Quyển 2 - Nhắm mắt vào kinh

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển 2 – Nhắm mắt vào kinh

Chương 45 – Mùa xuân đã đến

Dịch:

Biên dịch: Fishscreen

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Khoé miệng Dương Lăng méo xệch: “Gần đây mình bị sao thế nhỉ? Sao cứ có những suy nghĩ không đứng đắn vậy ta?”

----------------------------------

Tháng hai đầu xuân, tiết trời vẫn còn lạnh lẽo cô liêu, nhưng nụ đào đã nở, cỏ cây cũng đã nảy chồi non xanh nhạt.

Trên sân đập lúa bằng phẳng sực nức mùi thóc gạo. Bọn dịch tốt đã chuyển tất cả lương thực trong kho ra ngoài sân đập; chân để trần, tay giơ cào gỗ, xới thóc lên phơi.

Tiếp sau đó, Dương Lăng được một phen “bận rộn”. Thấy lương thực đã được trải đều, y liền xỏ giày thong thả bước ra khỏi sở Dịch. Công việc hiện giờ của y rất nhàn hạ, thành Kê Minh vừa trải qua trận chiến, ngoại trừ một số thư từ công văn ra thì không phải tiếp nhận nhiệm vụ gì cả. Song ở bên phía Cẩm Y Vệ, tin tức bí mật lại lui tới như thoi đưa.

Theo như tình hình được miêu tả trong các bản tin tình báo, các bộ lạc trên thảo nguyên cũng đang không ngừng phân tranh. Lúc hợp lực tấn công cướp bóc các thành trì gần biên giới Đại Minh, bọn chúng giống như một đám cường đạo kết phường cướp bóc, ngầm hẹn phối hợp với nhau. Khi lui về, sẽ lại vì phân chia chiến lợi phẩm không đồng đều mà bắt đầu hiềm khích lẫn nhau. Giữa các bộ lạc Thát Đát và các bộ tộc khác thường xảy ra chuyện đánh giết.

Nghe đâu Nữ Chân, Tây Phiên và một số bộ lạc nhỏ thân đơn thế cô của Thát Đát, mặc dù cũng tham gia cướp phá đợt này, nhưng kết quả là nhân mã tổn thất thảm trọng, tài sản được phân chia lại ít nhất. Trải qua trận chiến này cuộc sống bọn họ lại càng thêm gian khổ: nấu cơm không có nồi sắt, nêm món ăn không có muối, không có lấy cả một bộ quần áo chỉnh tề. Có điều lúc này cỏ đã mọc xanh trên thảo trường, chim oanh bay lượn khắp nơi, những người dân du mục mưu sinh bằng chăn nuôi sắp bắt đầu cuộc sống mới cho nên không còn lo bọn họ tấn công nhà Minh vào mùa này.

Mẫn huyện lệnh đã đến Hải Ninh nhậm chức. Sắp tới đây Tất đô ty cũng phải lên đường trở về Giang Nam. Còn cha con Hàn Lâm vốn là hộ săn bắn trong núi, không có ruộng đất, không cần phải trở về. Trong trận chiến vừa qua, dịch tốt Kê Minh tử thương gần ba phần, đang lúc thiếu người, Dương Lăng bèn thu xếp đưa cha vợ và anh vợ vào làm việc trong sở Dịch. Còn cậu em vợ Hàn Mãn Thương, mặc dù chú ta cũng nhao nhao đòi làm dịch tốt nhưng cho dù có khai man tuổi thì cái bộ mặt búng ra sữa của nó cũng quá rành rành, nên đành phải thôi.

Dưới nỗ lực của Dương Lăng cùng với sự trợ giúp trấn áp của Vương chủ bộ và Hoàng huyện thừa, nhìn chung lời đàm tiếu về “Dương dịch thừa tuyết dạ bạn mỹ nữ, tú tài công chánh nguyệt nạp kiều nương (1)” lưu truyền trong nha môn đã được khống chế, không lan truyền đến dân thường và quân lính.

(1) Tạm dịch:

Dương dịch thừa đêm đông cùng mỹ nữ

Ông tú tài giêng đến nạp thiếp xinh

Dương Lăng phải suy nghĩ nhiều như vậy, mối bận tâm về Mã Liên Nhi cũng phai nhạt đi, chuyện cứ thế trôi qua. Ai ngờ, không biết bởi vì hai người cùng tuổi hay vì Mã Liên Nhi là bạn gái duy nhất của Hàn Ấu Nương trong dịch thự, mà chuyển đến chưa được mấy hôm, hai người đã đối xử với nhau rất thân thiết.

Tuy Mã Liên Nhi tránh mặt không gặp Dương Lăng, song tình thân giữa nàng với Hàn Ấu Nương thì lại càng lúc càng mật thiết. Hai ngày trước Dương Lăng vô tình gặp cô nàng một lần. Mới chỉ hơn một tháng, hai má của nàng đã gầy đi, cằm cũng nhọn hơn, đôi mắt có vẻ to hơn nhưng ánh mắt thì lại ít có thần hơn.

Trông thấy vậy, Dương Lăng cũng không biết là nên đau lòng hay nên áy náy. Y chỉ có thể cố hết sức trong khả năng của mình, căn dặn người chiếu cố cho cuộc sống nàng tốt hơn một chút. Mạng sống của bản thân y quá ư ngắn ngủi, trong khi Mã Liên Nhi vẫn còn có thể lựa chọn khác; với sắc đẹp của nàng ấy, không nghi ngờ gì sẽ có thể tìm được một tấm chồng yêu thương và nuông chiều nàng. Nhận nàng làm thiếp ư? Như vậy là quá ích kỷ. Nếu lợi dụng lúc nàng không hay biết về cuộc sống đoản mệnh của mình mà bỉ ổi tiếp nhận nàng, vậy ta yêu nàng hay làm hại nàng? Như vậy là quá bất công cho nàng!

Về phần Ấu Nương, y đã suy nghĩ nghiêm túc và đã thông suốt. Từ giây phút y mở mắt ra, Ấu Nương đã được ông trời xếp đặt là người của y. Những ngày qua, y đã biết rõ Ấu Nương là một phụ nữ rất truyền thống, rất chất phát. Ngay từ lúc đầu, khi còn hoàn toàn lạ lẫm với phu quân, còn chưa có tình cảm gì, nàng đã quyết tâm vì y trọn đời thủ tiết, huống hồ giờ đây tình cảm bọn họ đang nồng nàn sâu đậm như vậy.

Lối nghĩ mà ban đầu y cho là đúng, tuyệt nhiên không thể thành hiện thực được. Nếu cứ cùng Hàn Ấu Nương sống hết hai năm với thứ tình cảm nửa như tình thân, nửa như tình yêu này, nhất định y sẽ ôm theo mối hận suốt đời mà bắt đầu kiếp luân hồi mới. Còn Ấu Nương? Những gì mình để lại cho nàng sẽ chỉ là nỗi đau thương vô tận và thêm nhiều nhung nhớ.

Nếu đã như vậy, thì sao không để cả hai cùng trải qua hai năm trong ngọt ngào và hạnh phúc? Nếu có thể cho nàng một kết tinh của tình yêu… Mắt Dương Lăng đã ươn ướt. Làm chồng, làm cha, chỉ cần nghĩ một chút, một cảm giác trách nhiệm nặng trĩu và thành tựu đã khiến y kích động không ngừng.

Tuy rằng sinh mạng hơi ngắn ngủi, nhưng cuộc sống chung của bọn họ cũng muôn màu muôn vẻ. Nếu lại có thêm một đứa con bé bỏng thì cho dù có mình có mất đi, Ấu Nương vẫn sẽ có chỗ dựa, vẫn có thể dũng cảm sống tiếp. Đứa con của bọn họ vẫn sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho nàng.

Nhưng mà, khi y vừa có cái quyết tâm khiến y kích động không thôi này, lời nói dối đáng chết đó lại trở thành chướng ngại vật. Sẽ phải nói với Ấu Nương thế nào đây? Cho dù Ấu Nương vẫn luôn tuân lời y, nhưng e rằng việc này liên quan đến sống chết của y, tiểu nha đầu cũng khó mà đành lòng để y thắt cổ trong yên bình. Nàng không thuận lòng lên giường, chăng nhẽ y phải giở trò cưỡng gian? Ha, đợi đến khi nào mày đánh thắng được nàng rồi hãy cân nhắc nhé!

Dương Lăng gãi cằm cười khổ không thôi. Bản tính y vốn ngả ngớn hoạt bát, nhưng từ khi gặp được Ấu Nương, y lại càng lúc càng trở nên trầm tĩnh và thực tế, quả thật chẳng giống chính mình. Cái cô bé cưng ngây thơ thuần khiết, dịu dàng đáng yêu này thiệt là!

Dương Lăng vừa đi vừa nghĩ đến Ấu Nương, khi thì mỉm cười, khi thì lại khẽ nhíu mày. Bên bờ sông nhỏ ngoài phía đông thành, nước sông đã tan hoàn toàn, dòng nước trong veo vui sướng chảy băng băng. Lấy tay dò thử thì thấy nước vẫn lạnh thấu xương, song đã có thể chịu được.

Y cảm thấy gần đây thân thể đã săn chắc hơn thấy rõ. Rượu thuốc nhạc phụ đại nhân ngâm cho uống quả là rất tốt, không biết có phải là phương thuốc bí truyền của võ tăng chùa Thiếu Lâm hay không. Khi y hỏi thì nhạc phục cũng không đáp, chỉ bảo rằng rượu này được ngâm bằng thảo dược trân quý trên núi, có công hiệu bồi bổ căn nguyên, cường thân kiện thể.

Phải nói, rượu thuốc này đúng là chính hiệu. Lần đầu không biết độ mạnh của thuốc, y uống một hơi ba chung, kết quả là tối hôm đó y quá đỗi dễ chịu luôn, hai bên eo sau nóng hầm hập như đang chườm hai túi nước nóng, thậm chí tinh thần cũng hết sức sung mãn, mãi đến tận nửa đêm mới ngủ được. Bây giờ vào mỗi bữa cơm tối Ấu Nương đều pha cho y một chung, y càng uống càng hứng thú.

Một thiếu phụ trẻ tay cầm làn tre nhảy qua những hòn đá trên sông. Trông thấy một người thanh niên đang đứng bên bờ nhìn mình, cô nàng e thẹn lướt qua bên người y, bị ánh mắt sáng rỡ của y ngắm nghía, cô nàng nhất thời không dám xoay bờ eo thon lại.

Ánh mắt Dương Lăng dõi theo bóng dáng mềm mại phơi phới tuổi xuân của nàng ta lả lướt đi thật xa, đến khi có một cơn gió lạnh thổi thốc vào mặt y mới định thần lại. Y tự tát mình một cái: “Chết tiệt, gần đây sao kỳ vậy ta? Sao dạo này thường hay thích ngắm gái đẹp quá ta! Chẵng lẽ xuân đến, cả loài người cũng lên cơn động cỡn hay sao?”

Dương Lăng nhìn vũng nước ở phía trước, không có gì làm nên y đang tính đi kiếm cần câu giết thời gian, đột nhiên nghe một giọng nói trong trẻo đáng yêu:

- Tướng công, chàng đang chờ bọn thiếp trở về sao?

Dương Lăng nghe tiếng liền ngẩng đầu lên, trông thấy Hàn Ấu Nương và Mã Liên Nhi xinh đẹp dịu dàng đang bước men theo con đường nhỏ từ trong núi đi đến. Tay trái Hàn Ấu Nương khoác chiếc giỏ vuông, tay phải đang đung đưa một cành đỗ quyên rực rỡ, mặt tươi như hoa, xinh xắn như nước suối dưới khe . Mã Liên Nhi đi cạnh, y phục trắng hơn tuyết, xinh đẹp thướt tha, cả người không chỗ nào không quyến rũ.

Hai người lên núi hái rau dại mới trở về, đột nhiên thấy Dương Lăng đang đứng bên bờ sông. Hàn Ấu Nương vui mừng, hí hửng bước nhanh tới trước nghênh đón. Mã Liên Nhi vừa đuổi theo mấy bước, chợt bước chậm lại, ngẫm nghĩ cẩn thận lời của Hàn Ấu Nương: “Tướng công, chàng đang chờ ‘bọn thiếp’ trở về sao?”

Những ngày gần đây, Hàn Ấu Nương tỏ ra thân cận với nàng, Mã Liên Nhi cực kỳ thông minh, lẽ nào không thấy được? Nàng chỉ biết Dương Lăng thu xếp để Ấu Nương đến chiếu cố cho mình, nhưng bây giờ càng lúc nàng càng cảm thấy dường như Hàn Ấu Nương đang tỏ ý muốn xúc tiến cho mình và Dương Lăng. Nàng ấy… nàng ấy thật sự vui lòng để mình bước vào nhà họ Dương ư?

Vừa nghĩ đến khả năng này, trống ngực Mã Liên Nhi không khỏi đập thình thịch. Nàng biết quá rõ vị trí của Ấu Nương trong trái tim của Dương Lăng, nếu như nàng ấy chịu gật đầu, vậy chuyện này sẽ rất có hi vọng.

“Mình thật là ngốc! Nếu trực tiếp đến với tên ngốc Dương Lăng này không được, sao mình lại không nghĩ ra cách lấy lòng Ấu Nương nhỉ? Sau này khi thật sự trở thành tỷ muội rồi, mình cũng phải được nàng ấy cho phép mới có thể gần gũi y. Đã vậy, bây giờ nên đối xử tử tế với nàng ấy mới được.”

Hàn Ấu Nương lại không phát hiện sơ hở trong lời nói của mình. Nàng nở một nụ cười rực rỡ, chạy đến bên cạnh Dương Lăng, giơ chiếc giỏ lên như thể muốn hiến dâng bảo vật, nói:

- Tướng công, thiếp ngắt được rất nhiều rau dại nè. Chàng xem, nào là nấm tai mèo, rau tề, rau khúc (2). Còn nữa, chàng xem, quả thù lù này to không? Để thiếp rửa rồi chàng nếm thử, ngon lắm đó.

(2) Rau tề (tề thái, cỏ tâm giác, địa mễ thái): tên một thức cỏ, hoa trắng, khi còn non ăn được, dùng làm thuốc giải nhiệt, lợi tiểu, cầm máu...

Rau khúc (thử khúc thảo, thanh minh thảo): Tên một loài rau dại. Hằng năm, cứ tới mùa xuân, cây lại xuất hiện, mọc lên khắp nơi, thường hay gặp nhất ở trên các bãi hoang, bờ ruộng, bờ cát ven sông... Rau khúc vừa làm bánh được vừa làm thuốc chữa bệnh rất tốt.

Hàn Ấu Nương phấn khởi đặt chiếc giỏ xuống đất, chọn quả thù lù to nhất rồi chạy ra bờ sông rửa. Lúc này, Mã Liên Nhi cũng đã đi đến, nhìn Dương Lăng cười một cách thiếu tự nhiên.

Dương Lăng nhìn nàng. Mã Liên Nhi toàn thân mặc đồ trắng, cách ăn mặc đã giản dị hơn nhiều so với trước kia. Ánh nắng ấm áp của ngày xuân chiếu lên khuôn mặt mịn màng thanh tú của nàng, tựa như trong suốt. Trên chiếc eo thon thon khiến người ta hận không thể siết lấy kia, chiếc đai lưng phe phẩy theo gió núi, như thể chỉ khẽ giật nhẹ sẽ lột trần tấm thân ngọc ngà ấy. Khoé miệng Dương Lăng méo xệch: “Gần đây mình bị sao thế nhỉ? Sao cứ có những suy nghĩ không đứng đắn vậy ta?”

Không gặp hơn một tháng, Mã Liên Nhi cũng không thay đổi nhiều lắm. Trên môi vương những sợi lông măng nhỏ bé. Vẫn là bộ dáng thiếu nữ còn mang vẻ ngây thơ, nhưng cõi lòng từng trải và chín chắn khiến nàng như lột xác, giống như một đoá thược dược mảnh mai, yểu điệu lung linh.

“Cô ấy đã gầy đi nhiều!”

“Y đã cường tráng hơn nhiều!”

Mã Liên Nhi thật sự giống như Ấu Nương đã nói, chiếc cằm thon lại, đôi mắt thật to, khuôn mặt trái xoan ấy đã sắp đuổi kịp hình ảnh hồ ly tinh trong phim hoạt hình rồi, vẻ yếu ớt gầy ốm càng tăng thêm phần quyến rũ. Mà Dương Lăng vốn là một kẻ văn nhã, song cái vẻ phong độ của kẻ trí thức ấy lại có phần nho nhã yếu đuối. Hôm nay lưng của y đã thẳng hơn, cặp mắt đã đen và sáng hơn, cặp lông mày cũng đã trở nên khí khái bừng bừng.

Hiện tại y mặc một chiếc áo đơn màu xanh, răng trắng môi hồng, mắt sáng như sao, hệt như một chàng công tử phong lưu văn nhã. Gò má vốn tái nhợt cũng hồng hào lên rồi. Vừa nói đến hồng thì đã thấy hồng rồi, ừm… rất là… hồng!

Cảm thấy chóp mũi chợt lạnh, Dương Lăng thuận tay quẹt qua, không ngờ máu đỏ cả tay. Ơ… kém dữ vậy sao? Gần đây y cảm thấy mũi hay bị khô, còn tưởng là do trong nhà đốt giường đất, hoặc vì mùa xuân khí hậu khô hanh. Nhưng bây giờ nhìn thấy người ta lại chảy máu mũi, chuyện này coi bộ khó giải thích à!

Y lúng túng đưa tay lên mũi giữ chặt. Máu vẫn đang chảy, đã tràn qua miệng, cho nên y không dám mở miệng. Mã Liên Nhi sợ hãi la lên:

- Dương đại ca, huynh chảy máu kìa!

Bất đắc dĩ Dương Lăng đành đảo mắt ra hiệu đã biết, cái này trông giống như bọn họ đang có bất hoà không thèm nói chuyện với nhau. Vừa ngước mắt lên thấy vậy, Hàn Ấu Nương liền cuống quít chạy tới hỏi:

- Chàng bị sao vậy? Mau ngửa cổ lên đi!

Nói đoạn nàng dùng bàn tay còn ướt vuốt trán giúp Dương Lăng.

Dương Lăng ngửa đầu nhìn trời, bầu trời thật trong xanh, mây trắng cuộn chung quanh, giống như màn tơ, dằng dặc nhớ đất trời…

Đang thầm lặng hỏi ông trời, đột nhiên ai đó nhét một vật mềm mại vào trong tay, y thoáng sờ qua, thì ra là một chiếc khăn nhỏ. Y vội chụp lên mũi, lau máu. Chiếc khăn tay trắng tinh toả ra một mùi hương nhàn nhạt.

Đây không phải là mùi của Ấu Nương. Mùi hương của Ấu Nương là một mùi thơm dịu nhàn nhạt như hoa nhài, còn đây là mùi hương cực phẩm cao cấp. Dương Lăng máy động trong lòng: “Đây là khăn của Liên Nhi!”

Máu đã ngưng chảy. Dưới ánh mắt ân cần của hai tiểu mỹ nhân đang lom lom nhìn, Dương Lăng bối rối chạy ra bờ sông rửa mặt. Mã Liên Nhi và Hàn Ấu Nương nhìn y, lại nhìn nhau, rồi chột dạ quay đầu đi chỗ khác.

Mã Liên Nhi cắn môi, hơi chột dạ, hơi buồn cười, lại hơi đắc ý. Cách biệt một tháng, không ngờ vừa gặp lại nhau, y lại có thể xịt máu khi thấy mình.

Hàn Ấu Nương nhìn Dương Lăng với vẻ khẩn trương, nhủ thầm: “Hỏng rồi! Cha nói thứ rượu thuốc dùng nhân sâm, hổ cốt, nhung hươu, cẩu kỷ để pha chế này dùng để bồi bổ thân thể, song thuốc quá mạnh, gân cốt tướng công lại yếu, cho nên phải uống cẩn thận. Nhưng mình thấy tướng công thích uống, nên mỗi ngày rót nhiều thêm một chút, ai ngờ… ‘hư bất thụ bổ’ (3) thật rồi. Tướng công sẽ không có chuyện gì chứ?”

(3) Theo Trung y, cơ thể con bệnh quá yếu, được bồi bổ mà bệnh tình không những không thuyên giảm mà còn nặng hơn hoặc xuất hiện di chứng thì gọi là “hư bất thụ bổ” (yếu nên không tiếp thu chất bổ được).

Trông thấy ánh mắt Mã Liên Nhi đang liếc nhìn tướng công, Hàn Ấu Nương thầm nghĩ: “Đệ đệ không nói càn, quả nhiên Liên Nhi tỷ tỷ có tình ý với tướng công.”

Lời của tiểu đệ Mãn Thương tố cáo với nàng lại văng vẳng bên tai:

- Tỷ! Đệ nói cho tỷ nghe, khi bọn đệ đến cứu tỷ phu, thì thấy y đang cùng với vị tỷ tỷ xinh đẹp ở trong sở Dịch, à… là Liên Nhi tỷ tỷ đang thơm môi đó.

Hàn Ấu Nương khẽ thở dài, lại nhớ đến lời dặn của cha:

- Ấu Nương, chồng có cương thường của chồng, vợ có đức hạnh của vợ, lời thầy dạy con đã quên hết rồi sao? Người vợ ghen tuông sẽ bị ruồng bỏ đó! Con thử xem tự cổ chí kim có kết cục tốt nào cho nữ nhân được cưng chiều mà kiêu ngạo không?

Luật pháp nhà Minh chúng ta quy định bốn mươi không con mới được nạp thiếp. Nhưng đó là cho bách tính thường dân, không áp dụng được cho kẻ làm quan. Cô gia (con rể) tiền đồ rộng lớn lắm. Con gái à, rất nhiều phụ nữ bản triều chủ động nạp thiếp cho phu quân mình, ai cũng nói bọn họ hiền hậu rộng lượng. Con chớ nên để mang tiếng ghen tuông, sẽ lợi không bằng hại đấy!

Chúng ta xuất thân bần hàn, con có thể cưới được ông tú tài này là vì năm xưa ta đã cứu Dương lão gia khỏi miệng cọp, cho nên mới có thể kết thông gia với họ. Con là một đứa nhỏ tốt phúc, con hãy xem trong thôn chúng ta, làng trên xóm dưới có ai mà không hâm mộ con?

Hai con mắt tinh tường này của cha không nhìn lầm người đâu. Cô gia là người phúc hậu, đối đãi với con cũng rất tốt. Chỉ cần con tận tâm hầu hạ chồng, sớm ngày hạ sinh quý tử cho nhà họ Dương, thì cho dù tiểu thư nhà họ Mã của y có xinh đẹp hơn con, thân thế có tốt hơn con, vị trí của con cũng sẽ vẫn vững chắc, không ai có thể chiếm đoạt được.

Không được nổi máu ghen tuông! Theo cha nghĩ, nếu cô gia đã thích Mã tiểu thư rồi, chi bằng con chủ động giúp nàng ấy một chút, sau này thành tỷ muội rồi cũng sẽ dễ sống chung hơn, cô gia sẽ càng kính trọng con hơn. Như vậy không tốt cho con sao?

Hàn Ấu Nương thầm thở dài một tiếng. Đã làm vợ, ai lại không mong muốn chồng mình xuất chúng hơn người chứ? Nhưng có tiền đồ rồi thì lập tức chồng mình sẽ có thêm người khác. “Hối giáo phu tế thỏa phong hậu” (4), đời người có được thì cũng có mất thôi.

(4) Trong câu này chữ 觅 (mịch) viết sai thành chữ 妥 (thỏa), chữ 侯 (hầu) viết sai thành chữ 候 (hậu). Câu đúng là “hối giáo phu tế mịch phong hầu”.

Câu thơ này trích trong bài “Khuê Oán” (閨怨), tạm dịch “nỗi oán phòng khuê” của Vương Xương Linh thời Thịnh Đường, miêu tả tâm trạng u sầu của người thiếu phụ có chồng đang tham gia chinh chiến.

Nguyên văn

閨怨

王昌齡

閨中少婦不知愁, 春日凝妝上翠樓。

忽見陌頭楊柳色, 悔教夫婿覓封侯。

Hán Việt:

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu

Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc

Hối giáo phu tế mịch phong hầu

Dịch thơ :

Cô gái phòng the chửa biết sầu

Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu

Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu

Hối để chồng đi kiếm tước hầu

Ngô Tất Tố

Ngày xuân trang điểm má hồng

Lên chơi gác Thúy, nàng không biết sầu

Đường xa, kìa liễu xanh mầu

Xui chồng đi giật tước hầu, dại chưa!

Vũ Hoàng Chương

Chương 46 – Niềm vui chốn khuê phòng

Dịch:

Biên dịch: Hieusol

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Thiếu nữ dù si tình đến mấy, nhưng giữa hai người lại chưa có thâm tình gì đáng kể, liệu nàng ta sẽ còn nhớ đến mình sao?

----------------------------------

Dương Lăng đứng trong sân dùng muối và xơ mướp chà răng, hà hơi ra vẫn còn thoảng mùi rượu, đầu cũng hơi lâng lâng. Tối hôm nay Ấu Nương không cho y uống rượu thuốc mà thay bằng rượu Cao Lương tự ủ mua ở tiệm rượu nhỏ trên huyện, nên y đã uống thêm mấy chén.

Buổi chiều Ấu Nương luộc mớ rau dại, chưng một con gà nhỏ, mời Liên Nhi qua dùng bữa chung. Trời còn chưa tối Ấu Nương đã đưa nàng ấy về phòng, đến giờ vẫn chưa trở lại, cũng chẳng biết hai người bọn họ đang nói những chuyện gì. Dương Lăng cũng lười không muốn quan tâm.

Lúc cần chẳng quyết, nay phải lo toan. Tình hình thực sự của bản thân không thể kể cho bất kỳ người nào cả, dù gì cũng không thể giở lại cái câu dối trá "nội trong hai năm ắt chết" ra gạt thêm Mã Liên Nhi, nếu để Hàn Ấu Nương biết được, thế thì chẳng khác nào lạy ông tôi ở bụi này.

Dương Lăng đang chìm trong suy nghĩ, Hàn Ấu Nương đã bước vào trong sân. Miệng còn ngậm bọt muối, Dương Lăng gật đầu đón nàng:

- Đưa nàng ta về rồi à?

- Dạ!

Hàn Ấu Nương đáp lời, bước đến cạnh Dương Lăng, chần chừ không vào nhà. Súc miệng xong, Dương Lăng thấy nàng vẫn đứng cạnh mình, trên khuôn mặt không biết giấu diếm đó rõ ràng đang viết "có chuyện muốn nói", không nhịn được bèn mỉm cười trìu mến véo nhẹ mũi nàng, bảo:

- Đứng ngây ra đó làm gì? Đi, vào nhà thôi!

Dương Lăng cài cửa lại, ngồi xuống giữa phòng, đưa tay lấy bình trà. Cô nàng Ấu Nương chu đáo không biết đã thay trà tự khi nào, bây giờ vừa khéo đủ ấm để uống. Tường đặt ghế dựa là kiểu tường vách đôi được hun khí nóng bởi hệ thống sưởi chung trong sở dịch, vách tường được giữ ấm suốt ngày nên gian phòng rất ấm cúng.

Y vừa đưa mắt nhìn, Hàn Ấu Nương liền luống cuống đan hai ngón tay mảnh khảnh lại vào nhau, đảo mắt nhìn khắp phòng mấy vòng, rồi trộm liếc y, vẻ do dự. Thấy vậy,

Dương Lăng lấy làm thú vị, bụng bảo dạ: "Ấu Nương trước giờ chưa từng có vẻ mặt khó xử như vậy, chuyện gì khiến nàng ấy khó mở miệng như vậy chứ? À, đúng rồi, hình như nghe nhạc phụ nói đang xoay sở tiền nong làm mối cho Hàn Uy cưới vợ. Chẵng nhẽ là muốn mượn tiền?"

Khi mấy mươi cái miệng người họ Dương tới đây ăn uống, nàng đã không chút keo kiệt chu cấp cái ăn cái mặc cho bọn họ, còn luôn lo lắng mình sẽ trách móc nàng không chăm sóc chu đáo người nhà họ Dương. Lần này nàng lại đứng ra mượn tiền cho nhà mẹ đẻ, thật làm khó cho nha đầu này quá rồi.

Dương Lăng không nỡ để nàng khó xử thêm, bèn chủ động hỏi:

- Ấu Nương, có phải nàng có chuyện muốn nói không?

- Á?

Cơ thể Hàn Ấu Nương thoáng run lên, nàng hoảng hốt lắc đầu:

- Phải, á, không phải, ưm... Trà nguội rồi phải không? Để thiếp đi đun thêm nước.

Dương Lăng phì cười, nói:

- Nàng thật! Có phải là đại ca thiếu tiền để cưới vợ không? Nghe nói y và vị Trương cô nương cùng chạy nạn vào thành đó rất là thân thiết à. Thiếu tiền lo liệu hôn sự phải không nào? Mấy chuyện này nàng không cần hỏi ta, nhà chúng ta do nàng làm chủ, thiếu bao nhiêu nàng cứ lấy là được.

- Không phải mà!

Hàn Ấu Nương dẩu môi, ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, nguýt yêu y:

- Không phải vì chuyện của nhà ngoại. Cha đã nói rồi, anh cả muốn cưới vợ thì phải tự mình kiếm tiền để cưới, tướng công tìm việc làm cho cha và hai anh là đã quí lắm rồi.

- Xem nàng nói kìa!

Dương Lăng cười ha hả:

- Ta phải cảm kích nhạc phụ đã cho ta cô vợ đáng yêu, dịu dàng như vầy mới phải chứ! Lại còn phải cảm kích đại ca, nhị ca đã sinh ra sớm hơn nàng nữa, bằng không thì chừng nào mới đến phiên chúng ta xứng đôi như thế này? Có phải không hử, cô vợ bé nhỏ của ta?

Thấy dáng vẻ đáng yêu của nàng, Dương Lăng không chế ngự được lửa dục dâng trào, quên sạch mình đang muốn hỏi gì. Y thích chí ghé sát qua ôm lấy bờ vai thơm của Ấu Nương, hôn đánh chụt lên má nàng.

Hàn Ấu Nương thẹn thùng nhích vai tránh ra, dài giọng trách:

- Tướng... công..., mùi rượu nồng quá à!

- Giỏi nhỉ! Dám chê miệng tướng công có mùi rượu! Ta phải chấp hành gia pháp, phạt nàng đứng phơi mông trong sân.

Dương Lăng mượn rượu giả khùng.

Không biết có phải do bị Ấu Nương đùa bỡn không, y chỉ cảm thấy lửa dục đang thiêu đốt, nhất thời không kìm được mà thi triển ma thủ lên bộ ngực trắng mềm và bờ mông căng tròn của Ấu Nương.

Hàn Ấu Nương ngượng đến nhũn cả người. Nàng uốn éo tấm thân hòng tránh né sự tập kích của y, yêu kiều lí nhí trong hơi thở gấp:

- Bỏ chàng đi! Ở đâu lại có... có kiểu phạt vợ mình như vậy chứ?

Nàng quẫn bách đấm nhẹ lên người Dương Lăng, ánh mắt chợt sáng lên; tưởng tượng nếu như tướng công phạt mình như vậy thật... Lập tức bị ý nghĩ bạo dạn của mình làm cho ngượng chín mặt, nàng lấy tay che mặt, giậm chân, lắc vai:

- Tướng công nói bậy quá à, thật là ngượng chết đi...

Vẻ khêu gợi hấp dẫn đầy nữ tính đó khiến Dương Lăng hưng phấn không thôi, hận không thể lập tức "làm thịt" Ấu Nương ngay tại chỗ. Y hít vào một hơi, nâng tấm thân mềm mại của Ấu Nương đặt lên gối mình, hôn phớt lên má nàng một cái, rồi chủ động trở về chủ đề chính:

- Được rồi, tướng công không làm loạn nữa. Nói cho ta nghe, nàng muốn nói gì với tướng công vậy?

Hàn Ấu Nương thẹn thùng liếc y cười, dí dỏm:

- Tướng công đòi chấp hành gia pháp mà! Thiếp sợ quá nên quên hết rồi.

Dương Lăng thấy nàng cười đỏ cả mặt, mắt ngọc đong đưa, vẻ nũng nịu rất quyến rũ, tức thời lửa dục vừa mới dằn xuống lại bùng lên, bên dưới cơ thể lập tức cứng như thép.

Hàn Ấu Nương đang khúc khích cười trêu tướng công, bờ mông tròn lẳn hoạt bát vừa hơi dịch đi bỗng chạm phải một vật cứng như khúc gỗ. Thoạt tiên nàng giật mình, sau đó liền như một con thỏ trúng tên, nhảy vụt ra khỏi lòng Dương Lăng, hai tay bưng lấy khuôn mặt đỏ bừng, nóng như lửa, lắp bắp:

- Tướng công, chàng... chàng... thiếp... thiếp... , Ấu Nương không trêu... Không trêu chàng nữa.

Dương Lăng cười khổ. Y cảm thấy mũi khó chịu như thể lại sắp chảy máu, bèn vội vàng cầm lấy chén trà đã nguội uống cạn một hơi, hắng giọng vài tiếng, rồi ra vẻ đạo mạo trang nghiêm:

- Tiểu nha đầu, vậy còn không mau kể đi. Rốt cuộc là muốn nói chuyện gì với ta?

Hàn Ấu Nương hé ngón tay, trộm liếc Dương Lăng, rồi mới từ từ bỏ tay xuống, giọng thẹn thùng pha lẫn rụt rè:

- Tướng công! Thiếp... Thiếp biết Liên Nhi tỷ rất thích tướng công. Ấu Nương nghĩ... Nếu như tướng công đồng ý, hôm nào thiếp sẽ nói chuyện với Liên Nhi tỷ tỷ. Chúng ta sẽ... sẽ rước nàng ấy về. Tướng công nhân phẩm xuất chúng, dưới gầm trời tướng công là giỏi nhất, cũng coi như chúng ta không làm nhục mặt người ta.

Chợt đổi sắc mặt, Dương Lăng nhíu mày hỏi:

- Nàng nghe ai nói vậy? Là... Mãn Thương nói à?

Hàn Ấu Nương ngập ngừng:

- Tướng công! Ấu Nương sớm đã... đã nghe người ta nói rồi. Nữ tử rất coi trọng danh tiết đó. Thiếp nghe nói Mã đại ca muốn rời đi cùng Nam quân, Liên Nhi tỷ tỷ không danh không phận ở lại nơi này cũng không thích hợp. Nháy mắt sẽ qua hạn cúng thất tuần rồi, nếu bây giờ không rước người ta về, vậy sẽ phải chờ thêm ba năm nữa. Nếu chàng đồng ý, chúng ta sẽ cho nàng một danh phận trước, khi đó cho dù có rước về chậm một chút cũng không sao.

Thời xưa, đối với con gái, cha mẹ tạ thế là đại tang, theo quy định sẽ phải chịu tang ba năm. Nhưng có vài trường hợp có thể châm chước được, người xưa cũng không quá cứng nhắc. Ví dụ như chuyện tòng quân của Mã Ngang, hay bản thân là đại quan trọng yếu của triều đình, vì đại sự quốc gia cần kíp được vua đích thân giữ lại, thì gọi là "Đoạt tình".

Trong dân gian, cũng có một tình huống, đó chính là: cha mẹ mất đi trong vòng bảy bảy bốn chín ngày thì cho phép kết hôn, dân gian gọi nó là "Xung hỷ". Tục ngữ có câu "Thiên quan tòng môn xuất, kỳ gia hảo hưng vượng"(1), nghĩa là vì sự ra đi của người chết đem đến sự ra đời của thêm nhiều sinh mạng mới cho gia tộc, con đàn cháu đống, kế tục hương hoả dài lâu, như vậy không bị xem là bất hiếu.

Dương Lăng yên lặng nhìn Ấu Nương một hồi lâu. Cặp mắt trong veo của nàng có chút tủi thân, chút ghen tuông, song nhiều hơn lại là sự lo lắng cho Mã Liên Nhi và sự tín nhiệm vô điều kiện đối với y.

Dương Lăng chậm rãi lắc đầu, đoạn nói:

- Đừng nghe người khác nói xàm, nàng không cần phải dây vào chuyện vớ vẩn đó. Ta đã tìm hiểu rồi, tháng tư hằng năm sẽ có một đoàn buôn hàng da từ quan ngoại ghé qua Kê Minh xuống phương nam. Đến lúc đó ta sẽ thu xếp để bọn họ giúp đỡ Mã tiểu thư đưa linh cữu xuôi nam, trở về cố hương là được.

Hàn Ấu Nương tròn mắt, thắc mắc:

- Nhưng mà... Chàng và nàng ấy...

Nhẹ nhàng hôn lên chiếc môi anh đào không cho nàng nói tiếp, đoạn lướt miệng đến bên tai nàng, Dương Lăng khẽ nói:

- Giữa ta và nàng ấy không phức tạp như nàng tưởng tượng đâu. Ngoan đi, thời gian trôi qua tự nhiên sẽ không còn có ai nhắc đến nữa, Liên Nhi tiểu thư cũng sẽ không còn nhớ đến những chuyện này, hiểu không?

- Dạ!

Hàn Ấu Nương ngoan ngoãn khép miệng lại. Tuy nàng không rõ những gì tướng công nói lắm, nhưng hàng chân mày lại hiện lên vẻ nhẹ nhõm và vui sướng.

Vốn chỉ đòi voi, lại được thêm tiên, còn có gì để mà không vui chứ?

***************************

Dương Lăng nằm trên giường, đầu gối lên tay, hai mắt nhắm hờ, thầm tính: "Ấu Nương cũng biết chuyện giữa mình và Mã Liên Nhi rồi, xem ra người biết chuyện này thật không ít. Tuy nhiên, đến khi Mã Liên Nhi đưa linh cữu về Kim Lăng, hết thảy mọi việc tự nhiên sẽ tan theo mây khói, từ đây trở đi mỗi người một phương. Thiếu nữ dù si tình đến mấy, nhưng giữa hai người lại chưa có thâm tình gì đáng kể, liệu nàng ta sẽ còn nhớ đến mình sao?”

Chắc chắn qua một hai năm, nàng ấy sẽ buông xuôi đoạn tình cảm này, bắt đầu cuộc sống mới. Dương Lăng tin tưởng vào điểm này, y vẫn chưa "tự sướng" đến độ cho rằng một khi thích y thì phụ nữ sẽ "không bao giờ chùn bước, trọn đời không quên". Y cũng chỉ là một thằng đàn ông bình thường, không có sức hấp dẫn đến cỡ đó.

Cảm thấy gò má nhồn nhột, Dương Lăng mở mắt thấy Ấu Nương đang ngồi bên cạnh, dịu dàng nhìn y. Mái tóc dài hơi ẩm ướt, chạm vào mặt lành lạnh. Tiểu nha đầu vừa mới tắm rửa xong.

Khuôn mặt xinh xắn thuần khiết khuất sau mái tóc vẫn còn phơn phớt hồng sau khi tắm. Hàng mi mềm, đôi mắt ươn ướt, quyến rũ không nói lên lời. Những tâm tư phiền não trong lòng Dương Lăng lập tức hóa thành hư không. Y thở dài, bắt đầu chuyển sang cân nhắc nên làm thế nào để phá vỡ cục diện bế tắc hiện nay. Một người con gái xinh đẹp mỹ miều phơi bày ngay trước mắt như vậy, song chỉ có thể nhìn mà không thể "ăn", thật khó chịu muốn chết à.

Chẳng biết vì sao, Hàn Ấu Nương mặt mày hớn hở, còn mang vẻ nhu mì khó tả, hình như... còn đang cười lấy lòng? Dương Lăng chớp chớp mắt, nghi ngờ mình đã nhìn lầm.

Nàng mặc áo ngắn, nằm sấp trên giường, kề sát bên Dương Lăng, thả dài mái tóc về phía trước, tươi cười bắt đầu kể chuyện linh tinh với y:

- Tướng công, hôm nay thiếp và Liên Nhi tỷ tỷ lên núi hái rau, thấy một cây hòe già phải đến mấy trăm năm tuổi mà hai ngày trước đã bị sét xuân bổ cháy đó.

Thân thể nhỏ nhắn xinh xắn mê người, bộ ngực mềm mại vô ý chạm vào khuỷu tay Dương Lăng. Ngửi thấy huơng vị xử nữ tươi mát từ người nàng, phần dưới mới vừa "nguội" của Dương Lăng lại không thể kìm chế bắt đầu xuất hiện phản ứng "căng phồng".

Thân thể mềm mại của Hàn Ấu Nương lại dựa sát hơn, kề mặt trên ngực y, hào hứng kể chuyện:

- Bọn thiếp nghe đại thúc sống trong núi nói, đó là bởi vì cây hoè già muốn thành tinh, nên Lôi thần đã nổi giận đó. Nếu là trước kia thì thiếp sẽ còn bán tín bán nghi, nhưng mà tướng công cũng đã gặp được thần tiên, thiếp cũng không dám không tin, nên đã kéo Liên Nhi tỷ tránh đi. Tướng công, nếu như cây hoè già đó bị sét đánh không chết, có thật nó sẽ biến thành yêu tinh không?

"Nha đầu à, ta không biết là cây hoè già có biến thành yêu tinh hay không, ta chỉ biết là nàng sắp biến thành yêu tinh đến nơi rồi! Còn ta... ta cũng đã chuẩn bị khẩu 'đại pháo trần gian' rồi đó, biết không hử? Tiểu yêu tinh!" Dương Lăng nghiến răng nghiến lợi thầm nghĩ.

(1) Nguyên văn:

千棺从门出, 其家好兴旺. 子存父先死, 孙在祖乃丧

Hán Việt:

Thiên quan tòng môn xuất,

Kỳ gia hảo hưng vượng.

Tử tồn phụ tiên tử,

Tôn tại tổ nãi táng.

Nghĩa là:

Nghìn quan tài qua cửa,

Nhà đó hẳn có thời.

Con còn cha mất trước,

Cháu sống ông đi rồi.

(Trích từ Ỷ Thiên Đồ Long ký - Hồi 17)

Chương 47 - Không gần nữ sắc

Dịch:

Biên dịch: Hieusol

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

- Tướng công, như thế... thật sự không tính là gần nữ sắc ư?

- Ờ... Đương nhiên! Tướng công là kẻ đọc sách mà!

----------------------------------

Dương Lăng đang bị lửa dục thiêu đốt, tấm chăn bất tri bất giác lặng lẽ dựng lên một cây cột nhỏ. Nhưng Hàn Ấu Nương chưa trải sự đời, đối với mấy chuyện này cái hiểu cái không, hơn nữa thường ngày nàng cũng hay bám dính bên người Dương Lăng, cho nên không hề biết lúc này vì uống rượu tráng dương hằng ngày mà tinh trùng Dương Lăng đã chạy lên tới não rồi.

Vẫn cố đè nén lòng ham muốn Ấu Nương, Dương Lăng khổ sở cười, đáp:

- Ừm! Biết đâu được, có thể thành tinh đấy.

Tham lam rờ rẫm khuôn mặt trơn nhẵn của Ấu Nương, y cố ý ngáp to một tiếng, rồi bảo:

- Vừa mới tắm xong, nàng hãy mau đắp chăn lên rồi ngủ đi kẻo nhiễm lạnh.

- Không, bây giờ nóng quá à!

Con người có thể thích nghi với hoàn cảnh. Sự nuông chiều và dung túng của Dương Lăng đã khiến bản tính của Hàn Ấu Nương đều phát huy ra hết, không còn vì tướng công là ông tú tài mà lúc nào cũng bị gò bó, mất tự nhiên. Nàng như một đứa trẻ đang làm nũng, nằm sấp trên giường, co hai cái chân nhỏ nhắn đong đưa trên không:

- Sở Dịch vẫn đốt giường sưởi mà. Sáng nào thức dậy cũng phải uống nhiều nước hết, miệng khô rồi nè. Lát nữa thiếp thay chăn mỏng. Tướng công! Chàng có muốn thay không?

Dương Lăng rướn người dậy, dồn gối cao lên một chút, đoạn đáp:

- Không cần, ”xuân che đông đậy”, nàng hiểu không? Thay chăn sớm sẽ bị cảm mạo đó. Nàng cũng đừng nên thay vội, đợi thêm vài bữa nữa đi!

Hàn Ấu Nương bĩu môi:

- Nóng vậy mà tướng công còn chưa chịu thay. Tối ngủ chàng hay đạp chăn ra, thiếp vẫn phải đắp lại cho chàng nhiều lần lắm đó.

Chải tóc xong, nàng khéo léo vén lên cao để lộ cần cổ xinh đẹp. Đưa mắt dõi theo tà áo hở lệch, y bắt gặp làn da trơn mượt của bầu ngực. Quả đào non bé xinh xinh đã bắt đầu tạo thành đường cong tuyệt mỹ.

Dương Lăng nhìn chăm chăm, không nỡ thu lại ánh mắt, rồi nhìn dọc xuống xuôi theo tấm lưng nàng. Một đôi chân trắng nõn nhỏ nhắn đang xoè ngón đong đưa trên không, làm co giãn chiếc váy lót của nàng, thi thoảng hiện rõ đường cong của bờ mông tròn trịa khoẻ khoắn.

Tiểu cô nương mới mười bốn, mười lăm, tướng mạo vẫn còn hơi giống một quả nho xanh, nhưng cặp mông tròn lẳn ấy đã có hơi hướm xinh đẹp của phụ nữ rồi. Theo cách nói của các cụ, mông như vậy sẽ đẻ tốt, Dương Lăng "xấu xa" suy nghĩ. Dạo gần đây y thường hay có những ý nghĩ xấu xa.

Thân trên của Ấu Nương thon thả, đáy thắt lưng ong, nhưng mông và đùi lại đã nẩy nở như một người phụ nữ trưởng thành. Theo hiểu biết của Dương Lăng, thân dưới phát dục sớm cho biết sau này nàng sẽ không lớn lên theo hướng cao gầy, mà hẳn sẽ vẫn duy trì vóc dáng nhỏ nhắn đáng yêu này.

Trông thấy ánh mắt bốc lửa của trượng phu, Hàn Ấu Nương thẹn thùng bỏ chân xuống, khuôn mặt càng thêm ửng hồng. Nàng vẫn chưa biết cách phơi bày tư thế khêu gợi để trêu chọc đàn ông, nhưng động tác và dáng điệu ngây thơ thuần khiết này lại càng quyến rũ mê người hơn.

Không nhịn thêm được nữa, Dương Lăng thở gấp, tung chăn ra, xoay vai Ấu Nương lại. Trong tiếng kêu dịu dàng, Ấu Nương khẽ trở người ngả vào lòng y. Nàng tràn trề hạnh phúc tựa vào ngực y, hưởng thụ những cái vuốt ve mơn trớn của phu quân.

Những lúc hai người nằm trên giường tán gẫu chuyện gia đình, Dương Lăng vẫn thường táy máy tay chân nên Ấu Nương cũng dần dần quen với những vuốt ve của y. Hôm nay cảm kích phu quân đã từ chối nạp thiếp, Hàn Ấu Nương càng để cho y thoả sức vuốt ve, không hề trái ý.

Dương Lăng ôm chiếc eo thon của nàng, vuốt ve bộ ngực non nớt cùng bờ mông đầy đặn săn chắc, rất đàn hồi của nàng. Đường cong mềm mại mượt mà ấy dường như có thể tạm xoa dịu dục vọng của y.

Ấu Nương nhắm mắt lại, ngất ngây trong lòng trượng phu, cánh mũi khẽ phập phồng. Bỗng nhiên Dương Lăng đưa tay mò vào trong quần lót của nàng, bờ mông săn chắc, trơn tuột bị y bóp mạnh. Làn da mịn màng trơn bóng tựa như một dòng suối chảy xuôi, lờ mờ toát ra sức sống tràn trề của tuổi thanh xuân.

Hàn Ấu Nương cảm giác động tác của trượng phu hôm nay có chút khác với ngày thường. Nàng thẹn thùng cụp mi, cản:

- Tướng công, chàng đừng... đừng... mà!

Tinh trùng lên não có thể khiến cho đàn ông có thể nói những lời bình thường không thể nói, làm những chuyện bình thường không thể làm, hơn nữa còn có thể ra sức điều động tế bào não bộc phát cơ trí. Nhân loại tiến bộ là nhờ theo đuổi dục vọng mà. Lúc này, Dương Lăng chợt loé sáng kiến, nảy ra một biện pháp giải quyết cho nan đề của mình.

Y chẳng nói chẳng rằng ôm chặt lấy Ấu Nương, nhẹ giọng bảo:

- Ấu Nương! Ngày đó ta đã uống rượu, cũng buồn ngủ rồi, lại thêm vì nàng đang khóc nên ta hơi sốt ruột, có vài điều vẫn chưa nói kịp cho nàng hay.

- Ừm?

Hàn Ấu Nương mở mắt ra, nhìn sang Dương Lăng dò hỏi.

Mặt giả thần giả quỷ, Dương Lăng ra vẻ nghiêm túc nói:

- Thành hoàng còn nói với ta rằng, nếu như mời hoà thượng làm phép rồi đeo một tượng phật đã được khai quang (1) trên người thì... thì cũng sẽ không ảnh hưởng đến chuyện sinh hoạt vợ chồng.

- Ồ!?

Khoé miệng Hàn Ấu Nương hơi nhếch lên. "Sinh cho phu quân một đứa con, thừa kế hương hoả nhà họ Dương, thì con sẽ không sợ mất đi sự yêu thương của hắn", lời cha nói bỗng lướt qua đầu nàng. Trải qua chuyện của Mã Liên Nhi, nàng hơi có cảm giác không an toàn, cho nên ngay lập tức nghĩ đến vấn đề quan trọng cần đưa vào lịch sinh hoạt thường ngày.

Nàng phấn khởi siết chặt vòng tay quanh ôm cổ trượng phu:

- Kê Minh Dịch có miếu tự nhưng không có hoà thượng. Chúng ta sắp xếp thời gian đi Phủ thành một chuyến được không? Tìm một vị đại sư...

“Được, đương nhiên là được rồi, nhưng còn bây giờ thì sao đây? Tên đã lên dây cung rồi, không thể không bắn đâu à!” Uống rượu bổ hơn một tháng nay, bây giờ quả thật Dương Lăng đã như thác lũ tràn bờ, đại hồng thủy chứ chẳng chơi à! Dương Lăng ậm ờ:

- Được! Được! Có thời gian chúng ta sẽ đi Phủ thành một chuyến.

Vừa nói y vừa lật mình đè lên người Ấu Nương.

Thân thể non nớt của Ấu Nương phối hợp một cách hoàn mỹ với y; đùi, eo và tay đều tràn trề sự mềm dẻo, không chỗ nào không đàn hồi, không chỗ nào không linh hoạt tự nhiên. Đó là kết quả của việc Ấu Nương đã chạy nhảy, leo trèo trong rừng từ nhỏ.

Lửa dục của Dương Lăng bị thân thể trẻ trung tràn trề sức sống của nàng bùng thổi. Y vứt bỏ gánh nặng trong lòng, ôm chầm lấy tấm thân tuyệt mỹ của Ấu Nương, tuỳ ý nhấm nháp đôi môi anh đào ngọt ngào và mềm mại của nàng.

- Tướng công! Bây giờ vẫn chưa được. Bây giờ... đừng...

Hàn Ấu Nương vừa thích vừa sợ, hoảng loạn đẩy người y ra.

- Yên tâm nào vợ yêu, tướng công... Hôm nay tướng công không đòi thân thể của nàng, sẽ không tính là gần nữ sắc đâu!

Dương Lăng thở hổn hển, đành miễn cưỡng lùi bước mà cầu xin.

Hàn Ấu Nương ngạc nhiên chẳng hiểu, chớp chớp đôi mắt xoe tròn long lanh bóng nước, bàn tay nhỏ bé đã bị Dương Lăng kéo vào trong quần lót của y.

Một tiếng "á" khẽ cất lên, Ấu Nương rút mạnh tay về như thể bị ong chích. Nhưng Dương Lăng đã giữ chặt lấy cổ tay nàng, tách từng ngón ra, để nàng nắm lấy cái vật cứng ngắt, nóng hổi đang kích động ở trong đó.

Cả người Hàn Ấu Nương run lên vì căng thẳng, nàng nhắm tịt mắt, người cứng đờ, không dám nhúc nhích. Dương Lăng dẫn dắt tay nàng vuốt lên vuốt xuống, rồi hôn nhẹ vành tai xinh xắn của nàng, nhỏ giọng:

- Cứ như vậy, hiểu không?

Hàn Ấu Nương hé một con mắt nhìn y, rồi lại lập tức nhắm nghiền lại, mặt đỏ bừng như lửa, lắp bắp:

- Thiếp... thiếp... ưm..., nhưng... vậy... như vậy không tính là gần nữ sắc à?

- Ừm, không tính!

- Thật ư?

- Đương nhiên rồi! Tướng công là người đọc sách mà!

- Ờ...

- Nhẹ quá... nàng làm mạnh thêm chút đi.

- Ờ...

- Ui da... Nàng đang nhổ cải hay sao vậy? Nhẹ tay chút đi cưng.

- Ờ...

Ngoài cửa sổ ánh trăng sáng ngời. Trong phòng, Dương Lăng đang kiên nhẫn phổ cập tri thức vỡ lòng cho Ấu Nương. May mắn gặp một học sinh giỏi tiếp thu rất nhanh, cho nên cuối cùng y cũng dần lạc bước thiên thai, bay bổng như tiên.

Hàn Ấu Nương ngồi xếp bằng bên cạnh Dương Lăng, mái tóc rối tung buông xoã, đôi mắt long lanh chứa đựng vẻ ngượng ngùng không thể che giấu. Đôi bàn tay thon thả trắng phau đang "chấp hành" chỉ thị của Dương Lăng, không ngừng hoạt động dưới chăn. Một lúc lâu sau nàng mới cố nén ngượng ngùng, tò mò hỏi:

- Tướng công, làm như vậy rất dễ chịu à?

Dương Lăng đang nhắm mắt say sưa tận hưởng vui thú. Bàn tay nhỏ bé của Ấu Nương đã mềm lại có sức, tuy nàng không biết kỹ thuật gì, nhưng lúc này y cũng chẳng lo, sau này cứ từ từ "chỉ dạy" thôi. Hiện tại động tác như vậy cộng thêm dáng vẻ loli của nàng đã đủ kích thích rồi, cho nên y chỉ khẽ "ừm" một tiếng.

Hàn Ấu Nương nghĩ ngợi một chút, rồi lại dừng tay, vẻ mặt nghiêm túc:

- Tướng công, thiếp vẫn cảm thấy... Như vầy thật không tính là gần nữ sắc sao?

“Nàng không biết là nói về mấy chuyện này cần phải có quá trình chuẩn bị hay sao? Sao bỗng dưng lại cứ muốn dò hỏi vấn đề này?” Dương Lăng khóc không ra nước mắt, chỉ đành cắn răng nhắc lại từng chữ một:

- Tin ta đi! Không sai đâu, bởi vì ta là kẻ đọc sách mà!

Hàn Ấu Nương rụt rè cười, không thắc mắc nữa. Vẻ mặt nàng rất chuyên tâm, dưới ánh đèn, khuôn mặt non nớt yêu kiều khoác lên thêm một quầng sáng màu hồng nhạt, ngũ quan xinh xắn toát ra vẻ dịu dàng đáng yêu.

Lưng Dương Lăng bắt đầu cứng lại. Thoáng nhìn Ấu Nương như một con sói nhìn mồi, y phát hiện đôi môi của nàng cong cong, mảnh mai, hàm răng hơi hé mở, mắt đẹp tựa mùa xuân. Ban nãy sao không phác giác ra nhỉ? Theo tính nết ngoan ngoãn vâng lời của Ấu Nương đối với y, nếu như dùng cái miệng chúm chím như quả dâu đó để..., Chỉ mới vừa nghĩ như vậy, cơn hưng phấn đang gần đạt đến đỉnh điểm của y liền không kiềm chế được mà phun trào.

Ấu Nương không hề có kinh nghiệm, nên vừa cảm nhận được phản ứng kích động của y, tay nàng càng hoạt động hăng hơn. Cơ thể sau khi mới phát tiết xong cực kỳ mẫn cảm, Dương Lăng vội nắm lấy cổ tay nàng, ngăn cô nàng vì lòng tốt mà "giày vò" mình.

Vừa hổn hển khôi phục thần trí xong, y thấy Ấu Nương đang tròn xoe đôi mắt nhìn mình tựa như còn chưa biết đã xảy ra chuyện gì, nhưng trong ánh mắt trong veo thánh khiết đó lại mang đầy vẻ hứng thú. Khi ánh mắt hai người vừa chạm nhau, đôi mắt ấy lập tức e thẹn dời đi.

- Tướng công, chàng đỡ rồi à?

Nàng cúi đầu thẹn thùng hỏi.

Dương Lăng khẽ vuốt chân nàng, "ừm" một tiếng. Hàn Ấu Nương bị nhột bèn rụt chân lại, sau đó vui vẻ mỉm cười như thể đã hoàn thành một nhiệm vụ vĩ đại. Như một cô mèo con mềm mại, nàng mãn nguyện ngả vào lòng Dương Lăng, khẽ nói:

- Tướng công, như thế... thật sự không tính là gần nữ sắc ư?

- Ờ... Đương nhiên! Tướng công là kẻ đọc sách mà!

Dương Lăng vừa dứt lời, Hàn Ấu Nương lại cười ngọt ngào:

- Tướng công, tim chàng đập nhanh quá!

Dương Lăng bật cười, y vừa cười vừa ôm chặt hơn cô vợ bé bỏng đáng yêu này vào lòng.

Y bỗng hiểu “chẳng qua Ấu Nương chỉ muốn trò chuyện với mình mà thôi”. Y âu yếm vuốt mái tóc mềm mại như tơ của Ấu Nương.

******************

Sáng sớm hôm sau, Dương Lăng đi đến kho sân lương thực ở gian hai, thấy hơn mười tên lính sắp hàng bên xe ngựa đang chờ sẵn trong sân, dẫn đầu chính là đội trưởng thân binh của Tất Xuân - Quan Thụ Anh. Dương Lăng vội vàng bước lên nghênh đón.

Trông thấy y, Quan Thụ Anh cười lớn chào:

- Dương dịch thừa dậy sớm thật! Vì trong quân cần lương thảo cho nên tại hạ đưa người đến để nhận thêm ba ngày lương thực.

Dương Lăng đã sớm nghe tin đại quân của Tất Xuân sắp sửa lên đường quay về Chiết Giang, cho nên y cũng đã tính toán để bọn họ nhận lương thảo theo từng hạn ngắn, phòng sau này còn phải nộp lên trên, vì thế quân dụng phải chia ra nhận nhiều lần. Hai người đang đứng tán gẫu trong sân, chợt thấy Mã Ngang tay cầm roi ngựa hầm hầm từ sân sau bước ra.

Y đoán Mã Ngang mới vào thăm em gái, chỉ không biết đã cãi nhau với Mã Liên Nhi chuyện gì mà vẻ mặt có phần không vui. Dương Lăng chắp tay:

- Mã huynh! Đã lâu không gặp!

Mã Ngang thấy y thì hơi ngạc nhiên, song cũng vội chắp tay đáp lễ:

- Dương dịch thừa!

Quan Thụ Anh cười hì hì, nói chen:

-_Mã lão đệ, sao sắc mặt khó coi quá vậy. Chẵng nhẽ... lệnh muội không đồng ý?

Mã Ngang gượng cười, đáp:

- Làm gì có chuyện đó! Đại nhân đã coi trọng, để mắt đến anh em của bọn đệ như vậy! Thường có câu ‘huynh trưởng như cha’, chuyện của em gái còn không phải do đệ làm chủ hay sao?

Quan Thụ Anh cười vờ vịt:

- Nói cũng phải, ta chúc mừng Mã lão đệ trước vậy! Sau này vẫn mong lão đệ chiếu cố nhiều một chút đấy!

Trên mặt hơi loé lên một tia đắc ý, Mã Ngang đáp:

- Không dám, chúng ta cùng là huynh đệ dưới trướng Tất đại nhân, nên chiếu cố cho nhau mới phải. À! Đệ còn phải đi chùa Phổ Độ một chuyến. Dương dịch thừa, lão Quan, ta đi trước đây!

Đưa mắt tiễn Mã Ngang vội vã rời đi, Dương Lăng thắc mắc:

- Quan huynh! Mã đại ca đang làm gì vậy? Sao lại gấp gáp vậy?

Quan Thụ Anh nói với giọng điệu kỳ quái:

- Đại nhân đã nhìn trúng em gái của Mã Ngang, có ý muốn nạp nàng ta làm thiếp. Có được cơ hội kết thân với Đô ty đại nhân, vị nhân huynh này đây dĩ nhiên cầu còn không được rồi. Có điều xem bộ dạng thua cuộc của y, quả hồng này không dễ cầm à. Xem ra đứa em gái đó của y cũng không phải là cô gái không có chủ kiến. Ha ha, muốn dùng em gái làm bàn đạp, xem ra cũng không dễ dàng gì!

Nhìn gã cười như vậy, cũng không ai biết là vì gã khinh thường Mã Ngang, hay là vì đố kỵ mình không có một cô em gái như hoa như ngọc để mình cũng một bước lên trời, trở thành ông anh vợ của đại quan tứ phẩm triều đình.

Dương Lăng nghe xong không khỏi thất kinh, "Tất đô ty đã nhìn trúng Mã Liên Nhi rồi sao?" Nghĩ đến tuổi tác của Tất đô ty và cha Mã Liên Nhi không hơn kém bao nhiêu, lại nghĩ đến cặp mắt tam giác có điều khắc bạc đấy của hắn, hơn nữa Mã Liên Nhi mới mười sáu mười bảy, xinh đẹp và ngây thơ, hình tượng "đầu bạc má hồng"(trâu già gặm cỏ non) lướt qua đầu, bất chợt y cảm thấy khó chịu.

Cự tuyệt Mã Liên Nhi xong, y cảm thấy mình đã nợ người ta một phần tình cảm, cho nên mới hao phí tâm sức lợi dụng chức quyền muốn giúp nàng đưa linh cữu về quê, coi như là đền bù. Nếu như nàng có thể tìm được một tấm chồng vừa ý, y cũng sẽ có thể trút bỏ được gánh nặng trong lòng. Ngờ đâu anh trai nàng lại tự dưng chen ngang, vì tiền đồ của bản thân mà muốn nàng làm thiếp một kẻ tuổi đã gần năm mươi. Chẳng nhẽ thật sự hồng nhan bạc mệnh, Mã Liên Nhi chỉ có số làm thiếp người ta thôi sao?

Trông bộ dạng đùng đùng bỏ đi của Mã Ngang, hiển nhiên là gã đã ăn phải quả đắng ở chỗ Mã Liên Nhi, cô em gái trong cứng ngoài mềm rồi. "Mình có nên đi thăm nàng ấy một chút không?" Dương Lăng tự hỏi, muốn xoay người song lại sững ra, dừng lại: "Dù sao đây cũng là chuyện của nhà người ta, mình lấy tư cách gì mà xen vào chứ?"

Thấy Dương dịch thừa nghe lời mình xong thì hơi thừ người, Quan Thụ Anh không khỏi cảm thấy kỳ quái. Tay lính xuất thân là thợ mổ heo này lại rất tinh ý, gã lập tức nhìn ra vài phần căn nguyên ngay: “Trông dáng điệu thế này, chẵng nhẽ Dương dịch thừa cũng thích Mã cô nương? Ừ nhỉ, bọn họ ở chung trong một đại viện, ’Thư sinh với tiểu thư sau vườn hoa’ mà, trong hí kịch vẫn thường hát như vậy.”

“Ha! Có kịch hay xem rồi. Tên tiểu tử Mã Ngang đó, khi trước gặp mình lúc nào cũng một điều Quan đại ca, hai điều Quan đại ca; bây giờ còn chưa có gì mà hễ mở miệng là luôn mồm lão Quan rồi, nghe chối tai bỏ mẹ. Nếu để nó lên làm anh vợ của Tất đại nhân, đạp lên mặt mũi mình, thì chắc mình sẽ biến mẹ nó thành tiểu Quan quá! Ừ, chuyện này mình phải tính toán một chút. Tiểu Dương này trượng nghĩa, giúp y cũng là giúp mình mà!"

Trong khi hai người đang mang những tâm sự riêng, một tên tiểu lại đã vội vội vàng vàng chạy đến, từ xa đã gọi vọng:

- Dịch thừa đại nhân! Người lần trước lại đến tìm ngài rồi, đang ở tiền thính (sảnh chờ) đợi ngài đó.

Câu nói không đầu không đuôi làm Dương Lăng ngây người, y hỏi dồn:

- Cái gì mà lần trước tới? Người nào vậy?

Tiểu lại bẩm:

- Chính là cái lão buôn thuốc tự xưng là họ Ngô ấy, lão nói là có chuyện gấp cần gặp đại nhân ngài đấy ạ!

(1) “Khai quang” là thỉnh một Pháp thân của Phật nhập vào tượng Phật; rồi sau đó coi tượng Phật như một thân thể hữu hình của ngài để thờ cúng.

Chương 48 - Thăng quan mù mờ

Dịch:

Biên dịch: Hieusol

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Ngây người một hồi, Dương Lăng mới lắp bắp hỏi:

- Ngô đại nhân, chuyện này... Sao đột nhiên lại điều ta vào kinh làm quan vậy?

----------------------------------

Nghe nói Ngô thiên hộ đã đến, Dương Lăng biết có chuyện quan trọng nên lập tức cáo biệt Quan Thụ Anh, gấp rút chạy ngay đến sảnh chờ (tiền thính). Bên ngoài văn phòng của dịch thừa có hai người dong dỏng, trẻ tuổi lanh lợi đang đứng nghiêm. Dương Lăng đoán họ là tuỳ tùng của Ngô Kiệt nên cũng không để tâm, sải bước qua cửa. Y thấy Ngô Kiệt vẫn mặc bộ áo xanh, đang ngồi ngay ngắn trên ghế dựa, nhưng dáng ngồi ngay ngắn hôm nay lại không hề giống với vẻ khoan thai tự đắc trong lần gặp trước.

Dương Lăng chợt cảm thấy hồi hộp, xem bộ dạng này, nhất định Ngô Kiệt có chuyện trọng yếu mới đến, chẳng lẽ Cẩm y vệ đã xảy ra chuyện gì sao? Trông thấy y đi tới, Ngô Kiệt liền lập tức đứng lên. Thấy tên tiểu lại vừa nhắn tin cũng đang theo sau Dương Lăng, lão ta vội vàng nói:

- Dương đại nhân! Mời vào nội sảnh nói chuyện!

Thấy vậy, Dương Lăng phất tay để tên tiểu lại rời đi, rồi khép chặt cửa phòng, thấp thỏm theo Ngô Kiệt bước vào phòng trong. Y vừa định dùng lễ ra mắt của hạ quan với cấp trên thì bất ngờ Ngô Kiệt chợt xoay người, sụp gối quỳ đánh soạt:

- Hạ quan Ngô Kiệt, bái kiến Cẩm y thân quân Chỉ huy sứ ti Đồng tri (1) Dương Lăng Dương đại nhân!

Dương Lăng giật nảy người, lúng ta lúng túng nâng Ngô Kiệt dậy, vẻ bối rối không hiểu:

- Ngô đại nhân, ngài nói gì vậy? Đồng tri gì? Việc này... việc này…

Ngô Kiệt cố nặn bộ mặt tươi cười, vòng tay đáp:

- Chúc mừng đại nhân! Đề đốc Cẩm y vệ Trương đại nhân rất xem trọng tài học của Dương đại nhân, đã lệnh cho đại nhân lên chức Cẩm y vệ Đồng tri, thăng quan ngũ phẩm. Hạ quan vào kinh xử lý công vụ, đặc biệt tiếp nhận lệnh dụ này thông tin trước cho đại nhân.

Phải biết Ngô Kiệt là Thiên hộ Tòng ngũ phẩm, chỉ thua y nửa cấp nên không cần phải giữ lễ đến cỡ đó. Nhưng hiện thời Dương Lăng đã là quan viên kinh thành, tham gia bộ phận trung ương của Cẩm y vệ, lại mới chỉ có mười tám tuổi, tiền đồ vô cùng rực rỡ, Ngô Kiệt sao dám không ra sức bợ đỡ?

- Hả?

Dương Lăng càng thêm ngỡ ngàng, tù mù chẳng hiểu gì. Y không có chút khái niệm gì về chức quan Đồng tri, nhưng về ngũ phẩm thì lại biết rành. Ngây người một hồi, Dương Lăng mới lắp bắp hỏi:

- Ngô đại nhân, chuyện này... Sao đột nhiên lại điều ta vào kinh làm quan vậy?

Ngô Kiệt nghe mà thiếu điều muốn khóc: "Ngươi hỏi ta, ta biết hỏi ai đây? Ta chỉ là Cẩm y vệ thế tập (là con cháu của Cẩm Y vệ đời trước), khổ cực ba mươi năm mới lên được chức Thiên hộ. Trong số Cẩm y vệ được tuyển chọn từ dân gian mà thăng tiến từng bước cũng có kẻ đạt đến cấp bậc này, nhưng bọn họ đều cũng phải lăn lộn cả đời, lập không biết bao nhiêu công lao mới được chức đó. Ai mà biết được phần mộ tổ tiên nào của tiểu tử nhà ngươi đã kết phát(2) chứ! Ta vẫn còn ức đến run người lên đây này!"

Có điều mấy lời này nào dám nói ra, lão vội vừa cười vừa đáp:

- Hạ quan tiếp nhận xong lệnh dụ liền từ kinh thành chạy đến đây ngay trong đêm, cũng không rõ tình hình cụ thể trong đó. Có lẽ bụi trần không che được ngọc sáng, ngọc rực rỡ chói loà, đại nhân tài học xuất chúng, nổi trội hơn người, sao triều đình lại có thể chôn vùi nhân tài chứ? Ha ha ha...

Vừa cười, Ngô Kiệt vừa rút từ trong ống tay áo ra một tấm giấy nhét vào trong tay Dương Lăng, rồi nói tiếp:

- Đại nhân lần đầu lên kinh, mua nhà lập đất, thăm viếng đồng liêu, nhất định sẽ tốn chút chi phí. Hạ quan kính biếu nghìn lạng gọi là lộ phí, xin đại nhân vui lòng nhận cho.

Dương Lăng vừa nghe nói nghìn lạng bạc ròng thì nào dám nhận, Ngô Kiệt nghiêm mặt giải thích:

- Đại nhân chớ quan tâm! Hằng năm hạ quan bôn ba biên ngoại, khổ thì có chút khổ, nhưng để che dấu thân phận nên thường tiến hành riêng một vài vụ buôn bán dược liệu, da, trà, muối… với ngoại tộc. Có thân phận Cẩm y vệ che chở nên tiền bạc kiếm được cũng khá dễ, chút bạc này không đáng là bao, chỉ là chút thành ý của hạ quan, đao cùn không đáng tra vỏ mà thôi. Nếu như đại nhân không nhận, thật tình hạ quan sẽ rất khó xử.

Không đợi Dương Lăng cự tuyệt, lão đút ngân phiếu vào trong ống tay áo y, rồi làm ra vẻ bịn rịn không nỡ xa, nói tiếp:

- Hạ quan và đại nhân quen biết nhau đến nay khá hợp duyên. Lần này đại nhân tiến kinh, chỉ đến khi trở về kinh thành báo cáo nhiệm vụ hằng năm hạ quan mới có thể đến phủ của đại nhân để bái kiến rồi.

Ôi chao! Hạ quan tuổi đã cao, quanh năm bôn ba vùng biên ngoại, chân cẳng đã cảm thấy bất tiện. Lần này đại nhân tiến kinh nhất định sẽ được trọng dụng, đến lúc ấy vẫn mong đại nhân có thể nói tốt vài lời cho hạ quan. Nếu có thể điều hạ quan về kinh, hạ quan nguyện sẽ theo làm tuỳ tùng cho đại nhân.

Dương Lăng thầm nghĩ “Xem ra vị Ngô thiên hộ này chẳng được lòng người trong kinh, bằng không có lắm người quyền cao chức trọng như thế, y không cần phải nhờ vả đến mình. Nhưng mà, một tiểu lại như mình được vẻ vang thăng quan lên Bách hộ, còn có thể nói là nhờ Cẩm y vệ vì đón cầu ân huệ ở trước mặt hoàng đế mà tranh đoạt chiến công đi, chứ hôm nay chẳng biết vì sao lại thăng mình lên làm Đồng tri như thế này, quả thật có vẻ quá ư quỷ dị!”

Ngô Kiệt về kinh lần này chính là để chạy chọt trên dưới khắp nơi muốn được điều hẳn về kinh, không phải chỉ thông qua riêng mỗi một cửa. Những người này làm quan lâu năm, kết bè kết phái, rất chú ý đến những động thái thay đổi nhân sự trong triều. Dương Lăng tuổi chưa tròn hai mươi, lại do đích thân thủ lĩnh tối cao Cẩm y vệ hạ lệnh tấn chức vào kinh, tiền đồ đương nhiên không thể lường được. Nếu như hôm nay không tạo dựng tốt quan hệ, sau này còn ai thèm để ý dệt hoa trên gấm (nói tốt) cho họ chứ?

Dương Lăng suy nghĩ một hồi rồi lại hỏi:

- Ngô đại nhân, bây giờ tôi vẫn mang thân phận dịch thừa, không cần lệnh điều động của bộ Lại sao? Khi nào thì tôi mới có thể vào kinh vậy?

Ngô Kiệt ngẩn người, đáp:

- Đại nhân! Trong kinh lệnh cho hạ quan phải cấp tốc chạy về đây ban lệnh dụ ấn tín, nhưng lại không hề đề cập đến ngày tiến kinh của đại nhân. Ồ, phải rồi, đến cùng với hạ quan có hai vị Cẩm y Hiệu úy, là người trong kinh phái tới hộ tống đại nhân, đại nhân có thể hỏi thăm bọn họ.

Dương Lăng thu lệnh dụ ấn tín xong, cả hai cùng trở ra ngoại sảnh. Ngô Kiệt mở cửa gọi hai người trẻ tuổi ban nãy vào. Hai người bọn họ cao xấp xỉ như nhau, cùng ngươi sáng mắt trong, trông mười phần thông minh lão luyện. Hai người đã sớm biết lệnh bổ nhiệm từ kinh thành nên vừa bước vào phòng liền ôm quyền, quỳ một gối, hành lễ với Dương Lăng:

- Ti chức Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh bái kiến Đồng tri đại nhân!

Dương Lăng chưa quen bị người ta dùng đại lễ như vậy để yết kiến, vội vàng bước tới nâng hai người dậy. Hỏi kỹ một hồi, y biết được mệnh lệnh mà hai người nhận được là mặc thường phục bảo vệ y về kinh, rồi diện kiến Trương đại nhân. Còn phần lúc nào về kinh, Trương đại nhân từng căn dặn kỹ càng sắp đến trong kinh sẽ đưa một đội ngũ khác đến nghênh đón, bọn họ chỉ cần ở yên đó chờ là được, đồng thời tạm thời không thông báo cho quan phủ địa phương chuyện y thăng chức Đồng tri.

Dương Lăng và Ngô Kiệt nghe xong trố mắt nhìn nhau, hết sức ngạc nhiên. Phải biết rằng thân phận của Cẩm y vệ chia làm ba loại. Một loại là làm ban sai (3) trong nha môn, thân phận công khai, là thành viên nòng cốt của Cẩm y vệ; một loại là bán công khai giống như cái chức dịch thừa này, ai ai cũng biết y có lớp thân phận này, nhưng không ai vạch trần, là nhân viên ngoại vi của Cẩm y vệ; loại thứ ba chính là loại như Ngô Kiệt, lấy thân phận thường dân để hoạt động, người ngoài tuyệt đối không thể biết được

thân phận thật sự của họ là mật thám của Cẩm y vệ.

Dương Lăng được thăng chức Đồng tri, vào kinh đô làm quan, chính là thân phận công khai. Bây giờ lại không cho y thông báo với quan phủ địa phương, hiển nhiên trong đó còn có ẩn tình. Trong kinh còn có người đặc trách đến để nghênh tiếp y? Điều này càng khiến cho Ngô Kiệt nghĩ rằng nhất định Dương Lăng đã kiếm được chỗ dựa lớn nào đó ở trong kinh, cho nên thái độ càng thêm cung kính. Về phần hai tay Hiệu úy đã là thân binh do Dương Lăng quản lý, thấy vị đại nhân này trẻ tuổi như vậy cũng hết sức vui mừng.

Hậu nhân của những công thần huân khanh (bề tôi có công) của các triều đại trong Cẩm y vệ rất nhiều, đều là quan chức truyền đời, hai người bọn họ lại là Cẩm y vệ được tuyển chọn và điều động từ trong dân gian. Điều này giống như người ta học hệ đại học chính quy, còn anh chỉ tốt nghiệp trung học dạy nghề, cho dù năng lực làm việc của anh có cao hơn người ta, việc thăng tiến của anh cũng sẽ gặp phải trùng trùng cách trở. Hôm nay hai người bọn họ được hầu hạ vị đại nhân trẻ tuổi có tiền đồ rộng lớn như vậy, hơn nữa lại cùng hệ bình dân, đương nhiên cơ hội thăng tiến sẽ càng lớn.

Tiễn Ngô Kiệt xong, Dương Lăng thu xếp cho Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh trọ lại dịch quán. Ngẫm lại, hôm nay mình đã là quan lớn ngũ phẩm, hơn nữa còn là Cẩm y vệ quyền cao chức trọng, sau phút ngỡ ngàng y bỗng cảm thấy vui sướng khôn tả. Không nén được rạo rực, y chạy thẳng vào hậu viện để báo tin mừng cho Ấu Nương.

Đàn ông đang yêu ai cũng đều giống như trẻ con, có chuyện gì hay ho đều chỉ mong sao cho người thân yêu nhất của mình có thể biết tin càng sớm càng hay. Dương Lăng phấn khởi chạy ào đến sân trong gian thứ tư (tứ tiến), đúng lúc gặp Mã Liên Nhi rẽ ra cổng sân, tay bưng một chậu nước đổ ào ra ngoài. Nàng đeo tạp dề, mái đầu tóc đen quấn khăn trắng, tay áo xắn lên phân nửa, phơi trần hai cánh tay nõn nà như ngó sen đã đỏ ửng vì ngâm lâu trong nước dưới tiết trời hãy còn se lạnh; dáng điệu áo vải, váy rũ hiếm khi thấy được của nàng lại đem đến một ý vị khác biệt.

Khóe mắt nàng đo đỏ, hình như vừa mới khóc. Chợt thấy Dương Lăng đi tới, Mã Liên Nhi giật mình thất kinh, không muốn bị y bắt gặp bộ dạng nhếch nhác hiện giờ nên nàng vụt quay đầu bước nhanh vào trong sân. Trông thấy nàng, Dương Lăng sực nhớ đến chuyện Tất đô ty nạp thiếp vừa nghe ban nãy, liền vội vàng đuổi theo. Vừa lách người vào trong sân lại thấy Dương Lăng lẽo đẽo theo vào, Mã Liên Nhi cuống cuồng, vội vã bê một chậu gỗ khác ở dưới đất lên rồi hoảng hốt bước vào phòng.

Từ khi nào Mã Liên Nhi lại sợ gặp người khác như vậy nhỉ? Càng thêm hiếu kỳ, Dương Lăng không chút nghĩ ngợi liền bước theo vào phòng. Vừa giận vừa thẹn, Mã Liên Nhi đặt chậu gỗ lên bàn, lúng túng xoay người chắn phía trước, cáu gắt:

- Huynh đuổi theo ta làm gì?

Dương Lăng buông thỏng tay, vẻ bất đắc dĩ:

- Khi không cô chạy làm gì? Trong chậu có vật gì không thể cho người khác thấy hay sao?

Mã Liên Nhi chợt đỏ mặt, tức giận lườm Dương Lăng, gắt gỏng:

- Ai cần huynh lo? Huynh là gì của ta chứ... Chó mà cứ thích bắt chuột (ý nói nhiệt tình một cách không cần thiết)!

Mặt đỏ hồng, nàng kéo khăn trải bàn che chậu gỗ lại, rồi đi đến đầu giường ngồi phịch xuống, hai chân co lên, hai tay ôm gối, gác cằm lên đầu gối, nhìn Dương Lăng hỏi:

- Huynh đuổi theo ta làm gì? Có chuyện muốn nói sao?

Dương Lăng chú ý thấy nàng mang một đôi hài cong màu trắng, đó là đôi giày mang để tang cho phụ thân; hai chân gập lại, váy căng ra, đằng sau đôi chân thẳng tắp là nửa cung tròn tuyệt mỹ như vẽ bằng com-pa.

Vừa quét mắt nhìn, cảm thấy lòng hồi hộp kích động, lập tức Dương Lăng không dám nhìn lâu, ánh mắt dời lại chiếc chậu gỗ được khăn trải bàn che phủ, y mới chợt ngộ ra ban nãy rất có thể nàng giặt giũ một loại yếm lót của nữ nhân. Đấy là những thứ cấm kỵ nhất của nữ nhân, ngay cả Ấu Nương khi giặt giũ những thứ đồ lót này cũng đều tránh mặt mình. Thảo nào Mã Liên Nhi lại cứ như giẫm phải đuôi chuột mà chạy về phòng, té ra là muốn cất giấu vật đó gấp.

Buông người ngồi xuống chiếc ghế đối diện, y trầm ngâm một lúc rồi hỏi:

- Nghe nói... sáng nay Mã huynh có ghé qua?

Liếc y một cách đầy hàm ý, Mã Liên Nhi nhếch miệng:

- Không phải huynh đã gặp y rồi sao?

Dương Lăng đỏ mặt, ngượng ngập hỏi:

- Cô... Sao cô biết?

Mã Liên Nhi đảo mắt một vòng, thoáng nở một nụ cười khó hiểu, trả lời:

- Ta... nghe nói sáng nay huynh đã gặp y.

Dương Lăng gượng cười nói:

- Còn chọc à? Sao cô vẫn không biết lo sầu gì thế? Nghe nói ca ca cô muốn ép cô gả cho Tất đại nhân hả?

Mã Liên Nhi trợn mắt, thầm nhủ: ”Ta lo lắng cái gì? Ca ca lại hám lợi đến mê muội tâm can. Chẳng lẽ ta không tự nguyện, y dám trói ta giao cho người khác bắt làm thiếp hay sao?"

(1) Tên chức quan xưa, tên gọi của chức phó.

(2) Nguyên văn "tổ phần mạo thanh yên" (nghĩa đen là mộ tổ tiên toả khói xanh), là một kiểu nói theo phong thuỷ, khói xanh (thanh yên) đại khái mang khí chất xanh tươi, cát tường, là một điềm báo đại cát đại lợi. Dựa theo cách nói xưa là mộ phát, có thể làm quan.

(3) Giúp quan phủ hoặc quân đội giải quyết những việc như trưng thu thuế má, chiêu mộ phu dịch, vân vân.

Chương 49 - Hẹn ước ba năm

Dịch:

Biên dịch: Hieusol

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Bây giờ tôi và cô lập một ước hẹn quân tử ba năm, sau ba năm, nếu như Dương Lăng chưa ch... úi... chưa "lạc phách" thì sẽ rước cô về!

----------------------------------

Thấy y lo lắng cho mình, lòng Mã Liên Nhi ngọt ngào hơn được rót mật. Vừa tính mở lời an ủi, lòng nàng chợt máy động: “Hôm qua Ấu Nương muội muội nói ra nói vào đã để lộ ý chấp nhận nạp mình làm thiếp, cũng không biết muội ấy đã đề cập với vị lang quân nhẫn tâm này chưa. Hôm nay y chịu lo lắng cho mình, cho thấy y cũng không vô tình, cũng không uổng mình đã trao toàn bộ con tim cho y.”

“Chi bằng mình...,” nàng cắn nhẹ môi, cười nửa miệng liếc Dương Lăng, "Mình thử khích y xem sao, nếu có thể làm cho y mở mang đầu óc là tốt nhất. Ôi! Thật không biết kiếp trước mắc nợ y cái gì nữa?! Thân là con gái mà phải trăm phương nghìn kế, nhẫn nhịn để được việc mà xuống nước cầu xin y!"

Thầm oán lườm Dương Lăng, Mã Liên Nhi cất giọng u uẩn:

- Ừm! Ta có thể như thế nào chứ? Một nữ nhân như ta, huynh nói có thể khuấy lên phong ba gì chứ? Huynh trưởng như cha, y lấy danh nghĩa phụ huynh ép ta, Tất đô ty lại là quan lớn, ta có thể làm sao đây?

Thấy nàng ngân ngấn lệ, Dương Lăng không cầm lòng được, thấp giọng an ủi:

- Cô là người tự do, nếu cô không bằng lòng, ai có thể cưỡng ép cô chứ?

Mã Liên Nhi vốn chỉ muốn khơi dậy lòng thương hoa tiếc ngọc của Dương Lăng, không ngờ nói rồi lại gợi lên chuyện đau lòng của mình. Có chút không kiềm chế được tâm tình, nàng chán nản nói:

- Người tự do? Từng có việc đó sao? Người con gái có thể có quyền tự lựa chọn phu quân ư?

Giọng nàng dần nhỏ lại:

- Ta vẫn muốn..., ta chấm một người. Vì hắn, ta không tiếc phải trả giá bằng danh tiết của mình, tự dồn bản thân vào đường cùng, chẳng qua là bởi thích hắn, muốn ở cùng hắn mà thôi. Người ta sẽ tiếp nhận sao? Biết đâu trong lòng hắn, ta bị coi là một đứa con gái nham hiểm, vô sỉ, thích dùng cơ mưu. Nếu như hắn thích ta, vậy thì xong, nhưng nếu hắn không muốn, kẻ khác sẽ chỉ ca tụng hắn là anh hùng cao cả, danh sỹ phong lưu, mọi cô gái đều thích. Nhưng còn cô gái từ đó về sau lại sẽ không thể ngẩng đầu, chịu hết mọi đắng cay nghiệt ngã.

Mã Liên Nhi đỏ bừng mặt, trừng mắt oán hận nhìn Dương Lăng:

- Huynh cùng Ấu Nương nghĩa nặng tình thâm, từ hôm dưới thành đó ta đã rõ. Được, ta tự nguyện làm thiếp, hầu chồng lo việc nhà, vậy mà vẫn khó được toại nguyện. Ha ha, là ta tự làm tự chịu, hôm nay danh tiết đã huỷ, còn có người nguyện đối đãi với ta như là vợ chính sao?

Dương Lăng ngây người một hồi lâu, rồi hổ thẹn chống chế:

- Cô… Cô thông minh thanh khiết, đoan trang dịu dàng, không phải người đàn ông nào cũng sẽ để ý đến những lời ong tiếng ve này đâu.

Không để ý đến những lời y nói, Mã Liên Nhi tự cất giọng xa xăm:

- Tất đô ti lấy ba nàng tiểu thiếp ở Giang Nam, nghe nói y đối đãi với tiểu thiếp vô cùng hà khắc, chánh thê thì lại hết sức hung hãn, ta... Hôm nay ta muốn làm thiếp cũng không còn đường lựa chọn... Tự mình tạo nghiệt thì không còn đường sống nữa ư?

Dương Lăng im lặng một hồi lâu mới hít vô một hơi thật sâu, hạ giọng:

- Liên Nhi, không phải Dương Lăng thật sự muốn ép cô bước trên con đường này. Số mệnh là vậy, tôi... Tôi thật sự là có nỗi niềm khó nói.

Mã Liên Nhi nghe xong, rèm mi cụp xuống, hai hàng lệ trong vắt trào ra, đau thương đến chết lịm cõi lòng. Lời đã nói đến dường này, vậy mà Dương Lăng vẫn tìm cớ cự tuyệt nàng; nàng thật sự đã tuyệt vọng rồi.

Từ sau đêm cùng ở bên nhau trong hố tuyết giữa núi rừng ấy, Mã Liên Nhi đã khắc sâu hình bóng của Dương Lăng vào trong tim, y chính là đấng phu quân thích hợp với nàng. Nếu chưa bao giờ gặp gỡ y, có lẽ sau này nàng vẫn còn có thể tuỳ ý tìm lấy một người chồng, thế nhưng biết y rồi, làm sao những nam tử bình thường cổ hủ ngu muội, xem nữ nhân như đồ chơi đó còn có thể được nàng để vào mắt chứ?

Dương Lăng kính trọng nàng, hiểu nàng, không xem nàng như một người con gái đi ngược truyền thống. Nàng đã thấy y cưng chiều yêu thương, không bỏ rơi ruồng rẫy Ấu Nương như vậy, nếu như nàng nên vợ nên chồng với y, thành tâm hầu hạ, nhất định y cũng sẽ thật tâm che chở và yêu thương nàng, sẽ không vì thân phận tiểu thiếp mà xem thường nàng, sẽ không vì thứ bậc xếp sau mà ruồng bỏ nàng. Phu quân như vậy còn không đáng để mình một lòng một dạ hay sao? Thế nhưng, dù đặt cược hết danh tiết của bản thân vào một ván, rốt cuộc nàng vẫn thua, thua hoàn toàn, thua đến thảm.

Dương Lăng thấy nàng lệ châu lăn xuống, nhất thời không biết phải làm thế nào; khuôn mặt xinh đẹp ấy đã không còn chút sinh khí, tựa như một bức tượng điêu khắc bằng ngọc. Một hồi lâu y mới thở dài, bất lực cúi đầu nói:

- Nước mắt của phụ nữ...! Liên Nhi, cô nên cư tang cho cha ba năm. Bây giờ tôi và cô lập một ước hẹn quân tử ba năm, sau ba năm, nếu như Dương Lăng chưa ch... úi... chưa "lạc phách" (1) thì sẽ rước cô về! Dĩ nhiên để cho công bằng, cô vẫn được xem như chưa gả, cho đến lúc đó cô vẫn có thể chọn lựa khác, chỉ cần cô gặp được người đàn ông hợp ý!

Mã Liên Nhi bừng mở lớn hai mắt, cố gắng chớp chớp cho rơi hết lệ, không dám tin:

- Thật chứ?

Dương Lăng cười giễu bản thân:

- Thật đấy! Chỉ cần nội trong thời gian đó Dương mỗ vẫn chưa... "lạc phách", vẫn có thể nuôi được cô. Khi ấy nếu cô bằng lòng bước vào nhà họ Dương tôi, sẽ không ai có thể ngăn cô!

Mã Liên Nhi từ khóc hóa cười, nàng nhảy phóc xuống đất, vui mừng muốn nhảy bổ đến ôm lấy y. Song khi Dương Lăng đã chấp nhận nàng, sự mạnh dạn và đáo để vốn có lại hoàn toàn biến mất, thay vào đó là vẻ thẹn thùng khó kềm nén.

Mắt ngọc xoe tròn, hàng mi cong vút, nàng cắn môi, nhẹ giọng nói với Dương Lăng:

- Nghèo khó thì đã sao? Chẳng lẽ bây giờ chức quan huynh đang làm khiến cho người ta ao ước sao? Hừm! Có phải huynh cho rằng tiểu nữ bị huynh mê hoặc đến ngay cả giữa dịch thừa và đô ti, chức quan nào lớn hơn cũng không phân biệt được sao? Huynh đó nha, người ta hết lần này đến lần khác tỏ lòng với huynh như vậy, huynh còn không rõ tấm lòng của người ta hay sao?

Dương Lăng cười gượng:

- Chức quan hiện tại thì sao chứ? À phải rồi, tôi có chuyện muốn nói với cô. Tôi dự tính hai tháng nữa, lúc thương nhân buôn hàng da ở quan ngoại ghé qua Kê Minh, tôi sẽ nhờ bọn họ giúp cô đưa linh cữu về quê. Có điều...

Dương Lăng đem tin được thăng chức lên Cẩm y vệ chỉ huy Đồng tri, sắp sửa lên kinh sư kể cho nàng một lượt. Mã Liên Nhi nghe xong mừng đến mặt mày rạng rỡ, hồ hởi nói:

- Tốt quá rồi, vừa rồi muội còn lo vì muội mà... Tất đô ty sẽ tìm huynh gây phiền toái, bây giờ không phải sợ hắn nữa!

Nàng thoáng suy nghĩ, rồi bỗng chau mày lo lắng nói tiếp:

- Không đúng à! Thăng cấp trong quân đội nào phải trò đùa, chuyện này thật cổ quái!

Dương Lăng cười lớn đáp:

- Tôi cũng cảm thấy cổ quái, tuy nhiên ngẫm lại, thấy cũng chẳng phải là chuyện xấu. Ai mà tốn hao bấy nhiêu công sức cho tôi một chức quan to, rồi lại lo nghĩ tìm cách hại tôi chứ?

Mã Liên Nhi, lúc này đã chuyển sang vai trò người vợ nhà họ Dương, suy nghĩ cẩn thận rồi lắc đầu:

- Có câu nói 'quan lộ hiểm ác' huynh có biết không? Để muội suy nghĩ một chút, ừm... với 'công lao' mà huynh lập được, tuyệt không có lý nào thăng liền ba cấp, thẳng đến trung ương của Cẩm y vệ. Trong kinh lại càng không thể có ai tốt bụng mà vô duyên vô cớ thăng chức cho huynh như vậy. Chúng ta phải suy nghĩ thật kỹ xem sao, không thể để bị kẻ khác hãm hại được...

Mã Liên Nhi càng nghĩ càng cảm thấy có vấn đề. Trên đời làm gì có chuyện tốt như vậy, trong chuyện này ắt có một mấu chốt quan trọng nào đó chưa thể lần ra. Dương Lăng lên kinh lành hay dữ nhất định có quan hệ với cái mấu chốt này.

Thấy nàng ngồi ở đầu giường, mày ngài nhíu chặt, lẩm bẩm một mình, Dương Lăng bèn bật cười:

- Tôi thấy cô sắp sửa có thể mở hiệu xem số mệnh cho người ta rồi đó. Suy nghĩ nhiều như vậy để làm gì? Chờ đến khi tôi vào kinh diện kiến vị Trương đại nhân đó rồi, bí ẩn tự nhiên sẽ tỏ tường thôi. Bây giờ có suy nghĩ thêm nữa thì vẫn là võ đoán, hà tất phải đa nghi?

Mã Liên Nhi lườm y, quở trách:

- Huynh hay quá nhỉ! Không phải người ta lo là lo cho huynh sao?

Nghẫm nghĩ một lúc, nàng lại lắp bắp:

- Thế... thế huynh vào kinh, vậy muội thì sao đây?

Dương Lăng đáp:

- Chiều nay tôi sẽ đi gặp Hoàng huyện thừa nhờ Hoàng lão giúp đỡ. Hai tháng sau đoàn buôn phương bắc sẽ xuôi nam, giúp cô trở về Kim Lăng.

Ánh mắt Mã Liên Nhi chợt ảm đạm, bịn rịn:

- Vậy muội... chẳng phải là sẽ không thể gặp lại huynh trong suốt ba năm rồi sao? Huynh... có vì lâu ngày chày tháng mà quên mất người ta hay không?

Nàng thầm tính trong lòng: “Đưa linh cữu phụ thân trở về cố hương xong, mình có nên lên kinh sư để gặp huynh ấy không nhỉ? Nếu huynh ấy thăng chức Chỉ huy Đồng tri, mà thật sự không ai có ý gì với huynh ấy, theo lẽ thường hẳn sẽ không thể nhậm chức tại nha môn quan trọng như Bắc trấn phủ ty. Nếu như huynh ấy được điều đến Kim Lăng Nam trấn phủ ty làm quan, vậy chẳng phải... Ừm, đợi khi có tin tức chuẩn xác của huynh ấy rồi hẵng nói vậy".

******************************

Trong lều của Tất Xuân, Tất đô ty vui vẻ nói với Mã Ngang:

- Mã Ngang, không lâu nữa quân ta sẽ trở về Chiết Giang rồi. Ngươi biết đấy, qua ngày cúng thất tuần của lệnh tôn thì bổn quan sẽ không tiện... Ha ha ha, nếu không thì cái đám ngự sử mọt sách ngớ ngẩn của tỉnh Giang Chiết biết được, tấu lên trên thì thật không đáng. Không biết hôm nay ngươi đã đề cập với lệnh muội tâm ý của bổn quan chưa?

Mã Ngang biết em mình giỏi cưỡi ngựa bắn cung, tinh thông âm luật, lại xinh đẹp quyến rũ, tính khí luôn ương bướng, thiết nghĩ nàng ta sẽ lập tức đáp ứng chuyện tốt "thà làm thiếp anh hùng còn hơn làm vợ kẻ tầm thường". Cho nên khi nghe Tất Xuân tiết lộ tình cảm yêu thích Mã Liên Nhi, chưa thèm dò hỏi ý tứ của em gái y đã đồng ý ngay lập tức. Nào ngờ hôm nay đề cập chuyện đó với em gái thì bị nàng ta khóc lóc mắng cho một trận rồi đuổi ra ngoài.

Lúc này thấy Tất Xuân hỏi tới, mặt gã không khỏi đơ ra, ngập ngừng đáp:

- Chuyện này... Ty chức chỉ mới dò xét ý tứ của em gái một chút, vẫn chưa đề cập tới ý của đại nhân. Có điều đại nhân lãnh đạo quân đội một phương, quyền cao chức trọng, cô ấy xưa nay xem trọng anh hùng trượng phu, có lẽ sẽ không cự tuyệt.

