy giờ đa số bọn Bát hổ đều cười khổ vì chẳng có xu nào, duy có Mã Vĩnh Thành chuyên phụ trách mua sắm thường nhật trong cung, mặc dù không phải là thái giám chủ sự nhưng tiền bạc trong tay cũng đủ để dùng. Để lấy lòng thái tử, chỉ cần Chu Hậu Chiếu mặc cả xong thứ gì, gã liền lập tức rút tiền ra mua.

Mấy người dạo quanh vùng ven hoàng thành chưa tới một canh giờ mà tám tên thái giám và cả Dương Lăng đều đã tay xách nách mang, khuân vác đủ thứ. Ngay bản thân Chu Hậu Chiếu cũng nghiêng vai cắp một quyển lụa, tay phải xách hai bao trà, trên cổ treo mấy hộp trân châu, tay trái cầm một chiếc đĩa lớn có tạo hình hoa sen cá vàng ở bên trong rất đẹp, trông rất buồn cười.

Mặc dù thân phận của đám thương nhân đó thấp kém, nhưng đều là nhân viên quản gia được các thế gia vọng tộc phái ra nên cũng khá hiểu các mặt của xã hội. Nhìn tính cách của đám người này giống như bọn nhà giàu mới nổi, còn tưởng là tài chủ dưới nông thôn lên, nên cho dù ăn bạc của bọn họ xong mà trên mặt đám thương nhân vẫn không tránh khỏi vẻ khinh bỉ.

Chu Hậu Chiếu chơi đùa rất vui vẻ, mặc kệ vẻ mặt của đám thương nhân đó. Đi dạo trong chợ đến chán chê rồi, hắn mới cảm thấy mấy thứ trong tay quá vướng víu. Quay đầu nhìn lại, thấy bộ dạng của đám người Lưu Cẩn và Dương Lăng còn nhếch nhác hơn mình nhiều, Chu Hậu Chiếu chợt cười ầm lên.

Hắn nghĩ tám người kia đều ở trong cung hầu hạ mình, trong kinh cũng không có người thân nào nên bèn nói với Dương Lăng:

- Hôm nay đi chơi thật là vui! Vốn ta muốn đi dạo phố thêm, nhưng mấy thứ này quá phiền phức. Không phải là ngươi mới tới kinh thành sao? Mấy thứ này tạm coi như quà chúng ta tặng ngươi. Chúng ta tới đầu phố thuê xe đi! Mang mấy thứ này tới nhà ngươi, sau đó tiếp tục dạo phố.

Nghe xong, Dương Lăng trong lòng rất vui vẻ, không ngờ đi theo Thái tử dạo phố còn được cho quà. Chu Hậu Chiếu mua sắm toàn dựa vào ý thích của bản thân, cũng không màng giá cả ra sao, cho nên những món đồ này rất đa dạng, có những thứ chỉ hai chục văn tiền, có những thứ đắt tới vài ba trăm lạng. Đống đồ mấy người đang xách tính ra cũng phải hơn ngàn lạng bạc, trong đó còn có gương son các thứ, mình mang về sẽ giúp Ấu Nương tiết kiệm được thời gian đi mua sắm.

Trong lòng phấn chấn, ngoài miệng y vẫn còn khách sáo một hồi, vội vã khiêm nhường:

- Thái tử gia,việc này không ổn đâu, đây đều là những thứ người thích! Nếu như muốn ban thưởng cho thần, tám vị công công cũng phải có phần mới phải.

Chu Hậu Chiếu nghe xong cười mắng:

- Giả bộ vừa thôi, bọn họ ăn trong cung, dùng đồ trong cung, ngay cả nhà cũng không có, cho họ mấy thứ này về làm gì? Mau đi kiếm xe đi!

Trương Vĩnh cũng nhăn nhó phụ họa:

- Dương tướng công, cậu đừng từ chối nữa! Cái thân già của ta sắp không chịu nổi nữa rồi. Ui da, cái vò này khi nãy không cảm thấy nặng chút nào mà bây giờ sắp tuột xuống đất rồi đây này!

Mấy người La Tường, Ngụy Bân, Khâu Tụ liên tục gật đầu hưởng ứng. Mặc dù cả bọn đều là nô tài để sai bảo nhưng chưa từng làm những việc lao lực. Vác đồ cả nửa ngày trời, vừa đừ vừa mệt, lại không dám tùy tiện bỏ mấy thứ Thái tử mua xuống, bây giờ bọn họ chỉ mong mấy thứ này mau mau rời khỏi tay, còn việc cho ai thì cũng chẳng quan trọng.

Thế là Dương Lăng và Chu Hậu Chiếu sánh vai chen chúc khỏi đám đông đi ra đường cái. Do đông người, đám thái giám sợ Chính Đức bị lạc mất nên theo thói quen bốn trước bốn sau bảo hộ, lưng cũng hơi khom xuống, nhìn qua giống như đang hầu hạ một quý công tử xuất hành. Nhưng bọn họ đều mặc đồ thư sinh nên người qua đường thấy cũng hơi lạ. Đoàn người vẫn không phát hiện, cứ xếp thành hai "cánh quân" vác đống đồ lỉnh kỉnh kéo tới nhà Dương Lăng. Quyển hai - Nhắm mắt lên kinh

Chương 64 Thập đại ác nhân

Dương Lăng thuê một cỗ xe lớn, chất từng món đồ lên xe. Trương Vĩnh, Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành, ba tên thái giám cao tuổi nhất lên ngồi trên xe cùng với Thái tử và thị độc, còn những tên trẻ tuổi hơn đành phải hạ mình theo sau xe, cùng đi thẳng đến đường Hộ Quốc Tự.

Mặc dù Chu Hậu Chiếu gan to làm liều, nhưng y cũng lo chuyện Thái tử tự mình rời cung sẽ lan khắp mọi người, cho nên dọc đường căn dặn Dương Lăng và Bát hổ cùng nói bọn họ đều là thị độc của Thái tử, hôm nay đến nhà họ Dương là để chào đón đồng liêu tiến kinh, có lòng mua lễ vật biếu tặng. Mấy tên thái giám đều vâng vâng dạ dạ đáp lời, dù sao thì dân gian trăm họ cũng không biết bên cạnh thái tử gia có bao nhiêu văn nhân làm Thị độc.

Sau khi Dương Lăng rời khỏi nhà, Ấu Nương cảm thấy trong người khó chịu, mới ăn qua loa một chút thì đã không thể nuốt thêm. Nàng bèn vào giường nằm nghỉ một chút, rồi lại ngồi dậy luyện hít thở một hồi, cảm thấy trong lòng thoải mái hơn nhiều. Vừa mới hồi phục tinh thần, nàng chợt nghe tiếng đập của vòng khoá bằng đồng trước cổng rồi có tiếng tướng công gọi:

- Ấu Nương! Mau ra đón khách...

Hàn Ấu Nương vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ: “sao hôm nay tướng công về sớm vậy?” Nàng vội xuống giường, bước ra cửa đón. Có tám, chín người diện đồ tú tài màu xanh đang đứng ngoài cửa, người nào người nấy tay xách nách mang không ít đồ lỉnh kỉnh. Dương Lăng bước lên, cười nói:

- Ấu Nương, mấy vị này đều là Thị độc của Thái tử điện hạ trong Đông cung, là đồng liêu của ta. Nghe nói ta vừa mới đến kinh sư, các vị có lòng mua lễ vật đến đây thăm hỏi.

Mấy người Lưu Cẩn, Cốc Đại Dụng nghe xong đều cố nặn ra một bộ mặt vui vẻ hoà nhã, lần lượt gật đầu, tươi cười đồng thanh nói:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Chúng tôi đều là đồng liêu của Dương tướng công. Hôm nay muốn đến quý phủ để thăm viếng.

Trình độ văn hoá tám người này có cao, có thấp, tên thì gọi nàng là “Dương phu nhân”, kẻ thì gọi nàng là “tiểu nương tử”. Khâu Tụ, Nguỵ Bân trẻ tuổi, lại ở trong cung từ bé nên càng không biết phải xưng hô với Ấu Nương như thế nào, thế là cũng bất kể mình lớn hay nhỏ tuổi hơn Dương Lăng cứ gọi nàng là "chị nhà Dương" luôn (Dương gia tẩu).

Nghe nói là đồng liêu cùng làm việc chung với tướng công, Ấu Nương không dám chậm trễ, vội vàng mời bọn họ vào nhà. Mấy tên này vừa bước vào nhà liền vội tranh thủ chất hết các thứ mà Chu Hậu Chiếu đã mua xuống khắp nhà rồi tìm chỗ ngồi đấm tay bóp chân. Lễ vật mà những tên này xách rất đa dạng, thậm chí còn có riềm giấy đính thạch anh, hũ dưa muối, hồ lô Bát Tiên, đủ cả. Sau khi chất cả vào nhà, trên giường dưới đất khắp nơi đều là lễ vật.

Chính Đức đi sau lưng mọi người, bước vào nhà sau cùng. Y cũng ăn mặc như một tiểu thư sinh, người mặc áo xanh, đầu đội khăn vải, tay cầm "bánh Hồ lô đường" gặm được một nửa. Y nhảy mấy bước đến bên cạnh Ấu Nương, thảy ba xâu trân châu và một bao giấy Tuyên Thành thượng hạng lên giường rồi cười hề hề với Ấu Nương:

- Ấu Nương tỷ tỷ, đệ cũng đến nè.

Ấu Nương hơi ngẩn người. Thấy y còn nhỏ tuổi, nàng không khỏi vừa cảm thấy ngạc nhiên vừa cảm thấy kỳ lạ: "Thư sinh nhỏ tuổi thế này mà cũng là người bên cạnh thái tử à?" Nàng thấy thư sinh này hơi quen, nhưng lại không nhớ nổi đã từng gặp mặt lúc nào. Dương Lăng vội bước tới giới thiệu:

- Vị này... a hèm, cũng là đồng liêu của ta. Nương tử còn nhớ tiểu công tử mà chúng ta đã gặp ở Hộ Quốc tự ngày đó không?

Hàn Ấu Nương "a" lên một tiếng, vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ đáp:

- Nhớ rồi, thiếp nhớ rồi! Thì ra tiểu công tử cũng là “bạn độc” (bạn đọc sách, khác với thái giám) bên cạnh thái tử gia. Mời vào, mời vào!

Ấu Nương thấy tuổi tác của vị tiểu thư sinh này xấp xỉ với tam đệ Mãn Thương của mình, cảm thấy rất đỗi thân thiết. Nàng cười nói với y:

- Mau vào nhà ngồi đi! Đệ là đồng liêu của tướng công, phải gọi tỷ là tẩu(*) mới đúng.

(*) Tỷ dùng chung để xưng chị, còn tẩu là tiếng kính xưng đối với vợ của của anh, vợ của người lớn tuổi hơn hoặc đối với phụ nữ có chồng nói chung.

Chính Đức chỉ có một đệ đệ đã chết yểu lúc nhỏ, con cháu họ Chu tuy nhiều, song tất cả đều bị đuổi ra khỏi kinh hết, nên ngày thường y thật sự chưa từng gọi người khác là tẩu. Nghiêng đầu nghĩ ngợi một lát, cảm thấy có người chị như Ấu Nương cũng không tệ, thế là y bèn vui vẻ sửa đổi cách gọi.

Ấu Nương cười đáp lại một tiếng, đang chuẩn bị đun nước pha trà, Trương Vĩnh vội ngăn lại, cười ha hả nói:

- Phu nhân không cần khách sáo đâu. Chốc nữa Dương thị độc sẽ mời các vị đồng liêu đến tửu lâu uống rượu, chúng tôi đến nhà ngồi một chút rồi sẽ đi thôi.

Những kẻ này đang thật sự rất mệt, nhưng Chính Đức thì vẫn dồi dào sức lực, chạy loạn khắp trong nhà ngoài sân, hễ thấy thứ gì mà chưa gặp bao giờ thì y liền tò mò căng cái họng vịt đực ra gọi "tẩu" tới. Từ khi đến kinh thành, Ấu Nương cũng hơi nhớ đến người thân ở quê nhà. Chính Đức mày đen mắt đẹp, nghịch ngợm khoẻ khoắn rất giống với đệ đệ Hàn Mãn Thương của nàng, vì vậy Ấu Nương cũng rất thích y, cho nên hết lần này đến lần khác kiên nhẫn giải thích một phen.

Một hồi sau, Chu Hậu Chiếu lại nhìn thấy cái giếng trong sân. Thấy buộc dây thừng vào bánh xe gỗ, kéo thùng gỗ lên thì có thể múc được nước giếng ngon ngọt và mát rượi, thế là tính ham chơi của y lập tức phát tác. Sau khi nghe Ấu Nương giải thích cách dùng, thấy nước trong lu chỉ còn non nửa, y lập tức nổi hứng hăm hở kéo từng thùng nước đổ vào trong lu.

Bọn Lưu Cẩn, Trương Vĩnh thấy Thái tử làm công việc nặng nhọc như vậy, cũng bất chấp thân thể còn đang rã rời, ồ ạt tranh nhau chạy ra đòi giúp. Chu Hậu Chiếu đang chơi hăng đâu chịu buông tay, đổ đầy cả lu nước rồi mới tiếc nuối dừng tay.

Vừa rồi đứng ở bên giếng, mấy tên thái giám cứ thon thót lo Thái tử sẽ gặp bất trắc, rốt cuộc thấy y đã dừng tay, sợ y lại nghĩ ra thêm trò chơi mới mẻ gì nữa, liền vội thừa dịp cáo từ Ấu Nương. Hàng người rời khỏi sân nhà, Dương Lăng cố ý tụt lại ở phía sau, chờ bọn họ đi xa một chút rồi quay đầu nói với Ấu Nương:

- Ấu Nương, sắc mặt nàng tệ lắm, má đỏ bừng rồi. Có phải cảm thấy không được khoẻ không? Nếu không thì... Khi nào về ta dẫn nàng đi gặp lang trung nhé?

Hàn Ấu Nương phấn chấn tinh thần cười nói:

- Thân thể thiếp nào quý giá như vậy? Tướng công yên tâm đi, có lẽ là do lạnh bụng cho nên hơi khó chịu, thiếp nghỉ ngơi một chút thì sẽ đỡ thôi. Chàng hãy đi tiếp khách đi, chớ để thất lễ.

Nàng vừa phủi bụi bặm bám trên vai Dương Lăng do khiêng đồ khi nãy, vừa mỉm cười nói:

- Thái tử gia thật là một người kỳ lạ. Thị độc có người sắp làm ông người ta, có người thì lại là trẻ con chưa lớn, chắc bọn họ cũng là những nhân vật lớn trong triều nhỉ? Có điều thiếp cảm thấy bọn họ không oai phong bằng tướng công đâu.

- Dĩ nhiên!

Dương Lăng ưỡn ngực đáp. Y ngoái đầu nhìn: tám tên đại thái giám, một thằng nhóc con. Phẩm chất của "cửu đại ác nhân" trong lịch sử này hãy tạm chưa nhắc đến mình, cho nên nếu chỉ nhìn vào tướng mạo thì trông thế nào mình cũng đúng là người oai phong nhất.

Y cười với ái thê một cách rất uy nghi rồi nói:

- Nàng trở về đi, không khỏe thì nghỉ ngơi, đừng dọn dẹp đồ đạc trước. Chờ thêm mấy ngày nữa tướng công mua nha hoàn về hầu hạ nàng. Ấu Nương của ta cũng nên được hưởng phúc một tý rồi.

*****************

Kỳ thi Hội thường được cử hành vào tháng Hai năm kế tiếp của kỳ thi Hương, xưa gọi là "kỳ thi Xuân"*. Đến lúc đó sỹ tử toàn quốc tụ tập về kinh thành quyết trận sống mái. Tính bi tráng của nó còn khốc liệt hơn cả những kỳ thi đại học một chọi trăm, một chọi nghìn ngày nay. Do năm ngoái vua Hoằng Trị bị một cơn bệnh nặng, qua năm lại gặp phải chuyện Thát Đát tập kích biên giới, cho nên kỳ thi Xuân năm nay trì hoãn lại đến giờ mới khai mạc, trễ trọn một tháng.

(*): Vì kỳ thi Hội diễn ra vào mùa xuân kế tiếp của kỳ thi Hương, trong các năm Sửu, Thìn, Mùi, Tuất, do bộ Lễ tiến hành, nên còn gọi là “lễ vi”, hay “xuân vi”

Hôm nay là ngày thi đầu tiên. Bộ Lễ phải xin thánh dụ, cúng trời xanh, bái Khổng Tử, thực hiện rất nhiều lễ nghi hết sức rườm rà, cho nên lúc bắt đầu thi trời đã không còn sớm nữa. Bây giờ trên đường vẫn còn từng đám sỹ tử hối ha hối hả chạy đến Văn Miếu để thi.

Chu Hậu Chiếu nhìn những thí sinh lưng đeo vải bọc, tay ôm bút nghiêng, nảy lòng tò mò, cũng chạy tới miếu Khổng Tử để xem náo nhiệt. Dương Lăng biết y mà chưa chơi thỏa thì nhất định không có lòng dạ nào đi làm đại sự, thế là đành phải cùng với bọn Lưu Cẩn cuống quýt đuổi theo đến Văn Miếu.

Những thành thị có chút quy mô ở Đại Minh đều xây dựng “học cung” (nhà học). Học cung chính là nơi khổ học của sỹ tử đồng thời cũng là chốn thờ Khổng tử. Miếu Khổng tử của kinh sư đương nhiên là học cung lớn nhất toàn quốc. Đám người Chu Hậu Chiếu đến trước học cung, thấy bức hoành treo cao cao trên cạnh cửa viết bốn chữ vàng "Vạn Thế Sư Biểu"(1). Dựng ngay trước cây cầu bên ngoài ao miếu là một tấm bia cấm cao hai mét: "Quan viên văn võ đến đây phải xuống ngựa".

Không cần biết quan lớn cỡ nào, đã đến học cung đều phải hạ kiệu, xuống ngựa mà bước bộ vào. Những văn nhân được phong làm đại quan đều trở về cúng bái Khổng lão phu tử, xem như là đã "áo gấm về làng", khoe khoang với những kẻ tầm thường. Còn võ tướng, cho dù là quan đến nhất phẩm, quyền khuynh triều chính, từ rất xa mà nhìn thấy hai chữ Học Cung thì cũng phải đi vòng. Đành thế thôi, đám hủ nho già một mực tin rằng "bán bộ Luận Ngữ trị thiên hạ, Đạo Đức văn chương thế vô song"(2), người học võ bước vào là muốn nhận lấy sự kỳ thị rồi.

Học cung tuy lớn, nhưng vẫn không đủ chứa thí sinh của cả nước nên đã dựng thêm ba dãy chòi gỗ sát tường cung để bổ sung thêm điểm thi. Chung quanh màn vải giăng kín, binh sỹ canh gác nghiêm ngặt.

Lúc Chu Hậu Chiếu rì rì chạy đến nơi thì "chuông vang trống dội", kỳ thi đã bắt đầu. Trước cửa, ngoài người nhà, gia bộc của đám sỹ tử và một vài tiểu thương bán nước trà, điểm tâm ra, thì chẳng còn sỹ tử nào nữa. Chu Hậu Chiếu bỗng cảm thấy vô vị. Thấy dưới gốc cây hoè to có sạp trà, y liền qua đó ngồi. Lưu Cẩn vội kêu tiểu nhị lại, gọi trà, điểm tâm, hạt dưa rồi cùng Chu Hậu Chiếu tán gẫu dưới gốc cây.

Dương Lăng nhìn trời, ước chừng khoảng hơn mười giờ sáng, vẫn còn dư thời gian để đến bộ Binh, lúc này mới yên tâm. Y báo với Chu Hậu Chiếu một tiếng, rồi men theo ao nước trước học cung chậm rãi đi về hướng Tây, định ngó bộ dáng của những sỹ tử dự thi mớ văn Bát Cổ này. Có điều màn vải giăng thật quá kín, cách vài bước lại có một quan binh canh gác, đến gần một chút là bị bọn họ lớn tiếng quát nạt ngay. Đi dạo một hồi, cảm thấy chán, Dương Lăng đang định quay người trở về thì đột nhiên một sỹ tử tay kẹp bao vải hối hả chạy lướt qua người y, thẳng tới cửa trường thi do màn vải giăng. Sỹ tử ấy đầu mướt mồ hôi, giơ thẻ thi lên sốt sắng báo:

- Binh đại ca, học sinh vì đến muộn, lại đến nhầm trường thi, chậm trễ chút thời gian. Xin quan binh đại ca hãy châm chước một chút, cho ta vào đi.

Dương Lăng dừng bước lại, quay người tò mò nhìn. Đứng gác ở cửa có bốn tên lính, một tên tiểu kỳ (lính đeo cờ) xua tay bảo:

- Chuyện lớn như thi Hội này mà cũng nhầm lẫn được à? Đã muộn thì đợi thêm ba năm đi. Chúng ta cũng không dám tự quyết định cho ngươi vào đâu.

Vị sỹ tử đó nôn nóng đến toát mồ hôi đầm đìa, vừa quỵ luỵ khẩn cầu, vừa chắp tay vái lia lịa:

- Các vị quan binh đại ca, học sinh cực khổ đọc sách học hành mười năm không nghỉ, chính là vì một khắc này đây. Không dám giấu các vị quan binh đại ca, đêm qua học sinh còn cố thức học đến tận canh ba. Chỉ hận trên đường đụng phải một tên vô lại, bị hắn quấn lấy quấy rầy mãi, cho nên lỡ mất thời giờ. Xin các vị hãy giúp đỡ một chút!

Dương Lăng quan sát tên sỹ tử này, thấy gã tuổi trạc hai mươi lăm, hai mươi sáu, mày rậm mắt to, nước da ngăm ngăm, vóc người vừa cao vừa gầy, người mặc một bộ thanh sam, trông như cây sậy.

Gã vừa van vỉ vừa đưa tay vào ngực lấy tất cả ngân lượng cất trong người nhét vào tay của tên lính nọ, kèm theo một nụ cười nói:

- Các vị binh đại ca hãy châm chước giúp một chút, đại ân đại đức học sinh suốt đời sẽ không quên.

Tên lính thấy y nhét chừng hơn chục lượng bạc ròng, ánh mắt tức thời lộ ra vẻ tham lam. Có điều bên trong trường thi này là trọng địa, cửa ải trùng trùng, qua được ải này của hắn cũng không vào được đến trường thi. Tuy hắn là một quan binh lớn nhưng cũng không có quyền đưa người vào, đành phải ngậm ngùi đẩy số bạc lại vào trong ngực sỹ tử nọ, lắc đầu, không nói gì thêm.

Thấy tình cảnh đến nước này, sỹ tử đó quýnh quáng đến độ mồ hôi trên trán chảy xuống ròng ròng. Bản thân gã lại như không cảm nhận được, thậm chí không lau chúng đi, mà vẫn níu kéo tên tiểu kỳ nọ khẩn nài không ngớt. Mấy tên lính khác thấy gã cứ đứng lỳ không chịu đi thì cùng bắt đầu lớn tiếng nạt nộ. Một quan viên bộ Lễ bên trong nghe tiếng ồn bước ra, phất ống tay áo, lạnh lùng gắt:

- Kẻ nào làm ồn ở ngoài cửa đó?

Quan viên Bộ Lễ đó chỉ là viên ngoại lang(3) bộ Lễ, nhưng dưới tình thế quẫn bách sỹ tử này đã hết cách đành sụp gối xuống đất đánh "cộp" một tiếng, cất cao giọng khẩn khoản:

- Xin đại nhân hãy cứu ta! Xin đại nhân hãy cứu ta! Học sinh vì trễ một khắc, không kịp vào trường thi, xin đại nhân nghìn vạn lần khai ân, hãy để cho ta vào.

Năn nỉ dứt lời, sỹ tử đó dập đầu như giã tỏi. Dương Lăng vốn chẳng để ý gì mấy, đến khi nghe tiếng đầu gã nện "bồm bộp" xuống đất, mới thót mình lo lắng, lập tức đồng cảm.

Viên ngoại lang bộ Lễ đảo mắt kinh bỉ, lạnh lùng nói:

- Triều đình mở khoa chọn sỹ là muốn tuyển lựa nhân tài, vì nước dốc sức. Thi Hội là chuyện lớn như vậy mà ngươi còn có thể đến trễ, loại người như ngươi cũng có thể vào triều làm quan ư? Trở về đọc sách Thánh Hiền thêm mấy năm nữa đi!

Tên sỹ tử nghe xong cảm thấy nghẹn ngào, càng không đứng dậy mà nằm phục tại chỗ dập đầu không ngừng, lời khẩn cầu thậm chí cũng không thể thốt ra. Dương Lăng thấy vậy không đành lòng, không nén được bèn xin hộ:

- Vị đại nhân này! Y đến trễ cùng lắm chỉ một khắc mà thôi, tuyệt đối sẽ không thể có chuyện lộ đề dối trá gì, chi bằng để cho y vào đi. Đại nhân cũng là kẻ đọc sách, hẳn phải biết khổ học không dễ mà.

Viên ngoại lang bộ Lễ cười khẩy, vừa liếc xéo y vừa khinh khỉnh hỏi:

- Ngươi là kẻ nào?

Dương Lăng đáp:

- Tại hạ Dương Lăng, cũng là một kẻ đọc sách. Người đọc sách vất vả nửa đời, đường công danh chỉ có một đường khoa cử. Quan hệ đến tiền đồ cả đời của người ta, đại nhân hãy khai ân giúp y một chút đi!

Viên ngoại lang cười nhạt, đáp với giọng quái gở:

- Khoa trường là nơi nào chứ? Khoa cử là đại sự như thế nào chứ? Việc trang nghiêm thiêng liêng như vậy, há có thể cho phép người ta tự làm theo ý mình ư?

Dương Lăng thấy vẻ mặt khinh người của gã, chợt nhớ câu chuyện Nguỵ Trung Hiền của Đông xưởng sai người đưa Trương Hiếu Cổ (Hiếu Cổ nghĩa là ham thích đồ cổ - ND) vào trường thi trong tác phẩm "Liên Thăng Tam Cấp", trong lòng bèn máy động. Ai cũng nói Xưởng - Vệ hoành hành, kẻ nào cũng nhìn người bằng nửa con mắt, không biết lệnh bài của mình có dùng được hay không. Thấy chung quanh không có người quen, y bèn thò tay vào ngực lấy ra tấm ngọc bài, giơ lên trước mặt viên ngoại lang bộ Lễ, mỉm cười nói:

- Đại nhân! Chính vì khoa cử là đại sự hàng đầu của đời người, vẫn mong đại nhân châm chước một chút, thật sẽ công đức vô lượng.

Viên ngoại lang nhìn thấy lệnh bài Phi Ngư trong tay Dương Lăng, lập tức giật thót mình. Cẩm Y Vệ ung dung tự tại trong kinh sư, mười người thì hết tám, chín kẻ là ma đầu uống máu của Bắc trấn phủ ty. Chỉ cần đưa một hiệu uý của nha môn này ra cũng đủ bóp chết viên ngoại lang cỏn con như hắn rồi, huống hồ nhìn vào ngọc bài trong tay người này thì y nhất định phải là quan quân cao cấp trong Cẩm Y vệ.

Từ khi nào Cẩm Y vệ quản luôn cả chuyện khoa cử vậy? Bọn họ cũng xem như là người thuộc hệ quân đội, bình thường ghét nhất là đến mấy chốn học cung này. Chẳng lẽ... là hoàng thượng ra lệnh Cẩm Y vệ đến âm thầm giám sát? Không lẽ chậm trễ một chút thì không tính là chuyện to tát không thể châm chước hay sao? Nếu như kẻ này thêm mắm thêm muối gièm pha mình ở trước mặt hoàng thượng, nói mình cố ý làm khó sỹ tử, vậy thì...

Thế là trong chớp mắt, mồ hôi chảy ròng ròng khắp mặt viên ngoại lang. Gã lắp bắp đáp:

- Dương đại nhân! Vừa nãy hạ quan không biết thân phận Dương đại nhân nên đã thất lễ, thật sự đã thất lễ. Có một câu này của đại nhân, vậy có gì là không thể chứ! Hạ quan sẽ lập tức tự mình đưa sỹ tử này vào trường thi ngay. Xin đại nhân cứ yên tâm!

Gã sỹ tử cao gầy vẫn luôn quỳ ngước mặt ở cửa nghe hai người nói chuyện, vừa nghe xong liền lộ ngay vẻ mừng rỡ. Y vội vàng khấu đầu làm lễ, nói:

- Đa tạ Dương đại nhân, đa tạ khảo quan đại nhân!

Tuy y không biết ngọc bài Dương Lăng cầm là lệnh bài gì, nhưng thấy y tuổi hãy còn trẻ, lại có thể khiến cho vị khảo quan đó phải biến sắc, nhất định là vị quan to chức lớn rồi.

Dương Lăng chắp tay nói với khảo quan:

- Nếu đã vậy, đa tạ!

Rồi quay sang sỹ tử nọ cười lớn bảo:

- Đưa huynh vào khó, đề danh Kim Bảng còn khó hơn. Có thể vượt long môn hay không, tất cả đều sẽ trông cậy vào bản lĩnh của huynh đó!

Làm xong được một chuyện tốt, lòng y cảm thấy rất vui vẻ. Bước chân lâng lâng, y nhắm thẳng về phía cổng chính của học cung mà tiến. Vị viên ngoại lang bộ Lễ thở phào nhẹ nhõm, vẫn còn chút khiếp vía, nói với gã sỹ tử:

- Mau đứng dậy đi, để ta đưa ngươi vào trường thi!

- Vâng! Vâng! Đa tạ khảo quan đại nhân!

Sỹ tử ấy đứng dậy, nước mắt giàn giụa, ngoái đầu thấy Dương Lăng sắp rẽ qua góc màn che, liền vội cất cao giọng nghẹn ngào nói to:

- Ơn giúp đỡ của Dương đại nhân, cả đời này học sinh Nghiêm Tung(*) sẽ không bao giờ quên!

(*): xem chú thích 8 ở chương 2 về nhân vật "nổi tiếng" này

Vừa mới rẽ qua màn che, nghe được lời gã Dương Lăng liền vấp chân, thiếu chút nữa thì ngã lộn cổ xuống sông. Chương 65 - Lại sinh chuyện phiền phức

Ngồi được một lúc, Chu Hậu Chiếu cảm thấy hơi chán. Mặt trời càng lúc càng lên cao, trong bụng cũng cảm thấy đói, y đang định kêu người đi tìm Dương Lăng về thì thấy một đội bộ khoái của Ngũ Thành Binh Mã ty[1] đang vội vội vàng vàng chạy lại, không cầm đao thương mà cầm chổi và xẻng hót. Vài tên lại mục (viên chức nhỏ, không có phẩm cấp, chỉ huy một số viên tiểu lại) diễu võ dương oai quát lớn:

- Những người không liên quan mau lánh đi mau! Đương kim thánh thượng sắp đến tuần thị trường thi đây.

Chu Hậu Chiếu nghe nói lão tử của y sắp đến, giật nảy cả người, vội vàng đứng dậy. Bọn bộ khoái vung chổi quét tứ tung, bụi đất mù mịt. Không cần bọn chúng đuổi, những người dân đứng chờ ở ngoài trường thi cũng phải vội vàng lánh vào trong rừng cây đối diện bên đường.

Người bán trà rong hô xui xẻo, cũng vội gọi bà vợ bê bàn ghế, những bộ trà nhanh chóng chuyển chỗ, cũng lúc này Dương Lăng mặt mày hầm hầm từ góc bên kia của mành vải quẹo ra. Chu Hậu Chiếu mừng rỡ, vội vàng nói:

- Ngươi về thật đúng lúc! Mã Vĩnh Thành! Ngươi thường xuất cung mua sắm, mau giới thiệu một quán rượu kha khá, chúng ta đi ăn một bữa no nê đi!

Thấy giọng của y tương đối lớn, Cốc Đại Dụng giật mình, vội thấp giọng bẩm:

- Thái tử gia cẩn thận, đừng để người khác nghe thấy.

Quen nhìn sắc mặt người khác, bọn Lưu Cẩn, Trương Vĩnh đều nhận ra vẻ không vui của Dương Lăng, có điều chúng nghĩ đến nát óc cũng không biết y gặp phải chuyện gì.

Dương Lăng không ngờ vì nhất thời hảo tâm mình đã giúp đỡ một tên đại gian thần có tiếng trong lịch sử, lúc này lại nghe Chu Hậu Chiếu đòi đi ăn uống, càng cảm thấy đau đầu. Y vội tiến sát đến bên cạnh Châu Hậu Chiếu, thấp giọng nói:

- Thái tử! Chúng ta rời cung đã lâu, kéo dài thời gian e rằng bệ hạ sẽ phát giác. Theo vi thần thấy, chúng ta hãy đi ăn chút cơm rồi mau chóng đến bộ Binh thôi!

Chu Hậu Chiếu cũng thấp giọng cười nói:

- Dương thị độc không cần phải lo lắng! Một lát nữa phụ hoàng sẽ đi tuần thị trường thi, trong thời gian ngắn sẽ chưa về cung đâu. Chúng ta đi tìm chỗ ăn uống một chút, đợi ta ăn no bụng rồi sẽ thuê xe đến bộ Binh lấy đồ.

Chu Hậu Chiếu nghĩ đường đường thái tử ra mặt, Lưu Đại Hạ thế nào cũng phải nể mặt, đòi một ít đồ há không dễ như trở bàn tay ư?

Mã Vĩnh Thành nghe lệnh của Chu Hậu Chiếu, vội dẫn cả bọn quay lại đường lớn, mười người thuê hai cỗ xe ngựa. Biết phụ hoàng của y muốn đến học cung, Chu Hậu Chiếu sợ sẽ bị ông ta phát hiện nên dặn dò Mã Vĩnh Thành đi càng xa càng tốt. Xe ngựa đi khắp đường to lối nhỏ được một lúc, Chu Hậu Chiếu từ trong xe nhìn thấy một con hẻm nhỏ bên đường vô cùng phồn hoa, đầu hẻm có một quán rượu, cờ bay phất phới, thật là vô cùng náo nhiệt. Y gõ vào thành xe, gọi Mã Vĩnh Thành dừng lại.

Mã Vĩnh Trinh đưa mắt nhìn, thì ra hẻm nhỏ này chính là hẻm Bách Thuận, là một nơi phong nguyệt nổi tiếng của kinh thành, lòng không khỏi thầm kêu khổ. Hoàng đế Hoằng Trì chỉ có một đứa con trai, có thể nói ông vô cùng sủng ái Chu Hậu Chiếu, thêm vào đó bản thân hoàng thượng cũng thường lén rời cung nên cho dù có biết Thái tử tự ý xuất cung, cùng lắm ông cũng sẽ cho đánh bọn gã vài gậy lấy lệ. Vì vậy đám thái giám này mới dám xúi Thái tử xuất cung, nhưng nếu hoàng thượng biết bọn hắn dẫn tiểu thái tử đến chốn trăng hoa, vậy tội không nhẹ rồi.

Nhưng gã lại không dám nói rõ với Chu Hậu Chiếu. Tính tò mò của vị Thái tử này quá lớn, càng là nơi không cho y đến, y càng muốn đến. May mà y chỉ vừa ý với tòa tửu lầu đầu hẻm kia, vậy đi vào mau chóng ăn uống một chút rồi nhanh chân rời khỏi là được.

Mã Vĩnh Thành dừng xe rồi trả tiền, tranh thủ dặn bọn người Lưu Cẩn, Trương Vĩnh vài câu. Mấy tên thái giám già gật đầu lia lịa, mau chóng bước lên bảo hộ Chu Hậu Chiếu vào tửu lầu, chỉ sợ "con ngựa hoang" này lại nhất thời nổi hứng đi dạo lung tung trong hẻm này.

Cả bọn bước lên lầu. Mã Vĩnh Thành chọn những món ngon nhất dọn lên đầy một bàn, mười người bắt đầu ăn uống trong gian phòng nhỏ yên tĩnh gần cửa sổ. Chu Hậu Chiếu còn nhỏ nhưng lại thích uống rượu, song vì y còn ít tuổi, tửu lượng còn thấp, uống được vài chén thì mặt đã đỏ bừng, bèn kêu Ngụy Bân mở cửa sổ cho thoáng khí.

Tiết tháng ba, ánh mặt trời rạng rỡ, không khí cũng vô cùng mát mẻ, gió xuân hây hây. Chu Hậu Chiếu bỗng cảm thấy phấn chấn tinh thần, y nổi hứng đứng dậy rót rượu cho bọn Dương Lăng, ép bọn họ cũng uống vài ly.

Chu Hậu Chiếu đang uống vui vẻ, bỗng nghe có tiếng đàn sáo từ ngoài cửa sổ loáng thoáng vẳng lại. Vốn yêu thích âm nhạc, y bất giác dừng chén tập trung lắng nghe.

Y hoàn toàn không hứng thú với âm nhạc truyền thống trong cung đình, nhưng lại rất thích những khúc ca dân gian, kỳ âm của dị vực, lúc này nghe khúc nhạc kỳ diệu êm tai từ phía xa vẳng lại, tuy nhạc khí sử dụng vẫn là đàn sáo, nhưng phong tình lại không giống với phong cách âm nhạc trong cung đình.Y bất giác đứng dậy dựa vào lan can nhìn ra xa, hứng thú chỉ xuống một dãy nhà tứ hợp viện hai tầng ở phía dưới hỏi:

- Đại Thành, đó là nơi nào?

Mã Vĩnh Thành và Lưu Cẩn đưa mắt nhìn nhau, lắp ba lắp bắp đáp:

- Ồ… lão nô cũng không biết, chắc là nhạc kỹ[2] do bọn lái thương mời đến đang ca hát.

Chu Hậu Chiếu vỗ tay nói:

- Có rượu mà không có nhạc sao được? Mau đi gọi một người lên đây, ta cũng muốn nghe đàn hát.

Mã Vĩnh Thành mặt mày khổ sở chần chừ không muốn động đậy. Vừa vặn lúc này ông chủ quán rượu thấy những người khách bàn này hào phóng nên đích thân bưng thêm một con cá chép lớn vào phòng, Chu Hậu Chiếu quay lại gọi ông ta:

- Chủ quán, ta nghe có tiếng đàn sáo ở bên kia rất thú vị. Mau đi gọi cho ta một người đến, ta muốn nghe nhạc.

Thấy y ngồi ở vị trí chủ trì, chủ quán biết tiểu công tử này tuy nhỏ tuổi nhưng lại là người cầm đầu đám thư sinh này. Ông ta nhìn ra cửa sổ một cái, cười đáp:

- Khách quan, nhạc kỹ ở bên kia không biểu diễn ở bên ngoài, khách quan muốn nghe nhạc, thì phải đến tận nơi để nghe.

Chính Đức nghe vậy thì lấy làm tò mò, hỏi:

- Ơ, phải nhạc kỹ không vậy? Sao lại tự cao tự đại như vậy, đâu phải là không trả tiền, tại sao lại tự đại như vậy?

Chủ quán thấy y nhỏ tuổi, đoán rằng y vẫn còn chưa hiểu cho lắm, nhưng mấy tay thư sinh bên cạnh, ai ai cũng lộ vẻ quái dị, nói không chừng là khách thường xuyên trong chốn phong lưu. Ông ta cười đáp:

- Khách quan có điều không biết! Các cô nương trong hẻm này đều là người có thân phận, thường ngày chỉ tiếp quan lại quyền quý, phú gia công tử, bình thường không dễ gì xuất đầu lộ diện.

Nơi vọng lại tiếng nhã nhạc đàn sáo kia là Thì Hoa Quán, càng là nơi nổi danh trong hẻm Bách Thuận này của chúng tôi. Cô nương xinh đẹp trong quán cũng là nhiều nhất, các cô nương do tú bà Nhất Xứng Kim ở đó dạy dỗ ai ai cũng tinh thông cầm kỳ thi họa. Thường ngày ra vào nơi đó đại đa số đều là những danh sĩ phong lưu, quan lại quyền quý có danh phận, quán rượu này của tôi còn nhỏ, không mời được cô nương bọn họ.

Châu Hậu Chiếu phong lưu hoang đường được lưu truyền hậu thế lúc này vẫn chỉ là một thằng nhóc chưa biết gì, hoàn toàn không có hứng thú với nữ sắc, chỉ muốn kêu người đến ca hát mà thôi, nghe nói nhạc kỹ ở đó không diễn ở bên ngoài, lập tức không còn chút hứng thú.

Chủ quán lại nói:

- Tiểu công tử nếu muốn đi xem cho mở tầm mắt, Thì Hoa Quán cũng thât là một nơi tốt để đi. Nơi đó những cô nương đang nổi tiếng như Hương Bảo Nhi, Khả Liễu Nhi đều xinh đẹp vô cùng, tiểu công tử nhân phẩm tuấn tú như vậy, bọn họ nhất định sẽ rất thích đó. Trong Thì Hoa Quán còn có ba tiểu cô nương xinh đẹp hơn nữa, vẫn còn chưa tiếp khách, đều là những thanh quan nhân[3].

Ba cô nương này tuy còn ít tuổi, nhưng đều là những mỹ nữ có vẻ đẹp trời cho. Một người tên là Tuyết Lý Mai, giỏi thổi tiêu; một người tên là Đường Nhất Tiên, giỏi gảy đàn; còn một người nữa là Ngọc Tỷ Nhi, ca múa đều giỏi. Ba người này tài nghệ và tướng mạo đều thập phần xuất chúng, tuổi tác cũng tương đương với công tử đây.

Nghe mấy cái tên Tuyết Lý Mai, Đường Nhất Tiên, Dương Lăng lờ mờ cảm thấy quen tai, tựa như đã đừng nghe qua. Nhớ trong chín kiếp luân hồi của y, kiếp cuối cùng nhập vào xác một ca sĩ nổi tiếng, từng đóng một vai trong một bộ phim liên quan đến triều Minh, dường như lúc đó đã nghe qua mấy cái tên này.

Dương Lăng nghĩ thầm: “Những nhạc kỹ này có thể lưu danh đến hậu thế, chắc cũng là danh kỹ đương thời, lẽ nào bởi vì qua tay Chính Đức, cho nên mới nổi danh? Thế nhưng trong lịch sử trước đây Chính Đức không có lần xuất cung này, phải tranh thủ tên tiểu tử này còn chưa hiểu gì về nữ sắc, lái chuyện này đi, không để cho y sa vào con đường đó.”

Dương Lăng bèn không thèm suy nghĩ đến mấy cái tên nghe quen tai này nữa, vội gắt chủ quán:

- Đi đi đi! Bớt huyên thuyên đi, mấy người chúng ta có gì mà chưa từng thấy! Vị tiểu công tử này của chúng ta tôn quý vô cùng, làm gì có việc hạ thấp thân phận đi gặp một ca kỹ chứ? Mau lui xuống!

Y vốn muốn thổi Chu Hậu Chiếu một tí để y tự thị thân phận bỏ ý muốn nghe nhạc đi, nhưng Chu Hậu Chiếu lại cười tít mắt, dễ dãi :

- Không sao, không sao! Ngươi nói một người giỏi thổi tiêu, một người giỏi gảy đàn, một người giỏi ca múa, vậy ba người này quả là tuyệt phối. Thế nhưng khúc nhạc ta nghe thử này nếu như là do bọn họ biểu diễn thì nhạc lý của họ cũng bình thường thôi.

Bọn người Lưu Cẩn lo lắng phập phồng sợ Chu Hậu Chiếu nhất thời hứng lên, đòi đến đó nghe ca hát. Nghe thấy y nói vậy mới yên tâm, nhao nhao phụ họa:

- Đúng vậy, đúng vậy! Công tử có gì mà chưa từng thấy chứ? Thôi đừng để ý, chúng ta uống rượu nào.

Chủ quán thấy Chu Hậu Chiếu hiền hòa, liền giả lả:

- Lúc này tấu nhạc chưa hẳn đã là các cô nương đó! Mấy vị khách quan không đi xem tài nghệ của bọn họ một lần, về sau muốn đi xem thì thiếu mất một vị rồi.

Chu Hậu Chiếu hiếu kỳ hỏi:

- Tại sao lại thiếu một người?

Chủ quán đáp:

- Nghe nói vị thương nhân họ Nghiêm để ý đến Ngọc Tỷ Nhi cô nương, bỏ ra nhiều tiền mua nàng ta về làm thiếp. Mấy ngày nay Ngọc Tỷ Nhi cô nương đều lấy nước mắt để rửa mặt, rất là đau buồn.

Dương Lăng nghe vậy lấy làm lạ vô cùng, bất giác hỏi:

- Cái gì? Làm gì có chuyện đó? Gả cho người khác làm thiếp cũng tốt hơn cái nghề bán tiếng cười cho người không quen biết, nàng ta có gì mà không vui chứ?

Chủ quán đáp:

- Khách quan chắc rằng ít khi đi lại chốn phong nguyệt, cho nên không biết tập tục nơi đó. Nếu là một cô nương bình thường, có người chuộc thân thoát khỏi bể lửa cho nàng ta, tất nhiên là điều mong mà không được. Nhưng Ngọc Tỷ Nhi cô nương còn trẻ, đã là thanh quan nhân có tiếng tại đây, về sau nhất định sẽ nổi danh. Danh kỹ đều lấy việc gả cho quan gia và văn nhân làm điều vinh dự, nếu ai bị thương nhân mua về làm thiếp thì đó là kết cục tồi tệ vô cùng, làm sao nàng ta cam tâm chứ?

Chu Hậu Chiếu nghe vậy cảm thấy thú vị, y hứng chí vỗ bàn đánh bộp, hạ lệnh:

- Đi! Chúng ta đi xem thử rốt cuộc ba nàng nhạc kỹ này có chỗ nào xuất chúng. Chương 66 Chọc vào một gậy

------------------------

Chu Hậu Chiếu vừa dứt lời, cả chín người còn lại đều nhất tề kêu khổ. Lưu Cẩn vội khuyên:

- Muộn…muộn lắm rồi, công tử! Hãy để hôm khác đi đi, đừng quên là lát nữa chúng ta còn có việc quan trọng cần làm đó.

Dương Lăng cũng vội tiếp lời:

- Đúng vậy, công tử! Những nơi đó tốt hơn hết là không nên đi, nếu để lệnh tôn biết được, chắc chắn sẽ bị trách phạt đó.

Trong những người này, suy cho cùng đám Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng cũng chỉ là nô tài, nhưng y lại là Thái tử thị độc, chịu trách nhiệm dạy dỗ thái tử, nay thành ra xúi giục Thái tử đi thanh lâu kĩ viện, tội ấy thực sẽ không nhẹ.

Cho dù Hoằng Trị lo cho sĩ diện của hoàng gia, không dám hé lộ chuyện Thái tử trốn ra ngoài, gán bừa cho y một tội danh nào đó cũng đều có thể khiến cho y chết dễ như trở bàn tay. Mặc dù từ những năm đầu lập nước Đại Minh đã lập ra một “Giáo Phường Ty“ to lớn, quan lại không những tự mình mua bán phụ nữ, mở kĩ viện, mà còn đưa cả vợ và con gái của những quan viên phạm tội vào làm kĩ nữ miễn phí, có thể nói là đã làm đủ chuyện thất đức. Nhưng trong pháp điển lại công khai quy định một điều là: ”nghiêm cấm quan lại quan hệ với kĩ nữ, ai trái lệnh sẽ bị phạt sáu mươi trượng”.

Tuy rằng điều luật này vốn chưa từng được ai tuân thủ theo, trên dưới Đại Minh đều mắt nhắm mắt mở làm ngơ, nhưng không có nghĩa là điều luật này đã đi mất hiệu lực. Chỉ cần Hoàng đế lấy danh nghĩa này để trừng trị y, bọn tướng quân đại hán sẽ dốc toàn lực “giúp cho” mông của y được “tiếp xúc thân mật” với sáu mươi trượng, lúc đó y không chết cũng thành tàn tật.

Chu Hậu Chiếu thấy bọn họ hết người này đến người khác nhảy ra khuyên ngăn, còn đưa cả phụ hoàng ra doạ mình, đành nói với vẻ không vui:

- Thôi, không đi thì thôi! Cái này không được, cái kia cũng không xong, thật là mất hứng.

Bọn người Dương Lăng sợ lát nữa Chu Hậu Chiếu sẽ lại đổi ý nên cũng không còn tâm trạng nhâm nhi thưởng thức mà vội vã ăn cho xong. Mã Vĩnh Thành nhanh chóng trả tiền rồi đưa Thái tử xuống lầu. Cả bọn đang đứng trước cửa quán định gọi xe thì thấy một người đàn ông mặt ngựa trạc tứ tuần dẫn theo vài tên đầy tớ to khỏe bước đến, vừa đi vừa đùng đùng quát mắng:

- Chẳng phải đã nói sau ba ngày sẽ đến đưa người đi sao? Sao tên Tô Hoài chó má đó lại đổi ý rồi?

Cạnh bên, một gã đàn ông nhỏ thó, dáng nhanh nhẹn đang chạy chậm theo hắn cười xiểm nịnh nói:

- Nghiêm đại gia! Nghe nói có tên lại mục ở Ngũ Thành Binh Mã Ty cũng để mắt tới Ngọc Tỷ Nhi, chi tiền nhiều hơn ngài. Hai vợ chồng Nhất Xứng Kim suy nghĩ lại rồi nổi lòng tham, nói rằng Nghiêm đại gia ngài vàng bạc châu báu đầy nhà, chắc không ngại bỏ ra thêm ít tiền. Nhưng mà công việc ngày thường của ngài là xây dựng, nếu như đắc tội với người của Ngũ Thành Binh Mã ty…

Ngừơi đàn ông mặt ngựa được gọi là Nghiêm đại gia bỗng nhiên dừng bước, lạnh lùng liếc mắt nhìn gã, giọng âm u:

- Tề Phương! Người nhận được bao nhiêu quà cáp của Tô Hòai mà nói giúp hắn trước mặt lão tử?

Tề Phương biến sắc, vội đáp:

- Đại gia! Xem ngài nói kìa, ai lạ ai thân chẳng lẽ tôi còn không biết sao? Sao tôi có thể nói giúp cho Tô Hoài được?

Nghiêm đại gia hừ một tiếng, mắng:

- Ai lạ ai thân? Tên chó má nhà ngươi chỉ thân với tiền bạc thôi, lão tử bỏ năm ngàn lạng bạc trắng ra chuộc thân cho Ngọc Tỷ Nhi, hắn còn muốn bao nhiêu nữa, hả? Đó là năm ngàn lạng bạc trắng bóng đó. Người của Ngọc Tỷ Nhi được khảm vàng hay nạm ngọc hay sao mà đáng giá đó? Ta khinh, hắn nằm mơ đi. Văn tự cũng đã viết rồi, hắn dám nuốt lời sao? Đi, hôm nay ta sẽ đến cửa đòi người, xem ai dám cản ta!

Chu Hậu Chiếu vừa nghe sắp có tiết mục cướp dâu để xem, tâm tư buồn bực khi nãy bỗng chốc trở nên phấn chấn, y hứng thú kéo Dương Lăng, gọi:

- Đi mau, đi theo xem náo nhiệt!

- Ơ kìa…!

Dương Lăng chưa kịp kéo lại, Chu Hậu Chiếu đã nhanh như chớp đi theo sau mấy người kia. Dương Lăng giậm chân, rồi cùng đám người Lưu Cẩn vội vã đuổi theo.

Khắp con phố này đều là tường thấp, hoa nở rực rỡ, trên cánh cửa trước một lạc viện trang nhã có treo tấm biển đen sơn vàng đề: “Thì Hoa Quán”. Vị Nghiêm lão gia kia đã dẫn người xông vào. Chu Hậu Chiếu dẫn đầu cả bọn cũng hứng chí đi theo vào trong.

Vừa bước vào cửa chính là một giếng trời rộng lớn, dưới những cây cột dựa dọc hành lang là những chiếc bàn nhỏ nhắn vuông vức, khách làng chơi thường ngồi đây uống trà, tuyển chọn các cô nương. Vì trời vẫn còn sớm nên dưới hành lang không hề có khách.

Lầu hai phía trên giếng trời là một dãy những căn phòng nhỏ, trước cửa đều có treo biển. Đây là phòng của những kỹ nữ bình thường nhất của kĩ viện. Đi sâu vào gian lạc viện thứ hai mới là nơi ở của các hồng cô nương*, đẳng cấp rõ ràng chênh lệch nhau xa. (*: xem chú thích về Hồng quan nhân ở chương trước)

Bọn người Dương Lăng vội vàng đuổi theo vào cửa, chỉ thấy cánh cửa nhỏ trong lạc viện thông ra hậu viện đang mở, vị thương gia họ Nghiêm cùng người đi theo đã vào gian thứ ba, Chu Hậu Chiếu khấp khởi theo sau bọn họ. Dương Lăng sợ y gặp bất trắc, vội dẫn tám tên thái giám đuổi theo.

Chu Hậu Chiếu muốn xem náo nhiệt, làm sao nỡ bỏ đi, thế là bèn vừa trừng mắt vừa cầu khẩn bọn người Dương Lăng và Lưu Cẩn đang bám riết không buông. Vừa nhìn thấy người kia dẫn bốn tên gia nhân khỏe mạnh xông vào hậu viện, y cũng vội vàng đuổi theo.

Đuổi tới gian lạc viện thứ ba, một người đàn ông yếu ớt nghe tiếng động chạy ra đón đã bị họ Nghiêm túm lấy cổ áo lớn tiếng chửi mắng. Bọn Dương Lăng vội kéo Chu Hậu Chiếu định rời khỏi, Chu Hậu Chiếu đang xem náo nhiệt, làm sao chịu đi. Y lại trơ mặt ra vừa cầu khẩn vừa trừng mắt, vừa đánh vừa xoa chứ nhất quyết không chịu bỏ đi.

Người đàn ông yếu ớt đó chính là tú ông Tô Hoài, hắn vừa cười nịnh bợ Nghiêm Khoan vừa nói:

- Nghiêm lão gia, cần gì phải tức giận như vậy chứ? Tôi đã nhận tiền của ngài, đương nhiên là sẽ không nuốt lời. Chỉ là Ngọc Tỷ Nhi đã theo vợ chồng tôi từ lúc năm tuổi,nhất thời không nỡ rời xa, vì đau lòng mà cơ thể cũng đã mang chút bệnh. Nghiêm gia hãy nương cho một khoảng thời gian nữa được không? Cùng lắm chỉ phải đợi thêm mấy ngày nữa thôi.

Nốt ruồi đen có lông trên má của Nghiêm Khoan rung lên, hắn nhe răng cười gằn đáp: - Khốn kiếp, kỹ nữ vô tình, con hát vô nghĩa, người như cô ta sao có thể không nỡ rời bỏ Tú ông,Tú bà như các ngươi chứ? Nghe nói các ngươi đang tìm một người mua khác, còn là một tên quan bé như hạt mè nữa, hê hê, phô trương thanh thế để dọa lão tử đây sao? Nhưng mà ta đã trả tiền rồi, có văn tự trên tay, có gặp quan ta cũng không sợ.

Một người phụ nữ trung niên mặc đồ tím nhạt từ sương phòng bên trái vội vàng đi ra, từ xa đã cười hì hì, nói:

- Ồ,Nghiêm đại gia, xem lời ngài nói kìa! Ngọc Tỷ Nhi là con nuôi của tôi, sau này nó theo ngài rồi thì ngài sẽ là con rể của tôi mà, sao có thể tổn hại hòa khí được?

Thân phận kĩ nữ so với người thường thấp hơn một bậc, thuộc về tầng lớp hạ lưu, nhưng thương nhân cũng là tiện dân, chẳng tốt hơn nàng ta bao nhiêu. Hơn nữa, vị Nghiêm lão gia này lại là khách quen của Thì Hoa Quán, đều quen nhau cả, cho nên Nhất Xứng Kim mới dám trêu hắn mấy câu thô tục.

Nhất Xứng Kim tuổi ngoài tứ tuần, nước da trắng mịn, tuy trên mặt có vài nếp nhăn nhưng làn thu ba dập dờn xinh đẹp và sắc sảo, dáng vẻ thướt tha vẫn rung động lòng người.

Nghe lời nói chêm chọc cười này của bà ta, ông chủ Nghiêm không xụ mặt nữa, hắn buông Tô Hoài ra cười nhạt:

- Năm ngàn lạng bạc, làm đứa con rể này không rẻ đâu à! Nhất Xứng Kim! Bớt giở trò trêu chọc ta đi, ngươi nói không nuốt lời? Được, coi như ta nghe nhầm, dù sao bây giờ nàng ấy là thiếp của ta, ba ngày sau vẫn là của ta. Vậy chọn ngày không bằng ngẫu nhiên, hôm nay ta muốn thành thân cùng nàng, ngươi thấy thế nào?

Nhất Xứng Kim biến sắc, gượng cười nói:

- Nghiêm đại gia! Tuy hứa gả Ngọc Tỷ Nhi cho ngài, nhưng suy cho cùng vợ chồng tôi đã nuôi nấng nó đến chừng này, sao có thể không có chút tình cảm nào chứ? Nay đứa con này không khỏe, yếu ớt sợ hãi, vợ chồng chúng tôi cũng rất đau lòng, sau này nó sẽ là người chung chăn gối với ngài rồi, chẳng lẽ ngài không đau lòng sao?

Nhất Xứng Kim vừa nói vừa liếc nhìn tướng công của mình, Tô Hoài nhún nhún vai, không nói tiếng nào. Thì ra vị Nghiêm lão gia này tên là Nghiêm Khoan, là khách quen của Thì Hoa Quán. Hôm đó ngủ thân mật với một hồng cô nương tại gian lạc viện thứ hai, nên đã qua đêm ở đây. Sáng dậy mở cửa sổ, đúng lúc nhìn thấy Ngọc Tỷ Nhi từ hậu viện đi ngang qua, thế là lập tức hồn siêu phách lạc

Nghiêm Khoan là một thương gia ham tiền, vốn không ưa trò ngắm trăng vịnh cảnh, nghe nhạc làm thơ, chỉ vì học đòi nho nhã để lấy lòng thanh quan nhân này nên cũng đứt ruột tốn một đống bạc giả làm người nho nhã vài ngày. Nhưng cả mấy lần ngay đến bàn tay nhỏ bé của người ta cũng chưa được đụng đến.

Hắn nghĩ thay vì lấy dao cùn cắt thịt, chi bằng tốn một đống bạc lớn đưa tiểu mỹ nhân đẹp mê hồn này về nhà thưởng thức cho đã. Hôm đó đúng lúc Nhất Xứng Kim đang bệnh, tướng công của bà ta lo việc làm ăn, tuy thanh lâu là mỏ vàng, năm ngàn lượng đối với ông ta mà nói cũng không phải là một con số tầm thường. Hắn tính từ lúc mua Ngọc Tỷ Nhi ở Đại Đồng Sơn Tây về chỉ tốn tám trăm văn tiền, nay nuôi được tám năm thì đã có thể đổi lấy năm nghìn lạng bạc, nên đã lập tức nhận lời ngay, còn lăn cả dấu vân tay lên văn tự nữa.

Khi Nhất Xứng Kim nghe được việc chồng mình tự ý quyết định, liền mắng hắn té tát. Mụ ta lăn lộn bao nhiêu năm trong chốn phong nguyệt nên Ngọc Tỷ Nhi sau này kiếm được bao nhiêu tiền trong lòng mụ ta rất rõ. Hơn nữa sau khi cô nàng nghe nói mình bị Tô Hoài bán cho một thương nhân thì đau đớn thương tâm, khóc lóc om sòm mấy trận, khiến Tô Hoài cũng có chút hối hận.

Nhưng văn tự đã ký làm sao nuốt lời được? Hai người bọn họ tính đi tính lại,cố gắng tạo ra tin đồn rằng tên lại mục ở Ngũ Thành Tư Mã ty cũng để ý Ngọc Tỷ Nhi, định dùng chức quan để chèn ép hắn.

Kì thực Ngũ Thành Binh Mã ty không phải là nha môn to tát gì, chỉ là một nơi quản lí trị an bình thường ở kinh thành (không kể Hoàng thành và Tử Cấm Thành). Lại mục lại càng không được xem như một chức quan, chỉ là cầm đầu của một nhóm tiểu lại, bình thường theo phía sau tuần thành ngự sử đi dạo phố phường, đợi nghe sai khiến, phất cờ hò reo, là một tên sai vặt không hơn không kém.

Kì thực tiểu lại của Ngũ Thành Tư Mã ty rất tội nghiệp, ngoài việc bắt mấy tên trộm, sai dân chúng quét dọn đường phố, dọn dẹp cống ngầm, kiểm tra cân đong của thương buôn có chính xác không và đánh đập những tên dân ngu xuẩn phóng uế bừa bãi, thì vốn không có quyền quản lí hoặc chấp pháp. Khắp kinh thành đều là người quyền quý, bọn họ còn có thể quản lí ai?

Nhưng một tiểu lại như vậy muốn áp chế thương nhân cũng rất dễ dàng. Nghiêm Khoan ở kinh thành làm ăn chẳng phải thường sợ nha môn quản lí trị an, thành quản, vệ sinh phòng dịch ở đây nắm thóp sao? Không ngờ lời này thông qua Tề Phương đến tai hắn, Nghiêm Khoan này lại không để tâm, vẫn tìm đến tận cửa. Hai vợ chồng bọn họ nhất thời không biết hắn có bối cảnh lớn cỡ nào.

Nghiêm Khoan nghe xong lời Nhất Xứng Kim vừa nói liền cười ha hả, đáp bằng giọng quái gỡ:

- Đau lòng? Để những cô nương yểu điệu xinh đẹp ở trong kĩ viện này của ngươi bị người này người kia chọc vào, ta mới đau lòng đó. Sao? Một kĩ nữ như ả mà dám chê thân phận ta thấp hèn sao? Đừng vuốt mặt mà không biết nể mũi, chỉ có người ta chọn ả thôi, làm gì tới lượt ả chọn khác. Ta có tiền, ta chính là đại gia!

Cửa phòng đối diện đang đóng chặt bỗng mở toang, một tiểu cô nương với khuôn mặt trang điểm nhẹ, khoác áo lụa thêu hoa mẫu đơn, mặc váy xếp nếp màu xanh lá mạ từ trong bước ra rất nhanh. Nàng đứng ở cửa, nhướng mày, vẻ mặt lạnh lùng nói:

- Nghiêm đại gia, mong ông nói chuyện khách sáo cho! Tuy ông có tiền nhưng chẳng là gì đối với tỉ muội chúng tôi cả. Ông muốn mua mèo mua chó gì tùy ông, nhưng tỷ tỷ tôi không trông mong được vào nhà ông đâu. Huỷ ước chẳng phải là đền gấp đôi sao? Tiền này chúng tôi sẽ trả.

Cô nương mặc váy xanh này tư thế yểu điệu, nước da trắng ngần, phía dưới hàng chân mày nhạt là một đôi mắt xinh đẹp và vô cùng sắc sảo, âm thanh khi nói chuyện vừa giòn vừa gấp, giống như rang đậu vậy.

Chu Hậu Chiếu không nhịn được, tấm tắc cười khen:

- Cô nương này lợi hại thật, hơn kẻ bất lực kia nhiều.

Dương Lăng và Cốc Đại Dụng nghe xong nhìn nhau cười một cách khổ sở.

Nghiêm Khoan chau mày nói:

- Tuyết Lý Mai cô nương, cô nói thật dễ, muốn hủy ước cũng phải được sự đồng ý của ta mới được. Tiền? Ta đây không thiếu, chỉ thiếu mỗi con mèo con chó làm ấm giường. Ngọc Tỷ Nhi này, lão tử quyết lấy rồi!

Hắn rút từ trong ngực áo ra một tờ văn tự, lạnh lùng đưa trước mặt Tô Hoài nói:

- Trên văn tự này của ta còn có dấu vân tay của ngươi đó. Sao, chúng ta có cần lên nha môn gặp nhau không?

Lại thêm một vị tiểu cô nương từ bên trong tú lâu đó bước ra, đi thẳng đến trước mặt Nghiêm Khoan rồi nói với giọng cầu khẩn nhẹ nhàng:

- Nghiêm đại gia! Thường có câu cố hái dưa dưa sẽ không ngon, những chuyện như vậy đôi bên phải tình nguyện mới được. Ngài hãy rủ lòng khai ân, buông tha Ngọc Tỷ Nhi đi.

Nghiêm Khoan cười ha hả, híp mắt nói:

- Vẫn là Nhất Tiên cô nương ăn nói ngọt ngào, làm cho người khác thích thú, đâu như thứ đàn bà miệng mồm đanh đá kia, ha ha ha.

Dương Lăng nghe giọng nói nàng ngọt ngào, cũng không khỏi liếc nhìn một cái. Vị cô nương Đường Nhất Tiên này cũng chỉ khỏang mười ba mười bốn tuổi, dáng người nhỏ nhắn, khuôn mặt xinh đẹp rực rỡ, trên khóe môi có một nốt ruồi son, toát lên vài phần hoạt bát. Nàng liếc Nghiêm Khoan cười thẹn thùng, nũng nịu nói:

- Vậy là Nghiêm đại gia đã đáp ứng?

Nghiêm Khoan thấy thế xương cốt liền nhũn ra, hắn híp mắt nói:

- Đáp ứng ư? Ta đáp ứng gì chứ? Vàng bạc mua nụ cười, người đẹp đón niềm vui, mua bán công bằng mà. Hề hề, cô bé có dáng vẻ động lòng người, vài năm nữa cũng sẽ thành tiểu yêu tinh. Đừng vội, đừng vội! Cuối năm nay ta sẽ kiếm thêm được một món tiền kha khá nữa, đến lúc đó ta cũng sẽ mua cô về bầu bạn với Ngọc Tỷ Nhi. Chúng ta một giường ba người, cô thấy thế nào?

Hiện nay Đường Nhất Tiên, Ngọc Tỷ Nhi và Tuyết Lý Mai đều có thân phận thanh cao, khách nhân bọn họ tiếp đãi thường ngày đều tương đối nho nhã, nào ăn nói thô tục như hắn. Nàng nghe xong vừa giận vừa thẹn, nhưng nhất thời lại không dám phát tác.

Nghiêm Khoan phe phẩy văn tự trên tay,đang dương dương tự đắc, bỗng tay chợt hẫng đi, một giọng vịt đực ồm ồm cất lên bên tai:

- Cầm lông gà mà tưởng là thẻ lệnh, thô bỉ hết chỗ nói, tục tằn không chịu nổi! Để ta xem là cái giống gì.

Nghiêm Khoan thất kinh, ngoái đầu lại nhìn, thì thấy một tiểu thư sinh đang cầm văn tự trên tay, mở hết cở cổ họng vịt đực đọc to:

- Bản ty lạc hộ(1) Tô Hoài, hiện có con gái nuôi Ngọc Đường Xuân, tên thật là Tô Tam, vốn mong tiếp khách dưỡng lão. Nay có thương nhân Nghiêm Khoan phải lòng tiểu nữ, Tô Hoài đã nhận năm nghìn lạng bạc làm lễ vật chuộc thân. Từ nay về sau…Chương 67 – Không lo việc chính

-----------------

Thấy thiếu niên mặc đồ nho sỹ, đằng sau còn có bảy tám tên tú tài bộ dạng èo uột yếu ớt bám theo như lũ chim cun cút, Nghiêm Khoan cho rằng y chỉ là một kẻ đọc sách tới chốn lầu xanh uống rượu vui chơi. Vốn hắn cũng không muốn vô lễ, thế nhưng tờ văn tự đã bị cướp mất, trong lòng cũng thầm sợ sẽ xảy ra điều gì lầm lỡ, lại nghe Chu Hậu Chiếu cứ đọc ầm lên như chỗ không người nên hắn chẳng màng khách sáo nữa, lập tức bước tới đưa tay giật lại.

Chu Hậu Chiếu thấy hắn đưa tay ra cướp thì bèn vội tránh sang bên cạnh, bàn tay Nghiêm Khoan liền vỗ trúng vào cánh tay y. Tay Chu Hậu Chiếu chợt trầm xuống, roạt một tiếng vang lên, lập tức tờ văn tự chuộc thân rách thành hai nửa.

Chu Hậu Chiếu cả mừng, bèn dùng cái giọng vịt đực của mình cười nói:

- Mọi người đều thấy rồi đó nhé! Chính hắn ta tự xé tờ giấy này, không liên quan gì tới ta hết.

Nghiêm Khoan cuống lên, lập tức bước tới tung ra một quyền, miệng mắng:

- Đồ tiểu súc sinh, cút con mẹ mày đi!

Quyền của hắn đánh trúng ngay vào sống mũi của Chu Hậu Chiếu. Ngay lập tức Chu Hậu Chiếu choáng váng đầu óc, máu mũi chảy dài, không kìm được kêu ầm lên. Chu Hậu Chiếu vốn luyện võ từ nhỏ, khi ở trong cung cũng theo mấy thị vệ đại nội vốn là cao thủ được mời tới từ phái Võ Đang để luyện tập một số môn võ nghệ cao minh. Tuy nhiên một là y hoàn toàn không có kinh nghiệm thực chiến, hai là trước nay chưa bị người khác đánh bao giờ, do đó khi thấy mũi mình vừa đau vừa tê dại, đưa tay lên sờ thì thấy toàn là máu, trong lòng lập tức hoảng hốt, chẳng hề nghĩ tới chuyện đánh trả.

Nghiêm Khoan giật lấy hai mảnh giấy từ trong tay y rồi ghép lại, cũng may, ghép lại vẫn liền lạc, không có vấn đề gì cả.

Trông thấy Thái tử bị đánh, tám con “chim cun cút” liền như bị đào mất mộ tổ, lập tức đều lo lắng vô cùng, kẻ nào kẻ nấy mặt mũi đỏ bừng xông lên.

Tuy rằng thường thì thể lực của thái giám vẫn yếu hơn của người bình thường một chút, thế nhưng trước khi vào cung Trương Vĩnh đã từng đọc qua binh thư, luyện qua võ nghệ, nên quyền hắn đấm ra cũng khá có uy lực. Nghiêm Khoan vừa mới nhét tờ văn tự vào trong ngực thì Trương Vĩnh đã vung quyền đấm trúng hắn, hắn loạng choạng lùi về sau mấy bước, tiếp đất bằng mông.

Nghiêm Khoan cả giận, lập tức quát tháo bốn tên thủ hạ khỏe mạnh của mình:

- Đánh cho ta!

Bốn tên tráng hán lập tức xông lên đánh nhau lộn tùng phèo với tám gã thái giám. Tuy rằng bốn tên tráng hán thấy đối phương đều là người đọc sách nên không dám nặng tay, thế nhưng tám kẻ yếu xìu như bún thiu kia làm sao là đối thủ của người ta cho được? Tuy là tám người đánh bốn, thế nhưng ngoại trừ Trương Vĩnh còn có công có thủ một chút ra, đám người còn lại đều chỉ có thể vừa lùi về phía sau vừa ăn đòn.

Nhìn cuộc đánh đấm “thê thảm đến không nỡ nhìn” ngay trước mắt, Dương Lăng thầm tính cho dù mình có tham gia thì cũng chỉ là thêm cái bia thịt cho người ta đánh mà thôi. Y bèn dứt khoát đi tới đỡ Thái tử dậy, đồng thời cất giọng thân thiết hỏi:

- Công tử, cậu thế nào rồi? Có sao không?

Chu Hậu Chiếu đang dùng tay che mũi, máu tươi không ngừng chảy ra qua kẽ ngón tay, miệng ú ớ không nói được câu nào. Bỗng có một bàn tay be bé xinh xinh từ bên cạnh đưa tới cho y một chiếc khăn tay tràn đầy hương thơm mê người kèm giọng nói ngọt ngào:

- Tiểu công tử, cậu hãy lau đi!

Chu Hậu Chiếu không khỏi ngẩn người, bất giác đưa tay nhận chiếc khăn. Ngón tay y chạm vào tay người ấy, chỉ cảm thấy nó vừa mềm mại vừa láng mịn vô cùng, trong lòng chợt trào lên một cảm giác khác lạ trước nay chưa từng có. Ngay trước mắt y xuất hiện một đôi mắt như biết nói, bên trong ẩn chứa sự dịu dàng khó có thể miêu tả bằng lời, còn có cả sự quan tâm và thông cảm trong nụ cười nhè nhẹ kia nữa, thật khiến lòng người phải rung động.

Chu Hậu Chiếu đưa chiếc khăn của Đường Nhất Tiên lên bịt mũi, lập tức ngửi thấy một mùi hương thoang thoảng ngập tràn. Y nhất thời như ngây ngốc, ngay cả lời Dương Lăng vừa nói cũng không nghe thấy.

Tô Hoài, Nhất Xứng Kim cùng với một vài tên quy công nghe ồn ào chạy đến nhìn thấy trước mắt có hơn chục người đang đánh nhau lộn tùng bậy, cũng chẳng biết là nên khuyên can hay nên giúp bên nào, nhất thời lúng ta lúng túng chẳng biết nên làm sao mới phải. Chợt nghe một tiếng hô yêu kiều trong trẻo vang lên:

- Đừng đánh nữa!

Giọng nói của thiếu nữ này cực kỳ dễ nghe. Bất giác mười hai người đang đánh nhau đều dừng tay lại, nhất tề nhìn về hướng phát ra âm thanh. Trong lầu có một thiếu nữ vận bộ áo trắng như tuyết đang đứng, mái tóc dài buông xõa sau lưng, thân hình thon thả tuyệt vời.

Thiếu nữ đó lạnh nhạt nói:

- Nghiêm đại gia, việc gì phải làm tổn thương người vô tội chứ? Xin ngài trở về đi, ba ngày sau Tô Tam sẽ đi theo ngài là được rồi!

Tuyết Lý Mai - thiếu nữ vận bộ áo xanh biếc đứng bên cạnh vội can:

- Chị Ngọc Tỷ Nhi, người như thế mà chị cũng muốn đi theo hay sao chứ? Tới gặp quan thì sao nào, muội quen người ở bộ Lễ…

Thiếu nữ áo trắng ngắt lời nàng, cất giọng buồn bã:

- Muội muội ngốc nghếch, nói những chuyện đó làm gì? Những lão gia đó ngâm thơ, vẽ tranh, bàn chuyện trăng gió với chúng ta chẳng qua chỉ là để tiêu khiển mà thôi. Người ta đã phải bỏ tiền ra, lại không nợ gì chúng ta cả, nếu thật sự phải đến chỗ quan phủ, chỉ sợ người ta còn không dám nhận đã từng quen biết chúng ta nữa kìa!

Nàng thở dài một hơi buồn bã, sau đó lại tiếp:

- Đừng nói gì thêm nữa, những người như chúng ta đều không nhà không cửa, tựa như là bông liễu bay trong gió, nhánh bèo trôi trong nước. Gió thổi bay tới đâu thì chúng ta bay tới đó, sóng cuốn tới đất nào thì chúng ta cũng chỉ có thể tới đất đó mà thôi.

Nghiêm Khoan phá lên cười ha hả, mắt liếc nhìn khắp xung quanh. Nhận thấy lúc này mấy tên thư sinh kia đã bị thủ hạ của mình đánh cho mặt mũi tím bầm, đang hậm hực nhìn về phía mình, có vẻ cũng không muốn gây sự thêm nữa, thế là hắn bèn dương dương đắc ý bảo:

- Được rồi! Sớm biết điều như thế này có phải là thoải mái hơn không, lúc ấy ông đây sao lại nổi giận chứ? Ha ha, chúng ta đi thôi! Nhất Xứng Kim, ba ngày sau ta sẽ tới mang người đi đó, nếu ngươi còn dám lằng nhằng đùn đẩy, hừ!

Hắn khẽ khoát tay, dẫn theo bốn tên tráng hán to khỏe nghênh ngang bỏ đi. Dương Lăng đưa mắt nhìn về phía trong lầu, thấy một thiếu nữ đẹp như người trong tranh. Nàng ta vận bộ váy áo trắng như tuyết, trang điểm giản đơn, tuy bị vướng bởi bóng râm của tòa lầu nên không thể nhìn rõ dung mạo, thế nhưng chỉ nhìn thân hình cùng với cử chỉ lễ độ kia thôi cũng đủ thấy không hề thua kém vầng trăng rạng rỡ trên trời cao rồi. Lúc này nàng lại đứng ngay cạnh Tuyết Lý Mai đẹp tựa nhành mai trong tuyết, mỗi một động tác của các nàng đều nhã nhặn nhẹ nhàng, vẻ đẹp của cả hai càng tăng lên gấp bội.

Mỹ nữ này quả nhiên không thẹn với lời đồn, chỉ riêng cử chỉ cùng với khí chất kia thôi đã là không tầm thường rồi.

Bát hổ tuy từng là đàn ông nhưng lại đã tu luyện đến cảnh giới tối cao “bản lai vô nhất vật, hà xứ lạc trần ai” (Vốn là hư vô chẳng có vật gì, cớ nào lại nhiễm bụi trần cho được, hai câu trong bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng - ND.), đẹp cũng được, xấu cũng đành, chẳng liên quan gì tới bọn họ hết, lúc này cả tám khuôn mặt chỗ xanh chỗ tím đều ghé đến chỗ Chu Hậu Chiếu để khoe công.

Chu Hậu Chiếu cũng chẳng để ý tới đám “xú bát quái” hàng thực giá thực kia (Xú bát quái là từ để chỉ người xấu xí, trong đó xú nghĩa là xấu xí, bát là tám, quái là quái dị. Trong đoạn này xú bát quái là chỉ tám tên thái giám lúc này đã bị đánh cho mặt mũi sưng vù - ND.). Y vội lau dòng máu tươi chảy xuống tới bên miệng, sau đó lại chùi chùi mũi, thấy không còn máu chảy nữa. Y bớt lo hẳn, lập tức bỏ tay xuống, nói với Đường Nhất Tiên:

- Đa tạ cô nương, ta không sao rồi!

Đường Nhất Tiên nở nụ cười ngọt ngào nói:

- Vậy thì tốt! Những kẻ đó đều là người thô tục, ỷ mình có chút tiền thối tha mà đi ức hiếp người khác. Cậu là một thư sinh yếu đuối, cứ đọc sách thánh hiền của cậu là được rồi, sao lại đi đối đầu với đám vô lại ấy chứ? Sau này phải tự biết mình, đừng có cố quá mà rước họa vào thân!

Chu Hậu Chiếu thường ngày ở trong cung cũng không thiếu gì những cung nữ trẻ tuổi hầu hạ. Thế nhưng những nàng đó cho dù tướng mạo không tồi thì khi đứng trước mặt y cũng luôn tỏ vẻ nghiêm túc e dè, ngay cả thở mạnh một hơi cũng không dám, nào bình dị dễ gần như cô gái này. Đã thế nàng ta lại còn dám dạy bảo y, có điều lời dạy bảo lại nghe rất ngọt ngào, khiến người ta không kìm được lòng yêu mến.

Một sợi tơ tình mông lung chợt sinh ra nơi đáy lòng Chu Hậu Chiếu, tiểu cô nương dáng người nhỏ nhắn xinh xắn có giọng nói làm say lòng người này đã lặng lẽ đặt một dấu ấn vào trong trái tim y. Cho dù thân là Thái tử cao quý, thế nhưng y cũng là đàn ông, những người vừa mới biết đến chuyện ái tình chắc cũng hiểu được điều này, mỗi một lời nói tiếng cười, mỗi một hành vi cử chỉ của đối phương đều được y quan tâm để ý.

Chu Hậu Chiếu nghe nàng bảo mình là một thư sinh yếu ớt vô dụng thì cảm thấy hơi khó chịu, không kìm được đỏ bừng mặt nói:

- Ai nói là ta không đánh lại được hắn chứ? Với công phu Thập Đoạn Cẩm (Một loại võ công – ND.) của ta, cho dù là năm ba tên đại hán cũng không tới gần được, muốn dạy dỗ mấy tên nhãi nhép ấy còn chẳng phải là dễ như trở bàn tay sao? Có điều vừa rồi… vừa rồi ta mới lần đầu động thủ với người khác, nhất thời ngây ra mà thôi.

Đường Nhất Tiên nghe y bốc phét rằng năm ba người cũng không thể tới gần mình, thế nhưng sau lại nói là chưa từng động thủ với người khác, nào biết được y nói thực, còn cho rằng gã tiểu thư sinh này khoe mẽ, không kìm được khẽ cười khúc khích đáp:

- Được rồi, được rồi! Công tử công phu lợi hại, tôi tin là được rồi chứ gì? Mũi cậu ổn rồi chứ? Không có việc gì thì về nhà sớm một chút đi, nơi như thế này ít tới một chút là tốt nhất!

Chu Hậu Chiếu thấy nàng cho rằng mình bốc phét, lập tức giận dữ đến đỏ bừng cả mặt. Đứng trước mặt người con gái lần đầu khiến trái tim y rung động, lại bị người ta coi là trẻ con, y làm sao có thể chịu đựng cho nổi? Chu Hậu Chiếu giậm chân hậm hực nói:

- Nàng không tin sao? Ta muốn trừng trị tên vô lại đó thực dễ như trở bàn tay, còn cả tờ văn tự chuộc thân rắm chó gì đó nữa, trông hắn cầm cứ như cầm bảo bối vậy. Hừ hừ, ta muốn lấy lại nó chẳng qua cũng chỉ cần một câu nói mà thôi.

Hai mắt Đường Nhất Tiên lập tức sáng lên, nhưng ngay sau đó lại thở dài một hơi với vẻ thất vọng. Vị tiểu công tử này chắc hẳn là công tử của nhà giàu nào đó, vì không biết trời cao đất dày nên mới dám nói lời ngông cuồng như vậy. Năm ngàn lượng bạc chẳng phải là con số nhỏ, cho dù y xuất thân từ gia đình giàu có, nhưng trưởng bối trong nhà y đời nào lại chịu để cho y lấy bạc ra tiêu xài hoang phí thế được?

Chu Hậu Chiếu thấy nàng không tin thì không khỏi cuống lên, y đưa mắt nhìn bọn thuộc hạ. Lúc này bọn Lưu Cẩn đều tay áo rách toang, mũ rơi ra ngoài, tóc tai tán loạn, mặt mũi sưng vù, bất luận là lôi tên nào ra cũng đều không có sức thuyết phục, thế là đành chỉ tay vào Dương Lăng nói:

- Nàng không tin sao? Không tin hãy hỏi y xem ta làm có được không nào!

Đôi mắt long lanh của tiểu cô nương đó nhìn chăm chăm vào Dương Lăng, ngay cả hai vị cô nương Tô Tam và Tuyết Lý Mai ở đằng sau cánh cửa tuy tỏ vẻ không để ý nhưng thực ra đều đang dỏng tai lên nghe. Dương Lăng hết cách nên đành gật đầu đáp:

- Không sai, lời của vị công tử này không phải là giả. Đừng nói là chỉ dạy dỗ cho tên vô lại kia một trận, cho dù là chuộc lại tờ văn tự kia cũng chẳng phải chuyện gì khó khăn.

Dương Lăng tướng mạo tuấn tú, phong thái hiên ngang, hiện giờ ngoài sáng y là Thái tử thị độc, trong tối là quan cao trong Cẩm Ỷ vệ, sự từng trải về tâm lý cùng với kinh nghiệm sống còn vượt xa tuổi tác hiện giờ, những lời y nói toát ra một sự uy nghiêm khiến người ta khó mà không tin. Tô Tam vốn đứng đằng sau bậc cửa lặng lẽ nhìn y, giờ nghe thế lập tức thở phào một hơi, Đường Nhất Tiên thì dùng giọng hoài nghi hỏi:

- Lời của công tử… là thật sao?

Trong suy nghĩ của nàng, vị công tử này dù rất có thân phận, đủ sức bức ép được Nghiêm Khoan phải trả lại tờ giấy chuộc người, thế nhưng nếu không phải vì y cũng đã động lòng với Ngọc Tỷ Nhi, việc gì lại phải bỏ ra một số tiền như thế chứ? Nhìn dáng vẻ y như cây ngọc đón gió, quần áo chỉnh tề, lại là một người đọc sách có thân phận, nếu y cũng muốn chuộc thân cho Ngọc Tỷ Nhi, nói không chừng tỷ ấy còn vô cùng mừng rỡ ấy chứ. Lúc này trong lòng nàng vừa mừng cho Ngọc Tỷ Nhi, lại vừa có mấy phần ngưỡng mộ và tự thương cho số phận mình.

Chu Hậu Chiếu đắc ý:

- Đương nhiên là thật rồi!

Y nghênh ngang chỉ tay vào Dương Lăng nói:

- Dương… Dương đại ca, chuyện này giao cho huynh đó. Hãy dạy dỗ cho tên khốn nạn kia một trận, sau đó thì đòi tờ văn tự chuộc người về!

Trong suy nghĩ của y, y là vua, Dương Lăng là bầy tôi, chuyện mà y giao cho Dương Lăng đi làm thì cũng giống như là y đã làm chuyện đó cho người khác. Nhưng trong suy nghĩ của Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai, Đường Nhất Tiên và đám người bọn Nhất Xứng Kim thì lại hoàn toàn khác. Sau khi nghe xong, cả bọn đều như giật mình hiểu ra, thảo nào tiểu thư sinh này lại tỏ vẻ chắc chắn như vậy, e là người bạn lớn tuổi hơn y một chút kia mới là nhân vật có lai lịch và chỗ dựa.

Ngọc Đường Xuân ở sau bậc cửa nhìn Dương Lăng chăm chú một hồi, nhận thấy lúc này y có vẻ như hơi sửng sốt. Vốn là một cô gái cực kỳ nhanh trí, nàng lập tức dịu dàng khom người cảm tạ:

- Vậy Tô Tam xin tạ ơn Dương công tử!

Thế này tức là sắt đã được rèn khi còn nóng, ván đã đóng thuyền.

Chu Hậu Chiếu nghi hoặc hỏi:

- Hả? Người giúp đỡ là ta cơ mà, tại sao nàng lại đi cảm ơn y vậy?

Đường Nhất Tiên bật cười đáp:

- Ai nói là không cảm ơn cậu chứ? Nếu hai vị công tử chịu giúp đỡ, tiểu nữ sẽ bày tiệc cảm ơn cả hai.

- Được!

Chu Hậu Chiếu nghe nói nàng sẽ bày tiệc để cảm tạ, trong lòng không khỏi mừng rơn, lập tức nói ngay:

- Chúng ta đi đây, các nàng cứ đợi tin tốt của chúng ta nhé! Muộn nhất là ba ngày, chuyện này nhất định sẽ được giải quyết xong!

Lúc này trong lòng y, trong mắt y chỉ có một nàng Đường Nhất Tiên yêu kiều xinh đẹp, y chỉ hận không thể làm xong chuyện này ngay lập tức để lấy lòng nàng, bèn vội vàng chạy ngay ra ngoài cửa Thì Hoa Quán. Thấy Nghiêm Khoan đã dẫn người sắp ra đến ngoài đường lớn, Chu Hậu Chiếu lập tức ra lệnh:

- Cao Phượng, La Tường! Mau bám theo hắn, đừng để hắn chạy mất!

Rồi y bảo Dương Lăng:

- Ngươi mau tới Ngũ Thành Binh Mã ty điều quân đến đây bắt người cho ta!

Tám gã thái giám và Dương Lăng nghe vậy đều giật nảy mình. Lần này thì lớn chuyện rồi, Thái tử đến thanh lâu đánh nhau với một tay khách làng chơi, sau đó điều động người của Ngũ Thành Binh Mã ty đến đàn áp đối phương, chuyện này mà loan truyền khắp nơi thì còn ra thể thống gì nữa?

Cả bọn đều vội bước tới cố sức khuyên can. Chu Hậu Chiếu cả giận nói:

- Hắn dám đánh ta, nay có giết hắn thì cũng chẳng phải chuyện ghê gớm gì! Các ngươi dám chống lệnh sao?

Bình thường chuyện gì Chu Hậu Chiếu cũng tùy tiện, chẳng hề có chút uy nghiêm nào. Nhưng lúc này trong cơn giận dữ, cái khí thế được bồi dưỡng từ bé khi chuyên môn sai khiến người khác, muốn gì được nấy của y lập tức thể hiện ra, Bát hổ đều không khỏi run lên cầm cập, Dương Lăng cũng thầm chấn động toàn thân.

Cao Phượng, La Tường thấy mấy người thân cận nhất của Thái tử như Dương Lăng, Lưu Cẩn, Trương Vĩnh đều không dám nói gì thêm, cũng chỉ đành liều mình đuổi theo Nghiêm Khoan mà thôi. Cốc Đại Dụng biết rằng chuyện gì Chu Hậu Chiếu đã hạ quyết tâm thì khó mà khuyên nổi, nên cũng chỉ đành khẽ đẩy Dương Lăng, ý bảo y mau đi tìm người của Ngũ Thành Binh Mã ty tới.

Dương Lăng đành gượng cười rời đi. Vốn y cho rằng vị Thái tử nhỏ tuổi này dễ đối phó, mình chỉ cần dùng một chút kế sách nho nhỏ là có thể khiến Chu Hậu Chiếu cam tâm tình nguyện nghe lời ngay, kế đó mượn danh nghĩa Thái tử để đi lấy bức bản đồ đi biển của Trịnh Hòa về. Trong lòng y vốn đã có chút đắc ý, nào ngờ đến lúc này mới biết mình đã tính nhầm một chuyện, đó là cho dù Chu Hậu Chiếu có tính tình tùy tiện và hay suy nghĩ linh tinh, thế nhưng những thứ đó thì người khác tuyệt đối không thể dự đoán được và cũng không thể nào ngăn cản nổi.

Y không dám rời đi quá xa, chỉ đành đi tìm người của Ngũ Thành Binh Mã ty ở xung quanh khu vực đó. Vốn thì người của Ngũ Thành Binh Mã ty không ngừng tuần tra trên đường, nhưng lúc này chẳng biết có phải là vì đã bị kéo đến học cung để tham gia “hoạt động tổng vệ sinh vì tình yêu tổ quốc” hết cả rồi không mà chẳng thấy một ai cả. Vốn Dương Lăng định thừa cơ trở về báo cáo với Thái tử luôn để tránh lớn chuyện, nào ngờ từ tửu lầu trước mặt chợt có mấy gã Cẩm Y vệ bận bộ quần áo Phi Ngư bước ra ngoài.

Dương Lăng cả mừng, những người này có thể nói là chuyên gia dọa nạt bắt bí người ta, để bọn họ ra mặt là ổn thỏa nhất. Cẩm Y vệ bắt người còn cần phải có lý do hay sao chứ? Như vậy thì không phải lo thân phận của Thái tử bị bại lộ rồi.

Dương Lăng vội bước lên trước cản đường của bọn họ, rồi đưa thẻ bài ra yêu cầu bọn họ trợ giúp bắt người. Mấy tên Cẩm Y vệ lúc này đều đã hơi say, họ đưa bắt nhìn nhau, nhưng đều chẳng hề có vẻ muốn hành động gì cả. Dương Lăng nhìn phẩm hàm của họ, thấy phần lớn là Hiệu úy, Lực sỹ, trong đó cũng chỉ có hai viên Tiểu kỳ, quan chức không lớn, biết rằng mình có quyền điều động chúng, bèn không kìm nổi quát to:

- Còn ngây ra đó làm gì? Phạm nhân sắp chạy mất rồi, có chuyện gì ta sẽ hỏi tội các ngươi đó!

Phía sau đám người có một giọng nói uể oải vang lên:

- Chuyện gì vậy? Vị đại nhân nào đang công cán thế, muốn điều người của ta tới giúp đỡ sao?

Nghe thấy thế mấy tên Cẩm Y vệ bèn rẽ sang hai bên, dành lối đi cho một hán tử mặc thường phục áo gấm dẫn theo sáu bảy người từ trong tửu lầu bước ra.

Người đó tuổi hơn ba mươi, thân hình cao lớn khỏe mạnh, dáng vẻ dũng mãnh tựa như một con báo đang uể oải dạo chơi. Hắn đi tới bên cạnh Dương Lăng, hai người đưa mắt nhìn nhau dò xét, trong lòng thầm đoán thân phận của đối phương. Hồi lâu sau người đó chợt mở miệng cười, chắp tay chào:

- Ta là Chưởng hình thiên hộ (Thiên hộ chuyên quản việc hình phạt – ND.) Tiền Ninh của Bắc Trấn Phủ ty, huynh đệ là…

Dương Lăng lúc này mới giật mình hiểu chuyện. Thảo nào khi nãy bọn kia không hề có hành động gì, thì ra không những cấp trên của bọn họ có mặt ở đây, mà phẩm cấp của y cũng không thấp. Nghe Tiền Ninh xưng phẩm bậc, Dương Lăng vội đáp:

- Tại hạ Đồng tri Dương Lăng của Nam Trấn Phủ ty.

Tiền Ninh nghe nói là người của Nam Trấn Phủ ty, cũng có thể coi là một bộ phận quan trọng trong Cẩm Ỷ vệ, tuy rằng quyền thế không được mạnh bằng Bắc Trấn Phủ ty, thế nhưng phẩm hàm của người ta lại cao hơn hắn nửa bậc, thế nên bèn khách khí nói:

- Thì ra là Dương đại nhân! Không biết vì sao Dương đại nhân lại muốn nhờ các huynh đệ của ta giúp đỡ vậy? Tuy rằng Cẩm Y vệ chúng ta bắt người không cần phải có chiếu chỉ, thế nhưng dưới chân thiên tử dù gì cũng phải kiêng dè một chút mới được…

Dương Lăng kéo hắn qua một bên, thấp giọng nói:

- Tiền huynh! Không giấu gì huynh, ta và mấy người bạn vừa đi tới ngõ Bách Thuận đằng trước… Hà hà, kết quả là có gây gỗ với một gã thương nhân, quyền qua cước lại một hồi thì mấy người bạn của ta đã bị thương. Do đó ta muốn mời các vị huynh đệ tới giúp ta dạy dỗ cho bọn chúng một trận.

Vốn đang buồn vì cứ ngồi uống rượu trong kia mãi mà chẳng có việc gì để vận động tay chân, lúc này Tiền Ninh nghe nói chỉ là chuyện nhỏ, vả lại dù gì cũng không thể không nể mặt người ta được, bèn lập tức khoát tay ra lệnh với thủ hạ:

- Đi nào! Hăng hái lên một chút, có việc để làm rồi! Chương 68 – Lục soát khắp kinh sư

Dương Lăng dẫn theo đám Cẩm Y vệ như lang như sói chẳng mấy chốc đã đuổi kịp Chu Hậu Chiếu, Lưu Cẩn và đám người còn lại. Lúc này Chu Hậu Chiếu đang bám theo Cao Phượng và La Tường đuổi theo Nghiêm Tung từ xa, ngoảnh đầu lại thấy có hơn mười Cẩm Y vệ, y không kìm được cất tiếng khen:

- Vị Dương thị độc này thật có bản lĩnh, không ngờ chỉ dựa vào thân phận thị độc mà có để điều động được cả một đội Cẩm Y vệ. Có điều không biết y đã tiết lộ thân phận của ta chưa nhỉ?

Vừa đuổi kịp, nhìn thấy Chu Hậu Chiếu thì Tiền Ninh cả kinh, tròng mắt như sắp rớt ra ngoài. Chu Hậu Chiếu không biết hắn nhưng hắn lại biết Chu Hậu Chiếu, đây là đương kim Thái tử cơ mà, vì sao Thái tử lại rời cung vậy? Tiền Ninh thầm kinh hãi trong lòng nhưng lại không dám để lộ ra ngoài mặt. Đôi mắt hắn liếc nhìn xung quanh, lập tức nhận ra mấy gã thư sinh ẻo lả bên cạnh Thái tử đều là thái giám giả trang, hắn càng thêm tin chắc.

Đã thường nghe kể chuyện Hoàng thượng hay dẫn Thái tử ra ngoài cung vui chơi, chẳng ngờ chính bản thân Thái tử cũng có lúc lén trốn ra ngoài thế này! Nhìn hình dáng bầm dập của những người bên cạnh Thái tử thì có vẻ như là không dám tiết lộ thân phận nên đã phải chịu thiệt thòi lớn gì đó. Hà hà, trèo được lên cái cây lớn như Thái tử đây, đó là một cơ hội cho dù muốn tìm cũng chẳng thể tìm được ấy chứ!

Hắn cũng không dám làm lộ thân phận của Chu Hậu Chiếu, chỉ tỏ vẻ vô cùng cung kính hỏi:

- Công tử chính là bạn của Dương huynh đệ sao? Mọi người yêu tâm, chuyện này cứ giao cho ta, ta nhất định sẽ thay mọi người dạy dỗ cho tên thương gia giàu có mà bất nhân ấy một trận.

Hắn liếm liếm môi, trong lòng thầm tiếc nuối: “Vốn định giúp vị Dương đồng tri này dạy cho mấy tên thương gia kia một trận, sau đó thì xin đẹp của bọn chúng một ít. Bây giờ thì không tiện ra tay ngay trước mặt Thái tử rồi.”

Chu Hậu Chiếu đưa mắt nhìn hắn với vẻ tán thưởng, sau đó khen:

- Tốt, những người ta mang theo đều là kẻ nhát gan sợ chuyện… ừm… không nhát gan thì cũng không làm được việc. Chuyện này xin nhờ ngươi đó, hãy đuổi theo rồi dạy dỗ bọn chúng một trận cho ta đi!

Tiền Ninh cười hà hà đáp:

- Chuyện này thì dễ thôi! Tại hạ sẽ đưa chúng vào một con hẻm, sau đó thì công tử muốn làm thế nào cũng được.

Thế nhưng sau khi đuổi theo được một lát, Tiền Ninh dần chau mày lại, thần sắc bắt đầu có chút bất an. Hắn đưa mắt nhìn khắp xung quanh, chỉ thấy những bức tường cao được lát bằng gạch xanh càng lúc càng nhiều, bên trong còn toàn là đình đài lầu các. Tiền Ninh không kìm được thầm lẩm bẩm: “Kẻ dây vào Thái tử thật sự chỉ là một tên thương nhân sao? Xung quanh đây… Xung quanh đây đều là nơi ở của vương hầu quý tộc cơ mà!”

Tại một con hẻm rất hẹp và dài ở phía trước, Cao Phượng đang đứng dưới một cổng chào ở trước ngõ vào hẻm vẫy tay gọi bọn họ. Khi mấy người bọn họ tới gần, Cao Phượng báo:

- Công tử! Con hẻm này vừa dài vừa hẹp, La Tường đã bám theo vào trong đó rồi, chúng ta có đuổi theo không đây?

- Đuổi chứ! Tại sao lại không đuổi nào?

Chu Hậu Chiếu trừng mắt giận dữ:

- Chẳng lẽ ta lại sợ bọn chúng chắc?

Vốn hơi e ngại trong lòng, nhưng ngay khi nghe Chu Hậu Chiếu nói vậy Tiền Ninh liền lập tức tỉnh ngộ. Người trước mặt là ai nào? Là đương kim Thái tử, là Hoàng đế tương lai đó, đắc tội với một vương hầu thì có là gì ghê gớm chứ? Chỉ cần được lòng Thái tử, muốn có vinh hoa phú quý thực dễ như trở bàn tay.

Thường có câu rằng “phú quý hiểm trung cầu” (muốn tìm vinh hoa phú quý thì phải xông vào chốn hiểm nguy), nay chỉ là mối nguy hiểm nho nhỏ mà cũng không dám thử, làm sao có thể thăng quan tiến chức được cơ chứ? Hơn nữa mình là người của ty Bắc Trấn Phủ trong Cẩm Y vệ, cho dù là công hầu quý tộc đi nữa thì cũng có mấy ai lại không chịu nể mặt đây?

Nghĩ vậy Tiền Ninh liền can đảm hơn nhiều, thậm chí còn hận không thật sự gặp phải một vị quyền thần nào đó, để bản thân phải nếm chút đau khổ, như thế ấn tượng của Chu Hậu Chiếu về hắn chắc chắn là sẽ càng sâu đậm hơn nhiều. Cả đám người bước nhanh vào trong con hẻm, khu vực này toàn là những tòa nhà cao vút của các vị đại thần quý tộc, nhưng cũng đã đến nơi giáp giới với khu nhà ở của bá tánh bình dân.

La Tường ngoảnh đầu nhìn lại thấy bọn họ đã tới gần, bèn chỉ tay vào một khu nhà cực lớn ở phía trước, lắp bắp nói:

- Công tử! Kẻ đó… kẻ đó đã vào trong cánh cửa này.

Mọi người nhìn về phía cánh cửa thì thấy một khu nhà lớn vô cùng, ngoài cùng là một cánh cửa lớn được sơn màu đỏ, chiếc vòng đập cửa được làm bằng đồng, hai bên cạnh của bậc thềm đá khá cao là một đôi sư tử rất đẹp, cao đến hai thân người.

Vừa thấy vậy, ngoại trừ Chu Hậu Chiếu và Dương Lăng ra, những người còn lại đều kinh hãi vô cùng. Tiền Ninh không kìm được buột miệng:

- Phủ của Thọ Ninh hầu sao?

Dương Lăng cũng nhìn thấy bốn chữ lớn mạ vàng “Thọ Ninh Hầu Phủ” trên bức biển treo trước cổng, có điều y cũng chẳng để tâm tới chuyện này cho lắm. Tên Nghiêm Khoan kia ăn nói thô tục, quyết chẳng phải là hầu gia gì cả, nhiều lắm cũng chỉ là một gã quản gia trong hầu phủ mà thôi. Trong những người ở đây có Thái tử, có Cẩm Y vệ, còn có cả tám đại gian thần tương lai, chẳng lẽ lại sợ gã hay sao chứ?

Nhưng vừa đưa mắt nhìn mấy người xung quanh, y bèn lập tức cảm thấy có điều không ổn. Mấy người Lưu Cẩn, Trương Vĩnh bên cạnh đều tỏ vẻ sợ hãi, ngay cả khuôn mặt tươi tắn với nụ cười trời sinh của Cốc Đại Dụng cũng trở nên gượng gạo. Chẳng lẽ vị hầu gia này rất có quyền thế hay sao? Trong ấn tượng của y… dường như y chưa từng nghe nói triều Minh có vị hầu gia nào ghê gớm như vậy thì phải.

Đang lúc Dương Lăng cảm thấy lạ, Lưu Cẩn đã lên tiếng nói với Chu Hậu Chiếu:

- Công tử, đây là phủ đệ của quốc cữu gia, không nể tăng thì cũng nên nể phật. Chúng ta… có nên thôi đi không?

Khi nhắc tới ba chữ “quốc cữu gia”, hắn còn đặc biệt nhấn mạnh thêm.

Dương Lăng nghe vậy liền giật mình chợt hiểu. Đương kim hoàng thượng chỉ có một vị hoàng hậu, hậu cung rộng lớn như thế mà ngay cả một phi tử cũng không có, sự sủng ái của lão ta với hoàng hậu chắc chắn không phải tầm thường. Tòa hầu phủ này không ngờ lại là phủ đệ của một người anh em ruột của hoàng hậu, thảo nào bọn họ lại sợ sệt như thế.

Vị thái tử Chu Hậu Chiếu này vốn tính hiền lành dễ gần, tuy rằng y thân phận cao quý, thế nhưng sau khi bị một gã tiện dân đấm cho một cú trong lòng cũng chẳng suy nghĩ gì nhiều. Sở dĩ y nhất quyết không chịu bỏ qua chuyện này chủ yếu là vì muốn lấy lòng vị Đường Nhất Tiên cô nương kia mà thôi.

Thế nhưng lúc này khi nhìn thấy phủ đệ của Thọ Ninh hầu, biết rằng có khả năng gã Nghiêm Khoan đó là người làm trong phủ, y lại càng không chịu bỏ qua. Đó là nhà của cậu y, người làm trong nhà của cậu y lẽ nào không phải là tôi tớ của y hay sao chứ? Bị người làm nhà mình đấm cho một cú thì dù y hiền lành đến đâu đi nữa cũng không nhịn được.

Hơn nữa tuy y là con đẻ của hoàng hậu, thế nhưng lại chẳng có bao nhiêu tình cảm với Trương hoàng hậu. Trong cung ngoài cung trước giờ vốn có tin đồn rằng y là do một vị cung nữ sinh ra sau một lần được Hoằng Trị ban ơn mưa móc, sau đó thì bị Trương hoàng hậu vốn không có con đoạt lấy. Chuyện này y cũng chỉ loáng thoáng nghe qua, tuy rằng không tin tưởng lắm, thế nhưng chuyện Trương hoàng hậu và y trước giờ không thân thiết với nhau lắm lại là sự thực, do đó quan hệ của y với hai người cậu Thọ Ninh hầu Trương Hạc Ninh và Kiến Xương hầu Trương Diên Ninh cũng chẳng tốt đẹp gì.

Chu Hậu Chiếu cười lạnh hai tiếng, trong bụng nhủ thầm: “Nếu đã là người trong phủ Thọ Ninh hầu, vậy ta cứ xông vào bắt người là xong. Tên Trương Hạc Linh đó chắc cũng chẳng dám nói câu nào đâu, ta mất mặt không phải cũng là hoàng hậu mất mặt hay sao chứ?” Y cắn chặt răng, định hạ lệnh cho bọn Lưu Cẩn xông vào phủ, chợt cánh cửa lớn màu đỏ lại được mở ra.

Mọi người vội tránh vào sâu trong hẻm, nhìn thấy tên Nghiêm Khoan vừa rồi dẫn theo một đám người ra ngoài, đi về hướng bên trái dọc theo dãy tường cao được xây bằng gạch xanh. Chu Hậu Chiếu mừng thầm, thấp giọng bảo:

- Bám theo nào! Đợi hắn đi vòng qua góc tường kia, các ngươi hãy nện cho hắn một trận, cướp tờ văn tự rồi chuồn luôn!

Lưu Cẩn thấy Thái tử đã quyết tâm phải trừng trị tên Nghiêm Khoan, đành nói:

- Vậy cũng được, có điều mấy người bạn mà Dương tướng công mời tới thực bắt mắt quá. Chi bằng để chúng tôi đổi quần áo với họ, như thế tên tiểu tử kia bị đánh một trận xong cũng chẳng biết do ai làm, tránh sinh chuyện thị phi.

Chu Hậu Chiếu bực mình đáp:

- Vậy thì nhanh lên một chút, đừng để hắn chạy mất đấy!

Tiền Ninh đang so sánh thực lực của Thái tử và quốc cữu, đồng thời suy tính đến chuyện được mất nếu đi nhầm nước cờ, ngay khi nghe được cách lưỡng toàn kỳ mỹ như vậy thì không khỏi mừng rỡ vô cùng. Hắn lập tức gọi bọn Lưu Cẩn mau cởi áo ngoài ra, sau đó lựa lấy mấy tên thủ hạ đắc lực, sai khoác mấy chiếc áo thư sinh ra bên ngoài bộ quần áo Phi Ngư, xong xuôi lặng lẽ bám theo mấy kẻ kia.

Chu Hậu Chiếu không muốn ở yên một chỗ, lập tức kéo Dương Lăng theo cùng. Cả bọn lặng lẽ đi vòng qua góc tường, nhận ra nơi đây cũng là một góc của phủ Thọ Ninh hầu, có điều tường ngoài đều đã bị dỡ đi, dường như đang được mở rộng. Phía bên trái có một con đường, cạnh đường toàn là nhà của dân thường, phủ Thọ Ninh hầu sau khi dỡ bỏ tường ngoài thì mở rộng về hướng đó. Cây bên đường đã bị chặt hết, cả con đường đều bị quây vào trong phủ, mấy chiếc mái cong của những tòa lầu các mới được xây trong phủ đều thò cả vào phần sân của những nhà dân thấp bé xung quanh.

Hơn trăm thợ thủ công đang hí húi làm việc, trên bức tường thấp có mấy người mặc trang phục gia đinh của hầu phủ đang quát tháo mấy chục người có già có trẻ có nam có nữ ở bên đường:

- Hầu gia của chúng ta là người biết lý lẽ nhất đó, hãy nhìn cái móng nhà này xem, có chiếm tí đất nào của các ngươi không hả? Không chứ gì? Con đường này không đi được thì các ngươi cứ đi đường vòng là ổn thôi, sao nào? Lầu các của hầu gia chúng ta thò vào sân nhà các ngươi thì sao? Có giỏi thì các ngươi cứ đi kiện, bọn ta cũng chẳng chiếm tí đất nào của các ngươi, phần trên không trung thì vương pháp không hề ghi là thuộc về nhà các ngươi mà! Định vu cáo Hầu gia sao? Xem các ngươi có gan không nào?

Nghiêm Khoan dẫn người hùng hùng hổ hổ xông tới quát tháo:

- Chuyện gì vậy? Lũ đểu cáng các ngươi lại tới gây chuyện hay sao? Thọ Ninh hầu gia vốn tính từ bi, các ngươi đã được voi rồi lại còn đòi tiên hả? Mẹ kiếp, ta nói cho các ngươi biết, ông đây sắp tới phải đi Bát Đạt Lĩnh nhận một vụ làm ăn lớn, là Trường Thành đó! Biết không hả? Các ngươi mà cứ tới lằng nhằng làm lỡ thời gian hoàn thành công trình của ta, chỗ bạc đó các ngươi trả cho ta nhé!

Một ông lão chống gậy run rẩy trả lời:

- Nghiêm đại gia! Cây táo nhà chúng tôi đã bị người của ngài cưa mất rồi, mái hiên của các ngài cũng đè xuống bệ cửa sổ phía đông nhà chúng tôi, trong nhà lúc này tối đen như mực! Đại gia…

Một tên tay chân của Nghiêm Khoan vung roi da quật vút xuống vai ông lão, rồi như một con chó dựa oai chủ cao giọng quát:

- Trong kinh sư có vô số phủ đệ của các vương hầu quý tộc đều do lão gia nhà chúng ta xây đó, còn chưa thấy có người nào nói chúng ta chèn ép trăm họ đâu! Lão già kia, con mắt nào của ngươi nhìn thấy bọn ta cưa cây táo nhà ngươi hả? Sao ngươi không nói là mình khuyết đức nên bị sét đánh đổ cây táo đó đi?

Đám nô bộc của hầu phủ đứng cạnh đó nghe vậy đều phá lên cười ha hả, ông lão giận đến đỏ bừng cả mặt, toàn thân run lên. Chu Hậu Chiếu ghé đến gần nói với Tiền Ninh:

- Đánh! Đánh xong rồi rút! Hừm, nhất định phải cướp lấy tờ văn tự trong người hắn về đây!

Đánh xong rồi chạy rất hợp ý Tiền Ninh, hắn lập tức đưa mắt ra hiệu với thủ hạ, đoạn gằn giọng:

- Lên!

Mấy tên Cẩm Y vệ nghe mệnh lệnh liền lập tức hung hăng xông đến. Cả bọn đều sở trường về những môn chiến đấu tay không, đánh người thì chuyên chọn những chỗ yếu hại như khớp xương mạng sườn mà tẩn, trước giờ vẫn ra tay độc ác vô cùng, không hề kiêng dè gì cả.

Tiền Ninh biết những người này có quan hệ mật thiết với phủ Thọ Ninh hầu, vốn thầm kiêng kị trong lòng nên ra tay còn chừng mực một chút. Nhưng mấy tên Hiệu úy, Lực sỹ kia thì chỉ phụng lệnh hành sự, chẳng cần biết ba bảy hai mươi mốt gì cả, ra tay tàn độc vô cùng, chẳng khác gì giã gạo. Chỉ trong khoảnh khắc họ đã đánh gục bảy tám tên, khiến đối phương phải che vai ôm sườn lăn lộn khắp đất kêu gào thảm thiết.

Tiền Ninh giữ chặt lấy Nghiêm Khoan, trước tiên tặng cho vài cái tát khiến đầu óc gã choáng váng, sau đó thì xé tung vạt áo trước ngực của gã lục soát một hồi. Chu Hậu Chiếu khoái trá chạy tới, đá hai cái thật mạnh vào mông Nghiêm Khoan, cười ha hả. Tiền Ninh mò mẫm trong ngực Nghiêm Khoan một lúc, sau đó ngẩng đầu lên nói với Chu Hậu Chiếu:

- Thái… Công tử, sao trong ngực hắn không có thứ gì hết vậy?

- Không có ư?

Chu Hậu Chiếu ngẩn người, lập tức nổi giận đùng đùng đá một nhát vào đùi Nghiêm Khoan, mắng lớn:

- Có phải là vừa rồi ngươi đã giấu vào trong hầu phủ rồi không hả?

Nghiêm Khoan đưa tay ôm đùi kêu la đau đớn, rên rỉ:

- Tiểu… súc sinh, ngươi là ai? Đã biết ta là người của hầu phủ mà còn… còn dám đánh ta sao?

Chu Hậu Chiếu thấy hắn mắng mình là tiểu súc sinh thì giận dữ định co chân đá tiếp, Dương Lăng vội giữ y lại, ghé miệng đến sát tai y báo:

- Công tử! Trước tiên hãy rời khỏi đây đã, sau này tìm cơ hội đòi lại tờ giấy đó là được, bọn chúng đã trở về gọi người rồi.

Chu Hậu Chiếu đỏ bừng mặt đáp:

- Không được, lời ta nói ra như bát nước đã hắt đi! Sao có thể để cô nương nhà người ta chê cười được, nhất định phải đòi lại tờ văn tự đó về cho ta.

Dương Lăng hết cách chỉ đành vỗ ngực đảm bảo:

- Chuyện này cứ giao cho tại hạ, trong vòng ba ngày tại hạ nhất định sẽ lấy được tờ văn tự đó về! Tuyệt đối sẽ không để công tử phải thất hứa đâu!

Chu Hậu Chiếu nghe vậy bèn đá mạnh lên người Nghiêm Khoan một cái nữa, rồi mới chịu để cho Tiền Ninh và Dương Lăng kéo chạy trốn như bay. Người ta thường nói “quý nhân ra khỏi cửa thì lắm mưa nhiều gió”, có điều mưa gió hôm nay hình như là nhiều quá thể! Dương Lăng vừa kéo Chu Hậu Chiếu chạy đi, trong lòng vừa nghĩ hôm nay bận rộn cả ngày trời mà vẫn chẳng nhìn thấy bức bản đồ đi biển của Trịnh Hòa đâu cả, thật là đau đầu mà!

Phủ của hầu gia thật đúng như câu “nhất nhập hầu môn thâm tự hải” (Vừa vào cửa nhà quan hầu tước liền thấy nó sâu như biển – ND.), đợi đến khi kẻ báo tin tập hợp đủ người theo quản gia thống lĩnh xông ra ngoài thì bọn Dương Lăng đã chạy mất hút từ lâu rồi.

Thọ Ninh hầu hay tin nổi giận đùng đùng. Tuy Nghiêm Khoan chỉ là một người làm trong phủ nhưng em gái hắn ta lại là thiếp yêu của Thọ Ninh hầu, nói cách khác, Nghiêm Khoan chính là anh vợ của anh vợ của đương kim hoàng thượng. Đánh chó cũng phải ngó mặt chủ, huống hồ còn là đánh anh vợ của hắn. Hơn nữa người anh vợ này đã tự lập môn hộ ở bên ngoài, dùng nghề xây dựng đã kiếm về cho hắn rất nhiều bạc.

Hôm qua hắn vừa mới kiếm cho gã anh vợ này một công việc béo bở là xây dựng Trường Thành đoạn Bát Đạt Lĩnh, nếu gã ta bị thương nặng thì tổn thất to rồi. Trong cơn giận dữ Trương Hạc Linh phái người cầm thư tay của hắn tới thẳng Ngũ Thành Binh Mã ty. Ngũ Thành Binh Mã ty hay tin liền giật nảy mình, không ngờ lại có người dám chạy đến phủ của Thọ Ninh hầu gây chuyện, thế này thì gay thật rồi! Hoàng thượng còn đang tuần sát ở học cung, nếu đám người xấu này dám cả gan làm kinh động thánh giá nữa, vậy chẳng phải là bọn họ bị tội rơi đầu hay sao?

Ngự sử tuần thành tựa như gặp phải đại địch, lập tức đích thân lùng sục, đi đằng trước là hai tên lính cầm roi mở đường quất đen đét liên tục. Đám lưu manh kẻ cắp trên đường đều ôm đầu lủi như chuột, những người bày sạp bán hàng trên đường im bặt như ve sầu mua đông, cả thành Bắc Kinh trở nên hỗn loạn.

Đám bộ khoái, mã khoái tràn ra khắp nơi, ngay cả lính của doanh trại binh mã trong kinh sư cũng bị điều động. Bọn Chu Hậu Chiếu được Tiền Ninh kéo lên một tửu lầu quen của hắn. Cho dù nhìn thấy Cẩm Y vệ ở trên đó, đám binh mã không ngờ vẫn dám phái người lên lục soát. Chu Hậu Chiếu không khỏi chau mày cười lạnh:

- Ghê thật, chẳng qua chỉ là một tên người làm trong hầu phủ bị đánh mà hiện giờ thì quả đúng là gần đến mức phải phong tỏa toàn thành rồi. Lý thái phó kể chuyện sử sách với ta, thường nói ngoại thích chuyên quyền, thế lực vượt cả thiên tử. Hà hà, ta thấy tên Thọ Ninh hầu này quả là còn oai phong hơn cả thiên tử ấy chứ! Chương 69 - Trí đấu quyền hầu

(Dùng trí đấu vương hầu quyền thế)

Thấy lính canh tuần đi lại liên miên không ngớt dưới lầu, Tiền Ninh chợt đảo mắt, ra lệnh cho đám hiệu uý Cẩm Y vệ dưới trướng:

- Xuống lầu hết cho ta! Canh chừng cửa, không cho ai lên quấy nhiễu!

Thủ hạ vừa ra khỏi nhã phòng, Tiền Ninh lập tức quỳ sụp xuống đất, cung kính thưa:

- Thần Tiền Ninh tham kiến Thái tử điện hạ!

Chu Hậu Chiếu "ý" kinh ngạc, ngước mắt nhìn Dương Lăng, Dương Lăng khẽ lắc đầu. Thấy vậy Tiền Ninh bèn cung kính bẩm rõ:

- Vi thần từng nhậm chức thống lĩnh thị vệ trong cung nên đã may mắn được gặp Thái tử điện hạ. Hôm nay điện hạ cải trang vi hành, thần vốn không dám làm lộ thân phận của ngài, nhưng hiện giờ binh lính lùng sục khắp kinh sư, vi thần chỉ còn cách dựa vào thân phận Cẩm Y vệ đích thân hộ tống điện hạ hồi cung. Vì thế vi thần mạo muội chào điện hạ, mong điện hạ thứ tội.

Chu Hậu Chiếu nghe xong bừng tỉnh, cười ha hả nói:

- Đứng dậy đi, không cần mấy quy củ thối đó. Ta cũng không ngờ đánh một tên vô lại lại kéo vô lại cả thành đến. Cái tên nhà ngươi cũng giảo hoạt lắm, bằng không, sao ngươi còn phải giả vờ không quen biết ta chứ?

Lúc này Dương Lăng cũng thở dài một hơi, thất vọng nhìn xuống dưới lầu, biết rằng hôm nay đừng hòng đi đến bộ Binh lấy tấm hải đồ của Trịnh Hoà. Lưu Cẩn ghé tai y thấp giọng bảo:

- Dương thị độc chớ nên sốt ruột! Tấm hải đồ đó để ở bộ Binh lâu năm như vậy, nếu muốn vứt thì đã sớm vứt từ lâu, nếu chưa vứt thì cũng sẽ không rời nơi đó một khắc. Ngày khác lại tìm cơ hội lấy về cũng được.

Dương Lăng sửng sốt nhìn lão. Lưu Cẩn mỉm cười nói:

- Tấm hải đồ đó là bảo vật Trịnh công công tốn bao tâm huyết lưu lại. Câu chuyện vô cùng ấn tượng, vạn nước truyền tụng đó là công lao do những người thuộc nội cung bọn ta tạo nên, bọn ta cũng không nỡ để nó bị huỷ bỏ đâu.

Dương Lăng rất đỗi kinh ngạc, nhìn nụ cười an ủi của "đồng chí" thái giám, cặp mắt của y không hẹn mà đã ươn ướt...

Được Tiền Ninh dẫn hơn chục tên Cẩm Y vệ "áp giải", dĩ nhiên đám quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa đụng phải bọn họ trên đường đều không dám chặn hỏi. Chu Hậu Chiếu suông sẻ trở về Đông Cung từ cổng sau Tử Cấm Thành.

Vừa trở về Xuân Phường an toàn, y liền vỗ bàn cái bộp, nói với Dương Lăng:

- Hôm nay chuyện đã ầm ỹ lên cả rồi, nhưng ta đã nhận lời của cô nương người ta, không thể thất hứa. Chính ta đã bảo nội trong ba ngày dứt khoát sẽ trả lại văn tự mua thiếp cho nàng ấy, ngươi xem làm sao để cướp tờ giấy đó về?

Dương Lăng chau mày. Khi đó để gạt Chu Hậu Chiếu rời khỏi “chiến trường”, y đã thuận miệng hứa bừa mấy câu. Nay xem ra gã Nghiêm Khoan chính là người của Thọ Ninh hầu. Ngay cả chuyện xây công sự Bát Đạt Lĩnh mà Trương Hạc Linh cũng có thể giao cho gã, chứng tỏ quan hệ bọn họ thật không tầm thường, căn bản chính là "quan thương một nhà".

Lấy tiền mua chuộc chỉ sợ không đưa được cái giá khiến gã động lòng, hơn nữa chuyện bấm bụng nhẫn nhịn như vậy nhất định Thái tử sẽ không chịu. Còn như muốn dùng quan uy bức bách thì đương kim thánh thượng sủng ái mỗi chính cung; chỉ cần nhìn khí thế các loại đội ngũ lùng sục kinh sư hôm nay là đủ rõ, vị quốc cữu gia này há dễ trêu vào sao? Trừ khi chính vua Hoằng Trị đích thân ra mặt, bằng không còn ai áp chế được hắn chứ.

Dương Lăng chau mày suy nghĩ một hồi, thật sự không nghĩ ra được biện pháp gì, y ngẩng đầu nhìn tám "thiên tài" chuyên trị người mà nghe nói là cả khi nằm mơ cũng có thể nghĩ ra biện pháp hại người, lại thấy tám cặp mắt cũng đang dòm y lom lom. Dương Lăng khổ sở cười một tiếng, đành phải cân nhắc từng lời:

- Tên Nghiêm Khoan đó chỉ là người làm, vốn không đáng lo, có điều Thọ Ninh hầu lại làm chủ cho gã... Muốn đụng đến gã, thì phải khuất phục Thọ Ninh hầu trước mới được.

Chu Hậu Chiếu đáp ngay:

- Không cần úy kỵ! Tuy Trương Hạc Linh là quốc cữu, nhưng thái độ kiêu căng của ông ta thật khó ưa, nếu có thể dập bớt oai phong của ông ta cũng là điều tốt. Ngươi có biện pháp gì cứ nói đi.

Dương Lăng trầm ngâm một hồi rồi nói:

- Người có thể khiến cho Thọ Ninh hầu bớt kiêu căng, chỉ còn có đương kim bệ hạ. Nhưng nếu muốn bệ hạ khiển trách ông ấy thì cần phải có chứng cớ tội trạng đủ nghiêm trọng khiến cho bệ hạ phải nổi giận...

Cốc Đại Dụng nghe vậy bèn xen vào:

- Việc này dễ thôi! Chỉ những việc xâm phạm quyền lợi của dân lành, lấn chiếm đường phố, tự ý giao công trình cho kẻ khác cũng đủ để dâng sớ hạch tội ông ta rồi, huống hồ e rằng Thọ Ninh hầu không chỉ... hà hà!

Lưu Cẩn nhíu mày nói:

- Có được chứng cớ còn phải có người đắc lực trình cho bệ hạ mới được. Nếu như chúng ta ra mặt, nhất định bệ hạ sẽ sinh nghi. Chuyện này...

Chu Hậu Chiếu mất kiên nhẫn:

- Sao mà phiền quá vậy! Nếu làm vậy không được thì nhân dịp mấy ngày này đang thi Hội, các Thái phó ít đến trông coi ta, ta tranh thủ rời cung một chuyến nữa đi thẳng đến tìm quốc cữu đòi vậy. Ta không tin ông ấy sẽ vì một tên người làm mà dám đắc tội với ta.

Nghe đến hai chữ "Thái phó", Dương Lăng không khỏi sáng rỡ hai mắt, hỏi ngay:

- Điện hạ! Mấy ngày nay các vị đại học sỹ đều không đến giảng bài cho người sao?

Chu Hậu Chiếu đưa mắt nhìn Cốc Đại Dụng, Cốc Đại Dụng đáp thay:

- Bắt đầu từ ngày mai, hằng ngày ba vị đại học sỹ sẽ luân phiên tham gia trông coi thi cử thi tại trường thi, hai vị còn lại sẽ ở trong cung xử lý chính vụ. Vì thế thay vì mỗi ngày do ba vị đại học sỹ luân phiên lên lớp, hiện đổi lại thành mỗi ngày một vị đại học sỹ đến dạy, vả lại thời gian cũng giảm xuống còn một canh giờ.

Dương Lăng vỗ đùi nói:

- Tốt! Thần đã có biện pháp rồi. Ngày mai sẽ do vị đại học sỹ nào phụ trách giảng dạy?

Cốc Đại Dụng quả nhiên là kẻ "thính tai", thuộc làu làu thời khoá biểu lẫn lão sư giảng dạy mà phủ Chiêm Sỹ thu xếp cho Thái tử, hắn đáp không chút suy nghĩ:

- Ngày mai hẳn sẽ do đại học sỹ Lý Đông Dương giảng dạy.

Dương Lăng cười khà khà, ghé vào tai Chu Hậu Chiếu thì thầm một hồi. Chu Hậu Chiếu nghe xong bán tín bán nghi hỏi lại:

- Biện... biện pháp này thật sự hiệu quả sao?

Dương Lăng cười nói:

- Nếu làm khéo, Thọ Ninh hầu gia sẽ chỉ còn nước bỏ quân giữ soái. Đến lúc đó, thứ nhất điện hạ không phải thất tín với người. Thứ hai, tên Nghiêm Khoan đó vô lễ với Thái tử, ta có thể trị gã thân bại danh liệt khiến gã từ nay không thể cựa quậy gì được. Thứ ba, điện hạ còn có thể giành được sự tán thưởng của các vị thái phó.

- Ồ?

Chu Hậu Chiếu phấn chấn tinh thần:

- Sẵn lúc trời còn sớm, ngươi hãy mau đi thu xếp đi! Nhất thiết phải chuẩn bị đầy đủ trước khi Lý thái phó đến vào ngày mai cho ta.

- Dạ, vi thần tuân mệnh!

Dương Lăng mỉm cười vái chào, quay sang khẽ gật đầu với Bát Hổ rồi nghiêng mình lui ra.

*** *** *** *** *** *** *** *** *** ***

Rạng sáng hôm sau, khi ánh dương còn chưa nhô cao, một chiếc xe nhỏ chạy nhanh đến một góc bên ngoài Ngọ môn. Chờ sẵn đằng sau góc cổng, Dương Lăng lách mình lên xe. Tiền Ninh ngồi ngay ngắn ở trong xe, đưa cho y một bọc giấy dầu dầy cộm, cười nói:

- Hôm qua nhận lệnh của Dương đại nhân, Tiền mỗ đã phân phó tuỳ tùng bận rộn một đêm, cuối cùng đã có thu hoạch, may mắn không làm nhục mệnh. Ha ha, đây là những thứ mà đại nhân yêu cầu, đại nhân xem thử có dùng được hay không?

Dương Lăng khách khí vài ba câu, rồi ngồi xuống cạnh y, mở bao lấy ra một chồng giấy dầy cộm, vén rèm mượn ánh nắng ban mai vội vã xem. Sau một hồi y líu lưỡi hỏi:

- Tiền huynh! Ta chỉ nhờ huynh thu thập một số việc Thọ Ninh hầu cấu kết thương nhân tự ý giao công trình với lại xâm phạm lợi ích của dân. Nếu không đủ nghiêm trọng mới tuỳ tiện sắp đặt thêm một chút sai phạm để tăng thêm trọng lượng. Nhưng những tài liệu này của huynh thậm chí còn có cả án giết người nữa, nếu thật sự bệ hạ cho tra xét, há không phải là lấy đá tự đập vào chân mình à?

Tiền Ninh cười khì khì đáp:

- Thật ra Tiền mỗ cũng muốn bịa đặt thêm một chút thị phi, tiếc là đã bận rộn cả đêm. Thật ra mấy vụ án không phải chỉ có bấy nhiêu, bọn ta cũng chẳng dư thời gian thêu dệt thêm lỗi cho Trương hầu gia. Những hồ sơ vụ án này có nhân chứng, có vật chứng, có cái còn là của khổ chủ gởi tới nha môn tố cáo nữa, có điều không ai dám xử lý nên vẫn còn xếp đống mà thôi. Đại nhân xem thử có thứ nào dùng được thì cứ việc cầm lấy. Yên tâm, toàn bộ những tư liệu này đều do Tiền mỗ sai thủ hạ chép lại, không phải là thư từ công văn của Cẩm Y vệ chúng ta, sẽ không dẫn lửa cháy đến chúng ta đâu.

Dương Lăng kinh ngạc hỏi lại:

- Những thứ này đều là thật ư?

Tình Ninh gật đầu nói:

- Đều là thật!

Đoạn y cười nhạt, ngạo nghễ nói:

- Bất kể là ai, chỉ cần Cẩm Y vệ chúng ta muốn xử lý hắn, sẽ không có bí mật gì có thể che giấu chúng ta được. Có điều... Thọ Ninh hầu được mấy "gốc cây to" trong cung che bóng, những thứ này chưa hẳn đã lật đổ được hắn. Đại nhân nhất thiết phải cẩn thận, đừng để mình cũng rơi vào hố bẫy đó.

Dương Lăng gật đầu nói:

- Tiền huynh yên tâm, chuyện này tự có người xung phong xông trận. Ha ha, ta phải chạy gấp vào trong cung rồi. Lần này đã phiền Tiền huynh, tấm lòng của Tiền huynh ta sẽ bẩm cho điện hạ biết.

Tiền Ninh hớn hở ra mặt, liền vội chắp tay đáp:

- Đều là huynh đệ hà tất nói lời khách khí như vậy. Cổng Ngọ môn có nhiều triều thần, Tiền mỗ không tiện lộ diện, đành cung tiễn Dương đại nhân tại đây. Chúc đại nhân kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công!

*** ***

- Khổng Tử nói: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”. Ý muốn nói bậc làm vua phải theo đúng đạo làm vua, kẻ bầy tôi phải theo đúng với đạo bề tôi, người làm cha phải theo đúng đạo làm cha, kẻ làm con phải theo đúng đạo làm con.

Lý Đông Dương vừa giảng vừa vui vẻ liếc nhìn Thái tử. Hôm nay Thái tử rất lanh lợi, ngồi nghiêm chỉnh sau bàn, dường như rất chăm chú nghe giảng, khiến trái tim già của lão rất yên lòng.

Lý Đông Dương mỉm cười giảng tiếp:

- Con người hay thưởng cho người mình thích, phạt kẻ mình ghét. Bậc minh quân thì lại không như vậy, thưởng tất thưởng cho người có công, phạt tất phán cho kẻ có tội. Bậc minh quân giỏi trị nước, trong phải củng cố quyền uy, ngoài phải tăng cường quyền bính. Như vậy mới có thể chinh phạt kẻ địch, không ai dám không nghe.

Lão đưa chén trà lên môi nhấp một ngụm thấm giọng, đang định giảng kỹ hơn, chợt nghe Thái tử hỏi:

- Thái phó à, làm bậc minh quân phải thưởng phạt phân minh. Nhưng nếu như kẻ có tội là cận thần của Thiên tử hoặc thậm chí là họ hàng thân thích, phải chăng có thể khoan hồng?

Lý Đông Dương nghiêm mặt đáp:

- Không được! Vương tử phạm pháp cũng chịu tội như thứ dân, vì sao? Bởi lẽ vua không phải là chủ một nhà, mà là chủ một nước. Đối với vua, khắp cả nước đều là con dân, cớ sao lại phân chia xa gần? Vua thánh tôi hiền, ấy là phước của thiên hạ; vua minh thần trung, ấy là phước của quốc gia. Nếu như dung túng bênh vực cận thần làm ác, đấy không phải là phước của đất nước.

Dương Lăng ho khan một tiếng, Chu Hậu Chiếu liền lôi dưới gầm bàn ra một bọc giấy, thở dài một hơi, thưa:

- Thái phó dạy rất phải! Hôm nay Dương thị độc vào cung, nhặt được một cái bọc ở ngay cửa cung, bên trong không ngờ lại những tội chứng tố giác quốc cữu Trương Hạc Linh dung túng gia nhân gây hại dân lành. Mỗi việc, mỗi vụ đều khiến người ta nhìn thấy mà đau lòng. Chao ôi! Sau khi ta xem xong vốn nghĩ Trương Hạc Linh là cậu, hay là cứ gấp chuyện này lại không đề cập đến, nhưng nghe xong lời dạy dỗ của Thái phó, ta thật cảm thấy xấu hổ. Nếu như cứ che giấu không đưa, vậy thật đã phụ lời thánh nhân rồi.

Lý Đông Dương nghe xong rúng động hỏi:

- Là tội chứng gì? Thái tử có thể cho thần xem một chút hay không?

Chu Hậu Chiếu thừa cơ vừa đưa bao giấy cho lão vừa lắc đầu hổ thẹn:

- Một bên là cậu ta, bên khác là bá tánh lê dân chịu đựng ức hiếp, không chốn khẩn cầu. Tuy ta không nỡ thưa bẩm phụ hoàng để tổn thương hoà khí trong nhà, nhưng sau khi nghe lời dạy dỗ của Thái phó lại thật sự không đành lòng ngoảnh mặt làm ngơ.

Lý Đông Dương vội vã lật xem đống đơn kiện tố cáo tội trạng Thọ Ninh hầu Trương Hạc Linh. Chỉ đưa mắt vài lượt, lão đã giận không kiềm chế được, vẻ mặt phẫn nộ:

- Vương hầu quý thích, không ngờ lại xâm hại lợi ích của dân một cách trắng trợn đến mức thế này. Điện hạ không cần phải hổ thẹn, người làm rất phải! Vua là thuyền, thứ dân là nước. Dân do trời sinh, không phải là vua; trời lập ra vua, cũng là vì dân. Điện hạ có thể kết nối lòng mình với lê dân, đó là phước của xã tắc.

Rồi ông lại liếc sang Dương Lăng, nói đầy thâm ý:

- Những hành vi này của Thọ Ninh hầu khiến cho bá tánh lê dân cất tiếng than oán dậy trời, mà lại không chốn cầu khẩn, cho nên mới có người bất đắc dĩ làm vậy. Điện hạ! Mời Dương thị độc hãy cùng điện hạ tự ôn lại bài học trước, lão thần phải ra ngoài thôi. Trước hết cần kiểm chứng một lượt, ví như là thật, nhất định lão thần sẽ bẩm báo với thánh thượng.

Dương Lăng nghe xong liền nhướng mày. Trong lời của lão già này có ẩn ý, rõ ràng không hẳn đã tin mình nhặt được gói giấy trên đường vào cung. Có điều người này ghét ác như thù, biết rõ bị người ta lợi dụng nhưng vẫn không chịu làm ngơ. Hơn nữa, tất cả các vụ án Tiền Ninh đưa đến đều là thật cho nên y cũng không sợ lão kiểm chứng.

Lý Đông Dương cáo từ rời cung.

Trong ngày này, so với trước kia rõ ràng Chu Hậu Chiếu ngoan hơn rất nhiều. Thái tử chỉ ngoan ngoãn ở trong Xuân Phường cùng Dương Lăng bàn chuyện trên trời dưới đất, không dám chơi đùa gây rối nữa.

Lý Đông Dương vội vã chạy về điện Cẩn Thân, lập tức ra lệnh cho Hữu ty nha môn điều tra báo cáo. Những vụ án này phần lớn đều đang được khiếu kiện tại nha môn, chỉ là bị người đùn đẩy lần lữa mãi nên không thể xử lý mà thôi, cho nên vừa cho điều tra liền biết là đúng, chỉ hơn một canh giờ đã kiểm chứng được bảy tám phần. Lý Đông Dương nghe xong những tội ác khiến người phẫn nộ đó không khỏi giận tím tái mặt mày, lập tức cầm bút viết lưu loát bài sớ vạn ngôn, rồi phất ống tay áo đi dự Ngọ triều.

Trong Đông cung, Chu Hậu Chiếu đang nghe Dương Lăng kể về phong tình các nước, mở rộng tầm nhìn. Đang nghe đến hồi say sưa, chợt y nghe giọng the thé của Cốc Đại Dụng từ bên ngoài:

- Ối chao! Hai vị công chúa điện hạ, sao hai người đến Đông cung vậy?

Một giọng thiếu nữ yêu kiều cất lên:

- Thái tử đâu? Mau dẫn ta đi gặp huynh ấy.

Cốc Đại Dụng ấp úng:

- Công chúa điện hạ, Thái tử đang ôn bài, người xem...

Một giọng nói ngây thơ thuần khiết của một thiếu nữ khác cất lên:

- Hừ! Có phải là các người lại dùng mấy trò đá gà dạy chó lừa để Thái tử ca ca chơi đùa phải không? Tỷ tỷ, chúng ta tự vào đi.

Chu Hậu Chiếu "a" lên một tiếng, vội nói:

- Vĩnh Phúc và Vĩnh Thuần đến rồi. Ngươi trốn đằng sau bình phong một lúc đi. Trong cung có nhiều quy củ thối lắm, ngươi không thể tùy tiện thấy mặt bọn họ đâu!

Nghe vậy, Dương Lăng vội vàng đứng dậy trốn vào sau bức bình phong bằng gỗ tử đàn lâu năm. Y nghe Chu Hậu Chiếu cất cao giọng gọi:

- Đại Dụng! Mời hai vị công chúa vào đi!

Tiếp theo đó là tiếng một thiếu nữ cười khúc khích nói:

- Lạ quá, lạ quá! Không ngờ hôm nay hoàng huynh lại ngồi yên ở nơi này, không chơi mấy trò chó mèo nữa nhỉ, chẳng lẽ huynh đổi tính rồi? Chương bảy mươi - Nhốn nháo ở hậu cung

------------------------

Chỉ nghe Chu Hậu Chiếu hừ một tiếng, giọng khá uy nghiêm:

- Vĩnh Thuần, chẳng có chút quy củ nào cả! Gặp ta mà cũng không biết làm lễ à?

Thiếu nữ có giọng ngây thơ đáp:

- Thôi đi! Nếu hoàng huynh chịu nói quy củ thì mẫu hậu đã bớt lo lắng. Huynh suốt ngày cứ ta ta, có từng xưng “Cô gia”, “Quả nhân” đâu, muội làm lễ cái gì chứ?

Dương Lăng đứng sau bình phong, nghe Chu Hậu Chiếu gọi nàng là Vĩnh Thuần, thầm nghĩ: “Hiện giờ hoàng đế Hoằng Trị có một trai hai gái, cô nương này chính là con gái nhỏ nhất của Hoằng Trị - công chúa Vĩnh Thuần. Nghe nói nàng ta mới mười một tuổi, chẳng trách nghịch ngợm như thế, người kia đương nhiên là công chúa Vĩnh Phúc rồi. Hai tiểu cô nương tới đây làm gì nhỉ?”

Công chúa Vĩnh Phúc năm nay mười ba tuổi, nhỏ hơn Chu Hậu Chiếu hai tuổi, nhưng lại đoan trang ôn nhu, hết sức biết lễ. Dù tiểu muội nghịch ngợm nhưng nàng cũng chỉ mỉm cười chứ không trách, vẫn sửa vạt áo ngay ngắn thi lễ theo đúng lễ tiết chính thức của cung đình:

- Hoàng muội Vĩnh Phúc ra mắt thái tử điện hạ. Điện hạ thiên tuế thiên thiên tuế!

Trước nay Chu Hậu Chiếu vẫn không thích lễ nghi cung đình, mặc dù vừa rồi y giáo huấn tiểu muội, nhưng kỳ thật lại rất thích thái độ thoải mái như vậy của nàng. Lúc này thấy công chúa Vĩnh Phúc quả thật làm đại lễ, y đành phải ngồi nghiêm chỉnh nhận lễ, sau đó nhấc cánh tay phải lên như một con rối gỗ, cất giọng nhạt nhẽo:

- Hoàng muội miễn lễ, bình thân! Các muội xưa nay không đến Xuân Phường, hôm nay tới đây...?

Công chúa Vĩnh Thuần cướp lời:

- Thái tử ca ca, hậu cung bây giờ nhốn nháo vô cùng, huynh mau đi...

Công chúa Vĩnh Phúc đột nhiên ho khan một tiếng, cắt ngang:

- Các ngươi đều lui ra đi, ta có chuyện muốn nói với thái tử điện hạ.

- Dạ!

Cốc Đại Dụng vốn rất lanh lợi, vội vàng vâng lệnh rồi khoát tay, dắt hai tên tiểu thái giám rời khỏi, nhè nhẹ khép cửa cung.