Cặp mắt tam giác của Tất Xuân vẫn luôn chăm chú nhìn vẻ mặt của Mã Ngang, vừa nghe gã trả lời một cách miễn cưỡng, mặt lập tức sa sầm. Hôm nay sau khi trở về, Quan Thụ Anh đã lỡ miệng nói với hắn là có người đồn rằng vị Dương dịch thừa và Mã Liên Nhi cô nương có tình ý với nhau, nghe đâu gần đây muốn nạp nàng ta làm thiếp, khi đó Tất Xuân đã hết sức không vui.

Chẳng qua hắn nghĩ Mã Liên Nhi đang trọ trong dịch thự, sẽ khó tránh được lời ong tiếng ve của những kẻ rỗi việc. Luận thân phận, luận địa vị, Dương Lăng sao có thể bì được với mình? Nếu như Mã tiểu thư quả thật có ý làm thiếp Dương Lăng, vậy chẳng phải mình càng có hy vọng hay sao?

Nghĩ đến dáng vẻ cực kỳ xinh đẹp, kiều diễm của Mã Liên Nhi, hắn liền không quan tâm đến những lời đồn đãi kia nữa. Nhưng lúc này trông thấy thần sắc của Mã Ngang, hắn nghĩ "chẳng lẽ Mã tiểu thư không biết thủ lễ, thật đã có tư tình với Dương dịch thừa sao?", trong lòng liền cảm thấy khó chịu.

Mã Ngang thấy sắc mặt hắn âm u, không khỏi rùng mình, vội hoảng hốt nói tiếp:

- Việc hôn nhân đại sự nào ai cho phép phận gái tự mình làm chủ? Tục ngữ có câu "quyền huynh thế phụ", lời của ty chức sẽ là ý của cô em gái. Cô ấy giỏi cưỡi ngựa bắn cung, dạo gần đây tù túng ở trong thành nhất định cũng rất buồn chán. Hôm trước Trương huyện lệnh mới nhậm chức đã mở tiệc chiêu đãi đại nhân, chi bằng ngày mai đại nhân mời Trương tri huyện đi săn, đến lúc đó ty chức sẽ hẹn em gái đi cùng. Đi săn về, trên bàn tiệc, ty chức tuyên bố gả em gái cho đại nhân ở trước mặt mọi người là xong.

Vẻ âm u trên mặt Tất Xuân lập tức tiêu tan, hắn cười ha hả:

- Nếu là như vậy, chuyện này sẽ giao cho ngươi! Chốc nữa hãy lấy thiệp của ta đi gặp Trương đại nhân nhé.

Mã Ngang khom người đáp:

- Vâng, đại nhân!

Tất Xuân vẫy tay cười, nói:

- Không cần câu nệ như vậy! Ngày mai ta và ngươi sẽ là người một nhà rồi, còn khách khí làm gì, ha ha ha...

(1) Ở đây Dương Lăng chơi chữ: "lạc phách" vừa có nghĩa là nghèo khổ, bần cùng (còn gọi là "lạc bạc" 落泊), vừa có nghĩa là mất đi hồn phách. Y nói như vậy thì Mã Liên Nhi sẽ nghĩ đến nghĩa đầu, mà không nghĩ y đang nói đến cái chết.

Chương 50 - Không khí chan hoà

Dịch:

Biên dịch: Vo vong

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Mã Liên Nhi thấy vậy vội vàng bỏ củ khoai qua một bên, dìu Ấu Nương ngồi xuống ghế, mang chén trà của Dương Lăng đến, nói:

- Ấu Nương muội muội! Muội uống miếng trà đi!

----------------------------------

Nghe nói tướng công sắp được vào kinh làm quan, Hàn Ấu Nương mừng líu lo như một nàng chim hỉ thước. Thấy bộ dạng vui sướng của nàng, Dương Lăng cũng thả lỏng tâm tình, tạm thời dẹp bỏ những mối lo ngại qua một bên. Y có thể cảm nhận được niềm vui sướng của Ấu Nương, cùng chia xẻ cảm giác ngọt ngào ấy.

Hồ hởi đến nỗi hai má căng mọng như quả táo chín, Hàn Ấu Nương vui sướng nói:

- Thiếp biết mà! Tướng công là người đọc sách có tiền đồ nhất, nhất định sẽ có thể làm quan lớn. Đợi cha về thiếp sẽ nói cho người biết chuyện này, nhất định người sẽ cao hứng lắm đây.

Dương Lăng mỉm cười kéo nàng vào lòng, khẽ nói:

- Xem nàng cao hứng chưa kìa, nhỏ giọng một chút đi, tí nữa bẩm với nhạc phụ một tiếng là được rồi. Công hàm trong kinh đặc biệt nói rõ là tạm thời chưa được rêu rao ra ngoài, người biết chuyện càng ít càng tốt.

Hàn Ấu Nương cũng biết đây là quy củ làm quan của Cẩm y vệ, mặc dù có chút tiếc nuối vì chuyện phu quân làm đại quan mà không thể vinh hiển với xóm làng, nhưng y đã nói là không thể để người khác biết, nên nàng liền ngoan ngoãn đáp lời:

- Vâng, vậy chút nữa thiếp sẽ thông báo cho cha một tiếng, không nói ra ngoài là được rồi.

Hàn Ấu Nương càng ngoan ngoãn nhu mì, Dương Lăng càng cảm thấy áy náy trong lòng. Tuy rằng "tấm séc khống" chi cho Mã Liên Nhi chỉ là hoa trong gương, là trăng trong nước, là toà lâu đài vẽ trong không khí, nhưng y vẫn không đành lòng giấu gạt Ấu Nương. Thở dài một hơi, y vùi đầu vào cổ Ấu Nương, nhẹ vuốt làn da mịn màng của nàng, dè dặt nói:

- Ấu Nương, tướng công... còn có một chuyện...

Vừa nghe đến đó cơ thể Hàn Ấu Nương liền run lên, tức thời khuôn mặt đỏ bừng như lửa, cả người trở nên mất tự nhiên. Đêm qua, sau khi được kiến thức "hung khí" đáng sợ của tướng công, lại nhớ đến lời mà mấy bà dì, bà thím vô duyên nhiều chuyện đã nói với mình, Ấu Nương không khỏi suy tưởng liên miên. Ai nói thiếu nữ không tơ tưởng yêu đương chứ? Sau khi Dương Lăng đã say giấc nồng, cô gái nhỏ này vẫn thường nằm chống cằm, si mê ngắm nhìn y non nửa buổi tối.

Lúc này bị Dương Lăng ôm vào lòng với một tư thế thân mật như vậy, lại nghe ngôn từ ám muội của y, lập tức Ấu Nương nghĩ lệch ý đi. Lông măng toàn thân dựng đứng cả lên, nàng ngượng ngùng hỏi:

- Tướng... tướng công, là chuyện gì?

Dương Lăng ấp úng kể lại chuyện Mã Ngang muốn gả em gái làm thiếp cho Tất đô ty cùng với chuyện hẹn ước ba năm của mình cùng Mã Liên Nhi. Kể xong, Dương Lăng đưa mắt nhìn trộm Ấu Nương, chỉ thấy vai của tiểu nha đầu này thoáng trùng xuống, vẻ ủ rũ lộ rõ trên khuôn mặt.

Dương Lăng áy náy:

- Ấu Nương, chuyện này là ta không tốt... Nhưng Tất đô ty đó... Ta... Ước hẹn ba năm của ta bây giờ cũng chỉ là nói suông như vậy thôi, tướng công chưa từng nghĩ tới việc hễ thấy con gái đẹp là rước về nhà đâu. Có nàng, tướng công thật sự đã rất thoả mãn rồi. Đừng giận có được không?

Khi vừa nghe Dương Lăng kể xong, thật sự Hàn Ấu Nương cảm thấy hơi khó chịu, nhưng nghĩ lại thấy tính cách của tướng công quả thật không phải là loại đàn ông phong lưu thành tính, mà kẻ làm quan lớn có mấy ai lại không năm thê bảy thiếp? “Theo tập quán, khi muốn nạp thiếp phu quân tuyệt nhiên không cần phải được mình đồng ý. Bây giờ chàng lại còn dè dặt, chỉ lo mình không vui như vậy, mình cũng nên biết tự vừa lòng rồi.”

“Cha nói đúng, tướng công càng thương mình, mình càng phải thường xuyên nhắc nhở bản thân, ngàn vạn lần chớ nên vì được cưng yêu mà kiêu ngạo. Hơn nữa... Ài, ai bảo tướng công đã cùng trải qua một đêm với người ta làm chi, đổi lại là mình, đặt vào hoàn cảnh đó, về sau cũng sẽ khó mà lấy người khác, không thể hại cả cuộc đời của Mã tiểu thư được.”

Nghĩ vậy, Ấu Nương vui vẻ nói với Dương Lăng:

- Tướng công! Ấu Nương không phải là kẻ ghen tuông, đây cũng là duyên phận của Liên Nhi tỷ tỷ và chàng. Nếu đã như vậy, chút nữa chúng ta sẽ nhờ trưởng bối có danh vọng trên huyện ra mặt ước định chuyện này với nhà họ Mã trước nhé!

Dương Lăng thở phào nhẹ nhõm, đáp:

- Không cần đâu, bây giờ chưa nói tới chuyện đó vội. Tất đô ty là người có địa vị, chỉ cần Mã tiểu thư một mực không bằng lòng, hắn sẽ không dám làm chuyện ép gả ép cưới đâu. Không lâu nữa Mã tiểu thư sẽ đưa linh cữu về quê nhà Kim Lăng, nơi ấy những kẻ tài hoa, gia thế hiển hách nhiều không kể xiết. Không chừng ba năm sau người ta đã nhìn trúng một thanh niên tài năng xuất chúng nào đó rồi, hà tất phải trói buộc người ta làm gì!"

Tuy Hàn Ấu Nương không cam lòng chia sẻ tình yêu của trượng phu với người khác, nhưng cũng không thích nghe y nói lời hạ thấp bản thân. Trong con tim bé bỏng của nàng, phu quân mới là người trượng phu tài ba nhất, biết quan tâm tới nương tử nhất. Nếu như có một ngày Mã Liên Nhi thật sự chọn kẻ khác, vậy đúng là cô ấy có mắt không tròng.

Nghe Dương Lăng nói như vậy, nàng vứt bỏ lòng ghen tuông qua một bên, có phần không phục nói:

- Hứ, nếu thật sự như vậy thì nàng ta không có phúc rồi! Có ai tốt hơn tướng công của thiếp chứ?

Được nghe nàng khen như vậy, trong lòng Dương Lăng thầm cảm thấy ấm áp, y không kìm nổi bèn trêu:

- Nếu tướng công nàng tốt như vậy, vậy để ta kiếm thêm mấy tỷ muội nữa về cho nàng nhé?

Tuy biết rõ tướng công đang trêu mình nhưng Hàn Ấu Nương vẫn không khỏi quýnh quáng:

- Không cần, không cần, không cần! Chúng ta... Chúng ta... Nồi trong nhà chúng ta không đủ nấu cho nhiều người như vậy đâu.

Thấy nàng luống cuống đưa lý do như vậy, Dương Lăng bật cười rộ, nào ngờ Ấu Nương lại bồi thêm một câu:

- Vả lại thân thể tướng công không tốt, chàng có thể không lo chứ thiếp phải lo đấy!

Tiếng cười của Dương Lăng bất chợt tắt ngúm, mãi một hồi lâu y mới "thẹn quá hoá giận", hầm hừ:

- Cái gì? Nàng chê thân thể ta yếu hử? Thân thể tướng công yếu lắm phải không?

- Không, không, không phải mà!

Hàn Ấu Nương cười tít mắt, giọng dịu dàng như thể đang dỗ trẻ con:

- Tướng công đổ oan người ta rồi! Người ta là nói thân thể chàng vừa phải mà, ưm ưm...

Lời còn chưa dứt, Dương Lăng đã khoá cái miệng xinh xắn của nàng bằng một nụ hôn, trong lòng tức tối thầm nhủ: "Bé con này được mình chiều quá đâm hư rồi, không ngờ đã bắt đầu trêu chọc mình. Hôm nay mình phải chấp hành gia pháp mới được, bằng không e chẳng bao lâu sẽ không còn 'Phu cương' gì nữa."

Nào ngờ chỉ hôn một lát, Dương Lăng đã cảm thấy có nơi nào đó bắt đầu phồng lên, y không khỏi say đắm nhìn xuống cái miệng nhỏ xinh của Ấu Nương, mang vẻ "nhục mất nước" mà khẩn cầu:

- Vợ yêu ơi! Tướng công vừa gần gũi nàng thì đã chịu không nổi nữa rồi, hãy giúp tướng công một chút được không? Ấu Nương ngoan, Ấu Nương...

Hàn Ấu Nương bật cười, tức tốc nhảy phóc ra khỏi đùi y, chạy vội ra ngoài. Chỉ nghe tiếng "loảng xoảng" vang lên, giọng nói của Ấu Nương vọng vào từ phía xa xa bên ngoài phòng:

- Mùa xuân trong người nhiều hỏa khí, tướng công uống nhiều trà một chút đi nhé! Sẵn tiết trời đang đẹp, thiếp đi giặt... giặt mền.

******************************

"Một chú ong mật chăm chỉ cần cù."

Đó là lời bình luận của Dương Lăng về ái thê. Nàng không cho y động tay động chân, lý do là đàn ông không nên rớ tới những thứ này. Do bị chiều riết đâm trở nên "kiêu ngạo", tiểu cô nương ngày càng lớn mật này còn bồi thêm một câu:

- Nam nhân chân tay vụng về, mang tiếng là giúp thu dọn đồ đạc, nhưng càng giúp càng bừa. Tướng công đại nhân của thiếp ơi, chàng hãy ngoan ngoãn ngồi yên ở đó đi!

Chàng tướng công họ Dương ngoan ngoãn ngồi yên được một lát, thấy Hàn Ấu Nương loay hoay lục lọi, thu xếp vật dụng cần đem lên kinh, y ngẫm thấy mình cũng nên thanh lý sổ sách, chỉnh lý lại những công hàm bí mật tới lui của Cẩm y vệ một chút, phòng khi vào kinh cần giao tiếp cũng đỡ phải luống cuống chân tay. Thế là y bèn báo Ấu Nương một tiếng rồi vội chạy về sở dịch.

Sắp xếp công hàm lại một lượt, vừa cho tất tần tật vào cái tủ có treo chiếc khóa hình con cá vàng, khóa tủ xong, Dương Lăng chợt nghe từ gian ngoài vang lên tiếng đập cửa, y vội kéo lê đôi giày chạy ra. Vừa mở cửa, Dương Lăng ngay lập tức nhìn thấy Mã Liên Nhi tay lót khăn đang bưng một chiếc nồi sắt nhỏ nghi ngút khói.

Dương Lăng rất đỗi ngạc nhiên, vội vàng tránh lối cho nàng bước vào. Mã Liên Nhi đặt chiếc nồi sắt lên bàn rồi e thẹn nói:

- Muội... muội thấy tối rồi mà huynh vẫn còn xử lý công vụ cho nên đã làm chút đồ ăn, cũng không biết có hợp với khẩu vị của huynh không.

Dương Lăng đã không còn ngây ngô như lúc mới đến thời đại này nữa, một người con gái chủ động làm cơm cho con trai là có ý gì, trong lòng y hiểu rất rõ. "Ba ngày xuống bếp làm cơm. Rửa tay, nấu bát canh thơm đã rồi (1)", Mã Liên Nhi lúc này đây đang mang tư tưởng cô dâu muốn xắn tay hầu hạ y.

Lúc dự tiệc trên huyện, Dương Lăng đã có ăn qua món này, biết được cái món "đả-biên-lô" (hay tả-pí-lù, tạp-pín-lù) này chính là món lẩu (2). Y mở vung ra, chỉ thấy trong chiếc nồi nghi ngút khói là rau cải xanh biếc, nấm ăn đen đen, thịt hoẵng trắng hồng, gừng lát xanh nhạt..., thật khiến cho người ta phải phát thèm. Dương Lăng buột miệng khen:

- Thơm quá! Còn thơm hơn cả bếp trưởng ở lầu Hồng Nhạn nấu nữa.

Được y khen ngợi, Mã Liên Nhi vui mừng ra mặt. Nàng lấy đôi đũa từ trong ống tay áo ra, định bảo y nếm thử, thế nhưng ngoài cửa chợt vọng vào giọng nói phấn khởi của Hàn Ấu Nương:

- Tướng công, đại ca đem từ Phủ thành về một ít vật hiếm lạ nè, đây là...

Theo tiếng nói, Hàn Ấu Nương sải bước vào trong cửa, vừa trông thấy Mã Liên Nhi cũng ở đây, nàng không khỏi ngẩn người. Tuy Mã Liên Nhi đã được Dương Lăng chấp nhận, nhưng dẫu sao thân phận vẫn xem như là người ngoài, hôm nay bị Ấu Nương bắt gặp tại trận, nàng lập tức xấu hổ đến nỗi đỏ bừng cả mặt.

Dương Lăng cũng không hề chuẩn bị tâm lý cho cục diện "hậu chiếu hậu" như thế này. Ba người tròn mắt ngẩn tò te nhìn nhau một chốc, bất chợt Hàn Ấu Nương nhoẻn miệng cười:

- Liên Nhi tỷ tỷ, tỷ cũng ở đây à?

Mã Liên Nhi thở phào nhẹ nhõm. Nàng ngượng nghịu nói:

- Ấu Nương muội muội, ta... tối nay ta có làm món đả-biên-lô, thế nên mang đến mời Dương đại ca nếm thử. Tay nghề của ta không sánh bằng muội, nếu muội không chê, hãy đến đây nếm thử chút đi!

Thấy trong tay Ấu Nương đang cầm mấy vật không nhìn rõ do khuất ánh đèn, Dương Lăng tò mò hỏi:

- Ấu Nương, nàng cầm gì thế?

Hàn Ấu Nương đáp:

- Tướng công! Đây là thứ mà đại ca mang từ Phủ thành về, nghe nói nó được mang tới Đại Minh chúng ta từ các nước phiên bang, gọi là khoai ngọt, luộc chín ăn rất ngọt. Chàng nếm thử đi! À, Liên Nhi tỷ tỷ, tỷ cũng nếm thử xem!

Nhìn thấy vật được nàng giơ lên ấy, Dương Lăng không khỏi ngạc nhiên thốt:

- Khoai lang?

Cẩn thận nhìn kỹ, đây quả đúng là hai củ khoai lang.

Hàn Ấu Nương lấy làm lạ hỏi:

- Tướng công biết nó à? Đây là sản vật từ phiên bang mang về đấy. Nghe đại ca nói ở phương nam có người trồng, ở nơi này nó vẫn là của hiếm, nhưng không hề đắt. Thế nên đại ca mua một ít về nếm thử cho biết.

Dương Lăng vội lấp liếm:

- Ta... à, lúc ta đi tới Phủ thành thi hương, từng thấy thứ này.

Đoạn y cười nói tiếp:

- Trông thế này e là nó đã để qua cả mùa đông, lượng nước ít đi, nướng lên ăn sẽ ngọt hơn. À phải rồi, so với ngũ cốc chúng ta trồng ở đây, thứ này dễ sinh trưởng hơn, sản lượng lại nhiều, sao không trồng với số lượng lớn nhỉ? Một mẫu phỏng chừng có thể thu hoạch được không ít lương thực đấy.

Nhìn vật trong tay, Hàn Ấu Nương tò mò hỏi:

- Vật này không có hạt giống thì sao mà trồng nhỉ? Hơn nữa cũng không biết nó có thích hợp với đất canh tác nơi đây của chúng ta hay không, người làm nông vẫn phải dựa vào thu hoạch mỗi mùa để mà sống qua ngày, ai dám mạo hiểm trồng nó chứ?

Lúc này Dương Lăng mới sực nhớ rằng y chưa bao giờ nhìn thấy các loại cây nông nghiệp thích hợp trồng trọt ở phương bắc như ngô, khoai lang, khoai tây được trồng ở Kê Minh cả. Cây nông nghiệp ở nơi đây căn bản vẫn là các giống như lúa mạch, lúa gạo, đậu, kê, vân vân... Xem ra, theo con đường mậu dịch hàng hải, những sản vật của nước ngoài này đã được đưa vào Đại Minh, chỉ có điều vẫn chưa được phổ biến rộng rãi. Nếu phổ biến những loại cây nông nghiệp này, vậy sản xuất nông nghiệp của cả Đại Minh sẽ được nâng cao biết bao.

Dương Lăng biết nông dân xem trọng nhất là đất đai, nếu như đột nhiên bắt bọn họ trồng những thứ cây lạ lẫm thay thế cho những giống cây lương thực truyền thống từ mấy trăm năm qua, chỉ sợ sẽ chẳng có ai dám mạo hiểm như vậy. “Lần này tiến kinh, có lẽ nên tìm cơ hội đề xuất với triều đình một phen, nếu chuyện này được chú trọng, rồi sau đó triều đình ra mặt phát triển những thứ cây trồng này trên diện rộng, vậy cũng xem như là mình đã làm được một chuyện ích nước lợi dân rồi!"

Nghĩ đến đó, Dương Lăng mừng vui khôn xiết. Y biết mình chưa động đến thì Ấu Nương nhất định sẽ không ăn một miếng nào, nên bèn khấp khởi nhận lấy củ khoai lang từ tay Ấu Nương. Y bẻ một miếng lớn, trìu mến đút vào cái miệng nhỏ xinh của nàng, nói:

- Nàng nếm thử xem ăn có ngon không?

Đưa mắt liếc qua, thoáng thấy mặt Mã Liên Nhi đầy vẻ hâm mộ, những tưởng là nàng cũng thèm vật hiếm lạ mà trước giờ chưa từng được thấy này, y bèn nhét củ khoai lang vào tay nàng, cười bảo:

- Đây, cô cũng nếm thử đi, ngọt lắm!

Mã Liên Nhi ưm một tiếng, nhìn y đầy vẻ tình ý mặn nồng. Nàng vừa cho khoai lang vào miệng, chợt nghe Hàn Ấu Nương "ợ" một tiếng, vẻ mặt trở nên khá là kỳ dị. Hoá ra bị Dương Lăng bẻ một miếng khoai lang lớn đút vào miệng, ngại má phồng lên sẽ trông khó coi nên Hàn Ấu Nương nuốt vội, không ngờ lại bị nghẹn.

Mã Liên Nhi thấy vậy vội vàng bỏ củ khoai qua một bên, dìu Ấu Nương ngồi xuống ghế, mang chén trà của Dương Lăng đến, nói:

- Ấu Nương muội muội! Muội uống miếng trà đi!

Ấu Nương đón lấy chén trà, hớp vài hớp cho thấm họng, thông cổ, đoạn liếc nhìn nàng như có thâm ý, ngại ngùng nói:

- Khiến Liên Nhi tỷ chê cười rồi, có điều cái thứ này ngọt thật đấy. Liên Nhi tỷ, tỷ cũng nếm thử đi!

Mã Liên Nhi ừm một tiếng, cầm lấy củ khoai, sau đó lại đặt đôi đũa vào tay Ấu Nương, nhẹ giọng bảo:

- Muội muội cũng nếm thử tay nghề của ta đi! Ta không giỏi nấu nướng, muội đừng chê cười nhé!

Hai người con gái, một người ăn khoai lang, một người nếm lẩu, bầu không khí bỗng trở nên chan hoà trong tiếng nói cười vui vẻ. Dương Lăng đứng một bên, không hề hay biết vừa rồi "thượng viện” và “hạ viện" đã đạt được một nghị quyết chung về vấn đề chủ quyền quốc gia và liên hợp cầm quyền.

(1) Hai câu thơ này được trích trong bài "Tân giá nương" (Nàng dâu mới) của Vương Kiến (王 建 ) thời Đường.

Nguyên văn:

Tam nhật nhập trù hạ,

Tẩy thủ tác canh thang.

Vị am cô thực tính,

Tiên khiển tiểu cô thường.

Dịch nghĩa:

Ngày thứ ba (cô dâu) xuống bếp

Rửa tay sạch rồi nấu món canh

Vì chưa biết rõ khẩu vị của mẹ chồng

Nên nhờ cô em chồng nếm thử trước.

Dịch thơ - Trần Trọng Kim:

Ba ngày xuống bếp làm cơm,

Rửa tay, nấu bát canh thơm đã rồi.

Chưa hay tính mẹ thường xơi,

Nhờ em nếm trước, xem mùi được không. (theo thivien.net)

(2) Lẩu là cách gọi theo kiểu phiên âm từ chữ 爐 ( lú), đọc là lô. "Đả biên lô" tức là món ăn nấu chín bên lò lửa (biên lô).

Chương 51 - Ngũ tiễn liên châu (Năm mũi tên liên tiếp)

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Vo vong

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Cho nên vừa nghe Giang Bân nói tiễn thuật của Ấu Nương xuất sắc, Mã Liên Nhi liền nổi lòng háo thắng, lập tức thôi không khước từ nữa mà tháo cung tên xuống, tay phải đưa ra sau rút luôn năm mũi tên từ trong ống.

---------------------------------

Sắc xuân ló dạng, tuyết chảy băng tan, bình nguyên rợp bóng cỏ xanh rờn song trên những dãy núi xa xa vẫn trắng xoá băng tuyết. Hôm nay gió xuân nhàn thổi, không khí thoáng đãng dễ chịu, từng đám mây trắng trôi lững lờ trên bầu trời xanh thẳm. Trên thảo nguyên, những khóm cỏ non phủ lên mặt đất ẩm ướt tơi xốp trông như một tấm thảm mềm mại.

Tất đô ty và Trương huyện lệnh mới nhậm chức cùng một số quan chức dân sự lẫn quân sự đang cưỡi ngựa đi vòng qua núi Kê Minh. Phía trước là một thảo nguyên, vài chú chim đang bay lượn là là trên thảm cỏ. Trương huyện lệnh là tiến sỹ năm Hoằng Trị thứ mười hai (1499), tuy là thư sinh tuổi trạc tam tuần nhưng lại đang cưỡi chiến mã, kỵ thuật cũng tương đối rành rẽ.

Đi song song với Trương huyện lệnh, Tất đô ty quay sang mỉm cười nói:

- Tất mỗ xưa nay vẫn cho là thuật cưỡi ngựa bắn tên trong học xá (như trường học - ND) chỉ là chuyện hư hão mà thôi. Khi nãy nghe quý sư gia nói Trương đại nhân có thể kéo cung ba thạch (1 thạch bằng 60 kg, cung ba thạch là loại cung cần dùng lực kéo 180kg mới có thể kéo được – ND.), trong vòng trăm bộ (khoảng 167 mét, một bộ là 5/3 mét – ND.) bách phát bách trúng, ấy thật là văn võ song toàn.

Vừa nói ánh mắt hắn lại vừa lơ đễnh liếc trộm Mã Liên Nhi. Mã Liên Nhi đang cưỡi một thớt ngựa đỏ tía, trên người mặc trang phục đi săn, khoác thêm một chiếc áo lụa mỏng ở bên ngoài, tất cả đều có màu xanh sẫm, chân nàng vẫn xỏ đôi giày tang, lưng thắt đai trắng, bên hông còn giắt thanh loan đao nhỏ như để làm đồ trang sức. Nàng khoác nghiêng chiếc cung, lưng đeo ống tên, trang phục khoẻ khoắn mang phong cách của dị tộc vùng Tái ngoại khiến nàng càng thêm phần lộng lẫy.

Gió xuân thổi chiếc áo khoác lụa tung bay, vừa hay giúp cho bộ trang phục đi săn tôn lên những đường cong quyến rũ của nàng. Đằng sau chiếc áo lụa mỏng tanh, những đường cong hoàn mỹ mang đầy hơi thở của tuổi thanh xuân ấy lúc ẩn lúc hiện, quyến rũ vô cùng. Nghĩ đến việc mấy ngày nữa sẽ có thể ôm lấy tiểu mỹ nhân quyến rũ này vào lòng, Tất đô ty không khỏi sinh lòng dâm dục.

Thật tình hắn lười chẳng muốn để ý đến Huyện thái gia, trong lòng thầm hận trên thảo nguyên này không thể chỉ có hắn và Mã Liên Nhi, hai người lấy đất làm giường, lấy trời làm chăn, điên đảo một phen cho sướng. Nhưng dẫu gì hắn cũng là đại quan có thân phận trong triều đình, đừng nói hiện giờ Mã Liên Nhi còn chưa phải là thiếp của hắn, cho dù đã được hắn cưới về, lúc này hắn vẫn đang ở cùng một chỗ với đồng liêu, nếu chỉ lo cho ái thiếp của mình thì thật quá mất thân phận.

Nghe được lời "khen tặng" của Tất đô ty, Trương huyện lệnh dè dặt mỉm cười, vuốt râu khiêm tốn đáp:

- Đại nhân quá khen rồi. Lúc còn ở học xá, bổn huyện tuy cũng tập bắn cung cưỡi ngựa, nhưng nào so được với đại nhân và các vị mãnh tướng trong quân. Về phần cây cung ba thạch đó thì... bổn huyện quả thực là không giương nổi, có điều bách phát bách trúng... Ha ha ha, Tất tướng quân hẳn không biết! Bia trong học xá của chúng ta ở Phúc Kiến có đường kính gần một trượng.

Bia lớn có đường kính một trượng? Tất đô ty nghe xong, thoạt tiên ngây người, sau đó bật cười ha hả. Các quan bên cạnh phần lớn là người phương bắc hoặc tướng lĩnh trong quân, tất cả đều không kềm được vẻ tủm tỉm, có người vội hắng giọng nhằm che giấu nụ cười. Với bia có đường kính một trượng, nếu nói trong vòng trăm bộ bách phát bách trúng thì thật sự cũng chẳng có gì đáng khoe khoang. Bọn họ quả thật không ngờ bia trong học xá ở phương nam lại lớn như vậy.

Mã Liên Nhi ngồi trên lưng ngựa, vẻ mặt như cười mà chẳng phải cười, tâm tư ngơ ngẩn, chỉ thả hồn vào tâm sự của bản thân. Mã Ngang cẩn thận liếc nhìn vẻ mặt của em gái, thấy nàng sắc mặt bình tĩnh, hắn còn tưởng rằng nàng thấy Tất đô ty đầu đội mũ, thân mặc giáp, oai phong lẫm liệt, thế nên đã bị rung động bởi khí phách anh hùng của gã, lúc này mới cảm thấy yên tâm.

Buổi sáng Mã Liên Nhi bị ca ca gạt ra ngoài, lấy lý do là rủ nàng đi dạo chơi săn bắn. Lúc này trái tim đã có chốn về, Mã Liên Nhi đang cảm thấy cực kỳ vui vẻ, do vậy nàng cũng không muốn tỏ ra quá khắt khe với người thân duy nhất của mình. Huống hồ khi ở tái ngoại, hầu như mỗi ngày nàng đều cưỡi ngựa bắn cung, từ khi trở về Trung Nguyên thì đã lâu không thử lại tay nghề, nên nàng bèn vui vẻ đồng ý ngay. Nào ngờ sau khi cưỡi ngựa ra ngoài thành bằng con chiến mã do ca ca dắt đến, Mã Liên Nhi thấy một đám quan chức, lại còn có cả Tất đô ty, lúc bấy giờ nàng mới hiểu rõ ý đồ của ca ca mình.

Vốn Mã Liên Nhi muốn quay đầu ngựa bỏ đi ngay, nhưng hiện đang có nhiều quan viên không hiểu rõ sự tình đang ở đây, nàng làm như vậy sẽ quá thất lễ. Sợ rằng nàng vừa mới bỏ đi, lập tức sẽ xuất hiện rất nhiều lời võ đoán và chỉ trích. Nếu là trước đây nàng còn có thể chẳng để tâm đến cách nhìn của người khác, nhưng hôm nay nàng đã tự xem mình là người của nhà họ Dương, nên không dám không kiêng nể điều gì như trước nữa, đành phải đi theo tới thảo nguyên.

Tối hôm qua, sau khi được Ấu Nương ngầm tỏ ý tiếp nhận, xem như chuyện sau này được gả vào nhà họ Dương đã là trăm phần trăm, Mã Liên Nhi vừa yên tâm lại vừa cảm thấy ngọt ngào. Nàng hoàn toàn ngây ngất trong tâm tình của bản thân, đôi mắt lung linh trong veo như nước hồ thu thỉnh thoảng hoà theo dòng cảm xúc. Nàng lúc thì mỉm cười, khi thì e thẹn, phối hợp với ngũ quan xinh xắn mê người tạo nên một vẻ quyến rũ khôn tả.

Khi Tất đô ty nhìn nàng bằng ánh mắt nóng bỏng thì nàng cũng nhận biết. Nàng thấy hắn tự cao rằng bản thân là người có danh phận, chẳng những không dám đến gần bắt truyện với nàng, mà còn khi nhìn nàng cũng phải mượn lúc nói chuyện với người khác rồi liếc một cái thật nhanh, như thể sợ sẽ làm mất cái vẻ “oai phong” của một gã tướng quân vậy. Trong lòng nàng chỉ cảm thấy cái vẻ giả dối của hắn thật buồn cười.

Dương đại ca. Ôi, Dương đại ca!

Nghĩ đến Dương Lăng, lòng Mã Liên Nhi lại thầm cảm thấy ngọt ngào. Dương đại ca chẳng như cái kẻ kia, huynh ấy thèm vào quan tâm đến việc người khác nghĩ gì về bản thân. Ngày đó hai người bọn mình từ trong vùng rừng núi trở về thành, mấy người Mẫn đại nhân, Giang bả tổng đều đứng trên tường thành, nhưng khi bước vào thành Dương đại ca lại chỉ ôm chặt lấy Ấu Nương đang đẫm lệ vào trong lòng, sau đó còn dỗ dành, chọc cười muội ấy, mặc kệ những người xung quanh. Lúc nhìn Ấu Nương, đôi mắt ấy huynh ấy tựa như đang ngắm bảo vật trong lòng vậy.

Nghĩ đến đây, lòng Mã Liên Nhi lại không khỏi rạo rực. Chỉ cần có một ngày huynh ấy cũng có thể nhìn mình bằng ánh mắt chở che yêu thương như vậy, đừng nói là chờ ba năm, dù có chờ ba mươi năm, chờ cả đời, mình cũng sẵn lòng.

Nghĩ vậy, Mã Liên Nhi bất giác lại mỉm cười.

Suốt nãy giờ Giang Bân vẫn ở bên cạnh ngắm nàng, lúc này thấy nụ cười xinh như nụ đào hé nở làm mê đắm lòng người kia, cặp mắt hắn không khỏi muốn rớt ra ngoài. Hôm đó Mã Liên Nhi từ ngoài thành trở về, áo quần nhếch nhác, tóc mai tán loạn, trong mắt hắn nàng đã chẳng khác gì tiên nữ rồi. Hôm nay nàng trang điểm nhạt, trang phục khoẻ khoắn, đẹp đến mức khiến người ta phải nghẹt thở. Ôi trời, nếu như có thể cưỡi lên người đại cô nương hoa nhường nguyệt thẹn này thì...

Giang Bân nuốt nước miếng ừng ực, rồi ngẩng đầu oán hận liếc nhìn Tất Xuân, trong lòng thầm nhủ: "Con mẹ nó, nếu mình mà cũng là một đại tướng quân, dù gì cũng phải cưới cô nàng như vậy về thì mới không tính là uổng phí cuộc đời."

Từ miệng thân binh trong quân của Tất đô ty, gã cũng đã nghe phong phanh tin tức Tất Xuân muốn nạp Mã Liên Nhi về làm thiếp. Hôm nay Tất Xuân mời các vị quan lại trong vùng du xuân, chỉ đem theo mỗi một cô gái này, thật ra không chỉ có gã, đa số quan lại có mặt nơi đây cũng đã đoán được vài phần.

Từ trong bụi cỏ phía trước một con hươu bào béo múp chợt nhảy ra, lao về phía sườn núi cách đó không xa. Quan Thụ Anh hô to lên:

- Đại nhân, ngài mau nhìn kìa, có một con hươu bào!

Những kẻ này ai nấy trên lưng đều đeo quân cung (Để phân biệt với cung dùng trong săn bắn – ND.), nghe thấy vậy đều vội vã lấy cung ra cầm trên tay. Nhưng đám quan viên thì không ai động thủ, những thân binh kia có bắn tên ra cũng chỉ để chặn đường chạy của con hươu, dọa nó phải chạy sang hướng khác mà thôi. Con mồi ư? Đương nhiên là để dành cho tướng quân đại nhân bắn rồi.

Con hươu bào ngốc nghếch đáng thương đó bị những mũi tên chuẩn xác của đám thân binh dọa sợ hãi chạy loạn cả lên. Hai người Tất đô ty đứng đầu võ tướng và Trương huyện lệnh đứng đầu văn quan lúc này đều đã cầm cung, rút tên, nhưng lại không ai động thủ. Hai tên cứ ở đó khiêm tốn nhường nhau, toàn nói mấy câu khách sáo kiểu nhà quan như "mời đại nhân bắn trước mở màn, để bọn tôi được kiến thức một phen"…

Mã Liên Nhi thấy bọn họ đi săn mà cũng giả tạo khách sáo như vậy, hoàn toàn không có cái lạc thú của việc dạo tiết thanh minh hay săn bắn, bèn thầm hừ một tiếng, khinh bỉ quay ngoắt đầu đi. Thị vệ tùy thân của Tất đô ty là Trịnh Đại Bằng thúc ngựa chạy lên phía trước thưa với Tất Xuân và Trương huyện lệnh:

- Các vị đại nhân, hôm nay Mã tiểu thư là phụ nữ duy nhất trong nhóm chúng ta, theo ty chức thấy, mũi tên mở màn này chi bằng mời Mã tiểu thư ra tay. Mã tiểu thư vận quân trang, chắc hẳn thuật cưỡi ngựa bắn cung cũng bất phàm.

Trương đại nhân được mệnh danh có thể giương được cung ba thạch, nội trong trăm bộ bách phát bách trúng, đối mặt với con hươu bào béo ú cách có mấy chục bộ đó thật sự cũng hơi lo, lo là mũi tên mở màn ấy nếu thật có trúng thì cũng sẽ phải nghe toàn những lời hoan hô ngược mà thôi. Cho nên khi nghe thấy lời của Trịnh Đại Bằng, hắn như được đại xá, lập tức vỗ tay cười nói ngay:

- Hay lắm, hay lắm, bậc anh thư không thua gì trang nam tử mà. Vậy mời Mã tiểu thư bắn mũi tên mở màn này, chúng ta xin rửa mắt mà trông.

Được gãi đúng chỗ ngứa, cặp mắt tam giác của Tất đô ty cũng trở nên hoà nhã hơn hẳn. Cuối cùng hắn cũng có cơ hội đường hoàng quay sang nói chuyện với Mã Liên Nhi mà không sợ kẻ khác dị nghị chê cười. Hắn lập tức nghiêng người sang phía Mã Liên Nhi, cười nói:

- Mã tiểu thư, vậy mời cô thi triển thân thủ được không?

Hắn vừa nói xong, mọi người lập tức dạt ra hai bên, nhường đường cho Mã Liên Nhi.

Thật ra, do câu nói vô tình mời Mã Liên Nhi bắn phát tên đầu của Trịnh Đại Bằng mà lúc đó Tất đô ty mới nảy ra ý nghĩ lấy lòng nàng. Nhưng Mã Liên Nhi lại không biết nội tình, nàng cho là gã Tất đô ty thông đồng cùng thân binh sắp đặt từ trước, nên trong lòng càng thêm chán ghét gã.

Nàng nheo đôi mắt lại thành hai đường cong vút, sau đó mỉm cười đáp:

- Tất tướng quân thân kinh bách chiến, sát khí bức nhân, Trương đại nhân thiện xạ như thần, trăm phát trăm trúng. Tiểu nữ lưng đeo cung chẳng qua cũng chỉ là hư trương thanh thế, nào dám múa rìu trước mặt hai vị đại nhân? Tiểu nữ còn mong được kiến thức sự thần dũng của hai vị đại nhân một chút nữa cơ.

Giọng nói nàng vô cùng mềm mại và ngọt ngào. Thật ra chẳng qua nàng chỉ cố ý nói bằng giọng trong trẻo hơn một chút, nhưng âm thanh như vậy phát ra từ miệng mỹ nhân, kẻ khác sẽ có cảm giác nũng nịu lả lơi, quyến rũ khôn tả.

Mã Ngang vừa nghe liền biết không ổn. Hắn là người biết rõ tính khí của em gái mình nhất, hiểu rằng một khi cô em dùng giọng điệu như vậy để nói chuyện, chính là lúc nàng sắp hết kiên nhẫn, muốn nổi nóng rồi. Hắn vừa định chạy lên dàn xếp, không ngờ Giang Bân vừa nghe âm thanh hớp hồn của Mã Liên Nhi, xương cốt liền nhũn ra, thiếu chút nữa đã ngã cắm đầu xuống đất.

Lúc ấy mọi người đều đang nghe Mã Liên Nhi nói, mà gã lại ở gần Mã Liên Nhi nhất, cho nên tức thời toàn bộ ánh mắt đều tập trung trên người gã. Tuy da mặt không phải là mỏng, nhưng Giang Bân cũng hơi xấu hổ ngượng ngùng. May là gã rất nhanh trí, vội vàng cười nói:

- Ài, câu bậc anh thư không thua gì trang nam tử của Trương đại nhân làm ty chức lại nhớ đến phu nhân của Dương dịch thừa.

Trên chiến trường nào đã từng cho phép đàn bà ra trận, nhưng ngày đó giặc Thát công thành, Dương phu nhân nữ cải nam trang, đã ở trên thành hiệp trợ quân ta anh dũng giết giặc, đó chẳng phải là Hoa Mộc Lan, bậc anh thư không thua gì trang nam tử hay sao? Dương phu nhân đã từng một tên bắn chết gã Thát Tử khiêu chiến dưới thành. Lúc ty chức đi thu dọn xác chết, thấy gã đó bị mũi tên cắm vào từ sau gáy, rồi xuyên hẳn ra ngoài ngay dưới cổ họng ba tấc, một tên trí mạng. Tiễn pháp ấy thật không tầm thường, ha ha ha, thật không tầm thường.

Tất đô ty nghe xong bèn cười ha hả khen:

- Dương dịch thừa trói gà không chặt, không ngờ Dương phu nhân lại giỏi võ nghệ như thế. Mã tiểu thư, cô cũng chớ nên khước từ nữa, chi bằng cô cũng thi triển tài nghệ đi được chăng?

Thật ra thì tiễn thuật của Mã Liên Nhi ra sao hắn cũng chẳng để ý, chẳng qua là muốn dỗ dành cho nàng vui vẻ mà thôi, cho dù nàng có sẩy tay thì hắn cũng có thể cười xoà, nữ nhân mà!

Tuy Mã Liên Nhi mang lòng cảm kích Hàn Ấu Nương, đã xem nàng là tỷ muội thân thiết nhất của mình, song nội tâm con người rất là kỳ lạ, trong tiềm thức nàng lại rất sợ mọi người nghĩ rằng Ấu Nương tài giỏi hơn mình. Địa vị của nàng sau này đã không thể bằng với Ấu Nương, nếu Ấu Nương lại còn xuất sắc hơn nàng ở mọi mặt, trong lòng nàng sẽ càng cảm thấy không an toàn.

Cho nên vừa nghe Giang Bân nói tiễn thuật của Ấu Nương xuất sắc, Mã Liên Nhi liền nổi lòng háo thắng, lập tức thôi không khước từ nữa mà tháo cung tên xuống, tay phải đưa ra sau rút luôn năm mũi tên từ trong ống. Mọi người không khỏi kinh ngạc ồ lên một tiếng, không biết nàng muốn làm gì. Có vài gã quan văn không am tường võ nghệ còn cười thầm, cho là nàng căn bản không biết bắn cung.

Mã Liên Nhi giật cương thúc ngựa phóng lên mấy bước, đoạn thả cương xuống, tay trái cầm cung, tay phải cầm ngược bốn mũi tên ở phần lông đuôi, chỉ đặt một mũi lên dây cung. Sau đó nàng hít sâu một hơi, kéo căng cây cung như trăng rằm rồi buông dây, một mũi tên lao vụt đi.

Mọi người còn chưa kịp quay đầu xem mũi tên đó đã trúng hay chưa, Mã Liên Nhi đã như làm xiếc, tay phải phất khẽ, lại một mũi tên nữa được đặt lên dây, thủ pháp nhanh nhẹn vô cùng. Chỉ nghe tiếng dây cung "tạch, tạch " liên tiếp mấy tiếng, năm mũi tên lướt đi cực nhanh, tên này nối tiếp tên kia bay đi vun vút. Tên bắn ra liên tục liền trong một hơi, khiến mắt người không theo kịp.

Bắn năm mũi tên xong, Mã Liên Nhi lật tay khoác chéo chiếc cung lên vai như cũ, rồi nàng quay đầu ngựa lại, khẽ mỉm cười nói:

- Tiểu nữ đã sẩy tay rồi.

Mọi người đang há hốc mồm kinh ngạc, nghe thấy vậy bèn ngẩng đầu nhìn ra phía xa, chỉ thấy năm mũi tên tạo thành hình ngũ giác nhốt con hươu bào đang run lẩy bẩy vì sợ kia vào giữa. Khoảng cách giữa các mũi tên gần như toàn bộ giống hệt nhau, như thể đã được đo đạc đàng hoàng.

Sau một lúc lâu, một tay tướng lĩnh dưới trướng Tất đô ty kinh ngạc thốt lên:

- Liên châu tiễn pháp! Đồn rằng thần tiễn Triết Biệt (1) của giặc Thát nhanh nhất cũng chỉ có thể bắn một lần chín tên, Mã tiểu thư không ngờ lại bắn được năm mũi liền lúc, thật là lợi hại, thật là lợi hại!

Mọi người nghe xong, bất luận là hiểu hay không hiểu đều ca tụng không ngớt. Tất đô ty vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, càng không tiếc lời ngợi khen. Đôi mắt to tròn đen láy của Mã Liên Nhi thoáng liếc về phía Giang Bân như để thị uy, trên mặt mang theo mấy phần đắc ý.

Đúng vào lúc này, đằng xa có một người cưỡi ngựa phóng vội đến. Mọi người đều quay đầu nhìn, chỉ thấy kẻ đó càng lúc càng gần. Khi kẻ đó chạy đến gần mọi người mới thấy rõ trên người hắn vận áo số (Áo được đánh số, dùng cho các binh sỹ và nha dịch thời xưa – ND.) của dịch trạm, cưỡi một thớt dịch mã. Khi đến trước mặt mọi người hắn ghìm cương lại, vẻ mặt nôn nóng nhìn khắp đám người như đang tìm kiếm ai đó.

Vừa thấy y Mã Liên Nhi liền nhận ra đó là đại ca Hàn Uy của Ấu Nương, bèn vội vàng thúc ngựa chạy lên mấy bước hỏi:

- Hàn đại ca! Sao huynh lại đến đây?

Hàn Uy mặt đầy mồ hôi, cũng không biết là vì đang nôn nóng hay vì mệt, y vừa đưa ống tay áo lên quệt mồ hồ trên mặt vừa nói:

- Mã tiểu thư, tôi tìm cô đến khổ. Kinh thành đột nhiên cử một vị công công đến, ông ta phụng thánh chỉ của hoàng đế đến truyền lệnh Dương Lăng lập tức vào kinh. Em gái và em rể kêu ta báo với cô một tiếng, nhưng ta không biết các người đang săn bắn ở chỗ nào. Vừa rồi ta đã phải chạy khắp các nơi xung quanh một lượt đấy...

Y còn chưa nói xong, Mã Liên Nhi đã cả kinh la lên một tiếng, hai chân thúc vào bụng ngựa, không hề quay đầu mà giục ngựa phi thẳng về trạm Kê Minh. Các quan viên ngơ ngác nhìn nhau, bọn quan viên ở nha huyện còn to nhỏ thì thầm, sắc mặt kỳ dị. Mã Liên Nhi vừa nghe nói Dương Lăng đã đi rồi, lập tức tỏ ra vô cùng nôn nóng, thậm chí còn không thèm gởi lại một câu chào cho phải phép. Nàng và Dương Lăng một là không thân không thích, hai là chẳng phải bạn bè, nếu nói hai người bọn họ không có tư tình, ai mà tin chứ?

Tất đô ty mặt mày xám xịt, cặp mắt tam giác đỏ ngầu, cả người hơi run rẩy. Mã Ngang phi ngựa đến bên cạnh hắn, run rẩy gọi nhỏ:

- Tất... Tất đại nhân...

Tất đô ty cười gằn một tiếng, xoay người giương cung lắp tên. Sau tiếng kêu rền rĩ của dây cung, mũi tên sắc bén “chíu” một tiếng bay đi, bắn xuyên qua thân con hươu đang bị vây trong năm mũi tên không dám động đậy, khiến nó gục xuống đất.

(1) Triết Biệt hay còn gọi là Giả Biệt (không rõ năm sinh - mất 1225) là một trong những viên đại tướng của Thành Cát Tư Hãn. Ông nổi tiếng với tài bắn tên bách phát bách trúng. Người ta cho rằng Triết Biệt không phải là tên thật của ông mà là do Thành Cát Tư Hãn đặt cho (trong tiếng Mông Cổ, Triết Biệt có nghĩa là thần tiễn)

Khi Thành Cát Tư Hãn đem quân tấn công bộ lạc Tần Diệc Xích Ngột, Triết Biệt hăng hái chống cự. Trong lúc chiến đấu ông đã bắn bị thương Thành Cát Tư Hãn nhưng do quân địch quá đông, bộ lạc của ông thua. Triết Biết bị bắt, đầu hàng Thành Cát Tư Hãn và trở thành viên tướng dưới quyền.

Sau này Triết Biệt đi theo Thành Cát Tư Hãn chinh chiến, lập được rất nhiều công lao. Triết Biệt đã từng cầm quân tấn công Trung Quốc, Trung Á và Đông Âu. Ông chưa bao giờ tỏ ra cậy công, luôn tỏ ra trung thành với Thành Cát Tư Hãn. Triết Biệt mất trên đường đánh Kievan Rus, một quốc gia có thủ đô là Kiev, lãnh thổ ngày nay trải dài trên Belarus, Ukraina và Liên Bang Nga. (theo wikipedia)

Chương 52 - Lớ ngớ lên kinh

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Vo vong

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

"Sợi tóc, sợi tình, ba mũi tên, ba năm chờ đợi. Nha đầu này sẽ không cố chấp như Ấu Nương đó chứ?"

---------------------------------

Mặt trời chói lọi đã lên cao, người đi đường bắt đầu đông dần, cổng thành bắc bỗng nhiên xuất hiện một đội ngũ kỳ dị: mười sáu gã cấm quân Đại Minh vận quân trang, đao dắt bên hông, đang hộ tống một chiếc xe ngựa được sơn sáng bóng chạy vào thành.

Tuấn mã cao lớn tuyền một màu trắng, yên ngựa hoa lệ, khôi giáp những gã võ sĩ trên ngựa mặc tinh mỹ hơn trang phục của quân biên phòng gấp không biết bao nhiêu lần. Sau khi vào thành, xe ngựa không hề dừng lại, đội nghi trượng (1) tiến thẳng về phía sở Dịch thừa.

Trong sở dịch, Dương Lăng đang uống trà tán gẫu cùng Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh, nghĩ mọi cách hòng moi thêm tin tức về kinh thành và cẩm y vệ từ miệng bọn họ. Lúc này một gã dịch tốt vội vội vàng vàng chạy vào bẩm báo:

- Đại nhân, có quan viên đi qua đây đến đưa thư trú giá (thư yêu cầu được ngụ lại tại sở dịch đương địa – ND.), đội xe đã sắp đến nơi rồi.

Nghe xong, Dương Lăng cảm thấy rất đỗi kỳ lạ. Tuy rằng sở dịch chịu trách nhiệm tiếp đãi các quan viên qua lại, nhưng cách trạm Kê Minh này không xa chính là địa bàn của người Thát Đát, cho nên chưa từng có quan lớn ghé qua. Nếu như có quan viên đến đưa thư trú giá, vậy quy mô đội xe nhất định không nhỏ, là ai đến đây nhỉ?

Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh vội vã theo y ra ngoài đón khách. Trên con đường truyền tin trước mặt một chiếc xe ngựa đang chầm chậm đi tới, ở hai bên chiếc xe, mỗi bên có tám thớt tuấn mã được cưỡi bởi những kỵ sĩ đầu đội mũ thân mặc giáp, thập phần uy vũ.

Vừa thấy lá hoàng kỳ cắm trên xe ngựa, Liễu Bưu mau chóng tiến lên một bước, ghé vào tai Dương Lăng nói nhỏ:

- Đại nhân, đây là người ở kinh sư đến đó.

Dương Lăng khẽ gật đầu, đứng trang nghiêm trước cửa. Chiếc xe ngựa tiến đến trước mặt y rồi dừng lại, rèm cửa vén lên, từ trong một người khom lưng bước ra. Trông lão tuổi độ hơn năm mươi, khuôn mặt gầy gò, mặc trang phục thái giám trong cung.

Dương Lăng thất thanh kêu lên:

- Lưu công công?

Người đó đúng là giám quân Lưu công công. Lão bước xuống xe ngựa, toét miệng cười với Dương Lăng:

- Dương dịch thừa, ta và cậu thật có duyên đó! Mới hơn một tháng mà chúng ta đã lại gặp nhau rồi.

Dương Lăng mời Lưu công công vào trong đại sảnh, lòng vẫn chưa rõ mục đích đến đây của lão ta. Việc y được thăng chức làm một gã đồng tri ngũ phẩm trong cẩm y vệ đâu cần đến thái giám trong cung xuất hiện? Thông thường thái giám chỉ xuất cung khi phụng chỉ giám sát quân đội, thu thuế, hoặc mua sắm vật dụng cho hoàng cung; rất hiếm khi triệu kiến một gã quan viên dưới tam phẩm mà cần thái giám mang thánh chỉ đến tuyên chiếu.

Mười sáu tay võ sĩ bước vào đại sảnh đứng sang hai bên, tay dằn cán đao bên hông, mắt nhìn thẳng. Lưu công công đi đến chính giữa đại sảnh rồi quay người lại, đằng hắng một tiếng, cất cao giọng:

- Dịch thừa huyện Kê Minh Dương Lăng tiếp chỉ!

Dương Lăng vẻ mặt lơ ngơ luống cuống, không biết phải làm sao. Nghe nói hoàng đế hạ thánh chỉ cho mình, y vô cùng ngạc nhiên; còn về phần tiếp chỉ, có phải làm giống như trong phim hay không, y cũng không rõ lắm. May mà Lưu công công cũng đã thấy nhiều người như vậy, thánh chỉ không phải là tờ rơi, có bao nhiêu quan viên thật sự được tiếp thánh chỉ chứ? Thậm chí ngay cả đại thần làm quan trong triều, có không ít người trong lần đầu tiếp thánh chỉ cũng đã gây ra những chuyện nực cười. Lão khẽ mỉm cười, hai tay cầm thánh chỉ, nhẹ giọng bảo:

- Dương dịch thừa, quỳ xuống nghe tuyên chỉ là được!

Dương Lăng đưa mắt ánh mắt cảm kích nhìn lão rồi vội vàng quỳ hai gối xuống, nói:

- Thần Dương Lăng xin nghe.

Lần đầu quỳ trước kẻ khác, trong lòng Dương Lăng vẫn hơi có chút không thoải mái, chỉ đành coi như là nhập gia tuỳ tục vậy, dù sao y cũng không có gan kháng cự.

Lưu công công từ từ mở thánh chỉ ra, rồi cất cao giọng:

- Phụng thiên thừa vận, hoàng đế chiếu viết: Trẫm nghe: Tam Đại (*) sở dĩ được thiên hạ, ấy là bởi tại lòng dân. Thế nên, dân chính là gốc rễ của quốc gia. Bậc Tiên hiền có nói: khi mà đại đạo được thực thi, thiên hạ sẽ thuộc về mọi người.

((*): tên chung chỉ ba triều đại cổ ở Trung Quốc - nhà Hạ do Vũ sáng lập, nhà Thương do Thành Thang dựng lên, và nhà Chu do Chu Văn Vương khởi thủy.)

Lưu công công đọc du dương trầm bổng, đầu gật gù lắc lư. Dương Lăng nghe Lưu công công đọc mấy thứ cổ văn đó, mặc dù hiểu được ý nghĩa bên trong, nhưng cũng nghe đến trầy trật. Mãi một hồi lâu sau y mới thấy Lưu công công đi vào chủ đề chính:

- Vì lẽ đó, dân chính là chủ của quốc gia, Thiên tử nhờ dân mà có thiên hạ. Đấng quân vương phải coi trọng chữ tín, giữ lấy thuận hoà, tuyển chọn hiền lương. Đương kim thái tử thông tuệ hiếu học, nghe có tú tài Tuyên phủ là Dương Lăng, có tài kiêm đức, rất tốt. Nay trẫm tuyên Dương Lăng vào kinh, nhậm chức thái tử thị độc (Chức quan chuyên hầu hạ thái tử đọc sách – ND.), sau khi nhận chiếu lập tức tiến kinh, không được chậm trễ. Khâm thử. Tháng hai năm Hoằng Trị thứ mười tám.

Dương Lăng nghe mà ù ù cạc cạc. Thái tử thị độc? Không phải là cẩm y vệ đồng tri sao? Trong lòng y chợt nhớ đến lời Mã Liên Nhi đã nói đêm hôm ấy: “Thăng cấp trong quân đội nào phải trò đùa. Có câu nói 'quan lộ hiểm ác' huynh có biết không? Để muội suy nghĩ một chút, ừm... với 'công lao' mà huynh lập được, tuyệt không có lý nào thăng liền ba cấp, thẳng đến trung ương của Cẩm y vệ. Trong kinh lại càng không thể có ai tốt bụng mà vô duyên vô cớ thăng chức cho huynh như vậy. Chúng ta phải suy nghĩ thật kỹ xem sao, không thể để cho kẻ khác hãm hại được...”

Dương Lăng đột nhiên bừng hiểu. Chẳng trách Cẩm y vệ lại vội vàng chạy đến thăng quan cho y, hoá ra là vì nghe nói hoàng đế muốn y làm thái tử thị độc, cho nên đến để thêu hoa trên gấm (ý làm cho chuyện đã tốt đẹp sẵn rồi càng tốt đẹp hơn nữa – ND.). Tuy rằng thái tử thị độc chỉ là quan lục phẩm, nhưng nói trắng ra đó chính là bạn học của thái tử, một khi thái tử đăng cơ, những kẻ thân cận và hiểu rõ thái tử nhất ấy có lẽ nào lại không được trọng dụng?

Chức dịch thừa này của y vốn chỉ là một tiểu lại con con ở vòng ngoài của Cẩm y vệ, hôm nay một bước thăng quan liền đã trở thành nhân viên cộm cán ở trung ương. Ban cho một chức quan để lôi kéo tâm phúc của hoàng đế tương lai về bên phe mình, đương nhiên Cẩm y vệ chẳng thiệt thòi gì rồi.

Thấy y vẫn ngỡ ngàng quỳ tại chỗ, Lưu công công bèn thấp giọng bảo:

- Dương dịch thừa, sao còn chưa lĩnh chỉ tạ ân?

Dương Lăng sực tỉnh, vội vàng hô to:

- Thần lĩnh chỉ tạ ân!

Hai tay y đón lấy thánh chỉ trong tay Lưu công công. Liếc thấy lão không có ý bắt mình thực hiện ba quỳ chín lạy, y bèn đứng lên.

Giao thánh chỉ xong, Lưu công công lập tức thu lại vẻ cao cao tại thượng, ôn hoà nói với Dương Lăng:

- Dương tướng công! Ta là Lưu Cẩn, nô tài bên cạnh thái tử gia, sau này Dương tướng công làm thái tử thị độc, chúng ta còn phải thân thiết với nhau nhiều mới được.

Dương Lăng nghe xong giật mình đánh thót, thất thanh kêu lớn:

- Lưu Cẩn? Ông là Lưu Cẩn sao? (2)

Lưu công công chớp chớp mắt, lấy làm lạ hỏi:

- Sao? Dương tướng công đã từng nghe nói về ta à?

Dương Lăng gật gật, rồi lại lắc lắc đầu, cũng không biết nên nói gì cho phải.

Lưu Cẩn, nguyên mẫu của vị xưởng công (3) trong "Tân Long Môn khách sạn", đại thái giám giết người không chớp mắt trong truyền thuyết, vậy mà lại là lão thái giám tướng mạo tầm thường này ư?

Nhờ phước của tiểu thuyết và ti-vi nên cái đám Uông Trực, Vương Chấn, Lưu Cẩn, Ngụy Trung Hiền gì gì đó Dương Lăng đều rất quen thuộc. Trong đó những đại thái giám này kẻ nào kẻ nấy đều có một thân võ công quỷ dị tuyệt luân, tóc bạc phơ mặt hồng hào, tính cách quái gở. Bây giờ tận mắt nhìn thấy Lưu Cẩn thật sự lại có tướng mạo tầm thường, nhất thời Dương Lăng vẫn nghĩ là trùng họ trùng tên.

Lưu Cẩn vui vẻ nói:

- Ta hầu hạ bên cạnh thái tử gia, hiếm khi rời khỏi kinh thành, người biết được tên ta không có mấy, chẳng ngờ Dương tướng công lại đã nghe qua. Ha ha, quả nhiên là “tú tài không ra khỏi nhà mà vẫn rành chuyện thiên hạ”.

Dương tướng công, giờ cậu đã nhận thánh chỉ, ta thấy chúng ta hãy lập tức khởi hành thôi. Đương kim thái tử đam mê võ thuật, thích nhất là múa gậy đánh thương, hành quân bố trận. Bức thư mà Dương tướng công trình lên cho Hà tham tướng ta đã mang về kinh, thái tử gia xem xong rất thích, muốn dùng phương pháp của cậu để thao luyện Thần Cơ doanh đấy, chớ để thái tử gia sốt ruột.

Lúc này Lưu Cẩn xử lý công vụ khá là cẩn thận và nghiêm túc. Hiện lão đang cai quản Chung cổ ty, là cơ quan có quyền hạn nhỏ nhất trong Nhị thập tứ nha môn (4). Thái tử Chu Hậu Chiếu bướng bỉnh háo võ, tính tình sớm nắng chiều mưa, mà vạn tuế gia lại rất là cưng chiều đứa con bảo bối này, thế nên Lưu Cẩn nào dám chậm trễ.

Dương Lăng chỉ đành gọi Ấu Nương tới, bắt đầu thu thập hành trang. Hai người Liễu, Dương nói với người ngoài rằng mình là người hầu của nhà họ Dương. Mặc dù người của sở dịch bản địa cảm thấy kỳ lạ, song vì Lưu công công không biết gia cảnh nhà họ Dương cho nên lão cũng chẳng để tâm. Chuẩn bị hết thảy xong xuôi mà Mã Liên Nhi vẫn chưa trở về, Dương Lăng bèn nói với Ấu Nương nhờ đại ca nàng ra ngoài thành báo tin, tránh để nàng ấy nghĩ rằng mình đi mà không lời từ biệt.

Lúc này, ba cỗ xe ngựa đã đi vào khúc quanh trên sơn đạo. Đường núi chật hẹp, mười sáu tay vệ sĩ tám trước tám sau hộ tống, phía trước là cỗ xe ngựa sơn son của Lưu công công, hai cỗ xe ở phía sau được phái đi từ sở dịch, trước hai cỗ xe đều dựng thẳng một cây cột cao, trên viết một chữ "dịch". Xe đằng sau chở hành lý, Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh ngồi trên xe đó.

Hàn Ấu Nương lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa sổ. Từ nhỏ nàng chưa từng xa cách người thân, một mình đi đến địa phương xa xôi như vậy. Mấy ngày trước cứ nghĩ đến việc được đi đến kinh thành là nàng lại hào hứng như một đứa trẻ, bây giờ thật sự ra đi, lòng nàng lại cảm thấy trống trải. Chà, cha đã là dịch sứ, bôn ba khắp nơi, lần này ra đi lại không thể gặp người để từ biệt, cũng không biết phải mất bao lâu nữa mới có thể gặp lại người thân nhỉ?

Dương Lăng biết nàng không nỡ rời xa quê nhà, bèn nhẹ giọng an ủi:

- Yên tâm đi, đợi khi chúng ta thu xếp ổn thoả mọi việc xong, ta sẽ nghĩ biện pháp đón nhạc phụ và mọi người vào kinh.

Ấu Nương khẽ ưm một tiếng, nhẹ nhàng dựa trong lòng Dương Lăng, đôi mắt nhấp nháy, cũng không biết là đang nghĩ gì. Dương Lăng nhẹ nhàng vuốt ve lưng nàng, cũng chìm trong muôn vàn suy nghĩ.

“Thái tử thị độc, cái chức này nó như thế nào nhỉ? Mình không hề được lưu lại ký ức của vị tú tài Tuyên phủ Dương Lăng đó, mấy cái thứ như là tứ thư ngũ kinh hay văn chương bát cổ, có thể nói là mình mù tịt chẳng biết gì. Mong rằng cái chức thị độc đó tên đúng như thật (Thị độc nghĩa là hầu đọc sách – ND.), chỉ cần cùng thái tử đọc sách là được rồi.”

Lịch sử mà y còn nhớ được thật sự là quá ít. Ngoại trừ Chu Hồng Vũ, Thành Tổ và vị vua cuối cùng là Sùng Trinh, những hoàng đế triều Minh khác y thật sự biết rất ít. Lúc này đây chẳng hiểu sao y lại bị đẩy lên trung tâm vũ đài của lịch sử, bên cạnh toàn là những nhân vật quyền cao chức trọng của cái thời đại này, liệu y có thể ứng phó được không đây?

Trước giờ Dương Lăng cũng chẳng có ước muốn gì cao sang, chỉ mong vợ con đầm ấm bên giường, sống khoái lạc qua hai năm là được, thế mà giờ đây phải đi làm chuyện con chó đi cày. Thường có câu làm bạn với vua như chơi với hổ, vì an toàn của bản thân, y không thể không nghiêm túc nghĩ ngợi, chủ động nhận thức và tìm hiểu về thời đại này.

Dương Lăng sắp xếp các chuỗi suy nghĩ lại một chút, những tư liệu có liên quan đến thời đại này chầm chậm hiện lên trong đầu y.

Bây giờ là năm Hoằng Trị thứ mười tám, hoàng đế là Hoằng Trị, họ Chu. Còn về tên của ông ta, vì học thức có hạn nên từ niên hiệu kia y không thể liên tưởng ra nổi, thế nên không rõ tên; cuộc đời của ông ta y cũng mù tịt nốt. Thái tử là Chu Hậu Chiếu, phong lưu, háo sắc, ngu đần, diện mạo rất tuấn tú, sự tích có liên quan: du long hí phượng (6), nhớ mang máng hình như y chết rất sớm. Lưu Cẩn là đại gian thần, thời gian phất: không rõ, chết ra làm sao: không rõ, nhưng tóm lại là chẳng được chết tử tế.

“Ăn hại! Hoàn toàn là đồ ăn hại!” Dương Lăng chỉ có thể xấu hổ tự đánh giá bản thân như vậy. Chỉ dựa vào chút tư liệu ít ỏi này mà có thể thấu rõ tiên cơ, tìm lành lánh dữ, nắm bắt lịch sử được sao? Chán nản một hồi, Dương Lăng bỗng phấn chấn trở lại, ngồi thẳng lưng lên: “Để ý nhiều vậy làm gì? Hoàng đế Chính Đức cái gì chứ, gian thần Lưu Cẩn cái gì chứ?! Mạng mình ngắn ngủi chỉ như cỏ cây, mấy thứ đó không đến lượt mình bận tâm. Mục đích của mình chỉ là đi kinh sư, làm quan lớn, lăn lộn ở Bắc Kinh!”

Điếc không sợ súng, Dương Lăng chuẩn bị nhắm mắt xông bừa lên kinh sư, trong lòng bắt đầu lạc quan một cách mù quáng.

***

Như một cơn lốc, Mã Liên Nhi quất ngựa phi đến sở dịch thừa, sau chớp mắt lại phóng ngựa chạy thẳng đến thành bắc. Tiếng những chiếc vó ngựa to bằng cái bát gõ xuống nền đá vang lên dồn dập như mưa rơi. Khoái mã phi ra khỏi thành, trong đồng cỏ bát ngát đã không thấy bóng dáng cỗ xe đâu. Mã Liên Nhi cầm cương nấn ná dưới cổng thành trong chốc lát, sau đó không dùng con đường cái quan vòng qua sườn núi mà nàng phi ngựa theo đường tắt, thẳng qua giữa những thửa ruộng chưa được canh tác, phóng về phía trước.

Chiếc áo choàng lụa màu xanh sẫm tung bay phần phật trong gió. Con tim nàng đập thình thịch. Dương đại ca thật nhẫn tâm, ngay cả thời gian gặp mặt mình một lần cũng không có sao? Tại sao lại đi vội vã đến vậy chứ? Cách biệt lần này, phải đến ba năm sau mới có thể gặp lại mà.

Ngựa phi như bay, dưới kỹ thuật cưỡi ngựa cao siêu của nàng, bốn vó của con ngựa tía lao vút đi như mũi tên vừa rời dây cung. Chạy đến cuối khu ruộng là một con sông nhỏ, con ngựa tía phóng thẳng qua, những giọt nước bắn lên tung toé đầy trời như ngọc vỡ. Xa xa, nàng nhìn thấy vài cỗ xe ngựa đang đi dọc theo con đường trên núi. Mã Liên Nhi vui mừng khôn xiết, nàng quay đầu ngựa, chạy dọc theo dòng sông nhỏ dưới chân núi, không ngừng đuổi theo những cỗ xe ngựa trên sườn núi.

Thế núi biến ảo, trước mắt là một khe núi hình bán nguyệt, đoàn xe ngựa rẽ vào được một nửa. Chếch ở phía bên này là vách núi giáp với vực sâu. Bọn giáp sĩ đi trên sườn núi và Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh ngồi trên càng xe đang cảm thấy hết sức nhàm chán, bỗng thấy bóng một con ngựa tía đang đuổi nhanh dưới chân núi. Liễu Bưu bèn đứng dậy nhìn xuống rồi la lớn:

- Dưới chân núi có một vị tiểu thư đang đuổi theo chúng ta!

Dương Lăng và Ấu Nương nghe thế vội vàng nhô người ra ngoài thùng xe, nhìn thấy dưới chân núi một áng mây xanh cưỡi một thớt ngựa tía đang từ từ phi đến. Hàn Ấu Nương thất thanh la to:

- Là Liên Nhi tỷ tỷ! Tướng công, Liên Nhi tỷ tỷ đến rồi.

Dương Lăng vội vàng kêu xa phu dừng xe, rồi đứng trên càng xe nhìn xuống chân núi. Mã Liên Nhi cũng dừng ngựa, một người một ngựa đứng lặng im nơi đó. Ở giữa là một vách núi không thể trèo lên được, hai người chỉ có thể đứng nhìn nhau từ xa.

Mã Liên Nhi ngẩn ngơ ngóng nhìn một hồi lâu. Thấy Dương Lăng vẫy tay với mình, sau đó ra hiệu cho xe ngựa tiếp tục khởi hành, nhưng vẫn đứng ở trước xe nhìn mình, lòng Mã Liên Nhi chợt kích động. Nàng rút thanh loan đao nhỏ bên hông ra, cắt một lọn tóc rồi vội vàng buộc vào một mũi tên.

Xe ngựa từ từ di chuyển, chỉ cần rẽ khỏi con đường trên hẻm núi này thì sẽ biến mất khỏi tầm mắt của nàng. Mã Liên Nhi bất chợt giật cương, hai chân thúc vào bụng ngựa. Ngựa hí vang một tràng, vang vọng khắp vùng núi.

Dương Lăng và đám võ sĩ đều hướng mắt nhìn xuống chân núi. Con ngựa tía đứng thẳng lên bằng hai chân, rồi sau khoảnh khắc, bốn vó nó cùng lúc tung lên, phi cực nhanh về phía trước, ước chừng chỉ ba mươi trượng ở đằng trước chính là vách núi dựng đứng.

Ngựa phi nhanh như tên bắn, trong nháy mắt đã chỉ còn cách vách núi hai mươi trượng. Nếu cứ phi thẳng về phía trước với tốc độ như vậy, e rằng cả người lẫn ngựa đều sẽ va vào vách đá. Những người ở trên núi đều không khỏi kinh hãi la lên một tiếng. Chợt thấy khoái mã của Mã Liên Nhi bỗng nhiên quay ngoắt một góc gần chín mươi độ, nàng buông cương, lấy cung, xoay người, rút tên. Động tác của nàng liền mạch, gọn gàng đẹp mắt, khiến người ta nhìn thấy rồi không khỏi phải lắc đầu tán thưởng.

Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh và mấy gã giáp sĩ hộ vệ đã không thể nhịn được mà lớn tiếng reo hò ca ngợi. Trong nhà của các vị đại thần hiển quý trên kinh thành ít nhiều đều nuôi dưỡng vài gã Thát quan, đó là những dũng sĩ Mông Cổ được chiêu mộ về. Bọn họ từng chứng kiến những người này biễu diễn thứ công phu cưỡi ngựa bắn tên mà thiết kỵ nhà Nguyên năm xưa đã dùng để tung hoành thiên hạ.

Thuật cưỡi ngựa bắn tên của người Mông Cổ đứng đầu trong thiên hạ. Công phu cưỡi ngựa rút tên của Mã Liên Nhi giống hệt như những dũng sĩ vừa giỏi cưỡi ngựa vừa giỏi bắn tên trong đám Thát quan này, và vì được phô diễn bởi một thiếu nữ nên nó càng toát lên vẻ đẹp không nói nên lời.

Ngay trong khoảnh khắc cỗ xe ngựa của Dương Lăng sắp rẽ qua vách phía trước, rời khỏi tầm mắt của Mã Liên Nhi, thì nghe "tóc, tóc, tóc", ba mũi tên bay tới cắm ngay ngắn trên cột cờ cách Dương Lăng chỉ một sải tay, đuôi tên vẫn còn run lên bần bật. Xa phu đang an vị ở dưới cột cờ sợ run cầm cập, suýt nữa ngã lộn cổ xuống xe.

Xe ngựa chầm chậm di chuyển, trước vách núi là một bụi cỏ xanh, đã không thể nhìn thấy Liên Nhi ở dưới chân núi nữa. Ba mũi tên nhọn cắm ngay ngắn trên cột cờ tạo thành hình chữ nhất (Chữ nhất: 一 ), trên đuôi tên ở chính giữa buộc một lọn tóc đen, vẫn đang chầm chậm phất phơ trong gió.

Hàn Ấu Nương khẽ vuốt lọn tóc đen nhánh, giọng đau xót:

- Tướng công! Liên Nhi tỷ tỷ cắt tóc để tỏ rõ tâm ý đó.

Dương Lăng vuốt nhẹ mũi nàng, rồi quay đầu nhìn ba mũi tên nhọn và lọn tóc đen đang ghim chặt trên cột cờ, y không khỏi gượng cười, lòng thầm suy nghĩ: "Sợi tóc, sợi tình, ba mũi tên, ba năm chờ đợi. Nha đầu này sẽ không cố chấp như Ấu Nương đó chứ?"

(1) Vũ khí, quạt kiệu, cờ xí... mà đội hộ vệ mang theo khi vua, quan tuần hành.

(2) Lưu Cẩn: hoạn quan "nổi tiếng" dưới triều vua Minh Vũ Tông. Do hầu hạ Vũ Tông từ lúc còn chưa lên ngôi nên Lưu Cẩn rất được nhà vua quý chuộng, phong làm Tư lễ giám, chuyên phê duyệt sớ của các quan tấu trình. Với chức quan đó, Lưu Cẩn giả mệnh hoàng đế tự ý định đoạt mọi công việc trong nước. Dân gian khi đó gọi Lưu Cẩn là “Hoàng đế đứng”, ám chỉ quyền lực của y, để phân biệt với “Hoàng đế ngồi” là Vũ Tông. Lưu Cẩn nắm quyền trong hơn năm năm thì bị một số quan lại phối hợp lật đổ.

(3) Thủ lĩnh của Đông xưởng

(4) Nhị thập tứ nha môn là thể chế hoạn quan thời Minh, là cơ cấu hầu hạ hoàng đế và dòng dõi gia tộc của hoạn quan. Bên trong thiết lập mười hai giám, bốn ty, tám cục, gọi chung là Nhị thập tứ nha môn.

(5) Điển tích: năm Chính Đức, khi trị quốc, vì để nắm rõ tình hình đất nước, hoàng đế Vũ Tông Chu Hậu Chiếu hay thích vi hành trong dân gian. Hoàng đế Chính Đức cải trang đi chơi đến Mai Long trấn, ngủ lại tại quán trọ Lý Long. Lý Long ở bên ngoài gác đêm, phân phó cho Phượng Thư trông nom quán trọ. Chu Hậu Chiếu bị vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn của Phượng Thư khuynh đảo, cố ý gọi rượu và đồ ăn để chọc ghẹo. Lúc đầu Phượng Thư chỉ đối đãi sơ sài, mà Chu Hậu Chiếu thần hồn càng lúc càng thêm điên đảo. Cuối cùng Chu Hậu Chiếu lộ ra thân phận chân long thiên tử của bản thân cùng bày tỏ tình cảm khao khát với Phượng Thư, hai người nên duyên. Khi Phượng Thư đòi ban tước, Chu Hậu Chiếu bèn phong thị làm "Hi Sái cung phi" (cung phi nô đùa).

Chương 53 - Cẩm Y đề đốc

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Vo vong

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Trương Tú nghe vậy thì phá ra cười lớn, hết sức vui vẻ vỗ bàn đáp:

- Lọt vào mắt xanh của bệ hạ? Nào chỉ là lọt vào mắt xanh của bệ hạ! Tuy ngươi ở nơi xa xôi hẻo lánh, thế nhưng ngươi có biết bây giờ bộ Binh, bộ Công, nha môn Tam Pháp ty, nha môn Nội Quan, giám sát viện, Ngũ Quân đô đốc phủ, tất cả đều đang quây lại đánh nhau, một nửa quan viên của thành Bắc Kinh bị cuốn vào, tất cả là do Dương đồng tri nhà ngươi mà ra đó!

---------------------------------

- Mã ngoạ tào (Thuật ngữ Cờ Tướng chỉ một nước cờ sát cuộc.)! Ha ha ha, Dương tướng công, cậu lại thua rồi.

Lưu Cẩn vỗ tay cười lớn ra vẻ cực kỳ đắc ý. Dọc đường nhàn rỗi, Lưu Cẩn thường xuyên mời Dương Lăng lên xe lão chơi cờ giết thời gian. Kỳ nghệ của lão không quá cao minh, nhưng khi phát hiện kỳ nghệ của Dương Lăng còn tệ hơn mình, lão lại bỗng trở thành kẻ mê cờ, hằng ngày lấy sự chà đạp Dương Lăng làm niềm vui.

Dương Lăng hừm một tiếng, đáp:

- Ván này không tính. Tôi ăn quân của ông, ông bèn chơi xấu hoãn lại một nước, bằng không chỉ còn một pháo một mã, bất kể thế nào cũng không phải là đối thủ của tôi. Không được, không được, chơi lại!

Lưu Cẩn vội chặn tay y, đắc ý cười nói:

- Phong độ, phải có phong độ chứ Dương tướng công! Hà hà, hôm nay bốn ván ta đã thắng ba rồi.

Vị gian thần lộng quyền tương lai này khi chưa đắc thế lại giống hệt như một người bình thường, không ngừng gật gù đắc chí. Ở chung với lão lâu ngày, Dương Lăng đã vứt bỏ sự kiêng kỵ vốn có, hai người xem nhau như bạn chí thân.

Lưu Cẩn vừa nói vừa vén rèm xe nhìn ra ngoài, đoạn vui vẻ bảo:

- Đến rồi, sắp vào đến thành rồi!

Dương Lăng nghe vậy cũng ló đầu ra ngoài quan sát. Dưới ánh hoàng hôn chập choạng, cổng thành trang nghiêm to lớn ở phía trước đã đập ngay vào mắt.

Dương Lăng vén rèm trước bước ra ngoài, đứng trên càng xe quan sát. Có mười sáu tay thị vệ cấm quân mở đường, quan thủ thành hoàn toàn không dám ngăn trở, đội xe nghênh ngang chạy vào thành. Lưu Cẩn cũng bước ra ngoài đứng cạnh y, hai tay bỏ vào trong ống tay áo, cười tít mắt:

- Dương tướng công, đây chính là kinh sư của Đại Minh chúng ta, cậu thấy thế nào?

Dương Lăng chăm chú quan sát thành Bắc Kinh thời này. Mặc dù trong thành nhà cửa san sát, người đi đường đông đúc náo nhiệt, song ngoại trừ một vài quán rượu lác đác gần xa cùng với phủ đệ của các công thần công tướng, hết thảy nhà cửa dường như đều không cao quá hai trượng. Đưa mắt nhìn ra xa, hiển nhiên quần thể kiến trúc nguy nga lộng lẫy nằm thấp thoáng nơi ánh tà dương ấy chính là hoàng thành.

Lưu Cẩn hỏi:

- Dương tướng công, có cần tìm một khách sạn để trọ trước không? Bây giờ trời đã tối, ngày mai giờ dần ba khắc ta sẽ ở ngoài ngọ môn dẫn Dương tướng công vào kiến giá.

Dương Lăng còn chưa trả lời, Liễu Bưu không biết tự lúc nào đã lặng lẽ đi tới trước mặt y dõng dạc báo:

- Công tử, Dương lão thái gia đã sai người đi gấp tới kinh thành mua một khu nhà ở phố Hộ Quốc Tự để công tử ở rồi. Chúng ta có về thẳng nhà hay không?

Dương Lăng và Lưu Cẩn đều hơi ngẩn người. Vẻ mặt Lưu Cẩn hơi khó coi, lão vốn cho rằng Dương Lăng là một gã dịch thừa nghèo nên lão không nghĩ đến việc vơ vét một ít từ y. Nhưng trông tình hình thế này, nhà họ Dương ở Kê Minh có vẻ còn là một tài chủ địa phương, thế mà Dương Lăng lại không có chút biểu hiện đối với mình, thật là không ra sao cả! Đi báo tin cho người đỗ đạt còn được chút tiền thưởng, mình đi báo tin cho Hoàng thượng, chẳng lẽ lại không đáng tiền hay sao?

Lúc này Liễu Bưu lại tháo một bao vải trên vai xuống, đặt lên xe. Bao vải vừa chạm vào xe liền vang lên những tiếng "lách cách", xem ra đồ vật bên trong cũng không nhẹ. Liễu Bưu mỉm cười nói:

- Lưu công công, đây là chút đặc sản địa phương mà lúc đi lão thái gia đã căn dặn mang theo biếu ngài, mời công công mang về nếm thử cho tươi ạ! Gia đình nông thôn chỉ có chút lễ vật nhỏ, thật không đủ để bày tỏ lòng thành.

Lưu Cẩn nhìn cái bọc nặng trình trịch đó, ước chừng tối thiểu cũng phải hai trăm lạng bạc, liền lộ vẻ hớn hở, quay đầu sang cười nói với Dương Lăng:

- Dương tướng công khách khí quá rồi! Trong cung thứ gì cũng không thiếu, nhưng mà những thổ sản nông thôn này thì… thật sự là không có nhiều. Ha ha ha, tấm lòng này của cậu thật đáng quý!

Biết đây nhất định là do Cẩm Y vệ chuẩn bị sẵn, Dương Lăng vội cười, đở lời:

- Đâu có, đâu có! Chỉ là chút vật mọn không đáng bày lên bàn tiệc, Lưu công công thích là tốt rồi.

Lưu Cẩn cười tươi hơn hớn:

- Thích chứ, thích chứ! Ta rất thích ăn mấy thứ đặc sản địa phương thế này. Nếu như Dương tướng công đã có chỗ ở, vậy ta sẽ trở về đại nội phục mệnh, sáng mai ta chờ đón Dương tướng công ở ngoài ngọ môn.

Ngay sau đó, Lưu Cẩn hí hửng chỉ huy đội xe quay trở về hoàng thành, còn hai chiếc xe ngựa của Dương Lăng thì rẽ vào hướng phố Hộ Quốc Tự. Dương Lăng vừa trở về xe của mình, Ấu Nương đã nghe được loáng thoáng cuộc trò chuyện, bèn thích chí ôm lấy cánh tay y hỏi:

- Tướng công, chúng ta đã có nhà ở kinh sư rồi sao?

Dọc đường đi tiểu cô nương này cũng có tâm trạng riêng, nghĩ hiện giờ phu quân đã là quan ngũ phẩm của Cẩm Y vệ, lại là Thị độc bên cạnh thái tử gia, trong lúc ăn nói lẫn đi đứng mình không thể làm điều vượt quá khuôn phép khiến cho tướng công bị mất thể diện được. Vốn nghe nói các phu nhân hay tiểu thư con nhà danh gia vọng tộc ra khỏi nhà đều ngồi im trong xe, cho nên sau khi vào thành Bắc Kinh, nàng vẫn luôn ngồi im trong xe, thậm chí không dám vén rèm cửa xe. Hiện giờ cỗ xe đang đi trên con phố lớn phồn hoa, vậy mà nàng vẫn không biết thành Bắc Kinh ra như thế nào.

Dương Lăng hôn phớt lên môi nàng rồi đáp:

- Ừm! Hẳn là do Cẩm Y vệ thu xếp.

Kế đó y lại ghé vào tai Ấu Nương bảo:

- Hôm nay vừa mới vào thành, chúng ta không nấu cơm. Tối nay tướng công sẽ đưa nàng đi dạo phố.

Ấu Nương nghe xong lập tức lộ vẻ vui mừng, gật đầu lia lịa:

- Vâng vâng! Ấu Nương còn chưa được nhìn xem thành Bắc Kinh ra làm sao, thật muốn đi mở mang kiến thức một chút. Nếu không có tướng công đi cùng, Ấu Nương không dám ra ngoài đâu!

Dương Lăng bật cười hỏi:

- Ngay cả giặc Thát còn không sợ, thế mà Ấu Nương lại sợ đi dạo trên phố lớn ở kinh sư này à?

Ấu Nương hồn nhiên đáp:

- Tướng công! Chàng không dẫn thiếp đi, người ta là phụ nữ sao dám tự tiện la cà dạo phố chứ, sẽ khiến người ta chê cười đó.

Dương Lăng nói:

- Nàng thật! Nhà chúng ta không có mấy quy củ đó, thích ra ngoài thì cứ ra ngoài, dạo phố hay mua sắm gì cũng được.

Nói rồi Dương Lăng nhìn vẻ xinh xắn của Ấu Nương, trong lòng thầm nghĩ: "Giờ mà là thời hiện đại, để cô bé này mặc áo thun với quần bò, tóc cột lại một túm, nhất định sẽ là một nữ sinh xinh đẹp tươi mát. Mình sẽ cùng nàng đi xem phim, uống cà phê, nếu nàng nhanh mồm nhanh miệng chút thì sẽ đi đến chỗ đám gian thương mà kỳ kèo trả giá, hề hề. Có điều nếu đặt vào thời đó thì mình làm gì tốt phúc có được nàng?!"

Thấy ánh mắt sáng rực của Dương Lăng lom lom nhìn mình, khuôn mặt Ấu Nương càng thêm ửng đỏ. Nàng mắc cỡ cúi đầu bẽn lẽn:

- Tướng công, chúng ta ở phố Hộ Quốc Tự, không biết chùa Hộ Quốc này có cao tăng có thể, có thể…

Nói đến đây mặt nàng lập tức đỏ bừng, không nói tiếp được nữa.

Dương Lăng lập tức chấn động, cả người cũng nóng lên. Đêm trước khi đi, Dương Lăng đã phải kỳ kèo rồi mềm mỏng khẩn cầu mãi cô bé này cuối cùng mới chịu học bài "thổi tiêu dưới trăng" trong tâm trạng vừa thấp thỏm lo sợ vừa xấu hổ. Cái mùi vị tiêu hồn lúc đó, dù có nói ra người ngoài cũng thật khó mà hiểu hết được.

Lần này phải đi đường xa vất vả, chung quanh lại có nhiều người, cho nên y cũng không dám có cử chỉ thân mật với Ấu Nương. Giờ nghe nàng nói vậy, Dương Lăng lập tức ngứa ngáy trong lòng, "bích ngọc phá qua thời, tương vi tình điên đảo. Cảm lang bất tu noản, hồi thân tựu lang bão. (2)" Ấu Nương quả thật là một “tiểu gia bích ngọc” (xem 2) chân chính, thật không biết khi thật sự cùng nàng điên loan đảo phượng, một hồi xuân sắc vô biên đó sẽ nóng bỏng đến như thế nào?

Dương Lăng cười gian manh nói:

- Đúng! đúng! Tối nay chúng ta hãy đi tìm một vị đại hoà thượng để khai quang, sau đó để nàng gặp gỡ ”tiểu hoà thượng” của ta một chút mới được.

Ấu Nương vội nói:

- Không được, như vậy không được đâu tướng công! Chúng ta nhất định phải gặp đại hoà thượng, tiểu hoà thượng thì có mấy năm đạo hạnh chứ? Ấu Nương không dám đem tính mạng của chàng ra đùa đâu!

Khoé miệng Dương Lăng hơi nhếch lên, vẻ mặt cổ quái, y đáp:

- Nhất định phải gặp đại hoà thượng sao? Nhưng mà tiểu hoà thượng này của tướng công nếu chưa được nương tử mến yêu của ta khai quang gia trì (3), trải qua muôn vàn thử thách, làm sao có thể tu thành đại hoà thượng được?

Tuy Ấu Nương ngây thơ thuần khiết, nhưng nàng không hề kém thông minh, thấy lời nói của tướng công có phần kỳ lạ, nàng chớp chớp đôi mắt ngọc nghi hoặc nhìn y. Dương Lăng mỉm cười ôm lấy Ấu Nương, ghé vào tai nàng thì thầm mấy câu. Ấu Nương khẽ kêu lên một tiếng, vừa giận vừa thẹn đấm nhẹ người tướng công mấy cái, rồi đỏ mặt cắn môi lườm y, giận dỗi nói:

- Ngày mai tướng công phải gặp Hoàng đế rồi, cần phải nghỉ ngơi thật tốt! Tối nay Ấu Nương sẽ không gặp bất cứ hoà thượng nào hết.

Dương Lăng cười trêu:

- Như thế sao được? Để ta xem thử bên ngoài có chùa miếu nào hay không, tối nay nhất định phải để nương tử mở cửa đón khách, nghênh tiếp tiểu hoà thượng của ta vào nhà.

Nghe tướng công nói mấy lời đáng xấu hổ đó, Ấu Nương nhũn cả người ra, ngả vào lòng y thở gấp, không dám lên tiếng đáp lời. Dương Lăng vén rèm kiệu lên nhìn ra bên ngoài. Người đi đường tới lui tấp nập, trên đường hàng quán san sát, xem ra con đường này cũng khá phồn hoa.

Hàn Ấu Nương cũng tò mò ló đầu ra ngoài nhìn quanh. Nàng thấy Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh đang cuốc bộ bên cạnh cỗ xe, bên góc đường ở đằng xa có một người đang đứng. Liễu Bưu nhìn về phía kẻ đó làm nhanh vài động tác tay, kẻ đó gật đầu, bỏ tay trái xuống bên người rồi cũng làm rất nhanh vài động tác đáp trả, sau đó xoay người bỏ đi.

Động tác của hai người vừa nhanh lại vừa tự nhiên, nếu không phải Hàn Ấu Nương tinh mắt, tâm tư lại cẩn thận, nhất định sẽ không chú ý tới. Hàn Ấu Nương lấy làm lạ quay đầu gọi:

- Tướng công!

Chợt lúc này Dương Nhất Thanh ở bên ngoài hô lớn:

- Đã đến nhà rồi, mời công tử và phu nhân xuống xe!

Bị tiếng gọi của Dương Nhất Thanh cắt ngang, Hàn Ấu Nương bèn nuốt lời muốn nói vào. Dương Lăng vén rèm xe, thấy trước mặt là một khu nhà xây theo lối tứ hợp viện (4), trước cửa có một khoảnh đất trống, trồng hai hàng hoè Long Trảo, cửa vào khu nhà đang mở, có thể nhìn thấy bên trong ngăn nắp sạch sẽ, xem ra vừa mới được sửa sang không lâu.

Hàn Ấu Nương cũng nhảy xuống xe, lòng đầy vui sướng quan sát ngôi nhà mới của mình. Trong sân, ngoại trừ một giếng nước, chính giữa còn có một vườn hoa, hai bên là chái nhà, ngay phía trước là ba gian nhà ngói xanh. Xem ra chủ cũ của khu nhà này khi trước cũng là một hộ giàu có neo người, không biết Cẩm Y vệ làm thế nào mà mua được?

Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh mang tất cả hành lý vào nhà. Khu nhà này tuy mới mua không lâu, song hết thảy dụng cụ sinh hoạt đều đã đầy đủ, tiết kiệm cho bọn họ không ít thời giờ mua sắm bày biện. Nhác thấy trời hãy còn sớm, Hàn Ấu Nương hăng hái xắn tay thực hiện quyền lợi bà chủ nhà, bố trí lại căn nhà mới của mình, rộn ràng trong niềm hạnh phúc. Chuyện ra phố ăn cơm và đi chùa gặp đại hoà thượng đã bị nàng dẹp sang một bên mất hút.

Dương Nhất Thanh đến bên cạnh Dương Lăng, vẻ mặt bí hiểm bẩm:

- Đại nhân! Đề đốc chỉ huy sứ Trương đại nhân nghe tin đại nhân đã vào kinh, muốn được gặp ngài, chúng ta có đi ngay bây giờ không?

- Ồ!

Dương Lăng lập tức đứng dậy. Thủ lĩnh tối cao của Cẩm Y vệ muốn tiếp kiến y, y làm sao dám chậm trễ? Sau khi nói vội với Ấu Nương một tiếng xong, y lập tức cùng Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh đi ra ngoài.

Dương Lăng đã nghe hai người Liễu Bưu và Nhất Thanh nói qua, nha môn của ty chỉ huy sứ Cẩm Y vệ không hề được đặt trong thành Bắc Kinh mà đặt tại Thiên Tân vệ (5), nhưng ty Bắc Trấn Phủ, bộ phận quan trọng nhất trong Cẩm Y vệ lại được đặt trong kinh thành. Thành thử một năm thì quá nửa thời gian đề đốc chỉ huy sứ Cẩm Y vệ không ở Thiên Tân vệ, mà công tác trong thành Bắc Kinh.

Ty Bắc Trấn Phủ được đặt ở phía bắc thành Đông An, ngay sát cổng chính của Đông xưởng. Cái thành Bắc Kinh to như vậy, ngoại trừ hoàng thành, cũng chỉ có nơi này là yên tĩnh nhất. Vừa rẽ vào con đường đó, trên đường lập tức vắng tanh, không có lấy một bóng người.

Lúc đi ngang qua "Đông Tập Sự xưởng" (tên đầy đủ của Đông Xưởng – ND.), Dương Lăng hiếu kỳ nhìn vào bên trong, không biết đám nha sai, đầu lĩnh, rồi còn cả xưởng công, đốc công trong đó có thân hoài tuyệt kỹ như trong phim hay không. Tiếc là mặt trời sắp lặn, ngoại trừ hai tên nha sai đứng ngoài canh gác ra, không thấy bất kỳ người nào. Đi tiếp về phía trước chính là nha môn của ty Bắc Trấn Phủ, cũng không có gì khác biệt với những nha môn bình thường khác, trước cổng đặt hai con sư tử đá lớn, còn có Đới Đao thị vệ của Cẩm Y vệ đứng canh gác bên ngoài.

Được hai người Liễu, Dương dẫn vào trong nha môn của ty Bắc Trấn Phủ, Dương Lăng bước vào một đại sảnh. Trên bức tường màu trắng trên sảnh vẽ một con mãnh hổ hạ sơn. Mãnh hổ sống động như thật, nhe nanh múa vuốt, như thể chực vồ xuống. Bên trong đại sảnh yên tĩnh uy nghiêm, Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh bước đến cửa thì không dám đi vào tiếp, cho nên tất nhiên phải có quan quân Cẩm Y vệ khác mời y đi vào. Dương Lăng đang đứng trong sảnh, khoanh tay ngắm nhìn con mãnh hổ chợt sau lưng có người cười rộ bảo:

- Dương đồng tri đến rồi sao? Thật không may, Trấn phủ sứ đại nhân đã dẫn người đi Kim Lăng rồi. Hạ quan là Vu Vĩnh, thiên hộ Cẩm Y vệ, ở đây chờ đón Dương đại nhân.

Dương Lăng vội vàng quay người, luôn miệng nói:

- Không dám, không dám, chào đại nhân!

Rồi y tròn xoe mắt nhìn, thoáng ngẩn ra, người đứng trước mặt y đích thực đang mặc một bộ phi ngư phục (6) của Cẩm Y vệ, hông đeo Tú Xuân đao, nhìn trang phục thì đúng thật là một thiên hộ.

Vậy nhưng người này lại tóc vàng, mắt xanh, mũi lõ, da dẻ trắng một cách khác thường, không ngờ lại là người châu Âu. Gã thiên hộ tên Vu Vĩnh ấy thấy Dương Lăng ngẩn người ra thì mỉm cười, kế đó dùng khẩu âm Bắc Kinh nói:

- Hạ quan Vu Vĩnh! Đại nhân vừa mới đến kinh thành, để hôm khác hạ quan sẽ thiết tiệc mời đại nhân. Ha ha ha, sau này cùng làm quan triều đình, rất mong được đại nhân dìu dắt nhiều hơn. À phải rồi, Đề đốc đại nhân chờ ngài đã lâu, mời đi theo hạ quan ra mắt đề đốc đại nhân trước!

Dương Lăng chắp tay cảm tạ rồi đi theo vị Cẩm Y vệ người nước ngoài này vòng qua đại sảnh. Hai bên hành lang đều là những căn phòng nối tiếp nhau, Vu Vĩnh dẫn Dương Lăng đến trước cửa một căn phòng, mở cửa phòng rồi mỉm cười mời:

- Đại nhân, mời vào!

Dương Lăng gật đầu cảm tạ, đoạn sải chân bước vào. Chỉ thấy những cây nến to đặt trên đĩa treo cạnh bốn vách tường soi căn phòng sáng choang, một người đàn ông trung niên mặc y phục nho sĩ đang ngồi đằng sau chiếc bàn dài mỉm cười. Thấy y bước vào, người đó mới đặt quyển sách trong tay xuống.

Biết chắc người này chính là Trương Tú Trương đại nhân, thủ lĩnh tối cao của Cẩm Y vệ, Dương Lăng bèn vội bước tới, quỳ một gối xuống, thực hiện quân lễ:

- Hạ quan Dương Lăng tham kiến đề đốc đại nhân!

Trương Tú nheo mắt đánh giá y một lượt, rồi hài lòng cười nói:

- Tốt, quả nhiên là tuổi trẻ có triển vọng. Dương đồng tri ngồi đi, chớ nên khách khí!

Dương Lăng cũng lén quan sát vị Trương đại nhân này, thấy ông ta tuổi trạc ngũ tuần, vẻ mặt ôn hoà, hào hoa phong nhã, bộ dạng không hề có khí thế của kẻ nắm giữ binh quyền lẫn sinh tử của người khác trong tay.

Ở ngoài cửa, Vu Vĩnh vòng tay nói:

- Đề đốc đại nhân, Dương đại nhân! Hạ quan xin được cáo lui trước!

Nói đoạn hắn quay về phía Dương Lăng mỉm cười thân thiện, kế đó nhẹ nhàng khép cửa phòng.

Thấy vẻ mặt đăm chiêu của y, Trương Tú cười lớn nói:

- Vu Vĩnh là hậu duệ của người Sắc Mục (7), nghe nói quê quán ở xứ sông Ranh (8) gì đó, vốn dĩ còn là quý tộc vùng bản địa. Lúc đại quân triều Nguyên tây chinh đã bắt về hơn vạn nô lệ tóc vàng mắt xanh, trong đó có cả tổ tiên của y. Bây giờ trong kinh sư vẫn còn hơn một ngàn hộ gia đình như y đang cư trú.

Đến lúc này Dương Lăng mới hiểu ra. Tựa hồ rất hài lòng với Dương Lăng, Trương Tú mỉm cười nói:

- Dương đồng tri nhất biểu nhân tài, kiêm thêm học thức xuất chúng, vào Bách Hy Viên nhất định sẽ có thể được trọng dụng. Tốt lắm, tốt lắm!

Dương Lăng kinh ngạc:

- Bách Hy Viên? Đại nhân, đó là nơi nào vậy?

Trương Tú thoáng sững người, rồi phá lên cười nói:

- Ha ha, là bổn quan lỡ lời. Khục khục! Đương kim Thái tử còn nhỏ, ham thích mấy trò mới lạ trong chốn đông cung, ha ha,… Vương công đại thần trong triều thường gọi đông cung là Bách Hy Viên (nơi có nhiều trò vui chơi đùa nghịch – ND.), cho nên bản quan nhất thời cũng thuận miệng.

Dương Lăng toát mồ hôi hột, vội khiêm tốn nói:

- Đại nhân quá khen rồi, hạ quan chỉ là một tên tú tài, có thể làm Thái tử thị độc đã thấy được yêu quá mà sợ rồi, nào dám hy vọng xa vời!

Trương Tú mỉm cười nói:

- Anh hùng chẳng ngại xuất thân hèn, hơn nữa ngươi phải biết rằng Thái phó, Thị giảng của Thái tử hiện giờ đều có xuất thân đại học sỹ, học sỹ, nhưng khi thái tử đọc sách, trước giờ lại chưa từng có một Thị độc. Thế mà hôm nay Thái tử lại thích ngươi, cầu xin bệ hạ triệu ngươi vào kinh, đông cung ưu ái ngươi, bệ hạ lại ưu ái đông cung, tức là bệ hạ đã ưu ái ngươi rồi. Ngày mai yết kiến, bệ hạ sẽ ban cho ngươi xuất thân đồng tiến sỹ, sau này ngươi không thể coi mình là tú tài nữa.

Dương Lăng lắp bắp:

- Đại nhân! Hạ quan ngu muội, vẫn không hiểu vì lẽ gì mà một dịch thừa nho nhỏ ở Kê Minh như hạ quan lại có thể lọt vào mắt xanh của bệ hạ, được lên kinh làm Thị độc vậy?

Trương Tú nghe vậy thì phá ra cười lớn, hết sức vui vẻ vỗ bàn đáp:

- Lọt vào mắt xanh của bệ hạ? Nào chỉ là lọt vào mắt xanh của bệ hạ! Tuy ngươi ở nơi xa xôi hẻo lánh, thế nhưng ngươi có biết bây giờ bộ Binh, bộ Công, nha môn Tam Pháp ty (9), nha môn Nội Quan, giám sát viện, Ngũ Quân đô đốc phủ, tất cả đều đang quây lại đánh nhau, một nửa quan viên của thành Bắc Kinh bị cuốn vào, tất cả là do Dương đồng tri nhà ngươi mà ra đó!

Dương Lăng nghe xong cả kinh, thất thanh:

- Cái gì?

(2) Hai câu thơ trên được trích trong tập thơ Nhạc Phủ (thơ ca trong dân gian và âm nhạc, soạn theo thể cách những khúc nhạc trong nội phủ) "Bích Ngọc Ca".

Bích Ngọc, nhân vật chính trong thành ngữ "tiểu gia bích ngọc" (con gái cưng), là thiếp của Nhữ Nam Vương Tư Mã Nghĩa đời Tấn. Bích Ngọc họ Lưu, nàng không đẹp xuất sắc, nhưng qua sự sủng ái của Nhữ Nam Vương đối với nàng, đoán chừng nàng rất dễ nhìn, rất có ý vị, và còn hát rất hay. Đáp ứng lời thỉnh cầu của Tư Mã Nghĩa, Tôn Xước đã sáng tác hai bài "Bích Ngọc Ca".

Bài thứ nhất:

Bích ngọc tiểu gia nữ, bất cảm phàn quý đức.

Cảm lang thiên kim ý, tàm vô khuynh thành sắc.

Dịch thơ - Tiểu Phong:

Bích Ngọc khuê nữ tiểu gia

Biết lòng chẳng xứng người ta đức tài.

Ngàn vàng một tấm tình ai

Thẹn mình nhan sắc nhạt phai kém người

Bài hai:

Bích ngọc phá qua thời, tương vi tình điên đảo.

Cảm lang bất tu noản, hồi thân tựu lang bão.

Dịch thơ - Tiểu Phong:

Bích Ngọc đôi tám vừa tròn,

Vì tình điên đảo chẳng còn biết chi.

Mến chàng thiếp có ngại gì

Quay người nép dưới thân kia trong lòng.

(3) Phạn ngữ, ý tăng thêm phật lực để bảo hộ và phù trợ cho chúng sinh.

(4) Tứ Hợp Viện là một kiểu kiến trúc điển hình ở Bắc Kinh. Tòa nhà gồm bốn dãy phòng ở các phía đông tây nam bắc, ở giữa là sân trống, cửa vào thường đặt ở phía nam.

(5) Vệ sở là biên chế quân đội thời Minh, chia làm hai cấp: vệ và sở. Một phủ lập thành sở, nhiều phủ lập thành vệ. Vệ lập chỉ huy sứ, thống lĩnh năm nghìn sáu trăm binh sĩ. Dưới vệ có Thiên hộ sở (thống lĩnh một nghìn một trăm hai mươi người), dưới Thiên hộ sở lập Bách hộ sở (lĩnh một trăm mười hai quân). Vệ sở ở mỗi huyện phủ sẽ do đô chỉ huy sứ của các chỉ huy sứ ty quản lý, các đô chỉ huy sứ sẽ lại được quản lý bởi trung ương ngũ quân đô đốc phủ.

(6) Y phục cao quý của quan lại, có thêu hoa văn hình con cá chuồn.

(7) Sắc Mục là tên gọi của một địa vị xã hội dưới thời Nguyên. Trái ngược với sự tin tưởng của số đông, cụm từ Sắc Mục (hiểu nghĩa đen là "mắt màu") không ám chỉ bọn họ có "mắt màu" so với những người Nguyên-Mông mắt đen, mà thật ra, nó có nghĩa là "các sắc danh mục" (各 色 名 目 , nghĩa là "các loại tên gọi, danh mục"), ám chỉ sự đa dạng sắc tộc của người Sắc Mục.

(8) Sông Rhine (hay Rhein) dài 1.320 km, là một trong những con sông lớn và quan trọng nhất châu Âu.

(9) Tam Pháp Ty là sự kết hợp của Bộ Hình (Tư Pháp), Đô Sát viện (viện Giám sát) và Đại Lý tự (tòa Phá án) nhằm thẩm định các vụ án lớn (còn gọi là “Tam ty hội thẩm”). Triều Nguyễn cũng áp dụng cơ cấu tổ chức này để có những hoạt động cụ thể nhằm giải quyết thỏa đáng những điều khiếu nại của nhân dân.

Chương 54 - Duyên nơi cửa phật

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Vo vong

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

- Hôm nay tiểu đệ cùng huynh cũng xem như thoáng gặp gỡ, không biết vì sao kiếp trước huynh đài quay đầu nhìn ta nhiều lần như thế?

---------------------------------

Đề đốc Cẩm Y vệ Trương Tú mỉm cười nói:

- Tiểu vương tử Thát Đát tập kích biên giới nước ta, đại quân hai ngả Trác huyện, Xích huyện đều có chiến tích, chỉ riêng cánh quân ở Hoài Lai là hao binh tổn tướng, khiến cho một vị đô ty tử trận, Giám quân Ngự sử Diệp đại nhân cũng bị loạn quân giẫm chết. Tam Pháp Ty phụng thánh dụ xem xét, cân nhắc định tội Hà tham tướng, không ngờ sau khi bị giải vào kinh, Hà tham tướng lại đem hết thảy tội khinh địch, liều lĩnh tiến quân đổ lên người Giám quân Diệp đại nhân và Lưu công công.

Hà tham tướng là tướng lĩnh do bộ Binh tiến cử, nếu như Hà tham tướng bị trị tội, tự nhiên bọn họ sẽ khó tránh bị chỉ trích không biết dùng người. Cho nên bộ Binh ra sức bảo vệ Hà tham tướng, chỉ trích Giám quân đã không rõ việc dùng binh, lại can thiệp sai bậy. Lúc này đám Ngự sử ở Đốc Sát viện và nha môn Nội Quan đều không khỏi cùng mang lòng thù địch với bộ Binh, từ đó hai phe công kích nhau không ngừng.

Nha môn của ty Nội Quan chẳng qua chỉ toàn là một đám thái giám, vốn không có ý kiến gì về mặt quân sự, nhưng khi hồi kinh, Lưu công công lại mang về một phong thư.

Nói đến đây, Trương Tú quay sang Dương Lăng cười bảo:

- Đó chính là phong thư mà ngươi đã gửi cho Hà tham tướng.

Dương Lăng nói:

- Vâng, hạ quan từng có chút ý kiến nông cạn dâng cho Hà tham tướng, nhưng không biết phong thư đó tại sao lại rơi vào trong tay Lưu công công vậy ạ?

Trương Tú lắc đầu:

- Nội tình trong đó ta cũng không rõ. Lưu công công là người hầu hạ bên cạnh Thái tử, trong cung y có một người bạn tốt tên là Trương Vĩnh (1). Vị công công này cũng biết một chút về quân sự, xem xong phong thư của ngươi thì coi như vật chí bảo, lập tức xúi bẩy ty Nội Quan hạch tội bộ Binh, chỉ trích rằng: “Sức chiến đấu của binh sĩ trong quân không mạnh, năng lực trinh sát kém, bộ Binh không biết cách cầm quân, đó mới chính là nguyên nhân dẫn đến thất bại.”

Ha ha, bộ Binh tuy phụ trách điều binh khiển tướng, thế nhưng thường ngày việc luyện binh và thống lĩnh quân đội thực chất lại do Ngũ Quân đô đốc phủ phụ trách. Thế là như trút được gánh nặng, bộ Binh liền lôi Ngũ Quân đô đốc phủ vốn không hề liên quan vào cuộc. Bốn nha môn bắt đầu đấu đá lòng vòng như đèn kéo quân.

Dương Lăng lắp bắp:

- Chuyện này... Chuyện này... Hạ quan thật không ngờ có thể xảy ra nhiều rắc rối như vậy. Chỉ là ban nãy đại nhân có nói bộ Công cũng xen vào cuộc tranh cãi này, không biết chuyện dùng binh thì có liên can gì tới bộ Công vậy?

Trương Tú đáp:

- Không liên can, thật ra không hề liên can. Có điều trong phong thư của ngươi lại đề cập đến cái hay khi vận dụng hỏa khí cùng với tác dụng quan trọng của nó đối với chiến sự sau này. Bộ Binh có một chủ sự tên là Vương Thủ Nhân (2), y xem xong thư thấy rất tâm đắc. Tính mọt sách nhất thời phát tác, y bèn dâng lên Hoàng thượng Vạn Ngôn Thư, lời lẽ lưu loát, bàn nhiều về đạo trị quân, lại đề cập tới súng hoả mai của bản triều, yêu cầu phải cải tiến ngay. Trong tờ điều trần y cũng tỏ ra không hài lòng về việc quân đội phương bắc được trang bị quá ít súng ống. Theo bản đốc thấy, nội dung mà y tấu lên cũng đánh trúng chỗ yếu đương thời, chỉ là chọn thời điểm có phần không thích hợp.

Nghe đến ba chữ Vương Thủ Nhân, Dương Lăng có cảm giác hơi quen quen, song nhất thời lại không nhớ ra được ông ta là ai. Có điều nếu y đã có ấn tượng, chắc hẳn lúc trước khi xem sách sử đã gặp qua. Mặc dù bây giờ Vương Thủ Nhân chỉ là một chủ sự nhỏ nhoi của bộ Binh, nhưng rất có thể sau này ông ta cũng sẽ trở thành một vị quan đạt được nhiều thành tựu, cho nên y thầm ghi nhớ trong lòng.

Trương Tú lại kể tiếp:

- Trong tình hình ấy bộ Công đâm lo sẽ bị những nha môn đang đùn qua đẩy lại kia sẽ đẩy trách nhiệm bại trận lên người bọn họ, thế là bèn quay qua phía Hoàng thượng kể khổ, nào là ngân lượng trích cấp không đủ, tố chất quân đội kém, súng hoả mai chế tạo không dễ...

Trương Tú vuốt cằm ra điều nghĩ ngợi một hồi, rồi lấy làm rất thú vị nói tiếp:

- Ừ... Sổ sách của bộ Công mới vừa trình lên đại nội hôm qua. Bản đốc đoán chủ quản vấn đề tiền lương của bộ Hộ mà nhận được tin tức xong, chắc sẽ lại biện hộ cho sổ sách đây.

Dương Lăng nghe mà dở khóc dở cười, y thốt lên:

- Sao lại có thể như vậy chứ? Hạ quan thật không ngờ lại nổi lên hồi phong ba thế này, sớm biết như vậy... phong thư đó không viết thì hơn.

Trương Tú vươn vai, uể oải nói:

- Ngươi bắt cua bao giờ chưa? Bỏ một bầy cua vào trong sọt, không cần phải đậy nắp lại nhưng cua vẫn không thể bò ra. Bởi vì chỉ cần có một con muốn bò lên, những con cua khác liền sẽ nhao nhao bám lên người nó, kết quả là nó bị kéo xuống. Rốt cuộc không một con nào có thể bò ra. Ha ha, trên quan trường xưa nay đều là như vậy, chẳng có gì lạ cả.

Cho dù không có phong thư của ngươi, bọn họ cũng sẽ tự tìm những cái cớ khác đề đùn đẩy trách nhiệm cho nhau thôi. Chẳng qua lần này ngươi nhờ thế mà vớ bẫm. Giờ đây Lục bộ đều biết đến đại danh của ngươi, Thái tử nghe chuyện như thế liền đòi xem thư của ngươi, xem xong bèn đến chỗ bệ hạ xin người, muốn ngươi vào kinh làm Thị độc. Ha ha ha...

Cười đã, vẻ mặt nghiêm túc trở lại, Trương Tú nói tiếp:

- Cuộc đấu đá lòng vòng ấy không hề có can hệ gì với Cẩm Y vệ của ta. Ngươi có biết vì sao hôm nay bản đốc đặc biệt triệu kiến ngươi không?

Dương Lăng đáp:

- Xin đại nhân mách cho!

Trương Tú trầm ngâm:

- Cẩm Y vệ của chúng ta chuyên điều tra xử phạt văn võ bá quan cùng dân chúng cả nước, nằm độc lập ngoài Tam Pháp ty, mà Đông xưởng thì phụ trách giám sát bá quan và cả Cẩm Y vệ. Mỗi khi ty Bắc Trấn Phủ của ta nhận chiếu xử trọng án, Đông xưởng đều sai người dự thẩm. Có thể nói, quyền hạn của Đông xưởng còn cao hơn cả Cẩm Y vệ của chúng ta.

Dương Lăng không biết lão ta nói mấy chuyện này để làm gì, trong lòng không khỏi có chút tò mò, lắng nghe lão nói tiếp:

- Nhưng trong Cẩm Y vệ có rất nhiều quan chức là hậu nhân của các vị công thần, hơn nữa có rất nhiều quan viên của Đông xưởng vốn là quan quân được chiêu nạp từ Cẩm Y vệ của chúng ta, cho nên có thể nói là Đông xưởng và Cẩm Y vệ có quan hệ rất mật thiết. Nếu thật sự phải xét về thực lực, Cẩm Y vệ chưa hẳn đã sợ gì Đông xưởng. Cũng may một xưởng một vệ chúng ta xưa nay vẫn luôn luôn thuận hòa, trước giờ chưa từng xảy ra khúc mắc.

Trương Tú liếc y rồi nói:

- Từ cuối năm ngoái đến nay, bệ hạ dần cảm thấy long thể bất an... Những ngày gần đây, bệ hạ có ý mở lại Tây xưởng để giám sát Đông xưởng và Cẩm Y vệ. Trước mắt ngài đang sai người bí mật gây quỹ, mà quan viên thì phần lớn là thu nạp từ trong quân đội, tự lập thành một hệ, hoàn toàn không liên can gì với Đông xưởng và Cẩm Y vệ.

Dương Lăng nghe lão nói vậy thì chợt giật mình, suy nghĩ cẩn thận mới hiểu được ẩn ý trong lời của lão ta. Hoàng đế cảm thấy thân thể không tốt, đã bắt đầu lo tính cho người nối nghiệp. Tuy Đông xưởng và Cẩm Y vệ là hai tổ chức mà lão tin cậy nhất, nhưng quyền lực của họ lại quá lớn. Hơn nữa qua lời của Trương Tú, tuy xưởng có trách nhiệm giám sát vệ, song thật sự thì cả hai lại biểu hiện như người một nhà, cho nên Hoàng đế không yên tâm. Tây xưởng đang chuẩn bị được mở lại kia không điều một binh một tốt nào của Đông xưởng và Cẩm Y vệ, mục đích chính là nhằm hạn chế thế lực của hai tổ chức này, tránh cho tân đế đăng cơ sẽ bị mất quyền lực.

Trương Tú lại nói:

- Thái tử tuổi còn nhỏ, Cẩm Y vệ ta có trách nhiệm bảo vệ an toàn cho hoàng thất, sao có thể không để ý cẩn thận chứ? Nhưng bệ hạ đã có lòng nghi ngờ, giờ đây Đông xưởng và Cẩm Y vệ không thể không tránh được hiềm nghi, cho nên không tiện sắp đặt người bên cạnh Thái tử. Lúc này ngươi sắp được làm Thái tử Thị độc, tức là cận thần bên cạnh Thái tử, nên phải gánh lấy trách nhiệm này. Ngươi hiểu ý của bản đốc chứ?

Dương Lăng làm gì mà còn chưa rõ dụng ý của lão? Cẩm Y vệ và Đông xưởng vui buồn có nhau, chung tay nắm quyền thế, giờ đây Tây xưởng sắp được thành lập, lấy việc giám sát cả hai làm nhiệm vụ, dĩ nhiên bọn họ sẽ không yên lòng để quyền lực bị tước mất.

Hiện giờ những kẻ bên cạnh Thái tử chỉ là một đám thái giám, tuy rằng bọn chúng cũng là đối tượng có thể lôi kéo, nhưng những vị thái giám đang nắm quyền ở Đông xưởng đương nhiên không vui lòng bồi dưỡng ra một đám đồng loại mà sau này có thể sẽ tiếm đoạt quyền lực của mình. Dương Lăng lại chưa có gốc rễ trong triều, bồi dưỡng một người như y, cho dù sau này có lên như diều gặp gió thì y cũng sẽ không rời bỏ hai cây đại thụ Đông xưởng và Cẩm Y vệ. Hiển nhiên y là ứng viên thích hợp nhất.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng không khỏi nhấp nhổm không yên. Đối với một kẻ có tham vọng, loại cơ duyên cùng chỗ dựa vững chắc như vậy đương nhiên là trăm năm khó gặp một lần. Có điều trong tình hình ấy, một Thị độc nhỏ nhoi như y khó tránh sẽ trở thành cái gai trong mắt, cái dằm trong chân của một số kẻ khác, muốn an nhàn sống hết hai năm e chẳng dễ chút nào.

Nghĩ được điểm mấu chốt trong đó, Dương Lăng không khỏi lo sợ bẩm:

- Đa tạ đại nhân cất nhắc! Chỉ có điều, hạ quan... hạ quan tuổi còn trẻ, e rằng sẽ phụ sự tin cậy của đại nhân mất.

Ánh mắt Trương Tú chằm chằm ghim vào người y một hồi lâu, đến khi trong lòng Dương Lăng nổi lên từng cơn ớn lạnh thì Trương Tú mới mỉm cười, đảo mắt thờ ơ nói:

- Trên đời này, lớn nhất chính là Thiên tử, chỉ cần ở cạnh Thiên tử, không có chuyện gì là không thể.

Đoạn lão mỉm cười, tiếp:

- Nói đến Tây xưởng, ta lại nhớ đến một chuyện. Năm Thành Hoá thứ ba, Nam Man (3) nổi loạn, Bá tước Lý Cẩn và Thượng thư Trình Tín ở Tương Thành đốc quân thảo phạt, sau khi quét sạch loạn tặc đã bắt được vô số nam nữ. Bọn họ đưa đám nô lệ này về kinh thành chia tặng cho các vương hầu. Trong đám nô lệ này có một nam tử họ Uông và một bé gái họ Kỷ được đưa vào đại nội, nam tử bị thiến làm hoạn quan, bé gái được nạp làm cung nữ...

Nói đến đây, lão nhìn qua phía Dương Lăng rồi cười khà khà hỏi:

- Ngươi có biết hai người này về sau có tao ngộ như thế nào không?

Rồi không đợi y trả lời, Trương Tú đã tự đáp luôn:

- Mười năm sau, triều đình thiết lập Tây xưởng lần đầu tiên. Chỉ trong chốc lát, quyền lực của Tây xưởng đã khuynh đảo thiên hạ, vượt lên trên Đông xưởng và Cẩm Y vệ, mà xưởng công của Tây xưởng đó... họ Uông, tên Trực, chính là tên hoạn quan bị bắt nhập cung mười năm trước đó.

Dương Lăng đã nghe nói về tên tuổi của Uông Trực, nghe vậy bèn "a" lên một tiếng. Trương Tú kể tiếp:

- Còn bé gái họ Kỷ ban đầu làm cung nữ, rồi được thăng lên nữ quan, sau đó được phong làm Thục phi, về sau lại còn được phong làm Hoàng hậu, chính là thân mẫu của đương kim hoàng thượng hiện giờ.

Lão vỗ tay, thở dài nói:

- Tao ngộ như thế cũng thật là hiếm thấy! Nghĩ lại những tù binh bị bắt ở Đại Đằng Hạp (4) khi xưa, cho dù trên đường áp giải bị binh sỹ tuỳ ý đánh chết cũng không tính là gì. Ai có thể ngờ rằng trong đó có hai người đã đến được bên cạnh Thiên tử, có thể tạo nên câu chuyện oanh liệt về sau chứ?

Lão mỉm cười rồi nói tiếp:

- Ngươi xuất thân là kẻ đọc sách, đám quan văn đó coi ngươi như người của mình. Ty Nội Quan, Đốc sát viện và bộ Binh lại đều khá có hảo cảm với ngươi, sau lưng ngươi còn có Cẩm Y vệ và Đông xưởng cùng giúp đỡ, có thể nói là vô số cơ duyên. Chỉ cần có thêm được sự yêu thích của Thái tử, một khi Thái tử lên ngôi cửu ngũ, chính là lúc ngươi sẽ như rồng gặp mây, danh vang khắp gần xa! Dương đồng tri, ngươi còn muốn tự coi nhẹ mình không?

Dương Lăng nhìn vào bộ mặt tươi cười "ân cần" đó của Trương Tú, dường như trông thấy cánh tay của Dương Bài Trường vung về phía trước, kêu lớn:

- A Mễ Nhĩ, tiến lên! (5)

****

"A Mễ Nhi" đã tiến lên, nhưng không phải tiến về phía tiền đồ xán lạn, mà là tiến về phía người vợ của y.

Vừa rời khỏi ty Bắc Trấn Phủ của Cẩm Y vệ, thấy đèn sáng khắp nơi, Dương Lăng liền sực nhớ Ấu Nương vẫn còn ở nhà chờ mình, bèn lập tức nóng lòng trở về ngay. Mấy cái câu kiểu như "kim lân khởi thị trì trung vật, nhất ngộ phong vân tiện hóa long (6)" gì gì đó lập tức bị y dẹp qua một bên. Chỉ còn có hai năm nữa, thời gian quý báu biết bao nhiêu, cứ nên tập trung chăm sóc cho tiểu nương tử dễ thương của mình thì hơn.

Kinh sư có hai hội chùa lớn, gọi là hội chùa đông và hội chùa tây. Hội chùa đông tổ chức tại chùa Long Phúc gần lầu Tứ Bài trên phố Đại Thị, được mở vào mùng chín và mùng mười hằng tháng. Hội chùa tây tổ chức tại chùa Đại Long Thiện Hộ Quốc (7) ở phố Hộ Quốc Tự, được mở vào mùng bảy và mùng tám hằng tháng.

Hôm nay không phải là ngày hội chùa, nhưng hai con đường này bấy lâu đã hình thành nên khu thương nghiệp ổn định, quán trà, tiệm rượu, cửa hàng mọc lên san sát, vô cùng náo nhiệt. Sau khi ăn bữa cơm tối đầm ấm ở một quán ăn, Dương Lăng và Ấu Nương đi thẳng về phía chùa Hộ Quốc.

Dĩ nhiên y không dẫn theo hai gã người ngoài Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh. Kết quả là sau khi ăn xong bữa tối, từ trong ngõ đi ra , hai người lại đi nhầm lối, thế là đành phải hỏi thăm người đi đường. Những người đi đường nghe nói đôi phu thê trẻ này muốn đến chùa Hộ Quốc để dâng hương thì đều lộ vẻ ngạc nhiên, song vẫn chỉ đường cho bọn họ.

Thì ra ngôi chùa mười gian rộng lớn rất có tiếng tăm này giờ đây đã biến thành một chùa Lạt-ma. Đối với những vị bồ tát hình dạng kỳ quái mà Lạt-ma thờ cúng, các vị nhân sĩ chốn kinh sư vốn vẫn luôn có suy nghĩ "kính quỷ thần nhi viễn chi" (7) nên cũng không dám lĩnh giáo lễ nghi dâng cúng của các vị Lạt-ma. Chỉ những khi có hội chùa, du khách mới vui vẻ bước vào bên trong ngoạn cảnh còn ngày thường rất ít người ghé thăm. Vì vậy hương quả trong ngôi chùa này rất lèo tèo, hoàn toàn không giống với cảnh hương quả hưng thịnh ở những chùa miếu khác.

Nhưng người Hán không giống như những người phương Tây luôn vạch rõ giới hạn về tín ngưỡng tôn giáo. Đơn giản là anh có tín ngưỡng của anh, tôi có tín ngưỡng của tôi, tuyệt đối không vì anh thờ Nguyên Thủy Thiên Tôn, tôi thờ Phật Tổ Như Lai mà sẽ đánh nhau túi bụi, hay là cấm cản không cho con cái lấy nhau. Cho nên tuy người đi đường cảm thấy kỳ lạ khi cặp vợ chồng trẻ này muốn đi đến chùa Lạt-ma, nhưng cũng không ai làm khó bọn họ.

Những năm gần đây, không ít nhà sư từ Thanh Khang Tạng (9), thậm chí từ ngoài sa mạc, đến tấn kiến triều đình Đại Minh. Bởi vì vùng đất của bọn họ được cai trị theo chế độ chính giáo hợp nhất (*), những Lạt-ma này vào chầu cũng giống như quan viên từ nơi đó vào triều yết kiến, rất được triều đình xem trọng. Cho nên Hoàng đề đã ban vài ngôi chùa cho những tăng lữ có lòng muốn ở lại Trung Nguyên, chùa Hộ Quốc là một trong số đó.

(*): Chế độ cai trị mà nguyên thủ quốc gia và lãnh tụ tôn giáo cùng là một người, pháp luật được viết dựa theo giáo nghĩa của tôn giáo, dân chúng tôn thờ duy nhất một loại tôn giáo.

Tuy rằng hương hoả không vượng, nhưng may nhờ triều đình cấp dưỡng, nhu yếu phẩm được cung cấp đúng hạn, cho nên cuộc sống của những vị Lạt-ma ở đây cũng không hề kham khổ.

Bước vào cổng chính, Dương Lăng thấy trong chùa sáng choang. Mặc dù cũng có vài du khách, nhưng trông tuổi tác dường như phần lớn đều là những cụ già đi dạo mệt mỏi vào đây nghỉ chân, ngồi tán gẫu dưới hành lang. Còn ngay trước lối vào điện Kim Cương, tuy cửa điện rộng mở thế nhưng lại tĩnh mịch lạnh lẽo, không ai bước vào.

Dương Lăng ngoái đầu nhìn, thấy Hàn Ấu Nương đang cách mình hơn ba thước, bẽn lẽn theo sau, trong lòng bất giác cảm thấy buồn cười, không nhịn được bèn trêu:

- Nương tử, cùng đi trên phố mà cách xa như vậy để làm gì? Tướng công phải liên tục ngoái đầu nhìn nàng, sắp trẹo cổ rồi đây này.

Hàn Ấu Nương xấu hổ đi đến bên cạnh y, khẽ trách:

- Tướng công! Nói nhỏ chút đi mà, người ta nghe được sẽ cười cho đấy. Thiếp là nữ nhân, vốn không thể sóng vai bước ngang hàng với chàng mà.

Dương Lăng cười lớn nói:

- Được, vậy nàng cứ đi theo đằng sau đi. Phật dạy: “Kiếp trước ngoái đầu nhìn năm trăm lần mới có thể đổi được một lần thoáng gặp gỡ ở kiếp này.” Về sau nàng cứ đi theo tướng công mỗi ngày, tướng công không có gì làm sẽ ngoái đầu lại nhìn nàng một chút, nhìn đến năm ngàn, năm vạn lần, tranh thủ để kiếp sau vẫn làm phu thê.

Ấu Nương cười thẹn lườm y, chưa kịp đáp lời thì một giọng cười "hắc hắc" khó nghe đột nhiên vọng lại, kế đó là tiếng nói:

- Thuyết pháp này thật thú vị! Ta chỉ mới nghe nói rằng ”trăm năm tu duyên, nghìn năm tu phận, vạn năm tu duyên phận” mà thôi.

Ngoái đầu lại nhìn, Dương Lăng trông thấy một thư sinh trẻ tuổi, mặt như thoa phấn, tay cầm một cây quạt thếp vàng đang nhìn y cười hì hì. Tiểu thư sinh này có vóc người cao hơn Ấu Nương một chút, mặt mày sáng láng, vận một bộ đạo bào (một loại trang phục áo dài chấm gót đời Minh - tác giả.), lưng buộc đai gấm, đầu đội mũ quả dưa (10), chóp mũ đính một viên thạch anh, trông thật khôi ngô tuấn tú.

Tiểu thư sinh vừa mở miệng, cái tiếng vịt đực khó nghe trong thời kỳ bị vỡ giọng lại ồ ồ vang lên:

- Có điều, không biết cái ”ngoái đầu nhìn năm trăm lần” của vị huynh đài đây là điển cố trong bộ kinh văn nào vậy? Là Tam Quy Ngũ Giới Từ Tâm Yếm Ly Công Đức kinh, A Di Đà Phật Âm Vương Đà La Ni kinh? Hay là Tứ Thập Nhị Chương kinh vậy?

Nói đoạn y bung cây quạt thếp vàng dùng làm trang sức kia ra đánh xoạch, khẽ quạt quạt mấy lượt, dáng vẻ khá là tiêu sái. Kế đó y lại cảm thấy chán nên gấp quạt lại, rồi hỏi:

- Hôm nay tiểu đệ cùng huynh cũng xem như thoáng gặp gỡ, không biết vì sao kiếp trước huynh đài quay đầu nhìn ta nhiều lần như thế?

(1) Trương Vĩnh (1465 - 1529), Ngự dụng giám thái giám, tự là Đức Duyên, biệt hiệu "thủ am". Đầu những năm Hồng Vũ, ông cố nội của ông ta dời đến Tân Thành, Bảo Định (nay là huyện Tân Thành tỉnh Hà Bắc), trở thành người Tân Thành. Năm Thành Hoá thứ mười một (1475), ông ta được chọn vào cung, vào cung Càn Thanh hầu hạ cho vua Hiến Tông, năm đó ông ta gần mười tuổi. Sau đó ông ta được thăng chức làm Nội quan giám hữu giám thừa. Năm Thành Hoá thứ mười ba (1487), Hiến Tông qua đời, Hiếu Tông điều ông ta đến Mậu Lăng ty. Năm Hoằng Trị thứ chín (1496), ông ta được điều vào đông cung hầu hạ cho Thái tử Chu Hậu Chiếu, tức Vũ Tông sau này. Năm Hoằng Trị thứ mười tám (1505), Vũ Tông kế vị, điều chuyển Trương Vĩnh làm Ngự mã giám tả giám thừa, không lâu sau thăng làm Ngự dụng giám thái giám. Trương Vĩnh tấu sớ xin cố thái giám Ngô Trung nhượng lại điền trang rộng đến bảy dặm. Bộ Hộ chỉ trích ông ta vi phạm cấm lệnh, cần phải điều tra trừng trị, song Vũ Tông lại chiếu lệnh cho Trương Vĩnh quản lý tài sản.

(2) Vương Thủ Nhân(1472-1529), người Dư Diêu, Chiết Giang, tự là Bá An, hiệu Dương Minh Tử, đời gọi là Dương Minh tiên sinh, học giả đồng liêu gọi là Vương Dương Minh. Ông là nhà tư tưởng, triết học, văn học và quân sự nổi tiếng nhất thời Minh, là người đã thu thập để viết nên tập Lục Vương Tâm Học. Chẳng những tinh thông Nho gia, Phật gia, Đạo gia, mà ông còn có thể lĩnh binh chinh chiến, là nhà thông thái toàn năng hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc. Ông được phong là "tiên Nho", pho tượng thờ thứ 58 trong miếu thờ Khổng Tử.

(3) Nam Man (nghĩa là "người man rợ phương nam") là từ miệt thị trong lịch sử Trung Quốc để chỉ các bộ lạc nổi loạn phía tây nam của Trung Quốc. Từ này xuất hiện sau khi có vương quốc Tam Miêu hùng mạnh vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên do người Miêu dẫn đầu. Trong thời kỳ Tam Quốc, người Miêu dưới sự lãnh đạo của Mạnh Hoạch đã nhiều lần nổi lên chống lại Thục Hán, sau khi Mạnh Hoạch bị Gia Cát Lượng bắt và thả bảy lần đã quy phục Thục Hán. Nam Chiếu thường xuyên cống nộp thông qua Kiếm Nam Tiết Độ Sứ. (theo wikipedia)

(4) Đại Đằng Hạp là hẻm núi (hạp cốc) rộng lớn và dài nhất trong phạm vi Quảng Tây, trở thành khu vực giao tranh của binh gia tự cổ chí kim. Cuộc khởi nghĩa nổi tiếng của dân tộc người Dao ở thời Minh đã bùng nổ ở nơi đây, kéo dài trên hai trăm năm. Từ đầu những năm Hồng Vũ (~1375) đến năm Thiên Khải (1621 - 1627), Vương triều nhà Minh lần lượt đưa trọng binh trấn thủ, trấn áp cuộc khởi nghĩa của người Dao.

(5) nguyên văn "A Mễ Nhĩ, xung!" đây là câu nói thịnh hành lấy từ trong bộ phim truyền hình nổi tiếng Trung Quốc "Người khách lên Băng Sơn". Trong phim, khi A Mễ Nhĩ cùng Cổ Lan Đan Mỗ trùng phùng, y đã không dám chạy tới ôm cô. Thấy tình hình như vậy, Dương Bài Trường đã ra lệnh: "A Mễ Nhĩ, tiến lên!" Thời nay, nó được dùng như một câu khích lệ. Khi một thanh niên nhìn trúng một cô gái nào đó nhưng lại không đủ can đảm theo đuổi, bạn bè cậu ta sẽ đồng thanh cổ vũ bằng câu: "A Mễ Nhĩ, tiến lên!"

(6) "Lân vàng há phải vật trong ao, nếu gặp phong vân sẽ hóa rồng" - trích câu nói nổi tiếng trong bộ phim Phong Vân. Nhưng thật ra câu "Kim lân khởi thị trì trung vật" lại bắt nguồn từ bài thơ trong tập "Tinh Học Đại Thành" của Vạn Dân Anh, thời Minh. Thơ rằng:

Nguyệt không chi nhân diệc hãn phùng, (月空之人亦罕逢)

Na kham quan quý tại kì trung; (那堪官贵在其中)

Kim lân khởi thị trì trung vật, (金鳞岂是池中物)

Bất nhật thiên thư hạ cửu trùng (不日天书下九重)

(7) Chùa Hộ Quốc lấy tên đặt trong vùng vào thời Nguyên đặt cho. Năm Tuyên Đức thứ tư (1264-1295) đổi tên thành chùa Đại Long Thiện. Năm Thành Hóa thứ tám (1472) được ban tên chùa Đại Long Thiện Hộ Quốc. Vì chùa tọa lạc ở phía tây thành Bắc Kinh, cho nên người Bắc Kinh xưa còn gọi nó là "chùa Tây".

(8) Thành ngữ này có nguồn gốc từ một câu nói của Khổng Tử trong "Luận ngữ - Ung dã" (論語•雍也):

Vụ dân chi nghĩa, kính quỷ thần nhi viễn chi, khả vị tri hĩ ( 務民之義,敬鬼神而遠之,可謂知矣� � )

Tạm dịch như sau:

Làm việc nghĩa, có ích cho dân, tuy phải kính trọng quỷ thần nhưng không cầu cạnh quỷ thần, mà nên tránh xa quỷ thần, đó là trí.

Có thể nói rằng, "Kính nhi viễn chi" chính là cách nói rút gọn từ câu "Kính quỷ thần nhi viễn chi"( 敬鬼神而遠之).

Ngày nay, trong tiếng Việt, thành ngữ "kính nhi viễn chi" thường được dùng trong các trường hợp: Bề ngoài tỏ ra kính nể, tôn trọng một đối tượng nào đó, nhưng trên thực tế không muốn tiếp cận, gần gũi với đối tượng đó; hoặc thường dùng trong các trường hợp mỉa mai, châm biếm khi mình không muốn tiếp cận với một đối tượng nào đó. (theo wikipedia)

(9) Thanh Khang Tạng chỉ cao nguyên Thanh Tạng, vùng cao nguyên cao nhất thế giới ở châu Á. Vắt qua khu tự trị Tây Tạng, toàn bộ tỉnh Thanh Hải và khu tự trị Duy Ngô Nhĩ, Tân Cương, tỉnh Cam Túc và một phần tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam.

(10) Tên thông dụng của "lục hơp nhất thống mạo", một loại mũ đội được người dân trong kinh thành dùng nhiều. Mũ hình bán nguyệt dùng sáu miếng vải lụa ghép thành. (xem hình http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/2/2e/Ming_dynasty_man.jpg)

Chương 55 - Giáo sỹ Tây Dương

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Vo vong

Biên tập: Shandian

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

- "Khắp dưới gầm trời, chẳng chỗ nào không phải đất của vua. Trong cả bốn bể, chẳng một ai không là bề tôi của vua."

---------------------------------

Dương Lăng dời mắt, thấy bên cạnh tiểu công tử trắng ngần này là một vị trung niên đầu đội mũ mềm, vận quan phục ống tay rộng. Người này da dẻ trắng trẻo, khí chất ung dung, tướng mạo giống tiểu công tử kia đến bảy tám phần, có lẽ là một cặp cha con. Có điều vị văn sỹ trung niên này dáng người mập mạp hơn, tháng hai đầu xuân khí trời vẫn lạnh lẽo, ấy vậy mà trên da thịt nhẵn nhụi của ông ta lại lấm tấm mồ hôi.

- Chuyện này...

Dương Lăng có phần lúng túng. Thật tình thì y không hề biết câu nói đó có thật sự bắt nguồn từ kinh phật hay không, nhưng vừa nghe tiểu thư sinh kia một hơi kể ra mấy bộ kinh phật mà mình chưa hề nghe qua thì biết ngay người ta mới đúng là kẻ đọc sách, hơn nữa hiểu biết về phật học rất sâu. Y nào dám đối đáp bậy bạ, chỉ đành cười trừ nói:

- Ờ... Chuyện này, hà hà, tại hạ thích đọc sách nhưng lại không ham mê tìm tòi nghiên cứu, thật sự không nhớ ra được đó là điển cố trong bộ kinh thư nào.

Tiểu thư sinh nọ đảo cặp mắt đen tròn của mình, rồi đột nhiên cười ranh mãnh nói:

- Ta hiểu rồi, vị huynh đài này vốn là thuận miệng nói bừa để chọc cho nương tử được vui, quả nhiên cơ trí! Bội phục! Bội phục!

Người trung niên đứng cạnh bên cười lớn nói:

- Con chớ có ăn nói lung tung!

Tuy là mở miệng trách móc, nhưng giọng ông ta lại rất nhẹ nhàng, cả khuôn mặt toát lên vẻ hiền hậu của người cha, hiển nhiên là rất cưng chiều con mình.

Tiểu thư sinh không phục nói:

- Vốn dĩ là vậy mà. Tỷ tỷ, tướng công nhà tỷ có phải là thường hay nói bậy nói bạ để tỷ được vui không?

Hàn Ấu Nương đỏ mặt, khẽ xì một tiếng, ánh mắt ngọt ngào liếc nhìn Dương Lăng, tình cảm dịu dàng muốn che giấu cũng không được. Người thiếu niên vỗ tay cười nói:

- Trăng hoa đón gió vui xuân mới, hàng liễu bên cầu đắm khói sương (1), đẹp thì đẹp đấy, nhưng làm sao có thể sánh được với vẻ đẹp 'mày tựa núi xuân, mắt như thu thuỷ' của nữ tử khi chìm trong bể tình? Lúc tỷ tỷ nhìn tướng công nhà mình, nụ cười thật xinh, thật ngọt! Có điều đệ thấy tướng công nhà tỷ tướng mạo anh tuấn, tài hoa hơn người, nhất định là rất giỏi cưng nựng người khác. Tỷ tỷ phải trông chừng cẩn thận, kẻo không huynh ấy lại đi trêu hoa ghẹo nguyệt đấy!

Hàn Ấu Nương hứ một tiếng, nhưng vừa định cất lời phản bác thì chợt nhớ đến Mã Liên Nhi. Người con gái xinh đẹp đó, mình là thiếu nữ mà nhìn còn thấy tim đập thình thịch, thế nhưng lại cam tâm tình nguyện đi theo Dương Lăng làm tiểu thiếp. Nói không chừng tướng công thật sự rất giỏi cưng nựng người khác, khiến cho con gái nhà người ta bị mê hoặc rồi trao tim cho chàng. Vừa nghĩ nàng vừa liếc nhìn Dương Lăng với vẻ ai oán.

Người văn sỹ trung niên kia cười lớn, xoa đầu con mình rồi trách:

- Nói xàm!

Dứt lời ông ta quay sang Dương Lăng chắp tay cười nói:

- Vị công tử này, con ta tính tình bướng bỉnh, mong công tử thứ lỗi cho!

Dương Lăng vội đáp:

- Không dám, không dám. Lệnh công tử thông minh lanh lợi, học thức hơn người, như ngọc trong đá, tương lai nhất định sẽ có tài làm Trạng Nguyên.

Tiểu thư sinh nọ nghe xong, vẻ mặt như cười mà không phải cười, thần sắc hơi cổ quái. Dương Lăng thấy vị trung niên kia không xưng họ tên cũng không có ý trò chuyện với mình, bèn cáo từ:

- Tại hạ phải cùng nương tử vào miếu dâng hương, thứ lỗi không hầu chuyện được!

Văn sỹ trung niên cười nói:

- Không sao cả, công tử xin cứ tự nhiên!

Dương Lăng vừa mới kéo Ấu Nương bước dọc theo hành lang mấy bước, tiểu công tử nọ đột nhiên lại gọi với theo:

- Này, huynh đài, huynh vẫn chưa nói vì sao kiếp trước lại quay đầu nhìn ta hơn năm trăm lần đó nhé.

Dương Lăng quay đầu cười nói:

- Chuyện này... Chỉ có hai loại người có thể khiến ta liên tục ngoái đầu lại nhìn: một là giai nhân tuyệt thế vô song, hai là loại vô lại nợ tiền không trả. Không biết tiểu huynh đệ ngươi là loại người nào?

Nói xong y cười lớn rồi kéo Ấu Nương rảo bước bỏ đi.

Tiểu thư sinh vỗ cây quạt nhỏ thếp vàng, nghiêm túc cân nhắc một hồi lâu:

- Gì thế nhỉ... Tuyệt thế giai nhân? Không ổn. Vô lại nợ tiền... Hình như cũng không ổn. Ai da, tiểu tử này chơi mình!

Ngẫm ra được ý xỏ xiên, tiểu thư sinh bèn hậm hực cất bước đuổi theo. Văn sỹ trung niên không kịp ngăn lại, chỉ đành lắc đầu cười, khẽ đưa tay vẫy một cái. Trong hành lang, hơn mười hán tử trước đó vốn trông như những du khách đứng ở xung quanh lần lượt hiện thân, lặng lẽ đi theo ông ta.

Văn sỹ trung niên chậm rãi đi theo sau con trai. Một lão bộc ăn mặc như gia nhân bước đến bên cạnh dìu ông ta, nhỏ giọng nói:

- Lão gia, sắc trời không còn sớm nữa, chúng ta hãy quay về thôi!

Văn sỹ trung niên mỉm cười bảo:

- Ha ha, đứa nhỏ này ngày thường ngay cả một người bạn chơi cùng cũng không có, hiếm khi có được người cãi vặt cùng thế này, cứ để nó chơi thêm một chút đi!

Lão bộc gật đầu, khom lưng dìu vị trung niên hơi mập mạp này vất vả bước vào điện Kim Cương. Bỗng nhiên từ phía điện Thiên Vương ở gian sau vang đến những âm thanh huyên náo. Vẻ mặt người văn sỹ trung niên chợt trở nên căng thẳng, chân bước nhanh hơn, giọng lo lắng:

- Mau đi xem, đã xảy ra chuyện gì vậy?

Băng qua sảnh điện, chỉ thấy trước điện Thiên Vương có vài nhà sư Tây Tạng mặc hồng bào, đội mũ cao đang đứng trên nguyệt đài (*), phía dưới có năm người mặc trường bào đang đứng, còn một người nằm dưới đất, hai bên đang cãi nhau ầm ỹ.

(*): bục có mặt chính nhô ra phía trước, ba mặt đều có bậc lên xuống.

Tiểu thư sinh, Dương Lăng và Ấu Nương đứng cùng một chỗ ngóng cổ xem náo nhiệt. Sáu, bảy hán tử tráng kiện đứng chung quanh bọn họ, có vẻ như cũng là du khách xem náo nhiệt, song lại ngầm vây bọn họ vào giữa để bảo vệ.

Trên đài, những nhà sư Tây Tạng bô lô ba la quát tháo. Dưới đài, những người mặc trường bào thân hình dong dỏng cao cũng vung tay múa chân, to tiếng biện hộ bằng một thứ ngôn ngữ kỳ lạ, bộ dạng trông cực kỳ giận dữ.

Lúc Dương Lăng nhìn thấy trên nguyệt đài là mấy nhà sư Tây Tạng thì đã biết hôm nay vào nhầm cửa chùa, tiếp đó khi thấy mấy người đàn ông mặc trường bào đứng cạnh đỉnh đồng bên dưới bục đài đều là người Tây Dương mũi cao, mắt xanh, thì lại càng cảm thấy kỳ quái hơn. Hai tốp người nước ngoài "ông nói gà bà nói vịt", cãi lộn nhặng xị một hồi lâu, một người Tây Dương dáng cao gầy trong đám người ở dưới bục đài đột nhiên bước ra, mặt đỏ gay, căng họng la lên:

- "Khắp dưới gầm trời, chẳng chỗ nào không phải đất của vua. Trong cả bốn bể, chẳng một ai không là bề tôi của vua." (2)

Các người đuổi bọn ta đi là không đúng lý!

Vị tiểu công tử kia cùng phụ thân đưa mắt nhìn nhau, không nhịn được bật cười. Nhà sư Tây Tạng trên bục cũng hầm hầm nói bằng tiếng Hán:

- Không phải là bọn ta... không thu nhận các người. Nhưng đám hòa thượng Tây Dương các người ý đồ không tốt, đem người mắc bệnh đến đây, sẽ lây nhiễm.

Người Tây Dương ở dưới bục đài lắc đầu lia lịa:

- Không, không, không. Bệnh mà y mắc không phải là ôn dịch, sẽ không lây nhiễm đâu.

Người hai bên đều dùng thứ tiếng Hán giả cầy của mình tranh cãi qua lại, mấy người Dương Lăng đứng ở cạnh bên lúc này mới lờ mờ đại khái hiểu ra được.

Thì ra mấy người Tây Dương này là nhà truyền giáo đến từ Phật Lăng Cơ (tên gọi Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ngày xưa), đã lăn lộn ba năm ở Đại Minh, mấy ngày trước vừa mới thành công thu được một tín đồ đầu tiên của bọn họ ở đất này, đó là một tên ăn mày mắc phải bệnh nan y, toàn thân lở loét, phập phù thoi thóp, thế là liền như đoạt được chí bảo mang y về chùa Hộ Quốc mà mình đang ở nhờ, một mặt chăm sóc y, mặt khác đem giáo lý Thiên Chúa giáo truyền bá. Những nhà sư Tây Tạng lo bệnh tật của kẻ này sẽ lây nhiễm, thương lượng mấy lần vẫn không có kết quả, bèn đuổi bọn họ ra khỏi cửa.

Dương Lăng thấy người mà đám truyền giáo nước ngoài này cứu trợ là người Hán, tuy rằng có phần vì tư lợi, muốn phát triển giáo đồ, nhưng cũng tính là một việc thiện, liền bước lên giúp họ cãi lý. Nhưng mấy nhà sư Tây Tạng kia căn bản bất chấp lý lẽ, không hề có lòng từ bi của người cửa phật.

Tiểu thư sinh cùng phụ thân thì thầm mấy câu, kế đó ngoắc tay gọi một người hầu lại nhỏ giọng căn dặn. Người hầu đó chạy lên nguyệt đài, nói mấy câu với một Lạt ma chấp sự. Vị Lạt ma chấp sự đó nghe nói vị thiện nhân dưới đài muốn quyên góp ba nghìn lạng bạc tiền hương hoả thì mặt mày lập tức tươi roi rói, ngay lập tức đáp ứng yêu cầu thu nhận mấy nhà truyền giáo Tây Dương kia.

Ngôi chùa to lớn này có tới hơn mười gian, muốn an bài một khu phòng độc lập nho nhỏ cho mấy người kia đương nhiên không thành vấn đề. Hôm nay bọn họ chuyện bé xé ra to, muốn đuổi mấy người Tây Dương này đi, nguyên nhân thật sự là vì tuy trong con mắt người Hán thì đám sư sãi Lạt Ma cố nhiên là kỳ quái, nhưng trong mắt các nhà sư này thì những hòa thượng tóc vàng mắt xanh kia còn là những kẻ man di mọi rợ ăn thịt người chưa được khai hóa.

Có được chỗ nương thân, đám truyền giáo vui sướng không thôi, nhao nhao hướng về vị đại thiện nhân và Dương Lăng - người đã lên tiếng cất lời chính nghĩa - tỏ lòng cảm ơn rối rít, rồi sau đó họ tới chỗ ở cũ đem chăn đệm, rương hòm đưa vào hậu viện. Người Tây Dương vóc dáng cao nhất có vẻ như thủ lĩnh của tốp giáo sỹ nọ không ngừng dùng thứ tiếng Hán hết sức kém cỏi của mình để tỏ lòng cảm tạ với Dương Lăng và tiểu thư sinh.

Dương Lăng rất tò mò về những nhà truyền giáo này. Trong ấn tượng của y, các nhà truyền giáo Tây Dương đến Trung Quốc trong thời kỳ đầu vẫn khá văn minh và chính trực, thật sự xuất phát từ tín ngưỡng tôn giáo cuồng nhiệt nên mới không ngại gian khổ đến phương Đông xa xôi truyền đạo, cho nên khi trò chuyện với bọn họ y luôn rất khách sáo.

Những nhà truyền giáo này nhận mệnh lệnh của Tòa thánh đến phương Đông truyền giáo, đi đến đâu cũng gặp trắc trở, có rất ít người chịu để ý đến bọn họ. Lúc này thấy Dương Lăng chủ động bắt chuyện, nhà truyền giáo đó rất hưng phấn, lập tức lắp bắp tự giới thiệu hành trình đến đây của mình.

Thì ra nhà truyền giáo này tên là Sa Tư Các, y và mấy mươi vị giáo sỹ nhận chỉ lệnh của giáo hội Da-tô (Jesus) Phật Lăng Cơ tổ chức thành đoàn đến phương Đông truyền giáo. Ban đầu họ đến được Ấn Độ, nhưng ở đó truyền bá giáo lý lại rất khó khăn và nguy hiểm, một vài giáo sỹ còn vì bất đồng tôn giáo mà đã bị người dân bản xứ đánh chết.

Sau đó bọn họ nghe nói đi tiếp về phía đông có một quốc gia còn hùng mạnh và văn minh hơn, thế là bọn họ rời khỏi Ấn Độ, xuôi theo đường biển để đến Đại Minh, kết quả khi đội thuyền đến Malacca (3) thì bị quân đội nơi đó bắt giữ. Về sau bọn họ mua chuộc lính canh, thông qua thương nhân bản xứ lén vượt biên đến Nhật Bản, sau khi lưu lại vài giáo sỹ ở đó, năm người còn lại đi thuyền tới vùng Giang Chiết, rốt cuộc đã đến được Đại Minh.

Nhưng muốn truyền bá giáo lý Phúc Âm của Thiên Chúa giáo tại vùng đất của người Hán này rõ ràng là có chút khó khăn. Đối với dân chúng thì một vị thần bẻ xương đàn ông để tạo ra đàn bà hiển nhiên là không thần thông quảng đại bằng Nữ Oa nương nương nặn đất thành người. Hơn nữa vị thần Tây Dương kia còn không dạy cho đôi nam nữ đáng thương biết thế nào là liêm sỉ lễ nghĩa, cả ngày để cho bọn họ trần truồng lang thang trong vườn cây ăn quả. Thứ thần chẳng đâu vào đâu này hiển nhiên không có sức hấp dẫn như Phật Tổ Như Lai từ bi hoà nhã và Thái Thượng Lão Quân có thể hàng yêu phục ma rồi.

Cho nên năm nhà truyền giáo này lăn lộn vất vưởng hơn hai năm ở vùng Giang Chiết mà không kiểm nổi một tín đồ, bất đắc dĩ đành phải đến kinh sư, hy vọng có thể được hoàng đế Đại Minh triệu kiến để có cơ hội truyền đạt giáo lý ở Đại Minh.

Để người Hán có thể tiếp nhận dễ dàng hơn, giờ đây bọn họ đổi sang mặc trường bào, học Tứ thư Ngũ kinh. Để phù hợp với quan niệm "Trời tròn Đất vuông" (4) của người Trung Quốc, họ thậm chí đã vẽ lại một phần bản đồ thế giới mà mình mang theo, đặt vị trí của Trung Quốc ở chính giữa, có thể nói là đã dốc sạch vốn liếng ra rồi. Đáng tiếc quan viên bộ Lễ nghe nói bọn họ không phải là sứ giả đại diện cho tiểu bang dị quốc đến yết kiến thiên triều thì đã đuổi bọn họ đi ngay, đến giờ còn chưa gặp được Hoàng đế mà bọn họ đã sắp trở thành ăn mày rồi.

Tiểu thư sinh nọ nghe xong cảm thấy khá thú vị, không nhịn được bèn chen miệng vào:

- Quốc gia của các người ở đâu? Rộng chừng nào vậy?

Sa Tư Các lắp bắp nói:

- Ở phương Tây, rất xa rất xa, phải ngồi thuyền rất rất lâu. Quốc gia của chúng tôi vốn cực kỳ nhỏ, còn không lớn bằng vùng Giang Chiết, nhưng hai mươi năm trước nữ vương Castilla thành hôn cùng quốc vương Aragón (5) của chúng tôi, hai nước đã sát nhập lại. Đất nước của chúng tôi bây giờ đã lớn hơn rất nhiều, còn lớn hơn vùng Giang Chiết một chút.

(1) Nguyên văn: Thiên địa gian hoa nguyệt xuân phong, họa kiều yên liễu

"Thiên địa gian" là giữa trời đất, "hoa nguyệt xuân phong" là trăng hoa và gió xuân, "họa kiều" là một loại cầu được trang hoàng lộng lẫy, "yên liễu" là nhành liễu giữa làn sương sớm.

HieuSol phỏng dịch :

Gió xuân thắm đượm trăng hoa,

Bên cầu tơ liễu sương nhòa mắt ai.

(2) Nguyên văn "Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ. Suất thổ chi tân, mạc phi vương thần" trích từ bài "Bắc sơn", phần Tiểu nhã trong Kinh Thi.

Kinh Thi gồm 311 thiên, chia làm ba phần lớn: Phong (Quốc phong), Nhã, và Tụng. Trong đó, Nhã, nghĩa là đính chính, gồm những bài hát nơi triều đình, được chia làm 2 phần: Tiểu nhã và Đại nhã. Tiểu nhã bao gồm những bài dùng trong trường hợp không quan trọng lắm như các buổi yến tiệc (74 thiên).

(3) Malacca hay còn gọi là Malaka (phiên âm Mã Lục Giáp), là một cựu quốc gia tại Đông Nam Á, chịu ảnh hưởng Hồi giáo, được thành lập năm 1402, đến năm 1511 thì bị người Bồ Đào Nha chiếm.

(4) Kỳ thực học thuyết cổ đại Trung Quốc “Trời tròn Đất vuông” tuyệt đối không phải là một khái niệm về mặt địa lý, mà nói về một loại Đạo, một loại quy luật, một loại văn hóa. Trời tròn biểu tượng cho "Đạo Trời viên dung", chính là sự hài hòa và quy luật tuần hoàn của vũ trụ. Đất vuông cũng giống như Đạo làm người, giảng rõ ra chính là đức tính ngay thẳng, trung dung, hành động có quy phạm, đây mới là giá trị chân chính mà câu nói: “Thiên viên Địa phương” hằng biểu hiện – “Thiên nhân hợp nhất”.

(5) Aragón, Castilla, Leon và Navarre đã làm nên nền tảng của đất nước và đế chế Tây Ban Nha hiện nay. Năm 1469, ngai vàng của hai vương quốc đạo Cơ đốc là Aragón và Castilla đã được hợp nhất bởi lễ cưới giữa vua Fernando II của Aragón và nữ hoàng Isabel I của Castilla. Năm 1492, vương quốc hợp nhất đã chiếm đóng Granada, chấm dứt 781 năm cai trị của người Hồi giáo tại bán đảo Iberia.

Vua Fernando và nữ hoàng Isabel đã củng cố vững chắc hệ thống quyền lực trung ương, đồng thời cái tên España (Tây Ban Nha) bắt đầu được dùng để chỉ vương quốc hợp nhất. Với những cải cách lớn về chính trị, pháp luật, tôn giáo và quân đội, Tây Ban Nha đã vươn lên trở thành một cường quốc trên thế giới. (theo wikipedia)

Chương 56 - Đêm mê ly

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Vo vong

Biên tập: Shandian

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Nhưng Dương Lăng không chút nghi ngờ rằng mặc dù Ấu Nương không biết và cũng sẽ không nói câu thề đó, nhưng không những nàng đang thực hiện nó, mà sẽ còn mãi tiếp tục làm như vậy.

---------------------------------

Tiểu thư sinh không nhịn được bèn cười nói:

- Phí hơi cả ngày trời, vẫn chỉ là một vùng Giang Chiết thôi mà. Làm sao ở đó các ngươi có thể để cho phụ nữ làm quốc vương được nhỉ? Bà ta cưới người khác thì lấy cả quốc gia đem làm của hồi môn à?

Dương Lăng cười nói với y:

- Quốc gia phương tây đúng là có thể để cho phụ nữ làm vua. Ngươi chớ thấy quốc gia Phật Lăng Cơ bé nhỏ mà lầm, hải quân của bọn họ rất hùng mạnh, hiện tại có thể nói là tung hoành bốn biển, gần như không có đối thủ. Ở nơi đó, bọn họ có một loại hoạt động nổi tiếng nhất gọi là đấu bò tót, thú vị hơn nhiều so với mấy trò đá gà chọi dế của bọn trẻ con Đại Minh chúng ta. Đấu sỹ bò tót tài giỏi có thể một kiếm đâm xuyên tim một con bò đực khổng lồ nặng cả nghìn cân.

Sa Tư Các trở nên hưng phấn, vội nói:

- Thật khó tin! Ngài đã đến quốc gia của chúng tôi sao? Ở Đại Minh có rất ít người biết tới chuyện ở nước chúng tôi. Lạy Chúa, thậm chí có người nói ở đó chúng tôi ăn thịt người nữa cơ.

Y nhún nhún vai, vẻ mặt vô tội, nói tiếp:

- Thượng đế chứng giám, trên đường đến phương đông, chúng tôi cũng sợ nhất là gặp phải tộc mọi ăn thịt người.

Dương Lăng nghe thấy thế thì cười ầm lên. Vị văn sỹ trung niên nọ hứng thú quan sát y một chút, mỉm cười không nói gì. Tiểu thư sinh nghe Dương Lăng khen ngợi hải quân của Phật Lăng Cơ hùng mạnh thì lấy làm không phục, vốn định nhắc đến hạm đội khổng lồ dưới trướng Trịnh Hòa với bảy lần đến đại dương phía tây (1) của bản triều, bỗng nghe đến võ sỹ đấu bò gì đó, lập tức nảy sinh hứng thú, vội hỏi:

- Võ sỹ đấu bò gì thế? Ngươi hãy mau nói cho ta nghe, chơi hay lắm sao?

Đang định trả lời, Dương Lăng chợt nhìn thấy Ấu Nương đang đứng ở một bên hiếu kỳ nghe mình giảng giải, y không khỏi giật thót người. Y vốn là một tú tài nơi sơn thôn hẻo lánh, dựa vào cái gì mà biết tường tận những chuyện nơi đất khách quê người? Mặc dù không lo Ấu Nương sẽ vì vậy mà nghi ngờ gì, nhưng nếu để cho nàng hỏi tới thì sẽ không tránh khỏi phải tốn nhiều nước bọt giải thích một phen. Thế là y cười ha hả nói:

- Đấu bò thật sự không phải là trò cho con nít chơi, rất là nguy hiểm đó. Nếu ngươi có hứng thú, ngày thường rảnh rỗi hãy đến thăm mấy vị hoà thượng Tây Dương đây, hỏi bọn họ một chút không phải sẽ biết ngay sao? Ta và nương tử còn có việc, không thể để chậm trễ quá lâu, phải cáo từ chư vị rồi.

Tiểu thư sinh trợn mắt, miệng lẩm bẩm:

- Đấu bò rất hay sao? Chờ ta lớn thêm một chút ta sẽ đấu một trận, không những đấu bò mà ta sẽ đấu cả hổ nữa! Hừ, dám xem thường ta sao?

Sa Tư Các nghe Dương Lăng nói xong thì vội vàng cất tiếng:

- Khách nhân tôn quý, xin hãy chờ một chút, tôi có vài món lễ vật nhỏ tặng cho các vị.

Y vội vã cầm một chiếc rương nhỏ lên, lấy ra vài món đồ, cầm trên tay rồi nói:

- Hôm nay đa tạ các vị đã giúp đỡ, ở đây có mấy món đồ nhỏ, xin tặng cho các vị làm lễ vật.

Trong tay y cầm hai chiếc đồng hồ quả quýt và một cái lăng kính tam giác. Trong hai chiếc đồng hồ quả quýt bằng bạc đó, một cái trên vỏ khắc bộ xương khô, cái còn lại khắc cây thánh giá. Tiểu thư sinh rất hiếu kỳ, không hề khách sáo cầm lấy ngắm nghía. Vị văn sỹ trung niên nọ hiển nhiên cũng chưa từng thấy qua thứ này, mặt đầy vẻ tò mò, song lại chỉ mỉm cười đứng bên cạnh con mình xem y cầm chơi.

Sa Tư Các miệng cười toe toét chỉ cho tiểu thư sinh đó cách sử dụng lăng kính tam giác và đồng hồ quả quýt. Tiểu thư sinh nghe xong liền cầm lăng kính tam giác chạy qua một bên soi lên ánh đèn quan sát, sau đó tíu tít nói với phụ thân về cảnh tượng mới lạ vừa nhìn thấy.

Nhìn những món đồ của Sa Tư Các, Dương Lăng thầm nghĩ: "Những nhà truyền giáo này phần lớn đều tinh thông triết học, vật lý, hoá học, nếu triều đình nhà Minh có thể xem trọng bọn họ, để những nhà truyền giáo này làm môi giới, tăng cường giao lưu văn hoá và khoa học kỹ thuật giữa phương Đông và phương Tây, có lẽ chúng ta sẽ không gặp phải tình trạng bế quan tỏa cảng, mọi phương diện dậm chân tại chỗ, khiến cho sau này Mãn Thanh nhập quan, hàng trăm nghìn người Hán phải chết, càng sẽ không xuất hiện cục diện bốn trăm triệu đồng bào bị người ta ức hiếp mổ xẻ ở thời cận đại. Nếu Hoàng đế đã yêu thương thái tử, mà vị Hoàng đế Chính Đức tương lai này lại khá ham chơi, vậy mình có thể lợi dụng một chút, có lẽ ngày mai tiến cung nên dâng chút lời ’sàm ngôn’”.

Nghĩ đến đây, y bèn thấp giọng nói với Sa Tư Các:

- Sa Tư Các tiên sinh, tại hạ dày mặt muốn xin tiên sinh một cây thánh giá và một chiếc đồng hồ quả quýt. Đối với quý quốc và giáo lý của các vị, ta cũng có đôi chút hiểu biết, khi nào thuận tiện ta sẽ góp lời với triều đình, hy vọng có thể khơi dậy sự trọng thị của triều đình, cho phép các vị gây dựng giáo hội, tuyên truyền giáo lý.

Sa Tư Các nghe vậy thì vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, run giọng hỏi:

- Ngài là quan viên hay là quý tộc triều đình? Ngài có thể gặp được Hoàng đế bệ hạ sao?

Dương Lăng vội nói:

- Nhỏ tiếng chút đi! Hà hà, Sa Tư Các tiên sinh không cần hoài nghi, ngày mai ta sẽ vào cung gặp Hoàng đế.

Sa Tư Các mừng đến mặt mày rạng rỡ, vội vàng tháo cây thánh giá đeo trên cổ xuống, xong lại chạy đến chỗ một chiếc rương khác lấy ra thêm một chiếc đồng hồ quả quýt. Xem ra bọn họ cũng biết "mật ngọt chết ruồi" thì sẽ dễ được người ta tiếp nhận hơn là "Thượng đế yêu thương nhân loại", cho nên lúc đến phương Đông đã mang theo không ít lễ vật.

Sa Tư Các trịnh trọng trao lễ vật vào tay Dương Lăng, nói:

- Ngài là quý nhân của chúng tôi, rất hy vọng có thể nhận được sự giúp đỡ của ngài.

Dương Lăng gật đầu mỉm cười, đoạn cất cao giọng nói với tiểu thư sinh:

- Tiểu huynh đệ, sau này gặp lại!

Tiểu thư sinh đó đang áp một chiếc đồng hồ quả quýt vào tai, tò mò lắng nghe tiếng tích tắc, tích tắc bên trong, nghe vậy bèn vẫy tay tiễn y. Xoay người đi được vài bước, Dương Lăng chợt quay đầu lại mỉm cười rồi nói với Sa Tư Các:

- Đúng rồi, nếu giáo sỹ tiên sinh muốn tuyên truyền giáo lý, có thể thử truyện trò với các cụ bà láng giềng trước xem sao, có lẽ sẽ dễ thành công hơn đấy.

Sa Tư Các lấy làm kỳ quái hỏi:

- Tại sao?

Dương Lăng bắt chước y nhún vai, cười nói:

- Tình hình các nước bất đồng, những thứ mê tín của chế độ phong kiến này, à, những chuyện này, ở nơi này của chúng ta phụ nữ lúc nào cũng là những người thích tin theo trước. Ha ha ha, cáo từ!

Dương Lăng và Ấu Nương rời khỏi chùa Hộ Quốc. Đi dọc theo con phố lớn được một lát, Hàn Ấu Nương đột nhiên kéo ống tay áo y, bẽn lẽn quay đầu nhìn về phía chùa Hộ Quốc, ấp úng nói:

- Tướng công, chúng... chúng ta không xin tượng phật sao?

Thấy nét mặt e thẹn của nàng lúc cố lấy can đảm nói ra những lời như vậy trông hết sức mê người, Dương Lăng nhịn không được bèn cố ý trêu:

- Thôi, trời đã tối rồi, hôm khác chúng ta hẵng đi.

Hàn Ấu Nương lại giật giật ống tay áo y, trề môi, cúi gằm mặt, chẳng nói chẳng rằng, tựa như cô bé đáng thương đang bị ức hiếp. Dương Lăng thấy vậy thì thầm ngứa ngáy trong lòng, không nhịn được bèn thấp giọng cười nói:

- Nương tử bé bỏng, mong sớm bị tướng công ”hiếp đáp” đến thế cơ à? Ha ha, về nhà đi, tướng công đã xin được tượng phật rồi.

***

Hàn Ấu Nương đặt chậu nước rửa chân bên cạnh Dương Lăng, ngồi xổm tháo giày cho y, sau đó hỏi:

- Tướng công, mau nói cho thiếp đi, chàng xin được tượng phật lúc nào vậy?

Hàn Ấu Nương ngâm chân Dương Lăng vào trong nước, vừa nhẹ nhàng chà chân cho phu quân, vừa ngước mắt nhìn y. Dương Lăng lấy từ trong ngực ra cây thánh giá nọ, tay cầm sợi dây, y vừa cười hề hề vừa lắc lư nó ở trước mặt nàng. Cặp mắt Ấu Nương sáng lên, vội vàng chùi tay vào vạt áo rồi cầm cây thánh giá lên xem.

Chớp chớp hàng mi dài, nàng chăm chú nhìn một hồi lâu rồi nhíu mày tò mò hỏi:

- Tướng công, đây là ông phật nào vậy? Thật là quái lạ, sao lại mặc ít đồ như thế chứ?

Ánh mắt Dương Lăng đảo như rang lạc, tiện miệng đáp:

- Thì cũng giống như mấy La Hán mà nàng thấy trong chùa đó, rất nhiều người đều để trần cánh tay. Ông Phật này thì để trần cả đùi.

- Ưm!

Ấu Nương lại nghiêng đầu xem xét một hồi, không yên tâm hỏi:

- Tướng công, ông phật râu xồm đùi trần này có linh không vậy? Đã khai quang chưa?

Dương Lăng đáp:

- Quang rồi, sao lại không quang, quang nữa thì sẽ thành ở trần đó (2). Vị thần này tên là Cơ Đốc, nàng có thấy quan cao nhất trong Cẩm Y vệ chúng ta được gọi là Đề đốc không? Đề đốc tức là trông coi, giám sát, cai quản và dẫn dắt Cẩm Y vệ đó, đủ lợi hại chưa? Cơ... Đốc này à, đương nhiên là giám sát và cai quản… - Nói đến đây y chợt cười hề hề, không dám đùa giỡn lung tung nữa. (Chữ “Cơ” trong tiếng Trung phát âm là “ji”, mà “ji ji” là từ để chỉ dương vật của đàn ông, có lẽ Dương Lăng đang định nói tới cái này.)

Trước kia y không hề tin vào thần thánh, nhưng từ lúc đầu thai chuyển thế đến nay, có vài chuyện y thật sự không dám đem ra bông đùa.

Dương Lăng ngó xuống, thấy Hàn Ấu Nương đang cúi đầu chăm chú rửa chân cho mình, khuôn mặt xinh xắn toát lên vẻ hiền thục của người vợ đảm đang, cánh môi cong cong mỉm cười, mê người khôn tả.

Cô bé xinh đẹp trẻ tuổi này bất kể nghèo khó khổ sở thế nào vẫn luôn theo sát bên y, xem y như bầu trời, như tính mạng của chính mình, chưa từng cất một lời oán thán. Y thì lúc nào cũng ngây ngây ngô ngô, gặp sao hay vậy, may mắn lắm mới có được vị trí như ngày hôm nay. Nhưng nếu không có bờ lưng non nớt của Ấu Nương ở phía sau gánh đỡ mà không hề oán trách một lời ấy, y không biết liệu mình có phải đã sớm biến thành một đống xương mục rồi hay không. Vân vê sợi dây chuyền bạc trong tay, nhìn cây thánh giá bằng bạc ròng đó, Dương Lăng bỗng nhớ tới câu thề mà rất nhiều người đã trang trọng cất lên lúc thành hôn:

"Em bằng lòng làm vợ của anh. Suốt cuộc đời này, dù hạnh phúc hay đau buồn, dù giàu sang hay nghèo khổ, dù khỏe mạnh hay bệnh tật, em đều sẽ luôn hết lòng với anh, không xa rời anh, mãi mãi ở bên anh!"

Trong những người từng nói câu nói này, không biết có bao nhiêu người đã thật sự thực hiện được nó? Nhưng Dương Lăng không chút nghi ngờ rằng mặc dù Ấu Nương không biết và cũng sẽ không nói câu thề đó, nhưng không những nàng đang thực hiện nó, mà sẽ còn mãi tiếp tục làm như vậy.

Dương Lăng cũng âm thầm cất lời thề: “Ấu Nương, chúng mình đã từng đùm bọc lẫn nhau, sau này cũng sẽ không bỏ rơi nhau. Ấu Nương, nàng chính là của cải quý giá nhất của ta.”

Lòng y nóng ran, bất thình lình rút chân ra xỏ vào giày, khom người bế Ấu Nương lên. Ấu Nương kêu lên một tiếng, giọng hoảng hốt:

- Tướng công, chàng làm gì vậy?

Dương Lăng đặt nàng lên đầu giường, khẽ bảo:

- Ngồi ngay ngắn lên nào, nàng đã vì tướng công mà nếm biết bao cay đắng, chịu biết bao đau khổ, mãi cho đến hôm nay mới là đêm động phòng hoa chúc chân chính từ sau khi nàng được gả cho ta, nhưng tướng công lại không có rượu thơm nến đỏ, không có khách chúc đầy nhà. Lúc vừa mới đến nhà chồng, vì tướng công mà nàng đã phải uất ức tự mình kéo khăn đỏ trùm đầu(3). Đêm nay, hãy để tướng công rửa chân cho nàng, hầu hạ nàng để chuộc tội!

- Gì cơ?

Ấu Nương nghe xong, khuôn mặt tràn ngập sự hoảng sợ, giãy nãy nói:

- Không thể được! Tướng công, chàng vạn vạn lần không thể làm thế được. Phụ nữ hầu hạ đàn ông của mình là điều nên làm, là bổn phận, nhưng tướng công mà rửa chân cho thiếp thì sẽ bị giảm phúc đó!

Dương Lăng giữ chặt lấy hai chân nàng, ngâm chúng vào trong nước, giọng cương quyết bảo:

- Ngồi yên nào! Chỉ được cái nói mò, chân Ấu Nương đẹp như vậy, tướng công có thể rửa chân cho nàng, đó là phúc khí của tướng công. Đấy không phải là giảm phúc, phải là thêm phúc mới đúng.

Chân Ấu Nương co rúm, ngón chân khẽ gập lại, mặc cho y nhẹ nhàng xoa bóp. Đôi chân ngọc nhỏ bé thanh tú ấy mỹ lệ vô ngần, đường cong bàn chân mềm mại đẹp đẽ, gầy mà không để lộ xương.

Trên đỉnh đầu khẽ vang lên tiếng nức nở, từng giọt từng giọt nước mắt nhỏ xuống chậu nước, Dương Lăng đành phải lên tiếng:

- Ấu Nương, nàng khóc gì chứ? Hôm nay là ngày vui của chúng ta, phải vui lên, nếu không sẽ xui xẻo lắm đấy!

- Ưm!

Ấu Nương vội lau nước mắt, rưng rưng nói:

- Tướng công, sớm mai canh mấy chàng lên triều vậy, để thiếp còn gọi chàng dậy.

Dương Lăng nghĩ ngợi một chút rồi đáp:

- Là canh ba giờ dần. Ha ha, nha đầu ngốc, giờ là lúc đêm xuân nghìn vàng của chúng mình, thế mà nàng lại còn nghĩ ngợi đến mấy chuyện đó.

Ấu Nương cắn môi, cười thẹn thùng. Lòng bàn chân vừa bị Dương Lăng gãi nhẹ, nàng liền rụt chân về vì nhột, miệng khẽ rên rỉ một tiếng. Dương Lăng ngẩng đầu, chỉ thấy hàng mi nàng cong cong, bờ môi hơi vểnh, một vẻ tựa vui tựa hờn, quyến rũ đến thấu xương, khiến con tim y không kìm nổi phải xao động. Cuối cùng y đã biết được thế nào mới là điên đảo tâm hồn.

Đêm, đã bắt đầu.

(1) Trịnh Hoà (1371-1433), tên khai sinh là Mã Tam Bảo, là nhà hàng hải và nhà thám hiểm người Trung Quốc nổi tiếng nhất. Ông chính là người đã chỉ huy các chuyến thám hiểm được gọi chung là các chuyến đi của "Thái giám Tam Bảo hạ Tây dương" (三保太監下西洋) hay "Trịnh Hòa đến đại dương phía tây" từ năm 1405 đến năm 1433. Tạp chí Life Magazine xếp Trịnh Hòa đứng thứ 14 trong số những người quan trọng nhất trong thiên niên kỷ vừa qua.

Số lượng chuyến đi của ông tới Tây dương tùy vào cách phân chia, nhưng ông và hạm đội đã "Tây dương" không dưới 7 lần. Ông đã đưa về Trung Quốc nhiều chiến lợi phẩm và các phái viên từ ít nhất 30 vương quốc - bao gồm cả vua Alagonakkara của Tích Lan (Ceylon) đến Trung Quốc để tạ lỗi các Hoàng đế Trung Hoa. (trích wikipedia)

(2) Ở đây Dương Lăng chơi chữ: "quang" trong "khai quang" nghĩa là "lễ mở vải phủ tượng phật", nhưng cũng có nghĩa là "trần trụi". Ý Dương Lăng nói là chúa Jesus đã để trần đủ rồi, lột bớt thêm nữa thì sẽ không còn gì mặc nữa.

(3) Đang nói đến tập tục chú rể kéo khăn trùm đầu màu đỏ của cô dâu trong đêm động phòng.

Chương 57 - Đêm xuân ngắn ngủi

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Vo vong

Biên tập: Meoxu

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

- Tướng... tướng công, chàng... chàng làm gì vậy?

- Không cần cái đó, rườm rà quá đi. Nương tử à, phải có hứng… thú, hiểu không?

---------------------------------

Thổi tắt đèn? Không được!

Trốn vào trong chăn thoát y? Không được!

Dưới sự cấm cản của đấng lang quân "bạo chúa", Hàn Ấu Nương đành phải nhắm mắt trút bỏ xiêm áo, để lộ một thân hình mịn màng mềm mại. Ngay trước mắt Dương Lăng bất chợt chói lòa, cái yếm đỏ tươi cùng chiếc quần lót màu hồng sen mỏng manh không cách nào che giấu được thân thể thanh cao thoát tục của nàng, tấm thân thiếu nữ gần như phơi trần trong ánh sáng lờ mờ càng khiến người ta phải hoa mắt.

Trông thấy ánh mắt si dại của Dương Lăng, Ấu Nương ngượng ngùng "ưm" một tiếng rồi vội vàng xoay người, đưa tấm lưng trắng mịn về phía y.

Dương Lăng nín thở sáp lại gần, nhẹ nhàng đẩy Ấu Nương xuống giường, rồi bất chợt đưa tay giật chiếc quần lót của nàng. Ấu Nương yêu kiều kêu lên “ối” một tiếng, bàn tay không kịp giữ lại, chiếc quần đã bị y kéo tuột xuống. Ấu Nương ngượng quá, vội ôm lấy gò má nóng hổi của mình, đôi chân liên tục đạp xuống chiếc đệm giường tỏ vẻ phản kháng, bờ mông tròn lẳn trắng phau lúc lên lúc xuống đập thẳng vào mắt Dương Lăng.

Trông Ấu Nương lúc này tựa như một trái đào mật chín mọng và thơm ngát, từ eo trở xuống, đường cong mê người dọc hai bên thân nàng lượn xuống tạo nên một vẻ thanh nhã và gợi cảm vô cùng, lại thêm sự uốn lượn lên xuống nhịp nhàng trên làn da mịn màng nõn nà ấy thật khiến người ta không kìm nổi những ý nghĩ ám muội. Làn da nàng mịn màng như trứng gà bóc dưới ánh sáng lại lộ ra vẻ óng ánh lung linh, thực khiến người ta phải nuốt nước miếng ừng ực.

Dương Lăng nuốt nước bọt, ngón tay vuốt nhẹ theo cặp chân thanh tú săn chắc của Ấu Nương mơn trớn lên trên. Đôi chân khả ái của Ấu Nương hơi co lại, hai mắt cá chân yêu kiều dính sát vào nhau, cặp đùi khép chặt đến nỗi một ngón tay cũng không chen được vào.

Cảm giác được sự căng thẳng của nàng, Dương Lăng khẽ mỉm cười. Y từ tốn cởi bỏ áo quần rồi nhẹ nhàng trườn lên tấm thân non nớt láng mịn của Ấu Nương. Ấu Nương lập tức cảm nhận được thân thể trần trụi của tướng công, mặt nàng càng đỏ hơn, nhưng lại không dám giãy giụa nữa.

Dương Lăng nhẹ nhàng đưa tay lần mò khám phá, khẽ thò vào trong chiếc yếm xoa nắn bầu ngực xinh xắn của nàng. Dưới sự vân vê của y, nhũ hoa nho nhỏ đã nhanh chóng săn cứng. Dần dần, hoà cùng sự âu yếm nhẹ nhàng mà điêu luyện của Dương Lăng, hơi thở dồn dập của Ấu Nương đã chuyển thành những tiếng rên rỉ đầy khêu gợi. Dưới những cái vuốt ve mơn trớn của y, thân thể nàng khẽ run lên từng chập, bên dưới đã bắt đầu ẩm ướt.

Một cảm giác trước nay chưa từng đó lan tỏa khắp người Ấu Nương , vừa khiến nàng hoang mang, lại vừa đem đến cảm giác khoan khoái lạ kỳ khó mà diễn tả bằng lời. Nàng ngượng đến nỗi da thịt toàn thân đều ửng lên màu phấn hồng khêu gợi. Giọng run rẩy ngọt ngào, nàng cầu khẩn:

- Tướng công, xin... xin chàng... tắt đèn đi!

- Không! - Dương Lăng hôn phớt trên lưng nàng một cái rồi si mê nói:

- Ta muốn nhìn nàng, nếu để cho vẻ mỹ lệ thế này lặng chìm trong bóng tối, ông trời sẽ không tha cho ta đâu. Ta muốn nhìn nàng, dù có qua một trăm, một nghìn năm nữa, ta cũng sẽ vẫn nhớ tới cái đêm mà Ấu Nương xinh đẹp đã dâng hiến tình yêu và thân thể của nàng ấy cho ta.

Hàn Ấu Nương lấy tay che lấy khuôn mặt đỏ bừng, lời tán tụng vừa dịu dàng vừa chứa chan tình cảm của phu quân khiến nàng như ngây ngất. Ngón tay của Dương Lăng nhẹ nhàng tháo nút thắt trên chiếc yếm duy nhất còn lại trên người nàng rồi giật nhẹ ra. Sống lưng Ấu Nương thẳng tắp, xuôi theo đó xuống dưới là một khe trũng bí ẩn mà vô cùng đẹp đẽ. Nút thắt chiếc yếm vừa bị cởi ra, khi tấm thân mềm mại của nàng được lật lại, phần khuôn mặt lộ ra sau hai bàn tay đều đã đỏ bừng.

Dương Lăng hài lòng chống người dậy, hai mắt loé lên ngọn lửa của tình yêu. Khi y vừa tính sáp lại mơn trớn cặp môi anh đào của Hàn Ấu Nương, nàng bỗng nhiên "a" lên một tiếng, thình lình bỏ hai tay ra, mở mắt căng thẳng hỏi:

- Tướng công, chàng đã đeo tượng phật chưa?

Chỉ thấy ngay trước tấm ngực trần của Dương Lăng, cây thánh giá nọ đang đung đưa chậm rãi. Ấu Nương ngượng chín người, vội vã nhắm mắt lại. Động tác ngây thơ cùng thân thể trẻ trung của nàng toát ra sức hấp dẫn mạnh mẽ, khiến cho hơi thở Dương Lăng lập tức trở nên gấp gáp hơn.

Y không nhịn được nữa, lập tức cúi xuống hôn lên bầu ngực xinh xắn của Ấu Nương, một cánh tay mò xuống vuốt ve bờ eo thon thả của nàng, khiến cho vùng bụng phẳng lì kia căng cứng lại. Ngón tay y lướt qua nơi nào, da gà liền nổi lên nơi ấy.

Dương Lăng chăm chú nhìn hàng mày liễu của nàng, khẽ lấy chân tách hai chân nàng ra, ngực đè lên thân thể nhỏ nhắn của nàng. Trực giác của phụ nữ khiến Ấu Nương bất giác trở nên yên lặng, cặp mắt đen láy mở ra đầy hoảng sợ. Hai cánh tay thon thả của nàng bấu chặt vào cánh tay Dương Lăng, cơ thể run rẩy đợi chờ thời khắc căng thẳng đó.

Cặp mắt của Dương Lăng bỗng cũng trở nên đen tuyền, miệng nhẹ gọi tên Ấu Nương, lại hơi nâng người lên, rồi cuối cùng khẽ khàng cất tiếng:

- Ấu Nương, tướng công đến đây.

- Đừng! Khoan đã, tướng công! - Ấu Nương bỗng nhiên kêu lên. Dương Lăng vội vàng ghìm cương trước vực, giật mình hỏi:

- Sao thế Ấu Nương? Nàng... Nàng không muốn...?

Ấu Nương đỏ mặt đáp:

- Không, không phải. Tướng công, chàng ngồi dậy đi, thiếp... thiếp quên khăn trắng...

Vừa nói nàng vừa thẹn thùng quay đầu qua phía bên, cố vươn tay sang chỗ chiếc chăn vẫn còn xếp bên cạnh. Tối nay lúc trở về nàng đã đi tìm chiếc khăn trắng nghiệm hồng mà mẹ tặng khi xuất giá, sau đó lặng lẽ nhét dưới đáy chăn của mình. Trong thời khắc chỉ mành treo chuông, rốt cuộc nàng kịp nhớ ra, may mà chưa làm lỡ đại sự.

Dương Lăng thấy nàng lôi tấm khăn trắng tinh ra, giống như là phất cờ trắng đầu hàng, thì không khỏi có cảm giác dở cười dở khóc. Nàng là người vợ mà y yêu thương nhất, trong lúc này đây y chỉ muốn nàng có thể ghi nhớ khoảnh khắc ngọt ngào và niềm hạnh phúc khi hai người thuộc về nhau trong lần đầu tiên này chứ không phải là nơm nớp lo sợ nằm lên chiếc khăn nhỏ xíu kia, mọi tâm tư đều tập trung chờ đợi y kiểm nghiệm sự trinh trắng của nàng. Y hy vọng Ấu Nương cũng có thể hưởng thụ khoái lạc cùng y chứ không phải chỉ một mực hiến dâng.

Ấu Nương đang mím môi lúng túng muốn lót khăn trắng dưới mông mình, Dương Lăng chợt giật lấy nó vứt sang một bên. Nàng tròn xoe mắt sửng sốt, lắp bắp nói:

- Tướng... tướng công, chàng... chàng làm gì vậy?

- Không cần cái đó, rườm rà quá đi. Nương tử à, phải có hứng… thú, hiểu không?

- Đi… Đi đâu? (Trong tiếng Trung chữ “thú”(qù) đọc giống chữ “đi”(qù), Ấu Nương nghe nhầm – ND.)

Dương Lăng đưa hai tay lần xuống dưới mông Ấu Nương, xoa bóp hai bờ mông tròn lẳn của nàng, khoé miệng mang theo một nụ cười mỉm đầy mê hoặc. Y kề bên tai nàng khẽ nói:

- Đi đến đây này. Tướng công không muốn cầm quân đối trận. Đêm nay tướng công muốn cướp trại công thành, để tiểu nương tử võ nghệ siêu quần của ta phải giơ tay đầu hàng...

...

Toàn bộ thể xác và tâm hồn của hai người hoà quyện vào nhau, dư âm của cuộc mây mưa càng làm cho cả 2 cảm thấy tâm hồn dào dạt và vô cùng thỏa mãn. Trong lần đầu đón nhận "mưa móc" Ấu Nương đã "đầu hàng" tới ba lần, sau đó Dương Lăng mới được tận hứng trong cơn khoái cảm, rồi y ôm nàng chìm vào giấc ngủ say.

Đang ngủ say sưa không biết trời trăng mây nước, Dương Lăng đột nhiên choàng tỉnh. Y mở mắt ra, chỉ thấy Ấu Nương đã mặc xiêm y, khoác áo dài, đang ngồi bên cạnh đẩy khẽ y:

- Tướng công, nên thức dậy rồi. Tướng công, hôm nay phải lên triều đó.

Dương Lăng lờ đờ ngó ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài trời vẫn tối như bưng, quay đầu nhìn lại, dưới ánh đèn hắt sáng, Ấu Nương sau khi đón nhận mưa móc lúc này vẫn còn mặt mày ngây ngất, tóc mai rối loạn, vẻ thiếu phụ thướt tha ấy đẹp đến nỗi khiến người phải nín thở.

Con tim Dương Lăng thoáng xao động, y đưa tay kéo nàng ôm vào lòng, hôn phớt lên môi nàng rồi cười nói:

- Trời còn tối mà, gọi tướng công dậy sớm như vậy, có phải là muốn tướng công trò chuyện cùng nàng không? Đêm qua tướng công mệt quá, cho nên... gần gũi nàng xong thì đã ngủ luôn.

Ấu Nương được y ôm vào lòng, con tim vui phơi phới, lại nghe y nhắc đến cái chuyện vừa xấu hổ vừa ngọt ngào kia, khuôn mặt càng đỏ ửng lên, nhất thời cả người mềm nhũn. Nàng vốn đang nũng nịu lay Dương Lăng dậy, nhưng giờ lại cảm thấy mình vừa bị tướng công ôm vào lòng thì ngay cả tay cũng đã mềm nhũn, không còn chút sức lực, thế là không kìm nổi vừa ngượng ngùng vừa quýnh quáng kêu lên:

- Tướng công, chàng mau dậy đi! Không còn sớm nữa đâu, sắp đến giờ Dần rồi. Thiếp đã làm xong bữa sáng, hôm nay chàng phải đi diện kiến hoàng đế đó!

- Hả? - Dương Lăng giật nảy mình. Y vốn chẳng có bao nhiêu ấn tượng với giờ Dần, giờ Mão gì gì đó của thời đại này, nhất thời không nghĩ rằng bây giờ bên ngoài mới chỉ có vẻ như hơn bốn giờ sáng mà đã đến giờ rồi.

Lúc này thì Dương Lăng cũng quýnh quáng lên, vội vàng trở mình ngồi dậy. Vừa ngồi dậy, y bỗng phát hiện trên đệm có một miếng vá vuông vắn. Tấm đệm giường này là tấm đệm được hai người mang theo từ Dương Gia Bình, do họ tạm thời chưa có thời gian mua sắm vật dụng mới. Tuy rằng trên đệm có mấy vết vá, nhưng Dương Lăng nhớ là chỗ này không hề bị rách. Y lấy làm lạ hỏi:

- Ấu Nương, chỗ này bị rách lúc nào vậy? Đừng có vá tới vá lui nữa, chi bằng hôm nào đó chúng ta đi mua ít vải bông làm lại giường đi!

Ấu Nương cụp hàng mi xuống, mặt đỏ như vải điều. Nàng thẹn thùng lấy từ sau lưng ra một miếng vải đã được gấp lại ngay ngắn, bẽn lẽn nói:

- Còn không phải đều là do chàng..., đây là... chuyện trọng đại của nữ nhi, thiếp lại không thể để lại ở chỗ đó, ngượng chết đi được.

Dương Lăng dòm dòm, miếng vải đó rõ ràng là mới vừa được cắt từ tấm đệm ra, hơn nữa, tuy đã được gấp lại, nhưng bên trên vẫn thoáng lộ ra màu đỏ.

- Ớ?... Ý? Ồ...

***************************

Mặt trời đã lên cao được ba con sào, Dương Lăng đang đứng bên ngoài điện Trung Hoà, bụng đói lép kẹp. Cái lão Hoàng đế này cũng thật làm cao quá đi, nếu đã không muốn tiếp kiến sớm thì bắt người ta dậy sớm thế để làm cái quái gì cơ chứ?

Lần đầu lên triều, hơn nữa lại không quen thuộc kinh thành, cho nên cơm sáng còn chưa kịp ăn thì Dương Lăng đã phải lật đật ba chân bốn cẳng chạy đến Tử Cấm Thành. Cũng phải nói là các quan viên trong triều đình này đều dậy rất sớm, lúc Dương Lăng đến nơi thì đã có rất đông đại thần đang chầu chực bên ngoài Ngọ môn.

Lúc được Lưu Cẩn dẫn vào hoàng cung thông qua lối nhỏ, Dương Lăng còn tưởng là mình được đãi ngộ đặc biệt, không ngờ rằng lại bị đưa thẳng đến điện Trung Hoà, sau đó được cho hay rằng Hoàng đế đã lên dự buổi tảo triều (1), khi về mới gặp y.

Chờ từ lúc trời còn tù mù cho đến tận hừng đông, rồi từ lúc hừng đông đến tận bây giờ, Dương Lăng uể oải nhìn cái bóng dưới chân mình, sau đó lại bắt đầu ngó nghiêng xung quanh. Lưu Cẩn dẫn y đến chỗ này xong thì không biết đã lặn đi đâu mất, để y đứng chờ một mình ở đây. Trước điện, thị vệ nghiêm mắt nhìn thẳng, không hề liếc y lấy một cái. Dương Lăng cũng không dám chủ động bắt chuyện. Những cung nữ thi thoảng ra vào điện thì dường như lại rất có hứng thú với y, lần nào cũng đưa mắt liếc nhìn.

Dương Lăng cũng trộm ngắm bọn họ. Tuy có câu rằng "con gái mười tám không có ai là xấu", nhưng phần lớn những cung nữ này cũng chỉ là dung mạo đoan trang, vóc dáng cân đối, không được như trên ti vi, cung nữ người nào người nấy đều xinh đẹp mê người. Dương Lăng ngó một hồi rồi cũng bắt đầu “nghiêm mắt nhìn thẳng” luôn.