Công chúa Vĩnh Phúc ngồi dựa vào sạp (giường hẹp) mềm, lộ vẻ lo lắng:

- Hoàng huynh, huynh mau đi hậu cung một chuyến đi! Phụ hoàng trước nay vẫn thương yêu huynh nhất, huynh ra mặt có lẽ có thể dập tắt cơn giận lôi đình của phụ hoàng.

Chu Hậu Chiếu nhất thời không hiểu, nghi hoặc hỏi:

- Phụ hoàng tức giận vì chuyện gì?

Công chúa Vĩnh Phúc đáp:

- Lúc Ngọ triều khi nãy, Lý đại học sĩ hạch tội Thọ Ninh Hầu, nói ông ta lừa gạt, chiếm lấy tư điền, ngoài bốn ngàn mẫu (nguyên văn: công khoảnh, bằng một hecta. NB) ruộng tốt do hoàng gia ban tặng gần đây, còn bá chiếm gần một ngàn tám trăm khoảnh (mỗi khoảnh #6,667 hecta. NB); tranh giành lợi ích với dân lại càng khỏi nói, vừa dung túng gia nhân mua bán muối ở tám mươi vạn dặm ven bờ Lưỡng Hoài, lại vừa bức chiếm nhà dân, cưỡng bức kỹ nữ thanh lâu làm thiếp. Kết quả là cãi nhau to với Thọ Ninh Hầu ngay giữa triều, phụ hoàng nhất thời giận dữ giam cả hai người vào đại lao. Việc này... chà...!

- A?!

Chu Hậu Chiếu tròn mắt, sao lại tới nông nỗi này? Y ngây người một lát, đảo mắt hỏi:

- Hai người... Hai người đều bị giam à! Dường như trước kia cũng có người hạch tội Thọ Ninh Hầu, phụ hoàng đâu có tức giận như thế, lần này làm sao vậy?

Công chúa Vĩnh Thuần cười khì, rồi nhảy lên níu vào cánh tay hắn nói:

- Lý đại học sĩ khi chỉ trích Thọ Ninh Hầu là ngoại thích chuyên quyền nhất thời lỡ lời, nói đến họ Trương của mẫu hậu – một người vinh cả họ vinh, Thọ Ninh Hầu thừa cơ chỉ trích lão là hạ thần mà dám gọi hoàng hậu là “Trương thị”, là đại bất kính, tội đáng xử trảm.

Lý đại học sĩ nổi giận đùng đùng, đoạt lấy cây ngọa qua trùy của Kim Qua võ sĩ trong cung đuổi đánh Thọ Ninh Hầu. Lão là một lão già gần sáu mươi, làm sao đánh nổi Thọ Ninh Hầu, trái lại còn bị Thọ Ninh Hầu đoạt kim qua đạp cho hai đạp. Phụ hoàng giận dữ, bảo bọn họ thất lễ trước mặt quân thượng nên tống cả hai vào ngục.

Chu Hậu Chiếu nghe vậy muốn bật cười, y nhếch miệng nói:

- Sao lại như thế? Ha ha, khục khục, việc này...

Y vừa nói, khóe mắt vừa hơi liếc về phía bình phong, nhưng bên ngoài có hai công chúa ngồi đó, Dương Lăng nào dám lên tiếng.

Công chúa Vĩnh Phúc lườm tiểu muội đang hả hê, rồi lo lắng:

- Hoàng huynh! Thân thể phụ hoàng không được khỏe, bây giờ Lý Đông Dương bị hạ ngục, cả đám Tạ Thiên, Lưu Kiện, Lưu Đại Hạ dẫn theo bá quan văn võ cả triều quỳ gối trước đại điện xin tha. Phụ hoàng giận dữ lánh vào hậu cung, nhưng mẫu hậu nghe nói Thọ Ninh Hầu bị bắt, lại khóc lóc không ngừng với phụ hoàng, muội cùng hoàng muội thấy tình thế không ổn, mới đến gặp huynh...

Mặc dù nghịch ngợm, nhưng Chu Hậu Chiếu lại rất kính trọng cha, nghe thế y lập tức đứng dậy nói:

- Ta nói mà, phụ hoàng không cho bất kỳ phụ nữ nào tự ý đến chỗ dạy học ở Đông Cung, chả trách các muội hôm nay lại đến đây. Ta sẽ đến hậu cung, các muội...

Y mới nói tới đây, từ xa xa đã có người hô to:

- Bệ hạ giá lâm đông cung, Thái tử mau đón!

Đây là thái giám chuyên môn phụ trách việc xướng lễ trong cung, giọng nói thanh cao vang xa. Công chúa Vĩnh Phúc nghe thế đứng bật dậy, hoảng hốt:

- Nguy rồi, phụ hoàng đang nổi nóng, nếu thấy chúng ta không tuân ý chỉ, e rằng càng tức giận hơn, việc này...

Vĩnh Thuần công chúa kéo hoàng tỷ, nói:

- Nhanh, lánh đi trước đã! Không biết chừng phụ hoàng tới kiểm tra hoàng huynh học hành, đợi phụ hoàng đi rồi chúng ta lại ra.

Nói rồi tiểu công chúa Vĩnh Thuần kéo hoàng tỷ trốn vào sau bình phong. Chu Hậu Chiếu chưa kịp cản thì hai người đã ẩn vào sau bình phong rồi. Một lát sau, không thấy phía sau bình phong vọng ra tiếng kêu kinh ngạc nào nên Chu Hậu Chiếu cũng cảm thấy hơi bồn chồn. Cửa cung mở ra, hoàng đế Hoằng Trị đã đến nơi, Chu Hậu Chiếu thấy vậy vội vàng khom người thưa:

- Nhi thần tham kiến phụ hoàng!

- Đứng lên đi!

Hoằng Trị phất tay áo, ra hiệu cho Miêu Quỳ. Miêu Quỳ dẫn người rón ra rón rén lui ra ngoài, nhè nhẹ đóng cửa cung lại.

Chu Hậu Chiếu đứng dậy, lẳng lặng nhìn sắc mặt phụ hoàng. Y thấy thần sắc phụ hoàng bình thản, trong mắt tựa hồ còn có nét cười, không giống dáng vẻ nổi giận đùng đùng, lúc này mới yên lòng, đồng thời lại hơi ngạc nhiên.

Cửa điện vừa đóng, Hoằng Trị cũng không còn làm ra vẻ hoàng đế nữa, mà tự nhiên ngồi cạnh án thư, vỗ vỗ sạp gấm bảo:

- Hoàng nhi, ngồi đi!

Chu Hậu Chiếu ngồi xuống cạnh phụ hoàng, y không tiện nhắc tới việc vừa mới phát sinh ở hậu cung, đành phải hỏi:

- Ngọ triều vừa xong, sao phụ hoàng không nghỉ ngơi một chút. Xem người kìa, lại đổ mồ hôi rồi!

Hoằng Trị hiền lành nhìn y, mỉm cười nói:

- Mẫu hậu con đang cằn nhằn phụ hoàng, phụ hoàng tới chỗ con trốn, ha ha! Hai ngày nay mấy đại học sĩ đều bận rộn cho kỳ thi Hội, việc học của con có bị ảnh hưởng không?

Chu Hậu Chiếu làm vẻ kỳ lạ, ngạc nhiên hỏi:

- Mẫu hậu cằn nhằn cha ư? Tại sao lại thế chứ?

Hoằng Trị buồn cười liếc nhìn y, rồi đột nhiên nghiêm mặt hỏi:

- Hoàng nhi, con không biết thật sao?

Chu Hậu Chiếu rúng động trong lòng, nhìn thấy ánh mắt như rọi vào tận tim gan của phụ hoàng, trên trán bất giác tuôn đầy mồ hôi hột.

******************************

Dương Lăng phía sau bình phong nghe hoàng tử, công chúa thảo luận quốc sự như chuyện trong nhà. Thì ra nhà của đế vương, hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ cũng giống như những đôi vợ chồng nhà bình thường. Y đang nghe rất thú vị, chợt nghe bên ngoài có tiếng báo Hoàng Thượng giá đáo. Ngay sau đó một làn hương phất tới, hai tiểu giai nhân mặc cung trang vội vàng vọt vào sau tấm bình phong, Dương Lăng không khỏi kinh ngạc đến ngây người.

Vội vàng nhìn thoáng qua, y thấy một thiếu nữ mặc áo quần màu vàng, dung mạo xinh đẹp tuyệt trần, thần khí cao quí, vào khoảng mười ba mười bốn tuổi, trên đầu búi một búi tóc cao vút đen huyền, dưới mái tóc mây là một gương mặt nhỏ nhắn trắng như tuyết rất kiều mỵ, mi như trăng non, mắt như thu thủy. Vừa thấy y, nàng lập tức cả kinh đến nỗi đôi môi anh đào há thành hình chữ O, suýt nữa kêu lên thành tiếng.

Tiểu cô nương kia vẫn là một cô bé, mặc một bộ quần áo trong cung màu đỏ tía, mặt trái xoan nhỏ xinh, tuổi tuy nhỏ nhưng đã có bộ dáng rất động lòng người, vóc người nhỏ nhắn xinh xắn như một cánh hoa nhỏ. Nàng vừa nhìn thấy Dương Lăng cũng không khỏi tròn mắt nhìn, nhưng thấy tỷ tỷ sắp kêu lên, vội vàng vươn tay bịt lấy đôi môi anh đào của tỷ, nhè nhẹ lắc đầu.

Công chúa Vĩnh Phúc bị muội muội bịt miệng, chỉ lộ ra đôi mắt to lúng liếng đen nhánh, nàng chớp chớp mắt, ra hiệu cho muội muội. Vĩnh Thuần lúc này mới buông tay ra, hai người quay đầu, hai đôi mắt đen lay láy trừng lên nhìn Dương Lăng. Dương Lăng mặt mày rầu rĩ, trước tiên cúi chào làm lễ, rồi chỉ chỉ ra phía ngoài, rồi chỉ vào mình, cuối cùng lại chắp tay, mặt mày rầu rĩ như đang diễn kịch câm.

Công chúa Vĩnh Thuần không khỏi phì cười, vội vàng bịt miệng, đôi mắt to cười cười liếc nhìn y. Nhìn thấy bộ dáng này của y, trong mắt công chúa Vĩnh Phúc cũng không khỏi lộ vẻ buồn cười. Lúc này Hoằng Trị hoàng đế đã vào phòng, hai người sợ bị phụ hoàng phát hiện, vội vàng lùi vào trong, như vậy càng gần Dương Lăng hơn.

Dương Lăng và Vĩnh Thuần đều không để ý gì, nhưng công chúa Vĩnh Phúc đã là cô nương mười ba tuổi rồi, lần đầu đứng sát một nam nhân đến thế nên trong lòng không khỏi hơi bồn chồn. Lúc này lễ giáo rất được xem trọng, là một thời kỳ đáng xấu hổ. Đối với việc nam nữ, một số nhà nho lớn không còn yêu cầu hà khắc như đời Tống trước đây nữa, nhưng một số khác lại muốn phục cổ, yêu cầu đối với lễ giáo càng lúc càng hà khắc. Ví như Hải Thụy, chỉ vì cô con gái năm tuổi nhận một cái bánh từ tay một người con trai khác, hắn cũng cho là đã vượt qua vòng lễ giáo, buộc con gái phải nhịn đói tới chết để bảo toàn danh tiết, thật đã tới mức tẩu hỏa nhập ma rồi.

Công chúa Vĩnh Phúc là con cháu hoàng gia, tuy tính tình thoải mái phóng khoáng, nhưng lánh mình cùng một chỗ với một thanh niên trai tráng như vậy, nàng cũng không lấy làm tự nhiên cho lắm, huống hồ vì ở trong cung, số đàn ông con trai mà nàng gặp cũng ít vô cùng. Lúc này nhìn trộm lên, nhìn thấy người này ăn mặc giống như thị độc bên cạnh Thái tử, trông cao lớn khôi ngô, mũi thẳng miệng vuông, thập phần anh tuấn, khuôn mặt yêu kiều của nàng bất giác ửng hồng, rồi mơ mơ hồ hồ không nghe rõ bên ngoài đang nói gì.

Tuy bên cạnh Dương Lăng có hai tiểu mỹ nữ, nhưng với nhãn quang từng trãi qua mấy kiếp của mình, y không hề bị điên đảo thần hồn. Hơn nữa đến cả Hoàng đế và Thái tử cũng đã gặp qua, thân phận các nàng vị tất đã có thể làm chấn động được y. Y ra hiệu đắc tội với hai công chúa, thấy các nàng cũng không dám lên tiếng, lúc này y mới yên lòng, vểnh tai nghe động tĩnh bên ngoài. Chỉ nghe bên ngoài thấp giọng nói chuyện một lát, sau đó Hoằng Trị đế ha ha cười lớn, còn Hoàng đế và Thái tử nói gì thì y không nghe được.

Thì ra Thái tử đang thẳng thắn nhận với Hoằng Trị rằng chính mình thu nhận chứng cớ, gợi ý cho Lý Đông Dương hạch tội quốc cữu với hoàng đế. Y vẫn còn có chút nghĩa khí, không khai Dương Lăng ra. Hoằng Trị nghe xong cười ha ha, rồi mỉm cười nói:

- Hoàng nhi! Lý Đông Dương là đại học sĩ đương triều, là người rất nhạy bén, mấy chiêu nho nhỏ của con há có thể giấu được hắn? Có một số việc dù cả hai bên đều biết thực hư như thế nào, nhưng làm như thế cũng không sai.

Hoàng đế ha ha cười nói tiếp:

- Có một số việc mình không tiện mở miệng thì cứ để thần tử ra mặt nói rõ. Hoàng nhi này, quý thích vương tộc trong triều xâm phạm lợi ích dân chúng ngày càng nghiêm trọng, đâu chỉ có một nhà Thọ Ninh Hầu. Phụ hoàng và vài vị đại học sĩ đang chuẩn bị trừ bỏ một số chính sách có hại, tiến hành hạn chế một số hành vi như việc nhận đất đai do cống hiến, xâm phạm lợi ích nhân dân của hoàng thân quốc thích.

Hoằng Trị nhìn Thái tử vẻ khen ngợi, nói:

- Chỉ là trước đây phụ hoàng vẫn chưa tìm được thời điểm thích hợp để có thể ban hành chính sách mới, tránh việc bị cả hoàng tộc và công thần huân khanh phản đối; phụ hoàng cũng đang phiền lòng vì việc này. Ha ha, nếu không phải có phụ hoàng... Lý Đông Dương tuy là trung thần, cũng vị tất dám đoạt kim qua, thi triển quyền cước trên kim điện. Trẫm chỉ là mượn tay lão cho Thọ Ninh Hầu một bài học thôi.

Hoằng Trị nhíu mày than:

- Ta đối với hoàng thích luôn luôn hậu đãi rộng lượng. Nhưng đúng là gần đây hai anh em Thọ Ninh Hầu vô cùng hỗn xược, giam hắn vài ngày, mài bớt nhuệ khí của hắn cũng hay.

Chu Hậu Chiếu trố mắt:

- Thì ra phụ hoàng... Phụ hoàng đã sớm có ý trừng phạt hắn. Hài nhi nói mà, Lý Đông Dương sao lại trở nên to gan như vậy, thì ra là do ý của phụ hoàng. Chỉ là... chỉ là sao phụ hoàng lại bắt giam luôn cả Lý đại học sĩ thế?

Dương Lăng ở phía sau nghe thế cũng thầm giật mình. Bản thân mình quả thật đã coi thường Lý Đông Dương, càng coi thường vị hoàng đế hơi mập béo ụt ịt này. Bây giờ xem ra, còn không biết là ai bị ai điều khiển.

Hoằng Trị vỗ tay con, mỉm cười nói:

- Hài tử ngốc, nếu không như thế, mẫu hậu của con lại càng không chịu bỏ qua hay sao? Việc quốc gia dễ giải quyết, còn như mẫu hậu con cứ không tuân không chịu, trẫm cũng có chút đau đầu đây!

Hoằng Trì nói rồi lại cười khẽ:

- Nhưng hoàng nhi trước nay luôn ham chơi, chưa từng quan tâm tới quốc sự. Bọn Cốc Đại Dụng lại chỉ biết làm cho con vui lòng, gọi vài người diễn xiếc vào gây ồn trong đông cung, không phải là trẫm không biết. Lần này, con đột nhiên quan tâm tới khó khăn của nhân dân, lao tâm khổ tứ bày trò nhờ người can gián, đó có phải là chủ ý của Dương thị độc kia không?

Công chúa Vĩnh Phúc cũng đang dán tai vào bình phong nghe lén phụ hoàng và Thái tử nói chuyện, nghe đến đây trong lòng khẽ động, nghiêng đầu nhìn Dương Lăng. Nào ngờ nàng vừa quay đầu thì trâm ngọc vạch vào tấm bình phong phát ra tiếng “két”. Trong phòng chỉ có cha con Hoằng Trị nói chuyện, vô cùng yên tĩnh, vừa nghe thanh âm đó Hoằng Trị lập tức lạnh giọng quát:

- Ai? Dám nghe lén trẫm và Thái tử nói chuyện! Ra đây cho trẫm!

Dương Lăng nhìn hai công chúa. Chỉ thấy khuôn mặt nhỏ nhắn của công chúa Vĩnh Phúc đỏ rực lên nhìn hắn. Đôi mắt to tròn của công chúa Vĩnh Thuần đảo một vòng, thò ra một ngón tay nhỏ nhắn, chỉ chỉ vào Dương Lăng, lại chỉ chỉ ra bên ngoài. Dương Lăng rầu rĩ chỉ chỉ vào mũi mình, tiểu công chúa gật đầu vô cùng tao nhã, cười vô cùng đắc ý.

Dương Lăng chỉ còn biết nhìn công chúa Vĩnh Phúc, y thấy mặt nàng tỏ vẻ có lỗi, nhưng trong mắt cũng đầy vẻ cầu khẩn. Y đành cười khổ, thầm nghĩ: “Hai vị tiểu công chúa này cũng thiệt là… nghe lén cha nói chuyện đâu phải là việc lớn chứ! Nhiều lắm cũng chỉ bị trách mắng vài câu là cùng, hà tất bắt ta phải gánh tội thay?”

Hắn không biết Hoằng Trị đối với Thái tử vô cùng rộng lượng, nhưng quản thúc hai công chúa lại rất nghiêm khắc. Trong mắt một đứa trẻ sợ cha, bị cha la rầy đương nhiên là sự trừng phạt rất nặng. Dương Lăng bất đắc dĩ, đành phải lấy hết can đảm đi ra ngoài. Y không dám ngẩng đầu, bước vội lên vài bước, quỳ sụp xuống đất bẩm:

- Thần Dương Lăng ra mắt Hoàng Thượng! Hoàng Thượng giá đáo, vi thần tránh không kịp, đành phải vội vàng lánh vào sau bình phong, không nghĩ kinh động tới thánh giá, mong Hoàng Thượng thứ tội! CHƯƠNG 71: DỌA KHỈ, LUYỆN ƯNG

------------------------

Hoàng đế Hoằng Trị vừa kinh vừa giận, đứng bật dậy, chỉa ngón tay vào Dương Lăng, tức giận đến nổi một hồi lâu mà vẫn không nói thành lời.

Kỳ thật ông rất tán thưởng Dương Lăng. Hoằng Trị đã từng bàn với Lưu Đại Hạ về những kiến giải quân sự của Dương Lăng mấy ngày trước đây, Lưu Đại Hạ tuy cảm thấy trong đó còn có rất nhiều chi tiết cần phải cân nhắc thương thảo, nhưng ông ta cũng khẳng định những ý kiến của Dương Lăng là cao kiến, đích xác rất độc đáo, nên cũng rất khen ngợi y.

Dương Lăng là thị độc của Thái tử nhưng không giảng về tứ thư ngũ kinh, chỉ giảng về non nước núi sông, phong tục tập quán, thậm chí cả những chuyện ở các nước xa xôi khác. Đương nhiên được tai mắt thông báo, Hoằng Trị cũng đã sớm biết những việc này rồi. Nhưng bản thân Hoằng Trị lại thích âm nhạc và hội họa, đám thần tử cũng vì chuyện này mà thường nhiều lần khuyên can, lo Hoàng đế sẽ chỉ ham mê những thú vui này mà bỏ bê việc nước. Mỗi lần nghe vậy Hoằng Trị cũng chỉ cười trừ, cho rằng đó là kiến giải của đám cùng nho, nên ông cũng không quan tâm đến việc ép Thái tử phải nghe nhiều, học lắm.

Theo Hoằng Trị suy đoán, Dương Lăng là đệ nhất tú tài Tuyên Phủ nên kiến thức tất nhiên là không kém, nhưng bây giờ y không giảng những lời của thánh nhân, lại bắt đầu giảng dạy từ bàng môn tà đạo, chắc là y cũng biết tính khí của Thái tử, cho nên mới bỏ phương pháp ”đọc vạn quyển sách” mà dùng phương pháp ”đi vạn dặm đường” để dạy Thái tử. Như vậy Dương Lăng đã khổ tâm suy tính để chọn phương án giảng dạy tốt nhất, nên ông rất tán thưởng y.

Nhưng hôm nay ông đang dạy cho Thái tử đạo làm vua, có một vài chiêu thức không muốn cho người ngoài biết lại bị Dương Lăng trốn ở gần đó nghe được. Cho dù Hoằng Trị luôn luôn cư xử rộng lượng, cũng bất giác thẹn quá hóa giận.

Ông nhìn Dương Lăng lạnh lẽo, cố nén giận hỏi:

- Dương thị độc, ngươi chỉ kinh động thánh giá sao?

Dương Lăng lắp bắp:

- Hoàng Thượng! Thần... thần không rõ ý của bệ hạ.

Hoằng Trị vỗ án thư, gằn từng tiếng:

- Dương Lăng! Hôm qua Thái tử đã xuất cung đi những đâu? Bản tấu hạch tội Trương Hạc Linh của Lý Đông Dương hôm nay có phải là chủ ý của ngươi?

Dương Lăng ớn lạnh trong lòng: “Việc này mình làm bí mật như vậy, Hoàng Thượng sao biết được? Chẳng lẽ trong Bát Hổ có tai mắt của Hoàng Thượng? Không, không phải vậy! Nếu do Bát Hổ rò rỉ tin tức, Hoàng Thượng sớm đã ngăn cản Thái tử tự ý xuất cung rồi, không đợi mọi việc đã rồi mới hay biết. Vậy là ai đã tiết lộ tin tức chứ? Đông Xưởng? Cẩm Y Vệ? Bọn họ chắc không đến nỗi tự vả vào mặt mình, vậy là ai chứ?”

Dương Lăng nghĩ một lát rồi rùng mình. Y đột nhiên nhớ tới Tây Xưởng nghe nói đã bí mật được thành lập, chẳng lẽ là do mật thám có mặt ở khắp nơi của Tây xưởng dò biết được? Việc thành lập lại Tây Xưởng vô cùng bí mật, bây giờ vẫn chưa chính thức công khai, Đốc Chủ của Tây Xưởng là ai cũng chưa rõ, phần lớn thành viên của Tây Xưởng cũng có thân phận bí hiểm. Là người của Tây Xưởng sao?

Y quỳ ở dưới mà nghĩ ngợi lung tung, Hoằng Trị tức giận quát:

- Ngươi thật to gan lớn mật, dám xúi giục Thái tử xuất cung, ghé chốn trăng hoa, đánh nhau với người của hầu phủ. Điều này thôi thì bỏ qua cũng được, nhưng thân là thần tử, hạch tội người khác mà không dám quang minh chính đại bẩm thẳng cho quân thượng, lại âm thầm thi hành quỷ kế sai khiến đại thần, lợi dụng quân thượng, thực là đáng chém!

Hoàng Thượng càng nói càng giận, vỗ mạnh một cái lên án thư. Dương Lăng bất giác lạnh cả người. Kẻ làm vua kỵ nhất là bầy tôi ép chủ thượng, hận nhất là dám bày mưu tính kế trước mặt vua. Tuy Hoằng Trị cũng hiểu mình thấy quyền thần xâm hại lợi ích của dân lành nên muốn giúp đỡ dân chúng, nhưng ông lại cho rằng mình xem thường Thái tử còn ít tuổi, sử dụng mưu kế để lợi dụng Thái tử, rõ ràng mình đã phạm vào điều kiêng kị của thiên tử.

Có câu “bạn quân như bạn hổ“ (làm bạn với vua như làm bạn với hổ). Nếu như Hoằng Trị nổi giận, xử trảm một tên thị độc nho nhỏ như mình thì có đáng gì? Dương Lăng càng nghĩ càng sợ, chỉ biết quì rạp dưới đất, chẳng biết phải giải thích như thế nào. Chu Hậu Chiếu có ý muốn xin xỏ cho y, nhưng thấy phụ hoàng giận dữ hầm hầm, nhất thời cũng không dám tùy tiện mở miệng.

Ngay lúc này, có giọng nói của Miêu Quỳ từ ngoài cửa vang lên:

- Kim phu nhân! Hoàng Thượng đang kiểm tra việc học hành của Thái tử, phu nhân hay đến hậu cung đợi đã. Đến khi Hoàng Thượng hồi cung, nhất định sẽ gặp mặt bà.

Sau đó lại nghe một giọng nữ cao ngạo vang lên:

- Cút ngay! Ta muốn gặp Hoàng Thượng bây giờ. Hoàng Thượng, thần thiếp oan uổng quá! Hoàng Thượng, nhờ ngài làm chủ cho thần thiếp!

Hoằng Trị cả giận quát:

- Chuyện gì?

Miêu Quỳ mở cửa điện, hết sức lo sợ tâu:

- Hoàng Thượng! Kim phu nhân…

Hắn còn chưa dứt lời đã bị đẩy ra, một quý phụ khoảng năm mươi tuổi xông vào. Vừa thấy Hoằng Trị, bà ta lập tức quì sụp xuống, khóc sướt mướt van vỉ:

- Hoàng Thượng! Thần thiếp oan uổng quá! Hạc Linh luôn luôn an phận thủ thường, không dám làm xằng làm bậy, sao lại có thể cưỡng chiếm nhà dân, tùy tiện mua bán muối của triều đình, cưỡng bức con gái thanh lâu chứ? Đều là do Lý Đông Dương ghen ghét Hoàng Thượng sủng ái, tin tưởng Hạc Linh nên mới vu khống. Xin Hoàng Thượng làm chủ cho thần thiếp, hu hu... Đứa nhỏ đó từ bé tới lớn chưa bao giờ ở lao ngục cả, Hoàng Thượng...

Hoằng Trị khẽ nhíu mày, giọng hòa nhã:

- Kim phu nhân, mời đứng lên! Thọ Ninh Hầu thất lễ trên kim điện, trẫm chỉ trừng phạt hắn một chút. Lúc nãy trẫm đã nói với Hoàng hậu rồi, mấy ngày nữa sẽ tha hắn ra, chớ có kinh hoảng!

Dương Lăng nhìn người đàn bà quì bên cạnh mình, nghĩ thầm: “Đây là mẹ vợ của đương kim hoàng thượng sao? Thật may, chỉ mong bị bà này chen ngang, Hoàng Thượng quên béng việc trừng trị ta mới là hay.”

Kim phu nhân vẫn không thôi, tiếp tục khóc lóc:

- Hoàng Thượng! Lý Đông Dương đuổi đánh Hạc Linh trên kim điện, Hạc Linh không nhịn được, mới đoạt chùy đánh người. Tính ra không thể trách được Hạc Linh, đứa trẻ đấy nào có lỗi gì? Hoàng Thượng muốn trừng trị, thì nên nghiêm trị Lý Đông Dương mới đúng, xin ngài tha cho Hạc Linh.

Hoằng Trị tái xanh mặt mày, thân thể mập mạp bị kích động đến thở dốc. Chu Hậu Chiếu thấy vậy vội đỡ lấy cha, lo lắng can:

- Phụ hoàng! Người thư dãn một chút, đừng kích động quá.

Thấy Kim phu nhân vẫn khóc lóc không ngừng, lòng Hoằng Trị càng thêm phẫn nộ. Đưa mắt qua thấy Dương Lăng quì ở đó, trước cửa Cốc Đại Dụng cũng thò đầu vào, ông không khỏi căm giận chỉa tay vào Cốc Đại Dụng, mắng to:

- Đồ khốn, lăn vào đây cho ta!

Kim phu nhân đang lải nhải khóc lóc, bị tiếng quát lớn nghiêm nghị của ông làm kinh sợ tới mức sững sờ, nín bặt. Cốc Đại Dụng vội bò vào trong, quì trên mặt đất. Hoằng Trị mặt nặng như chì, lạnh lùng buộc tội:

- Các ngươi thật to gan, dám xúi giục Thái tử xuất cung, để gia nhân của Thọ Ninh Hầu phủ đánh Thái tử bị thương, Trẫm đã có ý muốn lăng trì các ngươi. Nếu Thái tử có mệnh hệ gì, trẫm sẽ diệt chín họ các ngươi!.

Cốc Đại Dụng dập đầu như giã gạo, luôn mồm van xin:

- Hoàng Thượng tha mạng! Hoàng Thượng tha mạng! Thái tử xuất cung là để khảo sát dân tình, nào ngờ có tên gia nhân to gan như vậy... Lão nô đáng chết, lão nô vì bảo vệ Thái tử, liều chết xông lên cũng bị gia nhân của hầu phủ đánh mà, Hoàng Thượng!

Hắn ngẩng mặt lên cho Hoàng Thượng thấy vết thương tím bầm trên mặt. Kim phu nhân vừa nghe nói Thái tử bị gia đinh trong phủ con trai mình đánh, cũng sợ tới mức không dám lên tiếng, đờ người quỳ rạp một bên, sững sờ nhìn.

Thấy Kim phu nhân không còn ồn ào, Hoằng Trị thầm thở phào. Ông trừng mắt nhìn Cốc Đại Dụng bảo:

- Hừ! Nếu không do các ngươi xúi Thái tử cải trang rời cung, sao lại xảy ra chuyện như vậy? Nếu trẫm không trừng phạt các ngươi, không biết chừng sau này các người còn gây ra lắm chuyện lớn gì khác. Miêu Quỳ, tổng cộng có mấy người xúi giục Thái tử xuất cung?

Miêu Quỳ vội vàng bước lên một bước, khom người tâu:

- Khải bẩm Hoàng Thượng! Có thị độc Dương Lăng, nội giám Lưu Cẩn, Trương Vĩnh, Cốc Đại Dụng, Mã Vĩnh Thành, Ngụy Bân, La Tường, Cao Phượng, Khâu Tụ, tất cả chín người hôm qua cùng Thái tử rời cung, đến tối mới về!

Hoằng Trị quát:

- Đem chín tên này ra Ngọ môn...

Dương Lăng nghe thế giật mình, lại nghe Hoằng Trị nghỉ lấy hơi, phán tiếp:

- Đánh mỗi người ba mươi gậy để cảnh cáo!

Miêu Quỳ vội đáp:

- Tuân chỉ!

Hắn vẫy tay, vài tên tiểu thái giám đi vào lôi Dương Lăng, Cốc Đại Dụng ra ngoài. Cốc Đại Dụng gào khóc như mẹ chết:

- Hoàng Thượng tha mạng! Hoàng Thượng tha mạng! Nô tài không dám nữa, xin Hoàng Thượng tha mạng! Thái tử cứu nô tài với!

Dương Lăng hơi hoang mang. Đánh thì đánh chứ sao, cũng chỉ là ba mươi gậy chứ mấy? Cùng lắm là nghỉ ngơi hai ngày. Hoàng Thượng không chém đầu y, y đã thở phào rồi. Nhưng Cốc Đại Dụng từng làm trong Đông Xưởng nên biết rõ công phu dùng gậy của quan coi ngục Cẩm Y Vệ không giống như công phu dùng gậy của công sai ở nha môn. Đám người đó đều kinh qua huấn luyện nghiêm khắc, chỉ khi nào luyện đến độ đặt trên hòn đá một tờ giấy mỏng, đánh một gậy xuống mà gạch nát bấy nhưng giấy không rách mới có quyền thi hành án.

Do đó họ thi hành hình phạt đều dựa xem ý của Hoàng Thượng. Nếu như Hoàng Thượng không muốn người ta chết, vài chục gậy sẽ đánh đến mức máu thịt tung tóe, xem ra thì thê thảm vô cùng, nhưng kỳ thật chỉ cần bôi chút kim sang, nghỉ ngơi vài ngày là không việc gì. Còn nếu Hoàng Thượng không muốn cho kẻ thụ hình được sống, lúc hạ trượng thoạt nhìn rất nhẹ, da cũng không trầy, nhưng đánh rồi thì đau tới tim phổi, chỉ ba mươi trượng mà những mạch máu dưới da đã đứt từng khúc, bắp thịt nát bấy khó lành, không lâu sau chắc chắn phải chết, tuyệt nhiên không thuốc nào cứu được.

Cốc Đại Dụng không biết tâm ý Hoàng Thượng, hắn chỉ nhìn thấy mặt Hoằng Trị tái xanh, cho rằng lần này hẳn phải chết chắc nên khóc lóc van xin rất thảm thiết.

Chu Hậu Chiếu hơi bứt rứt, y vẫn cho rằng việc xuất cung hay không là chỉ theo ý của mình, đám Dương Lăng, Cốc Đại Dụng chỉ nghe lệnh làm theo thôi. Bây giờ mình thì vô sự, bọn họ lại bị đánh tơi bời, trong lòng y cũng hơi day dứt. Y ấp úng:

- Phụ hoàng, bọn họ...

Hoằng Trị phất ống tay áo, cắt ngang:

- Hoàng nhi là Thái tử của một nước, bọn chúng dám dắt hoàng nhi tự ý rời cung khiến cho hoàng nhi bị thương. Việc đại nghịch bất đạo như vậy mà không giết họ đã là thi ân rồi, hoàng nhi không cần nhiều lời!

Kim phu nhân nghe xong trong lòng run sợ, cũng không dám nhắc đến yêu cầu lập tức phóng thích Trương Hạc Linh, nghiêm trị Lý Đông Dương nữa. Nếu việc tự tiện đưa Thái tử rời cung đã bị xem là đại nghịch bất đạo, vậy gia đinh trong phủ con trai mình đánh Thái tử thì sẽ là tội gì? Việc này chưa từng nghe gia nhân nói tới, bọn chúng đánh Thái tử khi nào vậy?

Kim Phu nhân đang nghĩ ngợi miên man, Hoằng Trị lại nói:

- Kim phu nhân, xin đứng lên! Đừng quì nữa, ý trẫm đã quyết. Người đâu, truyền chỉ: Lý Đông Dương không giữ trật tự ở kim điện, phạt ba tháng lương bổng để khiển trách, tha khỏi tù; Thọ Ninh Hầu xâm phạm lợi ích của dân, chứng cớ vô cùng xác thực, giam giữ ba ngày, phạt nửa năm bổng lộc, sau này phải ước thúc gia nhân, trả lại tài sản phạm pháp. Khâm thử!

- Về chuyện Thái tử bị đánh...

Ông trừng trừng nhìn Kim phu nhân. Lúc này khí thế kiêu ngạo của Kim phu nhân đã bị dập tắt hoàn toàn, không dám cậy vào việc con gái mình được sủng ái mà lảm nhảm nữa. Bà thấp thỏm không yên nhìn Hoàng Thượng, chỉ nghe Hoằng Trị nói chầm chậm:

- Thọ Ninh Hầu trước đó cũng không biết chuyện, nếu không cũng sẽ không xẩy ra việc như vậy. Việc này cũng bỏ qua đi. Những việc xấu hổ của hoàng gia cũng không nên nói ra ngoài...

Kim phu nhân vội dạ dạ vâng vâng:

- Dạ, đúng! Hoàng Thượng thánh minh, Hoàng Thượng khai ân!

Hoằng Trị hừ khẽ, bảo:

- Nếu không có chuyện gì khác, Kim phu nhân có thể đến hậu cung gặp Hoàng hậu an ủi Hoàng hậu một chút. Trẫm phải kiểm tra việc học hành của Thái tử.

Kim phu nhân vội đáp:

- Dạ! Thần thiếp xin cáo lui, thần thiếp không quấy rầy Hoàng Thượng nữa.

Vị phu nhân này vội vàng lau những vệt nước mắt trên mặt, rầu rĩ lui ra ngoài. Bà thấy Hoằng Trị vốn tính tình luôn rất tốt mà lúc này lại nổi cơn lôi đình, trong lòng cũng hơi sợ hãi. Vốn định lập tức rời cung, nhưng bà lại sợ Hoàng hậu vẫn tiếp tục mè nheo khiến cho Hoàng Thượng tức giận nên vội vàng đi về phía hậu cung.

Chu Hậu Chiếu thấy mọi người đã lui ra, không kìm được kéo cánh tay Hoằng Trị, khẩn cầu:

- Phụ hoàng! Việc xuất cung hôm qua là chủ ý của nhi thần. Dương Lăng và Đại Dụng đều chỉ là người của hài nhi, phụ hoàng đánh tàn phế bọn họ, sau này ai còn dám theo hài nhi nữa?

Hoằng Trị nghe vậy cười hà hà, từ từ ngồi xuống, trừng mắt nhìn con trai hỏi:

- Cũng biết bảo vệ người rồi à? Hừ! Trẫm còn không biết con quậy phá cỡ nào sao? Nếu không có đám người này xúi giục, trẫm chắc con cũng không nghĩ ra được nhiều trò quậy phá như vậy. Đám Cốc Đại Dụng, Lưu Cẩn chỉ biết lấy lòng con, chỉ biết bày vài trò nhí nhố để chơi đùa, dạy dỗ bọn chúng một chút cũng đáng.

Chu Hậu Chiếu thấy giọng nói của phụ hoàng bình thản, biết mới rồi ông chỉ diễn kịch cho Kim phu nhân xem, nên không khỏi cười hì hì yên tâm. Y cũng ngồi xuống bên cạnh, bóp vai cho vua cha, hỏi:

- Vậy... Dương thị độc thì sao? Hắn ta là một thư sinh chân yếu tay mềm, cái mông trắng nõn không chịu được đòn đâu. Phụ hoàng đánh hắn tàn phế thì phải làm sao bây giờ?

Công chúa Vĩnh Phúc đứng sau bình phong nghe thấy hoàng huynh nói cái gì mà cái mông trắng nõn, không khỏi mặt ngọc đỏ bừng, nhè nhẹ thở “phì” một tiếng. Công chúa Vĩnh Thuần ít tuổi không biết gì nên không khỏi nhìn nàng kỳ dị. Công chúa Vĩnh Phúc thấy hoàng muội nhìn mình, không khỏi vừa thẹn vừa giận, bực tức trừng mắt nhìn lại hoàng muội. Công chúa Vĩnh Thuần lè lưỡi, không biết tại sao tỷ tỷ lại có dáng vẻ là lạ, hoàn toàn khác với mọi khi.

Dương Lăng nói đủ những chuyện trên trời dưới đất, quả có lực hấp dẫn Chu Hậu Chiếu không thua gì mớ ảo thuật, xiếc thú của bọn Lưu Cẩn. Đó là thế giới mà y chưa từng tiếp xúc, cho dù nằm mơ y cũng không nghĩ tới ngoại trừ Đại Minh, trên đời còn có nhiều nơi đẹp đẽ đến thế. Mặc dù quen biết không lâu, nhưng y cũng rất có cảm tình với Dương Lăng, không muốn Dương Lăng bị thương, bởi vậy nhân cơ hội này cũng cầu xin cho Dương Lăng.

Hoằng Trị giảng giải:

- Dương Lăng hả... Người này cũng là một nhân tài giỏi cả văn lẫn võ. Con đừng xem thường hắn chỉ là một thư sinh. Người thật sự có tài làm đại tướng, không cần phải đích thần cầm đao ra chiến trường. Những kiến giải về việc binh của hắn, đến cả lão tướng như Lưu Đại Hạ cũng rất tán thưởng.

Ông cười lớn:

- Người này chỉ là thị độc nho nhỏ lại dám đối nghịch với vương hầu, thật ra là một bề tôi trung thành. Hơn nữa, hắn biết mình thấp cổ bé họng, biết dựa vào Lý Đông Dương và Đông Cung Thái Tử ngươi để tấu lên trên, nên hắn không phải chỉ là một tên nhóc lỗ mãng. Trẫm rất thích hắn.

Hiện giờ thượng thư sáu bộ trong triều đều đã già rồi, các vị đại học sĩ lại càng cao tuổi hơn. Phụ hoàng cảm thấy nếu người này được rèn luyện tốt, trong tương lai tất sẽ là cánh tay đắc lực của con.

Thấy Thái tử còn có vẻ không hiểu, Hoằng Trị không khỏi bất đắc dĩ cười nói:

- Con lấy làm lạ là tại sao trẫm muốn trừng trị hắn ư? Ha ha, người này còn ít tuổi lỗ mãng, còn quá trẻ nên quậy phá, làm việc bất kể hậu quả, nếu không trải qua một phen rèn luyện, tuổi trẻ tự đắc, khó tránh khỏi việc không coi ai ra gì. Lúc đó thay vì là một cột trụ của triều đình, hắn lại trở thành một quyền thần ngang ngược kiêu ngạo, con hiểu chưa?

Chu Hậu Chiếu “A” một tiếng, nửa hiểu nửa không nói:

- Thì ra... Phụ hoàng muốn rèn giũa hắn, cũng như... cũng như nhi thần sai người luyện ưng vậy, càng muốn dùng hắn, càng phải giày vò hắn. Ha ha ha, chỉ là... việc rèn luyện này lại trước tiên bắt đầu từ mông, nên nhi thần có chút ngạc nhiên.

Hoằng Trị nghe ví dụ của Thái tử rất lấy làm hài lòng, đến khi nghe câu sau của y lại không khỏi bật cười. Đứa con trai này vẫn còn chưa biết việc.

Do bản thân mình gây tiếng động khiến cho Dương Lăng đành phải ra ngoài chịu tội, trong lòng công chúa Vĩnh Phúc cũng rất áy náy. Nghe xong những lời giải thích của phụ hoàng, nàng mới thở phào một hơi. Công chúa Vĩnh Thuần giơ ngón cái với tỷ tỷ, nháy mắt. Hai chị em nhìn nhau mỉm cười. Chương bảy mươi hai Thập Gian Đình Trượng (Phạt gậy mười kẻ gian)

------------------------

Dương Lăng thường nghe trong tuồng hát có câu "lôi ra ngọ môn chém đầu", vừa rồi nghe xong câu nói hổn hển của Hoằng Trị thì sợ đến giật thót. Kỳ thật ngọ môn là cửa chính ở ngoài hoàng cung, cũng là nơi triều đình cử hành những lễ lớn trọng yếu. Triều đình mà xử trảm phạm nhân thì không chấp hình ngoài ngọ môn. Nhưng cũng không có nghĩa là nơi đó không thể giết người được. Vì đó cũng là nơi triều đình sử phạt đình trượng (*), dưới đình trượng trước đây và tương lai chẳng biết sẽ còn bao nhiêu người phải chết nữa. Hơn nữa những người đó đều bị đánh chết tươi, so với chém người giữa chợ thì còn thê thảm hơn nhiều.

(*): đình trượng là hình thức phạt đòn đối với quan lại trong triều.

Dương Lăng và Cốc Đại Dụng bị thái giám giao cho thị vệ trong cung trói lại đem ra ngoài ngọ môn. Ngoài ngọ môn sớm đã có một đám người đang đứng, viên thái giám nội quan giám hình (chấp pháp hình phạt) ngồi ngay ngắn trên ghế thủ vị. Phía sau hắn bên trái có ba mươi tiểu hoạn quan, bên phải có ba mươi Cẩm Y Vệ, phía trước là năm mươi tên ngục quan hành hình tay cầm gậy gỗ sơn son, nhìn tư thế cũng đủ cho người ta hoảng sợ, đến lúc này cả Dương Lăng cũng kinh hãi vạn phần.

Trông hình dạng viên quan thái giám giám hình ngồi xa xa, Cốc Đại Dụng không khỏi mặt mày tái nhợt, hắn nức nở nói:

- Không ổn rồi, là Ty Lễ Giám Phạm Đình Phạm công công giám hình, Dương đại nhân, chúng ta hôm nay e rằng khó mà toàn mạng.

Dương Lăng hỏi:

- Phạm Đình? Lão lợi hại lắm à?

Cốc Đại Dụng run run nói:

- Phạm công công là Ty Lễ Giám, thủ hạ đắc lực của Vương Nhạc Vương công công, nắm giữ Đông Xưởng. Lão trước nay là kẻ lòng dạ ác độc bậc nhất, chúng ta lần này toi rồi, ngươi hãy chờ xem, quy củ trong cung, phàm mũi giầy của công công giám hình thu lại vào phía trong thì dụng ý là đánh cho đến chết, ba mươi côn đủ để phạm nhân mất mạng rồi.

Dương Lăng mới nghe thì nhíu mày, vừa nghe đến xưởng công Đông Xưởng đốc hình, trong lòng đột nhiên có thêm vài phần hy vọng. Bản thân mình là người của Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ phái đến bên cạnh Thái tử, chỉ mong vị quý nhân xưởng công này không quên việc đó, còn nhớ mình là ai, vậy lúc đánh có lẽ sẽ hạ thủ lưu tình.

Hai người bị áp giải tới trước mặt Phạm Đình, chỉ thấy trên đất sớm đã có một người đang quì dài trên đất, trên người bị vải bố quấn rất chặt, chỉ lộ ra cái đầu và bả vai, muốn động cũng không động được. Nhìn thấy hai người vừa tới, người nọ cười khổ nói:

- Dương đại nhân, Cốc công công, các ngươi cũng tới rồi à?

Cốc Đại Dụng nhìn thấy hắn, không khỏi vừa sợ vừa giận, cất giọng the thé hỏi:

- Tiền Ninh, là ngươi tố giác với Hoàng Thượng à?

Tiền Ninh cả người nằm thẳng đơ như xác ướp, hắn cố gắng rướn cổ lườm Cốc Đại Dụng, bất đắc dĩ cười gượng đáp:

- Nếu là ta tố giác, ta còn nằm ở đây à?

Hắn khổ sở rên rỉ nói:

- Ở ngoài Thọ Ninh Hầu phủ, thủ hạ ta vô ý để rơi một tấm yêu bài (*), kết quả bị Tam Pháp Ti tra ra nguồn gốc, bắt ta tới đây.

(*) thẻ bài giắt ngang lưng)

Tên tiểu thái giám đứng bên cạnh cao giọng hét:

- Im lặng, phạm nhân không được huyên náo!

Chỉ trong khoảnh khắc, bọn Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành cũng mặt xám mày tro bị áp ra ngoài ngọ môn. Phạm Đình từ từ đứng dậy, tên tiểu thái giám đứng cạnh vội đưa lên một cái khay sơn son trên đặt tấm lụa vàng, Phạm Đình từ trong khay lấy ra một chiếu thư, cao giọng tuyên đọc ý chỉ của hoàng đế:

- Phụng thiên thừa vận hoàng đế chiếu viết: Dương Lăng...

Lão đọc tới tên này thì ngừng lại một chút, mắt lướt nhanh tới Dương Lăng, thấy y cũng đang nhìn mình vẻ mong chờ tha thiết, khóe miệng lão không nhịn được liền nhếch lên một nụ cười không dễ bị phát hiện.

Phạm Đình tiếp tục đọc, nhất nhất đọc đủ tên mười người, tuyên đọc xong thánh chỉ, lão lại phất tay, đám người Dương Lăng đồng loạt bị đè nằm sấp xuống đất, mỗi người đều bị một tấm vải bố quấn chặt thân thể không thể động đậy, hai chân cũng bị người ta dùng dây thừng trói chặt. Dương Lăng thấy mình chỉ bị kéo vạt áo khoác, chứ không lột trần mông, cũng hơi yên lòng.

Tiền Ninh nằm bên cạnh y, nói nhỏ:

- Yên tâm, hiệu úy chấp pháp đều là thủ hạ của ta, họ sẽ không đánh thật đâu. Chỉ là cú cuối cùng sẽ không làm giả được, đến lúc đó ráng nhịn đừng có chửi bới là được rồi.

Dương Lăng hồi hộp nói:

- Đa tạ Tiền huynh chỉ điểm, nãy giờ ta thật sự cũng hơi lo lắng.

Y nằm dài ở đó cố ngẩng đầu nhìn Phạm Đình, muốn xem mũi chân hắn đang ở thế ngoại bát tự (chĩa ra ngoài) hay nội bát tự (chĩa vào trong)(chữ bát: 八). Không ngờ từ những kẽ chân của mấy tên đại hán hành hình, chỉ thấy Phạm Đình giơ chén trà ngửa mặt nhìn trời, đôi chân bắt chéo rung rung rất thoải mái, không khỏi ngẩn người ra.

Y đảo mắt nhìn mấy người Cốc Đại Dụng, chỉ thấy mấy người này cũng mở mắt to mắt nhỏ. Đám người này đều biết quy củ đánh người của nội giám trong cung, do đó hôm nay lại thấy Phạm Đình chẳng theo sách vở gì cả, ai nấy đều không hiểu ra làm sao.

Chỉ thấy một tên tiểu thái giám tới bên người Phạm Đình, cúi xuống lắng nghe lão dặn dò vài câu, rồi đứng lên cao giọng quát:

- Hành hình!

Mười tên tiểu kỳ quan Cẩm Y vệ tay cầm gậy gỗ đi đến sau đám người Dương Lăng, giơ gậy gỗ lên cao, hét lớn một tiếng, quất xuống vù vù.

Tiếng gió từ cây gậy lạnh thấu xương, nhìn lên thấy uy thế cũng đủ kinh hãi, nhưng khi gậy quất vào mông, Dương Lăng chỉ cảm thấy hơi nhồn nhột, chứ không thấy cảm giác đau đớn bao nhiêu. Y đang kỳ quái, bên cạnh bỗng nghe tiếng gào như núi lở đá nhào, thật sự khiến cho người người rơi lệ, kẻ kẻ thương tâm.

Dương Lăng giật bắn cả người, quay đầu lại nhìn Tiền Ninh, thấy hắn méo cả miệng, mặt nhăn nhó, tiếng gào thảm còn hơn cả tiếng giết heo, nhưng đôi mắt thì dường như đang trộm nhìn y nháy mắt, ánh mắt giảo hoạt vô cùng. Dương Lăng giật mình, vội vàng cũng lớn tiếng kêu gào thảm thiết theo.

Mười tên tiểu kỳ, mỗi người đánh xong ba gậy liền lui xuống. Tên tiểu thái giám ra lệnh kia lại quát lên rất uy phong:

- Luân hình!

Năm mươi tên lính nghe vậy, năm người một tổ cầm bổng thành hàng, luân phiên tiến lên chấp hành hình phạt. Họ hô theo nhịp, kêu một tiếng: “Đánh hết sức”, rồi một gậy nện xuống, người tiếp theo lại hô: “Chú tâm đánh”, rồi gậy tiếp theo đánh xuống. Tuy Dương Lăng thấy tên lính đó tựa hồ hạ thủ lưu tình, nhưng ngoại trừ tên tiểu kỳ lúc đầu đánh ba gậy mở màn thật là nhẹ, bây giờ mấy gậy này cũng hơi đau đớn, do đó y cất kêu gào thảm thiết nửa thật nửa giả, cũng không phải là hoàn toàn giả mạo.

Bên cạnh y chợt nghe đám Cốc Đại Dụng gào lên thật thê thảm, còn cho rằng những người này quả có công phu giả vờ, nhưng khi quay đầu lại nhìn, thấy bên trái mình La Tường đầu như dập xuống đất, một gậy đánh xuống là rú thảm một tiếng, bị vải quấn chặt nên thân thể không ngừng vặn vẹo co quắp, cong lên ưỡn xuống như một con giòi, đau đến mức nước mắt giàn giụa, không thể không khiếp đảm kinh ngạc: “Bọn họ có vẻ không được đối đãi như mình, xem ra là bị đánh thật”.

Y ngẩng đầu nhìn Phạm Đình, chỉ thấy Phạm công công đang nâng chén nhấm nháp, vẻ thản nhiên tự đắc, cặp chân bắt chéo rung rung, chẳng thèm để ý tới mình. Dương Lăng thầm kêu may mắn. Xem ra Phạm Đình cũng nhớ mình là ai, nếu không phải lão hạ lệnh, mình mà chịu đủ ba mươi trượng, e rằng thật sự không chết cũng tàn phế.

Ba mươi trượng đánh xong, đám lính chống gậy gỗ, gỡ bốn góc của tấm vải bố đang trói trên người họ ra, giật xoạt một cái. Dương Lăng thấy Tiền Ninh hai mắt trợn tròn, mũi nín thở, lập tức không dám chậm trễ, cũng hít sâu vào một hơi, chỉ thấy bốn gã lính đồng loạt phát lực, quát to một tiếng, nâng cao người lên “Bịch” một tiếng thân thể đã sóng soài ra đất.

Trước mắt Dương Lăng chợt tối sầm, cơ hồ không thở được nữa. Y cố nén đau, nằm dài trên mặt đất hồi lâu thở hổn hển. Cả buổi sau y mới hồi tỉnh lại, chỉ nghe thấy hai bên vang đầy những tiếng rên rỉ, nhìn trộm qua, thấy đám Cao Phượng, La Tường ai nấy sắc mặt trắng bệch, chiếc quần trong trắng tinh thấm máu đỏ lòm, người đã ngất đi rồi.

Phạm Đình chầm chậm đứng lên, phất tay áo nói:

- Chấp hình xong, chúng ta phải trở lại cung báo cáo rồi, đi thôi!

Phạm Đình dẫn đám Cẩm Y vệ chấp hình ly khai, chỉ còn lại đám người Dương Lăng nằm ngoài ngọ môn không thể động đậy.

Cả buổi sau, mới có mấy tên tiểu thái giám của Đông Cung bước ra đỡ đám người Lưu Cẩn dậy. Tiền Ninh nãy giờ vẫn nằm dài trên đất liền thừa cơ xoay người ngồi lên. Bọn người Cốc Đại Dụng bị đánh cho bủn rủn tay chân, sớm không còn sức đâu mà chào hỏi họ nữa, được vài tiểu thái giám dìu trở về cung.

Tiền Ninh lấy từ trong lòng ra hai bình nhỏ, đưa cho Dương Lăng một bình, nói:

- Uống hết cái này, đây là thuốc chữa thương tốt nhất, cam đoan sẽ không để lại di chứng.

Dương Lăng khó khăn ngồi xuống, tên thủ hạ Cẩm Y Vệ mặc dù cũng lưu tình, nhưng ba mươi gậy đánh xuống, đương nhiên là phải đau rát vô cùng, phỏng chừng mông đã sưng vù lên, hơn nữa còn rách tóet ra.

Thủ hạ của Tiền Ninh chạy tới nâng hắn và Dương Lăng dậy, dìu đi một đoạn cho khí huyết lưu thông. Đi tới khi hai người cảm thấy tê đi không biết đau nữa, lúc này mới đỡ hai người lên xe ngựa. Trước khi Tiền Ninh chịu phạt sớm đã có chuẩn bị, trên xe trải tấm nệm dày, còn có cả thầy lang của Cẩm Y vệ ở trong xe, lập tức lột quần hai người xuống bôi thuốc.

Hai người cứ thế để mông trần nằm cạnh nhau, Tiền Ninh nói:

- Dương đại nhân, ta trước hết đưa ngươi về nhà, sau đó trở về dưỡng thương. Ối, bôi nhẹ một chút đi, mông ta đau quá.

Tiền Ninh phân phó tên lang trung một tiếng, lại hỏi:

- Dương đại nhân, thủ hạ của ta đánh mất yêu bài, bị người ta dò ra là Cẩm Y Vệ. Mẹ kiếp, Thọ Ninh Hầu quả nhiên ghê gớm. Ta đường đường là thiên hộ chưởng hình của Cẩm Y vệ đánh một tên gia đinh nho nhỏ của nhà hắn, không ngờ lại động đến thánh chỉ, bị phạt đình trượng. Nhưng việc Thái tử xuất cung thì ta chẳng nói ra lấy một chữ, các ngươi sao cũng bị giải tới đây thụ hình thế?

Dương Lăng biết Hoằng Trị nhất định có một ban nhân mã khác phụ trách việc nghe ngóng tất cả động tĩnh trong ngoài cung, mười phần thì hết tám chín là mật thám Tây Xưởng trong truyền thuyết đã bí mật được thành lập. Y không dám tùy ý nói toạc ra, chỉ bảo:

- Chúng ta hồi cung bị người ta thấy được, bẩm báo lại Hoàng Thượng, cho nên mới bắt chúng ta tới đây chịu đòn, chỉ là... liên luỵ tới Tiền đại nhân, tại hạ thật sự áy náy.

Tiền Ninh ra vẻ hào khí nói:

- Huynh đệ của mình, vốn phải là có rượu cùng uống, bị đánh cùng chịu. Một chút đau đớn da thịt đã là gì? Vì thái tử gia, có chịu chút đau khổ nữa cũng đáng giá mà.

Hắn ghé tai gần Dương Lăng, thấp giọng cười nói:

- Nghe nói buổi triều hôm nay, Lý đại học sĩ và Trương Hạc Linh đã đánh nhau trên điện Kim Loan. Hoàng Thượng trong cơn giận dữ đã hạ ngục cả lũ, ha ha, có thể làm hắn ngồi tù, trong lòng ta cũng vô cùng khoan khoái, con mẹ nó, nợ nần phải tính cho đủ, quân tử báo thù mười năm không muộn, chúng ta cứ chờ xem, ha ha ha... ối chà!

Hắn cười làm động vết thương, nụ cười không kìm được thành ra méo xệch, thực là khó coi không thể tả.

Xe tới trước cửa Dương gia tại phố Hộ Quốc Tự, Dương Lăng ngại thương thế mình bị Ấu Nương trông thấy mà lo lắng, do đó cự tuyệt hảo ý của Tiền Ninh phái người hộ tống, một mình xuống xe, cố chịu đau đi vào trong viện. Lúc này trời chiều ngả về tây, ánh mặt trời lúc chiều tà rọi vào trong viện, đập vào mắt một mảng vàng óng.

Dương Lăng phỏng chừng Ấu Nương đang ở trong nhà làm cơm, do đó khi y đi đến cửa, liền vươn thẳng người, nhìn xem không có gì sơ hở, lúc này mới yên tâm đẩy cửa đi vào. Trên bếp ngọn lửa đã dịu đi, trên đó có một ấm đất màu đen đang sôi ầm ầm, một mùi thuốc bắc nồng nặc đập vào mũi, nhưng lại không thấy bóng dáng Ấu Nương đâu.

Dương Lăng thấy thế không khỏi cả kinh, y thất thanh gọi:

- Ấu Nương, Ấu Nương?

Gọi vài tiếng mà không thấy ai trả lời, Dương Lăng vội vàng nhịn đau nhào vào phòng. Trong phòng ánh sáng mù mờ, chỉ thấy Ấu Nương đang cuộn tròn trên giường, đắp chăn không nhúc nhích.

Dương Lăng hấp tấp lao tới, nắm lấy bờ vai gầy yếu của nàng gọi:

- Ấu Nương, Ấu Nương?

Y sờ trán Ấu Nương, thấy nóng bỏng cả tay, thân thể Hàn Ấu Nương run lên nhè nhẹ, nàng nghe thấy tiếng tướng công gọi, cố gắng mở to mắt muốn nói chuyện, nhưng răng chỉ va vào nhau lập cập, đến một chữ cũng nói không nên lời.

Dương Lăng cõi lòng đau thắt, y hoảng sợ ôm lấy Ấu Nương, trong lòng vừa đau vừa hối hận. Đã nhiều ngày nay y cũng thấy Ấu Nương ăn không ngon, thần sắc rất tệ, nhưng y lại cho rằng Ấu Nương là người luyện võ, thân thể luôn luôn cường tráng, hẳn là cảm mạo bình thường, do đó không quá để ý. Lúc này thấy nàng bộ dáng tiều tụy, trái tim Dương Lăng như bị cào xé, hoảng hốt nóng ruột vô cùng.

Ấu Nương hơi giãy dụa trong lòng y, rên rỉ nói:

- Lạnh quá, tướng... công, Ấu Nương lạnh quá, ta... Thiếp khát nước quá... Thiếp muốn uống nước...

Dương Lăng vội hỏi:

- Ta đi, ta đi, đợi nhé, ta đi lấy nước cho nàng.

Y vội vội vàng vàng chạy ra gian ngoài, lục lọi cả buổi mới tìm ra cái chén, lại ngó nghiêng một lát không thấy nước để ở đâu. Trước giờ y không cần quan tâm đến việc nhà, lúc y khát, nước trà ấm lập tức được đưa đến trước mặt, lúc y đói, thức ăn nóng bốc khói nghi ngút lập tức dọn lên bàn cho y, tất cả đều vô cùng tự nhiên. Bây giờ phải chiếu cố cho Ấu Nương, y lại không tìm thấy cái gì, nhớ tới Ấu Nương chăm sóc y tận tình, trong lòng y càng thêm khó chịu.

Ấu Nương bệnh nặng thế, chẳng lẽ cho nàng uống nước lạnh ư? Dương Lăng múc một gáo nước, lại đổ vào thùng, y chạy đến trước bếp nhấc ấm sắc thuốc qua một bên, tay cầm nóng bỏng làm y phải buông tay vứt ấm đi.

Dương Lăng vội vàng hứng nửa nồi nước, để lên bếp, cho vào lò bảy tám thanh củi, thấy lửa cháy bùng lên, y mới yên tâm chạy về phòng, châm đèn lên, đem tới trước mặt Ấu Nương, sau đó ôm Ấu Nương ôm vào ngực, nhẹ giọng nói:

- Ấu Nương, ta đang nấu nước, trong chốc lát là xong, đợi một lát là có ngay.

Ngọn đèn trước mắt rập rờn. Ấu Nương khẽ nhắm mắt, nàng liếm liếm đôi môi nứt nẻ, mở mắt thất thần, ho khan một trận, mỉm cười e thẹn, nói:

- Tướng công, chàng về rồi, Ấu Nương quả là vô dụng, thiếp... đi... gặp thầy lang rồi. Ông ấy nói ta nhiễm lạnh, đem thuốc về rồi nhưng khi đang sắc thì không... không chịu được nữa.

Dương Lăng thấy nàng vừa nói tới đây, thân thể nàng lại không chịu được phải rùng mình, sắc mặt ửng đỏ, dưới ánh sáng ngọn đèn, thấy cổ nàng nổi lên những chấm đỏ lấm tấm, bộ dáng căn bản không giống cảm mạo, không khỏi kinh hoảng nói:

- Cái gì mà nhiễm lạnh. Tên lang trung chó má. Ta dẫn nàng đi gặp đại phu, tìm đại phu tốt nhất.

Y không nói gì thêm, bất chấp Ấu Nương giãy dụa yếu ớt, ôm lấy thân thể nàng lên rồi phóng ra ngoài. Cụ già gần nhà y đang chuẩn bị dọn hàng, kinh ngạc nhìn vị hàng xóm Dương đại nhân vọt tới trước mặt mình, hỏi vẻ vô cùng hoảng loạn:

- Cụ ông, xung quanh nơi này có y sĩ không? Không, không, không phải mà là có thầy lang, có đại phu không? Ta muốn tìm đại phu tốt nhất!

Cụ già lắm mồm này nghe y gọi mình là cụ ông, không khỏi được khen mà thấy sợ, nói:

- Đại nhân, thầy lang tốt nhất phố là Lưu tiên sinh ở Dã Cúc Trai, là Kim Châm Lưu nổi tiếng kinh thành. Nhưng phí chẩn trị của hắn cũng hơi ……

Nhìn thấy Dương Lăng mắt như muốn phun lửa, ông lão vội sửa lời nói

- - Đi hết phố, đến nhà thứ ba cuối đường là nó đó. Đại nhân... trong nhà lão có một chiếc xe đẩy, đại nhân muốn dùng nó đưa phu nhân đi không, đường đi cũng không gần lắm đâu.

Dương Lăng gật đầu lia lịa, cụ già vội vàng chạy về nhà lấy chiếc xe đẩy hai bánh đem ra, Dương Lăng thấy chiếc xe đẩy xưa nay chỉ dùng để đẩy hàng, hơi dơ bẩn, vội về nhà lấy đệm chăn trải lên, xong mới đặt Ấu Nương lên trên, đắp cho nàng một tấm chăn. Sau một hồi lăng xăng, nhịp hô hấp của Ấu Nương càng thêm dồn dập, hai mắt đã nhắm chặt, cả người bất tỉnh rồi.

Dương Lăng lòng như lửa đốt, kéo chiếc xe đẩy chạy một mạch về phía Dã Cúc Trai. Chỉ là bây giờ bản thân y cũng đi đứng khó khăn, cất bước lảo đảo, nhưng lại liều mạng dùng sức chạy thật nhanh, nhìn bóng hình thê lương dưới ánh trời chiều ấy khiến cho người ta thương xót không nói nên lời.

***

- Phu nhân tuổi còn trẻ, lại luôn luôn tập luyện, vì vậy chống chọi đến giờ mới phát bệnh. Nói ra thì việc này cũng chẳng phải là một chuyện tốt, hàn tà trong cơ thể ứ đọng quá lâu, một khi phát tác, như nhà nghiêng sắp đổ ấy, lại muốn chữa trị, ài....

Kim Châm Lưu tay vuốt chòm râu khe khẽ lắc lắc đầu.

Vị Dương đại nhân này vừa rồi thế như hổ dữ, lôi xe đến xô cửa xông thẳng vào nhà lão, lại móc ra thẻ bài Cẩm Y Vệ cưỡng ép lão tống cổ tên phú ông đang yêu cầu chữa trị việc không có con của hắn và ả tiểu thiếp thứ mười hai, rồi kéo tay lão vội tới xem bệnh cho nương tử mình.

Thấy người vừa đến là người của Cẩm Y vệ, Lưu đại phu ban đầu còn hơi sờ sợ, nhưng sau khi xem bệnh và nói về bệnh lý, bệnh nghề nghiệp phát tác, lão bắt đầu rung đùi đắc ý.

Dương Lăng suốt ruột tới mức mồ hôi trên trán nhỏ xuống ròng ròng, y nuốt khan, lo lắng nhìn Ấu Nương đang hôn mê bất tỉnh, khẩn cầu nói:

- Tiên sinh! Cầu ngài xem lại biện pháp, nương tử ta phải trị liệu sao mới khỏi được? Tiên sinh yên tâm, bất luận thuốc quí ra sao, mất bao nhiêu bạc, ta đều có thể tìm được, tiên sinh không cần phải lo.

Kim Châm Lưu cau đôi lông mày trắng nói:

- Phu nhân bị bệnh thời gian đã lâu, dương khí bảo vệ nhân thể đã hư tổn, rất dễ mắc phải hàn tà, bệnh phân chia thành ngoại hàn và nội hàn. Ta thấy tuy thân thể phu nhân cường tráng... Nhưng e rằng từng trải qua quá trình nghèo khổ lâu dài, ngoại hàn xâm nhập vào thân thể dai dẳng không tan, bây giờ nội hàn phát sinh, hàn tà là âm tà, âm thắng sẽ kết hàn. Cho nên khí huyết đông cứng, cản trở làm cho kinh lạc tắc nghẽn, không lưu thông được...

Dương Lăng nghe đến đó, nhớ tới ngày đó mình ở Dương Gia Bình, mùa đông khắc nghiệt, Ấu Nương mỗi khi đêm đến chỉ khoác chiếc áo mỏng, ngày ngày chịu lạnh chịu buốt, chẳng lẽ bệnh của nàng đã phát sinh từ lúc đó? Dương Lăng nghĩ đến những ngày tháng Ấu Nương chịu khổ sở, không khỏi lòng đau như cắt, lệ rơi lã chã, lúc này y thấy Kim Châm Lưu nói ra nguyên nhân phát bệnh, trong lòng hiện lên một chút hy vọng, vội vàng truy vấn:

- Tiên sinh, vậy xin hỏi phải làm sao mới trị liệu được?

Kim Châm Lưu cau mày trầm ngâm nói:

- Hàn khí ở lâu trong cơ thể phu nhân, gây cản trở kinh lạc, khí huyết không lưu thông, vốn thân thể từ từ cũng quen dần. Nhưng gần đây phu nhân lại ở một nơi nóng bức, khí dương oi ả quá nhiều, làm cho âm dương xung khắc, đem khí hàn tà nhanh chóng đẩy vào tỳ thận, dẫn đến tỳ không thể vận chuyển, tiêu hóa chất dinh dưỡng tạo ra sức sống và máu huyết cho cơ thể. Thận không nạp được khí làm thông suốt niệu đạo để sinh ra tủy và hơi ấm nuôi dưỡng toàn thân. Dịch thể buộc phải hòa cùng máu huyết...

- ...

Dương Lăng nghe hắn còn kể lể về âm dương ngũ hành, không thể không rùng mình, y đứng bật dật, chụp lấy áo của Kim Châm Lưu, mặt mày dữ tợn, rốt cuộc không còn chút lịch sự nào nữa, lớn tiếng gào to:

- Đừng có giảng bệnh lý với ta, ta chỉ hỏi ngươi, phải làm sao mới trị liệu được? Phải dùng thuốc như thế nào?!

Kim Châm Lưu cũng không tức giận, lão nhìn Dương Lăng vẻ thông cảm, khẽ lắc đầu nói:

- Bệnh đã lan khắp nơi, khó có thể chữa trị.

Dương Lăng buông tay, ngồi phịch xuống ghế, ngây người hồi lâu, rồi y đột nhiên nhảy dựng lên hét lớn:

- Ta không tin, ta không tin! Không được, ta còn chưa chết, sao Ấu Nương có thể chết được?

Y ôm lấy Hàn Ấu Nương hôn mê bất tỉnh, rơi lệ nói:

- Thành Bắc Kinh to như vậy, ta không tin không tìm thấy một người có thể trị liệu cho Ấu Nương!

Y vô cùng cẩn thận đặt Ấu Nương lên xe rồi đẩy đi. Vì nãy giờ y chạy một mạch nên làm rách miệng vết thương, vết máu thấm ra ngoài áo sau của y. Dương Lăng vừa đẩy xe vừa thầm nói:

- Ông trời có mắt, quyết không cho Ấu Nương chết được, quyết không chết được!

Kim Châm Lưu khẽ lắc đầu, tuy biết người trước mắt là người của Cẩm Y vệ, không thể đắc tội với y được, nhưng ảnh hưởng tới tôn nghiêm của danh y, nên đợi y ra khỏi cửa, lão len lén mắng theo:

- Trong thành Bắc Kinh, y thuật Lưu mỗ ta không dám xưng đệ nhất, nhưng bệnh mà ta trị không được... e rằng cũng không ai khác trị được. Nếu ngươi tin ta, còn có thể dùng vài thứ thuốc hồi sức, để nàng tạm thời tỉnh lại mà trăn trối, còn bây giờ... Hà hà! Chương bảy mươi ba: Tìm Thầy Khắp Kinh Sư

------------------------

Dương Lăng đẩy Ấu Nương đi trên đường lớn như kẻ mất hồn.

Lúc Ấu Nương còn khỏe, nàng luôn ôn hoà thuần hậu đứng sau lưng y, giống như một cơn mưa xuân ấm áp mềm mại âm thầm, chẳng những dần dà khiến người ta quên mất sự tồn tại của nàng mà ngay cả Dương Lăng cũng gần như quen với những hiến dâng lặng lẽ của nàng. Song bây giờ đột nhiên ý thức được nàng không thể vĩnh viễn như cái bóng đi theo mình, chiếu cố cho mình, làm bạn với mình, Ấu Nương cũng có ngày rời xa mình thì Dương Lăng mới giật mình phát giác sự đáng sợ của loại mất mát này.

Lúc này Dương Lăng vừa vội vừa sợ, mồ hôi thấm đẫm lớp áo dày, gió thổi ớn lạnh cả người. Máu tươi chảy đầm đìa từ mông nhưng y hoàn toàn không bận tâm. Những gì Lưu Thần Châm nói, y nghe cũng hiểu đại khái, vừa nghĩ tới lại đau lòng như cắt. Mình chỉ cảm thấy Ấu Nương tài giỏi kiên cường, sao không nghĩ tới nàng còn nhỏ tuổi, tấm vai non nớt có thể chống chọi được bao nhiêu áp lực chứ?

Một tiểu cô nương năm mười lăm tuổi gả vào nhà họ Dương, một mình khổ sở chống đỡ, không người trợ giúp, không niềm hy vọng. Áp lực tâm lý trầm trọng, cuộc sống gian khổ cơ cực, ngày tiếp ngày vất vả lo toan khiến thân thể nàng ngày càng sa sút, chỉ có thể dựa vào tinh thần cố gắng chống chọi mới giúp nàng chưa ngã gục.

Mùa đông rét lạnh mà mỗi đêm nàng chỉ đắp một cái chăn rất mỏng, không lâu sau lại tới ở trong tòa nhà của Sở Dịch, giường đất từ chỗ rất lạnh biến thành cực nóng. Hàn khí vốn đã xâm nhập tận phế phủ của nàng hoàn toàn không thích ứng được với loại biến hóa đột ngột này, lúc đó nàng đã mang mầm mống bệnh hoạn trong mình, chỉ do nàng có sức khỏe nên cố chống đỡ đến giờ mới phát bệnh.

Lúc này Dương Lăng khóc không ra nước mắt. Vừa rồi y dựa vào toàn bộ sức lực trong lúc kinh hãi đẩy Ấu Nương chạy lâu như vậy, bây giờ vừa mệt vừa đói, thật sự không còn moi ra chút khí lực nào để đi nữa.

Vừa chật vật rẽ qua một ngã tư, một chiếc xe ngựa đang từ xa lướt nhanh đến vội vội vàng vàng khựng lại trước mặt y. Người trên xe ngựa gò cương chửi ầm lên:

- Mẹ, ngươi không muốn sống nữa à? Sao đi mà không nhìn đường, nếu kinh động lão gia nhà ta, ta đưa ngươi vào nha môn ăn đòn đó!

Dương Lăng lạnh lùng nhìn gã, gằn từng tiếng:

- Ta vừa mới ăn hèo đây, chính là hèo do đương kim hoàng đế ban tặng. Ngươi có bản lãnh thì tới đây thử xem!

Gã kia làm sao tin y được, gã cười khẩy một tiếng đang muốn nói gì, Dương Lăng đã lấy ngọc bài từ trong ngực ra xỉa trước mặt gã, trầm giọng:

- Bảo lão gia nhà ngươi xuống xe! Ta là Đồng Tri Cẩm Y vệ, bây giờ cần dùng xe của ngươi!

Tên đánh xe kinh hãi biến sắc. Gã nhìn nhìn một hồi vẫn không nhận biết được thẻ bài Cẩm Y Vệ, nhưng đã liên quan tới Xưởng Vệ thì thà tin còn hơn không. Gã chần chừ một lúc rồi quay đầu lại nói với người trong xe:

- Lão gia! Ngài xem...

Rèm kiệu vén lên, một người đàn ông trung niên áo xanh râu ngắn ló đầu ra. Nhờ ánh đèn lồng treo trên khách sạn bên ngã tư quan sát rõ tấm yêu bài của Dương Lăng, hắn không khỏi thầm giật mình kinh hãi. Đã gặp qua không ít đại quan cùng quý nhân, đương nhiên hắn nhận biết yêu bài của Cẩm Y Vệ, đến cả tổ tông hắn cũng không dám trêu vào. Thầm kêu xui xẻo, hắn ngoan ngoãn bước ra khỏi xe, chắp tay chào:

- Ra mắt đại nhân! Không biết đại nhân xưng hô ra sao?

Dương Lăng ôm lấy thân thể mềm mại của Ấu Nương đặt lên xe ngựa, thở hào hển đáp:

- Ta không có thời gian nói chuyện với ngươi. Bây giờ ta cần xe của ngươi cùng với mã phu của ngươi, khi quay lại ta sẽ thả hắn về nhà.

Y nói xong tự mình trèo lên xe, đặt Ấu Nương cẩn thận trên ghế kiệu, nhè nhẹ hôn lên gương mặt nóng hổi của Ấu Nương, nghẹn ngào:

- Ấu Nương! Có tướng công ở đây, nàng sẽ không chết được đâu. Nếu nàng không sống nữa, tướng công sẽ cùng nàng đi đại náo âm tào địa phủ một trận, kiếp sau chúng ta lại làm vợ chồng.

Nói xong, quay đầu lại thấy tên đánh xe vẫn còn đờ đẫn, y không khỏi giận dữ hét lớn:

- Ngươi còn chưa đi?

Tên đánh xe giật bắn cả người, vội vàng đáp:

- Đi... Đi đâu chứ? Đại nhân ngài còn chưa bảo mà.

Dương Lăng yếu ớt xua tay, khuỵu gối bên cạnh Ấu Nương, ôm lấy thân thể nàng nói:

- Đi tìm lang trung! Ngươi là người đánh xe, hẳn biết trong kinh sư này ai là danh y, nhà cửa ở đâu. Nhanh!

Gã đánh xe ngần ngừ chỉ người đàn ông vừa bước xuống khỏi xe, nói:

- Lão gia nhà ta chính là danh y, hơn nữa lại là ngự y.

- Cái gì?

Dương Lăng vừa mừng vừa sợ, vội vàng nhảy xuống xe, gần như nằm rạp trước mặt người đàn ông trung niên kia, y kéo áo người nọ la lên:

- Tiên sinh họ gì? Xin tiên sinh chữa cho nương tử nhà ta, nàng... Nàng...

Dương Lăng cảm thấy phấn khởi, vừa muốn khóc lại vừa muốn cười, nói không ra lời.

Người nọ tuy là ngự y nhưng cũng không dám đắc tội với Cẩm Y vệ, mới vừa rồi phải nhẫn nhịn xuống xe, bây giờ thấy y từ hống hách trở nên nhún nhường, trong lòng bất giác có chút khoái chí. Hắn cười nói rất tự đắc:

- Tại hạ họ Điền, là y sĩ của thái y viện, chẳng biết tôn phu nhân khó ở thế nào? Nhưng nơi này không tiện bắt mạch, đại nhân nên theo ta về nhà, để ta có thể chẩn đoán rõ ràng hơn.

- Được được!

Dương Lăng rối rít đồng ý. Ngẫm lại mình vừa mới buộc người ta xuống xe, y chẳng biết có nên đi chiếc xe này tới nhà của người ta nữa hay không.

Vị Điền đại phu lại cười nói:

- Thôi đi! Tôn phu nhân đang bị bệnh, không cần phải xuống xe. Hàn xá ở ngay phía trước, chúng ta đi bộ về nhà cũng được.

Dương Lăng cũng chẳng cần khách sáo chi nữa, cùng cẩn thận theo vị Điền ngự y tới nhà hắn. Nhà của Điền ngự y nhìn qua có vẻ sang trọng, cạnh cửa treo cao một tấm biển vàng chóe “Hạnh Lâm Cư”. Vừa tới nơi, Dương Lăng bế Ấu Nương theo hắn đi qua sân rồi vào thẳng trong đại sảnh. Thấy trong đó treo vô số những thẻ bài to nhỏ “Y Đạo Thánh Thủ”, ”Tái Hoa Đà”, ”Đương Thời Danh Y”, Dương Lăng càng thấy an tâm hơn nhiều.

Điền ngự y rửa tay bằng nước ấm, một mặt dùng khăn tay trắng như tuyết lau sạch tay, một mặt đến gần quan sát kỹ Ấu Nương đang hôn mê trong lòng Dương Lăng. Hắn chau mày hỏi:

- Tôn phu nhân dường như bị nóng lạnh trong người, chân lông bí nghẽn, sốt cao không hạ thì phải!

Dương Lăng vội vàng gật đầu, run giọng đáp:

- Đúng, đúng, đúng! Thần y có biện pháp cứu nàng chứ?

Điền ngự y khe khẽ lắc đầu, bắt mạch Ấu Nương một lát, rồi mặt mày trầm trọng nói:

- Bệnh nóng lạnh không phải là sở trường của ta. Trong mười ba khoa của Thái Y viện thì tại hạ chuyên về bệnh trẻ em, không thạo về lãnh vực này, chỉ là... theo ta thấy... dù là thần y đúng chuyên khoa cũng khó lắm!

Dương Lăng không biết Thái Y viện Đại Minh chia làm mười ba khoa là Tim Mạch, Nhi Đồng, Phụ Khoa, Thương Hàn, Chấn Thương, Châm Cứu, Răng Miệng, Họng Hầu, Xoa Bóp, Nối Xương, Kim Thốc, Nhãn Khoa, Bùa ngãi, y còn tưởng rằng phàm là thái y đều là có thể chữa được bách bệnh. Tuy không hiểu bệnh trẻ em là cái gì, nhưng nghe lão nói không biết chữa, y không khỏi thất vọng:

- Thần châm họ Lưu cũng nói không có thuốc nào trị được, không ai có thể trị. Chẳng lẽ... chẳng lẽ ta phải mất Ấu Nương thật sao?

Vốn vẻ mặt đang ngượng ngùng, nghe y nói thế, Điền ngự y không khỏi bật thốt:

- Ngươi đã gặp Kim Châm Lưu rồi à? Hắn nói không trị được là không trị được sao? Tuy ta không giỏi ngành này, nhưng cả thành Bắc Kinh người trị bệnh nóng lạnh giỏi nhất, ngoại trừ Ngô tiên sinh Ngô Thanh Viễn đã qua đời thì chỉ còn anh của ta thôi. Nếu anh của ta ở đây, chưa chắc không trị được!

Tinh thần Dương Lăng chấn động, y vội hỏi dồn:

- Lệnh huynh ở đâu? Mau mau mời lệnh huynh xem bệnh cho nàng, chỉ cần chữa được, Dương Lăng nguyện dốc toàn bộ sự sản để cảm tạ.

Điền ngự y nhậm chức trong cung nên không được tự mình mở phòng khám bệnh, nhưng ca ca hắn vì bị què một chân, mặt mũi lại xấu xí nên không thể vào triều nhậm chức ngự y, do đó mới mở Hạnh Lâm cư này. Phòng mạch này cách Dã Cúc Trai cũng không xa, hai nhà luôn là đối thủ cạnh tranh. Nghe thần châm họ Lưu đoan chắc người bệnh không thể trị được, Điền ngự y tự nhiên không chịu phục. Lão họ Lưu đã không trị được, chỉ cần nhà mình chữa được thì việc này lan truyền ra, Thần Châm Lưu sau này đừng hòng mơ tưởng cạnh tranh với Điền gia nữa.

Vì lẽ đó, tinh thần Điền ngự y trở nên hăng hái, hắn nói với Dương Lăng:

- Đại nhân chớ sốt ruột! Anh của ta về quê ở Tam Hà thăm người thân rồi, cũng không xa đây lắm.

Hắn xoay người hạ lệnh cho gã đánh xe:

- Thiệu Đường! Ngươi lập tức đánh xe về quê Tam Hà, đón Đại lão gia nhanh nhanh trở về. Nói trong kinh có quý nhân mời người khám chữa bệnh.

- Dạ, lão gia!

Tên đánh xe vâng lệnh. Cũng may ngựa còn chưa tháo khỏi xe, gã vội vàng dắt ra khỏi cổng lớn, vung roi lên, ào ào phóng đi mất.

************************************

Hôm sau vào buổi triều sớm, Hoằng Trị tinh thần vui vẻ, thập phần vừa ý. Hôm qua dựa vào việc chỉnh lý bọn Dương Lăng, ông đã áp chế được sự kiêu ngạo của Kim phu nhân; cũng không biết bà ta nói với Hoàng hậu thế nào mà khi ông trở lại cung, tuy Hoàng hậu vẫn còn u sầu buồn bã, nhưng đã không dám khóc dầm khóc dề như trước nữa.

Ông có ý định phổ biến chính sách mới về hạn chế quyền lợi của hoàng thân quốc thích đã lâu, nhưng cản trở lớn nhất vẫn đến từ gia đình Hoàng hậu, hơn nữa đám quí tộc vì ích lợi có thể bị hao tổn, nhất định cũng dán mắt vào Trương gia. Một khi Trương gia không tuân theo pháp lệnh, đương nhiên người ngoài cũng sẽ học theo. Bây giờ Thọ Ninh Hầu đã bị trừng trị, lực cản đối với việc thúc đẩy cải cách nhất định sẽ giảm mạnh.

Không ngoài dự đoán của Hoằng Trị, nhân thời cơ chín muồi, vào buổi triều sớm ông đề xuất lại việc cải cách, để cho đám người Lý Đông Dương vừa được phóng thích khỏi ngục cùng Lưu Kiện và Tạ Thiên Kỷ bên xướng bên họa, thuận lợi ban bố luôn. Văn võ cả triều đều thức thời, không ai dám lên tiếng phản đối.

Hoằng Trị cảm thấy mừng rỡ, xem ra hôm nay không có việc gì quan trọng khác phải xử lý, đang muốn tuyên bố bãi triều thì lễ bộ thượng thư Vương Quỳnh bước khỏi hàng tấu:

- Thần khải bẩm Hoàng Thượng! Thần nghe nói mấy tên nội quan ở Đông cung chuyên phụng dưỡng Thái tử hay bày ra mấy trò chó ngựa mua vui, cản trở Chiêm Sĩ Phủ dạy thái tử đọc sách. Gần đây lại nghe thị độc của thái tử là Dương Lăng cũng hòa mình với bọn chúng, cấu kết nhau làm việc xấu.

Hoàng Thượng, Thái tử là người kế vị của quốc gia, bản thân quan hệ tới cả thiên hạ. Dương Lăng vốn xuất thân tú tài, được bệ hạ ân sủng, phá lệ ban danh hiệu Đồng tiến sĩ xuất thân, cho làm Đông cung thị độc. Hắn không nghĩ tới việc báo đáp hoàng ân, mà lại cùng nịnh thần cấu kết, gây náo loạn Đông cung. Thần xin bệ hạ bãi chức thị độc Đông cung, đuổi khỏi triều đình.

Hoằng Trị ngẩn người, nói vẻ không vui:

- Đó là do Ái khanh nghe nói Dương khanh hôm qua bị phạt trượng ở ngọ môn phải không? Hắn tuy cũng bị phạt trượng, trẫm cũng chỉ khiển trách nhẹ vì hắn chưa làm tròn trách nhiệm thị độc, không thể ngăn cản nội quan rủ rê Thái tử chơi bời trì hoãn việc đọc sách thôi. Hôm qua trẫm đến Đông cung khảo sát bài vở Thái tử, thấy tri thức cùng kiến thức của Thái tử đều tăng lên, việc này đương nhiên là công lao của ba vị thái phó, nhưng cũng không phải không có công phụ tá của thị độc.

Lão Vương Quỳnh không đồng ý, bẩm:

- Bệ hạ! Thị độc vốn có trách nhiệm giám sát Thái tử đọc sách, chưa tròn trách nhiệm, cũng khó xứng với chức vụ. Thần cho rằng nên tuyển một vị thị độc Đông cung có đức có tài khác. Sau khi dán thông báo vào kỳ thi mùa xuân, Hoàng Thượng tự mình tuyển một vị hiền tài tới Đông cung. Thần nắm giữ Lễ Bộ, đây là chức trách phạm vi của thần, việc này không dám không tấu.

Hoằng Trị mỉm cười nói:

- Trẫm biết sự trung trực của ái khanh, nhưng Dương Lăng làm việc ở Đông cung luôn luôn khá tận tâm, hôm qua trẫm cũng đã tiến hành khiển trách hắn rồi, cũng không cần phải...

Vương Quỳnh lập tức phục xuống đất khóc lớn:

- Hoàng Thượng nhân từ vô cùng, nhưng việc Thái tử là việc xã tắc, không thể sơ ý chút nào được. Thái giám nội cung chỉ hầu hạ thái tử sinh hoạt thường ngày, cho dù bọn chúng có hơi phi lý cũng còn có thể khoan dung. Nhưng đã là thị độc mà không thể hoàn thành chức trách thì vạn lần không thể tha thứ. Thần chưởng quản Lễ Bộ, sao có thể thấy mà không nói? Thấy mà không can? Thấy mà không gián được chứ?

Hoằng Trị chịu không nổi những tiếng gào khóc của Vương Quỳnh. Văn võ cả triều, lão là kẻ nhiều nước mắt nhất, hơi một tí là khóc lóc can gián, nhưng vị lão thần này luận về đạo đức văn chương đều thập phần xuất chúng, làm quan cũng luôn luôn thanh liêm. Hoằng Trị cũng không có biện pháp phạt lão. Thấy lão lại khóc lóc, Hoằng Trị bất lực nhìn Lưu Kiện.

Lưu đại học sĩ thông minh sắc sảo, ánh mắt Hoằng Trị đế vừa nhìn mình, lập tức bước ra nói:

- Hoàng Thượng! Thần tán thành đề nghị tuyển người làm thị độc Đông cung vào kỳ thi mùa xuân này của Vương Đại nhân. Dương thị độc thấp cổ bé miệng, tuy không phải không muốn ngăn cản nội quan bày trò, nhưng hắn cũng không thể làm được.

Về phần Dương Lăng, người này năm mười sáu tuổi đã là tú tài đầu bảng Tuyên Phủ, tài viết văn nhất định bất phàm. Mấy bữa trước hắn viết báo cáo về những thay đổi chế độ chính sách của quân đội cùng với việc cầm binh, luyện quân cũng rất là không tệ, đầy ý tưởng mới. Thần nghĩ rằng, có thể miễn chức thị độc của Dương Lăng, nhưng triều đình nên đề bạt bổ nhiệm nhân tài giỏi cả văn lẫn võ này. Không bằng Hoàng Thượng bảo hắn lên điện, tấu trình ngay trên cung đình, nếu hợp ý Thánh Thượng, có thể cho hắn nhậm chức tại triều, hoặc ra ngoài làm quan. Một khi hắn có kinh nghiệm, không chừng sẽ trở thành bầy tôi trụ cột của triều đình.

Hoằng Trị nghe vậy rất mừng. Ông vốn có ý lưu Dương Lăng lại chờ hoàng nhi đăng cơ sẽ sử dụng. Nhưng từ năm trước ông bị bệnh nặng, thân thể ngày càng sa sút. Do đó hôm nay cũng phải suy nghĩ rất nhiều để chuẩn bị cho hoàng nhi.

Đám cựu thần trong triều tuy trung thành hết mực, nhưng bảo thủ cũng có thừa, thiếu chí tiến thủ, hơn nữa bọn họ đã già thế rồi cũng không biết gắng gượng được bao nhiêu năm nữa. Nếu không thể tìm được bầy tôi tốt phụ tá cho hoàng nhi, chỉ vài năm sau đám cựu thần sẽ tàn lụi, làm sao ông yên tâm được?

Do đó nghe thấy Vương Quỳnh luôn miệng thỉnh cầu thôi chức thị độc của Dương Lăng, ông liền động tâm. Được lắm, ngươi nói hắn không xứng giữ chức thị độc, không phải là không xứng làm quan trong triều. Ta cho hắn làm quan, cũng không xem như bộ Lễ các ngươi không làm tròn bổn phận phải không? May mà Lưu Kiện có thể quan sát được ý ta, nghĩ ra biện pháp vẹn cả đôi bề như vậy.

Hoằng Trị sợ Vương Quỳnh lại phản đối gì nữa nên lập tức vui vẻ trỏ tiểu thái giám trực giấy mực bên cạnh ngự thư án, hạ lệnh:

- Ngươi đi truyền khẩu dụ của trẫm, bảo Dương Lăng lập tức lên điện.

Tên tiểu thái giám giật bắn cả người. Xưa nay việc truyền dụ đều do nhân viên của Sở biên tập phụ trách việc chấp bút rồi sai người truyền chỉ, hắn chưa bao giờ ra khỏi cung. Bị phái đi như vậy, tên tiểu thái giám hoảng hốt vâng dạ, vội vàng bước xuống một bên ngự đài. Hắn chỉ cảm thấy lâng lâng, hưng phấn tới suýt nữa hụt chân ngã tòm.

Tên tiểu thái giám vừa mới bước xuống được mấy bậc bệ ngự, Hoằng Trị đột nhiên gọi:

- Chậm đã!

Tên tiểu thái giám vội vàng xoay người. Hoằng Trị trầm ngâm một chút, mỉm cười nói:

- Lấy xe gấm trong cung mà đi. Ha ha! E rằng bây giờ hắn chẳng đi nổi nữa đâu.

Đám văn võ bá quan nhất thời ồ lên, xe gấm đón à? Đây là vinh dự như thế nào! Chỉ có mấy vị đại học sĩ và nguyên lão trong triều đôi khi tiến cung mới được đối đãi như vậy. Xem ra Vương thượng thư mờ mắt đã hớ to rồi, hoàng đế Hoằng Trị nói trắng ra mình muốn trọng dụng Dương Lăng mà.

******************************

Lúc này Dương Lăng đang mượn xe của ngự y, giục ngựa chạy như điên. Thần sắc Ấu Nương càng lúc càng kém, môi khô nứt nẻ, khí tức yếu ớt, sắc mặt xám xịt làm cho người ta vô cùng đau lòng, trái tim Dương Lăng cũng theo đó chìm xuống tận vực thẳm.

Nguyên y khổ sở đợi một đêm, tên đánh xe Điền phủ mới đem vị Hạnh Lâm cao thủ sắp mất vía trở về. Vị Điền thần y này quả nhiên cao minh hơn em mình nhiều, ông vừa tiến vào y đường, vọng (nhìn), văn (nghe), vấn (hỏi), thiết (thăm mạch) một hồi, lập tức cả quyết phán:

- Đúng là Tôn phu nhân bị bệnh thương hàn. Bệnh này đã tiềm ẩn lâu ngày đáng ra phải sớm phát tác rồi. Chỉ là tôn phu nhân khí lực cường tráng vượt xa người thường, nên luôn cố chống chọi đến giờ.

Mắt Dương Lăng đầy tơ máu, y trừng đôi mắt đỏ rực, hỏi vẻ lo sợ:

- Có thể... có thể... Có thể còn biện pháp chữa trị không?

Người này đã là hy vọng cuối cùng của y. Trong thời khắc sinh tử, khi y hỏi, khớp hàm cũng va vào nhau lập cập, thân hình cũng run lẩy bẩy.

Điền thần y khẽ cau mày nói:

- Vốn có biện pháp, “Thông Chân Cứu Khổ Đan” của ta chuyên trị thương hàn trong ngoài, là phương pháp kỳ diệu có thể làm cho thoát ngược mồ hôi, chỉ là... chà!

Ông nhìn Dương Lăng với vẻ có lỗi, nói tiếp:

- Tôn phu nhân chạy chữa quá muộn. Thuốc men thì có thể lấy Đương Quy, Xích Thược Dược, mỗi loại một phần năm lạng; Cam Thảo, Ma Hoàng Thảo, mỗi thứ bốn lạng, thêm vào nửa lạng Quan Quế, nghiền nát, lấy rượu nóng đun lên, ba ngày sau lập tức phục hồi, phối với một vài phương thuốc khác là có thể trị dứt, nhưng bây giờ... Thứ cho Điền mỗ mạo muội nói thẳng, tôn phu nhân quyết không qua hỏi hôm nay.

Dương Lăng đầu váng mắt hoa, trời đất tối sầm, y ôm thân thể Ấu Nương mà lảo đảo như sắp ngã khỏi ghế. Điền thần y thấy vậy chấn động, vội ấy trong tay áo ra một thanh ngân châm, thoáng cái đâm vào đỉnh đầu Dương Lăng. Dương Lăng mở to hai mắt, thì thầm gì đó trong họng, hồi lâu mới hít thở được.

Y định thần, cười sầu thảm:

- Không... Không cứu được à?

Huynh đệ họ Điền thấy vợ chồng y tình thâm nghĩa trọng như thế, cũng bất giác thầm cảm động. Điền thần y lặng lẽ rút ngân châm về, đồng tình nói:

- Đại nhân! Về nhà chuẩn bị hậu sự cho phu nhân đi, Điền mỗ vô năng... Chà! Kinh thành to như vậy nhưng có lẽ chỉ có viện trưởng viện Thái Y mấy năm trước là Ngô Thanh Viễn tiên sinh mới có thể có biện pháp, đáng tiếc... bảy năm trước Ngô tiên sinh đã qua đời. Ta hiểu rõ danh y kinh sư như lòng bàn tay, trừ ông ta ra e rằng không ai... không ai khác có thể ra tay cải tử hoàn sinh, trị được bệnh bộc phát tới mức này đâu.

Dương Lăng ngẩn người như khúc gỗ thật lâu. Điền thần y thấy thế kinh ngạc vô cùng, chuẩn bị đâm cho y một châm nữa, con ngươi Dương Lăng mới động đậy, hỏi một câu si ngốc:

- Không cứu được nữa sao?

Điền thần y đáp:

- Không...

Vừa thấy đôi tròng mắt đờ đẫn của y, Điền thần y bất giác chấn động mạnh, nín lặng không nói thêm gì.

Dương Lăng khẽ gật đầu, từ từ ôm Ấu Nương đứng lên, nói với Điền thần y:

- Xin thần y cho ta mượn xe ngựa! Ta phải đi khắp kinh thành tìm danh y, chỉ cần Ấu Nương còn một hơi thở, ta vẫn sẽ còn đi tìm danh y, tìm một phương thuốc cứu sống nàng!

Vốn thứ mà danh y kiêng kị nhất là bước khỏi cửa nhà hắn tìm đến thầy thuốc khác chữa trị. Nhưng huynh đệ Điền thần y lúc này không hề buồn lòng chút nào, họ vội vàng đổi tên đánh xe, giúp Dương Lăng đưa Ấu Nương lên xe. Dương Lăng mang Ấu Nương chạy loanh quanh vài vòng trên phố không mục tiêu, đầu óc rối loạn, rồi y đột nhiên nhớ đến đám hòa thượng Tây dương ở Hộ Quốc Tự, cả người chợt run lên. Thần y, ngự y đều chẳng làm gì được, còn Tây y thì sao?

Trái tim Dương Lăng như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, y vội hạ lệnh:

- Nhanh! Mau tới Hộ Quốc Tự, càng nhanh càng tốt! Chương bảy mươi bốn: Thiên Tử Gọi

------------------------

Xa phu dạ một tiếng, quay ngoặt đầu ngựa. Dương Lăng cúi đầu nhìn Ấu Nương trong lòng mình sắc mặt đã trở nên trắng bệch, áp má vào gương mặt lạnh buốt của nàng, rơi lệ nói:

- Ấu Nương! Cố kiên trì một chút, đừng bỏ tướng công, tướng công sẽ cùng nàng đi tìm thầy thuốc, nàng nhất định phải kiên trì chịu đựng! Ấu Nương! Nàng đã hứa theo ta cả đời mà...

Tuy là một hán tử hào sảng nhưng vừa nghe thế tên xa phu cũng cảm thấy đau xót, gần như rơi lệ. Hắn chớp mắt, quất mạnh roi lên lưng ngựa, quát to “Giá!”, vội vàng thúc xe phóng như bay về Hộ Quốc tự.

Lúc này tên ngự tiền tiểu thái giám lần đầu phụng thánh chỉ xuất cung làm việc dẫn theo bốn Tiểu Hoàng Môn (*), tám tên Cẩm Y vệ, lại có hai đại hán kéo xe gấm trong cung chạy theo, cực kỳ cao hứng chạy tới nhà Dương Lăng. Vừa tới, cả bọn lại thấy cổng đang khoá, đó là lão hàng xóm giúp Dương Lăng khóa cửa.

(*): một chức quan của thái giám.

Tên tiểu thái giám ngẩn người, vậy thì phải làm sao bây giờ? Hồi cung nộp chỉ à? Tiểu thái giám chưa biết làm gì, đành gõ cửa nhè nhẹ lắng nghe. Khi xe ngựa Dương Lăng vội vàng chạy về ngang phố này, hai tên Cẩm Y Vệ thấy xe phóng ào ào bèn cao giọng quát mắng:

- Đứng lại! Nội quan đang phụng chỉ làm việc, người phương nào dám giục ngựa chạy ẩu như vậy?

Dương Lăng đang vô cùng lo lắng, đầu óc mụ mị, chỉ nghĩ tới việc chạy nhanh đi tìm thầy thuốc, vừa thấy có người cản đường, y buột miệng la lên:

- Ai cản xe ta?

Lúc này, tên tiểu thái giám đã dò biết được Dương Lăng mang người thân đi cầu thầy thuốc không có ở nhà. Hắn vừa hậm hực bước ra khỏi cửa nhà lão hàng xóm nọ đã liếc mắt nhìn thấy Dương Lăng, lòng vô cùng mừng rỡ. Hôm qua hắn theo Hoàng Thượng đi đến Đông cung đã từng gặp Dương Thị Độc rồi nên đương nhiên biết mặt mũi y. Tên tiểu thái giám vội vàng hô to:

- Dương Thị Độc! Hoàng Thượng có chỉ, truyền ngài lập tức lên điện yết kiến.

Dương Lăng quýnh tới mức đổ mồ hôi, chẳng suy nghĩ gì đáp luôn:

- Không không! Mau tránh ra. Ta muốn đưa Ấu Nương đi xem bệnh!

Nói rồi y phất tay bảo xa phu:

- Đi mau, đi mau! Lập tức đi Hộ Quốc tự.

Tên xa phu líu cả lưỡi. Thánh chỉ mà cũng dám không tuân, tuy Cẩm Y vệ rất oai phong nhưng đâu có oai phong đến như vậy? Hắn không dám chậm trễ, vội vàng vung roi lên, xe ngựa xuyên qua đám thị vệ đại nội lao thẳng về phía Hộ Quốc tự.

Nhìn xe ngựa lướt đi, dân chúng đang vây quanh ngẩn cả người ra. Tám tên Cẩm Y vệ, bốn tên Tiểu Hoàng Môn đều trơ mắt nhìn tên thái giám truyền chỉ. Bây giờ hắn chính là khâm sai, đương nhiên cả bọn đều phải nghe lệnh hắn.

Tên tiểu thái giám mới mười bốn mười lăm tuổi, tuy niên kỉ còn nhỏ, nhưng hôm nay lại bất chợt bị Hoàng đế phái đi tuyên chỉ. Chuyện gì hắn cũng đã nghĩ qua, chỉ là không ngờ lại gặp phải tình huống này. Ý chỉ truyền tới nơi mà người ta không phụng chỉ, vậy phải làm gì? Việc này dường như... Dường như xưa nay chưa bao giờ nghe nói tới việc như thế này, ta nên hỏi ai đây?

Tên tiểu thái giám truyền chỉ luống cuống muốn khóc. Bây giờ Hoàng Thượng cùng bá quan cả triều đều đang ở kim điện chờ y, mình báo cáo kết quả công tác làm sao được?

Nếu là thái giám lâu năm gặp phải việc ngàn năm khó gặp như thế này thì hoặc vung phất trần lên, quay đầu hồi cung phúc chỉ để hoàng đế nổi trận lôi đình, kể cả trong chốc lát ngài có trừng trị hay diệt cả nhà y cũng không liên quan tới mình. Nếu đụng phải tên nào lòng dạ độc ác, không biết chừng hắn còn ra lệnh một tiếng, lập tức đám Cẩm Y vệ sẽ giết ngay tên bầy tôi dám kháng chỉ tại chỗ.

Nhưng tên tiểu thái giám này hoàn toàn không có chủ định, hắn chỉ nghĩ tới việc bắt Dương Lăng mang về, bằng không hoàng đế nổi giận, chưa biết chừng cái mông của hắn còn bị đánh đòn. Hắn lượn hai vòng tại chỗ, vung tay lên nói vẻ nghẹn ngào bi phẫn, tiếng kêu the thé:

- Đi! Đuổi theo Dương thị độc!

- Dạ!

Nghe khâm sai lên tiếng, đám Tiểu Hoàng Môn, Cẩm Y Vệ cùng giật cương ngựa, hai đại hán kéo xe gấm chạy theo tên thái giám truyền chỉ đuổi theo Dương Lăng.

Khắp con đường lớn, người đi đường đang lui tới tấp nập. Đám sĩ tử vừa mới thi xong kỳ đầu chuẩn bị thi tiếp buổi chiều thấy cảnh lạ lùng này đều chạy theo hỏi han những người đang bám theo sau tên tiểu thái giám xem náo nhiệt. Hiểu chuyện, bọn họ không khỏi vừa sợ hãi vừa buồn cười, thấy việc kháng chỉ của Dương Lăng thật sự quá hoang đường, nhưng đáy lòng cũng thầm bội phục dũng khí của y.

Một vài đại cô nương, tiểu cô nương càng cảm động tới nước mắt lưng tròng. Đàn ông si tình như vậy, dù trên sân khấu kịch cũng không tìm thấy được. Chỉ trong chốc lát, tin lạ về việc lục phẩm thị độc ôm vợ cầu thầy, ngay cả thiên tử hạ chiếu mà cũng dám kháng chỉ lan truyền khắp kinh thành với tốc độ kinh người.

Tên tiểu thái giám đuổi tới Hộ Quốc tự, vừa kịp nhìn thấy Dương Lăng bế người lảo đảo đá tung cửa bước ra, vài người nước ngoài mũi cao mắt lam thập thò ở phía sau, ngón tay đang múa loạn trước ngực và trên trán (BT: ý là làm dấu thánh).

Thì ra lúc đó y thuật Tây Dương chỉ khá là sở trường về ngoại khoa phẫu thuật. Vì những thứ dụng cụ như kính hiển vi, ống nghe bệnh đều chưa được phát minh nên y học về nội khoa thua xa so với ngoại khoa. Đám thầy thuốc này sở trường thuật mổ sọ, trích huyết, rửa ruột, chứ những thứ sốt cao đột ngột như Ấu Nương thì hoàn toàn bó tay.

Đám thầy tu này cũng đem theo vài dược vật trị cảm mạo của Tây Dương tới đây. Nhưng kỳ thật hiệu quả của thuốc cũng không tốt, hơn nữa vài năm qua cũng đã dùng hết rồi, do đó cũng lực bất tòng tâm với bệnh của Ấu Nương.

Tiểu thái giám đuổi kịp Dương Lăng, hưng phấn tới mức khuôn mặt đỏ rực lên, hắn vội vàng chạy tới vươn tay giữ chặt Dương Lăng cầu khẩn:

- Dương đại nhân! Hoàng Thượng đang ở kim điện chờ ngài. Ngài... ngài trước hết đưa quý nương tử đến lang trung để người ta chăm sóc còn chúng ta đi gặp Hoàng Thượng sớm đi.

Dương Lăng cười thê lương:

- Gặp Hoàng Thượng làm gì? Thăng quan phát tài à? Ngươi hồi cung phúc chỉ đi, ta phải đưa Ấu Nương về nhà.

Y chua xót nhìn Ấu Nương nói tiếp:

- Từ khi đến kinh thành tới nay, ta vẫn không hề chăm sóc cho nàng. Hằng ngày vẫn để nàng thui thủi một mình ở nhà, bây giờ ta phải đi về chăm sóc nàng, trở về cùng nàng.

Bây giờ Dương Lăng đã không còn tiếc gì nữa. Đừng nói sinh mạng y căn bản không còn lâu nữa, cho dù có thể sống lâu trăm tuổi nhưng không có Ấu Nương bên người thì còn ý nghĩa gì nữa? Lúc này mặt trời đã lên cao, nhưng lòng y lại lạnh tới xương tủy.

Tiểu thái giám chỉ ngây người đứng đực ở cửa, ngẫm nghĩ một lát rồi lại muốn đuổi theo. Mấy tên Cẩm Y thị vệ trong cung thấy đám người vây xem quá nhiều, không kìm được vội tới bên cạnh tên tiểu thái giám thấp giọng khuyên:

- Công công, hồi cung phúc mệnh đi! Nếu cứ tiếp tục đuổi theo như vậy thì còn gì thể diện hoàng gia chứ?

Tiểu thái giám hoang mang lo sợ, nhìn trời thấy đã gần trưa, sợ hoàng đế đợi lâu sốt ruột nên hắn bèn giậm chân, hổn hển:

- Đi, hồi cung! Lập tức hồi cung phúc mệnh!

Hắn để chiếc xe gấm trống không cho hai tên vạm vỡ từ từ kéo về, còn mình cùng những người khác quất ngựa như bay, lao nhanh về phía hoàng thành.

***************************************

Vua Hoằng Trị cùng bầy tôi lại tiếp tục bàn luận việc nước. Thấy thời gian triều sớm cũng sắp hết, ông cho văn võ bá quan trở về, chỉ lưu lại đại học sĩ Cẩn Thiên điện Lý Đông Dương, đại học sĩ Hoa Cái điện Tạ Thiên, đại học sĩ Vũ Anh điện Lưu Kiện, thượng thư bộ Lễ Vương Quỳnh và Kiến Xương hầu Trương Duyên Linh dùng bữa trong cung.

Hoằng Trị muốn mượn cơ hội ăn chung để làm dịu hiềm khích giữa đám hoàng thích và mấy vị đại học sĩ. Dù sao nếu để đám cựu thần rất được nể trọng này cứ tranh tranh đấu đấu mãi với đám hoàng thân thì quả là một việc khiến cho người ta đau đầu.

Ông đã thầm bày mưu đặt kế để lát nữa Lưu Kiện, Lý Đông Dương cầu tình cho Trương Hạc Linh trong bữa tiệc, sau đó trước mặt Trương Duyên Linh ông sẽ phóng thích Thọ Ninh Hầu, đồng thời mời họ cùng khảo sát học vấn của Dương Lăng. Có được mấy vị này đồng ý, ông sẽ ban một chức quan cho Dương Lăng, lúc đó sẽ không còn ai dám phản đối nữa. Vì là tiệc nhà, Hoằng Trị lưu tâm gọi cả hoàng hậu cùng em trai của nàng ra dùng bữa.

Hôm nay thượng triều, Trương Duyên Linh nơm nớp lo sợ trong lòng. Thấy thái độ Hoàng Thượng hiền hoà, còn mời cả hoàng hậu tỷ tỷ ra ăn cùng, lúc này hắn mới định thần. Hôm qua mẹ của hắn là Kim phu nhân về đến nhà lập tức kinh hoàng tìm hắn, nói cho hắn biết việc Thái tử bị đánh. Trương Duyên Linh nghe xong cũng giật bắn cả người. Không dám chậm trễ, hắn lập tức chạy tới phủ của ca ca truy vấn xem nguyên do của vụ ẩu đả ngày ấy.

Lúc đó Nghiêm Khoan đang gục trên giường giả chết, nghe báo Nhị Hầu gia tới, tưởng là người cùng phe nên vội vàng khom lưng, nhảy tưng tưng như tôm tới trước mặt Hầu gia kêu khóc, kể lại toàn bộ sự tình diễn ra, cầu hắn phân xử cho mình.

Kiến Xương hầu nghe gã nói xong, liền biết tên tiểu thư sinh bị hắn đánh chính là Thái tử chẳng sai. Trương Duyên Linh không khỏi ngứa cả răng, ca ca vào tù hoàn toàn là vì tên tặc tử này sinh chuyện. Gã còn dám xúi giục mình ra mặt, nếu bởi vậy mà Trương gia mất thánh quyến thì chém đầu gã cũng chẳng oan.

Trương Nhị lão gia nghe Nghiêm Khoan khóc lóc kể lể xong, không nói hai lời tung một cú thỏ đá ưng. Nghiêm Khoan lập tức kêu thảm một tiếng, bò lăn ra đất giãy dụa. Người ta nói cháu ngoại trai giống cậu, hôm nay cậu cũng học theo cháu ngoại trai. Cú đá của Kiến Xương hầu chuẩn vô cùng, đá thẳng vào nơi mà lần trước Chu Hậu Chiếu đạp trúng. Gân đùi Nghiêm Khoan lại bị trúng thêm một cước, lập tức kêu thảm một tiếng, lăn lộn trên mặt đất, đau đến mức nghẹn thở, ngất đi.

Tiểu muội của gã thấy thế lao tới khóc sướt mướt như mưa, cũng không biết một cước này của Kiến Xương hầu đã cắt mất hương hỏa của Nghiêm gia hay chưa. Trương Duyên Linh xanh mặt, chỉ vào sủng thiếp của ca ca hắn lạnh lẽo nói:

- Khóc gì mà khóc? Nếu đồ khốn đó mà chết đi thì cuộn cho gã một chiếc chiếu rồi ném ra vùng hoang dã cho chó ăn! Nếu gã mạng lớn, bảo gã sau này nhún nhường lại một chút cho ta. Buộc cái đuôi vào mông cho chặt, đừng để gã ra ngoài gây chuyện nữa.

Còn nữa, tống tờ văn tự gây rắc rối đó về tay cô ả kia càng sớm càng tốt! Mẹ nó! Dám đoạt nữ nhân của Thái tử, cụ nội nó, ngươi hiềm mình sống quá lâu à!

Hắn trợn mắt, quay về đám gia nhân đang câm như hến đứng ở đầu sân lớn tiếng quát:

- Câm miệng hết cho ta, kẻ nào đem việc này hé ra ngoài nửa lời, ta cắt lưỡi kẻ đó!

Trương Duyên Linh đánh Nghiêm Khoan xong, lại ra lệnh cho đám thợ suốt đêm gấp rút dỡ bỏ mấy căn nhà vừa mở rộng chiếm dụng đường đi và nhà dân, để miễn bị kẻ khác bưới móc. Phải làm xong ngay sáng sớm mới có hiệu quả.

Lúc này hắn thấy Hoằng Trị nói nói cười cười, cũng chưa dám đề cập tới việc huynh trưởng bị giam. Dần dần hắn yên tâm, cũng bắt đầu theo ý mà nói theo, nhất thời khách chủ vui vẻ, không khí dần dần ấm lên.

Đang lúc bọn họ trò chuyện, tên tiểu thái giám vội vàng chạy về, quỳ sụp xuống đất, khóc thút thít, bẩm:

- Hoàng Thượng! Nô tài có tội, nô tài làm việc không xong.

Hoằng Trị nghi hoặc hỏi:

- Chuyện gì mà làm không xong? Ngươi nói lại xem nào!

Tên tiểu thái giám không dám đứng dậy, vẫn quì tại chỗ bẩm:

- Nô tài đi truyền chỉ. Dương Thị Độc nghe xong ý chỉ, lại nói là phu nhân trúng phải bệnh nặng, phải đưa nàng đi khắp nơi cầu thầy, bảo nô tài về cung bẩm báo trước. Hắn... hắn kháng chỉ không tuân, nô tài không có biện pháp, đành phải trở lại một mình.

Đám thần tử trong bữa tiệc nghe vậy cùng biến sắc. Dương Lăng ăn tim gấu mật beo à? Đừng nói thê tử y bị bệnh nặng, cho dù lúc đó trời có sụp xuống, tiếp được thánh chỉ cũng phải lập tức đi yết kiến ngay. Việc hôm nay quả thực là chưa từng thấy, há Hoằng Trị có thể không nổi giận?

Cho dù rộng lượng vị tha, nhưng nghe xong những lời này sắc mặt Hoằng Trị cũng sa sầm xuống. Ông đặt mạnh đôi đũa ngà voi xuống bàn đánh cộp một tiếng, mấy vị đại thần thấy thế hấp tấp đứng dậy sụp lạy, quì dài trên mặt đất, không dám thở mạnh.

Hoằng Trị cả giận bảo:

- Giỏi cho Dương Lăng! Lá gan gã to lắm, dám can đảm kháng chiếu!

*********************************

Về đến nhà, Dương Lăng ôm Ấu Nương xuống xe. Vừa mới đi đến cửa, y chợt nghe một thanh âm trầm bổng:

- Dương thị độc! Quả là vừa khéo, tại hạ vừa mới tiến kinh, đang muốn đăng môn bái phỏng, không nghĩ tới... Ủa? Đây là... A! Tôn phu nhân làm sao vậy?

Dương Lăng quay đầu nhìn lại. Y thấy một lão nhân khuôn mặt quắc thước đi tới trước mặt, kinh ngạc nhìn Ấu Nương trong lòng mình. Dương Lăng ngơ ngác nhìn hắn hồi lâu, nhất thời thần trí vẫn chưa tỉnh lại. Lão nhân đó thấy y tinh thần hốt hoảng, vội nhắc:

- Tại hạ là thương gia mua bán thuốc Ngô Kiệt ở Kê Minh Dịch đây mà, đại nhân còn nhớ chứ?

Vì gần đó còn có một số dân chúng đang đi theo Dương Lăng xem náo nhiệt, nên Ngô Kiệt không dám nói tới thân phận chính thức của mình, chỉ dùng thân phận nhà buôn nhắc nhở y. Dương Lăng nghe xong, chợt cảm thấy rất quen thuộc, y bất giác gật đầu nói:

- Nhớ, ngươi là Ngô Kiệt.

Ngô Kiệt tần ngần nhìn Hàn Ấu Nương, hỏi:

- Dương đại nhân, tôn phu nhân bị... làm sao vậy?

Dương Lăng cười buồn bã, đáp:

- Ấu Nương bị bệnh thương hàn, bệnh nặng không thể chữa được.

- A?

Thiên hộ Cẩm Y Vệ Ngô Kiệt giật mình nói:

- Bệnh thương hàn ư? Nhưng thật ra tại hạ có một phương thuốc, đại nhân có muốn thử...

Dương Lăng khanh khách cười, thần sắc kỳ dị hỏi lại:

- Ta đã chữa chạy khắp các danh y trong kinh thành. Ai cũng bó tay, ngươi trị được sao?

Ngô Kiệt đỏ mặt, đáp:

- Tại hạ chỉ biết sơ về dược lý, nói đến chữa bệnh... Thật sự là xấu hổ, nhưng phương thuốc là do bá phụ Ngô Thanh Viễn truyền xuống, nghe nói chữa bệnh thương hàn rất tốt...

Vừa nghe nói tới mấy chữ “Ngô-Thanh-Viễn”, bảy hồn sáu phách của Dương Lăng đột nhiên trở về cơ thể. Y sải bước chặn ngay trước mặt Ngô Kiệt, trợn tròn mắt quát:

- Ngươi nói ai? Ngô Thanh Viễn sao? Viện trưởng Thái Y viện Ngô Thanh Viễn à?

Ngô Kiệt giật bắn cả người, lui lại một bước, lập cập đáp:

- Chính... Chính là ông ấy! Đúng là bá phụ ta từng giữ chức viện trưởng Thái Y viện, chỉ là bảy năm trước đã qua đời. Đại nhân nghe nói về ông ta rồi à?

Dương Lăng hớn hở, y ngửa mặt lên trời hét to một tiếng, rồi vội vàng bảo Ngô Kiệt:

- Mau mau, mau vào phòng! Nói cho ta biết phương thuốc của ngươi!

...

Cửa sổ phòng Dương Lăng đóng chặt. Ngô Kiệt và huynh đệ họ Điền đều đang đứng trong gian nhà chính, thần sắc khẩn trương đợi chờ tin tức trong phòng.

Ngô Kiệt chép lại phương thuốc xong, lập tức gọi tên xa phu đi lấy thuốc, xa phu bèn chạy về Hạnh Lâm Cư. Anh em họ Điền nghe nói phương thuốc này do diệu thủ thần y Ngô Thanh Viễn ngày xưa lưu lại, có thể trị được bệnh thương hàn cấp tính bèn lập tức tự mình hốt dược liệu tốt nhất, rồi cùng đến xem kết quả ra sao.

Phương thuốc trị bệnh thương hàn của Ngô Kiệt gọi là ”Hợp Chưởng Cao”, chuyên trị bệnh thương hàn cấp tính dẫn tới bất tỉnh nhân sự. Thuốc này không được uống, chỉ dùng Xuyên Ô, Thảo Ô, Ban Mao, Ba Đậu, Tế Tân, Hồ Tiêu, Phèn Chua, Can Khương, Ma Hoàng theo phân lượng nhất định mà điều chế, nghiền thành bột. Dùng dấm quết thành viên, cặp vào nách, khoeo chân, đốt tay người bệnh. Mặt khác, cho một người nằm phủ lên trên, hai đôi bàn tay đặt áp vào nhau, tứ chi tương hợp, đắp chăn thật dày, cho đến lúc cả người đẫm mồ hôi, lại dùng nước nê hoàng tẩy sạch là khỏi.

Trên người Dương Lăng đắp ba tầng chăn bông dày, hai tay nắm lấy đôi bàn tay lạnh buốt của Ấu Nương. Nóng quá, y đổ mồ hôi dầm dề, vì đang áp vào má Ấu Nương nên những giọt mồ hôi to tướng từ trên đầu y lăn xuống, rơi lên trán Ấu Nương.

Cảm thụ nhịp hô hấp của nàng rất khẽ, trong lòng Dương Lăng không ngừng thầm gọi:

- Ấu Nương, tỉnh lại! Ấu Nương, nàng nghe được chứ? Nhất định phải sống lại, nàng hứa sẽ theo tướng công cả đời mà...

Bên dưới, dường như Ấu Nương nghe được tiếng thầm thì trong lòng hắn, rất lâu sau đó, nàng chợt phát ra một tiếng rên rỉ như có như không...

*********************************

Trong hoàng cung, Hoằng Trị đang chắp tay đi đi lại lại, hồi lâu vẫn chưa nói lời nào. Trương Duyên Linh không nhịn được, cả giận bẩm:

- Hoàng Thượng ân sủng với Dương Lăng đến thế, y lại càn quấy như vậy, không xem vua ra gì, đại nghịch bất đạo, thật là trái đạo lý. Hoàng Thượng, phải lập tức chém đầu y, làm gương cho thiên hạ!

Thượng thư Vương Quỳnh cũng giận đến tóc bạc dựng cả lên, tâu:

- Thiên địa quân thân sư (trời - đất – vua - cha - thầy)! Uổng cho Dương Lăng đọc rất nhiều sách thánh nhân, đến cả loại đạo lý này cũng không hiểu. Không giết người này, uy nghiêm triều đình còn đâu nữa. Bệ hạ, xin hạ chỉ đi.

Bọn người Lưu Kiện tuy có lòng tiếc rẻ nhân tài, nhưng lần này Dương Lăng gây chuyện thật quá lớn. Thiên tử có chiếu mà không phụng, đó là tội giết cả cửu tộc. Ngay cả giết một mình y cũng xem như là nhẹ nhàng cho y rồi, họ còn làm sao mở miệng xin bệ hạ khai ân chứ?

Lý Đông Dương thấy bước chân hoàng đế Hoằng Trị càng lúc càng chậm lại, hai hàng lông mày từ từ nhíu chặt hệt như muốn hạ chỉ. Trong lòng lão vô cùng căng thẳng, chợt nhanh trí nghĩ ra một cách, lúc này lão cũng chẳng còn tâm trí xem xét liệu cách đó có hữu hiệu hay không, lập tức quì sụp xuống, vô cùng phẫn nộ bẩm:

- Hoàng Thượng! Đừng do dự nữa, thần cũng nghĩ rằng Dương Lăng đáng chết. Bệ hạ triệu hắn tiến cung, thánh chiếu đã ban, đó là thứ trọng yếu nhất trên đời này. Đừng nói thê tử hắn đang mắc bệnh nặng, cho dù nhà y có cháy cũng phải lập tức tiến cung, sao dám trái lẽ cương thường, không phân nặng nhẹ như thế?

Lý Đông Dương lại chầm chậm thốt từng từ:

- Hơn nữa, nếu người bị bệnh là cha mẹ y thì còn châm chước được, ít nhất còn được xem là có hiếu. Nhưng thê tử là cái quái gì? Thê tử mà mất đi, cưới một người khác là được, đại trượng phu kiến công lập nghiệp, lo gì không có vợ đẹp thiếp xinh. Tên Dương Lăng này có vợ thì quên cha, có cha lại quên vua, người ta nói: thê tử như y phục...

Lưu Kiện, Tạ Thiên nhất thời nghe mà ngơ ngác chẳng hiểu gì. Lý Đông Dương chính là một đại gia nổi tiếng của văn học đương thời, sao hôm nay nói chuyện lại thô lỗ, ngang ngược như thế? Lại nữa, rõ ràng bệ hạ có ý yêu tài, là vì chuộng tài nên mới chần chừ, khó ra quyết định xử trảm; ngươi không thương tiếc kẻ hậu bối thì thôi, sao lại hùa theo bỏ đá xuống giếng?

Hai người bọn họ còn chưa hiểu được thâm ý của lão thì Lý Đông Dương đã đứng thẳng người lên, mồm miệng leo lẻo, nước bọt bắn bay tung tóe, chê bai thê tử đến mức đừng nói là y phục, ngay cả quần lót cũng không  bậc mẫu nghi-bằng. Lão đang mắng chửi hăng say thì Trương hoàng hậu   đã mặt ngọc đỏ bừng, đùng đùng nổi-thiên hạ, người đứng đầu lục cung  giận. Bà vỗ bộp lên bàn, mày liễu dựng ngược, mày phượng tròn xoe, cất giọng trong trẻo mắng:

- Lý Đông Dương! Ngươi câm mồm cho ta! Chương bảy mươi lăm: Ân Uy Đều Dùng

------------------------

Hoàng đế Hoằng Trị có phần sợ vợ, tuy nói rằng việc đại sự không thể hồ đồ nhưng xưa nay ông rất sủng ái hoàng hậu; lúc này thấy bà nổi giận, ông cũng không khỏi giật bắn cả người. Trương hoàng hậu căm tức nhìn Lý Đông Dương, thù mới hận cũ dâng lên trong lòng, cặp mắt như sắp phun lửa.

Ngày xưa khi mình chưa sinh hoàng tử, đám người này bèn cả ngày lên triều yêu cầu hoàng đế nạp phi. Hôm qua Lý Đông Dương còn dâng sớ hạch tội anh mình khiến anh ấy phải vào ngục. Hôm nay lão lại dám nhân chuyện của Dương Lăng mà ở trước mặt mình chỉ gà mắng chó, như thế còn thể thống gì nữa?

Trương hoàng hậu cất giọng lạnh như băng:

- Hoàng Thượng tuyển hiền tài cần chú trọng người có đức hạnh. Vợ kết tóc của Dương Lăng đang lâm trọng bệnh, tính mệnh nguy trong sáng tối, nếu lúc này Dương Lăng tiếp thánh chỉ, vứt bỏ thê tử mà vào triều gặp vua thì hắn là người như thế nào?

Đó là kẻ táng tận lương tâm, thiên địa không dung! “Thiên địa quân thân sư” hử? Hừ, các ngươi mà cũng hiểu được “thiên địa quân thân sư” sao! Một kẻ không rèn luyện đạo đức, bất kính với thiên địa, không xem nặng tình ý lại có thể là người quân tử trung hiếu nhân nghĩa được ư? Lúc đó mà hắn thượng triều gặp vua, là hắn kính sợ quân vương hay tham vinh hoa phú quý?

Trương hoàng hậu vừa nói vừa không khỏi quắc mắt nhìn tên đệ đệ bảo bối. Tên tiểu đệ thật sự hồ đồ, đám đại học sĩ quen trò ném đá giấu tay, thế mà hắn lại không nhìn ra, còn nhắm mắt hùa theo.

Trương hoàng hậu đổi giọng, quay sang Hoằng Trị đế dịu dàng nói:

- Bệ hạ! Thần thiếp biết bệ hạ tức giận Dương Lăng dám không tuân thánh chỉ. Nhưng điều này cũng nói rằng bệ hạ có tuệ nhãn tinh tường đã nhận biết được nhân tài. Từ xưa tới nay, có mấy hiền thần mà không xúc phạm tới long nhan chứ? Dương Lăng không tham quyền, không màng lợi, trọng tình trọng nghĩa, rất có phong phạm của bậc hiền giả ngày xưa.

Thưở xưa, Tống Hoằng thời Hán Quang Vũ Đế không phải cũng lấy lý do là “Tào khang chi thê bất hạ đường” (1) mà trái thánh ý sao? Thời Đường Thái tông có vợ của Phòng Huyền Linh (2) dám kháng chỉ ngay giữa triều đình, hai vị minh quân này cũng không hề bắt tội. Có thể thấy được chỉ có vua thánh ra đời, mới có bực hiền thần như vậy xuất hiện thôi.

Lý Đông Dương khẽ nhúc nhích cái chân đang quì ê ẩm, miệng chép chép như đang nếm một món ngon: “Ừm! Ta rất thích nghe những lời này của Hoàng hậu nương nương. Xem ra phụ nữ vẫn có người đọc sách, bằng không làm sao nói được những lời như thế này.”

Trương Duyên Linh bị tỷ tỷ trợn mắt một hồi, nhất thời mù tịt mãi lúc này mới hiểu được: “Ôi, hóa ra mấy lão gia hỏa đang mắng chửi bóng gió, ngầm khuyên Hoàng Thượng đừng có sủng ái chánh cung. Hừm, đám đọc sách này thật đúng là lòng dạ ngoằn ngoèo quá mà!”

Thông suốt vấn đề, Trương Duyên Linh lập tức hắng giọng bẩm:

- Hoàng Thượng! Hoàng hậu nương nương nói rất đúng, không nên giết Dương Lăng!

Hoằng Trị bị lời nói hoàng hậu lay động, ngẫm lại hoàng hậu nói cũng có lý. Nếu Dương Lăng thật sự bỏ cả người vợ kết tóc, bất chấp sinh tử của nàng mà vào triều yết kiến mình thì sau này mình còn dám dùng người như vậy không?

Đang suy nghĩ bỗng nghe quốc cữu hô lớn như vậy, ông không khỏi lấy làm lạ hỏi:

- Chẳng phải Kiến Xương hầu mới rồi đề nghị xử phạt hắn ở mức cao nhất, thông báo cho cả thiên hạ biết ư? Sao giờ lại nói là không giết nữa?

Kiến Xương hầu đỏ mặt, đáp:

- Việc này... việc này..., vi thần cũng vừa mới hiểu ra việc có nặng có nhẹ. Đương nhiên việc vua quan trọng, việc nhà không bằng; nhưng gặp vua cũng không phải là việc gấp, cứu người mới là việc không thể trì hoãn được, việc này...

Lưu Kiện nghe hắn vất vả nói mãi mà không ra lời, không kìm được vội xen vào:

- Hoàng hậu nương nương nói đúng! Hoàng Thượng là vua nhân ái mới có hiền thần tài đức xuất hiện. Dương Lăng làm được như vậy chính là nhờ công bệ hạ giáo hoá, thật là may mắn!

Lời ngọt bùi tai, tuy Hoằng Trị biết tâm tư của đám cựu thần nhưng vẫn không kìm được phải cười khẽ. Ông về ngồi lại trên án suy tư một lát, rồi cười ha ha phán:

- Đứng lên đi, đứng lên đi! Bị tên Dương Lăng náo loạn làm mất cả hứng thú của trẫm và các ái khanh. Tới đây, tiếp tục uống rượu! Việc của Dương Lăng... tạm thời gác lại, ngày mai bàn sau đi.

Hoàng đế muốn gác lại bàn sau, bằng vào tài nghiêng theo chiều gió của đám thần tử, nếu không phải kẻ mù, có ai mà không hiểu rõ ý hoàng đế chứ? Không lập tức bắt ngay mà lại bảo là ngày khác bàn sau, bàn cái gì bây giờ? Là bàn xem nên đem xe gấm đi bắt hắn hay là vác gông xiềng đi bắt hắn ư? Bọn Lưu Kiện yên tâm, vui mừng vô kể. Lúc này Trương hoàng hậu thấy mình đánh hòa được với Lý Đông Dương một ván nên cũng dương dương tự đắc. Mọi người ăn uống vui vẻ, nhất thời xuất hiện một cục diện tốt đẹp.

*********************************

Dương Lăng ôm chặt thân thể mềm oặt gần như không chút sức sống của Ấu Nương. Đang lúc y lo âu vạn phần lại chợt nghe tiếng Ấu Nương rên rỉ, lập tức cảm thấy như nghe được nhạc tiên. Y phấn khởi tới mức tiếng gọi cũng run run:

- Ấu Nương, nương tử?

Qua hồi lâu, Ấu Nương mới cố lên tiếng đáp lời. Dương Lăng mừng rỡ, xiết thật chặt bàn tay đầy mồ hôi của nàng. Thấy Ấu Nương mỏi mệt không chịu nổi, vẫn chưa mở mắt được, y sợ nàng lại mê đi như cũ, vội ghé vào sát tai Ấu Nương gọi nhỏ:

- Ấu Nương, nàng mau tỉnh lại nhanh lên! Nàng thích tướng công ôm nàng nói chuyện, chờ khi nàng khỏe hơn, mỗi tối tướng công đều ôm nàng, đều nói chuyện với nàng, được không?

Nương tử yêu dấu của ta, tướng công không nỡ xa nàng đâu. Không phải hai ngày trước nàng từng nói là muốn mua táo để trồng trong viện hay sao? Hôm nào hai ta cùng đi mua, cùng trồng táo trong viện. Nàng nói muốn nuôi gà, vậy chúng ta nuôi gà. Đúng rồi, còn nuôi thêm con chó giữ cửa nữa, có gà bay chó nhảy mới đủ náo nhiệt chứ!

Ấu Nương, kinh thành không so được với nông thôn. Nàng chỉ một mình ở nhà, lại không có gì tiêu khiển. Đợi khi nàng khỏe mạnh, ta sẽ cùng nàng sớm sinh một... à không, sinh ra một đám tiểu bảo bối, để nàng chẳng thể rảnh rỗi nữa, nàng thích không? Nàng phải sống mới có thể giúp tướng công làm những việc này, bằng không tướng công sẽ cưới một cô vợ tuyệt đẹp khác, cùng cô ta nói chuyện phiếm, cùng cô ta trồng cây, cùng cô ta nuôi...

- Không... Không được...

Thân thể Hàn Ấu Nương bỗng nhúc nhích, rồi đột nhiên nàng rên rỉ thốt. Dương Lăng khựng lại, y đờ đẫn hồi lâu mới nhấc đầu lên khỏi mái tóc ẩm ướt của Ấu Nương, dán mắt hớn hở nhìn nàng.

Dưới ngọn đèn, hai má Ấu Nương vẫn đỏ ửng màu bệnh tật, chóp mũi lấm tấm những giọt mồ hôi nhỏ, nhưng những đốm đỏ nơi cổ đã hoàn toàn biến mất. Loại thần sắc nhợt nhạt cũng không còn thấy nữa. Đôi mi thật dài của nàng rung rung hồi lâu, khẽ mở mắt ra rồi lại mệt mỏi nhắm chặt, rên rỉ nói:

- Tướng công, người ta... mệt quá, không muốn mở mắt.

Dương Lăng luôn miệng an ủi:

- Được được, không mở mắt thì không mở mắt! Nàng được như vậy là tốt rồi, như vậy là tốt rồi.

Trong phòng vô cùng yên tĩnh, chỉ nghe tiếng tim đập thình thịch của hai người. Dương Lăng cảm thấy bàn tay nhỏ bé của Ấu Nương dần dần ấm lên, áp mặt vào trán nàng đã cảm thấy hơi nóng. Y không khỏi thở phào một hơi.

Qua hồi lâu, Ấu Nương mới thở mạnh một chút, nàng nhúc nhích thân thể mềm mại, yết ớt nói:

- Tướng công, nóng quá...

Dương Lăng vội đáp:

- Đừng nhúc nhích, cẩn thận không lại trúng gió. Mớ thuốc còn chưa tan hết mà.

Ấu Nương ôn thuận ừm một tiếng, thở hào hển nói:

- Tướng công... Có thể nhẹ một chút không, Ấu Nương thở... thở không nổi.

Dương Lăng nhìn lại, mới biết Ấu Nương bị mình đè tới mức thở không nổi, vốn y còn tưởng Ấu Nương vẫn chưa đủ khí lực để nói chuyện. Dương Lăng vội vàng chống cùi chỏ xuống, khẽ khàng nhướn người lên, Hàn Ấu Nương thở gấp một lát, từ từ mở mắt. Nàng ngắm nhìn gương mặt đầy mồ hôi của Dương Lăng một lúc rồi âu yếm bảo:

- Tướng công, Ấu Nương cảm thấy khỏe nhiều rồi, chàng... chàng nghỉ ngơi đi.

Dương Lăng ừm một tiếng, nghiêng người qua một bên nằm dựa vào nàng. Ấu Nương nhắm mắt lại, một chút sau lại nói khẽ:

- Tướng công, Ấu Nương muốn nghe chàng nói chuyện nữa.

- Ừm!... Nói... Nói gì nhỉ? Thường khi đều là lúc ta ngủ, nàng ghé tai ta nói chuyện mà.

Dương Lăng ngơ ngẩn đáp.

Ấu Nương hơi thẹn thùng giục:

- Nói như... vừa rồi ấy. Ấu Nương chưa từng nghe... Tướng công nói như thế đi, thiếp thích nghe lắm...

***************************

Câu chuyện Dương Lăng kháng chỉ cứu vợ vừa lan truyền khắp thành Bắc Kinh, trong toàn kinh thành vô luận cao thấp giàu nghèo, tất cả đám ”Y phục” (ý nói phụ nữ như y phục) đều đứng về phía Dương Lăng, nhao nhao ủng hộ.

Những quan chức trong kinh cũng chia thành hai phái, tranh luận mặt đỏ tía tai mãi vẫn không phân thắng bại. Kết quả là sau buổi thiết triều cùng ngày, gã đại thần nào ở nhà có con gái thì lập tức bị oanh tạc đến mệt lả, tối đến lại bị thê thiếp ném gối vào mặt tới tấp, kẻ nào lập trường không kiên định thì lập tức phất cờ trắng, quyết định giả câm giả điếc về việc này. Phe chống đối họ Dương lập tức trở nên người đơn thế cô.

Tin tức Hoàng Thượng không lập tức hạ chỉ truy bắt Dương Lăng lại được lan truyền. Một vài vị ngôn quan có giác quan thứ sáu bắt đầu đứng về phía Dương Lăng, tra cứu lệ cũ, tham khảo hồ sơ, bắt đầu luyện võ mài thương, tìm những lý lẽ để biện minh cho hành vi của Dương Lăng.

Đám sĩ tử trong kinh cũng thảo luận ồn ào. Có tên sĩ tử Giang Tây là Nghiêm Tung còn viết một bài phú dài lan truyền khắp nơi. Trước hết gã tô vẽ hoàng đế Hoằng Trị rực rỡ như Nghiêu Thuấn tái thế, lại trích dẫn kinh điển, trắng trợn tán dương Dương Lăng đã được bệ hạ giáo hoá, vua sáng tôi hiền. Đám người khác hùa theo, như thể vua mà không thế thì không phải là minh quân, thần mà chẳng vậy thì chẳng phải trung thần.

Bản thân Dương Lăng cũng bận tới mức không thể dứt ra được. Y chỉ có thể viết một phong thư, bảo Ngô Kiệt mang về Kê Minh mời phụ tử họ Hàn lập tức tiến kinh. Y nghĩ lần kháng chỉ này không chết cũng phải ngồi tù. Bệnh Ấu Nương nặng như thế, làm sao chịu được đả kích này nên y hoàn toàn không dám kể với nàng, chỉ mong sao cha con họ Hàn có thể sớm tới kinh thành, Ấu Nương sẽ được chăm sóc chu đáo.

Thấy Ấu Nương vừa bệnh xong, thân thể còn suy yếu, Dương Lăng bèn đi mua một nha hoàn trẻ tuổi về chăm sóc nàng. Khi y tới chỗ quan phủ đăng ký giấy tờ chủ tớ thì đám người nha môn từ chủ bộ tới nha dịch đều chạy ra cửa vây tròn nhìn ngắm y. Nhiều ánh mắt kiểu “Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn” (3) nhìn y đầy vẻ luyến tiếc.

Sáng sớm hôm sau, lần đầu không cần Ấu Nương đánh thức, Dương Lăng đầy bụng tâm sự đã dậy rất sớm. Y thu dọn xong xuôi, lưu luyến nhìn thoáng qua Ấu Nương còn đang ngủ say, lặng lẽ gọi tiểu nha đầu Vân Nhi đến dặn dò một hồi, rồi chạy tới Tử Cấm thành.

Vết thương trên mông Dương Lăng vẫn chưa lành, sợ tới muộn nên y phải đi xe. Như thường lệ khi đi tới cửa hông, thị vệ Cấm Cung xét yêu bài của y, rồi cười lạnh nhạt bảo:

- Dương đại nhân! Nội cung truyền ý chỉ, nếu Dương đại nhân tới thì không cần phải đi Đông cung thị độc mà quì ngoài ngọ môn chờ thánh dụ là được.

Dương Lăng tim đập thình thịch, chắp tay đáp:

- Dạ, đa tạ tướng quân!

Y tập tễnh đến trước cửa cung. Một đám văn võ đại thần người mặc triều phục, tay cầm hốt ngà đang đứng chờ cửa cung mở để vào. Thấy một tên quan hàm lục phẩm đi tới, cả bọn không khỏi lộ vẻ kinh ngạc, đều đưa mắt tò mò nhìn y.

Dương Lăng nhìn thẳng phía trước, đi đến cửa cung nghiêm chỉnh quỳ xuống, cúi đầu không nói gì.

Đá phiến bằng phẳng, khi vừa quỳ thì không sao, nhưng quì lâu thì đầu gối lại ê ẩm. Ở cửa cung có quan chức phụ trách việc theo dõi dung nhan của văn võ bá quan. Bây giờ Dương Lăng là tội thần, không dám hành động thiếu suy nghĩ khiến cho người khác có cớ luận tội nên y đành phải cố mà nhẫn nại.