Đang khi cái bụng lại "ùng ục" kháng nghị một hồi, Dương Lăng chợt trông thấy trước điện có một đội ngũ đang đi tới, phía trước là một vị tướng quân cao lớn dẫn đầu đội nghi trượng. Phía sau, bên dưới tán lọng màu vàng là một chiếc long liễn (*) được khiêng bởi tám gã thái giám đang đi về phía y. Tinh thần Dương Lăng lập tức trở nên phấn chấn.

(*: nguyên văn là "bộ liễn", một loại kiệu tám người khiêng của vua)

Vừa trông thấy long liễn, bọn cung nữ, thị vệ, thái giám gần xa lần lượt đều quỳ xuống đất. Vừa mới ưỡn lưng xong, Dương Lăng cũng vội vàng bắt chước quỳ theo. Đội ngũ đông đảo cuồn cuộn đi qua bên người y, tiến thẳng vào trong điện Trung Hoà, căn bản chẳng ghé mắt nhìn tới những người bên cạnh.

Dương Lăng vừa quỳ dưới đất vừa thầm lắc đầu, hoàng đế bất quá làm việc ở ngay trong nhà, vậy thì kiếm nhiều kẻ rảnh rang như vậy để làm gì chứ? Nhưng mà quả thực y không biết, đội nghi trượng này vẫn còn là ít. Nếu như hôm nay là ngày cử hành hội triều lớn thì trong đội nghi trượng còn sẽ có hai con hổ, báo, bốn con voi, năm chiếc lễ xa, đội ngũ đó càng đông đảo và hoành tráng hơn thế này nhiều. Đế vương đương nhiên phải có phong phạm của đế vương, mà phong phạm chính là dựa vào sự hoành tráng

Thấy một con kiến đang từ bên gối bò nhanh qua, Dương Lăng co ngón tay búng nó sang một bên. Con kiến lăn mấy vòng trên mặt đất rồi cuộn người lại giả chết. Một lát sau, phát hiện không có nguy hiểm gì, nó lại lật đật bò dậy rồi vội vã trốn đi.

Khoé miệng Dương Lăng không khỏi hơi nhếch lên, thoáng lộ một nụ cười: trong mắt hoàng đế, mình chẳng phải cũng chỉ như là một con kiến thôi sao. Y hơi ngẩng đầu, đội nghi trượng vẫn đang đi về phía trước, những kẻ cầm cờ, cầm lọng, cầm kim qua (2), nườm nượp nối đuôi nhau không dứt. Thấp thoáng dưới những lá cờ, một góc trời xanh thẳm và cao vời vợi hiện ra.

Dương Lăng nhìn đến ngơ ngẩn, trong lòng thầm nghĩ: “Hôm nay, có thể đi đến nơi trung tâm quyền lực của thiên hạ, mình đã không còn là một con kiến cỏn con nữa. Nếu cho mình thời gian và cơ hội, dưới bầu trời của trang lịch sử này, liệu mình sẽ là một lá cờ ngạo nghễ tung bay rồi tan biến theo năm tháng, hay là một toà lầu sừng sững mãi mãi không đổ sụp?”

Đội nghi trượng chia ra đứng ở hai bên hành lang, im lìm bất động. Phỏng chừng hoàng đế lão gia cũng đã đói, thế nên phải uống chút trà, ăn chút điểm tâm. Mãi một hồi lâu rất lâu sau mới thấy một tên thái giám đi ra ngoài cửa điện Trung Hoà, vung phất trần lên, giọng the thé gọi:

- Tuyên thị độc Dương Lăng tiếp kiến!

Lúc đi Lưu Cẩn đã dạy y một số lễ nghi căn bản của cung đình, thế nên Dương Lăng nghe xong bèn vội vàng bước lên, cất cao giọng nói:

- Thần Dương Lăng xin vâng mệnh.

Tiểu thái giám đó hơi mỉm cười nói:

- Dương thị độc, mời theo ta vào! - Nói đoạn hắn xoay người đi trước. Dương Lăng cúi đầu rảo bước vào theo.

Ở tiền thế, lúc đi thăm Cố Cung y cũng đã đến điện Trung Hoà này, nhưng bố cục và cách bài trí bên trong hiện giờ rõ ràng có chỗ không giống. Dương Lăng cũng không dám ngó nghiêng lung tung, chỉ cố theo chân tên tiểu thái giám đó đi vào trong. Đi đến cuối tấm thảm đỏ tươi, tiểu thái giám chợt lánh sang một bên, cao giọng nói:

- Thị độc Dương Lăng bái kiến hoàng thượng.

Dương Lăng biết người ngồi bên trên nhất định là đương kim thiên tử - hoàng thượng Hoằng Trị. Y quỳ xuống đất, hai bàn tay hướng về phía trước và áp xuống tấm thảm, dập trán lên đầu ngón tay, lấy đủ hơi rồi cất cao giọng nói:

- Vi thần Dương Lăng khấu kiến hoàng thượng.

Phía trên, một giọng nói khoan thai thanh nhã cất lên:

- Miễn lễ, bình thân!

- Tạ ơn bệ hạ! - Dương Lăng đứng dậy, cung kính lui qua một bên, đầu hơi cúi, mắt nhìn qua mũi tới thẳng chỗ tim. Tuy rằng trong lòng y cũng muốn tận mắt nhìn diện mạo vị hoàng đế Hoằng Trị này một chút, nhưng con mắt lại không dám ngó lung tung. Ánh mắt y chỉ khẽ động đậy, trông thấy phía trước có một đôi giày thuộc loại dành cho quan lại, dường như còn có một vị quan viên khác đang ở đây.

Giọng nói ung dung thanh nhã kia lại cất lên:

- Lưu khanh, cứ như vậy đi. Khanh hãy soạn chỉ nói với quốc vương Triều Tiên rằng thái tử tuổi còn nhỏ, vốn không cần dâng nữ tử tới làm gì. Có điều trẫm vẫn niệm tình hắn có lòng, mặc dù những nữ tử đó ai nấy đều da dẻ thô ráp, vừa béo vừa lùn, không được tốt lắm, song trẫm đều đã phong làm nữ quan.

Dương Lăng nghe mà méo mồm, thiếu chút nữa thì không nhịn được mà bật cười thành tiếng. Có lẽ lúc soạn chỉ vị Lưu đại nhân này sẽ không đưa nguyên lời nói thẳng như vậy vào, nhưng được chính tai nghe hoàng đế ban xuống thánh dụ thú vị như thế, quả thực cũng rất hiếm có.

Chỉ nghe vị Lưu đại nhân đó cười ha hả nói:

- Thần nghĩ quốc vương Triều Tiên cũng biết là thái tử nhỏ tuổi, cho dù có dâng lên nữ tử xinh đẹp thì cũng khó có thể được yêu thích, vậy nên đã lựa vài ả mà có cho đi cũng không tiếc để tống đến chỗ bệ hạ đấy.

Hoàng đế Hoằng Trị nghe xong cũng không kìm nổi cười rộ, rồi lão hổn hển nói:

- Vẫn là khanh mồm mép lanh lợi! Ha ha, hắn nhỏ mọn nhưng trẫm thì không thể hẹp hòi, lễ vật tặng lại không được làm mất khí phách của thiên triều ta. Đi đi, tự đi soạn chỉ là được.

- Vâng, thần tuân chỉ. - Vị Lưu đại nhân đó đáp lời, sau đó khom người lui ra.

Dương Lăng cũng nghe nói vị vua Hoằng Trị này chỉ yêu thương mỗi một mình đưong kim hoàng hậu, không lập thêm phi tần nào nữa. Hiện giờ thái tử lại nhỏ tuổi, nói không chừng quốc vương Triều Tiên lại thật sự có ý định này.

Vị Lưu đại nhân kia ở trước mặt hoàng đế mà vẫn dám bông đùa, chắc hẳn là cận thần được sủng ái bên cạnh Hoằng Trị, nhưng không biết là vị nào. Lão ta có quyền soạn chỉ... Nghĩ đến đây, trong lòng Dương Lăng máy động, chợt nhớ ra người đương thời khi bình luận về ba vị đại học sỹ trong triều có nói "Lý Công mưu trí, Lưu Công quyết đoán, Tạ Công ngay thẳng", chẳng lẽ vị Lưu đại nhân này chính là đại học sỹ Lưu Kiện (3)?

Lúc này chợt nghe Hoằng Trị nói:

- Ngươi chính là Dương Lăng ư? Ồ, tuổi so với thái tử cũng không lớn hơn bao nhiêu, tốt lắm, tốt lắm... A, ngươi là..., Dương khanh, ngẩng đâu lên đi!

(1) thời Minh hoàng đế có hai lần ngự triều, một là vào buổi sáng, gọi là "tảo triều" (lên triều sớm), hai là vào buổi trưa (giờ ngọ), gọi là "ngọ triều" (lên triều trưa).

(2) những dụng cụ dùng trong đội nghi trượng: cờ, lọng, vũ khí (xem hình cây "kim qua": http://imgsrc.baidu.com/baike/pic/item/c9bdddcefd3e843393457e50.jpg)

(3) Lưu Kiện (1433 - 1526), tự Hy Hiền, người Lạc Dương, Đại học sỹ trong triều thời kỳ Minh Vũ Tông. Cha là Lưu Lượng, chức Tam nguyên giáo dụ, có học hành. Thuở nhỏ lễ phép thận trọng, cùng giao du với đồng hương là Diêm Vũ Tích và Bạch Lương Phụ, được chân truyền của danh gia triết học duy tâm là Tiết Tuyên, người Hà Đông. Năm Thiên Thuận thứ tư đỗ tiến sỹ, được tuyển vào Hàn Lâm Viện làm biên tu. Đầu năm Thành Hoá, soạn ra "Anh Tông thật lục". Lưu Kiện giỏi về phán đoán, Tạ Thiên thiện về lập luận, Lí Đông Dương tính cách ôn hoà mà lại túc trí đa mưu. Thế nên đã có lời khen "Lý Công mưu trí, Lưu Công quyết đoán, Tạ Công ngay thẳng đĩnh đạc."

Chương 58 - Đối đáp lung tung

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Vo vong

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Nếu trách phạt quá nặng, e sẽ khiến tướng sỹ tiền phương e ngại, sau này giao chiến với địch sẽ không dám liều mạng, chỉ mong không sơ sẩy, chẳng cầu có công lao.

---------------------------------

Vốn Dương Lăng không hề có cảm giác kính sợ Thiên tử như những kẻ đọc sách đương thời, hơn nữa con người ta khi đói cũng rất thiếu kiên nhẫn cho nên y hoàn toàn chẳng có tâm tình để nói mấy câu của kẻ nô tài như kiểu "hạ thần sợ là…”, “hạ thần không dám…" gì gì đó, rồi còn phải đợi Hoàng đế cười vang mấy tiếng, phất tay phán cho một câu "Trẫm xá tội cho ngươi". Thế nên vừa nghe vua Hoằng Trị nói xong, y lập tức ngẩng đầu, đưa mắt nhìn ra đằng sau long án (bàn làm việc của vua).

Vị Hoàng đế này dáng người hơi mập một chút, trông rất uy nghi. Đầu ông ta đội mũ Dực Thiện (*), người vận long bào cổ chật, ống tay áo rộng, mặt mũi trông hơi quen quen. Trông thấy tướng mạo của y, vua Hoằng Trị bỗng dưng đứng dậy, lông mày hơi nhướng lên, cười ha hả nói:

- Hoá ra là ngươi!

(*) Xem :http://www.cchmi.com/Portals/0/diancpic/41%E9%87%91%E7%BF%BC%E5%96%84%E5%86%A0.jpg)

Dương Lăng "a" một tiếng, chợt nhớ tới cặp cha con mình đã gặp tối qua. Thì ra bọn họ là..., Dương Lăng vừa vui mừng vừa kinh ngạc thốt:

- Thì ra Hoàng thượng là...

Hoàng đế Hoằng Trị vội ho một tiếng, đưa mắt ra hiệu cho y. Dương Lăng lập tức tỉnh ngộ, vội vàng nuốt nửa câu còn lại vào bụng. Thời đó, Hoàng đế cải trang vi hành là một hành động đủ để khiến bá quan dâng sớ can ngăn. Tuy rằng hiện thời chung quanh đều là những kẻ hầu hạ cận kề Hoàng đế, chuyện Hoàng đế lén rời cung trong lòng bọn họ cũng biết rõ đến tám, chín phần, thế nhưng nói công khai trước đám đông thì lại là chuyện khác.

Thấy y khá cơ trí, ánh mắt Hoằng Trị không khỏi lộ ra vẻ hài lòng. Ông ta từ tốn ngồi xuống, mỉm cười bảo:

- Hoá ra là ngươi à, trẫm đọc đến tên của ngươi, mới sực nhớ ra thì ra ngươi chính là viên Dịch thừa ở Kê Minh đã chấp bút viết ra sự thật, chỉ rõ những thói xấu đương thời của bản triều đó. Ha ha ha, ngươi có biết chỉ vì một phong thư của ngươi mà giờ đây triều đình của trẫm đã cãi nhau ghê gớm lắm không?

Vừa nói ông ta vừa vê vê hàng lông mày, khuôn mặt tuy tươi cười, song lại thoáng lộ ra vẻ mệt mỏi khó che giấu. Không nằm ngoài dự đoán của Cẩm Y đề đốc Trương Tú, hôm nay tảo triều, bộ Hộ đã dâng sổ sách lên để biện giải cho mình, rũ bỏ trách nhiệm. Lúc đầu Hoằng Trị vốn chỉ ra lệnh cho Tam Pháp ty thương nghị xử phạt Hà tham tướng, thế nhưng giờ đây Hà tham tướng đã ở trong đại lao của bộ Hình hơn nửa tháng, bá quan trong triều thì lại dẹp y sang một bên mà bắt đầu quay sang cãi vã nhau, những chuyện dù có liên quan hay không đều được lôi ra tất tần tật, khiến Hoằng Trị nhức đầu không chịu nổi.

Thấy Hoàng thượng lộ vẻ mệt mỏi, một thái giám già chầu bên cạnh vội bước đến trước mặt, mở một chiếc hộp nhỏ. Dương Lăng ngửi thấy một mùi thơm nhàn nhạt, đưa mắt nhìn, chỉ thấy trên miếng gấm lót trong hộp có đặt một viên thuốc màu đỏ lớn bằng quả nhãn. Hoằng Trị nhón lấy viên thuốc đưa vào miệng rồi nhấp một hớp trà nuốt xuống.

Trong lòng Dương Lăng thầm máy động. Trong ấn tượng của y, các Hoàng đế triều Minh phần lớn đều đoản thọ, dường như không mấy người sống quá bốn mươi, nguyên nhân chính là vì bọn họ luôn lấy Đạo giáo làm quốc giáo, cá đời Hoàng đế đều thích uống đan dược do đạo sỹ luyện ra. Những đan dược này tuy có thể làm đầu óc tỉnh táo, nâng cao tinh thần, nhưng phần lớn đều mang độc tố mãn tính. Chẳng lẽ thứ Hoằng Trị uống cũng là loại đan dược kiểu này hay sao?

Thấy y ngẩn người, Hoằng Trị còn tưởng y bị lời mình vừa nói ban nãy làm cho hoảng sợ, bèn cười bảo:

- Ha ha! Ngươi ở nơi thấp hèn nhưng vẫn không quên lo lắng cho đất nước, trẫm rất lấy làm mừng, Dương khanh chớ nên lo sợ!

- Vâng!

Dương Lăng nhân cơ hội cố lấy can đảm tâu:

- Khải bẩm Hoàng Thượng, ở Kê Minh thần từng theo đại quân giao chiến cùng giặc Thát, cho nên đối với tình hình lúc bấy giờ cũng hiểu rõ được phần nào. Thần nghĩ, người Thát Đát tụ hợp hơn hai vạn quân xâm phạm Đại Minh ta, đại quân hai ngả Trác huyện và Xích huyện đều lập được công lao, cánh quân ở Hoài Lai tuy có phần tổn thất, nhưng công tội cũng đủ bù trừ. Thần mạo muội... nghĩ... Hà tham tướng quả không đến mức phải bị định tội.

Trong lòng Dương Lăng thật ra cũng khá thông cảm với vị Hà tham tướng nọ. Tuy rằng ông ta cũng có tư tâm, không điều động bộ đội chủ công chính quy đi chiến đấu với địch trước, nhưng khi đối mặt với giặc Thát, quả thật cũng đã vắt sức lo nghĩ, không dám buông lơi. Nếu như lúc đó không phải do hai vị Giám quân ba lần bảy lượt thúc giục, chưa hẳn ông ta đã nóng vội tiến công như vậy.

Giờ đây ông ta lại bị giam vào đại lao trở thành con dê thế tội, Dương Lăng cảm thấy có phần quá hà khắc. Cho nên y thừa dịp Hoàng đế đang cao hứng mà lấy can đảm tâu trình quan điểm của mình. Sau khi nói xong, tim y cũng đập thình thịch, trong lòng cực kỳ căng thẳng, chỉ lo vị Hoàng đế này cũng thuộc loại người buồn vui thất thường.

Uống viên thuốc màu đỏ kia xong, tinh thần Hoằng Trị đã tốt hơn rất nhiều, nghe được lời của Dương Lăng, ông bèn liếc nhìn y, hứng thú hỏi:

- Ngươi thử nói xem, vì lý do gì mà không nên trị tội hắn?

Sớm nay lên triều, bộ Binh, bộ Công, bộ Hộ, Ngũ Quân đô đốc phủ lại cãi nhau loạn cả lên, Hoằng Trị đau đầu chính là bởi chuyện này. Thế nhưng lúc này ông ta đã ở thế cưỡi lưng cọp, nếu như Dương Lăng có thể đưa ra một lý do giúp Hà tham tướng thoát tội, vậy thì những kẻ đòi trừng trị hắn cũng sẽ bỏ qua, quan viên các bộ tự nhiên sẽ không kỳ kèo chuyện này mãi nữa. Đây chính là kết cục mà Hoằng Trị đang cần vào lúc này.

Dương Lăng nghe Hoằng Trị nói bằng giọng ôn hoà, dũng khí vì thế cũng tăng lên, y sắp xếp lại dòng suy nghĩ một chút rồi tâu:

- Hoàng Thượng! Người Thát Đát dùng năm nghìn kỵ binh tinh nhuệ tấn công Kê Minh, lúc ấy quân phòng thủ trong thành không tới bốn trăm, may nhờ thành lũy kiên cố, hoả pháo lợi hại mới có thể tạm thời giữ vững. Nhưng ngay khi cổng thành bị đại pháo của giặc Thát bắn vỡ, sinh mạng hơn vạn dân chúng trong thành đã như chỉ mành treo chuông. Nếu không nhờ có Hà tham tướng kịp thời dẫn quân kéo đến cứu, trăm họ toàn thành làm sao thoát được cảnh lầm than, thành Kê Minh cũng nhờ thế mà không rơi vào tay giặc. Đây là một công.

Lúc tuyết lớn phủ dày trên núi, Hà tham tướng nóng lòng giết địch nên trúng phải mai phục. Đây là một tội. Như vậy là công tội có thể bù trừ.

Sau khi quân ta sa vào mai phục của quân địch, Hà tham tướng có thể dứt khoát cho lui quân, khiến quân Thát không thể bày trận có sức sát thương lớn, giảm thương vong của quân ta đến mức thấp nhất, sau đó quả thật chiến trận diễn ra không khác mấy so với giao phong chính diện. Vì vậy tuy chuyện trúng kế là thật, nhưng tổn thất lại không hẳn đã đạt đến mức như bị trúng kế.

Dương Lăng không hề đề cập đến những tổn thất về ngựa, chiến xa và quân nhu mà lúc quân Minh tranh nhau bỏ chạy trối chết ra khỏi cốc đã vứt bỏ lại, càng không đề cập đến sự can thiệp ngu xuẩn của hai vị Giám quân không hiểu gì về việc quân. Lúc này y vẫn còn thấp cổ bé họng, nếu nói ra chỉ e hiệu quả không lớn, ngược lại sẽ còn tự lôi mình vào cái vòng xoáy to lớn này.

Kế đó y liền lái câu chuyện qua hướng khác:

- Khải bẩm Hoàng Thượng! Vì thế nên thần cho rằng, binh sỹ Hà tham tướng không đông bằng đối phương nhưng lại đạt được kết quả chiến đấu như vậy, vẫn có thể xem là một viên lương tướng. Nếu trách phạt quá nặng, e sẽ khiến tướng sỹ tiền phương e ngại, sau này giao chiến với địch sẽ không dám liều mạng, chỉ mong không sơ sẩy, chẳng cầu có công lao. Đến lúc đó ai nấy lâm địch đều e dè chùn bước, chẳng phải khiến quân Thát càng thêm kiêu ngạo ư?

- Ồ...!

Hoằng Trị khẽ gật gù, như có điều nghĩ ngợi. Thoạt tiên nhận tin báo từ khoái mã của Lưu Cẩn, biết tiền phương hao binh tổn tướng, ông nổi cơn giận dữ nên mới lập tức lệnh cho Cẩm Y vệ giải Hà tham tướng về kinh luận tội.

Từ xưa, chốn quan trường là nơi mà người ta chỉ quan tâm tới lợi ích của bản thân, kẻ làm quan trong triều chỉ lấy việc "đoán mò ý vua" làm mục tiêu hàng đầu. Nếu Hoàng thượng muốn trừng trị một người nào đó, bọn họ sẽ vắt óc suy nghĩ gán tội danh cho kẻ ấy để Hoàng thượng có thể trừng trị hắn một cách “công bằng chính trực”. Những người phẩm đức cao thượng một chút, chỉ cần không ném đá khi người ta rơi xuống giếng đã là tốt lắm rồi. Có mấy ai lại chịu vì kẻ đó mà nói ra sự thật?

Những điều mà Dương Lăng vừa nói ra, đây là lần đầu tiên Hoằng Trị được nghe thấy, cho nên trong lòng lập tức máy động. Ông luôn tiếc nuối là mình không có tài như Thái tổ, Thành tổ, có thể vung roi nơi Tái Ngoại, khiến cho giặc Thát vừa nghe gió đã phải chạy dài. Nhưng là Thiên tử của Đại Minh, ông vẫn hy vọng ít nhất mình có thể khiến giặc Thát không dám tuỳ tiện xâm phạm biên giới, để cho con dân Đại Minh không đến nỗi bị quân man di chà đạp.

Có trừng trị một Hà tham thướng hay không, đó không phải là vấn đề lớn, nhưng nếu hình phạt quá nghiêm khiến biên quân sau này cứ sợ bóng sợ gió trong chiến đấu, thật không phải là điều hoàng đế Hoằng Trị mong muốn.

Xem ra hồi phong ba "luận tội" khiến cho kinh sư chao đảo lần này có thể lắng lại tại đây rồi. Hoằng Trị âm thầm tính toán trong lòng, chủ định đã có, song vẻ mặt vẫn thản nhiên như không, ông cười rồi hỏi tiếp:

- Vương Thủ Nhân ở bộ Binh đã dâng lên một tấu chương, tỏ ra rất mực tôn sùng đạo luyện binh mà ngươi đề cập đến. Hôm nay ngươi cứ nói thoải mái, để trẫm xem thử nó có chỗ nào độc đáo nào!

Dương Lăng có phần sầu não, trong bụng nhủ thầm: "Rốt cuộc Thị độc là làm cái gì đây? Chẳng lẽ không phải là làm bạn học với con trai ông sao? Sao lại giống như đang mời thầy về dạy thế này? Bộ còn muốn kiểm tra trước hay sao?" Thế nhưng y lại không rõ, Hoàng đế phải lo nghĩ rất nhiều việc, nếu ông có lòng muốn kiểm tra bản lãnh của một người nào thì chính là có ý quý tài muốn trọng dụng. Nếu đổi lại là một vị quan thành thạo quy tắc quan trường, lúc này nhất định sẽ phấn chấn tinh thần, hận không thể trổ hết thập bát ban võ nghệ ra lập tức để chiếm cảm tình của Hoàng đế.

Dương Lăng suy nghĩ một lúc, thầm so sánh một số tình hình bản thân quan sát được và tình hình quân đội đời sau, rồi nói:

- Khải bẩm Hoàng Thượng! Thần thấy tướng lĩnh trong quân đội năng lực không đồng đều, tuy có tướng quân dũng mãnh, nhưng phần nhiều chỉ coi trọng sức mạnh cá nhân, không hề có sở trường về trị quân.

Hơn nữa, thiên hạ hiện giờ trọng đạo khinh khí (Đạo ở đây là đạo lý, lý luận, còn khí tức là những thứ kỹ thuật, dụng cụ - ND.), trọng văn khinh võ, quân công trăm trận không bằng một bài văn chương cẩm tú, khiến đa phần những người văn võ song toàn đều bỏ võ mà theo văn, thế nên lương tướng càng thêm khó cầu.

Vả lại trong quân đội hiệu lệnh thì không đồng nhất, vũ khí giáp trụ thì không giống nhau, lương thảo cung ứng cũng không đồng đều, thường ngày huấn luyện cực ít, cho dù có sức chiến đấu cũng khó mà phát huy. Ở Kê Minh thần thường được thấy quân đội thao diễn, lúc ấy cờ xí rợp trời, áo quần rực rỡ, đao thương sáng loáng, chiên trống rền vang, trông rất oai nghiêm hùng tráng. Thế nhưng vì phần lớn thời gian binh sỹ chỉ diễn tập trên những trận hình như thế này, xem trọng bề ngoài mà không quan tâm đến hiệu quả thật, cho nên thật sự không có bao nhiêu tác dụng.

Quân đội cần phải luyện tập hằng ngày, cho dù thế nào đi chăng nữa cũng phải bỏ ra một chút thời gian vào diễn tập dã chiến, như thế thì tân binh mới có thể trở thành binh sỹ lão luyện, binh sỹ lão luyện mới có thể trở thành tinh binh. Khi ấy quân đội Đại Minh ta với hoả khí được trang bị, nhất định sẽ là một mũi nhọn sắc bén. Nếu dùng tốt, giặc Thát sẽ không chịu nổi một đòn. Nhưng binh khí dù tốt thì cũng phải có người sử dụng, trong khi đó quân sỹ bây giờ kẻ biết dùng súng đạn đã là khó kiếm, đừng nói là thành thạo. Cho nên, thần nghĩ rằng luyện binh bằng thực chiến mới là cách hữu hiệu nhất để quân đội mạnh lên.

Sắc mặt Hoằng Trị hơi sầm xuống. Cái tệ nạn "tướng không biết quân, quân không biết tướng" không phải là ông không biết, nhưng chia tách binh lực, hạn chế binh quyền là thủ đoạn quan trọng để đế vương nắm vững quân quyền. Nếu cho phép tướng lĩnh hoàn toàn khống chế quân đội, thao luyện diễn tập thường xuyên, vậy chẳng phải là trao quyền hành vào tay kẻ khác hay sao?

Thoáng thấy sắc mặt của Hoằng Trị, Dương Lăng biết là hỏng bét rồi. "Từ xưa đến nay, đế vương lo nhất chính là chuyện soán ngôi đoạt quyền, những gì mình nói chẳng phải là phạm vào điều kiêng kỵ của lão ta sao?" Nghĩ thế y bèn vội vàng nói tiếp:

- Cho nên thần nghĩ, có thể tuyển chọn lương tướng làm giáo đầu chuyên trách luyện binh, cứ nghìn người thì lập thành một đoàn, huấn luyện cho họ năng lực chủ động tác chiến và ứng biến khi lâm địch. Đến khi chiến sự nổ ra, người cầm quân chỉ cần đứng giữa điều khiển, cho dù chủ soái không có mặt, sự phối hợp giữa các đạo quân cùng lắm cũng chỉ bị sai lệch một chút, tuyệt đối sẽ không xuất hiện cục diện ‘tướng soái vắng mặt thì toàn quân tan vỡ’.

Nói tóm lại, thần cho rằng từ xưa đến nay vua chúa các đời đều là trọng tướng không trọng binh, thường có câu rằng ‘ba quân dễ kiếm một tướng khó cầu’, nhưng dùng phép luyện binh này thì lại là trọng binh không trọng tướng. Hãy xem kỵ binh tinh nhuệ của Mông Cổ năm xưa, những tướng lĩnh cầm quân của họ có mấy ai đã từng đọc qua binh thư chiến sách, hiểu biết văn thao võ lược? Nếu toàn quân đều dũng mãnh thiện chiến, cho dù không có lương tướng thì cũng có ai có thể địch lại đây?

Y phải cố nghĩ cách chuyển đổi một số thuật ngữ hiện đại thành lời mà Hoằng Trị có thể hiểu được rồi nói cho ông ta nghe, cho nên có chỗ diễn đạt không được trọn ý. Thật ra, điều mà y muốn nói chính là tăng cường năng lực chủ động tác chiến của các đơn vị cấp độ từ đoàn trở xuống trong quân đội, tướng lĩnh cao cấp chỉ phụ trách đứng giữa điều khiển mà không phải tự làm hết mọi việc. Làm như vậy mặc dù là trao quyền nhiều hơn cho quân đội, nhưng quyền lực thực chất của các tướng lĩnh cao cấp lại không có gì thay đổi, cho nên thực tế thì quyền kiểm soát của Hoàng đế lại càng tăng thêm.

Hoằng Trị nghe đến phần sau, lờ mờ cảm thấy nội dung mà y nói dường như vừa có thể tránh xảy ra tình trạng thần tử nắm giữ binh quyền mà sinh lòng tạo phản, lại vừa có thể đề cao năng lực tác chiến của quân Minh, nhưng nhất thời lại không hiểu thấu được hoàn toàn.

Ông đang định hỏi thêm, cụ thể hơn thì vị thái giám già bên cạnh khẽ bước lên thấp giọng nhắc:

- Bệ hạ, ngọ triều sắp bắt đầu rồi, người xem...

Hoằng Trị khẽ ồ một tiếng rồi bảo Dương Lăng:

- Ừm, lời ái khanh rất có lý, trẫm sẽ cân nhắc. Người đâu, thưởng cho Dương Lăng ngự bài đi lại trong cung, ban cho xuất thân đồng tiến sỹ, bắt đầu nhậm chức Đông cung Thị độc ngay trong hôm nay. Hãy đưa Dương khanh đến Xuân Phường đi!

- Tạ ơn Hoàng Thượng!

Dương Lăng quỳ xuống tạ ơn, hai tay tiếp nhận một miếng ngọc bài cho phép ra vào cấm cung mà thái giám đưa cho, sau đó đi theo tên tiểu thái giám đã dẫn y đi vào lui ra ngoài.

Dương Lăng đi theo tên tiểu thái giám qua cổng Càn Thanh, thẳng đến Xuân Phường, nơi thái tử ở. Sau khi bước vào một tòa cung điện, Dương Lăng đứng chờ ở ngoài cửa, còn tên tiểu thái giám vào trong bẩm báo. Một lúc sau, cửa cung điện mở ra, một viên quan trạc ngũ tuần bước ra, phất ống tay áo, hầm hầm bỏ đi, không thèm liếc Dương Lăng lấy một cái.

Dương Lăng đang ngẩn người nhìn theo bóng lưng ông ta thì tên tiểu thái giám đưa tin cũng đã bước ra theo. Y nhìn về phía Dương Lăng nói:

- Dương thị độc, giờ ngài hãy chờ ở đây đi! Cốc công công đã biết rồi, chờ một lát Thái tử gia sẽ triệu kiến ngài. Ta về trước đây.

Dương Lăng đứng nguyên tại chỗ, chờ cho đến khi gót chân mỏi nhừ. Thấy trong cung này bốn bề tĩnh mịch, không hề có cung nữ, thậm chí thái giám cũng không thấy một ai, y nhân cơ hội khom lưng vận động thân thể đang mỏi nhừ một chút. Bỗng nhiên lưng y chợt trầm xuống, ngay sau đó vai như bị siết lại, tựa như có vật gì đó đang bò lên vai y, Dương Lăng sợ hãi giật nảy mình.

Y vừa xoay đầu, một khuôn mặt Thiên Lôi lông lá vừa vặn đối diện với y. Trên khuôn mặt xấu xí đó, một cặp mắt nhỏ xíu xoay tròn đang trừng mắt nhìn y không chớp.

Dương Lăng kinh hoảng la to một tiếng. Không đợi y tóm lấy, khuôn mặt Thiên Lôi kia còn bị tiếng la của y làm cho hoảng sợ hơn, lập tức rụt đầu lại, thoắt một cái đã phóng tót lên đầu y. Lúc này, từ nơi cửa điện phụ vọng lại giọng đùng đục bể tiếng của một thiếu niên:

- Cốc Đại Dụng, Lý đại học sỹ đã đi chưa? Úi, ngươi là ai? Đừng có cử động lung tung kẻo tiểu hầu nhi của ta nổi nóng! Cẩn thận không nó cào khắp mặt ngươi đó!

Chương 59 - Đào tạo cướp biển

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Vo vong

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Dương Lăng mỉm cười. Trước mặt y là một cậu nhóc chưa hiểu mấy về phải trái đúng sai, là một tờ giấy trắng có thể tô cũng có thể xóa. Lý học sỹ dạy cho y lễ nghĩa liêm sỉ, dạy cho y lối tự mãn của thiên triều; Cốc Đại Dụng lại dạy y ăn chơi hưởng lạc, hoang dâm vô độ; vậy thì phải để cho Dương Lăng ta dạy y nhìn ra thế giới, hướng lòng tham lam và dã tâm ra bốn bể!

Giáo dục, phải bắt đầu từ bé...

---------------------------------

Dương Lăng quay đầu nhìn lại, thấy một cậu thiếu niên đứng ngay sau lưng mình đang vỗ tay cười lớn. Tiếng cười còn chưa dứt, cậu ta vừa thấy mặt y thì đột nhiên trợn mắt há mồm, ngớ người chăm chăm nhìn y, một lúc lâu sau mới phấn khích hô to:

- Là ngươi à? Ngươi là thị độc của ta sao? Cái gã... gã Dương Lăng, dịch thừa ở Kê Minh chính là ngươi hả?

Vừa rồi Dương Lăng được diện kiến Hoằng Trị nên đã sớm biết tiểu thư sinh mà mình gặp hôm qua chắc chắn là Chính Đức rồi, cho nên cũng không bị bất ngờ. Y cười gượng, cúi đầu trả lời:

- Thái tử điện hạ! Vi thần chính là Dương Lăng, xin thứ cho vi thần không thể làm lễ với Thái tử được, vì... vì...

Chu Hậu Chiếu cười hì hì, khoát tay nói:

- Không cần hành lễ, không cần hành lễ! Ngày nào cũng làm lễ, phiền chết đi được!

Lúc này, một gã thái giám béo ú đang dắt theo một con chó đen lớn cao bằng nửa thân người từ trong cung điện đi ra, hắn cười hì hì:

- Thái tử gia! Vừa rồi nô tài thật sự là sợ chết khiếp đó. Con chó này trốn trong tủ chẳng chịu ngoan ngoãn gì cả, lão nô đã vứt mấy cục xương thịt vào trong rồi mà nó vẫn ư ử suốt, suýt chút nữa thì bị Lý học sỹ phát hiện.

Dương Lăng cẩn thận quan sát Cốc Đại Dụng. Y thấy hắn vóc người mập lùn, mặt tròn, mày rắn, mắt lươn, khuôn mặt tươi tắn. Nếu không sớm biết sự tích về sau của kẻ này thì Dương Lăng thực sự cho rằng hắn rất hòa ái tốt bụng, khiến người khác cực kì yêu mến.

Chu Hậu Chiếu cười như một đứa trẻ đắc ý, hỏi gã:

- Đại Dụng! Lý thái phó đi rồi sao?

Cốc Đại Dụng cười vuốt đuôi:

- Chỉ trong hai canh giờ mà Thái tử gia chui ra chui vào nhà xí tới tám lần, Lý đại nhân sớm đã khó chịu rồi. Mặc dù hôm nay ngài ấy không phải chầu triều sớm nhưng phải tới dự ngọ triều, vừa nãy không chờ được nữa nên đã xin cáo lui trước rồi.

Chu Hậu Chiếu cười ha hả, y nhón mũi chân bước đi, lắc lư người ba lần, vươn cổ thẳng đơ, giống như một con lật đật, nói chậm rì rì:

- Quân tử cầu học đạo - không cầu ăn uống, quân tử lo không học được đạo - không lo nghèo. Kẻ làm quân vương - phải biết nhân từ, kẻ làm bề tôi - phải biết cung kính, kẻ làm con - phải biết hiếu thuận, kẻ làm cha - phải biết nhân từ, giao thiệp với người khác - phải biết giữ chữ tín....

Chu Hậu Chiếu đọc xong liền cau mày than thở:

- Thánh nhân chỉ nói một câu về lễ, nghĩa, nhân, trí, tín, Lý đại học sĩ lại lôi ra một đống dẫn chứng, trích dẫn đủ thứ kinh thư điển tịch, đã giảng giải mất bảy ngày trời rồi. Ta thấy thật kỳ quặc, cái đầu của thánh nhân trông nó như thế nào nhỉ, lúc nói ra câu đó, ông ta có thực sự nghĩ nhiều và kỹ như vậy không? Muốn dạy ta trở thành quân vương thì phải giảng đạo trị quốc chứ, sao mà mỗi câu đều cứ phải lôi bằng được các bậc thánh nhân từ cả nghìn năm trước vào, như kiểu nếu không làm thế thì người khác sẽ không phục vậy. Thực sự là cực kỳ nhạt nhẽo, ta nghe mà chán muốn chết.

Y phất tay, giống như vừa trút được gánh nặng:

- Đi rồi thì tốt, đi rồi thì tốt! Ông ta đi rồi thì ta cũng trở vào trong thôi!

Chu Hậu Chiếu đưa tay huýt gió gọi con khỉ đang ngồi chồm hỗm trên đầu Dương lăng nhưng nó vẫn nghìn ngang nhìn ngửa, không buồn để ý tới y. Chu Hậu Chiếu nhếch miệng cười:

- Xem ra con khỉ của ta rất thích ngươi đó, đi thôi! Dương thị độc! Chúng ta vào trong nào!

Dương Lăng méo mặt bám theo sau Chu Hậu Chiếu bước vào thư phòng dành cho Thái tử đọc sách. Tuy gọi là thư phòng nhưng lại giống một cung điện lớn, rất vắng vẻ, chỉ có hai gã tiểu thái giám phục dịch đứng ngay sát cửa. Thấy con khỉ ngồi chồm hỗm trên đầu Dương Lăng, hai tên này không nhịn được phải che miệng cười trộm.

Chu Hậu Chiếu thoải mái ngồi xuống một cái ghế thấp được sơn sáng bóng, liếc nhìn Dương Lăng với vẻ vô cùng hứng thú, đoạn vui vẻ cười bảo:

- Tới đây nào! Dương thị độc ngồi đi! Để ta bảo Đại Dụng cho ngươi xem trò khỉ cưỡi chó, còn có phi qua vòng lửa, rất hay đó.

Dương Lăng cẩn thận ngồi xuống sau một cái bàn. Chu Hậu Chiếu lấy mấy trái cây trên đĩa ném xuống dưới đất, con khỉ đang trên đầu Dương Lăng liền lao xuống nhặt, ngồi xổm dưới đất gặm ăn.

Chu Hậu Chiếu bảo Cốc Đại Dụng:

- Ta đói rồi, mang tới đây cho ta chút đồ ăn đi!

Cốc Đại Dụng đang buộc con chó vào cây cột trong điện, nghe xong liền bảo mấy câu với tên thái giám trước mặt, tên thái giám đó phóng đi như bay.

Nơi Thái tử đọc sách chỉ có thái giám, không có cung nữ hầu hạ. Chỉ một lát sau, tám tên tiểu thái giám bưng mâm đi vào. Vốn Dương Lăng đang đói meo, ngửi thấy mùi thức ăn, bụng y liền sôi ùng ục.

Tiểu Thái tử thính tai nghe được, thế là bèn vừa cười vừa chỉ về phía trước Dương Lăng nói:

- Bày ở đó, bày ở đó! Nếu như trong cung của Thái tử ta mà có người chết đói thì đúng là chuyện khiến người ta cười đến rụng răng mất!

Chu Hậu Chiếu nói xong liền cười hì hì đứng lên, tùy tiện bước tới ngồi xuống bên cạnh Dương Lăng, đưa cho y đôi đũa bạc, nói:

- Ăn đi, nếm thử xem thức ăn trong cung của ta thế nào!

Dương Lăng thấy vị hoàng đế Chính Đức trong truyền thuyết này chẳng hề có vẻ kiêu căng phách lối chút nào, cảm giác gò bó liền biến mất. Có Dương Lăng ngồi cùng, dường như Chu Hậu Chiếu ăn cũng ngon miệng hơn, y vừa ăn vừa nói với Dương Lăng:

- Hôm nay ngươi không tới nghe Lý thái phó giảng bài cho nên buổi chiều cũng chẳng có gì để giảng giải cho ta cả nhỉ! Phải rồi, hôm qua ngươi có nói tới thứ gì đó gọi là đấu bò tót, mau kể cho ta nghe đi!

Dương Lăng vốn cho rằng thị độc chỉ cần nghe giảng cùng với thái tử, không để cho Thái tử quá buồn chán là được, giờ nghe ý tứ của Chu Hậu Chiếu, dường như thị độc còn phải phụ trách giải đáp thắc mắc khi Thái tử tự học. Nếu như quả thật vị Thái tử này chuyên cần hiếu học, tên thị độc dốt nát mình đây chắc sẽ lộ tẩy ngay tại chỗ mất?

Dương Lăng nghĩ tới đó không khỏi mừng thầm, y vừa nhấm nháp của ngon vật lạ do ngự trù nấu nướng vừa kể về môn thể thao đấu bò tót ở Tây Ban Nha cho Chu Hậu Chiếu nghe. Hiểu biết của Dương Lăng về môn thể thao này rất ít ỏi, thế nên y chỉ tập trung kể những chuyện cười về những đấu sĩ bò tót sẩy tay bị bò tót đuổi loạn khắp sân và bị húc văng khỏi đấu trường. Dương Lăng vốn giỏi mồm mép, lại cố ý thêm mắm thêm muối, không chỉ Chu Hậu Chiếu say mê mà ngay cả Cốc Đại Dụng và những tiểu thái giám dâng cơm đang đứng ở bên cạnh cũng nghe đến nhập thần.

Dương Lăng thấy Cốc Đại Dụng đang cười ngặt nghẽo mà trong lòng thầm cảm thấy xấu hổ, trước mặt mình là những ai chứ? Một kẻ là hôn quân tương lai nổi tiếng dâm đãng, còn kẻ kia là tên đại gian đại ác lừng danh. Còn mình thì sao? Mang tiếng là thị độc nhưng lại đóng vai một tên lộng thần, một tên hề mua vui cho Thái tử.

Không sai, y chẳng có dã tâm gì cả, thế nhưng đã tới cái thế giới này rồi, y không thể biến mình thành một khán giả thờ ơ với sự đời được. Về mặt tình cảm y cũng chẳng khác gì những người Hán hiện nay, trang bi thảm nhất trong lịch sử Trung Quốc đối với y vốn chỉ là lịch sử, là quá khứ đã qua, y chẳng thể làm gì được, nhưng bây giờ, hết thảy còn chưa diễn ra. Đế quốc Đại Minh lúc này vẫn là quốc gia giàu có nhất thế giới, vận mệnh đã sắp đặt y tới trước mặt quân vương của Đại Minh, lẽ nào y lại không bỏ ra một phần sức lực?

Sự suy tàn của triều Minh chủ yếu là do tư duy của bọn họ quá bảo thủ. Kẻ thống trị, thậm chí cả giai cấp thống trị đều mù quáng tự cao tự đại, bế quan tỏa cảng. Bây giờ là thời điểm cả thế giới đang phát triển mạnh cùng chủ nghĩa tư bản đang chuyển mình, nếu như Trung Quốc có thể giữ mối liên hệ mật thiết với thế giới thì tư tưởng và nhận thức của cả giai cấp thống trị sẽ ngầm chịu ảnh hưởng, nhất định sẽ có thể phát triển theo hướng tích cực hơn.

Người trước mặt mình là ai chứ? Là Hoàng đế Đại Minh tương lai đó! Đại Minh lúc này đang thiếu thứ gì? Chính là thiếu chí tiến thủ! Nếu như có thể khiến vị Thái tử trước mặt này nhìn xa trông rộng hơn, ở thời kỳ quân quyền tối cao này, một suy nghĩ của y cũng có thể sinh ra tác dụng không để đoán trước được với sự phát triển của lịch sử. Lịch sử... thực sự là không thể thay đổi sao?

Dương Lăng nghĩ tới đó, trong lòng thầm thấy rộn ràng. Y cố giữ bình tĩnh, nói với Chu Hậu Chiếu:

- Thái tử, nếu người thích nghe, vi thần có thể kể mấy chuyện khác cho người.

Chu Hậu Chiếu vui mừng quá đỗi, bèn gật đầu liên tục. Mặc dù y là Thái tử nhưng đời sống tinh thần lại kém xa trẻ em thời hiện đại, dùng từ khô khan vô vị để hình dung cũng không quá đáng chút nào. Lúc này nghe Dương Lăng kể những chuyện mới lạ y mới biết trên thế giới này còn có rất nhiều thứ đặc sắc và hay ho như thế, cũng biết trời đất rộng lớn đến mức nào. Vốn đang nghe đến say mê nên Dương Lăng vừa đề nghị như vậy, cậu thiếu niên Chính Đức bèn vội vàng bảo với Cốc Đại Dụng:

- Đại Dụng! Kêu người báo với Trí Vân thiền sư hôm nay không học Phạn văn nữa!

Dương Lăng nghe vậy thì rất ngạc nhiên, không ngờ Chu Hậu Chiếu còn học cả ngoại ngữ nữa. Mà qua cách y tùy ý bảo thái giám hủy giờ học, rất hiển nhiên là môn học đó không phải do hoàng đế sắp xếp cho y. Hình tượng Chính Đức này khác rất xa kẻ hoang dâm vô độ, vô công rồi nghề mà Dương Lăng biết.

Dương Lăng thong thả kể chuyện cướp biển Tây Ban Nha. Những nữ vương cướp biển tóc đỏ, thuyền trưởng cướp biển chột mắt được y gia công gộp lại thành một chuyện. Vẫn duy trì được sự thú vị cho câu chuyện, y còn kể thêm về việc tranh chấp bá quyền trên biển của các nước châu Âu đang diễn ra vào thời điểm hiện tại. Thậm chí y còn hư cấu thêm một nước tương tự với Đại Minh ở bờ kia đại dương, nằm cách Đại Minh còn xa hơn các nước Ả-Rập, y kể lại câu chuyện từ lúc nó hùng mạnh, giàu có, cho đến khi suy bại, chịu đủ sự lăng nhục.

Chuyện cướp biển đầy hấp dẫn khiến Chu Hậu Chiếu vốn thích phiêu lưu nghe đến mê mẩn. Dương Lăng bắt đầu kể đến đoạn các nước châu Âu vì tranh giành quyền bá chủ trên biển, bề ngoài thì tuyên bố không đội trời chung với cướp biển nhưng lại ngấm ngầm nuôi dưỡng và sai chúng tấn công thuyền buôn nước khác. Cốc Đại Dụng ở bên hơi chau mày, tỏ ra khinh thường các nước nhỏ man di này không biết sĩ diện.

Tiểu Chính Đức thì lại xoa tay, giọng say mê:

- Hay quá, có triều đình chống lưng phía sau, lại không làm mất thể diện của triều đình, chuyện làm ăn lãi như vậy, cướp biển lại hay như vậy, ngay của ta cũng muốn thử một phen, há há há...

Dương Lăng mỉm cười. Trước mặt y là một cậu nhóc chưa hiểu mấy về phải trái đúng sai, là một tờ giấy trắng có thể tô cũng có thể xóa. Lý học sỹ dạy cho y lễ nghĩa liêm sỉ, dạy cho y lối tự mãn của thiên triều; Cốc Đại Dụng lại dạy y ăn chơi hưởng lạc, hoang dâm vô độ; vậy thì phải để cho Dương Lăng ta dạy y nhìn ra thế giới, hướng lòng tham lam và dã tâm ra bốn bể!

Giáo dục, phải bắt đầu từ bé...

Chương 60: Hải đồ Trịnh Hòa

Dịch: 6300

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Shandian

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Dương Lăng tràn đầy tự tin, giả làm bộ dạng của một lão thần ung dung đáp:

- Thái tử cứ yên tâm! Chỉ cần dùng kế này là nhất định có thể bịt được tai mắt của ngự y.

---------------------------------

Nước Thiên Phương, quốc gia cổ có nền văn minh tự cung tự cấp, có quá nhiều điểm giống với triều Minh đến nỗi Chu Hậu Chiếu không biết tự lúc nào đã coi nó chính là quốc gia của mình, cảm tình với Thiên Phương quốc tự nhiên tăng lên.

Khi y nghe tới đoạn quốc gia hùng mạnh này dần dần tụt hậu so với các nước phương tây, trong khi các nước phương tây bước vào thời kỳ Phục hưng, khoa học kỹ thuật phát triển, Thiên văn, Vật lí, Hóa học đều tiến bộ cực nhanh, đã mài đao xoèn xoẹt với ý đồ xâu xé chiếc bánh ngọt Thiên Phương, mà đất nước Thiên Phương lại mù quáng tự cao tự đại, không ngừng suy bại, khiến cho y tức đỏ mặt, căm hận đập bàn chửi:

- Tên hoàng đế đó thực là cực kì ngu xuẩn, làm ta tức chết mất!

Nghe tới quân đội tám nước dựa vào thuyền chắc pháo mạnh, chỉ vài nghìn người ít ỏi mà tấn công được vào kinh sư của Thiên Phương quốc, thiêu rụi cả một công trình vĩ đại có một không hai được xây dựng bởi sức lực của cả nước, ngay cả Cốc Đại Dụng cũng tức giận đến mặt nổi gân xanh, the thé nói:

- Hoàng đế nước đó thật quá ngu xuẩn, mấy chục vạn đại quân mà lại không chặn nổi vài nghìn quân ít ỏi! Đáng thương! Đáng hận!

Dương Lăng than thở:

- Ban đầu những quốc gia đó so với nước Thiên Phương đều nghèo túng như ăn mày, nhưng bọn họ không hề tự đại, lại rất chú trọng giao lưu. Quốc gia này phát minh ra khoái thuyền, quốc gia khác liền lập tức học được. Quốc gia kia phát minh được đại pháo có tầm bắn xa và uy lực lớn hơn pháo Đại tướng quân, ngay lập tức có nuớc phái người tới học tập, sau đó phát minh ra đại pháo còn lợi hại hơn. Bọn họ phát triển không ngừng, còn nước lớn kia thì lại bế quan tỏa cảng, cho rằng mình đứng đầu thiên hạ, sao mà không bại cho được?

Chu Hậu Chiếu lại đập bàn nói:

- Cái loại thuyền cướp biển ba cột buồm với thuyền nhỏ có nhiều buồm đó thì lợi hại lắm hay sao? Ta thấy rằng chính nước Thiên Phương kia mới là kẻ vô dụng, nếu gặp phải đại chiến hạm của bổn triều thì... hừ hừ!

Y quay sang hỏi Cốc Đại Dụng:

- Đại Dụng, bản vẽ bảo thuyền đi Tây dương từ thời Vĩnh Lạc (1) để ở đâu rồi? Mang tới đây cho ta, để Dương thị độc xem xem, so với thuyền nhỏ của Tây phiên kia thì ai hơn ai?

Cốc Đại Dụng khom lưng, khuôn mặt béo tròn tươi cười kèm theo sự kính cẩn, trả lời:

- Bẩm thái tử gia, tất cả bản đồ biển, bản vẽ bảo thuyền của chuyến Trịnh công công tới Tây dương vốn giao cho bộ Công ở Nam Kinh, thời hoàng đế Anh Tông đã chuyển đến bộ Binh ở kinh sư, lúc ấy định dùng khi vượt biển đến phương Tây lần nữa. Nhưng thị lang Lưu Đại Hạ nghe được chuyện này, cảm thấy việc lưu thông với phương tây làm hao tài tốn của, chẳng có ích gì, bản đồ biển này quả là mầm họa quốc gia, cho nên y đã giấu nó đi. Nô tài phỏng đoán rằng, bây giờ nó vẫn còn bị quẳng trong đại khố của bộ Binh.

Dương Lăng nghe xong người run lên, buột miệng nói:

- Gì cơ? Tấm bản đồ kia vẫn chưa bị đốt đi sao?

Y nói xong mới nhận ra là đã lỡ lời, trong lòng hối hận không thôi. Mặc dù y nhớ trong sách sử có nói rằng hải đồ kia đã bị Lưu Đại Hạ, một kẻ chính trực nhưng thiển cận, đốt mất rồi, nhưng lại không nhớ chuyện xảy ra khi nào, nếu như hiện tại vẫn chưa xảy ra việc này, há không phải khiến người ta nghi ngờ sao?

Cốc Đại Dụng cười híp mắt lườm y, thầm nghĩ:

"Quả nhiên tên Dương Lăng này là người của Cẩm Y vệ, vòi của bọn họ vươn rộng thiệt, ngay cả chuyện cực kỳ bí mật này mà cũng biết, hé hé! Tiếc là y có biết nhưng lại không kĩ càng tỉ mỉ như mình."

Cốc Đại Dụng cố ý khoe khoang, đắc ý cười:

- Dương thị độc có chỗ không biết rồi, chuyện đó chỉ là truyền bậy mà thôi. Lúc đó Lưu Đại Hạ chỉ là một thị lang nho nhỏ, mặc dù y không muốn cho hoàng đế thấy tấm hải đồ đó nhưng cũng không có gan đốt nó đâu. Những thứ đó chất đầy cả năm hòm lớn đó, nếu như y muốn đốt đi, há có thể che mắt người khác? Chẳng lẽ y không cần mạng nữa hay sao? Ha ha, lúc đó y thuyết phục thượng thư bộ Binh là đại nhân Hạng Trung. Hạng đại nhân cho rằng lời hắn nói có lí mới ngầm ưng thuận cho y giấu thứ đó đi, chỉ tâu dối với hoàng đế Anh Tông là công văn từ Nam Kinh chuyển đến quá nhiều, không tìm thấy tung tích, dự tính nếu như hoàng đế Anh Tông đòi gấp quá thì lại mang trình lên. Thực ra lúc đó hoàng đế Anh Tông cũng có nhớ đến chuyện này nhưng khi biết công văn đã bị thất lạc thì cũng không để tâm cho lắm, chính vì thế mà chuyện này đã được giấu đi.

Dương Lăng bán tín bán nghi hỏi:

- Lời Cốc công công nói là thật sao? Bản hải đồ đó .... đến bây giờ mà vẫn còn sao?

Chu Hậu Chiếu cười ha hả:

- Cốc Đại Dụng nghe nhiều nhớ lâu, đây chính là sở trường của y. Đại Dụng đọc sách không nhiều nhưng trí nhớ lại rất tốt, y nói còn tất nhiên là còn rồi. Y vốn phục vụ tại Đông Xưởng. Mũi của bọn Đông Xưởng còn thính hơn Đại Hắc của ta đó.

Vốn tám năm trước, hoàng đế Hoằng Trị đã từng sủng tín đại thái giám Lý Quảng, một thời nịnh phật nịnh đạo, luyện đan luyện dược, khiến cho khắp triều đình tràn ngập khói đen khí độc. Lúc đó Cốc Đại Dụng được mấy tên gian hoạn Lý Quảng, Dương Bàng sủng ái nên được nghe không ít chuyện. Sau đó Lý Quảng thấy nhóm Lưu Đại Hạ dựa vào đám trung thần được Hoằng Trị tin tưởng mà liên tục dâng tấu phê bình, chỉ trích bọn chúng kéo bè kéo cánh che mắt chủ làm chuyện xấu, nên đã phái Cốc Đại Dụng điều động đội ngũ Đông Xưởng sưu tầm tư liệu của nhóm người này, muốn lật đổ bọn họ.

Cho nên trong lòng Cốc Đại Dụng biết rất rõ những chuyện to nhỏ mà Lưu Đại Hạ đã làm. Thế nhưng thời vận của y không tốt, cả bộ tài liệu vừa mới thu thập xong thì Lý Quảng đã bị bệnh chết rồi. Hoàng đế Hoằng Trị vẫn tiếp tục u mê không tỉnh ngộ đã phái người tới nhà y tìm kiếm thiên thư. Kết quả là thiên thư không tìm được mà lại tra ra một lượng lớn vàng bạc châu báu, lúc này mới tin chuyện đám thần tử nói Lý Quảng làm việc tất trách, chuyên nhận hối lộ. Đến lúc này cả phe cánh của Lý Quảng mới hoàn toàn sụp đổ, cả đám thân tín bọn chúng bị thất sủng. Cốc Đại Dụng bị Vương Nhạc Vương công công, thủ lĩnh mới của Đông Xưởng, đuổi ra khỏi đó, phải chịu đựng biết bao năm, hao tổn biết bao tâm sức mới được làm kẻ hầu bên người thái tử.

Nghe được lời khen của Chu Hậu Chiếu, Cốc Đại Dụng cười híp mắt, khom khom người, nói:

- Tạ ơn Thái tử gia đã khen ngợi! Tuy nhiên thoáng cái đã qua bao nhiêu năm rồi, lão nô lo rằng đống giấy tờ đó không được bảo quản tốt, nếu như bị ẩm mốc, chuột gặm rồi thì có lẽ chẳng thể dùng được nữa.

Dương Lăng vừa mừng vừa sợ, nói với Chu Hậu Chiếu:

- Thái tử! Năm xưa những bản vẽ sơ đồ chế tạo thuyền này, không biết đã hao tốn tâm trí của biết bao nhiêu người thợ giỏi, tuy rằng bây giờ chưa chắc đã tái tạo được chiến hạm khổng lồ như hồi đó, nhưng để chế tạo ra những chiếc thuyền nhỏ hoàn mỹ thì chúng rất có giá trị tham khảo. Những tấm hải đồ kia mới là những thứ hiếm có hơn. Biển khơi rộng lớn hơn lục địa rất nhiều, mỗi tấm bản đồ đường biển đều phải hao tốn luợng lớn tiền bạc mới vẽ nên đuợc đó.

Chu Hậu Chiếu không biết vì sao y lại xúc động như vậy, nhìn hắn một cách khó hiểu, trầm ngâm nói:

- Ừm.... Lưu Đại Hạ? Lão già này bây giờ là thượng thư bộ Binh, muốn lấy được thứ này từ tay lão, sợ rằng....

- Sao? Ngay cả thái tử cũng không thể lấy được thứ này từ trong tay lão ư?

Dương Lăng nghe xong liền vô cùng thất vọng.

Chu Hậu Chiếu bị y kích động, liền ưỡn ngực lên nói:

- Lưu Đại Hạ tuy là sủng thần bên cạnh phụ hoàng nhưng lão cũng không dám đắc tội với ta, chỉ là... dù sao lão cũng là quan nhất phẩm, người mà ta phái đi chỉ muốn làm lấy lệ thì không phải là tay trắng trở về sao?

Dương Lăng đảo mắt, nói:

- Nếu như vậy thì tự thân thái tử gia phải đi một chuyến hay sao?

Chu Hậu Chiếu cười ha hả:

- Nếu ta tự thân đi lấy thứ đó thì tin rằng lão cũng không dám không đưa cho ta, nhưng mà...

Y nhăn nhó một hồi rồi nói tiếp:

- Ta muốn xuất cung một chuyến, còn khó hơn lên trời. Một năm, chỉ có phụ hoàng dắt ta ra ngoài dăm ba lần đó thôi. Mấy ngày nữa kỳ thi Đình sẽ bắt đầu, các vị sư phụ của ta đều lo việc tuyển người cho kỳ thi mùa xuân nên không ai tới dạy cả. Phụ hoàng sợ ta bỏ bê việc học hành nên đã sắp xếp mấy thứ khỉ gió cho ta viết, còn ra lệnh cho tả hữu thứ tử của Xuân Phường luân phiên giám sát, thực sự là một tấc khó rời đó.

Xuân Phường là nha môn trực thuộc thái tử cung, do hai quan Tả Xuân Phường tả thứ tử và Hữu Xuân Phường hữu thứ tử phụ trách quản lý việc học của thái tử. Những viên quan đảm nhiệm chức thứ tử này đều cương trực thẳng thắn, thậm chí trong đó còn có vài người thuộc đám hàn lâm học sĩ ngu dốt cổ hủ, trước giờ lục thân bất nhận, chí công vô tư. Có bọn họ đốc thúc, chính ra còn khủng khiếp hơn tự thân đại học sĩ giảng bài, Chu Hậu Chiếu nghĩ tới liền đau đầu không ngớt.

Dương Lăng biết những bản thiết kế chiến hạm và tấm bản đồ hàng hải hiển thị phía Nam Hải và con đuờng sang phuơng Tây do rất nhiều thợ giỏi vẽ ra vẫn còn trong nhân gian, làm sao hắn có thể để yên cho nó bị tiêu hủy được, nhất thời trong lòng lập tức ngứa ngáy vô cùng. Y thấy Thái tử khó xử, liền vội vàng hỏi:

- Thế trong tình huống thế nào thì quan viên Xuân phường mới không thể giám sát Thái tử đọc sách vậy?

Cốc Đại Dụng trả lời thay:

- Dương thị độc, nếu như thân thể Thái tử bất an thì mới có thể tạm dừng lớp học.

Dương Lăng vui mừng:

- Thế thì tốt rồi! Chỉ cần Thái tử giả vờ bệnh là xong, phải không?

Chu Hậu Chiếu trợn mắt, gắt lên:

- Nói dễ vậy à? Nếu ta bảo thân thể bất an thì chẳng phải cả đám Thái y viện sẽ xông ngay tới cuốn lấy ta mà khám bệnh sao? Đến lúc sự việc bị bại lộ, nhất định phụ hoàng sẽ trách móc ta đó.

Xem ra, tình cảm của Chu Hậu Chiếu với phụ hoàng của y rất tốt. Hậu Chiếu vừa kính vừa sợ, không hề muốn chọc ông tức giận. Dương Lăng cười nói:

- Thế thì có gì là khó? Thái tử chỉ cần nói bị đau đầu, mặc cho y thuật của ngự y thần thông đến đâu cũng chỉ có thể dặn Thái tử cố gắng tính dưỡng, tuyệt không có ai dám nói Thái tử không có bệnh.

Chu Hậu Chiếu nửa tin nửa ngờ hỏi:

- Quả thực là như vậy sao? Trong Thái y viện có mấy vị quốc y thánh thủ đáng gờm lắm đó.

Dương Lăng tràn đầy tự tin, giả làm bộ dạng của một lão thần ung dung đáp:

- Thái tử cứ yên tâm! Chỉ cần dùng kế này là nhất định có thể bịt được tai mắt của ngự y.

Não bộ là bộ phận phức tạp nhất của con người, dù y học hiện đại phát triển đến đâu cũng không thể chẩn đoán hết bệnh tật của nó. Lúc y làm công tác bồi thường tại công ty bảo hiểm, nếu như gặp phải khách hàng là bạn học, thân thích của mình thì sẽ bày cho họ biện pháp này. Chỉ cần tới bệnh viện nói là bị đau đầu, kể cả là đang khỏe mạnh hoạt bát thì cũng không có máy móc nào có thể chứng minh y nói dối.

Y không tin rằng thần y cổ đại dùng cách bắt mạch cũng dám nói rằng một người không có bệnh, trừ phi người đó một tên lang băm chuyên bốc phét. Trước mặt vị đương kim thái tử này, dù cho là lang băm có lòng lừa đảo cũng không dám bảo đảm y không có bệnh, lỡ ra y thực sự có bệnh mà làm chậm trễ việc điều trị thì liền phạm tội mất đầu ngay.

Chu Hậu Chiếu nghe vậy vui mừng, nhảy lên cười nói:

- Há há há! Như thế rất hay, ngày mốt là kỳ thi mùa xuân, quá trưa ngày mai ta sẽ bắt đầu đau đầu!

Y uy phong lẫm lẫm chỉ Cốc Đại Dụng nói:

- Đại Dụng, gọi Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành, Cao Phượng, La Tường, Ngụy Bân, Khâu Tụ, Trương Vĩnh ra đây cho ta. Đám người thối tha các ngươi tụ tập lại rồi tính toán kế hoạch làm sao để ta lẻn được ra khỏi cung, ha ha ha ha.....

Dương Lăng nghe Hậu Chiếu nhắc đến những cái tên quen thuộc trên, không khỏi cười khổ trong lòng. Xem ra hôm nay Kinh Sư Bát Hổ đều đã tề tựu tại Đông cung. Thế nhưng y đang muốn Chính Đức theo đường lối của mình vạch ra, tạm thời phải dựa vào tám kẻ này.

Bởi vì Dương Lăng muốn tạo nên tất nhiên không phải là một tên "hoàng đế phóng đãng", cũng không phải là một vị vua như “Nghiêu Thuấn" trong mắt đám tiên sinh phẩm hạnh, sĩ tử đại phu. Những người thống trị Trung Quốc bị những lời bịa đặt "Trung Quốc là trung tâm của thiên hạ" mê hoặc quá lâu rồi do đó bọn họ đã chùn chân mỏi gối, rất thiếu dã tâm. Đám sĩ tử đó già cỗi cổ hủ, chăm chăm theo gia pháp tổ tông, gương cũ không đổi, tầm nhìn hạn hẹp.

Đầm nước đọng này chỉ cần có một con suối mới chảy vào, hậu thế sẽ có một cục diện hoàn toàn khác. Thế nhưng hiện tại y cũng giống như đang chơi với lửa, nếu như dẫn đường không cẩn thận, Chính Đức khó thành ngọc báu; có dã tâm mà bất tài, hắn sẽ biến thành một tên bạo quân cực kỳ hiếu chiến, như vậy chi bằng cứ để cho hắn trở thành một thiên tử phong lưu chìm trong phụ nữ còn hơn.

“Ta sẽ thành hay bại đây? Nếu như bại rồi, trăm năm sau, người đời sau sẽ bình luận thế nào.....?"

Khóe miệng Dương Lăng nhếch một nụ cười khổ quái dị, dường như y nghe thấy lời thuyết minh hùng hồn mở đầu một bộ phim kiếm hiệp:

"Thời Chính Đức, gian tặc Dương Lăng và Bát Hổ cấu kết với nhau hãm hại trung thần, làm cho triều cương đại loạn, dân chúng lầm than, nhân sĩ giang hồ hiệp nghĩa đồng loạt nổi lên phản kháng, tạo ra bao khúc ca tráng lệ..."

(1) Nhắc tới việc Thái giám Tam Bảo hạ Tây Dương (三保太監下西洋) tức là những chuyến thám hiểm Đông Nam Á và Ấn độ dương của Trịnh Hòa (xem chú thích chương 56).

Xem thêm http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%8Bnh_H%C3%B2a

Chương 61 – Học sinh bất lương

Dịch: VoVong

Biên dịch:

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Tạ Thiên vừa thổi râu vừa trừng mắt một hồi lâu rồi cũng chỉ đành lắc đầu thở dài, thầm nghĩ: “Hôm qua Lý Đông Dương nói Thái tử một tiết học chạy đi nhà xí tới tám lần. Hôm nay mình lên lớp thấy y không đi nhà xí thì đã mừng thầm rồi, chẳng ngờ hôm nay đít y không sao thì cái đầu lại sinh bệnh. Chà, Thái tử lười học như thế, biết làm sao đây?”

---------------------------------

“Lứa tuổi thiếu niên nhi đồng là lúc mà thân thể đang phát triển, không được ngủ đủ sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự trưởng thành của cả tâm hồn và thể xác.” Dương Lăng vừa ngáp dài vừa thầm lầm bầm trong bụng, nếu không phải còn vài phần tự biết mình, nhất định lúc này y sẽ trịnh trọng đưa ra lời kháng nghị như thế với vị Thị giảng học sỹ Tạ Thiên đang thao thao bất tuyệt trước mặt.

Mộc Trai tiên sinh đang giảng bài đến lúc hưng phấn, nước bọt bắn tứ tung. Lúc này Chu Hậu Chiếu đang ngồi nghiêm trang sau bàn, vai kề vai với Dương Lăng, vẻ mặt đờ đẫn, ánh mắt ngây ngốc, trạng thái hóa đá này đã kéo dài được gần một buổi sáng rồi.

Nhưng từ nửa canh giờ trước Dương Lăng đã bắt đầu ngáp ngắn ngáp dài. Kể từ cái ngáp đầu tiên của y, như có bệnh truyền nhiễm, hai gã học sinh bất lương bắt đầu ngáp liên tục không ngừng.

Sau khi ngáp xong, nước mắt trào ra khiến đôi mắt họ ươn ướt. Tạ Thiên nhìn thấy cảnh này thì lại cho rằng Thái tử và Dương thị độc bị nội dung đặc sắc và sinh động trong bài giảng của mình làm cho cảm động, nên lão càng giảng càng hăng.

Dương Lăng lại chán nản ngáp thêm cái nữa, sau đó lặng lẽ bĩu môi khinh thường. Chưa nói tới chuyện phải học từ sáng sớm, những bài giảng của lão thư sinh cổ hủ này quả thực là quá mức khô khan vô vị. Nghe nói trong ba vị sư phụ của Chu Hậu Chiếu thì ông này giảng bài chán nhất, quả đúng không sai. Có lẽ những nội dung đó là tài liệu giảng dạy tiêu chuẩn của các vị Thái phó từ cổ tới kim, chúng được giảng cả ngàn năm rồi, biển cả cũng biến thành nương dâu, vậy mà chúng nó vẫn chẳng có gì thay đổi, vừa không liên quan tới thực thế, lại chẳng nói gì tới tương lai. Còn về cục diện thế giới ư? Chuyện đùa! Trong mắt Tạ đại học sỹ, ngoại trừ Đại Minh ra thì còn có thế giới gì nữa chứ? Càng đáng ghét hơn nữa là tay đại học sỹ này còn ỷ vào công phu đủ để thi đỗ Trạng Nguyên của bản thân, toàn bới móc nội dung trong những cuốn sách lạ hoắc đi cùng với những chữ hiếm gặp, dường như không làm như thế thì không đủ thể hiện sự bác học của ông ta vậy.

Dương Lăng đưa tay lên bóp trán, giả bộ như đang cúi đầu trầm tư, rồi dựa vào sự yểm hộ của bàn tay y bắt đầu liếc mắt quan sát cái giá bày đồ cổ ở bên cạnh. Trên chiếc giá được làm bằng gỗ lim này bày một loạt những vật kỳ trân hiếm có, ánh mắt Dương Lăng dừng lại trên một chiếc hồ lô sáng bóng được làm bằng bạch ngọc.

Chiếc hồ lô bạch ngọc này đẹp thật, vừa nhìn là biết giá tiền không thấp, đường cong mỹ lệ kia cứ tựa như… tựa như thân thể Ấu Nương vậy. Chất ngọc long lanh, đường cong mềm mại, hà hà, thường ngày ta cứ bị bờ vai thon gọn cùng với cái eo nhỏ như lưng ong của Ấu Nương lừa, tưởng rằng thân hình nàng chỗ nào cũng đều nhỏ nhắn lung linh như vậy. Khi nàng nằm sấp trên giường, mái tóc dài đen nhánh che đi một nửa khuôn mặt mỹ lệ đỏ bừng như lửa, cặp vai thon be bé và bờ eo nhỏ xinh xinh kia lại càng tôn lên cặp mông tròn xoe đẫy đà phía dưới cùng với đôi đào tiên vô cùng dụ người ở phía bên trên.

Theo những động tác điên cuồng của mình, cặp đùi trắng nõn vừa mềm mại vừa đầy chất đàn hồi kia cứ đưa qua đưa lại, thật khiến người ta phải hoa mắt đắm say. Vào lúc mà Ấu Nương dường như không nhịn nổi nữa, nhưng lại vẫn nhẫn nhịn ngoan cường, tiếng rên rỉ kia mới thật hấp dẫn làm sao, đưa tay sờ vào chỗ nào cũng thấy mềm mại mịn màng như ngọc, sảng khoái vô cùng, thật khiến người ta phải tiêu hồn lạc phách. Sau khi điên đảo một trận xong, ôm thân thể mịn màng trần trụi của nàng trong lòng, để nàng ngồi lên gối, hai người cũng không nói năng gì, cứ để mặt kề sát mặt, lặng lẽ ngồi yên, nghe tiếng nàng thở, cảm nhận tim nàng đập, ôi chao, cảm giác đó mới thân thiết làm sao…

Thật là yêu nàng chết mất! Ngày mai nhất định phải tranh thủ thời gian đi mua cho nàng bộ bàn trang điểm, gương soi, màn lưới, chăn lụa,… Mình phải dốc hết sức để nàng có thể sống thật vui vẻ; một nương tử tốt như thế, không thể bạc đãi nàng được! Một cô gái mới có mười sáu tuổi đầu, ở thời hiện đại thì vẫn còn được ba mẹ nuôi nấng và chăm sóc, vậy mà ngày ngày nàng đều phải giặt giũ quần áo nấu nướng cơm nước cho mình, lại lo hết việc nhà, sáng sớm canh tư đã phải dậy làm cơm. Ôi, trong mắt nàng, nàng là cây tầm gửi sống dựa vào mình, nhưng trong lòng mình, nàng mới là cái cây cao để mình dựa dẫm.

Đang lúc Dương Lăng suy nghĩ vu vơ, chợt vạt áo y bị Chu Hậu Chiếu giật giật. Y sững người, bèn ngẩng đầu nhìn lên, trên chiếc bàn trước mặt đột nhiên nghe bộp một tiếng, thì ra Tạ Thiên vừa dùng chiếc thước trong tay gõ mạnh một cái xuống bàn, sau đó chắp tay sau lưng đi ra chỗ khác, lạnh lùng hỏi:

- Dương thị độc thấy bài giảng của ta thế nào?

- Dạ? À, tuyệt lắm, tuyệt lắm! Thật là nghe xong như tỉnh cơn mê, đề hồ quán đỉnh (1)!

Dương Lăng giật nảy mình, lập tức rời khỏi cơn tưởng tượng.

Gã huynh đệ chung hoạn nạn Chu Hậu Chiếu của y ở bên cạnh che miệng cười thầm trước tai họa mà y gặp phải, đồng thời hai tay linh hoạt kết thành một cái đại thủ ấn ở dưới bàn. Thật không nhìn ra Chu Hậu Chiếu học cái này nhanh như thế, chỉ thấy mấy cái kim cương ấn, sư tử ấn, trí quyền ấn, nhật luân ấn, bảo bình ấn (3) được mười ngón tay của hắn bắt liên tục, động tác vừa nhanh vừa khéo, khiến người ta nhìn mà hoa hết cả mắt, đồng thời trong miệng hắn còn khẽ lẩm bẩm: “Ta quán, ta quán, ta quán quán quán, bảo bình quán đỉnh, nhị lợi năng thành kim cương vương quảng đại phật ngữ quán đỉnh, mật tam thậm thâm quán đỉnh, vô nhị vô biệt đại lạc quán đỉnh…” (3)

Đang khi Chu Hậu Chiếu quán đỉnh đến say mê, Tạ Thiên chợt hỏi:

- Thái tử mặt mày rạng rỡ, nhất định là đã lĩnh ngộ được nhiều điều, xin Thái tử hãy giải thích một chút được chăng?

- A! Dạ? Cái gì?

Chu Hậu Chiếu chậm rãi ngẩng đầu lên, khuôn mặt lập tức trở nên giống như một thằng đần, ngây người nhìn Tạ Thiên. Dương Lăng nhìn hắn với vẻ đồng cảm, trong lòng cũng sinh ra nhiều cảm xúc.

Đứa nhỏ này thực sự là học nhiều quá đến nỗi sắp trở thành thằng ngốc rồi.Thực ra, hắn cũng thật đáng thương. Học sinh thời hiện đại khi đi học còn có giờ thể dục, âm nhạc, mỹ thuật gì đó để tiêu khiển một chút, nhưng tiểu tử này thì cả ngày toàn phải nghe giảng bài về chính trị với văn học.

Dương Lăng khẽ ho một tiếng, đưa ngón tay lên day day trán. Chu Hậu Chiếu thấy thế liền lập tức hiểu ý, nhăn mặt nói với Tạ Thiên:

- Tạ đại học sỹ! Đầu ta hơi đau, ối chao, cứ hơi suy nghĩ một chút là lại đau.

Dương Lăng lén giơ ngón tay cái lên bên dưới gầm bàn. Khóe miệng Chu Hậu Chiếu hơi mấp máy đoạn hắn cũng đáp lại y bởi động tác Giống hệt. Cốc Đại Dụng đứng hầu một bên đã lâu, lúc này nghe thấy vậy bèn lao nhanh ra, bộ dạng như một tên hán gian đang cầm theo khẩu súng mauser. Gã kiễng chân nhìn trái ngó phải, đoạn thất thanh kêu to như có cướp tới nhà:

- Thái tử gia đau đầu sao? Người đâu, người đâu rồi, mau đi gọi thái y, chậm là ta lấy đầu ngươi đó!

Tên tiểu thái giám đang đứng ở cửa bèn lao đi như một làn khói. Tạ Thiên vừa thổi râu vừa trừng mắt một hồi lâu rồi cũng chỉ đành lắc đầu thở dài, thầm nghĩ: “Hôm qua Lý Đông Dương nói Thái tử một tiết học chạy đi nhà xí tới tám lần. Hôm nay mình lên lớp thấy y không đi nhà xí thì đã mừng thầm rồi, chẳng ngờ hôm nay đít y không sao thì cái đầu lại sinh bệnh. Chà, Thái tử lười học như thế, biết làm sao đây?”

Tạ Thiên lòng đầy phiền muộn rời khỏi cung Thái tử, trên đường còn gặp ba vị Thái y đang xắn quần chạy vội, đằng sau là một đám tiểu dược đồng lưng khoác hòm thuốc chạy theo.

Tạ đại học sỹ đứng trong cung suy nghĩ hồi lâu: “Thái tử là Hoàng đế tương lai, y ham chơi không chú ý học tập như vậy thực không phải là chuyện nhỏ! Mình được bệ hạ tin cậy giao cho dạy dỗ Thái tử, nhất định phải cúc cung tận tụy, gan óc lầy đất cũng không nề hà. Hiện giờ Thái tử ham chơi như thế, cho dù có đắc tội với Thái tử cũng nhất định phải bẩm với Hoàng thượng mới được.”

Tạ Thiên suy nghĩ xong xuôi bèn xoay người đi thẳng đến cung Càn Thanh.

***

Tại Ngự Thư phòng trong cung Càn Thanh, lúc này Hoằng Trị đang nổi cơn lôi đình, lão ném mạnh phong thư cấp báo quân tình xuống bàn, tức giận nói:

- Bọn Bắc Nguyên Thát Đát này thực quá ngông cuồng. Tiểu vương tử vừa mới cướp bóc quay về xong, Hỏa Sư lại mang ba ngàn quân đi vòng qua biên quân ở Hoài Lai, tập kích Diên Khánh từ con đường nhỏ trong núi. Nếu không nhờ có Trác Du Kích nhanh chóng tiếp viện, bọn chúng chẳng phải là sẽ tiến dần từng bước, đánh thẳng đến kinh sư hay sao?

Gã thái giám Miêu Quỳ đứng hầu bên cạnh bèn khẽ cất tiếng:

- Hoàng thượng chớ giận! Hỏa Sư chỉ có vẻn vẹn ba ngàn nhân mã, hắn xâm nhập Đại Minh ta tựa như một con cá trê bơi vào biển lớn, có thể gây ra sóng gió gì chứ? Đại Minh ta binh cường mã tráng, chỉ có điều quốc thổ của chúng ta quá rộng lớn, cần chia binh ra trấn thủ, chỗ nào cũng phải đề phòng. Một bên phòng thủ, một bên tấn công, quyền chủ động nằm trong tay địch thủ, chúng ta khó mà giữ được vẹn toàn, đám người hoang dã kia chẳng hề kiêng kị gì, do đó mới có thể thừa lúc chúng ta sơ suất mà xâm nhập. Lão nô chỉ cần năm ngàn binh mã, nhất định sẽ có thể đuổi Hỏa Sư ra khỏi biên cương, đánh cho hắn tơi bời tan tác, từ nay không dám tùy tiện khai chiến nữa.

Lưu Kiện vừa mới phụng chiếu vào cung nghe thế bèn vội tâu:

- Bệ hạ! Hiện giờ Trác Chí Kỳ và Lưu Anh đã dẫn quân đánh đuổi Hỏa Sư rồi. Người Mông Cổ thạo việc cưỡi ngựa cướp bóc, tới lui như gió, nếu tùy tiện xuất binh e rằng sẽ lao sư động chúng, hao tổn tiền tài, đồng thời cũng khó mà tìm được tung tích địch, xin bệ hạ suy nghĩ kỹ!

Hoằng Trị nghe thế thì không khỏi do dự. Miêu Quỳ nghe nói Hỏa Sư chỉ có ba ngàn người, nóng lòng muốn lập công, vừa nghe Lưu Kiện khuyên can bèn vội tâu:

- Bệ hạ! Hỏa Sư chỉ dẫn theo có ba ngàn quân mà dám xâm phạm Đại Minh, cướp bóc phá hoại như ở chỗ không người, nếu không trừng phạt thật nghiêm, chỉ e người Mông Cổ sẽ càng ngày càng ngông cuồng kiêu ngạo.

Lý Đông Dương vội vàng can gián:

- Bệ hạ, dẫn quân viễn chinh nào phải chuyện tầm thường, binh mã lương thảo đều phải chuẩn bị, khi chuẩn bị đủ xong thì Hỏa Sư đã ở xa ngoài ngàn dặm rồi. Huống chi thần nghe nói tên Hỏa Sư này mặt đỏ như lửa, vóc người to lớn, kiêu dũng thiện chiến, sức mạnh tuyệt luân, cho dù có đuổi kịp thì cũng chưa chắc đã làm gì được hắn. Hơn nữa Hỏa Sư chính là con rể của Khả hãn Bắc Nguyên Mãn Đô Cổ Lặc, hắn chỉ dẫn theo một cánh quân đơn lẻ ba ngàn người xâm nhập nước ta, lại trang bị gọn nhẹ như thế, một khi ra khỏi cửa quan nhất định sẽ có đại quân tiếp ứng. Nếu chúng ta chủ động xuất binh, e là cần có binh lực đông gấp năm lần địch, nếu không sẽ khó mà làm nên chuyện gì.

- Chuyện này…

Vốn trong lòng Hoằng Trị rất ngưỡng mộ Thái tổ và Thành tổ với thành tích văn trị võ công, nghe nói người Mông Cổ ngông nghênh như vậy, rất muốn xuất binh đánh một trận. Nhưng ông ta trước giờ rất coi trọng ý kiến của triều thần, huống chi giờ lại là hai trọng thần Lưu Kiện và Lý Đông Dương cùng tỏ ý phản đối, Hoằng Trị không khỏi cảm thấy do dự, khát vọng muốn xuất binh cũng nguội đi nhiều.

Chính vào lúc này, một viên hoạn quan bước vào bẩm báo:

- Hoàng thượng! Tạ đại học sỹ cầu kiến.

Hoằng Trị vô cùng mừng rỡ, vội bảo:

- Mau, mau triệu ông ta vào!

Tạ Thiên bước nhanh vào trong Ngự Thư phòng, vừa định báo chuyện Thái tử ham chơi chợt phát hiện Lưu Kiện và Lý Đông Dương đều ở đây, ông bất giác ngẩn người, lời đã lên đến miệng cũng đành nuốt xuống.

Ông và Lưu Kiện, Lý Đông Dương cùng làm quan trong triều, tuy giao tình không tệ nhưng cũng không muốn ở trước mặt bọn họ mà kể chuyện kia ra, như thế chẳng phải chứng tỏ bản thân bất tài, không dạy được học trò hay sao?

Chú thích:

1. Đề hồ là chỉ phật pháp tối cao, quán đỉnh là nghi thức rưới nước xuống đầu trong Phật giáo. Câu này là để chỉ việc nghe được những lời cao minh và hiểu ra rất nhiều điều.

2. Mỗi một loại thủ ấn là một tư thế riêng của hai bàn tay. Theo phật giáo, việc kết ấn có thể đem đến những sức mạnh đặc thù cho ý niệm và thể xác.

3. Quán đỉnh có hai loại là ngoại thập lợi quán đỉnh và nội ngũ lực quán đỉnh. Ngoại thập lợi quán đỉnh cần có những pháp khí sau: Ngũ tinh hoa, quán miện, bảo bình, miện lưu, châu man, binh khí, tràng, tản cái, thủ ấn, ẩm thực. Nội ngũ lực quán đỉnh cần có các điều kiện sau: Thính văn quán đỉnh, tu tập quán đỉnh, thuyết pháp quán đỉnh, sự nghiệp quán đỉnh, nhị lợi năng thành kim cương vương quảng đại phật ngữ quán đỉnh. Chu Hậu Chiếu nói những lời trên nhằm trêu chọc Dương Lăng.

Chương 62 - Tam công nhất lão

Dịch: TheJoker

Biên dịch: VoVong

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Lão già bán tạp hoá trợn mắt nhìn gã đàn ông đầu bù, tóc hoa râm, dáng người gầy gò đen đúa, râu ria xồm xoàm đang quỳ gối dập đầu trước cửa nhà Dương Lăng. Sau khi cung kính dập đầu ba cái, gã đàn ông nhảy phóc lên ngựa, ra roi phóng vút đi.

---------------------------------

Thấy Tạ Thiên, Hoằng Trị mừng rỡ:

- Ái khanh đến thật đúng lúc, trẫm đang định sai người đến Đông cung tìm khanh đây.

Trông thấy hai vị đại học sỹ Lưu Kiện và Lý Đông Dương đều có mặt, Tạ Thiên ngạc nhiên hỏi:

- Bệ hạ, đã xảy ra chuyện lớn gì sao?

Đứng ở một bên, Lưu Kiện thuật lại cho Tạ Thiên biết tin tiểu vương tử Bá Nhan Khả Hãn của Bắc Nguyên vừa rút quân thì Hỏa Sư lại đi đường vòng đánh sâu vào trong biên giới để cướp bóc, sau đó lại nhắc lại những ý kiến bất đồng vừa rồi một lượt. Tạ Thiên nghe xong liền lắc đầu quầy quậy, sau đó tâu với hoàng đế Hoằng Trị:

- Bệ hạ, việc binh đao là thứ hung khí của thiên hạ, cái dũng cũng là thứ hung đức trong thiên hạ, ấy đều không phải thứ mà người quân tử nên dùng!

Dân Mông Cổ dã man, coi giết chóc như cầy cấy. Nếu thượng quốc thiên triều ta cũng bắt chước bọn chúng, lấy đạo người đối đãi người, khó tránh khỏi sẽ gây ra chiến tranh dồn dập, trăm họ lầm than, ruộng đồng bỏ hoang, cỏ gai mọc rậm, như thế há chẳng phải đã trái với đạo nhân nghĩa sao?

Đại Minh ta là nước văn minh lễ nghĩa, vừa không cần cướp đoạt của cải của người khác, lại chẳng mong nô dịch bọn người hoang dã man di, cớ gì phải xuất binh viễn chinh chứ? Giờ đây thiên hạ thái bình, chính trị trong sạch, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, duy chỉ phải lo việc thiên tai nhân họa. Theo thần thấy, chúng ta chỉ cần phái tướng thủ cửu biên (*), canh phòng nghiêm ngặt, ngăn bọn man di ngoài biên cương là được rồi.

Hỏa Sư đã có thể theo đường mòn tập kích Diên Khánh, rõ ràng là phòng tuyến biên thuỳ của ta đã có sơ hở. Thần cho rằng nên đắp thêm Trường Thành đoạn Bát Đạt Lĩnh ở Diên Khánh, xây dựng biên thành, đóng binh trấn giữ, đại sự tất sẽ ổn định.

(*): Cửu biên bao gồm Liêu Đông, Tuyên Phủ, Đại Đồng, Duyên Tuy, Ninh Hạ, Cam Túc, Kế Châu, Thái Nguyên, Cố Nguyên.

Nghe lý luận của lão, Hoằng Trị hơi cảm thấy không vui. Việc binh là thứ hung khí của thiên hạ ư? Không có thứ hung khí này, Đại Minh từ đâu mà có? Cái dũng là thứ hung đức trong thiên hạ ư? Thế nhưng mỗi một vị hoàng đế khai quốc, kể cả Thái Tổ, Thành Tổ, có ai mà không dùng binh đao để bình thiên hạ chứ? Chẳng lẽ phải đợi hoàng đế triều trước thoái vị hay sao?

Nhưng những lời Tạ Thiên nói đều là câu chữ của các bậc Tiên hiền, tuy Hoằng Trị là đế vương nhưng cũng không thể phản bác thẳng thừng. Trong mắt của những kẻ có học trong thiên hạ, văn chương đạo đức của các bậc Tiên hiền chính là khuôn vàng thước ngọc, mãi mãi bất khả xâm phạm. Hết cách, Hoằng Trị đành buồn bực nói bằng giọng không vui:

- Thôi, trẫm đã truyền Thượng thư bộ Binh Lưu Đại Hạ vào cung rồi, cứ chờ nghe ý kiến của ông ta rồi hãy quyết định chuyện này vậy.

Một lát sau, bên ngoài ngự thư phòng vang tới một giọng nói sang sảng tựa chuông đồng:

- Thần, Thượng thư bộ Binh Lưu Đại Hạ, phụng chiếu tấn kiến!

Hoằng Trị nghe vậy bèn tức tốc triệu vào. Lưu Đại Hạ là một ông già đã bảy mươi, râu tóc bạc phơ nhưng tinh thần vẫn quắc thước, vóc người cao lớn, lời nói và cử chỉ đều toát ra vẻ dũng mãnh, rất có uy phong của một người cầm quân. Triều đại của Hoằng Trị có hai vị thượng tướng quân già như Hoàng Trung(*): một là Lưu Đại Hạ, vị kia là Vương Việt (1), đều là "gừng càng già càng cay".

(*): Lão tướng nhà Thục trong Tam Quốc Chí

Phẩm hàm và công trạng của Vương Việt thậm chí còn trên Lưu Đại Hạ. Năm xưa ông ta từng là Thượng thư bộ Binh, sau cai quản toàn bộ tam biên (*), năm bảy mươi tuổi còn đích thân cầm quân viễn chinh, ruổi ngựa đến dưới núi Hạ Lan, tập kích phá tan doanh trại dài mười dặm của tiểu vương tử, thu được được vô số lạc đà, ngựa, bò, dê và vũ khí. Ông ta lắm mưu nhiều kế, đánh cho tiểu vương tử vừa nghe thấy tiếng là bỏ chạy, được luận công tấn thăng hàm Thiếu bảo. Cai quản tam biên, nắm quyền đại tướng, cả triều đại nhà Minh cũng chỉ có một mình ông ta mà thôi.

(*): Chỉ ba vùng Diên Tuy, Cam Túc, Ninh Hạ.

Đáng tiếc khi ấy chính là giai đoạn mà đại gian thần thái giám Lý Quảng – kẻ cổ xuý cho phong trào trường sinh bất lão, thành tiên, thành đạo - nắm quyền. Vương Việt biết rõ mình làm tướng ở biên cương, phải viễn chinh Thát Đát xa mấy nghìn dặm, sợ nhất chính là có người trong triều cản trở ở sau lưng, bởi một khi lương thảo ngắt quãng, hậu cần gián đoạn, thì sẽ bị rơi vào tình trạng cô lập.

Để được sự ủng hộ của Lý Quảng, không đến nỗi phải chịu đủ khó khăn trên đường viễn chinh, Vương Việt sai người kết giao mua lòng hắn ta, thậm chí còn chia cho hắn một phần chiến công. Được lợi ích, lại có cả chiến công, lúc ấy Lý Quảng mới tận tâm tận lực kiến nghị với hoàng đế khiến cho triều đình dốc sức ủng hộ Vương Việt.

Nhưng sau khi Lý Quảng bị bệnh mất, trong nhà lục được vô số vàng bạc châu báu, bị định tội đại gian đại ác, không chỉ bè đảng bọn Lý Quảng bị sụp đổ, mà Vương Việt vì có quan hệ mật thiết với hắn nên cũng bị đám ngự sử ngôn quan dâng tấu hạch tội đủ điều, trách mắng là bè đảng gian thần.

Trong mắt của những kẻ thư sinh đó, một khi gian thần lộng quyền, cho dù chỉ lo giữ thân mình thì cũng không được làm trái với lời dạy của các bậc Tiên hiền thuở xưa, dù cho có là "vờ thuận a dua để đạt mục đích" cũng tuyệt đối không được. Huống chi bất luận bây giờ ông nói lời vàng ngọc như thế nào, ai biết được lúc trước ông nghĩ gì chứ? Chẳng phải lúc nào ông cũng xoen xoét "ta không vào địa ngục thì còn ai vào địa ngục" ư? Vậy ông hãy xuống địa ngục đi!

Vương Việt dẫn quân rong ruổi nghìn dặm, phá địch như chẻ tre, ở tuổi thất thập cổ lai hi mà còn đánh cho thiết kỵ Mông Cổ không còn manh giáp, rốt cuộc không những không được vùi thây nơi sa trường mà còn bị bọn ngôn quan của Đốc Sát Viện hết kẻ này đến kẻ khác dâng tấu mắng chửi, uất ức mà chết.

Lưu Đại Hạ là trọng thần trong triều, lần lượt phò tá ba vị hoàng đế Anh Tông, Hiến Tông, Hiếu Tông, là nguyên lão tam triều đức cao vọng trọng. Lão là người làm việc quả quyết, giỏi việc binh đao, lại vô tư chính trực, cho nên dù bọn Lưu Kiện vẫn luôn xem thường võ tướng, nhưng lại khá kính trọng vị Lưu thượng thư này.

Lưu Đại Hạ xem xong tấu báo quân tình liền trầm ngâm một hồi lâu, rồi sau đó khẽ lắc đầu nói:

- Bệ hạ, thần cũng cho rằng... nên canh phòng nghiêm ngặt chứ không nên đưa quân ra biên ải!

Lưu Kiện, Tạ Thiên, Lý Đông Dương nghe vậy đều thở phào nhẹ nhõm.

Miêu Quỳ lại đưa mắt nhìn trời, vô cùng tức giận. Lão biết, tuy Lưu Đại Hạ nói vậy phần lớn là do việc công, nhưng trong đó chưa hẳn đã không có chút tư tâm nào. Lưu Đại Hạ cùng nội quan (thái giám) trong triều tranh đấu đã nhiều năm, coi hoạn quan như rắn rết, chỉ cần là kiến nghị mà do nội quan đưa ra, bất luận đúng sai trong lòng lão cũng đều phát sinh vài phần cảnh giác.

Thuở Trịnh công công bảy lần đến đại dương phía Tây, thế lực hoạn quan đang hùng mạnh. Lưu Đại Hạ cho rằng viễn dương đến nước khác là sai lầm về mặt chính trị, là điều động binh lực một cách vô bổ, lại sợ thế lực hoạn quan mượn chuyện này để phát triển quyền lực, trở thành đại họa cho triều đình, do đó khi Anh Tông muốn tiếp tục viễn hành, lão liền bất chấp lý lẽ mà can ngăn. Nghe nói bản đồ hàng hải của Trịnh công công đã bị hủy trong tay lão.

Năm Thành Hóa thứ mười bảy, An Nam (Việt Nam) xâm lấn Lào, thất bại. Khi ấy Uông công công Uông Trực muốn thừa cơ chiếm lại An Nam đã không còn ngoan ngoãn vâng lời Đại Minh, bèn nhờ bộ Binh tìm lại bản đồ của An Nam trước kia.

Lưu Đại Hạ cho rằng một khi chiến sự nổ ra, thua thì tử thương thảm trọng, thắng thì thế lực hoạn quan mạnh lên, vì vậy lại đem bản đồ An Nam giấu mất, không chịu giao. Chính sách bế quan tỏa cảng, tự bảo vệ mình rất được bọn sỹ phu tán đồng, cho nên ngay cả kẻ quyền khuynh triều chính như Uông Trực cũng không có cách nào gây khó dễ cho lão.

Giờ đây lão nói như vậy, chẳng lẽ là sợ hoạn quan sẽ lại đắc thế một lần nữa? Miêu Quỳ vừa nghĩ vừa lạnh lùng liếc nhìn lão, ánh mắt đầy vẻ oán hận. Nhưng Lưu Đại Hạ là thần tử được Hoằng Trị sủng ái nhất hiện nay, lão ta cai quản vùng Hoàng Hà, quét sạch phản tặc, đốc quản quân lương, làm quan thanh liêm, có thể nói là trên dưới triều đình ai nấy đều ca ngợi. Tuy rằng Miêu Quỳ cũng được sủng ái, nhưng cũng không dám khinh suất dây vào.

Hoằng Trị nghe vị dũng tướng này cũng nói như vậy, trong lòng cảm thấy thất vọng vô cùng. Ông nói với giọng không phục:

- Thái Tổ, Thành Tổ từng mấy lần xuất quân ra ngoài biên ải, đánh cho người Mông thất bại thảm hại, khiến người Mông về sau thấy cờ xí của Đại Minh ta liền phóng ngựa tránh xa, quân ta muốn đánh một trận mà cũng không được. Khi xưa đã oai phong như thế, cớ gì bây giờ lại không thể?