Không lâu sau, tiếng chuông du dương từ xa xa vọng đến. Ánh nắng đầu tiên trên không trung rọi lên cửa cung màu son. Cửa cung vừa mở, đủ loại quan lại bắt đầu thượng triều. Dương Lăng cúi gục đầu, chỉ nhìn thấy những đôi ủng quan lại đi qua trước người mình, phát ra âm thanh sàn sạt.

Buổi triều sớm bắt đầu rồi. Thời gian trôi qua từng giây. Hai tay Dương Lăng chống đất, đầu gối ê ẩm không còn tri giác; vì phải giữ mãi một tư thế nên cổ cũng trở nên mỏi nhừ không chịu nổi, mồ hôi từ trên trán nhỏ xuống từng giọt.

Tiếng chuông lại vang lên, một đám quan lại bãi triều nối đuôi nhau trở ra, đi qua trước mặt y. Tinh thần Dương Lăng rung lên: buổi triều sớm tan rồi, hoàng đế cũng nên gặp mình chứ. Nhưng y đợi hồi lâu mà trong cung vẫn im ắng.

Dương Lăng không khỏi tuyệt vọng. Chẳng lẽ hoàng đế muốn mình quì đến chết tại nơi này sao? Y đã chịu không nổi sự giày vò phải giữ mãi một tư thế lâu như thế này rồi. Hai tay Dương Lăng cố gắng chỏi đất, trước mắt sao bay loạn xạ, bắp thịt cổ giật giật.

Dương Lăng cũng chẳng biết làm sao mà mình có thể chống đỡ được tới khi buổi ngọ triều chấm dứt, mãi đến khi một tên tiểu thái giám đi đến trước người y cao giọng hô: “Dương đại nhân! Bệ hạ gọi ngài tiến cung!“ thì y mới tỉnh người...

Dương Lăng cố gắng một hồi mới loạng choạng đứng lên được, lom khom theo sau tên tiểu thái giám đi vào cung. Qua cầu Kim Thủy, vượt cổng Thái Hòa, qua điện Thái Hòa, điện Trung Hòa, điện Bảo Hòa, xuyên qua cổng Kiền Thanh, cuối cùng Dương Lăng được tên tiểu thái giám dẫn thẳng vào nội đình. Lúc này y đã dần dần bình tĩnh lại: “Hoàng đế gặp mình trong nội điện, ít ra mình cũng không bị họa mất đầu.”

Dương Lăng được dẫn tới trước điện, tên tiểu hoàng môn khom người xướng to:

- Bẩm Hoàng Thượng, Dương Lăng cầu kiến.

Từ trong, có một lão thái giám cất cao giọng nói:

- Bệ hạ có chỉ, tuyên hắn yết kiến!

Dương Lăng vừa bước vào cửa đã thấy hoàng đế Hoằng Trị mặc thường phục màu vàng sáng ngồi sau án đang múa bút vẽ tranh, bên cạnh là tên Đại thái giám có tên Miêu Quỳ mài mực hầu hạ. Trong ngự thư phòng ngoại trừ bọn họ ra thì không còn bất kỳ người nào khác.

Dương Lăng vội vàng tiến lên vài bước, quỳ xuống đất bẩm:

- Tội thần Dương Lăng khấu kiến Hoàng Thượng, tội thần vạn lần đáng chết!

Hoằng Trị làm như không nghe y bẩm. Ông vẫn chú tâm vào giấy vẽ, múa bút phác họa rất nhanh một hồi, sau đó hạ bút cười hỏi:

- Thế nào?

Miêu Quỳ tán thưởng:

- Nét vẽ của bệ hạ rất có lực, thần thái sống động, thực là tác phẩm của đại gia.

Hoằng Trị cười ha ha, nói:

- Ngươi thì biết gì! Ha ha! Dương thị độc! Ngươi đến xem trẫm vẽ bức này như thế nào?

Dương Lăng thấy ông cười nói an nhàn, xem ra cũng không đề cập gì tới chuyện mình kháng chỉ, không khỏi cảm thấy kỳ lạ. Y thấp thỏm không yên, đứng dậy tới trước mặt Hoằng Trị, nhìn lên ngự thư án, thấy trên giấy có vẽ một ngọn núi, trên núi cây cối rậm rạp, đỉnh núi có một cây tùng xanh thẳng tắp như muốn chọc thẳng vào mây, xa xa mờ ảo có những dãy núi chập chùng. Cả bức họa mặc dù đơn giản, nhưng tài vẽ quả nhiên bất tục.

Dương Lăng không hiểu hội họa, nhưng kiếp trước hắn giỏi thư pháp, thơ cổ nhớ rất nhiều. Mắt thấy những dòng vẽ non nước đậm nhạt thích hợp, nhưng lại không có cách nào đánh giá được, y liền khéo léo tâu:

- Bệ hạ công lực hùng hậu, càng khó hơn chính là bức tranh này ngụ ý thâm sâu, chí trùm thiên hạ. Nhìn cây tùng um tùm ở nơi cao ngàn trượng này, tuy sần sùi không vuông vức, nhưng vẫn có thể dùng để dựng nhà lớn, tất phải là trụ cột đây (4).

Trong mắt Hoằng Trị hiện lên chút dị sắc, ông cười khẽ:

- Chẳng lẽ Dương khanh chỉ nhìn một gốc tùng đơn độc này thôi sao! Ngươi phải nhìn cây cối trên cả quả núi này, có những cây mọc thẳng tắp có thể làm đòn xà, lại có những cây tráng kiện có thể làm rường cột, nhưng cũng có rất nhiều cây cong queo hình thù kỳ dị, đành phải chặt xuống làm củi đun thôi.

Ông ung dung cười, khóe môi lại mang chút lãnh ý:

- Dương khanh! Ngươi nguyện làm rường cột, làm đòn xà hay làm củi đun đây?

Dương Lăng không chút nghĩ ngợi liền quỳ xuống, lớn tiếng tâu:

- Thần nguyện làm gỗ xà ạ!

Miêu Quỳ hơi lạng người, chút nữa thì lật úp cả nghiên mực Đoan Khê trong tay. Còn Hoằng Trị tưởng rằng y sẽ phơi gan trải mật, hùng hồn trần tình một hồi, không nghĩ tới y vừa mở miệng lại phun một câu như vậy. Hoằng Trị ngẩn người hồi lâu mới kinh ngạc hỏi:

- Cái gì? Ngươi nguyện làm gỗ xà à?

Dương Lăng cúi đầu đáp:

- Dạ, thần văn không thể được như tam công Lưu, Tạ, Lý để có thể trợ giúp bệ hạ trị quốc an thiên hạ, võ không thể chỉ huy thiên quân vạn mã, chinh chiến chốn thảo nguyên hoang mạc, dương oai tứ hải. Thế nên thần xin nguyện làm gỗ xà, có thể vì bệ hạ mà giữ một làng một huyện, tạo phúc cho dân chúng một phương là thần thoả mãn rồi.

Hoằng Trị nghe xong phì cười, cảm thấy tên bầy tôi này tuy mưu lược, nhưng tính tình lại ngay thẳng đáng yêu, căn bản là một tên nông nổi. Ông thoáng nhìn thấy Dương Lăng thưa chuyện mà cặp đầu gối còn khẽ run run, cũng không biết là vì sợ quá hay vì quì lâu ngoài ngọ môn. Trong lòng ông không khỏi thông cảm: “Thôi, hôm nay cho y quì ở ngọ môn một lần trước mặt văn võ bá quan coi như là khiển trách rồi. Ta vẫn cần người này, nếu dọa y sợ hãi quá thì từ nay y làm việc sẽ ngại đầu ngán đuôi, e rằng lợi bất cập hại.”

Ông cười ha ha, bảo:

- Đứng lên đi! Ngươi cố tình so mình với các ái khanh Lưu Tạ Lý, như vậy lòng dạ cũng đã cực cao rồi. Khi họ cùng tuổi ngươi, cũng cùng thân phận như ngươi mà lên thôi. Lúc còn bình thường như ngươi, họ còn chưa có được hùng tâm như ngươi bây giờ đâu, do đó ngươi cũng không cần phải tự ti.

Ông nói rồi đi vòng qua thư án, đề bút vẽ trên bức họa một hàng chữ to như rồng bay phượng múa: ”Sâm sâm thiên trượng tùng, tuy lỗi kha đa tiết mục, dụng chi đại hạ, chung thị đống lương chi tài” (xem chú thích (4)), đưa cho Dương Lăng, bảo:

- Bức họa này trẫm ban cho ngươi, hi vọng ngươi nhớ những gì nói ngày hôm nay, luôn luôn nhắc nhở bản thân. Ha ha, ngươi lui ra đi!

Dương Lăng ngơ ngác tiếp nhận bức họa báu của Hoằng Trị, vẻ mặt hoang mang. Hoàng Thượng để mình quì ở ngoài cửa cung tới tận giờ ngọ, khi mình vào lại ban cho một bức họa, sau đó đuổi về nhà? Việc này chứng tỏ thiên uy quả thật không lường được.

Y bẩm như trút được gánh nặng:

- Dạ, thần cáo lui!

Nói rồi hai tay nâng bức họa lên khỏi đầu, y khép nép lui xuống. Hoằng Trị đế nhìn y rời khỏi ngự thư phòng, ánh mắt lộ nét cười. Ông khẽ gục gặt đầu:

- Không tự thị, tất rạng danh; không tự phụ, tất có công; không khoe khoang, tất sống lâu. Ừm, tuổi nhỏ mà có thể có được kiến giải như vậy, không uổng công trẫm một phen bồi dưỡng. Miêu Quỳ! Truyền chỉ bãi chức Dương Lăng không làm thị độc Đông cung nữa, chuyển sang làm quan trung quân ở Thần Cơ doanh.

Miêu Quỳ kinh hãi biến sắc, vội hỏi:

- Bệ hạ! Dương Lăng vừa mới bị phạt đã thăng lên chức quan trung quân, e rằng đám triều thần sẽ lại dị nghị. Hoàng Thượng, có khi nào nên cho y nhậm chức phó đô tư trước, sau này mới từ từ lên chức?

Hoằng Trị cười khổ một tiếng, lòng thầm nghĩ: “Chẳng phải trẫm không nghĩ tới việc từ từ huấn luyện, chỉ là trẫm sợ thiên mạng đã tận, không có thời gian nữa rồi. Bây giờ lục bộ trong triều, tam công nội các đều là cựu thần, chủ yếu là lão thần, già cả hết rồi. Tuy nói họ cũng rất trung thành, nhưng dù sao nếu không xây dựng bầy tôi thành một lực lượng riêng cho con ta, cân đối công thần trong ngoài, làm sao con ta cai quản vạn dặm giang sơn, văn võ cả triều cho được?”

Hoằng Trị nghĩ ngợi một lát rồi khoát tay bảo:

- Thôi, ý chỉ của ta chỉ nói bố trí y nhậm chức ở Thần Cơ doanh, còn về phần chức vụ cụ thể... Vương Nhạc quản lý mười hai đoàn doanh, luôn luôn làm việc rất ổn thoả, cứ để lão thu xếp đi.

Đúng rồi, ban thêm cho y hai bình thuốc trị thương. Ngày hôm qua Dương Lăng kháng chỉ, ôm vợ cầu thầy, hôm nay trẫm cho vợ Dương Lăng phụng chỉ rịt thuốc cho chồng, ha ha ha! Chương bảy mươi sáu: Nhiệm Vụ Mơ Hồ

------------------------

Dương Lăng ôm bức tranh quý chưa bồi lưng của hoàng đế, ngồi xe thuê về nhà. Xuống xe, y cất bước đủng đỉnh nghênh ngang vào nhà, uy nghi chẳng kém các đại thần thượng triều. Phiền một nỗi là tiểu nha hoàn Vân nhi lanh mồm lanh miệng đã sớm cao hứng đem hành động vĩ đại của lão gia bị phạt trượng rồi kháng thánh chỉ kể cho Ấu Nương nghe, nên dù hắn làm bộ như thế vẫn không thể giấu được ai. Nghe kể xong, Hàn Ấu Nương đã lập tức đứng ngồi không yên ngóng đợi tin tức phu quân. Vừa nghe thấy tiếng của tướng công, nàng vội vàng nhảy ra khỏi phòng ôm chặt cổ y, mắt đầy lệ, vui mừng lắp bắp:

- Tướng công! Chàng đã về, … Ấu Nương lo muốn chết.

Nàng vẫn chưa chải đầu, mặt không son phấn, tóc xõa ngang vai giống hệt kiểu tóc lúc ở nhà của phụ nữ thời Hán Đường và những cô gái xõa tóc thời hiện đại, phối hợp với chiếc váy màu xanh nhạt mộc mạc càng tôn dáng người mềm mại yếu đuối. Dương Lăng thấy gương mặt vợ yêu vừa khỏi bệnh vẫn đầy vẻ nhợt nhạt nên không khỏi lo lắng:

- Nàng vừa khỏi bệnh, không phải Điền thần y đã bảo nàng phải nằm nghỉ sao! Sao lại ra đây, mau vào nằm đi! Phải rồi, nàng đã uống thuốc điều hoà thân thể mà Điền thần y cho chưa?

Tiểu nha hoàn Vân nhi bên cạnh sợ hãi thốt:

- Lão gia, nô tỳ sắc rồi, nhưng phu nhân ngại đắng không chịu uống. Người nói ngồi trên giường hít thở là được, đã hít thở hết một lúc rồi.

Dương Lăng đã thấy Ấu Nương luyện khí công, nay nghe tiểu nha đầu nói rất thú vị không khỏi phì cười. Ấu Nương lo lắng hỏi:

- Tướng công, hoàng đế không trách tội chàng chứ? Ấu Nương nghe nói chàng bị đánh ba mươi côn, vết thương có nặng không?

Hoàng Thượng đã không phạt tội nên bây giờ Dương Lăng cũng không lo Ấu Nương biết chuyện. Y cười khà khà đáp:

- Không việc gì, nàng không thấy ta khỏe lắm à? Nàng hãy chóng khỏe lại, đừng làm cho tướng công lo lắng là tốt rồi.

Nói xong, y ghé lại gần Ấu Nương thấp giọng:

- Đừng lo! Đánh không đau, chỉ như tướng công phát vào mông nàng thôi.

Vừa nghe xong Hàn Ấu Nương mặt đỏ bừng, sẵng giọng:

- Coi kìa! Còn ăn nói hàm hồ như thế nữa, có người nghe đó.

Dương Lăng chợt tỉnh ngộ trong nhà đã có thêm người mới, đâu thể so với lúc chỉ có hai người. Y ho khan một tiếng, lấy trong lòng ra một đồng tiền đưa cho Vân nhi, bảo:

- Vân nhi! Ra chợ mua vài miếng đường trắng về pha vào thuốc cho phu nhân, mau đi đi.

Vân Nhi dạ lớn một tiếng giòn tan, nhận lấy tiền rồi vội vàng đi ngay. Dương Lăng cùng Ấu Nương dìu nhau vào trong phòng. Dương Lăng thấy Ấu Nương mặc váy xanh nhạt, tay áo bó chặt, đáy quần thùng thình lộ ra thân thể gầy ốm, không khỏi lo lắng:

- Dù nàng tập luyện thân thể tốt đến mấy nhưng hôm qua mới ra mồ hôi đầm đìa, không chịu được lạnh đâu.

Ấu Nương dìu y tới giường lò, đáp:

- Bây giờ đã tháng tư rồi, mặc nhiều đồ khó chịu lắm. Tướng công! Chàng mau nằm xuống để thiếp xem thương thế cho chàng.

Hai người sớm đã gió mưa vài lần, Dương Lăng cũng không ngại phơi thân thể trước mặt nàng. Y nằm dài trên giường lò cho Ấu Nương cởi áo ra. Cũng may lúc đó còn chưa phát minh ra quần xịp, mảnh quần lót này vừa thoáng vừa rộng, cởi bỏ cũng dễ dàng.

Ấu Nương dịu dàng cởi quần lót hắn ra, nhìn thấy có một phần quần bị dính vào mông, nàng lại không dám động mạnh. Dương Lăng đành phải nhịn đau tự kéo mạnh ra. Tuy mông Dương Lăng bị đánh cho rách da thịt nhưng kỳ thật không phạm vào gân cốt, chỉ cần điều dưỡng tốt là phỏng chừng đến cả sẹo cũng chẳng có. Nhưng hai ngày nay y bôn ba nơi nơi, vết thương đã rách lại càng thêm rách, bây giờ có vài chỗ còn rỉ chút máu loãng. Vốn mông y bóng bẩy trơn mịn, mềm mại vô cùng, bây giờ đã trở nên vằn vện mất rồi.

Hàn Ấu Nương bịt miệng, nước mắt tuôn chảy. Dương Lăng cảm thấy mông hơi mát, quay đầu nhìn thấy bộ dạng của Ấu Nương rất thương tâm, y không khỏi ngạc nhiên hỏi:

- Sao vậyẤu Nương ? Tuy ta đi đường thấy cũng hơi đau, nhưng không phải là bị thương tới gân cốt đâu.

Hàn Ấu Nương sụt sịt, đau lòng nói:

- Vết thương của tướng công đã lâu chưa lành, dù chữa khỏi cũng sẽ có sẹo.

Dương Lăng buồn cười, trêu:

- Thì sao? Đâu phải là mông của nương tử ta bị thương đâu. Ha ha! Trong nhà có thuốc chứ? Trát thuốc mau lên cho chồng nào, chỉ cần không đau là được.

Hàn Ấu Nương vừa thẹn vừa tức, nàng lườm Dương Lăng, sẵng giọng:

- Tướng công miệng như bôi mỡ cả ngày, không nói lời nào dễ nghe cả.

Dương Lăng thay đổi tư thế nằm cho thoải mái, cười hềnh hệch đáp:

- Tướng công nói không dễ nghe à? Hôm qua chẳng biết là ai nằm trong lòng ta nghe đến mặt đỏ tim rộn, thần hồn điên đảo nữa.

Hàn Ấu Nương “í” một tiếng, mắc cỡ đỏ bừng mặt. Nàng vừa dứt bệnh, tim đập mạnh quá lại loạn nhịp khiến nàng khẽ thở hổn hển. Ấu Nương không chịu nổi phải nhảy xuống đất, nói:

- Tướng công, chàng nghỉ trước đi, Ấu Nương đi ra phố mua thuốc.

Vừa mới kéo cửa phòng ra, Hàn Ấu Nương chợt thấy hai tên nô bộc lực lưỡng khiêng một chiếc cáng mềm tiến vào sân, trên cáng là một người hơn ba mươi tuổi đang nằm. Phía sau còn có hai gia nhân đi theo, mang vác đồ vật lỉnh kỉnh. Hàn Ấu Nương hỏi vẻ nghi hoặc:

- Xin hỏi ngài tìm ai?

Tiền Ninh nằm trên cáng mềm, nhìn thấy một tiểu mỹ nhân thuần khiết đáng yêu như sương mai, mái tóc xõa tung, mặt đẹp như vẽ, nhưng lại không có vẻ chững chạc của người đàn bà đã lập gia đình, y cho là nha hoàn Dương Lăng vừa mua, không khỏi ngứa ngáy cả người: “Tiểu tử này thật là may mắn. Tìm được nha hoàn quá đẹp làm cho người ta phải tim đập thình thịch. Nếu mà là ta á, ta đã sớm kéo lên giường lò rồi, sao lại để nàng mời trà dâng nước chứ. Không biết hắn có chịu nhượng lại không, sau này ta phải nói chuyện với hắn, ta sẽ đem bốn nha đầu đổi lấy một người của hắn.”

Tiền Ninh ngẫm nghĩ, lộ một nụ cười hơi đê tiện, quan sát hình dáng yểu điệu động lòng người của nàng rồi cười nói:

- Lão gia Dương Lăng Dương đại nhân của nhà ngươi có ở nhà không? Ta đến thăm y đây.

Nghe thế, Hàn Ấu Nương hơi tự ti: “Ta... Ta trông giống tiểu nha hoàn như vậy sao?” Nàng cúi đầu nhìn lại trang phục, hơi có vẻ không vui, hậm hực:

- Thì ra là bạn tướng công ta, kính mời ngài vào!

Tiền Ninh kinh hãi biến sắc. Hắn lập tức thu hồi nụ cười dâm, vội hỏi:

- Thì ra là Dương phu nhân! Thất lễ thất lễ, tại hạ Tiền Ninh, là bằng hữu của Dương đại nhân.

Trong phòng, Dương Lăng nghe thế bèn cao giọng gọi:

- Ấu Nương, là Tiền đại nhân tới à? Mau mời ngài vào đi.

Tiền Ninh giữ chức chưởng hình thiên hộ của Cẩm Y vệ, dù thi hành đủ loại thủ đoạn tàn khốc hành hạ phạm nhân đến chết nhưng mắt hắn vẫn không nháy, đã từng gặp không biết bao nhiêu cảnh tượng máu me đầm đìa rồi. Thế nhưng, loại người như vậy luôn yêu quí thân thể mình tới cực điểm, ta có thể thấy được sự thật này qua sự thu xếp của hắn trước khi chịu trượng hình.

Hắn vừa về nhà liền lập tức nằm trên giường điều dưỡng. Để mông không lưu lại vết sẹo, hắn còn hoàn toàn không dám cử động. Hôm sau nghe tin Dương Lăng kháng chỉ, Tiền Ninh cho rằng lần này Dương Lăng chắc chắn sẽ chết, âm thầm tiếc hận mình vất vả mới cài được một đường dây vào Đông cung thì bây giờ lại đứt mất.

Hôm nay sau buổi triều sớm, Tiền Ninh nghe nói Dương Lăng phụng chỉ quỳ đợi ở ngọ môn. Vốn hiểu sâu sắc chuện quan trường, hắn lập tức ngửi ngay được một việc bất bình thường, tức khắc phái người tìm vị bằng hữu đảm nhiệm chức thống lĩnh cấm quân trong cung hỏi tin tức. Hắn không ngờ lại nghe được tin hoàng đế ban tặng cho Dương Lăng một bức họa.

Đã rõ Hoàng đế muốn bảo vệ cho Dương Lăng, Tiền Ninh quyết đoán ngay: dệt hoa trên gấm không bằng giúp người khi gặp nạn. Không còn thời gian chú tâm lựa chọn lễ vật, hắn vội cho người mua rất nhiều đồ vật, cũng chẳng kịp gói ghém gì, ngựa không dừng vó lập tức chạy đến nhà Dương Lăng.

Tiền Ninh được đám lính khiêng vào phòng ngủ Dương Lăng, ngồi vào ghế mềm cạnh giường lò, thấy Dương Lăng nằm trên giường lò, trên thân đắp một tấm chăn, bèn cười nói:

- Dương đại nhân! Hôm qua tại hạ sai người đến thăm hỏi, nhưng đại nhân không ở nhà. Hôm nay cũng đỡ một chút, nên ta tự mình tới đây.

Dương Lăng cười nói:

- Đa tạ Tiền đại nhân! Kể ra vẫn là ta làm liên lụy đại nhân, thế mà còn làm phiền đại nhân đến thăm ta, thật là áy náy.

Tiền Ninh cười ha ha đáp:

- Đại nhân và ta đều là đồng liêu Cẩm Y, lại cùng bị đòn trước cung, duyên phận có phải ít đâu, đừng nói loại khách khí này nữa.

Hắn nói mà ánh mắt gian tà liếc dọc liếc ngang. Thấy Dương Lăng vứt cuộn giấy Hoàng thượng ban cho trên đầu giường, hắn không khỏi thầm giật mình: “Tên Dương Lăng này có quan hệ gì với bệ hạ nhỉ? Hắn đưa Thái tử xuất cung, không tuân thánh chỉ trước mặt mọi người, chẳng những Hoàng Thượng không giận mà còn ban cho hắn một bức họa do ngài vẽ. Vô luận là Hoàng Thượng ban cho thứ gì, bất kỳ vương công đại thần nào cũng lập tức đem về nhà, nếu không lập tức gói lại bằng vải vàng, thì cũng thắp ba nén hương mà cung phụng. Đó là ân sủng và tín nhiệm của hoàng đế. Riêng hắn lại xem thường… Chà, tranh quý của hoàng đế tự tay đề bút”.

Tiền Ninh hơi đau lòng nhìn bức tranh. Hắn ra vẻ lơ đễnh nói:

- Ở trên đầu giường là... Ha ha, Dương đại nhân quả nhiên không hổ là văn nhân, ở nhà dưỡng thương cũng muốn ngâm thơ vẽ họa sao?

Dương Lăng vỗ đầu. Y vẫn luôn không mang tư tưởng quân quyền tối cao, nên vẫn thường xuyên quên mất những việc mà người khác xem là đương nhiên. Vừa rồi về nhà, y lại vui đùa với tiểu giai nhân nên quen béng mất bức họa của Hoàng đế, cứ tiện tay bỏ qua một bên. Nhưng đây là tiền chứ bộ. Chẳng những là cổ họa, hơn nữa là tranh quý của Hoàng đế, phải lưu cho con cháu đời sau của ta và Ấu Nương, tương lai sẽ giá trị biết bao nhiêu mà kể.

Dương Lăng vội vàng dặn Ấu Nương:

- Nương tử! Mau đưa bức họa này cất kỹ lên trên tủ. Ha ha, đây là vật do đương kim hoàng thượng ban tặng đó, không thể làm hư được.

Hàn Ấu Nương vừa mới bưng chén trà vào cho Tiền Ninh, nghe nói cái cuộn giấy trên đầu giường lò lại là của Hoàng đế ban tặng, nàng vội vàng cầm lấy, tìm kiếm khắp nơi, thực không biết phải đặt ở chỗ nào cho an toàn. Dù sao Hàn Ấu Nương cũng đến từ vùng thôn núi xa xôi, trong lòng nàng thì thiên tử thực sự như nhân vật trong thần thoại. Bây giờ lại thấy được thứ mà thiên tử ban tặng, cũng khó trách nàng hết sức lo sợ.

Dương Lăng cười nói:

- Gác trên tủ đi, sau này tìm người bồi lưng, làm một cái khung bọc lại sẽ không sợ trầy xước.

Tiền Ninh hỏi với vẻ cực kỳ hâm mộ:

- Hoàng Thượng ban thưởng? Ha ha, bây giờ ta an tâm rồi, nghe nói đại nhân hôm qua kháng thánh chỉ, vi huynh lo lắng lắm.

Hắn ra vẻ vô ý lại lôi kéo quan hệ. Dương Lăng cũng có ý muốn thân cận với vị Chưởng hình thiên hộ nắm trọng quyền trong tay này. Nghe hắn nói thế, y cũng cười nói:

- Tiền huynh quá lo lắng. Lời này cũng không thể lan ra ngoài được. Dương Lăng nào dám kháng lại thánh chỉ, chỉ là ái thê bị bệnh cấp tính, lúc đó đã xin công công truyền chỉ khoan dung trong khoảnh khắc mà thôi. Dân chúng ngoài phố đều nghe nhầm đồn bậy, nói năng linh tinh, rõ là chỉ sợ thiên hạ không loạn.

Tiền Ninh cười gượng hai tiếng, đang muốn tâng bốc vài câu thì có thái giám trong cung tới truyền chỉ. May mà lần này tên thái giám truyền chỉ biết quy củ, mặt nam lưng bắc, đứng trong viện mà truyền chỉ, căn bản chưa vào nhà. Dương Lăng vội vàng mặc lại quần áo, cùng với Ấu Nương đi ra, quì tiếp thánh chỉ.

Đợi Dương Lăng tiễn vị khâm sai quay vào, Tiền Ninh lại tâng bốc một hồi nữa. Thấy Ấu Nương đang cầm hai bình thuốc trị thương của vua ban chuẩn bị bôi cho tướng công, hắn liền chắp tay ngoan ngoãn cáo từ. Vừa về nhà còn chưa thay quần áo đã được người ta đưa tới một mớ lễ vật, nên để đáp lại thịnh tình của hắn, Dương Lăng tiễn ra tận cửa. Song phương đang sắp chắp tay từ biệt, bỗng thấy một cái chóp kiệu nhỏ từ xa nhấp nhô đi tới trước mặt.

Rèm kiệu vén lên, một gương mặt tái nhợt từ trong kiệu thò ra dò xét. Thấy Dương Lăng đang đứng ở cửa, người nọ không khỏi vui mùng, run giọng:

- Dương đại nhân! Chúng ta đang sợ không tìm được ngài. Ông trời thương ta rồi, ôi, rốt cuộc cũng gặp được đại nhân rồi.

Dương Lăng, Tiền Ninh chú tâm nhìn kỹ, thấy người nọ tóc hoa râm, sắc mặt nửa trắng nửa xanh, chính là Mã Vĩnh Thành, vị thái giám lo việc mua bán trong cung. Tiền Ninh thất thanh hỏi:

- Mã công công, ngài sao lại... hình dạng như vậy mà còn muốn xuất cung để mua bán?

Mã Vĩnh Thành lườm hắn với vẻ không vui, đáp:

- Mua sắm cái gì, bộ dáng ta như thế này còn có thể làm việc công được à? Mau mau, chúng ta vào trong viện nói chuyện, kẻo người ngoài nhìn thấy không tốt.

Dương Lăng và Tiền Ninh liếc nhìn nhau, mù mờ chẳng hiểu gì, cùng đi vào sân. Mã Vĩnh Thành vẻ mặt đau khổ nhìn Dương Lăng nói:

- Đại nhân tới gần đây, chúng ta thất lễ rồi. Vất vả lắm mới khiêng kiệu tới đây, nhưng ta không dám thay đổi vị trí chút nào cả. Khắp mông bị đánh nát cả rồi, mạng già của ta...

Dương Lăng biết tám vị thái giám trong cung đã chịu đòn nặng hơn mình nhiều. Thấy lão nói mà nước mắt như muốn tuôn rơi, y liền lập tức tiến lên đáp:

- Công công phải điều dưỡng cho tốt mới được, sao còn xuất cung ra đây?

Mã Vĩnh Thành cười khổ nói:

- Ai nói không muốn. Chỉ là thái tử gia...,

Lão nói tới đây liền thoáng liếc nhìn xung quanh.

Tiền Ninh hiểu ý, vội bước lên muốn ra ngoài. Mã Vĩnh Thành vội cản:

- Chậm đã chậm đã, không vội đi! Bảo bọn hạ nhân ra ngoài, Tiền đại nhân có thể lưu lại. Việc này không chừng còn cần đến ngài.

Vừa nghe Thái tử có việc muốn hắn đi làm, Tiền Ninh cảm thấy da đầu ngứa ngáy, lập tức đuổi đám hạ nhân ra ngoài, rồi tiến đến gần kiệu. Mã Vĩnh Thành ho khù khụ nói:

- Dương đại nhân, hôm nay là ngày thứ ba rồi! Lúc trước ngài khoe khoang đủ điều, thái tử gia đều tin là thật cả.

Bây giờ cũng không có người ngoài, chúng ta nói thẳng với ngài. Thái tử gia để mắt đến cô nương nhà người ta rồi, đám gia môn trong cung thật sự đang bị thái tử hành hạ. Nhưng người của Giáo Phường Tư lại là thủ hạ của Miêu Quỳ Miêu công công, chúng ta cũng không dám nhờ vả. Việc này còn phải nhờ tới ngài. Chỗ này là toàn bộ gia sản của ta, một vạn bốn ngàn lượng bạc, bất luận ngài dùng biện pháp gì cũng phải chuộc được người ra, sau đó thu xếp ngụ ở chỗ của ngài đi.

Nói rồi, Mã Vĩnh Thành đau lòng móc ra một xấp ngân phiếu đưa tận tay Dương Lăng, lại tiếp:

- Chiêm Sĩ phủ (lo việc giáo dục Thái tử) đã nhận thánh ý, bây giờ bọn họ rất chú tâm chăm sóc đặc biệt đám chúng ta, ta phải mau mau hồi cung thôi. Việc này cứ thế mà làm. Ngài giải quyết ổn thỏa rồi, ngày mai tới cửa hậu cung sẽ có tiểu thái giám gánh nước hỏi tin tức của ngài. Xong rồi, chúng ta hồi cung thôi.

Mã Vĩnh Thành bảo hai nô bộc khiêng lão ra cửa, đi nhanh như chớp. Dương Lăng nắm xấp ngân phiếu mà ngây người hồi lâu, mãi y mới quay sang Tiền Ninh nhờ vả:

- Tiền huynh! Huynh xem việc này...

Tiền Ninh vẫn chưa biết việc Nghiêm Khoan bị Trương Duyên Linh đá cho một cước gần chết, sớm không dám có chủ ý gì về việc Ngọc Đường Xuân, nên hắn cũng cho rằng sự việc có chút nhức đầu. Nhưng không dám biểu hiện ra ngoài, hắn đành phải nói:

- Việc này... Thái tử gia đã lên tiếng, có gì cần đến Tiền mỗ, Dương đại nhân cứ việc nói ra, hay là... Ta cứ cương quyết chuộc người?

Dương Lăng nghiến răng, giậm chân nói:

- Hay lắm! Ta cũng không tin trên một vạn lượng bạc mà vẫn không chuộc được người!... À!... Đúng rồi, rốt cuộc thái tử gia thích cô nào nhỉ?

Chương bảy mươi bảy Ba Mỹ Nhân Tới Nhà

------------------------

Dương Lăng mời Tiền Ninh vào phòng cùng thương lượng đối sách. Tuy y đúng là Cẩm Y vệ, nhưng đề đốc Trương Tú thu xếp cho y nhận nhiệm vụ ở Nam Trấn Phủ. Tại kinh sư y chỉ có hai người hầu cận là Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh nên muốn xử án cũng không có bao nhiêu người để giao việc. Hơn nữa Tiền Ninh là một nhân vật ngoan độc, có sự hỗ trợ của đám địa đầu xà này, công việc coi như đã thành công một nửa rồi.

Nếu không có người của phủ Thọ Ninh Hầu xen vào, Tiền Ninh xử lý việc này cũng dễ như trở bàn tay, không phải chỉ là đám kỹ nữ lầu xanh còn chưa bán thân tiếp khách thôi sao? Cho dù là danh kỹ nổi tiếng cả kinh sư, quan to quan bé cũng chỉ lén lút làm ân khách. Hắn muốn đòi người, ai dám đưa việc này thành công khai để chống lại hắn?

Nhưng bây giờ việc này lại dính tới triều đình. Muốn đòi người phải tính toán một chút. Điểm chết người chính là Thái tử gia đến giờ cũng chẳng thèm nói ra tên của người này, rốt cuộc phải đi chuộc ai đây chứ?

Ấu Nương nghe hai người bàn tán um sùm, cũng biết tướng công muốn giúp Thái tử đem một kỹ nữ thanh lâu về. Nàng thấy tướng công và Tiễn đại nhân nhăn mày nhíu mắt bàn chuyện, liền nhắc nhở:

- Tướng công! Thái tử thích ai thì ta theo đó mà lần đầu dây mối nhợ. Chàng kể lại tình hình lúc đó xem, có lẽ Ấu Nương có thể đoán được gì chăng.

Dương Lăng hồi tưởng một lát, rồi kể:

- Tên Nghiêm Khoan đó cưỡng ép lấy người của Nhất Xứng Kim. Lúc đó Thái tử đuổi theo xem náo nhiệt, lúc Nghiêm Khoan nói năng lỗ mãng, có một vị cô nương tên gọi là Tuyết Lý Mai mắng cho gã một trận, Thái tử rất tán thưởng nàng.

Tiền Ninh vỗ mạnh vào ghế băng mềm bên cạnh. Chiếc ghế lắc lư vài cái xém nữa lật nhào, hắn vội vàng chộp lại, sau đó cười khà khà nói:

- Đúng rồi! Tài tử giai nhân, nhất kiến chung tình, chắc chắn là nàng.

Dương Lăng cười khổ nói:

- Dường như không phải. Sau đó Thái tử bị Nghiêm Khoan đánh một quyền, máu chảy ròng ròng. Có một vị tiểu cô nương tên là Đường Nhất Tiên đưa cho người một cái khăn gấm lau máu, ta thấy ánh mắt Thái tử nhìn người ta đầy tình ý.

Tiền Ninh giật mình nói:

- Thế à! Mỹ nhân tình thâm, thép luyện trăm lần cũng chảy, điện hạ chưa hề trải qua những tràng diện phong nguyệt, lại có giai nhân che chở, khăn gấm đưa tình, thể nào lại không điên đảo? Vậy nhất định chính là vị Đường Nhất Tiên cô nương này rồi.

Ấu Nương hỏi chen:

- Tướng công! Thái tử bảo chàng trong vòng ba ngày phải đòi lại văn tự mua thiếp của Nghiêm Khoan. Văn tự mua bán đó là nói về Đường cô nương này à?

Dương Lăng lắc đầu đáp:

- Không phải! Người Nghiêm Khoan muốn mua là Ngọc Đường Xuân cô nương.

Khi vừa nói tới tên này, y không khỏi nhớ tới vị mỹ nữ trong hí khúc có cuộc đời bi thảm, tưởng chừng như thấy lại tình cảnh thiếu nữ tóc dài áo trắng như tuyết, uyển chuyển đứng lặng trong căn lầu như một bức tranh cung nữ cổ điển. Dương Lăng nói tiếp:

- Trong ba vị cô nương thì Ngọc Đường Xuân cô nương có vẻ phong tình nhất, Thái tử luôn nhớ tới việc chuộc nàng ra. Bây giờ lại muốn ta chuộc người mà Nghiêm Khoan cướp, vậy ai là người mà ngài thích đây?

Ấu Nương nghe xong cũng không khỏi cười khổ:

- Nói như thế, nhiệm vụ mơ hồ này chẳng có gì rõ ràng cả! Chẳng lẽ đem cả ba cô nương về nhà ?

Vừa nghe, Tiền Ninh bật thốt:

- Ý hay lắm! Trong ba người đó chỉ có một người bị Hầu phủ và Đông cung tranh giành, hai người khác vốn không liên quan gì. Bằng vào chức danh đứng đầu Cẩm Y vệ, ta muốn lấy ai cũng dễ như trở bàn tay. Dù sao cũng đều là người đẹp, một hay ba cũng không khác gì nhau. Mang về cả ba người thì vô luận làm sao cũng bị không lầm lẫn gì. Ha ha, đi thôi! Ta bây giờ phải đi gọi người, đại nhân cứ việc ra mặt nhận người thôi.

Rốt cuộc Tiền Ninh cũng hơi kiêng kỵ Thọ Ninh Hầu. Dù sao Dương Lăng cũng được Hoàng thượng để mắt, chỉ cần thức thời một chút, Thọ Ninh Hầu sẽ không dám đắc tội với y. Nay phải để y ra mặt mới tốt, người đứng ra nói chuyện phải là y.

Lập tức Tiền Ninh gọi gia nhân dặn dò vài câu.Tên gia nhân nghe lệnh vội vội vàng vàng đi ngay. Một lúc sau, có hơn mười người từ Bắc Trấn Phủ Ty tới, đều mặc thường phục. Những người này đang hành hạ phạm nhân trong lao, nghe nói thiên hộ đại nhân có lệnh bèn vội thay đổi thường phục tới ngay, trên người còn mùi máu tươi, ai ai cũng sát khí bức người.

Tiền Ninh ra lệnh mang đến một cái sạp gấm, trải cho thật mềm mại, mời Dương Lăng ngồi lên. Hai người được trên mười tên giáo úy mặc thường phục hộ tống cùng đến ngõ Bách Thuận.

Trời cũng sắp hoàng hôn, ngõ Bách Thuận đã có nhiều tiệm mở cửa đón khách. Để bịt tai mắt người khác, Tiền Ninh còn cho một tấm vải che trên sạp gấm, trông như một cái kiệu có nóc. Khi tới những chốn tìm hoa, ta vẫn thường bắt gặp một vài lão gia e dè che đầu che mặt đi chơi kỹ viện. Nhưng bây giờ còn sớm như vậy, làm gì có ai ở đây mà thấy. Tên đón khách vội vàng đi tới cười nói:

- Mấy vị lão gia, có cô nương quen không? Muốn tôi gọi tới cho ngài vài cô ưa nhìn một chút không?

Người đi đầu chính là tâm phúc của Tiền Ninh, một vị bách gia Cẩm Y vệ tên là Quan Long. Hắn thản nhiên nói:

- Tránh ra! Lão gia muốn vào hậu viện. Bảo Nhất Xứng Kim tới gặp lão gia!

Nói rồi gã khoát tay, đoàn người nghênh ngang đi thẳng vào hậu viện.

Trong hậu viện, ba chị em Tô Tam, Đường Nhất Tiên, Tuyết Lý Mai đang ở trong phòng ngồi chơi. Vì những khách uống rượu có kỹ nữ hầu đều tới khá muộn, nên ba người đang lười nhác vẽ mày thoa mặt.

Tuyết Lý Mai thấy Tô Tam có vẻ uể oải, không khỏi hé miệng cười trộm nói:

- Hì hì! Họ Nghiêm đã ngoan ngoãn đem văn tự trả về rồi. Tam tỷ vẫn sầu muộn không vui, chẳng lẽ... nhớ vị công tử kia à?

Tô Tam vừa nghe xong mặt đỏ lên, liếc mắt lườm nàng sẵng giọng:

- Ngươi đó, nói bậy ít thôi!

Nàng cau mày, rồi chợt thở dài nói tiếp:

- Vị công tử đó rõ là người đáng tin cậy, quả nhiên khiến cho Nghiêm Khoan phải trả lại văn tự, nhất định là một đại nhân vật có quyền có thế. Chà, sao người ta lại có thể coi trọng một nữ tử khổ sở như ta? Ta chỉ... Chỉ là thân thể hơi mệt, cho nên tinh thần mới xấu như vậy.

Đường Nhất Tiên cười, nói vẻ châm chọc:

- Có thể nói như thế này, lo lắng hãi hùng cả ba ngày rồi, bây giờ không cần lo lắng về con đại tinh tinh đó nữa. Bây giờ lại lo là lo tên ngọc diện công tử kia sao nỡ lòng không tới thăm tỷ, làm cho tâm hồn thiếu nữ đứt ra từng khúc, thể xác tinh thần đều bần thần?

Đến lúc này Tuyết Lý Mai cũng cảm thấy hứng thú hừng hực, vội xen vào nói:

- Vị công tử đó thật là tuấn dật. Đến cả muội mà cũng hơi động tâm, hắn tuy còn trẻ tuổi, nhưng ánh mắt hơn hẳn những đứa trẻ ranh khác. Làm người ta nhìn thấy là thèm được ngả vào lòng hắn.

Đường Nhất Tiên hừ một tiếng, chun mũi lại nói:

- Hai nha đầu mắt trên trán kia, động tình với trai rồi à! Chỉ nghĩ tới mấy chàng trai tuấn tú. Nếu là ta, ta chỉ nguyện được gả cho đương triều thị độc Dương Lăng Dương đại nhân thôi.

Mắt nàng sáng lên, hào hứng nói tiếp:

- Dịch cầu vô giới bảo, nan đắc hữu tình lang (bảo vật vô giá dễ cầu, nhưng rất khó tìm được tình lang). Hắn vì người yêu mà đến cả ý chỉ của Hoàng Thượng cũng dám cãi lại. Nam nhân như vậy, nếu được gả cho hắn làm thiếp thôi, thì ta ngay cả nằm mơ cũng phải cười mà tỉnh lại.

Tô Tam và Tuyết Lý Mai nhìn nàng đang mơ màng si mê, không khỏi phá lên cười. Tuyết Lý Mai nói trêu:

- Cũng chỉ có tỷ dám mơ thôi. Chúng ta là người như thế này, nếu được gả cho vị công tử tuấn tú ngày ấy đã xem như phải đốt hương cúng tạ rồi.

Dương Lăng đại nhân... Muội nghe Lễ Bộ viên ngoại lang Ninh đại nhân kể, sau khi hắn kháng chỉ, mấy trăm đại thần quì xin Hoàng Thượng giết hắn, nhưng hoàng đế lại không chịu. Sau đó Vương đại nhân, thượng thư bộ Lễ, cùng với tam công nội các chạy tới hậu cung. Mấy lão già thúi đó, hắc! Kết quả là Hoàng hậu nương nương chửi cho mấy lão già cổ hủ ấy một trận ê mặt rồi đuổi ra ngoài.

- Đó là cận thần của thiên tử mà. Đương kim hoàng thượng rất sủng ái hắn, chúng ta nào có phúc khí mà gặp được đại nhân vật như vậy?

Khi đề cập tới Dương Lăng, trong ánh mắt Tuyết Lý Mai lại dâng sóng dập dềnh, tựa như đang say đang mê.

Tô Tam nghe mà si ngốc, hồi lâu mới thở dài một tiếng nói:

- Thôi, hai vị hảo muội muội còn mơ mộng hơn cả ta nữa, mau chuẩn bị trang điểm đi, kẻo lát nữa lại bị mẹ nuôi mắng.

Đường Nhất Tiên lắc đầu không còn chìm vào mộng xuân nữa. Nàng cầm một chung rượu nhỏ uống cạn, sau đó cầm lấy tờ giấy son đỏ bôi vào môi.

Tô Tam thấy nàng lại uống cái thứ nước đó, lo lắng nói:

- Nhất Tiên, sao lại uống thạch tín? Loại này dù chỉ dùng một chút cũng ảnh hưởng thân thể đó.

Đường Nhất Tiên không đồng ý, trả lời:

- Rất nhiều người đều dùng mà. Một chút thôi, không hại đâu.

Nàng vuốt ve gương mặt tuyệt đẹp, tư lự:

- Tỷ nhìn thấy hai má muội có phải đã trắng ra rất nhiều không? Khách nhân đều nói muội bây giờ có làn da trắng như ngọc, vừa bước vào là cả phòng đều như mùa xuân. Hì hì, đợi muội đoạt lấy hạng đầu của Ngọc Đường Xuân tỷ, tỷ tỷ không được tức giận đó nha.

Tô Tam đang muốn trả lời, lại nghe trong viện vang lên thanh âm ngọt như mía lùi của Nhất Xứng Kim:

- Ủa! Mấy vị đại gia, đây là chỗ nào chứ. Mau mời các ngài lên nhà trên ngồi, chẳng biết các vị muốn gặp vị cô nương nào đây.

Tuyết Lý Mai vội hỏi:

- Mau mau thay đồ đi, có khách tới.

Nhất Xứng Kim thấy những người vừa tới đều có ánh mắt và vẻ mặt khiến người ta phải sợ hãi liền vội dẫn vào nhà trong. Bà thấy mười mấy đại hán đứng hai bên cửa, hai khách nhân trong kiệu mềm cũng không xuống kiệu mà được khiêng thẳng vào nhà. Nhất Xứng Kim mi mắt giật giật, chỉ cảm thấy kẻ đến không phải người hiền, nhìn bộ dáng những người này thì không giống người tới đây ăn vụng.

Nhất Xứng Kim do dự trong khoảnh khắc, nhìn thấy ánh mắt ăn thịt người của đám đại hán, đành phải cắn răng theo vào.

Ba người Đường Nhất Tiên đã trang điểm xong xuôi, đợi hồi lâu vẫn không thấy Nhất Xứng Kim gọi các nàng ra gặp khách, đang cảm thấy kỳ lạ, chợt nghe Nhất Xứng Kim khóc gào như cha chết:

- Ba chị em đều ra cả đi, có khách chuộc thân cho các ngươi này!

Ba người Đường Nhất Tiên nghe xong chấn động, vội vàng đi ra khỏi phòng. Ba nàng thấy trong viện có hơn mười đại hán diện mục âm trầm, hai tay khoanh lại, đứng một hàng thẳng tắp, không khỏi sợ tới mức mặt mày thất sắc. Đám đại hán này cả người lộ ra những luồng khí tức âm lãnh khát máu, làm cho người nhìn thấy rởn cả tóc gáy.

Ba tiểu mỹ nữ chẳng biết sắp sửa phải hầu hạ lão gia đáng sợ nào, dựa sát vào nhau như đàn dê con đợi mổ, đứng nép vào Nhất Xứng Kim trong gian chính.

Tiền Ninh nửa nằm nửa ngồi dựa vào kiệu gấm mềm mại, nhìn lên thấy ba mỹ nữ đẹp tuyệt trần, không khỏi hai mắt tỏa sáng. Ánh mắt tham lam của hắn cứ lướt loạn xạ trên người ba người, mãi mới thu hồi vẻ lưu luyến, rồi quay sang nói với Nhất Xứng Kim đang buồn bã:

- Được rồi, lão bản nương là người hiểu biết. Ha ha ha, không cần khóc lóc như vậy, ngươi nên cảm tạ huynh đệ ta. Bằng không... Hừ hừ, sau này có chuyện gì cứ tìm đến ta, ta thay ngươi nói một câu, đó là thứ mà ngươi bỏ bao nhiêu tiền cũng không có được.

Nhất Xứng Kim đúng là ngàn lần không, vạn lần không cam tâm. Khi vừa nhận ra Dương Lăng, mụ lập tức nịnh nọt ngàn ân vạn tạ, khen y thần thông quảng đại, sáng sớm hôm qua Nghiêm Khoan đã sai người trả giấy về, lấy bạc đi rồi.

Tiền Ninh vừa nghe Thọ Ninh Hầu chịu thua, lập tức trở nên cứng rắn. Hắn liền công khai thân phận, muốn diễu võ dương oai chỉ bỏ ra chút tiền mà chuộc cả ba cô về. Dương Lăng thấy Nhất Xứng Kim khóc lóc quá thảm thương, nghe mụ kể lể phải giáo dưỡng mấy người này từ bé, gian khó vô kể nên mềm lòng. Bất chấp Tiền Ninh cản trở, y giao cho mụ một vạn lượng bạc.

Tô Tam vừa vào cửa đã thấy Dương Lăng đang ngồi trên ghế băng mềm, trong lòng đang lo sợ lập tức hóa thành vui như mở hội, vui tới mức hai má đỏ lên, ánh mắt rốt cuộc không dời y ra được.

Tiền Ninh đợi Nhất Xứng Kim ấn ngón tay vào văn tự xong, cười hì hì nói với tên thị vệ:

- Đi tìm ba cỗ kiệu, đưa ba vị cô nương này đến phủ của Dương đại nhân! Ha ha ha, việc này xong rồi, chúng ta đi thôi.

Văn tự đã kí kết, sau này ba người Ngọc Đường Xuân là thiếp hay thị tỳ, hoàn toàn phụ thuộc vào người mua, chẳng liên quan gì tới Nhất Xứng Kim nữa. Nhất Xứng Kim nhìn thấy ba cây tiền cây bạc bay đi như vậy, trong lòng cảm thấy khó chịu nói không nên lời.

Ba người Đường Nhất Tiên được đưa tới phủ của Dương Lăng mới biết y chính là Dương Lăng lừng danh kinh sư. Lúc này cả ba cô đều vui mừng khôn xiết. Các nàng xuất thân như vậy, căn bản không trông mong được làm chính thê, nếu được một văn sĩ hoặc một vị quan to mua làm thiếp đã là tốt lắm rồi. Còn gặp phải ông quan hoặc văn sĩ già xấu, thì đành theo số phận thôi.

Bây giờ Dương Lăng có công có danh, muốn quan chức có quan chức, trẻ tuổi anh tuấn, vừa là loại người có tình danh chấn thiên hạ, quả thực thành thịt Đường tăng trong mắt các nàng rồi, cho dù nằm mơ cũng mơ không đến một kết quả tốt như vậy. Nếu được làm thiếp cho y, các nàng đã cảm ơn trời đất rồi. Nhưng sau khi Dương Lăng thu xếp ba người ở sương phòng, lại chẳng hề đề cập gì tới thân phận tương lai của các nàng, việc này khiến ba nàng không hiểu ra sao cả.

Kỳ thật Dương Lăng cũng rất khó xử. Chút thông tin ít ỏi từ Thái tử không nói rõ muốn chuộc ai, lại không nói chuộc xong thì làm gì. Thái tử cứ nhét cho y một việc như vậy, y còn có thể làm gì bây giờ?

Nếu tạm thời thu xếp các nàng làm nô tỳ, trong đó lại có người mà Thái tử thích, lẽ nào lại để cho nàng hầu hạ mình? Hơn nữa bây giờ việc này cũng chưa thể nói thẳng với các nàng, nên Dương Lăng đành phải giả ngu làm cho ba thiếu nữ thông minh tuyệt đỉnh cũng phải mù mờ không hiểu đầu đuôi.

Các nàng trong lòng đầy nghi ngờ, tuy nói là xuất thân thanh lâu, nhưng dù sao đều là thiếu nữ, chẳng lẽ các nàng có thể trơ mặt chủ động hỏi y khi nào thì nạp mình làm thiếp sao? Vì vậy ba cô nương cứ ở lại nhà Dương Lăng như vậy, không chủ không tớ, không thê không thiếp gì cả.

Ngày hôm sau, Dương Lăng dậy sớm ra cửa sau cung thành chờ người đưa tin. Đợi một lúc lâu y mới được Thái tử đáp:

- Biết rồi, không bỏ sót người của ta là tốt rồi. Thay ta chiếu cố cho Đường cô nương, có cơ hội ta sẽ đi thăm nàng. Phụ hoàng bây giờ canh ta gắt gao lắm, luôn luôn có sáu thị độc bên mình. Con mẹ nó, Vương Quỳnh rõ là lão thất phu!

Nghe xong ý chỉ hồ đồ của Thái tử, Dương Lăng lại dở khóc dở cười đi về nhà. Y vuốt cằm suy nghĩ cả buổi cũng không nghĩ được biện pháp nào đuổi hai cô còn lại đi. Khẳng định là không có cái khúc “Ngọc Đường Xuân” trong kinh kịch đời sau rồi, do đó Tô Tam gả cho ai, vận mệnh sau này ra sao, đến cả y cũng không biết.

Suy nghĩ cả buổi, y đột nhiên nhớ tới bố con họ Hàn sắp tới kinh sư. Cũng không biết hai người này đã cưới vợ chưa, nếu còn chưa... Tục ngữ nói nước phù sa không để chảy ra ruộng người ngoài mà... Dương Lăng không khỏi cười to lên rất đắc ý, đến khi thấy Ấu Nương đứng một bên đang hồ nghi nhìn mình, y mới nhớ mình còn chưa bảo cho nàng hay việc mình mời cha con họ Hàn tiến kinh.

Dù sao họ cũng sắp đến, cứ giấu hai ngày nữa đã, đến lúc đó sẽ cho Ấu Nương một niềm vui bất ngờ. Dương Lăng nghĩ vậy nên chỉ cười đểu vài tiếng, nói với Ấu Nương:

- Ta hỏi Tiền Ninh rồi, bất tất vội vã đi Thần Cơ doanh trình diện. Hai ngày này ở nhà dưỡng thương. Bảo Tiểu Vân chiếu cố cho ba vị cô nương trong sương phòng một chút, ngàn vạn lần không được đắc tội với người ta.

Ấu Nương lên tiếng đồng ý, ngẫm lại dù sao đi nữa những cô nương đó đều có thể là người của Thái Tử. Hiện tướng công đang làm quan trong triều, việc giữ quan hệ tốt với các nàng rất trọng yếu. Vì vậy nàng cũng dặn dò Tiểu Vân phải cẩn thận trong việc phục vụ ăn uống cho mấy vị cô nương này.

Mọi người đều ngụ trong viện, lại đều là những tiểu cô nương mười bốn lăm tuổi, sao lại có thể ru rú cả ngày ở trong phòng chứ? Thường xuyên qua lại thăm hỏi nhau, dần dà Ấu Nương hiểu rõ các nàng hơn. Lúc này Ấu Nương mới phát hiện các nàng khác với những điều mình đã tưởng tượng rất nhiều. Chẳng những không phải là những cô gái đầy quyến rũ, cử chỉ ướt át, mà ba người này lại có lời nói cử chỉ tự nhiên hào phóng, nhất cử nhất động đều lộ vẻ cao quý trang nhã, thập phần hấp dẫn.

Khi đó con gái nhà giàu cũng không được giáo dưỡng nhiều như kỹ nữ thanh lâu. Chỉ cần các nàng có cấp bậc cao trong thanh lâu thì chắc chắn cầm kỳ thư họa, ca múa dáng vẻ đều đã phải được dạy dỗ từ tấm bé. Phải như thế mới đào tạo được những cô gái sắc nghệ đều giỏi, mới khiến đám danh sĩ tài tử thường tới chỗ phong lưu tìm hồng nhan tri kỷ.

Ấu Nương nghe nói các nàng từ nhỏ bị cha mẹ bán vào thanh lâu, thân thế khiến người ta thương tâm, trong lòng rất cảm thông. Ba cô đều tin Ấu Nương là vợ cả của người mà mình sẽ hầu hạ nên càng cố ý phụng thị, cố ý kết giao. Qua hai ba ngày, ba người đối xử với Ấu Nương cực kỳ hoà hợp, giống như chị em.

Dương Lăng ở nhà nghỉ ba ngày, thương thế cũng gần lành cả rồi, định đến sáng sớm hôm sau đi Thần Cơ doanh trình diện. Sáng sớm, Ấu Nương hầm cho tướng công một con gà mái ghẹ. Thấy tướng công còn đang ngủ say, nàng bèn tới phòng chái tây thăm ba cô.

Ba chị em Tuyết Lý Mai quen rèn luyện vào sáng sớm, tuy bây giờ không cần mỗi ngày đều phải thổi tiêu đánh đàn, luyện tập ca múa, nhưng vẫn thức dậy rất sớm. Ấu Nương vừa vào cửa đã nhìn thấy Tô Tam vấn cao mái tóc đen huyền, đang luyện bước múa. Tuyết Lý Mai ngồi trước kính, tóc đen mặt hồng, đang trang điểm trước gương, động tác cũng xinh đẹp vô cùng, trong lòng nhất thời cảm thấy rất hâm mộ.

Lúc trước khi còn ở Kê Minh dịch, nàng từng ở cùng Mã Liên Nhi mấy ngày, khi Mã Liên Nhi trang điểm buổi sáng cũng có dáng vẻ động lòng người như vậy. Lúc đó Ấu Nương ngắm nhìn, tuy mình cũng là con gái mà vẫn thấy động tâm, cảm thấy rất hâm mộ.

Bây giờ nhìn ba người có bộ dáng giống như những tiểu thư khuê các, Ấu Nương đột nhiên nhớ tới hôm kia Tiền Ninh đến nhà đã lầm mình là nha hoàn. Nàng biết tướng công càng làm quan to, thì càng kết bạn với những người quyền quí hơn, mình dù sao cũng xuất thân từ một thôn xóm nhỏ, mặc dù xưa nay rất chú ý nhưng lời nói cử chỉ vẫn không khỏi mang chút quê mùa. Nếu có thể lãnh giáo các nàng về dáng vẻ hành động, ăn nói học vấn...

Nghĩ vậy, Ấu Nương hơi thẹn hồng mặt, cười nói:

- Ba vị muội muội đa tài, dáng vẻ đoan trang. Tỷ tỷ lại chỉ biết múa thương đánh bổng, thấy các muội như vậy cảm thấy rất hâm mộ.

Đang điều phối thạch tín, nghe Hàn Ấu Nương nói vậy, Đường Nhất Tiên bèn quăng lọ thạch tín, chạy tới giữ chặt tay Ấu Nương cười nói:

- Múa thương đánh bổng mới tốt! Tên phóng đãng nào dám khi dễ bèn cho hắn một gậy vào đầu ngay. Hay là tỷ tỷ dạy muội võ nghệ, muội đem công phu sở trường nhất dạy cho tỷ tỷ, được không?

Ấu Nương vui vẻ nói:

- Tốt lắm, muội muội sở trường nhất là gì?

Đường Nhất Tiên đắc ý nói:

- Muội muội sở trường nhất là thổi tiêu.

Ấu Nương nói:

- Ừm, chỉ là tỷ tỷ rất vụng về, không hiểu có thể học được không. Muội muội đem tiêu ra cho tỷ coi, đợi tướng công tỉnh ngủ sẽ học cũng không muộn.

Đường Nhất Tiên cười khanh khách, ôm bả vai Ấu Nương nhìn vào mặt nàng, lắc lắc đầu nói:

- Tiêu kỹ của muội lại không cần tiêu, toàn bằng vào cái miệng thôi. Tỷ tỷ muốn học, phải xem thiên phú về công phu mồm miệng của tỷ rồi.

Hàn Ấu Nương ngẩn người, tiêu kỹ không cần tiêu à? Trong lòng nàng đột nhiên nhớ tới việc tướng công muốn mình ”thổi tiêu”, cảm thấy rất khó xử, mặt đỏ bừng lên, trong lòng xấu hổ muốn chết, thầm nghĩ: ”Cái con bé này! Cái con bé này! Quả nhiên là từ thanh lâu ra! Sao việc như thế này mà cũng có thể nói ra miệng được chứ, còn... còn nói kỹ xảo cái gì, quả thật mắc cở chết người.”

Hàn Ấu Nương che gương mặt nóng bừng, vừa thẹn vừa giận, giậm chân nói:

- Đáng chết! Đáng chết! Đường gia muội tử, muội... muội... Muội ăn nói khùng điên gì thế, việc này... việc này cũng có thể nói ra được, có thể học được sao?

Đường Nhất Tiên sửng sốt. Nàng mờ mịt, kỳ lạ hỏi:

- Sao cơ? Sao lại không học được ? Bao nhiêu người đều ca ngợi muội có công phu tuyệt vời mà!

Đang soi gương chải đầu, chợt tay Tuyết Lý Mai khựng lại một chút, rồi vứt mạnh lược xuống bàn, phá ra cười ha ha. Còn Tô Tam vốn hai má trắng như tuyết lại trở nên đỏ bừng, nàng run rẩy hai vai, chảy nước mắt hồi lâu rồi đột nhiên nhào lên giường, kéo chăn trùm kín đầu, một tràng cười trong vắt từ trong chăn vọng ra.

Đường Nhất Tiên nhìn trái nhìn phải rồi đột nhiên bừng hiểu. Lúc này mặt nàng cũng nóng lên như lửa, không kìm được thẹn thùng xấu hổ kêu lên:

- Trời ạ! Ấu Nương tỷ tỷ, tỷ đang nói gì thế? Người ta không muốn sống nữa!

Chương bảy mươi tám Tham Kiến Tham Tướng

------------------------

Một tràng tiếng tiêu khoan thai vang lên, lúc thì trau chuốt nhẹ nhàng, ngọt ngào u nhã, lúc thì phiêu dật, thê lương mà lại gần gũi, làm cho người ta như say như mê.

Khuôn mặt Hàn Ấu Nương nóng bừng lên, hận không thể tìm cái lỗ nẻ mà chui vào. Ai biết nha đầu đáng chết đó nói kỹ thuật thổi tiêu không có tiêu thật ra là khẩu kỹ. Một câu vô tình vừa rồi vốn đã đem việc khuê phòng giữa mình và tướng công nói hết cho người ta nghe, sau này làm sao không xấu hổ khi gặp lại các nàng chứ?

Tô Tam ngồi trên đầu giường, hai tay chống mép giường, đầu hơi cúi, môi cong lại, còn đang cố nín cười. Tuyết Lý Mai ngồi bên cạnh, dùng bả vai thúc khẽ vào người nàng một cái, nói nhỏ:

- Đừng cười, cẩn thận Ấu Nương tỷ ngượng quá hóa giận. Hơn nữa, việc của người đi trước, làm gương cho người đi sau... Hừ hừ, Ngọc Tỷ sắc nghệ song tuyệt, không biết có phải là càng giỏi việc thổi tiêu ngắm trăng không nữa?

Ngọc Tỷ Nhi nhất thời đỏ mặt. Các nàng mặc dù chưa tiếp khách, nhưng ở lâu nơi chốn tìm vui đó thì mấy thứ ẩn dụ này sao lại không rõ. Nàng ngẩng đầu liếc nhìn Ấu Nương, thấy nàng không chú ý, liền oán hận nhéo vào đùi Tuyết Lý Mai.

Đường Nhất Tiên quay sang thấy Ấu Nương tỏ vẻ bội phục, không khỏi rất đắc ý. Nàng đem hết sức ra khoe, tiếng tiêu lên xuống rồi chợt im bặt, rồi đột nhiên lại có tiếng hót của chim bách linh vang lên, thanh âm chợt xa chợt gần, giống như một con chim đang nhảy nhót ở đâu đây, đang cao giọng hót vang. Nhiều khi có tới hàng trăm tiếng chim xa xa gần gần, nghe như bốn phương tám hướng tràn ngập âm thanh đủ các loài chim. Rồi nghe tiếng hót lộn xộn như trăm loài chim ồn ào bay đi, rồi tiếng tiêu linh hoạt kỳ ảo thâm trầm lại vang lên như cũ.

Dương Lăng thấy tiếng tiêu dễ nghe, lặng lẽ đứng dậy mặc y phục tiến vào trong viện, lặng người lắng nghe một hồi. Mãi đến khi tiếng tiêu dứt hẳn, y mới vỗ tay khen rằng:

- Thổi tiêu hay lắm! Ngọc nhi giỏi múa, Tuyết nhi giỏi đàn. Đây nhất định là Tiên nhi cô nương thổi tiêu rồi?

Chỉ nghe trong phòng có tiếng cười híc híc, cũng không biết là ai đang cười trộm, sau đó một trận ồn ào nho nhỏ. Lập tức Tuyết Lý Mai, Đường Nhất Tiên và Tô Tam ôm lấy Ấu Nương đi ra khỏi phòng, trên mặt mấy người đều đỏ bừng, vừa nhìn thấy y đều phải cố nén cười, trong mắt hiện ra vẻ rất bối rối.

Dương Lăng nhìn thần sắc các nàng hơi cổ quái, không biết mình nói sai việc gì, lại cảm thấy hơi bồn chồn. Nha hoàn tiểu Vân từ ngoài viện đi vào, vừa thấy Đường Nhất Tiên đang đứng trong viện, vội hỏi:

- Đường tiểu thư, người muốn ta mua thạch tín, nhưng hiệu thuốc không chịu bán, nói phải có toa thuốc của đại phu, còn muốn có người ký tên mới được.

Dương Lăng nghe xong giật bắn cả người, nghi hoặc hỏi:

- Mua thạch tín làm gì?

Tô Tam xen vào nói:

- Đại nhân, Tiên nhi xin người ta viết cho một phương thuốc làm đẹp da. Phương thuốc đó chỉ dùng thạch tín để dưỡng da, nên rất có hại với thân thể đã dùng hơn nửa năm rồi, khuyên bảo kiểu gì cũng không nghe.

Đường Nhất Tiên lườm nàng, nói:

- Tỷ tỷ nhiều chuyện làm gì, muội thấy không ít người dùng phương thuốc này, cũng không thấy có hại gì cho thân thể, muội cẩn thận một chút cũng không sao đâu.

Dương Lăng nghe xong lắc đầu lia lịa, vội nói:

- Dùng độc dược dù ít tới đâu cũng là độc dược. Độc tố tích lũy lâu dài trong cơ thể, vài chục năm sau sẽ làm rụng hết răng, hai má hõm sâu, trông như bà lão, hơn nữa đầu óc cũng sẽ không bình thường, trở nên ngây ngốc, cô nương nói có đáng không? Kỳ thật có rất nhiều phương pháp có thể làm da trắng hồng tự nhiên, hà tất phải dùng độc dược nguy hại đó?

Đường Nhất Tiên chu miệng ra nói:

- Người ta biết mà. Dùng đông quả tử, quất bì, hoa đào, nghiền nhỏ thoa lên mặt, dùng tang diệp tiên rửa mặt có thể làm trắng da. Nhưng hiệu dụng không tốt lắm. Nghe nói dùng long não, đàn hương, cao ngọc trai là hữu hiệu nhất, nhưng mấy thứ đó đắt lắm. Trước kia muội thuê mấy người tiều phu ở nông thôn giúp muội bắt dơi. Máu dơi thật ra dùng tốt, nhưng vừa tanh vừa dính, rửa lại rất mất công...

Dương Lăng ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

- Cô nương thử qua lòng trắng trứng, mật ong chưa? Nếu không có thể dùng mướp đắng (khổ qua) hay dùng dưa chuột thái mỏng phủ lên mặt, rất nhiều... à, ta nghe nói rất nhiều người dùng đó, hiệu quả tốt lắm.

Đường Nhất Tiên ngạc nhiên nói:

- Chưa từng nghe nói về biện pháp này, dùng được chứ ? Người ta sẽ thử xem.

Dương Lăng nói:

- Đương nhiên hữu hiệu, nhưng thạch tín thì phải bỏ ngay lập tức, sau này không được dùng nữa. Những thứ đồ vật ấy thập phần hại người, cô nương vốn quốc sắc thiên hương, tội gì tự làm tổn hại mình để thay đổi dung nhan.

Đường Nhất Tiên nghe y khen mình xinh đẹp, trong lòng vui như hội, không khỏi gật lấy gật để, cười ngọt ngào hứa ngay. Dương Lăng cũng không biết nàng thật sự đã nghe lời hay chưa, chỉ còn nước sau này phải chú ý đến nàng. Y mỉm cười, nói:

- Như vậy mới tốt, được rồi. À cô nương vừa rồi thổi tiêu động lòng người, nhưng sao lại còn có cả tiếng chim hót nữa ?

Đôi mày liễu của Đường Nhất Tiên khẽ nhướng lên, đắc ý khoe ngay:

- Dương đại nhân, tiêu của người ta là không cần tiêu...

Nàng còn chưa dứt lời, Hàn Ấu Nương đột nhiên “A” một tiếng, vươn tay kéo Dương Lăng nói:

- Tướng công, muội hâm cho chàng canh gà rồi, chàng nên nhân lúc còn nóng uống một chén đi.

Một người mắc cỡ là đủ rồi, nếu hai vợ chồng cùng mắc cỡ, sau này đành phải trốn không dám gặp người khác nữa. Hàn Ấu Nương thấy mình lỡ lời, không khỏi nơm nớp lo sợ, quên mất Đường Nhất Tiên vừa mới thổi một khúc tiêu, tướng công dù ngu tới mấy, cũng không thể nghĩ ra cái thứ kia được .

Ba tỷ muội thấy Ấu Nương vội vàng lôi kéo tướng công đi nhanh vào phòng, đợi nàng đóng cửa phòng, lại không kìm được cười phá lên.

******************

Hôm sau, Tiền Ninh phái một chiếckiệu tới đón Dương Lăng, đưa y đi Đông Tập Sự Xưởng ở bắc Đông An Thành gặp Vương Nhạc. Bây giờ trong đám nội quan, đề đốc Đông Xưởng Phạm Đình, có cùng quyền thế với Cẩm Y Vệ. Miêu Quỳ giữ chức Ngự Mã Giám, chỉ huy bốn vệ doanh hộ vệ hoàng cung là Võ Tương, Đằng Tương, Tả Vệ Và Hữu Vệ.

Trong tam đại doanh Đề đốc kinh sư, Vương Nhạc, thái giám giữ ấn Nội Lễ Giám, là nội quan duy nhất có địa vị cao hơn hai người kia. Vương Nhạc làm người thẳng thắn trung hậu, không có dã tâm gì nên rất được Hoằng Trị tín nhiệm.

Lần này nhận được ý chỉ của Hoằng Trị đế, Vương Nhạc cũng thực sự phải mất khá nhiều tâm tư. Chức vị của Dương Lăng mà thấp quá thì không hợp thánh ý, cao quá thì triều thần lại bất mãn. Cuối cùng vẫn là nhờ Phạm Đình giúp lão bày mưu tính kế, khẩn cấp điều một tên tham tướng đi nhận chức phó tổng binh ở Đại Đồng, cử Dương Lăng làm tham tướng. Loại hoạt động nội bộ này không thông qua bộ Binh, bộ Lại, Nội Các, đợi bổ nhiệm xong, họ có muốn phản đối cũng đã muộn rồi.

Dương Lăng vào cửa Đông Xưởng, được một trưởng ban dẫn dắt đi vào đại sảnh phủ nha. Trên sảnh treo một tấm biển ”Bạch Thế Lưu Danh” trên cao, trên tường trái được xây làm bình phong có khắc câu chuyện về Di Thức Thổ Án(*). Đi vòng qua bức bình phong là từ đường của Đông Xưởng, thờ phụng bài vị của những Xưởng Chủ tiền nhiệm của Đông Xưởng, gian nhà nhỏ bên trái là nơi Xưởng Đốc hằng ngày xử lý công vụ.

*( năm Minh Hiến Tông Thành Hoá, trong kinh thành chợt xuất hiện một án kiện thần bí gọi là ‘Yêu Hồ Dạ Xuất’, sau đó có một yêu đạo Lý Tử Long dùng tà thuyết đầu độc lòng người, thậm chí lôi kéo rất nhiều thái giám, có ý đồ làm loạn)

Dương Lăng chầm chậm đi vào gian nhà nhỏ. Y thấy một lão thái giám hơn bảy mươi tuổi ngồi trên ghế, gầy trơ cả xương, mặt đầy nếp nhăn, thoạt nhìn chẳng có gì đáng chú ý. Bên cạnh lão có một thái giám khác đang ngồi, Dương Lăng nhận ra đây là Phạm Đình Phạm công công ngày ấy giám sát việc đánh trượng ngoài ngọ môn. Trên tường phía đông có một hương án, bên trên thờ phụng pho tượng trông có vẻ là một chân nhân, hoành phi câu đối bốn chữ là ‘Tinh Trung Báo Quốc’ (hết lòng vì nước), không cần nhìn cũng biết người được thờ phụng là Nhạc Vũ Mục (Nhạc Phi - ND) rồi.

Dương Lăng vào phòng đang muốn nghiêng người thi lễ, Phạm Đình cười ha ha nói:

- Miễn lễ miễn lễ, biết thân thể ngươi không khỏe, không cần hành đại lễ. Vị này chính là Vương công công của chúng ta, hai vị lần đầu gặp nhau, làm quen đi, sau này còn phải giao tiếp thường xuyên.

Lão thái giám cười ha ha, thanh âm hơi khàn:

- Ngươi chính là Dương Lăng à ? Ừm, xem ra cũng là một nhân vật tầm cỡ, việc này được Hoàng Thượng giao cho ta rồi. Ở hoàng cung chúng ta không tiện triệu ngươi đến, do đó phải bảo ngươi tới chỗ Phạm công công gặp mặt. Lát nữa để Phạm công công đi với ngươi tới doanh trại một chuyến. Ta già rồi, đi tới đi lui không nổi. Ngươi mới vào trong quân, cũng phải có người giúp đỡ. Phạm công công còn điều thêm hai người khác theo ngươi vào quân để sử dụng nữa.

Phạm công công vẻ mặt tươi cười vô hại, tiếp lời nói:

- Ngươi đã quen biết bọn họ, bọn họ vừa khôn ngoan, lại giỏi võ nghệ. Ngươi mang theo làm thân binh cũng vừa lòng hơn..

Dương Lăng vội hỏi:

- Đúng đúng, đa tạ công công.

Trong lòng y âm thầm tự nhủ phải cẩn thận một chút. Vị Phạm công công này cố tình giúp ta thật, hay sắp đặt cơ sở ngầm bên người ta? Hai người Liễu Bưu là Cẩm Y Vệ, hắn nói điều là tới ngay, xem ra vị Phạm công công này có quan hệ không bình thường với Trương đề đốc rồi.

Dương Lăng cẩn thận ngồi xuống chiếc ghế đối diện, ngẩng đầu nhìn lão thái giám. Vương Nhạc đang khom lưng, hốc mắt trũng sâu, khi nói chuyện với hắn thường có nước ứa ra khóe mắt, chắc là đã bị bệnh khô mắt hay gì đó.

Một đại nhân vật giậm chân một cái làm cả thành Bắc Kinh phải rung lên, thật ra là một lão già gió thổi cũng bay tầm thường như vậy, thật sự khác hẳn những gì Dương Lăng dự liệu. Lòng sợ hãi cũng bay đi mất. Lão Vương Nhạc nói chuyện hơi lắp bắp, nói cả buổi cũng chỉ là mấy lời nói khách sáo đại loại như Hoàng thượng đã tin tưởng, phải tận trung với cương vị công tác, đừng phụ thánh ý. May thay, Phạm Đình thấy lão công công cứ nhai đi nhai lại mà không có gì mới, thừa dịp lão uống ngụm trà, lập tức giới thiệu cho Dương Lăng tình hình trong doanh.

Đợi Vương Nhạc được hai tiểu thái giám dìu đi, Phạm Đình liền triệu hai cái quan kiệu, lính trên trăm tên, cùng Dương Lăng đi tới Thần Cơ doanh. Trong kinh sư có năm quân doanh, ba thiên doanh và cả Thần Cơ doanh, cộng lại có gần mười vạn người, lần lượt đóng quân ở bốn phía thành Bắc Kinh.

Thần Cơ doanh đóng quân ở Nam Uyển, có một doanh quan (quan chỉ huy), hai phó tướng. Trong doanh có năm quân là Trung Quân, Tả Dịch (cánh trái), Hữu Dịch (cánh phải), Tả Tiêu (bên trái ngoài cùng), Hữu Tiêu (bên phải ngoài cùng). Toàn doanh tổng cộng có hai vạn năm ngàn người. Doanh quan của Thần Cơ doanh xưa nay do vương công trong kinh đảm nhiệm, nhưng doanh quan này xem như một hư chức, có chức không có quyền, hoàn toàn không có quyền tham dự quân vụ, đại sự trong quân lại do hai vị phó tướng xử lý.

Hai phó tướng Thần Cơ doanh là Trương Xuân, Lục Thiệu Hồng sớm đã nghe nói về vị tham tướng thiếu niên đắc chí này vốn là người tâm phúc của Hoàng thượng. Hai người sành sỏi, sớm bày hương án, long trọng nghênh đón vị đốc chủ Đông Xưởng và vị tâm phúc của Hoàng thượng, chờ tuyên thánh chỉ, nhận thủ ấn.

Lúc này trên giáo trường Tả Tiêu doanh cờ bay phấp phới, toàn quân đứng trang nghiêm, tướng sĩ mỗi người đều giáp trụ sáng loáng. Trước trận có hơn mười tướng quân cưỡi chiến mã, đứng cạnh cửa đang lẳng lặng chờ đợi.

Một con hắc mã thần tuấn phát ra tiếng phì phì trong mũi, đầu lắc lắc, tên tướng quân lập tức vỗ vỗ đầu nó, an ủi vài câu. Sau đó gã ưỡn ngực, uể oải nói với vị tướng quân mặc hắc giáp đứng ở giữa nhóm: oải, :

- Bào tham tướng, nói xem chúng ta bày đại trận như vậy làm cái gì?

Vị tướng quân này toàn thân mặc giáp trụ màu đen, trông như một bức tượng bằng sắt, Gã hừ một tiếng đáp:

- Là Bào phó tham tướng, Lưu đô ty đừng vượt quy củ!

Lưu đô ty chớp mắt, cười hì hì nói:

- Bào đại ca! Tề tham tướng thăng chức, trong Tả Tiêu doanh chúng ta ngoại trừ đại ca thì ai có thể làm thống lĩnh năm ngàn binh sĩ chứ? Nghe nói vị tham tướng tân nhậm này là một thư sinh, râu còn chưa dài nữa cơ, chúng ta làm gì phải tôn trọng hắn như vậy?

Vị tướng quân mắt hổ râu đen uy phong lẫm liệt, giáp trụ oai phong, đến cả nửa bên mặt gã cũng che kín, do đó cũng không thấy rõ thần sắc. Nghe Lưu đô ty nói thế, mí mắt gã bỗng nhích động, vẫn là im lặng không nói gì.

Ở một bên kia, một tướng quân vóc người cường tráng dùng roi ngựa gạt khẽ mũ trụ che mặt, lộ ra cái trán mồ hôi ròng ròng, nôn nóng nói:

- Đúng thế, giáp trụ đầy đủ, cứ như Thánh thượng đích thân tới vậy, sắp nóng chết người ta rồi. Tôi nói Bào đại nhân nghe, tiểu tử đó dù có lai lịch gì cũng không cần nể tình như vậy đâu.

- Hắc hắc!

Một tướng quân mặt rỗ vóc người gầy đét lắc lắc đầu, mấy tua đỏ trên mũ trụ theo gió bay lật phật, hắn nhếch miệng cười nói:

- Lai lịch gì chứ? Mấy người các ngươi chẳng biết gì sao? Ta sớm đã nghe rồi. Vị tân tham tướng đại nhân này lúc trước là thị độc của thái tử. Nghe nói có quan hệ rất tốt với Thọ Ninh Hầu Trương gia nữa. Hai ngày trước y vì đi tìm đại phu cứu nương tử đến cả thánh chỉ của Hoàng Thượng cũng không tiếp. Thế mà khi y bị đương kim Thánh Thượng kêu lên kim điện lại không sao. Người của ta trong cung nói Hoàng hậu nương nương đã ra sức bảo vệ y. Chà, người so với người sao lại bất công thế. Chúng ta chinh chiến sa trường, chịu khổ nửa đời, người ta vừa chui ra khỏi bụng mẹ, đã một cước đạp lên đầu chúng ta rồi.

Tướng quân giáp đen gương mặt co lại một chút, quát khẽ:

- Liên đô ty, ngươi câm miệng cho ta!

Liên đô ty nghe gã giáo huấn, phẫn nộ ngoặt đầu ngựa tới cửa, cười lạnh với tâm phúc mình nói:

- Tề tham tướng lên chức, lão Bào còn tưởng rằng mình có thể lên chỗ khuyết này. Bây giờ hy vọng tan vỡ, lại lập tức quay sang nịnh nọt người ta, đúng là hèn.

Tên phó đô ty nhìn nhìn mọi nơi, nói:

- Đại nhân, việc này cũng chưa chắc. Người nhìn hình dáng Bào tướng quân kìa, có chỗ nào giống như đang hoan nghênh không? Ty chức thấy hình như không ổn, hắn định ra oai, đánh phủ đầu vị tham tướng tân nhậm này rồi.

Liên đô tư sáng mắt lên, cười nói:

- Nếu thực như vậy thì sắp có trò vui xem rồi. Ta nghe nói tuy Dương Lăng là một thư sinh, nhưng Lưu Đại Hạ Lưu thượng thư cũng khen y đó. Chắc cũng giống như Triệu Quát, loại thiếu niên đắc chí này không thể chịu được người khác đả kích. Y lại là người tâm phúc của Hoàng Thượng, lão Bào lại muốn đối đầu trực tiếp với y, hắc hắc hắc hắc...

Gương mặt rỗ của hắn đã đỏ ửng lên. Mấy ngày nay hắn chạy quanh chuẩn bị, xài tiền khá nhiều, nguyên đang trông chờ lão Bảo thăng chức tham tướng là hắn có thể lên chức phó tham tướng, không nghĩ tới từ đâu lại xuất hiện tên Dương Lăng. Mất trắng toàn bộ, trong lòng hắn đang rất xót xa. Nếu Bào Tận Thẩm và vị tham tướng mới được phong đối đầu nhau, bất luận là ai phải ra đi thì hắn cũng vẫn có cơ hội.

Một tràng tiếng vó ngựa vang lên. Hai vị phó tướng Trương Xuân, Lưu Thiệu Hồng mang theo vài chục thân binh, cùng Dương Lăng phi nhanh đến. Dương Lăng không dám ngồi thẳng, hai chân y cặp vào bụng ngựa, mông hơi nghiêng. Nhìn thấy tư thế y cưỡi ngựa giống như người không biết cưỡi, đám quan tướng ở cửa không khỏi khinh bỉ.

Vài chục người cưỡi ngựa cuồn cuộn tiến đến trước cửa. Trên giáo trường đã có mấy ngàn nhân mã đứng trang nghiêm, không ai dám nói gì, ngựa không hí, yên lặng không một tiếng động, cho thấy bình thường được huấn luyện cực tốt, quân kỷ nghiêm minh. Mục quang Dương Lăng lướt qua, ánh mặt trời chiếu xuống giáp trụ của binh lính lóe sáng, quân sỹ kinh sư được trang bị cực tốt, cả năm ngàn quân đều mặc chiến giáp.

Trương Xuân, Lưu Thiệu Hồng cùng Dương Lăng giục ngựa lướt nhanh qua đám tướng lĩnh trên đài, rồi quay ngựa hướng về phía toàn quân. Trương Xuân chỉ roi ngựa trong tay, dương dương tự đắc ngạo nghễ hỏi:

- Dương tham tướng, ngươi xem quân ta thế nào?

Dương Lăng thấy ba quân tướng sĩ đứng thẳng tắp, hàng lối như dệt sợi, nhìn ngang nhìn dọc đều tăm tắp, quả thực không thua gì duyệt binh ở đời sau. Y vui vẻ tán thưởng:

- Đại nhân trị quân rất đúng cách, thần binh như thế, ty chức quả chưa thấy qua ở biên quân bao giờ.

Trương Xuân nghe xong cười ha ha. Hắn xoay người xuống ngựa, lộp cộp đi lên đài Điểm Tướng, ngạo nghễ đứng thẳng. Bọn người Bào Tận Thẩm đã sớm theo tới trước trận, thấy thế lập tức xoay người xuống ngựa, giáp trụ gạt xuống đi đến trước đài Điểm Tướng quỳ xuống ôm quyền nói:

- Phó tham tướng Tả Tiêu quân Thần Cơ doanh Bào Tận Thẩm, suất lĩnh toàn quân tướng sĩ sở thuộc khấu kiến tướng quân!

Trương Xuân chỉ tay vào Dương Lăng nói:

- Bản tướng vừa tiếp chỉ ý của Thánh Thượng, Đông cung thị độc Dương Lăng cung mã thành thạo, văn hay võ giỏi, đáng được trọng dụng. Lúc này y giữ chức tham tướng Tả Tiêu quân ở Thần Cơ doanh, các ngươi cũng nên ra mắt hắn đi.

Bào Tận Thẩm ôm quyền đáp:

- Dạ!

Hắn phẩy ống tay áo đứng lên, khẽ xoay người nhìn Dương Lăng một chút, rồi dẫn theo ba tên đô ty, sáu phó đô ty, một quan ở trung quân đi đến chỗ Dương Lăng.

Dương Nhất Thanh giữ ngựa của cả ba người đứng cạnh đài Điểm Tướng, Liễu Bưu theo sau Dương Lăng đứng ở trước đài Điểm Tướng. Lúc này thấy đám lính ở Tả Tiêu quân sắp sửa tham kiến thượng quan, Liễu Bưu không dám vô lễ, vội vàng tránh qua bên cạnh vài bước.

Bào Tận Thẩm đi đến trước mặt Dương Lăng chừng một trượng, chợt dừng cước bộ, hai tay ôm quyền trầm giọng nói:

- Tả Tiêu quân phó tham tướng Bào Tận Thẩm suất lĩnh toàn quân tướng sĩ bái kiến tham tướng đại nhân.

Dương Lăng mỉm cười đưa tay muốn đỡ lấy gã. Còn chưa mở lời nói gì thì nụ cười y đột nhiên đông cứng lại. Y đưa tay đỡ nhưng trống không, Bào Tận Thẩm hơi chần chờ một chút, rồi thân hình chợt nghiêng sang một bên, đường đường chính chính quay sang Liễu Bưu cúi đầu bái dài.

Đám sĩ tốt năm ngàn quân phía dưới lại không nhận ra ai là tân nhậm tham tướng. Các đô ty còn đang do dự, bọn họ thấy phó tham tướng Bào Tận Thẩm đã bái rồi, không chút nghĩ ngợi gì liền quì một gối chào theo. Năm ngàn người động tác đồng loạt, giáp trụ vang động, chỉ nghe “roạt” một tiếng, sau đó đồng thanh hô lớn:

- Bái kiến tham tướng đại nhân!

Trương Xuân trợn ngược cả mắt lên, hắn giật mình nói:

- Bào Tận Thẩm, ngươi bái người nào thế?

Bào Tận Thẩm làm bộ giật mình, đáp:

- Ty chức phụng lệnh của đại nhân, bái kiến tân nhậm tham tướng Dương Lăng Dương đại nhân mà!

Trương Xuân nghe xong vừa sợ lại vừa giận, lạnh lùng nói:

- Sao ngươi biết người đó là Dương tham tướng?

Bào Tận Thẩm mắt vẫn nhìn thẳng, quì một chân, hai tay ôm quyền, hành đại lễ tiêu chuẩn trong quân, nói lanh lảnh:

- Ty chức nghe ý chỉ Thánh Thượng nói là Dương đại nhân cung mã thành thạo, lại văn võ song toàn, trong khi vị kia rất yếu đuối, rõ ràng là sư gia của đại nhân, còn thiếu niên anh hùng này không phải chính là Dương Lăng Dương đại nhân sao?

Trương Xuân nghe xong tức giận đến nhất thời nói không nên lời, tay Dương Lăng vẫn đưa lên cao, ngạc nhiên nhìn Bào Tận Thẩm. Thấy gã đảo con ngươi, nhìn mình vẻ coi thường, trong mắt tràn đầy ý châm biếm, Dương Lăng lập tức tỉnh ngộ.

Y nhìn Bào Tận Thẩm một lát, chờ nét kinh ngạc và giận dữ trên mặt mình bớt đi, thần sắc khôi phục lại vẻ bình tĩnh, đột nhiên cười phá lên...

Chương bảy mươi chín Lại Thua Một Ván

------------------------

Dương Lăng cười hà hà rụt tay về, bước từng bước đến trước mặt Bào tham tướng, không hề có ý giận dữ.

Mới vừa rồi đột nhiên bị Bào Tận Thẩm trêu chọc một phen, đúng là trong lòng Dương Lăng vừa thẹn vừa giận. Nhưng y cũng hiểu loại cấp trên được chỉ định từ trên trời rơi xuống rất dễ bị người cũ phản đối. Huống hồ nếu Dương Lăng không phải là người được Hoằng Trị nhắm thì y cũng không thể được thăng chức nhanh như tên bắn, ngồi ngay lên đầu vị tướng quân này. Nghĩ vậy, Dương Lăng lại trở nên bình tĩnh, thông cảm cho vị tướng quân khôi ngô trông như tháp sắt đang tràn ngập địch ý này. Y cười khà khà tiến lên nâng Bào tham tướng dậy, cầm cánh tay gã chậm rãi đi lên đài Điểm Tướng, vừa đi vừa nói với Trương phó tướng:

- Đại nhân, chẳng trách Bào tướng quân hiểu lầm. Thánh Thượng ân sủng nên có nhiều lời khen ngợi ty chức. Dương Lăng còn nhỏ tuổi, khí chất phong độ không thể so được với Bào tham tướng vốn uy phong nửa đời trên lưng ngựa.

Trương Xuân thấy y có ý hòa giải, âm thầm thở phào nhẹ nhõm. Hắn trừng mắt nhìn Bào Tận Thẩm, rồi quay sang cố cười gượng vài tiếng nói với Dương Lăng:

- Tên này quả là lỗ mãng. Về việc xông pha chiến đấu, chiến trường giết địch thì gã thật đúng là một hảo hán, nhưng không có cái nhìn tinh tường nên mới ngộ nhận như vậy. Sau này Dương tham tướng cũng nên xem gã là đồng đội, cần phải châm chước nhiều hơn.

Bào Tận Thẩm thấy mình chọc tức Dương Lăng mà y không làm gì được mình nên đang đắc ý trong lòng, nay nghe Trương phó tướng nói thế lại rất bực mình. Gã luôn tự đánh giá mình rất cao, tuy biết Trương phó tướng có ý tốt muốn gỡ tội cho mình nhưng gã vẫn không kìm được hừ lạnh một tiếng, bả vai run lên, vùng khỏi tay Dương Lăng.

Trương Xuân thấy gã mê mẩn quan chức đến nổi mất khôn không thông tình lý như thế, không khỏi biến sắc, có vẻ hơi tức giận. Dương Lăng thấy vị Bào tham tướng này không biết điều như vậy, ngay trước mọi người mà vẫn không biết nể mặt mình, trong lòng cũng hơi giận dữ. Y phất ống tay áo, hừ lạnh một tiếng, xoay người đi đến cạnh, đứng kề vai với Trương phó tướng. Lúc này, Bào Tận Thẩm một mình đứng phía sau ba bước, giáp trụ đầy đủ, sững sờ đứng đó, trông lại như một thân binh hộ vệ.

Dương Lăng chắp tay vái chào Trương phó tướng, sau đó nhìn xuống dưới đài. Trên quãng trường có năm ngàn quân lính khôi giáp sáng choang đang đứng nghiêm, không một tiếng động, chỉ nghe tiếng gió thổi tinh kỳ phần phật. Dương Lăng đảo mắt qua toàn trường, cảm thấy đám lính mặc dù đội ngũ chỉnh tề, khôi giáp sáng chói, thoạt nhìn có vẻ vô cùng uy vũ, nhưng nhìn kỹ lại thì thấy thiếu phần khí thế.

Y đột nhiên nhớ tới biên quân đóng ở Kê Minh dịch, những người này mặc dù trông có vẻ xơ xác du côn một chút, nhưng một khi xếp thành hàng chiến đấu lại có sát khí ngút trời. Khí khái tung hoành ngang dọc không để thiên hạ trong mắt này chính là do việc chiến đấu trên chiến trường rèn dũa thành. Còn những binh sỹ ở đây mặc dù xếp hàng thẳng tắp, đội ngũ vô cùng chỉnh tề, nhưng rõ ràng lại thiếu loại uy vũ hiên ngang như vậy.

Dương Lăng mỉm cười, đưa mắt nhìn qua Liễu Bưu, nói:

- Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh, lên trước đài nghe lệnh!

Dương Nhất Thanh liền đưa cương ngựa cho thân binh của Trương phó tướng, vội vàng đi đến trước đài, cùng Liễu Bưu quỳ một gối. Dương Lăng nói:

- Hai người vốn là người hầu cận của ta, bản tướng hôm nay nhậm chức chủ tướng Tả Tiêu quân Thần Cơ doanh, từ nay hai người các ngươi cũng gia nhập quân đội, làm thân binh cho ta!

Hai người ôm quyền thi lễ:

- Ty chức tuân lệnh tham tướng!

Dương Lăng khẽ gật đầu, sải bước lên một bước, mặt nhìn xuống toàn quân tướng sĩ, nhưng lại không cho hai người đứng lên.

Để lấy lí do biện bạch cho việc làm nhục Dương Lăng, vừa rồi Bào Tận Thẩm cố ý làm ra vẻ nhận lầm người, dẫn tướng sĩ toàn quân quì làm đại lễ trước mặt Liễu Bưu. Nhưng lúc này mấy ngàn người đang đứng nghiêm trong giáo trường, người gã vừa mới bái lại quỳ gối không nhúc nhích trước mặt Dương Lăng. Gã thấy vậy trong lòng vừa thẹn vừa giận, chỉ cảm thấy Dương Lăng có ý làm nhục mình, không khỏi xiết chặt hai nắm đấm, nhìn Dương Lăng trừng trừng.

Dương Lăng đứng hiên ngang, trường sam (áo dài nam) lất phất, chắp tay cất cao giọng nói:

- Chư vị huynh đệ Tả Tiêu quân. Bản tướng vừa mới tới, chưa quen với mọi người, nói gì cho tốt đây? Ừm... nếu cứ đứng đây ra vẻ thân thiết với mọi người bàn về việc nhà việc cửa, Dương mỗ có vẻ trẻ con giả làm người lớn rồi.

Quan binh dưới đài không ngờ vị tướng quân xuất thân văn nhân này ngay câu nói đầu tiên lại đùa cợt như vậy, không thể không cười phá lên. Không khí khẩn trương ước thúc ban đầu đã hoàn toàn biến mất.

Dương Lăng cười khà khà đứng đó, đợi thanh âm ồn ảo giảm xuống, giơ hai tay ra hiệu ổn định, tiếp tục nói:

- Làm phiền tướng sĩ toàn quân phải vất vả như vậy, mặc dù là các vị hoan nghênh bản tướng, nhưng Dương mỗ vẫn cảm thấy được quá yêu mà ái ngại. Cũng nên nói mấy câu đơn giản để hiểu biết nhau một chút. Ta xin tự giới thiệu qua, ta họ Dương, tên là Dương Lăng, từng nhậm chức dịch thừa Kê Minh huyện, sau đó làm thị độc phủ Chiêm Sĩ. Bây giờ, tất cả mọi người đều biết ta là chủ tướng Tả Tiêu quân Thần Cơ doanh. Lần đầu gặp mặt, Dương mỗ xin được vấn an tướng sĩ toàn quân!

Dương Lăng nói rồi hai tay ôm quyền vái chào. Năm ngàn quan binh thấy Đại tướng quân ôm quyền hành lễ, tức thì giáp trụ loảng xoảng, lập tức quỳ gối, tới tấp đáp tạ:

- Bái kiến tham tướng đại nhân!

Dương Lăng hai tay ôm quyền, ánh mắt lẫm lẫm nhìn vào mặt mấy tên đô ty. Đô ty mặt rỗ Liên Đắc Lộc thấy vậy cũng không khỏi thấp người xuống, quỳ gối. Bành đô ty tráng kiện mập mạp nhìn phải nhìn trái, thấy Liên Đắc Lộc đã quỳ cũng vội quỳ xuống, ôm quyền thi lễ:

- Mạt tướng tham kiến Dương tướng quân!

Lưu đô ty thấy hai người bọn họ đều quì rồi, do dự nhìn Bào tham tướng một lúc, rồi cũng quỳ xuống theo nốt. Ba vị đô ty đã cúi đầu, mấy sĩ quan cấp cao phía sau nào dám chậm trễ, tất cả đều quỳ xuống đất. Đứng cạnh Dương Lăng, Trương Xuân trừng mắt lạnh lùng nhìn Bào tham tướng. Mặc dầu Bào Tận Thẩm đã dám cậy già lên mặt, giả ngu giả dại phá Dương Lăng, nhưng dù sao lúc đó gã vẫn còn có thể viện cớ là mình nhận lầm. Lúc này mọi người đều đang chăm chú nhìn gã, lại có hai vị phó tướng đại doanh ở đây, gã cũng không dám trắng trợn chống lệnh. Hơi ngần ngừ một lúc, Bào Tận Thẩm đành phải nghiến răng, lẳng lặng quỳ xuống.

Dương Lăng xem như chưa biết động tĩnh gì phía sau, y hít sâu một hơi, nói sang sảng:

- Các vị, làm tướng phải quản binh, luyện binh. Việc quản binh chính là một khi xuất lệnh, thì lệnh hạ xuống như núi. Việc luyện binh, ngoài việc luyện cung mã võ nghệ, cũng phải luyện quân kỷ hiệu lệnh. Bản tướng mới nhậm chức, đây là tướng lệnh đầu tiên muốn hiểu dụ toàn quân!

Y ngừng lại một chút đoạn cao giọng:

- Sĩ quan cấp cao trong ba ty của Tả Tiêu doanh đâu?

Liên đô ty nghe ngữ khí quả quyết khi nói chuyện của vị thị độc tiến sĩ Đông cung này, cảm thấy y cũng không phải là loại mọt sách, trong lòng cũng đã hơi sợ, nghe thế vội đáp lời:

- Đệ nhất ty Tả Tiêu quân Liên Đắc Lộc nghe lệnh!

Mấy sĩ quan cấp cao khác cũng lần lượt báo quan hàm và danh tính. Sau khi nghe xong Dương Lăng vung tay lên, lớn tiếng:

- Ba vị đô ty lĩnh quân, giờ Thìn canh ba ngày mai tập hợp ở giáo trường. Bản tướng sẽ ở đây điểm binh! Quan quân của Trung quân lưu lại, những người còn lại có thể giải tán!

Lưu đô ty hơi chần chờ nhìn thoáng lên đài Điểm Tướng. Bào tham tướng vẫn đang ôm quyền quỳ dưới đất, hoàn toàn không thể nhìn thấy sắc mặt gã. Ba vị đô ty nhìn nhau, chỉ biết lục tục dẫn quân bản bộ rời khỏi giáo trường. Chỉ trong chốc lát cả giáo trường đã trống rỗng. Ban đầu, vốn Bào tham tướng muốn trước mặt ba quân ra oai phủ đầu Dương Lăng, không nghĩ tới Dương Lăng lại sử dụng chiêu này khiến gã phải quỳ gối mãi, y thì nói mấy câu linh tinh rồi đuổi mọi người đi. Nhất thời gã nghiến chặt hàm răng, mặt xạm lại.

Dương Lăng xoay người, dường như lúc này mới nhìn thấy gã, vội vàng nâng gã dậy, rồi hớn hở phân phó đám sĩ quan chuẩn bị rượu tiệc, muốn cùng các phó tham tướng khoản đãi hai vị đại nhân Trương Xuân, Lưu Thiệu Đường để trọn tình chủ khách. Nghe thế, rốt cuộc Bào Tận Thẩm không kìm được nữa, gã liền hầm hầm ôm quyền, lớn tiếng nói:

- Chư vị đại nhân, ty chức cảm thấy không khỏe. Hôm nay Dương tham tướng nhậm chức, ty chức không thể không cố ôm bệnh mà ra nghênh đón. Tiệc rượu thì chắc không có phúc hưởng rồi, Bảo mỗ xin được cáo lui, thất lễ!

Nói xong gã cũng không đợi Dương Lăng trả lời, ôm quyền lui về phía sau ba bước, rồi quay lưng, lộp cộp đi xuống đài.

Trương Xuân nhìn theo bóng lưng gã rồi khẽ lắc đầu: “Tham tướng Dương Lăng được Hoàng đế chấm, tiền đồ tuyệt không phải chỉ là chức tham tướng. Đến cả một chút nhãn lực cũng không có, ngươi còn vọng tưởng ngồi trên ghế chủ tướng sao?

Chỉ là... Bào Tận Thẩm ở lâu trong quân, cũng có vài sĩ quan quân đội cúi đầu nghe lệnh gã, xem ra gã thật sự muốn chống lại Dương Lăng rồi. Hai người này một là lão tướng trong quân, là niềm tin của mọi người, một người là sủng thần của vua, không thể đắc tội được. Mình lại bị kẹp ở giữa, sau này chắc phải đau đầu rồi.”

Hắn nghĩ vậy, không khỏi lo lắng nhìn Lưu Thiệu Đường, vị phó tướng thứ hai này cũng nhìn hắn với vẻ mặt đau khổ. Ánh mắt hai người gặp nhau, cùng nhìn nhau thở dài, đồng thời lắc lắc đầu.

*********************************

Giờ Thìn một khắc, Dương Lăng dưới sự trợ giúp của Liễu Bưu đã đội mũ trụ, sườn đeo huyền kiếm, rời khỏi đại trướng của tham tướng.

Dương Lăng nghe Tiền Ninh cho biết mấy năm nay quốc gia yên ổn, ngoại trừ bắc cương, còn lại thì chiến sự không nhiều. Tam đại doanh trong kinh sư gần như không được dùng binh. Vì vậy quân kỷ cũng thoải mái, nếu chủ tướng có gia quyến ở kinh thì cũng không cần phải trú trong doanh trại. Dù sao thì mã trình khứ hồi giữa nhà trong thành và Nam Uyển cũng không xa lắm, y vốn định buổi tối sẽ về nhà. Nhưng hôm nay vừa vào đại doanh, Bào tham tướng đã ra mặt muốn áp đảo y nên Dương Lăng không thể về được. Do đó tối hôm qua y đã sai Dương Nhất Thanh về thành một chuyến, đem việc mình ở lại trong quân doanh thông báo cho Ấu Nương.

Dù sao lúc này Dương Lăng vẫn chưa để bụng sự vô lễ của Bào tham tướng. Quan uy cần phải qua quá trình lâu dài, dù sao mình cũng là chủ tướng mới trong quân. Lâu dần thì uy danh tự nhiên sẽ quật khởi, ảnh hưởng của Bào Tận Thẩm sẽ từ từ yếu bớt. Chỉ cần bây giờ gã không tìm đến làm phiền mình thì việc này coi như chỉ cười khẩy cho qua luôn. Hai người cùng cai quản Tả Tiêu doanh chứ không nên chống đối nhau, chẳng việc gì phải láo nháo với gã.

Lúc này trên giáo trường, đệ nhất ty của Liên Đắc Lộc đã xếp hàng chỉnh tề đợi tham tướng đại nhân duyệt binh. Tên mặt rỗ này hết lòng theo đuổi hoạn lộ, bất luận quan lại bé to gì đó, hắn đều có thể nịnh nọt được. Chỉ là lúc tặng lễ vật thì hắn chỉ tặng vượt cấp. Hắn cho rằng đối với các vị quan chỉ lớn hơn mình một cấp, cho dù mình bỏ tiền ra thì ông ta cũng sẽ không đem chiếc ghế đang ngồi tặng cho mình, do đó mình có tặng cũng chỉ là mất trắng. Nhưng giao tình miễn phí thì mình chẳng ngại gì mà cứ tặng cho ông ta. Do đó hắn đã sớm đưa một ngàn năm trăm quan binh thuộc đệ nhất ty mặc áo giáp chỉnh tề xếp hàng sẵn ở giáo trường rồi.

Quân lính đệ nhị ty của Bành Kế Tổ đang chầm chập đi vào giáo trường tập hợp. Một vài binh sĩ đang rì rầm bàn tán, thấy tham tướng đại nhân mặc áo giáp đội mũ trụ dẫn bốn mươi thân binh mặc giáp trụ màu đồng thau tiến vào giáo trường, không khỏi im lặng, vội vàng đi vào hàng ngũ.

Dương Lăng đứng uy nghi trên đài. Y mặc bộ giáp sáng choang, thật sự cũng tăng thêm vài phần oai hùng. Chỉ là mấy thứ mũ trụ đồng, chiến bào, hộ kính, quần chiến, giày chiến tạo thành vẻ oai vệ này lại nặng đến bốn mươi cân, làm Dương Đại tướng quân tuy uy vũ thì có uy vũ, nhưng nếu không nhờ có Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh giúp đỡ, việc y lên ngựa xuống ngựa cũng rất tốn sức.

Dương Lăng nhìn chung quanh, lại ngẩng đầu nhìn trời, xoay qua Liễu Bưu thấp giọng hỏi:

- Bây giờ là giờ nào?

Liễu Bưu thấp giọng trả lời:

- Đại nhân! Đã qua giờ Thìn hai khắc rồi, còn một lát nữa là tới giờ Thìn ba khắc.

Dương Lăng khẽ gật đầu, ánh mắt nhìn vào góc giáo trường, nơi đó vốn phải có quân binh của đệ tam ty, nhưng bây giờ không có lấy một bóng người. Bành Kế Tục và Liên Đức Lộc dưới đài cũng chú ý tới tình hình này. Hai người đến gần nhau khe khẽ nói chuyện, len lén quan sát phản ứng của Dương Lăng.

Vị tham tướng đại nhân này hôm qua đã từng nói một khi ra lệnh thì lệnh hạ như núi. Lúc này cũng đã sắp giờ Thìn ba khắc, không ngờ đội quân đệ tam ty chuyên dùng pháo của Lưu Sĩ Dung lại không hề có người nào, thử xem tham tướng đại nhân này xuống đài ra sao.

Dương Lăng nổi giận thật sự. Y nắm chặt chuôi kiếm, đôi mày kiếm cũng cau lại. Lưu Sĩ Dung cũng không phải là người có gan, cũng không cần phải đắc tội với y. Chắc chắn là do Bào Tận Thẩm xúi giục. Hôm qua y đã nhìn thấy biểu hiện của mấy tên sĩ quan cấp cao. Y thấy Lưu đô ty không ít lần đưa mắt nhìn Bào tham tướng. Không nghĩ tới tên Bào tham tướng hôm qua vừa xúc phạm mình một phen trước mặt hai vị phó tướng Thần Cơ doanh, mới hôm nay đã muốn làm lại lần nữa.

Dương Lăng nén giận, khóe mắt liếc xuống đội trưởng đội thân binh đứng dưới đài Điểm Tướng, chẳng biết người nọ có phải là cũng cùng một đảng với Bào tham tướng không. Nếu đợi qua canh giờ này, ta sẽ phái hắn chấp hành quân pháp, bắt Lưu Sĩ Dung tới gặp ta. Hắn có nghe lệnh không? Hiện nay Dương Lăng chỉ chắc chắn có thể sai bảo được hai người Dương, Liễu thôi. Muốn trùng chấn quân uy mà không đủ tự tin, trong lòng y không khỏi thấp thỏm.

Một lát sau, Dương Nhất Thanh nói nhỏ:

- Đại nhân! Tới giờ Thìn ba khắc rồi.

Dương Lăng hít một hơi, thả lỏng vai nhìn xuống dưới đài, chỉ thấy ba ngàn nhân mã của đệ nhất ty, đệ nhị ty đều đứng nghiêm trang, vô số cặp mắt đổ dồn vào hắn. Mí mắt Dương Lăng giật giật, từ từ nhìn về phía cửa. Đang muốn hạ lệnh cho đội trưởng thân binh chấp hành quân pháp, chợt y nghe xa xa có tiếng người gọi ngựa hí. Một lát sau có một con ngựa trắng xông vào cửa, viên kỵ mã hò hét om sòm:

- Mau lên cho ta, lập tức xếp thành đội ngũ!

Vừa thấy hắn, Dương Lăng không khỏi lửa giận sôi lên, không kìm được quát lớn:

- Lưu Sĩ Dung! Bản tướng muốn ngươi giờ Thìn ba khắc tập hợp ở giáo trường, cớ gì tới trễ như vậy?

Lưu Sĩ Dung xoay người xuống ngựa, sải bước đi đến trước đài rồi ôm quyền thi lễ:

- Hồi bẩm tham tướng đại nhân. Đại nhân hạ lệnh giờ Thìn ba khắc tới giáo trường tập hợp, ty chức không dám tới trễ, bây giờ chính là giờ Thìn ba khắc đó!

Hắn cũng không ngẩng đầu lên, cao giọng nói sang sảng:

- Nhân mã đệ tam ty gồm một ngàn năm trăm người, trừ ba người bệnh ra, còn lại toàn bộ đã tới. Mời đại nhân duyệt!

Nhân mã đệ nhất ty, đệ nhị ty sớm đã đứng nghiêm dưới đài. Nhân mã đệ tam ty vừa ào vào, người kêu ngựa hí tạo nên tình cảnh hỗn loạn, nhất thời khiến cho giáo trường vốn nửa tháng không mưa tung bụi lên mù mịt bốn phía. Dương Lăng nhìn đám quân lính đang chạy tán loạn lung tung tựa như chưa tìm được vị trí, tức giận đến mức thân thể khẽ run lên: quan binh mỗi ngày đều điểm binh thao diễn, lí gì mà không tìm thấy chỗ của mình. Rõ ràng là có người sai sử mấy tên binh lính càn quấy, cố ý bày trò.

Thấy quang cảnh như thế, Dương Lăng lập tức biến hẳn sắc mặt!

Chương tám mươi Phật Cũng Nổi Giận

------------------------

Dương Lăng ngửa mặt lên trời cười ha hả, rồi lạnh lùng nói:

- Lưu đô ty dùng binh hay thật, quả nhiên giờ Thìn ba khắc đã tới tập hợp.

Lưu đô ty tỏ vẻ bướng bỉnh bất tuân nói:

- Quân lệnh của đại nhân như núi, đã nói giờ Thìn ba khắc tập hợp, mạt tướng tự nhiên là không dám muộn, mà cũng không dám sớm.

Dương Lăng nhìn vào ánh mắt khiêu khích của hắn một lát, trong lòng đột nhiên chấn động, lập tức thanh tỉnh. Lưu Sĩ Dung vẻ mặt không hề sợ sệt, rõ ràng là đã lợi dụng kẽ hở trong lời nói của mình, nếu hôm nay muốn dùng quân pháp trị tội hắn thì hắn tất sẽ dùng việc chấp pháp bất công mà kiện lên cấp trên. Nếu làm như vậy, kiện cáo sẽ rất lôi thôi, toàn quân cao thấp còn có ai thèm kính sợ mình? Chẳng phải sẽ theo ý đồ của chúng sao?

Dương Lăng ấn chuôi kiếm, vội hít vài hơi, ổn định tâm tình, đứng trên đài chẳng nói chẳng rằng gì. Lưu Sĩ Dung thấy hắn nghẹn lời, không khỏi hiện lên nụ cười đắc ý, hắn đứng dậy nói:

- Đại nhân, những binh sĩ này không có quy củ, để mạt tướng về bản trận chỉnh lại đội ngũ!

Hắn xoay người lên ngựa chạy về đê tam ty, roi ngựa trong tay vung lên, tiếng rít vun vút, rồi trầm giọng quát:

- Tham tướng đại nhân có lệnh, lập tức tập hợp, mau mau về vị trí, chậm trễ coi chừng ăn roi.

Còn lại quân binh hai ty thấy hắn đuổi lính như đuổi dê, không khỏi phá lên cười. Dương Lăng cười lạnh nhìn giáo trường hỗn loạn, tùy ý để Lưu Sĩ Dung náo loạn. Lưu Sĩ Dung dương dương tự đắc, nhìn thấy uy phong của tham tướng đại nhân đã bị hạ xuống, thể diện chẳng còn gì, lúc này mới ước thúc đội ngũ đàng hoàng, nghiêm trang nói:

- Khải bẩm tham tướng đại nhân, đệ tam ty Tả Tiêu quân đã tập hợp xong, xin đại nhân hạ lệnh!

Dương Lăng làm như không nghe, nhìn quan phụ trách trung quân dưới đài hỏi:

- Trung quân, Bào tham tướng đâu?

Lưu Sĩ Dung cướp lời:

- Ty chức đang muốn khải bẩm đại nhân, Bào tham tướng hôm qua thân thể không thoải mái, hôm nay lại bị nặng lên, nhờ ty chức xin đại nhân cho nghỉ.

Dương Lăng liếc nhìn hắn, cười mà như không. Lưu Sĩ Dung nhìn thấy thế trong lòng cả kinh, thầm nghĩ: “Có phải là ta đang đùa với lửa không, tiểu tử này nếu nhẫn tâm kêu người đánh giết, thật sự làm lớn chuyện này để gỡ lại thể diện thì sao đây?”

Hắn đang vô cùng cẩn thận, nhưng chỉ nghe Dương Lăng điềm nhiên như không nói:

- Vậy à! Hôm qua nghe nói Bào tham tướng có bệnh mà bản tướng vừa mới đến nhận chức, công việc bộn bề, còn chưa kịp đi thăm hắn. Lát nữa diễn võ xong, Lưu đô ty theo ta đến thăm Bào tham tướng nhé.

Y ngừng lại một chút, rồi nói:

- Hôm nay diễn võ, tướng sĩ trong quân giáp trụ thì đầy đủ nhưng tại sao trong tay lại không có binh khí? Các ngươi ngày thường luyện tập võ nghệ đều là như thế sao?

Liên Đắc Lộc trên ngựa chắp tay nói:

- Bẩm đại nhân, Thần Cơ doanh rất gần hoàng thành trọng địa, e rằng kinh động trong cung và dân chúng, do đó xưa nay luyện tập hỏa khí thì một lần mỗi tháng, kéo cả đội ngũ vào núi tập dượt, còn bình thường thì chỉ diễn luyện trận pháp, đội ngũ thôi.

Dương Lăng ngày xưa đã từng gặp qua đội hỏa súng biên quân. Cách đánh của đạo quân ô hợp đó quả là vô cùng thảm hại. Từ khi biết được mình được điều tới Thần Cơ doanh, y đã khổ công suy nghĩ rất lâu về phương pháp luyện binh, cùng với cấp bậc kỹ thuật hỏa khí bây giờ, làm sao đề cao được tốc độ xạ kích của hỏa khí.

Khắc tinh lớn nhất của hỏa khí thời đại này là là kỵ binh của địch nhân. Nếu có thể truyền phương pháp xạ kích ba quãng ba hàng cho binh sĩ, phối hợp hàng lá chắn tay và kỵ binh, tất sẽ thành một chi kỳ quân. Lúc này nghe Liên Đắc Lộc nói thế, y không khỏi nhíu mày nói:

- Thần Cơ doanh sở trường hỏa khí mà mỗi tháng chỉ luyện tập một lần, vậy binh sĩ làm sao có thể thuần thục sử dụng súng ống được? Tư Khố Quan, đi lấy súng ống hỏa pháo ra đây, toàn doanh xuất phát, bản tướng muốn vào núi huấn luyện!.

Tư Khố Quan khom người nói:

- Đại nhân, súng và hỏa pháo phải có đại nhân đóng dấu của ngài mới có thể lấy ra. Xin đại nhân ban lệnh. Còn nữa, những thứ như hỏa dược và đạn pháo do Bào phó tham tướng giữ, không có lệnh phù của ông ta cũng không động vào được, ngài xem...

Dương Lăng nghe xong từ từ lui về phía sau vài bước, ngồi vào ghế soái do thân quân thu xếp, dựa vào lưng ghế, nói:

- Nếu đã như vậy, hôm nay tạm không vào núi luyện tập nữa. Ba ty sở thuộc xưa nay huấn luyện ra sao thì cứ làm như cũ.

Trên mặt Lưu Sĩ Dung hiện lên nụ cười đắc ý, còn ánh mắt của chư tướng khi nhìn về phía Dương Lăng đều có vẻ không còn kính sợ như trước lại thêm chút khinh thường. Dương Lăng điềm nhiên như không, chỉ dụng tâm quan sát từng thuộc hạ của ba ty đang tập luyện.

Việc huấn luyện Thần Cơ doanh xưa nay chủ yếu là duyệt binh đội ngũ, tập trận pháp, những thứ này sớm đã luyện đến thuộc làu rồi. Đội ngũ đi đứng gọn gàng răm rắp, trận pháp diễn luyện ngươi công ta thủ, ngươi thủ ta công, lui lui tới tới, khiến người xem hoa cả mắt, nhưng sợ rằng chỉ để đẹp mắt mà thôi.

Đội hình quan binh mặc trọng giáp đi đứng tuyệt đẹp. Các loại chuyển đổi trận thức càng xảo diệu vô cùng, hơn nữa lại có thêm giáp tốt, bước chân mạnh mẽ, cử chỉ hài hòa với nhau, di chuyển trên giáo trường nhanh như chớp, làm bụi mù mịt nổi lên bốn phía. Người xem nhiệt huyết sôi trào, liếc mắt vừa nhìn quả thật đây là một quân đội hổ lang.

Dương Lăng nhìn cảnh này, so với cảnh loạn quân chém giết khi xưa ở Kê Minh Dịch và trong Hồ Lô cốc, càng khiến cho y có cảm giác như có hoa mà không có quả, chỉ dùng để biểu diễn duyệt binh thì cố nhiên rất đẹp, nhưng thật sự không có lực sát thương gì.

Y thấy việc diễn luyện như thế quả thật rất chán, nhưng thân là chủ tướng không thể rời đi, chỉ đành ngồi đó kiên nhẫn đợi ba ty luyện tập xong. Diễn võ chấm dứt, Dương Lăng lập tức dẫn thân binh theo Lưu Sĩ Dung cùng tới doanh trướng của Bào phó tham tướng. Lưu Sĩ Dung thấy y thần sắc hiền lành, còn cho là y bị mình hành hạ đã mềm đi rồi nên mới tới chỗ Bào đại ca làm hoà, trong lòng không còn cảnh giác nữa.

Doanh trướng Bào phó tham tướng ở giữa đại doanh, được thiết kế dựa vào núi, ở cửa có bốn thân binh gác. Dương Lăng theo Lưu Sĩ Dung vào phòng ngủ của Bào Tận Thẩm, chỉ thấy Bào phó tham tướng đang đắp chăn nửa nằm nửa ngồi, dựa vào giường lò, trên đầu để một cái khăn.

Lưu Sĩ Dung nói:

- Bào đại nhân, Dương tham tướng nghe nói ngài ốm liệt giường, nên đặc biệt tới đây thăm.

Bào phó tham tướng thấy Dương Lăng, vội vàng làm bộ muốn đứng dậy, miệng nói không ngớt:

- Một chút bệnh nhỏ thôi, sao dám để đại nhân cực nhọc. Ty chức đã nhiều ngày qua bị bệnh thấp khớp ở tuổi già tái phát, thật sự không đi được nên đành phải xin nghỉ. Đại nhân hôm nay điểm binh luyện tập, xem quân uy của doanh ta như thế nào?

Dương Lăng đỡ lấy thân thể sắp rời khỏi giường lò của hắn, đắp chiếc chăn lại cho hắn xong, mỉm cười nói:

- Ninh đại nhân và Bào đại nhân dạy binh đúng cách, quân uy nghiêm chỉnh, bản tướng đã đại khai nhãn giới rồi. Ha ha! Bản tướng nghe nói Bào đại nhân bệnh nặng, vốn nên lập tức tới thăm, nhưng ba quân đã tụ tập đầy đủ ở giáo trường cho nên không tiện bỏ việc, do đó tới chậm, Bào tướng quân đừng trách.

Bào phó tham tướng thừa cơ nằm lại trên giường, cười mà như không, nói:

- Không sao, việc quân vẫn quan trọng hơn. Đại nhân còn trẻ lại đầy hứa hẹn, Tả tiêu doanh chúng ta được đại nhân quản lí, nhất định ngày càng lớn mạnh. Mạt tướng chỉ bị bệnh già thôi, thật sự là không sao cả.

Dương Lăng cười nhạt, liếc mắt nhìn Lưu Sĩ Dung nói:

- Bản tướng dù sao cũng xuất thân văn nhân cho nên chẳng biết quy củ trong quân, còn cần phải xin lão tướng quân chỉ dạy nhiều. Lấy chuyện hôm nay làm ví dụ, hôm qua ta dặn ba ty giờ Thìn ba khắc hôm nay phải tới giáo trường đợi lệnh, kết quả nhất thời sai sót, nói thành giờ Thìn ba khắc tới giáo trường tập hợp; Lưu đô ty đến đúng giờ nhưng bị ta hiểu lầm, giáo huấn hắn một lát, bản tướng bây giờ nhớ tới vẫn còn xấu hổ.

Bào Tận Thẩm cười khẩy, liếc nhìn Lưu Sĩ Dung, vui tươi hớn hở nói:

- Đại nhân nói như vậy cũng không tính là nói sai. Ha ha, nhưng... Diễn võ cũng không phải là đại sự gì, tới muộn thì thôi, người ta nói quan mới vừa nhậm chức đốt ba đống lửa (tân quan thượng nhiệm tam bả hỏa (1)), thật ra chỉ sơ sơ là được rồi. Đám binh sĩ lưu manh này cũng không cần phải làm quá.

Dương Lăng mỉm cười nói:

- Bản quan nếu có lão tướng đức cao vọng trọng như Bào đại nhân giúp đỡ, trong quân trên dưới đồng lòng thì cần gì phải đốt ba đống lửa chứ? Do đó lão tướng quân phải mau khỏi bệnh đi thôi. Tuy nói trong quân không có chiến sự phát sinh nhưng những thứ tạp vụ thường ngày thì bản quan nhất thời xử lý tới sứt đầu mẻ trán.

Bào Tận Thẩm vội đáp:

- Đại nhân có thể được Hoàng Thượng ân sủng xem trọng thì làm sao đến cả chút việc như thế mà cũng không xử lý ổn chứ? Ha ha, đại nhân quá khiêm tốn rồi. Hai ngày trước trong quân không có tướng, ty chức đành phải cố chống đỡ thôi. Bây giờ Dương đại nhân tới rồi, ty chức cuối cùng cũng có thể nghỉ ngơi, trong quân nhiều việc còn phải nhờ Dương đại nhân quan tâm tới.

Dương Lăng lập tức đứng dậy nói:

- Cũng nên thế, nên thế. Bào tướng quân chưa lành bệnh vậy rất cần nghỉ ngơi. Chuyện trong quân hà tất phải lo lắng, bản quan xin được cáo từ…

Dương Lăng đi đến cửa, hít hít mũi, ngửi thấy trong phòng có mùi rượu liền cười lạnh rồi ngang nhiên đi ra ngoài, bỏ lại Bào Tận Thẩm và Lưu Sĩ Dung ngạc nhiên nhìn nhau.

*********************************

- Liễu Bưu, ngươi chạy về Cẩm Y Vệ ngay lập tức. Nếu Trương đại nhân về Thiên Tân vệ rồi thì tới ngay chỗ Tiền Ninh Tiền đại nhân, ngoài ra tới Đông Xưởng gặp Phạm công công mời Xưởng Vệ ra mặt. Cho dù phải đào sâu ba thước thành Bắc Kinh cũng phải tìm cho ra mấy thứ gia vị mà Bào phó tham tướng thích ăn. Nhất Thanh, đi! Chúng ta đi tìm quan Trung quân tâm sự!

- Hồ trung quân, bản tướng vừa mới nhậm chức, cũng không hiểu lắm về vai trò của chánh phó tham tướng, ngươi mau nói lại cho ta nghe.

...

- Hay lắm! Bản quan hiểu rồi. Bào phó tham tướng ốm liệt giường không thể làm việc nặng cho nên bản tướng không dám trách ai. Thầy ký, nhớ kỹ rằng từ hôm nay trở đi mọi việc trong quân đều do bản quan tiếp quản. Việc lương thảo, quân tư trọng yếu nếu không có bản quan đóng dấu thì không được chi dụng. Phát lương bổng, những chi phí đi lại nếu không có bản quan kí tên, bất luận là ai cũng không được xài. Ngoài ra, ngày mai chính là ngày phát lương phải không? Lương bổng của Đệ tam ty tạm thời không phát. Đêm qua bản quan nhận được khiếu nại nói là đệ tam ty có mấy sáo trưởng, bả tổng giả mạo lĩnh lương, để ta điều tra rõ rồi trả lời.

- Mấy tên tiểu lại cấp dưới giả mạo ăn lương khống, làm bại hoại quân kỷ, phải trừng phạt nghiêm. Sau này, việc lên chức điều động sĩ quan cỡ thập trưởng trở lên phải có bản quan gật đầu, nếu không sẽ không có hiệu lực.

Dương Lăng cười lạnh đi đến cửa, rồi quay đầu lại dặn dò:

- Giữa trưa hôm nay chuẩn bị một mâm cỗ to, ta phải mở tiệc chiêu đãi Liên đô ty.

“Tên Bành mập không phải thích làm cỏ đầu tường sao? Được, vậy trước tiên cứ ở trên đầu tường đi, đỡ phải vướng tay vướng chân.”

Quan trung quân len lén lau mồ hôi. Vị tham tướng đại nhân hào hoa phong nhã này lợi hại thật, vừa cười cợt vừa lấy sạch quyền của Bào phó tham tướng. Trước kia cũng từng thấy tướng lĩnh trong quân lục đục với nhau nhưng đều chỉ chạy loanh quanh mua chuộc lòng người, còn thường thì chỉ đọ sức võ công một phen, đâu có ai dùng chiêu nham hiểm như vậy.

Quan trung quân là chức quan phụ trách nội vụ trong quân đội. Phụ trách nội vụ vốn là công việc béo bở, hôm nay thấy thủ đoạn của Dương Lăng, Hồ trung quân sợ Dương Lăng đại nhân tận trung vì nước, cúc cung tận tụy không ngại vất vả cực nhọc lấy béng luôn cả việc của mình bèn cười nịnh, nói:

- Dạ dạ dạ, đại nhân yên tâm, ty chức lập tức thông báo cho Bào đại nhân, giữa trưa chuẩn bị một mâm cỗ tốt nhất.

Dương Lăng nghe xong nhướng mày, lạnh lùng nói:

- Không phải nói là Bào đại nhân nằm liệt giường, mọi việc không phải xin chỉ thị của hắn sao? Bản quan nói mà ngươi cũng không nghe à?

Hồ trung quân luống cuống, vội vàng nói:

- Đại nhân hiểu lầm, ty chức nói Bào đại nhân đây không phải là Bào đại nhân, không phải đâu. Ý ty chức nói là Bào đại nhân, không phải Bào phó tham tướng, là đường đệ của hắn mà. Đây là, quan phụ trách mua sắm cho Tả tiêu quân, Bào Tận Trung Bào đại nhân.

- Hả?

Dương Lăng sáng mắt lên, đập đập chiếc roi ngựa trong lòng bàn tay, trầm ngâm hồi lâu rồi mới cười khà khà nói:

- Quan mua sắm à? Vậy năm ngàn quan binh trong đại doanh chúng ta ăn tiêu, chi phí đều là do hắn phụ trách phải không?

Hôm sau, Tả Tiêu quân được phát lương, quan binh đệ tam ty một xu cũng chẳng có, tìm đến quan quân nhu hỏi thì được hắn nói là: Nửa đêm hôm qua có binh lính dùng giấy bọc đá ném vào phòng ngủ tham tướng đại nhân, báo là đệ tam ty có mấy người quản lý báo cáo láo, giả mạo lĩnh quân lương, do đó tiền lương của đệ tam ty phải đợi Tổng binh đại nhân tra ra chân tướng mới có thể phát được.

Quan quân nhu bị Lưu Sĩ Dung chửi cho một trận, lại chạy tới truy vấn tham tướng đại nhân khi nào thì mới có thể tra ra... thân binh tham tướng là Liễu Bưu trịnh trọng nói cho hắn một chuyện lạ: Tham tướng đại nhân trước mắt bận quá, đang chỉnh đốn doanh vụ, nhân vì sáng sớm hôm nay khi tham tướng đại nhân ăn điểm tâm, không ngờ ăn phải một con gián chết, tham tướng đại nhân vì thế nổi trận lôi đình, đến thức ăn của sĩ quan đã như vậy, thứ mà binh sĩ bình thường ăn còn là đồ cho người ăn sao? Do đó tham tướng đại nhân yêu binh như con đang xét xử quan mua sắm. Về phần tra có ra việc có lương khống không thì cứ về đợi tin tức đi.

Dương Lăng đã nổi giận thật sự. Dưới ánh mắt của năm ngàn quân binh dám hết lần này tới lần khác trêu vào chủ tướng ba quân, có là phật tổ thì cũng phải tức giận. Hắn nếu đã dám coi khinh đắc tội thượng quan thì phải chuẩn bị gánh chịu mọi trách nhiệm. Dương Lăng chưa từng lãnh binh nhưng y biết khi bắt tay vào chuyện gì cũng cần nắm hai việc, một là quyền quản lý nhân sự, hai là quyền quản lý tài sản, kinh nghiệm, uy vọng, đức cao vọng trọng gì thì cũng đều chỉ do mình dựng nên. Binh lính không có lương, hắn còn kính trọng ngươi nữa không? Đi theo ngươi một tên quan không tiền đồ, dù ngu tới đâu cũng không theo mãi được.

Trong ty mua bán ,Bào Tận Trung cười lạnh nói:

- Tham tướng đại nhân, năm ngàn tráng hán một mùa đông ăn bao nhiêu rau củ? Làm sao mà tính rõ được? Hơn nữa tính đến thịt cá, mấy đại nhân cũng phải ăn uống, đúng không!

Hắn quơ lấy một bao tải, chỉ vào đống sổ sách hỗn độn bên trong nói:

- Hạ quan phải mua bán hàng ngày chạy đi chạy về rất mệt mà bên người lại thiếu người giúp đỡ, biết ghi sổ đóng dấu cũng chẳng có ai thì nói gì đến tính toán rõ ràng. Mấy chuyện thu chi này ai mà tính cho rõ được chứ? Dù sao hạ quan cũng không có tham ô, đại nhân không tin thì cứ việc đi mà kiểm tra.

Dương Lăng nhìn một đống sổ sách để chật ba bao tải cũng không khỏi đau đầu. Việc tước lấy quyền quản lí, nắm quyền điều động nhân sự tất nhiên có thể áp chế được Bào Tận Thẩm nhưng không thể cướp đoạt quyền chưởng quản quân giới, súng, thuốc nổ, đây là thủ đoạn kiềm chế lẫn nhau của hoàng gia. Nếu muốn làm hắn ngoan ngoãn chịu thua để từ đó nói gì nghe nấy, phối hợp với kế hoạch luyện binh tất phải nắm được đuôi của hắn. Nếu nắm được chứng cớ chính xác hắn tham ô quân lương, chẳng phải hắn sẽ ngoan ngoãn phục tùng sao? Nhưng tìm đâu ra trợ thủ có thể tìm ra khoản này đây?

Dương Lăng đang ưu sầu bỗng có tên lính hổn hển chạy vào, kêu lên:

- Đại nhân, huynh đệ của ngài tới thăm, hạ quan không nhìn ra được thân phận nên không dám tự tiện cho vào doanh, xin đại nhân tự mình đến xem.

- Huynh đệ ta à?

Dương Lăng giật mình, chẳng lẽ là Đông Xưởng hoặc Cẩm Y Vệ lại phái một tên đao phủ chỉ biết đánh giết tới giúp mình sao? Yliếc nhìn Dương Nhất Thanh thì hắn cũng khẽ lắc lắc đầu, tỏ vẻ không biết gì.

Dương Lăng đá vào đống sổ, nói:

- Bào thu mua, ngươi không cần mạnh miệng, bản quan vị tất đã không tra được ba bao này. Nhất Thanh, ngươi ở lại đây canh chừng, bản quan ra cửa doanh xem một chút.

Bên trong hàng rào cửa doanh cao nửa người có vài tên lính đang đứng ngó nghiêng bảy tám người bên ngoài. Dương Lăng từ xa đã thấy đại hán vóc người khôi ngô chắc khỏe chính là nhạc phụ Hàn Lâm. Nhạc phụ cũng đã tới nơi này rồi vậy Ấu Nương nhất định cũng tới đây. Dương Lăng mừng quá quất một roi vào mông ngựa, giục ngựa đến cửa doanh mới ghìm cương, cao giọng quát:

- Mau mau mở cửa doanh.

Vài tên lính quay đầu lại thấy tham tướng đại nhân tới vội vàng xoay người khúm núm, cùng kêu lên:

- Tham kiến đại nhân.

Lúc này chỉ nghe ở ngoài hàng rào có một tiếng hô yêu kiều thanh thoát:

- A! Một vị tướng quân thiếu niên anh tuấn quá!

Dương Lăng nhìn lên, thấy người vừa nói chuyện chính là một tiểu thư sinh cầm quạt giấy cũng chỉ khoảng mười ba mười bốn tuổi, mặc một bộ áo dài xanh, đầu đội khăn công tử, khóe môi có một nốt ruồi mỹ nhân, bộ dáng còn yêu kiều hơn cả nữ tử tuyệt đẹp ba phần. Dương Lăng chỉ cảm thấy bộ dáng của thiếu niên thập phần quen mắt, lại nhìn chăm chú một lát, đột nhiên kêu lên một tiếng kinh hãi:

- Là ngươi?!

Tiểu thư sinh đó mới vừa rồi chỉ nhìn một bên, thấy vị tướng quân thiếu niên này mặc giáp đội mũ oai hùng bất phàm, đang mở to đôi mắt như hoa đào thích thú, nhưng vừa thấy y quay mặt lại cũng không khỏi kinh hỉ chỉ vào y gọi nói:

- A! Là... là y!

Dương Lăng lúc này mới nhìn thấy bên cạnh tiểu thư sinh đó còn có ba công tử đang đứng. Một người có vẻ tuấn tú, một người hơi mập mặc áo thư sinh màu tím nhạt, người còn lại đầu đội mũ quả dưa, mặc áo bó lưng tay hẹp, mặt mày tươi rói, đoan trang yêu kiều, chính là Hàn Ấu Nương... Chương tám mươi mốt Mưu Mô

------------------------

Dương Lăng nhìn thấy ánh mắt hâm mộ của ái thê và ba thiếu nữ, máu anh hùng nổi lên ầm ầm. Y không vội xuống ngựa, mà vẫn hiên ngang ngồi ngay ngắn trên yên, đợi đám binh sĩ mở cửa rào ra mới hai tay chống yên, lắc mình uy phong lẫm liệt nhảy xuống ngựa, trông rất tiêu sái.

Đáng tiếc thay, chiến bào hắn đang mặc toàn bằng lá sắt, nặng trên bốn mươi cân, đã nhảy lên rồi cộng thêm đà rơi xuống nên càng nặng hơn. Cả người Dương Lăng lảo đảo, chút nữa ngã nhào xuống đất, may mà có hai tiểu tốt đứng cạnh vội vàng chạy tới đỡ.

Dương Lăng giơ tay chộp chiếc mũ trụ sắp rơi, cười gượng nói:

- Ắc... Vết thương trên người chưa lành hẳn. Ha ha, chưa lành hẳn.

Ngọc Đường Xuân thấy y cố sĩ diện, không kìm được phì cười, rồi vội vàng bịt miệng lại. Mặt nóng bừng, Dương Lăng không dám nhìn mặt mấy vị cô nương, luống cuống bước lên phía trước thi lễ với Hàn Lâm:

- Nhạc phụ! Tiểu tế đang mong các vị đến kinh, xin mau mau vào doanh trại ngồi chơi.

Cha con Hàn Lâm nghe Ngô Kiệt báo tin Dương Lăng không tuân thánh chỉ, đưa Ấu Nương đi khắp chín cửa thành tìm thầy thuốc, chỉ sợ vào đến Bắc Kinh thì cả nhặt xác cũng không kịp, nên lòng nóng như lửa đốt chạy cả ngày đêm, trên đường không dám nghỉ một chút nào.

Vừa vào phạm vi kinh sư, bọn họ liền nghe dân chúng loan truyền đủ loại sự tích về việc Dương Lăng kháng chỉ cứu vợ, nhưng kết cục đều như nhau: thị độc Dương Lăng có nghĩa có tình, đương kim thiên tử anh minh vô cùng. Chỉ tiếc gần đây thành Bắc Kinh vẫn chưa có mưa, nếu không việc Dương Lăng cứu vợ cảm thiên động địa nhất định cũng sẽ được dựng thành kịch trình diễn mất rồi.

Bốn cha con tới nhà Dương Lăng, lại thấy mấy cô oanh yến líu lo, e thẹn vào ra làm cho lão Hàn Lâm thật thà cả kinh chết lặng người, tưởng rằng chỉ chưa đến vài tháng mà con rể đã một hơi nạp tới bốn phòng thiếp rồi, tốc độ thật khiến cho người ta hết hồn. Mãi đến khi Ấu Nương rỉ tai lão kể lại thân phận và lai lịch của nhóm Đường Nhất Tiên, Hàn Lâm mới tỉnh ngộ.

Ba người Tuyết Lý Mai ở nhà rất buồn chán, thấy người trong gia đình Ấu Nương muốn đi thăm Dương Lăng, cũng cực kỳ hứng thú đi theo. Phụ nữ ra khỏi cửa cũng có nhiều thứ không tiện, huống chi bốn cô thiếu nữ xinh đẹp như tiên này. Ba cô từng lẻn lên phố chơi, mua mấy bộ áo công tử, áo võ sĩ, nay bèn thi nhau mặc. Đường Nhất Tiên và Ấu Nương vóc người xấp xỉ nên mặc áo công tử, đưa áo võ sĩ cho những người kia. Tám người chỉ để nha hoàn Tiểu Vân giữ nhà, còn đều tới trại quân cả.

Thấy Dương Lăng bảo họ vào doanh, Tuyết Lý Mai lặng lẽ giật giật vạt áo y, lo lắng hỏi:

- Dương đại nhân, quân đội không cho phụ nữ vào doanh trại đâu. Bọn tôi đi vào... có tiện không?

Dương Lăng không để ý lắm tới tiểu tiết. Đã là gia thuộc vào thăm thì có gì mà không cho, huống chi các nàng mặc quần áo nam nhân, cũng có thể bịt mắt thiên hạ. Dương Lăng khoát tay nói:

- Có gì đâu, có khi nào mọi người trong doanh trại lại nói chứ? Huống hồ... ha ha, các cô tới rất đúng lúc, ta đang có việc định nhờ các cô hỗ trợ. Tới đây, xin mời vào trong, chúng ta từ từ bàn lại.

Mùi son phấn của các vị cô nương quá nồng, mấy tên tiểu tốt gác cổng sớm đã biết rõ rồi, chỉ là không dám nói gì. Dương Lăng dẫn mọi người vào, đưa đến trướng tham tướng, bày rượu khoản đãi. Nói chuyện một lát y mới biết Hàn Uy đã cưới cô nương Trương gia ở Kê Minh làm vợ hơn một tháng rồi.

Vốn Dương Lăng có ý định khi anh em Hàn gia tiến kinh thì ở nhà mình chơi vài ngày. Một bên là nam nhi anh tuấn, một bên là giai nhân xinh đẹp, không biết chừng có thể lâu ngày sinh tình, ai ngờ Hàn Uy đã thành thân rồi.

Hàn Võ tuy mười tám mười chín tuổi nhưng vẫn chỉ là một chàng thiếu niên to xác. Cả ba mỹ nhân như hoa tự ngọc, cả người thơm phức, thế mà hắn cũng chẳng thèm nhìn lại mò vào đống binh khí giáp trụ trong trướng Dương Lăng, thích tới không buông tay ra được, cứ loay hoay mãi, đến cả cơm cũng chẳng ăn cho xong. Xem bộ hai bên cũng không thể phát triển được.

Ba người Ngọc Đường Xuân nghe Dương Lăng kể với Hàn Lâm về những việc phát sinh sau hai ngày vào trại nhậm chức, cũng sinh ra mối thù chung. Hơn nữa, việc đóng vai Thanh Thiên Đại lão gia quyết toán sổ sách, bắt bọn tham quan rất thú vị, nên vừa ăn cơm xong các cô liền giục Dương Lăng mau mau đem sổ sách tới, muốn thể hiện tay nghề ngay lập tức.