Lưu Đại Hạ chắp tay thưa:

- Bệ hạ thần vũ chẳng kém gì Thái Tổ, Thành Tổ, nhưng ngày nay binh mã kém xa khi trước, vả lại thuở ấy triều đình thường xuyên điều cả chục vạn đại quân ra sa mạc. Hiện nay quân binh Đại Minh ta chỉ giỏi thủ không giỏi công, việc chiến tranh không thể tùy tiện phát động. Trong tình thế hiện giờ, thủ là thượng sách, chiến là hạ sách.

Ba vị đại học sỹ vuốt râu mỉm cười, tỏ ý tán thành. Hoằng Trị thở dài bảo:

- Ái khanh hiểu rõ việc quân, khanh đã nói như vậy, tất là hữu lý. Nếu không có lời hay của mấy vị ái khanh, trẫm nhất thời giận dữ kích động, suýt nữa đã làm hỏng đại sự rồi.

Lưu Kiện cúi đầu tán dương:

- Bệ hạ lắng nghe lẽ phải, quả thật là minh quân trên đời.

Hoằng Trị cười gượng khoát tay, kế đó lại hỏi Lưu Đại Hạ:

- Theo ái khanh, trẫm nên xử trí chuyện này như thế nào đây?

Lưu Đại Hạ thoáng ngẫm nghĩ một chút rồi đáp:

- Lời của ba vị đại học sỹ rất có lý. Thần cũng nghĩ rằng nên hạ lệnh cho tướng lĩnh biên cương nghe ngóng địch tình, phòng thủ nghiêm ngặt, đề phòng quân địch xâm phạm. Ngoài ra nên xây đắp thêm một đoạn trường thành ở Bát Đạt Lĩnh, lập cửa ải để chống địch, đồng thời cho trọng binh đồn trú ở lân cận, xây dựng trạm canh và phong hỏa đài tại những con đường núi và đường giao thông quan trọng từ Quan Thành lên phía bắc. Nếu thi hành song song những kế sách này, kinh sư nhất định sẽ vững như bàn thạch.

Hoằng Trị ung dung ngồi trên long ỷ, gật gù nói:

- Cứ theo lời khanh vậy, Lưu đại học sỹ hãy soạn chỉ đi!

- Vâng, thần xin cáo lui!

Hoằng Trị khoát tay, nhìn mấy vị trọng thần bên người lần lượt cất bước lui ra, trong lòng thất vọng: "Tiểu vương tử tập kích biên giới trong đêm giao thừa, ba cánh đại quân ta đã dễ dàng giành lại đất đai bị mất trong nháy mắt. Chẳng lẽ vừa rời khỏi biên ải, mãnh hổ này thật sự sẽ biến thành con mèo hay sao? Ôi, có lẽ bọn họ đã đúng, chính trị và quân sự nửa do sức người, nửa do sức trời, gây dựng cơ nghiệp đã gian nan, bảo vệ cũng không phải dễ..."

***

Thái y quả nhiên không dám phán bừa là Thái tử không bị bệnh, càng không dám tuỳ tiện bốc thuốc, chỉ dám kê đại mấy toa thuốc an thần, căn dặn Thái tử nghỉ ngơi nhiều một chút rồi lui ra. Dương Lăng mỉm cười nói với Thái tử:

- Điện hạ, sáng ngày mai chúng ta cứ y kế mà làm, vi thần tạm xin cáo lui đây.

- Được, sáng ngày mai ngươi hãy ở ngoài cửa hậu cung chờ ta!

Chu Hậu Chiếu khoát tay, trong lòng thì đang nghĩ về chuyện khác. Tối hôm qua hắn được xem bọn La Tường, Cao Phượng biểu diễn kịch đèn chiếu (2) đến nửa đêm, giờ lại thấy thèm được xem tiếp. Tạ đại học sỹ đã đi, gã đang muốn gọi bọn họ đến diễn tiếp.

Nhìn vẻ mặt hắn, Dương Lăng tỉnh bơ vái sâu một vái, xong quay sang gật đầu chào Cốc Đại Dụng ở cạnh, rồi chậm rãi lui ra. Qua hai ngày tiếp xúc, y cũng thấy được cái đám Bát hổ(*) hiện hoàn toàn chưa có dã tâm chính trị gì. Nhưng vì bọn chúng lựa ý hùa theo Thái tử, giúp cho hắn vui, cho nên các hành động và việc làm hiện tại lại khiến cho chúng khó tránh khỏi sẽ bước đi trên con đường ấy.

(*): "Bát hổ" gồm: Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành, Cao Phượng, La Tường, Nguỵ Bân, Khâu Tụ, Cốc Đại Dụng, Trương Vĩnh.

Hiện giờ y mới vừa kết bạn với Thái tử, còn Bát hổ lại chăm sóc Chu Hậu Chiếu từ nhỏ cho đến lớn, luận cảm tình tuyệt đối y không thể bằng bọn chúng được. Nếu để Bát hổ nảy lòng nghi kỵ y, tuỳ tiện nói xấu mấy câu trước mặt Thái tử, đến lúc ấy cái chức thị độc này của y cũng khỏi cần làm tiếp nữa. Hơn nữa Thái tử đang ở trong thời kỳ tâm lý nổi loạn của tuổi teen, nếu y học theo các vị trung thần hết mực khuyên ngăn, e rằng chỉ tạo ra hiệu ứng ngược.

Cho nên Dương Lăng không dám để lộ chút vẻ phản cảm nào trên mặt. Y chỉ hy vọng rằng với nỗ lực của bản thân sẽ có thể khiến cho vị hoàng đế mà theo quỹ đạo lịch sử ban đầu sẽ là một gã hôn quân này sẽ khác đi đôi chút so với lịch sử. Có điều... tuy nói tuổi thiếu niên là lúc dễ uốn nắn nhất, nhưng mà... vỏn vẹn chỉ có hai năm, ài, thời gian không chờ mình, đành cố hết sức thôi.

***

Đường Hộ Quốc Tự, một kẻ áo vải đầu bù tóc rối cưỡi một thớt ngựa gầy.

Hà tham tướng dò hỏi mãi mới tìm đến được cửa nhà Dương Lăng.

Từ khi bị áp giải vào kinh nhốt vào đại lao bộ Hình đến nay đã được hơn nửa tháng, mãi đến hôm nay gã mới được phóng thích ra khỏi ngục, giáng làm Phó thiên tổng, phải đi đến vùng Quảng Tây xa xôi để nhậm chức.

Hơn nửa tháng nay, rốt cuộc gã đã được biết thế nào gọi là thế sự vô thường, thế nào gọi là thói đời nóng lạnh. Đám bè bạn năm xưa cũng có vài kẻ đang làm quan trong kinh, nhưng không một kẻ nào dám ra mặt nói giúp gã một câu công đạo.

Người nhà gã hay tin xấu, bèn bảo tam đệ gã mang rất nhiều vàng bạc vào kinh vận động, lo lót. Nhưng đây là vụ án do Thiên tử yêu cầu xét xử, lại cuốn bộ Binh, bộ Công, bộ Hộ, Ngũ Quân đô đốc phủ vào vòng tranh cãi, lúc này người ta tránh còn không kịp, ai dám đưa chân bước vào trung tâm cơn bão chứ? Vì vậy chỉ muốn tìm người nói giúp vài câu thôi mà cũng không được.

Lúc đó gã lại nghe tin mẹ già tuổi gần bảy mươi vì hay tin gã phạm tội bị giam vào đại lao, có thể sẽ nguy tới tính mạng mà lòng lo lắng khiến bệnh ngày một nặng thêm, hiện giờ bệnh tình nghiêm trọng, thậm chí trong nhà đã chuẩn bị sẵn quan tài, áo liệm đầy đủ cả. Thế là lòng gã càng như có lửa đốt, bi phẫn khôn cùng.

Chánh giám quân Diệp ngự sử là một gã quan văn, lại đã chết trên chiến trường. Không ai muốn bất chấp liêm sỉ, có thể khiến cho thân bại danh liệt mà đi tố cáo một thư sinh đã "chết trận" chốn sa trường, huống chi còn có gần trăm ngòi bút của Đốc Sát viện ra sức ủng hộ gã ta.

Còn vị Lưu công công đó lại là hoạn quan trong đại nội, là tâm phúc bên cạnh Thái tử, tuy rằng hiện giờ không quyền không thế, nhưng rất được Thái tử coi trọng. Hơn nữa lão là giám quân do đích thân thánh thượng cắt cử, chỉ trích lão sẽ khó tránh có ý ngầm nói thánh thượng dùng người không sáng suốt, cho nên càng không có kẻ nào dám vạch lỗi của lão ta.

Thế là người phải gánh chịu hết thảy mọi tội danh và trách nhiệm này không còn ai khác ngoài gã.

Thoạt đầu Hà tham tướng nghĩ rằng cùng lắm mình sẽ chỉ bị phán tội tham công rơi vào bẫy địch, nặng nhất cũng chỉ là tước quan giáng chức mà thôi. Sau đó khi thấy quan cai ngục vốn lúc đầu còn có chút ý tốt với mình ngày càng trở nên lạnh nhạt, về sau thậm chí còn không cho phép gia quyến vào thăm, đến lúc đó gã mới cảm thấy không ổn. Đến khi tam đệ dùng tiền hối lộ cai ngục, lén vào thăm gã, gã mới hay non nửa quan viên kinh sư đều đang bị cuốn vào trong vụ luận tội này.

Hà tham tướng lập tức ngã lòng nản chí. Gã ở trong quan trường lâu năm, sao lại không biết quy củ của quan trường chứ? Chuyện đã ầm ĩ lên đến mức này, kết quả của vụ luận tội tất nhiên sẽ đi vào ngõ cụt. Muốn tháo gỡ những mối rắc rối ấy, mười phần thì có tám, chín là sẽ bắt gã chết thay, phủi tay cho xong hết mọi chuyện.

Hà tham tướng ngậm ngùi căn dặn tam đệ không cần lãng phí tiền bạc ở trong kinh thành vận động nữa, hãy tức tốc trở về quê chăm sóc mẹ già. Sau đó gã lại đau khổ nhờ em trai chuẩn bị thêm một cỗ áo quan, rồi buồn bã nói:

- Mẹ già đau ốm liệt giường, ta thân là con trưởng lại không thể ở bên cạnh báo hiếu, chỉ đành xuống suối vàng tiếp tục phụng dưỡng mẹ mà thôi.

Tam đệ của gã trào lệ mà đi, từ lúc đó Hà tham tướng chỉ ôm lòng chờ chết. Mấy ngày nay, tóc đen trên đầu gã đều đã biến thành hoa râm. Hôm nay khi Cẩm Y Vệ cầm thánh dụ đến đại lao bộ Hình, Hà tham tướng vẫn ngỡ rằng giờ chết đã tới, không ngờ nghe được lại là tin mình được thả ra khỏi ngục.

Hà tham tướng vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Gã dò hỏi thị vệ Cẩm Y Vệ mới hay dịch thừa Kê Minh là Dương Lăng đã vào kinh làm thái tử thị độc. Không ngờ cái tên dịch thừa nhỏ nhoi mà vốn chưa từng được gã để vào mắt khi đó lại trượng nghĩa trực ngôn, liều chết khuyên can, bù công đắp tội cho gã ở trước mặt bệ hạ, nên giờ gã mới được sống sót rời khỏi đại lao.

Tuy bộ Binh giáng gã xuống làm Phó thiên tổng, đày tới tận Quảng Tây xa xôi, nhưng so với tâm lý trông chờ cái chết, đây đã là kết cục không thể tốt hơn rồi.

Đường dài mới biết ngựa hay, ở lâu mới thấu được thay lòng người. Hiện giờ trong lòng Hà tham tướng, Dương Lăng không khác gì cha mẹ tái sinh ra gã. Tuy loại võ tướng truyền thống như gã có rất nhiều tật xấu và khuyết điểm, nhưng tấm lòng trung nghĩa chính trực cùng với tâm lý có ơn tất mong được báo cũng là tiêu chuẩn đạo đức đã được gieo sâu vào lòng từ bé.

Hà tham tướng cũng không cần phải đi Quảng Tây nhậm chức ngay, nhưng trong nhà mẹ già bệnh nặng khó qua, nếu trước khi mẹ chết không thể gặp mặt một lần thì gã thật sẽ hối hận vô cùng, cho nên nóng lòng muốn về quê. Vừa nhận văn thư bổ nhiệm của bộ Binh xong, gã lập tức chạy đến Dương phủ, định bụng bái tạ ân nhân cứu mạng xong là sẽ lập tức lên đường.

Vừa đến trước cửa nhà Dương Lăng, thấy trên cửa treo chiếc khoá đồng, Hà tham tướng không khỏi ngẩn người. Theo lời người của Cẩm Y Vệ kể thì khi Dương thị độc vào kinh, phu nhân của y cũng đi theo cùng, sao trong nhà lại không có ai như thế này chứ?

Một lão già bày sạp bán đế lót giầy, khăn thêu lẫn hạt dưa, táo tầu trong ngõ trông thấy gã bèn cất cao giọng hỏi:

- Này, ngươi là ai thế? Là khách nhà Dương thị độc Dương đại nhân à?

Hà tham tướng dắt ngựa bước qua, ôm quyền hỏi:

- Vâng, lão ca quen người nhà họ Dương sao? Thế có biết người Dương phủ đi đâu rồi không?

Lão già dương dương tự đắc đáp:

- Biết chứ, sao không biết cho được!? Nhà ta ở sát bên nhà họ Dương đấy! Dương đại nhân là thị độc bên cạnh thái tử, là cận thần bên cạnh thiên tử, mỗi ngày đại nhân đều vào hoàng cung, ta sao lại không biết chứ?

Ta đã cố ý dậy thật sớm mới thấy được hình dáng của Dương đại nhân khi đi chầu đấy! Chậc, chậc, ta thì chưa gặp thiên tử bao giờ, nhưng người bên cạnh thái tử đã là một nhân vật như vậy, có thể tưởng tượng được tướng mạo của vạn tuế gia sẽ như thế nào rồi đấy. Nếu không sao người ta lại nói hoàng đế là chân long, là Tử Vi Tinh Quân (*) trên trời xuống cõi phàm chứ...

(*): Mỗi ngôi sao được đặt một tên riêng. Theo thần thoại Trung Quốc thì mỗi ngôi sao có một vị Tinh quân trông coi, mỗi vị Tinh quân đó lại có một tên riêng, sao Tử Vi đại diện cho bậc đế vương.

Hà tham tướng nhíu mày nghĩ bụng: "Sao người ở nơi này lại nói lắm thế nhỉ? Vừa mở lời là đã là một tràng bất tận, đợi thêm lát nữa ai mà biết được lão ta sẽ nói đến tận đâu ."

Gã vội ngắt lời lão già:

- Vậy xin hỏi lão ca có biết người nhà Dương đại nhân đi đâu không?

Bị ngắt ngang lời, lão già hơi cảm thấy khó chịu. Lão khoát tay nói:

- Dương đại nhân đương nhiên là đang ở trong cung cùng với thái tử gia rồi, thế mà cũng phải hỏi? Còn Dương phu nhân thì đã ra ngoài mua đồ ăn rồi. Dương đại nhân đó là người bên cạnh thái tử gia cơ đấy, hê hê, vậy mà thanh liêm lắm đó, cả kiệu phu cũng không thuê, đến giờ mỗi ngày vẫn đi bộ đến Tử Cấm Thành, trong nhà thì một mình Dương phu nhân giải quyết mọi việc. Dương phu nhân này quả thật là người vợ xinh đẹp hiền thục, dáng người như hoa như ngọc, thật xứng với một nhân vật tuấn tú như Dương đại nhân...

Hà tham tướng vái sâu, cảm tạ:

- Đa tạ lão ca!

Đoạn gã xoay người quay lại đi tới trước cửa nhà Dương Lăng, đứng lặng im hồi lâu, rồi đột nhiên buông cương ngựa, quỳ sụp gối dập đầu xuống đất.

Lão già bán tạp hoá trợn mắt nhìn gã đàn ông đầu bù, tóc hoa râm, dáng người gầy gò đen đúa, râu ria xồm xoàm đang quỳ gối dập đầu trước cửa nhà Dương Lăng. Sau khi cung kính dập đầu ba cái, gã đàn ông nhảy phóc lên ngựa, ra roi phóng vút đi.

Một lúc lâu sao lão già mới sực tỉnh, nhếch cái miệng đã rụng hết răng lên. Trăm nghìn câu chuyện bắt đầu được ấp ủ trong trí tưởng tượng phong phú của lão.

***************

Chú thích:

(1) Vương Việt, tự Thế Xương, người Tuấn huyện, tướng lĩnh vào giai đoạn giữa đời Minh. Theo sử sách, ông có vóc người cao lớn, khoẻ mạnh, thiện bắn cung, rất có mưu lược. Năm Cảnh Thái thứ hai đỗ tiến sỹ.

(2) Loại kịch trong đó nhân vật biểu diễn được cắt hình từ da thú hoặc giấy các-tông.

Chương 63: Bát hổ dạo phố

Dịch: 6300

Biên dịch: TheJoker

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Chu Hậu Chiếu thấy trong chợ bán rất nhiều thứ không có trong cung nên rất thích thú. Ngộ tính của tên nhóc này rất tốt, thấy người khác mặc cả, trả giá quyết liệt đến không biết đường nào mà lần bèn ngứa ngáy trong lòng, thấy thích thứ nào cũng tới hỏi giá, sau đó học theo người ta mặc cả.

---------------------------------

Ngày hôm sau, do Thái tử "bị bệnh" không cần phải vào cung nên Dương Lăng được ngủ nướng, mãi đến tận giờ thìn hai khắc y mới từ trong mộng tỉnh dậy. Nắng xuân tươi thắm len qua song cửa trải xuống chăn, ánh sáng êm dịu sáng sủa.

Con mèo nhỏ Ấu Nương đang rúc vào ngực y ngủ ngon lành. Mái tóc đen nhánh mềm mại che khuất nửa khuôn mặt thanh tú của nàng. Trên gương mặt xinh đẹp, hàng mi dài khép ngủ cong vút mê người đang khẽ rung rinh.

Khuôn mặt trắng nõn thanh tú của nàng thật hấp dẫn, dù khóe mi vẫn toát ra vẻ ngây thơ và trong sáng, nhưng đã điểm xuyết hương vị của phụ nữ. Dương Lăng yêu mến nhìn cô gái nhỏ đang nằm trong lòng, nhẹ nhàng co tay gối đầu, không dám cử động mạnh sợ làm nàng tỉnh giấc.

Mấy bữa qua phải vào cung sớm nên y cảm thấy khổ khôn tả. Hôm qua đã nói với nàng hôm nay không cần phải vào cung sớm, lúc này thấy nàng ngủ thoải mái, Dương Lăng mới giật mình nhận ra mỗi ngày nàng đều phải gọi mình dậy, mỗi lần tỉnh giấc thức ăn đã luôn được bày sẵn. Không những phải dậy sớm, trong lòng nàng lúc nào cũng phải lo tới những việc này nên lúc ngủ cũng không được ngon giấc, nhất định thân thể nàng càng thêm mệt mỏi.

Dù mệt mỏi rã rời nhưng chỉ một chốc sau Ấu Nương đã tỉnh dậy. Mở mắt thấy phu quân đã tỉnh, nàng vội le chiếc lưỡi nhỏ xinh, xấu hổ hỏi:

- Ơ kìa, tướng công đã tỉnh rồi à? Thật là... thiếp lại ngủ quên mất.

Dương Lăng thấy nàng hốt hoảng định bò dậy, liền vươn tay giữ vai nàng lại, mỉm cười bảo:

- Hai ngày nay nàng dậy sớm quá, tối... còn dọn dẹp tắm rửa, lại ngủ quá muộn. Dù sao hôm nay ta cũng không cần phải đi sớm, nghỉ ngơi thêm một lát nữa đi.

Ấu Nương nghe y nói những lời yêu thương, mặt nàng hồng phơn phớt, vừa thẹn vừa vui, liếc mắt nhìn lại, vâng một tiếng rồi ngoan ngoãn rúc vào lòng y, thỏ thẻ làm nũng:

- Ừm! Hai ngày nay, thiếp cũng không biết sao nữa. Nhất là hôm nay, thiếp cảm thấy các khớp xương đều ê ẩm, người mềm nhũn cả ra, lại chẳng muốn nhúc nhích gì nữa. Lúc còn ở nhà với bố mẹ, ngày nào thiếp cũng phải dậy sớm luyện võ, bây giờ thì càng ngày càng lười rồi.

Dương Lăng thấy nàng kêu thân thể ê ẩm, chẳng muốn cử động thì vội hỏi:

- Sao lại thế? Có phải là bị trúng gió rồi không?

Vừa hỏi y vừa rờ trán nàng, chỉ thấy hơi ươn ướt nhưng lại mát, không nóng chút nào.

Trước giờ thân thể Ấu Nương vẫn khỏe mạnh, từ bé chưa từng bị bệnh vặt, cho nên nàng cũng không để tâm lắm, còn tưởng là do hai ngày qua mới bị phá thân, tướng công đòi hỏi quá độ, việc xấu hổ này đâu thể nói ra được, vì thế nàng khẽ cười:

- Không sao đâu, thiếp luyện võ từ nhỏ, thân thể khỏe mạnh lắm, nếu thực sự bị cảm mạo phong hàn thật, thiếp đi tìm thầy lang bốc vài thang thuốc là được.

Dương Lăng sờ trán nàng không thấy bị sốt, nên cũng bớt lo, lại thấy bộ dáng yêu kiều nhõng nhẽo đáng yêu của nàng chan chứa phong tình của gái mới lấy chồng, sự quyến rũ này khác hẳn nét ngây thơ xinh tươi ngày trước, lửa lòng bỗng bùng lên. Ôm nàng sát hơn, y cười ranh mãnh:

- Nào, để tướng công giúp Ấu Nương xoa bóp cho đỡ mệt.

Trong chăn, bàn tay xấu xa đang "do thám" áo lót của Ấu Nương, lén lút lần mò tới bộ ngực mịn màng mềm mại của nàng, sờ nắn nhẹ nhàng. Ấu Nương khẽ lườm y, mặt nàng đỏ ửng lên thật mê người.

Ấu Nương lặng im, ngây ngất, mặc cho Dương Lăng nghịch ngợm bộ ngực của mình. Bị y vuốt ve một lúc, thân thể bắt đầu không được tự nhiên, chỉ cảm thấy đê mê, thế nhưng cái cảm giác uể oải khó tả khiến nàng không muốn cục cựa. Nàng hổn hển mắng khẽ:

- Tướng công đừng nghịch nữa! Chẳng phải chàng nói còn phải vào cung một chuyến sao? Chàng hãy mau dậy súc miệng thay đồ đi, thiếp chuẩn bị bữa sáng cho chàng.

Dương Lăng thấy nàng e lệ rụt rè cũng không nỡ ép buộc, bèn thơm nhẹ lên má nàng, rồi cười hì hì nói:

- Nếu nàng mệt thì cứ nghỉ ngơi đi! Tướng công ăn tạm thứ gì đó trên đường cũng được rồi.

Nào chịu như vậy, Ấu Nương vừa gượng dậy mặc quần áo vừa hỏi:

- Tướng công, hôm qua chàng vừa về Liễu Bưu lại mời chàng tới Bắc trấn phủ ty để làm gì thế? Chẳng phải bây giờ chàng đang làm việc ở chỗ Thái tử rồi sao?

Nhân lúc nàng đứng dậy, Dương Lăng vỗ một phát vào cặp mông đẫy đà vênh vểnh của nàng, cười trả lời:

- Dù sao đã khoác chức quan của Cẩm Y vệ thì cũng phải được cắt cử đi làm việc cho họ chứ. Trương đề đốc sợ ta chưa thể xử lý công vụ nên tạm thời phái ta làm mấy việc nhàn hạ, chuyên phụ trách công văn của Nam trấn phủ ty trình lên kinh sư.

Ấu Nương nhanh nhẹn vấn tóc, khẽ ồ một tiếng, nghiêng đầu hỏi:

- Tướng công, Nam trấn phủ ti quản lý những gì vậy?

Dương Lăng đáp:

- Nam trấn phủ ty quản lý hình danh trong vệ và những sự vụ của quân tượng. Hình danh chính là phụ trách việc xét xử, còn quân tượng thì là các thợ chế tạo khôi giáp, quân giới, hỏa tiễn, súng hoả mai, thậm chí cả chiến thuyền, chiến xa, tất cả đều do Nam trấn phủ ty quản lý.

Hình danh trong vệ mà Dương Lăng nói chỉ phụ trách xét xử những người phạm tội bên trong Cẩm Y vệ. Còn bình thường quan lại và tướng lĩnh phạm tội đều giao cho Tam Pháp ty cai quản. Cho nên phạm vi phụ trách hình danh của Nam trấn phủ ty hơi giống một tòa án binh cỡ nhỏ. Còn như việc quản lý quân tượng, nếu như ở thời hiện đại tất nhiên là một ngành khá quan trọng, nhưng tại thời đại này thì việc trông nom công nhân kỹ thuật không được tính là một thứ gì to tát lắm.

Ấu Nương đương nhiên không biết những điều này. Dương Lăng ăn xong bữa sáng, dặn dò Ấu Nương nếu thấy khó chịu thì cứ lên giường nghỉ, còn mình thì khoác bọc áo quần đã chuẩn bị từ trước, ung dung đi thẳng đến cổng sau của kinh thành.

Lúc này trời còn sớm nhưng những cửa hàng lân cận kinh thành đã mở cửa kinh doanh rồi. Bấy giờ địa vị của thương nhân trong xã hội rất thấp, nhưng lợi nhuận cực lớn của buôn bán khiến nhiều người thèm thuồng. Do đó một số nhà dòng dõi công thần huân khanh bèn cử quản gia tới vùng phụ cận hoàng thành, lấy danh nghĩa cá nhân quản gia mở cửa hàng,kỳ thực việc đầu tư, kinh doanh, lợi nhuận đều nằm trong tay bọn họ. Dần dần tự phát hình thành nên một khu chợ bán hàng cao cấp tại nơi này.

Dương Lăng tới một tiệm trà ở sát cửa hậu cung, gọi một bình trà và chút hạt dưa, vừa uống vừa chờ. Chờ được nửa canh giờ, y thấy cửa cung mở ra, hai mươi mấy tên thái giám đẩy mấy xe chở nước ra khỏi cửa cung.

Nội cung thường thường cử người tới Ngọc Tuyền sơn múc nước suối hảo hạng dâng đế vương và đám phi tần uống. Tuy rằng thông thường lúc trời còn chưa sáng đã xuất phát rồi, nhưng rời cung vào lúc này cũng là chuyện bình thường, cho nên đám du khách và thương nhân đang nhốn nháo rộn ràng chung quanh cũng không chú ý lắm.

Dương Lăng quan sát cẩn thận, thấy trong đám người đó có vài thái giám hơi cúi đầu liếc ngang liếc dọc. Trong đó có một tiểu thái giám nhỏ tuổi đi cạnh cái bánh xe to tướng của chiếc xe chở nước, nhìn ngó láo liên tứ phía. Dương Lăng vừa nhìn qua đã nhận ra người đó chính là Chu Hậu Chiếu, vội vàng chạy tới đón.

Chu Hậu Chiếu mặc y phục của tiểu thái giám đang nhìn đông nhìn tây, Dương Lăng sáp đến níu lấy tay áo hắn, thấp giọng gọi:

- Thái tử!

Chu Hậu Chiếu giật mình, ngẩng đầu trông thấy y, nét mặt không khỏi lộ vẻ mừng rỡ. Dương Lăng vội vàng khoát tay ra hiệu đừng lên tiếng. Lưu Cẩn cũng đang đi bên cạnh Chu Hậu Chiếu, trông thấy Dương Lăng, lão liền mỉm cười chào.

Dương Lăng vác gói đồ đi theo bọn họ một hồi tới một tiệm gỗ. Các loại gỗ thượng hạng trên khắp cả nước được chuyển tới tiệm này, họ còn mời rất nhiều thợ cả đến làm mộc, có thể chế tác tại chỗ các loại đồ dùng trong nhà với đủ kiểu dáng khác nhau thoả mãn yêu cầu của đám quan to quý tộc. Do đó bên cạnh cửa hàng có một lối nhỏ dẫn đến xưởng mộc riêng của tiệm.

Dương Lăng kéo Chu Hậu Chiếu một cái, Chu Hậu Chiếu cũng hiểu ý, nhân lúc mọi người không chú ý, theo Dương Lăng rẽ vào ngõ nhỏ. Dương Lăng bước vội mấy bước, thấy xung quanh không có ai, quay người lại vừa định lên tiếng, liền thấy một đám người đi theo sau Chu Hậu Chiếu. Y mắt tròn mắt dẹt, hoảng hốt hỏi:

- Sao.... sao mà... các vị công công đều tới vậy?

Hôm qua bọn họ đã thỏa thuận Lưu Cẩn và Trương Vĩnh sẽ theo Chu Hậu Chiếu nhân cơ hội xe chở nước rời cung mà lẻn ra. Cốc Đại Dụng và Mã Vĩnh Thành thì ở lại Đông cung để che mắt; còn bọn Cao Phương, La Tường, Ngụy Bân, Khâu Tụ thì không được giao việc gì.

Bởi vì đám Bát hổ không phải toàn là người trưởng thành, còn có những thái giám trẻ mới hai mươi tuổi, nếu như đều theo ra ngoài thì quá lộ liễu, hơn nữa y còn sợ bọn họ xúi giục Chu Hậu Chiếu gây chuyện. Còn Trương Vĩnh, Lưu Cẩn, một kẻ trưởng thành lão luyện, một kẻ cơ mưu thâm sâu, có bọn họ đi theo phối hợp là tương đối ổn thỏa. Dè đâu lúc này y nhìn lại thấy đủ cả tám người chẳng thiếu một ai đều theo ra khỏi cung.

Ngụy Bân thấy Dương Lăng hoảng hốt, cười hề hề:

- Dương tướng công không cần phải lo lắng! Tối qua hoàng thượng vừa mới tới thăm Thái tử, vả lại hôm nay bên quân đội có tin cấp báo, hoàng thượng và ba vị đại học sĩ cùng các vị thượng thư của bộ Binh, bộ Công đang nghị sự! Còn người của bộ Lễ, bộ Hộ đều đang phải tuần tra trường thi kỳ thi Xuân. Không có chuyện gì đâu!

Dương Lăng cười khổ một tiếng, y biết rõ mấy kẻ này đời nào bỏ qua cơ hội lấy lòng thái tử. Dương Lăng đành phải nói:

- Các vị công công nói cũng phải, chỉ là.... trước đó hạ quan không hiểu tình hình, cho nên chỉ chuẩn bị ba bộ quần áo...

Khâu Tụ vội đáp:

- Không sao cả, chúng ta đều đã tự chuẩn bị y phục rồi.

Gã ngó quanh bốn phía, thấy ở giao lộ chỉ thỉnh thoảng có mấy người đi qua, cũng không quá để ý đến trong ngõ, liền vội vàng cởi áo bào thái giám, tháo nón xuống, trên người đã mặc sẵn một bộ quần áo sĩ tử bình thường, trên đầu đội một chiếc khăn thư sinh, cải trang rất nhanh chóng. Gã vốn là một hoạn quan, thiếu khí chất mạnh mẽ của đàn ông nên mặc bộ y phục này, tuy da hơi đen nhưng lại thật giống kẻ đọc sách yếu đuối.

Chu Hậu Chiếu, Lưu Cẩn, Trương Vĩnh được Dương Lăng chuẩn bị đủ áo quần rồi nên không phải ăn mặc rườm rà như vậy. Mấy người kia đổi y phục xong liền đứng chắn phía trước, ba người còn lại cũng vội vã thay đổi áo quần, cả mười người đều ăn mặc kiểu văn nhân. May mắn là đúng dịp kỳ thi Xuân, sĩ tử văn nhân khắp nơi tụ tập tới kinh sư, khắp thành Bắc Kinh đều là người đọc sách, nên bọn họ cũng không khiến người khác nghi ngờ.

Dương Lăng hỏi:

- Thái tử, bây giờ chúng ta tới bộ Binh chứ?

Chu Hậu Chiếu vừa rời khỏi hoàng cung, như chim xổ lồng, như cá gặp nước. Ngày trước hắn rời khỏi cung toàn do phụ hoàng đưa đi, có rất nhiều thị vệ ngầm bảo vệ nghiêm ngặt, chỉ đi tới những chốn ít người lai vãng; chưa bao giờ hắn được như hôm nay tự mình ra ngoài. Hắn như nhà quê lên phố, thấy cái gì cũng mới lạ. Nếu như bây giờ tới bộ Binh náo loạn một trận, rồi tới nơi khác dạo chơi thì chắc chắn không vui nữa, làm sao hắn chịu đi luôn bây giờ. Thế là Chu Hậu Chiếu vội vàng khoát tay đáp:

- Đừng gấp, đừng gấp! Chúng ta đi dạo khắp nơi trước đã.

Dương Lăng không biết làm sao, đành phải theo hắn đi lang thang trong chợ. Chu Hậu Chiếu thấy trong chợ bán rất nhiều thứ không có trong cung nên rất thích thú. Ngộ tính của tên nhóc này rất tốt, thấy người khác mặc cả, trả giá quyết liệt đến không biết đường nào mà lần bèn ngứa ngáy trong lòng, thấy thích thứ nào cũng tới hỏi giá, sau đó học theo người ta mặc cả.

Mặc dù hắn không biết giá cả nhưng Bát hổ lại khá rành rẽ. Có bọn họ ở bên giúp đỡ, dù Chu Hậu Chiếu không đến nỗi tiêu tiền như nước, nhưng hễ đã mặc cả xong thứ gì thì phải mua luôn. Bấy giờ đa số bọn Bát hổ đều cười khổ vì chẳng có xu nào, duy có Mã Vĩnh Thành chuyên phụ trách mua sắm thường nhật trong cung, mặc dù không phải là thái giám chủ sự nhưng tiền bạc trong tay cũng đủ để dùng. Để lấy lòng thái tử, chỉ cần Chu Hậu Chiếu mặc cả xong thứ gì, gã liền lập tức rút tiền ra mua.

Mấy người dạo quanh vùng ven hoàng thành chưa tới một canh giờ mà tám tên thái giám và cả Dương Lăng đều đã tay xách nách mang, khuân vác đủ thứ. Ngay bản thân Chu Hậu Chiếu cũng nghiêng vai cắp một quyển lụa, tay phải xách hai bao trà, trên cổ treo mấy hộp trân châu, tay trái cầm một chiếc đĩa lớn có tạo hình hoa sen cá vàng ở bên trong rất đẹp, trông rất buồn cười.

Mặc dù thân phận của đám thương nhân đó thấp kém, nhưng đều là nhân viên quản gia được các thế gia vọng tộc phái ra nên cũng khá hiểu các mặt của xã hội. Nhìn tính cách của đám người này giống như bọn nhà giàu mới nổi, còn tưởng là tài chủ dưới nông thôn lên, nên cho dù ăn bạc của bọn họ xong mà trên mặt đám thương nhân vẫn không tránh khỏi vẻ khinh bỉ.

Chu Hậu Chiếu chơi đùa rất vui vẻ, mặc kệ vẻ mặt của đám thương nhân đó. Đi dạo trong chợ đến chán chê rồi, hắn mới cảm thấy mấy thứ trong tay quá vướng víu. Quay đầu nhìn lại, thấy bộ dạng của đám người Lưu Cẩn và Dương Lăng còn nhếch nhác hơn mình nhiều, Chu Hậu Chiếu chợt cười ầm lên.

Hắn nghĩ tám người kia đều ở trong cung hầu hạ mình, trong kinh cũng không có người thân nào nên bèn nói với Dương Lăng:

- Hôm nay đi chơi thật là vui! Vốn ta muốn đi dạo phố thêm, nhưng mấy thứ này quá phiền phức. Không phải là ngươi mới tới kinh thành sao? Mấy thứ này tạm coi như quà chúng ta tặng ngươi. Chúng ta tới đầu phố thuê xe đi! Mang mấy thứ này tới nhà ngươi, sau đó tiếp tục dạo phố.

Nghe xong, Dương Lăng trong lòng rất vui vẻ, không ngờ đi theo Thái tử dạo phố còn được cho quà. Chu Hậu Chiếu mua sắm toàn dựa vào ý thích của bản thân, cũng không màng giá cả ra sao, cho nên những món đồ này rất đa dạng, có những thứ chỉ hai chục văn tiền, có những thứ đắt tới vài ba trăm lạng. Đống đồ mấy người đang xách tính ra cũng phải hơn ngàn lạng bạc, trong đó còn có gương son các thứ, mình mang về sẽ giúp Ấu Nương tiết kiệm được thời gian đi mua sắm.

Trong lòng phấn chấn, ngoài miệng y vẫn còn khách sáo một hồi, vội vã khiêm nhường:

- Thái tử gia,việc này không ổn đâu, đây đều là những thứ người thích! Nếu như muốn ban thưởng cho thần, tám vị công công cũng phải có phần mới phải.

Chu Hậu Chiếu nghe xong cười mắng:

- Giả bộ vừa thôi, bọn họ ăn trong cung, dùng đồ trong cung, ngay cả nhà cũng không có, cho họ mấy thứ này về làm gì? Mau đi kiếm xe đi!

Trương Vĩnh cũng nhăn nhó phụ họa:

- Dương tướng công, cậu đừng từ chối nữa! Cái thân già của ta sắp không chịu nổi nữa rồi. Ui da, cái vò này khi nãy không cảm thấy nặng chút nào mà bây giờ sắp tuột xuống đất rồi đây này!

Mấy người La Tường, Ngụy Bân, Khâu Tụ liên tục gật đầu hưởng ứng. Mặc dù cả bọn đều là nô tài để sai bảo nhưng chưa từng làm những việc lao lực. Vác đồ cả nửa ngày trời, vừa đừ vừa mệt, lại không dám tùy tiện bỏ mấy thứ Thái tử mua xuống, bây giờ bọn họ chỉ mong mấy thứ này mau mau rời khỏi tay, còn việc cho ai thì cũng chẳng quan trọng.

Thế là Dương Lăng và Chu Hậu Chiếu sánh vai chen chúc khỏi đám đông đi ra đường cái. Do đông người, đám thái giám sợ Chính Đức bị lạc mất nên theo thói quen bốn trước bốn sau bảo hộ, lưng cũng hơi khom xuống, nhìn qua giống như đang hầu hạ một quý công tử xuất hành. Nhưng bọn họ đều mặc đồ thư sinh nên người qua đường thấy cũng hơi lạ. Đoàn người vẫn không phát hiện, cứ xếp thành hai "cánh quân" vác đống đồ lỉnh kỉnh kéo tới nhà Dương Lăng.

Chương 64 Thập đại ác nhân

Dịch: TheJoker

Biên dịch:

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Sỹ tử ấy đứng dậy, nước mắt giàn giụa, ngoái đầu thấy Dương Lăng sắp rẽ qua góc màn che, liền vội cất cao giọng nghẹn ngào nói to:

- Ơn giúp đỡ của Dương đại nhân, cả đời này học sinh Nghiêm Tung sẽ không bao giờ quên!"

Vừa mới rẽ qua màn che, nghe được lời gã Dương Lăng liền vấp chân, thiếu chút nữa thì ngã lộn cổ xuống sông.

---------------------------------

Dương Lăng thuê một cỗ xe lớn, chất từng món đồ lên xe. Trương Vĩnh, Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành, ba tên thái giám cao tuổi nhất lên ngồi trên xe cùng với Thái tử và thị độc, còn những tên trẻ tuổi hơn đành phải hạ mình theo sau xe, cùng đi thẳng đến đường Hộ Quốc Tự.

Mặc dù Chu Hậu Chiếu gan to làm liều, nhưng y cũng lo chuyện Thái tử tự mình rời cung sẽ lan khắp mọi người, cho nên dọc đường căn dặn Dương Lăng và Bát hổ cùng nói bọn họ đều là thị độc của Thái tử, hôm nay đến nhà họ Dương là để chào đón đồng liêu tiến kinh, có lòng mua lễ vật biếu tặng. Mấy tên thái giám đều vâng vâng dạ dạ đáp lời, dù sao thì dân gian trăm họ cũng không biết bên cạnh thái tử gia có bao nhiêu văn nhân làm Thị độc.

Sau khi Dương Lăng rời khỏi nhà, Ấu Nương cảm thấy trong người khó chịu, mới ăn qua loa một chút thì đã không thể nuốt thêm. Nàng bèn vào giường nằm nghỉ một chút, rồi lại ngồi dậy luyện hít thở một hồi, cảm thấy trong lòng thoải mái hơn nhiều. Vừa mới hồi phục tinh thần, nàng chợt nghe tiếng đập của vòng khoá bằng đồng trước cổng rồi có tiếng tướng công gọi:

- Ấu Nương! Mau ra đón khách...

Hàn Ấu Nương vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ: “sao hôm nay tướng công về sớm vậy?” Nàng vội xuống giường, bước ra cửa đón. Có tám, chín người diện đồ tú tài màu xanh đang đứng ngoài cửa, người nào người nấy tay xách nách mang không ít đồ lỉnh kỉnh. Dương Lăng bước lên, cười nói:

- Ấu Nương, mấy vị này đều là Thị độc của Thái tử điện hạ trong Đông cung, là đồng liêu của ta. Nghe nói ta vừa mới đến kinh sư, các vị có lòng mua lễ vật đến đây thăm hỏi.

Mấy người Lưu Cẩn, Cốc Đại Dụng nghe xong đều cố nặn ra một bộ mặt vui vẻ hoà nhã, lần lượt gật đầu, tươi cười đồng thanh nói:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Chúng tôi đều là đồng liêu của Dương tướng công. Hôm nay muốn đến quý phủ để thăm viếng.

Trình độ văn hoá tám người này có cao, có thấp, tên thì gọi nàng là “Dương phu nhân”, kẻ thì gọi nàng là “tiểu nương tử”. Khâu Tụ, Nguỵ Bân trẻ tuổi, lại ở trong cung từ bé nên càng không biết phải xưng hô với Ấu Nương như thế nào, thế là cũng bất kể mình lớn hay nhỏ tuổi hơn Dương Lăng cứ gọi nàng là "chị nhà Dương" luôn (Dương gia tẩu).

Nghe nói là đồng liêu cùng làm việc chung với tướng công, Ấu Nương không dám chậm trễ, vội vàng mời bọn họ vào nhà. Mấy tên này vừa bước vào nhà liền vội tranh thủ chất hết các thứ mà Chu Hậu Chiếu đã mua xuống khắp nhà rồi tìm chỗ ngồi đấm tay bóp chân. Lễ vật mà những tên này xách rất đa dạng, thậm chí còn có riềm giấy đính thạch anh, hũ dưa muối, hồ lô Bát Tiên, đủ cả. Sau khi chất cả vào nhà, trên giường dưới đất khắp nơi đều là lễ vật.

Chính Đức đi sau lưng mọi người, bước vào nhà sau cùng. Y cũng ăn mặc như một tiểu thư sinh, người mặc áo xanh, đầu đội khăn vải, tay cầm "bánh Hồ lô đường" gặm được một nửa. Y nhảy mấy bước đến bên cạnh Ấu Nương, thảy ba xâu trân châu và một bao giấy Tuyên Thành thượng hạng lên giường rồi cười hề hề với Ấu Nương:

- Ấu Nương tỷ tỷ, đệ cũng đến nè.

Ấu Nương hơi ngẩn người. Thấy y còn nhỏ tuổi, nàng không khỏi vừa cảm thấy ngạc nhiên vừa cảm thấy kỳ lạ: "Thư sinh nhỏ tuổi thế này mà cũng là người bên cạnh thái tử à?" Nàng thấy thư sinh này hơi quen, nhưng lại không nhớ nổi đã từng gặp mặt lúc nào. Dương Lăng vội bước tới giới thiệu:

- Vị này... a hèm, cũng là đồng liêu của ta. Nương tử còn nhớ tiểu công tử mà chúng ta đã gặp ở Hộ Quốc tự ngày đó không?

Hàn Ấu Nương "a" lên một tiếng, vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ đáp:

- Nhớ rồi, thiếp nhớ rồi! Thì ra tiểu công tử cũng là “bạn độc” (bạn đọc sách, khác với thái giám) bên cạnh thái tử gia. Mời vào, mời vào!

Ấu Nương thấy tuổi tác của vị tiểu thư sinh này xấp xỉ với tam đệ Mãn Thương của mình, cảm thấy rất đỗi thân thiết. Nàng cười nói với y:

- Mau vào nhà ngồi đi! Đệ là đồng liêu của tướng công, phải gọi tỷ là tẩu(*) mới đúng.

(*) Tỷ dùng chung để xưng chị, còn tẩu là tiếng kính xưng đối với vợ của của anh, vợ của người lớn tuổi hơn hoặc đối với phụ nữ có chồng nói chung.

Chính Đức chỉ có một đệ đệ đã chết yểu lúc nhỏ, con cháu họ Chu tuy nhiều, song tất cả đều bị đuổi ra khỏi kinh hết, nên ngày thường y thật sự chưa từng gọi người khác là tẩu. Nghiêng đầu nghĩ ngợi một lát, cảm thấy có người chị như Ấu Nương cũng không tệ, thế là y bèn vui vẻ sửa đổi cách gọi.

Ấu Nương cười đáp lại một tiếng, đang chuẩn bị đun nước pha trà, Trương Vĩnh vội ngăn lại, cười ha hả nói:

- Phu nhân không cần khách sáo đâu. Chốc nữa Dương thị độc sẽ mời các vị đồng liêu đến tửu lâu uống rượu, chúng tôi đến nhà ngồi một chút rồi sẽ đi thôi.

Những kẻ này đang thật sự rất mệt, nhưng Chính Đức thì vẫn dồi dào sức lực, chạy loạn khắp trong nhà ngoài sân, hễ thấy thứ gì mà chưa gặp bao giờ thì y liền tò mò căng cái họng vịt đực ra gọi "tẩu" tới. Từ khi đến kinh thành, Ấu Nương cũng hơi nhớ đến người thân ở quê nhà. Chính Đức mày đen mắt đẹp, nghịch ngợm khoẻ khoắn rất giống với đệ đệ Hàn Mãn Thương của nàng, vì vậy Ấu Nương cũng rất thích y, cho nên hết lần này đến lần khác kiên nhẫn giải thích một phen.

Một hồi sau, Chu Hậu Chiếu lại nhìn thấy cái giếng trong sân. Thấy buộc dây thừng vào bánh xe gỗ, kéo thùng gỗ lên thì có thể múc được nước giếng ngon ngọt và mát rượi, thế là tính ham chơi của y lập tức phát tác. Sau khi nghe Ấu Nương giải thích cách dùng, thấy nước trong lu chỉ còn non nửa, y lập tức nổi hứng hăm hở kéo từng thùng nước đổ vào trong lu.

Bọn Lưu Cẩn, Trương Vĩnh thấy Thái tử làm công việc nặng nhọc như vậy, cũng bất chấp thân thể còn đang rã rời, ồ ạt tranh nhau chạy ra đòi giúp. Chu Hậu Chiếu đang chơi hăng đâu chịu buông tay, đổ đầy cả lu nước rồi mới tiếc nuối dừng tay.

Vừa rồi đứng ở bên giếng, mấy tên thái giám cứ thon thót lo Thái tử sẽ gặp bất trắc, rốt cuộc thấy y đã dừng tay, sợ y lại nghĩ ra thêm trò chơi mới mẻ gì nữa, liền vội thừa dịp cáo từ Ấu Nương. Hàng người rời khỏi sân nhà, Dương Lăng cố ý tụt lại ở phía sau, chờ bọn họ đi xa một chút rồi quay đầu nói với Ấu Nương:

- Ấu Nương, sắc mặt nàng tệ lắm, má đỏ bừng rồi. Có phải cảm thấy không được khoẻ không? Nếu không thì... Khi nào về ta dẫn nàng đi gặp lang trung nhé?

Hàn Ấu Nương phấn chấn tinh thần cười nói:

- Thân thể thiếp nào quý giá như vậy? Tướng công yên tâm đi, có lẽ là do lạnh bụng cho nên hơi khó chịu, thiếp nghỉ ngơi một chút thì sẽ đỡ thôi. Chàng hãy đi tiếp khách đi, chớ để thất lễ.

Nàng vừa phủi bụi bặm bám trên vai Dương Lăng do khiêng đồ khi nãy, vừa mỉm cười nói:

- Thái tử gia thật là một người kỳ lạ. Thị độc có người sắp làm ông người ta, có người thì lại là trẻ con chưa lớn, chắc bọn họ cũng là những nhân vật lớn trong triều nhỉ? Có điều thiếp cảm thấy bọn họ không oai phong bằng tướng công đâu.

- Dĩ nhiên!

Dương Lăng ưỡn ngực đáp. Y ngoái đầu nhìn: tám tên đại thái giám, một thằng nhóc con. Phẩm chất của "cửu đại ác nhân" trong lịch sử này hãy tạm chưa nhắc đến mình, cho nên nếu chỉ nhìn vào tướng mạo thì trông thế nào mình cũng đúng là người oai phong nhất.

Y cười với ái thê một cách rất uy nghi rồi nói:

- Nàng trở về đi, không khỏe thì nghỉ ngơi, đừng dọn dẹp đồ đạc trước. Chờ thêm mấy ngày nữa tướng công mua nha hoàn về hầu hạ nàng. Ấu Nương của ta cũng nên được hưởng phúc một tý rồi.

*****************

Kỳ thi Hội thường được cử hành vào tháng Hai năm kế tiếp của kỳ thi Hương, xưa gọi là "kỳ thi Xuân"*. Đến lúc đó sỹ tử toàn quốc tụ tập về kinh thành quyết trận sống mái. Tính bi tráng của nó còn khốc liệt hơn cả những kỳ thi đại học một chọi trăm, một chọi nghìn ngày nay. Do năm ngoái vua Hoằng Trị bị một cơn bệnh nặng, qua năm lại gặp phải chuyện Thát Đát tập kích biên giới, cho nên kỳ thi Xuân năm nay trì hoãn lại đến giờ mới khai mạc, trễ trọn một tháng.

(*): Vì kỳ thi Hội diễn ra vào mùa xuân kế tiếp của kỳ thi Hương, trong các năm Sửu, Thìn, Mùi, Tuất, do bộ Lễ tiến hành, nên còn gọi là “lễ vi”, hay “xuân vi”

Hôm nay là ngày thi đầu tiên. Bộ Lễ phải xin thánh dụ, cúng trời xanh, bái Khổng Tử, thực hiện rất nhiều lễ nghi hết sức rườm rà, cho nên lúc bắt đầu thi trời đã không còn sớm nữa. Bây giờ trên đường vẫn còn từng đám sỹ tử hối ha hối hả chạy đến Văn Miếu để thi.

Chu Hậu Chiếu nhìn những thí sinh lưng đeo vải bọc, tay ôm bút nghiêng, nảy lòng tò mò, cũng chạy tới miếu Khổng Tử để xem náo nhiệt. Dương Lăng biết y mà chưa chơi thỏa thì nhất định không có lòng dạ nào đi làm đại sự, thế là đành phải cùng với bọn Lưu Cẩn cuống quýt đuổi theo đến Văn Miếu.

Những thành thị có chút quy mô ở Đại Minh đều xây dựng “học cung” (nhà học). Học cung chính là nơi khổ học của sỹ tử đồng thời cũng là chốn thờ Khổng tử. Miếu Khổng tử của kinh sư đương nhiên là học cung lớn nhất toàn quốc. Đám người Chu Hậu Chiếu đến trước học cung, thấy bức hoành treo cao cao trên cạnh cửa viết bốn chữ vàng "Vạn Thế Sư Biểu"(1). Dựng ngay trước cây cầu bên ngoài ao miếu là một tấm bia cấm cao hai mét: "Quan viên văn võ đến đây phải xuống ngựa".

Không cần biết quan lớn cỡ nào, đã đến học cung đều phải hạ kiệu, xuống ngựa mà bước bộ vào. Những văn nhân được phong làm đại quan đều trở về cúng bái Khổng lão phu tử, xem như là đã "áo gấm về làng", khoe khoang với những kẻ tầm thường. Còn võ tướng, cho dù là quan đến nhất phẩm, quyền khuynh triều chính, từ rất xa mà nhìn thấy hai chữ Học Cung thì cũng phải đi vòng. Đành thế thôi, đám hủ nho già một mực tin rằng "bán bộ Luận Ngữ trị thiên hạ, Đạo Đức văn chương thế vô song"(2), người học võ bước vào là muốn nhận lấy sự kỳ thị rồi.

Học cung tuy lớn, nhưng vẫn không đủ chứa thí sinh của cả nước nên đã dựng thêm ba dãy chòi gỗ sát tường cung để bổ sung thêm điểm thi. Chung quanh màn vải giăng kín, binh sỹ canh gác nghiêm ngặt.

Lúc Chu Hậu Chiếu rì rì chạy đến nơi thì "chuông vang trống dội", kỳ thi đã bắt đầu. Trước cửa, ngoài người nhà, gia bộc của đám sỹ tử và một vài tiểu thương bán nước trà, điểm tâm ra, thì chẳng còn sỹ tử nào nữa. Chu Hậu Chiếu bỗng cảm thấy vô vị. Thấy dưới gốc cây hoè to có sạp trà, y liền qua đó ngồi. Lưu Cẩn vội kêu tiểu nhị lại, gọi trà, điểm tâm, hạt dưa rồi cùng Chu Hậu Chiếu tán gẫu dưới gốc cây.

Dương Lăng nhìn trời, ước chừng khoảng hơn mười giờ sáng, vẫn còn dư thời gian để đến bộ Binh, lúc này mới yên tâm. Y báo với Chu Hậu Chiếu một tiếng, rồi men theo ao nước trước học cung chậm rãi đi về hướng Tây, định ngó bộ dáng của những sỹ tử dự thi mớ văn Bát Cổ này. Có điều màn vải giăng thật quá kín, cách vài bước lại có một quan binh canh gác, đến gần một chút là bị bọn họ lớn tiếng quát nạt ngay. Đi dạo một hồi, cảm thấy chán, Dương Lăng đang định quay người trở về thì đột nhiên một sỹ tử tay kẹp bao vải hối hả chạy lướt qua người y, thẳng tới cửa trường thi do màn vải giăng. Sỹ tử ấy đầu mướt mồ hôi, giơ thẻ thi lên sốt sắng báo:

- Binh đại ca, học sinh vì đến muộn, lại đến nhầm trường thi, chậm trễ chút thời gian. Xin quan binh đại ca hãy châm chước một chút, cho ta vào đi.

Dương Lăng dừng bước lại, quay người tò mò nhìn. Đứng gác ở cửa có bốn tên lính, một tên tiểu kỳ (lính đeo cờ) xua tay bảo:

- Chuyện lớn như thi Hội này mà cũng nhầm lẫn được à? Đã muộn thì đợi thêm ba năm đi. Chúng ta cũng không dám tự quyết định cho ngươi vào đâu.

Vị sỹ tử đó nôn nóng đến toát mồ hôi đầm đìa, vừa quỵ luỵ khẩn cầu, vừa chắp tay vái lia lịa:

- Các vị quan binh đại ca, học sinh cực khổ đọc sách học hành mười năm không nghỉ, chính là vì một khắc này đây. Không dám giấu các vị quan binh đại ca, đêm qua học sinh còn cố thức học đến tận canh ba. Chỉ hận trên đường đụng phải một tên vô lại, bị hắn quấn lấy quấy rầy mãi, cho nên lỡ mất thời giờ. Xin các vị hãy giúp đỡ một chút!

Dương Lăng quan sát tên sỹ tử này, thấy gã tuổi trạc hai mươi lăm, hai mươi sáu, mày rậm mắt to, nước da ngăm ngăm, vóc người vừa cao vừa gầy, người mặc một bộ thanh sam, trông như cây sậy.

Gã vừa van vỉ vừa đưa tay vào ngực lấy tất cả ngân lượng cất trong người nhét vào tay của tên lính nọ, kèm theo một nụ cười nói:

- Các vị binh đại ca hãy châm chước giúp một chút, đại ân đại đức học sinh suốt đời sẽ không quên.

Tên lính thấy y nhét chừng hơn chục lượng bạc ròng, ánh mắt tức thời lộ ra vẻ tham lam. Có điều bên trong trường thi này là trọng địa, cửa ải trùng trùng, qua được ải này của hắn cũng không vào được đến trường thi. Tuy hắn là một quan binh lớn nhưng cũng không có quyền đưa người vào, đành phải ngậm ngùi đẩy số bạc lại vào trong ngực sỹ tử nọ, lắc đầu, không nói gì thêm.

Thấy tình cảnh đến nước này, sỹ tử đó quýnh quáng đến độ mồ hôi trên trán chảy xuống ròng ròng. Bản thân gã lại như không cảm nhận được, thậm chí không lau chúng đi, mà vẫn níu kéo tên tiểu kỳ nọ khẩn nài không ngớt. Mấy tên lính khác thấy gã cứ đứng lỳ không chịu đi thì cùng bắt đầu lớn tiếng nạt nộ. Một quan viên bộ Lễ bên trong nghe tiếng ồn bước ra, phất ống tay áo, lạnh lùng gắt:

- Kẻ nào làm ồn ở ngoài cửa đó?

Quan viên Bộ Lễ đó chỉ là viên ngoại lang(3) bộ Lễ, nhưng dưới tình thế quẫn bách sỹ tử này đã hết cách đành sụp gối xuống đất đánh "cộp" một tiếng, cất cao giọng khẩn khoản:

- Xin đại nhân hãy cứu ta! Xin đại nhân hãy cứu ta! Học sinh vì trễ một khắc, không kịp vào trường thi, xin đại nhân nghìn vạn lần khai ân, hãy để cho ta vào.

Năn nỉ dứt lời, sỹ tử đó dập đầu như giã tỏi. Dương Lăng vốn chẳng để ý gì mấy, đến khi nghe tiếng đầu gã nện "bồm bộp" xuống đất, mới thót mình lo lắng, lập tức đồng cảm.

Viên ngoại lang bộ Lễ đảo mắt kinh bỉ, lạnh lùng nói:

- Triều đình mở khoa chọn sỹ là muốn tuyển lựa nhân tài, vì nước dốc sức. Thi Hội là chuyện lớn như vậy mà ngươi còn có thể đến trễ, loại người như ngươi cũng có thể vào triều làm quan ư? Trở về đọc sách Thánh Hiền thêm mấy năm nữa đi!

Tên sỹ tử nghe xong cảm thấy nghẹn ngào, càng không đứng dậy mà nằm phục tại chỗ dập đầu không ngừng, lời khẩn cầu thậm chí cũng không thể thốt ra. Dương Lăng thấy vậy không đành lòng, không nén được bèn xin hộ:

- Vị đại nhân này! Y đến trễ cùng lắm chỉ một khắc mà thôi, tuyệt đối sẽ không thể có chuyện lộ đề dối trá gì, chi bằng để cho y vào đi. Đại nhân cũng là kẻ đọc sách, hẳn phải biết khổ học không dễ mà.

Viên ngoại lang bộ Lễ cười khẩy, vừa liếc xéo y vừa khinh khỉnh hỏi:

- Ngươi là kẻ nào?

Dương Lăng đáp:

- Tại hạ Dương Lăng, cũng là một kẻ đọc sách. Người đọc sách vất vả nửa đời, đường công danh chỉ có một đường khoa cử. Quan hệ đến tiền đồ cả đời của người ta, đại nhân hãy khai ân giúp y một chút đi!

Viên ngoại lang cười nhạt, đáp với giọng quái gở:

- Khoa trường là nơi nào chứ? Khoa cử là đại sự như thế nào chứ? Việc trang nghiêm thiêng liêng như vậy, há có thể cho phép người ta tự làm theo ý mình ư?

Dương Lăng thấy vẻ mặt khinh người của gã, chợt nhớ câu chuyện Nguỵ Trung Hiền của Đông xưởng sai người đưa Trương Hiếu Cổ (Hiếu Cổ nghĩa là ham thích đồ cổ - ND) vào trường thi trong tác phẩm "Liên Thăng Tam Cấp", trong lòng bèn máy động. Ai cũng nói Xưởng - Vệ hoành hành, kẻ nào cũng nhìn người bằng nửa con mắt, không biết lệnh bài của mình có dùng được hay không. Thấy chung quanh không có người quen, y bèn thò tay vào ngực lấy ra tấm ngọc bài, giơ lên trước mặt viên ngoại lang bộ Lễ, mỉm cười nói:

- Đại nhân! Chính vì khoa cử là đại sự hàng đầu của đời người, vẫn mong đại nhân châm chước một chút, thật sẽ công đức vô lượng.

Viên ngoại lang nhìn thấy lệnh bài Phi Ngư trong tay Dương Lăng, lập tức giật thót mình. Cẩm Y Vệ ung dung tự tại trong kinh sư, mười người thì hết tám, chín kẻ là ma đầu uống máu của Bắc trấn phủ ty. Chỉ cần đưa một hiệu uý của nha môn này ra cũng đủ bóp chết viên ngoại lang cỏn con như hắn rồi, huống hồ nhìn vào ngọc bài trong tay người này thì y nhất định phải là quan quân cao cấp trong Cẩm Y vệ.

Từ khi nào Cẩm Y vệ quản luôn cả chuyện khoa cử vậy? Bọn họ cũng xem như là người thuộc hệ quân đội, bình thường ghét nhất là đến mấy chốn học cung này. Chẳng lẽ... là hoàng thượng ra lệnh Cẩm Y vệ đến âm thầm giám sát? Không lẽ chậm trễ một chút thì không tính là chuyện to tát không thể châm chước hay sao? Nếu như kẻ này thêm mắm thêm muối gièm pha mình ở trước mặt hoàng thượng, nói mình cố ý làm khó sỹ tử, vậy thì...

Thế là trong chớp mắt, mồ hôi chảy ròng ròng khắp mặt viên ngoại lang. Gã lắp bắp đáp:

- Dương đại nhân! Vừa nãy hạ quan không biết thân phận Dương đại nhân nên đã thất lễ, thật sự đã thất lễ. Có một câu này của đại nhân, vậy có gì là không thể chứ! Hạ quan sẽ lập tức tự mình đưa sỹ tử này vào trường thi ngay. Xin đại nhân cứ yên tâm!

Gã sỹ tử cao gầy vẫn luôn quỳ ngước mặt ở cửa nghe hai người nói chuyện, vừa nghe xong liền lộ ngay vẻ mừng rỡ. Y vội vàng khấu đầu làm lễ, nói:

- Đa tạ Dương đại nhân, đa tạ khảo quan đại nhân!

Tuy y không biết ngọc bài Dương Lăng cầm là lệnh bài gì, nhưng thấy y tuổi hãy còn trẻ, lại có thể khiến cho vị khảo quan đó phải biến sắc, nhất định là vị quan to chức lớn rồi.

Dương Lăng chắp tay nói với khảo quan:

- Nếu đã vậy, đa tạ!

Rồi quay sang sỹ tử nọ cười lớn bảo:

- Đưa huynh vào khó, đề danh Kim Bảng còn khó hơn. Có thể vượt long môn hay không, tất cả đều sẽ trông cậy vào bản lĩnh của huynh đó!

Làm xong được một chuyện tốt, lòng y cảm thấy rất vui vẻ. Bước chân lâng lâng, y nhắm thẳng về phía cổng chính của học cung mà tiến. Vị viên ngoại lang bộ Lễ thở phào nhẹ nhõm, vẫn còn chút khiếp vía, nói với gã sỹ tử:

- Mau đứng dậy đi, để ta đưa ngươi vào trường thi!

- Vâng! Vâng! Đa tạ khảo quan đại nhân!

Sỹ tử ấy đứng dậy, nước mắt giàn giụa, ngoái đầu thấy Dương Lăng sắp rẽ qua góc màn che, liền vội cất cao giọng nghẹn ngào nói to:

- Ơn giúp đỡ của Dương đại nhân, cả đời này học sinh Nghiêm Tung(*) sẽ không bao giờ quên!

(*): xem chú thích 8 ở chương 2 về nhân vật "nổi tiếng" này

Vừa mới rẽ qua màn che, nghe được lời gã Dương Lăng liền vấp chân, thiếu chút nữa thì ngã lộn cổ xuống sông.

***************

Chú thích:

(1) Vạn thế sư biểu: vị thầy mẫu mực của muôn đời.

Người đời sau tôn tặng Đức Khổng Tử là: Vạn thế sư biểu, là vị thầy đúng nghĩa nhất, không ai có thể so sánh được với Ngài, làm kiểu mẫu muôn đời về sau. (theo Cao Đài)

(2) Dịch nghĩa: nửa bộ Luận Ngữ đủ trị vì thiên hạ, bài Đạo Đức Kinh trên thế gian chỉ một không hai.

Đạo Đức Kinh tác phẩm kinh điển của Đạo giáo do Lão Tử soạn còn Luận Ngữ là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử và những lời nói của người đương thời.

Câu này cho thấy những nhà hủ nho trọng văn như thế nào.

(3) Chỉ chức quan lang nằm ngoài nhóm quan chính (chính viên) trong bộ Lễ.

Chương 65 - Lại sinh chuyện phiền phức

Dịch: |YanYan*

Biên dịch: TheJoker

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Chu Hậu Chiếu nghe vậy cảm thấy thú vị, y hứng chí vỗ bàn đánh bộp, hạ lệnh:

- Đi! Chúng ta đi xem thử rốt cuộc ba nàng nhạc kỹ này có chỗ nào xuất chúng.

---------------------------------

Ngồi được một lúc, Chu Hậu Chiếu cảm thấy hơi chán. Mặt trời càng lúc càng lên cao, trong bụng cũng cảm thấy đói, y đang định kêu người đi tìm Dương Lăng về thì thấy một đội bộ khoái của Ngũ Thành Binh Mã ty[1] đang vội vội vàng vàng chạy lại, không cầm đao thương mà cầm chổi và xẻng hót. Vài tên lại mục (viên chức nhỏ, không có phẩm cấp, chỉ huy một số viên tiểu lại) diễu võ dương oai quát lớn:

- Những người không liên quan mau lánh đi mau! Đương kim thánh thượng sắp đến tuần thị trường thi đây.

Chu Hậu Chiếu nghe nói lão tử của y sắp đến, giật nảy cả người, vội vàng đứng dậy. Bọn bộ khoái vung chổi quét tứ tung, bụi đất mù mịt. Không cần bọn chúng đuổi, những người dân đứng chờ ở ngoài trường thi cũng phải vội vàng lánh vào trong rừng cây đối diện bên đường.

Người bán trà rong hô xui xẻo, cũng vội gọi bà vợ bê bàn ghế, những bộ trà nhanh chóng chuyển chỗ, cũng lúc này Dương Lăng mặt mày hầm hầm từ góc bên kia của mành vải quẹo ra. Chu Hậu Chiếu mừng rỡ, vội vàng nói:

- Ngươi về thật đúng lúc! Mã Vĩnh Thành! Ngươi thường xuất cung mua sắm, mau giới thiệu một quán rượu kha khá, chúng ta đi ăn một bữa no nê đi!

Thấy giọng của y tương đối lớn, Cốc Đại Dụng giật mình, vội thấp giọng bẩm:

- Thái tử gia cẩn thận, đừng để người khác nghe thấy.

Quen nhìn sắc mặt người khác, bọn Lưu Cẩn, Trương Vĩnh đều nhận ra vẻ không vui của Dương Lăng, có điều chúng nghĩ đến nát óc cũng không biết y gặp phải chuyện gì.

Dương Lăng không ngờ vì nhất thời hảo tâm mình đã giúp đỡ một tên đại gian thần có tiếng trong lịch sử, lúc này lại nghe Chu Hậu Chiếu đòi đi ăn uống, càng cảm thấy đau đầu. Y vội tiến sát đến bên cạnh Châu Hậu Chiếu, thấp giọng nói:

- Thái tử! Chúng ta rời cung đã lâu, kéo dài thời gian e rằng bệ hạ sẽ phát giác. Theo vi thần thấy, chúng ta hãy đi ăn chút cơm rồi mau chóng đến bộ Binh thôi!

Chu Hậu Chiếu cũng thấp giọng cười nói:

- Dương thị độc không cần phải lo lắng! Một lát nữa phụ hoàng sẽ đi tuần thị trường thi, trong thời gian ngắn sẽ chưa về cung đâu. Chúng ta đi tìm chỗ ăn uống một chút, đợi ta ăn no bụng rồi sẽ thuê xe đến bộ Binh lấy đồ.

Chu Hậu Chiếu nghĩ đường đường thái tử ra mặt, Lưu Đại Hạ thế nào cũng phải nể mặt, đòi một ít đồ há không dễ như trở bàn tay ư?

Mã Vĩnh Thành nghe lệnh của Chu Hậu Chiếu, vội dẫn cả bọn quay lại đường lớn, mười người thuê hai cỗ xe ngựa. Biết phụ hoàng của y muốn đến học cung, Chu Hậu Chiếu sợ sẽ bị ông ta phát hiện nên dặn dò Mã Vĩnh Thành đi càng xa càng tốt. Xe ngựa đi khắp đường to lối nhỏ được một lúc, Chu Hậu Chiếu từ trong xe nhìn thấy một con hẻm nhỏ bên đường vô cùng phồn hoa, đầu hẻm có một quán rượu, cờ bay phất phới, thật là vô cùng náo nhiệt. Y gõ vào thành xe, gọi Mã Vĩnh Thành dừng lại.

Mã Vĩnh Trinh đưa mắt nhìn, thì ra hẻm nhỏ này chính là hẻm Bách Thuận, là một nơi phong nguyệt nổi tiếng của kinh thành, lòng không khỏi thầm kêu khổ. Hoàng đế Hoằng Trì chỉ có một đứa con trai, có thể nói ông vô cùng sủng ái Chu Hậu Chiếu, thêm vào đó bản thân hoàng thượng cũng thường lén rời cung nên cho dù có biết Thái tử tự ý xuất cung, cùng lắm ông cũng sẽ cho đánh bọn gã vài gậy lấy lệ. Vì vậy đám thái giám này mới dám xúi Thái tử xuất cung, nhưng nếu hoàng thượng biết bọn hắn dẫn tiểu thái tử đến chốn trăng hoa, vậy tội không nhẹ rồi.

Nhưng gã lại không dám nói rõ với Chu Hậu Chiếu. Tính tò mò của vị Thái tử này quá lớn, càng là nơi không cho y đến, y càng muốn đến. May mà y chỉ vừa ý với tòa tửu lầu đầu hẻm kia, vậy đi vào mau chóng ăn uống một chút rồi nhanh chân rời khỏi là được.

Mã Vĩnh Thành dừng xe rồi trả tiền, tranh thủ dặn bọn người Lưu Cẩn, Trương Vĩnh vài câu. Mấy tên thái giám già gật đầu lia lịa, mau chóng bước lên bảo hộ Chu Hậu Chiếu vào tửu lầu, chỉ sợ "con ngựa hoang" này lại nhất thời nổi hứng đi dạo lung tung trong hẻm này.

Cả bọn bước lên lầu. Mã Vĩnh Thành chọn những món ngon nhất dọn lên đầy một bàn, mười người bắt đầu ăn uống trong gian phòng nhỏ yên tĩnh gần cửa sổ. Chu Hậu Chiếu còn nhỏ nhưng lại thích uống rượu, song vì y còn ít tuổi, tửu lượng còn thấp, uống được vài chén thì mặt đã đỏ bừng, bèn kêu Ngụy Bân mở cửa sổ cho thoáng khí.

Tiết tháng ba, ánh mặt trời rạng rỡ, không khí cũng vô cùng mát mẻ, gió xuân hây hây. Chu Hậu Chiếu bỗng cảm thấy phấn chấn tinh thần, y nổi hứng đứng dậy rót rượu cho bọn Dương Lăng, ép bọn họ cũng uống vài ly.

Chu Hậu Chiếu đang uống vui vẻ, bỗng nghe có tiếng đàn sáo từ ngoài cửa sổ loáng thoáng vẳng lại. Vốn yêu thích âm nhạc, y bất giác dừng chén tập trung lắng nghe.

Y hoàn toàn không hứng thú với âm nhạc truyền thống trong cung đình, nhưng lại rất thích những khúc ca dân gian, kỳ âm của dị vực, lúc này nghe khúc nhạc kỳ diệu êm tai từ phía xa vẳng lại, tuy nhạc khí sử dụng vẫn là đàn sáo, nhưng phong tình lại không giống với phong cách âm nhạc trong cung đình.Y bất giác đứng dậy dựa vào lan can nhìn ra xa, hứng thú chỉ xuống một dãy nhà tứ hợp viện hai tầng ở phía dưới hỏi:

- Đại Thành, đó là nơi nào?

Mã Vĩnh Thành và Lưu Cẩn đưa mắt nhìn nhau, lắp ba lắp bắp đáp:

- Ồ… lão nô cũng không biết, chắc là nhạc kỹ[2] do bọn lái thương mời đến đang ca hát.

Chu Hậu Chiếu vỗ tay nói:

- Có rượu mà không có nhạc sao được? Mau đi gọi một người lên đây, ta cũng muốn nghe đàn hát.

Mã Vĩnh Thành mặt mày khổ sở chần chừ không muốn động đậy. Vừa vặn lúc này ông chủ quán rượu thấy những người khách bàn này hào phóng nên đích thân bưng thêm một con cá chép lớn vào phòng, Chu Hậu Chiếu quay lại gọi ông ta:

- Chủ quán, ta nghe có tiếng đàn sáo ở bên kia rất thú vị. Mau đi gọi cho ta một người đến, ta muốn nghe nhạc.

Thấy y ngồi ở vị trí chủ trì, chủ quán biết tiểu công tử này tuy nhỏ tuổi nhưng lại là người cầm đầu đám thư sinh này. Ông ta nhìn ra cửa sổ một cái, cười đáp:

- Khách quan, nhạc kỹ ở bên kia không biểu diễn ở bên ngoài, khách quan muốn nghe nhạc, thì phải đến tận nơi để nghe.

Chính Đức nghe vậy thì lấy làm tò mò, hỏi:

- Ơ, phải nhạc kỹ không vậy? Sao lại tự cao tự đại như vậy, đâu phải là không trả tiền, tại sao lại tự đại như vậy?

Chủ quán thấy y nhỏ tuổi, đoán rằng y vẫn còn chưa hiểu cho lắm, nhưng mấy tay thư sinh bên cạnh, ai ai cũng lộ vẻ quái dị, nói không chừng là khách thường xuyên trong chốn phong lưu. Ông ta cười đáp:

- Khách quan có điều không biết! Các cô nương trong hẻm này đều là người có thân phận, thường ngày chỉ tiếp quan lại quyền quý, phú gia công tử, bình thường không dễ gì xuất đầu lộ diện.

Nơi vọng lại tiếng nhã nhạc đàn sáo kia là Thì Hoa Quán, càng là nơi nổi danh trong hẻm Bách Thuận này của chúng tôi. Cô nương xinh đẹp trong quán cũng là nhiều nhất, các cô nương do tú bà Nhất Xứng Kim ở đó dạy dỗ ai ai cũng tinh thông cầm kỳ thi họa. Thường ngày ra vào nơi đó đại đa số đều là những danh sĩ phong lưu, quan lại quyền quý có danh phận, quán rượu này của tôi còn nhỏ, không mời được cô nương bọn họ.

Châu Hậu Chiếu phong lưu hoang đường được lưu truyền hậu thế lúc này vẫn chỉ là một thằng nhóc chưa biết gì, hoàn toàn không có hứng thú với nữ sắc, chỉ muốn kêu người đến ca hát mà thôi, nghe nói nhạc kỹ ở đó không diễn ở bên ngoài, lập tức không còn chút hứng thú.

Chủ quán lại nói:

- Tiểu công tử nếu muốn đi xem cho mở tầm mắt, Thì Hoa Quán cũng thât là một nơi tốt để đi. Nơi đó những cô nương đang nổi tiếng như Hương Bảo Nhi, Khả Liễu Nhi đều xinh đẹp vô cùng, tiểu công tử nhân phẩm tuấn tú như vậy, bọn họ nhất định sẽ rất thích đó. Trong Thì Hoa Quán còn có ba tiểu cô nương xinh đẹp hơn nữa, vẫn còn chưa tiếp khách, đều là những thanh quan nhân[3].

Ba cô nương này tuy còn ít tuổi, nhưng đều là những mỹ nữ có vẻ đẹp trời cho. Một người tên là Tuyết Lý Mai, giỏi thổi tiêu; một người tên là Đường Nhất Tiên, giỏi gảy đàn; còn một người nữa là Ngọc Tỷ Nhi, ca múa đều giỏi. Ba người này tài nghệ và tướng mạo đều thập phần xuất chúng, tuổi tác cũng tương đương với công tử đây.

Nghe mấy cái tên Tuyết Lý Mai, Đường Nhất Tiên, Dương Lăng lờ mờ cảm thấy quen tai, tựa như đã đừng nghe qua. Nhớ trong chín kiếp luân hồi của y, kiếp cuối cùng nhập vào xác một ca sĩ nổi tiếng, từng đóng một vai trong một bộ phim liên quan đến triều Minh, dường như lúc đó đã nghe qua mấy cái tên này.

Dương Lăng nghĩ thầm: “Những nhạc kỹ này có thể lưu danh đến hậu thế, chắc cũng là danh kỹ đương thời, lẽ nào bởi vì qua tay Chính Đức, cho nên mới nổi danh? Thế nhưng trong lịch sử trước đây Chính Đức không có lần xuất cung này, phải tranh thủ tên tiểu tử này còn chưa hiểu gì về nữ sắc, lái chuyện này đi, không để cho y sa vào con đường đó.”

Dương Lăng bèn không thèm suy nghĩ đến mấy cái tên nghe quen tai này nữa, vội gắt chủ quán:

- Đi đi đi! Bớt huyên thuyên đi, mấy người chúng ta có gì mà chưa từng thấy! Vị tiểu công tử này của chúng ta tôn quý vô cùng, làm gì có việc hạ thấp thân phận đi gặp một ca kỹ chứ? Mau lui xuống!

Y vốn muốn thổi Chu Hậu Chiếu một tí để y tự thị thân phận bỏ ý muốn nghe nhạc đi, nhưng Chu Hậu Chiếu lại cười tít mắt, dễ dãi :

- Không sao, không sao! Ngươi nói một người giỏi thổi tiêu, một người giỏi gảy đàn, một người giỏi ca múa, vậy ba người này quả là tuyệt phối. Thế nhưng khúc nhạc ta nghe thử này nếu như là do bọn họ biểu diễn thì nhạc lý của họ cũng bình thường thôi.

Bọn người Lưu Cẩn lo lắng phập phồng sợ Chu Hậu Chiếu nhất thời hứng lên, đòi đến đó nghe ca hát. Nghe thấy y nói vậy mới yên tâm, nhao nhao phụ họa:

- Đúng vậy, đúng vậy! Công tử có gì mà chưa từng thấy chứ? Thôi đừng để ý, chúng ta uống rượu nào.

Chủ quán thấy Chu Hậu Chiếu hiền hòa, liền giả lả:

- Lúc này tấu nhạc chưa hẳn đã là các cô nương đó! Mấy vị khách quan không đi xem tài nghệ của bọn họ một lần, về sau muốn đi xem thì thiếu mất một vị rồi.

Chu Hậu Chiếu hiếu kỳ hỏi:

- Tại sao lại thiếu một người?

Chủ quán đáp:

- Nghe nói vị thương nhân họ Nghiêm để ý đến Ngọc Tỷ Nhi cô nương, bỏ ra nhiều tiền mua nàng ta về làm thiếp. Mấy ngày nay Ngọc Tỷ Nhi cô nương đều lấy nước mắt để rửa mặt, rất là đau buồn.

Dương Lăng nghe vậy lấy làm lạ vô cùng, bất giác hỏi:

- Cái gì? Làm gì có chuyện đó? Gả cho người khác làm thiếp cũng tốt hơn cái nghề bán tiếng cười cho người không quen biết, nàng ta có gì mà không vui chứ?

Chủ quán đáp:

- Khách quan chắc rằng ít khi đi lại chốn phong nguyệt, cho nên không biết tập tục nơi đó. Nếu là một cô nương bình thường, có người chuộc thân thoát khỏi bể lửa cho nàng ta, tất nhiên là điều mong mà không được. Nhưng Ngọc Tỷ Nhi cô nương còn trẻ, đã là thanh quan nhân có tiếng tại đây, về sau nhất định sẽ nổi danh. Danh kỹ đều lấy việc gả cho quan gia và văn nhân làm điều vinh dự, nếu ai bị thương nhân mua về làm thiếp thì đó là kết cục tồi tệ vô cùng, làm sao nàng ta cam tâm chứ?

Chu Hậu Chiếu nghe vậy cảm thấy thú vị, y hứng chí vỗ bàn đánh bộp, hạ lệnh:

- Đi! Chúng ta đi xem thử rốt cuộc ba nàng nhạc kỹ này có chỗ nào xuất chúng.

***************

Chú thích:

[1] Ngũ Thành Binh Mã ty: Năm Vĩnh Nhạc thứ hai (1404) nhà Minh thiết lập Bắc Kinh binh mã chỉ huy ty, sau khi định đô tại Bắc Kinh lập thành Ngũ thành binh mã ty, tức Trung, Đông, Tây, Nam, Bắc thành binh mã chỉ huy ty, là nha môn hàm Chánh lục phẩm. Mỗi ty lập ra một chỉ huy, bốn phó chỉ huy, một lại mục phụ trách trị an, phòng cháy và khai thông sửa chữa đường phố, vân vân, tương đương với Khu cảnh vệ Bắc Kinh và Cục công an ngày nay.

[2] Nhạc kỹ: Trung Quốc xưa gọi chung những nghệ nhân theo nghiệp âm nhạc, ca hát là Nhạc kỹ.

[3] Thanh quan nhân chỉ những phụ nữ chỉ bán nghề không bán thân, còn Hồng quan nhân chỉ những phụ nữ vừa bán nghề lại bán thân trong chốn hoan trường.

Chương 66 Chọc vào một gậy

Dịch: Bé Thy

Biên dịch: TheJoker

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

- Nghiêm đại gia, mong ông nói chuyện khách sáo cho! Tuy ông có tiền nhưng chẳng là gì đối với tỉ muội chúng tôi cả. Ông muốn mua mèo mua chó gì tùy ông, nhưng tỷ tỷ tôi không trông mong được vào nhà ông đâu. Huỷ ước chẳng phải là đền gấp đôi thôi sao? Tiền này chúng tôi sẽ trả.

---------------------------------

Chu Hậu Chiếu vừa dứt lời, cả chín người còn lại đều nhất tề kêu khổ. Lưu Cẩn vội khuyên:

- Muộn…muộn lắm rồi, công tử! Hãy để hôm khác đi đi, đừng quên là lát nữa chúng ta còn có việc quan trọng cần làm đó.

Dương Lăng cũng vội tiếp lời:

- Đúng vậy, công tử! Những nơi đó tốt hơn hết là không nên đi, nếu để lệnh tôn biết được, chắc chắn sẽ bị trách phạt đó.

Trong những người này, suy cho cùng đám Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng cũng chỉ là nô tài, nhưng y lại là Thái tử thị độc, chịu trách nhiệm dạy dỗ thái tử, nay thành ra xúi giục Thái tử đi thanh lâu kĩ viện, tội ấy thực sẽ không nhẹ.

Cho dù Hoằng Trị lo cho sĩ diện của hoàng gia, không dám hé lộ chuyện Thái tử trốn ra ngoài, gán bừa cho y một tội danh nào đó cũng đều có thể khiến cho y chết dễ như trở bàn tay. Mặc dù từ những năm đầu lập nước Đại Minh đã lập ra một “Giáo Phường Ty“ to lớn, quan lại không những tự mình mua bán phụ nữ, mở kĩ viện, mà còn đưa cả vợ và con gái của những quan viên phạm tội vào làm kĩ nữ miễn phí, có thể nói là đã làm đủ chuyện thất đức. Nhưng trong pháp điển lại công khai quy định một điều là: ”nghiêm cấm quan lại quan hệ với kĩ nữ, ai trái lệnh sẽ bị phạt sáu mươi trượng”.

Tuy rằng điều luật này vốn chưa từng được ai tuân thủ theo, trên dưới Đại Minh đều mắt nhắm mắt mở làm ngơ, nhưng không có nghĩa là điều luật này đã đi mất hiệu lực. Chỉ cần Hoàng đế lấy danh nghĩa này để trừng trị y, bọn tướng quân đại hán sẽ dốc toàn lực “giúp cho” mông của y được “tiếp xúc thân mật” với sáu mươi trượng, lúc đó y không chết cũng thành tàn tật.

Chu Hậu Chiếu thấy bọn họ hết người này đến người khác nhảy ra khuyên ngăn, còn đưa cả phụ hoàng ra doạ mình, đành nói với vẻ không vui:

- Thôi, không đi thì thôi! Cái này không được, cái kia cũng không xong, thật là mất hứng.

Bọn người Dương Lăng sợ lát nữa Chu Hậu Chiếu sẽ lại đổi ý nên cũng không còn tâm trạng nhâm nhi thưởng thức mà vội vã ăn cho xong. Mã Vĩnh Thành nhanh chóng trả tiền rồi đưa Thái tử xuống lầu. Cả bọn đang đứng trước cửa quán định gọi xe thì thấy một người đàn ông mặt ngựa trạc tứ tuần dẫn theo vài tên đầy tớ to khỏe bước đến, vừa đi vừa đùng đùng quát mắng:

- Chẳng phải đã nói sau ba ngày sẽ đến đưa người đi sao? Sao tên Tô Hoài chó má đó lại đổi ý rồi?

Cạnh bên, một gã đàn ông nhỏ thó, dáng nhanh nhẹn đang chạy chậm theo hắn cười xiểm nịnh nói:

- Nghiêm đại gia! Nghe nói có tên lại mục ở Ngũ Thành Binh Mã Ty cũng để mắt tới Ngọc Tỷ Nhi, chi tiền nhiều hơn ngài. Hai vợ chồng Nhất Xứng Kim suy nghĩ lại rồi nổi lòng tham, nói rằng Nghiêm đại gia ngài vàng bạc châu báu đầy nhà, chắc không ngại bỏ ra thêm ít tiền. Nhưng mà công việc ngày thường của ngài là xây dựng, nếu như đắc tội với người của Ngũ Thành Binh Mã ty…

Ngừơi đàn ông mặt ngựa được gọi là Nghiêm đại gia bỗng nhiên dừng bước, lạnh lùng liếc mắt nhìn gã, giọng âm u:

- Tề Phương! Người nhận được bao nhiêu quà cáp của Tô Hòai mà nói giúp hắn trước mặt lão tử?

Tề Phương biến sắc, vội đáp:

- Đại gia! Xem ngài nói kìa, ai lạ ai thân chẳng lẽ tôi còn không biết sao? Sao tôi có thể nói giúp cho Tô Hoài được?

Nghiêm đại gia hừ một tiếng, mắng:

- Ai lạ ai thân? Tên chó má nhà ngươi chỉ thân với tiền bạc thôi, lão tử bỏ năm ngàn lạng bạc trắng ra chuộc thân cho Ngọc Tỷ Nhi, hắn còn muốn bao nhiêu nữa, hả? Đó là năm ngàn lạng bạc trắng bóng đó. Người của Ngọc Tỷ Nhi được khảm vàng hay nạm ngọc hay sao mà đáng giá đó? Ta khinh, hắn nằm mơ đi. Văn tự cũng đã viết rồi, hắn dám nuốt lời sao? Đi, hôm nay ta sẽ đến cửa đòi người, xem ai dám cản ta!

Chu Hậu Chiếu vừa nghe sắp có tiết mục cướp dâu để xem, tâm tư buồn bực khi nãy bỗng chốc trở nên phấn chấn, y hứng thú kéo Dương Lăng, gọi:

- Đi mau, đi theo xem náo nhiệt!

- Ơ kìa…!

Dương Lăng chưa kịp kéo lại, Chu Hậu Chiếu đã nhanh như chớp đi theo sau mấy người kia. Dương Lăng giậm chân, rồi cùng đám người Lưu Cẩn vội vã đuổi theo.

Khắp con phố này đều là tường thấp, hoa nở rực rỡ, trên cánh cửa trước một lạc viện trang nhã có treo tấm biển đen sơn vàng đề: “Thì Hoa Quán”. Vị Nghiêm lão gia kia đã dẫn người xông vào. Chu Hậu Chiếu dẫn đầu cả bọn cũng hứng chí đi theo vào trong.

Vừa bước vào cửa chính là một giếng trời rộng lớn, dưới những cây cột dựa dọc hành lang là những chiếc bàn nhỏ nhắn vuông vức, khách làng chơi thường ngồi đây uống trà, tuyển chọn các cô nương. Vì trời vẫn còn sớm nên dưới hành lang không hề có khách.

Lầu hai phía trên giếng trời là một dãy những căn phòng nhỏ, trước cửa đều có treo biển. Đây là phòng của những kỹ nữ bình thường nhất của kĩ viện. Đi sâu vào gian lạc viện thứ hai mới là nơi ở của các hồng cô nương*, đẳng cấp rõ ràng chênh lệch nhau xa. (*: xem chú thích về Hồng quan nhân ở chương trước)

Bọn người Dương Lăng vội vàng đuổi theo vào cửa, chỉ thấy cánh cửa nhỏ trong lạc viện thông ra hậu viện đang mở, vị thương gia họ Nghiêm cùng người đi theo đã vào gian thứ ba, Chu Hậu Chiếu khấp khởi theo sau bọn họ. Dương Lăng sợ y gặp bất trắc, vội dẫn tám tên thái giám đuổi theo.

Chu Hậu Chiếu muốn xem náo nhiệt, làm sao nỡ bỏ đi, thế là bèn vừa trừng mắt vừa cầu khẩn bọn người Dương Lăng và Lưu Cẩn đang bám riết không buông. Vừa nhìn thấy người kia dẫn bốn tên gia nhân khỏe mạnh xông vào hậu viện, y cũng vội vàng đuổi theo.

Đuổi tới gian lạc viện thứ ba, một người đàn ông yếu ớt nghe tiếng động chạy ra đón đã bị họ Nghiêm túm lấy cổ áo lớn tiếng chửi mắng. Bọn Dương Lăng vội kéo Chu Hậu Chiếu định rời khỏi, Chu Hậu Chiếu đang xem náo nhiệt, làm sao chịu đi. Y lại trơ mặt ra vừa cầu khẩn vừa trừng mắt, vừa đánh vừa xoa chứ nhất quyết không chịu bỏ đi.

Người đàn ông yếu ớt đó chính là tú ông Tô Hoài, hắn vừa cười nịnh bợ Nghiêm Khoan vừa nói:

- Nghiêm lão gia, cần gì phải tức giận như vậy chứ? Tôi đã nhận tiền của ngài, đương nhiên là sẽ không nuốt lời. Chỉ là Ngọc Tỷ Nhi đã theo vợ chồng tôi từ lúc năm tuổi,nhất thời không nỡ rời xa, vì đau lòng mà cơ thể cũng đã mang chút bệnh. Nghiêm gia hãy nương cho một khoảng thời gian nữa được không? Cùng lắm chỉ phải đợi thêm mấy ngày nữa thôi.

Nốt ruồi đen có lông trên má của Nghiêm Khoan rung lên, hắn nhe răng cười gằn đáp: - Khốn kiếp, kỹ nữ vô tình, con hát vô nghĩa, người như cô ta sao có thể không nỡ rời bỏ Tú ông,Tú bà như các ngươi chứ? Nghe nói các ngươi đang tìm một người mua khác, còn là một tên quan bé như hạt mè nữa, hê hê, phô trương thanh thế để dọa lão tử đây sao? Nhưng mà ta đã trả tiền rồi, có văn tự trên tay, có gặp quan ta cũng không sợ.

Một người phụ nữ trung niên mặc đồ tím nhạt từ sương phòng bên trái vội vàng đi ra, từ xa đã cười hì hì, nói:

- Ồ,Nghiêm đại gia, xem lời ngài nói kìa! Ngọc Tỷ Nhi là con nuôi của tôi, sau này nó theo ngài rồi thì ngài sẽ là con rể của tôi mà, sao có thể tổn hại hòa khí được?

Thân phận kĩ nữ so với người thường thấp hơn một bậc, thuộc về tầng lớp hạ lưu, nhưng thương nhân cũng là tiện dân, chẳng tốt hơn nàng ta bao nhiêu. Hơn nữa, vị Nghiêm lão gia này lại là khách quen của Thì Hoa Quán, đều quen nhau cả, cho nên Nhất Xứng Kim mới dám trêu hắn mấy câu thô tục.

Nhất Xứng Kim tuổi ngoài tứ tuần, nước da trắng mịn, tuy trên mặt có vài nếp nhăn nhưng làn thu ba dập dờn xinh đẹp và sắc sảo, dáng vẻ thướt tha vẫn rung động lòng người.

Nghe lời nói chêm chọc cười này của bà ta, ông chủ Nghiêm không xụ mặt nữa, hắn buông Tô Hoài ra cười nhạt:

- Năm ngàn lạng bạc, làm đứa con rể này không rẻ đâu à! Nhất Xứng Kim! Bớt giở trò trêu chọc ta đi, ngươi nói không nuốt lời? Được, coi như ta nghe nhầm, dù sao bây giờ nàng ấy là thiếp của ta, ba ngày sau vẫn là của ta. Vậy chọn ngày không bằng ngẫu nhiên, hôm nay ta muốn thành thân cùng nàng, ngươi thấy thế nào?

Nhất Xứng Kim biến sắc, gượng cười nói:

- Nghiêm đại gia! Tuy hứa gả Ngọc Tỷ Nhi cho ngài, nhưng suy cho cùng vợ chồng tôi đã nuôi nấng nó đến chừng này, sao có thể không có chút tình cảm nào chứ? Nay đứa con này không khỏe, yếu ớt sợ hãi, vợ chồng chúng tôi cũng rất đau lòng, sau này nó sẽ là người chung chăn gối với ngài rồi, chẳng lẽ ngài không đau lòng sao?

Nhất Xứng Kim vừa nói vừa liếc nhìn tướng công của mình, Tô Hoài nhún nhún vai, không nói tiếng nào. Thì ra vị Nghiêm lão gia này tên là Nghiêm Khoan, là khách quen của Thì Hoa Quán. Hôm đó ngủ thân mật với một hồng cô nương tại gian lạc viện thứ hai, nên đã qua đêm ở đây. Sáng dậy mở cửa sổ, đúng lúc nhìn thấy Ngọc Tỷ Nhi từ hậu viện đi ngang qua, thế là lập tức hồn siêu phách lạc

Nghiêm Khoan là một thương gia ham tiền, vốn không ưa trò ngắm trăng vịnh cảnh, nghe nhạc làm thơ, chỉ vì học đòi nho nhã để lấy lòng thanh quan nhân này nên cũng đứt ruột tốn một đống bạc giả làm người nho nhã vài ngày. Nhưng cả mấy lần ngay đến bàn tay nhỏ bé của người ta cũng chưa được đụng đến.

Hắn nghĩ thay vì lấy dao cùn cắt thịt, chi bằng tốn một đống bạc lớn đưa tiểu mỹ nhân đẹp mê hồn này về nhà thưởng thức cho đã. Hôm đó đúng lúc Nhất Xứng Kim đang bệnh, tướng công của bà ta lo việc làm ăn, tuy thanh lâu là mỏ vàng, năm ngàn lượng đối với ông ta mà nói cũng không phải là một con số tầm thường. Hắn tính từ lúc mua Ngọc Tỷ Nhi ở Đại Đồng Sơn Tây về chỉ tốn tám trăm văn tiền, nay nuôi được tám năm thì đã có thể đổi lấy năm nghìn lạng bạc, nên đã lập tức nhận lời ngay, còn lăn cả dấu vân tay lên văn tự nữa.

Khi Nhất Xứng Kim nghe được việc chồng mình tự ý quyết định, liền mắng hắn té tát. Mụ ta lăn lộn bao nhiêu năm trong chốn phong nguyệt nên Ngọc Tỷ Nhi sau này kiếm được bao nhiêu tiền trong lòng mụ ta rất rõ. Hơn nữa sau khi cô nàng nghe nói mình bị Tô Hoài bán cho một thương nhân thì đau đớn thương tâm, khóc lóc om sòm mấy trận, khiến Tô Hoài cũng có chút hối hận.

Nhưng văn tự đã ký làm sao nuốt lời được? Hai người bọn họ tính đi tính lại,cố gắng tạo ra tin đồn rằng tên lại mục ở Ngũ Thành Tư Mã ty cũng để ý Ngọc Tỷ Nhi, định dùng chức quan để chèn ép hắn.

Kì thực Ngũ Thành Binh Mã ty không phải là nha môn to tát gì, chỉ là một nơi quản lí trị an bình thường ở kinh thành (không kể Hoàng thành và Tử Cấm Thành). Lại mục lại càng không được xem như một chức quan, chỉ là cầm đầu của một nhóm tiểu lại, bình thường theo phía sau tuần thành ngự sử đi dạo phố phường, đợi nghe sai khiến, phất cờ hò reo, là một tên sai vặt không hơn không kém.

Kì thực tiểu lại của Ngũ Thành Tư Mã ty rất tội nghiệp, ngoài việc bắt mấy tên trộm, sai dân chúng quét dọn đường phố, dọn dẹp cống ngầm, kiểm tra cân đong của thương buôn có chính xác không và đánh đập những tên dân ngu xuẩn phóng uế bừa bãi, thì vốn không có quyền quản lí hoặc chấp pháp. Khắp kinh thành đều là người quyền quý, bọn họ còn có thể quản lí ai?