Dương Lăng ra lệnh thân binh dẫn người đi Thải Bạn Ty (bộ phận phụ trách mua sắm) cùng Dương Nhất Thanh đem tất cả sổ sách về soái trướng. Nơi Dương Lăng ở soái phủ dành cho tham tướng, đó là một tòa nhà dựa vào sườn núi thoai thoải, gồm ba viện nhỏ, mỗi viện đều phải leo mười bậc thang. Sổ sách mang đến được khiêng thẳng vào viện thứ ba, mang vào trong gian chính, đặt xuống nền nhà, rồi đem giấy mực mời mấy vị cô nương kiểm tra.

Ba người Ngọc Đường Xuân đã từng học về việc tính sổ. Nhìn qua là biết những sổ thu chi hỗn loạn không chịu nổi rồi, hơn nữa Dương Lăng thấy các nàng kiểm kê theo thứ tự, rồi dùng phương pháp ghi sổ liên tục. Như thế, muốn có được kết quả phân loại, thống kê, tăng giảm thu chi thì vô cùng phiền toái.

Dương Lăng bèn lấy một mảnh giấy, vẽ một cái bảng ba cột đơn giản. Muốn vài lời ngắn gọn mà giải thích rõ ràng về những nguyên lí Nợ Có cho các cô nương này là việc không thể làm được. Do đó, Dương Lăng dùng phương pháp ghi sổ thu chi đơn giản nhất, rồi làm thử một cái trên bảng, sau đó giảng giải cho các nàng một lượt.

Loại phương pháp ghi sổ này rất đơn giản dễ hiểu, ghi chép cũng rất rành mạch, hơn nữa cuối cùng lại có thể ghi số tổng cộng. Mấy vị cô nương đã có căn bản, người lại vô cùng thông minh, nghe y giảng giải một chút là thấy rõ ưu điểm của phương pháp ghi sổ này. Chỉ là Dương Lăng khi giảng còn ghi vào trong giấy những kí hiệu ngoằn ngoèo quái dị, bốn vị cô nương không ai biết được cả.

Chỉ cần nói vài lời đơn giản mà các nàng có thể nghe hiểu phương pháp ghi sổ của Dương Lăng nhưng việc dạy số Ả rập lại không dễ dàng. Không ngờ các cô nương không quen với mấy con số 12345 nên mỗi lần kết xuất một con số, các nàng luôn theo thói quen tính rồi viết bằng chữ Hán trước, sau đó mới so sánh rồi phiên dịch thành ra cái thứ số trông như gà bới đó.

Qua một lúc lâu, sau khi mỗi người kiểm tra xong một quyển, các cô mới dần dần thích ứng với loại con số đơn giản mà tân kỳ này. Tốc độ làm việc cũng nhanh hơn.

Bốn kế toán thu chi này bận mù mịt, đến cả Ấu Nương cũng hứng thú hừng hực làm việc rất hăng say, hoàn toàn không có thời gian để ý đến Dương Lăng. Sực nhớ vẫn còn để cha vợ bơ vơ ở trong đại sảnh, y liền vội vàng chạy ra tiền sảnh.

Vừa vào cửa, Hàn Mãn Thương đã hào hứng nhảy tới, níu chặt cánh tay y nói:

- Tỷ phu! Đệ và ca ca thương lượng rồi, muốn gia nhập đội quân của tỷ phu, huynh là Đại tướng quân, có thể làm được việc này không?

Hàn Võ đang kéo bảo kiếm của Dương Lăng ra thưởng thức, thích tới không buông tay ra được, lúc này cũng đưa ánh mắt nóng rực nhìn y. Dương Lăng hơi trầm ngâm, nhìn Hàn Lâm hỏi:

- Nhạc phụ! Ý cha ….

Hàn Lâm cười nói:

- Chúng đã thích, ta cũng không ngăn cản. Chỉ là chẳng biết Lăng nhi có khó xử gì không?

Lúc này Dương Lăng mới gật đầu đáp:

- Con có quyền tuyển quân nhập ngũ. Huống hồ con phải lập tức thanh lý đám ăn không ngồi rồi, phỏng chừng trong quân sẽ có không ít chỗ trống.

Mãn Thương vui vẻ:

- Vậy thì thật tốt quá. Tỷ phu là Đại tướng quân, vậy cho đệ làm sĩ quan nhé. Lúc đệ ở Kê Minh Dịch, thấy Giang bá tổng mang binh đi rất uy phong, đệ hâm mộ muốn chết luôn.

Hàn Lâm nghe thế lập tức nói:

- Việc này không được! Lăng nhi, không thể làm theo lời chúng được!

Mãn Thương trợn tròn mắt hỏi:

- Tại sao không được? Tỷ phu cai quản nhiều binh như vậy, phân cho con khoảng một trăm người để quản thì sợ cái gì? Con cũng không tin bằng vào võ nghệ của con, mấy tên lính đó dám không phục!

Hàn Lâm nói với Dương Lăng:

- Lăng nhi! Ngươi để cho chúng gia nhập quân đội thì ta không phản đối, nhưng phải đi từ binh sĩ mà lên, muốn thăng quan phải bằng vào tài năng của chính mình. Nếu chỉ dùng người thân thì chẳng phải sẽ ảnh hưởng tới ngươi sao?

Dương Lăng cười đáp:

- Lăng nhi cũng có ý như vậy. Mãn Thương, đệ nhìn tỷ phu vừa thăng quan thì chẳng biết trong quân đã có bao nhiêu tướng quân không phục rồi. Từ lính từ từ lên quan mới có thể khiến cho mọi người kính phục, mới có thể học được nhiều kiến thức, bản lãnh mới. Trong quân có rất nhiều sĩ quan không biết chữ. Đệ và hai vị huynh trưởng võ nghệ xuất sắc, lại từng đọc sách, nếu làm tốt thì tự mình có thể thăng quan. Nếu bây giờ ta lại cho đệ một chức quan, thì có gì mà vinh quang chứ?

Hàn Võ, Hàn Mãn Thương nghe y nói có lý, đều khẽ gật đầu. Dương Lăng lại nói:

- Trước mắt khi hai người vừa vào trong quân, ta thấy... trước hết quan hệ giữa chúng ta đừng để lộ ra ra ngoài. Tuy bảo rằng tiến cử cũng không ngại người thân, ta tin vào bản lãnh của các người, nhưng dù sao cũng có lắm kẻ nhiều chuyện. Còn nữa, nhạc phụ, con thấy người cũng đừng trở về Kê Minh, nhạc phụ một thân võ nghệ, không bằng cũng gia nhập quân đội. Người thấy thế nào?

Hàn Uy xen vào:

- Cha, muội phu nói có lý. Bây giờ nhị đệ tam đệ đều nhập ngũ, tiểu muội cũng ở kinh sư, người ở lại đây cũng đỡ phải lo lắng.

Hàn Lâm hơi động tâm, ngần ngừ một lúc rồi hỏi:

- Vậy... chẳng lẽ con trở về Kê Minh một mình sao?

Hàn Uy liếc mắt nhìn Dương Lăng, khuôn mặt hơi đỏ lên:

- Tuy con từng đọc sách, nhưng không có công danh. Lần này trở về cũng chỉ cả đời làm dịch tốt thôi. Nếu được nhập ngũ, không biết chừng con có thể kiến công lập nghiệp, quang vinh về quê, nhưng... thoáng cái mà bắt muội phu phải thu xếp cho nhiều người như vậy, có thể không tiện.

Dương Lăng vui vẻ đáp:

- Tiện! Sao mà không tiện? Hôm qua đệ đọc danh sách binh lính thấy có rất nhiều cặp cha con, anh em cùng đội ngũ lắm. Cứ như vậy đi! Ấu Nương một mình ở nhà, đệ cũng sợ nàng buồn. Có chị dâu tới ở với nàng, vậy cũng tốt!

Ha ha, bây giờ thì chúng ta quả thật là anh em cùng chiến đấu, cha con cùng ra trận rồi. Có các vị giúp, tú tài như ta lãnh binh cũng có thể tự tin hơn nhiều!

*********************************

Bào tham tướng ngồi trước giường lò uống rượu, mày cau tít lại.

Bào Tận Trung ngồi đối diện, lo lắng nói:

- Đại ca! Tên mặt trắng này rất âm hiểm. Thủ đoạn mềm dẻo cười cợt vui vẻ mà xuống tay thật nặng. Bây giờ hắn đem ba bao tải sổ sách đi rồi. Tuy vốn đệ không nhớ được đầy đủ trong đống hỗn độn đó có gì nhưng lỡ xui xẻo bị hắn tìm thấy chút đầu dây mối nhợ gì đó thì chúng ta làm sao bây giờ?

Bào tham tướng nghe thế rất phiền lòng. Hắn nhấc chén rượu lên uống cạn một hơi, cười lạnh nói:

- Cho hắn kiểm tra, có gì mà lo. Nếu thật sự điều tra ra thì cũng không phải chuyện lớn. Chẳng qua ngươi chỉ bị đánh vài côn rồi đuổi ra khỏi quân doanh, ta sau đó nhờ người đổi chỗ khác cho ngươi. Hừ! Mấy việc nhỏ như vậy, hai tên phó tướng họ Trương, họ Lưu còn không mở một mắt nhắm một mắt à? Ngươi cho rằng mông bọn chúng sạch sẽ lắm sao.

Bảo Tận Trung khiếp vía thốt:

- Nhưng... nhưng... Nhưng mà đệ sợ hắn tra được sự kiện đó. Nếu việc đó bị tra ra, chắc là đứt đầu đó!

Bào tham tướng nghe xong cũng chấn động. Hắn phẫn nộ hỏi:

- Cái gì! Tên ngu xuẩn này đem vật kia ghi cả vào sổ à?

Bảo Tận Trung vẻ mặt đau khổ, sợ hãi rụt rè đáp:

- Đại ca, mấy đồ vật đó... Mỗi lần chỉ có thể trộm ra từng nhóm nhỏ đưa ra ngoài, hơn nữa người giao nhận cũng rất kỹ, hàng vào tay mới chịu đưa bạc. Đệ không ghi lại vào sổ thì làm sao nhớ được?

- Khốn kiếp! Ngươi không biết lập riêng một quyển sổ cho mình à? Sao đến cả thứ đó cũng giao ra...?

Bào tham tướng nóng ruột thật sự. Nếu không phải tên em họ này luôn luôn trung thành, hắn sớm đã tát gã một cái rồi.

Bảo Tận Trung thở dài:

- Đệ chỉ định ghi để một mình mình xem thôi, nào ai biết mấy tên thân binh của Dương Lăng quả thực là đại hành gia xét nhà. Cặp mắt chúng quá độc, phòng trong phòng ngoài đi vài vòng, thứ gì có thể giấu đều bị móc ra cả. Nhưng... trong sổ đệ chỉ ghi than củi, vị tất hắn đã hiểu.

Lưu Sĩ Dung đứng lên, đi lại trong phòng vài bước, thần sắc không yên, nói:

- Bào đại ca! Nếu cứ tiếp tục như vậy, chúng ta sẽ bất lợi rồi. Bây giờ chúng ta không phát được lương, đám binh sĩ vô cùng bực tức. Ngày hôm qua hắn lại nói là muốn điều tra việc lương khống. Bây giờ một vài sĩ quan cấp cao cũng hoang mang rối loạn. Hay là chúng ta chịu thua thôi. Tiểu tử này sau lưng có thế lực, mà hắn cũng không phải loại hiền lành gì, cũng không nên trêu vào.

Bào tham tướng mặt tái nhợt, gằn giọng:

- Ngươi sợ à? Hừ, ta lăn lộn ba mươi năm trong quân, còn phải sợ một tên tiểu tử chưa ráo máu đầu như hắn à? Đấu không lại một tên non nớt như hắn sao? Hắn điều tra hả, có gì mà điều tra? Những sổ sách ấy cho dù hắn có hiểu, cũng phải tới Tết sang năm. Hơn nữa những đồ vật ấy...

Bào tham tướng cắn răng cười lạnh:

- Lượng dùng những thứ đó căn bản không có cách nào phỏng chừng. Ai biết chúng ta xưa nay luyện tập đã hao phí bao nhiêu? Cho dù hắn phát giác được số lượng sử dụng không đúng đi nữa, dù hoài nghi trong lòng thì cũng không nhân chứng, lại không vật chứng. Dựa vào vài điều nghi ngờ vu vơ, hắn có thể làm gì được một tướng quân tòng tam phẩm như ta?

Lưu Sĩ Dung do dự một chút, rồi từ từ lắc đầu đáp:

- Đại nhân! Người không chú ý sao? Hắn vừa tới đã dẫn theo hai thân binh, hiện bên người chỉ có một. Người kia chẳng biết đã ly khai khi nào. Chà, chúng ta cũng đã nghe nhiều về hắn. Ty chức bây giờ mới nhớ tới lúc hắn vừa tới, chính Phạm đốc công của Đông Xưởng tự mình đưa hắn tới. Vụ này có liên quan gì tới Đông Xưởng không?

Bào Tận Trung nghe thế hít mạnh một hơi lãnh khí. Mắt Bào tham tướng cũng không khỏi chớp lia lịa. Lúc này một tên thân binh vội vàng chạy vào, báo:

- Đại nhân, thuộc hạ vừa tìm hiểu được. Dương tham tướng lấy sổ sách không phải để tự mình kiểm tra, mà là đưa cho bốn sư gia từ ngoài vào trong doanh, bây giờ bọn họ đang làm việc trong phủ đó.

- A!

Bào tham tướng vịn án đứng dậy, mắt lóe hung quang, gằn giọng:

- Khá lắm Dương Lăng! Ngươi thật sự bỏ lắm vốn vào đây. Khinh lão Bào ta là thiện nam tín nữ à?

Thân binh lại báo tiếp:

- Đại nhân! Thật ra bốn sư gia đó là nữ cải nam trang. Mấy huynh đệ giữ cửa doanh trại đều tận mắt thấy rõ. Chắc hẳn Dương tham tướng cũng sợ nhiều người nhìn vào, nên đưa các nàng vào trong phủ tham tướng, ở tận trong viện cuối cùng lận.

Bào Tận Trung vui vẻ:

- Tốt lắm! Hắn là chủ tướng, lại đem phụ nữ vào trại quân. Ta lập tức tham tấu hắn, dẫn Trương phó tướng tới bắt hắn tại trận, xem hắn còn có gì để nói không.

Bào tham tướng nhướng mắt trả lời:

- Dám tự tiện đưa phụ nữ vào trại binh cũng không phải lỗi lớn gì, chỉ đánh hai mươi quân côn thôi. Tên tiểu súc sinh đó da mềm thịt non, vừa bị đánh ba mươi côn của Cẩm Y Vệ mà sau hai ngày đã có thể cưỡi ngựa được, rõ ràng là có người nương cho. Ngươi nghĩ rằng hai tên Trương Xuân, Lưu Thiệu Trung toàn là là đồ ngu à. Họ không biết cách thả cho hắn sao?

Với lại, đánh hắn hai mươi quân côn cũng có thể hả giận một chút, nhưng chúng ta vẫn còn bị hắn khống chế. Bây giờ hắn chuyên quyền độc đoán, lại nắm lấy đuôi của chúng ta không rời, không cho tên tiểu tử hung dữ ngạo mạn này ăn một cú thật ác, sau này hắn sẽ ngoan ngoãn được sao?

- Vậy … vậy phải làm sao bây giờ?

Bào Tận Trung nghe xong càng không có chủ kiến gì. Bào tham tướng đưa mắt lạnh lùng nhìn hắn, phất phất tay. Mấy tên thân binh hiểu ý vội rời khỏi phòng, đóng chặt cửa lại.

Bào tham tướng từ từ ngồi xuống, hai tay tựa án bảo:

- Các ngươi tới gần đây!

Đợi hai người tới gần, da mặt Bào tham tướng co rút lại, âm hiểm nói:

- Theo ý ta, một là không làm, hai là làm tới cùng. Cho hắn cá chết lưới rách luôn!

Lưu Sĩ Dung bỗng khựng người, đụng phải chén rượu ngã lăn, rượu đổ tung tóe khắp bàn. Hắn biến sắc, run giọng nói:

- Vạn lần không thể được! Đại ca, kế này không thể được. Đường đường một vị tham tướng bị ám sát trong đại doanh, nhất định mọi người sẽ chấn động, tính mạng chúng ta cũng tiêu luôn.

Bào tham tướng âm trầm cười, nói:

- Ai nói ta muốn giết hắn? Ta muốn giết bốn tên giả sư gia tới kiểm toán đó!

Hắn chỉ vào Lưu Sĩ Dung nói:

- Ngươi đêm nay mời tên họ Dương, nói là bản quan muốn giảng hoà với hắn. Ta đi dự tiệc, hắn nhất định sẽ cho là chúng ta cúi đầu chịu thua.

- Tận Trung, chọn những huynh đệ tuyệt đối tin cẩn cho cải trang, nạy hàng rào phía sau núi, giả vờ là cường đạo vào trại quân ăn trộm, sau đó chạy thẳng tới phủ tham tướng giết quách bốn con đàn bà đó, đốt sạch sổ sách cho ta!

Bào tham tướng mở to đôi mắt đỏ như máu, cười gằn nói:

- Bốn cô gái trẻ đẹp chết trong lều của hắn, dù hắn biết chính là ta làm, hắn cũng không lộ ra được. Hừ hừ, cho dù giết gà dọa khỉ vẫn không làm gì được hắn thì bấy giờ không còn sổ sách, hắn cũng không thể kiểm tra được mấy quyển sổ rối mù đó, đến lúc đó ta xem hắn có thể làm khó dễ được ta nữa không? Ha ha ha ha...

*********************************

Hàn Mãn Thương tuổi còn nhỏ nên Dương Lăng cho làm thân binh tùy tùng, sau đó cùng Hàn Lâm và hai anh vợ ra khỏi trướng soái. Trước hết y đưa họ tới đệ nhất ty. Liên Đắc Lộc thấy Dương Lăng tước binh quyền, đánh tham ô, tra lương khống, đủ mọi thủ đoạn ghê gớm, nên cũng cảm thấy kính sợ vị tham tướng trẻ tuổi này, vì vậy tự nhiên không dám chậm trễ, giải quyết ngay cho những người do y đưa tới.

Sau khi thu xếp ổn thỏa, Dương Lăng cùng Hàn Uy ra khỏi viên môn. Hai người đi dọc theo hàng liễu xanh, Dương Lăng rốt cục không kìm được nói:

- Đại ca! Sau khi trở lại xin thay đệ thăm hỏi Hoàng huyện thừa, Vương chủ bộ, Giang quản lý,...còn... Mã Liên Nhi cô nương có khỏe không?

Trong mắt Hàn Uy lóe ánh cười: “Muội phu cũng không nhịn được rồi, bây giờ y mới nhắc tới việc này.” Hắn che miệng ho nhẹ một tiếng, đáp:

- Hoàng huyện thừa mấy hôm trước đã thu xếp cho khách thương về nam chiếu cố Mã cô nương rồi. Hiện Mã cô nương đã theo thương đội trở về Kim Lăng rồi.

Chuyện Mã Liên Nhi, trong lòng cha con anh em họ đều đã đồng ý rồi. Từ khi biết Dương Lăng vì tiểu muội mà không tuân thánh chỉ, trong lòng Hàn Uy lại càng không có chút hiềm khích nào, càng cảm thấy tình cảnh vị Mã cô nương đó rất đáng thương. Hắn nhân tiện kể:

- Nghe nói Mã Ngang hứa gả em gái cho Tất đô ty làm thiếp. Ngày ấy Mã cô nương phi ngựa tiễn ngươi, Tất đô ty cảm thấy mất mặt, đã từ chối việc hôn nhân này. Mã Ngang thất sủng, trong quân không được như ý, ngươi vừa đi, hôm sau hắn đã tới dịch thự cãi nhau với Mã cô nương một trận. Anh em bất hoà, rốt cuộc ta chưa thấy Mã Ngang gặp lại nàng.

Dương Lăng bùi ngùi thở dài. Trước mặt anh vợ cũng không tiện có biểu hiện gì, y chỉ cắm cúi bước đi.

Hàn Uy liếc nhìn y, nói đầy thâm ý:

- Từ sau khi ngươi đi, Mã cô nương không mặc áo hoa, dùng lụa trắng che mặt, cũng không xuất hiện trước mặt người khác. Ta ở dịch thự cũng chỉ khi đưa rau gạo mới có thể gặp nàng.

Hắn nói rồi ngừng lại một chút, lấy từ trong lòng ra một vật nói:

- Trước khi Liên Nhi cô nương về Kim Lăng, đặc biệt có tới tìm ta, trao lại thứ này, nói là... nếu ngươi có thư về, xin tiện tay đưa cho ngươi. Ta vừa mới nhận được cách đây vài ngày, lần này có cơ hội tới kinh thành, ta mang đến cho ngươi luôn.

Dương Lăng dừng chân, nhận lấy vật. Đây là một cái túi gấm màu xanh sẫm thêu chim uyên ương, miệng túi được khâu kín bằng sợi tơ nhỏ. Hàn Uy thở dài, liên tục vỗ nhẹ lên vai y, trêu:

- Đại tướng quân quả là đa tình. Ngươi đã vì tiểu muội mà dám kháng chỉ, đại ca cũng không có ý kiến gì về việc này. Liên Nhi cô nương cũng yêu ngươi thắm thiết, nếu lúc nào tiện, ngươi nên sai người tới Kim Lăng thăm nàng, ta đi đây.

Dương Lăng nhìn theo Hàn Uy đi xa, lại cúi đầu nhìn túi thêu trong tay, mờ mịt ngồi lên tảng đá lớn ven đường.

Gió xuân thổi vi vu, những cành liễu rủ phất phơ quệt nhẹ vào vai y cũng làm rối loạn cả trái tim y.

Cảm tình với Ấu Nương giống như nước sữa hoà nhau. Mối tình khắc cốt ghi tâm này bất luận kẻ nào cũng không thay thế được. Y luôn luôn cho rằng yêu là phải chuyên nhất, phải yêu hoàn toàn. Đối với Liên Nhi tựa hồ y vừa cảm thông vừa có trách nhiệm. Nhưng khi ly khai Kê Minh dịch, y mới biết được, cô thiếu nữ đó cũng đã chiếm mất một phần tình cảm của mình.

Thế giới này, quan niệm tình yêu của mọi người khác với thời đại mình rất xa. Ở chỗ này lâu, có khi y cũng suy nghĩ không ra, rốt cuộc loại quan niệm tình yêu nào mới là chính xác. Rốt cuộc có phải bản chất tình yêu phải là chuyên nhất không? Hay vì từ bé đã được giáo dục như thế mà y có quan niệm như vậy?

Trong các loại tình cảm, loại tình cảm sâu sắc vĩ đại nhất hẳn là tình thân. Tình thân so với tình yêu lại càng có khả năng chịu đựng thử thách nhiều hơn, lại càng lúc càng sâu hơn. Nhưng tình thân có thể chia đều cho vài thân nhân, cũng không vì mình yêu quý một người mà lại làm nhạt đi tình thân với người khác, vậy tình yêu thì sao?

Y không biết. Y không biết thật. Y dám thề y rất yêu Ấu Nương. Có phải chết vì nàng y cũng sẽ không nhíu mày. Nhưng tại sao có khi trong lòng y lại hiện lên hình ảnh của một thiếu nữ khác?

Dường như Dương Lăng lại thấy thiếu nữ bạch y trắng hơn tuyết, toàn thân không chỗ nào không yêu mị đang nhẹ nhàng đi dọc theo sơn đạo tới gần mình, giống như một cây thược dược yểu điệu mông lung, yếu đuối vô cùng, đang mỉm cười ngọt ngào với y.

Y cúi đầu, lại nhìn xuống túi gấm trong tay, rút sợi tơ ra khỏi miệng túi, lấy từ trong túi gấm một cái khăn tay trắng, nhè nhẹ trải rộng. Những chữ viết đẹp đẽ, mềm mại như người đập vào mắt y:

Quân tự minh nguyệt ngã tự vụ.

Vụ tùy nguyệt ẩn không lưu lộ.

Chích duyến cảm quân nhất hồi cố.

Sử ngã tư quân triêu dữ mộ.

Hồn tùy quân khứ thiên nhai lộ.

Y đái tiệm khoan bất giác khổ.

Tích thán niên hoa như triêu lộ.

Hà thì hàm nê sào quân ốc?

Tam thập lục luân minh nguyệt hậu.

Đương vi quân tác nghê thường vũ.

Dịch nghĩa:

Chàng như trăng sáng, thiếp như sương mù

Mù theo trăng lặn mất, chỉ lưu sương lại

Cảm kích chàng từng quay đầu nhìn lại

Nên thiếp nhớ chàng suốt ngày đêm

Hồn theo chàng đi khắp muôn nơi

Y phục dần rộng, chưa thấy khổ

Chỉ tiếc tuổi trẻ dần trôi mất

Bao giờ mới xây tổ ấm (*) cùng chàng?

Sau ba mươi sáu mùa trăng nữa

Vì chàng thiếp múa khúc nghê thường!

(*): trích từ tích chim yến ngậm bùn xây tổ, ở đây ví chuyện nên vợ nên chồng (TheJoker)

Dịch thơ:

Thiếp tựa mù giăng chàng tựa trăng

Trăng lặn mù tan, đọng sương lan

Cảm lòng chàng một phen ngóng lại

Tim này nhớ ai bao ngày sang

Hồn theo chàng đến cuối chân trời

Thân gầy áo rộng lệ tuôn rơi

Xuân xanh tàn tận dường sương sớm

Khi nao hội ngộ hỡi người ơi

Ba sáu mùa trăng tỏ sẽ qua

Sẽ múa chàng khúc Nghê Thường ca... Chương tám mươi hai Gạo Vàng Gạo Trắng

------------------------

Trước đại trướng của đệ nhất ty thuộc Tả Tiêu quân Thần Cơ doanh, sáu chiếc lồng đèn đỏ treo trên những cây trụ lớn chiếu sáng trưng mọi vật chung quanh.

Bào tham tướng và Lưu đô ty mặc giáp đội mũ đứng trước trướng, phía sau là vài tên thủ bị (*) và thiên tổng của Đệ nhất ty. Thấy xa xa có một đám người từ đại doanh phi ngựa đến, Bào tham tướng cùng Lưu đô ty lập tức ra đón, mặt nở nụ cười kính cẩn. Thấy vậy đám sĩ quan cấp cao phía sau bèn lộ vẻ hậm hực: sớm biết có ngày hôm nay, sao trước đây ngạo mạn chi vậy để sau lại phải cung kính?

((*): một chức võ quan thời Minh, là quan chánh ngũ phẩm; còn thiên tổng là quan chánh lục phẩm)

Bào tham tướng mặt mày hớn hở, không để ý gì tới ánh mắt người khác. Gã là kẻ kiêu dũng thiện chiến, nhờ công lao mà thăng chức, nhưng bụng dạ rất hẹp hòi, có thù tất báo, sao có thể chịu được việc người ngoài đối nghịch với hắn? Vừa nghĩ tới vẻ mặt khóc không ra nước mắt của Dương Lăng sau đêm nay gã cảm thấy vui sướng vô cùng, nên lúc này phải làm bộ làm tịch vẫn không lấy làm nhục.

Dương Lăng dẫn theo Dương Nhất Thanh, Mãn Thương cùng hai mươi thân binh hộ vệ chạy thẳng tới trước trướng mới nhảy xuống ngựa.

Bào tham tướng nhìn trang phục Dương Lăng cũng hơi giật mình. Hai ngày vừa qua, Dương Lăng đi khắp doanh trại, đi đến chỗ nào cũng mặc trọng giáp. Lần này gã đón ý Dương Lăng nên lúc này đám tướng lĩnh trong doanh ai cũng mặc giáp đội mũ như sắp xung phong ra trận vậy.

Thế nhưng bây giờ Dương Lăng lại mặc áo dài nho sỹ, đến cả thanh bội kiếm cũng chẳng đeo, nhẹ bước tới gần, chân không nhiễm bụi, hai dải băng của mũ nho phấp phới, anh tuấn khôn tả. Còn Bào Tận Thẩm dẫn hơn mười tướng quân mặc trọng giáp nặng nề, chiến bào giáp trụ khom người nghênh đón, giống như đang đón vương hầu tới giáo trường kiểm duyệt tam quân, khí thế đột nhiên thấp đi ba phần. Bào tham tướng cho rằng Dương Lăng cố tình chọc gã, trong lòng càng không kìm được giận.

Dương Lăng nhìn thấy đám tướng lĩnh giáp trụ đầy người, cũng hơi lấy làm lạ: ”trong quân ăn tiệc uống rượu mà phải long trọng như vậy sao! Sao không mặc thường phục nhỉ?” Y không kịp nghĩ nhiều, Bào tham tướng và Lưu đô ty đã nhanh chân bước lên chắp tay muốn bái. Dương Lăng vội bước lên một bước đở lấy, nói:

- Các vị đồng liêu, xin hãy đứng dậy! Đều là huynh đệ một nhà, ngày ngày gặp nhau, hà tất làm đại lễ như vậy?

Bào tham tướng tươi cười đáp:

- Đại nhân nhậm chức, mạt tướng cùng tướng tá trong doanh còn chưa được thiết rượu tẩy trần cho đại nhân. Đêm nay trăng thanh gió mát, đúng là thời điểm rất tốt, Lưu đô ty thiết rượu mở tiệc chiêu đãi đại nhân, chúng ta phải không say không về đó.

Dương Lăng mỉm cười, mắt thoáng nhìn Lưu đô ty. Thấy hắn thần sắc khẩn trương, cố rặn nụ cười, đôi mắt lại không ngừng nhìn Bào tham tướng, y không khỏi thầm cẩn thận vài phần.

Qua hai ngày tiếp xúc ngắn ngủi, y biết Bào tham tướng bảo thủ cố chấp, không coi ai ra gì. Bây giờ tuy thần thái Lưu đô ty mất tự nhiên, nhưng cũng phù hợp với tâm tính hắn lúc này. Còn vì sao Bào tham tướng lại nhiệt tình, bình thản, không hề bị ép mà lại cúi đầu như thế?

Xem ra bữa tiệc tối nay vị tất đơn giản như vậy. Dương Lăng quay đầu lại nhìn Dương Nhất Thanh đầy thâm ý. Dương Nhất Thanh ngầm khẽ gật đầu, vung tay lên. Hai mươi tên thân binh đứng dưới trướng, tay cầm cương ngựa, nửa bước không dời. Dương Lăng lúc này mới mỉm cười, cùng Bào tham tướng cầm tay vào trong.

**************

Trong phủ tham tướng, Ấu Nương và ba người Ngọc Đường Xuân đã kiểm kê được nửa túi sổ sách. Tuyết Lý Mai nhìn sang đống sổ sách đã xem xong, hạ bút lông xuống, xoa cổ tay cười nói:

- Ấu Nương tỷ tỷ, chúng ta nghỉ một chút đi. Xem tình hình này, sợ phải mất ba hai ngày mới xong, cũng không nóng vội làm gì.

Hàn Ấu Nương đang lục lọi đống sổ sách, nghe vậy đứng thẳng người dậy, tay đấm nhẹ vào lưng, nói:

- Thật tình, vừa mới ăn cơm xong đã làm phiền ba muội muội tới đây kiểm kê sổ sách. Tướng công nhà ta không được tinh tế, cũng không thèm đến thăm các muội, lại chạy tới chỗ Bào đại tướng quân ăn tiệc rồi. Thành thật xin lỗi!

Ngọc Đường Xuân nhanh nhẹn bày ra bốn chén trà, rót trà vào chén, không hề đổ một giọt nào. Nàng châm đầy một chén đưa cho Ấu Nương trước, rồi nửa đùa nửa thật nói:

- Muội thấy Dương đại nhân rất sợ ở cùng chỗ với chúng ta. Y đường đường là Đại tướng quân, chẳng lẽ còn sợ phụ nữ chúng ta sao?

Hàn Ấu Nương thấy nàng khẽ nhíu mày ngài, vẻ do dự băn khoăn lộ thêm vài phần u oán, trong lòng không khỏi thở dài: “E rằng ba vị cô nương này hiểu lầm rồi. Họ đối đãi với mình thường ngày hệt như tiểu thiếp đối với bà chủ, làm sao mà mình không cảm thấy chứ?

Đều do Thái tử ra lệnh không rõ ràng, bây giờ tạm thu xếp cho ba đại cô nương ở nhà mình, cũng không biết khi nào thì Thái tử mới có thể đưa cô nương Nhất Tiên vào cung. Tới lúc đó sẽ thu xếp cho hai cô nương kia như thế nào đây?”

Nàng nhận chén trà, thấy dưới ánh đèn những ngón tay nõn nà như ngó sen của Ngọc Đường Xuân mịn màng trong suốt như ngà, chẳng những da dẻ trắng mịn như ngọc, mà vẻ trí thức u nhã ấy càng làm tôn lên vẻ thanh lệ thoát tục ở nàng, khiến nàng giống như tiên tử hạ phàm. Ấu Nương bất giác hơi lấy làm lạ. Trong ba vị cô nương, nếu luận về tướng mạo, rõ ràng vị Ngọc Tỷ Nhi này hơn hẳn Tuyết Lý Mai và Đường Nhất Tiên một bậc, hơn nữa nàng có tính cách điềm đạm nho nhã, phong tư khá quý phái, sao mà Thái tử lại chỉ có tình ý với duy nhất mỗi Đường cô nương thôi nhỉ?

Thấy đôi mắt hờn trách của Ngọc Đường Xuân đang nhìn mình chằm chằm, Tuyết Lý Mai bên cạnh cũng ngóng tai lên lắng nghe, Ấu Nương đành phải lập lờ:

- Mấy vị muội muội đẹp như thiên tiên, bất kỳ nam tử nào tới gần cũng sẽ không tự chủ được. Đừng nói là tướng công nhà ta, muội không thấy nhị ca ta hôm nay đi cùng các muội tới đây, cũng không dám nhìn các muội lâu à?

Tuyết Lý Mai không nén được đỏ mặt nói:

- Bọn muội đều là nữ tử phận bạc như vôi, sao so được với tỷ tỷ có phước tốt. Dương đại nhân chưa tròn hai mươi đã là quan lớn tam phẩm của triều đình, tương lai xây dựng phủ đệ, kiến tạo nha môn, thậm chí cấp đất phong hầu cũng không phải là việc khó, đến lúc đó tỷ tỷ sẽ là nhất phẩm Cáo Mệnh rồi.

Đại nhân chuộc thân cho tỷ muội chúng tôi, cứu bọn muội thoát khỏi hầm lửa, bọn muội cảm kích tự đáy lòng, tình nguyện làm tỳ nữ nha hoàn. Nhưng đại nhân bây giờ cũng không nói gì, danh phận chủ tớ này mà không xác định sớm một chút thì bọn muội gặp đại nhân cũng không biết nên xưng hô thế nào cho phải nữa.

Nghe giọng nói của nàng rõ ràng rất muốn Ấu Nương minh xác thân phận của các nàng. Hàn Ấu Nương vừa bực mình vừa buồn cười, nàng liếc mắt nhìn tiểu nha đầu này, gắt giọng:

- Muội đó, nói thật dễ nghe, nếu không phải tướng công phụng... à thấy các người bị người ta bắt nạt, làm sao mà rước ba người về đây chứ. Làm nha hoàn gì chứ? Nhà tỷ nhiều tiền lắm à, bỏ ra một vạn lượng bạc chỉ để mua nha hoàn sao?

Bỏ số tiền lớn không phải mua nha hoàn, vậy là mua cái gì? Hàn Ấu Nương nói như vậy, Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai nghe mà vui sướng ra mặt. Hai cô nương lặng lẽ nhìn nhau, đều cảm thấy vui mừng: hôm nay cuối cùng cũng được tin chính xác của Ấu Nương, rốt cuộc không cần nửa đêm nằm trên giường thấp thỏm không yên, đoán mò xem tâm tư đại nhân nữa rồi. Trong lòng Dương đại nhân, lời nói của Ấu Nương tỷ tỷ còn hiệu nghiệm hơn cả thánh chỉ nữa đó.

Tuyết Lý Mai nâng chén trà lên, vội vàng uống cạn một hơi, rồi lập tức xắn tay áo, lộ ra cổ tay trắng ngần đầy đặn, vừa hăng hái mài mực vừa nói:

- Tỷ tỷ! Chúng ta hãy cố thêm, tranh thủ đêm nay kiểm kê luôn một bao đi. Có tìm được chứng cớ sớm thì lão gia chúng ta mới có thể trị cái lão Bào không biết điều đó.

Ngọc Đường Xuân uống nhanh ly trà, rồi nhanh nhẹn chạy tới đống sổ để trên mặt đất như một con bướm. Hàn Ấu Nương không hiểu toan tính của bọn họ, thấy chỉ có Đường Nhất Tiên vẫn không hề nhúc nhích, vội đảo mắt nhìn nàng. Chỉ thấy cô nàng ngồi trước bàn, hai hàng lông mày thanh tú nhíu lại cong vút, đang nhìn chằm chằm vào cuốn sổ trong tay với vẻ trầm tư, dường như không hề nghe các nàng nói chuyện.

Cô nàng cầm cán bút chốc chốc lại chọc vào gò má mịn màng của mình, rồi đột nhiên lắc đầu lẩm bẩm:

- Không đúng, nhất định quyển sổ này có vấn đề.

Ấu Nương nghe được vội ghé qua hỏi:

- Tiên nhi! Muội đã phát hiện ra điều gì rồi à?

Đường Nhất Tiên chỉ vào quyển sổ nói:

- Tỷ tỷ, tỷ xem quyển sổ này có gì bất bình thường không?

Hàn Ấu Nương nhìn chăm chú một chút, lấy làm lạ nói:

- Không phải là một quyển sổ ghi lại việc mua than củi à... Ồ! Đúng là không bình thường, quân doanh ở gần núi đã có củi gỗ để dùng, còn mua than củi làm gì?

Đường Nhất Tiên ”cười gian” vài tiếng, dương dương tự đắc đáp:

- Đây không phải là vấn đề. Trong doanh có những tướng tá cấp cao, việc sưởi ấm, ăn uống và nấu nướng trong trướng chắc chắn cũng cần phải có than củi. Tỷ tỷ đoán lại đi!

Nhìn kỹ một chút, Ấu Nương cũng phát hiện ra vấn đề, không khỏi hào hứng nói:

- Không bình thường, quả thật là không bình thường, quyển sổ này nhất định có vấn đề.

Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai nghe vậy vội vàng sáp lại hỏi:

- Phát hiện được điều gì rồi sao? Cho muội xem một chút.

Hàn Ấu Nương chỉ lên trang giấy nói:

- Các muội xem, trên sổ ghi là tháng năm năm ngoái, mua năm trăm cân than củi, bên dưới là tình hình chi tiêu. Lại nhìn đây, mười bốn tháng tám, lại mua bảy trăm cân than củi.... Tại sao mùa đông mới dùng tới than củi để sưởi mà mùa xuân và hạ lại dùng nhiều như vậy?

Ngọc Đường Xuân nhìn qua rồi nói:

- Đúng là hơi kỳ lạ, hơn nữa những thứ linh tinh khác đều ghi vào một quyển sổ to, tại sao chỉ có những than củi này lại được ghi riêng ở đây? Nhưng... số tiền chi tiêu ghi trên sổ cũng không lớn, mấy văn tiền này có đáng gì đâu chứ?

Đường Nhất Tiên ngồi trên ghế, rung đùi đắc ý hỏi:

- Tỷ chưa nghe chuyện “Gạo Trắng Gạo Vàng” à?

Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai nghe xong nhất tề ồ một tiếng rồi thốt lên:

- Không sai, chuyện này cũng rất có thể.

Vụ án “Gạo Trắng Gạo Vàng” là chuyện xảy ra vài năm trước. Chuyện này chấn động kinh sư, nhà nhà đều biết. Ấu Nương không hay, nhưng ba người Ngọc Đường Xuân thì đều biết rõ.

Khi ấy tên đại hoạn quan Lý Quảng được vua Hoằng Trị tin yêu bị bệnh chết. Hoằng Trị mê tín thuật trường sinh bất lão của lão, cho Cẩm Y vệ tới phủ của lão tìm kiếm, lại tìm ra một quyển sổ, ghi lại số lượng gạo vàng gạo trắng trong nhà. Lúc đó hoàng đế Hoằng Trị không rõ ngụ ý của nó, còn không hiểu vì sao Lý Quảng cũng không có nhiều gia nhân lắm, mà lão lại cần mua nhiều gạo đến thế. Sau được đại thần giải thích, Hoàng đế mới biết số lượng đó để chỉ vàng và bạc, thế là trong lúc giận dữ đã ra lệnh cho người tịch biên gia sản của lão.

Tuyết Lý Mai phấn khởi nói:

- Không sai, không thể dùng giá tiền làm chuẩn! Một lạng cũng có thể chỉ một trăm lạng, một ngàn lạng. Nhưng than củi này rốt cuộc chỉ cái gì đây?

Đường Nhất Tiên giật quyển sổ lại, nhét vào trong lòng như bảo bối , hào hứng tới nỗi hai má đỏ bừng:

- Việc này để muội báo với Dương đại nhân! Đương nhiên đại nhân có thể điều tra được.

Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai thấy nàng giống như sợ người khác đoạt lấy công lao mình, không khỏi nhìn nhau bật cười.

Ngay lúc này, một giọng nói lạnh lẽo vang lên:

- Chỉ sợ Dương đại nhân cũng không điều tra được chuyện này đâu!

Chương tám mươi ba Âm Mưu Rồi Hành Động

------------------------

Theo giọng nói, rèm trúc chợt vén lên, một gã đàn ông mặc đồ đen, tay cầm đao thép bước vào. Trên đầu hắn quấn khăn đen che kín cả miệng mũi, chỉ lộ ra một cặp mắt hung ác.

Tuyết Lý Mai hoảng sợ thất sắc la lên:

- Ngươi là ai? Lại dám xông vào phủ tham tướng, không sợ mất đầu à!

Tên hắc y nghe vậy phá ra cười ha ha, đồng thời hai tiếng răng rắc vang lên, một cánh cửa sổ bị vỡ tan tành, lại có mấy tên cũng mặc áo đen cầm đao nhảy vào, vây các nàng vào giữa.

Ánh trăng rót vào cửa sổ, xa xa bọ kêu chim hót, gần đấy cây cối đong đưa, yên tĩnh vô cùng, nhưng trong bóng đêm im ắng này, sát khí lại tràn ngập khắp phòng.

Lại có thêm vài tên mặc áo đen lực lưỡng bước vào cửa. Tên vào trước tiên cất tiếng cười cuồng vọng, nói:

- Ta là ai, việc này chỉ sợ các ngươi cũng không biết được, cứ làm vài con quỉ hồ đồ trên đường xuống suối vàng đi.

Hắn nhìn lướt qua đống sổ sách đầy đất, trong mắt lóe lên vẻ ác độc, rồi đột nhiên xoay người ngông nghênh bước lên, chỉ vào Đường Nhất Tiên bảo:

- Đem cuốn sổ trong người ngươi giao ra đây!

Ngọc Đường Xuân thấy hắn tới gần, không chút nghĩ ngợi, vội cầm nghiên mực ném về phía hắn. Hắn lắc người né nghiên mực, bước nhanh đến gần Đường Nhất Tiên. Thấy mấy nữ tử yêu kiều nhu nhược, hắn đâu thèm để vào mắt, nên chẳng hề uý kỵ xông đến trước mặt ba người Ngọc Đường Xuân.

Lúc này Hàn Ấu Nương bất chợt áp sát lại gần, vung tay như đao chém mạnh vào cổ tay hắn. Hắn ta chỉ cảm thấy như bị sét đánh, cả cánh tay ê ẩm, đau đớn. Hàn Ấu Nương lắc mình bám theo, bàn tay nhỏ bé bóp chặt cổ tay kẻ địch, tung một cước vào mặt bên đầu gối, hắn kêu thảm một tiếng rồi khuỵu xuống đất.

Hàn Ấu Nương vốn định nhanh chóng bắt hắn làm con tin, không ngờ mấy tên sát thủ phía sau lại phản ứng cực kỳ mau lẹ. Mặc dù trong bốn cô có người biết võ nghệ là việc chúng hoàn toàn không ngờ tới, nhưng chúng vẫn phản ứng tinh nhạy, hét lớn một tiếng, vung đao chém ngay. Bốn bóng người cậy vào ánh đao mù mịt khiếp người, mang theo tiếng gió rít vù vù, vừa loé lên thì đã chém tới, thế như chớp giật.

Hàn Ấu Nương thấy ánh đao chém vào người mình, bèn không bắt tù nhân nữa mà lập tức vặn lưng, ngửa người ra sau, chân phải tung ra, vung cước đá bắn tên áo đen đó bay đi, đâm sầm vào bốn gã đại hán đang xông tới. Cùng lúc đó, vù một tiếng, một thanh đao thép lướt qua chóp mũi Ấu Nương, vút qua trước ngực. Nếu cô nàng không nhỏ con thì đã đổ máu ngay rồi.

Hàn Ấu Nương cả người toát đầy mồ hôi lạnh. Thanh đao thép chém choang một tiếng vào chiếc án thư, làm Đường Nhất Tiên sợ giật nảy người. Hàn Ấu Nương chớp thời cơ đứng thẳng dậy, đấm thẳng một quyền vào nách tên đang vung đao. Tên nọ lập tức đánh rơi đao thép, lảo đảo lùi lại vài bước, cánh tay phải xụi lơ, không cử động được nữa.

Vóc người Hàn Ấu Nương nhỏ nhắn xinh xinh, thể lực vốn không bằng nam nhân, do đó công phu mà Hàn Lâm dạy nàng đều nhằm công kích vào những chỗ yếu nhược của kẻ địch. Tên kia vừa lùi lại, Hàn Ấu Nương lập tức nhặt cây đơn đao bản hẹp, nhoáng người lao lên, đao thép mãnh liệt đỡ lấy lưỡi đao của hai tên hắc y đang chém tới. ‘Keng keng!‘ tiếng kim loại vang lên, đao của nàng chém trái bổ phải đã rất chuẩn xác ngăn chặn đao thép của đối phương.

Hàn Ấu Nương không đủ lực cổ tay, hôm nay lại không dùng Phong Hỏa côn, nên vừa đối kình với mấy tên thích khách võ nghệ xuất chúng này, hai cánh tay nàng cũng bị chấn động đến tê rần. Hàn Ấu Nương thầm giật mình, dựa vào công phu của nàng, nếu tự mình đào tẩu thì đương nhiên những kẻ này không thể ngăn cản được. Nhưng mang theo ba cô nương không biết võ nghệ gì cả thì làm sao nàng có thể cam đoan các nàng không tổn hao một cọng lông sợi tóc gì được?

Hàn Ấu Nương quýnh lên, lập tức hét dài một tiếng, vung thanh đao thép trong tay múa che kín mít, rồi sốt ruột gọi ba cô nương:

- Nhanh! Theo ta xuống phía dưới, quan binh ở tiền viện sẽ lập tức tới ngay.

Người bị Ấu Nương đá trúng chính là Bào Tận Trung. Khi Hàn Ấu Nương nằm trong vòng tay Dương Lăng thì như một đóa phù dung ngượng ngùng, e ấp yêu kiều, thật sự đáng yêu khôn tả, nhưng khi nàng đá vào ngực Bào Tận Trung lại như một quả cân nặng chịch nện vào người hắn. Bào Tận Trung phải lăn ra thật xa, cúi gập người xuống, mãi hồi lâu sau mới thở được.

Hắn phun ra một bụm máu, gầm lên:

- Không chừa lại đứa nào, chém hết! Cả căn nhà cũng đốt cho ta!

Mặc dù ba người Ngọc Đường Xuân mặt hoa thất sắc nhưng không hề đánh mất dũng khí. Mắt thấy Ấu Nương trông như cọp điên, đánh giết mở một con đường máu, các nàng vội vàng thu hết dũng khí bám sát sau lưng nàng, cùng vọt tới cửa.

Hàn Ấu Nương vung một đao chém nát vụn tấm rèm, quát:

- Đi mau!

Rồi lập tức tiện tay vơ lấy đôi đũa chưa kịp cất trên chiếc bàn cạnh cửa, vung tay phất một cái, hai cây đũa tre phóng đi như chớp.

Hai tên đuổi theo phía sau vừa thấy nàng vung tay, không chút nghĩ ngợi gì liền lập tức né người. Một thanh trúc bắn vào khoảng không, cây khác bắn sượt qua chiếc khăn đen của một gã hắc y, làm xước một vết máu.

Bào Tận Trung thấy ba cô gái ôm quyển sổ quan trọng nhất chạy trốn ra khỏi phòng, trong lòng quýnh lên, lảo đảo vịn cánh cửa, cố trằn mình đứng lên đuổi theo. Hàn Ấu Nương bị mấy tên đại hán cuốn lấy, chỉ cần nàng vụt xoay người, lưỡi đao thép lập tức liếm vào người ngay. Vì vậy tuy trong lòng sốt ruột nhưng lại không nghĩ được biện pháp cứu trợ, nàng chỉ biết vung đao khổ chiến, thầm mong đám binh sĩ trong phủ có thể nghe tiếng kêu mà chạy tới kịp.

Ba người Ngọc Đường Xuân chạy ra khỏi phòng, luống cuống kinh hoàng không thấy rõ dưới chân. Tuyết Lý Mai hổng chân một bước, hét lớn một tiếng ”ui chà” rồi lăn thẳng từ trên thềm đá xuống dưới. Ngọc Đường Xuân thấy thế vội vàng đuổi theo. Đường Nhất Tiên chạy phía sau, nhìn thấy một tên thích khách đang đuổi theo, vội vàng quơ một chậu hoa bày trước phòng ném mạnh ra sau, đồng thời hét lớn với Ngọc Đường Xuân:

- Ngọc Tỷ Nhi, mau mau dìu Tiểu Mai đi! Đi gọi người tới giúp Ấu Nương.

Không dám dẫn tên áo đen chạy về phía Ngọc Đường Xuân, Đường Nhất Tiên vòng qua hướng cửa Nguyệt Lượng* mà chạy, vừa chạy vừa không ngừng chộp những chậu hoa ném về phía Bào Tận Trung. Quyển sổ chết người đó vẫn đang được Đường Nhất Tiên giữ trong người nên Bào Tận Trung cứ như một con lừa vươn mõm về phía trước cố đớp lấy bụi cỏ, không chút nghĩ ngợi gì cứ cố bám đuổi theo nàng. (*: cổng tròn; cổng vòm)

Ngoài cửa Nguyệt Lượng là rừng núi hoang vu. Vị Ninh tham tướng tiền nhiệm mỗi sáng đều vào rừng tản bộ luyện tập, sớm đã giẫm thành một con đường mòn. Đường Nhất Tiên như một con nai nhỏ cùng đường, liều mạng chạy như điên trong rừng, may mà hôm nay nàng cải nam trang, nếu không sớm đã bị vấp ngã rồi. Dù thế, những cành lá và dây gai bên con đường mòn cũng đã cào nát quần áo của nàng, trên mặt cũng đã xuất hiện vài vệt máu.

Vì ngực bị thương nên Bào Tận Trung chạy không nhanh. Thấy nàng càng chạy càng xa, tai nghe thấy phía sau tiếng người huyên náo, đoán rằng đã bị thân binh của Dương Lăng phát hiện, lòng hắn không khỏi lo lắng. Hắn vừa truy đuổi vừa gầm lên:

- Tiểu nha đầu, giao cuốn sổ ra đây, ta tha chết cho ngươi, có nghe không? Ngươi không chạy thoát đâu.

Đường Nhất Tiên sờ quyển sổ trong lòng, tâm hồn thiếu nữ lại càng mừng vui khôn xiết.

Hắn đã quan tâm đến quyển sổ như vậy, xem ra quyển sổ này thật sự có chuyện rồi. Mấy ngày nay vào nhà họ Dương, Dương đại nhân chưa hề vào phòng các nàng, cũng chẳng nói chuyện gì nhiều với hai tỷ tỷ. Nhưng đại nhân lại luôn tươi cười chào hỏi có vẻ rất khách khí với nàng, Dương đại nhân nhất định là thích nàng rồi. Nếu đem quyển sổ này giao cho y, chẳng phải càng được y thích hơn sao?

Vừa nghĩ thế, Đường Nhất Tiên lại cảm thấy vui như trẩy hội, người như có thêm sức mạnh, càng chạy nhanh thêm. Cây cối xung quanh trại quân được bọn quan binh chặt phá khoảng trăm trượng để phòng hỏa hoạn, bởi vậy tất cả đều là một bãi đất bằng phẳng. Dưới ánh trăng sáng, cảnh vật hiện lên rất rõ, tiểu nha đầu không thể nào chạy thoát được. Bào Tận Trung thấy phía trước là cuối sơn đạo, chỗ có thể trốn được cũng không nhiều nữa, không khỏi mừng rỡ trong lòng.

Đường Nhất Tiên chạy đến thở không ra hơi, quay đầu lại thoáng nhìn, thấy đã chạy cách tên đại hán áo đen một đoạn khá xa, nhìn về phía trước thấy xuất hiện hai tảng đá to, trong bóng đêm đen kịt trông chúng như con quái vật muốn nuốt chửng người. Đường Nhất Tiên vội vàng chạy tới, vừa tới gần tảng đá, phía trước đột nhiên là khoảng không. Nàng hốt hoảng vung vẫy hai tay, hồi lâu mới đứng vững. Nàng nhìn kỹ, phía trước là một cái vực, dưới vực có ánh sáng lập lòe, dường như là một con sông.

Trước không còn đường, sau có truy binh, còn có thể chạy trốn nơi nào chứ? Đường Nhất Tiên vẫn nuôi một tia hy vọng, vội quay đầu lại nhìn, trong bóng đêm dày đặc chỉ thấy bóng đen đó đang vội vã men theo con đường nhỏ trong rừng đuổi đến. Nàng liền trở nên tuyệt vọng.

Lần đầu tiên thích Dương Lăng, nàng còn không biết y là ai! Chỉ nghe những tỷ muội trong kỷ viện kể về người thư sinh có tình có nghĩa, vì người con gái mình yêu đã dám đắc tội với cả người có sức mạnh cường đại nhất trên đời này. Trong tâm linh nho nhỏ của nàng đã khắc ghi một cái tên khiến nàng vô cùng sùng bái.

Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai, Đường Nhất Tiên, trong ba người con gái, nàng là người lanh lợi và ngọt ngào nhất, thường ngày cũng là người có nhiều nhân duyên* nhất. Tất cả mọi người đều nghĩ rằng nàng vui vẻ và tinh nghịch nhất, ai biết kỳ thật trong ba người, người có tâm lý trưởng thành, tính cách kiên cường nhất cũng chính là nàng? *(nhân duyên có nhiều nghĩa, ở đây chỉ sự "được lòng" của khách đến kỹ viện)

Thiếu nữ ôm ấp tình cảm, ai mà không có giấc mộng giống nhau? Nam nhân dám vì người mình yêu quí mà đối kháng với cả thiên tử, chính là người trong mộng của nàng. Nàng lặng lẽ vẽ một bức họa, người thanh niên trong bức họa có vẻ mặt từng trải, khí phách ngút trời. Y đứng trên đỉnh núi cao cao, những trận gió thốc tung tấm áo bào xanh của y, nhưng chẳng mảy may lay chuyển được y.

Đó là hình tượng Dương đại nhân mà nàng tưởng tượng trong lòng. Hẳn là y có bờ vai kiên cường nhất, có thể chống đỡ cho nàng cả bầu trời, hẳn là y có một đôi mắt sâu thẳm, khiến cho con tim nàng kích động vì y.

Khi nàng chính thức gặp được Dương Lăng, lại chẳng thấy y giống như người trong mộng đó của mình. Tướng mạo y cũng khá đẹp trai, nhưng hơi yếu ớt, cả ngày cứ nằm trong phòng dưỡng thương, thỉnh thoảng ra ngoài phơi nắng thì cũng là một bộ dạng uể oải. Bộ dáng đó thực khác quá xa so với người trong mộng của nàng.

Mãi đến hôm nay, y cưỡi ngựa cao vọt, thân vận một bộ khôi giáp oai vệ nhất, nhìn từ ngoài viên môn(1) vào, bóng dáng uy vũ oai phong của y dường như che lấp cả đất trời, sau lưng chỉ còn một bầu trời xanh thẳm. Cái bóng dáng đó chính là người trong giấc mộng của nàng.

Một khắc nhìn thấy người đại tướng quân anh tuấn oai phong đó đã khiến trái tim nàng thật sự rung động, đập nhanh như chưa từng nhanh như vậy. Cái tên Dương Lăng cùng hình tượng Dương Lăng bắt đầu so khớp lên nhau trong đầu nàng, tạo thành một hình ảnh rõ rệt.

Nàng mong mỏi có ngày có được y, được người anh hùng trong tâm trí của nàng, vị tướng quân thiếu niên anh tuấn này ôm vào lòng, rồi cứ ôm mình như thế mà giục ngựa phi nhanh, dù là phi đến chân trời góc biển, dù là phi đến mãi mãi.

Nhưng bây giờ, giấc mộng vẫn chỉ là giấc mộng, không còn có thể thực hiện được nữa. Hơn nữa, tình cảm này y vĩnh viễn sẽ không bao giờ biết được. Có lẽ không bao lâu nữa, y sẽ quên mất mình thôi?

Mũi Đường Nhất Tiên cay xè, cố nén lệ trong lòng, nàng lôi quyển sổ ra nhét vào kẽ đá. Ngẫm nghĩ một lát, nàng bỗng rút quyển sổ lại, chạy về sau vài bước, rồi dấu nó vào mặt khuất ánh trăng của một tảng đá cao bằng đầu gối, sau đó nhặt một cục đá lên, nấp vào sau tảng đá to.

Bào Tận Trung thấy cái bóng của nàng từ xa, không khỏi cả mừng. Thấy nàng xuất hiện ở cạnh tảng đá to rồi biến mất, hắn vội vàng chạy tới gần. Vừa mới vòng qua tảng đá lớn, Đường Nhất Tiên đã dốc hết sức ném cục đá tới.

Bào Tận Trung hoảng hốt, hấp tấp né qua một bên, tảng đá nện vào vai hắn, dường như đập trúng vào tai. Bào Tận Trung đau đến nỗi hét thảm một tiếng, chỉ cảm thấy nửa bên mặt nóng rát, màng nhĩ lùng bùng, nhất thời không nghe được gì cả.

Bào Tận Trung phẫn nộ điên cuồng gầm lên, vung đao bổ ra, thế đao như hổ dữ có thể chém người thành hai nửa. Nhưng hắn bị trọng thương, nên độ chính xác không đủ, hơn nữa màng nhĩ lại bị ném trúng, đầu hơi choáng, nhát đao này chỉ bổ xéo vào tảng đá kêu lên một tiếng "choang".

Đường Nhất Tiên tự biết mình khó lòng toàn mạng, nên chủ tâm lôi hắn chết chung, cục đá vừa nện xuống là lập tức nhào tới ôm chặt lấy hắn, kéo mạnh về phía sau. Bào Tận Trung đứng không vững, bị người con gái nhỏ con hơn hắn nhiều kéo tới vách núi. Nhìn tới thấy vực sậu hun hút dưới vách núi, Bào Tận Trung sợ tới mức hồn phi phách tán.

Hắn vội buông cánh tay đang ôm tai trái, gót chân ghì chặt vào đá, dùng vòng sắt ở chuôi đao đập vào vai Đường Nhất Tiên. Đường Nhất Tiên đau đến độ rên lên một tiếng, nhưng vẫn nghiến răng, ra sức lôi hắn tới vách núi, muốn kéo hắn xuống vực đồng quy vu tận.

Một lần, hai lần, bả vai non nớt bị cái vòng sắt có tua đỏ gắn ở chuôi đao đập vào đến sắp gãy cả xương, máu chảy ướt đẫm cả áo. Đường Nhất Tiên đau đớn không chịu được, đột nhiên quát to một tiếng, cắn chặt vào cái áo trước ngực Bào Tận Trung. Bào Tận Trung bị nàng kéo dần tới gần vách núi, sợ tới sắp phát điên, hắn hét lớn:

- Mụ đàn bà điên, buông ta ra, đồ...!

Bào Tận Trung hung tợn vung cánh tay lên, dùng chuôi đao nện thẳng vào đầu Đường Nhất Tiên. "Ong" một tiếng, mắt Đường Nhất Tiên chợt thấy tối sầm, một dòng nước tanh mằn mặn xuôi xuống gò má chảy vào trong miệng nàng. Nàng ngẩng đầu lên, căm giận nhìn Bào Tận Trung. Thấy ánh mắt khiến cho người ta sợ hãi đó, Bào Tận Trung lại đập thêm một cú lên đầu nàng. Máu trào ra ướt đầu ướt trán, che mờ cả mắt nàng.

Đường Nhất Tiên như đằng vân giá vũ, đầu óc choáng váng, buông tay lảo đảo vài bước, chân đạp vào khoảng không rồi rơi xuống. Thân hình cuốn vào không trung, vầng trăng mờ đo đỏ dưới trời đó là cảnh tượng cuối cùng mà nàng nhìn thấy, bên trong vầng trăng đỏ tươi đó, dường như nàng lại thấy được người tướng quân trẻ tuổi anh tuấn, giáp trụ trắng toát đang phi ngựa về phía nàng, chiếc tua đỏ trên mũ trụ phất phơ trong gió.

“Chàng... chắc chắn... sẽ báo thù cho ta! Chắc chắn sẽ như thế!”

Đường Nhất Tiên mỉm cười thầm nghĩ, thân thể mềm nhũn rơi thẳng xuống sông.

************************

Sắc trời đã sáng, cả phủ đệ tham tướng đã bị đốt thành đất bằng, vài làn khói đen lượn lờ bốc lên.

Dương Lăng ngây người nhìn đống hoang tàn hồi lâu. Ấu Nương cầm một cái áo choàng nhè nhẹ bước tới, kiễng chân mặc vào cho y, ôn nhu an ủi:

- Tướng công! Chàng đã đứng cả nửa đêm rồi, như vậy cũng không phải là biện pháp, hay là trở về nghỉ ngơi một chút đi.

Dương Lăng nhìn thấy chiếc áo cổ tròn của nàng dính đầy bùn đất lem luốc, còn bị rách vài nơi, không khỏi áy náy cầm tay nàng, đáp:

- Trở về? May mà nàng không sao, bằng không... ta sẽ sẵn sàng nhảy vào đám cháy. Ôi, nàng bệnh vừa khỏi, lại lên núi xuống núi tìm người, bôn ba nửa đêm rồi, cũng nên đi nghỉ đi. Hai vị cô nương Ngọc Tỷ Nhi đang rất đau lòng, nàng cũng đi khuyên giải hai nàng một chút đi.

Ấu Nương khẽ ngả vào vai Dương Lăng, thầm thì:

- Ấu Nương vừa mới gặp các nàng rồi. Tướng công, thiếp biết trong lòng chàng khó chịu. Hôm qua chàng phi ngựa chạy về, trông như sắp phát điên vậy, cặp mắt đỏ ngầu rất đáng sợ. Ấu Nương cũng sợ gần chết.

Dương Lăng thở dài một tiếng, nói:

- Trong bữa tiệc rượu ta đã cảm thấy không bình thường. Bào Tận Thẩm không phải là kẻ độ lượng, cho dù có chịu thua, cũng sẽ không có thần thái vui vẻ như thế. Còn nữa, tên Lưu Sĩ Dung có tâm trạng rất bồn chồn. Ta đã sớm cáo từ ly khai. Trên đường trở về, nhìn thấy trên núi bốc lửa, ta sợ nàng..., Ôi, nàng đi theo ta, đến cả vào kinh đô mà cũng phải chém giết! Biết khi nào mới có thể không khiến nàng phải chịu khổ nữa đây?

Hàn Ấu Nương cảm động:

- Tướng công..., chàng đừng tự trách mình. Ấu Nương gả cho chàng thì đã là người của chàng rồi. Cả đời phú quý cũng tốt, bần cùng cũng tốt, còn có thể rời bỏ chàng sao chứ? Cho dù bây giờ chúng ta ở Dương Gia Bình, chẳng phải cũng phải ăn uống khổ sở, vẫn phải chịu cảnh khổ sao? Vẫn phải đề phòng dã thú trên núi, giặc Thát ở tái ngoại, còn phải lo lắng về thu hoạch...

Những gì tướng công làm cho thiếp đã gấp trăm lần so với những gì mà thiếp bỏ ra. Trong thiên hạ có mấy người đàn ông vì vợ mà không tuân mệnh lệnh hoàng đế? Cho dù phải chết vì chàng, dù chết một vạn lần thiếp cũng không oán trách.

Hàn Ấu Nương lau nước mắt, nói:

- Chỉ là... Liên lụy tới các cô Tiên Nhi. Ấu Nương không thể bảo vệ các muội ấy chu toàn, trong lòng rất áy náy. Bây giờ lại để tướng công khó xử trước mặt Thái tử, thiếp... thiếp...

Dương Lăng xoa tay nàng, an ủi:

- Không phải tướng công đang lo lắng về Thái tử điện hạ Ta chỉ nghĩ, nếu không phải vì ta nhờ các nàng ấy hỗ trợ, cũng sẽ không khiến họ rước lấy họa sát thân. Bây giờ cô nương Tiên Nhi mất tích, e rằng là lành ít dữ nhiều, ta...

Y mới nói được tới đây chợt nghe tiếng bước chân, quay đầu lại thì thấy Dương Nhất Thanh đi tới ôm quyền chào:

- Ty chức ra mắt đại nhân, ra mắt phu nhân.

Dương Lăng lo lắng hỏi:

- Thế nào rồi? Có tìm được Đường cô nương chưa?

Dương Nhất Thanh thưa:

- Đại nhân! Ty chức dẫn người tìm suốt hai mươi dặm dọc con sông dưới chân núi , không thấy tung tích Đường cô nương đâu cả. Ngoài mười dặm hạ du đã là vùng dân chúng sinh sống. Nhưng ty chức đi hỏi dân chúng ven đường, lại không ai biết tin tức. Bây giờ huynh đệ Mãn Thương vẫn còn đang dẫn người tiếp tục tìm kiếm, ty chức lo đại nhân đợi lâu, nên trở về báo tin.

Nghe báo không tìm thấy thi thể của Nhất Tiên, Dương Lăng không khỏi dấy lên một tia hy vọng, ra lệnh:

- Tiếp tục tìm! Nếu cần thì cầm lấy lệnh bài của ta buộc quan phủ địa phương hiệp trợ. Sống phải thấy người, chết phải thấy xác.

- Dạ, đại nhân!

Dương Nhất Thanh ôm quyền thi lễ. Dương Lăng lại hỏi:

- Bào Tận Trung như thế nào rồi?

Trên mặt Dương Nhất Thanh lộ ra một nụ cười giảo quyệt, hắn đáp:

- Ty chức đánh hắn ngất đi, cho hắn mặc y phục thân binh. Khi bọn người Bào Tận Thẩm giả vờ tới cứu hoả thì ty chức đã dẫn hơn trăm thân binh ngay trước mặt chúng công khai đưa người ra khỏi thành, hiện đã giam vào đại lao của Cẩm Y vệ.

Dương Nhất Thanh ngừng lại một chút, rồi tiếp:

- Đại nhân, người nào đã vào Cẩm Y vệ của chúng ta thì trong bụng hắn có cái gì là phải phun ra hết, cho dù bụng không có gì, muốn hắn nói gì hắn cũng phải nói theo. Tiền đại nhân nghe nói là người do đại nhân đưa tới, bèn bảo người khiêng tới tận nơi xem xét, rất hy vọng giúp được cho ngài chút việc đó.

Tuy Dương Lăng đang tràn ngập phẫn nộ và lo lắng, nghe xong những lời này cũng không kìm được nở một nụ cười, hỏi:

- Ta đã có thể cưỡi ngựa, vậy mà mông Tiền đại nhân vẫn chưa khỏi hay sao?

Dương Nhất Thanh cười gượng đáp:

- Tiền đại nhân thấy người tới tặng quà nườm nượp, sợ một khi mông khỏi, sẽ làm cho người ta không còn cơ hội biểu lộ tâm ý, do đó ông ta cũng định bệnh thêm vài ngày nữa.

Lúc này Dương Lăng mới tỉnh ngộ. Y còn tưởng rằng Tiền Ninh quí cái mông của mình, thì ra là có dụng ý khác. Y gật đầu nói:

- Ừm, việc khảo cung phải nhờ tới y, chứng cớ cũng phải tìm cho ra. Bào Tận Thẩm đường đường là một tên quan lớn tòng tam phẩm, ta không giết được hắn, Trương phó tướng cũng không giết được hắn. Ta muốn tìm chứng cứ đủ để có thể giết hắn, rồi trình lên cho người có thể giết hắn!

Dương Lăng sờ quyển sách trong người, buông từng chữ một:

- Xin nhờ Tiền đại nhân làm ơn tiếp đãi hắn thật kỹ. Một ngày chưa tìm được Đường cô nương, thì không được đánh chết hắn. Hừ! Lần này ta sẽ không lỗ mãng nữa, đánh rắn phải đánh giập đầu. Bào Tận Thẩm làm quan lâu như vậy, sẽ có không ít quan hệ cá nhân. Không nắm chắc hoàn toàn, ta sẽ không động tới hắn. Không nắm chắc hoàn toàn, sau này ta sẽ không gây thù chuốc oán với ai nữa!

Y nắm chặt bàn tay Ấu Nương, khẽ nói:

- Ta không muốn lại để người của ta phải vì ta mà nơm nớp lo sợ. Cũng không muốn lại làm cho người của ta vì ta mà bị thương. Về phần Bào Đại tướng quân, ta sẽ cho hắn tiếp tục tiêu dao mấy ngày nữa!

******************************************

Một đoàn ngựa xe rầm rộ đi trên đại lộ. Nhìn đội nghi trượng rợp bóng cờ xí, hẳn phải là thuộc loại vương hầu phô trương vào bậc nhất. Trời đã gần trưa, ánh dương gay gắt, rèm kiệu của một chiếc xe ngựa được vén lên, có tiếng người nói với tên trung quan cưỡi ngựa bên cạnh:

- Bách Thuận à! Tới gốc cây kia nghỉ một chút đi. Ta mệt rồi, muốn xuống kiệu đi lại một chút.

- Dạ, Vương phi nương nương!

Tên quan đó vội vàng cao giọng hô:

- Cho đoàn xe đỗ dưới bóng cây!

Đoàn xe từ từ dừng lại bên dưới cánh rừng bạch dương. Rèm kiệu được vén lên, một phụ nữ chừng bốn mươi, tóc đen tuyền, mặc áo dài chấm gót, khoác khăn quàng vai và mũ phượng cùng màu, bước xuống xe. Nàng nhè nhẹ vặn eo, nhìn đồng ruộng xanh mượt bên đường, nói:

- Ừm, vừa ra ngoài một chút đã thấy thoải mái hơn nhiều rồi. Lát nữa gỡ mũ phượng và khăn quàng vai cho ta đi, đường còn xa lắm, đội rất mệt.

Hai thị nữ sau lưng cúi người đáp:

- Dạ, nương nương!

Vương phi nghe thấy tiếng chim hót trên ngọn cây, không khỏi vui vẻ nói:

- Tiếng chim này rất dễ nghe! Mang Phi Nhi của ta ra, nó cũng chán lắm rồi.

Một tên thái giám cầm một cái lồng bằng tơ vàng vội vàng chạy tới. Vương phi cầm lấy lồng chim, lấy mồi chim từ tay tên thái giám dụ con chim hoạ mi, bộ dạng trông rất vui vẻ.

Lúc này một lão già lưng hơi còng đi tới. Vương phi nhìn thấy lão bèn cười nói:

- Lưu Lương, mấy con chim sáo của ta mua trong kinh thành sao rồi? Vẫn chưa nói à? Về đến nhà lão phải chăm sóc chu đáo. Lúc lột lưỡi lão phải cẩn thận một chút, đừng để chúng chết đó.

Lão Lưu Lương cười nịnh:

- Nương nương yên tâm! Nương nương thiện tâm như Quan Âm Bồ Tát, những con chim này theo bà, cũng coi như là có phước rồi.

Vương phi vừa nghe liền không khỏi cười lớn. Lưu Lương nhân cơ hội báo:

- Nương nương, cô nương mà chúng ta cứu được dọc đường giờ đã tỉnh lại rồi. Nhưng hình như bị đần độn, hỏi cô ta cái gì cũng không nhớ được, nương nương xem chúng ta nên làm sao đây?

Vương phi nghe xong khẽ chau mày, hỏi:

- Cô nương đó trông rất thông minh, sao lại đần độn được chứ? Đi, đi xem thử!

Mấy người trung quan, thị nữ và Lưu Lương cùng đi theo Vương phi đến bên cạnh một chiếc xe ngựa phía sau. Trên xe có một cô nương đang ngồi, hai tay ôm đầu gối hoảng sợ nhìn đám người đang đi tới. Trên đầu nàng băng trắng xóa, rỉ ra chút máu, khuôn mặt xinh xắn vì mất máu quá nhiều nên hơi tái nhợt.

Vương phi hỏi:

- Cô nương! Cô tên là gì, người ở nơi nào, sao lại mặc y phục nam nhân, đã gặp phải trộm cướp trên đường à?

Cô nương kinh hoảng nhìn bà ta, hỏi lại:

- Bà là ai, ta không biết bà, tại sao ta ở chỗ này?

Lưu Lương đáp:

- Đây là Lý nương nương của Vương phủ cai quản Sơn Tây. Nương nương thiện tâm, nhìn thấy cô ngất xỉu bên bờ sông, nên đã bảo ta cứu cô. Cô còn nhớ được tên mình không, là người ở đâu?

- Tên à?

Cô nương thốt lên ngây ngô, rồi đột nhiên bật khóc:

- Không nhớ! Ta chẳng nhớ rõ gì cả, ta là ai, sao ta ở chỗ này?

Vương phi khẽ nhíu mày, Lưu Lương thấp giọng nói:

- Nương nương, đầu cô nương này bị thương, bây giờ lại chẳng nhớ gì cả. Nương nương xem, có nên tới thị trấn phía trước, giao cô ta cho quan phủ không?

Vương phi ái ngại nhìn người con gái mặt đầy vẻ hoảng sợ, khom người nhỏ nhẹ hỏi:

- Cô nương! Cô cố nhớ lại đi, có thể nhớ được mình tên gì, nhà ở đâu không?

- Ta... Ta...

Cô gái chớp chớp mắt, đầu óc choáng váng, tựa hồ thấy một tướng quân thiếu niên anh tuấn bất phàm, cưỡi con ngựa trắng đang lướt tới, nét mặt nàng không khỏi lộ ra chút mừng rỡ, trong ý thức dường như bắt được một cái tên rất quan trọng. Nàng vừa muốn mở miệng gọi y, trong đầu đột nhiên lại trở nên trống rỗng, chẳng nhớ gì nữa.

Cô nương lại lắc lắc đầu, phiền muộn đáp:

- Ta không nhớ nổi, không nhớ nổi đâu...

Nàng lắc đầu lia lịa, làm động đến vết thương trên đầu, không kìm được đau đớn kêu lên một tiếng rồi ôm lấy đầu, nước mắt rơi lã chã.

Vương phi thấy cô nương này xinh đẹp vô cùng, cặp mắt đen láy như chim hoạ mi đang nhìn mình, không thể không mềm lòng, bèn nói:

- Trông cô nương này như thế, nhất định vốn là một nha đầu xinh đẹp đáng yêu, cũng không biết bị ai gây ra tai họa thành ra nông nỗi này.

Chà! Nàng ta đã không nhớ nổi điều gì, giao cho quan phủ, những người đó làm được gì chứ? Gặp kẻ táng tận lương tâm, có khi còn hại cả đời cô nương nhà người ta. Cứu người phải cứu tới cùng, tiễn phật thì tiễn đến Tây Thiên. Cô nương này chẳng nhớ được gì, vậy đưa nàng về Đại Đồng đi. Nha đầu nhỏ tuổi như vậy, ta vẫn còn nuôi được.

Đám người bên người dạ một tiếng, tên trung quan vẫn còn hỏi:

- Nương nương! Cô nương này thương thế lành rồi thì sẽ làm người hầu ở ngoại phủ hay đưa vào nội phủ?

Vương phi cầm lồng chim đưa cho Lưu Lương, đáp vẻ không vui:

- Phủ của ta còn thiếu a hoàn sai bảo à? Ta cứu người còn muốn người ta bán mình trả nợ là làm sao?

Nàng liếc mắt nhìn Lưu Lương, không khỏi vui vẻ:

- Lưu Lương! Không phải hai vợ chồng già các ngươi không có con sao? Vậy nhận cô nương này làm nghĩa nữ đi, thường ngày sẽ giúp ngươi chăm sóc cho đám bảo bối đó của ta. Không chừng khi chơi với đám tiểu gia hỏa lanh lợi đó của ta, đầu óc cô ta có thể nhớ lại một chút gì đó.

Nàng cười ha ha đi vài bước, rồi quay lại bảo:

- Cô nương xinh đẹp này, đến cả tên cũng không nhớ được, đáng thương quá. Trở về vương phủ, cần tìm lang trung giỏi khám bệnh kỹ lưỡng cho cô nương đó. Được rồi, cô ta vẫn chưa có tên, cũng không thể cứ gọi cô nương này cô nương nọ như vậy. Đã đưa vào nhà ngươi rồi, vậy gọi là... Lưu Lương Nữ* đi. (*: con gái của Lưu Lương, cũng có nghĩa cô gái ngoan họ Lưu)

Chú thích:

(1) Ngày xưa vua đi tuần ở ngoài, đến chỗ nào nghỉ thì xếp xe vòng xung quanh làm hàng rào, để một chỗ ra vào, hai bên để xe dốc xuống càng xe ngỏng lên để làm dấu hiệu, nên gọi là viên môn. Về sau cũng gọi ngoài cửa các dinh các sở là viên môn, có khi cũng gọi các dinh các sở quan là viên nữa. Các nhà trạm khi các quan đi công cán qua nghỉ chân gọi là hành viên. Chương tám mươi bốn - Ngày hai mươi tám tháng tư

------------------------

Mồng bảy tháng tư, năm Hoằng Trị thứ mười tám, quan Đề đốc Vương Nhạc của mười hai đoàn doanh và Anh Quốc công Quách Huân tới kiểm tra Thần Cơ doanh, tra ra phó Tham tướng Tả Tiêu quân Bào Tận Thẩm của Thần Cơ doanh , quan Đô ty Lưu Sĩ Dung của đệ tam ty và các tướng tá lớn nhỏ, tổng cộng mười ba người tham ô lương bổng cùng lương thực của quân đội, đút vào túi riêng, còn có những chuyện phạm pháp khác đang điều tra. Hoàng đế tức giận, sai Cẩm Y Vệ bắt chúng vào kinh chờ xét xử.

Mồng tám tháng tư, Giám sát Ngự sử Vương Lương Thần của Giám Sát viện, Cấp sự trung Trần Đình của Binh khoa tố cáo Tham tướng Tả Tiêu quân Dương Lăng của Thần Cơ doanh đem đàn bà vào trong doanh, trọ lại trong quân. Vua hạ chiếu, Dương Lăng bị phạt hai mươi quân côn, giáng một phẩm nhưng vẫn giữ nguyên chức, phạt nửa năm bổng lộc.

Ngày sau, cho vời Dương Lăng vào cung, dùng lời lẽ nghiêm khắc để dạy dỗ và khiển trách, rồi lệnh cho Đề đốc Vương Nhạc chỉnh đốn quân kỷ, ban cho Dương Lăng Song Hổ phù, dẫn quân vào núi luyện tập võ nghệ.

Dưới sườn núi, những đội sĩ binh chia thành tổ tiến hành huấn luyện bắn khi di chuyển và bắn tại chỗ trong sơn cốc phía trước. Tiếng súng đì đùng, khói thuốc súng bốc lên mịt mù. Đến hôm nay, Dương Lăng đã dẫn đại quân vào núi huấn luyện khổ cực trên hai mươi ngày.

Binh lực của ba ty Tả Tiêu doanh có tổng cộng bốn ngàn năm trăm người, cộng với số thân binh và đội Đốc chiến trực thuộc Tham tướng, tổng cộng năm ngàn người. Trong đó bộ binh là ba ngàn sáu trăm người, một nhánh nhân thủ là bộ binh sử dụng súng hoả mai; pháo binh là bốn trăm người, được trang bị một trăm sáu mươi khẩu đại bác Đại Tướng Quân dã chiến, đồng thời mỗi người còn được cấp một khẩu súng tay phòng thân; năm trăm người khác được trang bị khá nhiều súng hoả mai.

Dương Lăng được vua ban lệnh tiễn, giao cho đặc quyền toàn quyền xử lý việc diễn binh tập võ, huấn luyện toàn quân dùng hỏa khí đạn dược. Lúc chỉ bảo huấn luyện nhóm binh sỹ này, y có cảm giác dường như mình đã vượt thời không quay về thời hiện đại. Ngoại trừ đội Đốc chiến thân binh của Dương Lăng là dùng khoái mã trường đao, có thể nói là toàn bộ quân đội hoàn toàn dùng súng ống.

“Đây là quân đội của triều nhà Đại Minh sao?” Nhất là khi đã từng thấy thời Mãn Thanh với những đại đao trường mâu hoàn toàn vô tác dụng, cảm giác kích động của Dương Lăng càng mãnh liệt hơn.

Dẫu rằng súng ống bây giờ tốc độ bắn chậm, tầm bắn gần, vẫn còn có khuyết điểm chí mạng nếu đơn độc chiến đấu với một đội kỵ binh lớn, nhưng nếu có thể bảo trì được cái thế này, tương lai không lâu sau khi thời đại hỏa khí phát triển mạnh, chúng ta sẽ không tụt hậu sau thế giới. Một quốc gia tiên tiến nhất, văn minh nhất, sẽ không trở thành chủng tộc ngu muội lạc hậu trong mắt người Tây phương, mặc cho người khi dễ chèn ép.

Cho dù có những khuyết điểm này, nhưng khi chiến đấu trong thành thị và rừng núi, loại súng này cũng vẫn phát huy uy lực vượt xa đại đao và trường mâu như thường. Nó căn bản không phải thứ mà thân thể bằng da, bằng thịt và võ nghệ cá nhân có thể chống lại được.

Khi ở Kê Minh dịch, Dương Lăng đã từng chứng kiến uy lực của pháo Đại Tướng Quân. Mặc dù thua xa vũ khí hiện đại, nhưng vì hệ thống phòng ngự lúc đó cũng rất bạc nhược, do đó sức tàn phá và lực sát thương của nó cũng không kém gì đại pháo bây giờ. Hơn nữa, với rất nhiều khẩu súng hoả mai, cũng đủ để tạo thành sát thương rất lớn trong nháy mắt khi hai quân giao phong.

Loại quân đội toàn bộ được trang bị hỏa khí này trước mắt tuy không phải là lợi khí tốt nhất để hành quân xa tác chiến, nhưng lại là trợ thủ đắc lực nhất để phòng thủ và dẹp loạn kinh sư. Dương Lăng biết, dựa vào quyền lực của y bây giờ và sự bố trí quân đội này, y cũng không cần phải lo lắng về những việc lâu dài. Việc bây giờ y muốn làm là trong thời gian ngắn nhất làm cho đội quân này trở thành quân tinh nhuệ nhất trong năm đại doanh của Thần Cơ doanh, thậm chí là lực lượng cường đại nhất trong số mười vạn đại quân của mười hai đoàn doanh ở kinh sư.

Muốn làm được điểm này quả cũng khá dễ dàng. Trải qua hơn mười ngày luyện tập đội ngũ chay, bây giờ bọn lính có thể chấp hành thuần thục phương pháp ba đội đối chiến và bắn theo ba hàng (*). Tốc độ và mật độ bắn cũng nhiều hơn gấp ba lần trước đây. Đến lúc này, sức chiến đấu của Tả Tiêu quân lập tức tăng lên rất nhiều. (*: trong những đoạn cuối chương 26 có giải thích về hai phương pháp này - ND)

Thế là, những tướng lĩnh trong quân vốn còn ôm thái độ nghi ngờ về năng lực của y nhất thời hoàn toàn bái phục. Đến cả ánh mắt của Bành mập và Liên mặt rỗ khi nhìn y cũng tràn ngập kính phục. Dương Lăng cho đến lúc này mới làm rõ chế độ thăng chức và thưởng phạt trong quân. Huấn luyện năng lực tác chiến độc lập của Đội, Tiếu, Hỏa, những binh sỹ có biểu hiện năng lực xuất sắc có thể được đặc cách đề bạt, và cách chức tại chỗ đám quan quân lười nhác vô năng. Vì thế, sĩ khí quân đội lập tức dâng cao. Binh lính vốn lười nhác đều thay da đổi thịt, như beo như cọp, tinh thần hừng hực.

Dương Lăng đứng trên sườn núi quan sát đám sĩ binh diễn luyện. Hơn mười ngày huấn luyện, khuôn mặt vốn trắng trẻo của y bị sạm lại, nhưng tinh thần và khí chất lại kiên nghị và quả quyết hơn vài phần. Dương Lăng gật đầu nhè nhẹ tỏ vẻ hài lòng. Sau khi y ra lệnh bỏ đi giáp trụ nặng khoảng bốn mươi cân, tốc độ tiến lên và năng lực ứng biến của đám binh sĩ rõ ràng đã được nâng cao lên rất nhiều.

Đám tướng lĩnh vốn rất bất mãn với việc bỏ mũ cởi giáp, nhưng khi thấy đám sĩ binh phản ứng nhanh gấp đôi so với lúc đầu, cũng không thể không thừa nhận năng lực tự vệ của bọn lính tuy nhìn hơi yếu bớt, nhưng lực sát thương quân địch và cơ hội tránh né thương tổn ngược lại thực đã tăng lên không ít.

- Con mẹ nó, ta cũng theo binh nghiệp nửa đời người rồi, nhưng không nghĩ tới có thể cho binh lính xếp thành ba hàng đứng, quì, nằm? Còn lập đội ba người, một tên nạp thuốc, một tên châm lửa, một tên phụ trách bắn? Ba người một khẩu hoả mai, bắn tới mưa gió cũng không lọt, so với kiểu bắn cứ như ong vỡ tổ trước kia mạnh hơn gấp trăm lần!

Bành Kế Tổ bội phục liếc nhìn Dương Lăng, nói với y:

- Đại nhân, nắng gắt rồi, vào lều nghỉ ngơi một chút đi.

Dương Lăng khẽ gật đầu. Hai người quay về chỗ tán cây mọc ở sườn núi. Liên Đắc Lộc xoa tay nói:

- Đại nhân, hai ngày qua nhìn đám thủ hạ luyện binh, ty chức cũng hơi dằn lòng không đặng. Người làm tướng phải làm gương cho binh sĩ, tại sao đại nhân không cho chúng ta xuống dưới chỉ huy sĩ binh luyện tập hành quân đánh nhau vậy?

Dương Lăng nâng chén uống một ngụm trà, nhìn đám tướng quân ngồi trong lều, cười hỏi:

- Ồ, vậy ngươi nói cho ta hay, người làm tướng phải làm sao mới làm gương cho binh sĩ được?

Liên Đắc Lộc đáp:

- Cái đó còn phải nói sao? Muốn tăng sĩ khí, khi đánh nhau ở chiến trường, thân là quan tướng phải xung phong lên phía trước. Tướng lĩnh của một đội quân, là linh hồn của toàn quân, tướng dũng binh tất dũng. Hắc hắc, không phải trước mặt đại nhân khoe khoang, chứ mạt tướng đánh trận rất dũng mãnh. Lúc dẹp loạn Miêu Cương, mạt tướng nhậm chức Bách hộ, tự mình dẫn ba trăm binh sĩ trong đêm đánh lên núi, liên tục đánh ba trại lớn, thừa dịp hỗn loạn còn giết được động chủ Miêu Cương vốn được bọn chúng xưng là Vạn Nhân Địch đó.

Dương Lăng gật đầu cười nói:

- Không tệ, quả nhiên dũng mãnh, đủ để làm chức Bách hộ.

Liên mặt rỗ nghe xong phấn khích cười ha hả, dương dương đắc ý liếc mắt nhìn các tướng khác. Lại nghe Dương Lăng nói:

- Nếu ngươi bây giờ vẫn có ý nghĩ như thế, cả đời ngươi cũng chỉ có thể làm Bách hộ, không có cơ hội lên chức.

Tiếng cười của Liên mặt rỗ bất chợt nghẹn lại. Bành Kế Tổ cười phì một tiếng, giảo quyệt liếc gã một cái, trong lòng thầm nghĩ:

- Ta biết ngay đại nhân nhất định có ý khác, nên không chõ vào, quả nhiên là đúng.

Liên mặt rỗ lẩm bẩm:

- Sao lại... Đại nhân cảm thấy mạt tướng dũng cảm xông lên là không đúng sao?

Dương Lăng nghiêm mặt nói:

- Đúng, có điều là đúng khi ngươi đang giữ chức Bách hộ. Tướng quân xung phong xông lên phía trước, quả có thể nâng cao sĩ khí toàn quân, khiến cho ai ai cũng dũng cảm giết giặc. Nhưng bây giờ ngươi đã là quan Đô ty, thủ hạ có một ngàn năm trăm quân binh. Ta hỏi ngươi, đao thương không có mắt, nếu ngươi xung phong lên phía trước, trong loạn quân bị địch nhân giết mất, thử hỏi một ngàn năm trăm huynh đệ của ngươi sẽ do ai chỉ huy? Khi rắn đã mất đầu, toàn quân có bị tiêu diệt không?

Liên mặt rỗ tuy thấy Dương Lăng hỏi có lý, nhưng người làm tướng chẳng lẽ vì vậy mà khi lâm trận lại sợ hãi sao? Trên mặt gã không khỏi hiện lên thần sắc không phục. Đám tướng cũng phần lớn lộ vẻ mặt kì lạ, chỉ có hai ba người xem ra có điều ngộ ra, có vẻ trầm tư.

Dương Lăng chỉ vào đám dũng sĩ dưới chân núi dưới sự chỉ huy của Bả tổng (Bả tổng còn được gọi là Bách tổng), Sáo trưởng, Thập trưởng lúc thì hợp, lúc lại tách ra, và nói:

- Đây là lí do ta không cho phép các vị xuống núi, mạnh tay để quan tá cấp dưới lĩnh binh độc lập.

Trước tới nay, trong mắt các ngươi, đám sĩ quan chỉ là một đám hò hét, phụ trách truyền đạt mệnh lệnh của các ngươi, chứ không có năng lực chỉ huy tác chiến độc lập, cũng không có can đảm chỉ huy tác chiến độc lập. Do đó, nhân vật từ Đại tướng trở lên cực kỳ trọng yếu trong quân đội, vì vậy mới có câu như “lâm trận không thể đổi tướng” hay “ba quân không thể mất soái”.

Ta lại nghĩ rằng, một tướng quân chỉ dựa vào danh vọng và dũng khí cá nhân để cổ vũ sĩ khí toàn quân, là tướng quân thất bại nhất. Ngươi xem, ở trên này, liếc qua là có thể thấy hành tung, tiến thoái của các đội ngũ ngay. Ngươi thân là tướng quân, bất cứ lúc nào cũng có thể biết quân mình đang ở đâu, chỗ nào chiến thắng, chỗ nào chiến bại; bất cứ lúc nào cũng có thể phát lệnh, điều khiển hoặc điều chỉnh, phân phối sức mạnh toàn quân.

Nếu ngươi tự mình xông lên phía trước, đừng nói thân là người trong cuộc ngươi không thấy được biến hóa của cuộc chiến giữa hai phe địch ta, mà ngay cả thủ hạ của ngươi muốn xin ngươi đứng ra chỉ huy cũng không tìm thấy ngươi đâu. Một khi ngươi chết trận sa trường, toàn quân sẽ chia năm xẻ bảy, cho dù đông gấp mười lần địch quân, cũng chỉ có thể mặc cho người ta xâu xé. Đấy là do binh sĩ vô năng, hay là lỗi của tướng lĩnh?

Liên mặt rỗ lập tức nghẹn lời. Dương Lăng lại nói:

- Người làm Đại tướng, ta không cần ngươi phải “thiên nhân trảm, vạn nhân địch” (chém ngàn người, địch nổi vạn người). Chỉ cần ngươi có thể đứng giữa chỉ huy, biết cách điều động, ngươi có bản lĩnh bồi dưỡng quan tá, tiểu hiệu dưới quyền của ngươi ai nấy đều trở thành ”thiên nhân trảm, vạn nhân địch” thì đó mới là cái tài của thượng tướng, đó mới là một đội quân bách chiến bách thắng.

Những đạo lý lẽ ra rất đơn giản này lọt vào tai đám tướng lĩnh vốn chưa từng ý thức được tác dụng của bọn tiểu tốt, thật sự đã trở thành thứ đạo lý mới mẻ vô cùng. Có mấy người từ lính trơn đi lên tướng quân lĩnh hội nhanh nhất, nghe xong không ngừng gật đầu lia lịa. Dương Lăng nhìn vẻ mặt hưng phấn tin phục của họ, không khỏi thầm tiếc: “Đáng tiếc mình không ở trong quân đội, nếu không viết quyển ‘Luận ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng cơ sở quân đội ‘, tương lai không chừng có thể truyền lại thành bản ‘Dương Tử binh pháp’ chứ chẳng chơi.”

Hắn uống ngụm trà, nheo mắt lại nhìn một mảnh rừng cây bên sườn núi đối diện. Nơi đó địa thế khá là thấp, cây cối trong rừng cũng không rậm rạp, nhưng nhìn hồi lâu lại chẳng thấy trong rừng có một bóng người nào, Dương Lăng không khỏi nở nụ cười hài lòng.

Dương Lăng điều ra ba trăm người trong đám thân quân và đội Đốc Chiến của mình, sai đám Dương Nhất Thanh, Hàn Lâm, Hàn Vũ dẫn những người này vào rừng huấn luyện. Trải qua hơn mười ngày huấn luyện khổ cực, xem ra đã có hiệu quả rồi.

Bản lĩnh lục soát, ám sát, và bố trí mai phục của Dương Nhất Thanh thuộc loại nhất lưu. Cha con nhà họ Hàn võ nghệ còn cao minh hơn Dương Nhất Thanh, hơn nữa quanh năm săn bắn trong núi, quả thực chính là cao thủ trời sinh để chiến đấu ở vùng núi cây cối. Bản lĩnh làm cơ quan mai phục, lần theo dấu vết quả là xuất thần nhập hóa. Có ba người bọn họ dạy, tin rằng không được bao lâu, có thể huấn luyện ra một đội tinh binh đặc chủng.

Dương Lăng đã yêu cầu Nam Trấn Phủ ty đặc biệt cung cấp một mớ quân giới chuyên dụng của Cẩm Y Vệ dùng để lùng bắt và ám sát. Hắn dụng tâm nhìn vào vùng núi, tiếp tục nói:

- Để quân sĩ luyện tập thêm hai ngày nữa, chờ bọn họ thuần thục thêm một chút, sẽ đến lượt các vị ra tay. Đến lúc đó, các vị lĩnh một đội, dùng đối phương làm quân địch giả, luyện tập hành quân bày trận như thế nào, điều binh khiển tướng ra làm sao, để bọn họ có kinh nghiệm chiến đấu thực tế nhiều hơn một chút.

Các vị tướng quân, muốn điều binh khiển tướng, chẳng những cần quen với binh tướng thủ hạ ngươi, còn phải hiểu rõ thực lực của quân địch và bản thân. Chiến đấu chính thức trên chiến trường không thấy được rõ ràng như chỗ này đâu. Do đó, tác dụng của trinh sát là không nhỏ chút nào.

Y nhớ tới trận đại hỗn chiến tại Hồ Lô Cốc ở Kê Minh Dịch, lần đó toàn quân suýt nữa bị tiêu diệt, không khỏi vô cùng cảm khái nói:

- Một trinh sát tốt, có khi có thể đáng giá cả thiên quân vạn mã, một tin tức của họ có thể quyết định thắng bại của một trận chiến. Trên đời, loại người liệu sự như thần, nhìn thấu tiên cơ như Gia Cát Lượng cũng chỉ có thể ngộ chứ không thể cầu được.

Quan thủ bị cười nói:

- Đại nhân nói rất đúng. Huống hồ, cho dù là Khổng Minh tiên sinh, cả đời cũng có lúc tính sai. Mấy người dốt nát như chúng ta lại càng kém hơn nhiều.

Các tướng nghe xong đều cười ha hả. Lúc này, một tên binh lính lao vào. Dương Lăng quay đầu nhìn, thấy đó là anh vợ Hàn Uy của mình. Y lập tức khẽ gật đầu với mấy vị tướng tá rồi đi theo Hàn Uy ra ngoài.

Hàn Uy sau khi đưa thê tử hồi kinh cũng gia nhập quân đội. Tuy nói thời này “trai tốt không đi lính”, nhưng dù sao so với việc săn bắn hoặc làm dịch tốt thì địa vị vẫn cao hơn. Huống hồ, quân lương của doanh trại kinh sư chẳng những là cao nhất trong quân đội Đại Minh, mà chủ soái quân đội còn là em rể của y.

Dương Lăng đi theo y đến dưới một tàng cây, rồi hỏi:

- Đại ca, huynh đã nghe ngóng được gì rồi?

Hàn Uy nói:

- Chuyện này rất ư kỳ quái. Chứng cứ mà muội phu tra được có ghi Bào Tận Thẩm bán trộm súng và hỏa dược, thậm chí bán cho nhà nào, bán bao nhiêu cân lượng cũng đều ghi rõ rành rành. Rõ ràng đã trình vào cung rồi, nhưng bây giờ Bào Tham tướng và Lưu Đô ty bị giam vào ngục cũng chỉ công khai tội danh là tham ô, bọn chúng vẫn sống yên lành.

Người Dương Lăng thoáng run lên, vừa ngạc nhiên vừa phẫn nộ, nói:

- Cái gì? Chúng vẫn còn sống sao? Rốt cuộc bọn chúng đã chạy chọt cửa nào mà đến cả tội danh này cũng có thể che đậy thế?

Hàn Uy lắc đầu, nói:

- Tấu chương của muội phu là trình cho Hoàng Thượng, nhưng Ngự sử của Giám Sát viện Thập Tam Đạo và Cấp sự trung của Lục khoa chẳng biết dùng phương pháp gì mà biết được nội dung. Thế là ngươi một quyển ta một quyển, mỗi ngày đều dâng sớ, Hoàng Thượng cũng không có phản ứng gì.

Dương Lăng trầm tư hồi lâu, rồi quả quyết nói:

- Không được, ta phải hồi kinh xem sao. Đường cô nương sống chết chưa rõ, ta không thể nhìn hung thủ nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật!

Hàn Uy giật mình nói:

- Lúc này mà về kinh, muội phu lại là chủ soái, tự tiện ly khai đại doanh nếu lại để người ta biết được, coi chừng sẽ bị hạch tội đó.

Dương Lăng nói:

- Không sao, hai ngày qua cũng sắp dùng hết đạn dược rồi. Hoàng Thượng ban cho đệ Song Hổ phù, muốn điều động đạn dược là có ngay, đệ tiện đường đi tới bộ Binh là được.

***

Đêm ngày hai mươi tám tháng tư, kinh sư chìm trong cơn mưa lớn.

Đây là cơn mưa lớn đầu tiên sau đợt hạn hán kéo dài, từ buổi trưa kéo đến tận lúc màn đêm phủ xuống. Mưa như trút nước. Trên đường mù mịt không một bóng người, những tảng đá lót đường được nước mưa rửa sạch bong, phản chiếu ánh sáng lờ mờ của những ngọn đèn lồng chập chờn dưới vài ba căn gác. Hai thớt thiết kỵ chạy nhanh như gió lốc, xuyên qua màn mưa vào kinh thành.

Hai kỵ sĩ trên lưng ngựa khoác áo tơi, khẽ cúi người né làn mưa như trút, con tuấn mã khoẻ mạnh xuyên qua làn mưa lướt trên đại lộ. Những gợn sóng nước do những chiếc vó ngựa to bằng cái bát bắn lên trong nháy mắt đã bị cơn mưa lớn xóa nhòa, rào rào chảy xuống, chẳng lưu lại chút dấu vết nào.

Đông An môn, Bắc Trấn Phủ ty, Thiên hộ Vu Vĩnh đang ngồi trên ghế uống trà, cười tủm tỉm nhìn chăm chú nước mưa xâu lại thành từng dòng trút xuống mái hiên, trông như một tấm rèm. Đầu năm nay gã đã mua được ba khoảnh ruộng tốt ở gần kinh thành. Năm nay mãi mà chưa có mưa to, còn tưởng rằng lúc này muốn thất thu rồi. Ông trời quả có mắt, nhìn trận mưa dầm dề này, mặt đất khô nứt nẻ được giải khát rồi.

Hắn đang cười tủm tỉm trầm ngâm tính toán, đột nhiên hai nam tử khoác áo tơi xuyên qua màn mưa vội vã xông vào đại sảnh. Nước mưa từ người hai người chảy xuống ròng ròng, thành một dòng suối nhỏ. Vu Vĩnh ngước mắt nhìn, thờ ơ hỏi:

- Chuyện gì mà gấp vậy? Trời mưa như trút nước mà cũng không được yên à?

Dương Lăng ngẩng đầu, nhìn thấy tên Thiên hộ mặc cẩm y cầu kỳ, chân bắt chéo chính là tên hậu duệ quí tộc tóc vàng người Đức mà mình gặp lần trước. Y vừa cởi áo tơi xuống vừa cười, nói:

- Hóa ra là Vu đại nhân. Ha ha, sao hôm nay lại là đại nhân trực thế?

Vu Vĩnh thấy người vừa cởi áo tơi xuống mặc một thân y phục của binh sĩ bình thường, khuôn mặt anh tuấn gầy gò, mấy lọn tóc còn dính nước mưa, khuôn mặt bị nước mưa làm ướt nhẹp, nhưng lại nhất thời không nhớ nổi y là ai, không khỏi nghi hoặc hỏi:

- Ngươi là người của bộ Binh à? Chuyện gì mà tự tiện xông vào Trấn Phủ ty nha môn của ta vậy?

Dương Lăng cười nói:

- Vu đại nhân đúng là quý nhân hay quên mà. Huynh đệ là Dương Lăng, đại nhân còn nhớ chứ?

Vu Vĩnh “a“ lên một tiếng, thoáng cái đã nhớ ra. Nhân vật một thời phong vân gần đây, gã sao mà không nhớ chứ. Vu Vĩnh cười bồi, nói:

- Nguyên lai là Dương đại nhân. Thất lễ, thất lễ. Sao... sao đại nhân lại mặc trang phục như thế này?

Dương Lăng cười khà khà nói:

- Mặc bộ y phục này hồi kinh tiện hơn. Phải rồi, Mưu đại nhân có ở đây không?

Y hỏi chính là Bắc Trấn Phủ ty Trấn Phủ sứ Mâu Bân. Vu Vĩnh là người quen biết luồn cúi, biết người mặc trang phục binh sĩ Cẩm Y Vệ ở trước mặt là tâm phúc của Trương Đề đốc, Mâu đại nhân và chưởng hình Thiên hộ Tiền đại nhân cũng phải kính lễ ba phần, vội hỏi:

- Không may, sáng sớm Mâu đại nhân đã dẫn theo Tiền đại nhân ra ngoài, đến giờ vẫn chưa trở về. Chẳng biết đại nhân có chuyện gì sai phái, có lẽ ty chức có thể cống hiến sức lực.

Dương Lăng nghe xong hơi thất vọng. Việc này hắn không tiện nói với Vu Vĩnh, đành phải thuận miệng nói:

- À, cũng không có gì. Bản quan hồi kinh xử lý công vụ, thuận đường đến thăm hai vị đại nhân.

Vu Vĩnh cười hì hì nói:

- Đại nhân đã có lòng. Bây giờ mưa còn chưa dứt, hay là đại nhân ngồi xuống uống chén trà nóng, không biết chừng trong chốc lát hai vị đại nhân sẽ... Ồ, thật khéo, đại nhân đã trở về rồi.

Dương Lăng quay đầu lại, chỉ thấy hai chiếc kiệu đang được khiêng vào sân, mãi đến tận hành lang mới dừng lại. Hai người mặc trang phục Phi Ngư (cá chuồn) từ trong kiệu vội vã chui ra, bước nhanh vào sảnh. Dương Lăng vội tiến lên phía trước hành lễ:

- Ty chức Dương Lăng, ra mắt đại nhân.

Trấn Phủ sứ Mâu Bân thần sắc nghiêm trọng, căng thẳng sải bước đi vào, trông thấy Dương Lăng thì không khỏi ngẩn người, ngạc nhiên hỏi:

- Ngươi sao lại hồi kinh? - Rồi không đợi y trả lời, lập tức bảo:

- Về đúng lúc lắm, mau theo ta vào phòng nói chuyện.

Dương Lăng thấy Tiền Ninh đi theo phía sau Mưu Bân cũng lộ thần sắc kinh hoàng, thậm chí quên cả chào hỏi y, không biết đã xảy ra chuyện lớn gì, tâm tình cũng vì vậy trở nên khẩn trương, liền vội khoát tay bảo Hàn Uy tạm thời nán lại, rồi đi theo Mâu Bân vào thẳng thư phòng.

Mâu Bân vừa vào thư phòng lập tức cầm lấy bút đặt trên án thư vội vàng viết vài hàng chữ, lấy ấn ra đóng lên, rồi đưa cho Tiền Ninh, nói:

- Nhanh, ngươi lập tức sai người dùng khoái mã chạy tới Thiên Tân vệ, mời Trương đại nhân lập tức hồi kinh!

Tiền Ninh dạ một tiếng, tiếp nhận tờ giấy rồi vội vàng chạy ra ngoài. Dương Lăng không khỏi vội kêu lên:

- Đại nhân, rốt cuộc xảy ra chuyện gì, sao vẻ mặt lại căng thẳng như vậy?

Mâu Bân bồn chồn, lo lắng nói:

- Dương Đồng tri, tình hình cụ thể một hồi nữa sẽ nói sau. Đêm nay ngươi cần phải chạy suốt đêm về quân doanh, e rằng ý chỉ sai ngươi phải dẫn quân về kinh sẽ đến ngay đó. Hoàng Thượng... Trong lúc tảo triều, Hoàng Thượng đã ngất ngay trên triều, đến giờ mới tỉnh. Ta luôn chờ ở trong cung, xem tình hình. Lần này Hoàng Thượng người... người sợ là không hay rồi.

Chương tám mươi lăm - Đưa quân vào cung

------------------------

Trong triều phòng*, ba vị lão thần Nội các, thượng thư sáu bộ và các đại thần túc trực đang lo lắng ngóng đợi tin tức từ Đông Noãn Các. Mưa lớn quật xuống đất ào ào như đang xát muối vào trái tim bọn họ. (*: phòng nghỉ cho quan lại trước khi thiết triều)

Đám lão thần này phần lớn tóc đã bạc trắng, ai nấy đều im lặng không nói gì, chỉ nhìn đăm đăm về phía cung Càn Thanh, mặt đầy vẻ lo âu, trong triều phòng chỉ còn tiếng mưa to gió lớn sấm vang chớp giật bên ngoài.

Đột nhiên một tiếng sấm vang nghiêng trời lệch đất, mấy vị đại nhân già cả không kịp đề phòng bị chấn động đến run rẩy cả người; lại một tia chớp nữa lóe lên rồi một bóng người chợt xuất hiện, cao giọng tuyên:

- Thánh Thượng có khẩu dụ!

Mấy vị lão thần nghe vậy cùng bật đứng lên, thượng thư bộ Lại Mã Văn Thăng kích động tới mức râu tóc run lên, hỏi dồn:

- Trương công công, Hoàng Thượng tỉnh rồi à? Hoàng Thượng sao rồi?

Đám người Lưu Kiện cũng rất kích động. Thân là người đứng đầu Nội các nên Lưu Kiện cố đè nén tâm tình, vái thái giám Ty lễ Trương công công rồi nói:

- Chúng thần tiếp chỉ .

Đám đại nhân lúc này mới tỉnh ngộ, cùng nhau vái theo. Trương công công cất giọng đọc:

- Hoàng Thượng khẩu dụ, thân thể trẫm không sao, các vị ái khanh chớ nên lo lắng. Các vị ái khanh là trụ cột của quốc gia nên không thể lao lực quá mức, phải quay về phủ nghỉ ngơi ngay, Ngự Mã Giám trong cung sẽ đánh xe đưa về. Ngày mai nghỉ chầu, mọi việc trong triều hết thảy sẽ do ba vị đại học sĩ quyết định.

Truyền ý chỉ xong, Trương công công xoay người định đi, Lưu Đại Hạ sốt ruột liền nhảy dựng lên ngăn Trương công công lại, nói:

- Trương công công, rốt cuộc long thể Thánh Thượng ra sao, thái y nói thế nào?

Lưu Đại Hạ là sủng thần của vua Hoằng Trị, Trương công công tuy là một trong bốn đại thủ lĩnh của Ty Lễ Giám nhưng cũng không dám đắc tội với ông ấy. Dù vậy, đây nào phải chuyện mà lão có thể nói tùy tiện, đành nói:

- Lưu Đại nhân, xin đừng làm khó ta, ông còn không biết những quy củ này sao?

Lưu Đại Hạ ngẩn người thất vọng, đành buông tay áo Trương công công ra, xem ra bệnh tình Hoàng Thượng không nhẹ, nếu không thì sao lại không gặp họ mà bảo về phủ nghỉ ngơi, lại phong tỏa tin tức nghiêm mật như thế?

Thấy Trương công công đã ra khỏi triều phòng, Mã Văn Thăng giậm mạnh chân, nói với hữu thị lang bộ Lại túc trực là Tiêu Phương:

- Lão Tiêu à, tối nay ông phải thường trực chờ tin tức từ Đông Noãn Các, nếu như Hoàng Thượng... Hoàng Thượng có việc gấp triệu kiến, ngàn vạn lần không thể để lỡ việc đâu đó.

Hoằng Trị đế thích dùng lão thần. Vị hữu thị lang bộ Lại Tiêu Phương này cũng là một ông già trên bảy mươi tuổi đầu tóc bạc phơ, có điều tinh thần quắc thước, thân thể rất cường tráng. Ông hiểu ý Mã thượng thư và cũng biết rõ tầm quan trọng của việc này. Nghe ông ta căn dặn xong, ông vội chắp tay đáp:

- Dạ, đại nhân cứ việc yên tâm, hạ quan sẽ luôn túc trực chờ đợi, không dám chậm trễ .

Mã Văn Thăng khẽ gật đầu, lúc này xa giá của Ngự Mã Giám đã đến trước cửa. Hoàng đế cho xe đưa về là ân sủng mà ngay cả những lão thần này trước kia cũng chưa từng có, song lúc này bọn họ nhìn thấy mà trong lòng lại chẳng vui sướng gì. Đội mưa lên xe, Lý Đông Dương đứng trên xe ngẩng đầu dõi mắt nhìn về phía cung Càn Thanh, chỉ thấy xa xa, những cung nữ, thái giám ra vào liên tục, không khí thập phần khẩn trương, ông không khỏi thở dài một tiếng.

Trương hoàng hậu, thái tử Chu Hậu Chiếu và hai công chúa Vĩnh Phúc, Vĩnh Thuần đều ở ngoài Đông Noãn Các, tuy chỉ cách một cánh cửa nhưng tình hình của người thân bọn họ, người quan trọng nhất trong lòng bọn họ như thế nào thì họ chỉ có thể thông qua thái giám và ngự y mới có được một chút tin tức, chưa được Hoằng Trị cho vào thì đến cả bọn họ cũng không được phép vào.

Trong Đông Noãn Các, Hoằng Trị đang dựa trên gối dựa, đờ đẫn nghe tiếng mưa trút rào rào bên tai không dứt. Ba người Vương Nhạc, Miêu Quỳ và Phạm Đình đang quỳ ở trước mặt, trán dán chặt trên nền đất, thở cũng không dám thở mạnh.

Năm ngoái Hoằng Trị đã gặp một cơn bệnh nặng phải dưỡng bệnh hơn một tháng mới khỏi. Còn lần này đột nhiên ngất xỉu ngay giữa triều đường, cứu trị suốt một ngày mới tỉnh. Ông tự biết thân thể của mình đã như đèn dầu sắp cạn, qua lần này thì đại hạn cũng không xa nữa.

Ông là người cực kỳ mê tín, sau cơn hạn lớn thì giờ đây ở kinh sư trời đột nhiên đổ mưa to và còn là ngay sau khi ông ngất đi không lâu cho nên ông đoán, đây là điềm báo rõ ràng nhất của ông trời dành cho ông: Trẫm là thiên tử, ông trời rơi lệ, mưa gió bão bùng, chẳng phải chính là muốn trẫm về chầu trời sao?

Ông thở dài một tiếng, trong lòng nghĩ đến đứa con luôn khiến ông không thể yên tâm. Thuở ông kế vị tuổi tác cũng không lớn hơn con ông là bao, thế nhưng bây giờ mặc dù đã mười lăm mười sáu rồi mà tính tình của đứa con ông vẫn láu táu khinh suất, lại không đủ thận trọng, quyết không phải là hình tượng quân vương hợp cách trong cảm thụ của các triều thần.

Đứa con này tinh lực dồi dào, thông minh hơn người, nhưng lại như một con ngựa hoang không chịu nổi chút câu thúc. Vốn tưởng rằng con mình lớn hơn chút nữa thì sẽ trở nên chín chắn, nhưng giờ đã đến lúc giao cả thiên hạ cho nó, nó... có thể làm được không?

Ông nhìn lướt qua ba nội quan tin yêu nhất đang run rẩy sợ hãi quỳ gối trước mặt. "Bọn họ đều trung thành với chính mình, tuyệt không dám gian dối, nhưng nếu đổi lại là thái tử tuổi còn nhỏ thì bọn họ còn trung thành được như vậy không? Hay sẽ dần dần cậy vào quyền cao chức trọng mà lấn ép chủ thượng? Trong tay bọn họ nắm ba đại doanh kinh sư tinh nhuệ nhất và tổ chức mật thám lớn nhất Đại Minh đấy."

Hoằng Trị không thể không lo lắng, Phiên Vương các nơi mặc dù sớm bị tước Tam Vệ nhưng vị tất không có dã tâm. Sổ sách tố giác Bào phó tham tướng tham ô mà Dương Lăng trình lên cho ông vài ngày trước càng làm cho ông cảm thấy phải cảnh giác. Trong triều cực kỳ hậu đãi các tướng lĩnh trong doanh trại kinh sư, một tên quan tam phẩm có thể vì chút lợi nhỏ nhoi mà cam lòng phạm vào quân pháp, vậy nếu Phiên Vương các nơi dùng châu báu mỹ nữ, chẳng lẽ không mua chuộc được ai sao?

Huống hồ việc chế tạo đạn dược và súng hỏa mai cho doanh trại kinh sư là chuyện cực kỳ cơ mật trong quân, tuyệt không phải thợ thuyền nào ở thời đại này cũng có thể tùy ý chế tạo ra được loại hỏa khí và đạn dược tinh xảo nhất. Những cường hào địa phương lấy danh nghĩa mua hỏa dược để diệt trừ giặc cướp, tự bảo vệ mình nhưng khi Cẩm Y Vệ tra ra thì tất cả đều là giả dối cả, rốt cuộc không rõ mớ đạn dược ấy đã đi đến nơi nào. Thật ra với số lượng vài hỏa khí như vậy thì không đáng lo, cái lo là lo có người tìm thợ thủ công để phỏng chế lại.

Súng hỏa mai tuy không địch lại kỵ binh phương bắc, nhưng ở phương nam nơi ruộng nước, cây cối, sơn dã thì lại là vũ khí cực tốt, và càng là sự lựa chọn tốt nhất cho những Vương gia bị tước đi Tam Vệ không thể công khai luyện binh để có thể nhanh chóng xây dựng một đội quân. Vậy kẻ mua hỏa khí có thể là ai đây? Là Sở vương, Ninh vương, hay Ngô vương? Những kẻ này đều không thể không đề phòng.

Hoằng Trị nghĩ tới xuất thần, hồi lâu mới thở dài, mệt mỏi nói:

- Soạn chỉ .

Thái giám chấp bút thuộc Ty Lễ Giám đứng chầu sau chiếc bàn dài làm bằng gỗ tử đàn vội đáp một tiếng rồi cầm cây bút lông sói lên. Chỉ nghe Hoằng Trị ho dồn dập một trận rồi mới nói:

- Ý chỉ thứ nhất, Ngụy quốc công Từ Phủ chưởng quản Thần Cơ doanh hai mươi năm song trị quân không nghiêm, quân kỷ bê bối, quan lại trong quân tham nhũng, bại hoại kỷ cương, nay cách chức quan doanh Thần Cơ doanh, hai phó tướng Thần Cơ doanh chờ hặc tội, tạm cử Anh quốc công Quách Huân chưởng lý quân vụ.

Ông ngừng một lát rồi nói tiếp:

- Ý chỉ thứ hai, bốn doanh Vũ tương, Đằng tương*, Tả vệ, Hữu vệ của Ngự Mã Giám điều ra ngoài hoàng cung, đóng giữ Cửu Thành. Tam Thiên doanh tuần tra canh gác kinh sư, Ngũ quân doanh, Thần Cơ doanh chia ra đồn trú hai bên kinh sư, điều Tả tiêu quân của Thần Cơ doanh vào đóng giữ trong cung. (*: ngựa ngẩng cao đầu phi nhanh gọi Đằng tương, ngựa ngẩng cao đầu phi nước kiệu gọi Vũ tương, ở đây chỉ tên riêng doanh trại kinh sư)

Miêu Quỳ cơ trí nghe xong liền rùng mình, thân thể càng quì thấp hơn nữa. Hoàng Thượng đột nhiên đổi nơi đóng quân, chắc chắn vì bốn doanh của Ngự Mã Giám đóng giữ cấm cung đã lâu nên đã có điều phòng bị, nhưng Hoàng Thượng lại hạ chỉ ngay trước mặt mình, hiển nhiên vẫn đang rất tín nhiệm mình, nhất thời Miêu Quỳ cảm thấy ngổn ngang trăm mối, cảm động nói không nên lời.

Hoằng Trị cảm thấy đầu óc choáng váng như thể muốn nôn, ông cố gắng gượng nói tiếp:

- Ý chỉ thứ ba, hiểu dụ cho Vệ Sở đóng quân các nơi, giữ nghiêm quan ải, toàn quân đề phòng, tất cả Phiên Vương không được tự mình ra khỏi đất phong, không được tiến kinh mà chưa có lệnh, bằng không sẽ xử theo tội mưu nghịch!

Mỗi khi ông truyền xong một ý chỉ thì tên thái giám chấp bút lại khấu đầu một cái, sau đó cầm bút lên vội vã chép lại. Hoằng Trị nghe thái giám chấp bút viết xong, đọc lướt lại một lần, ừm một tiếng rồi nói:

- Cứ như vậy đã, đi đóng dấu vào .

Nói rồi Hoằng Trị khoát tay bảo:

- Các ngươi đều lui xuống trước đi rồi gọi thái tử vào, trẫm muốn nói chuyện với nó một chút.

******************************

Dương Lăng bước vào triều phòng. Triều đường là một căn phòng rất dài, bên trong ánh sáng lờ mờ. Vì hoàng đế bệnh tình nguy kịch phải bãi bỏ họp triều, nên giờ triều phòng lạnh tanh, chỉ có một quan văn dáng vẻ lừ đừ đang nằm trên bàn quay lưng về phía y ngủ gà ngủ gật.

Dương Lăng cũng không kinh động người nọ mà đi đến một cái ghế ở góc tường ngồi xuống, dựa vào lưng ghế, chỉ cảm thấy lưng đau ê ẩm.

Ngày ấy sau khi ra khỏi Cẩm Y Vệ, Dương Lăng vốn định về thăm nhà trước một cái, nhưng khi ngựa đến phố Hộ Quốc Tự thì thấy trong viện đã tắt đèn, vì không muốn phiền nhiễu Ấu Nương nên y chạy trở vào núi suốt đêm. Cũng may là y không trì hoãn nên không lỡ ý chỉ của triều đình, y vừa vào soái trướng thì thánh chỉ đã tới ngay.

Dương Lăng lập tức dẫn đại quân về kinh, căn bản không hề được nghỉ một chút nào. Một chặng đường trở về này cực khổ và chậm hơn nhiều so với y cưỡi ngựa phi nước đại một mình. Năm ngàn quan binh đi đủ ba ngày hai đêm, đến hôm nay mới về tới kinh sư.

Dương Lăng phục thánh chỉ ở ngoài triều phòng, nhưng đợi mãi mà thái giám truyền chỉ vẫn chưa triệu y tiến kiến, y nghĩ bây giờ Hoàng Thượng đang có bệnh và xem ra chẳng biết khi nào thì mới có thể gặp mình, nên định trốn vào triều phòng nghỉ ngơi một lát trước. Y duỗi hai chân, thở phào một hơi rồi khép hai mắt bắt đầu lim dim ngủ.

Chẳng biết khi nào bỗng nghe một loạt những tiếng bước chân vang lên, Dương Lăng nửa mê nửa tỉnh mở mắt ra thấy có mấy người mình không quen biết đang đi đến. Có chừng năm sáu người đều là quan văn tam tứ phẩm, Dương Lăng thấy chẳng có ai quen nên lại nhắm mắt ngủ tiếp.

Mấy ngày qua ba vị đại học sĩ vẫn ở trong cung xử lý công vụ, các ty khi có việc cần quyết định sẽ trình vào cung. Mấy quan văn đó vừa mới trình công văn lên cho các đại học sĩ, vì trong đó có vài thứ cần chờ ý kiến phúc đáp cho nên bọn họ tạm tới triều phòng đợi.

Cặp mắt của các vị đại nhân này đều hơi kém cho nên không ai thấy ở trong góc tường mờ tối đó còn có một võ quan đang ngồi, bèn ngồi xuống băng ghế dài bàn tán công việc. Tả thị lang bộ Lại Vương Ngao lo lắng lên tiếng:

- Hoàng Thượng long thể bất an, mọi người cũng vì chuyện này mà chấn động. Đã mấy ngày rồi mà vẫn không thấy long thể tốt lên, trong khi đang có rất nhiều việc ba vị đại học sĩ lại không thể tự quyết, vậy biết phải làm sao bây giờ?

Chiêm sự Dương Phương an ủi nói:

- Vương Đại nhân chớ sốt ruột, nghe nói Hoàng Thượng đã hạ chỉ cho vời Đông cung cùng Tam công thảo luận chính sự. Thái tử là người kế vị, lúc này đây đã có thể thay bệ hạ làm chủ một số việc rồi.

Vương Ngao thở dài nói:

- Thái tử tuổi nhỏ, hãy còn chưa thấu hiểu nỗi khổi của dân gian, nếu chậm trễ một chút mới phê duyệt thì chẳng biết sẽ có bao nhiêu nạn dân gặp họa nữa .

Vị quan trực ban nghe tiếng đã tỉnh dậy, xoay người nhìn thì thấy đó là Vương Ngao, không khỏi cười nói:

- Nguyên lai là Tế Chi*, thảo nào nghe tiếng thấy quen tai . (*: Tên tự của Vương Ngao)

Vương Ngao lúc này mới thấy rõ vị quan trực ban ngủ gật trên bàn đó là Hữu thị lang Tiêu Phương, bèn vội chắp tay chào hỏi:

- Nguyên lai Tiêu đại nhân đang trực ban, long thể Hoàng Thượng thế nào rồi?

Tiêu Phương lắc đầu thở dài, vừa mở mồm định nói, chợt một thái giám già ôm một chồng sớ đi vào. Vị thái giám này chính là Lưu Cẩn - thái giám Chung Cổ ty hầu hạ Đông cung. Thái tử được lệnh thay cha phụ trách thảo luận chính sự cùng Tam công liền dẫn theo hết mấy thái giám đắc lực bên người. Đương nhiên công việc của bọn họ bất quá cũng chỉ là đưa tấu chương để ký duyệt, truyền gọi quan viên cần hỏi xin ý kiến chứ không phải là việc to tát gì.

Nhưng Lưu Cẩn vốn chỉ ở Chung Cổ Ty đánh chuông Cảnh Dương, gióng trống Ty Thần, là một thái giám vô danh, thế mà giờ đây trong tay lão lại cầm lệnh dụ của triều đình, truyền gọi đều là các đại thần trong triều, tuy chỉ làm một chân tiểu nhị sai vặt, nhưng vì những người mà lão tiếp xúc đều là những nhân vật nhất đẳng cho nên không khỏi cảm thấy đắc ý rằng ‘trời đã sinh ra ta, tất sẽ có chỗ dùng’.

Đặc biệt lúc này đây Hoàng Thượng bệnh tình nguy kịch, Đông cung đăng cơ đã là chuyện sớm muộn, Lưu Cẩn lại là người được thái tử tín nhiệm, tiền đồ tương lai của lão tất sáng sủa vô cùng. Vừa nghĩ đến đây, lòng nhiệt tình trong công việc của Lưu Cẩn nhất thời tăng vọt, chạy tới chạy lui giữa điện Cẩn Thân, điện Văn Hoa nơi ba vị đại học sĩ xử lý công vụ và triều phòng suốt ngày mà lão cũng không cảm thấy khổ cực.

Lúc này lão ôm tới chính là tấu chương của hai quan viên bộ Công và bộ Hình. Hai người kiểm nhận xong rồi mở lời cảm tạ. Lưu Cẩn cười hì hì nhận lấy như thể lão chính là người ra phê duyệt, vẻ mặt rất đỗi vinh quang.

Vương Ngao hỏi:

- Công công, Tín Dương bị lũ lụt, tấu chương xin viện trợ vẫn chưa được phê chuẩn à?

Lưu Cẩn đáp:

- Ta chỉ nhận được tấu chương của bộ Công và bộ Hình, có lẽ là ba vị đại học sĩ vẫn chưa duyệt tới tấu chương đó.

Vương Ngao giậm chân nói:

- Ta đang sốt hết cả ruột mà sao vẫn chưa phê chuẩn chứ. Tín Dương ngập lụt, dân chúng không có áo cơm thì triều đình nên lập tức miễn thuế, cứu trợ thiên tai mới phải. Nếu chậm trễ khiến dân nổi loạn thì biết phải làm sao?

Lưu Cẩn nhớ tới lần mình nghe vài đại thái giám trong cung thảo luận về những báo cáo láo về thiên tai hàng năm để thoái thác việc nộp thuế, không khỏi cười huênh hoang nói:

- Đại nhân chớ sốt ruột. Bây giờ vừa mới vào tháng năm, làm gì mà có công văn cứu trợ sớm như vậy? Có khi là được mùa mà báo sằng là mất đó, nói không chừng những quan lại địa phương câu kết với triều thần quê ở Tín Dương trong triều để lấy lòng với địa phương nhằm tranh thủ kiếm chác thanh danh cho mình. Đại nhân phải tra xét cho kỹ lại mới được .

Vừa khéo Thị lang Vương Ngao chính là người Tín Dương, nghe Lưu Cẩn nói như thế lão làm sao có thể nhẫn nhịn, nhất thời lão giận tím mặt, vỗ bàn bộp một cái, đoạn mắng:

- Công công chớ ngậm máu phun người, lũ ở vùng Tín Dương sớm đã bẩm báo, chẳng lẽ chuyện thiên tai này còn giả được sao? Đại sự trong triều, ngươi biết cái gì? Đừng ăn nói bừa bãi!

Lưu Cẩn bị lão ta mắng cho đỏ bừng mặt đã hơi nổi cáu, không khỏi vừa thẹn vừa giận cười nhạt nói:

- Ta nói cũng chỉ là nói đến mấy thủ đoạn mà đám tham quan vô lại hay sử dụng, phải thì phải, không phải thì thôi. Đại nhân không cấu kết với kẻ gian làm việc xấu hà tất giận dữ như vậy, làm người ngoài nhìn vào còn bảo là đại nhân chột dạ nữa đó .

Chiêm sự Dương Phương bên cạnh cũng là tài tử xuất thân từ Tín Dương, nghe vậy lập tức cười khẩy nói:

- Nếu làm bậy thì phải đưa ra chứng cứ xác đáng, lẽ nào chỉ dựa vào ba tấc lưỡi bẩn thỉu của ngươi mà có thể vu tội được à?

Lưu Cẩn nổi giận:

- Hừ! Ta chỉ có lòng tốt nhắc nhở các ngươi đừng bị đám quan lại địa phương lừa bịp. Các ngươi ai nấy cũng đều già gần xuống lỗ rồi, lại lớn hơn ta không biết bao nhiêu tuổi sao đều như một đám con nít lỗ mãng thế, ta đã trêu chọc gì ngươi sao?

Nhất thời lão quên mất tôn ti cao thấp, lại tức giận nói:

- Nếu sai ta đi tìm chứng cứ vậy triều đình còn cần mấy người các ngươi làm gì? Ta chỉ nói có lẽ là quan chức cấu kết chứ có nói là nhất định đâu, nếu ngươi không chột dạ thì sao lại cuống lên như bị đạp nhầm đuôi thế? Ngươi nghĩ mình là cái thá gì?

Ông già Dương Phương cả giận, đứng lên mắng to:

- Ta đường đường là quan tam phẩm của triều đình, cái tên hoạn đến cả sách thánh nhân cũng chưa đọc như ngươi là cái thá gì mà cũng dám nói chuyện với chúng ta ở triều phòng chứ hả?

Lưu Cẩn bị người ta chửi thẳng vào mặt là ”tên hoạn”, chính là phạm vào chỗ cấm kỵ trong lòng lão nên nhất thời mặt đỏ bừng, rồi lão cũng bất chấp lợi hại tiến lên vung tay, tát thẳng vào mặt ông già họ Dương. Dương Phương rú lên một tiếng, thoắt người xông lên vung tay tát lại Lưu Cẩn, trên mặt Lưu Cẩn lập tức in dấu năm ngón tay. Một thư sinh già, một thái giám già gào rú xông vào đánh nhau túi bụi.

Đám hảo hữu Vương Ngao thấy hoạn quan dám ở trong triều phòng ẩu đả với mệnh quan triều đình liền lập tức xông tới đánh hôi, cũng có mấy người không quen với Dương Phương nhưng lại là quan văn nên không khỏi cùng chung mối thù bèn tiến đến giả vờ khuyên bảo, kỳ thật hai tay lại giữ chặt lấy tay Lưu Cẩn. Dương Phương được thể đánh tới làm Lưu Cẩn lại chịu thêm vài quả đấm.

Dương Lăng ngồi ở chỗ tối sớm đã bị cuộc tranh cãi của bọn họ làm bừng tỉnh. Y cũng thấy rõ tình hình tranh cãi, tuy rằng Lưu Cẩn trong lịch sử là một đại ác nhân không thể xấu hơn được nữa nhưng hôm nay trong việc này lão vốn cũng không nói gì quá đáng. Tín Dương có thể xảy ra lũ lụt thật, nhưng việc báo cáo láo mất mùa, lấy lòng địa phương để làm vốn mưu cầu thăng quan cho mình cũng không phải là không có. Nếu nói không đúng thì không để ý tới lão ta là được rồi, hà tất phải giận dữ như thế.

Vì chút chuyện nhỏ này mà bao nhiêu lão già hiếu chiến lại bu vào đấm đá như vậy, kể ra cũng thật rảnh quá đi. Dương Lăng vừa bực mình vừa buồn cười, xông lên kéo Lưu Cẩn ra khỏi đám người.

Các vị đại nhân nhìn thấy một võ quan xông ra cứu người, không khỏi cả giận nói:

- Ngươi là ai? Tên hoạn này dụng tâm hiểm ác, ăn nói bừa bãi, phỉ báng đại thần triều đình, ngươi lại dám nhúng tay vào cứu hắn à?

Dương Lăng nghe xong hơi giận, y nhíu mày nói:

- Các vị đại nhân, việc nhỏ như vậy không cần phải chụp mũ đến thế chứ? Chuyện hôm nay chẳng qua là bởi một câu vô tâm của Lưu công công mà thôi, mọi người lui một bước nhường nhịn nhau là xong, cớ chi hùng hổ dọa người thế?

Lưu Cẩn được kéo ra, tóc tai bù xù, lúc này mới nhìn rõ người cứu lão là Dương Lăng, thế là liền như thấy thân nhân, nức nở nói:

- Dương đại nhân, đại nhân nhìn xem, đại nhân nhìn xem, làm như vậy là sao? Ta có nói gì sai đâu, bọn họ thật khinh người quá đi.

Trong lúc bên này đang ồn ào, một tên tiểu thái giám tới cửa kêu to:

- Vị nào là Dương Lăng Dương đại nhân, Hoàng Thượng triệu kiến!

Nói xong nhìn vào triều phòng, trông thấy tình cảnh này tên tiểu thái giám cũng chết lặng.

Bọn người Dương Phương nghe tên Dương Lăng đã lâu nhưng lại không nhận ra y. Lúc này vừa nghe người này chính là Dương Lăng cho nên không khỏi giật mình lui lại. Dương Lăng nhân cơ hội này kéo Lưu Cẩn với vết bàn tay đỏ lựng in trên khuôn mặt ra khỏi triều phòng, an ủi lão một chút, Lưu Cẩn mới khóc thút thít cáo từ đi tìm Chu Hậu Chiếu để tố cáo.

Dương Lăng đi theo tên tiểu thái giám vào cổng Càn Thanh tới thẳng hậu cung. Vừa mới đi qua một khúc quanh ở cổng Nguyệt Lượng, một thiếu nữ đang dẫn theo đám thị nữ vội vàng từ phía sau cửa chạy tới. Hai bên không kịp tránh nên thiếu nữ đó lỡ đà lao vào lòng y.

Dương Lăng vội vàng đỡ lấy nàng. Thiếu nữ đó úi lên một tiếng, mặt đỏ bừng nhảy ra khỏi lòng Dương Lăng, xoa nhẹ cái mũi đau của mình, khi mắt vừa chạm với ánh mắt của nam nhân trước mắt thì thiếu nữ dung mạo xinh đẹp tuyệt trần đó đột nhiên sửng sốt.

Nàng mở to hai mắt nhìn nhìn Dương Lăng, đột nhiên mừng rỡ lao tới, nắm lấy cánh tay y kêu lên đầy hưng phấn:

- Hóa ra là Dương tướng quân! Nhanh, nhanh, nhanh theo ta đi cứu người. Hoàng huynh đang đuổi giết quốc cữu gia đó!

Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 关 (Nguyệt Quan)

Quyển 3 – Vừa lên ngôi báu

Chương 86 - Hoằng Trị băng hà

Dịch: workman

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Dương Lăng khiếp đảm bừng tỉnh, hấp tấp quỳ phục xuống đất, rốt cục y đã hiểu chuyện gì vừa xảy ra: “Hoàng đế... băng hà rồi!”

------------------------

Chương tám mươi sáu: Hoằng Trị băng hà

------------------------

Chương tám mươi sáu Hoằng Trị băng hà.

Dương Lăng nhận ra thiếu nữ đó chính là công chúa Vĩnh Phúc. Vừa nghe Thái tử đang đuổi giết quốc cữu, y cũng không kịp thi lễ với công chúa, vội vàng hỏi ngay:

- Thái tử ở đâu? Xin điện hạ mau dẫn thần đi.

Công chúa Vĩnh Phúc dẫn Dương Lăng vội vàng đi vòng qua cái giá bằng gỗ tử đằng ra ngoài. Tên tiểu thái giám truyền chỉ thấy Dương Lăng lại bỏ chạy đi, không khỏi choáng váng: “Sao vị đại nhân này khoái kháng chỉ vậy ta?” Nhưng công chúa điện hạ dẫn y ly khai rồi, nhất thời hắn cũng không biết phải làm gì, đành cũng chạy theo.

Xuyên qua một hành lang, Dương Lăng thấy trên mười thái giám lẫn cung nữ đang đứng với vẻ mặt kinh hoàng. Khuôn mặt tuấn tú của Chu Hậu Chiếu đỏ bừng bừng, tay hắn cầm một thanh kiếm sắc bén đứng trước một hòn giả sơn. Bên kia hòn giả sơn là một gã đàn ông trên ba mươi tuổi đang theo dõi hành vi của Chu Hậu Chiếu qua khe hở của cái núi đá. Chu Hậu Chiếu vừa đuổi theo là gã liền chạy vòng quanh ngọn ‘núi’ đó, cực kỳ buồn cười.

Công chúa Vĩnh Phúc vội la lên:

- Dương tướng quân mau ngăn Hoàng huynh lại. Thọ Ninh Hầu vừa tới thăm phụ hoàng, Hoàng huynh liền đoạt lấy bảo kiếm của thị vệ đuổi một mạch tới tận đây.

Nghe xong, Dương Lăng sốt ruột bước lên phía trước gọi:

- Thái tử điện hạ! Không nên kích động.

Chu Hậu Chiếu quay người, quát:

- Ai dám lắm chuyện, ta giết luôn...

Hắn liếc mắt nhìn thấy Dương Lăng, bất giác giật mình, thần sắc lập tức dịu lại, vui vẻ nói:

- Dương Thị Độc! Ngươi tới đúng lúc lắm, mau giúp ta bắt tên loạn thần tặc tử này!

Thọ Ninh Hầu đứng ở phía đối diện, nghe nói y là Dương Thị Độc cũng không khỏi mừng rỡ, đây là người mà Hoàng hậu nương nương từng cứu, dù sao y cũng nên trả ân tình cho ta chứ. Gã vội vàng hô to:

- Vi thần oan uổng! Dương Thị Độc cứu ta, ta là Thọ Ninh Hầu Trương Hạc Linh.

Chu Hậu Chiếu phì một tiếng, mắng:

- Tên tặc tử, dù ai cũng không thể nào cứu được ngươi. Ngoan ngoãn để ta trảm một kiếm là xong, nếu không bản thái tử sẽ giết cả nhà ngươi!

Dương Lăng khẽ kéo áo Chu Hậu Chiếu, nghi hoặc hỏi:

- Thái tử! Đường đường một Hầu gia mà bị người cầm kiếm đuổi theo, việc này mà lan truyền ra ngoài, e rằng đám triều thần sẽ không cam tâm đâu. Rốt cuộc Thọ Ninh Hầu đã phạm phải chuyện gì?

Chu Hậu Chiếu oán hận đáp:

- Dương Thị Độc! Mới vừa rồi ta lo cho an nguy của phụ hoàng, chạy tới thăm ngài. Tên súc sinh này vẫn không thèm để tâm tới phụ hoàng, đúng là gian tặc gan lớn! Phụ hoàng ta đang mê man trên giường, hắn dám đứng ở góc điện cười đùa láo lếu với Trương Duyên Linh. Như vậy cũng thôi đi, nhưng trong lúc nói cười hắn lại dám cầm vương miện tự đội lên đầu. Hắn dám làm việc đại nghịch bất đạo như vậy, ngươi nói xem ta có nên giết không?

Dương Lăng cũng giật bắn cả người. Tuy nói chỉ là đội cái mũ lên đầu, nhưng trong thời đại hoàng quyền là tối cao, vương miện chính là một biểu tượng. Chỉ bằng việc này, nếu gán cho Thọ Ninh Hầu cái tội mưu nghịch thì cũng không quá đáng.

Dương Lăng liếc nhìn Thọ Ninh Hầu, thấy gã sắc mặt tái nhợt, hai tay vẫn còn run rẩy, liền nói với Thái tử:

- Điện hạ! Nếu luận tội thì hắn quả là đáng chết, nhưng cũng nên xử phạt theo pháp luật của triều đình mới đúng. Nếu người ở ngay trong cung mà đuổi giết một vị Hầu gia như vậy, người ngoài không biết tất nhiên sẽ đồn đại linh tinh. Huống hồ bệ hạ vẫn bênh vực Hầu gia, nếu vì vậy mà ảnh hưởng tới bệnh tình bệ hạ, thì điện hạ phải tính sao? Hiện tại nên lấy bệnh của Hoàng Thượng làm trọng chứ!

Nghe y đề cập tới hoàng đế, Chu Hậu Chiếu đột nhiên tỉnh ngộ, nói:

- Đúng rồi! Hắn thấy ta thì lập tức bỏ chạy rồi, không biết chừng việc ta đuổi theo hắn đã làm phụ hoàng kinh động. Mau mau, về thăm phụ hoàng, để phụ hoàng khỏi phải lo lắng!

Chu Hậu Chiếu nói gió là gió, nói mưa là mưa. Hắn bỏ qua Thọ Ninh Hầu đang sợ tới mức gần chết, một tay cầm bảo kiếm, một tay kéo Dương Lăng, vội vàng chạy về Càn Thanh cung.

Thọ Ninh Hầu chẳng biết Thái tử và Dương Lăng nhỏ to cái gì, thấy Dương Lăng chỉ nói vài lời linh tinh mà đã khuyên Thái tử bỏ đi, xem ra mình vốn là cậu của Thái tử mà lại không được hắn coi trọng bằng ngoại nhân. Gã ngẫm nghĩ một lát rồi phất tay áo, lao về phía Khôn Ninh cung.

********

Lúc này Thái tử làm giám quốc, không cần phải thông báo mới được yết kiến. Dương Lăng bị hắn kéo một mạch, vội vội vàng vàng xông bừa vào Đông Noãn Các. Hoàng đế Hoằng Trị đang dựa vào gối nhìn ra cửa. Dương Lăng không dám nhìn nhiều, vội vàng quỳ xuống đất, cao giọng bẩm:

- Thần Dương Lăng khấu kiến Hoàng Thượng!

Hoằng Trị vừa tỉnh lại, đúng lúc thấy Thọ Ninh Hầu và Thái tử vội vội vàng vàng ly khai. Lúc này thấy Dương Lăng yết kiến, ông cũng không vội hỏi chuyện Thái tử, mà nhìn nhìn đánh giá Dương Lăng vài lần, rồi mỉm cười nói:

- Bình thân! Dương khanh chỉ tham gia quân đội một thời gian ngắn thôi nhưng lại đã có khí phách oai hùng rồi, trẫm rất vui.

Dương Lăng khom người đáp:

- Tạ ơn bệ hạ khích lệ, thần phụng chỉ luyện binh, không dám lười biếng, chỉ là mãi đến hôm nay vẫn chưa có công trạng gì, phụ lòng thánh thượng kỳ vọng, thần thật sự xấu hổ.

Hoằng Trị cười khà khà nói:

- Dương khanh bất tất quá khiêm tốn, phương pháp luyện binh của ngươi rất hiệu quả. Chỉ trong một thời gian ngắn ngủn mà đã có hiệu quả như vậy, trẫm rất lấy làm hài lòng. Ngươi đã đến đây thì tốt rồi, Miêu Quỳ, đưa Dương khanh tiếp nhận Cấm cung đi.

Dương Lăng hơi bất ngờ. Y vốn tưởng rằng Hoằng Trị nhất định còn phải kiểm tra y một hồi, do đó trên đường đã chuẩn bị tâm lý, không ngờ hoàng đế Hoằng Trị chẳng hỏi han gì đã cho y đi luôn. Dương Lăng thấy Miêu Quỳ tới cửa rồi, liền thi lễ cáo lui, theo Miêu Quỳ đi tới Cấm cung.

Chu Hậu Chiếu đứng bên cạnh giường Hoằng Trị kỳ lạ hỏi:

- Phụ hoàng! Người nói phải đối xử với bề tôi thật tốt, còn nói Dương Thị Độc có thể làm cánh tay đắc lực của con, vì sao chỉ nói vài lời linh tinh rồi đuổi y ra ngoài?

Hoằng Trị vỗ vỗ cái sạp, ra ý bảo con ngồi xuống, rồi nói với hắn:

- Hoàng nhi! Thưởng phạt phải chừng mực thôi, thưởng quá thì họ không biết ân, trừng trị nhiều quá thì chẳng biết sợ. Dương Lăng thăng chức nhanh chóng, đã khiến trăm quan phải tròn mắt; nếu ân sủng y nhiều quá thì cũng không phải là chuyện tốt đâu.

Ông cầm tay con trai, cười khà khà nói:

- Y là cựu thần Đông cung, bây giờ là thị vệ hoàng cung, sau khi hoàng nhi đăng cơ, lại có công theo phù tá, chẳng lẽ trẫm còn phải phong y làm bầy tôi được uỷ thác giúp tân vương sao? Ha ha, y là bầy tôi của con, phần ân huệ này cứ do con ban cho y đi.

Chu Hậu Chiếu nghe phụ hoàng nói thế, không khỏi lo sợ nói:

- Phụ hoàng! Làm gì phải nói những lời ấy, thân thể của cha...

Hoằng Trị thấy hắn đau lòng, vội ngắt lời:

- Hoàng nhi! Vừa rồi trẫm tỉnh lại, thấy con vội vội vàng vàng đuổi theo quốc cữu, có chuyện gì thế?

Chu Hậu Chiếu vừa nghe thế, mặt giận tới đỏ bừng, oán hận đem việc vừa xảy ra thuật lại. Hoằng Trị nghe xong không khỏi phì cười, ông khẽ lắc đầu, nói:

- Một việc nhỏ, hoàng nhi hà tất phải để ý! Thọ Ninh Hầu nói năng tuỳ tiện như thế, có thể là người làm được đại sự sao? Họa lớn, chà, không phải ở trong triều đâu.

********

Nghe Trương Duyên Linh chạy tới báo tin, Trương hoàng hậu vội dẫn đám cung nữ lật đật chạy đi cứu người, nhưng lại thấy Trương Hạc Linh mất hết hồn vía chạy về cung, lúc này mới yên lòng. Bà về ngồi lại trên chiếc đôn gấm, bảo các cung nữ:

- Tất cả lui ra!

Trương hoàng hậu đã trên ba mươi tuổi, nhưng vốn là một mỹ nhân mặt đẹp như hoa, hơn nữa lại chăm sóc nhan sắc rất chu đáo nên tuy đã sinh hạ vài người con nhưng nhìn vẫn như hai mươi, thần thái đoan trang, dung mạo kiều mỵ. Nếu bà đứng cạnh công chúa Vĩnh Phúc thì giống như một cặp chị em.

Hoàng hậu có tình vợ chồng với Hoằng Trị gần hai mươi năm, phu thê tình thâm. Thấy Hoàng Thượng không còn sống bao lâu nữa, mấy ngày nay trong lòng bà cũng bi thương vạn phần. Bây giờ hai người anh không biết điều còn gây thêm chuyện, trong lòng bà cũng hơi giận.

Kỳ thật việc này nếu xảy ra ở nhà một người bình thường thì cũng không phải là việc lớn, chẳng phải chỉ là việc anh trai đội mũ của em vợ sao? Nhưng đối phương là Hoàng Thượng, việc này phải xem ngươi giải thích như thế nào đây.

Hai người bọn họ vốn được muội muội chỉ điểm, nên tới thăm bệnh tình hoàng đế Hoằng Trị nhằm biểu hiện mình là bầy tôi trung thành. Nhưng tinh thần Hoằng Trị rất tệ, cùng bọn họ trò chuyện một hồi liền ngủ gật. Hai người không dám gọi hoàng đế tỉnh lại, nhưng nếu chẳng nói một tiếng mà đã lui ra thì không hay, nên đành đứng ở góc cung chờ đợi, nói chuyện phiếm với nhau .

Trương Duyên Linh tới nơi thấy bệnh tình Hoằng Trị ngày càng nghiêm trọng, lo lắng sau khi ông ta băng hà, quyền thế của Trương gia sẽ bị ảnh hưởng. Trương Hạc Linh lại không thèm để ý. Hắn cho rằng cho dù hoàng đế băng hà, tân hoàng đế vẫn là cháu trai của mình. Cháu trai là hoàng đế, muội muội là Hoàng thái hậu, vậy thì có gì phải lo lắng?

Hắn cười nói với Trương Duyên Linh:

- Nhị đệ bất tất lo lắng. Nếu như Hoàng Thượng băng hà, quyền lực của anh em ta chỉ sợ sẽ lớn hơn nữa cơ. Vua nào triều thần nấy. Tân đế đăng cơ đều phải phong tước rộng rãi cho quần thần, đến lúc đó để muội muội lấy danh nghĩa Thái hậu ban cho chúng ta một chức. Không phải Thần Cơ doanh vẫn còn chưa có quan chưởng quản chính thức sao? Chúng ta sẽ đi chưởng quản Thần Cơ doanh, ta làm doanh quan, ngươi làm phó tướng, vậy là có vài vạn hùng binh trong tay ấy chứ! Hơn nữa Thần Cơ doanh luôn luôn do vương công nắm giữ, ta từ Thọ Ninh bá thăng lên thành Thọ Ninh hầu đã vài năm rồi, chẳng phải lúc đó sẽ lên chức Thọ Ninh công sao?

Trương Hạc Linh nói với vẻ hí hửng. Nhìn thấy y phục của Hoằng Trị đặt trên án, hắn thuận tay lấy vương miện đội lên đầu, cười hì hì nói:

- Đến lúc đó, trước mắt thiên hạ, ngoại trừ hoàng đế thì còn lại là ngươi và ta. Lời nói của anh em chúng ta khác gì với lời của hoàng đế chứ?

Thật khéo làm sao, đúng lúc đó thái tử Chu Hậu Chiếu vừa tới Đông Noãn Các. Thái tử thấy hai vị quốc cữu đứng ở góc điện cười nói, trong lòng đã cảm thấy không vui, lại thấy hắn đội đế miện của cha mình, lập tức nổi giận. Thái tử thấy hắn mặt mày xám xịt chạy khỏi đại điện liền lập tức rút ngay bảo kiếm của tên thị vệ đuổi theo.

Trương hoàng hậu thấy ca ca không việc gì, không khỏi oán hận bảo:

- Hai vị ca ca thật không biết cao thấp. Các người nói năng tuỳ tiện không đâu vào đâu cả, tại sao dám đội vương miện chứ? Nếu bệ hạ phát hiện nổi giận, đến cả muội cũng không thể gỡ tội cho hai người.

Thọ Ninh Hầu mặt méo xẹo đáp:

- Là ca ca không đúng! Nhưng Thái tử là con ruột của muội, thế mà dám xuống tay với cậu ruột của hắn, đến lúc hắn kế tục sự nghiệp cha mình, huynh đệ chúng ta còn có đường sống không?

Trương hoàng hậu hậm hực nói:

- Hoàng gia không có tình cảm. Loại thiên tử nhân hậu như Hoàng Thượng quả là từ cổ chí kim cũng không được mấy người đâu. Các ca... chà, bây giờ Hoàng Thượng sắp đi rồi, các ca ca sau này phải cẩn thận một chút, đừng để bị đám đại học sĩ nắm đuôi, ai sẽ là chỗ dựa cho các người đây?

Bà nói rồi lại nhớ tới bệnh tình của Hoàng Thượng, không khỏi đau lòng rớm lệ.

Thọ Ninh Hầu vội la lên:

- Hoàng hậu! Đó chẳng khác nào bảo ta phải nhón gót mà đi sao, có vương hầu nào mà không oai phong cơ chứ? Mấy ca ca phải làm người cụp đuôi, muội làm hoàng hậu còn gì là oai phong nữa? Muội tử, muội không biết Thái tử lúc đó ác độc như thế nào đâu, chẳng còn chút thân tình nào với ca ca cả, nếu không nhờ có Dương Thị Độc cứu, ca ca bây giờ đã đầu một nơi mình một nẻo rồi.

Gã nói rồi không kìm được khóc lóc kể lể:

- Hoàng hậu! Lúc này Hoàng Thượng bệnh tình nguy kịch, chỗ dựa vững chắc của Trương gia cũng sắp đổ. Thái tử từ bé đã xa cách chúng ta, đến cả với em, nó cũng không tỏ vẻ là một đứa con hiếu thảo. Đợi khi Thái tử làm hoàng đế, có thể cả nhà họ Trương chúng ta lâm vào cảnh dao treo trên đầu, chẳng biết khi nào thì rơi xuống cả.

Trương hoàng hậu nghe hắn nói thế mà rối loạn tâm thần. Ngẫm lại đứa con của mình quả thật từ bé cũng không thân cận gì với mình, đặc biệt là sau khi có lời đồn nghi ngờ mình không phải là mẹ ruột của nó, cảm tình càng ngày càng ít đi. Trong lòng bà vô cùng đau khổ, cũng không khỏi châu lệ chảy ròng ròng, thương tâm nói:

- Phúc lộc của Trương gia chúng ta đã hết rồi à? Muội chỉ có một con trai, thế mà nó lại chẳng hề hiếu thảo gì với muội cả. Nếu hắn thật sự muốn chỉnh lý Trương gia, bản cung có thể làm gì được chứ?

Con ngươi Trương Duyên Linh đảo lia lịa, hắn vỗ đầu nói:

- Muội tử! Trương gia chúng ta dựa vào gì mà phát đạt? Là vì quan hệ thông gia: muội được gả cho Hoàng Thượng, Trương gia chúng ta mới có được vinh hoa phú quý bực này. Muốn tiếp tục thân cận với hoàng đế, chúng ta phải lập quan hệ thông gia.

Hoàng hậu giật mình, nghi hoặc nói:

- Quan hệ thông gia với Thái tử? Thái hậu vẫn còn tại thế, việc chọn lựa hoàng hậu không phải do muội làm chủ đâu.

Trương Duyên Linh đáp:

- Muội tử hiểu lầm rồi! Quan hệ thông gia mà ca ca nói không phải là quan hệ thông gia với Thái tử, mà là với đại thần rất được Thái tử tin yêu.

Hoàng hậu kinh ngạc hỏi:

- Với ai cơ? Lưu Kiện? Lý Đông Dương? Hay là... Nhưng cháu của mấy tên đại học sĩ mới thích hợp chứ nhỉ?

Trương Duyên Linh bĩu môi, khinh thường nói:

- Thái tử không muốn nhìn ta, cũng chẳng thèm quan tâm tới bọn họ, quan hệ thông gia với bọn họ thì ăn thua gì? Mới vừa rồi Thái tử đuổi giết ca ca, ta vốn định khuyên giải, Thái tử lại xoay tay đâm một kiếm, suýt nữa đâm thủng tim ta. Nghe ca ca kể lại, tên Dương Lăng chỉ nói vài lời linh tinh đã có thể khuyên can được Thái tử, không phải là sủng thần của Thái tử sao? Muội muội có ân cứu mạng hắn, lôi kéo hắn cũng rất dễ.

Trương hoàng hậu nghe xong sầm mặt xuống, phất tay áo đáp:

- Lẽ nào lại như vậy! Dương Lăng đã có vợ, đường đường là công chúa, há có thể làm thiếp người khác? Cho dù là làm vợ như nhau, công chúa cũng không thể làm cái việc chia sẻ chồng chung với người khác, quả thực là chuyện cười của hoàng gia!

Trương Duyên Linh vội vàng chỉ vào mũi mình nói:

- Là ta, là ta! Ai nói là phải gả công chúa chứ? Muội là người trong gia đình nên chúng ta không khách khí, nói thật nhé, làm Phò mã Đại Minh rất là khó chịu, ai mà thèm sắm vai đó? Y bây giờ đang rất vẻ vang, muội muội đem công chúa gả cho y, chưa chắc y đã nhận. Ta vừa nói là con gái của ta cơ.

Trương hoàng hậu ngạc nhiên nói:

- Chuyện gì? Con gái của ca ca? Vậy ca gả con cho ai thì tùy, cần gì phải hỏi muội? Nhưng... con gái của ca tốt xấu gì cũng là thiên kim hầu phủ, chẳng lẽ lại gả cho y, không sợ người ta cười à?

Trương Duyên Linh cười nói:

- Con gái ta nói là con do thiếp sinh ra, đâu có chuyện gì đâu. Tuy nhiên vẫn phải giữ thể diện của Hầu gia ta mà, nếu nghe chừng không ổn, vậy bảo là Hoàng hậu nương nương ban hôn đi, thế thì trở thành một câu chuyện mọi người ca tụng. Đã có ý chỉ, không ai còn nói ra nói vào, y cũng phải đối xử như vợ (*). Việc này sẽ thể hiện được sự tín nhiệm của Hoàng hậu với Dương Lăng, mà vẫn giữ được thể diện của chúng ta, chẳng phải hai bên đều vui sao? (*: bình thê: người vợ cưới sau, nhưng được đối đãi như vợ cả)

Trương Hạc Linh nghi ngờ nhìn người em vốn chưa chín chắn. Nhìn qua thì biện pháp này quả là một trò hay. Lôi kéo sủng thần bên người của tân đế đương nhiên là biện pháp tự bảo vệ rất tốt. Hơn nữa vừa rồi y chỉ nói nhỏ vài câu, Thái tử đã theo lời đi ngay. Ngoại trừ hoàng đế Hoằng Trị ra, chẳng có mấy ai có thể chi phối Thái tử như vậy, nhưng... Chỉ nhét cho người ta một đứa con gái là có thể khiến y bán mạng cho họ Trương được sao? Mánh lới kết giao kiểu này đã được bày ra cả ngàn năm nay, thật ra có mấy người khẳng định là thành công chứ?

Trương hoàng hậu có vẻ không vui nói:

- Thôi đi! Con trai của muội sẽ làm hoàng đế lại khiến hai ca ca kinh hãi đến nổi phải đem con gái mua vui cho sủng thần của hắn, bản cung quả thật nản lòng. Ca ca tự nguyện làm như vậy, muội cũng chẳng quản được ca ca, chỉ là việc mất mặt như vậy thì muội không thể ra mặt cho ca, ca ca muốn nói thì tự mình đi đi. Nếu y đồng ý thì bản cung ra mặt ban hôn cũng được, chỉ là... tên Dương Lăng đó rất yêu vợ, dám kháng cả thánh chỉ vì vợ, nếu con gái của ca ca không phải quốc sắc thiên hương thì việc này...

Trương Duyên Linh cười nói:

- Hoàng hậu yên tâm, tuy Dương Lăng nặng tình với vợ, nhưng y vẫn còn trẻ tuổi háo sắc. Ca nghe nói y vừa nạp vài cô thiếp xinh đẹp nữa. Tuy con gái ca không phải quốc sắc thiên hương, nhưng bộ dáng cũng rất xinh đẹp. Muội đồng ý làm như vậy là tốt rồi, ca ca sẽ tìm cơ hội nói với y, nhất định mã đáo thành công.

Trương Hạc Linh âm thầm lắc đầu, thất vọng thầm nghĩ: “Nhìn tình hình này, thì tất cả đều sẽ thành công cốc thôi. Đến cả hoàng hậu mà cũng chẳng nắm chắc đối với Thái tử, vậy ai có thể làm cho hắn phải kiêng kỵ đây? Muốn giữ gìn được cơ nghiệp Trương gia, không thể dựa vào người em không có đầu óc này được, còn có cây đại thụ nào khác có thể dựa vào đây? Có lẽ... “

********

Quản một đội quân rất lạ. Ai cũng biết cường quân nhất định phải có quân kỷ nghiêm minh, còn quân kinh thành là một thứ quái thai. Họ được trang bị tốt hơn biên quân nhưng chiến lực yếu hơn biên quân, song quân kỷ nghiêm minh lại trên hẳn biên quân.

Dương Lăng bố phòng binh mã ba ty của Thần Cơ doanh chung quanh các nơi hiểm yếu quanh cung, rồi mỗi ngày đều tự mình tuần phòng qua các các con đường trong cung điện, không hề dám lười biếng chút nào. Y sợ đám quan binh vừa vào Tử Cấm thành sẽ gây nên mấy vụ trộm lặt vặt, dụ dỗ cung nữ.

May mà việc này cũng chỉ là lo xa. Đám Liên Đắc Lộc, Bành Kế Tổ bây giờ y nói gì nghe nấy. Đô ty của Đệ tam ty là người được Dương Lăng đề bạt từ phó đô ti của Đệ tam ty ngày trước. Người này tuy không giỏi lắm, nhưng lại là người rất trầm ổn kiên định, thừa hành quân lệnh không hề cẩu thả, nên tuân thủ quân lệnh của Dương Lăng, ước thúc thuộc hạ cực nghiêm. Hơn nữa sĩ quan quân đội cấp dưới trong quân cũng cực kỳ ủng hộ Dương Lăng, do đó quân lệnh của Dương Lăng hiểu dụ ba quân khi suất binh tiến cung đều được mọi quân sĩ quán triệt, không ai dám vi phạm.

Liên tiếp tuần tra hai ngày thấy bọn quan binh dưới sự ước thúc của những tướng tá đó đều rất tận tâm, theo đúng qui tắc tuần tra, bố phòng, lúc này Dương Lăng mới cảm thấy thoải mái hơn nhiều.

Ngoại trừ vấn đề quân kỷ, y cũng không phải lo lắng gì nhiều. Hoàng đế Hoằng Trị chỉ có một con trai, đám hoàng tử hoàng tôn của họ Chu sớm đã bị đuổi ra khỏi kinh rồi. Việc thái tử đăng cơ cũng không có gì phải lo lắng, hoàn toàn không xảy ra tình huống các Vương đoạt ngôi. Hoằng Trị hoán đổi binh lính cũng chỉ là thủ đoạn dự phòng bình thường khi thay đổi giữa hai đời vua thôi.

Quân kỷ không vấn đề gì, nhiệm vụ đóng giữ hoàng cung cũng đã hoàn thành hơn phân nửa rồi. Chỉ là bệnh của Hoằng Trị một ngày chưa khỏi hoặc Thái tử một ngày chưa đăng cơ, thì trách nhiệm đóng giữ vẫn chưa được giải trừ. Các cửa cung thành đều phong bế, việc đại thần dâng và nhận bản sớ đều là do những người đặc trách đứng ở cửa bên xử lý, lúc này, y là chủ soái tam quân nên tuyệt đối không ly khai được.

Dương Lăng tới cửa ngọ môn, đám quan binh đóng ở đây thấy tướng quân tới, đều tới tấp thi lễ với y. Dương Lăng gật đầu ra hiệu chào họ, đến gần cửa cung, nghe thấy bên ngoài có tiếng lao xao, trong lòng y hơi cảm khái: rõ ràng hoàng đế Hoằng Trị rất được bầy tôi kính yêu. Từ khi ông bệnh nặng đóng cửa cung tới nay, mỗi ngày đều có hàng loạt quan chức tụ ở ngoài ngọ môn chờ tin tức Hoàng Thượng, mỗi khi có một thần tử lấy bản sớ ra ngoài, đều có một đám quan viên ùa lên hỏi đông hỏi tây, hơn nủa canh giờ mới đi được.

Y lắc lắc đầu, quay người đi về phía Kim Thủy kiều. Vừa mới đi ra cửa cung thành, y thấy Kiến Xương Hầu Trương Duyên Linh được một tiểu thái giám dẫn đường tới đón, cười rộng miệng:

- Dương đại nhân? Bản hầu là Kiến Xương Hầu Trương Duyên Linh, muốn tìm đại nhân có một việc muốn nói.

Thấy tướng mạo vị Hầu gia này hơi giống Thọ Ninh Hầu, Dương Lăng cũng chắp tay chào, kinh ngạc hỏi:

- Hầu gia tìm hạ quan có chuyện gì thế?

Kiến Xương Hầu cười khà khà:

- Một việc vui! Tới đây, mời Dương đại nhân sang đây vài bước nói chuyện.

Kiến Xương lôi Dương Lăng sang bên cạnh vài bước, rồi mỉm cười nói:

- Đại nhân tuổi trẻ đầy hứa hẹn, thanh danh chấn động cả kinh sư, tiểu nữ cũng rất hâm mộ nhân phẩm học thức của đại nhân. Vì vậy bản hầu xin được trèo cao, muốn mai mối cho cuộc nhân duyên này, hai nhà chúng ta kết làm tần tấn, vậy không phải là đại hỷ sự sao?

Dương Lăng nghe thế ngạc nhiên, bật cười ha ha:

- Hầu gia lỗ mãng rồi. Dương Lăng sớm đã có vợ, sao có phúc khí để cưới thiên kim nhà Hầu gia chứ?

Kiến Xương hầu ha ha cười đáp:

- Đương nhiên ta biết việc này chứ! Dương đại nhân đưa vợ tìm thầy thuốc đã rất nổi tiếng mà. Nhưng cũng chính là vì như thế nên tiểu nữ mới hâm mộ đại nhân. Đại trượng phu ba vợ bốn nàng hầu rất bình thường, cả hai người đều làm vợ cả là chuyện tốt xưa nay, có gì sai đâu?

Dương Lăng mỉm cười lắc đầu nói:

- Cảm ơn ý tốt Hầu gia, Dương Lăng cả đời này chỉ có một vợ. Ý tốt của Hầu gia Dương Lăng chỉ biết tâm lĩnh thôi.

Kiến Xương hầu có vẻ không vui nói:

- Dương đại nhân! Hoàng hậu nương nương cũng đã gật đầu đồng ý về việc này. Nương nương rất hâm mộ ngài. Chúng ta hai nhà kết thông gia, sau này có Hoàng hậu nương nương đỡ đầu, tiền đồ của ngài không cần nói cũng biết. Nếu không theo, ta thì không sao, chỉ sợ Hoàng hậu nương nương sẽ không vui đó.

Dương Lăng khẽ nhăn mày, hỏi:

- Hả? Đây có thể xem là ý chỉ của Hoàng hậu nương nương sao?

Trương Duyên Linh nghe ngữ khí của y, trong lòng không khỏi giận dữ: “Tiểu tử này thật không biết điều. Ngươi khoe khoang dám kháng thánh chỉ nên không để ý chỉ của nương nương vào mắt nữa à?”

Trương Duyên Linh đỏ mặt đang muốn chống chế, chợt nghe tiếng chuông trống thong thả cất lên, âm thanh vang vọng khắp hoàng thành. Tiếng chuông trống đầu tiên vừa vang lên, lập tức hắn đã phát giác có điều không ổn. Lúc này không phải lúc thượng triều, tại sao lại có tiếng chuông trống, hơn nữa tiếng chuông trống không đánh lần lượt mà là đồng thời cùng đánh?

Trong lòng hắn dâng lên cảm giác có điềm xấu, không khỏi ngẩng đầu nhìn về Càn Thanh cung, chỉ nghe tiếng chuông trống liên tục không ngừng, đánh chín lần, thanh âm truyền khắp trong ngoài cấm cung.

Tất cả đám quan binh, cung nữ, thái giám đang đi lại đều lặng im, quay người về phía hậu cung. Dừng lại một lát, cả hoàng cung vắng lặng không một tiếng động, đến cả những triều thần đang ầm ĩ ngoài cửa cung cũng lập tức nín im phăng phắc. Tiếng chuông trống ngừng lại, chỉ dừng trong khoảnh khắc, rồi tiếng chuông trống lại vang lên. Đầu tiên là một người, kế tiếp là vài người, sau đó tất cả mọi người đều quay về phía Càn Thanh cung, cúi người dập đầu.

Kiến Xương hầu hơi tròn miệng, nhất thời nói không ra tiếng, rốt cuộc hai gối mềm nhũn, hoảng sợ quỵ xuống. Dương Lăng đang không biết chuyện gì xảy ra, chợt nghe từ sâu trong hậu cung sau lưng có âm thanh như tiếng mưa rào, rồi cũng không biết có bao nhiêu người như đang phát điên đập vào cánh cửa cung dày nặng, tiếng gào khóc từ ngoài xuyên qua ngọ môn vọng vào.

Dương Lăng khiếp đảm bừng tỉnh, hấp tấp quỳ phục xuống đất, rốt cục y đã hiểu chuyện gì vừa xảy ra: “Hoàng đế... băng hà rồi!”

Chương tám mươi bảy - Chính Đức Ban Chiếu

------------------------

Dương Lăng chạy tới Đông Noãn các, đám cận thần bên cạnh Hoàng đế đã thay quần áo màu trắng.

Nhìn thấy Dương Lăng tới, Trương Vĩnh vội vàng ra đón. Trận đòn của Hoằng Trị Hoàng đế trong lần đình trượng đó, mấy người này đều bị đánh thật, phải nằm cả nửa tháng mới dám xuống giường đi lại. Do đó, bọn họ mấy hôm rồi không gặp Dương Lăng.

Hôm nay Hoằng Trị đế uống xong thuốc do thái y dâng lên thì đột nhiên chảy máu mũi, dùng mọi biện pháp cũng không cầm được. Máu chảy ướt đẫm trên mười chiếc khăn, không lâu sau thì đột ngột qua đời. Chu Hậu Chiếu nằm trên thi thể nức nở, ai khuyên cũng không nghe. Lưu Cẩn, Trương Vĩnh và mấy tên nội thị đang rất sốt ruột.

Cuối cùng, Hoàng hậu cũng phải lên tiếng, nhưng Thái tử vẫn không nghe, khăng khăng không cho phép bất cứ kẻ nào chạm tới di thể của Hoàng đế. Đám thái giám ở ngoài cung đợi lau chùi thay áo cho thi thể Hoàng thượng, nhưng do không có ai dám nghịch ý Thái tử, nên bọn họ đều đang đứng chờ.

Lúc này thấy Dương Lăng tới, Trương Vĩnh như gặp được cứu tinh, vội vàng cầm theo mớ đồ tang ra đón. Dương Lăng vừa mặc, vừa nghe Trương Vĩnh lo lắng nói:

- Dương đại nhân, điện hạ thương tâm khóc mãi, lại không cho đám nội thị được động tới thân thể của Hoàng thượng. Ta đợi mãi cũng sốt ruột, lại nghĩ không ra lời nào có thể an ủi được Thái tử, ngươi mau đi xem một chút đi.

Dương Lăng đeo xong băng tang, cầm bảo kiếm đưa cho thị vệ đứng ở cửa cung, vội vàng đi vào Đông Noãn các. Chu Hậu Chiếu ngồi quỳ trước giường, vẫn đang lặng lẽ khóc. Trương Hoàng hậu, hai Công chúa Vĩnh Phúc, Vĩnh Thuần đều mặc đồ trắng, như ba đóa hoa lê dưới mưa, rơi lệ lã chã đứng ở phía sau.

Dương Lăng nhìn thấy Hoàng hậu và hai Công chúa, vội vàng khom người xuống. Trương Hoàng hậu phất tay, sau đó đưa mắt nhìn hắn, rồi quay đầu nhìn Thái tử một cái, khe khẽ thở dài, lôi hai Công chúa rời khỏi tẩm điện.

Dương Lăng thấy Hoàng hậu và Công chúa đã đi, liền lặng lẽ đi đến bên người Chu Hậu Chiếu quỳ xuống. Chu Hậu Chiếu vẫn ngây ngốc kéo bàn tay lạnh lẽo của Hoằng Trị, chỉ im lặng khóc, không hề nhìn người bên cạnh.

Dương Lăng thấp giọng an ủi vài câu, Chu Hậu Chiếu vẫn chẳng ừ hử gì. Dương Lăng thấy hắn thần sắc ngây ngốc, coi như không nhìn thấy người khác, nghĩ thầm mời tướng không bằng khích tướng. Tiểu Thái tử tuổi còn nhỏ, bảo rằng phải nén bi thương thì cũng không ăn thua gì, không bằng để hắn phấn chấn tinh thần lên một chút. Dương Lăng ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

- Điện hạ, thần nhớ có giảng cho ngươi câu chuyện kể về một vị Hoàng đế rồi mà? Một đời đế vương tựa như mặt trời mọc và mặt trời lặn. Một ngày nào đó, mặt trời sẽ theo một vị đế vương vừa mất đi mà lặn xuống, nhưng lại theo tân thiên tử mà mọc lên. Quân vương mất đi hóa thành tinh tú trên bầu trời, ở trên trời nhìn người thừa kế mà chính mình lựa chọn, xem hắn có phụ lòng với sự phó thác của mình không.

Điện hạ, Hoàng thượng là một vị minh quân từ cổ chí kim khó tìm được. Ngươi là nhi tử duy nhất của Hoàng thượng, sắp trở thành đế vương của Đại Minh, trở thành tân thái dương, ngươi sẽ phụ lòng hi vọng của bệ hạ không?

Chu Hậu Chiếu nghe xong giật mình, hắn hít mạnh, nắm chặt tay Hoằng Trị, trên khuôn mặt ngây thơ hiện lên vẻ nghiêm túc, tuyên thệ nói:

- Ta quyết không phụ lòng kỳ vọng của phụ hoàng. Ta sẽ như phụ hoàng, trở thành một minh quân có đạo, một thiên tử đầy hứa hẹn.

Dương Lăng nói:

- Thần tin mỗi một triều đại, mỗi một vị Thái tử, khi hắn lên đế vị, lúc ngồi trên ngai vàng, đều sẽ nghĩ như vậy, đều từ trong tâm muốn làm một Hoàng đế tốt. Nhưng có người làm được, có người lại thành vua bình thường. Thậm chí, có người là hôn quân, là vua mất nước.

Chu Hậu Chiếu bỗng nhiên quay đầu lại, trừng mắt, phẫn nộ nói:

- Ngươi hoài nghi ta à? Ngươi nói ta không làm được sao?

Dương Lăng bình tĩnh nói:

- Thần tin lời điện hạ nói là phát ra từ bản tâm, tin rằng Thái tử không phải nhất thời tâm huyết dâng trào. Nhưng có hùng tâm tráng chí là chưa đủ, minh quân không phải chỉ nói, mà là phải làm. Dân chúng khắp thiên hạ vừa nghe mất đi một vị vua nhân hậu, đều đang trông mong để thấy tân hoàng sẽ làm gì. Nếu hắn chỉ biết khóc sướt mướt tại đây, hắn có thể trở thành một vị minh quân sao?

Chu Hậu Chiếu nghe xong sắc mặt vừa xanh lại vừa đỏ, đỏ rồi lại xanh. Hắn còn nhỏ, sao chịu được Dương Lăng kích thích như vậy, giận dữ một lát, rồi đột nhiên đứng bật dậy quát to:

- Người đâu, tẩm liệm thay đồ cho phụ hoàng.

Dương Lăng nhếch miệng, một chút tiếu ý khó nhận ra hiện lên.

Đám nội quan thái giám thiết lập linh đường, bố trí trong cung. Hỗn Đường ti (*) thì rửa ráy thay đồ cho Hoằng Trị đế, làm khăn tang, may đồ tang, nhuộm vải tang, chuẩn bị đủ thứ đồ tang cho các vương hầu công khanh, các quan chức các bộ. (*: một trong bốn ti của nhà Minh - ND)

Tướng sĩ Thần Cơ doanh trấn thủ cửa cung ở ngoài giáp trụ mặc thêm một kiện áo bào trắng, đến cả hỏa súng trong tay cũng phủ một tầng vải trắng. Đợi trong cung bố trí xong tất cả thì đã là đêm khuya, sương mù như lụa, khắp nơi trong cung điện treo cao những đèn lồng giấy trắng, đâu đâu cũng mang không khí buồn rầu thê thảm.

Linh đường dựng tại chính điện Càn Thanh cung. Trong điện nến trắng màn trắng, khói bốc lượn lờ, thập phần trang trọng. Giữa điện, bài vị Hoằng Trị đế được dựng thật cao. Khi Hoàng đế bệnh tình nguy kịch, Lễ bộ đã sớm định ra các hạng lễ nghi trình tự thiết thực cho tân hoàng. Quá trình nghe thì đơn giản, cũng chỉ là trước mặc đồ tang, rồi ban di chiếu, sau đó cử hành đại lễ đăng cơ, nhưng trong đó có đủ loại lễ nghi tạp nhạp rườm rà, làm cho người ta nghe mà hoa cả mắt.

Dương Lăng mù tịt về loại lễ nghi mai táng trong cung này, nhưng hắn cũng không cần phải lo lắng mình làm sai. Hắn tuy được tân cựu hai Hoàng thượng sủng ái, nhưng kỳ thật đến bây giờ cả những vỏ ngoài của triều đình cũng chưa được động tới, căn bản không có tư cách vào điện hành lễ khóc tang, chỉ đứng ở ngoài khống chế các ban thị vệ, duy trì cung điện là được.

Đám quan chức các bộ các đường đều lũ lượt vào Càn Thanh cung, ngay cả rất nhiều công hầu huân khanh rất ít bước vào cửa cung lúc này cũng đều lộ mặt. Dương Lăng đứng dưới điện, thấy Lục bộ Cửu khanh, ba vị Đại học sĩ từ trong cung đi ra, nhìn ra xa. Một lát sau, hai hàng thái giám vây quanh một cỗ kiệu, có người cao giọng hô:

- Hoàng Thái tử tới!

Trên mười vị cựu thần trong triều vội vàng chạy xuống đài, vén áo quỳ xuống. Lưu Kiện khóc, nói:

- Xin mời Hoàng Thái tử vào điện làm lễ!

Chu Hậu Chiếu không hiểu nhiều quy củ. Hai thủ lĩnh thái giám Tư Lễ giám là Vương Nhạc và Trương Thọ một trái một phải đỡ hắn, thỉnh thoảng nói nhỏ vài câu bên tai hắn, cách bước đi ra sao, hành lễ như thế nào, nói năng thế nào. Hoàng Thái tử Chu Hậu Chiếu thần sắc hốt hoảng, hoàn toàn không còn vẻ nghịch ngợm xưa nay, chỉ như một bức tượng gỗ, nhất nhất làm theo.

Dương Lăng đợi họ đều tiến lên điện, lúc này mới đứng lên. Một lát sau, đột nhiên nghe một tiếng khóc lóc ầm ĩ. Hàn Lâm đi đến bên người y, khẽ thở dài:

- Những đại nhân này khóc nhiều quá, nhóm quan chức không được tiến vào cửa cung tụ tập ngoài Ngọ Môn khóc nức nở. Lúc này không thể xuất hiện rắc rối, tướng quân có lẽ nên đi xem xét một chút.

Hàn Lâm dựa vào võ nghệ và thành tích tốt mà được thăng chức. Hắn làm người rất quy củ, tuy xưng hô Dương Lăng là Lăng nhi, nhưng việc công thì vẫn dùng thân phận thuộc hạ, tuyệt không vượt qua giới hạn. Dương Lăng khuyên mãi, nhưng Hàn Lâm vẫn khăng khăng không nghe, y cũng mặc kệ nhạc phụ.

Hôm nay Hoằng Trị đế băng hà, đủ loại quan lại khóc tang, túc trực bên linh cữu. Dương Lăng sợ xảy ra sơ xuất gì, do đó chỉ điều người được tín nhiệm nhất như phụ tử Hàn gia và Dương Nhất Thanh, Liễu Bưu dẫn theo trăm tên thân quân mang súng cài đao vây chặt Càn Thanh cung, phòng thủ không lọt một giọt nước. Nghe nhạc phụ nhắc nhở, Dương Lăng cũng khẽ gật đầu, thấp giọng nói:

- Nơi này nhờ nhạc phụ, Lăng nhi đi quanh thành một chút.

Trong Càn Thanh cung, xướng lễ quan của Hồng Lư tự hô xướng nghi thức. Ba đại thần được uỷ thác là Lưu Kiện, Lý Đông Dương, Tạ Thiên dìu Chu Hậu Chiếu ngồi trên ghế, các quan lại tiến lên, rồi quỳ lạy vua mới, những tiếng hô ‘Hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế’ rung cả mái ngói.

Trong những tiếng hô đưa cũ nghênh mới, Dương Lăng đã rời khỏi Càn Thanh cung, hai thân vệ cầm đèn lồng đi dò xét quanh cung, chẳng biết trên đại điện đang tiến hành những lễ nghi bao đời về việc tuyên đọc di chiếu của tiên đế, tân đế hạ ân chỉ. Quy củ lễ nghi không hề thay đổi, không ngờ hôm nay lại lần đầu tiên xảy ra việc khác thường. Hắn còn chưa ra tới Ngọ Môn, trong Càn Thanh cung đã ầm ĩ như một cái chợ rồi.

Hoằng Trị biết thân thể mình khó qua nên đã an bài những việc về sau. Lúc này, chưởng ấn thái giám Tư Lễ giám Vương Nhạc đang cố cầm nước mắt đưa lên di chiếu của Hoằng Trị đế, giao cho Đại học sĩ Lưu Kiện truyền dụ di chiếu giáng đế, ban bố hỉ chiếu về tân đế đăng cơ, sau đó tuyên bố tân đế đại xá thiên hạ, khen thưởng thần tử có công.

Lưu Kiện cũng biết đương kim Thái tử khá là ngoan cố, ai biết được vị nhân huynh này chính là tổ sư của phái tùy ý sáng tạo chuyển thế, căn bản không dựa vào sách vở gì. Vị cựu thần này gạt nước mắt, trước hết tuyên bố di chiếu của tiên đế, sau đó định ra Chính Đức nguyên niên, rồi dẫn đầu văn võ bá quan ba quì chín lạy bái tân đế.

Việc này vốn đã được an bài rất tốt, nhất là ân chỉ của tân đế. Có Thái tử nào trước lúc chưa đăng lên hoàng vị mà dám bắt đầu lựa chọn những nhà lãnh đạo kế nhiệm chứ, thật ra thì cũng do Hoàng đế trước đó đã có chủ ý cho hắn rồi. Từ trước tới nay, khi thái tử đăng cơ đều theo lối như vậy cả.

Sau đó, lão mở thánh chỉ, lấy danh nghĩa tân đế đại xá thiên hạ: người nào không đáng tội chết, hết thảy những người đang đợi tra hỏi đều được đặc xá ra tù, chiếu lệnh miễn trừ nợ thuế ba năm cho nông phu, chiếu lệnh bãi bỏ những thứ dầu cá đặc biệt ngư dân phải cống nộp mà ba năm chưa nộp.

Sau khi ý chỉ biểu thị lòng nhân từ và sự sáng suốt của tân đế được tuyên xong, ân chỉ gia phong hậu cung và khao thưởng cho những thần tử đã ủng hộ và yêu mến tân đế lên ngôi - ân chỉ thứ ba - liền được ban xuống: gia phong cho ba người Lưu Kiện, Tạ Thiên và Lí Đông Dương làm Thái sư, Thái phó và Thượng quốc trụ, Thái hậu Kỷ thị tấn phong làm Thái Hoàng Thái hậu, Hoàng hậu Trương thị tấn phong làm Thái hậu, Thái Kỷ Vương thị làm Thái Hoàng Thánh phi; Kim phi, Đới phi làm Thái phi; các Mã phi, Thường phi cũng tấn phong làm Thái Hoàng phi.

Phàm là tân đế đăng cơ, những cựu thần đắc lực đều được ban thưởng như vậy, đám thần tử cũng quen rồi. Dù chức vụ rất hay, nhưng đều là những hư chức có lộc không quyền thôi, cũng không ảnh hưởng gì tới việc phân bố quyền lực của triều đình hiện nay, do đó văn võ bá quan chỉ rửa tai lắng nghe, không ai lên tiếng. Trong đại điện, trên dưới một trăm người đều lặng như tờ.

Nhưng Chính Đức Hoàng đế Chu Hậu Chiếu bị Dương Lăng kích động, một lòng một dạ muốn có biểu hiện thật tốt, mặc dù chỉ nhiệt tình ba phút thôi, nhưng ba phút cũng còn chưa qua. Hắn lắng tai nghe rất chăm chú. Hắn nghĩ thánh chỉ này được ban ra dưới danh nghĩa của mình, nên càng nghe kỹ hơn.

Khi hắn nghe tới ban cho Thọ Ninh Hầu, Kiến Xương ngàn khoảnh hoàng điền, thụ song lộc thì hầu, lập tức từ trên ghế đứng lên, hầm hầm quát:

- Lưu Đại học sĩ từ từ, hai Hầu gia Thọ Ninh, Kiến Xương tước lộc đã cao rồi, không cần thưởng thêm!

Hai vị Hầu gia Thọ Ninh, Kiến Xương đang quỳ gối phía dưới, nghe Chính Đức nói thế, mặt xanh lè rồi trắng bệch. Vẻ mặt sợ hãi, xấu hổ, phẫn nộ, đủ loại thay đổi như bị nhuộm. Bác bỏ ân chỉ trước mọi người như vậy, quả thực làm cho người ta muối mặt, sau này hai người còn làm sao thấy mặt người khác chứ. Tiểu Hoàng thượng này làm việc quả là không chừa đường cho người ta đi.

Lưu Đại học sĩ cầm thánh chỉ cũng ngẩn người. Vị Đại học sĩ thông kim bác cổ này phụng dưỡng mấy đời đế vương, chưa bao giờ nghe nói qua là khi tân hoàng đăng cơ thì ngay đương trường nuốt lời hứa, triệt bỏ ân chỉ. Sao lại bỏ chỉ của mình được, việc này quả thực là một trò đùa, cũng là đại bất kính với Hoằng Trị đế. Nếu không đáp ứng, khẩu dụ đầu tiên của tân đế mà Đại học sĩ lại cự tuyệt, vậy thì còn gì mặt mũi Hoàng đế chứ.

Lý Đông Dương thấy lão đứng lặng người, vội vàng quì một chân, tâu rằng:

- Hai vị Hầu gia Thọ Ninh, Kiến Xương là đương kim Quốc cữu, là chí thân của Hoàng thượng. Hoàng thượng hậu đãi người ngoài mà không quản người thân, không làm gương tốt cho mọi người, đám thần tử sao dám theo? Hôm nay là ngày quan trọng, ý chỉ đã hạ rồi, có rút về cũng hơi không ổn. Theo thần thấy, hai vị Hầu gia chỉ dâng biểu xin không nhận ân là hay nhất.

Hai huynh đệ Trương Hạc Linh, Trương Duyên Linh trong lòng thầm hận, bị tân hoàng ở trước mọi người làm mất mặt, còn phải chủ động xin không nhận ơn. Hoàng thượng thì có được thanh danh đối người khoan hậu, luật pháp nghiêm minh, tên Lý Đông Dương quả là biết cách nịnh nọt. Nhưng tình thế yếu hơn người, hai huynh đệ không thể làm gì được, đành phải theo ý mà làm.

Chính Đức rất kính Hoằng Trị cha mình, mắt thấy hai cậu chẳng hề bi thương trong lúc phụ hoàng sắp chết, còn cầm vương miện chơi đùa. Loại người này khiến hắn cảm giác người thân cận nhất cũng lừa mình, làm hắn căm thù hai người đến tận xương tuỷ, do đó lúc này mới ngăn cản, tước bỏ những gì ban cho họ ngay tại chỗ.

Nghe Lý Đại học sĩ an bài xong, Chính Đức cảm thấy chỉ cần không cho họ chút tiện nghi nào là được, làm gì khác cũng không quá để ý, vì vậy gật đầu nhận lời, về ngồi lại trên ghế. Các quan lại đang quỳ thấy vị tân thiên tử đưa ra ý chỉ ly kỳ, đều lộ vẻ kinh dị. Chính Đức Hoàng đế không biết là làm như vậy có gì không ổn. Cái gì kim khẩu ngọc nha, vua không nói đùa, chỉ cần cảm thấy không đúng là sửa, chẳng lẽ cứ phải giả vờ giả vịt mới là thể diện hoàng gia sao.

Lưu Đại học sĩ thấy tân hoàng sau khi có hành động kinh người đã về ghế ngồi, mới nơm nớp lo sợ đọc tiếp. Văn võ bá quan lúc này cũng đều căng thẳng, chẳng ai biết Chính Đức đế lại khai đao với ai nữa. Tiểu Hoàng đế Chính Đức nghe đọc đến cuối lại không phản đối gì nữa.

Lưu Kiện đọc xong thánh chỉ, trộm đưa tay áo lên lau mồ hôi trên trán, rồi thở phào một hơi. Chính Đức đế lại lên tiếng. Hắn cau mày, kỳ quái hỏi:

- Lưu Đại học sĩ, có phải là thiếu mất một người không?

Lưu Kiện giật mình, vội vàng trải thánh chỉ ra, đọc nhanh một lần; rồi quay đầu nhìn về phía hai thái giám của Tư Lễ giám là Vương Nhạc, Trương Thọ hỏi lại một lần, như trút được gánh nặng nói:

- Khải tấu bệ hạ, thần không thấy có chút sơ hở nào.

Chính Đức cảm thấy kỳ quái, nhớ tới phụ hoàng có nói Dương Lăng là thần tử đắc lực cho hắn, còn nói những ân huệ phải do hắn ban cho. Sao mà ân chỉ với danh nghĩa của mình ban xuống lại không có tên Dương Lăng?

Hoằng Trị đế đáng thương nếu thật sự có linh thiêng trên trời, lúc này nhất định sẽ hối hận khi mình dặn dò nhi tử về hậu sự đã không giải thích cụ thể lúc nào thì chấp hành. Chính Đức ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

- Không đúng, đúng là bỏ sót một người. Hắn là Dương Lăng, nguyên là Thị độc Đông cung, bây giờ là Tham tướng Thần Cơ doanh, trẻ tuổi đầy hứa hẹn, có tài lương đống. Đã là ý chỉ sót mất, vậy bổ sung thêm một ý chỉ, cho hắn là... ừm... cho hắn vào Lại bộ nhậm chức Thị lang đi.

Lưu Kiện nghe Chính Đức nói thế, chút nữa ngã lộn nhào từ trên đài xuống đất. Đưa một Tham tướng võ quan, một Đồng tiến sĩ chưa tới hai mươi tuổi vào Lục bộ làm chức Thị lang chủ nhiệm? Lưu Kiện vội vàng quì xuống, hô to:

- Hoàng thượng, vạn lần không thể!

Hai vị Đại học sĩ Tạ Thiên, Lý Đông Dương, Hộ bộ Hàn Văn, Lễ bộ Vương Quỳnh, cùng với Lưu Đại Hạ, Mã Văn Thăng và đám Thượng thư sáu bộ đồng loạt quỳ xuống. Lại bộ Thượng thư Mã Văn Thăng vội la lên:

- Hoàng thượng, thăng chức quan xưa nay là do thế tập, nạp tư, quân công, tiến cử, lang tuyển, cho tới phương pháp khoa cử. Cho dù là mặt nào Dương Tham tướng đều không đủ đức vọng, năng lực, lý lịch, đâu thể nhận chức bộ Thị lang chứ. Xin Hoàng thượng nghĩ lại!

Tả Thị lang Vương Ngao, Chiêm sự Dương Phương là mấy đại thần vài ngày trước đã gây gổ với Lưu Cẩn, nên cũng không có hảo cảm gì với Dương Lăng. Vừa nghe hắn còn trẻ tuổi mà đưa vào Lại bộ, ghế chỉ sau chỗ của Thượng thư, nhất thời đều la lên phản đối, đủ loại quan lại đều ồ lên xì xào.

Chính Đức rốt cuộc vừa mới làm vua, thấy đám thần tử phía dưới quỳ xuống hơn phân nửa, trong lòng cũng có chút luống cuống, nhưng nếu rút lại lời thì còn gì là thể diện. Chính Đức Hoàng đế đành phải nói với sắc mặt khó coi:

- Đã thế thì, ta... trẫm sẽ thu hồi đạo ý chỉ này, sửa cho Dương Lăng làm Uy Vũ Bá đi.

Lưu Kiện vừa nghe thấy Hoàng đế không phong quan cho Dương Lăng, nhưng lại sửa thành tấn tước, sao có thể đáp ứng chứ, lập tức cùng các quan quỳ xuống, liên tục dập đầu. Vương Quỳnh Vương Thượng thư đang nước mắt nhòe nhoẹt lại càng gào khóc lớn lên, đấm ngực giậm chân, liên tục nói thiên tử lạm dụng ân thưởng, sẽ làm mọi người bất mãn, các quan lại sẽ không phục.

Chính Đức Hoàng đế hơi khựng lại, thấy các quan vẫn không thuận theo, cuối cùng hắn nổi giận đùng đùng, đứng bật dậy nhảy ra khỏi ghế nói:

- Chức Hoàng đế này là ta làm hay các ngươi làm, việc này không được, việc kia cũng không được, vậy làm Hoàng đế cũng như không.

Chu Hậu Chiếu nói rồi tháo đai ngọc xuống, muốn cởi long bào, làm hai Đại thái giám Vương Nhạc và Trương Thọ vội vàng chạy lên ôm lấy hắn. Văn võ bá quan đang khóc lóc ầm ĩ, Chính Đức vừa làm như vậy, khiến cả đám đều ngẩn người.

Lý Đông Dương thấy thế vội vàng nghĩ: “Dương Lăng còn trẻ, tài cán phẩm đức cũng còn cần quan sát. Hắn làm võ tướng thì không nguy hại gì tới triều chính, phẩm trật có cao một chút cũng không có gì. Nhưng bây giờ nếu tới Lại bộ đảm nhiệm chức vụ quan trọng, với đức vọng của hắn thì há có thể làm các quan tâm phục chứ? Về phần phong tước, mặc dù qua loa một chút, nhưng cũng không phải làm hỏng tổ chế.”

Vì vậy, Lý Đông Dương vội vàng cao giọng nói:

- Dạ, thần tuân chỉ. Thần nghĩ rằng, có thể phong Dương Tham tướng làm bất thế (*) Uy Vũ Bá, ban cho cáo sách, bệ hạ nghĩ được không? (*: không truyền cho đời sau - ND)

Chính Đức thấy có đại thần ủng hộ, vội nói:

- Được lắm, được lắm, để Lý Đại học sĩ thảo chiếu.

Chúng thần nghe Lý Đông Dương nói thế, lập tức hiểu ý lão, cũng không phản đối nữa, chỉ có Vương Quỳnh nức nở mãi không dừng được.

Hóa ra Đại Minh phong tước có mấy loại như thế tập, quân công, ơn trạch, ngoại thích. Dương Lăng thuộc loại ơn trạch. Vừa rồi Lý Đông Dương lớn tiếng bảo là Dương Lăng làm bất thế Uy Vũ Bá, ban cho cáo sách, chứng tỏ Dương Lăng được tước lộc không kế thừa, hơn nữa chỉ ban cáo sách, không ban khoán sách. Nhưng cái chính là có được tước hào dễ nghe, có thêm một chút bổng lộc. Việc này không đáng để đối nghịch với Hoàng đế, vì vậy thanh âm phản đối cũng yếu đi nhiều.

Trái tim Lưu Kiện thật sự không chịu nổi mấy trò của Chính Đức, cũng may bây giờ đã gần xong việc cử hành buổi lễ rồi. Vì vậy, Lưu Kiện vội vàng an bài văn võ bá quan túc trực bên linh cữu ở Càn Thanh cung, sắp xếp người đốt vàng mã, đảm bảo không còn sai sót gì nữa.

Nội quan Vương Nhạc thấy việc tân đế đăng cơ đã xong, vội sai người đi tới Khôn Ninh cung mời Thái hậu và hai Công chúa tới Càn Thanh cung cùng túc trực bên linh cữu.

Hiện tại, Dương Lăng còn chưa biết việc gì xảy ra, chỉ đi quanh một vòng, lập tức đã thành Bá gia rồi. Y nghênh ngang tuần sát các cửa cung, tùy tiện ăn cơm với những tướng sĩ trong cung cho no bụng, lúc này đã tới canh ba.

Đi quanh hoàng thành một vòng lớn như vậy xong, Dương Lăng đau chân muốn chết, nhưng trong cung lại không thể cưỡi ngựa, y rất vất vả lết từng bước về lại Càn Thanh cung, chân gần như muốn đứt. Bây giờ, thấy Đông Noãn các hoàn toàn yên tĩnh không còn bóng người nào liền đuổi hai thân binh đi, còn mình thì vào trong sảnh ngồi xuống, cởi ủng xoa chân.

Dương Lăng mở ủng ra, xoa chân cho lưu thông máu huyết, vừa định xỏ ủng vào, đột nhiên thấy vai mình bị người vỗ một cái. Vào nửa đêm, tuy nói trong cung đèn sáng trưng, nhưng cũng sợ hết hồn nhảy dựng lên. Dương Lăng khôn ngoan lắc người qua một chút. Nhìn người đó, y càng giật mình, không thể không kêu lên một tiếng.

Chương tám mươi tám Bốn bề gặp địch

------------------------

Dương Lăng bị vỗ vai giật thót cả người, y liền quay phắt đầu lại thì thấy Chu Hậu Chiếu mặc áo trắng mũ rơm đứng sau lưng. Dương Lăng ai chà một tiếng rồi vội vàng xỏ ủng vào đứng lên, vừa mới định quì thì Chính Đức đỡ vai hắn rồi nói:

- Nhìn bộ dáng ngươi xem ra cũng mệt mỏi lắm rồi, thôi đừng quì nữa, hôm nay ta bị người ta quì lạy mệt lắm rồi, ngay bản thân cũng quì tới ê ẩm cả lưng.

Hắn uốn lưng vặn eo vài cái rồi bày ra vẻ mày ủ mày ê, Dương Lăng ở cạnh vị thái tử bình dị gần gũi, chưa từng có quan niệm tôn ti này tùy tiện quen rồi. Nhưng bây giờ Chu Hậu Chiếu đã là hoàng đế, thấy hoàng đế mà không thi lễ như vậy thì trong lòng y cũng thật sự hơi lo sợ bất an, chỉ là tay Chu Hậu Chiếu vẫn còn đặt trên vai hắn, Dương Lăng cũng không tiện tránh ra.

Dương Lăng đành phải cười khổ nói:

- Thần vừa đi tuần tra các cung điện xong. Hoàng Thượng, bây giờ ngài đã là cửu ngũ chí tôn, cách xưng hô cũng nên sửa lại đi thôi.

Chu Hậu Chiếu cười khổ một chút nói:

- Ta... trẫm còn chưa quen lắm, dù sao không có các loại quan lại trước mặt, ngươi và ta vẫn nên xưng hô như hồi ở Đông cung mới tốt.

Dương Lăng hỏi:

- Hoàng Thượng, ngài không phải ở chính điện Càn Thanh Cung để túc trực bên linh cữu tiên đế sao? Sao lại một mình tới đây?

Chu Hậu Chiếu khoát tay nói:

- Bị mấy người ở đó làm cho phiền muốn chết. Cả đám giống như đã thương lượng trước cùng nhau đóng kịch, cứ cách một lúc thì khóc lóc một hồi. Hoàn toàn là bắt ta tới chịu khổ, ta nhân dịp đi ngoài tranh thủ trốn tới đây.

Hắn hít mạnh một hơi, lưu luyến nhìn những vật trang trí quen thuộc trong Đông Noãn Các, nhẹ giọng thở dài nói:

- Nhớ phụ hoàng quá. Lúc vừa vào phòng, ta cảm giác phụ hoàng như vẫn còn ở đây, đang ở trong phòng phê tấu sớ, nhìn thấy ta đến liền vui vẻ bảo nội thị đem mứt trà, hoa quả tới...

Hắn vừa nói vừa rơm rớm nước mắt:

- Lúc còn bé, phụ hoàng ôm ta chính ở chỗ này, tự mình dạy ta viết chữ, dạy ta vẽ tranh, có khi người bận phê duyệt tấu sớ, bảo ta ở một bên luyện viết chữ. Nhớ có một lần ta thừa dịp ngài xuất cung liền cầm bút vẽ loạn xạ vào tấu sớ. Khi phụ hoàng trở về thấy thế đành phải cố ý lật cả nghiên mực, làm nhoè hết cả những bản sớ ấy mới giấu được triều thần. Tuy vậy cấp sự của sáu khoa cũng dâng mười mấy đạo tấu chương phê phán phụ hoàng.

Chu Hậu Chiếu nói đến xuất thần:

- Có một lần, ta làm phụ hoàng cực kỳ tức giận, người phạt ta chép Tam Tự kinh ba mươi lần. Ta chỉ chép được hai lần đã chán chết, sau đó bảo mấy tên thái giám biết chữ như Lưu Cẩn, Trương Vĩnh giúp ta. Họ kiên trì giúp ta chép phạt, tuy ta biết phụ hoàng nhất định nhìn ra được nhưng ngài vẫn ra vẻ chẳng biết gì cả mà tha cho ta. Bây giờ nhớ tới việc này ta thấy rất bứt rứt, ta chỉ mong phụ hoàng phạt ta thêm một lần, khi đó ta sẽ ngồi ngoan ngoãn bên cạnh ngài, chăm chú chép lại cho ngài xem.

Chu Hậu Chiếu nói mà lệ lã chã rơi, Dương Lăng nghe xong thầm cảm động. Từ xưa tới nay, cha con anh em trong hoàng thất luôn lục đục với nhau, có được tình cảm cha con sâu nặng như vậy liệu được mấy người?

Chu Hậu Chiếu nói đến đây thì nhếch miệng cười:

- Ta quỳ trên đại điện làm theo chỉ bảo của nội thị như một con rối, lúc cần thắp hương thì thắp hương, lúc cần dập đầu thì dập đầu, cần khóc thì mới có thể khóc. Ta cũng không biết đấy là tưởng niệm tiên đế hay là diễn cho ai xem, làm cho ta chóng mặt nhức đầu, cả người lờ đờ, đã thế có kẻ còn ra vẻ khóc thương tâm hơn người khác, làm ta bực mình muốn chết.

Dương Lăng thầm nghĩ mấy lễ nghi phô trương như vậy vốn chính là để cho người khác nhìn, nói lại thì cũng khó trách tiểu hoàng đế luôn luôn miệt thị lễ nghi này không quen chứng kiến. Y động tâm nói:

- Hoàng Thượng, ngài muốn tưởng niệm tiên đế mà lại không thích những lễ nghi phiền phức ấy vậy không bằng tối nay ở chỗ này chép sách, chép Tam Tự kinh thành ba mươi bản để tiên đế ở trên trời có linh thiêng chứng giám cho lòng ngài. Dùng cách này để thương tiếc tiên đế chẳng phải còn hơn ở trên đại điện ba quì chín lạy sao.

Chu Hậu Chiếu nghe vậy rất vui vẻ, khen rằng:

- Nói rất đúng, ta chép lại những bản sách do phụ hoàng mấy năm trước phạt chép, phụ hoàng trên trời có linh, thấy ta thật tình ăn năn thì người nhất định sẽ rất vui.

Lập tức Chu Hậu Chiếu xoa tay xoa chân, ngồi vào long án, lúc này trên long án cũng trải một tầng khăn trắng. Dương Lăng lấy từ chiếc bình sứ bên cạnh chiếc án ra một tờ giấy trải ra, dùng cái chặn giấy bằng thuý ngọc đè xuống, nhè nhẹ mài nghiên mực.

Chu Hậu Chiếu vừa đặt bút xuống lại nhìn thấy Dương Lăng đứng cạnh án, nhân tiện nói:

- Ngươi cũng lấy ghế ngồi xuống đi. Ta biết ngươi đi tuần các cung điện nhất định còn mệt hơn ta nhiều.

Thấy Dương Lăng lắc đầu không chịu, Chu Hậu Chiếu lại nói:

- Ngồi đi, bất tất phải câu nệ lễ thần tử. Bây giờ phụ hoàng đã đi rồi, người mà trẫm có thể nói những lời tri kỷ cũng chỉ có mình ngươi thôi. Từ lần đầu thấy ngươi thì ta đã cảm giác ngươi khác hẳn người thường. Khi ngươi nhìn ta, ngươi không có ý sợ hãi, không có ánh mắt lấy lòng như người khác. Ta thích loại cảm giác như người bình thường này. Ngươi nên ngồi đi, vừa mài mực vừa nói chuyện với ta.

Dương Lăng nghe hắn nói như vậy liền nhìn một vòng quanh điện không có ai khác thì lúc này mới đáp ứng, kéo ghế ngồi bên cạnh Chính Đức. Chính Đức chăm chú viết những chữ bách gia chư tử, Dương Lăng đứng một bên mài mực, cẩn thận vô cùng. Chính Đức xem ra viết chữ cũng rất đẹp.

Chu Hậu Chiếu bốn chữ một câu, viết tới ‘Phong bảo sử đường’ thì đột nhiên dừng lại. Hắn nhìn lại một chút, rồi dường như nhớ tới việc gì, ngẩng đầu nói với Dương Lăng:

- À, đến bây giờ ta mới nhớ, Đường cô nương ở trong phủ của ngươi có vui không?

Dương Lăng thấy hắn nhìn chữ Đường rồi ngẩn người ra thì đã cảm thấy không ổn, lúc này lại nghe hắn hỏi, trong lòng không khỏi loạn lên. Đã nhiều ngày nay Chính Đức vẫn không hỏi gì y, tuy nhiên bây giờ xem ra không thể gạt được rồi. Dương Lăng đành phải kiên trì đem việc Bào phó tướng giết người diệt khẩu, rồi việc Đường Nhất Tiên sinh tử chưa rõ nói với Chính Đức.

Chính Đức nghe xong thất vọng nhìn chữ Đường hồi lâu mà không nói gì, ánh mắt mờ đi, xem ra rất buồn khổ. Dương Lăng nhớ tới cảnh ngày đó mình suất binh tìm tới vách núi chỉ thấy chuôi đao đầy máu tươi, lại nhớ tới mới đầu ở hoa quán gặp được nữ hài nhi khéo léo, có nụ cười ngọt ngào tươi tắn, nhất thời trong lòng cũng đau lòng đến nói không nên lời. Hai người cứ như vậy ngây ngốc ngồi đó, chỉ nghe tiếng hoa đèn nổ lách tách.

Chu Hậu Chiếu chỉ là thiếu niên mười lăm tuổi, khi gặp Đường Nhất Tiên lần đầu thì sinh ra hảo cảm và tình cảm mông lung nhưng vẫn chưa tới mức sâu sắc không thể dứt bỏ. Cho dù vậy thì đó cũng là cô gái đầu tiên mà hắn thích. Hôm nay hoàng đế Hoằng Trị băng hà, tâm tình hắn vốn đã bi thương tới cực điểm lại nghe được tin tức này, trong lòng càng thêm mất mát.

Hắn cũng không hề giận cá chém thớt lên Dương Lăng, chỉ ngây ngốc suy nghĩ hồi lâu. Nét mặt Chu Hậu Chiếu đột nhiên hiện lên một sát khí lạnh lùng, cười lạnh nói:

- Đường cô nương trọng thương rơi xuống vách núi! Bào Tận Thẩm... Lưu Sĩ Dung... Bào… Tận… Thẩm, được, tốt lắm, ta nhớ rồi....

Chu Hậu Chiếu cầm bút thật chặt, dùng sức nhấn xuống, cây bút lông sói cán gỗ lim được cung cấp đặc biệt cho hoàng cung nhấn thẳng xuống giấy. Ngay lúc này, cánh cửa điện chợt kêu rầm một tiếng, một đám người tràn vào, lập tức một thanh âm già nua khàn khàn lớn tiếng kêu lên:

- Hoàng Thượng..., ngươi... ngươi lớn mật!

Dương Lăng giật bắn cả người,tự hỏi người nào lớn mật dám mắng Hoàng Thượng như vậy? Y nhảy dựng lên nhìn ra ngoài, đã thấy tám chín đại thần mặc đồ tang đứng trước mặt. Ba vị đại học sĩ Lưu Kiện, Tạ Thiên, Lý Đông Dương cũng có trong đó, dẫn đầu là vị lão đại nhân tóc bạc râu trắng, tuổi già sức yếu, mặt đỏ rực đang trợn mắt nhìn y.

Dương Lăng lúc này mới giật mình. Vừa rồi y cùng với Chính Đức ngồi sóng vai, Chu Hậu Chiếu không quan tâm gì tới tôn ty thì không sao, nhưng các thần tử khác mà thấy sẽ nghĩ gì? Chính Đức ngẩng đầu lên nhìn thấy vẻ mặt Vương Quỳnh, vô tình nói:

- Vương thượng thư hà tất phải kinh sợ, là ta... là trẫm muốn y ngồi cạnh. Tiên đế kính trọng chư vị cựu thần, lúc trò chuyện riêng cũng cho ngồi, cho hầu trà thì trẫm sao không thể đối xử với thần tử như thế?

Chư vị đại thần Lục Bộ Cửu Khanh thấy Dương Lăng vô lễ như thế, dám kề vai ngồi cạnh hoàng đế thì ai nấy vừa sợ vừa giận. Chu Hậu Chiếu tuy dựa vào mấy việc trước kia của tiên đế mà muốn bịt miệng họ nhưng Dương Lăng thì sao có thể so được với cựu thần của Hoằng Trị chứ. Huống hồ những cựu thần ấy dù được ban cho ghế ngồi, cũng không ai dám kề vai ngồi cạnh Hoằng Trị.

Vương Quỳnh bình sinh rất trọng lễ giáo, vẫn phẫn nộ nói:

- Hoàng Thượng ban ghế, đó là long ân của Hoàng Thượng. Nhưng làm thần tử mà sóng vai ngồi ngang hàng với Hoàng Thượng thì đó là tội khi quân phạm thuợng, làm trái cương thường, quả thật như cầm thú!

Sao chỉ nói vài câu mà ta đã biến thành cầm thú rồi? Dương Lăng nghe thế không hiểu ra sao cả, trong lòng cũng hơi giận. Nhưng nhìn vị lão đại nhân tóc trắng xoá, tuổi đủ để làm ông nội y nên y đành phải nén giận nhẫn nhịn.

Hoàng đế Chính Đức bực mình hỏi:

- Vương thượng thư, ngươi rốt cuộc có chuyện gì mà tới đây tìm trẫm?

Hắn vừa hỏi, lập tức nhắc Vương Quỳnh nhớ ra. Vương thượng thư trừng mắt nhìn Dương Lăng, xoay người bái Chính Đức nói:

- Hoàng Thượng, lão thần xin mời Hoàng Thượng di giá tới chính điện Càn Thanh Cung để túc trực bên linh cữu bệ hạ.

Chính Đức chau mày nói:

- Chính điện Càn Thanh Cung nhiều người ầm ĩ, trẫm thật sự rất khó chịu. Mấy năm trước tiên đế từng ở đây tự mình dạy trẫm đọc sách viết chữ. Đêm nay trẫm muốn ở đây soạn văn chương, để tỏ lòng thương tiếc tiên đế.

Vương Quỳnh nghe xong giật mình biến sắc, bối rối nói:

- Hoàng Thượng, làm con phải tận hiếu. Vô luận là thiên tử hay thứ dân, đều phải tận tâm tận lễ. Đại sự của tiên đế, Hoàng Thượng phải dẫn đầu văn võ bá quan túc trực bên linh cữu tiên đế, đây là di chế của thánh nhân, gia pháp của tổ tông, sao có thể bỏ được? Hoàng Thượng ở đây nghĩ tới tiên đế, tuy thật sự có dụng tâm, nhưng không hợp lễ. Thần xin Hoàng Thượng lập tức tới Càn Thanh Cung túc trực bên linh cữu, thái hậu, công hầu và các quan lại đều chờ Hoàng Thượng tới.

Chính Đức cả giận nói:

- Việc trẫm thương tiếc tiên đế, tự sẽ có chủ ý của trẫm. Các ngươi đi trước đi.

Vương Quỳnh giận dữ đứng dậy, sải bước già lên vài bước, chắp tay thi lễ nói:

- Hoàng Thượng là thiên tử, một lời sẽ làm gương cho người trong thiên hạ, sao có thể tự mình sửa lễ chế chứ?

Lão liếc mắt nhìn thấy mấy chữ Chính Đức viết, tuy đã được che đi, vẫn nhận ra là thiên Bách Gia Tính, trong lòng càng giận dữ. Lão chỉ vào tấm giấy còn ướt mực nói:

- Những văn tự này mà liên quan gì tới thương tiếc tiên đế à?

Những gì liên quan tới thánh nhân lễ chế, Vương Quỳnh nhất định sẽ không chịu thỏa hiệp với Chính Đức, ngữ khí lập tức trở nên hùng hổ. Lão là thượng thư bộ Lễ, chủ trì lo việc đại lễ tang ma Hoằng Trị. Những gì về chuyện này, dù là ba vị đại học sĩ như Lưu Kiện cũng phải nghe lão. Đám Lục Bộ Cửu Khanh đứng bên cạnh tuy không nói một lời, nhưng thần thái sắc mặt hiển nhiên cùng ý kiến với lão.

Dương Lăng thấy cựu thần hùng hổ như vậy, khiến cho Chính Đức thập phần khó chịu, lại muốn phát tác cơn giận của tiểu hài tử, vội hỏi:

- Vương Đại nhân, Hoàng Thượng tưởng niệm tiên đế, bởi vậy mới đến nơi tiên đế sống. Nhìn vật nghĩ tới người, cũng không có gì phạm vào hiếu tâm với người đã khuất. Đại nhân nên về đại điện trước, đợi Hoàng Thượng viết xong thiên văn chương này, sẽ lên điện túc trực bên linh cữu thôi.

Vương Quỳnh nghe xong những lời đại nghịch bất đạo với tiên đế như vậy, không khỏi giận tím mặt. Lão chụp lấy nghiên mực trên bàn ném về phía Dương Lăng, miệng phẫn nộ quát:

- Ngươi là nịnh thần tặc tử, trước dám ngồi với hoàng đế, mục vô quân thượng. Bây giờ thân là thần tử mà không tận tâm tận lực khuyên can Hoàng Thượng, còn muốn nói lời gièm pha, ở đây đâu tới lượt ngươi vung tay múa chân chứ?

Vương thượng thư chụp xuống, lôi cả xấp giấy ném lên, quẹt vào mặt Chính Đức. Tờ giấy chưa khô mực lập tức lưu lại trên mặt Chính Đức hai vệt màu đen. Dương Lăng lắc người né qua, nghiên mực đánh bộp vào cây trụ trên điện vỡ tan, mực bắn ra bốn phía.

Hoàng đế Chính Đức thấy Vương Quỳnh luôn mồm vua tôi phụ tử, nhưng bản thân lão lại làm vẻ như thế trước mặt hoàng đế, còn gì là giữ gìn lễ nghi vua tôi, hung dữ ngạo mạn hơn bất kỳ ai, không khỏi tức giận đến run cả người.

Hoằng Trị đối xử với thần tử rất dung túng hậu đãi. Ông khi nhỏ đã bơ vơ, làm người lại hơi mềm yếu. Thời gian lâm chính dài, đám cựu thần cũng quen rồi. Chỉ cần nói có lí, thì có thể trước mặt ông nói rất hùng hồn, trước giờ đều là nói thẳng không nể mặt. Huống chi bây giờ lại đối mặt với Chính Đức tiểu hoàng đế?

Tạ Thiên thấy Hoàng đế Chính Đức mặt tái nhợt, xem ra sắp phát tác rồi, vội vàng quỳ xuống nói:

- Xin Hoàng Thượng tuân thủ lễ nghi di chế, lập tức di giá tới Càn Thanh Cung.

Lão vừa quỳ, đám thần tử khác đều quỳ xuống, trăm miệng một lời nói:

- Xin Hoàng Thượng lập tức di giá!

Lục Bộ Cửu Khanh vừa quỳ xuống, thanh thế nhất thời ép cả Chính Đức, hắn cố nén tức giận, chỉ nói:

- Chúng khanh bình thân, trẫm... trẫm đi là được rồi.

Lưu Kiện thấy hắn chịu thua, trong lòng thầm thở phào nhẹ nhõm, không ngờ Chính Đức lập tức chỉ tay vào Vương Quỳnh, hỏi:

- Vương thượng thư, ngươi luôn mồm giảng cái gì vua tôi cha con vậy mà lúc này lại kiêu ngạo ngang bướng trước mặt trẫm như thế, có tính là thất lễ không?

Vương Quỳnh giật mình, nhìn thấy vết mực trên mặt Chính Đức, tự thấy vừa rồi mình vô cùng càn rỡ, đã thất lễ nghi quân thần rồi, lão liền quỳ xuống nói:

- Thần muôn lần đáng chết, nhất thời xúc động phẫn nộ, dám thất lễ trước mặt Hoàng Thượng, xin Hoàng Thượng trị tội.

Chính Đức cười lạnh một tiếng nói:

- Chỉ thất lễ số thôi à. Mực quẹt cả vào mặt trẫm, còn không phải là lỗi đại bất kính sao?

Vương Quỳnh ngẩng cao đầu, hiên ngang nói:

- Thần có tội, nguyện chịu sự trừng phạt của Hoàng Thượng, chỉ cần Hoàng Thượng lập tức di giá về Càn Thanh Cung, thần muôn lần chết cũng không dám chối từ!

Hoàng Đế Chính Đức lớn tiếng nói:

- Được, được lắm! Ngươi nhận tội là được rồi. Dương Lăng, lập tức bắt Vương Quỳnh vào thiên lao!

Các vị đại thần nghe thế tới tấp quỳ xuống cầu tình:

- Hoàng Thượng thứ tội, Vương thượng thư vô cùng trung thành, nhất thời nói năng vô lễ, xin bệ hạ khoan dung.

Dương Lăng cũng khuyên:

- Hoàng Thượng! Ngày đăng cơ là quan trọng, sao lại bắt giam đại thần trong triều chứ? Xin Hoàng Thượng đặc xá cho Vương đại nhân đi.

Vương Quỳnh nghe xong cười lạnh nói:

- Tên nịnh thần ngươi câm miệng. Lão thần bất kính với Hoàng Thượng nên chịu sự trừng phạt của Hoàng Thượng. Ngươi dựa vào sự sủng ái mà kiêu căng lại không theo lễ bầy tôi, đầu độc đế quân, sớm muộn gì cũng sẽ bị nghiêm trị!

Chính Đức nghe thế ngượng quá hóa giận, hắn đỏ mặt chỉ vào Dương Lăng giận dữ nói:

- Ngươi cũng không tuân ý chỉ của trẫm sao?

Dương Lăng thấy hắn giận dữ, không dám tiếp tục khuyên giải nữa, chỉ có nước quay sang sai mấy tên thị vệ áp giải Vương Quỳnh xuống dưới. Chính Đức lúc này mới hừ lạnh một tiếng, cũng không để ý tới quần thần, phất tay áo đi ra ngoài cửa phòng.

Chúng thần tới tấp đứng dậy, ánh mắt nhìn về phía Dương Lăng có rất nhiều vẻ phẫn nộ.

Lý Đông Dương nhìn Dương Lăng, trong lòng thầm nghĩ: “Lúc người này thân là thị độc nho nhỏ mà đã dám vạch trần việc quyền thần ngoại thích của tiên đế phạm pháp, hẳn phải là thần tử trung thành thẳng thắn mới đúng. Tại sao khi thiên tử càn rỡ như vậy, y thân là cận thần được Hoàng Thượng sủng tín mà không mở lời khuyên can, ngược lại lại dung túng như thế? Nếu nói y tham quyền thế mà a dua theo Hoàng Thượng thì chỉ bằng vào việc y vì thê tử mà chịu tội kháng chỉ chém đầu cho thấy y cũng không phải người như vậy, rốt cuộc thì người này có tâm tư gì đây?”

Lão cố ý chầm chập đứng dậy đi cuối cùng, đợi những quần thần khác đều đi hết, mới nói với Dương Lăng vẻ thâm trầm:

- Người làm quan phải cẩn thân tu đức, phải yêu dân, thường thường tự xét lại những việc đã qua. Ngươi được đế ân rất dày, phải nghĩ đến việc trung quân đền nợ nước, chớ có kiêu ngạo tuỳ hứng mà làm hỏng tiền đồ.

Dương Lăng bất lực nói:

- Lý Đại nhân, hạ quan nào dám làm vua mê hoặc? Chà! Bây giờ Hoàng Thượng đang nổi nóng, đợi sau khi hết nóng, tìm được cơ hội, hạ quan nhất định sẽ nói vài lời cho Vương Đại nhân. Đại nhân bất tất phải lo lắng. Chẳng lẽ đại nhân đã quên đại học sĩ cầm chùy truy đánh Thọ Ninh Hầu ở kim điện rồi sao? Có lệ này từ trước, việc Vương thượng thư ở tẩm cung cầm nghiên mực ném Dương tham tướng thì đã sao?

Lý Đông Dương nghe y nhắc tới việc mình cùng Thọ Ninh Hầu đại náo kim điện, không khỏi mỉm cười, liếc nhìn y thật sâu nói:

- Như thế là tốt! Thiếu niên đắc chí, càng nên cẩn thận khiêm nhường, trung quân đền nợ nước. Dương đại nhân ngàn vạn lần phải tránh mình khỏi cùng bọn với Thọ Ninh Hầu mới tốt.

Lý Đông Dương dứt lời xoay người bỏ đi. Dương Lăng ngó theo lão, nhớ tới vừa rồi chư vị đại nhân lục bộ cửu khanh nhìn mình phẫn nộ, không khỏi cười khổ một tiếng:

- Hôm nay hoàng đế Hoằng Trị băng hà, quả là thời gian xui xẻo với ta, đầu tiên là đắc tội với với bên ngoại của vua, bây giờ lại đắc tội với Nội Các. Ngoại trừ Hoàng Thượng Chính Đức thì chỉ sợ là mình gây thù hằn khắp nơi rồi, nguy cơ trùng điệp!

Dương Lăng đang muốn bỏ đi, thì có bóng người thoáng qua ở cửa, một người lao vào trong. Vừa vào cửa đã cười nịnh y:

- Dương đại nhân thật có bản lĩnh. Lão thất phu Vương Quỳnh cậy già lên mặt, khắp nơi vung tay múa chân. Lúc chúng ta còn hầu hạ Đông cung thì lão nhiều lần dâng tấu chương cho Hoàng Thượng nói chúng ta dụ dỗ Thái tử chơi đùa, làm hại chúng ta và bọn người Trương Vĩnh, Đại Dụng bị tiên đế trách mắng. Lúc này lão lại bị bắt vào đại lao, quả thật là hả lòng hả dạ rồi!

Dương Lăng chăm chú nhìn người đứng trước mắt mặt mày hớn hở, chính là Lưu Cẩn. Chương tám mươi chín Lưu Cẩn thảo luận chính sự

------------------------

Ngày mười tám tháng năm, hoàng đế Chính Đức thân chinh lên Thừa An Môn (tức Thiên An Môn) hạ chiếu thông báo khắp thiên hạ: tân đế lên ngôi.

Hoàng đế đặt chiếu chỉ tuyên bố nắm giữ triều chính vào miệng một con phượng hoàng ánh vàng rực rỡ, tự tay thắt dây lụa vàng vào lưng kim phượng. Chính tay thái giám thủ lĩnh Lễ Giám ty dòng kim phượng từ đầu thành xuống, những quan chức bộ Lễ quì trên mặt đất trước cổng thành, hai tay nâng quá đầu một chiếc khay vàng có trang trí đám mây tiếp chỉ. Sau đó các quan viên phóng ngựa đưa đến bộ Lễ sao chép rồi đóng dấu, bố cáo khắp thiên hạ. Chính Đức chính thức trở thành thiên tử Đại Minh. Thủ tục ban chiếu đó gọi là ”Kim phượng ban chiếu”.

Sau đó hoàng đế Chính Đức được bá quan vây quanh trở về điện Kim Loan, ngồi lên ngai vàng để các quan bái lạy. Lúc này hạ sử (sứ giả đến chúc mừng) và hạ nghi (lễ vật) của các Phiên Vương cùng bốn nước chư hầu vẫn còn trên đường đi.

Chính Đức vừa lên ngôi nắm triều chính, lập tức tuyên bố ba đạo thánh chỉ. Các bộ, các địa phương phải lập tức chấp hành tuyệt đối.

Đạo thánh chỉ thứ nhất đã được chuẩn bị từ trước bởi Vương Quỳnh, thượng thư bộ Lễ, tổng chỉ huy nghi thức tang lễ, người mà vua cũ mới mất một ngày đã bị giam vào đại lao: ”Đạt thiên minh đạo thuần thành trung chính thánh văn thần vũ chí nhân đại đức kính hoàng đế (nghĩa là vị hoàng đế đại nhân đại đức, thánh văn thần võ, thuần thành trung chính sáng rõ như trời) Hiếu Tông đã về trời, tổ chức quốc tang trên cả nước.”

Toàn thể thần dân phải để tang, mũ viền vải trắng. Sau khi dự đại lễ tân đế lên ngôi, các quan vẫn phải để tang, không được đi ủng mà phải đi giầy rơm, bỏ hai cái cánh chuồn ở mũ sa để treo hai dải băng trắng rủ xuống.

Các chùa chiền to nhỏ cùng đánh vạn tiếng chuông, ngày đêm không dứt. Trong vòng ba ngày, các quan viên từ tứ phẩm trở lên phải từng nhóm một tiến về Càn Thanh Cung cử hành việc đưa linh, ai ai cũng phải khóc than mười lăm lần, do viên ngoại lang bộ Lễ chỉ huy. Cùng một lúc tất cả người tham gia phải than lạy nhịp nhàng theo lệnh, khóc cùng khóc, dừng cùng dừng, khiến cho Càn Thanh Cung trở nên như đang diễn tấu nhạc giao hưởng.

Đạo thánh chỉ thứ hai là do hoàng đế Chính Đức và ba vị đại học sĩ cùng Cửu Khanh của sáu Bộ trao đổi mặc cả khá lâu, cuối cùng trong tình huống không chống nổi sự uy hiếp của Hoàng đế mới thông qua. Chiếu chỉ hạ lệnh cho tả thị lang bộ Lễ Lý Kiệt, giám phó của Khâm Thiên Giám là Nghê Khiêm, thái giám của Lễ Giám ty là Đới Nghĩa, tả thị lang bộ Công Lý Đạc, tham tướng Tả Tiêu quân của Thần Cơ doanh Dương Lăng cùng đôn đốc giám sát xây dựng Thái Lăng cho hoàng đế Hoằng Trị.

Mặc dù bị hoàng đế Chính Đức ép nên đám nội các đại học sĩ phải đưa Dương Lăng vào nhóm các quan viên phụ trách đôn đốc xây Đế Lăng, nhưng bọn họ lại cố ý nhét y vào cuối danh sách. Ngược lại, vốn chẳng có chí khí gì lớn (thật sự rất có lỗi với rất nhiều khổ tâm thu vén cho y của hoàng đế Chính Đức), Dương Lăng hoàn toàn chẳng để tâm đến việc này.

Đối với người khác thì việc đôn đốc xây Đế Lăng chẳng những là một công việc vô cùng quang vinh mà còn sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho con đường làm quan sau này. Nhưng Dương Lăng lại chỉ ước gì mình được chỉ huy chút đỉnh gì đó, chỉ cần chạy loanh quanh dãn chân, dãn cẳng là tốt nhất. Muốn y mỗi ngày phải chủ trì đại lễ, phải bôn ba trong nghĩa trang, không nói y không có năng lực làm việc này, mà chính từ đáy lòng y cũng chẳng hứng thú gì.

Đám Đại học sĩ muốn làm khó dễ y nhưng lại thành ra giúp đỡ y. Bây giờ Dương Lăng chỉ chịu trách nhiệm chỉ huy trên vạn quan binh cung dịch từ tam đại doanh trong Ngũ Quân Đô Đốc Phủ điều tới. Khi đám nhân viên này vừa đến, bộ Lễ, bộ Công, Khâm Thiên Giám đã bắt đầu vung tay múa chân, Dương Lăng gần như thành người thừa. Người ta không muốn gặp y, y cũng không cần phải có mặt mỗi ngày, thành ra lại tiêu diêu tự tại vô cùng vui vẻ.

Đạo chiếu chỉ thứ ba của hoàng đế Chính Đức là vung đao giết người. Hắn mang hết toàn bộ uất ức với đám quan văn giáng xuống một đám quỉ xui xẻo. Vì hoàng đế Hiếu Tông vừa uống thuốc xong lại đột nhiên chảy máu không ngừng rồi thăng luôn, những người hầu hạ hoàng đế Hiếu Tông uống thuốc là thái giám Trương Du, Viện phán của Thái Y viện Lưu Văn Thái, ngự y Cao Đình Hòa đều bị xử trảm. Cách chức Thái Y viện của Sứ Thi Khâm, còn thiếu khanh Thái Thường Tự là Lý Tông Chu và các quan chức liên quan đều bị biếm ra quan ngoại.

Một việc khiến quần thần không hiểu ra sao cả chính là việc phó tham tướng Thần Cơ doanh Bào Tận Thẩm, quan đô ty Lưu Sĩ Dung, Thải Bạn quan (quan thu mua) Bào Tận Trung và trên mười tên võ tướng lớn nhỏ liên quan cũng bị lôi ra trước chợ chém đầu. Bào tham tướng và Lưu đô ty bị áp giải từ thiên lao, còn Bào Tận Trung thì lại được người của Cẩm Y Vệ đưa tới. Khi Giám Trảm quan kiểm tra, chứng thực nhân thân của hắn thì lão vô cùng kinh hãi.

Quả thực Tiền Ninh rất quan tâm tới Bào Tận Trung nên gã không dùng những hình phạt như kéo ruột, tôi luyện, huyền tích (treo xương sống lên), oan tất (đục vỡ đầu gối), xoát tẩy (cọ rửa) với hắn, nhưng hắn cũng đã bị đánh đập thê thảm tới mức không còn nhân dạng, ngay cả đường huynh (anh họ) Bào tham tướng cũng không nhận ra hắn.

Đến lúc chém, những phạm nhân trên pháp trường ai nấy đều mặt cắt không còn chút máu, chỉ có Bào thải bạn thì lại vô cùng khẳng khái nhanh chóng đưa cổ chờ đao, lập tức được dân chúng vây xem ồ lên ủng hộ.

Miêu Quỳ phụng mật chỉ của Tiên đế bí mật tra tìm những kẻ mua súng ống cùng đạn dược, xem rốt cuộc đó là vị Phiên Vương nào. Việc này quan hệ trọng đại, hoàng đế Hoằng Trị dặn lão nếu chưa điều tra được rõ ràng thì đừng vội thông báo với Chu Hậu Chiếu, do đó Chính Đức hoàn toàn không biết gì về việc này.

Đến khi Miêu Quỳ nghe thấy chiếu chỉ của hoàng đế Chính Đức được ban bố một cách đột ngột thì lập tức phi ngựa tới pháp trường muốn hô to ”Đao hạ lưu nhân”. Đáng tiếc khi lão tới nơi thì chỉ kịp nhìn thấy thân quyến của những người chết đang khâm liệm thi thể, chuẩn bị đem đi mai táng rồi.

********

Vua mới lên ngôi, quốc sự nặng nề, ba vị đại học sĩ bận tới mức không thể giải quyết hết việc. Họ cũng không hề quên đồng liêu đang bị giam ở thiên lao, nhưng dù họ nhiều lần cầu khẩn hoàng đế Chính Đức đặc xá tội bất kính cho Vương Quỳnh, nhưng Chính Đức lại hoàn toàn không thèm để ý.

Có chư vị đại nhân Lục Bộ Cửu Khanh chiếu cố, Vương lão thượng thư không hề chịu khổ sở gì trong ngục tối, nhưng một vị cựu thần mà bị giam trong ngục hơn mười ngày như vậy, khó tránh khỏi việc đám triều thần cũng nhao nhao bàn luận. Họ không dám phỉ báng hoàng đế nhưng không khỏi giận chó đánh mèo, căm ghét Dương Lăng ra mặt. Phần lớn đám quan văn gặp Dương Lăng đều lạnh mặt làm ngơ, khiến cho Dương Lăng cảm thấy rất xấu hổ.

Thật ra Dương Lăng cũng có nói giúp cho Vương Quỳnh nhiều lần. Chỉ là Chính Đức vừa nghĩ tới việc lão gia hỏa đó hung hăng trước mặt mình, phun cả nước bọt vào mặt mình, điệu bộ cực kỳ kiêu ngạo làm cho hắn cực kỳ căm hận, nên hắn rắp tâm muốn dạy cho lão một bài học. Vì vậy, cho dù Dương Lăng cầu xin cũng không được hắn xem xét.

Lúc này, Ngự Mã Giám vừa mới phụng chỉ tiếp quản hoàng cung, Dương Lăng cùng Miêu Quỳ bàn giao cung cấm. Sau khi để năm trăm thân vệ tạm ở lại hoàng cung, những quan binh khác lập tức được cử tới Thái Lăng đôn đốc việc xây dựng hoàng lăng. Tất cả mọi việc xử lý xong xuôi, Dương Lăng chạy về Càn Thanh Cung. Vừa mới đi đến cửa điện, y đã thấy hai vị đại nhân Vương Ngao, Dương Phương từ trong cung mặt mũi nặng chịch đi tới.

Dương Lăng thấy vậy vội dừng chân chắp tay thi lễ. Hai người thấy Dương Lăng làm vậy cũng không thèm để ý tới, chỉ cười lạnh một tiếng rồi phẩy tay áo bỏ đi. Dương Lăng biết những người đối xử với mình như vậy đều là những đại thần thẳng thắn trung trinh, do ma xui quỷ khiến thế nào mà họ lại cho mình là kẻ gian nịnh. Y chỉ có thể lắc đầu cười khổ, bước vào đại điện.

Tiểu hoàng đế đang lẩm bẩm đọc, phê các bản sớ, duyệt xong là tiện tay vứt sang một bên. Lưu Cẩn cắp phất trần đứng hầu bên cạnh. Lão vừa nhìn thấy Dương Lăng liền khẽ cười, đưa tay lên muốn chào hỏi.

Mấy ngày nay ở gần với nhau đã quen, Dương Lăng cũng biết tiểu hoàng đế cực kỳ hiền hoà, bởi vậy y ra hiệu cho Lưu Cẩn im lặng, rồi lặng lẽ đi tới bên người Chính Đức.

Trong những bản tấu đã được phê đang được đặt ở trên bàn, Dương Lăng thấy một bản phê rằng:

- Tiền khuyến học cũng cần thiết. Thế nhưng muốn sao chép mọi thứ từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế tới nay à? Nếu e thừa quá nhiều giấy mực, cứ đưa bớt cho trẫm.

Một bản khác thì viết:

- Những việc nhỏ như thế này thì quan viên địa phương có thể làm. Nếu cái gì cũng cần trẫm phê duyệt, vậy các ngươi để làm gì?

Dương Lăng nhìn bản tấu chương này thấy đầy những chữ cực nhỏ dày đặc. Y đã biết cho dù là tấu chương của ai viết đi nữa, những dòng đầu cũng đều chỉ nói vài lời vấn an ca ngợi khách sáo, gần như có thể bỏ qua không cần xem nên y vội liếc xuống phía dưới. Trong bản tấu chương viết đại ý là ở khu Bách Việt, có dân chúng lấy lúa nước của An Nam lai tạo với lúa của ta, sản xuất ra một loại gạo mới, có thể chịu hạn, chống côn trùng tốt hơn, sản lượng cũng tăng lên, xin Hoàng Thượng cho nhân giống, phát triển.

Dương Lăng đọc xong tấu chương đó, vội hỏi:

- Hoàng Thượng! Dân lấy ăn mặc là quan trọng, nếu giống gạo mới có thể tăng sản lượng, dù chỉ là một mẫu tăng mười cân, thì phần tăng thêm trên đồng ruộng cả nước đâu chỉ là ức vạn? Hoàng Thượng không nên xem thường.

Chính Đức vừa quay đầu lại, nhìn thấy là y bèn vui vẻ nói:

- Ngươi trở lại rồi à! Trẫm đang muốn bảo người đi tìm ngươi. Trẫm muốn lưu Tả Tiêu quân của ngươi ở kinh sư, đám đại học sĩ không chịu. Lưu Cẩn đưa ra một ý rất hay: xung quanh kinh sư qui hoạch một ngự trang bảy tòa, nhân mã của ngươi nhậm chức thị vệ thân quân cho trẫm, đóng quân trong ngự trang. Ha ha, sau đó họ không dám nói gì nữa.

Dương Lăng nghe xong không khỏi cả kinh. Chẳng phải làm như vậy thì mình sẽ càng trở thành mục tiêu công kích sao? Quy hoạch ngự trang, dân chúng trong ngự trang sẽ nộp thuế ruộng cao hơn dân chúng bình thường vài phần. Dân chúng khổ không nói ra được, phần tội lỗi này cũng sẽ đổ lên đầu mình rồi.

Y không khỏi tức giận liếc mắt nhìn Lưu Cẩn. Lưu Cẩn đứng bên cạnh Chính Đức với vẻ mặt vô cùng đắc ý, còn cảm thấy mình đã làm một việc rất tốt cho Dương Lăng. Lão vui vẻ xem cái liếc mắt của Dương Lăng là cái nhìn cảm ơn của Uy Vũ Bá.

Dương Lăng không khỏi thở dài, bỏ qua không nói về việc này nữa, y quay sang bản tấu chương:

- Hoàng Thượng! Hẳn là nên giao bản tấu chương này cho ba vị đại học sĩ bàn bạc một chút. Gạo đã kháng côn trùng, chống hạn tốt lại có thể tăng sản lượng, thật rất có lợi cho dân chúng Đại Minh. Bệ hạ nên giao cho một địa phương nào đó trồng thí nghiệm, nếu thật sự hiệu quả như vậy, sẽ nhân rộng ra. Dân chúng nhận được ơn huệ, ai mà không cảm động ân đức của Hoàng Thượng chứ?

Y thấy Chính Đức nghe mà không để tâm lắm, không khỏi linh cơ máy động, nói luôn:

- Nếu gạo này thật sự hiệu quả, vậy là tuệ nhãn của Hoàng Thượng rất cao. Lúc đó thần xin dùng niên hiệu của Hoàng Thượng mà đặt tên, gọi là ”gạo Chính Đức”, như thế sẽ thiên thu muôn đời ai ai cũng đều nhớ tới Hoàng Thượng.

Y vừa nói như vậy, quả nhiên khiến Chính Đức cao hứng. Hắn vui vẻ phán:

- Dương khanh nói có lý. Cứ như vậy đi! Những quan lại địa phương tự mình thí nghiệm loại này. Mỗi nhà không được ít hơn hai mẫu. Khi có kết quả khả quan sẽ nhân rộng ra.

Hắn vội vàng lấy lại bản tấu chương đó, viết lại ý kiến phúc đáp lên, rồi bảo tên tiểu thái giám bên cạnh:

- Lập tức đưa cho đại học sĩ duyệt rồi làm việc.

Chuyện này đã gợi lại chuyện vẫn trĩu nặng trong lòng Dương Lăng. Y nhớ lúc mình còn ở Kê Minh dịch, Hàn Lâm từng có mấy củ khoai lạ, người phương bắc đều rất quí trọng nó. Bây giờ đã là tháng năm rồi, rốt cuộc hiệu quả của giống lúa mới như thế nào, e rằng phải qua năm sau mới biết được. Trong khi đó mình biết mấy thứ khoai lạ nhất định sẽ cho sản lượng lớn. Lưu Cẩn khuyên hoàng đế mở ngự trang tuy là một chuyện xấu, nhưng nếu ta có thể thuyết phục Hoàng đế đồng ý nhân giống loại cây đó bên trong ngự trang thì khi mọi người đều biết chỗ tốt của nó, đương nhiên dân chúng sẽ tích cực ủng hộ. Kinh sư là căn bản của thiên hạ, dân chúng nơi đây đã trồng loại lương thực này thì chẳng bao lâu loại cây này sẽ được phổ biến khắp cả thiên hạ.

Dương Lăng càng nghĩ càng cao hứng, nhưng tính toán mãi mà chưa biết làm sao mở lời. Lưu Cẩn cười nói:

- Dương đại nhân! Đội quân của ngài cư trú ở kinh thành, chúng ta có thể thường xuyên gặp nhau trước mặt bệ hạ rồi. Ha ha, vừa rồi hai người Dương Phương, Vương Ngao cầm tấu chương về việc Tín Dương lũ lụt tới gặp Hoàng Thượng, nghe nói Hoàng Thượng muốn qui hoạch một ngự trang để cho ngài đóng ở kinh thành, cả hai còn đưa lời gièm pha ngăn cản nữa.

Dương Lăng biết đây là Lưu Cẩn muốn tốt cho mình, nhưng vừa nghe chuyện Tín Dương lũ lụt, còn có người dâng lên tấu chương, y không khỏi giật mình. Đã bao nhiêu ngày qua rồi mà triều đình vẫn còn chưa xử lý, nếu có người chết đói thật, chẳng phải dồn ép dân chúng tạo phản sao? Y vội vàng truy vấn:

- Sao vẫn còn chưa phát chẩn lương thực cứu trợ nạn nhân ở Tín Dương thế?

Chính Đức trả lời:

- Lưu đại học sĩ đã hạ lệnh phân phối thuế ruộng để cứu tế rồi, nhưng bọn hắn lòng tham không đáy, còn muốn trẫm miễn thêm cho Tín Dương ba năm thuế ruộng. Lũ lụt thôi, là đại nạn nhất thời thôi, lũ lui thì đâu có sao, cũng chẳng có gì to tát, cần gì phải miễn ba năm thuế ruộng chứ? Ta vừa rồi suýt nữa bị đám đó khóc lóc nỉ non lừa bịp, may mà có Lưu Cẩn nhắc nhở, mới không mắc bẫy họ.

Dương Lăng cảm thấy hơi không ổn, vội tâu:

- Hoàng Thượng! Hà Nam lắm tai nhiều nạn, dân chúng phần lớn không còn lương thực dư thừa, việc cứu tế chỉ giải quyết việc đói lạnh nhất thời cho họ mà thôi. Huống hồ sau lũ tất có ôn dịch, dân chúng đã túng lại nghèo, rất vất vả mới qua khỏi. Nếu có thể giảm miễn một vài thứ thuế ruộng để dân chúng còn tia hi vọng, nghỉ ngơi lấy lại sức, với nước với dân đều là chuyện tốt mà.

Mặt Lưu Cẩn hơi lộ vẻ bực bội, lão đáp:

- Dương đại nhân có lòng nhân hậu, thương cho dân chúng. Nhưng những quan chức làm tổn hại triều đình, lấy lòng địa phương thật sự không ít đâu. Một khi đã làm một lần, sau này chẳng biết sẽ có bao nhiêu quan chức nhân dịp thiên tai tới xin Hoàng Thượng miễn này miễn kia, như vậy triều đình chẳng còn thuế má gì cả à?

Chính Đức vừa nghe xong gật đầu nói ngay:

- Đúng rồi, đúng rồi! Lưu Cẩn nói có lý. Ta thấy bọn hắn báo cáo rất quá đáng, một lần lũ lụt là lũ lụt cả ngàn dặm được sao? Không thể dung túng cho bọn họ.

Lưu Cẩn lại nói tiếp:

- Trước giờ vẫn không có một quy chế nào về việc triều đình kiểm tra thuế ruộng tại địa phương, việc điều tra cũng không cẩn thận. Trong kho của phủ họ có tiền có lương thực, họ cũng vẫn cứ lên triều đình khóc than. Hoàng Thượng tuổi nhỏ, không thể nào để đám bầy tôi đó che mắt. Lão nô đề nghị Hoàng Thượng thiết lập quy định, hàng năm đều phải phái người tuần tra việc thu thuế ruộng các nơi, tự mình phải có tính toán mới không bị các quan lừa.

Dương Lăng kinh ngạc liếc nhìn lão, y không nghĩ tới tên Lưu Cẩn dốt nát, chỉ biết hại người này còn có cả những ý kiến sâu sắc như thế. Đời nay thông tin phát triển, quy định kiện toàn mà còn phải có những cơ quan kiểm toán hàng năm đi thẩm tra các nơi. Đại Minh lúc này giao thông không tiện, tin tức tắc nghẽn, nếu không tăng cường quản lý tài chính các nơi thì rất bất lợi cho triều đình.

Nhưng chuyện tốt này nếu chỉ cắt cử bọn thái giám nội quan đi chấp hành, chỉ sợ bọn họ ngoài mặt lấy lòng hoàng đế, bên trong thì trung gian kiếm lời bỏ phần lớn vào túi riêng. Lúc đó lại xuất hiện một đám chuyên lột da, vơ vét, chuyện tốt cũng thành chuyện xấu. Dương Lăng vội bổ sung:

- Chủ ý này rất tốt, phải tăng cường việc khống chế của triều đình với địa phương mới có lợi. Hoàng Thượng nên bảo bộ Hộ định ra quy tắc, để họ hàng năm phái người đi chấp hành.

Lưu Cẩn thấy y đồng ý với mình, lập tức mặt đỏ lên. Lúc này lão còn chưa nghĩ tới việc mưu tìm lợi lộc gì, chỉ muốn đứng trước mặt hoàng thượng khoe khoang bản lĩnh một chút. Dương Lăng là cận thần thiên tử, là Uy Vũ Bá, thi thư giỏi hơn lão vốn chỉ vò vè vài chữ không biết bao nhiêu lần. Thấy Dương Lăng tán thành quan điểm của mình, Lưu Cẩn chợt phát hiện mình không phải chỉ là người hầu hạ kẻ khác, hóa ra mình cũng có bản lĩnh thực sự.

Lão nhất thời cao hứng, lập tức đĩnh đạc tâu:

- Nô tài còn nghĩ rằng Dương Phương, Vương Ngao tỏ vẻ tận tâm cho Tín Dương như thế, là bởi vì bọn họ là quan chức gốc Tín Dương nên thiên vị quê nhà. Quan chức trong triều mà còn như thế, chắc chắn quan viên địa phương còn quá đáng hơn nhiều. Để phòng ngừa quan hệ ràng buộc, hoà hiếu kết giao rồi nhận hối lộ, quan viên địa phương cả nước không được nhậm chức ở tỉnh của mình. Cũng cùng lý do như thế, Ngự sử thủy vận không thể để cho người Giang Nam đảm nhiệm.

Dương Lăng nhướng mày, thầm nghĩ: “Lưu Cẩn không phải là người tốt, lão dùng tâm tiểu nhân để đo lòng quân tử, xem mọi người đều nghĩ như lão. Đâu phải các người làm quan đều là một lũ mưu lợi riêng làm rối kỉ cương chứ?” Nhưng y nghĩ lại, loại phương pháp này thật sự có thể phòng ngừa việc tư thông ở một mức độ nhất định.

Dương Lăng bèn tâu:

- Lưu công công tâu rất có lý. Nhưng phần lớn người có học trong thiên hạ đều tập trung ở vài nơi. Nếu khi cử quan chức mà không cho phép nhậm chức tại tỉnh của mình, sẽ có nhiều quan chức không thể phân bổ được. Không bằng quy định để tránh hiềm nghi, quan chức tỉnh giàu có không được nhậm chức tại tỉnh của mình, như vậy mới có thể còn rộng đường lựa chọn cắt cử hơn.

Sau khi lên ngôi, Chính Đức chưa nghĩ được cao kiến gì để có thể tuyên bố chiếu thư hiển thị bản lĩnh của tân đế. Vừa nghe Lưu Cẩn đề ra hai điều mà Dương Lăng đều đồng ý cả, còn bổ sung cho hoàn thiện, hắn liền cảm thấy hứng thú. Hắn nhấc bút lên chăm chú ghi lại, biến thành hai chính sách mới được ban bố ngay khi hắn vừa nắm triều chính.

***************

Chính Đức vừa làm hoàng đế nên còn khá là chăm chỉ, nhưng những bản sớ ấy viết vừa xấu lại vừa dài, nội dung lại cực kỳ khô khan vô vị. Hắn phê một lát thì cảm thấy bực mình, bảo Lưu Cẩn cùng hắn đi chơi.

Dương Lăng một mình đi ra khỏi Càn Thanh Cung, dừng chân chốc lát dưới mái đình trước cửa cung. Bây giờ, nhân mã tứ vệ Ngự Mã Giám đã hồi cung, y không cần phải ở lại trong cung nữa. Nhưng mới vừa rồi Hoàng Thượng chưa có ý cho y rời đi, mà y cũng chưa tìm được cơ hội mở lời.

Ngẫm lại từ khi y lãnh binh vào núi cho tới lúc vào đóng quân trong hoàng cung, nay đã hơn một tháng rồi. Y và Ấu Nương có thể nói là gần nhau trong gang tấc mà cách mặt cả biển trời. Cùng ở trong thành Bắc Kinh, đường đi cũng chẳng bao xa, nhưng lại không được gặp lại nhau, thật sự trong lòng y rất nhớ nhung.

Hôm nay không tiện đi, đợi vài ngày nữa là có thể về nhà rồi. Tiểu nha đầu đó có nhớ ta không, có gầy đi không? Dương Lăng nghĩ đến bé con yêu kiều đáng yêu, thân thể không khỏi nóng lên, hận không thể lập tức bay về, ôm lấy Tiểu nương tử yêu dấu đầy xinh xắn, đầy hiểu biết vào lòng hôn hít một phen.

Đầy tình ý phấp phới, y ngẩn người nhìn vào viện. Một vị quan văn đang đi vào cung, bắt gặp y đứng đờ người trước cửa cung vội băn khoăn bước tới. Người nọ liếc nhìn y, gương mặt dày như vỏ quít mang theo nụ cười khiêm tốn, chắp tay thi lễ:

- Vị này có phải là Uy Vũ bá Dương đại nhân không? Hà hà, quả nhiên là Dương đại nhân!

Dương Lăng đang ngơ ngẩn, quay đầu lại thấy đó là một vị quan văn hơi quen mặt. Tuổi người này sợ cũng phải bảy mươi rồi, trên quan phục có thêu một con gà, xem ra là quan nhị phẩm. Dương Lăng vội chắp tay chào:

- Hạ quan thất lễ, đại nhân là...

Lão đại nhân cười khà khà:

- Lão phu là Tiêu Phương, thị lang bộ Lại.

Dương Lăng vội đáp:

- Thì ra là Tiêu đại nhân! Tiêu đại nhân... muốn vào gặp Hoàng Thượng à?

Chương chín mươi Tiêu Phương Dùng Kế

------------------------

Tiêu Phương cười nhẹ:

- Đúng vậy! Chỉ là... hai vị đại nhân Vương Ngao và Lưu Phương vừa mới bị hoàng thượng từ chối thẳng thừng, lão phu sợ mình cũng sẽ bị đuổi cổ ra thôi. Dương đại nhân là bầy tôi đắc lực trước mặt Hoàng Thượng, có chuyện này lão phu muốn nhờ đại nhân hỗ trợ dâng lời.

Dương Lăng chợt máy động trong lòng, giật mình hỏi:

- Đại nhân cũng là vì việc Tín Dương mà tới à? Không dối đại nhân, khi nãy hạ quan cũng đã khuyên Hoàng Thượng rồi...

Dương Lăng kể lại từ đầu chí cuối việc vừa rồi cho lão nghe, rồi khẽ thở dài:

- Hoàng Thượng ít tuổi, hãy còn chưa hiểu chuyện dân gian, có một số việc chưa chắc có thể trình bày rõ ràng được với Hoàng Thượng. Hiện nay hạ quan cũng chẳng còn biện pháp gì nữa!

Tiêu Phương không giống bọn người Vương Ngao, Dương Phương chú trọng đến khí phách thư sinh. Mặc dù tuổi quá thất tuần, râu tóc bạc phơ nhưng tấm lòng nhiệt tình mưu cầu danh lợi của lão lại chẳng hề giảm bớt. Bây giờ Dương Lăng đang là nhân vật được Chính Đức coi trọng nên lão đã có ý muốn kết giao, vì vậy tuy quan chức cao hơn Dương Lăng, nhưng lão lại có thái độ cực kỳ khiêm tốn với y.

Nghe Dương Lăng nói xong, Tiêu Phương cau đôi mày bạc trắng, suy nghĩ rất lâu rồi cẩn thận nói:

- Hoàng Thượng từ bé đã ở trong cung, chẳng biết nỗi khổ của dân gian cũng là lẽ thường. Không giấu gì Dương đại nhân, lão phu là người Bí Dương, Hà Nam, quê nhà cũng đang chịu phải tai ương, khắp chốn Hà Nam lúc này nạn dân kêu khóc đòi ăn, người bị nạn nào chỉ có ở một nơi. Bạn bè thân hữu ở Bí Dương và Tín Dương đều lên kinh nhờ vả, dù thế nào lão phu cũng phải cố gắng nói một lời trước mặt hoàng thượng. Nếu đã không thể can gián trực tiếp thì lão phu nghĩ nên đi đường vòng. Có điều việc này vẫn phải nhờ Dương đại nhân giúp đỡ, mong rằng Dương đại nhân sẽ tương trợ.

- Ồ! Nếu có thể giúp đỡ cho người dân đang khốn khó, Dương Lăng sẽ không chối từ. Không biết lão đại nhân có cao kiến gì?

Dương Lăng vội hỏi.

Tiêu Phương nghe y đồng ý, lập tức vui vẻ kề tai nói nhỏ với y một hồi. Dương Lăng nghe xong ngạc nhiên nhìn lão, thầm nghĩ: “Tuy rằng hoàng đế trẻ người non dạ, nhưng cũng đã là thiếu niên mười lăm sáu tuổi rồi; tuy y rất ham chơi, nhưng liệu y lại khoái mấy thứ trò chơi con nít này sao?”

Nhưng vị lão đại nhân này đã nói thế, mình cũng không ngại giúp lão một tay, nếu có thể thành công thì quả là công đức vô lượng rồi. Dương Lăng bèn gật đầu đáp:

- Cứ như vậy đi, ty chức đi đây. Ngày mai đại nhân chuẩn bị sẵn đồ vật cho tốt chờ Hoàng Thượng triệu kiến là được.

**************************

Kết thúc buổi triều sớm, hoàng đế Chính Đức bãi giá về điện Trung Hoà. Vừa vào cửa điện, hắn đã ngáp một cái rõ to, càu nhàu với Dương Lăng đang đứng đợi:

- Ngày nào cũng khởi giá sớm như vậy, thực mệt chết đi được. Đáng ghét nhất là cái ngai vàng. Ta có thể nói kẻ chế ra cái ngai vàng này nhất định có thù oán với hoàng đế. Cái bản ghế quá cứng, ngồi rất khó chịu; lưng ghế quá sâu, không dựa lưng được; tay vịn hai bên lại quá xa, muốn dựa vào một chút cũng không xong. Rõ là muốn người ngồi trên đó mệt bao nhiêu là cho mệt bấy nhiêu.

Dương Lăng nghe xong cảm thấy hơi buồn cười, chợt nhớ Đại Minh từng có vị hoàng đế làm thợ mộc, nhưng theo trí nhớ thì dường như không phải là hắn. Nghe hắn nói rõ ràng mạch lạc như vậy, chẳng lẽ con cháu họ Chu đều có thiên phú làm thợ mộc à?

Cốc Đại Dụng thấy hoàng đế nói về mấy chuyện này bèn vội đuổi đám cung nữ thái giám ra ngoài hết. Tuy Lưu Cẩn là người tâm phúc của hoàng đế Chính Đức, nhưng chức vụ hiện nay của lão vẫn còn chưa thay đổi, vẫn là thái giám thủ lĩnh của Chung Cổ ty. Khi bên này bãi triều, lão phải chỉ huy gõ chuông giống trống ở bên kia, bận rộn vô cùng, cho nên lúc này không có thời gian chạy tới hầu hạ hoàng thượng. Còn bọn Mã Vĩnh Thành và Trương Vĩnh thì ai nấy đều có công việc riêng, do đó bên cạnh hoàng đế chỉ có mỗi mình Cốc Đại Dụng hầu hạ mà thôi.

Chính Đức ngồi xuống sau long án, lấy từ trong hộp gấm trên bàn ra một chiếc bánh ngọt xốp giòn, vừa ăn nhồm nhoàm, vừa lúng búng nói:

- Được rồi! Ngươi nói Hà Nam có nhiều bảo vật, hôm nay muốn cho người đến tiến cống vài món đồ hiếm lạ. Vậy mau lấy ra cho ta coi.

Dương Lăng mỉm cười đưa mắt ra hiệu cho Cốc Đại Dụng. Sớm được y dặn dò, Cốc Đại Dụng vội đi ra trước điện, cao giọng gọi:

- Tuyên thị lang bộ Lại Tiêu Phương vào yết kiến!

Chỉ lát sau, Tiêu Phương đầu tóc tóc bạc phơ, tay tuồn vào trong ống tay áo, chạy chầm chậm từ trước điện lại. Đến cửa điện lão thở phì phò một hồi rồi mới rảo bước qua bậc cửa, quỳ sụp xuống, hô to:

- Thần Tiêu Phương ra mắt hoàng thượng!

Chính Đức uống một ngụm trà, cười toe toét bảo:

- Tiêu ái khanh hãy đứng lên! Trẫm nghe nói Hà Nam có nhiều bảo vật, khanh có đem theo không, mau lấy ra cho ta xem thử.

Tiêu Phương dập đầu tâu:

- Khải bẩm Hoàng Thượng, vùng Hà Nam không có vàng, không có bạc, không có ngọc ngà châu báu. Cái gọi là bảo vật chẳng qua là những sinh vật hiếm khi thấy được ở những vùng khác, thần sợ sẽ làm kinh động thánh giá.

Chính Đức vừa nghe lập tức mừng rỡ. Mấy thứ vàng bạc châu báu thì có gì mà xem? Vừa nghe lão nói là có những sinh vật hiếm lạ, khó thấy được nơi khác, trong lòng y càng ngứa ngáy hơn, tâm tính thiếu niên cũng lập tức nổi lên, Y bất chấp uy nghi hoàng thượng, vỗ bàn cười, sốt ruột giục:

- Mau lên! Mau lấy ra cho trẫm xem một chút, trẫm thích mấy thứ này lắm.

- Dạ, vi thần tuân chỉ!

Tiêu Phương ngẩng đầu liếc mắt nhìn Dương Lăng. Dương Lăng mỉm cười, khẽ kín đáo gật đầu với lão, lúc này Tiêu Phương mới yên tâm.

Hôm nay lão lên đây hiến lời ngay, thực sự cũng rất phiêu lưu mạo hiểm. Nếu hoàng thượng nhìn thấy vật do lão trình lên, chẳng những không thích mà còn nổi giận, lão sẽ thành ra trộm gà không được mà còn bị ăn mất nắm gạo, không khéo phải vào thiên lao bầu bạn với Vương Quỳnh Vương đại nhân chứ chẳng chơi. Bây giờ có Dương Lăng gật đầu nhận hỗ trợ, nếu lát nữa chẳng may hoàng thượng phát hoả, có y bảo kê hẳn sẽ không sao.

Tiêu Phương lấy từ trong tay áo ra ba hộp nhỏ, cung kính dâng lên, nói:

- Quê nhà của thần không sản sinh ra bảo vật gì khác, chỉ có mấy thứ hiếm lạ này, mời hoàng thượng ngự lãm.

Chính Đức sốt ruột:

- Đưa lên đi! Mau đem qua cho trẫm xem.

Tiêu Phương đứng dậy bước tới trước, đặt ba chiếc hộp trên long án trước mặt Chính Đức rồi cẩn thận mở một hộp ra, nhè nhẹ đẩy tới trước mặt Chính Đức.

Chính Đức mở to hai mắt chăm chú nhìn. Hắn thấy trong hộp có một con vật có mấy cái chân màu vàng óng, gần như trong suốt, trên lưng là một lớp vỏ đen xì, dày cứng, cái đuôi giương cao quắp lại thành móc câu, trông như đại tướng quân uy vũ. Hắn không khỏi ngạc nhiên cười hỏi:

- Đây là con gì vậy? Trông thật thú vị!

Hắn vừa nói vừa thò tay vào định sờ, Dương Lăng vội giữ tay hắn lại, can:

- Hoàng Thượng cẩn thận! Con vật này gọi là bò cạp, là độc vật. Nếu bị cái móc trên đuôi nó chích trúng sẽ đau đớn không chịu được, chớ có đụng vào nó.

Chính Đức thích chí:

- Thì ra con vật đáng yêu này chính là bò cạp à, trông thật đẹp và oai vệ. Trẫm có nghe qua về 'Ngũ Độc'*, đáng tiếc lại chưa được thấy. Hôm nào tập hợp những độc vật này lại cùng một chỗ, cho chúng đánh nhau xem thử con nào độc hơn. Trong hộp đó còn có cái gì nữa, đem cả ra đây xem nào!

(*:gồm bò cạp, rắn, rết, thạch sùng và cóc)

Cốc Đại Dụng cầm nắp đậy cái hộp đó lại, rồi mở một cái khác ra. Trong hộp có một con gì đó trông mềm mềm, đen thui, bò tới bò lui trong hộp rất nhanh. Chính Đức thấy vậy không thích, nhíu mày hỏi:

- Đây là con gì?

Tiêu Phương đáp:

- Hồi bẩm Hoàng Thượng, con vật này tên là con xâu tiền*. Cuộc sống của dân chúng Hà Nam nghèo khổ, trên người không có tiền, nhìn thấy con vật này giống như một dây để xâu tiền, bèn dùng nó để trêu đùa, mong có ngày gia cảnh sung túc hơn.

(*: hay còn gọi là du diên, tên khoa học là Thereuonema tuberculata)

Chính Đức ờ một tiếng, nhạt nhẽo phán:

- Con xâu tiền trông chán chết! Còn hộp thứ ba là gì?

Tiêu Phương mở hộp cuối cùng. Nắp hộp vừa mở ra, chỉ nghe một tiếng vù, một con vật từ trong hộp bay ra, bay vòng quanh điện vài vòng, rồi kêu lên một tiếng bay vụt ra khỏi cửa điện.

Hoàng đế Chính Đức nhìn mà há hốc mồm, ngạc nhiên thích thú hỏi:

- Đây là vật gì, là chim à? Sao lại bay đi rồi?

Dương Lăng thấy mấy con vật bình thường như vậy mà hoàng đế Chính Đức đều chưa thấy qua, xem ra thật là đáng thương. Nhưng ngẫm lại có những đứa trẻ đô thị tới nông thôn, ngay cả cây ngô (bắp) non cũng không nhận ra, còn lấy làm lạ là tại sao lại có thứ cỏ dại trông thẳng tắp như vậy. Cho nên vị hoàng đế này không biết mấy thứ nọ cũng không có gì là lạ.

Dương Lăng bèn cười đáp:

- Hoàng Thượng! Con vật đó gọi là con ve, cũng được gọi là ve sầu. Vì tiếng kêu của nó như hai chữ 've sầu' (nguyên văn “tri liễu”). Con vật này ăn gió uống sương, lấy nhựa cây làm thức ăn.

Tuy Tiêu Phương đọc rất nhiều sách, nhưng xưa nay mọi người đều cho rằng con ve uống sương mà lớn, còn có người chuyên làm thơ phú để ca ngợi sự cao thượng của con ve. Đây là lần đầu lão nghe nói con ve hút nhựa cây nên không khỏi liếc mắt nhìn Dương Lăng, nhưng rồi lập tức phụ họa:

- Dương đại nhân nói đúng đó! Mấy năm nay Hà Nam nếu không hạn hán thì là lụt lội, đất đai không trồng trọt được lương thực, đến cả chim chóc cũng sắp chết đói, chỉ có những con vật không cần ăn gì thì mới có thể sống được.

Chính Đức nghe xong, không dám tin bật thốt:

- Hà Nam là nơi cằn cỗi như thế sao? Những bảo vật nơi ấy chỉ là ... chỉ là bò cạp, ve sầu, xâu tiền sao? Đáng thương! Thật là đáng thương!

Nhân cơ hội, Tiêu Phương bèn quỳ xuống tâu:

- Hoàng Thượng từ bi, dưới sự trị vì của tiên đế và hoàng thượng, vốn là quốc thái dân an, dân chúng an cư lạc nghiệp. Thế nhưng không hiểu sao mà mấy năm nay Hà Nam liên tiếp bị thiên tai, do đó đời sống dân chúng rất khổ cực, mặc dù chưa tới nỗi ”đổi con cho nhau để ăn”, nhưng có rất nhiều người dân không kiếm được ba bữa. Hai ngày trước, thần gặp vài người đồng hương chạy nạn tới đây, thần mới biết mức độ nghiêm trọng của tình hình thiên tai ở cố hương.

Thần là người Hà Nam, nhưng đồng thời cũng là bề tôi của Hoàng Thượng, do đó không dám thổi phồng việc này, e làm rác tai bệ hạ, đồng thời cũng không dám không báo cho Hoàng Thượng. Do đó thần mạo muội tâu lên, xin Hoàng Thượng làm chủ cho dân chúng Hà Nam.

Chính Đức lúc này mới rõ ý lão. Hắn nhìn các hộp gỗ trên bàn một lúc, rồi bật cười:

- Tiêu thị lang rất có thủ đoạn! Thôi được, trẫm sẽ chuẩn những tấu chương của những quan viên Hà Nam các ngươi, miễn thuế ruộng cho Hà Nam. Đã ban ân đức, phải ban nhiều một chút, vậy trẫm sẽ miễn... cho Hà Nam năm năm thuế khóa, khanh thấy thế nào?

Tiêu Phương vừa nghe liền mừng như điên. Lão quỳ sụp xuống đất, dập đầu lia lịa, liên thanh ca ngợi Hoàng Thượng thánh minh, rồi một loạt những từ ngữ ca ngợi thao thao bất tuyệt được tuôn ra như nước lũ tràn bờ, khiến cho cả Chính Đức nghe xong cũng chịu không nổi. Hắn bụm miệng cười ha hả rồi bảo:

- Đủ rồi! Đủ rồi! Khanh hãy lui xuống đi, lát nữa ngọ triều trẫm sẽ hạ chỉ là được.

Chính Đức đảo mắt nhìn thấy Dương Lăng đang đứng một bên cười tủm tỉm, không khỏi mỉm cười, giả vờ giận dữ trừng mắt nhìn y, nói:

- Khanh chớ đắc ý! Hôm nay trẫm tưởng có vật hiếm lạ để chơi, nhưng lại rất thất vọng. Chuyện này vẫn ở trên người khanh! Trong vòng ba ngày, khanh phải tìm mấy thứ đồ chơi thật tốt cho trẫm xem!

Dương Lăng cười hì hì vâng lệnh, rồi cùng thị lang bộ Lại Tiêu Phương dập đầu tạ ơn, cùng nhau lui ra khỏi đại điện. Tiêu Phương kéo tay Dương Lăng liên tục cảm ơn, cao hứng tới mức nói năng lộn xộn.

Dương Lăng nghe lão nói người Hà Nam nhất định sẽ đội ơn y lần này, bèn không khỏi cười nói:

- Việc này cũng không hẳn! Đại thần trong triều nhiều người hiểu lầm với hạ quan, e rằng... ngay cả hai vị đại nhân Dương Phương và Vương Ngao là người Hà Nam cũng vẫn xem tại hạ như giặc.

Tiêu Phương khoát tay khinh thường nói:

- Chớ để ý đến đám người đó. Dân chúng chỉ biết ai cho họ cơm ăn, ai cứu mạng sống của họ. Còn đám người chỉ biết lễ giáo, chẳng biết thực hành đó, đại nhân đừng để ý tới họ.

Tiêu Phương là tiến sĩ năm Thiên Thuận thứ tám. Đầu năm Hoằng Trị được điều tới Hoắc Châu làm Tri phủ, được đề bạt làm Đề học phó sứ ở Tứ Xuyên , rồi được điều tới Hồ Quảng, không lâu sau, lại thăng làm Hữu thông chánh ở Nam Kinh, sau lại được thăng làm Hữu thị lang bộ Lễ, cho đến giờ thì ngồi vào vị trí thị lang bộ Lại .

Để hiển thị tài hoa của mình, lão thường xuyên dâng thư tấu sự, đưa ra những kiến giải của mình đối với sự việc trong triều đình và địa phương, hy vọng có thể khiến cho hoàng đế Hoằng Trị coi trọng và trọng dụng.

Đáng tiếc quan viên khi ấy hoặc nhiều hoặc ít đều có địa bàn của mình. Lão lần lượt nhậm chức bộ Lễ và bộ Lại, hai thượng thư Vương Quỳnh và Mã Văn Sinh tuy rất trung thành với triều đình, nhưng về mặt đạo đức cá nhân cũng không thể thập toàn thập mỹ được: bản sớ của Tiêu Phương thường bị bọn họ gạt bỏ không trả lời. Vì phần lớn những quan viên này là người phương nam nên Tiêu Phương rất oán hận đám quan viên phương nam.

Lúc này trong triều ngoại trừ đại học sĩ Lưu Kiện, những người nắm quyền phần lớn là tài tử vùng Chiết Giang, Hồ Nam và Giang Tây. Do đó quan viên trong triều mà lão nhìn vừa mắt cũng chẳng có mấy ai.

Dương Lăng đến từ Kê Minh, là đồng hương phương bắc, lại là cận thần của thiên tử, hơn nữa vừa rồi lại giúp đỡ nhiệt tình khiến lão có thể ăn nói với các phụ lão ở quê nhà, trong lòng Tiêu Phương tự nhiên cảm kích tới rơi nước mắt.

Nghe Dương Lăng nói y bị triều thần kỳ thị, Tiêu Phương nhớ tới những bản sớ của mình bị gạt bỏ, không khỏi dâng lên mối đồng cảm, lập tức chắp tay:

- Việc thiện hôm nay của Dương đại nhân sẽ cứu sống mấy chục vạn dân chúng Hà Nam. Sau này nếu đại nhân có gì sai khiến, chỉ cần nói một tiếng, lão phu nếu có khả năng, quyết sẽ không chối từ.

Dương Lăng cười cười cám ơn, rồi chắp tay tiễn vị đại nhân này đi. Lúc này y chỉ nghĩ mạng mình có hạn, cố sống sao cho vui vẻ một chút, nếu có thể tiện tay làm chuyện tốt thì cứ làm một ít. Mặc dù đây là cơ duyên người khác cầu cả đời cũng không được, nhưng y lại không có chí lớn gì, do đó y hoàn toàn không để tâm đến lời hứa của vị “phó bộ trưởng bộ khen thưởng“ này.

Ngọ triều đã tan, Chính Đức thở phào nhẹ nhõm. Y trở lại Càn Thanh cung bỏ nghi trượng, vừa ăn chút đồ ăn vặt vừa bảo tên tiểu thái giám đi gọi mấy người Mã Vĩnh Thành tới, tìm tiếp mấy trò chơi mới mẻ giải buồn. Lúc này bên ngoài chợt có người cao giọng hô:

- Đại học sĩ Lưu Kiện của Vũ Anh điện, đại học sĩ Lý Đông Dương của Cẩn Thân điện và đại học sĩ Tạ Thiên của Hoa Cái điện cầu kiến Hoàng Thượng.

Hoàng Đế Chính Đức “a” lên một tiếng, lật đật kéo ngăn kéo, đút hộp mứt hoa quả vào. Lần trước hắn không để ý, lúc tiếp kiến Lưu Kiện vẫn còn bày trên bàn một hộp trái cây khô. Lưu Kiện trông thấy liền tức thì hùng hồn buông lời răn bảo một phen, phê phán Hoàng Thượng không quan tâm đến long thể, ăn uống lung tung, cơm nước không đúng giờ, làm cho Chính Đức lúc đó phải thề thốt đã biết lỗi, rằng sau này sẽ không ăn bậy uống bạ nữa, lúc đó Lưu Kiện mới bỏ qua. Nếu hôm nay lại bị bọn họ bắt gặp, ba vị đại học sĩ đồng loạt mở miệng thì làm sao hắn sống cho nổi?

Chính Đức giấu kỹ hộp mứt hoa quả rồi mới ngồi thẳng người dậy, bảo:

- Mời ba vị đại học sĩ vào điện!

Ngoài cửa điện, ba ông già cất tiếng đáp lời rồi đi vào điện. Hôm nay ba vị đại học sĩ cùng dắt tay nhau tới đây là vì một chuyện lớn. Tân vương kế vị, lục cung vô chủ, tuy hoàng đế tuổi tác còn nhỏ, nhưng việc này cũng phải thu xếp càng nhanh càng tốt.

Đương nhiên, việc nạp hậu là việc mà Chính Đức không tự làm chủ được. Bọn họ đến đây, cũng chỉ là theo lễ tiết xin sự đồng ý của hoàng đế, chỉ cần hắn gật đầu lập tức có người lo liệu toàn bộ, hoàng đế chỉ cần chờ vào động phòng là xong.

Việc tuyển lập hoàng hậu, sẽ là người trung cung* mẫu mực, tuân thủ điển lễ, là một việc to lớn vô cùng. Tuy tầm quan trọng không bằng việc hoàng đế tuyển chọn người thừa kế, nhưng tính công khai lại rất cao. Bậc mẫu nghi thiên hạ đứng đầu chánh cung phải do phủ Nội Vụ lựa chọn cẩn thận; sau khi chọn được ứng cử viên, nội quan, nội các cùng với Thái Hoàng thái hậu, Thái hậu tiến hành thương thảo quyết định. Diện mạo của người được chọn chỉ là thứ yếu, người đó nhất thiết phải là con nhà quan lại, thân thế trong sạch, hiền lương thục đức mới có thể làm mẫu nghi thiên hạ. (*: cách gọi khác của hoàng hậu)

Lúc này ngoại trừ chút tình cảm mơ hồ về Đường Nhất Tiên, đối với tình yêu nam nữ thì Chính Đức hoàn toàn không biết gì hết, những chuyện giường chiếu thì càng mù tịt. Do đó điều làm ba vị đại học sĩ mừng rỡ vô cùng chính là hoàng đế Chính Đức mấy ngày nay luôn luôn làm bọn họ đau đầu khi thương lượng bất kỳ chuyện gì, không ngờ hôm nay lại tỏ ra ăn ý vô cùng, không đưa ra bất cứ ý kiến phản bác gì cả.

Vốn ba vị đại học sĩ đang thẳng lưng vác một bộ mặt sẵn sàng chiến đấu, chỉ cần Chính Đức phản đối, lập tức họ sẽ phát động cuộc đại chiến nước bọt. Nay thấy hoàng đế Chính Đức đồng ý mọi thứ như vậy, ba lão thần liền vui vẻ cáo từ, lao tới phủ Nội Vụ bàn việc tuyển hoàng hậu.

Hoàng đế Chính Đức vẫn chưa hiểu việc tuyển vợ cho mình có ý nghĩa gì cho lắm. Hắn lôi hộp mứt hoa quả dưới bàn ra, nhón lấy một miếng cắn vài cái, rồi nằm dài bên cạnh bàn suy nghĩ một hồi, song vẫn không cảm thấy việc này có gì quan hệ gì với mình.

Ngẩng đầu lên, thấy Dương Lăng đang đứng trước mặt, hắn đột nhiên vỗ trán nói:

- Trẫm mới nhớ ra, hình như ngươi lâu lắm rồi chưa về nhà thì phải? Hôm nay cũng không cần phải tuần thủ trong cung, về nhà đi! Dù sao ngươi cũng không phải tảo triều, mai cũng không cần tới sớm như vậy đâu.

Ha ha, trẫm nhớ lúc phụ hoàng bãi triều đều tới thăm mẫu hậu, lần nào không đi là mẫu hậu không vui. Ngươi đi lâu như vậy rồi, Ấu Nương tỷ tỷ nhất định cũng sẽ không vui, bảo nàng không được trách trẫm đó. Này, ngươi cầm hộp mứt hoa quả này về đi, làm lễ vật ta bồi tặng cho Ấu Nương tỷ tỷ.

Dương Lăng vừa nghe Chính Đức thả y về nhà, vui tới cả người lâng lâng bay bổng. Y cũng không cần khách sáo với hoàng đế Chính Đức, vội vàng cám ơn rối rít rồi vui vẻ cất hộp mứt hoa quả. Đầu tiên y chạy đi gặp Liễu Bưu dặn dò gã quản thúc quan binh cho tốt, ít ngày nữa sẽ phải dời quân vào đóng trong ngự trang.

Sau đó y xin một thớt khoái mã, vừa ra khỏi hoàng cung là xoay người phóng lên ngựa, lao đi như tên bắn về phía Hộ Quốc Tự. Lúc này dân chúng toàn thành vẫn sinh hoạt như thường, chỉ có điều quần áo mặc trên người đều đổi thành màu trắng, trên đầu quấn khăn tang. Dọc đường đi y loáng thoáng nghe tiếng chuông trầm bổng trong các chùa chiền bồng bềnh vọng lại.

Theo quy định do Vương Quỳnh soạn, các chùa chiền lớn nhỏ đều phải đánh ba vạn tiếng chuông, ngày đêm không nghỉ. Đến hôm nay đã là ngày thứ ba, phỏng chừng số lần đánh cũng không còn nhiều. Mặc dù không ai đếm, nhưng người đánh chuông cũng phải tận tâm, không ai dám qua loa tắc trách, nghe nói có một số chùa chiền đã đánh hỏng mất vài cái chuông rồi.

Dương Lăng phi ngựa chạy vội về phố Hộ Quốc Tự. Vừa vào ngõ, y đã thấy một chiếc kiệu đang đi về phía mình. Hai gia nhân áo xanh đi bên cạnh kiệu lướt sát qua người y.

Dương Lăng xoay người xuống ngựa, phấn khởi dắt ngựa đến trước cửa nhà, đưa tay đẩy. Cửa nhà không khóa, Dương Lăng lập tức đẩy rộng cửa sân rồi dắt ngựa vào.

Y vừa vào sân, liền nhìn thấy Tuyết Lý Mai đang khom lưng đứng ở góc sân, cần cổ thanh mảnh, da thịt trắng như ngọc. Bóng dáng xinh đẹp ấy chỉ nhìn từ phía trắc diện mà đã tao nhã mê người không nói nên lời. Chỉ là mỹ nhân khí chất bất tục này lại đang mặc áo vải, đeo tạp dề xanh, trên đầu quấn một dải lụa trắng, trên chiếc eo giắt một cái gàu nhỏ, đang lụi cụi rắc thức ăn vào một cái chuồng nhỏ được dựng bằng củi ở góc sân.

Nghe thấy tiếng động, Tuyết Lý Mai liền quay đầu lại. Vừa nhìn thấy kẻ bước vào là y, nàng lập tức vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, đặt chiếc gàu xuống, phấn khởi chạy ra đón, mở miệng gọi:

- Đại... ,

Dương Lăng lập tức ra hiệu cho nàng im lặng, khẽ giọng cười:

- Đừng kêu! Ấu Nương có ở trong nhà không? Ta sẽ len lén đi vào.

Trên gương mặt vui mừng của Tuyết Lý Mai hiện lên chút hâm mộ. Nàng vội gật đầu lia lịa, dịu dàng đáp:

- Ừm! Tỷ tỷ ở trong đó. Vừa rồi có người tới gặp đại nhân, mà đại nhân không có ở nhà, hắn còn nói là hai ngày qua đại lễ tân đế đăng cơ đã xong, đại nhân sắp về thôi. Ấu Nương tỷ tỷ và chúng tôi nghe thế đều rất vui. Hì hì, không ngờ hắn vừa mới đi, đại nhân đã về thật rồi.

- Ồ?

Dương Lăng vừa cột cương ngựa vào gốc hòe to, vừa thuận miệng hỏi:

- Ai tìm ta vậy? Tìm ta có chuyện gì?

Tuyết Lý Mai ngoan ngoãn theo tới bên cạnh gốc cây, vuốt những sợi tóc mai vương trên trán, hé miệng cười đáp:

- Vị công tử đó tựa hồ có tâm sự trong lòng, nhưng lại không kể với chúng tôi. Hắn chỉ nói hắn là tam công tử của thượng thư bộ Lễ, tên là Vương Cảnh Long, còn nói ngày mai sẽ lại tới tiếp kiến.

- Vương Cảnh Long?

Tên người này nghe rất quen. Dương Lăng đột nhiên nhớ ra “chẳng phải Vương Cảnh Long chính là chân mệnh thiên tử trong lòng Ngọc Đường Xuân trong lịch sử sao?” Vương Cảnh Long đến thăm, không cần phải hỏi cũng biết, chính là vì lão Vương Quỳnh bị giam hơn mười ngày rồi, ba vị đại học sĩ xin tha cho mà hoàng đế vẫn không chịu. Nhà họ Vương bồn chồn lo lắng nên đã gõ cửa nhà y nhờ vả.

Không nghĩ tới Vương Cảnh Long và các nàng Ngọc Đường Xuân rốt cuộc vẫn gặp nhau. Nếu nói đây là số mạng, không biết đôi tình nhân vốn được định sẵn từ trước này, sẽ vẫn có duyên đến với nhau hay không? Dương Lăng nhớ trong câu chuyện nọ cuối cùng cả Tô Tam lẫn Tuyết Lý Mai đều gả cho Vương Cảnh Long, trở thành sủng thiếp của hắn.

Dương Lăng vừa nghĩ thầm, vừa dùng ánh mắt quái dị đánh giá Tuyết Lý Mai vài lần. Tuyết Lý Mai không biết suy nghĩ của y, chỉ nhận thấy ánh mắt Dương tướng công cứ nhìn mình chằm chằm. Lần này quan sát cẩn thận, Dương tướng công mà nàng đã nhiều ngày không gặp đã trưởng thành thêm vài phần, có vẻ nam nhân uy vũ, làm tâm hồn thiếu nữ của nàng không khỏi rộn lên, trong mắt bất chợt dâng lên chút ngượng ngùng, khuôn mặt ngọc ngà ửng lên một lớp phấn hồng.

Dương Lăng sực tỉnh lại, việc này có suy tính cũng vô dụng. Dù sao ngày mai Vương Cảnh Long vẫn sẽ tới, nếu như Tô Tam và Tuyết Lý Mai đúng là có duyên với hắn thì y cũng không ngại chu toàn chuyện này cho họ. Nhà họ Vương là quan lại thế gia, dòng dõi Nho học, cũng sẽ không làm khó mấy người Tuyết Lý Mai.

Nghĩ thông suốt xong, Dương Lăng liền dứt bỏ tâm sự, đưa roi ngựa cho Tuyết Lý Mai, mỉm cười với nàng, rồi rón ra rón rén đi về phía cửa phòng mình. Cửa phòng khép hờ, xộc vào mũi y là mùi thịt kho thơm phức, trong lòng Dương Lăng tràn đầy cảm giác hạnh phúc được gặp lại người mình yêu.

Y lặng lẽ thò đầu vào nhìn, thấy Hàn Ấu Nương đang quay lưng về phía mình. Nàng ngồi ở trước bếp, mặc một chiếc váy màu xanh lơ, lớp vải lót bên trong chắc hẳn đã sờn, do đó bộ đồ đơn bạc làm cho thân thể nhỏ nhắn xinh xắn trông gầy hơn so với trước, eo thon uyển chuyển uốn lượn, cặp mông nhỏ vẫn săn chắc đẫy đà.

Trong lòng Dương Lăng nóng hầm hập, y liền sải bước đi vào vươn tay ôm ngang eo Ấu Nương, vỗ mạnh vào mông nàng, rồi cất tiếng cười vang trong tiếng kêu kinh hãi của nàng:

- Tướng công về nhà mà không ra đón! Vi phu phải chấp hành gia pháp, trước hết sẽ phát vào mông ba mươi cái.

Chương chín mươi mốt Lập Kế Trừ Gian

------------------------

Dương Lăng nghe tiếng Hàn Ấu Nương la to thì cảm thấy có gì đó không hợp lý, thế nhưng đã đánh ra rồi không thu lại được. Cho nên một tiếng ‘Bốp’ vang to, quả nhiên cảm giác khác với Ấu Nương: mềm mại, tuy cũng đàn hồi nhưng lại không săn chắc được như của Ấu Nương.