Nhưng một tiểu lại như vậy muốn áp chế thương nhân cũng rất dễ dàng. Nghiêm Khoan ở kinh thành làm ăn chẳng phải thường sợ nha môn quản lí trị an, thành quản, vệ sinh phòng dịch ở đây nắm thóp sao? Không ngờ lời này thông qua Tề Phương đến tai hắn, Nghiêm Khoan này lại không để tâm, vẫn tìm đến tận cửa. Hai vợ chồng bọn họ nhất thời không biết hắn có bối cảnh lớn cỡ nào.

Nghiêm Khoan nghe xong lời Nhất Xứng Kim vừa nói liền cười ha hả, đáp bằng giọng quái gỡ:

- Đau lòng? Để những cô nương yểu điệu xinh đẹp ở trong kĩ viện này của ngươi bị người này người kia chọc vào, ta mới đau lòng đó. Sao? Một kĩ nữ như ả mà dám chê thân phận ta thấp hèn sao? Đừng vuốt mặt mà không biết nể mũi, chỉ có người ta chọn ả thôi, làm gì tới lượt ả chọn khác. Ta có tiền, ta chính là đại gia!

Cửa phòng đối diện đang đóng chặt bỗng mở toang, một tiểu cô nương với khuôn mặt trang điểm nhẹ, khoác áo lụa thêu hoa mẫu đơn, mặc váy xếp nếp màu xanh lá mạ từ trong bước ra rất nhanh. Nàng đứng ở cửa, nhướng mày, vẻ mặt lạnh lùng nói:

- Nghiêm đại gia, mong ông nói chuyện khách sáo cho! Tuy ông có tiền nhưng chẳng là gì đối với tỉ muội chúng tôi cả. Ông muốn mua mèo mua chó gì tùy ông, nhưng tỷ tỷ tôi không trông mong được vào nhà ông đâu. Huỷ ước chẳng phải là đền gấp đôi sao? Tiền này chúng tôi sẽ trả.

Cô nương mặc váy xanh này tư thế yểu điệu, nước da trắng ngần, phía dưới hàng chân mày nhạt là một đôi mắt xinh đẹp và vô cùng sắc sảo, âm thanh khi nói chuyện vừa giòn vừa gấp, giống như rang đậu vậy.

Chu Hậu Chiếu không nhịn được, tấm tắc cười khen:

- Cô nương này lợi hại thật, hơn kẻ bất lực kia nhiều.

Dương Lăng và Cốc Đại Dụng nghe xong nhìn nhau cười một cách khổ sở.

Nghiêm Khoan chau mày nói:

- Tuyết Lý Mai cô nương, cô nói thật dễ, muốn hủy ước cũng phải được sự đồng ý của ta mới được. Tiền? Ta đây không thiếu, chỉ thiếu mỗi con mèo con chó làm ấm giường. Ngọc Tỷ Nhi này, lão tử quyết lấy rồi!

Hắn rút từ trong ngực áo ra một tờ văn tự, lạnh lùng đưa trước mặt Tô Hoài nói:

- Trên văn tự này của ta còn có dấu vân tay của ngươi đó. Sao, chúng ta có cần lên nha môn gặp nhau không?

Lại thêm một vị tiểu cô nương từ bên trong tú lâu đó bước ra, đi thẳng đến trước mặt Nghiêm Khoan rồi nói với giọng cầu khẩn nhẹ nhàng:

- Nghiêm đại gia! Thường có câu cố hái dưa dưa sẽ không ngon, những chuyện như vậy đôi bên phải tình nguyện mới được. Ngài hãy rủ lòng khai ân, buông tha Ngọc Tỷ Nhi đi.

Nghiêm Khoan cười ha hả, híp mắt nói:

- Vẫn là Nhất Tiên cô nương ăn nói ngọt ngào, làm cho người khác thích thú, đâu như thứ đàn bà miệng mồm đanh đá kia, ha ha ha.

Dương Lăng nghe giọng nói nàng ngọt ngào, cũng không khỏi liếc nhìn một cái. Vị cô nương Đường Nhất Tiên này cũng chỉ khỏang mười ba mười bốn tuổi, dáng người nhỏ nhắn, khuôn mặt xinh đẹp rực rỡ, trên khóe môi có một nốt ruồi son, toát lên vài phần hoạt bát. Nàng liếc Nghiêm Khoan cười thẹn thùng, nũng nịu nói:

- Vậy là Nghiêm đại gia đã đáp ứng?

Nghiêm Khoan thấy thế xương cốt liền nhũn ra, hắn híp mắt nói:

- Đáp ứng ư? Ta đáp ứng gì chứ? Vàng bạc mua nụ cười, người đẹp đón niềm vui, mua bán công bằng mà. Hề hề, cô bé có dáng vẻ động lòng người, vài năm nữa cũng sẽ thành tiểu yêu tinh. Đừng vội, đừng vội! Cuối năm nay ta sẽ kiếm thêm được một món tiền kha khá nữa, đến lúc đó ta cũng sẽ mua cô về bầu bạn với Ngọc Tỷ Nhi. Chúng ta một giường ba người, cô thấy thế nào?

Hiện nay Đường Nhất Tiên, Ngọc Tỷ Nhi và Tuyết Lý Mai đều có thân phận thanh cao, khách nhân bọn họ tiếp đãi thường ngày đều tương đối nho nhã, nào ăn nói thô tục như hắn. Nàng nghe xong vừa giận vừa thẹn, nhưng nhất thời lại không dám phát tác.

Nghiêm Khoan phe phẩy văn tự trên tay,đang dương dương tự đắc, bỗng tay chợt hẫng đi, một giọng vịt đực ồm ồm cất lên bên tai:

- Cầm lông gà mà tưởng là thẻ lệnh, thô bỉ hết chỗ nói, tục tằn không chịu nổi! Để ta xem là cái giống gì.

Nghiêm Khoan thất kinh, ngoái đầu lại nhìn, thì thấy một tiểu thư sinh đang cầm văn tự trên tay, mở hết cở cổ họng vịt đực đọc to:

- Bản ty lạc hộ (là kỹ viện, nhà chứa) Tô Hoài, hiện có con gái nuôi Ngọc Đường Xuân, tên thật là Tô Tam, vốn mong tiếp khách dưỡng lão. Nay có thương nhân Nghiêm Khoan phải lòng tiểu nữ, Tô Hoài đã nhận năm nghìn lạng bạc làm lễ vật chuộc thân. Từ nay về sau…

Chương 67 – Không lo việc chính

Dịch: Vo Vong

Biên dịch:

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Chu Hậu Chiếu thường ngày ở trong cung cũng không thiếu gì những cung nữ trẻ tuổi hầu hạ. Thế nhưng những nàng đó cho dù tướng mạo không tồi thì khi đứng trước mặt y cũng luôn tỏ vẻ nghiêm túc e dè, ngay cả thở mạnh một hơi cũng không dám, nào bình dị dễ gần như cô gái này. Đã thế nàng ta lại còn dám dạy bảo y, có điều lời dạy bảo lại nghe rất ngọt ngào, khiến người ta không kìm được lòng yêu mến.

---------------------------------

Thấy thiếu niên mặc đồ nho sỹ, đằng sau còn có bảy tám tên tú tài bộ dạng èo uột yếu ớt bám theo như lũ chim cun cút, Nghiêm Khoan cho rằng y chỉ là một kẻ đọc sách tới chốn lầu xanh uống rượu vui chơi. Vốn hắn cũng không muốn vô lễ, thế nhưng tờ văn tự đã bị cướp mất, trong lòng cũng thầm sợ sẽ xảy ra điều gì lầm lỡ, lại nghe Chu Hậu Chiếu cứ đọc ầm lên như chỗ không người nên hắn chẳng màng khách sáo nữa, lập tức bước tới đưa tay giật lại.

Chu Hậu Chiếu thấy hắn đưa tay ra cướp thì bèn vội tránh sang bên cạnh, bàn tay Nghiêm Khoan liền vỗ trúng vào cánh tay y. Tay Chu Hậu Chiếu chợt trầm xuống, roạt một tiếng vang lên, lập tức tờ văn tự chuộc thân rách thành hai nửa.

Chu Hậu Chiếu cả mừng, bèn dùng cái giọng vịt đực của mình cười nói:

- Mọi người đều thấy rồi đó nhé! Chính hắn ta tự xé tờ giấy này, không liên quan gì tới ta hết.

Nghiêm Khoan cuống lên, lập tức bước tới tung ra một quyền, miệng mắng:

- Đồ tiểu súc sinh, cút con mẹ mày đi!

Quyền của hắn đánh trúng ngay vào sống mũi của Chu Hậu Chiếu. Ngay lập tức Chu Hậu Chiếu choáng váng đầu óc, máu mũi chảy dài, không kìm được kêu ầm lên. Chu Hậu Chiếu vốn luyện võ từ nhỏ, khi ở trong cung cũng theo mấy thị vệ đại nội vốn là cao thủ được mời tới từ phái Võ Đang để luyện tập một số môn võ nghệ cao minh. Tuy nhiên một là y hoàn toàn không có kinh nghiệm thực chiến, hai là trước nay chưa bị người khác đánh bao giờ, do đó khi thấy mũi mình vừa đau vừa tê dại, đưa tay lên sờ thì thấy toàn là máu, trong lòng lập tức hoảng hốt, chẳng hề nghĩ tới chuyện đánh trả.

Nghiêm Khoan giật lấy hai mảnh giấy từ trong tay y rồi ghép lại, cũng may, ghép lại vẫn liền lạc, không có vấn đề gì cả.

Trông thấy Thái tử bị đánh, tám con “chim cun cút” liền như bị đào mất mộ tổ, lập tức đều lo lắng vô cùng, kẻ nào kẻ nấy mặt mũi đỏ bừng xông lên.

Tuy rằng thường thì thể lực của thái giám vẫn yếu hơn của người bình thường một chút, thế nhưng trước khi vào cung Trương Vĩnh đã từng đọc qua binh thư, luyện qua võ nghệ, nên quyền hắn đấm ra cũng khá có uy lực. Nghiêm Khoan vừa mới nhét tờ văn tự vào trong ngực thì Trương Vĩnh đã vung quyền đấm trúng hắn, hắn loạng choạng lùi về sau mấy bước, tiếp đất bằng mông.

Nghiêm Khoan cả giận, lập tức quát tháo bốn tên thủ hạ khỏe mạnh của mình:

- Đánh cho ta!

Bốn tên tráng hán lập tức xông lên đánh nhau lộn tùng phèo với tám gã thái giám. Tuy rằng bốn tên tráng hán thấy đối phương đều là người đọc sách nên không dám nặng tay, thế nhưng tám kẻ yếu xìu như bún thiu kia làm sao là đối thủ của người ta cho được? Tuy là tám người đánh bốn, thế nhưng ngoại trừ Trương Vĩnh còn có công có thủ một chút ra, đám người còn lại đều chỉ có thể vừa lùi về phía sau vừa ăn đòn.

Nhìn cuộc đánh đấm “thê thảm đến không nỡ nhìn” ngay trước mắt, Dương Lăng thầm tính cho dù mình có tham gia thì cũng chỉ là thêm cái bia thịt cho người ta đánh mà thôi. Y bèn dứt khoát đi tới đỡ Thái tử dậy, đồng thời cất giọng thân thiết hỏi:

- Công tử, cậu thế nào rồi? Có sao không?

Chu Hậu Chiếu đang dùng tay che mũi, máu tươi không ngừng chảy ra qua kẽ ngón tay, miệng ú ớ không nói được câu nào. Bỗng có một bàn tay be bé xinh xinh từ bên cạnh đưa tới cho y một chiếc khăn tay tràn đầy hương thơm mê người kèm giọng nói ngọt ngào:

- Tiểu công tử, cậu hãy lau đi!

Chu Hậu Chiếu không khỏi ngẩn người, bất giác đưa tay nhận chiếc khăn. Ngón tay y chạm vào tay người ấy, chỉ cảm thấy nó vừa mềm mại vừa láng mịn vô cùng, trong lòng chợt trào lên một cảm giác khác lạ trước nay chưa từng có. Ngay trước mắt y xuất hiện một đôi mắt như biết nói, bên trong ẩn chứa sự dịu dàng khó có thể miêu tả bằng lời, còn có cả sự quan tâm và thông cảm trong nụ cười nhè nhẹ kia nữa, thật khiến lòng người phải rung động.

Chu Hậu Chiếu đưa chiếc khăn của Đường Nhất Tiên lên bịt mũi, lập tức ngửi thấy một mùi hương thoang thoảng ngập tràn. Y nhất thời như ngây ngốc, ngay cả lời Dương Lăng vừa nói cũng không nghe thấy.

Tô Hoài, Nhất Xứng Kim cùng với một vài tên quy công nghe ồn ào chạy đến nhìn thấy trước mắt có hơn chục người đang đánh nhau lộn tùng bậy, cũng chẳng biết là nên khuyên can hay nên giúp bên nào, nhất thời lúng ta lúng túng chẳng biết nên làm sao mới phải. Chợt nghe một tiếng hô yêu kiều trong trẻo vang lên:

- Đừng đánh nữa!

Giọng nói của thiếu nữ này cực kỳ dễ nghe. Bất giác mười hai người đang đánh nhau đều dừng tay lại, nhất tề nhìn về hướng phát ra âm thanh. Trong lầu có một thiếu nữ vận bộ áo trắng như tuyết đang đứng, mái tóc dài buông xõa sau lưng, thân hình thon thả tuyệt vời.

Thiếu nữ đó lạnh nhạt nói:

- Nghiêm đại gia, việc gì phải làm tổn thương người vô tội chứ? Xin ngài trở về đi, ba ngày sau Tô Tam sẽ đi theo ngài là được rồi!

Tuyết Lý Mai - thiếu nữ vận bộ áo xanh biếc đứng bên cạnh vội can:

- Chị Ngọc Tỷ Nhi, người như thế mà chị cũng muốn đi theo hay sao chứ? Tới gặp quan thì sao nào, muội quen người ở bộ Lễ…

Thiếu nữ áo trắng ngắt lời nàng, cất giọng buồn bã:

- Muội muội ngốc nghếch, nói những chuyện đó làm gì? Những lão gia đó ngâm thơ, vẽ tranh, bàn chuyện trăng gió với chúng ta chẳng qua chỉ là để tiêu khiển mà thôi. Người ta đã phải bỏ tiền ra, lại không nợ gì chúng ta cả, nếu thật sự phải đến chỗ quan phủ, chỉ sợ người ta còn không dám nhận đã từng quen biết chúng ta nữa kìa!

Nàng thở dài một hơi buồn bã, sau đó lại tiếp:

- Đừng nói gì thêm nữa, những người như chúng ta đều không nhà không cửa, tựa như là bông liễu bay trong gió, nhánh bèo trôi trong nước. Gió thổi bay tới đâu thì chúng ta bay tới đó, sóng cuốn tới đất nào thì chúng ta cũng chỉ có thể tới đất đó mà thôi.

Nghiêm Khoan phá lên cười ha hả, mắt liếc nhìn khắp xung quanh. Nhận thấy lúc này mấy tên thư sinh kia đã bị thủ hạ của mình đánh cho mặt mũi tím bầm, đang hậm hực nhìn về phía mình, có vẻ cũng không muốn gây sự thêm nữa, thế là hắn bèn dương dương đắc ý bảo:

- Được rồi! Sớm biết điều như thế này có phải là thoải mái hơn không, lúc ấy ông đây sao lại nổi giận chứ? Ha ha, chúng ta đi thôi! Nhất Xứng Kim, ba ngày sau ta sẽ tới mang người đi đó, nếu ngươi còn dám lằng nhằng đùn đẩy, hừ!

Hắn khẽ khoát tay, dẫn theo bốn tên tráng hán to khỏe nghênh ngang bỏ đi. Dương Lăng đưa mắt nhìn về phía trong lầu, thấy một thiếu nữ đẹp như người trong tranh. Nàng ta vận bộ váy áo trắng như tuyết, trang điểm giản đơn, tuy bị vướng bởi bóng râm của tòa lầu nên không thể nhìn rõ dung mạo, thế nhưng chỉ nhìn thân hình cùng với cử chỉ lễ độ kia thôi cũng đủ thấy không hề thua kém vầng trăng rạng rỡ trên trời cao rồi. Lúc này nàng lại đứng ngay cạnh Tuyết Lý Mai đẹp tựa nhành mai trong tuyết, mỗi một động tác của các nàng đều nhã nhặn nhẹ nhàng, vẻ đẹp của cả hai càng tăng lên gấp bội.

Mỹ nữ này quả nhiên không thẹn với lời đồn, chỉ riêng cử chỉ cùng với khí chất kia thôi đã là không tầm thường rồi.

Bát hổ tuy từng là đàn ông nhưng lại đã tu luyện đến cảnh giới tối cao “bản lai vô nhất vật, hà xứ lạc trần ai” (Vốn là hư vô chẳng có vật gì, cớ nào lại nhiễm bụi trần cho được, hai câu trong bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng - ND.), đẹp cũng được, xấu cũng đành, chẳng liên quan gì tới bọn họ hết, lúc này cả tám khuôn mặt chỗ xanh chỗ tím đều ghé đến chỗ Chu Hậu Chiếu để khoe công.

Chu Hậu Chiếu cũng chẳng để ý tới đám “xú bát quái” hàng thực giá thực kia (Xú bát quái là từ để chỉ người xấu xí, trong đó xú nghĩa là xấu xí, bát là tám, quái là quái dị. Trong đoạn này xú bát quái là chỉ tám tên thái giám lúc này đã bị đánh cho mặt mũi sưng vù - ND.). Y vội lau dòng máu tươi chảy xuống tới bên miệng, sau đó lại chùi chùi mũi, thấy không còn máu chảy nữa. Y bớt lo hẳn, lập tức bỏ tay xuống, nói với Đường Nhất Tiên:

- Đa tạ cô nương, ta không sao rồi!

Đường Nhất Tiên nở nụ cười ngọt ngào nói:

- Vậy thì tốt! Những kẻ đó đều là người thô tục, ỷ mình có chút tiền thối tha mà đi ức hiếp người khác. Cậu là một thư sinh yếu đuối, cứ đọc sách thánh hiền của cậu là được rồi, sao lại đi đối đầu với đám vô lại ấy chứ? Sau này phải tự biết mình, đừng có cố quá mà rước họa vào thân!

Chu Hậu Chiếu thường ngày ở trong cung cũng không thiếu gì những cung nữ trẻ tuổi hầu hạ. Thế nhưng những nàng đó cho dù tướng mạo không tồi thì khi đứng trước mặt y cũng luôn tỏ vẻ nghiêm túc e dè, ngay cả thở mạnh một hơi cũng không dám, nào bình dị dễ gần như cô gái này. Đã thế nàng ta lại còn dám dạy bảo y, có điều lời dạy bảo lại nghe rất ngọt ngào, khiến người ta không kìm được lòng yêu mến.

Một sợi tơ tình mông lung chợt sinh ra nơi đáy lòng Chu Hậu Chiếu, tiểu cô nương dáng người nhỏ nhắn xinh xắn có giọng nói làm say lòng người này đã lặng lẽ đặt một dấu ấn vào trong trái tim y. Cho dù thân là Thái tử cao quý, thế nhưng y cũng là đàn ông, những người vừa mới biết đến chuyện ái tình chắc cũng hiểu được điều này, mỗi một lời nói tiếng cười, mỗi một hành vi cử chỉ của đối phương đều được y quan tâm để ý.

Chu Hậu Chiếu nghe nàng bảo mình là một thư sinh yếu ớt vô dụng thì cảm thấy hơi khó chịu, không kìm được đỏ bừng mặt nói:

- Ai nói là ta không đánh lại được hắn chứ? Với công phu Thập Đoạn Cẩm (Một loại võ công – ND.) của ta, cho dù là năm ba tên đại hán cũng không tới gần được, muốn dạy dỗ mấy tên nhãi nhép ấy còn chẳng phải là dễ như trở bàn tay sao? Có điều vừa rồi… vừa rồi ta mới lần đầu động thủ với người khác, nhất thời ngây ra mà thôi.

Đường Nhất Tiên nghe y bốc phét rằng năm ba người cũng không thể tới gần mình, thế nhưng sau lại nói là chưa từng động thủ với người khác, nào biết được y nói thực, còn cho rằng gã tiểu thư sinh này khoe mẽ, không kìm được khẽ cười khúc khích đáp:

- Được rồi, được rồi! Công tử công phu lợi hại, tôi tin là được rồi chứ gì? Mũi cậu ổn rồi chứ? Không có việc gì thì về nhà sớm một chút đi, nơi như thế này ít tới một chút là tốt nhất!

Chu Hậu Chiếu thấy nàng cho rằng mình bốc phét, lập tức giận dữ đến đỏ bừng cả mặt. Đứng trước mặt người con gái lần đầu khiến trái tim y rung động, lại bị người ta coi là trẻ con, y làm sao có thể chịu đựng cho nổi? Chu Hậu Chiếu giậm chân hậm hực nói:

- Nàng không tin sao? Ta muốn trừng trị tên vô lại đó thực dễ như trở bàn tay, còn cả tờ văn tự chuộc thân rắm chó gì đó nữa, trông hắn cầm cứ như cầm bảo bối vậy. Hừ hừ, ta muốn lấy lại nó chẳng qua cũng chỉ cần một câu nói mà thôi.

Hai mắt Đường Nhất Tiên lập tức sáng lên, nhưng ngay sau đó lại thở dài một hơi với vẻ thất vọng. Vị tiểu công tử này chắc hẳn là công tử của nhà giàu nào đó, vì không biết trời cao đất dày nên mới dám nói lời ngông cuồng như vậy. Năm ngàn lượng bạc chẳng phải là con số nhỏ, cho dù y xuất thân từ gia đình giàu có, nhưng trưởng bối trong nhà y đời nào lại chịu để cho y lấy bạc ra tiêu xài hoang phí thế được?

Chu Hậu Chiếu thấy nàng không tin thì không khỏi cuống lên, y đưa mắt nhìn bọn thuộc hạ. Lúc này bọn Lưu Cẩn đều tay áo rách toang, mũ rơi ra ngoài, tóc tai tán loạn, mặt mũi sưng vù, bất luận là lôi tên nào ra cũng đều không có sức thuyết phục, thế là đành chỉ tay vào Dương Lăng nói:

- Nàng không tin sao? Không tin hãy hỏi y xem ta làm có được không nào!

Đôi mắt long lanh của tiểu cô nương đó nhìn chăm chăm vào Dương Lăng, ngay cả hai vị cô nương Tô Tam và Tuyết Lý Mai ở đằng sau cánh cửa tuy tỏ vẻ không để ý nhưng thực ra đều đang dỏng tai lên nghe. Dương Lăng hết cách nên đành gật đầu đáp:

- Không sai, lời của vị công tử này không phải là giả. Đừng nói là chỉ dạy dỗ cho tên vô lại kia một trận, cho dù là chuộc lại tờ văn tự kia cũng chẳng phải chuyện gì khó khăn.

Dương Lăng tướng mạo tuấn tú, phong thái hiên ngang, hiện giờ ngoài sáng y là Thái tử thị độc, trong tối là quan cao trong Cẩm Ỷ vệ, sự từng trải về tâm lý cùng với kinh nghiệm sống còn vượt xa tuổi tác hiện giờ, những lời y nói toát ra một sự uy nghiêm khiến người ta khó mà không tin. Tô Tam vốn đứng đằng sau bậc cửa lặng lẽ nhìn y, giờ nghe thế lập tức thở phào một hơi, Đường Nhất Tiên thì dùng giọng hoài nghi hỏi:

- Lời của công tử… là thật sao?

Trong suy nghĩ của nàng, vị công tử này dù rất có thân phận, đủ sức bức ép được Nghiêm Khoan phải trả lại tờ giấy chuộc người, thế nhưng nếu không phải vì y cũng đã động lòng với Ngọc Tỷ Nhi, việc gì lại phải bỏ ra một số tiền như thế chứ? Nhìn dáng vẻ y như cây ngọc đón gió, quần áo chỉnh tề, lại là một người đọc sách có thân phận, nếu y cũng muốn chuộc thân cho Ngọc Tỷ Nhi, nói không chừng tỷ ấy còn vô cùng mừng rỡ ấy chứ. Lúc này trong lòng nàng vừa mừng cho Ngọc Tỷ Nhi, lại vừa có mấy phần ngưỡng mộ và tự thương cho số phận mình.

Chu Hậu Chiếu đắc ý:

- Đương nhiên là thật rồi!

Y nghênh ngang chỉ tay vào Dương Lăng nói:

- Dương… Dương đại ca, chuyện này giao cho huynh đó. Hãy dạy dỗ cho tên khốn nạn kia một trận, sau đó thì đòi tờ văn tự chuộc người về!

Trong suy nghĩ của y, y là vua, Dương Lăng là bầy tôi, chuyện mà y giao cho Dương Lăng đi làm thì cũng giống như là y đã làm chuyện đó cho người khác. Nhưng trong suy nghĩ của Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai, Đường Nhất Tiên và đám người bọn Nhất Xứng Kim thì lại hoàn toàn khác. Sau khi nghe xong, cả bọn đều như giật mình hiểu ra, thảo nào tiểu thư sinh này lại tỏ vẻ chắc chắn như vậy, e là người bạn lớn tuổi hơn y một chút kia mới là nhân vật có lai lịch và chỗ dựa.

Ngọc Đường Xuân ở sau bậc cửa nhìn Dương Lăng chăm chú một hồi, nhận thấy lúc này y có vẻ như hơi sửng sốt. Vốn là một cô gái cực kỳ nhanh trí, nàng lập tức dịu dàng khom người cảm tạ:

- Vậy Tô Tam xin tạ ơn Dương công tử!

Thế này tức là sắt đã được rèn khi còn nóng, ván đã đóng thuyền.

Chu Hậu Chiếu nghi hoặc hỏi:

- Hả? Người giúp đỡ là ta cơ mà, tại sao nàng lại đi cảm ơn y vậy?

Đường Nhất Tiên bật cười đáp:

- Ai nói là không cảm ơn cậu chứ? Nếu hai vị công tử chịu giúp đỡ, tiểu nữ sẽ bày tiệc cảm ơn cả hai.

- Được!

Chu Hậu Chiếu nghe nói nàng sẽ bày tiệc để cảm tạ, trong lòng không khỏi mừng rơn, lập tức nói ngay:

- Chúng ta đi đây, các nàng cứ đợi tin tốt của chúng ta nhé! Muộn nhất là ba ngày, chuyện này nhất định sẽ được giải quyết xong!

Lúc này trong lòng y, trong mắt y chỉ có một nàng Đường Nhất Tiên yêu kiều xinh đẹp, y chỉ hận không thể làm xong chuyện này ngay lập tức để lấy lòng nàng, bèn vội vàng chạy ngay ra ngoài cửa Thì Hoa Quán. Thấy Nghiêm Khoan đã dẫn người sắp ra đến ngoài đường lớn, Chu Hậu Chiếu lập tức ra lệnh:

- Cao Phượng, La Tường! Mau bám theo hắn, đừng để hắn chạy mất!

Rồi y bảo Dương Lăng:

- Ngươi mau tới Ngũ Thành Binh Mã ty điều quân đến đây bắt người cho ta!

Tám gã thái giám và Dương Lăng nghe vậy đều giật nảy mình. Lần này thì lớn chuyện rồi, Thái tử đến thanh lâu đánh nhau với một tay khách làng chơi, sau đó điều động người của Ngũ Thành Binh Mã ty đến đàn áp đối phương, chuyện này mà loan truyền khắp nơi thì còn ra thể thống gì nữa?

Cả bọn đều vội bước tới cố sức khuyên can. Chu Hậu Chiếu cả giận nói:

- Hắn dám đánh ta, nay có giết hắn thì cũng chẳng phải chuyện ghê gớm gì! Các ngươi dám chống lệnh sao?

Bình thường chuyện gì Chu Hậu Chiếu cũng tùy tiện, chẳng hề có chút uy nghiêm nào. Nhưng lúc này trong cơn giận dữ, cái khí thế được bồi dưỡng từ bé khi chuyên môn sai khiến người khác, muốn gì được nấy của y lập tức thể hiện ra, Bát hổ đều không khỏi run lên cầm cập, Dương Lăng cũng thầm chấn động toàn thân.

Cao Phượng, La Tường thấy mấy người thân cận nhất của Thái tử như Dương Lăng, Lưu Cẩn, Trương Vĩnh đều không dám nói gì thêm, cũng chỉ đành liều mình đuổi theo Nghiêm Khoan mà thôi. Cốc Đại Dụng biết rằng chuyện gì Chu Hậu Chiếu đã hạ quyết tâm thì khó mà khuyên nổi, nên cũng chỉ đành khẽ đẩy Dương Lăng, ý bảo y mau đi tìm người của Ngũ Thành Binh Mã ty tới.

Dương Lăng đành gượng cười rời đi. Vốn y cho rằng vị Thái tử nhỏ tuổi này dễ đối phó, mình chỉ cần dùng một chút kế sách nho nhỏ là có thể khiến Chu Hậu Chiếu cam tâm tình nguyện nghe lời ngay, kế đó mượn danh nghĩa Thái tử để đi lấy bức bản đồ đi biển của Trịnh Hòa về. Trong lòng y vốn đã có chút đắc ý, nào ngờ đến lúc này mới biết mình đã tính nhầm một chuyện, đó là cho dù Chu Hậu Chiếu có tính tình tùy tiện và hay suy nghĩ linh tinh, thế nhưng những thứ đó thì người khác tuyệt đối không thể dự đoán được và cũng không thể nào ngăn cản nổi.

Y không dám rời đi quá xa, chỉ đành đi tìm người của Ngũ Thành Binh Mã ty ở xung quanh khu vực đó. Vốn thì người của Ngũ Thành Binh Mã ty không ngừng tuần tra trên đường, nhưng lúc này chẳng biết có phải là vì đã bị kéo đến học cung để tham gia “hoạt động tổng vệ sinh vì tình yêu tổ quốc” hết cả rồi không mà chẳng thấy một ai cả. Vốn Dương Lăng định thừa cơ trở về báo cáo với Thái tử luôn để tránh lớn chuyện, nào ngờ từ tửu lầu trước mặt chợt có mấy gã Cẩm Y vệ bận bộ quần áo Phi Ngư bước ra ngoài.

Dương Lăng cả mừng, những người này có thể nói là chuyên gia dọa nạt bắt bí người ta, để bọn họ ra mặt là ổn thỏa nhất. Cẩm Y vệ bắt người còn cần phải có lý do hay sao chứ? Như vậy thì không phải lo thân phận của Thái tử bị bại lộ rồi.

Dương Lăng vội bước lên trước cản đường của bọn họ, rồi đưa thẻ bài ra yêu cầu bọn họ trợ giúp bắt người. Mấy tên Cẩm Y vệ lúc này đều đã hơi say, họ đưa bắt nhìn nhau, nhưng đều chẳng hề có vẻ muốn hành động gì cả. Dương Lăng nhìn phẩm hàm của họ, thấy phần lớn là Hiệu úy, Lực sỹ, trong đó cũng chỉ có hai viên Tiểu kỳ, quan chức không lớn, biết rằng mình có quyền điều động chúng, bèn không kìm nổi quát to:

- Còn ngây ra đó làm gì? Phạm nhân sắp chạy mất rồi, có chuyện gì ta sẽ hỏi tội các ngươi đó!

Phía sau đám người có một giọng nói uể oải vang lên:

- Chuyện gì vậy? Vị đại nhân nào đang công cán thế, muốn điều người của ta tới giúp đỡ sao?

Nghe thấy thế mấy tên Cẩm Y vệ bèn rẽ sang hai bên, dành lối đi cho một hán tử mặc thường phục áo gấm dẫn theo sáu bảy người từ trong tửu lầu bước ra.

Người đó tuổi hơn ba mươi, thân hình cao lớn khỏe mạnh, dáng vẻ dũng mãnh tựa như một con báo đang uể oải dạo chơi. Hắn đi tới bên cạnh Dương Lăng, hai người đưa mắt nhìn nhau dò xét, trong lòng thầm đoán thân phận của đối phương. Hồi lâu sau người đó chợt mở miệng cười, chắp tay chào:

- Ta là Chưởng hình thiên hộ (Thiên hộ chuyên quản việc hình phạt – ND.) Tiền Ninh của Bắc Trấn Phủ ty, huynh đệ là…

Dương Lăng lúc này mới giật mình hiểu chuyện. Thảo nào khi nãy bọn kia không hề có hành động gì, thì ra không những cấp trên của bọn họ có mặt ở đây, mà phẩm cấp của y cũng không thấp. Nghe Tiền Ninh xưng phẩm bậc, Dương Lăng vội đáp:

- Tại hạ Đồng tri Dương Lăng của Nam Trấn Phủ ty.

Tiền Ninh nghe nói là người của Nam Trấn Phủ ty, cũng có thể coi là một bộ phận quan trọng trong Cẩm Ỷ vệ, tuy rằng quyền thế không được mạnh bằng Bắc Trấn Phủ ty, thế nhưng phẩm hàm của người ta lại cao hơn hắn nửa bậc, thế nên bèn khách khí nói:

- Thì ra là Dương đại nhân! Không biết vì sao Dương đại nhân lại muốn nhờ các huynh đệ của ta giúp đỡ vậy? Tuy rằng Cẩm Y vệ chúng ta bắt người không cần phải có chiếu chỉ, thế nhưng dưới chân thiên tử dù gì cũng phải kiêng dè một chút mới được…

Dương Lăng kéo hắn qua một bên, thấp giọng nói:

- Tiền huynh! Không giấu gì huynh, ta và mấy người bạn vừa đi tới ngõ Bách Thuận đằng trước… Hà hà, kết quả là có gây gỗ với một gã thương nhân, quyền qua cước lại một hồi thì mấy người bạn của ta đã bị thương. Do đó ta muốn mời các vị huynh đệ tới giúp ta dạy dỗ cho bọn chúng một trận.

Vốn đang buồn vì cứ ngồi uống rượu trong kia mãi mà chẳng có việc gì để vận động tay chân, lúc này Tiền Ninh nghe nói chỉ là chuyện nhỏ, vả lại dù gì cũng không thể không nể mặt người ta được, bèn lập tức khoát tay ra lệnh với thủ hạ:

- Đi nào! Hăng hái lên một chút, có việc để làm rồi!

Chương 68 – Lục soát khắp kinh sư

Dịch: Vo Vong

Biên dịch:

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Chu Hậu Chiếu đỏ bừng mặt đáp:

- Không được, lời ta nói ra như bát nước đã hắt đi! Sao có thể để cô nương nhà người ta chê cười được, nhất định phải đòi lại tờ văn tự đó về cho ta.

---------------------------------

Dương Lăng dẫn theo đám Cẩm Y vệ như lang như sói chẳng mấy chốc đã đuổi kịp Chu Hậu Chiếu, Lưu Cẩn và đám người còn lại. Lúc này Chu Hậu Chiếu đang bám theo Cao Phượng và La Tường đuổi theo Nghiêm Tung từ xa, ngoảnh đầu lại thấy có hơn mười Cẩm Y vệ, y không kìm được cất tiếng khen:

- Vị Dương thị độc này thật có bản lĩnh, không ngờ chỉ dựa vào thân phận thị độc mà có để điều động được cả một đội Cẩm Y vệ. Có điều không biết y đã tiết lộ thân phận của ta chưa nhỉ?

Vừa đuổi kịp, nhìn thấy Chu Hậu Chiếu thì Tiền Ninh cả kinh, tròng mắt như sắp rớt ra ngoài. Chu Hậu Chiếu không biết hắn nhưng hắn lại biết Chu Hậu Chiếu, đây là đương kim Thái tử cơ mà, vì sao Thái tử lại rời cung vậy? Tiền Ninh thầm kinh hãi trong lòng nhưng lại không dám để lộ ra ngoài mặt. Đôi mắt hắn liếc nhìn xung quanh, lập tức nhận ra mấy gã thư sinh ẻo lả bên cạnh Thái tử đều là thái giám giả trang, hắn càng thêm tin chắc.

Đã thường nghe kể chuyện Hoàng thượng hay dẫn Thái tử ra ngoài cung vui chơi, chẳng ngờ chính bản thân Thái tử cũng có lúc lén trốn ra ngoài thế này! Nhìn hình dáng bầm dập của những người bên cạnh Thái tử thì có vẻ như là không dám tiết lộ thân phận nên đã phải chịu thiệt thòi lớn gì đó. Hà hà, trèo được lên cái cây lớn như Thái tử đây, đó là một cơ hội cho dù muốn tìm cũng chẳng thể tìm được ấy chứ!

Hắn cũng không dám làm lộ thân phận của Chu Hậu Chiếu, chỉ tỏ vẻ vô cùng cung kính hỏi:

- Công tử chính là bạn của Dương huynh đệ sao? Mọi người yêu tâm, chuyện này cứ giao cho ta, ta nhất định sẽ thay mọi người dạy dỗ cho tên thương gia giàu có mà bất nhân ấy một trận.

Hắn liếm liếm môi, trong lòng thầm tiếc nuối: “Vốn định giúp vị Dương đồng tri này dạy cho mấy tên thương gia kia một trận, sau đó thì xin đẹp của bọn chúng một ít. Bây giờ thì không tiện ra tay ngay trước mặt Thái tử rồi.”

Chu Hậu Chiếu đưa mắt nhìn hắn với vẻ tán thưởng, sau đó khen:

- Tốt, những người ta mang theo đều là kẻ nhát gan sợ chuyện… ừm… không nhát gan thì cũng không làm được việc. Chuyện này xin nhờ ngươi đó, hãy đuổi theo rồi dạy dỗ bọn chúng một trận cho ta đi!

Tiền Ninh cười hà hà đáp:

- Chuyện này thì dễ thôi! Tại hạ sẽ đưa chúng vào một con hẻm, sau đó thì công tử muốn làm thế nào cũng được.

Thế nhưng sau khi đuổi theo được một lát, Tiền Ninh dần chau mày lại, thần sắc bắt đầu có chút bất an. Hắn đưa mắt nhìn khắp xung quanh, chỉ thấy những bức tường cao được lát bằng gạch xanh càng lúc càng nhiều, bên trong còn toàn là đình đài lầu các. Tiền Ninh không kìm được thầm lẩm bẩm: “Kẻ dây vào Thái tử thật sự chỉ là một tên thương nhân sao? Xung quanh đây… Xung quanh đây đều là nơi ở của vương hầu quý tộc cơ mà!”

Tại một con hẻm rất hẹp và dài ở phía trước, Cao Phượng đang đứng dưới một cổng chào ở trước ngõ vào hẻm vẫy tay gọi bọn họ. Khi mấy người bọn họ tới gần, Cao Phượng báo:

- Công tử! Con hẻm này vừa dài vừa hẹp, La Tường đã bám theo vào trong đó rồi, chúng ta có đuổi theo không đây?

- Đuổi chứ! Tại sao lại không đuổi nào?

Chu Hậu Chiếu trừng mắt giận dữ:

- Chẳng lẽ ta lại sợ bọn chúng chắc?

Vốn hơi e ngại trong lòng, nhưng ngay khi nghe Chu Hậu Chiếu nói vậy Tiền Ninh liền lập tức tỉnh ngộ. Người trước mặt là ai nào? Là đương kim Thái tử, là Hoàng đế tương lai đó, đắc tội với một vương hầu thì có là gì ghê gớm chứ? Chỉ cần được lòng Thái tử, muốn có vinh hoa phú quý thực dễ như trở bàn tay.

Thường có câu rằng “phú quý hiểm trung cầu” (muốn tìm vinh hoa phú quý thì phải xông vào chốn hiểm nguy), nay chỉ là mối nguy hiểm nho nhỏ mà cũng không dám thử, làm sao có thể thăng quan tiến chức được cơ chứ? Hơn nữa mình là người của ty Bắc Trấn Phủ trong Cẩm Y vệ, cho dù là công hầu quý tộc đi nữa thì cũng có mấy ai lại không chịu nể mặt đây?

Nghĩ vậy Tiền Ninh liền can đảm hơn nhiều, thậm chí còn hận không thật sự gặp phải một vị quyền thần nào đó, để bản thân phải nếm chút đau khổ, như thế ấn tượng của Chu Hậu Chiếu về hắn chắc chắn là sẽ càng sâu đậm hơn nhiều. Cả đám người bước nhanh vào trong con hẻm, khu vực này toàn là những tòa nhà cao vút của các vị đại thần quý tộc, nhưng cũng đã đến nơi giáp giới với khu nhà ở của bá tánh bình dân.

La Tường ngoảnh đầu nhìn lại thấy bọn họ đã tới gần, bèn chỉ tay vào một khu nhà cực lớn ở phía trước, lắp bắp nói:

- Công tử! Kẻ đó… kẻ đó đã vào trong cánh cửa này.

Mọi người nhìn về phía cánh cửa thì thấy một khu nhà lớn vô cùng, ngoài cùng là một cánh cửa lớn được sơn màu đỏ, chiếc vòng đập cửa được làm bằng đồng, hai bên cạnh của bậc thềm đá khá cao là một đôi sư tử rất đẹp, cao đến hai thân người.

Vừa thấy vậy, ngoại trừ Chu Hậu Chiếu và Dương Lăng ra, những người còn lại đều kinh hãi vô cùng. Tiền Ninh không kìm được buột miệng:

- Phủ của Thọ Ninh hầu sao?

Dương Lăng cũng nhìn thấy bốn chữ lớn mạ vàng “Thọ Ninh Hầu Phủ” trên bức biển treo trước cổng, có điều y cũng chẳng để tâm tới chuyện này cho lắm. Tên Nghiêm Khoan kia ăn nói thô tục, quyết chẳng phải là hầu gia gì cả, nhiều lắm cũng chỉ là một gã quản gia trong hầu phủ mà thôi. Trong những người ở đây có Thái tử, có Cẩm Y vệ, còn có cả tám đại gian thần tương lai, chẳng lẽ lại sợ gã hay sao chứ?

Nhưng vừa đưa mắt nhìn mấy người xung quanh, y bèn lập tức cảm thấy có điều không ổn. Mấy người Lưu Cẩn, Trương Vĩnh bên cạnh đều tỏ vẻ sợ hãi, ngay cả khuôn mặt tươi tắn với nụ cười trời sinh của Cốc Đại Dụng cũng trở nên gượng gạo. Chẳng lẽ vị hầu gia này rất có quyền thế hay sao? Trong ấn tượng của y… dường như y chưa từng nghe nói triều Minh có vị hầu gia nào ghê gớm như vậy thì phải.

Đang lúc Dương Lăng cảm thấy lạ, Lưu Cẩn đã lên tiếng nói với Chu Hậu Chiếu:

- Công tử, đây là phủ đệ của quốc cữu gia, không nể tăng thì cũng nên nể phật. Chúng ta… có nên thôi đi không?

Khi nhắc tới ba chữ “quốc cữu gia”, hắn còn đặc biệt nhấn mạnh thêm.

Dương Lăng nghe vậy liền giật mình chợt hiểu. Đương kim hoàng thượng chỉ có một vị hoàng hậu, hậu cung rộng lớn như thế mà ngay cả một phi tử cũng không có, sự sủng ái của lão ta với hoàng hậu chắc chắn không phải tầm thường. Tòa hầu phủ này không ngờ lại là phủ đệ của một người anh em ruột của hoàng hậu, thảo nào bọn họ lại sợ sệt như thế.

Vị thái tử Chu Hậu Chiếu này vốn tính hiền lành dễ gần, tuy rằng y thân phận cao quý, thế nhưng sau khi bị một gã tiện dân đấm cho một cú trong lòng cũng chẳng suy nghĩ gì nhiều. Sở dĩ y nhất quyết không chịu bỏ qua chuyện này chủ yếu là vì muốn lấy lòng vị Đường Nhất Tiên cô nương kia mà thôi.

Thế nhưng lúc này khi nhìn thấy phủ đệ của Thọ Ninh hầu, biết rằng có khả năng gã Nghiêm Khoan đó là người làm trong phủ, y lại càng không chịu bỏ qua. Đó là nhà của cậu y, người làm trong nhà của cậu y lẽ nào không phải là tôi tớ của y hay sao chứ? Bị người làm nhà mình đấm cho một cú thì dù y hiền lành đến đâu đi nữa cũng không nhịn được.

Hơn nữa tuy y là con đẻ của hoàng hậu, thế nhưng lại chẳng có bao nhiêu tình cảm với Trương hoàng hậu. Trong cung ngoài cung trước giờ vốn có tin đồn rằng y là do một vị cung nữ sinh ra sau một lần được Hoằng Trị ban ơn mưa móc, sau đó thì bị Trương hoàng hậu vốn không có con đoạt lấy. Chuyện này y cũng chỉ loáng thoáng nghe qua, tuy rằng không tin tưởng lắm, thế nhưng chuyện Trương hoàng hậu và y trước giờ không thân thiết với nhau lắm lại là sự thực, do đó quan hệ của y với hai người cậu Thọ Ninh hầu Trương Hạc Ninh và Kiến Xương hầu Trương Diên Ninh cũng chẳng tốt đẹp gì.

Chu Hậu Chiếu cười lạnh hai tiếng, trong bụng nhủ thầm: “Nếu đã là người trong phủ Thọ Ninh hầu, vậy ta cứ xông vào bắt người là xong. Tên Trương Hạc Linh đó chắc cũng chẳng dám nói câu nào đâu, ta mất mặt không phải cũng là hoàng hậu mất mặt hay sao chứ?” Y cắn chặt răng, định hạ lệnh cho bọn Lưu Cẩn xông vào phủ, chợt cánh cửa lớn màu đỏ lại được mở ra.

Mọi người vội tránh vào sâu trong hẻm, nhìn thấy tên Nghiêm Khoan vừa rồi dẫn theo một đám người ra ngoài, đi về hướng bên trái dọc theo dãy tường cao được xây bằng gạch xanh. Chu Hậu Chiếu mừng thầm, thấp giọng bảo:

- Bám theo nào! Đợi hắn đi vòng qua góc tường kia, các ngươi hãy nện cho hắn một trận, cướp tờ văn tự rồi chuồn luôn!

Lưu Cẩn thấy Thái tử đã quyết tâm phải trừng trị tên Nghiêm Khoan, đành nói:

- Vậy cũng được, có điều mấy người bạn mà Dương tướng công mời tới thực bắt mắt quá. Chi bằng để chúng tôi đổi quần áo với họ, như thế tên tiểu tử kia bị đánh một trận xong cũng chẳng biết do ai làm, tránh sinh chuyện thị phi.

Chu Hậu Chiếu bực mình đáp:

- Vậy thì nhanh lên một chút, đừng để hắn chạy mất đấy!

Tiền Ninh đang so sánh thực lực của Thái tử và quốc cữu, đồng thời suy tính đến chuyện được mất nếu đi nhầm nước cờ, ngay khi nghe được cách lưỡng toàn kỳ mỹ như vậy thì không khỏi mừng rỡ vô cùng. Hắn lập tức gọi bọn Lưu Cẩn mau cởi áo ngoài ra, sau đó lựa lấy mấy tên thủ hạ đắc lực, sai khoác mấy chiếc áo thư sinh ra bên ngoài bộ quần áo Phi Ngư, xong xuôi lặng lẽ bám theo mấy kẻ kia.

Chu Hậu Chiếu không muốn ở yên một chỗ, lập tức kéo Dương Lăng theo cùng. Cả bọn lặng lẽ đi vòng qua góc tường, nhận ra nơi đây cũng là một góc của phủ Thọ Ninh hầu, có điều tường ngoài đều đã bị dỡ đi, dường như đang được mở rộng. Phía bên trái có một con đường, cạnh đường toàn là nhà của dân thường, phủ Thọ Ninh hầu sau khi dỡ bỏ tường ngoài thì mở rộng về hướng đó. Cây bên đường đã bị chặt hết, cả con đường đều bị quây vào trong phủ, mấy chiếc mái cong của những tòa lầu các mới được xây trong phủ đều thò cả vào phần sân của những nhà dân thấp bé xung quanh.

Hơn trăm thợ thủ công đang hí húi làm việc, trên bức tường thấp có mấy người mặc trang phục gia đinh của hầu phủ đang quát tháo mấy chục người có già có trẻ có nam có nữ ở bên đường:

- Hầu gia của chúng ta là người biết lý lẽ nhất đó, hãy nhìn cái móng nhà này xem, có chiếm tí đất nào của các ngươi không hả? Không chứ gì? Con đường này không đi được thì các ngươi cứ đi đường vòng là ổn thôi, sao nào? Lầu các của hầu gia chúng ta thò vào sân nhà các ngươi thì sao? Có giỏi thì các ngươi cứ đi kiện, bọn ta cũng chẳng chiếm tí đất nào của các ngươi, phần trên không trung thì vương pháp không hề ghi là thuộc về nhà các ngươi mà! Định vu cáo Hầu gia sao? Xem các ngươi có gan không nào?

Nghiêm Khoan dẫn người hùng hùng hổ hổ xông tới quát tháo:

- Chuyện gì vậy? Lũ đểu cáng các ngươi lại tới gây chuyện hay sao? Thọ Ninh hầu gia vốn tính từ bi, các ngươi đã được voi rồi lại còn đòi tiên hả? Mẹ kiếp, ta nói cho các ngươi biết, ông đây sắp tới phải đi Bát Đạt Lĩnh nhận một vụ làm ăn lớn, là Trường Thành đó! Biết không hả? Các ngươi mà cứ tới lằng nhằng làm lỡ thời gian hoàn thành công trình của ta, chỗ bạc đó các ngươi trả cho ta nhé!

Một ông lão chống gậy run rẩy trả lời:

- Nghiêm đại gia! Cây táo nhà chúng tôi đã bị người của ngài cưa mất rồi, mái hiên của các ngài cũng đè xuống bệ cửa sổ phía đông nhà chúng tôi, trong nhà lúc này tối đen như mực! Đại gia…

Một tên tay chân của Nghiêm Khoan vung roi da quật vút xuống vai ông lão, rồi như một con chó dựa oai chủ cao giọng quát:

- Trong kinh sư có vô số phủ đệ của các vương hầu quý tộc đều do lão gia nhà chúng ta xây đó, còn chưa thấy có người nào nói chúng ta chèn ép trăm họ đâu! Lão già kia, con mắt nào của ngươi nhìn thấy bọn ta cưa cây táo nhà ngươi hả? Sao ngươi không nói là mình khuyết đức nên bị sét đánh đổ cây táo đó đi?

Đám nô bộc của hầu phủ đứng cạnh đó nghe vậy đều phá lên cười ha hả, ông lão giận đến đỏ bừng cả mặt, toàn thân run lên. Chu Hậu Chiếu ghé đến gần nói với Tiền Ninh:

- Đánh! Đánh xong rồi rút! Hừm, nhất định phải cướp lấy tờ văn tự trong người hắn về đây!

Đánh xong rồi chạy rất hợp ý Tiền Ninh, hắn lập tức đưa mắt ra hiệu với thủ hạ, đoạn gằn giọng:

- Lên!

Mấy tên Cẩm Y vệ nghe mệnh lệnh liền lập tức hung hăng xông đến. Cả bọn đều sở trường về những môn chiến đấu tay không, đánh người thì chuyên chọn những chỗ yếu hại như khớp xương mạng sườn mà tẩn, trước giờ vẫn ra tay độc ác vô cùng, không hề kiêng dè gì cả.

Tiền Ninh biết những người này có quan hệ mật thiết với phủ Thọ Ninh hầu, vốn thầm kiêng kị trong lòng nên ra tay còn chừng mực một chút. Nhưng mấy tên Hiệu úy, Lực sỹ kia thì chỉ phụng lệnh hành sự, chẳng cần biết ba bảy hai mươi mốt gì cả, ra tay tàn độc vô cùng, chẳng khác gì giã gạo. Chỉ trong khoảnh khắc họ đã đánh gục bảy tám tên, khiến đối phương phải che vai ôm sườn lăn lộn khắp đất kêu gào thảm thiết.

Tiền Ninh giữ chặt lấy Nghiêm Khoan, trước tiên tặng cho vài cái tát khiến đầu óc gã choáng váng, sau đó thì xé tung vạt áo trước ngực của gã lục soát một hồi. Chu Hậu Chiếu khoái trá chạy tới, đá hai cái thật mạnh vào mông Nghiêm Khoan, cười ha hả. Tiền Ninh mò mẫm trong ngực Nghiêm Khoan một lúc, sau đó ngẩng đầu lên nói với Chu Hậu Chiếu:

- Thái… Công tử, sao trong ngực hắn không có thứ gì hết vậy?

- Không có ư?

Chu Hậu Chiếu ngẩn người, lập tức nổi giận đùng đùng đá một nhát vào đùi Nghiêm Khoan, mắng lớn:

- Có phải là vừa rồi ngươi đã giấu vào trong hầu phủ rồi không hả?

Nghiêm Khoan đưa tay ôm đùi kêu la đau đớn, rên rỉ:

- Tiểu… súc sinh, ngươi là ai? Đã biết ta là người của hầu phủ mà còn… còn dám đánh ta sao?

Chu Hậu Chiếu thấy hắn mắng mình là tiểu súc sinh thì giận dữ định co chân đá tiếp, Dương Lăng vội giữ y lại, ghé miệng đến sát tai y báo:

- Công tử! Trước tiên hãy rời khỏi đây đã, sau này tìm cơ hội đòi lại tờ giấy đó là được, bọn chúng đã trở về gọi người rồi.

Chu Hậu Chiếu đỏ bừng mặt đáp:

- Không được, lời ta nói ra như bát nước đã hắt đi! Sao có thể để cô nương nhà người ta chê cười được, nhất định phải đòi lại tờ văn tự đó về cho ta.

Dương Lăng hết cách chỉ đành vỗ ngực đảm bảo:

- Chuyện này cứ giao cho tại hạ, trong vòng ba ngày tại hạ nhất định sẽ lấy được tờ văn tự đó về! Tuyệt đối sẽ không để công tử phải thất hứa đâu!

Chu Hậu Chiếu nghe vậy bèn đá mạnh lên người Nghiêm Khoan một cái nữa, rồi mới chịu để cho Tiền Ninh và Dương Lăng kéo chạy trốn như bay. Người ta thường nói “quý nhân ra khỏi cửa thì lắm mưa nhiều gió”, có điều mưa gió hôm nay hình như là nhiều quá thể! Dương Lăng vừa kéo Chu Hậu Chiếu chạy đi, trong lòng vừa nghĩ hôm nay bận rộn cả ngày trời mà vẫn chẳng nhìn thấy bức bản đồ đi biển của Trịnh Hòa đâu cả, thật là đau đầu mà!

Phủ của hầu gia thật đúng như câu “nhất nhập hầu môn thâm tự hải” (Vừa vào cửa nhà quan hầu tước liền thấy nó sâu như biển – ND.), đợi đến khi kẻ báo tin tập hợp đủ người theo quản gia thống lĩnh xông ra ngoài thì bọn Dương Lăng đã chạy mất hút từ lâu rồi.

Thọ Ninh hầu hay tin nổi giận đùng đùng. Tuy Nghiêm Khoan chỉ là một người làm trong phủ nhưng em gái hắn ta lại là thiếp yêu của Thọ Ninh hầu, nói cách khác, Nghiêm Khoan chính là anh vợ của anh vợ của đương kim hoàng thượng. Đánh chó cũng phải ngó mặt chủ, huống hồ còn là đánh anh vợ của hắn. Hơn nữa người anh vợ này đã tự lập môn hộ ở bên ngoài, dùng nghề xây dựng đã kiếm về cho hắn rất nhiều bạc.

Hôm qua hắn vừa mới kiếm cho gã anh vợ này một công việc béo bở là xây dựng Trường Thành đoạn Bát Đạt Lĩnh, nếu gã ta bị thương nặng thì tổn thất to rồi. Trong cơn giận dữ Trương Hạc Linh phái người cầm thư tay của hắn tới thẳng Ngũ Thành Binh Mã ty. Ngũ Thành Binh Mã ty hay tin liền giật nảy mình, không ngờ lại có người dám chạy đến phủ của Thọ Ninh hầu gây chuyện, thế này thì gay thật rồi! Hoàng thượng còn đang tuần sát ở học cung, nếu đám người xấu này dám cả gan làm kinh động thánh giá nữa, vậy chẳng phải là bọn họ bị tội rơi đầu hay sao?

Ngự sử tuần thành tựa như gặp phải đại địch, lập tức đích thân lùng sục, đi đằng trước là hai tên lính cầm roi mở đường quất đen đét liên tục. Đám lưu manh kẻ cắp trên đường đều ôm đầu lủi như chuột, những người bày sạp bán hàng trên đường im bặt như ve sầu mua đông, cả thành Bắc Kinh trở nên hỗn loạn.

Đám bộ khoái, mã khoái tràn ra khắp nơi, ngay cả lính của doanh trại binh mã trong kinh sư cũng bị điều động. Bọn Chu Hậu Chiếu được Tiền Ninh kéo lên một tửu lầu quen của hắn. Cho dù nhìn thấy Cẩm Y vệ ở trên đó, đám binh mã không ngờ vẫn dám phái người lên lục soát. Chu Hậu Chiếu không khỏi chau mày cười lạnh:

- Ghê thật, chẳng qua chỉ là một tên người làm trong hầu phủ bị đánh mà hiện giờ thì quả đúng là gần đến mức phải phong tỏa toàn thành rồi. Lý thái phó kể chuyện sử sách với ta, thường nói ngoại thích chuyên quyền, thế lực vượt cả thiên tử. Hà hà, ta thấy tên Thọ Ninh hầu này quả là còn oai phong hơn cả thiên tử ấy chứ!

Chương 69 - Dùng trí đấu vương hầu quyền thế

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Tiền Ninh cười khì khì đáp:

- Thật ra Tiền mỗ cũng muốn bịa đặt thêm một chút thị phi, tiếc là đã bận rộn cả đêm. Thật ra mấy vụ án không phải chỉ có bấy nhiêu, bọn ta cũng chẳng dư thời gian thêu dệt thêm lỗi cho Trương hầu gia. Những hồ sơ vụ án này có nhân chứng, có vật chứng, có cái còn là của khổ chủ gởi tới nha môn tố cáo nữa, có điều không ai dám xử lý nên vẫn còn xếp đống mà thôi. Đại nhân xem thử có thứ nào dùng được thì cứ việc cầm lấy. Yên tâm, toàn bộ những tư liệu này đều do Tiền mỗ sai thủ hạ chép lại, không phải là thư từ công văn của Cẩm Y vệ chúng ta, sẽ không dẫn lửa cháy đến chúng ta đâu.

---------------------------------

Thấy lính canh tuần đi lại liên miên không ngớt dưới lầu, Tiền Ninh chợt đảo mắt, ra lệnh cho đám hiệu uý Cẩm Y vệ dưới trướng:

- Xuống lầu hết cho ta! Canh chừng cửa, không cho ai lên quấy nhiễu!

Thủ hạ vừa ra khỏi nhã phòng, Tiền Ninh lập tức quỳ sụp xuống đất, cung kính thưa:

- Thần Tiền Ninh tham kiến Thái tử điện hạ!

Chu Hậu Chiếu "ý" kinh ngạc, ngước mắt nhìn Dương Lăng, Dương Lăng khẽ lắc đầu. Thấy vậy Tiền Ninh bèn cung kính bẩm rõ:

- Vi thần từng nhậm chức thống lĩnh thị vệ trong cung nên đã may mắn được gặp Thái tử điện hạ. Hôm nay điện hạ cải trang vi hành, thần vốn không dám làm lộ thân phận của ngài, nhưng hiện giờ binh lính lùng sục khắp kinh sư, vi thần chỉ còn cách dựa vào thân phận Cẩm Y vệ đích thân hộ tống điện hạ hồi cung. Vì thế vi thần mạo muội chào điện hạ, mong điện hạ thứ tội.

Chu Hậu Chiếu nghe xong bừng tỉnh, cười ha hả nói:

- Đứng dậy đi, không cần mấy quy củ thối đó. Ta cũng không ngờ đánh một tên vô lại lại kéo vô lại cả thành đến. Cái tên nhà ngươi cũng giảo hoạt lắm, bằng không, sao ngươi còn phải giả vờ không quen biết ta chứ?

Lúc này Dương Lăng cũng thở dài một hơi, thất vọng nhìn xuống dưới lầu, biết rằng hôm nay đừng hòng đi đến bộ Binh lấy tấm hải đồ của Trịnh Hoà. Lưu Cẩn ghé tai y thấp giọng bảo:

- Dương thị độc chớ nên sốt ruột! Tấm hải đồ đó để ở bộ Binh lâu năm như vậy, nếu muốn vứt thì đã sớm vứt từ lâu, nếu chưa vứt thì cũng sẽ không rời nơi đó một khắc. Ngày khác lại tìm cơ hội lấy về cũng được.

Dương Lăng sửng sốt nhìn lão. Lưu Cẩn mỉm cười nói:

- Tấm hải đồ đó là bảo vật Trịnh công công tốn bao tâm huyết lưu lại. Câu chuyện vô cùng ấn tượng, vạn nước truyền tụng đó là công lao do những người thuộc nội cung bọn ta tạo nên, bọn ta cũng không nỡ để nó bị huỷ bỏ đâu.

Dương Lăng rất đỗi kinh ngạc, nhìn nụ cười an ủi của "đồng chí" thái giám, cặp mắt của y không hẹn mà đã ươn ướt...

Được Tiền Ninh dẫn hơn chục tên Cẩm Y vệ "áp giải", dĩ nhiên đám quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa đụng phải bọn họ trên đường đều không dám chặn hỏi. Chu Hậu Chiếu suông sẻ trở về Đông Cung từ cổng sau Tử Cấm Thành.

Vừa trở về Xuân Phường an toàn, y liền vỗ bàn cái bộp, nói với Dương Lăng:

- Hôm nay chuyện đã ầm ỹ lên cả rồi, nhưng ta đã nhận lời của cô nương người ta, không thể thất hứa. Chính ta đã bảo nội trong ba ngày dứt khoát sẽ trả lại văn tự mua thiếp cho nàng ấy, ngươi xem làm sao để cướp tờ giấy đó về?

Dương Lăng chau mày. Khi đó để gạt Chu Hậu Chiếu rời khỏi “chiến trường”, y đã thuận miệng hứa bừa mấy câu. Nay xem ra gã Nghiêm Khoan chính là người của Thọ Ninh hầu. Ngay cả chuyện xây công sự Bát Đạt Lĩnh mà Trương Hạc Linh cũng có thể giao cho gã, chứng tỏ quan hệ bọn họ thật không tầm thường, căn bản chính là "quan thương một nhà".

Lấy tiền mua chuộc chỉ sợ không đưa được cái giá khiến gã động lòng, hơn nữa chuyện bấm bụng nhẫn nhịn như vậy nhất định Thái tử sẽ không chịu. Còn như muốn dùng quan uy bức bách thì đương kim thánh thượng sủng ái mỗi chính cung; chỉ cần nhìn khí thế các loại đội ngũ lùng sục kinh sư hôm nay là đủ rõ, vị quốc cữu gia này há dễ trêu vào sao? Trừ khi chính vua Hoằng Trị đích thân ra mặt, bằng không còn ai áp chế được hắn chứ.

Dương Lăng chau mày suy nghĩ một hồi, thật sự không nghĩ ra được biện pháp gì, y ngẩng đầu nhìn tám "thiên tài" chuyên trị người mà nghe nói là cả khi nằm mơ cũng có thể nghĩ ra biện pháp hại người, lại thấy tám cặp mắt cũng đang dòm y lom lom. Dương Lăng khổ sở cười một tiếng, đành phải cân nhắc từng lời:

- Tên Nghiêm Khoan đó chỉ là người làm, vốn không đáng lo, có điều Thọ Ninh hầu lại làm chủ cho gã... Muốn đụng đến gã, thì phải khuất phục Thọ Ninh hầu trước mới được.

Chu Hậu Chiếu đáp ngay:

- Không cần úy kỵ! Tuy Trương Hạc Linh là quốc cữu, nhưng thái độ kiêu căng của ông ta thật khó ưa, nếu có thể dập bớt oai phong của ông ta cũng là điều tốt. Ngươi có biện pháp gì cứ nói đi.

Dương Lăng trầm ngâm một hồi rồi nói:

- Người có thể khiến cho Thọ Ninh hầu bớt kiêu căng, chỉ còn có đương kim bệ hạ. Nhưng nếu muốn bệ hạ khiển trách ông ấy thì cần phải có chứng cớ tội trạng đủ nghiêm trọng khiến cho bệ hạ phải nổi giận...

Cốc Đại Dụng nghe vậy bèn xen vào:

- Việc này dễ thôi! Chỉ những việc xâm phạm quyền lợi của dân lành, lấn chiếm đường phố, tự ý giao công trình cho kẻ khác cũng đủ để dâng sớ hạch tội ông ta rồi, huống hồ e rằng Thọ Ninh hầu không chỉ... hà hà!

Lưu Cẩn nhíu mày nói:

- Có được chứng cớ còn phải có người đắc lực trình cho bệ hạ mới được. Nếu như chúng ta ra mặt, nhất định bệ hạ sẽ sinh nghi. Chuyện này...

Chu Hậu Chiếu mất kiên nhẫn:

- Sao mà phiền quá vậy! Nếu làm vậy không được thì nhân dịp mấy ngày này đang thi Hội, các Thái phó ít đến trông coi ta, ta tranh thủ rời cung một chuyến nữa đi thẳng đến tìm quốc cữu đòi vậy. Ta không tin ông ấy sẽ vì một tên người làm mà dám đắc tội với ta.

Nghe đến hai chữ "Thái phó", Dương Lăng không khỏi sáng rỡ hai mắt, hỏi ngay:

- Điện hạ! Mấy ngày nay các vị đại học sỹ đều không đến giảng bài cho người sao?

Chu Hậu Chiếu đưa mắt nhìn Cốc Đại Dụng, Cốc Đại Dụng đáp thay:

- Bắt đầu từ ngày mai, hằng ngày ba vị đại học sỹ sẽ luân phiên tham gia trông coi thi cử thi tại trường thi, hai vị còn lại sẽ ở trong cung xử lý chính vụ. Vì thế thay vì mỗi ngày do ba vị đại học sỹ luân phiên lên lớp, hiện đổi lại thành mỗi ngày một vị đại học sỹ đến dạy, vả lại thời gian cũng giảm xuống còn một canh giờ.

Dương Lăng vỗ đùi nói:

- Tốt! Thần đã có biện pháp rồi. Ngày mai sẽ do vị đại học sỹ nào phụ trách giảng dạy?

Cốc Đại Dụng quả nhiên là kẻ "thính tai", thuộc làu làu thời khoá biểu lẫn lão sư giảng dạy mà phủ Chiêm Sỹ thu xếp cho Thái tử, hắn đáp không chút suy nghĩ:

- Ngày mai hẳn sẽ do đại học sỹ Lý Đông Dương giảng dạy.

Dương Lăng cười khà khà, ghé vào tai Chu Hậu Chiếu thì thầm một hồi. Chu Hậu Chiếu nghe xong bán tín bán nghi hỏi lại:

- Biện... biện pháp này thật sự hiệu quả sao?

Dương Lăng cười nói:

- Nếu làm khéo, Thọ Ninh hầu gia sẽ chỉ còn nước bỏ quân giữ soái. Đến lúc đó, thứ nhất điện hạ không phải thất tín với người. Thứ hai, tên Nghiêm Khoan đó vô lễ với Thái tử, ta có thể trị gã thân bại danh liệt khiến gã từ nay không thể cựa quậy gì được. Thứ ba, điện hạ còn có thể giành được sự tán thưởng của các vị thái phó.

- Ồ?

Chu Hậu Chiếu phấn chấn tinh thần:

- Sẵn lúc trời còn sớm, ngươi hãy mau đi thu xếp đi! Nhất thiết phải chuẩn bị đầy đủ trước khi Lý thái phó đến vào ngày mai cho ta.

- Dạ, vi thần tuân mệnh!

Dương Lăng mỉm cười vái chào, quay sang khẽ gật đầu với Bát Hổ rồi nghiêng mình lui ra.

*** *** *** *** *** *** *** *** *** ***

Rạng sáng hôm sau, khi ánh dương còn chưa nhô cao, một chiếc xe nhỏ chạy nhanh đến một góc bên ngoài Ngọ môn. Chờ sẵn đằng sau góc cổng, Dương Lăng lách mình lên xe. Tiền Ninh ngồi ngay ngắn ở trong xe, đưa cho y một bọc giấy dầu dầy cộm, cười nói:

- Hôm qua nhận lệnh của Dương đại nhân, Tiền mỗ đã phân phó tuỳ tùng bận rộn một đêm, cuối cùng đã có thu hoạch, may mắn không làm nhục mệnh. Ha ha, đây là những thứ mà đại nhân yêu cầu, đại nhân xem thử có dùng được hay không?

Dương Lăng khách khí vài ba câu, rồi ngồi xuống cạnh y, mở bao lấy ra một chồng giấy dầy cộm, vén rèm mượn ánh nắng ban mai vội vã xem. Sau một hồi y líu lưỡi hỏi:

- Tiền huynh! Ta chỉ nhờ huynh thu thập một số việc Thọ Ninh hầu cấu kết thương nhân tự ý giao công trình với lại xâm phạm lợi ích của dân. Nếu không đủ nghiêm trọng mới tuỳ tiện sắp đặt thêm một chút sai phạm để tăng thêm trọng lượng. Nhưng những tài liệu này của huynh thậm chí còn có cả án giết người nữa, nếu thật sự bệ hạ cho tra xét, há không phải là lấy đá tự đập vào chân mình à?

Tiền Ninh cười khì khì đáp:

- Thật ra Tiền mỗ cũng muốn bịa đặt thêm một chút thị phi, tiếc là đã bận rộn cả đêm. Thật ra mấy vụ án không phải chỉ có bấy nhiêu, bọn ta cũng chẳng dư thời gian thêu dệt thêm lỗi cho Trương hầu gia. Những hồ sơ vụ án này có nhân chứng, có vật chứng, có cái còn là của khổ chủ gởi tới nha môn tố cáo nữa, có điều không ai dám xử lý nên vẫn còn xếp đống mà thôi. Đại nhân xem thử có thứ nào dùng được thì cứ việc cầm lấy. Yên tâm, toàn bộ những tư liệu này đều do Tiền mỗ sai thủ hạ chép lại, không phải là thư từ công văn của Cẩm Y vệ chúng ta, sẽ không dẫn lửa cháy đến chúng ta đâu.

Dương Lăng kinh ngạc hỏi lại:

- Những thứ này đều là thật ư?

Tình Ninh gật đầu nói:

- Đều là thật!

Đoạn y cười nhạt, ngạo nghễ nói:

- Bất kể là ai, chỉ cần Cẩm Y vệ chúng ta muốn xử lý hắn, sẽ không có bí mật gì có thể che giấu chúng ta được. Có điều... Thọ Ninh hầu được mấy "gốc cây to" trong cung che bóng, những thứ này chưa hẳn đã lật đổ được hắn. Đại nhân nhất thiết phải cẩn thận, đừng để mình cũng rơi vào hố bẫy đó.

Dương Lăng gật đầu nói:

- Tiền huynh yên tâm, chuyện này tự có người xung phong xông trận. Ha ha, ta phải chạy gấp vào trong cung rồi. Lần này đã phiền Tiền huynh, tấm lòng của Tiền huynh ta sẽ bẩm cho điện hạ biết.

Tiền Ninh hớn hở ra mặt, liền vội chắp tay đáp:

- Đều là huynh đệ hà tất nói lời khách khí như vậy. Cổng Ngọ môn có nhiều triều thần, Tiền mỗ không tiện lộ diện, đành cung tiễn Dương đại nhân tại đây. Chúc đại nhân kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công!

*** ***

- Khổng Tử nói: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”. Ý muốn nói bậc làm vua phải theo đúng đạo làm vua, kẻ bầy tôi phải theo đúng với đạo bề tôi, người làm cha phải theo đúng đạo làm cha, kẻ làm con phải theo đúng đạo làm con.

Lý Đông Dương vừa giảng vừa vui vẻ liếc nhìn Thái tử. Hôm nay Thái tử rất lanh lợi, ngồi nghiêm chỉnh sau bàn, dường như rất chăm chú nghe giảng, khiến trái tim già của lão rất yên lòng.

Lý Đông Dương mỉm cười giảng tiếp:

- Con người hay thưởng cho người mình thích, phạt kẻ mình ghét. Bậc minh quân thì lại không như vậy, thưởng tất thưởng cho người có công, phạt tất phán cho kẻ có tội. Bậc minh quân giỏi trị nước, trong phải củng cố quyền uy, ngoài phải tăng cường quyền bính. Như vậy mới có thể chinh phạt kẻ địch, không ai dám không nghe.

Lão đưa chén trà lên môi nhấp một ngụm thấm giọng, đang định giảng kỹ hơn, chợt nghe Thái tử hỏi:

- Thái phó à, làm bậc minh quân phải thưởng phạt phân minh. Nhưng nếu như kẻ có tội là cận thần của Thiên tử hoặc thậm chí là họ hàng thân thích, phải chăng có thể khoan hồng?

Lý Đông Dương nghiêm mặt đáp:

- Không được! Vương tử phạm pháp cũng chịu tội như thứ dân, vì sao? Bởi lẽ vua không phải là chủ một nhà, mà là chủ một nước. Đối với vua, khắp cả nước đều là con dân, cớ sao lại phân chia xa gần? Vua thánh tôi hiền, ấy là phước của thiên hạ; vua minh thần trung, ấy là phước của quốc gia. Nếu như dung túng bênh vực cận thần làm ác, đấy không phải là phước của đất nước.

Dương Lăng ho khan một tiếng, Chu Hậu Chiếu liền lôi dưới gầm bàn ra một bọc giấy, thở dài một hơi, thưa:

- Thái phó dạy rất phải! Hôm nay Dương thị độc vào cung, nhặt được một cái bọc ở ngay cửa cung, bên trong không ngờ lại những tội chứng tố giác quốc cữu Trương Hạc Linh dung túng gia nhân gây hại dân lành. Mỗi việc, mỗi vụ đều khiến người ta nhìn thấy mà đau lòng. Chao ôi! Sau khi ta xem xong vốn nghĩ Trương Hạc Linh là cậu, hay là cứ gấp chuyện này lại không đề cập đến, nhưng nghe xong lời dạy dỗ của Thái phó, ta thật cảm thấy xấu hổ. Nếu như cứ che giấu không đưa, vậy thật đã phụ lời thánh nhân rồi.

Lý Đông Dương nghe xong rúng động hỏi:

- Là tội chứng gì? Thái tử có thể cho thần xem một chút hay không?

Chu Hậu Chiếu thừa cơ vừa đưa bao giấy cho lão vừa lắc đầu hổ thẹn:

- Một bên là cậu ta, bên khác là bá tánh lê dân chịu đựng ức hiếp, không chốn khẩn cầu. Tuy ta không nỡ thưa bẩm phụ hoàng để tổn thương hoà khí trong nhà, nhưng sau khi nghe lời dạy dỗ của Thái phó lại thật sự không đành lòng ngoảnh mặt làm ngơ.

Lý Đông Dương vội vã lật xem đống đơn kiện tố cáo tội trạng Thọ Ninh hầu Trương Hạc Linh. Chỉ đưa mắt vài lượt, lão đã giận không kiềm chế được, vẻ mặt phẫn nộ:

- Vương hầu quý thích, không ngờ lại xâm hại lợi ích của dân một cách trắng trợn đến mức thế này. Điện hạ không cần phải hổ thẹn, người làm rất phải! Vua là thuyền, thứ dân là nước. Dân do trời sinh, không phải là vua; trời lập ra vua, cũng là vì dân. Điện hạ có thể kết nối lòng mình với lê dân, đó là phước của xã tắc.

Rồi ông lại liếc sang Dương Lăng, nói đầy thâm ý:

- Những hành vi này của Thọ Ninh hầu khiến cho bá tánh lê dân cất tiếng than oán dậy trời, mà lại không chốn cầu khẩn, cho nên mới có người bất đắc dĩ làm vậy. Điện hạ! Mời Dương thị độc hãy cùng điện hạ tự ôn lại bài học trước, lão thần phải ra ngoài thôi. Trước hết cần kiểm chứng một lượt, ví như là thật, nhất định lão thần sẽ bẩm báo với thánh thượng.

Dương Lăng nghe xong liền nhướng mày. Trong lời của lão già này có ẩn ý, rõ ràng không hẳn đã tin mình nhặt được gói giấy trên đường vào cung. Có điều người này ghét ác như thù, biết rõ bị người ta lợi dụng nhưng vẫn không chịu làm ngơ. Hơn nữa, tất cả các vụ án Tiền Ninh đưa đến đều là thật cho nên y cũng không sợ lão kiểm chứng.

Lý Đông Dương cáo từ rời cung.

Trong ngày này, so với trước kia rõ ràng Chu Hậu Chiếu ngoan hơn rất nhiều. Thái tử chỉ ngoan ngoãn ở trong Xuân Phường cùng Dương Lăng bàn chuyện trên trời dưới đất, không dám chơi đùa gây rối nữa.

Lý Đông Dương vội vã chạy về điện Cẩn Thân, lập tức ra lệnh cho Hữu ty nha môn điều tra báo cáo. Những vụ án này phần lớn đều đang được khiếu kiện tại nha môn, chỉ là bị người đùn đẩy lần lữa mãi nên không thể xử lý mà thôi, cho nên vừa cho điều tra liền biết là đúng, chỉ hơn một canh giờ đã kiểm chứng được bảy tám phần. Lý Đông Dương nghe xong những tội ác khiến người phẫn nộ đó không khỏi giận tím tái mặt mày, lập tức cầm bút viết lưu loát bài sớ vạn ngôn, rồi phất ống tay áo đi dự Ngọ triều.

Trong Đông cung, Chu Hậu Chiếu đang nghe Dương Lăng kể về phong tình các nước, mở rộng tầm nhìn. Đang nghe đến hồi say sưa, chợt y nghe giọng the thé của Cốc Đại Dụng từ bên ngoài:

- Ối chao! Hai vị công chúa điện hạ, sao hai người đến Đông cung vậy?

Một giọng thiếu nữ yêu kiều cất lên:

- Thái tử đâu? Mau dẫn ta đi gặp huynh ấy.

Cốc Đại Dụng ấp úng:

- Công chúa điện hạ, Thái tử đang ôn bài, người xem...

Một giọng nói ngây thơ thuần khiết của một thiếu nữ khác cất lên:

- Hừ! Có phải là các người lại dùng mấy trò đá gà dạy chó lừa để Thái tử ca ca chơi đùa phải không? Tỷ tỷ, chúng ta tự vào đi.

Chu Hậu Chiếu "a" lên một tiếng, vội nói:

- Vĩnh Phúc và Vĩnh Thuần đến rồi. Ngươi trốn đằng sau bình phong một lúc đi. Trong cung có nhiều quy củ thối lắm, ngươi không thể tùy tiện thấy mặt bọn họ đâu!

Nghe vậy, Dương Lăng vội vàng đứng dậy trốn vào sau bức bình phong bằng gỗ tử đàn lâu năm. Y nghe Chu Hậu Chiếu cất cao giọng gọi:

- Đại Dụng! Mời hai vị công chúa vào đi!

Tiếp theo đó là tiếng một thiếu nữ cười khúc khích nói:

- Lạ quá, lạ quá! Không ngờ hôm nay hoàng huynh lại ngồi yên ở nơi này, không chơi mấy trò chó mèo nữa nhỉ, chẳng lẽ huynh đổi tính rồi?

Chương 70 - Nhốn nháo ở hậu cung

Dịch: workman

Biên dịch: |YanYan*

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Công chúa Vĩnh Phúc cũng đang dán tai vào bình phong nghe lén phụ hoàng và Thái tử nói chuyện, nghe đến đây trong lòng khẽ động, nghiêng đầu nhìn Dương Lăng. Nào ngờ nàng vừa quay đầu thì trâm ngọc vạch vào tấm bình phong phát ra tiếng “két”. Trong phòng chỉ có cha con Hoằng Trị nói chuyện, vô cùng yên tĩnh, vừa nghe thanh âm đó Hoằng Trị lập tức lạnh giọng quát:

- Ai? Dám nghe lén trẫm và Thái tử nói chuyện! Ra đây cho trẫm!

---------------------------------

Chỉ nghe Chu Hậu Chiếu hừ một tiếng, giọng khá uy nghiêm:

- Vĩnh Thuần, chẳng có chút quy củ nào cả! Gặp ta mà cũng không biết làm lễ à?

Thiếu nữ có giọng ngây thơ đáp:

- Thôi đi! Nếu hoàng huynh chịu nói quy củ thì mẫu hậu đã bớt lo lắng. Huynh suốt ngày cứ ta ta, có từng xưng “Cô gia”, “Quả nhân” đâu, muội làm lễ cái gì chứ?

Dương Lăng đứng sau bình phong, nghe Chu Hậu Chiếu gọi nàng là Vĩnh Thuần, thầm nghĩ: “Hiện giờ hoàng đế Hoằng Trị có một trai hai gái, cô nương này chính là con gái nhỏ nhất của Hoằng Trị - công chúa Vĩnh Thuần. Nghe nói nàng ta mới mười một tuổi, chẳng trách nghịch ngợm như thế, người kia đương nhiên là công chúa Vĩnh Phúc rồi. Hai tiểu cô nương tới đây làm gì nhỉ?”

Công chúa Vĩnh Phúc năm nay mười ba tuổi, nhỏ hơn Chu Hậu Chiếu hai tuổi, nhưng lại đoan trang ôn nhu, hết sức biết lễ. Dù tiểu muội nghịch ngợm nhưng nàng cũng chỉ mỉm cười chứ không trách, vẫn sửa vạt áo ngay ngắn thi lễ theo đúng lễ tiết chính thức của cung đình:

- Hoàng muội Vĩnh Phúc ra mắt thái tử điện hạ. Điện hạ thiên tuế thiên thiên tuế!

Trước nay Chu Hậu Chiếu vẫn không thích lễ nghi cung đình, mặc dù vừa rồi y giáo huấn tiểu muội, nhưng kỳ thật lại rất thích thái độ thoải mái như vậy của nàng. Lúc này thấy công chúa Vĩnh Phúc quả thật làm đại lễ, y đành phải ngồi nghiêm chỉnh nhận lễ, sau đó nhấc cánh tay phải lên như một con rối gỗ, cất giọng nhạt nhẽo:

- Hoàng muội miễn lễ, bình thân! Các muội xưa nay không đến Xuân Phường, hôm nay tới đây...?

Công chúa Vĩnh Thuần cướp lời:

- Thái tử ca ca, hậu cung bây giờ nhốn nháo vô cùng, huynh mau đi...

Công chúa Vĩnh Phúc đột nhiên ho khan một tiếng, cắt ngang:

- Các ngươi đều lui ra đi, ta có chuyện muốn nói với thái tử điện hạ.

- Dạ!

Cốc Đại Dụng vốn rất lanh lợi, vội vàng vâng lệnh rồi khoát tay, dắt hai tên tiểu thái giám rời khỏi, nhè nhẹ khép cửa cung.

Công chúa Vĩnh Phúc ngồi dựa vào sạp (giường hẹp) mềm, lộ vẻ lo lắng:

- Hoàng huynh, huynh mau đi hậu cung một chuyến đi! Phụ hoàng trước nay vẫn thương yêu huynh nhất, huynh ra mặt có lẽ có thể dập tắt cơn giận lôi đình của phụ hoàng.

Chu Hậu Chiếu nhất thời không hiểu, nghi hoặc hỏi:

- Phụ hoàng tức giận vì chuyện gì?

Công chúa Vĩnh Phúc đáp:

- Lúc Ngọ triều khi nãy, Lý đại học sĩ hạch tội Thọ Ninh Hầu, nói ông ta lừa gạt, chiếm lấy tư điền, ngoài bốn ngàn mẫu (nguyên văn: công khoảnh, bằng một hecta. NB) ruộng tốt do hoàng gia ban tặng gần đây, còn bá chiếm gần một ngàn tám trăm khoảnh (mỗi khoảnh #6,667 hecta. NB); tranh giành lợi ích với dân lại càng khỏi nói, vừa dung túng gia nhân mua bán muối ở tám mươi vạn dặm ven bờ Lưỡng Hoài, lại vừa bức chiếm nhà dân, cưỡng bức kỹ nữ thanh lâu làm thiếp. Kết quả là cãi nhau to với Thọ Ninh Hầu ngay giữa triều, phụ hoàng nhất thời giận dữ giam cả hai người vào đại lao. Việc này... chà...!

- A?!

Chu Hậu Chiếu tròn mắt, sao lại tới nông nỗi này? Y ngây người một lát, đảo mắt hỏi:

- Hai người... Hai người đều bị giam à! Dường như trước kia cũng có người hạch tội Thọ Ninh Hầu, phụ hoàng đâu có tức giận như thế, lần này làm sao vậy?

Công chúa Vĩnh Thuần cười khì, rồi nhảy lên níu vào cánh tay hắn nói:

- Lý đại học sĩ khi chỉ trích Thọ Ninh Hầu là ngoại thích chuyên quyền nhất thời lỡ lời, nói đến họ Trương của mẫu hậu – một người vinh cả họ vinh, Thọ Ninh Hầu thừa cơ chỉ trích lão là hạ thần mà dám gọi hoàng hậu là “Trương thị”, là đại bất kính, tội đáng xử trảm.

Lý đại học sĩ nổi giận đùng đùng, đoạt lấy cây ngọa qua trùy của Kim Qua võ sĩ trong cung đuổi đánh Thọ Ninh Hầu. Lão là một lão già gần sáu mươi, làm sao đánh nổi Thọ Ninh Hầu, trái lại còn bị Thọ Ninh Hầu đoạt kim qua đạp cho hai đạp. Phụ hoàng giận dữ, bảo bọn họ thất lễ trước mặt quân thượng nên tống cả hai vào ngục.

Chu Hậu Chiếu nghe vậy muốn bật cười, y nhếch miệng nói:

- Sao lại như thế? Ha ha, khục khục, việc này...

Y vừa nói, khóe mắt vừa hơi liếc về phía bình phong, nhưng bên ngoài có hai công chúa ngồi đó, Dương Lăng nào dám lên tiếng.

Công chúa Vĩnh Phúc lườm tiểu muội đang hả hê, rồi lo lắng:

- Hoàng huynh! Thân thể phụ hoàng không được khỏe, bây giờ Lý Đông Dương bị hạ ngục, cả đám Tạ Thiên, Lưu Kiện, Lưu Đại Hạ dẫn theo bá quan văn võ cả triều quỳ gối trước đại điện xin tha. Phụ hoàng giận dữ lánh vào hậu cung, nhưng mẫu hậu nghe nói Thọ Ninh Hầu bị bắt, lại khóc lóc không ngừng với phụ hoàng, muội cùng hoàng muội thấy tình thế không ổn, mới đến gặp huynh...

Mặc dù nghịch ngợm, nhưng Chu Hậu Chiếu lại rất kính trọng cha, nghe thế y lập tức đứng dậy nói:

- Ta nói mà, phụ hoàng không cho bất kỳ phụ nữ nào tự ý đến chỗ dạy học ở Đông Cung, chả trách các muội hôm nay lại đến đây. Ta sẽ đến hậu cung, các muội...

Y mới nói tới đây, từ xa xa đã có người hô to:

- Bệ hạ giá lâm đông cung, Thái tử mau đón!

Đây là thái giám chuyên môn phụ trách việc xướng lễ trong cung, giọng nói thanh cao vang xa. Công chúa Vĩnh Phúc nghe thế đứng bật dậy, hoảng hốt:

- Nguy rồi, phụ hoàng đang nổi nóng, nếu thấy chúng ta không tuân ý chỉ, e rằng càng tức giận hơn, việc này...

Vĩnh Thuần công chúa kéo hoàng tỷ, nói:

- Nhanh, lánh đi trước đã! Không biết chừng phụ hoàng tới kiểm tra hoàng huynh học hành, đợi phụ hoàng đi rồi chúng ta lại ra.

Nói rồi tiểu công chúa Vĩnh Thuần kéo hoàng tỷ trốn vào sau bình phong. Chu Hậu Chiếu chưa kịp cản thì hai người đã ẩn vào sau bình phong rồi. Một lát sau, không thấy phía sau bình phong vọng ra tiếng kêu kinh ngạc nào nên Chu Hậu Chiếu cũng cảm thấy hơi bồn chồn. Cửa cung mở ra, hoàng đế Hoằng Trị đã đến nơi, Chu Hậu Chiếu thấy vậy vội vàng khom người thưa:

- Nhi thần tham kiến phụ hoàng!

- Đứng lên đi!

Hoằng Trị phất tay áo, ra hiệu cho Miêu Quỳ. Miêu Quỳ dẫn người rón ra rón rén lui ra ngoài, nhè nhẹ đóng cửa cung lại.

Chu Hậu Chiếu đứng dậy, lẳng lặng nhìn sắc mặt phụ hoàng. Y thấy thần sắc phụ hoàng bình thản, trong mắt tựa hồ còn có nét cười, không giống dáng vẻ nổi giận đùng đùng, lúc này mới yên lòng, đồng thời lại hơi ngạc nhiên.

Cửa điện vừa đóng, Hoằng Trị cũng không còn làm ra vẻ hoàng đế nữa, mà tự nhiên ngồi cạnh án thư, vỗ vỗ sạp gấm bảo:

- Hoàng nhi, ngồi đi!

Chu Hậu Chiếu ngồi xuống cạnh phụ hoàng, y không tiện nhắc tới việc vừa mới phát sinh ở hậu cung, đành phải hỏi:

- Ngọ triều vừa xong, sao phụ hoàng không nghỉ ngơi một chút. Xem người kìa, lại đổ mồ hôi rồi!

Hoằng Trị hiền lành nhìn y, mỉm cười nói:

- Mẫu hậu con đang cằn nhằn phụ hoàng, phụ hoàng tới chỗ con trốn, ha ha! Hai ngày nay mấy đại học sĩ đều bận rộn cho kỳ thi Hội, việc học của con có bị ảnh hưởng không?

Chu Hậu Chiếu làm vẻ kỳ lạ, ngạc nhiên hỏi:

- Mẫu hậu cằn nhằn cha ư? Tại sao lại thế chứ?

Hoằng Trị buồn cười liếc nhìn y, rồi đột nhiên nghiêm mặt hỏi:

- Hoàng nhi, con không biết thật sao?

Chu Hậu Chiếu rúng động trong lòng, nhìn thấy ánh mắt như rọi vào tận tim gan của phụ hoàng, trên trán bất giác tuôn đầy mồ hôi hột.

******************************

Dương Lăng phía sau bình phong nghe hoàng tử, công chúa thảo luận quốc sự như chuyện trong nhà. Thì ra nhà của đế vương, hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ cũng giống như những đôi vợ chồng nhà bình thường. Y đang nghe rất thú vị, chợt nghe bên ngoài có tiếng báo Hoàng Thượng giá đáo. Ngay sau đó một làn hương phất tới, hai tiểu giai nhân mặc cung trang vội vàng vọt vào sau tấm bình phong, Dương Lăng không khỏi kinh ngạc đến ngây người.

Vội vàng nhìn thoáng qua, y thấy một thiếu nữ mặc áo quần màu vàng, dung mạo xinh đẹp tuyệt trần, thần khí cao quí, vào khoảng mười ba mười bốn tuổi, trên đầu búi một búi tóc cao vút đen huyền, dưới mái tóc mây là một gương mặt nhỏ nhắn trắng như tuyết rất kiều mỵ, mi như trăng non, mắt như thu thủy. Vừa thấy y, nàng lập tức cả kinh đến nỗi đôi môi anh đào há thành hình chữ O, suýt nữa kêu lên thành tiếng.

Tiểu cô nương kia vẫn là một cô bé, mặc một bộ quần áo trong cung màu đỏ tía, mặt trái xoan nhỏ xinh, tuổi tuy nhỏ nhưng đã có bộ dáng rất động lòng người, vóc người nhỏ nhắn xinh xắn như một cánh hoa nhỏ. Nàng vừa nhìn thấy Dương Lăng cũng không khỏi tròn mắt nhìn, nhưng thấy tỷ tỷ sắp kêu lên, vội vàng vươn tay bịt lấy đôi môi anh đào của tỷ, nhè nhẹ lắc đầu.

Công chúa Vĩnh Phúc bị muội muội bịt miệng, chỉ lộ ra đôi mắt to lúng liếng đen nhánh, nàng chớp chớp mắt, ra hiệu cho muội muội. Vĩnh Thuần lúc này mới buông tay ra, hai người quay đầu, hai đôi mắt đen lay láy trừng lên nhìn Dương Lăng. Dương Lăng mặt mày rầu rĩ, trước tiên cúi chào làm lễ, rồi chỉ chỉ ra phía ngoài, rồi chỉ vào mình, cuối cùng lại chắp tay, mặt mày rầu rĩ như đang diễn kịch câm.

Công chúa Vĩnh Thuần không khỏi phì cười, vội vàng bịt miệng, đôi mắt to cười cười liếc nhìn y. Nhìn thấy bộ dáng này của y, trong mắt công chúa Vĩnh Phúc cũng không khỏi lộ vẻ buồn cười. Lúc này Hoằng Trị hoàng đế đã vào phòng, hai người sợ bị phụ hoàng phát hiện, vội vàng lùi vào trong, như vậy càng gần Dương Lăng hơn.

Dương Lăng và Vĩnh Thuần đều không để ý gì, nhưng công chúa Vĩnh Phúc đã là cô nương mười ba tuổi rồi, lần đầu đứng sát một nam nhân đến thế nên trong lòng không khỏi hơi bồn chồn. Lúc này lễ giáo rất được xem trọng, là một thời kỳ đáng xấu hổ. Đối với việc nam nữ, một số nhà nho lớn không còn yêu cầu hà khắc như đời Tống trước đây nữa, nhưng một số khác lại muốn phục cổ, yêu cầu đối với lễ giáo càng lúc càng hà khắc. Ví như Hải Thụy, chỉ vì cô con gái năm tuổi nhận một cái bánh từ tay một người con trai khác, hắn cũng cho là đã vượt qua vòng lễ giáo, buộc con gái phải nhịn đói tới chết để bảo toàn danh tiết, thật đã tới mức tẩu hỏa nhập ma rồi.

Công chúa Vĩnh Phúc là con cháu hoàng gia, tuy tính tình thoải mái phóng khoáng, nhưng lánh mình cùng một chỗ với một thanh niên trai tráng như vậy, nàng cũng không lấy làm tự nhiên cho lắm, huống hồ vì ở trong cung, số đàn ông con trai mà nàng gặp cũng ít vô cùng. Lúc này nhìn trộm lên, nhìn thấy người này ăn mặc giống như thị độc bên cạnh Thái tử, trông cao lớn khôi ngô, mũi thẳng miệng vuông, thập phần anh tuấn, khuôn mặt yêu kiều của nàng bất giác ửng hồng, rồi mơ mơ hồ hồ không nghe rõ bên ngoài đang nói gì.

Tuy bên cạnh Dương Lăng có hai tiểu mỹ nữ, nhưng với nhãn quang từng trãi qua mấy kiếp của mình, y không hề bị điên đảo thần hồn. Hơn nữa đến cả Hoàng đế và Thái tử cũng đã gặp qua, thân phận các nàng vị tất đã có thể làm chấn động được y. Y ra hiệu đắc tội với hai công chúa, thấy các nàng cũng không dám lên tiếng, lúc này y mới yên lòng, vểnh tai nghe động tĩnh bên ngoài. Chỉ nghe bên ngoài thấp giọng nói chuyện một lát, sau đó Hoằng Trị đế ha ha cười lớn, còn Hoàng đế và Thái tử nói gì thì y không nghe được.

Thì ra Thái tử đang thẳng thắn nhận với Hoằng Trị rằng chính mình thu nhận chứng cớ, gợi ý cho Lý Đông Dương hạch tội quốc cữu với hoàng đế. Y vẫn còn có chút nghĩa khí, không khai Dương Lăng ra. Hoằng Trị nghe xong cười ha ha, rồi mỉm cười nói:

- Hoàng nhi! Lý Đông Dương là đại học sĩ đương triều, là người rất nhạy bén, mấy chiêu nho nhỏ của con há có thể giấu được hắn? Có một số việc dù cả hai bên đều biết thực hư như thế nào, nhưng làm như thế cũng không sai.

Hoàng đế ha ha cười nói tiếp:

- Có một số việc mình không tiện mở miệng thì cứ để thần tử ra mặt nói rõ. Hoàng nhi này, quý thích vương tộc trong triều xâm phạm lợi ích dân chúng ngày càng nghiêm trọng, đâu chỉ có một nhà Thọ Ninh Hầu. Phụ hoàng và vài vị đại học sĩ đang chuẩn bị trừ bỏ một số chính sách có hại, tiến hành hạn chế một số hành vi như việc nhận đất đai do cống hiến, xâm phạm lợi ích nhân dân của hoàng thân quốc thích.

Hoằng Trị nhìn Thái tử vẻ khen ngợi, nói:

- Chỉ là trước đây phụ hoàng vẫn chưa tìm được thời điểm thích hợp để có thể ban hành chính sách mới, tránh việc bị cả hoàng tộc và công thần huân khanh phản đối; phụ hoàng cũng đang phiền lòng vì việc này. Ha ha, nếu không phải có phụ hoàng... Lý Đông Dương tuy là trung thần, cũng vị tất dám đoạt kim qua, thi triển quyền cước trên kim điện. Trẫm chỉ là mượn tay lão cho Thọ Ninh Hầu một bài học thôi.

Hoằng Trị nhíu mày than:

- Ta đối với hoàng thích luôn luôn hậu đãi rộng lượng. Nhưng đúng là gần đây hai anh em Thọ Ninh Hầu vô cùng hỗn xược, giam hắn vài ngày, mài bớt nhuệ khí của hắn cũng hay.

Chu Hậu Chiếu trố mắt:

- Thì ra phụ hoàng... Phụ hoàng đã sớm có ý trừng phạt hắn. Hài nhi nói mà, Lý Đông Dương sao lại trở nên to gan như vậy, thì ra là do ý của phụ hoàng. Chỉ là... chỉ là sao phụ hoàng lại bắt giam luôn cả Lý đại học sĩ thế?

Dương Lăng ở phía sau nghe thế cũng thầm giật mình. Bản thân mình quả thật đã coi thường Lý Đông Dương, càng coi thường vị hoàng đế hơi mập béo ụt ịt này. Bây giờ xem ra, còn không biết là ai bị ai điều khiển.

Hoằng Trị vỗ tay con, mỉm cười nói:

- Hài tử ngốc, nếu không như thế, mẫu hậu của con lại càng không chịu bỏ qua hay sao? Việc quốc gia dễ giải quyết, còn như mẫu hậu con cứ không tuân không chịu, trẫm cũng có chút đau đầu đây!

Hoằng Trì nói rồi lại cười khẽ:

- Nhưng hoàng nhi trước nay luôn ham chơi, chưa từng quan tâm tới quốc sự. Bọn Cốc Đại Dụng lại chỉ biết làm cho con vui lòng, gọi vài người diễn xiếc vào gây ồn trong đông cung, không phải là trẫm không biết. Lần này, con đột nhiên quan tâm tới khó khăn của nhân dân, lao tâm khổ tứ bày trò nhờ người can gián, đó có phải là chủ ý của Dương thị độc kia không?

Công chúa Vĩnh Phúc cũng đang dán tai vào bình phong nghe lén phụ hoàng và Thái tử nói chuyện, nghe đến đây trong lòng khẽ động, nghiêng đầu nhìn Dương Lăng. Nào ngờ nàng vừa quay đầu thì trâm ngọc vạch vào tấm bình phong phát ra tiếng “két”. Trong phòng chỉ có cha con Hoằng Trị nói chuyện, vô cùng yên tĩnh, vừa nghe thanh âm đó Hoằng Trị lập tức lạnh giọng quát:

- Ai? Dám nghe lén trẫm và Thái tử nói chuyện! Ra đây cho trẫm!

Dương Lăng nhìn hai công chúa. Chỉ thấy khuôn mặt nhỏ nhắn của công chúa Vĩnh Phúc đỏ rực lên nhìn hắn. Đôi mắt to tròn của công chúa Vĩnh Thuần đảo một vòng, thò ra một ngón tay nhỏ nhắn, chỉ chỉ vào Dương Lăng, lại chỉ chỉ ra bên ngoài. Dương Lăng rầu rĩ chỉ chỉ vào mũi mình, tiểu công chúa gật đầu vô cùng tao nhã, cười vô cùng đắc ý.

Dương Lăng chỉ còn biết nhìn công chúa Vĩnh Phúc, y thấy mặt nàng tỏ vẻ có lỗi, nhưng trong mắt cũng đầy vẻ cầu khẩn. Y đành cười khổ, thầm nghĩ: “Hai vị tiểu công chúa này cũng thiệt là… nghe lén cha nói chuyện đâu phải là việc lớn chứ! Nhiều lắm cũng chỉ bị trách mắng vài câu là cùng, hà tất bắt ta phải gánh tội thay?”

Hắn không biết Hoằng Trị đối với Thái tử vô cùng rộng lượng, nhưng quản thúc hai công chúa lại rất nghiêm khắc. Trong mắt một đứa trẻ sợ cha, bị cha la rầy đương nhiên là sự trừng phạt rất nặng. Dương Lăng bất đắc dĩ, đành phải lấy hết can đảm đi ra ngoài. Y không dám ngẩng đầu, bước vội lên vài bước, quỳ sụp xuống đất bẩm:

- Thần Dương Lăng ra mắt Hoàng Thượng! Hoàng Thượng giá đáo, vi thần tránh không kịp, đành phải vội vàng lánh vào sau bình phong, không nghĩ kinh động tới thánh giá, mong Hoàng Thượng thứ tội!

Chương 71: DỌA KHỈ, LUYỆN ƯNG

Dịch: workman

Biên dịch: |YanYan*

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Hoàng Thượng càng nói càng giận, vỗ mạnh một cái lên án thư. Dương Lăng bất giác lạnh cả người. Kẻ làm vua kỵ nhất là bầy tôi ép chủ thượng, hận nhất là dám bày mưu tính kế trước mặt vua. Tuy Hoằng Trị cũng hiểu mình thấy quyền thần xâm hại lợi ích của dân lành nên muốn giúp đỡ dân chúng, nhưng ông lại cho rằng mình xem thường Thái tử còn ít tuổi, sử dụng mưu kế để lợi dụng Thái tử, rõ ràng mình đã phạm vào điều kiêng kị của thiên tử.

---------------------------------

Hoàng đế Hoằng Trị vừa kinh vừa giận, đứng bật dậy, chỉa ngón tay vào Dương Lăng, tức giận đến nổi một hồi lâu mà vẫn không nói thành lời.

Kỳ thật ông rất tán thưởng Dương Lăng. Hoằng Trị đã từng bàn với Lưu Đại Hạ về những kiến giải quân sự của Dương Lăng mấy ngày trước đây, Lưu Đại Hạ tuy cảm thấy trong đó còn có rất nhiều chi tiết cần phải cân nhắc thương thảo, nhưng ông ta cũng khẳng định những ý kiến của Dương Lăng là cao kiến, đích xác rất độc đáo, nên cũng rất khen ngợi y.

Dương Lăng là thị độc của Thái tử nhưng không giảng về tứ thư ngũ kinh, chỉ giảng về non nước núi sông, phong tục tập quán, thậm chí cả những chuyện ở các nước xa xôi khác. Đương nhiên được tai mắt thông báo, Hoằng Trị cũng đã sớm biết những việc này rồi. Nhưng bản thân Hoằng Trị lại thích âm nhạc và hội họa, đám thần tử cũng vì chuyện này mà thường nhiều lần khuyên can, lo Hoàng đế sẽ chỉ ham mê những thú vui này mà bỏ bê việc nước. Mỗi lần nghe vậy Hoằng Trị cũng chỉ cười trừ, cho rằng đó là kiến giải của đám cùng nho, nên ông cũng không quan tâm đến việc ép Thái tử phải nghe nhiều, học lắm.

Theo Hoằng Trị suy đoán, Dương Lăng là đệ nhất tú tài Tuyên Phủ nên kiến thức tất nhiên là không kém, nhưng bây giờ y không giảng những lời của thánh nhân, lại bắt đầu giảng dạy từ bàng môn tà đạo, chắc là y cũng biết tính khí của Thái tử, cho nên mới bỏ phương pháp ”đọc vạn quyển sách” mà dùng phương pháp ”đi vạn dặm đường” để dạy Thái tử. Như vậy Dương Lăng đã khổ tâm suy tính để chọn phương án giảng dạy tốt nhất, nên ông rất tán thưởng y.

Nhưng hôm nay ông đang dạy cho Thái tử đạo làm vua, có một vài chiêu thức không muốn cho người ngoài biết lại bị Dương Lăng trốn ở gần đó nghe được. Cho dù Hoằng Trị luôn luôn cư xử rộng lượng, cũng bất giác thẹn quá hóa giận.

Ông nhìn Dương Lăng lạnh lẽo, cố nén giận hỏi:

- Dương thị độc, ngươi chỉ kinh động thánh giá sao?

Dương Lăng lắp bắp:

- Hoàng Thượng! Thần... thần không rõ ý của bệ hạ.

Hoằng Trị vỗ án thư, gằn từng tiếng:

- Dương Lăng! Hôm qua Thái tử đã xuất cung đi những đâu? Bản tấu hạch tội Trương Hạc Linh của Lý Đông Dương hôm nay có phải là chủ ý của ngươi?

Dương Lăng ớn lạnh trong lòng: “Việc này mình làm bí mật như vậy, Hoàng Thượng sao biết được? Chẳng lẽ trong Bát Hổ có tai mắt của Hoàng Thượng? Không, không phải vậy! Nếu do Bát Hổ rò rỉ tin tức, Hoàng Thượng sớm đã ngăn cản Thái tử tự ý xuất cung rồi, không đợi mọi việc đã rồi mới hay biết. Vậy là ai đã tiết lộ tin tức chứ? Đông Xưởng? Cẩm Y Vệ? Bọn họ chắc không đến nỗi tự vả vào mặt mình, vậy là ai chứ?”

Dương Lăng nghĩ một lát rồi rùng mình. Y đột nhiên nhớ tới Tây Xưởng nghe nói đã bí mật được thành lập, chẳng lẽ là do mật thám có mặt ở khắp nơi của Tây xưởng dò biết được? Việc thành lập lại Tây Xưởng vô cùng bí mật, bây giờ vẫn chưa chính thức công khai, Đốc Chủ của Tây Xưởng là ai cũng chưa rõ, phần lớn thành viên của Tây Xưởng cũng có thân phận bí hiểm. Là người của Tây Xưởng sao?

Y quỳ ở dưới mà nghĩ ngợi lung tung, Hoằng Trị tức giận quát:

- Ngươi thật to gan lớn mật, dám xúi giục Thái tử xuất cung, ghé chốn trăng hoa, đánh nhau với người của hầu phủ. Điều này thôi thì bỏ qua cũng được, nhưng thân là thần tử, hạch tội người khác mà không dám quang minh chính đại bẩm thẳng cho quân thượng, lại âm thầm thi hành quỷ kế sai khiến đại thần, lợi dụng quân thượng, thực là đáng chém!

Hoàng Thượng càng nói càng giận, vỗ mạnh một cái lên án thư. Dương Lăng bất giác lạnh cả người. Kẻ làm vua kỵ nhất là bầy tôi ép chủ thượng, hận nhất là dám bày mưu tính kế trước mặt vua. Tuy Hoằng Trị cũng hiểu mình thấy quyền thần xâm hại lợi ích của dân lành nên muốn giúp đỡ dân chúng, nhưng ông lại cho rằng mình xem thường Thái tử còn ít tuổi, sử dụng mưu kế để lợi dụng Thái tử, rõ ràng mình đã phạm vào điều kiêng kị của thiên tử.

Có câu “bạn quân như bạn hổ“ (làm bạn với vua như làm bạn với hổ). Nếu như Hoằng Trị nổi giận, xử trảm một tên thị độc nho nhỏ như mình thì có đáng gì? Dương Lăng càng nghĩ càng sợ, chỉ biết quì rạp dưới đất, chẳng biết phải giải thích như thế nào. Chu Hậu Chiếu có ý muốn xin xỏ cho y, nhưng thấy phụ hoàng giận dữ hầm hầm, nhất thời cũng không dám tùy tiện mở miệng.

Ngay lúc này, có giọng nói của Miêu Quỳ từ ngoài cửa vang lên:

- Kim phu nhân! Hoàng Thượng đang kiểm tra việc học hành của Thái tử, phu nhân hay đến hậu cung đợi đã. Đến khi Hoàng Thượng hồi cung, nhất định sẽ gặp mặt bà.

Sau đó lại nghe một giọng nữ cao ngạo vang lên:

- Cút ngay! Ta muốn gặp Hoàng Thượng bây giờ. Hoàng Thượng, thần thiếp oan uổng quá! Hoàng Thượng, nhờ ngài làm chủ cho thần thiếp!

Hoằng Trị cả giận quát:

- Chuyện gì?

Miêu Quỳ mở cửa điện, hết sức lo sợ tâu:

- Hoàng Thượng! Kim phu nhân…

Hắn còn chưa dứt lời đã bị đẩy ra, một quý phụ khoảng năm mươi tuổi xông vào. Vừa thấy Hoằng Trị, bà ta lập tức quì sụp xuống, khóc sướt mướt van vỉ:

- Hoàng Thượng! Thần thiếp oan uổng quá! Hạc Linh luôn luôn an phận thủ thường, không dám làm xằng làm bậy, sao lại có thể cưỡng chiếm nhà dân, tùy tiện mua bán muối của triều đình, cưỡng bức con gái thanh lâu chứ? Đều là do Lý Đông Dương ghen ghét Hoàng Thượng sủng ái, tin tưởng Hạc Linh nên mới vu khống. Xin Hoàng Thượng làm chủ cho thần thiếp, hu hu... Đứa nhỏ đó từ bé tới lớn chưa bao giờ ở lao ngục cả, Hoàng Thượng...

Hoằng Trị khẽ nhíu mày, giọng hòa nhã:

- Kim phu nhân, mời đứng lên! Thọ Ninh Hầu thất lễ trên kim điện, trẫm chỉ trừng phạt hắn một chút. Lúc nãy trẫm đã nói với Hoàng hậu rồi, mấy ngày nữa sẽ tha hắn ra, chớ có kinh hoảng!

Dương Lăng nhìn người đàn bà quì bên cạnh mình, nghĩ thầm: “Đây là mẹ vợ của đương kim hoàng thượng sao? Thật may, chỉ mong bị bà này chen ngang, Hoàng Thượng quên béng việc trừng trị ta mới là hay.”

Kim phu nhân vẫn không thôi, tiếp tục khóc lóc:

- Hoàng Thượng! Lý Đông Dương đuổi đánh Hạc Linh trên kim điện, Hạc Linh không nhịn được, mới đoạt chùy đánh người. Tính ra không thể trách được Hạc Linh, đứa trẻ đấy nào có lỗi gì? Hoàng Thượng muốn trừng trị, thì nên nghiêm trị Lý Đông Dương mới đúng, xin ngài tha cho Hạc Linh.

Hoằng Trị tái xanh mặt mày, thân thể mập mạp bị kích động đến thở dốc. Chu Hậu Chiếu thấy vậy vội đỡ lấy cha, lo lắng can:

- Phụ hoàng! Người thư dãn một chút, đừng kích động quá.

Thấy Kim phu nhân vẫn khóc lóc không ngừng, lòng Hoằng Trị càng thêm phẫn nộ. Đưa mắt qua thấy Dương Lăng quì ở đó, trước cửa Cốc Đại Dụng cũng thò đầu vào, ông không khỏi căm giận chỉa tay vào Cốc Đại Dụng, mắng to:

- Đồ khốn, lăn vào đây cho ta!

Kim phu nhân đang lải nhải khóc lóc, bị tiếng quát lớn nghiêm nghị của ông làm kinh sợ tới mức sững sờ, nín bặt. Cốc Đại Dụng vội bò vào trong, quì trên mặt đất. Hoằng Trị mặt nặng như chì, lạnh lùng buộc tội:

- Các ngươi thật to gan, dám xúi giục Thái tử xuất cung, để gia nhân của Thọ Ninh Hầu phủ đánh Thái tử bị thương, Trẫm đã có ý muốn lăng trì các ngươi. Nếu Thái tử có mệnh hệ gì, trẫm sẽ diệt chín họ các ngươi!.

Cốc Đại Dụng dập đầu như giã gạo, luôn mồm van xin:

- Hoàng Thượng tha mạng! Hoàng Thượng tha mạng! Thái tử xuất cung là để khảo sát dân tình, nào ngờ có tên gia nhân to gan như vậy... Lão nô đáng chết, lão nô vì bảo vệ Thái tử, liều chết xông lên cũng bị gia nhân của hầu phủ đánh mà, Hoàng Thượng!

Hắn ngẩng mặt lên cho Hoàng Thượng thấy vết thương tím bầm trên mặt. Kim phu nhân vừa nghe nói Thái tử bị gia đinh trong phủ con trai mình đánh, cũng sợ tới mức không dám lên tiếng, đờ người quỳ rạp một bên, sững sờ nhìn.

Thấy Kim phu nhân không còn ồn ào, Hoằng Trị thầm thở phào. Ông trừng mắt nhìn Cốc Đại Dụng bảo:

- Hừ! Nếu không do các ngươi xúi Thái tử cải trang rời cung, sao lại xảy ra chuyện như vậy? Nếu trẫm không trừng phạt các ngươi, không biết chừng sau này các người còn gây ra lắm chuyện lớn gì khác. Miêu Quỳ, tổng cộng có mấy người xúi giục Thái tử xuất cung?

Miêu Quỳ vội vàng bước lên một bước, khom người tâu:

- Khải bẩm Hoàng Thượng! Có thị độc Dương Lăng, nội giám Lưu Cẩn, Trương Vĩnh, Cốc Đại Dụng, Mã Vĩnh Thành, Ngụy Bân, La Tường, Cao Phượng, Khâu Tụ, tất cả chín người hôm qua cùng Thái tử rời cung, đến tối mới về!

Hoằng Trị quát:

- Đem chín tên này ra Ngọ môn...

Dương Lăng nghe thế giật mình, lại nghe Hoằng Trị nghỉ lấy hơi, phán tiếp:

- Đánh mỗi người ba mươi gậy để cảnh cáo!

Miêu Quỳ vội đáp:

- Tuân chỉ!

Hắn vẫy tay, vài tên tiểu thái giám đi vào lôi Dương Lăng, Cốc Đại Dụng ra ngoài. Cốc Đại Dụng gào khóc như mẹ chết:

- Hoàng Thượng tha mạng! Hoàng Thượng tha mạng! Nô tài không dám nữa, xin Hoàng Thượng tha mạng! Thái tử cứu nô tài với!

Dương Lăng hơi hoang mang. Đánh thì đánh chứ sao, cũng chỉ là ba mươi gậy chứ mấy? Cùng lắm là nghỉ ngơi hai ngày. Hoàng Thượng không chém đầu y, y đã thở phào rồi. Nhưng Cốc Đại Dụng từng làm trong Đông Xưởng nên biết rõ công phu dùng gậy của quan coi ngục Cẩm Y Vệ không giống như công phu dùng gậy của công sai ở nha môn. Đám người đó đều kinh qua huấn luyện nghiêm khắc, chỉ khi nào luyện đến độ đặt trên hòn đá một tờ giấy mỏng, đánh một gậy xuống mà gạch nát bấy nhưng giấy không rách mới có quyền thi hành án.

Do đó họ thi hành hình phạt đều dựa xem ý của Hoàng Thượng. Nếu như Hoàng Thượng không muốn người ta chết, vài chục gậy sẽ đánh đến mức máu thịt tung tóe, xem ra thì thê thảm vô cùng, nhưng kỳ thật chỉ cần bôi chút kim sang, nghỉ ngơi vài ngày là không việc gì. Còn nếu Hoàng Thượng không muốn cho kẻ thụ hình được sống, lúc hạ trượng thoạt nhìn rất nhẹ, da cũng không trầy, nhưng đánh rồi thì đau tới tim phổi, chỉ ba mươi trượng mà những mạch máu dưới da đã đứt từng khúc, bắp thịt nát bấy khó lành, không lâu sau chắc chắn phải chết, tuyệt nhiên không thuốc nào cứu được.

Cốc Đại Dụng không biết tâm ý Hoàng Thượng, hắn chỉ nhìn thấy mặt Hoằng Trị tái xanh, cho rằng lần này hẳn phải chết chắc nên khóc lóc van xin rất thảm thiết.

Chu Hậu Chiếu hơi bứt rứt, y vẫn cho rằng việc xuất cung hay không là chỉ theo ý của mình, đám Dương Lăng, Cốc Đại Dụng chỉ nghe lệnh làm theo thôi. Bây giờ mình thì vô sự, bọn họ lại bị đánh tơi bời, trong lòng y cũng hơi day dứt. Y ấp úng:

- Phụ hoàng, bọn họ...

Hoằng Trị phất ống tay áo, cắt ngang:

- Hoàng nhi là Thái tử của một nước, bọn chúng dám dắt hoàng nhi tự ý rời cung khiến cho hoàng nhi bị thương. Việc đại nghịch bất đạo như vậy mà không giết họ đã là thi ân rồi, hoàng nhi không cần nhiều lời!

Kim phu nhân nghe xong trong lòng run sợ, cũng không dám nhắc đến yêu cầu lập tức phóng thích Trương Hạc Linh, nghiêm trị Lý Đông Dương nữa. Nếu việc tự tiện đưa Thái tử rời cung đã bị xem là đại nghịch bất đạo, vậy gia đinh trong phủ con trai mình đánh Thái tử thì sẽ là tội gì? Việc này chưa từng nghe gia nhân nói tới, bọn chúng đánh Thái tử khi nào vậy?

Kim Phu nhân đang nghĩ ngợi miên man, Hoằng Trị lại nói:

- Kim phu nhân, xin đứng lên! Đừng quì nữa, ý trẫm đã quyết. Người đâu, truyền chỉ: Lý Đông Dương không giữ trật tự ở kim điện, phạt ba tháng lương bổng để khiển trách, tha khỏi tù; Thọ Ninh Hầu xâm phạm lợi ích của dân, chứng cớ vô cùng xác thực, giam giữ ba ngày, phạt nửa năm bổng lộc, sau này phải ước thúc gia nhân, trả lại tài sản phạm pháp. Khâm thử!

- Về chuyện Thái tử bị đánh...

Ông trừng trừng nhìn Kim phu nhân. Lúc này khí thế kiêu ngạo của Kim phu nhân đã bị dập tắt hoàn toàn, không dám cậy vào việc con gái mình được sủng ái mà lảm nhảm nữa. Bà thấp thỏm không yên nhìn Hoàng Thượng, chỉ nghe Hoằng Trị nói chầm chậm:

- Thọ Ninh Hầu trước đó cũng không biết chuyện, nếu không cũng sẽ không xẩy ra việc như vậy. Việc này cũng bỏ qua đi. Những việc xấu hổ của hoàng gia cũng không nên nói ra ngoài...

Kim phu nhân vội dạ dạ vâng vâng:

- Dạ, đúng! Hoàng Thượng thánh minh, Hoàng Thượng khai ân!

Hoằng Trị hừ khẽ, bảo:

- Nếu không có chuyện gì khác, Kim phu nhân có thể đến hậu cung gặp Hoàng hậu an ủi Hoàng hậu một chút. Trẫm phải kiểm tra việc học hành của Thái tử.

Kim phu nhân vội đáp:

- Dạ! Thần thiếp xin cáo lui, thần thiếp không quấy rầy Hoàng Thượng nữa.

Vị phu nhân này vội vàng lau những vệt nước mắt trên mặt, rầu rĩ lui ra ngoài. Bà thấy Hoằng Trị vốn tính tình luôn rất tốt mà lúc này lại nổi cơn lôi đình, trong lòng cũng hơi sợ hãi. Vốn định lập tức rời cung, nhưng bà lại sợ Hoàng hậu vẫn tiếp tục mè nheo khiến cho Hoàng Thượng tức giận nên vội vàng đi về phía hậu cung.

Chu Hậu Chiếu thấy mọi người đã lui ra, không kìm được kéo cánh tay Hoằng Trị, khẩn cầu:

- Phụ hoàng! Việc xuất cung hôm qua là chủ ý của nhi thần. Dương Lăng và Đại Dụng đều chỉ là người của hài nhi, phụ hoàng đánh tàn phế bọn họ, sau này ai còn dám theo hài nhi nữa?

Hoằng Trị nghe vậy cười hà hà, từ từ ngồi xuống, trừng mắt nhìn con trai hỏi:

- Cũng biết bảo vệ người rồi à? Hừ! Trẫm còn không biết con quậy phá cỡ nào sao? Nếu không có đám người này xúi giục, trẫm chắc con cũng không nghĩ ra được nhiều trò quậy phá như vậy. Đám Cốc Đại Dụng, Lưu Cẩn chỉ biết lấy lòng con, chỉ biết bày vài trò nhí nhố để chơi đùa, dạy dỗ bọn chúng một chút cũng đáng.

Chu Hậu Chiếu thấy giọng nói của phụ hoàng bình thản, biết mới rồi ông chỉ diễn kịch cho Kim phu nhân xem, nên không khỏi cười hì hì yên tâm. Y cũng ngồi xuống bên cạnh, bóp vai cho vua cha, hỏi:

- Vậy... Dương thị độc thì sao? Hắn ta là một thư sinh chân yếu tay mềm, cái mông trắng nõn không chịu được đòn đâu. Phụ hoàng đánh hắn tàn phế thì phải làm sao bây giờ?

Công chúa Vĩnh Phúc đứng sau bình phong nghe thấy hoàng huynh nói cái gì mà cái mông trắng nõn, không khỏi mặt ngọc đỏ bừng, nhè nhẹ thở “phì” một tiếng. Công chúa Vĩnh Thuần ít tuổi không biết gì nên không khỏi nhìn nàng kỳ dị. Công chúa Vĩnh Phúc thấy hoàng muội nhìn mình, không khỏi vừa thẹn vừa giận, bực tức trừng mắt nhìn lại hoàng muội. Công chúa Vĩnh Thuần lè lưỡi, không biết tại sao tỷ tỷ lại có dáng vẻ là lạ, hoàn toàn khác với mọi khi.

Dương Lăng nói đủ những chuyện trên trời dưới đất, quả có lực hấp dẫn Chu Hậu Chiếu không thua gì mớ ảo thuật, xiếc thú của bọn Lưu Cẩn. Đó là thế giới mà y chưa từng tiếp xúc, cho dù nằm mơ y cũng không nghĩ tới ngoại trừ Đại Minh, trên đời còn có nhiều nơi đẹp đẽ đến thế. Mặc dù quen biết không lâu, nhưng y cũng rất có cảm tình với Dương Lăng, không muốn Dương Lăng bị thương, bởi vậy nhân cơ hội này cũng cầu xin cho Dương Lăng.

Hoằng Trị giảng giải:

- Dương Lăng hả... Người này cũng là một nhân tài giỏi cả văn lẫn võ. Con đừng xem thường hắn chỉ là một thư sinh. Người thật sự có tài làm đại tướng, không cần phải đích thần cầm đao ra chiến trường. Những kiến giải về việc binh của hắn, đến cả lão tướng như Lưu Đại Hạ cũng rất tán thưởng.

Ông cười lớn:

- Người này chỉ là thị độc nho nhỏ lại dám đối nghịch với vương hầu, thật ra là một bề tôi trung thành. Hơn nữa, hắn biết mình thấp cổ bé họng, biết dựa vào Lý Đông Dương và Đông Cung Thái Tử ngươi để tấu lên trên, nên hắn không phải chỉ là một tên nhóc lỗ mãng. Trẫm rất thích hắn.

Hiện giờ thượng thư sáu bộ trong triều đều đã già rồi, các vị đại học sĩ lại càng cao tuổi hơn. Phụ hoàng cảm thấy nếu người này được rèn luyện tốt, trong tương lai tất sẽ là cánh tay đắc lực của con.

Thấy Thái tử còn có vẻ không hiểu, Hoằng Trị không khỏi bất đắc dĩ cười nói:

- Con lấy làm lạ là tại sao trẫm muốn trừng trị hắn ư? Ha ha, người này còn ít tuổi lỗ mãng, còn quá trẻ nên quậy phá, làm việc bất kể hậu quả, nếu không trải qua một phen rèn luyện, tuổi trẻ tự đắc, khó tránh khỏi việc không coi ai ra gì. Lúc đó thay vì là một cột trụ của triều đình, hắn lại trở thành một quyền thần ngang ngược kiêu ngạo, con hiểu chưa?

Chu Hậu Chiếu “A” một tiếng, nửa hiểu nửa không nói:

- Thì ra... Phụ hoàng muốn rèn giũa hắn, cũng như... cũng như nhi thần sai người luyện ưng vậy, càng muốn dùng hắn, càng phải giày vò hắn. Ha ha ha, chỉ là... việc rèn luyện này lại trước tiên bắt đầu từ mông, nên nhi thần có chút ngạc nhiên.

Hoằng Trị nghe ví dụ của Thái tử rất lấy làm hài lòng, đến khi nghe câu sau của y lại không khỏi bật cười. Đứa con trai này vẫn còn chưa biết việc.

Do bản thân mình gây tiếng động khiến cho Dương Lăng đành phải ra ngoài chịu tội, trong lòng công chúa Vĩnh Phúc cũng rất áy náy. Nghe xong những lời giải thích của phụ hoàng, nàng mới thở phào một hơi. Công chúa Vĩnh Thuần giơ ngón cái với tỷ tỷ, nháy mắt. Hai chị em nhìn nhau mỉm cười.

Chương 72: Phạt gậy mười kẻ gian

Dịch: workman

Biên dịch: Kiếp Nô

Biên tập: Shandian

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Dương Lăng buông tay, ngồi phịch xuống ghế, ngây người hồi lâu, rồi y đột nhiên nhảy dựng lên hét lớn:

- Ta không tin, ta không tin! Không được, ta còn chưa chết, sao Ấu Nương có thể chết được?

---------------------------------

Dương Lăng thường nghe trong tuồng hát có câu "lôi ra ngọ môn chém đầu", vừa rồi nghe xong câu nói hổn hển của Hoằng Trị thì sợ đến giật thót. Kỳ thật ngọ môn là cửa chính ở ngoài hoàng cung, cũng là nơi triều đình cử hành những lễ lớn trọng yếu. Triều đình mà xử trảm phạm nhân thì không chấp hình ngoài ngọ môn. Nhưng cũng không có nghĩa là nơi đó không thể giết người được. Vì đó cũng là nơi triều đình sử phạt đình trượng (*), dưới đình trượng trước đây và tương lai chẳng biết sẽ còn bao nhiêu người phải chết nữa. Hơn nữa những người đó đều bị đánh chết tươi, so với chém người giữa chợ thì còn thê thảm hơn nhiều.

(*): đình trượng là hình thức phạt đòn đối với quan lại trong triều.

Dương Lăng và Cốc Đại Dụng bị thái giám giao cho thị vệ trong cung trói lại đem ra ngoài ngọ môn. Ngoài ngọ môn sớm đã có một đám người đang đứng, viên thái giám nội quan giám hình (chấp pháp hình phạt) ngồi ngay ngắn trên ghế thủ vị. Phía sau hắn bên trái có ba mươi tiểu hoạn quan, bên phải có ba mươi Cẩm Y Vệ, phía trước là năm mươi tên ngục quan hành hình tay cầm gậy gỗ sơn son, nhìn tư thế cũng đủ cho người ta hoảng sợ, đến lúc này cả Dương Lăng cũng kinh hãi vạn phần.

Trông hình dạng viên quan thái giám giám hình ngồi xa xa, Cốc Đại Dụng không khỏi mặt mày tái nhợt, hắn nức nở nói:

- Không ổn rồi, là Ty Lễ Giám Phạm Đình Phạm công công giám hình, Dương đại nhân, chúng ta hôm nay e rằng khó mà toàn mạng.

Dương Lăng hỏi:

- Phạm Đình? Lão lợi hại lắm à?

Cốc Đại Dụng run run nói:

- Phạm công công là Ty Lễ Giám, thủ hạ đắc lực của Vương Nhạc Vương công công, nắm giữ Đông Xưởng. Lão trước nay là kẻ lòng dạ ác độc bậc nhất, chúng ta lần này toi rồi, ngươi hãy chờ xem, quy củ trong cung, phàm mũi giầy của công công giám hình thu lại vào phía trong thì dụng ý là đánh cho đến chết, ba mươi côn đủ để phạm nhân mất mạng rồi.

Dương Lăng mới nghe thì nhíu mày, vừa nghe đến xưởng công Đông Xưởng đốc hình, trong lòng đột nhiên có thêm vài phần hy vọng. Bản thân mình là người của Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ phái đến bên cạnh Thái tử, chỉ mong vị quý nhân xưởng công này không quên việc đó, còn nhớ mình là ai, vậy lúc đánh có lẽ sẽ hạ thủ lưu tình.

Hai người bị áp giải tới trước mặt Phạm Đình, chỉ thấy trên đất sớm đã có một người đang quì dài trên đất, trên người bị vải bố quấn rất chặt, chỉ lộ ra cái đầu và bả vai, muốn động cũng không động được. Nhìn thấy hai người vừa tới, người nọ cười khổ nói:

- Dương đại nhân, Cốc công công, các ngươi cũng tới rồi à?

Cốc Đại Dụng nhìn thấy hắn, không khỏi vừa sợ vừa giận, cất giọng the thé hỏi:

- Tiền Ninh, là ngươi tố giác với Hoàng Thượng à?

Tiền Ninh cả người nằm thẳng đơ như xác ướp, hắn cố gắng rướn cổ lườm Cốc Đại Dụng, bất đắc dĩ cười gượng đáp:

- Nếu là ta tố giác, ta còn nằm ở đây à?

Hắn khổ sở rên rỉ nói:

- Ở ngoài Thọ Ninh Hầu phủ, thủ hạ ta vô ý để rơi một tấm yêu bài (*), kết quả bị Tam Pháp Ti tra ra nguồn gốc, bắt ta tới đây.

(*) thẻ bài giắt ngang lưng)

Tên tiểu thái giám đứng bên cạnh cao giọng hét:

- Im lặng, phạm nhân không được huyên náo!

Chỉ trong khoảnh khắc, bọn Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành cũng mặt xám mày tro bị áp ra ngoài ngọ môn. Phạm Đình từ từ đứng dậy, tên tiểu thái giám đứng cạnh vội đưa lên một cái khay sơn son trên đặt tấm lụa vàng, Phạm Đình từ trong khay lấy ra một chiếu thư, cao giọng tuyên đọc ý chỉ của hoàng đế:

- Phụng thiên thừa vận hoàng đế chiếu viết: Dương Lăng...

Lão đọc tới tên này thì ngừng lại một chút, mắt lướt nhanh tới Dương Lăng, thấy y cũng đang nhìn mình vẻ mong chờ tha thiết, khóe miệng lão không nhịn được liền nhếch lên một nụ cười không dễ bị phát hiện.

Phạm Đình tiếp tục đọc, nhất nhất đọc đủ tên mười người, tuyên đọc xong thánh chỉ, lão lại phất tay, đám người Dương Lăng đồng loạt bị đè nằm sấp xuống đất, mỗi người đều bị một tấm vải bố quấn chặt thân thể không thể động đậy, hai chân cũng bị người ta dùng dây thừng trói chặt. Dương Lăng thấy mình chỉ bị kéo vạt áo khoác, chứ không lột trần mông, cũng hơi yên lòng.

Tiền Ninh nằm bên cạnh y, nói nhỏ:

- Yên tâm, hiệu úy chấp pháp đều là thủ hạ của ta, họ sẽ không đánh thật đâu. Chỉ là cú cuối cùng sẽ không làm giả được, đến lúc đó ráng nhịn đừng có chửi bới là được rồi.

Dương Lăng hồi hộp nói:

- Đa tạ Tiền huynh chỉ điểm, nãy giờ ta thật sự cũng hơi lo lắng.

Y nằm dài ở đó cố ngẩng đầu nhìn Phạm Đình, muốn xem mũi chân hắn đang ở thế ngoại bát tự (chĩa ra ngoài) hay nội bát tự (chĩa vào trong)(chữ bát: 八). Không ngờ từ những kẽ chân của mấy tên đại hán hành hình, chỉ thấy Phạm Đình giơ chén trà ngửa mặt nhìn trời, đôi chân bắt chéo rung rung rất thoải mái, không khỏi ngẩn người ra.

Y đảo mắt nhìn mấy người Cốc Đại Dụng, chỉ thấy mấy người này cũng mở mắt to mắt nhỏ. Đám người này đều biết quy củ đánh người của nội giám trong cung, do đó hôm nay lại thấy Phạm Đình chẳng theo sách vở gì cả, ai nấy đều không hiểu ra làm sao.

Chỉ thấy một tên tiểu thái giám tới bên người Phạm Đình, cúi xuống lắng nghe lão dặn dò vài câu, rồi đứng lên cao giọng quát:

- Hành hình!

Mười tên tiểu kỳ quan Cẩm Y vệ tay cầm gậy gỗ đi đến sau đám người Dương Lăng, giơ gậy gỗ lên cao, hét lớn một tiếng, quất xuống vù vù.

Tiếng gió từ cây gậy lạnh thấu xương, nhìn lên thấy uy thế cũng đủ kinh hãi, nhưng khi gậy quất vào mông, Dương Lăng chỉ cảm thấy hơi nhồn nhột, chứ không thấy cảm giác đau đớn bao nhiêu. Y đang kỳ quái, bên cạnh bỗng nghe tiếng gào như núi lở đá nhào, thật sự khiến cho người người rơi lệ, kẻ kẻ thương tâm.

Dương Lăng giật bắn cả người, quay đầu lại nhìn Tiền Ninh, thấy hắn méo cả miệng, mặt nhăn nhó, tiếng gào thảm còn hơn cả tiếng giết heo, nhưng đôi mắt thì dường như đang trộm nhìn y nháy mắt, ánh mắt giảo hoạt vô cùng. Dương Lăng giật mình, vội vàng cũng lớn tiếng kêu gào thảm thiết theo.

Mười tên tiểu kỳ, mỗi người đánh xong ba gậy liền lui xuống. Tên tiểu thái giám ra lệnh kia lại quát lên rất uy phong:

- Luân hình!

Năm mươi tên lính nghe vậy, năm người một tổ cầm bổng thành hàng, luân phiên tiến lên chấp hành hình phạt. Họ hô theo nhịp, kêu một tiếng: “Đánh hết sức”, rồi một gậy nện xuống, người tiếp theo lại hô: “Chú tâm đánh”, rồi gậy tiếp theo đánh xuống. Tuy Dương Lăng thấy tên lính đó tựa hồ hạ thủ lưu tình, nhưng ngoại trừ tên tiểu kỳ lúc đầu đánh ba gậy mở màn thật là nhẹ, bây giờ mấy gậy này cũng hơi đau đớn, do đó y cất kêu gào thảm thiết nửa thật nửa giả, cũng không phải là hoàn toàn giả mạo.

Bên cạnh y chợt nghe đám Cốc Đại Dụng gào lên thật thê thảm, còn cho rằng những người này quả có công phu giả vờ, nhưng khi quay đầu lại nhìn, thấy bên trái mình La Tường đầu như dập xuống đất, một gậy đánh xuống là rú thảm một tiếng, bị vải quấn chặt nên thân thể không ngừng vặn vẹo co quắp, cong lên ưỡn xuống như một con giòi, đau đến mức nước mắt giàn giụa, không thể không khiếp đảm kinh ngạc: “Bọn họ có vẻ không được đối đãi như mình, xem ra là bị đánh thật”.

Y ngẩng đầu nhìn Phạm Đình, chỉ thấy Phạm công công đang nâng chén nhấm nháp, vẻ thản nhiên tự đắc, cặp chân bắt chéo rung rung, chẳng thèm để ý tới mình. Dương Lăng thầm kêu may mắn. Xem ra Phạm Đình cũng nhớ mình là ai, nếu không phải lão hạ lệnh, mình mà chịu đủ ba mươi trượng, e rằng thật sự không chết cũng tàn phế.

Ba mươi trượng đánh xong, đám lính chống gậy gỗ, gỡ bốn góc của tấm vải bố đang trói trên người họ ra, giật xoạt một cái. Dương Lăng thấy Tiền Ninh hai mắt trợn tròn, mũi nín thở, lập tức không dám chậm trễ, cũng hít sâu vào một hơi, chỉ thấy bốn gã lính đồng loạt phát lực, quát to một tiếng, nâng cao người lên “Bịch” một tiếng thân thể đã sóng soài ra đất.

Trước mắt Dương Lăng chợt tối sầm, cơ hồ không thở được nữa. Y cố nén đau, nằm dài trên mặt đất hồi lâu thở hổn hển. Cả buổi sau y mới hồi tỉnh lại, chỉ nghe thấy hai bên vang đầy những tiếng rên rỉ, nhìn trộm qua, thấy đám Cao Phượng, La Tường ai nấy sắc mặt trắng bệch, chiếc quần trong trắng tinh thấm máu đỏ lòm, người đã ngất đi rồi.

Phạm Đình chầm chậm đứng lên, phất tay áo nói:

- Chấp hình xong, chúng ta phải trở lại cung báo cáo rồi, đi thôi!

Phạm Đình dẫn đám Cẩm Y vệ chấp hình ly khai, chỉ còn lại đám người Dương Lăng nằm ngoài ngọ môn không thể động đậy.

Cả buổi sau, mới có mấy tên tiểu thái giám của Đông Cung bước ra đỡ đám người Lưu Cẩn dậy. Tiền Ninh nãy giờ vẫn nằm dài trên đất liền thừa cơ xoay người ngồi lên. Bọn người Cốc Đại Dụng bị đánh cho bủn rủn tay chân, sớm không còn sức đâu mà chào hỏi họ nữa, được vài tiểu thái giám dìu trở về cung.

Tiền Ninh lấy từ trong lòng ra hai bình nhỏ, đưa cho Dương Lăng một bình, nói:

- Uống hết cái này, đây là thuốc chữa thương tốt nhất, cam đoan sẽ không để lại di chứng.

Dương Lăng khó khăn ngồi xuống, tên thủ hạ Cẩm Y Vệ mặc dù cũng lưu tình, nhưng ba mươi gậy đánh xuống, đương nhiên là phải đau rát vô cùng, phỏng chừng mông đã sưng vù lên, hơn nữa còn rách tóet ra.

Thủ hạ của Tiền Ninh chạy tới nâng hắn và Dương Lăng dậy, dìu đi một đoạn cho khí huyết lưu thông. Đi tới khi hai người cảm thấy tê đi không biết đau nữa, lúc này mới đỡ hai người lên xe ngựa. Trước khi Tiền Ninh chịu phạt sớm đã có chuẩn bị, trên xe trải tấm nệm dày, còn có cả thầy lang của Cẩm Y vệ ở trong xe, lập tức lột quần hai người xuống bôi thuốc.

Hai người cứ thế để mông trần nằm cạnh nhau, Tiền Ninh nói:

- Dương đại nhân, ta trước hết đưa ngươi về nhà, sau đó trở về dưỡng thương. Ối, bôi nhẹ một chút đi, mông ta đau quá.

Tiền Ninh phân phó tên lang trung một tiếng, lại hỏi:

- Dương đại nhân, thủ hạ của ta đánh mất yêu bài, bị người ta dò ra là Cẩm Y Vệ. Mẹ kiếp, Thọ Ninh Hầu quả nhiên ghê gớm. Ta đường đường là thiên hộ chưởng hình của Cẩm Y vệ đánh một tên gia đinh nho nhỏ của nhà hắn, không ngờ lại động đến thánh chỉ, bị phạt đình trượng. Nhưng việc Thái tử xuất cung thì ta chẳng nói ra lấy một chữ, các ngươi sao cũng bị giải tới đây thụ hình thế?

Dương Lăng biết Hoằng Trị nhất định có một ban nhân mã khác phụ trách việc nghe ngóng tất cả động tĩnh trong ngoài cung, mười phần thì hết tám chín là mật thám Tây Xưởng trong truyền thuyết đã bí mật được thành lập. Y không dám tùy ý nói toạc ra, chỉ bảo:

- Chúng ta hồi cung bị người ta thấy được, bẩm báo lại Hoàng Thượng, cho nên mới bắt chúng ta tới đây chịu đòn, chỉ là... liên luỵ tới Tiền đại nhân, tại hạ thật sự áy náy.

Tiền Ninh ra vẻ hào khí nói:

- Huynh đệ của mình, vốn phải là có rượu cùng uống, bị đánh cùng chịu. Một chút đau đớn da thịt đã là gì? Vì thái tử gia, có chịu chút đau khổ nữa cũng đáng giá mà.

Hắn ghé tai gần Dương Lăng, thấp giọng cười nói:

- Nghe nói buổi triều hôm nay, Lý đại học sĩ và Trương Hạc Linh đã đánh nhau trên điện Kim Loan. Hoàng Thượng trong cơn giận dữ đã hạ ngục cả lũ, ha ha, có thể làm hắn ngồi tù, trong lòng ta cũng vô cùng khoan khoái, con mẹ nó, nợ nần phải tính cho đủ, quân tử báo thù mười năm không muộn, chúng ta cứ chờ xem, ha ha ha... ối chà!

Hắn cười làm động vết thương, nụ cười không kìm được thành ra méo xệch, thực là khó coi không thể tả.

Xe tới trước cửa Dương gia tại phố Hộ Quốc Tự, Dương Lăng ngại thương thế mình bị Ấu Nương trông thấy mà lo lắng, do đó cự tuyệt hảo ý của Tiền Ninh phái người hộ tống, một mình xuống xe, cố chịu đau đi vào trong viện. Lúc này trời chiều ngả về tây, ánh mặt trời lúc chiều tà rọi vào trong viện, đập vào mắt một mảng vàng óng.

Dương Lăng phỏng chừng Ấu Nương đang ở trong nhà làm cơm, do đó khi y đi đến cửa, liền vươn thẳng người, nhìn xem không có gì sơ hở, lúc này mới yên tâm đẩy cửa đi vào. Trên bếp ngọn lửa đã dịu đi, trên đó có một ấm đất màu đen đang sôi ầm ầm, một mùi thuốc bắc nồng nặc đập vào mũi, nhưng lại không thấy bóng dáng Ấu Nương đâu.

Dương Lăng thấy thế không khỏi cả kinh, y thất thanh gọi:

- Ấu Nương, Ấu Nương?

Gọi vài tiếng mà không thấy ai trả lời, Dương Lăng vội vàng nhịn đau nhào vào phòng. Trong phòng ánh sáng mù mờ, chỉ thấy Ấu Nương đang cuộn tròn trên giường, đắp chăn không nhúc nhích.

Dương Lăng hấp tấp lao tới, nắm lấy bờ vai gầy yếu của nàng gọi:

- Ấu Nương, Ấu Nương?

Y sờ trán Ấu Nương, thấy nóng bỏng cả tay, thân thể Hàn Ấu Nương run lên nhè nhẹ, nàng nghe thấy tiếng tướng công gọi, cố gắng mở to mắt muốn nói chuyện, nhưng răng chỉ va vào nhau lập cập, đến một chữ cũng nói không nên lời.

Dương Lăng cõi lòng đau thắt, y hoảng sợ ôm lấy Ấu Nương, trong lòng vừa đau vừa hối hận. Đã nhiều ngày nay y cũng thấy Ấu Nương ăn không ngon, thần sắc rất tệ, nhưng y lại cho rằng Ấu Nương là người luyện võ, thân thể luôn luôn cường tráng, hẳn là cảm mạo bình thường, do đó không quá để ý. Lúc này thấy nàng bộ dáng tiều tụy, trái tim Dương Lăng như bị cào xé, hoảng hốt nóng ruột vô cùng.

Ấu Nương hơi giãy dụa trong lòng y, rên rỉ nói:

- Lạnh quá, tướng... công, Ấu Nương lạnh quá, ta... Thiếp khát nước quá... Thiếp muốn uống nước...

Dương Lăng vội hỏi:

- Ta đi, ta đi, đợi nhé, ta đi lấy nước cho nàng.

Y vội vội vàng vàng chạy ra gian ngoài, lục lọi cả buổi mới tìm ra cái chén, lại ngó nghiêng một lát không thấy nước để ở đâu. Trước giờ y không cần quan tâm đến việc nhà, lúc y khát, nước trà ấm lập tức được đưa đến trước mặt, lúc y đói, thức ăn nóng bốc khói nghi ngút lập tức dọn lên bàn cho y, tất cả đều vô cùng tự nhiên. Bây giờ phải chiếu cố cho Ấu Nương, y lại không tìm thấy cái gì, nhớ tới Ấu Nương chăm sóc y tận tình, trong lòng y càng thêm khó chịu.

Ấu Nương bệnh nặng thế, chẳng lẽ cho nàng uống nước lạnh ư? Dương Lăng múc một gáo nước, lại đổ vào thùng, y chạy đến trước bếp nhấc ấm sắc thuốc qua một bên, tay cầm nóng bỏng làm y phải buông tay vứt ấm đi.

Dương Lăng vội vàng hứng nửa nồi nước, để lên bếp, cho vào lò bảy tám thanh củi, thấy lửa cháy bùng lên, y mới yên tâm chạy về phòng, châm đèn lên, đem tới trước mặt Ấu Nương, sau đó ôm Ấu Nương ôm vào ngực, nhẹ giọng nói:

- Ấu Nương, ta đang nấu nước, trong chốc lát là xong, đợi một lát là có ngay.

Ngọn đèn trước mắt rập rờn. Ấu Nương khẽ nhắm mắt, nàng liếm liếm đôi môi nứt nẻ, mở mắt thất thần, ho khan một trận, mỉm cười e thẹn, nói:

- Tướng công, chàng về rồi, Ấu Nương quả là vô dụng, thiếp... đi... gặp thầy lang rồi. Ông ấy nói ta nhiễm lạnh, đem thuốc về rồi nhưng khi đang sắc thì không... không chịu được nữa.

Dương Lăng thấy nàng vừa nói tới đây, thân thể nàng lại không chịu được phải rùng mình, sắc mặt ửng đỏ, dưới ánh sáng ngọn đèn, thấy cổ nàng nổi lên những chấm đỏ lấm tấm, bộ dáng căn bản không giống cảm mạo, không khỏi kinh hoảng nói:

- Cái gì mà nhiễm lạnh. Tên lang trung chó má. Ta dẫn nàng đi gặp đại phu, tìm đại phu tốt nhất.

Y không nói gì thêm, bất chấp Ấu Nương giãy dụa yếu ớt, ôm lấy thân thể nàng lên rồi phóng ra ngoài. Cụ già gần nhà y đang chuẩn bị dọn hàng, kinh ngạc nhìn vị hàng xóm Dương đại nhân vọt tới trước mặt mình, hỏi vẻ vô cùng hoảng loạn:

- Cụ ông, xung quanh nơi này có y sĩ không? Không, không, không phải mà là có thầy lang, có đại phu không? Ta muốn tìm đại phu tốt nhất!

Cụ già lắm mồm này nghe y gọi mình là cụ ông, không khỏi được khen mà thấy sợ, nói:

- Đại nhân, thầy lang tốt nhất phố là Lưu tiên sinh ở Dã Cúc Trai, là Kim Châm Lưu nổi tiếng kinh thành. Nhưng phí chẩn trị của hắn cũng hơi ……

Nhìn thấy Dương Lăng mắt như muốn phun lửa, ông lão vội sửa lời nói

- - Đi hết phố, đến nhà thứ ba cuối đường là nó đó. Đại nhân... trong nhà lão có một chiếc xe đẩy, đại nhân muốn dùng nó đưa phu nhân đi không, đường đi cũng không gần lắm đâu.

Dương Lăng gật đầu lia lịa, cụ già vội vàng chạy về nhà lấy chiếc xe đẩy hai bánh đem ra, Dương Lăng thấy chiếc xe đẩy xưa nay chỉ dùng để đẩy hàng, hơi dơ bẩn, vội về nhà lấy đệm chăn trải lên, xong mới đặt Ấu Nương lên trên, đắp cho nàng một tấm chăn. Sau một hồi lăng xăng, nhịp hô hấp của Ấu Nương càng thêm dồn dập, hai mắt đã nhắm chặt, cả người bất tỉnh rồi.

Dương Lăng lòng như lửa đốt, kéo chiếc xe đẩy chạy một mạch về phía Dã Cúc Trai. Chỉ là bây giờ bản thân y cũng đi đứng khó khăn, cất bước lảo đảo, nhưng lại liều mạng dùng sức chạy thật nhanh, nhìn bóng hình thê lương dưới ánh trời chiều ấy khiến cho người ta thương xót không nói nên lời.

[CENTER]***

- Phu nhân tuổi còn trẻ, lại luôn luôn tập luyện, vì vậy chống chọi đến giờ mới phát bệnh. Nói ra thì việc này cũng chẳng phải là một chuyện tốt, hàn tà trong cơ thể ứ đọng quá lâu, một khi phát tác, như nhà nghiêng sắp đổ ấy, lại muốn chữa trị, ài....

Kim Châm Lưu tay vuốt chòm râu khe khẽ lắc lắc đầu.

Vị Dương đại nhân này vừa rồi thế như hổ dữ, lôi xe đến xô cửa xông thẳng vào nhà lão, lại móc ra thẻ bài Cẩm Y Vệ cưỡng ép lão tống cổ tên phú ông đang yêu cầu chữa trị việc không có con của hắn và ả tiểu thiếp thứ mười hai, rồi kéo tay lão vội tới xem bệnh cho nương tử mình.

Thấy người vừa đến là người của Cẩm Y vệ, Lưu đại phu ban đầu còn hơi sờ sợ, nhưng sau khi xem bệnh và nói về bệnh lý, bệnh nghề nghiệp phát tác, lão bắt đầu rung đùi đắc ý.

Dương Lăng suốt ruột tới mức mồ hôi trên trán nhỏ xuống ròng ròng, y nuốt khan, lo lắng nhìn Ấu Nương đang hôn mê bất tỉnh, khẩn cầu nói:

- Tiên sinh! Cầu ngài xem lại biện pháp, nương tử ta phải trị liệu sao mới khỏi được? Tiên sinh yên tâm, bất luận thuốc quí ra sao, mất bao nhiêu bạc, ta đều có thể tìm được, tiên sinh không cần phải lo.

Kim Châm Lưu cau đôi lông mày trắng nói:

- Phu nhân bị bệnh thời gian đã lâu, dương khí bảo vệ nhân thể đã hư tổn, rất dễ mắc phải hàn tà, bệnh phân chia thành ngoại hàn và nội hàn. Ta thấy tuy thân thể phu nhân cường tráng... Nhưng e rằng từng trải qua quá trình nghèo khổ lâu dài, ngoại hàn xâm nhập vào thân thể dai dẳng không tan, bây giờ nội hàn phát sinh, hàn tà là âm tà, âm thắng sẽ kết hàn. Cho nên khí huyết đông cứng, cản trở làm cho kinh lạc tắc nghẽn, không lưu thông được...

Dương Lăng nghe đến đó, nhớ tới ngày đó mình ở Dương Gia Bình, mùa đông khắc nghiệt, Ấu Nương mỗi khi đêm đến chỉ khoác chiếc áo mỏng, ngày ngày chịu lạnh chịu buốt, chẳng lẽ bệnh của nàng đã phát sinh từ lúc đó? Dương Lăng nghĩ đến những ngày tháng Ấu Nương chịu khổ sở, không khỏi lòng đau như cắt, lệ rơi lã chã, lúc này y thấy Kim Châm Lưu nói ra nguyên nhân phát bệnh, trong lòng hiện lên một chút hy vọng, vội vàng truy vấn:

- Tiên sinh, vậy xin hỏi phải làm sao mới trị liệu được?

Kim Châm Lưu cau mày trầm ngâm nói:

- Hàn khí ở lâu trong cơ thể phu nhân, gây cản trở kinh lạc, khí huyết không lưu thông, vốn thân thể từ từ cũng quen dần. Nhưng gần đây phu nhân lại ở một nơi nóng bức, khí dương oi ả quá nhiều, làm cho âm dương xung khắc, đem khí hàn tà nhanh chóng đẩy vào tỳ thận, dẫn đến tỳ không thể vận chuyển, tiêu hóa chất dinh dưỡng tạo ra sức sống và máu huyết cho cơ thể. Thận không nạp được khí làm thông suốt niệu đạo để sinh ra tủy và hơi ấm nuôi dưỡng toàn thân. Dịch thể buộc phải hòa cùng máu huyết...

- ...

Dương Lăng nghe hắn còn kể lể về âm dương ngũ hành, không thể không rùng mình, y đứng bật dật, chụp lấy áo của Kim Châm Lưu, mặt mày dữ tợn, rốt cuộc không còn chút lịch sự nào nữa, lớn tiếng gào to:

- Đừng có giảng bệnh lý với ta, ta chỉ hỏi ngươi, phải làm sao mới trị liệu được? Phải dùng thuốc như thế nào?!

Kim Châm Lưu cũng không tức giận, lão nhìn Dương Lăng vẻ thông cảm, khẽ lắc đầu nói:

- Bệnh đã lan khắp nơi, khó có thể chữa trị.

Dương Lăng buông tay, ngồi phịch xuống ghế, ngây người hồi lâu, rồi y đột nhiên nhảy dựng lên hét lớn:

- Ta không tin, ta không tin! Không được, ta còn chưa chết, sao Ấu Nương có thể chết được?

Y ôm lấy Hàn Ấu Nương hôn mê bất tỉnh, rơi lệ nói:

- Thành Bắc Kinh to như vậy, ta không tin không tìm thấy một người có thể trị liệu cho Ấu Nương!

Y vô cùng cẩn thận đặt Ấu Nương lên xe rồi đẩy đi. Vì nãy giờ y chạy một mạch nên làm rách miệng vết thương, vết máu thấm ra ngoài áo sau của y. Dương Lăng vừa đẩy xe vừa thầm nói:

- Ông trời có mắt, quyết không cho Ấu Nương chết được, quyết không chết được!

Kim Châm Lưu khẽ lắc đầu, tuy biết người trước mắt là người của Cẩm Y vệ, không thể đắc tội với y được, nhưng ảnh hưởng tới tôn nghiêm của danh y, nên đợi y ra khỏi cửa, lão len lén mắng theo:

- Trong thành Bắc Kinh, y thuật Lưu mỗ ta không dám xưng đệ nhất, nhưng bệnh mà ta trị không được... e rằng cũng không ai khác trị được. Nếu ngươi tin ta, còn có thể dùng vài thứ thuốc hồi sức, để nàng tạm thời tỉnh lại mà trăn trối, còn bây giờ... Hà hà!

Chương 73: Tìm Thầy Khắp Kinh Sư

Dịch: workman

Biên dịch: Kiếp Nô

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Dương Lăng khẽ gật đầu, từ từ ôm Ấu Nương đứng lên, nói với Điền thần y:

- Xin thần y cho ta mượn xe ngựa! Ta phải đi khắp kinh thành tìm danh y, chỉ cần Ấu Nương còn một hơi thở, ta vẫn sẽ còn đi tìm danh y, tìm một phương thuốc cứu sống nàng!

---------------------------------

Dương Lăng đẩy Ấu Nương đi trên đường lớn như kẻ mất hồn.

Lúc Ấu Nương còn khỏe, nàng luôn ôn hoà thuần hậu đứng sau lưng y, giống như một cơn mưa xuân ấm áp mềm mại âm thầm, chẳng những dần dà khiến người ta quên mất sự tồn tại của nàng mà ngay cả Dương Lăng cũng gần như quen với những hiến dâng lặng lẽ của nàng. Song bây giờ đột nhiên ý thức được nàng không thể vĩnh viễn như cái bóng đi theo mình, chiếu cố cho mình, làm bạn với mình, Ấu Nương cũng có ngày rời xa mình thì Dương Lăng mới giật mình phát giác sự đáng sợ của loại mất mát này.

Lúc này Dương Lăng vừa vội vừa sợ, mồ hôi thấm đẫm lớp áo dày, gió thổi ớn lạnh cả người. Máu tươi chảy đầm đìa từ mông nhưng y hoàn toàn không bận tâm. Những gì Lưu Thần Châm nói, y nghe cũng hiểu đại khái, vừa nghĩ tới lại đau lòng như cắt. Mình chỉ cảm thấy Ấu Nương tài giỏi kiên cường, sao không nghĩ tới nàng còn nhỏ tuổi, tấm vai non nớt có thể chống chọi được bao nhiêu áp lực chứ?

Một tiểu cô nương năm mười lăm tuổi gả vào nhà họ Dương, một mình khổ sở chống đỡ, không người trợ giúp, không niềm hy vọng. Áp lực tâm lý trầm trọng, cuộc sống gian khổ cơ cực, ngày tiếp ngày vất vả lo toan khiến thân thể nàng ngày càng sa sút, chỉ có thể dựa vào tinh thần cố gắng chống chọi mới giúp nàng chưa ngã gục.

Mùa đông rét lạnh mà mỗi đêm nàng chỉ đắp một cái chăn rất mỏng, không lâu sau lại tới ở trong tòa nhà của Sở Dịch, giường đất từ chỗ rất lạnh biến thành cực nóng. Hàn khí vốn đã xâm nhập tận phế phủ của nàng hoàn toàn không thích ứng được với loại biến hóa đột ngột này, lúc đó nàng đã mang mầm mống bệnh hoạn trong mình, chỉ do nàng có sức khỏe nên cố chống đỡ đến giờ mới phát bệnh.

Lúc này Dương Lăng khóc không ra nước mắt. Vừa rồi y dựa vào toàn bộ sức lực trong lúc kinh hãi đẩy Ấu Nương chạy lâu như vậy, bây giờ vừa mệt vừa đói, thật sự không còn moi ra chút khí lực nào để đi nữa.

Vừa chật vật rẽ qua một ngã tư, một chiếc xe ngựa đang từ xa lướt nhanh đến vội vội vàng vàng khựng lại trước mặt y. Người trên xe ngựa gò cương chửi ầm lên:

- Mẹ, ngươi không muốn sống nữa à? Sao đi mà không nhìn đường, nếu kinh động lão gia nhà ta, ta đưa ngươi vào nha môn ăn đòn đó!

Dương Lăng lạnh lùng nhìn gã, gằn từng tiếng:

- Ta vừa mới ăn hèo đây, chính là hèo do đương kim hoàng đế ban tặng. Ngươi có bản lãnh thì tới đây thử xem!

Gã kia làm sao tin y được, gã cười khẩy một tiếng đang muốn nói gì, Dương Lăng đã lấy ngọc bài từ trong ngực ra xỉa trước mặt gã, trầm giọng:

- Bảo lão gia nhà ngươi xuống xe! Ta là Đồng Tri Cẩm Y vệ, bây giờ cần dùng xe của ngươi!

Tên đánh xe kinh hãi biến sắc. Gã nhìn nhìn một hồi vẫn không nhận biết được thẻ bài Cẩm Y Vệ, nhưng đã liên quan tới Xưởng Vệ thì thà tin còn hơn không. Gã chần chừ một lúc rồi quay đầu lại nói với người trong xe:

- Lão gia! Ngài xem...

Rèm kiệu vén lên, một người đàn ông trung niên áo xanh râu ngắn ló đầu ra. Nhờ ánh đèn lồng treo trên khách sạn bên ngã tư quan sát rõ tấm yêu bài của Dương Lăng, hắn không khỏi thầm giật mình kinh hãi. Đã gặp qua không ít đại quan cùng quý nhân, đương nhiên hắn nhận biết yêu bài của Cẩm Y Vệ, đến cả tổ tông hắn cũng không dám trêu vào. Thầm kêu xui xẻo, hắn ngoan ngoãn bước ra khỏi xe, chắp tay chào:

- Ra mắt đại nhân! Không biết đại nhân xưng hô ra sao?

Dương Lăng ôm lấy thân thể mềm mại của Ấu Nương đặt lên xe ngựa, thở hào hển đáp:

- Ta không có thời gian nói chuyện với ngươi. Bây giờ ta cần xe của ngươi cùng với mã phu của ngươi, khi quay lại ta sẽ thả hắn về nhà.

Y nói xong tự mình trèo lên xe, đặt Ấu Nương cẩn thận trên ghế kiệu, nhè nhẹ hôn lên gương mặt nóng hổi của Ấu Nương, nghẹn ngào:

- Ấu Nương! Có tướng công ở đây, nàng sẽ không chết được đâu. Nếu nàng không sống nữa, tướng công sẽ cùng nàng đi đại náo âm tào địa phủ một trận, kiếp sau chúng ta lại làm vợ chồng.

Nói xong, quay đầu lại thấy tên đánh xe vẫn còn đờ đẫn, y không khỏi giận dữ hét lớn:

- Ngươi còn chưa đi?

Tên đánh xe giật bắn cả người, vội vàng đáp:

- Đi... Đi đâu chứ? Đại nhân ngài còn chưa bảo mà.

Dương Lăng yếu ớt xua tay, khuỵu gối bên cạnh Ấu Nương, ôm lấy thân thể nàng nói:

- Đi tìm lang trung! Ngươi là người đánh xe, hẳn biết trong kinh sư này ai là danh y, nhà cửa ở đâu. Nhanh!

Gã đánh xe ngần ngừ chỉ người đàn ông vừa bước xuống khỏi xe, nói:

- Lão gia nhà ta chính là danh y, hơn nữa lại là ngự y.

- Cái gì?

Dương Lăng vừa mừng vừa sợ, vội vàng nhảy xuống xe, gần như nằm rạp trước mặt người đàn ông trung niên kia, y kéo áo người nọ la lên:

- Tiên sinh họ gì? Xin tiên sinh chữa cho nương tử nhà ta, nàng... Nàng...

Dương Lăng cảm thấy phấn khởi, vừa muốn khóc lại vừa muốn cười, nói không ra lời.

Người nọ tuy là ngự y nhưng cũng không dám đắc tội với Cẩm Y vệ, mới vừa rồi phải nhẫn nhịn xuống xe, bây giờ thấy y từ hống hách trở nên nhún nhường, trong lòng bất giác có chút khoái chí. Hắn cười nói rất tự đắc:

- Tại hạ họ Điền, là y sĩ của thái y viện, chẳng biết tôn phu nhân khó ở thế nào? Nhưng nơi này không tiện bắt mạch, đại nhân nên theo ta về nhà, để ta có thể chẩn đoán rõ ràng hơn.

- Được được!

Dương Lăng rối rít đồng ý. Ngẫm lại mình vừa mới buộc người ta xuống xe, y chẳng biết có nên đi chiếc xe này tới nhà của người ta nữa hay không.

Vị Điền đại phu lại cười nói:

- Thôi đi! Tôn phu nhân đang bị bệnh, không cần phải xuống xe. Hàn xá ở ngay phía trước, chúng ta đi bộ về nhà cũng được.

Dương Lăng cũng chẳng cần khách sáo chi nữa, cùng cẩn thận theo vị Điền ngự y tới nhà hắn. Nhà của Điền ngự y nhìn qua có vẻ sang trọng, cạnh cửa treo cao một tấm biển vàng chóe “Hạnh Lâm Cư”. Vừa tới nơi, Dương Lăng bế Ấu Nương theo hắn đi qua sân rồi vào thẳng trong đại sảnh. Thấy trong đó treo vô số những thẻ bài to nhỏ “Y Đạo Thánh Thủ”, ”Tái Hoa Đà”, ”Đương Thời Danh Y”, Dương Lăng càng thấy an tâm hơn nhiều.

Điền ngự y rửa tay bằng nước ấm, một mặt dùng khăn tay trắng như tuyết lau sạch tay, một mặt đến gần quan sát kỹ Ấu Nương đang hôn mê trong lòng Dương Lăng. Hắn chau mày hỏi:

- Tôn phu nhân dường như bị nóng lạnh trong người, chân lông bí nghẽn, sốt cao không hạ thì phải!

Dương Lăng vội vàng gật đầu, run giọng đáp:

- Đúng, đúng, đúng! Thần y có biện pháp cứu nàng chứ?

Điền ngự y khe khẽ lắc đầu, bắt mạch Ấu Nương một lát, rồi mặt mày trầm trọng nói:

- Bệnh nóng lạnh không phải là sở trường của ta. Trong mười ba khoa của Thái Y viện thì tại hạ chuyên về bệnh trẻ em, không thạo về lãnh vực này, chỉ là... theo ta thấy... dù là thần y đúng chuyên khoa cũng khó lắm!

Dương Lăng không biết Thái Y viện Đại Minh chia làm mười ba khoa là Tim Mạch, Nhi Đồng, Phụ Khoa, Thương Hàn, Chấn Thương, Châm Cứu, Răng Miệng, Họng Hầu, Xoa Bóp, Nối Xương, Kim Thốc, Nhãn Khoa, Bùa ngãi, y còn tưởng rằng phàm là thái y đều là có thể chữa được bách bệnh. Tuy không hiểu bệnh trẻ em là cái gì, nhưng nghe lão nói không biết chữa, y không khỏi thất vọng:

- Thần châm họ Lưu cũng nói không có thuốc nào trị được, không ai có thể trị. Chẳng lẽ... chẳng lẽ ta phải mất Ấu Nương thật sao?

Vốn vẻ mặt đang ngượng ngùng, nghe y nói thế, Điền ngự y không khỏi bật thốt:

- Ngươi đã gặp Kim Châm Lưu rồi à? Hắn nói không trị được là không trị được sao? Tuy ta không giỏi ngành này, nhưng cả thành Bắc Kinh người trị bệnh nóng lạnh giỏi nhất, ngoại trừ Ngô tiên sinh Ngô Thanh Viễn đã qua đời thì chỉ còn anh của ta thôi. Nếu anh của ta ở đây, chưa chắc không trị được!

Tinh thần Dương Lăng chấn động, y vội hỏi dồn:

- Lệnh huynh ở đâu? Mau mau mời lệnh huynh xem bệnh cho nàng, chỉ cần chữa được, Dương Lăng nguyện dốc toàn bộ sự sản để cảm tạ.

Điền ngự y nhậm chức trong cung nên không được tự mình mở phòng khám bệnh, nhưng ca ca hắn vì bị què một chân, mặt mũi lại xấu xí nên không thể vào triều nhậm chức ngự y, do đó mới mở Hạnh Lâm cư này. Phòng mạch này cách Dã Cúc Trai cũng không xa, hai nhà luôn là đối thủ cạnh tranh. Nghe thần châm họ Lưu đoan chắc người bệnh không thể trị được, Điền ngự y tự nhiên không chịu phục. Lão họ Lưu đã không trị được, chỉ cần nhà mình chữa được thì việc này lan truyền ra, Thần Châm Lưu sau này đừng hòng mơ tưởng cạnh tranh với Điền gia nữa.

Vì lẽ đó, tinh thần Điền ngự y trở nên hăng hái, hắn nói với Dương Lăng:

- Đại nhân chớ sốt ruột! Anh của ta về quê ở Tam Hà thăm người thân rồi, cũng không xa đây lắm.

Hắn xoay người hạ lệnh cho gã đánh xe:

- Thiệu Đường! Ngươi lập tức đánh xe về quê Tam Hà, đón Đại lão gia nhanh nhanh trở về. Nói trong kinh có quý nhân mời người khám chữa bệnh.

- Dạ, lão gia!

Tên đánh xe vâng lệnh. Cũng may ngựa còn chưa tháo khỏi xe, gã vội vàng dắt ra khỏi cổng lớn, vung roi lên, ào ào phóng đi mất.

***********************************

Hôm sau vào buổi triều sớm, Hoằng Trị tinh thần vui vẻ, thập phần vừa ý. Hôm qua dựa vào việc chỉnh lý bọn Dương Lăng, ông đã áp chế được sự kiêu ngạo của Kim phu nhân; cũng không biết bà ta nói với Hoàng hậu thế nào mà khi ông trở lại cung, tuy Hoàng hậu vẫn còn u sầu buồn bã, nhưng đã không dám khóc dầm khóc dề như trước nữa.

Ông có ý định phổ biến chính sách mới về hạn chế quyền lợi của hoàng thân quốc thích đã lâu, nhưng cản trở lớn nhất vẫn đến từ gia đình Hoàng hậu, hơn nữa đám quí tộc vì ích lợi có thể bị hao tổn, nhất định cũng dán mắt vào Trương gia. Một khi Trương gia không tuân theo pháp lệnh, đương nhiên người ngoài cũng sẽ học theo. Bây giờ Thọ Ninh Hầu đã bị trừng trị, lực cản đối với việc thúc đẩy cải cách nhất định sẽ giảm mạnh.

Không ngoài dự đoán của Hoằng Trị, nhân thời cơ chín muồi, vào buổi triều sớm ông đề xuất lại việc cải cách, để cho đám người Lý Đông Dương vừa được phóng thích khỏi ngục cùng Lưu Kiện và Tạ Thiên Kỷ bên xướng bên họa, thuận lợi ban bố luôn. Văn võ cả triều đều thức thời, không ai dám lên tiếng phản đối.

Hoằng Trị cảm thấy mừng rỡ, xem ra hôm nay không có việc gì quan trọng khác phải xử lý, đang muốn tuyên bố bãi triều thì lễ bộ thượng thư Vương Quỳnh bước khỏi hàng tấu:

- Thần khải bẩm Hoàng Thượng! Thần nghe nói mấy tên nội quan ở Đông cung chuyên phụng dưỡng Thái tử hay bày ra mấy trò chó ngựa mua vui, cản trở Chiêm Sĩ Phủ dạy thái tử đọc sách. Gần đây lại nghe thị độc của thái tử là Dương Lăng cũng hòa mình với bọn chúng, cấu kết nhau làm việc xấu.

Hoàng Thượng, Thái tử là người kế vị của quốc gia, bản thân quan hệ tới cả thiên hạ. Dương Lăng vốn xuất thân tú tài, được bệ hạ ân sủng, phá lệ ban danh hiệu Đồng tiến sĩ xuất thân, cho làm Đông cung thị độc. Hắn không nghĩ tới việc báo đáp hoàng ân, mà lại cùng nịnh thần cấu kết, gây náo loạn Đông cung. Thần xin bệ hạ bãi chức thị độc Đông cung, đuổi khỏi triều đình.

Hoằng Trị ngẩn người, nói vẻ không vui:

- Đó là do Ái khanh nghe nói Dương khanh hôm qua bị phạt trượng ở ngọ môn phải không? Hắn tuy cũng bị phạt trượng, trẫm cũng chỉ khiển trách nhẹ vì hắn chưa làm tròn trách nhiệm thị độc, không thể ngăn cản nội quan rủ rê Thái tử chơi bời trì hoãn việc đọc sách thôi. Hôm qua trẫm đến Đông cung khảo sát bài vở Thái tử, thấy tri thức cùng kiến thức của Thái tử đều tăng lên, việc này đương nhiên là công lao của ba vị thái phó, nhưng cũng không phải không có công phụ tá của thị độc.

Lão Vương Quỳnh không đồng ý, bẩm:

- Bệ hạ! Thị độc vốn có trách nhiệm giám sát Thái tử đọc sách, chưa tròn trách nhiệm, cũng khó xứng với chức vụ. Thần cho rằng nên tuyển một vị thị độc Đông cung có đức có tài khác. Sau khi dán thông báo vào kỳ thi mùa xuân, Hoàng Thượng tự mình tuyển một vị hiền tài tới Đông cung. Thần nắm giữ Lễ Bộ, đây là chức trách phạm vi của thần, việc này không dám không tấu.

Hoằng Trị mỉm cười nói:

- Trẫm biết sự trung trực của ái khanh, nhưng Dương Lăng làm việc ở Đông cung luôn luôn khá tận tâm, hôm qua trẫm cũng đã tiến hành khiển trách hắn rồi, cũng không cần phải...

Vương Quỳnh lập tức phục xuống đất khóc lớn:

- Hoàng Thượng nhân từ vô cùng, nhưng việc Thái tử là việc xã tắc, không thể sơ ý chút nào được. Thái giám nội cung chỉ hầu hạ thái tử sinh hoạt thường ngày, cho dù bọn chúng có hơi phi lý cũng còn có thể khoan dung. Nhưng đã là thị độc mà không thể hoàn thành chức trách thì vạn lần không thể tha thứ. Thần chưởng quản Lễ Bộ, sao có thể thấy mà không nói? Thấy mà không can? Thấy mà không gián được chứ?

Hoằng Trị chịu không nổi những tiếng gào khóc của Vương Quỳnh. Văn võ cả triều, lão là kẻ nhiều nước mắt nhất, hơi một tí là khóc lóc can gián, nhưng vị lão thần này luận về đạo đức văn chương đều thập phần xuất chúng, làm quan cũng luôn luôn thanh liêm. Hoằng Trị cũng không có biện pháp phạt lão. Thấy lão lại khóc lóc, Hoằng Trị bất lực nhìn Lưu Kiện.

Lưu đại học sĩ thông minh sắc sảo, ánh mắt Hoằng Trị đế vừa nhìn mình, lập tức bước ra nói:

- Hoàng Thượng! Thần tán thành đề nghị tuyển người làm thị độc Đông cung vào kỳ thi mùa xuân này của Vương Đại nhân. Dương thị độc thấp cổ bé miệng, tuy không phải không muốn ngăn cản nội quan bày trò, nhưng hắn cũng không thể làm được.

Về phần Dương Lăng, người này năm mười sáu tuổi đã là tú tài đầu bảng Tuyên Phủ, tài viết văn nhất định bất phàm. Mấy bữa trước hắn viết báo cáo về những thay đổi chế độ chính sách của quân đội cùng với việc cầm binh, luyện quân cũng rất là không tệ, đầy ý tưởng mới. Thần nghĩ rằng, có thể miễn chức thị độc của Dương Lăng, nhưng triều đình nên đề bạt bổ nhiệm nhân tài giỏi cả văn lẫn võ này. Không bằng Hoàng Thượng bảo hắn lên điện, tấu trình ngay trên cung đình, nếu hợp ý Thánh Thượng, có thể cho hắn nhậm chức tại triều, hoặc ra ngoài làm quan. Một khi hắn có kinh nghiệm, không chừng sẽ trở thành bầy tôi trụ cột của triều đình.

Hoằng Trị nghe vậy rất mừng. Ông vốn có ý lưu Dương Lăng lại chờ hoàng nhi đăng cơ sẽ sử dụng. Nhưng từ năm trước ông bị bệnh nặng, thân thể ngày càng sa sút. Do đó hôm nay cũng phải suy nghĩ rất nhiều để chuẩn bị cho hoàng nhi.

Đám cựu thần trong triều tuy trung thành hết mực, nhưng bảo thủ cũng có thừa, thiếu chí tiến thủ, hơn nữa bọn họ đã già thế rồi cũng không biết gắng gượng được bao nhiêu năm nữa. Nếu không thể tìm được bầy tôi tốt phụ tá cho hoàng nhi, chỉ vài năm sau đám cựu thần sẽ tàn lụi, làm sao ông yên tâm được?

Do đó nghe thấy Vương Quỳnh luôn miệng thỉnh cầu thôi chức thị độc của Dương Lăng, ông liền động tâm. Được lắm, ngươi nói hắn không xứng giữ chức thị độc, không phải là không xứng làm quan trong triều. Ta cho hắn làm quan, cũng không xem như bộ Lễ các ngươi không làm tròn bổn phận phải không? May mà Lưu Kiện có thể quan sát được ý ta, nghĩ ra biện pháp vẹn cả đôi bề như vậy.

Hoằng Trị sợ Vương Quỳnh lại phản đối gì nữa nên lập tức vui vẻ trỏ tiểu thái giám trực giấy mực bên cạnh ngự thư án, hạ lệnh:

- Ngươi đi truyền khẩu dụ của trẫm, bảo Dương Lăng lập tức lên điện.

Tên tiểu thái giám giật bắn cả người. Xưa nay việc truyền dụ đều do nhân viên của Sở biên tập phụ trách việc chấp bút rồi sai người truyền chỉ, hắn chưa bao giờ ra khỏi cung. Bị phái đi như vậy, tên tiểu thái giám hoảng hốt vâng dạ, vội vàng bước xuống một bên ngự đài. Hắn chỉ cảm thấy lâng lâng, hưng phấn tới suýt nữa hụt chân ngã tòm.

Tên tiểu thái giám vừa mới bước xuống được mấy bậc bệ ngự, Hoằng Trị đột nhiên gọi:

- Chậm đã!

Tên tiểu thái giám vội vàng xoay người. Hoằng Trị trầm ngâm một chút, mỉm cười nói:

- Lấy xe gấm trong cung mà đi. Ha ha! E rằng bây giờ hắn chẳng đi nổi nữa đâu.

Đám văn võ bá quan nhất thời ồ lên, xe gấm đón à? Đây là vinh dự như thế nào! Chỉ có mấy vị đại học sĩ và nguyên lão trong triều đôi khi tiến cung mới được đối đãi như vậy. Xem ra Vương thượng thư mờ mắt đã hớ to rồi, hoàng đế Hoằng Trị nói trắng ra mình muốn trọng dụng Dương Lăng mà.

******************************

Lúc này Dương Lăng đang mượn xe của ngự y, giục ngựa chạy như điên. Thần sắc Ấu Nương càng lúc càng kém, môi khô nứt nẻ, khí tức yếu ớt, sắc mặt xám xịt làm cho người ta vô cùng đau lòng, trái tim Dương Lăng cũng theo đó chìm xuống tận vực thẳm.

Nguyên y khổ sở đợi một đêm, tên đánh xe Điền phủ mới đem vị Hạnh Lâm cao thủ sắp mất vía trở về. Vị Điền thần y này quả nhiên cao minh hơn em mình nhiều, ông vừa tiến vào y đường, vọng (nhìn), văn (nghe), vấn (hỏi), thiết (thăm mạch) một hồi, lập tức cả quyết phán:

- Đúng là Tôn phu nhân bị bệnh thương hàn. Bệnh này đã tiềm ẩn lâu ngày đáng ra phải sớm phát tác rồi. Chỉ là tôn phu nhân khí lực cường tráng vượt xa người thường, nên luôn cố chống chọi đến giờ.

Mắt Dương Lăng đầy tơ máu, y trừng đôi mắt đỏ rực, hỏi vẻ lo sợ:

- Có thể... có thể... Có thể còn biện pháp chữa trị không?

Người này đã là hy vọng cuối cùng của y. Trong thời khắc sinh tử, khi y hỏi, khớp hàm cũng va vào nhau lập cập, thân hình cũng run lẩy bẩy.

Điền thần y khẽ cau mày nói:

- Vốn có biện pháp, “Thông Chân Cứu Khổ Đan” của ta chuyên trị thương hàn trong ngoài, là phương pháp kỳ diệu có thể làm cho thoát ngược mồ hôi, chỉ là... chà!

Ông nhìn Dương Lăng với vẻ có lỗi, nói tiếp:

- Tôn phu nhân chạy chữa quá muộn. Thuốc men thì có thể lấy Đương Quy, Xích Thược Dược, mỗi loại một phần năm lạng; Cam Thảo, Ma Hoàng Thảo, mỗi thứ bốn lạng, thêm vào nửa lạng Quan Quế, nghiền nát, lấy rượu nóng đun lên, ba ngày sau lập tức phục hồi, phối với một vài phương thuốc khác là có thể trị dứt, nhưng bây giờ... Thứ cho Điền mỗ mạo muội nói thẳng, tôn phu nhân quyết không qua hỏi hôm nay.

Dương Lăng đầu váng mắt hoa, trời đất tối sầm, y ôm thân thể Ấu Nương mà lảo đảo như sắp ngã khỏi ghế. Điền thần y thấy vậy chấn động, vội ấy trong tay áo ra một thanh ngân châm, thoáng cái đâm vào đỉnh đầu Dương Lăng. Dương Lăng mở to hai mắt, thì thầm gì đó trong họng, hồi lâu mới hít thở được.

Y định thần, cười sầu thảm:

- Không... Không cứu được à?

Huynh đệ họ Điền thấy vợ chồng y tình thâm nghĩa trọng như thế, cũng bất giác thầm cảm động. Điền thần y lặng lẽ rút ngân châm về, đồng tình nói:

- Đại nhân! Về nhà chuẩn bị hậu sự cho phu nhân đi, Điền mỗ vô năng... Chà! Kinh thành to như vậy nhưng có lẽ chỉ có viện trưởng viện Thái Y mấy năm trước là Ngô Thanh Viễn tiên sinh mới có thể có biện pháp, đáng tiếc... bảy năm trước Ngô tiên sinh đã qua đời. Ta hiểu rõ danh y kinh sư như lòng bàn tay, trừ ông ta ra e rằng không ai... không ai khác có thể ra tay cải tử hoàn sinh, trị được bệnh bộc phát tới mức này đâu.

Dương Lăng ngẩn người như khúc gỗ thật lâu. Điền thần y thấy thế kinh ngạc vô cùng, chuẩn bị đâm cho y một châm nữa, con ngươi Dương Lăng mới động đậy, hỏi một câu si ngốc:

- Không cứu được nữa sao?

Điền thần y đáp:

- Không...

Vừa thấy đôi tròng mắt đờ đẫn của y, Điền thần y bất giác chấn động mạnh, nín lặng không nói thêm gì.

Dương Lăng khẽ gật đầu, từ từ ôm Ấu Nương đứng lên, nói với Điền thần y:

- Xin thần y cho ta mượn xe ngựa! Ta phải đi khắp kinh thành tìm danh y, chỉ cần Ấu Nương còn một hơi thở, ta vẫn sẽ còn đi tìm danh y, tìm một phương thuốc cứu sống nàng!

Vốn thứ mà danh y kiêng kị nhất là bước khỏi cửa nhà hắn tìm đến thầy thuốc khác chữa trị. Nhưng huynh đệ Điền thần y lúc này không hề buồn lòng chút nào, họ vội vàng đổi tên đánh xe, giúp Dương Lăng đưa Ấu Nương lên xe. Dương Lăng mang Ấu Nương chạy loanh quanh vài vòng trên phố không mục tiêu, đầu óc rối loạn, rồi y đột nhiên nhớ đến đám hòa thượng Tây dương ở Hộ Quốc Tự, cả người chợt run lên. Thần y, ngự y đều chẳng làm gì được, còn Tây y thì sao?

Trái tim Dương Lăng như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, y vội hạ lệnh:

- Nhanh! Mau tới Hộ Quốc Tự, càng nhanh càng tốt!

Chương 74: Thiên Tử Gọi

Dịch: workman

Biên dịch: Kiếp Nô

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Dương Lăng cười thê lương:

- Gặp Hoàng Thượng làm gì? Thăng quan phát tài à? Ngươi hồi cung phúc chỉ đi, ta phải đưa Ấu Nương về nhà.

Y chua xót nhìn Ấu Nương nói tiếp:

- Từ khi đến kinh thành tới nay, ta vẫn không hề chăm sóc cho nàng. Hằng ngày vẫn để nàng thui thủi một mình ở nhà, bây giờ ta phải đi về chăm sóc nàng, trở về cùng nàng.

---------------------------------

Xa phu dạ một tiếng, quay ngoặt đầu ngựa. Dương Lăng cúi đầu nhìn Ấu Nương trong lòng mình sắc mặt đã trở nên trắng bệch, áp má vào gương mặt lạnh buốt của nàng, rơi lệ nói:

- Ấu Nương! Cố kiên trì một chút, đừng bỏ tướng công, tướng công sẽ cùng nàng đi tìm thầy thuốc, nàng nhất định phải kiên trì chịu đựng! Ấu Nương! Nàng đã hứa theo ta cả đời mà...

Tuy là một hán tử hào sảng nhưng vừa nghe thế tên xa phu cũng cảm thấy đau xót, gần như rơi lệ. Hắn chớp mắt, quất mạnh roi lên lưng ngựa, quát to “Giá!”, vội vàng thúc xe phóng như bay về Hộ Quốc tự.

Lúc này tên ngự tiền tiểu thái giám lần đầu phụng thánh chỉ xuất cung làm việc dẫn theo bốn Tiểu Hoàng Môn (*), tám tên Cẩm Y vệ, lại có hai đại hán kéo xe gấm trong cung chạy theo, cực kỳ cao hứng chạy tới nhà Dương Lăng. Vừa tới, cả bọn lại thấy cổng đang khoá, đó là lão hàng xóm giúp Dương Lăng khóa cửa.

(*): một chức quan của thái giám.

Tên tiểu thái giám ngẩn người, vậy thì phải làm sao bây giờ? Hồi cung nộp chỉ à? Tiểu thái giám chưa biết làm gì, đành gõ cửa nhè nhẹ lắng nghe. Khi xe ngựa Dương Lăng vội vàng chạy về ngang phố này, hai tên Cẩm Y Vệ thấy xe phóng ào ào bèn cao giọng quát mắng:

- Đứng lại! Nội quan đang phụng chỉ làm việc, người phương nào dám giục ngựa chạy ẩu như vậy?

Dương Lăng đang vô cùng lo lắng, đầu óc mụ mị, chỉ nghĩ tới việc chạy nhanh đi tìm thầy thuốc, vừa thấy có người cản đường, y buột miệng la lên:

- Ai cản xe ta?

Lúc này, tên tiểu thái giám đã dò biết được Dương Lăng mang người thân đi cầu thầy thuốc không có ở nhà. Hắn vừa hậm hực bước ra khỏi cửa nhà lão hàng xóm nọ đã liếc mắt nhìn thấy Dương Lăng, lòng vô cùng mừng rỡ. Hôm qua hắn theo Hoàng Thượng đi đến Đông cung đã từng gặp Dương Thị Độc rồi nên đương nhiên biết mặt mũi y. Tên tiểu thái giám vội vàng hô to:

- Dương Thị Độc! Hoàng Thượng có chỉ, truyền ngài lập tức lên điện yết kiến.

Dương Lăng quýnh tới mức đổ mồ hôi, chẳng suy nghĩ gì đáp luôn:

- Không không! Mau tránh ra. Ta muốn đưa Ấu Nương đi xem bệnh!

Nói rồi y phất tay bảo xa phu:

- Đi mau, đi mau! Lập tức đi Hộ Quốc tự.

Tên xa phu líu cả lưỡi. Thánh chỉ mà cũng dám không tuân, tuy Cẩm Y vệ rất oai phong nhưng đâu có oai phong đến như vậy? Hắn không dám chậm trễ, vội vàng vung roi lên, xe ngựa xuyên qua đám thị vệ đại nội lao thẳng về phía Hộ Quốc tự.

Nhìn xe ngựa lướt đi, dân chúng đang vây quanh ngẩn cả người ra. Tám tên Cẩm Y vệ, bốn tên Tiểu Hoàng Môn đều trơ mắt nhìn tên thái giám truyền chỉ. Bây giờ hắn chính là khâm sai, đương nhiên cả bọn đều phải nghe lệnh hắn.

Tên tiểu thái giám mới mười bốn mười lăm tuổi, tuy niên kỉ còn nhỏ, nhưng hôm nay lại bất chợt bị Hoàng đế phái đi tuyên chỉ. Chuyện gì hắn cũng đã nghĩ qua, chỉ là không ngờ lại gặp phải tình huống này. Ý chỉ truyền tới nơi mà người ta không phụng chỉ, vậy phải làm gì? Việc này dường như... Dường như xưa nay chưa bao giờ nghe nói tới việc như thế này, ta nên hỏi ai đây?

Tên tiểu thái giám truyền chỉ luống cuống muốn khóc. Bây giờ Hoàng Thượng cùng bá quan cả triều đều đang ở kim điện chờ y, mình báo cáo kết quả công tác làm sao được?

Nếu là thái giám lâu năm gặp phải việc ngàn năm khó gặp như thế này thì hoặc vung phất trần lên, quay đầu hồi cung phúc chỉ để hoàng đế nổi trận lôi đình, kể cả trong chốc lát ngài có trừng trị hay diệt cả nhà y cũng không liên quan tới mình. Nếu đụng phải tên nào lòng dạ độc ác, không biết chừng hắn còn ra lệnh một tiếng, lập tức đám Cẩm Y vệ sẽ giết ngay tên bầy tôi dám kháng chỉ tại chỗ.

Nhưng tên tiểu thái giám này hoàn toàn không có chủ định, hắn chỉ nghĩ tới việc bắt Dương Lăng mang về, bằng không hoàng đế nổi giận, chưa biết chừng cái mông của hắn còn bị đánh đòn. Hắn lượn hai vòng tại chỗ, vung tay lên nói vẻ nghẹn ngào bi phẫn, tiếng kêu the thé:

- Đi! Đuổi theo Dương thị độc!

- Dạ!

Nghe khâm sai lên tiếng, đám Tiểu Hoàng Môn, Cẩm Y Vệ cùng giật cương ngựa, hai đại hán kéo xe gấm chạy theo tên thái giám truyền chỉ đuổi theo Dương Lăng.

Khắp con đường lớn, người đi đường đang lui tới tấp nập. Đám sĩ tử vừa mới thi xong kỳ đầu chuẩn bị thi tiếp buổi chiều thấy cảnh lạ lùng này đều chạy theo hỏi han những người đang bám theo sau tên tiểu thái giám xem náo nhiệt. Hiểu chuyện, bọn họ không khỏi vừa sợ hãi vừa buồn cười, thấy việc kháng chỉ của Dương Lăng thật sự quá hoang đường, nhưng đáy lòng cũng thầm bội phục dũng khí của y.

Một vài đại cô nương, tiểu cô nương càng cảm động tới nước mắt lưng tròng. Đàn ông si tình như vậy, dù trên sân khấu kịch cũng không tìm thấy được. Chỉ trong chốc lát, tin lạ về việc lục phẩm thị độc ôm vợ cầu thầy, ngay cả thiên tử hạ chiếu mà cũng dám kháng chỉ lan truyền khắp kinh thành với tốc độ kinh người.

Tên tiểu thái giám đuổi tới Hộ Quốc tự, vừa kịp nhìn thấy Dương Lăng bế người lảo đảo đá tung cửa bước ra, vài người nước ngoài mũi cao mắt lam thập thò ở phía sau, ngón tay đang múa loạn trước ngực và trên trán (BT: ý là làm dấu thánh).

Thì ra lúc đó y thuật Tây Dương chỉ khá là sở trường về ngoại khoa phẫu thuật. Vì những thứ dụng cụ như kính hiển vi, ống nghe bệnh đều chưa được phát minh nên y học về nội khoa thua xa so với ngoại khoa. Đám thầy thuốc này sở trường thuật mổ sọ, trích huyết, rửa ruột, chứ những thứ sốt cao đột ngột như Ấu Nương thì hoàn toàn bó tay.

Đám thầy tu này cũng đem theo vài dược vật trị cảm mạo của Tây Dương tới đây. Nhưng kỳ thật hiệu quả của thuốc cũng không tốt, hơn nữa vài năm qua cũng đã dùng hết rồi, do đó cũng lực bất tòng tâm với bệnh của Ấu Nương.

Tiểu thái giám đuổi kịp Dương Lăng, hưng phấn tới mức khuôn mặt đỏ rực lên, hắn vội vàng chạy tới vươn tay giữ chặt Dương Lăng cầu khẩn:

- Dương đại nhân! Hoàng Thượng đang ở kim điện chờ ngài. Ngài... ngài trước hết đưa quý nương tử đến lang trung để người ta chăm sóc còn chúng ta đi gặp Hoàng Thượng sớm đi.

Dương Lăng cười thê lương:

- Gặp Hoàng Thượng làm gì? Thăng quan phát tài à? Ngươi hồi cung phúc chỉ đi, ta phải đưa Ấu Nương về nhà.

Y chua xót nhìn Ấu Nương nói tiếp:

- Từ khi đến kinh thành tới nay, ta vẫn không hề chăm sóc cho nàng. Hằng ngày vẫn để nàng thui thủi một mình ở nhà, bây giờ ta phải đi về chăm sóc nàng, trở về cùng nàng.

Bây giờ Dương Lăng đã không còn tiếc gì nữa. Đừng nói sinh mạng y căn bản không còn lâu nữa, cho dù có thể sống lâu trăm tuổi nhưng không có Ấu Nương bên người thì còn ý nghĩa gì nữa? Lúc này mặt trời đã lên cao, nhưng lòng y lại lạnh tới xương tủy.

Tiểu thái giám chỉ ngây người đứng đực ở cửa, ngẫm nghĩ một lát rồi lại muốn đuổi theo. Mấy tên Cẩm Y thị vệ trong cung thấy đám người vây xem quá nhiều, không kìm được vội tới bên cạnh tên tiểu thái giám thấp giọng khuyên:

- Công công, hồi cung phúc mệnh đi! Nếu cứ tiếp tục đuổi theo như vậy thì còn gì thể diện hoàng gia chứ?

Tiểu thái giám hoang mang lo sợ, nhìn trời thấy đã gần trưa, sợ hoàng đế đợi lâu sốt ruột nên hắn bèn giậm chân, hổn hển:

- Đi, hồi cung! Lập tức hồi cung phúc mệnh!

Hắn để chiếc xe gấm trống không cho hai tên vạm vỡ từ từ kéo về, còn mình cùng những người khác quất ngựa như bay, lao nhanh về phía hoàng thành.

***************************************

Vua Hoằng Trị cùng bầy tôi lại tiếp tục bàn luận việc nước. Thấy thời gian triều sớm cũng sắp hết, ông cho văn võ bá quan trở về, chỉ lưu lại đại học sĩ Cẩn Thiên điện Lý Đông Dương, đại học sĩ Hoa Cái điện Tạ Thiên, đại học sĩ Vũ Anh điện Lưu Kiện, thượng thư bộ Lễ Vương Quỳnh và Kiến Xương hầu Trương Duyên Linh dùng bữa trong cung.

Hoằng Trị muốn mượn cơ hội ăn chung để làm dịu hiềm khích giữa đám hoàng thích và mấy vị đại học sĩ. Dù sao nếu để đám cựu thần rất được nể trọng này cứ tranh tranh đấu đấu mãi với đám hoàng thân thì quả là một việc khiến cho người ta đau đầu.

Ông đã thầm bày mưu đặt kế để lát nữa Lưu Kiện, Lý Đông Dương cầu tình cho Trương Hạc Linh trong bữa tiệc, sau đó trước mặt Trương Duyên Linh ông sẽ phóng thích Thọ Ninh Hầu, đồng thời mời họ cùng khảo sát học vấn của Dương Lăng. Có được mấy vị này đồng ý, ông sẽ ban một chức quan cho Dương Lăng, lúc đó sẽ không còn ai dám phản đối nữa. Vì là tiệc nhà, Hoằng Trị lưu tâm gọi cả hoàng hậu cùng em trai của nàng ra dùng bữa.

Hôm nay thượng triều, Trương Duyên Linh nơm nớp lo sợ trong lòng. Thấy thái độ Hoàng Thượng hiền hoà, còn mời cả hoàng hậu tỷ tỷ ra ăn cùng, lúc này hắn mới định thần. Hôm qua mẹ của hắn là Kim phu nhân về đến nhà lập tức kinh hoàng tìm hắn, nói cho hắn biết việc Thái tử bị đánh. Trương Duyên Linh nghe xong cũng giật bắn cả người. Không dám chậm trễ, hắn lập tức chạy tới phủ của ca ca truy vấn xem nguyên do của vụ ẩu đả ngày ấy.