Dương Lăng sững sờ, Hàn Ấu Nương tay cầm mớ hành lá xanh ngắt từ buồng trong thò đầu ra, ngạc nhiên kêu lên:

- Tướng công về rồi?

Nàng chạy ù ra, nhìn thấy tình cảnh trước mặt cũng ngây cả người.

Dương Lăng vẫn không hiểu cô gái mình đang ôm này là ai. Thiếu nữ đó gương mặt ngượng ngùng đỏ như mã não chợt xoay người lại. Dương Lăng nhìn xuống, thì ra là Ngọc Đường Xuân, mặt y cũng ửng đỏ lên, xí xóa:

- Cô nương sao lại mặc y phục của Ấu Nương, còn... còn búi tóc, việc này... lần này... ta...

Ngọc Đường Xuân mặt đỏ rực, tâm hồn thiếu nữ cũng không biết là ngượng hay giận, thấy lão gia cũng bối rối lúng túng, nàng cũng vừa không thoải mái, lại vừa hoang mang bối rối, ngượng ngùng thi lễ:

- Đại nhân đã về.

Tô Tam thi lễ xong liền ngước mắt lên, thấy Ấu Nương và tiểu Vân từ buồng trong đi ra đang nhìn mình, tức thời càng thêm khó xử. Nhớ tới mới vừa rồi Dương tướng công phát một cú vào mông kêu rất to, bây giờ bàn tọa ê ê rát rát lại hơi ngưa ngứa, nhất định là Ấu Nương tỷ tỷ và tiểu Vân nghe thấy được, nàng không kìm được ôm lấy hai má đỏ như lửa vội vàng chạy ra ngoài.

Tiểu Vân cố nhịn cười nói:

- Tiểu tỳ ra mắt lão gia!

Nói rồi nàng không đợi Dương Lăng trả lời đã vội vàng lựa dịp lẻn luôn ra ngoài.

Dương Lăng hắc hắc cười gượng vài tiếng, rồi nói:

- Sao cô nương ấy mặc áo của nàng, còn để tóc nữa, ta nhất thời...

Hàn Ấu Nương vẻ mặt là lạ nói:

- Quần áo hai vị muội tử đều có thêu hoa, không phù hợp với tang lễ của Hoàng Thượng cho nên phải thay đổi đồ của thiếp. Nàng nói sau này không cần ca múa cho người xem nữa, nên... nên cắt tóc đi.

Nàng vừa nói chuyện, vừa đi đến gần bên người Dương Lăng. Sau khi ngắm y cẩn thận, thân thể mềm mại của Ấu Nương chợt run lên rồi lập tức ào vào trong lòng Dương Lăng, run giọng:

- Tướng công, người ta... người ta rất nhớ chàng... nhớ chàng muốn chết...

Tiếng kêu này đã rung động đến tâm can khiến Dương Lăng cũng không khỏi rơm rớm nước mắt. Ấu Nương như một con chim nhỏ nép sát vào ngực y, sóng mắt yêu kiều, si mê vuốt ve hai gò má y rồi nói:

- Tướng công đen gầy đi, nhưng... cũng cường tráng lên, vẻ anh tuấn còn pha chút uy vũ nữa.

Dương Lăng nháy nháy mắt, vui vẻ:

- Đương nhiên rồi, tướng công bây giờ là Uy Vũ Bá mà.

Hàn Ấu Nương ôn nhu gật đầu:

- Ừm, thiếp biết rồi. Việc này truyền đi rất nhanh, mấy người láng giềng cũng sớm chúc mừng thiếp rồi.

Dương Lăng cau mày, kỳ quái:

- Sao mà nàng cứ thiếp thiếp mãi thế. Trước giờ nàng đều không xưng hô như vậy, nghe ra rất không tự nhiên.

Hàn Ấu Nương hé miệng cười, ôn nhu đáp:

- Tướng công bây giờ có quan có tước, trong nhà không thể không có một chút quy củ. Trước kia thiếp không hiểu việc nên phải thỉnh giáo Ngọc Nhi muội tử mới biết đó.

Dương Lăng lắc đầu cười nói:

- Tướng công không thích, nghe như nàng thấp hơn ta một cái đầu ấy. Ta thích xưng là Ấu Nương hơn ,

Y cúi người ghé vào bên tai Ấu Nương, thấp giọng:

- Nhất là lúc nàng cực khoái, luôn luôn kêu ‘Ấu Nương sắp chết đây, Ấu Nương hạnh phúc muốn chết rồi’, tướng công nghe mấy câu đó trong lòng như có cọng cỏ quẹt qua quẹt lại, cảm thấy ngứa ngáy lắm.

Hàn Ấu Nương nghe thế đỏ mặt, ngượng ngùng thốt lên:

- Tướng công, thiếp... người ta...

Dương Lăng tròn mắt, bàn tay uy hiếp từ cái eo nhỏ nhắn của nàng di chuyển xuống dưới rồi phủ xuống kiều đồn nhô cao, làm bộ khẽ vỗ vài cái. Thân thể mềm mại của Ấu Nương run lên, nói lẩm bẩm:

- Ấu Nương… Ấu Nương… Ấu Nương nhớ tướng công lắm.

Dương Lăng cười cười, ôn nhu hỏi:

- Nhớ thật không?

Hàn Ấu Nương vội vàng gật đầu cười:

- Ừ ừ ừ, nhớ… nhớ thật.

Dương Lăng khẽ nheo mắt lại, cười xấu hỏi:

- Chỗ nào nhớ tướng công?

Hàn Ấu Nương cũng không phải là người chưa trải việc, vừa nghe tướng công nói lời này gương mặt lập tức đỏ như hoa lựu, cắn môi khó xử không dám trả lời.

Dương Lăng hôn lên mặt nàng một nụ hôn dài, cười khà khà nói:

- Bảo bối của ta còn thẹn thùng gì nữa, coi như tướng công không hỏi đi.

Hàn Ấu Nương nhất thời thở phào nhẹ nhõm, không ngờ Dương Lăng lại nói:

- Vậy nàng nói xem, nàng nhớ chỗ nào của tướng công?

Hàn Ấu Nương kêu lên một tiếng rồi vùi khuôn mặt nóng đỏ vào trong lòng y, nắm nắm tay đấm lia lịa, ngượng ngùng:

- Tướng công thật xấu, tướng công vừa về đã khi dễ người ta.

Dương Lăng nâng cằm nàng lên thấy mắt nàng khép hờ, hơi thở như tơ, răng cắn nhẹ đôi môi đỏ mọng ra vẻ hết sức kiều mỵ động lòng người làm cho lòng y nhất thời nóng lên. Dương Lăng không kìm được vươn tay bế ngang Ấu Nương lên, nàng vội vàng ôm chặt cổ y, giật mình hỏi:

- Tướng công... chàng ... chàng làm cái gì thế?

Ấu Nương vừa thấy con ngươi Dương Lăng tóe lửa thì lập tức tỉnh ngộ, thân thể cũng mềm nhũn không còn sức lực nữa, thanh âm phản đối càng nói không nên lời, chỉ dám lắp bắp:

- Trời... trời còn sớm, cửa... cửa...

Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai và tiểu Vân đứng ở trong viện hồi lâu, chỉ thấy một chiếc giầy rơm giơ ra, cạch cạch hai tiếng đóng cửa lại rồi trong khoảnh khắc chợt nghe trong buồng có tiếng kêu duyên dáng. Một lúc lâu sau lại nghe thanh âm của Đại lão gia kêu lên quái gở:

- Này, tay nàng lột tỏi hả! Nóng lắm, chặt lắm... Ừm…Ặc... Ặc...

Rồi không có tiếng động gì truyền ra nữa. Tuyết Lý Mai mặt đỏ như hơ lửa cố làm gan ghé tai Ngọc Đường Xuân đang run run, nói:

- Lão gia thật quá đáng, sao... sao lại tuyên dâm giữa ban ngày thế.

Ngọc Đường Xuân bị hơi thở dồn dập của nàng phun vào tai, còn mình cũng thở dồn dập hai má nóng bừng bừng. Nàng còn chưa nói gì, tiểu Vân đột nhiên vung vẩy đôi tay còn dính đầy bột trắng toát kêu lên:

- Hỏng rồi, hỏng rồi, bánh bao của người ta...

oOo

Dương Lăng tiễn Vương Cảnh Long khỏi cửa rồi trở lại gian chính ngồi xuống, không khỏi thở dài một hơi, mấy thứ khách sáo hư tình giả ý thật là mệt. Vị Vương tam công tử này lớn hơn y hai tuổi nhưng bản thân lại rất ngây thơ. Rõ ràng là oán hận y đầy bụng mà thần sắc cũng không hề che giấu vậy còn làm ra vẻ ăn nói khép nép xin người khác giúp đỡ, quả thật là làm khó hắn.

Bên cạnh Ngọc Đường Xuân đang giả làm tỳ nữ ngoan ngoãn đưa tới một chén trà. Dương Lăng nhận lấy uống một ngụm, rồi nhìn nàng cười nói:

- Cô nương xem vị Vương công tử này như thế nào?

Lúc Dương Lăng tiếp kiến Vương Cảnh Long đã bảo Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đều tới giả làm thị nữ, muốn xem cái nhìn của các nàng đối với Vương Cảnh Long.

Ngọc Đường Xuân hôm qua bị y vỗ một cái vào mông nên vẫn bối rối khi gặp y. Mãi đến hôm nay bị Dương Lăng gọi ra mới ngượng ngượng ngùng ngùng thò đầu ra ngoài.

Nghe Dương Lăng hỏi, nàng cúi đầu ngẫm nghĩ một lát, rồi chau mày nói:

- Vị Vương công tử này tuy là thuộc gia tộc lớn nhưng không hoài bão gì, ngôn ngữ ngây thơ, nhìn kỹ thì cũng chỉ có vậy. Tiện thiếp cảm thấy hắn cầu khẩn đại nhân cũng chẳng có thành ý gì.

Dương Lăng nghe xong cũng hơi bất ngờ. Hai người này không phải nhất kiến chung tình sao? Sao Tô Tam đánh giá hắn như vậy?

Y quên mất Tô Tam trong trí nhớ của mình gặp Vương Cảnh Long ở đâu, khi nào? Vương Cảnh Long lúc đó là một công tử bột còn trẻ nói năng tuỳ tiện chỉ có tướng tá là trông còn ngon lành, mà Tô Tam lại là kỹ nữ bán rẻ tiếng cười cho nên cơ bản là nàng không có quyền chọn lựa khách. Có thể gặp được một người trẻ tuổi lắm tiền đệ tử con nhà quan lại thế gia lại đa tình như vậy đã là phúc phận khó cầu rồi thì sao nàng không đem hạnh phúc của mình mà dựa vào người đó chứ. Bây giờ tâm tình lẫn thân phận đều khác hẳn ngày xưa cho nên góc độ nàng nhìn người tự nhiên cũng không giống.

Bên kia Tuyết Lý Mai ngọt ngào cười nói:

- Vương thượng thư có ba con trai. Đại công tử làm quan ở Kim Lăng, nhị công tử làm quan ở Hàng Châu, vị tam công tử này nhỏ hơn huynh trưởng tận ba mươi tuổi. Nghe nói là con thiếp thất của Vương thượng thư sinh ra, mà Vương thượng thư năm mươi tuổi mới sinh thằng con út cho nên cực kỳ sủng ái hắn. Vị Vương công tử này xưa nay cưỡi ngựa thưởng hoa với đám công tôn quý tử ở kinh sư cũng là một tên vung tiền như rác. Nhưng hắn cũng có tiếng là người tài hoa, tương lai không biết chừng cũng làm quan đó. Vương gia cả nhà làm quan, môn sinh bạn cũ rất nhiều, hôm nay đại nhân cho hắn thuận nước giong thuyền tất sẽ có ích với mình.

Dương Lăng cười cười, dựa lưng vào ghế nhắm mắt lại ngẫm nghĩ một lát. Vị Vương Cảnh Long này thật ra cũng tuấn tú lịch sự, tuy thần khí hơi hão huyền không thực tế nhưng đó là khuyết điểm chung của đám công tôn quý tử chốn kinh sư, xét cho cùng cũng không phải vấn đề gì lớn.

Chỉ là thấy hai cô nương nhà mình chẳng có dao động gì với hắn, vậy xem ra mấy thứ nhất kiến chung tình, nhân duyên tiền thế đều chỉ là chuyện đồn thổi. Cảm tình con người không thể suy đoán lung tung được. Gặp được vận may, rất nhiều việc sẽ không thể dùng lẽ thường mà nói được.

Dương Lăng thở dài, đứng lên duỗi vai vặn lưng. Không ngờ tay y vừa vươn ra thì Ngọc Đường Xuân như phản xạ có điều kiện né qua bên cạnh làm cho Dương Lăng vừa bực mình vừa buồn cười. Y đưa mắt thấy Tuyết Lý Mai bưng miệng cười trộm một bên, không khỏi giả vờ giận dữ trừng mắt liếc nàng, phẩy tay áo quát:

- Láo! Đi lấy quan bào mau lên, lão gia ta phải vào cung.

oOo

Vương Cảnh Long cưỡi ngựa tinh thần hoảng hốt không yên, hình ảnh hai nữ tỳ thanh tú thoát trần, xinh đẹp động lòng người ấy vẫn luôn quanh quẩn trong đầu hắn. Vừa rồi lúc còn ở Dương gia, hắn không dám ngẩng đầu lên liếc nhìn quá nhiều, lúc này khi về nhớ tới thì khắp nơi chỉ còn hình ảnh mỹ nữ nhưng lại nhớ không nổi bộ dáng rõ ràng của hai nàng.

Hôm qua hắn tới bái phỏng Dương Lăng thì chỉ gặp một tiểu nha hoàn, hôm nay trở lại quả nhiên như nguyện gặp được Dương Lăng, hơn nữa còn được hắn hứa hỗ trợ góp lời. Càng làm hắn kinh động chính là hai nữ tỳ tuyệt đẹp đứng phía sau Dương Lăng.

Hai tỳ nữ đó xinh đẹp thiên kiều bá mị, đoan trang yêu kiều, đẹp hơn phu nhân mình rất nhiều. Cái khó mà tưởng tượng chính là tuy nói hai cô nương đó đều là thị nữ nhưng vẻ mặt khí chất lại có phong phạm tiểu thư khuê các, nhìn qua thật sự làm người ta điên đảo tâm hồn. Vương Cảnh Long nghĩ tới bộ dáng yêu kiều của hai cô nương không khỏi thở dài tiếc hận: trước giờ giai nhân phối với tài tử, sao các nàng lại lạc tới Dương gia, rõ là hoa lài cắm bãi cứt trâu mà.

Phía trước người đi đường rất nhiều, Vương Cảnh Long lắc đầu dứt bỏ ý nghĩ thương hoa tiếc ngọc rồi cho ngựa chạy chậm lại. Mấy ngày nay phụ thân xảy ra chuyện khiến Vương Cảnh Long phải chạy quanh bôn ba cầu cứu những người bạn có quan chức của cha. Đám bạn xưa nay vẫn cùng ngâm thơ thưởng trăng hắn vẫn không ngó tới, nhưng hôm nay từ chối không được hắn đành đáp ứng dẫn đám hảo hữu đi ‘Túy Tiên Lâu’ ăn nhậu.

Lúc này được một quyền thần như Dương Lăng hứa sẽ hỗ trợ, cũng có nghĩa là cha mình nhất định sẽ không xảy ra việc gì, những lo nghĩ của Vương Cảnh Long cũng nhẹ đi nhiều. Hắn đi tới ”Túy Tiên Lâu”, một tên tiểu nhị tươi cười đón hắn nói ngay:

- Ủa, Vương công tử, mấy hôm rồi ngài không tới, mau mau lên lầu, vẫn là Lục Châu Các. Các công tử đều đang chờ ngài.

Vương lão thượng thư bị Hoàng Thượng hạ ngục, tiểu nhị cũng sớm nghe nói rồi. Nhưng hắn nào dám trước mặt Vương Cảnh long có biểu hiện gì, chỉ có nước làm bộ chẳng biết. Vương Cảnh Long đưa cương ngựa cho hắn, ừm một tiếng rồi đi thẳng lên lầu ba.

“Túy Tiên Lâu” ở kinh sư xem như là một đại tửu lâu hạng nhất, tổng cộng ba căn, bốn phương đều có lầu các quây quanh một sân giếng trời, trong sân có trồng rất nhiều kỳ hoa dị thảo. Bình thường từ sớm đã có người uống rượu đàm tiếu, đàn sáo nhã nhạc vang lừng, kỹ nữ mỹ lệ nhẹ nhàng múa hát, quả nhiên là thiên đường nhân gian.

Bây giờ cả nước để tang Hoàng Thượng, mặc dù khách sạn tửu lâu của Đại Minh đều có thể làm ăn bình thường, vẫn tiếp đãi khách thương nam lai bắc vãng nhưng việc chơi đàn múa hát bị cấm tuyệt đối, do đó thanh tĩnh đi rất nhiều.

Trong Lục Châu Các lầu ba, sáu vị công tôn quý tử đang uống rượu cười nói. Thấy Vương Cảnh Long đi vào, một tên công tử vỗ tay cười nói:

- Thuận Khanh, ngươi đã tới muộn, phải tự phạt ba chén mới được.

Một khi thanh niên tới hai mươi tuổi làm xong lễ thành nhân thì sau đó có thể được mang tên chữ. Tên chữ Thuận Khanh của Vương Cảnh Long chính là do cha của vị công tử Dương Lâm này là Dương Phương, giữ chức Chiêm sự đặt cho, hai nhà có quan hệ rất tốt. Vương Cảnh Long cố cười, ôm quyền thi lễ:

- Tiểu đệ trên đường có ghé qua Uy Vũ Bá Phủ, do đó trễ một chút, chư vị huynh đài hảo hữu bỏ qua cho.

Dương Lâm nghe xong đặt chén xuống nói:

- Chuyện gì? Thuận Khanh mà đi cầu tên Uy Vũ Bá à? Hừ, tên gian nịnh nói lời gièm pha mị hoặc hoàng thượng, đầu độc thánh quân, dân chúng ai không biết? Thuận Khanh mà khuất phục hắn, cầu hắn ra mặt cho lệnh tôn, một khi việc này lan truyền ra ngoài thì Vương lão thượng thư một đời tên tuổi anh hùng đều sẽ bị trôi mất.

Bên cạnh mấy vị công tử đều vội gật đầu lia lịa, công tử của thị lang bộ Hình là Triệu Ung cười lạnh:

- Nghe nói tên tặc tử đó ở bên người Hoàng Thượng cấu kết với đám hoạn quan nói lời gièm pha, ở ngay kinh sư vạch ra bảy tòa ngự trang, được chuyển sang nhậm chức thống lĩnh thân quân thị vệ của hoàng đế. Bây giờ lại cổ động Hoàng Thượng hạ chỉ, không cho quan chức các tỉnh nhậm chức ở quê quán, làm các đại thần tiếng oán dậy đất.

Một vị công tử khác cũng nói vẻ không vui:

- Mười năm gian khổ học tập, ai không muốn công thành danh toại, ăn ngon mặc đẹp để có thể có được cảnh tượng áo gấm vinh quy về làng? Ta là người Chiết Giang, chẳng lẽ nếu ta làm quan thì chỉ có thể đi tới chỗ hoang vu lạnh lẽo không thể về quê hương nhậm chức sao? Thuận Khanh kết giao với nhân vật như vậy, rõ là khiến người xem thường!

Vương Cảnh Long bị nói tới mặt ngọc đỏ bừng, xấu hổ và giận dữ nói:

- Chư vị hảo hữu, gia phụ năm nay đã già nua cao tuổi rồi. Bây giờ bị giam trong thiên lao, phận làm con sao có thể không đau xót chứ? Ta tuy bề ngoài gượng cười đến nhà cầu hắn xin giúp đỡ, kỳ thật hận không thể lột da lóc xương tên tặc tử kia, như vậy mới giải được mối hận trong lòng ta.

Dương Lâm đập bàn:

- Đây mới là khí khái của người đọc sách. Tên gian nịnh này mà không trừ, mọi người đều bất an. Bây giờ Dương Lăng căn cơ chưa ổn nên còn có cơ hội trừ bỏ hắn. Nếu cứ ngồi chờ để hắn thanh thế lớn lên, chẳng lẽ không phải tai hoạ cho thiên hạ sao?

Triệu Ung thở dài nói:

- Nói dễ vậy sao. Bây giờ hắn đang là người được bệ hạ sủng ái, ba vị đại học sĩ tuy bất mãn hắn nhưng hình như cũng không có ý diệt trừ hắn. Chúng ta chỉ là thư sinh yếu đuối, có thể làm gì được chứ?

Dương Lâm cười nói:

- Hiền đệ hà tất phải nhụt chí thế, Dương Lăng đã là tên gian nịnh, tất sẽ làm nhiều việc phạm pháp. Nếu ta dụng tâm cố công dò tìm thì cuối cùng cũng có thể bắt được đuôi của hắn. Đến lúc đó đưa chứng cớ vô cùng xác thực đến trước mặt hoàng đế thì có gì mà không trảm được cái đầu hắn? Cho dù Hoàng Thượng sủng tín hắn khiến phương pháp này không làm được thì chúng ta lại tìm cơ hội khác, chỉ bằng bảy tài tử chúng ta đầy bụng kinh luân, đọc đủ loại thi thư, chẳng lẽ không nghĩ ra biện pháp trừng trị tên tặc tử này sao?

Vương Cảnh Long tinh thần chấn động, nói giọng căm hận:

- Không sai! Chúng ta có thể cho gia đinh nô bộc theo dõi hắn khắp nơi, tìm mọi chứng cớ phạm pháp của hắn. Một khi lật đổ được hắn há chẳng phải tên của bảy người quân tử chúng ta sẽ được truyền tụng khắp nơi hay sao?

Chương chín mươi hai Bão Tố ở Ngự Trang

------------------------

Dương Lăng vừa tới Càn Thanh Cung đã thấy Mã Vĩnh Thành và Cốc Đại Dụng đều ở trong điện. Cốc Đại Dụng đang đứng hầu phía sau Chính Đức, Mã Vĩnh Thành đứng trước án thưa chuyện. Thấy y tới, Chính Đức ngắt lời Mã Vĩnh Thành, quay sang cười nói với y:

- Bảo ngươi tới trễ một chút, quả nhiên ngươi tới thật trễ! Trẫm đã xong buổi triều sớm rồi ngươi mới đến.

Dương Lăng thi lễ xong, cười hì hì đáp:

- Hoàng Thượng đã dặn dò thần nghỉ ngơi nhiều hơn. Đã được Hoàng Thượng thông cảm như vậy, nếu thần vẫn cứ tới sớm thì thành ra phạm thánh ý mất rồi!

Hoàng Đế Chính Đức bĩu môi:

- Vờ vĩnh! Ngươi có nương tử bầu bạn, tự nhiên không muốn theo ta rồi.

Thấy Dương Lăng ngẩn người, hắn không khỏi phá ra cười, vỗ tay cười nói:

- Quả nhiên là ta đoán trúng. Ấu Nương tỷ tỷ cũng giống như mẫu hậu, phụ nữ trong thiên hạ đều tương tự nhau, ha ha!

Dương Lăng nghe thế dở khóc dở cười. Mã Vĩnh Thành, Cốc Đại Dụng nghe một Hoàng Đế như hắn mà không hề ý tứ cứ gọi người ta là Ấu Nương tỷ tỷ, cũng chỉ đành cười gượng, không dám chỉ trích thói quen này.

Mã Vĩnh Thành ho khan hai tiếng, cười bồi chào Dương Lăng, rồi vội vàng đổi đề tài:

- Hoàng Thượng! Sau khi lão nô tại triều phòng đem ý của ngài lộ ra, thượng thư bộ Hộ Hàn Văn lại nói: “Ngân khố quốc gia trống rỗng, quan chức quản lý tài sản không phải là đám xiếc ảo thuật do Đông cung mời tới mà có thể ảo thuật ra tiền của được. Bây giờ đang xây công sự Bát Đạt Lĩnh, Thái Lăng cũng đang thi công, hẳn Hoàng Thượng nên tiết giảm tiêu dùng mới phải”.

Chính Đức nghe xong, vỗ bàn cả giận:

- Nói thế là thế nào? Đại Minh ta luôn luôn thu thuế nhẹ để dưỡng dân, mức thu thuế vốn không cao, huống chi ta còn ra lệnh xuất trong ngân khố ra một nửa số tiền. Chỉ bảo họ tu sửa khu vườn Bắc Hải, cắt bớt cỏ dại, làm mấy chiếc thuyền nhỏ để trẫm du ngoạn khi rảnh rỗi, thế mà cũng lắm ý kiến như vậy. Mấy tên đại thần này thật!

Mã Vĩnh Thành cúi đầu khom lưng đáp:

- Dạ, đúng! Thị lang bộ Lại Tiêu Phương cũng nói: “Dân chúng bình dân cũng có những chi phí ngoài dự tính, có khi cũng du ngoạn tiết đạp thanh (tiết Thanh Minh). Nhà dân thường còn tu sửa vườn tược này nọ, huống chi là hoàng gia? Triều đình luôn luôn khoan dung, hiện nay thiên hạ nợ dồn thuế ruộng lẫn trốn thuế nhiều vô kể! Cho dù là đôn đốc thu về chỉ được một hai thành thôi, cũng không cần bảo Hoàng Thượng phải hạn chế chi phí”.

Hoàng đế Chính Đức nghe xong chuyển giận thành vui:

- Tiêu Phương? Là Tiêu Phương mà hôm qua đem mấy con vật nhỏ tới can gián trẫm à? Ha ha, phương pháp vị quan này dùng để can gián rất dí dỏm, không giống như những tên thầy đồ đó, động một tí là trách trời thương dân, làm như nếu trẫm không nghe lời mấy lão thì trời sập xuống ngay lập tức ấy! Ừm! Nghe lão nói những lời này xem ra khá là thông cảm cùng trẫm, đó là một vị quan tốt.

Mã Vĩnh Thành cười hùa nói:

- Hoàng Thượng nói rất đúng! Nhưng Tiêu đại nhân lập tức bị các vị Hàn đại nhân, Dương đại nhân, Lưu đại nhân ùa lên phê phán, ông ta sợ quá cũng không dám lên tiếng nữa.

Hoàng đế Hoằng Trị rất ít đi du lịch. Cả đời ông ta chẳng mấy khi ra khỏi Tử Cấm thành. Tuy đôi khi ông cũng mang theo con trai ra ngoài đi chơi, nhưng cũng chỉ là loanh quanh phố phường một chút, đương nhiên không hề đi thăm Hoa viên hoàng gia bao giờ. Bao nhiêu năm không tu sửa, vườn hoa Bắc Hải cũng đã hoang vu nhiều.

Lúc này Chính Đức muốn tu sửa một chút, thật ra công trình cũng không lớn, tiêu phí tiền bạc cũng rất ít. Dương Lăng trước đó cũng có nghe ý của hắn, rồi cũng phong thanh nghe nói triều thần sở dĩ kiên quyết phản đối việc này cũng chỉ là do đề phòng cẩn mật mà thôi. Họ sợ một khi chìu lòng Hoàng Thượng việc này cũng giống như mở một đột phá khẩu, sẽ khiến cái tâm ham chơi của Hoàng Thượng càng ngày càng nặng, do đó họ kiên quyết phản đối, buộc Hoàng Đế phải gò mình trong Tử Cấm thành.

Theo quan điểm của Dương Lăng, đó là một chuyện nhỏ, sửa hay không sửa thì đối với Đại Minh bây giờ cũng không có ảnh hưởng gì. Tương tự, đối với những gì y biết về lịch sử thì việc này cũng không sinh ra thay đổi gì cả. Việc nhỏ như thế còn chưa tới mức hao tài tốn của, Dương Lăng lại không ảo vọng có thể cải tạo Chính Đức thành công bộc của nhân dân, nên đương nhiên y cũng chẳng hề góp ý gì.

Chính Đức lẩm bẩm bất bình một hồi, rồi lại giống như một trái bóng cao su xì hơi, bảo:

- Cứ vậy đi! Họ không cho tiền, trẫm bỏ tiền của mình. Ngươi giúp trẫm quản chặt tiền bạc. Được rồi, bây giờ ngươi theo Dương Lăng đi ra ngoại ô, tiếp thu mấy cái ngự trang cho trẫm, khi rỗi trẫm sẽ tự mình tới đó nhìn qua.

Dương Lăng và Mã Vĩnh Thành thấy tâm tình Hoàng Thượng không ổn, vội vàng lĩnh ý chỉ rời khỏi điện, vừa lúc gặp Liễu Bưu thống lĩnh năm trăm thân quân đến. Dương Lăng gặp Mã Vĩnh Thành, nhớ tới việc lúc trước chính Mã Vĩnh Thành đưa bạc cho mình để chuộc thân Đường Nhất Tiên, rồi mình mới đưa ba vị cô nương đó về nhà. Vốn tưởng rằng cứu người ta ra khỏi hố lửa, bây giờ lại làm hại Nhất Tiên mất tích, không rõ nàng đang lưu lạc nơi đâu, trong lòng cũng hơi phiền muộn.

Mã Vĩnh Thành thấy thần sắc y có vẻ buồn bực, không khỏi làm lạ hỏi:

- Dương đại nhân! Sao đại nhân lại tâm sự trùng điệp thế, có chuyện gì à?

Dương Lăng cười gượng, đáp:

- À, không có gì! Đúng rồi! Lần trước công công đưa bạc để chuộc thân cho Đường cô nương, ta chỉ xài một vạn lượng, vẫn chưa tìm được cơ hội đem ngân lượng thừa trả lại cho công công. Chốc nữa trở về nhà, ta sẽ lấy bạc hoàn lại cho công công.

Mã Vĩnh Thành mặt mày hớn hở chối từ:

- Không cần! Không cần! Hoàng Thượng tin yêu Dương đại nhân, bên trong ngự trang còn ban cho đại nhân một tòa nhà to, sự coi trọng này quả không người nào khác có thể so sánh được. Sau này chúng ta còn cần Dương đại nhân nâng đỡ nhiều hơn.

Lão đắc ý khoe:

- Huống chi bây giờ cũng khác với ngày xưa. Chúng ta đã là chưởng quản nội khố, việc mua sắm trong cung cũng hoàn toàn giao cho chúng ta, chút ngân lượng này đã là gì?

Lúc này Dương Lăng mới hiểu được Mã Vĩnh Thành đã nắm quyền tài chính trong cung, vội vàng chúc mừng lão. Mã Vĩnh Thành hỉ hả cười rạng rỡ: trong hoàng cung có mấy vạn nhân khẩu, đương nhiên chi phí hằng ngày rất lớn. Từ một một quan thu mua nho nhỏ biến thành đại tổng quản hậu cung về tài chính, quả thực là một mông ngồi trên đỉnh núi vàng rồi, nên lão không thèm quan tâm tới vạn lượng bạc bỏ ra hồi xưa.

Cả một vùng bảy thôn trang liền kề ở Tây giao (vùng ngoại ô phía tây kinh sư) đều bị Chính Đức khoanh lại để làm ngự trang. Dương Lăng phụng chỉ ngụ ở đây. Lại nghe nói Hoàng Thượng ban cho y một tòa nhà xây dựng sẵn, lẽ nào y không về báo tin cho Ấu Nương? Do đó y nhận năm trăm thân quân, trở về kéo theo gia quyến rồi mới chạy tới Tây giao.

Tân đế đăng cơ, kinh sư đã yên ổn, đột nhiên có rất nhiều binh lính di chuyển như vậy tự nhiên không giấu được người khác, huống chi đây là việc của Dương Lăng, người gần đây danh nổi như cồn. Tin tức lập tức lan truyền khắp kinh sư. Đám Triệu Ung đang ăn nhậu trên tửu lâu cũng nghe được tin tức này, vội vàng bảo một tên gia nhân đi theo xem thử rốt cuộc là gì.

Dương Lăng dẫn quân tới Tây giao thì mặt trời đã đỏ ối, sắp lặn xuống núi rồi. Lúc này cả vùng núi xa xa như sương như khói, trước mắt đồng ruộng phì nhiêu, một khoảng hoa màu xanh mượt tít tắp, dòng suối nhỏ giống như một chiếc đai ngọc vòng quanh đồng ruộng, không khí vô cùng u nhã. Một vùng ruộng lúa xanh mượt, những tiếng ếch kêu vang vang, cả một vùng điền viên êm đềm thanh thản.

Bọn Ấu Nương, Trương thị thấy thế thầm vui mừng trong lòng. Ngọc Tỷ Nhi và Tuyết Lý Mai hiếm khi thấy được loại cảnh sắc nông thôn như thế này này, tâm thần hơi mê đắm, như tỉnh như say.

Tòa nhà ban cho Dương Lăng là tòa giàu có nhất trong bảy thôn trang. Cả thôn trang này có năm sáu mươi hộ dân, các sân nhà đều phân cách nhau bằng hàng rào cao nửa thân người, chung quanh đình viện có khe nước róc rách, liễu xanh rủ bóng. Trên những lối mòn trong thôn, vài mục đồng đang vội vã lùa trâu bò về chuồng.

Những ông già bà lão bên đường thấy đoàn nhân mã rầm rộ đều dừng chân quan sát, mắt đầy vẻ ngạc nhiên. Mặc dù những người này đều ở vùng kinh thành, nhưng lại giống như cả đời không ra khỏi mảnh đất nhà mình, có vẻ cực kỳ chất phác.

Tới địa giới, Dương Lăng vừa nhìn thấy tên của thôn không khỏi phì cười. Thôn này gọi là Cao Lão trang, cũng không biết có phải tiểu tử Ngô Thừa Ân cũng đã từng tới nơi này không.

Nhưng từ khi tới thế giới này, Dương Lăng đã biết người đời này vẫn còn chưa biết tới truyện Tây du ký. Phỏng chừng nếu không phải lão Ngô chưa sinh ra thì lão cũng còn chưa chấp bút. Nếu không phải thời trước của Dương Lăng chưa có cái thứ gọi là bảo vệ tác quyền, hơn nữa lúc này viết sách cũng không kiếm được tiền bạc gì, chưa biết chừng Dương Lăng sẽ động thủ ăn cắp bản quyền, để tên tuổi mình nằm trên bìa một trong tứ đại tác phẩm nổi tiếng lưu danh hậu thế.

Thôn trưởng đã dẫn vài thân hào trong thôn đứng đón chào ở cửa thôn. Vừa thấy Dương Lăng, bọn họ liền cung kính bước lên đón tiếp. Vị thôn trưởng có tuổi không lớn lắm, chừng hơn bốn mươi tuổi, chính là lứa tuổi còn rất khoẻ mạnh. Xem cách ông ta ăn mặc nói năng, xem ra cũng từng được đi học, gia cảnh giàu có.

Dương Lăng được họ đưa tới nhà mới của mình. Đây là một tòa nhà to, trước sau có ba viện. Đại viện nhà cao cửa rộng, trên khung cửa cao treo một tấm biển mới tinh, đen kịt: ”Uy Vũ Bá Phủ”. Phía dưới là chiếc cửa sơn son, trên cửa có vòng đồng, đang mở rộng. Vừa bước vào cửa là bắt gặp ngay một bức bình phong họa ảnh, thoạt nhìn biết ngay chủ nhân cũ là người rất hoang phí.

Thôn nhỏ khó có thể chiêu đãi nổi năm trăm thân quân của Dương Lăng. Dương Lăng sớm đã ra lệnh cho quân mình tạm thời hạ trại ở cánh rừng hạnh không xa phía sau phủ Uy Vũ Bá. Bọn chúng phải tự nấu tự ăn, vạn lần không được quấy nhiễu dân chúng địa phương. Cũng may năm trăm quân binh nói nhiều không nhiều, nói ít cũng không ít, dựng lên hơn hai mươi đại trướng là đủ để họ nghỉ ngơi.

Vừa vào nhà, ngoại trừ vài nhân vật có uy tín trong thôn cung kính chào đón, điều làm cho người ta không ngờ tới là còn có hai hàng nam nữ người hầu đứng nghiêm chờ sẵn. Dương Lăng thấy gia nhân nô lệ sắp hàng nghênh đón, mặc dù mỗi người đều áo xanh mũ quả dưa như gia nhân bình thường, nhưng khí chất thì đều có vẻ nho nhã lịch sự, không khỏi cảm thấy vui sướng trong lòng: ai bảo tiểu hoàng đế trẻ người non dạ? Hắn thật sự thể hiện món ân tình này rất tốt.

Buổi tiệc tuy mở tại phủ Uy Vũ Bá nhưng lại do thôn trưởng Cao viên ngoại và các thân hào trong thôn đóng góp chi phí. Mọi người vào nhà, đám gia nhân chuyển hòm xiểng vào trong, rồi lập tức bày bàn ghế, khai tiệc khoản đãi tân chủ nhân.

Dương Lăng và bọn người Cao viên ngoại chưa quen nhau. Đám nữ thân quyến đều ở phòng trong tự ăn với nhau. Ngoại trừ chút lời khách sáo cũng không có gì hay để nói, Mã Vĩnh Thành cũng chỉ bắt chuyện vài câu với Dương Lăng, gần như không để ý gì tới đám người quê mùa ở nông thôn này. Cao viên ngoại là một người rất khôn khéo, thấy thế, chỉ trả lời xã giao một lát rồi vội vàng cáo từ.

Dương Lăng rất khách khí tiễn bọn Cao viên ngoại ra tận ngoài cửa, rồi trở vào uống rượu nói chuyện với đám Mã Vĩnh Thành, Liễu Bưu cùng vài quan tướng trong thân quân. Mã Vĩnh Thành cơm no rượu say cũng cười hì hì cáo từ. Dương Lăng muốn lấy ngân lượng trả lại cho lão, Mã Vĩnh Thành chết sống gì cũng từ chối, bước thẳng vào tiểu kiệu, vội vàng hồi cung.

Khi Dương Lăng tiễn mấy người Liễu Bưu ra về, cả chiếc sân to lớn trở nên quạnh quẽ. Hai gia nhân đốt hai chiếc đèn lồng màu đỏ treo lên cửa tòa nhà, rồi đóng cửa chính lại. Vừa đi vòng qua bức bình phong, thấy Dương lão gia đang đứng ở giữa đám hoa tươi đang nở trong viện mà ngẩn ngơ nhìn ánh trăng, hai người vội chạy tới hầu một bên.

Dương Lăng nhẹ hít vài hơi, rồi hỏi:

- Sao có mùi thuốc men ở đâu nhỉ?

Lão quản gia vội khom người đáp:

- Lão gia! Chủ nhân cũ của tòa nhà này có trồng một ít dược liệu trong vườn. Bây giờ hoa đang nở nên phảng phất có vị thuốc.

Dương Lăng à một tiếng, hài lòng nhìn ngôi nhà mới của mình. Y lại mỉm cười nhìn sắc trời chuyển đêm, cảm thấy nhà cửa cổ kính, cảnh tượng nông thôn thuần phác u nhã làm cho người ta cảm giác rất gần gũi dân gian, huống chi những nữ chủ nhân của nó lại vô cùng đáng yêu.

Vẻ đẹp ôn nhu là phần mộ của anh hùng, hay tổ ấm hạnh phúc của anh hùng đây? Đột nhiên Dương Lăng cảm thấy nếu không phải tranh đấu gì, cứ bình thản cùng Ấu Nương ở đây như vậy, trồng đủ loại hoa cỏ, cuộc sống hạnh phúc này chẳng phải còn tiêu dao hơn cả thần tiên sao?

Dương Lăng mỉm cười thỏa mãn, quan sát hai gia nhân vẫn cung kính đứng hầu bên cạnh. Hình dáng cùng thần thái cử chỉ của lão quản gia có vẻ trầm ổn, còn người kia là một thiếu niên còn khá trẻ nhưng lại có vẻ hơi sợ hãi y. Y không khỏi ôn hòa cười nói:

- Đừng sợ! Lão gia ta không khó tính đâu. Sau này mọi người chính là người trong gia đình cả. Ta sẽ không tùy tiện trừng phạt người làm đâu.

Lão quản gia nghe xong vội vàng đáp:

- Dạ, lão gia rộng lượng, tiệc rượu ở hậu viện cũng đã xong. Lão gia vừa mới tới nhà, thân thể mệt nhọc, có vẻ bây giờ là lúc có thể an giấc rồi? Bọn nha đầu đã thu dọn xong phòng ngủ cho lão gia và phu nhân rồi.

Lão nói xong vội huých vai tên tiểu hậu sinh có vẻ lịch sự vẫn còn đứng sững bên cạnh. Tên người hầu áo xanh mũ quả dưa vội vàng thưa:

- Dạ, xin mời lão gia an giấc.

Dương Lăng kỳ lạ liếc nhìn hắn, có cảm giác tên nô bộc này hơi kỳ quái. Y còn tưởng rằng do mình vừa tới, hai bên chưa quen nên tên này hơi nhát sợ; do đó y cũng không để ý lắm, chỉ hiền hoà nói:

- Ừm! Ta đi dạo một lát, các ngươi dọn xong phòng tiệc rồi cũng sớm nghỉ ngơi đi.

Tòa nhà khá rộng. Sau bức bình phong ở tiền viện là đại sảnh, hai bên chính là hai dãy sương phòng, là nơi gia đinh nô bộc cư ngụ. Đại sảnh là phòng chính để tiếp khách gồm hai gian nhà. Một gian là thư phòng, một gian là sảnh nhỏ để tiếp khách quan trọng.

Qua phòng chính là một hoa viên, một hòn giả sơn ở giữa ao, hành lang, đình đài, dây leo quấn quanh khắp nơi. Gió thổi nhè nhẹ, phảng phất một mùi hoa tươi mát. Mặc dù vườn không lớn, nhưng lại rất tinh xảo, rất có phong vị lâm viên của vùng sông nước Giang Nam.

Dương Lăng rất vui vẻ trong lòng, bây giờ bóng đêm đang chậm buông xuống, không thấy rõ cảnh vật nữa. Ngày mai mình phải nhìn xem cho kỹ, căn nhà ở chốn nhỏ hẹp này lại giống như tiên cảnh. Y đi qua một hành lang uốn khúc, vừa mới bước qua cửa tròn tiến vào hậu viện, nơi ở của gia quyến, chợt y nghe loáng thoáng tiếng khóc vọng đến.

Dương Lăng cả kinh, vội vàng tăng tốc chạy tới chỗ có tiếng khóc. Hậu viện là một ngôi lầu nhỏ hai tầng hình cánh cung, chính giữa tầng một là một phòng khách, trước cửa có hai nữ tỳ đang đứng, thấy y tới vội thi lễ:

- Nô tỳ ra mắt lão gia!

Dương Lăng nghe tiếng khóc từ phía trong sảnh vọng ra, bèn không lý tới các nàng mà vội vàng tiến vào phòng. Y thấy Hàn Ấu Nương, Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai cùng đại tẩu Trương Thị đều mặt mũi bi ai, còn Vân nhi đang nâng một thiếu nữ mặc áo hoa đang khóc như mưa đứng dậy.

Dương Lăng cả kinh hỏi:

- Ấu Nương! Chuyện gì vậy?

Hàn Ấu Nương thấy y, vội bước nhanh ra đón rồi giữ chặt tay y, giọng thương tâm:

- Tướng công! Nhà người này rất đáng thương. Chàng ... chàng cố nghĩ cách cứu các nàng được không?

Dương Lăng kinh ngạc hỏi:

- Nhà này à? Rốt cuộc là chuyện gì?

Y hỏi mà tim đập thình thịch. Không phải là tiểu hoàng đế bị người ta mê hoặc, rồi ban cho mình tòa nhà này để làm việc gì thương thiên bại lí chứ? Tội này mình không thể gánh chịu nổi.

Tô Tam kéo thiếu nữ áo hoa đến gần, báo:

- Vị cô nương này là thân thích của Cao lão gia, cựu chủ nhân của tòa nhà này, là cháu của Cao gia. Cao tiểu thư đem mọi sự tình kể cho đại nhân nhà chúng ta biết đi! Đại nhân nhà ta rất bản lĩnh, nhất định có thể cứu được tỷ tỷ ngươi.

Dương Lăng nhìn thiếu nữ mặc áo hoa. Y thấy thiếu nữ đó chừng mười bảy mười tám tuổi, trên mặt lấm chấm tàn nhang, dung mạo thật ra cũng khá đoan chính, nàng đang nhè nhẹ lau nước mắt.

Dương Lăng vội hỏi:

- Rốt cuộc xảy ra chuyện gì? Ngươi nói cho ta nghe!

Vốn bọn người Ấu Nương cùng ăn cơm ở phòng sau. Chuyển sang nhà mới, thấy phong cảnh trong viện như chốn thần tiên, các cô nàng không khỏi vui mừng trong lòng. Mấy nàng ngồi trong phòng khách vừa ăn vừa nói chuyện, thỉnh thoảng vui vẻ cười vang.

Có một tỳ nữ đứng hầu bên cạnh, thấy các nàng chuyện trò vui vẻ như thế, không khỏi lộ vẻ bi thương, rồi lặng lẽ xoay người lau nước mắt. Ngọc Đường Xuân đang ngồi đối diện nàng, nhìn thấy thần sắc nàng khác thường, liền gọi tới gần dò hỏi. Thiếu nữ đó lúc đầu còn bối rối cố che giấu, sau không chống được nên phải quỳ xuống tạ tội, đem mọi việc kể lại. Đám Ấu Nương nghe chuyện bi thảm cũng không khỏi mềm lòng rơi lệ.

Thì ra chủ nhân của tòa nhà to lớn này tên là Cao Đình Hòa, chính là vị thái y xui xẻo vừa bị Hoàng Đế Chính Đức cho áp giải ra chợ chém đầu mấy ngày trước. Hoàng đế Hoằng Trị vừa uống thuốc xong chợt đổ máu mũi không ngừng rồi mất. Trong cơn giận dữ, Chính Đức lôi đám thái giám cho Hoàng Thượng uống thuốc là Trương Du cùng đại nhân viện trưởng Thái Y viện Lưu Văn Thái ra chém đầu. Người thầy thuốc phụ trách việc kê thuốc cho Hoàng đế làm sao thoát chết được chứ?

Hơn nữa ông còn chịu tội nặng hơn hai tử tù kia. Để phân biệt, bộ Hình phán ba người tử tội, còn Cao Đình Hòa thì tội tăng thêm một tầng nữa: bị tịch thu nhà cửa, tài sản sung công, con trai bị chém, con gái sung vào Giáo Phường ty, những người còn lại trong nhà đều bị bắt làm nô lệ.

Trong nhà Cao thái y có rất ít người lớn, không có con trai, chỉ có một con gái tên là Cao Văn Tâm, năm nay vừa mười tám tuổi. Vốn nàng đã hứa hôn cho nhà họ Lý ở thôn bên từ lâu. Nhưng ba năm trước, lão thái thái của họ Lý mất, vị thiếu gia phải giữ đạo hiếu ba năm, nên hôn sự bị hoãn lại. Kết quả bây giờ nàng bị bắt vào Giáo Phường ty.

Thiếu nữ áo hoa tên là Cao Văn Lan, còn có một người em trai là Cao Văn Cử, chính là thanh niên lúc nãy ở tiền đình hầu hạ Dương Lăng. Anh trai của Cao Đình Hòa là Cao Đình Chính đã chết sớm, Cao thái y đem hai con của ca ca về nhà chăm sóc. Vốn lão định tháng tám năm nay sẽ cho con gái mình vu quy, sau đó nhận Cao Văn Cử làm con thừa tự cho mình. Cũng may mà muộn một chút, bằng không hương khói duy nhất của nhà họ Cao cũng bị chém đầu.

Vốn đã có một gia đình tốt đẹp, chỉ khoảng khắc mà cửa nát nhà tan, vốn mình là thiếu gia tiểu thư, nay phải ở lại chốn này để hầu hạ cho những người chiếm nhà mình. Tình cảnh ấy làm sao không khiến cho người ta thương tâm rơi lệ?

Dương Lăng nghe nàng kể chuyện xong cũng cảm thấy bùi ngùi. Hàn Ấu Nương giữ chặt tay y nài nỉ:

- Tướng công! Cô nương nhà họ Cao là tiểu thư con nhà gia giáo, có đọc sách có lễ nghĩa, bị đưa đến chốn người ta chà đạp, vậy không phải sống không bằng chết sao? Tướng công, xin chàng cứu nàng đi, được không?

Dương Lăng nghe xong không khỏi do dự. Muốn lấy người của Giáo Phường ty, với thân phận y bây giờ thì chỉ là việc nhỏ không đáng kể gì. Nhưng người này là khâm phạm, việc này không phải là việc dễ trêu vào. Tội của Cao Đình Hòa có liên quan tới cái chết của tiên đế, đâu có thể tùy tiện để người ngoài vào cứu thân quyến của lão chứ?

Đồng tình là một việc, nhưng khi gặp chuyện bất bình cũng phải xem cân lượng của mình tới đâu đã chứ! Việc này phải xem thử Hoàng Đế Chính Đức nghĩ ra sao, xem hắn có đồng ý thả người hay không.

Dương Lăng còn đang trù trừ, Cao Văn Lan thấy y do dự bèn quì sụp xuống đất, liên tục cầu khẩn:

- Đại nhân! Van người cứu muội muội tiểu nữ. Nàng đọc sách biết lễ, là người thiện lương, đã cứu không ít bệnh nhân trong vòng mười dặm quanh đây, luôn luôn làm việc thiện. Cầu xin đại nhân cứu nàng!

Cao Văn Lan dập đầu liên tục, chiếc trán mịn màng đã rớm máu. Ấu Nương thấy vậy càng thêm không đành lòng, cầu khẩn:

- Tướng công! Danh tiết thiếu nữ là chuyện lớn. Sao mà người ta lại có thể làm như vậy với một nữ hài nhi như thế. Tướng công! Chúng ta đã ở đây rồi, cũng là có duyên phận, sao lại thấy chết mà không cứu được?

Dương Lăng hít vào một hơi, lòng thầm cười khổ: “Nha đầu ngốc, tại ngươi nghĩ rằng tướng công rất có bản lĩnh. Hoàng đế Hoằng Trị tuổi thọ đã hết, ai chẳng biết mấy vị thái y chết oan. Nhưng văn võ cả triều không một ai dám ra mặt cầu tình, mấy tên ngự sử ấy còn thượng tấu chương yêu cầu nghiêm trị những người có liên quan nữa là!

Với lại, đến giờ đã qua ba ngày rồi. Nếu Cao tiểu thư không chịu khuất phục, e rằng sớm đã tự tử chết mất rồi còn đâu. Nếu nàng sợ chết khuất phục, bây giờ chẳng biết đã đem thân tiếp bao nhiêu người khách rồi, có cứu cũng đã muộn. Nếu nàng đã rơi vào hoàn cảnh như vậy, nàng còn chịu trở về gặp lại thân nhân và gia nhân cũ của mình sao?”

Dương Lăng suy tính trong lòng như thế, ngẩng đầu lên thấy Ấu Nương và Ngọc Tỷ Nhi, Tuyết Lý Mai đang tha thiết chờ đợi, ánh mắt tín nhiệm vô hạn, lại nhìn thấy thiếu nữ vẫn không ngừng dập đầu, trán đầy những vết máu loang lổ. Y không khỏi thở dài một tiếng, giậm chân liên tục nói:

- Được, được! Ta đi! Các cô ở nhà đợi, ta lập tức vào thành, đi Giáo Phường ty.

Dương Lăng vội vàng đi tới chỗ đóng quân, gọi bốn thị vệ mang đao, lên ngựa lao về phía kinh thành. Con đường trong thôn uốn lượn liên tục, ngựa không chạy nhanh được. Mất cả buổi y mới rẽ được ra quan đạo.

Phải làm sao để cứu người được? Nếu đây là thủ đoạn xuất phát từ sự trả thù của hoàng đế Chính Đức, mà mình tùy tiện cứu người ra, vậy...

Một trận gió thổi qua, Dương Lăng nghĩ tới kết quả của người nhà Cao thái y, không khỏi rùng mình. Y quay phắt đầu nhìn về phía thôn, do quá xa nên hai ngọn đèn lồng trước cửa nhà đã biến thành những điểm sáng nhạt nhòa.

Dương Lăng tự cảnh tỉnh: con đường làm quan cực kỳ hung hiểm. Hôm nay ta rất oai phong ở triều đình, nhưng vạn nhất có một ngày không ổn, sẽ thành ra kết cục gì? Nếu Ấu Nương của ta, và những nữ hài nhi luôn luôn đi theo bên người ta cũng bị đưa đến...

Lòng Dương Lăng lạnh đi: “Ta không thể cứ thờ ơ như vậy, không thể chỉ dựa vào lòng tin của Hoàng Đế; nơi an toàn nhất cũng là nơi hung hiểm nhất. Vì an toàn của những người ta yêu dấu, ta phải nghĩ biện pháp để có năng lực tự bảo vệ. Nếu có người cố tình gây bất lợi cho ta, cho dù hắn là Hoàng Đế, thì hắn cũng là kẻ thù của ta. Dương Lăng ta làm việc chỉ theo lương tâm, chứ không nói gì tới ‘vua tôi cha con’ cả!"

Không dám hành sự lỗ mãng, trước hết Dương Lăng tới chỗ Cẩm Y Vệ gặp Tiền Ninh. Nghe y nói muốn cứu khâm phạm, Tiền Ninh cũng có vẻ sợ hãi. Nhưng thằng nhãi này cũng còn có chút lương tâm, sau mấy lần khuyên can không được, gã cũng kể cho y rõ về mấy thứ quy định của Giáo Phường ty, sau đó gã mới bảo là có chuyện quan trọng cần làm rồi vội vàng chuồn mất.

Thì ra Giáo Phường ty trực thuộc bộ Lễ, có các quan chức Tả Hữu Thiều Vũ, Tả Hữu Ty Nhạc. Không chỉ quản lý quan kỹ (kỹ nữ nhà nước) mà Giáo Phường ty còn là cơ quan tổ chức lễ nhạc cho triều đình. Các tiết mục âm nhạc của đại lễ cung đình đều do Giáo Phường ty phụ trách.

Giáo Phường ty phân ra hai loại là kỹ gia (kỹ nữ) và nhạc gia (nhạc công). Trong kỹ gia, đám con trai con gái phải sống với kiếp bán rẻ tiếng cười mua vui cho thiên hạ; còn đám nhạc công trong nhạc gia thì cũng giống như nhạc kỹ bình thường. Một khi vào Giáo Phường ty, con cháu đời đời sẽ phải nam là nô lệ, nữ là xướng ca. Thậm chí hiện nay có không ít kỹ nữ Giáo Phường ty là hậu duệ của những quan lại, đại thần, vương hầu đã phạm tội cả trăm năm trước.

Tuy nói Giáo Phường ty do Tả Hữu Thiều Vũ, Tả Hữu Ty Nhạc phụ trách, nhưng vì lễ nhạc cung đình thường thường phải do Giáo Phường ty phụ trách tập luyện diễn tấu nên để tiện điều hành, trong cung còn có một vị thái giám phụ trách chỉ huy Giáo Phường ty. Người này mới là người cầm quyền chính thức của Giáo Phường ty. Trước kia Lưu Cẩn từng làm thái giám chủ quản Giáo Phường ty, sau vì bị người tố giác nhận hối lộ nên lão bị Hoằng Trị miễn chức, chuyển tới làm ở Chung Cổ ty. Mỗi ngày lão cho gõ chuông đánh trống, tuy vẫn làm công việc thuộc dòng nhạc, nhưng lại không có thực quyền như trước.

Vừa nghe thái giám trong cung phụ trách Giáo Phường ty, Dương Lăng không khỏi mừng rỡ. Hiện nay, khi y đã ra mặt, cho dù là Vương Nhạc Vương công công cũng phải nể mặt vài phần, huống chi là kẻ khác. Cho dù vì e dè Chính Đức nên nhất thời y không cứu người ra được, thì chỉ cần y xin thái giám chủ quản nói một câu, tạm thời không đưa Cao tiểu thư đi đón khách cũng đã hoãn binh được một thời gian rồi.

Dương Lăng suy tính xong, bèn không đi Giáo Phường ty nữa mà trước hết chạy tới hoàng thành. Tới ngoài cửa hoàng thành, y mới sực nhớ ra bây giờ cung điện đã đóng cửa, cho dù y có trình thẻ ngà được phép vào cung cũng đừng nghĩ tới việc kêu mở cửa cung ra được, y không khỏi tròn mắt, sững người.

o0o

Giáo Phường ty ở phía nam kinh thành. Ba bước một lầu, năm bước một viện, kỹ viện ca lâu ở kinh sư phần lớn tập trung ở đây. Bên trong Giáo Phường ty, Hữu Thiều Vũ Tư Không Minh đang bắt chéo chân thưởng thức trà nóng, mí mắt cụp xuống, hỏi người đối diện:

- Nhà họ Cao vẫn không có ai tới à?

Người đứng trước mặt lão ước chừng năm mươi tuổi, có hai hàng râu dài, mặc áo ngắn, đầu đội khăn cột góc màu xanh lá, cười bồi:

- Đại nhân! Nhà họ Cao bị tịch biên gia sản không còn gì, cả nhà hoặc chết hoặc bị bán làm nô lệ, làm gì có người bỏ tiền ra chứ.

Tư Không Minh hừ một tiếng không vui. Phụ nữ ở Giáo Phường ty có mấy loại ca kỹ, vũ kỹ, nhạc kỹ. Ý chỉ của Hoàng Thượng không nói rõ loại tiếp khách nên Giáo Phường ty có quyền an bài loại chức nghiệp cho cô tiểu thư này.

Nếu họ Cao có thể bỏ nhiều tiền nhiều bạc đút lót cho gã, mặc dù Cao tiểu thư cả đời vẫn là kỹ nữ, hơn nữa tương lai nếu lập gia đình có con có cái thì chúng vẫn tiếp tục làm nghề ca xướng, nhưng nàng không bắt buộc phải là kỹ nữ bán mình. Tư Không Minh còn tưởng mình có thể chấm mút một chút. Bây giờ nhìn lại nhà họ Cao, quả nhiên là tường đổ người chạy, rốt cuộc không còn ai có thể đỡ một tay.

Gã cầm chén trà uống rột một hơi. Nhìn thấy tên kỹ nam nón xanh vẫn còn đứng trước mặt, gã không khỏi trừng mắt ra lệnh:

- Còn đứng đó làm gì? Đi, gọi vài người tắm táp cô Đại tiểu thư đó, đêm nay treo biển hành nghề đón khách.

Tên nón xanh xoa xoa tay cười xu nịnh:

- Đại nhân! Con bé đó tính tình ghê lắm, còn chúng ta không thể đắc tội với khách được. Hay là trước hết tiểu nhân mở hàng cho nàng. Phụ nữ mà, đã có một lần, cô nàng cũng sẽ không còn gìn giữ gì nữa.

Tư Không Minh vừa nghe thế bèn phá lên cười lớn, đoạn vừa cười vừa mắng:

- Giáo Phường ty chúng ta nhiều năm rồi chưa có cô gái thanh danh cao quý nào cả. Cô tiểu thư Văn Tâm này có cha là y quan, là thái y hầu hạ Hoàng Thượng, bản thân nàng lại là một nữ thần y. Có cả hàng đàn hàng lũ mong muốn thưởng thức nàng ta lắm, không cho ngươi động vào. Chỉ cần tung ra vài lời đồn, cái giá cho lần đầu thưởng thức sẽ tăng lên rất nhiều, ha ha ha ha...

Chương chín mươi ba Tính Kế Cứu Người

------------------------

Dương Lăng trở về Trấn Phủ ty thay áo choàng, ra lệnh cho bốn gã thân binh tạm ở lại đó, một mình chạy tới Giáo Phường ty ở thành nam.

Xưa nay quan chức không thể ngang nhiên ra vào nơi hoa bướm, huống chi đang lúc để tang Tiên đế. Tuy Dương Lăng không đi thăm kỹ nữ, nhưng tâm tình y cũng vẫn khẩn trương, kéo vành nón sùm sụp. Mặc dù trong thành Bắc Kinh y cũng chẳng quen biết được bao nhiêu người, hơn nữa nếu không phải là ông lão thì cũng là lão thái giám, nhưng cẩn thận vẫn tốt hơn.

Dương Lăng lén lén lút lút vào Giáo Phường ty. Y thấy có trên mười người đàn ông cũng lén lén lút lút trước sau mò vào như y, mỗi người đều mặc áo dài, đội mũ rộng vành, có người còn xòe quạt che mặt, ai nấy đều lấm la lấm lét nhìn quanh.

Tuy Tiên đế mất, nhưng dân đen hạ đẳng cũng chẳng có tư cách gì để tang cho Hoàng Thượng, nên kỹ viện cứ theo lệ thường mà mở cửa. Điều ngạc nhiên chính là không hiểu sao hôm nay những người tới chơi kỹ nữ cũng đều có vẻ lén lút như y. Dương Lăng kín đáo quan sát một hồi vẫn không phát hiện ra đám nô bộc đội mũ xanh của Giáo Phường ty, trong lòng đang cảm thấy lạ, chợt có một gã đàn ông cầm cây quạt che mặt đi tới nhìn nhìn y một hồi.

Tên che mặt thấp giọng cười nói:

- Lão đệ! Việc đấu giá tốn tiền nhiều lắm đó, ngươi cũng muốn đến nếm thử mùi vị của nữ thần y à? Hắc hắc! Ta thấy nên chờ hai ngày nữa hãy trở lại, ta cho ngươi làm ấm phòng là được.

Dương Lăng nghe hắn nói chuyện dơ bẩn, không khỏi khẽ nhíu mày ác cảm, nhưng vừa nghe hắn nói tới đấu giá, lòng chợt nhẹ nhõm: “Chẳng lẽ vị Cao tiểu thư kia còn chưa bị người ta chà đạp à?”

Y vội che giấu vẻ ác cảm, rồi giả như một khách làng chơi đáp lời:

- Nữ thần y đại danh đỉnh đỉnh, ta cũng tới mong nhờ vào vận khí, tự nhiên không so được với huynh đài tiền nhiều thế mạnh rồi.

Người nọ thấy y nói chuyện khách khí, mà hai bên không quen biết nhau nên thu cây quạt đánh xoạt, nhìn xung quanh rồi thì thào:

- Lão ca ta sớm sẽ được thôi. Giáo Phường ty bao nhiêu năm nay chưa có gia quyến của phạm quan, muốn chơi khuê nữ đàng hoàng cũng khó.

Dương Lăng nhìn lên vị nhân huynh tự xưng là lão ca này. Tóc lão tuy còn đen, nhưng mặt đầy nếp nhăn, xem bộ dáng thật sự là tiều tụy già nua rồi.

Vị nhân huynh đó vẫn đắc chí nói tiếp:

- Lão đệ! Loại việc ong bướm về những tiểu thư chưa biết sự đời này không thích hợp với ngươi đâu, ta bỏ bạc ra không phải để hưởng thụ mùi vị trên giường, biết chưa? Mà chính là ta muốn cái gia thế của nàng, đem tiểu thư của lục phẩm ngự y đương triều đặt dưới thân mình thì quả là thoải mái!

Dương Lăng nghe hắn vô sỉ như vậy, hận không thể một cước đá bay hắn ra ngoài, chỉ nghe tên “Đại ca” này vẫn trơ mặt mo nói tiếp:

- Nghe nói vừa rồi khi muốn nàng đón khách, nàng đã đập đầu vào cạnh bàn, mọi người ở Giáo Phường ty phải xông vào cứu người. Cũng không biết hôm nay thẻ bài có mở được hay không? Chậc chậc, phía dưới chưa thấy đỏ mà phía trên lại đỏ trước! (wm: Hic)

Trước mặt hai người có một gã đàn ông mặc trường bào màu xanh, mặt dài như ngựa nghe giọng nói của hắn bèn quay đầu lại nhìn. Vừa thấy rõ tướng mạo hắn, gã lập tức thấp giọng cả kinh kêu lên:

- Quản lão bản?

Vị nhân huynh này giật bắn cả người, vội vã muốn đưa cây quạt lên che mặt nhưng chậm mất rồi. Hắn nhìn thấy người nọ, cũng thất thanh buột miệng:

- Đái viên ngoại! Sao là... khụ khụ...

Lời còn chưa dứt, vị Đái viên ngoại vội xông tới che miệng hắn, thấp giọng:

- Câm miệng, chớ để người ta nghe được!

Quản lão bản gỡ tay gã, trừng mắt hỏi:

- Đã tới đây còn ai không có ý định đó chứ? Ngươi còn sợ gặp người khác hay sao?

Đái viên ngoại cười ngượng nghịu, hỏi lại:

- Ngươi không sợ? Ngươi không sợ thì làm gì phải che mặt?

Quản lão bản cười gượng đáp:

- Nàng chỉ là người giúp ta bán thuốc, Quản Bình Triều ta cũng chẳng sợ gì cả, muốn chơi thì chơi thôi. Nhưng Cao tiểu thư đã từng cứu người vô số, là nữ thần y nổi danh kinh sư, nhiều người biết tiếng. Nếu bị người ta biết được việc này thì thanh danh của ta cũng hơi bị ảnh hưởng.

Hắn liếc mắt nhìn Đái viên ngoại, khẽ cười lạnh nói tiếp:

- Nhưng Đái đại viên ngoại Đái Tiểu Lâu nhà ngươi thì không nên tới đây chứ. Không nói tới trong nhà của ngươi đã có chín bà, vợ đẹp thiếp xinh, mà Cao tiểu thư đã từng cứu mạng cho ngươi. Ngươi cũng không biết xấu hổ mà lợi dụng lúc người ta gặp khó khăn à?

Đái viên ngoại đỏ mặt, vô sỉ đáp:

- Cứu mạng thì đã sao? Hừ! Ngươi chẳng biết ta phải khẩn cầu cô ta bao nhiêu lần, cô nàng mới bằng lòng đến thăm bệnh cho ta. Ta đã tốn mất hai mươi lượng vàng, mà khi tới nhà cô ta còn phán bảo ta phải làm nhiều việc thiện, chớ để “vi phú bất nhân” (làm giàu thì không nhân đức). Đã thế, ta hôm nay sẽ cho cô nàng biết mặt, bắt cô ta nằm dưới người của ta để biết cái gì gọi là vi phú bất nhân.

Đây đúng là đồ vô sỉ! Nếu không phải Dương Lăng cũng đang lén lút không muốn người ta biết đến, nhất định y sẽ tìm cớ để tống hai tên bại hoại này tới Cẩm Y Vệ cải tạo lại. Hai tên sắc quỷ đang nói chuyện thì Hữu Thiều Vũ Tư Không Minh mặc đồng phục của nhạc nghệ quan Giáo Phường ty, tay áo thêu hồng tuyến, đầu đội khăn xanh từ hậu đường đi ra.

Tư Không Minh tiến vào đại sảnh liền vỗ vỗ tay ra hiệu, tiếng xì xào khắp nơi lập tức im bặt. Tư Không Minh cười nói với vẻ lưu manh:

- Đa tạ các vị tới cổ động. Chắc hẳn tất cả mọi người đều biết cô nương hôm nay là con gái của quan lục phẩm triều đình đã phạm tội, ngự y Cao Đình Hòa. Nàng là một thần y ngang hàng với Kim Châm Lưu của Dã Cúc Trai, Tam Chỉ Điền của Hạnh Hoa Cư, xưng là tam đại thần y kinh sư, thân phận rất cao quý. Các vị xưa nay bất luận danh phận to lớn thế nào, có bạc nhiều ít ra sao thì đến cả một đầu ngón tay của Đại tiểu thư nhà người ta cũng chẳng đụng tới được, phải không?

Bên dưới ầm ầm vang lên những tiếng hưởng ứng. Tư Không Minh cười đắc ý, nói tiếp:

- Nhưng hôm nay lại khác! Chỉ cần các vị chịu bỏ tiền ra, các vị muốn chơi vị Đại tiểu thư này ra sao thì chơi. Ha ha, cơ hội này dù đốt đèn tìm cũng chẳng thấy. Được rồi! Không nói nhảm nữa, đêm nay giá mở động đào là ba trăm lượng, các vị cảm thấy thích hợp thì cứ việc ra giá.

Hắn vừa phán ba trăm lượng, phía dưới chợt ồ lên. Tuy nói mọi người đều giàu có nhưng ba trăm lượng bạc cho một đêm với gái thì cũng quá đắt. Lập tức đã có những người thoái lui. Quản lão bản cùng Đái viên ngoại mặc dù cũng xót ruột, nhưng vừa nghĩ tới vị Đại tiểu thư xưa nay họ chỉ có thể cúi đầu khom lưng mà hôm nay có cơ hội đoạt được ngọc thể, mặc tình mây mưa ngang dọc gì cũng được, lại thật sự không đành buông tay.

Quản lão bản mất cả buổi mới dám bỏ chừng đó tiền, rốt cục nghiến răng hô:

- Ta xuất ba trăm lượng!

Đái viên ngoại liếc mắt nhìn hắn, cao giọng:

- Ba trăm lẻ một lượng!

Dương Lăng vuốt ngực, cũng hơi yên tâm. Hôm nay y lấy bạc muốn hoàn lại cho Mã Vĩnh Thành, nhưng lão không nhận, y cũng chưa trả lại cho Ấu Nương, trong ngực còn số ngân phiếu trị giá bốn ngàn lượng bạc. Y cũng không còn quá lo âu nữa: đêm nay cứ giả làm khách làng chơi bao Cao tiểu thư, rồi ngày mai tới cung tìm vị thái giám Quản Sự kia mà nhờ vả.

Sau một hồi trả giá, cuối cùng chỉ còn lại có Quản lão bản, Đái viên ngoại và một vị công tử còn đang tiếp tục đấu giá. Lúc này giá đã lên tới bốn trăm sáu mươi lượng. Dương Lăng đột nhiên cao giọng hô:

- Ta ra năm trăm lượng!

Y tăng một hơi luôn bốn mươi lượng khiến ba người kia không khỏi bất ngờ liếc nhìn y. Tư Không Minh mặt mày hớn hở:

- Tốt tốt! Mời vị công tử này bước lên phía trước.

Dương Lăng bước ra phía trước. Hai tên đểu cáng giả làm người đạo mạo và vị công tử kia đều liếc mắt nhìn y đánh giá cẩn thận. Hữu Thiều Vũ Tư Không Minh thấy y bèn cười hà hà đi đến gần. Đột nhiên hắn ngẩn người ra, lộ vẻ kinh dị; nhưng vẻ kinh ngạc chỉ chợt lóe lên rồi biến mất, hắn lập tức cười ha ha nịnh hót:

- Vị công tử này vừa gặp đã biết ngay là người phong lưu phóng khoáng, là chủ nhân thương hương tiếc ngọc. Cao tiểu thư lần đầu mây mưa cũng không chịu nổi mạnh tay, tối nay cứ giao cho công tử đi.

Đái viên ngoại vừa nghe thế vội ra giá:

- Chậm đã! Ta trả năm trăm hai mươi lượng.

Dương Lăng lập tức đáp:

- Sáu trăm lượng!

Tư Không Minh cười hắc hắc, bảo:

- Chúng ta cho phép các vị đưa giá tiền, nhưng cô nương đó giao cho ai thì do ta định đoạt. Vừa rồi trước mặt bao nhiêu người ở đây, ta đã nói là Cao tiểu thư tối nay giao cho vị công tử này, ta còn có thể nuốt lời hứa hay sao? Cứ năm trăm lượng đi. Công tử gia, mời ngài ra phía sau.

Tất cả mọi người đều sửng sốt. Vị Nhạc Quan này có bệnh à? Sao lại không quan tâm đến tiền bạc như thế! Trong lòng Dương Lăng cũng thầm thấy lạ, nhưng lúc này y cũng cố không nghĩ gì nhiều, lập tức theo vị Thiều Vũ đại nhân ra sau sảnh trong tiếng bàn luận ồn ào của mọi người.

Tư Không Minh thật sự biết mặt Dương Lăng. Mấy ngày trước, trong lễ tang tiễn Hoằng Trị lên trời, đại điển tân đế đăng cơ, Tả Hữu Thiều Vũ Giáo Phường Ty cùng phụ trách âm nhạc cung đình. Tả Hữu Ty Nhạc cả ngày quanh quẩn trong cung, còn Dương Lăng là thống lĩnh cấm quân thị vệ, luôn luôn tuần phòng trong hoàng thành. Y không chú ý tới mấy tên ca múa nhạc này, nhưng Tư Không Minh lại nhận được nhân dạng của y. Vừa rồi hắn nhận ra đây là Dương đại nhân vinh quang tột đỉnh trước mặt Hoàng Thượng, làm sao hắn có thể không cố ý lấy lòng cho được?

Tư Không Minh đưa Dương Lăng tới một tiểu lâu rường cột chạm trổ, thấp giọng cười nói:

- Tiểu nhân xin được đưa công tử tới nơi này thôi. Cao tiểu thư tính tình dữ dằn, nhưng đã bị tiểu nhân trói lại trên giường rồi, công tử gia đêm nay nhất định sẽ tận hứng.

Nữ thân quyến của phạm quan bị sung vào chốn này trước nay không cần dùng dược vật đánh mê. Bởi vì những người thích loại này phần lớn cũng thích vẻ xấu hổ và giận dữ của các nàng. Tư Không Minh nghĩ rằng Dương Lăng cũng là loại người như vậy, hắn cười nịnh:

- Mấy cái thứ thuốc Chiến Thanh Kiều, Trợ Tình Hoa quả là vô dụng với tiểu nhân. Nhưng nhìn công tử uy vũ bất phàm, chắc việc kéo cương sải vó, chỉ huy ngàn quân cũng là việc dễ dàng, huống chi chỉ điều khiển một cô gái?

Dương Lăng nghe thế rùng mình trong lòng, quay đầu nhìn hắn. Vừa bắt gặp ánh mắt y, Tư Không Minh lập tức khiêm tốn cúi đầu, rồi khẽ cười:

- Tiểu nhân là Tư Không Minh, là Hữu Thiều Vũ của Giáo Phường ty. Hôm nay có thể giúp công tử, quả là vinh hạnh của tiểu nhân. Công tử cứ việc thưởng ngoạn thoải mái, tiểu nhân xin cáo từ.

Tư Không Minh âm thầm báo cho Dương Lăng biết một ít thông tin về mình để y nhớ phần nhân tình này, rồi lặng yên lui xuống. Dương Lăng nghe trong giọng lưỡi hắn có vẻ đã nhận biết được mình, trong lòng kinh nghi vô cùng. Nhưng bây giờ đã đến trước cửa, y cũng không thể bất kể nỗi khổ của cô gái này mà quay đầu bỏ đi. Dương Lăng định thần, đẩy cửa lầu ra, bước vào phòng.

Căn lầu không rộng, trong phòng có đầy đủ bàn ghế. Trên bàn còn có một bầu rượu, vài món thịt nguội, xem ra Giáo Phường ty nhận bạc rồi chiêu đãi khách hàng cũng rất chu đáo. Phía trong là một cái giường hoa, cửa mùng được vén lên hai bên treo vào hai chiếc móc vàng, có một cô gái đang nằm trên giường. Nàng chỉ mặc quần áo lót, nhìn lên thấy có người đi vào thì sợ hãi tới mức muốn rách cả khóe mắt, lập tức hoảng sợ giãy dụa.

Nàng vừa giãy dụa, lập tức cả chiếc giường hoa đều rung lên. Lúc này Dương Lăng mới phát hiện tay chân nàng bị mấy dải băng trắng cột vào bốn góc giường gỗ. Mái tóc cô gái rối bời, trên đầu quấn đầy băng trắng, lờ mờ rỉ một ít máu, gương mặt đỏ rực, miệng cũng bị bịt bởi một dãi băng vải trắng để ngăn nàng cắn lưỡi tự tử, nàng đang điên cuồng vặn vẹo giãy dụa. Ngoại trừ vóc người uyển chuyển phổng phao, còn nếu chỉ nhìn gương mặt thì thật sự nhìn không ra là đẹp hay xấu.

Dương Lăng vội vàng đóng cửa phòng, đi đến bên người nàng. Ánh mắt cô gái đó càng thêm vô cùng lo lắng bi phẫn. Nàng càng liều mạng giãy dụa mạnh hơn, miệng ú ớ. Dương Lăng vội nói:

- Cô nương đừng sợ! Ta... chỉ muốn đến cứu cô thôi.

Cô gái nghe xong giật mình ngơ ngác, ngừng không giãy dụa nữa, ánh mắt kinh hoảng nửa tin nửa ngờ đánh giá y. Dương Lăng thấy nàng chỉ mặc áo lót, thân thể mềm mại lồ lộ, bộ ngực căng phồng như một hòn đảo nổi lên giữa hồ nước, trước mặt một thanh niên xa lạ thì hơi bất nhã, vội vàng kéo một cái áo ngủ bằng gấm đắp cho nàng, rồi nhẹ giọng:

- Tiểu thư chớ hoài nghi! Tại hạ được sự ủy thác của hai chị em Cao Văn Lan, Cao Văn Cử tới đây cứu tiểu thư.

Cao tiểu thư nghe tới tên hai người em họ của mình, lúc này mới tin. Nàng ú ớ, mắt không kìm được lệ tuôn ròng ròng. Dương Lăng vội dặn:

- Tôi mở trói cho tiểu thư, tiểu thư chớ để lộ ra. Sau đó chúng ta sẽ bàn tới cách cứu tiểu thư chạy trốn sau.

Cao Văn Tâm gật đầu lia lịa, Dương Lăng gỡ băng bịt miệng và cởi trói tay chân nàng. Cao tiểu thư vươn tay kéo tấm chăn che lên người, run giọng:

- Thiếp đa tạ đại ân của ân công cứu mạng!

Dương Lăng quay đầu đi chỗ khác, đáp:

- Cao tiểu thư không cần phải cám ơn tại hạ. Nếu có thể giúp được thì tại hạ nhất định sẽ viện thủ tương trợ. Nhưng có mấy lời khó nghe tại hạ cũng nên nói cho cô nương biết trước,…

Y hít dài một hơi, trầm giọng:

- Cô nương là khâm phạm, tại hạ không đoan chắc có thể cứu thoát được cô nương.

Cao Văn Tâm dán chặt đôi mắt sưng đỏ vào y hồi lâu, rồi buồn bã cười nói:

- Dù sao thiếp vẫn phải đa tạ công tử! Chỉ cần bản thân thiếp có thể thanh thanh bạch bạch mà chết, thiếp cũng đã vô cùng cảm kích đại ân đại đức của công tử rồi.

Dương Lăng thầm thở dài trong lòng. Y cố tươi tỉnh nói:

- Cao tiểu thư, không phải Dương mỗ vô tình. Nhưng Dương mỗ cũng có nhà có cửa, không thể làm bừa, không úy kỵ gì. Chà... Có thể đặc xá cho cô nương được hay không, tất cả đều do một câu của hoàng đế. Sáng sớm ngày mai tại hạ sẽ tiến cung, trước hết nhờ thái giám Quản Sự hoãn việc xử lý cô nương. Còn việc cứu cô nương ra ngoài... Dương mỗ còn phải tìm biện pháp khác.

Cao Văn Tâm lau nước mắt đáp:

- Thiếp không sợ chết, chỉ sợ bị mất trong sạch thôi. Nếu có thể thoát được thì đương nhiên là tốt rồi. Nếu không thể, thì thà chết cũng xong. Công tử không cần phải khó xử. Công tử hôm nay cứu thiếp, đã là ân huệ lớn lao rồi. Thỉnh giáo cao tính đại danh của công tử?

Dương Lăng quay đầu lại nhìn nàng, không che giấu chút nào đáp ngay:

- Tại hạ Dương Lăng, tham tướng Thần Cơ doanh!

Con ngươi của Cao Văn Tâm chợt mở lớn, vui mừng thốt:

- Dương Lăng Dương Thị Độc?

Cõi lòng vốn đã tuyệt vọng của nàng trong nháy mắt tràn ngập nỗi mừng rỡ vô chừng. Người này chính là thị độc Đông cung đã dám kháng chỉ, là đại thần cực kỳ tin cẩn của hai vị đế vương cũ lẫn mới. Nếu như mình thật sự có thể thoát khỏi cảnh này, ngoại trừ y ra thì còn ai có thể giúp mình được chứ?

...

Sắc trời sáng dần, Cao Văn Tâm còn đang ngủ say. Nàng đã lo lắng hãi hùng mất mấy ngày, hôm qua lại mất máu khá nhiều rồi còn bị buộc phải uống một hồ rượu mạnh, nên đến nửa đêm về sáng thì rốt cục nàng không kìm được phải ngủ thiếp đi.

Cao Văn Tâm đang ngủ say, đột nhiên cảm giác như bên cạnh có người. Mấy hôm nay nàng thường xuyên rất cảnh giác nên vô cùng mẫn cảm. Mặc dù ý thức vừa mới trở lại, nàng vẫn hơi giật mình, rồi bỗng mở to đôi mắt. Mở mắt ra đã thấy ngay một cặp mắt sáng quắc, nàng sợ hãi đến hơi co rúm cả người. Tập trung nhìn kỹ, thấy rõ đó là Dương Lăng, nàng không khỏi hấp tấp kéo chăn lên tới cằm.

Dương Lăng mỉm cười, vươn vai nói:

- Nhìn tiểu thư ngủ rất ngon, tại hạ không đành lòng gọi tiểu thư dậy, không ngờ tiểu thư đã tỉnh rồi.

Cao Văn Tâm lúng túng đáp:

- Dương đại nhân nói đùa rồi, tiểu nữ thật sự quá mức mệt mỏi...

Dương Lăng cười cười nói:

- Tại hạ biết! Bây giờ tại hạ phải vào cung rồi. Nếu mọi việc thuận lợi, có lẽ buổi chiều Giáo Phường ty sẽ phái người đưa cô nương tới một phòng riêng, tại hạ sẽ tìm cơ hội từ từ góp lời với Hoàng Thượng. Nếu chiều tối mà tại hạ vẫn không có tin tức thì...

Mặt Cao Văn Tâm trắng bệch đi, nàng cắn môi, bình tỉnh đáp:

- Thiếp hiểu. Nếu đêm nay trước lúc lên đèn, chỗ thiếp vẫn không có biến hóa gì, như vậy là sự không thể thành, thiếp sẽ tìm cơ hội để tự tử... Bất kể như thế nào, thiếp cũng vô cùng cảm kích ân huệ của đại nhân.

Dương Lăng vô lực xua xua tay, thở dài một tiếng, bước luôn ra ngoài phòng, không hề quay đầu lại.

********************

Tại nha môn Chung Cổ ty... Lưu Cẩn đang uy phong lẫm liệt chỉ huy hơn mười tên tiểu thái giám bận rộn đánh chuông gõ trống. Cảnh Dương Chung được tám tiểu thái giám dùng một chiếc vồ bằng gỗ lớn dộng vào. Đây là loại chuông không khắc toàn bộ bát quái, chỉ khắc có vài quẻ, trên đất nước Đại Minh chỉ có ba cái. Một cái ở Thiên Bồn, một cái ở Đông Nhạc miếu, một cái ở ngay chính Ngự Hoa viên này, đại biểu cho tam tài Thiên Địa Nhân.

Trong Ngự Hoa Viên có một cái Thất Bảo Đăng Lậu (đồng hồ nước, trong đó bày một cái đèn thất bảo) khổng lồ, cao một trượng sáu thước, dẫn nước chảy từ Ngự hoa viên vào chạy các linh kiện máy móc, tự động vận chuyển. Trong những linh kiện máy móc đó có bánh xe, vòng bi, cần, trục quay; ở hai đầu ống dẫn có vòi nước để điều chỉnh tốc độ nước chảy nhanh chậm. Trong Thất Bảo Đăng Lậu có mười hai cái thẻ bài tượng trưng cho các canh giờ, luân phiên báo giờ, còn có bốn khúc gỗ nhỏ lần lượt đập vào chuông, gõ vào trống để báo thời khắc.

Ngay khi tên tiểu thái giám thấy đúng thời khắc, lập tức gã ra đứng trước cửa hoa viên dùng cờ nhỏ thông báo cho thái giám chấp chưởng Chung Cổ ty là Lưu Cẩn đang đứng trên lầu Cảnh Dương Chung. Lưu Cẩn liền chỉ huy đám tiểu thái giám đánh Cảnh Dương Chung, gõ Tư Thần Cổ, tuyên cáo buổi triều sớm bắt đầu, bá quan lên triều.

Lúc này đã đánh chuông gõ trống xong, Lưu Cẩn đang bước xuống lầu, định đi tới nha môn Chung Cổ ty uống một ngụm trà, ăn chút lót dạ. Đột nhiên lão nhìn thấy Dương Lăng đi tới nên vội bước lên đón tiếp, cười nói:

- Dương đại nhân! Sao rỗi rãi tới nơi này thế?

Dương Lăng chắp tay chào:

- Lưu công công! Dương mỗ hôm nay có ý đến tìm ngài.

Lưu Cẩn ngạc nhiên hỏi:

- Dương đại nhân có chuyện gì mà tìm chúng ta? Tới đây, cùng tới Chung Cổ ty uống ngụm trà, chúng ta sẽ từ từ nói chuyện cũng không muộn.

Dương Lăng vội vươn tay giữ chặt lấy lão:

- Công công chậm đã! Dương mỗ có việc này thực sự cũng hơi gấp. Không có thời gian đi Chung Cổ ty đâu!

Y kéo Lưu Cẩn qua một bên, đem sự tình từ đầu chí cuối kể lại.

Dương Lăng cũng không hề giấu diếm lão chút nào, việc này là muốn cho Chính Đức mở lời tha người. Nếu giấu diếm, sau này để Chính Đức biết sẽ cho rằng y cố ý che giấu thiên tử. Không bằng y thản nhiên làm người tốt, lúc đó cho dù Chính Đức không bằng lòng cũng sẽ không bắt tội y.

Lưu Cẩn nghe y kể xong, cười nói:

- Ừm! Việc này mười phần thì tám chín là Hồng thượng thư vì muốn lấy lòng Hoàng Thượng mà trừng phạt nặng. Việc gia quyến các quan phạm tội bị bán vào Giáo Phường ty chắc là vạn tuế gia cũng không biết đâu.

Lão nhìn nhìn khắp nơi, lại nhỏ giọng nói:

- Chúng ta nói thực với đại nhân nhé. Hoàng Thượng giận Cao thái y chữa bệnh lại khiến Tiên đế chết nên kéo đám người liên can ra ngoài chém sạch. Nhưng sau đó điều tra mới rõ, thật ra là vì lúc Tiên đế phát bệnh, Trương Du nhất thời kinh hoảng nên lấy nhầm dược vật. Hắc! Cao thái y, Lưu viện phán đều chết oan cả. Nhưng việc này đã xảy ra rồi thì làm sao bây giờ? Đành đâm lao phải theo lao thôi!

Dương Lăng rợn tóc gáy, sững sờ: “Đường đường là thiên tử, thì ra cũng có thể khiến người ta phải chết uất ức như vậy. Chỉ một đạo ý chỉ của hắn là có thể làm cho hàng vạn hàng nghìn đầu người rơi xuống. Còn lần này, lại chỉ vì một tên tiểu thái giám nhất thời kinh hoảng nên lấy nhầm thuốc đã làm cho bao nhiêu người phải mất mạng.”

Y cau mày hỏi:

- Nếu nói như vậy, chẳng phải Cao tiểu thư càng thêm oan uổng sao? Người chết thì thôi, sao lại để người vô tội phải chịu cảnh như vậy?

Lưu Cẩn không đồng ý, đáp:

- Việc này có gì mà to chuyện? Vì thể diện của hoàng gia, cho dù chết một ngàn người, một vạn người thì cũng đâu có sao? Huống chi việc Trương Du lấy nhầm thuốc đã phong thanh lan truyền ra ngoài rồi. Nếu Hoàng Thượng tha cho nàng, chẳng phải là càng khẳng định việc này là đúng hay sao? Do đó, việc đặc xá nàng là vạn lần không thể được. Nhưng mà...

Dương Lăng vừa nghe thế vội la lên:

- Nhưng mà cái gì? Lưu công công đừng thừa nước đục thả câu nữa, xin mau mau chỉ dạy ta đi!

Lưu Cẩn cười gian hai tiếng đáp:

- Đại nhân quả là có lòng thương người. Việc cứu người thực ra cũng không khó, việc này chỉ cần khi làm việc phải nhớ tới thể diện của Hoàng Thượng, có thể làm sao cho có vẻ Hoàng Thượng ban ơn cho bầy tôi! Ha ha, việc đặc xá một con nhóc đâu phải là chuyện gì lớn?

Dương Lăng biết rõ điều Lưu Cẩn giỏi nhất chính là việc phỏng đoán tâm tư của Chính Đức, vội vàng truy vấn:

- Dương mỗ vốn định nhờ công công tiến cử tại hạ đi gặp công công Quản Sự Giáo Phường ty, không nghĩ tới công công còn có diệu kế như thế, vậy xin Lưu công công vui lòng chỉ giáo. Nếu cô gái kia thoát đại nạn, nhất định sẽ mang ơn công công rất nhiều, lập bài vị trường sinh cho người, mỗi ngày đều thắp ba nén hương.

Lưu Cẩn được y bốc thơm, cả gương mặt nở to như hoa cúc. Lão vội vàng khoát tay khiêm tốn một hồi, mãi cho đến lúc Dương Lăng sốt ruột không chịu nổi nữa, lão mới kéo tay y lại gần, ghé tai nói nhỏ một tràng.

Dương Lăng nghe xong vui vẻ chắp tay thi lễ:

- Dương Lăng nghĩ việc này khó như lên trời, công công vừa ra tay, lập tức giải quyết dễ dàng. Kế này cực diệu, chỉ cần đại công cáo thành, Dương Lăng sẽ bày tiệc rượu đáp tạ công công.

Lưu Cẩn cười tủm tỉm đáp:

- Dương đại nhân không cần khách khí. Chỉ bằng vào giao tình giữa ngài và ta, một việc nhỏ như thế này thì chúng ta còn không hỗ trợ nhau sao? Đi thôi, ta trước hết đưa ngài đi gặp Tĩnh công công của Giáo Phường ty, thu xếp ổn thoả cho cô gái kia. Tĩnh công công xưa nay gần như không để ý gì tới chúng ta. Nhưng từ khi Hoàng Thượng đăng cơ, hắn thật ra cũng tỏ ra nịnh bợ ta. Chút việc như thế này, hắn nhất định sẽ phải ưng thuận.

*****************

Buổi triều sớm đã tan, thượng thư bộ Hình Hồng Chung, thượng thư bộ Công Từ Quán trở về triều phòng, nhận lại những văn thư trình cho nội các hôm qua. Vừa vào đã thấy thượng thư bộ Lại Mã Văn Thăng đang ngồi trong triều phòng chau mày, vẻ mặt đầy ưu sầu. Hồng Chung không khỏi ngạc nhiên hỏi:

- Mã Đại nhân, cớ gì mà than thở thế?

Mã Văn Thăng thấy hai vị đồng liêu, không khỏi thở dài đáp:

- Ba vị đại học sĩ đã tới hậu cung vấn an Thái Hoàng thái hậu, thương lượng việc đại hôn của Hoàng Thượng, lão phu ở đây chờ ý kiến. Ý chỉ bổ nhiệm quan chức không được làm quan ở quê mình vừa ban thì hằng ngày cổng nhà lão phu đều có đủ thứ quan lại tới càu nhàu, than thở không dứt. Lão phu thật sự chịu không thấu rồi!

Hồng Chung cười nói:

- Đó cũng không phải là việc xấu hoàn toàn. Cũng có một số quan lại ở tỉnh hơi nghèo nàn được bổ nhiệm tới tỉnh giàu có, chẳng phải họ đều hoan hô cả sao? Nhưng đạo ý chỉ này của Hoàng Thượng quả là làm thay đổi rất nhiều. Đám đại quan ở biên giới ai mà không có bạn thân bạn cũ, về quên quán của mình mà làm quan còn có thể nâng đỡ lẫn nhau, cũng đỡ được nhiều thứ. Lúc này phải dời tới chỗ mới, sẽ không còn cơ hội nữa. Chẳng lẽ phải đưa cả gia tộc dòng họ đi cả sao?

Thượng thư bộ Công Từ Quán có người em họ làm quan ở Kim Lăng, lần này cũng phải thuyên chuyển đi chỗ khác, nghe xong hừ lạnh một tiếng, nói:

- Phương cách này vốn đã không được tính toán kỹ. Nghe nói là do tên thái giám chưởng ấn Chung Cổ ty Lưu Cẩn cùng với tên thống lĩnh Dương Lăng, cả hai tên ngu không hiểu chính sự buông lời gièm pha, làm cho bây giờ tiếng oán than dậy đất.

Mã Văn Thăng cau đôi lông mày trắng, can ngăn:

- Việc này tuy hơi lỗ mãng, nhưng thực ra không phải là không có ích. Bằng không, ba vị đại học sĩ nội các cũng sẽ không tán thành. Bây giờ thánh chỉ đã ban, chúng ta là bầy tôi thì phải nên thống nhất thi hành mới đúng. sau này đừng nói những lời như thế này nữa!

Từ Quán thấy lão không vui, cũng cười lạnh đáp:

- Đại nhân quả là lấy bụng quân tử để đo lòng tiểu nhân. Tuy Dương Lăng được tin cậy nhưng vẫn không thể nhúng tay vào việc triều chính. Rốt cuộc không phải là y muốn lấy việc công làm việc tư, tới làm quan ở một vùng thật giàu có hay sao?

Lão lấy cuộn công văn của mình rồi giận dữ ra khỏi triều phòng. Liếc mắt nhìn thấy thủ hạ tâm phúc là tả thị lang bộ Công Lý Kiệt đang vội chạy tới đón, lão không khỏi ngạc nhiên hỏi:

- Lý Kiệt! Việc đốc thúc xây dựng Thái Lăng là đại sự, sao ngươi lại tự tiện hồi kinh như vậy?

Vốn Lý Kiệt đang vô cùng lo lắng, vừa nhìn thấy lão không khỏi vừa mừng vừa sợ, vội vàng chạy tới đón, báo:

- Đại nhân! Ở lăng xảy ra chuyện lớn rồi.

Từ Quán ngập ngừng hỏi:

- Ở lăng đã xảy ra chuyện à? Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?

Lý Kiệt nhìn nhìn chung quanh, rồi tới gần lão nói nhỏ:

- Đại nhân! Huyền Cung Thái Lăng tiết khí, Kim Tỉnh phun nước rồi.

Thượng thư bộ Công Từ Quán nghe xong buột miệng ”A” một tiếng, biến sắc, cuộn văn thư đang ôm trong lòng chợt rơi xuống đất.

Chương chín mươi bốn - Đơn Giản Như Đang Giỡn

------------------------

Từ Quán nghe vậy kinh hãi, kêu lên:

- Huyền Cung tiết âm khí, Kim Tỉnh phun nước. Đây là điềm xấu, phải lập tức bẩm báo Hoàng thượng, xin chỉ dời lăng.

Lão ta vừa mới xoay người, trong lòng thoạt động, dừng lại ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

- Việc đôn đốc xây dựng thái lăng là do bộ Lễ dẫn đầu, quan viên các bộ khác có cái nhìn như thế nào về việc này?

Lý Đạc kể rằng:

- Hạ quan phụ trách kiến tạo La thành, lúc nghe nói Kim Tỉnh phun nước, vội chạy đi xem thì nguồn suối đã bị bịt kín. Thị lang bộ Lễ, Giám phó Khâm Thiên Giám và Đới công công đang trách mắng mấy tên sĩ tốt, còn quất roi đánh một gã Thập Trưởng, nói Kim Tỉnh phun nước là chuyện bậy bạ đặt điều.

Hạ quan thấy thần sắc bọn họ hoang mang, muốn tự mình xuống Kim Tỉnh xem rốt cuộc có chuyện gì, lại bị Thị lang bộ Lễ tìm cớ đuổi trở về. Hạ quan đã phải lén hỏi tên Thập Trưởng bị ăn roi nọ mới biết được tình hình cụ thể trong đó.

Từ Quán ngạc nhiên hỏi:

- Gì cơ? Bọn họ cố ý che giấu không báo à? Tại sao lại như vậy? À! Lão phu hiểu rồi.

Từ Quán bỗng sực tỉnh, không khỏi nở một nụ cười lạnh lùng.

Lúc trước việc khảo sát đế lăng là do Thị lang bộ Lễ và Giám phó Khâm Thiên Giám phụ trách. Đầu năm nay khi tiên đế bệnh nặng, thì đế lăng đã được xác định địa điểm và bắt đầu được kiến tạo, cho tới nay đã hao tốn rất nhiều tài của. Nếu lúc này mới phát hiện ra việc khảo sát có sai sót, phong thuỷ không tốt, quan viên bộ Lễ và Khâm Thiên Giám sẽ không thể tránh bị mất quan cách chức, bọn họ đương nhiên muốn giấu diếm việc này.

Còn thái giám Ti Lễ Giám Đới Nghĩa là chủ quản chi tiêu xây dựng công trình thái lăng. Công việc béo bở bực này không phải tùy tiện có thể có được, nếu phải khảo sát lăng mới sẽ mất rất nhiều thời gian. Đến khi đế lăng một lần nữa tuyển chọn xong, chưa chắc sẽ lại đến lượt hắn giám sát kiến tạo, do đó…

Lý Kiệt thấy Từ Quán trầm ngâm không nói, lại kể:

- Hạ quan đôn đốc xây công trình vòng ngoài, nơi quan trọng trong lăng tẩm là do quan binh Thần Cơ doanh phụ trách. Hạ quan vài lần muốn trộm đi vào thăm dò, nhưng những quan binh ấy được Đới công công ra lệnh, năm lần bảy lượt ngăn cản hạ quan. Vì vậy, hạ quan mới tìm cớ chạy về kinh để bẩm báo với đại nhân.

- Thần Cơ doanh?

Từ Quán nghe xong tên đột nhiên nhớ tới Dương Lăng. Dương Lăng không phải là phụ trách điều động quan binh sao?

Trong lòng lão như có điều tỉnh ngộ, trầm ngâm hồi lâu, rồi đột nhiên mặt mày rạng rỡ, cười lớn:

- Lý Kiệt, chuyện này ngươi làm tốt lắm. Nhưng việc này liên quan đến bộ Lễ, Khâm Thiên Giám, Thần Cơ doanh, mà Đới Nghĩa lại là thân tín của nội giám Vương công công. Bây giờ mới chỉ nghe phong phanh, chúng ta không thể cứ như vậy mà bẩm báo cho Hoàng thượng. Bằng không nếu tình hình không đúng, nha môn chúng ta sẽ đắc tội với rất nhiều người.

Lý Kiệt nghe xong vội nói:

- Đại nhân, mỗi ngày có rất nhiều tiền bạc của cải đổ vào Thái Lăng như nước, nếu bây giờ không mau chóng tra rõ, không biết sẽ còn lãng phí bao nhiêu tiền nữa.

Từ Quán đưa tay cản hắn, ngữ khí hoà hoãn, ra vẻ chân thành nói:

- Lý Kiệt, tuổi ngươi mới ba mươi có lẻ đã vinh dự được chức Thị lang nhị phẩm, tuổi trẻ đầy hứa hẹn, tiền đồ rộng lớn, lão phu luôn rất xem trọng ngươi.

Ngươi phải biết rằng, con đường làm quan rất hiểm ác, những quan viên nha môn này không phải là cây đèn cho người ta rút dầu (*). Nếu không nắm được chứng cứ rõ ràng, sẽ đắc tội với rất nhiều người, con đường làm quan của ngươi cũng sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều đó. Lão phu ở triều đình chẳng còn mấy năm nữa, còn ngươi lại có tiền đồ rộng lớn, thử hỏi lão phu sao có thể lỗ mãng như thế, làm ảnh hưởng tới tiền đồ của ngươi. (*: không tầm thường, không đơn giản - ND)

Lý Thị lang chắp tay cảm kích:

- Ơn bồi dưỡng của đại nhân đối với hạ quan, hạ quan luôn ghi nhớ trong tim.

Từ Quán cười to, nói:

- Ừm, vậy hãy nghe lão phu, ngươi lập tức chạy về lăng, âm thầm điều tra việc này. Một khi có được chứng cớ xác thực, chúng ta sẽ bẩm báo cho Hoàng thượng.

Lý Kiệt thấy Từ Thượng thư cẩn thận như thế, chỉ đành chắp tay cáo từ. Từ Quán tay vuốt chòm râu, nhìn theo bóng lưng hắn mỉm cười, trong lòng tràn đầy đắc ý: “Kim Tỉnh của lăng mộ là nơi quan trọng nhất trong lăng tẩm. Để phòng người tiết lộ bố trí cơ quan bên trong, mới sai quan binh Thần Cơ doanh xây dựng.

Nếu như lời của Lý Kiệt nói là thật, mà người của Thần Cơ doanh biết chuyện nhưng không báo, vậy Dương Lăng cũng khó mà thoát được tội khi quân này. Dương Lăng ơi là Dương Lăng, ngươi được nhiều thánh quyến, muốn đánh đổ ngươi thật không dễ dàng. Nhưng bây giờ thì ‘lê gót mỏi mòn tìm không thấy, đến khi có được chẳng phí công’ rồi.”

* * *

Ngọ triều, Chính Đức ở kim điện tiếp kiến đám sứ giả Phiên Vương đầu tiên vào kinh. Lúc này, sứ giả chúc mừng tân đế đăng cơ của bốn vị Vương gia là Đại Vương, Tấn Vương, Lỗ Vương, Ninh Vương đều đã tới kinh. Không tính cái bài sớ chúc mừng bài nào cũng như bài nấy đó, thì mấy thứ cống nạp đa số chỉ là mấy vật biểu tượng như cóc vàng, ngọc như ý. Tuy là quý giá, nhưng lễ vật cũng không nhiều lắm. Chỉ có Ninh Vương ở Giang Tây khi lên điện, ngoại trừ mấy thứ ngọc ngà châu báu bình thường, còn đem theo ba mươi cái rương có đủ, nhất thời văn võ cả triều đều lé mắt.

Đừng nói là Phiên Vương địa phương không có tiền tài quyền thế, mà cho dù là vùng đất Giang Nam giàu có, Phiên Vương phú khả địch quốc, sao lại ngu xuẩn như vậy, dám khoe khoang trước mặt Hoàng đế, chẳng lẽ không sợ phạm vào điều kiêng kị của thiên tử sao? Các vị đại thần lập tức đều tò mò, không biết Ninh Vương tiến cống là lễ vật gì.

Các lễ vật trân quý mà các Phiên Vương tiến cống từng món đều phải được Xướng Nghi quan xướng tên, hiểu dụ bá quan. Nhưng những hòm rương quà tặng này thì lại không hề được công bố trong danh mục, xem ra cũng không phải là vật phẩm trân quý gì. Chính Đức ngồi trên ngai vàng, nhận tờ kê khai danh mục do tiểu thái giám trình lên, mới nhìn lướt qua thì đã không kìm được mặt mày hớn hở.

Cốc Đại Dụng bên cạnh thấy Hoàng thượng chỉ lo nhìn mấy thứ đó, vội tới gần nhắc nhở vài câu. Chính Đức mới chợt tỉnh ra, trấn an tất cả Phiên Vương một lúc, rồi bảo Hồng Lư Tự tiếp đãi cho tốt, sau đó sốt ruột không chờ nổi nói:

- Các ái khanh có tấu chương gì không? Nếu không có chuyện quan trọng, trẫm sẽ đi vấn an Thái Hoàng Thái hậu và Thái hậu hai vị lão nhân gia.

Thượng thư bộ Công Từ Quán lập tức rời khỏi hàng, tâu:

- Khải bẩm Hoàng thượng, thần có bản tấu.

Chính Đức trừng mắt nhìn tên không biết điều đó, sốt ruột hỏi:

- Chuyện gì cần tấu, ái khanh hãy nói mau.

Từ Quán khom người tâu rằng:

- Hoàng thượng lệnh cho bộ Lễ, bộ Công, Khâm Thiên Giám, Nội Vụ phủ, Thần Cơ doanh phụ trách công trình thái lăng cho tiên đế; bây giờ quan chức các bộ đều tận trung tận lực, nhưng Tham tướng Thần Cơ doanh Dương Lăng lại vẫn lần lữa ở kinh thành, thật sự phụ kỳ vọng của Hoàng thượng. Thái lăng là lăng tẩm tiên đế, Thần Cơ doanh phụ trách kiến trúc lăng mộ, bố trí cơ quan, nơi quan trọng nhất của thái lăng. Thần cho rằng cần phải cấp tốc sai Dương Tham tướng đi nhậm chức, để tránh có điều sai sót.

Chính Đức không tập trung đầu óc, nói:

- Ừm, trẫm biết rồi, hai ngày vừa rồi trẫm bảo Dương Lăng đi tiếp nhận ngự trang (thôn trang vua ban), hơi bận rộn với mấy việc vặt vãnh. Từ hôm nay trở đi trẫm lệnh hắn đi nơi lăng tẩm là được. Các vị ái khanh còn có tấu chương nào không? Nếu không có thì... Thoái triều!

Chính Đức vừa về đến hậu cung, liền réo Cốc Đại Dụng ngay:

- Nhanh lên, lấy đèn màu và pháo hoa mà Ninh Vương thúc hiến tặng ra đây cho trẫm.

Cốc Đại Dụng vội vàng sai mấy tên tiểu thái giám khiêng hai cái rương vào, mở nắp một cái rương ra, chỉ thấy trong rương xếp đầy những chiếc đèn lồng.

Lễ vật chúc mừng tân đế đăng cơ có thể sử dụng những vật có màu sắc vui tươi, nhưng đèn lồng mà Ninh Vương tiến cống lại không chọn dùng màu đỏ thẫm. Những chiếc đèn lồng với thiết kế tinh xảo, màu sắc rực rỡ, đều dùng trúc tốt lụa đẹp chế thành những hình hoa cỏ cá cua, sống động như thật, cũng không biết đã dùng bao nhiêu thợ thuyền khéo tay mới chế ra được chừng đó lồng đèn .

Những thứ lụa đẹp này đều sử dụng màu nhạt, phía trên có những hình chim thú sống động như thật, ý tưởng tinh diệu, thiết kế khéo léo. Chính Đức Hoàng đế vừa thấy lập tức tay chân múa máy, miệng há hốc ra.

Một cái rương khác được mở ra, trong đó lại có đủ các loại pháo hoa, bên trong dùng giấy lụa mỏng để ngăn cách. Mặc dù nhất thời nhìn không ra sự xảo diệu, nhưng những giấy màu bao bên ngoài mấy ống pháo hoa đều vẽ những hoa văn mô tả hình ảnh pháo hoa nổ.

Chính Đức nhìn xong càng cảm thấy ngứa ngáy, không khỏi luôn miệng khen:

- Lễ vật do các vị Phiên Vương tặng thì chỉ có Ninh Vương là hiểu tâm ý ta nhất, rõ ràng toàn là những thứ tốt.

Chính Đức đang vô cùng vui vẻ thì Lưu Cẩn cùng Dương Lăng đi vào, hai người vừa mới đi gặp thái giám quản sự Giáo Phường ty Tĩnh công công xong. Tĩnh công công tuổi chưa đầy ba mươi, trắng trẻo mập mạp, trông khá phúc hậu. Hắn vừa thấy hai người tâm phúc của Chính Đức Hoàng thượng cùng dắt tay nhau tới nhờ vả, mà việc nhờ vả lại chỉ là tạm thời trì hoãn việc xử trí gia quyến của phạm quan, thì đáp ứng ngay. Để tỏ lòng kính trọng của mình với hai người, Tĩnh công công lập tức cầm tấm lệnh bài bằng ngà của mình tự thân chạy tới Giáo Phường ty. Lúc này, Dương Lăng mới yên lòng.

Dương Lăng vừa đi tới cung Càn Thanh vừa tính toán làm sao đem kế sách của Lưu Cẩn mở lời với Chính Đức, không ngờ vừa mới bước vào Đông Noãn các, còn chưa kịp nói chuyện, Chính Đức đã kéo cánh tay y hồ hởi khoe:

- Các ngươi tới đúng lúc lắm, mau đến xem mấy thứ lễ vật do Ninh Vương hiến tặng này.

- Ninh Vương?

Dương Lăng giật mình.

Từ khi tới kinh thành, y cũng không phải không lo lắng về những tin tức ít ỏi mà mình biết được về triều đại này. Chuyện về Ninh Vương y cũng biết, nhưng việc Ninh Vương tạo phản rất không có khả năng. Dựa theo phát triển của lịch sử, nó căn bản không phải là một tai họa, do đó Dương Lăng vẫn luôn không để hắn trong lòng. Có điều, đột nhiên nghe đến tên này, y vẫn không khỏi cả kinh.

Chính Đức hớn hở nâng lên một ống pháo hoa cỡ lớn khá nặng, nói:

- Đi, chúng ta ra Ngự Hoa viên đốt pháo!

Dương Lăng thấy hắn giống như đang vác hỏa tiễn chạy khắp nơi, vội đi tới giật lấy ống pháo hoa, khuyên rằng:

- Hoàng thượng cẩn thận, trong loại đồ vật này có hỏa dược, tuyệt đối không thể sơ ý.

Cốc Đại Dụng nghe Dương Lăng nói thế cũng chợt tỉnh ngộ về sự nguy hiểm của mấy thứ đồ vật này. Vừa rồi nhất thời sơ ý, đem cả rương tới trước mặt Hoàng thượng, còn để hắn tự mình thò tay vào lấy. Nếu không cẩn thận mà đốt một quả, cho dù Hoàng thượng không việc gì, nhưng chỉ cần Hoàng thượng bị sợ hãi một chút cũng đủ khiến hắn rơi đầu rồi. Sắc mặt Cốc Đại Dụng lập tức tái nhợt, lật đật chạy tới nhận lấy ống pháo hoa trong tay Dương Lăng nhét vào rương, lại sai tên tiểu thái giám nhanh đem cất rương pháo hoa đi.

Chính Đức giương mắt nhìn theo cái rương, luyến tiếc nói:

- Đáng tiếc... Đáng tiếc, lúc này trời còn sớm, không phải lúc đốt đèn.

Dương Lăng lại xối thêm một gáo nước lạnh nữa:

- Hoàng thượng, bây giờ là trong lúc đại tang, nếu như đốt nhiều đèn màu trong Ngự Hoa viên, để quần thần biết được thì sẽ phiền phức lắm. Huống hồ, hai vị lão nhân gia Thái Hoàng Thái hậu và Thái hậu nhất định cũng sẽ không đáp ứng đâu.

Suy cho cùng, Chính Đức vẫn còn mang tính trẻ con, tuy cũng thường xuyên nhớ tới phụ hoàng, song thấy mấy thứ đồ vật mới mẻ, sao có thể nhịn mà không thử được. Nhưng sau khi nghe Dương Lăng nói xong, hắn cũng biết việc này không thể cứ theo bản tính mà làm, bèn không khỏi tiu nghỉu như có đám.

Lưu Cẩn thấy Chính Đức Hoàng đế mặt đầy thất vọng, đột nhiên lóe linh cơ, không khỏi cười khà khà mà hiến kế:

- Nếu Hoàng thượng muốn xem pháo hoa đèn màu, cũng không phải không có cách, nhưng nói ra sợ Hoàng thượng khó tránh bị ba vị Đại học sĩ trách cứ.

Chính Đức vội hỏi:

- Lão Lưu có cách gì hay? Mau nói ra xem!

Lưu Cẩn cười hì hì rồi thưa với hắn:

- Hoàng thượng đã rào bảy thôn trang, song vẫn chưa rảnh rỗi đi xem. Nếu lấy cớ đi xem xét hoàng trang một chút, đám Đại học sĩ dẫu có ý phê bình, chắc hẳn cũng sẽ không quở trách quá mức. Đến đấy chúng ta kiếm một khe núi nào đó chui vào, còn không phải muốn đốt đèn thì đốt đèn, muốn đốt pháo thì đốt sao?

Chính Đức sáng mắt lên, lập tức vỗ tay khen:

- Được, trẫm đến thôn trang của mình xem xét một chút, bọn họ còn có thể lắm mồm cản trở hay sao? Dương Lăng, ngươi mau về chuẩn bị, chiều nay trẫm muốn đến hoàng trang xem một chút.

Dương Lăng thấy Lưu Cẩn nháy mắt ra hiệu với y, trong lòng tức thì bừng tỉnh: “Lưu Cẩn quả nhiên tuyệt vời. Biện pháp của lão ta quả là một mũi tên hạ hai con chim. Vừa hợp ý Hoàng thượng, cũng giúp cho mình.”

Dương Lăng bèn bỏ ý định ngăn cản Hoàng thượng xuất cung, lập tức nói:

- Dạ, thần lập tức đi làm ngay!

* * *

Dương Lăng trở lại Trấn phủ ty, dẫn bốn gã thân binh phi ngựa chạy về Cao Lão trang, thậm chí không về nhà, mà tới đại trướng Thần Cơ doanh trước. Quan binh lúc này đang ở sau núi đốn cây chặt cỏ để xây doanh trại, năm trăm thân binh của Dương Lăng vẫn giao cho Liễu Bưu chỉ huy. Y chạy lên núi tìm Liễu Bưu, đem việc Hoàng đế muốn tới đốt pháo nói với hắn, rồi cẩn thận dặn dò một phen. Liễu Bưu lập tức tập hợp thân binh, tự mình dẫn người vào núi an bài mọi việc.

Sắp xếp ổn thỏa tất cả xong, Dương Lăng lại vội vã chạy về nhà. Cả đêm y chưa về nhà, mấy người Hàn Ấu Nương tuy không tin sẽ xảy ra chuyện gì nhưng trong lòng cũng khó tránh khỏi lo lắng cho y, một đêm cũng ngủ không ngon giấc.

Lúc này mấy người đang hóng mát dưới dàn nho trong hoa viên. Bây giờ đã sắp tháng sáu, tiết trời oi bức, cộng thêm đêm qua không ngủ ngon, tinh thần bọn họ đều uể oải, buồn ngủ.

Hàn Ấu Nương đang ngồi chống cằm, vừa vô tình ngẩng đầu, liền nhìn thấy Dương Lăng đang đi dọc theo hành lang quanh co tới, lập tức reo lên mừng rỡ:

- Tướng công về rồi!

Những người khác quay đầu lại thấy Dương Lăng, đều vui mừng đi tới đón. Dương Lăng lướt mắt, thấy chỉ có bốn người Ấu Nương, Trương Thị, Tô Tam và Tuyết Lý Mai, còn cô nương Cao Văn Lan thì không ở đây, bèn hỏi:

- Cao tiểu thư không có ở đây à?

Tuyết Lý Mai đáp:

- Chúng tôi đã mời nàng tới đây uống trà, nhưng Cao gia tiểu thư nói rằng nàng đã là nô lệ của quý phủ, đòi đứng một bên dùng lễ nữ tỳ mà hầu hạ. Ấu Nương tỷ tỷ thấy vậy không đành lòng, đành phải cho nàng ấy lui xuống rồi.

Ấu Nương vừa thấy tướng công mồ hôi đầy đầu, vội kéo y ngồi dưới hành lang, bảo:

- Tướng công, nhìn chàng chạy tới mồ hôi mồ kê kìa, uống chút trà giải khát trước đi. Văn Tâm tiểu thư bây giờ... bây giờ thế nào rồi?

Ấu Nương vừa nhắc tới vị tiểu thư Văn Tâm, mấy người con gái đều có chút khẩn trương, bốn cặp mắt đều không nhịn được mà dán vào người y. Dương Lăng nhìn quanh, thấy không có người ngoài, bèn nhỏ giọng nói:

- Đừng lo, Cao tiểu tỷ tạm thời vẫn không có chuyện gì, ta đã giao cho người của Giáo Phường ty chăm sóc rồi.

Bọn người Ấu Nương nghe xong lập tức thở phào nhẹ nhõm. Đại tẩu Trương Thị không nhịn được mà vỗ tay, vui mừng nói:

- Cám ơn trời đất, một vị cô nương tốt vô tội như vậy, may mà ông trời có mắt.

Dương Lăng thở dài nói:

- Các người đó, khâm phạm dễ cứu vậy sao? Hoàng thượng vẫn không tha thân phận khâm phạm của nàng đâu, ai dẫn nàng ta về nhà chính là tội lớn tịch thu tài sản và giết cả nhà đó!

Ấu Nương, Trương Thị đến từ nông thôn, Tô Tam và Tuyết Lý Mai cả ngày chỉ biết cầm kỳ thư họa, sao hiểu được thiệt hơn trong đó. Vừa nghe Dương Lăng nói thế, ai nấy đều biến sắc.

Tô Tam lo lắng nói:

- Việc này lại nghiêm trọng như vậy sao? Vậy... vậy có phải là vị cô nương đó không cứu được rồi không?

Dương Lăng lắc đầu nhè nhẹ, nói:

- Cũng không hẳn vậy. Thật ra tôi đã nghĩ ra một cách, nhưng vẫn chưa kịp nói với Hoàng thượng. Bây giờ Hoàng thượng muốn tới hoàng trang, đêm nay nhất định muốn dùng bữa ở nhà chúng ta. Dọc đường đi tôi đã nghĩ, nếu tối nay Ấu Nương cùng tôi đi gặp Hoàng thượng, nói không chừng sẽ có thể mã đáo thành công đó.

Ấu Nương ngạc nhiên hỏi:

- Gì cơ? Tướng công muốn thiếp đi gặp Hoàng đế?!

Dương Lăng gật đầu cười bảo:

- Theo tính tình của Hoàng thượng, nếu dùng biện pháp này, ta nắm chắc sáu thành có thể khiến Hoàng thượng tha cho Cao tiểu thư. Nếu... nàng xuất hiện trước mặt Hoàng thượng, sau đó lại làm ra vẻ bị bệnh, vậy ta nắm chắc ít nhất là chín thành. Có điều... ta lo nàng thấy Hoàng đế sợ quá không nói nên lời, nếu bị hắn nhìn ra sơ hở thì không hay đâu.

Hàn Ấu Nương nghe xong suy nghĩ một chút, rồi kiên quyết nói:

- Tướng công, cho dù thấy Hoàng đế... thấy Hoàng đế thiếp cũng không sợ, chàng nói cho thiếp biết phải làm như thế nào, thiếp nhất định sẽ làm được.

Dương Lăng an ủi:

- Nàng cũng đừng lo. Hoàng đế này không có chút dáng vẻ gì, dễ nói chuyện lắm, trước đây nàng đã từng gặp hắn rồi.

Hàn Ấu Nương giật mình thốt:

- Sao cơ? Thiếp đã gặp Hoàng thượng lúc nào?

Dương Lăng mỉm cười đáp:

- Còn nhớ lần chúng ta vừa tới kinh thành, lúc đó ta là Thị độc Đông cung không? Cái thằng nhóc to họng mà lúc thì gọi nàng là chị dâu (tẩu tử), lúc lại gọi nàng là Ấu Nương tỷ tỷ đó chính là đương kim Hoàng thượng.

* * *

Thần Cơ doanh nắm giữ hỏa khí, đám lính lác đều giỏi sử dụng súng hoả mai và pháo, bây giờ trong tay quan binh lại là một đống pháo hoa cỡ lớn do Ninh Vương ở Giang Tây tiến cống. Dương Lăng vừa về tới thôn, việc đầu tiên nghĩ đến chính là đề phòng cháy rừng, bởi vậy mới căn dặn Liễu Bưu vào núi tìm một nơi có ít cỏ cây.

Liễu Bưu trước tìm đám lính bảo vệ thôn hỏi rõ về hình dạng bề mặt mặt đất chung quanh. Dựa theo chỉ điểm của đám bảo vệ, chẳng mấy chốc đã tìm được một chỗ hẻm núi. Nơi đây cỏ cây thưa thớt, còn gần hơn một trăm cây cũng bị Liễu Bưu phái người chặt cành tước nhánh, chỉ còn lại thân cây trụi lủi.

Trời chập tối, Chính Đức dưới sự hộ vệ của đám Ngự Lâm quân tới Cao Lão trang. Đám đại hán tướng quân khiêng mười lăm cái rương đi theo sau. Ngoại trừ mười rương pháo hoa, không ngờ còn đem theo cả năm rương đèn.

Đến khi đại đội nhân mã đi dọc theo đường nhỏ trong núi, tới chỗ hẻm núi nọ, thì sắc trời đã tối đen. Dương Lăng thấy mang đến năm rương đèn màu, bèn sai người lấy hết ra, cột vào gần trăm thân cây đã được chặt trước đó. Đèn lồng trong năm cái rương đều do trúc tốt lụa đẹp chế thành, vừa được nhóm lên, lập tức liền như những đốm lửa nhỏ sáng rực đầy trời. Sơn cốc vốn hoang vu đen kịt lập tức tràn ngập một bầu không khí lãng mạn thần bí, khiến người ta ngỡ như đang đặt mình trong dải ngân hà.

Cảnh đêm mĩ lệ như vậy, không chỉ Chính Đức chưa bao giờ thấy, mà cả Lưu Cẩn, Cốc Đại Dụng cùng với đám quan binh theo đến đều cảm thấy vui vẻ thoải mái, yên lặng mà nhìn, như thể sợ sẽ quấy nhiễu tới bầu không khí thần tiên này.

Chợt nghe ‘vút’ một tiếng, cây pháo hoa đầu tiên được bắn lên không trung: lúc thì giống như cúc vàng tơ bạc nở rộ đầy trời, hồi lại như mưa sao sa, chốc lại như đèn hoa rực rỡ, sau lại như ngàn vạn con rồng lửa; màu bạc, màu đỏ tươi, xanh thẳm, màu vàng óng như liễu rủ xuống, muôn hồng nghìn tía, rực rỡ tươi đẹp vô cùng.

Dương Lăng đứng bên cạnh Chính Đức, ngước nhìn bầu trời đêm mỹ lệ lúc này đây đang làm cho người ta thất thần, trong lòng chỉ tiếc không mang theo Ấu Nương để cùng ngắm cảnh đẹp hiếm có này.

Thứ gì tươi đẹp rực rỡ luôn ngắn ngủi. Đống pháo hoa đã cần đến không biết bao nhiêu thợ thuyền khéo tay, hao phí không biết bao nhiêu ngân lượng mới chế tạo ra, rốt cục cũng đã hết. Trong sơn cốc tràn ngập mùi khói thuốc súng. Dương Lăng cố hít lấy mùi thuốc súng cay nồng, trong lòng âm thầm thề rằng, sang năm trước khi rời khỏi nhân thế, nhất định cũng phải để Ấu Nương được một lần thưởng thức pháo hoa mỹ lệ như vậy. Cảnh sắc ấy nhất định phải hoành tráng hơn, không khí càng lãng mạn hơn, để trong tim Ấu Nương mãi mãi giữ lại một giấc mơ lãng mạn.

Đến khi bước vào Uy Vũ Bá phủ, Hoàng đế Chính Đức vẫn còn hưng phấn mãi. Đối với một tiểu hài tử ở lâu trong chốn thâm cung, cảnh sắc như vậy là vô cùng lãng mạn, thật sự là một sức hút không thể cưỡng nổi, đến mức đã vào tiệc rượu thịnh soạn mà hắn vẫn hào hứng bàn về những cây pháo hoa đó không thôi.

Hoàng đế lão tử không ăn cơm, người khác sao dám động đũa? Mọi người đành phải cùng nhau nhịn cả. Chính Đức hưng phấn hồi lâu, mới quay sang nói với Dương Lăng:

- Dương Lăng, Ấu Nương tỷ... Khục khục, phu nhân của khanh đâu? Sao trẫm không thấy?

Dương Lăng mừng thầm, vội vàng đứng dậy thưa:

- Hồi bẩm Hoàng thượng, từ khi vợ thần biết Hoàng thượng muốn đến, cũng rất vui mừng. Nhưng nàng là phụ nữ, không tiện ra gặp người.

Chính Đức khoát tay bảo:

- Đâu ra mấy cái quy củ này vậy, kêu nàng ra gặp mặt chút đi. Ha ha, sớm biết chơi vui như vậy, khanh nên đưa nàng cùng đi mới đúng. Được rồi, khanh vẫn chưa nói ra thân phận ta với nàng đó chứ?

Dương Lăng vội đáp:

- Hoàng thượng đã từng căn dặn, thần nào dám trái lời? Nàng còn chưa biết Hoàng thượng chính là vị tiểu công tử kia.

Chính Đức mừng rỡ, dường như lại tìm được trò vui, liền vội vàng nói:

- Bảo nàng ra đây. Ha ha, chắc hẳn vừa thấy trẫm, nàng nhất định sẽ sợ đến giật mình.

Lúc Ấu Nương đi ra, cả Dương Lăng, Chính Đức, và Hàn Ấu Nương đều giật mình. Ấu Nương là cố ý giả vẻ khiếp sợ, song tuy rằng đã biết vị Hoàng đế này chính là tiểu công tử lúc trước gặp qua, tâm tình của nàng vẫn thập phần căng thẳng. Tuy là làm ra vẻ, nhưng cũng phải thực tới bảy tám phần.

Dương Lăng và Chính Đức thì lại giật bắn cả người. Tuy rằng Dương Lăng muốn nàng cải trang như là ốm lâu trên giường, nhưng cũng không ngờ Hàn Ấu Nương lại làm ra hình dạng này. Đầu tóc rối bù, mặt vàng như nghệ, giống như người bệnh nặng vừa mới rời khỏi giường.

Chính Đức nhìn thấy bộ dáng của nàng thì không khỏi cả kinh, chỉ vào nàng lắp bắp nói:

- Ngươi... ngươi... sao lại có bộ dáng như vậy?

Hàn Ấu Nương căng thẳng sờ mặt, cũng không biết mấy thứ Tô Tam tô vẽ có bị người ta nhìn ra sơ hở không.

Dương Lăng thấy Ấu Nương hãy còn hơi căng thẳng, vội đáp thay:

- Hoàng thượng, từ sau cơn bệnh nặng lần trước, vợ thần vẫn chưa khỏi hẳn. Thân thể càng ngày càng yếu, vi thần thật sự là... Chà! Bệnh này của nàng nếu có lang trung bên cạnh hầu hạ, từ từ điều dưỡng thì đã tốt rồi, nhưng mà… a hèm!

Chính Đức không cho là đúng, nói:

- Vậy khanh cứ tìm lang trung tốt đi, chẳng lẽ đến cả một lang trung khanh cũng không mời nổi à?

Dương Lăng mặt mày ủ ê giãi bày:

- Hoàng thượng có điều không biết, vợ thần bị là bệnh của đàn bà, huống chi còn phải luôn có người kề bên hầu hạ, nam nhân thật sự không tiện. Thần tìm tới tìm lui mà không tìm thấy một lang trung nào thích hợp, sau đó vất vả lắm mới tìm tới được một lang trung, chẳng những y thuật cao siêu, hơn nữa lại là nữ tử, thật sự là nhân tuyển thích hợp nhất. Nhưng mà nàng ta... a hèm! Thôi không nói tới nữa!

Chính Đức nghe mà không hiểu đầu cua tai nheo ra sao, bèn hỏi:

- Đã tìm được lang trung thích hợp, tại sao không đưa nàng đến chẩn đoán và điều trị? Khanh còn có nỗi niềm gì khó nói chăng?

Lưu Cẩn liếc Dương Lăng một cái, rồi vội tới trước mặt Chính Đức nhẹ nhàng ôn tồn bẩm:

- Hoàng thượng, Dương đại nhân thà để phu nhân bệnh, cũng không dám tìm nữ lang trung đó, thật sự là bởi vì... vị nữ lang trung đó là con gái của Cao Đình Hòa.

Chính Đức nghe vậy ngẩn ra, hồi lâu mới ngạc nhiên hỏi:

- Cao Đình Hòa? Cao Đình Hòa là ai? Con gái hắn giỏi lắm ư? Đã làm lang trung, tại sao lại không thể chữa cho Ấu Nương tỷ... Dương phu nhân chứ?

Lưu Cẩn nghe thế thiếu chút nữa thì sung huyết não. Lão vội hít mạnh vài hơi, rồi mới bày ra vẻ mặt quái dị đáp:

- Hoàng thượng, Cao Đình Hòa chính là... chính là thái y đã chẩn đoán và chữa bệnh cho tiên đế.

Sắc mặt Chính Đức lập tức trầm xuống. Hắn nhìn Dương Lăng và cơ thể bệnh hoạn gầy yếu của Hàn Ấu Nương, im lặng hồi lâu rồi mới chậm rãi hỏi:

- Là con gái hắn à? Trẫm nhớ hình như con gái hắn cũng bị trừng phạt, nữ tử đó bây giờ đang ở đâu?

Lưu Cẩn vội đáp:

- Hồi bẩm Hoàng thượng, Cao thái y không làm tròn bổn phận, chẩn đoán sai lầm nên đã bị chém đầu. Con gái hắn... bộ Hình đã phán ả sung vào Giáo Phường ty, trọn đời làm nô lệ.

- Hả? Giáo Phường Ty?

Chính Đức đương nhiên là biết đến nha môn này, nhưng chưa có ai nói với hắn về việc ngoại trừ mấy thứ ca nhạc cung đình thì Giáo Phường ty còn có cái gì.

Hắn không khỏi lấy làm kỳ quái hỏi:

- Đưa vào Giáo Phường ty làm nô lệ? Làm những gì ở trong đó?

Lưu Cẩn cười bồi, đáp:

- Chính là hầu rượu, nhảy múa, mua vui cho đám nam nhân.

Lưu Cẩn nói rất khéo, câu này thực chẳng hề có sơ hở nào. Đầu tiên là Giáo Phường ty đích xác có loại nhạc kỹ này, ai biết Giáo Phường ty có phải là an bài cho Cao tiểu thư làm việc này hay không, hay là làm một việc khác hèn hạ hơn. Nếu thật có người bới móc câu chữ, chỉ cần nói một câu là ‘Hoàng thượng còn nhỏ, không nên làm bẩn tai vua’ thì cũng đủ để đối phó rồi.

Chính Đức nghe xong quả nhiên rất bất mãn, bỏ qua vấn đề về ‘tiết tháo kiên trinh’ mà hắn vẫn chưa thể hiểu được, loại trừng phạt này khiến hắn có cảm giác như không phải là trừng phạt. Làm loại nô tỳ này sướng quá đi, đây là làm nô lệ hay là hưởng phúc thế?

Chính Đức vung tay áo tỏ vẻ không vui, nói:

- Lão hồ đồ Hồng Chung này, đây mà là trừng phạt gì chứ? Lưu Cẩn, ngày mai ngươi tới Giáo Phường ty, truyền khẩu dụ của trẫm, điều ả Cao... gì gì đó tới Uy Vũ Bá phủ làm nô lệ, chuyên trách chẩn bệnh cho Dương phu nhân! Chương chín mươi lăm Thư Của Cử Nhân

------------------------

Sáng sớm hôm sau, nữ thần y Cao Văn Tâm tiểu thư thoát khỏi nhạc tịch*, được một chiếc kiệu nhỏ lặng lẽ đưa ra khỏi thành.

(*: chỉ thân phận kỹ nữ)

Buổi trưa, thượng thư bộ Lễ Vương Quỳnh được hoàng đế ân chỉ thả ra khỏi ngục. Vương thượng thư tóc bạc trắng vừa ra khỏi đại ngục của bộ Hình liền được đám quan viên chạy tới vây đón hỏi han ân cần như một anh hùng chiến thắng trở về. Phong thái ấy (của lão) thật là oanh liệt. Hơn phân nửa số quan viên trong triều đã kéo tới đây. Ba vị đại học sĩ mặc dù không tiện lộ diện song cũng sai người tới chúc mừng.

Phủ Thượng thư bày ra đại yến, một đám quan viên có tài văn chương không khỏi chia vần đấu thơ nghênh đón chúc mừng một phen. Rượu uống chưa mềm môi, Vương Quỳnh đã giơ cao chén, bước ra giữa đại sảnh, vòng tay nói:

- Các vị đồng liêu hảo hữu, Vương Quỳnh xúc phạm thiên nhan, bị giam vào ngục. Nhờ có các vị hảo hữu tìm mọi cách giúp đỡ, Vương mỗ mới thoát khỏi ngục tù. Vương mỗ thật sự phải đa tạ các vị. Chén rượu này, lão phu xin kính mọi người!

Vương Quỳnh dứt lời, lập tức giơ cao chén uống cạn một hơi. Lão tuy bày rượu thết đãi đáp tạ các vị đồng liêu ở nhà, song vẫn nghiêm túc tuân thủ lễ nghi: một thân quần áo hiếu (tang) phục cho tiên đế, râu trắng tóc bạc, mặt ngời chính khí. Những quan viên đến đây chúc mừng thấy thượng thư kính rượu, lần lượt đứng dậy đáp lễ.

Thượng thư bộ Lại Mã Văn Thăng cười đáp:

- Vương thượng thư phẩm đức văn chương đứng đầu, thiên hạ kính ngưỡng, thân là thượng thư bộ Lễ lại càng tận chức tận lực. Ngày ấy vì khuyên can hoàng thượng giữ lễ, nhất thời kích động phẫn nộ mà xúc phạm tới thánh giá, vốn cũng không phải là chuyện lớn gì. Cho dù chúng tôi không dâng thư xin miễn tội, hoàng thượng cũng nhất định sẽ xá tội cho đại nhân.

Vương Quỳnh nghe thiên quan* bộ Lại khen ngợi như thế, không khỏi cười vui vẻ, trở về chỗ ngồi rồi nói:

- Mã thượng thư quá khen, thượng quốc như Hoa Hạ của chúng ta là lễ nghĩa chi bang, thực lễ(1) chi quốc, thánh nhân sáng lập ra ngũ lễ(2), chúng ta phải hiểu lễ, học lễ, thủ lễ, trọng lễ. Đây là đại sự cai trị quốc gia, ổn định xã tắc, trật tự nhân dân, lợi cho con cháu. Thân là thần tử há có thể thấy vua phạm lỗi mà không nói? Nhưng có thể khuyên được hoàng thượng thủ lễ, đừng nói là ngồi tù, cho dù phải mất mạng thì đã sao?

(*: chỉ thượng thư bộ Lại)

Vương Ngao gật đầu lia lịa khen hay:

- Thánh nhân dùng lễ để soi sáng cái đức, dùng lễ để kính trọng cái đức. Có câu người mà không có lễ thì không thể sống, việc mà không có lễ thì không thành, quốc gia mà không có lễ thì không yên. Đại nhân mạo phạm thiên nhan trực ngôn can gián có thể nói là gương tốt cho bá quan. Chúng tôi dâng sớ xin thánh thượng tha tội, ấy chính là bổn phận.

Hữu đô ngự sử, thị lang bộ Binh, tổng đốc quân vụ Tuyên Hoá, Đại Đồng và Sơn Tây là Lưu Vũ Lưu đại nhân nghe vậy chợt nói:

- Theo hạ quan biết, sáng nay thống lĩnh thân quân thị vệ Dương Lăng Dương đại nhân từng xin hoàng thượng tha cho đại nhân. Y là người tâm phúc của hoàng thượng, nói không chừng lần này đại nhân được ra ngục, người góp sức nhiều nhất chính là Dương đại nhân đó.

Vương Quỳnh nghe xong phật ý không vui, cười lạnh:

- Một thằng oắt con, ỷ là cựu thần Đông cung, mới có thể ra vào triều đường. Hắn thì biết gì? Hừ! Lúc lão phu khuyên nhủ hoàng thượng quay về điện để túc trực bên linh cữu, chính hắn đã buông lời gièm pha ngăn cản. Lão phu tức giận mới lấy nghiên mực ném hắn. Sao hắn lại có thể cầu xin cho lão phu?

Dương Phương nghe vậy thưa:

- Chuyện Dương Lăng góp lời cầu xin cho Thượng thư đại nhân quả thật là có. Nhưng ... theo bản quan thấy, nhất định là hắn thấy lúc Thượng thư đại nhân vào tù, mọi người phản đối, bá quan phẫn nộ, để tránh cho mình khỏi trở thành mục tiêu công kích, mới làm bộ làm tịch như vậy!

Thị lang bộ Hình Triệu Giản Chi vỗ đùi đánh đét:

- Đúng vậy, lão đại nhân ở trong ngục mấy ngày nay chắc hẳn còn chưa biết, tên Dương Lăng đó còn dâng lời với hoàng thượng, bảo quan viên ở những tỉnh giàu có trong thiên hạ không được nhậm chức tại tỉnh nhà, lấy cái tên mỹ miều là “phòng ngừa tham ô”. Bây giờ loạn đến rối tinh rối mù cả lên.

- Cái gì?

Vương Quỳnh giận run người:

- Đạo trị thế, không dùng pháp lệnh để ép buộc, mà lấy giáo hoá làm đầu. Nếu muốn phòng tham ô, phải nói về lễ nhạc, chính bản thân phải thực hiện, phổ biến giáo hoá, tuân thủ phong tục. Thay vì dùng chế độ phòng tham ô, chi bằng lấy đạo đức để giáo hoá? Làm vậy chẳng phải là bỏ gốc lấy ngọn sao?

Thượng thư bộ Công Từ Quán nhìn thấy quan viên chung quanh bàn luận về chính sách mới do Dương Lăng đề ra, phần lớn đều không tán thành, trong lòng bèn mừng thầm, mỉm cười:

- Vương thượng thư nói đúng. Dùng pháp lệnh để cấm đoán chỉ là giải pháp nhất thời, mà giáo hoá mới là biện pháp lâu dài. Những việc trị nước này, vẻn vẹn một tên tú tài đồng tiến sĩ xuất thân như hắn có thể hiểu được sao?

Thị lang bộ Lại Tiêu Phương vốn là bộ hạ cũ của Vương Quỳnh khi còn nhậm chức ở bộ Lại, vì mặt mũi nên không thể không tới chúc mừng. Nhưng lão là người bụng dạ hẹp hòi, Vương Quỳnh vì tư tâm mà từng chèn ép lão, Tiêu Phương vẫn luôn luôn canh cánh trong lòng. Lúc này thờ ơ quan sát, thấy bọn họ đa số mang lòng đố kị với sự thăng tiến nhanh chóng của Dương Lăng, người được tân đế tin tưởng, thì trong lòng không khỏi thầm cười nhạt, lặng lẽ tự tính kế riêng của mình

Thượng thư bộ Binh Lưu Đại Hạ cau đôi mày trắng nói:

- Ừm, lão phu cũng thấy tiểu tử đó gây chuyện hơi quá đáng. Hôm qua Hoàng Thượng đột nhiên xuất cung đến hoàng trang ở tây giao, đêm đến màu sắc ngập trời trong sơn cốc tây giao, mà Thần Cơ doanh Tả Tiêu Quân phụng thánh dụ đóng quân ở nơi đó. Hôm nay trên triều, lão phu đã hỏi về việc đêm qua, hoàng thượng lại nói là quan khán diễn võ ban đêm. Theo lão phu thấy, hắc hắc...

Lưu Đại Hạ nói tới đây không nói nữa, chỉ không ngừng lắc đầu.

Vương Cảnh Long và mấy tên bạn tri giao của hắn đang ngồi chung một mâm ở phòng bên, nghe được bọn họ nói chuyện, Triệu Ung bèn cười đáp:

- Các vị, đã nghe chưa? Lúc này có nhiều bá quan trong triều đang rất bất mãn với tên gian nịnh đó. Chỉ là đáng tiếc không nắm được chứng cứ phạm pháp của hắn. Nếu chúng ta có thể lập được kỳ công này, chẳng phải sẽ sảng khoái lắm sao?

Dương Lâm lắc đầu nói:

- Khó, bá quan trong triều ai mà không tai mắt thông tỏ? Nếu hắn có gì, sớm đã bị người nắm thóp rồi.

Triệu Ung cười lạnh nói:

- Dương lão đệ, kẻ làm đại sự không câu nệ tiểu tiết. Dương Lăng gian trá giảo hoạt, làm việc cẩn thận, mới khiến người ta không nắm được nhược điểm của hắn. Tìm không được nhược điểm, chẳng lẽ chúng ta không thể tạo cho hắn một cái sao?

Vương Cảnh Long nghe xong ngạc nhiên hỏi:

- Phải làm sao mới tạo được đây? Hay là Triệu huynh có diệu kế gì? Nếu như có bằng chứng thật thì được.

Đoạn hắn thấp giọng nói:

- Nhưng ngụy tạo chứng cớ hãm hại đại thần là tội lớn đó.

Triệu Ung cười lạnh một tiếng:

- Thuận Khanh, nếu không phải vì Dương Lăng chọc giận lệnh tôn, lão đại nhân sao lại nổi giận mà kinh động thánh giá chứ? Lão nhân gia tuổi quá thất tuần, còn phải chịu cảnh lao ngục, thân là con, thù này nếu không báo, thật uổng phận làm nam tử hán hiên ngang rồi.

Vương Cảnh Long bị hắn khích đỏ bừng mặt, vội vã chống chế:

- Tiểu đệ sao lại không muốn trả thù cho gia phụ? Có điều nếu không có bằng chứng thật thì sẽ không thể làm gì được hắn đâu!

Triệu Ung cười ngạo nghễ nói:

- Biện pháp không phải là do người nghĩ ra sao? Hai ngày trước đệ từng tới Dương phủ nhờ Dương Lăng giúp cho thế bá, hôm nay mượn cái cớ này đến nhà tạ ơn, chủ động giao du với hắn. Hừ, đợi sau khi kết thân với hắn rồi, chúng ta sẽ tùy cơ mà hành sự.

Nói đoạn hắn thấp giọng thì thầm:

- Thậm chí nếu như thật sự không tìm thấy gì, vậy cứ tạo dựng vài tang chứng đổ tội cho hắn. Đến lúc đó nắm được thóp hắn, bá quan hạch tội, còn không đánh đổ được hắn sao? Chỉ cần làm khéo, hắn có chứng cớ gì mà nói là chúng ta vu oan giá họa chứ?

Cha của Triệu Ung là thị lang bộ Lại , thủ đoạn trị người của nha môn này ít nhiều hắn cũng từng nghe qua một chút. Thật ra Triệu Ung không có ân oán gì với Dương Lăng, chỉ là sớm nghe cha và thúc bá bề trên rất bất mãn với Dương Lăng, cho rằng hắn không phải là quan tốt, nên muốn làm anh hùng trượng nghĩa trừ gian.

Vương Cảnh Long nghe xong, thoạt lấy làm mừng, nhưng suy nghĩ một chút thì lại khó xử nói:

- Nhưng... ngày mai Dương Lăng đã đi đôn đốc kiến tạo đế lăng, chẳng lẽ ta phải đuổi theo tới đế lăng hay sao?

Triệu Ung vừa mới nghĩ ra một trọng tội đủ để khiến cho Dương Lăng 'rơi đài', vừa nghe vậy thì càng mừng rỡ, không khỏi hớn hở đáp:

- Hay lắm, hắn không có ở nhà, trong phủ chỉ còn lại một đám nữ quyến không kiến thức, càng tiện bề cho chúng ta hành động.

Vương Cảnh Long trợn mắt, tức giận hỏi:

- Triệu huynh, Dương phủ chỉ còn một đám nữ quyến, ta làm sao có thể đến nhà thăm viếng được?

Nghe nói thế, Triệu Ung cũng ngớ ra. Dương Lâm lại cười khà khà trả lời:

- Tiểu đệ đã có biện pháp rồi. Hôm nay không phải Hoàng Thượng đã xóa bỏ thân phận nhạc tịch cho con gái của phạm quan Cao Đình Hòa, giáng vào nhà họ Dương làm nô lệ sao? Tẩu phu nhân bị bệnh triền miên, mãi vẫn chưa tìm được lương y. Vậy Vương huynh có thể đi tới Dương phủ đáp tạ một phen, sau đó đề cập tới việc chẩn trị bệnh. Thiết nghĩ không lý nào Dương Lăng không đồng ý. Như vậy cho dù khi hắn không có ở nhà, chẳng phải là Vương huynh vẫn có thể quang minh chính đại vào nhà sao?

Triệu Ung nghe vậy cả mừng, khen rằng:

- Đúng vậy, kế này thật tuyệt. Thuận Khanh cứ theo kế mà làm, đợi khi nắm rõ nội tình trong nhà họ Dương, chúng ta sẽ từ từ mưu tính!

Vương Cảnh Long nghe xong cũng không khỏi động lòng. Chẳng biết vì sao, trong tâm trí hắn đột nhiên hiện lên hình bóng của hai nữ tỳ xinh đẹp động lòng người.

* * *

Ánh nắng rọi xuống hoa viên mang đầy vẻ phong nhã theo phong cách Giang Nam của Cao phủ, xinh tươi và rực rỡ, rồi chiếu lên cánh cửa đá đã bị rêu xanh phủ màu xanh biếc. Mỗi khi nghe có tiếng chân nhè nhẹ vang lên, đám cá vàng cá đỏ đang tung tăng bơi lội trong ao dưới bóng râm của hành lang cửu khúc đổ xuống vội lủi trốn vào trong những khóm rong.

Vô số những dây hoa tử đằng trên hòn giả sơn rũ xuống, thả lơ lửng trên ao, trông như một tấm rèm tuyệt đẹp, kéo dài tới những cây cột trên hành lang quanh co, che khuất ánh mặt trời, chỉ còn lại vô số tia nắng loang lổ xuyên qua những kẽ lá.

Cảnh sắc yên tĩnh ưu mỹ như vậy, nhưng Dương Lăng lại hoàn toàn không có lòng để thưởng thức. Đêm qua y hộ tống hoàng đế Chính Đức hồi kinh, buổi sáng phái thân binh theo Lưu Cẩn đến Giáo Phường ty truyền thánh dụ, hộ tống tiểu thư nhà họ Cao về, rồi lại phụng mệnh ở lại trong cung.

Dương Lăng còn tưởng rằng tiểu hoàng đế lại nghĩ ra trò chơi gì đó, muốn sai y đi làm. Không ngờ sau khi bãi triều, hoàng đế Chính Đức lại muốn y ngày mai tức khắc đi đến Thái Lăng vì nhiều đại thần trong triều bất mãn với việc y cứ lần lữa trong kinh thành, không chịu phụng chỉ làm việc. Dương Lăng bắt buộc phải đáp ứng.

Thân phận và địa vị hôm nay đã khiến y thỏa mãn rồi, cũng không mong mỏi thêm tiếng tăm chi. Y chỉ mong có thể dành nhiều thời gian hơn bầu bạn với Ấu Nương. Nhưng đã dấn thân vào trong giang hồ cuộc sống đã không còn do mình định đoạt nữa. Y không phải là công tử vương hầu, sinh ra đã được ngậm thìa vàng bát bạc. Muốn có được cuộc sống không lo không nghĩ thì phải xắn tay làm khi có việc. Có điều để hoàn tất công trình Thái Lăng ít nhất cũng phải bốn tháng mà hắn còn được bao nhiêu cái bốn tháng để lãng phí đây?

Dương Lăng ôm bầu tâm sự, chậm rãi đi về phía trước. Đang cảm thấy khó mà mở miệng nói việc mình sẽ rời nhà với Ấu Nương, đột nhiên nghe thấy tiếng đàn khoan thai réo rắt vang lên. Y biết đó là Tuyết Lý Mai đang đánh đàn. Dừng cước bộ lại lắng nghe một chút, trong lòng lại càng buồn hơn, Dương Lăng không khỏi thở dài, rồi tiếp tục đi về phía trước.

Trong hành lang đá thấp thoáng những hàng lá xanh, vừa vào đã có cảm giác u nhã mát mẻ. Dương Lăng vừa rẽ qua một góc, chợt thấy sau khúc quanh lộ ra một mái đình nhỏ hình lá sen được xây trồi trên mặt nước Mái đình xanh biếc, bốn cột làm bằng gỗ, toát lên vẻ cổ kính.

Dưới đình ao nước dập dờn, trên đình có một người con gái xinh đẹp đang ngồi dựa vào lan can. Nàng mặc một bộ đồ xanh, hai tay vịn vào lan can, cằm tựa lên tay, mặt soi bóng nước, mái tóc đen huyền như mực, trên trán quấn một tấm băng trắng.

Dương Lăng tự nhiên đi chậm lại. Thiếu nữ áo xanh nghe tiếng bước chân liền quay đầu nhìn. Dương Lăng thấy hình như mình chưa gặp người thiếu nữ này bao giờ, bất giác ngẩn người ra.

Thiếu nữ đó vừa quay đầu nhìn thấy y, liền vội vàng đứng dậy bước tới, yêu kiều sụp người vái chào:

- Văn Tâm chờ đại nhân đã lâu. Đại ân đại đức của đại nhân tiểu tỳ suốt cuộc đời này cũng không thể nào báo đáp được. Xin đại nhân nhận một lạy này của tiểu tỳ!

Vừa nói nàng vừa quì gối dập đầu lạy ba cái.

Dương Lăng nghe vậy tức thì tỉnh ngộ. Thì ra thiếu nữ này chính là vị nữ thần y mà mình cứu về. Y vội vàng đỡ nhẹ rồi nói:

- Xin tiểu thư hãy đứng lên, đừng xưng hô như thế. Dương Lăng thật sự rất hổ thẹn vì không thể thuyết phục Hoàng Thượng miễn xá cho cô. Nhưng thân phận nô lệ lúc này chỉ để ngụy trang ứng phó với người ngoài mà thôi. Nữ thần y danh tiếng khắp kinh sư, Dương Lăng tuyệt đối không dám đối đãi như tỳ nữ đâu.

Dương Lăng vừa nói, vừa quan sát nàng. Đêm qua trán nàng chảy máu, mặt đầy những vệt nước mắt, tóc tai bù xù, mặt mày đỏ bừng. Buổi sáng khi thức dậy cũng trông rất khó coi, lúc này trang điểm lên thực sự dễ coi hơn nhiều.

Ngũ quan nàng không phải là tuyệt mỹ, không đáng yêu như Ấu Nương, lại không quyến rũ như Liên Nhi. Nhưng đoan trang thanh khiết, khắp người từ trong ra ngoài đều khiến cho người ta có một cảm giác không nhiễm bụi trần. Vẻ tao nhã này, không phải chỉ dựa vào tướng mạo là có thể có được.

Cao Văn Tâm nhẹ nhàng đứng dậy, thấp giọng thưa:

- Cao gia gặp phải nguy nan, tiểu tỳ nhà tan cửa nát, nay đã là người tứ cố vô thân. Đại nhân đã cứu tiểu tỳ, ân đức ấy tựa như núi cao biển rộng. Huống chi thánh chỉ dễ sửa như vậy sao? Đại nhân có thể làm tới mức này, đã là kết cục mà tiểu tỳ mơ cũng không dám mơ tới rồi. Tiểu tỳ cũng không dám có suy nghĩ dại dột gì nữa, chỉ muốn làm một tiểu tỳ trong Dương phủ. Ba chữ Cao Văn Tâm này, từ nay không nhắc tới nữa cũng được.

Đêm qua lúc Dương Lăng gặp nàng, thiếu nữ này cũng như một nữ tử tầm thường: hốt hoảng, thất thố, kinh hãi, tuyệt vọng. Không ngờ bây giờ vẻ mặt lại trầm tĩnh như nước, lời lẽ tự nhiên phóng khoáng, hoàn toàn khác hẳn với đêm qua.

Dương Lăng nghe nàng nói như thế, trong lòng không khỏi thầm kêu khổ. Trong nhà có một Ngọc Đường Xuân, một Tuyết Lý Mai với thân phận không rõ ràng đã khó xử lắm rồi. Nếu lại thêm một vị nữ thần y nữa vào đây, vậy hậu hoa viên nhà họ Dương thật quá náo nhiệt rồi.

Dương Lăng vội đáp:

- Đây chỉ là một thân phận hờ mà thôi, tiểu thư hà tất để ý. Tôi biết tiểu thư đã hứa gả cho công tử của Lý viên ngoại ở lân thôn. Chút nữa tôi sẽ cử người đi tới thông báo với Lý công tử một tiếng, sớm ngày đón cô về thành hôn

Khóe miệng Cao Văn Tâm lộ ra vẻ như mỉa mai, lại như tự giễu, lạnh nhạt thưa:

- Đại nhân, nhà Lý công tử là dòng dõi thư hương, quan lại thế gia. Y lại đường đường là cử nhân Đại nhân cho rằng y sẽ cưới một đứa con gái phạm quan, một nữ nhân đã từng ở Giáo Phường ty sao?

Nói tới đây, ánh mắt vốn bình tĩnh của nàng đột nhiên nhòa đi, đau đớn nhìn Dương Lăng. Dương Lăng chợt nghẹn lời, né tránh ánh mắt nàng rồi nói:

- Tiểu thư thuộc giới nữ lưu, tai bay vạ gió từ trên trời giáng xuống, sao cô có sức kháng cự đây? Phàm là người có vài phần thiện lương, ai mà nhẫn tâm trách móc nặng nề cô chứ? Như vậy đi, tôi lập tức soạn một phong thư, sai người đưa tới Lý phủ.

Cao Văn Tâm vừa mở miệng, còn chưa kịp nói gì thì Dương Lăng đã xoay người vội vã đi luôn. Cao Văn Tâm ngơ ngác đứng lặng hồi lâu, rồi mới buồn bã thở dài:

- Thế sự ấm lạnh, tình người như sương khói. Văn Tâm đến nông nỗi này đã khổ lắm rồi. Dương đại nhân, tội gì người lại đa sự, khiến ta phải xấu hổ thêm ?

Dương Lăng không nghĩ tới việc cứu người xong còn phải giải quyết một đống chuyện rắc rối. Bây giờ nơi y ở chính là nhà của Cao gia. Dù cho Cao Văn Tâm là tiểu thư hay nha đầu, để ở đây cũng đều không thích hợp lắm.

Kỳ thật trong lòng y cũng thấp thỏm không yên, không biết vị Lý cử nhân kia có quan tâm tới việc Cao gia gặp nạn, có quan tâm tới Cao tiểu tỷ từng bị đưa vào Giáo Phường ty không? Bây giờ y cũng là hết nước đành liều đường, chỉ hy vọng có thể dựa vào thân phận và uy tín của mình, viết một phong thư giải thích những gì đã trải qua, để vị cử nhân lão gia đó tin tưởng mà thôi.

Dương Lăng trở vào thư phòng, viết gấp một phong thư, rồi giao cho lão quản gia, bảo lão lập tức tới Lý phủ một chuyến. Lão quản gia cả đời ở nhà họ Cao, tuy rằng hôm nay Cao gia mắc nạn, nhưng lão vẫn còn rất nhiều cảm tình với chủ cũ, vừa nghe Dương đại nhân muốn tác hợp cho tiểu thư cùng Lý gia, lập tức cầm lấy bức thư phấn khởi chạy tới thôn Lý gia.

Dương Lăng vừa mới sai quản gia đi, Vương Cảnh Long đã đem tứ sắc lễ(3) đăng môn bái phỏng. Dương Lăng thấy lần trước y cố nén giận ôm hận, ra vẻ mềm mỏng xuống nước nhờ vả, tưởng rằng một khi Vương Quỳnh ra tù, vị Vương công tử này cũng sẽ không đến nhà nữa. Không ngờ Vương thượng thư vừa mới được phóng thích, y đã tới tỏ lời cảm ơn.

Vương Cảnh Long có lòng ‘kết giao’, nên không còn vác bộ mặt tức giận nhưng không dám nói ra như lần trước tới nữa. Vẻ mặt và động tác lần này đã tự nhiên hơn nhiều,. Dương Lăng cũng không muốn kết thù với Vương thượng thư vốn có môn sinh bạn cũ khắp thiên hạ, thấy vị Vương tam công tử thập phần nhiệt tình, y cũng không dám thất lễ, bèn vội dâng trà đãi khách. Chuyện trò không vui không nhạt cả buổi, Vương Cảnh Long mới chuyển đề tài, nói rằng muốn đem thê tử đến đây, xin vị nữ thần y nhà họ Dương khám và chữa bệnh cho nàng.

Dương Lăng tưởng rằng y vì nguyên do này mới thay đổi thái độ từ ngạo mạn chuyển sang cung kính, vì vậy thái độ vốn mang theo vài phần đề phòng ban đầu lúc này cũng lập tức được giải trừ.

Y tính toán một chút. Nếu công tử nhà họ Lý đọc xong thư của mình mà chịu tiếp nhận Cao tiểu thư, thì để việc Ấu Nương bị bệnh không bị người ta vạch trần, mình vẫn phải thường xuyên mời Cao tiểu thư tới phủ. Ấu Nương vốn không có bệnh, việc này chỉ là thuận nước giong thuyền, thế nên y không ngại mà lập tức đồng ý luôn với Vương Cảnh Long.

Vương Cảnh Long lại đàm đạo một hồi, thấy hôm nay Dương Lăng tiếp khách, trong phòng chỉ có bốn gã gia nhân hầu hạ, không gọi hai người tỳ nữ xinh đẹp mà lần trước mình gặp ra, biết rằng hôm nay không có duyên được gặp, thế là đành thất vọng cáo từ ra về.

Dương Lăng tiễn Vương Cảnh Long xong, trở lại thư phòng ngồi một chút. Khoảng thời gian hai chén trà sau, lão quản gia đã vội vã chạy về, Dương Lăng trông thấy cả mừng, vội vàng đón lão vào nhà hỏi:

- Lão quản gia, đã đưa thư rồi à? Công tử họ Lý nói sao?

Lão quản gia tức giận đến mặt đỏ bừng bừng, căm phẫn thưa:

- Lão gia, tiểu nhân cầm thư của người chạy tới phủ Lý viên ngoại. Nào ngờ nhà họ Lý cứ như tránh ôn thần ấy, đến cả cửa cũng không cho lão nô vào, chỉ bảo lão nô nhét thư vào khe cửa. Lão nô đợi nửa canh giờ, công tử Lý gia mới viết một phong thư, lại nhét vào khe cửa chuyển ra, từ đầu đến cuối ngay cả mặt cũng không thấy.

Dương Lăng nghe lão quản gia nói xong, lòng không khỏi trầm xuống. Y vội lấy phong thư hồi âm của Lý công tử, mở ra đọc kỹ. Phong thư này là một phong thư theo thể văn ngôn điển hình, lời văn cao siêu, nội dung sâu xa, khiến vị ”tú tài dỏm” đọc bức thư văn nhã tỉa tót của gã cử nhân thật đó vất vả vô cùng.

Dương Lăng xem từng chữ cả một buổi, mới đại khái hiểu được nội dung bức thư. Thư của vị Lý công tử này tuyệt không hề đề cập tới việc nhà họ Cao gặp nạn, cũng không đề cập tới chuyện Cao tiểu thư bị đưa vào Giáo Phường ty. Trong thư, đầu tiên là nói về lễ nghĩa liêm sỉ mà một nữ tử phải tuân thủ, sau đó lại tự hào kể về sự tích làm quan vinh quang chói lọi của nhà họ Lý từ thời Ngũ Đại đến nay. Cuối cùng rất khách khí hỏi một câu rằng: đại nhân muốn cử nhân như ta đây làm phu quân của tỳ nữ nhà ngươi sao?

Dương Lăng xem xong, lập tức nghẹn họng. Trong lúc y đang ngẩn người, Hàn Ấu Nương khấp khởi chạy vào, hỏi:

- Tướng công, sáng nay thiếp làm canh mơ chua hiện đang ướp lạnh dưới giếng, chàng có muốn uống một chén không?

Dương Lăng lau mồi hôi đáp:

- Ừm... Ấu Nương à, lấy cho ta chăn nệm chiếu gối. Đêm nay tướng công sẽ không về hậu viện nữa, mà sẽ ngủ trong thư phòng này.

Chú thích:

(1) “thực lễ” là lễ nghi về ẩm thực. Lễ nghi về ẩm thực là những quy tắc chuẩn mực đạo đức và xã hội trong sinh hoạt ăn uống mà mọi người phải tuân thủ.

(2) “Ngũ lễ” chỉ năm loại lễ chế cổ đại, bao gồm:

1. Cát lễ: lễ cúng bái thiên thần (Hạo Thiên thượng đế), địa chi (Ngũ Đế) và nhân quỷ (tiên vương, tiên đế)

2. Hung lễ: lễ phúng viếng chia sẻ đau thương khốn khó

3. Quân lễ: lễ thao diễn và chinh phạt quân sự

4. Tân lễ: lễ tiếp đãi tân khách

5. Gia lễ: lễ nghi về kết nối quan hệ và tình cảm giữa người với người

(3) Chỉ bốn loại lễ vật, tượng trưng cho bốn mùa, hàm ý chúc phúc cát tường. Bốn loại lễ vật (thường là món ăn) khác biệt tuỳ theo phong tục từng vùng, ví dụ thịt, cá, gà, vịt, rượu, trà, thuốc lá…Chương chín mươi sáu Kim Tỉnh ở Đế Lăng

------------------------

Dương Lăng xem xong thư hồi âm của Lý cử nhân, xấu hổ không biết trả lời với Cao tiểu thư thế nào. Suy đi tính lại thấy lúc này mà nói với nàng thì chỉ sợ càng làm cho người ta thương tâm, trước đành gác lại việc này, rồi sau này ậm ờ nói gì cho qua là được. Y cũng không tiện đi đến hậu viện, thế là bèn ngủ tại thư phòng một đêm. Hôm sau trời vừa sáng là đi Thái Lăng luôn.

Cao Văn Tâm lòng như gương sáng*, kỳ thật sớm đã đoán biết kết cục như thế rồi. Cha nàng là người bản địa, cũng là thái y trong cung, ở quê nhà có thanh danh cực lớn. Cao Văn Tâm theo cha hiền từ nhỏ, học được một thân y thuật cao siêu. Những lúc Cao thái y làm việc trong cung mà ở nhà có thôn dân gặp phải bệnh khó trị đến gõ cửa cầu khẩn, vị đại tiểu thư này đã không màng tới thân phận mà ra mặt trị liệu cho họ. Vì vậy danh tiếng cũng vang xa. (*: ý nói lanh trí)

Do tiếp xúc với nhiều người nên Cao tiểu thư cũng nghe nói về vị tướng công mà nàng chưa từng gặp mặt. Nàng cũng hiểu Lý phủ là dòng dõi thi-lễ gia truyền, mấy đời Nho học nên phần nào hiểu rõ tác phong cư xử của vị tướng công này.

Nàng đã bị đày vào Giáo Phường ty thì dù thân thể có còn trong sạch hay không cũng không quan trọng. Cái quan trọng chính là không ai có thể tuyên bố sự trong sạch của nàng cho thiên hạ biết. Lý gia là thân sĩ địa phương có thân phận, sao có thể cưới một đứa con dâu về để người ta bàn ra tán vào? Huống hồ thân phận nàng bây giờ còn là nô lệ, Lý gia sẽ không thể vì nàng mà tự hạ thấp địa vị của mình.

Việc Dương Lăng e ngại không dám trở lại hậu viện gặp nàng càng làm nàng có cảm giác áy náy. Bây giờ Cao Văn Tâm không dám ôm hy vọng xa vời gì với tương lai của mình. Hàn Ấu Nương tuy chiếu cố nàng rất nhiều, đối đãi với nàng như khách, nhưng Cao Văn Tâm vẫn khăng khăng giữ phận tỳ nữ, thi lễ nô tỳ.

Thái Lăng nằm trên ngọn Bút Giá sơn phía tây bắc Trường Lăng. Lúc Dương Lăng mới tiếp chỉ đã tới đây hai lần. Lần này trở lại, thấy La thành với chu vi gần hai trăm trượng đã loáng thoáng có quy mô. Tuy mấy kiến trúc quy hoạch bên trong lăng viên như hương điện, sương phòng, thần trù, phụng tự(1) vẫn chưa được kiến tạo, nhưng Kim Tỉnh và Bảo Sơn thành thì đã được xây lên.

Kim Tỉnh là vị trí trung tâm nhất của lăng mộ, cũng là nơi quan trọng nhất của cả hoàng lăng. Tuy chỉ là phụ trách việc thi công mấy phòng, sẽ không có gì sai sót, song Dương Lăng vẫn sai nhân mã Tả Tiêu Quân do mình trực tiếp quản hạt phụ trách xây dựng tẩm cung Đế lăng. Phụ trách công trình bên trong Thái lăng là Phùng Đường, Đô ty mới của Đệ tam ty. Người này tính tình điềm tĩnh, cũng là người chịu khổ được.

Trên núi, cách khu vực bên ngoài lăng viên không xa, một loạt những căn nhà được cất lên. Đây là chỗ làm việc hàng ngày của quan viên các bộ như Khâm Thiên giám, bộ Công, bộ Lễ, Thần Cơ doanh.

Ở trên lăng, ba người Liên Đắc Lộc, Bành Kế Tổ và Phùng Đường nghe nói tham tướng đại nhân đã tới, bèn tuần tự chạy về bái kiến.

Bành Kế Tổ vừa thấy Dương Lăng liền cười khà khà nói:

- Đại nhân, khoảng tầm tháng nữa ngài quay lại xem thì sẽ xong thôi. Mấy người chúng tôi cũng đang trông chừng đám ranh kia làm việc. Xây đắp lăng tẩm thế nào thì đã có các nha môn khác lo, sẽ không có chuyện gì đâu.

Dương Lăng đáp:

- Ừm, thật cực khổ cho các vị tướng quân rồi. Nhưng Hoàng Thượng phái ta làm nhiệm vụ này, quan viên các bộ đều đang coi giữ trên lăng. Nếu ta cứ lần lữa không đến, sẽ khó tránh khỏi bị người ta chỉ trích. Kỳ thật bản quan cũng thấy người của chúng ta bỏ rất nhiều công sức, chỉ cần bọn quan binh không lười nhác là được. Việc kiến trúc lăng tẩm như thế nào đâu tới lượt mấy binh lính chúng ta can dự vào.

Phùng Đường khẽ cau mày, bộ dáng muốn nói lại thôi nhưng nghe Dương Lăng đáp vậy, cuối cùng không kìm được bèn thưa:

- Đại nhân! Mấy ngày trước đây lúc cơm trưa, từng có huynh đệ báo là Kim Tỉnh trong lăng thấm nước, việc này hạ quan còn chưa bẩm báo cho đại nhân.

Liên Đắc Lộc sờ gương mặt rỗ của mình, phản bác:

- Lão Phùng, ngươi cũng quá cẩn thận rồi. Việc đào lăng mộ sâu như vậy, thấm nước thì có gì là ngạc nhiên. May mà đây là trên núi, bằng không cũng phải đào được vài chục cái giếng rồi ấy chứ.

Mấy vị tướng quân này không có nhiều người biết chữ, phong thuỷ lại càng mù tịt, vốn không ai ý thức được sự nghiêm trọng trong đó. Phùng Đường được đề bạt chưa lâu, bị Liên đô tư châm chọc không khỏi đỏ mặt, vội vàng giải thích:

- Mạt tướng nghe xong cũng tưởng không có gì nghiêm trọng. Nhưng kỳ quái chính là Nghê đại nhân của Khâm Thiên giám và thị lang bộ Lễ nghe tin lại vội vàng dẫn người tới ngay, bộ dạng như gặp đại địch. Mạt tướng thấy vậy lấy làm lạ, định theo vào lăng xem một chút, nhưng bị họ ngăn trở. Nghê đại nhân lấy cớ muốn thăm dò địa lý để đoán cát hung, đuổi hết bảy tám huynh đệ trấn thủ trong đó ra. Hơn một canh giờ sau mới cho phép chúng tôi trở vào địa cung.

Dương Lăng thoáng đổi sắc mặt, nghiêng người chăm chú nhìn gã hỏi:

- Nói tiếp đi, sau đó thì thế nào?

Hai người Liên, Bành thấy vẻ mặt y hơi nghiêm trọng, cũng không dám nói đùa, chỉ nhìn Phùng Đường. Phùng Đường đáp:

- Lúc hạ quan trở về thì nhận thấy trên miệng giếng không hề có nước suối tràn ra. Sau đó, Đới công công và Lý thị lang của bộ Công nghe tin cũng chạy tới. Vừa đúng lúc nghe được một tên thập trưởng nói với người khác về việc phát hiện Kim Tỉnh tràn nước, Đới công công giận tím mặt, giật lấy roi da đánh mắng hắn một trận, rồi không cho bất luận kẻ nào đặt điều kiếm chuyện nữa. Mạt tướng thấy bọn họ cẩn thận như vậy nên mới cảm thấy nghi ngờ.

Dương Lăng chậm rãi đi lại trong phòng vài bước, rồi trầm ngâm:

- Lăng mộ là nơi bài trí và đặt quan tài tiên đế. Nếu lăng mộ bị thấm nước, đích thực là một chuyện lớn. Nhưng ... khai quật địa cung sâu như vậy, vẫn chưa từng thấy có chuyện thấm nước mà. Không phải chung quanh lăng mộ cũng dùng đất sét, bùn đặc và đá xây thành bức tường dày tới mười hai mét để chống thấm nước sao? Lần trước ta tới còn thấy Lý thị lang tự mình lắp tên bắn lớp đầm nén để kiểm tra xem tường đất có chắc không, có thể thấy được việc thấm nước khi đào lăng mộ là chuyện bình thường. Tại sao khi Kim Tỉnh thấm nước lại khẩn trương như vậy?

Y suy nghĩ hồi lâu mà vẫn chưa nắm được mấu chốt, bèn đưa mắt nhìn Dương Nhất Thanh. Dương Nhất Thanh cũng lắc đầu nhè nhẹ:

- Đại nhân! Các vị đại nhân đều là tướng quân lãnh binh chiến đấu, những chuyện xem phong thuỷ đất cát này chúng tôi không hiểu đâu. Có điều... Khâm Thiên giám và thị lang đại nhân bộ Lễ đó nhất định biết, sao đại nhân không thử hỏi họ xem?

Liên Đắc Lộc cười khẩy:

- Tiểu Dương, ngươi không thấy các vị đại nhân đó rất ghét binh lính chúng ta à? Đến cả tham tướng đại nhân mà bọn họ còn không thèm để ý tới. Nếu bọn họ chủ tâm muốn giấu, ngươi hỏi ra được ư?

Dương Nhất Thanh mỉm cười, chỉ nhìn sang Dương Lăng. Dương Lăng hiểu ý cười ha ha:

- Không nói sao? Không nói thì ta tự mình đi xem. Đi, Nhất Thanh sai người mang theo hương án, bản quan muốn tế địa lăng, sau đó vào trong xem một chút.

Dương Lăng đến Thái Lăng, long trọng đốt hương kính lăng, giương cờ gióng trống tế bái một phen. Sau đó lệnh cho tất cả lính canh trong địa lăng lui ra, rồi mới dẫn ba vị quan đô ty vào lăng mộ thăm dò. Y cố tình làm cho đình đám, sớm đã đánh động người của những nha môn khác chạy về bẩm báo với đại nhân mình.

Kim Tỉnh của địa cung chính là long huyệt của hoàng lăng. Do đó một khi đào xong, sẽ không phải ai cũng có thể tuỳ ý chạm vào. Kim Tỉnh kỳ thật chỉ là một cái hố đường kính nửa thước (tàu), sâu chừng một mét. Ngay khi được đào xong, bên trên liền cất mái che để chắn ánh sáng của mặt trời, mặt trăng và các vì sao.

Hơn nữa phần đất lấy ra khi đào mộ huyệt được gọi là ‘cát thổ’ (đất lành), phải trình lên cho hoàng đế ngự lãm, sau đó bảo quản tại đại sảnh của bộ Lễ. Đợi sau này khi an táng Hoàng Thượng, sẽ được lấp cùng với những kỳ trân dị bảo khác nhằm cầu mong lăng mộ yên bình, thổ nhưỡng tốt lành. Bởi vậy có thể thấy được tầm quan trọng của nó.

Do đó nơi Kim Tỉnh này, trên lý thuyết thì chỉ có năm vị đại thần phụng chỉ mới có tư cách vào xem. Dương Lăng dâng hương, rửa tay xong, lúc này mới đi tới địa cung. Bên trên địa cung đã được đậy nắp, nhưng vẫn chưa đắp đất. Những cột điện và bệ đá to lớn bên trong lăng mộ đã bố trí xong được bảy phần, ngay giữa bệ đá nơi đặt quan tài chính là Kim Tỉnh, nơi kết nối âm dương, trao đổi linh khí.

Dương Lăng đi tới bên cạnh Kim Tỉnh, đưa tay sờ thành giếng. Mặc dù hơi man mát nhưng lại không giống như bị nước thấm, không khỏi giật mình. Phùng Đường vội thưa:

- Đại nhân, mạt tướng từng hỏi tay thập trưởng đó, nhưng hắn một mực khẳng định đã từng tận mắt nhìn thấy Kim Tỉnh phun nước. Hơn nữa lúc đó mấy huynh đệ trong địa cung cũng đều nói như vậy, chắc không phải đều nhìn nhầm cả đâu?

Dương Lăng ngẫm nghĩ một lát, nâng tảng đá chui hơn nửa người vào trong dò xét. Lần mò dưới đáy hố một hồi, cảm giác dưới đáy rất là khô ráo. Tuy nhiên miếng đất hình tròn ở chính giữa Kim Tỉnh đáng lý phải lồi lên, thì lúc này lại có vẻ như bị lõm vào. Hơn nữa hơi nhám tay, dường như đã bị thứ gì đó chọc vào.

Dương Lăng sờ soạng một hồi, rồi đứng dậy soi đèn nhìn. Bụi đất trên tay rất khô ráo, nhưng lại có dạng bột vụn, không giống loại đất nện gốc dưới đáy động. Trong lòng y bất giác dấy lên lòng nghi ngờ.

Dương Lăng mang trong lòng trăm mối nghi ngờ trở về chỗ ở của mình. Vừa mới ngồi xuống đã thấy Nghê Khiêm của Khâm Thiên giám và thị lang Lý Đạc của bộ Lễ vội vàng chạy tới. Vừa vào cửa Nghê Khiêm đã cười nói với vẻ không được tự nhiên lắm:

- Dương đại nhân vừa mới trở về đã đến địa cung xem xét ngay rồi à? Dương đại nhân từ trong kinh tới đây, không biết Hoàng Thượng có ý chỉ gì về việc kiến tạo Đế Lăng không?

Dương Lăng đứng dậy cười đáp:

- Ra là Nghê đại nhân, Lý đại nhân, xin mời ngồi. Hoàng Thượng hết sức quan tâm tới Đế Lăng, lo lắng quan binh lười biếng, dây dưa lỡ công việc, do đó sai bản quan trở về lăng đốc thúc quan binh. Bản quan vừa mới đi tế bái lăng tẩm tiên đế xong, đang định đi gặp các vị đại nhân, không ngờ hai vị đại nhân đã đến trước rồi.

Nghê Khiêm đã sai Đới công công lôi kéo thị lang Lý Kiệt của bộ Công tính toán chi phí công trình, cố quấn lấy hắn, còn mình thì vội vàng tới đây, muốn xem Dương Lăng có biết gì về tin tức địa cung thấm nước hai ngày trước hay chưa, khi nghe thấy vậy thì gượng cười:

- Công trình tiến triển thông thuận, cũng không có gì không ổn, Dương đại nhân không cần phải lo lắng.

Dương Lăng cười nhạt:

- Bản quan chỉ phụ trách an nguy Đế Lăng, đốc thúc quan binh thi công theo đúng qui định, nói thẳng ra thì không có gì phải lo lắng. Huống hồ một kẻ tay ngang như bản quan đây cho dù có muốn lo cũng chẳng lo được gì. Nhưng mà... sao bản quan nghe nói hai ngày trước Kim Tỉnh ở địa cung phun nước?

Cả người Nghê Khiêm thoáng run rẩy, lão cười gượng gạo trả lời:

- Đó chỉ do một tên thập trưởng trộm uống rượu say nên nhìn nhầm mà thôi. Những quan binh khác cũng chỉ nghe rồi đồn bậy theo, thực không đáng tin đâu!

- Vậy sao?

Dương Lăng nhìn chằm chằm vào lão:

- Bản quan nghe nói mấy vị đại nhân đã xem xét rồi, vốn cũng không tin những lời của hắn. Nhưng bản quan vừa mới tự mình đi xem. Ở đáy giếng quả nhiên rất là ẩm thấp, bùn lầy, giống như là có nước thấm ra đó.

Thị lang bộ Lễ Lý Đạc vừa nghe xong, sắc mặt liền tái nhợt, thầm nghĩ: “Suối nước đó đã được những thanh gỗ bịt rồi, lại dùng tới ba lớp đất nện nén lại rất chắc chắn mà, sao lại rỉ nước ra? Mình phải tìm cơ hội bế kín lại mới được. Nhưng Dương Lăng vừa là một trong năm đại thần có tên trong thánh chỉ, vừa là người tâm phúc trước mặt Hoàng Thượng, mình tuy có chức quan cao hơn y, sợ cũng không đuổi y được. Có y ở đây, mình làm sao động tay động chân được đây?”

Nghê Khiêm cũng sợ hãi, vội vàng thưa:

- Dưới lòng đất âm u ẩm ướt, bùn lầy cũng là việc bình thường. Chúng tôi thật sự đã xem kỹ, quả thực chưa từng thấy ... chảy nước...

Nói tới đây lão không nén được sợ hãi, giọng bắt đầu run rẩy.

Dương Lăng cười lớn:

- Không có chuyện gì thì tốt rồi. Có điều đã có lời đồn, việc này không thể qua loa được. Bản quan phải đem việc này bẩm báo với Hoàng Thượng, xin Hoàng Thượng phái cao nhân tinh thông phong thuỷ địa lý trở lại để xem rõ ngọn ngành, để bọn họ thấy là không sao. Mai sau nếu có việc gì thì cũng sẽ không can hệ gì đến chúng ta.

Hai người Nghê Khiêm nghe xong liền đồng thanh thốt lên:

- Vạn lần không thể!

Nghê Khiêm bước lên giữ chặt tay Dương Lăng lo sợ thưa:

- Xây lăng là đại sự, sao có thể chỉ vì nghe tin đồn võ đoán mà kinh động tới thiên tử, xin Dương đại nhân đừng lỗ mãng!

Dương Lăng thấy vẻ mặt kinh hoảng của bọn họ thì trong lòng đã chắc mẩm tới tám chín phần. Y không khỏi cười lạnh:

- Nhị vị đại nhân! Chuyện Kim Tỉnh tươm nước Dương mỗ đã tra rõ ràng rồi, nhân chứng vật chứng đều ở trong tay tại hạ. Nhị vị còn muốn giấu tại hạ tới bao giờ đây?

Hai người Nghê Khiêm liền giật nẩy mình. Trên trán Lý Đạc mồ hôi chảy xuống ròng ròng, sắc mặt vàng ệch, nhìn cực kỳ khó coi. Khâm Thiên giám Nghê Khiêm hai đầu gối rung lên bần bật, run rẩy hồi lâu rồi đột nhiên quì sụp xuống đất, hoảng sợ:

- Dương đại nhân! Chúng tôi cũng không còn cách nào khác mới phải làm hạ sách này, xin Dương đại nhân hãy cứu chúng tôi!

Dương Lăng đưa mắt ra hiệu với Dương Nhất Thanh. Dương Nhất Thanh hiểu ý lui ra ngoài, lặng lẽ đóng cửa phòng lại. Dương Lăng lúc này mới bước lên đỡ Nghê Khiêm dậy, nguôi giận mỉm cười nói:

- Đại nhân hà tất phải làm như thế. Có điều tình hình cụ thể bên trong như thế nào, vẫn mong đại nhân nói rõ ngọn ngành cho tại hạ nghe. Dương mỗ phải nghe hết rõ ràng, phải nắm rõ thì mới có thể quyết định làm gì!

* * *

Vương Cảnh Long ngồi trong thư phòng của Dương Lăng, tay cầm chén trà, trông như lão tăng nhập định.

Nơi này vốn là thư phòng của thái y Cao Đình Hòa. Trên tường không tranh không chữ. Nơi giá sách chỉ có mấy quyển sách thuốc (y thư), căn bản không có thứ gì để tiêu khiển.

Bảy ngày nay hắn đã tới Dương phủ bốn lần. Ngoại trừ lần đầu tiên Dương phu nhân nhờ thị nữ đỡ thân thể ốm yếu của mình ra gặp hắn và thê tử Trương Thị một lần, bắt chuyện vài câu rồi quay vào nhà trong, những lần sau đến nhà đều là do lão quản gia đang đứng chầu chực ở cửa kia mang theo hai gia nhân tới hầu hạ hắn.

Ban đầu Vương Cảnh Long cũng còn khách khí bắt chuyện với lão, nói bóng nói gió hòng nghe ngóng tình hình về Dương Lăng. Đáng tiếc những gì mà vị lão quản gia này biết về Dương đại nhân chẳng nhiều hơn hắn là bao. Do đó hắn cũng chẳng moi được gì từ miệng của lão bộc này.

Vị lão quản gia này hỏi một câu thì đáp một câu, không hỏi thì chỉ đứng yên đó, cả ngày cũng không nói một tiếng. Có khi Vương Cảnh Long ngồi đó chán quá, muốn đi lại trong phòng khách một chút, lão quản gia cũng bắt chước đi theo nửa bước không rời, khiến cho hắn hết đường xoay sở, căn bản không tìm thấy cơ hội xuống tay để gieo tang chứng.

Có điều phu nhân Trương thị của hắn vì nhiễm phải bệnh bạch đới nên ốm yếu, quanh năm nằm liệt trên giường. Bệnh này lại không tiện mời lang trung tới khám chữa kỹ cho nên càng ngày càng nặng. Từ lúc hắn tới Dương Phủ mời Cao tiểu thư chẩn đoán và trị bệnh, không ngờ lại hiệu quả. Đây cũng xem như là ”mất cái này được cái kia”(2). Vương Cảnh Long bèn dùng kế không thành, tạm thời đưa thê tử tới chữa bệnh luôn.

Chỉ là hắn mỗi ngày tới đều ngồi như ngồi thiền, thật sự rất nhàm chán. Hai người tỳ nữ xinh đẹp tuyệt sắc khiến cho người ta động tâm nọ lại chẳng hề xuất hiện cho hắn gặp một lần. Hắn vẫn cho là hai nữ tử đó là tỳ nữ trong Dương phủ, thường ngày lo liệu những việc lặt vặt trong nhà, hắn ngồi đây thể nào cũng sẽ có cơ hội gặp mặt. Không ngờ đến mấy lần mà vẫn không gặp được người. Vương tam công tử tựa như bị bệnh tương tư càng thêm nhớ nhung khuôn mặt tuyệt đẹp và tư thái phong lưu của hai mỹ tỳ ấy, cho nên người thì ở thư phòng mà trái tim đã bay tới tận hậu hoa viên nhà người ta rồi.

Vương Cảnh Long đặt chén trà xuống, xem canh giờ thấy chắc phu nhân đã châm cứu xong rồi, không khỏi thầm thở dài. Đang lúc thất vọng, đột nhiên có một loạt những tiếng bước chân vang lên, sau đó lão quản gia đang đứng ngoài cửa chợt cung kính thưa:

- Hai vị cô nương sao lại tới tiền viện vậy?

Chỉ nghe một giọng thiếu nữ trong trẻo êm tai cất lên:

- Văn Tâm tỷ tỷ hôm nay cần dùng Mai Hoa châm. Châm này đang để ở trong thư phòng, con tới lấy cho tỷ ấy.

Theo tiếng nói, hai thiếu nữ mặc đồ xanh, khuôn mặt trắng nõn thanh tú thoát trần nhanh nhẹn xuất hiện ở trước cửa thư phòng. Vương Cảnh Long vừa thấy hai người thiếu nữ xinh đẹp đó chính là đôi giai nhân mà hắn ngày đêm mong nhớ, không khỏi ngạc nhiên đứng dậy, mừng rỡ nói:

- Thì ra là hai vị cô nương .

Từ khi tiểu thư nhà họ Cao trở về, trong nhà từ trên xuống dưới không ai xem nàng là nô lệ cả. Nhưng vị Cao tiểu thư này thủy chung vẫn dùng lễ nữ tỳ mà đối đãi với Ấu Nương. Hai người Ngọc Đường Xuân vốn rất thông minh, lập tức cũng học theo cách. Chỉ là kiểu trang phục màu xanh với khuôn mặt không trang điểm này càng làm cho vẻ mỹ lệ của thiếu nữ đôi tám thêm bắt mắt, khiến cho Vương Cảnh Long nhất thời nhìn mà không thể dời ánh mắt đi.

Ngọc Đường Xuân vốn cảm thấy vị Vương công tử này là người tô vàng nạm ngọc, chỉ có mẽ ngoài. Nhưng nhiều ngày qua thấy hắn tự mình đi cùng với vợ đến cầu thầy trị bệnh, cảm thấy gã thư sinh này mặc dù tính tình hào nhoáng không thật, nhưng cũng rất chân tình với phu nhân, nên cái nhìn về hắn không khỏi có sự thay đổi lớn.

Nàng nhớ lần trước mình dùng thân phận tỳ nữ gặp Vương công tử, lúc này thấy Vương Cảnh Long đứng dậy chào, vội nghiêng người thi lễ, cười tươi thưa:

- Vương công tử! Tiểu tỳ là thân phận nô bộc, không nhận nổi lễ của quý nhân như công tử đâu. Hôm nay Văn Tâm tỷ tỷ muốn dùng châm Mai Hoa châm cứu cho tôn phu nhân thêm một lần. Tiểu tỳ lấy châm xong là đi ngay, xin công tử đợi chút nữa.

Dung mạo Ngọc Đường Xuân còn đẹp hơn Tuyết Lý Mai ba phần, áo xanh da trắng tôn lên vẻ đẹp như ngọc, nụ cười rực rỡ như hoa xuân, khiến Vương Cảnh Long trông thấy mà rạo rực trong lòng. Bất giác hắn vừa đi theo nàng đến bên cạnh giá sách vừa ghé sát người nói:

- Được được, làm phiền cô nương, đa tạ cô nương. Cô nương lan tâm huệ chất, khí chất cao nhã, Vương mỗ nào dám đối đãi như tỳ nữ. Một lễ đó là điều nên làm.

Ngọc Đường Xuân đi đến trước quầy sách, nhón chân lấy hộp châm đặt ở trên cao. Nghe thấy Vương Cảnh Long khen nàng không giống tỳ nữ, trong lòng vui mừng, không khỏi mỉm cười:

- Hi, Vương công tử nhân phẩm xuất chúng, tài hoa hơn người, là đại tài tử nổi danh khắp kinh sư. Tiểu tỳ thường nghe đại nhân nhắc tới công tử, có thể được công tử khích lệ, tiểu tỳ rất lấy làm vinh hạnh.

Tuyết Lý Mai đứng sau lưng hai người, nghe hai người tâng bốc nhau, không khỏi làm mặt quỉ với Ngọc Đường Xuân, rồi làm ra vẻ muốn nôn oẹ. Ngọc Đường Xuân thấy động tác của Tuyết Lý Mai, không nhịn được bèn bật cười ‘phì’ một tiếng, rồi lập tức biết mình thất lễ, không khỏi đỏ mặt, vội vàng vái hắn một cái:

- Công tử ngồi chơi, tiểu tỳ đi đây.

Vương Cảnh Long nhìn thấy Ngọc Đường Xuân cười với hắn rồi đỏ mặt, sau đó liền như một đám mây trắng bồng bềnh lướt đi. Hắn tưởng rằng thiếu nữ này đã bị vẻ phong lưu phóng khoáng của mình hấp dẫn, bất giác trong lòng rung động, si ngốc nhìn nhìn theo hai người biến mất khỏi cửa một hồi lâu. Dường như mùi thơm khi nàng lướt qua vẫn còn vương nơi chóp mũi.

Tuyết Lý Mai dắt tay Ngọc Đường Xuân chạy đến hành lang hậu viên mới dừng bước lại rồi cười khanh khách:

- Gớm muốn chết. Lâu rồi không thấy tỷ sử dụng thủ đoạn lừa người. Nhìn bộ dáng Vương công tử thần hồn điên đảo, sao không thấy tỷ khen lão gia như vậy?

Ngọc Đường Xuân cười khúc khích, rồi lườm nàng:

- Lão gia chúng ta mà còn cần được khen sao? Nếu có thể khen được y cũng... cũng... Tỷ mong mà không được nè. Chà! Đại nhân làm quan trong triều, thêm một bằng hữu vẫn tốt hơn là thêm một đối thủ. Nhà Vương thượng thư lại rất có thế lực. Làm vậy không phải vì lão gia chúng ta đó sao?

Tuyết Lý Mai cười:

- Không biết xấu hổ. Lão gia bây giờ không cần tỷ thương đâu. Có phải là muốn để lão gia ở trên lăng về đét yêu tỷ một cái nữa không?

Đoạn nhân lúc Tô Tam không kịp đề phòng, đột nhiên đét vào mông nàng một cái, rồi cười khanh khách chạy đi.

Chú thích:

(1) thần trù: bếp; phụng tự: nơi thờ cúng

(2) nguyên văn “thất chi đông ngung, thu chi tang du”. Đông ngung: phía đông, nơi mặt trời mọc; tang du: hoàng hôn, lúc mặt trời lặn. Chương chín mươi bảy Lê Xích Vào Tù

(Thân mang xiềng xích, chân lê vào tù)

------------------------

Trước tiên Dương Lăng đi dạo lăng mộ một vòng, cố ý đánh động bọn họ, quả nhiên đã lôi kéo được hai vị đại nhân trong lòng có quỷ tới. Lúc này y lại dùng lời lừa gạt, Giám phó Khâm Thiên giám Nghê Khiêm, tả thị lang bộ Lễ Lý Đạc lập tức mặt xanh như tàu lá, quỳ xuống đất liên tục xin tha.

Dương Lăng nghe hai người kể sự thật về việc Kim Tỉnh bị trào nước rồi giải thích rằng theo phong thuỷ đấy là điềm không lành, thì trong lòng âm thầm kinh hãi. Y tuy không tin phong thủy, nhưng lại biết rất rõ trong lòng những người tin phong thủy điều này quan yếu đến dường nào.

Nhớ hồi nhỏ dọn đến nhà mới, việc đầu tiên mà bà nội của y làm là đem treo một cái gương nhỏ ở phía sau cửa sổ, nói là để xua đuổi tà khí ra khỏi phòng. Kết quả là một ông già ở lầu sau thấy vậy rất khó chịu, cho rằng bà y xua đuổi tà khí qua nhà lão. Bà y và ông già đó cãi nhau ầm ĩ mấy lần, hai ông bà già bèn đua nhau treo đủ các loại gương lên cửa sổ. Đại khái về sau trên cửa sổ hai nhà đều chi chít những chiếc gương nhỏ, cũng không biết nhà ai nhiều hơn ai. Bởi vì chuyện này hết sức buồn cười nên Dương Lăng vẫn nhớ kỹ đến tận bây giờ.

Người hiện đại còn mê tín như thế, huống chi người xưa? Đế Lăng lại là nơi chôn cất Tiên đế, nếu Chính Đức biết việc này, chắc chắn không phải chỉ đơn giản là tội bị mắng mỏ trách phạt bình thường đâu, mà là tội chém đầu chứ chẳng chơi.

Nghĩ tới điểm này, Dương Lăng lập tức biến sắc, vung tay nói lớn:

- Nhị vị đại nhân! Chuyện lớn như vậy mà hai vị cũng dám lừa dối Hoàng Thượng sao? Chẳng lẽ các vị không sợ bị diệt tộc tịch biên à? Thứ lỗi, Dương mỗ phải lập tức trở lại kinh thành, bẩm rõ việc này cho Hoàng Thượng, xin Hoàng Thượng hạ chỉ dời lăng.

Nghê Khiêm, Lý Đạc vừa nghe vậy thì hồn phi phách tán. Bọn họ vì nhất thời tham lam mà che giấu việc này, kỳ thật sau khi suy tính thiệt hơn cũng đã hối hận trong lòng rồi. Nhưng việc này đã khiến cho thị lang Lý Kiệt của bộ Công hoài nghi, dù bây giờ họ có thú nhận sự thật, chưa chắc tên Lý Thị Lang muốn lập được công lớn đó sẽ chịu bỏ qua. Nếu lúc đó hắn vẫn dâng sớ tố cáo bọn họ, lại thêm đám ngự sử nói ra nói vào, e rằng cho dù mấy người bọn họ chỉ mong bị phạt cách chức bãi quan cũng sẽ không được.

Hai người nghĩ tới hậu quả tịch biên diệt tộc khủng khiếp, không khỏi liên tục dập đầu, chỉ trong khoảnh khắc trán đã chảy máu ròng ròng. Tuy Dương Lăng không đành lòng nhìn, nhưng cho dù Hoàng Đế Chính Đức có yêu mến và tin tưởng y thế nào đi nữa, hắn cũng sẽ không hạ thủ lưu tình khi nghe nói bọn họ đã lừa gạt việc Đế Lăng như vậy. Y dằn lòng quyết không để ý tới hai người đang khổ sở cầu khẩn mà nhấc chân định đi ra ngoài.

Lý Đạc thấy Dương Lăng không động lòng, lập tức quì lết lên vài bước, ôm lấy đùi y gào khóc nức nở:

- Dương đại nhân đừng đi, Dương đại nhân dừng bước! Bọn tôi nhất thời vì lòng tham mà phạm vào lỗi lớn, dù có chém đầu tịch biên cũng không đáng tiếc, nhưng việc này không phải là việc tốt đối với dân chúng đâu, đại nhân!

 Dương đại nhân! Thu nhập hằng năm của Đại Minh ta chỉ có bốn trăm vạn- lượng, ngân lượng bỏ vào xây Thái Lăng từ đầu tới giờ cũng phải tới hai trăm ba mươi vạn lượng rồi. Để hoàn tất toàn bộ công trình, ít nhất phải hao tốn ba trăm tám mươi vạn lượng. Cho dù khi chúng tôi phát hiện Kim tĩnh bị rỉ nước liền lập tức bẩm báo Hoàng Thượng để dời Thiên lăng, thì số bạc đã bỏ ra này cũng không thể thu lại được nữa. Đó chính là hai trăm ba mươi vạn phần lương thực trong cả một năm của dân chúng đó.

 Đại nhân! Lúc này đây Hà Nam Hà Bắc đang gặp lũ lụt liên miên, Cam Túc- Thiểm Tây đã chịu phải liên tiếp ba năm hạn hán nặng. Nếu Hoàng Thượng dời lăng, không có bạc dùng, tất phải tăng thuế khóa thật nặng, đến lúc đó chẳng phải ngàn vạn dân chúng đã khổ càng thêm khổ hay sao?

 Đại nhân! Ngài đã từng thấy cha ruột đem đổi con mình với hàng xóm, để- người ta làm thịt con thơ của mình ăn cho đỡ đói bao giờ chưa? Ngài có từng gặp cảnh bà lão tuổi bát tuần một ngày ba bữa chỉ có đất sét trắng để ăn, ăn đến bụng trương lên như cái trống rồi chết bao giờ chưa?

 Dương đại nhân! Thánh nhân nói: ”Quân vi khinh. Xã tắc vi trọng(*)”,- cho dù đại nhân không để ý tới việc sống chết của hai người chúng tôi, chẳng lẽ ngài lại nhẫn tâm nhìn ngàn vạn oan hồn chết trong tay mình sao? Đại nhân vì tiền đồ bản thân mà bỏ mặc lê dân bá tánh trong thiên hạ hay sao? (*: vua là thứ yếu, xã tắc mới quan trọng)

Dương Lăng nghe xong những lời này thì ngẩn người, bất giác dừng chân. Vừa rồi Khâm Thiên giám Nghê Khiêm dập đầu khẩn cầu, dùng mọi lời lẽ để năn nỉ, thiếu điều đem dâng cả hai mỹ thiếp mà lão vừa nạp cho Dương Lăng, vậy mà Dương Lăng vẫn không mảy may động lòng. Lúc này thấy những lời của Lý Đạc dường như đã làm Dương Lăng chuyển ý, lão không khỏi mừng rỡ bèn cũng vội vàng quì lết tới ôm lấy chân còn lại của Dương Lăng:

- Dương đại nhân! Xây dựng địa lăng phải đào rất sâu, rỉ nước là chuyện bình thường. Nếu đổi đến một nơi khác mà vẫn bị thấm nước thì sẽ làm sao? Đến lúc đó dân chúng không kham nổi thuế nặng, nhất định sẽ khổ lắm đó. Đến lúc đó e rằng chỉ vì tòa cung điện dưới lòng đất này mà sẽ... sẽ làm lung lay cả kim loan* đó. (*: ngai vàng)

- Thật ra từ xưa việc Đế Lăng bị tươm nước cũng từng xảy ra đến bảy tám phần mười. Nếu Nghê mỗ không biết chuyện này thì sao lại biết cách dùng cây gỗ dầm đất để bịt nước chứ? Nơi bị thấm nước được bịt lại thì sẽ không đáng ngại nữa, chỉ đợi linh cữu tiên đế hạ táng, lăng mộ được đóng kín thì sẽ không còn gì nguy hiểm nữa. Vẫn mong đại nhân khai ân, cứu lấy chúng tôi, việc này đối với hai người chúng tôi là ân huệ, mà đối với dân chúng thiên hạ lại là việc thiện, chẳng những chúng tôi cảm kích rơi nước mắt, mà dân chúng trong thiên hạ cũng sẽ đội ơn đại nhân đó.

Sau khi vào kinh, Dương Lăng cũng đã nghe nói về thu nhập hằng năm của vương triều Đại Minh, vừa nghe nói Đế Lăng hao tốn tiền thuế của cả nước trong một năm, y không khỏi do dự.

Nhớ lúc còn làm sư gia ở Kê Minh, y cũng nghe nói rất nhiều người dân có gia cảnh bần cùng khốn khổ, nợ thuế nhiều năm. Nơi đó tuy chiến loạn liên miên nhưng ít thiên tai hơn nên cũng không phải là địa phương nghèo khổ nhất. Còn những nơi mà Lý Đạc vừa nêu còn khổ hơn cả Kê Minh, mình thật sự sẽ vì xây một phần mộ cho người chết mà đẩy ngàn vạn người dân vào nơi dầu sôi lửa bỏng sao?

Nhất thời Dương Lăng không biết phải làm thế nào cho phải . Y ngẩng đầu nhìn trời, thầm suy tính: “Hoàng đế Hoằng Trị, ông là một vị vua tốt yêu dân như con. Ở trên trời có linh thiêng, ông mong người ta sẽ xây cho mình một ngôi mộ nguy nga tráng lệ, phong thuỷ tốt lành, hay mong ngàn vạn dân chúng có thể được giảm chút thuế khóa hà khắc để sống qua ngày đây?”

Chao ôi! Dương Lăng trầm tư thật lâu, lòng như nghe thấy được những tiếng kêu than dậy trời khắp đất của người dân. Dân chúng đang cơm ăn không đủ no, áo mặc không đủ ấm, nếu đem việc này bẩm báo với Hoàng Thượng, không cần nghi ngờ gì nữa , chắc chắn mấy vị đại thần này đều sẽ bị chém đầu, còn y nhất định sẽ lập được công to, thăng quan tiến chức.

Nhưng đến khi triều đình tăng thuế khóa, dân chúng trong thiên hạ sẽ phản ứng ra sao? Hơn một năm nữa là mình sẽ nhắm mắt xuôi tay rồi, há chẳng phải Ấu Nương ở lại trên đời sẽ phải thay mình nhận những lời thoá mạ của dân chúng ư?

Dương Lăng cắn răng xoay người, chằm chằm nhìn Nghê Khiêm gạn hỏi:

- Nghê đại nhân! Lúc tại hạ xuống xem Kim Tỉnh, dùng ngón tay có thể rờ thấy ván gỗ. Nếu dùng đèn soi, sẽ lập tức phát hiện được ngay. Để bịt kín Kim Tỉnh không cho thấm nước ra cũng chỉ có cách dùng cọc gỗ trát vôi vữa này thôi sao?

Nghê Khiêm và Lý Đạc nghe ngữ khí Dương Lăng mềm mỏng thì không khỏi mừng rỡ như điên. Nghê Khiêm ngẫm nghĩ cẩn thận một lát rồi mới đáp:

- Đương nhiên cách không chỉ có một, nhưng đó là cách nhanh nhất. Ngày ấy hạ quan sợ để người ta biết, cuống quá nên mới tòng quyền mà dùng đến cách này. Ý của đại nhân là...?

Dương Lăng lắc đầu nói:

- Chính giữa chèn bằng cọc gỗ, lâu ngày cũng sẽ mục nát, nước ngầm vẫn sẽ trào ra, đến lúc đó cho dù đã giấu được Hoàng Thượng thì tại hạ cũng không yên tâm. Đại nhân có cách gì có thể làm như tự nhiên, để người ta nhìn không thấy sơ hở, đồng thời cũng có thể hoàn toàn bịt kín những chỗ thấm nước đó không?

Nghê Khiêm mừng rỡ ra mặt, cảm kích:

- Đa tạ đại nhân cứu mạng! Chỉ cần đại nhân tương trợ tại hạ, tại hạ vẫn còn vài cách khác ổn thỏa hơn. Chỉ cần nhét thêm đá vụn vào chỗ bị rò rỉ, dùng đất đầm kỹ, rồi lấy đất sét trộn với nước gạo theo một tỷ lệ nhất định đổ vào thì sẽ bảo đảm không phải lo nữa. Hơn nữa trông rất tự nhiên, trừ phi cố tình đào ra khám đất, nếu không cho dù là thần tiên cũng nhìn không ra sơ hở. Chỉ có điều cách này hơi tốn thời gian.

Dương Lăng gật đầu bảo:

- Được! Vì dân chúng trong thiên hạ, tại hạ tin rằng Hoàng Đế dưới suối vàng có linh thiêng cũng sẽ tán thành tại hạ làm như vậy. Hôm nay tại hạ sẽ tìm cớ điều quan binh thủ vệ ở Tả Điện Kim Tỉnh dời đi, để đại nhân tự mình động thủ rút mấy cọc gỗ ra rồi bịt kín lại. Thời gian ba ngày có đủ không?

Nghê Khiêm mừng quýnh, luôn miệng đáp:

- Đủ, đủ! Thời gian như vậy là đủ rồi, tại hạ chỉ cần hai ngày là có thể làm kín như bưng ngay!

* * *

Bây giờ đã qua tám ngày. Dương Lăng đang lặng lẽ đi tuần bên trong toà cung điện ngầm đồ sộ không gì sánh nổi này. Đưa mắt nhìn qua đã thoáng thấy đại khái hình dạng kiến trúc bên trong của địa cung. Cả tòa địa cung đồ sộ không dùng cột trụ chống đỡ, chỉ toàn dùng vòm cung. Năm cung điện hoa mỹ chia làm Tiền, Trung, Hậu, Tả, Hữu đều chỉ dùng đá ròng mà xây nên, trông rất nguy nga tráng lệ.

Công trình khổng lồ như vậy, cho dù đặt vào thời hiện đại cũng hao tốn rất nhiều tài lực, huống hồ thời đó năng lực sản xuất rất thấp. Chỉ riêng việc đào đá, mài bóng, rồi vận chuyển những khối đá lớn vuông vức từ xa xôi ngàn dặm đến đây, phí tổn của nó cũng đã làm cho người ta nghẹn họng rồi. Xem ra quyết định của mình rất chính xác, thay vì lãng phí mấy trăm vạn lượng bạc vào đây, chi bằng làm chút gì đó tốt đẹp cho dân chúng.

Dương Lăng dừng lại ở Tả Điện, nền cung điện nơi đây được tạo nên bởi một quy trình công nghệ cực kỳ phức tạp. Thợ thủ công bình thường khó có thể chế những thứ ‘gạch lát’ như vậy được. Từng khối từng khối gạch lát vuông vức như những tấm gương phẳng lì. Phía cuối nền đá đá rộng rãi vuông vức là một chiếc hòm đá nạm cẩm thạch ở chung quanh, ở giữa chính là Kim Tỉnh.

Nhìn Kim Tỉnh, Dương Lăng không khỏi khẽ thở phào nhẹ nhõm. Nghê Khiêm quả là người khéo tay, lúc lão vừa bịt kín xong Dương Lăng đã kiểm tra ngay. Sau khi rút những cây cọc gỗ dùng để bít chỗ rò rỉ ở dưới hố ra, dùng đất đá trộn với nước gạo lấp lại, thì bên trong không còn rỉ nước ra nữa. Bây giờ trừ phi đào đất ra xét nghiệm, bằng không chỉ dựa vào hai tay sờ thì không thể nhận thấy bất kỳ chút sơ hở nào.

Vị thị lang bộ Công Lý Kiệt thường xuyên lấy cớ kiểm tra công trình muốn vào địa cung, song luôn bị nhóm Nghê Khiêm lấy cớ cản trở, hoặc đi cùng hắn vào lăng khiến cho hắn khó có thể kiểm tra kỹ lưỡng được. Nhưng nếu cứ che giấu như vậy sẽ khó tránh việc khiến người ta nảy tâm nghi ngờ. Do đó sau khi Nghê Khiêm bịt kín Kim Tỉnh xong, Dương Lăng liền cố ý để hắn vào lăng mộ một mình.

Dương Lăng âm thầm quan sát, thấy hắn quả nhiên không nhìn ra sơ hở gì, mấy ngày nay số lần đến lăng cũng thưa thớt dần, lúc này y mới dần bớt hồi hộp, bất an.

Đi vòng quanh lăng một hồi, y đang định xoay người đi ra thi đột nhiên Dương Nhất Thanh vội vã đi vào, thần sắc vô cùng lo lắng báo với y:

- Đại nhân, trong Thần Cơ doanh có người mất tích rồi.

Dương Lăng giật mình, hỏi ngay:

- Mất tích? Có phải là mấy tên lính địa phương không tuân quân kỷ lén trốn xuống núi không? Ở đây thì sao có thể mất tích được chứ?

Dương Nhất Thanh lắc đầu đáp:

- Bốn bề nơi đây không một bóng người, binh lính chẳng lẻn xuống núi làm gì đâu! Hơn nữa người mất tích... chính là tên thập trưởng Lục Ân Lỗ mà mấy ngày trước nói đã nhìn thấy Kim Tỉnh rỉ nước đó.

Dương Lăng nghe mà tim muốn nhảy khỏi lồng ngực, y vội vàng hạ lệnh:

- Lập tức phái người đi tìm, bằng mọi giá phải tìm được hắn, sống phải thấy người, chết phải thấy xác!

Dương Nhất Thanh gật đầu đáp:

- Dạ! Ty chức đã sai người đi tìm rồi, đã hỏi rất nhiều người, song sĩ tốt trong quân đã nửa ngày không thấy hắn rồi, mà vừa khéo chính là... sáng sớm hôm nay, Lý Đại nhân của bộ Công đột nhiên hồi kinh. Ty chức đã quan sát dấu chân kiệu phu của Lý Đại nhân, cỗ kiệu đó xem ra khá nặng...

Dương Lăng nghe mà hối hận không thôi “Lý Kiệt mỗi ngày đều lén lén lút lút muốn vào lăng kiểm tra, để mình chỉ mãi chú ý đến Kim Tỉnh này, mà quên béng mất ngoại trừ vật chứng còn có nhân chứng nữa.”

Y vội suy nghĩ một chút rồi nói:

- Lập tức điều hết bảy tên lính trong lăng đã trông thấy việc này ra ngoài, nhập lẫn vào đám quân ở trước lăng, đồng thời mật báo cho quan viên Sở ty giám sát chặt chẽ, nhất định không thể để mất bất kỳ một người nào nữa. Còn về phần tên thập trưởng đó...

Dương Nhất Thanh ngắt lời:

- Đại nhân! Ty chức đã cho người hồi kinh nhờ huynh đệ của Trấn phủ ty bí mật lo xếp việc này.

Đoạn y bước lên trước một bước, nhỏ giọng:

- Đại nhân! Bảy người đó là bảy chứng cứ sống bỏ không được, giấu không xong. Đại nhân thấy có cần.... Dương Nhất Thanh vừa nói vừa chém mạnh tay phải xuống, trên mặt mang một nụ cười lạnh lùng: Trong lăng chỉ có người của chúng ta, đại nhân cứ yên tâm, cam đoan sẽ giải quyết sạch sẽ.

Dương Lăng nghe thế chấn kinh, giật mình nhìn Dương Nhất Thanh. Dương Nhất Thanh cười nhạt, nói:

- Đại nhân! Rắn độc cắn tay, tráng sĩ chặt bỏ. Vô luận là dùng công danh lợi lộc dụ dỗ hay dùng cực hình tra khảo, thì đối với mấy tiên tiểu tốt đó đều là những thứ bọn chúng không vượt qua được. Đại nhân không thể có lòng dạ đàn bà được đâu.

Dương Lăng thấy gã nói rất đúng, nhưng y thật sự khó mà thích ứng với cái luận điệu của chính khách máu lạnh này, nên nhất thời lòng dạ rối bời, cũng không biết nên làm sao mới tốt. Do dự một hồi, thiện ác trong lòng tranh đấu thật lâu, cuối cùng y quyết định dẹp bỏ ý định giết người.

Chán nản thở dài, y cười khổ vỗ vai Dương Nhất Thanh rồi nói:

- Nhất Thanh! Huynh cũng là bộ hạ của ta. Nếu có một ngày huynh uy hiếp tới an nguy của ta, ta phải đối xử với huynh thế nào đây? Thôi đi, nói mà không có chứng cứ, cho dù bọn họ có nói hay tới đâu, cũng chưa hẳn đã có thể chứng minh được điều gì. Huống hồ đã có một tên Lục Ân Lỗ biến mất. Việc này không che giấu được đâu, thôi... đừng nhắc tới nữa.

Dương Nhất Thanh nhìn bóng lưng Dương Lăng rời khỏi, khẽ thở dài một tiếng. Vị đại nhân này cái gì cũng tốt, đáng tiếc làm việc lại không đủ quyết đoán. Thường có câu vô độc bất trượng phu, bớt một nhân chứng là bớt đi một phần nguy hiểm; việc đã tới nước này, phải quyết định thật nhanh thôi

Dương Nhất Thanh sờ cằm, bắt đầu âm thầm suy tính. Gã không phải là Cẩm Y Vệ thế tập, lại không có vận khí như Dương Lăng nên vốn rất khó thăng tiến. Nhưng gã đang là tuỳ tùng của Dương Lăng, mắt thấy y nhỏ tuổi mà tiền đồ đã như gấm, tiền đồ của y chính là tiền đồ của gã. Quan hệ thiệt hơn giữa hai người luôn ràng buộc với nhau, gã sao có thể không suy nghĩ cho Dương Lăng cơ chứ?

Huống hồ Dương Lăng là một vị thượng cấp hiếm có, vừa không chuyên quyền, lại xử sự hòa nhã. Những việc như trình công văn Nam Trấn Phủ ty lên kinh sư, nếu có thể tuỳ nghi hành sự Dương Lăng đều yên tâm giao cho gã làm. Hơn nữa phần lớn những vị quan to ở Cẩm Y Vệ đều dựa vào hai bàn tay đầy máu mà thăng tiến, cả ngày chỉ vắt óc nghĩ tới việc hại người gạt của, quả thực có thể nói thượng cấp như Dương Lăng là của hiếm trong Cẩm Y Vệ. Nếu y bị trị tội, mình đi đâu để kiếm được vị thượng cấp như vậy đây?

Dương Nhất Thanh nghiến răng, lặng lẽ rời khỏi địa cung... Chương chín mươi bảy Lê Xích Vào Tù

(Thân mang xiềng xích, chân lê vào tù)

------------------------

Trên Kim điện, văn võ bá quan đang tụ năm tụ ba rải rác khắp triều, vẻ mặt phẫn uất.

Đã thượng triều gần nửa canh giờ rồi, nội thị vào nội cung thúc giá đã ba lần, ấy vậy mà ngai vàng vẫn trống trơn. Thời vua Hoằng Trị chưa từng xảy ra chuyện này, nhưng tới triều của Chính Đức thì lần này đã là lần thứ tư rồi.

Các quan viên đang to nhỏ thì thầm với nhau chợt một tên tiểu thái giám lật đật từ sau bức bình phong bước ra, kéo dài giọng hô:

- Hoàng Thượng thượng điện, văn võ bá quan tiếp giá!

Văn võ bá quan vừa nghe, không kịp chỉnh lại hàng ngũ, vội vàng quỳ xuống kiến giá. Có người trộm ngẩng đầu nhìn lên, thấy hoàng đế Chính Đức đầu đội mũ Dực Thiên, thân mặc long bào, từ sau bức bình phong đi ra, vừa đi vừa ngửa mặt ngáp dài.

Tiểu hoàng đế bước lên bệ rồng, đặt mông ngồi xuống ngai vàng, mặt mày khó chịu. Y nhìn thoáng qua đám quần thần, lại nhìn ra ngoài cửa điện. Lúc này mới tờ mờ sáng, mặt trời còn chưa ló dạng mà! Chính Đức bực bội díp mắt lại, bảo:

- Các ái khanh bình thân! Có bản tấu gì thì mau trình lên đi!

Ba vị đại học sĩ Nội Các cũng đang rất tức giận. Ban nãy khi bọn họ thúc giục nội thị mời Hoàng Thượng thăng điện, mới nghe nói rằng hôm qua Hoàng Thượng đã phế truất đám người hầu trực ở tẩm cung và văn thư phòng, thế này thì còn ra thể thống gì nữa? Như vậy buổi tối canh mấy Hoàng Thượng đi ngủ, bãi triều xong canh mấy Hoàng Thượng đọc sách cũng sẽ không ai biết, há chẳng phải thiên hạ đại loạn hay sao?

Ba vị đại học sĩ uất ức chuẩn bị can gián thẳng thắn một phen nên Hoàng Đế Chính Đức vừa dứt lời, Tạ Thiên lập tức bước ra khỏi hàng khải tấu. Vị lão thần này quả nhiên không thẹn với cái tên "ngay thẳng", vừa mở lời đã thao thao bất tuyệt:

- Hoàng Thượng! Mấy ngày gần đây Hoàng Thượng thiết triều quá muộn, có khi mặt trời mọc cao mới thượng điện. Đám người thị vệ và phục vụ trong triều đứng lâu mệt mỏi, cũng sẽ không tránh khỏi thất lễ. Hơn nữa quan lại và sứ thần ngoại quốc đến triều cống khi lên triều đều phải chờ đợi rất lâu, chẳng những tinh thần mệt mỏi, mà phí phạm thời gian, bỏ lỡ công việc.

- Nên biết buổi tảo triều (chầu sớm) là việc cao nhất của vua, là bộ mặt của thiên hạ. Người đã làm vua thì thân gắn liền với thiên hạ; nếu ngại tu tỉnh e rằng sẽ kém sút. Nếu vua mà bê trễ ở trên, bầy tôi xao nhãng ở dưới, thì làm sao có thể trị nước được thái bình? Thần nhận trọng thác, đứng giữa lo âu, cũng là vì lo thánh tâm (lòng vua) có điều vướng bận, phòng có gì cơ nhỡ mà liều chết trần tình. Xin bệ hạ nghĩ lại!

Chính Đức nhướng một mắt lên nhìn lão một lúc, rồi đờ đẫn đáp:

- Trẫm biết rồi!

Lưu Kiện thấy Hoàng Đế Chính Đức không hề cho đó là đúng, trong lòng cả giận. Lão lập tức cao giọng bẩm:

- Hoàng Thượng! Từ xưa tới nay, người làm vua nếu siêng năng lo nghĩ thì hưng thịnh, nếu ngạo nghễ ham vui thì thất bại. Nghe nói Hoàng Thượng đã phế truất những người hầu trong tẩm cung và văn thư phòng, thần cho rằng việc này rất không ổn. Cổ ngữ có câu: sa vào chơi bời để yên thân, chìm vào dâm dật để sung sướng, ấy là nguyên nhan chính dẫn đến suy đồi vậy. Hoàng Thượng cần lập tức khôi phục lại quy định cũ, đến tảo triều đúng giờ!

Lưu Kiện nói xong, lùi về phía sau một bước, Lý Đông Dương ở bên tay trái lão lập tức lách mình bước ra. Chính Đức thấy vậy không khỏi cuống lên, y vội vàng phán:

- Trẫm biết rồi, trẫm nhất định sẽ sửa đổi! Ờ... việc này để thương nghị sau đi. Các ái khanh còn có có tấu chương gì khác không?

Từ Quán đưa mắt ra hiệu cho tả thị lang bộ Công Lý Kiệt. Lý Kiệt hiểu ý, lập tức phấn chấn tinh thần ứng thanh bước ra, vận khí từ đan điền cất giọng oang oang tâu:

- Hoàng Thượng! Thần có bản tấu!

Chính Đức như trút được gánh nặng, vội bảo:

- Ái khanh mau nói đi!

Lý Đông Dương thấy vậy, bèn mỉm cười lui trở về.

Lý Kiệt hiên ngang bẩm:

- Hoàng Thượng! Thần phụng chỉ đôn đốc xây dựng lăng tẩm cho tiên đế. Thần cảm thấy trách nhiệm trọng đại, nên vô cùng thận trọng, như bước vào vực sâu, như đi trên băng mỏng, không dám buông lỏng chút nào...

Lý Kiệt nói cả buổi, Chính Đức nghe mà buồn chán, chỉ ờ một tiếng, hoàn toàn chẳng tỏ ý đúng sai gì. Lý Kiệt không thấy Hoàng Đế khen ngợi gì, trong lòng cũng cảm thấy hơi thất vọng đành chuyển sang trọng tâm:

- Trước đây vài ngày thần nghe nói địa khí ở Đế Lăng không ổn, huyệt mộ lạnh lẽo, huyền cung Kim Tỉnh lại trào nước, ấy là điềm chẳng lành vậy. Thế nhưng Khâm Thiên giám Nghê Khiêm, thị lang bộ Lễ Lý Đạc, Ty Lễ Giám Đới Nghĩa và Thần Cơ doanh Dương Lăng chẳng biết có lòng dạ gì mà giấu giếm không báo...

Hắn tấu tới đây, cả triều đình liền nổ tung như có sét đánh giữa trời quang. Bá quan lập tức rì rào sôi nổi. Vụ án này thoáng cái đã một hơi lôi kéo luôn năm nha môn vào, có thể xem là vụ án lớn nhất triều Chính Đức. Một khi điều tra được sự thực là vậy, chẳng biết có bao nhiêu nhân vật quan trọng rơi đầu xuống đất, bọn họ làm sao không sợ hãi cho được?

Ba người Lưu Kiện, Tạ Thiên, Lý Đông Dương cũng kinh ngạc vô cùng, đưa mắt nhìn nhau rồi đều khẽ lắc đầu tỏ ý mình không biết gì. Tạ Thiên liếc qua Lý Kiệt rồi lại dời ánh mắt sang thượng thư bộ Công Từ Quán. Thấy trong mắt Từ Quán thoáng lóe lên vẻ đắc ý, lão lập tức hiểu rõ mọi việc, không khỏi hừ thầm trong lòng.

Lưu Kiện cũng hơi không vui. Lão là người đứng đầu nội các mà gặp việc lớn như vậy, bộ Công không chịu báo trước cho lão biết mà lại vượt cấp tâu thẳng lên Hoàng Đế. Lòng tranh giành ân sủng của Từ Quán đã hiển thị quá rõ ràng rồi.

Bộ Lễ cũng là một trong những nha môn bị liên can, nhưng thần sắc Vương Quỳnh lại thản nhiên, không hề kinh hoảng chút nào. Trước đó Từ Quán đã mật nghị với lão ta, Vương Quỳnh thầm nhận định Hoàng Đế không giữ lễ nghi, bây giờ lại bê trễ triều chính, nhất định là do Dương Lăng và đám nội giám Lưu Cẩn xui khiến mà nên, chính bọn chúng là mối họa lớn của triều đình. Vì vậy vừa nghe chuyện lão liền lập tức quyết định: cho dù có mất Lý Đạc cũng phải hạ cho được Dương Lăng.

Lý Kiệt vừa bẩm xong, lão liền bước ra khỏi hàng quỳ xuống tâu:

- Hoàng Thượng! Mấy vị khâm sai phụng chỉ rất được Hoàng Thượng tin cậy mới được giao cho trọng trách lớn như vậy. Không ngờ bọn họ lại cả gan làm xằng, tội không thể tha! Thần đang là thượng thư bộ Lễ, quan viên thuộc hạ cũng tham dự trong đó, thần cũng có tội không biết nhìn người, quả thật rất hoảng sợ, xin bệ hạ giáng tội.

Từ Quán bước ra tâu:

- Hoàng Thượng! Năm trước khi nền Đế Lăng được kiểm tra, Vương thượng thư đang ở kinh thành lo kỳ thi Hội, dẫu rằng mang tội không biết, song cũng có thể thông cảm được.

Nhưng những đại thần phụng chỉ đôn đốc xây lăng gặp việc lớn tổn hại đến long mạch, thương tổn tới vận mệnh quốc gia mà lại dám khi quân không báo, cần phải lập tức bắt về xét hỏi, xử phạt mức cao nhất của luật pháp, để an ủi vong hồn Tiên đế trên cao.

Vốn Chính Đức nghe nói lăng tẩm phụ hoàng xảy ra sự cố đã vô cùng tức giận, lại nghe nói long mạch hao tổn ảnh hưởng tới vận mệnh quốc gia thì lòng càng thêm bất an. Sự mệt mỏi lập tức tan biến, y tức giận đến nhảy dựng lên, nhưng nghĩ lại cũng thấy hơi nghi ngờ, bèn hỏi lại:

- Việc này là thật ư? Các ngươi có bằng chứng cứ gì không?

Lý Kiệt lập tức đáp như chém đinh chặt sắt:

- Thần có chứng cớ! Lục Ân Lỗ là thập trưởng Thần Cơ doanh phụ trách canh gác lăng mộ, đã từng chính mắt thấy Kim Tỉnh tươm nước. Thần đã mang nhân chứng về kinh rồi!

Chính Đức nghe thế thì nổi giận thật sự, y vỗ ngự án đánh “bộp”, quát to:

- Thật đáng trừng trị! Lập tức áp giải những kẻ có liên can về kinh, giao cho bộ Hình, Đô Sát viện, Đại Lý tự tam ty hội thẩm, nếu điều tra đúng là thật...

Trong lòng y chợt nghĩ đến Dương Lăng, thoáng do dự một chút, rồi lại nghĩ mình tín nhiệm với y như thế, vậy mà cả y cũng làm rối kỉ cương, chỉ vì cầu lợi mà giấu giếm mình, thế là trong lòng vừa thương tâm vừa phẫn nộ, cắn răng phán:

- Nếu thực sự bọn chúng khi quân phạm thượng, chém!

* * *

Từ khi biết thập trưởng Lục Ân Lỗ của Thần Cơ doanh mất tích, không có đêm nào Dương Lăng ngủ được ngon giấc. Y không ngây thơ tới độ cho rằng tên thập trưởng này đã đào ngũ hay bị dã thú ăn thịt. Lý Kiệt đi một ngày một đêm không về, y đã biết được sự việc không ổn rồi.

Việc đã đến nước này, Dương Lăng chỉ đành trông chờ vào tính đặc thù của Kim Tỉnh. Kim Tỉnh theo phong thủy là nơi quan trọng của long mạch, không được tùy tiện động vào, hơn nữa Nghê Khiêm cũng bịt lại rất kín kẽ, trừ phi đào đất khám nghiệm, bằng không sẽ không thể nhìn ra chỗ này từng chảy nước. Cho dù trong triều có nhân chứng, nhưng nếu không có vật chứng thì cũng tuyệt không có cách nào xử trí nhiều đại thần như vậy được.

Nghê Khiêm, Lý Đạc nghe tin tên thập trưởng bị ăn roi nọ mất tích, thị lang bộ Công Lý Kiệt về kinh, lập tức sợ tới cuống lên, sáng sớm đã cùng với Đới Nghĩa hoảng hốt chạy tới tìm Dương Lăng để thương lượng đối sách.

Đới Nghĩa là một trong bốn đại thủ lĩnh của Ty Lễ Giám, là thân tín của thái giám chưởng ấn nội tướng (*)Vương Nhạc, trước nay luôn có giao tình thân thiết với Phạm Đình của Đông Xưởng. Lão thấy mọi người không nghĩ được biện pháp, trong mắt không khỏi lóe tia ác độc, cười gằn:

- Ta sẽ lập tức hồi kinh sai người thủ tiêu tên lính đó, để xem Từ Quán và Lý Kiệt còn có thể giở được trò gì!

(*) nội tướng: ý chỉ thái giám trong cung; chưởng ấn nội tướng: đại thủ lĩnh, quản lý tất cả thái giám trong cung.

Dương Lăng vội can:

- Không được! Nếu thật sự gã thập trưởng đã bị hắn mua chuộc mang đi, tất nhiên hắn sẽ bảo vệ gã nghiêm ngặt. Từ Quán và Lý Kiệt không phải là kẻ ngu dốt, nếu dùng gã làm mồi nhử dụ chúng ta vào bẫy thì làm sao? Không thể làm như vậy được.

Lý Đạc vặn vẹo hai tay, lo lắng hỏi:

- Vậy làm sao bây giờ? Phải làm sao đây? Chúng ta cứ ngồi chờ chết à?

Dương Lăng thầm nghĩ: “Nếu như tất cả mọi người đã mê tín phong thủy, bây giờ cũng chỉ còn cách dùng phong thủy đối phó với phong thủy thôi.” Y đang định hỏi Khâm Thiên giám Nghê Khiêm thử dùng vài phương pháp phong thủy được hay không thì đột nhiên cửa chính bị người đẩy đánh “rầm”, Bành Kế Tổ nhớn nhác xông vào, cất giọng ồm ồm kêu lên:

- Đại nhân! Đã xảy ra chuyện rồi. Cái cây cầu bạch ngọc sau Nhất Tự môn đột nhiên sụp xuống, đất hai bên cũng sụp đổ một mảng lớn. Toàn bộ mười mấy huynh đệ được điều đi đào sông ở đấy đều bị chôn sống bên dưới rồi.

- Cái gì?

Dương Lăng kinh hãi đứng bật dậy, rồi lập tức nghĩ đến bảy tên lính hôm qua bị điều ra khỏi địa cung chính là được sai đi tới dưới cây cầu để đào đất. "Sao lại trùng hợp như vậy, bọn họ vừa tới nơi liền xảy ra chuyện rồi?"

Sinh nghi, Dương Lăng lập tức quay đầu nhìn Dương Nhất Thanh. Vừa gặp ánh mắt y, Dương Nhất Thanh lập tức thoáng đưa mắt tránh đi, vẻ mặt hơi mất tự nhiên. Dương Lăng giật mình, đoán là gã đã ra tay. Y biết Dương Nhất Thanh muốn tốt cho mình, nhưng hành động này chẳng những làm hại tính mạng của bảy sĩ binh vô tội kia, mà còn liên lụy tới những người khác. Nhất thời Dương Lăng cũng không biết trong lòng mình đang có cảm giác gì.

Y hiểu ví bằng y đủ cương quyết, đủ vô tình, muốn hòng tiếp tục lăn lộn thành công trên quan trường thì y phải học cách quyết đoán kịp thời, phải luôn đặt lợi ích lên hàng đầu. Cần trừ khử người nào thì phải lập tức trừ khử ngay không chút đắn đo, phải đá văng hết những chướng ngại vật trên đường. Nhưng trên phương diện tình cảm, y thật sự không tiếp thụ nổi việc mình trở thành một tên chính khách máu lạnh.

Dương Lăng giậm chân, đành phải nói với Bành Kế Tổ:

- Đi! Mau tới trước lăng nhìn xem, tổ chức người tới cứu giúp!

Y vừa mới dẫn đám người liên can lao ra khỏi cửa phòng thì đã thấy mấy chục tên nha dịch bộ Hình, áo gai mũ đỏ đao giắt bên hông đang chạy tới. Trong nhóm có người cất cao giọng quát:

- Thánh chỉ tới! Những quan viên liên can tới việc đôn đốc kiến tạo Đế Lăng quỳ xuống tiếp thánh chỉ!

Bọn Dương Lăng nghe thấy cả kinh, lập tức đồng loạt quỳ xuống đánh xoạt. Đám nha dịch nọ chợt tách ra, một ông lão khôi ngô mặt đỏ sậm, râu hoa râm, tay áo bay phần phật bước nhanh lên phía trước. Chân vừa trụ vững, lão lập tức giở thánh chỉ ra, dùng khẩu âm Sơn Đông đọc to:

- Phụng thiên thừa vận, Hoàng Đế chiếu rằng: Khâm sai đại thần giám sát kiến tạo Đế Lăng là Nghê Khiêm của Khâm Thiên giám, tả thị lang Lý Đạc của bộ Lễ, thái giám thủ lĩnh Đới Nghĩa của Ty Lễ Giám và tham tướng Dương Lăng của Thần Cơ doanh bị nghi ngờ đã gian lận công trình, lừa dối Thánh Thượng, lập tức bắt giải về kinh để Tam Ty hội thẩm tra hỏi. Khâm thử!

Vừa dứt lời, ông ta lập tức vung tay lên quát:

- Các nghi phạm hãy tự báo họ tên để cho ta bắt!

Tả thị lang bộ Lễ Lý Đạc vừa nhìn thấy ông lão chính là tả thị lang Ngụy Thân của bộ Hình thì cả người không khỏi run lên, lập tức ngã ngồi phịch xuống đất. Ông lão mặt đỏ khôi ngô này là người Khúc Phụ, Sơn Đông, đồng hương với Khổng thánh nhân. Lão có tướng mạo như con nhà võ nhưng lại là người đọc sách chính tông, là tiến sĩ năm Thành Hóa thứ mười bảy.

Người này kiêm khiết chính trực, chỉ “nhận pháp bất nhận nhân” (không nể nang ai). Từng có kẻ giả mạo ngoại thích (thân thích của mẹ hoặc vợ vua) để lừa bịp, nha môn các ty của bộ Hình đều e ngại kẻ đó là quốc thích nên không ai dám bắt về hỏi tội. Ngụy Thân vừa tiếp nhận cáo trạng xong, không nhiều lời mà lập tức dẫn người bắt kẻ đó về ngay. Sau vụ án này danh tiếng Ngụy Thân lan truyền khắp kinh sư, đến cả tai vua. Sau đó phàm có những vụ án nào liên quan đến triều thần hoặc ngoại thích mà Hoàng Đế muốn nghiêm trị, phần lớn đều cử lão ra tay.

Dần dà, mọi người cũng đoán ra quy luật: chỉ cần Ngụy lão đầu mà ra mặt, kẻ bị bắt chắc chết đến chín thành. Vừa vặn mặt của Phán quan âm phủ trong truyền thuyết cũng màu đỏ, nên sau lưng lão mọi người bèn gọi lão là ”Ngụy phán quan”. Lý Đạc thấy lão tới, tự biết mình hẳn phải chết, lập tức thân thể nhũn ra như bún.

Đám nha dịch phía sau Ngụy Thân mặc kệ những người quỳ trước mặt đều là quan to nhị phẩm, tam phẩm trong triều, vẫn hùng hổ xông lên. Đới Nghĩa run rẩy báo:

- Nô tài Đới Nghĩa của Ty Lễ Giám!

Vừa dứt lời, tiếng xiềng xích lào xào vang lên, liền theo đó một cái gông to quàng ngay vào cổ lão.

Lý Đạc, Nghê Khiêm, Dương Lăng lần lượt tự báo họ tên, rồi lập tức bị gông xiềng quấn chặt giải lên tù xa, đưa thẳng về kinh thành! Chương chín mươi tám Bàn Về Phong Thủy

------------------------

Chương chín mươi tám Bàn Về Phong Thuỷ

Thông thường chỉ khi xử lý phúc thẩm thì Tam Pháp Ty mới cùng thẩm vấn, song lần này việc Kim Tỉnh ở Đế Lăng tươm nước rất trọng đại, hơn nữa lại liên quan đến nhiều nha môn, nên ba khanh của bộ Hình, Đốc Sát Viện, Đại Lý tự được lệnh vua cùng hội thẩm vụ án này. Lập tức tiếng đồn lan truyền khắp kinh sư.

Hữu thị lang bộ Hình Ngụy Thân vừa áp tải đám Dương Lăng, Nghê Khiêm vào đại lao bộ Hình thì thượng thư bộ Công Từ Quán, thượng thư bộ Lễ Vương Quỳnh liền cùng nhau tới bộ Hình bái phỏng. Hai người tuy không nói chuyện về vụ án, nhưng lại trắng trợn nói về việc long mạch bị hao tổn rất nguy hiểm cho xã tắc, rồi Hoàng Thượng rất coi trọng việc này, v.v… Nghe thế, thượng thư bộ Hình Hồng Chung trong lòng lo sợ không an.

Những người bị giam vào đại lao liên quan tới nhiều nha môn, hơn nữa điều làm cho người ta đau đầu nhất là có cả người của ty Lễ Giám và thậm chí có cả Dương Lăng, người tâm phúc của Hoàng Thượng. Hồng Chung nhất thời cũng không dò được thánh ý rốt cuộc muốn nghiêm trị tới trình độ nào, trong lòng chưa biết phải làm sao. Bây giờ nghe hai vị Thượng Thư đại nhân nói chuyện, tựa như thấy tia sáng khi bị lạc đường giữa đêm, lập tức lão bèn hơi có chủ ý.

Ngụy Thân đem bọn Dương Lăng xuống tù xa, tự mình đưa vào đại lao, thu xếp ổn thỏa xong vừa đi ra khỏi cửa ngục liền thấy hai viên chức Cẩm Y Vệ cầm công văn đang tranh cãi với tên trưởng ngục. Ngụy Thân lập tức bước nhanh tới hỏi:

- Chuyện gì mà tranh chấp trước đại lao bộ Hình như vậy?

Viên trưởng ngục khom người bẩm:

- Ngụy đại nhân! Hai vị này là bách hộ chưởng hình Trấn Hộ ty (cơ quan bảo vệ an ninh trật tự), muốn hỏi cung nghi phạm vụ án Đế Lăng.

Ngụy Thân liếc nhìn hai vị bách hộ Cẩm Y Vệ mặc áo cá chuồn. Bọn họ vừa thấy đây là Ngụy Thân danh chấn kinh sư về tính chính trực, lập tức bao nhiêu dáng vẻ bệ vệ đối với tên trưởng ngục đều bay mất. Một tên tiến lên thi lễ:

- Hạ quan Thôi Đề ra mắt Ngụy đại nhân. Theo luật Đại Minh, phàm có án nào mạo phạm Hoàng Đế bệ hạ và liên quan tới quan chức trong triều, thì Trấn Phủ đều có quyền hỏi cung, thậm chí tra tấn. Nhưng Hoàng Thượng đã giao án này cho Tam Pháp Ty, Trấn Phủ chúng tôi không hề dám tranh giành việc thẩm vấn, nhưng chúng tôi lại phải dự thính vụ án này. Bất kể là đưa ra hỏi cung hoặc tra tấn tù phạm, cũng xin đại nhân kịp thời cáo tri cho chúng tôi biết.

Sớm đã bất mãn về sự ngang bướng của Cẩm Y Vệ, Ngụy Thân nghe thế rất giận, đáp ngay:

- Việc này tuy liên quan đến Đế Lăng và hoàng gia, nhưng lại là việc xử lý quan chức gian lận tham ô, không liên quan gì tới đại án mưu phản. Huống chi Hoàng Thượng đã giao phó vụ án này cho Tam Pháp Ty toàn quyền, Cẩm Y Vệ cũng có thể nhúng tay vào sao?

Thôi Đề cười không vui:

- Đại nhân làm theo nhiệm vụ cũng phải theo lẽ công bằng mà làm. Đây cũng là nhiệm vụ của Cẩm Y Vệ, ý chỉ Hoàng Thượng không nói là không cho Cẩm Y Vệ giám sát vụ án này mà?!

Ngụy Thân ngửa mặt lên trời cười ha hả, vuốt bộ râu dài nói:

- Đới Nghĩa là người của ty Lễ Giám. Ai chẳng biết Cẩm Y Vệ cùng nhà với Đông Xưởng và ty Lễ Giám! Xin chuyển cáo đến đề đốc Trương đại nhân và Trấn Phủ Sứ Mưu đại nhân: nên tránh khỏi hiềm nghi cho xa!

Vừa dứt lời, Ngụy Thân bèn phất tay áo bỏ đi. Hai vị bách bộ cẩm y nhìn theo hình bóng Ngụy Thân, nhất thời cũng không biết phải làm sao. Thôi Đề nhíu mày nói:

- Bộ Hình giao vụ này cho Ngụy phán quan xử lý, e rằng muốn làm khó Trấn Phủ Sứ đại nhân rồi. Lão thất phu này đến cả hoàng thân quốc thích cũng chẳng để vào mắt, há lại quan tâm tới chúng ta?

Tên bách bộ cẩm y kia là Hoàng Tử Duy cười nói:

- Thôi huynh! Diêm vương dễ gặp, tiểu quỷ khó đối phó. Lão gia hỏa Hồng Chung rất cẩn thận, cũng rất biết điều. Chúng ta đưa thẳng thiếp cho lão, chắc lão không dám không nể mặt Mưu đại nhân đâu!

Không ngờ Hồng Chung tự cho rằng mình đã hiểu được tâm ý Hoàng Thượng nên sau khi nhận được thiếp của Trấn Phủ Sứ Mưu Bân, lão trầm ngâm thật lâu rồi bảo tả thị lang bộ Hình Trình Văn Nghĩa:

- Đi! Nói cho hai tên bách hộ cẩm y đó là vụ án này rất khẩn yếu, các phạm nhân liên quan vẫn chưa bắt đủ, vì vậy chưa thể thẩm vấn. Bảo họ trở về đi.

Trình Văn Nghĩa lo lắng:

- Đại nhân! Cớ này chỉ hiệu quả nhất thời, không làm được một đời. Nếu như Cẩm Y Vệ muốn nhúng tay vào lúc thăng đường thẩm án thì chúng ta phải làm sao cho tốt đây?

Quả là một lão hồ ly gian trá, Hồng Chung chỉ cười hắc hắc đáp:

- Đến lúc Tam Ty hội thẩm, cả triều đều chăm chú nhìn, chúng ta bảo Ngụy Thân tìm bừa một cớ nào đó giữ họ ở bên ngoài, chẳng lẽ Mưu Bân dám không kiêng dè gì mà cố xông vào công đường sao?

Vốn Hồng Chung xử sự luôn luôn mềm dẻo, hôm nay lão dám chống lại Cẩm Y Vệ làm Trình Văn Nghĩa thầm ngạc nhiên. Hắn “Dạ” rồi lặng lẽ lui ra ngoài.

Hồng Chung mỉm cười thầm nghĩ: “Ta là một viên quan bộ Hình, không phải đối thủ của Cẩm Y Vệ, nhưng Tam Pháp Ty cùng thăng đường thẩm vấn, vậy Mưu Bân dám đồng thời đắc tội với công khanh của cả ba ty không? Án này mà thẩm vấn xong, đến lúc đó sợ nội tướng (*) cũng phải thay người rồi, đến lúc đó danh vọng của ta lập tức lên cao. Mưu Bân thấy vậy còn dám kiêu ngạo như thế nữa không?

(*): ở đây chỉ đại thủ lĩnh thái giám.

Trong phòng của Mưu Bân thuộc Trấn phủ ty, đề đốc chỉ huy sứ Trương Tú đang chắp hai tay sau mông, đi đi lại lại trong phòng. Một lúc sau, lão hừ một tiếng:

- Rõ là ngu xuẩn! Xây Đế Lăng vốn là một cơ hội khó cầu, chỉ cần làm tốt một chút lập tức Dương Lăng sẽ có thể tiến thêm một bước dài trên hoạn lộ, sao y lại chui đầu vào một vụ án lớn như vậy? Ta vừa mới trở lại kinh thành còn chưa biết tình hình cụ thể thế nào, thật sự trong lăng có tuôn nước à?

Mưu Bân mỉm cười đáp:

- Tuôn hay không cũng không quan trọng. Điều trọng yếu chính là khi Tiên đế còn sống thì ngài dùng nhân hậu trị thiên hạ, thanh thế của Cẩm Y Vệ chúng ta không lớn lắm. Bây giờ nếu để cho bộ Lễ, bộ Công và cái đám quan văn lật đổ nhóm thân quân (bên cạnh vua) ty Lễ Giám và Cẩm Y Vệ chúng ta, thì đám quan văn lại càng thêm uy phong rồi.

Trương Tú trừng mắt nhìn hắn, mắng:

- Nói như thế, việc này là thật à? Long mạch bị hao tổn là việc nước, việc này là đại sự trọng yếu đến mức nào? Sao ngươi dám thản nhiên như vậy, còn muốn gây rắc rối nữa à?

Tuy Mưu Bân chỉ là thống lĩnh Trấn Phủ ty Cẩm Y Vệ, nhưng vì hắn nắm giữ bộ phận quan trọng nhất của Cẩm Y Vệ nên quyền lực và địa vị không hề thấp hơn Trương Tú. Nghe Trương Tú nói như vậy, hắn không khỏi ung dung cười đáp:

- Đại nhân! Việc đào đất thì tổn hại gì tới vận mệnh quốc gia? Những lý luận của những tên ngu ngốc đó mà ngài thật sự tin à?

Ha ha! Thuở trước vì có ít con cháu nên Tống Huy Tông nghe lời bày vẽ của thầy địa lý, hao tài tốn của xây góc thành tây bắc của Biện Lương cao gấp mấy lần, bảo là nhờ đó sẽ được con cháu đông đúc, thịnh vượng, quốc gia hưng thịnh. Kết quả là như thế nào?

Ông ta mê tín thuật phong thủy, xây dựng rầm rộ, tu đạo để thành tiên, kết quả trở thành vua mất nước. Đến nỗi con trai là Tống Khâm Tông cũng bị quân Kim bắt làm tù binh, hai vua cùng bị bắt, có thể nói là chuyện lạ trong thiên hạ. Còn có triều đại...

- Đủ rồi!

Da mặt Trương Tú co rút lại, hồi lâu lão mới nói:

- Có câu nói “nhất mạng, nhì vận, tam phong thuỷ, tứ tích âm đức, năm đọc sách”. Việc này mặc dù hư vô mờ mịt, không thể tin hết, cũng không thể không tin. Bây giờ việc đã như thế này, chỉ có nước tận nhân lực rồi tùy thiên mạng thôi. Ngươi phái người liên lạc với Dương Lăng, xem y có phương cách gì không. Tính toán xem, nếu có thể cứu y ra, hãy tận lực làm. Nếu không thể, hơn nữa còn liên luỵ tới Cẩm Y Vệ ta... Ngươi hiểu chứ?

Mưu Bân khẽ gật đầu, trầm tĩnh đáp:

- Ty chức hiểu! Ty chức cử người đi làm ngay.

***

Ngụy Thân xem bọn Dương Lăng là trọng phạm của triều đình nên giam vào những phòng giam riêng, không cho trao đổi với nhau để tránh họ thông cung. Một mình Dương Lăng bị giam trong một phòng ngục rất hôi hám. Y đang ngồi ngơ ngác, chợt một tên ngục tốt dùng chuôi đao gõ gõ vào song sắt, gọi:

- Ăn cơm!

Nói rồi gã tiện tay nhét vào một bát cơm.

Từ khi bị bắt về kinh thành giam vào phòng tù mịt mù tăm tối, chỉ mới uống nước chưa được ăn cơm nên bụng Dương Lăng đói sôi lục bục. Nghe gọi, y vội đứng lên đi tới nhận bát cơm.

Tên ngục tốt hơi cúi đầu xuống, thận trọng nhìn bốn phía, rồi đột nhiên ngẩng đầu lên, thấp giọng cười nói:

- Dương đại nhân, đã lâu không gặp! Mưu đại nhân bảo ty chức căn dặn ngài vài câu, ngài cần phải lắng nghe cẩn thận.

Dương Lăng thấy gã ngẩng đầu lên, hóa ra là tên thiên hộ Cẩm Y Tiền Ninh, không khỏi vừa mừng vừa sợ, thất thanh hỏi:

- Là ngài? Sao Tiền đại nhân lại lẻn vào đây. Cẩn thận kẻo bị người ta phát hiện!

Tiền Ninh mỉm cười nói:

- Nếu ty chức không đến mà phái một huynh đệ khác, chỉ sợ ngài tưởng là bộ Hình lừa ngài nên sẽ không dám nói thật! Yên tâm đi, trong bộ Hình có người của chúng ta, không đưa ngài ra ngoài được nhưng đi vào thăm ngài một lúc lại là việc nhỏ. Mưu đại nhân hỏi ngài việc này làm có hoàn toàn kín kẽ không?

Dương Lăng chấn động trong lòng: “Mưu Bân hỏi như vậy, hiển nhiên hắn đã nhận định Đế Lăng tuôn nước là chính xác trăm phần trăm rồi. Nghe ngữ khí hắn, xem ra hắn chẳng mấy quan tâm tới thuật phong thủy gì cả.”

Dương Lăng không dám thoải mái kể lại tình hình thực tế. Y không thân với Mưu Bân, nếu Mưu Bân cố ý lừa y mà y lại nói thật thì đúng là tự mình tìm tử lộ. Do đó Dương Lăng hàm hồ đáp:

- Ty chức không rõ ý của đại nhân. Kim Tỉnh vốn không hề bị hư hỏng gì, tại sao lại có sơ hở có thể tìm ra?

Tiền Ninh giơ ngón cái, mỉm cười gật đầu nói:

- Như thế là tốt nhất, nhưng trong triều có người mưu hại, việc này luôn khó có thể nói rõ.

Gã hỏi thêm:

- Đại nhân có tính toán gì không, có thể báo cho tại hạ, tại hạ sẽ bẩm báo cho Mưu đại nhân đem toàn lực tương trợ.

Dương Lăng suy tính một lát, rồi bàn với Tiền Ninh mấy biện pháp, nhưng đều chỉ là những biện pháp gây áp lực khiến cho Tam Pháp Ty không dám quá tay, loại việc làm này cũng không thể thu được ích lợi gì nhiều.

Tiền Ninh nghe xong chau mày suy nghĩ một chút rồi nói:

- Khó! Thật sự là khó, việc này ồn ào như vậy, e rằng không dễ giải quyết đâu!

Dương Lăng cười u ám, đáp:

- Ta biết, Tiền huynh cứ làm hết sức là tốt rồi! Cổ nhân nói: “Nhân gian nói nhỏ, trời nghe rất rõ”. Dương mỗ tin rằng trên đầu ba thước có thần minh. Ta chỉ cần làm việc có thể không gì sai sót, có trời đất chứng giám là được. Việc đã đến nước này, ta cứ tận nhân lực rồi tùy thiên mạng đi! Chỉ là... Mong Tiền huynh cử người thông báo cho vợ của ta: nếu Hoàng Thượng tức giận mà liên lụy tới người nhà, bảo nàng đem vật đang được thờ cúng ở nội đường cầu Hoàng Thượng tha cho. Chỉ cần Tiền huynh truyền đạt giúp lời này, Dương mỗ có chết thì dưới suối vàng cũng vô cùng cảm kích!

Tiền Ninh nhìn y một lúc rồi thở dài nói:

- Đại nhân không nói, ty chức cũng biết nguyên do. Huynh đệ chúng tôi không phải là người tốt, nhưng Dương huynh là người như vậy, huynh đệ chúng tôi cũng rất kính trọng. Dương đại nhân yên tâm! Ty chức sẽ sai người đưa tin cho những vị đại nhân khác, để họ nghiến răng kiên quyết không thừa nhận, đại nhân tự thu xếp ổn thoả nhé.

Vừa về tới bộ Hình, Ngụy Thân lại nghĩ tới việc Cẩm Y Vệ có quan hệ mật thiết với Đông Xưởng, còn Đông Xưởng lại cùng hệ với ty Lễ Giám. Hôm nay Cẩm Y Vệ tích cực nhúng tay vào, có phải là để cứu thái giám Đới Nghĩa, thủ lĩnh của ty Lễ Giám hay không?

Nghĩ đến đây, lo ngại Cẩm Y Vệ đút lót ngục tốt tổ chức thông cung, Ngụy Thân vội vàng phi ngựa chạy trở lại đại lao bộ Hình. Lão chia ngục tốt thành từng nhóm bốn người trực trước cửa phòng giam nghi phạm, hơn nữa chính lão cũng tự mình cố thủ ở đại lao không rời nửa bước.

Tiền Ninh chân trước mới vừa đi, Ngụy Thân đã trở lại. Ở bốn cửa lao cả ngày lẫn đêm không lúc nào không có ngục tốt trấn thủ. Dù Cẩm Y Vệ chỗ nào cũng có thể nhúng tay vào nhưng nếu muốn đưa tin cũng khó như lên trời. Tiền Ninh cố thử vài lần nhưng suýt khiến cho Ngụy Thân nghi ngờ, gã đành bỏ cuộc, chỉ có nước đem những lời dặn dò của Dương Lăng về bẩm báo với Mưu Bân.

Nha môn Tam Ty đột nhiên hội thẩm hai lần, quả nhiên Cẩm Y Vệ bị gạt ra ngoài. Mắt thấy Cẩm Y Vệ quyền thế lại bị khiêu khích và bỏ qua một bên như vậy, đến cả Trương Tú cũng cảm thấy giận dữ. Lão lập tức tung mật thám Cẩm Y Vệ ra phao những lời đồn đoán, phỉ báng quan chức các bộ Lễ, Công, Hình, đồng thời thu thập những cái đuôi của họ.

Tam Pháp Ty hội thẩm hai lần. Bốn người Dương Lăng cùng nói một giọng mặc cho tên thập trưởng ra mặt làm nhân chứng. Cả bốn chỉ nói hắn vì thù oán bọn họ nên vu cáo hãm hại, khiến cho Tam Pháp Ty hết đường xoay sở.

Thượng thư bộ Hình Hồng Chung bất lực chỉ có nước tâu với Chính Đức Hoàng Đế ở phiên triều sớm:

- Khải bẩm Hoàng Thượng! Thần phụng chỉ cùng Đốc Sát Viện, Đại Lý Tự thẩm tra án Đế Lăng thấm nước. Nhân chứng đối chất với phạm quan (quan phạm tội) ở công đường, nhưng cả bốn phạm quan hoàn toàn không chịu thừa nhận, bảo là tên thập trưởng bị bệnh hoang tưởng, hoa mắt nhìn lầm, chết cũng không thừa nhận. Thần xin phép Hoàng Thượng hạ chỉ cho phép bộ Hình được phép tra tấn bốn phạm quan.

Mặc dù mấy cái thứ ưu đãi ‘Hình không áp dụng cho đại phu’, sớm bị tên Chu Trọng Bát (tức Chu Nguyên Chương, hoàng đế lập nên triều Minh) phá tan hoang rồi, nhưng ngoại trừ khi bị Cẩm Y Vệ hạ ngục, trước giờ chưa từng nghe nói bộ Hình cũng có thể dùng cực hình bức cung với quan chức. Một khi thành lệ, bộ Hình nắm quyền sinh sát trong tay lập tức có thể biến thành Cẩm Y Vệ thứ hai rồi. Bá quan nghe vậy, không khỏi trợn mắt nhìn.

Đại học sĩ Lưu Kiện lập tức bước ra khỏi hàng tâu:

- Hoàng Thượng! Việc này vạn lần không thể được. Bốn phạm quan thật sự có tội hay không, trước mắt chỉ có một nhân chứng, cũng không vật chứng. Thần nghe nói tên thập trưởng đó từng bị khâm sai Đới Nghĩa trừng phạt. Bởi vì một chút ân oán cá nhân, trước nay cũng có những người dân điêu ngoa, gian ác gan lớn bằng trời dám hãm hại đại thần triều đình rồi. Nếu các vị ấy bị cực hình mà nhận tội, thành ra bức cung, chẳng phải là oan uổng sao?

Từ Quán vội la lên:

- Hoàng Thượng! Cẩm Y thân quân cũng được thiên tử giao cho quyền tra tấn. Nhưng việc này vì có liên quan tới ty Lễ Giám, để tránh hiềm nghi, Hoàng Thượng nên đưa phạm quan cho Tam Ty thẩm vấn. Mấy tên phạm quan đó biết long mạch bị hao tổn ảnh hưởng tới vận mệnh quốc gia, hậu quả rất là nghiêm trọng; ai cũng sợ chết nên đương nhiên ngoan cố, không dùng cực hình là không chịu cung khai. Gặp sự phải tòng quyền, xin bệ hạ ân chuẩn.

Tạ Thiên bước ra, tâu:

- Người không nói loạn về thần linh. Đại Minh ta được thiên hạ, đó là nhờ vào thiên mạng. Chỉ một lần phong thủy cũng có thể có được thiên hạ, cũng có thể mất thiên hạ, chẳng lẽ đó không phải là việc bất chính, quá là hoang đường sao? Thánh nhân từ trước đến nay coi phong thủy là thuật xằng bậy, mê hoặc lòng người. Mấy năm trước, sau vụ án ”Lý Quảng” (*), tiên đế đã từng đuổi mấy ngàn tên đạo sĩ phiên tăng thuật sĩ chuyên dùng tà thuyết mê hoặc dân chúng. Bệ hạ đâu thể chỉ vì một người tố cáo như vậy mà trị tội đại thần chứ?

(*): Xem chương 82: Gạo vàng gạo trắng;

Xem thêm http://bbs.daqi.com/bbs_editor/05/724286719.html (Cám ơn StormRaider)

Đệ tử nho gia chính thống từ trước đến nay không tin phong thủy, cho rằng người có đạo là có thiên hạ, có được lòng dân là có thiên hạ. Họ cho rằng mấu chốt của vận mệnh họa phúc đều do cá nhân tu dưỡng, nếu có thể giữ được lòng lành, nhận thức được thiên tâm là có thể chuyển họa thành phúc, cải tạo vận mệnh. Do đó phần lớn văn võ bá quan trong triều đều phản đối thuật phong thủy.

Nhưng khi Hoàng Đế về trời, hoàng gia tìm một vùng đất an táng, tìm một thầy phong thuỷ tới thăm dò thì cũng không quan hệ gì lắm tới việc triều chính, do đó bọn họ luôn luôn mắt nhắm mắt mở bỏ qua. Nhưng bây giờ bộ Hình muốn dựa vào chuyện này mà lạm quyền, ba vị đại học sĩ cũng hơi bất mãn.

Hơn nữa hiện nay dân gian có lời đồn đoán, bảo là vì dời lăng Tiên đế nên triều đình sẽ phải đánh thuế nặng, phần lớn dân chúng đã hơi hoang mang, lo lắng. Không ở nhà thì chẳng biết củi gạo quý. Ba vị đại học sĩ quản lí triều chính nên biết chi phí tiền lương tuy không tới nỗi phải giật gấu vá vai, nhưng cũng không chịu nổi việc tiêu xài hoang phí như thế. Huống hồ Đại Minh đang chịu thiên tai ở vài địa phương, đã có dấu hiệu dân muốn nổi loạn, lúc này mà tăng thuế thì không khác gì lửa cháy đổ thêm dầu. Do đó ba vị đại học sĩ vốn luôn luôn cùng tiến cùng lùi, lần này nhất trí cho rằng bộ Công, bộ Lễ cứ chuyện bé xé ra to là do người khác có mưu đồ riêng; nên cả ba vị quyết tâm phải phản đối cho bằng được. Chương chín mươi chín - Vương Tam Xúi Giục

------------------------

Chính Đức không vui nói:

- Phận làm con phải lấy chữ hiếu làm đầu. Lăng tẩm của Tiên đế bị thấm nước như vậy còn chưa tính là không lành sao? Còn chưa tính là đại sự sao?

Lý Đông Dương thấy Hoàng Đế Chính Đức rất không vui, bèn vội bước ra khỏi hàng tâu:

- Hoàng Thượng! Đất bị động thổ đã là trái với lẽ tự nhiên rồi, lẽ nào còn lắm điều huyền bí như vậy? Huống hồ nói theo phong thuỷ, cũng có kiến giải rằng nhân sinh họa phúc do trời, người tài đức thì có thể được yên mạng. Vì vậy mới có câu: ”Nơi đất lành chỉ có người có đức mới được ở”. Thái Lăng vốn là đất lành, cớ chi đột nhiên vì Kim Tỉnh thấm nước báo điềm mà thành đất dữ? Tiên đế là lệnh chủ trung hưng (phục hưng?) của Đại Minh, là một minh quân xưa nay hiếm thấy. Chẳng lẽ Tiên đế không có phước được ở nơi đó sao?

Ông dùng phong thuỷ phản bác phong thuỷ, kỳ thật ý tứ cũng giống như Lưu Kiện, Tạ Thiên, vẫn cho rằng Từ Quán, Vương Quỳnh chuyện bé xé to. Mã Văn Thăng nghe xong không nhịn được nữa. Tuy lão luôn kính trọng ba vị đại học sĩ, nhưng cũng không có nghĩa là ba người nói gì thì lão cũng nghe.

Từ xưa vốn có lệ là quan viên không được làm quan tại nguyên quán, nhưng chế độ này sớm chỉ còn trên danh nghĩa. Từ lúc Dương Lăng và Lưu Cẩn góp lời cho Hoàng Đế lập lại chế đô này, Mã Văn Thăng bị đám quan viên hành cho sứt đầu mẻ trán nên rất bất mãn về việc Dương Lăng ”khuấy đảo triều chính”. Bởi vậy vừa nghe ba đại học sĩ bảo vệ đám người Dương Lăng, lão không nhịn được mà phản bác:

- Đại học sĩ nói vậy sai rồi. Người xưa có câu: ”Nhất mạng, nhì vận, tam phong thuỷ, tứ tích âm đức, ngũ độc thư”*. Đại sự này có ảnh hưởng tới sự thay đổi vận mệnh cá nhân và an nguy xã tắc của triều đình, đương nhiên phải thận trọng mà hành động, sao có thể coi thường nó?

(*: số mạng là quan trọng nhất, kế đến là vận số, thứ ba là phong thuỷ, thứ tư tích âm đức, và cuối cùng là đọc sách. Vậy là độc thư hay đọc thư?)

Thượng thư Hàn Văn của bộ Hộ trông nom ‘túi tiền’ của Đại Minh. Bấy giờ tin triều đình tăng thuế đang lan truyền đi rất nhanh. Kinh sư vốn giàu có thì không sao. Nhưng có những nơi dân chúng cơm không đủ ăn, chỉ có thể sống tạm bợ qua ngày mà thôi. Nếu triều đình thực sự ban hành chính sách này, thì lão sẽ phải đứng mũi chịu sào gặp đủ mọi điều khó xử, cho nên người sợ dời lăng nhất chính là lão ta.

Cho nên lão lập tức cũng vội vàng bước ra tấu:

- Hoàng Thượng! Thánh nhân có câu: ”Quý không ở nơi chốn, mà do thiên mạng”, Đại Minh ta thiên mạng vốn đã định, vận nước hưng thịnh. Phong thuỷ chỉ là bàng môn tiểu thuật, sao có thể xem là chính đạo?

Ba vị đại học sĩ và thượng thư bộ Hộ cùng chung ý kiến, nói về thiên mạng chính đạo, còn bốn vị thượng thư của bộ Lại, bộ Công, bộ Lễ, bộ Hình thì lại bàn tới phong thuỷ. Nhất thời cả đại điện tranh luận tới lui không ngừng nghỉ.

Chính Đức bị bọn họ tranh cãi đến đầu óc rối mù, đành bất lực quay sang hỏi Lưu Đại Hạ:

- Lưu thượng thư, khanh nghĩ thế nào?

Lưu Đại Hạ khom người bẩm:

- Bệ hạ! Thần cũng cho rằng gửi gắm vận mệnh quốc gia vào phong thuỷ là điều hết sức nực cười. Nếu nói phong thuỷ có thể quyết định họa-phước của quốc gia, vậy trị quốc bình thiên hạ cũng không cần vua hiền tôi trung hay đạo thánh nhân nữa. Nếu vậy khi xưa Đại Tống bị nhà Nguyên xâm lược, người Đại Tống chỉ cần dời lăng mộ Tiên đế tới vùng đất có phong thủy tốt, thì người Nguyên sẽ ngoan ngoãn lui binh rồi.

Văn võ bá quan nghe xong lời này không khỏi phá lên cười.

Lưu Đại Hạ đợi chúng thần bớt ồn ào mới nói tiếp:

- Do đó thần cho rằng không cần phải úy kỵ việc vọng động đến Kim Tỉnh. Nếu cần có thể sai đại thần trong triều đến kiểm tra. Nếu Kim Tỉnh có bị người ta động tay chân hay không, tự nhiên liếc mắt sẽ thấy ngay thôi.

Hoàng đế Chính Đức cũng không biết thuật phong thuỷ có đáng tin hay không, nhưng xem ra việc này thà tin còn hơn không, không tin thì không ổn. Nghe Lưu Đại Hạ nói như vậy, hắn đang muốn bảo Khâm Thiên giám lên điện hỏi để xem có kiểm tra Kim Tỉnh được không, thì thượng thư Vương Quỳnh của bộ Lễ đã lên tiếng:

- Hoàng Thượng, thần nghe nói bảy binh sĩ đứng cạnh Kim Tỉnh chứng kiến việc Kim Tỉnh trào nước bất ngờ đã bị chết khi đang xây dựng đế lăng. Đây còn không là chứng cứ lớn nhất cho việc giấu đầu hở đuôi sao? Hà tất phái người đi tới lăng kiểm tra, khiến Tiên đế dưới suối vàng không được yên ổn. Thần nghĩ rằng, cho dù nó phong thủy ảnh hưởng tới vận mệnh quốc gia là vô căn cứ, nhưng những kẻ này khi quân phạm thượng không phải giả. Theo lý nên nghiêm trị, lấy đó làm gương!

Chính Đức nghe xong bèn hạ quyết tâm, vỗ ngự án một cái phán:

- Được! Bảo bộ Hình dùng cực hình, để xem bọn chúng cứng đầu tới đâu!

* * *

Mồng hai tháng sáu, mới sáng sớm đã có hàng loạt những tiếng sấm ì ầm, nhưng mưa lại không lớn, chỉ tí tách rơi. Gần đến trưa, một chiếc kiệu nhỏ đội mưa xuất hiện trên con đường nhỏ trong thôn quê lầy lội.

Mấy ngày qua phủ Uy Vũ Bá bị bao trùm trong một bầu không khí thê lương và ảm đạm. Hàn Ấu Nương nghe nói tướng công có chuyện, sợ tới mức hồn phi phách tán. Nàng đã đi đến bộ Hình nhiều lần, nhưng nơi ấy được canh gác nghiêm ngặt, tuyệt nhiên không cho nàng vào.

Sau khi Thái Lăng xảy ra chuyện, vua Chính Đức đã cho người quản giáo Đế Lăng, không cho phép bất cứ ai xuống núi. Cha con họ Hàn cũng bị giam lỏng trên núi. Hàn Ấu Nương chỉ là một nữ tử yếu đuối, không chốn khẩn cầu. Nàng cả ngày lo lắng chạy tới ngoài cửa đại lao bộ Hình nhưng thủy chung vẫn không tìm được cơ hội để gặp mặt tướng công một lần, tâm lực tiều tụy, trong lòng vô cùng thương tâm.

May mà nàng có nghe ngóng biết được tướng công mặc dù qua hai lần thăng đường, nhưng chưa bị dùng hình (tra tấn), bốn đại thần không ai chịu cung khai nên mới yên lòng một chút. Lúc này Ấu Nương mới vừa được Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đưa về phủ. Cao Văn Tâm nghe tin vội vàng chạy tới, vừa vào cửa trông thấy sắc mặt Ấu Nương, liền biết hôm nay nàng vẫn chưa gặp được Dương đại nhân.

Cao Văn Tâm vịn cửa trầm ngâm hồi lâu, chỉ có thể than nhẹ một tiếng, rồi vào phòng lấy quần áo khoác thêm cho Ấu Nương, nhẹ nhàng an ủi:

- Phu nhân, người đừng quá lo lắng để tránh tổn hại tới thân thể. Hai ngày qua, mọi người bên ngoài đều truyền miệng nhau, nói rằng triều đình muốn gia tăng thuế khoá nên mới lấy cớ Đế Lăng không lành để nguỵ biện. Lão gia vì bá tánh Đại Minh mới phải vào tù, lòng người đều ủng hộ. Lão gia cát nhân thiên tướng, nhất định sẽ có thể chuyển nguy thành an thôi.

Hàn Ấu Nương mặt hoa u sầu, nghe vậy chỉ cố gượng cười, nước mắt lưng tròng, nói không nên lời.

Đúng vào lúc này, một tiểu tỳ áo xanh lặng lẽ đi tới cửa, khẽ nói:

- Phu nhân, tam công tử nhà Vương thượng thư đã đến rồi.

Cô nàng cũng biết hai ngày qua không khí trong nhà vô cùng căng thẳng, cho nên không dám lớn tiếng.

Tuyết Lý Mai nghe vậy, mày liễu liền cau lại, hầm hầm nói:

- Hắn tới làm gì? Lão gia nhà ta xảy ra chuyện lớn như vậy, ai có lòng thanh thản mà xem bệnh cho phu nhân hắn chứ? Đuổi hắn đi đi!

Ngọc Đường Xuân vội ngăn lại bảo:

- Khoan đã, hắn là con trai thượng thư bộ Lễ. Có lẽ có thể nhờ hắn cầu xin Vương thượng thư ra mặt xin tha cho đại nhân.

Tuyết Lý Mai cười khẩy:

- Tỷ nói xem vì sao mấy ngày nay hắn không đến nhà chúng ta? Dân chúng khắp thiên hạ đều nói bộ Lễ và bộ Công liên thủ sắp đặt tội cho lão gia. Cha hắn chính là kẻ hãm hại lão gia. Hắn sẽ cứu sao?

Tiểu tỳ áo xanh rụt rè chen vào:

- Phu nhân, các vị cô nương, Vương tam công tử... tới có một mình thôi, không hề dẫn theo phu nhân.

- Sao?

Hàn Ấu Nương và mấy người Ngọc Đường Xuân đều đưa mắt nhìn nhau, lấy làm nghi hoặc. Hàn Ấu Nương nghĩ ngợi một chút, rồi cắn răng đứng lên:

- Đám phụ nữ chúng ta ở đây cũng không nghĩ ra được cách nào. Ta đi gặp hắn, xem rốt cuộc là hắn có mục đích gì.

Cao Văn Tâm ngăn lại:

- Phu nhân khoan đã. Đại nhân gặp nạn, nhà họ Vương cũng có hiềm nghi. Phu nhân không nên trực tiếp ra mặt. Theo tiểu tỳ thấy, trước tiên hay là cho người thăm dò mục đích của hắn thì tốt hơn.

Tuyết Lý Mai nổi giận đùng đùng nói:

- Để muội đi gặp hắn. Nhà họ Vương lấy oán trả ơn, muội cũng muốn xem Vương tam công tử có gì để nói?

Ngọc Đường Xuân lườm nàng, trách:

- Với cái tính tình đó của muội, đi sẽ chỉ làm hư chuyện.

Đoạn nàng hỏi ý Ấu Nương:

- Phu nhân, hay là để tôi đi thử. Vương tam công tử đã tới nhiều lần, tiểu tỳ cũng tương đối hiểu hắn, trước hết thăm dò xem ý đồ của hắn đã rồi mới quyết định sau.

Hàn Ấu Nương khẽ gật đầu:

- Tô Tam muội muội tính tình trầm ổn, phiền muội đi một chuyến vậy.

Những tiếng sấm ì ầm vọng lại từ phía chân trời. Vương Cảnh Long đứng ở cửa phòng, đưa mắt nhìn về phía chân trời âm u, lại nhìn lão quản gia đang thõng tay đứng một bên, vẻ mặt thẫn thờ. Mặc dù hôm nay lão quản gia không mời hắn vào thư phòng, cũng không dâng lên chén trà nào, nhưng Vương Cảnh Long vẫn không khỏi mỉm cười, trong lòng lại hỉ hả không thôi.

Hắn và mấy hảo hữu vốn định lật đổ Dương Lăng, nhưng thủy chung vẫn không nắm được nhược điểm gì. Triệu Ung gợi ý bảo hắn tới Dương phủ tìm cơ hội gieo vạ hãm hại, tỷ như lúc đến nhà cầu thầy tặng lễ vật sẽ bí mật mang theo mấy thứ đồ cấm hoặc vượt khỏi quy định gì đó. Bọn chúng cho rằng, Dương Lăng là tên tú tài quê mùa ở nông thôn, chưa hẳn đã biết những thứ này, vậy còn không ngoan ngoãn chui vào rọ sao?

Thế nhưng Vương Cảnh Long cũng không ngốc. Triệu Ung bảo hắn bí mật kẹp mấy tấm vải màu vàng chói vào trong những lễ vật biếu tặng. Có điều phương pháp này quá dễ thấy, rất dễ bị người ta phát hiện. Hơn nữa một khi xảy ra chuyện hắn cũng không thoát khỏi liên can, do đó lo sợ mà vẫn chưa dám thi hành.

Mấy tên này chỉ trích tệ chính thì thao thao bất tuyệt, tựa hồ việc diệt gian trừ ác chỉ là việc trong nháy mắt. Điều nực cười chính là mấy tên công tử này giống như con chuột thiên tài muốn đeo lục lạc cho mèo (1): ý tưởng thì không tồi, nhưng khi bảo chúng đi làm thì lại không biết phải làm sao.

Sau đó Vương Cảnh Long đứng sau cửa sổ thư phòng nhìn thấy trong ao nước giữa vườn hoa có hai ngọn giả sơn nằm ở hai bên, bèn chợt nảy ra ý tưởng,. Hắn định khuyên nhà họ Dương xây thêm một ngọn giả sơn ở giữa ao. Nên biết rằng ba hòn núi trong một ao (2) chính là mô phỏng hành vi tiếm quyền đế vương. Hơn nữa đến lúc đó cũng không có chứng cớ để kéo hắn vào.

Đáng tiếc biện pháp này mặc dù xảo diệu, nhưng hắn lại không gặp được Dương Lăng. Nếu để thê tử của hắn mạo muội bàn luận về kiến trúc hoa viên với Dương phu nhân, sợ rằng sẽ khiến người hoài nghi. Mãi đến khi bọn người Vương Quỳnh đột nhiên phát động, dùng thế sét đánh không kịp bưng tai bắt được Dương Lăng, thì không cần đến hắn ra mặt nữa.

Nhưng nhiều ngày qua tin đồn trong kinh thành về việc sắp tăng thuế càng lúc càng nhiều. Dân chúng bần hàn gần như coi đám người Vương Quỳnh, Từ Quán là đám gian nịnh hút máu nhân dân, còn Dương Lăng thì lại được tiếng thanh liêm trong sạch, trở thành trung thần cứu giúp nhân dân.

Vương Cảnh Long biết được thì cực giận. Vừa khéo lúc ấy Nhất Xứng Kim của Thì Hoa quán sau khi nghe nói Dương Lăng bị bắt, nhất thời hưng phấn đem chuyện ba thanh quan nhân của mụ bị y cưỡng ép mua về kể cho viên ngoại lang bộ Lễ đang đi chơi kỹ viện nghe. Thê tử Vương Cảnh Long lắm bệnh, hắn lại không có vợ bé, nên cũng là khách hàng thường xuyên qua lại thanh lâu, cũng có chút giao tình với viên ngoại lang bộ Lễ, nghe lão kể xong nghĩ rằng đã tới lúc, bèn lập tức nảy ra ý tưởng.

Hắn tự nghĩ nếu xúi giục được Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai phản lại Dương Lăng, biến y trở thành một tên ngụy quân tử ức hiếp người lương thiện, cưỡng đoạt mỹ nữ. Vậy hình tượng ”kháng chỉ cứu thê” tốt đẹp của y lúc trước sẽ sụp đổ ầm ầm. Chỉ cần làm được việc này, thì sẽ có thể thêu dệt ra rất nhiều điều khác để vu cáo, bôi nhọ thanh danh của y. Ai còn tin y cầu xin cho dân nữa. Danh tiếng của cha hắn cũng sẽ không chịu ảnh hưởng.

Thế là cũng không bàn với mấy vị bằng hữu, Vương Cảnh Long vội vội vàng vàng chạy đến nhà họ Dương ngay. Hắn nghĩ, bằng vào tướng mạo tài hoa và gia thế của hắn, muốn gạt cho một người con gái xinh đẹp xuất thân thanh lâu, lại vốn ái mộ mình còn không dễ như trở bàn tay sao?

Ngọc Đường Xuân đi tới phòng khách, lão quản gia trông thấy vội chào:

- Tô cô nương đến sao?

Ngọc Đường Xuân khoát tay ra hiệu cho lão bộc lui ra, còn mình lặng lẽ đi đến sau lưng Vương Cảnh Long yêu kiều vái chào, nhẹ giọng nói:

- Tiểu tỳ Tô Tam ra mắt Vương công tử.

Vương Cảnh Long thoáng dừng lại, xoay người ngạc nhiên:

- Chà, là Tô tiểu thư đến, thất lễ thất lễ.

Ngọc Đường Xuân nói:

- Mời Vương công tử vào phòng khách ngồi. Phu nhân không có tới cùng với công tử sao? Lúc này nhà họ Dương đang có chuyện, Văn Tâm tỷ tỷ lại mang thân phận phạm nô do Hoàng Thượng khâm định. Nếu công tử muốn mang tỷ ấy về nhà khám bệnh cho phu nhân, phu nhân nhà tiểu tỳ không đảm đương nổi đâu.

Vương Cảnh Long đi vào phòng khách ngồi, rồi thở dài:

- Vương mỗ không phải vì bệnh của tiện nội mà đến. Dương Lăng xảy ra chuyện, Vương mỗ cũng có nghe nói. Chà! Dương Lăng được nhiều thánh sủng, tiền đồ như gấm, không ngờ lại thỏa hiệp với mấy tên tham quan lừa dối triều đình, thật khiến cho người ta đau đớn vô cùng.

Trên mặt Ngọc Đường Xuân thoáng hiện lên vẻ tức giận, nhưng đang không biết hắn đột nhiên tới đây là có dụng ý gì, bèn cố nén giận. Vương Cảnh Long thấy nàng im lặng đứng trước mặt mình, vội nói:

- Mời Tô tiểu thư ngồi.

Ngọc Đường Xuân khẽ nhún người, lãnh đạm:

- Trước mặt Công tử, tiểu tỳ nào dám ngồi.

Vương Cảnh Long khoát tay:

- Tiểu thư sao lại nói vậy? Tiểu thư đọc sách hiểu lễ, trời sinh đoan trang. Vương mỗ chưa từng xem tiểu thư là tỳ nữ.

Ngọc Đường Xuân cười nhạt, tránh chủ đề này, nói:

- Hôm nay công tử tới đây, nếu không phải xem bệnh cho phu nhân, chẳng lẽ có chuyện gì sao? Nếu là chuyện quan trọng, không tiện cho tiểu tỳ biết, tiểu tỳ đi mời phu nhân ra vậy.

Vương Cảnh Long vội vàng đứng dậy ngăn lại:

- Tiểu thư chậm đã. Tiểu thư đã hỏi, vậy Vương mỗ cũng đành mạo muội. Không dám giấu tiểu thư, Vương mỗ hôm nay đến chính là vì... Tô tiểu thư đó.

- Sao?

Ngọc Đường Xuân lộ vẻ ngạc nhiên, không dám tin hỏi:

- Vương công tử là vì... vì tiểu tỳ mà đến à?

Vương Cảnh Long thấy trong phòng không có người khác, bèn mỉm cười quỷ dị nói:

- Tiểu thư ở Dương phủ, thật sự chỉ là một tỳ nữ sao?

Ngọc Đường Xuân tròn xoe đôi mắt, đầy nghi hoặc hỏi:

- Vương công tử nói lời này... rốt cuộc là có ý gì?

Vương Cảnh Long cười khẩy nói:

- Ngụy quân tử đúng là ngụy quân tử. Nếu hắn đã thèm muốn vẻ xinh đẹp của tiểu thư, chuộc tiểu thư về nhà thì phải hết sức yêu quý tiểu thư mới phải. Đáng hận là hắn chỉ vì cái thanh danh trọng tình trọng nghĩa đẹp đẽ, sau khi mua một người con gái yêu kiều quyến rũ như cô nương về làm thiếp lại gán cho danh phận nô tỳ, thật là khiến người ta đau lòng!

Ngọc Đường Xuân nghe ngữ khí của hắn tưởng rằng mình là thiếp của Dương Lăng nhưng bình thường lại bị sai bảo như là nha đầu. Nàng không biết chuyện mình là thiếp thị hay nô tỳ có liên quan gì với với chuyện hắn đội mưa chạy tới nơi này, trong lòng kinh ngạc và nghi ngờ không thôi, nên cũng không phản bác gì.

Vương Cảnh Long thấy nàng muốn nói lại thôi, càng cho rằng phỏng đoán của mình là chính xác. Hắn đắc chí nói:

- Dương Lăng bỏ ra vạn lượng bạc chuộc cô nương ra khỏi Thì Hoa quán, nhưng lại bắt làm nô tỳ. Việc này nói ra ai chịu tin? Hắn coi người trong thiên hạ đều không có mắt sao! Hừ! Còn cố làm ra vẻ. Chỉ tiếc cho cô nương, tài hoa tướng mạo như thế, đáng lý phải được người ta che chở như châu như ngọc, lại rơi vào kết cục như vậy.

Ngọc Đường Xuân chớp chớp cặp mắt xinh, thấy vị công tử gia này tỏ vẻ đau xót, thiếu điều giậm chân đấm ngực gào khóc. Nhưng hắn nói tới nói lui, vẫn chưa nói đến điểm quan trọng, nàng đành phải lẩm bẩm:

- Vương công tử... Vì sao lại nói lời này. Thật ra đại nhân đối đãi với tiểu tỳ... đối đãi với tiểu tỳ rất tốt, cũng chưa từng ngược đãi tiểu tỳ.

Nàng nói tới đây chợt nghĩ Dương Lăng lần này đắc tội với thiên tử, không biết chừng còn bị chém đầu, tịch biên gia sản. Trái tim thiếu nữ của mình vừa có nơi gởi gắm đã lại rơi vào kết cục như vậy. Người ta nói ”hồng nhan bạc mệnh”, số phận mình đúng là bất hạnh mà. Nghĩ rồi vành mắt nàng không khỏi đỏ lên.

Chú thích:

(1) Chuyện cổ tích, kể rằng để tránh cho họ nhà chuột bị mèo ta xơi tái, chuột con bèn nghĩ ra cách đeo lục lạc cho mèo để báo động cho loài chuột biết đường mà chạy mỗi khi mèo đến gần. Nhưng ai dám đến gần mèo để đeo lục lạc? Câu chuyện châm biếm những ý tưởng “điên rồ”, “phi thực tế”. Thế nên có thơ rằng:

Quanh năm mèo bắt chuột ăn

Mỗi ngày mấy chú chết lăn vì mèo

Muốn cho thoát cảnh hiểm nghèo

Họ hàng nhà chuột họp nhau lại bàn

Suy đi nghĩ lại miên man

Không ra cách thoát muôn vàn tai ương

Chuột con lên tiếng tỏ tường:

“Giống mèo đi lại thường thường rất êm

Rình mò ăn chuột ban đêm

Chuột không phát hiện, một phen đi đời

Chỉ còn một cách này thôi

Phải đeo lục lạc vào nơi cổ mèo

Khi nào mèo đến nhạc kêu

Chúng ta kịp chạy, hiểm nghèo thoát ngay”

Nghe con chuột nhắt trình bày

Chuột già vội phán: “Mẹo này tốt thôi

Cậu đeo nhạc cổ mèo rồi

Họ hàng nhà chuột chúng tôi chịu liền!”

(2) Nguyên văn “nhất trì tam sơn”. Trong truyền thuyết cổ đại Trung Quốc, trong Đông Hải có ba ngọn núi là Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Trên núi mọc đầy những cây thuốc trường sinh bất lão, là nơi ở của những vị thần tiên khoái lạc trường thọ. Các vì vua phong kiến ai nấy đều ao ước được ”vạn thọ vô cương” và ”trường cửu thống trị”, cho nên bắt đầu từ thời Hán Vũ Đế đã cho xây ”Dao Trì tam tiên sơn” tại thành Trường An mang tính tượng trưng. Về sau ”nhất trì tam sơn” đã trở thành bố cục truyền thống dựng trong lâm viên hoàng gia qua các triều đại. Chương một trăm - Cứu chồng chốn pháp trường

------------------------

Vương Cảnh Long thấy giai nhân áo xanh da trắng miệng thì nói lời "dối lòng", nhưng mắt lại ngấn lệ, chỉ tưởng rằng mình đã nói trúng chuyện thương tâm của nàng ta nhưng nàng không dám thú nhận nên lòng mừng khấp khởi. Hắn lập tức làm ra vẻ thành thật, lấy giọng điệu chân thành thuyết phục:

- Tô tiểu thư! Hôm nay Vương mỗ mạo muội đến đây chính là để cứu cô nương ra khỏi hố lửa. Cô nương không nói ra lời tự đáy lòng, thế là vẫn không tin tại hạ sao? Xin tiểu thư chớ hoài nghi tấm lòng chân thành của tại hạ. Không dám giấu Tô tiểu thư, hôm nay Tam ty hội thẩm, Nghê Khiêm của Khâm Thiên Giám không chịu nổi tra tấn nên đã nhận tội rồi. Hoàng thượng đã hạ chỉ giờ Ngọ ngày mai sẽ lôi cả bốn người Dương Lăng ra cửa chợ khai đao xử chém. Ha ha! Cô nương không cần phải sợ hắn nữa!

Lời hắn thốt ra như sấm sét giữa trời quang. Ngọc Đường Xuân lảo đảo lùi về phía sau mấy bước, mặt hoa tái nhợt, giọng run rẩy:

- Ngươi... Ngươi nói cái gì? Dương đại nhân người... Người sẽ bị chém đầu ư? Ta không tin! Không thể tin! Ta không tin!

Vương Cảnh Long thấy dáng vẻ khiếp đảm hoảng sợ của nàng càng khiến người ta thêm động lòng, bèn ra vẻ doạ dẫm:

- Vương mỗ tuyệt không nói dối! Chẳng những Dương Lăng phải chết mà e rằng cả nhà họ Dương cũng sẽ không yên ổn. Cô nương hoa nhường nguyệt thẹn, quốc sắc thiên hương, chẳng lẽ không sợ bị sung làm quan nô(*), bán vào Giáo Phường ty chịu khổ ư?

(*: nô lệ cho quan lại)

Lúc này trong đầu Tô Tam chỉ ầm ầm dội lại lời nói ngày mai Dương Lăng sẽ bị xử chém, hoàn toàn không thể mở miệng trả lời. Vương Cảnh Long thấy mặt Ngọc Đường Xuân tái mét, bờ môi run run đã đánh mất vẻ hồng hào, còn tưởng rằng lời mình nói đã dọa được nàng, liền dịu giọng an ủi:

- Tuy nhiên tiểu thư cũng không cần phải quá sợ!

Ngay khi Vương mỗ trông thấy tiểu thư lần đầu thì đã thương nhớ khôn nguôi, không thể nào quên. Sao có thể đành lòng nhìn tiểu thư chịu khổ như vậy! Tô tiểu thư, Dương Lăng lấy cô nương làm thiếp nhưng lại giấu giếm gán cho danh phận nô tỳ, thấy rõ hắn chỉ vì tướng mạo của cô nương mà chưa từng có nửa điểm chân tình với cô nương. Tiểu thư còn chưa mau chóng tỉnh ngộ sao?

Hắn thở dài một hơi, cất giọng tiêu sái hỏi:

- Nàng là giai nhân, sao lại theo giặc?

Ngọc Đường Xuân nghe vậy liền giật mình. Vị Vương công tử này hiển nhiên biết không ít nội tình, hắn nói như vậy chỉ vì muốn cứu mình ư? Nếu như Hoàng Thượng thật sự muốn tống cả nhà họ Dương vào Giáo Phường ty, hắn làm gì có cách cứu người cho nổi? Chẳng lẽ hắn còn có chủ ý gì khác?

Ngọc Đường Xuân là người như thế nào chứ? Nàng là người sống bằng nghề vui cười trước mặt người, gạt giấu lệ sau lưng, rất giỏi việc che giấu tình cảm. Nảy lòng nghi ngờ, nàng lập tức lao lên phía trước, phủ phục xuống thút thít:

- Hồng Phất dạ bôn (1), Lục Châu trụy lầu (2). Những nữ tử mạng khổ như nô tỳ chúng tôi cả đời cũng chỉ cầu có được một đấng lang quân có tình mà thôi. Dương Lăng không phải là kẻ thiện lương, mong công tử hãy xót thương mà cứu lấy tiểu tỳ!

Vương Cảnh Long mừng rỡ, vội vàng bước lên đỡ nàng dậy, an ủi:

- Tiểu thư không cần đa lễ! Vương mỗ có thể có được người ngọc như tiểu thư, chính là ôm được mộng đẹp, cầu còn không được.

Nói rồi hắn không nhịn được bèn sỗ sàng vuốt nhẹ cổ tay mềm mại của Ngọc Đường Xuân.

Ngọc Đường Xuân mặt ửng hồng, vội rụt tay về, vờ trách khẽ:

- Công tử ngàn vạn lần đừng như vậy! Nơi này là nhà họ Dương đó.

Vương Cảnh Long nghe nàng nói "nhà họ Dương", rõ ràng đã nảy ý phản bội Dương Lăng, bèn mừng rỡ ra sức thuyết phục:

- Phủ Uy Vũ Bá này chẳng bao lâu sẽ thành đống đổ nát, họ Dương cũng mau chóng không còn tồn tại nữa, tiểu thư cần gì phải kiêng dè? Chỉ cần gật đầu, tiểu thư sẽ thành người ngọc của phủ thượng thư ngay.

 Nhưng... Dương Lăng rất được Hoàng-Ngọc Đường Xuân lộ vẻ lo lắng hỏi: - Thượng coi trọng mà, sao có thể vừa nói giết là đã giết liền chứ? Hơn nữa, nếu như Hoàng Thượng hạ chỉ bắt cả nhà họ Dương phải làm nô bộc, công tử sẽ... sẽ cứu nô tỳ bằng cách nào?

Vương Cảnh Long thấy nàng hoài nghi, càng chắc mẩm nàng đang nóng lòng muốn thoát ra khỏi nhà họ Dương tìm một chỗ dựa khác, liền cười nói:

- Chuyện này dễ thôi! Chỉ cần nàng theo đúng xếp đặt của ta, ta cam đoan nàng sẽ bình yên vô sự.

Vương Cảnh Long biết chắc chắn ngày mai số phận Dương Lăng sẽ được định đoạt, cả nhà họ Dương còn có ai đáng để hắn kiêng dè chứ. Cho nên lần thăm viếng này hắn hết sức cuồng vọng, mục hạ vô nhân. Trong suy nghĩ của hắn, một ả con gái xuất thân từ kỹ viện chỉ biết đến thiệt hơn, nào biết đến tình ý gì? Hắn cho rằng với gia cảnh của mình, nhất định Ngọc Đường Xuân sẽ chỉ mong sao có thể trở thành nàng thiếp của hắn mà thôi.

Với vẻ kiêu ngạo đắc ý, hắn liền kể cho mỹ nhân đã dốc lòng thuần phục nghe dự định của mình. Ngọc Đường Xuân nghe xong âm thầm cắn răng căm hận, nhưng mặt lại tỏ vẻ thẹn thùng nói:

- Thế thì, Tô Tam đa tạ công tử! Hết thảy Tô Tam xin phó mặc cho công tử an bài vậy.

Trước đây nghề của nàng là mua vui chuốc cười trong chốn kỹ viện, cho dù trong lòng có uất ức hơn đi nữa vẫn luôn có thể khoác bộ mặt vui vẻ. Lúc này nàng cố ý gạt hắn, điệu bộ càng hết sức quyến rũ. Vương Cảnh Long nghe mà trong lòng lại lập tức nghĩ đến nghĩa khác của câu "phó mặc cho công tử an bài", nhất thời thần hồn bay bổng, hận không thể dẫn ngay tiểu mỹ nhân khiến cho người ta động lòng này về nhà.

Mỹ nhân thân thể mềm mại như thế này... Đúng rồi, còn có một người nữa. Vương Cảnh Long vội nói:

- Đúng rồi! Vị cô nương Tuyết Lý Mai được chuộc cùng lúc với nàng đó, không biết nàng ấy có lòng thoát khỏi hố lửa này hay không? Nếu như hai người các nàng cùng ra mặt thì sẽ càng đáng tin hơn...

Ngọc Đường Xuân thật muốn tát cho cái tên vô sỉ này một tát (ủng hộ, tát chít nó đi em - TJ), thầm nghĩ nếu như Tuyết Lý Mai, cái cô nàng không biết kiềm nén cảm xúc đó mà tới đây, khó tránh sẽ bị nhìn ra sơ hở. Ngọc Đường Xuân vội cản:

- Tuyết Lý Mai rất được Dương đại nhân sủng ái, e rằng chưa hẳn đã chịu dựa vào công tử, tiểu tỳ không nắm chắc. Nếu công tử gấp gáp như vậy, nói chuyện này với ả trước, chẳng may tiết lộ tin tức thì...

Vương Cảnh Long nghe xong vội nói:

- Tiểu thư cân nhắc rất phải, hay là đừng nói vậy. Nếu ả không biết thức thời, thì ả tự chuốc vạ vào mình thôi.

Miệng thì nói vậy, nhưng trong lòng Vương Cảnh Long lại thầm đắc ý, nghĩ rằng Ngọc Đường Xuân đang nổi lòng ghen tỵ, muốn tranh thủ tình cảm của hắn. Người con gái kia cũng yêu kiều không kém, hơn nữa còn có một vẻ đẹp lạnh lẽo như mai. Nếu đã có cơ hội đưa nàng về phủ một cách danh chính ngôn thuận, hắn thật có phần không nỡ bỏ qua. Hắn định ngày mai chờ đến lúc họ Dương tan nhà nát cửa, sẽ chia nửa phần công lao tố giác gian thần của Ngọc Đường Xuân cho nàng, tìm cách đem nàng về phủ luôn.

Vương Cảnh Long bèn đem kế hoạch hắn đã chuẩn bị kể tỉ mỉ cho Ngọc Đường Xuân nghe. Thấy lão quản gia mấy lần thập thò ở ngoài sảnh, sợ lão sinh nghi, hắn đành phải quyến luyến cáo từ, quay về đặt chuyện bêu xấu Dương Lăng.

Ngọc Đường Xuân gọi quản gia tiễn Vương Cảnh Long ra khỏi cửa, còn mình thì vội vã xoay người chạy vào nhà trong. Vừa vòng qua sảnh chính (trung đường), nàng đã thấy Tuyết Lý Mai tái mặt đứng ở phía sau. Vừa gặp mặt, Tuyết Lý Mai chẳng nói chẳng rằng đã nhào tới giáng ngay một bạt tay vào mặt nàng, khiến nàng sững cả người.

Tuyết Lý Mai cười gằn:

- Uổng công ta coi ngươi là tỷ muội bấy lâu, không ngờ tâm địa ngươi lại độc ác như vậy! Hồng Phất dạ bôn, Lục Châu trụy lầu ư? Ta khinh! Bọn họ là nữ nhân hiếm thấy trong chốn phong trần, Tô Tam ngươi mà cũng đòi sánh với họ ư?

Ngươi cút ngay! Cút đi! Nếu thật sự đại nhân không thể cứu vãn, cùng lắm thì Tuyết Lý Mai ta tự vẫn chết theo, cùng xuống suối vàng với người. Ngươi đi mà hưởng lấy vinh hoa phú quý của mình đi. Nếu muốn ở lại hãm hại đại nhân thì đừng trách ta trở mặt vô tình!

Ngọc Đường Xuân sờ dấu năm ngón tay hằn trên gương mặt mặt, cười khổ:

- Cái tính tình nóng nảy của muội đến khi nào mới chịu sửa đổi đây? May mà hôm nay người gặp tên ngụy quân tử đó là tỷ. Nếu là muội, ngay khi người ta vừa thốt lời bất lương với lão gia thì sớm đã gây gổ rồi, còn có thể moi được những tin tức này sao? Mau! Theo tỷ về hậu đường, gặp phu nhân rồi nói tiếp!

Tuyết Lý Mai bị nàng kéo chạy về hậu đường, lúc này mới hiểu được nguyên do. Ngọc Đường Xuân cũng không giải thích dài dòng, vội báo với Ấu Nương tin tức dò được từ Vương Cảnh Long. Ấu Nương vừa nghe ngày mai trượng phu sẽ bị xử trảm, suýt nữa thì ngất lịm. Cao Văn Tâm thấy nàng sắc mặt tím tái, sợ hãi vội đỡ lấy nàng, rút từ trong ống tay áo ra hai cây ngân châm chích nhanh vào sau gáy nàng vài cái.

Văn Tâm lo lắng:

- Phu nhân mà hoang mang thì không được đâu! Hôm nay đại nhân đang chờ chết như vậy, phu nhân nên cố gắng tìm biện pháp mới phải.

Tuy rằng Hàn Ấu Nương rất yêu Dương Lăng, dẫu bỏ mạng cũng không muốn y chịu tổn thương. Nhưng Hoàng Đế hạ lệnh giết người, nàng thật sự không nghĩ ra được trên cõi đời này còn người nào có thể cứu y.

Nàng có lòng dùng một thân võ nghệ của mình xông vào ngục cứu người bằng mọi giá. Mặc dù biết rõ hy vọng là mong manh, cùng lắm thì chết cùng tướng công mà thôi. Nhưng còn phụ thân và ba huynh đệ đang còn sống thì làm sao? Nếu làm như vậy há chẳng phải sẽ liên lụy bọn họ cùng chịu chết chung ư?

Hàn Ấu Nương bị xoay trong trăm nỗi ưu sầu, cảm giác lực bất tòng tâm, hai hàng nước mắt lã chã rơi xuống không ngừng.

Ngọc Đường Xuân lo sợ nói:

- Vương Cảnh Long muốn hãm hại thanh danh công tử là để cha hắn có thể hại người một cách chính đáng (lý trực khí tráng). Chuyện này chúng ta đủ sức trị được hắn, nhưng Hoàng Thượng sẽ không vì chuyện này mà tha tội cho đại nhân đâu. Chúng ta là phận gái, có thể làm được gì chứ?

Tuyết Lý Mai tức giận:

- Sao lại cứu không được! Chúng ta là người mà phủ Thọ Ninh Hầu muốn, ngay cả Cẩm Y Vệ cũng phải e sợ Thọ Ninh Hầu ba phần, chẳng phải đại nhân vẫn trị được bọn chúng, chuộc chúng ta ra đó sao? Văn Tâm tỷ tỷ là khâm phạm, ai cũng đều nói là cứu không được, thế nhưng không phải đại nhân vẫn nghĩ được biện pháp cứu tỷ ra được đó sao? Hôm nay đại nhân gặp nạn, đám phụ nữ chúng ta lại chỉ có thể ngồi đây khóc lóc chờ chết ư? Không suy nghĩ thì làm sao ra biện pháp chứ? Muội muốn học là học Lương Hồng Ngọc(3) nổi trống giúp chồng, quyết không học theo Lục Châu chỉ có thể nhảy lầu tỏ chí.

Ở trong nhà họ Dương, Tuyết Lý Mai vẫn luôn là người không giống nô tỳ, không ra thê thiếp nhất, nhưng lời này nói ra, rõ ràng nàng đã coi mình như thê thiếp của Dương Lăng. Nàng vừa nói xong, thấy ba người đều nhìn mình với ánh mắt kỳ quái, bèn đỏ mặt, ấp úng:

 Ấu Nương tỷ tỷ, mạng đại nhân chỉ còn một sớm một chiều. Muội, muội...-

Hàn Ấu Nương thở dài, giọng buồn bã:

- Tâm tư muội làm sao mà tỷ không biết? Nhưng tướng công đã không thể cứu được rồi. Tỷ là thê tử của chàng, hiển nhiên phải cùng chàng đồng sanh cộng tử, không bao giờ chia lìa! Các vị ở nhà họ Dương không danh không phận, tội gì phải chịu sự liên luỵ này. Bây giờ có được tin tức sớm cũng tốt, ta đi lấy tiền bạc, các vị nhận lấy rồi mau chạy đi. Cả Văn Tâm tỷ tỷ nữa, tỷ cũng chạy đi. Lúc tướng công bị chém sẽ chính là giờ chết của Ấu Nương, muội cũng chả còn ngại đắc tội với thiên tử để thả các tỷ trốn đi.

Ngọc Đường Xuân đỏ mặt:

- Ấu Nương tỷ tỷ! Nếu tỷ nhất định ôm lòng phải chết, Tô Tam nguyện lòng... cùng tỷ đồng sanh cộng tử theo đại nhân. Có điều... không còn một chút hy vọng nào sao? Ngộ nhỡ tên thập trưởng tố cáo đó chịu phản cung thì sao?

Cao Văn Tâm lắc đầu thở dài:

- Đừng suy nghĩ hão huyền nữa! Hắn lại không điên, làm sao sẽ... Điên... điên à?

Nói đến đây lòng Cao Văn Tâm chợt máy động, nàng lẩm bà lẩm bẩm, ánh mắt có phần kỳ lạ.

Tuyết Lý Mai vội nói:

- Vậy thì mời Hoàng Thượng đến lăng điều tra đi. Hai ngày trước Tiền đại nhân đến phủ báo tin, không phải đã nói chúng ta cứ yên tâm chờ đợi, nói rằng chuyện trong lăng đã được xử lý kín kẽ, không thể tra ra chứng cứ hay sao? Chẳng lẽ triều đình lại rất e ngại đụng chạm đến phong thủy mà không cho nghiệm xét, chỉ bằng khẩu cung của một người mà đã giết người khác ư? Chúng ta hãy đi tố ngự trạng (dâng cáo trạng lên vua), yêu cầu Hoàng Thượng phái người đi Thái lăng khảo sát!

Ngọc Đường Xuân bảo:

- Đây là phương pháp duy nhất, cầu sống trong cái chết. Nhưng làm sao chúng ta có thể vào được Tử Cấm Thành, chúng ta tuyệt không gặp được Hoàng Thượng đâu!

Lúc này Cao Văn Tâm đột nhiên ấp úng:

- Nếu như để tỷ gặp nhân chứng đó, tỷ sẽ có biện pháp làm cho hắn... làm cho hắn trở nên điên điên khùng khùng, lời nói của hắn sẽ không thể làm chứng cứ được nữa. Chỉ có điều phải làm sao mới có thể gặp hắn đây? Huống chi chính ngọ ngày mai Dương đại nhân sẽ... sẽ... Không kịp nữa rồi!

Nghe bọn họ nói như vậy, tâm tư Hàn Ấu Nương trở nên linh hoạt, nàng chợt nhớ đến lời Dương Lăng nhờ Tiền Ninh chuyển lại cho nàng. Thế là tinh thần phấn chấn, nàng bèn bảo ba người Ngọc Đường Xuân:

- Những chuyện này có thể từ từ rồi tính, việc cấp bách trước mắt là ngăn cản việc hành hình. Ấu Nương đã có chủ ý, có lẽ có thể buộc được Hoàng Thượng phải phúc thẩm. Nhưng biện pháp này rất là nguy hiểm, cũng có khả năng khiến cho Hoàng Thượng phẫn nộ, chém đầu chúng ta ngay tức khắc. Các vị tỷ muội... các vị thật sự nguyện ý ở lại?

Ba người con gái đồng loạt kiên quyết gật đầu, không hề có chút do dự. Hàn Ấu Nương nén lệ đứng lên bái lạy ba người. Ba người Cao Văn Tâm thấy vậy lật đật quỳ xuống hoàn lễ. Cao Văn Tâm nói:

- Phu nhân vạn lần chớ làm như vậy, chúng tôi thật không dám nhận.

Hàn Ấu Nương ngậm lệ cười nói:

- Tuyết Nhi nói rất đúng, vì tướng công, dù chỉ còn một tia hy vọng, ta cũng phải nỗ lực tranh thủ. Tướng công vì ta mà chống lại thánh chỉ, một đứa con gái như ta lại không tố được ngự trạng sao? Ba vị ở nhà họ Dương ta gặp đại nạn mà không rời bỏ, Ấu Nương thay mặt tướng công tạ ơn các vị. Nếu không chê, Ấu Nương nguyện cùng các vị kết làm tỷ muội, từ đây đồng cam cộng khổ, họa phúc cùng chia!

Ba vị cô nương đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng dập đầu lạy theo Ấu Nương. Bầu trời đang trút cơn mưa dầm dề bỗng loé ánh chớp, liền sau đó là một tiếng sấm nổ vang rền, toàn bộ khung cửa sổ rung lên bần bật.

...

Thiên lao (ngục của triều đình) tại bộ Hình chia ra làm hai nhà ngục Nam và Bắc, có hai cửa hông Đông và Tây. Phạm nhân được phóng thích hoặc đến công đường xử án thì ra bằng cửa Đông, còn được gọi là cửa Thanh Long; phạm nhân chấp hành án tử hình thì ra bằng cửa Tây, còn gọi là cửa Bạch Hổ. Dương Lăng không biết quy tắc này, nhưng Thị lang bộ Công Lý Đạc và hai người Nghê Khiêm, Đới Nghĩa thì lại biết, cho nên khi vừa bị áp giải ra khỏi cửa Tây, sắc mặt mấy người bọn họ lập tức trắng bệch, chân cẳng mềm nhũn.

Sau khi đến đại sảnh hình đường, quỳ xuống nghe thánh chỉ, nghe quan sai lần lượt hỏi danh tính, tuổi tác, quê quán, xác minh thân phận xong, Dương Lăng mới biết đại hạn đã đến.

Đới Nghĩa và Lý Đạc đều là mẫu người cương quyết, Dương Lăng cũng biết không nhận tội thì còn có một đường sống, nhận tội thì sẽ chết không nghi ngờ gì, vì thế lúc bị tra tấn cả ba đã cắn răng chịu đựng. Cả bọn chỉ mong Cẩm Y Vệ sớm tìm ra chứng cứ uy hiếp mấy vị đại thần, đồng thời để cho những lời đồn đãi được tung ra kinh động đến tai Thánh Thượng, khiến hắn phải kiêng dè một chút.

Nhưng đó đều là những thủ đoạn kéo dài thời gian, không cứu được tình thế khẩn cấp. Nghê Khiêm của Khâm Thiên Giám không chịu đựng nổi tra tấn. Kẹp gỗ vừa xiết vào các ngón tay, lão ta đã đau đớn như thể chết đi sống lại, không chịu nổi đành phải nhận tội. Nhưng vừa ngừng tra tấn thì lão ta lập tức phản cung. Hai, ba lần như vậy, khiến cho công khanh của Tam Ty nổi điên lên. Thế là trong lúc tra tấn họ bèn bắt lão phải ký tên chịu tội lên bản cung rồi không hề phúc thẩm, trực tiếp báo cáo lên Hoàng Đế.

Hoàng Đế Chính Đức nghe nói đã có người nhận tội, những kẻ này quả nhiên khi quân phạm thượng, hắn nổi giận lôi đình lập tức hạ lệnh chém đầu cả bốn người. Đám người Lưu Cẩn thấy Chính Đức nổi giận đùng đùng nên cũng không dám cầu xin cho Dương Lăng.

Vốn Hồng Chung còn muốn khuếch trương chiến quả, kéo thêm mấy người vào rọ để chứng tỏ oai phong của bộ Hình. Nhưng thánh chỉ đã ban, lão ta đành phải tiếc nuối đưa bốn người ra khỏi đại lao. Việc này cũng khiến cho kế hoạch của Cẩm Y Vệ bị xáo trộn, các phương pháp dự tính ban đầu đều không kịp sử dụng.

Mấy trăm tay nha dịch bộ Hình vây quanh xe la nhốt bốn người chạy về phía đầu chợ. Sắc mặt bốn người nhợt nhạt, cả trên mười ngón tay lẫn cổ chân đều đã bê bết máu thịt.

Đầu khu chợ thực phẩm là nơi buôn bán sầm uất, phần lớn người vào Nam ra Bắc qua cầu Lư Câu, vào Quảng An môn, vào nội thành Bắc Kinh đều phải đi qua đây. Lúc ban sơ, nơi này gọi là chợ Củi, vị danh nhân đầu tiên bị tử hình ở đây chính là thừa tướng Văn Thiên Tường (3) của Đại Tống, người đã bị Đại Nguyên bắt giam trong ngục bốn năm, không bị lay động bởi vinh hoa phú quý, quyền lực lẫn mỹ nữ.

Bốn người Dương Lăng bị áp tải xuống xe chở tù, đẩy lên đoạn đầu đài hình chữ ĐINH (丁) dựng ngay ngã tư. Dương Lăng ngửa đầu nheo mắt nhìn về phía xa: sau cơn mưa to đêm qua, những chiếc lá trên hai hàng cây hòe giờ đã xanh tươi như mới; nhìn về phía Bắc, có thể thấy Tuyên Vũ môn nguy nga, trang nghiêm ở xa xa. Dương Lăng khẽ thở dài một hơi, khóe miệng lộ nụ cười ảo não: “xem ra có lẽ hành trình về Đại Minh của mình kết thúc sớm rồi.” Vốn cũng chỉ có thể sống thêm trên một năm, y không quá quan tâm đến sự sống chết của mình, nhưng lại lo lắng cho an nguy của Ấu Nương.

Y chưa từng hối hận về những chuyện xuẩn ngốc mà mình đã làm. Y có thể mặc kệ Đại Minh còn hay mất, mặc kệ Hoàng Đế có là hôn quân hay không, y chưa hề có cảm giác gánh vác sứ mạng lịch sử to lớn đến vậy. Thay đổi được thì y sẽ thay đổi, không được thì cứ thuận theo tự nhiên. Dẫu sao thì hưng vượng là lịch sử, mà suy bại cũng là lịch sử. Ở thời đại mà y vượt thời không tới đây, người dân Trung Quốc đã thoát ra khỏi giai đoạn gian khổ rồi.

Nhưng y không thể trơ mắt nhìn biết bao người dân đang sống cạnh mình vì y mà chết đói. Đối với y, những người dân này không chỉ là những người cổ xưa, không phải là một đoạn lịch sử bi thương trên đống sách cũ rích. Những người dân này vẫn đang sống sờ sờ trước mặt y: những người dân nghèo khổ đang sống ở dưới tận cùng của xã hội rất đáng thương. Những người dân bần cùng cả ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời để cung cấp ăn ngon mặc đẹp cho loại người như y chỉ mong sao bản thân có đủ cơm ăn mà thôi. Phàm là người có chút lương tâm, làm sao có thể làm được chuyện ép chết bọn họ, còn mình thì yên tâm thoải mái mà hưởng thụ vinh hoa phú quý được chứ? Nếu làm như vậy, y tin rằng cho dù là Ấu Nương cũng sẽ khinh thường kẻ tướng công như y.

Hôm nay những kẻ bị chém là đại thần trong triều, vụ án lại hết sức ầm ĩ, nên đích thân thượng thư bộ Hình Hồng Chung, vị đại quan nhất phẩm triều đình, làm quan giám thị xử trảm. Nhìn thấy sắp đến chính ngọ, Hồng Chung rút cây bút son trên giá bút, đánh dấu lên thẻ có ghi chữ "chém" rồi ném thẳng xuống đất, hô:

- Đã đến giờ, chém!

Dương Lăng là đại nhân vật danh chấn kinh sư, dân gian lại bảo nhau vì xin cứu dân nên y mới phải chết thảm, cho nên có rất nhiều bá tánh đã đến tiễn biệt. Vừa nghe thấy tiếng "chém", đám đông bèn náo động một hồi. Bỗng một giọng nức nở kêu to:

- Tướng công!

Thân hình Dương Lăng run lên. Nhìn vào đám đông theo hướng tiếng kêu, y thấy Hàn Ấu Nương mặc toàn đồ trắng, bị binh sỹ cầm thương ngăn lại bên ngoài đám đông. Nàng đang giằng co muốn chui vào, bên cạnh là Cao Văn Tâm và Tuyết Lý Mai đang giúp nàng đẩy trường thương ra. Môi Dương Lăng run lên lập bập, giọng run rẩy:

- Ấu Nương...

Ngay lúc này, nước mắt y cũng trào ra. Ngây ngốc nhìn một hồi lâu, y mới nhắm mắt lại, quát lớn:

- Ấu Nương, về đi! Đừng xem ta bị chém đầu! Tuyết Nhi muội muội! Văn Tâm cô nương! Hãy giúp ta chăm sóc Ấu Nương chu đáo. Ấu Nương! Tướng công xin lỗi nàng, không thể bầu bạn với nàng trọn đời trọn kiếp nữa. Tướng công xin lỗi nàng...

Đoạn y ngửa mặt lên trời hét lớn:

- Nhưng tướng công cũng không thể lựa chọn, tướng công không thể vừa làm liệt sỹ vừa làm Thọ tinh (ông Thọ, chỉ kẻ sống lâu); không thể vừa làm quan lớn lại kiêm ẩn sỹ. Nàng và ta đến từ Kê Minh, tướng công biết dân chúng phải chịu cuộc sống cực khổ như thế nào. Tướng công không phụ với trời đất, lương tâm, chỉ là... đã làm khổ nàng rồi, Ấu Nương!

Dương Lăng đã cân nhắc rất kỹ. Trọng tội của y không ai có thể tha được, nhưng cái báu vật cất ở trong nhà ấy lại đủ để bảo vệ cho Ấu Nương không bị liên lụy. Hôm nay đóng thêm màn kịch này, thanh danh của vị quan tốt thương dân như con của y nhất định sẽ được lưu truyền, cho dù có người muốn rắp tâm sàm tấu hãm hại Ấu Nương, y cũng chẳng cần phải lo lắng nữa.

Hàn Ấu Nương nức nở:

- Tướng công! Chàng chưa từng có lỗi với thiếp, chàng là người đàn ông quang minh lỗi lạc. Đó mới là phu quân tốt trong lòng Ấu Nương!

Người dân bên cạnh thấy Ấu Nương bị chặn ở bên ngoài, lập tức nhao nhao la lên:

- Cho phép phu thê bọn họ thấy mặt một lần đi. Đại nhân, để phu thê người ta thấy mặt một lần đi mà!

Thấy quần chúng ồn ào, Hồng Chung sốt ruột quát:

- Chém! Lập tức chém! Chém hết bọn chúng!

Đao phủ mặc áo đỏ, phanh ngực hở bụng vác quỷ đầu đao bước lên đài, đến trước mặt bốn tử tội rồi quỳ một gối, cất giọng hết sức khách khí:

- Tiểu nhân ra mắt các ngài, thỉnh đại nhân về trời!

Đó là đặc quyền của quan lại, dân chúng bình thường không được đối đãi như vậy. Vừa nghe “lập tức xử trảm”, lòng Hàn Ấu Nương như có lửa đốt. Bất chấp quan binh ngăn trở, nàng vung hai tay chụp cây thương quấn tua đỏ trước mặt, co chân đá hai bên trái, phải. Hai quan binh bị đá trúng bắp đùi, lảo đảo lui về. Hàn Ấu Nương lập tức phóng về phía trước, búng chân nhảy lên đài cao, quỳ sụp xuống trước mặt Dương Lăng, ôm lấy y khóc nấc lên từng hồi.

Dương Lăng gượng cười bảo:

- Ấu Nương không khóc, đừng khóc, tướng công... tướng công...,

Giọng y run rẩy, không nói được thành lời.

Hồng Chung vừa sốt ruột vừa tức giận. Lão đứng phắt dậy, chỉa tay vào đám quan binh đứng cạnh, quát:

- Mau kéo người xuống cho ta, lập tức chém đầu!

- Khoan đã!-

Hàn Ấu Nương hét lớn, quỳ gối xoay người cất cao giọng:

- Tướng công nhà ta bị oan, xin đại nhân thăng đường xử lại! Tướng công nhà ta bị oan!

Nghê Khiêm nghe vậy lập tức gân cổ rống lên:

- Oan quá, oan quá! Ta bị tra tấn thê thảm nên phải nhận bừa. Ta bị oan mà!

Đới Nghĩa, Lý Đạc thấy có cơ hội, cũng vội vàng kêu la oan uổng. Dân chúng chung quanh nghe thấy thế bèn xôn xao một hồi, có kẻ lớn tiếng:

- Có người kêu oan, theo luật phải dừng hình phạt để tái thẩm!

Dương Lăng chỉ đành cười khổ, thấp giọng khuyên:

- Ấu Nương ngoan, người vợ đáng yêu của ta, đừng chọc giận đại nhân nữa. Chỉ khi nào nàng tiếp tục sống tốt, tướng công mới... mới có thể thanh thản ra đi.

Y không cho rằng việc bọn Lý Đạc kêu oan trên pháp trường sẽ thu được ích lợi gì. Ngay cả phương pháp bịt trám chỗ rò rỉ cũng đã bị Nghê Khiêm khai báo, Hoàng Đế chỉ cần sai người đào đất kiểm tra thì sẽ lập tức biết thật giả ngay. Lúc này mà kêu oan thì còn có tác dụng gì. Nhưng y lại không biết khi đã ngấp nghé bên bờ tử vong, cơn sợ hãi khủng khiếp sẽ khiến cho người ta cố hết sức tranh thủ tìm đủ mọi lý do để có thể kéo dài mạng sống.

Hồng Chung cười khẩy:

- Nét mực trên khẩu cung còn chưa khô, các ngươi đã muốn phản cung sao?

Quan giám ngục! Mang người lôi những kẻ gây náo loạn đi, kẻ nào còn dám càn quấy nữa thì bắt lấy cho ta. Lập tức hành hình!

- Ai dám giết tướng công ta?

Hàn Ấu Nương quỳ sát ngay bên Dương Lăng, nếu thanh đao của gã đao phủ đang giơ cao trên không trung mà vung xuống, Ấu Nương liền sẽ bị chém cùng với Dương Lăng ngay.

Hồng Chung giận đến tím mặt, ra lệnh cho quan bảo vệ hiện trường là tả thị lang bộ Hình Trình Văn Nghĩa:

- Ta phụng thánh chỉ giám sát xử trảm, kẻ nào ngăn cản sẽ chịu chung tội. Bắt lấy Dương Hàn Thị ngay cho ta!

Trình Văn Nghĩa vẫy tay, dẫn bốn tay đao thủ ngang nhiên bước lên đoạn đầu đài. Khi nãy gã đã thấy Hàn Ấu Nương xông vào pháp trường, búng một phát đã nhảy lên đài cao, biết người con gái này võ nghệ không tồi, cho nên phải dẫn theo bốn tay cao thủ của Lục Phiến môn (5).

Trình Văn Nghĩa cầm đao đến trước mặt Ấu Nương, cười nhạt bảo:

- Dương phu nhân! Mời phu nhân lập tức rời khỏi pháp trường, bản quan sẽ không truy cứu phu nhân tội quấy nhiễu. Bằng không... phu nhân biết hậu quả rồi đó!

Dương Lăng nóng lòng đến độ hai mắt trợn tròn. Y bị đao phủ đè vai không thể động đậy, đành chỉ cuống quýt dùng bả vai đẩy Ấu Nương đi, sốt ruột:

- Đi mau, đi mau, chết cùng ta thì có ích gì chứ? Ấu Nương, nàng đừng cố bướng nữa, Ấu Nương à!

Vẫn quỳ gối, Hàn Ấu Nương vòng tay ra sau lưng, rút từ trong chiếc túi to ra một cuộn giấy, hai tay cầm lấy giơ cao trên đầu rồi từ từ mở ra, bóng râm của tờ giấy che lên đầu nàng và Dương Lăng. Nàng trừng cặp mắt quật cường, cất cao giọng:

- Tướng công nhà ta bị oan, chàng bị bức cung mà nhận tội. Hôm nay trên pháp trường, dân nữ trình ngự trạng, chỉ cầu xin Hoàng Thượng xử lại. Nếu như dân nữ vu cáo, nguyện cùng phu quân chịu tội!

Trình Văn Nghĩa thấy nàng lấy ra một bức tranh sơn thuỷ, không khỏi thấy hơi lạ. Đến khi cuộn giấy hoàn toàn được giở ra, gã chăm chú nhìn kỹ, thấy bên phải lạc khoản (6) có đóng một dấu ấn nhỏ màu đỏ thắm, Trình Văn Nghĩa liền thất kinh. Gã lúng túng, hoảng hốt một hồi, rồi chợt quỳ "cộp" xuống đất, khấu đầu hô lớn:

- Vi thần Trình Văn Nghĩa, khấu kiến Ngô hoàng (7) vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!

Chú thích:

(1) Hồng Phất dạ bôn (tạm dịch Hồng Phất chạy trốn trong đêm) là một câu truyện kể về một người con gái. Nàng vốn là người của Dương Tố, một kẻ vô cùng giàu có. Về sau nàng gặp được Lý Tĩnh (sau là đại thần nhà Đường), một kẻ nghèo kiết xác, tiền đồ mờ mịt, nàng đã chọn y. Trong đêm tối nàng trốn ra ngoài cùng theo y chịu khổ, lang bạt, cuối cùng cũng đổi được một cuộc sống tốt đẹp.

(2) Lục Châu trụy lầu (tạm dịch Lục Châu nhảy lầu) là một câu truyện cổ kể về số phận một ca kỹ nổi danh thời Tấn. Tán kỵ thường thị Thạch Sùng trên đường đi sứ trở về thì gặp một đám cường đạo đánh cướp mẹ con Lục Châu. Sùng hạ lệnh cho quân sỹ đánh đuổi cường đạo, cứu mẹ con Lục Châu, đồng thời đưa Lục Châu về Lạc Dương. Tôn Tú là thuộc hạ của Phan Nhạc, theo Phan đi đón Sùng, thấy vẻ đẹp của Lục Châu sỗ sàng khen ngợi, bị mắng cho. Tôn thẹn quá hoá giận, nhờ vả Tư Mã Luân, rình cơ hội đoạt lấy Lục Châu. Tư Mã Luân muốn soán vị đã lâu, nhưng lại sợ Tư Mã Duẫn sẽ đối đầu với mình, nên sau đó dùng kế của Tôn Tú, giết chết Tư Mã Duẫn. Tôn Tú thừa cơ tấu lời sàm ngôn, giết chết Thạch Sùng, Phan Nhạc, rồi bao vây Kim Cốc viên, lùng bắt Lục Châu. Bị cưỡng ép, Lục Châu đã nhảy lầu tự tử.

(3) Lương Hồng Ngọc, người Sở Châu, Hoài An, sinh vào niên hiệu Sùng Ninh, đời Tống Huy Tông (1102), mất năm 1153. Nàng xuất thân trong một gia đình cả cha và ông nội đều là những võ tướng kiệt xuất của Đại Tống, vì dẹp loạn Phương Lạp thua trận nên bị tội chém đầu, khiến cảnh nhà lâm vào túng quẫn. Nàng phải bán thân, nhưng với tinh thần quật khởi, đã trở thành một nữ tướng duy nhất xuất thân từ kỹ nữ, thành phần được coi là thấp kém trong xã hội phong kiến. Nàng lấy chồng là Hàn Thế Tung, một danh tướng nhà Tống, cùng thời với Nhạc Phi.

Xem thêm:

http://tintuc.xalo.vn/00-400325269/T...anh_tuong.html

(4) Văn Thiên Tường (6/6/1236 - 9/1/1283), người Cát Châu, Lô Lăng (nay là huyện Cát An, Giang Tây), là anh hùng dân tộc Trung Hoa. Ban đầu có tên Vân Tôn, tự Thiên Tường, sau khi được tiến cử vào triều, đổi thành Thiên Tường, tên tự thành Lữ Thiện, sau khi đỗ trạng nguyên lại đổi tên tự thành Tống Thuỵ. Sau vì cư trú ở Văn Sơn, nên lại có hiệu là Phù Hưu đạo nhân. Văn Thiên Tường trung liệt danh truyền hậu thế. Sau khi ông bị bắt làm tù binh, Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt) lấy cao quan hậu lộc dụ dỗ khuyên hàng, Văn Thiên Tường thà chết không chịu khuất phục, ung dung chấp nhận hy sinh, được hậu thế khen ngợi. Ông cùng với Lục Tú Phu, Trương Thế Kiệt được sử Tàu xưng làm "Tống mạt tam kiệt" (ba bậc hào kiệt thời mạt Tống).

(5) Lục Phiến môn (nha môn cửa xanh) là một nha môn nằm gần cửa Tây trong thành Bắc Kinh phồn hoa, là nơi làm việc của các thư lại (quan đưa chuyển công văn). Tương truyền "Lục Phiến môn" được bộ Hình lập nên nhằm giải quyết các thế lực tàn dư và cường hào lục lâm, là trại huấn luyện bí mật, chuyên huấn luyện những thiếu niên khoẻ mạnh làm tay sai.

(6) Lạc khoản (trong thư pháp cũng gọi là khoản thức) là dòng chữ nhỏ để tên họ và ngày tháng ở trên các bức hoạ hay bức đối trướng.

(7) Ngô hoàng ở đây nghĩa "vua của chúng ta" chứ không phải là vua nước Ngô. Trong Hán ngữ, "Ngô hoàng" hay "Ngô vương" chỉ danh xưng của các vị hoàng đế phương Bắc nói chung. Có ý kiến cho rằng, vì người sáng lập ra triều đại nhà Minh, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, sau khi đánh chiếm Tập Khánh (Nam Kinh ngày nay), được Tiểu Minh vương Hàn Lâm Nhi tiến phong làm Ngô Quốc công, cho nên các vị vua triều Minh sau đó được gọi là Ngô hoàng. Dân ta khi xưa chống quân xâm lược phương Bắc cũng gọi chúng là giặc Ngô (ví dụ như Bình Ngô Đại Cáo). Chương một trăm linh một - Chiếu Chỉ Khám Lăng

------------------------

Trên kim điện, Hoàng Đế Chính Đức ngồi trên ngai vàng mà lòng dạ rối bời. “Lúc này chắc hẳn ở đầu chợ đã khai đao xử chém rồi thì phải?” Nghĩ đến đây, Chính Đức không khỏi cảm thấy phiền não.

Tiểu hoàng đế còn nhỏ, chưa có nhiều tâm cơ đế vương cho lắm. Cho nên y chỉ phản ứng đơn thuần về mặt tình cảm: y không thể nào chấp nhận được sự phản bội của Dương Lăng. Vừa nghe Dương Lăng cũng tham dự vào chuyện che giấu tin xấu về lăng tẩm của phụ hoàng mà y rất kính trọng, Chính Đức hận không thể tự tay giết chết gã bầy tôi mà y hết lòng đối đãi chân thành này.

Nhưng dù hận, y vẫn nhớ khi mình còn làm Thái Tử, rồi làm Hoàng Thượng, y luôn là một kẻ cô đơn, mãi cho đến khi Dương Lăng xuất hiện. Trong ánh mắt hắn nhìn y không có sự sợ hãi và nịnh nọt mà y thường thấy trên gương mặt của những kẻ khác, mà là một sự quan tâm chân thành. Do đó y cũng luôn coi Dương Lăng như một người bạn.

Nhưng... người bạn duy nhất của y lại đã phản bội y. Nghĩ đến đây, Chính Đức không nén được tiếng thở dài.

Ngự sử Lục Trọng Côn thấy Hoàng Đế không nghiêm túc nghe lão phát biểu, bèn cất cao giọng gọi lớn:

- Hoàng Thượng!

- Hả? Cái gì?

Chính Đức ngây người một chốc, thu lại ánh mắt lơ đễnh, ngạc nhiên nhìn lão ngôn quan ngự sử đã ê a dài dòng nửa ngày mà y vẫn chưa biết lão muốn nói cái gì.

Lục Trọng Côn cố nén giận, bẩm:

- Giờ đang là đại tang của Tiên đế, giỗ đầu (1) chưa lâu, mới bắt đầu kỷ nguyên của Hoàng Thượng, mà người đã ham mê lạc thú, thỉnh thoảng lại đến dự tảo triều muộn, ngọ triều thì trễ đến xế chiều; sinh hoạt vô thường, ăn ngủ trái bữa, khiến cho tinh thần bị tổn hao, hại lỡ chính sự. Đó không phải là việc làm của minh quân đâu. Thần nghe đêm qua mưa lớn sấm vang, đánh vỡ mỏ diều hâu (*) của điện Phụng Thiên và con thú trên nóc Thái Miếu, cây cối trong thành bị gãy hơn trăm gốc. Hoàng Thượng nên lấy cái tai hoạ do trời gây ra ấy mà cảnh tỉnh.

(*: vật trang trí hai đầu nóc nhà kiểu Trung Quốc)

Chính Đức thờ ơ đáp:

- Biết rồi! Trẫm đã phái Khâm Thiên giám nghiệm tính cát hung.

Lục Trọng Côn cảm khái:

- Hoàng Thượng! Chiếu theo thông lệ của triều trước, hễ gặp thiên địa kịch biến, đế vương phải giảm bữa bớt vui, hạ chiếu tự ngẫm. Hoàng Thượng nên lệnh cho bá quan văn võ dâng tấu thảo luận khuyên ngăn, chỉ điểm tệ nạn đương thời mới phải.

Hoàng Đế Chính Đức thoáng nhướng mày, thầm nổi giận trong lòng: "Thật là quá vô lý! Mưa to gió lớn thổi ngã vài gốc cây, sấm sét đánh vỡ mấy con thú đá trên mái điện cũng muốn nói vòng nói vo để trút lên đầu trẫm. Cái gì mà 'đó không phải là việc làm của minh quân' chứ! Chẳng lẽ ta là hôn quân sao?"

Nhưng đã là ngôn quan, nghĩa là có thể tấu mà không bị hạch tội; cho dù là cha y, vị hoàng đế Hoằng Trị mẫu mực ấy, cũng từng có lúc bị bọn ngự sử tấu đến chịu không nổi. Vì vậy Chính Đức đành nén giận, bảo:

- Vậy thì hạ chiếu, lệnh cho bá quan vào can gián đi!

Chính Đức ho một tiếng, nói tiếp:

- Các vị ái khanh! Hôm nay nghịch thần dối gạt chuyện Đế Lăng bị tươm nước đã bị giải đến pháp trường xử tử. Việc dời lăng của Tiên đế đã là chuyện bắt buộc. Có thể tháo dỡ một phần vật liệu từ chỗ cũ để xây dựng lại lăng mới, như thế ước tính hao tốn khoảng ba trăm vạn lượng. Trẫm muốn trưng thu thêm một chút thuế khóa, các vị ái khanh có kiến nghị gì để điều trần không?

"Quả nhiên là đến lúc rồi đây!" Ba vị đại học sỹ không khỏi đưa mắt nhìn nhau. Hôm qua sau khi Chính Đức rời khỏi ngọ triều, Từ Quán đã vào cung bẩm báo chuyện khâm phạm đã cung khai nhận tội. Trong cơn giận ngất trời, Hoành Đế Chính Đức đã hất đổ bàn ngự (ngự trác), la hét ỏm tỏi muốn lập tức nghiêm trị đám nghịch thần tặc tử này. Ba vị đại học sỹ biết tin liền biết rằng chuyện dời lăng của Tiên đế đã ngã ngũ. Nhưng phí tổn khổng lồ này sẽ lấy từ đâu ra?

Kẻ khác có thể không biết tường tận, nhưng bọn họ còn chẳng biết mấy năm nay vì thiên tai liên miên không ngớt, tài chính của Đại Minh đã túng quẫn đến mức nào ư? Còn bọn Vương Quỳnh, Từ Quán, Hồng Chung chỉ hô hào giữ gìn bảo vệ vận mệnh Đại Minh nhằm để cho địa vị lẫn quyền thế bọn chúng sẽ tăng thêm một bậc; còn những uy hiếp trực tiếp khác đến địa vị lẫn vương quyền, bọn họ chỉ xem là thứ yếu.

Không còn cách nào khác, Lý Đông Dương đành liều mạng bước ra khỏi hàng tâu:

- Hoàng thượng! Thu nhập hằng năm của triều đình là bốn trăm vạn lượng, vừa đủ chi tiêu. Lăng tẩm tiên đế đã dùng hết ba phần tư, bộ Hộ đã cạn kiệt tiền bạc gom góp bấy lâu. Nếu di dời Hoàng Lăng, tất phải gia tăng thuế khóa. Dân chúng sẽ không chịu nổi cái khổ đâu.

Chính Đức nghe thế cả giận gắt:

- Bách tích Đại Minh có ức vạn (trăm triệu) người, chỉ thu mỗi người thêm một phần thuế, khanh không cần phải buông lời doạ nạt như vậy!?

Lý Đông Dương vội bẩm:

- Hoàng Thượng bớt giận! Hoàng Thượng có điều không biết, những năm gần đây thiên tai liên tiếp, Hà Nam Hà Bắc bị lũ lụt gây họa, Cam Túc Thiểm Tây hạn hán không mưa, ngay cả ở Giang Nam giá gạo cũng đã rất đắt đỏ, khiến cho khắp nơi đạo tặc hoành hành. May vì Tiên đế nhân từ, lấy thuế thấp nuôi dân, yêu thương dân chúng, trăm họ mới có thể miễn cưỡng vượt qua khó khăn. Nhưng dân chúng ở những vùng đất nghèo khổ đã phải mỗi ngày chỉ một bữa sống lay lắt qua ngày, nếu tăng thêm thuế má, sợ rằng sẽ gây nên biến loạn.

Lý Đông Dương chỉ lo Chính Đức không nghe lời khuyên can, gấp đến độ toát cả mồ hôi. Nếu không phải vì thời đó Đại Minh còn chưa biết đến truyện ngụ ngôn "Cọng rơm cuối cùng làm gãy lưng con lạc đà", lão cũng sẽ bắt chước Tiêu Phương đi đường vòng khuyên nhủ rồi.

Tạ Thiên lập tức bước ra tâu:

- Hoàng Thượng! Hôm nay rợ Miêu không ngừng nổi loạn gây hại cho hậu phương. Thát Đát đang vì Tiên đế về trời mà đang lom lom nhìn ngó Đại Minh chúng ta như hổ đói. Trong nước tổn hao, lũ lụt hạn hán dồn dập, dự trữ biên phòng thiếu hụt, thật sự không thể gây thêm tai hoạ nữa đâu.

Chính Đức đập bàn đánh "chát", quát:

- Thái Lăng không tốt, chẳng lẽ muốn Tiên đế vẫn an táng ở nơi đó ư? Hay đường đường là thiên tử Đại Minh ta lại phải nằm lại trong áo quan cả chục năm không thể nhập thổ an nghỉ, chờ cho dân chúng nghỉ ngơi lấy lại sức sao?

Uy danh Hoằng Trị trong đám quần thần cực cao, Chính Đức lại dùng tôn nghiêm của đế vương và đạo hiếu của người làm con mà lý sự, nên mặc dù trong quần thần có khối người phản đối tăng thuế nhưng nhất thời cũng đành cứng họng.

Dưới điện im lặng một hồi lâu, Lưu Kiện hiên ngang bước ra khỏi hàng, quỳ phục xuống đất tâu:

- Thần liều chết nói thẳng! Hoàng Thượng ở trong cung rộng rèm xinh có hay dân đen nhà củi lều tranh khó chống được bão giông? Hoàng thượng ăn ngon mặc đẹp, có hay dân đen cơm không đủ ăn, áo không đủ ấm? Tiên đế được khâm liệm về lăng, nghi lễ có định chế, bầy tôi như thần nào dám xem nhẹ. Thế nhưng việc cũng phân nặng, nhẹ, gấp rút và thư thả. Mạnh Tử nói: ”Dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc giang sơn vi trọng (*)”, Đại Minh giữ nước là thuận theo thiên mệnh, thiên mệnh tức là bách tính. Đại Minh thuận theo thiên mệnh thì thuật phong thủy cỏn con sao đáng để e dè. Xây dựng Thái Lăng đã hao tốn của cải quốc gia, sao có thể dễ dàng nói hủy là hủy? Tiên đế nhân đức yêu thương con dân, tin rằng Tiên đế trên trời có linh, cũng sẽ xem trọng nhân dân chứ không xem nặng phong thuỷ. Cúi mong bệ hạ suy nghĩ kỹ lại.

(*: nguyên văn "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" nghĩa là, trong một nước quý trọng nhất là dân, kế đó là đất đai và lúa gạo (xã tắc), còn vua thì chỉ được xem nhẹ. Bởi do vua là do dân đặt ra chứ không phải vua đặt ra dân.)

Nói rồi Lưu Kiện úp mặt quỳ sấp tại chỗ. Lời của lão tuy rằng rất khách khí, thật ra cũng không ngoài việc nói bách tính mới là gốc rễ của xã tắc giang sơn, thuyết phong thủy là vô căn cứ, không thật. Còn về phần Tiên đế thì cứ an táng ở Thái Lăng là được rồi, đừng phung phí tiền bạc một cách mù quáng.

Trên kim điện, văn võ bá quan nghe vậy đều nín thở. Cái tính nết mưa nắng thất thường của vị tiểu hoàng đế này bọn họ đã sớm thưởng thức qua. Nếu như y nổi giận, kêu người lôi Lưu đại học sỹ xuống đình trượng (phạt gậy)(*), không phải ông già cao tuổi như vậy sẽ bị đánh chết tươi sao?

(*: đình là triều đình, trượng là gậy dùng để đánh người. Phàm là chuyện ở trong cung thì gọi là đình, như đình nghị, đình đối)

Bọn người Vương Quỳnh, Từ Quán có lòng ra mặt tranh luận giùm Chính Đức, nhưng dân gian đã xôn xao truyền miệng tin triều đình tăng thuế rồi, hơn nữa còn chỉ thẳng chính là do bọn họ sàm tấu, thành thử danh tiếng của bọn họ đã sa sút lắm rồi. Lúc này bọn họ ra mặt há chẳng phải xác nhận chuyện xấu đó sao? Thế là bọn họ cũng không dám bước lên phát ngôn bừa bãi.

Chính Đức nhìn ngó một hồi, thấy văn võ bá quan không ai ra mặt phụ họa tán đồng y, không ngờ y lại cảm thấy vừa bực vừa buồn cười: “Cái đám đại thần chết tiệt này! Hôm qua còn ông ổng bảo vừa là ảnh hưởng đến quốc vận vừa tổn hại cho hạnh phúc mai sau. Thế mà hôm nay ba vị đại học sỹ vừa lấy nhân dân ra ngăn cản thì không có lấy một người giúp ta. Rốt cuộc các ngươi là trung quân hay là yêu quý cái danh tiếng của bản thân các ngươi?”

Chính Đức đang chống hai tay lên ngự án, bất chợt đứng thẳng dậy chỉ vào Lưu Kiện, vừa định mở miệng nói, bỗng nhiên tướng quân giữ điện hối hả chạy vào, quỳ xuống hô to:

- Khải tấu Hoàng Thượng! Thượng thư bộ Hình Hồng Chung cho người phi ngựa về báo. Người vợ của phạm quan (quan phạm tội) Dương Lăng là Hàn thị xông vào pháp trường, tay cầm tranh vẽ của Tiên đế che trên đầu phạm quan Dương Lăng. Hồng Chung không dám tự ý hành hình, sợ tổn hại đến di vật của Tiên đế. Khẩn xin Hoàng Thượng định đoạt!

Bá quan bèn rào rào sôi nổi bàn tán. Có lẽ vì những buổi họp triều hằng ngày quá khô khan nhàm chán, cho nên vừa nghe tin vợ của Dương Lăng cầm tranh vẽ của Tiên đế xông vào pháp trường cứu chồng, văn võ bá quan liền như uống phải thuốc kích thích.

Đang quỳ sấp mặt ở dưới đất, Lưu Kiện nghe vậy cũng không khỏi mừng rỡ. Lão to gan nói thẳng, thật ra trong lòng cũng thấp tha thấp thỏm, tin vừa rồi đánh lạc sự chú ý của Chính Đức, lão sẽ không bị sao nữa. Lưu Kiện thầm thở phào, đưa ống tay áo lên lau mồ hôi lạnh trên trán.

Chính Đức nghe vậy thì đứng ngây tại chỗ, một lúc lâu mới lẩm bẩm lặp lại:

- Ngươi nói Ấu Nương, vợ của Dương Lăng xông vào pháp trường? Nàng cầm thủ bút của phụ hoàng đã ban thưởng cho nhà họ Dương từ đời nào rồi à? Trên đó vẽ gì?

Y lẩm bẩm với bản thân, âm thanh rất nhỏ, chỉ có tiểu thái giám ở trước bàn nghe được. Nhưng chưa được Chính Đức ra hiệu, hắn cũng không dám lớn tiếng hỏi thay cho y.

Chính Đức ngây người một hồi, rồi bắt đầu chậm rãi cất bước đi lại trên bệ rồng. Tất cả bá quan chăm chú dõi theo động tác của y, thấy Chính Đức lúc thì nghiến răng nghiến lợi, lúc thì lại ngơ ngẩn xuất thần. Mãi một lúc sau y mới quát:

- Truyền dụ! Sai Ngự mã giám Trương Vĩnh đến đó tra hỏi trước, thu hồi thủ bút của Tiên đế đưa cho trẫm xem. Bãi triều!

Ở đầu chợ, Hồng Chung hổn hà hổn hển đi đi lại lại trên đài hành hình. Mặt trời hừng hực trên cao, chói loà, nhưng lão vẫn không nhận ra mặt mình đã đầm đìa mồ hôi. Tuy vật mà Ấu Nương cầm không phải là thánh chỉ, và bức thư họa đó cũng không hề liên can gì đến vụ án này, nhưng đó chính là bức họa do tự tay Tiên đế vẽ. Ở trước mặt bao người, cướp thì không cướp được, làm hư hại cũng không xong, lão đành phải đực mặt đứng ở đây.

Chợt lão giậm chân quát:

- Hàn thị! Ngươi nghĩ kỹ đi, xông vào pháp trường cản trở hành hình chính là tội chém đầu. Chồng ngươi Dương Lăng vi phạm pháp lệnh, khi quân phạm thượng, là kẻ ác không thể dung tha. Hoàng Thượng chỉ giết một mình hắn là đã quá khai ân rồi. Ngươi tuổi hãy còn nhỏ, chẳng lẽ không tiếc mạng sao?

Đã nâng bức thư họa đến mỏi nhừ cả tay, Hàn Ấu Nương ngẩng đầu liếc xéo Hồng Chung rồi bảo:

- Ông không phải là người tốt!

- Cái gì?

Hồng Chung kinh ngạc sửng sốt, giận dữ quát:

- Dương Hàn thị, ngươi dám phỉ báng mệnh quan triều đình ư?

Hàn Ấu Nương quật lại:

- Tướng công ta là một nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất, là vị quan tốt vì nước vì dân. Ông nói tướng công ta không phải là người tốt, vậy ông nhất định không phải là người tốt.

Dân chúng bu quanh xem náo nhiệt phần lớn là những kẻ quanh năm nghèo khổ, dựng sạp buôn bán sống qua ngày, vì chuyện tăng thuế nên đã hận mấy người Hồng Chung đến thấu xương, vừa nghe Hàn Ấu Nương nói vậy lập tức đồng loạt reo hò. Có kẻ lớn mật còn chen vào trong đám đông thừa cơ chửi lão ta, khiến Hồng Chung giận đến tím mặt.

Lão phất ống tay áo hầm hầm:

- Chỉ là đám tiểu nhân và đàn bà khó dạy, lão phu không thèm so đo với ngươi!

Hồng Chung giận đến líu lưỡi. Ngay vào lúc này, một người cưỡi khoái mã phi đến pháp trường, kỵ mã vận trang phục thái giám trong cung. Khoái mã chạy theo thông đạo tạo bởi hai sợi dây thừng bện bằng cỏ đến trước đài. Không ngờ lúc phóng người xuống ngựa, thân thủ người đó lại rất mạnh mẽ.

Dương Lăng biết Chính Đức có tình cảm quấn quýt như trẻ con quấn chị với Ấu Nương, vốn nghĩ rằng Chính Đức sẽ không vì chuyện của mình mà trút giận sang nàng. Nếu vẫn không ăn thua thì với tình cảm của Chính Đức đối với Tiên đế, khi thấy bức thư hoạ đó thì hắn cũng sẽ bỏ qua cho nàng. Nhưng hôm nay nàng đã gây ra chuyện náo loạn pháp trường, Dương Lăng thật không đoán được với tính nết bốc đồng, mưa nắng thất thường của hắn thì Chính Đức sẽ xử trí như thế nào.

Lúc này vừa thấy khoái mã trong cung chạy đến, tinh thần của y không khỏi phấn chấn hẳn lên. Hàn Ấu Nương cũng tròn mắt, căng thẳng dõi theo người vừa đến. Bốn bề tĩnh lặng, Trương Vĩnh phi thân xuống ngựa, bước lên đoạn đầu đài cao nửa thân người. Dương Lăng nhận ra lão, buột miệng gọi:

- Trương công công!

Trương Vĩnh bước đến gần nhưng không đáp lời Dương Lăng. Lão ra vẻ nhìn chăm chú bức thư hoạ một hồi, rồi cũng quỳ xuống đất cung kính bái lạy một lúc. Hồng Chung và Trình Văn Nghĩa trố mắt nhìn lão thong thả thi lễ xong xuôi, Hồng Chung mới không nhịn được bèn hỏi:

- Vị công công này, xin hỏi Hoàng Thượng có gì căn dặn?

Lúc này Trương Vĩnh đã gia nhập Ngự mã giám, chỉ huy Tả Tương mã, là một trong tứ đại thủ lĩnh dưới trướng Miêu Quỳ, chỉ là vẫn chưa có duyên gia nhập vào Tây Xưởng, lực lượng trung tâm của Miêu Quỳ. Nhưng thân phận và địa vị lão đã khác xa lúc trước, nói chuyện trước mặt Hồng thượng thư cũng có vài phần tự tin. Nghe Hồng Chung ra vẻ bề trên, Trương Vĩnh mỉm cười đáp:

- Đại nhân yên tâm chớ nóng! Chúng ta phụng thánh dụ hỏi Dương Hàn Thị mấy lời.

Nói rồi lão bước lên một bước, điềm đạm hỏi Ấu Nương:

- Dương Hàn Thị! Hoàng Thượng hỏi ngươi: Dương Lăng phạm tội khi quân phạm thượng, lý nên xử chém, ngươi thân phận nữ lưu lại xông vào pháp trường là muốn làm gì?” (TJ: là để cứu chồng bà, rõ thế mà cũng hỏi?!)

Hàn Ấu Nương phản đối:

- Tướng công ta bị nhục hình mà nhận, xin Hoàng Thượng hãy cho về xét xử lại.

Trương Vĩnh gật gù nói:

- Hiểu rồi! Các ngươi đợi đi, bức thư hoạ này của Tiên đế, ta muốn thỉnh về kinh đưa cho Hoàng Thượng xem qua. Dương Hàn Thị, xin hãy đưa bức thư hoạ đó cho ta.

Vốn Hàn Ấu Nương dựa cả vào bức thư hoạ này mới tạm thời bảo vệ được tướng công, nghe Trương Vĩnh nói vậy thì không khỏi chần chừ. Trương Vĩnh cười ha hả nói:

- Dương Hàn Thị! Ta đang phụng ý chỉ của Hoàng Thượng, chẳng lẽ còn có thể gạt ngươi sao?

Dương Lăng bèn trấn an nàng:

- Ấu Nương! Giao bức tranh vẽ của Tiên đế cho Trương công công đi, không cần phải hoài nghi.

Nghe y nói vậy, Hàn Ấu Nương mới nâng cao hai tay, cung kính dâng bức thư họa lên. Trương Vĩnh cẩn thận nhận lấy bức thư họa đã được bồi giấy trang trọng, cuộn lại, nhét chéo vào trong ngực rồi quay lại thượng thư Hồng Chung:

- Hồng đại nhân! Hoàng Thượng có khẩu dụ tạm thời đình chỉ hành hình, ở pháp trường chờ lệnh!

Nói đoạn lão xoay người bước xuống đài, nhảy lên ngựa phóng băng băng.

Trong điện Bảo Hoà, Chính Đức cầm bức vẽ nhẩm đọc: "Cây tùng trăm trượng um tùm, dẫu rằng sần sùi xấu xí, nhưng là vật liệu chính để xây nhà to." ("Sâm sâm bách trượng tùng, tuy lỗi kha đa tiết, dụng chi đại hạ, chung thị đống lương chi tài.")

Chính Đức đọc xong liền giận dữ đập bàn:

- Phụ hoàng! Người nghĩ rằng Dương Lăng lỗi nhỏ, trông đợi vào y rất nhiều. Thế nhưng hôm nay y phạm đại tội, còn có thể xem là một chút lỗi vặt sao?

Trương Vĩnh chợt đảo khoé mắt. Lão cẩn thận quan sát vẻ mặt Chính Đức rồi bẩm:

- Hoàng Thượng! Nô tài ngu dốt, nghĩ mãi không thông. Hoàng Thượng tín nhiệm Dương Lăng có thừa, tên Dương Lăng này có thể nói là tiền đồ như gấm, cớ gì chỉ đi xây lăng vỏn vẹn có mấy ngày mà đã ngu ngốc phạm vào tội lớn tày trời như vậy? Nô tài ít học, nhưng cũng biết nếu một kẻ phạm tội, thì nhất định là do kẻ ấy hám lợi. Nếu là tội khi quân thì món lợi càng phải lớn. Vậy thứ Dương Lăng mưu cầu chính là cái gì chứ?

Chính Đức chợt đổi sắc mặt, quay đầu nhìn lão nói:

- Lão Trương! Có gì thì nói, không cần quanh co với trẫm. Có phải khanh nói Dương Lăng không có lý do gì để khi quân?

Trương Vĩnh cười hùa đáp:

- Lão nô thật sự không dám nói như vậy. Có điều theo lý mà nói, cho dù công trình xây lăng có món lợi để y mưu cầu, cũng không thể tốt bằng đứng ra tố cáo chuyện này. Dương Lăng sao lại ngu xuẩn đến như vậy, lão nô thật nghĩ không thông.

Chính Đức hừ lớn một tiếng, nói:

- Có nhân chứng ở lăng chính miệng làm chứng, còn có những kẻ khác biết sự tình bị chết một cách kỳ lạ, như vậy vẫn chưa đủ để chứng minh sao? Huống chi bọn họ cũng đã nhận tội rồi.

Trương Vĩnh cười nịnh lấy lòng:

- Đúng đúng đúng! Cho nên lão nô mới nói mình ngu dốt. Kể ra mấy kẻ bọn họ thật chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, khi bị bắt giải về kinh không chịu nhận tội để bị phạt cho xong, phải đợi đến lúc bị dùng đến đại hình (tra tấn nặng) mới khai. Đấy chẳng phải là đê tiện sao?

Chính Đức nghe lão vẫn có hàm ý bọn Dương Lăng vì bị bức cung nên nhận tội, bèn quay sang liếc lão một cái. Đoạn y lại quay về xem xét tỉ mỉ bức thư hoạ của phụ hoàng thật lâu, nhớ lại lời ngày đó phụ hoàng đã nắm tay y dặn dò: "Hoàng nhi! Trong triều toàn là các vị lão thần, không thể trợ tá hoàng nhi cả đời. Dương Lăng là người trọng tình trọng nghĩa, có cái nhìn rất độc đáo về chính trị lẫn quân sự. Tôi luyện thật kỹ một phen, không chừng y sẽ có thể trở thành bề tôi đắc lực cho con đó.”

Chính Đức nhớ đến đây, cảm thấy nụ cười và dáng điệu của phụ hoàng tựa như đang ở trước mặt, liền không kềm nén nổi đau thương. Y lưỡng lự một hồi lâu rồi mới bảo:

- Đáng tiếc Kim Tỉnh ở Đế Lăng không thể tùy tiện động thổ. Bằng không trẫm thật muốn sai người đến khảo sát qua, xem thử Dương Lăng có thật sự đã lừa gạt trẫm hay không.

Trương Vĩnh vừa nghe liền bẩm ngay:

- Hoàng Thượng! Đúng là Thái Lăng vốn không thể tuỳ tiện động thổ, nhưng nay Hoàng Thượng muốn dời lăng, vậy là bỏ nơi đó rồi. Đừng nói là khảo sát một chút thôi, cho dù là khai quật mọi thứ lên cũng chẳng hề gì. Chi bằng Hoàng Thượng hãy phái người đi xem xét một chút; nếu chứng cứ xác thực, thì trong triều trên dưới cũng sẽ không ai có ý kiến gì nữa. Nếu như không có vấn đề gì, nếu phong thủy ở đó chưa từng bị phá hủy, mà chỉ mới động chạm một chút, không chừng mọi người sẽ nghĩ được một biện pháp nho nhỏ liền có thể tu bổ lại, vẫn có thể tiếp tục dùng làm Đế lăng. Lúc đó, Hoàng Thượng cũng sẽ không cần phải ra lệnh tăng thuế khiến cho bá quan khó xử nữa.

Chính Đức vừa nghe xong bất chợt vỗ trán, buột miệng:

- Đúng thật! Trẫm cứ mãi nhớ là nơi đó không thể động thổ, lại quên mất bây giờ không giống khi trước nữa. Trương Vĩnh! Khanh hãy mau đi truyền chỉ áp giải đám người Dương Lăng trở về thiên lao, trẫm phải sai người thân cận đến Thái Lăng xét nghiệm.

Chính Đức nói xong cảm thấy vô cùng thích chí. Hôm nay trên triều ba vị Cố mệnh lão thần cùng lên tiếng phản đối, phê phán việc tăng thuế một cách nghiêm trọng như vậy, Chính Đức vẫn chưa thật sự có gan áp chế Tam công, cưỡng ép ban chỉ. Hơn nữa đã thấy nét bút của phụ hoàng, lại nghe được lời của Trương Vĩnh, trong lòng y cũng bắt đầu hoài nghi. Nếu thật quả như lời Trương Vĩnh nói, há chẳng phải cả nhà sẽ đều vui ư?

- Lão nô tuân chỉ!

Trương Vĩnh cười hì hì đáp lời, rồi xoay người vội vàng đi ra.

Lão vừa bước ra khỏi cửa liền thấy mấy vị đại thần Lưu Kiện, Tạ Thiên, Từ Quán, Tiêu Phương, Lưu Vũ, Dương Phương đi đến điện Bảo Hoà. Vì vội đi truyền chỉ nên Trương Vĩnh cũng không quan tâm nhiều đến bọn họ, vẫn vội vã bước đi.

Lý Đông Dương và Tạ Thiên đến là vì việc trưng thuế. Có vài lời không tiện nói thẳng trên triều nên cả hai muốn đến hậu điện lý luận kỹ thêm với Hoàng Đế. Còn đám người Từ Quán thì lại đến để khuyên Hoàng Đế tăng thuế. Có điều bọn họ đã nghĩ ra một biện pháp dung hoà, đó là trưng thu thuế theo vùng, vùng nghèo thì tăng thuế ít, vùng giàu có thì tăng nhiều. Như vậy, thuế má của vùng giàu có năm nay sẽ phải tăng gấp đôi, nhưng vùng nghèo chỉ tăng ba phần. Mặc dù vẫn sẽ gây ra tiếng oán than, song chỉ là sẽ làm cho vùng giàu nghèo đi, vùng nghèo nghèo thêm, biện pháp này dù sao vẫn tốt hơn là tăng thuế đều khắp cả nước.

Không ngờ bọn họ vừa mới bước vào điện, Chính Đức đã vui vẻ bảo:

- Các vị ái khanh đến thật tốt! Trẫm đang muốn sai người đi đến Thái Lăng khám nghiệm, để thẩm tra xem có phải đám người Dương Lăng đã khi quân phạm thượng hay không. Các khanh thấy phái ai đi thì ổn?

Vị tiểu hoàng đế này luôn có những ý nghĩ kỳ quặc quái đản, mỗi khi có một ý tưởng gì thì chỉ làm được một nửa liền vất qua một bên để làm cái khác, những đại thần này sớm đã quen rồi. Tuy rằng đám lão thần này vẫn chưa bắt kịp lối tư duy của Chính Đức, nhưng cũng đã có thể tùy cơ ứng biến, điềm tĩnh giải quyết rồi.

Lý Đông Dương thoáng ngây ra rồi lập tức nói ngay:

- Thần tình nguyện đến Thái Lăng một chuyến.

Từ Quán biết lão phản đối tăng thuế, còn nghe Vương Quỳnh kể lão ta từng trực ngôn phản đối, bảo vệ Dương Lăng ở trước mặt vua Hoằng Trị; lão già này lại không tin phong thủy, không chừng sẽ vì tư tâm mà gỡ tội cho Dương Lăng. Vì vậy Từ Quán liền lập tức lên tiếng phản đối:

- Không được! Đường đường là đại học sỹ đương triều lại đi làm quan khám nghiệm sao?

Tạ Thiên phản bác:

- Từ thượng thư nói vậy là sai rồi! Chuyện của Thái Lăng, cho dù chúng ta không bàn đến phong thủy, nhưng lúc này liên quan đến việc tăng thuế cũng thật sự đã là chuyện can hệ đến vận mệnh quốc gia. Đó là chuyện trọng đại cỡ nào chứ? Lão thần cũng muốn xin Hoàng Thượng cho phép được đi.

Từ Quán là người tố cáo vụ án Đế Lăng thấm nước, để tránh hiềm nghi, đương nhiên lão không thể xin đi khám nghiệm được. Lão sốt ruột, vội nói:

- Đã là như vậy, chuyện này càng phải nên cẩn thận. Theo lão thần thấy, Hoàng Thượng nên tuyển chọn những triều thần không hề có lợi ích và thiệt hại gì với vụ án này đi đến đó mới ổn thoả.

Tiêu Phương bèn hỏi:

- Vậy theo Từ thượng thư, chúng ta nên cử ai đi?

Từ Quán thoáng trầm ngâm rồi bảo:

- Không bằng như vầy: Chọn một vị huân thích (hoàng thân quốc thích có công lao), một vị triều thần, một vị Hàn Lâm. Ba người cùng đi, lấy đất về đối chiếu với đất Kim Tỉnh mà bộ Lễ đã niêm phong cất giữ, có nhầm lẫn hay không liếc mắt sẽ thấy ngay. Ba bên kiềm chế giám sát lẫn nhau, cũng hết sức công bằng.

Lão tin chắc rằng Kim Tỉnh đã bị người động tay động chân, cho nên không chút lo sợ. Trong ba người được đề cử, một người là bầy tôi trong triều, một người là huân thích chỉ có công danh lợi lộc mà không hề có thực quyền, một người là quan dự khuyết, chưa từng can dự triều chính, nên đương nhiên là thoả đáng nhất.

Dương Phương nghe vậy cười nói:

- Đã như vậy, thần xin đề cử Thành quốc công Chu Cương. Quốc công tuổi cao đức trọng, công chánh vô tư, đã là huân khanh, lại là quốc thích, có thể nói là nhân tuyển thích hợp nhất.

Hoàng Đế Hiến Tông từng nạp con gái của Thành quốc công làm phi, cho nên Dương Phương mới nói như vậy.

Tiêu Phương rất có hảo cảm với Dương Lăng, mà kẻ muốn "hạ" Dương Lăng lại là Vương Quỳnh, tử thù của lão, nên hiển nhiên lão rất muốn bênh vực Dương Lăng. Có điều Tiêu Phương không dám mạo hiểm tiến cử chính bản thân. Lão chợt nhớ khi Dương Lăng chờ xét xử tội kháng chỉ, từng có một sỹ tử thi Hội viết một bài văn chương gấm vóc lên tiếng ủng hộ y. Đại thần trong triều biết chuyện này không nhiều, nhưng Tiêu Phương thích nhất là sưu tập những bài kỳ văn chốn phường chợ, nên lại biết rất rõ việc này. Tiêu Phương thầm nghĩ: "Sỹ tử này chắc hẳn là có chút giao tình với Dương Lăng. Nay hắn đã được vào Hàn Lâm Viện, tuy chưa chắc hắn sẽ chịu xả thân vì Dương Lăng, nhưng đến lúc xét nghiệm Kim Tỉnh ở Đế Lăng, chỉ cần hắn có thể tiện tay làm qua loa, nhất định sẽ tạo thuận lợi cho Dương Lăng.”

Nghĩ vậy Tiêu Phương vội tâu:

- Thần xin tiến cử Nghiêm Tung. Người này là tân khoa tiến sỹ năm nay, đã trúng tuyển làm Thứ cát sỹ Hàn Lâm Viện. Người này tài văn xuất chúng, lại đỗ đạt tiến sỹ tân khoa, chưa từng bước chân vào triều đình, có thể làm Khâm sai.

Chính Đức gật đầu nói:

- Được, vậy là hai người này đã được xác định. Còn trong các triều thần sẽ cử ai đi đây?

Mọi người đưa mắt nhìn nhau, nhất thời không ai dám lên tiếng. Sau khi tân đế đăng cơ, vụ án này đã trở thành võ đài để Lục Bộ thậm chí là Tam Công phân phối lại quyền lực và đấu đá lẫn nhau. Chỉ cần nhúng tay vào nhất định sẽ đắc tội với một bên, ai dám tùy tiện trả lời chứ?

Chính Đức thấy không ai lên tiếng, bèn nhìn vào từng người một. Bộ Lễ, Bộ Công, Bộ Hình, mấy nha môn này đều có liên quan đến vụ án, không dùng được. Chính Đức lắc đầu. Đột nhiên y nhìn thấy Thị lang bộ Binh Trần Hồng Mạc, bèn mừng rỡ nói:

- Bộ Binh không hề có liên can đến vụ án này, đại thần trong triều hãy do Trần khanh đại diện vậy.

Trần Hồng Mạc vừa nghe liền giật thót mình, lão nào có thể nhận nhiệm vụ làm kẻ đắc tội người ta này chứ. Lão cuống quýt thoái thác:

- Thần tạ ơn Hoàng Thượng tin cậy! Nhưng thần không dám giấu, tiến sỹ Khâm Thiên giám Hoa Phó là thân nhân của vi thần, mà vụ án này lại liên quan đến Khâm Thiên giám, thần nên lánh đi để tránh hiềm nghi mới phải.

Lão thấy Chính Đức lộ vẻ không vui, vội vàng nói thêm:

- Tuy nhiên vi thần xin tiến cử một người. Người này cũng là quan viên bộ Binh, thường ngày rất là cẩn trọng, hơn nữa hoàn toàn không có liên can gì đến vụ án này. Chỉ là quan chức hơi thấp kém một chút.

Chính Đức sốt ruột gắt:

- Trẫm muốn phái người đi, chỉ là muốn tìm vài người không liên can đến vụ án này để giúp trẫm kiểm tra rõ ràng mà thôi. Quan chức lớn hay nhỏ chẳng sao, người khanh nói là ai?

Trần Hồng Mạc vội đáp:

- Chủ sự bộ Binh Vương Thủ Nhân. Người này xưa nay có tiếng là người hiền, có thể đảm nhận trọng trách!

Chương một trăm linh hai - Dương Minh Giấu Trời (1)

------------------------

Lý Đông Dương rảo bước ra khỏi cửa điện. Vừa chui vào trong kiệu, lão lập tức vén rèm, gọi một gia nhân lớn tuổi đi cùng lại, bảo:

- Nhanh, đến bộ Lễ một chuyến, mời Vương Hoa Thị lang đại nhân đến phủ của ta uống rượu thi thơ.

Thị lang bộ Lễ Vương Hoa, cha của Chủ sự bộ Binh Vương Thủ Nhân, là Trạng nguyên Thành Hoá năm Tân Sửu, là Thị giảng học sỹ Đông Cung thời tiên đế Hoằng Trị còn làm Thái tử, danh tiếng và địa vị không hề thua kém Vương Quỳnh.

Nếu không phải gặp lúc chiến sự thì bộ Binh là nha môn nhàn nhã nhất trong Lục Bộ. Ty phủ khố (đơn vị quản lý ngân khố một phủ) nằm ở dãy nhà thứ hai phía tây. Ngày hè hừng hực nắng, đóng cửa sổ thì không khí ngột ngạt oi bức thở không ra hơi, mở cửa sổ thì mặt trời lại chói chang gay gắt; rất nhiều sỹ tốt, tạp dịch đã trốn ra khỏi phòng, ngồi trên hành lang dưới mái hiên phe phẩy quạt hương bồ (*) tán gẫu. (*: loại quạt làm bằng lá cây hương bồ; quạt tròn dẹt, giống như cây mà Tế Công cầm.)

Một tên dịch tốt chỉ mặc áo cộc đang văng nước miếng tứ tung kể về cái việc lạ lùng xảy ra ở đầu chợ ngày hôm nay:

- Nghe nói Dương đại nhân của Thần Cơ doanh là con cháu của Dương gia tướng trung thần Bắc Tống đó. Phải nói con gái nhà họ Dương này còn lợi hại hơn cả đàn ông. Đoạn đầu đài cao bằng thân ngựa, ở ngoài một trượng còn ngăn bởi dây thừng, thế mà vị Dương phu nhân này chân đạp tiễn bộ thoắt một cái đã nhảy lên trên đài rồi, nhẹ nhàng hơn cả một con báo nữa. Hồng Thượng thư cả giận, đích thân lên đài sai chém. Hây! Dương phu nhân nọ liền mở một bức vẽ, là bức vẽ mà Hoằng Trị Hoàng thượng tự mình đề bút, kê trên đầu trượng phu. Đó là đồ vật do tiên hoàng ban thưởng, bất luận ngươi là vương hầu công khanh, đã có phúc trông thấy đều phải cung cung kính kính dập đầu, ai dám chém chứ? Cứ như vậy, bốn gã đao phủ đành giương mắt ếch ra mà nhìn.

Một tên binh sỹ nghe thấy thú vị bèn chen miệng vào, hỏi:

- Ồ, nhưng mấy vị đại nhân khác đâu có mặc bảo (bức vẽ thư pháp) hộ thân, Dương phu nhân lại không bảo vệ bọn họ, tại sao không chém họ trước nhỉ?

Gã hán tử mặc áo cộc trợn mắt lên, nói:

- Ngươi nói coi? Đó là vì sợ vô lễ với mặc bảo của tiên đế. Đâu phải là hạ thánh chỉ đặc xá cho một mình Dương đại nhân đâu, ai dám một bên nặng một bên nhẹ, chém một nửa chừa lại một nửa chứ? Người nhà của mấy phạm quan khác sẽ chịu bỏ qua sao? Người trong thiên hạ sẽ nghĩ như thế nào? Thượng thư bộ Hình còn không mất sạch mặt mũi à?

Bị quở trách một trận, binh sỹ kia đành ngượng ngập cười trừ không nói nữa. Bọn họ ngồi quanh một chiếc bàn vuông nhỏ, trên bàn đặt một ấm trà lớn và sáu bảy bát trà. Hán tử nọ nói đến chỗ cao hứng, bê một bát trà lên nốc ừng ực mấy ngụm mới phát hiện ra là mình đã cầm nhầm, bèn quay sang người bên cạnh, áy náy nói:

- Úi, xin lỗi Vương đại nhân, tiểu nhân đã cầm nhầm bát của ngài rồi.

Vị Vương đại nhân đó chính là Chủ sự Ty phủ khố của bộ Binh - Vương Thủ Nhân, tuổi chừng hơn ba mươi, mày trơn mặt nhẵn, tướng mạo có vài phần giống người phương Nam, cặp mắt tuy không to nhưng rất có thần.

Nghe hán tử xin lỗi, y xua tay, cười bảo:

- Uống thôi mà, có gì to tát chứ.

Nói rồi, cầm lấy ấm rót cho hán tử đó một bát nữa.

Vị Chủ sự này cũng mặc mỗi áo cộc, trông không giống dáng vẻ của một Tiến sỹ. Vị nhân huynh này và Đại Minh Thất Tử (bảy tài tử của Đại Minh), cầm đầu là Lý Mộng Dương, thường hay ngâm thơ vẽ tranh, nghiên cứu thơ văn cùng nhau, quan hệ rất thân thiết. Cho dù là gặp những kẻ bán dạo, bán rong, tạp dịch, nô bộc y cũng có thể chuyện trò rất là hợp ý. Các nha dịch cùng y đều đã rất quen với nhau, chưa từng coi y như quan viên cao cao tại thượng.

Vương Thủ Nhân cầm ấm rót đầy nước trà, mỉm cười liếc mọi người rồi từ tốn nói:

- Hoàng thượng long nhan đại nộ chính là vì phong thuỷ đế lăng không tốt, có thể tổn hại đến quốc vận. Nghe nói Hoàng thượng đã quyết chí dời lăng, vậy ắt muốn trưng thu thêm thuế. Hôm nay trên triều, ba vị Đại học sỹ tuy có thể tạm thời ngăn cản việc này, nhưng chuyện long mạch bị tổn hại còn nằm ở đó, e rằng tăng thuế cũng là việc bất khả kháng.

Một nha dịch nói:

- Đúng vậy! Chuyện phong thuỷ này sao có thể làm qua loa chứ! Long mạch liên quan đến vận mệnh Đại Minh, nếu thật bị tổn hại vậy không phải sẽ rất nguy ư?

Một nha dịch khác nghe vậy, tức giận chen vào:

- Phong thuỷ gì chứ! Bây giờ lão bá tánh sống còn không qua nổi ngày, còn lo nghĩ đến chuyện mấy trăm năm sau sao? Huynh đệ ta mở hiệu đánh ngựa (mã hành) nho nhỏ chuyên đi con đường kinh sư và Thông Châu này, y cũng nghèo lắm, tiền kiếm được mỗi năm chỉ có thể miễn cưỡng sống qua ngày. Lần này tăng thuế, thu nhập lại ít đi. Hơn nữa, thuế tăng mà lãi có hạn, thương nhân bộ hành chịu thuê ngựa tất nhiên cũng sẽ giảm bớt. Huynh đệ ta đang sầu não làm thế nào để sống qua ngày đây này, nói gì đến những bá tánh bình dân kia chứ.

Có nha dịch đang phe phẩy quạt hỏi:

- Nghe nói Dương đại nhân chính là vì để cho người dân trăm họ có con đường sống nên mới giấu chuyện đế lăng rỉ nước. Nói cho cùng đó cũng là vị quan tốt vì nước vì dân, nhưng mà chuyện phong thuỷ này cũng không thể làm qua loa lấy lệ. Vương Chủ sự, ngài thấy thế nào?

Vương Thủ Nhân thoáng trầm tư rồi nói:

- Theo ta thấy, thế gian vạn vật đều có đạo lý tồn tại của nó. Phong thuỷ là một loại tồn tại, bá tánh cũng là một loại tồn tại, cho nên phong thuỷ có đạo lý của phong thuỷ, mà bá tánh có đạo lý của bá tánh. Nếu nói chút đất đai bị hư hại sẽ ảnh hưởng đến quốc vận, vậy mạng sống của ngàn vạn bá tánh chẳng phải sẽ càng ảnh hưởng đến vận mệnh quốc gia ư? Chu Tử nói: 'Khử nhân dục, tồn thiên lý' (2). Ký thác hết thảy hoạ, phúc, thịnh, suy lên phong thuỷ, đó chẳng phải là ‘nhân dục’ sao? Vì ‘nhân dục’ mà bất chấp sinh tử của bá tánh, ấy là làm trái với 'thiên lý'. Đem hai thứ lên cân, bỏ cái nhỏ lấy cái to, đương nhiên sự sống và cái chết của bá tánh mới là đạo lý.

Mọi người nghe xong gật đầu lia lịa. Một nha dịch cười, nói:

- Vương Chủ sự đọc nhiều sách, lời nói ra cũng khiến người tin phục. Đúng là phong cách của kẻ đọc sách 'nhìn cây trúc bảy ngày', chúng ta không thể so bì.

Đám sai dịch nghe xong thì cười ầm lên. Nguyên là Vương Thủ Nhân thuở nhỏ hiếu học, thời niên thiếu sùng bái "tòng Đạo ngộ lý" (hiểu Đạo thì sẽ ngộ ra mọi lẽ), từng mời đạo sỹ đến nhà xin chỉ giáo. Nhưng các đạo sỹ đó nào có học hành gì, ngoài biết niệm mấy câu vô nghĩa trong kinh kệ ra, quả thật không nói được chữ nào khác chứ đừng nói gì đến học vấn.

Đạo giáo của Lão Tử là một trong Cửu lưu (3) xa xưa, tề danh tam giáo, là đại gia triết học chân chính. Nhưng những đạo sỹ hôm nay tuy là phụng thờ Lão Tử làm thuỷ tổ, thật ra đa số là có quan hệ sư đồ với Trương Đạo Lăng của Ngũ Đấu Mễ Giáo (4) thời Hán, đạo nghĩa hoàn toàn khác với của Lão Tử.

Vương Thủ Nhân học không có kết quả, về sau lại theo nhà đại nho là Lâu Lượng du học, bắt đầu tin vào thuyết ‘cách vật tri lý’ (5) của Chu Hy, đã từng đối mặt với một cây trúc ở trong nhà ngộ bảy ngày bảy đêm. Kết quả chưa ngộ ra được đạo lý thì đã nhiễm phong hàn ngã bệnh. Chuyện này được truyền thành chuyện cười trong kinh sư, ai nấy đều biết, vì thế mọi người nghe xong câu trêu đùa ấy đều hiểu ý cười rần. Vương Thủ Nhân tính tình phóng khoáng, không câu nệ, không thủ lễ một cách cứng nhắc, vả lại chuyện này đã nhiều lần bị người lôi ra trêu nên nghe xong y cũng cười to theo, không hề vì thế mà mất vui.

Chờ cho tiếng cười của mọi người ngưng lại, một tên quan sai nói:

- Nói như vậy là Vương Chủ sự tán thành với Dương Lăng Dương đại nhân rồi. Nghe nói ba vị Đại học sỹ trong Nội các cũng bảo vệ y. Nếu như khi đó Vương Chủ sự cũng đụng phải chuyện như vậy, ngài sẽ làm như thế nào?

- Ta ư?

Vương Thủ Nhân ngẩn người, rồi bắt đầu trầm tư.

- Quân vương, bá tánh, phong thuỷ, xã tắc.

Như đèn kéo quân, những hình ảnh này bắt đầu chuyển động trong đầu y. Qua một hồi lâu, ánh mắt khó xử của Vương Thủ Nhân dần dần trở nên kiên định. Tuy rằng đám quan sai nha dịch đang yên lặng trông chờ đáp án không nghe thấy lời đại nghịch bất đạo thốt ra từ trong miệng y, nhưng hiển nhiên đã nhìn thấy được câu trả lời. Trong nhất thời, bọn họ đã thu lại nét mặt cười đùa, vẻ mặt mọi người đều trở nên trang trọng.

Tin Dương Lăng vào ngục, đưa lên pháp trường, Nghiêm Tung đều đã nghe được từ trong miệng đám đồng liêu. Tuy hắn rất cảm kích Dương Lăng, nhưng lòng mang công danh lợi lộc của hắn rất nặng. Vụ án phong thuỷ của đế lăng biết bao trọng thần trong triều đều không thể chen miệng vào, hắn bất quá chỉ là một tên vô danh tiểu tốt, cho dù dâng sớ cũng không cứu nổi Dương Lăng, có khi còn liên luỵ đến tiền đồ của chính mình. Những chuyện ‘không cần chí tiến thủ, chỉ cầu khí phách thư sinh’ hắn sẽ không làm. Bởi vậy, khi nghe nói Dương Lăng bị xử chém, mặc dù cảm thấy cực kỳ khó chịu, nhưng hắn lại thức thời, thậm chí không bén mảng đến pháp trường.

Nhưng tin tức về việc Hàn Ấu Nương dùng mặc bảo của tiên đế cản trở hành hình, Hoàng thượng giam giữ Dương Lăng để thẩm vấn lại vừa truyền ra, đầu óc của Nghiêm Tung liền trở nên linh hoạt. Cách đây ít lâu Dương Lăng kháng chỉ cứu thê, Hoằng Trị chậm chạp không bắt giam Dương Lăng, Nghiêm Tung đoán rằng thánh ý có lòng muốn gỡ tội cho y, vì vậy nên đã vội viết một bài văn chương tạo ra thanh thế lớn cho y.

Lần này Hoàng thượng ngưng hành hình để tái thẩm, hạ chỉ khám lăng, chẵng lẽ lại có thâm ý gì đó ở bên trong? Nghiêm Tung tiếp ý chỉ xong lập tức đóng cửa không ra, suy xét kỹ lưỡng đạo lý bên trong đó. Hắn nhíu mày ngồi ở trước bàn, ánh mắt bất động, trầm ngâm thật lâu. Phu nhân vừa được đón vào kinh của hắn là Âu Dương thị trông thấy phu quân hôm nay về sớm, vừa vào nhà liền ngồi đó chẳng nói chẳng rằng, bèn vội châm chén trà đem đến, nhẹ giọng hỏi:

- Tướng công, hôm nay đã gặp phải chuyện gì khó xử à?

Nghiêm Tung rất kính trọng vị thê tử kết tóc này. Thấy thê tử châm trà mang đến, vội vàng đưa hai tay ra đón rồi nhìn thê tử, gượng cười, nói:

- Ờ, không có gì. Hôm nay Hoàng thượng hạ chỉ khảo sát thái lăng, phái ba vị khâm sai, vi phu cũng là một trong ba người được Hoàng thượng khâm điểm. Ta chỉ cảm thấy kỳ quái, ta là quan viên mới vào làm quan, lúc thi Đình lại không có biểu hiện gì xuất sắc. Trong Hàn Lâm viện tài tử như mây, vì sao Hoàng thượng chỉ định mỗi ta?

Âu Dương thị nghe xong không khỏi hé miệng cười, trách:

- Chàng đó, lúc chưa làm quan thì nghĩ đến việc làm quan, làm quan rồi lại nghĩ đến thăng quan. Bây giờ Hoàng thượng trọng dụng chàng, chàng lại đi nghĩ quàng nghĩ xiên.

Nghiêm Tung liền lắc đầu, nói:

- Phu nhân không biết đó thôi, oai vua khó dò lắm. Nếu không đoán ra được thánh ý, Hoàng thượng muốn bảo nàng đi bên trái, nàng lại đi bên phải thì làm sao có ngày được vang danh chứ.

Âu Dương thị nghe trượng phu nói nghiêm trọng như vậy, cũng không khỏi nhíu mày. Thị trầm ngâm rồi hỏi:

- Tướng công, nghe nói hôm nay Dương Hàn thị cứu chồng nơi pháp trường là nhờ vào một bức tự hoạ của tiên đế. Không lẽ Hoàng thượng cũng biết được chàng và Dương đại nhân có giao tình, nên mới đem việc này giao cho chàng, ý bảo chàng gỡ tội cho y sao?

Nghiêm Tung giậm chân, nói:

- Chính vì vi phu không dò ra được có phải thánh thượng có ý này hay không nên mới hết sức khổ não. Nếu nói Hoàng thượng có ý để ta trợ giúp Dương đại nhân, nhưng người truyền chỉ lại không hề có chỉ bảo gì, truyền chỉ xong liền trở về cung ngay. Ta đã suy nghĩ đi suy nghĩ lại về ý chỉ nhiều lần, nhưng nghĩ không ra trong đó có ngụ ý gì. Nếu như Hoàng thượng có ý gỡ tội cho y, ít nhiều cũng nên chỉ rõ chút gì đó cho ta mới phải chứ.

Âu Dương thị nói:

- Thiếp không hiểu việc nước, chỉ suy nghĩ từ phương diện tình lý. Chàng nói xem, một vị quan lớn giận một người, tìm tội danh để phạt gậy hắn ta. Nhưng hắn và cha của vị quan này có giao tình và thư từ qua lại. Vị quan này, vốn là một người con hiếu thảo, cho ngưng phạt gậy rồi kêu người tra lại vụ án. Vậy vị quan muốn gỡ tội hay là vẫn muốn trị tội hắn ta?

Mắt Nghiêm Tung chợt sáng lên, nhưng hắn lại lập tức lắc đầu, cười nói:

- Ví dụ này không ổn, bức hoạ đó của tiên hoàng không thể so với thư từ. Tiên đế nhân hậu, những thần tử được ban thưởng lễ vật rất nhiều, lại không chỉ một mình Dương đại nhân. À! Không đúng, quả thực không giống nhau.

Nghiêm Tung chợt nhớ lại lời Thị lang Trình Văn Nghĩa đã nói qua, bức hoạ đó là vẽ vách núi và cây tùng hùng vĩ, trên bức vẽ có chữ đích thân tiên hoàng viết lên: ‘Cây tùng trăm trượng um tùm, dẫu rằng sần sùi xấu xí, nhưng là vật liệu chính để xây nhà to.’ Đây rõ ràng là một sự tín nhiệm mà tiên đế ủy thác, kỳ vọng Dương đại nhân sẽ trở thành bề tôi đắc lực mà.

Nghiêm Tung nắm lấy tay Âu Dương thị, hưng phấn nói:

- Vi phu ngu dốt, may mà có hiền thê nhắc nhở, giờ ta đã rõ thánh ý. Chỉ là... ba vị khâm sai, một vị là Chủ sự bộ Binh, còn một vị là Thành Quốc công đương triều, quan chức và địa vị đều hơn xa ta. Xét về công hay về tư, vi phu đều nên giúp Dương đại nhân mới phải, nhưng chỉ e một cây làm chẳng nên non.

Âu Dương thị cười hì hì, nói:

- Phu quân tốt của thiếp à, nếu như Hoàng thượng đã có ý gỡ tội cho Dương đại nhân, há sẽ chọn chàng làm chủ chuyện này, nói không chừng Quốc công gia và Chủ sự bộ Binh người ta đã sớm được mật chỉ của Hoàng thượng rồi. Chuyện chàng và Dương đại nhân từng có giao hảo tuy trong triều kẻ biết không nhiều, nhưng Hoàng thượng có Cẩm Y Vệ, có Đông xưởng, Tây xưởng; nghe nói bọn thám tử đó chỗ nào cũng nhúng tay vào, rất ư là lợi hại, Hoàng thượng có thể không biết sao? Chọn chàng chỉ là để bịt miệng đám đại thần đó mà thôi. Chuyến đi này, thiếp thấy chàng chỉ cần giả vờ câm điếc, sắm vai ông bồ tát bằng đất sét thì coi như đã hợp với thánh ý rồi.

- Bồ tát bằng đất sét à?

Nghiêm Tung cũng cảm thấy thê tử mình nói rất có lý. Có điều, nghĩ đến lý do Hoàng thượng dùng mình vốn chỉ vì hắn có giao hảo với Dương Lăng, không hề có điều xem trọng hắn, hắn không nén được có chút mất mát thất vọng. Niềm vui dò đoán ra được thánh ý lập tức phai nhạt đi nhiều.

oOo

Bên ngoài Ngọ Môn, đội nghi trượng của khâm sai đã xếp thành hàng ngũ chỉnh tề. Vương Thủ Nhân và Nghiêm Tung vì không quen biết nhau, cho nên gặp mặt chỉ chuyện trò vài câu rồi mỗi người ôm suy nghĩ riêng đứng đó chờ Thành Quốc công Chu Cương.

“Tình hình bây giờ, di dời đế lăng thì tăng thuế, bá tánh thì khổ mà xã tắc lại bất an. Năm xưa, Phương Hiếu Nhu (6) vì muốn duy trì chính thống bị tru di thập tộc mà không hề hối hận. Hôm nay, Vương gia ta vì giang sơn xã tắc chẳng lẽ lại tiếc đầu này?!” Lời của phụ thân Vương Hoa lại vang bên tai, Vương Thủ Nhân nghĩ đến kế hoạch đó, trong lòng chợt hơi khẩn trương.

Từ nhỏ y đã đam mê binh pháp, ham thích võ học, nhưng vẫn chưa từng ra trận giết địch, trải nghiệm chém giết; mà việc sắp làm ngày hôm nay, chẳng khác gì lấy kê trong lửa, phải đối mặt với nguy hiểm to lớn. Một khi thất bại, thì cả nhà Lý Đông Dương và Vương Hoa do mưu đồ chuyện này đều có thể sẽ bị xử chém. Với định lực của Vương Thủ Nhân, nghĩ đến chuyện này cũng không tránh khỏi thấp thỏm trong lòng.

Nếu muốn không tăng thuế thì chỉ có cách không dời lăng, nếu muốn không dời lăng thì chỉ có cách chứng minh Kim Tỉnh chưa từng bị người động tay chân. Hết cách, Lý Đông Dương đành mời bạn thân là Vương Hoa, nói rõ vì đại nghĩa quốc gia, cùng ông ta lập ra một kế hiểm: "Man thiên quá hải điều bao kế! (*)" (*: Giấu trời vượt biển để đánh tráo)

Dạng đất như dưới Kim Tỉnh có hiện đang được giữ trong bộ Lễ, mà Vương Hoa là quan lớn nhất chỉ đứng sau Vương Quỳnh ở bộ Lễ, nên mặc dù đất Kim Tỉnh này được trông coi rất nghiêm ngặt, nhưng với thân phận của Vương Hoa, muốn đánh tráo ít nhất cũng nắm chắc bảy phần.

Khó khăn nhất lại là Vương Thủ Nhân. Y là con của Vương Hoa, đồng thời cũng không phải là gã hủ nho, mê tín phong thuỷ. Lý Đông Dương dự liệu rằng để Vương Hoa ra mặt nhất định sẽ có thể khuyên được y đồng loã vào chuyện này, nhưng khó là khó ở chỗ khâm sai khám lăng có tới ba người mà không phải chỉ một mình Vương Thủ Nhân; muốn một tay che trời, tráo đổi đất lấy từ thái lăng về quả thực là việc cực kỳ khó khăn.

Lý Đông Dương bàn bạc cùng Vương Hoa, muốn để Vương Thủ Nhân tuỳ cơ hành sự, mang theo bên người một bao đất, đợi khi lấy được loại đất dưới Kim Tỉnh của đế lăng xong sẽ tìm cơ hội tráo đổi chúng, sau đó báo tin cho gia nhân thân tín trong phủ âm thầm đi theo cưỡi khoái mã gấp rút chạy về trước hồi báo cho Lý Đông Dương và Vương Hoa. Chỉ cần hai người nghe thấy tin Vương Thủ Nhân đắc thủ sẽ lập tức chạy đến bộ Lễ, Lý Đông Dương cầm chân Vương Quỳnh, còn Vương Hoa sẽ phụ trách tráo đất. Nơi đặt đế lăng lại không xa, có thể đi về trong ngày, nhưng thời gian cũng chưa hẳn sẽ dư dả.

Vì vậy, nhiệm vụ của Vương Thủ Nhân không những nguy hiểm mà còn vô cùng gian nan. Tình hình bên trong đế lăng rốt cuộc ra sao, ngay cả tài tử thông thái như Lý Đông Dương và Vương Hoa cũng không nắm rõ. Thời đó không cho phép tham quan đế lăng, lại không cung cấp bản vẽ để người ta tham khảo và nghiên cứu; cho nên, có thể tạm thời nghĩ ra được biện pháp này, Lý Đông Dương đã là cơ trí lắm rồi, thật không cách nào lập ra được kế hoạch tỉ mỉ hơn.

Nghĩ đến đây, Vương Thủ Nhân không nén được thở dài. Thành Quốc công cả nhà trung liệt, từ triều Hồng Vũ đến nay đã có ba vị Quốc công sau khi mất đi được phong vương, rất được vua yêu mến. Thành Quốc công đời này tuổi tác tuy đã cao, nhưng không hề hồ đồ mà là một ông già thông thái, Vương Thủ Nhân quả thực không dám đảm bảo có thể qua mặt lão. Có điều, nếu như lão Quốc công không chịu làm ngơ cho qua, hy vọng thành công sẽ vô cùng mờ mịt. Thậm chí vị Hàn Lâm thân gầy như cây trúc ở trước mặt này, qua cử chỉ và ngôn từ của hắn, dường như cũng không phải là nhân vật đơn giản.

Vương Thủ Nhân nghĩ đến đây không khỏi quay đầu liếc trộm Nghiêm Tung một cái, không ngờ Nghiêm Tung cũng đang nhìn y. Ánh mắt hai người vừa chạm, bọn họ lập tức chột dạ, mỗi người đều ôm tính toán riêng của bản thân.

Chính vào lúc này, một chiếc kiệu lớn tám người khiêng đong đưa kẽo kẹt đi đến Ngọ Môn, theo sau là tám tên thị vệ. Kiệu được đặt xuống đất, quản gia liền vén rèm kiệu lên, dìu một lão già đầu tóc bạc phơ, người mặc áo mãng bào (7), lưng đeo đai ngọc, bước một bước thì lảo đảo đến ba lần, run run rẩy rẩy. Vương Thủ Nhân trông thấy vậy không khỏi thất kinh.

Tết năm nay y từng theo phụ thân viếng thăm vị lão công gia này. Khi ấy huyền tôn (cháu cố) thứ mười bốn của Chu lão công gia đốt pháo ở trong lầu các, ông già nổi giận cầm cây chổi lông gà đuổi đứa cháu chạy khắp đại viện, bước chân thật sự là rất dẻo dai. Làm thế nào mà mới có nửa năm lão đã già yếu đến nông nỗi này rồi?

Vừa nghi ngờ vừa kinh ngạc, Vương Thủ Nhân vội bước lên phía trước vái sâu một lễ:

- Thủ Nhân bái kiến Chu lão công gia. Thân thể lão công gia gần đây vẫn khoẻ chứ ạ?

- Hả?

Giọng vang như sấm, giọng nói của lão công gia thế mà lại khá lớn:

- Đừng có lí nhí như muỗi thế, lão nhân gia ta nghe không rõ! Úi chào, tuổi tác già rồi, năm nay cũng xấp xỉ tám mươi, mắt cũng đã mờ, lỗ tai cũng nghễnh ngãng cả. Giờ thì nhìn cũng nhìn không rõ, nghe cũng nghe không được... Này! Ngươi là con cháu nhà ai thế?

“Lão già này thậm chí không nhận ra cả mình à?" Vương Thủ Nhân ngạc nhiên ngước mắt nhìn Thành Quốc công. Chỉ thấy trong mắt lão già chợt loé lên sự giảo quyệt, nhìn kỹ lại, vẫn là một đôi mắt đùng đục già nua đang ngỡ ngàng nhìn y.

Vương Thủ Nhân thấy vậy trong lòng mừng rỡ: “Đại sự được định rồi!”

Mặt y vừa lộ vẻ vui mừng, chợt liếc thấy Nghiêm Tung đang đăm đăm quan sát vẻ mặt của bọn họ, Vương Thủ Nhân vội vàng thu lại tâm trạng, ngầm hiểu ý thi lễ lần nữa rồi lớn tiếng nói:

- Thủ Nhân hành lễ với lão công gia! Lão công gia vẫn luôn mạnh khoẻ chứ ạ?

Ghi chú của tác giả: Vương Thủ Nhân là người trùm nhất trong ba trăm năm lịch sử triều Minh, qua các triều đại đã được thần thánh hoá. Vân Trung Nhạc có thể nói là chuyên gia về sử Minh, viết mấy chục quyển tiểu thuyết đều lấy triều Minh làm bối cảnh vậy mà mỗi Vương Thủ Nhân là sót lại không dám viết, chỉ dám mượn miệng kẻ khác để đề cập sơ những chuyện liên quan đến ông chứ không dám viết theo ý mình. Tiểu Quan muốn tránh cũng không được, đành thấp thỏm không thôi. Nếu muốn chửi xin quý vị cứ chửi đi, tại hạ quyết sẽ không màng!

Chú thích:

(1) Dương Minh là tên hiệu của Vương Thủ Nhân; "man thiên" trích từ kế "man thiên quá hải" (giấu trời qua biển), lợi dùng tình thế (hoặc thời tiết) để gạt người.

(2) Trừ bỏ Vọng tâm thì sẽ có được Chân tâm.

(3) Cửu lưu thập gia là các trường phái học thuật chủ yếu trong thời kỳ Chiến Quốc ở Trung Quốc. Các trường phái này bao gồm: Nho gia, Đạo gia, Âm Dương gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Tung Hoành gia, Tạp gia, Nông gia và Tiểu Thuyết gia. Trong đó, chín trường phái đầu được gọi chung là Cửu lưu.

(4) Trương Lăng (hay Trương Đạo Lăng) tự là Phụ Hán (trợ giúp nhà Hán) (34-156) được xem là người đã khai sáng giáo phái Ngũ Đấu Mễ Đạo (Đạo năm đấu gạo) trong Đạo giáo Trung Quốc. Ngũ Đấu Mễ Đạo, cũng gọi là Thiên Sư Đạo, là một giáo phái ra đời trong giai đoạn đầu của Đạo giáo, tức cuối đời Đông Hán (25-220). Từ đời Đông Tấn trở đi, Ngũ Đấu Mễ Đạo được gọi là Thiên Sư Đạo, từ đời nhà Nguyên trở đi gọi là Chính Nhất Đạo. (theo wiki)

(5) Nguyên là "cách vật trí tri". Cách là suy xét, tìm tòi. Vật là sự vật. Trí là tới cùng và Tri là hiểu biết. Cách vật trí tri là suy xét cho thấu suốt về sự vật để hiểu biết đến tận cùng cái lý của nó. (theo Cao Đài)

(6) Phương Hiếu Nhu (1357 - 1402), người Ninh Hải Chiết Giang, là đại thần triều Minh, và là nhà học giả, văn học, tản văn (văn xuôi) và tư tưởng trứ danh. Ông tự là Hy Trực, hiệu Tốn Chí, từng lấy tên "Tốn Chí" đặt cho thư phòng. Thục Hiến vương đổi lại thành "Chính Học", nên đời gọi ông là "Chính Học tiên sinh". Trong giai đoạn "tĩnh nan chi dịch" (cuộc chiến do Minh Thành Tổ Chu Lệ phát động nhằm chiếm ngôi của cháu là Kiến Văn Đế), ông đã cự tuyệt chiếu thư đăng ngai mà Yến vương Chu Lệ soán vị thảo ra. Cương trực bất khuất, hết lòng đơn độc cứu nước, ông bị tru di mười họ.

(7) Mãng bào: Lễ phục của quan viên thời cổ, thêu hình mãng xà, nay không còn. Còn gọi là "hoa y", "mãng phục". Phụ nữ được thụ phong cũng có thể mặc. Chương 103 - Dương Lăng vượt biển

Trước đó, vì đã được vợ nhà nhắc nhở nên Nghiêm Tung càng xác định rằng Hoàng thượng có ý gỡ tội cho Dương Lăng, như vậy có nghĩa là người đứng đầu trong ba vị khâm sai nhất định cũng đã sớm nhận được mật dụ, cho nên từ lúc lão công gia vừa xuống kiệu, Nghiêm Tung đã nhìn lão chằm chằm không chớp mắt. Lão hồ ly đó cũng không ngờ lớp trẻ ngày nay thật là đáng sợ, thần sắc mới chỉ hơi khác thường một chút thôi mà đã bị Nghiêm Tung nhìn thấy hết.

Lúc này Nghiêm Tung càng tin chắc rằng mình đoán không sai. Nhưng thật ra, nếu Hoàng đế Chính Đức muốn giúp Dương Lăng thoát tội, với tính tình của y, y sẽ không quan tâm đến kẻ khác nghĩ như thế nào mà sẽ miễn xá thẳng luôn, cần gì mà phải lòng vòng mấy thứ này. Vả lại lão công gia cũng chưa hề nhận được mật chỉ của Hoàng Đế.

Thật ra, việc Lý Đông Dương vừa rời khỏi cung liền gấp rút hẹn Vương Hoa gặp mặt hôm qua đã sớm bị vị Thành quốc công này biết được. Sở dĩ như vậy là vì trong số những người mà Lý Đông Dương hẹn, có một người tên là Vương Tự Văn, y là học sỹ Hàn Lâm được lão công gia mời đến làm thầy giáo cho mấy đứa cháu. Khi Vương Hàn Lâm đến phủ Thành quốc công thì vô tình đã để lộ một ít tin tức.

Thành quốc công có thể đứng sừng sững trong vương triều họ Chu vốn rất nặng tính đa nghi, nhưng lão lại bao đời nhận được quốc ân, đương nhiên là vì lão tự có bí quyết riêng. Những người đứng đầu họ Chu ai nấy đều có "trái tim bảy lỗ" (2), nhưng bề ngoài phần lớn lại giống như những kẻ võ biền thô lỗ không hề có cơ trí; hơn nữa bọn họ còn giỏi về quan hệ xã giao.

Đừng cho rằng Thành Quốc công không thượng triều mà nghĩ lão không biết gì, ngược lại, bất kể việc lớn việc nhỏ gì trong triều cũng đều không giấu được lão. Cộng với vô số sự tình phát sinh ở triều đình và trong dân chúng hai ngày nay, tuy rằng Thành quốc công đoán không chính xác trong đó có ẩn ý gì nhưng cũng không sai biệt lắm. Vì vậy, lão đã nghi ngờ việc Lý Đông Dương hẹn gặp Vương thị lang và việc Vương Thủ Nhân được chọn làm khâm sai tất có liên quan với nhau.

Nghĩ thông suốt điểm này, Thành quốc công không khỏi thầm bội phục lòng son dạ sắt của Lý Đông Dương và Vương Hoa. Mấy thần tử Đại Minh này, vì giang sơn xã tắc và bá tánh lê dân, dám bất chấp nguy hiểm có thể bị tịch biên gia sản, chém đầu cả họ. Nhưng phủ Thành quốc công bây giờ có hơn ngàn người, lão nhân gia không thể tự mình ra trận được nữa nhưng bản lĩnh giả ngây giả ngô thì lão vẫn còn. Thế là lão già có thể nhìn một con muỗi bay qua trước mặt thì biết ngay nó là cái hay đực này liền biến thành ông già mờ mắt nghễnh tai, đi đứng lảo đa lảo đảo.

Vương Thủ Nhân thấy Thành quốc công đồng ý âm thầm tương trợ, trong lòng cũng yên tâm hơn nhiều. Vậy là cả ba người lên kiệu quan đến Thái Lăng, lúc này thái giám tổng quản của Ngự Mã Giám kiêm xưởng đốc Tây xưởng Miêu Quỳ và Tả thị lang bộ Công Lý Kiệt vội vàng ra chào đón, sau đó cùng ba vị khâm sai bước vào Đế Lăng.

Vương Thủ Nhân vừa đi vừa rờ bao đất vàng lớn nhét ở phía sau hông rồi trộm liếc lão công gia. Chỉ thấy Thành quốc công được quản gia dìu đỡ, vừa run run rẩy rẩy bước về phía trước vừa oang oang trò chuyện với Miêu Quỳ, như thể sợ người ta không biết lão vừa mù vừa điếc.

Vừa vào đến cửa điện bên trái, Miêu Quỳ liền dừng bước mỉm cười rồi quay sang Thành quốc công hành lễ, nói:

- Thành quốc công lão nhân gia! Ty chức sẽ đợi ngài ở đây.

Thành quốc công liếc y một cái có ý tán thưởng, hổn hển đáp một tiếng rồi đi vào. Riêng Lý Kiệt là công thần đứng đầu tố cáo vụ án này, nếu hắn lật đổ được bốn vị khâm sai kia thì hắn sẽ có công lớn giúp cho xã tắc, còn nếu như thất bại, thì nhẹ nhất cũng bị khép vào tội mưu hại đồng liêu, cho nên cũng mặc kệ lão công gia bất mãn, hắn vẫn lập tức bám sát theo sau, không rời nửa bước.

Ba vị khâm sai dừng lại ở trước bậc đá của Kim Tỉnh, Vương Thủ Nhân nói to:

- Lão công gia! Ngài đã cao tuổi rồi, xin mời ngài cứ đứng ở đây giám sát đi. Việc lấy đất này hãy giao cho chúng con, được không ạ?

Nói rồi y nhìn qua Nghiêm Tung. Kế hoạch mà Vương Thủ Nhân lập ra là, lấy đất xong, trên đường đi bọn họ sẽ đánh tráo. Nhưng hôm nay có Lý Kiệt đứng đó quan sát, bên cạnh còn có Nghiêm khâm sai, e rằng bọn họ sẽ khó lòng mà ra tay được. Chi bằng mình ra vẻ hào phóng, nhường cho Nghiêm Tung đi lấy đất sẽ không khiến người ta nghi ngờ.

Lúc này, Nghiêm Tung đứng gần Kim Tỉnh nhất. Khi nãy thông qua ánh sáng đèn, hắn liếc nhìn vào trong Kim Tỉnh trước, vừa nhìn thấy hình dạng của Kim Tỉnh, hắn liền không khỏi giật mình. Thì ra hình dạng Kim Tỉnh là như vậy, nếu muốn ra tay quả nhiên rất dễ dàng.

Hừ! Chỉ đáng tiếc cơ hội lập công như vậy lại đem biếu không cho vị Chủ sự Bộ Binh này. Nghiêm Tung trong lòng máy động, thầm cười khẩy nghĩ: “Để ta giả làm Bồ Tát bằng đất sét cũng được, nhưng không thể xem ta như thằng ngốc. Mưu kế của bọn họ mình đã đoán ra rồi, nếu như mình có thể nghĩ biện pháp nói cho họ biết, không lo bọn họ sẽ không thiếu mình một phần nhân tình nữa.”

Nghĩ đến đó, Nghiêm Tung vội vàng khách khí nói:

- Đúng đúng đúng! Xin lão quốc công cứ đứng đây đôn đốc, công việc lấy đất này hãy giao cho vãn bối chúng con là được. Vương đại nhân, mời ngài, học sinh sẽ ở một bên coi giữ.

Vương Thủ Nhân nghe y nói xong cũng không khách khí nữa, lấy một cái xẻng con lúc vào lăng đã mang theo ra rồi bước lên chiếc giường bạch ngọc. Lý Kiệt lập tức trừng to hai mắt, nhìn chằm chằm vào động tác của y không chớp. Thành quốc công cũng không biết Vương Thủ Nhân sẽ lấy đất như thế nào để che giấu việc Đế Lăng thấm nước, nhưng lão thấy Lý Kiệt đứng đó như một con ưng già, hai tay căng thẳng quắp đến độ sắp biến thành móng vuốt.

“Dưới cặp mắt chằm chằm như hổ đói này, tiểu Vương sẽ hành động như thế nào đây?”

Lão công gia nhíu hàng mày trắng, thong thả đến bên cạnh Lý Kiệt, vỗ vai lão ta rồi cười lớn nói:

- Ngươi chính là Thị lang Bộ Công Lý Kiệt hả? Ừ, trông được đấy. Ngay cả việc lăng mộ tiên hoàng xảy ra vấn đề mà cái đám tặc tử đó cũng cả gan dám che giấu, tội không thể tha à. Nếu không phải nhờ ngươi, toàn thể triều đình đều đã bị giấu gạt rồi.

Lý Kiệt cười bồi nói:

- Lão công gia quá khen rồi, đó đều là bổn phận phải làm của thần tử.

Nói thì vẫn nói, nhưng cặp mắt lão vẫn nhìn chằm chằm vào Kim Tỉnh không chớp, chỉ lo có người sẽ giở trò.

Nghiêm Tung nhìn thấy lão như vậy thì trong lòng cả mừng. Cái tên thối tha không biết điều này thực đã giúp mình không ít. Gã đang băn khoăn không biết làm sao để Thành quốc công biết mình cũng là bảo vệ Dương Lăng, tên này lại tạo cho ông Bồ Tát bằng đất sét mình đây cơ hội lập công.

Hai chữ "kim tỉnh" này, nhiều người đã nghe đến nó, nhưng chưa tận mắt thấy thì không ai biết thật ra nó trông như thế nào Trong dân gian có vài công tượng (thợ thủ công) vì ôm lòng hư vinh đã tiết lộ đôi chút, song đại đa số cũng thổi phồng sự tráng lệ của Kim Tỉnh, cho nên đây là lần đầu tiên mấy vị này được nhìn thấy diện mạo thật sự của nó.

Vương Thủ Nhân lúc này đang quỳ trên bệ đá, đánh giá cái động đất có đường kính rộng nửa xích, sâu chừng một thước đó. Y lấy tay thăm dò một lát, bốn vách là hoàng thổ bị dính ẩm, nhưng khi sờ đến đáy, thì thấy đất đai nơi đó thấm nước gạo nhưng lại khô ráo bóng nhẵn. Vương Thủ Nhân giật bắn người thầm nghĩ: “Quả nhiên bọn họ đã động tay chân vào rồi”.

Vương Thủ Nhân mới vừa nghĩ đến đây, câu nói bóng gió như lời độc thoại đó của Chu lão quốc công lọt vào tai y. Ngay lập tức, trong lòng Vương Thủ Nhân liền loé lên một ý nghĩ, khoé mắt y nhanh chóng liếc qua bên cạnh, chỉ thấy Lý Kiệt đang trừng hai mắt quan sát nhất cử nhất động của mình, thế là y cực kỳ thất vọng.

Không ngờ ngay vào lúc này, thân thể cao ráo gầy gò của Nghiêm Tung bỗng chợt xoay lại, lách đến trước mặt Lý Kiệt cúi người thi lễ, bộ dạng vô cùng kính cẩn:

- Học sinh thân là con dân Đại Minh, cũng nên tạ ơn đại nhân. Xin đại nhân hãy nhận của học sinh một lạy!

Cái "cây sậy" gầy đét này cao phải hơn một thước tám, vừa xoay người là chắn hết mọi thứ, thậm chí khi gã cúi xuống hành lễ cũng đã che khuất Lý Kiệt khiến lão ta không nhìn thấy gì. Lý Kiệt có ý muốn lách người tránh gã, nhưng sợ làm như vậy sẽ quá lộ liễu, rõ ràng là có ý bất kính với gã và có lòng nghi ngờ Vương Thủ Nhân. Nhân lúc lão chỉ mới hơi chần chừ, Nghiêm Tung liền kéo tay thân mật nịnh nọt lão:

- Bộ Hình dùng đại hình bức được khẩu cung, bá quan bất phục, cho nên bây giờ mới đem về phúc thẩm. Nếu bộ Hình có được bực trí giả như đại nhân đây, dùng lời nói bóng gió, dăm ba câu chữ nhất định sẽ có thể khiến cho mấy tên phạm quan đó cung khai!

Ngay đúng lúc này, chỉ nghe thấy tiếng xẻng sắt xúc đất sột soạt truyền nhanh lên trên, đúng vào lúc vừa hết thời gian một khắc thì nghe tiếng của Vương Thủ Nhân reo vui:

- Đã lấy được đất của Kim Tỉnh, hãy mau mang hộp vàng đến đựng đất!

...

Vương Quỳnh thong thả tản bộ bên trong thư phòng một lúc lâu, bỗng dừng chân cười nhạt nói:

- Đám nghịch thần gian xảo đó không chịu ngồi yên, ngông cuồng vọng tưởng dám lấy đất khám nghiệm. Hừ hừ, cái tên Thập trưởng nhỏ nhoi đó nếu không phải đúng sự thật há dám phỉ báng ư? Binh khoẻ trong quân nếu không có nội tình gì sao lại đột nhiên chết đi chứ? Ta đã sai người giữ hộp vàng đựng đất và huỷ hết mọi chìa khoá, chỉ còn chừa lại một chiếc này của ta. Chỉ cần đất trong hộp vàng không việc gì, để xem bọn chúng còn có thể giở được trò gì!

Từ Quán mừng rỡ nói:

- Khâm sai chắc hẳn cũng đã trở về rồi chứ nhỉ? Thắng bại được thua đều ở một lần hành động này đây! Tam Công trong nội các bao che tội phạm, chỉ vì chút lợi cỏn con mà không đếm xỉa gì đến việc long mạch bị tổn thương, vì vậy nhất định Hoàng Thượng sẽ không vui. Vụ án này kết thúc rồi, tiền đồ của bọn họ cũng sẽ tận thôi.

Vương Quỳnh chau mày nói:

- Từ thượng thư! chúng ta làm như vậy chính là vì giang sơn xã tắc của Đại Minh, không phải là vì tiền đồ cá nhân. Tam Công trong nội các đều là công thần vì nước, bọn họ lo lắng chuyện tăng thuế cũng là vì nghĩ cho triều đình Đại Minh ta, Từ công sao có thể nói những lời như vậy được?

Từ Quán vội cười bồi đáp:

- Phải phải phải, Vương thượng thư nói rất phải.

Song trong lòng lại thầm rủa: “Lão thất phu, nếu như ông quang minh chính đại, vì nước vì dân, sao lại xúi giục con mình đến bộ Hình tố cáo để chém đầu người ta và bôi nhọ thanh danh người ta chứ?”

Hồng Chung nói:

- Vương đại nhân, không bằng chúng ta hãy vào cung ngay, đem chuyện Dương Lăng phạm pháp bẩm báo cho hoàng thượng. Đợi đến khi hoàng thổ của Kim Tỉnh về rồi, chân tướng rành rành, sẽ có đủ lý do giết hắn!

Vương Quỳnh thoáng trầm ngâm rồi mỉm cười lắc đầu bảo:

- Chuyện này không cần nhọc đến ông và ta ra mặt, làm vậy chẳng phải sẽ thành chuyện bé xé ra to sao? Bảo Thị lang bộ Hình Trình Văn Nghĩa dâng sớ, lấy danh nghĩa sỹ tử tố cáo dâng lên cho Hoàng Thượng là được.

Trong cung Càn Thanh, hoàng đế Chính Đức đang nghe đại học sỹ Tạ Thiên lải nhải với một tâm trạng bất an. Hôm nay y mượn cớ vấn an Thái hậu và Thái Hoàng Thái hậu nên đã miễn Ngọ triều, cả ngày ở trong cung chờ tin tức. Vừa vặn đúng lúc Lưu Kiện và Tạ Thiên có việc liên quan đến đại hôn của hoàng đế muốn bẩm báo và hội ý, nghe nói y muốn đi thỉnh an Thái hậu, thế là cũng vội vã theo vào.

Nào ngờ tiểu hoàng đế vốn không hề có lòng đi thăm Thái Hoàng Thái hậu và Thái hậu, hai vị đại học sỹ cũng biết thời gian rất quý giá, nên không chút lãng phí, lập tức ra sức khuyên can Hoàng Đế đừng sa đà vào chơi bời, đừng đi lại trong cung mà không mang thị vệ, đừng bỏ ra quá ít thời giờ đọc sách, đừng không mở Kinh Diên, tận tình khuyên bảo một phen khiến hoàng đế Chính Đức nhức hết cả đầu.

Khi Chính Đức đang bắt đầu mất kiên nhẫn thì một tên tiểu thái giám hấp tấp chạy vào bẩm báo:

- Khải bẩm Hoàng Thượng, Thị lang bộ Hình Trình Văn Nghĩa khẩn cấp dâng sớ, sự tình có liên quan đến vụ án Đế Lăng thấm nước.

Nghe vậy, hoàng đế Chính Đức giật mình, vội vàng bảo:

- Dâng sớ lên!

Chính Đức nhận sớ, giở ra xem. Trên sớ Trình Văn Nghĩa viết lưu loát hơn ba ngàn chữ, bỏ những câu sáo ngữ ra, đại khái ý nói phát hiện ra Dương Lăng bề ngoài tỏ vẻ thanh liêm, nhưng trong tối lại tham ô xa xỉ, bỏ ra nhiều tiền mua thiếp, hà hiếp tăng lữ vân vân, xin Hoàng Thượng cho phép thẩm tra cùng với vụ án Đế Lăng thấm nước một lượt.

Giống như con bạc đang đợi chờ con bài tẩy được lật lên, không biết hoàng thổ được mang từ Đế Lăng về rốt cuộc có bị người giở trò không, nhưng vừa nhìn thấy tấu chương này, lòng Chính Đức liền nguội đi một nửa. Vốn dĩ Trương Vĩnh vẫn nói Dương Lăng không có lý do tham ô, nhưng giờ đã có chứng cứ, sau khi xem những tội danh được liệt kê xong, Chính Đức cũng không còn tâm tư để xem tiếp những nội dung sau đó nữa.

Y tức tối vứt tấu chương lên long án, cơ mặt giần giật. Ngồi ngây ra trên ghế một hồi lâu, y bỗng nhảy phắt dậy, giận dữ quát:

- Mang tất cả những phạm nhân có liên can đến đây cho trẫm! Trẫm muốn đích thân xét xử vụ án này!

Lưu Kiện nghe thấy liền vội vã can ngăn:

- Khải bẩm bệ hạ, việc này vạn vạn lần không thể. Luật pháp có cơ quan hành xử riêng, hoàng thượng là vạn thừa chi tôn (3), há có thể vượt quyền can thiệp? Đế vương tự cổ trừ Hiến Văn Đế không biết tự trọng ra, thần vẫn chưa từng nghe nói có vị minh quân cao quý nào hạ cố đến đại sảnh bộ Hình ngồi cả.

Chính Đức nghe vậy nổi giận đùng đùng, đanh mặt chỉ lão ta hét:

- Minh quân! Minh quân! Tai trẫm nghe đến sắp chai hết cả rồi. Ông luôn miệng nói vạn thừa chi tôn, thế nhưng Hoàng thượng ta đây lại mặc cho ông khoa tay múa chân, chưa từng làm chủ được chuyện gì! Thiên hạ này là của ông hay là của ta hả?

Lưu Kiện nghe thế mặt mày tái mét, quỳ sụp dỡ mão run rẩy nói:

- Hoàng Thượng sao lại nói lời như vậy. Lão thần một lòng thành tâm tận sức, có trời đất chứng giám, nếu như lời của lão thần vô lễ xúc phạm đến Hoàng Thượng, thần nguyện xin Hoàng Thượng giáng tội!

Tạ Thiên thấy vậy vội lên tiếng giảng hoà:

- Hoàng Thượng, lấy địa vị đế vương đi thẩm tra xử lý phạm nhân, đích thực có điều không hợp lý. Hoàng Thượng thân là quân chủ của cả thiên hạ, đâu lại có đạo lý Hoàng Đế tự thân xử án chứ? Song nếu như Hoàng Thượng muốn nghe xét xử vụ án này, chi bằng ngồi phía sau đại sảnh của Hình Đường dự thính, Hoàng Thượng thấy thế nào?

Hoàng đế Chính Đức phất tay nói:

- Được! Nghe thẩm vấn thì nghe thẩm vấn, theo trẫm đến đại sảnh bộ Hình, ta muốn xem thử rốt cuộc y đã làm những chuyện xấu xa nào làm tổn thương đến lòng dạ của trẫm như vậy! Phái người báo cho Đô Sát Viện, Đại Lý Tự, khâm sai khám lăng, đợi khi thổ nhưỡng Kim Tỉnh đến kinh, lập tức tới ngay bộ Hình, Tam đường hội thẩm!

Hoàng Đế Chính Đức hùng hùng hổ hổ mang hai vị đại học sỹ và ba gã thái giám tâm phúc là Trương Vĩnh, Lưu Cẩn và Mã Vĩnh Thành "đánh thẳng" đến Bộ Hình, khiến cho bọn Ngụy Thân và Trình Văn Nghĩa bị doạ đến nhảy dựng. Hai người lật đật phái người đến bộ Lễ mời Hồng Chung về. Vương Quỳnh, Từ Quán nghe tin cũng vội vã đến theo.

Hoàng Đế Chính Đức không nén được sự sốt ruột, Hồng Chung vừa trở về, y lập tức hạ lệnh thăng đường xử án. Bởi vì vụ án này chỉ liên quan đến một nhà Dương Lăng, cho nên Ngụy Thân chỉ dẫn Dương Lăng, Hàn Ấu Nương, Tuyết Lý Mai và Cao Văn Tâm lên sảnh đường, giải Lý Đạc, Nghê Khiêm, Đới Nghĩa và nhân chứng Thập trưởng nọ xuống dưới sảnh đường, chờ nghe Tam ty hội thẩm. Đám người Hàn Ấu Nương lại không phải vừa khéo mà tới, bọn họ vì tự ý xông vào pháp trường, cho nên trước khi chuyện Đế Lăng được tra rõ, bọn họ cũng là người đợi xét xử tội, vì vậy hôm qua cũng bị giải vào nữ lao (ngục dành cho nữ) đợi sau án Đế Lăng sẽ xử lý tiếp.

Bên nguyên cáo chính là bảy văn sỹ bọn Dương Lâm, Triệu Ung, Vương Cảnh Long và nhân chứng Ngọc Đường Xuân.

Ngọc Đường Xuân vừa lên đến sảnh đường, đôi mắt tựa nước hồ thu liếc nhanh qua Dương Lăng, thấy y toàn thân vận đồ trắng, loang lổ vết máu, ngón tay bị cùm bê bết máu me, trong ánh mắt không nén được vẻ đau xót.

Sợ bị người khác nhìn ra sơ hở, nàng vội cụp mắt, rụt rè quỳ xuống phía trước, cất tiếng nhỏ nhẹ:

- Dân nữ Tô Tam, khấu kiến đại nhân!

Hồng Chung vuốt râu mỉm cười, ôn tồn bảo:

- Nhân chứng Tô Tam chớ nên sợ hãi, ngươi vốn là gia tẩu phủ họ Dương, nay có sỹ tử Trình Huy nói Dương Lăng dùng quan uy bức người, cưỡng bách Thì Hoa quán cưới ngươi về, hơn nữa khi chủ quán Nhất Xứng Kim không đáp ứng, Dương Lăng đã bỏ ra vạn kim. Ngươi hãy nói cụ thể và chi tiết ra đi.

Ngọc Đường Xuân theo sự phân phó của Vương Cảnh Long, ra vẻ chân thật đem chuyện Dương Lăng cưỡng ép Thì Hoa quán mua bọn họ về Dương gia, mang tiếng là tì nữ, thực chất là làm thiếp thị nói ra một lượt. Từ Quán và Vương Quỳnh ngồi sau sảnh nghe mà mở cờ trong bụng. Khi ấy Dương Lăng mới vừa vào kinh, nhiều lắm chỉ là Đông cung thị độc, vậy vạn lượng bạc trắng có được từ đâu?

Như vậy, số bạc này nhất định có lai lịch bất chính. Hơn nữa, nếu y đã vung tiền vô độ, thì nhất định ở Đế Lăng đã bị người khác cám dỗ, hiển nhiên cũng có lý do tham gia che giấu chuyện Đế Lăng thấm nước.

Nhưng Hoàng Đế Chính Đức càng nghe lại càng thấy buồn bực và khó hiểu. Vừa rồi ở trong cung xem tấu chương, y chỉ thấy Dương Lăng dùng số tiền lớn mua thiếp, nhưng lại không biết mua thiếp gì, bây giờ mới biết rõ đầu đuôi. Có điều lời khai này của Ngọc Đường Xuân có nhiều chỗ không thật. Vì để làm nổi bật sự ngang ngược vô sỉ của Dương Lăng, Vương Cảnh Long sai người chỉ dẫn cho Ngọc Đường Xuân thổi phồng thêm một chút. Vì vậy, Chính Đức nghe xong không khỏi lấy làm hoài nghi mà liếc sang Mã Vĩnh Thành.

Thấy vậy, Mã Vĩnh Thành vội kề tai Chính Đức, đem sự tình kể lại tường tận một lượt. Đích thân Chính Đức đầu têu vụ này nên hiển nhiên tin người của mình hơn một chút. Đừng nói Dương Lăng không hề cường quyền ép người, không hề bởi vì Nhất Xứng Kim không chịu bán mà sai người đánh đập doạ dẫm, cho dù có thật sự phạm pháp như vậy, cũng e rằng đó là bởi Dương Lăng vì mình mà ra sức làm việc.

Vừa nghe Ngọc Đường Xuân đổi trắng thay đen như vậy, Hoàng Đế Chính Đức mặt đỏ phừng phừng, cảm giác như là đang nói y, thật sự không nhịn được, bèn thẹn quá hoá giận mà nhảy dựng lên quát:

- Lời khai của nữ tử nhà ngươi có đúng mỗi câu đều là thật? Ngươi nên biết vu khống đại thần triều đình thì sẽ bị đánh chết đấy. Ngươi còn chưa chịu nói thật?

Ở phía trước, ngoài Hồng thượng thư, Ngụy Thân và Trình Văn Nghĩa ra, những người khác đều không biết phía sau còn có Hoàng đế Chính Đức đang ngồi. Đột nhiên nghe thấy có tiếng người quát bèn giật nảy mình, ngay cả đám sai dịch đang chống Thuỷ Hỏa côn cũng vậy.

Lúc này Chính Đức đã qua khỏi thời kỳ vỡ giọng, đám người Ngọc Đường Xuân không quen biết y, nên không nhận ra được tiếng của y cũng là chuyện bình thường, nhưng Dương Lăng và Hàn Ấu Nương thì lại nghe ra. Phu thê hai người không khỏi đưa mắt nhìn nhau, trong mắt đồng thời hiện lên vẻ mừng rỡ. Có ông chủ nghe được vở kịch hay này, hai người lại càng có thêm chút hy vọng thoát hiểm rồi.

Ngọc Đường Xuân thất kinh hỏi:

- Đại nhân, phía sau sảnh đường là người nào hỏi vậy?

Nói đoạn nàng liếc nhanh đôi mắt ngọc nhìn qua phía Hàn Ấu Nương, đôi mắt to tròn biết nói ấy cũng tràn ngập sự nghi hoặc.

Kế sách mà hai người thương lượng ban đầu với nhau là đợi đến khi Ấu Nương phản bác thì nàng mới giả vờ "cùng đường đuối lý", hoang mang sợ hãi, nên nói ra sự thật, như thế mới càng dễ lấy được sự tín nhiệm của người khác. Nhưng bây giờ sau sảnh đường đột nhiên có người cất tiếng hỏi, hơn nữa ngữ khí rõ ràng không tin lời nàng nói, cho nên Ngọc Đường Xuân còn ngỡ là một ngày này không có liên lạc, Ấu Nương đã tìm thêm được người giúp đỡ rồi.

Hồng Chung nghe thấy Hoàng đế Chính Đức ở sau lưng lên tiếng, người trên sảnh, nhân chứng, phạm nhân lẫn ba nhóm nha dịch đều kinh ngạc như vậy thì lấy làm khó xử, bèn nói:

- Phía sau... phía sau sảnh là một vị lão đại nhân đang nghe dự thẩm, ngươi không cần hỏi nhiều, cứ trả lời thành thật là được.

Ngọc Đường Xuân thấy Hàn Ấu Nương đưa mắt ra hiệu thì trong lòng đã tỏ, nàng sợ sệt quỳ ở đó, bộ dạng xinh đẹp động lòng người, lo lắng nói:

- Đại nhân, dân nữ không dám trả lời. Sợ vị lão đại nhân đó sẽ dùng hình với dân nữ.

Thấy người con gái xinh đẹp này không hiểu biết, Hồng Chung vội mỉm cười an ủi:

- Chỉ cần ngươi lời ngay nói thật, thành thật trả lời, lão đại nhân sẽ không trách đánh ngươi đâu, thậm chí bổn đại nhân cũng sẽ làm chủ cho ngươi.

Lão liếc Dương Lăng một cái, rồi cười nhạt nói tiếp:

- Bất kể kẻ đó quyền cao chức trọng đến đâu, đã đến trước sảnh đường này đều phải nghe theo bổn quan... à không, nghe theo vị lão đại nhân đằng sau bổn quan xử trí. Ngươi có oan uất bất bình gì thì hãy cứ nói ra hết, có bổn quan và vị lão đại nhân đó làm chủ, không ai có thể làm hại đến ngươi đâu!

Ngọc Đường Xuân nghe đến đây vội vã dập đầu kêu:

- Đa tạ đại nhân, đa tạ lão đại nhân, dân nữ bị oan, dân nữ bị oan quá!

Hồng Chung mỉm cười bảo:

- Chớ nên sợ hãi, bổn quan tự sẽ làm chủ giải oan cho ngươi. Tô Tam, ngươi cứ việc mạnh dạn nói ra đi.

Ngọc Đường Xuân liền chỉ Vương Cảnh Long lớn tiếng khóc rống:

- Dân nữ bị oan, sở dĩ dân nữ hãm hại chủ cũ, đều là vì bị vị Vương tam công tử này đe doạ. Vị Vương tam công tử này nói đại nhân nhà dân nữ đã bị giam vào trong ngục, nếu dân nữ không làm theo lời hắn, hắn sẽ bán dân nữ vào ty Giáo Phường.

Ngọc Đường Xuân khóc như mưa, không ngớt nghẹn ngào nói:

- Vương tam công tử còn nói không tới mấy ngày, họ Vương nhà hắn sẽ chỉ dưới một người mà trên vạn kẻ. Nếu dân nữ chịu theo hắn, hắn sẽ mua dân nữ về phủ làm thiếp, hưởng mọi vinh hoa phú quý. Dân nữ chỉ là một đứa con gái yếu đuối, gia chủ chịu oan, bơ vơ không nơi nương tựa, do đó bất đắc dĩ mới hãm hại vu cáo chủ cũ, thật không phải là ý nguyện của dân nữ đâu. Xin đại nhân làm chủ cho dân nữ...

Ngọc Đường Xuân còn chưa dứt lời, hơn chục người trước và sau sảnh đường khi nãy còn không ngớt cười mỉa tất cả nghe vậy đều biến sắc!

Ngay vào lúc này, nghi trượng của ba vị khâm sai đã tiến vào trong kinh thành, mà Lý Đông Dương và Vương Hoa vẫn còn ngồi ở trong nhà, từ đầu chí cuối không thấy gia nhân hồi âm, đoán biết là chuyện đã không thể thực hiện được, thế là hai ngươi chỉ đành im lặng ngồi nhìn nhau, thất vọng thở dài.

Ngay đúng lúc này, gia nhân được phái đến Đế Lăng thám thính tin tức đã vội vội vàng vàng trở về, Vương Hoa vội vã nhảy dựng lên, run rẩy hỏi:

- Thủ Nhân bên đó đã có tin tức rồi ư?

Gia nhân đáp:

- Lão gia, lão bộc đuổi theo rất lâu, thuỷ chung không thấy công tử gia ra hiệu, bây giờ nghi trượng khâm sai đã về đến ngọ môn, nhưng chỉ ngừng lại một chút rồi đi đến thẳng bộ Hình. Lão bộc đành phải trở về báo tin.

Vương Hoa và Lý Đông Dương ngạc nhiên nhìn nhau: khâm sai không đến hoàng cung trả chỉ mà lại đi thẳng đến bộ Hình? Chẵng lẽ...

Lý Đông Dương vội nói:

- Mau, chuẩn bị kiệu... Không! Chuẩn bị ngựa, chúng ta lập tức chạy đến bộ Hình!

Hai vị đại nhân lật đật rời khỏi phủ môn, gia nhân vừa dắt ngựa đến, hai người đã vội vàng lên ngựa ra sức dồn roi phóng thẳng đến đại sảnh bộ Hình. Vừa chạy đến cổng sảnh đường, chỉ thấy một chiếc kiệu đặt chếch bên dưới cổng, trong kiệu chui ra một lão nhân độ năm mươi, dáng bộ đắc ý. Lý Đông Dương vẫn chưa xuống ngựa, trông thấy người đó không khỏi lấy làm kinh ngạc hỏi:

- Mạt giám chính (4), ông đến bộ Hình làm gì?

Giám chính Khâm Thiên giám ngẩng đầu, vừa thấy đó là Đại học sỹ Lý Đông Dương và Thị lang Bộ Lễ Vương Hoa thì vội chắp tay cười bồi nói:

- Ra mắt hai vị đại nhân. Hoàng thượng lệnh cho hạ quan nghiệm đoán báo hiệu của lôi kích (sét đánh), hôm nay đã có kết quả, hạ quan đến là để bẩm báo cho hoàng thượng.

Lý Đông Dương nghe vậy cả kinh hỏi:

- Hoàng thượng quả nhiên đã đến bộ Hình. Chẳng lẽ... chẳng lẽ Hoàng Thượng muốn ngự giá đích thân xét xử sao?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#dfd