Lúc đó Nghiêm Khoan đang gục trên giường giả chết, nghe báo Nhị Hầu gia tới, tưởng là người cùng phe nên vội vàng khom lưng, nhảy tưng tưng như tôm tới trước mặt Hầu gia kêu khóc, kể lại toàn bộ sự tình diễn ra, cầu hắn phân xử cho mình.

Kiến Xương hầu nghe gã nói xong, liền biết tên tiểu thư sinh bị hắn đánh chính là Thái tử chẳng sai. Trương Duyên Linh không khỏi ngứa cả răng, ca ca vào tù hoàn toàn là vì tên tặc tử này sinh chuyện. Gã còn dám xúi giục mình ra mặt, nếu bởi vậy mà Trương gia mất thánh quyến thì chém đầu gã cũng chẳng oan.

Trương Nhị lão gia nghe Nghiêm Khoan khóc lóc kể lể xong, không nói hai lời tung một cú thỏ đá ưng. Nghiêm Khoan lập tức kêu thảm một tiếng, bò lăn ra đất giãy dụa. Người ta nói cháu ngoại trai giống cậu, hôm nay cậu cũng học theo cháu ngoại trai. Cú đá của Kiến Xương hầu chuẩn vô cùng, đá thẳng vào nơi mà lần trước Chu Hậu Chiếu đạp trúng. Gân đùi Nghiêm Khoan lại bị trúng thêm một cước, lập tức kêu thảm một tiếng, lăn lộn trên mặt đất, đau đến mức nghẹn thở, ngất đi.

Tiểu muội của gã thấy thế lao tới khóc sướt mướt như mưa, cũng không biết một cước này của Kiến Xương hầu đã cắt mất hương hỏa của Nghiêm gia hay chưa. Trương Duyên Linh xanh mặt, chỉ vào sủng thiếp của ca ca hắn lạnh lẽo nói:

- Khóc gì mà khóc? Nếu đồ khốn đó mà chết đi thì cuộn cho gã một chiếc chiếu rồi ném ra vùng hoang dã cho chó ăn! Nếu gã mạng lớn, bảo gã sau này nhún nhường lại một chút cho ta. Buộc cái đuôi vào mông cho chặt, đừng để gã ra ngoài gây chuyện nữa.

Còn nữa, tống tờ văn tự gây rắc rối đó về tay cô ả kia càng sớm càng tốt! Mẹ nó! Dám đoạt nữ nhân của Thái tử, cụ nội nó, ngươi hiềm mình sống quá lâu à!

Hắn trợn mắt, quay về đám gia nhân đang câm như hến đứng ở đầu sân lớn tiếng quát:

- Câm miệng hết cho ta, kẻ nào đem việc này hé ra ngoài nửa lời, ta cắt lưỡi kẻ đó!

Trương Duyên Linh đánh Nghiêm Khoan xong, lại ra lệnh cho đám thợ suốt đêm gấp rút dỡ bỏ mấy căn nhà vừa mở rộng chiếm dụng đường đi và nhà dân, để miễn bị kẻ khác bưới móc. Phải làm xong ngay sáng sớm mới có hiệu quả.

Lúc này hắn thấy Hoằng Trị nói nói cười cười, cũng chưa dám đề cập tới việc huynh trưởng bị giam. Dần dần hắn yên tâm, cũng bắt đầu theo ý mà nói theo, nhất thời khách chủ vui vẻ, không khí dần dần ấm lên.

Đang lúc bọn họ trò chuyện, tên tiểu thái giám vội vàng chạy về, quỳ sụp xuống đất, khóc thút thít, bẩm:

- Hoàng Thượng! Nô tài có tội, nô tài làm việc không xong.

Hoằng Trị nghi hoặc hỏi:

- Chuyện gì mà làm không xong? Ngươi nói lại xem nào!

Tên tiểu thái giám không dám đứng dậy, vẫn quì tại chỗ bẩm:

- Nô tài đi truyền chỉ. Dương Thị Độc nghe xong ý chỉ, lại nói là phu nhân trúng phải bệnh nặng, phải đưa nàng đi khắp nơi cầu thầy, bảo nô tài về cung bẩm báo trước. Hắn... hắn kháng chỉ không tuân, nô tài không có biện pháp, đành phải trở lại một mình.

Đám thần tử trong bữa tiệc nghe vậy cùng biến sắc. Dương Lăng ăn tim gấu mật beo à? Đừng nói thê tử y bị bệnh nặng, cho dù lúc đó trời có sụp xuống, tiếp được thánh chỉ cũng phải lập tức đi yết kiến ngay. Việc hôm nay quả thực là chưa từng thấy, há Hoằng Trị có thể không nổi giận?

Cho dù rộng lượng vị tha, nhưng nghe xong những lời này sắc mặt Hoằng Trị cũng sa sầm xuống. Ông đặt mạnh đôi đũa ngà voi xuống bàn đánh cộp một tiếng, mấy vị đại thần thấy thế hấp tấp đứng dậy sụp lạy, quì dài trên mặt đất, không dám thở mạnh.

Hoằng Trị cả giận bảo:

- Giỏi cho Dương Lăng! Lá gan gã to lắm, dám can đảm kháng chiếu!

*********************************

Về đến nhà, Dương Lăng ôm Ấu Nương xuống xe. Vừa mới đi đến cửa, y chợt nghe một thanh âm trầm bổng:

- Dương thị độc! Quả là vừa khéo, tại hạ vừa mới tiến kinh, đang muốn đăng môn bái phỏng, không nghĩ tới... Ủa? Đây là... A! Tôn phu nhân làm sao vậy?

Dương Lăng quay đầu nhìn lại. Y thấy một lão nhân khuôn mặt quắc thước đi tới trước mặt, kinh ngạc nhìn Ấu Nương trong lòng mình. Dương Lăng ngơ ngác nhìn hắn hồi lâu, nhất thời thần trí vẫn chưa tỉnh lại. Lão nhân đó thấy y tinh thần hốt hoảng, vội nhắc:

- Tại hạ là thương gia mua bán thuốc Ngô Kiệt ở Kê Minh Dịch đây mà, đại nhân còn nhớ chứ?

Vì gần đó còn có một số dân chúng đang đi theo Dương Lăng xem náo nhiệt, nên Ngô Kiệt không dám nói tới thân phận chính thức của mình, chỉ dùng thân phận nhà buôn nhắc nhở y. Dương Lăng nghe xong, chợt cảm thấy rất quen thuộc, y bất giác gật đầu nói:

- Nhớ, ngươi là Ngô Kiệt.

Ngô Kiệt tần ngần nhìn Hàn Ấu Nương, hỏi:

- Dương đại nhân, tôn phu nhân bị... làm sao vậy?

Dương Lăng cười buồn bã, đáp:

- Ấu Nương bị bệnh thương hàn, bệnh nặng không thể chữa được.

- A?

Thiên hộ Cẩm Y Vệ Ngô Kiệt giật mình nói:

- Bệnh thương hàn ư? Nhưng thật ra tại hạ có một phương thuốc, đại nhân có muốn thử...

Dương Lăng khanh khách cười, thần sắc kỳ dị hỏi lại:

- Ta đã chữa chạy khắp các danh y trong kinh thành. Ai cũng bó tay, ngươi trị được sao?

Ngô Kiệt đỏ mặt, đáp:

- Tại hạ chỉ biết sơ về dược lý, nói đến chữa bệnh... Thật sự là xấu hổ, nhưng phương thuốc là do bá phụ Ngô Thanh Viễn truyền xuống, nghe nói chữa bệnh thương hàn rất tốt...

Vừa nghe nói tới mấy chữ “Ngô-Thanh-Viễn”, bảy hồn sáu phách của Dương Lăng đột nhiên trở về cơ thể. Y sải bước chặn ngay trước mặt Ngô Kiệt, trợn tròn mắt quát:

- Ngươi nói ai? Ngô Thanh Viễn sao? Viện trưởng Thái Y viện Ngô Thanh Viễn à?

Ngô Kiệt giật bắn cả người, lui lại một bước, lập cập đáp:

- Chính... Chính là ông ấy! Đúng là bá phụ ta từng giữ chức viện trưởng Thái Y viện, chỉ là bảy năm trước đã qua đời. Đại nhân nghe nói về ông ta rồi à?

Dương Lăng hớn hở, y ngửa mặt lên trời hét to một tiếng, rồi vội vàng bảo Ngô Kiệt:

- Mau mau, mau vào phòng! Nói cho ta biết phương thuốc của ngươi!

...

Cửa sổ phòng Dương Lăng đóng chặt. Ngô Kiệt và huynh đệ họ Điền đều đang đứng trong gian nhà chính, thần sắc khẩn trương đợi chờ tin tức trong phòng.

Ngô Kiệt chép lại phương thuốc xong, lập tức gọi tên xa phu đi lấy thuốc, xa phu bèn chạy về Hạnh Lâm Cư. Anh em họ Điền nghe nói phương thuốc này do diệu thủ thần y Ngô Thanh Viễn ngày xưa lưu lại, có thể trị được bệnh thương hàn cấp tính bèn lập tức tự mình hốt dược liệu tốt nhất, rồi cùng đến xem kết quả ra sao.

Phương thuốc trị bệnh thương hàn của Ngô Kiệt gọi là ”Hợp Chưởng Cao”, chuyên trị bệnh thương hàn cấp tính dẫn tới bất tỉnh nhân sự. Thuốc này không được uống, chỉ dùng Xuyên Ô, Thảo Ô, Ban Mao, Ba Đậu, Tế Tân, Hồ Tiêu, Phèn Chua, Can Khương, Ma Hoàng theo phân lượng nhất định mà điều chế, nghiền thành bột. Dùng dấm quết thành viên, cặp vào nách, khoeo chân, đốt tay người bệnh. Mặt khác, cho một người nằm phủ lên trên, hai đôi bàn tay đặt áp vào nhau, tứ chi tương hợp, đắp chăn thật dày, cho đến lúc cả người đẫm mồ hôi, lại dùng nước nê hoàng tẩy sạch là khỏi.

Trên người Dương Lăng đắp ba tầng chăn bông dày, hai tay nắm lấy đôi bàn tay lạnh buốt của Ấu Nương. Nóng quá, y đổ mồ hôi dầm dề, vì đang áp vào má Ấu Nương nên những giọt mồ hôi to tướng từ trên đầu y lăn xuống, rơi lên trán Ấu Nương.

Cảm thụ nhịp hô hấp của nàng rất khẽ, trong lòng Dương Lăng không ngừng thầm gọi:

- Ấu Nương, tỉnh lại! Ấu Nương, nàng nghe được chứ? Nhất định phải sống lại, nàng hứa sẽ theo tướng công cả đời mà...

Bên dưới, dường như Ấu Nương nghe được tiếng thầm thì trong lòng hắn, rất lâu sau đó, nàng chợt phát ra một tiếng rên rỉ như có như không...

*********************************

Trong hoàng cung, Hoằng Trị đang chắp tay đi đi lại lại, hồi lâu vẫn chưa nói lời nào. Trương Duyên Linh không nhịn được, cả giận bẩm:

- Hoàng Thượng ân sủng với Dương Lăng đến thế, y lại càn quấy như vậy, không xem vua ra gì, đại nghịch bất đạo, thật là trái đạo lý. Hoàng Thượng, phải lập tức chém đầu y, làm gương cho thiên hạ!

Thượng thư Vương Quỳnh cũng giận đến tóc bạc dựng cả lên, tâu:

- Thiên địa quân thân sư (trời - đất – vua - cha - thầy)! Uổng cho Dương Lăng đọc rất nhiều sách thánh nhân, đến cả loại đạo lý này cũng không hiểu. Không giết người này, uy nghiêm triều đình còn đâu nữa. Bệ hạ, xin hạ chỉ đi.

Bọn người Lưu Kiện tuy có lòng tiếc rẻ nhân tài, nhưng lần này Dương Lăng gây chuyện thật quá lớn. Thiên tử có chiếu mà không phụng, đó là tội giết cả cửu tộc. Ngay cả giết một mình y cũng xem như là nhẹ nhàng cho y rồi, họ còn làm sao mở miệng xin bệ hạ khai ân chứ?

Lý Đông Dương thấy bước chân hoàng đế Hoằng Trị càng lúc càng chậm lại, hai hàng lông mày từ từ nhíu chặt hệt như muốn hạ chỉ. Trong lòng lão vô cùng căng thẳng, chợt nhanh trí nghĩ ra một cách, lúc này lão cũng chẳng còn tâm trí xem xét liệu cách đó có hữu hiệu hay không, lập tức quì sụp xuống, vô cùng phẫn nộ bẩm:

- Hoàng Thượng! Đừng do dự nữa, thần cũng nghĩ rằng Dương Lăng đáng chết. Bệ hạ triệu hắn tiến cung, thánh chiếu đã ban, đó là thứ trọng yếu nhất trên đời này. Đừng nói thê tử hắn đang mắc bệnh nặng, cho dù nhà y có cháy cũng phải lập tức tiến cung, sao dám trái lẽ cương thường, không phân nặng nhẹ như thế?

Lý Đông Dương lại chầm chậm thốt từng từ:

- Hơn nữa, nếu người bị bệnh là cha mẹ y thì còn châm chước được, ít nhất còn được xem là có hiếu. Nhưng thê tử là cái quái gì? Thê tử mà mất đi, cưới một người khác là được, đại trượng phu kiến công lập nghiệp, lo gì không có vợ đẹp thiếp xinh. Tên Dương Lăng này có vợ thì quên cha, có cha lại quên vua, người ta nói: thê tử như y phục...

Lưu Kiện, Tạ Thiên nhất thời nghe mà ngơ ngác chẳng hiểu gì. Lý Đông Dương chính là một đại gia nổi tiếng của văn học đương thời, sao hôm nay nói chuyện lại thô lỗ, ngang ngược như thế? Lại nữa, rõ ràng bệ hạ có ý yêu tài, là vì chuộng tài nên mới chần chừ, khó ra quyết định xử trảm; ngươi không thương tiếc kẻ hậu bối thì thôi, sao lại hùa theo bỏ đá xuống giếng?

Hai người bọn họ còn chưa hiểu được thâm ý của lão thì Lý Đông Dương đã đứng thẳng người lên, mồm miệng leo lẻo, nước bọt bắn bay tung tóe, chê bai thê tử đến mức đừng nói là y phục, ngay cả quần lót cũng không bằng. Lão đang mắng chửi hăng say thì Trương hoàng hậu  bậc mẫu nghi thiên hạ, người đứng đầu lục cung  đã mặt ngọc đỏ bừng, đùng đùng nổi giận. Bà vỗ bộp lên bàn, mày liễu dựng ngược, mày phượng tròn xoe, cất giọng trong trẻo mắng:

- Lý Đông Dương! Ngươi câm mồm cho ta!

Chương 75: Ân Uy Đều Dùng

Dịch: workman

Biên dịch: Kiếp Nô

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Hừ, các ngươi mà cũng hiểu được “thiên địa quân thân sư” sao! Một kẻ không rèn luyện đạo đức, bất kính với thiên địa, không xem nặng tình ý lại có thể là người quân tử trung hiếu nhân nghĩa được ư? Lúc đó mà hắn thượng triều gặp vua, là hắn kính sợ quân vương hay tham vinh hoa phú quý?

---------------------------------

Hoàng đế Hoằng Trị có phần sợ vợ, tuy nói rằng việc đại sự không thể hồ đồ nhưng xưa nay ông rất sủng ái hoàng hậu; lúc này thấy bà nổi giận, ông cũng không khỏi giật bắn cả người. Trương hoàng hậu căm tức nhìn Lý Đông Dương, thù mới hận cũ dâng lên trong lòng, cặp mắt như sắp phun lửa.

Ngày xưa khi mình chưa sinh hoàng tử, đám người này bèn cả ngày lên triều yêu cầu hoàng đế nạp phi. Hôm qua Lý Đông Dương còn dâng sớ hạch tội anh mình khiến anh ấy phải vào ngục. Hôm nay lão lại dám nhân chuyện của Dương Lăng mà ở trước mặt mình chỉ gà mắng chó, như thế còn thể thống gì nữa?

Trương hoàng hậu cất giọng lạnh như băng:

- Hoàng Thượng tuyển hiền tài cần chú trọng người có đức hạnh. Vợ kết tóc của Dương Lăng đang lâm trọng bệnh, tính mệnh nguy trong sáng tối, nếu lúc này Dương Lăng tiếp thánh chỉ, vứt bỏ thê tử mà vào triều gặp vua thì hắn là người như thế nào?

Đó là kẻ táng tận lương tâm, thiên địa không dung! “Thiên địa quân thân sư” hử? Hừ, các ngươi mà cũng hiểu được “thiên địa quân thân sư” sao! Một kẻ không rèn luyện đạo đức, bất kính với thiên địa, không xem nặng tình ý lại có thể là người quân tử trung hiếu nhân nghĩa được ư? Lúc đó mà hắn thượng triều gặp vua, là hắn kính sợ quân vương hay tham vinh hoa phú quý?

Trương hoàng hậu vừa nói vừa không khỏi quắc mắt nhìn tên đệ đệ bảo bối. Tên tiểu đệ thật sự hồ đồ, đám đại học sĩ quen trò ném đá giấu tay, thế mà hắn lại không nhìn ra, còn nhắm mắt hùa theo.

Trương hoàng hậu đổi giọng, quay sang Hoằng Trị đế dịu dàng nói:

- Bệ hạ! Thần thiếp biết bệ hạ tức giận Dương Lăng dám không tuân thánh chỉ. Nhưng điều này cũng nói rằng bệ hạ có tuệ nhãn tinh tường đã nhận biết được nhân tài. Từ xưa tới nay, có mấy hiền thần mà không xúc phạm tới long nhan chứ? Dương Lăng không tham quyền, không màng lợi, trọng tình trọng nghĩa, rất có phong phạm của bậc hiền giả ngày xưa.

Thưở xưa, Tống Hoằng thời Hán Quang Vũ Đế không phải cũng lấy lý do là “Tào khang chi thê bất hạ đường” (1) mà trái thánh ý sao? Thời Đường Thái tông có vợ của Phòng Huyền Linh (2) dám kháng chỉ ngay giữa triều đình, hai vị minh quân này cũng không hề bắt tội. Có thể thấy được chỉ có vua thánh ra đời, mới có bực hiền thần như vậy xuất hiện thôi.

Lý Đông Dương khẽ nhúc nhích cái chân đang quì ê ẩm, miệng chép chép như đang nếm một món ngon: “Ừm! Ta rất thích nghe những lời này của Hoàng hậu nương nương. Xem ra phụ nữ vẫn có người đọc sách, bằng không làm sao nói được những lời như thế này.”

Trương Duyên Linh bị tỷ tỷ trợn mắt một hồi, nhất thời mù tịt mãi lúc này mới hiểu được: “Ôi, hóa ra mấy lão gia hỏa đang mắng chửi bóng gió, ngầm khuyên Hoàng Thượng đừng có sủng ái chánh cung. Hừm, đám đọc sách này thật đúng là lòng dạ ngoằn ngoèo quá mà!”

Thông suốt vấn đề, Trương Duyên Linh lập tức hắng giọng bẩm:

- Hoàng Thượng! Hoàng hậu nương nương nói rất đúng, không nên giết Dương Lăng!

Hoằng Trị bị lời nói hoàng hậu lay động, ngẫm lại hoàng hậu nói cũng có lý. Nếu Dương Lăng thật sự bỏ cả người vợ kết tóc, bất chấp sinh tử của nàng mà vào triều yết kiến mình thì sau này mình còn dám dùng người như vậy không?

Đang suy nghĩ bỗng nghe quốc cữu hô lớn như vậy, ông không khỏi lấy làm lạ hỏi:

- Chẳng phải Kiến Xương hầu mới rồi đề nghị xử phạt hắn ở mức cao nhất, thông báo cho cả thiên hạ biết ư? Sao giờ lại nói là không giết nữa?

Kiến Xương hầu đỏ mặt, đáp:

- Việc này... việc này..., vi thần cũng vừa mới hiểu ra việc có nặng có nhẹ. Đương nhiên việc vua quan trọng, việc nhà không bằng; nhưng gặp vua cũng không phải là việc gấp, cứu người mới là việc không thể trì hoãn được, việc này...

Lưu Kiện nghe hắn vất vả nói mãi mà không ra lời, không kìm được vội xen vào:

- Hoàng hậu nương nương nói đúng! Hoàng Thượng là vua nhân ái mới có hiền thần tài đức xuất hiện. Dương Lăng làm được như vậy chính là nhờ công bệ hạ giáo hoá, thật là may mắn!

Lời ngọt bùi tai, tuy Hoằng Trị biết tâm tư của đám cựu thần nhưng vẫn không kìm được phải cười khẽ. Ông về ngồi lại trên án suy tư một lát, rồi cười ha ha phán:

- Đứng lên đi, đứng lên đi! Bị tên Dương Lăng náo loạn làm mất cả hứng thú của trẫm và các ái khanh. Tới đây, tiếp tục uống rượu! Việc của Dương Lăng... tạm thời gác lại, ngày mai bàn sau đi.

Hoàng đế muốn gác lại bàn sau, bằng vào tài nghiêng theo chiều gió của đám thần tử, nếu không phải kẻ mù, có ai mà không hiểu rõ ý hoàng đế chứ? Không lập tức bắt ngay mà lại bảo là ngày khác bàn sau, bàn cái gì bây giờ? Là bàn xem nên đem xe gấm đi bắt hắn hay là vác gông xiềng đi bắt hắn ư? Bọn Lưu Kiện yên tâm, vui mừng vô kể. Lúc này Trương hoàng hậu thấy mình đánh hòa được với Lý Đông Dương một ván nên cũng dương dương tự đắc. Mọi người ăn uống vui vẻ, nhất thời xuất hiện một cục diện tốt đẹp.

*********************************

Dương Lăng ôm chặt thân thể mềm oặt gần như không chút sức sống của Ấu Nương. Đang lúc y lo âu vạn phần lại chợt nghe tiếng Ấu Nương rên rỉ, lập tức cảm thấy như nghe được nhạc tiên. Y phấn khởi tới mức tiếng gọi cũng run run:

- Ấu Nương, nương tử?

Qua hồi lâu, Ấu Nương mới cố lên tiếng đáp lời. Dương Lăng mừng rỡ, xiết thật chặt bàn tay đầy mồ hôi của nàng. Thấy Ấu Nương mỏi mệt không chịu nổi, vẫn chưa mở mắt được, y sợ nàng lại mê đi như cũ, vội ghé vào sát tai Ấu Nương gọi nhỏ:

- Ấu Nương, nàng mau tỉnh lại nhanh lên! Nàng thích tướng công ôm nàng nói chuyện, chờ khi nàng khỏe hơn, mỗi tối tướng công đều ôm nàng, đều nói chuyện với nàng, được không?

Nương tử yêu dấu của ta, tướng công không nỡ xa nàng đâu. Không phải hai ngày trước nàng từng nói là muốn mua táo để trồng trong viện hay sao? Hôm nào hai ta cùng đi mua, cùng trồng táo trong viện. Nàng nói muốn nuôi gà, vậy chúng ta nuôi gà. Đúng rồi, còn nuôi thêm con chó giữ cửa nữa, có gà bay chó nhảy mới đủ náo nhiệt chứ!

Ấu Nương, kinh thành không so được với nông thôn. Nàng chỉ một mình ở nhà, lại không có gì tiêu khiển. Đợi khi nàng khỏe mạnh, ta sẽ cùng nàng sớm sinh một... à không, sinh ra một đám tiểu bảo bối, để nàng chẳng thể rảnh rỗi nữa, nàng thích không? Nàng phải sống mới có thể giúp tướng công làm những việc này, bằng không tướng công sẽ cưới một cô vợ tuyệt đẹp khác, cùng cô ta nói chuyện phiếm, cùng cô ta trồng cây, cùng cô ta nuôi...

- Không... Không được...

Thân thể Hàn Ấu Nương bỗng nhúc nhích, rồi đột nhiên nàng rên rỉ thốt. Dương Lăng khựng lại, y đờ đẫn hồi lâu mới nhấc đầu lên khỏi mái tóc ẩm ướt của Ấu Nương, dán mắt hớn hở nhìn nàng.

Dưới ngọn đèn, hai má Ấu Nương vẫn đỏ ửng màu bệnh tật, chóp mũi lấm tấm những giọt mồ hôi nhỏ, nhưng những đốm đỏ nơi cổ đã hoàn toàn biến mất. Loại thần sắc nhợt nhạt cũng không còn thấy nữa. Đôi mi thật dài của nàng rung rung hồi lâu, khẽ mở mắt ra rồi lại mệt mỏi nhắm chặt, rên rỉ nói:

- Tướng công, người ta... mệt quá, không muốn mở mắt.

Dương Lăng luôn miệng an ủi:

- Được được, không mở mắt thì không mở mắt! Nàng được như vậy là tốt rồi, như vậy là tốt rồi.

Trong phòng vô cùng yên tĩnh, chỉ nghe tiếng tim đập thình thịch của hai người. Dương Lăng cảm thấy bàn tay nhỏ bé của Ấu Nương dần dần ấm lên, áp mặt vào trán nàng đã cảm thấy hơi nóng. Y không khỏi thở phào một hơi.

Qua hồi lâu, Ấu Nương mới thở mạnh một chút, nàng nhúc nhích thân thể mềm mại, yết ớt nói:

- Tướng công, nóng quá...

Dương Lăng vội đáp:

- Đừng nhúc nhích, cẩn thận không lại trúng gió. Mớ thuốc còn chưa tan hết mà.

Ấu Nương ôn thuận ừm một tiếng, thở hào hển nói:

- Tướng công... Có thể nhẹ một chút không, Ấu Nương thở... thở không nổi.

Dương Lăng nhìn lại, mới biết Ấu Nương bị mình đè tới mức thở không nổi, vốn y còn tưởng Ấu Nương vẫn chưa đủ khí lực để nói chuyện. Dương Lăng vội vàng chống cùi chỏ xuống, khẽ khàng nhướn người lên, Hàn Ấu Nương thở gấp một lát, từ từ mở mắt. Nàng ngắm nhìn gương mặt đầy mồ hôi của Dương Lăng một lúc rồi âu yếm bảo:

- Tướng công, Ấu Nương cảm thấy khỏe nhiều rồi, chàng... chàng nghỉ ngơi đi.

Dương Lăng ừm một tiếng, nghiêng người qua một bên nằm dựa vào nàng. Ấu Nương nhắm mắt lại, một chút sau lại nói khẽ:

- Tướng công, Ấu Nương muốn nghe chàng nói chuyện nữa.

- Ừm!... Nói... Nói gì nhỉ? Thường khi đều là lúc ta ngủ, nàng ghé tai ta nói chuyện mà.

Dương Lăng ngơ ngẩn đáp.

Ấu Nương hơi thẹn thùng giục:

- Nói như... vừa rồi ấy. Ấu Nương chưa từng nghe... Tướng công nói như thế đi, thiếp thích nghe lắm...

***************************

Câu chuyện Dương Lăng kháng chỉ cứu vợ vừa lan truyền khắp thành Bắc Kinh, trong toàn kinh thành vô luận cao thấp giàu nghèo, tất cả đám ”Y phục” (ý nói phụ nữ như y phục) đều đứng về phía Dương Lăng, nhao nhao ủng hộ.

Những quan chức trong kinh cũng chia thành hai phái, tranh luận mặt đỏ tía tai mãi vẫn không phân thắng bại. Kết quả là sau buổi thiết triều cùng ngày, gã đại thần nào ở nhà có con gái thì lập tức bị oanh tạc đến mệt lả, tối đến lại bị thê thiếp ném gối vào mặt tới tấp, kẻ nào lập trường không kiên định thì lập tức phất cờ trắng, quyết định giả câm giả điếc về việc này. Phe chống đối họ Dương lập tức trở nên người đơn thế cô.

Tin tức Hoàng Thượng không lập tức hạ chỉ truy bắt Dương Lăng lại được lan truyền. Một vài vị ngôn quan có giác quan thứ sáu bắt đầu đứng về phía Dương Lăng, tra cứu lệ cũ, tham khảo hồ sơ, bắt đầu luyện võ mài thương, tìm những lý lẽ để biện minh cho hành vi của Dương Lăng.

Đám sĩ tử trong kinh cũng thảo luận ồn ào. Có tên sĩ tử Giang Tây là Nghiêm Tung còn viết một bài phú dài lan truyền khắp nơi. Trước hết gã tô vẽ hoàng đế Hoằng Trị rực rỡ như Nghiêu Thuấn tái thế, lại trích dẫn kinh điển, trắng trợn tán dương Dương Lăng đã được bệ hạ giáo hoá, vua sáng tôi hiền. Đám người khác hùa theo, như thể vua mà không thế thì không phải là minh quân, thần mà chẳng vậy thì chẳng phải trung thần.

Bản thân Dương Lăng cũng bận tới mức không thể dứt ra được. Y chỉ có thể viết một phong thư, bảo Ngô Kiệt mang về Kê Minh mời phụ tử họ Hàn lập tức tiến kinh. Y nghĩ lần kháng chỉ này không chết cũng phải ngồi tù. Bệnh Ấu Nương nặng như thế, làm sao chịu được đả kích này nên y hoàn toàn không dám kể với nàng, chỉ mong sao cha con họ Hàn có thể sớm tới kinh thành, Ấu Nương sẽ được chăm sóc chu đáo.

Thấy Ấu Nương vừa bệnh xong, thân thể còn suy yếu, Dương Lăng bèn đi mua một nha hoàn trẻ tuổi về chăm sóc nàng. Khi y tới chỗ quan phủ đăng ký giấy tờ chủ tớ thì đám người nha môn từ chủ bộ tới nha dịch đều chạy ra cửa vây tròn nhìn ngắm y. Nhiều ánh mắt kiểu “Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn” (3) nhìn y đầy vẻ luyến tiếc.

Sáng sớm hôm sau, lần đầu không cần Ấu Nương đánh thức, Dương Lăng đầy bụng tâm sự đã dậy rất sớm. Y thu dọn xong xuôi, lưu luyến nhìn thoáng qua Ấu Nương còn đang ngủ say, lặng lẽ gọi tiểu nha đầu Vân Nhi đến dặn dò một hồi, rồi chạy tới Tử Cấm thành.

Vết thương trên mông Dương Lăng vẫn chưa lành, sợ tới muộn nên y phải đi xe. Như thường lệ khi đi tới cửa hông, thị vệ Cấm Cung xét yêu bài của y, rồi cười lạnh nhạt bảo:

- Dương đại nhân! Nội cung truyền ý chỉ, nếu Dương đại nhân tới thì không cần phải đi Đông cung thị độc mà quì ngoài ngọ môn chờ thánh dụ là được.

Dương Lăng tim đập thình thịch, chắp tay đáp:

- Dạ, đa tạ tướng quân!

Y tập tễnh đến trước cửa cung. Một đám văn võ đại thần người mặc triều phục, tay cầm hốt ngà đang đứng chờ cửa cung mở để vào. Thấy một tên quan hàm lục phẩm đi tới, cả bọn không khỏi lộ vẻ kinh ngạc, đều đưa mắt tò mò nhìn y.

Dương Lăng nhìn thẳng phía trước, đi đến cửa cung nghiêm chỉnh quỳ xuống, cúi đầu không nói gì.

Đá phiến bằng phẳng, khi vừa quỳ thì không sao, nhưng quì lâu thì đầu gối lại ê ẩm. Ở cửa cung có quan chức phụ trách việc theo dõi dung nhan của văn võ bá quan. Bây giờ Dương Lăng là tội thần, không dám hành động thiếu suy nghĩ khiến cho người khác có cớ luận tội nên y đành phải cố mà nhẫn nại.

Không lâu sau, tiếng chuông du dương từ xa xa vọng đến. Ánh nắng đầu tiên trên không trung rọi lên cửa cung màu son. Cửa cung vừa mở, đủ loại quan lại bắt đầu thượng triều. Dương Lăng cúi gục đầu, chỉ nhìn thấy những đôi ủng quan lại đi qua trước người mình, phát ra âm thanh sàn sạt.

Buổi triều sớm bắt đầu rồi. Thời gian trôi qua từng giây. Hai tay Dương Lăng chống đất, đầu gối ê ẩm không còn tri giác; vì phải giữ mãi một tư thế nên cổ cũng trở nên mỏi nhừ không chịu nổi, mồ hôi từ trên trán nhỏ xuống từng giọt.

Tiếng chuông lại vang lên, một đám quan lại bãi triều nối đuôi nhau trở ra, đi qua trước mặt y. Tinh thần Dương Lăng rung lên: buổi triều sớm tan rồi, hoàng đế cũng nên gặp mình chứ. Nhưng y đợi hồi lâu mà trong cung vẫn im ắng.

Dương Lăng không khỏi tuyệt vọng. Chẳng lẽ hoàng đế muốn mình quì đến chết tại nơi này sao? Y đã chịu không nổi sự giày vò phải giữ mãi một tư thế lâu như thế này rồi. Hai tay Dương Lăng cố gắng chỏi đất, trước mắt sao bay loạn xạ, bắp thịt cổ giật giật.

Dương Lăng cũng chẳng biết làm sao mà mình có thể chống đỡ được tới khi buổi ngọ triều chấm dứt, mãi đến khi một tên tiểu thái giám đi đến trước người y cao giọng hô: “Dương đại nhân! Bệ hạ gọi ngài tiến cung!“ thì y mới tỉnh người...

Dương Lăng cố gắng một hồi mới loạng choạng đứng lên được, lom khom theo sau tên tiểu thái giám đi vào cung. Qua cầu Kim Thủy, vượt cổng Thái Hòa, qua điện Thái Hòa, điện Trung Hòa, điện Bảo Hòa, xuyên qua cổng Kiền Thanh, cuối cùng Dương Lăng được tên tiểu thái giám dẫn thẳng vào nội đình. Lúc này y đã dần dần bình tĩnh lại: “Hoàng đế gặp mình trong nội điện, ít ra mình cũng không bị họa mất đầu.”

Dương Lăng được dẫn tới trước điện, tên tiểu hoàng môn khom người xướng to:

- Bẩm Hoàng Thượng, Dương Lăng cầu kiến.

Từ trong, có một lão thái giám cất cao giọng nói:

- Bệ hạ có chỉ, tuyên hắn yết kiến!

Dương Lăng vừa bước vào cửa đã thấy hoàng đế Hoằng Trị mặc thường phục màu vàng sáng ngồi sau án đang múa bút vẽ tranh, bên cạnh là tên Đại thái giám có tên Miêu Quỳ mài mực hầu hạ. Trong ngự thư phòng ngoại trừ bọn họ ra thì không còn bất kỳ người nào khác.

Dương Lăng vội vàng tiến lên vài bước, quỳ xuống đất bẩm:

- Tội thần Dương Lăng khấu kiến Hoàng Thượng, tội thần vạn lần đáng chết!

Hoằng Trị làm như không nghe y bẩm. Ông vẫn chú tâm vào giấy vẽ, múa bút phác họa rất nhanh một hồi, sau đó hạ bút cười hỏi:

- Thế nào?

Miêu Quỳ tán thưởng:

- Nét vẽ của bệ hạ rất có lực, thần thái sống động, thực là tác phẩm của đại gia.

Hoằng Trị cười ha ha, nói:

- Ngươi thì biết gì! Ha ha! Dương thị độc! Ngươi đến xem trẫm vẽ bức này như thế nào?

Dương Lăng thấy ông cười nói an nhàn, xem ra cũng không đề cập gì tới chuyện mình kháng chỉ, không khỏi cảm thấy kỳ lạ. Y thấp thỏm không yên, đứng dậy tới trước mặt Hoằng Trị, nhìn lên ngự thư án, thấy trên giấy có vẽ một ngọn núi, trên núi cây cối rậm rạp, đỉnh núi có một cây tùng xanh thẳng tắp như muốn chọc thẳng vào mây, xa xa mờ ảo có những dãy núi chập chùng. Cả bức họa mặc dù đơn giản, nhưng tài vẽ quả nhiên bất tục.

Dương Lăng không hiểu hội họa, nhưng kiếp trước hắn giỏi thư pháp, thơ cổ nhớ rất nhiều. Mắt thấy những dòng vẽ non nước đậm nhạt thích hợp, nhưng lại không có cách nào đánh giá được, y liền khéo léo tâu:

- Bệ hạ công lực hùng hậu, càng khó hơn chính là bức tranh này ngụ ý thâm sâu, chí trùm thiên hạ. Nhìn cây tùng um tùm ở nơi cao ngàn trượng này, tuy sần sùi không vuông vức, nhưng vẫn có thể dùng để dựng nhà lớn, tất phải là trụ cột đây (4).

Trong mắt Hoằng Trị hiện lên chút dị sắc, ông cười khẽ:

- Chẳng lẽ Dương khanh chỉ nhìn một gốc tùng đơn độc này thôi sao! Ngươi phải nhìn cây cối trên cả quả núi này, có những cây mọc thẳng tắp có thể làm đòn xà, lại có những cây tráng kiện có thể làm rường cột, nhưng cũng có rất nhiều cây cong queo hình thù kỳ dị, đành phải chặt xuống làm củi đun thôi.

Ông ung dung cười, khóe môi lại mang chút lãnh ý:

- Dương khanh! Ngươi nguyện làm rường cột, làm đòn xà hay làm củi đun đây?

Dương Lăng không chút nghĩ ngợi liền quỳ xuống, lớn tiếng tâu:

- Thần nguyện làm gỗ xà ạ!

Miêu Quỳ hơi lạng người, chút nữa thì lật úp cả nghiên mực Đoan Khê trong tay. Còn Hoằng Trị tưởng rằng y sẽ phơi gan trải mật, hùng hồn trần tình một hồi, không nghĩ tới y vừa mở miệng lại phun một câu như vậy. Hoằng Trị ngẩn người hồi lâu mới kinh ngạc hỏi:

- Cái gì? Ngươi nguyện làm gỗ xà à?

Dương Lăng cúi đầu đáp:

- Dạ, thần văn không thể được như tam công Lưu, Tạ, Lý để có thể trợ giúp bệ hạ trị quốc an thiên hạ, võ không thể chỉ huy thiên quân vạn mã, chinh chiến chốn thảo nguyên hoang mạc, dương oai tứ hải. Thế nên thần xin nguyện làm gỗ xà, có thể vì bệ hạ mà giữ một làng một huyện, tạo phúc cho dân chúng một phương là thần thoả mãn rồi.

Hoằng Trị nghe xong phì cười, cảm thấy tên bầy tôi này tuy mưu lược, nhưng tính tình lại ngay thẳng đáng yêu, căn bản là một tên nông nổi. Ông thoáng nhìn thấy Dương Lăng thưa chuyện mà cặp đầu gối còn khẽ run run, cũng không biết là vì sợ quá hay vì quì lâu ngoài ngọ môn. Trong lòng ông không khỏi thông cảm: “Thôi, hôm nay cho y quì ở ngọ môn một lần trước mặt văn võ bá quan coi như là khiển trách rồi. Ta vẫn cần người này, nếu dọa y sợ hãi quá thì từ nay y làm việc sẽ ngại đầu ngán đuôi, e rằng lợi bất cập hại.”

Ông cười ha ha, bảo:

- Đứng lên đi! Ngươi cố tình so mình với các ái khanh Lưu Tạ Lý, như vậy lòng dạ cũng đã cực cao rồi. Khi họ cùng tuổi ngươi, cũng cùng thân phận như ngươi mà lên thôi. Lúc còn bình thường như ngươi, họ còn chưa có được hùng tâm như ngươi bây giờ đâu, do đó ngươi cũng không cần phải tự ti.

Ông nói rồi đi vòng qua thư án, đề bút vẽ trên bức họa một hàng chữ to như rồng bay phượng múa: ”Sâm sâm thiên trượng tùng, tuy lỗi kha đa tiết mục, dụng chi đại hạ, chung thị đống lương chi tài” (xem chú thích (4)), đưa cho Dương Lăng, bảo:

- Bức họa này trẫm ban cho ngươi, hi vọng ngươi nhớ những gì nói ngày hôm nay, luôn luôn nhắc nhở bản thân. Ha ha, ngươi lui ra đi!

Dương Lăng ngơ ngác tiếp nhận bức họa báu của Hoằng Trị, vẻ mặt hoang mang. Hoàng Thượng để mình quì ở ngoài cửa cung tới tận giờ ngọ, khi mình vào lại ban cho một bức họa, sau đó đuổi về nhà? Việc này chứng tỏ thiên uy quả thật không lường được.

Y bẩm như trút được gánh nặng:

- Dạ, thần cáo lui!

Nói rồi hai tay nâng bức họa lên khỏi đầu, y khép nép lui xuống. Hoằng Trị đế nhìn y rời khỏi ngự thư phòng, ánh mắt lộ nét cười. Ông khẽ gục gặt đầu:

- Không tự thị, tất rạng danh; không tự phụ, tất có công; không khoe khoang, tất sống lâu. Ừm, tuổi nhỏ mà có thể có được kiến giải như vậy, không uổng công trẫm một phen bồi dưỡng. Miêu Quỳ! Truyền chỉ bãi chức Dương Lăng không làm thị độc Đông cung nữa, chuyển sang làm quan trung quân ở Thần Cơ doanh.

Miêu Quỳ kinh hãi biến sắc, vội hỏi:

- Bệ hạ! Dương Lăng vừa mới bị phạt đã thăng lên chức quan trung quân, e rằng đám triều thần sẽ lại dị nghị. Hoàng Thượng, có khi nào nên cho y nhậm chức phó đô tư trước, sau này mới từ từ lên chức?

Hoằng Trị cười khổ một tiếng, lòng thầm nghĩ: “Chẳng phải trẫm không nghĩ tới việc từ từ huấn luyện, chỉ là trẫm sợ thiên mạng đã tận, không có thời gian nữa rồi. Bây giờ lục bộ trong triều, tam công nội các đều là cựu thần, chủ yếu là lão thần, già cả hết rồi. Tuy nói họ cũng rất trung thành, nhưng dù sao nếu không xây dựng bầy tôi thành một lực lượng riêng cho con ta, cân đối công thần trong ngoài, làm sao con ta cai quản vạn dặm giang sơn, văn võ cả triều cho được?”

Hoằng Trị nghĩ ngợi một lát rồi khoát tay bảo:

- Thôi, ý chỉ của ta chỉ nói bố trí y nhậm chức ở Thần Cơ doanh, còn về phần chức vụ cụ thể... Vương Nhạc quản lý mười hai đoàn doanh, luôn luôn làm việc rất ổn thoả, cứ để lão thu xếp đi.

Đúng rồi, ban thêm cho y hai bình thuốc trị thương. Ngày hôm qua Dương Lăng kháng chỉ, ôm vợ cầu thầy, hôm nay trẫm cho vợ Dương Lăng phụng chỉ rịt thuốc cho chồng, ha ha ha!

Chú thích:

(1) Câu nói trích từ điển cố Tống Hoằng thời Đông Hán. Năm ấy hoàng đế Lưu Tú muốn gả tỷ tỷ của mình cho Tống Hoằng, nên dọ ý Tống Hoằng về chuyện “Quý dịch giao, phú dịch thê” (giàu đổi bạn, sang đổi vợ) nhưng Tống Hoằng đáp: “Bần tiện chi giao bất khả vong, tào khang chi thê bất hạ đường.”, nghĩa là: “Không thể quên những người bạn từ thuở còn hèn mọn, không thể bỏ người vợ từ thuở còn nghèo khổ”. Lưu Tú nghe xong, cảm hắn tình thâm nghĩa trọng, chẳng những không trách phạt mà còn quý trọng Tống Hoằng hơn. Điển cố “Tào khang chi thê bất hạ đường” từ đó được lưu truyền đến ngày nay.

Cũng từ đó, “Tào khang” (cám bã, người nghèo khó dùng làm thức ăn) có nghĩa bóng là “vợ cả”.

Xin xem thêm:

http://baike.baidu.com/view/488922.htm

(2) Vợ của tể tướng Phòng Huyền Linh đời Đường nổi tiếng ghen tuông, ngang ngạnh, thẳng tay đuổi cổ hai vị mỹ nhân mà hoàng thượng đích thân ban tặng Phòng Huyền Linh trong một buổi tiệc rượu. Hoàng thượng biết chuyện, triệu hai vợ chồng Phòng Huyền Linh vào cung hỏi tội, bảo rằng: một là dẫn hai vị mỹ nhân về nhà, hai là ban cho rượu độc. Vợ của Phòng Huyền Linh ngạo khí ngất trời, thà chọn rượu độc chứ quyết không để chồng nạp thiếp, một hơi uống cạn chung rượu vua ban. Thế nhưng, đó thật ra là giấm chứ chẳng phải rượu độc, vua xét lại thấy người phụ nữ này kháng lệnh cũng vì quá yêu chồng nên quyết định xá tội. Từ đó, cụm từ “uống giấm” có nghĩa bóng là các bà vợ hay ghen tuông.

Xin tham khảo thêm:

http://blog.yume.vn/xem-blog/chuyen-....35A6AAEF.html

(3) Trích từ bài hát của Kinh Kha khi qua sông Dịch đến đất Tần để hành thích Tần Thủy Hoàng: “风萧萧兮易水寒, 壮士一去兮不复还" "Phong tiêu tiêu hề dịch thủy hàn, tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn".

Dịch nghĩa: Gió hiu hắt hề, nước sông lạnh; Tráng sĩ một đi hề, chẳng trở về.

(4) Nguyên văn ”Sâm sâm thiên trượng tùng, tuy lỗi kha đa tiết mục, dụng chi đại hạ, chung thị đống lương chi tài”

Nghĩa bóng: người có tài trác việt tuy có vài khiếm khuyết, nhưng tựu chung vẫn có thể gánh vác trách nhiệm trọng đại, làm bầy tôi trụ cột. (TheJoker)

Chương 76: Nhiệm Vụ Mơ Hồ

Dịch: workman

Biên dịch: Kiếp Nô

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Dương Lăng nghiến răng, giậm chân nói:

- Hay lắm! Ta cũng không tin trên một vạn lượng bạc mà vẫn không chuộc được người!... À!... Đúng rồi, rốt cuộc thái tử gia thích cô nào nhỉ?

---------------------------------

Dương Lăng ôm bức tranh quý chưa bồi lưng của hoàng đế, ngồi xe thuê về nhà. Xuống xe, y cất bước đủng đỉnh nghênh ngang vào nhà, uy nghi chẳng kém các đại thần thượng triều. Phiền một nỗi là tiểu nha hoàn Vân nhi lanh mồm lanh miệng đã sớm cao hứng đem hành động vĩ đại của lão gia bị phạt trượng rồi kháng thánh chỉ kể cho Ấu Nương nghe, nên dù hắn làm bộ như thế vẫn không thể giấu được ai. Nghe kể xong, Hàn Ấu Nương đã lập tức đứng ngồi không yên ngóng đợi tin tức phu quân. Vừa nghe thấy tiếng của tướng công, nàng vội vàng nhảy ra khỏi phòng ôm chặt cổ y, mắt đầy lệ, vui mừng lắp bắp:

- Tướng công! Chàng đã về, … Ấu Nương lo muốn chết.

Nàng vẫn chưa chải đầu, mặt không son phấn, tóc xõa ngang vai giống hệt kiểu tóc lúc ở nhà của phụ nữ thời Hán Đường và những cô gái xõa tóc thời hiện đại, phối hợp với chiếc váy màu xanh nhạt mộc mạc càng tôn dáng người mềm mại yếu đuối. Dương Lăng thấy gương mặt vợ yêu vừa khỏi bệnh vẫn đầy vẻ nhợt nhạt nên không khỏi lo lắng:

- Nàng vừa khỏi bệnh, không phải Điền thần y đã bảo nàng phải nằm nghỉ sao! Sao lại ra đây, mau vào nằm đi! Phải rồi, nàng đã uống thuốc điều hoà thân thể mà Điền thần y cho chưa?

Tiểu nha hoàn Vân nhi bên cạnh sợ hãi thốt:

- Lão gia, nô tỳ sắc rồi, nhưng phu nhân ngại đắng không chịu uống. Người nói ngồi trên giường hít thở là được, đã hít thở hết một lúc rồi.

Dương Lăng đã thấy Ấu Nương luyện khí công, nay nghe tiểu nha đầu nói rất thú vị không khỏi phì cười. Ấu Nương lo lắng hỏi:

- Tướng công, hoàng đế không trách tội chàng chứ? Ấu Nương nghe nói chàng bị đánh ba mươi côn, vết thương có nặng không?

Hoàng Thượng đã không phạt tội nên bây giờ Dương Lăng cũng không lo Ấu Nương biết chuyện. Y cười khà khà đáp:

- Không việc gì, nàng không thấy ta khỏe lắm à? Nàng hãy chóng khỏe lại, đừng làm cho tướng công lo lắng là tốt rồi.

Nói xong, y ghé lại gần Ấu Nương thấp giọng:

- Đừng lo! Đánh không đau, chỉ như tướng công phát vào mông nàng thôi.

Vừa nghe xong Hàn Ấu Nương mặt đỏ bừng, sẵng giọng:

- Coi kìa! Còn ăn nói hàm hồ như thế nữa, có người nghe đó.

Dương Lăng chợt tỉnh ngộ trong nhà đã có thêm người mới, đâu thể so với lúc chỉ có hai người. Y ho khan một tiếng, lấy trong lòng ra một đồng tiền đưa cho Vân nhi, bảo:

- Vân nhi! Ra chợ mua vài miếng đường trắng về pha vào thuốc cho phu nhân, mau đi đi.

Vân Nhi dạ lớn một tiếng giòn tan, nhận lấy tiền rồi vội vàng đi ngay. Dương Lăng cùng Ấu Nương dìu nhau vào trong phòng. Dương Lăng thấy Ấu Nương mặc váy xanh nhạt, tay áo bó chặt, đáy quần thùng thình lộ ra thân thể gầy ốm, không khỏi lo lắng:

- Dù nàng tập luyện thân thể tốt đến mấy nhưng hôm qua mới ra mồ hôi đầm đìa, không chịu được lạnh đâu.

Ấu Nương dìu y tới giường lò, đáp:

- Bây giờ đã tháng tư rồi, mặc nhiều đồ khó chịu lắm. Tướng công! Chàng mau nằm xuống để thiếp xem thương thế cho chàng.

Hai người sớm đã gió mưa vài lần, Dương Lăng cũng không ngại phơi thân thể trước mặt nàng. Y nằm dài trên giường lò cho Ấu Nương cởi áo ra. Cũng may lúc đó còn chưa phát minh ra quần xịp, mảnh quần lót này vừa thoáng vừa rộng, cởi bỏ cũng dễ dàng.

Ấu Nương dịu dàng cởi quần lót hắn ra, nhìn thấy có một phần quần bị dính vào mông, nàng lại không dám động mạnh. Dương Lăng đành phải nhịn đau tự kéo mạnh ra. Tuy mông Dương Lăng bị đánh cho rách da thịt nhưng kỳ thật không phạm vào gân cốt, chỉ cần điều dưỡng tốt là phỏng chừng đến cả sẹo cũng chẳng có. Nhưng hai ngày nay y bôn ba nơi nơi, vết thương đã rách lại càng thêm rách, bây giờ có vài chỗ còn rỉ chút máu loãng. Vốn mông y bóng bẩy trơn mịn, mềm mại vô cùng, bây giờ đã trở nên vằn vện mất rồi.

Hàn Ấu Nương bịt miệng, nước mắt tuôn chảy. Dương Lăng cảm thấy mông hơi mát, quay đầu nhìn thấy bộ dạng của Ấu Nương rất thương tâm, y không khỏi ngạc nhiên hỏi:

- Sao vậyẤu Nương ? Tuy ta đi đường thấy cũng hơi đau, nhưng không phải là bị thương tới gân cốt đâu.

Hàn Ấu Nương sụt sịt, đau lòng nói:

- Vết thương của tướng công đã lâu chưa lành, dù chữa khỏi cũng sẽ có sẹo.

Dương Lăng buồn cười, trêu:

- Thì sao? Đâu phải là mông của nương tử ta bị thương đâu. Ha ha! Trong nhà có thuốc chứ? Trát thuốc mau lên cho chồng nào, chỉ cần không đau là được.

Hàn Ấu Nương vừa thẹn vừa tức, nàng lườm Dương Lăng, sẵng giọng:

- Tướng công miệng như bôi mỡ cả ngày, không nói lời nào dễ nghe cả.

Dương Lăng thay đổi tư thế nằm cho thoải mái, cười hềnh hệch đáp:

- Tướng công nói không dễ nghe à? Hôm qua chẳng biết là ai nằm trong lòng ta nghe đến mặt đỏ tim rộn, thần hồn điên đảo nữa.

Hàn Ấu Nương “í” một tiếng, mắc cỡ đỏ bừng mặt. Nàng vừa dứt bệnh, tim đập mạnh quá lại loạn nhịp khiến nàng khẽ thở hổn hển. Ấu Nương không chịu nổi phải nhảy xuống đất, nói:

- Tướng công, chàng nghỉ trước đi, Ấu Nương đi ra phố mua thuốc.

Vừa mới kéo cửa phòng ra, Hàn Ấu Nương chợt thấy hai tên nô bộc lực lưỡng khiêng một chiếc cáng mềm tiến vào sân, trên cáng là một người hơn ba mươi tuổi đang nằm. Phía sau còn có hai gia nhân đi theo, mang vác đồ vật lỉnh kỉnh. Hàn Ấu Nương hỏi vẻ nghi hoặc:

- Xin hỏi ngài tìm ai?

Tiền Ninh nằm trên cáng mềm, nhìn thấy một tiểu mỹ nhân thuần khiết đáng yêu như sương mai, mái tóc xõa tung, mặt đẹp như vẽ, nhưng lại không có vẻ chững chạc của người đàn bà đã lập gia đình, y cho là nha hoàn Dương Lăng vừa mua, không khỏi ngứa ngáy cả người: “Tiểu tử này thật là may mắn. Tìm được nha hoàn quá đẹp làm cho người ta phải tim đập thình thịch. Nếu mà là ta á, ta đã sớm kéo lên giường lò rồi, sao lại để nàng mời trà dâng nước chứ. Không biết hắn có chịu nhượng lại không, sau này ta phải nói chuyện với hắn, ta sẽ đem bốn nha đầu đổi lấy một người của hắn.”

Tiền Ninh ngẫm nghĩ, lộ một nụ cười hơi đê tiện, quan sát hình dáng yểu điệu động lòng người của nàng rồi cười nói:

- Lão gia Dương Lăng Dương đại nhân của nhà ngươi có ở nhà không? Ta đến thăm y đây.

Nghe thế, Hàn Ấu Nương hơi tự ti: “Ta... Ta trông giống tiểu nha hoàn như vậy sao?” Nàng cúi đầu nhìn lại trang phục, hơi có vẻ không vui, hậm hực:

- Thì ra là bạn tướng công ta, kính mời ngài vào!

Tiền Ninh kinh hãi biến sắc. Hắn lập tức thu hồi nụ cười dâm, vội hỏi:

- Thì ra là Dương phu nhân! Thất lễ thất lễ, tại hạ Tiền Ninh, là bằng hữu của Dương đại nhân.

Trong phòng, Dương Lăng nghe thế bèn cao giọng gọi:

- Ấu Nương, là Tiền đại nhân tới à? Mau mời ngài vào đi.

Tiền Ninh giữ chức chưởng hình thiên hộ của Cẩm Y vệ, dù thi hành đủ loại thủ đoạn tàn khốc hành hạ phạm nhân đến chết nhưng mắt hắn vẫn không nháy, đã từng gặp không biết bao nhiêu cảnh tượng máu me đầm đìa rồi. Thế nhưng, loại người như vậy luôn yêu quí thân thể mình tới cực điểm, ta có thể thấy được sự thật này qua sự thu xếp của hắn trước khi chịu trượng hình.

Hắn vừa về nhà liền lập tức nằm trên giường điều dưỡng. Để mông không lưu lại vết sẹo, hắn còn hoàn toàn không dám cử động. Hôm sau nghe tin Dương Lăng kháng chỉ, Tiền Ninh cho rằng lần này Dương Lăng chắc chắn sẽ chết, âm thầm tiếc hận mình vất vả mới cài được một đường dây vào Đông cung thì bây giờ lại đứt mất.

Hôm nay sau buổi triều sớm, Tiền Ninh nghe nói Dương Lăng phụng chỉ quỳ đợi ở ngọ môn. Vốn hiểu sâu sắc chuện quan trường, hắn lập tức ngửi ngay được một việc bất bình thường, tức khắc phái người tìm vị bằng hữu đảm nhiệm chức thống lĩnh cấm quân trong cung hỏi tin tức. Hắn không ngờ lại nghe được tin hoàng đế ban tặng cho Dương Lăng một bức họa.

Đã rõ Hoàng đế muốn bảo vệ cho Dương Lăng, Tiền Ninh quyết đoán ngay: dệt hoa trên gấm không bằng giúp người khi gặp nạn. Không còn thời gian chú tâm lựa chọn lễ vật, hắn vội cho người mua rất nhiều đồ vật, cũng chẳng kịp gói ghém gì, ngựa không dừng vó lập tức chạy đến nhà Dương Lăng.

Tiền Ninh được đám lính khiêng vào phòng ngủ Dương Lăng, ngồi vào ghế mềm cạnh giường lò, thấy Dương Lăng nằm trên giường lò, trên thân đắp một tấm chăn, bèn cười nói:

- Dương đại nhân! Hôm qua tại hạ sai người đến thăm hỏi, nhưng đại nhân không ở nhà. Hôm nay cũng đỡ một chút, nên ta tự mình tới đây.

Dương Lăng cười nói:

- Đa tạ Tiền đại nhân! Kể ra vẫn là ta làm liên lụy đại nhân, thế mà còn làm phiền đại nhân đến thăm ta, thật là áy náy.

Tiền Ninh cười ha ha đáp:

- Đại nhân và ta đều là đồng liêu Cẩm Y, lại cùng bị đòn trước cung, duyên phận có phải ít đâu, đừng nói loại khách khí này nữa.

Hắn nói mà ánh mắt gian tà liếc dọc liếc ngang. Thấy Dương Lăng vứt cuộn giấy Hoàng thượng ban cho trên đầu giường, hắn không khỏi thầm giật mình: “Tên Dương Lăng này có quan hệ gì với bệ hạ nhỉ? Hắn đưa Thái tử xuất cung, không tuân thánh chỉ trước mặt mọi người, chẳng những Hoàng Thượng không giận mà còn ban cho hắn một bức họa do ngài vẽ. Vô luận là Hoàng Thượng ban cho thứ gì, bất kỳ vương công đại thần nào cũng lập tức đem về nhà, nếu không lập tức gói lại bằng vải vàng, thì cũng thắp ba nén hương mà cung phụng. Đó là ân sủng và tín nhiệm của hoàng đế. Riêng hắn lại xem thường… Chà, tranh quý của hoàng đế tự tay đề bút”.

Tiền Ninh hơi đau lòng nhìn bức tranh. Hắn ra vẻ lơ đễnh nói:

- Ở trên đầu giường là... Ha ha, Dương đại nhân quả nhiên không hổ là văn nhân, ở nhà dưỡng thương cũng muốn ngâm thơ vẽ họa sao?

Dương Lăng vỗ đầu. Y vẫn luôn không mang tư tưởng quân quyền tối cao, nên vẫn thường xuyên quên mất những việc mà người khác xem là đương nhiên. Vừa rồi về nhà, y lại vui đùa với tiểu giai nhân nên quen béng mất bức họa của Hoàng đế, cứ tiện tay bỏ qua một bên. Nhưng đây là tiền chứ bộ. Chẳng những là cổ họa, hơn nữa là tranh quý của Hoàng đế, phải lưu cho con cháu đời sau của ta và Ấu Nương, tương lai sẽ giá trị biết bao nhiêu mà kể.

Dương Lăng vội vàng dặn Ấu Nương:

- Nương tử! Mau đưa bức họa này cất kỹ lên trên tủ. Ha ha, đây là vật do đương kim hoàng thượng ban tặng đó, không thể làm hư được.

Hàn Ấu Nương vừa mới bưng chén trà vào cho Tiền Ninh, nghe nói cái cuộn giấy trên đầu giường lò lại là của Hoàng đế ban tặng, nàng vội vàng cầm lấy, tìm kiếm khắp nơi, thực không biết phải đặt ở chỗ nào cho an toàn. Dù sao Hàn Ấu Nương cũng đến từ vùng thôn núi xa xôi, trong lòng nàng thì thiên tử thực sự như nhân vật trong thần thoại. Bây giờ lại thấy được thứ mà thiên tử ban tặng, cũng khó trách nàng hết sức lo sợ.

Dương Lăng cười nói:

- Gác trên tủ đi, sau này tìm người bồi lưng, làm một cái khung bọc lại sẽ không sợ trầy xước.

Tiền Ninh hỏi với vẻ cực kỳ hâm mộ:

- Hoàng Thượng ban thưởng? Ha ha, bây giờ ta an tâm rồi, nghe nói đại nhân hôm qua kháng thánh chỉ, vi huynh lo lắng lắm.

Hắn ra vẻ vô ý lại lôi kéo quan hệ. Dương Lăng cũng có ý muốn thân cận với vị Chưởng hình thiên hộ nắm trọng quyền trong tay này. Nghe hắn nói thế, y cũng cười nói:

- Tiền huynh quá lo lắng. Lời này cũng không thể lan ra ngoài được. Dương Lăng nào dám kháng lại thánh chỉ, chỉ là ái thê bị bệnh cấp tính, lúc đó đã xin công công truyền chỉ khoan dung trong khoảnh khắc mà thôi. Dân chúng ngoài phố đều nghe nhầm đồn bậy, nói năng linh tinh, rõ là chỉ sợ thiên hạ không loạn.

Tiền Ninh cười gượng hai tiếng, đang muốn tâng bốc vài câu thì có thái giám trong cung tới truyền chỉ. May mà lần này tên thái giám truyền chỉ biết quy củ, mặt nam lưng bắc, đứng trong viện mà truyền chỉ, căn bản chưa vào nhà. Dương Lăng vội vàng mặc lại quần áo, cùng với Ấu Nương đi ra, quì tiếp thánh chỉ.

Đợi Dương Lăng tiễn vị khâm sai quay vào, Tiền Ninh lại tâng bốc một hồi nữa. Thấy Ấu Nương đang cầm hai bình thuốc trị thương của vua ban chuẩn bị bôi cho tướng công, hắn liền chắp tay ngoan ngoãn cáo từ. Vừa về nhà còn chưa thay quần áo đã được người ta đưa tới một mớ lễ vật, nên để đáp lại thịnh tình của hắn, Dương Lăng tiễn ra tận cửa. Song phương đang sắp chắp tay từ biệt, bỗng thấy một cái chóp kiệu nhỏ từ xa nhấp nhô đi tới trước mặt.

Rèm kiệu vén lên, một gương mặt tái nhợt từ trong kiệu thò ra dò xét. Thấy Dương Lăng đang đứng ở cửa, người nọ không khỏi vui mùng, run giọng:

- Dương đại nhân! Chúng ta đang sợ không tìm được ngài. Ông trời thương ta rồi, ôi, rốt cuộc cũng gặp được đại nhân rồi.

Dương Lăng, Tiền Ninh chú tâm nhìn kỹ, thấy người nọ tóc hoa râm, sắc mặt nửa trắng nửa xanh, chính là Mã Vĩnh Thành, vị thái giám lo việc mua bán trong cung. Tiền Ninh thất thanh hỏi:

- Mã công công, ngài sao lại... hình dạng như vậy mà còn muốn xuất cung để mua bán?

Mã Vĩnh Thành lườm hắn với vẻ không vui, đáp:

- Mua sắm cái gì, bộ dáng ta như thế này còn có thể làm việc công được à? Mau mau, chúng ta vào trong viện nói chuyện, kẻo người ngoài nhìn thấy không tốt.

Dương Lăng và Tiền Ninh liếc nhìn nhau, mù mờ chẳng hiểu gì, cùng đi vào sân. Mã Vĩnh Thành vẻ mặt đau khổ nhìn Dương Lăng nói:

- Đại nhân tới gần đây, chúng ta thất lễ rồi. Vất vả lắm mới khiêng kiệu tới đây, nhưng ta không dám thay đổi vị trí chút nào cả. Khắp mông bị đánh nát cả rồi, mạng già của ta...

Dương Lăng biết tám vị thái giám trong cung đã chịu đòn nặng hơn mình nhiều. Thấy lão nói mà nước mắt như muốn tuôn rơi, y liền lập tức tiến lên đáp:

- Công công phải điều dưỡng cho tốt mới được, sao còn xuất cung ra đây?

Mã Vĩnh Thành cười khổ nói:

- Ai nói không muốn. Chỉ là thái tử gia...,

Lão nói tới đây liền thoáng liếc nhìn xung quanh.

Tiền Ninh hiểu ý, vội bước lên muốn ra ngoài. Mã Vĩnh Thành vội cản:

- Chậm đã chậm đã, không vội đi! Bảo bọn hạ nhân ra ngoài, Tiền đại nhân có thể lưu lại. Việc này không chừng còn cần đến ngài.

Vừa nghe Thái tử có việc muốn hắn đi làm, Tiền Ninh cảm thấy da đầu ngứa ngáy, lập tức đuổi đám hạ nhân ra ngoài, rồi tiến đến gần kiệu. Mã Vĩnh Thành ho khù khụ nói:

- Dương đại nhân, hôm nay là ngày thứ ba rồi! Lúc trước ngài khoe khoang đủ điều, thái tử gia đều tin là thật cả.

Bây giờ cũng không có người ngoài, chúng ta nói thẳng với ngài. Thái tử gia để mắt đến cô nương nhà người ta rồi, đám gia môn trong cung thật sự đang bị thái tử hành hạ. Nhưng người của Giáo Phường Tư lại là thủ hạ của Miêu Quỳ Miêu công công, chúng ta cũng không dám nhờ vả. Việc này còn phải nhờ tới ngài. Chỗ này là toàn bộ gia sản của ta, một vạn bốn ngàn lượng bạc, bất luận ngài dùng biện pháp gì cũng phải chuộc được người ra, sau đó thu xếp ngụ ở chỗ của ngài đi.

Nói rồi, Mã Vĩnh Thành đau lòng móc ra một xấp ngân phiếu đưa tận tay Dương Lăng, lại tiếp:

- Chiêm Sĩ phủ (lo việc giáo dục Thái tử) đã nhận thánh ý, bây giờ bọn họ rất chú tâm chăm sóc đặc biệt đám chúng ta, ta phải mau mau hồi cung thôi. Việc này cứ thế mà làm. Ngài giải quyết ổn thỏa rồi, ngày mai tới cửa hậu cung sẽ có tiểu thái giám gánh nước hỏi tin tức của ngài. Xong rồi, chúng ta hồi cung thôi.

Mã Vĩnh Thành bảo hai nô bộc khiêng lão ra cửa, đi nhanh như chớp. Dương Lăng nắm xấp ngân phiếu mà ngây người hồi lâu, mãi y mới quay sang Tiền Ninh nhờ vả:

- Tiền huynh! Huynh xem việc này...

Tiền Ninh vẫn chưa biết việc Nghiêm Khoan bị Trương Duyên Linh đá cho một cước gần chết, sớm không dám có chủ ý gì về việc Ngọc Đường Xuân, nên hắn cũng cho rằng sự việc có chút nhức đầu. Nhưng không dám biểu hiện ra ngoài, hắn đành phải nói:

- Việc này... Thái tử gia đã lên tiếng, có gì cần đến Tiền mỗ, Dương đại nhân cứ việc nói ra, hay là... Ta cứ cương quyết chuộc người?

Dương Lăng nghiến răng, giậm chân nói:

- Hay lắm! Ta cũng không tin trên một vạn lượng bạc mà vẫn không chuộc được người!... À!... Đúng rồi, rốt cuộc thái tử gia thích cô nào nhỉ?

Chương 77: Ba Mỹ Nhân Tới Nhà

Dịch: workman

Biên dịch: lht

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Ngày hôm sau, Dương Lăng dậy sớm ra cửa sau cung thành chờ người đưa tin. Đợi một lúc lâu y mới được Thái tử đáp:

- Biết rồi, không bỏ sót người của ta là tốt rồi. Thay ta chiếu cố cho Đường cô nương, có cơ hội ta sẽ đi thăm nàng. Phụ hoàng bây giờ canh ta gắt gao lắm, luôn luôn có sáu thị độc bên mình. Con mẹ nó, Vương Quỳnh rõ là lão thất phu!

---------------------------------

Dương Lăng mời Tiền Ninh vào phòng cùng thương lượng đối sách. Tuy y đúng là Cẩm Y vệ, nhưng đề đốc Trương Tú thu xếp cho y nhận nhiệm vụ ở Nam Trấn Phủ. Tại kinh sư y chỉ có hai người hầu cận là Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh nên muốn xử án cũng không có bao nhiêu người để giao việc. Hơn nữa Tiền Ninh là một nhân vật ngoan độc, có sự hỗ trợ của đám địa đầu xà này, công việc coi như đã thành công một nửa rồi.

Nếu không có người của phủ Thọ Ninh Hầu xen vào, Tiền Ninh xử lý việc này cũng dễ như trở bàn tay, không phải chỉ là đám kỹ nữ lầu xanh còn chưa bán thân tiếp khách thôi sao? Cho dù là danh kỹ nổi tiếng cả kinh sư, quan to quan bé cũng chỉ lén lút làm ân khách. Hắn muốn đòi người, ai dám đưa việc này thành công khai để chống lại hắn?

Nhưng bây giờ việc này lại dính tới triều đình. Muốn đòi người phải tính toán một chút. Điểm chết người chính là Thái tử gia đến giờ cũng chẳng thèm nói ra tên của người này, rốt cuộc phải đi chuộc ai đây chứ?

Ấu Nương nghe hai người bàn tán um sùm, cũng biết tướng công muốn giúp Thái tử đem một kỹ nữ thanh lâu về. Nàng thấy tướng công và Tiễn đại nhân nhăn mày nhíu mắt bàn chuyện, liền nhắc nhở:

- Tướng công! Thái tử thích ai thì ta theo đó mà lần đầu dây mối nhợ. Chàng kể lại tình hình lúc đó xem, có lẽ Ấu Nương có thể đoán được gì chăng.

Dương Lăng hồi tưởng một lát, rồi kể:

- Tên Nghiêm Khoan đó cưỡng ép lấy người của Nhất Xứng Kim. Lúc đó Thái tử đuổi theo xem náo nhiệt, lúc Nghiêm Khoan nói năng lỗ mãng, có một vị cô nương tên gọi là Tuyết Lý Mai mắng cho gã một trận, Thái tử rất tán thưởng nàng.

Tiền Ninh vỗ mạnh vào ghế băng mềm bên cạnh. Chiếc ghế lắc lư vài cái xém nữa lật nhào, hắn vội vàng chộp lại, sau đó cười khà khà nói:

- Đúng rồi! Tài tử giai nhân, nhất kiến chung tình, chắc chắn là nàng.

Dương Lăng cười khổ nói:

- Dường như không phải. Sau đó Thái tử bị Nghiêm Khoan đánh một quyền, máu chảy ròng ròng. Có một vị tiểu cô nương tên là Đường Nhất Tiên đưa cho người một cái khăn gấm lau máu, ta thấy ánh mắt Thái tử nhìn người ta đầy tình ý.

Tiền Ninh giật mình nói:

- Thế à! Mỹ nhân tình thâm, thép luyện trăm lần cũng chảy, điện hạ chưa hề trải qua những tràng diện phong nguyệt, lại có giai nhân che chở, khăn gấm đưa tình, thể nào lại không điên đảo? Vậy nhất định chính là vị Đường Nhất Tiên cô nương này rồi.

Ấu Nương hỏi chen:

- Tướng công! Thái tử bảo chàng trong vòng ba ngày phải đòi lại văn tự mua thiếp của Nghiêm Khoan. Văn tự mua bán đó là nói về Đường cô nương này à?

Dương Lăng lắc đầu đáp:

- Không phải! Người Nghiêm Khoan muốn mua là Ngọc Đường Xuân cô nương.

Khi vừa nói tới tên này, y không khỏi nhớ tới vị mỹ nữ trong hí khúc có cuộc đời bi thảm, tưởng chừng như thấy lại tình cảnh thiếu nữ tóc dài áo trắng như tuyết, uyển chuyển đứng lặng trong căn lầu như một bức tranh cung nữ cổ điển. Dương Lăng nói tiếp:

- Trong ba vị cô nương thì Ngọc Đường Xuân cô nương có vẻ phong tình nhất, Thái tử luôn nhớ tới việc chuộc nàng ra. Bây giờ lại muốn ta chuộc người mà Nghiêm Khoan cướp, vậy ai là người mà ngài thích đây?

Ấu Nương nghe xong cũng không khỏi cười khổ:

- Nói như thế, nhiệm vụ mơ hồ này chẳng có gì rõ ràng cả! Chẳng lẽ đem cả ba cô nương về nhà ?

Vừa nghe, Tiền Ninh bật thốt:

- Ý hay lắm! Trong ba người đó chỉ có một người bị Hầu phủ và Đông cung tranh giành, hai người khác vốn không liên quan gì. Bằng vào chức danh đứng đầu Cẩm Y vệ, ta muốn lấy ai cũng dễ như trở bàn tay. Dù sao cũng đều là người đẹp, một hay ba cũng không khác gì nhau. Mang về cả ba người thì vô luận làm sao cũng bị không lầm lẫn gì. Ha ha, đi thôi! Ta bây giờ phải đi gọi người, đại nhân cứ việc ra mặt nhận người thôi.

Rốt cuộc Tiền Ninh cũng hơi kiêng kỵ Thọ Ninh Hầu. Dù sao Dương Lăng cũng được Hoàng thượng để mắt, chỉ cần thức thời một chút, Thọ Ninh Hầu sẽ không dám đắc tội với y. Nay phải để y ra mặt mới tốt, người đứng ra nói chuyện phải là y.

Lập tức Tiền Ninh gọi gia nhân dặn dò vài câu.Tên gia nhân nghe lệnh vội vội vàng vàng đi ngay. Một lúc sau, có hơn mười người từ Bắc Trấn Phủ Ty tới, đều mặc thường phục. Những người này đang hành hạ phạm nhân trong lao, nghe nói thiên hộ đại nhân có lệnh bèn vội thay đổi thường phục tới ngay, trên người còn mùi máu tươi, ai ai cũng sát khí bức người.

Tiền Ninh ra lệnh mang đến một cái sạp gấm, trải cho thật mềm mại, mời Dương Lăng ngồi lên. Hai người được trên mười tên giáo úy mặc thường phục hộ tống cùng đến ngõ Bách Thuận.

Trời cũng sắp hoàng hôn, ngõ Bách Thuận đã có nhiều tiệm mở cửa đón khách. Để bịt tai mắt người khác, Tiền Ninh còn cho một tấm vải che trên sạp gấm, trông như một cái kiệu có nóc. Khi tới những chốn tìm hoa, ta vẫn thường bắt gặp một vài lão gia e dè che đầu che mặt đi chơi kỹ viện. Nhưng bây giờ còn sớm như vậy, làm gì có ai ở đây mà thấy. Tên đón khách vội vàng đi tới cười nói:

- Mấy vị lão gia, có cô nương quen không? Muốn tôi gọi tới cho ngài vài cô ưa nhìn một chút không?

Người đi đầu chính là tâm phúc của Tiền Ninh, một vị bách gia Cẩm Y vệ tên là Quan Long. Hắn thản nhiên nói:

- Tránh ra! Lão gia muốn vào hậu viện. Bảo Nhất Xứng Kim tới gặp lão gia!

Nói rồi gã khoát tay, đoàn người nghênh ngang đi thẳng vào hậu viện.

Trong hậu viện, ba chị em Tô Tam, Đường Nhất Tiên, Tuyết Lý Mai đang ở trong phòng ngồi chơi. Vì những khách uống rượu có kỹ nữ hầu đều tới khá muộn, nên ba người đang lười nhác vẽ mày thoa mặt.

Tuyết Lý Mai thấy Tô Tam có vẻ uể oải, không khỏi hé miệng cười trộm nói:

- Hì hì! Họ Nghiêm đã ngoan ngoãn đem văn tự trả về rồi. Tam tỷ vẫn sầu muộn không vui, chẳng lẽ... nhớ vị công tử kia à?

Tô Tam vừa nghe xong mặt đỏ lên, liếc mắt lườm nàng sẵng giọng:

- Ngươi đó, nói bậy ít thôi!

Nàng cau mày, rồi chợt thở dài nói tiếp:

- Vị công tử đó rõ là người đáng tin cậy, quả nhiên khiến cho Nghiêm Khoan phải trả lại văn tự, nhất định là một đại nhân vật có quyền có thế. Chà, sao người ta lại có thể coi trọng một nữ tử khổ sở như ta? Ta chỉ... Chỉ là thân thể hơi mệt, cho nên tinh thần mới xấu như vậy.

Đường Nhất Tiên cười, nói vẻ châm chọc:

- Có thể nói như thế này, lo lắng hãi hùng cả ba ngày rồi, bây giờ không cần lo lắng về con đại tinh tinh đó nữa. Bây giờ lại lo là lo tên ngọc diện công tử kia sao nỡ lòng không tới thăm tỷ, làm cho tâm hồn thiếu nữ đứt ra từng khúc, thể xác tinh thần đều bần thần?

Đến lúc này Tuyết Lý Mai cũng cảm thấy hứng thú hừng hực, vội xen vào nói:

- Vị công tử đó thật là tuấn dật. Đến cả muội mà cũng hơi động tâm, hắn tuy còn trẻ tuổi, nhưng ánh mắt hơn hẳn những đứa trẻ ranh khác. Làm người ta nhìn thấy là thèm được ngả vào lòng hắn.

Đường Nhất Tiên hừ một tiếng, chun mũi lại nói:

- Hai nha đầu mắt trên trán kia, động tình với trai rồi à! Chỉ nghĩ tới mấy chàng trai tuấn tú. Nếu là ta, ta chỉ nguyện được gả cho đương triều thị độc Dương Lăng Dương đại nhân thôi.

Mắt nàng sáng lên, hào hứng nói tiếp:

- Dịch cầu vô giới bảo, nan đắc hữu tình lang (bảo vật vô giá dễ cầu, nhưng rất khó tìm được tình lang). Hắn vì người yêu mà đến cả ý chỉ của Hoàng Thượng cũng dám cãi lại. Nam nhân như vậy, nếu được gả cho hắn làm thiếp thôi, thì ta ngay cả nằm mơ cũng phải cười mà tỉnh lại.

Tô Tam và Tuyết Lý Mai nhìn nàng đang mơ màng si mê, không khỏi phá lên cười. Tuyết Lý Mai nói trêu:

- Cũng chỉ có tỷ dám mơ thôi. Chúng ta là người như thế này, nếu được gả cho vị công tử tuấn tú ngày ấy đã xem như phải đốt hương cúng tạ rồi.

Dương Lăng đại nhân... Muội nghe Lễ Bộ viên ngoại lang Ninh đại nhân kể, sau khi hắn kháng chỉ, mấy trăm đại thần quì xin Hoàng Thượng giết hắn, nhưng hoàng đế lại không chịu. Sau đó Vương đại nhân, thượng thư bộ Lễ, cùng với tam công nội các chạy tới hậu cung. Mấy lão già thúi đó, hắc! Kết quả là Hoàng hậu nương nương chửi cho mấy lão già cổ hủ ấy một trận ê mặt rồi đuổi ra ngoài.

- Đó là cận thần của thiên tử mà. Đương kim hoàng thượng rất sủng ái hắn, chúng ta nào có phúc khí mà gặp được đại nhân vật như vậy?

Khi đề cập tới Dương Lăng, trong ánh mắt Tuyết Lý Mai lại dâng sóng dập dềnh, tựa như đang say đang mê.

Tô Tam nghe mà si ngốc, hồi lâu mới thở dài một tiếng nói:

- Thôi, hai vị hảo muội muội còn mơ mộng hơn cả ta nữa, mau chuẩn bị trang điểm đi, kẻo lát nữa lại bị mẹ nuôi mắng.

Đường Nhất Tiên lắc đầu không còn chìm vào mộng xuân nữa. Nàng cầm một chung rượu nhỏ uống cạn, sau đó cầm lấy tờ giấy son đỏ bôi vào môi.

Tô Tam thấy nàng lại uống cái thứ nước đó, lo lắng nói:

- Nhất Tiên, sao lại uống thạch tín? Loại này dù chỉ dùng một chút cũng ảnh hưởng thân thể đó.

Đường Nhất Tiên không đồng ý, trả lời:

- Rất nhiều người đều dùng mà. Một chút thôi, không hại đâu.

Nàng vuốt ve gương mặt tuyệt đẹp, tư lự:

- Tỷ nhìn thấy hai má muội có phải đã trắng ra rất nhiều không? Khách nhân đều nói muội bây giờ có làn da trắng như ngọc, vừa bước vào là cả phòng đều như mùa xuân. Hì hì, đợi muội đoạt lấy hạng đầu của Ngọc Đường Xuân tỷ, tỷ tỷ không được tức giận đó nha.

Tô Tam đang muốn trả lời, lại nghe trong viện vang lên thanh âm ngọt như mía lùi của Nhất Xứng Kim:

- Ủa! Mấy vị đại gia, đây là chỗ nào chứ. Mau mời các ngài lên nhà trên ngồi, chẳng biết các vị muốn gặp vị cô nương nào đây.

Tuyết Lý Mai vội hỏi:

- Mau mau thay đồ đi, có khách tới.

Nhất Xứng Kim thấy những người vừa tới đều có ánh mắt và vẻ mặt khiến người ta phải sợ hãi liền vội dẫn vào nhà trong. Bà thấy mười mấy đại hán đứng hai bên cửa, hai khách nhân trong kiệu mềm cũng không xuống kiệu mà được khiêng thẳng vào nhà. Nhất Xứng Kim mi mắt giật giật, chỉ cảm thấy kẻ đến không phải người hiền, nhìn bộ dáng những người này thì không giống người tới đây ăn vụng.

Nhất Xứng Kim do dự trong khoảnh khắc, nhìn thấy ánh mắt ăn thịt người của đám đại hán, đành phải cắn răng theo vào.

Ba người Đường Nhất Tiên đã trang điểm xong xuôi, đợi hồi lâu vẫn không thấy Nhất Xứng Kim gọi các nàng ra gặp khách, đang cảm thấy kỳ lạ, chợt nghe Nhất Xứng Kim khóc gào như cha chết:

- Ba chị em đều ra cả đi, có khách chuộc thân cho các ngươi này!

Ba người Đường Nhất Tiên nghe xong chấn động, vội vàng đi ra khỏi phòng. Ba nàng thấy trong viện có hơn mười đại hán diện mục âm trầm, hai tay khoanh lại, đứng một hàng thẳng tắp, không khỏi sợ tới mức mặt mày thất sắc. Đám đại hán này cả người lộ ra những luồng khí tức âm lãnh khát máu, làm cho người nhìn thấy rởn cả tóc gáy.

Ba tiểu mỹ nữ chẳng biết sắp sửa phải hầu hạ lão gia đáng sợ nào, dựa sát vào nhau như đàn dê con đợi mổ, đứng nép vào Nhất Xứng Kim trong gian chính.

Tiền Ninh nửa nằm nửa ngồi dựa vào kiệu gấm mềm mại, nhìn lên thấy ba mỹ nữ đẹp tuyệt trần, không khỏi hai mắt tỏa sáng. Ánh mắt tham lam của hắn cứ lướt loạn xạ trên người ba người, mãi mới thu hồi vẻ lưu luyến, rồi quay sang nói với Nhất Xứng Kim đang buồn bã:

- Được rồi, lão bản nương là người hiểu biết. Ha ha ha, không cần khóc lóc như vậy, ngươi nên cảm tạ huynh đệ ta. Bằng không... Hừ hừ, sau này có chuyện gì cứ tìm đến ta, ta thay ngươi nói một câu, đó là thứ mà ngươi bỏ bao nhiêu tiền cũng không có được.

Nhất Xứng Kim đúng là ngàn lần không, vạn lần không cam tâm. Khi vừa nhận ra Dương Lăng, mụ lập tức nịnh nọt ngàn ân vạn tạ, khen y thần thông quảng đại, sáng sớm hôm qua Nghiêm Khoan đã sai người trả giấy về, lấy bạc đi rồi.

Tiền Ninh vừa nghe Thọ Ninh Hầu chịu thua, lập tức trở nên cứng rắn. Hắn liền công khai thân phận, muốn diễu võ dương oai chỉ bỏ ra chút tiền mà chuộc cả ba cô về. Dương Lăng thấy Nhất Xứng Kim khóc lóc quá thảm thương, nghe mụ kể lể phải giáo dưỡng mấy người này từ bé, gian khó vô kể nên mềm lòng. Bất chấp Tiền Ninh cản trở, y giao cho mụ một vạn lượng bạc.

Tô Tam vừa vào cửa đã thấy Dương Lăng đang ngồi trên ghế băng mềm, trong lòng đang lo sợ lập tức hóa thành vui như mở hội, vui tới mức hai má đỏ lên, ánh mắt rốt cuộc không dời y ra được.

Tiền Ninh đợi Nhất Xứng Kim ấn ngón tay vào văn tự xong, cười hì hì nói với tên thị vệ:

- Đi tìm ba cỗ kiệu, đưa ba vị cô nương này đến phủ của Dương đại nhân! Ha ha ha, việc này xong rồi, chúng ta đi thôi.

Văn tự đã kí kết, sau này ba người Ngọc Đường Xuân là thiếp hay thị tỳ, hoàn toàn phụ thuộc vào người mua, chẳng liên quan gì tới Nhất Xứng Kim nữa. Nhất Xứng Kim nhìn thấy ba cây tiền cây bạc bay đi như vậy, trong lòng cảm thấy khó chịu nói không nên lời.

Ba người Đường Nhất Tiên được đưa tới phủ của Dương Lăng mới biết y chính là Dương Lăng lừng danh kinh sư. Lúc này cả ba cô đều vui mừng khôn xiết. Các nàng xuất thân như vậy, căn bản không trông mong được làm chính thê, nếu được một văn sĩ hoặc một vị quan to mua làm thiếp đã là tốt lắm rồi. Còn gặp phải ông quan hoặc văn sĩ già xấu, thì đành theo số phận thôi.

Bây giờ Dương Lăng có công có danh, muốn quan chức có quan chức, trẻ tuổi anh tuấn, vừa là loại người có tình danh chấn thiên hạ, quả thực thành thịt Đường tăng trong mắt các nàng rồi, cho dù nằm mơ cũng mơ không đến một kết quả tốt như vậy. Nếu được làm thiếp cho y, các nàng đã cảm ơn trời đất rồi. Nhưng sau khi Dương Lăng thu xếp ba người ở sương phòng, lại chẳng hề đề cập gì tới thân phận tương lai của các nàng, việc này khiến ba nàng không hiểu ra sao cả.

Kỳ thật Dương Lăng cũng rất khó xử. Chút thông tin ít ỏi từ Thái tử không nói rõ muốn chuộc ai, lại không nói chuộc xong thì làm gì. Thái tử cứ nhét cho y một việc như vậy, y còn có thể làm gì bây giờ?

Nếu tạm thời thu xếp các nàng làm nô tỳ, trong đó lại có người mà Thái tử thích, lẽ nào lại để cho nàng hầu hạ mình? Hơn nữa bây giờ việc này cũng chưa thể nói thẳng với các nàng, nên Dương Lăng đành phải giả ngu làm cho ba thiếu nữ thông minh tuyệt đỉnh cũng phải mù mờ không hiểu đầu đuôi.

Các nàng trong lòng đầy nghi ngờ, tuy nói là xuất thân thanh lâu, nhưng dù sao đều là thiếu nữ, chẳng lẽ các nàng có thể trơ mặt chủ động hỏi y khi nào thì nạp mình làm thiếp sao? Vì vậy ba cô nương cứ ở lại nhà Dương Lăng như vậy, không chủ không tớ, không thê không thiếp gì cả.

Ngày hôm sau, Dương Lăng dậy sớm ra cửa sau cung thành chờ người đưa tin. Đợi một lúc lâu y mới được Thái tử đáp:

- Biết rồi, không bỏ sót người của ta là tốt rồi. Thay ta chiếu cố cho Đường cô nương, có cơ hội ta sẽ đi thăm nàng. Phụ hoàng bây giờ canh ta gắt gao lắm, luôn luôn có sáu thị độc bên mình. Con mẹ nó, Vương Quỳnh rõ là lão thất phu!

Nghe xong ý chỉ hồ đồ của Thái tử, Dương Lăng lại dở khóc dở cười đi về nhà. Y vuốt cằm suy nghĩ cả buổi cũng không nghĩ được biện pháp nào đuổi hai cô còn lại đi. Khẳng định là không có cái khúc “Ngọc Đường Xuân” trong kinh kịch đời sau rồi, do đó Tô Tam gả cho ai, vận mệnh sau này ra sao, đến cả y cũng không biết.

Suy nghĩ cả buổi, y đột nhiên nhớ tới bố con họ Hàn sắp tới kinh sư. Cũng không biết hai người này đã cưới vợ chưa, nếu còn chưa... Tục ngữ nói nước phù sa không để chảy ra ruộng người ngoài mà... Dương Lăng không khỏi cười to lên rất đắc ý, đến khi thấy Ấu Nương đứng một bên đang hồ nghi nhìn mình, y mới nhớ mình còn chưa bảo cho nàng hay việc mình mời cha con họ Hàn tiến kinh.

Dù sao họ cũng sắp đến, cứ giấu hai ngày nữa đã, đến lúc đó sẽ cho Ấu Nương một niềm vui bất ngờ. Dương Lăng nghĩ vậy nên chỉ cười đểu vài tiếng, nói với Ấu Nương:

- Ta hỏi Tiền Ninh rồi, bất tất vội vã đi Thần Cơ doanh trình diện. Hai ngày này ở nhà dưỡng thương. Bảo Tiểu Vân chiếu cố cho ba vị cô nương trong sương phòng một chút, ngàn vạn lần không được đắc tội với người ta.

Ấu Nương lên tiếng đồng ý, ngẫm lại dù sao đi nữa những cô nương đó đều có thể là người của Thái Tử. Hiện tướng công đang làm quan trong triều, việc giữ quan hệ tốt với các nàng rất trọng yếu. Vì vậy nàng cũng dặn dò Tiểu Vân phải cẩn thận trong việc phục vụ ăn uống cho mấy vị cô nương này.

Mọi người đều ngụ trong viện, lại đều là những tiểu cô nương mười bốn lăm tuổi, sao lại có thể ru rú cả ngày ở trong phòng chứ? Thường xuyên qua lại thăm hỏi nhau, dần dà Ấu Nương hiểu rõ các nàng hơn. Lúc này Ấu Nương mới phát hiện các nàng khác với những điều mình đã tưởng tượng rất nhiều. Chẳng những không phải là những cô gái đầy quyến rũ, cử chỉ ướt át, mà ba người này lại có lời nói cử chỉ tự nhiên hào phóng, nhất cử nhất động đều lộ vẻ cao quý trang nhã, thập phần hấp dẫn.

Khi đó con gái nhà giàu cũng không được giáo dưỡng nhiều như kỹ nữ thanh lâu. Chỉ cần các nàng có cấp bậc cao trong thanh lâu thì chắc chắn cầm kỳ thư họa, ca múa dáng vẻ đều đã phải được dạy dỗ từ tấm bé. Phải như thế mới đào tạo được những cô gái sắc nghệ đều giỏi, mới khiến đám danh sĩ tài tử thường tới chỗ phong lưu tìm hồng nhan tri kỷ.

Ấu Nương nghe nói các nàng từ nhỏ bị cha mẹ bán vào thanh lâu, thân thế khiến người ta thương tâm, trong lòng rất cảm thông. Ba cô đều tin Ấu Nương là vợ cả của người mà mình sẽ hầu hạ nên càng cố ý phụng thị, cố ý kết giao. Qua hai ba ngày, ba người đối xử với Ấu Nương cực kỳ hoà hợp, giống như chị em.

Dương Lăng ở nhà nghỉ ba ngày, thương thế cũng gần lành cả rồi, định đến sáng sớm hôm sau đi Thần Cơ doanh trình diện. Sáng sớm, Ấu Nương hầm cho tướng công một con gà mái ghẹ. Thấy tướng công còn đang ngủ say, nàng bèn tới phòng chái tây thăm ba cô.

Ba chị em Tuyết Lý Mai quen rèn luyện vào sáng sớm, tuy bây giờ không cần mỗi ngày đều phải thổi tiêu đánh đàn, luyện tập ca múa, nhưng vẫn thức dậy rất sớm. Ấu Nương vừa vào cửa đã nhìn thấy Tô Tam vấn cao mái tóc đen huyền, đang luyện bước múa. Tuyết Lý Mai ngồi trước kính, tóc đen mặt hồng, đang trang điểm trước gương, động tác cũng xinh đẹp vô cùng, trong lòng nhất thời cảm thấy rất hâm mộ.

Lúc trước khi còn ở Kê Minh dịch, nàng từng ở cùng Mã Liên Nhi mấy ngày, khi Mã Liên Nhi trang điểm buổi sáng cũng có dáng vẻ động lòng người như vậy. Lúc đó Ấu Nương ngắm nhìn, tuy mình cũng là con gái mà vẫn thấy động tâm, cảm thấy rất hâm mộ.

Bây giờ nhìn ba người có bộ dáng giống như những tiểu thư khuê các, Ấu Nương đột nhiên nhớ tới hôm kia Tiền Ninh đến nhà đã lầm mình là nha hoàn. Nàng biết tướng công càng làm quan to, thì càng kết bạn với những người quyền quí hơn, mình dù sao cũng xuất thân từ một thôn xóm nhỏ, mặc dù xưa nay rất chú ý nhưng lời nói cử chỉ vẫn không khỏi mang chút quê mùa. Nếu có thể lãnh giáo các nàng về dáng vẻ hành động, ăn nói học vấn...

Nghĩ vậy, Ấu Nương hơi thẹn hồng mặt, cười nói:

- Ba vị muội muội đa tài, dáng vẻ đoan trang. Tỷ tỷ lại chỉ biết múa thương đánh bổng, thấy các muội như vậy cảm thấy rất hâm mộ.

Đang điều phối thạch tín, nghe Hàn Ấu Nương nói vậy, Đường Nhất Tiên bèn quăng lọ thạch tín, chạy tới giữ chặt tay Ấu Nương cười nói:

- Múa thương đánh bổng mới tốt! Tên phóng đãng nào dám khi dễ bèn cho hắn một gậy vào đầu ngay. Hay là tỷ tỷ dạy muội võ nghệ, muội đem công phu sở trường nhất dạy cho tỷ tỷ, được không?

Ấu Nương vui vẻ nói:

- Tốt lắm, muội muội sở trường nhất là gì?

Đường Nhất Tiên đắc ý nói:

- Muội muội sở trường nhất là thổi tiêu.

Ấu Nương nói:

- Ừm, chỉ là tỷ tỷ rất vụng về, không hiểu có thể học được không. Muội muội đem tiêu ra cho tỷ coi, đợi tướng công tỉnh ngủ sẽ học cũng không muộn.

Đường Nhất Tiên cười khanh khách, ôm bả vai Ấu Nương nhìn vào mặt nàng, lắc lắc đầu nói:

- Tiêu kỹ của muội lại không cần tiêu, toàn bằng vào cái miệng thôi. Tỷ tỷ muốn học, phải xem thiên phú về công phu mồm miệng của tỷ rồi.

Hàn Ấu Nương ngẩn người, tiêu kỹ không cần tiêu à? Trong lòng nàng đột nhiên nhớ tới việc tướng công muốn mình ”thổi tiêu”, cảm thấy rất khó xử, mặt đỏ bừng lên, trong lòng xấu hổ muốn chết, thầm nghĩ: ”Cái con bé này! Cái con bé này! Quả nhiên là từ thanh lâu ra! Sao việc như thế này mà cũng có thể nói ra miệng được chứ, còn... còn nói kỹ xảo cái gì, quả thật mắc cở chết người.”

Hàn Ấu Nương che gương mặt nóng bừng, vừa thẹn vừa giận, giậm chân nói:

- Đáng chết! Đáng chết! Đường gia muội tử, muội... muội... Muội ăn nói khùng điên gì thế, việc này... việc này cũng có thể nói ra được, có thể học được sao?

Đường Nhất Tiên sửng sốt. Nàng mờ mịt, kỳ lạ hỏi:

- Sao cơ? Sao lại không học được ? Bao nhiêu người đều ca ngợi muội có công phu tuyệt vời mà!

Đang soi gương chải đầu, chợt tay Tuyết Lý Mai khựng lại một chút, rồi vứt mạnh lược xuống bàn, phá ra cười ha ha. Còn Tô Tam vốn hai má trắng như tuyết lại trở nên đỏ bừng, nàng run rẩy hai vai, chảy nước mắt hồi lâu rồi đột nhiên nhào lên giường, kéo chăn trùm kín đầu, một tràng cười trong vắt từ trong chăn vọng ra.

Đường Nhất Tiên nhìn trái nhìn phải rồi đột nhiên bừng hiểu. Lúc này mặt nàng cũng nóng lên như lửa, không kìm được thẹn thùng xấu hổ kêu lên:

- Trời ạ! Ấu Nương tỷ tỷ, tỷ đang nói gì thế? Người ta không muốn sống nữa!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro