Nguoc ve thoi Minh 181-212

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 181 - Âm mưu bại lộ

Dịch: vo vong

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





- Hoàng thượng! Nô tài cho rằng kế này của Lý đại học sỹ là thỏa đáng nhất. Nếu không đồng ý thì thành ra hại mất tính mạng của Dương đại nhân, đường đường trọng thần của triều đình mà mất mạng trong tay gian tặc, như thế há chẳng ảnh hưởng đến thể diện của triều đình hay sao?

Còn nếu cứ đồng ý bừa, trong tay chúng ta không có tên đại đạo Dương Hổ kia, lỡ mà kẻ địch phái một tên lâu la kiểm tra thực giả, ắt sẽ bị bại lộ. Chi bằng cứ tạm đồng ý trước đã, bấy giờ chúng ta vừa chuẩn bị vừa dốc sức tìm kiếm, nếu có thể thuận lợi cứu được Dương đại nhân ra là tốt nhất, còn nếu không thể, lại nghĩ cách khác đánh lừa bọn chúng, khi trao đổi con tin sẽ làm một mẻ lưới tiêu diệt sạch lũ gian tặc luôn.






Quyển 5 - Quần ma loạn vũ - Chương 181 - Âm mưu bại lộ

------------------------

Quyển 5 - Quần ma loạn vũ - Chương 181 - Âm mưu bại lộ


Chương 181 - Âm mưu bại lộ

Chiếc trống kêu oan trước cửa nha môn Ngũ Thành Binh Mã ti vẫn còn nằm nguyên ở đó. Theo ước định trong thư, nếu quan phủ đồng ý đổi người thì bọn họ sẽ cất chiếc trống kêu oan này đi. Nha môn nằm giữa chốn phố phường đông đúc, đứng từ xa tít đã có thể nhìn thấy rõ chiếc trống lớn vẫn còn đó, xem ra quan phủ nhất thời còn chưa thể đưa ra quyết định.

Lưu lão đạo đứng ở chỗ rẽ đằng xa liếc mắt nhìn qua, rồi giơ cây phướn lên bỏ đi thẳng như chẳng có chuyện gì. Hoàng thượng muốn xuất kinh, Dương Hổ đã bỏ trốn, quan binh chuẩn bị ồ ạt tiến tới Bá Châu, dưới cơn phẫn nộ của thiên tử thế lực lục lâm của Dương Hổ sắp lâm nguy đến nơi. Một loạt những tin tức vừa nhận trên khiến tính toán ban đầu của lão trở nên rối loạn.

Vốn Di Lặc giáo không định lợi dụng đại đạo lục lâm để tranh đoạt thiên hạ. Bọn họ muốn đi theo con đường thượng tầng, mưu đoạt binh quyền và hoàng vị để giành lấy thiên hạ một cách thuận lợi. Hiện giờ lại sắp có cơ hội tốt nhân khi Hoàng đế xuất kinh, cho dù thế nào đi chăng nữa, Lý Phúc Đạt cũng không thể vì một con tôm nhỏ mà bỏ một con cá lớn được.

Huống chi dưới sự bao vây tiễu trừ toàn lực của quan phủ, thế lực lục lâm ở Bá Châu đã chẳng còn bao nhiêu giá trị sử dụng nữa rồi. Hiện giờ, Dương Hổ chẳng qua cũng chỉ có tác dụng như một tên thích khách kiêu dũng, gã quân sư như lão có bại lộ thân phận cũng chẳng sao, do đó cấp trên mới hạ nghiêm lệnh cho lão phải bảo vệ an toàn cho Dương Lăng bằng mọi giá.

Lưu lão đạo thầm cười khổ một tiếng. Đêm qua mình còn ra sức nghĩ kế đưa Dương Lăng vào chỗ chết, ai ngờ chỉ sau một đêm mọi chuyện đã xoay chuyển như thế này, giờ đây lại phải nghĩ cách bảo vệ tính mạng cho y. Nếu người đời thật sự do vận mệnh chi phối, e rằng trên đời này chẳng còn ai tốt phúc hơn y.

Giả bộ sợ hãi trước quan uy mà đến tố cáo với quan phủ, rồi dẫn quan quân đến bắt giết Hồng Nương Tử ư? Vừa mới nghĩ đến ý này, lão đã lập tức nhẹ lắc đầu, hộ tịch và giấy thông hành của lão và Thúy Nhi đều là đồ giả. Một tên đại đạo lục lâm như Dương Hổ không thể tìm hiểu được gốc gác thật sự của lão nhưng quan phủ thì quyết không dung thứ cho một kẻ lai lịch bất minh như lão.

Hai vị được đưa vào cung kia quả thực đã từng đóng giả làm nghệ nhân tạp kỹ mà đi lại trên giang hồ hết bảy, tám năm, nhưng dù là như vậy cũng vẫn cần đích thân Ninh vương đứng ra làm người đảm bảo mới có thể đưa được họ vào trong cung. Lão mà đi tố cáo với quan phủ, lỡ mà bị người ta điều tra được chân tướng… Năm đó lão từng theo giáo chủ Lý Việt truyền giáo ở một dải Cam Thiểm, là một trong tám đại hộ pháp có tiếng tăm ở đó, rất nhiều người nhận biết lão.

Tốt nhất là Hồng Nương Tử biết điều, sau khi hay tin Dương Hổ đã trốn thoát thì chịu thả Dương Lăng, nếu không… Lưu lão đạo thầm nghiến răng, một tia sát khí thoáng lóe lên nơi đáy mắt.

***

Buổi ngọ triều đã trôi qua rất lâu, các vị trọng thần trong điện Bảo Hòa vẫn chen chúc vào một nơi, cuộc tranh cãi sôi nổi mãi vẫn chưa đến hồi kết. Vốn Chính Đức muốn cho mang thức ăn lên cho các vị đại thần này ăn no cái bụng trước đã, nhưng nhìn tình hình này thì hắn bất giác bực mình, cứ ngồi yên vừa nhìn bọn họ cãi nhau vừa đè nén lửa giận, sắc mặt càng lúc càng khó coi.

Các vị đại thần cũng chú ý đến sắc mặt tiểu Hoàng đế, tiếng huyên náo dần nhỏ lại.

Chính Đức lẳng lặng vân vê chiếc chén ngọc cực kỳ tinh xảo trong tay, chậm rãi nhìn quanh một vòng. Hắn thấy Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng đang rì rầm nói chuyện gì đó; Lý Đông Dương và Tiêu Phương thì cùng trưng vẻ mặt như quả mướp đắng, không ngừng vuốt râu; Dương Đình Hòa đang chắp tay sau lưng nhìn bức tranh chữ trên tường. Còn Lục bộ Cửu khanh và Thị lang các bộ mỗi người một thần sắc riêng, kẻ thì đầy mặt giận dữ, người thì hả hê ra mặt.

Chính Đức lại liếc nhìn Ngô Kiệt. Vị đại nhân già nua, gày gò chưa từng bước vào hoàng cung này mặt mũi lấm tấm mồ hôi, đang nhìn về phía hắn với vẻ vạn phần lo lắng.

Chính Đức khẽ ho một tiếng, xả bớt khí giận trong lồng ngực ra rồi mới nói:
- Các vị ái khanh! Cứ theo tình hình hiện nay, hẳn là nữ tặc Hồng Nương Tử chưa biết trượng phu của ả đã trốn khỏi kinh thành nên muốn đổi Dương thị độc lấy Dương Hổ. Hiện lũ đạo tặc đang chờ câu trả lời của triều đình, các vị ái khanh bàn bạc thế nào rồi?

Lưu Đại Hạ trầm giọng thưa:
- Hoàng thượng! Lão thần cho rằng nữ tặc đó đã có thể gửi thư vào kinh nên hiển nhiên là kinh sư phong tỏa kịp thời, bọn chúng còn chưa kịp trốn thoát. Hiện giờ trong thành binh mã như mây, có Binh bộ, Kinh doanh, Thuận Thiên phủ, Ngũ Thành Binh Mã ti, rồi còn cả ba xưởng một vệ, muốn lật tung kinh thành lên cũng có gì là khó? Có thể lệnh cho các bộ tăng cường tìm kiếm lục soát, bọn chúng còn có thể trốn lên trời hay sao?

Chính Đức cười lạnh:
- Đã tìm suốt một ngày một đêm rồi, nhưng đã tìm được gì chưa? Thuận Thiên phủ dâng sớ tâu trăm họ ở kinh sư đã cất tiếng oán than đầy đường, còn muốn tìm kiếm như thế nào nữa đây? Vả lại Dương khanh đang ở trong tay bọn chúng, nếu ép quá há lại chẳng phải xôi hỏng bỏng không hay sao?

Dương Phương cất tiếng:
- Hoàng thượng! Thần cho rằng lời của Lưu đại nhân đúng lắm, đường đường triều đình há có thể mặc cả với đám đạo tặc? Năm xưa Hạ Hầu Thuần phòng thủ Bộc Dương, Lữ Bố phái người bắt cóc ông ta đòi lấy tiền tài, nhưng bộ tướng của ông ta là Hàn Hạo đóng quân ngoài doanh quyết không thỏa hiệp, còn kiên quyết dùng binh với lũ tặc nhân, từ đó không còn kẻ nào dám bắt người làm con tin nữa. Nay lũ cuồng đồ dám phạm trọng tội ngay dưới chân Thiên tử, còn cả gan mặc cả với triều đình, như thế thể diện của triều đình còn đâu nữa? Mà ngày sau lũ gian tặc lại học theo đó, triều đình phải ứng phó ra sao? Việc này dứt khoát là không được!

Tiêu Phương nhướng mày lên cãi:
- Lời này của Dương đại nhân sai rồi. Có câu rằng binh bất yếm trá, Dương Hổ vốn chẳng ở trong tay triều đình, chúng ta cứ tương kế tựu kế, giả vờ đồng ý trao đổi con tin rồi thừa cơ cứu Dương đại nhân ra, thế có gì là không được? Chẳng lẽ lại trơ mắt nhìn một vị trọng thần của triều đình mất mạng trong tay gian tặc, như thế há lại chẳng mất thể diện của triều đình ư?

Hàn Văn trầm ngâm:
- Hoàng thượng! Luật pháp của triều đình không thể không để tâm đến, mà tính mạng của Dương đại nhân cũng cần phải bảo toàn. Theo thần thấy, chúng ta cứ nên suy nghĩ thêm, tính toán chu toàn. Lũ gian tặc đã có việc cần, ắt tạm thời Dương đại nhân không bị hại. Đương nhiên triều đình cũng cần phong tỏa tin tức, tăng cường tuần tra trong thành, đừng để lũ gian tặc trốn mất, cũng đừng để lộ tin Dương Hổ đã trốn thoát rồi.

Lý Đông Dương nghe vậy thì khẽ lắc đầu, vừa khéo Chính Đức nhìn thấy động tác của ông ta bèn vội hỏi:
- Lý đại học sỹ có cao kiến gì chăng?

Lý Đông Dương chắp tay thưa:
- Bẩm Hoàng thượng! Theo thần thấy, nếu đại đạo Dương Hổ thật sự ở trong tay chúng ta, với một tên thủ lĩnh cường đạo tụ tập giặc cướp chốn núi rừng, dám mưu sát đại thần, ý đồ làm phản như vậy, có nên thỏa hiệp hay không mới cần bàn bạc kỹ, dù sao luật pháp và mặt mũi của triều đình cũng là điều không thể bỏ mặc. Dương đại nhân đã hưởng ơn vua, tất nhiên phải suy nghĩ cho triều đình, không đồng tình với hành vi thỏa hiệp này cũng là hợp lẽ.

Nhưng… hiện giờ Dương Hổ không ở trong tay chúng ta, tạm dùng kế quyền nghi cũng không phải là không được. Thần cho rằng nên tạm dừng việc lục soát nhà dân để tra xét. Đừng nói là hành động này chưa chắc đã tìm được nơi ẩn nấp của lũ gian tặc mà cho dù thật sự tìm được đi chăng nữa, Dương đại nhân đang ở trong tay bọn chúng, ném chuột sợ vỡ đồ thì làm sao cứu người được đây?

Do đó, triều đình cứ đồng ý với yêu cầu của bọn chúng cũng chẳng sao, dù gì hai bên muốn đạt thành hiệp nghị cuối cùng cũng cần thời gian hai, ba ngày. Triều đình nên lệnh cho Kinh doanh và Ngũ Thành Binh Mã ti tăng cường phong tỏa và tuần tra, tránh việc gian tặc trốn thoát. Lại lệnh cho mật thám của Hình bộ và người của xưởng vệ bí mật tìm kiếm chỗ Dương đại nhân bị giam giữ, chờ thời cơ ứng cứu. Đợi khi hai bên bàn định xong nơi trao đổi con tin, triều đình có thể bố trí cung thủ phục kích, tùy cơ hành sự.

Mã Văn Thăng nghe xong bèn bước lên một bước. Lão vừa định mở lời, Cốc Đại Dụng đã bàn bạc với Lưu Cẩn xong xuôi bèn giành tâu trước:
- Hoàng thượng! Nô tài cho rằng kế này của Lý đại học sỹ là thỏa đáng nhất. Nếu không đồng ý thì thành ra hại mất tính mạng của Dương đại nhân, đường đường trọng thần của triều đình mà mất mạng trong tay gian tặc, như thế há chẳng ảnh hưởng đến thể diện của triều đình hay sao?

Còn nếu cứ đồng ý bừa, trong tay chúng ta không có tên đại đạo Dương Hổ kia, lỡ mà kẻ địch phái một tên lâu la kiểm tra thực giả, ắt sẽ bị bại lộ. Chi bằng cứ tạm đồng ý trước đã, bấy giờ chúng ta vừa chuẩn bị vừa dốc sức tìm kiếm, nếu có thể thuận lợi cứu được Dương đại nhân ra là tốt nhất, còn nếu không thể, lại nghĩ cách khác đánh lừa bọn chúng, khi trao đổi con tin sẽ làm một mẻ lưới tiêu diệt sạch lũ gian tặc luôn.

Chính Đức nghe vậy bèn vỗ án hô lớn:
- Hay! Các khanh không cần bàn bạc thêm nữa, cứ làm theo cách này đi! Đại Dụng, đi truyền tin cho Ngũ Thành Binh Mã ti, chờ gian tặc phái người đến liên hệ, còn việc truy tìm sào huyệt kẻ địch và trao đổi con tin thì do ngươi và Ngô Kiệt của Nội xưởng phụ trách. Nhớ lấy, trẫm cần một Dương Lăng sống chứ không phải một Xưởng đốc chết.

Các vị đại thần nhất tề khom người đáp:
- Thần tuân chỉ!

***

Lưu lão đạo vừa đi lại trên đường vừa suy tính đối sách. Nếu trao đổi con tin, khó đảm bảo bên phía quan phủ sẽ không bố trí phục binh; cho dù Hồng Nương Tử chạy thoát được thì bản thân mình có thể chạy thoát hay không cũng là một vấn đề khó nói.

Lại nữa, Hồng Nương Tử cũng từng không ít lần bắt cóc người nhà giàu đòi tiền chuộc, có thể coi là một chuyên gia trong nghề bắt cóc đòi tiền, nếu trước khi trao đổi ả phái người kiểm tra con tin, ắt hẳn sẽ lộ tẩy.

Nếu nói rõ với Hồng Nương Tử việc Dương Hổ đã trốn thoát, khả năng Dương Lăng được thả ra là rất nhỏ; rất có thể y sẽ bị lập tức giết chết ngay. Nói với ả việc thả Dương Lăng ra có thể dụ Hoàng đế xuất kinh ư? Cô ta từ nhỏ đã đi lại trong giới lục lâm, là người hết sức cảnh giác: mình mới vừa đi loanh quanh trong kinh sư được canh phòng nghiêm ngặt này mới có một vòng mà đã nhận được tin tức cơ mật và chuẩn xác như thế, làm sao cô ả không nảy lòng nghi ngờ?

Lưu lão đạo suy đi tính lại, rốt cuộc đành hạ quyết tâm cứ tạm trở về một chuyến trước, đợi thăm dò được suy nghĩ của cô ả rồi tính sau. Nếu thật sự không được, để câu con cá to là Hoàng đế Chính Đức và cũng vì tiền đồ của bản thân, ta đành gieo khổ cho Hồng Nương Tử vậy. Một tiểu nương tử xinh đẹp như hoa như ngọc phải bỏ mạng lúc tuổi còn xanh thì thật đáng tiếc lắm thay.

Lưu lão đạo đoán mệnh cho hai vị lão thái thái, nhận được mấy văn tiền, sau buổi trưa lại lòng vòng đi tới trước cửa nha môn Ngũ Thành Binh Mã ti. Lão thấy trên chiếc giá đã chẳng còn gì, chiếc trống kia không biết đã đi đâu mất rồi. Lúc này sắc trời đang âm u, lưa thưa mấy bông tuyết phất phơ bay xuống, người đi lại trên đường dần dần thưa thớt, Lưu lão đạo sợ khiến người khác hoài nghi, bèn xoay người lại chậm rãi đi về phía thành bắc. Đi tới con hẻm, thấy không có người nào chú ý, Lưu lão đạo bèn vội vã bước vào trong đạo quán.

Tòa đạo quán xây dở này ngay đến cửa cũng không có, bốn phía gió lùa. Đêm qua là đêm đầu tiên, còn có thể phái người ra ngoài canh gác, ban ngày thì lại không thể cho người đứng chờ ở ngoài sợ sẽ khiến người đi đường chú ý. Lưu lão đạo khởi động cơ quan, lặng lẽ chui vào trong thạch thất, hai đại hán cầm đao kiếm nhìn thấy là lão bèn buông vũ khí trong tay xuống, nôn nóng hỏi:
- Lưu tiên sinh, quan phủ có đồng ý không? Hổ ca vẫn an toàn chứ?

Lưu lão đạo khẽ mỉm cười đáp:
- Còn may, quan phủ đã tỏ ý bằng lòng trao đổi con tin với chúng ta.

Lúc này Thôi Oanh Nhi và Thúy Nhi cũng hay tin ra đón. Lưu lão đạo cùng bọn họ tránh vào trong một gian thạch thất, sau khi sắp xếp về những lời cần nói, lão bèn hỏi:
- Phu nhân có dự định gì không? Sau khi cứu được đại đương gia ra nên xử trí Dương Lăng thế nào đây?

Rốt cuộc Hồng Nương Tử vẫn phải cắn chặt môi, khẽ cất tiếng:
- Sáng nay bọn ta đã bàn định xong. Mối thù của hơn hai trăm huynh đệ không thể không báo, một khi cứu được người ra sẽ lập tức giết chết Dương Lăng, tế vong linh của bọn họ.

Lưu lão đạo gượng cười:
- Chuyện này… Cứ nên lấy đại cục làm trọng. Phu nhân và đại đương gia đều là người làm việc lớn, nếu vì chuyện này mà chọc giận quan phủ, cơ nghiệp do đại đương gia vất vả lắm mới gây dựng được khó tránh khỏi sẽ bị tấn công tiêu hủy, chi bằng tha cho y một phen…

Thúy Nhi ngẩn ra, nhìn lão với vẻ rất kinh ngạc, không biết lão lại có trò mới gì. Nụ cười của Lưu lão đạo hơi nhiễm vẻ cay đắng, nhưng lại chẳng thể nói rõ ra được.

Hai tên sơn tặc đứng ngoài cửa nghe vậy thì bèn bước vào. Một gã đại hán mặt mày hung ác nói với vẻ bất mãn:
- Lưu tiên sinh sao lại có lòng nhân từ của đàn bà như thế? Cho dù không giết hắn thì chúng ta cũng đã gây ra sự biến lớn đến thế này rồi, quan phủ còn chịu dễ dàng bỏ qua hay sao chứ?

Tên đại hán trọc đầu còn lại hăng hái:
- Chính thế! Chúng ta đã làm việc này thì không sợ đắc tội quan phủ, chỉ sợ danh hiệu không vang dội mà thôi. Lần này tiến kinh tổn thất mất hai trăm huynh đệ, không giết được y thì khi về trại biết ăn nói với mọi người sao đây? Còn nếu giết y rồi, các hảo hán ở tam sơn ngũ nhạc có ai mà không khâm phục chúng ta? Ắt hẳn danh hiệu của Hổ ca sẽ càng vang dội hơn, cho dù cả ngọn núi kia bị hủy đi, chúng ta muốn xây dựng lại cơ nghiệp ở nơi khác cũng là chuyện dễ như trở bàn tay.

Hồng Nương Tử nghe tới đây bèn quyết tâm:
- Cứ làm như vậy đi, với quan phủ thì còn phải nói gì đến tín nghĩa nữa chứ? Hồ Đại Chùy, quan phủ đã đồng ý rồi, vậy ngày mai chúng ta sẽ chuẩn bị dùng vũ lực rời thành, ngươi tới chỗ quan phủ xem tình hình của đại ca ngươi trước, đừng để bọn chúng lừa đấy.

Mặt mày hung ác, Hồ Đại Chùy gật đầu đáp với vẻ thản nhiên:
- Đại tẩu yên tâm! Có tên cẩu quan kia ở đây, quan phủ còn có thể làm gì được một gã tiểu lâu la như đệ chứ? Đệ nhất định sẽ có thể cùng Hổ ca an toàn đến Phong Đài, quan binh đừng hòng giở trò gì với đệ.

Lưu lão đạo nghe tới đây thì lòng dạ nguội lạnh hẳn đi.

Hồng Nương Tử nghĩ đến Dương Lăng, tuy trong lòng vẫn hơi áy náy nhưng trượng phu đã đi theo con đường này rồi, nàng là thê tử, ngoài việc tiếp tục đi theo hắn thì còn có thể làm được gì khác nữa? Nàng buồn bã thở dài một hơi, nói với Lưu lão đạo:
- Lưu tiên sinh đã vất vả rồi, ông hãy nghỉ ngơi trước đi. Đợi qua được ngày mai, chúng ta sẽ có thể cao bay xa chạy rồi.

Hồng Nương Tử xoay người đi vào phòng của Dương Lăng, Hồ Đại Chùy và gã đại hán đầu trọc Hắc Diêu Tử kia lén lút theo sau. Thôi Oanh Nhi ngoảnh đầu trừng mắt nhìn bọn hắn, hai gã sơn tặc nhìn về phía Dương Lăng cười cười với vẻ hung ác, đoạn chậm rãi bước ra ngoài.

Dương Lăng vịn tường gượng đứng dậy, trong phòng không đốt lửa, tuy ấm hơn bên ngoài một chút nhưng vẫn lạnh lẽo vô cùng. Thân thể y vốn đã không so được với đám sơn tặc, lại ở một mình trong gian phòng đá, khó chịu vô cùng, bèn ngồi xếp bằng tĩnh tọa theo cách của Ngũ Hán Siêu. Hiện giờ y vẫn chưa biết ngồi kiểu “đại bàn”, dưới sự trông coi của đám sơn tặc cũng không dám quá lộ liễu, nhưng chỉ ngồi kiểu “tiểu bàn” hơn nữa canh giờ, hai chân cũng đã mỏi nhừ.
(tiểu bàn: ngồi xếp bằng bình thường, bàn chân dưới đùi; đại bàn: kiểu hoa sen, bàn chân này gác lên đùi kia)

Thấy sắc mặt Hồng Nương Tử, y hỏi:
- Triều đình đồng ý trao đổi rồi ư?

Nhìn dáng vẻ hơi tiều tụy của y, trái tim Hồng Nương Tử bất giác nhũn đi. Trên đời liệu có mấy vị quan chịu bỏ tiền phát cháo cứu tế cho nạn dân? Y còn khổ tâm dốc sức nghĩ cách để cải tạo giống cây trồng, thật là một vị quan tốt.

Khi đến thăm phủ của y, phu nhân của y cũng là một người hòa nhã thân thiện, không hề có vẻ kiêu ngạo của một ả vợ quan, nhưng… Nếu không giết y, biết phải ăn nói thế nào với các huynh đệ khác về hai trăm huynh đệ đã bị giết? Hơn nữa trượng phu đã bước lên con đường này rồi, càng là vị quan hữu dụng với triều đình thì càng là đại địch của mình. Có ai ngờ được lần này lên kinh sư, không giết được Hoàng đế mà lại để y trở thành con dê chịu tội thay chứ?

Trong lòng đang áy náy, giọng nói cũng bất giác dịu hơn vài phần, nàng khẽ gật đầu:
- Ừm, xem ra Hoàng đế rất coi trọng ngươi đấy, vì ngươi mà phong tỏa toàn bộ kinh thành, bọn ta đưa ra yêu cầu trao đổi, quan phủ chẳng hề nghĩ ngợi gì đã đồng ý ngay. Ngày mai ta sẽ phái người đi gặp quan phủ, chỉ cần bọn chúng không giở trò gì khi trao đổi con tin, ngươi sẽ… sẽ có thể trở về rồi.

Thôi Oanh Nhi tung hoành chốn núi rừng, giết người cướp bóc cũng là tay lão luyện, chưa từng chớp mắt bao giờ. bằng không làm sao nàng có thể khuất phục được bao nhiêu tay đại đạo kiêu căng như thế. Nhưng nói tới đây khuôn mặt nàng lại bất giác nóng rần, có chút hổ thẹn. Nàng vội vã xoay người, cởi chiếc áo choàng độn bông ra, vứt cho y rồi bảo:
- Các ngươi làm quan không so được với bọn ta, đã ở đây rồi cũng đừng làm bộ làm tịch kiểu nhà quan nữa, khoác nó lên đi, đêm nay… Ta kêu người đi kiếm chút rượu thịt về, ngươi cũng không đến mức lạnh quá không ngủ được như đêm qua.

***

Trong gian phòng trước, Hồng Nương Tử vừa mới rời đi, Thúy Nhi đã ghé sát đến bên cạnh Lưu lão đạo, thấp giọng hỏi:
- Ông giở trò gì thế? Không phải ông từng bảo cần xúi bẩy Hồng Nương Tử giết y sao? Sao lại đổi quẻ rồi?

Lưu lão đạo cười khổ, đưa mắt liếc nhìn ra bên ngoài, đáp nhanh:
- Ôi! Cũng là việc đời khó liệu… Giáo chủ đã đích thân phái người đến thông báo có thể Hoàng đế sẽ xuất kinh, đây là một cơ hội cực tốt. Mà Dương Lăng lại là nhân vật quan trọng đi theo phò tá, nếu thiếu sự ủng hộ của y, e là Hoàng đế khó lòng đi được. Do đó chúng ta nhất định phải bảo vệ sự an toàn của Dương Lăng, bằng bất cứ cách nào cũng không được để y chết.

Thúy Nhi cả kinh, thấp giọng:
- Có chuyện như vậy sao? Thảm rồi, bây giờ phải làm thế nào đây? Mấy kẻ kia cứ nhất quyết muốn báo thù cho huynh đệ, ta cũng đã đỡ lời khuyên nhủ Hồng Nương Tử rồi. Nếu ả đã quyết định chuyện gì rồi thì ngoan cổ lắm, chẳng mấy người có thể khiến ả thay đổi ý kiến được đâu.

Lưu lão đạo lạnh lùng đáp:
- Cô cũng đã đi theo ả mấy năm, rất quen thuộc tính cách của ả, ả cũng đã coi cô như tỷ muội thân thiết nhất rồi, đợi lát nữa hãy thử khuyên nhủ thêm xem. Ta sẽ ngụ lại tại nhà của Hồng viên ngoại ở phía sau đạo quán. Ở đây không thể nghe thấy tiếng điểm canh, cô cứ ước lượng thời gian, chừng canh hai ta sẽ dẫn người tới, cô giả vờ đi tiểu đêm ra ngoài gặp ta. Nếu Hồng Nương Tử đã hồi tâm chuyển ý thì thôi, còn nếu không, cô ra mặt giải quyết người canh gác trước, rồi chúng ta và ả đoạn tuyệt quan hệ!

Thúy Nhi thất thanh:
- Cái gì? Nếu như vậy thì tâm huyết bao năm nay của chúng ta ở giới lục lâm…

Lưu lão đạo khẽ giải thích:
- Bọn chúng đã để lộ diện trước mắt triều đình, cô nghĩ dưới sự vây ráp tiễu trừ của quan binh mà bọn chúng còn làm gì được nữa hay sao? Vốn liếng của chúng ta không thể đặt cả vào đám sơn tặc ấy được!


Ban đêm. Ánh lửa trong phòng khi mờ khi tỏ. Thúy Nhi đang ngủ ngoài cửa đột nhiên mở mắt ra, chậm rãi chống tay ngồi dậy, nhìn qua phía Hồng Nương Tử với vẻ hơi căng thẳng. Thị thấy lúc này Hồng Nương Tử đang dựa lưng vào bức tường đá, hai tay ôm vai, quàng thanh đoản kiếm trước ngực, hơi thở đều đều tự nhiên.

Thúy Nhi lại nhìn vào trong phòng. Dương Lăng không quen ngủ trong tư thế ngồi nên đang nằm co, cuộn người lại trên mặt đất trong chiếc áo choàng độn bông. Thúy Nhi khẽ thở phào một hơi, đứng dậy lẳng lặng đi ra phía ngoài. Đêm nay người canh gác bên ngoài là Hồ Đại Chùy và Phàn lão nhị. Thấy ả đi tới, Hồ Đại Chùy cười híp mắt lại:
- Thúy Nhi, có phải cô lạnh quá không ngủ được phải không? Để ca ca đây ôm một chút cho ấm nhé!

Thúy Nhi cười mắng:
- Cút ngay! Chớ nói với ta những lời dơ bẩn đó, để tiểu thư nghe được xem người có thu thập ngươi không! Tránh xa ra một chút!

Thúy Nhi đi lên bậc thang. Tuy Hồ Đại Chùy dám bỡn cợt ngoài miệng nhưng lại không dám động chân động tay với người của Hồng Nương Tử. Huống chi hắn cũng biết võ công của cô gái này cao minh hơn mình nhiều, nên bèn cười hì hì tránh sang một bên, nhìn cặp mông căng tròn kia ưỡn ẹo biến ra khỏi tầm mắt.

Phía sau đạo quán là một vạt rừng thấp. Hồi chiều gió lạnh rít gào nhưng lúc này đã bớt gió, từng bông từng bông tuyết lớn lặng lẽ rơi xuống, trời không trăng không sao, tối đen như mực.

Ứng phó xong với gã đại đạo canh gác bên ngoài, Thúy Nhi lẳng lặng đi vào trong rừng. Lắng nghe thử thấy phía sau không có động tĩnh gì, ả lại rón rén đi tiếp về phía trước, lần mò đến bên cạnh bức tường thấp bên ngoài khu rừng. Thúy Nhi ghé tai lắng nghe một hồi, hai bàn tay khẽ vỗ ba cái, cách đó không xa có người thấp giọng hỏi:
- Ai đó?

Thúy Nhi cũng thấp giọng đáp:
- Trời giáng Di Lặc phật.

Đối phương vui mừng đáp lại:
- Làm chủ thế giới kia! Lưu hộ pháp, người tới rồi.

Thúy Nhi lần mò bước về phía trước. Phía đối phương không dám đốt đèn, dưới ánh sáng mờ mờ chỉ có thể nhìn thấy sáu bảy bóng người đi tới. Người ở giữa khẽ hỏi:
- Thúy Nhi, thế nào rồi?

Nhận ra giọng của Lưu lão đạo, Thúy Nhi vội bước tới đáp:
- Hồng Nương Tử cảnh giác lắm, hồi sáng ta mới khuyên ả giết Dương Lăng xong, buổi tối khuyên một câu rồi cũng không dám khuyên nữa, sợ khiến ả nảy lòng nghi ngờ. Về sau mấy người Hắc Diêu Tử nghe thấy, lại tới phản bác lời ta. Bọn họ đều là huynh đệ kết nghĩa của Dương Hổ, Hồng Nương Tử nghe xong lời của bọn họ lại càng không chịu thay đổi ý định.

Lưu lão đạo buồn bực:
- Chẳng còn cách nào! Vì đại kế của giáo chủ, giờ đây xem ra chỉ đành phải giết ả thôi. Con ả này võ công ghê gớm lắm, đợi lát nữa hãy nhanh nhạy một chút. Đáng tiếc chúng ta không mang theo dược vật, nếu không thì tiện lợi hơn nhiều rồi.

Thúy Nhi thấp giọng trách:
- Trên đời này làm gì có thứ độc dược nào không màu không mùi chứ? Hơn nữa ta đã theo ả mấy năm, biết rõ sự lợi hại của ả. Mấy thứ hại người tầm thường đó ả chỉ cần ngửi cái là biết ngay, đừng đưa ra mấy ý kiến tồi tệ như vậy nữa! Chẳng bằng nhân lúc ả ta không đề phòng mà tung ra đòn thật mạnh đi!

Lưu lão đạo đồng ý:
- Được! Mọi người chú ý, nhất định phải làm thật nhanh thật độc, quyết không được tha cho bất cứ kẻ nào! Sau đó đổ cái chết của Hồng Nương Tử lên đầu quan binh; khi ấy cho dù có phải leo núi đao thì Dương Hổ cũng chẳng quản ngại gì.

Một bóng đen có địa vị dường như không thấp khẽ cười, vẻ dâm dật:
- Hay cho kế xua hổ đuổi lang! Đáng tiếc, Dương Hổ đại danh đỉnh đỉnh lại là một con hổ ngốc, tự dưng lãng phí hai trăm tên tâm phúc đắc lực cho chúng ta rồi hiện giờ ngay đến vợ cũng để mất. Nghe nói ả đó một thân võ nghệ quyền cước hơn người, tướng mạo quyến rũ, vóc dáng yêu kiều. Ta có mang theo ‘Thần Tiên Võng’ đây, có cần bắt sống ả không?

Lưu lão đạo nghĩ đến dáng vẻ xinh đẹp quyến rũ của Hồng Nương Tử thì cũng thầm bức rức trong lòng. Có điều có thể lọt vào hàng ngũ Bát đại hộ pháp của Di Lặc giáo thì đều là hạng tâm chí kiên định, sau khi cân nhắc một lúc về sự lợi hại được mất, lão bèn hủy bỏ ý định này, nghiêm chỉnh đáp:
- Vạn lần không được! Hồng Nương Tử võ nghệ cao cường, nhất định phải nhân lúc ả không để phòng mà nhanh chóng giết chết! Đi thôi!

Cả bọn theo sau Thúy Nhi lặng lẽ lần mò về hướng đạo quán. Nhìn thấy mấy tòa kiến trúc đen thui phía trước, Thúy Nhi dừng lại sau một gốc cây, thấp giọng:
- Trên xà ngang của ngôi điện phía trước có kẻ canh gác. Các ngươi đợi ở đây, ta đi dụ hắn xuống rồi kết liễu hắn trước.

Lời của Thúy Nhi còn chưa dứt, kẻ đi sau cùng chợt kêu thảm một tiếng rồi im bặt. Mấy người đi phía trước tay nắm chặt binh khí kinh hãi nhìn về phía sau, chỉ thấy bóng đen đó lắc lư mấy cái, rồi đổ gục xuống mặt đất.

Cả bọn đều sởn gai ốc, cơ thịt toàn thân căng cứng, đều không dám động đậy. Tuyết vẫn từ trên trời buông xuống, ngay đến bờ mi mỗi người cũng đều có tuyết bám vào, nhưng lại chẳng ai dám giơ tay lên gạt đi.

Tất cả đều mở to hai mắt nhìn chằm chằm vào bóng đêm tối mịt xung quanh, qua một hồi lâu Thúy Nhi mới run giọng hỏi:
- Chuyện gì vậy?

Từ phía bên trái chợt vang lên tiếng leng keng vũ khí va chạm. Cả bọn chợt thấy hai bóng người rất nhanh đã quấn vào một chỗ, sau đó một bóng người lao đi, biến vào trong màn đêm. Người còn lại thì kêu lên “Ối!” một tiếng, ngã ngược về phía sau, đau đớn kêu lên:
- Có kẻ tập kích, ta… dưới xương sườn ta bị trúng một kiếm.

Lưu lão đạo vội hỏi:
- Có chuyện gì thế? Là kẻ nào? Quan binh đã tìm tới rồi hay …
Lão đột nhiên xoay người lại, khẽ quát Thúy Nhi:
- Ngươi đã phản bội bản giáo?

Thúy Nhi hoảng hốt:
- Ta… Ta không có, rốt cuộc là kẻ nào?

Một giọng nữ uy nghiêm vô hạn vang lên:
- Là ta!

Thúy Nhi và Lưu lão đạo đều toàn thân chấn động. Thúy Nhi la thất thanh:
- Hồng Nương Tử? Ta… Ta không nên khuyên ngươi, khiến ngươi nảy lòng nghi ngờ!

Giọng nữ kia cười lên khe khẽ. Tiếng cười chợt dừng lại, thay bằng giọng nói khoan thai:
- Thúy Nhi! Chắc ngươi chưa biết ta từng bị quan binh vây quét, liên tục hai mươi ngày không được ngủ đẫy giấc nào. Huống chi đây là nơi kinh sư trọng địa, dưới sự bao vây trùng trùng của quan binh làm sao ta có thể ngủ sâu được cơ chứ?

Những lời khuyên của ngươi hoàn toàn không hề khiến ta nghi ngờ. Chỉ là khi thức dậy ngươi không nên lén lút thăm dò động tĩnh của ta như thế! Dã thú hết sức mẫn cảm với địch ý của kẻ khác, còn ta chính là một con mãnh hổ trong rừng!




Chú thích:





Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
25-05-2012, 10:40 AM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 182 Xin tiễn người đi

Dịch: TheJoker

Biên dịch: 6300

Biên tập: 6300

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Liễu Bưu nhìn bộ dạng của hắn, thắc mắc:
- Huynh đệ còn muốn ra ngoài ư?

Ngũ Hán Siêu đáp:
- Tin báo bên phía thành bắc nói rằng mấy ngày nay có đạo sĩ vân du lui tới một đạo quán đang xây dở, đệ tính đến đó điều tra cho rõ.




Quyển 5 - Quần ma loạn vũ - Chương 182 Xin tiễn người đi

------------------------

Quyển 5 - Quần ma loạn vũ - Chương 182 Xin tiễn người đi

------------------------

Trong Ngũ thành binh mã ty, đám hung thần nha môn tụ tập lúc nhúc; Đông Xưởng, Tây Xưởng, Nội Xưởng, Cẩm Y Vệ và các quan lớn của bộ Hình giống như những con tu hú chiếm lấy tổ chim khách, dồn viên Ngự sử tuần thành xuống chỗ ngồi bên dưới, vị quan này đang chau mày lắng nghe tên nô bộc trẻ tuổi chuyển lời.

Bởi phong thư đầu tiên được nhận ở Ngũ thành binh mã ty nên quan lớn các bộ đều chạy đến đây, hy vọng chiếm được tin tức trước một bước. Chung quanh Ngũ thành binh mã ty thông rộng ra bốn con đường, mặc kệ tuyết lớn bay lả tả, trời tối như mực, mật thám vẫn được cài cắm, nếu ban đêm có người tình cờ dám tạt qua, lập tức sẽ xuất hiện những kẻ không biết từ đâu chui ra, bất ngờ kẹp nách xốc vào trong căn nhà nhỏ bên đường ngay.

Trên công đường, các quan lớn không ngừng nhận được tình báo thu thập từ nhiều con đường khác nhau, nhưng đúng như người ta thường nói, "một người đem giấu, vạn kẻ khó tìm", kinh sư rộng lớn như vậy, muốn giấu vài người quả thực dễ như trở bàn tay, đến tận giờ vẫn chưa có được tin tức gì hữu dụng. Đến canh ba, Lưu Cẩn và mấy đại nhân không thức nổi nữa bèn kêu người dọn chiếc bàn chân thấp ra khỏi giường, rồi nằm chen chúc nhau đánh một giấc.

Công đường của Binh mã ty đã sớm rối như canh hẹ; đám chủ nhà Điển sử, Chủ bộ, Tuần kiểm đều không dám về nhà, toàn bộ ở lại công đường bận bịu làm việc của mỗi người. Ngũ Hán Siêu đi đi lại lại trên công đường, đã hai ngày hai đêm nay hắn không thể chợp mắt, râu dưới cằm đã mọc lún phún, mắt hằn đầy tơ máu, trông hệt như một con thú bị nhốt trong chuồng.

Hắn lầm tưởng cô ả che mặt kia là Hồng Nương Tử, mới ra ràng nên nặng lòng háo thắng, chỉ nghĩ bắt sống được tên đạo tặc đó, làm đại lễ quy thuận Nội xưởng, không ngờ lại trúng phải kế điệu hổ ly sơn, giờ đây không rõ Dương Lăng sống hay chết. Nghĩ đến hậu quả có thể xảy ra, hắn liền sởn gai ốc.

Ngũ Hán Siêu thả bộ đi đến bên chiếc bàn chân thấp, ngọn đèn dầu trên bàn sáng trưng, một Chủ bộ khoác trên người áo da đang chống cằm ngủ gật. Ngũ Hán Siêu nhìn thấy trên bàn bày chồng hồ sơ dày cộp, thuận tay nhón lấy một tờ lên xem, vừa nhìn thấy tin tức bên trên, liền cúi xuống gõ nhẹ bàn.

Lão Chủ bộ đang ngủ say sưa, đột nhiên bị hắn đánh thức. Lão không biết Ngũ Hán Siêu, có điều vị công tử này tuy không ăn vận như sai nha, mấy ngày nay lại thường thấy hắn đi ra đi vào cùng với đám người của xưởng vệ, dường như lai lịch không nhỏ, lão Chủ bộ nào dám xem thường, liền vội dụi mắt hỏi:
- Công tử, ngài có việc gì sao?

Ngũ Hán Siêu trỏ vào hồ sơ án hỏi:
- Lính bảo an khu hẻm nghèo nát phía thành bắc nói rằng mấy ngày nay có một đạo sĩ vân du lạ mặt thường hay ra vào, sáng hôm nay có tên hầu đổ phân phát hiện lão ta bước ra từ trong một đạo quán đang xây dở, đã phái người tra xét chưa?

Lão Chủ bộ khẽ gật đầu, thần trí tỉnh lại một chút rồi lại lắc đầu, Ngũ Hán Siêu nổi giận, túm lấy lão nhấc lên, quát:
- Rốt cuộc là đã tra chưa?

Lão Chủ bộ nhăn nhó khổ sở van xin:
- Công tử hãy buông tay, hãy buông tay, xin nghe lão phu nói đã. Khụ khụ khụ, thở... thở không nổi rồi.

Ngũ Hán Siêu hừ lạnh, bỏ tay ra, lão Chủ bộ vuốt vuốt cổ họng, thở hổn hển nói:
- Công tử, tra không nổi đâu. Nhân mã của chúng ta tuy đông, nhưng vào lúc này, cả thành Bắc Kinh nơm nớp lo sợ, chia quân ra canh gác, trông coi các nha môn và phủ đệ của các vị đại nhân, tuần tra kinh thành, có điều khắp kinh thành cũng sẽ không đủ dùng.

Từ khi triều đình dán công văn treo thưởng, tin báo nhận được trong mấy ngày nay không một vạn cũng tới tám nghìn, kẻ nào cũng nói tận mắt trông thấy, kết quả mỗi lần phái đại đội nhân mã đều là một chuyến uổng công, bắt được toàn những kẻ trộm vặt, ăn cướp, lừa bịp, và lưu dân không có giấy tùy thân, thậm chí có cả thông dâm nuôi trai, đại lao đã nhét chật cả người.

Nay tình hình kinh sư như vậy, ngay cả khách điếm cũng không muốn tiếp đón khách mới, càng đừng nói là chùa chiền đạo quán. Đạo sĩ đó vân du bốn phương không chỗ ngả lưng, nghỉ lại nơi miếu chùa đổ nát ngoài thành cũng hết sức bình thường, những kẻ khả nghi còn tra không nổi, lấy đâu người mà đến đó điều tra lão ta?

Ngũ Hán Siêu lạnh lùng hừ một tiếng, xoay người đi ra, lão Chủ bộ liền trừng mắt, nhếch môi. Không thấy tin tức này thì thôi, nhưng nếu đã thấy rồi, người trong lúc tuyệt vọng chỉ cần có một tia hy vọng liền sẽ không kiềm được mà suy nghĩ lung tung, cho nên tin tức này thủy chung vẫn luẩn quẩn trong đầu Ngũ Hán Siêu.

Ngũ Hán Siêu trở lại ghế ngồi, song càng nghĩ càng thấy bực bội, nếu không đích thân đi xem thử thì chuyện này sẽ mãi canh cánh trong lòng. Hắn bỗng đứng dậy, chụp lấy áo khoác ngoài trên ghế rồi vội vã mặc vào.

Liễu Bưu đang ủ rũ từ trong nhị đường(1) bước ra, trông thấy bộ dáng của hắn như vậy bèn đi đến hỏi:
- Ngũ công tử, hiện chỉ có thể đợi đám đại đạo đưa tin đến lần nữa, huynh đệ đã hai ngày không chợp mắt, đến bữa cũng không ăn miếng nào, nếu cứ tiếp tục như vậy, đến lúc có được tin tức của đại nhân rồi, sợ rằng huynh đệ cũng không gắng gượng được nữa đâu.

Ngũ Hán Siêu gượng cười nói:
- Đa tạ Liễu huynh đã quan tâm. Đại nhân bị bắt là do tiểu đệ không làm tròn bổn phận, mỗi khi nghĩ đến chuyện này, thực sự đứng ngồi không yên.

Liễu Bưu nhìn bộ dạng của hắn, thắc mắc:
- Huynh đệ còn muốn ra ngoài ư?

Ngũ Hán Siêu đáp:
- Tin báo bên phía thành bắc nói rằng mấy ngày nay có đạo sĩ vân du lui tới một đạo quán đang xây dở, đệ tính đến đó điều tra cho rõ.

Chủ bộ nọ không nhịn được bèn chen miệng vào:
- Đại nhân, khu vực thành bắc, bao gồm cả đạo quán đang xây dở đó cũng đã được Binh mã ty điều tra một lượt, không hề phát hiện có gì khác thường.

Ngũ Hán Siêu vặn lại:
- Tuy đã điều tra đạo quán, nhưng đã điều tra lão đạo sĩ nọ chưa? Ngươi từng nói có thể đạo sĩ đó đang tá túc tại đấy, lúc này tiết trời giá rét, thế nhưng bên trong đạo quán đó chăn đệm hay vết lửa không?

- Việc đó...
Lão Chủ bộ cứng họng, rờ mũi không biết nói thế nào. Liễu Bưu nhíu mày lại, thấp giọng nói:
- Ngũ công tử, có câu vua không sai được lính đói, quan binh tìm kiếm cả ngày lẫn đêm, cả người lẫn ngựa sớm đã mỏi mệt, lúc này vẫn chưa đến canh tư, thêm nữa tuyết lớn mịt mù, ta thấy hay là đợi trời sáng một chút hẵng cùng nhân mã đi điều tra.

Ngũ Hán Siêu buộc đai lại, đeo kiếm lên, nói:
- Thực như đã có nghi ngờ, dẫn đại quân đến sẽ khiến kẻ gian cảnh giác. Tự mình đệ đi xem thử.

Liễu Bưu biết trong lòng hắn không thoải mái, cũng không khuyên bảo thêm, bèn nói:
- Thôi được, ta sẽ đi cùng huynh đệ một chuyến.

Tuyết vẫn rơi lả tả, trời lại nổi gió, gió rít gào cuốn phăng những bông tuyết. Bóng đêm mờ mịt, mặt đất xốp mềm, cầm đèn soi không thấy nổi ba trượng. Liễu Bưu sang phòng trực gác đêm gọi bốn tay thân binh dậy, sáu người cưỡi ngựa chạy đến phía thành bắc, những giao lộ trọng yếu dọc đường vẫn có quan binh canh gác, kiểm tra thẻ bài giắt lưng của Liễu Bưu xong thì vẫy tay cho qua.

Trong rừng, Lưu đạo sĩ, Thúy Nhi và một giáo đồ Di Lặc giáo dựa sát vào nhau thành hình chữ phẩm (品); nỗi khiếp đảm và một phen chiến đấu đã khiến bọn họ thở hổn hển như trâu. Lưu đạo sĩ đảo mắt liên tục, hòng tìm cơ hội đào thoát, nhưng trong cái bóng đêm như mực ấy, bất cứ lúc nào cũng có thể có một bà la sát nhảy ra đòi mạng, không có Thúy Nhi và tay giáo đồ Di Lặc giáo nọ bảo vệ, lão căn bản không dám tự mình chạy trốn.

Hai bên vừa mới giao thủ, tên đạo tặc canh gác trên xà nhà của đạo quán đã loáng thoáng nghe thấy động tĩnh; lúc Hồng Nương Tử âm thầm bám theo Thúy Nhi ra khỏi hầm, nàng vẫn chưa thể xác định ả ta có hai lòng hay không, vì vậy chỉ bảo tên nọ canh phòng cẩn thận, lúc này nghe thấy tiếng binh khí va chạm, không cần Hồng Nương Tử ra lệnh, hắn liền chạy vào trong hầm gọi người ra.

Đám cướp còn tưởng rằng đã bị quan binh bao vây, bèn để một tên ở lại trông chừng Dương Lăng, những kẻ khác cầm lấy binh khí xông ra ngoài. Đến lúc xông vào trong rừng, Hồng Nương Tử lập tức quát bảo bọn chúng bao vây bốn phía, không cho bất cứ kẻ nào thừa lúc hỗn loạn mà đào thoát.

Bọn chúng cũng không biết đã xảy ra chuyện gì, đến khi nghe nói những kẻ này là giáo đồ Di Lặc, dư nghiệt của Bạch Liên giáo, từng hoành hành tại Cam Túc, Thiểm Tây và Sơn Tây, đám cướp mới yên tâm. Song phương đều 'đen', không thể ra 'sáng', chỉ cần không phải quan binh thì dễ xử rồi.

Người trong lục lâm căm ghét nhất chính là bị phản bội, nếu có người làm chuyện có lỗi với huynh đệ, cho dù đó là cha ruột, bọn chúng cũng sẽ không chút do dự tìm kẻ đó để chấp hành sơn quy. Bọn chúng không biết Thúy Nhi vốn là người trong Di Lặc giáo, cho nên chỉ dò hỏi mấy câu qua loa, nhầm tưởng ả phản bội gia nhập Di Lặc giáo, thế nên trong lòng căm ghét vô cùng.

Thúy Nhi có võ công cao nhất trong đám giáo đồ Di Lặc này, tuy đả thương được hai tên dưới sự công kích điên cuồng của bọn chúng, song vẫn bị chặn đường lui. Hồng Nương Tử có võ nghệ kinh người, mượn màn đêm mà rảnh rang ra tay giữa bầy địch, căn bản không cần phân biệt địch ta, chém giết nửa canh giờ, hiện chỉ còn lại ba tên.

Lưu đạo sĩ búng chân thoăn thoắt, chợt khàn giọng kêu lên:
- Hồng Nương Tử, kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, nay triều đình đã điều động đại quân, sơn trại lục lâm của ngươi sắp không giữ được nữa rồi. Bắt cóc mệnh quan triều đình là tội lớn tày trời, ngươi và Dương Hổ đã không còn lối thoát. Bản giáo căn cơ hùng hậu, giáo đồ rải khắp thiên hạ, với võ nghệ hai vợ chồng ngươi, nếu như gia nhập bản giáo, tất sẽ là một viên hổ tướng. Ngươi có muốn suy nghĩ lại không?

Hồng Nương Tử nắm chặt thanh đoản kiếm nhuốm máu, lặng lẽ di chuyển trong khu rừng, cười khẩy nói:
- Có lẽ ngươi nên suy nghĩ trước đi! Di Lặc giáo dùng những trò bịp mê hoặc những đôi vợ chồng ngu dốt dâng hiến mọi tiền tài con cái cho các ngươi, cung cấp nô dịch cho các ngươi sai khiến, hán tử trong giới lục lâm chúng ta cũng khinh thường các ngươi. Giết!

Thừa lúc nói chuyện khiến đối phương buông lỏng, Hồng Nương Tử đột ngột lộn người tới phía trước, đâm một kiếm vào ngực gã tín đồ Di Lặc giáo nọ, rồi lại búng người lủi vào trong bóng đêm. Tên tín đồ Di Lặc nọ kêu "hự" một tiếng, buông cây đơn đao trong tay, lảo đảo mấy bước rồi ngã sấp xuống mặt đất phủ tuyết, máu tươi trong ngực trào ra ồ ạt.

Lưu đạo sĩ cực kỳ bi phẫn, giọng run lên:
- Con đàn bà ngu ngốc nhà ngươi, hợp tác thì cùng có lợi, mà chia rẽ thì đều có hại, gia nhập bản giáo, ngươi và Dương Hổ sẽ có thể được phong làm Thiên sư và Phật mẫu, dưới một người trên vạn kẻ, vinh hoa phú quý hưởng không hết.

Không sai, hai trăm huynh đệ đó của ngươi là do bọn ta sai khiến, bán mạng cho chúng ta, nhưng người trong giang hồ nguy hiểm chập trùng, việc đó có gì kỳ lạ? Chỉ dựa vào ngươi ư? Hay dựa vào ngươi và cả Dương Hổ thì có thể báo thù?

Đoạn lão cười sằng sặc dọa nạt:
- Cho dù là nhân mã lục lâm cùng tận ở Bá Châu của ngươi, cũng đừng hòng đối phó với bản giáo. Trong khu rừng này, ta là cá thịt, ngươi là dao thớt, nhưng chỉ cần rời khỏi nơi đây, ta sẽ có tiền tài và nhân thủ vô tận để dùng, cả đời này ngươi cũng đừng mơ báo thù!

Thúy Nhi cũng thấp giọng dụ dỗ:
- Đại tiểu thư, đừng trách Thúy Nhi vô tình, chúng ta ai nấy đều vì chúa của mình. Giáo chủ thần thông quảng đại, là Di Lặc giáng trần, người mới là chân long đó. Bây giờ tiểu thư đã biết Tử Vi chuyển thế, ứng tại Dương Hổ gì đó đều là lời nói gạt rồi chứ?

Hãy nghe Thúy Nhi khuyên một câu, chỉ cần tiểu thư dừng tay giảng hòa, ta và Lưu hộ pháp có thể bảo đảm rằng người sẽ có được địa vị cao quý trong bản giáo. Hiện tiểu thư đã thấy công phu thực tế của ta không kém người là mấy rồi chứ? Nếu thực sự liều mạng liệu tiểu thư có thể giết được ta mà không mất mấy người không?

Trong rừng im phăng phắc, chỉ có tuyết rơi, gió thổi...

Nghe xong lời này Hồng Nương Tử và mấy tay đại đạo đều im lặng không nói lời nào. Một lúc lâu sau, mới nghe Thôi Oanh Nhi cất giọng lạnh lùng:
- Muốn ta không giết ngươi cũng được, ngươi và ta đều phản lại triều đình, chúng ta sẽ không quy thuận các ngươi, có điều muốn hợp tác cũng không hẳn là không thể...

Thúy Nhi mừng ra mặt, vội nói:
- Đại tiểu thư, người đồng ý sao?

Thôi Oanh Nhi cười nhạt nói:
- Đừng gọi ta là đại tiểu thư, hẳn là địa vị của ngươi trong Di Lặc giáo cũng không thấp chứ? Ngươi nên biết là rằng kẻ làm thủ lĩnh nếu muốn thu phục mọi người, thì phải không phụ lòng huynh đệ. Chúng ta lúc đi mang theo hai trăm người, cha mẹ vợ con bọn họ vẫn đang chờ bọn họ trở về ăn Tết, nay đến cả di hài ta cũng không thể mang về thì sao có thể ăn nói với bọn họ?

Thúy Nhi do dự hỏi:
- Vậy... ý của tiểu thư là...?

Thôi Oanh Nhi nói một cách quả quyết:
- Nếu không phải vì Lưu đạo sĩ, chúng ta hà tất phải cực khổ chạy vào trong thành tìm chết? Ngươi giết cho ta cái tên chủ mưu gây nên chuyện này, để ta có thể ăn nói với các huynh đệ, ta sẽ tha cho ngươi, hơn nữa sẽ suy nghĩ hợp tác cùng Di Lặc giáo. Ngươi yên tâm, chuyện này trời biết đất biết, tuyệt sẽ không có bất cứ tín đồ Di Lặc nào biết ngươi làm đâu.

Người Lưu đạo sĩ thoáng run lên, cố mạnh miệng cười nói:
- Ha ha, ha ha, đúng là buồn cười, ngươi muốn chia rẽ để bọn ta tự giết lẫn nhau, để ngươi ngồi hưởng lợi ngư ông sao? Thuý Nhi là Tiên cơ của bản giáo, có thể mắc lừa ngươi sao?
Lão và Thúy Nhi vốn tựa lưng vào nhau, kết chặt thành một khối, nhưng miệng vừa nói vậy lão lại lặng lẽ tách người ra một chút, đặt một nửa sự chú ý ra phía sau, lo sợ Thúy Nhi sẽ bất thình lình cho lão một kiếm.

Thôi Oanh Nhi cười lạnh, giọng quanh quẩn khắp nơi:
- Vừa nãy ai đã nói kẻ thức thời là trang tuấn kiệt? Thúy Nhi, ngươi và ta quen biết đã lâu, nên biết lời ta thốt ra tuyệt không thay đổi. Ta sẽ đếm đến mười, nếu ngươi không động thủ, ta sẽ kêu các huynh đệ chôn xác các ngươi tại nơi này, có lẽ mấy ngày sau thi thể trong đống tuyết của ngươi cũng sẽ bị chó hoang bươi ra thôi. Một, hai, ba...

Theo nhịp đếm của Thôi Oanh Nhi, trái tim của Lưu đạo sĩ và Thúy Nhi đập thình thịch, Lưu đạo sĩ đột nhiên thấy Thúy Nhi bên cạnh thoáng có cử động, bèn cũng vội giật mình tránh thân, hông dường như bị vật gì chém sượt qua, liền nổi giận đùng đùng, chém trả lại một đao, mở miệng mắng:
- Con điếm thối tha, ngươi thực sự động thủ với ta à?

Thúy Nhi lánh người là do cũng bị một vật quét sượt qua, cảm giác giống như cành cây khô, lập tức phát giác bị mắc lừa, ngay lúc nào Lưu đạo sĩ đã hung tợn bổ một đao tới. Thúy Nhi vừa tức giận vừa lo lắng, hất kiếm lên, "keng" một tiếng, một loạt tia lửa bắn ra. Thúy Nhi quát lớn:
- Đồ ngu, đừng trúng kế ả ta.

Chính vào lúc này, từ trong bóng đêm, Hồng Nương Tử người theo ánh kiếm mang theo hoa tuyết, lao đến nhanh như một cơn lốc, một tiếng quát lạnh lùng và nghiêm nghị vang lên:
- Giết!

Từ động tác và phản ứng của Thúy Nhi sau khi vung đao, Lưu đạo sĩ liền phát hiện mình đã bị trúng kế, lúc này nhìn thấy những bóng đen đánh úp tới, Lưu đạo sĩ không kịp suy nghĩ, lập tức vung đao chém tới, la lên:
- Cẩn thận!

Một kiếm của Hồng Nương Tử vốn nhắm vào ngực Thúy Nhi, nàng liền khom người tránh lưỡi đao của lão, rồi hất kiếm lên, đâm ngay vai Thúy Nhi, tiếp đó thân kiếm bị đao chém trúng, mũi kiếm kẹp dưới xương quai xanh của Thúy Nhi rung mạnh, khiến cô ả đau đớn kêu thét lên, trước mắt tối sầm, cơ hồ ngất xỉu.

Rồi không thèm suy nghĩ, nàng lập tức bỏ kiếm, co người bổ nhào vào Lưu đạo sĩ, ôm lấy lão lao về phía trước. Hai người quấn vào nhau, trượt xa hơn trượng mới ngừng lại.

Lúc này, Lưu đạo sĩ đã choáng đến không còn biết trời đất sao trăng chi nữa. Hồng Nương Tử nâng gối thúc mạnh một cái ngay giữa quần lão, giữa tiếng kêu la thảm thiết nàng lại lấy hai tay kẹp lấy đầu lão vặn mạnh, "rắc" một tiếng, tiếng kêu thảm thiết vừa thốt ra lập tức im bặt.

Trúng phải một kiếm nọ, Thúy Nhi vẫn có thể chịu được, nhưng cây kiếm cắm vào hốc xương lại bị đao chém vào gần như chẻ xương quai xanh của ả đứt rời. Cô ả nửa quỳ trên mặt đất, khó khăn lắm mới có thể thẳng lưng dậy, liền tuyệt vọng phát hiện bên cạnh có mấy bóng người lầm lì vây quanh.

Thôi Oanh Nhi buông một câu lạnh nhạt:
- Kéo nó vào đạo quán!

Thúy Nhi chưa kịp mở miệng, liền cảm thấy da đầu bị siết lại, một cánh tay to lớn nắm đầu cô ả kéo lên, sau đó hai vai lại bị đánh một chưởng, hai cánh tay lập tức rũ xuống mềm oặt, chỗ bị thương chịu phải một kích này gần như khiến cô ả đau muốn ngất đi.

Mấy gã đại hán kéo lê Thúy Nhi vào trong đạo quán, Thôi Oanh Nhi đứng nguyên tại chỗ không nói lời nào, mấy tay hán tử còn ở lại bèn gọi:
- Chị dâu...

Thôi Oanh Nhi nhỏ giọng nói:
- Mặc dù bọn chúng để lại tai mắt nhưng tạm thời khó có thể tập hợp nhân thủ, có điều vẫn nên cẩn thận là hơn, đi dạo một vòng xem thử. Nơi này... đã không thể ở lại nữa.

Hai tên đại đạo dạ một tiếng, rồi lặng lẽ xoay người bước đi. Thôi Oanh Nhi ngước mặt lên trời, để mặc cho bông tuyết rơi phất phơ xuống khuôn mặt, hoá thành giọt nước lạnh ngắt. Tuyết đổ rất dày, rất nhanh mấy thi thể trên mặt đất đã bị phủ lên bởi một lớp tuyết trắng ngần.

Thôi Oanh Nhi khẽ run rẩy, quay người trở về trong đạo quán. Dương Lăng ngồi chờ trong một căn phòng đá nằm ở trong cùng, chỉ nghe thấy bên ngoài có tiếng con gái kêu la thảm thiết, lại bị bọn cướp nhốt trong phòng không cho ra ngoài, y còn tưởng đám giặc cướp này không chịu nổi trống vắng cho nên đêm khuya đã bắt cóc con gái nhà dân về chơi đùa, trong lòng căm hận không thôi.

Thôi Oanh Nhi đi vào trong hang, thấy cả người Thúy Nhi đầy máu, khuôn mặt vốn dĩ xinh đẹp đã bị đánh cho tím bầm, tóc tai bù xù trông như quỷ dữ. Hồ Đại Chuy xách đầu cô ả, đang định tát thêm một cái, Thôi Oanh Nhi liền nghiêm giọng nạt:
- Dừng tay!

Nàng bước tới trước mặt Thúy Nhi, chậm rãi ngồi xếp bằng, lạnh lùng nhìn một hồi lâu, rồi mới cất giọng hỏi:
- Ta hỏi ngươi ba việc. Một, tình hình của Hổ ca hiện nay thế nào? Hai, ngươi và Lưu đạo sĩ là Hộ pháp và Tiên cơ của Di Lặc giáo, lại lao tâm tổn sức trà trộn vào trong sơn trại của chúng ta rốt cuộc tính làm gì? Ba, nếu đã muốn lợi dụng ta, cớ sao lại muốn giết ta?

Thúy Nhi phun ra một bãi nước bọt lẫn với máu, thở hổn hển nói:
- Ngươi cứ giết ta đi, đừng hòng moi được tin tức gì từ chỗ của bản Tiên cơ, rồi sẽ biến thành con ma dốt của quan phủ. Ha ha... hộc!

Hắc Diêu Tử đạp một cước vào bụng dưới cô ả, tiếng cười thảm thiết của Thúy Nhi lập tức ngưng bặt. Thôi Oanh Nhi chỉ cười nhạt, lấy làm thú vị hỏi:
- Tiên cơ? Nghe nói Di Lặc giáo thần thông quảng đại, có thể lôi kéo ngũ quỷ(2), có thể biến sắt thành vàng, đao thương bất nhập, bạch nhật phi tiên, lừa gạt khiến một đám dân đen điên đảo thần hồn. Được, vậy để ta lĩnh giáo thủ đoạn của tiên cô Thúy Nhi một chút.

Đoạn nàng đứng dậy, mỉm cười, rút từ trên tường một cây đuốc chưa cháy hết, cầm kiếm gọt vài cái, đẽo thành một cây cọc có cạnh sắc nhọn, sau đó đến bên cạnh Thúy Nhi, đột nhiên vén váy cô ả lên, thò tay giật ống quần của cô ả xuống.

Bên dưới chiếc váy là chiếc quần màu xanh nhạt, trong lợp vải bông, nhưng sức tay của Thôi Oanh Nhi rất khoẻ, vừa kéo xoạt một tiếng, khúc chân trắng trẻo, thon thả và ưu mỹ liền lộ ra. Thúy Nhi rúm người lại, giọng run rẩy:
- Ngươi muốn làm gì?

Thôi Oanh Nhi nhướng đôi mày liễu, giơ cây cọc đen thùi lên, thản nhiên nói:
- Ta đang nghĩ, nếu như đục một lỗ trên chân ngươi, cắm cây cọc này vào, xuyên nó lên tận bắp đùi, không biết đám yêu đạo có thể thỉnh nhờ Đại La Kim Tiên nhập xác các ngươi sẽ vẫn chịu nổi hay không.

Sắc mặt Thúy Nhi trắng bệch. Cô ả cúi đầu trầm tư một chốc, rồi mới cười đau khổ nói:
- Thôi được! Ta biết rõ thủ đoạn của Hồng Nương Tử ngươi, rơi vào tay ngươi rồi, cũng đừng hòng sống mà thoát ra. Ta nói cho ngươi rồi, chỉ xin ngươi... có thể cho ta một cái chết thoải mái.

Thôi Oanh Nhi cười đáp:
- Thông minh, lại đây, nói nhỏ một chút. Ta đồng ý với yêu cầu của ngươi!

* * *

Sắc trời chạng vạng, bông tuyết tuy nhỏ nhưng cũng rất dày, giống như mạt phấn. Hồng Nương Tử và năm gã đại hán áp giải Dương Lăng loạng choạng đi về phía thành ngoại. Dương Lăng lạnh đến độ da dẻ tím tái, y nheo mắt để tránh gió tuyết, bước thất tha thất thểu theo sau Hồng Nương Tử.

Thành bắc là thành ngoại, bên ngoài không có tường thành, mãi đến những năm Gia Tĩnh sau này tường thành của thành ngoại mới bắt đầu được xây sửa để phòng ngừa giặc ngoài. Tiếc rằng chuẩn bị không thỏa, kế hoạch ban đầu là bao thành nội lại, song sức người và sức của không đủ, chỉ xây được mặt thành nam, còn đông và tây chỉ cho ôm lấy thành nội qua loa là liền cho kết thúc công trình.

Vốn vào thời điểm này, cấm thành trong kinh sư bình thường đều tập trung kiểm tra ở cổng nội thành, nhưng do trọng thần trong triều bị bắt cóc, cho nên hiện tại nơi ra vào của thành ngoại dựng đầy lều trại và trạm gác. Mỗi trạm gác đều có một Bả tổng, kiểm tra nghiêm ngặt người ra vào.

Vẫn chưa đến canh năm, cộng thêm tuyết lớn, trạm gác chỉ có bốn tay vệ binh ôm giáo sắt co ro đứng gác. Trông xa xa thấy có mấy nam nữ đi tới, một tên binh sĩ lập tức quát hỏi:
- Kẻ nào sớm như vậy đã muốn rời thành? Mau đưa ra giấy thông hành và hộ tịch, ngươi, một mình qua đây, những người khác không được tới gần.

Bởi vì gió gắt, tiếng của binh sĩ nọ nghe không thấy lớn. Thôi Oanh Nhi dừng bước chân, ngó năm sáu căn lều trại dựng ở đó, cười lớn bảo:
- Đi gọi quan tướng dẫn binh của các ngươi ra đây, nói có đại đạo Bá Châu là Hồng Nương Tử muốn gặp hắn!

***

Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu dẫn bốn tay thân binh tiến vào căn ngõ hẻm cũ kỹ ở thành bắc. Đến trước đạo quán nọ, Ngũ Hán Siêu nhảy xuống ngựa nói:
- Liễu huynh, tiểu đệ vào trong xem thử!

Chàng ta phi thân vào trong đại điện. Một nửa số phòng ốc của đại điện trống trơn, tuyết bay vào không ít, dưới một bên tường tuyết bị gió cuốn vào gom thành ụ, phía tường đối diện lại không có chút tuyết nào. Chàng ta quan sát chính điện trống không, rồi đẩy mở cửa hông, điện thờ hai bên vẫn chưa lợp mái, chỉ đặt một cái giá, chỉ cần liếc một chút là thấy hết bên trong ngay.

Chàng ta bước mấy bước về phía trước, Liễu Bưu cũng cầm đao theo vào, vòng qua trụ điện, vừa thấy đài đá đặt hương án nọ, hai người liền không khỏi sững ra. Mặt bên hương án xuất hiện một lỗ hang, Ngũ Hán Siêu mừng quýnh, liền phóng qua, trông thấy bên trong dường như có ánh sáng lập loè. Chàng ta cúi tai xuống đất lắng nghe động tĩnh bên trong, đoạn bạt kiếm ra khỏi vỏ rồi nhảy xuống.

Liễu Bưu không kịp cản, vội cùng bốn tay thị vệ đi theo cầm đao đứng thủ ngay cửa hang, chỉ khoảnh khắc liền nghe giọng Ngũ Hán Siêu run run cất lên:
- Liễu huynh hãy mau xuống đây, nơi này không có người, chỉ có xác của một cô gái!

Liễu Bưu nghe vậy liền phóng người nhảy xuống, một lúc sau, hai người lại vội vã nhảy ra ngoài. Ngũ Hán Siêu nói:
- Thân hình và vóc dáng nữ nhân này cực kỳ giống với người đã giao thủ cùng tiểu đệ, thi thể mới vừa cứng lại, đuốc trong động vẫn chưa tàn, chứng tỏ bọn họ rời nơi này chưa lâu. Xem đồ vật để lại bên trong, hẳn có thể giấu được năm, sáu người, rất có khả năng chính là nơi này!

Liễu Bưu liền quát ra lệnh:
- Kỳ chưởng ban, lập tức đi gọi người, đến cổng thành nội, triệu tập nhân mã lật tung cả thành bắc cho ta!

Thị vệ nọ nghe có tin tức của xưởng đốc, liền vội mừng rỡ đáp vâng, rồi xoay người chạy đi. Liễu Bưu trầm ngâm nói:
- Nếu như nơi này chính là nơi ẩn nấp của bọn chúng, bọn chúng bỏ ổ, tại sao không che lấp miệng hang để giấu? Trừ phi...

Ngũ Hán Siêu tiếp lời:
- Trừ phi bọn chúng không muốn trốn nữa!

Liễu Bưu lập tức biến sắc, lo lắng nói:
- Hỏng rồi! Chẳng lẽ tin tức Dương Hổ không nằm trong tay chúng ta đã bị bọn chúng biết rồi sao? Nếu quả như vậy, bọn chúng sẽ đi đâu?

Hai người đưa mắt nhìn nhau, cùng đồng thanh:
- Ra khỏi thành!

* * *

Trước mặt gần trăm quan binh giáp trụ sáng choang, đao thương san sát, đám người Hồng Nương Tử ngông nghênh cưỡi những con ngựa của họ. Chỉ có năm thớt ngựa, hai trong số đó lại là ngựa thồ, Hồng Nương Tử và Dương Lăng ngồi chung một ngựa, hai tên đại đạo có thân thể gầy gò khác cưỡi chung một ngựa.

Hồng Nương Tử kẹp chặt bụng ngựa, một tay ôm lưng Dương Lăng, một tay cầm thanh đoản kiếm gác trên cổ y, nhoẻn miệng cười tươi như hoa, nói với tay Bả tổng râu xồm đang đứng ngây tại chỗ:
- Đa tạ tướng quân đã ban thưởng ngựa, đại nhân đã kiểm tra lệnh bài ra vào hoàng cung của Dương đại nhân rồi, quả thực không chút giả tạo. Hiện tại ta muốn mời Dương đại nhân của ngươi tiễn ta một chặng, nếu như ngươi dám mang một binh một tốt đuổi theo, hơn trăm quan binh ở đây có thể bảo đảm rằng Dương đại nhân chính là bị ngươi bức chết. Lúc đó tự ngươi đi mà giải thích với đám hổ sói của Nội xưởng nhé. Giá!

Nàng co chân thúc vào bụng ngựa, nghênh ngang phóng đi trong chuỗi tiếng cười hào sảng.

* * *
Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu đuổi theo một mạch, giữa đường gặp được tên binh sĩ được gã Bả tổng xui xẻo nọ phái trở về báo tin, nghe chưa hết lời hai người liền phi ngựa đuổi đến lều trại, chỉ thấy một đám quan binh đang đứng trong gió tuyết, gã Bả tổng râu xồm nọ đầu tóc và hai vai dính đầy tuyết. Trông thấy bọn họ đuổi đến, vẻ mặt của lão ta cũng không biết là đang khóc hay đang cười.

Ngựa chạy được một chốc, vừa rời khỏi tầm mắt quan binh, cả bọn liền bỏ quan đạo mà xông vào trong đồng cỏ hoang vu. Dương Lăng đột nhiên hỏi:
- Cô không định trao đổi Dương Hổ sao?

Hồng Nương Tử cười mỉa mai :
- Huynh ấy thực sự nằm trong tay các ngươi sao?

Dương Lăng im lặng, một hồi sau mới nói:
- Các người trốn không thoát đâu, chỉ với mấy thớt ngựa này, còn có tuyết lớn như vậy, các người chạy không tới mười dặm.

Hồng Nương Tử cười lớn nói:
- Đa tạ Dương đại nhân quan tâm. Thực ra ta phải cảm ơn con tuyết lớn này. Tuyết lớn khó đi, đất không lưu vết, đường không thấy người, ngoài trăm trượng không thấy rõ gì cả, trời đất mịt mù, cho dù có trăm vạn truy binh đuổi theo phía sau, có thể làm gì được ta chứ?

Nàng bỗng đảo mắt, kẹp lấy lưng Dương Lăng, ném y xuống đất. Dương Lăng ngã lảo đảo mấy bước, giữ cho ổn định người lại, rồi bình tĩnh ngước nhìn nàng hỏi:
- Cô muốn giết ư?

Hồng Nương Tử vòng ngựa đi quanh y mấy vòng rồi dừng lại, hai người đưa mắt nhìn nhau, bông tuyết rơi nhẹ giữa hai người, che mờ dung mạo của bọn họ. Hồng Nương Tử hít vào một hơi, rồi chợt nói:
- Oan có đầu, nợ có chủ, thật sự bại dưới tay của ngươi, là do bản lĩnh chúng ta kém, hán tử lục lâm không ghi món thù này.

Xúi giục bọn ta vào kinh giết ngươi là người của Di Lặc giáo, gian tế của Di Lặc giáo đó, cũng là thị nữ Thúy Nhi bên người của ta đã bị xử tử. Ngươi cũng đã thấy, hai trăm mạng người này, ta sẽ tìm Di Lặc giáo đòi lại. Dương đại nhân, Hồng Nương Tử ta, nói là giữ lời, hôm nay mượn ngươi để rời thành, thì sẽ tha ngươi một mạng!

Hồng Nương Tử quay đầu ngựa, quát bảo thủ hạ:
-Đi!
Rồi quay đầu lại, mỉm cười nói với Dương Lăng:
- Dương đại nhân! Ngươi là quan, ta là giặc, trượng phu ta bại dưới tay ngươi, ngày sau, chúng ta gặp nhau trên chiến trường, ta sẽ tìm trở lại cuộc chiến này! Giá!

Nói đoạn, nàng vung roi, kiện mã tung bốn vó, phóng như bay đuổi theo mấy tên thủ hạ. Dương Lăng đứng ngẩn ngơ vòng nhìn theo bóng lưng bọn họ đang dần biến mất trong màn tuyết mù mịt đất trời, nhất thời không dám tin nàng ấy sẽ dễ dàng tha cho mình như vậy.

Ngựa chạy xa dần, phía trước vẫn là một màn trời mênh mông mờ mịt. Đang dẫn đầu ở đằng trước, Hồng Nương Tử đột nhiên ghìm cương ngựa, quát:
- Đi, đến Phong Đài, đổi ngựa tốt của chúng ta, nhờ sự trợ giúp của trời đất, rời xa kinh sư!

Hồ Đại Chuy vừa chạy song song với nàng, vẫn bất bình nói:
- Chị dâu, Hổ ca tuy rằng đã thoát khỏi hiểm địa, nhưng sao chúng ta không thừa cơ giết chết tên cẩu quan đó luôn? Cứ vậy mà tha cho hắn, huynh đệ thực sự không phục!

Hồng Nương Tử cười nhạt, vặn hỏi:
- Giết y? Giết y rồi Di Lặc giáo sẽ ra tay với hoàng đế thế nào? Di Lặc giáo mà không ra tay với hoàng đế, liệu triều đình sẽ tập trung toàn lực đi báo thù thay chúng ta sao?

Hồ Đại Chuy sực tỉnh nói:
- A! Ý của chị dâu là...

Hồng Nương Tử cướp lời:
- Chạy mau lên, y tưởng chúng ta chạy về Bá Châu, chúng ta càng phải theo y đến Đại Đồng. Di Lặc giáo coi chúng ta là giáo, lần này ta muốn mượn 'cây giáo' này của triều đình đối phó với lão già Lý Phúc Đạt!





Chú thích:
(1) nơi làm việc đằng sau công đường trong quan phủ

(2) còn gọi là Ngũ ôn thần, hay Ngũ ôn sứ giả, gồm có: Xuân ôn Trương Nguyên Bá, Hạ ôn Lưu Nguyên Đạt, Thu ôn Triệu Công Minh, Đông ôn Chung Sĩ Quý, Tổng quản trung ôn Sử Văn Nghiệp





Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
27-05-2012, 11:48 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 183 - Vua muốn đi xa

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Dương Lăng cười khổ sở đáp:
- Muốn Hoàng thượng xuất kinh, tự dấn thân nơi biên ải, thị sát dân tình, kết giao với nước chư hầu, làm một thánh quân lưu danh thiên cổ, vốn là tâm nguyện của thần. Nhưng mà Hoàng thượng lại can hệ đến cả thiên hạ, thần thực sự chưa nguôi hết nỗi lo.

Chính Đức cười hí hửng:
- Chưa nguôi hết nỗi lo thì sẽ từ từ mà nguôi, kinh thành này trẫm vẫn sẽ phải rời khỏi. Trẫm dẫn theo ba trăm thị vệ đại nội, cộng thêm mấy nghìn quân thiết giáp của khanh, thực muốn xem thử còn ai có thể đả thương được trẫm.




Quyển 5 - Quần ma loạn vũ - Chương 183 - Vua muốn đi xa

------------------------

Chương 183 - Vua muốn đi xa

------------------------

Quan binh canh giữ những quan ải quan trọng của kinh thành cũng không có nhiều kỵ binh cho lắm, mặc dù là kinh sư cũng không nuôi nổi bấy nhiêu chiến mã mà bình thường chỉ để đó không dùng. Nhưng ngay khi tin vừa được đưa vào nội thành, đề kỵ(1) của Cẩm Y Vệ và mã khoái (sai nha cưỡi ngựa) của Ngũ thành binh mã ty liền tranh đi trước đại quân, đuổi theo ra ngoài thành tới mấy dặm đường, bất chấp tuyết rơi mù trời.

Tuyết lớn khó đi, bọn họ đuổi đến khi cả người lẫn ngựa đều mệt lử thì chợt trông thấy ở đằng trước xuất hiện mấy bóng người lẻ loi trên đường. Đám quan binh vội ghìm ngựa rút đao, dè chừng tiến tới gần mới thấy rõ là vài viên thị vệ Nội xưởng đang đứng bất động trong tuyết.

Đám Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu đang đứng như trời trồng, hồn bay phách lạc: phía trước, một gốc cây khô to bằng một vòng tay bị tuyết nặng đè gãy chắn ngang trên đường, trên gốc cây tuyết xốp phủ đều, hiển nhiên bọn đạo tặc đã đi vòng qua. Thế nhưng tuyết lớn mịt mù, trên đường mất sạch dấu tích, bọn họ chẳng khác gì anh mù cưỡi ngựa lòa, biết đuổi về phương nao bây giờ?

Một tay Cẩm Y bách hộ tra cây Tú Xuân đao(2) vào vỏ, thúc ngựa tiến tới. Khi đến gần, trông thấy người ngồi trên ngựa ở đằng trước là Thiên hộ Liễu Bưu của Nội xưởng, hắn liền vội ôm quyền thi lễ:
- Liễu đại nhân! Có phải đã có tung tích của Dương xưởng đốc?

Liễu Bưu quay đầu lại, thấy sau lưng có hơn trăm quan binh cưỡi ngựa bèn hít sâu một hơi rồi quát bảo:
- Toàn bộ tản ra! Năm người một nhóm, lấy nơi này làm trung tâm tìm kiếm chung quanh, thường xuyên trao đổi tin tức lẫn nhau. Một khi có manh mối của đại nhân phải lập tức phi ngựa về báo, không được tự ý quyết định.

Tay Bách hộ đó vâng dạ rồi dặn dò Cẩm Y Vệ và mã khoái tản vào trong đồng hoang. Một lát sau, thềm nhiều người ngựa lục tục kéo đến lũ lượt gia nhập vào trong đoàn người tìm kiếm.

Dương Lăng bị mang vào đồng hoang cách đường cái mấy dặm. Đôi giày quan của y bị tuyết ngấm vào ướt sũng, đôi giày da trâu này vừa ẩm vừa nặng, y bước đi loạng choạng, đi đến độ mồ hôi đẫm lưng, tim đập như trống. Chợt trông thấy trong gió tuyết có mấy bóng người đang đến gần, Dương Lăng trợt chân, suýt nữa ngã nhào.

Mấy tay quan quân trông thấy trước mặt có người, cũng căng thẳng rút đao thương ra quát lớn:
- Kẻ nào đó? Đứng lại! Cấm đến gần! Người đâu mau lên, ở đây có người, ở đây có người!

Dương Lăng định thần lại, trông thấy những kẻ trước mặt mang mũ tua đỏ trông như quan binh, liền vội quát:
- Ta là Dương Lăng, các ngươi là quan binh của bộ nào?

Mấy tên quan binh đó nghe xong thì bán tín bán nghi, bèn đi tới gần quan sát y từ đầu đến chân một lượt, trông thấy y phục của y lập tức tin tưởng mấy phần, nhịn không được liền hào hứng reo to:
- Tìm được Dương đại nhân rồi! Chúng tôi tìm được Dương đại nhân rồi!

Tay tiểu ngũ trưởng cầm đầu hưng phấn đến độ cả mặt đỏ bừng, "Công to ở ngay trước mắt rồi! Đây quả là ông trời tặng đại lễ mừng Tết cho ta rồi!". Gã chỉnh đốn lại y phục, bước vội tới dùng quân lễ ra mắt, cao giọng thưa:
- Tiêu hạ (như thuộc hạ - ND) là Hạ Đại Niên, Ngũ trưởng của Chấn Uy doanh, tham kiến xưởng đốc đại nhân!

Dương Lăng cười khổ, bảo:
- Miễn lễ, mau đưa bản quan trở về! Thực sự chịu hết nổi rồi.

Tay Ngũ trưởng nọ liền vội đứng dậy rồi cùng với một sĩ tốt cường tráng dìu Dương Lăng nhanh chóng quay về. Tin tức mau chóng lan truyền, quan binh nhanh nhẹn tụ tập về hướng đó, đến khi Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu hay tin, mừng như điên chạy đến nơi thì người dìu Dương Lăng đã đổi thành Tì tướng Lưu Bản Nguyên và Bả tổng Trương Khai của Chấn Uy doanh.

Liễu Bưu mặt mày kích động, dừng bước chân ngắm nhìn Dương Lăng một lúc rồi mới nghẹn ngào:
- May sao xưởng đốc đại nhân... bình an vô sự!

Ngũ Hán Siêu bước đến trước mặt Dương Lăng, hổ thẹn nhìn y, rồi không nói không rằng vén áo bào quỳ xuống tuyết.

Tuy Dương Lăng ngồi nơi ghế cao nhưng lại không hề có thói kênh kiệu vênh vang, lấy thân chủ nhân đãi phận tôi tớ; đó cũng là chỗ khác biệt giữa y và những mệnh quan khác.

Tuy thuật tiết chế kẻ dưới từ xưa quý nhất là ở chân thành, chứ không phải thủ đoạn, coi chúa như thầy, coi vua như bạn, coi việc mất nước cấp bách như việc quân. Thế nhưng thời xưa quan niệm tôn ti trên dưới quá nghiêm, dẫu rằng quan viên có đối đãi rộng lượng với kẻ dưới cũng rất khó lòng tôn trọng thuộc hạ, mà chủ yếu là chỉ ban thưởng tiền tài và danh lợi. Cho nên Trình Bất Thức trị quân nghiêm ngặt, một vạn sĩ tốt dưới trướng ai nấy đều nghe lệnh, còn Lý Quảng cai quản thuộc hạ khoan dung, ấy vậy mà năm nghìn thủ hạ lại có thể chọi năm vạn người, mỗi khi gặp chiến trận ai nấy đều dốc sức liều mạng.
(Xin xem Lý tướng quân liệt truyện – Sử ký Tư Mã Thiên, http://www.saharavn.com/index.php?page=4&sub=928&tid=755&cmucid=2773&page_num=)

Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi mà Dương Lăng có thể xem các nội tướng Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận, Vu Vĩnh cùng ba vị nguyên Đô ty Thần Cơ doanh và hai người Liễu, Dương là tâm phúc. Bọn họ cũng theo y không rời không bỏ, dĩ nhiên cũng có nhân tố là họ theo y để được tiền đồ như gấm, song quan niệm "sẵn sàng chết vì tri kỷ" của những nhân sĩ này cũng chiếm một phần rất lớn tâm tư của bọn họ.

Về phần Ngũ Hán Siêu, hắn xuất thân võ lâm chỉ mới vừa gia nhập Nội xưởng; uổng cho một thân võ công thế mà lại chưa hề có ý thức làm bảo tiêu. Nay thấy hắn xấu hổ tự thẹn, bộ dạng lôi thôi lếch thếch, Dương Lăng cũng không nỡ trách thêm.

Y bước tới đỡ Ngũ Hán Siêu dậy, mỉm cười nói:
- Minh thương dễ tránh, ám tiễn khó phòng, đừng tự trách mình nữa. Có điều sau này phải nhớ kỹ bốn chữ 'làm tròn bổn phận', không phải chức trách của mình thì không can dự vào. Ngươi là thị vệ cận thân của bản quan, hộ vệ bản quan không bị làm hại chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, việc bắt giặc cứ giao cho nha môn xử án là xong. Nếu như lần sau lại xảy ra việc như vầy, cho dù bản quan không phạt gậy ngươi thì phu nhân của ta cũng sẽ không bỏ qua cho ngươi đâu.

Lời của Dương Lăng khoan dung độ lượng, có mềm có cứng, khiến Ngũ Hán Siêu cảm kích không thôi. Miệng hắn mấp máy, muốn nói rồi lại thôi, cuối cùng đành chôn chặt sự hối hận và cảm kích trong lòng, không thốt tiếng nào.

Dương Lăng quay đầu hỏi Liễu Bưu:
- Chuyện của ta... phu nhân đã biết chưa?

Hiện tại Liễu Bưu đã kiềm được sự kích động khi vừa gặp mặt, rạng rỡ đáp:
- Đại nhân yên tâm! Ngô đại nhân và Hoàng đại nhân không dám để trong phủ hay tin. Thuộc hạ đã đưa tin cho phu nhân rằng do chiến sự tiền phương và sắp đến Tết nên ở cung đình sự vụ bộn bề, vì vậy mấy ngày nay đại nhân không thể hồi phủ.

Liễu Bưu vừa cởi áo choàng của mình khoác cho Dương Lăng vừa nói tiếp:
- Đại nhân! Tin tức đã được phi mã hồi báo về thành rồi, đại nhân hãy mau hồi kinh đi, tránh để Hoàng thượng nhung nhớ. Mấy tên cường đạo đó...?

Dương Lăng bảo:
- Trời tuyết lớn khó lần ra tung tích, bọn chúng chạy về hướng nào khó mà đoán được. Quay về bảo quan phủ các nơi dán tranh, vẽ hình truy nã nghiêm ngặt là được. Còn nữa, bảo người của chúng ta chú ý đến những nhân vật khả nghi vừa xuất hiện trong thành.

Đạo tặc Dương Hổ đến kinh thành, lại do Di Lặc giáo âm thầm dụ dỗ, cuối cùng hai bên lại xảy ra chém giết, rõ ràng không chỉ đơn giản là tạm thời nảy ra ý muốn giết mình như vậy. Tuy Hồng Nương Tử không nói rõ ràng, song Dương Lăng cũng ngờ rằng trong đó ắt có âm mưu, chỉ là chuyện này y không tiện đề cập với Liễu Bưu trước đám đông người.

Y chỉ kể lại qua loa chuyện mình được thả, rồi được mọi người dìu đỡ lên ngựa vội vã hồi thành. Lưu Cẩn vừa nhận được tin, một mặt sai người báo tin mừng cho Hoàng thượng, mặt khác đích thân dẫn người ra ngoài nghênh đón.

Lúc Dương Lăng vào cung, tảo triều hãy còn chưa kết thúc. Thái giám đứng hầu ghé tai nói nhỏ với Chính Đức mấy câu, hắn vừa nghe liền mừng ra mặt, vội vã giải quyết cho hết công vụ, cho dừng tảo triều rồi liền lập tức chạy về phía điện Bảo Hòa.

Chính Đức vừa bước vào đại điện, Dương Lăng đang ngồi dựa bên cạnh lò than lửa long phượng sưởi ấm trông thấy lập tức bước tới làm lễ ra mắt. Chính Đức nâng tay đỡ y, quan sát một lượt rồi mừng rỡ cười nói:
- Tốt, tốt! Trở về là tốt rồi, mấy ngày nay khiến trẫm thực lo quá đi.

Hắn kéo Dương Lăng vào trong nội điện, ngồi trên giường lò, rồi cười nói với đám người Dương Lăng, Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng:
- Ngồi đi, ngồi xuống cả đi! Dương khanh, đám đại đạo Bá Châu đó không làm khó gì khanh chứ?

Tiểu hoàng môn dọn vào sáu bảy cái bệ gấm, đám người Dương Lăng tạ tội rồi ngồi xuống. Thấy trong phòng chỉ có mấy người trong đám bát hổ, Dương Lăng bèn đáp:
- Dạ! Nữ tặc đó bắt cóc thần chỉ vì muốn trao đổi với đạo tặc Dương Hổ của ả, cho nên không hề ngược đãi thần. Về sau biết được Dương Hổ đã bỏ trốn, ả mới mang tính mạng của thần uy hiếp, phá ải xông ra ngoài tẩu thoát.

Chính Đức nhướng mày, nôn nao bứt rứt:
- Từ xưa những kẻ cậy võ vi phạm cấm lệnh, dám bắt cóc trọng thần triều đình quả thực rất hiếm. Gan dạ và bản lĩnh của nữ tặc này thực bất phàm, có thể bắt cóc khanh ngay giữa phố chợ sầm uất, phải chăng là phi tặc biết khinh công bay lượn trong truyền thuyết? Thực khiến cho trẫm rất háo hức, tò mò đây.

Dương Lăng đáp:
- Lên cao xuống thấp như đi trên đất bằng, búng người không cao hơn một trượng, kiếm không (dài) tới ba thước chỉ có thể cậy võ phạm cấm, khiến cho máu đổ năm bước mà thôi. Điều Hoàng thượng tu chính là Thiên Tử kiếm, một cái vung tay, binh ở ngoài vạn dặm liền kéo đi như thủy triều, vừa ra chiếu lệnh, liền thao túng tính mạng sinh tử cùng hỷ nộ ái ố của tất cả mọi người. Võ công cao có gì mà đáng hâm mộ?

Chính Đức cười to, mặt mày nở nang:
- Ái khanh nói chí phải! Thị vệ đại nội của trẫm cũng có bản lĩnh như vậy, cái gì là tám bước đuổi ve, lướt bèo qua nước gì chứ!? Có lần trẫm cao hứng từng bảo bọn chúng tay không trèo lên điện Thái Cực, song lại không một ai trèo nổi.

Dương Lăng tiếp lời:
- Lời đồn của dân gian bao giờ cũng thổi phồng bản lĩnh của bọn họ. Có điều đám mã tặc này cậy vũ lực đối chọi phép vua vẫn không đáng sợ, song hiện tại lại có một lực lượng mà Hoàng thượng vạn lần chớ nên xem nhẹ.

Chính Đức hiếu kỳ hỏi:
- Lực lượng nào?

Dương Lăng thưa:
- Di Lặc giáo! Bọn chúng dùng lời tà thuyết mê hoặc dân chúng, khắp tam giáo cửu lưu đều có tín đồ mù quáng nghe theo. Theo lời của đám mã tặc Bá Châu mà thần nghe trộm được, lần này mấy trăm đại đạo âm thầm vào kinh chính là do sự sai bảo của giáo chủ Di Lặc, mưu đồ hiển nhiên không chỉ là tính mạng của thần. Cái nguy hại của tà giáo hơn xa mối nguy của đám vũ phu tụ tập nơi núi rừng, Hoàng thượng không thể không cẩn thận!

Từ xưa, điều đế vương e ngại nhất chính là những tổ chức tà giáo mê hoặc lòng dân; lực lượng của bọn họ như rễ cây bám sâu vào lòng đất, ẩn náu trong dân gian. Khi bọn họ không phát động đấu tranh hoặc nổi loạn thực khó mà phân biệt lương dân với tín đồ; đợi đến khi bọn họ vừa khởi sự lập tức đã có ngay mấy mươi vạn tín đồ, sẽ rất nguy hại cho triều đình. Triều Minh vốn lợi dụng giáo phái để khởi sự, thành sự rồi mới thoát ly khỏi bọn họ, cho nên hiểu rõ nhất về sự đáng sợ của lực lượng tôn giáo.

Chính Đức nghe xong nụ cười liền tắt vụt, lo lắng:
- Di Lặc giáo? Lúc bọn chúng truyền đạo ở Thiểm Tây, lôi giành sự ủng hộ xa gần, ngu dân giào nghèo theo họ có kẻ dâng biếu cả nghìn vàng, cho dù phá gia cũng cam tâm tình nguyện, hoặc hy sinh con cái, hoặc buông bỏ đồ dùng, nối đuôi mà theo. Một khi giáo chủ hạ lệnh, liền có thể thu được vạn lượng hoàng kim trong một tối, hương dân gần xa không ai mà không theo bóng nó, quả thực là cái họa lớn của triều đình.

Có điều sau khi cái tên Lý Việt bị chém đầu, bọn chúng liền tan đàn xẻ nghé, triều đình đã không còn nghe đến tung tích của Di Lặc giáo nữa, chẳng lẽ bọn chúng vẫn đang hoạt động?

Dương Lăng gật đầu đáp:
- Dạ, Di Lặc và Bạch Liên vốn một nhà. Từ cuối đời Đường, Tống, Nguyên đến nay, người Hán làm chủ thì sẽ phản Hán, người Nguyên làm chủ lại sẽ phản Nguyên, mưu đồ của nó chính là xã tắc vậy. Mỗi khi gặp phải đả kích, nó liền sẽ biến lớn thành nhỏ, biến nhỏ thành không, rút vào trong bóng tối, âm thầm tích góp lực lượng chậm rãi chờ ngày quật khởi. Theo thần nghĩ, do lực lượng của bọn chúng hiện chưa đủ để đối kháng với triều đình nên mới mượn tay kẻ khác, nhằm loạn chính nhiễu dân.

Chính Đức đứng bật dậy, đám người Dương Lăng và Lưu Cẩn liền vội đứng lên theo. Chính Đức chậm rãi thả bước trong điện một hồi, chợt trỏ Cốc Đại Dụng bảo:
- Đại Dụng! Việc này giao cho ngươi đi làm, tập hợp lực lượng Đông xưởng, Tây xưởng và Cẩm Y Vệ, bí mật truy lùng Di Lặc giáo, nhất thiết phải diệt trừ gốc rễ bọn chúng.

Cốc Đại Dụng liền vội vâng dạ đáp lời. Chính Đức thoáng trầm ngâm, lại vung tay hạ lệnh:
- Các ngươi lui xuống đi, Dương khanh hãy ở lại.

Đợi mọi người lui ra khỏi điện rồi, Chính Đức vội nói với Dương Lăng:
- Dương khanh, mạch máu của Bạch Liên giáo kéo dài đã mấy trăm năm, đời sau nối tiếp đời trước, trước nay đều không thể tiêu diệt được nó.

Khi tiên hoàng còn sống, thường hay nói rằng bá tánh thờ ngưỡng nó, hoặc vì phú quý, hoặc do trường sinh, trong đó không thiếu người lương thiện, chưa hẳn đều là những kẻ có mưu đồ tạo phản. Nếu như trừng phạt quá rộng, sẽ gây tổn hại đến gốc rễ của Đại Minh, còn nếu chỉ tiêu diệt kẻ cầm đầu, lại sẽ như ngắm hoa trong sương. Đại Minh từ thời dựng nước đã diệt trừ tà giáo, không biết còn phải diệt trừ đến năm nào tháng nào.

Việc này không gấp, giao cho hai xưởng một vệ xử lý là được. Nội xưởng của khanh vẫn còn phải để ý đến chiến sự ngoài Đại Đồng và chuẩn bị cho trẫm đi lên phương bắc.

Dương Lăng do dự:
- Hoàng thượng! Thần bị đạo tặc bắt cóc đã khiến cho lòng người bất an, nếu như lúc này Hoàng thượng xuất kinh, e rằng bá quan sẽ càng kinh hãi. Chi bằng bí mật thông tri cho Đoá Nhan Tam Vệ trước, đợi khi việc thanh trừng giặc cướp và đả kích tà giáo của thần có chút thành quả rồi Hoàng thượng mới khởi hành. Hoàng thượng thấy thế nào?

Chính Đức có mỗi việc xuất kinh này là chuyện vui, thật sự còn sướng hơn cả đón Tết nên nào thèm nghe. Hắn không chịu:
- Kết minh với Đoá Nhan Tam Vệ sớm một ngày thì biên ải sẽ bớt được một ngày tổn hại. Đây là đại sự nước nhà, trẫm đường đường là vua một nước, há có thể sợ một đám giặc cướp? Lòng dân bất ổn thì mặt mũi triều đình càng bị tổn hại, cho nên trẫm càng phải xuất kinh!

Rồi hắn hớn hở nói tiếp:
- Đợi trẫm từ biên ải nở mày nở mặt trở về kinh sư, lòng dân sẽ yên ổn ngay. Nếu như ngay cả lãnh thổ của chính mình mà trẫm còn không dám bước chân đến thì mới thực sự là mất hết mặt mũi đó. Bọn chúng có thể bắt cóc ái khanh giữa dăm ba thị vệ là có thể khiến trẫm bị thương giữa trăm nghìn giáp sĩ ư? Nếu như có bản lĩnh đó, bọn chúng cũng có thể xông vào cung bắt cóc trẫm vậy. Thế thì trẫm cũng nên chắp tay dâng cái giang sơn này cho rồi, trốn trong Tử Cấm Thành còn an toàn sao?

Dương Lăng cười khổ sở đáp:
- Muốn Hoàng thượng xuất kinh, tự dấn thân nơi biên ải, thị sát dân tình, kết giao với nước chư hầu, làm một thánh quân lưu danh thiên cổ, vốn là tâm nguyện của thần. Nhưng mà Hoàng thượng lại can hệ đến cả thiên hạ, thần thực sự chưa nguôi hết nỗi lo.

Chính Đức cười hí hửng:
- Chưa nguôi hết nỗi lo thì sẽ từ từ mà nguôi, kinh thành này trẫm vẫn sẽ phải rời khỏi. Trẫm dẫn theo ba trăm thị vệ đại nội, cộng thêm mấy nghìn quân thiết giáp của khanh, thực muốn xem thử còn ai có thể đả thương được trẫm.

Nói đoạn hắn sực nhớ ra một chuyện, bèn hớn hở kể:
- Đúng rồi! Dương khanh quả nhiên có nhãn quan độc đáo. Mấy ngày trước có đám ngôn quan dâng sớ chỉ trích Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân uổng công ôm mười vạn quân nhưng lại đóng thành không ra, mặc cho giặc Thát hung hăng càn quấy ngoài thành. Ái khanh lại nói bọn họ làm vậy ắt có mưu đồ, cho nên trẫm nghe xong mới không hạ chỉ giục bọn họ xuất binh, chỉ chuyển tấu chương hặc tội đến cho Dương Nhất Thanh, bảo gã dâng sớ biện bác.

Hôm qua tấu chương của Dương Nhất Thanh đã được đưa vào trong kinh, bọn họ quả nhiên có mưu kế khác. Ha ha, hai người này khẩu vị không nhỏ đâu à! - Chính Đức vừa nói vừa lục lọi trên chiếc bàn chân thấp trên giường một hồi, không tìm thấy bản tấu chương bèn kể tiếp - Xưa nay giặc Thát xuất binh, luôn lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, không mang theo cấp dưỡng, và thực sự là bọn chúng cũng không có cấp dưỡng để mang theo. Cho nên khi đánh luôn phải nhanh như mưa sa gió táp, phải một kích tất trúng. Mục đích không đạt được liền chuyển sang công kích nơi khác, không thể dừng lại ở một nơi quá lâu.

Lúc đầu bọn chúng công thành chiếm đất, cướp được một số lượng lớn tiền bạc và lương thực. Dương Nhất Thanh lại không cho bọn chúng có cơ hội rút lui, cứ kẹp chặt lấy bọn chúng, níu chân bọn chúng ở vùng lân cận Đại Đồng. Hơn bảy vạn đại quân giặc Thát, phải nuôi cả ngựa lẫn người, nay những thức bọn chúng cướp được đều đã hết sạch.

Năm nay bọn chúng xuất binh cướp bóc, chẳng những không thể lấy được gì về cấp dưỡng cho bộ tộc mình mà lúc xuất binh còn dùng hết lương thực dự trữ, sau khi trở về e rằng sẽ phải giết bò ngựa mới có thể qua khỏi mùa đông, ắt sẽ đại thương nguyên khí. Tên Dương Nhất Thanh này đánh giặc không chỉ lo nghĩ trước mắt, mà tầm mắt lại còn trông xa đến vậy, quả nhiên là một tướng tài.

Hai ngày trước Vương Thủ Nhân đóng quân giữ ải, sau một ngày khổ chiến đã quăng mũ cởi giáp, vờ đại bại mà chuồn, bỏ lại lương thảo cho giặc Thát. Những tên lính đói đó vội vã chôn nồi nấu cơm. Ăn xong bữa đó, lính trúng độc mà chết đã có hơn năm nghìn, ngay cả chiến mã ăn phải cỏ độc cũng chết quá nửa, đó đều là tinh nhuệ của Bá Nhan đó à. Ha ha, không phí một binh một tốt mà có thể khuất nhục được địch quân, đánh trận như vậy trẫm mới thích!

Chậc! Có điều không biết Bá Nhan Mãnh Khả nghe báo xong có thổ huyết không nữa, chốc nữa hãy kêu người của khanh thám thính thử xem sao.
Chính Đức mỉm cười vỗ vai Dương Lăng, hết sức hài lòng.

Dương Lăng nghe xong cũng vui sướng vô cùng, bèn tâu:
- Công lớn như vậy, Hoàng thượng nên thưởng lớn mới được. Trên chiến trường, làm tướng dụng binh thực không dễ, có Hoàng thượng ban thưởng, nhuệ khí sẽ được nâng cao, một lính có thể chọi hai quân đấy.

- A! Chính Đức vỗ vỗ trán, - Vốn trẫm cũng định ban thưởng, nhưng Lưu Cẩn nói mới chỉ là tin thắng trận mở màn, nếu như thưởng to, e rằng binh tướng sẽ sinh ra kiêu ngạo, cho nên trẫm đã gác lại. Việc này... hiện tại ban thưởng có sao không?

Dương Lăng nghe hắn nói vậy thì ngẩn người. Y đã lường trước Lưu Cẩn nhất định cực kỳ bất mãn với hai người Dương Nhất Thanh, tuy kết quả dụng binh của hai người này có liên quan trực tiếp đến niềm vui nỗi buồn của lão cho nên lão phải dốc sức làm tốt công việc hậu cần, song lão sẽ không mong thấy hai người bọn họ được khen thưởng.

Dương Lăng không trả lời ngay, mà lại cười, nhớm hỏi:
- Có công thì thưởng, có tội thì phạt, lúc nào ban ơn, khi nào nghiêm luật, Hoàng thượng nhất định đã có dự tính sẵn trong lòng. Nếu như Hoàng thượng là tướng lĩnh dẫn binh, sẽ hy vọng thế nào?

Chính Đức không hề nghĩ ngợi gì, hùng hồn đáp ngay:
- Trẫm ư? Trẫm đã lập được đại công thì đương nhiên muốn được thưởng, muốn thăng quan, muốn tiến chức, muốn cưỡi ngựa diễu hành, được nở mày nở mặt mà, bằng không ai còn bán mạng cho khanh chứ? Trẫm hài lòng thì lính của trẫm cũng không... ồ...

Hắn chợt ngậm miệng, liếc xéo Dương Lăng, cười tủm tỉm, đấm ngực y một cách thân thiết, rồi cười lớn bảo:
- Nói chuyện vòng vo! Dương thị độc cũng gạt cả trẫm vào tròng rồi.

Chính Đức suy nghĩ một hồi rồi nói:
- Vậy tức là thưởng. Tết rồi, tướng sĩ ở tiền phương phục tùng mệnh lệnh, không vì chuyện này thì vẫn phải thưởng. Chốc nữa trẫm sẽ bảo Lý Đông Dương và Tiêu Phương thu xếp là được. Đúng rồi, tấu chương liên danh của Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân còn đề cập đến việc khi giặc Thát đại thương nguyên khí, bọn chúng lấy du mục làm chủ, không quen trồng trọt, mùa đông năm nay dê bò tiêu hao quá nhiều, e rằng sang xuân cũng sẽ thay đổi thói quen trước kia, sẽ không ngừng tập kích biên giới. Bọn họ kiến nghị với trẫm là vẫn cho phép đóng trọng binh ở biên tái. Nếu như Thát Đát tập kích biên giới mà không được gì, chắc hẳn bọn chúng sẽ quay sang Đoá Nhan Tam Vệ gây áp lực đòi lấy tài vật, cho nên đề nghị trẫm ban ơn lôi kéo Đoá Nhan Tam Vệ, không ngờ lại khéo hợp với đề nghị của khanh.

Dương Lăng đăm chiêu đáp:
- Ừm! Bọn họ ở tiền phương, đương nhiên sẽ thấy được rõ, nghĩ được xa, năm sau Thát Đát tập kích biên giới, chính hợp với ý thần. Đúng lúc Hoàng thượng đổi chỗ Kinh doanh và biên quân để bọn họ luân phiên ra chiến trường rèn luyện một phen, nhân dịp này mượn tay Thát Đát huấn luyện quân Đại Minh của chúng ta.

Về phần Đoá Nhan Tam Vệ, chuyện này vốn đã được dự tính trước, đây cũng là một cơ hội tốt để bức bọn chúng quy thuận triều đình. Có điều bọn chúng chỉ biết theo đuổi cái lợi, không giữ vững lập trường, đục nước béo cò, trước đây khi còn giao hảo vẫn thỉnh thoảng tập kích cướp bóc biên cảnh, chưa hề thực sự ngoan ngoãn quy thuận. Kết minh chẳng qua chỉ là cái kế tạm thời, mảnh đất rộng lớn Liêu Đông sớm muộn gì sẽ phải nằm trong tay triều đình mới được, cho nên không thể vì vậy mà áp chế bọn chúng.

Muốn nhận trước hết phải cho. Bọn chúng có ngựa, chúng ta có lương thực, dầu, muối, vải vóc, tơ lụa, lợi ích chẳng những không thua kém, mà còn có thể cho bọn chúng nhiều hơn, tăng thêm tỉ suất trao đổi chiến mã và lương thực dầu mỡ, khiến chúng càng lúc càng giàu, càng sẽ không để ý đến Thát Đát nữa. Thát Đát cũng sẽ càng lúc càng đỏ mắt vì ghen tị, khi đó sẽ chính là cơ hội của triều đình.

Dường như Chính Đức bẩm sinh rất hứng thú với những thủ đoạn lừa bịp của phường cường đạo, không hề có chút giác ngộ nào của bậc đế vương thiên triều, nghe xong kế sách "hèn hạ thâm độc" của Dương Lăng thì hắn không khỏi gật đầu lia lịa, luôn mồm khen phải.

Đã sát cuối năm, chuyện vì một đại đạo mà binh giáp khắp thành đã tổn hại đến năng lực và uy tín trong việc khống chế thiên hạ của triều đình, nếu không phải việc cực chẳng đã, thực sự triều đình chẳng cần phải căng thẳng như vậy. Hồng Nương Tử đã thoát khỏi kinh sư, Lý Đông Dương liền xin Chính Đức thánh chỉ rút quan binh Kinh doanh về, kinh sư dường như đã khôi phục lại cục diện yên tĩnh phồn vinh trước đây.

Bộ Hình lập tức công khai phát công văn đến các phủ và các đạo, ra lệnh truy bắt đại đạo Dương Hổ và Hồng Nương Tử.

Mùa đông mà dụng binh với sơn tặc là việc lợi bất cập hại, thế nhưng hành động của vợ chồng Dương Hổ đã làm mất thể diện của triều đình. Dưới tình hình đó Lưu Đại Hạ cũng không dám làm trái thánh chỉ, lão đành phải âm thầm căn dặn tướng lĩnh dẫn binh vừa đấm vừa xoa, vây bắt thay vì tấn công, không được tùy tiện xông vào núi một cách ồ ạt.

Trên thi thể được phát hiện phía sau đạo quán trong con hẻm đổ nát phía thành bắc, quan viên khảo sát hiện trường của bộ Hình đã phát hiện tín vật của Di Lặc giáo, chứng thực nhận định của Dương Lăng. Vốn hai xưởng một vệ tưởng rằng Di Lặc giáo đã tan thành mây khói, lúc này mới biết bọn họ đã quật khởi, không khỏi bèn tăng cường việc lùng bắt.

Đã sắp đến Tết. Trước Tết ba ngày ấy là lúc triều đình được 'nghỉ phép'(3), vua không phải xử lí chính sự, một ít quan viên vùng khác cũng xin nghỉ trở về quê ăn Tết. Ngày này khắp chốn ăn mừng, ngay cả kinh sư cũng cho phép ăn xin kiếm cơm trong thành; lệnh giới nghiêm ban đêm được dỡ bỏ, đám quan sai của Ngũ thành binh mã ty cũng bớt hống hách, không tùy tiện vụt roi người đi đường phạm lỗi nữa.

Trận tuyết lớn hai ngày trước đã làm đổ nhà một số hộ dân ở thành bắc và thành tây. Bộ Hộ phái dịch phu tu sửa hoặc tài trợ ít tiền tài. Đây là thông lệ của triều đình, quan phủ các nơi cũng đều như vậy, không ai dám làm trái.

Những người phụ nữ mà ngày thường không bước chân ra khỏi nhà nay cũng có thể ra ngoài dạo chơi, đi chùa thắp hương, ra chợ mua ít son phấn, bột nước, tranh Tết cầu may lẫn những thứ mà bọn họ ưa thích.

Trở về đến phủ, Dương Lăng vẫn không dám để lộ chuyện bị bắt cóc. Thấy đám phụ nữ trong nhà hớn hở muốn ra ngoài dạo phố, y không nỡ cắt sự hào hứng của bọn họ trong ngày Tết nên đành âm thầm phái người Nội xưởng đi theo làm tùy tùng kiêm bảo vệ. Lần này y không dám lơ là, bốn mươi viên phiên tử vận thường phục được chọn đi theo ba vị phu nhân cùng với Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận đều là những kẻ biết công phu giang hồ, trong người đều nhét nỏ mạnh và hỏa súng ngắn.

Quan viên ở lại trong kinh đều phải tham gia đại lễ tại triều đình, ngoài ra, là người đứng đầu một nhà, bọn họ còn phải chủ trì thu xếp đón ngày Tết cho toàn gia đình, nên ai nấy bận rộn không thôi. Dương Lăng càng bận bịu hơn, bận đến nỗi thậm chí không có thời gian dạo phố cùng ba vị phu nhân. Cả ngày y bôn ba giữa ba xưởng, một vệ và mười hai đoàn doanh, chỉnh đốn quân ngũ, kiểm tra gia thế để tinh lọc, tuyển trạch tinh nhuệ, dùng Nội xưởng làm chủ lực nhằm tuyển chọn tinh binh theo tùy tùng Hoàng đế đến phương bắc. Đương nhiên những việc này đều được tiến hành một cách bí mật, rất ít người biết được mục đích thật sự của y.

Dương Lăng thân vận giáp mềm, khi ra vào thành cũng được bảo vệ canh gác, chận đường nghiêm ngặt. Vốn xuất thân danh môn nên Ngũ Hán Siêu vẫn coi thường việc sử dụng ám khí, song từ dạo ăn phải trái đắng, lúc này ngoài thanh lợi kiếm tùy thân hắn còn kè kè thêm hai bọc phi tiêu Kim Tiền, theo Dương Lăng như hình với bóng, một tấc không rời. Chung quanh y còn có mười hai viên phiên tử bảo hộ công khai và ngần ấy người âm thầm bảo vệ, có thể nói là gió mưa không lọt.

Thị vệ cận thân của Hoàng đế đã có cao thủ đại nội, còn những tinh binh do Dương Lăng tuyển chọn đều là những tráng sĩ trăm người chọn một, kiêu dũng hơn người. Đội ngũ gồm năm nghìn người tinh nhuệ như thế này đủ khiến bất kỳ một đội quân nào cũng phải ghen tị.

Năm trăm nữ kiếm sĩ hộ vệ tùy thân, hai nghìn nội giám quân túc trực luân phiên, cộng thêm dũng sĩ và quan quân hộ giá, thị vệ đại nội, lại còn có một số sư thái là đệ tử thân truyền của sư thái Thủy Vân của am Thủy Vân, đạo sĩ phái Long Hổ Sơn do Bỉnh Nhất chân nhân Đào Trọng Văn tiến cử, một số đạo sĩ của Toàn Chân Long Môn phái, đạo sĩ tu chân ở các miếu Võ Đang được hoàng gia sắc kiến(4), võ tăng ở các chùa chiền Thiếu Lâm được hoàng gia sắc kiến, cao tăng Ngũ Đài Sơn ở Sơn Tây; một đám người đang sẵn sàng đứng trước xa giá chờ nghe hiệu lệnh, thật là quyền thế ngút trời.

Tuyển chọn quân dũng sĩ tinh nhuệ xong, vẫn cần bọn họ làm quen với nhau, phối hợp ăn ý. Dương Lăng thu xếp cho năm nghìn tinh binh này ở trong Thần Cơ doanh, mời Ngũ quân đô đốc phủ và đại nội luân phiên phái người huấn luyện cho bọn họ phép đánh trận và phối hợp chiến đấu. Hôm nay y mới vừa từ trong Thầnh Cơ doanh chạy về, còn phải trở lên Nội xưởng xem thử hành trình xuất kinh cụ thể mà đám người Ngô Kiệt đã chuẩn bị cho Hoàng đế.

Ngựa chạy đến cổng thành, trong dòng người đông nghìn nghịt Dương Lăng chợt nhìn thấy mấy bóng hình quen thuộc. Y chăm chú nhìn, thấy là các cô Hàn Ấu Nương, Tô Tam và Tuyết Lý Mai đang kiễng chân sờ cái ụ đồng trên bề mặt cổng thành, đứng sau lưng là hai người Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận. Nghiêng đầu mỉm cười, hai má ửng hồng, các cô gái ấy xinh đẹp muôn phần, dân chúng đi qua đều trao cho bọn họ những nụ cười đầy thiện cảm.

Quan binh chặn gác cổng thành vẫn còn rất đông, cộng thêm hiện đang là lúc Bá Châu quét cướp, Đại Đồng chống giặc, thế nên thường có quan binh cưỡi ngựa lui tới báo tin. Cách cổng thành không xa là hai đội múa lân múa rồng trống chiên inh ỏi. Đám người Dương Lăng đi từ ngoài thành vào, vẫn chưa thu hút sự chú ý của các cô, có điều Liễu Bưu đứng cạnh mấy vị phu nhân luôn để ý đến động tĩnh chung quanh đã trông thấy y tới. Hắn vội ghé tai nói nhỏ với một người cải trang làm bá tánh thường dân mấy câu, sau đó vòng qua bọn họ tiến về phía y.

Dương Lăng ngồi trên ngựa khom người xuống hỏi:
- Các vị phu nhân đang làm gì vậy?

Liễu Bưu không nhịn được cười đáp:
- Đại nhân! Thuộc hạ đi theo phu nhân vào miếu dâng hương rôi đi dạo phố chợ, thuộc hạ có nhắc đến chuyện mười sáu tháng giêng nữ giới nên leo lên đầu thành, lên tường thành xua tan bệnh tật, chị em bạn dâu qua cầu nhỏ để vượt tai ương, rờ ụ đồng thì sẽ sinh con, còn là con trai nữa. Khụ khụ... mấy vị phu nhân liền đến... liền đến rờ ụ đồng. Thuộc hạ có nói rằng mười sáu tháng giêng mới linh, song Tuyết phu nhân lại nói... đã sẵn dịp ra ngoài, rờ thêm một lần cũng tốt vậy.

Dương Lăng nghe xong thì lắc đầu cười khổ. Y thấy mấy vị phu nhân đang cao hứng như vậy mà lúc này mới là chính ngọ, nếu mình đi ngang qua, bọn họ trông thấy nhất định sẽ theo mình trở về. Hiếm khi bọn họ có dịp ra ngoài như thế nên Dương Lăng không muốn làm bọn họ mất hứng. Y đang do dự không biết có nên tránh đi hay không, bỗng nhiên một hàng người ngựa dừng lại bên cạnh. Một người đàn ông vạm vỡ tuổi trạc tứ tuần, vận áo bào ống rộng, ngồi thẳng trên lưng ngựa, ghìm cương cười hỏi:
- Đằng trước có phải là Dương đại nhân không?

Dương Lăng ngẩng đầu, thấy người đó ria mép đen như mực, áo gấm đai ngọc, thẳng lưng trên ngựa, khí khái hào hùng, hai bên có mấy gia tướng đi theo; cưỡi ngựa bên cạnh là một vị tuổi trạc ngũ tuần, toàn thân vận nho phục cổ tròn, dáng cười toe toét.

Dương Lăng suy nghĩ một lúc mới nhớ ra người này là con trai của Vũ Định hầu Quách Lương, tên là Quách Huân. Tuy vẫn chưa kế thừa tước vị, song vì thân phụ tuổi đã cao, không tiện đi lại, mọi việc đối đáp xã giao đều giao cho ông ta ra mặt, cho nên ông nghiễm nhiên mang thân phận huân khanh. Nhà họ Quách và hoàng thất đã kết thân ba đời, hiện Quách Huân là Chánh đề đốc của Tam Thiên doanh, hai ngày trước Dương Lăng đã từng gặp qua.

Dương Lăng rẽ ngựa sang, chắp tay chào:
- Hóa ra là Quách tướng quân, thất lễ thất lễ! Tướng quân đang muốn ra ngoài thành ư?

Quách Huân cười đáp:
- Hôm nay ba mươi tháng chạp, là ngày phong ấn, nha môn không phải mở cửa làm việc. Vị bạn tốt này của bản tướng lại phải vội vã rời kinh đi nhậm chức, vì vậy ta tiễn y ra ngoài thành.

Dương Lăng thấy Quách Huân trỏ vào người đàn ông tuổi ngũ tuần trông nho nhã và thân thiện bên cạnh, nghe nói ông ta đi nhậm chức quan, lại là bạn thân của Quách Huân nên hẳn không phải là một chức quan nhỏ, bèn vội chắp tay chào:
- Hân hạnh hân hạnh! Vị đại nhân này thực lạ mặt, đã sắp đến Tết rồi, sao không ở lại kinh ăn Tết rồi hẵng đi nhậm chức vậy?

Quách Huân cười nói:
- Không phải đâu! Đại nhân tưởng vị hảo hữu hào hoa phong nhã này của bản tướng là quan văn ư? Vị này họ Trương tên Dần. Chỉ huy sứ Thái Nguyên vệ gặp cơn bạo bệnh mới qua đời, vị hảo hữu này của bản tướng nhận lệnh kế nhiệm vận chuyển vũ khí trang bị và lương thảo từ các nơi đến Đại Đồng. Y đã đến Thái Nguyên nhiều lần, trọng trách nặng vai, cho nên không thể không đi ngay.







Chú thích:

(1) trỏ quan lại truy nã tội phạm

(2) loại đao lưỡi hẹp của Cẩm Y Vệ, xem hình trang phục Cẩm Y Vệ (http://www.forex.com.cn/upload/2010-07/101104073125912.jpg)

(3) nguyên văn "hưu mộc"', nghĩa là “nghỉ để tắm gội”. Lệ xưa làm quan cứ mười ngày được nghỉ một lần để tắm gội, cho nên sau này ngày lễ nghỉ được gọi là ‘hưu mộc nhật’

(4) "sắc" nghĩa chiếu thư của vua; "kiến" nghĩa xây dựng, trỏ công trình dựng nên theo chiếu mệnh vua ban




Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
01-06-2012, 06:22 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 184 - Mồng sáu lên đường

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Dương Lăng gật đầu:
- Ừ, có điều phải cực khổ cho cô rồi. Mồng sáu tôi sẽ phải rời kinh lên bắc, cô cũng sẽ đồng thời vào nam xuống Kim Lăng, bắt đầu chuẩn bị hết thảy mọi việc. Thượng tuần tháng hai, nhất định cô phải dẫn được người vào kinh. Về phía các quan viên đại biểu cho quan lại vùng duyên hải đó, tôi đã nắm thóp được một ít rồi, Hoàng thượng cũng đã gật đầu đồng ý. Hiện tại khó nhai nhất chính là đám hại nước, hại dân đã bảo thủ mà lại cứ hùng hồn mượn thể diện thiên triều thượng quốc làm lá chắn. Đánh thì không đánh được, chửi cũng không chửi nổi, thực phải phiền đến phương cách của Thành cô nương để bịt miệng bọn họ lại thôi.




Quyển 5 - Quần ma loạn vũ - Chương 184 - Mồng sáu lên đường

------------------------

Chương 184 - Mồng sáu lên đường

------------------------

Thái Nguyên và Đại Đồng nương tựa lẫn nhau, tạo thành thế ỷ giốc. Giặc Thát nhiều lần tấn công biên ải, đa phần đều tấn kích trước vào Tuyên Phủ Đại Đồng. Thái Nguyên tựa vào đất liền, không phải là mục tiêu công kích chính nên binh mã Thái Nguyên đã trở thành một cánh quân quan trọng để kiềm chế Thát Đát. Mỗi khi Đại Đồng gặp phải hiểm nguy triều đình đều điều động binh mã từ Thái Nguyên đến cứu viện.

Trước khi đại quân của Dương Nhất Thanh tiến đến Đại Đồng, do tình thế biên quan nguy cấp nên Chỉ huy sứ của vệ Thái Nguyên đã dẫn đại quân gấp rút chi viện. Trên chiến trường ông bị trúng phải tên lạc, bệnh tình vốn không quá nghiêm trọng, nhưng không ngờ sau khi trở về Thái Nguyên, vết thương lại đột nhiên diễn biến xấu, thế là ô hô thương thay. Không ngờ Chỉ huy sứ tân nhiệm của vệ Thái Nguyên lại chính là vị Trương đại nhân Trương Dần này.

Nhà họ Quách rất có ảnh hưởng trong quân đội, xem ra vị Trương Dần này hẳn là thân tín do Quách Huân đề bạt. Dương Lăng bèn vội chắp tay chào ông ta:
- Ngưỡng mộ đã lâu, ngưỡng mộ đã lâu! Đêm giao thừa mà Trương đại nhân vẫn phải bôn ba trên đường, thực sự là cực khổ cho ngài rồi.

Trương Dần ôm quyền thi lễ, mỉm cười đáp:
- Hoá ra là Dương đại nhân ở ngay trước mặt. Hạ quan nghe uy danh của đại nhân đã lâu, như sấm bên tai, hôm nay được gặp thật là may mắn ba đời. Thân đã gửi vào nơi binh nghiệp, vốn chính là nuôi quân nghìn ngày, dùng quân một chốc, lúc này cực khổ cũng là lẽ đương nhiên thôi.

Lão ta vừa nói vừa quét mắt sang những người bên cạnh Dương Lăng, lúc thấy Ngũ Hán Siêu ánh mắt lão dừng lâu hơn một chút, rồi lại dời mắt về phía Dương Lăng như thể không có việc gì. Dương Lăng thấy lão nhã nhặn nho nhã, hai mắt có thần, nói chuyện đúng chừng đúng mực, cũng bất giác nảy sinh hảo cảm.

Đôi bên trò chuyện mấy câu, thấy người đứng ở cổng thành càng lúc càng đông, đã hơi bị ùn tắc, Quách Huân bèn khẽ chau mày nói với Dương Lăng:
- Không quấy rầy Dương đại nhân nữa. Trương huynh nóng lòng nhậm chức lo liệu chính sự, xin phép cáo từ tại đây.

Dương Lăng cười đáp:
- Được! Có dịp chúng ta sẽ lại trò chuyện, cung tiễn Quách tướng quân, Trương đại nhân!

Trương Dần mỉm cười gật đầu, cất giọng sang sảng:
- Dương đại nhân, hạ quan cáo từ!

Dương Lăng dõi mắt tiễn bọn họ phóng ngựa rời khỏi kinh thành. Lúc quay lại, y mới thấy mấy người Hàn Ấu Nương và Tô Tam đang đứng ở một bên tươi cười ríu rít. Thấy y quay đầu lại, Hàn Ấu Nương đi đến hớn hở khoe:
- Tướng công! Hôm nay là ngày ba mươi rồi, thiếp và mấy tỷ muội đang nói không biết khi nào tướng công mới trở về đây, không ngờ chàng lại về sớm như vậy rồi.

Dương Lăng trở người nhảy xuống ngựa đi đến chỗ bọn họ, đưa mắt nhìn các cô Tô Tam rồi mỉm cười hỏi:
- Không phải các nàng đi miếu dâng hương sao? Chạy đến cổng thành để làm gì?

Hàn Ấu Nương thoáng đỏ mặt, Tô Tam và Tuyết Lý Mai cũng có phần ngượng nghịu còn Cao Văn Tâm đứng ở phía sau che miệng cười khẽ. Dương Lăng cũng không nỡ vạch trần, bèn cười nói:
- Đã gặp rồi thì cùng nhau trở về thôi.

Kiệu của các cô dừng lại bên đường cho mấy vị cô nương lên kiệu. Dương Lăng cưỡi ngựa chậm rãi theo cạnh, vừa nhìn không khí đón tết tưng bừng trong kinh sư, vừa cách rèm trò chuyện cùng Hàn Ấu Nương. Lúc gần đến rìa thành tây, mọi người trông thấy bên đường có một đám đông đang túm tụm, người của Binh mã ty cũng đã kéo đến.

Sau việc Xưởng đốc bị bắt cóc lần trước, chỉ cần có chút biến động nhỏ là đám phiên tử dưới quyền của Dương Lăng ai nấy liền như lâm phải đại địch, mấy chục người trong tối ngoài sáng liền lập tức bảo hộ kiệu và ngựa, cách ly toàn bộ bá tánh, lặng lẽ thò tay vào ngực, nắm chặt lấy nỏ cứng và súng ngắn.

Ngũ Hán Siêu cũng không để ý đến chốn om sòm ở đằng trước. Hắn vừa ghìm ngựa đến gần Dương Lăng, vừa liếc nhanh quan sát chung quanh, để ý đến bá tánh bên đường. Dương Lăng hơi nhổm người, ngó vào trong đám đông, vừa nhìn thấy người đứng giữa, y không khỏi khẽ chau mày. Vẫy tay gọi Liễu Bưu lại, y thấp giọng bảo:
- Đi xem thử đã xảy ra chuyện gì!

Liễu Bưu hiểu ý, buông cương nhảy xuống ngựa, chen vào trong đám đông đang xem chuyện náo nhiệt. Hắn thấy ông chủ một tiệm may vừa lôi kéo một gã đàn ông tuổi trạc tứ tuần vừa rống họng tru tréo với tuần bộ của Binh mã ty:
- Hồ tứ gia đến thực tốt quá, kẻ này thực không biết lý lẽ gì cả. Hôm trước hắn đến, bỏ một lạng bạc ra đặt cọc, nói rõ là muốn thảo dân may một bộ áo bào Cô nhung hảo hạng. Hôm nay đến thử thấy vừa vặn, hắn lại chối bay bảo là ban đầu nói chỉ mua đồ nhung hạ phẩm. Thảo dân đưa ký ước ra cũng bị hắn xé vụn, nói là thảo dân vu cáo hắn.

Lão đây tự nhận xui xẻo, vốn định nhân nhượng cho khỏi phiền, hắn lại nói ngày mai là năm mới, thảo dân đã may nhầm áo bào của hắn, phải lấy áo nhung này ra để bồi thường. Lão đây mở tiệm ba mươi năm, xưa nay mua bán công bằng, chưa từng khinh già gạt trẻ, láng giềng phố phường đều có thể làm chứng, đã từng gạt người bao giờ? Kẻ này thật quá ư ngang ngược đi!

Đứng cạnh gã đàn ông tuổi trạc tứ tuần đó là một thư sinh tuổi trạc độ hai mươi, đang đỏ mặt níu áo hắn. Gã đàn ông trung niên gạt tay hắn vùng ra, thấy quan binh chẳng những không sợ mà ngược lại còn nghênh ngang tự đắc. Gã liếc xéo tay thủ lĩnh Tuần bộ rồi cười nhạt:
- Ngươi không lừa gạt? Ngươi không lừa gạt chẳng lẽ đại gia ta lại lừa gạt sao? Buông tay!

Đoạn gã hừ một tiếng, vùng khỏi tay thợ may già, phủi phủi vạt áo, thong thả nói tiếp:
- Ngươi có biết ta là ai không? Đại gia ta là đường huynh của Đề đốc nội xưởng, thống lĩnh ngự tiền thân quân của hoàng thượng, Uy Vũ bá gia Dương Lăng!

Người thợ may già nghe xong thì sợ run cầm cập. Tay thủ lĩnh Tuần bộ được gọi là Hồ tứ gia nọ cũng không khỏi biến sắc, bốn bề im phăng phắc. Gã ta vẫn ung dung nói tiếp:
- Là đường huynh! Hồ tuần bộ, người nói đại gia ta có giống phường lừa bịp không?

Nói đoạn, gã vênh mặt nhướng mắt. Không ngờ làm vậy, vừa khéo khiến gã trông thấy bên ngoài đám đông, Dương Lăng được vây quanh bởi mấy thớt ngựa to lớn, đang sầm mặt nhìn gã. Cả người gã không khỏi run lên, vẻ mặt lập tức trở nên lo lắng.

Hồ tuần bộ khổ sở gật đầu khom người đáp:
- Không giống không giống! Đại gia ngài dáng vẻ đường đường, quả là huynh trưởng của Dương bá gia Dương đại nhân rồi, nào sẽ lại ức hiếp ông chủ tiệm may nho nhỏ như lão ấy chứ. Hề hề, hề hề.

Cười nịnh bợ xong, hắn liền thẳng lưng quát lão thợ may:
- Lão Bùi à, rõ ràng là lão già rồi lẩm cẩm, nghe lầm lời căn dặn rồi. Dương đại gia là người có danh phận, lẽ nào lại so đo tính toán với một thợ may nho nhỏ như lão chứ? Đã có lỗi với đại gia, ông tự nói nên làm sao đây?

Người thợ may già ấp úng:
- Vậy... vậy..., lão đây đưa bộ áo bào này cho đại gia xem như là nhận lỗi vậy!

Nói xong câu này, lão cảm thấy rất đau lòng, nhưng mà xưởng vệ thực sự không thể trêu vào.

Thường có câu "bắc có Cô nhung, nam có Nữ cát(1)", nhung quý Lan Châu cực phẩm chỉ có thể thấy trong cống phẩm hoàng cung. Chiếc áo khoác lụa vàng lót Cô nhung màu mận tía mà Dương Lăng đang khoác chính là mới được hoàng đế Chính Đức ban thưởng hai ngày trước, trị giá trăm lạng bạc ròng.

Cô nhung của lão thợ may tuy không phải là cống phẩm, nhưng cũng trị giá gần mười lạng bạc ròng, là thứ mà gia đình giàu có thường mặc cả mấy mươi năm, thậm chí truyền xuống đời con đời cháu. Đem thí bộ áo bào này rồi, coi như lão làm không công mấy tháng.

Dương Tuyền nhìn Dương Lăng lom lom, miệng môi trắng bệch, nào còn dám nhận lấy chiếc áo bào Cô nhung đó chứ. Liễu Bưu quay đầu nhìn Dương Lăng, y nén giận, gật đầu tỏ ý, Liễu Bưu bèn gật đầu, xoay người chen vào trong đám đông. Hắn lấy từ trong tay áo một thỏi bạc nặng, nhét vào trong tay người thợ may già, mỉm cười nói:
- Sao Dương phủ có thể tiếm lợi ích của ông được? Tam gia vốn định may một bộ thường phục mặc thường ngày, cũng không lo bị dơ hoặc sờn. Nếu bộ áo này đã dùng vải tốt, vậy chúng ta nhất định sẽ mua. Thỏi bạc này đủ mười lạng, cộng với một lạng đặt cọc trước, hẳn là đã đủ chứ?

Lão thợ may họ Bùi mừng khôn kể xiết, liền gật đầu cảm ơn rối rít:
- Đủ rồi đủ rồi! Khấu trừ tiền vải và tiền công, còn phải trả lại cho ngài năm phân bạc nữa.

Liễu Bưu cười hà hà:
- Không cần đâu, làm lễ tế trời(2) không thể sơ sài, coi như tam gia nhà ta thưởng cho ngươi đó.

Nói đoạn, hắn cầm lấy bộ áo bào rồi nói với Dương Tuyền:
- Tam gia, chúng ta về phủ thôi.

Dương Tuyền giật mình, vội "à, ờ" mấy tiếng rồi ngoan ngoãn bước theo hắn ra khỏi đám đông. Dương Lăng mặt nặng như chì, hờ hững nhìn gã rồi giật cương ngựa đi trước. mặt Dương Tuyền trờ thành tím ngắt. Liễu Bưu làm việc hết sức khéo léo, tuy biết Dương Lăng rất giận, song suy cho cùng chú cháu Dương Tuyền là người nhà họ Dương, có xa cách mấy vẫn gần hơn hắn rất nhiều. Hắn biết hai người không thể cưỡi ngựa, bèn vội gọi một viên phiên tử lại thuê kiệu ngựa đưa hai người về.

Thành Khởi Vận vén rèm kiệu, trông thấy hết mọi chuyện, đôi mắt đen láy của nàng đảo một vòng, ra vẻ đăm chiêu.

Về đến phủ, Dương Lăng hầm hầm bước vào trong trung đường, cởi áo khoác ra. Hàn Ấu Nương biết hiện tại tâm tình y không tốt nên bèn ngoan ngoãn cầm lấy áo, trộm nháy mắt với mấy vị tỷ muội, mọi người lặng lẽ trở về nhà sau.

Dương Lăng chỉ vận áo cổ bó ống tay hẹp màu xanh thẫm, mới vừa vào thư phòng trong trung đường ngồi, Dương Tuyền và Dương Vân Long đã lo lắng bước theo vào. Dương Tuyền ngượng ngập mở miệng:
- Lăng đệ...

Dương Vân Long cũng sợ sệt gọi:
- Lão thúc!

Trong nhà dán đầy câu đối cùng chữ Phúc lẫn tranh tết, tràn ngập một không khí hân hoan. Khắp nơi trong thôn thi thoảng lại có tiếng pháo rộn ràng. Hôm nay đã là ba mươi tết...

Nhớ đến điều đó, Dương Lăng chỉ thở dài, đứng dậy bảo:
- Nếu như thường ngày không đủ chi dùng, tam ca cứ nói với Ấu Nương một tiếng là được. Làm sao nhà chúng ta lại có thể làm những chuyện khiến người ta đàm tiếu sau lưng như vậy chứ?

Dương Tuyền vừa xấu hổ vừa bực tức nhưng lại không dám phát tác, chỉ biết vâng vâng dạ dạ. Dương Lăng liếc qua Dương Vân Long nói:
- Đã sắp sang năm mới, ta đã báo cho bộ Lại, qua ngày mười lăm sẽ thu xếp cho Vân Long một công việc. Ngươi biết viết biết tính, đừng chỉ dựa vào cái danh hiệu nhà họ Dương, hãy dựa vào bản lĩnh của mình mà làm cho tốt, đừng có được voi đòi tiên.

Dương Vân Long mừng rỡ cảm ơn:
- Đa tạ lão thúc! Chỉ cần có công việc ở trong kinh là được, Vân Long nhất định sẽ không gây thêm phiền phức cho thúc đâu.

Dương Lăng ừ một tiếng, rồi ngó sang Dương Tuyền bảo:
- Cho dù làm một tiểu tốt ở nha môn trong kinh cũng không phải là dễ. Tam ca... ờm... chốc nữa đệ sẽ giúp huynh tìm một vị trí ổn thỏa.

Dương Tuyền hơi thất vọng nhưng không dám biểu hiện ra mặt, chỉ đành vâng dạ; thấy Dương Lăng không muốn nói thêm gì với gã nữa, bèn cáo từ lui ra.

Ngồi trên ghế dựa, Dương Lăng day ấn đường nhắm mắt nghỉ ngơi một lúc. Dương Tuyền văn dốt võ dát, phẩm hạnh tồi tệ, thực sự y không muốn dây dưa với gã. Nhưng mà quan hệ họ hàng thân thuộc như một cái lưới vô hình khổng lồ bao trùm lấy y, loại áp lực ngầm ấy khiến con người ta không thể nào phản kháng. Sóng to gió lớn cỡ nào y cũng đã đều trải qua, thế nhưng y lại không biết nên làm thế nào cho phải với cái tên tiểu nhân vật bé tí như con kiến này.

Ban đầu y còn định thu xếp cho gã công việc cai ngục trong đại lao bộ Hình, song xem ra cũng không thể sử dụng tên này được. Dương Lăng thở dài, tạm thời không nghĩ đến gã nữa, y lại cân nhắc kỹ lưỡng việc thu xếp để năm sau hoàng đế xuất kinh một lượt, rồi mới đứng dậy đi về phía nhà sau.

Trên khuôn mặt Thành Khởi Vận đọng một nụ cười ngọt ngào, nàng vừa mới chào hỏi ba vị phu nhân và Cao Văn Tâm xong. Vừa rẽ vào trong thư phòng, nụ cười trên gương mặt lập tức tan biến, nàng uể oải thỏng vai, rì rì bước vào chỗ ở của mình.

Đám người Hàn Ấu Nương đều là con gái tuổi còn khá trẻ, tinh lực dồi dào, trò chuyện cũng ăn ý. Nàng lớn hơn bọn họ cả chục tuổi, kinh nghiệm và tuổi tác khiến nàng khó lòng cảm thấy hứng thú với những đề tài mà bốn người con gái nọ nói chuyện say sưa. Buổi sáng đi dạo trong thành, đám người Hàn Ấu Nương vẫn tràn trề tinh lực, trong khi sự nhạt nhẽo và vô vị lại khiến nàng cảm thấy cả người rã rời.

Thành Khởi Vận sợ lạnh, cho nên Dương Lăng đặc biệt căn dặn đặt nhiều lò sưởi trong phòng nàng, ban ngày đốt lò sưởi, buổi tối giường lò và tường kép sưởi ấm cũng được đốt lửa khiến cho căn phòng trở nên ấm áp. Lúc này mặt trời mới vừa qua chính ngọ, bởi đêm nay là giao thừa, cho nên lò sưởi trong phòng vẫn được đốt, cả phòng ấm áp như tắm trong gió xuân.

Thành Khởi Vận lười nhác cởi váy lụa, áo kép, thay giày da hươu bằng giày thêu, ngồi duyên dáng trước gương; khuôn trăng đầy đặn trong gương, mày như lá liễu mắt như sao trời, má đào môi hạnh sáng ngời, vẫn là một vẻ rạng ngời như hoa.

Nàng vận chiếc áo cánh ống hẹp cân vạt, quần dài xanh nhạt chấm đất, chiếc "yếm kha tử"(3) màu đỏ tươi mặc bên trong ôm chặt lấy bộ ngực đầy đặn, rãnh ngực hõm sâu, như chực bung ra ngoài, phác hoạ nên đường cong mê người.

Thành Khởi Vận khẽ thở dài một hơi, ngón tay như ngọc trắng vuốt nhẹ bộ ngực mềm mại và mịn màng. Thân thể nàng vẫn kiều mị mê người như trước, cặp mắt hạnh to và sáng như sao trời vẫn có sức hút mê hoặc chúng sinh như trước, nhưng sẽ còn được bao nhiêu năm tháng thanh xuân? Hết hôm nay, sẽ lại già thêm một tuổi.

Không khí vui mừng rộn rã khắp Dương phủ và tiếng pháo giòn giã thi thoảng truyền đến từ thôn trang khiến nàng cảm thấy lạc lõng và cô quạnh, chán chường và mệt mỏi với hết thảy mọi thứ mà nàng đã theo đuổi trước đây. Lúc này nàng chỉ muốn tìm kiếm một người để nàng có thể tựa vào, có thể cuộn vào trong lòng thủ thỉ chuyện trò. Nhưng yêu cầu tối đơn giản đến vậy cũng không kiếm dễ bằng kim tiền và quyền thế.

Lười nhác chùng vai, Thành Khởi Vận ngước nhìn hình ảnh mình trong gương rồi thở dài chán nản. Nàng vừa định leo lên giường nghỉ ngơi một chút, chợt có tiếng Dương Lăng từ ngoài cửa vọng vào:
- Thành cô nương, cô đã đi nghỉ chưa?

Thành Khởi Vận giật mình, ánh mắt chợt loé lên tia vui mừng, cảm giác mệt mỏi đau nhức lập tức tan biến, tinh thần thoắt đã trở lại. Nàng vội đáp:
- Vẫn chưa ạ! Đại nhân chờ một chút, ti chức sẽ ra ngay.

Thành Khởi Vận lật đật nhặt lấy quần áo mặc vào, kéo lê đôi giày thêu đế mềm vội vã chạy ra nghênh đón. Dương Lăng đang chắp tay đứng bên cạnh bàn ngắm bức tranh do Thành Khởi Vận tiện tay vẽ nguệch ngoạc nên. Trông thấy nàng kéo rèm bước ra, y mỉm cười hỏi:
- Chắc mệt hả? Tôi cũng ghét nhất là đi dạo phố, mùa hè thì thà thả câu dưới bóng dương liễu, buông cần xuống nước, nằm trên chiếu nghe gió mà chìm vào giấc ngủ; mùa đông thì ngả trên đầu giường đọc quyển sách hay. Các cô Ấu Nương còn nhỏ, hiếm khi được dịp ra ngoài cho nên ham thích náo nhiệt. Mọi người lại không phải người ngoài, cô không cần thuận theo bọn họ, không muốn đi thì cứ đợi trong phủ cũng được.

Thành Khởi Vận vụt cười duyên dáng:
- Thì bởi khó có dịp ra ngoài, ti chức sao nỡ làm mọi người cụt hứng? Mấy ngày nay đại nhân công việc bộn bề, ti chức cũng không tiện hỏi han, có điều nghe nói đại nhân thường đến chỗ trú đóng của ba xưởng một vệ và mười ba đoàn doanh, phải chăng vẫn là vì chiến sự phương bắc?

Dương Lăng gật đầu đáp:
- Ừ! Sự việc trọng đại, trong Nội xưởng cũng chỉ có một mình Ngô lão biết rõ tình hình tường tận mà thôi, những người khác chỉ biết nó như vậy, chứ không biết rõ nguyên do. Ha ha, lúc đầu vốn định vào kinh thu xếp ổn thoả rồi sẽ quyết định thời gian để cô trở về Giang Nam. Không ngờ, trước tiên là vì dỡ bỏ lệnh cấm biển mà phải toan tính đến chuyện nông canh, vì nông canh mà lo toan đến giống cây trồng, rồi lại sơn tặc vào kinh, giặc Thát tác loạn biên cương, khiến cho chuyện của cô cứ bị hoãn lại. Cô ở đây đã quen chưa?

Thành Khởi Vận khẽ hé môi cười đáp:
- Phương bắc gió như dao cắt, ban đầu thì chưa quen, bây giờ cảm thấy nó cũng có ý vị khác. So với nhà cửa phương nam trong ngoài đều ẩm thấp lạnh lẽo, ở đây khi bước vào lại có cảm giác ấm áp như xuân. Đại nhân và phu nhân cũng hết mực quan tâm ti chức, cứ tiếp tục như vậy, ti chức thực sẽ vui đến quên quê nhà đấy.

Dương Lăng mỉm cười:
- Như vậy sao được, muốn quên quê nhà cũng phải làm xong đại sự giải trừ lệnh cấm biển rồi mới được.

Ánh mắt Thành Khởi Vận vụt sáng, nàng hỏi:
- Đã nắm chắc rồi sao?

Dương Lăng gật đầu:
- Ừ, có điều phải cực khổ cho cô rồi. Mồng sáu tôi sẽ phải rời kinh lên bắc, cô cũng sẽ đồng thời vào nam xuống Kim Lăng, bắt đầu chuẩn bị hết thảy mọi việc. Thượng tuần tháng hai, nhất định cô phải dẫn được người vào kinh. Về phía các quan viên đại biểu cho quan lại vùng duyên hải đó, tôi đã nắm thóp được một ít rồi, Hoàng thượng cũng đã gật đầu đồng ý. Hiện tại khó nhai nhất chính là đám hại nước, hại dân đã bảo thủ mà lại cứ hùng hồn mượn thể diện thiên triều thượng quốc làm lá chắn. Đánh thì không đánh được, chửi cũng không chửi nổi, thực phải phiền đến phương cách của Thành cô nương để bịt miệng bọn họ lại thôi.

Thành Khởi Vận chậm rãi ngồi xuống chiếc ghế dựa đối diện, cười duyên dáng:
- Đại nhân yên tâm, Khởi Vận nhất định sẽ không làm nhục sứ mệnh. Tháng giêng về Kim Lăng, tháng hai ti chức nhất định sẽ về kinh phục lệnh đúng hẹn.

Đầu ngón tay Dương Lăng mơn trớn miếng chặn giấy trơn nhẵn bằng ngọc thạch, y đáp:
- Được! Tuy cô thể chất yếu ớt, nhưng lại là nữ trung hào kiệt, chưa từng lừa dối bản quan. Cô làm việc, ta tuyệt đối tin tưởng.

Y thoáng trầm ngâm, rồi đứng dậy nói tiếp:
- Hôm nay là giao thừa, đến giờ cơm chiều cô hãy đến phòng khách, mọi người tề tụ cho náo nhiệt, đừng trốn ở đây nữa.

Thành Khởi Vận mỉm cười dạ đáp lời, trông thấy y bước ra cửa, chợt hỏi:
- Đại nhân! Vị bà con Dương tam gia vào kinh nương nhờ, dường như đại nhân đang lo nghĩ không biết nên bố trí như thế nào cho ổn thỏa thì phải? Không bằng để ti chức dẫn gã đến Giang Nam xem sao?

Dương Lăng do dự:
- Việc này... quả thực khiến người ta lo nghĩ. Cũng không giấu gì cô, người này văn dốt võ dát, thói xấu lại có đủ, tuy không phải là một mầm họa lớn, song thực sự khiến người ta khó ưa. Do có huyết thống họ hàng nên đuổi thì không được, giữ cũng không xong. Bản quan nhìn tên lưu manh này, thực như chó cắn phải nhím, không biết nên mở miệng thế nào. Cô dám rước cái của phiền phức này theo bên mình sao?

Thành Khởi Vận nghe y nói với giọng điệu tự giễu, không khỏi che miệng cười nói:
- Đại nhân thật! Nói hắn không biết phấn đấu là được rồi, sao còn so sánh mình với... với... Ha ha, ti chức có gì mà không dám chứ, có điều đương nhiên phải xin đại nhân một cây Kim Phê lệnh tiễn(4). Dương tam gia là người chí thân của đại nhân, từ xưa việc quản lý thuộc hạ khó nhất chính là vướng phải quan hệ thân thích. Ti chức xa cách một tầng, chỉ cần công chính vô tư, vẫn dễ nói chuyện với gã hơn đại nhân nhiều.

Dương Lăng nghĩ ngợi một lúc rồi nhoẻn miệng cười nói:
- Được, vậy tôi sẽ giao cho cô cái của nợ này. Cô phải nghiêm khắc không được dung túng gã, nếu tôi nghe nói gã cậy vào quyền thế của tôi làm điều xằng bậy thì tôi sẽ chỉ hỏi tội cô thôi đó!

Thành Khởi Vận cười đáp:
- Ti chức tuân lệnh!

***

Mùng một tết, Hoàng đế không phải lâm triều, tuy nhiên đám cận thần trong cung vẫn phải vào cung viếng thăm theo lệ. Cả nhà Dương Lăng quây quần trong phòng sưởi, chơi đùa trò chuyện đến quá trưa. Ước chừng đại thần vào cung đều đã về hết rồi, y mới dẫn theo người hầu thân cận vào cung gặp Hoàng đế.

Chính Đức bận bịu suốt cả buổi sáng: sớm ra vừa thức dậy đầu tiên là đến tẩm cung thỉnh an Thái hoàng thái hậu và Thái hậu, nhận lì xì, sau đó trở về cung Càn Thanh ngồi ngay ngắn đón một đám hoàng thân quốc thích và đại thần văn võ đến thỉnh an, phát bao lì xì. Hiện hắn đã làm xong tất tần tật những công việc cần làm, đang cùng Giải Ngữ và Tu Hoa ở trong điện thi ném thẻ vào vò. Lưu Cẩn đứng một bên cười vỗ tay ủng hộ.

Dương Lăng bước vào điện, đứng một bên đợi Chính Đức ném hết thẻ trên tay xong, mới bước đến làm lễ, chúc mừng năm mới. Diễn xong màn hỏi han chúc mừng xong, hai người vua tôi bọn họ mới cùng thở ra một hơi thật dài.

Chính Đức bảo Dương Lăng và Lưu Cẩn vào nội thư phòng, rồi không thể đợi thêm nữa, hắn lập tức hỏi ngay:
- Dương thị độc, mọi thứ chuẩn bị thế nào rồi?

Dương Lăng đáp:
- Mọi việc đã chuẩn bị đầy đủ, chỉ đợi có cơ hội thích hợp, mời Hoàng thượng hạ chỉ, lệnh cho thần đến biên cương ủy lạo, sau đó sẽ có thể thực hiện kế minh tu sạn đạo...

Khi nói đến đây, y chợt nhớ đến một chuyện, mặt liền biến sắc.

Chính Đức cũng rất lanh trí, trông thấy mặt y cứng lại, liền hỏi:
- Đã xảy ra chuyện gì vậy?

Dương Lăng lưỡng lự một lúc rồi hỏi:
- Hoàng thượng, chuyện ngài xuất kinh, ngoại đình chỉ có thần, Tiêu đại học sĩ và Nghiêm Tung của bộ Hộ rõ, Nội xưởng có Ngô Kiệt biết, nội đình ngoài Lưu công công ra còn có ai nghe nói đến nữa không?

Chính Đức thoáng do dự rồi gượng cười nói:
- Chuyện thú vị như vậy mà phải đem giữ ở trong lòng trẫm thực sự cảm thấy khó chịu, cho nên... ta đã từng nhắc đến với hai vị cô nương Giải Ngữ và Tu Hoa. Có điều chỉ nói sẽ đi về phía bắc, cuối cùng sẽ đến Đại Đồng, ngoài ra chưa từng nói với bọn họ điều gì khác. Có chuyện gì sao?

Dương Lăng chau mày thưa:
- Thần nhớ đến một chuyện, hai trăm đại đạo lục lâm Bá Châu bị Di Lặc giáo mê hoặc đột nhiên vào kinh, mục đích ban đầu là gì, chỉ có mấy thủ lĩnh trong đám sơn tặc đó biết, chứ hiện tại chúng ta vẫn chưa tường tận. Hoàng thượng xuất kinh là chuyện lớn biết dường nào, người biết được thực không nên quá nhiều.

Đoạn y cười khan hai tiếng, làm bộ nói đùa bảo tiếp:
- Từ dạo thần bị Di Lặc giáo “dạy dỗ”, đến giờ vẫn còn khiếp sợ chưa vơi. Nhớ lần đầu gặp cô nương Giải Ngữ, từng thấy trên người nàng ấy đeo một miếng ngọc bội khắc tượng phật Di Lặc. Nữ tử đeo tượng phật trên người chẳng phải kỳ quái sao? Ha ha, đương nhiên, có thể là thần đã suy nghĩ quá nhiều, thực có hơi vô lý...

Chính Đức thoáng ngẩn ra, rồi bật cười nói:
- Khanh đó nha, đúng là hoang đường! Khanh nghi ngờ hai vị mỹ nhân Giải Ngữ và Tu Hoa là người của Di Lặc giáo à? Làm sao có khả năng đó chứ, hơn nữa, nam đeo quan âm nữ đeo phật, tượng phật mà cô gái đeo ngẫu nhiên lại là phật Di Lặc thôi. Nếu như vậy liền coi là Di Lặc giáo, các cô gái trong thiên hạ mười phần sẽ có đến bảy phần bị chém đầu rồi.

Dương Lăng nghe vậy thì ngớ ra. Nghe Chính Đức nói, y mới nhớ trước đây mình cũng từng nghe nói nam đeo quan âm nữ đeo tượng phật, chỉ là nhờ Chính Đức nhắc nhở mới nhớ lại. Ngẫm kỹ lại, tri thức về lịch sử của mình có hạn, mặc dù biết Ninh Vương tạo phản, song lại chưa từng nghe nói có liên quan gì với Di Lặc giáo cả. Hay là mình đã quá đa nghi?

Dương Lăng ngượng ngập đáp:
- Chuyện này... cẩn thận một chút vẫn tốt hơn. Thần vốn cũng không phải vì vậy mới sinh lòng nghi ngờ, có điều khi ấy bái kiến Hoàng thượng, hai vị cô nương biết tránh sang một bên để không phải tội nhận xằng đại lễ của quan viên. Người dân quê mùa lại hiểu biết lễ nghi như vậy, thần mới cảm thấy hơi kỳ quái.

Lưu Cẩn đứng một bên nghe xong cũng bật cười ha hả, nói:
- Dương đại nhân, bọn họ tuy xuất thân quê mùa, nhưng trước khi được đưa vào trong cung, phủ Ninh vương sẽ phải dạy dỗ đủ mọi lễ nghi cung đình hết ba tháng. Trước khi tiến cung, Ty Lễ giám lại phái người dạy thực tập hết năm ngày, những lễ nghi này mà còn không biết thì mới là lạ đó.

Bọn họ được Ninh vương bảo đảm đưa đến. Ninh vương là hoàng thúc, là hoàng tộc Đại Minh, Di lặc giáo phản lại chính là hoàng triều của Đại Minh chúng ta, hai bên vốn không thể nào đồng loã. Huống hồ trước giờ Ninh vương vẫn luôn trung thành với Hoàng thượng!

Chính Đức nhớ lại lúc làm đại lễ đăng cơ, trong số phiên vương đến tặng lễ vật thì Ninh vương trú đóng ở nơi xa nhất, lễ vật đem tặng cũng nhiều nhất, hợp với tâm ý của mình nhất. Nay lại tặng thêm Giải Ngữ và Tu Hoa, có thể thấy được sự kính cẩn và nể sợ của hắn. Huống hồ trong tay hắn lại không có một binh một tốt, sao có thể có ác ý chứ. Thế là Chính Đức bèn gật đầu kêu phải.

Dương Lăng nói:
- Có lẽ là thần đã đa nghi. Có điều vì an toàn của Hoàng thượng, thần sẽ quyết định đường đi, hành tung, phương thức xuất kinh và thời gian xuất kinh, vẫn mong Hoàng thượng đừng đề cập chuyện này với bất cứ người nào khác, bao gồm cả hai vị nương nương.

Chính Đức bất đắc dĩ cười bảo:
- Theo ý khanh, theo ý khanh đi! Chỉ cần có thể xuất kinh, trẫm sẽ theo ý khanh hết, được chưa?

Dương Lăng thấy Chính Đức vẫn chưa thực tâm đồng ý với mình, bèn nghiêm mặt thưa:
- Hoàng thượng, vua không nói lời đùa giỡn, ngài đã đồng ý thì vạn lần phải giữ lấy lời. Hoàng thượng phải đến Đại Đồng, ấy là vì tận trách nhiệm của thiên tử với thiên hạ, thần cũng sẽ vì sự an nguy của Hoàng thượng mà tận trách nhiệm của thần!

Chính Đức nghe xong bèn nghiêm túc trở lại, nghiêm nghị:
- Được, ra khỏi miệng khanh, chỉ vào tai trẫm! Đừng nói là Giải Ngữ và Tu Hoa, - hắn liếc sang Lưu Cẩn rồi nói tiếp, - Cho dù là lão Lưu, trẫm cũng sẽ không nói cho lão biết. Như vậy được chưa?






Chú thích:

(1) vải thô, làm bằng dây đay, dùng may áo mặc mùa hè

(2) nguyên văn "đại quá niên", xuất phát từ câu "quá đông đại quá niên". Ý nghĩa của nó là: ngày xưa, vào ngày đông chí, từ đế vương ở trên cho đến bá tánh ở dưới đều phải mổ gia súc và lấy trái cây tế trời hết sức trang trọng để cảm tạ ông trời năm qua đã ban ơn, và đồng thời khấn cầu năm sau ông trời tiếp tục cho dân gian được mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, vân vân.

(3) loại áo nịt ngực thời xưa

(4) xem hình giữa http://www.china001.com/ifile.php?xname=PPDDMV0&fname=0_1216202912.jpg
Lệnh tiễn: còn gọi là cờ lệnh, ý TKV xin DL cho phép TKV toàn quyền trị tội Dương Tuyền.




Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
07-06-2012, 11:04 AM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 185 - Rồng ra biển lớn

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Mặt mày hoan hỉ, Dương Lăng liền thưa:
- Quả nhiên Hoàng thượng hùng tài đại lược! Phải chăng ngài muốn Đại Minh chúng ta xây dựng hạm đội thủy quân vô địch, oai truyền bốn bể, trở thành bá chủ thiên hạ?

Chính Đức trợn mắt:
- Bậy bạ! Làm vậy có gì là thú vị? Trẫm muốn giống như trong truyện mà khanh đã kể với trẫm vậy:
“Tay trần cầm chắc Quỷ Đầu đao,
Đầu quấn lên thêm tấm vải đào,
Mắt đeo miếng bịt cho hung bạo,
Đi làm hải tặc sướng biết bao!"




Quyển 5 - Quần ma loạn vũ - Chương 185 - Rồng ra biển lớn

------------------------
Chương 185 - Rồng ra biển lớn

------------------------

Năm mới đã qua được ba ngày, tuy vẫn còn non nửa văn võ bá quan chưa hồi kinh chấp hành nhiệm vụ nhưng tới mồng bốn hoàng đế vẫn lâm triều xử lí chính sự. Ngay khi thượng triều, Chính Đức liền ban một ý chỉ, bảo rằng bởi Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân lần đầu thắng trận, làm tiêu tan nhuệ khí của quân đội Thát Đát nên đặc biệt bổ nhiệm Dương Nhất Thanh làm Tam biên tổng chế, Vương Thủ Nhân làm phó tướng, toàn bộ tổng binh của ba trấn đều phải theo sự điều khiển, dưới quyền của hai người.

Thát Đát tập kích biên giới cũng giống như người Hán đón tết, mỗi năm đều tới. Lúc đầu quân Minh chiếm thượng phong, sau nữa thì hai bên thế lực ngang bằng, đến mấy năm gần đây phàm là Thát Đát phái trọng binh tiến đánh, nếu không có binh mã đông gấp đôi trở lên thì quân Minh không thể nào chống lại nổi.

Dương Nhất Thanh tính tình chính trực, cương nghị thanh liêm, rất được đại học sĩ Lý Đông Dương xem trọng lại vốn xuất thân từ quan văn, cho nên khi giành được trọng dụng với chiến quả ấy, văn võ cả triều cũng không ai dị nghị gì. Thừa dịp mọi người cao hứng, Chính Đức lại tuyên bố để khao thưởng tướng sĩ cực khổ ở tam quan, nay ban đặc chỉ cho Thống lĩnh ngự tiền thân quân thị vệ là Dương Lăng sẽ dẫn quân đến Đại Đồng ủy lạo, khởi hành vào mồng sáu.

Sáng mồng năm, mấy chục tay thị vệ cường tráng mặc đồ đen đứng im phăng phắc trước cổng phủ Uy Vũ bá của họ Dương. Hai cỗ xe ngựa tam mã đỗ bên cạnh, mấy thớt ngựa lực lưỡng sốt ruột cào vó, phì phì thở ra sương trắng.

Dương Lăng và ba vị phu nhân cùng Cao Văn Tâm đưa Thành Khởi Vận và chú cháu Dương Tuyền ra ngoài. Thành Khởi Vận khoác áo choàng lông chim rộng màu đỏ, nổi bật giữa mảng đất trời trắng xóa, dung nhan thùy mị như sóng nước, tựa hoa mai ngạo nghễ trong tuyết trời; trong vẻ xinh tươi khiến tim người ta đập thình thịch đó lại mang theo mấy phần hào khí.

Dương Lăng ghé mắt nhìn sang, không khỏi cười nói:
- Trông bộ dạng của cô y hệt như một Hồng Nương Tử vậy. Chuyến nam hạ này, nếu không có đám thị vệ này đi cùng, không biết cô sẽ bị quan phủ tróc nã mấy lần đây?!

Thành Khởi Vận bó tay vào trong ống tay áo, tay áo gấm hoa lộ bên dưới chiếc áo choàng, lông chồn trắng trên viền tay áo khẽ lay trong gió.

Có thể trở về với vùng đất phương nam quen thuộc, được làm một số việc, quả thực nàng có phần hào hứng. Đưa mắt nhìn Dương Lăng, thật tâm nàng cũng có phần quyến luyến. Nàng liếc nghiêng Dương Lăng, rồi như trêu ghẹo mà “nghiêm túc” đáp rằng:
- Lo gì?! Cùng lắm thì ti chức sẽ lệnh cho bọn thị vệ bắt Dương đại nhân ngài. Có ngài làm hộ tống, dù là chân trời góc biển, có nơi nào mà không thể đến chứ?

Dương Lăng nhìn Thành Khởi Vận. Tuy nàng chỉ buột miệng nhưng trong ánh mắt lại lộ tình ý miên man thắm thiết. Dương Lăng không khỏi giật thót trong lòng, y vội ho khan mấy tiếng rồi dời mắt đi, đánh trống lãng:
- Còn chưa hết tết mà đã bắt cô phải vội vã lên đường, quả thực là chuyện đặng chẳng đừng. Chuyện của Kim Lăng xin nhờ vào cô vậy.

Thành Khởi Vận thầm buông tiếng thở dài, khoé môi cố nặn một nụ cười, khẽ giọng đáp:
- Đại nhân yên tâm, ti chức... lo liệu được.

Hàn Ấu Nương có thai chưa được hai tháng, lưng bụng vẫn chưa thấy có gì thay đổi, nhưng một khi nàng ra khỏi nhà liền trở thành đối tượng bảo hộ trọng điểm. Khoác áo choàng vải nhung lạc đà mềm mại ấm áp, đeo đôi găng tay da chồn, nàng đang nói chuyện phiếm với Cao Văn Tâm, nghe thấy hai người trò chuyện bèn quay sang Thành Khởi Vận mỉm cười nói:
- Tỷ tỷ, mấy ngày qua sống chung với nhau, thực không nỡ để tỷ đi xa. Tướng công nói cần tỷ đi làm một việc hệ trọng, vậy Ấu Nương không thể ngăn tỷ rồi. Tướng công thường nói rằng Ấu Nương một thân võ nghệ, Văn Tâm tỷ tỷ y thuật diệu kỳ, Tuyết Nhi và Ngọc Nhi thông minh ngoan ngoãn, cầm kỳ thi họa đều tinh thông; nhưng nếu luận về mưu kế và trí tuệ, thì cho dù là nam nhi trong thiên hạ cũng không có mấy người bằng được tỷ tỷ. Tướng công được tỷ giúp đỡ rất nhiều, cho nên làm xong đại sự rồi, mong rằng tỷ tỷ có thể trở về phương bắc sớm một chút.

Trong lòng Thành Khởi Vận chợt có một cảm giác ấm áp ùa vào: cô bé này đúng thật là vị cô nương tốt, cô nàng ấy làm bạn khuê phòng với Cao Văn Tâm, nhất định đã sớm biết xuất thân và lai lịch của mình, đã từng... Cho dù mình ăn ngon mặc đẹp, những thôn phụ bên đường vẫn ném về phía mình những cái nhìn miệt thị, thế nhưng vị Cáo Mệnh phu nhân này lại không hề có ý gì là xem thường và khinh bỉ mình. Nàng ấy thực sự coi mình là người đáng được tôn trọng.

Mắt Thành Khởi Vận rơm rớm, nàng vuốt nhẹ tay Hàn Ấu Nương, khẽ giọng:
- Đa tạ phu nhân quan tâm! Lần này Khởi Vận đi đến khoảng thượng tuần tháng hai là sẽ trở về. Phu nhân đang mang thai, xin hãy bảo trọng thân thể. Khởi Vận mong ngóng đến trung thu năm nay, khi cây quế tỏa hương, được ôm tiểu Uy Vũ bá gia trắng trẻo và bụ bẫm vào lòng đấy!

Hàn Ấu Nương đỏ mặt, vừa ngượng vừa thích, liếc Dương Lăng rồi lại lay nhẹ tay Thành Khởi Vận trách:
- Tỷ tỷ đừng nói vậy! Người ta còn chưa biết mà, nhỡ đâu... nhỡ đâu là con gái cũng không chừng.

Vừa nói nàng vừa lo lắng liếc sang Dương Lăng. Dương Lăng mỉm cười:
- Con gái thì sao chứ? Tướng công nhà nàng thích con gái mà.

Nói đoạn Dương Lăng vẫy tay gọi lão quản gia đến, cầm lấy một gói đồ rồi nói:
- Thành cô nương, ở đây có mấy món lễ vật mà tôi và Ấu Nương tặng cho Mã Liên Nhi cô nương ở quán rượu Trường đình trong xóm Trường Can. Sau khi đến Kim Lăng, phiền cô hãy giúp tôi chuyển đến cho cô ấy nhé!

Thành Khởi Vận nghe xong thì lấy làm ngạc nhiên, "Dương Lăng đến từ Tuyên Phủ, không hề có thân thích gì ở phương nam, mình cũng từng nghe nói đến việc này. Vị Liên Nhi cô nương này là gì của y?" Thành Khởi Vận liếc nhanh sang Hàn Ấu Nương, bèn lờ mờ đoán ra mấy phần, thế là ngoài sự kinh ngạc còn có chút ghen tị.

Nàng không biết về quá khứ của Dương Lăng và Mã Liên Nhi, còn tưởng rằng đây là một vị cô nương mà khi Dương Lăng xuống Giang Nam vừa gặp đã yêu ngay. Vị cô nương này có thể khiến y nhung nhớ không quên như vậy, phải là mỹ nhân xinh đẹp tới dường nào?

Chung quy thì Thành Khởi Vận vẫn là phụ nữ, một người phụ nữ xinh đẹp và tự phụ, lại mang lòng yêu mến Dương Lăng. Cho dù nàng có rộng lượng đến đâu, việc có liên hệ đến đức lang quân của mình thì làm sao mà nàng không để ý đến được?

Nhìn toàn bộ số nữ nhân bên cạnh Dương Lăng: Ấu Nương như đóa tường vi, Tô Tam tựa hoa bách hợp, Văn Tâm như loài u lan, Tuyết Nhi lại giống đỗ quyên, tuy ai nấy muôn vẻ yêu kiều, đều có sở trường riêng, song luận về sắc đẹp và vẻ phong tình thì không một ai có thể sánh bằng nàng. Vị cô nương này có thể khiến cho Dương Lăng bận lòng như vậy, chẳng lẽ lại là quốc sắc thiên hương? Thành Khởi Vận âm thầm ghi nhớ trong lòng, việc đầu tiên phải làm khi trở về Kim Lăng là đi gặp vị Mã cô nương này thử một chuyến.

Nàng giữ vẻ mặt điềm tĩnh cầm lấy gói quà rồi mỉm cười đáp:
- Đại nhân yên tâm! Ti chức nhất định sẽ không làm nhục sứ mệnh.

Thành Khởi Vận lễ phép gật đầu chào với từng người trong đám phụ nữ xong xoay người bước lên kiệu, rồi vén rèm cửa sổ từ biệt:
- Đại nhân! Tiết trời lạnh lẽo, xin các vị hãy trở về, Khởi Vận lên đường đây!

Dương Tuyền nghe vậy liền như được đại xá. Hiện nay Dương Lăng ra vào đều mang theo một đám thị vệ trùng trùng, loại khí thế mỗi lúc một oai nghiêm đó khiến ngay cả gã vốn là kẻ ngu ngốc hồ đồ cũng cảm nhận được rất rõ. Từ lúc đến Dương phủ gã đều luôn tuân thủ khuôn phép, không ngờ mới vừa lần đầu định tác oai tác phúc, thử làm ra vẻ đại lão gia một chuyến thì lại bị Dương Lăng phát hiện.

Mấy ngày nay gã đều co đầu rụt cổ không dám lộ diện, lần này có thể rời khỏi Dương Lăng đi đến tận Giang Nam trù phú nhất thiên hạ, gã liền thấy nhẹ nhõm cả người, như thể đã trút được gánh nặng. Với thân phận hiện tại của gã, nếu chỉ quanh quẩn bên người Dương Lăng thì sẽ chẳng là gì, nhưng một khi rời khỏi Dương Lăng, dựa vào tấm chiêu bài là "đường huynh của Xưởng đốc Nội xưởng", thì đi đâu cũng sẽ thuận tiện. Đánh chó cũng phải ngó mặt chủ chứ, đúng không?

Huống hồ vị Thành cô nương này thực sự là mỹ nhân hiếm thấy. Mặc dù bình thường nàng ta trông có vẻ lạnh lùng, nhưng khi nàng thi thoảng nhoẻn miệng cười, vẻ xinh đẹp vụt thoáng qua ấy thực khiến cho gã đầu váng mắt hoa, thần hồn ngơ ngẩn. Có thể theo cạnh mỹ nhân như vậy... nghe nói nàng ta còn là thuộc hạ của đường đệ mình? Khà khà...

Dương Tuyền lật đật cáo từ vợ chồng Dương Lăng, rồi lập tức trèo lên chiếc xe thứ hai. Dương Lăng thoáng chau mày nhìn theo bóng lưng gã. "Cuối cùng cũng đã nuốt trôi được miếng thuốc cao này." Nhưng mà, cậy vào quan hệ với mình, nếu gã đến Giang Nam tác oai tác phúc, liệu Thành Khởi Vận có dám quản chế gã không?

Dương Lăng cảm thấy hơi lo lo, song hiện tại y cũng không còn cách nào khác. Cho dù Dương Tuyền có khiến người ta chán ghét đến đâu, thì dựa vào quan hệ họ hàng và địa vị thấp kém của gã, vẫn sẽ là tấm bài ngụy trang dễ thu hút được sự đồng cảm của mọi người nhất. Nếu mình chiếu cố gã không chu đáo, thì sẽ bị coi là kẻ bất chấp cương thường, khinh họ hàng chê nghèo khó, là loại người xấu xa mà từ vương hầu công khanh cho đến bá tánh lê dân ai nấy đều căm ghét và khinh bỉ.

Trông thấy vẻ mặt lo lắng của Dương Lăng, khóe môi Cao Văn Tâm bất giác nhếch nụ cười nhẹ.

Hàn Ấu Nương chỉ có nàng là chị em có tuổi tác lớn hơn một chút, nên hễ có gì trong lòng đều đem kể cho nàng nghe. Nàng sớm đã được nghe kể chuyện vị Dương tam gia này chòng ghẹo đe dọa em dâu như thế nào, cho nên khi biết Thành Khởi Vận muốn mang Dương Tuyền xuôi nam, nàng bèn lén khéo léo tiết lộ thông tin đó cho cô ta biết.

Không ai có thể thấu rõ tâm tư của Thành Khởi Vận đối với Dương Lăng như nàng, nàng tin tưởng Thành Khởi Vận sẽ không tiếc sức lực, thậm chí cả thủ đoạn để bảo vệ y.

Ai mà có ý định làm tổn hại đến uy vọng, quyền lực và hạnh phúc của Dương Lăng, thì mỹ nhân muôn vẻ phong tình ấy lập tức sẽ cởi bỏ tấm da vẽ(*), nhe nanh giơ vuốt ra ngay. Ngay dưới tầm mắt của Dương Lăng, vị Dương tam gia này vô tình đã được y che chở, người ngoài cũng không ai dám làm gì gã. Nhưng nếu gã đến phương xa làm loạn, bằng vào tâm tư của Thành cô nương mà không trừng trị khiến gã phải ngoan ngoãn thành thật được thì mới là chuyện lạ.
(*): nguyên văn "họa bì", nhắc đến truyện Họa Bì trong Liêu Trai Chí Dị
Xem http://thptdaimo.cc/f/baiviet/8975-Lieu-Trai-Chi-Di-Hoa-Bi-Bo-da-ve.daimo

Thành Khởi Vận buông rèm, ngồi vào chỗ mới đột nhiên phát hiện trong kiệu xe bài trí hết sức thoải mái: đệm ngồi bằng da gấu trắng, thảm nhung tuyết Ba Tư lộng lẫy, xa hoa, áo bông mỏng cổ lông chồn, một bên là bếp lửa bằng đồng, trên cái giá ở bên kia là mấy quyển sách cùng điểm tâm và rượu ngon các loại.

Con tim Thành Khởi Vận thoáng trở nên loạn nhịp, nàng chợt vươn tay về phía rèm cửa, ngón tay chạm vào rèm, hơi vén ra một chút thì liền ngưng lại. Kiệu xe khẽ lắc lư di chuyển. Một chốc sau, nàng lặng lẽ rút tay về, day nhẹ khóe mắt, rồi uể oải cuộn người vào trong tấm chăn lông mềm mại và ấm áp. Thân thể dần ấm lên, con tim cũng thêm phần ấm áp, một nụ cười ngọt ngào vụt thoáng trên khuôn trăng, chân mày khóe mắt chợt toát ra một vẻ dịu dàng mê hồn khôn xiết.

Ngựa xe bắt đầu lên đường, nụ cười trên khuôn mặt Hàn Ấu Nương cũng dần biến mất: “Chao ôi! Hôm nay Thành cô nương xuôi nam, ngày mai tướng công lại phải đi đến Đại Đồng.” Phu quân đi xa, bảo sao nàng có thể không bận lòng lo lắng?

Bọn họ ai nấy mang theo tâm tư của mình dõi nhìn theo chiếc xe ngựa lộc cộc chạy đi, tiếng vó ngựa vang lên giòn giã, chớp mắt đã rẽ qua góc đường...

Mồng sáu tháng giêng. Trên thao trường điểm binh.

Cờ phướn tung bay rợp trời, trên đài cao treo đầy bảng đỏ, dưới quảng trường kiếm rìu đao kích kín mít như rừng.

Năm nghìn tinh binh chọn ra từ trong mười vạn quân đều cưỡi chiến mã khỏe mạnh được mua về từ địa khu Hà Sáo. Ai nấy đều mặc giáp nhẹ, chia ra làm đội cung nỏ, đội phi lao, đội trường thương, đội đao thuẫn cưỡi ngựa, đội thiết côn, đội hỏa súng và năm trăm thị vệ hạch tâm.

Đội quân này được trang bị giáp nhẹ, khinh kỵ và vũ khí công kích sắc bén khác hẳn với trang bị mà các binh đoàn lớn của quân Minh sử dụng để tác chiến và công thủ thành trì. Thứ mà đội ngũ này đòi hỏi chính là “ứng biến nhanh, công kích lẹ, rút lui mau”, chẳng những sức chiến đấu phải hơn người Mông Cổ, mà tính cơ động cũng được yêu cầu rất cao, có thể nói là rất hao tâm tổn huyết.

Các tướng lĩnh của bộ Binh, Ngũ quân đô đốc phủ và mười hai đoàn doanh trong kinh trông thấy kiểu cách như vậy đều không khỏi cười thầm. Một vị đô đốc thuộc Ngũ quân đô đốc phủ thấp giọng cười bảo:
- Dương xưởng đốc thực là người tâm tư. Bảo y đến Đại Đồng ủy lạo binh sĩ mà thôi chứ đâu phải kêu y ra chiến trường đâu, thế mà y lại tuyển chọn ra đám tinh binh trải qua muôn vàn trui luyện từ trong hơn vạn người của mười hai đoàn doanh này. Bộ y muốn chuẩn bị chạy thoát thân hay sao chứ?

Mấy vị tướng quân đứng cạnh nghe xong đều khẽ cười hắc hắc. Dương Lăng có danh vọng rất cao trong quân đội, cho nên đám tướng lĩnh này mới không hề có ác ý với y, bằng không sẽ không hợp tác tuyển chọn tinh binh từ các bộ như vậy. Tuy nhiên có cơ hội trêu chọc Dương xưởng đốc, biểu hiện oai phong của bậc tiền bối trong quân đội thì đương nhiên bọn họ sẽ không bỏ qua.

Khoác trên người bộ tỏa tử giáp(1) màu bạc, chiến bào màu đỏ, dải tua đỏ trên mũ tung bay, Dương Lăng bước vào thao trường dưới sự bảo hộ của tám viên hiệu úy cầm thương. Thao trường lập tức im phăng phắc, hàng nghìn cặp mắt đồng loạt đổ dồn về phía y.

Đã lâu Dương Lăng chưa trải qua khung cảnh này: trên thao trường năm nghìn tinh binh chẳng những sát khí đằng đằng, hình thành một loại sát khí và nghiêm trang vô hình, mà vây quanh dưới điểm tướng đài là những quan quân cao cấp trong quân đội. Y nín thở, trang nghiêm bước ra khỏi đám người, bước lên điểm tướng đài, ủng giáp kêu lộp bộp.

Thoáng cái, tiếng trống trận vang rền, lọng vàng từ phương xa từ từ kéo tới. Hoàng đế Chính Đức đích thân đăng đài điểm tướng, tiễn biệt Dương Lăng. Hoàng đế đích thân ngự giá, mọi tướng sĩ trong thao trường rào rào quỳ xuống nghênh đón.

Tiểu hoàng đế Chính Đức vận áo bào thêu hình rồng cuộn màu đen tuyền, tôn lên môi hồng răng trắng, khí phách bừng bừng. Khi hắn bước lên đài, viên minh châu gắn trên mũ Dực Long khẽ rung rinh. Hắn vừa đến chính giữa điểm tướng đài, Dương Lăng liền vội quỳ xuống nghênh giá.

Theo sau Chính Đức là Lưu Cẩn và bốn tên tiểu thái giám, dâng chiếc khay sơn son thếp vàng đựng thánh chỉ, lệnh tiễn, ấn tín và Thiên Tử kiếm. Trên tấm thảm đỏ trải chính giữa điểm tướng đài, long thư án (cái bàn họa khắc hình rồng -ND) và long ỷ bề mặt phủ bởi vải lĩnh màu vàng đã sớm được bày biện ngay ngắn. Hoàng đế Chính Đức bước tới ngồi sau chiếc bàn, cao giọng tuyên:
- Chúng khanh bình thân!

Giáp bào lào xào, hơn năm nghìn viên tướng sĩ đồng loạt đứng dậy. Ba tiếng pháo vang lên rền rã khắp trời, tiếng kèn lệnh réo gào cùng tiếng trống trận gầm gừ như sấm dậy lần nữa được vang lên, khiến hoàng đế Chính Đức nghe thấy cũng dâng trào nhiệt huyết.

Khuôn mặt anh tuấn như ngọc của hắn đỏ bừng vì kích động, vừa định đứng lên nói mấy lời, hắn chợt sực nhớ nơi đây cũng có quy củ riêng của nó, bèn hướng mắt sang Lưu Cẩn. Lưu Cẩn vội hô to:
- Tướng lĩnh phụng chỉ tuần biên bước lên nghe chỉ!

Dương Lăng bước lên mấy bước, quỳ lạy:
- Có mạt tướng!

Lưu Cẩn cầm lấy thánh chỉ, cao giọng tuyên:
- Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu rằng: Nay phương bắc có Thát Đát xâm phạm Đại Minh ta, quấy nhiễu nhân dân ta, khiến cho tiếng oán dậy trời, thế nên trẫm xuất binh đánh chúng. Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân lần đầu lập chiến công, đáng nên khen thưởng. Ý trẫm trao cho Dương Lăng chức Uy Vũ tướng quân, đặc biệt ban cho Thiên Tử kiếm, thay trẫm tuần thú(*) biên thùy, ủy lạo tướng sĩ, và quyết định chiến sự tiền phương; đồng thời cử đề đốc Kinh doanh là Trương Vĩnh làm phó sứ, thưởng cho mãng long bào. Hai người lập tức lên đường, không được trì hoãn. Khâm thử!"
(*: thiên tử đi tuần, xem xét các đất nước chư hầu thì gọi là tuần thú)

Dương Lăng lĩnh chỉ tạ ơn, Trương Vĩnh cũng vội quỳ dưới đài, cung kính thưa lĩnh chỉ.

Dương Lăng cầm lấy Thiên Tử kiếm giắt bên hông, tiếp nhận kim ấn và lệnh tiễn, rồi lệnh cho đại quân lên đường, năm nghìn tinh binh hùng dũng rời khỏi thao trường. Trước đây Chính Đức đã ban thưởng mãng long bào cho Dương Lăng, Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng, duy chỉ Trương Vĩnh là chưa có phần, khiến lão trông thấy mà phát thèm. Lần này phụng chỉ tuần biên, cuối cùng lão cũng đã được ân thưởng mãng long bào, Trương Vĩnh hớn hở không thôi. Tiếp nhận lấy áo bào mặc vào chỉnh tề, lão cũng trèo lên ngựa, cung kính ôm quyền thực hiện quân lễ với Chính Đức, rồi quay đầu ngựa đi theo đại quân.

Hoàng đế Chính Đức tủm tỉm cười nhìn theo Dương Lăng bước xuống điểm tướng đài, vịn yên nhảy lên ngựa tung bụi rời đi, liền như không thể chờ được nữa mà hắn lập tức khởi giá hồi cung. Thao trường này đặt trong Thần Cơ doanh, vốn nằm bên ngoài kinh thành. Hôm nay Chính Đức đòi bày ra nghi thức xuất binh long trọng như vậy, văn võ trong triều chỉ nghĩ tiểu hoàng đế lại thích vẽ chuyện cho nên cũng không ai để ý.

Hắn không thể thượng triều, nhưng đại sự trong triều vẫn phải có người xử lí, cho nên đại học sĩ nội các và Lục Bộ Cửu Khanh đều phải yên phận ở lại trong kinh xử lí công việc. Hoàng đế ngự giá rời khỏi thao trường, các võ tướng bèn quỳ xuống đưa tiễn, không ai dám sóng vai cùng hắn rời khỏi viên môn. Mãi khi lọng vàng khuất xa khỏi góc núi, các viên tướng mới lần lượt bảo đám thân binh dắt ngựa đến, rồi chắp tay cáo từ nhau.

Đội nghi trượng ngự giá dài cuồn cuộn, bám đuôi theo đại quân của Dương Lăng. Ngã ba phía trước có một con đường rẽ về kinh sư, một đi tuốt đến Xương Bình. Hai đội ngũ mỗi đội tiến về một hướng. Đang lúc từ từ tách ra, trong đội nghi trượng của Hoàng đế Chính Đức mà hôm nay trông long trọng một cách dị thường chợt có hơn mười tay hiệu úy hông giắt bội đao phóng ngựa tách ra, lặng lẽ gia nhập vào trong đại quân của Dương Lăng.

Đội nghi trượng của Hoàng đế Chính Đức vẫn thong thả túc tắc trở về kinh sư. Xa xa ở phía sau đám võ tướng không dám vọt lên vượt qua đội nghi trượng của Hoàng đế, bèn nhẫn nại chống đầu ngựa chờ ở ven đường. Ở hai bên đường, cứ ba bước một đội, năm bước một tiêu (đồn), binh sĩ đứng canh gác nghiêm ngặt, không cho bất kỳ kẻ vô phận sự nào đến gần trong phạm vi mười trượng.

Giữa đại quân, có mấy chục tay tiểu hiệu kè kè bên người Dương Lăng, trong đó có một hiệu úy theo sát y, mặt mày hăm hở, hết nhòm đông lại ngó tây, rất không yên phận.

Dương Lăng ghìm cương, đợi hắn lên cạnh rồi mới nhỏ giọng khuyên:
- Hoàng thượng! Cỗ xe ngựa ở phía trước tuy bề ngoài chỉ dùng để vận chuyển quân nhu nhưng bên trong bài trí rất là thoải mái, hay là Hoàng thượng hãy vào trong xe nghỉ ngơi đi. Trời lạnh gió rét, xin ngài chớ để nhiễm lạnh.

Năm nghìn quân tinh nhuệ chỉ biết phải theo Dương Lăng đến Đại Đồng tuần thị, ủy lạo quân sĩ. Ngoài ba trăm đại nội thị vệ được điều vào trong quân trước đó, cũng chỉ có mấy tướng lĩnh hạch tâm như Dương Lăng và Trương Vĩnh mới thật sự biết Hoàng đế đang trà trộn vào trong quân đội. Chung quanh bọn họ, ngoài vài người là tâm phúc của Dương Lăng, còn lại đều là thị vệ cao thủ của đại nội, cho nên Dương Lăng mới dám gọi thẳng hắn là Hoàng thượng.

Chính Đức cười khì khì, vung vẩy chiếc roi ngựa trong tay, liếc xéo Dương Lăng nói:
- Muốn đi thì ngươi đi đi! Ngươi là đại tướng quân phụng chỉ tuần biên mà, ta chỉ là hiệu úy thủ hạ cỏn con của ngươi, đương nhiên phải có đãi ngộ giống những sĩ tốt cùng đi cùng nghỉ rồi. Vả lại, luận thân thể và xương cốt, ta còn cường tráng hơn ngươi nhiều đó. Phù... thì ra không cần phải cứ hễ mở miệng thì phải xưng “trẫm” lại thoải mái đến như vậy, ha ha ha ha...

Chính Đức cười toe toét, quất mạnh roi lên mông ngựa phóng thẳng về phía trước. Mấy chục tay cao thủ đại nội chung quanh khiếp sợ lập tức vung roi phóng ngựa vọt lên theo sau.

Dương Lăng chỉ đành lắc đầu cười khổ sở. Hoàng đế xuất kinh vi hành như vậy, còn cải trang làm một tiểu tốt thấp hèn, trong mắt đám sĩ phu, hẳn là một hành động đánh mất tôn nghiêm đáng hổ thẹn của thiên tử. Xem ra vị Hoàng đế này hãy còn rất ham chơi, rời khỏi kinh sư rồi mà cũng không chịu thay quần áo, ngược lại còn hào hứng như vậy, quả là lạc quan yêu đời.

Đại quân tiến về phía trước, Dương Lăng tổ chức nhân mã của Xích Hầu(*) doanh của Nội xưởng thành mười đội thám mã, ở phía trái và phía phải mỗi bên có ba đội giữ khoảng đi cạnh ở xa xa, đằng sau đặt thêm hai đội, đằng trước là bốn đội luân phiên hồi báo tin tức. Đại quân đều là thiết kỵ, ngay cả vật tư mang đi cũng được xe tứ mã kéo theo, cho nên hành quân rất nhanh.
(*: 'xích' nghĩa là trinh sát, hiểu là đội quân chuyên trách trinh sát)

Đi được hơn hai canh giờ, đến giữa trưa, đoàn quân dừng lại dưới một triền núi chôn nồi nấu cơm. Nơi đây, một bên là triền núi hướng mặt trời, chung quanh được bao bọc bởi rặng núi dài, cho nên ấm áp vô cùng. Dương Lăng phái bốn đội, mỗi đội trăm người chia ra đồn trú bên ngoài một dặm để phòng ngừa bất trắc. Y xuống ngựa, cùng Trương Vĩnh đưa Chính Đức lên triền núi nghỉ chân.

Ánh nắng chói chang, khí hậu ôn hoà, thảm đỗ quyên mọc trên triền núi đã hé lộ những nụ hoa tươi tắn. Tuy cây vẫn khô lá, nhưng những cành cây khô ấy cũng đã hút đủ nước, vỏ cây đã hơi nhuốm sắc xanh nhưng dưới khóm hoa vẫn còn một màu trắng xoá.

Chính Đức lấy làm lạ:
- Nơi đây thực kì quái! Hoa này chẳng phải là hoa mai, song lại có thể đâm chồi trong tuyết, xem ra, có lẽ qua mấy ngày nữa hoa tươi sẽ nở rộ đây.

Dương Lăng cười đáp:
- Đúng vậy! Hoa này tên là đỗ quyên. Lúc trời thoắt nóng thoắt lạnh, mọi loài hoa đều thần phục trước cái oai đáng sợ của cái rét mùa đông, là lúc đỗ quyên bắt đầu nở bung trong tuyết trắng. Chờ khi Hoàng thượng thành công trở về, khắp triền núi này sẽ phủ một màu đỏ rực như lửa, vừa khéo chúc mừng Hoàng thượng.

Chính Đức thích thú cười ha hả. Hắn đứng trên triền núi dõi mắt nhìn về phương bắc xa xăm, một hồi lâu sau mới ngoái lại nói với Dương Lăng:
- Trẫm đang nghĩ, vị Bá Nhan Khả Hãn được tôn sùng là hùng ưng chốn thảo nguyên cùng dũng sĩ Hỏa Sư hung mãnh như một con ngựa hoang kia đang dẫn thiên quân vạn mã quét ngang thảo nguyên, rong ruổi sa trường, hẳn là oai phong và mãn nguyện lắm. Trẫm thua kém bọn họ sao? Không!

Lần này đi là vì mưu lược chính sự. Rồi sẽ có một ngày, trẫm sẽ đích thân dẫn binh gặp gỡ cái tên Bá Nhan và Hỏa Sư đó. Hoàng đế Hồng Vũ đã đuổi bọn chúng rút về đại mạc, hoàng đế Vĩnh Nhạc đánh đuổi bọn chúng phải trốn đông núp tây, hiện tại đến phiên trẫm làm Hoàng đế, chẳng lẽ phải ngồi nhìn giang sơn Đại Minh trở thành bãi chăn thả của bọn chúng, con dân Đại Minh trở thành bò dê của bọn chúng ư?

Rồi hắn quả quyết:
- Khanh hãy xem đi! Sẽ có một ngày trẫm sẽ đích thân nói với bọn chúng rằng, thiên tử của người Hán là thần long hô mây gọi mưa, ngao du khắp chín tầng trời, chứ không phải là một con giun đất, mặc cho bọn chúng tha mổ, gặm rỉa!

Dương Lăng mừng thầm, giảng trăm đạo lý không bằng để Hoàng đế tận mắt nhìn thấy giang sơn và nhân dân của mình mà cảm ngộ ra đạo lý riêng. Đại Minh đồi bại là ở điểm này, là ngay ở lãnh tụ của bọn họ. Nếu như vua nhà mạt Tần thời bảy nước không phải là Doanh Chính, liệu sẽ có Tần Thủy Hoàng Đế? Nếu như Hoàng đế đời thứ bảy của nhà Tây Hán không phải là Lưu Triệt, liệu sẽ có câu "Kẻ nào xâm phạm đến Đại Hán hùng mạnh của ta, cho dù chạy xa cách mấy cũng sẽ bị đuổi giết"?

Dương Lăng mừng rỡ đáp:
- Hoàng thượng nói rất phải, hùng ưng ngựa hoang gì đều sẽ phải thuần phục Hoàng thượng hết thảy! Đến lúc đó, Hoàng thượng cao hứng muốn đi săn, sẽ cưỡi con ngựa Hỏa Sư, dẫn con ưng Bá Nhan, tiêu dao tự tại biết dường nào!

Trương Vĩnh chen vào phụ họa:
- Hỏng rồi! Như vậy há chẳng phải Hoàng thượng trở thành phường áo gấm ác ôn ư?(2)

Dương Lăng thõng tay “than”:
- Biết làm sao được! Thiên hạ thái bình rồi, không có gì để cai trị, Hoàng thượng không cưỡi ngựa dẫn ưng dạo chơi thì còn việc gì để làm nữa chứ?

Chính Đức được bọn họ kẻ tung người hứng sướng đến nở mặt nở mày, thế là liền nổi hùng tâm, phấn khởi bảo:
- Ai nói không có việc gì làm chứ? Đến lúc đó, trong nước đã thái bình, trẫm sẽ thả thuyền đến Đông Dương, căng buồm giong biển!

Mặt mày hoan hỉ, Dương Lăng liền thưa:
- Quả nhiên Hoàng thượng hùng tài đại lược! Phải chăng ngài muốn Đại Minh chúng ta xây dựng hạm đội thủy quân vô địch, oai truyền bốn bể, trở thành bá chủ thiên hạ?

Chính Đức trợn mắt:
- Bậy bạ! Làm vậy có gì là thú vị? Trẫm muốn giống như trong truyện mà khanh đã kể với trẫm vậy:
“Tay trần cầm chắc Quỷ Đầu đao,
Đầu quấn lên thêm tấm vải đào,
Mắt đeo miếng bịt cho hung bạo,
Đi làm hải tặc sướng biết bao!"




Chú thích:

((1) xem hình http://www.elanzhou.net/story/UploadFiles_9696/200609/20060905185427229.jpg

(2) ngày xưa có câu "giá ưng khiên cẩu" (架鹰牵狗) nghĩa là dẫn theo chim ưng dắt theo chó săn, nhằm trỏ phường ác bá cậy quyền cậy thế. Trương Vĩnh trêu Chính Đức là dựa trên câu nói này.



Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
21-06-2012, 06:13 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 186 - Tú tài gặp phải ông lính


Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Dương Lăng mỉm cười, hỏi nhỏ Trương Vĩnh:
- Trương công công! Vị đó ra ngoài chưa được một ngày, ông xem thử có phải là người đã thay đổi gì không?

Trương Vĩnh nghe vậy bèn quan sát Chính Đức kỹ lưỡng một lượt, rồi gật đầu bảo:
- Ừm! Thực không phải mà, mặc quần áo vải thô đó, sao cứ thấy chướng mắt thế nào! Còn nữa, còn nữa... xem cái tướng ngồi tướng ăn đó, ôi chao! Bình thường ta chán nhất là cái đám đại nhân già ấy cứ vung tay vung chân bảo Hoàng... bảo người phải thế này, phải thế kia! Thế mà hiện tại ngay cả ta cũng thấy vị đó không vừa mắt đây.




Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 186 - Tú tài gặp phải ông lính


------------------------Chương 186 - Tú tài gặp phải ông lính

------------------------

Sau bữa cơm, đại quân nhổ trại tiếp tục lên đường. Tuyết đọng trên đường bị bánh xe lừa, ngựa cày xới khiến cho quan đạo lầy lội không thể tả, tốc độ của đội ngũ vì thế bị chậm lại rất nhiều. Không lâu sau, bọn họ đuổi gặp một đội quan binh áp tải đội xe lừa ngựa dài hun hút, đang gian khổ lặn lội trên đường.

Thám mã hồi báo với Dương Lăng rằng đây là đội xe vận chuyển lương thực và rơm cỏ đến Đại Đồng. Lương thảo và trang bị vận chuyển từ nam lên bắc thường đi trên con đường này, ngựa xe liên miên không dứt khiến con đường đất bằng phẳng được đầm chặt chẻ, dễ đi nay đã bị tàn phá nghiêm trọng. Đã lồi lõm gập ghềnh lại thêm tuyết đọng phủ dày, đường quan đạo nay rất trơn trợt khó đi.

Thấy đại quân giáp trụ chỉnh tề, hành trang gọn ghẽ đi tới, đội quân nhu tự giác tránh sang bên đường. Đại quân của Dương Lăng tu chỉnh lại đội hình, từ từ vượt lên.

Chính Đức kẹp hờ lưng ngựa, cả người hơi nhấp nhô, ánh mắt chậm rãi quét vào dòng người của đội xe. Đội xe chen chúc ở một bên, đám dân phu áo quần lam lũ, có người tu bổ mặt đường, có người vai khiên chân đạp, ra sức nâng đẩy bánh xe đang lọt vào hố tuyết.

Phu dịch đánh xe thì ngồi trên xe điều động, còn những dân đinh trai tráng đang ra sức bắc cầu sửa đường, vai khiên tay gánh này đều là những người dân lưu lạc cùng với tá điền và thôn phu tự nguyện tham gia vận chuyển lương thảo. Những người dân lưu lạc lo kiếm miếng cơm manh áo, những tá điền gia cảnh bần hàn, mùa đông không có gì làm, dựa vào chút sức khoẻ ra khỏi nhà tìm ít công việc, vừa kiếm cơm nhằm giảm gánh nặng cho gia đình, vừa có thể kiếm thêm mấy văn tiền lớn.

Nhìn những người dân nghèo khổ mày mặt xanh xao này, nụ cười ung dung trên khuôn mặt của Chính Đức vụt tắt. Khi đoàn quân vượt lên khỏi đội xe quân nhu tiếp tục tăng tốc tiến về phía trước, Chính Đức vẫn không ngừng ngoái đầu nhìn về phía ”con rồng” dài đang chầm chậm di chuyển đó.

Đại quân dừng ở Xương Bình nghỉ một đêm. Huyện lệnh của Xương Bình không hề biết đương kim Hoàng đế đang ở trong quân, tuy nhiên chỉ nội hai tấm chiêu bài tiếng tăm vang dội là đề đốc Nội xưởng và đề đốc Kinh doanh đã đủ khiến lão ta bận đến túi bụi rồi.

Đại quân của Dương Lăng đồn trú tạm trong Dịch thừa quán của huyện thành nho nhỏ, toàn bộ sai dịch và đầu bếp trong quán Dịch đều bị đuổi ra ngoài, gọi người do Trương Vĩnh dẫn tới. Huyện lệnh của Xương Bình chỉ cho rằng hai vị đề đốc đại nhân quyền thế ngút trời này muốn bày vẽ xa hoa(1) nên cũng không hề nghi ngờ gì, chỉ vội vàng đưa mấy chục con lợn béo đến. Thấy hai vị đại nhân cũng không nhiệt tình bắt chuyện cùng, lão bèn biết điều mà cáo từ rời đi.

Bên trong chiếc lều lớn dựng tạm trong quân doanh, ngay khi Dương Lăng vừa an bài ổn thoả việc trực đêm và hành trình hôm sau xong, hai viên thân quân dẫn theo một thanh niên mặc y phục thường dân bước vào. Người này ăn mặc không có gì bắt mắt nhưng cử chỉ và khí độ lại khá uy nghiêm, Dương Lăng trông thấy gã liền vui vẻ cười gọi:
- Liễu Bưu lại đây, mau ngồi đi! Có tin tức gì không?

Dương Lăng phái Dương Nhất Thanh đi theo Thành Khởi Vận xuống phương nam, thu thập nhược điểm của những quan viên được các thân hào sĩ tộc duyên hải ủng hộ và giúp đỡ mà bọn họ đã phái người điều tra từ trước. Y điều Tam đáng đầu Nội xưởng là Bành Kế Tổ dẫn theo đội năm nghìn tinh binh này; Liễu Bưu phụ trách việc chỉ huy và phối hợp thám mã trong tối lẫn ngoài sáng dọc đường; Ngũ Hán Siêu chạy trước đến Tuyên Phủ và Đại Đồng, chủ động liên lạc và âm thầm phối hợp với Hàn Lâm đang trú đóng ở đó.

Liễu Bưu thực hiện quân lễ, rồi ngồi xuống bên cạnh. Dương Lăng mỉm cười châm cho gã một chén trà, Liễu Bưu khom người cảm ơn, rồi cảnh giác quét mắt một vòng, mấy viên thị vị đứng chung quanh hiểu ý lui ra. Lúc này Liễu Bưu mới thấp giọng bẩm báo:
- Đại nhân! Thám mã trong kinh đã đưa tin đến: hai vị cô nương mà đại nhân muốn chúng ti chức để ý đến tịnh không có hành động gì bất thường. Hai người đã được đưa đến Báo phòng, dường như rất biết yên phận. Ti chức đã cho người tiếp tục giám thị.

Ngoài ra, tin tức từ thám mã tiền phương đưa về, báo rằng đường đến Cư Dung Quan, Tuyên Phủ rất thái bình. Do đội xe chở thương binh về và đưa quân nhu đến Đại Đồng nối nhau không dứt nên quân lính và dân phu hoà lẫn vào nhau. Dưới tình hình đó, nhằm phòng ngừa gian tế của Thát Đát, dọc đường đều thiết lập trạm kiểm soát, không có lệnh dụ và giấy thông hành do quân đội ban hành thì tất cả những nhóm năm người trở lên đều không được phép qua, vì vậy dọc đường tuyệt sẽ không thể xuất hiện nhân mã số lượng lớn. Nếu quả thật có mấy trăm lục lâm muốn gây hấn trước sự bảo vệ của năm nghìn quân chúng ta, bảo đảm bọn chúng sẽ chỉ có đi không về.

Dương Lăng khẽ gật đầu, hơi yên tâm. Y thả bước trong lều, trầm ngâm:
- Ngũ Hán Siêu đi sớm hơn bản quan một ngày, hiện tại vẫn chưa có tin tức đưa về, dọc đường không có hung hiểm gì thì tốt. Đợi vào đến Tuyên Phủ, Đại Đồng, nơi tập hợp trọng binh, sẽ an toàn hơn. Liễu Bưu, tạm thời huynh hãy lui xuống dùng bữa, chuyến đi này nhất định phải tập trung hết tinh thần. Bây giờ đã không như trước đây, chỉ cần Hoàng thượng mất một cọng lông, huynh và ta cũng đều sẽ có thể mất đầu đó!

Liễu Bưu đứng dậy nghiêm trang đáp:
- Ti chức hiểu được, xin đại nhân cứ yên tâm! Ti chức xin phép cáo từ!

Dương Lăng gật đầu, Liễu Bưu xoay người rời đi. Một viên thân binh bước vào bẩm báo:
- Đại nhân, bữa tối cho Hoàng thượng đã chuẩn bị xong rồi ạ!

Dương Lăng đáp:
- Ừ, để coi thử! Bản quan đi thăm Hoàng thượng một chút.

Trong cung Hoàng đế có Ngự thiện phòng chuyên phụ trách ẩm thực. Tuy bên người Trương Vĩnh vẫn có tiểu thái giám hầu hạ nhưng lão không thể mang ngự trù ra khỏi kinh. Dương Lăng đã hao tổn nhiều tâm tư mới tìm được một vị đầu bếp nghỉ hưu của Ngự thiện phòng. Y cũng không nói rõ mọi sự với ông ta, chỉ nói rằng cần chế biến món ăn cho mình dọc đường, rồi kiếm mấy thị vệ trung thành đáng tin cậy cho đi cùng với lão phụ trách bữa ăn cho Hoàng đế.

Cho dù là phụ nữ khéo tay cũng khó mà nấu được bữa trưa ngon dọc đường, hoàng đế Chính Đức cũng ăn vội mâm cơm trà đơn giản, đây cũng là bữa cơm chính thức đầu tiên của hắn. Dương Lăng đến nơi trọ của Chính Đức sau hậu viện, toàn bộ đại nội thị vệ canh gác đều nhận ra vị Dương đại nhân này, một quan thị vệ vội bước lên nghênh đón:
- Dương đại nhân!

Dương Lăng khẽ gật đầu, hỏi:
- Hoàng thượng xuất kinh lần đầu, đi đường tròng trành hẳn là đã mệt? Có phải người đã nghỉ ngơi rồi không?

Viên võ quan cũng đã cải trang thành một hiệu úy bình thường, nghe hỏi bèn cười đáp:
- Đại nhân đoán sai rồi! Hoàng thượng rất cao hứng, vừa mới tắm rửa xong liền đã dẫn Trương đề đốc ra ngoài rồi.

Dương Lăng giật nảy mình, biến sắc, hỏi ngay:
- Lúc này trời đã tối, đêm lạnh gió buốt, Hoàng thượng còn đi đâu?

Viên võ quan vội vàng giải thích:
- Đại nhân không cần phải lo! Hoàng thượng chỉ đi dạo trong doanh, thăm hỏi tướng sĩ thôi, chắc chắn không đi xa.

Lúc này Dương Lăng mới yên tâm, y vội xoay người vừa đi ra ngoài vừa nói vọng lại:
- Bản quan đi xem một chút, ngươi hãy nghỉ ngơi đi.

Dương Lăng đi vội ra khỏi dịch quán. Dịch quán của toà thành nhỏ này nằm ở đầu thành phía đông, ngoại viện vốn là nơi dừng chân và trú đóng của những đội xe quân nhu thường xuyên lui tới, chung quanh xây tường bao bọc, bên trong tường trú đóng gần nghìn tay quan binh, số còn lại trú đóng bên ngoài. Lúc này lửa trại được đốt lên khắp nơi, không khí tràn ngập mùi thịt nướng.

Dương Lăng đưa mắt nhìn quanh, trông thấy mấy đống lửa bên phải có rất đông người lui tới, bèn vội vã đi qua. Quanh đống lửa có một đám sĩ tốt đang ngồi, bên trên bắc một nồi cơm to; đồ tể mổ xong mấy chục con heo mập thì cũng đã bắc nồi, từng miếng thịt lớn chìm nổi trong nồi nước sôi sùng sục. Bọn sĩ tốt vừa rôm rả nói cười vừa nhai bánh bao, gặm xương; ăn rất ngon miệng.

Dương Lăng vẫn đang mặc trang phục tướng quân, khi đám sĩ tốt trông thấy y, tiếng nói cười lập tức dần nhỏ lại rồi lần lượt đứng dậy hành lễ. Dương Lăng mới vừa đi qua hai đống lửa, chợt có bóng người vụt sát tới gần kéo lấy tay y, khẽ giọng hỏi:
- Dương đại nhân! Đi đâu vậy?

Dương Lăng định thần nhìn kỹ, ánh lửa soi rõ ngân quang lấp loé trên mình người đó: một bộ mãng quan bào mới cáu, đai lưng ngọc bích sáng lung linh có vài phần oai phong lẫm liệt, chính là vị đề đốc Trương Vĩnh.

Dương Lăng mừng rỡ, vội nắm lấy tay lão hỏi ngay:
- Người đâu?

Y đang ở bên ngoài, tuy gần đó không có ai khác, nhưng "gió đưa lời người", chỉ sợ bị người khác nghe được nên không dám nói đến hai chữ "Hoàng đế". Trương Vĩnh nháy mắt, kéo y đi mấy bước sang một bên, khẽ hất hàm về phía trước, nói nhỏ:
- Kìa! Đang ở bên đó đó, không cho ta theo. Ta thấy ngài chơi vui vẻ như vậy nên cũng chỉ đành đi tuần chung quanh, không dám đến gần.

Dương Lăng nhìn sang bên ấy, thấy rõ ánh lửa rừng rực soi sáng một khuôn mặt anh tuấn trẻ tuổi. Hoàng đế Chính Đức vận bộ đồ hiệu uý ngồi cùng một đám binh sĩ, vai kề vai, lấy cây gỗ xuyên qua bánh bao rồi hơ trên lửa, một tay cầm một khúc xương to, thi thoảng lại cắn một miếng, chuyện trò rất vui vẻ.

Một tay lính lão làng râu ria xồm xoàm đấm xuống vai Chính Đức một quyền, khiến vai hắn trùng hẳn xuống. Tên đó cười lớn bảo:
- Tiểu tử! Lần này Xưởng đốc đại nhân xuất binh, huynh đệ chúng ta được chọn ra từ hơn mười vạn đại quân trong mười hai đoàn danh, ai nấy đều biết cưỡi ngựa bắn cung, múa đao đi quyền, năm bảy tên lực lưỡng cũng không thể sáp lại. Xem thằng nhóc ngươi này: da thì trắng thịt thì mềm, làm quái được gì? Sao là đối thủ của giặc Thát được?

Nghe vậy Chính Đức cũng không nổi cáu, chỉ cười hề hề đáp:
- Đại ca chớ coi thường tiểu đệ! Tuy đệ chưa từng ra chiến trường, thậm chí trước đây đã từng đánh nhau với một tên lưu manh không biết võ nghệ trong thanh lâu, tiểu đệ còn bị hắn bất ngờ đấm cho một quyền vào mặt, suýt nữa thì trẹo cả mũi. Nhưng đó là lúc đệ còn ngu muội, chưa biết gì. Nếu thực sự luận bàn võ nghệ, nay tiểu đệ đã được mấy vị sư phụ võ công nhất đẳng đích thân chỉ dạy, sợ rằng đại ca chưa chắc đã là đối thủ của tiểu đệ đâu.

- Ồ, ồ, ồ! Tiểu tử ngươi thực biết khoác lác nhỉ! - một binh sĩ khác bộ dạng uể oải song thân thể cứng cáp cười nói, - thì ra ngươi là thân binh của đại soái, còn tưởng ngươi là con cháu phú gia chạy ra ngoài kiếm chút công danh. Nhưng ngươi lại không có vẻ gì là thiếu gia vọng tộc cả. Với bộ dạng này của ngươi, dù biết chút võ vẽ múa may thì có tác dụng gì chứ? Trên chiến trường chính là chém giết bằng đao thật thương thật, mà tiểu ca ngươi trông tuấn tú như vậy, chớ để giặc Thát bắt đi làm “thỏ tướng công”(2) đó.

Chính Đức rút chiếc bánh bao đã bị nướng cháy xém về, xé một miếng cho vào trong miệng, vừa nhai say sưa, vừa tò mò hỏi:
- Thỏ tướng công? Thỏ tướng công là gì?

Đám binh sĩ ngồi bên đống lửa cười phá lên. Tên binh sĩ có bộ râu xồm vỗ vai hắn cười ha hả:
- Ngươi không biết sự đời như vậy, thực không biết làm sao lại lăn đến bên người Dương đại soái được nữa! Đám người bên phía giặc Thát ai nấy đều cao lớn hung tợn, lưng hùm vai gấu, cho dù là đàn bà cũng không dễ nhìn hơn đàn ông bao nhiêu. Những tiểu ca nhi tuấn tú như ngươi bị bọn chúng bắt đi, sẽ không lo phải bị bắt làm nô lệ, mà không chừng sẽ được tù trưởng bọn chúng đưa về ân sủng làm ái thiếp đấy. Ha ha ha!!!...

Trương Vĩnh nghe vậy liền nổi giận, lông mày chau lại, sát khí ùn ùn định xông qua. Dương Lăng vươn tay giữ lão lại, quát khẽ:
- Bình tĩnh chớ nóng! Kẻ không biết không có tội. Hoàng thượng còn chưa nổi giận, ông nổi giận làm gì?

Trương Vĩnh bình tĩnh nhìn lại, lão thấy dường như Chính Đức chỉ hơi mắc cỡ. Tay binh sĩ đó nói như vậy thì hắn đương nhiên biết “thỏ tướng công” chính là “ái nhi” rồi. Nhưng Chính Đức không hề nổi giận, lần đầu tiên trong đời có người nói chuyện thô tục như vậy với hắn, ngoài sự mới lạ hắn còn cảm thấy rất... hay.

Chính Đức không đồng ý, phản bác:
- Giặc Thát bắt trẻ em phụ nữ ta, trẫm... trong trấn tiểu đệ cũng thường nghe khách buôn phương bắc nhắc đến. Có điều hình như bọn chúng cướp bóc lương thảo là nhiều, chứ chẳng lẽ cũng cướp nhiều người lắm hay sao?

Binh sĩ chung quanh dần thu lại nụ cười. Lúc lâu sau một Ngũ trưởng tuổi chừng hơn ba mươi, mặt đỏ bầm, thở dài một hơi rồi bảo:
- Đó là lẽ đương nhiên! Nhiều năm qua, giặc Thát tấn công Tuyên Phủ, tấn công Đại Đồng, tấn công Kế Xương không biết đã bắt đi bao nhiêu là bá tánh.

Một quan binh trông có vẻ văn nhã hơn vỗ đùi đánh bộp, căm tức mắng:
- Cái đám chó đẻ đó! Dân đen sợ bị giặc Thát cướp bóc, có chạy cũng chỉ có thể chạy vào Trung Nguyên. Còn những người dân nhiều đời vẫn sống dựa vào mấy mẫu ruộng tổ tiên để lại thì không chốn nương thân, chỉ có thể mặc cho bọn chúng lăng nhục. Hễ là ông già hay tráng niên đều sẽ bị chúng giết chết. Còn thiếu niên và phụ nữ thì bị bắt làm nô bộc và thê thiếp, giúp chúng thả dê, vắt sữa, may vá, nấu rượu, tính toán. Ngươi nói chúng bắt đi có nhiều không?

Hắc hắc! Giặc Thát ít dân, một gia đình chăn thả bò dê thì mấy chục dặm chung quanh sẽ chỉ có gia đình này, không còn nhà nào khác. Bộ lạc Cát Nang ở địa khu Hà Sáo bắt đi nhiều người Hán nhất, một gia đình Mông Cổ không quá năm sáu người song lại có đến sáu bảy nô lệ người Hán.

Ngũ trưởng mặt đỏ nọ cười gằn rồi an ủi:
- Lão Đoạn, lại nhớ đến chuyện đau lòng à? Chẳng phải Dương tổng chế đã thắng một trận lớn đó sao? Người Man ít tráng đinh, vị phó tướng Vương Thủ Nhân nọ đánh một trận hạ độc chết ba nghìn giặc Thát, những gia đình giặc Thát đó chỉ còn lại người già phụ nữ và trẻ em, chẳng bao lâu sẽ phải sa vào cảnh làm nô bộc cho các bộ tộc khác. Đó gọi là báo ứng!

Chính Đức liếc sang tay lính từng trải trông có vẻ nho nhã nọ, hỏi:
- Đoạn... Đoạn đại ca, gia đình của huynh đã từng bị giặc Thát hại sao?

Người lính từng trải nọ im lặng không nói gì. Gã lính râu xồm ngồi bên cạnh kề tai Chính Đức nói nhỏ:
- Lão Đoạn là người dân ở bảo Trợ Mã, Đại Đồng. Huynh đệ tỷ muội toàn tộc của lão có sáu mươi lăm người, bị giặc Thát cướp giết sạch, chỉ còn lại năm người lão ấy bị bắt đến thảo nguyên làm nô lệ, trồng trọt thả dê.

Hai năm sau, bộ lạc đó xảy ra chiến tranh với một bộ lạc khác, mấy thân nhân của lão Đoạn đều bị loạn mã giẫm chết trong chiến trận. Lão ấy giả chết, sau đó chạy từ nghìn dặm xa xôi về quan nội. Vì lão ấy cưỡi ngựa giỏi, cho nên mới gia nhập Thần Cơ doanh, chuyên việc huấn luyện cưỡi ngựa.

Chính Đức nghe kể vậy thì giận lắm, song lúc nghe nói đến trồng trọt lại lấy làm kinh ngạc, hắn bèn hỏi:
- Giặc Thát cũng biết trồng trọt sao? Bọn chúng trồng những gì?

Gã lính râu xồm đáp:
- Năm xưa người Nguyên thống trị Trung Nguyên hơn trăm năm cũng không học trồng trọt cấy cày mà cũng không nghĩ đến việc trồng trọt canh tác. Nhưng đến khi bọn chúng bị đuổi về đại mạc rồi, không còn ai cung cấp lương thực sẵn cho nữa, thì mới lại muốn học cách cày cấy.

Hiện tại người Mông Cổ lấy việc chăn thả làm chủ, song cũng trồng trọt ở một số nơi. Tuy nhiên người Mông Cổ không biết nông canh, những việc này đều do những người Hán bị bắt cóc làm cả. Nhân thủ không đủ dùng, thi thoảng giặc Thát còn chiêu mộ người dân lưu lạc ở biên tái nữa.

Người Mông Cổ cũng bắt đầu học tập người Hán trồng trọt rồi ư? Chính Đức thật sự không biết tin tức ấy. Năm xưa mật thám Cẩm Y Vệ tới lui vùng quan ngoại cũng chỉ chú ý đến tình báo quân sự và chính trị, cho dù có thấy người Mông Cổ khai phá một ít ruộng đồng thì cũng chả ai để ý. Chính Đức nghe xong trong lòng như chợt loé linh cơ, hắn định nắm bắt lấy nó, song lại như một giấc mơ, không thể nhớ được gì nữa.

Gã lính râu xồm rút từ trong dây thắt lưng ra một con dao nhỏ chọc một miếng thịt nhễu nước từ trong nồi ra, cắn một miếng ngon lành, rồi nhoẻn miệng cười nói:
- Đừng ủ rũ nữa! Nào, ăn miếng thịt to đủ gom lấy sức. Đợi đến Đại Đồng rồi, ngộ nhỡ giặc Thát vẫn chưa bị Dương tổng chế đuổi chạy hết, không chừng huynh đệ chúng ta vẫn có thể xuất chiến đó!

Chính Đức cũng bắt chước theo, rút một con dao nhỏ chọc lấy ra một miếng thịt, cười vang:
- Nói phải lắm, gom góp sức lực, sẽ có một ngày chúng ta sẽ đoạt lại hết những gì giặc Thát đã cướp. Chê bọn chúng tay chân thô kệch không thể đun trà ngâm nước, chúng ta sẽ bắt chúng làm những công việc nặng nhọc.

Dương Lăng mỉm cười, hỏi nhỏ Trương Vĩnh:
- Trương công công! Vị đó ra ngoài chưa được một ngày, ông xem thử có phải là người đã thay đổi gì không?

Trương Vĩnh nghe vậy bèn quan sát Chính Đức kỹ lưỡng một lượt, rồi gật đầu bảo:
- Ừm! Thực không phải mà, mặc quần áo vải thô đó, sao cứ thấy chướng mắt thế nào! Còn nữa, còn nữa... xem cái tướng ngồi tướng ăn đó, ôi chao! Bình thường ta chán nhất là cái đám đại nhân già ấy cứ vung tay vung chân bảo Hoàng... bảo người phải thế này, phải thế kia! Thế mà hiện tại ngay cả ta cũng thấy vị đó không vừa mắt đây.

Dương Lăng liếc mắt nhìn quanh, thấy đại nội thị vệ cải trang làm quân sĩ bình thường ra vẻ như đang đi dạo khắp nơi. Bên cạnh Chính Đức sợ không ít hơn bốn mươi tay cao thủ đại nội bảo vệ, chung quanh cũng toàn là binh sĩ đáng tin cậy do chính mình đích thân tuyển chọn, y bèn yên tâm vỗ vai Trương Vĩnh mỉm cười nói:
- Tôi lại cảm thấy hiện tại vị đó đã có khí phách nam tử hơn, và cũng đã hiểu chuyện hơn nhiều.

Trương Vĩnh đưa mắt nhìn theo Dương Lăng đang khoan thai bước đi, đoạn quay lại quan sát Chính Đức kỹ thêm lần nữa, rồi nghi hoặc lẩm bẩm:
- Vẫn vậy mà! Chẳng lẽ lúc đầu ngài không có khí phách nam tử, không hiểu chuyện sao?

* * *

Sáng hôm sau, đại quân lên đường rời Xương Bình tiến đến Cư Dung Quan.

Hôm nay trời âm u, gió bắc kéo tới ùn ùn, thổi tung những hạt tuyết trên mặt đất, hất vào mặt đến lạnh. Dương Lăng khoác áo choàng Cô nhung lớn còn cảm thấy lạnh muốn chịu không thấu, một góc tỏa tử giáp lộ ra dưới tấm chiến bào; khi tháo găng tay da dê ra, bàn tay nóng hổi liền sẽ bị cóng ngay.

Y thấy Chính Đức vẫn ở chung với đám thị vệ, mặc quần áo hiệu úy bình thường, nheo mắt chống chọi với gió rét mà đi, thì liền tới gần khuyên:
- Hoàng thượng! Bất luận thế nào ngài cũng phải vào trong xe... nghỉ ngơi. Mặc dù thân thể Hoàng thượng cường tráng, nhưng dẫu sao vẫn chưa từng chịu qua cái rét lạnh đến bực này, nếu thực sự bị cảm lạnh sẽ lỡ đại sự đó.

Trên đồng hoang bát ngát, gió rít rợn người, phía trước sắp đến một sơn ải, gió lùa từ trong sơn khẩu ra ngoài cuốn cho tuyết bay mù trời, chỉ cần hơi há miệng là tuyết sẽ ùa ngay vào, khiến cho Dương Lăng cứ nói một hai câu lại phải dừng lại.

Chính Đức bướng bỉnh đáp:
- Không đi! Năm nghìn binh lính chịu được cái lạnh buốt xương này, bá tánh phương bắc bao năm phải chịu cái rét cắt thịt này, chẳng lẽ chỉ có mấy ngày mà ta cũng không chịu nổi? - Nói đoạn hắn lấy tay che mặt, rồi quay sang Dương Lăng đùa giỡn: - Hơn nữa gió tuyết thổi vào mặt thế này, vừa tê lại ngứa, ta chưa từng có cảm giác này bao giờ. Khó khăn lắm mới được ra ngoài một chuyến, ta nhất định phải tự mình thể nghiệm một phen.

Dương Lăng nghe hắn nói vậy thì cười khổ không thôi, đang tính mở miệng khuyên thêm thì chợt có một thớt khoái mã từ sau phi nước đại đến. Kỵ mã thúc ngựa chạy đến gần mới ghìm cương dừng lại, thở hổn hển kêu to:
- Khải bẩm đại nhân! Đằng sau... đằng sau có mấy chục thớt khoái mã đuổi theo. Tuân theo quân dụ của tướng quân, chưa có mệnh lệnh, bất cứ ai cũng không được tự ý gia nhập vào trong quân. Những người đó bị ngăn ở bên ngoài, liền ra lệnh cho thuộc hạ lập tức phi báo cho tướng quân hay. Xin tướng quân hãy lập tức đi ra phía sau gặp bọn họ!

Dương Lăng sửng sốt hỏi:
- Ai đuổi theo?

Khuôn mặt binh sĩ đó lộ vẻ hết sức kỳ quái, hắn ngượng ngập đáp:
- Chuyện đó... Vị đại nhân kêu thuộc hạ báo tin nói rằng, phía sau là ba vị đại học sĩ Lý Đông Dương, Tiêu Phương và Dương Đình Hòa. Những người còn lại... hẳn là tùy tùng của ba vị.

Dương Lăng nghe vậy liền đưa mắt nhìn sang Chính Đức, ánh mắt cả hai đều lộ vẻ thất kinh. Như một đứa trẻ trốn học bị thầy giáo bắt quả tang tại trận, khuôn mặt Chính Đức hiện rõ nét sợ hãi. Hắn bối rối nhìn Dương Lăng cầu cứu:
- Làm sao đây? Phải làm sao đây? Ta... ta phải trốn đâu bây giờ?

"Chẳng phải đã dự tính đại quân đến Tuyên Phủ rồi mới công bố mật chỉ Hoàng đế xuất kinh cho Nội các và Lục Bộ Cửu Khanh sao? Sao đã bị phát hiện sớm như vậy, đuổi kịp tới nơi rồi?" Dương Lăng thoáng nhíu mày trầm tư, rồi hạ thấp giọng hỏi Chính Đức:
- Có phải là Hoàng thượng đã sợ?

Chính Đức nghe vậy liền ưỡn ngực, liếc nhìn tay kỵ mã, rồi cũng thấp giọng nói với Dương Lăng:
- Sợ cái gì? Ta sợ chẳng qua là biết mấy vị đó mà mở miệng thì cho dù ta có làm thế nào cũng sẽ không cãi lại bọn họ. Bọn họ đã đuổi đến sát ngay sau mông rồi, ta có thể làm gì đây? Nhưng mà... ta nhất định phải đi Đại Đồng, cho dù bọn họ ngăn cản ta thế nào đi nữa, trẫm nhất định phải đi! …, Khanh hãy giúp trẫm nghĩ cách nhé!

Dương Lăng cười lớn đáp:
- Nếu đã như vậy, việc này xin cứ giao cho thần.

Y quay đầu ngựa, phi ngược về phía hậu quân. Hai mươi thị vệ tùy thân và Trung quân quan đuổi sát theo sau. Ánh mắt Dương Lăng quét nhanh hai bên, đột nhiên y phát hiện trong đội ngũ có một binh sĩ đang cưỡi một thớt ngựa béo màu vàng. Da hắn đen nhẻm, mắt đậu xanh, mũi củ tỏi, râu ria xồm xoàm kéo dài từ dưới cằm theo hai má lên tới tận đầu, trông như một con nhím. Nếu thanh thiết côn đen thui dài tám thước trong tay hắn đổi thành thanh bát xà mâu dài cả trượng, thì hắn sẽ y hệt Trương Phi tái thế.

Trông thấy người này có vẻ quen quen, y lục nhanh lại ký ức liền nhớ ra rằng đây chính là gã lính to con ngồi sóng vai với Chính Đức gặm xương bên đống lửa đêm qua. Mắt Dương Lăng liền sáng rỡ: chính là hắn! Dương Lăng quay đầu ngựa, chiến mã hí vang tràng dài, y dừng lại trước mặt người đó, quát hỏi:
- Ngươi tên là gì?

“Trương Phi” giật nảy mình. Y là binh sĩ do Dương Lăng đích thân chọn lựa, tuy Dương Lăng không nhận ra hắn, nhưng hắn lại biết Dương Lăng. Tuy tính tình thô lỗ nhưng trước mặt Dương Lăng hắn nào dám làm càn, “Trương Phi” vội ghìm cương ngựa, cung cung kính kính đáp:
- Hồi bẩm đại soái! Thuộc hạ là Lưu Đại Bổng Chùy(*), hiệu úy của Thiết Côn doanh!
(*: Đại bổng chùy nghĩa là cây chày lớn)

Dương Lăng đực mặt ra, lấy làm lạ bèn hỏi:
- Đó là cái tên gì vậy? Chẳng lẽ ngươi không có cả một cái tên nghiêm chỉnh sao?

Khuôn mặt đen đúa của “Trương Phi” thoáng đỏ bừng, hắn ngại ngùng bẩm:
- Đại nhân! Chính cha mẹ của tiểu nhân đặt cái tên này, nói rằng tiểu nhân sinh ra vừa đen lại vừa cứng cáp, giống y như một cây chày sắt nên mới gọi là Lưu Bổng Chùy.

Dương Lăng thấy hắn hào sảng, ngây ngô chất phác thì rất vừa lòng. Y cười hắc hắc, bảo:
- Bản quan nhận thánh dụ đi đến Đại Đồng tuần sát chiến sự. Ở hậu phương có mấy vị quan văn trong kinh sư đuổi theo, định sẽ dùng trăm phương nghìn kế khuyên bản quan trở về. Bản quan lệnh cho ngươi cầm cây Thượng Phương Bảo Kiếm, dẫn theo hai mươi thân binh của bản quan đến hậu phương ngăn bọn họ lại, chờ đại quân qua khỏi Cư Dung quan rồi ngươi mới được trở về. Làm xong việc này, ngươi sẽ là thân binh của bản quan, thế nào?

Nghe vậy Lưu Đại Bổng Chùy mừng rơn, lập tức vui sướng chắp tay thưa:
- Thuộc hạ tuân lệnh!

Dương Lăng cởi thanh bảo kiếm được vua ban thưởng ra trao cho hắn, dặn:
- Đám quan lớn đó đều là kẻ đọc sách, nói chuyện ba hoa xích thố, miệng lưỡi trơn tru. Mặc kệ bọn họ nói cái gì, ngươi chỉ cần nói với bọn họ rằng: “Tuân thánh dụ, tuần biên kết thúc xong, tự nhiên rồng về biển lớn, gió êm biển lặng. Xin các vị đại nhân hãy yên tâm mà ở lại kinh xử lý công việc, chớ có nhớ mong!".

Lưu Đại Bổng Chùy cắm bảo kiếm vào dây đai lưng, vắt ngang thanh thiết côn dài tám thước lên trên yên ngựa, ôm quyền bẩm:
- Thuộc hạ tuân lệnh! Mặc kệ bọn họ đánh... nói lời gì, thuộc hạ quyết không để bọn họ tiến được nửa bước!

Lưu Đại Bổng Chùy cầm cây thiết côn đen thủi lên, không nói thêm tiếng nào, lập tức dẫn hai mươi tay thân binh 'đánh' về phía hậu quân.

Dương Lăng cười hắc hắc: "Để cái đám tú tài đó đi mà nói lý lẽ với ông lính này."

Rồi y quay đầu lấy hơi quát lớn:
- Trung quân quan! Hạ lệnh toàn quân tăng tốc tiến về phía trước! Cho nghìn quân thám mã đi đến Cư Dung Quan kêu cửa trước, qua khỏi ải liền thẳng tiến Tuyên Hóa, không được chậm trễ!

- Tuân lệnh!
Trung quân quan hô lớn, cây cờ nhỏ trong tay phất mấy cái, cờ xí trong tay quan hiệu lệnh chung quanh liền không ngừng biến đổi. Năm nghìn thiết kỵ chợt như hồng thủy tràn đê, xe lộc cộc, ngựa rền vang, chạy băng băng về phía Cư Dung Quan như nước lũ chảy xiết.

Thực sự Tiêu Phương đã rất tận tâm và trung thành, lão tận lực muốn giúp hoàng đế Chính Đức và Dương Lăng che giấu chuyện này, và nguyên cả ngày hôm qua lão đã thực sự kiếm cớ che giấu được. Ai ngờ đến tối, khi ba vị đại học sĩ sắp xuất cung, nội cung lại cho thái giám của cung Nhân Thọ đến điện Văn Hoa hỏi thăm rằng vì sao Hoàng thượng vẫn chưa đến hậu cung, rằng Thái Hoàng Thái hậu và Hoàng Thái hậu muốn mời Hoàng thượng đến ngắm đèn lồng, vân vân.

Đến lúc đó thì bị lộ tẩy. Bình thường hai vị Thái hậu rất hiếm khi chủ động tìm hoàng đế Chính Đức, song bởi đang dịp năm mới, hoàng thân quốc thích kéo vào đầy cung thăm viếng. Nhân lúc cao hứng, Thái Hoàng Thái hậu và Hoàng Thái hậu mới nhớ rằng Chính Đức rất ưa náo nhiệt, bèn sai người đi tìm.

Hoảng sợ đến hồn phi phách tán, Lý Đông Dương bèn tìm đến Dương Đình Hòa, hai người cùng tìm đến điện Văn Hoa, đầu tiên là động khẩu, kế đó liền động tay động chân. Thái giám lẫn thị vệ nghe ồn ào kéo đến, trông thấy ba vị đại học sĩ đang tiến hành “thi đấu quyền anh” mừng năm mới, bọn họ không biết phải khuyên can ai thế là đành đứng ngây ra đó cả.

Lý Đông Dương và Dương Đình Hòa không biết rốt cuộc Hoàng đế đã xảy ra chuyện gì, thực sự muốn phát điên lên. Ba đại học sĩ vứt sạch sự nho nhã: Tiêu Phương ăn phải một đấm của Dương Đình Hòa, râu thì bị Lý Đông Dương bứt đi mấy cọng; một cước của lão cũng khiến Lý Đông Dương suýt nữa bỏ mạng.

Thái Hoàng Thái hậu, Hoàng Thái hậu, Thái hậu, và đám công chúa, hoàng phi hay tin lập tức đều chạy lại. Tiêu Phương thấy không giấu giếm được nữa đành phải thưa thật; lại bảo rằng Hoàng đế đã hạ mật chỉ nên lão cũng không thể không tuân chỉ mà hành sự. Tam cung cả kinh, bọn họ cũng biết phái người tầm thường đi thì sẽ hoàn toàn không quản được Chính Đức, thế là bèn xua luôn cả ba đại học sĩ ra khỏi Bắc Kinh, đuổi gấp rút một ngày một đêm mới bắt kịp.

Lưu Đại Bổng Chùy dẫn hai mươi tay thiết vệ oai phong lẫm liệt xông đến phía cuối đoàn quân. Thiết kỵ sắp thành một hàng, hai mươi cây thương bạc chỉa xéo lên trời, Lưu Đại Bổng Chùy hông giắt bảo kiếm, tay cầm thiết côn, mặt mày dữ tợn.

Hắn từng nghe kể về Thượng Phương Bảo Kiếm trong lời kịch, nghe nói có vật ấy thì gặp chức quan nào mình cũng sẽ đều lớn hơn một cấp, thực oách quá đi. Hơn nữa cấp trên của hắn đã được trời định sẵn là võ tướng, hắn lại càng xem thường đám mọt sách này.

Lý Đông Dương thấy một đám thị vệ kéo đến, còn Chính Đức và Dương Lăng thì chẳng một ai lộ diện, không khỏi thầm nổi giận trong lòng.

Hoàng đế bí mật xuất kinh, hiện tại còn chưa khuyên được người trở về, lão cũng không dám tùy ý nói toạc ra, đành phải nén giận hô lớn:
- Dương Lăng, Dương tướng quân đang ở đâu? Bảo hắn ra gặp bản quan, bản quan có đôi lời muốn...

Lão chưa kịp dứt lời, Lưu Đại Bổng Chủy đã vung cây thiết côn lên trời một cách đắc thắng. Hắn rút xoạt thanh bảo kiếm từ trên đai lưng ra, giơ cao lên trời, quát một tiếng như sấm nổ, khiến ba đại học sĩ run cầm cập, thiếu chút nữa thì ngã khỏi ngựa.

Lưu Đại Bổng Chùy cố trợn thật to đôi mắt bé như hai hạt đậu xanh, cao giọng quát:
- Tuân thánh dụ, tuần biên kết thúc xong, tự nhiên rồng về biển lớn, gió êm biển lặng. Xin các vị đại nhân hãy yên tâm mà ở lại trong kinh xử lí công việc, chớ có nhớ mong!






Chú thích:

(1) nguyên văn "Quan phổ nhi" (官谱儿), "phổ nhi" nghĩa là tiêu chuẩn hoặc quy củ, trỏ những nghi lễ rườm rà chốn quan trường, nay thường dùng để châm biếm các buổi họp, lễ rườm rà và tốn kém của quan chức Trung Quốc.

(2) chỉ nam sủng vị thành niên, đối tượng tình dục cho những kẻ thích trẻ em nam (vừa ấu dâm vừa đồng tính luyến ái).



Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
25-06-2012, 01:39 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 187 - Quân đến Đại Đồng


Dịch: vo vong

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





- Vị hiệu úy này! Người không biết không có tội. Ngươi là sỹ tốt trong quân, chắc không biết ba người bọn ta đồng thời xuất kinh là chuyện quan trọng đến cỡ nào.
Ngươi hết lòng với nhiệm vụ, điều ấy hết sức đáng khen. Nhưng chuyện này có liên quan đến giang sơn xã tắc và muôn vạn dân chúng Đại Minh, bản quan khuyên ngươi mau mau tránh đường để bọn ta đi qua, bằng không ít nhất cũng nên chuyển lời của ta cho Dương tướng quân, xin y thay đổi suy nghĩ. Còn nếu như để lỡ việc của bọn ta, một hiệu úy nho nhỏ như ngươi không gánh vác nổi đâu. Ngươi phải biết là dù đương kim thánh thượng ở đây, một khi nghe nói có ba người bọn ta cùng tới ắt cũng biết là có chuyện động trời cần bẩm báo, ngàn vạn lần không thể chậm trễ chút nào.

Lưu Đại Bổng Chùy nghe xong không khỏi cảm thấy tức cười. Thấy vị lão tiên sinh này nói năng văn chương như vậy, bất giác gã nhớ đến một câu thoại trong vở kịch nào đó bèn ngẩng cao đầu, xổ luôn một tràng:
- Tướng ở ngoài biên cương, có lúc không cần theo lệnh vua!





Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 187 - Quân đến Đại Đồng

Chương 187 - Quân đến Đại Đồng

Dương Đình Hòa hơi ngẩn người, rồi lão lập tức đùng đùng nổi giận, giục ngựa lên trước quát lớn:
- Lớn mật! Có biết trước mặt ngươi là ai không?

Đừng thấy ba người này xuất kinh ban đêm, bộ dạng tả tơi khốn đốn mà tưởng có thể coi nhẹ. Chỉ nhìn trang phục và khí thế của bọn họ, Lưu Đại Bổng Chùy cũng cảm thấy cả ba đều là những vị quan lớn khó dây vào. Nghe đối phương quát xong, tròng mắt gã thoáng xoay chuyển, hỏi lại:
- Các vị là ai?

Dương Đình Hòa thấy đại quân đã tăng tốc tiến đi mà gã lính khốn kiếp trước mặt này lại đưa hai mươi thị vệ dàn hàng chữ nhất chặn kín cả đường đi nên không khỏi lo lắng vô cùng. Lão liền nghiêm giọng bảo:
- Ba người trước mặt ngươi là tam đại học sĩ của Nội Các từ kinh sư tới, có việc cực kỳ quan trọng cần gặp Dương tướng quân. Mau mau tránh đường! Kẻo làm lỡ quân cơ ắt ta sẽ chém cái đầu của ngươi xuống.

Vừa nghe lai lịch của đối phương ghê gớm như vậy, khí thế của Lưu Đại Bổng Chùy cũng không khỏi kém hẳn đi. Nhưng gã lại nghĩ Dương đại soái đã trọng dụng một tên tiểu tốt như mình như vậy, nếu mình cứ để mặc bọn họ đi qua như thế này, một là sẽ phụ lòng tin tưởng của đại soái, hai là sẽ bị các chiến hữu chê cười. Thế là gã bèn lấy hết can đảm trả lời:
- Vâng lệnh đại soái, mời ba vị đại nhân mau mau về kinh! Tiểu nhân có quân lệnh trên người, không dám làm trái!

Không ngờ chỉ một viên hiệu úy cỏn con mà cũng dám cãi lại mình, Dương Đình Hòa giận dữ không kềm được nên chỉa roi ngựa về phía Lưu Đại Bổng Chùy, tức giận quát lớn:
- Ngươi… Ngươi lớn mật lắm! Ngươi nghĩ trên cổ ngươi có mấy cái đầu?

Lúc này Lưu Đại Bổng Chùy cũng đã quyết liều một phen, gã bèn hếch mũi lên trời nghênh ngang đáp:
- Quân lệnh như núi! Dù là ông Trời cũng đừng hòng qua chỗ này được.

Tiêu Phương không ngờ Dương Lăng lại phái một tên lính chẳng hiểu biết gì cản đường bọn họ, dù Dương Đình Hòa đầy bụng kinh văn cũng chẳng thể giải thích được gì với cái gã võ biền không thông lý lẽ này, quan uy thì lại càng chẳng dùng được. Thấy Dương Đình Hòa gặp cảnh như vậy, Tiêu Phương cũng thầm khoái chí trong lòng.

Lý Đông Dương đưa tay ra ngăn Dương Đình Hòa lúc này đang đùng đùng nổi giận nóng nảy vung roi lia lịa, lão vuốt râu cười nói với Lưu Đại Bổng Chùy:
- Vị hiệu úy này! Người không biết không có tội. Ngươi là sỹ tốt trong quân, chắc không biết ba người bọn ta đồng thời xuất kinh là chuyện quan trọng đến cỡ nào.
Ngươi hết lòng với nhiệm vụ, điều ấy hết sức đáng khen. Nhưng chuyện này có liên quan đến giang sơn xã tắc và muôn vạn dân chúng Đại Minh, bản quan khuyên ngươi mau mau tránh đường để bọn ta đi qua, bằng không ít nhất cũng nên chuyển lời của ta cho Dương tướng quân, xin y thay đổi suy nghĩ. Còn nếu như để lỡ việc của bọn ta, một hiệu úy nho nhỏ như ngươi không gánh vác nổi đâu. Ngươi phải biết là dù đương kim thánh thượng ở đây, một khi nghe nói có ba người bọn ta cùng tới ắt cũng biết là có chuyện động trời cần bẩm báo, ngàn vạn lần không thể chậm trễ chút nào.

Lưu Đại Bổng Chùy nghe xong không khỏi cảm thấy tức cười. Thấy vị lão tiên sinh này nói năng văn chương như vậy, bất giác gã nhớ đến một câu thoại trong vở kịch nào đó bèn ngẩng cao đầu, xổ luôn một tràng:
- Tướng ở ngoài biên cương, có lúc không cần theo lệnh vua!

Dương Đình Hòa giận đến bật cười, nói:
- Lý đại nhân! Gã tiểu tốt này thô bỉ dốt nát, không thông thời thế, nói chuyện với gã thực chẳng khác gì đàn gảy tai trâu. Người đâu, xông cả lên cho bản quan! Ta phải xem thử một tên hiệu úy cỏn con như hắn dám làm gì bọn ta nào!

Dương Đình Hòa vừa ra lệnh, lập tức đám thủ hạ tùy tùng giục ngựa xông lên. Còn Tiêu Phương thì lại quay đầu ngựa tránh sang bên cạnh, ngầm nháy mắt ra hiệu cho các thị vệ thủ hạ của mình lùi về phía sau.

Lưu Đại Bổng Chùy nóng ruột, vội giơ Thượng Phương bảo kiếm lên cao, lớn tiếng quát:
- Thượng Phương bảo kiếm ở đây có thể tiền trảm hậu tấu! Xem thử ai dám tiến lên?!

Thấy đám tùy tùng bắt đầu do dự, Dương Đình Hòa bèn nghiêm giọng quát lớn:
- Chuyện này liên quan đến vận mệnh quốc gia! Đừng nói chỉ là một thanh kiếm cỏn con, dù là đương kim thánh thượng ở đây cũng vậy, có gì mà không dám xông lên chứ? Mau xông lên hết cho ta!

Lưu Đại Bổng Chùy thấy đám thị vệ tùy tùng này định thúc ngựa xông tới thật, gã cũng không dám thật sự vung kiếm chém người. May quá, đột nhiên cái khó ló cái khôn, gã bèn cắm bảo kiếm vào ngang hông, cầm cây côn sắt đen thui dài tám thước của mình lên, “vút” một tiếng đánh trúng ngay vào đùi ngựa của gã thị vệ đi đầu. Con ngựa hí lên một tiếng thảm thiết, ngã gục xuống đất. Gã thị vệ đang cưỡi ngựa cũng ngã lăn quay, ngăn cản đường đi của những người ở phía sau.

Lưu Đại Bổng Chùy cười lạnh một tiếng, quát lớn:
- Đánh người phải đánh ngựa trước, đánh gãy hết đùi ngựa của bọn chúng cho ta! Để ta xem thử hai cái chân của bọn chúng có chạy nhanh hơn bốn cái chân được không?!

Hai mươi viên thị vệ nghe vậy bèn vung trường thương chuyên nhằm vào chân ngựa mà phang. Thị vệ của ba vị đại học sỹ đều là những binh lính bình thường, lúc vội vã rời kinh chỉ kịp mang theo thanh đao, quần áo trên người cũng mỏng manh, cả bọn không kịp mặc áo da dùng khi ra ngoài nên chân tay đều lạnh cóng, hành động không linh hoạt. Hơn nữa vốn kỵ thuật của bọn chúng cũng thua kém hai mươi viên thị vệ kia rồi nên làm sao có thể điểu khiển ngựa né tránh được?

Cán thương không so được với côn sắt nên không thể đánh gãy chân ngựa nhưng cũng khiến cho đám ngựa đau đớn vô cùng. Sau khi nhảy loạn một hồi bọn chúng liền không để ý đến sự điều khiển của chủ nhân nữa mà quay đầu chạy như điên về phía sau. Qua khỏi mấy chục trượng các thị vệ mới ghìm cương lại được, nhưng bất luận bọn họ hò hét thúc giục thế nào, bọn ngựa cũng không dám quay về phía trước nữa.

Hai bên đã trở mặt với nhau rồi, thói quen lỗ mãng của Lưu Đại Bổng Chùy cũng lập tức phát tác, thấy Dương Đình Hòa đích thân giục ngựa xông tới gã liền vung côn đuổi ngựa đi. Sau khi náo loạn một hồi, ngựa của ba vị đại học sỹ và mấy chục viên tùy tùng đều bị đánh cho không gãy cũng bị thương, khó thể đi tiếp được. Lưu Đại Bổng Chùy quay đầu lại thấy đại quân đã đi xa vào trong rặng núi, chỉ còn thấy một mảng cờ xí phất phơ, gã không kìm được cười lên ha hả, dẫn theo hai mươi viên thị vệ thúc ngựa bỏ đi.

Dù lòng dạ rộng rãi nhưng Lý Đông Dương cũng bị đám lính thô lỗ này khiến cho tức giận đến run người. Ông đứng trên mặt đất, tay dắt con ngựa chân thấp chân cao đang không ngừng rên rỉ đau đớn của mình, nhìn về hướng đại quân đang dần đi xa, hồi lâu vẫn chẳng thể nói được lời gì.

* * *

Tham tướng trấn thủ ải Cư Dung nhận được tin báo, từ sớm đã đội mũ mặc giáp lên cổng thành, đợi đại quân của Dương Lăng; sau khi xác nhận ấn tín khâm sai xong xuôi liền lập tức mở rộng cửa thành. Dương Lăng cũng không hề khách sáo, lập tức hạ lệnh cho đại quân đi qua.

Dương Lăng sợ Lưu Đại Bổng Chùy không ngăn nổi ba đại học sỹ nên chờ ở phía sau đoàn quân. Đến khi hai mươi mốt chiến mã phi nhanh tới nơi, hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, biết ba đại học sỹ đều không bị thương, y mừng rỡ vô cùng, lập tức dẫn theo những bộ hạ còn lại rời khỏi ải Cư Dung.

Đến khi thấy tham tướng giữ ải lại cho đóng chặt cửa thành, trái tim vốn còn thấp thỏm của Dương Lăng mới coi như yên ổn trở lại. Tham tướng giữ ải không thể nhận biết ba vị đại học sỹ, mà bọn họ ắt cũng không mang theo văn điệp thông quan do quân đội cung cấp. Như vậy cho dù có đuổi kịp đến đây thì ba vị cũng đứng hòng thuyết phục được tướng giữ ải Cư Dung mở cửa cho qua.

Đại quân đi vòng theo hướng tây nam, tiến nhanh hết cỡ, trên đường không rẽ vào tiểu huyện nào, mỗi khi nghỉ ngơi đều cắm trại tại chỗ. Hôm ấy đại quân đang đi trên cổ đạo Linh Khâu. Vùng huyện Linh Khâu này chính là nơi do Triệu Vũ Linh Vương ra lệnh khai hoang mở đất. Sau này, Hán Vũ Đế Lưu Triệt xua quân lên mặt bắc đánh Hung Nô, Tào Tháo thời Tam Quốc đóng quân mở đồn điền, Dương gia tướng thời Tống chống cự quân Liêu, tất cả đều diễn ra tại đây.

Trên đường bắc tiến, bất kể là hành quân hay ngủ nghỉ, Chính Đức đều ở chung một chỗ với sỹ tốt, đường bằng cưỡi ngựa, gặp núi leo trèo, thủy chung không chịu bước vào kiệu xe. Dù chỉ là một vị thiếu gia được nuông chiều từ tấm bé e rằng cũng không chịu được nỗi khổ sở này, huống chi là Chu Hậu Chiếu từ nhỏ đã được bao bọc hết mức.

Không ngờ hắn lại có được nghị lực như vậy, hoàn toàn khác hẳn với vẻ ham chơi biếng làm thường ngày. Không chỉ Dương Lăng, ngay đến Trương Vĩnh cũng hết sức kinh ngạc.

Đại quân đi dọc theo cổ đạo đến một ngọn núi nằm giữa những rặng núi bao quanh, đột nhiên nhìn thấy phía trước có một đội quân, nhìn thoáng qua e phải có tới hơn ba ngàn người.

Tuy nơi này cách huyện Linh Khâu chưa tới mười dặm, nhưng giữa nơi núi non thế này lại đột nhiên xuất hiện một đội quân, mà nhìn lều trại thì dường như họ đã ở đây được một thời gian rồi nên ai cũng nghi hoặc. Dương Lăng không dám sơ xuất, một mặt hạ lệnh cho đại quân dừng lại nghỉ ngơi, tăng cường phòng bị, một mặt sai tùy tùng đi dò hỏi.

Chẳng mấy chốc, viên tùy tùng dẫn theo một vị tướng quân vội vã đi vào trong lều lớn ở trung quân, Chính Đức đóng giả làm thị vệ đứng sau lưng Dương Lăng thầm quan sát. Vị tướng quân nọ chừng hơn bốn mươi tuổi, dáng vẻ cao lớn quắc thước, từ xa nhìn thấy Dương Lăng đã tươi cười cung tay thi lễ:
- Hạ quan là Tả vệ chỉ huy sứ Đại Đồng Điêu Hóa Thần, bộ hạ của Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản đại nhân, bái kiến Dương đại nhân! Dương đại nhân đi đường vất vả rồi.

Dương Lăng thầm ngạc nhiên, hiện giờ chiến sự ở tiền phương đang căng thẳng, Hồ Toản phái ba nghìn quân đóng ở đây là để làm gì chứ?

Hai bên nói chuyện đôi câu, Dương Lăng bèn mời hắn ngồi xuống, hỏi:
- Điêu chỉ huy, đây là nơi nào vậy? Tiền phương đang giao chiến với Thát Đát, là lúc cần dùng người, tại sao lại cho đóng đại quân ở đây? Có việc gì quan trọng hay sao thế?

Việc cơ mật quân sự thì dù là đại thần trong triều cũng không tiện hỏi, nhưng Dương Lăng ngoài việc đến ủy lạo quân đội còn kiêm cả tuần tra, có quyền quản lý toàn bộ cuộc chiến ở tiền phương. Lúc cần y có thể dùng Kim phê lệnh tiễn và Khâm sai kim ấn để điều động đại quân, do đó y hỏi câu này cũng không có gì là quá phận.

Điêu Hóa Thần là thân tín của Hồ Toản, việc kinh sư phái Đề đốc Nội xưởng và Kinh doanh đến tuần tra vùng biên cảnh đã được truyền tới qua đường dịch trạm rồi nên hắn cũng biết nội tình. Tất nhiên hắn không dám nói dối, vội vàng đáp:
- Đại nhân có điều không biết! Từ nơi này đi đến Đại Đồng, giữa vùng núi non có rất nhiều cửa ải, duy có men theo cổ đạo này là không có cửa ải hiểm trở nào.

Thát Đát đã bị Dương tổng chế kìm chân, muốn rút cũng không rút được, nay quân lương cạn hết lại không thu được lợi ích gì. Không biết gian tế Thát Đát làm thế nào mà lần ra được con đường này, bọn chúng phái hơn ngàn người ngựa men theo con đường nhỏ trong núi lách qua các cửa ải để tập kích Linh Khâu, cướp đi một lượng lớn tiền tài lương thảo. Hồ tuần phủ hay tin liền sợ giặc Thát nếm được trái ngọt sẽ còn đến nữa, do đó lệnh cho hạ quan đóng quân tại đây.

Tới lúc này Dương Lăng mới biết nguyên nhân. Lại nghĩ đến tình hình vừa rồi, nơi này là một khe núi giữa vùng núi non, nếu muốn một đội ngũ hơn ngàn người đi xuyên qua rặng núi thì cũng chỉ có khe núi này là không có phòng bị nên có thể dễ dàng vượt qua được. Thật là làm khó cho đám gian tế Thát Đát kia, không biết đã phải hao phí bao nhiêu công sức mới tìm ra được con đường này cho quân đội cướp bóc.

Đừng coi nhẹ tác dụng của một con đường trong chiến tranh. Nếu quân Thát Đát lợi dụng con đường bí mật này không ngừng đi vòng đến phía sau đại quân cướp bóc lương thực, cuộc chiến cứ kéo dài tiếp sẽ khó mà dự liệu được việc thắng bại. Ngăn con đường này lại, nhuệ khí quân địch ắt sẽ giảm mạnh, ngay đến đám tướng lĩnh Thát Đát cũng sẽ mất dũng khí tiếp tục chiến đấu. Chẳng trách lúc tháng chạp giữa mùa đông này mà còn có ba nghìn người ngựa đóng ở đây, vất vả canh phòng trên ngọn núi này.

Dương Lăng gật đầu:
- Thì ra là vậy! Đại quân của ta đêm nay cũng đóng lại đây thôi, ngày mai sẽ khởi hành tiếp tục đến Đại Đồng. Đúng rồi, nơi này gọi là gì nhỉ?

Điêu Hóa Thần đáp:
- Nơi này thời xưa gọi là Bình Hình Trại, đến thời Tống, Nguyên thì gọi là Bình Hình Trấn. Bởi vì trên ngọn núi này có một khoảng đất rộng hơn chín trăm trượng vuông, trời sinh đã bằng phẳng vuông vức, do đó sau khi Đại Minh ta lập quốc, nó được đổi gọi là Bình Hình Lĩnh (Chữ “bình” ở đây nghĩa là bằng phẳng, khác với chữ “bình” trước đó là cái bình, cái lọ - ND).

Hai bên tán gẫu một phen, rồi Dương Lăng đưa Điêu Hóa Thần ra ngoài lều, đứng trên đỉnh ngọn núi đưa mắt nhìn về hướng xa. Lúc này mặt trời vừa lặn xuống sau dãy núi, chỉ còn lại chút ánh tà dương mờ nhạt, lớp tuyết trùng trùng điệp điệp được phủ lên bởi một tầng ánh sáng hồng nhạt.

Chính Đức đi đến bên cạnh Dương Lăng, đưa tay che bớt ánh sáng, nheo mắt nhìn về hướng xa một hồi, rồi nói:
- Ừm, giữa rặng núi này quả nhiên chỉ có hẻm núi này là đại quân có thể đi qua. Nhìn từ trên đỉnh núi xuống, huyện thành Linh Khâu như ở gần ngay trước mắt, nơi đó thành nhỏ tường thấp, không có chỗ nào hiểm yếu để phòng thủ, thực là nguy hiểm.

Chỉ là đóng quân lâu dài tại nơi này thì không khỏi vất vả quá. Trương Vĩnh, ngươi ghi nhớ lấy! Ngay khi về kinh hãy kêu bộ Binh xây một cửa ải trên Bình Hình Lĩnh này để cản đường quân địch, rồi liệt nó vào danh sách các cửa ải trọng yếu chốn biên cương, lấy tên là ải Bình Hình.

Trương Vĩnh vâng dạ liên hồi. Dương Lăng nghe đến đây thì không khỏi lấy làm ngạc nhiên liếc nhìn Chính Đức, nghĩ bụng: ”Bình Hình Lĩnh, ải Bình Hình, vừa rồi sao mình không nghĩ ra nhỉ, thì ra… ải Bình Hình nổi tiếng lại là do chính Chính Đức hạ chỉ cho xây dựng.”

Chính Đức thấy ánh mắt y có điều khác lạ, không kìm được cười hỏi:
- Sao Dương khanh lại nhìn trẫm như thế? Trẫm nói có gì không đúng sao?

Dương Lăng vội vàng cười đáp:
- Hoàng thượng nói đúng lắm! Xây dựng một cửa ải ở chỗ hiểm yếu này quả thực có tác dụng rất lớn trong việc ngăn chặn giặc Thát. Có điều phòng ngự bị động thì không có cửa ải nào mà không bị phá, chúng ta còn cần phải…

Chính Đức cả cười, cướp lời:
- Chúng ta còn cần phải phú quốc cường binh, chủ động xuất kích, tiêu diệt giặc mạnh ở ngay bên ngoài biên ải, phải vậy chăng?

Nói rồi vua tôi đưa mắt nhìn nhau, không kìm được cùng vỗ tay cười lớn.

***

Đại quân cuối cùng cũng đã tới Đại Đồng. Tổng chế Tam biên Dương Nhất Thanh điều quân đóng tại các cửa ải hiểm yếu trên Trường Thành, trước mắt ông ta đang ở Trấn Khương Bảo. Nơi đó vốn có chợ chuyên buôn bán ngựa giao dịch với quan ngoại, được xây dựng ngay sát mặt ngoài của Trường Thành.

Để tiện cho việc chỉ huy vùng lân cận nên Dương Nhất Thanh cho lập quân doanh tại đây, Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản đích thân áp tải lương thảo đến Trấn Khương Bảo, hiện đang cưỡi ngựa vội vã trở về. Hay tin kéo tới nghênh tiếp đón đại quân của Dương Lăng vào thành là quan viên các cấp ở nha môn Tuần phủ. Trên đường hành quân, bọn Dương Lăng thấy tòa thành lớn vốn phồn hoa này đã trở nên tiêu điều hơn không ít, quan binh trên đường còn nhiều hơn dân chúng.

Các quan viên nghênh đón khâm sai đến dịch quán. Dịch quán ở nơi này so với dịch quán Xương Bình nơi Dương Lăng từng ngụ lại tất nhiên là hoàn toàn khác hẳn. Khu nhà hào hoa nằm ở lớp thứ ba của dịch quán dành riêng để nghênh tiếp đại thần, được bố trí cực kỳ xa hoa. Dương Lăng vào ở trong dịch quán, phía ngoài dịch quán thì để cho hai trăm thân binh của bản thân và ba trăm thị vệ đại nội cư trú, các quan binh còn lại thì được sắp xếp đến học cung (trường học thời xưa - ND) hoặc là cho cắm trại ở thao trường.

Bận rộn một hồi mọi việc mới xong xuôi, Dương Lăng liền tiễn các vị đại nhân ra đi. Y trở về dịch trạm, nghênh đón Chính Đức vào trong thu xếp cho hắn ở phòng của mình, rồi cười nói:
- Hoàng thượng! Trên đường ngài cũng đã phải chịu vất vả rồi, nay rốt cuộc cũng có nơi thoải mái hơn một chút. Ngài cứ nên ở lại đây mà nghỉ ngơi dưỡng sức đi, đợi sau khi thần thông báo cho Hoa Đáng, tất cả mọi việc được an bài ổn thỏa rồi ngài sẽ lên núi Bạch Đăng đàm phán với y là xong.

Chính Đức gật gật đầu, rồi lại hỏi:
- Dương Nhất Thanh đang ở Trấn Khương Bảo, lúc nào mới có thể trở về? Trẫm muốn tìm hiểu một chút về tình hình chiến sự cụ thể.

Dương Lăng nhíu mày suy nghĩ một lúc rồi đáp:
- Bá Nhan nóng lòng thoát thân, nhưng lần này hắn trộm gà không thành còn mất nắm gạo, các bộ lạc tổn thất nặng nề. Vốn nội bộ Thát Đát đã không ổn định rồi, bây giờ chưa chiếm được chút lợi lộc nào ắt hẳn hắn chẳng cam tâm rút về. Nay hắn đang cùng Dương Nhất Thanh có công có thủ, chiến sự kịch liệt, thần nghĩ đừng nên thông báo cho Dương Nhất Thanh biết việc Hoàng thượng đến đây thì hơn. Để thần đến Trấn Khương Bảo thăm y là được.

Chính Đức cả mừng:
- Hay lắm! Trẫm đang muốn đến quan ải xem cảnh chém giết ngoài chiến trận, đến lúc đó trẫm sẽ đi với khanh. Đúng rồi, Đại vương là phiên vương ở Đại Đồng, khanh đã đến đây rồi, theo lễ phải đi bái kiến. Khanh chuẩn bị lúc nào thì đi?

Dương Lăng đáp:
- Hôm nay trời đã tối, không tiện đến phủ Đại vương bái kiến, thần định ngày mai sẽ đi. Hoàng thượng cũng muốn đi sao?




Chú thích:





Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
02-07-2012, 06:48 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 188 - Mỗi người một suy nghĩ


Dịch: vo vong

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Hồ Toản nói:
- Chưa được cho phép mà mang đao kiến giá là đại tội phản nghịch, thần quyết không dám. Cổ nhân mang lòng trung can gián đều húc đầu vào cột tìm cái chết…

Hồ Toản vừa nói vừa đưa mắt nhìn xung quanh, không thấy trong phòng có cây cột nào, ông ta bèn nói tiếp:
- Quân tử yêu vua không yêu tấm thân mình. Thực ra có nhiều cách chết lắm, thần đã có chuẩn bị sẵn rồi.

Vừa nói ông vừa móc từ trong ống tay áo ra một gói giấy, mở ra định dốc chỗ thuốc bột vào miệng.





Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 188 - Mỗi người một suy nghĩ

Chương 188 - Mỗi người một suy nghĩ



Chính Đức hơi do dự:
- Năm kia Thát Đát thiếu chút nữa đánh chiếm được Đại Đồng, Đại vương liền chạy đến kinh sư khóc lóc kể lể với phụ hoàng nên từng gặp trẫm một lần. Nếu mà gặp lão…

Rồi hắn đột nhiên nhướng mày, cười nói:
- Đi thì đi! Ta là thị vệ, chẳng gặp được lão đâu! Nếu cả ngày phải ở trong này thì có khác gì lúc ở kinh sư chứ?

Hai người đang nói cười, chợt có một viên thị vệ đi tới bẩm báo:
- Bẩm đại nhân! Tuần phủ Hồ đại nhân về thành rồi, đang tiến vào trong phủ.

Viên thị vệ này cũng biết thân phận của Chính Đức, có điều Dương Lăng sớm đã dặn dò tất cả những người nhìn thấy Chính Đức đều không được lộ vẻ gì khác lạ, kẻo lại khiến người hữu tâm nảy lòng cảnh giác. Vì vậy hắn cũng không dám bái kiến Hoàng thượng, chỉ hơi liếc nhìn về phía Chính Đức.

Dương Lăng ngẩn người ra, Hồ tuần phủ đã đến tận đây rồi? Tuy phẩm cấp của lão cao hơn của mình, nhưng dù sao mình cũng có cái mác Khâm sai, hơn nữa xét về thực quyền thì lão hoàn toàn không bằng mình được, tại sao lại không thông báo trước một tiếng? Thế này thì không khỏi hơi thất lễ rồi.

Đang định đến thư phòng gặp Hồ Toản, chợt Dương Lăng nghe từ bên ngoài vang lên tiếng quát lớn:
- Nơi ở của Khâm sai, không được tùy tiện xông vào.

Kế đó lại nghe một giọng khác cũng quát to không kém:
- Cặp mắt chó của ngươi mù rồi hả? Ta là Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản. Nơi này ngoài Đại vương điện hạ ra, Hồ mỗ ta là người cao nhất, có nơi nào mà ta không xông vào được?

Hừm! Vị Tuần phủ này kiêu căng quá rồi thì phải? Dương Lăng không biết Hồ Toản làm quan như thế nào, nhưng nghe giọng điệu này của đối phương, ấn tượng đầu tiên của y chính là vị Tuần phủ này quá hống hách ngang ngược.

Dương Lăng đưa mắt liếc nhìn Chính Đức, rồi đẩy cửa bước ra bảo:
- Cho ông ta vào đây! Hồ tuần phủ, bản quan tuy phẩm cấp thấp hơn ngài, nhưng hiện là Khâm sai. Hành dinh của Khâm sai cũng là nơi mà ngài có thể xông bừa vào hay sao?

Y vừa nói vừa đưa mắt nhìn ra cửa, thấy các thị vệ đại nội đang ngăn cản một viên quan văn. Lúc này bọn họ đang tách qua hai bên nên y có thể nhìn thấy rõ hình dạng của viên quan. Y thấy người này dáng vẻ nho nhã, mặt mũi trắng trẻo, tuổi tác dường như chưa tới năm mươi, cũng không giống một kẻ kiêu căng hống hách, cơn giận của Dương Lăng liền giảm đi vài phần.

Nào ngờ vị Hồ tuần phủ này vừa nhìn thấy y, khuôn mặt lại càng tỏ ra giận dữ. Hai nắm tay siết chặt, ông ta rảo bước tiến thẳng tới, không đợi chủ nhân dẫn đường mà đã nghênh ngang bước vào phòng khách ngay.

Dương Lăng cảm thấy rất khó hiểu, không biết mình đã đắc tội với ông ta ở chỗ nào. Y cố giữ bình tĩnh, khoát tay ra hiệu cho các thị vệ lui ra, rồi sau đó xoay người theo Hồ Toản đi vào phòng khách. Trong phòng chỉ có hai người Chính Đức và Trương Vĩnh. Tuy Chính Đức đang mặc trang phục hiệu úy nhưng lại đang đứng ở phía trước.

Hồ Toản thi đỗ tiến sỹ, sau được thăng làm Tả thị lang bộ Hộ, kế đó lại được điều đến Đại Đồng nhậm chức Tuần phủ. Đó đều là chuyện của thời Hoằng Trị, sau khi tân đế đăng cơ ông ta còn chưa gặp thiên tử bao giờ. Hồ Toản cẩn thận quan sát Chính Đức một hồi, do dự không dám tùy tiện bái kiến. Thấy Dương Lăng bước vào, ông ta lập tức quát hỏi:
- Thánh giá ở đâu?

Sắc mặt Dương Lăng biến đổi, y kinh hãi thốt:
- Hồ đại nhân! Ngài nói gì thế?

Hồ Toản cười lạnh, rút từ trong ống tay áo ra một bức thư, hậm hực:
- Dương tướng quân! Ngài chặn ba vị Đại học sỹ ở ải Cư Dung, bọn họ không đi qua được, nhưng tốc độ của dịch trạm lại nhanh hơn quân đội của ngài mấy lần. Lá gan ngài lớn thật, không ngờ lại dám đưa Hoàng thượng đến nơi hiểm địa này. Ta hỏi ngài, thánh giá ở đâu?

Dường như vừa ăn phải thuốc súng, Hồ Toản nổi giận bừng bừng, trợn trừng cặp mắt đỏ rực lên nhìn Dương Lăng. Chính Đức thấy vậy liền khẽ ho một tiếng, nói:
- Trẫm ở đây! Hồ ái khanh đừng chất vấn Dương khâm sai nữa, chính trẫm muốn xuất kinh. Chẳng qua Dương khanh chỉ làm theo ý chỉ của trẫm mà thôi.

Hồ Toản ngoảnh đầu nhìn qua, thấy vị thái giám mặc áo mãng long bào đứng sau lưng viên hiệu úy khẽ gật gật đầu với mình, liền vội bước lên một bước sụp lạy, thưa:
- Vi thần Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản, khấu kiến Hoàng thượng.

Chính Đức cười nói:
- Ái khanh bình thân! Trẫm cải trang xuất kinh, người biết rất ít, khanh đừng nói ra ngoài. Trẫm biết ba vị Đại học sỹ đều có lòng tốt, cũng do ba vị lo lắng cho sự an toàn của trẫm. Nhưng lần này trẫm đến Đại Đồng do có chuyện quốc sự cực kỳ quan trọng, chuyện này vốn cũng không định giấu khanh và Dương Nhất Thanh, chỉ là muốn đợi một thời gian nữa mới nói mà thôi.

Hồ Toản đứng dậy, nghiêm trang đáp:
- Bất luận là chuyện lớn thế nào thì cũng nên để bọn thần chia xẻ âu lo thay Hoàng thượng, há có lý nào để thiên tử đích thân đi tới nơi hiểm địa? Hiện Đại Đồng đang lúc chiến tranh loạn lạc, không tiện ở lâu, khẩn cầu Hoàng thượng lập tức khởi giá hồi kinh!

Chính Đức thầm tức cười, vị Tuần phủ này cũng thật thú vị! Văn võ khắp triều ngay cả khi Lưu Kiện, Tạ Thiên còn tại vị, ba Đại học sỹ cũng không dám trực tiếp ra lệnh cho Hoàng thượng như thế. Hóa ra ông ta không chỉ nói năng khó chịu với vị Khâm sai Dương Lăng, mà đối với Hoàng thượng cũng vẫn dùng giọng điệu kiểu như vậy.

Chính Đức thản nhiên ngồi xuống ghế, vắt chân chữ ngũ bảo:
- Trẫm đã nói rồi. Lần này trẫm đến đây là có chuyện quốc sự cực kỳ quan trọng, chưa làm xong trẫm không muốn về kinh. Nếu Hồ ái khanh muốn biết rõ mọi chuyện có thể hỏi Dương Lăng, bằng không thì hãy về đi!

Khuôn mặt Hồ Toản trở nên đỏ bừng hệt như con gà chọi, ông trừng mắt nhìn Chính Đức:
- Chủ lo thì thần cần dốc sức, chủ nhục thì thần phải lấy cái chết báo đền. Để mặc Hoàng thượng đi vào nơi nguy hiểm, thần dù chết vạn lần cũng không chuộc hết tội. Nếu Hoàng thượng không chịu về kinh, thần sẽ chết trước mặt Hoàng thượng ngay!

Chính Đức ngẩn người, hồi lâu sau mới cười nói:
- Thế này… Thế này là cái lý gì chứ? Không phải ngươi đang lấy cái chết để uy hiếp trẫm sao? Trẫm không về kinh, cũng không cho ngươi chết, ngươi lui xuống đi!

Hồ Toản lớn tiếng đáp:
- Hôm nay thần đến đây ắt phải khuyên được Hoàng thượng về kinh. Hoàng thượng mà không đi tức là thần không làm tròn bổn phận, chỉ đành chọn cái chết mà thôi.

Vừa nói lão vừa đưa tay vào trong ngực. Chính Đức cả kinh, quát lên:
- Ngươi dám mang dao đến kiến giá?

Dương Lăng cũng lao nhanh đến chắn trước mặt Chính Đức, đưa tay nắm chặt chuôi đao của mình. Hồ Toản nói:
- Chưa được cho phép mà mang đao kiến giá là đại tội phản nghịch, thần quyết không dám. Cổ nhân mang lòng trung can gián đều húc đầu vào cột tìm cái chết…

Hồ Toản vừa nói vừa đưa mắt nhìn xung quanh, không thấy trong phòng có cái cột nào, lão bèn nói tiếp:
- Quân tử yêu vua không yêu tấm thân mình. Thực ra có nhiều cách chết lắm, thần đã có chuẩn bị sẵn rồi.

Vừa nói lão ta vừa móc từ trong ống tay áo ra một gói giấy, mở ra định dốc chỗ thuốc bột vào miệng. Dương Lăng cả kinh, y còn chưa kịp xông đến thì Chính Đức đã phản ứng trước rồi. Hắn lao vọt tới bên cạnh Dương Lăng, đoạt ngay lấy gói giấy trong tay Hồ Toản.

Chỗ thuốc bột rơi cả vào tay Chính Đức. Trương Vĩnh cũng không biết đó là loại độc dược gì, dính vào da liệu có hại gì hay không nên sợ hãi la ầm lên. Lập tức có mấy viên thị vệ xông vào khống chế Hồ Toản. Trương Vĩnh vội kêu người mang nước tới, trước dùng khăn bông lau sạch tay Chính Đức, sau đó rửa đi rửa lại vài lần.

Dương Lăng cau mày:
- Tuần phủ đại nhân! Hoàng thượng đích thân đi tuần tra biên cảnh cũng là vì giang sơn xã tắc..Chuyện lớn lần này không có Hoàng thượng thì ắt chẳng thành, sao ngài có thể tùy tiện lấy cái chết ra can gián như thế chứ?

Hồ Toản cả giận:
- Tấm thân tôn quý của Hoàng thượng há có thể tùy tiện đi đến nơi hiểm địa? Việc “Thổ Mộc chi biến” hãy còn sờ sờ ra đó, ngươi muốn hại Đại Minh, hại bản thân bị chém cả nhà hay sao?

Dương Lăng cũng không khỏi cả giận, lẫm liệt trả lời:
- Câu nào cũng nhắc tới năm xưa, tại sao không nói xa hơn một chút? Sao không nhắc đến Hồng Vũ hoàng đế máu nhuộm chiến bào đánh lấy giang sơn vạn dặm? Sao không nhắc đến Vĩnh Lạc hoàng đế năm lần đánh Tái Bắc, một đời chiến chinh? Từ xưa đến nay, phàm là lúc đất nước bên trong nguy nan, bên ngoài chịu nhục, có vị thiên tử tài đức nào mà chỉ trọng văn trị mà không trọng võ công?

Dương Lăng sục sôi chí khí cao giọng nói tiếp:
- Kẻ làm bầy tôi trung với vua là tấm lòng, phò trợ vua là trách nhiệm, ngài có một trái tim trung với vua, nhưng còn cần phải dốc sức phò trợ vua nữa. Ngài muốn phò tá đương kim Hoàng thượng trở thành bậc đế quân bên trong cai trị giỏi, bên ngoài lập được võ công, anh minh thần vũ hay là muốn đương kim Hoàng thượng được bảo vệ kỹ càng trong Tử Cấm Thành, muốn thiên tử còn trẻ không được xuất cung một bước, không hiểu nhân tình thế thái, làm vật tượng trưng trên danh nghĩa cho triều đình, làm một con rối cho vạn dân triều bái?

Những lời này của Dương Lăng không ngờ đã khiến Hồ Toản chấn động, nhất thời ông không nói được tiếng nào.

Dương Lăng thở ra một hơi, nói tiếp:
- Tuần phủ đại nhân đã biết Hoàng thượng ở đây, hãy nên hiệp trợ bản quan làm tốt việc phòng ngự Đại Đồng, ắt Hoàng thượng sẽ an toàn rất mực. Hoàng thượng đến đây là do có một chuyện cực kỳ quan trọng cần làm, hiện giờ Hồ tuần phủ có bằng lòng nghe bản quan kể lại tường tận mọi việc không?

Hồ Toản im lặng hồi lâu, cuối cùng mới cung tay hậm hực đáp:
- Xin được nghe rõ!
Giọng đã không còn cứng rắn như trước nữa.

Dương Lăng khẽ mỉm cười, khom người thưa với Chính Đức:
- Hoàng thượng hãy nghỉ ngơi đi! Thần xin tạm lui ra trao đổi với Hồ đại nhân một lác.

Chính Đức nghe vậy bèn vội xua tay bảo:
- Các khanh cứ đi đi, đi đi!

Nhìn thấy hai người đã ra khỏi cửa, Chính Đức mới ngồi phịch xuống ghế, thở phào nói với Trương Vĩnh:
- Cái gã họ Hồ này cũng đáng sợ quá đi! Không có việc gì thì ngàn vạn lần đừng để trẫm nhìn thấy hắn nữa!

Dương Lăng và Hồ Toản nói chuyện với nhau trong phòng suốt nửa canh giờ, cuối cùng Hồ Toản mới hiểu được mục đích của Chính Đức khi tới đây. Tuy là quan văn nhưng đã quen thuộc với việc quân sự ở Đại Đồng, tất nhiên Hồ Toản hiểu rằng nếu có thể lôi kéo được Đóa Nhan Tam Vệ thì không những Đại Minh bớt đi một mối nguy hiểm bên ngoài Trường Thành, mà xét về mặt lâu dài còn thu được lợi ích cực lớn.

Nếu thật sự có thể thay đổi loại chợ mậu dịch nhỏ lẻ như trước kia, cùng Đóa Nhan Tam Vệ thực hiện những cuộc giao dịch lớn về trà và ngựa thì khu vực Hà Sáo sẽ trở thành nơi cung cấp ngựa tốt cho Đại Minh. Từ đó hoàn toàn thay đổi cục diện chiến lược hiện nay mà quân đội Đại Minh đang chỉ giỏi phòng thủ không giỏi tấn công.

Có điều nghĩ đến việc Hoàng đế đích thân đi vào nơi nguy hiểm, Hồ Toản liền cảm thấy hãi hùng khiếp vía. Lão do dự:
- Đại Đồng thành cao tường dày, ngoài thành có mấy vạn đại quân của Dương tổng chế, theo suy nghĩ của bản quan, hẳn sẽ không đến mức bị Thát Đát xâm nhập. Nhưng gần đây giặc Thát thiếu thốn lương thảo nên chúng thường phái những đội quân nhỏ lẻn qua giữa những khe hở của đại quân ta mà tới hậu phương cướp bóc, hơn nữa vừa tấn công xong liền rút đi ngay, khiến người ta hết sức đau đầu. Việc này thường ngày thì cũng chẳng sao, nhưng nhất thiết không được để Hoàng thượng rời khỏi dịch quán.

Dương Lăng đáp:
- Việc này thì tất nhiên ta hiểu rõ. Ngàn vạn lần không được để Hoàng thượng tùy tiện đi vào nơi hiểm địa.

Hồ Toản lại nói:
- Đại vương điện hạ chấp chưởng Đại Đồng. Việc Hoàng thượng ở đây là việc quan hệ trọng đại, có nên thông báo với Đại vương không?

Năm xưa Chu Nguyên Chương phân đất phong vương cho các con, con trai thứ mười ba là Chu Quế được giao cho đất Đại Đồng, là một trong Cửu vương vùng biên ải. Sơn Tây có ba vị vương gia: Tấn vương ở Thái Nguyên, Đại vương ở Đại Đồng, Thẩm vương ở Lộ An.

Khác hẳn với các vị vương gia ở trung nguyên, bọn họ đều có quyền can dự vào việc chính trị và quân sự ở địa phương, chính là lên ngựa quản quân, xuống ngựa quản thần, thay Hoàng đế thống trị vùng biên ải.

Do đó đừng cho rằng nơi này có Tổng chế Tam biên, có Tuần phủ đại nhân là đầu não cao nhất về quân sự chính trị. Thực ra người thống trị và chỉ huy tối cao ở Đại Đồng chính là Đại vương; ngoài ra Đại vương và Thẩm vương còn chịu sự quản hạt của Tấn vương.

Dương Lăng thoáng ngập ngừng:
- Chuyện này tạm thời đừng nói với Đại vương thì hơn. Đại vương mà hay tin ắt sẽ trở nên bồn chồn lo âu, mà trong phủ Đại vương đông người, phức tạp. Lỡ mà để lộ tin trước khi Đóa Nhan Tam Vệ phái người đến thương nghị, tất Bá Nhan Mãnh Khả sẽ ra sức ngăn cản.

Hồ Toản suy nghĩ một lúc rồi giậm chân đáp:
- Được! Vậy bản quan xin cáo từ.

Hồ Toản nhíu chặt đôi mày, tràn đầy ưu lo cáo từ rời đi. Ngay cả nha môn Tuần phủ ông cũng không về mà lập tức chạy thẳng lên tường thành phái thêm người tăng cường phòng ngự.

* * *

Cửa hàng da họ Hàn là một cửa hàng buôn bán da vừa thành lập không lâu ở Đại Đồng, nhưng chỉ sau nửa năm đã trở thành một trong những số ít cửa hàng buôn bán da lớn ở nơi đây.

Từ khi đoạn tuyệt việc giao dịch ngựa với Thát Đát, đặc sản của hai vùng Nam Bắc đều phải dựa vào vận chuyển thủ công để buôn bán, gần như là một nửa buôn lậu, một nửa hợp pháp. Do đó lượng hàng hiển nhiên khó có thể cung ứng cho những nhà buôn có nhu cầu lớn ở các nơi.

Mà Hàn Lâm lại có thể đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người, bất kể là hàng da chất lượng loại nào, muốn có bao nhiêu thì cửa hàng da họ Hàn đều không hề do dự. Hơn nữa chủ tiệm Hàn Lâm là người hào sảng, mua bán công bằng, rất có tác phong của người trên chốn giang hồ, do đó việc làm ăn càng ngày càng phát đạt. Phần lớn những thương nhân buôn bán da miền Nam khi lên phương Bắc buôn bán đều chọn giao dịch với ông.

Cửa hàng của họ Hàn nằm trên con đường Đông Đại Nhai phồn hoa nhất Đại Đồng, cách phủ Đại vương không xa, bên trái là một cửa hàng xe ngựa, bên phải là khách điếm kiêm tửu lâu tên “Trạng Nguyên lâu” cực kỳ hào hoa.

Bởi vì chiến tranh và tuyết lớn thường xuất hiện vào mùa đông, do đó theo quy luật của các cửa hàng da ở đây, vừa đến mùa đông thì tất cả liền lập tức dừng làm ăn. Tuy nhà họ Hàn vẫn có một số ít khách hàng tìm đến, nhưng phần lớn nhân công đã trở về nhà tránh rét, trong cửa hàng vắng vẻ hiu quạnh vô cùng.

Một người lùn thấp mặc áo da dê, đi đôi ủng da chống trơn trượt bước lộp cộp lên lầu, đẩy cửa bước vào rồi tiện tay lột chiếc mũ da dê giữ ấm che kín cả mũi và miệng xuống, để lộ ra một khuôn mặt tròn xoe đỏ bừng. Đây là một thiếu niên mày rậm mắt to trông khỏe mạnh kháu khỉnh.

Cậu cầm chiếc bình trà lớn để trên bàn lên tu ừng ực, sau đó mới lau miệng hào hứng kể:
- Cha! Con nhìn thấy anh rể rồi, hiện giờ anh ấy đã vào ở trong dịch quán.

Trên lò than đặt một chiếc nồi đất, những miếng thịt dê tươi ngon đã được thêm gia vị đang sôi sùng sục không ngừng, hương thơm tỏa ra khắp phía. Trên bàn còn bày một số món ăn để nhắm rượu như lá sen khô, nhân hạch đào.
(té ra lá sen khô có thể nhắm rượu!!)

Một người đàn ông chừng hơn bốn mươi tuổi, thân hình tráng kiện, ngũ quan thô kệch bỏ chiếc hồ lô rượu màu nâu vàng xuống, trừng mắt rầy:
- Thằng nhóc con, cha còn cần con nói sao? Chúng ta cắm rễ ở đây quyết không được để người ta biết là có quan hệ với anh rể của con, con không để lộ tẩy gì đấy chứ?

Chú nhóc kia tất nhiên chính là Hàn Mãn Thương, cậu cười hề hề, đắc ý đáp:
- Làm gì có chứ cha? Con nhìn thấy anh rể rồi bèn đi theo đội quân của anh ấy một đoạn, nhưng anh ấy không nhìn thấy con. Cha! Cha thử nói xem lúc nào thì anh rể sẽ đến thăm chúng ta? Con thật nhớ anh ấy quá, lại càng nhớ tỷ tỷ. Hì hì! Tỷ tỷ sắp sinh em bé rồi, con sắp được làm cậu rồi, nghĩ thật là vui.

Ngoài miệng thì mắng con, nhưng đôi mày Hàn Lâm lại giãn hẳn ra, hiển nhiên ông cũng rất vui vẻ. Ông ồ một tiếng, đáp:
- Vị công tử Ngũ Hán Siêu do anh rể con phái tới mãi đến hôm kia mới rời thành. Bên ngoài đang đánh trận, y phải đi theo đường nhỏ, tuy rằng có người chúng ta phái đi dẫn đường, nhưng e là lúc này vẫn chưa đến được nơi cần đến đâu. Chắc anh rể ngươi còn phải ở lại đây một thời gian nữa.

Ông khẽ giơ ngón tay cái lên:
- Lăng nhi đi theo vị đó đến đây, đó là chuyện lớn bằng trời e là y không thể lập tức đến gặp chúng ta. Con đừng nôn nóng, cứ kêu đám người làm đi nghe ngóng tin tức, chú ý tất cả động tĩnh của các hạng người trong thành, đừng làm hỏng chuyện lớn của anh rể con.

Hàn Mãn Thương thất vọng ngồi phịch xuống một chiếc ghế dài, chụp lấy hồ lô rượu của cha nhấp một ngụm rượu nhỏ. Cậu lại vội vã cầm đũa gắp một miếng thịt dê nóng hổi từ trong nồi lên, khẽ thổi mấy hơi rồi bỏ vào miệng rồi đáp:
- Dạ, chuyện này cha không cần quá lo lắng đâu! Trong thành mà có người lạ nào ra vào ắt là không thể giấu được cặp mắt của đám người làm đó. Có ai lại nảy lòng cảnh giác với những thằng nhóc chạy loạn xạ khắp thành đó chứ?

- Đúng rồi! - Hàn Mãn Thương nằm bò xuống bàn, vừa đung đưa chân vừa nói tiếp - Mấy tay thương nhân ở Trạng Nguyên lâu cha đã điều tra rõ chưa? Người chạy đến đây làm ăn vào khoảng thời gian này không nhiều, vậy mà ông chủ của bọn họ còn tụt lại, chưa đến!? Họ đã ở liền một mạch tới bảy tám ngày rồi, đúng là lạ thật!

Hàn Lâm lắc đầu đáp:
- Còn chưa điều tra được gì cả. Có lẽ đó là những thương nhân mới vào nghề, không hiểu thời vụ với tình hình ở nơi này. Bà chủ và những người hầu đó đều ở trong khách điếm cả ngày, không giống như là người có mưu đồ gì.
Trong thời chiến tranh loạn lạc này, phải mang theo một lượng lớn tiền bạc và hàng hóa xông pha nam bắc nên có đám người hầu tinh thông võ nghệ cũng là việc bình thường. Hơn nữa quan sát giấy thông hành và hộ tịch của bọn họ đều không thấy có gì đáng nghi, nhưng để đề phòng tình huống bất ngờ, cha vẫn kêu tiểu nhị ở khách điếm chú ý đến bọn họ hơn.

* * *

Trạng Nguyên lâu là khách điếm lớn nhất Đại Đồng, đã có lịch sử hơn trăm năm. Vương phi của Chu Quế, Đại vương đời đầu tiên, là thứ nữ của danh tướng Từ Đạt. Bà này khá có phong thái như phụ thân, tuy tướng mạo bình thường nhưng lại một thân võ nghệ. Khi được gả vào phủ Đại vương, bà dẫn theo một nha đầu tùy thân họ Tống cũng tinh thông võ nghệ. Về sau, cô tỳ nữ này rời vương phủ gả cho người khác, rồi thành lập nên Trạng Nguyên lâu ở đây.

Có mối quan hệ này với phủ Đại vương, tửu lâu càng ngày càng mở rộng, dần dần phát triển thành một tổ hợp quán rượu, khách điếm, sòng bạc, kỹ viện. Trạng Nguyên lâu chiếm diện tích rất lớn, tuy làm ăn rất nhiều ngành, nhưng mỗi loại đều có khu vực riêng. Ngay đến khách điếm cũng phân ra làm ba tòa lầu có cấp bậc cao, trung, hạ khác nhau, do đó các hạng tam giáo cửu lưu đều muốn ở trọ tại đó. Rồng rắn hỗn tạp, đây là nơi dễ nghe ngóng tin tức nhất.

Tuy Đại Đồng là nơi chiến loạn nhưng đồng thời cũng là nơi dễ phát tài nhất. Qua hơn trăm năm, các đời chủ nhân của tửu lâu này kiếm được rất nhiều tiền của. Năm kia, thiếu chút nữa thì giặc Thát đánh được vào thành khiến cho chủ nhân tửu lâu vô cùng sợ hãi không muốn tiếp tục ở lại đây. Nhưng số người có thể bỏ ra một khoản tiền lớn mua lại Trạng Nguyên lâu quả thực không nhiều, do đó họ đành phải một mực kéo dài việc làm ăn mãi. Khi thế lực của Nội xưởng mở rộng đến đây, bọn họ liền ngấm ngầm mua lại Trạng Nguyên lâu, bề ngoài vẫn tuyên bố đây là việc làm ăn của nhà họ Tống, nhưng bên trong thực ra là do Hàn Lâm chưởng quản.

Cập Đệ lâu là khách điếm hạng trung của Trạng Nguyên lâu, cũng phù hợp với thân phận của vị thương nhân buôn da đó. Hiện giờ mới chỉ có phu nhân và vài người làm của vị thương nhân chưa thấy mặt đã đến đây ở trọ. Bọn họ thuê ba gian phòng khách liền nhau ở chỗ rẽ ở tầng hai, căn phòng ở giữa để cho phu nhân, hai căn phòng hai bên dành cho người hầu.

Vị phu nhân này đi lại hùng hùng hổ hổ, hành sự nói năng rất giống đàn ông, cực kỳ thô lỗ. Tuy có thân hình quyến rũ động lòng người, nhưng trên khuôn mặt bà ta lại đầy tàn nhang, hơn thế nữa còn thích trang điểm lòe loẹt. Bà ta vẽ hai hàng lông mày mỏng dính, nhưng dưới mũi thì lại là cái miệng to như chậu máu. Ngay đến mấy người làm thuê biết nhiều hiểu rộng của khách điếm cũng chẳng muốn nhìn lâu.

Khi tới thuê phòng ở trọ, bọn họ đã báo vì có việc nên ông chủ đến chậm, phu nhân không quyết định mọi việc được nên ở lại đây chờ ông ta đến, đã ở suốt bảy, tám ngày rồi. Vừa rồi vị thương nhân buôn da đó mới dẫn theo một vị tiên sinh tính toán sổ sách và sáu người làm thuê đến khách điếm. Người làm của khách điếm đã được Hàn Lâm dặn dò từ trước, vừa sai người lén đi thông báo cho Hàn Lâm vừa bưng một chậu nước đưa lên lầu.

Trong phòng, Dương Hổ vòng tay ôm chặt ái thê, mãi một hồi lâu sau mới buông ra, kích động:
- Thật là lo đến chết ta mất! Hôm đó không ngờ lại trúng phải mai phục của tên cẩu quan Dương Lăng, ngay đến chỗ giấu ngựa cũng đã bị mai phục sẵn, ta liền biết ngay là không hay. Sợ y đã sớm tra rõ gốc gác của ta với nàng, ắt căn nhà lớn trong kinh cũng có phục binh nên ta chỉ đành dẫn theo mấy huynh đệ bị thương bỏ trốn.
Sau đó ta phái người vào kinh nghe ngóng tin tức của nàng, lại nghe nói nàng đã bắt được Dương Lăng, dùng hắn làm con tin để trốn ra ngoài thành, tới lúc ấy ta mới yên tâm. Nàng không trở về đại trại tránh mặt một thời gian, còn giả trang thành bộ dạng quái quỷ này rồi chạy đến Đại Đồng làm gì? Huynh đệ đưa thư cũng không nói rõ.

Khi mới nhìn thấy trượng phu, Thôi Oanh Nhi cũng hết sức xúc động, nhưng lúc này đã dần bình tĩnh trở lại. Nghĩ đến việc trượng phu hám lợi khiến đầu óc lú lẫn, không nghe theo lời khuyên của mình mà lại theo lời xúi bẩy của Lưu lão đạo tiến đánh Cao Lão Trang, khiến tổn thất hai trăm huynh đệ thân tín; nàng không kìm được trừng mắt nhìn hắn một cái, sắc mặt cũng lạnh hẳn đi.

Nàng ngoảnh đầu qua nhìn thấy ông lão ăn mặc theo lối người hầu ở bên cạnh đang cười híp mắt nhìn mình, vội bước tới thấp giọng thưa:
- Ngũ thúc!

Đại trại mà Dương Hổ vừa nhắc tới chính là trại của nhà họ Thôi. Phụ thân của Thôi Oanh Nhi cùng một đám huynh đệ năm xưa tung hoành chốn núi rừng, là một nhân vật cực kỳ hiển hách trong giới lục lâm phương Bắc. Đến khi về già không muốn tiếp tục phiêu bạt nữa, lại chỉ có một mụn con gái, lão liền giao cho thủ hạ thân tín nắm lấy mười mấy tòa sơn trại tự lập môn hộ. Còn bản thân lão và một đám huynh đệ lui về ẩn cư tại Bàn Long lĩnh trong rừng sâu, sinh sống dựa vào của cải tích lũy được trong thời trẻ và việc tự trồng trọt cây thuốc, lương thực trong núi để dưỡng già.

Ngũ thúc mà Thôi Oanh Nhi vừa chào hỏi là người của đại trại nhà họ Thôi, hơn nữa còn là huynh đệ kết nghĩa với Thôi lão đại, tinh thông Ưng trảo công. Lão đã trông nom Thôi Oanh Nhi từ nhỏ đến lớn, coi như là người ruột thịt.

Lão khẽ vỗ vai Thôi Oanh Nhi, cười nói:
- Đừng đau lòng! Ngũ thúc đã nghe kể cả rồi, cháu có thể gây nên việc kinh thiên động địa như thế là giỏi lắm! Tất cả các thúc thúc bá bá ở sơn trại đều đã biết hết cả rồi, tất cả đều cảm thấy vinh dự lây.

Dương Hổ bị Thôi Oanh Nhi mỉa mai quen rồi nên cũng không cảm thấy tức giận, gã vẫn nôn nóng:
- Nương tử! Nàng đã trốn được khỏi kinh thành, tại sao không tiện tay giết luôn tên Dương Lăng đó mà còn thả cho y quay về. Ta nghe chuyện cảm thấy rất khó hiểu, việc gì phải nói đạo nghĩa với đám quan binh đó chứ?

Thôi Oanh Nhi lạnh lùng liếc mắt nhìn gã, không đáp mà hỏi ngược lại:
- Ta gọi huynh đến Đại Đồng, huynh lại tìm cả ngũ thúc đến làm gì? Người của sơn trại nhà họ Thôi đã lui khỏi giang hồ, gân cốt không còn được như hồi trẻ, ngũ thúc tuổi tác đã cao, huynh còn muốn thúc ấy phải cùng bôn ba nữa hay sao?

Dương Hổ cứng họng, ngũ thúc vội cười giàn hòa:
- Xem hai đứa các cháu kìa, vừa gặp mặt đã cãi nhau rồi! Chuyện này không trách Dương Hổ được! Các cháu gây náo loạn ở kinh sư như thế, quan binh vùng Bá Châu liền trở nên điên cuồng hơn, rất nhiều sơn trại đã bị nhổ bật cả gốc rễ. Nếu không phải đại trại của chúng ta ở sâu trong rừng, e rằng cũng khó tránh khỏi bị ảnh hưởng.
Cháu Hổ thoáng cái đã tổn thất hai trăm trợ thủ đắc lực nhất, còn phải di chuyển sơn trại, chỗ nào cũng cần dùng người, nghe cháu truyền tin kêu y nhanh đến Đại Đồng, y không thể tìm được trợ thủ đắc lực nữa. Hoắc lão đại thương con rể, lại lo cháu sẽ xảy ra chuyện gì, ta bèn xung phong đi theo…

Lão nói đến đây, đột nhiên bước nhanh đến bên cửa mở toát cánh cửa ra. Gã tiểu nhị vừa rón ra rón rén bước đến ngoài cửa sợ đến giật nảy mình, chậu nước trên tay thiếu chút nữa thì đổ cả ra đất. Gã vội cười nịnh:
- Á! Lão gia tử mở cửa thế này thực khiến tiểu nhân sợ quá. Ông chủ đến rồi, ngài đi đường vất vả nên tiểu nhân đưa nước đến đây.

Bên trong chợt có một giọng nữ chói tai vang lên:
- Chớ có làm bộ hồ đồ nữa, nói là chỉ đến muộn ba ngày, tại sao tận bảy, tám ngày mới đến? Nói mau, chàng bị con hồ ly tinh nào mê hoặc rồi? Còn cả ngươi nữa, đừng có giấu giếm giúp y, nếu để lão nương biết ngươi lừa lão nương, chốc nữa ta sẽ đánh gãy cái cẳng chó của ngươi!

Thoáng liếc mắt nhìn vào bên trong, tiểu nhị thấy vị phu nhân mặc áo bông màu đỏ trông rất thô lỗ đó đang một tay xách tai vị đại hán thân cao bảy thước kia, một tay chỉ về phía một gã người làm đang cười nịnh không ngừng vâng vâng dạ dạ ở trước mặt. Cái miệng to như chậu máu của bà ta đang giận dữ mắng mỏ không ngừng.

Ngũ thúc cải trang thành vị tiên sinh trông nom sổ sách ho khan hai tiếng, nháy mắt ra hiệu với tên tiểu nhị, bảo:
- Khi cần nước thì tự nhiên chúng ta sẽ gọi ngươi, hãy đi xuống trước đi! Lão gia và phu nhân đang bàn chuyện làm ăn.

Gã tiểu nhị cố nhịn cười, vội vâng một tiếng rồi hấp tấp bưng chậu nước rời đi. Ngũ thúc đợi gã đi khuất qua chỗ rẽ mới khép cửa phòng lại, ghé sát tai vào cửa nghe ngóng thêm một lúc rồi mới đưa tay ra hiệu cho Dương Hổ và Hồng Nương Tử, thấp giọng bảo:
- Trong khách điếm đông người, phức tạp. Đi! Vào phòng trong nói chuyện, hai người các ngươi canh gác bên ngoài!

Hồ Đại Chùy và Hắc Diêu Tử gật gật đầu, đi đến đứng cạnh cửa với vẻ đầy cảnh giác; Dương Hổ, Thôi Oanh Nhi và đám người ngũ thúc đều đi vào phòng trong. Hồng Nương Tử bắt đầu kể lại việc Lưu lão đạo và Thúy Nhi là người của Di Lặc giáo, cố tình xúi bẩy Dương Hổ vào kinh ám sát Hoàng đế, sau đó lại nghe nói Hoàng đế muốn đến Đại Đồng tuần tra, vì sợ đả thảo kinh xà nên lại bán đứng nàng.

Hai tin tức này chẳng khác gì tiếng sấm nổ giữa trời quang. Dương Hổ trợn mắt há mồm, ngẩn người suốt một hồi lâu mới hầm hầm đứng dậy, nghiến răng nghiến lợi đau đớn tột cùng:
- Di Lặc giáo! Di Lặc giáo! Đám trời đánh này, ta không ngờ lại bị bọn chúng lợi dụng! Ôi! Hai trăm huynh đệ tốt cùng vào sinh ra tử với ta!

Hắn đấm mạnh một cái vào cây cột trong phòng, sắc mặt tái xanh, da thịt trên mặt co giật liên hồi.

Mấy vị huynh đệ vừa từ sơn trại tới đây đến lúc này mới biết rõ nội tình, cũng đều căm hận nghiến răng ken két. Căn phòng nhất thời trở nên tĩnh lặng, mãi một lâu sau, một vị huynh đệ đột nhiên biến sắc thốt lên:
- Lưu tiên… Lưu lão đạo đó là người của Di Lặc giáo ư? Chó chết thật! Vậy… Vậy lão nói Hổ ca là Tử Vi chuyển thế, có tướng đế vương gì gì đó cũng đều là những lời giả dối hay sao?

Mấy người bên cạnh nghe thế đều biến sắc, đưa mắt nhìn nhau hồi lâu. Dương Hổ thầm kinh sợ trong lòng, tới lúc này gã mới nghĩ đến tính nghiêm trọng của vấn đề. Người vô tâm nói ra điều yếu hại này tên là Phùng Phúc Chí, cũng là một huynh đệ tốt một lòng một dạ đi theo Dương Hổ. Thấy sắc mặt mọi người khó coi như thế hắn không khỏi ngượng ngập vô cùng, không nói ra được lời nào nữa.

Dương Hổ hơi tức giận nhưng không tiện phát tác; rốt cuộc vẫn là ngũ thúc già đời thành tinh, lão vội nói:
- Giang sơn đều là do con người đánh chiếm được cả, có ai nghe nói Hoàng đế được vận mệnh định sẵn thì không cần phải tự mình đi đánh thiên hạ mà có thể ngồi hưởng giang sơn đâu? Trừ phi đó là Thái tử của Hoàng đế đương vị.
Cả Tống Thái Tổ, Chu Hồng Võ đều cùng các vị hảo huynh đệ của mình kề vai sát cánh đánh lấy giang sơn vạn dặm; cái gì mà sớm có tướng đế vương, chẳng phải là việc thành rồi mới có kẻ bịa đặt ra hay sao? Chúng ta đều là hạng cường đạo mã tặc, sớm đã giắt cái đầu bên thắt lưng quần rồi, chẳng ai là hạng đớn hèn. Liều một phen vị tất đã không thể chiếm được giang sơn!
Được rồi, chúng ta cứ nên thương nghị kỹ càng trước đã. Vừa nãy Oanh Nhi đã nói rồi, Di Lặc giáo cũng muốn tạo phản, có câu loạn thế xuất anh hùng, phải xem ai mới là kẻ mạnh. Nay không phải Dương Lăng đã dẫn quân vào thành rồi sao? Theo lời Oanh Nhi, gã Hoàng đế Chính Đức đó hẳn cũng ở trong quân rồi. Chúng ta cứ nên nghĩ xem làm sao mới có thể báo thù cho các huynh đệ đã chết, nghĩ xem làm thế nào mới có thể giết được Chính Đức trước đã!

Dương Hổ thầm cảm kích trong lòng, vội vàng tiếp lời:
- Ngũ thúc nói đúng lắm! Xem ra Di Lặc giáo cũng đã tới đây rồi, chúng ta nên chú ý tới những hoạt động của Dương Lăng hơn nữa. Di Lặc giáo có thể xua lang đấu hổ, hảo hán lục lâm chúng ta há lại không hiểu trò này hay sao? Hiếm khi Hoàng đế ra khỏi kinh thành, chúng ta nên nhân lúc biến loạn mà thủ lợi, tìm cơ hội giết chết hắn!

Hồng Nương Tử phản đối:
- Ta không đồng ý. Trên đường tới Đại Đồng nạn dân nhiều vô số, ta đã nghĩ kỹ rồi. Di Lặc giáo nấp ở chỗ tối, còn chúng ta đang ở ngoài sáng, quan binh đang bao vây tiêu diệt sơn trại chúng ta. Nếu Hoàng đế xảy ra chuyện gì ở đây, món nợ này ắt sẽ bị tính lên đầu chúng ta. Đến lúc đó cho dù là triều đình dốc hết binh lực cả nước đi đối phó với chúng ta, quyết tâm trảm thảo trừ căn thì hãy còn là nhẹ.

Nàng liếc nhìn mọi người lúc này đã biến sắc, nói tiếp:
- Hơn nữa… Giặc Thát đang đại chiến ngoài quan ải, chúng ta khởi sự là vì thay trời hành đạo, nếu lúc này Hoàng đế mất mạng, giặc Thát nhân loạn xâm nhập vào quan ải thì phải làm sao? Dân nghèo Bá Châu chúng ta sẽ là người gặp nạn đầu tiên, hơn nữa…

Cặp mắt nàng trở nên mông lung, hồi lâu sau mới rầu rĩ nói tiếp:
- Chúng ta có thể thật sự đánh chiếm được thiên hạ sao? Nếu chiếm được, chúng ta có thể trị vì thiên hạ sao? Chúng ta vốn cho rằng chỉ cần cướp của nhà giàu, không ép dân nộp thuế, không ép dân nuôi ngựa là được, nhưng đó là vì chúng ta là người ngoài cuộc, không đi chợ chẳng biết gạo, dầu, mắm, muối đắt tiền. Nếu thật sự đánh được thiên hạ rồi, liệu có thể không làm như vậy được không?

Mọi người đều kinh ngạc nhìn nàng, không hiểu tại sao nàng lại nói đến luận điểm này. Dương Hổ hậm hực lên tiếng:
- Nếu theo lời nàng nói, hai trăm huynh đệ của ta phải chết một cách vô ích sao? Mối thù này chẳng lẽ không báo nữa sao?

Hồng Nương Tử cắn chặt bờ môi, thấp giọng:
- Chúng ta đi giết người ta, chẳng lẽ lại bảo người ta vươn cổ ta cho chúng ta chém sao? Chúng ta cảm thấy cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo là thay trời hành đạo, nhưng quan phủ bắt giặc há lại không phải là đúng lẽ hay sao? Mà huống chi, y cũng chỉ vì tự bảo vệ bản thân mà thôi.
Oan có đầu, nợ có chủ! Nếu không phải Lưu lão đạo nói dóc cái gì mà thiên tượng sinh biến, đế tinh sắp tàn, chúng ta cũng sẽ không dẫn người lên kinh. Ta hận! Hận mình đã để cho Di Lặc giáo lợi dụng. Nhưng Di Lặc giáo ẩn trong bóng tối, tổng đàn ở đâu chúng ta không biết, giáo chủ ở đâu chúng ta không biết, muốn báo thù cũng chẳng biết bắt đầu từ đâu.

Nàng thoáng quắc mắt, gằn giọng:
- Chúng ta chỉ có mấy người thế này, có thể giết được Hoàng đế giữa thiên quân vạn mã sao? Huống chi Di Lặc giáo cũng muốn giết Hoàng đế. Bọn chúng căn cơ thâm sâu nên ắt đã sớm có chuẩn bị, Hoàng đế vừa chết, bọn chúng nhất định đã có kế hoạch chu toàn để mưu đoạt thiên hạ rồi.
Thế lực của chúng ta bị quan phủ điên cuồng đánh phá nên tổn thất quá lớn, rất khó tranh hùng với bọn chúng. Nếu chúng ta giết chết Hoàng đế há chẳng phải là giúp đỡ cho bọn chúng hay sao? Di Lặc giáo và chúng ta có mối thù sâu như biển, bọn chúng muốn làm gì, ta quyết không để chúng thành công. Ta muốn đợi khi Di Lặc giáo ra tay sẽ ngầm động chân động tay một chút, chứng thực chuyện này là do Di Lặc giáo làm, dẫn ngọn lửa này lên đầu Di Lặc giáo.

Dương Hổ vừa giận dữ vừa buồn bực. Hắn cho rằng cái đám yêu đạo suốt ngày giả thần giả quỷ mê hoặc ngu dân kia thì có gì là ghê gớm. Mã tặc ở Bá Châu đi qua nơi nào, ngay đến quan binh vệ sở cũng đều nghe gió mà sợ hãi, huống chi là một đám dân chúng chỉ biết cầm cuốc cầm cày, dựa vào bọn họ mà có thể giành được thiên hạ hay sao?

Trong lòng hắn luôn cho rằng triều đình hiện nay mới là chướng ngại vật lớn nhất ngăn cản mình hoàn thành đại sự. Giết chết Hoàng đế, triều đình Đại Minh ắt sẽ như rắn mất đầu, phiên vương có dã tâm ở các nơi nhất định sẽ nổi lên tranh đoạt, cho dù Di Lặc giáo có thừa cơ khởi sự, hắn vẫn cảm thấy mình chiếm nhiều phần thắng hơn.

Hiện nay thê tử lại nói ra những lời nhụt chí như vậy ở trước mặt tâm phúc của mình, còn muốn bảo vệ Hoàng đế, mượn sức của quan binh để đối phó với Di Lặc giáo, đúng là thiển cận hết sức! Phụ nữ mà căm hận một người nào, chẳng lẽ đều trở nên bất chấp lý lẽ như vậy hay sao?

Dương Hổ không kìm được, gắt gỏng:
- Đúng là kiến thức đàn bà! Bị bọn chúng lợi dụng thì sao chứ? Cho dù không có chúng, sớm muộn chúng ta cũng phải đối phó với triều đình. Nay bọn chúng đang có ý đồ ám sát Chính Đức, vừa hay chúng ta có thể thừa nước đục thả câu. Đây là cơ hội ngàn năm có một, sao lại có thể bỏ lỡ?

Hồng Nương Tử đứng bật dậy giận dữ đáp:
- Kiến thức đàn bà thì sao nào? Huynh có kiến thức sao lại bị người ta lợi dụng? Huynh đã đọc được mấy quyển sách rồi? Ta cảm thấy dự định ban đầu của chúng ta thực quá nông cạn. Đánh đánh giết giết chúng ta còn làm được, nhưng những đạo lý lớn đó ta không hiểu, chẳng lẽ huynh hiểu được sao?

Dương Hổ cũng đã nổi giận, lập tức phản bác:
- Cái lý lẽ gì như thế chứ? Sao lại đột nhiên nói đến chuyện đọc sách rồi? Chẳng lẽ những đạo lý lớn này của nàng là gã thày đồ dạy học nào nói cho nàng biết hay sao?

- Ta… - Hồng Nương Tử nhất thời cứng họng, hậm hực giậm chân, - Thứ khác ta không biết. Ta chỉ biết Di Lặc giáo là kẻ thù của chúng ta, bọn chúng muốn giết Hoàng đế, ta muốn lợi dụng Hoàng đế để giết bọn chúng. Ta chỉ biết nếu huynh thừa cơ ra tay, các huynh đệ trên sơn trại, còn cả cha mẹ vợ con của bọn họ nữa, toàn bộ đều sẽ vì huynh mà không còn chỗ nương thân; mà bọn Di Lặc giáo lại sẽ được lợi vô cùng, ta không nuốt cái cục tức này xuống được.

Ngũ thúc thấy hai người lại sắp cãi nhau, vội vã can:
- Hôm nay Dương Lăng vừa tới Đại Đồng, chắc sẽ không rời đi ngay. Bất kể chúng ta có động thủ hay không thì cũng đều không gấp, đợi sau khi chúng ta thăm dò rõ nội tình của bọn chúng rồi hãy bàn bạc tiếp cũng không muộn. Hai vợ chồng các cháu trải qua cửu tử nhất sinh, vừa mới gặp mặt nhau, đừng nên làm tổn thương tình cảm thêm nữa!

Nói đoạn lão bèn khẽ nhếch mép ra hiệu cho Dương Hổ, nói tiếp:
- Chúng ta đi vội đến đây, còn chưa được ăn no. Đi nào, chúng ta mau tắm rửa một chút rồi đi ăn vài miếng, uống vài chén cái đã!

Hồng Nương Tử hừ mạnh một tiếng, xoay người ngồi phịch xuống giường, giận dỗi ngoảnh đầu đi hướng khác không nói gì.

Dương Hổ bị ngũ thúc kéo ra ngoài, mấy huynh đệ khác thấy tình hình không hay, liền cũng đi theo sau. Phùng Phúc Chí thấp giọng nói với một huynh đệ bên cạnh:
- Ta thấy lời của đại tẩu có lý lắm, hơn nữa… sơn môn đã bị hủy rồi, có một số sơn trại đã bắt đầu hoài nghi việc đại ca là chân mệnh thiên tử, nếu Lưu lão đạo là người của Di Lặc…

- Suỵt…
Một người khác nhận biết vợ chồng Dương Hổ đều đang kìm nén một bụng đầy lửa giận, nên vội vàng giựt vạt áo gã, Phùng Phúc Chí lập tức ngậm miệng. Có điều tai Dương Hổ rất thính nên hắn đã nghe rõ những lời của hai người bọn họ. Đang trong cơn tức giận nên vừa nghe thấy những lời xúi quẩy này hắn liền chỉ hận không thể quay lại tát cho gã Phùng Phúc Chí kia một cái.

Dương Hổ cố nén giận đi về phía trước. Ngẫm nghĩ đến lời của Phùng Phúc Chí, bất giác hắn thầm kinh hoảng. Huynh đệ trên sơn trại của mình tất nhiên không có gì để nói, nhất định đáng tin, nhưng hai năm nay chiêu binh mãi mã, thế lực khuếch trương rất nhanh. Các sơn trại mình thu phục được có một phần là sợ hãi trước vũ lực của mình, một phần là vì tin lời đồn mình là chân mệnh thiên tử, nếu tin tức này mà lộ ra ngoài…

Nếu ngầm dặn dò mấy huynh đệ giấu giếm chuyện này đi, vậy chẳng rõ ràng là mình đang lừa gạt người khác, mà ngay đến cả mình cũng hoài nghi mệnh tướng của mình ư? Giới lục lâm có ai không biết Dương Hổ là một trang hào kiệt quang minh lỗi lạc, những lời này phải nói với bọn họ thế nào đây chứ?

Dương Hổ vừa đi vừa cúi đầu thầm nghĩ cách giải quyết chuyện này. Đột nhiên, một ý nghĩ tà ác lướt qua trong đầu hắn, khiến bản thân hắn cũng phải thầm kinh sợ. Hắn vội vã ngẩng đầu lên, hoàn toàn không dám suy nghĩ tiếp nữa.

* * *

Vừa sáng sớm Dương Lăng và Trương Vĩnh đã dẫn theo hai trăm tùy tùng đến phủ Đại vương bái kiến. Chính Đức trà trộn trong đám thị vệ nên ung dung đắc chí vô cùng. Trước đây đi đâu hắn cũng là nhân vật chính, mỗi hành vi cử chỉ đều phải chú ý đến phong thái của bậc đế vương, nay thì hoàn toàn không bị câu thúc gì. Nhìn những căn nhà thấp bé bên đường, nhìn những sỹ tốt nhàn tản đi qua, nhìn những tiểu thương nhân dịp năm mới gánh hàng, đẩy xe rao bán trên đường, Chính Đức cảm thấy hết sức mới mẻ.

Dù đường đường là bậc cửu ngũ chí tôn, chủ nhân của thiên hạ, nhưng ở lẫn trong đám thị vệ này, Chính Đức cũng chẳng khác gì một thị vệ bình thường cả. Nhìn từ bên ngoài, liếc sơ qua vị tất có ai nhận ra được hắn có gì khác thường.

Phủ Đại vương tọa lạc trên Đông Đại Nhai, tổng cộng có bốn cửa, cửa phía đông là Đông Hoa Môn, phía tây là Tây Hoa Môn, phía bắc là Hậu Tể Môn, phía nam gọi là Đoan Lễ Môn. Đoan Lễ Môn là cửa chính của vương phủ, bốn phía xung quanh đều được bao quanh bởi tường cao vững chắc khiến nó trở thành một khu vực độc lập hoàn toàn cách biệt với bên ngoài, trăm họ đều gọi nó là “Hoàng Thành”.

Phía trước Đoan Lễ Môn có một bức bình phong lớn dài hơn mười trượng, cao gần ba trượng, xây bởi các loại gạch lưu li màu lam khổng tước, lục, vàng sậm, vàng, vàng nhạt. Bên trên là bức bích họa có hình chín con rồng lưu ly vô cùng đẹp mắt.

Phần bên dưới bức bích họa là sóng nước màu xanh biếc cuộn trào dữ dội, phần bên trên là mây mù màu xanh lam và mây lành màu vàng. Những con rồng lớn được ngăn cách và nối liền với nhau bởi mây mù, mây lành, sóng nước, vách núi, cây cỏ; màu sắc rực rỡ, hết sức tráng lệ.

Bức bình phong chín rồng này so với bức bình phong ở Hoàng cung trong kinh thành còn lớn hơn nhiều. Hoàng tử thứ mười ba Chu Quế và Yên vương Chu Đệ đều do cùng một mẹ sinh ra, quan hệ rất tốt, thêm nữa vương phi của cả hai lại đều là con gái của Từ Đạt, do đó lại càng thân thiết hơn. Năm xưa vua Kiến Văn muốn tước quyền của các phiên vương đã chọn Đại vương để ra tay đầu tiên, đem bắt nhốt ông ta lại, khi Yên vương tạo phản thành công liền thả ông ta ra.

Về sau vị Đại vương phi có tính cách ngổ ngáo vào kinh nhìn thấy bức bình phong trong cung, đến khi trở về liền nhất quyết bắt Đại vương phải xây một bức bình phong lớn hơn bức ở kinh thành. Đại vương sợ vợ liền vội vàng đồng ý, kết quả là có bức bình phong chín rồng này.

Dương Lăng và Trương Vĩnh đưa thiếp bái phỏng, chẳng mấy chốc tổng quản vương phủ đã dẫn theo hai tiểu thái giám từ bên trong đi ra. Dương Lăng và Trương Vĩnh vội vàng xuống ngựa, tổng quản vương phủ mặt mày niềm nở cười nói:
- Vương gia nghe nói hai vị Khâm sai đại nhân đến đây nên hết sức mừng rỡ, lệnh cho nô tì ra ngoài nghênh đón. Hai vị đại nhân, xin mời!

Dương Lăng và Trương Vĩnh vội mỉm cười đáp lời, mỗi người dẫn theo tám thị vệ theo sau viên tổng quản đi vào Đại vương phủ. Bọn họ đi qua Thừa Vận Môn, Thừa Vận Điện, Sùng Tín Môn, Tồn Tâm Điện, lại rẽ về phía tây thì tới Ngân An Điện, đây là điện chính của phủ Đại vương.

Trên mặt đất, những viên gạch xanh mài nước đều rất vuông vức chỉnh tề, bằng phẳng hệt như mặt gương. Đại vương mặc áo mãng long bào tươi cười bước ra đón, lão đã hơn năm mươi tuổi, mặt trắng ít râu, dáng người béo lùn, thoạt nhìn có vẻ rất ôn hòa nhã nhặn.

Tuy rằng hai người là Khâm sai, nhưng Đại vương thuộc dòng hoàng tộc, vốn lão chẳng cần khách sáo như vậy. Có điều hai người này lại là đại thần hiện đang được Hoàng thượng tin tưởng nhất, Đại vương đời này là người đằm tính, lão không muốn chọc giận bọn họ.

Đại Đồng tuy trở nên tiêu điều hơn bình thường rất nhiều vì mùa đông và chiến tranh, nhưng cảnh tượng trong phủ Đại vương lại hoàn toàn khác. Từng điện, từng sảnh, từng viên gạch, từng cây cột, từng cành hoa, từng ngọn cỏ đều có sự độc đáo riêng. Ngân An Điện được sơn màu đỏ và quét vôi màu trắng, rường cột chạm trổ, thực là vàng son lộng lẫy, hào hoa tôn quý đến cực điểm.

Hai người là Khâm sai nên trước tiên vương gia dùng lễ thần tử khấu bái để vấn an Hoàng thượng, hai người hiên ngang đứng nhận lễ thay Chính Đức, sau đó lại khấu bái Đại vương. Hai bên khách sáo chào hỏi nhau một phen rồi mới lần lượt ngồi xuống.

Hàn huyên hồi lâu, Đại vương hỏi:
- Hoàng thượng phái hai vị đại nhân đến Đại Đồng úy lạo quân đội và tuần tra việc chiến sự ở biên quan, không biết lúc nào thì hai vị gọi Dương Nhất Thanh về thành?

Dương Lăng khom người đáp:
- Bẩm vương gia! Hạ quan nghe nói chiến sự ở tiền phương đang vào hồi cam go, Dương tổng chế thân là chủ soái, không thể tùy tiện rời khỏi chiến trường. Do đó, hạ quan định ngày mai sẽ cùng Trương công công cùng đến bảo Trấn Khương thăm Dương đại nhân, đồng thời thị sát việc phòng ngự ở đó.

Đại vương khẽ cười hà hà, cặp mắt nheo lại thành một đường thẳng, không ngừng gật đầu bảo:
- Rất tốt, rất tốt! Năm nay giặc Thát tập hợp quân lực hùng hậu, bản vương quả thực lo lắng vô cùng, may mà Hoàng thượng phái tới đây một viên tướng tài như Dương Nhất Thanh, đánh trận rất giỏi, cần khen thưởng thật hậu mới được.

Lão nâng chén trà lên, khẽ nhấp một ngụm rồi mỉm cười nói tiếp:
- Tuy gặp lúc chiến tranh, nhưng bản vương muốn nạp trắc phi, Hoàng thượng cũng đã đồng ý rồi, chuyện này không thể chậm trễ thêm. Năm ngày sau bản vương sẽ nạp trắc phi, đến lúc đó hai vị Khâm sai đại nhân nhất định phải đến vương phủ uống chén rượu mừng đấy nhé!

Nếu vương gia nạp một người thiếp bình thường thì không cần bẩm rõ với Hoàng đế. Nhưng trắc phi cũng là vương phi, nhất định ông ta phải xin Hoàng thượng ban thánh chỉ xuống, cho ghi vào tộc phổ của hoàng thất mới được. Vị vương gia này tuổi đã trạc ngũ tuần, vậy mà vẫn bỏ công làm lớn chuyện như vậy để nạp một vị có danh phận phi tử qua cửa, xem ra là rất yêu mến vị cô nương đó.

Vừa thấy Đại vương bưng chén trà lên, Dương Lăng và Trương Vĩnh đều đã đứng dậy, nghe xong lời mời liền không khỏi đưa mắt nhìn nhau cười khẽ, nhất tề khom người thưa:
- Thì ra vương gia còn có chuyện vui như vậy. Chúc mừng! Chúc mừng! Năm ngày sau hạ quan nhất định sẽ đến tham gia. Vương gia bận rộn sự vụ, bọn hạ quan không dám làm phiền thêm, xin được cáo từ!





Chú thích:





Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
05-07-2012, 11:08 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 189 - Vua Lên Biên Ải


Dịch: vo vong

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





- Được! Có tin tức gì hãy lập tức thông báo cho bọn ta, còn cả chuyện lương thảo cũng không thể chậm trễ! Để có thể vững chân tại đây, ngày mai bọn ta sẽ đại chiến với quân Minh một trận nữa!

Hắn túm lấy chiếc mũ da chó đội lên đầu, hậm hực mắng:
- Tên Dương Nhất Thanh đáng chết, bọn ta lùi hắn liền cắn chặt không buông, bọn ta đánh hắn liền rút vào trong thành, làm tiêu hao lương thực của bọn ta. Vương Thủ Nhân thì lưu manh vô lại, chuyên chơi mấy trò xấu như dùng độc, đặt bẫy. Hừ! Tướng quân người Hán các ngươi chẳng kẻ nào là hảo hán hết!






Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 189 - Vua lên biên ải

Chương 189 - Vua lên biên ải


Đội nghi trượng của Khâm sai chậm rãi đi về phía dịch quán, dân chúng trong thành đã quen với các đội quân lớn nên chẳng để tâm lắm tới đám chỉ hơn hai trăm quan binh này, vẫn tiếp tục bận rộn cùng hưởng thụ cuộc sống của bản thân.

Yêu cầu của những người dân sống tại tầng đáy của xã hội không hề cao, chỉ cần giặc Thát tránh xa đi một chút, gió nhẹ đi một chút, ánh mặt trời ấm áp hơn một chút, đó đã là những chuyện đáng để bọn họ cảm thấy may mắn và vui mừng rồi.

Tại Đại Đồng có hơn trăm ngôi chùa chiền, am ni cô hay đạo quán, có thể thấy khắp nơi trong thành là tòa viện liền kề, am miếu san sát, hương khói vờn quanh, tiếng tụng kinh vang lên không ngớt, khiến nơi sát phạt này vẫn là một thắng địa của Phật giáo.

Theo lệ thường, khoảng đất trống phía trước các chùa chiền, đạo quán là nơi tập trung của các quầy hàng. Bởi vì Đại Đồng là con đường huyết mạch từ Mông Cổ thông đến Tấn Ký Lỗ Dự (Tên gọi tắt của 4 tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc, Sơn Đông và Hà Nam – ND), nên tuy hai bên chém giết không ngừng nhưng phần lớn chủng loại hàng hóa được bày bán trong chợ vẫn là da lông, thuốc men, vật dụng cho ngựa của người Mông Cổ.

Trong chợ cũng có rất nhiều người Mông Cổ nhưng không người Hán nào có thái độ thù địch với bọn họ. Hai bên ở gần nhau như thế, có rất nhiều người Mông Cổ không thể sống tiếp ở quê mình nữa đã lén chạy tới địa phận của người Hán làm nhân công lao dịch, buôn bán. Một số gia đình người Hán giàu sang còn có thêm một nhóm võ sỹ Mông Cổ vừa trung thành vừa dũng mãnh. Những người này đã nhiều năm sinh sống ở đây, tình cảm đối với người Hán còn sâu sắc hơn đối với bộ tộc mình.

Hơn nữa thời đó còn chưa có phương thức truyền tin nhanh nên căn bản gian tế chẳng có bao nhiêu tác dụng. Dù thật sự nghe ngóng được tin tức tình báo nào đó thì đợi đến khi gửi được về đến nơi thì cũng sớm đã mất đi tác dụng rồi, còn kém xa một trinh sát được phái đi trên chiến trường. Do đó nha môn Tuần phủ cũng không trông chừng bọn họ quá chặt, chỉ cần có người bảo lãnh, trên người không mang theo vũ khí thì quyền tự do nhân thân của bọn họ cũng chẳng khác gì của người Hán cả.

Phía trước một ngôi chùa đang có một gánh hát đang biểu diễn, tại ngã tư phía trước lại có một đội xe ngựa rất dài đang vận chuyển lương thảo. Hoàng đế Chính Đức đang ở trong quân, Dương Lăng không dám đi thẳng tới sợ trong lúc hỗn loạn có kẻ thừa cơ hành thích Hoàng đế, nên y bèn hạ lệnh cho toàn quân dừng lại nghỉ ngơi tại chỗ.

Thời đó hí khúc đã dần hình thành phong cách riêng biệt của từng vùng, nhưng loại gánh hát nhỏ ở địa phương thế này tất nhiên chỉ hát mấy bài dân ca vùng quê, hơn nữa phần lớn còn chứa những lời thô tục.

Năm Hồng Vũ thứ 22, Chu Nguyên Chương từng đích thân hạ lệnh phàm tướng sỹ nào trong quân mà học những lời hát dâm ô sẽ bị cắt lưỡi; đáng tiếc có một số chuyện dù là Hoàng đế hạ lệnh cũng vô dụng. Những năm trở lại đây, nếp sống dân gian ngược lại còn càng ngày càng cởi mở hơn. Chính Đức ngồi trên lưng ngựa, cùng một đám thị vệ ngoảnh đầu nhìn về phía gánh hát, xem với vẻ rất hứng thú.

Câu chuyện kể về một vị Tiết độ sứ thời Đường, trong tay có tới mấy chục vạn quân, nhưng lại sợ vợ như sợ cọp, ngay một người thiếp cũng không dám nạp. Về sau khó khăn lắm ông ta mới dụ dỗ được một tiểu nha hoàn xinh đẹp, nhưng vì quá sợ vợ nên mãi chẳng dám bước nốt bước cuối cùng. Vị đại tướng quân oai phong lẫm liệt đó đang đứng trên đài mặt mày sầu khổ hát:
- Gió nhẹ mây trong trời gần sáng, bà xã phạt ta quỳ trước giường. Hàng xóm đâu tỏ tường nổi khổ, còn tưởng (ta) thanh nhàn hóa ẩm ương.

Chính Đức và đám thị vệ đều ôm bụng cười vang, vô cùng vui vẻ. Gánh hát diễn tiếp đến đoạn Tiết độ sứ hẹn hò với tiểu nha hoàn ở hậu hoa viên, vừa gặp mặt liền vội vã nhào tới ôm ấp hôn hít cô nàng, rồi lại hát:
- Nha hoàn xinh đẹp, muốn giết ta ư, sao mãi lúc này nàng mới tới, mừng lắm thay, quần áo y nguyên ngồi ôm ấp, toàn thân trên dưới nàng đều thật đẹp, dù không thể chung giường ân ái, ta sờ chút thôi cũng đỡ thèm.
Khi hát đôi tay gã diễn viên còn không ngừng lên lên xuống xuống, bộ dạng hạ lưu vô cùng.

Người dân dưới đài lớn tiếng khen hay, có vài người lấy ít tiền đồng vứt lên trên đài. Gã diễn viên đóng vai tên lính quèn canh gác vội vàng cúi người xuống nhặt, đồng thời còn nháy mắt với người xem dưới đài, độc thoại rằng:
- Tiểu nha hoàn chỉ được mẽ xinh đẹp, hơn mười lăm tuổi rồi còn chưa từng lên đỉnh; phải biết là lão gia nhà ta sợ vợ, nếu không còn tưởng là thạch nữ(*) ở hậu hoa viên. Hê hê hê, xấu hổ thay, chẳng biết thiếu nữ hoài xuân làm sao chịu được cơn ngứa ngáy này!
(*): Phụ nữ bị dị tật bẫm sinh, có dị vật che chắn âm hộ; nghĩa bóng là người phụ nữ lãnh cảm

Dưới đài lập tức vang lên vô số những tiếng huýt sáo, tiếng cười đùa, lại càng có nhiều tiền đồng được vứt lên đài hơn. Những người dân vùng biên ải cả ngày phải lăn lộn giữa sự sống và cái chết này quả biết hưởng thụ cuộc sống hơn người Trung Nguyên.

Nghe thấy những lời dâm dật đó, Trương Vĩnh cảm thấy hơi không ổn bèn ngoảnh đầu nhìn qua Chính Đức, thấy hắn đang nghe một cách say mê, nếu không phải còn nhớ mình đang ở trong hàng ngũ, e cũng sớm đã lao đến dưới đài cùng đám thảo dân kia hò hét không ngừng rồi. Lão hơi khó xử, nói với Dương Lăng:
- Đại nhân! Những lời hát này thực tục tĩu quá, để Hoàng thượng nghe thấy rất không ổn! Ngài xem… có nên kêu người đuổi bọn họ đi không?

Dương Lăng ngoảnh đầu nhìn lại, y thấy Chính Đức đang mặt mày hớn hở, không ngờ nghe đến chỗ thích chí còn quên cả địa vị mà đưa tay vỗ vai gã thị vệ bên cạnh, tiếng cười vang lên không dứt. Trong lòng y đột nhiên cũng cảm thấy vui vẻ, đưa mắt nhìn Chính Đức với vẻ cưng chiều, rồi ngoảnh đầu lại mỉm cười:
- Thôi, mấy điệu hát này tuy đúng thực là bất nhã, nhưng cũng chưa đến mức dạy hư được người ta đâu.

Y thầm nghĩ: “Nhớ khi xưa mình còn xem av đạt đến cảnh giới tối cao, không gì là không tỏ tường, vậy mà bây giờ cũng có bị dạy hư gì đâu. Những kẻ phạm tội đó có người là nông dân chẳng hiểu gì về đồ điện tử hay máy móc, có kẻ là con ông cháu cha tiền chất đầy nhà; đây hoàn toàn là vấn đề nhân phẩm mà thôi!
Cái gì mà xem phim heo nên bị biến chất, chẳng qua là mấy kẻ bị bắt lại kiếm cớ nói càn mà thôi. Ngay đến mấy câu hát hơi phóng đãng này mà cũng không nghe được thì tiểu Hoàng đế làm sao chịu nổi sự chinh phạt của ba ngàn giai lệ chốn Hậu cung chứ?”

Trương Vĩnh nghe y nói như vậy bèn không nói gì thêm. Vì trích đoạn kịch này chuyên diễn cho người đi dường xem nên không hề dài, chẳng mấy chốc đã diễn đến đoạn thủ hạ của viên Tiết độ sứ đó hiến kế cho ôn ta giương cờ làm phản lại bà xã, rồi lấy tiểu mỹ nhân kia về làm vợ. Đại tướng quân toàn thân giáp trụ, tay cầm Thanh Long Yển Nguyệt đao, sát khí đằng đằng đi vào phòng trong, phía sau có bốn gã tiểu tốt vào vai thiên quân vạn mã.

Bà vợ xấu xí của Tiết độ sứ ở trên giường tỉnh giấc, nhìn thấy bộ dạng đó của trượng phu thì trừng mắt lên hỏi:
- Kêu chém kêu giết cái gì, ông muốn giết ai?

Viên Tiết độ sứ lập tức rùng mình, rồi quỳ ngay xuống trước giường cười nói:
- Chuyện này… Vi phu định giết gà cho nàng ăn.

Xem đến đây, Chính Đức liền cười nghiêng ngả, chảy cả nước mắt.

Đội xe ngựa chở lương thảo phía trước đã đi hết, đội quân của Dương Lăng tiếp tục tiến lên, Chính Đức ngoái đầu nhìn lại phía sau vẻ không nỡ. Lúc đó, bà vợ hung hãn kia đã biết rõ ý đồ của trượng phu khi mang đao tới phòng bèn nổi giận đùng đùng. Đại tướng quân phải chạy ra khỏi phủ, nhảy lên lưng ngựa bỏ trốn, còn hiềm ngựa chạy chậm nên vội rút cờ hiệu sau lưng ra quất lấy quất để vào lưng ngựa. Bộ dạng thảm hại đó khiến Chính Đức không kìm được lại bật cười.

Thì ra cuộc sống của người dân lại thú vị như vậy, tuy vấn đề ăn mặc có hơi kém một chút, nhưng thật là nhẹ nhàng thoải mái biết bao.

Chính Đức hệt như một đứa nhóc ở vùng quê nghèo khó vừa vào thành, nhìn thấy cái gì cũng cảm thấy mới mẻ. Người ở đây nhìn thấy gã cũng không quỳ xuống, còn gã thì không cần cả ngày căng mặt ra không nói lời nào, chú ý giữ gìn sự uy nghi của thiên tử. Một cuộc sống như vậy chính là điều mà gã mong ước bấy lâu.

Chính Đức hơi thúc ngựa, đi nhanh tới bên cạnh Dương Lăng, trên mặt vẫn còn nét tươi cười, hào hứng cất tiếng:
- Dương… Dương đại soái! Cuộc sống của những người dân bình thường này thật thú vị! Tuy có hơi khổ, nhưng bọn họ vẫn có thể tìm được rất nhiều niềm vui.

Dương Lăng gật đầu đáp:
- Đúng rồi, cho nên mới nói trăm họ là những người dễ đối đãi nhất. Nếu không có thiên tai khiến bọn họ chịu cảnh đói rét, khó có thể sinh tồn; nếu không có đám tham quan ô lại chèn ép bọn họ khiến bọn họ nhà tan cửa nát; thì chỉ cần có cơm ăn, có nơi ở, được đối xử đàng hoàng tử tế một chút, trăm họ ắt sẽ là những người dân tốt hết sức biết vâng lời.

Chính Đức cẩn thận ngẫm nghĩ về những lời này, trên đường trầm tư suốt một hồi lâu, sau đó mới thúc ngựa đuổi theo Dương Lăng, nở nụ cười nhẹ, trịnh trọng gật đầu nói với y:
- Ta hiểu rồi!

Đội nghi trượng đi qua cửa hàng da nhà họ Hàn. Dương Lăng ngoảnh đầu lại nhìn về phía đó một lần nữa, một thiếu niên đang đứng ở cửa nhìn thấy y liền không kìm được hé miệng cười. Bộ dạng tinh nghịch đó khiến y thầm cảm thấy ấm áp, bất giác nhớ đến người vợ yêu dấu Ấu Nương ở kinh sư.

Y thoáng gật đầu chào thật kín đáo với Hàn Mãn Thương rồi thúc chân vào bụng ngựa, tăng tốc độ lên. Cửa hàng da họ Hàn vừa là nơi y an bài để cha con Hàn Lâm kiếm sống vừa là tai mắt ngầm quan trọng nhất mà y sắp đặt ở Đại Đồng, quan hệ giữa hai bên không thể để lộ. Trước mắt bao người, y không tiện đi gặp nhạc phụ của mình.

Thêm vào đó lần này y xuất kinh với nhiệm vụ quan trọng. Trước khi đạt thành hiệp nghị với Đóa Nhan Tam Vệ, thân phận của Hoàng đế Chính Đức và mục đích thật sự của hắn khi tới đây càng để ít người biết tới thì càng tốt. Muốn đi gặp người thân, xem ra chỉ có thể đành phải đợi đến sau khi gặp đại thủ lĩnh của Hoa Đáng mới được.

***

Trong một căn phòng ở tầng hai của một ngôi tửu lầu bên đường, một gã trung niên thân hình cao lớn mặc bộ quần áo da nghiêng đầu ra ngoài cửa sổ quan sát đoàn quân Dương Lăng đi qua. Sau đó hắn quay trở lại ngồi xuống bàn, nhấp một ngụm rượu, cau mày:
- Dương Lăng vâng chỉ tuần tra vùng biên cảnh, tuy lần này đội ngũ hơi lớn hơn bình thường một chút, nhưng dù sao hắn cũng vừa bị bắt cóc ở kinh sư nên việc phòng vệ nghiêm ngặt hơn cũng chẳng có gì là khó hiểu. Thật chẳng nhìn ra là Hoàng đế đang ở đây!

Hắn nở một nụ cười khinh miệt, quắc cặp mắt sắc bén lên nhìn về phía đối diện:
- Hoàng đế của người Hán các ngươi giống như một bông hoa yếu ớt, giống như một con chim lông vàng được nuôi trong lồng, chỉ có thể nấp trong Tử Cấm Thành mà đưa hiệu lệnh. Chả được như Khả Hãn của bọn ta, đó là hùng ưng của đại mạc, anh hùng trên thảo nguyên. Thông tin Giáo chủ của các ngươi vừa báo không phải là giả đấy chứ?

Đối diện hắn là một thương gia béo tròn trắng trẻo tuổi chừng hơn năm mươi, trên người mặc một chiếc áo gấm dung tục, khuôn mặt nở một nụ cười đầy hòa khí, cứ tựa như là phật Di Lặc.

Tên thương gia nghe thế liền cười hà hà:
- Khất Khắc Nông tướng quân! Di Lặc giáo thần thông quảng đại, đệ tử của bọn ta có mặt ở khắp nơi, cho dù là tin tức của Hoàng đế cũng có thể thăm dò được. Chính Đức nhất định đang ở trong quân của Dương Lăng, tuyệt đối không giả!

Ánh mắt của kẻ được gọi là Khất Khắc Nông quắc lên nhìn chằm chằm vào gã hồi lâu, cuối cùng mới xoa tay bảo:
- Nhưng bọn hắn định gặp mặt Hoa Đáng ở đâu chứ? Lúc nào thì gặp mặt? Chúng ta rốt cuộc có cơ hội nào để lợi dụng không? Bọn ta đã không thể đợi tiếp nữa rồi.
Đại quân của Khả Hãn là những võ sỹ dũng mãnh nhất trên thảo nguyên, nhưng bọn họ không phải là thần, cũng cần có thức ăn. Hiện nay lương thảo của bọn ta đã dùng hết; không chỉ những con ngựa chết mà ngay đến những con ốm yếu hay bị thương cũng đều bị giết để ăn thịt cả rồi. Cứ tiếp tục như thế này nữa thì bọn ta chỉ có thể ăn thịt người thôi!

Gã Phật Di Lặc ngồi đối diện hoàn toàn chẳng hề quan tâm đến vẻ hung hăng của đối phương. Híp đôi mắt mọng nước lại, từ trong hai cái khe hẹp dài kia lộ ra những tia sáng rực, thân hình hơi ghé về phía trước, gã cười nhạt nói:
- Khất Khắc Nông tướng quân! Hãy nghĩ xem người các ngài muốn giết là ai? Là Hoàng đế! Hoàng đế của Đại Minh! Cơ hội này còn không đáng để các ngài đợi tiếp ư?
Hiện nay khác với thời Anh Tông ở Thổ Mộc Bảo; Anh Tông còn có anh em, Chính Đức thì không có. Chính Đức mà chết, những kẻ nắm binh quyền được hắn tin tưởng như Dương Lăng, Lưu Cẩn, Trương Vĩnh đều sẽ vì tội xúi giục Hoàng đế tới biên cảnh mà bị xử tử hết. Lý Đông Dương, Tiêu Phương và Dương Đình Hòa thân là Đại học sỹ, nhất định sẽ vì không làm tròn bổn phận, hộ chủ bất lực mà bị bãi chức.
Người của bọn ta sẽ thừa cơ xúi giục khiến các phiên vương nổi dã tâm, triều đình nhà Minh ắt sẽ đại loạn. Đến lúc đó bản giáo thuận theo ý trời, chọn lúc ấy mà khởi binh, sẽ dễ dàng đoạt được thiên hạ. Khi đó… tất nhiên cần tới sự giúp đỡ của thiết kỵ Thát Đát. Thử nghĩ mà xem, chúng ta sẽ giúp các vị thôn tính Đóa Nhan Tam Vệ; vùng Liêu Đông cũng thuộc hết về Khả Hãn, còn cả các vùng Cam Túc, Thanh Hải mà bọn ta đã đồng ý cắt nhượng nữa, những thứ này còn không đáng để các vị đợi tiếp sao?

Gã mỉm cười dựa lưng vào chiếc ghế, ung dung nhấp một ngụm rượu, lại gắp lấy một miếng thức ăn, nheo mắt nói tiếp:
- Người Hán bọn ta có câu “nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Để có một viên danh tướng còn mất cả vạn tính mạng như thế, huống chi điều các vị muốn đạt được còn lớn hơn nhiều, kiên nhẫn chờ thêm một quãng thời gian nữa thì có sao?!
Hoàng đế Đại Minh chuẩn bị gặp thủ lĩnh của Đóa Nhan Tam Vệ, loại hoạt động ngoại giao lớn như thế thì bọn chúng có muốn giấu cũng khó. Nhất định bọn ta sẽ thăm dò được những thông tin tiếp theo. Xin trở về hồi báo với Khả Hãn: bọn chúng đã tới đây rồi, thời cơ cũng không còn xa nữa.

Khất Khắc Nông nghiến răng đáp:
- Được, Du hộ pháp, ta sẽ chuyển lời về. Các ngươi hãy giúp bọn ta thăm dò rõ ràng xem xung quanh những thôn trang nào ở phía trước Đại Đồng không có phục binh, trong thôn còn có trâu ngựa lương thực không. Bọn ta… bọn ta nhất định phải phái dũng sỹ đi vòng qua đại quân nhà Minh, cướp lấy một ít lương thảo ở vùng phụ cận mới được.

Du hộ pháp vui vẻ đáp:
- Điều này thì bọn ta có thể làm được. Việc phòng ngự ở phía Liêu Đông của các vị cũng cần buông lòng hơn một chút, để các thủ lĩnh của Đóa Nhan Tam Vệ có thể bình an đến đây. Ha ha ha! Hoàng đế Đại Minh và tướng quân thân tín nhất của hắn, còn cả những thủ lĩnh bộ lạc có uy vọng nhất của Đóa Nhan Tam Vệ nữa. Khi bọn chúng đột nhiên bị giết chết thì đó chính là lúc bọn ta hô mưa gọi gió rồi.

Khất Khắc Nông nghe xong những lời đầy mê hoặc ấy, trong mắt không khỏi thoáng qua một nét hưng phấn và tham lam. Hắn uống một ngụm rượu lớn, đứng dậy nói:
- Được! Có tin tức gì hãy lập tức thông báo cho bọn ta, còn cả chuyện lương thảo cũng không thể chậm trễ! Để có thể vững chân tại đây, ngày mai bọn ta sẽ đại chiến với quân Minh một trận nữa!

Hắn túm lấy chiếc mũ da chó đội lên đầu, hậm hực mắng:
- Tên Dương Nhất Thanh đáng chết, bọn ta lùi hắn liền cắn chặt không buông, bọn ta đánh hắn liền rút vào trong thành, làm tiêu hao lương thực của bọn ta. Vương Thủ Nhân thì lưu manh vô lại, chuyên chơi mấy trò xấu như dùng độc, đặt bẫy. Hừ! Tướng quân người Hán các ngươi chẳng kẻ nào là hảo hán hết!

***

Ngày hôm sau, Dương Lăng và Trương Vĩnh dẫn binh ra ngoài thành, đến Trấn Khương Bảo ủy lạo sỹ tốt.

Tiền phương đang có chiến tranh, Dương Lăng và Trương Vĩnh không dám để Hoàng đế mạo hiểm nên lưu lại ba trăm thị vệ đại nội canh gác dịch quán. Y biết Chính Đức hiếu động, e hắn không nhịn nổi mà lại chạy ra ngoài chơi bèn phái người đi tìm luôn gánh hát nhỏ kia đến biểu diễn, hy vọng có thể giữ chân được vị tiểu Hoàng đế này.

Đại quân bắt đầu tiến đi. Mặt đất hơi chấn động, tiếng vó ngựa vang lên như sấm rền. Dân thường và binh sỹ đang tản mạn trên đường đều cố gắng tránh qua hai bên, mấy ngàn kỵ binh ào ạt đi qua, khôi giáp sáng ngời, đao thương bóng loáng.

Dương Lăng thúc ngựa đi trên con đường lớn bằng phẳng trong thành, thân quân hộ vệ ai nấy đều anh dũng mạnh mẽ, đi sát theo ở bốn phía trước sau phải trái y và luôn giữ vững cự ly nhất định.

Đại kỳ của Khâm sai thêu hình rồng màu vàng đen, chiến kỳ màu đỏ máu, soái kỳ thêu chữ Dương màu xanh sẫm, tất cả cùng tung bay trước gió, phát ra những tiếng phần phật. Cả đội ngũ đều là khinh kỵ tinh nhuệ, đội ngũ chỉnh tề uy nghiêm, đao thương bóng loáng tỏa ra ánh sáng lạnh ghê người, nhất thời sát khí ngợp trời, thể hiện rõ vẻ dũng mãnh thiện chiến của đội ngũ này.

Tất cả sỹ tốt đều mặc giáp nhẹ. Đi đầu tiên là đội lính ném lao, mỗi người đều mang theo năm cây lao dùng khi đánh bộ, cán lao được làm bằng gỗ mềm, dài chừng hai mét, trước to sau bé, đầu được bọc sắt, trọng tâm nằm ở phía trước. Loại lao này không thể ném xa, nhưng trong phạm vi mấy chục bước ắt có thể xuyên qua cơ thể người, giáp trụ cũng khó mà khăn cản, có sức uy hiếp rất lớn với kỵ binh Mông Cổ dũng mãnh.

Dù loại lao này không thể ném xuyên qua lá chắn, nhưng khi bị ném trúng rồi thì đối phương cũng không thể sử dụng lá chắn tiếp được nữa, chỉ có thể bỏ lá chắn đi mà chiến đấu. Còn nếu ném trúng cơ thể người hay ngựa, dù có thân thể to lớn như chiến mã cũng phải gục ngã ngay, khi đó kỵ binh phía sau sẽ khó mà tăng tốc tiếp cận quân mình, ngăn cản được ưu thế của kỵ binh.

Tiếp sau đó là đội súng ống, còn đội cung nỏ thì được xếp cuối cùng ở phía sau đội lính mang đao thuẫn và lính cầm côn sắt. Toàn bộ đội cung nỏ đều sử dụng những chiếc nỏ rất cứng, phải dùng chân mới có thể trương dây, có thể bắn tên xa tới năm sáu trăm mét, tên xuyên thủng giáp trụ là chuyện dễ như trở bàn tay.

Vốn kỵ binh sử dụng loại nỏ cứng này không thích hợp, nhưng Dương Lăng dẫn binh xuất kinh thì tác dụng chủ yếu của đội quân là phòng thủ, do đó y đã sắp xếp thêm tám trăm người sử dụng nỏ cứng bắn tầm xa. Thử nghĩ mà xem, khi khinh kỵ của đối phương đang ào ào xông tới, bầu trời phía trên đỉnh đầu bọn chúng đột nhiên xuất hiện một loạt tên dày đặc, rồi mấy trăm người ngựa bị bắn xuyên cơ thể gục ngã xuống đất, ngay sau đó lại là từng hàng từng hàng lao được ném tới.

Kế sau đó là loạt đạn đầy trời, rồi côn sắt và đoản đao cùng phát ra như mưa, trong thời gian ngắn đủ khiến cho bất kỳ đội tiên phong dũng mãnh nào của đối thủ cũng phải tan vỡ. Đợi khi đội ngũ chính của đối phương kịp xông tới thì đám khinh kỵ bọn họ đã quay đầu bỏ chạy xa rồi.

Trong hành dinh Khâm sai, Chính Đức cười híp mắt ngồi trên một chiếc ghế lớn bọc vải nhung, trước ngực ôm một đống lớn đồ ăn vặt, dáng vẻ rất khoan khoái, chẳng khác gì một đứa bé ngoan được dỗ dành nên hết sức vui vẻ. Để giữ bí mật thân phận của gã, người của gánh hát không được báo cho biết họ đang diễn cho ai xem, cũng không nhìn thấy Chính Đức. Trong sảnh treo rèm, hắn ngồi ngay sau bức rèm nên có thể nhìn rõ mọi thứ bên ngoài, nhưng đứng bên ngoài thì lại không thể nhìn rõ người bên trong.

Trên đài vừa mới bắt đầu biểu diễn, Chính Đức liền cười hà hà một tiếng, nhảy xuống bảo gã thị vệ bên cạnh:
- Ban thưởng cho bọn họ ra sức hát tiếp, sau khi trở về sẽ còn có trọng thưởng. Chúng ta đi thôi!

Viên thị vệ đại nội hơi ngẩn người, vội thấp giọng hỏi:
- Hoàng thượng! Chúng ta đi đâu?

Chính Đức trừng mắt nhìn gã, cười mắng:
- Đồ ngốc! Dương thị độc và Trương Vĩnh đi đâu thì trẫm tất nhiên cũng phải tới đó. Ở kinh thành thì không có cách nào cựa quậy được, nhưng đến đây rồi mà trẫm còn không thể tận mắt xem đại quân tác chiến, há lại chẳng nuối tiếc ư?

Sắc mặt viên thị vệ biến đổi hẳn, gã kinh hãi thưa:
- Hoàng thượng! Dương đại nhân đã dặn đi dặn lại xin Hoàng thượng ngàn vạn lần đừng rời khỏi dịch quán. Đang lúc có chiến tranh với giặc Thát ngoài biên cảnh, sự an toàn của Hoàng thượng quan trọng vô cùng, không thể đi được!

Chính Đức bất mãn:
- Lời của Dương Lăng thì ngươi nghe, lời của trẫm ngươi không nghe sao? Muốn kháng chỉ chắc? Hừ! Cứ nói là muốn phò tá trẫm làm một thiên tử anh minh; trông cái trò này, Dương khanh cũng muốn dỗ dành trẫm như dỗ dành trẻ con chắc, tức quá!

Thị vệ đã quen nghe mệnh lệnh của Hoàng đế, hai vị Khâm sai lại không ở đây, gã nào dám khảng chỉ nhưng vẫn thấp giọng van vỉ:
- Hoàng thượng! Sự an nguy của người quan trọng vô cùng, nếu người bị tổn thương gì thì dù róc xương lóc thịt bọn thuộc hạ cũng không bù đắp được.

Chính Đức đắc ý đáp:
- Ngươi không đoán được là trẫm muốn đi theo, Dương khanh cũng không đoán được là trẫm muốn đi theo. Ngươi tưởng trên đời này thật sự có thần tiên đoán được suy nghĩ nhất thời của trẫm hay sao chứ? Huống chi trong thành Đại Đồng có rất nhiều binh mã, một hiệu úy nhỏ nhoi như trẫm đi lại giữa thiên quân vạn mã, trên đầu lại không hề che lọng vàng, ai nhận ra trẫm được?
Hơn nữa ra khỏi Đại Đồng còn có Trường Thành, kế đó là hơn hai mươi công sự đóng quân như Hồng Tứ bảo, Trấn Xuyên bảo, Đắc Thắng bảo và hơn trăm phong hỏa đài. Trong thành thì có hơn mười vạn quân, giặc Thát vẫn còn ở ngoài Trường Thành, trẫm lại sợ đến nỗi không dám ra khỏi cửa ư? Bớt lằng nhằng, đi thôi!





Chú thích:





Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
09-07-2012, 05:54 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 190 - Cuộc chiến tại Trấn Khương quan


Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Chính Đức siết chặt hai nắm tay, tim như muốn nhảy khỏi lồng ngực, thì thầm:
- Đây là chiến tranh sao?

Lâu nay, những câu chữ trong sách binh thư đã dần hình thành trong lòng Chính Đức tâm lý cho rằng chỉ huy thiên quân vạn mã là cực kỳ oai phong, cực kỳ huy hoàng. Nay trước cuộc chiến tàn khốc trước mắt, tâm lý đơn giản này bị rúng động dữ dội. Đó là sự huy hoàng được tô điểm bởi máu tươi và tính mạng, tàn khốc biết dường nào: mấy vạn nhân mã đang chém giết nhau trong hẻm núi và giữa băng tuyết hoang vu ngoài quan ải.






Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 190 - Cuộc chiến tại Trấn Khương quan




Chương 190 - Cuộc chiến tại Trấn Khương quan

Thành Đại Đồng cao lớn và hùng vĩ, kiên cố và hiểm trở, được trang bị đủ các loại công cụ thủ thành, có thể nói là điển hình cho sự “sống trong yên ổn nghĩ ngày gian nguy” của Đại Minh. Đương nhiên, tính an toàn của nó còn cần phải chờ được thảo luận.

Toàn bộ tường thành Đại Đồng đều được xây trên cơ sở sử dụng đá thanh(*), đá phiến, đá khối và cột đá rồi trét "vữa" gắn kết; bên ngoài lại đắp thêm gạch xanh, loại gạch trung bình một viên nặng 35 cân (khoảng 18 kg). Như vậy, chúng ta có thể thấy được tường thành được xây dựng kiên cố và gian khổ đến chừng nào. (*: loại đá hình chữ nhật dẹp và dài)

Dương Lăng đến dưới chân thành ngửa mặt nhìn lên, không khỏi tán thán: "Hùng vĩ, quả là hùng vĩ! Tường thành hùng vĩ như vậy thực khiến người ta nhìn thấy liền mất hết tinh thần để đánh chiếm! Thật không biết trước đây giặc Thát làm thế nào mà suýt nữa thì đánh chiếm được toà thành lớn như thế này, hại khiến Đại vương phải chạy như bay về kinh thành khóc lóc, kể khổ với vua Hoằng Trị nữa."

Tường chính của thành Đại Đồng cao ba trượng, trên tường chính còn có tường chắn mái, trên tường chắn mái xây thêm tường gạch, lỗ châu mai trong tường gạch là nơi quan sát và là chỗ bắn cung nỏ của tướng sĩ thủ thành. Trên tường thành xây thêm lầu thành, chòi gác, vọng lâu, đứng cách nhau. Mái lầu xây kiểu "cửu tích hiết sơn"(*), bên ngoài có cột mái hiên vây quanh, nhìn thẳng xuống đường cái.
(*: xem hình http://a2.att.hudong.com/34/52/01300000265793122838527826145.jpg)

Những công trình kiến trúc cao thấp chập chùng trên tường thành dựng nên một phòng tuyến đa tầng: quân sĩ có thể quan sát, ẩn náu, di chuyển, bắn tên, tiếp ứng, khống chế từ trên cao; nó cũng cung cấp cao điểm cho tướng lĩnh chỉ huy, điều phối binh sĩ từ trên cao.

Hôm qua Dương Lăng đã phái người thông báo cho vị tuần phủ Đại Đồng là vị quan văn Hồ Toản mà động một tí là đòi sống đòi chết ấy, vì vậy tướng thủ thành trông thấy đại quân của khâm sai đến thì liền vội cho mở rộng cổng thành, thả cầu treo xuống. Đội quân thiết kỵ ào ào chạy ra; Dương Lăng đi giữa đoàn Hỏa Súng doanh.

Tiền quân và trung quân đã ra khỏi cổng thành, hậu quân đang ùn ùn kéo đến. Dương Lăng ghìm ngựa tránh sang một bên, ngoái đầu nhìn vọng lại về phía tường thành nguy nga và đồ sộ. Bên ngoài dãy tường thành hình răng cưa đặc thù đó, y còn trông thấy bốn vọng quân đài(1) đứng lẻ loi và cô độc. Chúng không có lối đi hay thang leo lên, chỉ có thể bắc ván gỗ giữa nóc đài với tường thành để đi lại; có thể dùng để công kích từ sau lưng quân giặc, phối hợp tác chiến và quan sát địch tình. Dương Lăng không khỏi tặc lưỡi cảm thán: "Tường đồng vách sắt có lẽ cũng chỉ thế này mà thôi".

Trong thành, ba trăm đại nội thị vệ đeo phác đao chuôi dài bọc thép và trường cung lợi tiễn đang phóng băng băng về phía cổng thành.

Từ thời Tống đến nay, binh chủng trong quân đội đều được phân định rạch ròi, không giống như quân đội thời Đường: bất kể là trường thương thủ hay đoản đao thủ, ai nấy đều đeo cung tên, bắn xa đánh gần đều được. Còn những binh sĩ mà Dương Lăng chọn ra, cưỡi trên lưng ngựa, đi dưới đất bằng, bắn xa hay đánh gần đều có thể tác chiến, cho nên mỗi người đều mang một cây cung cứng. Những tay đại nội thị vệ này không những võ nghệ tinh thông mà thuật cưỡi ngựa bắn cung càng không phải nói, cho nên bọn họ không chỉ đeo cung trên lưng, mà còn là loại tam thạch cung; đó là một loại cung khá cứng, tên loại cung này có nghĩa là cần phải dùng lực ba thạch (mỗi thạch # 60kg) mới kéo nổi.

Ở phía sau đại quân của Dương Lăng, mấy chục cỗ xe chở những vật phẩm được vận chuyển từ kinh sư và mua ở bản địa để khao thưởng ba quân nối nhau liên miên không ngớt, tốc độ cũng chậm, cho nên lúc này mới vừa ra khỏi cổng thành.

Tì tướng thủ thành còn chưa hạ lệnh đóng cổng thành thì chợt thấy lại có một đội kỵ binh giáp trụ sáng ngời xuất hiện. Trong đội kỵ binh đó có người quát lớn:
- Khoan đóng cổng thành, hậu quân chưa ra hết!

Không để vị tì tướng kịp truy hỏi, ba trăm thiết kỵ cùng hò hét xông qua, tiếng vó ngựa giẫm lên cầu treo vang rền. Ba trăm thị vệ này và những quan binh ở cuối đoàn đều đồng hành cùng nhau đến Đại Đồng, cho nên đã rất quen mặt nhau. Những tay ngạnh nỏ thủ xếp hàng ở cuối không biết chuyện Hoàng đế đang ở trong quân đội, càng không biết Dương Lăng ra lệnh cho ba trăm thiết kỵ đó ở lại, nay trông thấy bọn họ đuổi theo còn tưởng là đại soái thu xếp riêng cho bọn họ áp trận tại hậu doanh, cho nên cũng không hề dị nghị gì.

Tì tướng thủ thành thấy cả bọn ăn mặc và trang bị tương đồng, sĩ tốt hai bên lại quen biết nhau thì không hỏi thêm gì nữa. Đợi kỵ binh xông hết ra khỏi thành hắn mới cho kéo cầu treo lên, cánh cổng thành nặng trình trịch được đóng lại.

Dương Lăng hoàn toàn không hề hay biết hậu quân lại âm thầm có thêm hơn ba trăm tinh binh; giữ tin tức bí mật quá đôi khi cuối cùng lại trở thành sơ xuất lớn. Đại quân tiến về phía trước, hơn một canh giờ sau thì đến phụ cận của Trấn Khương bảo (*). (*: những thành trấn hoặc thôn làng có tường đất bao quanh thời xưa đều được gọi là "bảo")

Thám mã tiền quân đưa tin về, báo rằng Bá Nhan Khã Hãn của Thát Đát đang dẫn thiết kỵ chiến đấu với đại quân của Dương tổng chế bên ngoài quan ải. Dương tổng chế hiện không rỗi để trở về, xin đại quân của khâm sai hãy lên trên ải trước để quan sát chiến trận.

Dương Lăng nghe xong liền phấn chấn tinh thần, lập tức hạ lện tăng tốc tiến lên. Trấn Khương bảo cũng là một quan ải được xây dựa vào núi, chung quanh là trường thành uốn lượn như rồng, cứ cách quan ải hơn hai dặm đường lại có một con đường rẽ dành cho quân tăng viện chạy thẳng lên phong hỏa đài trên núi.

Còn chưa kéo đến Trấn Khương quan mọi người đã nghe thấy tiếng chém giết vang trời ngoài núi. Ngay bên hông lại xuất hiện một con đường rẽ đi lên phía phong hỏa đài. Đài này được xây trên mỏm núi hiểm trở, dễ thủ khó công, cho nên giặc Thát không công kích nó, nhưng từ nơi này đã có thể nghe thấy tiếng chém giết đinh tai.

Dương Lăng lập tức xuống ngựa, hạ lệnh cho đại quân ở nguyên vị trí chờ lệnh, còn mình tự dẫn hai trăm thị vệ lên ải. Lên đến phong hoả đài, một bả tổng chỉ huy lật đật chạy đến ra mắt khâm sai. Dương Lăng vội vàng hỏi:
- Tình hình chiến sự thế nào?

Vị bả tổng này cũng đã đánh giặc đến chán chê. Mặc dù rất kính sợ khâm sai và bên tai là tiếng chém giết rền trời nhưng khi nhắc đến chiến sự, gã vẫn điềm nhiên như không:
- Khâm sai đại nhân! Xin ngài chớ bận tâm, cứ cách hai ngày giặc Thát sẽ lại đến đánh một trận. Sấm to mưa nhỏ thôi, bọn chúng không công vào được đâu.

Lúc này Dương Lăng và Trương Vĩnh mới yên tâm, bèn vội vàng chạy đến lỗ châu mai nhòm xuống. Lúc này mặt trời lên cao, ánh nắng rọi thẳng xuống mặt đất, tuyết phủ trắng xoá cả dãy núi, soi rõ hẻm núi lớn bằng phẳng trước ải Trấn Khương, từ trên mỏm núi này nhìn xuống có thể thấy rõ hết mọi thứ.

Giữa núi cao hẻm thẳm vang vọng những tiếng thét gào liên miên không dứt, Dương Lăng và Trương Vĩnh không khỏi khiếp sợ sững sờ bởi khung cảnh trước mắt. Không chỉ bọn họ, mà thậm chí là trong hai trăm chiến sĩ thân quân vốn dũng mãnh không sợ chết có những quan binh chưa từng tham gia chiến trận nơi biên ải cùng với Chính Đức lén dắt theo hai mươi thân binh lên núi nằm ghé mắt vào lỗ châu mai đều tròn mắt líu lưỡi.

Đây chỉ mới là trận chiến sấm to mưa nhỏ sao?

Trường thành được xây dọc theo dãy núi quanh co uốn khúc, trước ngọn núi hiểm trở này còn có một hòn núi nhỏ khác, dưới nữa là một khe núi vắt ngang, xa hai dặm về phía trước chính là Trấn Khương quan. Trường thành nơi này hơi vòng nhô ra ngoài, cho nên ở đây có thể quan sát rõ mọi thứ trước quan ải.

Tiếng la hét, tiếng binh khí chạm nhau và tiếng ngựa hoà trộn thành một âm thanh vang trời vọng đất bất tận, âm thanh của từng đợt sóng người và binh khí va chạm lọt rõ vào màng nhĩ, mọi thứ như đang diễn ra ở ngay trước mắt. Do thế núi đặc thù, trên này lăn đá xuống cũng không thể nào đập trúng giặc Thát nên quân Minh trên phong hỏa đài chỉ có thể trơ mắt nhìn bọn chúng ồ ạt xông đến cổng thành ở bên phải của mình.

Hàng nghìn hàng vạn nào người nào ngựa, lúc nha lúc nhúc, lớp trước ngã xuống lớp sau tràn lên công kích quan ải, thi thoảng những tia sáng sắc lạnh của binh khí lại lọt vào tầm mắt. Dương Lăng nín thở, chăm chú quan sát mọi thứ, lặng im thật lâu không nói lời nào. Thậm chí Trương Vĩnh lâu nay quen thói khom lưng, miệng cười siểm nịnh giờ đây vẻ mặt cũng trở nên trang trọng.

Chính Đức siết chặt hai nắm tay, tim như muốn nhảy khỏi lồng ngực, thì thầm:
- Đây là chiến tranh sao?

Lâu nay, những câu chữ trong sách binh thư đã dần hình thành trong lòng Chính Đức tâm lý cho rằng chỉ huy thiên quân vạn mã là cực kỳ oai phong, cực kỳ huy hoàng. Nay trước cuộc chiến tàn khốc trước mắt, tâm lý đơn giản này bị rúng động dữ dội. Đó là sự huy hoàng được tô điểm bởi máu tươi và tính mạng, tàn khốc biết dường nào: mấy vạn nhân mã đang chém giết nhau trong hẻm núi và giữa băng tuyết hoang vu ngoài quan ải.

Trên thế giới này, chỉ có loài người là bậc tinh anh trên hết muôn loài mới có năng lực huy động bấy nhiêu sinh mạng, mới có năng lực hủy diệt bấy nhiêu con người. Vậy loài người đáng tự hào hay là đáng thương?

Dưới ải tiếng la hét chém giết inh ỏi, kỵ binh đông nghìn nghịt tung vó rong ruổi, sử dụng thuật bắn tên trác tuyệt không ngừng bắn lên đầu thành, yểm trợ cho đội bắc thang và chiến xa công thành tiến về phía trước.

Trên thành dưới đất, cờ quạt vờn bay, quân Thát Đát dùng đủ loại vũ khí công thành: máy bắn đá, xe bắn nỏ,… bắn lên đầu thành những tảng đá, những quả cầu lửa khổng lồ. Chúng đập vào tường thành phát ra những tiếng nổ đinh tai.

Trên thành cũng cho dưới thành 'biết tay': xa thì bắn đá, bắn tên bằng nỏ cứng, bắn hoả pháo, gần thì lăn cây, ném đá. Nhìn từ xa, liên tục có người leo lên được một nửa bức tường thành thì la hét ngã xuống dưới chân thành, biến thành đống thi thể máu thịt bầy hầy. Tản mác khắp nơi là những chiếc thang mây bị phá gãy và xe công thành bị bốc cháy.

Trên quan ải, bọn sĩ tốt đang không ngừng chạy đi chạy lại hoặc vận chuyển khí giới, hoặc bắn tên rồi di chuyển, hoặc hoặc cầm móc câu đẩy ngã thang mây, không ngừng ném cây gỗ và quăng đá tảng. Dưới sự công thủ với hỏa lực dày đặc như vậy, vẫn có từng tốp giặc Thát hung hãn không sợ chết trèo lên đầu thành, nhưng chỉ sau một đợt phản công thì chúng biến thành một đống thịt vụn.

Một chiếc xe công thành to lớn và bền chắc được mấy chục tên sĩ tốt đẩy đến cổng thành. Đầu xe nhô ra một cây cọc nhọn hoắt, dài hơi một trượng, nện vào cánh cổng thành rắn chắn. Trên xe trang bị mái che hình quạt, đá và tên bắn trúng đều không thể tổn thương giặc Thát bên dưới.

Từng cú nện khiến tim Dương Lăng cũng nảy lên theo. Lúc này trên đầu thành ném xuống từng chiếc vại gốm, đập vào nóc xe (công thành) vỡ tan từng mảnh, liền đó một cây đuốc được ném xuống, một tiếng nổ đinh tai phát ra, cả chiếc xe bùng cháy. Do mấy tên giặc Thát đều mặc áo lông thú dày cộm, bị dầu bắn trúng, trong chớp mắt bọn chúng đều biến thành những 'cây đuốc sống', vừa la hét vừa lăn lộn trên mặt đất để dập lửa. Dương Lăng đứng trên tường thành nhìn thấy cảnh đó mà chấn động trong lòng.

Ngay vào lúc này, một cánh quân khác bất ngờ tấn công quân Thát Đát đang hùng hổ công thành.

Nơi đây núi non nhấp nhô chập chùng, trong dãy núi có hai hẻm núi thông đến Trấn Khương quan, một rất rộng và thoáng, bề ngang ba mươi trượng có đủ, chính là con đường giặc Thát sử dụng tấn công quan ải. Con đường còn lại chỉ rộng hơn chục trượng, ngoằn ngoèo, dẫn sâu vào trong dãy núi, thông với Trường Thành nhấp nhô trên núi xa; đây hẳn là con đường bên ngoài duy nhất thông với một cửa ải khác.

Trong ải vốn có thể điều quân đi thẳng trên Trường Thành, không cần phải đi qua sơn cốc phủ tuyết trắng xoá. Nhưng lúc này nơi đó lại xuất hiện một cánh quân lớn đang di chuyển cấp tốc, đồng thời nhanh chóng hình thành trận hình công kích dạng góc nhọn.

Là cờ xí của quân Minh! Cánh quân này đa phần là bộ binh, đằng trước chỉ có mấy tay kị sĩ. Đối mặt với dũng sĩ Thát Đát ai nấy đều cưỡi ngựa tác chiến, ý định của bọn họ hiển nhiên là quấy nhiễu quân địch. Trong trận, một viên chiến tướng, quân đánh trống, quân kèn lệnh, quân cồng chiên, và quân cờ lệnh đều đứng đầu hàng ngũ, sau lưng là một cây soái kỳ, trên viết một chữ "Vương".

Bả tổng canh giữ phong hỏa đài mừng rỡ reo lên:
- Vương phó tướng từ Thanh Ngưu lĩnh đến chi viện rồi!

Dương Lăng nghe vậy thì máy động trong lòng, vội hỏi:
- Có phải là vị Vương phó tướng nọ?

Bả tổng đáp:
- Đại nhân, chính là phó tướng Vương Thủ Nhân dưới trướng Dương tổng chế, phòng thủ Thanh Ngưu quan, cách nơi này không quá ba dặm đường núi.

Dương Lăng khẽ ồ, liền vội vịn lỗ châu mai đưa mắt nhìn xuống phía dưới lá cờ chữ Vương. Y thấy rõ một vị tướng quân mặc giáp, khoác áo choàng xanh, điềm tĩnh ghìm ngựa đứng ở trong đội quân, từ xa nhìn không rõ tướng mạo.

Đao thương san sát, chiến sĩ mặc giáp cung kính trang nghiêm. Nhóm cung tiễn thủ được yểm trợ bởi những tấm thuẫn lớn, lắp từng mũi tên dài lên trường cung, mũi tên chìa ra khe hở của những tấm thuẫn như một hàng nanh sói.

Phát hiện có quân Minh tập kích từ sườn bên, đám giặc Thát la hét quay đầu ngựa xông về phía bọn họ đồng thời rút cung lắp tên ra bắn.

Vị tướng quân cưỡi ngựa vẫn bình tĩnh đứng dưới soái kỳ. Loạt tên đầu tiên bay tới cắm bộp bộp lên những tấm thuẫn cao tới đầu người. Toán quân Minh này không có nhiều kỵ binh, bọn họ nấp dưới những tấm thuẫn cao như vậy thì rất khó bị trúng tên tập kích, nhưng nếu để cho kỵ binh kẻ thù tiếp cận thì gần như sẽ trở thành một cuộc chiến nghiêng hẳn về phía địch.

Kỵ binh giặc Thát phi rất đến nhanh. Khi hàng kỵ sĩ đầu tiên cách quân Minh chưa đến hai tầm tên bay, vị tướng quân đột nhiên vung mạnh cánh tay, dường như quát khẽ một tiếng. Một trận mưa tên dày đặc như đàn châu chấu bay trùm tới, tên bắn mạnh, ngựa phi nhanh, hai bên tranh hơn đua kém. Khi kỵ binh phi đến một tầm tên bay thì vừa lúc đón lấy trận mưa tên đầu tiên, nhất thời người la ngựa hí, kỵ binh khiếm khuyết trang bị bảo hộ tốt liền giống như vướng phải dây giăng cản ngựa, lập tức ngã rạp một mảng lớn.

Lúc này, đợt mưa tên thứ hai lại ập đến...

Trong hẻm núi chỉ có năm nghìn quân Minh, quân Thát Đát công kích Trấn Khương bảo lại có ít nhất ba vạn người. Mặc dù đội binh này tạm thời chiếm chút thượng phong, nhưng một khi giặc Thát tiến đến gần, bọn họ sẽ bị đồ sát dễ dàng. Dương Lăng không hề phát hiện trong quân có đội trường thương binh cầm trường thương to và dài mấy mét, vả lại khi nãy bọn họ vội vã chạy tới nên hiển nhiên không thể nào bố trí kịp cọc chống ngựa, hố bẫy ngựa lẫn dây cản ngựa.

Từ trên dãy núi nhìn xuống, y thấy một màu trắng mênh mông, gió thổi lồng lộng mãnh liệt. Khe sâu, đồi núi, đồng hoang đều đóng một lớp tuyết, vẫn là cảnh "non uốn phau phau, đồng vươn bàng bạc"(*) khiến lòng người thanh thản mông mênh, thế nhưng trong sơn cốc lại là tiếng ngựa hí người la, chém giết rung trời. (*: trích từ bài Thấm viên xuân tuyết của Mao Trạch Đông, Nam Long dịch)

Một tay thủ lĩnh của Thát Đát chĩa xéo trường thường, chiến mã dưới hông lướt đi băng băng như chớp, một người một ngựa dẫn đầu đội quân Mông xông thẳng vào phía quân Minh. Trường thương trong tay hắn xoay như gió lốc, gạt bay mọi lợi tiễn bắn đến. Quân Thát phía sau tựa như cuồng phong cuốn phăng mọi thứ, như lửa cháy lan khắp cánh đồng. Vó ngựa gầm vang, mặt đất rung chuyển, kỵ sĩ xung phong hò hét dọa người, thanh thế vô cùng đáng sợ.

Thế trận của giặc Thát công thành đã loạn, càng ngày càng bắt đầu có nhiều sĩ tốt tràn về phía miệng hẻm núi chật hẹp. Đội cung tiễn thủ của quân Minh lùi lại, "đoàng! đoàng! đoàng!", một trận khói mịt mù bao trùm cả miệng hẻm núi. Lính mang thuẫn rẽ ra, tiếng hỏa súng vang lên rợp trời, từng khẩu pháo liên châu lớn bắn ra từng loạt đạn lửa chi chít, tạo thành một đợt sóng công kích dày đặc.

Giặc Thát lại ngã rạp một mảng. Khói súng còn chưa tan hết, mọi người đã thấy mấy nghìn nhân mã trong hẻm núi được tướng quân cưỡi ngựa dẫn chạy vào sâu trong khe núi. Quân Thát Đát giận đến phát điên thúc ngựa điên cuồng đuổi theo. Bọn chúng vừa phóng ngựa vào đến sơn khẩu, đã thấy đám quân Minh trước mặt đang “hoảng loạn” chạy trối chết vụt cái đã đều nằm rạp xuống đất.

"Ầm ầm ầm!!!", tiếng đại pháo điếc tai nổ vang, hai mươi khẩu pháo tướng quân to bằng miệng bát, mỗi khẩu bắn ra cả trăm hạt bi sắt. Loại tấn công tầm ngắn này hết sức đáng sợ: mưa đạn che phủ khắp trời, gần bốn trăm tên giặc Thát tiên phong, bao gồm cả tay tướng quân cầm thương cực kỳ kiêu dũng nọ đều biến mất hoàn toàn sau khi loạt đạn pháo quét qua. Chỉ còn mấy thớt chiến mã thân thể đẫm máu chưa chết hẳn đang rên rĩ giãy giụa trên chiến trường rải đầy thi thể.

Trên ải Trấn Khương, tiếng trống trận vang rền, cửa quan ải được mở ra, xe công thành vẫn chưa cháy hết bị đẩy sang một bên, kỵ binh xuất hiện như hồng thủy vỡ đê. Kỵ binh giáp nhẹ bắn ra một loạt mưa tên, mỗi người cứ bắn ba phát tên lại cưỡi chậm lại, tránh sang một bên. Kỵ binh giáp nặng theo sau, đánh thốc tới, nhất tề va chạm với thiết kỵ của giặc Thát.

Từ trên quan ải nhìn xuống, hai đoàn quân như hai làn sóng lớn ập vào nhau trong nháy mắt, thoáng khựng lại, sau đó là người ngã ngựa đổ, máu thịt tung toé, thỉnh thoảng có người bị chém, đâm, máu thịt vương vãi khắp chiến trường. Mỗi một người đều liều mình tiêu diệt một sinh mạng khác; vừa rồi còn mặc sống quên chết đồ sát kẻ khác, lúc này có thể đã là đống thịt nát dưới chân ngựa.

************************************************** ************************************

Lều soái của vua Khả Hãn đủ chứa năm sáu mươi ngồi xếp bằng, nhưng lúc này bên trong lại chỉ có bảy tám người, nhưng bảy tám người này chính là những chúa tể tối cao của cả đại mạc và thảo nguyên. Trên tấm thảm lông lạc đà dày cộm trong góc lều lớn đặt tám chậu than cháy hừng hực, nhưng ở chính giữa lều chỗ mọi người ngồi lại hơi u ám.

Hai con mắt của Bá Nhan Khả Hãn đỏ hằn như máu vì phẫn nộ. Hắn ngồi ở vị trí chủ trì, hai tay chống gối, đầu đội mũ da hươu, người mặc áo da lộn, trợn mắt quát đám người trước mặt:
- Đừng nói thêm nữa, dũng sĩ của chúng ta đến chỗ của người Hán săn bắn, đã uống cạn rượu mạnh trong nhà, ăn sạch dê bò trong nhà. Nay chưa đánh cướp được con mồi nào mà cứ rút lui như vậy thì biết ăn nói thế nào với người trong bộ tộc chúng ta đây?

Bá Nhan Khả Hãn quét cặp mắt hùm, đám người ngồi trước mặt hắn đều khẽ cúi đầu, không dám đối mặt, chỉ có một viên tướng vạm vỡ tuổi trạc tứ tuần, nét mặt phong sương, mắt ưng lẫm liệt khoanh gối ngồi bất động thờ ơ không nói gì.

Bá Nhan Khả Hãn tuổi hơn ba mươi, đương là độ trẻ trung khỏe mạnh. Hắn khó chịu duỗi thân hình khôi ngô vạm vỡ của mình, bất mãn liếc người đàn ông ngồi chống gối không tỏ vẻ gì, hỏi:
- Nhân mã quân Minh và chúng ta ngang nhau, bọn chúng phải chia quân trấn giữ, chúng ta lại chỉ tấn công một điểm của chúng. Tuy bọn chúng có quan ải hiểm yếu để phòng thủ nhưng nhân mã công thành của chúng ta lại đông hơn, địa điểm và thời gian công thành lại do chúng ta chọn. Thế mà hiện tại đánh nhau đã mấy chục trận lớn nhỏ mà chúng ta vẫn không hề chiếm được một chút lợi thế là thế nào?

Người đàn ông mắt ưng trông cao ngạo kiên cường nọ miễn cưỡng quay đầu lại. Bá Nhan quét cặp mắt hùm, lạnh lùng hỏi:
- Hỏa Sư, ngươi có nhận định gì?

Người đàn ông mắc ưng thờ ơ đáp:
- Đại Hãn! Người của chúng ta thiếu ăn thiếu mặc, ngay cả chiến mã cũng không còn sức lực thì làm sao có thể phát huy sức chiến đấu của bọn họ đây?

Một gã nãy giờ cúi đầu lặng thinh lập tức ngẩng đầu cười khẩy nói:
- Quân Minh giao chiến với chúng ta, các nhóm bộ lạc đều tổn thất nặng nề, chỉ có nhân mã của ngươi không hề bị tổn thất gì. Hình như quân Minh sợ cái tên 'Hỏa Sư vũ dũng' của ngươi, ai nấy đều tránh không dám đánh nhau với ngươi cả. Hỏa Sư là người anh hùng ân oán phân minh, nhận giò đương nhiên phải thò lại chai rượu rồi.

Hỏa Sư tím mặt quát:
- Mông Lực Khắc! Ngươi nói vậy là ý gì? Lúc chiến đấu với quân Minh, nhóm bộ lạc(2) của ta chưa từng đứng sau kẻ nào, đã bao giờ có lòng riêng?

Bá Nhan trừng mắt lườm hắn một hồi, rồi bật cười thật lớn, quát:
- Mông Lực Khắc đừng nói bậy! Hỏa Sư là anh hùng thảo nguyên chúng ta, là đại tướng bản Hãn tin yêu nhất, sao có thể mang lòng riêng mà thỏa hiệp với quân Minh để bảo vệ thực lực của mình cơ chứ?

Gã thủ lĩnh có tên Mông Lực Khắc nọ chỉ cười khẩy mấy tiếng rồi không nói gì nữa. Khuôn mặt Hỏa Sư tái lại. Ngay vào lúc này, một gã mặc áo da thú vén lều rảo bước tiến vào. Bá Nhan trông thấy người đó không khỏi mừng rỡ hỏi:
- Khất Khắc Nông! Ngươi về rồi à, có phải đã gặp được người của bọn họ?

Khất Khắc Nông nhìn quanh lều một lượt, thấy mọi người đều là nhân vật đầu não của các nhóm bộ lạc Thát Đát, bèn yên tâm thưa:
- Dạ! Đại Hãn, tôi đã gặp hộ pháp của bọn họ.

Đoạn gã bước lên khom người thi lễ, sau đó thuật lại tin tức do Du hộ pháp của Di Lặc giáo thông báo cho mọi người. Mọi người có mặt nghe xong liền chấn động tinh thần. Bá Nhan hít một hơi thật sâu, rồi đứng bật dậy, nghiêm nghị lạnh lùng:
- Bất luận thế nào, chúng ta phải tiếp tục kiên trì. Mục tiêu hiện tại của chúng ta là Chính Đức chứ không phải cố tranh đoạt thắng bại như trước nữa!
- Thiên tử người Hán chỉ giống như một con gà con, trông thấy bóng dáng hùng ưng bay liệng liền sẽ sợ đến phát run, trốn vào lòng gà mẹ. - Bá Nhan ngửa mặt lên trời cười lớn một tràng dài đoạn vung tay - Ra lệnh cho đại quân rút lui, tạo hiện trường giả là đại quân ta muốn từng bước rút khỏi chiến trường trở về thảo nguyên. Hoa Đáng không phải là ngốc, hắn sẽ không chui vào trong túi triều đình nhà Minh. Chúng ta phải chừa cho hắn một địa phương an toàn để gặp mặt triều đình nhà Minh bàn chuyện kết liên. Bỏ Trấn Khương bảo, đưa quân về hướng Bình Thuận, Hồ Quan.

Mỉm cười nói xong, hắn quay sang bảo Hỏa Sư:
- Hỏa Sư, người nhóm bộ lạc của ngươi sẽ đoạn hậu. Một mặt ngăn cản quân Minh truy kích, một mặt chờ Di Lặc giáo đưa tin đến xong sẽ phái một tốp tinh binh cướp bóc lương thảo, kiềm chân khiến quân Minh phải đóng giữ ở nơi này, tránh phải lưỡng bề thọ địch!

Hỏa Sư cười khẩy trong bụng. Bá Nhan nói đường hoàng như vậy nhưng rõ ràng là đã không còn tín nhiệm mình lắm. Chỉ có điều xem ra hắn ta chỉ nghi ngờ mình vì bảo tồn thực lực nên đã có thỏa thuận ngầm với quân Minh, chứ không nghi ngờ mình đã nương nhờ vào triều đình nhà Minh. Cho nên hắn ta mới giữ mình lại đơn độc chiến đấu với quân chủ lực của nhà Minh, bức mình phải đánh một trận với quân Minh, bằng không thì đã không giữ mình lại phía sau để đoạn hậu.

Vả lại Hỏa Sư cũng không nguyện chạy đi làm tiên phong cho Bá Nhan đánh trận chiến ngu ngốc và hèn nhát này nên bèn vừa cung tay vâng lệnh, vừa âm thầm tính toán làm thế nào tránh quyết chiến cùng quân Minh, chỉ thừa cơ cướp đoạt chút lương thảo lắp đầy bụng binh sĩ của mình thôi.

Bá Nhan lại nói:
- Ra lệnh cho nhân mã công kích quan ải lập tức rút lui, cứ để quân Minh đắc ý thêm mấy ngày nữa đi.

Thủ lĩnh các nhóm bộ lạc khác nghe thấy mình có thể tránh được hai ôn thần Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân khiến người ta nhức đầu đó, kéo nhau đến những huyện chưa bị đánh cướp để kiếm bữa cơm no thì cũng rạng rỡ mặt mày, vội vã đứng dậy tuân lệnh thi hành.

Đợi mọi người cáo từ ra hết, nụ cười trên mặt Bá Nhan mới dần dần tắt. Hắn thả người ngồi xuống chiếc ghế lớn lợp nhung, thở dài mệt mỏi. Màn trướng bỗng vén lên, một thiếu nữ yểu điệu vận áo quần màu trắng lặng lẽ bước vào. Trong lều hơi âm u, cô nàng rón rén đi đến trước hai ngọn đèn mỡ bò treo thòng phía trước vương tọa, rút bên hông ra một cây loan đao nhỏ khơi nhẹ hoa đèn.

Ngọn lửa cháy cao hơn, trong lều sáng sủa hơn rất nhiều. Phần lớn người Mông Cổ có vóc dáng cao to vạm vỡ, nhưng thân thể yêu kiều của cô nàng lại rất là thon thả lả lướt. Ngọn đèn sáng tỏ soi rõ khuôn mặt cô nàng; chiếc cằm trơn nhẵn mịn màng đón lấy ánh đèn, gò má cong cong bên sáng ngời bên u ám phác họa nên một vẻ thanh tú cùng mỹ lệ bất phàm.

Hai gã thị vệ đứng bên Bá Nhan vội chắp tay trước ngực, cung kính thưa:
- Sát Tất Khả Đôn!

Trong tiếng Mông Cổ, "Sát Tất Khả Đôn" để chỉ Hoàng hậu, chỉ có chánh phi của Đại hãn hoặc Vương gia mới có thể xưng là Sát Tất Khả Đôn. Người đời đều biết lúc bảy tuổi Bá Nhan đã cưới bà thím họ hàng xa là Mãn Đô Hải Tư Cầm làm vợ, nhờ bà phò tá và lời hiệu triệu với thân phận hậu duệ trực hệ của gia tộc cao quí Thánh Cát Tư Hãn mới trở thành vua của thảo nguyên.

Thế nhưng người thiếu nữ thanh tú trước mặt lại trông chưa tới đôi mươi, tuyệt không thể là hoàng hậu Mãn Đô tuổi phải tới lục tuần. Sự thật thì sau khi Bá Nhan thành niên, Mãn Đô Hải Tư Cầm đã dần biến mất khỏi tầm mắt của mọi người, và người ta cũng rất tránh nhắc đến nơi ở của bà.

- Các ngươi lui xuống đi!
Bá Nhan vung tay cho hai gã người hầu lui xuống, rồi âu yếm nói với người thiếu nữ:
- Tái Lý Mộc Trác Nhĩ của ta, đến đây cho ta ôm nào.

Thiếu nữ áo trắng cười ngọt ngào, bước nhẹ nhàng đến bên hắn, được hắn ôm lấy liền nhảy lên ngồi trên đùi phải của hắn. Vị Hoàng hậu trẻ tuổi mỉm cười nói:
- Đại Hãn của thiếp, chiến sự không thuận lợi thì chúng ta rút về thảo nguyên là xong, cớ chi phiền não vậy? Chẳng phải là người Hán đã bị chàng dọa sợ đến nỗi không dám ló ra khỏi ải sao?

Bá Nhan cười ha hả, ôm ấy tấm eo thon của cô nàng:
- Trác Nhĩ à, xưa nay ta chưa hề lo lắng về triều đình nhà Minh, mà là lo về những bộ lạc dưới quyền ta. Lúc đánh thắng, cướp được dê bò và nô lệ về thì ai nấy đều nói cười rạng rỡ; nếu thua trận, mọi tù trưởng đều tính toán lợi ích cho riêng mình, kẻ có dị tâm nào chỉ một mình Hỏa Sư?

Tái Lý Mộc Trác Nhĩ dịu dàng vòng tay ôm lấy cổ, hôn lên khuôn mặt săn chắc của hắn, khẽ cười nói:
- Đừng lo lắng, đại vương của thiếp! Dưới sự trông coi của con hùng ưng như ngài, còn có ai dám nảy lòng bất tuân chứ?

Bá Nhan cười to, luồn một bàn tay to tướng vào trong người cô nàng, bóp lấy bầu vú mềm mại mà đầy đặn, kề tai nói nhỏ:
- Nói rất phải, cho nên... mặc kệ hiện tại phải tổn thất bao nhiêu nhân mã, mặc cho cái đám hèn hạ đó bàn tán sau lưng, ta sẽ làm theo chủ định của ta.

Bị hắn sờ nắn đùa bỡn, vị hoàng hậu trẻ tuổi nằm trong lòng hắn giảy nảy như cá mắc cạn, thở dốc không nói được gì. Hai người lăn từ trên ghế xuống thảm nhung, đai lưng được cởi ra, từng tấm y phục bị vất trên mặt đất; rất nhanh, một thân thể cường tráng màu đồng trùm lên một tấm thân trắng trẻo và mềm mại...

Hơi thở nóng hừng hực của Bá Nhan phà lên bộ ngực cao vút và căng tròn của cô nàng. Hắn cúi đầu nhìn đôi gò tuyết lê đầy đặn mịn màng, thấp giọng nói:
- Giết xong Chính Đức, đoạt được Liêu Đông, Cam Túc và Thanh Hải, kế đó sẽ đoạt cả thiên hạ, xây dựng lại Đại Đô! Hoàng hậu của ta, nàng sẽ theo ta đánh thẳng đến thắng lợi!

Ưm một tiếng, cặp đùi săn mẩy và mềm mại liền kẹp lấy hông hắn. Bá Nhan hừm khẽ rồi mạnh mẽ "đánh" vào...

************************************************** ***********************************

Trên tường thành, Dương Nhất Thanh mỉm cười sánh vai bước đi cùng Dương Lăng và Trương Vĩnh, quan binh đứng nghiêm trên quan ải Trường Thành, trải dài không thấy điểm cuối. Khói súng vẫn chưa tan, mùi máu tanh vẫn còn rất nồng, nhưng nhuệ khí binh sĩ dâng cao. Đối với bọn họ, có thể thắng trận, có thể sống sót trở về chính là điều hạnh phúc nhất.

Dương Lăng nói với Dương Nhất Thanh:
- Dương tổng chế! Nghe báo đại quân thắng trận, Hoàng thượng rất ư vui mừng thanh thản. Trước tiên ngài hạ thánh chỉ phong Dương đại nhân làm Tổng chế tam biên, sau lại ra lệnh cho bản quân đích thân vận tải một ít vật phẩm để ủy lạo quân sĩ. Mọi thứ như gạo mì, thịt rau, trái cây, cá trứng, chăn mền quần áo; các loại thuốc men phòng chống và chữa trị các loại bệnh sương lạnh, ôn dịch, đau bụng thổ tả; dầu mỡ, bao tay, than củi để chống rét sưởi ấm đều có. Chúng tôi đều đã đưa mỗi thứ một ít đến, hiện đang để dưới ải, vẫn xin đại nhân phái người kiểm nhận.

Trương Vĩnh cũng cười bảo:
- Còn có ngân lượng ban thưởng cho ba quân, bạc và một ít nhu yếu trợ cấp cho sĩ tốt thương tật. Cũng xin đại nhân mau chóng liệt kê danh sách, bảo quan thư ký thẩm tra rồi báo lên. Hoàng thượng rất hài lòng với lần đại thắng này và chiến sách tiêu hao quân Thát Đát, khiến chúng không trộm được gà còn mất gạo của đại nhân. Đúng rồi, sao không thấy Miêu công công đâu?

Trương Vĩnh thích cầm quân, Miêu Quỳ cũng mê đánh trận, hai người này một người nắm Ngự Mã giám, một kẻ giữ Binh Doanh, tính tình cũng khá hợp nhau. Tuy Miêu Quỳ lần đầu đốc chiến gặp xui nên phải đoái công chuộc tội, song vẫn đảm nhiệm chức giám quân của ba quân, theo lý thì lão nên có mặt trên quan ải mới phải.

Không ngờ Dương Nhất Thanh nghe hỏi lại hơi sững người rồi mới đáp:
- Bản quan đã cho trạm dịch quân đội đưa tin về kinh. Với tốc độ của bọn họ, hẳn là Hoàng thượng nhận được từ lâu rồi chứ, chẳng lẽ Hoàng thượng chưa thông báo cho hai vị khâm sai sao?

Trương Vĩnh và Dương Lăng trố mắt nhìn nhau. Dương Lăng lắc đầu bảo:
- Việc đó... hẳn là trên đường bị trì hoãn, chúng tôi chưa từng nhận được công báo trong kinh.

Đáp xong, y hơi chột dạ. Hoàng đế đang ở trong quân, tấu chương được đưa vào kinh cũng chỉ có ba đại học sĩ mới được xem. Chính Đức lại bí mật lẻn đi, để tránh tiết lộ tin tức, e rằng trừ phi là chuyện vô cùng khẩn cấp, ba đại học sĩ cũng không dám phái người đưa tấu chương đến trình lên Hoàng đế.

Dương Nhất Thanh nói:
- Ồ! Miêu công công cùng với Tổng binh Hứa Thái đã..., - nói đến đây hắn chợt ngưng lại, thấp giọng - Đợi vào trong quan lầu(3) hẵng nói. Quân vụ mà Miêu công công và Hứa Thái chấp hành hết sức cơ mật, không nên để quá nhiều người biết.

Dương Lăng hiểu ý gật đầu. Trông thấy dưới cửa ải sĩ tốt vẫn đang bận bịu dìu đỡ thương binh và dọn dẹp chiến trường, Dương Lăng lại nói:
- Dương tổng chế! Mục đích chia rẽ Bá Nhan và Hỏa Sư và tiêu hao lương thảo của bọn chúng đã đạt được, sắp đến đây hẳn sẽ tăng cường thế tiến công, đánh đuổi chúng về. Áng chừng một hai tháng nữa là xuân ấm tuyết tan, trăm họ cũng phải cấy cày, không thể kéo dài tiêu hao chiến với chúng ở đây.

Dương Nhất Thanh gật đầu đáp:
- Dương khâm sai nói rất đúng! Bản quan cũng đang lo nghĩ chuyện này, có điều tạm thời vẫn phải kìm chân bọn chúng thêm mấy ngày. Về phần nguyên nhân, ha ha, nó cũng có liên hệ với chuyện ban nãy. Bản quan thấy mấy ngày nữa hẳn là sẽ có tin tức trở về rồi, kéo dài thêm nữa thì bản quan cũng chịu không nổi đâu.
Mấy trăm vạn nhân khẩu ở vùng biên giới, còn hơn mười vạn đại quân; lương thảo chiến mã sử dụng càng lớn hơn nữa. Thảng như chiến sự kéo dài, nếu không có đồn điền quân binh mà chỉ dựa vào quân nhu lương thảo của triều đình, e rằng triều đình sẽ gánh không nổi, quân dân cũng sẽ bị đói. Đó là chuyện lớn!

Dương Nhất Thanh thân là Tam quan tổng chế, không chỉ phụ trách chiến sự, mà còn phải phụ trách công việc có liên quan đến quân chính, đồn điền. Mỗi năm đồn điền quân binh có thể giải quyết được một số lượng khẩu phần khá lớn, tầm quan trọng của nó không kém gì tác chiến.

Dương Nhất Thanh nói đến đây thì không nén được thở dài. Hắn là Tam quan tổng chế, binh mã dưới tay là do binh lính từ các trấn Đại Đồng, Thái Nguyên và Tuyên Phủ tập hợp mà thành, những kiêu binh mãnh tướng lâu năm trấn thủ biên thùy nào có dễ nghe lời.

Mấy năm trước Tổng binh Đại Đồng ngược đãi sĩ tốt, đám quân binh đánh trận không sợ chết này nào biết kính sợ quyền uy là gì, bèn nổi loạn làm thịt luôn gã Tổng binh, gây loạn một hồi. Triều đình muốn bắt kẻ đầu têu gây rối nhưng cũng không thể lần ra.

Tuy Dương Nhất Thanh xuất thân từ quan văn nhưng đã gia nhập quân đội từ lâu nên biết rõ quân đội là một tổ chức tương đối độc lập. Trong quân đội coi trọng nhất là uy danh, lai lịch, địa vị, hoặc là chiến công to lớn, hoặc là sự từng trải đủ lâu; nói chung là phải trấn áp được tình hình, bằng không sẽ rất khó điều khiển quân đội hay bố trí công thủ theo ý muốn.

Dẫn lính, cầm binh, điều khiển, tác chiến đều chú trọng đến quan hệ, tín nhiệm và ủng hộ của tướng sĩ, nếu chỉ dùng hình phạt nghiêm khắc sẽ không thể trấn áp được đám người lăn lộn trong đống xác chết này. Nếu không có cơm ăn, đó thực sẽ là chuyện lớn.

Cuộc chiến lần này đã kéo dài quá lâu. Tuy rằng Bá Nhan bị tổn thương lớn hơn, nhưng chẳng lẽ tiền bạc và lương thực mà Đại Minh đã tiêu hao mất lại không phải là vấn đề lớn?

Dương Nhất Thanh khẽ thở dài, nói tiếp:
- Nơi đây núi nhiều đất ít, ruộng đất cằn cỗi, nếu gặp thêm nạn hạn hán hay nạn châu chấu, thu hoạch mùa màng sẽ giảm sút nghiêm trọng. Tam quan có đông quân dân, nhiều chiến mã súc vật như vậy, một khi thiếu lương thực thì lòng quân lẫn lòng dân đều sẽ không yên. Bản quan đang cân nhắc vào giáp hạt sang năm sẽ cho quan binh bổ núi khai khẩn thêm ít ruộng núi. Có điều là... chút muối bỏ bể, có còn hơn không mà thôi.

Chợt máy động trong lòng, Dương Lăng liền mừng rỡ nói:
- Nếu như những mảnh đất cằn cỗi này khó xơi như gân gà, không ảnh hưởng mấy đến việc chuẩn bị lương thực thì bản quan có vài giống cây trồng cho sản lượng rất cao, không biết Dương tổng chế có bằng lòng cho trồng thử không? Trước hết sẽ cho trồng thử trong quân điền, năm sau nếu được mùa, sẽ tặng giống ấy cho trăm họ, tam quan cũng có thể trở thành kho lương của Tây Bắc vậy.

Dương Nhất Thanh ra vẻ xúc động, vội hỏi:
- Có giống cây trồng như thế ư?

Dương Lăng gật đầu đáp:
- Phải! Bản khâm sai có thể đảm bảo mấy giống cây trồng khoai lang, khoai tây, ngô từ Tây dương mà bản quan tiến cử. Hiện tại lúa mạch trồng trên một mẫu đất cằn đất cỗi, cho dù ông trời nể mặt giúp cho mưa thuận gió hoà thì cố lắm cũng chỉ có sản lượng từ ba đến năm trăm cân là cùng, còn loại khoai lang này có thể đạt đến ba nghìn cân trở lên. Tuy chỉ là ít lương thực phụ, nhưng là thứ cây trồng rất tốt để lót dạ lót dày, lại không tranh ruộng tốt với lúa mì lúa mạch. Dương tổng chế thấy thế nào?

Dương Nhất Thanh nghe xong thì kinh ngạc vô cùng, vội đáp:
- Một mẫu cho ba nghìn cân? Thực không dám nghĩ, thực không dám mơ! Ở cái địa phương này, nếu không tranh ruộng tốt, không phải để ý sắc mặt ông trời, một mẫu cho được nghìn cân đã đủ khiến bản quan cảm ơn trời đất rồi. Còn về phần lương thực phụ, bà mẹ nó chứ, người đói còn gặm cả rễ cây, ai còn đi so đo mấy thứ đó?

Dương Lăng nghe vị danh tướng có xuất thân tiến sĩ này thốt ra một câu thô tục như vậy thì không khỏi bật cười. Lúc này ba người đã đi đến cạnh thành lầu phía trên cửa quan của bảo Trấn Khương, Dương Nhất Thanh dừng bước cười nói:
- Nơi đây rất đơn sơ nhưng dẫu sao cũng có thể che chắn gió tuyết. Xin mời hai vị khâm sai vào!

Dương Lăng cười nói:
- Tổng chế đại nhân khách sáo rồi.

Đoạn y quay đầu lại ra lệnh cho hai trăm thân quân thị vệ:
- Các ngươi không cần phải chờ ở đây, cứ xuống quan ải giúp đỡ quân thủ vệ mang gạo mì thịt để ăn... ăn... ăn...

Lúc y xoay lại, một bóng người đứng sau đám đông chợt vội vã nấp vào sau lưng mấy tay thị vệ. Có điều người này y quá quen thuộc đi, nên y chỉ mới liếc sơ qua liền khiếp đảm đến trợn tròn hai mắt, thiếu chút nữa thì lòi cả tròng.

Vẻ kỳ lạ của Dương Lăng khiến toàn bộ sĩ tốt đều quay đầu lại nhìn, trên cổng thành nhất thời lặng ngắt như tờ. Tay "tiểu hiệu úy" đó đứng nấp sau lưng một thị vệ cao to một chốc, rồi lại rì rì lấp ló đi ra.

Dương Nhất Thanh và Trương Vĩnh vừa trông thấy, sắc mặt cũng lập tức trắng bệch. Ba người cùng trố mắt nhìn hắn, nhất thời không dám tin vào mắt mình. Theo ánh mắt của ba vị đại nhân, đám thị vệ liền dạt sang hai bên, dẹp đường cho viên tiểu hiệu úy khôi ngô tuấn tú nọ.

Tuy Chính Đức đi đến đâu là vạn cặp mắt đều dồn về phía đó, nhưng chưa từng có nhiều người dám trợn tròn mắt nhìn hắn chằm chằm như vậy, khiến hắn cũng cảm thấy không thoải mái.

Chính Đức ngại ngùng cười vẻ xấu hổ với ba người, rồi chậm rãi bước tới, lúng ta lúng túng như một đại cô nương, tướng đi hệt như một con búp bê rối.

(






Chú thích:
1) còn được gọi là "khống quân đài", dùng để quan sát, bắn ngang, phối hợp tác chiến, đề phòng quân giặc xuất hiện nơi điểm mù, lại có thể quan sát sự biến hoá của địch tình mà mau chóng áp dụng lấy biện pháp ứng biến phù hợp. Xem hình (http://img.niwota.com/album/images/2011-02-25/56851318.jpg)

(2) nguyên văn là "minh", trỏ nhóm các bộ lạc Mông Cổ gộp lại thành một liên minh, tạm dịch chung là "nhóm bộ lạc".

(3) lầu quan sát trên thành




Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
12-07-2012, 05:00 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 191 - Thư Nhà


Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Mở tiếp phong thư thứ hai, y cẩn thận giở tờ giấy ra, một hàng chữ liền đập ngay vào mắt: "Phu quân đại nhân ở trên cao, Liên Nhi xin vái người trăm lạy."

Dương Lăng vừa xem thấy thì bật cười to, cô bé đã chính thức gả thân cho mình này thật đúng là đã thay đổi rồi. Liên Nhi như thớt ngựa hoang cao ngạo bất thuần nay cũng ngoan ngoãn nhũn nhặn hơn rồi đây, cũng đã hiểu lễ nghi, biết kính trọng mình ba phần rồi.

Nhưng khi xem xuống tiếp, nụ cười của Dương Lăng liền đông cứng lại: "Dương Lăng, huynh thực là lợi hại! Thực oai phong! Thực giỏi quá! Huynh sắp chóng có một tiểu Liên Nhi hoặc tiểu Dương Lăng hoành không xuất thế gọi huynh là cha rồi. Huynh có vui không hả đại nhân của muội? Liên Nhi thực muốn đợi thêm hai năm nữa mới đi gặp phu quân của mình, nhưng mà ý trời như vậy, chồng sẽ trả lời thế nào đây?

Đại nhân hãy nghĩ ra diệu kế mà đón lấy thiếp thân, hoặc là lệnh cho thiếp thân uống thuốc giết chết hậu nhân của họ Dương đi, Liên Nhi sẽ nghe theo an bài của phu quân hết. Đúng rồi, Quan Quan công tử mê Liên Nhi. Mê lắm lắm đó, thực là ghét quá.

Tái bút: Hình như có người nào đó mắc bịnh kín trên người mới mang theo người đẹp thần y xuống Giang Nam thì phải. Vụ án này cho gác lại chờ xử sau."






Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 191 - Thư Nhà




Chương 191 - Thư nhà

Trong đám thân quân thị vệ của Dương Lăng cũng chỉ có vài người biết được thân thế thực sự của Chính Đức, cho nên đa số thân quân trông thấy đại nhân nhìn chăm chăm một vị tiểu hiệu thì đều rất kinh ngạc.

Nhìn vị tiểu hiệu úy tuấn tú trẻ măng đó, rồi lại trộm nhìn ánh mắt chằm chằm của đại nhân, Lưu Đại Bổng Chùy, vừa mới trở thành thân quân thị vệ của Dương Lăng, liền bừng tỉnh ngộ.

Vào thời Minh, "nam phong(*)" rất được ưa chuộng, được xem là tục phong lưu thời thượng, không ai bài xích hoặc khinh thường. Song song với việc bầu bạn cùng mỹ nữ, phần lớn vua chúa công khanh và danh sĩ tài tử đều có nam sủng tuấn tú và dịu dàng kề cận, bình thường thì mang theo làm thư đồng, đến tối thì trở thành bạn nô giỡn trên giường. (*: đồng tính nam)

Thời đó, quan hệ tình dục giữa hai người đồng giới được gọi là "ngoại giao(*)", giữa đàn ông và đàn bà thì gọi là "nội giao". “Ngoại giao” chẳng những được đạo đức, pháp luật, phong tục và tập quán đương thời thừa nhận mà những ái nhi (luyến đồng) được sủng ái còn được hưởng quyền lợi như là thị thiếp: bình thường thì được trợ cấp tiền bạc, đến khi hơi lớn tuổi cần phải rời chủ nhân đi cưới vợ thì sẽ còn được chủ nhân tặng thêm cho một món tiền. (*: "giao" ở đây là giao phối)

Sớm đã nghe nói đến phong tục của thượng tầng xã hội này, Lưu Đại Bổng Chùy trông thấy Dương đại soái và viên tiểu hiệu úy da dẻ mịn màng như đại cô nương nọ mờ mờ ám ám, hơn nữa, lúc này tướng đi của Chính Đức lại hơi ngượng nghịu khiến hắn càng nhìn càng sởn gai ốc. Xem ra gã tiểu hiệu úy tuấn tú này ắt hẳn là nam sủng của đại soái rồi!

Xoa xoa bộ râu quai nón của mình, Lưu Đại Bổng Chùy không khỏi thầm cảm thấy may mắn. May mà được mẹ già đẻ ra mình mặt xấu tướng thô, bằng không một đại nam nhân như mình mà bị đại soái nhìn trúng thì sẽ chướng biết dường nào?

Dương Lăng không hề hay biết vị thuộc hạ khù khờ ngốc nghếch mới tuyển của y lại còn có sức liên tưởng phong phú đến như vậy. Y cũng mặc đám thị vệ không rõ nội tình đang suy nghĩ những gì, đợi Chính Đức đi đến bên cạnh liền lập tức nắm lấy tay hắn kéo vào trong thành lầu. Dương Nhất Thanh và Trương Vĩnh đưa mắt nhìn nhau rồi cũng vội vã bước theo vào.

Đám Tham tướng, Phó tướng, Tì tướng bởi chức quan còn thấp nên chưa từng tận mắt nhìn thấy thiên nhan, mà cho dù mở rộng đầu óc ra gấp đôi thì bọn họ cũng không thể tưởng tượng được chàng trai trẻ mặt mày trắng trẻo này lại chính là thiên tử Đại Minh, là đương kim hoàng đế. Mặc dù bọn họ ai nấy đều nghi vấn đầy bụng, nhưng vốn từ một tiểu tốt lăn lộn đến chức vị ngày hôm nay nên cả bọn vẫn còn có đủ định lực, tất cả bèn giả tảng như chẳng có gì lạ thường, cùng thản nhiên bước theo vào.

Nhìn từ ngoài vọng lâu trông rất đơn giản, bên trong cũng chia ra làm ba gian là ngoài, giữa, và trong. Gian ngoài là nơi tiếp khách và chỉ huy chiến đấu hằng ngày. Gian giữa tương đối trống trải, ngoại trừ một tấm bản đồ lớn treo trên tường và một tấm sa bàn lớn đặt chính giữa phòng thì không còn thứ gì khác. Đây là nơi mà Tổng chế Tam quan Dương Nhất Thanh cùng các tướng bàn bạc quân vụ và hoạch định sách lược. Gian trong là thư phòng và phòng ngủ của Dương Tổng chế. Dương Lăng kéo hoàng đế Chính Đức bước băng băng vào thẳng gian trong, Dương Nhất Thanh và Trương Vĩnh cũng quýnh quáng chạy theo vào.

Các tướng vừa mới bước theo vào thành lầu thì Dương Nhất Thanh lại vụt ló đầu từ sảnh giữa, quát:
- Các tướng lĩnh đợi ở đây! Bản tướng có việc quan trọng phải thương nghị với hai vị khâm sai.
Nói đoạn hắn kéo tấm rèm nỉ dày cộp che lại, rồi đóng sập thêm cửa trong.

Mặc kệ chúng tướng bên ngoài trố mắt kinh ngạc, đằng sau cánh cửa Dương Nhất Thanh lật đật chạy thẳng vào gian trong, quỳ xuống trước mặt Chính Đức, nén giọng thưa:
- Thần Dương Nhất Thanh khấu kiến Hoàng thượng!

Chính Đức liếc sang Dương Lăng, thấy y mặt chảy xệ, không nói tiếng nào thì không khỏi bật cười hì hì. Hắn tuy nông nổi, song không phải là hôn quân không biết phải trái, đương nhiên hiểu rõ sự quan tâm và lo lắng của Dương Lăng đối với hắn, cho nên sắc mặt hắn không hề có vẻ bất cần.

Hắn ngồi lên chiếc ghế dựa mà Dương Nhất Thanh thường ngồi, cười bảo:
- Đứng dậy đi! Ở đây không cần phải đa lễ.

Dương Nhất Thanh vừa vội vã đứng dậy liền mở miệng hỏi ngay:
- Hoàng thượng! Sao ngài... sao ngài lại đến đây?

Mặt Trương Vĩnh cũng trắng bệch, giọng run rẩy:
- Phải đó Hoàng thượng! Ngài thực dọa chết nô tài rồi! Khi nãy bên ngoài còn có thiên quân vạn mã, may mà giặc Thát không mạnh bằng quân Nguyên năm đó, trong tay không có trọng pháo để dùng, nếu không ngộ nhỡ... ngộ nhỡ..., - lão nói đến đây thì không khỏi rùng cả mình.

Chính Đức cười nói:
- Lại nữa rồi! Trẫm biết, thân trẫm gắn liền với thiên hạ nên phải vì thiên hạ mà yêu tiếc lấy thân, thế nhưng già quá sẽ hóa non, mọi việc không thể lo quá nhiều. Đại Hãn của giặc Thát có thể đích thân lên ngựa chinh chiến sa trường, chẳng lẽ ngay cả dũng khí lên lầu trên tường thành xem giặc liệu trận mà trẫm cũng không có? Khanh muốn trẫm làm Hoàng đế thế nào?

Lời hắn tuy nói đùa, nhưng ý oán trách trong lời rất nặng, Trương Vĩnh nghe xong lập tức nín bặt, không dám nói thêm điều gì. Dương Lăng thấy vậy lại định dâng lời, Chính Đức trông thấy biết ý bèn nhảy tót dậy, sải bước đến sảnh giữa ngắm nghía tấm sa bàn lớn có sông ngòi đồi núi, sa mạc thảo nguyên.

Dương Lăng không biết phải làm thế nào, đành đi theo sang bên ấy. Dương Nhất Thanh vội vã bước theo y, thấp giọng hỏi dồn:
- Ôi trời ơi! Sao Hoàng thượng lại theo đến đây vậy? Hoàng thượng đến Đại Đồng làm gì? Dương đại nhân ơi, ngài hãy làm ơn mời Hoàng thượng mau trở về kinh sư đi. Mới vừa nhìn thấy Hoàng thượng mà tôi đã cóng hết cả chân tay, sợ đến muốn ngất rồi. Hoàng thượng mà ở đây, tôi thực sẽ không biết đánh trận như thế nào nữa đâu!

Dương Lăng cười khổ sở, nhất thời cũng không biết phải bắt đầu giải thích từ đâu. Chính Đức chắp tay đứng trước sa bàn, chăm chú quan sát một hồi, vui sướng khen:
- Tốt, địa hình, địa thế, địa mạo thật chi tiết! Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng.
Nói đến quan ải thành trấn của Đại Minh thì ai nấy đều rõ như lòng bàn tay.
Thế nhưng đối với kẻ giặc lâu năm như là Thát Đát, chúng ta lại chỉ biết rằng bọn chúng chia làm sáu nhóm bộ lạc và địa hình đại khái của chúng, mà nói một cách cụ thể, cũng không ngoài một mảng sa mạc và thảo nguyên rộng lớn. Trong khi đó tấm sa bàn này lại thể hiện rõ cả sông ngòi, nếu giao phong cùng Thát Đát trên thảo nguyên, chỉ riêng tấm bản đồ này đã đáng giá mười vạn đại quân rồi. Dương khanh nghĩ sao?

Tính cách ham chơi và bốc đồng của Chính Đức che mắt rất nhiều người, đến nỗi rất nhiều bậc túc nho thầm đau xót vì thiên tử bất tài vô năng mà không ai thèm để ý đến trình độ về Phật học, âm nhạc và binh pháp của vị tiểu hoàng đế mới chỉ mười sáu tuổi này. Tuy rằng về mặt binh pháp hắn chỉ mới ở mức dụng binh trên giấy, nhưng không có nghĩa là hắn không có kiến thức tương ứng. Một tấm bản đồ tác chiến chi tiết, đặc biệt là tấm bản đồ đó lại ghi chú những khu vực, đồng núi, sông ngòi, thảo nguyên và ao đầm xa lạ một cách tỉ mỉ đến như vậy, tác dụng của nó nào chỉ mười vạn quân.

Không kịp trả lời Dương Nhất Thanh, Dương Lăng bèn vội gật đầu cười đáp:
- Lời của Hoàng thượng rất phải. Quan ải có kiên cố, Trường Thành có hùng vĩ và hiểm trở đến đâu, nếu chỉ biết thụ động chờ người Thát Đát lấn hiếp đến cửa, thì cũng có ngày sẽ bị công phá. Trường Thành được xây từ đời Tần, tuy rằng không phải không có tác dụng, nhưng dẫu cho triều này nối tiếp triều kia, chuyện man tộc xâm phạm trung thổ vẫn xảy ra liên miên. Chỉ khi nắm rõ nội tình của chúng, có một ngày lấy công thay thủ, tiêu diệt hoàn toàn con hổ dữ nằm ở đầu giường này thì mới là lẽ phải.

Chính Đức vỗ tay khen:
- Chính hợp ý trẫm! Dương tổng chế, tấm bản đồ này là do trinh sát của khanh vẽ à? Đáng được trọng thưởng!

Dương Nhất Thanh liếc sang Dương Lăng rồi đáp:
- Hồi bẩm Hoàng thượng, đó là... bản đồ do mật thám Nội xưởng dùng việc buôn bán đồ da, trà và ngựa làm vỏ bọc, đi khắp đại mạc vẽ ra, rồi giấu dưới yên ngựa mang về. Dương xưởng đốc trình bản đồ lên cho Bộ Binh, Lưu thượng thư sai biên quan chế tạo ra đấy ạ.

- Ồ? - Chính Đức có phần bất ngờ, hắn vui sướng nói với Dương Lăng: - Nhìn không ra! Thật là nhìn không ra! Trẫm còn tưởng Nội xưởng chỉ biết kiếm bạc cho trẫm thôi chứ. Ừm, làm rất tốt, so với mật thám Cẩm Y vệ thực mạnh hơn gấp trăm lần.

Dương Lăng mang máng nhớ đến chuyện này. Khi Ngô Kiệt trình giao tấm bản đồ cho y. lão cũng cao hứng một hồi, nhưng khi ấy công tác nghiên cứu chế tạo hỏa súng của Nội xưởng vừa được mốt số kết quả khả quan cho nên y đặt toàn bộ sự chú ý lên phương diện đó. Vả lại tạm thời Đại Minh cũng không thể đi đánh Thát Đát cho nên y bèn căn dặn Ngô Kiệt lưu giữ một bản, sao chép cho Bộ Binh một bản, không ngờ Lưu Đại Hạ đã đưa đến biên quan.

Y nhìn kỹ tấm bản đồ. Các quan ải dọc tuyến quân Minh đều được đánh dấu rõ ràng, nhưng ba phần tư hình ảnh trên tấm sa bàn là đại mạc thảo nguyên. Thiết nghĩ, hiện tại quân Minh là thủ, Thát Đát là công, hành tung của đại quân chẳng qua chỉ trong vòng trăm dặm, đặt một tấm bản đồ sa bàn của Thát Đát trong căn phòng Dương Nhất Thanh nghiên cứu chiến sự hằng ngày để làm gì?

Nghĩ đến đây, Dương Lăng bỗng máy động trong lòng, trong đầu thoáng hiện lên một ý nghĩ. Lúc này Dương Nhất Thanh đã trả lời xong câu hỏi của Chính Đức, hắn tiếp tục khổ sở khuyên nhủ:
- Hoàng thượng! Mọi việc lớn trong thiên hạ đều cần có ngài quyết định! Một khi tin tức không có ngài tọa trấn kinh sư lan truyền ra ngoài, lòng dân ắt sẽ không yên. Thần nghĩ Hoàng thượng nên sớm hồi kinh mới phải ạ!

Chính Đức xua tay đáp:
- Không vội không vội! Trẫm đến đây cũng vì có đại sự phải làm. Việc ấy mà thành sẽ đáng giá như được năm mươi vạn quân vậy. Ha ha! Chốc nữa hãy bảo Dương khanh nói rõ cho khanh nghe. À đúng rồi, vừa nãy khanh bảo Miêu Quỳ đã đi làm việc gì?

Vừa nhắc đến việc này, sắc mặt Dương Nhất Thanh liền trở lên ngưng trọng, hắn bước lên thưa:
- Hoàng thượng! Bởi cần thực hiện gấp trước khi Bá Nhan Mãnh Khả lui binh, thời gian khẩn cấp, tấu chương đưa lên kinh thành lại cần đại thần các bộ thảo luận và thông qua, đi hết một vòng sẽ mất phải hơn nửa tháng, vuột mất thời cơ. Do đó thần đã lệnh cho đại quân xuất chinh.
Hoàng thượng đã âm thầm đến Đại Đồng, vậy ắt chưa nhận được tấu chương của thần, thần đành bẩm tấu với Hoàng thượng một lần nữa vậy.

Rồi hắn liếm môi, chỉ vào sa bàn diễn giải:
- Năm nay Thát Đát gặp phải tuyết to, cộng thêm Bá Nhan Mãnh Khả mang lòng báo thù cho con, cho nên hắn đã tập hợp các bộ lạc xâm phạm Trung Nguyên. Bảy vạn thiết kỵ đã là toàn bộ số tinh binh trên thảo nguyên.
Khi xưa tác chiến, đánh bại quân giặc xâm phạm, đuổi nó ra khỏi quan ngoại đã là đại thắng, nhưng thần nghĩ rằng, ta ở biên quan giết một vạn quân giặc sẽ không khiến lòng quân lòng dân của chúng bị đả kích bằng xâm nhập vào ngay bản thổ, ở ngay trong nhà chúng mà giết một trăm. Khi xưa chúng ta không nắm rõ tình hình lẫn địa thế của chúng ra sao, mạo muội xuất binh chẳng khác nào kẻ lòa dắt ngựa mù, nhưng nay thì không như vậy nữa.

Dương Nhất Thanh nhìn Dương Lăng với ý khen ngợi, rồi nói tiếp:
- Nội xưởng của Dương đại nhân hoạt động ở quan ngoại rất hiệu quả, thông tin tình báo đưa đến ùn ùn, vi thần nắm chắc mọi việc trong lòng mới dám to gan vạch ra kế này.

- Hoàng thượng ngài xem!
Dương Nhất Thanh vừa nói vừa trỏ vào bản đồ thảo nguyên nhấp nhô trập trùng. Chính Đức, Dương Lăng và Trương Vĩnh cùng nhìn chăm chú vào chỗ hắn trỏ:
- Chỗ này là nhóm bộ lạc Tích Lâm Quách Lặc, nhóm Sát Cáp Nhĩ Bộ, chỗ này là nhóm bộ lạc Y Lặc Hô Lý, nhóm Nhĩ Nhã Phạm, nhóm Ngạch Nhĩ Hoàn Nạp và nhóm Triết Lý Mộc, chỗ cắm cây cờ xanh này là nhóm bộ lạc Chiêu Ô Đạt.

Dương Nhất Thanh đắc ý nói tiếp:
- Phái một đội quân đơn độc xâm nhập vào sau lưng giặc vốn là điều đại kỵ trong binh pháp. Nhưng theo tình báo mà chúng ta nhận được, lần này Thát Đát dốc toàn bộ tinh binh ra chiến trường, hậu phương cực kỳ trống trải, người còn lại của mọi nhóm bộ lạc đều là người già phụ nữ và trẻ con, số binh sĩ ở lại trấn giữ có khả năng chiến đấu ít ỏi vô cùng.

Người Thát Đát lấy du mục làm lẻ sống, không có thành trì. Trước đây, cho dù chúng ta biết doanh trại bọn chúng trống rỗng cũng không cách nào tìm được vị trí của chúng trên đại mạc thảo nguyên rộng mênh mông, nhưng hiện tại đã có tình báo chính xác. Ta lại dựa vào bản đồ chi tiết, trước hết định rõ một con đường rút lui rồi thu xếp đại quân tiếp ứng khi cần. Cái kế hoạch một vốn bốn lời đầy rẫy nguy cơ này đáng để mạo hiểm.

Trương Vĩnh rùng mình, kích động hỏi:
- Dương tổng chế phái một cánh quân đơn độc xâm nhập vào sau lưng quân địch để tác chiến?

Dương Nhất Thanh gật đầu đáp:
- Đúng vậy! Đó là một đạo khinh kỵ gồm năm nghìn người, hoàn toàn là quân tiên phong lấy phá hoại làm mục đích mà không lấy chém giết làm nhiệm vụ. Đạo quân đơn độc này không nhận được chi viện và cung ứng từ quân nhà cho nên nhất định phải cướp đoạt lương thảo và cấp dưỡng từ các bộc lạc của người Thát Đát, dùng chiến tranh nuôi chiến tranh.
Người Thát Đát kiêu dũng thiện chiến, nhưng những bộ lạc sâu tận trong thảo nguyên ở hậu phương của bọn chúng lại không hề có sức chiến đấu. Mệnh lệnh của bản quan là giảm thiểu việc tàn sát những người già phụ nữ và trẻ con đến mức thấp nhất, sự sống sót của bọn họ chính là đồng minh của chúng ta và là gánh nặng của Bá Nhan Mãnh Khả. Nhưng phải cố hết sức phá hủy mọi thứ.
Mỗi khi đến tháng chín tháng mười, giặc Thát lại bắt đầu cắt cỏ phơi khô và tích trữ một lượng lớn cỏ khô chất cao như núi, đến đông sẽ lấy cỏ khô để nuôi bò nuôi dê, lấy dê bò nuôi người. Mệnh lệnh của bản quan là: ăn hết dê bò của chúng, đốt sạch cổ khô của chúng, giống như một đàn châu chấu quét ngang thảo nguyên của bọn chúng vậy.
Điều này nhằm đẩy các nhóm bộc lạc này vào tình thế phải đến nhóm bộ lạc khác cướp bóc; để bọn chúng có giàu có nghèo, có người sống có kẻ chết đói. Dân tộc du mục coi cướp bóc là chuyện thiên kinh địa nghĩa, tin rằng khi Bá Nhan Mãnh Khả trở về thảo nguyên, trừ phi hắn có thể cung cấp đủ lương thực cứu tế nạn dân các bộ lạc, bằng không nội bộ bọn chúng sẽ nổi lửa chiến tranh bốn bề. Cho dù là hắn cũng không thể đàn áp nổi!

Dương Lăng nghe xong bèn liếc nhìn vị nho tướng này. Khuôn mặt đen đúa và gầy còm của Dương Nhất Thanh chứa đầy sát khí, dưới ngọn đèn mỡ bò mặt lão trông có phần nanh ác. Dương Lăng không khỏi thầm khen: "Hay cho một gã bại hoại trong vẻ nho nhã, một gã lưu manh trong lốt tướng tài!"

Chính Đức thoáng ngẩn người một lúc rồi đột nhiên hít sâu vào một hơi, hỏi:
- Chiến sách này là do khanh quyết định?

Dương Nhất Thanh không biết tâm ý của Hoàng thượng thế nào. Dứt khoát chiến pháp này sẽ giúp giảm nhẹ áp lực cho quân Minh rất nhiều: cho dù quân Minh không chủ động công kích Thát Đát, nhưng chỉ cần bọn họ nghiêm cẩn chống giữ, không để quân Thát Đát chiếm lợi thế thì vẫn có thể ngồi nhìn Thát Đạt bị nội loạn, ít nhất cũng có thể đảm bảo cho dân chúng vùng biên ải sống yên ổn được ba năm. Nhưng suy cho cùng, chiến lược này khó tránh có phần quá vô lại, động đến hòa khí của đất trời; cho nên Dương Nhất Thanh vẫn chưa dám nói rõ chiến sách này do ai nghĩ ra.

Lúc này hắn trộm liếc thấy sắc mặt của Hoàng thượng bình tĩnh, không giống như tức giận. Với cá tính dễ kích động của tiểu Hoàng đế, nếu thật có điều gì bất mãn thì e rằng đã sớm biểu hiện ra bên ngoài rồi. Suy luậnnhư vậy nên hắn mới có can đảm thưa:
- Hồi bẩm Hoàng thượng! Đây là biện pháp do phó tướng Vương Thủ Nhân của thần sau khi nhận được tình báo chi tiết của Nội Xưởng đã nghĩ ra.
Thần cùng các tướng lĩnh trong quân lại cùng nghiên cứu kỹ lưỡng, cố sức hoàn thiện rồi mới cho thi hành. Vì để được ổn thỏa nên đòi hỏi toàn bộ thời gian hành động của bọn họ chỉ có hai mươi ngày, nhắm đến khi thư cầu viện đến tay Bá Nhan, đại quân Mông Cổ rút về cứu viện thì bọn họ đã theo con đường đã dự định sẵn mà trở về an toàn rồi.

Dương Lăng cười hắc hắc khen:
- Hay cho một kế sách hiểm độc, phản khách vi chủ, qua cầu rút ván!

Y là bầy tôi được Chính Đức yêu mến nhất, thấy y mở miệng khen Dương Nhất Thanh càng thêm vững tin, vội cười nói:
- Kế này có hay chăng nữa cũng là nhờ có tin tình báo chuẩn xác và tỉ mỉ của đại nhân. Bằng không năm nghìn nhân mã này sẽ như lấy bánh bao đi đánh chó, lạc vào trong đồng tuyết mịt mù, e là chưa tìm được bộ lạc nào thì đã chết đói, chết cóng ở đó rồi.

Chính Đức ngơ ngẩn một hồi, rồi chợt khẽ thở dài, lắc đầu nhè nhẹ. Dương Nhất Thanh hơi rét trong bụng, lúng túng thưa:
- Thần cũng biết kế này ác độc, tổn hại đến lẽ thuận hòa của thiên triều thượng quốc...

Hắn chưa nói xong, Chính Đức đã thở dài:
- Đáng tiếc! Chỉ tiếc là bảy vạn đại quân Thát Đát vẫn đang ngông nghênh trước quan ải, bằng không phải bắt hết đám vương tử, công chúa quý tộc Mông Cổ về làm thái giám và cung nữ.

Dương Nhất Thanh sững sờ nhìn vị thiên tử của Đại Minh còn vô sỉ hơn hắn đang lẩm bẩm, không biết phải nói gì. Vốn hắn định nịnh hót Hoàng thượng vài câu, nhưng khen ngợi Hoàng đế anh quân nhân đức như Tam Hoàng Ngũ Đế(1) hình như không thích hợp cho lắm.

Trong lúc Hoàng đế Chính Đức luôn ôm mộng làm cường đạo còn đang lắc đầu "nuối tiếc", Dương Lăng đã nhịn cười hỏi:
- Dương tổng chế! Lúc này đại quân đã xuất phát được mấy ngày rồi? Người nào dẫn quân?

- Hả? À ờm....,
Dương Nhất Thanh đang mãi lo tiểu hoàng đế chưa từng trải qua sự tàn khốc của chiến tranh, được các vị đại nho một bụng Kinh thư bắt học theo sách thánh hiền sẽ không đồng ý với mưu kế này, nghe Dương Lăng hỏi mới sực tỉnh.

Hắn vội đáp:
- Đã đi được chín ngày. Vốn Vương phó tướng định đích thân cầm quân nhưng Miêu công công tự thẹn đốc quân không tốt đã phụ thánh ý, nên khăng khăng đòi đích thân chỉ huy, chỉ mong đoái công chuộc tội. Vì vậy bản quan đã phái tham tướng Hứa Thái cùng ông ấy dẫn năm nghìn tinh binh xuất phát.

Dương Lăng thoáng ngớ ra, liền đó minh bạch dụng ý của Miêu Qùy. Miêu Quỳ không bằng được mấy người Lưu Cẩn và Trương Vĩnh theo chăm nom thái tử gia từ nhỏ đến lớn, đôi bên rất yêu quí nhau. Mà Hoàng đế Chính Đức lại không phải là một vị vua vô cảm, hắn rất coi trọng tình cảm cá nhân, cho nên trừ phi phạm phải tội đại nghịch bất đạo, bằng không Chính Đức quyết sẽ không lạnh nhạt với bọn họ.

Song Miêu Quỳ thì khác, lão là bầy tôi được tiên đế tin yêu, lại không có tình nghĩa riêng gì với Chính Đức. Trong đám bát hổ, những kẻ chưa "mò vớt" được chức lớn gì như đám Khâu Tụ và Ngụy Bân vẫn luôn thèm rỏ dãi cái chức Đề đốc Tây Xưởng của lão. Lần này xuất binh chỉ huy không tốt, sau khi trở về nếu đám người đó hơi dâng lời gièm tấu, chẳng những lão không vớt được chút chiến công nào mà ngay cả quyền lực vừa có được cũng sẽ bị mất, cho nên lão mới bất chấp mạo hiểm mà theo quân xuất chinh.

Vốn cướp biển Tây Ban Nha ban đầu cũng là một đám Bá tước, tướng quân thất bại trong tranh chấp nội bộ, mạo hiểm chạy ra biển mưu cầu lối thoát mới. Bọn chúng cũng có dã tâm giống như Miêu Quỳ vậy, tuy cách thức khác nhau song mục đích thì giống hệt: nhằm vơ vét quyền lực. Hiện tại lão cũng vậy, nhoáng cái đã "lắc mình hoá thân" thành mã tặc thảo nguyên.

- Hứa Thái?
Chính Đức thoáng nghĩ ngợi rồi cười nói:
- Có phải là Hứa Thái đã đổ Võ trạng nguyên năm Hoằng Trị thứ mười bảy? Lúc võ cử trẫm còn là thái tử, khi ấy từng cải trang đến khoa trường để xem các bên tranh tài. Người này giỏi võ vô cùng, cũng cực kỳ tinh thông binh thư chiến sách. Dương Tổng chế dụng tướng rất thỏa, nếu hắn có thể đại thắng trở về, trẫm sẽ tấn phong hắn làm Tổng binh!

*****

Sau khi được Dương Lăng thuật lại chuyện mật nghị cùng Đoá Nhan Tam Vệ, Dương Nhất Thanh suy xét mấy lượt rồi cũng không khuyên Hoàng đế hồi kinh nữa. Nhưng sau khi phái thêm năm nghìn binh mã hộ tống và đích thân đưa đám người Dương Lăng về lại Đại Đồng, hắn lập tức phóng ngựa trở về bản doanh, triệu gấp Vương Thủ Nhân vừa trở về Thanh Ngưu quan đến họp gấp. Cả hai cùng thương nghị quyết định cải biến chiến lược, điều trọng binh trấn giữ các quan ải bên ngoài Đại Đồng; chiến công có lớn chừng nào cũng không bằng bảo vệ Hoàng đế được chu toàn.

Nghe tin Bá Nhan Khả Hãn dời trọng binh về vùng Bình Thuận, Hồ Quan, Vương Thủ Nhân lo ngại bọn chúng sẽ thừa dịp thoát ly khỏi chiến trường chính, trở về thảo nguyên Mông Cổ. Hiện tại đại quân của Miêu Quỳ và Hứa Thai đang di chuyển giữa các bộ lạc của Thát Đát, ngộ nhỡ không kịp rút về thì toàn quân sẽ bị tiêu diệt ở thảo nguyên, thế là hắn bèn tỏ lộ nỗi lo lắng của mình với Dương Nhất Thanh.

Dương Nhất Thanh liền lập tức bác đi mà không thèm nghĩ ngợi gì. Trước khi xảy ra buổi gặp gỡ kết minh với Đoá Nhan Tam Vệ thì tin tức Hoàng đế đang ở trong quân càng ít người biết đến chừng thì càng hay chừng nấy. Tuy biết Vương Thủ Nhân tuyệt đối là người đáng tin cậy và còn là tâm phúc của chính mình, song Dương Nhất Thanh vẫn chưa dám tiết lộ sự thật với hắn. Điều này khiến Vương Thủ Nhân cảm thấy hết sức nghi hoặc với chiến lược của Dương Nhất Thanh.

Có điều hắn không chỉ khâm phục Dương Nhất Thanh mà còn thật lòng kính trọng vị thượng quan này. Sau một lúc trầm tư, hắn liền đề xuất cho phép mình dẫn một đội quân bám theo đại quân của Bá Nhan Khả Hãn. Nếu quả Bá Nhan giương đông kích tây để thừa dịp thoái lui, hắn sẽ bám lằng nhằng, trì hoãn hành trình của bọn chúng nhằm tranh thủ thời gian cho Hứa Thái và Miêu Quỳ.

Sau thoáng cân nhắc, Dương Nhất Thanh bèn gật đầu chấp thuận, hạ lệnh cho tham tướng Đại Đồng là Lư Cương và du kích tướng quân Phạm Hữu Thời dồn binh với đội quân của Vương Thủ Nhân, tổng cộng là một vạn tám nghìn người, gấp rút chi viện cho Bình Thuận, Hồ Quan.

Được thoả tâm nguyện, trở về đến dịch quán Đại Đồng xong Chính Đức an phận hơn rất nhiều. Trải qua chuyện này Dương Lăng cũng không dám lơ là nữa, cả ngày ở trong dịch quán cùng hắn, chờ Ngũ Hán Siêu đem tin từ quan ngoại trở về.

Sợ tiểu Chính Đức ở trong dịch quán buồn chán, y bao gánh hát nọ diễn suốt ba ngày. Gánh hát dân gian này vốn cũng có chút tiếng tăm ở đây, không những chỉ biết diễn hí khúc mà còn biết chút tạp kỹ và xiếc thú. Nghe đâu vào ngày Đại vương nạp trắc phi, ông mở tiệc lớn mời khách, khắp vương phủ chỗ nào cũng là sênh ca, có chín gánh hát lớn nhỏ cùng được mời đến hát hò biểu diễn tại phủ thì gánh hát này cũng nằm trong số đó. Chẳng qua là bọn họ chỉ có thể biểu diễn ở gian lạc viện thứ hai của vương phủ, không có tư cách vào sâu trong đại viện mà thôi.

Vở mà bọn họ diễn hôm nay là câu chuyện về Dương gia tướng. Năm xưa Dương gia tướng kháng Liêu đã để lại nơi đây rất nhiều truyền thuyết. Trăm họ không ngừng chế biến cho phong phú hơn, thay đổi và hư tấu nên thành rất nhiều câu chuyện thú vị. Màn đầu tiên là Xà lão thái quân dẫn đám nữ tướng Dương môn xuất chinh, ngay trước trận lại có một viên tiểu tướng đến nhận tổ quy tông, xưng là con của thất nương(*) Đỗ Kim Nga. (*cô bảy)

Năm xưa Đỗ Kim Nga cùng Dương Thất Lang chỉ làm vợ chồng có một đêm, chưa hề báo là có con, nhất thời khiến cho chị em bạn dâu trong nhà nghi ngờ. Viên tiểu tướng nọ đứng dưới quan ải rút ra bức huyết thư mẫu thân để lại trong tã lót, Đỗ Kim Nga mới nhớ lại chuyện xưa.

Năm đó quả thực bà từng mang thai, trên đường tìm Dương gia thì gặp phải phiên binh. Lúc giao chiến bị động thai, bà phải sinh con trong đám sậy rồi để nó ở đó, nén đau lên ngựa đánh tiếp. Sau khi đánh lui phiên binh quay lại thì không thấy con đâu nữa, bà ngỡ rằng con bị sói tha đi mất, bèn khóc to một hồi rồi bỏ đi. Bởi chuyện quá đau lòng nên bà cũng chưa từng báo với Lão thái quân.

Thời đó gánh hát toàn là đàn ông cải trang thành nữ. Sở dĩ "nam phong" thịnh hành thì do một là bắt nguồn bởi đi thuyền trên biển không cho phép chở phụ nữ, cho nên đất Mân Giang thịnh hành "nam phong" nhất, còn hai là bởi sắm vai thanh y hoa đán(2) trong gánh hát đều là đàn ông. Ai nấy đều diễn rất duyên, từng động tác đều phong lưu hết mực: má đỏ môi hồng, tôn lên cặp mắt hoa đào biết thu hồn hớp phách; chả trách có rất nhiều đàn ông đâm quàng vào đấy.

Trên sân khấu con hát sắm vai Đỗ Kim Nga vận phượng bào lớn màu đỏ, dáng người dịu dàng như cành liễu, diễn hát rất duyên, lúc Đỗ Kim Nga liếc mắt xuống dưới sân khấu liền khiến đám thị vệ bên ngoài la hét um lên. Hai ngày nay xem hí kịch, động một tí Chính Đức lại cầm đầu bọn họ hò hét om sòm làm bọn lính của y bị hỏng hết; đám đại nội thị vệ này hoàn toàn không còn vẻ cẩn trọng nghiêm túc như lúc ở trong cung nữa.

Dương Lăng ngồi hầu gần Chính Đức, bị cặp mắt lẳng đó liếc sang, trong lòng liền nổi sóng, không nhịn được thầm nghĩ: "Hình dáng diễn viên chuyên nghiệp này đúng là đặc biệt à, cặp mắt lẳng đó diễn thật tự nhiên, còn tự nhiên hơn bất cứ đại mỹ nhân chuyển giới nào khác nữa. Nếu đang ở thời hiện đại, nhất định sẽ là một đại minh tinh đây!"

Trên sân khấu vẫn tiếp tục diễn! Chàng kép sắm vai Đỗ Kim Nga đang cầm bức huyết thư nức nở vừa khóc kể vừa nhớ lại mối tình xưa, giọng hát trong trẻo êm tai, trên dưới sân khấu đều nghe rõ mồn một; xem ra đúng là đã được luyện giọng hát.

Con hát sắm vai Lão thái quân run rẩy bước lên sân khấu, thở dài rồi độc thoại:
- Bà già ta tưởng rằng cả nhà họ Dương đều là quả phụ, nam nhân không có lấy một người. Ha ha, thực tốt quá! Té ra trời già vẫn chưa vứt bỏ đám con dâu của bà già này.

Một tràng cười lại nổ ra dưới sân khấu, Chính Đức ngoái đầu cười hỏi Dương Lăng:
- Dương khanh! Nghe nói khanh là con cháu Dương gia tướng, không biết tổ tiên thuộc chi nào nhỉ. Chẳng lẽ chính là vị tiểu tướng bị bỏ rơi này?

Tuy Dương Lăng không biết gia phả nhà mình là thật hay giả, nhưng y lại biết nhân khẩu họ Dương rất vượng, con cháu đầy đàn, chưa từng có chuyện có một đám quả phụ mà hiếm nam đinh như trong hí kịch diễn. Nghe Chính Đức trêu, y không khỏi cười gượng, cũng không biết nên giải thích thế nào.

Trên sân khấu đang diễn đến màn nhận tổ quy tông. Dương Lăng ngồi sau rèm nửa bước hầu Chính Đức xem kịch. Sau lưng chợt có một phiên tử hộ vệ lặng lẽ bước vào, khẽ ra hiệu với Dương Lăng.

Dương Lăng hiểu ý, vội đứng dậy nói nhỏ với Chính Đức mấy câu rồi bước ra ngoài. Đi đến dưới hành lang sảnh, y liền hỏi viên phiên tử:
- Thế nào, có phải đã có tin tức từ quan ngoại rồi không?

Viên phiên tử thấp giọng thưa:
- Đại nhân! Không phải có tin từ quan ngoại mà là có một bức thư nhà do khoái dịch đưa đến cho ngài ạ.

Dương Lăng nghe xong thì trong lòng không khỏi run lên, "Trong nhà đã xảy ra chuyện gì? Ấu Nương đang có thai, chẳng lẽ là...?" Nghĩ đến đây, tim y không khỏi đập dồn dập.

Hàn Ấu Nương sống nội tâm và kín đáo. Vô luận nhớ nhung y thế nào đi chăng nữa, cô nàng thà đợi y trở về, sẽ vào khuê phòng tham lam ôm chặt lấy y trò chuyện suốt đêm; chứ lúc y còn ở bên ngoài, Hàn Ấu Nương quá ngượng ngùng để có thể viết một bức thư thổ lộ tình cảm. Nếu nàng viết thư thì hẳn trong nhà đã xảy ra chuyện lớn.

Dương Lăng vội vã xé bì thư, rút phong thư ra. Y lại thấy trong thư còn kẹp một phong thư khác được niêm kín, bên trên cũng ghi là "Dương Lăng thân khải (tự mở)”. Y lấy làm lạ bèn giở thư ra xem trước, thấy nét chữ đúng là bút tích của Ấu Nương. Trong thư chỉ nói trong nhà mọi việc đều ổn, lại chúc y ở bên ngoài nhớ chú ý ăn uống mặc ấm, vùng biên tái chiến sự đang căng thẳng, ra vào y nhớ phải chú ý thị vệ này nọ. Suốt thư đều chỉ nhắc đến những việc bình thường, trong thư không hề có ý gì là làm nũng.

Cuối thư nàng mới nói rằng nhận được một bức thư mật của Mã Liên Nhi ở Kim Lăng nhờ phiên tử Nội xưởng mang hộ về. Bởi thư ghi "Dương Lăng thân khải" cho nên Ấu Nương không dám tự tiện chạm vào, vì vậy sai người chuyển giao ngay cho y, chỗ này thì đúng là có vẻ hơi hờn dỗi và ghen tị.

Dương Lăng cảm thấy ấm lòng, khoé môi không khỏi hé ra một nụ cười.

Y trầm ngâm suy nghĩ, dựa vào lộ trình bức thư này được đưa đến mà tính toán thì lúc Mã Liên Nhi nhờ người đưa thư hẳn là Thành Khởi Vận chưa tới Kim Lăng. Mã Liên Nhi chưa nhận được lễ vật Thành Khởi Vận đưa đến mà đã gửi một bức thư đi trước, có phải bởi vì nhớ mình không?

Trong lòng Dương Lăng thoáng xao động, bất chợt y lại nhớ đến một màn xuân sắc vô biên dưới tán phong lá đỏ. Trên phong thư như hãy còn vương mùi thơm nhàn nhạt trên người Liên Nhi, cũng có lẽ là ảo giác?.... Đúng là tiểu yêu tinh nhu mì quyến rũ chết người không đền mạng à.

Mở tiếp phong thư thứ hai, y cẩn thận giở tờ giấy ra, một hàng chữ liền đập ngay vào mắt: "Phu quân đại nhân ở trên cao, Liên Nhi xin vái người trăm lạy."

Dương Lăng vừa xem thấy thì bật cười to, cô bé đã chính thức gả thân cho mình này thật đúng là đã thay đổi rồi. Liên Nhi như thớt ngựa hoang cao ngạo bất thuần nay cũng ngoan ngoãn nhũn nhặn hơn rồi đây, cũng đã hiểu lễ nghi, biết kính trọng mình ba phần rồi.

Nhưng khi xem xuống tiếp, nụ cười của Dương Lăng liền đông cứng lại: "Dương Lăng, huynh thực là lợi hại! Thực oai phong! Thực giỏi quá! Huynh sắp chóng có một tiểu Liên Nhi hoặc tiểu Dương Lăng hoành không xuất thế gọi huynh là cha rồi. Huynh có vui không hả đại nhân của muội? Liên Nhi thực muốn đợi thêm hai năm nữa mới đi gặp phu quân của mình, nhưng mà ý trời như vậy, chồng sẽ trả lời thế nào đây?

Đại nhân hãy nghĩ ra diệu kế mà đón lấy thiếp thân, hoặc là lệnh cho thiếp thân uống thuốc giết chết hậu nhân của họ Dương đi, Liên Nhi sẽ nghe theo an bài của phu quân hết. Đúng rồi, Quan Quan công tử mê Liên Nhi. Mê lắm lắm đó, thực là ghét quá.

Tái bút: Hình như có người nào đó mắc bịnh kín trên người mới mang theo người đẹp thần y xuống Giang Nam thì phải. Vụ án này cho gác lại chờ xử sau."

Chuyện lớn kinh thiên, song ngữ khí lại thờ ơ như không; dí dỏm, đắc chí, lại thêm mấy phần hài hước. Dương Lăng đứng đờ tại chỗ, tai nghe ở phòng bên kia con hát đang nức nở nghẹn ngào: "Đứa con... tội nghiệp của mẹ, lần biệt ly đó... mười mấy năm rồi, mẹ giữ kín trong lòng, không biết lệ tuôn đẫm áo đã bao đêm..."






Chú thích:
(1) Tam Hoàng gồm Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhân Hoàng; Ngũ Đế có Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn. Xem thêm tại http://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_Ho%C3%A0ng

(2) "thanh y" trỏ vai đào; "hoa đán" trỏ vai nữ có tính cách hoạt bát hoặc phóng đãng, đanh đá




Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?p=9252079#post9252079
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
16-07-2012, 05:30 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 192 Đại Vương Nạp Phi


Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Một giọng nói dịu dàng mang theo nụ cười của một thiếu nữ từ bên cạnh cất lên:
- Đừng trách tỷ ấy! Vũ tỷ tỷ là thị nữ được yêu mến bên người Vương phi nương nương, ngay cả đại tổng quản cũng phải nhường tỷ ấy ba phần đó. Tuổi ngươi nhỏ như vậy, lại đã làm đến thân binh của đại tướng quân, tương lai nhất định sẽ có sự nghiệp. Anh hùng không sợ xuất thân kém, đợi khi ngươi làm tổng binh Đại Đồng rồi, khi ấy lại đến bái kiến vương gia, Vũ Nhi tỷ tỷ nhất định sẽ nhìn ngươi với con mắt khác đó.

Đừng nói là tổng binh Đại Đồng, cho dù là làm đại nguyên soái nắm binh mã cả nước, Chính Đức vẫn không để vào mắt. Có điều người con gái này hiểu ý người ta như vậy, hơn nữa lại không hề quan tâm đến xuất thân của hắn, khiến nghe được lời này hắn cảm thấy ấm áp trong lòng. Đây đúng là người con gái đầu tiên không biết hắn là đương kim Hoàng đế mà lại xem trọng hắn như thế.






Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 192 Đại Vương Nạp Phi




Chương 192 Đại vương nạp phi

Dương Lăng vừa đọc thư vừa nghe tiếng diễn viên vọng đến từ sân khấu, lòng y rối bời, chốc thì hoan hỉ, chốc lại lo âu. Mã Liên Nhi cư tang chưa đủ ba năm, nếu lúc này mà rước nàng về nhà sẽ không hợp với lễ tục, không tránh khỏi bị người ta chỉ trích.

Không biết giữ lễ tục thực chẳng phải chuyện nhỏ, đủ để trở thành công cụ nguy hiểm trong tay những kẻ hữu tâm, cho dù được Hoàng đế che chở nên không vì vậy mà bị bãi quan, song lúc nào cũng sẽ bị người ta lấy nhược điểm đó ra công kích, vô luận làm gì cũng sẽ khó tránh bị cản trở tay chân.

Còn nếu để mặc Liên Nhi sống một mình ở Giang Nam, tìm cớ giấu nàng ấy rồi lén sinh con thực không khó, có điều làm như vậy khó tránh quá bạc đãi nàng ấy. Phải sống một cuộc sống lén lút, mai danh ẩn tánh thêm hai năm nữa nhất định sẽ tạo thành tổn thương sâu sắc cho Liên Nhi.

Lòng rối như tơ vò, lúc thì Dương Lăng muốn bất chấp tất cả mà phái người đến Giang Nam đón Liên Nhi về phủ ngay lập tức, lúc thì lại nghĩ đến nay mình muốn lợi dụng quyền thế và địa vị của bản thân để làm một số chuyện cho Đại Minh, cho trăm họ, chứ không còn như lúc trước mà muốn làm gì thì làm không phải lo nghĩ gì.

Trầm ngâm một hồi lâu y mới sực nhớ hiện tại Liên Nhi mang thai chưa được ba tháng, đến khi bụng to dần không thể che giấu được nữa thì ít nhất cũng phải hơn hai tháng nữa, lúc đó mình đã trở về kinh thành. Chuyện này quả thực cần phải bàn tính kỹ lưỡng, không nên vội đưa ra quyết định ngay.

Y gọi viên phiên tử cùng vào trong thư phòng rồi vội vàng viết liền ba bức thư. Bức đầu viết cho Ấu Nương, trong thư không hề giấu giếm chuyện của Liên Nhi, căn dặn Ấu Nương thông qua Nội xưởng gửi cho nàng ấy một số bạc và vật phẩm bồi bổ. Bức khác y viết cho Mã Liên Nhi, nói với nàng rằng hiện tại mình đang bận tuần tra biên tái, khi trở về kinh thành nhất định sẽ mau chóng giải quyết ổn thoả chuyện nàng đi hay ở, nàng cứ yên tâm đợi ở Giang Nam, chăm sóc bản thân cho tốt.

Bức thứ ba y lại viết cho Thành Khởi Vận. Hiện tại nàng ta là đầu lĩnh tối cao của Nội xưởng tại Kim Lăng còn Liên Nhi đang sống một thân một mình trong nhà bá phụ, nếu không thu xếp thủ hạ đắc lực để săn sóc nàng chu đáo, y thực không yên tâm.

Dương Lăng niêm thêm xi đóng lên ba bức thư, căn dặn viên phiên tử cấp tốc giao cho dịch trạm quân sự chuyển về kinh thành. Vừa đưa mắt nhìn viên phiên tử bước ra khỏi cửa, y vừa thừ người nghĩ ngợi, rồi chợt bật cười thành tiếng:

Vốn dĩ chỉ lo không có con, giờ thì tốt quá rồi. Ấu Nương và Liên Nhi như thể đang thi nhau đẻ vậy. Ấu Nương thì đúng rồi, mình siêng năng "cày cấy" một tháng hơn, dẫu sao cũng phải trúng một lần. Nhưng còn Liên Nhi, "một tên trúng đích" hình như hơi quá may mắn rồi thì phải? Chẳng lẽ mình thật sự mang gien tốt của Dương gia tướng?

Chính Đức ban thưởng rất hậu hĩnh, trang phục biểu diễn và trống chiên chất đầy hết mấy chiếc hòm to, người của gánh hát cứ ngỡ là của khâm sai Dương đại nhân thưởng cho. Mấy ngày nay diễn hát trong dịch quán, thu nhập của bọn họ so với lúc dựng rạp ca hát ở đầu phố cao hơn không chỉ hai lần. Sau khi trở về mỗi người đều kiếm thêm được vài nén bạc, cho nên ai nấy cao hứng vô cùng.

Gánh hát thuê một cỗ xe ngựa lớn chở trang phục và đạo cụ về cổng chùa Phổ Độ nơi bọn họ đã thuê một dãy nhà trệt để trọ. Chủ gánh hát tên là Bình Đại Đầu ngồi xổm trên một chiếc cối xay đá, mặt mày hớn hở nói với mọi người:
- Mấy ngày nay đã cực khổ cho mọi người rồi! Ngày mai nghỉ hát một ngày, mọi người nghỉ ngơi cho khoẻ. Nhưng mà đừng quên luyện công đấy! Ngày kia biểu diễn tại phủ của Đại vương gia sẽ phải kéo dài đến tận năm ngày lận đó.

Đoạn lão cười tủm tỉm nói tiếp:
- Ai cũng bảo chúng ta là một gánh hát cỏn con. Đúng thật, nếu không phải do Đại Đồng đang lúc chiến tranh, khó mời được những đào kép danh tiếng thì phủ vương gia đời nào có chỗ cho gánh hát chúng ta đứng? Luận tài nghệ chúng ta thua kém bọn đào kép có tiếng sao? Chẳng qua chúng ta không có cơ duyên thôi. Lần này chúng ta đã hát ở phủ Dương đại nhân ba ngày, sau đó lại trở về từ phủ của Đại vương gia, thanh danh của gánh hát chúng ta sẽ tăng cao ngay thôi.
Trước đây khung cảnh lớn nhất mà chúng ta được gặp qua là hậu hoa viên của Huyện thái gia, nay chúng ta đã được gặp khâm sai giống như gặp thiên tử đích thân giá lâm; mấy ngày nữa cao quý như con rồng cháu phượng chúng ta cũng sẽ được gặp, cho nên mọi người hãy phấn chấn lên cho ta đi! Vương gia ban thưởng sẽ còn nhiều hơn khâm sai lão gia nữa đó.

Nghe thế, một người con gái trong đám người đang đứng chung quanh chợt chớp mắt, cặp mắt nhạy bén có thần liếc lão một cái thật sâu, đoạn chen người ra tới trước mặt lão, ôm quyền hỏi:
- Phải chăng ngài đây là chủ gánh hát?

Bình Đại Đầu hơi sững người đoạn quan sát cô ta một lượt: tuy người con gái trước mặt lão mặc áo quần giản dị bằng vải thô, nhưng với nhãn lực của mình, Bình Đại Đầu lại nhìn ra ẩn giấu dưới lớp áo quần thùng thình sơ sài này là một dáng người cực kỳ yểu điệu, dung mạo ngũ quan của cô nàng cũng quyến rũ vô cùng, đáng tiếc là trên làn da trắng mịn lấm chấm những vết rỗ làm hỏng vẻ đẹp của nàng ta.

Bình Đại Đầu nhảy xuống đất đánh xoạt, thân hình thấp tè của lão cao chưa đến vai cô gái nọ, rồi lão cũng chắp tay theo nghi lễ giang hồ đáp:
- Không dám! Tiểu lão nhi chỉ là người dẫn một đám nghèo khó đi kiếm miếng ăn mà thôi. Cô nương là?

Cô gái nọ hơi mỉm cười, đáp lời hết sự tự nhiên:
- Tiểu nữ chỉ là một tiểu thương đơn lẻ mới xông pha giang hồ mãi võ. Nay kiếm chút cơm ăn không dễ, thấy đại gia đây mặt mày phúc hậu, có thể chèo chống gánh hát lớn như vậy, ắt phải là người có nghĩa khí, có tài cáng đáng, nên tính gia nhập vào gánh hát của ngài. Không biết đại gia thấy thế nào?

Bình Đại Đầu cười nói:
- Nào có! Nào có! Chẳng qua gánh hát này của lão diễn hí khúc là chính, mà nữ nhân thì không thể bước lên sân khấu, tuy rằng có tạp kỹ và xiếc thú, bất quá là phần dạo trong lúc rỗi để đàn ông giải sầu thôi. Cô nương biết làm những gì?

Cô gái nọ cười lớn đáp:
- Cưỡi ngựa, bắn tên, đánh võ, món nào tiểu nữ cũng tinh thông.

Bình Đại Đầu lắc đầu:
- Không được, không được rồi! Gánh hát này của chúng ta không nuôi nổi ngựa, hơn nữa hiện đã có mối làm ăn ở phủ khâm sai và phủ vương gia, sau này thanh danh tăng vọt, những nơi đi đến nhất định sẽ đều là nhà cao cửa rộng. Mấy trò phóng ngựa bắn tên, vung đao múa thương sẽ không mang được vào nhà người ta đâu.

Cô gái nọ liền đảo mắt, cười nói:
- Đi trên dây thừng, nhào lộn trên sào cao, mấy trò mua vui cho người ta đó tiểu nữ cũng biết.

Bình Đại Đầu lại lắc đầu, chợt một giọng nói trong trẻo chen vào:
- Mấy trò này khách giang hồ mãi võ có ai mà không biết? Thấy một người phụ nữ như cô đi lại một mình trên giang hồ cũng không dễ, vậy cô hãy biểu diễn nhào lộn thử xem! Nếu làm tốt, ta sẽ làm chủ mà thu nhận cô.

Người này vẫn đang mặc đồ diễn rườm rà, ống lụa như mây, mày ngài má hồng, mắt hạnh long lanh, chính là Trình Tiểu Vân, diễn viên chính của gánh hát Bình gia. Tuy hắn là nam nhân nhưng đã quen sắm vai nữ, không chỉ nói chuyện dịu dàng mềm mỏng mà cử chỉ hình dáng cũng khá là thanh tú.

Trước mặt hắn, tuy là chủ gánh hát song Bình Đại Đầu cũng phải nể mặt mấy phần, bèn vội cười phụ họa:
- Đúng rồi! Vậy cô hãy thử tài nghệ chút xem.

Đám nhạc công chuyên gõ chiêng, đánh trống, thổi sáo, khảy đàn nghe vậy đều hỉ hả kéo sang, quây lại thành một vòng tròn. Cô gái nọ mỉm cười gật đầu đồng ý:
- Vậy đa tạ chủ gánh và vị lão bản này, tiểu nữ tử sẽ lộ dốt đây.

Cô nàng thoải mái bước đến chính giữa sân, ôm quyền bước một bước tuồng, rồi chợt đứng sững lại hít sâu một hơi, liền sau đó búng người nhào lộn. Màn nhào lộn của cô không có gì là đặc sắc: lấy tay chống đất, hai chân liên tục đá ra sau, tuy thân thủ hết sức gọn gàng, song cũng chẳng có chỗ nào là kỳ diệu. Bình Đại Đầu và Trình lão bản không khỏi lộ vẻ thất vọng.

Không ngờ sau khi búng người nhào lộn mấy vòng, cô gái nọ đột nhiên tăng tốc lộn vòng vừa nhanh vừa dứt khoát, như thể biến thành một bánh xe tròn xoay tít; động tác mềm mại liên miên trông mỹ cảm cực kỳ; eo thon mềm mại mà có lực. Cặp mắt Bình Đại Đầu không khỏi sáng rực, bên cạnh đã có người thốt lên khen giỏi.

Xoay người trên không, lộn một vòng trên không rồi tiếp đất, búng người ưỡn thân vút lên cao rồi tiếp đất nhẹ nhàng,…, đủ loại động tác khó không ngừng được thể hiện, liên miên không dứt, không thấy lúc nào ngừng nghỉ. Giữa những tràng khen ngợi của đám đông, Bình Đại Đầu cười lớn bảo:
- Đủ rồi! Đủ rồi! Không cần nhào lộn nữa. Thu dọn một chút rồi ăn cơm cùng mọi người đi. Bắt đầu từ hôm nay, cô sẽ là người của gánh hát Bình gia.

Cô gái nọ lộn trên không thêm hai vòng nữa, rồi mỉm cười tiếp đất, mặt không đỏ, hơi vẫn đều. Nàng ta phủi bụi trên tay rồi chắp tay nói:
- Đa tạ chủ gánh!

Trình Tiểu Vân mỉm cười chào hỏi:
- Tại hạ tên là Trình Tiểu Vân, tỷ tỷ tên là gì?

Ánh mắt cô gái thoáng loé lên, nàng ta mỉm cười đáp:
- Ta tên Liễu Oanh Nhi, sau này vẫn mong Trình lão bản chiếu cố nhiều hơn.

Trình Tiểu Vân nhoẻn miệng cười nói:
- Ừm, Liễu Oanh Nhi, tên rất đẹp! Oanh oanh yến yến xuân xuân, hoa hoa liễu liễu chân chân, sự sự phong phong vận vận. Kiều kiều nộn nộn, đình đình đương đương nhân nhân(1). Với tư thái và dáng điệu như vậy, nếu tỷ tỷ lại mặc đồ diễn vào, vẽ mặt bôi son lên, trông sẽ rất đẹp đấy!

Hồng Nương Tử hoá thân thành Liễu Oanh Nhi nghe hiểu được là hắn đang khen tên mình hay, song lại không biết nó có nghĩa gì cho nên chỉ cười gượng gạo, không dám đáp lời.

Đám Dương Hổ vốn là đại đạo lục lâm. Bình thường nếu muốn bắt cóc kẻ nhà giàu thì cùng lắm là phái vài người đi dò xét tình hình, nắm rõ gia cảnh, thế lực và kết cục bố trí trong nhà con "dê béo", rồi mới thừa lúc đêm tối đến nhà bắt người. Bọn chúng chưa từng kiên nhẫn xây dựng và bố trí cơ sở thám tử lâu dài, nay muốn đối phó với Hoàng đế Đại Minh song hai mắt lại như mù, muốn biết hắn ở đâu nhưng lại không cách nào dò hỏi.

Hồng Nương Tử thấy trượng phu bị lợi che mờ mắt, biết rõ bị Di Lặc giáo lợi dụng song vẫn u mê không chịu từ bỏ giấc mơ làm Hoàng đế, nên nàng không dằn được lửa giận trong lòng. Nhiều lần khuyên nhủ không kết quả, nàng bèn thổ lộ nỗi khổ với Ngũ thúc, song không ngờ Ngũ thúc lại đáp lại một thôi một hồi khiến lòng nàng hoàn toàn nguội lạnh.

Cho dù nói thế nào thì cuối cùng nàng vẫn là một người phụ nữ, trong mắt một thủ lĩnh thổ phỉ cực kỳ trọng nam khinh nữ như Thôi lão đại, đứa con rể Dương Hổ còn quan trọng hơn con gái mình nhiều. Thấy mấy năm nay Dương Hổ chiêu binh mãi mã khá giỏi, nhiệt huyết trong lòng Thôi lão đại cũng dâng trào. Lão lại bắt đầu trông mong con rể mình có thể đánh chiếm lấy giang sơn, một nhà họ Thôi cũng có thể được phong vương phong hầu.

Cho nên lần này mười mấy sơn trại bị tiễu trừ, thế lực Dương Hổ bị tổn thương lớn, huynh đệ những sơn trại cũ đã bắt đầu nảy lòng nghi ngờ về lời lan truyền "chân mệnh thiên tử" của hắn, mấy người tâm phúc của Thôi lão đại như Ngũ thúc đã thầm bàn riêng với lão về chuyện này. Thôi lão đại ngầm gợi ý rằng, vô luận lời đồn này là thật hay giả cũng phải dốc sức phò trợ con rể, thay vì làm sơn tặc đời đời kiếp kiếp chi bằng đánh một trận nhằm kiếm chút tước vương hầu công khanh mà hưởng.

Sau khi nghe Dương Hổ kể chuyện, Thôi lão đại biết được vì chuyện tập kích phủ Uy Vũ Bá mà con gái và con rể mình hục hặc với nhau. Do đó lần này lão chủ động sai người của mình đến giúp Dương Hổ, một mặt là để biểu lộ thái độ của chính mình; mặt khác cũng bởi e ngại con mình sẽ phác tác cơn giận đại tiểu thư mà làm khó Dương Hổ, nên mới phái cả Ngũ thúc đến để áp chế nàng.

Nghe biết thái độ của cha như vậy, Hồng Nương Tử không khỏi thất vọng vô cùng. Chỉ có điều tuy có vị trưởng bối là Ngũ thúc này áp chế nên nàng không thể gây lộn với Dương Hổ nhưng Hồng Nương Tử tính tình cứng cỏi, trong lòng đã có chủ ý rồi thì cho dù là Thôi lão đại cũng đừng hòng thay đổi. Nghe xong lời giải thích của Ngũ thúc, nàng không nổi nóng gây gổ tại chỗ mà chỉ quay về thu thập hành trang rồi lặng lẽ bỏ đi.

Nàng biết đám người Dương Hổ không có kế sách nào khác, bọn họ muốn tìm được Chính Đức thì chỉ có cách theo dõi Dương Lăng cho nên nàng cũng cải trang rồi chú ý mọi động tĩnh trong dịch quán. Gánh hát này mỗi ngày đều đến hành dinh quan khâm sai diễn hí khúc, nàng đã sớm lần tra tỏ tường. Trong suy nghĩ của nàng, Đại vương là vương thúc của Hoàng đế Chính Đức, ngày lão nạp phi nếu như Chính Đức còn ở Đại Đồng, thì chín phần mười hắn sẽ phải đến chúc mừng.

Vậy Di Lặc giáo và cả đám người Dương Hổ rất có thể sẽ hạ thủ vào lúc này. Nàng phải ngăn cản Dương Hổ bị kẻ khác lợi dụng, phá hỏng kế hoạch của Di Lặc giáo. Như thế nàng cũng phải nghĩ cách trà trộn để vào phủ, do vậy nàng mới cải trang làm người giang hồ mãi võ, trở thành một thành viên trong gánh hát Bình gia.

Ngày hai mươi hai tháng giêng, Đại vương nạp trắc phi.

Hay tin đại quân Bá Nhan đã dời sang vùng Bình Thuận, Hồ Quan, dân chúng Đại Đồng thở phào nhẹ nhõm. Từ nay, đêm ngủ không phải ăn mặc chỉnh tề, đặt sẵn túi hành trang bên gối để bất cứ lúc nào cũng có thể chuẩn bị trốn chạy. Trong phủ Đại vương tràn ngập một bầu không khí vui mừng, giăng đèn đón khách.

Từng chiếc kiệu xe, từng thớt tuấn mã chở quan văn tướng võ vùng Tuyên Phủ, Đại Đồng kéo đến phủ Đại vương gia để chúc mừng. Do Hoàng đế đang ở Đại Đồng nên Tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh hết sức coi trọng việc phòng ngự biên quân. Vốn dĩ hắn đã đưa thư và lễ vật chúc mừng đến phủ Đại vương, tỏ ý rằng vì vướng bận việc quân nên không thể đích thân đến dự, điều này đã khiến cho lão Đại vương không vui trong lòng. Không ngờ hôm nay hắn bỗng nhiên đổi ý, vội vội vàng vàng dẫn theo ba trăm thân quân chạy đến phủ Đại vương chúc mừng.

Chung quanh phủ Đại vương vẫn đầy giáp sĩ kề vai san sát, song trong vương phủ lại ắp tiếng sênh ca, Hồng Nương Tử cũng theo gánh hát mới gia nhập mà tiến vào trong. Song nằm ngoài dự liệu của nàng chính là vương phủ rộng lớn hơn nhiều so với những gì mà nàng tưởng tượng, hơn nữa vương phủ cho gánh hát của nàng diễn ở hậu điện. Gánh hát lớn được vời tới thì diễn ở trung điện, tám gánh hát có quy mô như của nàng chỉ có thể dựng rạp biểu diễn trong sân khu ngoại điện quanh phủ, căn bản không thể tiếp xúc với khu vực trung tâm.

Cả phủ Đại vương lọt trong tiếng nói cười, tiếng chúc mừng rộn rã, những chỗ yên tĩnh hơn chỉ có Ngân An điện, Xã Tắc đàn, Phong Vân Lôi Vũ Sơn Xuyên đàn, Hoàng miếu, từ đường và Tích Thiện tự. Điển Thiện sở cung cấp rượu ngon và đồ ăn, Đại Phủ điếm tiếp đãi tân khách, đăng ký tiếp nhận lễ vật, còn những vị khách quan trọng sẽ do tổng quản vương phủ đích thân đón vào.

Chỗ gánh hát của Hồng Nương Tử biểu diễn nằm bên trong Đoan Lễ môn và phía ngoài Thừa Vận môn, đại thần các bộ ra vào đều không thoát khỏi mắt nàng. Trong sân, các rạp diễn đã sớm được dựng xong, trên sân khấu rèm giăng, màn hoa và đèn treo đã đâu vào đấy. Theo quy củ thì vở diễn đầu tiên khi diễn tại tư gia đều sẽ là "Thiên quan tứ phước" (lễ quan trời ban phước bốn phương).

Một lòng mong muốn biến gánh hát Bình gia thành gánh hát nổi tiếng nhất Đại Đồng, đợi khi biên cảnh bình định xong còn phải nêu chiêu bài đã từng được mời đến hành dinh của khâm sai và vương phủ Đại vương để được lưu diễn khắp cửu biên, Bình Đại Đầu đương nhiên cũng phải tuân theo quy củ này. Tuy rằng gánh hát của lão không chính quy lắm, vở này cũng chưa được học đầy đủ, nhưng cũng may xem kịch trong sân đều là thị vệ, thư đồng và gia bộc hạ nhân của đám quan văn tướng võ đến mừng lễ cưới, cho nên khi biểu diễn cũng không bị bọn họ soi mói gì.

Nhất là sau khi vở "Thiên quan tứ phước" được diễn xong, các vở hí kịch hơi "mặn" mà lại không phạm vào những điều kiêng kị của vương phủ như là "Lữ động tân tam hí bạch mẫu đơn", "Trương thiên sư đại họa phù" được trình diễn, thì càng được đám người hầu và gia tướng đó mê thích.

- Khâm sai phụng chỉ tuần biên kiêm Thống lĩnh thân quân thị vệ của Hoàng thượng kiêm Đại đô đốc Nội xưởng Dương Lăng Dương đại nhân và Đốc quân Kinh doanh Trương công công đến!

Vừa mới biểu diễn giữa giờ nghỉ xong, nghe tiếng xướng sang sảng của quan xướng lễ, Hồng Nương Tử thoắt ngẩng đầu nhìn lại. Nàng thấy một vị thư sinh mặt như thoa ngọc mỉm cười bước vào. Y mặc một bộ áo dài lông chồn sang trọng, ngoài khoác áo choàng lớn lợp Cô nhung, thân hình cao thon, nổi bật vô cùng.

Mười hai viên hiệu úy trẻ tuổi anh tuấn dằn đao theo sát sau lưng y. Vị Trương công công Trương Vĩnh đi cạnh tuy mặc mãng bào chỉ vàng màu xanh da trời, song lưng vai hơi còng, bước chân lại nhanh, trông thực giống nô tài thân cận một vị công tử con vua cháu chúa.

Hồng Nương Tử thoáng nhếch môi, lộ ra một nụ cười nhàn nhạt. Hôm nay đến chúc mừng, vị tướng quân này lại không mặc quân trang, y phục nho nhã xứng với khuôn mặt thanh tú của y, áo choàng rộng bay, trên chiếc đai gấm ngũ sắc quấn hông cài một miếng ngọc bích đang đong đưa khe khẽ. Cái khí phái ấy... nếu hôm nay nàng đến nhằm bắt một con dê béo mang về thì chỉ cần nhìn vào dáng vẻ ấy, đương nhiên “con dê béo” chỉ có thể là y.

Được tổng quản vương phủ đưa vào, Dương Lăng và Trương Vĩnh đi qua khỏi cổng Thừa Vận, vừa đến cổng Sùng Tín, bước chân Dương Lăng hơi khựng lại, y ngoái đầu liếc về phía sau. Khi ánh mắt y chạm ánh mắt viên tiểu hiệu đứng giữa mười hai viên thị vệ của y, viên tiểu hiệu đó liền nở một nụ cười tinh nghịch. Dương Lăng kín đáo gật nhẹ đầu với hắn, rồi tiếp tục cùng Trương Vĩnh sóng vai đi vào.

Thị vệ của khâm sai cũng không được phép bước vào nội điện của vương phủ, sẽ có chấp dịch (người hầu, cấp cao hơn đầy tớ bình thương) dẫn bọn họ sang điện bên kế cổng Sùng Tín. Nơi đây bày dọc các mâm tiệc lưu thủy(2), rất đông người hầu của các tướng quân và quan văn đang ăn ham uống tục.

Bởi Đại Đồng là nơi trú quân trấn giữ biên thùy, cho nên ngay cả vương phủ cũng không chỉ chú trọng về vẻ nguy nga tráng lệ mà kiến trúc lẫn sân tường cũng đều được xây cao lớn và kiên cố. Trên bốn góc tường cao của vương phủ đều có thành lũy và thị vệ đồn trú. Có điều khi bước vào trong "yến tử cư" (tổ chim én), hoa viên vương phủ chốn phương bắc này vẫn có giả sơn uốn lượn quanh co, hành lang khúc khuỷu mái uốn cong cong; tuy nhỏ nhưng vẫn có đủ.

Men theo lối nhỏ quanh co xuyên qua "Yến tử cư", vừa bước vào điện Cẩn Đức tổng quản vương phủ liền khom người cười nói:
- Hai vị đại nhân! Lễ nạp phi của vương gia vẫn chưa cử hành, mời hai vị đến điện bên nghỉ ngơi trước. Đến giờ lành, cha gia sẽ dẫn đại nhân đến điện Ngân An tuyên đọc chiếu thư của Hoàng thượng, thỉnh mời vương gia và vương phi làm lễ.

Dương Lăng và Trương Vĩnh mỉm cười gật đầu, rồi xoay người đi vòng sang tòa điện ở chái bên. Trước cửa điện có hai tiểu thái giám đang đứng, thấy bọn họ đi tới bèn vội vén rèm nỉ nhung lạc đà lên. Hai người vừa bước vào liền sững người.

Ánh sáng trong điện hơi u ám, vừa bước vào liền lập tức cảm thấy không thoải mái. Khi khôi phục thị lực lại bình thường, hai ngườimới phát hiện trong điện đang có mấy vị đại nhân đang đứng: tuần phủ Hồ Toản của Đại Đồng, tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh, một vị quan văn đứng bên cạnh vận bổ phục(*) giống tuần phủ Hồ Toản; nhất thời y không nhớ Đại Đồng còn có vị quan văn nào có cùng phẩm hàm là tòng nhị phẩm như lão ấy. (*: xem lại chú thích chương 27)

Trong điện, phía bên trái là bộ bàn nhỏ uống trà và ghế dựa hình mũ quan, bên phải là một chiếc giường sưởi, trên giường đặt một chiếc bàn chân thấp. Chính diện ở trước điện là một bức bình phong, lúc này phía sau bình phong cũng có hai người chợt bước ra, một người vận hoàng bào hình mãng long, dáng người to béo, chính là chú rể Đại vương gia, trên khuôn mặt núc ních chứa đựng vẻ trang nghiêm hiếm thấy.

Vị đại nhân bên cạnh khoảng tứ tuần, dưới cằm lưa thưa mấy cọng râu, khuôn mặt gầy guộc, hai mắt sáng quắc như sao, thân vận một bộ bổ phục hình tiên hạc, không ngờ chính là đại học sĩ được gia phong nhất phẩm đương triều - Dương Đình Hoà.

Vừa trông thấy vậy, Dương Lăng và Trương Vĩnh liền nghĩ bụng: "Hỏng bét! Bữa yến tiệc mừng cưới hôm nay sắp biến thành Hồng Môn Yến rồi. Dương Đình Hoà mà đến, thể nào cũng sẽ có màn kiếm sương đao gió khóc lóc can gián hoàng thượng hồi cung đây."

Hai người đưa mắt nhìn nhau, trong mắt đều có ý nói với đối phương: "Huynh đệ, ông (cậu) lên trước đi!"

*****

Chính Đức đang ngồi trên một chiếc băng ghế dài, tiện mồm ăn vài món. Hắn cảm thấy cải trang làm hiệu úy tuy cũng thú vị, nhưng trong vương phủ này có quá nhiều phép tắc, còn lâu mới bằng tự do xem kịch ở đầu phố. Hắn ngồi rảnh rỗi một hồi, nghe thấy bên ngoài không ngừng có tiếng reo hò, tiếng hát du dương trầm bổng như hớp hồn, nhịn không được bèn đứng dậy bước ra ngoài.

Mười một tay thị vệ kia đều là cao thủ nhất đẳng của đại nội, danh nghĩa là thị vệ của khâm sai nhưng kỳ thực chức trách chính là bảo vệ Hoàng đế. Vừa thấy hắn đứng dậy, đám người đó cũng đều lập tức kín đáo đứng dậy theo, lặng lẽ xúm lại quây lấy hắn.

Một viên thủ lĩnh thị vệ nhỏ giọng hỏi:
- Hoàng thượng, ngài muốn đi đâu vậy, có phải là đi ngoài không?

Chính Đức trợn to mắt, nén giọng mắng:
- Đi ra ngoài(*)! Ra khỏi cung rồi mà vẫn không được tự do, đi đến đâu cũng thấy mặt các ngươi hết. Nơi này là phủ Đại vương, còn có thể có giặc cướp hay sao? Đi cách xa ra một chút đi, đừng làm phiền trẫm, trẫm đi xem náo nhiệt một chút.
(*: nguyên văn là "xuất cung". Thị vệ hỏi Chính Đức có phải là muốn đi đại tiện, Chính Đức bảo là y muốn rời khỏi chỗ này (cung điện của Đại vương))

Dứt lời hắn bèn hừ một tiếng rồi đi vào mảnh sân đằng sau cổng Đoan Lễ.

Trình Tiểu Vân đang cất giọng ngâm nga trên sân khấu. Hắn mặc một bộ đồ trắng, trên mái tóc mềm đen như tơ mực cài một đoá hoa mẫu đơn tươi thắm; tay áo như mây, điệu múa nhẹ nhàng, mĩ miều hệt như một đoá mẫu đơn sống động.

Chính Đức đi đến dưới sân khấu, bên ngoài người đông như kiến, hai tay thị vệ đã tranh bước lên trước, thấy đông người nên âm thầm chặn không cho hắn đi qua. Chính Đức đang không biết làm thế nào, chợt thấy một cô gái vận đồ đoản đả (đồ chẽn của diễn viên võ) màu đỏ, thắt đáy lưng ong, một chân đạp lên chiếc ghế thấp, đang buộc chặt xà cạp lại thành nhiều vòng, bèn mỉm cười đi tới hỏi:
- Vị tỷ tỷ này, có phải tỷ biểu diễn võ công không?

Thôi Oanh Nhi ngẩng đầu lên. Chính Đức thầm tiếc rẻ, cô nương có vóc dáng đẹp mê người như vậy lại bị mặt rỗ. Khi thoa phấn lên sân khấu, mặt ngọc trông rất mịn màng óng ánh thì còn không thấy gì, song nhìn gần như vậy thực thấy kém quá đỗi.

Thấy hắn là hiệu úy quân đội, tuổi trông không quá mười lăm mười sáu, trên mép môi còn lún phún lông măng nhưng mặt mày ngũ quan trông mười phần anh tuấn, nói chuyện cũng khách khí thân thiện, không có vẻ bất lương giả dối như những tên lính bình thường nên Thôi Oanh Nhi tăng thêm mấy phần hảo cảm. Nàng quấn chặt xà cạp, đưa tay vén tóc mai, rồi cười duyên dáng đáp:
- Trong vương phủ, tỷ tỷ biểu diễn võ công cho ai coi đây? Chẳng qua chỉ là mấy trò tạp kỹ đi dây, leo sào, nhào lộn mà thôi.

Ánh mắt Chính Đức sáng rỡ, hắn hào hứng:
- Tạp kỹ hả? Vậy càng đáng xem hơn võ công rồi! Lúc nào thì tỷ tỷ sẽ biểu diễn tiếp vậy, tiểu đệ sẽ vỗ tay hò hét cổ vũ cho tỷ.

Cảm thấy hắn khá thú vị, Hồng Nương Tử không nhịn được cười khúc khích đáp:
- Tiểu huynh đệ, đệ thực vui tính đó! Vương phủ thưởng bạc có quy tắc cả, đệ có hét đến khản cổ cũng vẫn không tăng thêm tiền thưởng được đâu.

Chính Đức đáp bằng giọng không phục:
- Như vậy hả? Vậy để Dương... để khâm sai Dương đại nhân nhà đệ thưởng cho tỷ là được rồi. Đệ là thân binh của Dương đại nhân, nếu như tỷ diễn hay, đệ sẽ nói với đại nhân, người nhất định sẽ mời tỷ qua phủ biểu diễn và ban thưởng hậu hĩnh đó.

Hồng Nương Tử bị kiểu nói trẻ con của hắn chọc cho cười khanh khách, nàng ráng nhịn cười vái chào hắn, rồi bảo:
- Vậy tiểu nữ tử cảm tạ quan gia trước! Nếu thực được Dương đại nhân ban thưởng, tiểu nữ tử nhất định sẽ chia cho quan gia một nửa.

Chính Đức khoát tay ra vẻ hết sức trượng nghĩa:
- Không cần khách khí! Không cần khách khí! Tiểu đệ theo đại nhân ăn uống, không phải lao tâm lo lắng không có tiền tiêu.

Trên sân khấu vang lên tiếng chiêng "chập cheng", Trình Tiểu Vân lướt ra khỏi sân khấu như một đám mây, Lữ Đồng Tân (một trong Bát Tiên) và yêu đạo Hoàng chân nhân bước lên sân khấu trong tiếng chiêng trống vang rền. Nhận được sự reo hò của khán giả, Trình Tiểu Vân hiển nhiên cũng có vài phần đắc ý. Hai má đỏ bừng, hắn nhấc váy bước xuống vũ đài tiến đến chiếc lều dùng để hóa trang và thay y phục được bắc phía sau sân khấu. Trình Tiểu Vân cất giọng gọi Hồng Nương Tử:
- Liễu đại tỷ, giúp tôi thay y phục với.

Thôi Oanh Nhi ừ một tiếng, rồi quay lại cười tươi tắn nói với Chính Đức:
- Tiểu huynh đệ, tỷ tỷ phải đi làm việc đây! Chốc nữa màn hát này xong, tỷ tỷ sẽ lên sân khấu biểu diễn nhào lộn, đệ nhớ đến xem nhé.

Chính Đức liền gật đầu đồng ý. Thấy người con gái áo đỏ này lách người tiến vào trong lều, hắn bèn nhìn đông ngó tây một lát, rồi xoay người đi về phía gian điện ở cánh phải cổng Thừa Vận. Đám đại nội thị vệ hầu hạ trong cung nhiều năm, không dám làm trái thánh ý cho nên không dám đi sát hắn quá, chỉ đồng loạt đi theo sang phía bên phải.

Một thị nữ vận cung trang dáng cao gầy, vẻ mặt cao ngạo, được hai thị nữ khác theo kèm đang vừa bước ra khỏi cổng Thừa Vận. Vốn Chính Đức tính nôn nóng, lại bởi dòng người trên đường nườm nượp, hắn lo tránh trái né phải để vòng qua đám người đi vào trong cổng nên vô ý giẫm phải vạt váy sau của cô thị nữ nọ.

Thị nữ đó la lên "ui da" một tiếng, liền vội nhấc váy lên, đỏ mặt quay lại. Thấy chẳng qua chỉ là một tiểu hiệu uý cỏn con, ả liền quắc mắt trừng hắn, mắng nhiếc:
- Mù cái mắt chó nhà ngươi rồi à? Đi đường trong vương phủ mà cũng không mang theo mắt sao?

Chính Đức bị người ta mắng té tát như thế song lại không hề nổi giận, chỉ cảm thấy cô ả lúc bước ra thì ngửa mặt ưỡn ngực, dáng vẻ cao ngạo, hiện tại lại lúng ta lúng túng không thôi thì thấy rất thú vị. Hắn bèn nén cười chắp tay thi lễ xin lỗi:
- Mong cô nương thứ lỗi! Là kẻ hèn lỗ mãng rồi, thực có lỗi quá.

Thị nữ giũ giũ váy, thấy vạt sau bị in một dấu chân thật to thì càng thêm nổi giận. Căm hận lườm Chính Đức, ả phỉ phui:
- Ta khinh, còn bày đặt kẻ hèn! Ngươi tưởng ngươi là công tử hay thiếu gia vậy? Chỉ là một tên lính, còn bày đặt kẻ hèn, đồ ngựa không biết mặt mình dài! Ngươi mà cũng là người có danh phận, có sự nghiệp sao? Hừ!

Dứt lời ả quay ngoắt đầu đi như một con công kiêu ngạo rồi lại nghênh ngang bước đi.

Bị ả mắng cho không nói được tiếng nào, hoàng đế Chính Đức chỉ biết rờ mũi cười khổ. Mấy tay thị vệ chạy qua thấy Hoàng thượng bị một thị nữ của vương phủ mắng mỏ, chế giễu cho một trận thì đều không nhịn được cười trộm.

Một giọng nói dịu dàng mang theo nụ cười của một thiếu nữ từ bên cạnh cất lên:
- Đừng trách tỷ ấy! Vũ tỷ tỷ là thị nữ được yêu mến bên người Vương phi nương nương, ngay cả đại tổng quản cũng phải nhường tỷ ấy ba phần đó. Tuổi ngươi nhỏ như vậy, lại đã làm đến thân binh của đại tướng quân, tương lai nhất định sẽ có sự nghiệp. Anh hùng không sợ xuất thân kém, đợi khi ngươi làm tổng binh Đại Đồng rồi, khi ấy lại đến bái kiến vương gia, Vũ Nhi tỷ tỷ nhất định sẽ nhìn ngươi với con mắt khác đó.

Đừng nói là tổng binh Đại Đồng, cho dù là làm đại nguyên soái nắm binh mã cả nước, Chính Đức vẫn không để vào mắt. Có điều người con gái này hiểu ý người ta như vậy, hơn nữa lại không hề quan tâm đến xuất thân của hắn, khiến nghe được lời này hắn cảm thấy ấm áp trong lòng. Đây đúng là người con gái đầu tiên không biết hắn là đương kim Hoàng đế mà lại xem trọng hắn như thế.

Chính Đức xoay người lại, định cất tiếng cảm ơn người con gái đó, nhưng mới vừa đưa mắt nhìn liền như thể ba hồn bảy vía của hắn đều bay mất sạch, cả người như được nặn bằng đất sét cứ đứng đực ra đó, cứng mồm cứng lưỡi không thốt được tiếng nào.

Người con gái trước mắt hắn không hề ăn vận giống như thị nữ trong vương phủ. Nàng mặc một chiếc áo chẽn da chồn lợp nhung màu xanh, trong mặc áo đơn màu xanh nhạt, trên chiếc eo thon thắt chiếc váy hồng màu xanh nhạt sáu mảnh phơi phới như nước sông Tương. Cho dù là tiểu thư khuê các, song lại xinh đến nỗi da trắng thịt thơm, hữu tình quyến rũ như nàng vẫn là rất hiếm. Vóc người thon thả lung linh, khuôn mặt sáng ngời rực rỡ, trên khóe môi cười mỉm yêu kiều chấm một nốt ruồi mỹ nhân. Nàng đang ôm trong lòng một con chim anh vũ lớn, lông đuôi sặc sỡ.

Thấy Chính Đức mấp máy cả buổi vẫn không ra tiếng, người thiếu nữ xinh đẹp trạc mười bốn mười lăm đó ngạc nhiên nhìn xuống người mình một lượt rồi cười hì hì, nghiêng đầu nói với hắn bằng giọng dí dỏm:
- Thế nào? Có phải là ta rất xinh đẹp không?





Chú thích:
(1) Người con gái đang độ xuân sắc, lả lướt diễm lệ như liễu như hoa, từng lời nói từng cử chỉ đều vô cùng thùy mị, mà thiếu nữ trẻ tuổi xinh đẹp như vậy, thì ở chỗ nào cũng đẹp.

(2) mâm tiệc bày sẵn, ai đến lúc nào thì ăn lúc đó, ăn xong rồi đi, người hầu lại dọn lên tiếp cho đợt khách mới; bởi hình tượng như nước chảy nên xưa có tên này.




Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?p=9252079#post9252079
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
01-08-2012, 04:36 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 193 Tri Âm Khó Gặp


Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Đường Nhất Tiên chợt vỗ tay la lên:
- Ta nhớ ra rồi! Ta cũng vậy đó, thứ gì cũng phải học, ăn thế như nào, mặc ra làm sao, đi đứng phải thế nào, hệt như con rối vải mặc cho người ta đưa đẩy vậy. Còn phải học nào là cầm kỳ thi họa, thi từ ca phú, rất là chán, ta lại không được đi thi Trạng Nguyên... Ui da, lại nhức đầu rồi. Ta chỉ có thể nhớ bấy nhiêu.

Chính Đức hào hứng nói theo:
- Đúng đó, tôi cũng vậy! Tôi thì lại không muốn thi Trạng Nguyên, học nhiều như vậy để làm gì, nhức đầu lắm!

Hắn càng nói càng thấy ăn ý, cảm thấy tri âm trong thiên hạ chỉ có Nhất Tiên cô nương mà thôi. Đoạn hắn ngẫm nghĩ, thấy nỗi khổ của một người đường đường làm vua như mình thế mà lại giống nỗi đau của một người kỹ nữ được thanh lâu bồi dưỡng để lấy sắc mua vui cho thiên hạ, thì lại cảm thấy dở khóc dở cười.






Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 193 Tri Âm Khó Gặp




193 Tri Âm Khó Gặp

Cô nương đó vuốt ve bộ lông con chim anh vũ, thấy viên lính cứ đứng ỳ ra đó ngẩn ngơ nhìn mình chằm chằm thì không khỏi bật cười khúc khích, rồi bảo:
- Một chốc nữa sẽ rước Trắc vương phi vào phủ rồi, ngươi đừng có chạy lung tung đó! Nếu lại giẫm phải váy của vương phi thì sẽ không chỉ bị mắng một trận rồi thôi đâu.

Dứt lời, nàng nhoẻn miệng cười duyên dáng rồi xoay người đi về phía các tòa đình viện ở chái tây. Kiến trúc trong vương phủ nguy nga và lộng lẫy, hào hoa và tráng lệ; hành lang nối liền phòng ốc, nhà cửa đan xen; phía trước là nhà chính, phía sau là phòng ngủ, cung điện sâu hút bên trong. Các tòa đình viện ở chái tây này gồm cả thảy mười tòa nhà, là nơi ở của đám người hầu và tạp dịch, cho nên không có ai canh gác.

Chính Đức vừa giơ tay lên kêu "này" thì người thiếu nữ xinh đẹp đã bước qua khỏi cánh cửa cao cao, hắn bèn vội rảo bước đuổi theo. Thị vệ xung quanh đưa mắt nhìn nhau, đều nghĩ bụng rằng Hoàng thượng đã chấm người con gái xinh xắn này rồi, thế là nhất thời trở nên khó xử. Hoàng thượng theo đuổi con gái nhà người, bọn họ làm sao dám đuổi theo quá sát, nhưng dẫu gì thì nơi này cũng không phải là hoàng cung đại nội, ngộ nhỡ Hoàng thượng gặp phải chuyện gì thì biết làm thế nào?

Thế là mấy viên thị vệ chỉ đành cắn răng bám theo cách một khoảng. May mà khu vực này là chỗ ở của đám tôi tớ nên cũng không được trông giữ nghiêm ngặt lắm, vả lại hôm nay có nhiều gia bộc và thân binh của các vị tướng quân và đại nhân mới đến vương phủ lần đầu, chỗ nào cũng cảm thấy mới lạ nên thỉnh thoảng cũng có người chạy sang chỗ chái điện bên này ngắm nghía. Thêm nữa bởi hôm nay là ngày vương gia nạp phi, nô bộc đều ở bên ngoài đón khách nên chốn này cũng không có mấy người, vì vậy bọn họ có thể vào trong sân của khu nhà ngang một cách thuận lợi.

Chính Đức vội vã đuổi theo, hắn thấy người thiếu nữ bước khoan thai nhẹ nhàng đến trước một căn phòng, vừa lúc có một bà lão đi ra ngoài lấy mấy bó rau phơi ngoài khung cửa. Người thiếu nữ đó liền cất giọng thưa:
- Mẹ, con đã về.

Bà lão có vẻ mặt hiền hậu ngẩng đầu lên, trông thấy con mình liền lập tức nở một nụ cười vui vẻ, bảo:
- Lương Nữ đó à, nương nương lại thưởng cho chim anh vũ à? Mau đem nó vào phòng sưởi đi, đừng để nó bị lạnh. Mẹ làm một ít thịt heo hầm rau khô, chốc nữa nhớ gọi cha con về ăn nhé.

Người thiếu nữ dạ một tiếng giòn tan, đoạn rẽ sang một căn hầm sưởi nhỏ bé ở bên cạnh, mở cửa bước vào. Bà lão cũng mang mớ rau khô trở về phòng. Chính Đức thoáng ngừng bước: "Lương Nữ? Mẹ? Nàng ấy... nàng ấy không phải là Đường Nhất Tiên sao?"

Chính Đức cố nhớ kỹ lại. Tuy bình thường khi nhớ về vị cô nương này trong đầu hắn chỉ thấy một bóng hình xinh đẹp mờ ảo mang theo một chút ấm áp và hương thơm nhàn nhạt, nhưng khi vừa trông thấy nàng, Chính Đức lại nhớ rõ hình dáng của nàng ngay: tuổi tác, vóc người, giọng nói, còn cả nốt ruồi duyên trên mép môi nàng. Trên đời có sự trùng hợp đến vậy ư?

Chính Đức lại cất chân đuổi theo rồi cũng chui vào trong phòng sưởi. Đám thị vệ đưa mắt nhìn nhau, không nói mà ngầm hẹn tản ra, đứng vây lấy căn phòng sưởi đó lại. Bước vào căn phòng sưởi,người thiếu nữ nhón chân mở một cái lồng tre thả con chim anh vũ vào rồi cài chốt đóng lại. Nghe thấy tiếng cửa cót két, nàng vội quay đầu nhìn lại, ngạc nhiên hỏi:
- Là ngươi? Ngươi đuổi theo ta làm gì?

Hơi thở của Chính Đức có phần gấp gáp. Hắn định thần lại, đỏ mặt nói:
- Đường cô nương, cô có thể không nhớ ra ta, nhưng chắc cô phải nhớ Dương Lăng chứ? Y vẫn luôn phái người tìm cô suốt, sao cô lại đổi tên họ và vào phủ Đại vương vậy?

Người thiếu nữ vận bộ đồ trắng trang nhã, càng làm nổi bật vẻ xinh đẹp hữu tình. Nàng nghiêng người dựa cạnh một dãy lồng trúc, lấy tay vén tóc mai, hơi đảo mắt, mỉm cười:
- Dương Lăng? Ngươi nói đề đốc Dương Lăng của Nội xưởng hả? Ta biết chứ, con hát đạo tình(1) khắp Đại Đồng đều biên các câu chuyện của y thành từ khúc để hát, đương nhiên là ta từng nghe qua. Y tìm ta...

Nói đến đây, khuôn mặt xinh xắn đột nhiên biến sắc, nàng bước vội đến trước mặt hắn hỏi dồn:
- Ngươi nhận ra ta? Ngươi biết ta tên gì sao? Ngươi hãy mau nói cho ta biết đi. Ta là ai? Dương đại tướng quân tìm ta để làm gì?

Chính Đức ngơ ngác hỏi lại:
- Cô... cô không biết tên mình sao?

Người thiếu nữ nguýt một cái dài thượt rồi sốt sắng đáp:
- Ta mà biết thì còn hỏi ngươi à? Ta được vương phi nương nương cứu về, nương nương nói lúc tìm thấy ta thì ta đang nằm ven bờ sông, mặt mày đầy máu, sau khi tỉnh lại thì không nhớ gì cả. Ta cũng không biết mình là ai, không biết trong nhà có còn cha mẹ anh em gì không. Ngươi bảo... ngươi bảo ta họ Đường hả?

Nói đến khúc sau, giọng nàng đã trở nên run run. Mặc dù vợ chồng Lưu Lương đối xử với nàng như con ruột, song muốn tìm lại người thân máu mủ của mình là bản tính con người. Ai cũng nói nàng có lai lịch không rõ ràng, nay có cơ hội biết được xuất thân của mình thì sao tâm tình nàng không kích động và hưng phấn cơ chứ?!

Chính Đức lẩm bẩm: "Chứng mất hồn?" Hắn bỗng vỡ lẽ. Ngày đó khi Dương Lăng bẩm báo với hắn từng kể rằng trên vách núi phát hiện thấy một chiếc chuôi đao và và một tảng đá dính máu, bên trên còn bệt tóc và máu tươi. Ắt hẳn là do Đường Nhất Tiên bị đập mạnh vào đầu, lại rơi xuống nước nên mới mắc phải chứng bệnh mất hồn.

Biết người con gái trước mặt này đúng thật là Đường Nhất Tiên, Chính Đức mừng rỡ như điên. Hắn liền nắm lấy cổ tay Đường Nhất Tiên nói nhanh:
- Vậy thì đúng rồi! Quả nhiên cô là Đường Nhất Tiên. Cô chính là Đường Nhất Tiên, cô là... là...

Nói đến đây hắn chợt nghẹn lời. Hiện hắn đã không còn ngây ngô như khi còn làm thái tử, cũng biết phụ nữ chốn thanh lâu có thân phận rất thấp hèn, nếu hắn nói thật chỉ sợ sẽ khiến Đường Nhất Tiên xấu hổ và nhục nhã. Hắn ấp a ấp úng một lúc rồi buột miệng nói bừa:
- Cô là em... em gái của Dương Lăng Dương đại tướng quân.

Cái miệng chúm chím anh đào của Đường Nhất Tiên há ra tròn vo, cặp mắt sáng như sao trời ngây ra, nàng chăm chú nhìn Chính Đức thật lâu, vẻ vui mừng trong mắt bỗng dần biến mất. Nàng giật mạnh tay ra khỏi tay Chính Đức, lui về sau mấy bước, thuận tay quơ lấy một cây móc tre dùng để treo lồng chim rồi cảnh giác trừng mắt với Chính Đức, giận dữ bảo:
- Ngươi nói mấy lời ngon ngọt đó để làm gì? Tính gạt ta hả?

- Hả! Tôi gạt cô? - Chính Đức có phần hốt hoảng, - Chẳng lẽ tôi lại không có thiên phú nói dối đến như vậy sao?

Đường Nhất Tiên cười khẩy, mũi ngọc hếch lên, đắc ý như thể đã phát hiện được quỷ kế của hắn:
- Dương đại nhân họ Dương, vừa rồi ngươi lại bảo ta họ Đường, vậy còn không phải là buột miệng nói liều sao? Đồ lừa đảo, thấy sắc nổi lòng!

Đường Nhất Tiên vừa nói vừa tức giận vung mạnh cây gậy, "vù" một tiếng, cây móc tre quất trúng bắp đùi Chính Đức. Hắn la lên "ui da" rồi ôm chân nhảy lò cò tại chỗ. Đường Nhất Tiên thấy vậy thì không nhịn được bật cười phì. Dứt tiếng cười, nàng liền đanh mặt quát khẽ:
- Tiểu tử thúi, mau cút ra ngoài đi! Xui cho ngươi nghĩ ra cái cách láo khoét như vậy để gạt bản cô nương. Có điều... Đường Nhất Tiên... ừm, cái tên ngươi buột miệng nói liều lại nghe hay hơn Lưu Lương Nữ một chút. Hi hi!

Nghe thấy tiếng la oai oái của Hoàng thượng, hai gã thị vệ đang đứng sát ngoài cửa liền như mèo hoang bị giẫm phải đuôi, họ vội giật bung cả cánh cửa, cùng chen nhau xông vào, hốt hoảng gọi:
- Hoàng... Hoàng hiệu úy, đã xảy ra chuyện gì vậy?

Chính Đức thẹn quá hóa giận, liền quát lên:
- Cút ra ngoài cho ta, không phải chuyện của các ngươi!

Hai viên thị vệ trông thấy tình hình liền biết Hoàng thượng tán gái không thành, đích thực là một chuyện cực kỳ mất mặt của vị nam nhân đứng đầu thiên hạ. Hai tay cao thủ nhất lưu võ công cao cường ngay cả rắm cũng không dám đánh liền lập tức chui trở ra ngoài, tiện tay xách cánh cửa ra luôn.

Đường Nhất Tiên tặc lưỡi khinh thường:
- Ơ này! Hoá ra ngươi nhỏ như vậy mà đã là quan hiệu úy à! Nhưng mà nơi đây là phủ Đại vương, không cho phép người làm càn, bản cô nương mà la lên là tiểu tử thúi nhà ngươi sẽ bị tống vào đại lao đó. Đi ra mau lên!

Chính Đức khổ sở trần tình:
- Đường cô nương, tôi không có gạt cô đâu! Cô là... cô là biểu muội của Dương đại nhân, đương nhiên không cùng họ với y rồi.

- Hả?
Đường Nhất Tiên nhìn y chằm chằm, bán tín bán nghi, một lúc sau mới từ từ hạ cây gậy tre xuống, ấp úng:
- Ngươi... ngươi nói có thật không? Ta... ta là biểu muội của Đề đốc Nội xưởng Dương Lăng Dương tướng quân ư?

Chính Đức gật đầu lia lịa:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Cô thử nghĩ xem, đây là vương phủ, tôi sao dám nói càn? Cho dù tôi gạt cô đi nữa thì chốc nữa Dương đại nhân đi ra gặp cô, y cũng sẽ không giúp tôi gạt cô, đúng không?

Đường Nhất Tiên ngây người tại chỗ, hai mắt nhìn vào khoảng không, cũng không biết miệng nàng đang lẩm bẩm cái gì. Một lúc lâu sau nàng mới vứt cây gậy tre đi rồi reo lên:
- Mau, ngươi mau đưa ta đi gặp biểu ca! Hoá ra ta có biểu ca là đại tướng quân oai phong như vậy.

Đường Nhất Tiên vui sướng định chạy ra cửa, Chính Đức giật mình đánh thót. Nếu bây giờ đưa nàng đi gặp Dương Lăng, đảm bảo sẽ bị lộ ngay. Tuy rằng với quyền lực Hoàng đế của mình, không người con gái nào hắn muốn mà không thể triệu được vào cung. Nhưng hắn lại không muốn gây nên chuyện khiến Đường Nhất Tiên không vui. Huống chi hắn thà mong Đường Nhất Tiên cứ lớn giọng nói chuyện với hắn, chứ không mong nàng khép na khép nép như những người con gái khác.

Chính Đức vội tìm lời ngăn cản:
- Hiện tại hẳn là Dương đại nhân đang tham gia lễ nạp phi của Đại vương trên điện Ngân An, lúc này mà đi đến trước mặt vương gia sẽ thất lễ, Dương tướng quân cũng sẽ bị trách phạt. Tôi là thân binh của y, có dịp tôi sẽ đích thân đi gặp y. Các người li tán đã lâu như vậy, có lâu thêm một chút cũng đâu sao!

Trong lòng dạt dào niềm vui sướng, Đường Nhất Tiên gật đầu nhoẻn miệng cười tán thành:
- Ừm ừm! Ngươi nói cũng đúng. Đúng rồi, Hoàng... hiệu uý, cha mẹ ta đâu? Các vị đang làm gì? Nghe nói biểu ca là người Tuyên Phủ, ban sơ gia cảnh bần hàn, vậy cha mẹ ta chắc cũng là người dân bình thường hả?

- À... chuyện đó,... Mấy năm vừa rồi chiến loạn liên miên, lệnh tôn và lệnh đường sớm đã... Họ Đường hiện chỉ còn mỗi mình cô thôi, là... là Dương đại nhân nuôi dưỡng cô.
Chính Đức vừa trả lời vừa lén quệt mồ hôi trên trán.

- Ồ...!
Đường Nhất Tiên cảm thấy hơi mất mát, có điều trong ký ức của nàng không hề có chút ấn tượng gì về cha mẹ, cho nên cũng không thể nói là đau lòng.
- Ta lớn lên trong nhà của biểu ca sao? Đúng rồi, tại sao ta lại bị thương vậy. Ngươi là thân binh của biểu ca, ngươi có biết không?

- Khụ khụ! Chuyện này... nói ra thì dài lắm...

Chính Đức kể đến độ nước bọt văng tứ tung, bịa chuyện càng lúc càng quá đà. Hắn chợt cảm thấy hoá ra mình cũng có thiên phú tán hươu tán vượn đến thế.

*****

Vui sướng lâng lâng một lúc thật lâu, Đường Nhất Tiên chợt lưu luyến nói:
- Than ôi! Gặp biểu ca rồi, ta sẽ phải theo huynh ấy trở về kinh sư. Cha mẹ đối đãi với ta tốt như vậy...

Trông thấy vẻ mất mát của nàng, Chính Đức chợt mềm lòng liền vội dỗ dành:
- Dương đại nhân cũng đối xử với cô rất tốt! Chỉ cần cô nói một tiếng, nhất định y sẽ cho phép cô mang vợ chồng Lưu thị về kinh ngay.

- Thật không? - Đường Nhất Tiên mừng rỡ, - Vậy tốt quá rồi, cha và mẹ đối đãi với ta như con ruột của mình, ta thật không nỡ xa rời các vị. Chao ôi, có điều mấy con chim này đã bầu bạn với ta lâu như vậy, bọn chúng đều là bảo bối yêu của nương nương, sau này ta đi rồi sẽ không gặp lại chúng nữa.

Đường Nhất Tiên buồn bã ngước nhìn những chiếc lồng chim muôn hình muôn vẻ; từng con chim đang nhảy nhót líu lo ríu rít trong lồng.

Chính Đức say mê nhìn nàng đi đến bên từng chiếc lồng chim đang treo, chốc chốc lại chúm môi lại huýt sáo. Tiếng huýt sáo phát ra nghe êm tai hệt như tiếng chim hót, khiến đám chim nhảy chồm về phía trước vui hót không ngừng. Hai má nàng đỏ bừng; má đào da ngọc, cặp mắt lanh lợi, quyến rũ không nói nên lời.
- Nè, Hoàng hiệu úy! Giúp ta mang nước lại đây.

Như nhận được chiếu chỉ, Chính Đức liền vội xắn tay áo chạy đến góc tường xách một thùng nước to vui sướng mang lại cho Đường Nhất Tiên.

Đường Nhất Tiên ngoái đầu lại nhìn, thấy vậy thì bật phì cười, mắng:
- Ngươi thật là ngốc! Thật không biết sợi thần kinh nào của biểu ca bị bất thường nữa mà lại để cái tên ngốc nhà ngươi làm thị vệ. Mấy con chim này cộng lại cũng uống không hết một gầu nước, sao ngươi xách cả thùng qua đây làm gì?

Chính Đức cười ngây ngô mấy tiếng, chỉ cảm thấy người con gái này khi cáu gắt cũng có vẻ phong tình khác lạ, thế là hắn càng cảm thấy yêu thương hơn. Trong vườn thượng uyển của hoàng cung, hắn suốt ngày sinh sống trong ổ của đám nữ nhân, ngay cả lúc đi ngoài cũng có cung nữ xinh đẹp hầu hạ. Hắn lớn đến chừng này, ngoại trừ thái giám thì gặp nữ nhân là nhiều nhất; thái giám và nữ nhân vây quanh hắn thường xuyên như việc mặc quần áo mỗi ngày vậy. Hắn cũng đã quen đối xử với đám người đấy như một vật trang trí rồi.

Nhưng Đường Nhất Tiên lại tạo cho hắn một cảm giác hoàn toàn khác biệt. Ở trước mặt nàng hắn không cần phải giả đò ra vẻ cao quí, cả người thoải mái thong dong. Trong thâm cung đại viện, bề ngoài thì hắn luôn vui đùa không nghỉ, song khi tuổi tác lớn dần, hắn cũng thường xuyên cảm thấy rất ức chế và cô đơn.

Mỗi khi trên trời có chim ưng hay hồng nhạn bay qua, hắn liền bó tay vào tay áo mà ngữa đầu ngước nhìn bầu trời, ánh mắt dõi theo thật xa. Hắn vừa nhìn vừa hâm mộ, mãi đến khi không thấy bóng dáng con chim ấy đâu nữa. Mặt trời lặn trên sông dài, cuối thu giữa đại mạc, ... thật là thong dong biết bao,... còn trong tòa nhà to lớn, quanh co và hùng vĩ ấy, khắp chỗ đều là những cấm kị và lễ nghi; Hoàng đế còn không bằng cả một con chim tự do.

Đường Nhất Tiên trông bộ dạng lóng ngóng tay chân của hắn thì cười bảo:
- Xem ngươi kìa, sao giống như thường ngày không phải làm gì hết vậy?

Chính Đức liền đáp:
- Đúng đó! Từ nhỏ tôi ở trong một căn nhà lớn ơi là lớn, chỗ đó không cho đi lại, suốt ngày bị nhốt bên trong, quy củ nhiều ơi là nhiều. Mãi đến khi gặp được Dương... đại nhân, tôi mới được ra ngoài mở mang kiến thức.

- Ồ? Nghe ra vẻ ngươi còn là con cháu thế gia vọng tộc à?
Đường Nhất Tiên khẽ nhíu đôi mày thanh tú, đưa tay vin đầu như có điều suy nghĩ
- Ta nhớ... nhớ lúc nhỏ cũng ở trong một căn nhà lớn. Cả ngày ở đó cũng không được đi đâu, hàng ngày đều bị nhốt ở trong đó, chỉ có thể ngẩng đầu ngước lên nhìn một mảnh trời, bị nhốt đến mụ mị cả người. Lạ thật, sao ta lại có cảm giác này nhỉ?

Cặp con mắt Chính Đức sáng ngời:
- Vậy sao? Hoá ra cô và tôi đều thê thảm như nhau. Nhưng mà tôi thực sự đáng thương hơn cô nhiều! Chẳng những bọn họ không cho tôi ra ngoài, mỗi ngày còn bắt tôi học này học nọ, mặc kệ tôi thích hay không, luôn ép tôi phải học...

Đường Nhất Tiên chợt vỗ tay la lên:
- Ta nhớ ra rồi! Ta cũng vậy đó, thứ gì cũng phải học, ăn thế như nào, mặc ra làm sao, đi đứng phải thế nào, hệt như con rối vải mặc cho người ta đưa đẩy vậy. Còn phải học nào là cầm kỳ thi họa, thi từ ca phú, rất là chán, ta lại không được đi thi Trạng Nguyên... Ui da, lại nhức đầu rồi. Ta chỉ có thể nhớ bấy nhiêu.

Chính Đức hào hứng nói theo:
- Đúng đó, tôi cũng vậy! Tôi thì lại không muốn thi Trạng Nguyên, học nhiều như vậy để làm gì, nhức đầu lắm!

Hắn càng nói càng thấy ăn ý, cảm thấy tri âm trong thiên hạ chỉ có Nhất Tiên cô nương mà thôi. Đoạn hắn ngẫm nghĩ, thấy nỗi khổ của một người đường đường làm vua như mình thế mà lại giống nỗi đau của một người kỹ nữ được thanh lâu bồi dưỡng để lấy sắc mua vui cho thiên hạ, thì lại cảm thấy dở khóc dở cười.

Đường Nhất Tiên nghe xong thì bật cười, liếc nhìn hắn mỉm cười bảo:
- Này tên lười! Ta là nữ nhân mà, đương nhiên không cần thi Trạng Nguyên. Ngươi là nam nhân, đáng ra nên đọc sách cho tốt. Thấy chưa, không lo đọc sách cho tốt, giờ chỉ có thể làm thị vệ mà thôi.

Chính Đức cười khan hai tiếng rồi rờ mũi nói:
- Như vậy càng tốt, tự do tự tại. Làm trạng nguyên có gì hay chứ? Nhiều quy củ, lắm lễ nghi. Chậc, cô không biết đâu, cả ngày phải nói những lời giả dối với rất nhiều người, nghĩ một đằng nói một nẻo, giả vờ giả vịt, cho dù trong lòng không vui cũng phải ngoác miệng mà cười...

Đường Nhất Tiên kinh ngạc:
- Thật đó! Ngươi nói như vậy ta mới nhớ, hình như ta cũng vậy...
Vừa nói đến đây, nàng chợt biến sắc hỏi:
- Tại sao lại có những chuyện này? Có phải là biểu ca của ta đối xử với ta không tốt?

Chính Đức liền vội đáp:
- Không đâu, không đâu! Dương đại nhân rất yêu thương cô, những chuyện đó nhất định là xảy ra khi cô còn rất nhỏ, lúc cô còn ở trong nhà mình rồi.

Đường Nhất Tiên nghiêng đầu suy nghĩ một lúc rồi gật đầu hài lòng:
- Ừm! Có lý, hình như là chuyện lúc ta còn rất nhỏ. Đúng rồi, ngươi nói cho ta biết trước biểu ca ta bao nhiêu tuổi, diện mạo thế nào đi. Hình như ta có một ít ấn tượng về anh ấy.

- Dương đại nhân ấy à?
Chính Đức ưỡn ngực, vuốt lại vạt áo, nghiêm mặt nói:
- Y năm nay mới tròn hai mươi, anh tuấn bất phàm, phong lưu lịch lãm, khí vũ hiên ngang , phong lưu phóng khoáng,. .. Đại để cô thấy bộ dáng tôi thế nào thì đại khái có thể tưởng tượng được bảy tám phần rồi đó. Dương đại nhân là bầy tôi đắc lực bên cạnh Hoàng thượng, mưu sâu kế rộng, cơ mưu nhanh nhạy, gặp loạn không hoảng, rất có phong độ đại tướng...

*****

Vào lúc này, vị Dương Lăng Dương đại khâm sai "mưu sâu kế rộng, cơ mưu nhanh nhạy, gặp loạn không hoảng, rất có phong độ đại tướng" trong miệng Chính Đức đang bị Dương Đình Hoà, Hồ Toản và vị tuần phủ Uông Dĩ Hiếu của Tuyên Phủ mà ban đầu y không nhận biết xô đẩy đánh đập mắng chửi trong điện Cẩn Đức, bộ dạng nhếch nhác khôn thôi. Tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh đứng một bên, mặt mày khó xử, cũng không biết nên khuyên ai cho phải.

Trương Vĩnh cũng biết võ, trong lúc hỗn loạn không biết bị ai đạp cho một phát nên lão định xông lên báo thù nhưng bị Đại vương gia quát bảo dừng lại, nên đành nhặt chiếc đai ngọc bị giật đứt từ dưới đất lên rồi căm tức đứng sang một bên.

Dương Lăng trẻ trung khoẻ mạnh, cộng thêm mấy ngày qua theo Ngũ Hán Siêu luyện tập võ công, được danh sư chỉ điểm cho nên y cũng biết chút kỹ xảo quyền cước thông thường. Nếu thực sự động thủ thì ba vị quan văn này cũng không phải đối thủ của y, nhưng mà người trẻ nhất trong ba vị này cũng đã bốn lăm bốn sáu tuổi rồi, sao y dám ra tay?!

Lần trước Dương Đình Hoà bị cái gã Lưu Đại Bổng Chùy của y lỗ mãng đánh gãy chân ngựa, đành đưa hai vị "thầy đồ" lo lắng ủ rũ trở về kinh thành. Lão lại bị ba vị đại mẫu nghi thiên hạ già lớn trẻ trách mắng cho một chập, thế là bèn vác một bụng tức khí đến bộ Binh, lấy giấy thông quan cho phép vượt quan ải, tiện đường qua Tuyên Phủ lại mang theo cả vị tiến sĩ đồng khoa là tuần phủ Tuyên Phủ Uông Dĩ Hiếu đi cùng.

Trước tiên lão bí mật gặp mặt Đại vương, nói rõ ngọn ngành việc Hoàng đế bí mật đến Đại Đồng, định tập hợp sức mạnh của chúng quan để đàn áp thói kiêu ngạo của Dương Lăng. Chính Đức đến được Đại Đồng đều là do Dương Lăng xúi bẩy, nếu như y cũng thay đổi ý kiến, chịu khuyên nhủ Hoàng đế hồi kinh thì Dương Đình Hoà cũng sẽ chẳng thèm so đo mối hiềm khích đánh gãy chân ngựa với y nữa.

Ai dè sau khi Dương Đình Hoà trần tình, thuyết phục hết nước hết cái mục đích đến đây của mình rồi, Trương Vĩnh lại bước lên. Trước tiên, lão phán một câu “Hoàng thượng có chỉ, nô tài không dám không theo”, sau lại một câu “dưới khắp gầm trời không chỗ nào không phải là đất của nhà vua”, rằng Hoàng thượng tuần tra xem xét giang sơn cũng là việc thiên kinh địa nghĩa, vừa nói vừa cười toe toét, đùn đẩy hết mọi thứ sang cho Hoàng thượng, hoàn toàn không hề nhượng bộ.

Tuần phủ Uông Dĩ Hiếu của Tuyên Phủ nghe xong thì nổi giận đùng đùng. Lão không ở trong kinh thành, Trương Vĩnh lại mới nhậm chức đề đốc Kinh doanh mới được mấy tháng, tính tình lại không hống hách như Lưu Cẩn, nói một cách tương đối thì lão ta khá là khiêm nhường, cho nên Uông Dĩ Hiếu không biết sự lợi hại của lão. Thế là Uông tuần phủ bèn xông lên phía trước mắng cho một câu:
- Bề tôi chúng tao trực ngôn khuyên can báo quốc, cái tên hoạn mày nhiều chuyện cái gì?
Dứt lời liền cho mặt Trương Vĩnh ăn một quả đấm già.

Trương Vĩnh nào chịu bỏ qua, thế là hai người tức thì túm lấy nhau mà đấm đá. Dương Lăng vốn định nhẫn nhịn để đặng yên thân, tính bước lên khuyên giải cùng đám người Dương Đình Hoà, nào ngờ hai bên đều ôm đầy bụng lửa giận, chưa nói được mấy câu thì cũng đã lao vào tham chiến.

Đại vương giận đến run rẩy chòm râu, mắt trợn trừng. Lão sớm nghe kể quan viên kinh sư được Hoằng Trị lão gia tử nuông chiều đến độ hồ đồ, hở một tí lại xúm vào diễn vai võ phụ(*) trên triều đình, Lý Đông Dường còn từng giật lấy kim qua của võ sĩ mà rượt đánh Thọ Ninh Hầu trên kim điện. Chuyện này truyền đến kẻ sĩ trong dân gian lại được đám người đọc sách xem đó là giai thoại đáng được ca tụng mà cổ vũ cho cái tập tục đó. Nay xem ra quả nhiên là đúng thật. (*: vai quần chúng đánh nhau trong kịch)

Đại vương quát to:
- Lẽ nào lại vô lý như thế? Tất cả hãy dừng tay lại cho bản vương! Các ngươi đều là quan lớn nhất phẩm nhị phẩm của triều đình, nay ra tay đánh nhau ở đây thì còn ra thể thống gì nữa?

Tuần phủ Uông Dĩ Hiếu của Tuyên Phủ chắp tay thưa với Đại vương:
- Vương gia! Hoàng thượng mới kế vị ngôi vua, chưa con nối dõi, thân quý nghìn vàng sao có thể xem nhẹ mà dấn thân vào nơi nguy hiểm? Trước kia cho dù thiên tử ở tại cấm cung, bốn phía cũng vẫn được canh gác cẩn mật. Dương Lăng luôn miệng vì xã tắc giang sơn, song lại coi Hoàng thượng như quân cờ của hắn, dẫn bừa đến vùng đất đao thương này. Ngộ nhỡ xảy ra bất trắc gì, cái họa người đánh chùy ở bãi Bác Lãng(2) hãy còn đó, hạ quan sao có thể không lo như có lửa đốt trong lòng?

Hôm đó Hồ Toản ở thế bị Hoàng đế và Dương Lăng ép buộc nên không thể không ngầm bằng lòng cho vua đến Đại Đồng, nhưng trong lòng vẫn hết mực phản đối chuyện này. Nay có chỗ dựa lớn là Dương Đình Hoà nên đương nhiên lão cũng muốn khuyên nhủ Hoàng thượng sớm ngày hồi kinh.

Lão giũ giũ chiếc quan bào nhăn dúm dó, cũng không thèm nhặt chiếc cánh chuồn bị vặt đứt vứt lăn lốc trên mặt đất, chỉ đội chiếc mũ một cánh mà thưa với Đại vương:
- Vẫn mong vương gia làm chủ chuyện này. Hoàng thượng là thiên hạ chí tôn, đáng nên chuộng chánh học(3), thạo ngôn lộ(4), giữ danh hiệu, cai vui chơi, bỏ tiểu nhân, tường kẻ nghịch; làm cả sáu điều thì mới có thể ngăn họa, mới có thể dẹp loạn vậy. Thay vì dấn thân tôn quý vào chốn hiểm nguy, chi bằng chuộng tích đức, dưỡng nhân tâm, thì mới rũ tay không làm mà vẫn yên trị.

Ở đây Đại vương có thân phận cao nhất, nhưng bởi thế lão nói chuyện càng phải kiêng dè nhất, không thể ăn ngay nói thẳng như mấy ngoại thần này. Lão là người trong hoàng tộc, nếu can thiệp vào quá sâu sẽ khó tránh bị Hoàng đế kiêng kị, song nếu bỏ mặc bàng quang, lỡ mà thật sự Hoàng thượng xảy ra chuyện gì trên đất của lão thì khi đó lão có muốn khóc cũng sẽ không kịp nữa.

Đại vương bèn ho khan mấy tiếng, vừa định trù liệu chút lời mềm mỏng để khuyên nhủ hai vị khâm sai, thì Dương Lăng đã cười khẩy nói:
- Dưỡng nhân tâm? Dưỡng nhân tâm như thế nào? Cái kiểu dưỡng nhân tâm giống như Lưu A Đẩu vui quên nước Thục(5) đấy ư? Hay là dưỡng nhân tâm như Lý Hậu Chủ vui vầy với trăng hoa gió tuyết(6)? Hai kẻ nhu nhược đó dưỡng nhân tâm đến mất cả nước đó!
Giặc mạnh ở ngay sát bên người, thiên tử không biết việc quân, không thạo việc võ, liệu có được không? Hoàng đế giặc Thát thì ở ngoài Trường Thành cưỡi ngựa bắn tên, dẫn đại quân tác chiến, thiên tử chúng ta hiện còn ở trong thành Đại Đồng mà các người đã run rẩy sợ hãi, đó là trung ái hay là chiều hỏng?

Uông Dĩ Hiếu cố cưỡng từ đoạt lý:
- Đại Minh ta quốc thái dân an, ca múa thanh bình, một đám rợ Hồ không biết nông canh ngẫu nhiên vượt qua biên cảnh mà là họa tâm phúc cái gì? Nó chỉ là mụn ghẻ, hà tất vì mong kết đồng minh mà Hoàng thượng phải hạ thấp thân phận đi đến biên thùy!

Lời này nói ra khiến Hồ Toản và Dương Đình Hoà không khỏi thoáng nóng mặt, cảm thấy có phần thẹn với lòng. Dương Lăng nghe xong thì cười lớn hai tiếng, đáp trả:
- Mụn ghẻ? Nói chi xa, chỉ nói mấy năm gần đây, năm Hoằng Trị thứ bảy, Thát Đát quấy nhiễu Tuyên Phủ, vây Xích thành, sát hại hàng trăm bá tánh, toàn bộ dân chúng trấn Phụng Nghĩa đều bị giết sạch.
Năm Hoằng Trị thứ tám, Thát Đát tập kích Ứng châu, cướp đi hơn ba trăm đinh tráng.
Năm Hoằng Trị thứ chín, chúng tấn công Kế châu, thiêu hủy hết hoa màu và rừng cây ngoài thành, phụ nữ bị bắt có đến chín trăm.
Năm thứ mười, chúng xâm lược Túc châu, Cam châu, lừa ngựa bò dê bị cướp có mấy nghìn, hơn năm trăm đinh tráng và phụ nữ bị bắt, người già trẻ nhỏ bị giết có gần ba nghìn, thây chất đầy đồng, nước xanh hoá đỏ. Cùng năm đó, chúng cướp Úy châu, thiêu rụi hơn nghìn thôn làng, nạn dân vô số.
Năm thứ mười hai...
Năm thứ mười ba...

Mặt Uông Dĩ Hiếu trắng bệch, mồ hôi túa ra đầm đìa. Thát Đát xâm lược biên cương là chuyện năm nào cũng có, hơn nữa năm sau luôn hung hãn hơn năm trước. Bò ngựa và phụ nữ bị chúng bắt đi cũng mỗi năm một nhiều hơn, quan binh bị giết hại cũng từ mấy trăm lên đến hàng nghìn, hàng vạn. Rõ ràng thế lực Thát Đát càng lúc càng lớn, thế mà lại trợn mắt nói mò, hồ đồ nói rằng bọn chúng bất quá chỉ là mụn ghẻ, sao mà chính mình lại cứ nhai nhải mãi như thế?

Trong lúc đó Dương Lăng vẫn chưa tha:
- Năm thứ mười bảy, Thát Đát tấn công Vạn Toàn vệ, Bạch Dương khẩu, Ninh Vũ quan và Hoa Mã trì, quân sĩ chết hơn mấy nghìn. Giặc Thát lại tập kích Tuyên Phủ, Đại Đồng, quân tiên phong vào đến sát kinh đô và vùng lân cận, giết hại và cướp mất vô số dân chúng và bò dê. Mà năm nay, chúng lại xua bảy vạn quân thiết kỵ, ồ ạt kéo sang xâm lược. Uông tuần phủ, những chuyện mà ông nhìn như không thấy này, chẳng lẽ không phải hại nước hại dân?

Dương Nhất Thanh thấy sắc mặt đám người Hồ Toản tím tái, bèn thở dài một hơi, mở lời hoà giải:
- Dương đại nhân! Ý của các vị đại học sĩ đây là Hoàng thượng là chủ của tông miếu xã tắc, nên coi nhẹ việc chinh phạt, mà xem trọng xã tắc. Ngự giá thân chinh là chuyện rất không ổn thỏa.

Dương Lăng biết vị Dương tổng chế này trong lòng tán thành việc Hoàng đế ra mặt kết minh với Đoá Nhan Tam Vệ cùng phân hoá và làm tan rã thế lực Thát Đát. Hơn nữa hắn cũng thấy được lợi ích về lâu dài trong đó.

Nhất là Dương Nhất Thanh đã dùng một kế cực kỳ hiểm độc, phái một cánh quân đơn độc theo kế sách "gậy ông đập lưng ông" lẻn vào đất giặc. Giặc Thát không có thành cao tường vững để thủ, không có trăm vạn sĩ tốt để cậy nhờ, một khi bị người khác xâm nhập vào ngôi nhà không được phòng vệ, thiệt hại của chúng sẽ hơn xa dân chúng Đại Minh.

Hắn kìm chân Bá Nhan ở biên quan, tiêu hao lương thảo và binh mã bọn chúng, lại dựa theo kế sách của mình mà phân hoá quan hệ giữa Bá Nhan và Hỏa Sư. Chính quyền người Thát Đát như tuyết lạnh thêm sương, trải qua một cuộc chiến này nhất định sẽ đại thương nguyên khí. Lúc này việc kết minh cùng Đoá Nhan Tam Vệ sẽ càng tỏ rõ tầm quan trọng của nó: có sự khống chế và phối hợp của bọn họ, Thát Đát sẽ suy yếu dần mà không có cơ hội và thời gian để khôi phục nguyên khí. Tầm quan trọng sâu xa của nó quả thực hấp dẫn vô cùng, vì vậy rất đáng để mạo hiểm.

Từ điểm này có thể suy ra Dương Nhất Thanh đang đứng về phía y. Có điều hắn là người thuộc phe Lý Đông Dương, mà lúc này Dương Đình Hoà đang đại diện cho ba đại học sĩ đến khuyên bảo Hoàng đế hồi kinh, cho nên hắn không tiện công khai đứng ra bày tỏ thái độ cá nhân mà thôi.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng dịu giọng lại, như thể nói chuyện với Dương Nhất Thanh nhưng thật ra là nói với đám người Dương Đình Hoà:
- Vương gia, các vị đại nhân! Vừa rồi hạ quan đã nói rõ tầm quan trọng của việc Hoàng thượng đến đây. Hoàng thượng năm nay mười sáu, có trải luyện nhiều một chút mới có thể trở thành minh quân thiên cổ.
Phàm là minh quân, có ai mà sợ chiến sự? Hán Cao Tổ ngự giá thân chinh dẹp loạn Trần Hi, Anh Bố. Đường Thái Tông ngự giá thân chinh chế ngự Cao Ly. Hồng Vũ của bản triều bắt Trương Sĩ Thành, diệt Trần Hữu Lượng, có lần nào mà không ngự giá thân chinh? Càng không nói đến việc Vĩnh Nhạc Hoàng đế tự mình năm lần chinh phạt đại mạc phương bắc.
Giờ đây thiên tử tự đến biên ải chỉ là để bày tỏ thành ý với Đoá Nhan Tam Vệ. Nếu không làm vậy, đừng nói gì đến hùng tài đại lược; nếu quan binh chỉ rút cổ sau Trường Thành mà lấy đó là sự quang vinh, Hoàng thượng trốn chui ở Tử Cấm Thành lại coi đó là lẽ phải, thì sao xứng danh minh chủ muôn đời?

Y chậm rãi thở ra một hơi, thành khẩn nói tiếp:
- Vương gia và các vị đại nhân lo cho an nguy của Hoàng thượng, hạ quan sáng tỏ trong lòng. Đợi khi nhận được thư hồi âm của Hoa Đáng rồi, tại hạ nhất định sẽ đích thân đến Bạch Đăng sơn dò thám địa hình, bày quân ổn thoả, đảm bảo cho sự an toàn của Hoàng thượng. Mong các vị đại nhân hãy giúp Hoàng thượng hoàn thành một mảnh hùng tâm này.

Dứt lời Dương Lăng vái Đại vương và mấy người Dương Đình Hoà một vái thật dài. Mấy vị này nghe xong thì đưa mắt nhìn nhau. Dương Nhất Thanh và Hồ Toản thì hơi động lòng, Dương Đình Hoà lộ thần sắc do dự, Đại vương lại có vẻ trầm tư, chỉ riêng Uông Dĩ Hiếu vẫn trợn trừng đôi mắt dữ.

Nếu kết minh cùng Đoá Nhan Tam Vệ mà Hoàng đế dẫn theo mười vạn đại quân, tiền hô hậu ủng, cuồn cuộn ngút trời, cách Đại Đồng chỉ hơn mười dặm, thì đương nhiên bọn họ sẽ không thèm sợ quân Thát Đát đến tập kích. Khó là khó ở chỗ các tướng giữ biên ải đã nhiều lần thất tín với Đoá Nhan Tam Vệ lắm rồi, tín nghĩa và danh dự của Đại Minh hầu như chẳng còn sót lại chút gì trong mắt Bá Nhan Tam Vệ. Nếu tụ tập đại quân, Hoa Đáng và thủ lĩnh các bộ lạc dám đến gặp hắn sao?

Còn muốn Đoá Nhan Tam Vệ cũng mang theo vài vạn nhân mã? Một là bọn họ không có nhiều tinh binh đến như vậy, hai là dọc đường ắt sẽ khó giấu được tai mắt của Thát Đát; cho nên binh sĩ mang theo tuyệt không thể quá nhiều. Năm nghìn quan binh mà quân Minh có thể điều động lên núi đã là cực hạn để Đoá Nhan Tam Vệ không nảy lòng e dè mà bỏ kết minh.

Nhưng năm nghìn quan binh thì chẳng chống chọi nổi được bao lâu với đại quân Thát Đát. Chẳng trách bọn họ lo lắng như vậy.

Trong điện yên tĩnh đến độ có thể nghe rõ tiếng kim rơi. Dương Đình Hoà trầm ngâm hồi lâu, đột nhiên trợn trừng mắt quát:
- Dương Lăng! Nếu Hoàng thượng xảy ra chút ít bất trắc gì thì ngươi đừng trách bản quan không nể tình riêng mà xin ý chỉ diệt cửu tộc ngươi đó!

Lời lẽ nghiêm khắc, song ý tứ trong đó đã chính thức đồng ý với chuyến đi Đại Đồng của Hoàng đế. Dương Lăng nghe xong nhẹ nhõm cả người, trên mặt không khỏi lộ nét vui mừng. Đúng vào lúc này, bên ngoài chợt có một tiếng gọi vào nho nhỏ:
- Vương gia, giờ lành làm lễ đã đến, mời ngài đến điện Ngân An làm lễ.






Chú thích:
(1) hình thức diễn xuất lấy hát làm chính, đệm bằng trống và phách, chuyên diễn các tích của đạo giáo

(2) xem tích Trương Lương và người lực sĩ cầm chùy hành thích Tần Thủy Hoàng ở bãi cát Bác Lãng.

(3) học thuyết được cho là phù hợp với "chánh đạo". Vào thời Tây Hán, Hán Vũ đế đã ra lệnh dẹp bỏ học thuật của nhiều nhà, tôn sùng mỗi học thuật Nho gia (bãi truất bách gia, độc tôn nho thuật), từ đó coi Nho học là chánh học.

(4) lắng nghe lời phê bình và kiến nghị

(5) Hán Thục sau khi bị diệt vong, Hậu chúa là Lưu Thiện bị giam lỏng trong kinh thành Lạc Dương của Ngụy. Một hôm, Tư Mã Chiêu dò hỏi ông ta có nhớ Tây Thục không, Lưu Thiện đáp rằng :"Ở đây vui lắm, không nhớ gì Thục nữa".

(6) Lý hậu chủ Lý Dực người nhân hậu và khá nhu nhược. Ông thường bị anh Lý Hoằng Ký đố kỵ truy sát, phải trốn chạy nhiều lần, do đó ông tỏ ra không quan tâm đến chính trị, không muốn tranh chấp. Hằng ngày, Tòng Gia dành phần lớn thời gian ngao du sơn thủy và hoạt động nghệ thuật.




Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?p=9252079#post9252079
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
06-08-2012, 07:07 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 194 Hoa Đáng Đến Rồi


Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Bị Đường Nhất Tiên mắng cho một trận trước mặt người khác, xương cốt Chính Đức tức thì nhẹ tênh, mặt mày hớn ha hớn hở như thể rất có tiềm chất khổ dâm!

Thấy Hoàng đế lão gia hứng chịu sỉ vả một cách sung sướng như vậy, bọn đại nội thị vệ liền tự giác vứt bỏ sứ mạng "bảo vệ an nguy cho Hoàng thượng, che chở tôn nghiêm của Thiên tử" sang một bên, rồi cứ thực hiện theo đúng nguyên tắc "không nhìn điều sai, không nghe lời tầm bậy"(1), ai nấy cắm đầu đi nhanh, vờ như không thấy.






Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 194 Hoa Đáng Đến Rồi




194 Hoa Đáng đến rồi

Trên điện Ngân An, các vị đại nhân rành nhìn sắc diện phát hiện thấy vẻ mặt của hai vị khâm sai, hai vị tuần phủ và cả Tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh đang đứng hàng đầu rất xấu, ngay cả Đại vương thiên tuế trông thấy vị tân nương mười sáu mười bảy thướt tha cũng dường như không cao hứng lắm. Mấy quan lớn địa phương này không biết chuyện gì đã xảy ra, ai nấy đều cẩn thận không dám to tiếng nói cười.

Vương gia nạp phi khác hẳn người thường cưới vợ, nghi thức lại gần giống như là quan viên nhậm chức vậy. Đầu tiên tổng quản thái giám tuyên đọc thánh chỉ của Hoàng thượng, tờ thánh chỉ này là do Dương Đình Hoà thảo ra, Chính Đức chỉ việc đóng kim ấn lên mà thôi. Có điều vị đại học sĩ làm văn hộ người khác này lại không lộ diện. Mặc dù lão không giấu giếm việc mình đến Đại Đồng, nhưng kẻ biết tin cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay, vì lẽ đó nên lão tránh mặt ở hậu điện.

Hoàng thượng cũng đã đến Đại Đồng, trừ phi ngài tự nguyện trở về, bằng không sẽ không thể trói gô ngài lôi về được. Dương Lăng không chịu phối hợp nên lão cũng không còn cách nào khác đành ngồi trong hậu điện khổ sở suy nghĩ mãi. Dương Đình Hoà vẫn chưa nghĩ ra được phương cách gì thì đã nghe trên điện Ngân An tấu lên tiếng nhạc cung đình hân hoan, lão chỉ biết lắc đầu cười khổ.

Cử xong đại lễ nạp phi rườm rà, bái lạy Vương gia và Vương phi xong, được sự gợi ý của vương gia, tân nương chậm rãi đi đến, tay ôm tước ngọc(*), kính rượu hai vị khâm sai. Tuy đối với vương gia, phẩm hàm của bọn họ không tính là cao nhưng họ đã cầm thẻ bài phụng chỉ tuần biên thì vương gia cũng không thể thất lễ trước mặt hai người này. Cũng không phải là Đại vương kính trọng bọn họ, mà là cung kính Hoàng đế sau lưng bọn họ mà thôi. (*: chén uống rượu ba chân bằng ngọc)

Trắc vương phi tên là Trác Đình, dáng người thon gầy, vận áo dài đỏ, khăn quàng vai, đầu đội mũ phượng, rèm châu đong đưa trước khuôn mặt xinh xắn nhưng lại không đeo khăn trùm mặt. Dáng người cô nàng mềm mại lả lướt, tuổi tuy chỉ mười sáu mười bảy song lại chất chứa muôn vẻ phong tình, có đủ ý vị, trông thanh nhã thoát tục, tự nhiên trang nhã, dịu dàng thanh tú, rất khác với con gái trong đất liền. Khó trách Đại vương lại ưu ái cô nàng như vậy, đã bỏ công xin chỉ ban cho nàng ta danh phận trắc phi.

Trắc vương phi kính rượu khâm sai xong, lại nhận rượu kính của quan viên văn võ, rồi dìu vương phi nương nương trở về hậu điện. Tiệc rượu được bày ra, các quan viên bắt đầu ăn uống linh đình, lúc này không khí mới trở nên sôi nổi.

Hai vị tuần phủ Hồ Toản và Uông Dĩ Hiếu nâng chén kính rượu Đại vương gia, xong lại sánh vai đến bàn của Dương Nhất Thanh, Dương Lăng và Trương Vĩnh, tươi cười nói:
- Chưa hết tháng giêng mà hai vị khâm sai đại nhân đã phải đi xa đến Đại Đồng thay vua tuần thú, tuy vất vả nhưng công lao to lớn. Dương tổng chế đích thân ra trận, dụng binh như thần, khiến cho đầu lĩnh quân giặc là Bá Nhan liên tiếp thất bại. Trăm họ Tuyên Phủ Đại Đồng có thể được bình yên đều nhờ các tướng sĩ quên mình phục vụ. Quan viên địa phương chúng ta đáng nên kính các vị đại nhân một chén, tỏ chút lòng ngưỡng mộ vậy, nhé? Ha ha ha...

Các quan viên nghe vậy liền đồng loạt nâng chén ủng hộ:
- Đúng thế! Đúng thế! Chúng tôi kính hai vị khâm sai, kính Dương tổng chế, mời ba vị đại nhân uống cạn chén này.

Dương Nhất Thanh mặt mày rạng rỡ cười đáp:
- Nào dám nào dám! Nói đến việc Dương mỗ phụng mệnh trấn thủ tam quan thì từ nay về sau cũng sẽ là tướng thủ Đại Đồng, là thuộc hạ của Đại vương thiên tuế, đáng nên cùng các vị đại nhân kính hai vị khâm sai, chúc Hoàng thượng chúng ta thiên thu vạn tuế, vận nước thiên hạ Đại Minh được hưng thịnh.

Hồ Toản và Uông Dĩ Hiếu đều mỉm cười, như thể hoàn toàn không có can hệ gì với mấy kẻ hồi nãy xúm lại đánh Dương Lăng và Trương Vĩnh ở hậu điện vậy. Dương Lăng và Trương Vĩnh đưa mắt nhìn nhau cười khổ một tiếng, liền cũng vội trương bộ mặt cười vờ vịt, nâng chén đáp lại.

Quan viên văn võ kính rượu vương gia xong thì phải kính rượu hai vị khâm sai và ba vị văn võ biên quan có phẩm hàm cao nhất. Loại thù tạc quan trường này tuy nhàm chán, nhưng là chuyện nể mặt nể mũi, vì vậy hai người Dương Lăng cũng chỉ có thể tươi cười mà bồi tiếp.

Qua ba tuần rượu, một vị thái giám vương phủ lặng lẽ đi vào ghé tai nói mấy câu với Đại vương. Đại vương gật đầu, tên thái giám đó liền đi về phía Dương Lăng, ghé tai nói nhỏ:
- Khâm sai đại nhân, thống lĩnh thị vệ của ngài có chuyện quan trọng muốn bẩm.

Dương Lăng hơi ngẩn người. Tuy đội nghi trượng thị vệ y mang theo gồm ba trăm người, song được vào vương phủ lại chỉ có mười hai, ở đâu ra thống lĩnh thị vệ? Nếu có thể ra lệnh cho đám đại nội thị vệ này như thế thì cũng chỉ có thể chính là hoàng đế Chính Đức mà thôi. Y bèn đứng dậy cáo lỗi với vương gia rồi vội vã bước ra ngoài.

Đám người Đại vương tuy biết Chính Đức đang ở trong quân, nhưng có nghĩ tét đầu cũng không tưởng tượng ra Chính Đức đường đường là thiên tử sẽ lại cải trang thành thị vệ theo hầu Dương Lăng đi dự tiệc, hơn nữa còn ở một mình chung với đám hạ nhân, tạp dịch, gia bộc và thân binh ở ngoại điện nữa.

Cho dù là Hồ Toản từng tận mắt gặp Chính Đức vận trang phục thị vệ thì cũng chỉ nghĩ đó là trang phục nhằm che tai mắt trên đường. Lão không tin hoàng đế Chính Đức là con rồng cháu phượng hậu duệ của thiên hoàng sẽ cứ mặc đồ sĩ tốt thấp hèn mãi, càng không ngờ Dương Lăng dám đại nghịch bất đạo đẩy Hoàng thượng xuống địa vị thấp như vậy, cho nên mấy người bọn họ không chút nghi ngờ.

Dương Lăng đi cùng tên thái giám đó ra khỏi điện Ngân An, qua hàng loạt cánh cổng cùng hàng hàng lớp lớp căn nhà mới đến ngoài cổng Thừa Vận. Quả nhiên y trông thấy Chính Đức đang cùng hai tay thị vệ đứng trước cổng, hai mắt sáng ngời, mặt mày đỏ au, chừng như đã uống rất nhiều rượu.

Dương Lăng mỉm cười khách sáo với viên thái giám nọ, nói khéo:
- Đã làm phiền công công rồi! Còn xin công công đợi tạm ở chỗ này, bản quan ra ngoài một chốc.

Dương Lăng ra khỏi cổng điện, vòng ra sau cây cột cạnh cổng. Chính Đức liền nắm lấy tay y lắc lấy lắc để, giọng run rẩy vì hào hứng:
- Dương thị độc, trẫm không mơ, trẫm đã gặp được nàng ấy rồi. Ha ha ha, trẫm thật vui.

Dương Lăng thấy mặt hắn đỏ au lại nói chuyện không đầu không đuôi, liền vội đảo mắt nhìn quanh, thấy không ai chú ý mới ngạc nhiên hỏi:
- Hoàng thượng đã uống say rồi à? Ngài đã gặp được ai mà vui như vậy?

Chính Đức mặt mày hớn hở, cười toe toét nói:
- Đường Nhất Tiên! Trẫm đã gặp lại Đường Nhất Tiên! Nàng ấy đang ở trong vương phủ. "Vào cửa vương hầu sâu tựa biển", khó trách thám tử của khanh tìm khắp nơi đều không thấy nàng ấy.

Dương Lăng thoáng sững người, rồi cũng thoắt trở nên phấn chấn, giọng run rẩy:
- Đường Nhất Tiên? Cô ấy chưa chết sao? Cô ấy còn sống?

Dương Lăng nắm chặt tay Chính Đức, chợt nhắm mắt ngửa mặt lên trời, sau một hồi mới thở ra một hơi thật dài, giọng kích động:
- Cảm ơn trời đất! Cô ấy bình yên vô sự thì tốt rồi. Cô ấy đang ở đâu?

Dương Lăng vừa nói vừa đưa mắt tìm quanh. Ngày đó quen biết với Tô Tam, Đường Nhất Tiên và Tuyết Lý Mai ở Thì Hoa quán, chính nhờ vào mối quan hệ của Đường Nhất Tiên mà Mã Vĩnh Thành mới đem bạc tới để y chuộc thân cho ba vị cô nương, nhờ vậy mà Tô Tam và Tuyết Lý Mai mới trở thành ái thiếp nghĩa nặng tình thâm với y.

Mà vị tiểu cô nương Đường Nhất Tiên vì giúp y bảo vệ cuốn sổ làm bằng chứng phạm tội của Bào tham tướng lại bị người ta đánh ngã xuống vách núi, sống chết không rõ, khiến y vẫn cảm thấy hổ thẹn khôn thôi.

Đường Nhất Tiên chịu cảnh tai bay vạ gió đều do y mà ra. Trong khi ân nhân thật sự cứu vớt Đường Nhất Tiên ra khỏi chốn trăng hoa ấy lại là Chính Đức, còn bản thân y chưa hề bỏ ra công sức hay ơn huệ gì; ngược lại còn nhờ nàng hy sinh tính mạng mới bảo vệ được cuốn sổ ấy, nhờ có chứng cứ hùng hồn đó mà y đã lật đổ được Bào tham tướng, nhờ vào quan hệ của nàng ấy mà y mới có cơ duyên cưới được hai người con gái tư dung xinh đẹp, tính tình dễ thương là Tô Tam và Tuyết Lý Mai. Vì vậy mỗi lần nhớ tới cảnh ngộ bất hạnh của nàng, trong lòng Dương Lăng đều nặng như đeo đá, giờ nghe nói nàng không có chuyện gì, có thể tưởng tượng là y vui sướng lẫn kinh ngạc biết dường nào.

Chính Đức vội lo lắng bảo:
- Nói nhỏ chút đi! Nàng ấy đi gặp cha mẹ nuôi của mình rồi, chốc nữa dự xong tiệc khanh hãy đón nàng ấy về như thế nào? Nhưng mà... nàng ấy đã mắc phải chứng mất hồn rồi, có lẽ do lúc ngã từ trên vách núi xuống bị va đập, đã hoàn toàn quên hết những chuyện trước kia rồi.

Dương Lăng nghe vậy thì ngẩn người ra, cảm thấy hơi buồn. Y ngơ ngác hỏi:
- Mất... hồn? Mất trí nhớ sao? Sao lại như vậy được? Không còn nhớ bất cứ thứ gì ư? Vậy thần sẽ dẫn cô ấy về thế nào đây, mà cô ấy chịu tin lời Hoàng thượng à?

Chính Đức vò đầu cười gượng đáp:
- Việc đó... nàng ấy không tin trẫm lắm, còn nghĩ rằng trẫm là tên bịp. Đùi trẫm bị ăn một gậy chắc là bầm cả rồi.
Có điều nàng ấy không tin lời của một hiệu úy cỏn con như trẫm song lại không có lý do gì mà không tin lời của kẻ đường đường là Dương đại tướng quân, cho nên trẫm mới nói với nàng ấy rằng nàng là biểu muội của khanh, cha mẹ mất cả, từ nhỏ đã ở cùng với khanh. Chốc nữa gặp nàng ấy khanh vạn lần chớ nói toạc ra đấy. Đường cô nương đã quên những chuyện trước đây, trẫm... không muốn để nàng biết những quá khứ không vui đó.

Nói đến đoạn cuối sắc mặt Chính Đức trở nên hết sức chân thành, hết sức nghiêm túc, trong mắt có thứ gì đó sáng long lanh. Dương Lăng khẽ gật đầu rồi chợt vỗ nhẹ vai Chính Đức, tuy y không nói gì song khoé môi lại nở một nụ cười thấu hiểu.

Trên mái hiên nhà, gió thổi tuyết rơi, tuyết vẩy lên cổ nghe lành lạnh, hai người bọn họ lại cảm thấy ấm áp trong lòng. Nếu đám quan văn trong triều trông thấy cử chỉ kích động gần như vượt quá khuôn phép của Dương Lăng, chắc chắn sẽ khó tránh lại giống như lần trước Vương Quỳnh trông thấy Dương Lăng ngồi cùng với vua mà nổi cơn thịnh nộ. Nhưng Chính Đức lại chẳng hề để ý đến chuyện này, hắn đọc hiểu được vẻ tán thành và cảm kích trong mắt Dương Lăng, trong lòng không khỏi cảm thấy vui vẻ và sảng khoái vô cùng.

*****

- Biểu... biểu ca!
Đột nhiên có thêm một biểu ca vừa xa lạ vừa anh tuấn, Đường Nhất Tiên gọi mà vẫn có chút chưa quen, nên ngượng ngùng cùng bẽn lẽn, gò má cũng hơi ửng hồng.

- Sao? - Dương Lăng gò ngựa chậm lại, ngoái đầu nhìn Đường Nhất Tiên đang ngồi trong kiệu xe, mỉm cười dịu dàng - Có chuyện gì?

- Biểu ca, nhà chúng ta có lớn không? Biểu tẩu... có thích muội vào ở hay không?
Đường Nhất Tiên nhíu đôi mày xinh xắn lo lắng hỏi.

Dương Lăng cảm thấy buồn cười, song thấy Chính Đức đang đi cạnh y mỉm cười đưa mắt âu yếm nhìn Đường Nhất Tiên, y bèn đáp:
- Yên tâm đi! Biểu tẩu của muội rất tốt, hơn nữa... trước khi xảy ra chuyện cũng đã rất hoà thuận với muội rồi. Chừng gặp lại muội, không biết ba vị biểu tẩu của muội sẽ vui biết chừng nào đây?

- Oa! Ba vị biểu tẩu cơ à? - Đường Nhất Tiên giật mình lè lưỡi, cười dí dỏm - Biểu ca thật là lợi hại, ba vị chị dâu nhất định đều là đại mỹ nhân trong kinh sư phải không? Muội không nhớ nổi biểu ca, cũng không nhớ được các chị ấy, kinh sư có hình dáng thế nào muội cũng chẳng có ấn tượng gì cả.

Nàng tựa cằm vào cửa sổ xe ngẩn ngơ đưa mắt nhìn người đi đường trên phố, chợt hỏi:
- Biểu ca, cha mẹ ở đời ở kiếp tại nơi này, không nỡ rời xa thân bằng lão hữu, không muốn dọn đến kinh thành. Mấy ngày này... muội vẫn muốn thường xuyên đến thăm hai vị, có được không?

Chính Đức thấy nàng rụt rè xin ý kiến Dương Lăng, trong lòng rất đỗi lấy làm thương xót, liền thúc ngựa đến gần xe ngựa, vỗ ngực cao giọng cam đoan:
- Tiên Nhi cô nương, cô không cần lo lắng! Cô muốn về vương phủ, chỉ cần báo một tiếng, ta... thuộc hạ bảo hộ cô trở về là xong!

Đường Nhất Tiên lườm hắn, mắng:
- Không nói thì cũng không ai bảo ngươi câm đâu, chẳng biết cái gì cả! Nếu ta mà là biểu ca thì sẽ chẳng bao giờ cho ngươi làm thân binh, lo biết điều mà đi quét sân giữ cổng cho ta đi! Vương phủ là chỗ ngươi muốn vào thì vào à? Cho dù biểu ca là khâm sai cũng phải xin phép vương gia mới được, người ta lo là sẽ mang đến phiền phức cho biểu ca thôi.

Bị Đường Nhất Tiên mắng cho một trận trước mặt người khác, xương cốt Chính Đức tức thì nhẹ tênh, mặt mày hớn ha hớn hở như thể rất có tiềm chất khổ dâm!

Thấy Hoàng đế lão gia hứng chịu sỉ vả một cách sung sướng như vậy, bọn đại nội thị vệ liền tự giác vứt bỏ sứ mạng "bảo vệ an nguy cho Hoàng thượng, che chở tôn nghiêm của Thiên tử" sang một bên, rồi cứ thực hiện theo đúng nguyên tắc "không nhìn điều sai, không nghe lời tầm bậy"(1), ai nấy cắm đầu đi nhanh, vờ như không thấy.

*****

Đường Nhất Tiên được thu xếp trọ ở nhà trên (phòng thượng hạng) của dịch quán. Thu xếp thoả đáng cho nàng xong, Dương Lăng lại chạy về thư phòng soạn một bức thư sai người đưa về kinh thành, một là để báo sớm cho bọn Ngọc Nhi cái tin mừng này, hai là để các cô chuẩn bị trước, tiện bề đón tiếp tiểu biểu muội về kinh.

Dương Đình Hoà bí mật đến gặp Chính Đức. Lão là thầy coi việc giảng sách cho Hoàng thượng nên vẫn được Chính Đức kính trọng vài phần. Hay tin lão đến, sợ rằng sẽ bị lão khuyên bảo mình trở về kinh thành, hắn bèn vội lôi hai ông thần giữ cửa(2) của mình là Dương Lăng và Trương Vĩnh đứng sau lưng để thêm phần can đảm, rồi mới cho vời Dương Đình Hoà vào.

Dương Đình Hoa quen quan sát thời cơ, cân nhắc tình thế, tuy dám ra tay đánh đập Dương Lăng và Trương Vĩnh vì tội xúi giục Hoàng đế rời kinh, nhưng khi đối diện với Hoàng đế thì lão lại ẩn nhẫn và bền chí hơn Lý Đông Dương vài phần. Khi đến trước cửa thư phòng, nhìn thấy trận thế được bày sẵn ở bên trong lão liền biết rõ quyết tâm của Hoàng đế, thế là lão không nói những câu chữ đã chuẩn bị sẵn nữa, tránh rước vạ vào thân.

Dương Đình Hoa thuật lại một lượt tình hình sau khi Chính Đức rời kinh: trong cung đã phong tỏa tin tức nghiêm ngặt, mọi thái giám và cung nữ biết chuyện đều nhận được nghiêm lệnh ai dám đồn xằng chuyện Hoàng đế cải trang xuất kinh sẽ lập tức bị xử tội chết, cho nên tin tức vẫn chưa bị loan truyền ra ngoài. Ngoại trừ Lục Bộ Cửu Khanh và tam đại học sĩ, văn võ cả triều đều nghĩ rằng Hoàng đế đã mắc bệnh, không thể lâm triều.

Thế nhưng Hoàng đế không lâm triều xử lí chính vụ liên tiếp mười mấy ngày thì nào phải là chuyện đùa. Hoàng đế là vua một nước, thể chế triều đình không phải là chuyện giỡn chơi, mấy ý tưởng hoang đường như tìm người giả mạo hoặc nói dối rằng tấu chương Đại học sĩ phê duyệt là của Hoàng đế phê duyệt đều không thể dùng được.

Cho nên trong mắt bá quan, chắc chắn Hoàng đế đã mắc bệnh nặng đến nỗi không thể phê duyệt tấu chương; chỉ cần suy đoán bệnh tình Hoàng đế nghiêm trọng thế nào cũng đã đủ khiến lòng người hoảng sợ, dù là ba đại học sĩ cũng không cách nào ứng phó nổi việc ấy. Lúc tường thuật việc này với Chính Đức, Dương Đình Hoà không khỏi lộ vẻ khổ sở.

Chính Đức nhíu mày suy nghĩ một chút rồi phán:
- Nếu đã như vậy, khanh hãy chọn những tấu chương quan trọng nhất, hằng ngày đưa khoái mã chuyển đến cho trẫm, trẫm xem và phê duyệt xong sẽ lại chuyển về kinh. Về đối ngoại thì cứ bảo trẫm đang khỏi dần, có điều vẫn chưa thể ra nắng gió nên chưa thể lâm triều, thiết nghĩ có thể ổn định lòng dân một chút vậy.

Dương Đình Hoà thở dài bảo:
- Kế này... cũng chỉ đành vậy!

Lão buồn lòng lo lắng đứng dậy tâu tiếp:
- Thái hoàng thái hậu, Thái hậu và Hoàng hậu nương nương rất mong nhớ Hoàng thượng, Lục Bộ Cửu Khanh cũng đang ngóng tin ngài! Nếu như Hoàng thượng đã quyết chí ở lại Đại Đồng, thần cũng không dám trì hoãn thêm nữa, xin phép trở về kinh sư báo tin ngay vậy.

Thi lễ với Chính Đức xong, lão lại liếc sang Dương Lăng, nghiêm nghị bảo:
- Dương đại nhân! An nguy của Hoàng thượng và an nguy của Đại Minh đều giao cho ngài đó, mong đại nhân vạn lần để ý cẩn thận, nhất định phải bảo vệ Hoàng thượng chu toàn.

Dương Lăng trịnh trọng đáp:
- Đại nhân yên tâm, hạ quan biết cân nhắc nặng nhẹ, tuyệt sẽ không lơ là.

Dương Đình Hoà gật đầu, lại thở một tiếng rõ dài rồi mới chán nản lui ra.

Lại qua hai ngày, hằng ngày khi Chính Đức không có việc gì làm thì lại chạy đến cửa phòng Đường đại tiểu thư làm thân binh, cùng nàng đánh quay trong sân, lại rủ thêm hai đứa nha hoàn chuyên hầu hạ tiểu mỹ nhân họ Đường cùng chơi mã điếu(3), vừa giúp Đường Nhất Tiên giải sầu vừa thỏa tâm nguyện mình.

Mã điếu đã tồn tại từ lâu, nghe nói từ thời Hán-Đường đã có, từ triều đình đến dân chúng, bất luận vương hầu công khanh, danh sĩ tài tử, thục nữ nổi danh hay con buôn bình dân đều rất thích trò này, thậm chí nhiều tăng ni cũng rất thích chơi.

Mã điếu giống như mạt chược thời hiện đại, lúc rảnh rỗi Thái hoàng thái hậu, Thái hậu và đám phi tần cũng rất thích chơi trò này, thi thoảng Chính Đức cũng chơi cùng. Hắn vốn thông minh nên chỉ cần học một chút là hiểu rõ.

Đường Nhất Tiên và hai nha hoàn nọ nào phải đối thủ của hắn, dần dần số bạc tiêu vặt mà Dương Lăng đưa cho Đường Nhất Tiên và số trang sức rẻ tiền của hai tiểu nha hoàn đó đều bị hắn ăn hết một đống. Chính Đức vui khôn kể xiết, cất giữ cái đống phế phẩm đó như của báu, mặc kệ hai tiểu nha hoàn đó đá mắt nheo mày thế nào, vị “lính ca ca” anh tuấn cũng không trả lại cho bọn họ.

Thân phận của hắn là thị vệ của Dương Lăng, song Đường Nhất Tiên không phải là loại người mê luyến quyền quý, không vì hắn có thân phận thấp hèn mà không thèm kết giao. Mặc dù nàng vẫn mắng nhiếc hắn như cũ nhưng ngữ khí đa phần lại khá thân thiết.

*****

Chiều hôm đó, một kỵ mã vội vã phi ngựa từ xa đến dịch quán, đến trước cổng thì nhảy xuống ngựa. Bình thường dịch quán chỉ có hai tay dịch tốt canh gác, nay bề ngoài thì có hai vị khâm sai, nhưng thực sự lại có thêm một Hoàng thượng, cho nên đám dịch tốt canh phòng đã được thay bởi đám thân quân của Dương Lăng, cả dịch quán được bảo vệ kín như bưng, hệt như một doanh trại vậy.

Người nọ đi đến trước cổng, rút trong người ra tấm ngân bài chứng minh thân phận Nội xưởng. Phiên tử gác cổng kiểm tra cẩn thận xong liền có một phiên tử khác dẫn hắn đi vào trong sân. Trên một quán rượu nhỏ treo một lá cờ cũ rách nằm đối diện với dịch quán, một vị tửu khách vụt ngẩng đầu khi thấy ngựa phóng đến trước cổng dịch quán, ánh mắt sắc bén lướt nhìn về phía kẻ mới đến.

Vị tửu khách này vận áo da chó ngắn, quần ấm ống suông, đầu đội một chiếc mũ lông sói màu nâu, dưới vành mũ rậm là một đôi mày kiếm toát lên vẻ khí khái hào hùng, không ngờ lại là một chàng trai vô cùng tuấn tú.

Lúc vào cổng dịch quán người cưỡi ngựa nọ thoáng nhìn quanh, người tửu khách thấy được một bên mặt của hắn thì không khỏi hơi giật mình, thầm nghĩ: "Ngũ Hán Siêu? Hừ, ‘học được một thân văn võ, bán mạng cho bậc đế vương,’ quả nhiên hắn đã nương nhờ Dương Lăng. Với võ công của hắn đáng ra phải là thị vệ cận thân cho Dương Lăng mới phải, nhưng trông bước chân ngựa mệt mỏi như vậy, hẳn là hắn vừa mới vượt đường dài tới đây. Dương Lăng không giữ hắn bên người, y đã phái hắn đi làm gì?"

"Chàng trai tuấn tú" nọ trầm tư một chốc, trong lòng mang máng cảm thấy dường như Dương Lăng sắp có hành động gì đó, trong mắt không khỏi loé lên vẻ hào hứng, ngay sau đó lại biến thành vẻ mù mờ.

"Hắn" đưa mắt nhìn quanh, cặt mắt trong veo lướt qua tốp người đang tụm năm tụm ba trên phố: "Nếu Di Lặc giáo tìm cách ra tay với Hoàng đế, nhất định sẽ giám sát dịch quán nghiêm ngặt. Nhưng bọn chúng đang ở đâu?
Còn tên khốn Dương Hổ đó nữa! Từ ngày mình bực tức bỏ đi, cũng không biết hắn và Ngũ thúc đã đi đâu rồi, chỉ mong bọn họ lạ nước lạ cái mà đừng lỗ mãng định ra tay với Dương Lăng. Nhìn tình hình dịch quán như vậy, bên trong hẳn có trọng binh bảo vệ, nguy cơ trùng trùng. Dương Lăng đi đâu một tí là có vài trăm cao thủ bảo vệ, muốn động thủ với y thì khác nào đưa dê vào miệng cọp?”

"Chậc!" "Chàng trai anh tuấn" khẽ thở dài, hàng mày hơi nhíu lại, thực có phần duyên dáng như con gái.

* * *

- Được! Rốt cuộc cũng đã đến rồi, Hoàng thượng nghe tin nhất định cũng sẽ rất vui!
Dương Lăng phấn khởi nói. Thấy Ngũ Hán Siêu mặt đầy vẻ phong sương, y liền bảo:
- Mau đi rửa ráy, ăn uống một tí rồi nghỉ ngơi đi! Tối nay bản quan sẽ lại bàn kỹ với ngươi.

Vốn Đoá Nhan Tam Vệ yêu cầu kết minh cùng Hoàng đế triều đình nhà Minh với một thái độ có cũng được không có cũng chẳng sao, do bọn họ cũng cho rằng Hoàng đế Đại Minh sẽ không hạ thấp dịa vị mà chạy tới gặp mặt bọn họ.

Bọn họ biết triều đình người Hán coi trọng nhất là mặt mũi và thích tiếm lợi kẻ khác, nhưng triều đình nhà Minh lại thà giữ thanh danh chứ không cần ích lợi, ngay cả khi thông thương với nước khác cũng đều đòi đối phương phải dùng phương thức triều cống của nước lệ thuộc mà tiến hành. Hoàng đế Đại Minh sẽ vì một thế lực còn chưa đáng được gọi là "quốc gia" như Đoá Nhan Tam Vệ mà từ bỏ tư thế cao ngạo của hắn ư?

Ai ngờ vị thiên tử của nước lớn phương đông này lại đến thật, khiến Hoa Đáng và các thủ lĩnh bộ lạc vừa thấy bất ngờ lại vừa mừng vừa lo. Hoa Đáng lập tức tuyển chọn bốn nghìn thiết kỵ, đi tối ngủ ngày, bí mật xuất phát tiến về phía Đại Đồng.

Trương Vĩnh nhìn theo Ngũ Hán Siêu lui ra ngoài, chợt cũng trở nên lo lắng. Lão nói với Dương Lăng:
- Dương đại nhân! Hoa Đáng đã đến thật rồi, nếu Bá Nhan mà biết tin ắt sẽ gây bất lợi cho Hoàng thượng. Chúng ta... chúng ta thật sự phải gặp mặt bọn chúng sao?

Dương Lăng cũng hơi lo, nhưng nếu y để lộ ra sự do dự và lo lắng há chẳng khiến kẻ khác càng thêm sợ hãi? Thế là y bèn đè nén sự hồi hộp lo âu trong lòng lại rồi gật đầu đáp:
- Phải gặp! Phóng lao phải theo lao thôi! Nếu lúc này mà lùi bước, chẳng những chúng ta sẽ bị người Mông Cổ chê cười mà nghìn đời sau cả ông, tôi lẫn Hoàng đế đều sẽ trở thành người bị người ta nhạo báng đó!

Đoạn y đứng dậy, tản bộ trong phòng mấy bước, rồi nói:
- Hoa Đáng chỉ mang theo bốn nghìn nhân mã. Số lượng người này nếu nói ít thì không ít, nhưng một khi tản vào trong đại mạc thảo nguyên sẽ như muối bỏ biển, không thấy bóng dáng đâu nữa. Huống hồ thám mã của Bá Nhan chỉ để ý đến hướng đi của quân đội Đại Minh ta, không lý do gì mà bố trí thám mã ở tại hậu phương của mình, vì vậy chưa hẳn là sẽ phát hiện.

Dương Lăng bước tới bàn, cầm lấy ấm trà rót cho Trương Vĩnh và chính mình mỗi người một chén trà nóng, rồi nói tiếp:
- Đoá Nhan Tam Vệ cũng thường đến biên giới cướp bóc, cho dù Bá Nhan có biết tin bọn chúng di chuyển về biên giới cũng sẽ tưởng rằng bọn chúng thừa dịp mà đánh cướp. Người Thát Đát không thể biết được tin tức Hoàng đế rời kinh sư đi đến Đại Đồng đâu.

Nói đến đây Dương Lăng chợt nhớ đến lời mà người con gái cưỡi ngựa có bóng hình xinh đẹp rực đỏ như lửa trong gió tuyết đã nói với y. Y thầm nghĩ: "Quái lạ, đến đây lâu như vậy sao vẫn chưa thấy Di Lặc giáo có động tĩnh gì? Là Hồng Nương Tử gạt mình, hay là Di Lặc giáo không biết Hoàng đế đến Đại Đồng, hay là đã biết nhưng chưa có cơ hội ra tay?"

Hiện tại vẫn chưa đến lúc Di Lặc giáo công khai tạo phản, nhất là Đại Đồng hiện giống như một doanh trại quân đội, ngoài thành là lính, trong thành cũng là lính. Cho dù Di Lặc giáo có vọng tưởng giết Hoàng đế cũng sẽ không có cơ hội động thủ ngay tại chốn này.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng vứt bỏ mối uy hiếp không thể nào xảy ra giữa thiên quân vạn mã sang một bên rồi tiếp tục lo nghĩ về chiều hướng của Bá Nhan Khả Hãn. Hiện tại đại quân của hắn đang tấn công và cướp bóc vùng Hồ Quan, Bình Thuận, xem ra không hề hay biết gì về tin tức Hoàng đế đang ở Đại Đồng. Nhưng ngộ nhỡ có gian trá, đội thiết kỵ có thể phi về trong một ngày của hắn quả thực sẽ là uy hiếp lớn nhất.

Nghĩ vậy, Dương Lăng vỗ nhẹ tay, một tay phiên tử lặng lẽ bước vào. Dương Lăng nói:
- Đi, báo cho người của Nội xưởng tại bản địa tăng cường thu thập mọi tin tức, chú ý đến tất cả những kẻ khả nghi, khi có tin tức phải lập tức bẩm báo!

Phiên tử nọ dạ một tiếng rồi xoay người đi ra. Dương Lăng quay trở lại bàn, lấy giấy và nghiên mực ra, nói:
- Đại quân của Dương Nhất Thanh đóng gần trong gang tất, không cần vội báo tin cho y, đợi Hoa Đáng đến gần kề mới lại sẽ bảo Dương Nhất Thanh điều động quân đội. Bây giờ tôi sẽ soạn một bức mật thư, đóng kim ấn khâm sai, lệnh cho chỉ huy sứ Thái Nguyên đưa quân đến Đại Đồng làm quân dự bị. Sáng sớm ngày mai tôi sẽ đích thân mang người cải trang lên núi Bạch Đăng khảo sát địa hình, chuẩn bị trước.

Trương Vĩnh lo lắng hỏi:
- Cải trang? Đại nhân mang theo ít người rất có thể gặp phải nguy hiểm, hay là mang theo hai nghìn thiết kỵ vậy.

Dương Lăng lắc đầu cười bảo:
- Người biết địa điểm kết minh ít thôi. Nếu mang đại quân mấy nghìn người chạy lên Bạch Đăng sơn dạo xem phong cảnh, vậy chẳng phải nói cho kẻ khác biết khâm sai đến đây là có dụng ý sao? Yên tâm, nơi đó xưa nay yên tĩnh, lại ở gần thành, quân chủ lực của giặc Thát lại đã đi đến Bình Thuận. Việc tôi lên núi Bạch Đăng chỉ có tôi và ông biết, ai mà chờ sẵn ở đó chứ? Được vậy chẳng phải là thần tiên sống rồi à?

Ăn uống no nê trên lầu Bách Mị các xong, thương nhân buôn đồ ngọc Bao lục gia vừa xiêu vẹo bước xuống thang gác, vừa tươi cười ngâm nga một điệu hát dân gian. Hắn mới vừa bàn xong một vụ mua bán nữa, trong thời buổi binh mã loạn lạc thế này, làm được việc đó thực không dễ chút nào.

Gã xa phu người Mông Cổ kiêm bảo tiêu có dáng người khôi ngô, mặt mày chất phác tên A Man tận lực dìu một bên, giúp hắn khỏi va đụng với những tửu khách khác.

Ra đến hành lang ngoài cửa, tiểu nhị trông coi chuồng ngựa vội dắt xe ngựa của Bao lão gia lại. A Man cầm lấy dây cương, một tờ giấy được vo tròn cũng được bí mật chuyển vào trong tay gã. A Man thản nhiên dìu Bao lão gia lên xe, rèm xe vừa được buông xuống, xe ngựa liền phóng băng băng trên con phố lớn.

A Man lặng lẽ đặt mảnh giấy nhỏ lên đùi, giở ra xem. Bên trên chỉ có một hàng chữ nhỏ: " Lý Gia tập (*) dưới Bạch Đăng sơn có thóc gạo". Vẻ mặt thờ ơ, A Man vung roi quát: "Giá!", rồi vo tròn mảnh giấy, bỏ vào miệng, nhai kỹ nuốt đi.
(*) tập 集 ở đây là thôn trang không lớn lắm, nhưng buôn bán sầm uất, có tổ chức chợ phiên định kỳ.






Chú thích:
(1) Trích từ lời đáp của Khổng Tử khi Nhan Uyên hỏi về đức nhân: PHI LỄ VẬT THỊ. PHI LỄ VẬT THÍNH. PHI LỄ VẬT NGÔN. PHI LỄ VẬT ĐỘNG. Nghĩa là: Cái gì không hợp lễ thì đừng nhìn, đừng nghe, đừng nói, đừng hành động.

(2) Nguyên văn "Hanh Cáp nhị tướng", trỏ cặp thần giữ cửa miếu của đạo Phật; một người phun khí trắng từ mũi, một người phun khí vàng từ mồm.

(3) "Mã" trỏ thẻ ghi số đếm thời xưa; "điếu" trỏ xâu tiền, trỏ một thể loại đánh bạc giống mạt chược thịnh hành vào thời Minh.




Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?p=9252079#post9252079
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
08-08-2012, 12:44 AM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 195 Tình Thế Nan Giải


Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Hồng Nương Tử hít một hơi, liếc y bằng ánh mắt quật cường, đoạn giơ thanh bội đao trong tay lên, cao giọng đáp:
- Dương đại nhân! Ta khuyên tướng công quay đầu chỉ vì không muốn bị người ta lợi dụng mà thôi. Hảo hán lục lâm Bá Châu chúng ta không biết quỳ gối đầu hàng quan binh. Thôi Oanh Nhi cùng tướng công và các vị huynh đệ sơn trại đây đồng sinh cộng tử, vạn tiễn xuyên tim cũng sẽ không chút nhăn mặt nhíu mày. Ý tốt của đại nhân ta chỉ xin tâm lĩnh!







Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 195 Tình Thế Nan Giải




Chương 195 Tình Thế Nan Giải

Chương 195 Tình thế nan giải

Tiếng vó ngựa dồn dập, hơn hai mươi người cưỡi những thớt ngựa tráng kiện băng qua sông Ngự đến dưới chân núi Bạch Đăng. Con đường đất vàng vốn được đầm chắc đã bị tuyết tan thấm nhão, lại bị những đoàn xe quân sự xuôi ngược nghiến qua tạo nên những dải đất cứng ngoằn ngoèo vệt bánh xe, thế nhưng tuấn mã vẫn thoải mái phóng qua, lướt đi băng băng.

Những người này đều cưỡi ngựa giắt đao, áo da ống bó, đầu đội mũ trùm da hươu da chó, vung roi thúc ngựa trông rất dũng mãnh tráng kiện. Nhìn bọn họ y như những kẻ thân hào giàu có ra ngoài săn bắn, nhưng vùng Đại Đồng quanh năm gặp nạn binh đao, trăm họ lân cận cũng biết một ít về quân sự, nếu trông thấy vũ khí của những kỵ sĩ này nhất định sẽ cảm thấy hơi quái lạ.

Vỏ đao hơi cũ, trên chuôi đao không hề có dải tua đỏ trang trí, thân đao dài hơn đơn đao mũi dẹp bình thường đến hơn một thước, cùng là một loại phác đao. Các bộ phận đồng thau nối lưỡi vào chuôi đao đều sáng loáng do ma sát với vỏ đao, xem ra tất cả đều là vũ khí tùy thân được sử dụng hàng ngày.

Nỏ ngắn và bao tên treo lệch một bên yên ngựa, trông khí phách này tuyệt không phải là những kẻ đạp tuyết săn thú bình thường. Lúc gần trưa trời vừa đổ một cơn tuyết nhỏ kéo dài, quá trưa thì vừa tạnh, vẫn còn sót lại một ít bông tuyết rơi rơi, không khí se lạnh sảng khoái, thấm tận ruột gan.

Không xa ở phía trước là ngọn núi Bạch Đăng, nằm dựa vào núi Phương về hướng bắc. Năm xưa Hán Cao Tổ là Lưu Bang dẫn ba mươi hai vạn đại quân viễn chinh Hung Nô, sau một trận đại thắng đã khinh địch liều lĩnh tiến bừa, bị bốn mươi vạn đại quân Hung Nô vây khốn trên Bạch Đăng sơn suốt bảy ngày bảy đêm, sau phải dùng diệu kế mới có thể thoát thân. Ngọn núi nhỏ bé này cũng nhờ đó mà vang danh thiên hạ.

Trời rét đậm giữa tiết trọng đông, hiếm có ai nhàn rỗi lên núi nên vừa đến lân cận vùng núi đã không còn thấy dấu vết con người. Hơn hai mươi kỵ sĩ ruổi ngựa lên đồi, phóng mắt nhìn ra xa, trên cánh đồng tuyết nhấp nhô như sóng gợn nằm trơ trọi một ngọn núi nhỏ, cao không quá trăm trượng, cũng không tính là quá cao, thế núi thoai thoải. Lúc đầu nghe nói là "núi", Dương Lăng còn tưởng nó cao lớn hiểm trở thế nào, giờ trông thấy ngọn núi đồi và vùng đất khá bằng phẳng chung quanh, y mới cảm thấy yên tâm.

Ngọn núi này là một ngọn núi đồi đất vàng, căn bản không có chỗ nào hiểm trở để phòng thủ. Đương nhiên nếu trên núi bố trí trọng binh, chiếm lấy địa thế trên cao, thì với năm nghìn binh mã trở lên cũng đủ để chống lại sự công kích của mấy vạn đại quân. Từ nơi này đến Đại Đồng chỉ khoảng chục dặm, nếu thật sự gặp nguy hiểm, chỉ cần kiên trì chống đở nửa ngày là đủ để quân Minh kéo tới tiếp cứu.

Quanh núi là một mảng đồng hoang bát ngát. Nếu quân Minh bố trí sẵn phục binh, Đoá Nhan Tam Vệ đến kết minh cũng sẽ có thể phát hiện từ xa mà kịp thời xa chạy cao bay. Quả thật đây là chốn rất thích hợp để làm nơi đàm phán.

Tuy ngọn Bạch Đăng không cao nhưng chung quanh lại rộng rãi, chu vi chừng mấy dặm. Dương Lăng dẫn hơn hai mươi thân binh lên núi, ngước mắt nhìn xa, phía bắc chính là núi Phương trập trùng, cách chừng hai dặm là một thôn trang xem chừng cũng không nhỏ.

Dương Lăng ngồi thẳng trên lưng ngựa, quay đầu lại hơi nheo mắt nhìn về phía con đường trắng xoá đến nhức mắt, trông thấy từ đằng xa có mấy bóng đen đang đến gần. Với tốc độ đó, ắt hẳn bọn họ cũng đang cưỡi khoái mã.

Dương Lăng thả lỏng cương ngựa, cười sảng khoái:
- Quả nhiên không giấu được mắt kẻ hữu tâm.

Ngũ Hán Siêu đưa cương ngựa lên đẩy vành nón, hơi căng thẳng:
- Đại nhân! Phục binh của chúng ta đang ở Lý Gia tập, cách nơi đây hai dặm. Thuộc hạ vẫn cảm thấy bất an trong lòng, chúng ta có nên đến gần bên đó một chút nữa chăng?

Tuy Ngũ Hán Siêu tài cao gan lớn nhưng chàng cũng biết trong Di Lặc giáo có mấy tay cao thủ trùm đời. Chưa nói đến giáo chủ Lý Phúc Đạt của Di Lặc giáo, nội ba người con của lão cùng vài vị thiên sư trong giáo cũng võ nghệ không kém cạnh gì chàng ta. Nếu đơn thương độc mã thì chàng tự tin dù không địch lại cũng vẫn có thể tẩu thoát, song hiện tại có Dương Lăng ở đây, chàng không dám mạo hiểm. Nhược bằng Dương Lăng lại bị kẻ địch bắt đi mất, khi ấy chẳng cần người khác nói ra nói vào, bản thân chàng cũng sẽ chỉ còn có nước tự sát tạ tội.

Dương Lăng lại không nghĩ vậy. Không phải là y lơ là, có điều hôm nay hai mươi tay thân binh bên cạnh y không phải là quân lính "chuyển ngành" thành phiên tử Nội xưởng, mà là thị vệ đại nội y mượn của Chính Đức. Thuộc hạ chân chính thuộc về y thì ngoài Ngũ Hán Siêu ra chỉ còn gã Lưu Đại Bổng Chùy do y mới thu làm thân binh thị vệ.

Võ công những người này tuy không bằng Ngũ Hán Siêu, song cũng không thua kém bao nhiêu. Nhóm truy binh đã đuổi đến gần kề, xem ra chỉ có bảy tám người cưỡi ngựa, hơn hai mươi người này của mình chẳng lẽ còn không thu thập nổi? Xem ra mình đã vẽ to chuyện khi âm thầm bố trí bốn trăm tay phục binh ở Lý Gia tập sau khi nhận được tin tức do Hàn Lâm đưa đến hôm qua rồi.

Hai mươi tay thị vệ đại nội ngồi ung dung bình tĩnh trên lưng ngựa, hơi tò mò nhìn chằm chằm vào đội nhân mã đang đến gần. Những thị vệ này đều là những trang thiếu niên anh tuấn kiêm tài lẫn đức của các môn phái, rất ít kẻ làm việc trong cung. Chỉ cần dựa vào chiêu bài đại nội thị vệ, trên giang hồ còn kẻ nào dám đắc tội với bọn họ? Cho nên ai nấy cũng đều đặt mắt ở trên trán, mấy tên yêu nhân Di Lặc giáo còn chưa đáng để lọt vào mắt bọn họ.

Lưu Đại Bổng Chùy là kẻ duy nhất trong đám thị vệ này sử dụng côn sắt. Gã râu xồm này là kẻ võ biền, tuy côn pháp quanh đi quẩn lại chỉ có mấy chiêu song lại rất hữu dụng để giết giặc trên chiến trường. Mặc dù so tài đo nghệ thì gã không bằng Ngũ Hán Siêu, nhưng một khi xông pha chém giết trên chiến trường thì vô luận là thanh thế hay số kẻ thù giết được thì Ngũ Hán Siêu đều kém xa gã.

Gã hồi hộp liếm môi, ồm ồm khuyên giải:
- Đại soái! Thuộc hạ nghĩ hay là chúng ta cứ đến Lý Gia tập đi. Mặc kệ nó là yêu đạo hay là giặc Thát, Đại Bổng Chùy tôi đều chả sợ chút nào. Nhưng mà có đại soái ở đây, nếu thật sự động thủ thuộc hạ sẽ bị bó tay bó chân lắm! Vừa phải để ý tới đại soái, vừa phải đánh yêu đạo, phiền phức lắm.

Tuy gã này nói chuyện thô lỗ, nhưng sự quan tâm lại biểu lộ rất rõ ràng, Dương Lăng nghe xong thì bất giác bật cười. Suy nghĩ một lúc, y bảo:
- Được, vậy chúng ta đi! Đến Lý Gia tập chờ bọn họ.

Lý Gia tập nằm kế Đại Đồng. Con đường truyền tin từ kinh sư đi qua đầu thôn kéo đến quan ải phương bắc, nối mọi nẻo đường nên khá là đông đúc. Thương nhân buôn lậu không dám để bò, dê, ngựa trong thành Đại Đồng mà phần lớn bọn họ sẽ nương nấu tạm ở đây, đợi mua bán xong xuôi rồi mới đồng loạt chuyển đi, cho nên đầu thôn còn mở một quán ăn lớn.

Nói là quán ăn nhưng chẳng qua chỉ là mấy gian chòi gỗ trét bùn, cung cấp nước nôi và vài món ăn đơn giản, để những người buôn bán vãng lai có chỗ nghỉ chân, lót dạ. Chung quanh quán được bao bọc bởi một hàng rào cây, không hề có cánh cửa gỗ nào cả, trông hết sức đơn sơ. Hiện đang là mùa đông, buôn bán tiêu điều, quán ăn chỉ mới mở một cánh cửa, bên trong vẫn chưa có khách.

Thấy đám đông hơn hai mươi người của Dương Lăng kéo đến, ông chủ quán không khỏi vui sướng ngất ngây, liền vội chạy ra nghênh đón, mặt cười toe toét nồng nhiệt đón tiếp:
- Chào các vị khách quan! Các vị dùng món gì vậy?

Lão lia mắt thật nhanh, nhận biết những người này không giống thương gia bình thường. Nhưng lão chỉ là ông chủ của một quán ăn nho nhỏ, là một tiểu nhân vật thấp hèn nhất, kiếm được hai văn đồng trinh đã là tốt rồi, sẽ không có ai lại hạ mình đi gây chuyện với những kẻ nghèo khổ như lão.

Lưu Đại Bổng Chùy buộc ngựa vào cột, lại nhanh nhẹn tiếp lấy cương ngựa của Dương Lăng buộc vào, rồi lớn tiếng dặn dò:
- Ông chủ! Trong quán có món gì ăn được thì cứ bưng lên là được rồi! Đồ ăn nóng càng tốt, đúng rồi, kiếm chút rượu trắng luôn.

Ông chủ vội đáp:
- Dạ! Trong quán có bánh bao không nhân, bánh nướng, còn có lợn béo vừa mới mổ đón tết nữa. Tuyệt nữa là có món thịt heo xắt vụn, các vị khách quan lại uống thêm bát canh dê, bảo đảm uống xong sẽ thấy ấm người.

Xắt vụn là cách gọi của người dân sứ Sơn Tây. Cách làm là ngâm heo hoặc dê cả vào nước, rồi lát mỏng, rắc gia vị như tiêu, gừng, tỏi, muối... vào, sau đó hầm thành một nồi. Dùng món thịt nguội này với rượu trắng, kết hợp cùng nước canh dê óng ánh, quả thực mùi vị rất không tệ.

Đám đại nội thị vệ vây quanh bảo vệ Dương Lăng đi vào chòi. Lau sậy được chất quanh chòi thành đống, bên trong kín gió nên khá ấm áp. Sáu viên thị vệ không cần căn dặn đã dằn đao chậm rãi đi loanh quanh trước cửa. Chiến mã được buộc kiểu thòng lọng ở một bên, giật một cái liền tuột ngay, có thể lên ngựa tác chiến bất cứ lúc nào.

Chủ quán bê một vại nước cốt ngâm trong một cái chậu to từ trên quầy đến; trời lạnh khiến mặt trên lớp thịt lợn xắt vụn đóng một lớp váng mỡ trắng tinh. Ôngg chủ vội vã chạy ra sau quán gọi lớn:
- Con mẹ nó Tam Nhi, mau đun lửa hâm đồ ăn đi! Tao nói thằng nhãi mày mau nhanh chân một chút đi, mặt trời đã chiếu tới đít rồi! Mau chạy đi lấy lúa mạch và trấu cám đem cho ngựa của mấy vị khách quan đây ăn đi!

Dương Lăng xát mạnh hai tay, cười nói:
- Chủ quán à, không cần phải lo cho ngựa đâu! Chúng tôi đến từ thành Đại Đồng, không xa mấy, chốc nữa còn phải chạy về. Ăn đại chút gì đó là được rồi.

Căn chòi lớn này xoay về hướng mặt trời, khi cuộn rèm lên ánh nắng sẽ chiếu thẳng vào, khiến nó ấm hơn khi che rèm lại. Dương Lăng ngồi ở bàn gần cửa, ánh nắng rọi lên thân y, bóng râm của chòi che khuất khuôn mặt nên y lại có thể nhìn thấy rõ bên ngoài.

Mặt đất sau mùa gặt phủ một lớp tuyết trắng mỏng manh, thấp thoáng lộ ra những gốc rơm rạ, sáu bảy thớt ngựa ở đằng xa dừng lại trên con đường dưới chân núi Bạch Đăng một chốc, chừng như đang do dự không biết có nên đuổi theo hay không. Dương Lăng thấy vậy không khỏi thầm cười nhạt. Đêm qua Hàn Lâm đã lặng lẽ phái người chuyển tin tức thám thính được sang chỗ y.

Do binh hoang mã loạn, thương nhân từ các nơi khác đến thành Đại Đồng không nhiều. Nhờ Hàn Lâm khổ tâm tổ chức ở Đại Đồng, mạng lưới tình báo của Nội xưởng dễ dàng nắm vững hành tung của bọn họ và truyền tin về.

Hàn Lâm biết nếu muốn giết Hoàng đế, quyết không thể chỉ vài ba nhân vật giang hồ võ công siêu đẳng mà đã có thể làm được; chỉ riêng việc theo dõi, cảnh giới, và dò la tin tức đã cần đến không ít người rồi. Vì vậy ông lại sàng lọc trong những tin tức được trình lên, chọn ra toàn bộ những nhóm dưới hai ba người, đặc biệt là những nhóm có phụ nữ và trẻ em, sau cùng chỉ còn lại mấy tốp nhân vật cực kỳ khả nghi.

Đám người Dương Hổ tự xưng là thương nhân hàng da, nhưng quản sự và gia bộc mang theo có đến bảy tám người. Năm mới bọn họ lại chạy vội chạy vàng đến thành Đại Đồng, chỉ ăn rồi ngủ, không chịu vội mua hàng rời đi, thật hết sức đáng ngờ. Thành thử ông đã phái thêm người bí mật giám sát bọn họ, đồng thời mau chóng truyền tin cho Dương Lăng.

Hiện Đại Đồng giống như binh doanh vậy, Dương Lăng cũng dự liệu nếu quả thật có thích khách thì nhân số cũng sẽ không quá nhiều. Trương Vĩnh nghe tin xong thì lập tức muốn mang người đi bắt bọn họ lại, mặc kể có phải là kẻ xấu hay không, cứ vứt vào đại lao rồi tính sau.

Đám người Đại vương, Hồ Toản và Uông Dĩ Hiếu đã ngầm ưng thuận việc Hoàng đế gặp mặt Hoa Đáng, hơn nữa cũng đã ngầm hẹn không đến bái kiến Hoàng thượng, cho nên bề ngoài bọn họ cũng vờ như không hề biết chuyện Hoàng đế đang ở Đại Đồng.

Dương Lăng lo rằng nếu Nội xưởng giương cờ gióng trống bắt người trong thành, một khi tin tức lọt vào tai đám người Hồ Toản thì bọn họ sẽ lại đổi ý, lo lắng chạy ào tới khóc lóc can ngăn Hoàng thượng. Cho nên y quyết định lấy thân làm mồi, dụ rắn ra khỏi hang.

Đằng xa, đám sáu bảy kỵ sĩ cứ đi lòng vòng mà không tiến vào thôn nọ dường như đã bàn bạc xong, bỗng giục ngựa phi thẳng tới. Bọn thị vệ ngồi trong chòi cùng đứng dậy đánh soạt, tay đã án trên chuôi đao.

Dương Lăng bình tĩnh bảo:
- Ngồi xuống! Bọn chúng có thể xông thẳng vào trong chòi hay sao? Chuẩn bị kỹ hoả tiễn và pháo hiệu, một khi có sự liền lập tức gọi người. Quan binh bắt giặc không tội gì mà đơn đả độc đấu!

Đám thị vệ lại chậm rãi ngồi xuống, song tay vẫn dằn trên chuôi đao, mắt nhìn chằm chằm ra bên ngoài.

Đám người nọ tới gần, tổng cộng bảy người ngựa. Ngoại trừ một lão già trạc ngũ tuần, còn lại đều là tráng niên tuổi chừng ba mươi, trông khoẻ như cọp, đầu quấn khăn trùm, hông giắt Nhạn Linh đao. Ánh mắt của Dương Lăng thoáng lướt trên khuôn mặt của bảy người rồi dừng lại trên mặt một gã mặt sẹo.

Người này chính là Dương Hổ. Tuy gã đã cải trang, khuôn mặt đã được thay đổi qua loa nhưng thân hình vẫn vậy. Cái khí chất ngông cuồng ngạo nghễ vẫn khiến y nổi bật giữa đám đông như hạc giữa bầy gà, nghiễm nhiên là thủ lĩnh của cả bọn.

Ánh mắt của hai người chạm vào nhau trong tích tắc, mắt Dương Lăng hơi loé lên một tia kinh ngạc. Y đã mang máng nhận ra Dương Hổ, "Không ngờ kẻ đuổi tới lại là Dương Hổ mà không phải là người của Di Lặc giáo." Việc này hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của y.

"Sao Di Lặc giáo không thấy có động tĩnh gì mà lại là Dương Hổ đuổi tới đây?
Nếu cho rằng Hồng Nương Tử gạt mình thì thực khó hiểu. Dù sao thì mình cũng đã biết tin, bất luận thật hay giả ắt sẽ đều tăng cường cảnh giác. Nếu những gì Hồng Nương Tử nói là thật, thì sao Dương Hổ còn ngu xuẩn để mặc cho Di Lặc giáo lợi dụng? Chẳng lẽ gã và Hồng Nương Tử vẫn chưa gặp nhau, vẫn chưa biết chuyện này?"

Vẻ kinh ngạc thoáng qua trên khuôn mặt Dương Lăng bị Dương Hổ lầm tưởng là do sợ hãi. Trên mặt gã loé lên vẻ khinh thường rồi quay đầu đi như không có việc gì. Gã vừa ngông nghênh bước vào chòi vừa gọi chủ quán:
- Ông chủ, xắt mười cân thịt bò, hâm một vò rượu nóng, mau dọn lên cho bọn ta!
Gọi món rồi gã sảng khoái ngồi phịch xuống bàn bên, gỡ thanh bội đao giắt hông vắt ngang lên bàn, hung hãn trừng mắt với Dương Lăng.

Chủ quán vội châm trà đưa lên bàn cho gã, thừa dịp liếc mắt nhìn đám người chung quanh. Ai nấy mặt mày hầm hầm, cộng thêm bầu không khí căng thẳng và lạnh lẽo khiến lão rét cả người, bèn lật đật lui ra sau quầy.

Dương Hổ cũng không thèm để ý đến lão, hai mắt gã vẫn nhìn Dương Lăng chằm chằm. Gã thực căm hận Dương Lăng đến tận xương tủy, hai trăm tâm phúc của gã bỏ mạng trước Cao Lão trang, mối thù này gã trút hết cả lên đầu Dương Lăng. Nay ái thê cũng vì bất đồng ý kiến mà giận dỗi bỏ đi, món nợ này gã cũng trút lên đầu Dương Lăng nốt, vì vậy gã càng coi Dương Lăng là cái gai phải nhổ.

Di Lặc giáo giao du với tầng lớp thượng tầng, biết rằng Hoàng đế cải trang không phải là chuyện đùa, nếu trọng thần bên cạnh hắn bị ám sát thì khi ấy muốn đụng đến hắn ắt sẽ khó như lên trời. Nhưng Dương Hổ - một tên mã tặc - thì lại suy luận rằng diệt trừ được vây cánh của Hoàng đế thì mới dễ xuống tay với hắn ta.

Chỉ mang theo vài người, gã ở Đại Đồng như kẻ mù dắt ngựa loà, không có kể sách gì cả, biện pháp duy nhất chính là phái người thay phiên dán mắt vào Dương Lăng, giúp y canh nhà giữ sân, âm thầm theo y tới lui giữa vương phủ và dịch quán. Sáng hôm nay nhận được tin Dương Lăng cải trang giả dạng thường dân ra ngoài thành, Dương Hổ mừng khôn kể xiết, liền lập tức dẫn người đuổi theo.

Sát khí bao trùm cả căn chòi, thớ thịt của mọi người đều trở nên căng cứng, ánh mắt âm u lạnh lẽo nhìn chằm chằm vào đối phương, đại chiến chực chờ bùng nổ. Dương Lăng nhón lấy chén trà, cẩn thận uống một hớp rồi lại nhẹ nhàng đặt xuống, chỉ sợ tiếng động lớn quá sẽ lập tức dẫn đến một hồi đại chiến.

Lão chủ quán khéo nhìn sắc mặt trông thấy tình hình không ổn, thế là không khỏi thầm kêu khổ. Lặng lẽ đẩy bàn tính ra, lão bắt đầu khe khẽ lui về phía sau, lặng lẽ đưa tay ra sau lưng rờ tấm rèm cửa.

Dương Hổ lặng lẽ quan sát một hồi, phát hiện trong và ngoài chòi chỉ có hơn hai mươi người. Sau khi ước lượng qua võ công của đám phiên tử Nội xưởng trong đêm công kích Dương phủ ngoài Cao Lão trang, gã liền có quyết định.

Hiện tại ngoại trừ gã còn có một cao thủ về Ưng Trảo công là Hoắc Ngũ Thúc, nếu muốn tập kích giết chết Dương Lăng giữa sự bảo hộ của hơn hai mươi tên thị vệ này thì phần thắng ít ra cũng có đến bảy thành. Gã đưa mắt nhìn Hoắc Ngũ Thúc ngồi đối diện, mắt hơi cụp xuống ra hiệu đã quyết định động thủ!

Lão chủ quán vừa mới vén rèm cửa, Dương Hổ đã chợt đứng bật dậy, các đại nội thị vệ ngồi chung quanh nhịn không được cũng đứng cả lên. Tiếng đao bạt khỏi vỏ xoàn xoạt nghe rợn người, đao quang loé khắp căn chòi.

Thủ hạ của Dương Hổ cũng đứng bật dậy, lật ngã một băng ghế dài xuống đất đánh “bộp”. Chỉ có Hoắc Ngũ Gia vẫn ngồi trên ghế dài vững như bàn thạch, song trên mu bàn tay cầm chén trà nóng hổi của lão đã không chút cử động mà nổi vồng gân xanh.

Dương Lăng và Ngũ Hán Siêu ngồi đối diện cũng không động đậy; Ngũ Hán Siêu một tay dằn lấy phối kiếm (*), một tay lặng lẽ lần vào trong chiếc túi giắt thõng dưới lưng, cầm lấy năm cây phi tiêu Kim Tiền được mài bén cạnh. Lưu Đại Bổng Chùy ngồi bên phải lại đã nhảy bật dậy, nắm chặt cây côn sắt đen thùi trong tay.
(*) một loại kiếm cổ có nguồn gốc từ Indonesia.
Xem thêm http://baike.baidu.com/view/3075016.htm

Dương Hổ liếc mắt nhìn quanh, rồi chợt ngửa mặt lên trời cười lớn. Tiếng cười liên miên của gã chưa dứt, Dương Lăng cũng chợt mỉm cười nói:
- Trước mặt hẳn là Dương Hổ Dương huynh phải không? Từ dạo chia tay nhau tại kinh sư, bấy lâu huynh vẫn khoẻ chứ?

Dương Hổ cười gằn đáp:
- Đa tạ đã quan tâm! Dương mỗ gặp nạn lớn không chết, vẫn mong được báo đáp ân đức của Dương đại nhân đây. Tiếc rằng thềm cửa nhà họ Dương quá cao, Dương mỗ chẳng dám bước vào. Giờ thì tốt rồi, đại nhân vậy mà rời xa kinh sư, thật đúng là cầu được ước thấy, ông trời có mắt đây.

Dương Lăng khẽ lắc đầu bảo:
- Vốn dĩ... chúng ta có thể làm huynh đệ tốt. Ngươi đuổi đến Đại Đồng, có phải là đã quyết tâm muốn tạo phản? Có chịu nghe ta khuyên nhủ một câu không? Lúc này buông đao, bản đốc có thể tha cho ngươi tội chết!

Dương Hổ cười hắc hắc, đang định giễu lại, chợt có tiếng vó ngựa gõ dồn, mọi người trong chòi đều vụt đưa mắt nhìn xa ra bên ngoài. Từ đằng xa có một người cưỡi khoái mã phóng như bay tiến đến. Kỵ sĩ khom lưng trên lưng ngựa, cùng ngựa tạo nên một đường thẳng tắp, nhìn từ xa trông không rõ tướng mạo, chỉ nhận ra được người đó vận một chiếc áo bào màu tro, là trang phục đàn ông, hông giắt một cây đao thép không vỏ, thi thoảng tia nắng quét ngang hắt ra những tia sáng chói mắt.

Chỉ trong chốc lát ngựa đã đến trước cửa chòi, kỵ sĩ ghìm cương, kiện mã hí một tràng dài, người nọ đứng thẳng dậy, vó ngựa đá tung cụm tuyết trước mặt. Chân ngựa còn chưa tiếp đất, kỵ sĩ đã nhẹ nhàng nhảy xuống, sải bước tiến vào trong chòi.

Hai bên đang ở thế giương cung bạt kiếm, không biết kẻ đến là địch hay ta, đều trừng mắt nhìn kẻ đó không nói tiếng nào. Người này mặt ngọc mày kiếm, mũi cao miệng nhỏ, thoạt trông khí khái tràn trề, tuy ăn vận như một chàng trai trẻ tuấn tú, nhưng Dương Lăng và Dương Hổ liếc mắt đều lập tức nhận ra cô nàng qua lớp dịch dung vô cùng đơn giản đó. Dương Hổ mừng rỡ gọi:
- Nương tử, nàng đến thật đúng lúc! Hãy liên thủ với vi phu giết chết Dương Lăng báo thù cho các huynh đệ!

Năm ngón tay của Hoắc Ngũ Gia bấu chặt lấy chén trà nóng hổi, vốn định ném về phía Dương Lăng, lúc này trông thấy nàng, lão cũng kinh ngạc lỏng tay, mừng rỡ đứng dậy gọi:
- Oanh Nhi? Cháu gái ngoan của thúc, thực khiến Ngũ thúc lo muốn chết. Mau qua đây, Dương Lăng chỉ mang theo hơn hai mươi tên thị vệ, chú cháu chúng ta liên thủ liền sẽ có thể giết y dễ như trở bàn tay!

Thôi Oanh Nhi đanh mặt đáp: ối
- Ngũ thúc, mục tiêu chính của chúng ta là Di Lặc giáo. Muốn báo mthù đó thì thật là chuyện chó đi bắt nhím, biết cắn chỗ nào*. Nếu vì trăm họ, chúng ta nào có bản lĩnh cai trị giang sơn. Nếu thật sự sát hại Hoàng đế và Dương Lăng, chính là giúp cho Di Lặc giáo toại nguyện, lại khiến cho giặc Thát ngoài quan ải thừa thế xông vào. Chúng ta gánh không nổi tiếng xấu mấy đời này đâu. (*: ý nói tìm kiếm Di Lặc giáo báo thù là chuyện vô vọng)

Cặp mắt như thu thủy của nàng liếc sang Dương Lăng, rồi chắp tay vái những tay thảo khấu, nói:
- Các vị huynh đệ, trong các vị có người là nhân mã trại cũ của Thôi gia ta, có người là huynh đệ khe Phi Hổ của tướng công ta. Thôi Oanh Nhi và các vị huynh đệ cùng tiến cùng lui, đồng sinh cộng tử, đã có bao giờ là kẻ sợ chuyện? Cho dù là vị khâm sai đại nhân này...

Nàng liếc ngang đôi mắt đẹp về phía Dương Lăng, ngạo nghễ nói tiếp:
- Ta cũng tự tay bắt y về, bình yên mà thoát khỏi vòng vây trùng trùng của mười vạn đại quân. Oanh Nhi không phải là kẻ sợ chuyện. Nhưng người giang hồ chúng ta coi trọng đạo lý oan có đầu, nợ có chủ. Dương phủ là con dê béo, chúng ta là kẻ bắt cóc, có đắc thủ hay không đều phải dựa vào bản lĩnh mỗi người. Chưa từng nghe chuyện bắt cóc thất thủ rồi lại coi con dê béo là kẻ thù; đó chỉ là bởi chúng ta học nghệ chưa tinh thông mà thôi!
Nhưng nếu như chúng ta đã bị kẻ khác lừa đi bắt người, đã trúng phải kế lùa hổ trị hổ của người ta, các vị nói thù này có nên trả không? Nay rõ rành rành Di Lặc giáo muốn đối phó với Dương Lăng, sơn trại chúng ta bị quan binh nhổ mất mà chúng ta lại cứ cố chạy đến làm tốt thí cho người ta, để người ta ăn ốc còn mình phải đổ vỏ, làm chuyện ngu xuẩn như thế xem có được không?

Đoạn nàng bất mãn trừng mắt với Dương Hổ, bảo:
- Thấy các người lục tục kéo ra khỏi thành thì ta ra theo thôi, không có ý gì khác cả. Ta không đồng ý với việc giết Dương Lăng vin vào lá cờ "Thế thiên hành đạo" của sơn trại chúng ta! Lý lẽ cần nói ta đã nói hết rồi, huynh đệ nào đồng ý với ta, mời đứng sang bên này!

Những người thuộc trại cũ của Thôi gia đưa mắt nhìn nhau. Bọn họ đều là lứa cao thủ sơn tặc trẻ tuổi, trong mắt bọn họ, sức hiệu triệu của Thôi đại tiểu thư hơn xa Hoắc Ngũ Thúc đã qua thời đỉnh cao. Nghe xong những lời lẫm liệt của Thôi Oanh Nhi, bọn họ từ từ bỏ đao xuống, chần chừ bước sang bên cạnh Thôi Oanh Nhi.

Dương Hổ giận muốn rách phổi, trợn mắt mắng to:
- Thôi Oanh Nhi, cô điên rồi à? Cô là vợ ta hay là vợ tên Dương Lăng hả? Không ngờ cô lại nối giáo cho giặc! Cô không giúp ta thì thôi, còn muốn lôi kéo các huynh đệ đi, đấy là bổn phận làm vợ đó sao? Được lắm, được lắm!

Gã giận quá hóa cười:
- Xưa nay ta luôn nhịn cô, nhường cô, nhưng không sợ cô. Cô thật sự nghĩ mình là Dương Khóa Hổ ư? Trở về sơn trại ta sẽ mời tất cả các trại chủ các núi tới trước mặt nhạc trượng đại nhân hỏi cho rõ ràng. Lão dạy dỗ con gái mình thật giỏi!

Hoắc Ngũ Thúc cũng không nén được lửa giận. Tuy rằng lão yêu thương Thôi Oanh Nhi, thế nhưng con gái lấy chồng coi như nước đã đổ đi, không liên can gì đến Thôi gia nữa, đâu lại có chuyện vợ trái lời chồng, đó chẳng phải là đại nghịch bất đạo sao? Hơn nữa lúc đi lão gia tử đã có lời yêu cầu lão áp chế Thôi Oanh Nhi, không để nàng can thiệp vào đại sự của Dương Hổ.

Hoắc Ngũ Thúc nghiêm khắc quát:
- Bọn khốn chúng mày! Lúc lão gia tử phái chúng mày đi đã nói thế nào? Hết thảy đều phải nghe theo sự an bài của cô gia, giờ lại theo Oanh Nhi làm loạn sao? Dương Lăng đi đâu cũng có thị vệ vây quanh như mây, ngoại trừ hôm nay, còn có cơ hội nào tốt như vậy nữa chứ? Nghe lời ta, cùng cầm lấy vũ khí, làm thịt cái tên họ Dương nó, bằng không chắc các ngươi cũng biết sơn quy của Thôi lão đại rồi đó.

Mấy gã cao thủ thuộc sơn trại nhà họ Thôi lưỡng lự nhìn nhau, cảm thấy khó xử, nhất thời không biết nên nghe ai. Khuôn mặt xinh xắn của Thôi Oanh Nhi thoáng trắng bệch, nói:
- Ngũ thúc, Dương Hổ bị lợi danh làm mê muội tâm can, thúc còn chống lưng cho gã sao?

Hoắc Ngũ Thúc hừ một tiếng, nghiêm khắc:
- Oanh Nhi, đừng trách Ngũ Thúc nói với con điều này: con đang làm chuyện quá hồ đồ khiến người ngoài nghe thấy chê cười rồi đó. Chúng ta là kẻ lăn lộn trên sơn trại, vậy mà con lại đến giúp quan binh, sau này cha con và chồng của con biết đứng trong giới lục lâm như thế nào?

Lưu Đại Bổng Chùy nhìn thấy màn đấu đá nội bộ này mà cả mừng, nhăn nhở cười nói:
- Thực có khí phách! Đấy gọi là thấu hiểu đại nghĩa. Cái... cái cô gái Hồng Phất nữ này(*), ừm, hẳn là một cô nương không còn thú vị gì lắm rồi, nếu không một nữ nhân hiểu lý lẽ như vậy, một tên thủ lĩnh mã tặc như hắn sẽ không nói bỏ là bỏ ngay đâu. Thôi thì theo đại soái của chúng ta ăn uống thoả thuê đi!
(*: Nhắc tích Hồng Phất Nữ là nữ tì của Dương Tố, nàng nhận ra Lý Tịnh, tuy đang hàn vi, là bậc anh hùng thao lược nên đang đêm bỏ phủ Dương Tố, trốn theo Lý Tịnh)

Thôi Oanh Nhi nghe hắn nói xằng thì giận đến nóng mặt, cổ tay thoáng run lên, một chiếc thiết tật lê (đinh sắt) bay vút về phía cái miệng đang thao thao bất tuyệt của Lưu Đại Bổng Chùy. Ngũ Hán Siêu đã đề phòng sẵn, một đồng tiền liền bay tới nghênh đón, "keng" một tiếng, hai miếng sắt chạm vào nhau bắn sang một bên.

Lưu Đại Bổng Chùy giật mình hoảng hồn, mắng lớn:
- Mẹ nó! Sơn tặc đúng là sơn tặc, trở mặt còn nhanh hơn cả lật sách!

Ngũ Hán Siêu cười nhạt nói:
- Hắn là kẻ thô lỗ, Dương phu nhân hà tất phải so đo? Dương đại đương gia định bắt nạt lúc chúng ta ít người sao? Thật ngại quá, nói thật với huynh đài, chỉ dựa vào mấy người chúng ta đây, các vị chưa hẳn đã đánh lại. Vả lại, đúng như vị Ngũ thúc đây đã nói, đại nhân chúng ta đi đâu cũng có thị vệ vây quanh như mây, há chỉ có bấy nhiêu người?

Đám người Dương Hổ, Hoắc Ngũ thúc và Hồng Nương Tử thoạt tiên là sững ra, rồi lập tức sực hiểu, sắc mặt không khỏi biến xấu. Một viên cao thủ đại nội đứng trước cửa mỉm cười, thấy Ngũ Hán Siêu nháy mắt với mình, liền lập tức lật cổ tay, một viên pháo hiệu bay thẳng lên trời, tiếng nổ vang đi rất xa. Trong khoảnh khắc, mấy trăm viên phiên tử cầm đao mang cung từ các ngõ hẻm hai bên thôn ùa ra, vây chặt lấy căn chòi.

Một số tay phiên tử rút từ trong thắt lưng ra chiếc dây xích dài đen thui, tung lên mái chòi rồi tất cả cùng kéo mạnh, "rầm" một tiếng, cả căn chòi bị kéo đổ thành mấy mảnh. Cũng may trên mái chòi toàn bộ là tuyết, không hề bị đóng bụi, mọi người trong chòi đều vung binh khí đập cho mấy tấm ván gỗ mỏng tang nát vụn, trên người chỉ dính một lớp tuyết xốp.

Nhờ có cây côn sắt to dài tám thước của Lưu Đại Bổng Chùy, chỗ Dương Lăng đứng cũng không gặp gì nguy hiểm. Trong nháy mắt cả căn chòi hoàn toàn biến mất, mọi người đều hiện rõ giữa mảnh đất trống, những mũi tên bén ngót dày đặc chung quanh đã ngắm vào bọn họ.

Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy che chắn trước người Dương Lăng, chầm chậm lui ra ngoài, nhóm đại nội thị vệ cũng cùng vừa lui ra vừa giữ cự ly để có thể phối hợp kịp thời. Dương Lăng lùi vào giữa đám thủ hạ, cất cao giọng hô:
- Hồng Nương Tử! Chính do lời của cô vừa rồi, bản quan sẽ cho các người thêm một cơ hội. Đâm vua giết chúa, hành thích đại thần, đều là tội đại nghịch phải chết! Nhưng chỉ cần các người vứt đao đầu hàng, bản quan sẽ bảo đảm các ngươi không bị tội chết!

Hồng Nương Tử hít một hơi, liếc y bằng ánh mắt quật cường, đoạn giơ thanh bội đao trong tay lên, cao giọng đáp:
- Dương đại nhân! Ta khuyên tướng công quay đầu chỉ vì không muốn bị người ta lợi dụng mà thôi. Hảo hán lục lâm Bá Châu chúng ta không biết quỳ gối đầu hàng quan binh. Thôi Oanh Nhi cùng tướng công và các vị huynh đệ sơn trại đây đồng sinh cộng tử, vạn tiễn xuyên tim cũng sẽ không chút nhăn mặt nhíu mày. Ý tốt của đại nhân ta chỉ xin tâm lĩnh!

Dương Hổ cười lớn:
- Hay lắm, thế mới là nương tử của Dương Hổ ta chứ! Các huynh đệ, cầm lấy vũ khí, lấy ván gỗ làm khiên, chúng ta xông ra đoạt lấy ngựa rồi rút lên núi Phương!

Đám sơn tặc vội vã lật bàn và lấy mảnh ván vỡ làm những tấm khiên đơn giản, quây lại bảo vệ chung quanh. Tiếng cung kéo rít lên rợn người, cung tên trong tay đám phiên tử đã kéo căng như mảnh trăng rằm.

Ngũ Hán Siêu đưa mắt nhìn Dương Lăng, xin lệnh:
- Đại nhân?

Dương Lăng binh tĩnh nhìn Thôi Oanh Nhi, "bắn người con gái này thành con nhím?" Con tim thoáng xao động, y quát:
- Dương Hổ! Thôi Oanh Nhi! Hẳn các người có thể thấy hôm nay các người sẽ không thoát được. Cho dù các người võ nghệ cao cường như thế nào đi nữa, liệu có thể giết hết bốn trăm thiết vệ của ta không? Còn không mau buông vũ khí đầu hàng?

Đám người Dương Hổ và Thôi Oanh Nhi đều là những kẻ cướp cao ngạo bất kham, hung hãn không sợ chết, nghe y nói vậy thì chỉ cười nhạt tránh sau tấm khiên không đáp lời. Dương Lăng cắn răng, định quát lệnh bắn tên thì chợt có âm thanh rì rầm lúc trầm lúc bổng như có bầy dã thú đang kéo tới khiến Dương Lăng không khỏi ngạc nhiên.

Y đưa mắt nhìn về hướng phát ra âm thanh. Trên con dốc thoải trắng màu tuyết kéo dài từ sơn trang lên ngọn núi Phương xuất hiện một đội quân trông như một con dã thú khổng lồ đang chạy trên đồng hoang. Ngoài tiếng vó sắt nện xuống mặt ruộng hoang như sấm chính là tiếng la hét quái dị không ngừng của những kỵ sĩ trên lưng ngựa, thanh thế rất đáng sợ.

Tuy nhìn từ xa nên trông không rõ trang phục của bọn họ, nhưng chỉ cần nghe tiếng la hét quái dị thì Dương Lăng, quan binh và bọn mã tặc đã từng trông thấy quân đội giặc Thát liền biết đó chính là một đội quân Thát Đát không biết từ đâu chui ra, tràn đến cướp bóc xóm làng.

Quan binh giết cướp, cướp giết quan binh, ấy là cái lý bình thường như trời với đất; bọn họ là kẻ thù lâu năm không thể hoá giải. Thế nhưng cục diện quái dị hiếm gặp là: đám giặc Thát đến cướp giết thôn trang này sẽ giết quan hay là giết cướp? Bọn chúng há sẽ phân biệt hai nhóm người Hán này ư? E rằng đội quân giặc Thát này cũng vào khoảng nghìn người, nếu lúc này mà hai phe động thủ với nhau, đám giặc Thát đang phi như chớp giật sẽ đến ngay lập tức, bọn họ sẽ làm sao?

Dương Lăng và Dương Hổ, một kẻ có lòng tin giết cướp cùng một kẻ có lòng tin sẽ trốn thoát đều tròn xoe đôi mắt. Hợp tác cùng nhau chăng? Có thể sao? Hai người đưa mắt nhìn nhau, từ trong ánh mắt đối phương chỉ thấy có sự nghi ngờ, lòng hận thù và sự bất tín nhiệm.

Mặt đất run rẩy, dân chúng trong thôn đã khóc gào inh ỏi, giặc Thát tràn tới nhanh như một đàn châu chấu.






Chú thích:




Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180&page=218
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
08-08-2012, 07:18 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 196 Quyết Phải Chém Đầu


Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Nàng cảm thấy Dương Lăng quấn chặt lấy cơ thể đang treo lơ lửng của mình, hai tay cài vào nhau lần lên đến hông, người thoáng dịch lên trên, hai đùi tức thì kẹp chặt lấy chân mình, tiếp đến lại tới hai tay xích lên, cứ thế xen kẽ, vậy mà đã sắp ôm lên tới ngực mình. Hồng Nương Tử hốt hoảng gào lên:
- Ngươi làm cái gì vậy?

:013::013::013:







Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 196 - Quyết Phải Chém Đầu




Chương 196 - Quyết Phải Chém Đầu

Chương 196 - Quyết Phải Chém Đầu



Thanh thế của giặc Thát khiến cho tất cả mọi người đều sững sờ ngay lập tức. Bọn chúng từ trên núi ùa xuống, vừa gào thét vừa tràn vào thôn xóm, những người dân kinh hoảng bỏ chạy tán loạn trên đường đều bị trường đao nương theo thế ngựa phi của bọn chúng vớt qua cần cổ không phí chút sức lực nào, đầu lăn lông lốc.

Dù chỉ là một tốp lính men theo đường mòn trong núi kéo đến đánh lén, cướp bóc lương thực, giặc Thát vẫn giữ nguyên thói quen công kích đối thủ như lúc ở trên thảo nguyên. Chúng không vội xâm nhập vào nhà dân cướp bóc tài vật mà xông thẳng liền một mạch, cậy vào thanh thế hung hãn và bạo ngược để phá vỡ đội hình đối phương, hòng đập tan mọi dũng khí phản kháng của kẻ địch.

Trước đó, nhận được tin tình báo thôn trang nhỏ bé này không hề có quan binh trú đóng nên bọn chúng định tràn xuyên qua thôn rồi bọc lại để phòng ngừa thôn dân chạy trốn, như vậy chiến mã xông đến cuối thôn sẽ liền lập tức quay lại, bắt đầu cướp giết từng nhà.

Song đám giặc Thát đi đầu xông đến cổng thôn phía đối diện lại ngạc nhiên trông thấy mấy trăm quan binh đang bày trận đón sẵn ở đó, giương cung lắp tên, tên kín như rừng.

Tuy bọn chúng không kịp phân tích tại sao trong thôn lại đột nhiên xuất hiện một đội quan binh, song bộ hạ của Hỏa Sư đều là những tên lính hung hãn nhất trong các bộ lạc Mông Cổ Thát Đát, đội quân nghìn người được phái đến cướp bóc lương thực này lại càng kiêu dũng thiện chiến nên chỉ sau thoáng kinh ngạc, chúng liền ngang nhiên hò hét múa tít vũ khí xông tới.

Giặc Thát phía sau trông thấy tình huống này cũng đều vọt ngựa tiến đến, vừa phi vừa lấy cung lắp tên. Người Mông Cổ rất giỏi kỹ thuật vừa cưỡi ngựa vừa bắn cung, hết sức thành thạo việc kéo cung lắp tên trên lưng ngựa, trong nháy mắt bọn chúng đã tiến vào trạng thái sẵn sàng công kích.

Trông thấy tình hình như vậy Dương Lăng cũng không dám trì hoãn thêm. Trong thôn giấu không tới bốn trăm thớt ngựa khỏe để tránh tai mắt kẻ địch, đội quân này là lính đánh bộ, một trận mưa tên sẽ chỉ có thể ngăn chặn giặc trong chốc lát. Nếu để giặc Thát xông vào trong trận, e rằng mấy trăm người đều sẽ bỏ mạng tại chỗ.

Nơi đây gần Đại Đồng như vậy, phía trước lại có Trường Thành cách trở, giặc Thát chưa từng xuất hiện ở nơi này, thêm vào đó quân chủ lực của Bá Nhan đã chuyển hướng tấn công sang Hồ Khẩu, Bình Thuận nên Dương Lăng không hề nghĩ rằng trên núi sẽ lại đột nhiên xuất hiện một tốp giặc Thát. Thật đúng là "bọ ngựa bắt ve sầu, chim sẻ rình sau lưng".

Nếu giặc Thát muốn vòng qua Trường Thành để đột kích hậu phương quân Minh thì bọn chúng chỉ có nước lén lút đi xuyên qua mấy đoạn núi cao hiểm trở giữa những rặng núi non trùng điệp chưa được xây dựng Trường Thành phòng thủ. Nhưng những lối ấy khó đi vô cùng nên đại quân không thể đi qua, một ngàn người này hẳn đã là cực hạn.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng lập tức quyết định. Y quát lớn:
- Mặc kệ là quan hay cướp, tất cả đều là người Hán. Bắt cướp là chức trách mà giết giặc là trách nhiệm thiêng liêng, món nợ giữa chúng ta sau này sẽ tính. Hôm nay chỉ giết giặc Thát! Các huynh đệ, động thủ!

Tiếng cung ngân rền, dưới mệnh lệnh của Dương Lăng bốn trăm cung tiễn thủ lập tức chuyển hướng, hàng loạt mũi tên gắn đuôi lông chim như cơn mưa rào điên cuồng ập xuống đầu đám giặc Thát đang phóng tới như bay.

Đám giặc Thát đang thúc ngựa phi nhanh kêu la đau đớn rồi ngã rạp một mảng, mấy con ngựa lùn tráng kiện Mông Cổ trên lưng còn nhú đuôi tên hí lên đau đớn, quay đầu bỏ chạy, thi thể vẫn còn móc vào bàn đạp bị chúng kéo lê trên tuyết tạo thành một dải máu dài.

Mắt thấy hơn nghìn thiết kỵ trong thôn đang ùn ùn kéo tới, trong lòng Dương Lăng lại trở nên bình tĩnh cực kỳ. Mặc dù gần như y chưa từng đích thân cầm đao xông pha chiến trường nhưng lại đã tận mắt chứng kiến nhiều trận kịch chiến. Nay mấy trăm thị vệ đều chỉ tuân theo lệnh mình, y nhất định phải bảo toàn tính mạng của các huynh đệ. Đó là trách nhiệm của y.

Dương Lăng quét mắt một lượt, nghiêm giọng quát lớn:
- Cửa thôn chật hẹp, không có lợi cho kỵ binh giặc Thát xông tới. Thị vệ đại nội lên ngựa, chận cửa thôn lại cho bản quan! Những người khác lập tức lui về hướng núi Bạch Đăng, dựa núi mà thủ!

Sau thoáng kinh ngạc, đám thị vệ đại nội đã khôi phục dũng khí, nghe lệnh lập tức vịn yên nhún người lên ngựa, vung phác đao chuôi dài phi đến cửa thôn. Bình thường Lưu Đại Bổng Chùy vẫn nói giọng kinh sư, lúc này quá kích động, gã la lớn bằng giọng Sơn Đông quê nhà:
- Mẹ nó , cái con bà mẹ nó, sao lại có nhiều tên giặc Thát điên từ Lục Câu Lý tràn ra như thế này?
[*: câu chửi đổng cửa miệng của người Lai Dương vùng Sơn Đông, theo http://2011.cctcct.com/travel-guide/1-16/1310/46942.html]

Nói đoạn gã liền cầm côn sắt định nhảy lên ngựa. Ngũ Hán Siêu kéo gã lại, quát:
- Ngươi làm cái gì vậy? Cho dù ngươi giết một nghìn tên giặc Thát mà đại nhân có mệnh hệ gì thì ngươi cũng sẽ không có chỗ mà khóc đâu! Bảo vệ đại nhân rút về núi Bạch Đăng ngay!

Từ dạo bị người ta xỏ mũi suýt nữa hại chết Dương Lăng, đương nhiên Ngũ Hán Siêu luôn bảo hộ sát bên Dương Lăng không dám rời xa nửa bước. Ở cửa thôn người chết ngựa ngã, đánh đến không thể tách rời, người ngựa địch ta hòa quyện lẫn nhau. Giặc Thát cậy vào khoái mã xông lên, sức mạnh thế nhanh, còn hai mươi viên thị vệ phòng thủ cửa thôn cậy vào võ nghệ cao cường, cạnh bên lại có phiên tử không ngừng bắn tên chi viện, tạm thời vẫn có thể ngăn chận giặc Thát. Nhưng đám người Dương Hổ vẫn đứng nguyên tại chỗ, vẻ mặt do dự. Ngũ Hán Siêu sợ bọn họ sẽ đột ngột ra tay đả thương người mình nên đành phải chằm chằm để ý đến bọn họ, không dám lơ là.

Trông thấy Dương Lăng vẫn điềm tĩnh như không, Hồng Nương Tử vứt tấm ván gỗ trong tay rồi đi đến trước ngựa của mình, phóng người lên ngựa, đao thép nắm chặt trong tay, cất giọng trong trẻo:
- Họ Dương kia! Chỉ mong ngươi nhớ câu nói này: “Mặc kệ là quan hay là cướp, tất cả đều là người Hán.” Hôm nay bọn ta sẽ giết giặc Thát trước.

Nói rồi nàng đưa mắt ra hiệu với Dương Hổ. Dương Hổ nhìn giặc Thát đang đằng đằng sát khí ùn ùn kéo đến, lại nhìn Dương Lăng ở gần ngay trước mặt, do dự chưa quyết. Thôi Oanh Nhi tức giận quát to:
- Đương gia! Ân oán cá nhân sau này hẵng tính! Giặc Thát là kẻ thù của tất cả người Hán chúng ta, ngài còn do dự cái gì?

Nói rồi nàng nổi giận đùng đùng trừng mắt với Dương Hổ, thúc mạnh bụng ngựa, vụt xông về phía cửa thôn. Hoắc Ngũ Thúc sợ cháu gái gặp chuyện không hay, thấy vậy cũng búng người nhảy lên lưng ngựa như một con đại bàng, giật dây cương, chúm môi huýt gió một tiếng chói tai, xông về phía giặc Thát.

Dương Hổ thấy vậy thì chỉ đành giậm chân, ra lệnh:
- Lên ngựa! Giết giặc Thát!

Sáu bảy tay cướp hung hãn nghe thấy lão đại mở lời, lập tức ào ào lên ngựa, cũng xông thẳng về phía cửa thôn. Hồng Nương Tử tinh thông thuật cưỡi ngựa, chỉ cần dùng hai chân để điều khiển chúng theo ý muốn một cách dễ dàng, tiến lui thoải mái; đúng là còn thành thạo hơn đám người Mông Cổ cưỡi ngựa suốt tháng quanh năm. Thanh đao thép trong tay nàng bay lên lượn xuống, trong khoảnh khắc liền đã có ba bốn tên giặc Thát bị nàng chém rơi khỏi ngựa. Thôi Oanh Nhi thúc ngựa xông vào trận địa của giặc, chận bốn thớt chiến mã không người đó lại, rồi quay ra đằng sau kêu to:
- Quan binh nào giỏi cưỡi ngựa hãy qua đây mấy người, đoạt ngựa giết giặc Thát!

Bọn quan binh thấy một người con gái mà cũng kiêu dũng như vậy, lập tức nổi lòng háo thắng, liền có bốn tên quan binh khoác cung giắt đao, tranh nhau lên ngựa. Giặc Thát ruổi ngựa xông ào ạt đến, tiếng hò hét biến thành tiếng gầm rống. Chỉ nghe tiếng cung bật liên tiếp, tên rít chói tai, giặc Thát cũng thả tay bắn tên đáp trả, ba mũi lang nha tiễn xé gió bay tới, dễ dàng xuyên qua giáp nhẹ, cắm vào thân người.

Không biết là cung thủ nào có cánh tay khỏe mạnh siêu quần, hẳn là mới vừa sử dụng cung ba thạch, một phát tên ghim chéo dưới xương sườn một viên thị vệ đại nội mới vừa chém chết hai tên giặc Thát, đẩy hắn văng ra khỏi ngựa, kéo bay hơn một trượng mới nặng nề rơi xuống đất.

Dương Lăng thấy vậy giận muốn rách mí mắt, gầm lên:
- Bắn tên! Bắn tên! Áp chế bọn chúng!

Lại một trận mưa tên được trút xuống. Nhân mã của song phương không ngừng ngã khỏi lưng ngựa, những dũng sĩ vừa rồi còn dồi dào sinh khí trong chốc lát đã biến thành một đống bùn nhão dưới vó ngựa. Không biết tự lúc nào, hơn hai mươi phiên tử mang theo hỏa súng lợi dụng sự che chắn của nhà cửa hai bên đường đã bắt đầu nổ súng bắn về phía giặc Thát.

Đoàng đoàng đoàng, một loạt tiếng súng vang lên, khói súng tức thời bao trùm khắp cửa thôn. Kinh hoảng bởi những tiếng nổ inh tai, những con chiến mã mất chủ bỏ chạy tán loạn. Sự dũng mãnh của giặc Thát quá nửa dựa vào sức ngựa, chiến mã vừa bị hoảng loạn lập tức dẫn tới đội hình rối loạn, nhuệ khí cũng vì vậy mà bị sút giảm.

Dương Lăng hồi hộp nhìn chằm chằm về phía cửa thôn. Y phát hiện những thị vệ đại nội nọ võ nghệ tuy cao, nhưng khi chém giết lại không nhanh nhẹn và gọn ghẽ bằng đám cướp chuyên nghiệp. Chỉ cần mấy động tác bổ, chém, đỡ, đập hết sức đơn giản đi kèm với những tiếng gầm thị uy, thanh đao trong tay bọn cướp xoay vần như dải lụa, nội trong ba đao, sau tiếng binh khí va chạm leng keng song phương ắt có một người ngã ngựa.

Mà võ công những thị vệ đại nội này tập luyện đều là tránh, xoay, nhảy, chuyển, kỹ xảo công kích có thực có hư. Nếu như đơn đả độc đấu, trong số mã tặc này ngoại trừ Dương Hổ, Hồng Nương Tử và Hoắc Ngũ Gia ra, hiếm có kẻ nào có thể đấu hơn mười hiệp với bọn thị vệ đại nội, nhưng trên chiến trường giết giặc, cách đánh của bọn sơn tặc lại hung mãnh và hữu hiệu hơn.

Trông thấy vậy Dương Lăng không khỏi máy động trong lòng. "Nếu quân đội chúng ta cũng có thể luyện tập phương pháp bổ, chém đơn giản mà hiệu quả như vậy, vứt bớt những động tác màu mè không thực tế, thì không những việc huấn luyện dễ dàng hơn rất nhiều mà sức chiến đấu hiệu quả cũng sẽ được nâng cao một cách mau chóng.”

Hai trăm viên phiên tử ở hậu đội đã bắt đầu lật đật rút về phía núi Bạch Đăng. Ngũ Hán Siêu vội khuyên:
- Đại nhân, hãy mau rút về núi Bạch Đăng! Ngài mà không đi, đám huynh đệ sẽ không dám rút lui đâu. Đã có người chạy vào thành báo tin rồi, chỉ cần chúng ta lên núi cố thủ chừng nửa ngày là viện quân sẽ tới rồi!

Nếu theo ý riêng của Ngũ Hán Siêu thì chàng hận không thể bắt Dương Lăng cưỡi khoái mã tự chạy về thành một mình. Song đại soái lâm trận lại quay ngựa bỏ chạy trước, bỏ mặc sĩ tốt thì sau này đừng hòng chỉ huy quân đội được nữa, Dương Lăng quyết sẽ không đồng ý. Hơn nữa quân Minh có ít kỵ binh, nếu như giặc Thát nhanh trí sẽ biết ngay y là một nhân vật quan trọng mà giục ngựa đuổi theo thì chí nguy; chi bằng lên núi đợi viện binh còn an toàn hơn một chút.

Dương Lăng gật nhẹ đầu, lên ngựa xong xuôi bèn ra lệnh cho một viên bách hộ:
- Cho bộ tốt lần lượt thoái lui, mau chóng tránh lên núi Bạch Đăng. Kỵ binh chận hậu, cốt phải giữ vững cửa thôn!

Y mới vừa nói đến đây, một cây giáo dài chừng năm thước đã rít gió bay tới, Ngũ Hán Siêu hét lên:
- Đại nhân cẩn thận!
Rồi chàng cố vung thanh kiếm trong tay chận lại. "Keng" một tiếng, kiếm và giáo cạ vào nhau tạo nên một tia lửa dài. Cây giáo bị đổi hướng cắm “phập” vào trong tuyết ngay trước ngựa Dương Lăng, sâu phải hơn một thước, đuôi giáo rung lên "vù vù". Sức lực ấy thực khiếp người.

Tuy Ngũ Hán Siêu dùng xảo kình để giảm lực, nhưng vẫn bị lực va chạm chấn cho hổ khẩu tê rần. Dương Lăng và Ngũ Hán Siêu thấy uy lực ngọn giáo mạnh mẽ như vậy đều sợ đến toát mồ hôi lạnh. Lúc này cây giáo thứ hai lại rít gió lao tới. Lưu Đại Bổng Chùy cười lớn vung cây côn sắt cứng chắc trong tay lên, "cạch" một tiếng, cây giáo nọ đã bị đập gãy làm hai.

Đằng xa, có mấy tên giặc Thát đang bảo vệ một gã cao to vạm vỡ khoác áo da thú lệch vai. Do khoảng cách xa đến mấy chục mét cộng thêm trong không trung vẫn còn khói súng chưa tan nên trông không rõ tướng mạo gã đó, nhưng Dương Lăng cảm giác hắn không phóng giáo bừa. Hắn đã phát hiện ra mình là thủ lĩnh của đội quân Minh này.

Ngũ Hán Siêu sốt ruột giục:
- Đại nhân, đi thôi! Tránh lên núi Bạch Đăng!

Chàng ta và Lưu Đại Bổng Chùy bảo vệ Dương Lăng quay đầu ngựa phóng như bay về phía núi Bạch Đăng. Đằng xa gã thủ lĩnh giặc Thát căn dặn với thủ hạ mấy câu, bọn tùy tùng bên cạnh liền quát hô to mệnh lệnh bằng tiếng Mông Cổ.

Hai đội thiết kỵ bắt đầu mau chóng chỉnh đốn đội ngũ, rồi phi vòng sang hai bên thôn trang; một số tên khác bắt đầu xông vào nhà thôn dân tháo dỡ cửa nhà và bàn trà làm khiên chắn đơn sơ nhắm tấn công quyết liệt vào cửa thôn.

Bốn trăm quan binh bộ binh đeo phác đao chuôi ngắn, chiến đấu trên bộ thì ai nấy đều là cao thủ nhất lưu, nhưng gặp phải nhóm dũng sĩ thúc ngựa xông tới như bão táp thì ắt đại bại không phải nghi ngờ, có thể chạy lên núi Bạch Đăng sớm được khắc nào thì sẽ có thêm cơ hội sống khắc nấy. Thế nên hai dặm đường tuyết mấp mô gập ghềnh đó bọn họ chạy như bị ma đuổi, khi đến dưới chân núi Bạch Sơn thì đã như nỏ mạnh hết đà, người nào người nấy đều thở phì phò như trâu.

Viên bách hộ trưởng đứng trên một tảng đá lớn, mặc dù tim cũng đập như trống làng nhưng hắn vẫn cố quát lớn:
- Lập tức lên núi, phòng thủ mọi nẻo đường! Viện quân sẽ chóng đến thôi. Nhanh lên, mau lên núi!

Đám phiên tử xốc lại tinh thần, trèo xuôi theo sườn dốc phủ tuyết lên núi. Sườn núi phía trước không dốc mấy, kiện mã phi vội cũng leo lên được, Dương Lăng phóng ngựa đến lưng chừng núi thì quay đầu nhìn lại xa xa về phía sau. Trên đồng tuyết trắng ngần, ba trăm kỵ binh đang phóng băng băng đuổi theo; hai cánh là hai đội giặc Thát đã vòng qua thôn trang để truy đuổi, quãng đường của bọn chúng trở nên xa hơn một chút, vốn hai dặm đường đã biến thành ba dặm. Phía trước bọn chúng, ở chính giữa con đường là đám thị vệ đại nội và bọn Dương Hổ đã từ bỏ phòng thủ rút lui, sau lưng là chủ lực giặc Thát đang đuổi sát không tha.

Dọc đường rút chạy Dương Hổ cảm thấy tức giận và khổ sở không thôi: “Thật là xui xẻo cái con bà mẹ nó quá đi. Sớm biết vậy thì đừng tới đây còn hơn, không chừng đã có thể mượn tay đám giặc Thát nhổ cái gai trong mắt này đi rồi.
Giờ thì hay rồi! Các huynh đệ thủ hạ tuy rằng có lúc cũng xuống núi cướp bóc dân chúng, là tử địch với quan binh, nhưng bọn họ lại căm ghét và hận thù giặc Thát hơn, càng có cảm giác bài xích dân tộc theo bản năng hơn. Gặp phải giặc Thát liền bỏ chạy mất dạng, đó là hành vi của Hổ Tử ca ngồi ghế trại chủ lục lâm phương bắc đấy ư? Huống hồ vợ mình đã xông lên, người của sơn trại Thôi gia cũ chắc chắn cũng sẽ không bỏ chạy, một mình mình có muốn trốn chạy cũng không chạy được.”

Nhằm cướp bóc được nhiều, giặc Thát đều tranh thủ vận chuyển lương thảo về trước khi quan binh hay tin kéo đến, vì vậy ngựa của đám giặc tập kích Lý Gia tập này cưỡi đều là giống ngựa tốt. Do đó bọn chúng đuổi càng lúc càng sát đám người Dương Hổ, chỉ còn trong chốc lát nữa là bắt kịp.

Hai mươi viên thị vệ chỉ còn lại mười hai mười ba người, mã tặc Bá Châu cũng chết mất hai, giặc Thát dần đuổi tới, giáp công hai mặt. Đám người Dương Hổ và Hồng Nương Tử vung những cây đao dính máu chém trái bổ phải, vừa chạy vừa đánh.

Hồng Nương Tử đã đánh giết đến sôi máu, thanh mã đao trong tay hoá thành từng vòng sáng lạnh lẽo, chân thúc ngựa, đao phong rít xoay bốn bề, đánh mở một con đường máu. Qua khoé mắt nàng liếc thấy ở hai bên đường giặc Thát đang hò hét đánh thốc tới, lúc này mà rời khỏi quân Minh bỏ chạy vào đồng hoang sẽ chỉ rơi vào vòng vây trùng trùng của giặc rồi kiệt sức mà chết. Không còn sự chọn lựa nào khác, bọn họ đành phải cùng chạy lên núi Bạch Đăng.

Giặc Thát đuổi tới càng lúc càng đông. Một tên vượt lên trước mặt bọn họ, ghìm mạnh cương ngựa rồi xoay người, "vù" một tiếng, một đường sáng lạnh lẽo lướt qua không trung, trường đao bổ nhanh từ trên cao xuống như chớp giật, chém thật mạnh xuống đầu Hồng Nương Tử.

Thôi Oanh Nhi cả kinh. Ngựa đang phi rất nhanh, không kịp ghìm cương dừng lại, hơn nữa sau lưng vó ngựa như sấm, truy binh đuổi theo rất đông. Nàng liền giật cương, thúc ngựa trượt sang bên hai bước, cùng trong nháy mắt, thanh đơn đao trong tay được lật lên, quét ngang một nhát. Lưỡi đao bén ngót nương theo thân người, cắt bung chiếc áo da trước bụng gã Thát Đát vừa chém hụt một đao nọ, mũi đao nhọn hoắt đâm thủng bụng gã.

Hai ngựa lướt qua cạnh nhau trong nháy mắt, Thôi Oanh Nhi nhân mã hợp nhất, quất mạnh mặt đao vào đùi ngựa. Gã đó lảo đảo ngã từ trên ngựa xuống, đầu vừa tiếp đất, lập tức bị vó một thớt chiến mã đang phi tới không tránh kịp đạp lún vào trong tuyết, đã hoàn toàn không còn phản ứng gì.

Hồng Nương Tử giật ngựa tránh đao sang bên nên hơi thoáng khựng lại, sau lưng liền có hai thớt ngựa đuổi tới, hai ánh đao sắc lẹm và lạnh lẽo cũng bổ tới như hình với bóng. Hơn hai mươi thớt kiện mã này đang chạy một mạch về phía núi Bạch Đăng, khoảng cách giữa hai người vào tầm hai thân ngựa, cho dù là Dương Hổ và Hoắc Ngũ Thúc ở gần nhất cũng không kịp cứu viện.

Hoắc lão ngũ la lên:
- Oanh Nhi cẩn thận, phía sau!

Thôi Oanh Nhi chợt sử một chiêu “Đăng Lý Tàng Thân” linh hoạt trượt xuống bụng ngựa, hai đao nọ chém vào không khí, ba ngựa đã dàng ngang một hàng. Như một con cá, nàng dán sát thân hình vào thân ngựa, luồn xuống bụng ngựa đang phi nước đại rồi nhô lên từ phía bên kia, ngồi trở lại lên lưng ngựa đồng thời nhổm hơn nửa người ra khỏi lưng ngựa, đâm một đao vào sườn tên giặc Thát nọ.

Đến núi Bạch Đăng rồi!

Dương Lăng canh đúng thời cơ, quát hạ lệnh:
- Bắn tên!

Một loạt tên bắn cấp tập bay qua khỏi đầu đám thị vệ và Dương Hổ ở đằng trước, nhằm vào đám giặc đang Thát đuổi theo phía sau. Đám người Dương Hổ nhân cơ hội liền tăng tốc lên núi, mấy tên giặc Thát theo sau không dám đơn độc rượt theo bèn lập tức giảm tốc độ lại, trơ mắt nhìn bọn họ chạy thoát lên núi.

Xông được lên núi, đám người Dương Hổ ghì cương ngựa thở hổn hển, ngước đầu trông thấy Dương Lăng, vẻ mặt hai bên đều có phần quái dị. Mới vừa nãy còn là đối thủ sống chết với nhau, nay lại phải cùng chung kẻ địch, cùng chống giặc ngoài. Thế nhưng sánh vai tác chiến cùng mình lại là kẻ thù mà không phải là bằng hữu, tâm tình ấy thực khó mà diễn tả nên lời.

Dương Hổ và Dương Lăng bốn mắt nhìn nhau, tâm tình phức tạp vô cùng. Dương Hổ không nói gì, chỉ dẫn người phe mình lặng lẽ đi đến đứng sau lưng những cung tiễn thủ đang căng thẳng trụ vững vàng ở sơn khẩu rồi vẫn ngồi trên ngựa nhắm mắt lại điều hòa hô hấp, một hồi lâu sau mới thở ra một hơi thật dài.

Hồng Nương Tử nhìn Dương Hổ rồi lại ngó sang Dương Lăng, bất giác lộ một nụ cười khó xử nơi khoé môi.

Dương Lăng căng thẳng chăm chú quan sát dưới núi. Nhân mã quân Thát đã tập hợp lại, đứng ngay chính giữa, được vây quanh như muôn vàn tinh tú chầu trăng là gã trung niên tráng kiện khoác áo da thú lệch vai nọ. Tuy rằng bọn chúng trèo đèo lội suối đóng vai kẻ cướp, song đằng sau lại có một lá cờ giương cao.

Thông qua những tin tức tình báo mà Hàn Lâm đưa đến, Dương Lăng sớm đã thấu hiểu nhiều điều về thực lực của các nhóm bộ lạc Thát Đát và mối quan hệ giữa bọn họ. Trên lá cờ này tuy không có chữ, chỉ vẽ một biểu trưng, song y vẫn có thể nhìn ra một ít mấu chốt. Bá Nhan Khả Hãn là hậu duệ trực hệ gia tộc cao quí của Thành Cát Tư Hãn, cờ hắn lấy sói làm biểu trưng, mà lá cờ này lại vẽ một con phi ưng đỏ rực như lửa. Với sự hiểu biết của y, đây hẳn là tướng sĩ thuộc nhóm bộ lạc Hỏa Sư.

Dương Lăng không khỏi hơi biến sắc. "Đây là bộ đội tinh nhuệ nhất của Thát Đát, không phải là bộ lạc nhỏ lén đột nhập vào biên quan cướp bóc. Nếu như bọn chúng cướp xong tài vật lập tức trở về thì thôi, còn nếu tướng lĩnh đội quân này không ngốc mà lập tức hạ lệnh tấn công lên núi, binh sĩ phe mình mỗi người chỉ mang theo một ống tên thì sẽ có thể chống đỡ được bao lâu?"

Y ngoái đầu đưa mắt nhìn về phương xa, tuyết trăng mênh mông, viện binh vẫn chưa thấy bóng dáng gì. Trái tim Dương Lăng trĩu nặng, sắc mặt trở nên nghiêm trọng.

Tướng lĩnh Thát Đát dưới núi là bộ hạ của Hỏa Sư, tên Tác Lạp Địa. Một sĩ tốt vừa trình lên cho hắn một mớ cung nỏ và hỏa súng ngắn không mấy hữu dụng trên chiến trường do bọn chúng vừa thu được trong tay những quân Minh tử trận. Tác Lạp Địa nhìn những cung nỏ được chế tạo tinh xảo hơn cung nỏ biên quân hay dùng rất nhiều này, rồi lại cầm hỏa súng ngắn hiếm thấy lên ngắm nghía một lúc, khoé miệng lộ ra một nụ cười đắc ý.

Hắn ngửa mặt lên trời cười lớn:
- Ông trời phù hộ Thổ Mặc Đặc(1) Mông rồi! Đội quân Minh này tuyệt không phải là biên quân thông thường, thủ lĩnh bọn chúng nhất định là một nhân vật quan trọng của địch. Bá Nhan Đại Hãn hiện tại đang rất bất mãn với Quách Lặc Tân kỳ(*), các bộ lạc đều hoài nghi dũng khí của kỳ chủ chúng ta, nếu như chúng ta có thể giết chết đại nhân vật này của quân Minh, uy danh của Hỏa Sư sẽ lần nữa chấn động thảo nguyên đại mạc.
(*: như huyện, tỉnh)

Tác Lạp Địa giơ bội đao lên cao, hô lớn:
- Hỡi các dũng sĩ! Trên núi có một thủ lĩnh quan trọng của quân Minh, giết được hắn sẽ vinh quang hơn cướp hằng nghìn hằng vạn dê bò. Viện quân của chúng sẽ mau chóng kéo đến. Vì sự vẻ vang và sinh tồn của bộ lạc, chúng ta hãy xông lên giết chết bọn chúng!

Tiếng hét hò như sấm, giặc Thát reo hò ầm ỹ, đại đội nhân mã dưới mệnh lệnh của Tác Lạp Địa bắt đầu liều mạng xông lên núi. Tên trút như mưa, giặc Thát cũng không ngừng bắn tên đáp trả, nhất thời trời rợp mưa tên, không ngừng có người kêu la thảm thiết rồi ngã xuống. Hai viên bách hộ quân Minh căng thẳng thúc giục sĩ tốt áp chế đợt tấn công của giặc Thát.

Nhưng chỉ có mưa tên dày đặc mới có thể ngăn cản sức tiến công của bọn chúng, mà tên trong ống dùng một mũi thì ít đi một mũi. Khi từng thi thể ngã xuống trên sườn núi, thì túi tên của quân Minh cũng đã đồng thời trống rỗng. Hai viên bách hộ quyết đoán thật nhanh, lập tức thưa với Dương Lăng:
- Đại nhân! Ty chức xin dẫn binh ngăn trở bọn chúng, ngài hãy mau xuống núi từ phía khác, tin rằng viện binh cũng sắp đến thôi.

Dứt lời hai viên bách hộ liền bạt đao khỏi vỏ, quát lớn:
- Các huynh đệ, hãy xông xuống núi! Sườn núi không lợi cho chiến đấu trên ngựa, đừng để bọn chúng tấn công lên đỉnh núi!
Vừa nói vừa chạy dẫn đầu xuống phía sườn núi.

Trên trời, một con chim ưng đầu trọc đang lượn quanh kêu lên một tiếng thê lương, trận chiến giáp lá cà đã bắt đầu...

Mục tiêu của giặc Thát là Dương Lăng. Theo phán đoán của Tác Lạp Địa, vị tướng lĩnh trẻ tuổi mà đội quân mấy trăm quan binh được trang bị vũ khí tinh xảo đang ra sức bảo vệ này nhất định là một nhân vật rất quan trọng của quân Minh, nói không chừng chính là hoàng đế nhà Minh mà Kỳ chủ từng nói tới. Nếu đúng là hắn, thì cho dù mình có cùng toàn quân bỏ mạng nơi đây mà kéo được hắn chôn cùng thì nào có hề gì?

Nhiệt huyết sôi trào, Tác Lạp Địa tổ chức một đội cảm tử trăm người, bất chấp thương vong xông qua sự ngăn trở của quân Minh, đánh thẳng về phía Dương Lăng. Bọn thị vệ đại nội cũng bạt đao xông lên trước, chiến trường lan rộng, đám người Dương Hổ cũng không thể không tham gia kiên trì chống đỡ.

Thanh bảo kiếm Ngũ Hán Siêu quen dùng đã gãy, chàng ta nhặt lấy một chiếc phác đao bảo hộ Dương Lăng vừa đánh vừa lui. Đỉnh núi lồi lõm gồ ghề, đất vàng đồi núi trộn lẫn với nham thạch bị bào mòn tạo thành nhiều hố nông lẫn hang động, khiến bọn họ không thể cưỡi ngựa, chỉ có thể rút lui từng bước một.

Càng lúc càng có nhiều thành viên đội cảm tử của giặc Thát để ý tới vai trò đặc thù của Dương Lăng nên lũ lượt kéo sang. Giặc Thát có trên nghìn người, lúc tấn công lên núi bị chết mất hơn hai trăm, nay còn khoảng tám trăm tinh binh. Quân Minh trên núi cộng lại không quá bốn trăm người, dù nhờ vào địa lợi, song vẫn bị mưa tên của đối phương bắn cho tử thương hơn trăm người. Mặc dù ai nấy đều ra sức liều mạng, song hoàn toàn không thể ngăn bọn chúng đến gần Dương Lăng được.

Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy cũng bắt đầu đại chiến với giặc Thát. Ngũ Hán Siêu sốt ruột đến toát mồ hôi trán, một đao quét ngang đón đỡ binh khí của mấy tên giặc Thát, quay đầu gầm lên:
- Đại nhân, mau rút đi! Lên ngựa mà chạy! Thuộc hạ không chiếu cố tới nổi đâu.

Đoạn chàng phi thân qua, một tay chộp Dương Lăng, tay kia cầm đao, mắt đỏ ngầu, tính cắp y xông ra khỏi vòng vây.

Có điều chàng mới vừa búng người mấy bước, mấy tên dũng sĩ Thát Đát can đảm không sợ chết đã nhào tới cản đường. Cầm cây phác đao nặng trịch bằng một tay, uy lực giảm mạnh, Ngũ Hán Siêu đành buông Dương Lăng ra, gầm lên một tiếng, hai tay cầm chắc thanh đao đánh văng mấy tên giặc Thát ra xa.

Nhác thấy chiến sự không ổn, Dương Hổ vừa chiến đấu cùng giặc Thát vừa tiến đến gần Thôi Oanh Nhi nói nhỏ:
- Tình hình không ổn. Giặc Thát đang nhắm vào tên họ Dương, chúng ta đi thôi. Mau! Nếu chậm trễ thì bất kể quan binh đắc thế hay giặc Thát thủ thắng cũng đều không phải là kết quả tốt cho chúng ta đâu.

Thôi Oanh Nhi hừ nhạt một tiếng đáp:
- Chạy đi đâu chứ? Trên đỉnh núi không cưỡi ngựa được, vừa đánh vừa lui thôi. Dương Lăng đang ở đây, quân thủ vệ Đại Đồng tất sẽ liều chết chạy lại.

Một chiêu chánh thủ đao(*) đỡ lấy cây thác thiên xoa của tên giặc Thát, nàng lại thuận thế bước lên, sử một chiêu phản thủ đao(**) chặt đứt tay gã, tung cước đá văng gã đi, đoạn quay đầu lại liếc Dương Hổ nói vội:
- Dương Lăng là khâm sai, đại diện cho Hoàng đế, đại diện cho triều đình. Hôm nay đứng trước mặt mấy trăm quan binh y đã mở miệng nói bất kể là quan hay cướp chỉ giết giặc Thát thôi thì quyết sẽ không nuốt lời. Quan binh đến thì sợ gì chứ?
(* và **: kiểu cầm vũ khí xuôi và ngược. Chánh thủ đao là cầm xuôi, mũi đao/kiếm chĩa về phía trước, thiện công; phản thủ đao là cầm ngược, mũi đao/kiếm chĩa ra sau, thiện thủ)

Dương Hổ thầm tức giận trong lòng, nhưng lúc này thật sự không phải là lúc để cãi cọ với thê tử, đành phát tiết lửa giận lên người bọn giặc Thát, khiến đao pháp càng trở nên mạnh mẽ. Trong mỗi tiếng gầm quát của hắn lại thấy đầu óc bay, chân tay cụt, thế như chẻ tre.

Thấy trượng phu mình oai phong như vậy, Thôi Oanh Nhi cũng không khỏi vui mừng mỉm cười. Nàng thoáng quay đầu trông thấy bọn Dương Lăng đang bị vây bởi hơn chục tên giặc Thát, Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy thế như cọp điên, đỡ trái hở phải, liều mình chống đỡ. Bọn thị vệ chung quanh muốn sáp lại gần nhưng bọn chúng đều đang chém giết sinh tử cùng giặc Thát, sợ rằng vừa xoay người liền sẽ bị đao bén kề cổ, chỉ nóng lòng lo lắng mà lại không thể giúp gì.

Nàng vội quát một tiếng, phi thân phóng đến, nhún người mấy cái liền đã đáp xuống cạnh Dương Lăng, vừa kéo tay y vừa gắt:
- Là một đại nam nhân mà thực là vô dụng. Theo ta đi!

Nàng túm chặt lấy Dương Lăng, xoay người chạy về phía sau. Mặt đất trên đỉnh núi nhấp nhô cao thấp, khắp nơi tuyết trắng chất dày, với địa thế như vậy, nàng căn bản không thể mang Dương Lăng phi thân, chỉ có thể lôi y chạy như điên mà thôi.

Thôi Oanh Nhi vừa vung đao đỡ đòn mấy tên giặc Thát vừa kéo y chạy nhanh hơn. Vừa vượt lên mấy bước, nàng chợt cảm thấy đống tuyết dưới chân hơi bị hẫng, thầm kêu không hay. Nàng vừa định vặn người mượn lực hông để khỏi ngã thì Dương Lăng đang bị tay nàng kéo không kịp dừng lại đã va vào người khiến nàng bị trượt chân, cả người ngã vào trong hố tuyết. Tay phải nàng đang nắm chặt Dương Lăng không kịp buông ra khiến y cũng bị lôi ngã theo nàng xuống dưới.

Chỗ này thực chất là một cái hố sâu; do tuyết rơi nhiều, mà lại nhớp dính, nên mặc dù phía dưới trống trơn, tuyết đọng bên trên vẫn dần lấp miệng hố lại, khiến người ta không thấy có chút dị trạng nào. Những lúc tuyết lớn rơi đầy trời, những giếng nước dưới lòng đất trên vùng bình nguyên cũng sẽ xuất hiện loại hiện tượng này, dân bản xứ gọi nó là "quỷ phong tỉnh" (giếng ma lấp - ND). Người đi đường không nắm rõ địa hình, khi đi đường tắt ngang qua đạp phải sẽ ngã vào mà chết đuối.

Hồng Nương Tử vốn có thể dừng lại, nhưng bị Dương Lăng va đụng nên ngã xuống, vù cái đã rơi xuống hơn hai trượng. Nàng cũng mặc không thể tóm lấy Dương Lăng nữa, trong lúc khẩn cấp vội vứt đao mà cố bám víu vào chung quanh. Vách đá nham thạch bị nước mưa xói mòn nên nàng không thể bám chắc, thân hình chỉ hơi dừng lại một chút rồi lại tiếp tục rơi xuống ngay.

Cứ như vậy, rơi rơi dừng dừng, rơi xuống phải đến sáu bảy trượng sâu, rốt cuộc nàng cũng bấu được vào một khối nham thạch nhô ra. Hồng Nương Tử vừa thở phào một hơi thì Dương Lăng cũng đã rơi tới. Vừa đụng vào người nàng, Dương Lăng không hề suy nghĩ gì liền theo bản năng ôm chặt lại, thân thể trượt từ từ xuống người Hồng Nương Tử, hai tay y liền ôm chặt lấy đùi nàng.

Thân thể Hồng Nương Tử thoáng trĩu xuống, suýt nữa tuột tay, may mà lực tay nàng khoẻ, liền vội cố sức bấu lấy mỏm nham thạch. Trong cái bóng tối như bưng lúc này nàng mới giật mình phát hiện Dương Lăng đang ôm chặt lấy hai đùi, đầu ép vào mông mình, liền vừa giận vừa ngượng vội quát bảo:
- Vô lại! Buông ta ra!

Dương Lăng sợ đến độ tim đập thình thịch, cảm thấy Thôi Oanh Nhi đang vùng vẫy hai chân, y liền vội kêu lên:
- Không buông được! Không buông được! Buông ra ta sẽ ngã chết đó!

Mặc dù đang ngượng gần chết nhưng Thôi Oanh Nhi vẫn cảm thấy mắc cười không thôi. Nàng tức giận:
- Ai thèm quan tâm ngươi chết hay không? Còn không buông tay ta sẽ đạp ngươi xuống đó. Như... như vậy còn thành ra thể thống gì?

Tuy mặc áo bông rất dày, nàng vẫn rất nhạy cảm nhận biết được bộ ngực áp phía sau hai đùi mình đang đập như đánh trống. “Xem ra bỗng nhiên bị ngã thực đã khiến vị đại nhân này sợ lắm đây, mà không phải là y có ý vô lễ". Nghĩ vậy nàng bèn mềm lòng, ngữ khí dịu lại:
- Ngươi bám vào vách đá ấy, đừng ôm ta!

Dương Lăng sợ chọc giận nàng ta, bèn định thần lại một chút, rồi một tay bấu chặt cặp đùi chắc nịch thẳng tắp của Hồng Nương Tử, một tay sờ soạng chung quanh. Trái phải và trước sau đều trống trơn, chút ánh sáng le lói trên miệng hố không đủ để soi nhìn, cũng không biết cái hang này rộng bao nhiêu. Chỗ Hồng Nương Tử bắt trúng là khối nham thạch nhô ra, vách tường nham thạch phía đối diện lại hơi lõm vào một chút. Y quào thử lại bốc phải một nắm bùn, bùn đất rơi xuống dưới hố rào rào, sợ quá lật đật rụt tay về.

Do bận bịu tìm chỗ bám, y cảm thấy tay còn lại sắp không còn đủ sức ôm Hồng Nương Tử nữa, liền vội rụt tay về ôm tiếp, uể oải bảo:
- Chung quanh không thấy thứ gì có thể nắm lấy. Cô đừng cử động, để tôi trèo lên trên rồi cùng bám lấy mỏm đá là được.

Hồng Nương Tử sững người. Nàng cảm thấy Dương Lăng quấn chặt lấy cơ thể đang treo lơ lửng của mình, hai tay cài vào nhau lần lên đến hông, người thoáng dịch lên trên, hai đùi tức thì kẹp chặt lấy chân mình, tiếp đến lại tới hai tay xích lên, cứ thế xen kẽ, vậy mà đã sắp ôm lên tới ngực mình. Hồng Nương Tử hốt hoảng gào lên:
- Ngươi làm cái gì vậy?

Lúc này hai tay Dương Lăng đã lủi tới giữa ngực và bụng nàng, nghe nàng quát, hai tay y lại trượt xuống, ôm chặt lấy eo cô nàng. Từ nhỏ đến giờ ngoại trừ trượng phu ra, nàng có bao giờ từng bị người khác thân cận đến thế đâu? Thế là nàng lập tức ngượng đỏ chín mặt mày, vừa giận vừa xấu hổ mắng y:
- Vô lại, mau dừng tay!

Dương Lăng vội ngừng mọi "hoạt động" lại. Một lúc sau, y mới ngượng ngập nói:
- Sự cấp tòng quyền, tôi... dù sao thì cứ ôm như vậy cũng không phải là cách hay.

Thôi Oanh Nhi ngượng đến quẫn trí, mắng:
- Tòng quyền cái rắm á! Thực là đồ vô dụng, Đại Minh hết thời rồi mới đẻ ra cái thứ tướng quân bất tài như ngươi!

Dương Lăng thật sự sợ chọc cho nàng ta giận mà đạp mình xuống dưới hang sâu, đành thiểu não đáp:
- Vậy... vậy tôi không động đậy gì như vầy thì chắc được chứ?

Hai người đều mặc quần áo dầy cộm, da thịt không có mấy cảm giác, nhưng ôm chặt như vậy lại khiến trong lòng Hồng Nương Tử rất khó chịu. Hiện nay hai tay nàng đang bám lấy mỏm đá, Dương Lăng thì ôm chặt eo nàng, cho dù nàng thực có bản lĩnh thông thiên đi nữa thì chuyện đạp y xuống cũng đâu phải dễ dàng gì! Nhưng nếu cứ để y ôm lấy nàng như vậy thì thực không ra thể thống gì cả! Hồng Nương Tử không còn cách nào khác đành bảo:
- Ngươi đừng cử động, để ta kéo ngươi lên!

Nói đoạn nàng hít một hơi dài, bắt đầu lần mò dò một chỗ lõm hơn để bám chặt vào khối đá. Tiếp đó nàng vươn một cánh tay ra sau lưng tóm lấy áo Dương Lăng, dặn dò:
- Buông tay để ta kéo ngươi lên! Ngươi nhích sang bên này sẽ có thể bám được vào mỏm đá.

Buông tay ra, chỉ dựa vào một tay nàng ta túm áo mình? Tim Dương Lăng lại bắt đầu đập thình thịch. Nhưng bảo y cứ ôm người ta một cách vô sỉ như vậy, y lại không thể làm được (TJ: em làm được! :013:). Hết cách, Dương Lăng đành phải nắm lấy vạt áo nàng, quấn chặt trong tay rồi mới thả lỏng hai chân.

Hồng Nương Tử nín thở, vận sức kéo người y lên. Vừa kéo lên được nửa thước nàng liền phát hiện hai tay y đang nắm chặt vạt áo của mình, không khỏi dở khóc dở cười quay đầu lại bảo:
- Ta sẽ không ném ngươi xuống đâu, còn không b...

Lúc này nàng đã kéo Dương Lăng lên đến ngang tầm với mình, do sợ hơi thở nặng nề của mình sẽ phà vào mặt người ta nên Dương Lăng cũng đã nín thở lại. Hang tối như bưng, không nhìn thấy gì, Thôi Oanh Nhi không hề phát hiện mặt y gần kề đầu mình. Lúc này vừa quay đầu môi nàng đã vừa khéo lướt nhẹ lên má phải Dương Lăng, chạm nhẹ vào môi y.

Dương Lăng chỉ cảm thấy một vật gì mềm mại và ấm áp thoáng chạm vào môi mình rồi tách ra, trong nháy mắt liền sững người, liền biết ngay môi nàng vừa vô ý lướt qua, đây nào phải chuyện đùa! Nín thở hồi lâu nên y cũng không thể nín được nữa, hơi thở nặng nề không kiềm được mà phà lên má, lên cổ Hồng Nương Tử.

Bên ngoài tiếng chém giết đã bớt dần, cũng có thể... chỉ là ảo giác.

Trong hang yên tĩnh đến đáng sợ, trong bóng tối Dương Lăng cũng không nhìn thấy được Hồng Nương Tử đang có vẻ mặt gì. Y chỉ sợ Thôi Oanh Nhi thẹn quá hoá giận sẽ giết mình diệt khẩu, hai tay càng bám áo nàng đến chặt. Qua một lúc sau, y mới nghe tiếng Thôi Oanh Nhi lúc này đã quay đầu đi nói:
- Buông tay! Bây giờ ngươi vịn hai tay lên là sẽ có thể sờ được một khối đá rồi.

Âm thanh của nàng vẫn rất bình tĩnh, chỉ đến mấy chữ cuối cùng mới thấy hơi run run.

Dương Lăng cũng không dám nói gì khác, hai người rất ăn ý, nín thinh không nhắc đến sự đụng chạm vô ý khi nãy. Y cố lấy can đảm buông tay, lần mò lên trên từ từ, đầu tiên sờ phải một mu bàn tay mềm mại, liền vội dịch sang bên một chút, thử một lúc rồi mới bám chặt lấy mỏm đá đó, đoạn thở dài nói:
- Tốt rồi! Nhưng mà... sức lực tôi có hạn, sợ sẽ không cầm cự được lâu. Bên ngoài... cũng không biết thắng bại thế nào rồi.

Thôi Oanh Nhi đáp khẽ:
- Khi nào ngươi hết sức thì ta sẽ đỡ ngươi lên. Thắng bại bên ngoài... chỉ đành phó thác cho trời thôi.

- Ôi! - Dương Lăng thở dài, lo lắng ngước đầu nhìn lên - Nếu viện quân còn chưa đến, người của tôi sẽ toàn quân chết sạch thôi! Giặc Thát chỉ cần ném thêm vài tảng đá xuống, hai ta liền sẽ bỏ mạng ở...

Y vừa nói đến đây, khoé mắt chợt như thấy có vật gì rơi xuống, tiếp đó mũi chợt đau nhói, nước mắt lập tức tràn ra. Một hòn đá cỡ nắm tay từ trên rơi xuống đã đập trúng mũi y.

Dương Lăng không kịp trở tay, theo phản xạ đưa một tay xuống thoa mũi, cánh tay kia bám vào chốn ẩm ướt trơn trợt, khớp đốt ngón tay lại bị tê cóng nên không trụ được, cả người y vụt cái liền rơi xuống.

- Cái đ...!
Tiếng chửi còn chưa kịp thốt ra khỏi miệng, Dương Lăng chợt thấy miệng hang tối sầm, một giọng nói vùng Lai Dương xen lẫn tiếng khóc rưng rức đang gào thét bên trên:
- Đại soái! Bà mẹ nó sao ngài lại ngã chết thế này!






Chú thích:

(1) một trong hai kỳ (tương đương huyện) thuộc lãnh thổ đặc khu Tuy Viễn thuộc Nội Mông xưa, phiên âm từ Tumed.




Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180&page=218
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
13-08-2012, 06:07 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 197 Thằng Ngang Sợ Thằng Càn


Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Dương Lăng quay đầu lại nhìn thấy Hồng Nương Tử Thôi Oanh Nhi đang nắm dây thừng bằng một tay đã được Dương Hổ kéo lên, toàn thân vẫn trong trang phục đàn ông, nhưng tóc tai tán loạn, hai má ửng hồng. Cặp mắt trong vắt xinh đẹp vừa ló khỏi hang vừa khéo chạm ánh mắt của y, bèn vội dời ánh mắt đi, nhún người nhảy lên miệng hang. Cử chỉ như thẹn như sợ, không ngờ lại rất có phong vị phụ nữ.







Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 197 Thằng Ngang Sợ Thằng Càn






-------------------

Nếu Kinh Kha thật sự hành thích vua Tần thành công, thì những kẻ kế thừa đớn hèn như Phù Tô(1) hay ngu đần như Hồ Hợi(2) liệu sẽ có thể thống nhất sáu nước? Nếu thời Hán Sở tranh hùng mũi tên bắn trúng ngực Lưu Bang đó nhích lên thêm ba tấc nữa, thì lịch sử sẽ phát triển như thế nào?

Nếu lúc Lý Thế Dân chinh phạt Vương Thế Sung không nhờ Uất Trì Kính Đức một mình một ngựa cứu chúa, thì lịch sử sẽ có cục diện ra sao? Nếu Triệu Tử Long chưa từng cứu sống A Đẩu ở đồi Trường Bản... Nếu ... chỉ có thể là nếu...

Lưu Đại Bổng Chùy hoàn toàn không hề hay biết lúc mình tranh chạy đến miệng hang khóc gào đã khiến cho một hòn đá nhỏ do hai tay gã vô tình chạm phải rơi xuống cũng suýt chút nữa đã làm thay đổi tất cả từ đây, song đôi chân khoẻ khoắn của Thôi Oanh Nhi trong nháy mắt đã kịp sửa chữa lại.

Lúc Dương Lăng trượt xuống, y đã quơ trúng nhưng không kịp giữ chặt lấy áo nàng. Nhưng ngay khi giật mình phát hiện, trong nháy mắt Thôi Oanh Nhi đã đưa hai chân ra kẹp chặt y lại.

Thân thể đang trượt xuống của Dương Lăng vì vậy mà giảm tốc, y liền vội lại ôm chặt lấy chân nàng. Hai bắp đùi của Thôi Oanh Nhi cực kỳ mềm dẻo và rất khoẻ, nàng cũng không ước lượng được y đã trượt xuống tới đâu, chỉ biết mình đã kẹp được người y, liền vội dồn thêm sức vào hai chân, hỏi vội:
- Ngươi làm sao rồi?

Dương Lăng thở gấp mấy hơi, màng nhĩ lùng bùng, khàn khàn đáp lại:
- Tôi bám được vào cô rồi, nhẹ... nhẹ chút, đùi cô kẹp cổ tôi... chặt quá, thở... thở không... nổi...

Hồng Nương Tử thoáng đỏ mặt, may mà hang tối như bưng mà cũng chẳng còn ai để nhìn thấy. Nàng hơi buông lỏng hai chân, Dương Lăng thừa dịp níu chặt lấy áo nàng rồi vội vã bò lên thêm chút, hai tay ôm chặt lấy vai nàng. Lần này y đã luồn vào phía trong Thôi Oanh Nhi, mặt đối mặt với nàng, tư thế rất là mờ ám.

Dương Lăng thở hổn hển nói:
- Đa tạ... đa tạ cô cứu mạng.

Mặt nóng bừng bừng, Hồng Nương Tử quay đầu đi, giọng căng thẳng:
- Không cần cảm ơn ta! Nếu như ngươi cứ như vậy mà chết đi thì cho dù giặc Thát có rút lui, mấy người chúng ta cũng đừng hòng sống sót rời khỏi nơi này. Chỉ mong đại nhân lời nói đáng giá nghìn vàng, chịu giữ lấy lời hứa là được.

Dương Lăng từng thấy Hồng Nương Tử trong trang phục phụ nữ, biết nàng hào sảng oai hùng, mặt xinh dáng đẹp, nhưng nàng không những là nữ tặc mà còn là vợ người ta, mình và nàng ta ôm nhau như vậy quả thực chẳng ra thể thống gì. Y nghe vậy bèn vội đáp:
- Cô yên tâm! Tôi là khâm sai triều đình, lời nói đại biểu cho đương kim Hoàng thượng và triều đình, sẽ không bao giờ thất tín.

Mặc dù âm thanh từ dưới hang truyền ra bên ngoài rất nhỏ, nhưng ở trên miệng hang Lưu Đại Bổng Chùy vẫn lờ mờ nghe thấy có chút động tĩnh, gã bèn vội chổng mông thò đầu vào trong hang nhòm nhòm, song chỉ thấy một mảng tối om, chả thấy gì khác. Lưu Đại Bổng Chùy bất giác có phần hoảng sợ.

Hắn ngẩng đầu nhìn chung quanh thấy toàn là binh sĩ cầm đao cầm kiếm, Ngũ Hán Siêu mặt mướt mồ hôi song vẫn mở to hai mắt đứng một bên, tư thế giống như muốn đá hắn một cú bắn xuống hố vậy. Lá gan Lưu Đại Bổng Chùy bất giác hơi to lên, hắn lấy hết sức gọi xuống dưới:
- Đại soái! Ngài còn sống hay là chết rồi? Ngài hãy kêu lên một tiếng đi!

Hai người Dương Lăng ở dưới hang nói chuyện nhỏ nhẹ còn không sao, hắn quỳ ở bên trên căng họng kêu lớn như vậy, âm thanh vang vọng tràn xuống ào ào như một hồi sấm sét, chấn động khiến cho bụi đất bám chung quanh vách hang rơi lả tả. Dương Lăng và Hồng Nương Tử vội nhắm nghiền hai mắt, cúi đầu dựa sát vào nhau để tránh. Đợi cho bụi bặm bớt rơi, Dương Lăng mới vội ngẩng đầu hét vọng lên:
- Con bà nó, đừng có hét nữa! Suýt chút nữa ta bị ngươi hét chết rồi, mau kéo ta lên đi!

Hét xong y lại vội nhắm nghiền mắt và cúi đầu, quả nhiên lại một đống bụi đất nữa rơi xuống. Ở bên trên Lưu Đại Bổng Chùy nghe rõ mồn một, thế là hắn bèn nằm bệt ra trước miệng hang, há miệng cười ha hả như một con ếch đang đớp lấy không khí, đồng thời nhìn ngang liếc dọc reo lên:
- Đại soái còn sống, ha ha ha! Ta đã nghe được rồi, đại soái vẫn còn sống, ta nghe thấy đại soái mắng ta rồi!

Nghe vậy Ngũ Hán Siêu mới khôi phục thần hồn, vội ra lệnh:
- Mau lên! Mau kiếm dây thừng cứu đại nhân lên!

Đám phiên tử đang mất hồn mất vía liền như gà mắc tóc, tên nào tên nấy hết nhìn đông rồi lại nhìn tây, nhìn cả buổi song lại không thấy có cái gì có thể dùng để cứu đại soái. Bởi vợ mình cũng bị rơi xuống hố, sống chết không rõ, nên Dương Hổ thực nóng lòng không thua gì bọn Ngũ Hán Siêu, trông thấy vậy thì không khỏi phát bực. Hắn sải bước vụt sang, chụp lấy sợi dây thừng quấn móc câu của một viên phiên tử giắt bên hông xuống, giật mấy cái thử độ dai rồi liền quát:
- Ai còn móc câu thừng chão lấy ra buộc vào nhau, nhanh chút đi!

Mấy viên phiên tử khi nãy dùng móc câu kéo sập chòi trong Lý Gia tập lật đật bước qua, lấy bốn sợi thừng móc câu tết lại thành một sợi dây dài khoảng tám chín trượng. Dương Hổ ngồi xổm trước miệng hang, vừa chầm chậm thả dây thừng xuống vừa lấy hơi gọi lớn:
- Nương tử! Nàng vẫn ổn chứ?

Hắn vốn biết bản lĩnh thê tử tài giỏi hơn mình, nếu cái tên Dương Lăng vô dụng đó mà còn sống thì thê tử nhất định sẽ không đến nỗi xảy ra chuyện gì. Quả nhiên dưới hang vọng lên tiếng Hồng Nương Tử:
- Trên đó thả dây xuống, dưới này sẽ không trông thấy rõ đâu. Hãy hơi đong đưa qua lại một chút!

Dương Hổ mừng rơn, liền vội vừa thả dây thừng xuống vừa đong đưa nhè nhẹ qua lại, móc câu buộc ở đầu dây thừng chạm vào vách đá dưới hang phát ra những âm thanh lanh lảnh. Ngũ Hán Siêu lật tay cầm kiếm, nhìn Dương Hổ chằm chằm, nếu trong lúc cứu người hắn dám có dị tâm thì chàng sẽ lập tức rút kiếm chém chết hắn ngay. Dương Hổ chỉ liếc mắt nhìn chàng ta cười khẩy.

Thôi Oanh Nhi nghe tiếng để nhận biết vị trí, đợi khi tiếng động phát ra ngay bên tai liền vội quơ tay tóm lấy. Nàng một tay vẫn bám chặt mỏm đá, một tay lấy dây thừng quấn quanh bụng Dương Lăng mấy vòng, sau đó đặt móc câu vào tay y rồi nói:
- Ngươi nắm lấy dây thừng mà lên!

Dương Lăng tự biết sở trường của mình không phải là võ nghệ cá nhân. Mặc dù đường đường là Xưởng đốc, song đến nơi này y lại như mãnh hổ xuống biển, hoàn toàn không có đất dụng võ, cho nên cũng không khách sáo với nàng, vội cảm ơn một tiếng rồi bám chặt lấy dây thừng để Dương Hổ kéo lên.

Thấy Dương Lăng ló đầu ra khỏi miệng hang, các phiên tử không kiềm được reo hò hoan hô ầm ĩ. Ngay khi Dương Lăng vừa ngã xuống hang, Ngũ Hán Siêu liền như phát điên, xông thẳng vào giữa đám giặc Thát, liều mình chém giết gần hai mươi tên Mông Cổ kiêu dũng, cả người như tắm máu. Bản thân chàng cũng bị thương vài chỗ song vẫn không hề hay biết gì. Giờ trông thấy Xưởng đốc thoát ra được rồi, chàng mới trút được một hơi trọc khí, gần như ngã gục xuống đất.

Lưu Đại Bổng Chùy toét cái miệng to đùng cười to, hai mắt tít lại như một đường chỉ. Dương Lăng mới được kéo ra hơn một nửa thì hắn đã liền nhảy bổ tới ôm lấy y kéo ra khỏi miệng hang.

Dương Lăng vội tháo dây thừng ra, Dương Hỏ lại thả dây xuống dưới. Lưu Đại Bổng Chùy trông thấy giữa sống mũi Dương Lăng sưng lên một cục đỏ tấy thì lấy làm lạ hỏi:
- Đại nhân! Ngài ngã xuống hang, thân thể không hề bị thương tích gì, cớ sao lại bị dập mũi thế?

Dương Lăng tức mình trừng mắt nhìn gã. Lúc này y mới chợt phát hiện chung quanh không ngừng có tiếng chém giết, không khỏi ngạc nhiên hỏi:
- Giặc Thát chưa lui sao? Sao bọn chúng không tấn công lên núi vậy, viện binh của chúng ta đã đến rồi ư?

Ngũ Hán Siêu kéo người y giữ lại, báo:
- Đại nhân hồng phúc tề thiên, quân cầu cứu đi đến nửa đường liền gặp được binh mã của Kinh thiên tổng dưới trướng Đỗ tổng binh đang trở về Đại Đồng. Giặc Thát thấy đại nhân rơi xuống hang cũng không còn hăng hái tiếp tục công kích núi Bạch Đăng nữa, hiện đang đại chiến cùng Kinh thiên tổng dưới núi!

Nghe nói đó là một vị thiên tổng, Dương Lăng lúc này mới hơi yên tâm. Dưới trướng thiên tổng ít nhất có đến hàng nghìn binh đinh, cộng thêm hơn ba trăm người trên núi, so nhân số với bên địch cũng không kém cạnh gì. Có điều không biết dưới trướng vị thiên tổng này có bao nhiêu kỵ binh, nếu đều là bộ binh thì nên sớm bảo hắn lên núi mới được, bằng không bộ tốt đấu với kỵ binh, thắng thì thắng nhỏ, bại sẽ bại lớn.

Dương Lăng quay đầu lại nhìn thấy Hồng Nương Tử Thôi Oanh Nhi đang nắm dây thừng bằng một tay đã được Dương Hổ kéo lên, toàn thân vẫn trong trang phục đàn ông, nhưng tóc tai tán loạn, hai má ửng hồng. Cặp mắt trong vắt xinh đẹp vừa ló khỏi hang vừa khéo chạm ánh mắt của y, bèn vội dời ánh mắt đi, nhún người nhảy lên miệng hang. Cử chỉ như thẹn như sợ, không ngờ lại rất có phong vị phụ nữ.

Dương Hổ hiếm khi thấy vợ mình lộ ra dáng vẻ như vậy nên không khỏi sinh nghi; hắn liếc sang Thôi Oanh Nhi với vẻ hoài nghi, rồi lại liếc nhìn Dương Lăng. Dương Lăng chỉ vì muốn sống sót nên mới gạt bỏ mọi kiêng kị giữa nam nữ, tự thấy không thẹn với lòng, vì vậy thản nhiên đón lấy ánh mắt hắn, rồi quay đầu bảo Ngũ Hán Siêu:
- Đi! Nhìn xem chiến cuộc thế nào.

Phần lớn phiên tử thủ ở rìa đỉnh núi, đi theo bên cạnh y chỉ có mấy chục thân vệ, mọi người nghe đại nhân mở lời liền vây quanh hộ vệ y đi quan sát trận địa. Hoắc ngũ gia và mấy tên mã tặc ngơ ngác nhìn nhau, lúc này có ý muốn chạy, nhưng vừa rồi hỗn chiến một trận, ngựa còn vứt dưới sườn núi, khắp dưới chân núi lại toàn là lính, biết chạy đằng nào?

Thôi Oanh Nhi tuy biết tình huống trong hang là bất đắc dĩ, song vẫn có phần hổ thẹn với trượng phu, cho nên vẻ mặt lúc mới ra khỏi hàng có hơi bối rối ngượng nghịu, lúc này cũng đã bình tĩnh trở lại. Nàng vén tóc mai, điềm nhiên nói:
- Dương Lăng đã nói rồi, hôm nay quyết sẽ không động thủ. Quan binh cũng không phải đều là hạng không giữ tín nghĩa, lời của người này muội tin tưởng được!

Dương Hổ bất mãn hừ một tiếng. Có điều nếu thật sự muốn đi, hiện tại gã cũng chẳng có chỗ nào để chạy, nay cũng chỉ còn đành tin tưởng Dương Lăng sẽ biết giữ chữ tín mà thôi. Tình hình chiến đấu dưới núi có quan hệ đến sinh tử của bọn họ, mấy người bọn họ cũng đi đến rìa núi tìm chỗ bằng phẳng để đứng rồi cùng nhìn xuống dưới.

Lúc này dưới núi đang triển khai một hồi đại chiến. Vị Đỗ Nhân Quốc này Dương Lăng chưa gặp bao giờ, nhưng lại đã nghe đại danh của lão từ lâu,vũ khí của lão là cây đại khảm đao sống dày, nặng phải sáu mươi cân hơn, nghe nói là đệ nhất dũng tướng của Đại Minh. Lão đã từng giữa chiến trường vung một đao bổ con ngựa đang phi nước đại làm đôi, được giặc Thát khiếp sợ coi là chiến thần.

Chỉ tiếc là vị “chiến thần” này chỉ coi trọng võ nghệ cá nhân, chưa từng suy tính gì đến mưu lược chiến trận, vừa gặp quân giặc liền xung phong lên phía trước, dẫn đại quân ùa tới như ong vỡ tổ. Tuy lão dũng mãnh không gì sánh được, một cây đại đao vừa được vung lên, đúng thực là người cản giết người, Phật cản giết Phật, oai phong rất mực, nhưng lại không có chút tác dụng nào với thắng bại của cả cuộc chiến, vì vậy lão đánh trận phần thắng thì ít phần thua thì nhiều.

Có điều sự sùng bái cá nhân của biên quân đối với lão lại lên đến đỉnh điểm, rất nhiều mãnh tướng coi lão là tấm gương vẻ vang của tam quan. Năm xưa huyện lệnh Mẫn Văn Kiến của Kê Minh từng là một thiên tổng dưới trướng lão, tác phong đánh trận cũng giống hệt lão ta.

Mà hiện tại vị Kinh thiên tổng dưới núi này lại là nghĩa tử của Tổng binh Đại Đồng Đỗ phong tử (lão Đỗ điên) nọ, tuổi vừa tam tuần, tính tình khát máu hiếu sát hệt như nghĩa phụ Đỗ Nhân Quốc của hắn. Giặc Thát do hắn tự tay chém chết không tới một nghìn cũng có tám trăm, được tướng sĩ tam quan xưng là Quỷ vương. Kinh thiên tổng lấy đó làm vinh dự, liền cho làm một lá cờ to, trên viết ba chữ "Quỷ Vương Kinh" thật lớn; thực là có hiệu quả người lạ tránh xa, quỷ ma ra hóng.

Hắn chạy tới vừa đúng lúc, tuy là trùng hợp song không phải không có nguyên nhân. Sau khi nhận được tin Đoá Nhan Tam Vệ đã khởi hành đi Đại Đồng, một mặt Dương Lăng cho tăng cường mật thám và trinh sát gián điệp trong thành, mặt khác lệnh cho Chỉ huy sứ Thái Nguyên Vệ là Trương Dần dẫn quân đi đến bãi Kim Sa chờ lệnh, đồng thời do quân chủ lực của Thát Đát đã chuyển hướng tấn công sang Hồ Khẩu, y bèn truyền lệnh điều đội quân tăng viện cho quan ải phía Bắc trở về Đại Đồng.

Sau khi nhận được quân lệnh, Kinh thiên tổng dẫn quân trở về, đi đến nửa đường thì gặp được viên phiên tử do Dương Lăng phái đến Đại Đồng cầu cứu. Vừa thấy có quan binh, gã phiên tử đó lập tức bỏ yên xuống ngựa, lật đật chạy đến báo tin và thỉnh cầu chi viện.

Không đợi nghe hết, Kinh thiên tổng liền đã hào hưng lên ngựa, dẫn đại quân rời khỏi quan đạo, thọc sườn đánh tới núi Bạch Đăng. Bộ hạ Quỷ Vương Kinh chỉ có ba trăm kỵ binh, khi tiền quân xông đến dưới chân núi Bạch Đăng thì bộ tốt ở hậu quân vẫn còn đang ở ngoài mấy dặm.

Kinh thiên tổng cũng chẳng thèm bận tâm đến đến binh pháp "cánh trái vu hồi, cánh phải bọc sườn, chủ lực hợp công trung lộ" gì cả, cứ thế mà dẫn hơn ba trăm kỵ binh phân tán rải rác ùa tới như một cơn gió, hò hét đánh vào trong trận địa quân giặc. Bọn họ cậy vào nhuệ khí mà tràn tới, xung phong vỗ mặt, đội quân cầm đại đao đánh thốc tới không gì cản nổi, tức thì mưa máu tóe tung, giặc Thát bị giết đến trở tay không kịp.

Dương Lăng đứng trên đỉnh núi, nhìn thấy một vị tướng quân vận đồ đen toàn thân đẫm máu, áo choàng sau lưng hệt như một đám mây đen, đại đao trong tay vung cao, ánh sáng lạnh lẽo vừa loé lên, liền có một tên giặc Thát cản đường bị một đao chém cho cả người lẫn binh khí thành hai khúc. Đội kỵ sĩ sau lưng hắn cũng đều hung hãn vô cùng, liều mình chiến đấu, dáng như loài cọp điên.

Dương Lăng kích động, hỏi:
- Người này thực là dũng mãnh, hắn chính là Kinh thiên tổng dưới trướng Đỗ tổng binh ư?

Một viên phiên tử đáp lời:
- Dạ! Đại nhân, người này chính là Quỷ Vương Kinh danh vang khắp tam quan!

Ngũ Hán Siêu khen ngợi:
- Một đao chém cho cả người lẫn binh khí thành hai khúc, cây đao trong tay hắn ít nhất cũng xấp xỉ năm mươi cân, thực là một viên mãnh tướng!

Dương Lăng quan sát chiến cuộc dưới núi, thấy giặc Thát đã không còn ham chiến, đang rút lui dần, xa xa còn có một toán quân Minh khôi giáp xiêu vẹo chạy lại, thì thoáng nhẹ nhõm trong lòng, cười nói:
- Ừ! Người này xông pha trận mạc quả thực là một viên mãnh tướng, không thẹn tên gọi Quỷ vương! Chỉ không biết mưu lược chiến trận thế nào, nếu như hắn ta hữu dũng hữu mưu, ấy thực là phước cho Đại Minh ta vậy!

Sách Lạp Địa nghe được tin báo rằng vị thanh niên nghi là tướng lĩnh trọng yếu của quân Minh đó đã rơi xuống hang núi. Hắn thấy ngọn núi tuy không cao lắm song cũng phải hơn trăm trượng, nếu rơi xuống sẽ không có hy vọng sống sót gì, thế là hài lòng thoả ý. Hắn vừa đang định cho quân rút nhanh thì bất ngờ bị một toán quân Minh đánh tới, mà toán quân địch đó còn không thèm dùng đến bất cứ binh pháp gì.

Đây đúng thật là "quyền cước lung tung, trúng thầy thầy chết". Tuy hắn cũng là một tướng lĩnh Thát Đát từng trãi cả trăm trận lớn nhỏ, thế nhưng quân đội mệt mỏi, lại bị đối phương xông vào làm rối loạn đội hình, nhất thời không có cách nào phản kích hữu hiệu. Thế là hai đoàn quân quấn chặt vào nhau, tức thì sa vào khổ chiến.

Quỷ Vương Kinh xung phong đi đầu, đại đao trong tay vừa vung lên, đầu người liền bay mất, một thân thể cường tráng ngã rầm xuống đất. Một tên giặc Thát trông thấy từ xa, bèn móc ra một sợi dây quăng quấn chân ngựa quay quay, nhắm chuẩn, buông tay ném tới.

Kinh thiên tổng đang thúc ngựa đuổi theo một tên giặc Thát đã bị chém gãy binh khí thì thình lình đôi chân ngựa bị quấn vào dây thừng, chiến mã ngã rầm xuống đất. Mấy tên giặc Thát lợi dụng thời cơ lập tức múa may binh khí thúc ngựa chạy tới.

Vị thiên tổng này phản ứng cực nhanh, trong chớp mắt ngựa vừa ngã xuống, hai chân hắn đã rời khỏi bàn đạp, hai chân giẫm lên lưng ngựa một cái, mượn lực búng của chân cộng lực đàn hồi của lưng ngựa mà nhảy vọt lên. Lúc chiến mã ngã rầm xuống đất khiến cho một mảng tuyết bắn tung thì hắn cũng đã từ trên không đáp xuống, vung một chiêu lực phách Hoa Sơn, sức mạnh và tốc độ kết hợp một cách hoàn mỹ, trường đao từ trên cao bổ xuống giữa tiếng quát kinh thiên!

Một tên giặc Thát đang thúc ngựa chạy ngang phía trước trông thấy một đao không thể đỡ được bổ xuống như sấm sét liền nghiêng người trượt nhảy khỏi chiến mã. Trong tiếng quát như sấm rền của Kinh thiên tổng, nhát đao của hắn đã bổ đứt yên ngựa, bổ gãy xương sống của nó. Một thớt ngựa lùn khoẻ mạnh của Mông Cổ cứ vậy mà bị bổ làm đôi, một cột máu phun lên, tức thì hắn biến thành một huyết nhân không rõ hình dáng.

Chỉ thấy tên huyết nhân này lau mặt, xoay bước vặn lưng, đại đao vút ngang. Trong một tiếng gầm dữ tợn, "vù" một cái, lưỡi đao như cái quạt gió đã chém xéo đến một con tuấn mã đang đứng chồm trên hai chân trước, hí dài vì sợ hãi...







Chú thích:

(1) Con cả của Tần Doanh Chính, tin vào thư giả mạo của Triệu Cao và Lý Tư mà rút kiếm tự vẫn.

(2) Con thứ mười tám của Tần Doanh Chính, là vị vua cuối cùng của nhà Tần, giết hại nhiều đại thần, tôn thất và là nguyên nhân Tần bị mất nước.





Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180&page=218
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
17-08-2012, 05:25 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 198 Đồng Sàng Dị Mộng


Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Thôi Oanh Nhi giận lắm, muốn móc mắt Dương Lăng ra ngay lập tức. Nàng tính tình cao ngạo, thật không thể nào mở miệng yêu cầu Dương Lăng thả bọn họ đi cho nên chỉ gọi một tiếng, trông chờ Dương Lăng sẽ mở miệng thực hiện lời hứa của y. Giờ thấy Dương Lăng còn làm ra vẻ không hiểu, nàng không khỏi trợn mắt, cúi đầu oán hận mắng nhỏ:
- Ngươi... thật vô lại!







Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 198 Đồng Sàng Dị Mộng






-------------------
Quyển năm - Quần ma loạn vũ - Chương 198 Đồng Sàng Dị Mộng

------------------------

Hai xác ngựa đổ xuống, máu tươi phun khắp đầu khắp mặt Kinh thiên tổng, hắn khuỳnh hai chân, tay cầm chắc đại đao, mặt nanh mày ác, hệt như quỷ dữ giáng trần.

Đám giặc Thát tính tranh thủ thừa cơ xông lại tiêu diệt hắn nay trông thấy vậy thì sợ đến khiếp hồn, suýt nữa đã không cầm nổi cương ngựa. Ngựa chúng cũng kinh hãi hí lên điên cuồng, chồm hai vó trước lên không, chẳng dám bước tới một bước. Việc chỉ trong nháy mắt, song cũng đã đủ cho vị thiên tổng vung tiếp hai đao.

Quỷ Vương Kinh vẫn đứng trên mặt đất, hắn chùng người theo mã tấn, đại đao vung ngang một đường. Đao vừa chém ngang, bốn chân ngựa rụng xuống đất, con ngựa tội nghiệp biến thành một con ngựa "nhộng" hí thảm một tiếng rồi ngã bộp xuống đất, lăn lộn đau đớn, thuận đà đè tên giặc Thát ngã ngựa, kéo theo vệt máu đỏ tươi.

Kinh thiên tổng thuận đà giật ngược chuôi đao, thụi vào ngực một tên giặc Thát đang sững sờ khiến gã hộc máu ngã ngựa, tiếp đó hắn giật lấy dây cương, cướp ngựa xoay mình nhảy lên, máu nhuộm đỏ cả khuôn mặt, trông như quỷ sứ từ chín tầng địa ngục đến chốn trần gian, vừa cười gằn vừa xông trận chém giết tiếp.

Đám người Dương Hổ trông thấy tình hình đó cũng bất giác thầm tắc lưỡi, hóa ra trong quan binh cũng có chiến tướng hung hãn vũ dũng như vậy. Không chỉ riêng một mình Quỷ Vương Kinh, trên người mỗi kỵ sĩ trong đội quân của hắn phi đến đây đều nhuộm đỏ máu tươi, của giặc có, của mình có, của chiến mã cũng có, thậm chí lưỡi đao mũi giáo cũng loang lổ vết máu, sát khí ấy thực khác hẳn với đám quan binh vệ sở mà bọn họ từng gặp. Thấy vậy đám cướp dữ này cũng không khỏi rét run.

Lúc này từ xa vọng lại từng hồi tiếng vang như sấm rền, rõ là có một đại đội kỵ binh đang tung vó phi đến. Giặc Thát đang chiến đấu kịch liệt nghe thấy liền rét lạnh cả lòng, đó có thể là viện quân của ai? Lúc này, nơi này, quyết không thể là người của bọn chúng.

Đám người Dương Lăng ngoái đầu lại nhìn. Bên kia núi, vô số kỵ binh ùn ùn kéo tới, tiếng vó ngựa đinh tai nhức óc, cờ hiệu rõ là quân thủ vệ Đại Đồng. Phiên tử trên núi đồng loạt hoan hô, tướng sĩ liên quân dưới núi càng đánh càng hăng, khí thế càng tăng, quả là người như hổ, ngựa như rồng.

Tuy giặc Thát dũng mãnh không hề sợ chết nhưng lúc này cũng không khỏi vì vậy mà bắt đầu núng thế. Nhận thấy khi này mà không chạy sẽ không còn kịp nữa, Sách Lạp Địa bèn lập tức cho vẫy cờ ra lệnh cho toàn quân rút lui. Suy cho cùng đội quân của hắn xuất chinh đánh trận hàng ngày kinh nghiệm vô cùng phong phú, vì thế hoảng mà không loạn, bắt đầu tấn tốc co cụm lại, dần dần rút lui. Giặc Thát ở hậu trận giương cung lắp tên bắn ra không ngừng, ngăn cản quân Minh đang như những kẻ cuồng sát nổi điên tiến lại.

Tên phiên tử được cử đi cầu cứu nửa đường gặp phải binh mã của Kinh thiên tổng, chưa kịp tường trình xong thì đã bị hắn ta bỏ lại sau mông ngựa cho hít bụi. Trông thấy vị tướng quân đó vui sướng xông lên phía trước, chẳng thèm ngó ngàng gì đến quân sĩ của mình, viên phiên tử hơi ngớ người, cũng không biết viên tướng này có đáng tín nhiệm hay không. Suy tính một lúc, y bèn vẫn quyết định theo lệnh cũ, lên ngựa chạy gấp về Đại Đồng báo tin cho yên tâm hơn một chút.

Tham tướng thủ thành hay tin cả kinh. Vừa may lúc này Tổng binh Đỗ Nhân Quốc tuần thành đến đây, nghe nói khâm sai gặp phải tập kích ngoài thành, tức thì lão cũng hơi kinh hãi. Đây nào phải chuyện đùa, ví như khâm sai thay vua đi tuần thú mà bị giặc giết ngay trong khu vực phòng thủ của mình, vậy chẳng phải rất nguy cho mình ư?

Năm xưa Đỗ Nhân Quốc hiệu xưng Đỗ Phong Tử, tính nóng như lửa, giết người như ngoé, nhưng những năm nay tuổi tác đã cao nên tính tình cũng cẩn trọng hơn một chút. Lão định thần lại, hỏi rõ quân số giặc Thát rồi lập tức điểm đủ ba nghìn nhân mã theo lão đi cứu giá. Đại quân xuất thành, lúc này vừa mới tới.

Dẫn đầu là một đội khinh kỵ, khi xông đến gần liền bắn một loạt hoả lực trước, "đoàng đoàng đoàng" hạt sắt bay ra đầy trời, tức thì quân giặc ngã ngựa một mảng, song chết không nhiều, đa số biến thành người mặt rỗ, ôm lấy khuôn mặt đầy máu mà gào thét. Liền đó đội khinh kỵ tản ra, đại đội thiết kỵ hai tay cầm chắc trường mâu đâm tới, đội hình giặc Thát vừa mới co cụm lại lập tức bị đánh cho tan tác.

Lúc này thì giặc Thát cũng đã bừng lửa giận. Bọn chúng quanh năm chinh chiến với quân Minh, biết rõ thủ thắng chủ yếu dựa vào ưu thế kỵ binh, bằng không sức chiến đấu của từng binh sĩ cũng không hơn biên quân là bao. Nay quân số không bằng quân Minh, đội quân này lại toàn kỵ binh, bọn chúng hoàn toàn chẳng còn cách nào chạy thoát, xem ra hôm nay ắt phải chịu cảnh toàn quân bị diệt rồi.

Sách Lạp Địa vung đao hô lớn:
- Hỡi các dũng sĩ, Hỏa Sư vô địch sẽ báo thù cho chúng ta! Hãy xông lên, giết thêm được một quân Minh, máu chúng ta chảy ra sẽ càng thêm quang vinh, chói lọi!

Hơn năm trăm tên giặc Thát bị thương lẫn mệt mỏi tuyệt vọng nâng đao cầm thương, dưới sự lãnh đạo của Sách Lạp Địa xông lên nghênh đón đại quân của Đỗ Phong Tử, đằng sau là Quỷ Vương Kinh vẫn đang truy sát không ngừng. Chỉ trong khoảnh khắc năm trăm người ngựa đã bị chôn vùi trong "dòng thép chảy" cuốn trào...

Lưu Đại Bổng Chùy xem đến hớn hở mặt mày, xoa tay xắn áo một lúc rồi nhịn không được mà khẩn cầu:
- Đại soái! Tiêu hạ nhìn mà ngứa ngáy tay chân, xin cho tiêu hạ cũng đi giết mấy tên giặc Thát đi, trả thù một phần cho ngài!

Dương Lăng được hắn nịnh đến bật cười, bèn gật đầu. Lưu Đại Bổng Chùy lập tức chạy tới sơn khẩu dắt một thớt ngựa rồi xoay người nhảy lên, tay cầm cây côn sắt xông thẳng xuống núi.

Trông thấy tình hình như vậy, Hồng Nương Tử bèn cố lấy hết dũng khí bước đến bên cạnh Dương Lăng, ôm quyền nhắc:
- Xin thỉnh Dương tướng quân!

Dương Lăng quay người lại, thấy mấy người Dương Hổ đang nhìn mình chằm chằm, y buột miệng hỏi:
- Ồ, Dương phu nhân! Có chuyện gì vậy?

Thôi Oanh Nhi giận lắm, muốn móc mắt Dương Lăng ra ngay lập tức. Nàng tính tình cao ngạo, thật không thể nào mở miệng yêu cầu Dương Lăng thả bọn họ đi cho nên chỉ gọi một tiếng, trông chờ Dương Lăng sẽ mở miệng thực hiện lời hứa của y. Giờ thấy Dương Lăng còn làm ra vẻ không hiểu, nàng không khỏi trợn mắt, cúi đầu oán hận mắng nhỏ:
- Ngươi... thật vô lại!

Lời mắng tuy nhỏ song Dương Lăng lại nghe rõ mồn một. Y thoáng ngẩn người, liền lập tức sực nhớ lúc giặc Thát tấn công mình đã từng nói hôm nay chỉ giết giặc ngoài, không phân quan chia cướp. Lúc này khoé mắt y đã chú ý đến Ngũ Hán Siêu đứng bên cạnh mình đang lặng lẽ đưa một tay vào trong túi giắt lưng, hiển nhiên chỉ cần mình nói một câu không thả người thì sẽ lập tức ra tay đánh giết.

Thôi Oanh Nhi cũng trông thấy động tác của Ngũ Hán Siêu. Đôi mắt to tròn xinh đẹp của nàng tức thì nheo lại đầy vẻ uy hiếp, ánh mắt quét từ dưới lên trên người Dương Lăng, quan sát y kỹ càng một lượt, thoáng nhìn chằm chằm vào cổ họng y, rồi liếc sang Ngũ Hán Siêu khiêu khích. Ý bảo ngươi mà dám động thủ thì ta sẽ giết Dương Lăng trước.

Dương Lăng thu hết sự giao phong âm thầm của hai người vào trong mắt. Y suy nghĩ một chút rồi cao giọng bảo:
- Khi nãy giặc Thát cũng đã giết mất mấy huynh đệ của các người! Quý phu thê tinh thông võ nghệ, nếu muốn xuống núi báo thù cho huynh đệ thì cũng là dốc sức vì nước, bản quan sẽ không ngăn trở!

- Ớ?
Thôi Oanh Nhi hơi ngẩn người, rồi chợt hiểu y đang kiếm cớ cho bọn mình rút lui. Nàng nhìn Dương Lăng với ánh mắt kỳ quái, rồi mới chắp tay chào:
- Như vậy... Đa tạ tướng quân, dân nữ cáo từ!

Dương Lăng bỗng trầm giọng:
- Cô giết ta chỉ là chuyện búng tay, ta diệt lục lâm Bá Châu cũng chỉ là chuyện trong nháy mắt, hy vọng cô tự thu xếp cho ổn thoả.

Thân thể yêu kiều của Thôi Oanh Nhi thoáng run lên, vụt ngẩng đầu nhìn Dương Lăng, vừa vặn đón lấy ánh mắt nghiêm nghị của y. Giọng y vẫn trầm mà chắc nịch:
- Từ nay về sau hãy mai danh ẩn tính, thiên hạ rộng lớn có biết bao chỗ để đi. Nếu lại thấy vợ chồng cô làm điều ác, ta nhất định sẽ dùng vũ lực mà tiêu diệt. Đến lúc đó hoạ lây cửu tộc, hối hận không kịp đâu!

Tuy biết kẻ đứng trước mặt này luận võ nghệ thực không chịu nổi một đòn của mình, nhưng lúc này khí phách uy nghiêm của y lại sắc bén vô cùng, còn bén nhọn hơn cả đao kiếm, Thôi Oanh Nhi nhất thời không chịu nổi bèn cụp mắt xuống.

Hồng Nương Tử tự cảm thấy đối diện với y mà mình yếu thế như vậy, trong lòng buồn nản không thôi. Như nàng, Hồng Nương Tử danh truyền khắp chốn lục lâm phương bắc có mấy khi khuất phục cuối đầu trước mặt người khác như vậy. Nhưng vẻ mặt kiên cường chính trực của Dương Lăng lại khiến nàng lần đầu tiên cảm thấy mình kêu gọi tụ tập chốn núi rừng cũng vậy, mà khởi binh tạo phản cũng vậy, đều là lý lẽ không đúng, khí thế không đủ. Nàng mím môi, thấp giọng chào:
- Cách biệt từ đây, không hẹn ngày gặp lại!

Dứt lời nàng liền quay người rời đi, nhanh nhẹn bước qua đám phiên tử cầm đao, không hề quay đầu mà chạy thẳng đến nơi để ngựa trên đỉnh núi. Dương Hổ không biết hai người thì thầm to nhỏ những gì, trông thấy ánh mắt quái dị của mấy tên thủ hạ mình, trong lòng hắn cực kỳ khó chịu. Hừ một tiếng, hắn cũng đi theo Hồng Nương Tử.

Mấy tên mã tặc vặn mình lên ngựa, phóng đi, bụi tuyết cuốn tung dưới vó. Bọn họ xông thẳng xuống núi, không thèm ngoái đầu lại, phóng xa về hướng đông.

Dương Lăng đưa mắt dõi theo bóng hình bọn họ dần hoá thành một chấm đen, rồi mới khẽ thở dài một tiếng:
- Chỉ mong không gặp từ đây! Bằng không dẫu cho các người có muôn vàn lý do để tạo phản, lẽ trời có thể dung tha, quốc pháp cũng sẽ không thứ tội. Lúc đó ta chỉ còn nước giết các ngươi để trừ ác mà thôi!

Dương Lăng nói xong, vừa quay đầu lại đã thấy hai ông "quan công" rảo bước đến chỗ y.

Một vị tuổi trạc ngũ tuần, đầu beo mắt tròn vo, già mà sung khoẻ. Vị khác chưa tới ba mươi, mũ đen giáp đen, bước chân nhẹ nhàng, nhanh nhẹn như beo, trông kỹ khuôn mặt rất là thanh tú, hoàn toàn không giống cái dáng dấp quỷ vương chém giết trên chiến trường, ngạo nghễ nhìn sinh linh bằng nửa con mắt khi nãy.

Bọn họ mỗi người xách một cây đại đao dính máu thịt bê bết, trên áo bào chiến giáp vẫn còn đang nhểu máu....

**************************

Tuấn mã phóng nhanh đến hơn mười dặm, Hồng Nương Tử đầy bụng phẫn uất mới ghìm mạnh cương dừng lại. Đằng trước tuyết trắng mênh mông, bốn cõi đều là non hoang đường vắng, không chút sức sống; chiến mã phả hơi phì phì, từng cụm hơi trắng lượn lờ toả ra trong không trung.

Hồng Nương Tử ngửa mặt thở ra một hơi thật dài, ngựa gõ móng lộp cộp, thân hình thoáng phập phù theo thân ngựa. Nàng khẽ vuốt ve bờm ngựa sơ cứng như dây thừng, mắt liếc sang Dương Hổ đã chạy lên bên cạnh đang nhìn nàng chằm chằm, không nói tiếng nào.

Những người khác phi đến cách vài thân ngựa thì đều gò cương chậm bước. Dương Hổ thúc ngựa đi quanh Thôi Oanh Nhi mấy vòng rồi mới dừng lại, hơi nhổm người thấp giọng hỏi:
- Nương tử, sao vậy?! Có phải... tên tiểu tử Dương Lăng đó đã vô lễ với nàng không?

Mày liễu dựng ngược song Thôi Oanh Nhi lại nén nhịn, nàng quay đầu đi, cất giọng lạnh nhạt:
- Y có bản lĩnh đó sao?

Thế nhưng chợt nhớ lại tình cảnh trong hang, nhớ lại nụ hôn xẹt qua môi như đá lửa, môi nàng không khỏi như muốn sưng lên; nhớ lại y ôm chặt lấy đùi mình, đầu áp vào mông liền cảm thấy mông như cũng hơi ngứa ngáy, cũng không biết là do tâm lý hay vì cưỡi ngựa.

Nàng lúng túng quay đầu nhìn hắn, chán nản nói:
- Hổ ca, chúng ta hãy trở Bá Châu có được không? Đừng nói gì đến giành giang sơn, trị thiên hạ nữa, hãy ở trong núi sâu mà sống một cuộc sống êm đẹp cho yên. Muội bỗng dưng rất chán ghét việc dùng vũ lực của mình, tự cho là đang thế thiên hành đạo, thực ra... chúng ta không thể thay đổi được gì.

Rồi giọng nàng trầm xuống:
- Gã Dương Lăng đó, chỉ một ngón tay là muội đã có thể giết chết y, nhưng thế thì đã sao? Y nói rất đúng, năng lực chúng ta chỉ có vậy. Chúng ta có thể giết tham quan, y có thể tạo nên quan tốt; ta có thể đoạt nhà giàu, cướp bạc đưa cho người nghèo, khiến nhà nhà đều hoá nghèo, y lại có năng lực khiến trăm họ có ăn có mặc, ai nấy đều hoá giàu. Ha ha!... Người ta mới thật sự có bản lĩnh! Chút bản lĩnh này của chúng ta thực ra chỉ là cái dũng của kẻ thất phu, chả được tích sự gì cả.

Dương Hổ vuốt ve cổ ngựa, hỏi với ánh mắt quái dị:
- Nương tử, nàng đang nói cái gì vậy? Nếu như để các huynh đệ biết ngay cả nàng cũng nghĩ như vậy, đại sự của chúng ta còn có thể thành hay sao? Họ Dương đó rốt cuộc đã nói với nàng những gì? Trước giờ nàng chưa từng nghe ai khuyên nhủ, vậy mà nay lại nghe theo lời y. Nàng...

Thôi Oanh Nhi ngắt lời hắn, lạnh lùng bảo:
- Y không hề nói gì cả, tự muội có mắt thì thấy thôi. Y mang mấy thứ hoa mầu nọ về cho trồng trọt khắp nơi sẽ còn cứu giúp được nhiều người hơn chúng ta cướp giàu giúp nghèo đó. Mà huynh... lại muốn giết người, hủy hoại hoa mầu!
Khi giặc Thát xông vào thôn, nếu y cho loạn tiễn giết chúng ta rồi bỏ chạy dưới sự bảo hộ của đám thị vệ, chỉ qua lộ trình mười dặm đã về đến Đại Đồng thì giặc Thát vị tất đã đuổi kịp y, nhưng y lại thả đám khâm phạm chúng ta, chỉ tập trung toàn lực giết giặc Thát. Thế thiên hành đạo? Rốt cuộc thì ai mới đang thế thiên hành đạo?

Dương Hổ bị ánh mắt sắc bén của nàng trừng cho rúm người lại, liền đó nổi giận vặn lại:
- Thiên hạ này là của bọn chúng, bọn chúng đương nhiên phải làm mấy chuyện này, kết quả không phải vẫn có rất nhiều người chết đói đó ư? Kết quả không phải vẫn là giặc Thát năm nào cũng đến đánh ư? Nếu để chúng ta đoạt được thiên hạ, hừ hừ!

Thôi Oanh Nhi cười khổ, hỏi:
- Hổ ca! Huynh lúc nào cũng nói đoạt thiên hạ này, đoạt thiên hạ nọ, vậy rốt cuộc huynh dựa vào cái gì để đoạt thiên hạ? Đoạt thiên hạ rồi sẽ lại dựa vào cái gì để cai quản, dựa vào những huynh đệ trên núi của chúng ta ư? Khi đó chúng ta đi cướp ai đây? Cướp dân chúng của chính mình sao?

Dương Hổ không đồng ý, bèn phản bác:
- Ơ hay! Mây theo rồng, gió theo cọp, đợi đến khi đại sự chúng ta đã thành rồi, tự nhiên sẽ có người tài đến dựa dẫm, cần gì lo lắng đến mấy chuyện đó vào lúc này?

Trông thấy hai người bọn họ đang đấu võ miệng, Hoắc ngũ gia vội thúc ngựa tiến đến, ho khan một tiếng tự xa, đến lúc ngựa tới gần lão mới hoà nhã cười hỏi:
- Cháu Hổ à, bây giờ chúng ta đi đâu đây? Nay đã bại lộ hành tung, đã không thể trở về Đại Đồng được rồi!

Dương Hổ cao giọng đáp:
- Ngũ thúc, bọn họ đoán chúng ta đã đi, chúng ta lại càng không đi! Tiêu gia trại có một vị hảo hữu đồng đạo lục lâm đã ẩn cư, chúng ta hãy tới đó tránh nạn một thời gian. Nếu tên hôn quân đó mà chết, chúng ta mưu đoạt thiên hạ sẽ càng dễ hơn nhiều. Huống hồ hôm nay chúng ta chết mất ba huynh đệ, không thể để bọn họ cứ chết uổng như vậy, món nợ này chúng ta nhất định phải tính hết lên đầu hôn quân, phải tính lên đầu cái tên Dương Lăng đó!

- Chúng ta đi!
Dương Hổ cất tiếng gọi đồng bọn rồi giục ngựa nhằm về hướng bắc phóng đi.

Trên khuôn mặt mịn màng như ngọc như sứ của Thôi Oanh Nhi tràn đầy vẻ thất vọng, nàng đưa mắt nhìn theo bóng lưng Dương Hổ, chợt cảm thấy thật xa lạ. Trước đây thấy hắn hào sảng nghĩa hiệp, uy vũ bất khuất, võ công tuy không bằng mình nhưng cũng là trang hảo hán quang minh lỗi lạc trong đám cường đạo, sao giờ mình lại chỉ cảm thấy hắn thật nông cạn đến thế, thật hám lợi như vậy?

Hôm nay nếu không phải nhờ có một tốp giặc Thát vô tình xông nhào tới thì nhóm bọn họ đã trúng kế của Dương Lăng mà bị loạn tiễn bắn chết rồi, còn muốn giết Hoàng đế ư? Nhìn thấy oai phong của quân Minh hôm nay, chỉ sợ ngay cả hình dạng Hoàng đế như thế nào còn chưa kịp nhìn thấy thì bản thân đã bị loạn đao chém thành đống thịt vụn rồi.

Hoắc ngũ gia thấy Thôi Oanh Nhi do dự không tiến, bất giác ghìm cương ngựa khuyên nhủ:
- Oanh Nhi! Không phải ngũ thúc muốn nhắc nhở con, nhưng con là vợ của cháu Hổ. Tục ngữ đã có câu cưới gà theo gà, cưới chó theo chó, nay cháu Hổ đã ngồi lên ghế giao ỷ (ý là làm lão đại) của lục lâm phương bắc, luận thanh danh hay địa vị đều không thua kém con đâu.
Toàn bộ tài sản tích góp của trại cũ đều dùng để mua vũ khí trang bị cả rồi. Lão gia tử rất hy vọng cô gia có thể cai trị giang sơn, mà con là khuê nữ duy nhất của lão gia tử, tương lai sẽ là Hoàng hậu nương nương. Lúc đó thúc thúc cũng sẽ cao hứng cho con. Đừng vì chút chuyện nhỏ mà đã nổi nóng! Cháu Hổ là đàn ông, trong nhà thì nhường con thế nào cũng được, nhưng ngoài cửa thì con cũng nên chừa chút thể diện cho vị đại ca lục lâm hắn với chứ, được không?

Thôi Oanh Nhi nhíu chặt cặp mày đen mướt, thở dài buồn khổ rồi lặng lẽ gật đầu. Nàng quất mạnh roi vào mông ngựa, phóng theo Dương Hổ.

Bông tuyết, không biết tự khi nào đã bắt đầu rơi lả tả...

Hoắc ngũ gia dõi nhìn theo bóng lưng cô quạnh của cô cháu gái, thở dài sườn sượt rồi cũng vung roi giục ngựa phi theo. Tuyết nhẹ nhàng rơi phủ đầy mặt đất, chỉ trong phút chốc đã xoá tan mọi dấu vết...






Chú thích:






Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180&page=218
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
18-08-2012, 10:40 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 199 Phượng Hoàng Bắt Nạt Rồng Con


Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





- Biểu ca lại nói gì đâu rồi, em nghe mà chẳng hiểu gì cả. Khi nãy em còn tính đợi đại ca về dẫn em và Tiểu Hoàng đi dạo phố, xem bộ dạng của anh bây giờ. Chậc! Chắc là em ở nhà với biểu ca rồi.

- Tiểu Hoàng? - Dương Lăng cúi xuống nhìn quanh, không thấy dưới chân nàng có con chó nhỏ nào đi theo, vội hỏi: - Tiểu Hoàng đâu? Trong dịch quán làm gì có chó? Em nhặt được ở ngoài đường à?

- Ớ?!







Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 199 Phượng Hoàng Bắt Nạt Rồng Con






-------------------
Quyển năm - Quần ma loạn vũ - Chương 199 Phượng Hoàng Bắt Nạt Rồng Con
------------------------


- Thông tri cho cửa hàng da biết thích khách Di Lặc giáo vẫn chưa lộ diện, hẳn là bọn chúng vẫn còn người trong thành, chú ý nghiêm ngặt đến mọi khuôn mặt lạ! Khoan, chờ đã! Đã lùng tra sai hướng rồi! Di Lặc giáo mở hương đường ở khắp nơi, tín đồ rất đông, Đại Đồng là thành lớn ắt sẽ có phân đà bí mật của bọn chúng.
Cho điều tra dân bản địa! Di Lặc giáo ở Thiểm Tây tạo phản thất bại là vào bốn năm về trước phải không? Vậy điều tra xem bắt đầu từ bốn năm về trước cho đến nay có hộ gia đình lớn nào từng có hành động khả nghi hoặc từng có người xứ khác trọ lại nhiều ngày trong nhà bọn họ hay không, đặc biệt chú ý những nhà từng có đạo sĩ ra vào.

- Dạ!

- Hôm trước mới vừa có người thu mua một mớ gia súc bỏ ở Lý Gia tập, hôm nay liền có giặc Thát trèo non lội suối chạy lại đúng lúc, nhất định là có mật thám báo tin, việc này cũng phải điều tra luôn! Đồng thời quan phủ cũng phải điều tra, cho họ điều tra qua lai lịch của tên thương gia đó, xem hắn từng qua lại với những ai, và trong đám bọn họ ai có thể xuất thành đi lên phương bắc.

- Dạ.

- Hôm nay thấy núi Bạch Đăng dễ công khó thủ, nhất là trên đỉnh núi lồi lõm gập ghềnh, làm sao để thiên tử kết minh với người ta ở đó được chứ? Ờ, phải tìm một lý do nào đó,… Rồi! Cứ bảo là quan binh Đại Đồng tiêu diệt hoàn toàn giặc Thát lẻn vào tấn công ở đó, vì tuyên dương công trạng này, bản quan muốn xây đình dựng bia trên đỉnh núi. Thừa dịp hãy cho san phẳng đất đai, ngầm bắc hỏa pháo chung quanh, còn trên dốc thoải hãy cho đào hố bẫy ngựa, chôn chông sắt, chỉ giữ lại một con đường lên núi.

- Dạ!

- Trong khi chôn cất giặc Thát bị giết, phát hiện thấy giáp lót vai, yên ngựa, móng sắt đóng chân ngựa, mũ sắt,… thậm chí phần lớn binh khí đều có nguồn gốc từ trung nguyên, hiển nhiên có người lén tuồn lên phương bắc bán cho giặc. Buôn lậu trà muối kiếm tí tiền thì cũng không sao, nhưng đem bán quân nhu, khí giới cho địch là tội không thể tha. Điều tra cho bản quan!

- Dạ!

- Chủ lực của Thát Đát đã di chuyển về hướng Bình Thuận, Hồ Khẩu, thế mà Hỏa Sư, đệ nhất mãnh tướng của Thát Đát, lại ở lại không đi, còn phái người cướp bóc lương thảo, vẻ như muốn ở lại lâu dài. Khả năng lớn nhất chính là kế ly gián của chúng ta đã có hiệu quả, Bá Nhan đã bắt đầu nảy lòng nghi ngờ hắn.
Theo lý thì bọn chúng không thể biết chuyện Hoàng đế xuất kinh tuần thú, có điều an nguy của Hoàng thượng là chuyện lớn như trời, cẩn thận là hơn. Ra lệnh cho vị Chỉ huy sứ Thái Nguyên là Trương Dần cấp tốc xua quân lên bắc để tiếp ứng; thám mã trinh sát chú ý nghiêm ngặt hết thảy mọi động tĩnh của Hỏa Sư!

- Dạ!

- Đúng rồi, Trương Dần thông qua cửa của Vũ Định hầu Quách Huân mới làm quan, bản lĩnh thống lĩnh quân đội của người này thế nào? Tuy rằng quân thủ vệ Đại Đồng đủ để ứng phó với đại quân của Bá Nhan, nhưng hắn là quân cờ dự bị duy nhất của bản quan. Nếu hắn tài cán tầm thường, khó tránh sẽ làm lỡ chuyện lúc nguy ngập.

- Hồi bẩm Xưởng đốc đại nhân, dựa theo căn dặn của ngài, ti chức đã điều tra qua tất cả những tướng lĩnh quan trọng ở tiền phương. Trương Dần này là người Trương gia, một họ lớn tại Sơn Tây, tuy là chi họ xa, song trên gia phả thuộc hàng chữ Đức(1), vai vế rất cao.
Ông ta nguyên là Binh bị đạo(2) của Đại châu thuộc Sơn Tây, thao luyện hương quân, đào sửa thành trì, lập pháp trữ lương, sửa sang doanh trại, quản quân có phép, đạo tặc bốn phương không kẻ nào dám quấy nhiễu Đại châu, rất được người địa phương khen ngợi. Sau khi ông ta đến Thái Nguyên nhậm chức, việc chỉnh đốn quân kỷ và thao luyện sĩ tốt thực cũng có khuôn có phép lắm.

- Ừm, vậy thì tốt! Đúng rồi, hôm nay vị tướng trong quân Đại Đồng tên Kinh Phật Nhi được xưng là Quỷ vương đó quả là kiêu dũng thiện chiến, có thể nói là một viên mãnh tướng. Tiếc là bản quan thấy hắn cùng lắm chỉ là một vị thiên hộ, đánh trận chỉ biết xung phong lên đầu, binh sĩ bị hắn chỉ huy thành một đạo quân ô hợp.
Nhìn khí thế tác chiến của hắn đáng sợ như vậy, nhưng nếu thật sự đụng phải một vị tướng biết binh thư, chỉ cần bày ra chút kế nhỏ liền sẽ có thể dụ cho hắn trúng phải phục kích, toàn quân bị diệt. Người này đặt vào đúng chỗ thì là một nhân tài, đặt nhầm chỗ sẽ là một tai họa. Chốc nữa sai người đi dò hỏi qua ý tứ của hắn, xem hắn có chịu gia nhập Nội xưởng hay không. Nếu như có, bản quan sẽ đến gặp Dương tổng chế, Đỗ tổng binh đòi người.

- Dạ!

- Ngoài ra sai người chú ý đến hoạt động của đám người Dương Hổ. Nếu bọn hắn lên đường trở về Bá Châu thì tạm thời không cần đụng vào. Từ đây về sau nếu bọn họ chịu hối cải là tốt nhất; nếu lại tiếp tục dấn thân làm sơn tặc, vẫn giữ cái nghề không tiền đồ này thì cũng không sao, nhưng nếu không chịu trở về Bá Châu, nhất định lòng gian chưa hết, gặp phải giết ngay!

- Dạ!

- Huynh đệ nào bị thương thì mời lang trung chữa trị rồi cho nghỉ ngơi cẩn thận. Huynh đệ bị tử trận thì đưa vào hòm mai táng, ghi lại danh tính, về kinh rồi an ủi gia đình, cấp tiền tử tuất cho thật hậu.

- Dạ!

- Ừm! Cứ vậy đã, các ngươi lui xuống trước đi.
Nhìn đám bộ hạ từng người lui ra, Dương Lăng thở dài một hơi, bước đến ngồi trên ghế dựa, cầm chén trà dỡ nắp ra, đưa lên miệng thổi lay lay những lá trà xanh biếc trôi nổi trong nước.

Hơi nóng vờn quanh khuôn mặt y. Chợt nhớ lại cái chạm môi mềm mại mà tiêu hồn cùng Hồng Nương Tử, Dương Lăng bất giác gợn sóng lòng, trên mặt thoáng nở một nụ cười xấu xa.

Cái tên Dương Hổ đó đúng là chấp mê bất ngộ, năm lần bảy lượt muốn giết mình, rõ biết bị Di Lặc giáo lợi dụng thế mà còn không biết hối cải, lại cứ đuổi theo đến Đại Đồng, lần này coi như là vừa mất phu nhân lại thiệt quân rồi còn gì.
(“bồi liễu phu nhân hựu chiết binh”, các bạn xem Tam Quốc Chí, đoạn Tôn phu nhân qui Thục, ý là mất cả chì lẫn chài )

Hơi nước hơ nóng cục u trên trán khiến y cảm thấy đau tấy một hồi. Dương Lăng vội dời chén đi, xoa nhẹ cái trán sưng vù của mình, thầm nghĩ: "Vợ hắn tuy không đọc sách, song lại cũng hiểu chút lý lẽ. Chậc! Tiếc thật, một đoá hoa nhài cắm bãi..."

Ngay lúc đó, khung cửa chợt mở ra kêu két, một bóng người dịu dàng lách nhanh vào, lo lắng sốt ruột hỏi:
- Biểu ca, Đại Bổng Chùy nói anh bị thương, mau để em xem thử.

Dương Lăng ngước mắt nhìn lên, trông thấy một người thiếu nữ vận áo vải nhiều màu sặc sỡ, cài hoa, vội vội vàng vàng bước vào, khuôn mặt xinh xắn động lòng người đầy vẻ lo lắng. Theo sát phía sau là Hoàng đế Chính Đức, vua của một nước, đang thậm thà thậm thụt như đứa hầu nhỏ của nàng cùng chạy theo vào.

Dương Lăng mỉm cười vui vẻ. Hiện tại Đường Nhất Tiên không phải tuân theo nhiều quy củ như khi còn ở trong vương phủ nhưng không biết tại sao, chọn lụa tơ đoạn gấm cho nàng thì nàng không thích, lại cứ thích mặc áo quần đơn giản mà tiện nhẹ. Bộ áo vải ghép nhiều mảnh nhiều màu(*) này hệt như quần áo ăn mày thời nay vậy, rất hợp cho người con gái trong thời kỳ nổi loạn như nàng mặc, tuy không cao quý, song lại tăng thêm mấy phần anh tú. (* thủy điền y: tựa như áo cà sa, may ghép nhiều mảnh vải, nhiều màu sắc với nhau; là mẫu áo thời trang ở đời Minh).

Nhìn thấy một cục u sưng phù đỏ ửng trên trán Dương Lăng, Đường Nhất Tiên xót lòng chau mày lại. Nàng nâng nhẹ gương mặt Dương Lăng lên, bàn tay thon thả nhẹ nhàng xoa khuôn mặt y, chúm môi thổi nhè nhẹ, hỏi khẽ:
- Biểu ca, sao anh lại bị đập trúng ở đây vậy? Suýt chút nữa là mắt bị thương rồi, còn đau không? Có cần mời thầy lang không?

Giữ lấy cổ tay mềm mại của cô nàng, Dương Lăng cười đáp:
- Không sao đâu! Hôm nay đại ca định dụ một ông phật sống xuất hiện, không ngờ lại thả nhầm mồi, dụ nhầm một con hổ dữ. Nếu chỉ có thế thôi thì cũng chưa sao! Đại ca đang tính bắt hổ, tự dưng lại có một bầy sói đói chạy lại. Ui chao, thật là rối tinh rối mù lên. Còn về phần vết thương này, ha ha, không nhắc tới thì hơn.

Đường Nhất Tiên lương thiện trong sáng, lanh lợi đáng yêu. Thấy cô nàng quan tâm săn sóc mình như vậy, Dương Lăng thấy ấm áp trong lòng. Tuy không có quan hệ máu mủ, song hiện tại y lại cảm thấy giữa mình và Đường Nhất Tiên tồn tại một loại tình cảm thân thiết và khắng khít. Tình cảm này tuyệt không phải là cảm giác áy náy vì nàng ta giúp mình nên bị kẻ thù gây hại khiến phải gặp nạn, mà là niềm yêu mến xuất phát tự đáy lòng.

Đường Nhất Tiên bị y chọc đến bật cười, nàng dịu dàng mỉm cười:
- Biểu ca lại nói gì đâu rồi, em nghe mà chẳng hiểu gì cả. Khi nãy em còn tính đợi đại ca về dẫn em và Tiểu Hoàng đi dạo phố, xem bộ dạng của anh bây giờ. Chậc! Chắc là em ở nhà với biểu ca rồi.

- Tiểu Hoàng? - Dương Lăng cúi xuống nhìn quanh, không thấy dưới chân nàng có con chó nhỏ nào đi theo, vội hỏi: - Tiểu Hoàng đâu? Trong dịch quán làm gì có chó? Em nhặt được ở ngoài đường à?

- Ớ?!
Đường Nhất Tiên thoáng ngẩn ra, liền đó ngó sang Chính Đức cười ngặt nghẽo. Hoàng đế Chính Đức dở khóc dở cười, liếc Đường Nhất Tiên đang cười sằng sặc rồi chỉ vào mũi mình bảo:
- Hồi bẩm đại nhân, Tiểu Hoàng chính là tại hạ, tại hạ chính là Tiểu Hoàng.

Dương Lăng sợ giật nảy người, nhưng khi thấy hoàng đế Chính Đức đang rất lấy làm vui thích, y cũng không tiện nói gì thêm. Đường Nhất Tiên cười đến đỏ mặt đỏ mày, phất tay bảo Chính Đức:
- Đi, đến chỗ miệng giếng ở hậu viện đập lấy vài miếng nước đá vụn! Lấy thêm cái khăn mặt! Ta giúp biểu ca chườm một tí cho mau tan máu bầm.

- Ờ!
Chính Đức đáp, co giò định chạy đi, Dương Lăng vội gọi giật lại:
- Khoan đã, không cần đâu! Trán đã sưng rồi, chườm đá sẽ chỉ đau thêm thôi, để nó từ từ tự tan đi.

Chính Đức vừa dừng chân lại, Đường Nhất Tiên liền trừng mắt ngọc ra lệnh tiếp:
- Vậy thì đi tìm dịch thừa xin ít mỡ chồn* đi.
(*TheJoker: tra thấy con này giống con lửng, họ chồn núi, thôi thì gọi chung là chồn cho dễ hiểu)

Vừa định xoay người, Chính Đức nghe vậy lại vội chạy nhào đi. Dương Lăng vừa mới nhấc người lên, giơ tay, há miệng định nói gì thì hắn đã chạy mất. Y chưa biết phải làm sao thì Đường Nhất Tiên đã dìu y, khuyên bảo:
- Anh à! Anh ngồi xuống đi! Thật không biết anh kiếm ở đâu ra cái tên thân binh ngốc đó nữa, cái gì cũng không hiểu, cái gì cũng không biết, cái gì cũng phải để em dạy cho. Có điều... tính tình hắn cũng tốt, cả ngày cười hề hề, thực cũng không đáng ghét lắm.

Dương Lăng cười gượng mấy tiếng, thầm nhủ: "Không biết nói vậy có tính là báng bổ nhà vua không ta?"

Chính Đức nào biết dịch thừa đang ở chỗ nào, mà thật ra tất cả dịch thừa cũng đã bị đuổi đi từ trước rồi, trong cả dịch quán đều là người của Dương Lăng. Thế là hắn chạy một mạch về viện nhà mình, vừa hò hét một hồi thì ngay lập tức bọn thị vệ thủ hạ cuống cuồng chạy nháo nhào đi tìm thuốc, chỉ chốc sau liền đem về cho hắn sáu bảy lọ mỡ chồn. Chính Đức mừng rỡ lấy vạt áo bọc lại, lật đật chạy về thư phòng Dương Lăng.

Thuốc đưa thì chậm, nhưng mang đến lại nhiều, Đường Nhất Tiên lấy ngón tay vét một miếng mỡ chồn, vừa cẩn thận bôi lên trán Dương Lăng vừa cảm rảm càm ràm. Trước kia Đường Nhất Tiên được người ta dạy dỗ ở "Thì Hoa quán", Dương Lăng không hề biết cái miệng líu ríu này của nàng không hề được nhàn rỗi tí nào. Chính Đức đứng một bên gật đầu khom lưng, mặt mày tươi rói, bị nàng ta mắng mỏ mà lòng lâng lâng phơi phới, chả biết đến trời trăng mây gió gì nữa.

Dương Lăng thấy vậy, trong lòng vui mừng hết sức. Tuy rằng y phụng lệnh Chính Đức chuộc Đường Nhất Tiên ra khỏi "Thì Hoa quán", nếu vị cô nương này còn ở lại nơi đó, sớm muộn gì cũng sẽ là người mệnh khổ, trầm luân chốn khói hoa. Nhưng đã đích thân cứu cô nương này ra, y liền cảm thấy mình phải có một phần trách nhiệm săn sóc cô ta.

Thêm vào đó Đường Nhất Tiên đã vì mình mà rơi xuống vực mất trí nhớ, và nay lại có tình cảm như vậy với mình, nếu như Chính Đức chỉ chủ tâm đùa bỡn với nàng, hoặc Đường Nhất Tiên không thích Hoàng đế thì nhất định y sẽ tìm cách ngăn cản bọn họ gặp mặt. Song nay thấy Chính Đức yêu quý nàng như châu như ngọc, còn bên cạnh mình có nhiều thân binh như vậy nhưng Đường Nhất Thiên lại chỉ thích quở mắng đày đọa mỗi hắn, hiển nhiên giữa đôi thiếu nam thiếu nữ này đã hơi có tình cảm đặc biệt, chẳng qua bản thân nàng cũng chưa nhận ra mà thôi.

Dương Lăng nhè nhẹ thở ra một hơi dài, nghĩ thầm: "Trở về kinh phải bảo Văn Tâm nghĩ cách chữa trị cho nàng ấy xem sao. Dù sao thì mất kí ức vẫn là một điều phải nuối tiếc, chỉ còn lại thân xác, sao có thể xem là Đường Nhất Tiên trước kia được? Ái thê Tô Tam, Tuyết Lý Mai của mình cùng nàng ta tình như tỷ muội, kết giao với nhau từ nhỏ; nếu như không thể khôi phục lại trí nhớ của Nhất Tiên, hai nàng nhất định cũng sẽ hối tiếc suốt đời."

Đường Nhất Tiên bôi mỡ chồn xong xuôi một lượt, ngắm nghía kỹ lưỡng một hồi rồi chun mũi lại hết sức đáng yêu, cười khanh khách:
- Biểu ca! Giờ trán anh sáng ngời, ấn đường bóng loáng, ra đường nhất định sẽ nhặt được một thỏi vàng to.

Chính Đức cũng thích thú chen vào:
- Thỏi vàng thì có gì mà quí hiếm? Nhìn cái trán này ấy à, không luyện đến ba trăm năm đạo hạnh sẽ không có đâu. Lần này đại nhân ra ngoài, không biết chừng sẽ có thể nhặt được đại mỹ nhân về đây.

Đường Nhất Tiên trừng mắt với hắn, nhiếc móc:
- Ngươi suy nghĩ bậy bạ gì đó? Thật không biết lớn nhỏ gì cả! Nhặt mỹ nhân gì chứ, anh của ta mới tròn hai mươi thôi mà ta đã có tới ba biểu tẩu rồi.

Chính Đức bị bẽ mặt, ngượng ngùng im miệng. Đường Nhất Tiên nhướng đôi mày cong nhìn hắn tra hỏi:
- Sao? Ngươi không phục hả?

Chính Đức vội lắc đầu đáp:
- Không có! Đâu có! Nào dám! Ờm... Tôi đang nghĩ là... cả ngày ở riết trong dịch quán cũng không có chuyện gì làm, nếu ra ngoài đi dạo một chút thì… thật ra cũng không đến nỗi nào đâu.

Đường Nhất Tiên nghe vậy cũng hào hứng, tán đồng:
- Ừm, hai ngày trước ở trong vương phủ ta nghe nói ngày mai trên phố "Hoa lỗi" có trưng bày "Thập nhị cẩm bình". Bình phong có thể lấy ra cho người ta thưởng lãm như vậy, ắt hẳn đều là trân phẩm thượng hạng.

Khẽ cắn chiếc môi anh đào tươi tắn nghĩ ngợi một chốc, nàng giật nhẹ vạt áo Dương Lăng nài nỉ một cách đáng thương:
- Anh à! Ngày mai chúng mình đi xem một chút có được không?

Được?? Dẫn Đường Nhất Tiên đi đương nhiên là không thành vấn đề, nhưng "Tiểu Hoàng" sẽ chịu ở nhà sao? Mặc dù hiện trong thành Đại Đồng giống như binh doanh, có thể nói là đã rất an toàn rồi lại còn an toàn hơn nữa. Không ai có thể nhận ra Hoàng đế. Đừng nói là người trong Di Lặc giáo, thậm chí là quan viên toàn Đại Đồng đi chăng nữa, ngoại trừ mấy người Đại vương, Hồ Toản và Dương Nhất Thanh ra, cho dù Chính Đức đi ngay trước mặt bọn họ, chỉ cần hắn không mặc long bào thì ai biết được hắn là Hoàng đế?

Chớ nói là người ở nơi đây, ngay cả quan lại trong kinh, mấy người phẩm hàm thấp phải đứng xa xa hoặc mấy lão cận nặng vẫn vào chầu tuy trông thấy Hoàng đế mỗi ngày, song chỉ cần hắn không mặc long bào thì vẫn không thể nhận ra vị đại gia này. Thế nhưng bớt được việc nào hay việc nấy! Chỉ trong vòng vài ngày nữa Đoá Nhan Tam Vệ sẽ đến rồi, đừng để xảy ra chuyện gì thì vẫn hay hơn.

Thế nhưng tiểu mỹ nhân như Đường Nhất Tiên đã mềm mỏng yêu cầu thì quả thực không nỡ cự tuyệt. Dương Lăng định dằn lòng lắc đầu, chợt thấy Chính Đức đang đứng sau lưng Nhất Tiên vừa gật đầu vừa dựng tay như đao vung ra ngoài cửa, thái độ kiên quyết, như thể thúc giục y ưng thuận.

Đường Nhất Tiên dõi theo ánh mắt Dương Lăng nhìn ra đằng sau, trông thấy vậy không khỏi ngạc nhiên hỏi:
- Ngươi đang làm gì đấy?

Tay của Chính Đức đứng sựng lại trên không như bị vọp bẻ, một chốc sau hắn mới ấp úng:
- Tôi là thị vệ của đại nhân. Nếu đại nhân muốn ra ngoài, tôi đương nhiên phải hộ vệ bên người, ờ... tôi đang luyện tập võ công.

Đường Nhất Tiên bất giác rên lên một tiếng chán nản, lập tức giơ tay lên cốc vào đầu hắn một cái, giọng không vui:
- Đồ ngu! Chưa thấy ai ngu gì mà ngu dữ như ngươi vậy đó! Nước đến chân mới nhảy thì trễ quá rồi còn gì?

Hoàng đế Chính Đức cười gượng gạo không thôi. Dương Lăng suy nghĩ một chút song vẫn thấy không ổn. Việc bản thân y bị bắt cóc ngay trên một con phố sầm uất của kinh sư, coi như là nhất thời sơ ý mà bị lật thuyền trong cống đi, không tính. Nhưng hôm nay vốn đã sắp đặt mọi thứ thoả đáng, cục diện tróc nã thích khách bám đuôi đi theo vốn mười phần chắc chín rồi, thế mà đột nhiên từ trên trời rơi xuống một đội quân giặc Thát đến đánh cướp kiếm ăn, suýt tí nữa thì đã sinh ra lắm chuyện, có thể thấy trên đời không có gì là tuyệt đối.

Y bèn lắc đầu, ậm ờ đáp:
- Việc này... biểu ca vẫn còn rất nhiều công vụ phải làm, ngày mai có thời gian rỗi hay không cũng chưa thể nói trước được. Đến lúc đó hẵn tính nhé.

Đường Nhất Tiên ngoan ngoãn gật đầu:
- Ừm, vậy biểu ca nghỉ ngơi cho khoẻ. Anh mới ở bên ngoài về, chắc còn chưa ăn cơm phải không?

Đúng vào lúc này, Ngũ Hán Siêu chợt mở nhẹ cửa phòng bước vào. Vừa thấy Chính Đức và Đường Nhất Tiên đều có mặt ở trong phòng, chàng không khỏi hơi ngẩn người, rồi ôm quyền thưa:
- Ti chức ra mắt đại nhân, ra mắt tiểu thư.

Chính Đức và Đường Nhất Tiên quen trò chuyện cười đùa với nhau; Đường Nhất Tiên cũng không cảm thấy luôn miệng quát nạt hắn thì có gì là quá đáng, nhưng nàng lại rất tôn trọng những thuộc hạ khác của Dương Lăng. Nghe vậy, nàng liền cũng vội nghiêm chỉnh đáp lễ:
- Ra mắt Ngũ đại nhân!

Dương Lăng hỏi Ngũ hán Siêu:
- Sao? Có chuyện quan trọng gì à?

Ngũ Hán Siêu gật đầu đáp:
- Dạ, đại nhân! Có một chuyện quan trọng...,

Nói đến đây chàng ta thoáng ngừng lại. Đường Nhất Tiên hiểu ý, liền vội nói:
- Biểu ca bận bịu công vụ, để em đi làm vài món ăn thanh đạm, nấu một chén cháo tẻ xanh (*)cho anh.
(*: nguyên văn "bích canh": một loại gạo tốt, có màu xanh, nấu thơm; được sử dụng trong hoàng cung, nhà quý tộc)

Rồi như một chú chim én nhỏ, nàng nhẹ nhàng xoay người bước đi. Vừa đi được mấy bước, trông thấy Chính Đức vẫn còn đứng tại chỗ trong phòng, nàng liền gọi:
- Ngươi còn đứng ỳ ra đấy làm cái gì? Đi, giúp ta một tay! Đừng có làm vướng bận mọi người ở đây!

Chính Đức đành phải bất đắc dĩ bước theo nàng ra ngoài.

Dương Lăng vội hỏi Ngũ Hán Siêu:
- Có chuyện gì quan trọng vậy?

Ngũ Hán Siêu đến gần Dương Lăng thưa nhỏ:
- Binh mã của Miêu công công Tây xưởng và của tham tướng Hứa Thái đã trở về rồi.

Dương Lăng nghe xong liền phấn chấn tinh thần, mừng rỡ:
- Tốt quá! Chỉ gần năm nghìn tinh kỵ mà dám thâm nhập đại mạc, Miêu Quỳ vì lập công mà mạo hiểm quá rồi, bản quan vẫn luôn lo lắng cho bọn họ, bọn họ trở về thì tốt rồi. Hiện tại bọn họ đang đóng quân ở nơi nào? Bản quan phải đi thăm bọn họ mới được.

Vẻ mặt Ngũ Hán Siêu trở nên có phần cổ quái, chàng đáp:
- Dương tổng chế phái người phi ngựa đến báo, chính là muốn mời đại nhân đi. Bởi vì... bởi vì khi đại quân của Miêu công công và Hứa tham tướng trở về còn cướp thêm một người phụ nữ mang về nữa.

Dương Lăng nghe vậy liền sững người ra, lông mày nhíu lại.

Quân đội đơn độc ngoài biên tái, lúc nào cũng đối mặt với nguy hiểm chết người, y vốn cũng không hy vọng những mãnh tướng biên quân này dọc đường đánh giết sẽ không cướp đoạt tiền bạc châu báu, không lăng nhục phụ nữ. Thế nhưng ngang nhiên mang phụ nữ về là đã vi phạm quân kỷ nghiêm trọng rồi.

Miêu Quỳ là thái giám, tuy rằng thái giám cũng có kẻ thích mỹ nữ, song hiển nhiên Miêu Quỳ hứng thú với quyền lực hơn nhiều. Tự ý dẫn đàn bà về doanh, tám chín phần mười là chủ ý của vị võ trạng nguyên Hứa Thái rồi.

Không biết người phụ nữ nọ xinh đẹp đến cỡ nào mà có thể khiến cho Hứa tham tướng có tiền đồ như gấm lại dám bất chấp mối nguy bị ngự sử hặc tội mà cướp mang về?

Nghĩ đến đây, Dương Lăng không khỏi giật đánh thót trong lòng. Dương Nhất Thanh trị quân rất nghiêm, nhưng hắn mới tới, vẫn chưa thể tạo được đủ ân uy với tướng sĩ tam quan. Hứa Thái là bộ hạ của Tổng binh Đại Đồng Đỗ Nhân Quốc, lại là chiến tướng của cánh quân đơn độc xâm nhập đất giặc lập được công to. Ắt hẳn bởi không tiện lấy quân pháp chế tài hắn, cho nên Dương Nhất Thanh mới nhờ đến mình, vị khâm sai đại nhân có trách nhiệm tuần thị biên quan tay cầm Thượng Phương Bảo Kiếm, ra mặt.

Trị quân nghiêm cẩn cố nhiên được mọi người ủng hộ, nhưng vết tì sao che được ánh ngọc? Hứa Thái tập kích các bộ lạc Mông Cổ, tắm máu mà về, hắn còn chưa kịp nghỉ ngơi thì mình đã tế Thiên Tử Kiếm giết công thần rồi! Làm vậy sẽ có gây ảnh hưởng xấu với nhuệ khí và lòng quân hay không?

Dương Lăng nhíu mày đi tới đi lui mấy bước, chợt hỏi:
- Người báo tin đang ở đâu? Đã kể những gì?

Ngũ Hán Siêu đáp:
- Thưa đang chờ ở ngoài cổng gác ạ. Hắn nghe nói ti chức là thị vệ tùy thân của đại nhân mới bẩm báo rằng lai lịch của người phụ nữ này hết sức đáng ngờ. Dương tổng chế mời đại nhân lập tức đến Cổ Điếm một chuyến.

Dương Lăng nghe nói không phải là do muốn chém Hứa Thái giữ nghiêm quân kỷ mà do lai lịch kỳ quái của người phụ nữ bị bắt về thì mới thở phào hỏi tiếp:
- Lai lịch đáng ngờ?

Ngũ Hán Siêu gật đầu đáp:
- Dạ! Người phụ nữ này rất kín miệng, không tiết lộ gì về gia thế mình. Nhưng mà lúc Hứa tướng quân bắt mụ về, thị nữ đuổi theo gào khóc ở phía sau lại không ngừng réo gọi mụ là Khả gì đấy...

- Khả Đôn? - Dương Lăng rùng mình, kinh hãi - Hoàng hậu của Khả Hãn Mông Cổ?

Y lập tức đi đến bên tường lấy áo choàng, vừa đi ra ngoài vừa kích động bảo:
- Đi! Lập tức tìm Trương công công đến, cùng đi đến Cổ Điếm.








Chú thích:
(1) chữ lót (tên đệm), để phân biệt vai vế trong họ tộc.

Ví dụ: Vua Minh Mạng làm riêng cho con cháu mình bài “Đế hệ thi” gồm 20 chữ dành cho 20 đời:

Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh
Bảo Quí Định Long Trường
Hiền Năng Kham Kế Thuật
Thế Thụy Quốc Gia Xương

Con vua Minh Mạng có tên đệm là Miên như Miên Tông (Vua Thiệu Trị), Miên Thẩm (Tùng Thiện Vương), Miên Trinh (Tuy Lý Vương).
Cháu nội vua Minh Mạng có tên đệm là Hường như Hường Nhậm (Vua Tự Đức).
Chắt nội có tên đệm là Ưng như Ưng Chân (Vua Dục Đức).

Không biết dòng họ Trương đặt tên đệm theo qui tắc nào, nhưng ý của tác giả là Trương Dần có vai vế rất cao, nghĩa là các người họ Trương khác chỉ còn ít người ngang vai vế với hắn, còn lại chỉ ngang vai con, cháu, chắt của hắn mà thôi.

(2) Chức quan chuyên trách việc chỉnh quân (rèn luyện, đào tạo, khen thưởng,…) ở những vùng trọng yếu, thời Minh.





Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180&page=218
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
21-08-2012, 03:17 AM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 200 - Hoàng Hậu Của Thảo Nguyên



Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





- Nhất Tiên cô nương! Cô hãy yên tâm, tôi sẽ không để cô thất vọng đâu! Tiểu Hoàng sẽ vĩnh viễn không chỉ là một tiểu binh! Rồi sẽ có một ngày, tôi sẽ đứng trước thiên quân vạn mã bình thản chỉ huy, sai khiến thiên quân, lập được chiến công lừng lẫy, lưu danh thiên cổ, làm đại tướng quân. Đúng! Làm một đại tướng quân vĩ đại nhất từ trước tới nay!

Đường Nhất Tiên bật cười khúc khích, chống cằm liếc hắn đáp lời:
- Ta thất vọng làm gì nhỉ?! Ngươi có tiền đồ vẻ vang hay không thì có liên can gì tới ta chứ?







Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 200 - Hoàng Hậu Của Thảo Nguyên







-------------------Chương 200 - Hoàng Hậu Của Thảo Nguyên

------------------------

Đường Nhất Tiên bước dồn, tay bưng chén cháo gạo tẻ nóng hôi hổi. Chính Đức đi theo ngay phía sau, tay cầm hai đĩa thức ăn trông rất tinh xảo, vội vội vàng vàng đi đến thư phòng trong ánh mắt áy náy của bọn đại nội thị vệ. Lại thấy trên giường không một bóng người, Đường Nhất Tiên bèn đặt chén cháo xuống, bước nhanh ra cửa hỏi bọn thị vệ:
- Anh của ta đâu?

Một tay thị vệ cung kính đáp rất lễ phép:
- Thưa tiểu thư! Đại nhân nhận được một tin tức quan trọng, đã vội vã chạy đi gặp Dương tổng chế rồi ạ.

Đường Nhất Tiên thất vọng quay trở vào phòng, phụng phịu ngồi xuống chiếc ghế chủ soái của Dương Lăng, hờn dỗi:
- Biểu ca đâu phải là người sắt, cơm cũng không chịu ăn, thật là! Hoàng đế không sai ông lính đói mà, đâu ra kiểu dùng người như vậy chứ?!

Chính Đức hơi chột dạ, rụt cổ cười khan mấy tiếng, tay vẫn cầm hai món ăn không biết nên bỏ xuống hay làm gì.

Đường Nhất Tiên trừng mắt với hắn, nạt:
- Để xuống đi! Ngươi tính cầm đến khi biểu ca ta về à?!

Chính Đức đặt đồ ăn lên bàn, giọng ngưỡng mộ:
- Mỹ nhân rửa tay nấu canh! Không biết sau này công tử nhà ai có phước được nếm tay nghề của cô nương cô đây.

Đương Nhất Tiên nằm nhoài người lên bàn, tay chống cằm, cặp mắt mơ màng:
- Chuyện đó... ta cũng từng nghĩ tới. Phu quân của Đường Nhất Tiên ta nhất định phải là một người đàn ông đầu đội trời chân đạp đất, hiên ngang, có chí khí. Y phải có bản lĩnh cao cường, có thể bảo vệ ta, bảo vệ con dân Đại Đồng khỏi bị giặc Thát ức hiếp, có thể lập nên chiến công lẫy lừng, lưu danh thiên cổ!

Chính Đức ngắm vẻ mơ màng ao ước của nàng, không khỏi gợn sóng trong lòng bèn thập thò trước mặt Nhất Tiên. Nào ngờ nói xong, Đường Nhất Tiên lườm hắn rồi cất giọng răn dạy:
- Dù sao cũng không thể giống như ngươi được. Biểu ca thuộc giới thư sinh, lại ôm đồm mọi việc, dấn thân vào nơi hiểm cảnh cũng không sợ, còn ngươi thì sao?
Anh hùng không sợ xuất thân kém, chỉ sợ cả đời ôm mãi một nghề hèn. Những đại tướng quân đó không ai vừa sinh ra đã là tướng quân. Nhưng nếu ngươi cam tâm làm một tên tiểu binh cả đời, vậy thì sẽ không bao giờ có tương lai, chỉ có thể cả ngày chạy tới chạy lui hầu hạ người ta mà thôi.

Chính Đức đỏ mặt phản bác:
- Tôi đâu có tệ như vậy? Tôi cũng từng muốn kiến công lập nghiệp chứ bộ. Đây là bởi... là bởi đại nhân bảo tôi đi nghe cô sai bảo mà.

Đường Nhất Tiên khẽ hừ mũi, ngước mắt lườm hắn một cái, thấy hắn quẫn bách như vậy, không khỏi chợt mềm lòng bèn khuyến khích:
- Tiểu Hoàng à! Sáng nay ta thấy ngươi và đám thị vệ tỷ võ, tuổi ngươi dẫu còn trẻ song võ công lại rất khá. Sau này rảnh rỗi hãy đọc thêm một ít binh thư đi. Ngươi còn trẻ tuổi, sau này thành công, lập nên sự nghiệp, được bái tướng rồi làm một đại tướng quân tài kiêm văn võ sẽ tốt hơn nhiều.
Thật ra trước đây ta cũng vốn là kẻ hầu hạ người khác, hiện tại cũng không coi mình là đại tiểu thư. Thường ngày ta luôn mồm quát bảo ngươi chỉ bởi vì cảm thấy ngươi thật vui tính mà thôi, chứ không phải vì có ý muốn sai bảo ngươi đâu. Đàn ông các ngươi không thể so với đám phụ nữ chúng ta được, điều vinh quang của nam nhân nếu không là máu đổ sa trường thì là trị quốc an bang, tệ nhất cũng là làm một danh sĩ tài tử. Ngươi cần phải có một tí chí hướng mới phải!

Chính Đức nghe những lời nàng ấy nói xong thì cảm thấy xao động tâm tình. Hắn đỏ bừng khuôn mặt tuấn tú, im lặng hồi lâu mới trả lời, giọng chắc như đinh đóng cột:
- Nhất Tiên cô nương! Cô hãy yên tâm, tôi sẽ không để cô thất vọng đâu! Tiểu Hoàng sẽ vĩnh viễn không chỉ là một tiểu binh! Rồi sẽ có một ngày, tôi sẽ đứng trước thiên quân vạn mã bình thản chỉ huy, sai khiến thiên quân, lập được chiến công lừng lẫy, lưu danh thiên cổ, làm đại tướng quân. Đúng! Làm một đại tướng quân vĩ đại nhất từ trước tới nay!

Đường Nhất Tiên bật cười khúc khích, chống cằm liếc hắn đáp lời:
- Ta thất vọng làm gì nhỉ?! Ngươi có tiền đồ vẻ vang hay không thì có liên can gì tới ta chứ?

Nói xong nàng thu ánh mắt lại, trong lòng chợt xuất hiện cảm giác là lạ. Sóng mắt ngước lên, khéo chạm với ánh mắt si tình say đắm của Chính Đức, khuôn mặt xinh xắn chợt nóng bừng.

*****

Gió nổi, tuyết rơi bám đầy cung, đao.

Sáu mươi thớt chiến mã chạy ào ào qua khu phố thị thưa nhà, thẳng tới trấn Cổ Điếm ngoài thành bắc.

Đây là nơi trú quân, chỉnh đốn binh mã và nghỉ ngơi của Miêu Quỳ và Hứa Thái vừa tập kích Mông Cổ trở về.

Lần này Miêu Quỳ và Hứa Thái đã hoàn thành nhiệm vụ quấy rối sau lưng quân giặc một cách mỹ mãn, ý nghĩa của nó không thể nói là không lớn. Từ trước đến nay toàn là người Thát Đát vốn lấy du mục làm lẻ sống không ngừng xâm phạm biên cảnh cướp bóc. Lần này quân Minh chủ động xuất kích, xâm nhập vào thảo nguyên của giặc Thát, đả kích nhuệ khí và lòng quân của toàn thể bộ lạc Mông Cổ, khiến cho chúng hoang mang và sợ hãi hơn hẳn việc tiêu diệt mấy vạn thiết kỵ Mông Cổ trên đất Đại Minh.

Hơn nữa lần quấy rối này nhất định sẽ khiến các bộ lạc Mông Cổ vì sự sinh tồn mà sau kỳ vào xuân sẽ phát động một hồi nội chiến. Nếu như Đại Minh có thể nương theo xu thế mà đưa đẩy, giúp yếu diệt mạnh, lại tranh thủ thu lấy Đóa Nhan Tam Vệ vào tay, thì sẽ có thể khiến cho đại mạc mới hơi có dấu hiệu thống nhất lại tan thành nắm cát vụn, sa vào cái "loạn Chiến quốc". Nếu như Đại Minh lại thừa cơ mà xóa bỏ lệnh cấm, làm cho nước giàu, dân mạnh, luyện binh cường quân, thì mười năm sau, hai mươi năm sau sẽ...

Nghĩ đến đây, Dương Lăng không khỏi nóng rực trong lòng. Phía trước là một tòa tửu lầu hai tầng, cờ phướn màu đỏ lẫn đèn lồng đều trông có phần cũ rách. Trên nóc lầu cắm sừng sững lá cờ quân bằng da dê to và đỏ rực như máu và lá cờ soái viết hai chữ Miêu và Hứa, biểu thị rõ đây là nơi đồn trú của Hứa Thái và Miêu Quỳ.

Thiết kỵ chạy đến trước lầu, Dương Lăng lật đật xuống ngựa, thân binh dắt ngựa buộc sang một bên, Dương Lăng giũ giũ tuyết bám trên áo quần, nheo mắt ngước nhìn bầu trời mênh mông, mờ mịt.

Tuyết rơi như sương mù, tửu lầu cổ kính chìm vào trong tuyết, trắng xóa một màu, chỉ có cờ phướn và đèn lồng khẽ lay lay mang theo chút sắc đỏ nhàn nhạt. Lều trại chung quanh có binh tốt ra vào không ngừng, vài ba con chiến mã chốc chốc lại hí lên khe khẽ.

Trương Vĩnh cũng xuống ngựa, lúc này bên trong tửu lầu hay tin liền có một đám người chạy ra. Người đi đầu vừa trông thấy Dương Lăng và Trương Vĩnh liền vội mừng rỡ chạy tới chào hỏi:
- Dương đại nhân! Trương công công!
Vừa nói vừa bước tới chụp lấy cánh tay Dương Lăng.

Dương Lăng quét mắt nhìn, theo sau là Dương Nhất Thanh, Đỗ Nhân Quốc, bên cạnh còn có một vị tướng quân tuổi trạc hơn hai mươi, thân vận trang phục Mông Cổ, mặt vương đầy vẻ phong trần chưa kịp tẩy rửa cũng đang mỉm cười với mình. Trong lòng Dương Lăng chợt lóe linh quang, đoán ra người này ắt là Hứa Thái, Võ Cử trạng nguyên của hai năm về trước, nay là tham tướng Đại Đồng.

Khó trách bọn họ thuận lợi quét ngang đại mạc như vậy. Ngoài việc có được tin tức tình báo tỉ mỉ và bản đồ chuẩn xác do Nội xưởng cung cấp, binh sĩ kiêu dũng thiện chiến, xem ra việc dọc đường bọn họ cải trang giả dạng, ăn mặc thành người Thát Đát cũng là một trong những nguyên nhân thành công đây.

Dương Lăng không kịp nghĩ ngợi nhiều, lại nhìn kỹ Miêu Quỳ đang tràn đầy kích động đứng trước mặt. Vị xưởng công Tây xưởng vốn da mỏng thịt mềm đầy vẻ yếu đuối này nay cũng vận áo vải da thú thùng thình, mặt mày tay chân thô nhám, da dẻ đen nhẻm, nứt nẻ.

Bất chấp cái nguy hiểm giữa sự sống và cái chết mà xâm nhập vào đại mạc, nếm trải hết bấy nhiêu gian khổ, nói khó nghe một chút thì đó gọi là "tham cầu quyền thế", vậy phải tạo ra công lao gì, lập nên sự nghiệp gì mới được gọi là "kiến công lập nghiệp" đây? Ngay khoảnh khắc này, trong lòng Dương Lăng đã không còn bất cứ sự kì thị nào đối với vị Miêu công công này nữa.

Nắm chặt lấy tay Miêu Quỳ, y mỉm cười khích lệ:
- Xưởng công! Năm nghìn thiết kỵ càn quét sa mạc an toàn mà trở về, công lao to lớn của ngài nhất định sẽ được chép vào sử sách. Đại Minh mở mang bờ cõi, bình định giặc Thát là bắt đầu từ ngày hôm nay!

Miêu Quỳ nghe mà lệ nóng quanh tròng. Gần một tháng trời vào sinh ra tử, ngày ngày hành quân vào nơi chó ăn đá, gà ăn sỏi, nay sự cực khổ đó có thể nhận được sự đánh giá cao như vậy, có thể nhận được sự tôn trọng của người khác như vậy, khiến trong lòng lão xúc động khôn thôi.

Trương Vĩnh vốn là bộ hạ Tây xưởng, gặp lại thượng ty cũ cũng bước lên an ủi mấy câu. Vị tướng quân vận áo quần Mông cổ nọ mỉm cười chờ hai bên hàn huyên xong mới bước nhanh lên trước, quỳ một gối xuống, cao giọng hô:
- Mạt tướng Hứa Thái, bái kiến hai vị khâm sai đại nhân!

Dương Lăng và Trương Vĩnh vội vàng bước tới đỡ hắn lên, cười bảo:
- Tướng quân vất vả lập được công to, chớ nên khách sáo như vậy.

Dương Nhất Thanh cười to:
- Ha ha, nào nào! Bên ngoài trời tuyết lớn, chúng ta vào trong rồi nói tiếp.

Đám người vào trong lầu. Chính giữa căn phòng đặt một cái lò đất, chiếc nồi sắt trên lò đang sôi sùng sục, trong nồi đang ninh mấy miếng thịt dê lớn, bên cạnh là một chiếc bàn, trên bàn bày ra tỏi giã nhỏ, gia vị, một ít bánh nướng sữa, lương khô và vài chiếc bát to.

Dương Lăng không tiện hỏi ngay về chuyện vị Khả Đôn của Thát Đát nọ, bèn xoa xoa tay cười nói:
- Bát rượu to, miếng thịt lớn, được! Bụng tôi cũng thấy hơi đói rồi. Nào nào! Chúng ta hãy ngồi quanh lò uống rượu, vừa ăn vừa chuyện trò nào!

Đoàn người kéo đến đến ngồi vào bàn. Ngồi tại đây phần lớn đều là võ tướng, Dương Nhất Thanh tuy xuất thân là quan văn, nhưng ban đầu giữ chức Tây Lương dưỡng mã, tiếp đó làm trấn soái biên quan, nên cũng đã sớm bị "đồng hóa". Ngoại trừ Trương Vĩnh ăn uống còn hơi nhã nhặn, đám người này ai nấy đều như sói ăn hổ nuốt, không còn chút dáng vẻ nào là trọng thần trong triều.

Miêu Quỳ lăn lộn trong đại mạc một tháng trời nên đã sớm quen với mùi vị tanh nồng, lấy dao chọc vào miếng thịt dê to còn đỏ au màu máu bên trong rồi cho ngay vào miệng nhai luôn, thỉnh thoảng lại bưng bát hớp một ngụm rượu nóng. Vẻ hào sảng ấy thực còn đàn ông hơn cả đàn ông.

Miêu Quỳ và Hứa Thái đã thuật lại cho Dương Nhất Thanh nghe kỹ càng quá trình xâm nhập đại mạc, lúc này lại kể cho Dương Lăng và Trương Vĩnh nghe, tâm tình đã không còn quá kích động như trước nữa. Tự chôn người dưới hố để trốn tránh bạo tuyết cuồng phong, bất ngờ gặp phải bầy sói đói hung tàn, ban đêm tập kích thiêu đốt cướp bóc bộ lạc Thát Đát, từng mẩu chuyện được liên tục kể lại. Bất kể là sự phiêu lưu giữa ranh giới của sự sống và cái chết, hay chém giết thỏa thuê, hoặc máu thịt tung tóe, giờ đặt mình trong căn phòng ấm áp và thoải mái này, bọn họ lại cảm thấy như đang kể về một câu chuyện trong quá khứ xa xăm.

Đợi cho hai người kể xong, Dương Lăng mới thở ra một hơi thật dài, hỏi thăm:
- Nghe nói các vị trên đường về bắt được một người phụ nữ, là một vị Khả Đôn, chẳng lẽ là... hoàng hậu của Bá Nhan?

Hứa Thái lắc nhẹ đầu đáp:
- Khó nói! Lúc chúng tôi trở về gặp phải bão tuyết, nhất thời không phân biệt được phương hướng, nếu tiếp tục ở lại đó thì toàn quân sẽ chết cóng, đành phải tìm chỗ chắn gió để ẩn náu, vô tình phát hiện trong một thung lũng bên sườn núi có một bộ lạc Mông Cổ nhỏ. Vốn định thuận tay cướp bóc bọn chúng cho nên chúng tôi chỉ phái ra một nhóm trăm người, không ngờ bộ lạc nho nhỏ ấy lại không có người già và phụ nữ yếu đuối, tuy không có đến năm trăm người, song lại đều là dũng sĩ thiện chiến.
Mạt tướng thấy thế tấn công bị cản trở bèn lập tức dẫn toàn quân tấn kích, lúc ấy mới tiêu diệt hết bọn chúng. Có một thị nữ người Mông Cổ quýnh quáng chạy đến một căn lều lớn gào kêu Khả Đôn trốn đi, lính trinh sát của mạt tướng hiểu tiếng Thát Đát, bèn lập tức dẫn mạt tướng đuổi theo. Mạt tướng phát hiện người phụ nữ này ắt hẳn có lai lịch không tầm thường, nên mới dẫn bà ta trở về.

Trương Vĩnh ngạc nhiên hỏi:
- Nếu đã gọi là Khả Đôn, chẳng lẽ Bá Nhan còn có hoàng hậu thứ hai hay sao? Sao vẫn không thể xác định lai lịch của người đàn bà ấy?

Miêu Quỳ mỉm cười giải thích:
- Lão Trương à! Người Mông Cổ khác với người Hán chúng ta, vợ của Đại Hãn Mông Cổ và vợ của mấy thủ lĩnh bộ lạc lớn đều được xưng là Khả Đôn, ngoài ra hậu cung của Đại Hãn Mông Cổ thi hành chế độ "Oát Nhĩ Đóa". "Oát Nhĩ Đóa" là cung điện dưới hình thức lều trại, mỗi "Oát Nhĩ Đóa" đều có thể cho lập một hoàng hậu, dưới hoàng hậu lại có một số phi tần.

Dương Nhất Thanh tiếp lời:
- Cho nên một hoàng đế Mông Cổ có thể đồng thời có một, hai, thậm chí vài hoàng hậu. Người phụ nữ này hết sức quật cường, mặc cho chúng tôi tra hỏi thế nào cũng không hề hé lộ nửa lời về lai lịch mình, cho nên rất khó để xác định. Có điều nhìn vào năm trăm thiết kỵ dũng mãnh thiện chiến canh gác bên người, có thể thấy địa vị của Khả Đôn này nhất định không tầm thường.

Dương Lăng nghĩ ngợi một lúc rồi hỏi:
- Bà ta đang ở đâu? Chúng ta đi gặp thử một tí.

Mọi người đã ăn gần xong, Dương Nhất Thanh đứng dậy:
- Bà ta đang bị nhốt trên lầu, đưa đồ ăn thì không cự tuyệt nhưng khi hỏi thì không chịu mở miệng, sợ rằng sẽ không tra hỏi được gì. Nhưng mà lai lịch người phụ nữ này không tầm thường, phải thu xếp thế nào cho ổn thỏa thì chúng tôi lại nghĩ mãi không ra.

Đoàn người bước lên dãy cầu thang kẽo kẹt đi lên lầu hai. Thị vệ gác cửa trông thấy các vị đại nhân đến, vội vàng thi lễ nhường đường. Hứa Thái đi trước dẫn đầu, đẩy cửa phòng mời các quan lớn vào. Ngồi bên giường là một bà lão ăn mặc theo kiểu người Mông Cổ, đầu tóc bạc phơ, mặt đầy nếp nhăn. Nghe thấy tiếng động, bà lão quay ra, díp mắt lại quan sát bọn họ.

Dương Lăng rất đỗi bất ngờ. Bà lão này trông tuổi ít nhất cũng phải chừng sáu mươi, quần áo cũng hết sức bình thường, không giống phu nhân tù trưởng bộ lạc lớn có quyền có thế. Trong lúc bọn họ quan sát tỉ mỉ người phụ nữ già cả đó, bà ta cũng dùng cặp mắt sắc bén không tương xứng với tuổi tác quan sát kỹ bọn họmột hồi rồi chậm rãi dời ánh mắt đi.

Một thị vệ biết ngôn ngữ Thát Đát đứng bên cạnh quát lớn mấy tiếng với bà ta, bà lão liếc hắn một cách khinh miệt, không nói gì. Dương Lăng khẽ lắc đầu, thấp giọng nói với Hứa Thái:
- Bên người bà ta có vật gì có thể chứng minh danh phận không? Ví dụ như năm trăm thị vệ nọ, cờ xí có vẽ ký hiệu gì, thuộc về bộ lạc nào hay không?

Hứa Thái cũng thấp giọng đáp:
- Lạ là lạ ở chỗ đó. Trang sức trên thân ngựa, lều trại và quân giới của đám thị vệ đó đều hết sức tinh xảo. Theo lý thuyết thì trên đại mạc chỉ có đội thị vệ thân tín nhất của Bá Nhan Khả Hãn mới được trang bị như vậy, thế nhưng bộ lạc nho nhỏ năm trăm người này đều là chiến sĩ hạng nhất, được trang bị vũ khí tốt nhất.
Hơn nữa bọn chúng chừng như không phải đang bảo vệ bà lão này, mà là chịu trách nhiệm giám thị bà ta. Lúc chúng mạt tướng xông vào đại doanh, người thị nữ xông vào la bảo bà ta chạy đi lại bị quân Thát Đát canh giữ ngoài lều trại giết chết, ngay sau đó tên giặc Thát đó còn muốn giết bà lão này, mạt tướng phải bắn một phát tên giết chết hắn... Thật sự là kỳ quái.

Quả thật là kỳ lạ, vợ của nhân vật lớn nào lại phải dùng đến đội thiết kỵ tốt như vậy để bảo vệ? Phải biết rằng vào lúc bình thường, các bộ lạc muốn tập hợp một nghìn chiến sĩ trở lên đều không hề dễ; mà bộ lạc của bà lão này lại có đến năm trăm người bảo vệ, lại toàn bộ đều là chiến sĩ thuộc loại cang cường dũng cảm, hơn nữa trong bộ lạc không có đàn bà và trẻ em, hiển nhiên có người khác cung ứng mọi thứ cần thiết cho bọn họ. Vào lúc nguy cấp thị vệ lại dám tự ý giết bà ấy, rốt cuộc bà ta là ai? Là được bảo vệ hay là bị giam lỏng?

Được trang bị vũ khí, chiến giáp tinh xảo chỉ có ở đội hộ vệ cận thân của Bá Nhan Khả Hãn, một bộ lạc kỳ quái được tạo thành từ năm trăm tinh binh, thị vệ dám giết chủ vào lúc nguy cấp, phu nhân quí tộc Khả Đôn tuổi trạc lục tuần...

Hàn Lâm là thương nhân buôn lậu với người Mông Cổ lớn nhất ở Đại Đồng, thám thính được rất nhiều bí mật không mấy ai biết. Ngoại trừ những điều cơ mật về mặt quân sự, những tướng soái biên quan này không hề hay biết về những thứ khác, nhưng Dương Lăng lại biết rất rõ.

Y thoáng ngẫm nghĩ, chợt máy động trong lòng, bèn gọi viên thị vệ biết tiếng Thát Đát nọ nói nhỏ một hồi. Viên thị vệ nọ hơi ngẩn người, rồi xoay người thuật lại cho bà lão đó một lượt. Bà lão nọ nghe xong thì kinh hãi đến run lẩy bẩy. Bà lập cập đứng lên, gào thét mấy câu, hai mắt trợn trừng nhìn Dương Lăng như trông thấy quỷ dữ.

Thị vệ rất kinh ngạc, quay người lại khâm phục thưa:
- Đại nhân! Bà ta nói Bá Nhan là vua của thảo nguyên, là con cháu của Thành Cát Tư Hãn, sẽ không thể thất bại. Cho dù Hỏa Sư có dã tâm cũng quyết không dám phản bội hắn, y không có thực lực đó, không có danh vọng đó, nhưng lại có trí tuệ biết cân nhắc lợi hại. Bà ta bảo chúng ta nói xằng.

Hoa đèn chợt loé sáng, ánh mắt Dương Lăng cũng loé lên. Từ sự quan tâm chú ý và phản ứng dữ dội của bà lão này đối với lời nói của y, y đã xác định được lý lịch của bà lão này đến tám phần. Dương Lăng mỉm cười vỗ vai viên thị vệ nọ, thử thăm dò lần cuối:
- Nói với bà ta vừa rồi đích thực là ta nói xằng. Song Bá Nhan sớm muộn gì nhất định cũng sẽ thua vào tay ta, xin Mãn Đô Hải hoàng hậu bệ hạ hãy rửa mắt chờ xem!





Chú thích:





Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180&page=218
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
24-08-2012, 09:44 AM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 201 - Kẻ Ác Rục Rịch


Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





"Oanh Nhi... Dù sao đi chăng nữa thì vẫn là thê tử của mình, nàng ta sẽ không phá dỡ bệ đứng của mình. Hoắc ngũ thúc túc trí đa mưu, biết cái gì thì nên nói cái gì thì không nên nói. Nhưng mấy cái tên thẳng như ruột ngựa này thì phải xử lí thế nào đây? Bảo bọn chúng giúp mình lừa gạt người khác à? Những lời như vậy biết mở miệng nói như thế nào đây?"

Dương Hổ lặng lẽ bước đi, ngước nhìn những ngôi sao lạnh lẽo trên bầu trời xa xa, đầu óc xoay vần mấy bận, vẻ âm u trong mắt dần ngưng lại thành một đường. Hắn siết chặt nắm đấm, ý nghĩ từng thoáng qua trong đầu nay lại trở về, cắn lấy tim hắn như một con rắn độc, từng chút từng chút một tiết nọc độc vào lòng hắn: "Kẻ làm nên đại sự không được câu nệ tiểu tiết! Bậc đại trượng phu không thể không nhẫn tâm!"







Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 201 - Kẻ Ác Rục Rịch





Chương 201 - Kẻ Ác Rục Rịch

------------------------

Nghe xong một hồi đối đáp giữa y và viên thị vệ nọ, đám người Dương Nhất Thanh chấn động toàn thân, hết nhìn bà lão có dung mạo tầm thường nọ lại nhìn sang Dương Lăng, đầy vẻ kinh ngạc lẫn nghi ngờ khó tin.

Bà lão nghe thị vệ nọ chuyển lời xong, khinh miệt lầm bầm mấy câu bằng tiếng Mông Cổ, nhưng liền tỉnh ngộ đã lỡ lời, bèn trừng to cặp mắt già nua nhìn Dương Lăng chằm chằm.

Khi thấy viên thị vệ nọ quay đầu nói với viên tướng lĩnh trẻ tuổi có khí chất trầm tĩnh đó mấy câu tiếng Hán, rồi trên khuôn mặt y hiện lên nụ cười đắc ý và rạng rỡ thì Mãn Đô Hải liền hiểu rằng mình nhất thời không cẩn thận suy xét kỹ nên đã bị y khéo dùng lời lừa gạt mà vạch trần được lai lịch thật sự của mình rôi.

Bà lão ngồi bệt xuống giường như một quả bóng xì hơi, liền đó lại ngước đầu lên nói to mấy câu, thị vệ quay đầu lại báo với Dương Lăng:
- Đại nhân! Bà ta nói đại nhân đừng uổng phí tâm cơ nữa, chúng ta không thể dùng bà ta để uy hiếp được ai đâu. Sinh mạng là do Phật Tổ ban cho, bà ta tuy quý nó, nhưng vì thảo nguyên đại mạc, bà ta có thể hy sinh bản thân bất cứ lúc nào.

Dương Lăng mỉm cười, trịnh trọng nói với Mãn Đô Hải:
- Đứng về phương diện cá nhân, ta rất khâm phục Hoàng hậu bệ hạ vì đại mạc mà sẵn sàng trả mọi giá. Bệ hạ yêu quý tính mạng người Mông Cổ, nhưng tính mạng người Hán cũng trân quý như vậy! Chúng ta tuyệt không phải là dê bò gà chim trong mắt các vị!

Thị vệ quay người dịch lại, trong lúc đó Dương Lăng quay sang bảo với thủ lĩnh thị vệ:
- Trông chừng bà ta! Bà lão này là một nhân vật hết sức quan trọng, các người không được rời mắt khỏi bà ta!

Tuy viên thủ lĩnh thị vệ không biết Dương Lăng là khâm sa, nhưng thấy Dương Lăng ra lệnh thẳng cho mình mà đại tướng quân tổng chế tam quan vẫn đứng một bên mà không nói gì, liền biết ngay rằng người này ắt hẳn là một vị quan lớn có phẩm hàm cao lắm. Hắn bèn vội khép na khép nép dạ một tiếng, rồi gọi mấy tay thị vệ vào trong phòng trông chừng mọi cử động của bà lão.

Dương Lăng cùng đám người Dương Nhất Thanh đi xuống lầu. Vừa xuống dưới lầu, Dương Nhất Thanh liền không nhịn được, hỏi ngay:
- Dương xưởng đốc! Bà lão này chính là... chính là Mãn Đô Hải hoàng hậu của Bá Nhan Khả Hãn ư? Không phải trên thảo nguyên có truyền thuyết nói rằng bà ấy đã bị bệnh qua đời rồi sao?

Dương Lăng cười đáp:
- Bà ta không phải là nhân vật trong truyền thuyết, thì việc sống hay chết của bà ta cần gì phải liên quan đến truyền thuyết? Đã là truyền thuyết thì ắt không phải là chuyện thật rồi.

Đỗ Nhân Quốc vỗ trán kinh ngạc thốt:
- Dương khâm sai thực lợi hại! Ti chức bị Khả Đôn này đến Khả Đôn nọ đôn đến lùng bùng cả tai, mất cả phương hướng, nghĩ đến tét đầu cũng không nghĩ ra bà ta là Mãn Đô Hải hiển hách một thời.
Người phụ nữ này thực là lợi hại, năm xưa dẫn thằng nhóc Khả Hãn mới tám tuổi chinh phạt Ngoã Thích, đánh Ngoã Thích đại bại tại Tháp Bác Nhĩ Đồ, ra lệnh Ngoã Thích từ đó trở đi không được gọi nhà cửa là cung điện, mũ đội đầu không được quá bốn sợi dây tua, ở nhà phải quỳ chứ không được ngồi, ăn thịt chỉ được dùng răng xé mà không cho dùng dao xắt, còn đổi tên thánh địa Ô Tô Khắc thành... cái tên gì mà giống tên loài cá vậy. Thực không thể tưởng tượng nữ anh hùng bá đạo như thế lại là một bà lão bình thường không chút bắt mắt này.

Dương Nhất Thanh khẽ thở dài:
- Phượng hoàng rụng cánh không bằng gà mái, danh oai một cõi là nhờ có quyền lực, mà bà ta... bất luận là tự nguyện hay bị bức bách đều hiển nhiễn đã rời xa quyền bính.
Làm sao mà Dương đại nhân lại nhận ra được bà ta vậy?

Dương Lăng đáp:
- Xưa nay tiến hành chiến tranh không chỉ đơn thuần là đánh giết. Năm xưa Lưu Bang bị vây trên núi Bạch Đăng, thiên quân vạn mã đều không thể đánh lui, nhờ Trần Bình hiến diệu kế, chỉ dựa vào một bức tranh mỹ nữ mà đã khiến bốn mươi vạn đại quân Hung Nô ngoan ngoãn lui chân (1). Những chuyện có khả năng ảnh hưởng đến chiến cuộc thật sự là rất nhiều, cho nên khi thám tử Nội xưởng thâm nhập vào đại mạc, bản quan đã hạ lệnh bất luận là tin tức gì đều phải ghi chép cẩn thận tỉ mỉ rồi đưa về.
Vì vậy bản quan mới hiểu rõ hơn về những ân oán tình thù giữa các bộ lạc Thát Đát, chuyện nhà chuyện cửa của các tù trưởng quý tộc. Do đó, bản quan đã biết chút ít bí mật về Mãn Đô Hải, lại cộng thêm tình tiết khi Miêu công công và Hứa tướng quân bắt người trở về, bản quan nối kết lại, suy đoán và đối chiếu lẫn nhau mới đoán ra được mấy phần.

Cả bọn cùng trở về bàn ngồi. Nghĩ tới người mà mình tự tay bắt được là phu nhân của Bá Nhan Khả Hãn, là Mãn Đô Hải Tư Cầm oai danh hiển hách trên thảo nguyên, chẳng khác nào lại có thêm kỳ công bên trên kỳ công, Miêu công công không khỏi tươi cười rạng rỡ:
- Bà lão này là hoàng hậu của Bá Nhan sao? Ha ha ha! Thật không ngờ! Thật không ngờ! Đúng là nhặt được quả trứng vàng trong đống củi. Vừa rồi Dương đại nhân đã nói với bà ta những gì mà khiến bà ta phải mở miệng thừa nhận vậy?

Dương Lăng cười đáp:
- Hỏa Sư từ lâu đã mang lòng không thần phục, chỉ là thế cô sức yếu nên không dám công khai phản kháng. Người mà Hỏa Sư cưới là con gái của Mãn Đô Hải, công chúa Y Khắc Tích, cho nên nhất định Mãn Đô Hải thấu hiểu phần nào dã tâm của hắn. Khi nãy tôi gạt bà ta, bảo rằng bà hãy cứ yên tâm ở lại nơi đây, Hỏa Sư đã liên thủ cùng chúng ta, cho nên chúng ta tịnh không có ác ý với bà; đợi khi Hỏa Sư tập kích giết chết được Bá Nhan, Đại Minh cùng Thát Đát giao hảo rồi, sẽ đưa bà ta trở về.
Trong cơn giận dữ, giọng điệu phản bác của bà ta rất oai nghiêm, khí thế bức nhân, như thể còn đứng trên cả Hỏa Sư và Bá Nhan vậy. Trong số các phụ nữ vương công quý tộc của Thát Đát, ngoại trừ Mãn Đô Hải, còn ai là người có tư cách này? Tôi lại tiếp tục vạch rõ lai lịch bà ấy, trông thấy vẻ mặt của bà ấy thì tôi liền không nghi ngờ gì nữa.

Trương Vĩnh nghi hoặc hỏi:
- Chuyện về Mãn Đô Hải, sau khi đến Đại Đồng ta cũng biết sơ được một ít. Bà ta là tiểu cáp đồn (phu nhân) của Khả Hãn Mãn Đô Lỗ. Mãn Đô Lỗ chết đi, bà ta được gả cho đứa cháu trai Bá Nhan của hắn, vẫn luôn nắm giữ quyền cao của Thát Đát. Gần năm sáu năm trở lại đây, quyền bính Bá Nhan mỗi lúc một tăng, vị phu nhân này lại dần dần biến mất tăm mất tích, trông tình hình này, chắc là bị Bá Nhan giam lỏng đây. Nay Bá Nhan đã gần như thống nhất các bộ lạc Mông Cổ, thanh danh như mặt trời ban trưa, một bà lão sắp chết như bà ta thì có thể có tác dụng gì?

Dương Lăng lục lọc trong trí nhớ những tài liệu về vị hoàng hậu này do Hàn Lâm đưa đến, sau đó bảo:
- Mãn Đô Hải là người thuộc bộ lạc Sách Cổ Uông Cổ, cha là quý tộc Mông Cổ, từng nhậm chức Thừa tướng. Bà ta được gả làm tiểu cáp đồn (phu nhân) của Mãn Đô Lỗ, hạ sinh hai người con gái. Trưởng nữ là công chúa Bác La Khắc Sấm, gả cho Thái sư Gia Tư Lan; thứ nữ là công chúa Y Khắc Tích, gả cho Hỏa Sư. Hai người con rể này đều là thủ lĩnh những nhóm bộ lạc lớn của Mông Cổ.
Sau khi thành thân cùng với Bá Nhan khi ấy mới bảy tuổi, Mãn Đô Hải từng nắm quyền triều chính hơn mười năm, chinh phạt Ngoã Thích, đánh bại thủ lĩnh quyền thần quý tộc khác họ của Mông Cổ khi ấy là Diệc Tư Mã Nhân. Có thể nói phần lớn mãnh tướng dưới trướng Bá Nhan đều nghe theo lệnh bà ấy. Đồng thời bà ta còn sinh cho Bá Nhan bảy nam một nữ, cho nên bất luận là đối với vương tộc Thát Đát hay quý tộc của các bộ lạc, bà ta đều có sức hiệu triệu và ảnh hưởng to lớn vô cùng.

Dương Nhất Thanh lo lắng:
- Chỉ e không được lạc quan như vậy! Theo tình hình mà Hứa Thái trông thấy, có lẽ sau khi Bá Nhan trưởng thành, hắn bắt đầu e ngại quyền lực và sức ảnh hưởng của hoàng hậu hơn xa mình cho nên mới giam lỏng bà ta lại. Có điều sức ảnh hưởng của bà ta thật sự quá lớn, Bá Nhan cũng không dám xem nhẹ mà giết chết bà ta; nên hắn ta đành phải phao tin đồn trước, thử thăm dò phản ứng của các bộ lạc.
Bà ta nằm trong tay Bá Nhan, hắn giết cũng không được mà giữ cũng không xong. Nay bà ta rơi vào tay chúng ta rồi, chỉ sợ ngược lại Bá Nhan sẽ vỗ trán kêu may đây. Đại nhân cũng đã thấy đấy, bà lão này hết lòng hết dạ với bộ tộc Mông Cổ mình, vốn không hề để tâm đến tư oán tình thù riêng giữa bà ta và Bá Nhân. Chắc chắn bà ta sẽ không bao giờ đích thân đứng ra lợi dụng sức hiệu triệu của mình để đối kháng với Bá Nhan đâu!
Hơn nữa bà ta xa rời bộ lạc Mông Cổ, càng có lợi cho Bá Nhan thu gom đại quyền vào trong tay mình. Nếu hắn thông minh, tạo dư luận rộng rãi nói rằng phu nhân bị chúng ta bắt đi, khiến cho tất cả bọn chúng cùng chung thù địch... Ti chức lại thấy... lần này chúng ta đã giúp cho Bá Nhan rất nhiều rồi.

Miêu Quỳ và Hứa Thái nghe vậy thì đều thấp thỏm trong lòng. Dương Lăng lắc đầu cười bảo:
- Tiếc là hắn không nên phao tin đồn rằng Mãn Đô Hải đã chết quá sớm, càng không nên cầm tù bà ta bên ngoài bộ lạc một mình. Nay hắn làm vậy chẳng phải là tự vả miệng mình ư? Trước khi biết rõ Mãn Đô Hải sống hay chết, Bá Nhan ắt phải ngồi im quan sát tình hình, thậm chí che giấu tin tức. Có điều không biết hiện tại hắn đã biết được bao nhiêu?

Hứa Thái thoáng chần chừ, gian nan nuốt ngụm nước bọt, đành thú thật:
- Đại nhân! Doanh trại mà chúng tôi tập kích... tuyệt đối không còn nhân chứng sống. Hơn nữa, lúc hành quân trong đại mạc, chúng tôi đều cải trang thành người Mông Cổ nên cho dù Bá Nhan có hoài nghi cũng chưa chắc dám kết luận là do chúng ta làm.

Dương Lăng nghe xong, thoạt tiên hơi ngẩn ra, liền đó sực hiểu những người Thát Đát phụ trách giam lỏng Mãn Đô Hải đều đã bị giết sạch. Thị nữ nọ e rằng trong loạn quân đã.... Hứa Thái vì biết chuyện này hệ trọng, nên sau khi cân nhắc kỹ lưỡng hắn mới đành thú thật.

Y thầm thở dài, đành làm ra vẻ như không biết gì, chỉ nói:
- Hắn nắm bắt tình huống không chuẩn, vậy chi bằng chúng ta cứ lấy tĩnh chế động. Bảo mật nghiêm ngặt tin tức Mãn Đô Hải Khả Đôn rơi vào trong tay chúng ta.
Về phần Mãn Đô Hải có chịu phối hợp với chúng ta hay không thì thực ra cũng không cần. Loài sói có dã tâm trên thảo nguyên không chỉ có một hai con, không cần Mãn Đô Hải phải làm gì cả, kẻ có dã tâm chỉ cần biết tình cảnh của bà ta, tự nhiên sẽ lợi dụng bà ta để gây loạn.

Y nhìn mọi người chung quanh, nhón lấy một miếng thịt thả vào trong nồi nước sôi, mỉm cười nói tiếp:
- Thành bởi Tiêu Hà, mà bại cũng bởi Tiêu Hà(2). Bà ta đã thúc đẩy nên sự cường đại của Thát Đát, sự suy bại cũng sẽ bởi bà ấy mà bắt đầu. Mặt hàng này đáng đầu cơ à nha!
Dương tổng chế! Chuyện này nên bẩm cho Đại vương hay, tìm một chỗ trọ trong thành Đại Đồng, bố trí hết sức ổn thỏa cho bà ta, tuyệt đối phải giữ tin tức bí mật. Bà ta nặng lòng với thảo nguyên, chỉ cần không ép bà ta làm bất cứ chuyện gì, bà ta sẽ tiếp tục sống tốt. Đợi đến khi con mãnh hổ nào đó mọc đủ nanh rồi, nóng lòng muốn thử với Bá Nhan, chúng ta sẽ lại giao bà ấy ra, chắp thêm cho con mãnh hổ đó một đôi cánh.

Tuy Dương Lăng nói với ngữ khí bình thản, nhưng với mọi người có mặt tại đây, bất luận là văn hay võ, đều có thể cảm nhận được mùi vị máu tanh trong đó. Trương Vĩnh và Miêu Quỳ không khỏi trộm ngó y, thầm nhủ: "Tên này, cũng khá là ác độc đây!"

Đỗ Nhân Quốc lại cười lớn một cách hào sảng, tán tụng:
- Hay! Kế này hay lắm! Mẹ nó! Mỗi năm không biết bao nhiêu dân chúng mất nhà, bao nhiêu phụ nữ thắt cổ, bao nhiêu người xa vợ mất con thê thảm vô cùng! Đối với bọn giặc Thát này thì không thể có lòng dạ đàn bà được!
Khâm sai đại nhân thực có bản lĩnh! Bản tướng giết người phải động đao mới thấy máu, ngài chỉ khua chút môi mép, số người bị giết e rằng còn nhiều hơn bản tướng nữa. Ừm... Những kẻ đọc sách đúng là không tầm thường, đây gọi là cái gì ấy nhỉ? Đúng rồi, "trong sách tự có lưỡi đao to"!

*****

Sơn trại Tiêu gia không hề nhỏ, chỗ mà Dương Hổ nói đến chẳng qua chỉ là một thôn núi nhỏ thuộc Tiêu gia trại mà thôi. Trại này nằm trên lưng chừng núi, về phía đông của núi Tuyết Phong, dân chúng rất ít khi ra khỏi núi, thi thoảng khi có thân thích đến thăm thì hàng xóm láng giềng đều thấy rõ cả, vì vậy Dương Hổ đợi đến khi bóng đêm chìm sâu mới lặng lẽ vào núi.

Khi buôn lậu tuấn mã ở quan ngoại để gom góp tiền tài hắn từng qua lại nơi này nhiều lần nên quen thuộc đường đi nước bước. Đi đến trước một căn nhà, hắn đưa tay gõ cửa, giữa tiếng chó sủa inh ỏi, Tiêu lão tứ khoác áo bông dày cộm, tay cầm chiếc đèn lồng ra mở cửa. Trông thấy đám người Dương Hổ, lão hoảng sợ giật nảy cả người, liền vội kêu bọn họ đi vào.

Tiêu lão tứ chỉ làm mã tặc được chưa tới hai năm thì đùi đã bị chém lúc quan binh truy quét, nên mới rời khỏi Bá Châu trở về quê nhà. Lúc còn buôn lậu ngựa, Dương Hổ thường hay đến chỗ này nghỉ qua đêm.

Tiêu lão tứ lặng lẽ đưa mọi người đến hậu viện để ở, rồi mới kéo tay Dương Hổ lo lắng bảo:
- Dương lão đại, anh điên rồi sao? Lúc này đang là lúc nào? Hơn mười vạn đại quân đang đánh nhau cả trong lẫn ngoài quan ải, thời buổi này ai dám bán ngựa cho anh chứ?! Ngộ nhỡ bị quan quân coi là gian tế, lúc đó có chạy cũng không kịp đâu.

Vì Tiêu lão tứ đã rút chân ra khỏi chốn giang hồ nên Dương Hổ không dám kể với lão chuyện lớn như mưu hành thích Hoàng đế, hắn chỉ cười bảo:
- Tiêu tứ ca nói đúng lắm! Ta cũng vì không hiểu tình hình, tưởng rằng có cơ hội kiếm ăn nào ngờ đến giờ ngay cả một thớt ngựa cũng không thu mua được. Định rời khỏi đây nhưng dọc đường trạm gác trùng trùng, hết cách mới đành đến chỗ anh đây tránh chút gió(*), đợi hơi bớt gió rồi lại đi.
(*) tiếng lóng của dân giang hồ, ý đợi qua cơn nguy hiểm.

Nói đoạn Dương Hổ móc từ trong người ra mấy viên vàng như hạt đậu, tròn nhẵn, vàng óng, nhét vào trong tay lão Tứ, cười bảo:
- Tứ ca sống giữa nơi núi hoang này cũng không dễ thở gì. Nuôi người, nuôi ngựa không thể dùng tiền của anh được, đây, hãy cầm tạm lấy mấy cục vàng này.

Tiêu lão tứ biết mấy viên vàng này chả phải có nguồn gốc tốt đẹp gì, thế là liền không khách sáo mà nhận luôn, rồi nói nhỏ:
- Trú lại nơi đây cũng không sao. Tôi đang kiêm nhiệm chức bảo trưởng, trong thôn đều là người miền núi hiền lành nhút nhát, cả đời chưa từng vào huyện lị, biết có khách đến nhà cũng sẽ không nói năng gì đâu. Khi nào bớt gió rồi thì hãy tranh thủ đi đi, lúc nay buôn bán không dễ đâu.

Phía sau là một dãy gian nhà thềm đá tường đất mái rơm, gian giữa trông còn tốt một chút, là chỗ trọ của vợ chồng Dương Hổ. Sau khi thu xếp cho mấy người bọn họ vào ở trong hậu viện ổn thỏa xong, Tiêu lão tứ tự thân đem ít thức ăn đơn giản tới.

Dương Hổ lếch thếch tiễn Tiêu lão tứ ra khỏi hậu viện. Khi trở lại dưới mái hiên để quay về phòng, hắn chợt loáng thoáng nghe thấy giữa câu chuyện trò của gian phòng bên trái dường như có nhắc đến tên mình, bước chân bất giác thoáng dừng lại, lặng lẽ bước qua.

Căn phòng này đã lâu không có người trú ngụ, cửa sổ đã rách, giấy chắn cửa sổ bay phần phật để lộ ra mấy khe hở. Dương Hổ ghé mắt nhìn vào bên trong, thấy rõ Phùng Phúc Chí và Lang lão nhị biệt hiệu là "Đại Vĩ Ba Lang" (sói đuôi lớn - ND), cùng Hồ Đại Chùy đang trú trong gian phòng này.

Phùng Phúc Chí vừa nhét thêm củi vào trong hốc lò sưởi giữa giường vừa lải nhải: \
- Hôm nay chúng ta cũng thấy sự dũng mãnh của quan quân rồi đó. Cái tên thiên tổng được gọi là Quỷ vương đó, ông trời ạ, đáng là hảo hán ngồi ghế trại chủ trong giới lục lâm chúng ta à nha!Ta thấy Hổ ca cũng chưa chắc đã là đối thủ của hắn. Một đao chém đôi con ngựa, rõ thực oai phong, chậc chậc chậc!

Hồ Đại Chùy mặt mày ủ ê, tiếp lời:
- Lúc còn ở Bá Châu, thấy bộ dạng nhút nhát, hèn yếu của bọn quan binh đó ta còn tưởng là quan binh trên đời đều như vậy. Ôi, rốt cuộc hai trăm hán tử võ công cao cường bị người ta một phát nuốt sạch, chân mày cũng không thèm nhíu lấy một cái.
Không cần nhắc đến oai phong của quan binh hôm nay, chỉ nói nếu không phải may mắn được đám giặc Thát đó kéo đến, chúng ta trúng phải kế của Dương Lăng, gần trăm cân thịt này đã chôn hết ở đó rồi. Giết hoàng đế? Đến lúc này ngay cả cái bóng của Hoàng đế cũng còn chưa thấy nữa là!
Đại Vĩ Ba Lang nhếch miệng xoa chân, cười hắc hắc bảo: - Sẵn tiện nói luôn, các ngươi có để ý đến Khoá Hổ tẩu tử không? Hình như là chị ấy đối xử với tên đại quan họ Dương nọ không bình thường đâu nha!
Từ lúc đến sơn trại chúng ta, các ngươi có thấy tẩu tử nhỏ nhẹ mềm mỏng với ai bao giờ không? Vậy mà lúc trò chuyện với tên khâm sai họ Dương đó thì lại nhu hoà cứ như khuê nữ ấy; ngoan ngoãn nghe lời, ngượng ngùng bẽn lẽn, chậc chậc chậc...!
Này, Đại Chùy! Lúc ở kinh sư có phải Hổ tẩu đã bắt giữ tên họ Dương đó hai ngày không? Có phải do ở chung lâu ngày nên nảy sinh tình cảm không? Nghe nói những kẻ đọc sách đều cùng một giuộc như nhau, bụng dạ gian xảo, rất giỏi lừa gạt người khác. Bằng không thì Hồng Phất Nữ làm sao mà một lòng một dạ đi theo Lý Tịnh, kiên quyết không thích Cầu Nhiêm Khách (2)? Hổ tẩu của chúng ta lớn lên trong giới lục lâm, chưa từng gặp phải một vị thầy biết chữ nào, không chừng...

Dương Hổ nghe vậy giận bừng cả mặt. Khi nàng vừa thoát ra khỏi hang, ánh mắt lẩn tránh đó của Hồng Nương Tử đã khiến hắn sinh lòng nghi ngờ, chỉ là nhớ lại tính tình xưa nay của nương tử nên mới dẹp tan lo nghĩ trong lòng. Không ngờ đám huynh đệ này cũng nhận biết được, còn túm nhau nói bậy nói bạ sau lưng, làm sao mình ra mặt dẹp yên chuyện này đây?

Càng nghĩ càng giận, đang định dứt người rời đi, chợt hắn thấy Phùng Phúc Chí lại vứt vài thanh củi vào lò, phủi tay rồi leo lên giường, uể oải mắng:
- Tránh cái chân thối của mày ra xa chút đi!

Đoạn hắn nằm soãi ra trên đầu giường, hai tay gối đầu, thở dài:
- Đừng nói đến mấy chuyện tào lao đó nữa, tẩu tử là người như thế nào chứ? Ta lại cảm thấy lời mà tẩu tử nói là sự thật. Chúng ta ở Bá Châu làm đại vương một núi, tiêu dao tự tại biết dường nào? Từ lúc xông vào kinh chạm mặt với vị Dương Lăng đó, là bắt đầu hao binh tổn tướng, đến cả sơn môn ở Bá Châu cũng bị quan binh quét sạch.
Lưu thần tiên! Hừ! Cái con mẹ nó, là người của Di Lặc giáo mà, đám yêu nhân đó nói năng có thể tin được hay sao? Nếu Hổ ca không phải là người được tiên đoán sẽ cai trị giang sơn thì khó rồi! Các huynh đệ phái chúng ta thì thôi không nói làm gì, nhưng nếu để các lộ hảo hán trên Ngoạ Hổ sơn đã quy thuận về chúng ta biết được, liệu bọn họ sẽ còn một lòng một dạ ủng hộ Hổ ca làm lão đại không?

Nghe đến dây thì Dương Hổ giận đến hai tay run lên bần bật. Lúc bắt đầu tụ tập đồng đảng ở sơn lâm, hắn tịnh không có dã tâm gì quá lớn. Nhưng khi bị Lưu thần tiên gạt gẫm, đưa lời tâng bốc hắn lại tin là thật, thế là lòng tham đâm chồi mọc rễ trong lòng, hiện đã bỏ vào biết bao tâm huyết đến thế, cứ lo suy tính suy nghĩ thiệt hơn nên hắn cũng không còn giữ được vẻ thoải mái như xưa nữa.

Sau ngày nghe được lời của Phùng Phúc Chí, ngoài mặt hắn điềm nhiên như không để tâm, kỳ thực trong lòng lại rất để ý. Những lời lừa gạt của Lưu thần tiên coi hắn là chân long thiên tử, sao Tử Vi chuyển thế từng là một món vũ khí sắc bén tạo nên thanh danh cho hắn, khích lệ hùng tâm của hắn, nay lại trở thành tâm bệnh của hắn, trở thành cái vảy ngược không cho ai chạm vào của hắn.

Nghe xong lời này của Phùng Phúc Chí, hắn chỉ cảm thấy huynh đệ mình đang phá dỡ bệ đứng của hắn. Thứ mà hắn càng cảm thấy lo sợ trong lòng thì lại càng bị Phùng Phúc Chí nói toạt ra hết, mà lại nói rất thật tình, khiến hắn nghe mà lửa giận bốc lên ngùn ngụt trong lòng. Nhưng hắn lại chột dạ nên không thể ra mặt, loại tâm tình phức tạp ấy thực khó diễn tả nên lời.

Dương Hổ thầm nghiến răng, một ý nghĩ ác độc dần hình thành từ sự tủi thẹn trong lòng: "Mình đã bỏ ra biết bao tâm huyết, bỏ ra biết bao nỗ lực. Nay mình đang mang danh vị đệ nhất hảo hán lục lâm phương bắc là do bọn họ tin mình có vận mệnh chân long thiên tử. Sau khi trở về, một khi bọn chúng để lộ tin tức, công lao mình há sẽ chẳng đổ sông đổ biển?"

"Oanh Nhi... Dù sao đi chăng nữa thì vẫn là thê tử của mình, nàng ta sẽ không phá dỡ bệ đứng của mình. Hoắc ngũ thúc túc trí đa mưu, biết cái gì thì nên nói cái gì thì không nên nói. Nhưng mấy cái tên thẳng như ruột ngựa này thì phải xử lí thế nào? Bảo bọn chúng giúp mình lừa gạt người khác à? Những lời như vậy biết mở miệng nói như thế nào đây?"

Dương Hổ lặng lẽ bước đi, ngước nhìn những ngôi sao lạnh lẽo trên bầu trời xa xa, đầu óc xoay vần mấy bận, vẻ âm u trong mắt dần ngưng lại thành một đường. Hắn siết chặt nắm đấm, ý nghĩ từng thoáng qua trong đầu nay lại trở về, cắn lấy tim hắn như một con rắn độc, từng chút từng chút một tiết nọc độc vào lòng hắn: "Kẻ làm nên đại sự không được câu nệ tiểu tiết! Bậc đại trượng phu không thể không nhẫn tâm!"




Chú thích:
(1) Theo kế của Trần Bình, Hán Đế cho người mang một bức tranh thiếu nữ trung nguyên rất đẹp đưa cho Yên Chi, vợ của Thiền vu Mặc Đốn của Hung Nô, nói với bà ta nếu Mặc Đốn thắng được Hán đế thì sẽ mê luyến gái Trung nguyên. Yên Chi ghen nên thuyết phục Mặc Đốn cho rút quân. Sau này, Lưu Bang từ bỏ ý định chinh phục đại mạc bằng quân sự, chuyển qua hòa hiếu bằng cách kết thân gia và cống phẩm cho các tù trưởng Hung Nô.

(2) nguyên văn "thành dã Tiêu Hà, bại dã Tiêu Hà". Tiêu Hà vốn là người huyện Bái (vùng Giang Tô ngày nay), là Thừa tướng nhà Hán. Tiêu Hà cùng với Trương Lương, Hàn Tín là "tam kiệt nhà Hán" ("phi Tam kiệt tất vô Hán thất" nghĩa là không có tam kiệt trợ giúp thì không có triều Hán). Ông có nhiều đóng góp cho thành công của Lưu Bang trong thời Hán Sở tranh hùng. Ông cũng là người có công giúp Hàn Tín đến với Lưu Bang nhưng đồng thời cũng có phần nào trách nhiệm trong cái chết của Hàn Tín, việc này đã trở thành một ngạn ngữ của Trung Quốc (成也蕭何,敗也蕭何, "thành dã Tiêu Hà, bại dã Tiêu Hà").

(3): Cầu Nhiêm Khách, Lý Tịnh, Hồng Phất nữ được gọi là Phong Trần Tam hiệp. Mời xem truyện Kẻ Râu Xồm
http://www.truyenviet.com/truyen-ngan/61-e-g/3609-ga-rau-xom







Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180&page=218
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
27-08-2012, 10:03 AM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 202: Ngươi Giết Ta, Ta Giết Hắn


Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Nghe được lời này của Dương Hổ, Thôi Oanh Nhi liền như trút được gánh nặng trong lòng: "Nếu như chỉ cần tạo hiện trạng giả hành thích khâm sai thì không khó gì. Chi bằng mình tương kế tựu kế, vừa có thể gạt đưa trượng phu về sơn trại, lại không cần phải thật sự gây hại đến tính mạng Dương Lăng."

Đảo mắt nhìn thấy sự quan tâm lo lắng trong mắt Dương Hổ, gò má nàng bất giác nóng lên, thầm cảm thấy hổ thẹn: "Vì một kẻ không liên can, sao mình lại có thể để chàng khó xử như vậy? Thôi đi! Mình còn vọng tưởng làm hiệp đạo(*) gì chứ? Nếu ông trời cho mình cơ hội ra tay, thì... đó sẽ là ý trời vậy. Ôi, Dương Lăng ngươi hãy tự thu xếp cho tốt đi..."







Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 202: Ngươi Giết Ta, Ta Giết Hắn




Chương 202: Ngươi Giết Ta, Ta Giết Hắn

Thôi Oanh Nhi lưu lạc bên ngoài một thân một mình, đã chưa tắm mấy ngày rồi, nên vừa thu xếp ổn thoả xong nàng liền xách vài thùng nước giếng về đun để tắm rửa. Các hộ sống trong núi đã đốn sẵn rất nhiều củi, khi nàng đun nước xong, nhiệt độ trong phòng tăng lên, cả căn phòng trở nên ấm áp.

Thôi Oanh Nhi đổ nước vào trong chiếc thùng tắm đơn sơ, bên trong trơn nhẵn, bên ngoài được bọc bằng vỏ cây tùng, rồi thử độ ấm thấy đã vừa. Nàng đi ra mở cửa phòng, trông thấy Dương Hổ vẫn đang đăm chiêu đi đi lại lại trong sân, hai tay chắp sau lưng như đang có rất nhiều tâm sự. Tuyết đọng dưới chân bị hắn giẫm lên nghe rồn rột.

Tưởng hắn vẫn đang còn nghĩ cách hành thích Hoàng đế, Thôi Oanh Nhi không khỏi tức giận hỏi:
- Đêm khuya quá rồi còn không chịu vào phòng? Có muốn ăn gì hay không?

Dương Hổ nghe vậy mới sải bước đi vào trong phòng. Thôi Oanh Nhi đợi hắn vào xong, đóng cửa lại, khuôn mặt xinh xắn tức thì đanh lại, lạnh lùng liếc Dương Hổ :
- Huynh còn chưa từ bỏ ý định hay sao? Ở kinh sư vì huynh khăng khăng làm theo ý mình mà đã chôn vùi tính mạng hơn hai trăm huynh đệ; hôm nay ở Lý Gia tập nếu không may mắn gặp giặc Thát đến cướp thôn, chúng ta cũng đã chết sạch ở đó rồi! Huynh còn chưa chịu từ bỏ giấc mơ làm Hoàng đế sao?

Dương Hổ bực bội đáp:
- Nàng đừng xía miệng vào mấy chuyện này! Tất cả hảo hán ở tam sơn ngũ nhạc đều vì việc này mới tụ tập dưới cờ của ta, nay muốn quay đầu nào có dễ như vậy? Tuy rằng Di Lặc giáo đã gạt ta, nhưng chẳng lẽ chúng ta cũng sẽ nhất định không thể chiếm được thiên hạ hay sao? Hừ, chẳng phải bọn chúng cũng đang âm mưu tạo phản đó sao? Chẳng lẽ chúng ta còn không bằng đám yêu đạo đó?

Thôi Oanh Nhi giận lắm, đáp trả:
- Vậy huynh cứ ôm cái giấc mộng viển vông đó của huynh đi!
Dứt lời nàng liền xoay người đi vào phòng trong.

Dương Hổ hỏi:
- Nàng không ăn chút gì à?

Thôi Oanh Nhi cười nhạt:
- Huynh ăn gì thì tự ăn đi, ta không có hứng. Đi tắm đây!

Dương Hổ hừ một tiếng rồi ngồi xuống ghế. Đôi mắt lấp loé dưới ánh đèn, hắn tiếp tục suy tính phương cách giải quyết mối lo của mình.

Thôi Oanh Nhi cởi áo quần vắt lên trên ghế, trầm cả mình xuống nước, cặp mày thanh tú khẽ nhíu lại rồi mệt mỏi thở ra một hơi dài.

Hơi nóng ngấm vào trong da dẻ mịn màng, hơi nước bốc lên khiến cho mọi thứ dưới ánh đèn đều trở nên mờ mờ ảo ảo.

Da thịt trong suốt óng ánh ngâm trong nước nóng ửng lên màu hồng đào, sóng nước vỗ dập dờn, mái tóc đen dài xinh đẹp xoã ra trên mặt nước như một đám mây che khuất dáng người xinh đẹp động lòng người giữa làn nước trong vắt.

Vóc người của nàng hãy còn rất đáng tự hào, da dẻ trắng phau mềm nhẵn, cặp vú cao vút, chắc nịch mà nền nã. Đôi nhũ hoa hồng xinh vênh vểnh mê người, cặp vú săn mẩy và trơn láng run run ngâm trong làn nước trong vắt, ở giữa là một khe ngực sâu hút đến say lòng, bờ eo thon thon và thậm chí cả cái rún tròn xoay như ẩn như hiện dưới mái tóc mây đen như mực đang dập dờn theo gợn sóng nước...

Dương Hổ vừa vén rèm cửa bước vào, trông thấy dáng tắm đẹp đến say lòng của thê tử, ánh mắt bất giác ngưng lại. Ý tưởng vừa sực nảy ra khi nãy chợt lại không nỡ thốt ra.

Tuy rằng Thôi Oanh Nhi võ nghệ tinh thông, nhưng dẫu sao chốn đó vẫn là đầm rồng hang hổ, vì muốn tách rời khỏi nàng mình mới khích nàng đi đến nơi đó. Ngộ nhỡ có gì bất trắc xảy ra?!

Nghĩ đến đây Dương Hổ không khỏi trở nên do dự. Thôi Oanh Nhi thấy hắn ngơ ngẩn nhìn mình, nhất thời hiểu lầm bèn tức giận nói:
- Ăn rồi thì đi ngủ đi! Ta không muốn thấy mặt huynh. Đêm nay ta ngủ riêng.

Dương Hổ vừa nghe liền bừng lửa giận, trợn trừng cặp mắt cọp:
- Đừng quên nàng là vợ ta đó!

Thôi Oanh Nhi đanh mặt lại chẳng nói chẳng rằng, cặp mắt như làn thu thủy chăm chăm nhìn hắn một cách lạnh lùng.

Dưới ánh mắt đăm đăm của nàng, dũng khí của Dương Hổ dần tan biến. Hắn lẫn tránh đôi mắt như có thể thiêu đốt người ta đó, song bất chợt nổi nóng mà giễu lại:
- Lúc ở kinh sư nàng đã bắt được Dương Lăng, song lại tha mà không giết. Trước nay nàng chưa từng nương tay với quan binh, nay Di Lặc giáo trù trừ không chịu lộ diện, kế sách tọa quan sơn hổ đấu của nàng đã thất bại, lúc ngã vào sơn động trên núi Bạch Đăng sao nàng không thừa cơ giết chết y đi? Ai đoán được là y ngã chết hay bị nàng thủ tiêu chứ, tại sao nàng lại cứu y lên?

Thôi Oanh Nhi hừ một tiếng khinh thường, hất mũi:
- Huynh cũng đừng quên nếu không nhờ Dương Lăng giữ lời, chỉ cần y hạ lệnh một tiếng thì mấy người chúng ta hôm nay đã bị thiên quân vạn mã giẫm thành thịt nhão rồi. Chẳng lẽ chúng ta còn không biết giữ chữ tín bằng quan binh sao? Chúng ta xông pha giang hồ phải quang minh lỗi lạc, ân oán phân minh. Chỉ riêng trước đó ở quán rượu y đã hạ thủ lưu tình rồi, ta không nên cứu y ư?

Dương Hổ cất tiếng cười quái gở:
- Phải à! Vạn tiễn cùng bắn, còn có hỏa súng nữa! Ta cũng nghĩ rằng ắt chết không phải nghi ngờ rồi, không ngờ y lại hạ thủ lưu tình.

Hắn vừa nói vừa nhìn sang Thôi Oanh Nhi, thoáng do dự, song lời của Đại Vĩ Ba Lang nọ như mũi kim độc đâm vào tim hắn, như có thứ gì chèn ngang cổ không nhổ ra rất khó chịu. Rốt cuộc hắn vẫn cắn răng nói tiếp:
- Có điều lúc y hại chết hai trăm huynh đệ ta đã ra tay rất ác độc, không chút lưu tình. Nay nàng mềm lòng nhẹ dạ, thực không biết là lưu tình cho ai?

Thôi Oanh Nhi nhướng mày giận dữ quát:
- Ngươi... ngươi nói xằng gì đó?

Dương Hổ cũng nổi giận quát trả:
- Chẳng lẽ ta nói sai ư? Lúc cô ra khỏi hang ngay cả đám người Lang nhị cũng đều nhìn thấy vẻ mặt kỳ lạ của cô, cô tưởng là hai mắt ta đều mù cả rồi sao?

- Ta...,
Thôi Oanh Nhi vừa thẹn vừa giận, nhớ lại tình cảnh trong hang, nhớ đến điều bí mật mà nàng không thể kể với trượng phu, hai má vụt ửng lên hai đóa hoa đào, nhất thời nghẹn lời không biết nói gì. Lúc ra khỏi hang sắc mặt nàng ngượng ngùng là bởi nàng đã cùng Dương Lăng ôm nhau trong hang, còn sơ ý hôn phải môi y, những chuyện này biết giải thích với trượng phu như thế nào đây?

Vốn Dương Hổ chỉ hơi nghi ngờ, song trông thấy bộ dạng nàng như vậy thì lòng nghi ngờ càng tăng cao, thế là hắn bèn đùng đùng xông tới trước mặt nàng cười khẩy:
- Hà hà! Cô nam quả nữ, lại còn là một quan một cướp, thế mà chẳng những không có vẻ gì là kẻ thù sinh tử, lại giở trò chàng có tình thiếp có ý, biến hang núi thành động phòng rồi chứ gì?
Ha ha, thảng như có một ngày quan binh bắt cướp xông đến tận giường bắt ta, thực sẽ trở thành trò cười lớn cho cả lục lâm Bá Châu. Dương Hổ ta thực có mặt mũi lắm!!!

- Ngươi câm miệng...!
Thôi Oanh Nhi nổi cơn tam bành, vụt đứng bật dậy.

Nước ấm cuộn trào, hơi nóng mịt mù, cảnh xuân chợt hiện.

Dòng nước men theo thân thể nảy nở của nàng uốn lượn chảy xuống, qua khe rãnh mê người. Ngực cao eo nhỏ, cặp vú chắc nịch như hai gò tuyết nhô cao trên bộ ngực trắng phau, trơn nhẵn và sáng óng như ngọc thoa mỡ dê. Bầu vú co lại tới đỉnh một cách hoàn mỹ, kết ra hai quả xinh đỏ thắm.

Thân thể yêu kiều ngạo nghễ hoàn toàn lộ ra những chốn diệu kỳ. Hai bắp đùi thẳng tắp trắng phau không chút tì vết như đang toả ra hơi nóng, chiếc eo thon nhỏ chưa đầy nửa vòng tay làm nền cho bờ mông tròn lẳng, chắc nịch mà cao ngất, như một vầng trăng tỏ, được điểm xuyết bởi những giọt nước long lanh.

Nàng kéo một chiếc khăn khoác lên người đánh soạt, giọng oán hận:
- Ngươi đã bị quyền lực khiến cho quá mê muội rồi, đã không còn là vị đại ca giang hồ trọng nghĩa khinh tài trên một sơn trại nho nhỏ khi xưa nữa. Cả ngày chỉ nghĩ làm sao để làm Hoàng đế, bày đặt học người ta âm mưu quỷ kế! Chí cả tài hèn! Cho dù có khoác long bào vào người, ngươi cũng không giống Hoàng đế chút nào. Ta thấy hai mắt ngươi đã bị quyền lợi bịt kín rồi, nói mù cũng không sai đâu!

Bị nàng vừa mắng vừa giễu khiến cho lửa giận bốc cao ba trượng, tức thì Dương Hổ quên mất nàng ta uy phong hơn xa mình, hắn vung tay vả mạnh!

Thôi Oanh Nhi cười nhạt, chụm tay vót ngang, hai tay vừa chạm lập tức nàng biến chém thành quấn, thuận thế kéo mạnh, "rào" một tiếng, nước bắn đầy trời, bóng trắng chợt loé lên trong làn nước. Dương Hổ chỉ cảm thấy vai mình trĩu xuống, một cái bắp chân thon dài, trơn nhẵn, săn chắc đã đè trên vai, ấn hắn áp mặt bên trên thùng tắm, chiếc khăn trượt xuống.

Dương Hổ giận quá hoá cười:
- Ta võ nghệ không bằng ngươi! Ngươi cứ giết ta rồi xách đầu đi tới triều đình mà lĩnh thưởng, nói không chừng cũng sẽ được phong làm Cáo Mệnh phu nhân đó.

Thôi Oanh Nhi giận đến run người, nàng rút chân ngồi trở lại trong thùng nước, mái tóc ướt sượt làm tôn lên nét mặt xinh đạp trắng trong pha ánh hồng của nàng, trên má lệ đã nhỏ thành dòng.

Nàng ngẩng đầu lên, nhắm hai mắt lại nói:
- Thôi Oanh Nhi ta từ khi gả cho ngươi đã bao giờ làm chuyện gì có lỗi với ngươi chưa? Được, nếu ngươi đã thấy ta quá quắt như thế, ngươi cứ giết ta đi rồi yên tâm mà thực hiện giấc mơ làm Hoàng đế của mình.

Dương Hổ nào từng thấy nàng uất ức đến rơi lệ như vậy? Thế là hắn luống cuống tay chân, cơn lửa giận tức thì tan như bọt nước. Hắn luống cuống không biết làm thế nào, ấp úng:
- Nàng... nàng đừng khóc mà, ta... ta... ái chà...!

Dương Hổ đi lòng vòng trong phòng như con thú bị nhốt trong chuồng, tay quẹt nước trên mặt, rồi đấm vào đầu giường một quyền, căm hận nói:
- Oanh Nhi! Ta đường đường là lão đại lục lâm Bá Châu, nay hao binh tổn tướng, sơn trại bị hủy, thanh danh rơi xuống nghìn trượng. Thảng như tin tức Lưu lão đạo là người trong Di Lặc giáo truyền về sơn trại, ta sẽ thật là họa vô đơn chí. Nàng cho rằng chỉ dựa vào võ nghệ là đã có thể khống chế đám hảo hán ương ngạnh bất kham đó ư? Ta... nỗi khổ tâm của ta nàng có hiểu được không?

Thôi Oanh Nhi từ từ mở mắt, trông thấy vẻ mặt thống khổ của trượng phu, lòng nàng không khỏi chùng xuống bèn nhẹ giọng khuyên bảo:
- Hổ ca! Nếu không làm được lão đại giang hồ thì thôi, để mặc bọn họ tranh với nhau đi. Trại cũ chúng ta ở sâu trong rừng thẳm, chưa từng bị quan binh lùng thấy, chi bằng... chúng ta hãy trở về trại cũ mà yên phận sống qua ngày đi.
Vốn dĩ lúc ở Bá Châu, muội còn cho rằng quan binh trong thiên hạ đều là thứ rác rưởi không chịu nổi một đòn, quan viên trong thiên hạ đều là bọn tham quan nham hiểm độc ác. Nay mới biết rằng quan viên triều đình không phải đều là tham quan, binh lính triều đình cũng không phải dễ đánh bại như vậy. Số mệnh Đại Minh chưa tận đâu!

Dương Hổ quắc mắt:
- Trở về trại cũ của Thôi gia? Dương Hổ ta đường đường là một thằng đàn ông thân dài vai rộng, chẳng lẽ nay lại đi nấp dưới đáy quần phụ nữ để kiếm sống? Nhục nhã mà chết thôi! Khi xưa nhạc phụ gả nàng cho ta do ta là nhân vật có tiếng tăm vang dội trong lục lâm. Nay cứ như vậy mà quay về, sau này ta sẽ lăn lộn trên giang hồ thế nào? Món nợ máu của hơn hai trăm huynh đệ chưa trả, ta làm sao giải thích với cô nhi quả phụ của bọn họ đây?
Nàng nói không hề có tư tình gì với Dương Lăng, ta cũng tin tưởng con người nàng, nhưng lần trước nàng đã tha cho hắn, nay lại cứu hắn là sự thật. Hôm nay trên Bạch Đăng sơn nói các người đầu mày cuối mắt liệu có quá phận không? Những huynh đệ đó của ta đều đã thấy cả, trở về bọn họ bẻm mép nói bậy nói bạ một hồi, bảo ta làm sao mà nhìn mặt người khác?

Thôi Oanh Nhi nghe xong thì tức khí đáp:
- Hồng Nương Tử muội nói một là một nói hai là hai, nói không vụng trộm với ai là không vụng trộm với ai cả! Huynh còn muốn ta làm thế nào mới chịu tin ta đây? Chẳng lẽ muốn ta vác đầu của Dương Lăng về huynh mới chịu tin sao?

Hai mắt sáng rỡ, Dương Hổ chồm tới nắm chặt lấy tay nàng:
- Ý tưởng hay đó! Giết được Dương Lăng thực sẽ nhất cử lưỡng tiện. Oanh Nhi, nàng thử nghĩ đi! Tuy Di Lặc giáo dùng kế dụ ta vào kinh, nhưng ra tay giết người của chúng ta dẫu sao cũng là nhân mã của Dương Lăng, giết y rồi cũng sẽ coi như là đã ăn nói được với toàn thể sơn trại. Hơn nữa nhờ việc này mà sẽ tự đánh tan mọi lời đồn, tự sẽ trả lại thanh bạch cho nàng, ai còn dám nói xằng nói bậy ta liền chém đầu hắn ngay!

Thôi Oanh Nhi cả kinh, ấp úng:
- Dương Lăng... là tên quan tốt, hôm nay lại tha mạng cho chúng ta. Lấy oán tả ơn, chuyện này ta... sao ta làm được?

Dương Hổ thuyết phục:
- Quan tốt quan xấu gì cũng đều là kẻ thù của chúng ta. Chẳng phải hai trăm huynh đệ của chùng ta bị y giết đó sao? Chẳng phải sơn trại bị hủy trong tay binh lính của y ư? Nàng tha cho y một lần, y tha nàng một lần, ơn huệ gì cũng đã trả hết rồi.

Hắn lại bước sấn tới, vẫn nắm chặt tay Oanh Nhi, thành khẩn van nài:
- Nương tử! Nếu cứ ỉu xìu như vậy mà cúp đuôi chạy về sơn trại thì Dương Hổ ta sẽ không còn mặt mũi nào đâu! Lời nói như đao kiếm, chuyện khác ta có thể không thèm để ý, nhưng nếu có người ô nhục sự trong trắng của nàng, ta làm sao mà nhịn được? Chẳng lẽ vờ điếc không nghe thấy những lời đồn đại đó? Vì ta, vì nàng, nay chỉ còn biện pháp dễ hơn cả: giết chết Dương Lăng!

Thôi Oanh Nhi cảm thấy lòng rối như tơ vò. Trượng phu đã thẳng thắn nói hết ra như vậy, những nỗi khổ đó cũng là sự thật. Cho dù phải vì hắn mà lên núi đao xuống biển lửa, Hồng Nương Tử há sẽ nhăn mặt nhíu mày? Nhưng mà giết Dương Lăng...

Dương Hổ thấy nàng do dự, bèn nghiến răng nói:
- Oanh Nhi! Dù Dương Lăng là thứ gì đi nữa thì có quan hệ gì với chúng ta? Chúng ta là mã tặc, là đại đạo lục lâm đó! Chẳng lẽ còn con mẹ nó đi giảng nhân nghĩa với quan binh? Nàng không đi thì để mai ta sẽ dẫn các huynh đệ đánh về Đại Đồng, tìm không được Hoàng đế thì đánh vào hành dinh khâm sai! Ta đường đường là người đầu đội trời, chân đạp đất, thà chết quang minh lỗi lạc ở đây chứ không về Bá Châu để cho người ta nói xấu sau lưng!

Dứt lời hắn liền buông tay nàng, thẳng người dậy. Thôi Oanh Nhi chộp lấy cổ tay hắn, giọng run rẩy:
- Đừng!... Nếu... nếu Dương Lăng chết rồi, huynh thật sự sẽ chịu cùng muội trở về sơn trại, từ đây sống dựa vào nhau, từ bỏ dã tâm mưu cầu thiên hạ chứ?

Dương Hổ mừng rỡ đáp:
- Đương nhiên! Có bao giờ ta gạt nàng đâu. Nương tử, nàng đồng ý chứ?

Thôi Oanh Nhi hạ quyết tâm, cắn răng:
- Được! Vậy muội sẽ thất tín bội nghĩa một lần, lấy đầu Dương Lăng về gặp huynh. Sáng sớm mai muội sẽ nghĩ cách trà trộn vào thành.

Trong mắt Dương Hổ thoáng hiện lên tia đắc ý, hắn vội nói:
- Lúc này nhất định Đại Đồng đang được canh phòng hết sức nghiêm ngặt. Thế này đi, để Ngũ thúc và nàng hoá trang thành phụ nữ, vừa có thể che giấu lai lịch, lại có thể chăm sóc cho nhau. Sáng sớm mai ta sẽ bảo Tiêu lão tứ lợi dụng chức vụ Bảo trưởng tìm cách giúp hai người trà trộn vào thành. Ta sẽ dẫn các huynh đệ di chuyển đến gần đấy hoạt động, lôi kéo sự chú ý của quan binh. Sau khi thành công sẽ tụ họp tại Tụ Long khách sạn ở thôn Hình.

Trong lòng Thôi Oanh Nhi đang xảy ra một cuộc đấu tranh dữ dội. Vừa mở miệng đồng ý với hắn là sẽ giết Dương Lăng, song chẳng những nàng không cảm thấy nhẹ nhõm, mà đầu nàng lại rối bời bời. Nàng lặng lẽ gật đầu, không ngừng thầm tự an ủi mình: “Huynh ấy là trượng phu của mình, mình không thể nhìn huynh ấy bước vào con đường cùng, bị chúng bạn xa lánh được. Xin lỗi, Dương Lăng, thật sự xin lỗi..."

Dương Hổ tìm được cái cớ đẩy nàng ra xa, nghĩ lại nơi đó cũng hung hiểm vạn phần nên hắn không khỏi lo lắng căn dặn:
- Nương tử nhớ kỹ: thảng như sự không thể thành công thì chỉ cần để tin tức khâm sai bị hành thích truyền ra ngoài là được rồi, chúng ta cũng xem như có thể ăn nói với sơn trại. Cho nên... nàng vạn lần đừng lỗ mãng, ta... ta lo nàng sẽ xảy ra chuyện bất trắc.

Nghe được lời này của Dương Hổ, Thôi Oanh Nhi liền như trút được gánh nặng trong lòng: "Nếu như chỉ cần tạo hiện trạng giả hành thích khâm sai thì không khó gì. Chi bằng mình tương kế tựu kế, vừa có thể gạt đưa trượng phu về sơn trại, lại không cần phải thật sự gây hại đến tính mạng Dương Lăng."

Đảo mắt nhìn thấy sự quan tâm lo lắng trong ánh mắt Dương Hổ, gò má nàng bất giác nóng lên, thầm cảm thấy hổ thẹn: "Vì một kẻ không liên can, sao mình lại có thể để chàng khó xử như vậy? Thôi đi! Mình còn vọng tưởng làm hiệp đạo(*) gì chứ? Nếu ông trời cho mình cơ hội ra tay, thì... đó sẽ là ý trời vậy. Ôi, Dương Lăng ngươi hãy tự thu xếp cho tốt đi..."
(*: kẻ cướp nghĩa hiệp; như Robin Hood)

* * *

Dương Lăng tìm được một chiếc xe bò, cho chở vị hoàng hậu Mãn Đô Hải vào thành, đến thẳng phủ Đại vương. Nghe nói bà lão tướng mạo tầm thường này chính là Mãn Đô Hải uy danh hiển hách trên thảo nguyên, Đại vương liền vội gọi quản gia dọn riêng một căn biệt viện, điều bốn tên tiểu thái giám, bốn cung nữ hầu hạ ăn uống ngủ nghĩ của bà ta. Đồng thời lão ta dặn đi dặn lại phải tuyệt đối giữ bí mật, vạn lần chớ để lộ chút tin tức gì.

Thu xếp thỏa đáng xong xuôi, Dương Lăng bèn trở về dịch quán. Y nghĩ cũng nên bẩm báo với Chính Đức những chuyện xảy ra mấy ngày nay, có điều không biết hiện tại hắn có còn làm cái đuôi của Đường Nhất Tiên hay không.

Dương Lăng cởi áo choàng đưa cho thân binh thị vệ, rồi nói nhỏ với Trương Vĩnh:
- Công công hãy trở về nghỉ ngơi trước, khi nào thích hợp thì gọi ta một tiếng! Chúng ta phải bẩm báo chuyện quan trọng này với Hoàng thượng.

Trương Vĩnh khẽ gật đầu, mỉm cười đáp:
- Ta biết rồi, đại nhân yên tâm.

Lão cũng biết mấy ngày nay Hoàng thượng cứ bám theo tiểu nha đầu họ Đường chạy khắp nơi. Trước nay chưa từng thấy hoàng thượng để tâm tới một người con gái nào như vậy nên lão biết rõ rằng vị cô nương này có địa vị không nhỏ trong lòng hắn. Do đó Trương Vĩnh cũng không dám thất lễ với Đường Nhất Tiên.

Hơn nữa, nhờ thế mà Chính Đức không còn nhao nhao đòi ra ngoài đường dạo chơi nữa, đây xem như là niềm vui bất ngờ rồi, khiến cho Trương Vĩnh cũng bớt lo. Lão chỉ mong sao Hoàng thượng cứ ở trong dịch quán cả ngày như thế này.

Đợi khi Trương Vĩnh trở về hậu viện, viên thị vệ mới thấp giọng bẩm:
- Đại nhân! Liễu thiên hộ đã trở về rồi, đang chờ ngài trong thư phòng ạ.

Từ khi đến Đại Đồng, Liễu Bưu liền ẩn vào trong bóng tối, chuyên phụ trách tin tức thám mã các nơi, bình thường không trú đóng trong dịch quán. Hắn đến xin gặp ắt có đại sự, Dương Lăng liền vội trở lại thư phòng. Thấy y trở về, Liễu Bưu lập tức đứng dậy chào, Dương Lăng bảo:
- Ngồi xuống đi, không cần giữ lễ! Sao rồi, có tin tức gì không?

Liễu Bưu cảm ơn rồi ngồi xuống, chống hai tay xuống gối báo cáo:
- Đại nhân! Bọn ti chức vẫn đang điều tra những chuyện mà ngài dặn dò. Hiện có một nhân vật cực kỳ khả nghi, có điều hắn rất có ảnh hưởng ở Đại Đồng này, vai vế rất đặc biệt. Do đó, trừ phi phải dùng đến chiêu bài Nội xưởng của chúng ta, bằng không sẽ không thể điều tra tiếp được nữa, cho nên ti chức phải đến xin chỉ thị của đại nhân.

Dương Lăng kích động hỏi:
- Hắn là người khả nghi ư? Là người nào? Là người trên chốn quan trường sao?

Liễu Bưu đáp:
- Đại nhân! Người này họ Vương tên Long, trong nhà hắn kinh doanh đủ thứ từ ngựa trâu da cỏ, cho đến ngọc ngà châu báu, trà muối thuốc thang, là đệ nhất phú hào ở Đại Đồng. Toàn bộ dãy trái con phố Hoa Lỗi đều là sản nghiệp của hắn, cho nên ban đầu được gọi là "Vương bán nhai"(*); hiện tại thế lực hắn càng lúc càng lớn, phủ đệ của hắn đã được dân chúng gọi vui là "Vương phủ"."
(*: bán nhai là nửa con phố)

Dương Lăng biết ắt còn phần sau, nên chỉ im lặng lắng nghe. Liễu Bưu nói tiếp:
- Khách mua mớ gia súc tập trung ở Lý Gia tập vừa rồi là người từ đất liền, là... quản gia của phủ Thọ Ninh hầu. Cuối năm ngoái phủ hầu đặt mua hai trăm khoảnh đất, cho nên mới sai quản gia đến phương bắc thu mua trâu ngựa. Thương nhân cung cấp hàng hoá chính là Vương Long, bởi nguồn hàng của hắn tập trung ở ngoài thành cho nên mới hẹn giao dịch tại Lý Gia tập. Kẻ biết việc này chỉ có hai nhà bọn họ.
Không lý nào phủ của Thọ Ninh hầu lại tư thông giặc Thát, cho nên cái tên Vương Long chỉ trong hơn mười năm nhảy vọt lên thành đệ nhất phú hào bản địa là kẻ đáng ngờ nhất. Thêm vào đó, những thứ quân giới như kiên giáp nhà binh, yên ngựa, móng sắt, mũ sắt, thậm chí cả binh khí nữa; mặc dù không có ai công khai hỏi mua nhưng Vương Long lại thu mua một lượng lớn số quân giới bán thành phẩm có giá rẻ này. Hơn nữa hắn buôn bán với quan ngoại, đa phần xe lừa xe ngựa của hắn chuyên thồ hàng ra ngoài quan ải, cũng chỉ có hắn mới có khả năng lén chở những thứ này ra. Đương nhiên... hiện nay Hàn lão gia tử cũng đã có thực lực này.

Liễu Bưu nói đoạn mỉm cười, Dương Lăng nghe xong cũng bật cười ha hả, rồi bảo:
- Kể tiếp đi!

- Dạ!
Liễu Bưu nói tiếp:
- Hiện nay chiến sự căng thẳng, đại nhân ngài đã đến tiền phương tuần thị, đương nhiên tì tướng thủ thành đều phải phòng ngừa quan khâm sai đến nghiệm xét bất ngờ, cho nên những kẻ tầm thường không thể ra ngoài quan ải được nữa. Nhưng ti chức đã điều tra được trong mấy ngày nay lại có một vị thương nhân buôn ngọc họ Bao từng ra khỏi cổng thành.
Vị thương nhân họ Bao này có quan hệ mật thiết với Vương Long. Kinh doanh ngọc thạch nơi đây chẳng kiếm lãi được bao nhiêu mà hắn có thể đứng vững không đổ, có thể nói hầu như đều nhờ có Vương Long chống lưng. Hơn nữa tên bảo vệ cận thân như hình với bóng của hắn lại là một người Mông Cổ tên A-Man.

Dương Lăng nhíu mày:
- Tiền phương có hai đội quân giao chiến vậy mà hắn vẫn có cách xuất quan? Bản lĩnh lớn thật!

Liễu Bưu cười khan một tiếng, rồi thấp giọng báo:
- Đại nhân! Ngài biết tướng lĩnh biên quân khi vừa nhậm chức thì có hai nhiệm vụ quan trọng gì không? Một là phòng bị giặc Thát lên ải, hai là phòng bị binh sĩ xuống ải. Nếu thật sự muốn ra ngoài thành thì thực tế lại không khó khăn gì.

Dương Lăng lấy làm lạ hỏi:
- Phòng bị giặc Thát lên ải thì ta hiểu, còn phòng bị binh sĩ xuống ải nghĩa là sao?

Liễu Bưu đáp:
- Đại nhân! Giao dịch cùng người Mông Cổ luôn luôn có thể kiếm được món lợi kếch sù. Một cái nồi sắt bình thường, một bao muối ăn nho nhỏ hoặc một bánh trà loại kém nhất, ở ngay nơi đây thì không đáng mấy văn tiền, nhưng lại có thể đổi được rất nhiều bạc từ chỗ người Mông Cổ, hoặc là được người Thát mang da thú đắt tiền, dược liệu trân quý ra trao đổi.
Cho nên không chỉ thương nhân lén lút qua ải, mà thậm chí là binh sĩ thủ thành cũng thường xuyên giấu bao muối trên người, đầu đội nồi sắt buộc bằng dây thừng chạy ra ngoài thành giao dịch với người Mông Cổ. Hai năm trước binh sĩ nổi loạn giết chết quan tổng binh, mặc dù bảo nguyên nhân là do tổng binh cắt xén tiền lương nhưng biên quân không thể chỉ sống dựa vào chút bạc đó. Nếu không phải vì hắn cai quản quá nghiêm, không cho binh sĩ...

Dương Lăng hiểu ý, lẳng lặng gật đầu:
- Chắn lấp không bằng khơi thông, điểm này bản quan cũng biết. Cũng giống như ngư dân vùng duyên hải vậy, có biết bao người không thể chống lại lệnh cấm mở cửa biển thông thương, giao dịch với người nước ngoài, cuối cùng bị ép phải ra biển làm cướp. Ôi! Chờ Hoa Đáng đến rồi, ai mà thật lòng buôn bán thì rộng rãi một chút, kẻ nào rắp tâm cướp bóc thì khiến chúng nếm chút đau khổ. Hà khắc như vậy sẽ chỉ tự khiến mình rơi vào hoàn cảnh khốn khó mà thôi.

Liễu Bưu nói tiếp:
- Do đó việc tên họ Bao này có thể ra khỏi thành cũng chẳng có gì là lạ. Vấn đề là hiện tại ngoài quan ải thiết kỵ tung hoành, khắp chốn là quân, hắn kiếm đâu ra người mua hay người bán ngọc? Việc này hết sức khả nghi! Hơn nữa con đường y đi là do Vương Long vẽ ra, tì tướng canh giữ cổng tây là huynh đệ của Vương Long, cho nên hết thảy mọi điểm đáng ngờ đều chỉa về phía Vương Long.
Nhưng Vương Long giao du rất rộng ở nơi đây. Trong quân, phủ nha, vương phủ đều có một đám người tay nắm quyền cao xưng huynh gọi đệ với hắn. Nếu không có bằng chứng thì đám thuộc hạ thực khó mà tiếp tục điều tra. Thật ra... Trước trận đại chiến này, Vương Long mới vừa mua một lượng lớn da thuộc và sắt ròng. Những món hàng này quá lớn, cho nên nếu hắn quả thực có giao dịch cùng giặc Thát thì nhất định vẫn chưa kịp vận chuyển ra ngoài hết.
Nhưng bề ngoài hắn là lái buôn trâu ngựa, nên nếu hắn nói mớ vật dụng này được dùng để chế tạo yên ngựa và móng sắt cũng sẽ hữu lý, không thể lấy đó làm chứng cứ buộc tội hắn ta. Nhưng nhà họ Vương đó có xưởng riêng, nếu như những thứ này vẫn chưa được vận chuyển ra ngoài, ắt hẳn vẫn còn đang được chế tạo thành chiến giáp, đầu giáo, các loại quân giới. Nếu chung ta cho người xông vào phủ lục tìm, tịch thu thì sẽ có chứng cứ ngay.
Vấn đề lại nằm ở địa vị của hắn. Ngộ nhỡ kiểm tra không thấy tang vật, vậy tiếng xấu bức hại người địa phương sẽ rơi lên người chúng ta, cực kỳ bất lợi cho đại nhân ở bản địa. Biên cảnh trọng địa, ngộ nhỡ gây nên hỗn loạn thì thực sẽ...

Dương Lăng chắp tay đi đi lại lại trong phòng một hồi rồi bảo:
- Nếu hắn đã có thế lực trong quân đội và ở địa phương lớn như vậy rồi, mà hắn lại đúng là gian tế thì nhất định sẽ nắm được không ít tin tình báo. Hoa Đáng đã sắp đến, chúng ta thật sự không có thời gian để từ từ điều tra, nhất định phải giải quyết dứt khoát, mau chóng gạt bỏ hết tai mắt của giặc Thát.
Ngươi hãy thuật lại tỉ mỉ tình hình của hắn đi! Xưởng vệ chúng ta giỏi nhất là gài tội cho kẻ vô tội, bản quan không tin chúng ta không có cách nào bắt được cái tên phản tặc đáng ngờ này.

- Dạ!
Liễu Bưu bèn đem tính tình, sở thích, thói quen và những mối quan hệ của Vương Long kể ra một lượt như thể đã nắm rõ trong lòng bàn tay. Lúc còn trong Cẩm Y Vệ hắn từng là một hiệu úy khăn đỏ(*) cực kỳ tinh minh, lại được Ngô Kiệt chỉ điểm thêm nên đã trở thành một nhân viên tình báo đạt chuẩn. (*: nguyên văn đề khởi, một loại khăn các võ sĩ ngày xưa hay quàng)

Dương Lăng lại từng nói với hắn rằng, khi điều tra một người nào đó đều cần phải nắm rõ thêm về tính tình, sở thích, đặc điểm thói quen, quan hệ bạn bè thân hữu, thậm chí là một ít sở thích không muốn cho người ta biết của kẻ đó. Bởi thông thường có khi một cái thói quen nhỏ, một chi tiết nhỏ không ai chú ý lại chính là lỗ hổng có thể khoét vào, cho nên Liễu Bưu kể mọi thứ một cách hết sức tường tận. Thật khó để y có thể nắm bắt được hết bấy nhiêu chi tiết trong vòng một ngày. Song chúng ta nên biết rằng Vương Long là một nhân vật hết sức có vai vế ở Đại Đồng, thế nên chuyện này cũng không có gì là lạ.

Nghe xong, Dương Lăng ngửa mặt lên trời suy nghĩ một chốc, rồi cười ha hả bảo:
- Phố Hoa Lỗi, Thập nhị cẩm bình! Ha ha! Được lắm, đối diện con phố đó có "Hâm Thịnh lâu" phải không? Hãy bao hết nó lại, đổi toàn bộ tửu khách thành người của ngươi...
À không! Báo nhạc phụ của bản quan thu xếp cho vài người bản xứ trên tầng hai, nhưng phải là thám tử đã bí mật gia nhập Nội xưởng và người nhà của bọn họ, nhất định phải đáng tin cậy mới được. Hà hà! Ngày mai chúng ta sẽ diễn một vở lão gia hống hách diễu võ dương oai, ức hiếp "bá tánh"...

Liễu Bưu nghe xong bèn chắp tay cười thưa:
- Kế của đại nhân rất hay! Trừ phi hắn không bị gạt, bằng không chúng ta sẽ đóng vai khâm sai phụng chỉ vì dân trừ hại. Ha ha, lại nhờ có vị kia đứng ở sau lưng(*) nên không cần đại nhân ra mặt, các vị Đại vương, Hồ tuần phủ và Dương tổng chế cũng sẽ chủ động áp chế nhân mã các nơi, không ai làm bậy được. Vậy ti chức đi thu xếp đây.
(*:ý chỉ Chính Đức)

Dương Lăng mỉm cười nhìn theo bóng Liễu Bưu khép cửa rời đi, lẩm bẩm một mình:
- Vương Long! Nếu như ngươi chỉ háo sắc vô hạnh thì coi như là ta trừng phạt ngươi nhè nhẹ một tí rồi thôi. Nhưng nếu ngươi thật sự tư thông với giặc Thát... thì ngươi hãy tự lo thân của mình đi!







Chú thích:





Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180&page=218
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
02-09-2012, 10:27 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 203 - Muốn Đổ Tội Cho Người


Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Chính Đức sáp đến cạnh Đường Nhất Tiên, thấp giọng cười nói:
- Con ong mật đã bị đại tiểu thư cô thu hút đến đây rồi. Hãy xem chốc nữa tôi sẽ đập hắn một phát chết như thế nào nhé!

Đường Nhất Tiên hừ mũi, giọng xem thường:
- Với ngươi hả? Có thấy vóc người của hắn chưa? Cẩn thận người ta đập cho ngươi một phát dính vào tường. Thật tội nghiệp, ta còn phải tốn sức bóc ngươi xuống đấy!

Chính Đức nhìn vẻ nửa hờn nửa giận cực kỳ xinh đẹp của nàng, nao nao trong lòng bèn trêu:
- Lạ nhỉ, tôi là người thế nào của cô mà phải khiến cô giúp tôi dọn xác thế nhỉ? Hề hề hề...

Đường Nhất Tiên "ngây thơ" đáp:
- Việc đó hả? Bình thường khi thấy con mèo, con chó, con gà nè, mấy con vật nho nhỏ mà bị chết ta cũng đều có lòng tốt đem chôn chúng hết mà!








Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 203 - Muốn Đổ Tội Cho Người



Chương 203 - Muốn Đổ Tội Cho Người(1)

Phố Hoa Lỗi nằm ở phía tây nam của cổ lầu(*), là con đường nối liền nam bắc Đại Đồng. Trên phố lầu cao nhà thấp được xây san sát trật tự ngăn nắp. Rất nhiều hộ giàu có tập trung tại nơi này, giữa phố có vài khách sạn và tửu lầu. Bên trái con phố trông xa hoa và sang trọng hơn, nhưng hầu như suốt cả dãy phố đều là sản nghiệp của Vương phủ.
(*: lầu canh có đặt trống lớn dùng để báo động)

Vương Long tiền nhiều thế mạnh, phòng ốc trong nhà rất rộng. Tổng diện tích phủ viện của hắn gần như không thua gì phủ ở của Đại vương đặt ở khu hoàng thành, cho nên cũng được lắm kẻ nhiều chuyện gọi là "vương phủ".

Vương Long kiêu căng dâm dật xa hoa, thê thiếp rước về vô số. Nơi này kế liền tái ngoại, nếp sống phóng khoáng mà Vương Long cũng không hề có phong thái thân sĩ phú gia. Thường ngày hắn hay đưa đám vợ đẹp thiếp xinh lên gác tía nằm sát ven đường, cho trang điểm làm dáng rồi ra đứng dựa vào lan can, thu hút cánh đàn ông khắp thành đổ xô đến chen nhau xem người đẹp.

Trong số mỹ thiếp của hắn có mười hai người có nhan sắc đẹp nhất, bèn có kẻ giỏi vuốt đuôi ngựa thừa dịp tâng bốc gọi thê thiếp của Vương Long là "Thập nhị cẩm bình"(*), ý là khi mười hai vị mỹ nữ này đứng xuất hiện trên gác tía liền như mười hai bức bình phong tinh mỹ tuyệt luân khiến người ta mê mẩn không rời.
(*: mười hai bức bình phong mỹ lệ)

Vương Long sớm đã rao tin hôm nay sẽ đưa đám mỹ thiếp lên lầu khoe dáng, việc này đã lan truyền khắp cả thành. Đường Nhất Tiên nghe đám gia đinh trong vương phủ to nhỏ thì thầm, nàng không biết rõ nội tình nên tưởng rằng nhà giàu nào đó sẽ cho trưng bày đồ báu quý hiếm.

Hôm nay "Hâm Thịnh lâu" đã bị Liễu Bưu bao hết. Nếu như muốn "đào hố" để dụ Vương Long sập bẫy thì hiển nhiên hắn không thể làm gì lộ liễu, chỉ là toàn bộ tòa tửu lầu hai tầng này thì trên dưới, trong ngoài đều đã có tửu khách ngồi đầy từ rất sớm. Nếu có người khách nào muốn vào thì đương nhiên sẽ đành phải tìm một quán khác.

Dương Lăng vận bộ thiên mã bì bào(2), đầu đội mũ da chồn, chân mang đôi giày da màu đen lợp gấm, trang phục tuy sang trọng song lại không quá phô trương. Thêm vẻ tuấn tú anh tài, khí phách y như một vị công tử tiêu sái thời loạn thế. Đứng sau lưng y là một thư đồng nho nhỏ áo xanh mũ dưa tuấn tú; chính là Hoàng đế Chính Đức.

Dương Lăng muốn dụ cho tên Vương Long háo sắc mắc câu, trong tay y đã có sẵn Đường Nhất Tiên xinh đẹp như hoa làm mồi nhử. Đường Nhất Tiên nghe xong mưu kế của Dương Lăng thì thích thú đến độ cứ cười khanh khách mãi. Cô bé này tính vốn nghịch ngợm, lại có cơ hội giúp đỡ biểu ca thân nhất của mình nên đương nhiên đồng ý ngay.

Vốn Dương Lăng định giấu Chính Đức, nào ngờ hắn nghe được tin này từ miệng Đường Nhất Tiên, thế là nằng nặc sống chết gì cũng đòi đi theo. Dương Lăng định bắt hắn cải trang thành thư đồng để làm khó, ai dè vị tiểu Hoàng đế không bao giờ hành động theo lẽ thường này vừa nghe liền mừng như cầu còn không được. Thế là không đợi Dương Lăng nói xong, hắn liền đã chạy vụt đi sai Trương Vĩnh kiếm về một bộ đồ xanh mũ dưa hí hửng mặc vào.

Dương Lăng hết cách, đành phải dẫn theo "ông tổ sống" này đến lầu Hâm Thịnh. Tửu khách trong quán đều là đại nội thị vệ vận áo quần đủ kiểu; xen lẫn trong đám du khách, lính nhàn, bán rong và đám đầy tớ chen nhau chờ ngắm mỹ nhân trên phố cũng có không ít người là phiên tử của Nội xưởng.

Trong "Thái Bạch cư" bên cạnh "Hâm Thịnh lâu", cửa sổ của một căn phòng trang nhã đối diện với cửa sổ tầng hai cũng được mở ra, lửa trong lò than trong phòng cháy hừng hực. Một người tóc hoa râm vận áo bào xanh, trên búi cài một cây trâm ngọc khẽ nhíu mày nói:
- Vương Long thực làm càn quá! Khi không lại bày ra cái hội "Thập nhị cẩm bình" gì đó. Lão Du à, ông nên khuyên hắn bớt phóng túng chút đi.

Ngồi ở đối diện là Du viên ngoại vận áo gấm hoa văn hình tiền đồng, khuôn mặt tròn trịa bẩm sinh luôn mang theo một nụ cười trên mặt như Phật Di Lặc. Hắn lấy khăn tay lau mồ hôi hai bên thái dương, cười hà hà đáp:
- Chính vì phô trương như vậy mới sẽ không có ai nghi ngờ nhân thân của hắn. Tôi lại thấy Vương Long cải trang làm thân hào vô lại rất thành công. Mọi người đều biết hắn trầm mê tửu sắc, đám quan lớn địa phương cáo già như Hồ Toản và Dương Nhất Thanh còn nghi ngờ tên đại thương nhân bên ngoài đầy tiếng xấu, khắp người nồng mặc mùi tiền đó là người của chúng ta sao?

Người áo xanh hừ nhạt một tiếng, nói:
- Vấn đề là không phải Vương Long giả vờ làm vậy, mà là bản tính đã thế. Cẩn thận chứ chơi với lửa có ngày bỏng tay đó!

Du hộ pháp cười hà hà, không hề lựa lời giải thích tiếp. Trong Di Lặc giáo cũng chia bè phái, ba vị thiếu giáo chủ dần dần trưởng thành, cả ba đều bỏ công lôi kéo những trưởng lão đang nắm thực quyền trong giáo. Vương Long là người của Lý Đại Nghĩa, lão áo xanh lại là một vị nghiệp sư (thầy dạy) của Lý Đại Nhân, cho nên đương nhiên lão không có thiện cảm với Vương Long.

Đứng ngoài cửa là một thanh niên dáng vóc cao to, ánh mắt sắc bén, tuy ăn mặc như nô bộc song lại ẩn chứa khí thế lạnh lùng uy dũng, như ẩn như hiện, có khí thế khiến cho lòng người khiếp sợ. Thấy lão áo xanh khoát tay, hắn biết hai người muốn bàn luận về vấn đề cơ mật hơn, bèn khẽ gật đầu rồi lặng lẽ lui ra ngoài đợi.

Người áo xanh cầm đũa gắp một miếng thịt dê trụng vào trong nồi lẩu sôi, rồi chấm vào chén gia vị cho vào miệng, vừa nhai vừa hỏi:
- Đám người Hoa Đáng đã đến rồi, phỏng chừng mấy ngày nữa sẽ liên lạc với họ Dương. Sự nghiệp đồ long cấp bách vô cùng, con ưng đó hiện thế nào rồi?

Du viên ngoại mỉm cười đáp:
- Yên tâm, gần đây hắn vẫn luôn hoạt động trong vùng Bình Thuận; nhưng một khi nhận được tin tức, đội khoái mã khinh kỵ chỉ trong nháy mắt sẽ có thể tới ngay. Ha ha! Bọn chúng cũng rất quan tâm, chắc chắn chúng sẽ tới! Không cần lo lắng!

- Ừ!
Người áo xanh gật đầu hài lòng, rồi nói tiếp:
- Quan trọng nhất là người mở ải không để xảy ra chuyện, phải bảo đảm cho con ưng đó vào thẳng trong cung, thăm rồng đen được ngọc châu(3). Nếu lỡ bị cầm chân thì sẽ không dễ tiến hành được nữa.

Du viên ngoại sờ chiếc cằm ba ngấn, nói khẽ:
- Thảng như hai quân giằng co, đội kỳ binh nọ của giáo chủ...,
Nói đoạn hắn chém mạnh bàn tay núc ních của mình xuống.

Người áo xanh khẽ lắc đầu, cười nhạt:
- Nói xằng! Thời gian ít ỏi, ngươi cho rằng giáo chủ có thể khống chế hơn vạn nhân mã đó ư? Cùng lắm tới lúc nguy cấp sẽ giết tướng xông vào, nhiễu loạn bố trí của chúng. Lai lịch của giáo chủ vẫn chưa thể bại lộ, binh quyền cũng vậy!

Du viên ngoại cung kính đáp:
- Dạ, tôi đã hiểu rồi.

*****

Cửa sổ lầu gác đối diện lần lượt được mở ra. Từng người đẹp vận lụa hoa đính ngọc, trang điểm lộng lẫy, vuốt tóc làm dáng xuất hiện sau cửa sổ. Trên con đường phía ngoài cửa sổ tức thì vang ầm những tiếng reo hò hoan hô, trông còn náo nhiệt hơn cả hội chùa.

Trông những mỹ nhân này, dáng điệu quyến rũ, dung nhan mỹ miều, nhưng hành động như vậy thực giống như tuyển chọn hoa khôi trong nhà thổ vậy. Đường đường là hào phú thế gia giàu nhất Đại Đồng mà lại bắt nữ quyến của mình xuất đầu lộ diện(4) như thế này, lấy việc người qua đường bình phẩm đủ điều làm thú vui thực là khó bề tưởng tượng. Ngay cả Dương Lăng cũng không khỏi nhìn thấy mà lắc đầu.

Một gã đàn ông lực lưỡng vóc người cao to vạm vỡ, vận áo lông cáo trắng như tuyết vừa cười lớn vừa bước lên lầu gác, vênh vang đắc ý. Những người con gái cực kỳ quyến rũ nọ lần lượt ngồi xuống trước cửa sổ, hoặc đánh đàn tỳ bà hoặc khảy cầm thổi sáo, mỗi người tự biểu diễn tài riêng của mình.

Dương Lăng còn tưởng rằng vị Vương Long này ắt là tay phú ông đã bị tửu sắc gạn đãi hết tinh lực, không ngờ hắn ta lại là một gã đàn ông lực lưỡng tráng kiện như vậy. Thân cao bảy thước ngang tàng, mặt vuông mày rậm đường hoàng oai phong, thực rất có khí chất uy vũ. Đúng là không thể nhìn mặt mà bắt hình dong.

Tài nghệ của những cô gái ấy đích thực bất phàm, chỉ tiếc là đám đàn ông dưới phố chỉ biết thưởng thức cái đẹp bên ngoài. Bọn họ đã nhìn ngắm thỏa thích lúc các cô đứng trên cao nhìn xuống, ngực nhô eo thắt, da trắng thịt mềm; người thì lả lơi đến tận xương, người lại xinh đẹp động lòng người, kẻ lại thanh lệ thoát tục, muôn vẻ phong tình không chỉ có một, quả thực no mắt. Lúc này ngoại trừ những đại gia lắm tiền ngồi trên tửu lầu đối diện, đám đàn ông ít tiền chỉ nghe thấy tiếng mà không nhìn thấy người cho nên đương nhiên bọn họ cũng muốn đánh trống reo hò một phen. Thế là dưới đường chợt vang lên những tiếng trống chiêng inh ỏi lấn át cả âm thanh thánh thót.

Dương Lăng nháy mắt với Liễu Bưu đang đeo một túi vuông sau lưng cải trang làm người bán dạo, Liễu Bưu hiểu ý bèn lặng lẽ đi xuống lầu. Dương Lăng không hề liếc mắt đến những món ăn thịnh soạn bày ra khắp bàn, y khép hờ hai mắt nghĩ về lời Liễu Bưu nói với mình hôm qua: "Vương Long này cực kỳ háo sắc, lấy việc thu thập mỹ nữ làm thú vui. Mỗi khi gặp được con gái nhan sắc thật đẹp, ắt là hắn vung nhiều vàng ra dụ dỗ, hoặc hứa hẹn lợi danh nhằm lừa gạt cưỡng chiếm, nạp vào trong nhà hưởng lạc thú."

Dương Lăng khẽ mỉm cười. Vừa rồi y đã nhìn thấy những mỹ nữ nọ, bọn họ quả thực đều là những mỹ nhân vô cùng xinh đẹp, mỗi người lại mang một vẻ phong tình riêng. Tuy nhiên cả bọn lại không có được một người con gái nào xinh đẹp lanh lợi đáng yêu, hờn vui đều đẹp như Đường Nhất Tiên. Nếu như Vương Long đã đam mê thu thập các loại mỹ nữ, vậy khi gặp được cô nàng, không lo hắn sẽ không động lòng.

Chỉ một chốc sau, Liễu Bưu đã dẫn Đường Nhất Tiên thong dong bước lên lầu gác. Phiên tử khắp lầu tức thì lặng im phăng phắc, như thể ngừng thở. Dương Lăng cũng không khỏi nhìn nàng chăm chăm.

Y chỉ căn dặn Đường Nhất Tiên ăn vận chỉnh chu sao cho vừa thanh nhã thoát tục khiến người ta vừa gặp liền sẽ khó quên, lại vừa phù hợp với thân phận tỳ nữ.

Còn về phần ăn vận thế nào thì Đường Nhất Tiên dù sao cũng từng là nha đầu vì hy sinh cho cái đẹp mà uống thạch tín, tuy rằng đã quên hết chuyện cũ, song cũng sẽ không mất đi ý thức thẩm mỹ. Dương Lăng lại không thông thạo thứ này cho nên cũng không đưa ra thêm ý kiến gì, thế nên đây cũng là lần đầu tiên y trông thấy Đường Nhất Tiên hoá trang.

Vốn tưởng rằng nàng sẽ trang điểm đơn sơ, áo đỏ váy xanh; không ngờ nàng lại ăn vận hết sức mộc mạc, không chút màu mè. Ngay cả bộ váy lụa đơm nhiều màu nhí nhảnh đáng yêu nọ cũng đã được thay.

Áo đen, váy đen, eo thon thít chặt.

Tay áo khe khẽ đong đưa, mái tóc dài đen nhánh thắt thành hai bím thả dài xuống quá lưng, khuôn mặt láng mịn như trứng gà bóc, da trắng như tuyết, mắt như chấm mực, cả người như ngọc tuyết đẽo thành, thanh nhã thuần khiết rất mực.

Người ta thường nói "gái muốn xinh, mặc đồ trắng", không ngờ nàng vận bộ đồ đen ấy lại càng toát nên vẻ đẹp lạ thường khiến người ta chỉ nhìn một lần đã khó quên.

Đường Nhất Tiên ôm một chiếc đàn tranh, trên dây lưng giắt chéo một cây sáo bằng trúc tía, thong thả bước lên trên lầu. Trông thấy ánh mắt như bị hớp hồn của Dương Lăng, cô nàng không khỏi đắc ý mỉm cười tinh nghịch, liền đó lại trừng đôi mắt hạnh lườm Chính Đức đang đứng sau lưng biểu ca trương bộ mặt Bát Giới ra nhìn đăm đăm.

Chính Đức thấy vậy liền vội rất "hợp tác" mà đưa tay lên chùi miệng vờ như mới vừa rỏ dãi, khiến Đường Nhất Tiên trông thấy phải bật cười phì. Nàng vén tay áo đặt ngang chiếc đàn tranh lên bàn, rồi hấp háy mắt, liếc sang Dương Lăng dò hỏi.

Vị tiểu thư đồng sau lưng Dương Lăng chỉ là "đồ trang trí", Dương Lăng cũng không hề hy vọng hắn sẽ làm tốt bổn phận thư đồng của mình, cho nên y tự cầm bình rượu rót một chén rồi khẽ gật đầu với Đường Nhất Tiên.

Đường Nhất Tiên mỉm cười, cúi đầu điều chỉnh dây đàn rồi lướt khẽ mười ngón tay thon, một khúc nhạc đinh đang êm tai như dòng suối chảy phát ra từ những phím đàn. Đường Nhất Tiên tấu một khúc nhạc xưa, làn điệu chất phác, giai điệu tao nhã. So sánh với làn điệu mang nhiều phần lả lơi của "Thập nhị cẩm bình" bên lầu đối diện thì như sen nở trong bùn, trong trẻo mà không lẳng lơ.

Dương Lăng nhón tay nâng chén rượu, mỉm cười. Đây chính là "ý nghĩ khác thường", "cờ riêng một cõi". Nếu đặt nàng vào trong các buổi tranh tài ở thời hiện đại, một tuyển thủ thú vị và đặc biệt như vậy nhất định sẽ do dụng tâm khéo léo mở cho mình một con đường riêng biệt mà được giám khảo cho thêm điểm.

Điệu nhạc được cất lên, tiếng ca trong vắt êm tai từ trên lầu thong thả vọng ra ngoài.

"Xưa làm chim khách hồng trần, nay độ duyên tiên giới. Sương mát rửa đầu trần, mây khôn xanh rìa cánh. Tiếng đầu chim vỗ cánh, tiếng hai xây cầu kiều, tiếng ba Chức Nữ lại, sóng gợn sâu trong mây... Có ai đang chạy đến, gió nổi giữa cầu mây, võ vàng trông tiều tụy, mắt đẫm lệ nhìn nhau... Tương phùng như giấc mộng, nguyện say trong giấc mơ, cùng anh chung giấc mộng, tỉnh lại đã sang năm."
(*: bài hát này kể về sự tích Ngưu-lang Chức-nữ)

Làn điệu cổ xưa kết hợp với lời thơ tao nhã, lại được cất lên bởi giọng hát lay động lòng người của nàng nên nghe càng thêm hay. Bài hát vừa xong, không chỉ toàn bộ mỹ nữ ở đối diện đứng dậy đưa mắt nhìn sang bên này, mà ngay cả vị Vương đại lão gia vóc dáng cao to nọ cũng chạy đến bên cửa sổ vịn song nhìn sang.

Người dưới lầu chỉ nghe thấy tiếng mà không trông thấy người, nhưng cũng đoán ra có người đang chèn ép thói kiêu ngạo của Vương Long. Bọn họ cảm thấy sẽ có kịch hay để xem, chi bằng mình châm thêm dầu vào lửa thế là lập tức reo hò khen hay. Thanh thế ấy tức thì áp đảo hoàn toàn "Thập nhị cẩm bình" bên lầu đối diện.

Nhắm mắt thưởng thức giai điệu xong, Dương Lăng mở mắt ra, mỉm cười:
- Xưa làm chim khách hồng trần, nay độ duyên tiên giới... Tiểu Tiên à! Giọng hát của em, tướng mạo và dáng người của em đều đáng yêu như chim hỉ thước trong mây vậy! Tuy không có cái oai khi phượng hoàng múa, vẻ đẹp của chim công khi xoè đuôi, nhưng thực hiếm có ở đây.

Đoạn y liếc nhìn sang mười hai "bức gấm" đẹp như mận như đào ở phía đối diện rồi khẽ thở dài:
- Thế giới ngày hôm nay thực sự hơi lắm phượng hoàng.

Đường Nhất Tiên bị ngữ khí tròng ghẹo của y trêu bật cười phì, vội đưa tay lên che miệng song vẫn cười duyên dáng:
- Biểu ca thật không có khẩu đức gì cả! Bao nhiêu đại mỹ nữ bị anh nhìn, còn bị anh nói lời độc địa.

Chính Đức cũng thở dài bảo:
- Đó mà là phượng hoàng gì chứ, chỉ là một đám gà kiểng...

- Hừ!
Đường Nhất Tiên liền sầm mặt trừng mắt với hắn, mắng:
- Tiểu tử ngươi càng không có khẩu đức!

Hoàng đế Chính Đức đảo mắt đáp lời:
- Nhưng mà tôi có chính đức(*).
(*: cũng có nghĩa là phẩm chất chính trực)

- Cái gì?
Đường Nhất Tiên nghe không hiểu, liền hỏi dồn.

Chính Đức bèn vội chuyển đề tài, cười nhỏ bảo:
- Nhất Tiên cô nương! Nếu cho tôi nói thì theo tôi, cô là cô, không cần phải bắt chước làm phượng hoàng, càng không cần giống như chim công gì cả.
Rồi hắn nhìn Đường Nhất Tiên thật sâu, buông từng chữ:
- Cho dù là một con hỉ thước nho nhỏ trong mây, cô vẫn sẽ áp đảo phượng hoàng, khiến muôn chim quy phục như thường!

Câu này từ miệng Chính Đức thốt ra tất nhiên đầy ngụ ý sâu xa. Đang ngồi mé ngoài cùng của tửu lâu, Trương Vĩnh nghe xong liền rúng động toàn thân. Đám thị vệ chung quanh cũng đều xuất thân từ đại nội, hiển nhiên hiểu rõ ý trong lời của Chính Đức. Nhất là Chính Đức xưa nay vẫn hi hi ha ha không chút nghiêm chỉnh nhưng lúc này ngữ khí lại nghiêm túc vô cùng. Ánh mắt bọn họ nhìn về phía Đường Nhất Tiên lập tức khác xưa.

Đường Nhất Tiên lại không hiểu ẩn ý trong lời của hắn, còn tưởng tên tiểu thân binh này lại đang vuốt đuôi mình, nịnh bợ Dương Lăng, thế là không khỏi chun mũi, làm mặt xấu với hắn. Rồi nàng uyển chuyển đứng dậy, rút cây sáo trúc được thít chặt từ bên chiếc eo thon thon đặt lên môi thổi.

Được nghe luật vần ưu nhã của khúc nhạc xưa, lắng nghe âm điệu tuyệt vời réo rắt của tự nhiên, một thư sinh anh tuấn nho nhã, một tiểu thư đồng áo xanh mũ dưa thanh tú, một tiểu tỳ áo váy đen tuyền dung nhan mỹ lệ, một cửa sổ một bầu rượu, trông như một bức tranh. Những mỹ nữ bên lầu đối diện không kiềm được mà đều nhìn đến ngây dại, ánh mắt ái mộ lưu luyến trên khuôn mặt của Dương Lăng và Chính Đức khôn thôi.

Cổ họng của vị Vương đại tài chủ Vương Long giần giật, chợt hắn chụp lấy chiếc chén vàng dốc rượu uống ực, rồi chùi chòm râu xồm, ánh mắt nhìn chằm chằm sang bên ấy.

Đường Nhất Tiên phùng má thổi tiêu, đôi mắt to biết nói dần lộ ra vẻ ranh mãnh. Nàng liếc Dương Lăng rồi lại đắc ý liếc sang Chính Đức, xoay trọn một vòng trên lầu. Trong lòng Dương Lăng máy động, y chợt nghĩ đến điều gì đó.

Quả nhiên, Đường Nhất Tiên đặt sáo thổi ngang, lúc này hai tay dần dần tách sáo ra khỏi môi nhưng môi vẫn hơi chúm lại, tiếng sáo vẫn du dương không dứt. Thanh sắc, âm điệu vẫn giống y như trước. Nàng dùng khẩu kỹ giả tiếng sáo khiến người nghe không thể nào phát hiện ra sơ hở, càng khó chính là ngay khi sáo tía rời môi, khẩu kỹ thế vào mà tiếng sáo vẫn liên tục và trôi chảy như vậy.

Thị vệ quanh lầu suýt nữa thì đã buột miệng khen hay, thế nhưng người con gái này nào để dành cho bọn họ biểu thị sự tán thưởng? Thế là lời ra đến bên miệng lại bị nuốt trở vào, có điều ai nấy đều phấn khích đến độ mặt mũi đỏ bừng. Chính Đức đang ngắm đến ngẩn ngơ, nếu không ắt đã dẫn đầu đám thị vệ mà hò hét om xòm rồi. Chỉ có Dương Lăng sớm đã đoán ra, không kiềm được mà khẽ vỗ tay, mỉm cười gật đầu với nàng.

Lúc còn ở "Thì Hoa quán", mỗi khi Đường Nhất Tiên biểu diễn đến tuyệt kỹ này, đám tửu khách đều reo hò khen giỏi, reo to nhất đương nhiên là những nam bộc được xếp trà trộn vào đám khách để hâm nóng bầu không khí. Lúc này tuy không có tú ông phụ hoạ, nhưng Vương Long đứng bên lầu đối diện trông thấy màn này liền khiếp sợ như thấy người trời, hắn đã vỗ mạnh vào thành cửa sổ kêu lớn:
- Hay! Thực là kỹ xảo diệu kỳ!

Màn này càng khiến hắn muốn thu nạp nàng hơn. Phải biết vị tiểu cô nương này chẳng những cực kỳ xinh đẹp, tài sắc vẹn toàn, mà hiếm ở chỗ là không ngờ nàng ta lại có khẩu kỹ cao minh như vậy. Di Lặc giáo giả thần giả quỷ lừa gạt dân quê, trong các loại ảo thuật ấy có một đạo cụ quan trọng không thể thiếu ấy là khẩu kỹ. Thảng như hắn thu nạp được nàng vào dưới trướng, há chẳng càng làm tăng thêm thực lực phe mình?

Đường Nhất Tiên nghe thấy đối tượng mình định dùng sắc để dụ dỗ nay cật lực phối hợp như vậy, làn thu ba liền đưa về phía hắn cười xinh rồi giắt sáo vào bên hông, ôm cây đàn tranh như muốn lui xuống lầu. Vương Long thấy vậy liền gọi:
- Cô nương khoan đã! Chờ chút! Chờ chút!

Hắn gấp đến độ không thể chờ xuống lầu vòng ra cửa hông để đi ra ngoài, mà giục quản gia mang thang lại, rồi leo thang xuống bờ tường sau, dẫn hai tên hộ vệ thân hình cường tráng đi về phía căn lầu nọ.

Chính Đức sáp đến cạnh Đường Nhất Tiên, thấp giọng cười nói:
- Con ong mật đã bị đại tiểu thư cô thu hút đến đây rồi. Hãy xem chốc nữa tôi sẽ đập hắn một phát chết như thế nào nhé!

Đường Nhất Tiên hừ mũi, giọng xem thường:
- Với ngươi hả? Có thấy vóc người của hắn chưa? Cẩn thận người ta đập cho ngươi một phát dính vào tường. Thật tội nghiệp, ta còn phải tốn sức bóc ngươi xuống đấy!

Chính Đức nhìn vẻ nửa hờn nửa giận cực kỳ xinh đẹp của nàng, nao nao trong lòng bèn trêu:
- Lạ nhỉ, tôi là người thế nào của cô mà phải khiến cô giúp tôi dọn xác thế nhỉ? Hề hề hề...

Đường Nhất Tiên "ngây thơ" đáp:
- Việc đó hả? Bình thường khi thấy con mèo, con chó, con gà nè, mấy con vật nho nhỏ mà bị chết ta cũng đều có lòng tốt đem chôn chúng hết mà!

- Cô...,
Chính Đức tức giận, hậm hực:
- Nếu tôi mà là Hoàng đế thì sẽ nạp cô vào cung rồi vứt vào lãnh cung, để cô làm bạn với bốn bức tường, ngồi đó ngóng trời. Ha ha ha...

Đường Nhất Tiên liền trả đũa:
- Nếu ta mà làm nữ Hoàng đế, ta sẽ không mất nhân tính như ngươi đâu. Ta nhất định sẽ nạp ngươi vào cung, hơn nữa còn sẽ cho ngươi theo cạnh ta suốt ngày.

Chính Đức mừng rỡ hỏi:
- Sao vậy? Muốn tôi làm Hoàng hậu của cô hả? Ha ha!

Đường Nhất Tiên nửa như cười nửa như không, đáp:
- Ta muốn ngươi làm tiểu thái giám bên cạnh ta đó, thấy đã đủ tốt với ngươi chưa? Ha ha ha...

Thấy bọn họ trêu nhau đưa tình, Dương Lăng cũng cao hứng thay cho cả hai.
Được tiên đế tán thưởng và gửi gắm con thơ, hơn nữa vị vua trẻ này lại không hề ra vẻ ta đây, đối đãi với y chân tình thân thiết, trong lòng Dương Lăng cũng đã mang máng coi hắn là anh em tốt của mình. Đường Nhất Tiên là bạn tốt của hai vị ái thê, lại nỗ lực hết mình vì y, hiện tại không chỉ Dương Lăng cáng đáng một danh hiệu biểu ca, mà y thật sự cảm nhận được tình cảm máu mủ tình thâm, nên đương nhiên mong nàng có hạnh phúc.

Tuổi tác Chính Đức xấp xỉ với nàng, tình đầu ý hợp. Nay Đường Nhất Tiên có địa vị là biểu muội của xưởng đốc đại nhân thế mà lại có hảo cảm với một hiệu úy nho nhỏ như vậy, rất có ý muốn được sánh duyên cùng hắn; điều này càng khiến y thật lòng cao hứng cho bọn họ.

Loáng thoáng nghe tiếng bước chân lên cầu thang, Dương Lăng vội ho khan một tiếng rồi bảo:
- Hắn đến rồi, cẩn thận một chút!

Chính Đức vội vụt lách ra sau lưng y. Đường Nhất Tiên cũng ôm đàn tránh ra sau lưng Dương Lăng. Vương Lăng bước huỳnh huỵch lên lầu, vừa thấy Dương Lăng liền hai tay ôm quyền, cười ha hả chào:
- Vị công tử đây khí độ bất phàm, không biết cao danh quý tính là gì? Hình như không phải là người Đại Đồng thì phải?

Dương Lăng mỉm cười đứng dậy, chắp tay đáp:
- Tiểu đệ là Ngô Thứ Nhân ở Tô Châu. Nghe đại danh Vương viên ngoại đã lâu, nghe báo hôm nay trên Hoa Lỗi nhai có hội "Thập nhị cẩm bình", tiểu đệ nhất thời nổi hứng bèn mang gia nhân cùng đến thưởng thức. Lại nhất thời ngứa nghề nên đã bảo tiểu tỳ cũng tấu một khúc nhạc trợ hứng. Nếu lỡ quấy rầy nhã hứng của Vương viên ngoại, cũng mong viên ngoại chớ trách.

Vương Long vừa trò chuyện vừa lia cặp mắt gian ra sau lưng Dương Lăng, nghe y giới thiệu xong liền ngẩn ra hỏi lại:
- Họ Ngô ở Tô Châu?

Đoạn hắn quan sát thấy Dương Lăng ăn mặc giản dị mà không dung tục, lại thấy nhân phẩm của thư đồng và tiểu tỳ sau lưng y, không khỏi kích động hỏi:
- Không biết công tử có quen biết Ngô viên ngoại Ngô Tế Uyên, người giàu nhất Tô Châu không?

Dương Lăng vội cung kính đáp:
- Chính là bá phụ của tiểu đệ. Vương viên ngoại cũng quen với bá phụ tiểu đệ ư?

Vương Long cười lớn đáp:
- Không quen, nhưng mà đại danh của Ngô lão thái gia giàu nhất Tô Châu thì ta lại đã nghe từ lâu.

Vương Long là phú hộ giàu nhất Đại Đồng, không khởi nghiệp từ đất đai mà phất lên từ buôn bán trong chiến tranh. Thâm tâm hắn thật sự không cho rằng tài sản của mình kém hơn Giang Nam Ngô Tế Uyên, chẳng qua hai nơi xa cách nên không cách nào đo đấu. Nhưng nhà họ Ngô là hào phú mấy đời, nếu luận thanh danh thì thực hơn xa một người phú hộ mới phất như hắn.

Nghe Dương Lăng xưng là con cháu của phú hộ giàu nhất Tô Châu, hắn không tiện ngang nhiên cướp người nữa, bèn cười hắc hắc nói:
- Ngô công tử! Giang Nam thế gia quả nhiên bất phàm à. Không ngờ tiểu tỳ trong nhà lại có đẳng cấp như vậy, ái thiếp trong phủ Vương mỗ cũng thua xa.
Công tử đến phương bắc để buôn bán phải không? Vương mỗ là kẻ sảng khoái, muốn thương lượng cùng công tử một việc. Đó là muốn xin công tử nhượng lại cặp người ngọc sau lưng cho ta, không biết công tử thấy thế nào? Vương mỗ nguyện lấy nhiều vàng báo đáp. Hơn nữa mọi ngành mọi nghề ở phương bắc Vương mỗ đều nhúng tay vào, chúng ta đã kết giao bằng hữu thì sau này có chuyện gì công tử cứ việc mở miệng; ta bảo đảm việc buôn bán của công tử sẽ hưng thịnh, tài nguyên tuôn vào cuồn cuộn, trở thành người con cháu được Ngô lão thái gia ưu ái nhất. Ha! Ha!

Thời ấy đừng nói là gia bộc thị tỳ mà cho dù là thiếp thất cũng có thể coi là hàng hoá mà tùy ý bán cho người khác; còn con cháu thế gia phú hào thì chỉ những ai biết phát huy tài năng lớn mới có thể được gia tộc trọng dụng. Vương Long tưởng rằng mình đưa ra lời hứa hẹn hấp dẫn như vậy thì vị công tử thế gia này nhất định sẽ vui vẻ đồng ý, cho nên nói xong liền vuốt râu cười tủm tỉm nhìn ra sau lưng Dương Lăng, như thể đã là gia chủ của cặp tiểu tỳ, thư đồng trước mặt rồi vậy.

Dương Lăng nghe vậy thì cười thầm. Tên này rõ ràng thèm thuồng Tiên Nhi, còn muốn "mua cơm tặng chén" mà cho thêm Chính Đức vào, như thể muốn mua một cặp gia nhân về trưng trước cửa vậy. Có điều không biết nếu như mình không chịu đáp ứng thì vị đệ nhất vô lại Đại Đồng này sẽ ra tay cưỡng đoạt như thế nào đây?

Dương Lăng vờ tỏ ra vẻ con cháu thế gia cao ngạo, trả lời bằng giọng không vui:
- Đa tạ nhã ý của Vương huynh. Thật ra muốn tìm được một thị tỳ vừa ý để coi sóc ăn uống ngủ nghỉ, khảy đàn cho đời thêm hương vị cũng không dễ. Thảng như Ngô mỗ nhượng lại vì tiền, há chẳng khiến người ta chê cười? Chẳng lẽ Ngô gia còn thiếu bạc hay sao?
Còn về phần buôn bán...

Y thoáng trầm ngâm, rồi tự phụ nói tiếp:
- Thiên hạ rộn ràng, ai nấy đều vì lợi. Chỉ cần giá cả phải chăng, có thể kiếm được lợi, ai mà không thể buôn bán cùng?

Hai tên hộ vệ tướng như cột sắt đứng sau lưng Vương Long liền nhướng mày, đạp mạnh chân đánh sầm, bước tới trước một bước. Dương Lăng hoảng sợ lui ra sau, biến sắc:
- Các... các ngươi muốn làm gì? Thông phán Đại Đồng Vạn đại nhân đã kết thông gia với Ngô gia ta đó!

Vương Long ngăn hai gã hộ vệ lại, ngắm nghía thư đồng tuấn tú và tiểu tỳ xinh xắn đứng sau Dương Lăng. Vị tiểu tỳ nọ mặt như tranh vẽ lại kiêm kỹ nghệ vô cùng cao minh, nếu như thu nạp được cô nàng thì thật sự sẽ trợ ích cho mình rất lớn. Nhưng vị thư đồng đó xinh như ngọc sáng, lại hiếm thấy ở chỗ là trong vẻ thông tuệ toát ra khí khái anh hùng bừng bừng; nếu mang anh bạn tuấn tú khó tìm này lên giường làm luyến đồng bầu bạn, không biết sẽ tiêu hồn cỡ nào?

Ngắm nhìn dáng vẻ của thư đồng anh tuấn cùng tiểu tỳ xinh đẹp này, Vương Long chỉ cảm thấy dưới bụng nóng rần, miệng lưỡi khô khốc. Hắn đắn đo chọn lựa hồi lâu mới hạ quyết tâm: mỹ nữ dễ tìm, còn một tiểu luyến đồng tuấn tú vừa ý như thế thực khó kiếm, bỏ tiểu nha đầu đó vậy!

Thế là hắn cười lớn rồi nói với Dương Lăng đang "sợ chết khiếp":
- Ngô công tử chớ hoảng sợ! Hai cái tên đần này là người thô lỗ, không hiểu phép tắc gì cả.

Đoạn hắn quay sang bọn chúng mắng:
- Cút sang một bên đi, đừng làm Ngô công tử sợ!

Rồi quay đầu lại tươi cười:
- Nếu đã như vậy thì quân tử không chiếm lợi kẻ khác. Tiểu nha hoàn này Vương mỗ cũng không tiện mở miệng. Có điều...

Ánh mắt dâm tà của hắn quét lên quét xuống Chính Đức trong bộ trang phục áo xanh mũ dưa, rồi cười ha hả nói thẳng:
- Nếu như Ngô công tử yêu quý thị nữ xinh đẹp này như vậy, vậy ắt là không thích nam phong rồi. Điều kiện của Vương mỗ không đổi, công tử nhượng lại tiểu thư đồng này cho tại hạ, thế nào?

"Thích nam phong?" Dương Lăng choáng người một lúc rồi mới hơi định thần lại. Y vô thức quay đầu nhìn về sau lưng, chỉ thấy Chính Đức mặt đỏ bầm như sung huyết, Đường Nhất Tiên thì đang cúi đầu cười khúc khích. Dương Lăng quay đầu lại nhìn Vương Long không biết nên khóc hay nên cười, nhất thời ấp úng không biết đáp trả thế nào.

Vốn dĩ mình định dùng Đường Nhất Tiên mê hoặc Vương Long, sao tên Vương Long này lại bị Chu Hậu Chiếu lôi cuốn thế này? Vốn mình dự tính ép cho Vương Long phải giở trò cưỡng đoạt, sau đó tìm cớ lục soát phủ đệ của hắn. Tìm được chứng cứ thì thôi, không tìm được chứng cứ thì với tội danh xúc phạm khâm sai cũng sẽ không sợ có người dám xúi giục quan viên hặc tội mình. Ai dè...

Mặc dù thời đại này thích nam phong là chuyện thời thượng, người làm luyến đồng sau này cưới vợ sinh con cũng vẫn sẽ không bị người khác kỳ thị, nhưng đó là người dân bình thường à. Đương kim Hoàng thượng giả làm thư đồng thì còn có thể nghe được, chứ bảo hắn cải trang làm luyến đồng gì đó thì... Sống trong yên ổn phải biết suy nghĩ đến ngày nguy nan à nha! Cái tội danh nhục mạ Thánh thượng này, vạn lần mình gánh không nổi đâu.

Luồng suy nghĩ của Dương Lăng diễn ra nhanh chư chớp. Y đang định trở mặt, lộ chân tướng khâm sai rồi sử dụng khẩu cung của người mà y bố trí sẵn để lục soát phủ đệ của Vương Long thì ở bàn bên, Trương Vĩnh đã nổi giận đùng đùng đập bàn đứng dậy, mắng to:
- Hỗn láo! To gan! Láo xược! Ơ... Vô sỉ! Đúng là phong hóa suy đồi, lòng người thua xưa!

Vốn lão mắng được nửa chừng thì trông thấy Chính Đức đưa mắt ra hiệu cho mình, mới giật mình sực nhớ danh phận đức vạn tuế không thể để lộ ra ngoài thế là lão bèn đổi lời, vờ như hủ nho đang đau lòng xót dạ cho luân thường đạo lý đang sa sút.

Đối với vị đại thiếu gia của thế gia Giang Nam thì Vương Long còn hơi úy kị, chứ còn lão già ăn vận như thương nhân bình thường như thế này thì hắn có gì phải kiêng kị? Hắn cười gằn sải bước xông tới trước mặt Trương Vĩnh, chọc ngón tay vào ngực lão, cất giọng ngạo mạn:
- Cái con thỏ già không râu này, đánh cái rắm gì thế?! Ông đây muốn chơi gái thì chơi gái, muốn chơi luyến đồng thì chơi luyến đồng, bởi vì ông đây có quyền, ông đây có tiền! Còn như mày, như nó, như mấy đứa nghèo kiết này, hãy ngoan ngoãn cúp đuôi về nhà mà tự chơi một mình đi!

Nói đoạn hắn thuận tay đẩy mạnh. Tuy Trương Vĩnh từng luyện qua võ nghệ, song thứ nhất là lão không kịp đề phòng, thứ hai phía sau khuỷu chân chính là chiếc ghế dài, lão chưa kịp nghĩ tới việc đứng tấn mã bộ thì đã loạng choạng lùi ra đằng sau, vấp phải băng ghế giáng mông xuống đất.

Vương Long cười ha hả, rồi vừa giả giọng vừa cong tay múa, hát một khúc dân ca:
- Ngã là ngã cái chỏng vó, đứng không được thì bò đi,
Chi bằng ngươi hãy cải trang làm con rùa nhỏ, ò dưới đũng quần Vương gia gia ta thôi.

Đã bao giờ Trương Vĩnh chịu phải nỗi sỉ nhục như thế này? Lão hiện là thống lĩnh mấy vạn đại quân Kinh doanh, là nhân vật thân cận của Hoàng thượng, thế mà…! Tiếc là tuy lão tím ruột bầm gan nhưng đã quen nghe theo mệnh lệnh của Chính Đức nên đành vẫn ráng nhịn, không dám ra oai đúng với chức vị của mình.

Vương Long dương dương tự đắc quay trở lại bên cạnh Dương Lăng, vừa nghĩ nếu như tên thiếu gia này vẫn không chịu nhượng luyến đồng thì mình sẽ lấy ngọc bội tùy thân vờ tặng cho thư đồng của y. Cái tên Ngô công tử không biết điều này ắt sẽ ra mặt ngăn cản, mình sẽ thuận tay vất đi rồi ép y phải bồi thường; đến lúc đó mình hét giá trên trời, còn lo gì y sẽ không buông tên tiểu đồng tuấn tú ấy ra?

Hắn nào ngờ Dương Lăng không dám để cho Chính Đức ra ngoài lại bị kẻ khác bỡn cợt. Không tra xét phủ của Vương Long cũng không sao, nhưng nếu bị hặc tội danh báng bổ quân vương là điếm đực thì thực không ai có thể vin cớ cải trang vi hành mà giải thích cho xuôi tai được. E rằng ngay cả Hoàng thái hậu cũng sẽ nhảy ra lấy đầu y mất thôi.

Nên vừa trông thấy tình cảnh như vậy, Dương Lăng lập tức quay đầu nói nhỏ với Đường Nhất Tiên mấy câu, rồi quay người lại quát:
- Dám xúc phạm khâm sai! Bắt hắn lại cho ta!

Ngũ Hán Siêu đang cải trang làm tửu khách lập tức lẻn nhanh đến trước mặt Vương Long như một con báo. Vương Long cả kinh, nhưng hắn vừa mới vung tay, Ngũ Hán Siêu đã vặn khớp tay hắn, nghe "rắc" một tiếng, khớp tay hắn đã bị tháo rời. Liễu Bưu đứng phía sau xông tới đá vào khuỷu gối hắn, mũi giày của Liễu Bưu được bọc sắt nên Vương Long lãnh cú đá này đau đớn vô cùng, hắn khuỵu gối "cộp" xuống đất.

Với võ công của mình, tối thiểu hắn cũng có thể đấu hơn hai mươi hiệp với Ngũ Hán Siêu; chẳng dè bị đánh bất ngờ không kịp đề phòng nên chỉ một chiêu đã bị chế ngự. Cánh tay đã bị Liễu Bưu đè quặt ra sau lưng, trừ phi giãy mạnh cho gãy luôn thì còn có thể sử dụng tay trái, bằng không hắn đừng hòng đứng dậy.

Thấy vậy hai tên bảo vệ của hắn cả kinh. Chúng vừa định xông lên, một "cây cột sắt" còn to cao hơn bọn chúng đã chắn ngang. Bộ râu Trương Phi xòe ra như cỏ bồng, Vương Đại Bổng Chùy nhếch to miệng cười nói:
- Không có đầu óc! Còn không chịu quỳ xuống!

Bọn chúng vừa thoáng sững người, lập tức "rèn rẹt" một loạt âm thanh ma sát ê răng do đao rút ra khỏi vỏ vang lên khiến người ta sởn da gà, sáu bảy thanh đơn đao mũi hẹp đã gác chéo lên cổ chúng.

Đường Nhất Tiên sáp lại gần Chính Đức, mày xinh mắt sáng tươi cười, che miệng nói nhỏ với hắn:
- Thực mất mặt chết thôi!
Người ta khéo trang điểm ăn mặc cho đẹp, hao tâm tốn sức khoe khoang bản lĩnh mà lại không khiến cho hắn ta thèm muốn bằng áo xanh mũ dưa của ngươi, hi hi!
Vương gia là kẻ giàu nhất Đại Đồng. Được hắn rước về sẽ có mấy chục chị em bạn dâu tốt bụng trang điểm lộng lẫy tiếp đón ngươi rồi. Nếu như ngươi muốn lấy chồng, ta sẽ xin biểu ca giúp cho ngươi.

Thâm tâm Chính Đức luôn mong mình là một bậc trượng phu anh hùng uy vũ, nay hắn lại bị Vương Long ngắm nghía một cách dâm dật trước mặt người con gái mình ngưỡng mộ nhất trong lòng, lại bị gã ta coi mình là luyến đồng trước biết bao thị vệ như vậy, quả thực hắn đang xấu hổ và phẫn nộ vô cùng. Nhưng sau khi nghe Đường Nhất Tiên trêu chọc, hắn lại chỉ cảm thấy tức cười, thế là một bụng nộ khí bèn tan theo mây khói.

Hắn lấy dũng khí khẽ thổ lộ:
- Mấy chục chị lớn xinh đẹp không bằng một Tiên Nhi nho nhỏ đáng yêu. Tôi thà nguyện ở lại nhà họ Dương làm hiệu úy, chỉ mong có thể thấy được dáng vẻ xinh xắn của nàng.

Đường Nhất Tiên bĩu môi, khẽ "xí" một tiếng. Đoạn ngẫm nghĩ không ngờ một người yêu chuộng vẻ đẹp hết mực như mình lại không bằng một đứa con trai; thế là nàng nỗi lòng oán hận, giơ chiếc giày cong lên đạp vào chân Chính Đức một cái, rủa:
- Ai bảo ngươi đẹp hơn ta, đạp cho chết ngươi nè!

Chính Đức cắn răng nhếch mép, chân thì đau mà lòng thì ngọt ngào.

Đám mỹ nữ bên cửa sổ lầu đối diện đang háo hức nhìn sang bên này, trông ngóng Vương Long dẫn về cho bọn họ một "tỷ muội" dễ thương tuấn tú. Tuy cách xa không nghe biết bên đó nói gì, nhưng vừa trông thấy cảnh đao thương cùng vung lên thì không khỏi kêu ré lên.

"Mười hai bức bình phong" đồng thanh ré lên, khí thế ấy thật như dời non lấp bể, vang dội núi sông. Dân chúng trong ngõ chỉ nghe bọn họ thét to "có ăn cướp", "bắt lấy cướp" song lại không biết đã xảy ra chuyện gì, có mấy kẻ nhiều chuyện định xông lên lầu nhìn. Lúc đó, "tửu khách" dưới lầu vừa nghe thấy tiếng động liền biết trên lầu đã ra tay, lập tức ai nấy đều rút đao, lắp nỏ, sát khí đằng đằng xông vọt ra. Đám người định xông vào tửu lầu thấy vậy vội phóng ngược trở ra, tốc độ còn nhanh hơn lúc xông vào gấp bội.

Vương Long sững sờ, la lớn:
- Ngươi... ngươi chính là khâm sai Dương đại nhân? Làm sao mà ta biết đại nhân cải trang đến đây, kẻ không biết không có tội. Thảo dân lỡ xúc phạm đại nhân, thiết nghĩ rót rượu bồi tội cũng được rồi, ngài lấy cớ gì để bắt ta? Thảo dân không phục!

Dương Lăng cười nhạt bảo:
- Ngươi xúc phạm khâm sai, đó là tội thứ nhất; tự xưng là vương gia, vượt quá khuôn phép, đó là tội thứ hai. Bản quan không được bắt ngươi sao?

Vương Long ngạc nhiên, biện bạch:
- Xúc phạm khâm sai, việc đó... thì cũng được đi. Nhưng thảo dân tự xưng vương gia lúc nào chứ?

Dương Lăng hơi nhếch miệng cười hiểm ác, bảo Đường Nhất Tiên:
- Tiên Nhi, em nói đi!

- Dạ, thưa đại nhân!
Đường Nhất Tiên mỉm cười khoe má lúm đồng tiền dạ một tiếng, rồi tay trái chống nạnh, tay phải chụm thành hình hoa lan, ánh mắt đong đưa, mặt tươi như hoa, cất tiếng hát:
- Ngã là ngã cái chỏng vó, đứng không được thì bò đi,
Chi bằng ngươi hãy cải trang làm con rùa nhỏ, bò dưới đũng quần bản vương gia thôi...

Dương Lăng cười nhạt nói:
- Nếu như ngươi là con hát, lời hát là về tiền triều thì cho dù là cải trang làm Hoàng đế đi nữa, bản quan cũng sẽ không trách ngươi. Thế nhưng ca từ là do ngươi sáng tác, ngươi lại là thân hào một phương, cả gan tự xưng vương gia, đó còn không phải là đại nghịch bất đạo ư?

Đoạn y vuốt cằm, nham hiểm cười nói:
- Cho dù là con hát hoá trang lên đài cũng không dám sắm vai vương tộc bản triều. Người ta nói no cơm ấm cật dậm dật khắp nơi, phải chăng Vương viên ngoại đang dậm dật mơ tưởng quyền bính?!

Vương Long há hốc miệng, một lúc lâu sau mới hét lớn một tiếng nhào người tới phía trước nhưng lập tức bị Liễu Bưu đè xuống. Mắt trợn tròn như sắp lồi ra, hắn quát:
- Ta và ngươi không thù không oán, vì sao ngươi hại ta? Ta nói là Vương gia gia, có nói là bản vương gia bao giờ? Ai có thể làm chứng đây? Quan binh của ngươi ư? Ha ha ha...

Tiếng cười của Vương Long chưa dứt, khắp tầng hai tửu lầu chợt có bảy tám chục người đồng loạt đứng dậy, có nam có nữ, có già có trẻ, tất cả đồng thanh:
- Chúng ta làm chứng!





Chú thích:

(1) trích từ thành ngữ "dục gia chi tội, hà hoạn vô từ" (có nơi nói gốc nó là "dục gia chi tội, kỳ vô từ hồ") nghĩa là nếu muốn đổ tội cho người thì lo gì không kiếm được cớ.

(2) kiểu dáng tương tự như hình, khác màu và hoa văn (http://zlk.sssc.cn/w/%E6%98%8E%E9%BB%84%E8%89%B2%E7%BC%89%E7%BA%BF%E7%B B%A3%E4%BA%91%E9%BE%99%E5%A4%A9%E9%A9%AC%E7%9A%AE% E9%BE%99%E8%A2%8D)

(3) nguyên văn "thám li đắc châu", con rồng đen nó có hạt châu dưới cằm, ai lấy được sẽ rất may mắn. Ban đầu cụm từ này dùng để chỉ việc nguy hiểm lớn được lợi to; sau thường dùng để chỉ văn chương hàm ý sâu sắc, ngắn gọn nhưng diễn đạt được vấn đề mấu chốt.

(4) người xưa coi việc người phụ nữ xuất hiện trước đám đông là việc làm mất thể diện






Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180&page=218
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
09-09-2012, 10:09 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 204 - Gõ Cửa Cầu Kiến


Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Ánh mắt Dương Lăng lướt qua đám đông, vừa định quay trở vào trong phòng, y chợt cảm thấy dường như trong đám đông có một ánh mắt quen thuộc vừa mới thoáng qua. Y chăm chú nhìn lại để tìm thì đã không thấy gì khác thường.

Y hơi nhíu mày lại, cố quan sát kỹ một lần nữa rồi mới tuyệt vọng chắp tay vái vài cái rồi lui trở vào bên cạnh bàn, hạ lệnh:
- Giải Vương Long xuống! Dẹp đường đến nha môn tuần phủ!


Hồng Nương Tử cải trang làm một thiếu nữ thôn quê mặc áo vải thô, quấn khăn vải bố, lấy nước gừng thoa cho vàng da, trông như một người bệnh dưới quê lên vậy. Hoắc Ngũ Thúc đứng bên cạnh nàng, cải trang làm một ông cụ già bán rong, gánh một gánh cải phơi khô để dùng trong mùa đông.

Khi nãy, ánh mắt của Dương Lăng thoáng chạm với ánh mắt nàng như thể thực chất khiến Thôi Oanh Nhị sợ đến run rẩy trong lòng, vội vã cúi đầu xuống, tim đập thình thịch. Nàng cảm giác được ánh mắt của Dương Lăng vẫn đang tìm kiếm nàng trong đám đông, quýnh quáng đến độ lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi, trong lòng thầm rủa: "Gặp ma rồi. Mình cải trang tầm thường như vậy, ai thấy cũng lười nhìn mình lấy một cái, sao lại giống như y đã phát hiện được mình vậy chứ? Không nhìn thấy! Đông người như vậy, y nhất định sẽ không nhìn thấy mình.”

Thôi Oanh Nhi cúi gằm mặt, cằm đụng sát ngực, bắp chân căng cứng, gót chân nhấp nhổm, cũng không biết là đang chuẩn bị co cẳng bỏ chạy hay muốn búng người nhảy lên. May mà chung quanh đầy người, tư thế cổ quái của nàng chưa khiến kẻ khác chú ý.

Đến khi Dương Lăng trở lui vào phòng, Thôi Oanh Nhi mới thở dài một hơi nhẹ nhõm, cảm thấy sau lưng nhơm nhớp, không ngờ đã sợ đến độ toát mồ hôi lạnh. Nàng hơi định thần lại, chợt cảm thấy buồn nản khôn thôi







Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 204 - Gõ Cửa Cầu Kiến




Chương 204 - Gõ Cửa Cầu Kiến

Vương Long bị trói gô bằng gân bò ngâm nước siết rất chặt, chỉ cần hắn hơi vận sức là có thể bị siết cho rách áo tróc thịt. Hắn quỳ tại chỗ, ánh mắt dại hẳn đi, nhìn đại công tử của Ngô phủ Tô Châu lắc người một cái liền hoá thành khâm sai đại lão gia, thật khóc không ra nước mắt.

Trong khi đó, Trương Vĩnh – kẻ bị hắn nhạo báng là "con thỏ già không râu", giờ trông thật như một con thỏ: khom người ngồi trên ghế, cặp mắt đỏ kè nhìn hắn chằm chằm.

Trương Vĩnh đã cởi áo ngoài, khoe bộ mãng bào đai ngọc chỉ vàng màu xanh thẳm. Gần trăm tửu khách trên lầu cũng như làm ảo thuật, đã hoá thành các vị quan lão gia giắt kiếm đeo đao, còn một số người không "hoá thân" khác hiển nhiên là đóng vai "nhân chứng" và “khổ chủ", chỉ trong nháy mắt "Hâm Thịnh lâu" đã biến thành công đường bộ Hình.

Nếu mà lúc này lại có thêm tiếng trống chiêng inh ỏi thì thực sẽ là một vở hài kịch hoang đường.

Người được giao sắm vai "con gái nhà lành" bị Vương Long cướp đoạt đem về phủ rồi về sau lại bị hắn vứt bỏ thật sự đã đạt đến cái tuổi U40, khiến cho ngay cả Dương Lăng cũng nhìn không nổi. Y thở dài, thầm nghĩ: "Sớm biết vậy chi bằng để Trình Tiểu Vân chuyên sắm vai hoa đán của gánh hát rong nọ giả trang làm khổ chủ cho rồi. Hai bà bác này thật sự là... chà!"

Dương Lăng loay hoay không yên trên ghế, hỏi nhỏ:
- Liễu Bưu! Ngươi kiếm hai người này ở đâu ra vậy? Có được không đó?

Liễu Bưu thiểu não đáp:
- Đại nhân, con gái nhà lành không chịu đóng vai này, hơn nữa nếu dùng người địa phương lại sợ bị người ta phát hiện, cho nên ti chức mới đi thâu đêm mời hai bà nương (phụ nữ có đã chồng) chuyên lo cơm nước cho gánh hát Mao gia ở Hoài Nhơn. Xong việc cho tiền rồi lặng lẽ đưa đi, an toàn lắm. Đại nhân cảm thấy không thích hợp sao?

Dương Lăng cười khổ bảo:
- Thôi được! Dùng tạm vậy!

Thứ Dương Lăng cần chỉ là một cái cớ, một cái cớ để có thể lục soát Vương phủ mà sau đó, cho dù không tìm thấy chứng cứ gì thì bọn y cũng không rơi vào thế bị động, mọi việc sẽ trở nên đơn giản. Hai bà bác diễn rất đạt, khóc lóc kể lể đã bị cái tên Vương Long mặt người dạ thú này bội tình bạc nghĩa như thế nào, tình tiết rất cường điệu. Họ lại đồng thanh báo rằng trong phủ hắn còn giấu nhốt dân nữ bị cướp về, xin thanh thiên đại lão gia tra rõ.

Đã là "Thanh Thiên đại lão gia", đương nhiên Dương Lăng phải "tra cho rõ". Y nghe xong thì cười nhạt:
- Vương Long! Bản quan phụng chỉ tuần sát dân tình và quân sự biên quan, nay đã nhận cáo trạng đương nhiên sẽ phải tra rõ ngọn ngành. Bây giờ ta sẽ phái người mang hai vị khổ chủ này đến phủ đệ của ngươi tra khám. Nhược bằng có chứng cứ, hai tội của ngươi sẽ cùng bị xử phạt, muốn chạy cũng chạy không thoát. Thảng như không có chuyện đó, bản quan sẽ trị bọn họ tội vu cáo, chỉ xét phạt ngươi tội xúc phạm khâm sai mà thôi. Ngươi thấy bản quan quyết định như vậy là đã công bằng hay chưa?

Vương Long cười thảm một tiếng rồi nhắm mắt lại không nói gì.

Hắn đâu có ngu, sao không nhìn ra Dương Lăng đang kiếm bừa tội trạng, rõ ràng là có dụng tâm khác!

Cho dù trong phủ vàng bạc chất thành núi, mỹ nữ nhiều như mây, hắn cũng không sợ Dương Lăng tra khám. Duy chỉ có số quân giới bán thành phẩm được giấu trong đại viện phía tây nọ, nếu bị lục xét thấy thì tội danh thông đồng với địch này đủ để bị tịch biên gia sản, chém đầu cả họ.

Còn tế đàn Di Lặc giáo trong mật thất ngầm bên dưới sân sau nữa! Nếu cũng bị khui ra, hắn sẽ lại vướng thêm một tội lớn là âm mưu tạo phản. Hắn biết rất rõ sự thảm khốc của luật hình triều đình đối với kẻ âm mưu tạo phản. Những thứ như điểm thiên đăng (quấn vải dầu, trói vào cột rồi đốt sống), ngũ mã phanh thây, lăng trì, móc ruột, lột da, … đều cực kỳ thê thảm, khiến người ta hận không thể chết ngay. Nay không biết mình đã để lộ sơ hở ở chỗ nào, nếu như Dương Lăng đã chuẩn bị sẵn mà tới đây thì dựa vào những phiên tử Nội xưởng này, lẽ nào bọn chúng lại khám xét không ra?

Hỏi xong câu ấy, Dương Lăng cũng không khỏi cảm thấy xấu hổ. Thấy Vương Long nhắm mắt không đáp, y bèn khoát tay ra lệnh; Liễu Bưu ôm quyền hành lễ, xoay người đi ngay. "Con thỏ già mắt đỏ" nọ chợt búng người nhảy ra khỏi ghế, nghiến răng:
- Ta đi theo ngươi!

Sức bật kinh người của lão khiến cho Dương Lăng giật nảy mình, xem ra thái giám quả thật quá đàn bà, thù dai quá đi. Chẳng phải chỉ bị người ta đẩy ngã, chửi là "con thỏ già" thôi sao? Tôi còn bị Hồng Nương Tử mắng cho là phế vật, bắt nhốt trong hang mấy ngày đây này mà có nổi khùng như vậy đâu?

Trương Vĩnh đã xung phong đảm nhận, y cũng không tiện ngăn cản bèn để mặc Trương Vĩnh đi theo Liễu Bưu điểm danh đám binh mã đã chờ sẵn trong một con hẻm khác, hùng hổ xông tới Vương phủ.

Bụng đầy lo lắng, Dương Lăng thong thả bước từng bước trên lầu, chỉ lo không tra xét được gì. Cho dù là trong quan trường hay ở địa phương, Vương Long đều là nhân vật nổi tiếng của Đại Đồng, tuy rằng Nội xưởng đã thêu dệt tội danh cho hắn nhưng chung quy vẫn là đuối lý.

Đường Nhất Tiên không rõ thiệt hơn trong đó, tiểu Chính Đức thì lại không sợ lợi hại trong đó. Hai đứa nhóc không biết mùi vị sầu lo đang ngồi một bên to nhỏ thì thầm, như một cặp người ngọc ngồi dựa vào nhau khiến người ta tha hồ mà tưởng tượng.

Dương Lăng lắng tai nghe, hoá ra hai người đang thảo luận về âm nhạc.

Chính Đức khoe với Đường Nhất Tiên:
- Cô khảy đàn thổi tiêu đều hay, song trình độ âm nhạc của tôi cũng không kém. Lần này đến biên quan được chứng kiến khung cảnh mâu thương giáp ngựa, đại mạc sông dài, lòng tôi rất cảm xúc. Tôi muốn sáng tác một bài hát, tên cũng đã nghĩ ra rồi, đó là "Sát biên nhạc", nhằm cổ vũ lòng quân, giết sạch bọn giặc cướp xâm lăng biên giới!

Đường Nhất Tiên chống hai tay trên ghế dài, đôi chân đong đưa, tò mò hỏi:
- Giai điệu như thế nào, ngươi hát thử cho ta nghe coi.

Chính Đức cười gượng gạo đáp:
- Giai điệu hả... Tôi vẫn chưa nghĩ ra, đợi tôi nghĩ ra rồi sẽ hát cho cô nghe.

Đường Nhất Tiên bật cười, phê phán:
- Cóc nuốt ông trời rồi!

Chính Đức ngạc nhiên hỏi:
- Ý cô là sao?

Đường Nhất Tiên nghiêng đầu cười tinh nghịch đáp:
- Huênh hoang khoác lác!

* * *

Lúc này trong Vương phủ tiếng khóc rung trời, gà bay chó sủa; từng nhóm quan binh xông vào trong phủ, tựa như đổ nước lạnh vào nồi nước đang sôi, tức thì nồi vỡ! Trăm họ tranh nhau chạy ra đầu phố, vây quanh nhà họ Vương chật như nêm, phố Hoa Lỗi đã nghìn nghịt đầy người, náo nhiệt vô cùng.

Trong lúc hỗn loạn, hai gã đàn ông trung niên vận áo da vội vã tiến vào trong Thái Bạch cư, đi thẳng lên phía ngoài căn nhã phòng đối diện cửa sổ trên lầu hai. Thanh niên đứng canh ngoài cửa nghe xong lời tường thuật của hai người liền vội bảo một người đứng canh cửa, còn mình thì dẫn người còn lại lách vào.

Du viên ngoại cùng người áo xanh ngồi trước cửa sổ, đang căng thẳng quan sát tình hình bên phía đối diện. Nghe tiếng gõ cửa, quay đầu lại trông thấy người vận áo da thì Du viên ngoại vội hỏi ngay:
- Tiểu Sở đã nghe ngóng được gì rõ ràng chưa? Bên nhà họ Vương đã xảy ra chuyện gì vậy?

Tiểu Sở đưa tay áo lên lau mồ hôi trán, lo lắng đáp:
- Bẩm hộ pháp! Vừa rồi có người trên "Hâm Thịnh lâu" so đấu nhạc kỹ với "Thập nhị cẩm bình" của Vương viên ngoại. Cô gái trên lầu nọ tài sắc song toàn, Vương viên ngoại nhất thời động lòng bèn bắc thang xuống phố, chạy vào trong lầu Hâm Thịnh định dùng nhiều vàng mua cô nữ ca nọ, song không biết sao giờ lại bị người ta bắt giữ rồi.
Nghe nói trên lầu đó là khâm sai Dương Lăng và Trương Vĩnh cải trang vi hành. Bọn họ nói Vương viên ngoại xúc phạm khâm sai, lại có người tố cáo hắn cưỡng đoạt dân nữ, nên hiện đã cho người đến phủ lục soát rồi.

- Láo toét! - Khuôn mặt tươi cười như Phật Di Lặc của Du hộ pháp tím lại, - Vương Long sưu tầm mỹ nữ chưa hề cưỡng đoạt đưa người vào phủ. Hắn là nhân vật có danh có tiếng ở Đại Đồng, cho dù xúc phạm khâm sai đi nữa, tội đó cũng không đến nỗi bị xét nhà.

Người áo xanh bó tay vào trong ống cười nhạt nói:
- Khâm sai cải trang vi hành?! Sao khéo đến như vậy? Bên này Vương Long vừa xúc phạm khâm sai thì lập tức liền có người biết tin mà chạy đến dâng cáo trạng chứ? Thậm chí ngay cả quan binh vào phủ lục soát cũng đến nhanh như thế? Nhất định là Vương Long đã để lộ sơ hở ở chỗ nào rồi! Dứt khoát phải lập tức ứng biến, con đường Vương Long này ta phải chặt đứt ngay.

Du hộ pháp hơi định thần lại, bàn:
- Cũng may! Những người có liên hệ với hắn không nhiều, tôi sẽ lập tức thông tri Vương Hổ và Bao Quân đi ngay, cả tôi cũng phải lập tức rời khỏi đây.

Người áo xanh ngăn hắn lại:
- Khoan đã, ông đừng đi! Phái ai đó khôn khéo đi xem thử đi! Có cơ hội thì hãy thông báo cho bọn họ, còn nếu như tình hình không ổn thì đành thôi. Dương Lăng có thể lần ra ngọn nguồn mà lục soát bên nhà Vương Long, khó đảm bảo y sẽ không phái người nhìn chằm chằm vào bọn họ.

Du hộ pháp gật gù, rồi giậm chân tiếc rẻ:
- Chỉ uổng cho phần cơ nghiệp mà chúng ta đã khổ tâm kinh doanh bao năm lập nên.
Đại pháp sư cũng mau chóng rời thành đi! Cho dù Vương Long ngậm kín miệng đi nữa, chỉ cần mớ quân nhu khí giới hoặc thậm chí là tế đàn của bản giáo bị lục xét thấy thì quan quân sẽ lập tức giới nghiêm toàn thành. Đến lúc đó muốn đi cũng không đi được nữa.

Người áo xanh gật nhẹ đầu, rồi ngửa mặt lên trời thở dài:
- Vương Long cũng đành thôi, nhưng Vương Hổ ở thành tây là một nhân tố quan trọng trong nước cờ của bản giáo. Chỉ tiếc là... kế hoạch giờ đây đã không thể không thay đổi. Than ôi! Trời không giúp bản giáo rồi.

Hắn giậm mạnh chân một cái rồi dẫn gã áo xanh vội vã rời khỏi Thái Bạch cư, cưỡi ngựa phi thẳng đến cổng thành.

* * *

Mấy viên Bách hộ dẫn đám thị vệ như cọp như sói chia làm hai ngả, không khám từng bước từ nhà trước vào nhà sau mà men theo cổng nguyệt lượng hai bên sân trước, xông vào trong hai bên nhà ngang, xuyên qua hoa viên, phòng khách, phòng nô bộc, ùa thẳng đến công xưởng riêng của nhà họ Vương phá cửa nhà kho, tuôn vào trong lục soát.

Trông thấy tình cảnh này, một đám gia bộc gan to bắt đầu lấy cắp một ít món giá trị đem về giấu trong phòng mình. Còn đám tiểu thiếp lung linh xinh đẹp sau hậu viện nọ vừa gân cổ kêu gào khóc cha gọi mẹ vừa không ngừng vơ vét đồ vàng của bạc giấu vào trong người. Chỉ một chốc sau, những chiếc eo thon nhỏ đã phình ra như đã mang thai sáu bảy tháng.

Khi quan binh tuôn lên trên lầu gác Vương phủ, đám mỹ nữ “Thập nhị cẩm bình” và nha hoàn hoảng sợ túm tụm lại kêu ré, tưởng rằng cũng sẽ bị đưa ra quan phủ truy xét, không ngờ quan binh lại mặc kệ bọn họ, xông thẳng đến cửa sổ rồi lớn tiếng bẩm báo vọng qua bên kia đường:
- Bẩm khâm sai đại nhân! Trong nhà họ Vương lục ra được mười rương lang nha tiễn, một nghìn bộ giáp da người Thát Đát hay sử dụng, hơn năm trăm yên ngựa, còn có bàn đạp, móng ngựa vân vân, đều là quân nhu khí giới bị cấm.

Dân chúng hóng xem náo nhiệt dưới ngõ vỡ oà. Chuyện Vương Long lừa gạt cưỡng đoạt tài vật là chuyện không giả, có điều hắn không phải là địa chủ, việc buôn bán thì phần lớn đều là buôn lậu cho nên chưa hề nảy sinh xung đột gì với dân chúng quanh vùng. Khi Vương phủ bị xông vào khám xét, phần đông dân chúng còn mang tư tưởng "chẳng thân cũng khách quê ta"(1) mà cảm thấy đồng tình với Vương Long, thầm thoá mạ khâm sai.

Lúc này vừa nghe báo hắn tư thông Thát Đát mua bán quân nhu khí giới, trăm họ tức thì nổi bùng lửa giận. Hán gian nối giáo cho giặc chính là loại cặn bã mà người Hán căm ghét nhất, thậm chí còn ghét hơn cả chính con cọp dữ Thát Đát. Dân chúng Đại Đồng vốn chịu nhiều bức hiếp của giặc Thát càng hận không thể ăn xương uống máu thứ người này. Tiếng mắng chửi và tiếng la hét căm hờn tức thì dấy lên rền trời, không ít người bắt đầu kêu gào đòi khâm sai đại nhân đem Vương Long đi ngũ mã phanh thây ngay lập tức.

Nghe báo xong, Dương Lăng thở phào nhẹ nhõm. Nhìn sang thấy Vương Long mặt vàng như nghệ, y bèn đi đến trước cửa sổ cao giọng ra lệnh:
- Canh giữ mọi thứ y nguyên, không được tùy ý đụng vào bất cứ vật gì! Ngoài ra, hãy phái người cấp tốc trình báo cho phủ Đại vương, mời Vương gia và nha môn tuần phủ phái người tra xét tịch biên toàn bộ nhà họ Vương!

Đoạn y quay xuống phía dân chúng ngoài cửa sổ, chắp tay lại, tuyên bố:
- Còn như loại cặn bã hại nước hại dân này, triều đình nhất định sẽ nghiêm khắc trừng trị không tha. Thế nhưng, quốc có quốc pháp, gia có gia quy, triều đình vẫn cần phải tra rõ chứng cứ, thông báo đến trăm họ mới có thể trừng phạt loại cặn bã này một cách thích đáng. Đại vương điện hạ, Hồ tuần phủ và bản quan nhất định sẽ có câu trả lời thỏa đáng cho mọi người. Các vị hương thân phụ lão hãy yên tâm, chớ nên nóng nảy!

Lời của Dương Lăng lôi kéo được một tràng tiếng reo hò lẫn hoan hô vang dội. Ánh mắt Dương Lăng lướt qua đám đông, vừa định quay trở vào trong phòng, y chợt cảm thấy dường như trong đám đông có một ánh mắt quen thuộc vừa mới thoáng qua. Y chăm chú nhìn lại để tìm thì đã không thấy gì khác thường.

Y hơi nhíu mày lại, cố quan sát kỹ một lần nữa rồi mới tuyệt vọng chắp tay vái vài cái rồi lui trở vào bên cạnh bàn, hạ lệnh:
- Giải Vương Long xuống! Dẹp đường đến nha môn tuần phủ!


Hồng Nương Tử cải trang làm một thiếu nữ thôn quê mặc áo vải thô, quấn khăn vải bố, lấy nước gừng thoa cho vàng da, trông như một người bệnh dưới quê lên vậy. Hoắc Ngũ Thúc đứng bên cạnh nàng, cải trang làm một ông cụ già bán rong, gánh một gánh cải phơi khô để dùng trong mùa đông.

Khi nãy, ánh mắt của Dương Lăng thoáng chạm với ánh mắt nàng như thể thực chất khiến Thôi Oanh Nhị sợ đến run rẩy trong lòng, vội vã cúi đầu xuống, tim đập thình thịch. Nàng cảm giác được ánh mắt của Dương Lăng vẫn đang tìm kiếm nàng trong đám đông, quýnh quáng đến độ lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi, trong lòng thầm rủa: "Gặp ma rồi. Mình cải trang tầm thường như vậy, ai thấy cũng lười nhìn mình lấy một cái, sao lại giống như y đã phát hiện được mình vậy chứ? Không nhìn thấy! Đông người như vậy, y nhất định sẽ không nhìn thấy mình.”

Thôi Oanh Nhi cúi gằm mặt, cằm đụng sát ngực, bắp chân căng cứng, gót chân nhấp nhổm, cũng không biết là đang chuẩn bị co cẳng bỏ chạy hay muốn búng người nhảy lên. May mà chung quanh đầy người, tư thế cổ quái của nàng chưa khiến kẻ khác chú ý.

Đến khi Dương Lăng trở lui vào phòng, Thôi Oanh Nhi mới thở dài một hơi nhẹ nhõm, cảm thấy sau lưng nhơm nhớp, không ngờ đã sợ đến độ toát mồ hôi lạnh. Nàng hơi định thần lại, chợt cảm thấy buồn nản khôn thôi: “Khi nãy có cơ hội thật tốt, mình chỉ cần phóng một thanh phi tiêu từ trong đám đông, lập tức tin khâm sai bị ám sát nhất định sẽ lan truyền khắp thiên hạ, mình liền có thể thừa cơ ly khai. Mình sợ y cái gì vậy? Y là một thư sinh yếu đuối, chỉ cần một ngón tay là mình đã có thể đẩy ngã y. Lúc đánh với bọn cướp ở Thái Hành đông như vậy, Hồng Nương Tử mình đơn thương độc mã ra vào như chốn không người, có thèm đặt ai vào trong mắt? Một thư sinh thối như y, mình... mình làm gì phải sợ y chứ?"

Lúc này thị vệ đại nội trong tửu lầu đã đi ra, bắt đầu mở đường dọn lối mời khâm sai đại nhân lên kiệu khởi hành. Dân chúng chen chúc lui về phía sau, bị bắt rời xa tửu lầu năm sáu chục trượng. Hơn trăm thị vệ đứng thành ba hàng chắn trước mặt đám bá tánh vây xem, Dương Lăng và Trương Vĩnh vội vã bước ra lên kiệu. Đường Nhất Tiên cũng ôm cây đàn tranh lên một chiếc kiệu nhỏ riêng. Đoàn người trảy thẳng về phía nha môn tuần phủ.

Hoắc Ngũ Khúc ho một tiếng, gọi:
- Con gái! Con gái! Con gái à!

Giọng Hoắc Ngũ Thúc càng lúc càng to, Thôi Oanh Nhi như mới chợt tỉnh dậy từ trong mộng, ngẩng phắt đầu lên, kinh hoảng hỏi:
- Hả? Sao ạ?

Hoắc Ngũ Thúc nhìn nàng vẻ khó hiểu, rồi thấp giọng nói:
- Đi thôi con gái, chúng ta còn phải đến chợ bán rau đấy!

- Dạ, được!
Thôi Oanh Nhi chỉ đợi có câu này, liền vội theo lão đi về phía đầu ngõ. Khi đến chỗ vắng người, Hoắc Ngũ Thúc mới thấp giọng hỏi:
- Vừa nãy ngay lúc y thò đầu ra ngoài cửa sổ, cơ hội thật tốt, sao con không ra tay?

Môn võ Hoắc Ngũ Thúc luyện là ưng trảo công, lão không giỏi sử dụng binh khí lắm, ám khí lại càng không thạo. Hơn nữa Hồng Nương Tử vốn không định giết chết Dương Lăng cho nên nàng xung phong lĩnh nhiệm vụ, quyết định tìm cơ hội rồi chính mình ra tay, Hoắc Ngũ Thúc giúp nàng chạy trốn.

Lúc quan binh bao vây nhà họ Vương, tin tức lan ra khắp nơi, bọn họ ở cổ lầu nghe được tin lập tức chạy sang bên đây, vừa may gặp dịp. Khi nãy thấy Thôi Oanh Nhi chần chừ không ra tay, cơ hội thoáng qua liền mất, Hoắc Ngũ Thúc muốn giục cũng đã muộn.

Thôi Oanh Nhi hơi chột dạ, may mà khuôn mặt được thoa gừng nên không thấy rõ sắc mặt, nàng đáp lấy lệ:
- Khi nãy... con sợ một đòn không trúng sẽ không còn cơ hội nữa, vốn con tính đợi y lộ cả thân người... Thôi, tìm cơ hội khác vậy.

Hoắc Ngũ Thúc không nghi ngờ gì, gật đầu đồng ý:
- Ừm! Thấy y hôm qua lên Bạch Đăng sơn, nay lại tới lầu Hâm Thịnh, cũng là kẻ không yên phận. Chỉ cần chúng ta chăm chú theo dõi y, nhất định sẽ tìm được cơ hội. Y đến nha môn tuần phủ, nhất định là để thương lượng chia chác của hôi rồi. Khà! Khà! Vương Long buôn bán hàng lậu, vận chuyển quân nhu khí giới, trong nhà vàng bạc như núi, vợ đẹp thiếp xinh, … Chuyến này vị khâm sai này sẽ vớ bẫm rồi!

Không suy nghĩ, Thôi Oanh Nhi buột miệng phản bác ngay:
- Không thể nào! Y không phải là hạng người như vậy!

Hoắc Ngũ Thúc thoáng sững người. Thôi Oanh Nhi cắn đầu lưỡi (do nuốt lời không kịp -Ba_Van), ngượng ngập giải thích:
- Người này tuy là đối thủ của chúng ta, nhưng hành vi và phẩm đức thật tốt hơn rất nhiều quan viên khác. Ngũ thúc hãy xem, y đồng lòng chống giặc dưới núi Bạch Đăng, giữ lời thả người trên núi Bạch Đăng, những quan binh mà chúng ta từng gặp trước đây đã có người nào xuất chúng như vậy chưa?

Hoắc Ngũ Thúc không nói gì, chỉ lặng lẽ gật đầu, trong lòng thầm tính toán riêng: “Con bé này, thật… Sao lại đi tin người của quan phủ kia chứ? Mình từng nhìn nó lớn lên, con bé tuy chưa từng đọc qua sách vở nhưng phẩm hạnh đoan chính vô cùng, quyết sẽ không làm chuyện có lỗi với trượng phu nó. Nhưng cháu Hổ sắp khởi sự, nó lại động lòng nhu nhược kiểu đàn bà với người trong triều đình, khó trách sẽ nảy sinh bất hòa với cháu Hổ. Chậc! Xem lúc nào có cơ hội mình vẫn phải tự tay diệt trừ Dương Lăng thôi, tránh để con bé làm lỡ đại sự.”

Hoắc Ngũ Thúc vào thành mang theo gánh rau khô, nếu mang nguyên gánh trở về hoặc tìm chỗ nào đó đổ bỏ đi thì sẽ khiến kẻ khác nghi ngờ. Vì thế hai người vội vã chạy lên chợ thanh lý giá rẻ, xong xuôi mới dọn gánh ra ngoài thành. Không ngờ khi đến cổng thành thì cả hai đã thấy cổng thành đóng chặt, một vài bá tánh đang tụ tập trước cổng thành bàn tán ồn ào.

Thôi Oanh Nhi không biết đã xảy ra chuyện gì, bèn dò hỏi một ông lão bên cạnh:
- Đại thúc, có chuyện gì vậy?

Ông lão trông thấy nàng là một cô gái nhà nông ốm yếu, bèn đáp:
- Có phải con gái muốn ra ngoài thành không? Hãy mau đi nương nhờ thân bằng quyến thuộc đi, hôm nay không rời thành được đâu. Vừa rồi khâm sai đại nhân phong tỏa nhà cửa Vương Long; Đại vương gia và nha môn tuần phủ bèn phái người đi tra xét kỹ lưỡng, lại tìm thấy một gian mật thất dưới phật đường ở sân trong, bên trong không ngờ lại là hương đường của Di Lặc giáo. Em trai hắn là Vương Hổ, tướng quân trấn giữ cửa thành tây, hay tin định trốn ra khỏi thành nhưng bị phục binh của khâm sai đại nhân mai phục bắt về. Hiện tại Đại vương gia hạ lệnh đóng kín bốn cổng để truy bắt dư nghiệt tà giáo đó.

- Hả!
Thôi Oanh Nhi và Hoắc ngũ gia trao đổi nhanh ánh mắt với nhau. Té ra Vương viên ngoại Vương Long giao du rộng rãi giàu nhất Đại Đồng lại là người của Di Lặc giáo?

Thấy rằng không thể ra khỏi thành được nữa, hai người đành quay trở lại. Hoắc Ngũ Gia cảm thấy khó tin, nói:
- Vương Long là đại tài chủ giàu nhất một phương, không ngờ lại là yêu nhân của Di Lặc giáo. Hắn giao du rộng rãi, lần này số người bị liên đới nhất định không ít. Chúng ta phải làm gì đây? Đến chỗ nào để lánh một chút bây giờ?

Thôi Oanh Nhi thở ra một hơi trút hết buồn bực trong người, lòng cảm thấy hết sức thoải mái. Nghe xong lời lão, nàng suy nghĩ một chốc rồi cười đáp:
- Không vội! Chúng ta cứ quay về phố nam Cổ lầu trước, xem tình hình nhà họ Vương thế nào đã. Đợi khi trời sập tối, chúng ta sẽ lại nghĩ cách tìm nơi an ổn mà náu thân.

Dân chúng bu xem náo nhiệt vẫn đang đứng đầy trước phủ của Vương Long. Cổng phủ mở rộng, quan sai ra vào như thoi đưa, lo kiểm kê tài sản, bắt giam phạm nhân. Bởi vụ án liên quan đến hai tội lớn là cấu kết với kẻ địch và mưu phản nên tất cả mọi người trong phủ đều bị bắt nhốt vào ngục. Sau khi thẩm xét rõ từng người mới có thể quyết định là thả hay buộc tội là đồng lõa.

Bởi chứng cứ rành rành, trên người mang hai đại tội đáng chém đầu, cho nên không cần niêm phong nhà cửa chờ xin thánh chỉ, Đại vương hạ lệnh tịch biên ngay. Đáng thương cho nhà họ Vương hiển hách một thời nay như lầu cao sụp đổ, khắp phủ u ám hoang tàn như đèn dầu sắp cạn, đàn đã sẩy rồi mà nghé cũng chạy không xong, nam cùm nữ xích kín cả ngục giam, gia tài của họ Vương bị tịch biên không còn gì cả.

Thê thiếp thị tỳ, người hầu kẻ hạ, tất cả đều bị tống vào trong ngục; nữ trang tài vật, châu báu thư họa cũng bị đóng rương chở về nha môn; còn lại ít đồ vật cồng kềnh thì ghi hết vào trong sổ, thứ nào có thể di dời thì đưa vào trong kho rồi niêm phong lại. Cuối cùng cánh cổng sơn son đóng rầm một cái, hai con ấn to đùng của phủ Đại vương và nha môn tuần phủ được đóng lên dải giấy niêm phong dán chéo trên cổng. Căn nhà rộng lớn vốn đông đúc nô bộc tức thì biến thành căn nhà hoang.

Ánh mắt Thôi Oanh Nhi thoáng loé lên, nàng thấp giọng nói:
- Ngũ thúc, đêm nay chúng ta hãy trú trong căn nhà này đi.

Ánh mắt Hoắc Ngũ Thúc cũng sáng lên, lão khen:
- Hay! Quả nhiên là một nơi rất an toàn! Trước cổng có quan binh canh gác, chúng ta nên thừa lúc tối trời lẻn vào từ bên hông. Có chỗ tốt như thế này, có ở lại Đại Đồng mười ngày nửa tháng cũng sẽ không bị người ta phát hiện. Có điều đám cháu Hổ chờ lâu không thấy chúng ta về nhất định sẽ sốt ruột lắm đây!

Thôi Oanh Nhi lắc đầu đáp:
- Không đâu! Nội ngày mai tin nhà Vương Long bị tịch biên sẽ lan truyền khắp các trấn, Hổ ca nhận được tin sẽ đoán được quan binh cho phong tỏa thành trì...,

Nói đến đây, nàng chợt thấy mấy tuần bộ cầm đao đang đi đi lại lại quan sát hai bên đường, hể trông thấy có người khả nghi liền chặn lại gặng hỏi, bèn vội dìu Hoắc Ngũ Thúc:
- Chúng ta đi!

Một thiếu nữ quê mùa tướng mạo tầm thường dìu một ông lão mang quang gánh rỗng bước vội trên đường phố Đại Đồng trong màn đêm mờ mịt. Cảnh ấy quá đỗi bình thường, không ai thèm liếc mắt để ý thêm.

*****

Đại vương, khâm sai và tuần phủ tam đường hội thẩm, án tử của Vương Long được phán quyết một cách gọn gàng.

Vương Long tự làm quân nhu khí giới bán cho kẻ địch, tham dự âm mưu tạo phản cùng tà giáo, chứng cứ rành rành. Em hắn là tì tướng tây thành Vương Hổ, thương nhân buôn ngọc thạch là Bao Quân cũng tham dự vào trong đó. Đại vương gia đích thân chủ thẩm, nghe nói trên công đường Vương Long vùng vẫy thoát khỏi dây trói, liều mạng xông tới định hành thích vương gia. Đại vương cả giận, lập tức hạ lệnh đem Vương Long, Vương Hổ, Bao Quân và nô bộc gia tướng liên can, tổng cộng sáu mươi hai người, giải lên trên pháp trường ngoài cổ lầu xử trảm.

Khi bọn họ bị áp giải lên pháp trường, toàn thân đã bị đánh đập tra khảo đến bong da tróc thịt, không còn trông ra hình dạng con người. Lúc đại đao của đao phủ vung lên, bọn họ chỉ quỳ bệt trên đó ngoan ngoãn chịu chém, không một ai cất giọng ca vang "đầu rơi máu chảy không sờn chí", "hai mươi năm sau lại là hảo hán" gì gì đó. Đã là tử tù mà không chuyên nghiệp đến như vậy khiến quần chúng chuẩn bị tinh thần sức lực để reo hò khen ngợi thất vọng vô cùng, thế là bèn mắng chửi bọn họ như tát nước.

Đầu người rơi hàng loạt dưới cổ lầu. Vương Long tội ác tày trời, lại ngang tàng quá đỗi tự xưng là vương gia, nhà gọi là vương phủ, Đại vương bèn hạ lệnh cho đao phủ là Lưu tiểu đao lột da hắn làm trống, đặt trên cổ lầu. Mỗi ngày nghe tiếng trống đó vang lên, thật khiến dân chúng phổ thông từng tin thờ Di Lặc giáo nghe mà run rẩy cả thần hồn.

Đại vương lại cho người nạy đá xanh dưới cổ lầu lên, đào sâu ba thước, chôn quan tài của Vương Long ở dưới đó để mọi người đi qua giẫm đạp cho xứng tội Vương Long; đổi tên Hoa Lỗi nhai thành Hoan Lạc nhai. Dân chúng Đại Đồng hô vang vạn tuế, quả là vui sướng như đón mừng ngày tết vậy.

Vụ án Vương Long đã liên lụy đến rất nhiều quan viên. Bởi có tiền lệ là Vương Hổ, cho nên bất luận có chứng cứ hay không, những tướng lĩnh trong quân cứ hễ từng qua lại thân mật cùng nhà họ Vương đều bị thuyên chuyển để đề phòng bất trắc. Một làn sóng ngầm chảy mạnh trong thành Đại Đồng, e rằng sẽ phải mất đến dăm ba tháng thì cuộc thanh trừng quy mô lớn này mới yên ắng trở lại.

Địa lao trong phủ Đại vương chỉ là nhà tù riêng dùng để giam giữ trộm cướp và gia bộc vương phủ phạm tội cho nên vốn đơn giản hơn đại lao ở chỗ quan phủ nhiều. Nhưng lúc này cánh cửa địa lao đã được thay bằng cửa sắt nặng trình trịch, trong ngoài đều có hơn mười viên phiên tử Nội xưởng cầm đao giắt cung trông giữ nghiêm ngặt. Cả khu vực sân quanh địa lao được canh phòng cẩn mật, nghiêm cấm ra vào mọi kẻ chưa có lệnh dụ.

Trên giá tra tấn trong địa lao đang treo một gã đàn ông khỏe mạnh máu me đầm đìa, tóc tai bù xù, đầu cúi gục, đã bất tỉnh. Dương Lăng ngồi trên chiếc ghế trước mặt hắn, quan sát một lượt rồi nhíu mày hỏi:
- Không khai gì cả à?

Liễu Bưu nhìn gã tù phạm hốc hác đó một lúc rồi đáp:
- Dạ đúng rồi! Cực hình nào có thể dùng được ti chức đều đã dùng cả rồi. Vương Long ôm lòng chết chắc, thủy chung không nói tiếng nào.

Dương Lăng nhìn đùi tên tù phạm lộ ra bên dưới chiếc quần rách bươm, trên đó có một vết thương sâu hoắm ghê mắt, máu mủ vẫn liên tục rỉ ra. Mới mấy ngày ngắn ngủi, gã đàn ông cường tráng này đã bị hành hạ không còn hình dáng con người, cũng không biết hắn đã phải chịu những cực hình nào nữa.

Dương Lăng khiếp sợ:
- Từ đời Tống-Nguyên tới nay, dù trong triều đại nào Bạch Liên giáo cũng đều bị triều đình đuổi giết, nhưng trải qua mấy trăm năm lại vẫn luôn đứng vững không ngã, quả nhiên là có phương pháp độc đáo của nó. Dưới cực hình như vậy cho dù là người mình đồng da sắt cũng chịu không nổi, vậy mà Vương Long sống trong nhung lụa gần chục năm, đắm chìm trong tửu sắc tài vận lại vẫn cứng đầu. Thảng như tất cả các nhân vật cao cấp của Di Lặc giáo ai nấy cũng đều khó chơi như vậy, thực sẽ không dễ đối phó đây!

Liễu Bưu cười gượng gạo:
- Người này đích thực là kẻ cứng đầu, có điều ti chức lăn lộn trong Cẩm Y Vệ lâu năm, ít nhiều cũng đã gặp mấy tên như vậy. Điều khiến người ta bất lực nhất chính là vừa mới sử dụng cực hình thì cái tên Vương Long này liền ngất xỉu; lúc không sử dụng cực hình mà hắn muốn ngất xỉu vẫn có thể ngất xỉu. Thế nên ti chức không có cách nào xử trí được hắn cả!

- Ồ! Ngất xỉu!? Ngất xỉu như thế nào?
Dương Lăng thấy lạ, liền vội hỏi dồn.

Liễu Bưu cười khổ đáp:
- Chỉ cần ti chức vừa cho sử dụng cực hình, lập tức Vương Long liền tự ngất xỉu. Tù phạm bị tra khảo phải cung khai là do phần lớn khi bị tra tấn, sự đau đớn về thể xác vượt quá mức cực hạn mà bọn họ có thể chịu đựng. Thế nhưng Vương Long vừa bị tra tấn liền đã ngất đi, đến khi hắn tỉnh lại thì cơn đau cực điểm khiến tinh thần người ta sụp đổ trong khi bị tra khảo đã trôi qua rồi. Hơn nữa chỉ cần hắn muốn, ví dụ khi bình thường không bị tra tấn nhưng chỗ bị thương đau quá chịu không nổi, thì hắn cũng có thể tự làm cho mình ngất đi. Công phu bàng môn tả đạo của Bạch Liên giáo quả thực không ít.

Dương Lăng nghe xong thì lờ mờ đoán đây hẳn là một loại công phu tương tự như tự thôi miên. Mấy trăm năm nay Bạch Liên giáo thông qua tín ngưỡng thu nạp giáo chúng, thật sự bọn họ rất sở trường trong việc sử dụng những trò ảo thuật như phù thủy, khẩu kỹ, thôi miên để mê hoặc lòng người. Nếu Vương Long là nhân vật quan trọng được Di Lặc giáo bố trí ở Đại Đồng để thu gom của cải, thì nhất định hắn cũng phải có sở trường đặc biệt.

Tiếc là, kỹ thuật này nếu không bị coi là yêu thuật thì nhất định cũng sẽ bị coi là bàng môn tả đạo, người trong chính giáo không thèm học tập, cho dù có hiểu biết ít nhiều cũng sẽ không dám tiết lộ, quan phủ biết đi đâu tìm được những người có khả năng này? Nếu Cao Văn Tâm ở đây thì tốt rồi, ước chừng bản lĩnh của nàng ta sẽ có thể khiến Vương Long phải ngoan ngoãn phun mọi tin tức y cần biết. Đáng tiếc... Nay chỉ đành phải đem Vương Long về kinh, sau đó để Văn Tâm nghĩ cách vậy.

Dương Lăng thở dài tiếc nuối rồi đứng dậy bảo:
- Nếu đã vậy thì đừng bức cung quá mức nữa! Trị thương qua cho hắn, tạm thời giam lại. Sau khi Vương Long bị bắt, những tay đầu sỏ Di Lặc giáo ở bản địa hay tin nhất định sẽ cuống quýt lẩn trốn, nhưng bọn chúng sẽ không nỡ vứt bỏ hoàn toàn thế lực đã được phát triển ở đây mà gầy dựng lại từ đầu đâu!
Bọn chúng có thể không tin Vương Long bị giết trong mười ngày, trong một tháng, nhưng nửa năm sau cũng sẽ phải tin chứ, phải không? Qua một thời gian gió yên biển lặng, bọn họ cũng sẽ ngóc đầu trở dậy, đến lúc đó bản quan nhất định đã có thể lấy được thứ gì đó trong lòng Vương Long, và cũng sẽ phất cờ trở lại!

Rời khỏi địa lao, bốn tay thị vệ đi theo y ra ngoài viện. Vương An, một trong tứ đại quản gia của vương phủ, đang đứng chờ bên ngoài vội bước lên nghênh đón:
- Đại nhân phải quay về rồi sao?

Dương Lăng nhẹ mỉm cười đáp:
- Đúng vậy! Đã làm phiền Vương quản gia rồi.

Vương An cười ha hả:
- Khâm sai đại nhân khách sáo như vậy thực làm lão nô tổn thọ rồi! Đại nhân không đi gặp vương gia một chút sao?

Dương Lăng từ chối:
- Vương gia mới cưới yên vui, hạ quan không thể làm phiền.

Nói đoạn y cung tay mời Vương An đi trước rồi theo sau Vương An đến cổng Thừa Vận. Rời khỏi vương phủ, vòng qua khỏi bức bình phong chín rồng, Dương Lăng vừa định vịn yên lên ngựa thì đằng xa chợt có hai thớt khoái mã phóng lại. Ngũ Hán Siêu lập tức dằn kiếm ngăn trước mặt y.

Dương Lăng nheo mắt nhìn, qua trang phục thấy chẳng qua là một tướng một binh mà thôi. Ngựa phi đến gần, vị tướng quân nọ phi thân xuống ngựa, lúc này Dương Lăng mới thấy rõ hắn là nghĩa tử của Tổng binh Đại Đồng Đỗ Nhân Quốc - tham tướng Kinh Phật Nhi.

Trông hắn có vẻ mệt mỏi, người đầy bụi bặm, rõ là chạy thẳng một hơi từ ngoài thành tới đây. Vừa trông thấy Dương Lăng, hắn liền vội bước lên chắp tay thực hiện quân lễ:
- Mạt tướng Kinh Phật Nhi, tham kiến khâm sai đại nhân!

Dương Lăng vội khoát tay:
- Xin tướng quân hãy bớt lễ tiết! Tướng quân đến đây vội vã như vậy, phải chăng là có chuyện quan trọng cần bẩm báo với vương gia?

Kinh Phật Nhi cười đáp:
- Không phải! Mạt tướng tới hành dinh khâm sai trước, nghe nói là đại nhân đang ở đây cho nên mới chạy vội đến.

Dương Lăng giật mình hỏi:
- Đã xảy ra chuyện gì sao?

Kinh Phật Nhi liếc nhanh hai bên, rồi sải bước tới gần, thấp giọng thưa:
- Hoa Đáng dẫn theo thủ lĩnh của các bộ lạc Ngột Lương Cáp, Ông Ngưu Đặc, Ô Tề Hiệp Đặc và ba bộ lạc Nữ Chân là Kiến Châu, Hải Tây, Dã Nhân đã đến rồi. Sứ giả của những thủ lĩnh các liên minh bộ lạc đang dựng lều ngoài cửa Đắc Thắng, gõ cửa xin gặp đặc sứ Đại Minh. Dương tổng chế hạ lệnh riêng cho mạt tướng cấp báo với đại nhân.

Dương Lăng vừa nghe xong liền chấn động tinh thần, buột miệng thốt:
- Rốt cuộc bọn họ đã đến!

Đoá Nhan Tam Vệ và Nữ Chân Tam Bộ đã đi từ đông sang tây, khi bước vào phạm vi thế lực Thát Đát liền trở nên cẩn trọng. Năm nghìn nhân mã đã đi nhanh được mấy trăm dặm rồi chợt chậm chạp rì rì như trâu già kéo xe nát, khiến người ta khó lòng nắm được hành tung chính xác, hơn nữa dọc đường còn tung thám mã dò thám chung quanh.

Dương Lăng cân nhắc thấy Hoa Đáng dẫn theo mấy nghìn người cưỡi ngựa rời xa khỏi căn cứ của mình nên nhất định sẽ hết sức cẩn thận. Vả lại hắn vốn đến là để gặp mặt Hoàng đế Đại Minh, nếu y phái thám mã theo dõi dấu tích dọc đường sẽ hoàn toàn vô nghĩa; nếu bị bọn hắn phát hiện sẽ thành ra khéo quá hóa vụng. Vì vậy ngay khi Hoa Đáng vừa bước vào phạm vi thế lực của Thát Đát, y bèn rút thám mã của mình về, cho nên không thể nào ước lượng chính xác được thời điểm Hoa Đáng sẽ tới.

Kinh Phật Nhi mỉm cười đáp:
- Phải ạ! Phụng quân lệnh của Dương tổng chế, mạt tướng và Hứa tham tướng Hứa Thái sẽ hộ vệ đại nhân tới đó.

Dương Lăng đấm nắm tay phải vào lòng bàn tay trái, cười lớn:
- Được! Có hai vị tướng quân dũng mãnh như các vị, đầm rồng hang hổ cũng đều đi được. Nay ngoài quan ải chỉ có Bá Nhan, Hỏa Sư và Hoa Đáng xưng hùng; để bản quan đi gặp qua vị đại thủ lĩnh của Đoá Nhan Tam Vệ này vậy.





Chú thích:

(1) nguyên văn "mỹ bất mỹ, hương trung thủy; thân bất thân, cố hương nhân", (chẳng trong cũng nước ao nhà, chẳng thân cũng khách quê ta đó mà); trỏ tầm quan trọng của quê hương xóm làng.





Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180&page=218
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
01-10-2012, 05:43 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 205 - Miệng Lưỡi Sắc Bén


Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Vừa nói y vừa nghĩ thầm trong bụng: "Thực ra mang cái hư danh này, trên thực tế thế lực triều đình Đại Minh lại không thể nào động chạm, khống chế được các ngươi; các người thì có được cái ô lớn như vậy, mà triều đình thì lại không thể dụng binh với các người. Có vùng đất khó nhằn như Liêu Ninh, Cát Lâm và Hắc Long Giang rồi, chẳng lẽ còn phải giữ nuôi người Nữ Chân thành một con cọp lớn hay sao?

Thà rằng cứ cho ngươi một cái hư danh, vỗ về một phần dã tâm của các ngươi. Bất luận thế nào các người cũng sẽ không thể đối phó được với Thát Đát, quân chúng ta chỉ cần xuất quan, lập tức các ngươi sẽ giúp đỡ hỗ trợ dẫn đường. Dần dần chúng ta sẽ quen với tình hình quan ngoại. Đến khi Thát Đát sụp đổ rồi, quân của chúng ta cũng đã hoá thành mãnh hổ. Sau đó lại tìm cớ khởi binh với đám dân một nghìn tự hao tám trăm các ngươi, hơn nữa không chỉ đơn thuần là chinh phạt phiên thuộc ngỗ ngược như trước đây, mà là cướp đoạt lấy hoàn toàn. Các ngươi không muốn làm phiên thuộc, vậy ta sẽ nấu các ngươi thành khoai luộc!"






Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 205 - Miệng Lưỡi Sắc Bén



Chương 205 - Miệng lưỡi sắc bén

Mặt trời vừa nhú, sương sớm chưa tan. Đêm qua trời vừa đổ tuyết, tiết xuân se sắt, những tia nắng mỏng tanh vương rắc lên người không hề đem lại cảm giác ấm áp; vẫn là cái lạnh buốt xương.

Ngoài cổng Đắc Thắng, trên một dãy núi non trùng điệp, một trăm kỵ sĩ oai phong lẫm liệt đang trèo đèo vượt núi, chậm rãi đi trên con đường quanh co khúc khuỷu. Liễu Bưu, Kinh Phật Nhi, Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy, bốn người cải trang làm thị vệ cận thân, Hứa Thái cải trang làm thủ lĩnh thị vệ, cả nhóm đi ngay sau ngựa Dương Lăng.

Đằng trước hiện ra một bãi đất trống,nằm ngay bên dưới gò núi đầy cây cối um tùm, những tia nắng đầu tiên vừa rọi tới nơi này, ba chiếc lều lẻ loi sắp thành hình tam giác được dựng trên mặt tuyết.

Vài gã Mông Cổ đang cưỡi ngựa lững thững quay về, bọn họ nhảy xuống khỏi lưng ngựa trơn nhẵn, dắt ngựa tới trước lều bạt, gã thì trùm yên lên lưng ngựa, gã thì lau binh khí. Cả ba đều có bộ dạng kiêu ngạo, như thể không thèm đặt hơn trăm quan binh Đại Minh hàng ngũ chỉnh tề, khí thế oai nghiêm này vào trong mắt.

Ánh mắt Dương Lăng quét qua khuôn mặt lười nhác của mấy gã Mông Cổ nọ, cánh tay khẽ giơ lên, một trăm viên kỵ sĩ lập tức ghìm cương ngựa. Hơn trăm kỵ sĩ dừng ngoài một tầm tên, không chút tiếng động, tất cả đều im phăng phắc.

Chính Đức, Hồ Toản và Dương Nhất Thanh không yên tâm khi Dương Lăng chỉ mang theo một trăm thị vệ, vốn định phái hai nghìn binh mã hộ giá, nhưng Dương Lăng chỉ đáp một câu: "Hoa Đáng mang theo năm nghìn binh mã nghìn dặm xa xôi mạo hiểm băng qua địa bàn của Thát Đát không phải để tập kích giết chết một khâm sai đại thần tôi đâu", rồi cự tuyệt luôn.

Đàm phán chính yếu là khí thế. Đoá Nhan Tam Vệ chỉ xuất binh tổng cộng năm nghìn, sứ giả tiên phong chỉ có ba lều trại vào khoảng năm mươi người. Nếu xua đại quân trùng trùng điệp điệp mà đi thì vừa nâng cao khí thế đối phương lại dễ khiến cho bọn họ khinh thường.

Tuy nhiên, Đoá Nhan Tam Vệ là thuộc quốc của Đại Minh, thủ lĩnh tối cao của Tam Vệ được ban cho chức Chỉ huy đồng tri, là quan tòng tam phẩm, tuy nay đã chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, nhưng dẫu sao Đoá Nhan Tam Vệ vẫn chưa công khai tuyên bố phản lại Đại Minh.

Dương Lăng là thủ lĩnh Ngự tiền thân quân, là võ tướng chánh tam phẩm, lại mang thân phận khâm sai, cho dù là đối diện với Hoa Đáng thì vai vế cũng chỉ có cao hơn chứ không thấp hơn, huống hồ chỉ là mấy sứ giả của Hoa Đáng? Lúc Dương Lăng ra khỏi ải đã phái thị vệ đi trước báo tin, như vậy rõ ràng những đặc sứ này đã biết tin cả rồi thế mà lại co chân gác gối không thèm ra đón, mấy tên thân quân cũng ra vẻ ngạo mạn khinh đời, rõ ràng là bọn họ không đặt triều đình nhà Minh vào mắt.

Hứa Thái thấy vậy tức thì sôi máu, thúc ngựa đi đến cạnh Dương Lăng dựng xếch cặp mày kiếm thưa:
- Đại nhân, Đoá Nhan Tam Vệ thực to gan! Rõ là đã biết khâm sai triều đình đến rồi thế mà lại vô lễ như vậy! Chi bằng chúng ta hãy về đi! Không thể để oai phong Đại Minh bị tổn hại được!

Kinh Phật Nhi liếm cái môi mỏng lét của mình, vẻ khát máu hiện trên khuôn mặt, hùa theo:
- Đại nhân, bất kính với sứ thần thiên triều là tội lớn không tha. Đại nhân hãy hạ lệnh cho mạt tướng lóc hết ruột gan phèo phổi của đám này đi, để tên tiểu tử Hoa Đáng đó phái mấy đứa biết điều hơn ra nói chuyện.

Dương Lăng cười cười, nhẹ nhàng đáp:
- Chẳng qua là Đoá Nhan Tam Vệ đang thử dò xét quyết tâm liên kết đồng minh của triều đình mà thôi! Dẫu sao thì bọn họ cũng đã từng ăn quá nhiều quả đắng, không cần phải so đo với những kẻ thô lỗ này. Bản quan nói cho các ngươi hay, đàm phán cũng giống như là bán buôn vậy, kẻ cười trước chưa chắc đã là kẻ thắng lợi sau cùng. Hôm nay ta cúi đầu ba lần với hắn, đổi lấy việc hắn phải dập đầu ba mươi cái thì mới quay về. Đi, bảo sứ giả của Đoá Nhan Tam Vệ ra đón!

Kinh Phật Nhi nghi hoặc nhìn Dương Lăng, rồi thúc ngựa vung roi phi đến trước lều hô to thông báo đặc sứ Hoàng đế Đại Minh đã tới, lệnh cho sứ giả Hoa Đáng ra đón. Sau một chốc, ba chiếc lều lớn lần lượt được mở ra, mấy chục sứ giả Mông Cổ mặc áo chéo vai, ống tay rộng bước ra nghênh đón.

Lưu Đại Bổng Chùy ngạc nhiên hỏi:
- Đại nhân, sao ngài biết sứ giả bọn chúng đã sớm chuẩn bị xong rồi?

Dương Lăng lắc đầu đáp:
- Hữu dũng vô mưu! Hãy nhìn phía trước lều kìa!

Mấy viên thị vệ bên cạnh nghe vậy thì nhìn kỹ về phía trước, song nhìn mãi mà vẫn mù mờ không biết nên nhìn cái gì, chỉ có Hứa Thái và Ngũ Hán Siêu đồng loạt "a" lên, liền đó nhìn nhau cả cười.

Đêm qua tuyết tuy không lớn nhưng đã phủ khắp mặt đất. Mặt tuyết trước mắt lại bằng phẳng như gương, lóng lánh trong ánh nắng, chỉ có hai hàng vết vó ngựa, đương nhiên là do sứ giả Đại Minh thông báo chuyên sứ đã tới để lại. Trong khi đó, đằng trước ba chiếc lều trại tuy vẫn là một mảng trắng phau, nhưng ánh sáng phản chiếu lại lờ mờ ảm đạm, mặt tuyết bừa bãi lộn xộn, rõ ràng từ sáng sớm đã từng có mấy chục người tới lui giẫm đạp lên, quyết không thể do bốn năm tên cận vệ ở trước lều gây ra được.

Thấy bọn sứ thần đã túm tụm trước lều, Dương Lăng mới thúc bụng ngựa, dẫn thị vệ chậm rãi đi tới. Khi đã đến trước lều trại Lưu Đại Bổng Chùy liền vặn người nhảy xuống, đi tới bên ngựa Dương Lăng rồi quỳ một gối xuống. Dương Lăng xoay người vịn yên, chân điểm nhẹ trên lưng hắn rồi nhảy xuống đất.

Đám người Mông Cổ chen nhau đi tới, mặt mày tươi cười. Một gã đàn ông cao lớn đi đầu đặt một tay lên ngực, mỉm cười và chào bằng tiếng Hán hết sức lưu loát và đúng mực:
- Hoan nghênh ngài, sứ thần của thiên triều! Ta là sứ giả Nặc Mộc Đồ của bộ lạc Ngột Lương Cáp. Vị này là sứ giả Cách Nhật Lặc Đài của bộ lặc Ông Ngưu Đặc, sứ giả A Khất Mãi của bộ lạc Ô Tề Diệp Đặc, sứ giả Đậu Lý của Nữ Chân Kiến Châu, sứ giả Hồ Xích của Nữ Chân Hải Tây...

Hắn vừa giới thiệu vừa đưa mắt đánh giá Dương Lăng, thấy vị võ tướng nắm giữ thân quân lẫn Nội xưởng của Hoàng đế và là đại thần được Hoàng đế Đại Minh tín nhiệm nhất này mặc áo da cừu, đầu đội nón da chồn, chân mang giày da lợp nhung đen; vóc người như ngọc, khí chất phong lưu, cao quý mà không phô trương. Nếu không phải vì áo chưa thắt đai lụa nên vẫn có thể thấy được mãng bào thêu rồng nằm vàng óng lấp ló bên trong, thì y sẽ giống hệt như một công tử tôn quý.

Dương Lăng cũng quan sát vị sứ thần bộ lạc Ngột Lương Cáp có thế lực lớn nhất Đoá Nhan Tam Vệ này: thân thể cao lớn, tướng mạo hiên ngang, bước chân vững vàng, mặc dù trông cao lớn lực lưỡng nhưng cặp mắt lại lộ ra vẻ cơ trí và điềm tĩnh, khác xa vẻ chất phác thật thà của dân du mục Mông Cổ.

Bề ngoài y vẫn ung dung thản nhiên, trong lòng lại thầm nhủ: "Ai cũng nói người Mông Cổ kiêu dũng thiện chiến, thân thể lẫn khí phách tráng kiện mà lại thiếu mưu trí; nhưng trông vị sứ thần Nặc Mộc Đồ này thực không giống vậy. Tuy rằng hôm nay chỉ là cuộc tiếp xúc mang tính thăm dò, hiểu rõ mấu chốt điều kiện kết minh của đối phương, song xem ra cũng cần phải tập trung tinh thần, không thể sơ ý được."

Dương Lăng mỉm cười vòng tay vái chào một vòng, đôi bên khách sáo mấy câu, Nặc Mộc Đồ đưa tay làm động tác mời vào lều, nói:
- Dương đại nhân, mời! Chúng ta cùng vào lều nói chuyện.

Dương Lăng giũ giũ chiếc áo da rồi cũng không ngoái đầu mà ngang nhiên dẫn đầu bước vào, bỏ lại đám thị vệ bên ngoài. Nặc Mộc Đồ cùng đám sứ thần Cách Nhật Lặc Đài thấy vị sứ giả thiên triều này không mang thị vệ theo, đơn thương độc mã đi vào lều thì đều đưa mắt nhìn nhau, nét cười trên khuôn mặt vừa hiện lên lại lập tức giấu đi.

Bộ tộc Kiến Châu của Nữ Chân nằm sát cương thổ Đại Minh nhất, nhận được rất nhiều lợi ích thông qua việc giao dịch cùng Đại Minh - vừa chăn nuôi vừa cày cấy, còn biết một vài công nghệ đơn giản - là khu vực giàu có nhất trong số ba bộ tộc Nữ Chân. Tùy theo sự tiếp giáp xa gần với biên giới Đại Minh mà Nữ Chân Hải Tây ở cách xa một chút thì nghèo hơn một chút, Nữ Chân Dã Nhân ở xa hơn nữa thì hoàn toàn dựa vào săn bắn để mưu sinh, sống một cuộc sống gần như hoang dã.

Thế lực của ba bộ lạc này yếu ớt, cho nên ngoan ngoãn, kính cẩn với Đại Minh nhất. Từ năm Vĩnh Lạc tới nay, ba bộ lạc này chưa từng ngừng triều cống. Tuy triều đình nhà Minh không chính thức định giá để bán buôn công khai nhưng vẫn cho phép bọn họ giao dịch chợ đen những hàng hoá mang theo.

Người Nữ Chân đổi ngựa, lông chồn, ưng bắc và các loại lâm sản như cao dán, nhân sâm, nấm mèo, nấm ăn, hạt thông để lấy những công cụ sản xuất bằng sắt và các vật phẩm như gạo, muối, vải, lụa, nồi niêu, áo quần. Có thể nói bọn họ lệ thuộc vào người Hán rất nhiều.

Hàng hóa bọn họ giao dịch nhiều nhất với Đại Minh là nhân sâm. Nhưng phương pháp gia công của bọn họ lại hết sức đơn giản: nhân sâm đào được từ trong núi ra được ngâm vào trong nước để tránh hư thối làm giảm chất; song nhân sâm ngâm nước cũng khó giữ được lâu, thương nhân nhà Minh chỉ cần hơi lần lữa là người Nữ Chân do sợ nhân sâm bị hỏng nát sẽ đành phải bán với giá rẻ mạt.

Bọn họ lại không nghĩ ra được cách nào tốt hơn để kéo dài thời gian tồn trữ, vì vậy chịu rất nhiều thiệt thòi. Cho nên bọn họ sốt sắng với việc kết minh với Đại Minh nhất, chỉ mong ký kết hiệp ước xong triều đình Đại Minh có thể định ra giá cả công bằng, bọn họ khỏi bị thương nhân bóc lột.

Thông qua mật thám Dương Lăng cũng đã hiểu được những chuyện này. Do đó khi thấy trong các bộ lạc có sứ thần của Nữ Chân Tam bộ, đoán rằng trong lều sẽ không có gì hung hiểm nên y không hề lo sợ gì mà bước vào, khiến đám người Nặc Mộc Đồ có phần bất ngờ.

Bước vào trong lều, Dương Lăng thấy có hai chiếc bàn dài đặt ở hai bên, trên bàn bày vài thứ trông giống như sữa đặc và trà sữa, y bước sang ngồi vào bàn bên phải. Sứ giả các bộ lạc bước vào lều trông thấy Dương Lăng đang mỉm cười ngồi ở đó, đưa tay sang phía bàn đối diện:
- Mời các vị ngồi.

Thấy y phản khách vi chủ, như thể y mới là chủ nhân của căn lều này, đám người Nặc Mộc Đồ không khỏi đưa mắt nhìn nhau cười khổ. Sáu người bọn họ đành phải ngồi vào bàn đối diện, Nặc Mộc Đồ ngồi giữa. Khách và chủ vừa ổn định chỗ ngồi, chủ đề chính cũng chính thức được bắt đầu.

Nặc Mộc Đồ lên tiếng trước:
- Đại thủ lĩnh Hoa Đáng nghe nói Hoàng đế Đại Minh vì tỏ rõ thành tâm đã đích thân đến Đại Đồng, cảm thấy sợ hãi vô cùng, cho nên đã dẫn các vị thủ lĩnh của Đoá Nhan Tam Vệ và Nữ Chân Tam Bộ vượt nghìn dặm xa xăm chạy đến ra mắt.
Thuở Hoàng đế Vĩnh Lạc dẹp yên biến loạn(1) đến nay, Đoá Nhan Tam Vệ vẫn luôn giao hảo cùng Đại Minh, nhưng quan binh Đại Minh lại coi chúng tôi là mọi rợ, chèn ép ức hiếp, giao dịch bất công. Ngày trước tổng binh Đại Minh lại coi dân chúng Tam Vệ tay không tấc sắt chạy đến buôn bán của chúng tôi là quân lính Thát Đát đến xâm phạm biên giới mà bắn giết lĩnh công, bêu đầu hơn ba trăm người ngoài thành, khiến cho các bộ lạc Tam Vệ chúng tôi đau đớn không thôi.
Đại nhân, Đoá Nhan Tam Vệ xưa nay vẫn luôn tự cho mình là phiên thuộc của Đại Minh. Nhưng khi Ngõa Lạt xâm phạm chúng tôi, chúng tôi quay sang cầu viện thì triều đình Đại Minh lại nhắm mắt làm ngơ, trái lại Bá Nhan Khả Hãn lại dẫn quân đến cứu. Tông chủ không thể cậy nhờ, trăm họ Tam Vệ vì vậy mà run rẩy.
Lại nói, tuy Nữ Chân Tam Bộ triều cống mỗi năm, nhưng chính sách an ủi biên dân của vệ Liêu Đông lại không có gì đáng khen ngợi, khiến cho dân chúng ngả lòng thoái chí. Nay đại thủ lĩnh Hoa Đáng và tù trưởng các bộ lạc tuy có lòng kết giao hữu nghị cùng Đại Minh, song chỉ e lòng người khó phục, không biết Dương đại nhân lấy gì để chỉ bảo cho tôi?

Nặc Mộc Đồ nói ngay vào điểm chính, không chút kiêng dè mà hạ thấp uy tín triều đình nhà Minh, rồi thầm quan sát sắc mặt Dương Lăng. Dương Lăng híp mắt cười, vừa lắng nghe vừa cầm bát trà sữa uống một hớp, rồi đặt nó xuống bàn nhón lấy một miếng phó mát, cắn từng miếng một nhấm nháp mùi vị của nó, ra vẻ điềm nhiên như không.

Nặc Mộc Đồ vốn tưởng rằng nói xong mấy câu nghe không lọt lỗ tai thì vị cao quan Đại Minh dáng vẻ kiêu ngạo ngất trời này nhất định sẽ nổi giận, khi ấy hắn sẽ có thể thừa dịp tuôn ra những câu chữ đã chuẩn bị sẵn. Nào ngờ Dương Lăng lại ra vẻ điềm nhiên như vậy khiến Nặc Mộc Đồ thầm thấy lạnh người. Ban đầu hắn kể lể đến độ xúc động không thôi, đau lòng tột độ, đến lúc sau lại khô khan nhạt nhẽo, mất đi khí thế.

Dương Lăng nghe hắn kể xong mấy chuyện cũ rích này, rồi cười lớn nói:
- Thảng như Đoá Nhan Tam Vệ và triều đình nhà Minh trước nay không hề có hiềm khích gì, vậy thì hôm nay chúng ta hẳn sẽ có thể nói chuyện trên trời dưới đất, cùng nhau nâng chén cười đùa rồi, cần chi nhọc công Hoàng đế bệ hạ và thủ lĩnh Hoa Đáng phải gặp mặt?

Thấy Nặc Mộc Đồ vừa mở miệng liền hùng hổ chỉ trích triều đình nhà Minh bao lần thất tín, Dương Lăng liền biết bọn họ làm vậy là để những bước tiếp theo có thể tăng thêm lợi thế trong việc kết minh, cho nên y tin tưởng Hoa Đáng thật sự thành tâm ký kết hiệp ước.

Y buông miếng pho mát xuống, phủi phủi tay, thong dong bình tĩnh nói tiếp:
- Biên quân của triều đình nhà Minh vốn có sẵn thù oán xung đột cùng Đoá Nhan Tam Vệ và Nữ Chân Tam Bộ, nhưng nếu nói là triều đình Đại Minh không tốt với các người, thì thật là bất công rồi.

Y thu lại nụ cười trên khuôn mặt, nghiêm túc:
- Từ thời Hồng Vũ đến nay, Đại Minh đối đãi với người Mông Cổ có ý cậy nhờ triều đình hết sức rộng lượng và nhân ái, việc này có chứng cứ chép lại. Năm Hồng Vũ thứ mười lăm, khi Tốc Ca Thiếp Mộc Nhi, Hoàn Giả Thiếp Mộc Nhi quy thuận, năm Vĩnh Lạc thứ mười sáu, lúc Hỉ Lạc Ôn Hà, Khâm Chân Hà đến chầu, Đại Minh chẳng những an bài nơi ở, mà còn cung cấp cơm áo và dê bò, tiền bạc cùng vải lụa, có thể nói là muốn gì được nấy.
Bất cứ cuộc chiến nào người Hán ta cũng đều phải tham gia, thế nhưng đối với thổ quân (người Mông Cổ, Triều Tiên và Nữ Chân) xuôi nam định cư, một người đi lính thì những huynh đệ con cháu khác đều được miễn quân dịch, giảm nhẹ thuế khoá, điều đó khó mà tin được. Đoá Nhan Tam Vệ ở Liêu Đông càng không phải làm sai dịch, không phải nộp thóc thuế, không phải phục dịch, những chuyện này sứ giả Nặc Mộc Đồ ngài hẳn không thể không biết?
Đại Minh thiết lập buôn bán với các vị, cũng không phải vì triều đình không có ngựa trâu, đại để là vì mọi vật dụng của các bộ lạc ngoài quan ngoại đều từ Đại Minh ta, triều đình cho phép buôn bán cũng là vì nhân ái vỗ về dân chúng nơi biên tái. Năm Vĩnh Lạc thứ mười lăm, Ngột Lương Cáp gặp phải đại hạn, chỉ dùng nghìn thớt ngựa đổi tới ba trăm xe gạo của Đại Minh ta, đã cứu sống được vô số người.
Thế nhưng các người đã làm gì?
Trong sự biến Thổ Mộc Bảo, các ngươi thất tín bội nghĩa quay sang thờ Ngoã Lạt. Mới hơi gặp thiên tai nhân họa liền coi Đại Minh là kho lúa đương nhiên, quấy nhiễu biên quan, giết hại bá tánh, ba lòng hai ý với Đại Minh và Thát Đát, bắt cá hai tay!
Tục ngữ có câu: một thăng (bằng 1/10 đấu) gạo ơn hơn đấu gạo thù. Khi một người sắp chết đói, cho hắn một thăng gạo hắn sẽ coi ngài là ân nhân; nhưng nếu ngài cho hắn một đấu gạo, hắn sẽ nghĩ rằng nếu ngươi đã có thể lấy ra một đấu gạo, vậy sẽ có thể cho ta nhiều hơn, nếu ngươi không cho ta, thì ngươi chính là kẻ thù của ta, ta sẽ tự tay cướp lấy. Chẳng phải Đoá Nhan Tam Vệ cũng đối xử với Đại Minh như vậy à? Lòng tham không đáy, vong ơn phụ nghĩa!
Thử hỏi nếu như không có những việc đã qua, thì sao có thể tạo ra cái cớ cho những quan binh hám lợi đen lòng, tham tiếc công lao nhận xằng ban thưởng? Và triều đình sao sẽ nhắm mắt làm ngơ khi Ngoã Lạt tấn công Đoá Nhan Tam Vệ?

Lời của Dương Lăng khiến Nặc Mộc Đồ nghe mà tím tái mặt mày, đám sứ giả nhấp nhổm như ngồi trên lửa, thân thể xoay đi vặn lại rất không thoải mái.

Dương Lăng dịu giọng nói tiếp:
- Đương nhiên, những việc này phần lớn đều là chuyện cũ. Vệ sở biên quân ta bởi những hiềm khích này mà quả thật cũng từng khiến cho dân chúng bình thường của Đoá Nhan Tam Vệ bị giết hại, đôi bên vì vậy mỗi lúc một tách xa nhau, mất lòng tin cậy. Chính bởi vì vậy, Hoàng đế bệ hạ của Đại Minh ta mới đích thân đến Đại Đồng, muốn cùng đại thủ lĩnh Hoa Đáng đích thân ký kết minh ước, giúp đỡ lẫn nhau, mãi mãi là đồng minh.

Nặc Mộc Đồ hít vào một hơi rồi cười xảo quyệt nói:
- Chắc không chỉ có vậy, đúng không? Đại Minh muốn kết minh cùng chúng tôi, ngoài giao dịch buôn bán, không phải còn yêu cầu chúng tôi trở mặt với Ngoã Lạt, ngăn chận vó ngựa của thiết kỵ Thát Đát, hưởng ứng hỗ trợ lẫn nhau sao?

Dương Lăng nén giận đáp:
- Không sai! Có con cọp dữ Thát Đát này, Đại Minh chịu rất nhiều thiệt hại. Đóa Nhan Tam Vệ cũng bị bọn chúng ức hiếp không ít phải không? Nay bảy vạn đại quân Thát Đát đang hao binh tổn tướng ngoài thành Đại Đồng mà lại chẳng được ích lợi gì. Một khi bầy cọp khổ sói đói cúp đuôi chạy về đại mạc, Đóa Nhan Tam Vệ sẽ là kẻ đứng đầu sóng ngọn gió.
Đoàn kết thì cả hai cùng có lợi, mà chia rẽ thì cả hai đều có hại. Tin rằng đại thủ lĩnh Hoa Đáng nhìn xa trông rộng đã thấy được điểm này, nên mới vui vẻ đồng ý ký kết hiệp ước cùng Đại Minh, giúp nhau công thủ, cùng đối phó với mối họa này chứ nhỉ?

Nặc Mộc Đồ mỉm cười lắc đầu nói:
- Dương đại nhân! Đại thủ lĩnh Hoa Đáng cảm động thành tâm của Hoàng đế bệ hạ Đại Minh cho nên mới chạy đến triều bái. Hẳn ngài cũng biết, nếu một ngày nào đó trở mặt với Thát Đát, Đoá Nhan Tam Vệ của chúng tôi sẽ là kẻ đứng mũi chịu sào, sẽ chịu phải áp lực to lớn vô cùng, mà nếu như triều đình Đại Minh bỏ mặc không để ý, khi ấy Đoá Nhan Tam Vệ một cây xây chẳng nên nhà, thực khó mà là đối thủ của Thát Đát được.
Tương tự, nếu như chúng tôi nhắm mắt làm ngơ trước sự tranh đấu giữa Đại Minh và Thát Đát, thì cho dù thiết kỵ Thát Đát ngoài thành Đại Đồng có tổn thương nặng nề hơn đi nữa, một khi trở về thảo nguyên nghỉ ngơi lấy sức, không tới hai năm, nanh nhọn vuốt bén liền sẽ mọc lại.
Chúng tôi và Thát Đát cùng là hậu duệ của Đại Nguyên, cho dù bọn họ có lúc cướp bóc chúng tôi, song cũng sẽ không đuổi tận giết tuyệt. Rốt cuộc bất luận là vì giang sơn Đại Minh màu mỡ hay là vì báo thù, bọn họ vẫn sẽ tìm đến các vị, biên giới Đại Minh sẽ vì vậy mà mãi mãi không ngày yên bình.
Cho nên e rằng Đại Minh còn phải cấp bách đối phó với Thát Đát hơn Đoá Nhan Tam Vệ chúng tôi nhiều, đúng không? Không biết Hoàng đế bệ hạ sẽ đưa ra điều kiện gì để có được sự tín nhiệm của chúng tôi đây?

Ánh mắt Dương Lăng thoáng loé lên, y mỉm cười nói:
- Không sai! Trước mặt người ngay không nói lời giả dối, chúng ta đích thực có ý muốn làm suy yếu thế lực của Bá Nhan. Giống chim dữ này mà không trừ, vùng cửu biên đích thật không được ngày bình yên, mà khiến cho Thát Đát suy yếu đối với Đoá Nhan Tam Vệ chỉ có trăm lợi mà không hại.

Nói rồi y cầm bát trà sữa lên, mặc kệ mùi vị khó chịu hớp một ngụm nhỏ, rồi cúi đầu ngẫm nghĩ: "Tay Nặc Mộc Đồ này tuyệt không phải là sứ giả tầm thường. Sứ giả các bộ lạc khác chỉ biết làm theo hắn, nhất định hắn là người được Hoa Đáng tin tưởng nhất. Xem ra hôm nay nếu muốn nắm rõ được điểm mấu chốt để hợp tác với Đoá Nhan Tam Vệ, chuẩn bị để Hoàng đế ra mặt đàm phán, thì sẽ phải trông cậy vào hắn đây."

Nghĩ đến đây, Dương Lăng đặt bát trà sữa xuống, khẽ mỉm cười nói:
- Giang sơn chúng ta rộng lớn vô cùng, đồng thời cũng không giỏi việc du mục và cưỡi ngựa săn bắn. Đại Minh không hề có dã tâm gì với tái ngoại, chỉ hy vọng làm sao biên cảnh nước ta có thể được yên ổn, dân chúng có thể an cư lạc nghiệp mà thôi. Như nay Ngõa Lạt đã yếu thế, nếu như Thát Đát dưới sự hợp lực tấn công của Đại Minh và Đoá Nhan Tam Vệ mà biến thành cát vụn thì vị trí ông vua của sa mạc thảo nguyên này sẽ do ai đảm nhiệm?

Thần sắc Nặc Mộc Đồ thoáng biến đổi, liền đó bình tĩnh lại, hắn điềm nhiên cười nói:
- Bá Nhan là con cháu của Thành Cát Tư Hãn! Trên thảo nguyên hắn có một sức hiệu triệu không gì sánh bằng, nếu hắn không thể làm vua của sa mạc, tin rằng cũng sẽ không có ai có thể thay thế hắn.

Dương Lăng đẩy bàn cười lớn, đoạn đứng dậy nói:
- Thành Cát Tư Hãn? Thử hỏi trước thời Thành Cát Tư Hãn, ai là vua của sa mạc? Sau thời Thành Cát Tư Hãn thì sẽ không còn anh hùng nào có thể thống trị mảnh đất này nữa hay sao? Uy thế còn lại của hắn kéo dài xuống cho con cháu đến mấy trăm năm cũng là hết mức rồi. Trung nguyên chúng ta có câu ngạn ngữ: "vương hầu quan tướng, chẳng lẽ sinh ra đã vậy"? Sao biết đại thủ lĩnh Hoa Đáng sẽ chẳng có một ngày trở thành Hoa Đáng Khả Hãn?

Trong mắt Nặc Mộc Đồ lờ mờ hiện lên hai ngọn lửa, cặp mắt nóng rực nhìn Dương Lăng chằm chằm rồi hỏi:
- Dương đại nhân nói vậy... là có ý gì? Đoá Nhan Tam Vệ là ba vệ phiên thuộc Hoàng đế bệ hạ. Phải chăng Hoàng đế bệ hạ có ý... có ý cho phép chúng tôi tự lập, không còn mang thân phận là vệ phụ thuộc nữa?

Dương Lăng cười ha hả đáp:
- Đương kim thiên tử Đại Minh sáng suốt anh minh, nhìn xa trông rộng. Đoá Nhan Tam Vệ ngoại trừ một cái hư danh thì đã sớm đã có hình thể một nước, đã bao giờ làm hết bổn phận chư hầu với Đại Minh? Thay vì vậy, thà rằng giao hảo bình đẳng còn hơn. Hoàng thượng nguyện phò trợ đại thủ lĩnh Hoa Đáng ngồi trên ngôi báu của quan ngoại, đời đời kiếp kiếp, mãi là láng giềng hoà thuận của Đại Minh.

Nặc Mộc Đồ chợt đứng bật dậy, nhìn Dương Lăng chằm chằm với vẻ khó tin, giọng run rẩy:
- Lời này thật chứ?

Dương Lăng đáp:
- Đương nhiên! Bằng không, chỉ với cương vị Chỉ huy đồng tri một vệ phụ thuộc Đại Minh của đại thủ lĩnh Hoa Đáng mà Hoàng thượng đích thân đến gặp, há chẳng phải là trò cười lớn ư?

Vừa nói y vừa nghĩ thầm trong bụng: "Thực ra mang cái hư danh này, trên thực tế thế lực triều đình Đại Minh lại không thể nào động chạm, khống chế được các ngươi; các người thì có được cái ô lớn như vậy, mà triều đình thì lại không thể dụng binh với các người. Có vùng đất khó nhằn như Liêu Ninh, Cát Lâm và Hắc Long Giang rồi, chẳng lẽ còn phải giữ nuôi người Nữ Chân thành một con cọp lớn hay sao?
Thà rằng cứ cho ngươi một cái hư danh, vỗ về một phần dã tâm của các ngươi. Bất luận thế nào các người cũng sẽ không thể đối phó được với Thát Đát, quân chúng ta chỉ cần xuất quan, lập tức các ngươi sẽ giúp đỡ hỗ trợ dẫn đường. Dần dần chúng ta sẽ quen với tình hình quan ngoại, đến khi Thát Đát sụp đổ rồi, quân của chúng ta cũng đã hoá thành mãnh hổ. Sau đó lại tìm cớ khởi binh với đám dân một nghìn tự hao tám trăm các ngươi, hơn nữa không chỉ đơn thuần là chinh phạt phiên thuộc ngỗ ngược như trước đây, mà là cướp đoạt lấy hoàn toàn. Các ngươi không muốn làm phiên thuộc, vậy ta sẽ nấu các ngươi thành khoai luộc*!" (*: phiên thuộc (fānshǔ) đọc na ná như khoai lang (fānshǔ))

Sứ giả của các vệ ngồi bên cạnh ngơ ngác nhìn nhau. Hiển nhiên điều kiện mà Đại Minh đề ra thật sự nằm ngoài dự liệu của bọn họ, nói trắng ra thì đây chỉ là một tấm séc khống không có bất kỳ lợi ích thực tế nào.

Nhưng Đại Minh xưa nay vốn chỉ coi trọng hư danh, không xem trọng lợi ích, chỉ cần một câu phiên thuộc về mặt danh nghĩa, thì cho dù không thể thu về một đồng bạc thuế hay thi hành chút quyền lực hành chính nào với bọn họ, Đại Minh cũng vẫn nguyện ý mang vàng kim bạc trắng ra đổi. Trong mắt những đứa con thảo nguyên luôn chống chọi với đất trời, giãy giụa trong những điều kiện khắc nghiệt để tìm cách sinh tồn này, bọn họ không thể nào hiểu được thứ tư duy trái khoáy này của Đại Minh.

Nay đột nhiên nghe được sự cho phép động trời này, nhất thời khiến bọn họ giật nẩy mình. Sự cho phép này quả thật là quá hấp dẫn, giống như một tên ăn mày vốn định gõ cửa nhà anh xin một chiếc bánh bao chay lót dạ, nhưng anh lại đưa chìa khoá nguyên căn nhà cho hắn, nói rằng từ hôm nay căn nhà này sẽ thuộc về hắn. Bọn họ rúng động xong thì cảm thấy như đang mơ vậy, nhất thời không dám tin đó là thật.

Khuôn mặt đỏ bừng của Nặc Mộc Đồ càng trở nên đỏ rực, hắn chợt xoay người bước chậm rãi trong lều, ánh mắt lập loè, dường như trong lòng tranh đấu không thôi. Có đáng tin không? Đại Minh thật sự chịu đưa ra điều kiện hậu hĩ đến như vậy ư? Từ thủ lĩnh, vọt một cái liền trở thành Khả Hãn!

Đoá Nhan Tam Vệ không có thực lực này, nhưng nếu có binh lực và tài lực của Đại Minh chống đỡ thì sao? Khi ấy sẽ có thể hay không? Khả Hãn! Vua của thảo nguyên! Nhưng mà... rốt cuộc thì Đại Minh thành tâm cỡ nào đây?

Nghĩ đến đây, chợt nảy ra một kế, tức thì Nặc Mộc Đồ xoay người lại nói:
- Chuyện này thật sự quá trọng đại, tôi cần phải bẩm báo lại với Đại thủ lĩnh rồi mới có thể trả lời với đại nhân được.

Đoạn hắn ranh mãnh nói tiếp:
- Nếu cứ vậy mà quay về bẩm báo, chỉ sợ đại thủ lĩnh Hoa Đáng của tệ bộ cũng khó mà tin được. Bởi trước nay quốc sách của Đại Minh đối với Đoá Nhan Tam Vệ luôn luôn thay đổi, nói một đằng làm một nẻo, thậm chí là đối với chuyện liên minh với Đại Minh lần này, cũng có rất nhiều quý tộc trong bộ lạc mang lòng nghi hoặc.
Vì vậy lúc bản sứ giả phụng mệnh đến gặp đại nhân, các vị thủ lĩnh có đề ra hai điều kiện. Nếu có thể tin rằng các vị cho phép Đoá Nhan Tam Vệ tự lập, đồng thời phò trợ chúng tôi đối phó với Thát Đát thì sẽ đề xuất hai điều kiện này. Bản sứ giả không ngại đề xuất điều kiện hợp tác ra trước, sau đó quay về bẩm báo với Đại thủ lĩnh; cũng xin đại nhân đem báo cáo lại điều kiện của chúng tôi cho Hoàng đế bệ hạ Đại Minh.





Chú thích:

(1) nhắc đến Minh Thành Tổ phát động chiến dịch lớn tiêu diệt các đạo quân Mông Cổ quấy phá ở sa mạc Gobi.



Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180&page=218
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
18-10-2012, 04:54 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 206 Quyết Theo Đại Soái



Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Hoa Đáng cười xảo quyệt, đáp:
- Nếu Bá Nhan thật sự dễ đối phó như vậy thì liệu nhà Minh sẽ đưa ra điều kiện ưu đãi như vậy ư? Đừng thấy Bá Nhan đang ăn phải trái đắng ngoài thành Đại Đồng mà tưởng bở; một khi con chim ưng này trở về thảo nguyên, nó sẽ rất mau chóng liếm lành vết thương thôi.

Có tấm chiêu bài chữ vàng là hậu duệ trực hệ hoàng gia, hắn sẽ nhanh chóng bổ sung đội ngũ và chiến sĩ thôi. Trừ phi... thật sự như vị Dương đại nhân này nói Thát Đát sẽ xảy ra nội loạn. Nhưng mà danh vọng của Bá Nhan như mặt trời ban trưa, trong nội bộ của Thát Đát thật sự sẽ có kẻ dám đối đầu với hắn sao?

Đừng vội tự cột mình vào cái gốc cây là nhà Minh này. Lúc trời nắng nóng hầm, ta có thể mượn nó để trú mát; khi nó không thể che mưa chắn gió cho chúng ta nữa thì chúng ta sẽ cưỡi ngựa cao chạy xa bay. Ha ha ha...








Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 206 Quyết Theo Đại Soái





Dương Lăng trở về chỗ ngồi, trầm ngâm một lúc rồi hỏi:
- Hai điều kiện thế nào? Ha ha! Mời sứ giả Nặc Mộc Đồ nói rõ!

Nặc Mộc Đồ khẽ mỉm cười, ánh mắt lập loè:
- Đoá Nhan Tam Vệ đội ân sủng của Hoàng đế bệ hạ cho phép lập Hãn xưng vương. Đương nhiên, cho dù đại thủ lĩnh của chúng tôi được xưng là Hãn cũng không dám đứng ngang hàng ngang vế cùng Hoàng đế bệ hạ Đại Minh, mà vẫn giữ vai vế theo lệ là chư hầu phiên vương của Đại Minh.

Dương Lăng cười nói:
- Ấy là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên đến khi đó Hoa Đáng Khả Hãn nắm giữ thảo nguyên rộng lớn, cả đất đai lẫn dê bò, lại chỉ phải triều cống mà không phải nộp thuế, sưu dịch. Làm sao phiên vương Đại Minh ta có thể so bì?

Động lòng bởi viễn cảnh tươi đẹp do Dương Lăng vẽ ra, khoé mắt Nặc Mộc Đồ thoáng hiện vẻ mừng rỡ. Hắn cố trấn tĩnh lại rồi mới ra vẻ dè dặt nói tiếp:
- Chỉ có điều, Ngoã Lạt và Đại Hãn Thát Đát đều từng nhận được chỉ sắc phong của chính Hoàng đế bệ hạ, cho nên chúng tôi hy vọng cũng có thể nhận được sắc chỉ của Hoàng đế bệ hạ, cùng được ban kim ấn, phù tiết.

Dương Lăng sực tỉnh, thì ra vị đặc sứ này lo ngại Đại Minh chỉ chấp thuận ngoài miệng. Giữa ba bộ lạc Ngoã Lạt, Thát Đát và Ngột Lương Cáp của Mông Cổ thì bọn họ có sức ảnh hưởng bé nhất. Nếu như không được triều đình nhà Minh ủng hộ công khai, bọn họ sẽ không thể nào có được danh xưng Đại Hãn một cách danh chính ngôn thuận, ít nhất là trước khi bọn họ có đủ thế lực để áp chế hai bộ lạc kia.

Dương Lăng thoáng trầm ngâm, rồi gật đầu đồng ý:
- Lo nghĩ của ngài cũng có lý, ta sẽ tự bẩm báo chuyện này với Hoàng thượng. Chuyện thứ hai là gì?

Thấy Dương Lăng đồng ý, Nặc Mộc Đồ mừng rỡ ra mặt. Hắn trở về chỗ ngồi, suy nghĩ một chút rồi mới cẩn thận nói tiếp:
- Năm xưa do Đoá Nhan Tam Vệ chúng tôi theo phò dẹp loạn có công, hoàng đế Vĩnh Lạc đã ban thưởng cho chúng tôi Đại Ninh vệ (nay chính là Thừa Đức Thị, huyện Bình Tuyền, huyện Kiến Xương và lưu vực sông Lão Cáp).
Nhưng mà... chắc hẳn Dương đại nhân cũng biết, Tam Vệ chúng tôi sống bằng nghề du mục; dê bò là tất cả những gì chúng tôi có, song hoàng đế Vĩnh Lạc lại không cho phép chúng tôi nuôi thả ở địa khu Đại Ninh. Uổng cho mảng thảo nguyên rộng lớn mà lại không được chăn thả dê bò, cho nên hy vọng Hoàng thượng cho phép chúng tôi chăn thả ở khu vực Đại Ninh vệ.

Dương Lăng vừa nghe xong tim liền nhảy đánh thịch. Lúc suy đoán điều kiện mà Đoá Nhan Tam Vệ có khả năng sẽ đưa ra y liền nghĩ Đoá Nhan Tam Vệ có thể sẽ đưa điều kiện này ra, quả nhiên là vậy. Thật ra mấy chục năm trước Đoá Nhan Tam Vệ dưới sự hỗ trợ của bộ lạc Khoa Nhĩ Thấm có quan hệ thông gia với bọn họ đã đem quân tiến vào thành Đại Ninh, còn vượt Hội Châu (nay là huyện Bình Tuyền tỉnh Hà Bắc) thẳng tiến Khoan Hà (nay là xã Bộc Hà tỉnh Hà Bắc), không ngừng lấn đẩy xuống phía nam.

Nay, Đoá Nhan Tam Vệ trải dài từ thành Đại Ninh thẳng đến Hỉ Phong khẩu, cách Tuyên Hoá Hà Bắc một ngọn núi; thế lực của Thái Ninh vệ từ Cẩm Châu, Nghĩa Châu qua Quảng Ninh vệ đến tận Liêu Hà, thế lực của Phúc Dư vệ từ Hoàng Nê Oa qua Thẩm Dương, Thiết Lĩnh thẳng đến Khai Nguyên vệ. Trên thực tế dải đất rộng lớn lấy nam và đông dòng Tây Lạp Mộc Luân và Liêu Hà làm nơi khởi nguồn, tây kề Tuyên Phủ, đã nằm trong tay Đoá Nhan Tam Vệ.

Để Đoá Nhan Tam Vệ cùng Đại Minh liên binh đối phó Thát Đát mà chỉ cần triều đình Đại Minh công khai sắc phong một chức vị và thừa nhận quyền sở hữu một khu vực mà trên thực tế đã nằm dưới sự khống chế của bọn họ! Thoạt trông dường như Đại Minh không hề chịu phải tổn thất nào, thế nhưng Dương Lăng lại không khỏi do dự.

Đại Minh không cách nào khống chế những nơi này, trên thực tế bảo chúng đã rơi vào tay Đoá Nhan Tam Vệ cũng không sai. Thế nhưng công khai thừa nhận quyền sở hữu của bọn họ lại là cắt nhường quốc thổ, điều này thật sự sẽ để lại mối nguy hại vô cùng cho đời sau.

Năm xưa đại đế Vĩnh Lạc ban thưởng đất đai cho Đoá Nhan Tam Vệ là đã phạm phải một sai lầm trí mạng. Vệ sở Đại Minh nằm ngoài quan ngoại gắn liền một thể, giữa các vệ sở đã có sự tương hỗ cho nhau, vừa mất một mảng vào tay Đoá Nhan Tam Vệ thì cả hệ thống chiến lược này lập tức sụp đổ, giữa các vệ sở đã mất đi sự gắn kết hữu hiệu. Thậm chí một mình vệ sở Liêu Đông sẽ không đủ sức ngăn chặn sự tiến công của một bộ lạc nhỏ.

Những địa khu này đều là những yếu địa chiến lược quan trọng. Dương Lăng đang mưu tính châm ngòi nội loạn Thát Đát, rồi kéo Đoá Nhan Tam Vệ vào trong vũng bùn, sau đó tăng quân cho Liêu Đông, củng cố sự khống chế địa khu này thì sao y sẽ chịu tạo danh chính ngôn thuận cho người ta?

Thế là y bèn lắc đầu quả quyết:
- Sứ giả Nặc Mộc Đồ, ông phải biết rằng tuy các ông gặp phải nguy hiểm to lớn, nhưng lợi ích đạt được lại lớn hơn. Một khi khiến được Thát Đát thần phục các vị, các vị sẽ có thể chọn ra đồng cỏ và nguồn nước tươi đẹp nhất để chăn thả dê bò. Cho dù có thất bại, các vị lui về cố thủ Đoá Nhan Tam Vệ, có Đại Minh kiềm chế Thát Đát, bọn chúng cũng sẽ không làm gì được các vị. Liêu Đông là hàng rào chắn của kinh sư Đại Minh, chúng ta không thể bỏ nó.

Nặc Mộc Đồ vừa mới mở miệng định thuyết phục, Dương Lăng đã đưa tay lên ngăn:
- Sứ giả Nặc Mộc Đồ, chuyện này ta không cần phải xin ý chỉ của Hoàng đế bệ hạ, tuyệt đối không cần phải thương lượng. Liêu Đông, không thể được dùng để mặc cả!

Nặc Mộc Đồ cầm chén trà sữa lên uống một ngụm, rồi vuốt chòm râu dày đen như sắt nghĩ ngợi, một chốc sau hắn mới nói:
- Nếu công khai quyết liệt với Thát Đát, chúng tôi phải đương đầu với nguy hiểm rất lớn. Nếu như không có gì bảo đảm, toàn thể bộ lạc làm sao có thể yên tâm đây? Nếu đại nhân đã nói như vậy..., không biêt có thể bẩm với Hoàng đế bệ hạ rằng, để tỏ thành ý, Đoá Nhan Tam Vệ chúng tôi muốn cùng triều đình hoà thân(1) được không?

Dương Lăng thoáng sững người, y không ngờ Nặc Mộc Đồ lại dám yêu cầu hoà thân, lẽ nào là thực! Hoa Đáng còn chưa làm Đại Hãn, Đoá Nhan Tam Vệ đã cho rằng mình là triều đình Bắc Nguyên năm xưa dưới trướng có tứ đại Hãn quốc (vương quốc của Khan - ND) ư? Lại dám đòi hoà hiếu kết giao với triều đình nhà Minh!

Nặc Mộc Đồ thấy sắc mặt y sầm xuống, liền vội đính chính:
- Đại thủ lĩnh Hoa Đáng có một vị ái nữ tên Ngân Kỳ cô nương, là đoá hoa mỹ lệ nhất trên thảo nguyên Khoa Lâm Thấm,năm nay mới được 15 xuân xanh. Nếu như Hoàng đế bệ hạ không ghét bỏ, thủ lĩnh Hoa Đáng nguyện ý dâng cho Chính Đức hoàng đế bệ hạ làm phi...

Mặt Dương Lăng liền hết vẻ giận: thì ra là muốn tiến dâng mỹ nữ, hề hề, như vậy cũng tốt. Dù sao cũng là thông gia chính trị, xấu chút cũng không sao, dâng vào trong cung là được rồi. Dù sao thì ngay cả Hoàng hậu và hai vị quý phi hiện giờ đều là vật trang trí, Tử Cấm Thành còn ngại thêm một miệng cơm nữa sao? Hơn nữa... Khoa Lâm Thấm? Đệ nhất mỹ nữ Đại Ngọc Nhi của Mãn Châu hình như là một cô nương vùng thảo nguyên Khoa Lâm Thấm thì phải, tướng mạo vị tiểu thư Ngân Kỳ này chắc cũng không kém.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng bèn mỉm cười định đồng ý rồi quay về bẩm báo với Chính Đức, nào ngờ Nặc Mộc Đồ lại thay đổi ngữ điệu, nói tiếp:
- Được biết Hoàng đế bệ hạ có hai vị ngự muội là Vĩnh Phúc công chúa và Vĩnh Thuần công chúa, thủ lĩnh Hoa Đáng nguyện ý nghênh cưới một vị trong đó, cũng đưa lên làm chánh thất phu nhân, cùng Đại Minh kết làm Tần Tấn, nhất định hợp tác khắng khít với nhau.

Dương Lăng vừa nghe xong liền thoáng chau mày, liền đó thầm rủa: "Ngươi gả con thì cứ gả con đi, sao còn đòi chúng ta bù thêm một người nữa?... Không đúng à, con gái Hoa Đáng gả cho Chính Đức, vậy Chính Đức là con rể hắn, hắn lại muốn cưới em gái của con rể mình... vậy sẽ loạn thành một đống gì đây?”

“Nghe nói Hoa Đáng đã có năm trai ba gái, chắc là một lão già râu xồm gần năm chục rồi thì phải? Bảo tiểu công chúa Vĩnh Phúc thùy mị đáng yêu gả cho lão già Hoa Đáng đó?” Vừa nghĩ đến đây, trong lòng Dương Lăng chợt cảm thấy không thoải mái.

Bằng không thì đổi thành tiểu nha đầu Vĩnh Thuần đó vậy? Ý nghĩ này vừa mới nhen nhóm trong đầu, Dương Lăng liền đã rùng mình, cả người rét lạnh. Y mà dám đồng ý, khi trở về bảo đảm Chính Đức sẽ xách bảo kiếm truy sát y khắp Đại Đồng giống như năm đó hắn truy sát cậu em vợ của ông già hắn vậy.

Dương Lăng hít vào một hơi, rồi thầm cảnh tỉnh mình: "Mình đến là để hoà đàm, là đàm phán về việc ký kết đồng minh, cho dù không đồng ý cũng có thể từ chối khéo một chút, như thế mới có thể đạt được mục đích. Vạn lần đừng học ông Quan Công mà phán câu ‘Con gái ta anh thư lỗi lạc há có thể gả cho thằng con yếu hèn nhà ngươi sao?’”

Thế là y bèn dằn lửa giận trong lòng, làm ra vẻ phản đối mà bật cười to. Nạc Mộc Đồ ngạc nhiên hỏi:
- Cớ sao Dương đại nhân lại cười?

Dương Lăng phất tay áo, cả cười bảo:
- Sứ giả Nặc Mộc Đồ tin là đại sự liên can đến vận mệnh mấy chục vạn người, liên can đến sự sống còn của một bộ tộc lại thật sự có thể gắn liền với một người con gái ư? Đại Minh cùng Đoá Nhan Tam Vệ liên kết đồng minh, giao dịch thông thương, cùng liên minh chống ngoại xâm mới là thành tâm cao nhất.
Tự lâu đã nghe đại thủ lĩnh Hoa Đáng là một trong ba đại anh hùng tái ngoại, hùng tài đại lược, tầm mắt cao xa, không thua kém Bá Nhan, Hỏa Sư, sao có thể ký thác việc liên minh vào việc hoà thân? Chẳng lẽ là sứ giả Nặc Mộc Đồ tự ý làm chủ? Ha ha... khi về đến nơi sứ giả Nặc Mộc Đồ chớ mà nhắc tới việc này với thủ lĩnh Hoa Đáng, nếu không sẽ khiến thủ lĩnh Hoa Đáng hổ thẹn đó.

Khuôn mặt Nặc Mộc Đồ đỏ bừng, trông thành ra hơi sẫm hơn. Hắn hậm hực bảo:
- Hoà thân là chuyện từ xưa đã có. Đời Hán, Đường đều có công chúa gả ra tái ngoại, trở thành câu chuyện được mọi người ca tụng nghìn đời. Nếu như việc hoà thân còn không thể biểu
thị được sự thành tâm, vậy Dương đại nhân sẽ lấy gì để chứng minh lòng thành hợp tác đây?

Dương Lăng đáp ngay không chút do dự:
- Lợi ích! Chỉ có lợi ích chung mới có thể khiến đôi bên hợp tác khắng khít cùng nhau.

Đoạn y vung tay áo đứng lên, bước đến trước mặt sứ giả của Hải Tây Nữ Chân là Hồ Xích nói:
- Mấy năm gần đây Đại Minh cùng Nữ Chân giao dịch ngày càng phồn thịnh. Bản quan lấy một ví dụ, chỉ với một món là nhân sâm. Do nhân sâm ngâm nước không giữ được lâu nên thương nhân người Hán mặc sức ép giá, mỗi năm các người tổn thất phải đến mấy chục vạn lạng bạc đúng không?

Vừa nhắc đến chuyện này, bụng Hồ Xích liền đầy lửa giận. Bọn họ tuyệt không sản xuất thứ gì, hoàn toàn dựa vào việc lên núi đào sâm và săn bắn để đổi lấy muối, lấy trà, lấy vải vóc nồi sắt với người Hán. Mà chỉ có người Hán mới biết dùng thứ nhân sâm này, đem đến những chỗ khác bán không được giá và cũng không có mấy ai mua. Nhưng thương nhân người Hán ép giá quá đáng quả thật đã hại bọn họ đến khổ. Hồ Xích vội đứng dậy cung kính đáp:
- Đại nhân minh giám, tệ bộ lạc lần này đến đây nguyện ý gia nhập đồng minh, chỉ hy vọng triều đình có thể đối xử công bằng với người Nữ Chân.

Dương Lăng gật đầu bảo:
- Bản quan đã biết! Chỉ với một thứ là nhân sâm của một bộ lạc Hải Tây Nữ Chân các vị, mỗi năm đã phải thông qua chợ buôn ngựa(2) mà chuyển vận hơn năm vạn cân nhân sâm. Mấy năm trước đôi bên xích mích, triều đình ta từng ra lệnh cấm, không cho giao dịch suốt hai năm; số nhân sâm bị vữa nát của các vị hẳn phải hơn mười vạn cân, đúng không? Do đó dân lành Nữ Chân nghèo khốn mà chết nhiều vô số kể. Nếu cùng bản triều liên minh, chúng ta sẽ không cấm chợ, hơn nữa còn tình nguyện định giá chính thức, giảm bớt thuế khoá hỗ trợ thương nhân người Hán. Đây có thể xem là điều biểu lộ thành tâm lớn nhất chưa?

Hồ Xích mừng như bắt được vàng, gật đầu lia lịa như gà mổ thóc, luôn miệng đáp:
- Đương nhiên, đương nhiên! Đa tạ Dương đại nhân, đa tạ Hoàng thượng! Chúng tôi bằng lòng... bằng lòng cùng Đại Minh kết minh trọn đời.

Dương Lăng gật đầu, mỉm cười bước đến trước mặt sứ giả Kiến Châu Nữ Chân là Lý Đậu Lý, nói:
- Kiến Châu Nữ Chân vốn lấy chuyên nghề chăn nuôi súc vật, lấy thịt ăn lấy da mặc, còn Đại Minh ta thì chuyên cày ruộng ăn gạo mà sống.
Nhưng mấy năm gần đây, các vị dần dần khai thác đất ruộng, thu mua trâu cày, lưỡi cày từ Đại Minh, mời người Hán dạy cách cày bừa trồng trọt. Các vị ăn mặc giống như người Hán, giàu có sung túc nhất trong Nữ Chân Tam Bộ. Trong hai năm cấm chợ, bộ lạc các vị nam thì không xẻng liềm, nữ thì không kim kéo, nấu thì không có nồi, ăn thì không có muối. Thiết nghĩ Lý Đậu Lý sứ giả là người nhận thức rõ sự việc đó nhất đúng không?
Giả như chúng ta mở thêm chợ buôn ngựa, đổi chợ phiên chỉ giao dịch buôn bán vào mồng một và mười lăm mỗi tháng thành giao dịch buôn bán hằng ngày, mở rộng phạm vi vật phẩm buôn bán thì ngài cho rằng đây mới tỏ rõ lòng thành của Đại Minh, hay đưa một vị công chúa đi hoà thân mang theo mười vạn lạng bạc trắng mới là có lòng thành?

Lý Đậu Lý nghe vậy liền sáng rỡ hai mắt. Chỉ cần Đại Minh chịu đổi từ chợ phiên mỗi tháng hai lần thành chợ thường xuyên, mở rộng vật phẩm giao dịch đối với ba khu chợ lúc trước thì đã đủ khiến bọn họ có đang nằm mơ cũng phải bật cười tỉnh dậy rồi, chứ đừng nói gì đến mở thêm chợ? Chuyện này thật nằm ngoài dự liệu của bọn họ, Lý Đậu Lý không hề nghĩ ngợi gì lập tức "trở giáo" đáp ngay:
- Đương nhiên là mở chợ buôn bán là tỏ rõ lòng thành rồi! Chúng tôi không cần gì nhiều, chỉ cần triều đình Đại Minh chịu buôn bán cùng chúng tôi, Kiến Châu Nữ Chân sẽ là phiên thuộc và bằng hữu vĩnh viễn của Đại Minh!

Bọn sứ giả của các bộ lạc Đoá Nhan kích động vô cùng, đã có mấy kẻ đứng ngồi không yên. Nhưng rất có lẽ vì Nặc Mộc Đồ của Đoá Nhan Vệ là thủ lĩnh sứ giả của Đoá Nhan Tam Vệ, cho nên bọn họ đều hướng ánh mắt về phía Nặc Mộc Đồ. Trông thấy tình hình như vậy, Nặc Mộc Đồ không khỏi trầm ngâm nói:
- Lời ấy của Đại Nhân rất phải. Nhưng nếu như vậy, chúng tôi làm thế nào để tin vào thành tâm của triều đình Đại Minh đây?

Dương Lăng giơ từng ngón tay lên đếm:
- Thứ nhất cũng là công khai giao dịch, tin rằng quý bộ sẽ được lợi không ít từ trong đó.
Thứ nhì là hợp tác quân sự; một khi dụng binh, Đại Minh sẽ xuất binh từ hai lộ là Tuyên Hoá Đại Đồng và Liêu Đông, tạo thành thế tam giác, giữa là trung lộ. Nếu như không thành tâm hợp tác, trọng binh của chúng ta ở Liêu Đông sẽ nguy khốn trùng trùng, như vậy hẳn đã có thể bày tỏ lòng thành của chúng ta rồi chứ?
Thứ ba, tựa như năm đó Dã Tiên thái sư của Ngõa Lạt tiến đánh Yến Kinh bị ngăn trở, lần này Bá Nhan tấn công bị đánh bại; sau khi hắn trở về ắt Thát Đát sẽ xảy ra nội loạn. Chúng ta không cần các vị xuất binh ngay bây giờ, song phương có thể khai trương chợ, buôn bán trước, chờ khi quân giỏi lương đủ, Thát Đát đại loạn rồi mới thừa thế tóm gọn bọn chúng. Các vị có thể lựa xem tình thế mà hành động, nắm quyền chủ động. Tất cả những thứ vừa nêu trên đã đủ để tỏ rõ lòng thành của chúng ta chưa, thưa sứ giả Nặc Mộc Đồ?

Nặc Mộc Đồ nghe nói đến đây thì lông mày nhướng cao, bèn đứng dậy nắm tay đặt lên ngực, trịnh trọng đáp:
- Chúng tôi tin vào thành tâm của Hoàng đế bệ hạ, tin lời của Dương đại nhân. Tôi sẽ mau chóng bẩm báo cho đại thủ lĩnh Hoa Đáng được hay.

Dương Lăng mỉm cười vui vẻ, đáp:
- Tốt, vậy ta sẽ ở trong thành Đại Đồng chờ tin tốt của các vị.

Đoạn y bước trở về bàn mình bưng bát trà sữa lên uống cạn một hơi, rồi cười sang sảng nói:
- Lần tới sẽ do bản quan chiêu đãi các vị sứ giả ở Đại Đồng, hy vọng đến lúc đó các vị sẽ có thể mang đến tin tốt từ đại thủ lĩnh Hoa Đáng. Các vị, xin cáo từ!

Sứ thần của các bộ vẫn đứng ngoài khe núi mà dõi mắt trông theo hơn trăm khinh kỵ khuất dần trong khe núi. Sứ giả của bộ lạc Ông Ngưu Đặc là Cách Nhật Lặc Đài bước tới bên cạnh Nặc Mộc Đồ đang trầm tư suy nghĩ cung kính thưa:
- Hoa Đáng đại nhân, ngài thấy lời của vị sứ thần nhà Minh này có đáng tin không?

Cặp mắt mang hơi hướm con buôn của Hoa Đáng đang giả danh là Nặc Mộc Đồ nhoáng cái đã biến thành cặp mắt sắc bén lanh lợi như chim ưng. Hắn vuốt râu cười nhẹ rồi bảo:
- Nếu như bọn họ chỉ muốn lợi dụng chúng ta, ắt sẽ không quan tâm đến việc hứa hẹn. Do đó chúng ta có hét giá trên trời, bọn họ cũng sẽ đáp ứng hoàn toàn. Nếu như ký kết liên minh là giả, vậy thì còn để ý đến việc giả kết thân và giả cắt đất sao? Vị sứ thần Đại Minh này thận trọng như vậy, xem ra đích thực là bọn họ thành tâm rồi.

Các Nhật Lặc Đài thở phào nhẹ nhõm, rồi nhoẻn miệng cười nói:
- Thành tâm là tốt rồi. Nói thật, khi đối địch với Thát Đát bộ lạc chúng ta sẽ chết rất nhiều, nhưng đối địch với nhà Minh không những chết chóc mà còn bần cùng; so với cái chết càng đáng sợ hơn nhiều.
Nếu như Hoàng đế nhà Minh thật sự không phải là một ông vua nhu nhược mà cũng vĩ đại như Hồng Vũ Thiên Khả Hãn hay Vĩnh Lạc Thiên Khả Hãn năm xưa, thì đối với chúng ta, có lẽ thuận theo ý chí của vị Chính Đức Thiên Khả Hãn này cũng sẽ là một sự lựa chọn hết sức chính xác.

Hoa Đáng cười xảo quyệt, đáp:
- Nếu Bá Nhan thật sự dễ đối phó như vậy thì liệu nhà Minh sẽ đưa ra điều kiện ưu đãi như vậy ư? Đừng thấy Bá Nhan đang ăn phải trái đắng ngoài thành Đại Đồng mà tưởng bở; một khi con chim ưng này trở về thảo nguyên, nó sẽ rất mau chóng liếm lành vết thương thôi.
Có tấm chiêu bài chữ vàng là hậu duệ trực hệ hoàng gia, hắn sẽ nhanh chóng bổ sung đội ngũ và chiến sĩ thôi. Trừ phi... thật sự như vị Dương đại nhân này nói Thát Đát sẽ xảy ra nội loạn. Nhưng mà danh vọng của Bá Nhan như mặt trời ban trưa, trong nội bộ của Thát Đát thật sự sẽ có kẻ dám đối đầu với hắn sao?
Đừng vội tự cột mình vào cái gốc cây là nhà Minh này. Lúc trời nắng nóng hầm, ta có thể mượn nó để trú mát; khi nó không thể che mưa chắn gió cho chúng ta nữa thì chúng ta sẽ cưỡi ngựa cao chạy xa bay. Ha ha ha...

Một cặp mắt sáng như sao Mai trừng hắn, đó là của một "đứa con trai" anh tuấn khôi ngô. Nhưng lạ là con trai trên thảo nguyên, cho dù tuổi có nhỏ đi nữa, mà hắn vẫn trông có vẻ hơi yếu đuối quá, ngũ quan cũng xinh xắn và tao nhã qúa.

Một chiếc áo da gấu ngắn lưng, đôi giày da cổ cao, cặp mày đen như mực dưới chiếc mũ da màu nâu nhạt, cánh môi xinh xắn mà đầy đặn dưới cánh mũi hếch cao, khuôn mặt trái xoan sáng sủa không tì vết. "Hắn" hừ một tiếng, nói với vẻ không vui:
- Nếu đã vậy, cớ sao phụ thân còn muốn gả con cho Hoàng đế nhà Minh? Ngộ nhỡ lúc nãy cái tên đại thần nhà Minh đó đồng ý thì làm sao?

Đó là một trong số tám tay thị vệ ở trong lều, khi nãy “hắn” đứng trong bóng khuất nên không ai để ý đến, lúc này nghe “hắn” mở miệng nói chuyện mới nhận ra là con gái. Hoa Đáng hơi ngẩn người, rồi bật cười ha hả ôm lấy vai cô nàng nói:
- Ngân Kỳ, gả con cho triều đình nhà Minh không tốt hay sao? Căn nhà của một tên Bách phu trưởng của bọn bọn còn hoa lệ và rộng rãi hơn đại trướng của chúng ta, tiền bạc của một tên tài chủ bình thường cũng có thể mua hết toàn bộ dê bò của chúng ta. Nếu là Hoàng phi, con thật sự sẽ có một cuộc sống như trên chốn thiên đường đó!

Thiếu nữ hừ một tiếng ra vẻ xem thường rồi đáp:
- Con vẫn không thèm! Chồng của con phải cưỡi được khoái mã, bắn được lợi tiễn, phải là anh hùng tài ba nhất trên thảo nguyên; cho dù phải theo hắn đến tận chân trời góc biển, cực khổ bao nhiêu con cũng không sợ.Nghe nói Hoàng đế nhà Minh muốn đi từ một căn phòng này sang căn phòng khác cũng cần phải có một đám người khiêng đi. Trời ạ, mới chỉ tưởng tượng một chút mà con đã muốn phát điên rồi!

Hoa Đáng và đám người Cách Nhật Lặc Đài, A Khất Mãi nghe thế thì đều cùng cười phá lên...

*****

- Lúc nãy nghe thấy đại nhân phát ra tiếng cười lớn mạt tướng mới yên tâm. Bằng không thì phải chờ lâu như vậy mà không có động tĩnh gì, mạt tướng đã nhịn không được định mang người xông vào rồi.
Hứa Thái vừa vụt roi lên mông ngựa vừa cười ha hả nói.

- Đại nhân, có phải là đã đạt được hiệp nghị với sứ giả của Đoá Nhan Tam Vệ không?
Liễu Bưu cũng phi ngựa lại gần, hào hứng hỏi.

Chiến mã mới vừa vượt qua một triền núi nhỏ. Dương Lăng ghìm ngựa dừng cương, đưa mắt nhìn núi tuyết chói lòa bạc trắng dưới ánh mặt trời sáng rực ở xa xa, rồi đáp:
- Vẫn khó nói! Những kẻ này đều mang tâm lý đầu cơ rất nặng. Mặc dù chúng đã động lòng với những điều kiện do chúng ta hứa hẹn, nhưng nếu muốn bọn chúng dốc lòng làm việc cho chúng ta, e rằng sẽ không dễ dàng như vậy.

Chợt y bật cười nói tiếp:
- Cũng may, mục đích của chúng ta chỉ là muốn bọn chúng trói chân Ngoã Lạt, lại lấy giao dịch buôn bán mà trói chân chúng. Quyết định thắng thua trên chiến trường không thể đặt vào mấy kẻ trở cờ theo gió này, ha ha ha... Khi nãy bản quan bật cười, là bởi vì sứ giả của Hoa Đáng đề nghị hoán thân(3) cùng Đại Minh ta, muốn gả con gái của Hoa Đáng cho Hoàng thượng, sau đó đòi gả ngự muội của đương kim hoàng đế cho Hoa Đáng. Hừ! Đoá Nhan Tam Vệ càng lúc càng không coi ai ra gì rồi!

Đoạn y quay đầu lại, dõi mắt nhìn dãy núi trùng trùng điệp điệp xa xa, ánh mắt loé lên, nghĩ bụng: "Đoá Nhan Tam Vệ sớm đã ôm lòng bất kính, xem ra dụ bọn chúng dính vào vũng nước đục này với Thát Đát là việc làm chính xác. Theo thái độ của Nữ Chân Tam Bộ, xem chừng ra vẫn có thể lợi dụng bọn họ một chút. Nếu mà trận đấu quyền anh không cân sức thì phải giúp bên yếu thế hơn một tay, lúc đó trận đấu mới đặc sắc.”

Hứa Thái nghe xong cũng không nén được giận mà mắng to:
- Hừ! Hoa Đáng là thứ gì mà cũng đòi cưới công chúa Đại Minh ta. Nếu là cung nữ như Vương Chiêu Quân hoặc một người con gái hoàng tộc tầm thường thì còn được. Đại nhân ắt hẳn đã cự tuyệt rồi phải không?

Dương Lăng quay đầu lại, nghiêm mặt răn:
- Hứa Thái, ngươi sai rồi! Đừng nói là công chúa dòng dõi hoàng tộc, cho dù là một dân nữ người Hán hèn mọn nhất, thậm chí là nha hoàn, hầu gái, chúng ta cũng không thể lấy bọn họ ra để mà hoà thân, làm chuyện xỉ nhục quốc thể như vậy được.

Y thúc ngựa, đi tới mấy bước trên triền núi, đón lấy cơn gió núi rít gào cuốn theo bông tuyết lùa tới, hét lớn:
- Hòa thân! Hòa thân! Đó là chuyện xấu hổ nhất trên đời! Cho dù từ xưa đến nay dị tộc có hòa thân, có giao hảo cùng dân Hán ta, thật ra cũng bởi vì thực lực người Hán ta không thể khinh nhờn. Bọn chúng há sẽ vì một nữ nhân mà từ bỏ lòng tham của chính mình?
Tự lừa mình dối người mà đem sự an nguy của giang sơn xã tắc đặt lên trên sự hy sinh hạnh phúc của một người con gái, mặc cho người ta bị phiên bang dị tộc chà đạp, thậm chí làm những việc trái với phong tục Trung Nguyên ta, để cha con anh em luân phiên chà đạp, anh em con cái khác giống đối đãi như súc sinh, còn khéo gọi bằng cái tên mỹ miều là "hoà thân", ăn thì không bằng heo chó, quả thực là nhu nhược đớn hèn chỉ biết nhịn nhục!

Đoạn y quay người, nghiêm mặt lẫm liệt nói với bọn Hứa Thái, Kinh Phật Nhi, Liễu Bưu và Ngũ Hán Siêu rằng:
- Nam nhân nào không biết bảo vệ tôn nghiêm của người phụ nữ của mình là kẻ không có tiền đồ, dân tộc nào không biết bảo vệ tôn nghiêm của phụ nữ mình đó là dân tộc không có tương lai.
Chúng ta không chỉ không chấp thuận hoà thân, mà có một ngày sẽ còn đánh vào đại mạc, cướp lại những người phụ nữ người Hán đã bị chúng cướp đi, khiến cho những kẻ rợ tác oai tác quái ức hiếp người Hán đó phải thần phục dưới chân chúng ta! Các ngươi đều là nam nhi anh hùng của người Hán ta, phải biết bảo vệ tôn nghiêm của đàn ông người Hán chúng ta. Các người có làm được không?

Bọn Ngũ Hán Siêu nghe vậy thì sắc mặt tức thì trở nên nghiêm nghị. Hứa Thái nghiêm mặt ngồi thẳng lưng lên, vừa định mở miệng đáp lời ai dè Lưu Đại Bổng Chùy ở bên cạnh nghe xong máu nóng dâng trào, lập tức vung tay rống lên bằng giọng Lai Dương:
- Đại soại, chụng tôi làm được! Chúng tôi sẹ theo đại soại đạnh giắc Thát, cượp đàn bà, chợi mụ nội nọ! Cạc anh em, cạc người nọi có phại không?

Hơn trăm viên hiệu úy nghe vậy nhất tề vung tay soàn soạt, sát khí đằng đằng hô lớn:
- Đúng! Theo đại soái, đánh giặc Thát, cướp đàn bà, chơi mụ nội nó!

Rặng núi rú gào, tiếng vang ầm ầm vọng lại, tuyết đọng đang tan trên đỉnh đổ xuống ào ào, đập vào trong sơn cốc ùn ùn như tuyết lở.

Dương Lăng nghe xong thiếu chút nữa thì thổ huyết ngã ngựa: "Mụ nội nó, câu này từ miệng Lưu Đại Bổng Chùy thốt ra sao nghe khác quá vậy?"

*****

Hai vạn đại quân của Thái Nguyên trung vệ và Thái Nguyên tả vệ cờ quạt tung bay, chiến mã hí vang, đang cuồn cuộn tiến vào ranh giới huyện Sơn Âm. Lúc này sắc trời đã tối, đương lúc đại quân đang chọn nơi trú đóng, chôn nồi nấu cơm, thì hai viên tiểu hiệu lưng đeo cờ hiệu tín sứ (lính đưa tin - ND) của quân dịch chạy vội chạy vàng vào trong đại trướng (lều lớn) trong quân.

Chỉ huy sứ vệ Thái Nguyên là Trương Dần mỉm cười ôn tồn bảo:
- Hai vị tín sứ đi đường cực khổ, hãy uống tạm chén trà nóng trước đã.

Hai viên tiểu hiệu cung kính thưa:
- Quân vụ trên người, ti chức không dám trì hoãn! Đây là thư hàm về quân tình của Tam quan tổng chế Dương đại nhân, xin chỉ huy sứ đại nhân ký nhận.

Trương Dần liền vội tiếp lấy thư hàm, kiểm tra thấy dấu xi còn nguyên, bèn lấy tướng ấn đóng nhận vào sổ của hai người. Hai người tiểu hiệu cũng không hề uống đến một hớp trà mà lập tức vội vã cáo từ, rời khỏi lều soái rồi lên ngựa đi luôn.

Trương Dần trở về trong lều, bóc thư hàm ra xem dưới ánh đèn. Chính là Dương Nhất Thanh muốn đại quân của hắn dời trại đến đóng ở Quảng Vũ bảo cũ, ở đó đợi lệnh. Trương Dần búng ngón tay lên thư mấy cái, rồi khẽ mỉm cười, căn dặn quan thư ký ghi chép sắp xếp thư hàm lại, sau đó gọi quan trung quân lại bảo:
- Truyền lệnh đêm nay đóng trại ở đây, sáng sớm ngày mai khởi hành đến Quảng Vũ bảo cũ.

Quảng Vũ bảo trong huyện Sơn Âm chia làm hai thành mới và cũ. Thành mới được xây vào năm Hồng Vũ thứ bảy, nằm sát Trường Thành, do một vệ binh mã trú đóng. Quảng Vũ bảo cũ nằm về mé tây thành mới, nằm bên trong Trường Thành, vốn là nơi đóng quân. Quan trung quân nghe xong liền vội lui xuống truyền lệnh, Trương Dần khoát tay cho thân binh lui ra hết, rồi nhón lấy chén trà nhíu mày trầm tư.

Màn sau của lều được vén lên, một viên quan trung quân lặng lẽ bước vào. Trương Dần không hề quay đầu lại, chỉ trầm ngâm thật lâu rồi mới khẽ thở dài nói:
- Bao năm khổ tâm tổ chức, thành bại ở ngay trước mắt, trong lòng ta lại bồn chồn.

Gã quan trung quân nọ ngước đầu lên, không ngờ hắn chính là người áo xanh từng ngồi đối diện uống rượu với Du hộ pháp trên "Thái Bạch cư" ngày đó. Hắn cung kính thưa:
- Giáo chủ! Bản giáo hồng phúc ngang trời, nay Chính Đức thân rơi vào tuyệt cảnh mà không tự biết. Đệ tử thấy lần này hắn có lắp cánh cũng khó mà thoát được.

Trương Dần khẽ lắc đầu, đáp:
- Nghe nói hắn muốn dời đến Báo phòng, lão phu mới kêu người dụ đại đạo Dương Hổ vào kinh, ai ngờ lại uổng mạng Lưu hộ pháp, hai trăm tên đạo tặc cũng bị Dương Lăng hốt trọn một mẻ, Chính Đức lại chẳng hao tổn cọng lông sợi tóc nào. Lúc đến Đại Đồng, Vương Long lại bị y tra ra, hại cho Vương Hổ cùng bị chém đầu...

Hắn mệt mỏi nằm nửa người ra ghế, cười khẽ nói:
- Ngay cả bản giáo chủ cũng đã hơi tin mấy lời hoang đường nọ rồi, chẳng lẽ Dương Lăng này là khắc tinh của bản giáo hay sao? Trong kế hoạch lần này, Vương Hổ có tác dụng cực kỳ quan trọng, hắn mà chết thì sẽ không xong việc. Không có hắn, sợ rằng Chính Đức sẽ an toàn hồi kinh thôi. Ôi!
Ta đã phải trải qua bao trắc trở, tốn biết bao tiền bạc mới đưa hắn lên vị trí tham tướng thủ thành của thành tây, nhằm trông mong có ngày có thể trọng dụng. Nếu như có hắn làm nội ứng ở thành tây, chúng ta dẫn Bá Nhan bất ngờ tập kích nơi hội họp kết minh là núi Bạch Đăng, lại dụ Hỏa Sư đánh vào Đại Đồng, hai bút cùng vẽ, khiến Dương Nhất Thanh giữ chỗ này thì mất chỗ kia, không thể cứu viện kịp thời, ít nhất sẽ có bảy thành thắng lợi. Nay Đại Đồng vững như thành đồng, vậy chỉ có...

Đoạn hắn cười giảo quyệt nói tiếp:
- Cho dù thất bại đi nữa thì hao binh tổn tướng cũng không phải là nhân mã của bản giáo. Chỉ có điều cơ hội tốt đến như vậy mà cứ lãng phí thì thật là đáng tiếc.

Hắn chợt ngước mắt lên, ánh mắt như điện xẹt, bắn thẳng về phía gã quan trung quân nọ, hỏi:
- Con cờ bí mật đó vẫn chưa hấp dẫn sự chú ý của bọn chúng chứ?

Quan trung quân sợ hãi đáp:
- Dạ chưa! Giáo chủ yên tâm, vì để giữ bí mật, ngoài thuộc hạ ra, người của bản giáo ở Đại Đồng không ai biết được thân phận của hắn cả.

Đan mười ngón tay vào nhau, Trương Dần hài lòng nói:
- Ừ! Dương Nhất Thanh ra lệnh cho ta đóng quân tại chỗ, hẳn là vì Chính Đức đã liên hệ được với Hoa Đáng. Theo kế hôm nay, chỉ có thể lặng lẽ mà quan sát tình hình. Khi nào hai bên gặp mặt ký kết minh ước, vị Dương tổng chế này nhất định sẽ lập tức đưa tin đến cho ta ngay. Trăm sự đủ cả, chỉ thiếu gió Đông mà thôi(4)...





Chú thích:

(1) lệ xưa quân chủ phong kiến Trung Quốc muốn tránh chiến tranh xung đột nên gả con gái cho kẻ cầm đầu các bộ tộc ngoài biên giới để thông hôn hoà hiếu, gọi là "hoà thân".

(2) gọi chung nơi giao dịch với của dân Hán với dân các bộ lạc khác ở biên giới

(3) hai họ cưới con gái nhau làm dâu gọi là "hoán thân".

(4) nguyên văn là “mười tám cái lạy cũng đã lạy cả rồi, giờ chỉ còn thiếu mỗi cái vái sau cùng này thôi”. Đây là ngạn ngữ dân gian Trung Quốc.




Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180&page=218
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
24-10-2012, 06:28 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 207 Dưới Chân Núi Bạch Đăng



Dịch: Ba_Van

Biên dịch: TheJoker

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Chính Đức gật gật đầu, thầm nghĩ: "Nếu không phải Dương thị độc dẫn ta ra khỏi cung, làm sao ta có thể gặp được cô? Nói như vậy, đúng ra ta nên cảm kích Dương Lăng mới đúng. Tuy nhiên, nói đi thì phải nói lại, nếu không phải ta xông vào ‘Hoa quán', thì làm sao Dương khanh có thể gặp được hai cô ái thiếp, còn được ta chuộc ra ban cho hắn? Chẳng lẽ đúng là một miếng ăn, một chén nước đều do tiền định cả sao? Lần này gặp lại được cô thực là khó khăn trăm bề, ta nhất định phải rất quý trọng, cả đời này ta sẽ không để cho cô rời khỏi tầm mắt của ta.”









Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 207 Dưới Chân Núi Bạch Đăng





Trở lại hành dinh khâm sai, Dương Lăng kể lại quá trình thương thảo cùng sứ thần Hoa Đáng cho Chính Đức nghe. Nghe kể xong, Chính Đức khẽ nhướng cao đôi lông mày lưỡi kiếm, cười lạnh:
- Hoa Đáng rốt cuộc vẫn là hậu duệ của Bắc Nguyên, tuy nghèo rớt mồng tơi nhưng dã tâm vẫn không nhỏ. Lâu nay bị kẹp giữa Đại Minh, Thát Đát, NgõaThứ thì hắn vẫn an phận, bây giờ vừa mới nghe nói có thể áp đảo hai bộ còn lại đã lập tức muốn xây dựng lại đế quốc Mông Cổ trong mộng.

Hắn rũ áo đứng dậy, nói tiếp:
- Hôm nay ngươi cùng Đóa Nhan Tam Vệ thương thảo rất tốt! Những yêu cầu vô lễ phải cự tuyệt ngay, Đại Minh ta há để cho người áp chế? Từ xưa, Đại Minh ta là nước có thế lực lớn nhất, chế ngự Bắc Lỗ, xua đuổi Tây phiên; không dùng thói tệ hòa thân nhằm hòa hiếu kết giao của Hán Đường, không như Đại Tống xưng thần cắt đất, cũng không lấy lễ nghi huynh đệ đối đãi với nước địch. Hoa Đáng nho nhỏ mà muốn kết hôn với ngự muội...... Hừ!
Cùng chung giường chung gối với người mình không thích thật là những ngày tháng cực kỳ khổ sở! Trẫm đã cảm nhận sâu sắc cái nạn này rồi, há lại chịu để cho chính bản thân ngự muội cũng phải gánh chịu nỗi khổ này sao? Trẫm là đàn ông nên còn có thể tìm được cô gái mình thật lòng thật dạ yêu thích, còn Vĩnh Phúc thì không thể làm chủ chính mình, nàng sẽ phải làm sao?
Tuy trẫm là một vị hoàng đế ẩu tả nhưng cũng biết thương yêu em gái. Nếu như chính Vĩnh Phúc muốn lấy chồng, chỉ cần hai người tình đồng ý hợp là tốt rồi, trẫm bất kể hắn là vương hầu công khanh hay là dân thường áo vải. Còn nếu như nàng không muốn xuất giá, cho dù Hoa Đáng chắp tay dâng đất đai cả ba vệ, trẫm cũng không mang em gái đi đổi!

Dương Lăng mỉm cười tâu:
- Hoàng Thượng! Dã tâm của con người luôn luôn không ngừng tăng trưởng theo sự lớn mạnh của quyền lực. Ban đầu Hoa Đáng chỉ có tham vọng là một góc Liêu Đông, bây giờ nghe nói có thể thống nhất được thảo nguyên, khi đã có thể đứng trên cao, tự nhiên ánh mắt tham lam của hắn cũng nhìn ra xa hơn.
Về dã tâm của người Man, Hoàng Thượng nói rất đúng. Mặc dù bọn họ không phải dân tộc du mục, đã xoay sang học tập người Hán làm ruộng dệt vải nhưng cũng không thay đổi được bản tính thích xâm chiếm đất đai của bọn họ. Bọn họ ở lệch một bên thảo nguyên, trên có các nước La Sát, còn ba mặt trái, dưới, phải lại bị các vệ Đại Minh ta bao vây. Một khi thống nhất thảo nguyên sẽ không có cách nào cung cấp đủ nhu yếu phẩm cho dân số gia tăng, lúc đó nhất định họ phải xâm chiếm bên ngoài. Cho nên thần mới khuyên Hoàng Thượng thừa dịp ba liên minh bộ lạc đang lục đục, hãy mau chóng bình định biên giới phía Bắc, thâu tóm toàn bộ thảo nguyên vào lãnh thổ quốc gia Đại Minh, lưu lại cho con cháu đời sau một giang sơn vững chắc như sắt thép.

Hào khí nổi lên bừng bừng, Chính Đức gật gù tán thưởng, cười nói:
- Đúng lắm! Trẫm muốn lưu lại cho thế hệ mai sau một giang sơn vững chắc như sắt thép...

Chợt nhớ đến chuyện khác, hắn không nén nổi nói bằng giọng hâm mộ:
- Được rồi, Dương thị độc! Nghe nói Ấu Nương tỷ tỷ đã có mang, không biết tháng mấy sẽ sinh?

Nghe nhắc tới việc này Dương Lăng cũng đầy vẻ vui mừng, y mỉm cười đáp:
- Ước chừng giữa tháng tám, vào lúc hoa quế tỏa hương.

Chính Đức ha ha cười to, nháy nháy mắt, vỗ đùi nói:
- Tốt! Nếu như là bé trai ta sẽ nhận làm nghĩa tử, nếu như là con gái ta sẽ nhận làm nghĩa nữ. Chuyện này phải theo lệ ai dành trước là được, không cho người nào được phép tranh cướp với trẫm!

Hắn vỗ tay cười nói tiếp:
- Thật muốn biết khi nghe tiểu hài tử kêu bằng phụ thân sẽ có cảm giác gì nhỉ? Nhất định phải rất vui vẻ!

Dương Lăng giật mình, Hoàng Thượng muốn đích thân làm cha nuôi đứa bé? Ngẫm nghĩ lại, y thấy dường như cũng không có gì xấu, hơn nữa Chính Đức đã mở miệng, ai lại dám xem nhẹ mặt mũi của hắn?

Dương Lăng khẽ cười đáp:
- Trẻ em chưa được tròn trèm một tuổi thì làm sao mở miệng gọi cha được? Hoàng Thượng thân thể cường tráng, tuổi lại như mặt trời mới mọc ở phương đông, tương lai nhất định cũng sẽ con cháu đầy đàn.

Chính Đức mặt mày hớn hở:
- Ha ha! Chỉ hy vọng như thế.

Hắn khoát tay nói tiếp:
- Tạm không nói chuyện này nữa! Đến đây, chúng ta bàn bạc qua chuyện ký kết hiệp ước với Hoa Đáng. Ngươi nghĩ rằng Hoa Đáng có thể đồng ý với những điều kiện do chúng ta đưa ra hay không?

Dương Lăng đáp ngay không chút do dự:
- Nhất định sẽ chấp thuận! Trước tiên, vốn Hoa Đáng và Bá Nhan đã phân tranh không ngừng. Bá Nhan đánh nhau với chúng ta ở nơi này đã gánh chịu tổn thất, nhất định hắn có thể sẽ cướp đoạt lương thực Hoa Đáng để bổ sung cho mình. Thêm nữa, ba bộ Nữ Chân rất phụ thuộcvào Đại Minh, bọn họ thành tâm nương nhờ vào Đại Minh. Lực khống chế của Hoa Đáng bên trong Đóa Nhan Tam Vệ cũng không bằng lực khống chế của Bá Nhan đối với các bộ lạc Thát Đát. Những điều kiện hậu hỉ của chúng ta nhất định khiến cho thủ lĩnh các bộ lạc động tâm, Hoa Đáng không thể không suy nghĩ đến những thực tế này.

Miêu Quỳ cũng đã đến dịch quán. Cũng như Trương Vĩnh, lão cũng thuộc nhóm những người biết rõ chiến sự, lại từng thâm nhập đại mạc, có kiến thức rộng về ba bộ của Mông Cổ. Nghe vậy, lão bèn tham gia:
- Hoàng Thượng! Theo nô tài biết, ngày xưa đế quốc nhà Nguyên phân chia thành ba bộ. Thát Đát là trực hệ hoàng gia, thời gian qua không xem hai bộ khác ra gì. Ngõa Thứ là đại thế lực gần gũi với hoàng tộc vào hàng thứ hai, với lại lúc trước cũng từng nhận chức Thái Sư, từng hùng cứ Thát Đát, dã tâm thực ra cũng không nhỏ.
Mãn Đô Hải từng chinh phạt Ngõa Thứ. Sau khi đánh bại bọn họ, bà ta bèn ra lệnh tòa nhà của thủ lĩnh bọn hắn không được xưng là cung điện, ở trong nhà chỉ được quỳ chứ không được phép ngồi, các quý tộc ăn thịt đều chỉ cho lấy tay xé, không cho phép sử dụng dao nhỏ. Loại sỉ nhục này khiến cho bọn hắn thù hận tộc Thát Đát còn hơn xa việc thù địch Đại Minh.
Cho nên theo ý nô tài, đợi đến khi Bá Nhan, Hỏa Sư xảy ra nội loạn ta liền tụ tập trọng binh từ vệ Ha Mi (thuộc Tân Cương, Trung Quốc) công kích Ngõa Thứ, xua con hổ nhọc mệt này vào thảo nguyên Thát Đát. Vì bãi chăn nuôi và trâu dê, bọn họ sẽ không bỏ qua cơ hội tốt Thát Đát đang nội loạn này, nhất định sẽ không chút do dự tham gia vào cuộc chiến đó. Có thể bọn họ tạo thành thế chân vạc vững chắc, có thể gia nhập vào một phe tấn công phe kia. Theo nô tài phỏng đoán, rất có khả năng bọn họ sẽ chọn Hỏa Sư làm đồng minh. Nếu thế thì sẽ có thể giảm nhẹ áp lực phía đông rất nhiều, giúp cho quân ta ung dung bố trí. Dựa theo kế hoạch của Dương đại nhân, chúng ta sẽ xuất binh thu dọn tàn cuộc, lại thuận thế chiếm hết Đóa Nhan Tam Vệ.

Chính Đức sáng mắt lên, hào hứng hỏi:
- Dương khanh nghĩ như thế nào?

Dương Lăng nhìn lướt qua Miêu Quỳ với vẻ khâm phục, cung tay khen:
- Thực là diệu kế! Chỉ là không biết Ngõa Thứ có còn thực lực đánh với Thát Đát một trận hay không?

Miêu Quỳ vui vẻ tâu với Chính Đức:
- Khi nô tài thâm nhập đại mạc, từng theo hướng tây tiến vào địa bàn Ngõa Thứ. Đội quân của nô tài đã từng giao chiến một trận nhỏ với bọn chúng, ngay lúc đó đã phát hiện bên trong bộ lạc của bọn hắn còn tráng đinh rất nhiều. Hiển nhiên lần này Bá Nhan triệu tập các bộ lạc tấn công Đại Đồng, nhưng người Ngõa Thứ chỉ phái tới những kẻ già yếu, căn bản là chỉ nhằm phất cờ hò reo cho Bá Nhan. Thực lực của bọn hắn mặc dù hãy còn không đủ để đối phó với Bá Nhan, nhưng nếu như Hỏa Sư làm phản, vệ Ha Mi lại gia tăng áp lực, khi đó tình hình chiến sự liền không tránh khỏi triển khai theo hướng chúng ta dự đoán.

Chính Đức cười to, vỗ án bảo:
- Hay lắm! Các khanh mưu lược không hẳn sâu sắc hơn lớp đại thần trong triều, nhưng mà bọn họ chỉ biết gìn giữ cái đã có, không biết sự quan trọng của việc đi ra ngoài. Chỉ cần nhìn điểm này, các khanh đã cao minh hơn bọn họ nhiều lắm đấy.

***

Đàm phán thật sự chính là tiến hành ở bên ngoài, còn đến khi bưng lên mặt bàn cho hai bên thủ lãnh gặp mặt thì cả hai chỉ thực hiện nghi thức ký tên vào văn kiện thôi. Công cuộc đàm phán bí mật giữa Đại Minh cùng Đóa Nhan Tam Vệ đang tiến hành cấp tập, sứ giả hai bên qua lại cửa Đắc Thắng như thoi đưa.

Vào thời Tần Hán Tùy Đường, nơi sản sinh tuấn mã là vùng Hà Sáo, Kỳ Liên, Trương Gia Khẩu, Hô Luân Bối Nhĩ (nay là thị trấn ở Nội Mông). Bây giờ chỉ có Trương Gia Khẩu vẫn còn luôn luôn ở trong tay khống chế của Đại Minh. Đất đai nơi đây rất thích hợp để nuôi dưỡng ngựa tốt, nhưng do Thát Đát thường xuyên đến cướp bóc cho nên mã chính (chính sách dân nuôi ngựa cho quân binh) đã bỏ phế nhiều năm.

Trong thời buổi chiến tranh bằng vũ khí lạnh như hiện nay, ngựa có tác dụng cực kỳ quan trọng, tuyệt đối không thể thay thế được. Tốc độ và sức tấn công của bộ binh khó mà bằng được của kỵ binh. Nếu như hai bên có thực lực tương đương, bên kỵ binh không đợi bộ binh tập kết thành đội hình chiến đấu mà ngay khi đối phương chưa hình thành sức phòng ngự đã tung chiến mã thọc sâu vào đội hình kẻ địch thì chỉ cần một lần xung kích là đã đánh bộ binh tan tác.

Còn nếu như bên bộ binh người đông thế mạnh, bên kỵ binh có thể ngày ẩn nấp đêm xuất hiện tập kích quấy rối, kéo dãn đội hình của đối phương khiến đường tiếp tế của phe bộ binh bị kéo dài, sau đó ung dung cắt đường vận chuyển lương thảo của địch. Khi bộ binh đối phương đã suy sụp trầm trọng vì lương thảo bị cắt đứt thì kỵ binh sẽ chia cắt, bao vây tiêu diệt. Cho dù bộ binh phòng thủ phản kích giành thắng lợi đi chăng nữa, kỵ binh cũng có thể tùy ý chạy xa bất kỳ lúc nào, bộ binh hoàn toàn không có cách nào truy kích.

Cho nên bộ binh đấu với kỵ binh, nếu thắng thì chỉ có thể thắng nhỏ mà bại thì nhất định toàn quân bị diệt; quả thực ở vùng đồng bằng khó mà cùng kỵ binh giáp chiến. Thông thường quân đội Trung Nguyên thiện về xa chiến, phiền một nỗi tuy sức xung kích của chiến xa rất mạnh nhưng nếu phải hành quân cấp tốc trên một quãng đường dài thì lại dễ bị hư hao. Với lại đoàn xe đông đúc ở trên chiến trường khó mà chuyển hướng lẫn quay đầu thoải mái nên tính linh hoạt thua xa kỵ binh. Do đó chiến xa chỉ có thể được sử dụng trong những trận tấn công quyết chiến và dùng để tạo chiến lũy phòng thủ khi địch phản công.

Bây giờ vũ khí nóng vẫn chưa thể hoàn toàn thay thế vị trí của vũ khí lạnh. Dương Lăng ước tính thời gian cần thiết để kiểu súng mới của Nội xưởng đạt tới hiệu quả hoàn mỹ, được sản xuất hàng loạt, rồi trang bị tương đới đầy đủ cho quân đội và huấn luyện sĩ tốt sử dụng thuần thục thì ít nhất cũng phải tốn năm năm. Những việc này có nóng ruột cũng chẳng thể làm được gì. Cho dù bây giờ lập tức có đủ binh khí hiện đại nhất đi chăng nữa thì thời gian bỏ ra để đào tạo sĩ quan huấn luyện, sau đó bọn họ lại huấn luyện đại trà cho binh sĩ không mất đứt một năm rưỡi không xong.

Ngay bây giờ, khi chưa có hàng loạt hỏa pháo tiên tiến, nhẹ nhàng trang bị cho quân đội, khi chưa có thiết bị vận chuyển hiện đại xuất hiện, nếu muốn chiến đấu với dân phương bắc, nhất là khi muốn chủ động tấn công, thì ngựa có tác dụng quyết định. Dương Lăng biết rõ điều này cho nên tiêu điểm đàm phán của Đại Minh đã một mực tập trung vào hạng mục này.

Ngoài da và lông thú thì vật phẩm Đóa Nhan Tam Vệ có thể cung cấp chủ yếu chính là chiến mã, nên không cần phải lo lắng bọn họ sẽ để ý tới điểm đặc biệt này. Nhưng sứ giả Đóa Nhan lại đề xuất người khá giả của tam vệ chỉ chiếm một, hai phần mười, dân thường chiếm hơn bảy tám phần nên yêu cầu phía Đại Minh xuất cảng nhiều gạo cùng mì muối trà hơn, giảm bớt những món xa xỉ phẩm như đồ sứ, lụa là.

Dương Lăng đồng ý. Nhân cơ hội y đưa đề nghị Đại Minh có thể xuất khẩu lương thảo, muối ăn thậm chí tiền đồng cùng dụng cụ bằng sắt và lưu huỳnh diêm tiêu, nhưng bên Đại Minh muốn mua ngựa tốt, lại do Đóa Nhan Tam Vệ phái người dạy cách nuôi dưỡng ngựa và mở thêm khu vực chăn nuôi cho ba vệ tại vùng đất của Đại Minh.

Thông qua buôn bán thu được ngựa cùng các loại vật tư quân sự, hơn nữa mở khu chăn thả trên đất Hán thì càng thuận tiện, vả lại chi phí thực tế sẽ càng tiết giảm. Ở địa bàn Đóa Nhan Tam Vệ xác định vài khu vực nuôi dưỡng ngựa, vừa có thể dùng để bồi dưỡng dân chăn nuôi xuất sắc người Hán, vừa đề phòng một khi Đóa Nhan Tam Vệ bỏ không cung cấp nữa, việc cung ứng ngựa cũng sẽ không đến mức phát sinh vấn đề quá lớn. Đóa Nhan Tam Vệ nhịn không được điều kiện hậu đãi của triều đình nhà Minh dành cho, cuối cùng cũng đồng ý giúp đỡ việc này.

Lượng xuất khẩu lưu huỳnh và diêm tiêu có hạn, với lại chúng chính là vật phẩm tiêu hao, hễ dùng là hết. Người Mông Cổ đã không có bao nhiêu vũ khí tương ứng, cũng không có phương cách phối chế thuốc nổ tối ưu. Xuất khẩu một ít đạn dược cho Đóa Nhan Tam Vệ nhằm một mặt biểu hiện Đại Minh thành tâm liên kết, mặt khác là trên thực tế, triều đình nhà Minh cũng nắm trọn công cụ điều tiết sức phát triển quân sự của Đóa Nhan Tam Vệ vào trong tay. Những vấn đề như thế này đã bày ra ngay trước mắt những thủ lãnh Đóa Nhan Tam Vệ, nhưng hiển nhiên ngay bây giờ bọn họ khó mà phát hiện được mối họa trong đó.

Triều Minh nhập khẩu lông lạc đà, da chồn, nhân sâm, ngựa; xuất khẩu lưỡi cày, xẻng, trâu cày, hạt giống, gạo muối, vải vóc, chảo sắt… Sau một hồi cò kè mặc cả, bớt một thêm hai, rốt cuộc hai bên cũng đạt được thỏa thuận song phương đều vừa lòng. Sau cùng, hai bên bắt đầu thảo luận địa điểm mở những chợ ngựa.

Lần này, triều đình nhà Minh lại vô cùng hào hiệp. Ngoài ba chợ ngựa được mở từ thời Vĩnh Lạc ở ba vệ Nam Quan, Đông Quan, Quảng Ninh, bọn họ lại tăng thêm ở năm cửa quan Phủ Thuận, Bạch Thổ Hán, Khoan Điện, Ái Dương, Thanh Hà. Thời gian họp chợ là hằng ngày thay vì là chợ phiên; nhà Minh sẽ phái binh trú đóng, ấn định giá cả, thu thuế giao thương.

Việc đàm phán đều lấy bàn bạc thảo luận mà quyết, đã kéo dài hết bảy ngày. Lúc này quân của Hỏa Sư vẫn quấy rối ở quan ngoại, nhưng thế công càng lúc càng yếu, đã không hề có chiến ý. Đại quân Bá Nhan đã từ vùng Bắc Bình Thuận trở về nhưng không tụ họp cùng lực lượng của Hỏa Sư, hình như có ý định cuốn cờ xếp trống trở về đại mạc.

Ngày mai chính là ngày thiên tử Đại Minh gặp mặt Đóa Nhan Tam Vệ, đích thân ký kết hiệp ước đồng minh, cả hai bên cùng công cùng thủ. Mặc dù quân Thát ở quan ngoại không có hoạt động gì lạ nhưng Dương Nhất Thanh vẫn như gặp đại địch, tự mình trấn giữ Đắc Thắng bảo, đồng thời ra lệnh dọc tuyến Sơn Tây hơn hai trăm quan ải, phong hỏa đài, vệ sở đề phòng toàn diện, tụ tập tinh binh. Vương Thủ Nhân tự mình dẫn hai vị du kích tướng quân canh giữ ở quan ngoại, cơ động chiến đấu, theo dõi hoạt động của lực lượng Hỏa Sư.

Hai vạn binh mã của Thái Nguyên vệ Trương Dần được giữ làm quân dự bị, cố thủ ở Quảng Vũ bảo huyện Âm Sơn, sẵn sàng nhận mệnh lệnh bất kỳ lúc nào. Đỗ Nhân Quốc trấn giữ thành Đại Đồng; còn Hứa Thái dẫn bảy ngàn kỵ binh phục ở bên trong Đại Đồng, một khi núi Bạch Đăng báo động thì lập tức phóng ngựa gấp rút tiếp viện.

Trên núi Bạch Đăng đã xây xong đình đón khách, lều lớn để tổ chức hội nghị, khắp bốn mặt sườn núi đã ẩn giấu bảy mươi khẩu độc hỏa pháo.

Những độc hỏa pháo này có thể bắn lựu đạn cũng có thể bắn đạn ria. Một phát có thể bắn ra hơn trăm miếng sắt nhỏ, tầm bắn không xa nhưng khi phát xạ, cả trăm viên đạn lớn nhỏ cùng bay ra ngoài. Ầm một tiếng như sấm, lực sát thương với phạm vi sát thương đều rất lớn, thích hợp sử dụng ở trận địa trống trải nhằm oanh kích đội hình chiến đấu dày đặt của đối phương. Loại pháo này áp chế thế công điên cuồng của địch rất hiệu quả.

Đại quân Bá Nhan vẫn ở ngoài Trường Thành, ở giữa còn có vài vạn đại quân ngăn cản, do chính Dương Nhất Thanh thống lĩnh. Do đó Dương Lăng không lo lắng Thát Đát hợp sức cùng tiến công mà chỉ lo Di Lặc giáo thần thông quảng đại. Ngay trong thành Bắc Kinh mà bọn họ đã có thể tập trung hơn hai trăm tay tội phạm tập kích Cao Lão trang vào ban đêm nên bây giờ Dương Lăng cũng không biết bọn họ có thể tụ tập mấy ngàn giáo đồ cuồng tín bất ngờ tập kích núi Bạch Đăng hay không. Bởi vậy ở đồng ruộng chung quanh chốn ký kết hiệp ước y đã cho chôn hơn năm trăm quả địa lôi có thể chủ động kích hoạt được. Trước đó những địa điểm chôn địa lôi đều đã được đánh dấu, một khi không sử dụng tới, những quả mìn này phải được lấy ra nguyên vẹn, tránh vào đầu xuân gây rủi ro khiến dân lành đi làm ruộng bị dính thương vong.

Theo ước định trước, đội ngũ Hoa Đáng sẽ được nghênh đón tại cửa khẩu Phi Hồ độ. Đây là một quan ải nhỏ, từ ngoài vào trong khá nguy hiểm khó vượt qua, nhưng từ bên trong xông ra bên ngoài lại không có gì khó khăn, một khi xông ra sẽ phá được đội hình quân ngăn trở nên rất dễ thoát thân. Y lựa chọn nơi này cho sứ giả Đóa Nhan Tam Vệ nhập quan là đã xóa bỏ được lòng nghi ngại của Hoa Đáng.

Hai bên quan ải Phi Hồ độ là những rặng núi cao hiểm trở, chim bay khó lọt, phía trên là vách đá trơ trụi khó mai phục binh sĩ. Dãy núi kéo dài như rồng, cùng Đại Đồng phía tây ngăn cách thảo nguyên, trở thành rãnh trời cắt đứt khả năng đại quân Bá Nhan trèo đèo lội suối từ nơi đó nhập quan. Còn nếu như bọn chúng vòng qua hơn mười dặm từ phần cuối dãy núi đánh giết vào, những phong hỏa đài thiết lập tại phương xa liền có thể báo động ngay lập tức, quân Minh sẽ đóng kín quan ải. Nhưng để cho an toàn, tuy ở quan ải này đã có sẵn quan binh cơ sở trú đóng, Dương Lăng vẫn điều thêm Kinh Phật Nhi cùng một ngàn binh mã đến tăng cường.

Đã chuẩn bị kỹ lưỡng đến như thế, quả thực có thể nói là không còn sơ hở gì, nhưng Dương Lăng cùng Hồ Toản, Dương Nhất Thanh, Trương Vĩnh, Miêu Quỳ vẫn lo lắng không yên. Đã rất khuya mà bọn họ vẫn tụ tập trong thư phòng cân lui nhắc tới, suy diễn tất cả các cạm bẫy có thể xuất hiện.

Hồ Toản nói:
- Quan ải, Đại Đồng, núi Bạch Đăng cách nhau không xa, chỉ trong phút chốc có thể kéo quân đến ngay lập tức. Quanh chỗ đó trên mười dặm đều là đồng bằng không có gì nguy hiểm, không chỗ có thể ẩn nấp để thực sự gây bất lợi cho Hoàng Thượng. Bọn họ chỉ có thể dùng sức tấn công mà thôi, nhưng mà trừ phi Di Lặc giáo có bản lĩnh rải đậu thành binh, bằng không những binh mã này từ đâu mà xuất hiện? Theo ý bản quan, nên đề phòng chăng là khi địch đến thì tên bay đạn lạc lỡ làm tổn thương Hoàng Thượng.

Dương Lăng cười cười, tiết lộ:
- Tuần phủ đại nhân yên tâm! Trên núi có một cái hang động sâu đến hơn bốn mươi trượng. Ta đã phái người san bằng đỉnh núi, sau đó chỉnh sửa, xén phẳng hang núi kia, cũng đào rộng bề ngang, đẽo thêm bậc thang đá. Lều lớn để hội họp đã được dựng ngay trên cửa động, một khi có chuyện, lập tức có thể mời Hoàng Thượng tạm lánh vào trong động.

Trương Vĩnh bàn:
- Di Lặc giáo dẫn một đám dân làng đến hại được Hoàng Thượng ư? Không thể tưởng tượng được! Bọn họ đã không có đại quân, một đám dân lành không biết gì thì không thể làm nên việc lớn được. Theo cha gia thấy, khả năng bọn chúng sử dụng thích khách còn lớn hơn nữa. Liệu trong quân, thậm chí trong nhóm Đóa Nhan Tam Vệ, có thể có người bị chúng mua chuộc trở thành thích khách liều chết hay không? Ít ra Hoàng Thượng phải mặc hai lớp giáp mềm, còn phải chọn lựa những người võ nghệ giỏi nhất trong thị vệ đại nội theo hầu chung quanh, không rời người nửa bước.

Thấy những thần tử này vì an toàn của mình mà như gặp đại địch, thảo luận không ngừng, Chính Đức không nén nổi lắc lắc đầu, đột nhiên xen vào chế nhạo:
- Không biết Hoa Đáng bây giờ đang làm cái gì nhỉ? Phải chăng các thủ lĩnh bộ lạc của Đóa Nhan Tam Vệ cũng đang trắng đêm không ngủ cân nhắc làm như thế nào để bảo vệ được tính mạng của Hoa Đáng?!

Mọi người nghe xong đang ngẩn người, Chính Đức đã đứng dậy bảo:
- Các vị ái khanh cứ tiếp tục! Ta đây là người bằng gốm sứ nên phải về phòng nghỉ ngơi đã.

Các quan chức còn chưa kịp quỳ xuống thi lễ, Chính Đức đã vén màn cửa, thản nhiên bước thẳng ra ngoài.

Đêm đen như mực, sao trời lấp lánh. Hai hàng thị vệ ngoài cửa nhìn thấy Hoàng Thượng bước ra lập tức có hai gã thị vệ vội vã tháo đèn lồng xuống định đưa nhà vua trở về. Đúng lúc đó, một bóng người yểu điệu chợt tiến vào sân nhỏ trước thư phòng. Mắt sáng lên, Chính Đức vội lén ra hiệu với thị vệ rồi lập tức bước ra nghênh đón.

Hắn vẫn mặc bộ đồ hiệu úy nên Đường Nhất Tiên cứ ngỡ hắn đang làm thị vệ canh cửa. Nàng khẽ nhón chân nhìn vào thư phòng, ánh đèn qua song cửa sổ chiếu ra vài bóng người còn đang huơ tay nói chuyện với nhau.

Đường Nhất Tiên khẽ nhíu mày:
- Hai ngày này biểu ca quá bận rộn, không rảnh để gặp mặt ta. Trong phòng dường như có thật nhiều người, bọn họ đang bận rộn cái gì vậy?

Chính Đức nhẹ nhàng khẽ giật ống tay áo Đường Nhất Tiên, đánh mắt ra phía trước rồi im lặng bước ra ngoài. Đường Nhất Tiên kinh ngạc bước theo ra hắn khỏi sân. Nàng thấy Chính Đức hai tay thu vào tay áo, ngửa mặt nhìn sao trên trời lẩm bẩm:
- Mỗi một vị quân vương đều có thể hóa thành một ngôi sao trên bầu trời. Sao dày dặc khắp trời, ngôi sao sáng nhất chắc chắn là vị quân vương xứng đáng nhất.

Đường Nhất Tiên bĩu môi:
- Ngươi đừng xạo nữa, gọi ta ra đây làm gì?

Chính Đức liếc mắt nhìn nàng, mỉm cười nói:
- Ngày mai Hoàng đế sẽ cùng thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ của quan ngoại ký kết hiệp ước. Mấy ngày nay đại nhân có rất nhiều chuyện nên rất bận rộn, cô khoan vào đã.

Đường Nhất Tiên gật gật đầu, chợt nói:
- Ôi! Ta thấy lạ lạ, hóa ra là Hoàng đế..., - nàng đột nhiên mở to mắt, thất thanh - Hoàng đế? Hoàng đế ở Đại Đồng?

Chính Đức đưa một ngón tay lên miệng, khẽ “suỵt” rồi cười nhẹ:
- Nói nhỏ một tí! Ngày mai ký kết hiệp ước thì tất nhiên cả thiên hạ phải biết, nhưng mà tối nay lại chưa thể tung tin ra được.

Đường Nhất Tiên trợn mắt nhìn hắn, nhưng vẫn hạ giọng hỏi:
- Vậy ngươi nói cho ta biết làm gì?

Nàng ngẫm nghĩ một lúc, lại hỏi:
- Ký kết hiệp ước hẳn là không có gì nguy hiểm. Ngươi cũng phải đi hay sao?

Thấy Chính Đức gật đầu, nàng bước đến gần rồi như một người chị lớn nghiêm trang giúp hắn sửa sang lại y phục, dặn dò:
- Đi theo Hoàng Đế ra ngoài nhất định là rất vinh dự. Nhưng mà ngươi tuổi còn nhỏ, không thông suốt việc thế sự, phải hiểu cách tự chăm sóc mình, chớ để thất lễ trước mắt quân vương. Không những như thế là đã đánh mất mặt mũi anh của ta mà cũng ảnh hưởng đến tương lai chính mình.

Chính Đức gật gật đầu, bỗng nhiên cười nói:
- Bản thân cô tuổi không lớn lắm mà lại rành rẽ cách chăm sóc người khác. Trước kia cũng giống như vậy, đến bây giờ ta vẫn còn nhớ rõ ánh mắt ân cần, đồng tình của cô lần nọ.

Mắt sáng rỡ, Đường Nhất Tiên hứng thú bừng bừng hỏi:
- Chuyện trước kia của ta? Ta chẳng nhớ chuyện gì cả. Biểu ca lại bận quá nhiều việc nên, ta cũng không tiện hỏi anh ấy. Ta đã ân cần đồng tình với ngươi như thế nào? Kể cho ta nghe với!

Chính Đức thầm hối hận mình đã lỡ lời. Nhưng chỉ trong chốc lát, hắn ta đành phải kiên trì nói dối đến cùng:
- Có...... Có một lần, cô và...... Nhị phu nhân, Tam phu nhân của Đại nhân đang đi trên đường phố, bị một tên vô lại quấy rối. Ta bắt gặp được nên tiến lên ngăn cản, nhưng bất ngờ không kịp đề phòng bị tên du côn kia tống một quyền trúng mũi chảy máu không ngừng. Cô đã đưa một cái khăn tay cho ta...

Đường Nhất Tiên phì cười, nheo mũi:
- Ngươi thật là ngốc! Điều đó mà coi như ân cần đồng tình cái gì? Cho dù người qua đường trọng nghĩa nói giúp vài câu, ta cũng vẫn cảm kích người ta vài phần đấy nha. Ngươi thật! Người khác giúp đỡ ngươi thì nên nhớ ở trong lòng, nhưng mà cũng không cần tự cam lòng nhỏ bé, tự cảm thấy mình thân phận thấp kém, làm cho người khác cái gì cũng đều là điều cần phải làm.

Chính Đức gật gật đầu, thầm nghĩ: "Nếu không phải Dương thị độc dẫn ta ra khỏi cung, làm sao ta có thể gặp được cô? Nói như vậy, đúng ra ta nên cảm kích Dương Lăng mới đúng. Tuy nhiên, nói đi thì phải nói lại, nếu không phải ta xông vào ‘Hoa quán', thì làm sao Dương khanh có thể gặp được hai cô ái thiếp, còn được ta chuộc ra ban cho hắn? Chẳng lẽ đúng là một miếng ăn, một chén nước đều do tiền định cả sao? Lần này gặp lại được cô thực là khó khăn trăm bề, ta nhất định phải rất quý trọng, cả đời này ta sẽ không để cho cô rời khỏi tầm mắt của ta.”

***

Mấy ngàn thiết kỵ trùng trùng điệp điệp trên đường. Hôm nay là ngày chính thức ký kết hiệp ước đồng minh, không cần che giấu việc Hoàng đế đã vào tới Đại Đồng nữa. Không lý nào quân vương một đại quốc tổ chức ký kết hiệp ước cùng một tiểu bộ lạc ngay trên quốc thổ của mình mà lại còn phải giấu giấu giếm giếm! Cho nên Dương Lăng mượn của phủ Đại Vương nguyên bộ nghi trượng, rồi lại bố trí thêm cờ quạt lọng tán mới tinh.

Đại Vương và Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản ruổi ngựa đi trước, tiễn vua ra khỏi thành. Trên đường cái năm bước một chòi gác, mười bước một trạm canh, những đường phố loan giá đi qua đều được phong bế chặt chẽ. Đứng ở bên ngoài lằn ranh do quan binh thiết lập cảnh giới, dân chúng ngạc nhiên trố mắt nhìn nghi trượng Hoàng đế mà có lẽ suốt đời chỉ có cơ hội này họ mới được nhìn thấy.

Ở góc đường, Thôi Oanh Nhi bình tĩnh đánh giá đại đội nhân mã đi qua không dứt. Chiếc ngự kiệu che lụa vàng tươi vừa tiến đến. Trước sau, trái phải, mỗi bên có ba mươi hai thị vệ đại nội mặc áo thêu hình cá chuồn, đeo đao tú xuân vây kín chung quanh chiếc đại kiệu tới mưa gió không lọt, chỉ còn có thể thấy được cờ quạt lọng tán trên đỉnh kiệu từ từ lướt qua.

Hoắc Ngũ thúc lặng lẽ chen đến gần ra hiệu cho nàng lui lại về phía sau mấy bước, nói nhỏ:
- Vừa mới thấy có cả chục cờ mặt trời, cờ mặt trăng, cờ phi hổ trong đoàn nghi trượng, chính là Dương Lăng và Đại Vương, Hồ Tuần phủ. Thị vệ trùng trùng điệp điệp, hoàn toàn không có cách nào ra tay.

Thôi Oanh Nhi ngẩn người, hỏi ngược lại:
- Ngũ thúc, không phải thúc vừa mới nói đi tiểu tiện một chút hay sao? Sao mà thúc lại đi theo nghi trượng được một lúc rồi?

Thầm hối hận mình lỡ lời, Hoắc Ngũ thúc vội vàng giải thích:
- Vừa mới đi ngoài trở về là đã nhìn thấy nghi trượng đi qua, ta không kịp tìm con bèn đi theo một đoạn. Nhìn tình hình thế này, một khi bọn họ ra khỏi thành bọn ta càng không có cách nào ra tay. Sau khi ký kết hiệp ước xong, Hoàng Đế sẽ trở về kinh, có thể bọn ta cũng lại không có cơ hội rồi.

Thôi Oanh Nhi hồ nghi nhìn lão, ngần ngừ:
- Đã là chuyện không thể làm, chúng ta...... Lúc đó dừng tay thì sao? Hoàng Đế cùng Đóa Nhan Tam Vệ ký kết hiệp ước, giao thương buôn bán cả hai đều lợi. Dân chúng biên ải hiện đang rất cao hứng, nếu như chúng ta quấy rối việc này thì không biết phải chịu đựng sự chửi rủa của biết bao nhiêu người.

Hoắc Ngũ thúc nhìn lướt chung quanh, đáp:
- Không vội! Hoàng Đế thân chinh đến Đại Đồng tất nhiên rất coi trọng lần ký kết đồng minh này. Việc này vừa xong, quan chức Đại Đồng nhất định bày rượu thiết yến chúc mừng Hoàng Đế thành công. Việc thù tạc của Dương Lăng cũng nhất định không ít, chúng ta vẫn còn cơ hội.

Thôi Oanh Nhi thầm than nhẹ trong lòng, lông mày vương chút sầu muộn. Hoắc Ngũ thúc tận tình như thế, nàng còn có thể nói được gì?

Bộ dạng mệt mỏi, nàng lười biếng:
- Ừm! Chúng ta về chỗ ẩn thân trước đi. Hôm nay trong thành phong tỏa càng nghiêm ngặt hơn, Hoàng Đế từ ngoài thành trở về cũng phải có cả ngàn quân binh bảo vệ. Dương Lăng lại ở bên cạnh của hắn. Hôm nay cho dù có bản lĩnh tày trời cũng không thể đến gần cận thần của Hoàng đế được!


Dưới sự bảo vệ của năm nghìn tinh binh, đoàn nghi trượng của Hoàng đế chậm rãi tiến lên núi Bạch Đăng. Thám mã đi lại không ngừng như đèn kéo quân. Cứ theo báo cáo hành trình Hoa Đáng nhập quan, Dương Lăng lại điều chỉnh tốc độ của đoàn quân.

Hoàng Đế không thể tới trước Hoa Đáng, nhất định phải để cho Hoa Đáng kính cẩn chờ đợi rồi Hoàng đế mới tới. Nhưng Đại Minh là chủ, Đóa Nhan Tam Vệ là khách nên không thể để cho bọn họ phản khách vi chủ (biến bị động thành chủ động) ở chân núi Bạch Đăng đợi quá lâu. Lúc này việc đắn đo, cân nhắc thời gian rất quan trọng.

Trên núi Bạch Đăng cắm đầy cờ quạt lộng lẫy, hai hàng quan binh xếp từ chân đến đỉnh núi. Các thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ và các bộ Nữ Chân vừa mới bày xong đội ngũ chỉnh tề ở chân núi thì đoàn quân Dương Lăng cũng vừa đến nơi.

Đại quân Đóa Nhan Tam Vệ không thống nhất trang phục lẫn cờ hiệu, ngay cả vũ khí cũng là đủ loại, nhưng mà cái khí phách hiên ngang ngút trời của cả bọn lại biểu lộ hết sự dũng cảm oai hùng. Từ xa, ngồi trong kiệu lớn nhìn thấy sắc diện bọn họ, Chính Đức không khỏi tán thưởng:
- Năm xưa Đóa Nhan Tam Vệ theo hoàng đế Vĩnh Lạc tấn công Kim Lăng, mỗi khi gặp nam quân đều lấy ba vệ binh ngựa làm tiên phong. Ba nghìn người ngựa đấu với ba vạn người ngựa nhưng chỉ cần xung kích một lần là đánh bại kẻ địch. Bây giờ chiến lực bọn họ còn thua xa năm xưa nhưng mà nhìn khí phách bây giờ đã như vậy, các ngươi có thể tưởng tượng được lúc trước các binh sĩ Đóa Nhan Tam Vệ oai phong như thế nào!

Trương Vĩnh cùng cười nói:
- Hoàng Thượng! Quân uy Đại Minh của ta cũng không kém đâu. Lúc trước thần đã lấy làm lạ khi Dương đại nhân chọn lựa lính khỏe từ mười hai đoàn doanh gồm hơn mười vạn đại quân, tại sao đại nhân lại bỏ qua không tuyển một ít binh lính võ nghệ tinh thông có tướng mạo xinh đẹp, lại chuyên chọn những người lực lưỡng võ nghệ cao cường mà tướng mạo nhất định phải rắn rỏi. Bây giờ thần mới hiểu được dụng ý trong đó.

Nghe xong, Chính Đức chỉ cười không đáp.

Quân Đại Minh quả nhiên cũng không kém Đóa Nhan Tam Vệ. Năm nghìn kỵ binh, người nào cũng cao lớn vạm vỡ, tuấn mã oai phong, giáp trụ lóng lánh chói mắt, thương kích uy nghiêm hướng lên trời như rừng, quả nhiên phong cách đội quân này cũng khá dọa người.

Tiếng ngựa hí cùng tiếng bội đao va chạm lách cách vang lên. Sấp sỉ chừng một nén hương, đại kiệu của Chính Đức mới coi như đã đến hẻm núi Bạch Đăng. Đại thủ lĩnh Hoa Đáng đã dẫn đầu những quý tộc thủ lĩnh Tam vệ và tù trưởng ba bộ Nữ Chân kính cẩn chờ đợi ở đầu hẻm núi.

Nghi trượng Hoàng đế tách ra hai bên, Dương Lăng ghìm cương ngựa, ngẩng đầu đưa mắt nhìn thẳng về phía trước. Dẫn đầu đoàn sứ giả chính một người đàn ông lực lưỡng, trên gương mặt chữ điền đỏ thẫm lộ rõ một khí thế uy mãnh khó cưỡng.

Ánh mắt Dương Lăng giống như tia chớp tập trung ở trên người của hắn, ”Tại sao lại là Nhạ Mộc Đồ? Hoa Đáng đâu?” Dương Lăng giật mình kinh hãi, bất giác nắm chặt thanh kiếm đeo bên hông. Y đang định lớn tiếng quát hỏi, Nhạ Mộc Đồ đã cởi thanh bội đao xuống ném cho một người hầu đứng phía sau, tay không tấc sắt ngang nhiên tiến đến giữa hai hàng đao thương uy nghiêm đáng sợ của thị vệ đại nội.

Hắn đi nhanh như bay, tiến thẳng đến trước đại kiệu mới dừng lại. Hắn chợt đảo người sụp xuống lạy, từ bên trong cổ họng bắn ra những âm thanh to như sấm:
- Chỉ huy Đóa Nhan Tam Vệ, Đồng tri Hoa Đáng, khấu kiến Đại Minh hoàng đế vạn tuế, vạn vạn tuế!




Chú thích:




Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180&page=218
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
29-10-2012, 11:18 AM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 208 - Điều Quân Khiển Tướng Như Chơi



Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Chính Đức che miệng ho khan một tiếng, rồi hơi nhíu mày, ra vẻ "bất đắc dĩ":
- Nếu đã như vậy... Dương khanh, vậy cứ theo ý tốt của Thuận Minh vương! Năm nghìn binh mã này, khanh sẽ chỉ huy luôn vậy!

Nói xong hắn bèn quay sang Hoa Đáng, cười nói:
- Năm xưa Đoá Nhan Tam Vệ phò vua dẹp loạn, lập được công trạng lẫy lừng. Hôm nay vua tôi chúng ta một lần nữa lại tay nắm tay, cũng có thể xem là một giai thoại đó. Ha! Ha! Ha!...








Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 208 - Điều Quân Khiển Tướng Như Chơi





Chương 208 - Điều Quân Khiển Tướng Như Chơi

Mùi máu tanh tràn ngập không khí. Tuy trời đang rét lạnh song mùi tanh vẫn nồng nặc không tan.

Bá Nhan đứng sừng sững trước lều lớn của Khả Hãn, trợn trừng cặp mắt đỏ lừ màu máu như một con thú dữ. Mấy trăm thớt chiến mã bị giết trải đầy trên cánh đồng tuyết, máu tươi xổ ra ồng ộc, nhuộm đỏ cả mặt đất.

Của cải cướp bọc được trong lần xuất binh này đã hao tổn không còn gì, vốn nên sớm kịp thời rút lui nhưng vì đợi Hoàng đế nhà Minh rời thành để đánh một đòn chí mạng mà mấy vạn đại quân Thát Đát vẫn trù trừ không đi. Nay quân nhu lương thực đã dùng hết sạch, sĩ tốt chỉ có thể dựa vào cây cỏ đào bới trên đồng tuyết cùng chuột, sói, thỏ hoang mà duy trì sự sống.

Mấy vạn đại quân xới tung núi đồi sơn dã lùng bắt hết những chú chuột đồng vừa to vừa béo, lấy dao lóc thịt, lấy nước rửa sạch, triển khai cuộc vận động "toàn dân diệt chuột gây hại" hết sức oanh liệt. Chuột đồng thảo nguyên đào hang sống thành đàn, sau mùa đông một con chuột cỡ lớn phải tích trữ đến mấy chục cân cỏ khô. Những nơi bị nạn chuột phá hoại, đất đai bị chúng cày bới khắp nơi để đào hang nên đất màu bị trôi xói nghiêm trọng. Có nơi thậm chí còn hình thành cái gọi là "đất hoang của chuột": không còn một cành cây, một ngọn cỏ. Xem tình hình hiện nay, nạn chuột gây hại sẽ vì thế mà bị quét sạch, sang xuân mảnh thảo nguyên ngoài thành Đại Đồng này nhất định sẽ xanh mởn cỏ cây...

Nay binh sĩ đều áo quần rách rưới, ăn không đủ no. Nếu như tù trưởng các bộ lạc không biết cách một dãy Trường Thành là Hoàng đế Đại Minh mà nghiêm khắc quản thúc bộ hạ của mình thì chỉ e sớm đã có người nổi loạn.

Tái Lý Mộc Trác Nhĩ, mày đen như núi xa, mắt trong như thu thủy, khẽ khàng đi đến trước mặt Bá Nhan, lo lắng gọi:
- Đại hãn...

Hơi thở nặng nề lập tức ổn định lại, Bá Nhan nhìn cô nàng mỉm cười, cặp mắt khôi phục lại vẻ bình tĩnh và sắc sảo thông minh khi trước. Hắn hiên ngang cả tiếng nói với các thủ lĩnh và bọn sĩ tốt trước mặt:
- Chúng ta ở ngoài thành Đại Đồng khổ chiến gần sáu mươi ngày, quân mệt ngựa mỏi, lương thảo thiếu hụt. Thế thì tại sao không trở về thảo nguyên của chúng ta?

Ánh mắt sắc bén quét khắp một lượt, rồi hắn chỉ tay về phía Đại Đồng, cười to nói tiếp:
- Bởi vì Hoàng đế của Đại Minh đang ở ngay sau ngọn núi này. Trường thành trên núi này là bức tường vững chắc che chở cho người Hán, mà Hoàng đế Đại Minh lại là một bức Trường Thành trong lòng người Hán. Hoàng đế mà chết, thiên hạ tất đại loạn.
Nay cơ hội đã đến! Nội ứng của chúng ta sẽ mở cổng Cự Lỗ khẩu, ta sẽ đích thân dẫn binh mã đại quân không ngừng nghỉ mà tập kích núi Bạch Đăng, còn tướng quân Hỏa Sư anh hùng thì tấn công Đại Đồng. Thành lũy Đại Đồng không gì phá nổi cũng có người của chúng ta, bọn họ sẽ mở cổng thành tây nghênh tiếp đại quân chúng ta tiến vào. Rượu mạnh ngon nhất, đàn bà da thịt mịn màng xinh đẹp nhất, tất cả đều sẽ ở đó đón chờ chúng ta hưởng thụ!
Hỡi các chiến sĩ thảo nguyên! Chiếm được toà thành lớn này rồi, nam đánh Thái Nguyên, bắc dẹp Tuyên Hoá, một nửa giang sơn sẽ nằm trong tầm tay chúng ta. Đại Đô sẽ lại trở về trong vòng tay của chúng ta; Trung Nguyên sẽ lại hoá thành bãi cỏ của chúng ta. Hãy tiến lên! Mỗi một thằng đàn ông người Hán đều sẽ trở thành nô lệ gác bên lều ngủ của các ngươi. Mỗi một con đàn bà người Hán sẽ cung kính hiến dâng cái đêm đầu tiên của mình cho các ngươi. Tất cả tài sản và đàn bà của người Hán đều sẽ mặc cho các người sử dụng!

Được Bá Nhan kích động, những tiếng hú gào như sói tru nối nhau hết đợt này đến đợt khác, dục vọng chinh phục và cướp đoạt lại một lần nữa nổi lên trong lòng mỗi một chiến sĩ Thát Đát. Hài lòng nhìn những chiến sĩ đã lấy lại sát khí đằng đằng, ý chí chiến đấu sôi sục, Bá Nhan vung tay quát lớn:
- Uống nước tuyết, ăn thịt ngựa, tất cả các chiến sĩ hãy ăn no một bữa! Lúc mặt trời lên đến đỉnh, chúng ta sẽ đánh vào quan ải!

Đám chiến sĩ khát máu đã phấn chấn hùng tâm, cả cánh đồng tuyết vì một trận chiến cuối cùng này mà đã sôi trào, từng miếng thịt ngựa to đùng vẫn còn hồng hồng đã liền bị bọn binh sĩ vớt ra khỏi nồi mà nhai nuốt như cọp đói. Tù trưởng các bộ lạc khua chiêng gióng trống chuẩn bị chiến tranh. Lều bạt và một ít xe ngựa thì giao cho đám lính già yếu bệnh tật trông coi, chỉ tập trung khinh kỵ và khoái mã chuẩn bị tập kích quan ải.

Ý chí chiến đấu tràn ngập doanh trại. Ngay cả những tên Thát Đát bị thương, bị bệnh, già yếu tàn tật cũng đều đến trước mặt thủ lĩnh của mình cố gắng tranh giành cơ hội xông lên quan ải, chém giết, cướp bóc, chiếm đoạt đàn bà. Không cần phải động viên gì thêm, mỗi một tên đều biết giang sơn người Hán giàu có và sung túc như thế nào, đàn bà con gái người Hán xinh đẹp ra làm sao. Sự tham lam đã khiến cho những binh sĩ yếu đuối nhất cũng hoá thành những con mãnh hổ.

Một người ăn mặc theo lối người Mông Cổ được dẫn nhanh vào lều Khả Hãn của Bá Nhan. Nghe gã nọ báo tin tức từ quan ải do Di Lặc giáo đưa tới xong thì Bá Nhan không khỏi biến sắc. Hắn trầm ngâm một lúc lâu rồi mới nhoẻn miệng cười, bảo với kẻ đưa tin:
- Tốt lắm, ta biết rồi. Ngươi hãy trở về sơn khẩu tiếp tục chờ tin tức kế tiếp.

Kẻ nọ đưa tay lên ngực làm lễ:
- Tuân lệnh! Bây giờ tôi sẽ trở về Cự Lỗ khẩu ngay.

Song gã ta vừa mới quay lưng, Bá Nhan liền rút nhanh thanh loan đao bóng loáng như tuyết đâm vào giữa sống lưng hắn. Kẻ nọ kinh ngạc quay đầu, sợ hãi nhìn chằm chằm vào Bá Nhan.

Bá Nhan mỉm cười ác độc. Đao rời thân, máu phun ra, kẻ nọ ngã sấp xuống mặt đất. Trác Nhĩ kinh hãi bụm miệng, đến khi kẻ nọ tắt thở, cô nàng mới hoảng sợ hỏi:
- Đại Hãn, sao ngài lại giết hắn?

Sắc mặt Bá Nhan xám xịt. Thấy trong lều không có người ngoài, hắn mới trầm giọng đáp:
- Mới vừa nhận được tin nội ứng tại thành tây Đại Đồng của Di Lặc giáo đã bị khâm sai nhà Minh chém chết rồi. Vốn định tiến thẳng đoạt lấy Đại Đồng, bắc ngăn quân Minh về ải tiếp viện, nam chặn đường lui của Chính Đức, sau đó...

Trác Nhĩ lo lắng hỏi:
- Vậy giờ phải làm sao?

Bá Nhan lắc đầu bảo:
- Không còn đường lui nữa rồi. Không thể để lộ tin này được. Tên thám tử này là người của Thổ Mặc Đặc thuộc bộ lạc Quách Lặc Tân, là người trong tộc của Hỏa Sư. Không thể để bộ lạc của Hỏa Sư biết ta đã nhận được tin tức này. - Đoạn hắn liếc cái xác nằm trên mặt đất rồi thờ ơ nói tiếp, - Để Hỏa Sư tiếp tục đi gặp cục xương cứng đó đi, chúng ta giết Hoàng đế trước, sau đó lại quay về cùng chiếm lấy Đại Đồng!

*****

Cự Lỗ khẩu chỉ là một thành lũy bằng đất. Do nó bị kẹp giữa hai quả núi, địa thế hiểm trở, trước mặt là một lòng chảo chật hẹp, Thát Đạt lại không có vũ khí công thành quá lợi hại nên không thể đánh chiếm thành nhanh chóng. Vì vậy, một khi phát hiện bị địch tiến công thì nơi đây bèn nổi lửa khói phong hỏa đài, các quan ải chung quanh liền có thể mau chóng thông qua Trường Thành mà điều quân đến tiếp viện, cho nên bình thường nơi đây chỉ có binh lực của hai bách hộ trú đóng, do một vị Phó thiên tổng cai quản, kiêm quản một Bách hộ sở (gồm 112 người - xem chú thích chương 43).

Sau khi đại quân của Bá Nhan Khả Hãn tiến vào trong ranh giới Sơn Tây, nơi này được điều động thêm một trăm tăng binh (quân đội hoà thượng - ND) từ Ngũ Đài Sơn. Thời đó nghĩa dũng và tăng binh thường được điều động tham gia chiến đấu mỗi khi có chiến sự, sau chiến tranh lại trở về địa phương cũ.

Vị Phó thiên tổng này tuổi hơn hai mươi, họ Lý tên Nghĩa, mới vừa nhậm chức được hơn một năm. Người này anh tuấn bất phàm nhưng võ nghệ rất cao siêu, tính tình lại điềm đạm. Hắn không hề truy cứu chuyện sĩ tốt thỉnh thoảng lén mua bán nồi sắt, lọ sành với dân du mục Thát Đát, cho nên rất được bọn tướng sĩ ủng hộ và yêu mến.

Hôm nay, bình minh vừa ló dạng hắn đã bồn chồn leo lên trạm quan sát liên tục ngóng nhìn về phía khe núi ngoài quan ải. Sĩ tốt gác trạm trông thấy Phó thiên tổng đại nhân mặt mày căng thẳng liền cười nói:
- Đại nhân, tuy Dương tổng chế đã hạ lệnh trong những ngày này toàn bộ quan ải, vệ sở, phong hỏa đài phải cảnh giới toàn diện, nhưng nghe nói rằng đại quân Bá Nhan thiếu thốn lương thảo, không phải đã chuẩn bị trở về đại mạc rồi sao? Đại nhân hà tất phải lo lắng như vậy! Hơn nữa từ lúc nổ ra chiến sự đến nay, quan ải này của chúng ta vẫn chỉ bị vài tốp giặc Thát tới quấy phá, lúc này càng sẽ không có đại quân đến tập kích đâu.

Lý Nghĩa cười lớn bảo:
- Nói đúng lắm! Có điều quân lệnh của Tổng chế đại nhân nghiêm minh, cái gì nên kiểm tra thì vẫn phải kiểm tra thôi.

Đoạn hắn đảo tròng mắt, nhìn ngó chung quanh, sau đó thân thiết vỗ vai sĩ tốt nọ, nhỏ giọng nói tiếp:
- Biết cuộc sống nhà ngươi hơi vất vả, bản quan sẽ không để ý đến việc ngươi mua bán vài cái nồi niêu chậu chảo đâu. Có điều mấy ngày nay bên trên tra xét ngặt nghèo, đừng để xảy ra chuyện gì đó nhé.

Tiểu binh nọ cảm kích thưa:
- Đa tạ đại nhân! Tiểu nhân biết chừng ạ! Sẽ không mang phiền phức đến cho ngài đâu. Hề hề, đợi mấy ngày nữa đại quân Bá Nhan rút đi rồi hẵng tiếp vậy.

Lý Nghĩa gật gù, cười nói:
- Đứng suốt buổi sáng, các ngươi cũng đã mệt rồi, lui xuống nghỉ ngơi cả đi. Ta sẽ điều đám tăng binh nọ lên thủ thành. Chúng ta lăn lộn mưa gió quanh năm suốt tháng, bọn chúng tên nào tên nấy được nuôi dưỡng kỹ trong chùa thành ra tai to mặt lớn, phương phi tốt tướng; đến lúc bọn chúng phải bỏ ra chút sức rồi.

Binh lính thủ thành cả mừng, mấy người bọn họ liền khúm núm lấy lòng:
- Đa tạ đại nhân quan tâm! Để tiểu nhân đi gọi bọn chúng lên đây.

Chỉ một chốc sau, bốn mươi gã tăng binh đã trèo lên lầu thành, mấy chục quan binh thủ thành cùng chen nhau đi xuống. Lý Nghĩa trông thấy vị tăng quan (chỉ huy tăng binh - ND) tuổi gần ngũ tuần bước đi có phần chậm chạp, ánh mắt không khỏi ngưng tụ. Đợi lão đến gần, hắn mới nhỏ giọng hỏi:
- Sao vậy, vết thương vẫn chưa lành à?

Tăng quan nọ múa cây thuyền trượng "lẻng xẻng" vài đường, rồi cười đáp:
- Nhị thiếu chủ, thủ hạ đã khỏi nhiều rồi. Lần này không dám động tay động chân nhiều cho nên thân thể được tịnh dưỡng đến mức béo núc. Khà! Phải nói cái con lừa trọc trên Ngũ Đài Sơn đó thật là lợi hại, cái xẻng nọ suýt nữa đã xén đùi thủ hạ làm đôi rồi. Khôi phục được đến như thế này đã là may mắn lắm rồi.

Đoạn hắn nhìn ra ngoài quan ải nói tiếp:
- Vừa nãy thiếu chủ sai người của Phương bách hộ đi chuyển cây lăn và dầu tung. Cớ này có phần khiên cưỡng, tại hạ trông thấy Phương bách hộ có vẻ ấm ức lắm, chốc nữa không chừng hắn sẽ bẩm báo với cấp trên là Tề tham tướng đây. Thiếu chủ nên cẩn thận một chút.

Lý Nghĩa cười nhạt, vỗ vỗ lên lỗ châu mai đáp:
- Cha đã bí mật đưa ta vào trong quân đội, vốn là muốn nắm vững binh quyền trước rồi mới từ từ mà tính kế. Nay Hoàng đế đến Đại Đồng là cơ hội nghìn năm khó gặp, chức quan này ta cũng không thể tiếp tục làm nữa rồi. Chốc nửa cửa ải mở ra, Lý tham tướng này cũng sẽ biến mất khỏi thế gian, mặc hắn có thích thì cứ đi mà hặc tội. Không giữ hắn lại đây chờ chết là đã tận tình tận nghĩa với hắn lắm rồi. Ha ha ha!!!

Vừa dứt tiếng cười, hắn lại hỏi:
- Dưới thành đã chuẩn bị xong hết chưa?

Gã tăng quan đầu tròn tai béo, mặt mũi hồng hào gật đầu đáp:
- Thiếu chủ yên tâm, chúng tôi là tăng nhân, không ngồi chung mâm cùng quan binh. Vừa nãy đã sai người bỏ thuốc vào trong đồ ăn của chúng rồi, chốc nữa sẽ có thể giết chúng như giết heo thôi...

Hắn vừa nói đến đây, dưới lầu thành đã vọng lại tiếng rú thảm thiết. Hai người không khỏi đưa mắt nhìn nhau cả cười.

Từ xa, tên rít xuyên mây, âm thanh chói tai từ trong hẻm núi rì rầm vọng lại; tên bay xé gió, vó ngựa như sấm. Một đội kỵ mã đông nghìn nghịt như kiến ùn ùn kéo tới, trông như một tấm thảm đen kịt được trải dài, trong chớp mắt đã bao phủ khắp mặt đất.

Chỉ trong khoảng một nén nhang, ngoài quan ải đã đầy đặc người la ngựa hí, phủ kín cả mặt đất...

*****

Đến dưới chân núi, Dương Lăng mới biết rằng vị sứ giả Nặc Mộc Đồ nọ chính là Hoa Đáng. Người Hán có thói quen hai quân giao chiến không chém sứ giả. Ngoại tộc biết rõ điểm này nên từ xưa thường có Khả Hãn đích thân cải trang làm sứ thần đến viếng đất Hán, tận mắt ngắm nhìn giang sơn người Hán. Sự tình trọng đại như vậy khó trách Hoa Đáng muốn tự thân xuất mã đàm phán cùng triều đình nhà Minh.

Lúc này, trong căn lều lớn trên đỉnh núi Bạch Đăng, khách và chủ đều đang vui vẻ. Chính Đức tự tay viết quốc thư, đóng thêm ngự ấn, chấp thuận việc hợp tác và buôn bán song phương, đồng thời phong Hoa Đáng làm Thuận Minh vương, nhảy một bước từ một viên quan chỉ huy quân sự của Đại Minh có chức Đồng tri thành Khả Hãn Thuận Minh. Cương vị phiên quốc và thuộc quốc đương nhiên khác biệt, Hoa Đáng cảm thấy lưng mình đã thẳng lên không ít.

Dương Lăng mỉm cười bước ra cửa lều, hô to:
- Người đâu, dâng bữa!

Hai nhóm tiểu thái giám đến từ phủ Đại vương nối đuôi nhau tiến vào, những mâm đĩa tinh mỹ óng ánh như ngọc chứa đầy những món ăn tinh xảo lần lượt được mang đặt trên bàn Chính Đức và thủ lĩnh các bộ lạc.

Mặc dù trên núi điều kiện sơ sài, nhưng màu sắc và hương vị các loại món ăn được các vị ngự trù và đầu bếp vương phủ do Dương Lăng đưa tới chuyên tâm chế biến đều rất tuyệt vời, thể hiện rõ khí phách quốc gia, khiến cho thủ lĩnh các bộ lạc nọ khen ngợi không thôi. Bọn họ tròn mắt cầm dao mà thấy lúng túng, dùng tay bốc lấy thì lại ngượng ngùng, chỉ biết thở dài tán thưởng mà thôi.

Cha được phong làm Khả Hãn, thân phận của Ngân Kỳ cô nương đã là công chúa, tuy nhiên lúc này cô nàng vẫn vận nam trang. Trong lều phần lớn đều là những nhân vật hét ra lửa hùng cứ một phương, không ai để ý đến một tiểu thị vệ đứng sau lưng Hoa Đáng như cô nàng.

Thấy Dương Lăng gọi người dâng món, Ngân Kỳ bèn liếc xéo y rồi cũng bước ra ngoài lều, vỗ tay ba cái. Bốn gã Mông Cổ cao to khiêng vào trong lều một chiếc bàn sơn son, trên đặt một con dê béo nướng sẵn quấn bằng lụa đỏ. Bọn chúng quay về phía Chính Đức quỳ một gối xuống đất, đặt nắm tay lên ngực làm lễ rồi mới lặng lẽ lui ra.

Con dê thiến hai tuổi béo ục, da vàng óng ánh, da giòn thịt thơm, được quay nguyên khối nên thịt rất thơm ngon, trong lều tức thì tỏa ra mùi thịt dê nướng thơm lừng. Hoa Đáng đứng dậy đi đến trước chiếc bàn sơn son, rút từ trong thắt lưng ra thanh loan đao nhỏ bằng bạc, thoăn thoắt xẻ phần xương vai, cắm trên đầu mũi dao.

Nữ Chân Tam Bộ thì đề cử thủ lĩnh Chúc Khổng Cách của Hải Tây Nữ Chân tiến lên. Trên chiếc bàn son bày sẵn một cái chén bằng bạc, một cái bình bằng bạc. Chúc Khổng Cách lấy đao cẩn thận rọc bụng dê, đổ nước canh dê thơm phức từ trong bụng ra nửa chén, rồi lại rót thứ nước trong vắt từ trong chiếc bình bạc ra nửa chén, khuấy đều. Sau đó hai người cùng bước đến trước mặt Chính Đức.

Tức thì thị vệ đứng sau lưng Chính Đức đứng bật dậy, tay dằn bội đao. Ngũ Hán Siêu đứng bên cạnh sải tới một bước, ngón tay kẹp chặt hai chiếc phi tiêu kim tiền. Dù biết hai vị thủ lĩnh này không thể hành thích Hoàng đế vào lúc này nhưng bọn họ vẫn không dám lơ là chút nào.

Cũng may Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách cũng biết rõ lễ nghi. Hai người bước tới trước mặt Chính Đức cách ba bước thì dừng lại, khuỵu một gối xuống đất. Hoa Đáng mở miệng hát:
- Thiên Khả Hãn tôn quý trên cao, xin hãy cho phép thần dâng trọn con dê béo mềm này. Sống lưng của nó to lớn như vòm trời rộng khoát, bốn chân của nó to béo như đất đai phì nhiêu, cái đầu của nó ngẩng cao như núi cao hùng vĩ, ống xương của nó chắc khoẻ như cây đàn hương trên núi. Thiên Khả Hãn được ban nhiều lộc phước, xin ngài hãy hưởng dụng nó...

Một đại hán to cao vạm vỡ như vậy lại quỳ ở đó hát một cách hết sức nghiêm túc khiến Chính Đức vừa thấy lạ vừa thấy buồn cười. Trương Vĩnh và Miêu Quỳ đứng ở hai bên bước lên định nhận lấy lễ vật do hai vị thủ lĩnh cung phụng. Dựa theo nghi thức thì phải do Chính Đức tự tay nhận lấy nên Hoa Đáng chỉ liếc xéo bọn họ mà không chịu buông tay. Không khí trong lều ngay lập tức hơi căng thẳng.

Chính Đức cười ha hả bảo:
- Các ngươi lui xuống đi! Mời Thuận Minh vương và thủ lĩnh Chúc Khổng Cách tiến lên!

Hai người Trương Vĩnh đành phải lui về. Hai người Hoa Đáng bước đến trước bàn của Chính Đức, khom lưng dâng đặt lễ vật lên bàn. Tuy Hoa Đáng cố tình chĩa mũi cây đao bạc nọ về phía mình, nhưng nếu thuận tay đâm tới, góc độ này có thể vừa vặn đâm ngay vào cổ họng Chính Đức. Thế nhưng Chính Đức mặt không đổi sắc thản nhiên cầm lấy cây đao bạc cắm miếng thịt dê béo nọ từ tay Hoa Đáng rồi đặt xuống bàn, gật đầu mỉm cười với hắn, rồi lại đón lấy chiếc bát bạc từ trong tay Chúc Khổng Cách, đặt sang một bên.

Trong mắt Hoa Đáng thoáng hiện lên vẻ khâm phục, hắn lại quỳ xuống trước bàn Chính Đức, cầm lấy bình ngọc trên bàn, rót đầy một chén, dâng hai tay lên cho Chính Đức. Chính Đức đón lấy rồi uống cạn một hơi. Thân là Thiên Khả Hãn, Chính Đức chịu uống cạn rượu mời của bọn họ không chừa một giọt là biểu hiện rất tôn trọng bọn họ. Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách và thậm chí là tất cả thủ lĩnh các bộ lạc thấy vậy đều lộ vẻ mừng rỡ.

Chính Đức cũng tự tay cầm lấy bình rượu, rót một chén cho Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách, sau đó lại rót cho mình một chén, đứng dậy cười nói:
- Nào, chúng ta hãy uống cạn chén này!

Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách hai tay nâng lấy chén, lui về sau mấy bước, đứng phía trước thủ lĩnh các bộ lạc, dẫn đầu các thủ lĩnh đồng thanh hưởng ứng:
- Tạ ơn Thiên Khả Hãn, mọi người cùng uống nào!

Tất cả mọi người trong lều lớn lần lượt nâng chén uống cạn.

Tiệc rượu mừng lễ kết minh chính thức được bắt đầu. Thủ lĩnh các bộ lạc thay phiên nhau kính rượu Thiên tử và sứ thần Đại Minh. Dương Lăng biết được khi những người Mông Cổ này kính rượu mà mình không uống hết thì rất phi lễ, cho nên trước đó y sớm đã kiếm mấy chén rượu bằng bạc nhìn thì khá bề thế nhưng đáy thì nông tẹt, vậy mà y vẫn bị ép uống đến ngà ngà say.

Dương Lăng đứng dậy mời lại thủ lĩnh các bộ lạc. Đang lúc không khí trong lều hết sức chan hòa, chợt mọi người nghe thấy có tiếng pháo hiệu. Tiếng cười nói trong lều tức thì ngưng bặt. Dương Lăng kinh ngạc, lập tức chạy ào ra ngoài, mấy viên thị vệ vội nhanh chóng che chắn trước mặt Chính Đức.

Dương Lăng vừa chạy vội ra ngoài, thủ lĩnh các bộ lạc cũng căng thẳng lục tục kéo nhau ra xem. Cả bọn thấy từ trên đỉnh ngọn núi đằng xa, khói lửa đang bốc lên dày đặc, binh sĩ dưới núi náo loạn. Phía Đại Đồng có một đội nhân mã đang phóng nhanh tới.

Dương Lăng kinh hãi:
- Đã xảy ra chuyện gì vậy?

Tiếc rằng thời này chưa có điện thoại điện báo, tuy thấy khói hiệu truyền tin nên y biết đã xảy ra biến cố quân sự trọng đại, song bên cạnh lại không ai biết rõ rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì.

Thủ lĩnh bộ lạc Ông Ngưu Đặc là Ô Lạp Nhĩ vừa giận dữ vừa khiếp sợ, trông thấy đằng xa có đại đội nhân mã đang chạy lại, trực giác mách gã rằng Dương Lăng muốn mượn việc kết minh mà bắt sạch bọn họ.

Không chút nghĩ ngợi, Ô Lạp Nhĩ rút nhanh loan đao, phóng người qua gác đao lên cổ Dương Lăng, giận dữ quát:
- Bọn Hán chúng mày gạt tao! Đại thủ lĩnh, hãy mau dẫn người xông xuống núi. Cướp ngựa rời khỏi quan ải!

Ngũ Hán Siêu được Dương Lăng năm lần bảy lượt dặn dò, bảo hắn nhất định phải bảo hộ Hoàng đế được chu toàn, cho nên vừa nãy khi Dương Lăng chạy ra khỏi lều chàng ta hơi do dự một chút, nay chỉ trong nháy mắt Dương Lăng đã bị Ô Lạp Nhĩ chế ngự. Thấy đã có bọn thị vệ bảo vệ Chính Đức, Ngũ Hán Siêu bèn phóng người lại, tay phải cầm kiếm, tay trái kẹp ám khí, định giết chết Ô Lạp Nhĩ cứu đại nhân ra.

Dương Lăng trông thấy thủ lĩnh các bộ lạc Đoá Nhan đều cầm chắc đao trên tay, đang căng thẳng đến cực độ, ngay cả thủ lĩnh của Nữ Chân Tam Bộ và thị vệ của bọn họ cũng đã cầm lấy binh khí, căng thẳng đề phòng động tĩnh từ phía thị vệ quân Minh. Y biết rõ nếu như Ngũ Hán Siêu giết chết Ô Lạp Nhĩ cứu mình về, cuộc chiến toàn diện giữa Đại Minh và Đoá Nhan Tam Vệ nhất định sẽ nổ ra khắp cả trên lẫn dưới núi, khi đó sẽ chẳng còn bất kỳ cơ hội nào để mà giải thích nữa. Thế là không chút nghĩ ngợi gì, y lập tức trừng mắt quát:
- Ngũ Hán Siêu, dừng tay!

Ngũ Hán Siêu thoáng sững lại, thân hình đang chực phóng vọt đột nhiên dừng lại tại chỗ. Lúc này Chính Đức cũng đã bước ra khỏi lều dưới sự bảo vệ của các thị vệ, hắn đẩy thị vệ che chắn trước mặt ra, bước mấy bước về phía trước quát lớn:
- To gan! Trẫm đường đường là thiên tử, là Thiên Khả Hãn của Đại Minh, há sẽ làm chuyện bẩn thỉu lấy kết minh làm mồi, dụ thủ lĩnh các bộ lạc ra để giết hay sao? Thả người của trẫm ra!

Tuy Chính Đức còn nhỏ tuổi, mặc long bào vào người vẫn trông như thằng bé mới lớn, nhưng lúc này lời quát lẫm liệt lại không cần giận dữ mà vẫn oai nghiêm, khiến tên Ô Lạp Nhi thân thể như gấu nọ cảm thấy khiếp sợ, không khỏi đưa mắt nhìn về phía Hoa Đáng dò hỏi.

Đương lúc Hoa Đáng còn do dự không biết có nên tin lời của Chính Đức hay không, Ngân Kỳ đã bước ra phía trước, nói lớn:
- Đừng có hoảng sợ, người Minh không có ác ý với chúng ta đâu.

Nói đoạn xoay người về phía thủ lĩnh các bộ lạc và thị vệ đang cầm đao cầm kiếm, cô nàng giơ cao hai tay, trấn an:
- Người Minh nổi lửa khói báo động tức là thông báo có ngoại địch xâm nhập. Giả như Hoàng đế Đại Minh muốn giết chúng ta, hắn sẽ ‘giương cờ gióng trống’, lặng lẽ điều binh, thừa lúc chúng ta xuống núi mà động thủ, chứ làm gì mà ‘ngưng trống dẹp cờ’, làm chuyện ai ai cũng có thể thấy, ai ai cũng có thể nghe như thế này?
(Cô nương Ngân Kỳ sử dụng nhầm thành ngữ, lẫn lộn “giương cờ giống trống” với “ngưng trống dẹp cờ” - Ba_Van)

Rồi nàng quay lại nói với Ô Lạp Nhĩ:
- Ô Lạp Nhĩ thúc thúc, hãy thả đại thần nhà Minh đó ra đi. Con tin hắn sẽ giải thích rõ cho chúng ta.

Ô Lạp Nhĩ hơi ngần ngừ. Trông thấy mọi người đều đã lặng lẽ buông bỏ đao thương, Hoàng đế Chính Đức cũng vung tay ra lệnh cho thị vệ quân Minh lui ra sau, hắn bèn buông đao xuống, đẩy Dương Lăng về phía trước.

Dương Lăng bước tới trước hai bước, đứng ngay cạnh cô nương Ngân Kỳ mới biết viên thị vệ này là con gái. Y kinh ngạc liếc người con gái thanh tú có đôi mày kiếm dài và đen như mực, mắt vừa to lại đẹp này, sau đó giũ giũ chiếc mãng bào dệt vàng, sửa ngay ngắn chiếc khăn chít đầu bằng lụa đen hơi bị lệch, rồi nhoẻn miệng cười nói:
- Cô nương thuộc thành ngữ thật giỏi!

Ngân Kỳ cô nương hừ một tiếng yêu kiều, hếch chiếc mũi thon lên, có phần đắc ý bảo:
- Vẫn mong đại nhân hãy mau chóng nắm rõ tình hình, cho chúng tôi một câu trả lời thoả đáng.

Dương Lăng khẽ gật đầu, thưa với Chính Đức:
- Hoàng thượng, ngài có nên vào trong lều...

Chính Đức lắc đầu bảo:
- Thủ lĩnh các bộ lạc đều ở ngoài này, trẫm cũng sẽ ở ngoài này. Dương khanh, khanh hãy mau chóng tra rõ tình hình!

Dương Lăng cung kính đáp:
- Dạ!

Rồi y dẫn theo vài thị vệ chạy nhanh về phía sơn khẩu. Đội quân từ phía Đại Đồng đã phi tới dưới chân núi, Dương Lăng chưa nghe thấy có tiếng địa lôi kích nổ, nên nghĩ ắt là quân đội Đại Minh, cho nên hơi yên tâm. Khi đến sơn khẩu, y thấy có khoảng trên vạn nhân mã xông tới dưới chân núi đã hội họp cùng mấy nghìn quân Minh trên núi. Trên ngọn cờ cao chót vót thêu rõ chữ "Hứa".

Dương Lăng rất đỗi kinh ngạc, thầm nghĩ: "Ra là Hứa Thái! Vốn đã thương lượng rằng nếu trên núi có biến thì sẽ nổi lửa hiệu truyền tin triệu hắn tới ngay. Nay trên Trường Thành lửa hiệu nhóm lên khắp nơi, rõ ràng là giặc Thát lại tấn công quan ải, hơn nữa thế công ắt rất khốc liệt. Đại quân của hắn sao không cố thủ Đại Đồng đợi lệnh mà chạy đến nơi đây để làm gì?"

*****

Sau khi đại quân của Chính Đức rời khỏi thành, bảy nghìn kỵ binh của Hứa Thái liền tạm dừng ở phụ cận thành đông, người không rời ngựa, ngựa không rời yên, sẵn sàng nhận lệnh bất cứ lúc nào, Đỗ Nhân Quốc thì toạ trấn phủ Tổng binh. Tuy kế hoạch đã được bàn tính kỹ càng, suy đi nghĩ lại trên núi Bạch Đăng khó lòng xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn, nhưng thiên tử ở nơi nào thì nơi ấy là trọng tâm của thiên hạ thế nên Đỗ Nhân Quốc không hề dám lơ là chút nào.

Mấy quan ải gần Cự Lỗ khẩu liên tiếp nổi lửa hiệu, tin tức truyền khắp chín ải, tất cả mọi quan ải lập tức bước vào tình trạng chuẩn bị chiến đấu cấp một (giống như DEFCON1 haha- TheJoker), vệ sở lân cận liền tăng binh. Đỗ Nhân Quốc nhận được bẩm báo liền lập tức chạy lên thành lũy phía tây, phái mấy lộ thám mã chạy về hướng Cự Lỗ khẩu tra xét tình hình.

Thám mã vừa rời thành đã phóng băng băng theo quan lộ. Mới vừa vượt qua một cái đồi nhỏ, chợt hai viên thám mã thấy mặt đất rung chuyển, đập vào tầm mắt là vô vàn quân mạnh tướng dữ người Thát Đát đầy khắp núi đồi, người và ngựa nhập lại thành một trông như sói như cọp, đang lao nhanh về phía thành Đại Đồng.

Thám mã hãi hùng khiếp vía. Hai năm trước Thát Đát cũng đã từng công phá quan ải, thành Đại Đồng thiếu điều thất thủ, thiết kỵ Thát Đạt đánh thẳng đến Cư Dung Quan thì mới bị chận mà phải lui về. Không ngờ hôm nay lại tái diễn chuyện xưa, lang sói thảo nguyên đã xâm nhập Trung Nguyên một lần nữa.

Hai tay thám tử lập tức quay đầu ngựa chạy về, người nép sát trên lưng ngựa mà vút roi vù vù, chiến mã tung vó như bay. Sau lưng bọn họ, tên bay phủ kín mít cả bầu trời, trông hệt như đàn châu chấu đang ùa tới. Cả người lẫn ngựa Hai viên thám tử bị bắn thành bốn con nhím. Vó ngựa ào ào như mưa gió, thiết kỵ của Thát Đát quét qua, đạp mặt đất thành một mảng mơ hồ, không còn thấy chút dấu vết gì của người lẫn ngựa.

Tốp thám mã thứ tư vừa chạy tới con đường giữa khe núi trên bình nguyên, mặc dù từ xa có thể thấy được tình thế không ổn nên kịp thời quay ngựa phi về nhưng mông ngựa và lưng người vẫn dính phải một đám tên. Có điều khoảng cách hơi xa, sức tên đã hết nên bọn họ không bị bắn chết.

Hai tay thám tử phi vào trong thành như một cơn lốc, hét lạc cả giọng:
- Thu cầu treo! Khóa cổng thành lại! Giặc Thát xông vào quan ải rồi!

Đỗ Nhân Quốc đứng trên đầu thành nghe vậy thì cả kinh. Ông ta cũng không rảnh để đi truy cứu xem chỗ quan ải nào đã bị đánh chiếm mà lập tức ra lệnh cho người phi ngựa cấp tốc truyền báo Hứa Thái đang ở thành đông chạy đi cứu viện núi Bạch Đăng gấp, đồng thời cho đóng chặt bốn cổng thành, toàn bộ quan quân trèo lên lỗ châu mai, cùng quân Nghĩa Dũng và Khoái Thủ hỗ trợ thủ thành.

Hồ Toản hay tin cũng tức tốc chạy từ nha môn tuần phủ tới cổng thành. Trông thấy giặc Thát đang phóng băng băng, thế như đập trời vỗ đất thì kinh hồn hãi vía, chỉ mong cho giặc Thát không biết Hoàng đế đang ký kết hiệp ước với Đóa Nhan Tam Vệ trên núi Bạch Đăng. Nếu đại quân địch công thành thì Hoàng đế sẽ có thể kịp nhận được tin tức mà mau chóng lui về một quan ải nào đó.

Nào ngờ đại quân giặc Thát chỉ hò hét mà lại không công thành, đại quân vòng qua tường thành rồi không chút chần chừ mà lao nhanh về phía đông. Đội ngũ giặc hung hãn như hồng thủy mang theo khí thế như muốn chôn vùi hết thảy.

Trông thấy thế, Hổ Toản lạnh ngắt trong lòng, đờ đẫn nhìn theo đoàn thiết kỵ Thát Đạt đang tràn qua như hồng thủy. Lão quay sang nhìn Đỗ Nhân Quốc thì thấy vị tướng quân đội được xưng là chiến thần Đỗ phong tử không sợ chết cũng đã xám nghoét mặt mày.

Lá cờ lớn vẽ hình con sói xanh tung bay phất phới trong gió, như thể đang giễu cợt bọn họ. Khi thấy đại quân sắp biến mất, Hồ Toản mới giật mình tỉnh lại, la to:
- Đỗ tổng binh, mau, mau cứu viện núi Bạch Đăng! Giặc Thát phá được quan ải mau như vậy, đại quân của Dương tổng chế vẫn còn đang tập trung ở Trường Thành, phần lớn lại đều là lính bộ, đợi hắn dẫn quân trở về thì đại sự đã xong rồi!

Đỗ Nhân Quốc cũng như vừa tỉnh cơn mê, giật mình đánh thót. Phần lớn kỵ binh đều đã bị Hứa Thái mang đi, trong thành chỉ còn lính bộ. Đối diện với đội quân Thát Đát thanh thế cuồn cuộn như thế, nếu dựa vào thành mà thủ thì có lẽ còn giữ được Đại Đồng. Đại quân mà rời khỏi thành, e rằng không chỉ toàn quân bị diệt sạch, mà nếu như giặc Thát lợi dụng đặc điểm mau lẹ và cơ động của kỵ binh mà cho khoái mã quay lại phản công thì ngay cả Đại Đồng cũng sẽ bị mất. Song chỉ cần có thể kéo dài thời gian thêm một chút, để Hoàng đế bình an lui về quan nội, thì tổn thất có lớn cỡ nào cũng đáng.

Đỗ Nhân Quốc chụp lấy đại đao của mình, đang định tập trung quân thủ thành trong thành xuất phát về phía núi Bạch Đăng, thì từ đằng xa một lá cờ thêu hình chim ưng đỏ rực đã lừng lững tiến tới. Đại quân của Hỏa Sư kéo đến rồi!

***

Nghe Hứa Thái hớt ha hớt hả kể xong, Dương Lăng không khỏi sởn gai ốc. Có nghĩ đến vỡ đầu y cũng không tài nào hiểu nổi làm thế nào mà suốt hai tháng trời giặc Thát đại chiến ngoài thành vẫn không phá được Trường Thành, giờ lại nhanh như vậy, khéo như vậy, mà nhằm đúng ngay lúc bọn chúng thế cùng lực tận như vậy mà vẫn có thể trong nháy mắt phá được một quan ải để xông vào.

Giặc ngoài dễ tránh, trộm nhà khó phòng. Dương Nhất Thanh đến Đại Đồng mới được hai tháng, vừa mới đến liền phải tập trung hoàn toàn tinh thần vào trận đại chiến với giặc Thát, vốn không có thời gian chỉnh đốn quân đội.

Mấy ngày trước, đột nhiên xảy ra chuyện Vương Long, Vương Hổ tư thông Thát Đát, mà thực tế là gian tế do Di Lặc giáo dùng vàng to bạc lớn thu xếp trà trộn vào quân Minh, toàn bộ quan viên có quan hệ mật thiết đến họ Vương đều bị thuyên chuyển khỏi chức vụ cũ. Thế nhưng đại quân Thát Đát đang giương cặp mắt hổ nhìn chằm chằm ngoài quan ải, lúc này không thể gây nên ảnh hưởng quá rộng mà thanh trừng khắp nơi, để tránh làm tổn hại tới căn cơ của biên quân. Cho nên không chỉ Dương Lăng không có manh mối gì, mà ngay cả Dương Nhất Thanh ngay vào lúc này cũng chưa nhận được tin tức Lý Nghĩa phản bội mở cửa thành Cự Lỗ Khẩu dẫn giặc Thát vào quan ải.

Đằng xa người ngựa tung bụi mịt mù, bóng giặc vừa hiện, Dương Lăng liền quyết đoán, lập tức hạ lệnh:
- Hứa Thái, Liễu Bưu, lập tức điều đại quân bảo vệ núi, cố thủ, chờ viện binh.

"Cố thủ", chỉ hai chữ, song lại hàm chứa trong đó biết bao sự chém giết đẫm máu. Ngửi thấy được mùi máu tanh trong đó, Hứa Thái và Liễu Bưu bèn nghiêm nghị nghe lệnh. Nghe xong Liễu Bưu liền hỏi:
- Đại nhân, vậy chúng ta làm gì với năm nghìn thiết kỵ của Đóa Nhan Tam Vệ?

Dương Lăng nhìn xuống dưới núi, nơi đại quân Đóa Nhan Tam Vệ tập kết. Trên và dưới núi có tổng cộng hơn một vạn hai nghìn quân Minh, cộng thêm đội quân Đóa Nhan Tam Vệ tràn trề sinh lực thành gần hai vạn nhân mã, như thế ít nhất có thể thủ ngọn núi này được một ngày. Giặc Thát tuy kiêu dũng, song không có quân số gấp mấy lần thì làm sao có thể đánh tràn lên núi được?

Dương Lăng thầm tính toán: "Toàn bộ binh lực của Bá Nhan Khả Hãn có khoảng hơn bảy vạn. Trải qua gần hai tháng chiến trận tiêu hao cũng bộn, kẻ còn năng lực chiến đấu chưa tới sáu vạn. Bá Nhan có không tiếc hết thảy mà dốc toàn bộ binh lực đánh lên núi không? Cho dù sáu vạn đại quân cùng tấn công lên núi Bạch Đăng, bọn ta cũng có thể thủ được một lúc. Chỉ cần giữ vững không đổ, Dương Nhất Thanh và Đỗ Nhân Quốc sẽ kịp kéo quân đến cứu viện.
Có điều... hiệp ước đồng minh mới vừa được ký kết, Đóa Nhan Tam Vệ vẫn chưa mò vớt được lợi ích gì, cái tên chuyên trờ cờ theo gió Hoa Đáng có sẽ chịu dốc toàn lực đối địch với Bá Nhan không? Có sẽ gặp tình thế không ổn liền lâm trận trở giáo không? Không được! Trước khi thắng bại chưa phân, quyết không thể dùng người của Đoá Nhan Tam Vệ!”

Nghĩ đến đây, Dương Lăng bèn bảo:
- Trước mắt, chỉ cần giữ được ngọn núi này là chúng ta sẽ thắng, không cần cùng Bá Nhan so đo thiệt hơn nhất thời. Hãy cho điều đại quân lên núi, chia đóng ở khắp nơi để ngăn địch, dưới núi chỉ để lại ba nghìn binh mã và mọi súng pháo để kiềm chế nhuệ khí quân giặc, coi thế giặc mạnh yếu mà rút lên núi khi có thể. Còn về phần Đoá Nhan Tam Vệ... bản quan sẽ bảo Hoa Đáng điều bọn họ lên núi. Liễu Bưu, người của ngươi đứng chắn ở giữa, không thể để bọn chúng đến gần lều lớn.

Nhận lệnh xong hai người xuống núi, Dương Lăng trèo lên một tảng đá to, nhìn về nơi xa. Đội kỵ binh đen kịt không ngừng hiện ra ở phía chân trời, ùn ùn kéo tới như thủy triều, khí thế lẫm liệt ngất trời. Dương Lăng chỉ cảm thấy trong miệng đắng nghét...

Đứng trong ngôi đình nhỏ vừa được xây trên đỉnh Bạch Đăng, Chính Đức và đám người Hoa Đáng phóng mắt nhìn ra xa cũng đã phát hiện đại quân bất tận đang dần kéo đến, nhất thời lại không rõ đã xảy ra chuyện gì. Mặc dù không hiện lên trên mặt song ai nấy đều đã nổi trống trong lòng.

Đúng vào lúc này, thấy Dương Lăng dẫn sáu tay thân binh khoan thai trở về từ sơn khẩu, Chính Đức lập tức tranh hỏi trước:
- Dương khanh, đã xảy ra chuyện gì vậy?

Bọn người Hoa Đáng cũng dỏng tai lên nghe câu trả lời của y. Dương Lăng điềm tĩnh mỉm cười đáp:
- Hoàng thượng trù tính thật không sai! Quả nhiên Bá Nhan trúng kế, đã dẫn đại quân đến tấn công núi Bạch Đăng!

Thoạt tiên Chính Đức thấy lạ, nhưng hắn cùng Dương Lăng vốn là đôi bạn học sinh xấu từng cùng nhau lừa gạt Thái phó ngày xưa, có thể nói là ăn ý vô cùng, nên chỉ hơi thoáng kinh ngạc liền vỗ tay cười bảo:
- Hay lắm! Đến thật hay!

Bọn Hoa Đáng nghe nói Bá Nhan dẫn đại quân đến tấn công thì sợ đến nhảy dựng. Khoảng một vạn người ở đây có thể là đối thủ của Bá Nhan sao? Nhưng nghe hai người một vua một tôi này trò chuyện, mặt đầy vẻ mừng rỡ như cố ý dụ hắn đến vậy. Hoa Đáng bèn nén lo lắng trong lòng, nghi hoặc hỏi:
- Thiên Khả Hãn, đằng xa kia... là quân đội của Bá Nhan ư? Bọn chúng... sao bọn chúng đã vào được quan ải rồi?

Chính Đức thoáng ngừng lại, cười khan mấy tiếng, rồi cố làm ra vẻ thần bí bảo:
- Dương khanh, khanh hãy nói cho Thuận Minh vương hay đi.

- Thần tuân chỉ! - Dương Lăng vái một vái rồi đứng thẳng người lại, mỉm cười nói với Hoa Đáng - Khả Hãn Thuận Minh, ngài nghìn dặm xa xôi đến gặp Hoàng thượng, Hoàng thượng liền muốn tặng một lễ vật lớn đến cho ngài. Tuy nhiên vốn chúng ta không biết Bá Nhan có mắc lừa hay không cho nên khi nãy đã không báo trước cho ngài hay.

Rồi y nâng vạt mãng bào bước lên bậc thềm, đứng trong đình đưa mắt nhìn về phía đoàn người ngựa đang cuồn cuộn kéo đến mỗi lúc một gần. Y chỉa tay trỏ vào chúng thản nhiên cười nói tiếp:
- Ngài xem! Bá Nhan xâm phạm biên cương Đại Minh ta, tuy bị hao binh tổn tướng khá nhiều nhưng vẫn chưa bị thương tổn đến gốc rễ. Hắn vẫn còn binh cường mã tráng, thêm sức hiệu triệu từ xuất thân hoàng tộc không ai sánh bằng, một khi hắn trở về được thảo nguyên thì cho dù có nội loạn đi chăng nữa, cũng vẫn sẽ không dễ đối phó. Tuy nhiên, nếu khiến cho mười phần nhân mã của hắn hao tổn hết sáu bảy phần, thì Khả Hãn Thuận Minh vừa được khâm phong sẽ có thể đứng vững. Vì vậy...

Dương Lăng xoay người lại, rất tự nhiên chìa tay mời mọi người vào lều, đoạn dẫn Chính Đức và các vị thủ lĩnh vừa nghe y nói vừa theo y rời khỏi đình bước vào trong lều.

Dương Lăng đi đầu, nhân cơ hội nghiêm mắt ra hiệu cho Ngũ Hán Siêu. Ngũ Hán Siêu hiểu ý, bắt đầu lặng lẽ bố trí đám đại nội thị vệ khống chế cả căn lều.

Đợi mọi người ngồi vào chỗ, Dương Lăng bước ra sau bàn thoải mái nói tiếp:
- Vì vậy, Hoàng thượng cố ý tung tin tức về việc ký kết hiệp ước đồng minh khắp phố thị Đại Đồng, để gian tế Thát Đát truyền ra ngoài quan ải. Quả nhiên Bá Nhan không cưỡng được cám dỗ nên dốc hết binh lực mưu đồ tấn công núi Bạch Đăng, hòng hốt trọn Hoàng thượng và các vị thủ lĩnh một mẻ.
Ha ha, Khả Hãn dâng biếu đức vua trọn con dê nướng tươi ngon, đây hẳn là lễ tiết cao quý nhất của các vị đúng không? Hôm nay đức vua vạn tuế của chúng tôi sẽ thưởng lại cả một con sói nướng, mong Khả hãn Thuận Minh và các vị thủ lĩnh vui lòng nhận cho!

Trong lều liền ồn ào một hồi. Dương Lăng ngồi xuống nghiêm chỉnh, bình tĩnh như không, phất tay áo cả cười:
- Bá Nhan được xưng là kẻ dũng mãnh của thảo nguyên, nay xem ra cũng chỉ là phường thất phu sính dũng, có gì mà đáng nói chứ? Chúng ta chỉ cần cười nói chuyện trò liền khiến hắn tan thành mây khói!

"Ầm... ầm ầm..." mấy quả địa lôi bị giẫm phải phát nổ rất đúng lúc. Tiếng nổ đinh tai, cùng tiếng người la ngựa hí như chứng minh lời nói của Dương Lăng.

Trong mắt Ngân Kỳ lóe lên vẻ kỳ dị. Đây là lần đầu tiên nàng có dịp nhìn thẳng vào anh chàng người Hán hào hoa phong nhã không thèm đặt cả đệ nhất anh hùng thảo nguyên vào mắt này.

Ánh mắt Hoa Đáng lập loè, giọng bán tín bán nghi:
- Nói như vậy, Thiên Khả Hãn đã sớm bày bố trọng binh, đặt bẫy nhằm dụ Bá Nhan vào tròng rồi?

Chính Đức nổi doá trong bụng: "Bá Nhan đã vào quan ải rồi sao? Dương Nhất Thanh đánh trận kiểu gì vậy? Trở về trẫm sẽ tìm hắn tính sổ tiếp! Có điều... may mà Dương thị độc giữ được bình tĩnh, giữ mặt mũi cho trẫm. Nếu mà y hoang mang lúng túng, bối rối chạy vào bẩm báo, chẳng những trẫm sẽ mất sạch mặt mũi oai phong, mà ngay cả lão cáo già Hoa Đáng này nữa; nếu lão không trở giáo ngay lập tức thì cũng sẽ sợ đến mất mật, không bao giờ còn dám thiết lập đồng minh với một láng giềng yếu đuối như trẫm nữa.”

Tiếng nổ do người ngựa đạp phải địa lôi không ngừng vọng lại, Hoàng đế Chính Đức cũng nhoẻn miệng tươi cười, ra vẻ đắc ý nói:
- Dĩ nhiên rồi!

Ánh mắt hắn chạm ánh mắt Dương Lăng, cả hai đều đọc và hiểu được ý tứ của nhau: "Trận đánh này đã đổ xuống đầu rồi, vậy thì bắt buộc phải đánh thôi, mà còn phải đánh cho thắng trận. Bằng không, chẳng những về sau đừng mong nói đến việc thiết lập đồng minh diệt trừ mối họa Bá Nhan, mà ngay trước mắt cái mạng của mình cũng sẽ khó giữ.”

Vẫn còn do dự lẫn nghi ngờ, Hoa Đáng bèn dò hỏi thử:
- Vậy... Binh mã tiểu vương mang theo tuy không nhiều, nhưng vẫn có thể tham gia chiến đấu. Hoàng thượng có cần tiểu vương dốc chút sức để chống đỡ không?

Dương Lăng đã thu hết vẻ mặt của hắn vào trong mắt, thừa cơ hội này y đứng dậy bảo:
- Chúng ta đã là đồng minh, cùng dùng binh chung sẽ là chuyện sớm hay muộn thôi. Hôm nay kề vai tác chiến đúng là có thể bày tỏ thành tâm liên kết đồng minh của đôi bên. Tuy nhiên đại quân của Khả Hãn còn phải bảo hộ ngài trở về Đoá Nhan Tam Vệ nên không thể để hao tổn quá nhiều, xin Khả Hãn hãy sai người thông tri thuộc hạ tạm thời lên núi. Đợi đến khi quân Đại Minh của ta đã bao vây, chuẩn bị tiêu diệt kẻ địch mới hãy cho thấy oai phong của Đoá Nhan Tam Vệ!

Nói đoạn y bước tới trước bàn rồng của Chính Đức, giở thảm lên, kéo một cái móc sắt mở tấm cửa sắt lớn ra, lộ một cái hang bí mật. Trong hang đuốc tỏ sáng trưng, hiển nhiên là được thông gió từ một mặt khác.

Dương Lăng quay lại bảo:
- Trên chiến trường, tên lạc bay khắp bốn phía. Nhằm phòng ngừa bất trắc, xin mời Hoàng thượng và thủ lĩnh các bộ lạc vào trong lánh tạm.

Y nghĩ rằng khống chế được thủ lĩnh các bộ lạc vào trong tay thì mới có thể đảm bảo bất luận xảy ra nguy cấp như thế nào đi nữa, Đoá Nhan Tam Vệ cũng vẫn không dám trở mặt. Nếu thật sự đã đến lúc lửa xém chân mày thì y cũng sẽ không cần để ý đến thể diện cái con mẹ gì nữa hết, có phải kề đao lên cổ Hoa Đáng đi nữa cũng sẽ bắt Đoá Nhan Tam Vệ mang binh tham chiến.

Khi thấy Dương Lăng nói không cần binh sĩ của mình tham chiến thì Hoa Đáng đã tin được tám phần, lại thấy nơi này còn xây sẵn hang động đề phòng bất trắc thì tin hết mười phần. Lúc này không theo Thiên Khả Hãn đánh chó đang rớt xuống nước(*)... không, nướng cả con sói, thì còn lúc nào tốt hơn để mà biểu lộ lòng thành đây? Xem ra lần này sẽ không đứng nhầm phe rồi. Thật là may quá! Thật là may quá!
(*: ý là hùa vào đánh hôi kẻ đang yếu thế)

Hoa Đáng lập tức đứng dậy, khẳng khái lựa lời chối từ:
- Thiên Khả Hãn! Tiểu vương may được Thiên Khả Hãn ban tước vẫn chưa lập được tấc công lao nào. Đôi bên đã kết làm đồng minh thì phải nên cùng chung kẻ thù, cùng nhau sống chết!
Tuy rằng Thiên Khả Hãn dụng binh như thần, sớm đã chuẩn bị sẵn, không để mắt tới năm nghìn binh mã của Tiểu vương, nhưng Tiểu vương há có thể không tận chức trách của bầy tôi? Xin Thiên Khả Hãn ân chuẩn cho đại tướng Mã Cáp Lư dưới trướng Tiểu vương dẫn quân hiệp lực tác chiến. Tiểu vương và thủ lĩnh các bộ lạc sẽ ở đây bầu bạn cùng Thiên Khả Hãn, chậm rãi chờ đợi thần binh thiên triều diệt sạch kỵ binh cọp sói của Bá Nhan!

Chính Đức che miệng ho khan một tiếng, rồi hơi nhíu mày, ra vẻ "bất đắc dĩ":
- Nếu đã như vậy... Dương khanh, vậy cứ theo ý tốt của Thuận Minh vương! Năm nghìn binh mã này, khanh sẽ chỉ huy luôn vậy!

Nói xong hắn bèn quay sang Hoa Đáng, cười nói:
- Năm xưa Đoá Nhan Tam Vệ phò vua dẹp loạn, lập được công trạng lẫy lừng. Hôm nay vua tôi chúng ta một lần nữa lại tay nắm tay, cũng có thể xem là một giai thoại đó. Ha! Ha! Ha!...

Nhận được sự động viên to lớn, Hoa Đáng bèn đứng dậy quát:
- Mã Cáp Lư!

Từ trong đám tướng lĩnh thị vệ đứng trước lều, một tay tráng niên mắt cọp râu rồng dạ một tiếng rồi bước ra, quỳ một gối thưa:
- Xin đại thủ lĩnh dặn bảo!

Hoa Đáng lớn giọng ra lệnh:
- Lập tức điều động binh mã! Mọi hành động tiến lui, tác chiến giết giặc đều nghe theo lệnh dụ của Dương Lăng Dương đại nhân!




Chú thích:




Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180&page=218
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
12-11-2012, 06:26 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 209 - Vũ Khí Hóa Học



Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Ngân Kỳ nhìn y thật lâu không chớp mắt, cổ tay thoắt lật, thanh loan đao lại tra soạt vào trong vỏ. Nàng cười mỉm:
- Người Hán các người thật sự rất giảo quyệt, lời đại nhân vừa nói nghe thật xuôi tai. Thực ra nói đi nói lại chẳng qua là đại nhân cho tôi biết rằng nếu các người chết sạch thì chúng tôi cũng sẽ không sống nổi mà thôi.
Hừ! Tôi nói cho ngài biết! Bá Nhan đã từng xin phép cha tôi được cầu hôn, chỉ cần tôi đồng ý gả cho Bá Nhan, Đóa Nhan Tam Vệ cũng quy thuận Thát Đát thì chúng tôi còn có đường sống. Cho nên chúng tôi sẽ cố sức giúp đỡ ngài, nhưng nếu như người của các ngài không kịp thời kéo đến tiếp viện, nếu như toàn bộ thủ lĩnh các bộ lạc đều bị giết, tộc nhân chúng tôi sẽ bị thôn tính, sẽ bị giáng làm nô lệ.
Cho nên, khi mà núi này bị đánh đổ, nếu phải chọn giữa sự diệt vong của toàn tộc và quy thuận cầu sinh chúng tôi nhất định sẽ lựa chọn cái sau; còn tôi, tôi cũng sẽ tình nguyện vì tộc nhân mà dâng hiến thân mình!








Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 209 - Vũ Khí Hóa Học





Chương 209 - Vũ Khí Hóa Học

------------------------

Dương Lăng ung dung dẫn Mã Cáp Lư rời khỏi lều lớn, nhưng vừa khuất tầm mắt của những người trong lều y đã vội tăng tốc, bước nhanh đến sườn núi. Chủ lực quân Minh đã rải ra đến nửa ngọn núi, phòng ngự bốn phía, chỉ còn lại một ít quân binh dưới chân núi chấp hành kế sách bắn hết hỏa pháo là lui, nhằm kiềm chế nhuệ khí giặc, cố thủ chờ cứu viện của Dương Lăng.

Chiến mã hí vang, ánh lửa nổi lên bốn bề, một mớ bùn đất mang theo tuyết trắng bắn tung lên trời, trong làn khói mịt mù không ngừng có chiến mã đạp phải mìn ngã gục kéo theo cả người cưỡi. Thế nhưng dòng nước lũ xung phong vẫn không mảy may ngưng nghỉ. Cho dù có chiến mã chệch hướng vì sợ hãi thì kỵ sĩ trên ngựa cũng lập tức cố sức điều chỉnh cho nó xông về phương hướng chính xác.

Theo quán tính được tạo nên bởi hàng trăm hàng nghìn chiến mã cùng lao đi như tên bắn, tất cả mọi thứ trước mặt chúng đều trở thành mục tiêu bị san phẳng. Lúc này cho dù là kỵ sĩ cưỡi ngựa cao siêu đến cỡ nào cũng không thể ghìm cương chiến mã của chính mình. Bất kỳ chiến mã nào dừng lại sẽ lập tức trở thành một chướng ngại không đáng kể, chỉ trong khoảnh khắc sẽ bị giẫm thành bùn nhão, không chút lưu tình.

Cờ sói tung bay, vô số chiến mã giẫm tuyết đạp bùn, cuồn cuộn ào tới. Giáo kích dày đặc như rừng, đao thép sáng bóng như tuyết để lộ mũi đao sắc lạnh đến thấu xương, tiếng vó ngựa như sấm, đinh tai nhức óc. Hứa Thái mặt xám nghoét, trán vồng gân xanh, hai tay nắm chặt thanh đao nhìn chằm chằm vào đội kỵ binh Mông Cổ đang không ngừng tiến sát tới gần. Những kỵ binh xông tới gần nhất đã rút cung lắp tên, Hứa Thái vẫn chưa hạ lệnh khai hỏa.

"Vù", như một đám ong vàng bay vút lên trên cao, lang nha tiễn mang theo tiếng rít khát máu lao tới. Tất cả binh sĩ đều cấp tốc tránh ra đằng sau những tấm cự thuẫn to cao bằng đầu người, đồng thời giơ tấm chắn tròn lên bảo vệ đỉnh đầu.

"Cộp... cộp cộp cộp...", trên mặt thuẫn phủ đầy một lớp tên, có một ít tên xuyên qua khe hở cự thuẫn bắn trúng người binh sĩ, có kẻ rú lên ngã xuống. Chỉ sau khoảnh khắc, lại có tiếng "cộp cộp cộp…" vang lên. Loạt tên thứ hai đã tới.

Cưỡi ngựa bắn tên là bản lĩnh sở trường của kỵ binh Mông Cổ, có khá nhiều chiến sĩ có thể bắn được hơn mười mũi tên trong vòng một hơi thở. Nếu như một đại đội kỵ binh Mông Cổ đang hùng hổ xông tới, bọn họ có thể bắn khoái tiễn dày đặc vừa xa vừa chính xác ngay trong giây phút tiếp cận địch đầu tiên, lợi hại vô cùng. Nếu phe địch cũng dùng cung tên đối đầu thì lập tức sẽ phải rơi ngựa quá nửa.

Hứa Thái kiêu dũng thiện chiến, đã từng xâm nhập vào đại mạc nên đã quen thuộc chiến thuật này của địch. Hơn nữa, tuy Độc Hỏa pháo rất thích hợp để đối phó với kiểu xung phong nghìn nghịt người ngựa như thế này nhưng tầm bắn không xa. Nếu như khai hỏa khi đại đội kỵ binh của giặc chưa xông vào tầm sát thương, tuy có thể khiến một số chiến mã địch trong vùng đạn pháo phải hoảng sợ, nhưng trong khi quân ta nạp lại đạn, kỵ binh Mông Cổ mau lẹ như gió đã có thể xông tới trước mặt rồi. Chỉ cần nắm bắt thời cơ không chuẩn thì thứ được gọi là "vũ khí sắc bén" đó sẽ biến thành que cời lò, không còn đất dụng võ.

Loạt tên thứ ba như mưa trút xuống cự thuẫn, lại có một ít sĩ tốt không kịp đề phòng bị trúng tên ngã xuống. Lúc này Hứa Thái mới gằng giọng rống to:
- Bắn!

Kỵ binh Mông Cổ đã xông qua khỏi vùng gài mìn dần dần xông đến, chỉ cách khoảng ba mươi trượng. Từng họng pháo đen ngòm phun ra những ngọn lửa tử thần. Trong một loạt tiếng gầm đinh tai nhức óc đầy giận dữ, hàng nghìn hàng vạn viên đạn chì, đá, đinh sắt đã bắn trả lại với tốc độ còn nhanh hơn cả tên sắc, quét ngang qua luồng đại quân Thát Đát đang ồ ạt xông đến gần.

Dưới nhát quét ngang của cơn mưa sắt thép, những chiến sĩ Mông Cổ kiêu dũng và chiến mã mạnh mẽ như rồng đã không thể dùng thân thể xương thịt của mình để ngăn đỡ. Lập tức những kẻ đương đầu đều bị thổi tung! Người ngã ngựa đổ, thuẫn gỗ nát tan, thuẫn sắt cũng biến thành cái sàng, tuột tay bay lên không trung. Dưới uy lực khủng bố như đất rung núi lở của hỏa pháo dày đặc, những binh sĩ Mông Cổ chỉ mặc áo da, giáp da biến thành một đống lá quay cuồng trong bão táp, tức thì bị cuốn phăng xuống đất bụi.

Đòn phản kích này thực ác liệt, hỏa pháo bắn thẳng vào giữa đội hình xung phong dày đặc đã tạo nên tổn thất khủng khiếp: có gần một nghìn dũng sĩ ngã ngựa, hơn năm trăm thớt ngựa bị mù, toàn thân đẫm máu đang la hí giãy giụa. Khí thế không thể ngăn trở của kỵ binh Mông Cổ vì thế mà khựng lại.

Nhân thời cơ này Hứa Thái ra lệnh lắp tiếp đạn dược vào hỏa pháo. Đồng thời hắn vẫn còn hai mươi khẩu vẫn chưa khai hỏa đang sẵn sàng đón địch, điều này nhằm tránh cho khoảng thời gian giữa hai loạt bắn quá lâu.

Bá Nhan cũng hạ lệnh quyết tử. Hắn quát tháo ra lệnh cho đại tướng thân tín của mình là Bác Đạt Nhĩ Mô lập tức tổ chức xung phong, nội trong khoảng thời gian ngắn nhất phải công phá được phòng ngự dưới chân núi.

Trận đánh hôm nay không dùng đến bất cứ mưu lược gì, mục tiêu duy nhất của hai phe công và thủ đều là ngọn núi này. Quân Thát Đát chỉ cần đánh chiếm được ngọn núi này thì sẽ thành công toàn diện, bằng không mọi thứ sẽ kết thúc. Bản thân là đại tướng tâm phúc của Bá Nhan, Bác Đạt Nhĩ Mô biết rõ tầm quan trọng của thời gian. Hắn lập tức cùng phó tướng là Hất Lâm Đạt Đạt mỗi người dẫn hai nghìn kỵ binh, bày trận hình cánh nhạn từ hai bên đánh thốc vào chân núi. Được đại tướng dẫn đầu làm gương xung phong lên trước, đám binh sĩ vừa la hét vừa liều chết xông lên, hai mắt đỏ ngầu.

Hứa Thái cười nhạt, chờ cho bọn chúng đến gần, độc hỏa pháo vốn không cần nhắm chuẩn chỉ hơi quay nòng, một loạt đinh sắt, đạn chì tròn dày đặc lại được bắn ra. Kỵ binh Mông Cổ không chỗ náu thân, thuẫn sắt và áo giáp đều không hề có tác dụng gì, người ngựa lại ngã rạp một mảng lớn.

Trong đợt xung phong này, phó tướng Hất Lâm Đạt Đạt bỏ mạng tại chỗ, Bát Đạt Nhĩ Mô mù một mắt, miệng sứt một miếng to lộ rõ hàm răng trắng hếu, song hắn vẫn dẫn đám binh sĩ còn lại liều mạng xông lên.

Trận địa quân Minh cũng có hơn trăm binh sĩ bỏ mạng dưới mũi tên của kỵ binh Mông Cổ, không kịp nạp thêm đạn dược. Trong khói thuốc mịt mù, số binh sĩ Mông Cổ chưa chết lại được hai mươi khẩu đại pháo gầm thét khạc lửa đón tiếp, chỉ kịp bắn được hai loạt tên liền bị quét rơi rụng.

Nhân cơ hội này, Hất Khắc Nông liền tập kết ba nghìn tinh kỵ lại chia làm ba cánh trái giữa phải, tức tốc xông lên. Bá Nhan rỉ máu trong lòng, đây đều là bộ hạ chính quy của hắn. Nhưng lúc này không phải là lúc bo bo giữ riêng quân cho mình, bất kể phải trả cái giá lớn như thế nào, hắn nhất định phải đánh chiếm cho được núi Bạch Đăng.

Chuyến này hắn điều động tinh binh các bộ lạc với quy mô lớn để cướp bóc biên quan, đương nhiên trước tiên là để báo thù cho con của hắn, nhưng nguyên nhân quan trọng hơn đó là: Hoàng đế nhà Minh vừa mới băng hà, thiên tử mới lên ngôi là một thằng nhóc chỉ mười sáu tuổi; chúa còn nhỏ tuổi thì lòng nước chưa an, đây vốn là cơ hội tốt nhất để xâm chiếm đất đai trung thổ. Nhưng hắn không hề ngờ tên tiểu hoàng đế này không hề yếu kém chút nào, thậm chí còn hiếu chiến hơn cả vua Hoằng Trị cha nó.

Chẳng những tiểu hoàng đế mau chóng điều động trọng binh đến biên quan phòng ngự mà tướng lĩnh được phái đi còn hữu dũng hữu mưu, đại quân Thát Đát bị kiềm chân khó thoát, đã hao sạch quân nhu. Càng khiến hắn bất ngờ chính là quân Minh xưa nay chỉ thủ không công, từ sau trận chiến Thổ Mộc Bảo đã coi đại mạc là chốn vô cùng nguy hiểm, mà nay lại dám mạo hiểm phái một nhánh kỳ binh quét ngang qua đại mạc đang trống trải.

Bởi vì ba trăm thân vệ đảm trách việc giam lỏng Mãn Đô Hãi đều bị diệt sạch, cho nên hiện tại hắn vẫn chưa biết hoàng hậu Mãn Đô Hải uy danh khắp đại mạc đã rơi vào trong tay Đại Minh. Nhưng trước lúc xuất binh hắn đã âm thầm cài thám mã giám thị hành vi các bộ lạc. Tin tức các bộ lạc bị tập kích, dê bò bị giết sạch, cỏ khô tích trữ bị đốt trụi đã lặng lẽ được đưa tới. Tin tức này chẳng khác nào là muối xát vào vết thương vừa mới chiến bại của Bá Nhan.

Hiện tại hắn vừa mới dùng vũ lực đàn áp, thống nhất đại mạc. Một khi hắn phải chịu áp lực nặng nề như thế này, ắt các bộ lạc có dã tâm sẽ rục rịch ngóc đầu dậy, cục diện đại mạc mới vừa thống nhất ắt sẽ lại sụp đổ tan tành. Con đường thoát duy nhất chính là giết chết Hoàng đế nhà Minh. Thắng lợi trọng đại về mặt quân sự này có thể thay đổi toàn bộ những vấn đề đang tồn tại trên thảo nguyên, khiến uy vọng cá nhân hắn đạt tới một đỉnh cao chưa từng có. Tất cả mọi chất vấn và chỉ trích sẽ do chiến công lẫy lừng này mà tan thành mây khói.

Gặp thời cơ Di Lặc giáo chủ động hợp tác, trao cơ hội cho hắn nên vốn bị dồn đến bước đường cùng, Bá Nhan lập tức giấu nhẹm tin tức bên trong đại mạc bị càn quét, dồn sức dốc sạch vốn liếng đánh núi Bạch Đăng. Công phá quan ải chớp nhoáng, kỳ binh xuất hiện đột ngột, ai sẽ có thể ngờ được bọn họ sẽ từ trên trời rơi xuống? Năm xưa, cũng chỉ với năm vạn nhân mã mà Thát Đát đã đánh bại năm mươi vạn quân Minh, bắt sống Hoàng đế nhà Minh. Hắn là con cháu của Thành Cát Tư Hãn dũng mãnh, chẳng lẽ nắm gần năm vạn nhân mã còn không giết được Chính Đức chỉ có hơn vạn nhân mã hộ vệ sao?

Chỉ cần giết được Chính Đức, triều đình nhà Minh sẽ như rắn mất đầu. Hiện tại các đại thần thân tín nắm quyền của Chính Đức và những bá quan thất thế muốn chất vấn phản công đang đấu đá nhau túi bụi. Đến khi Chính Dức bị giết, các vương gia tranh giành thừa kế ngai vàng sẽ khiến triều đình nhà Minh đã loạn càng thêm loạn. Lúc đó, cho dù chiếm không được Đại Đồng, không thể thừa cơ kiếm chác chén canh thì hắn cũng vẫn có thể ung dung trở về đại mạc nghỉ ngơi dưỡng sức.

Còn về phần gần mười vạn đại quân của Dương Nhất Thanh, hắn không thèm để mắt tới. Quân của Dương Nhất Thanh chia ra trú đóng tại các quan ải, vệ sở và thành lũy rải rác khắp Trường Thành, tổng binh lực tuy hơn hắn, nhưng binh lực có thể cấp tốc tập trung ở lân cận Đại Đồng không thể hơn. Hơn nữa hoàng đế Đại Minh đang ở đây, quân Minh không có thời gian để thong thả bố trí, binh mã các lộ ắt sẽ không tiếc tất thảy mà kéo tới xả thân cứu giá. Khắp quan ải Trường Thành sẽ đầy chỗ hở.

Cho nên chỉ cần hắn có thể tranh thủ giết được Chính Đức trước khi Dương Nhất Thanh tập trung được binh mã, thì hắn sẽ có thể lợi dụng ưu thế cơ động của kỵ binh mà ung dung nhảy ra khỏi vòng vây của quân Minh mà cao chạy xa bay. Hiện tại hắn phải cần tranh thủ thời gian, bởi vì hắn chỉ có cơ hội đánh một trận này. Cho dù lúc này chính là lúc dùng tấm thân máu thịt để giành đường sống, hắn cũng không nuối tiếc.

Đại quân của Hất Khắc Nông xông tới, đại pháo vừa được vội vàng lắp đạn lại khai hỏa, mặt đất rung chuyển, để lại một đống xác chết. Dưới nghiêm lệnh của Bá Nhan, quân Thát vẫn như thủy triều tràn tới, hết đợt sóng này đến đợt sóng khác. Hứa Thái lập tức quát ra lệnh cho nhân mã rút lui lên núi. Đám binh sĩ bắt đầu di chuyển lên núi dưới sự yểm trợ của lính cầm thuẫn và hỏa súng. Pháo thủ kéo ngòi nổ thật dài vào trong đống đạn dược, rồi rút lui khỏi trận địa sau cùng.

Giặc Thát kéo đến xông lên núi như sói như cọp. Đội quân tiên phong mới vừa ruổi ngựa lấy đà phi như bay xông lên đến lưng chừng núi thì thuốc súng chôn dưới núi đã nổ tung. Chân gãy tay cụt, máu bắn như mưa, một cái đầu ngựa to đùng bắn tung lên giữa lưng chừng núi rồi rơi bộp xuống đất, cặp mắt ngựa trợn trừng khiến người ta trông thấy phải rét run.

Thiên phu trưởng Ô Châu Mục Sấm ghìm ngựa quay đầu nhìn, đội hình xung phong bị nổ tung thành một cái hố máu rộng đến chục trượng, bên cạnh mình còn khoảng hơn ba trăm người. Chỉ cần xông lên được tới đỉnh, cho dù chỉ chiếm cứ trong khoảng thời gian một chén trà, bộ đội theo sau sẽ có thể không ngừng ùn ùn xông lên núi. Hắn bèn rống to một tiếng, quát bằng tiếng Mông Cổ:
- Tiến lên! Hãy giết sạch người Hán như giết dê mổ bò!

Liên tiếp những tiếng reo hò trợ oai vừa mới cất lên, kỵ binh xông lên đầu đã nghiêng trái đổ phải, ngã rạp xuống ngựa. Trên sườn núi được đặt nhiều hố bẫy ngựa, chôn chông sắt, con đường chính giữa vốn được lót ván gỗ đã bị rút đi, mặc dù khi xông lên sườn núi tốc độ đã giảm bớt, nhưng chân ngựa bất chợt sa vào hố vẫn bị gãy ngang. Chiến mã bị chông sắt đâm bị thương cũng giãy giụa khó mà khống chế.

Ngay vào lúc này, một đội quân Minh giáp trụ sáng choang chợt xuất hiện trên đỉnh núi, Ô Châu Mục Sấm trông thấy sau lưng bọn họ đeo một lô những cây giáo có đuôi thì không kềm được hít một hơi dài, lập tức la to:
- Xuống ngựa! Nấp sau chiến mã!

Song đã không kịp nữa. Mấy trăm quân Minh đứng trên cao phóng những cây giáo dài một mét xuống, tạo thành những đường vòng cung tuyệt đẹp. Những cây giáo mang theo đà phóng mạnh mẽ thậm chí có thể xuyên qua cả đầu ngựa không chút khó khăn đã cắm xuyên vào thân thể người. Một loạt những tiếng "phập phập" vang lên, hàng loạt người vừa còn sống mạnh khỏe chỉ trong nháy mắt đã biến thành những thây ma lạnh ngắt.

A Lặc Thái dẫn đại quân xông lên. Mệnh lệnh hắn nhận được chỉ có một: "Bằng mọi giá phải mau chóng chiếm lấy ngọn núi, cho dù toàn quân bị diệt sạch." Sự phản kích của quân Minh mãnh liệt và thảm khốc không kém. Bọn họ cũng không có đường lui, nếu để giặc Thát xông được lên núi, thứ chờ đợi bọn họ chỉ là cái chết.

Súng tay của quân Dương Lăng và những tay thần tiễn người Đóa Nhan của Mã Cáp Lô tạo thành một sự kết hợp hoàn hảo. "Đoàng đoàng đoàng", một loạt đạn bắn ra, những tay súng lập tức lui về sau lắp đạn, nhường cung tiễn thủ của Đóa Nhan Tam Vệ và quân Thát Đát cùng sử dụng kỹ xảo thành thạo mà bắn lẫn nhau. Tên bay vun vút như mưa, có sĩ tốt bị súng bắn lủng lỗ chỗ như cái nia, cũng có người bị tên nỏ ghim thành con nhím. Song phương lấy sườn núi làm trận địa, thây chất thành tường, tiếng kêu rên vang khắp núi.

Dương Lăng đứng trên mỏm núi cao quan sát tình hình chiến sự. Chỗ này thế núi dốc đứng, giặc Thát không có cách nào tấn công lên đây, rất thích hợp để theo dõi cuộc chiến. Căn cứ vào tình huống binh lực tấn công lên núi của Thát Đát, Dương Lăng không ngừng đưa ra từng chỉ thị một: điều động chiến sĩ sử dụng vũ khí tầm xa như lính bắn súng và cung tiễn thủ, đồng thời cho đao thuẫn thủ, lính cầm thương và cầm côn chuẩn bị đánh giáp lá cà.

Giặc Thát tấn công như cọp điên, quân Minh đứng vững không lùi, hai bên trông hệt như hai con mãnh thú đang tranh ăn. Giành giật, giằng co, kẻ trước ngã xuống, người sau tiếp bước, thây chất mỗi lúc một nhiều khắp mặt đất, tiếng la hét gào thét vang tận mù xa.

Mã Cáp Lư căng thẳng nhìn quanh, cất giọng nghi hoặc:
- Dương đại nhân! Bá Nhan bất chấp thương vong, thế tấn công rất rát, Thiên khả hãn và thủ lĩnh các bộ lạc đều đang ở trên núi, như vậy thật quá nguy hiểm. Tại sao phục binh còn chưa xuất hiện?

Dương Lăng cười ha hả đáp:
- Mã Cáp Lư tướng quân không cần phải nóng ruột. Ngài hãy xem, nhân mã Bá Nhan tuy điên cuồng, nhưng trước sau vẫn khó mà vượt qua một bước. Hắn không ngờ trên núi chúng ta lại có đến hai vạn tinh binh, cứ tiếp tục cố thủ sẽ không thành vấn đề.
Nơi này đồng không mông quạnh, nếu bố trí phục binh quá gần thì sẽ bị Bá Nhan phát hiện ra ngay. Hiện đại quân của chúng tôi cần phải mất một thời gian nữa mới có thể kéo tới được. Đến lúc đó quân Bá Nhan đều người mệt ngựa mỏi, quân của chúng tôi sẽ quét sạch bọn chúng như lá khô, khiến hắn không thể trốn tránh ở bất cứ chỗ nào nữa!

Mã Cáp Lư nghe vậy thì hơi yên lòng. Hắn trông thấy sườn núi mé trái đang bị quân Bá Nhan tấn công rất rát, song phương đã bắt đầu đánh giáp lá cà giữa lưng chừng núi. Trong đám đông, tiếng gào thét điên cuồng như sấm dậy, theo sau mỗi tiếng gầm, đao quang lóe lên, bóng thương vun vút, thỉnh thoảng lại có người bị đâm, bị chém, trong chớp mắt nơi đó đã biến thành một lò mổ đầy máu thịt. Cung tiễn thủ trên núi vẫn đang bắn tên ngăn trở dòng quân Thát Đát cuồn cuộn xông lên.

Mã Cáp Lư không kiềm được bèn nói:
- Ta qua bên đó xem một chút. Cứu binh chưa tới, nhất định không thể để bọn chúng lên núi.

Không hề cảm thấy yên tâm, khi nãy Ngân Kỳ cũng đi theo ra khỏi lều soái. Nàng đang mặc trang phục thị vệ, lại thêm hiện tại Đóa Nhan Tam Vệ đang cùng quân Minh kề vai tác chiến cho nên Ngũ Hán Siêu không tiện ngăn cản, bèn để mặc nàng đi theo Dương Lăng ra ngoài.

Ngân Kỳ đứng một bên liếc mắt sang, cẩn thận quan sát vẻ mặt Dương Lăng rồi chợt mở miệng hỏi:
- Nghe nói tướng quân nhà Minh càng ở xa Hoàng đế thì đánh càng hăng, càng có Hoàng đế bên cạnh thì càng sợ bóng sợ gió, sợ này sợ nọ.
Thiết kỵ Thát Đát lui tới như bay, các người muốn bắt được cái bóng của hắn cũng khó. Hiện các người lấy Hoàng đế làm mồi dụ đại quân của hắn lại, rồi lại bao vây từ bên ngoài. Thoạt nghe thì thấy kế rất hay, nhưng nếu như viện quân chậm trễ không đến kịp, bản thân các người sẽ bị người ta tiêu diệt mà theo tình hình hiện nay cũng sẽ liên lụy đến cả chúng ta, cũng sẽ bị quân Thát tiêu diệt chung với các người.

Làm sao mà Dương Lăng chẳng khẩn trương cho được? Vốn ước định cùng nhau nếu núi Bạch Đăng gặp nguy hiểm thì liền nổi khói hiệu để Đại Đồng phái quân cứu viện. Hiện tại tổng binh Đại Đồng nhận được tin đã phái Hứa Thái đến hộ giá, thì không có lý do gì không có quân đội tiếp tục đến chi viện, trừ khi thành Đại Đồng cũng đã bị tấn công.

Nếu quả là như vậy, chỗ y có thể gởi gắm vào cũng sẽ chỉ còn có nhân mã của Dương Nhất Thanh. Nhưng binh mã Dương Nhất Thanh chuyên phòng thủ biên giới, kỵ binh rất ít. Cho dù hắn ta cố sức thúc quân chạy về cứu viện thì cũng phải cần đến hơn một canh giờ; đến lúc đó quân lính đã thành nỏ mạnh hết đà, còn lại bao nhiêu chiến lực thật không thể nói trước được.

Sợ nói nhiều sẽ lỡ lời, Dương Lăng không dám trả lời thẳng vấn đề thứ hai. Y cố ý cười nói:
- Câu bình luận tướng quân càng ở xa Hoàng đế thì đánh càng hăng của cô nương hình như hoàn toàn không liên hệ gì tới sự lo lắng của cô nương trong câu thứ nhì thì phải. Không biết cô nói vậy là có ý gì?

Ngân Kỳ trợn tròn cặp mắt to đẹp nhìn y, hoài nghi:
- Bởi vì nó không giống như là ngài đang thực hiện theo mệnh lệnh Hoàng đế. Ngược lại... có vẻ như Hoàng đế không hề có bất kỳ ý tưởng gì, tất cả mọi thứ đều do ngài chỉ huy vậy. Các vị đã thật sự thương lượng phương cách dụ Bá Nhan đến thật sao? Không phải là đã trúng kế của Bá Nhan chứ?

Dương Lăng giật thót trong lòng, gượng cười hỏi lại:
- Sao cô nương lại nói như vậy?

Ngân Kỳ trề môi, đáp:
- Người Minh các người hết lòng bảo vệ Hoàng đế vô cùng, sẽ chịu mạo hiểm như vậy ư? Ta càng nghĩ càng thấy không hợp lý. Ngài xem đi, dưới núi thế công rất rát, các vị lợi dụng dịp ký kết hiệp ước để dụ Bá Nhan tới, song lại lung lay sắp đổ như thế này...

Vừa nói cô ta vừa bước tới cạnh vách núi, khom người nhìn xuống tình hình chiến đấu bên dưới.

Nghe vậy, Dương Lăng chợt nảy ý định giết người. Đóa Nhan Tam Vệ nổi tiếng là kẻ trở cờ theo gió, một khi biết được sự thật, quả thật không ai đoán được bọn họ sẽ đâm lao theo lao hay lâm trận trở giáo. Tiểu cô nương này luôn đứng bên cạnh Hoa Đáng, nhất định là người được hắn ta tin tưởng vô cùng, nếu để cô nàng quay về bẻm mép thì hơn vạn sinh mạng trên núi này rất có thể sẽ chôn vùi trong tay cô ả. Thậm chí giang sơn Đại Minh, còn cả những người thân của mình...

Chung quanh đều là thân binh của mình, tình hình chiến sự đang căng thẳng, sẽ không ai để ý đến bên này, chỉ cần mình đưa tay đẩy một cái...

Dương Lăng đấu tranh dữ dội trong lòng, một tay đã giơ lên cao nhưng không thể hạ quyết tâm giết người. Ngay lúc đó Ngân Kỳ đã xoay người lại. Vừa trông thấy ánh mắt của Dương Lăng, nàng đột nhiên cảnh giác bước tránh sang một bước, tay vịn vào loan đao giắt lưng, quát:
- Ta đã nói đúng rồi? Ngươi muốn giết ta?

Dương Lăng thoáng ngẩn người, gượng cười chống chế:
- Sao cô nương lại nói như vậy? Vô duyên vô cớ, tại sao tôi lại muốn giết cô?

Cặp mắt to tròn xinh đẹp vẫn nhìn chằm chằm vào y khiến Dương Lăng cảm thấy mặt mình nóng rực. Từ trước đến nay đây là lần đầu tiên y nảy ý định giết một người vô tội, mặc dù là để bảo vệ cho nhiều tính mạng, nhưng chẳng lẽ không phải y đang lợi dụng Đóa Nhan Tam Vệ ư? Trong lòng y dâng lên một nỗi hổ thẹn khó tả.

Ngân Kỳ hừ nhạt một tiếng, đáp:
- Bởi vì ngươi sợ chúng ta lật lọng, lâm trận trở giáo. Dương tướng quân, đừng coi chúng ta quá quắt như vậy. Phụ thân ta tuy đôi lúc ngả về phía Bá Nhan, song đó cũng là vì sự sống còn của cả bộ lạc mà thôi.

Đoạn nàng lắc đầu, thở dài rồi nói tiếp:
- Ngài yên tâm, hiện tại tôi đã lỡ trèo lên thuyền giặc của ngài, chỉ còn cách kiên trì tiếp tục theo ngài đến cùng. Lúc này mà trở giáo sẽ phải trả cái giá quá đắt, thế nên cho dù cha tôi có nghi ngờ, tôi cũng sẽ giúp ngài che giấu. Nhưng... chỉ mong đại quân của ngài thật sự có thể kéo tới kịp thời, bằng không ngài sẽ hại cả bộ tộc chúng tôi đấy.

Dương Lăng nghe mà thấy hổ thẹn không thôi. Y chợt quát lớn:
- Người đâu!

Thoáng chấn động cả người, Ngân Kỳ rút soạt thanh loan đao ra khỏi bao, mũi đao chĩa thẳng vào cổ họng Dương Lăng. Thị vệ nghe gọi xông đến gần trông thấy vậy lập tức bạt đao chĩa về phía Ngân Kỳ.

Dương Lăng thành khẩn nói:
- Trước kia Đóa Nhan Tam Vệ luôn dao động giữa Đại Minh và Thát Đát, không rõ chọn lưa bên nào, cho nên bản quan mới không yên tâm. Tuy nhiên cô nương nói đúng. Đại địch ngay trước mắt, chúng ta nên tin tưởng lẫn nhau, bắt tay nhau cùng vượt qua ải khó. Nếu như lúc này còn nghi ngờ lẫn nhau, vậy thật sự sẽ đồng quy vu tận thôi.

Ngân Kỳ nhìn y thật lâu không chớp mắt, cổ tay thoắt lật, thanh loan đao lại tra soạt vào trong vỏ. Nàng cười mỉm:
- Người Hán các người thật sự rất giảo quyệt, lời đại nhân vừa nói nghe thật xuôi tai. Thực ra nói đi nói lại chẳng qua là đại nhân cho tôi biết rằng nếu các người chết sạch thì chúng tôi cũng sẽ không sống nổi mà thôi.
Hừ! Tôi nói cho ngài biết! Bá Nhan đã từng xin phép cha tôi được cầu hôn, chỉ cần tôi đồng ý gả cho Bá Nhan, Đóa Nhan Tam Vệ cũng quy thuận Thát Đát thì chúng tôi còn có đường sống. Cho nên chúng tôi sẽ cố sức giúp đỡ ngài, nhưng nếu như người của các ngài không kịp thời kéo đến tiếp viện, nếu như toàn bộ thủ lĩnh các bộ lạc đều bị giết, tộc nhân chúng tôi sẽ bị thôn tính, sẽ bị giáng làm nô lệ.
Cho nên, khi mà núi này bị đánh đổ, nếu phải chọn giữa sự diệt vong của toàn tộc và quy thuận cầu sinh chúng tôi nhất định sẽ lựa chọn cái sau; còn tôi, tôi cũng sẽ tình nguyện vì tộc nhân mà dâng hiến thân mình!

Nàng nói một cách hết sức thản nhiên, ánh mắt trong veo như dòng suối. Lấy trinh tiết của chính mình để đổi lấy sự sống còn cho người trong tộc, điều mà những phụ nữ người Hán được hun đúc bởi tư tưởng coi trinh tiết to như trời cho dù có thực hiện được cũng ngượng miệng khi nhắc đến ấy, lại được nàng phát biểu một cách vô cùng thánh thiện.

Dương Lăng thoáng nghĩ ngợi, rồi trang trọng đáp:
- Được! Chúng ta cùng thỏa thuận một hiệp nghị quân tử. Nếu như có thể giữ được núi này, chúng ta sẽ dốc hết toàn lực cùng nhau giữ lấy. Khi đỉnh núi bị đánh chiếm, bản quan sẽ lấy thân đền nợ nước, mọi hành động của quý tộc sẽ do các người tự mình quyết định!

Ngân Kỳ đưa mắt chăm chú nhìn y, rồi cũng nghiêm túc gật đầu.

Dương Lăng quay sang bảo thị vệ:
- Đi nổi khói hiệu, cấp báo cho toàn bộ quan ải phụ cận biết!

Quân tiên phong Thát Đát giống như dùi đục đóng về phía trước, khí thế như thủy triều, sắc bén không gì cản nổi, chiến đấu quyết liệt với quân Minh ở khắp sườn núi. Giặc Thát không thể phát huy ưu thế của khoái mã, nhưng lại hơn ở chỗ đông người, ai nấy đều hung hãn; quân Minh đứng ở trên cao, chiếm được địa lợi, ai nấy cũng liều mạng, thề chết không lui.

Rừng giáo mưa tên, gươm sắc đầy trời, mấy vạn người quên sống mặc chết hò hét vang dội, cả chiến trường giết chóc sôi sục. Quân Thát đã xông được tới lưng chừng núi nhưng muốn bước thêm nửa bước đều phải đánh đổi bởi vô số máu tươi và tử thi chất đống. Với tình hình này, không quá một canh giờ thì bọn chúng cũng đừng hòng tấn công lên đến đỉnh núi, đến lúc đó ắt thế nào cũng sẽ có mấy đạo viện quân nhà Minh kéo tới.

"Vù", tiếng tên bay vút. Khi tiếng thét đập vào tai, một mũi tên nanh sói đã xuyên qua ngực một viên lính nhà Minh như một tia chớp. Mũi tên lộ ra sau lưng mang theo một đám hoa máu, lực bắn mãnh liệt vô cùng.

Tên giặc Thát vừa bắn trộm mới vừa lắp mũi tên thứ hai lên cung thì đã bị một tay hỏa súng bắn vỡ đầu. Hứa Thái và Lưu Đại Bổng Chùy, người cầm thương, kẻ cầm côn, thủ ở trước núi, binh khí ngầm mang theo tiếng sấm sét, như rồng độc quay cuồng, quét, đâm, khua... bên cạnh không ngừng có binh sĩ Thát Đát hung tợn và dũng mãnh ngã xuống. Chỉ hai người bọn họ đã đủ sức khống chế một vùng có bán kính mười lăm mười sáu bước, không kẻ nào có thể tiến lên. Sự oai hùng của hai ngưởi khiến sĩ tốt chung quanh nức lòng chiến đấu. Đao thuẫn thủ đã vứt thuẫn, hai tay cầm chắc thanh đao cùng giặc Thát quyết chiến.

Đây là một trận đánh ác liệt, thắng thua cuối cùng sẽ chỉ được quyết định bởi binh lực mạnh yếu, khí thế cao thấp của hai bên, mà không liên quan lắm đến việc điều bình khiển tướng trên chiến trường có hợp lý hay không, sự phối hợp giữa các tổ đội thuần thục nhiều hay ít, cùng với khí giới hay cách vận dụng mưu lược. Cho tới hiện tại, vẫn là phe thủ núi chiếm ưu thế.

Người chết chất thành gò trên sườn núi, chân tàn tay cụt khắp nơi, máu nhuộm khắp mặt đất, mùi máu tanh xộc vào mũi kích thích sát khí của mọi binh sĩ. Cung, đao, thuẫn, súng cùng triển khai, đao chém tên bắn như sóng vỗ; máu vấy giáp y cũng vẫn mặc kệ. Tất cả mọi người như trở nên điên rồ, không ngừng vung vũ khí, quên hết sinh tử, quên cả sợ hãi.

Dưới chân núi, Bá Nhan thúc ngựa chạy qua chạy lại, cổ vũ binh sĩ dũng cảm xông lên phía trước. Lúc này, mỗi khắc trôi qua thì hy vọng thành công của hắn càng nhỏ đi một phần, làm sao hắn không sốt ruột như lửa đốt trong lòng?

Lúc này, một tướng lĩnh Thát Đát hổn hển chạy lại bẩm:
- Đại Hãn, đã lắp xong bốn mươi khẩu pháo. Có dùng chúng để công phá núi không?

Bá Nhan nghe vậy liền cả mừng, lập tức gò ngựa hạ lệnh:
- Mau lên! Lập tức vận chuyển tới trước núi, dùng pháo công núi, phía sau tiếp tục lắp ráp. Dùng hết cả một trăm hai mươi khẩu đại pháo cho ta, để ta xem Chính Đức còn có thể trốn ở chỗ nào. Ha ha ha...

Một loạt kèn lệnh cất lên, giặc Thát đang công núi ào ào rút lui. Quâm Minh lấy làm ngạc nhiên:
- Giặc Thát lui rồi? Bọn chúng không tấn công nữa mà bỏ chạy sao?

Nhưng ngay sau đó bọn họ liền phát hiện quân địch đang đẩy mấy chục chiếc giá gỗ cao lớn về phía dưới chân núi, đằng sau mỗi chiếc giá là mấy trăm tên lính Thát Đát cầm dây thừng dài thật dài. Đó là thứ gì vậy? Đám quan binh đến từ Kinh doanh lấy làm lạ, nhưng quan binh dưới trướng Hứa Thái và chiến sĩ Đóa Nhan Tam Vệ lại lần lượt hét lên hoảng sợ:
- Pháo Hồi Hồi! Bọn chúng đã vận chuyển pháo Hồi Hồi tới!

Hứa Thái đanh giọng quát:
- Sợ cái gì! Nơi đây bốn mặt là bình nguyên, toàn là đất cát, bọn chúng lấy đá ở đâu mà bắn lên núi chứ?

Binh sĩ chung quanh nghe vậy mới cảm thấy hơi yên tâm.

"Pháo Hồi Hồi"(1) được tạo bởi những thanh gỗ lớn làm giá, kết nối với nhau bởi đai riềng kim loại. Trên giá đặt một trục pháo có thể chuyển động, trên trục là một thanh gỗ dài được bắt cố định làm "nòng pháo". Trên thực tế đây là một loại máy bắn đá, dùng để ném đạn đá, bên dưới hệ thống buộc hơn trăm sợi dây thừng, mỗi sợi do hai người cùng kéo, tầm bắn có thể đạt tới mấy trăm bước.

Sau khi quân Mông Cổ sử dụng pháo Hồi Hồi ném cự thạch phá hủy tường thành Tương Dương chỉ sau một loạt bắn, thì cuộc đại chiến Tương Dương kéo dài suốt ba năm mới tới hồi kết thúc. Loại máy bắn đá tương tự đã từng sớm xuất hiện vào thời Xuân Thu. Loại pháo Hồi Hồi này rất dễ lắp ráp, vào năm Tĩnh Khanh thời Bắc Tống, lúc tấn công Biện Lương, quân Kim đã từng lắp hơn năm nghìn khẩu pháo chỉ trong một đêm. Không ngờ để đánh chiếm núi thành công, Bá Nhan đã cho xe thồ vận chuyển một số lượng lớn khí giới đến lắp ngay gần chân núi.

Có điều không cách nào bọn chúng kiếm được “đạn” là đá tảng to lớn ngay tại chỗ để “bắn”. Chiến mã Mông Cổ cho dù có khỏe cỡ nào cũng không thể kéo những tảng đá lớn nặng mấy trăm cân đi mấy chục dặm để tập kích bất ngờ như vậy. Rốt cuộc bọn chúng sẽ dùng thứ gì để công phá núi?

"Pháo Hồi Hồi" dừng lại dưới chân núi, khoảng cách này đã quá tầm nỏ mạnh, không thể gây thương tổn cho chúng. Quan binh trên núi chỉ có thể nắm chặt binh khí yên lặng chờ đợi.

Bá Nhan nhếch mép cười gằn. Hắn vốn không ngờ quân số trên núi lại sai lệch so với tin tình báo, hình như không chỉ nhiều hơn gấp đôi, cho nên thế công gặp phải trở ngại. Nhưng hắn có món lợi khí này, quân Minh lại chỉ dùng vũ khí thủ núi đơn giản thì sẽ còn có thể giữ được bao lâu?

Tuy máy bắn đá chủ yếu được dùng để ném những tảng đá lớn phá hủy tường thành, đè chết binh sĩ, nhưng lúc đại quân Mông Cổ tây chinh, trong trận chiến Vác-xa-va, bọn chúng lại chợt nảy ra diệu kế, khơi mào cho thời đại chiến tranh hóa học. Bọn chúng đã sử dụng pháo Hồi Hồi bắn một lượng lớn bong bóng có chứa khói độc vào thành, khiến cho toàn thành Vác-xa-va chìm trong thạch tín và khói độc.

Thấy được hiệu quả mới của thứ vũ khí này, lúc đại quân Mông Cổ tấn công Con-xì-tan-ti-nô-pô-li (nay là thủ đô Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ), nhằm lúc dịch hạch hoành hành trong quân đội, quân Mông Cổ bèn dùng pháo ném luôn thi thể của quân sĩ mắc bệnh vào thành, khiến trong thành bùng phát bệnh dịch. Nghe nói thương nhân nhiễm dịch trong thành chèo thuyền trốn ra ngoài, mang theo khuẩn bệnh dịch hạch Châu Á này tới Châu Âu, dẫn đến việc gây ra cơn đại dịch "Cái chết Đen" mà người dân Châu Âu nghe đến là khiếp sợ. Trận đại dịch này đã cướp mất tính mạng một phần ba dân số Châu Âu lúc bấy giờ.

Sau khi nhà Bắc Nguyên tan rã, giặc cướp cưỡi ngựa tập kích biên giới chủ yếu chỉ nhằm cướp bóc. Ngoại trừ năm trước, lúc đánh chiếm Đại Đồng bọn chúng có sử dụng "pháo Hồi Hồi" để ném đá, còn lại rất ít khi dùng, cho nên ngay cả Hứa Thái cũng không nghĩ ra được ý đồ sử dụng vũ khí hóa học.

Dưới núi, những khẩu "pháo Hồi Hồi" đã được lắp đặt chu đáo. Một quả bóng lửa khổng lồ bay thẳng lên mỏm núi, rớt ầm xuống đất, một đám khói cay xè tức thì lan ra. Không biết bên trong bọn chúng nhét thêm những thứ gì mà quả bóng vỡ tan rồi lại vẫn cháy phừng phừng, bốc ra mùi cay đến sặc người.

Dưới núi, từng quả bóng khói lửa lại được ném lên núi như những ngôi sao băng...

(1) xem hình http://pic.baike.soso.com/p/20090103/20090103120000-104894.jpg (or http://baike.soso.com/v7484616.htm)





Chú thích:

(1) xem hình http://pic.baike.soso.com/p/20090103/20090103120000-104894.jpg (hoặc http://baike.soso.com/v7484616.htm)



Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180&page=218
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
23-11-2012, 06:03 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 210: Có Quân Đến Cứu



Dịch: Losedow

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Vương Thủ Nhân chỉ mang mấy trăm người lao ra khỏi đội hình của Húc Nhật Can, cùng mấy ngàn binh mã hai cánh lao thẳng tới chiếc lều lông cừu phía trước.

Trong lều lông cừu là Đại Hãn Thát Đát và thủ lĩnh các bộ đã không còn đại quân bảo vệ.

Bắt giặc phải bắt vua trước!

Muốn cứu chỗ phải cứu của ta thì hãy tấn công chỗ phải cứu của địch trước!







Quyển 5 - Quần Ma Loạn Vũ
Chương 210: Có Quân Đến Cứu





Chương 210: Có Quân Đến Cứu



Dù chiến sự thành Đại Đồng quyết liệt nhưng cũng không gian nan, nguy hiểm bằng ở núi Bạch Đăng. Tổng binh Đại Đồng Đỗ Nhân Quốc, kiêm giữ ấn Chinh tây Tiền tướng quân, thống lĩnh năm vệ, bảy sở, nhưng giờ đây phần lớn đại quân của ông ta lại trú đóng bên ngoài Trường Thành. Thành Đại Đồng lại có tường cao vững chắc nên trong thành chỉ có hai vệ quân coi giữ. Hứa Thái mang bảy ngàn người ngựa đi, trong thành chỉ còn lại hơn năm ngàn người.

Vốn Hỏa Sư nhận được mệnh lệnh là nội ứng sẽ mở cửa thành phía tây cho đại quân tràn vào. Với mười lăm ngàn quân tinh nhuệ của hắn thì cả tòa thành Đại Đồng lập tức sẽ trở thành món đồ trong túi, vì vậy ngay cả khí giới công thành hắn cũng không thèm mang theo. Nhưng khi quân khinh kị của hắn hào hứng chạy đến dưới thành phía tây lại bất ngờ bị quân coi giữ Đại Đồng bắn cho một trận mưa tên phải thối lui, Hỏa Sư tức giận đến mức chửi thầm trong bụng.

Khi thấy Bá Nhan tự mình dẫn đại quân đánh úp núi Bạch Đăng, Hỏa Sư cũng ghét chuyện tranh cướp công đầu của Khả Hãn, nhưng suy đi nghĩ lại hắn nhận định cho dù thị vệ bên người Hoàng đế không quá mười ngàn nhưng chắc chắn toàn là tinh binh, trận chiến đó nhất định sẽ rất khó khăn. Trong khi đó, quân của mình không cần tốn bao nhiêu công sức cũng hạ được Đại Đồng, thoải mái đốt giết cướp bóc có thể giúp đám sĩ tốt từng chịu đựng nhiều nỗi gian nan vất vả này kiếm được một mớ, tính ra cũng lời chán. Nào ngờ việc phòng ngự trên thành Đại Đồng rất nghiêm, chờ mãi vẫn không thấy nội ứng mở cửa thành, Hỏa Sư cho rằng Bá Nhan cố ý lừa mình, tuy nổi giận trong lòng nhưng phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Lúc này lại không thể một mình lui quân làm hỏng đại cục, hắn đành phải cố gắng cho quân khổ chiến.

Chặt cây tại chỗ đóng thành thang dài, đám binh lính cuồng nhiệt trong mắt chỉ có rượu mạnh, gái đẹp, vàng bạc lẫn tiền của ra sức leo lên không hề sợ hãi. Quân Minh coi giữ trên tường thành sớm đã bày trận chờ địch, dù gặp đại chiến mà vẫn ung dung kéo cung bắn tên, vác đá ném xuống, hàng loạt câu liêm vô tình đẩy những chiếc thang ra khỏi tường thành cao mấy trượng. Tiếng kêu thảm của binh lính Thát Đát vang lên, những khúc gỗ đóng đầy đinh sắt dài cả thước lại được lăn xuống dưới thành.

Thành Đại Đồng được xây dựng rất hùng vĩ, tường thành vừa chắc chắn vừa hiểm trở, các loại thiết bị phòng ngự đều đầy đủ, thân tường thành được xây bằng gạch, bên trong đổ vữa rồi đầm từng đoạn từng lớp. Tường thành cao khoảng năm trượng, mặt trên tường thành cũng rộng năm trượng, đủ chỗ cho đại đội nhân mã di chuyển nhanh chóng. Lỗ châu mai, lầu thành, vọng lâu, vọng canh đan xen nhau, có thể quan sát địch từ xa, ẩn nấp, bắn tên, tiếp ứng, khống chế điểm cao, tạo thành một phòng tuyến nhiều tầng nhiều lớp hoàn chỉnh.

Độc hỏa pháo, Oanh thiên phích lịch pháo không ngừng bắn những viên đạn vô tình xuống dưới thành thu hoạch mạng người. Vô số binh lính qua lại trên tường thành lăn gỗ, lăn đá, đổ dầu, bắn tên tạo thành một phòng tuyến không thể phá vỡ. Còn quân Thát thì như từng đợt sóng không ngừng điên cuồng lao vào thành trì. Tên giặc bắn như mưa, cũng không ngừng gặt hái tính mạng quân Minh.

Xác chất như núi, máu chảy khắp nơi, tiếng chém giết rung trời. Thi thể của đồng đội bị chà đạp vô tình như những miếng giẻ rách; không ngừng có người ngã xuống, trở thành một trong những xác chết bị giẫm đạp. Mặc dù thành trì vẫn sừng sững bất động dưới những đợt sóng tiến công của giặc Thát nhưng trong lòng Hồ Toản và Đỗ Nhân Quốc lại như lửa đốt, gần như cả hai sắp hộc máu đến nơi.

Núi Bạch Đăng mới là chốn bọn họ thật sự bận tâm lo lắng. Nếu như chỗ đó có bất trắc gì thì trời mới biết Đại Minh sẽ gặp phải một tương lai u ám như thế nào. Nhìn thấy một sợi khói đặc quánh bay lên xa xa từ núi Bạch Đăng, Hồ Toản và Đỗ Nhân Quốc vừa cảm thấy vui mừng lại lập tức sắc mặt trở thành xanh mét.

Núi Bạch Đăng báo tin Hoàng đế không việc gì, đỉnh núi còn chưa bị giặc Thát chiếm đóng. Nhưng đồng thời cũng cho biết tình thế hết sức ngặt nghèo, nếu như viện binh không đến kịp thì đỉnh núi có thể sẽ bị đánh chiếm trong chốc lát.

Hồ Toản giậm mạnh chân, hai mắt đỏ ngầu nhìn Đỗ Nhân Quốc quát:
- Đỗ đại nhân! Ta phải tập hợp toàn bộ người ngựa, bỏ thành đi tiếp viện núi Bạch Đăng. Hoàng thượng ở đó, nhất định phải bảo vệ Hoàng thượng cho được! Chỉ cần giữ được đỉnh núi, đại quân của Dương Nhất Thanh kéo tới là chúng ta còn có thể đoạt lại Đại Đồng!

Ý kiến này thật sự ngu xuẩn. Quân chính quy trong thành không quá năm nghìn, cho dù cộng thêm binh nghĩa dũng và tráng đinh thì toàn bộ quân binh vẫn không đông bằng quân công thành. Hơn nữa giặc Thát ở ngoài thành là kỵ binh, nếu bọn họ thật sự tập hợp binh lính lao ra khỏi thành thì chẳng những thành sẽ bị mất mà chỉ trong nửa canh giờ toàn bộ binh mã cũng sẽ bị đối phương chia cắt rồi lần lượt tiêu diệt.

Đỗ Nhân Quốc gian nan nuốt nước bọt. Hắn còn chưa kịp trả lời thì đã nghe một tiếng gầm giận dữ vang lên:
- Ngu không ai bằng! Quân ta ra thành là trúng gian kế của giặc Thát, nếu Hoàng thượng gặp nạn mà tòa thành vững chắc này rơi vào tay địch thì còn ai có thể địch được quân Thát? Toàn bộ Sơn Tây, thậm chí cả kinh thành cũng sẽ gặp nguy trong sớm tối!

Hai người quay phắt lại, nhận thấy một đội giáp sĩ vây quanh Đại vương điện hạ đi vào vọng lâu. Tiếng chém giết vẫn vang lên khắp nơi, Đỗ Nhân Quốc và Hồ Toản vội vàng tiến lên bái kiến. Hồ Toản khóc lóc báo:
- Điện hạ! Núi Bạch Đăng truyền tin báo động, Hoàng thượng gặp nguy hiểm rồi!

Đại vương cũng biết hắn nói có lý, chỉ riêng chuyện thấy nguy không cứu và những lời hôm nay, một khi Hoàng đế vị quốc vong thân thì đã đủ để trở thành lý do vạch tội bọn họ. Ngay cả hắn là dòng dõi hoàng tộc cũng khó tránh khỏi trở thành vật hi sinh chính trị, nếu chỉ bị tù chung thân thì chắc chắn đó cũng là hình phạt nhẹ nhất rồi.

Nhưng cội rễ của hắn ở đây, tất cả con cháu hắn đều ở trong thành. Dòng dõi Đại vương đã sống ở đây hơn trăm năm, trừ năm trước vào kinh còn những lúc khác thậm chí hắn còn chưa bao giờ rời khỏi Đại Đồng một bước. Hồ Toản có thể mở thành chịu chết, không tiếc tính mạng nhằm mưu đồ một hư danh nhưng hắn lại không thể.

Sắc mặt Đại vương xám như tro tàn, hắn than thở:
- Cô(*) biết! Nhưng quân coi giữ Đại Đồng quá ít, mở cửa thành đánh địch sẽ vô dụng, ngược lại sẽ đánh mất trọng trấn biên cương này vào tay giặc.
(*: tiếng tự xưng của Vương hầu thời phong kiến)

Hắn đột nhiên xoay người, rút trường kiếm của thị vệ bên cạnh ra đặt ngang trước ngực rồi quát to:
- Dòng dõi Đại vương thụ phong Đại Đồng, mang trọng trách giữ biên cương bảo vệ xã tắc. Quân coi giữ Đại Đồng đều phải nghe theo hiệu lệnh của bản vương!
Đỗ tổng binh, Hồ tuần phủ! Toàn lực thủ thành, không được để một binh một lính giặc Thát công được lên thành. Cô vương ở đây đốc thúc, nếu Hoàng thượng tuẫn quốc thì là do bản vương không thể cứu viện, cô vương sẽ tự vẫn tạ tội, không quan hệ gì với các vị đại nhân!
Còn không mau đi!

Đỗ Nhân Quốc và Hồ Toản lộ vẻ xúc động, buột miệng:
- Đại vương gia, ngài...

Đại vương trợn mắt hét lớn:
- Còn không mau đi?

Hai người giậm chân liên hồi ra vẻ chẳng đặng đừng, rồi cũng đành vội vã rời khỏi vọng lâu, chạy lên lầu thành chỉ huy việc thủ thành. Đại vương đi tới cửa ngách, chống kiếm quay về hướng đông nhìn núi Bạch Đăng xa xa, lặng lẽ cầu khẩn:
- Hoàng thượng! Người tốt sẽ được ông trời cứu giúp, nhất định phải giữ vững cho được nghe!

***
Những khẩu pháo Hồi Hồi to lớn cao tới ba trượng, có thể ném những tảng đá lớn nặng hai trăm cân ra xa một trăm trượng. Núi Bạch Đăng chỉ cao hơn năm mươi trượng, đạn bắn ra lại là các loại đạn tạo khói lửa đựng trong chum vò gốm nặng có sáu bảy cân, cho nên pháo Hồi Hồi được biến đổi rất nhiều, chủ yếu chỉ dùng máy ném đá cao chưa đến hai trượng, dùng mười một cây gỗ dài ngắn khác nhau kết lại thành một cái giá đỡ giản dị. Hơn nữa bởi vì phải tập kích thần tốc nên bọn chúng không thể mang theo những quả tạ làm đối trọng nặng mấy ngàn cân nên đành chỉ dùng sức người để kéo dây chằng.

Phân trâu, phân sói, các loại cỏ độc ngâm thạch tín bốc cháy phát ra mùi cay thối sặc sụa làm mọi người buồn nôn. Trên núi có gió nhưng người Thát không ngừng ném đồ dẫn hỏa lên núi từ phía đầu gió, sau khi rơi xuống đất vỡ tan, những viên đạn “hóa học” vẫn không ngừng tỏa khói đặc. Khói độc không ngừng bay về phía cuối gió, rất nhiều sĩ tốt bị hun đến không cầm được nước mắt, không thể mở mắt ra được.

Còn may đây là một hòn núi đất, không phải tường thành toàn đá hộc. Chúng tướng lập tức ra lệnh cho binh lính đào đất chôn các bãi chất cháy. Từ trên trời những quầng lửa liên tục bay xuống, còn tất cả sĩ tốt trên đỉnh núi thì ra sức đào đất để chôn. Mặc dù rất nhiều sĩ tốt bị hun đến mức hai mắt sưng đỏ, không ngừng chảy nước mắt nhưng vẫn chưa đến mức không thể chịu được.

Đám người Chính Đức đang ở trong lều lớn cũng không ngờ tới giặc Thát sẽ dùng tới chiêu này. Dương Lăng vội vã chạy về doanh trướng nhắc Hoàng thượng và các vị thủ lĩnh chui xuống hang ngầm tạm lánh, nhưng lúc này chính là thời khắc nguy cấp, đứng trên núi có thể thấy tình thế công thủ địch ta nên còn đỡ sốt ruột. Nếu chui xuống hang, mặc dù không bị khói độc hun nữa nhưng ngọn lửa trong lòng thì dập tắt bằng kiểu gì?

Thấy đám người Chính Đức và Hoa Đương đều không muốn xuống hang tránh né, Dương Lăng đành phải gọi người lột khăn trải bàn xuống nhúng nước sạch rồi đưa cho mọi người che lên mặt. Đôi mắt to xinh đẹp của Ngân Kì cũng đã bị khói hun sưng húp, nước mắt lưng tròng, ngay cả chiếc mũi nhỏ nhắn cũng đỏ ửng. Đã giao ước ngầm với cô ta nên Dương Lăng cũng yên tâm hơn với vị cô nương không biết rõ này. Y đã dặn hai thị vệ đại nội chú ý đến mọi hành vi của cô ta; nay thấy cô ta chạy qua chạy lại chỉ lo giúp đỡ mọi người kể cả cha cô ta che khói độc, không có hiện tượng gì khác lạ nên y cũng yên lòng.

Mười mấy khúc gỗ, mấy chục người lắp ráp là đã thành một cái giá ném “đạn hóa học”, tốc độ cực nhanh. Từng chiếc máy ném đá đơn sơ không ngừng được đưa đến dưới chân núi, càng lúc càng nhiều quả bóng chứa chất cháy độc được ném lên trên núi. Bá Nhan cũng đã ước đoán trên núi có thể đào đất chôn vật cháy. Cho dù ông trời phù hộ không có gió, không có tuyết nhưng không thể chỉ dựa vào mấy ngàn quả đạn khí độc mang theo mà có thể đánh hạ được quân Minh. Mục đích của hắn chỉ là muốn khiến cho quân Minh bị đau mắt, giảm sức chiến đấu để quân mình tấn công dễ dàng hơn mà thôi.

Hơn ba trăm quả đạn khói lửa khí độc đã được ném lên núi, khói mù che khắp đỉnh núi. Bá Nhan vừa sai người tiếp tục ném vừa tổ chức đại quân tiến công núi lần nữa. Mùi thạch tín cháy quá khó chịu, cung thủ quân Minh và binh lính của Đóa Nhan Tam Vệ đang không ngừng phải chảy nước mắt, ảnh hưởng rất lớn đến sức phòng ngự từ xa. Quân Thát nhanh chóng tấn công lên đến lưng chừng núi và bắt đầu giáp lá cà với quân Minh.

Số lượng máy ném đá không ngừng tăng, càng ngày càng nhiều đạn khói được ném lên núi. Trong khi đó đa số quân Minh đã băng xuống lưng chừng núi chặn đánh quân Thát, số lượng quân sĩ đào đất chôn chất cháy càng lúc càng ít. Kết quả là khói trên núi cũng càng lúc càng nhiều, sức chiến đấu của quân Minh càng trở nên suy yếu.

Mọi người đều thầm biết rõ việc đỉnh núi bị đánh hạ chỉ còn là vấn đề thời gian. Hi vọng duy nhất trong lòng bọn họ nằm ở chỗ nơi này là địa bàn của Đại Minh, quân Minh có mấy chục ngàn đại quân đóng ở quan ải Trường Thành gần đó; giờ đây bọn họ chỉ có thể cố gắng giết địch, cố gắng kéo dài thời gian.

Viện quân mà đến thì có thể hình thành thế trận bao vây quân giặc cả bốn phía và bọn họ sẽ từ giữa bung ra. Nếu như không thể vây diệt toàn bộ đội kỵ binh tác chiến của quân Thát tại đây thì cũng có thể khiến Bá Nhan thảm bại, thực lực tổn thương nghiêm trọng, do đó triều Minh sẽ đạt được một thắng lợi mang tính quyết định. Nếu như viện quân đến muộn thì chỉ có thể nhặt xác cho mọi người mà thôi.

Đám người Hoa Đáng không hề ngu. Đến lúc này bọn họ cũng đã thấy được cái gọi là mưu kế lấy chính mình làm mồi dụ dỗ Bá Nhan vào bẫy có đến tám chín phần mười là giả. Chỉ có điều lúc này chiến sự đã nổ ra kịch liệt bốn bề núi Bạch Đăng, tất cả binh lính đều chen chúc liều mình chém giết. Cho dù bọn họ có hối hận cũng không có cách nào tập kết quân đội của mình để chống lại quân Minh hay bỏ chạy thoát thân.

Quân đội cố thủ núi Bạch Đăng đã tới đường cùng, hỏa mai đã bắn hết, tên cũng không còn, chỉ có thể dùng đao thương chém giết. Quân Thát đang dần dần lấn lên đỉnh núi, ép quân Minh vào giữa. Dương Lăng chỉ chia một ngàn đao thuẫn thủ và hai trăm thị vệ đại nội bảo vệ lều lớn, còn lại tất cả quan quân đều được phái ra bốn phía chống địch, ngay cả đội dự bị cũng không có.

Quân Minh đang từng bước lui lại, nói chính xác là đám Thát Đát hung hãn liều mạng đang vừa chém giết vừa giẫm đạp thi thể tiến lên đỉnh núi từng tấc một. Giữa lúc đỉnh núi đang trong thế chỉ mành treo chuông, bỗng có tiếng vó ngựa từ xa xa vọng đến. Từ trên cao, những quan binh đang chặn đánh địch ở bên mé tây đã có thể thấy rõ một đại đội kỵ binh đang phi đến như bay. Áo giáp sáng lòa, cờ bay phần phật, rõ ràng là quan binh Đại Minh.

Giống như được tiêm một mũi thuốc trợ tim, đám quan binh sức cùng lực kiệt lập tức reo hò, đao thương mãnh liệt vung lên, càng đánh càng hăng. Cuối cùng cũng đợi được viện quân đến rồi, còn viện quân có bao nhiêu thì bây giờ còn chưa ước lượng được. Nhưng sự kiện viện quân đã đến này lại khiến cho nhuệ khí hai bên thay đổi rất rõ ràng. Cho dù binh lính Thát Đát cực kỳ dũng mãnh cũng không khỏi cảm thấy chán nản, toàn quân đều bắt đầu nhụt chí.

Nhận được tin, Bá Nhan thầm rợn người, chuyện hắn lo lắng nhất rốt cục đã xảy ra. Nếu như đại đội nhân mã quân Minh chạy tới bao vây toàn bộ đội quân của hắn thì chẳng những nước cờ được ăn cả ngã về không này khó thể thành công, mà nếu như không kịp thời phá vòng vây, khiến cho bị trong ngoài giáp công thì có thể toàn quân bị diệt, tất cả đi đời nhà ma.

Chỉ kém một bước, chỉ cần khoảng non nửa canh giờ nữa Chính Đức sẽ trở thành đồ trong túi của mình. Cứ như vậy mà lui về đại mạc hay sao? Mũi Bá Nhan cay cay, hắn điên cuồng rống to:
- Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ, dẫn người của ngươi ngăn cản viện quân Minh triều. Ta chỉ cần nửa canh giờ, chỉ cần nửa canh giờ nữa thôi!

Tiếng gào thảm thiết của hắn làm đám tùy tùng và thủ lĩnh các bộ lạc xung quanh rối loạn. Đội dự bị có sáu ngàn người, do hai anh em kết nghĩa với Bá Nhan là Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ và Húc Nhật Cán chỉ huy. Hai người này đã đi theo Bá Nhan tung hoành thảo nguyên đại mạc không gì cản nổi, là một trong những tướng quân anh dũng thiện chiến nhất.

Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ cũng biết kéo dài nửa canh giờ có ý nghĩa gì đối với cả thảo nguyên. Hắn rút thành cương đao sáng như tuyết ra, quát lớn:
- Theo ta chặn địch! Cho dù quân Minh là một trận bão cát cũng phải chặn đứng bọn chúng. Xông lên!

Ba nghìn tinh kỵ cùng hò hét vang dội, rút loan đao (đao cong) sáng như tuyết ra, không hề chùn bước xông lên chặn đánh đám quân Minh đang phi đến như bay. Đối với đại đội quân Minh đang phi nhanh đến, ba nghìn tinh kỵ Mông Cổ giống như một mũi dao nhọn sắc bén. Nếu như hai quân lao vào nhau, tinh kỵ Thát Đát lấy khỏe đánh mệt, quyết tâm tử chiến đến cùng sẽ có thể xé đội hình rời rạc của quân Minh ra một vệt dài, có thể đột nhập thẳng vào sâu nửa dặm, từ giữa tách đôi đội hình địch ra, tiến hành chém giết.

Tuy nhiên quân Minh lại như không nhận thấy dụng ý của Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ, vẫn lao tới với đội hình rời rạc. Dương Lăng, Chính Đức và đám người Hoa Đáng trên đỉnh núi nhìn thấy đại đội nhân mã quân Minh kéo đến đều cảm thấy tinh thần phấn chấn. Làm cho bọn họ vui mừng nhất là, đây là một đội ngũ toàn kỵ binh, hơn nữa từ trên núi có thể thấy rõ nhân số của họ nhiều hơn ba nghìn kỵ binh quân Thát chặn đánh gấp mấy lần. Đây là đội thiên binh từ đâu xuất hiện?

Một cây soái kỳ trong tay tên lính cầm cờ cường tráng đang bay phần phật do cuồng phong do đàn tuấn mã phi nhanh tạo nên. Hắn điều khiển ngựa bằng hai chân, hai tay gồng lên nắm chặt cán cờ được giữ chắc chân bằng một cái vòng cài bên cạnh yên ngựa. Trên lá cờ chỉ có một chữ rõ to: “Vương”!

Người tiên phong đi trước soái kỳ chữ Vương bỗng nhiên giương cung, một phát ba mũi tên, lập tức trong đám kỵ binh Thát Đát chạy như bay đối diện có ba kẻ rơi xuống ngựa. Ba mũi tên này như là hiệu lệnh, tinh binh Mông Cổ cũng lập tức giương cung đặt tên, một cơn mưa tên rợp trời ngập đất bay tới.

Đại soái của cánh tinh binh này chính là Phó tướng Tam Quan Vương Thủ Nhân, người dẫn hai vị tướng quân du kích chơi trốn tìm với Hỏa Sư ở quan ngoại. Bởi vì hắn dẫn quân ra ngoài Trường Thành, không ngừng giằng co với Hỏa Sư, nếu sức cơ động không đủ thì chắc chắn sẽ thất bại, cho nên Dương Nhất Thanh tập hợp đại bộ phận kỵ binh của các lộ quân trong tay mình, tạm thời tạo nên một đội quân toàn kỵ binh giao cho Vương Thủ Nhân chỉ huy.

Tổng binh lực của Vương Thủ Nhân ước chừng hai mươi ngàn người, đông hơn quân Hỏa Sư, nhưng hắn rất ít khi tiếp chiến chính diện với Hỏa Sư. Dù sao cưỡi ngựa bắn cung cũng không phải chuyện thành thục trong một sớm một chiều, chiến lực của quân đội hắn còn chênh lệch so với bộ đội sở thuộc của Hỏa Sư. Có điều khiến Hỏa Sư đau đầu là vị tướng quân Đại Minh này vẫn bám sát hắn không rời, bất kể hắn muốn tấn công quấy rối nơi nào cánh quân này cũng luôn đi theo phía sau cháy nhà hôi của.

Hỏa Sư giận dữ muốn tìm hắn quyết chiến nhưng đối phương lại tránh không tiếp chiêu, bất đắc dĩ đành dẫn hắn vào khe núi định sử dụng địa lợi chống lại.

Trong lần duy nhất tác chiến ở đồng bằng này, Hỏa Sư vốn định một đòn đánh tan đội kỵ binh chủ lực của quân Minh, không ngờ Vương Thủ Nhân đã đào hố bẫy ngựa, đặt ván chông, thậm chí còn đặt cả những cây gỗ tròn phía trước vót nhọn, phía sau đóng ván ngang, bên dưới ván ngang đào hố trên đường xung phong của quân Hỏa Sư.

Chiến mã chạy trước đạp lên ván gỗ, đầu nhọn phía sau sẽ chống lên đâm xuyên qua chiến mã phía sau. Hai quân chưa gặp nhau, quân Hỏa Sư đã tổn thương nặng nề, hơn nữa kỵ binh không dám chạy nhanh nữa. Người Mông Cổ vô địch thiên hạ không phải dựa vào đao thương mà là tên nhọn và khoái mã. Quả thực khoái mã bị mất ưu thế chính là quân Thát tự phế một nửa sức lực. Sau trận này, chỉ cần nhìn thấy đại kỳ chữ Vương thì Hỏa Sư đã đau đầu, dứt khoát chuyển sang chơi trò trốn tìm với hắn.

Hôm nay đang bám theo đại quân của Hỏa Sư đi tới gần Cự Lỗ môn, đột nhiên Vương Thủ Nhân phát hiện quân địch lại biến mất. Vùng này nhiều núi, lúc đầu Vương Thủ Nhân cho rằng Hỏa Sư cũng bắt chước mai phục lại mình, nên liền ra lệnh cho đại quân hạ trại men núi, lưng dựa vào Kháng Hồ Bảo, phái thám mã truy tìm hành tung của Hỏa Sư.

Một lát sau khói lửa nổi lên, liền sau đó thám mã báo dấu chân ngựa biến mất trong khe núi hẹp ở Cự Lỗ môn, hoàn toàn không còn bóng dáng, nhưng trên quan ải Cự Lỗ môn vẫn cắm cờ Đại Minh. Vương Thủ Nhân chợt nghi ngờ: Dù Hỏa Sư vẫn quanh quẩn gần các quan ải nhưng hắn xảo trá như cáo, nếu muốn mai phục thì hắn sẽ không mạo hiểm mai phục hàng vạn người ở gần quan ải của Đại Minh. Hơn nữa, hai bên khe núi kia rất hiểm trở, không thể giấu được đông người, người của Hỏa Sư bay lên trời hoặc chui xuống đất rồi hay sao?

Nghĩ đến đây, Vương Thủ Nhân lập tức từ bỏ nhiệm vụ bám theo Hỏa Sư, nhổ trại trở về quan ải, vào quan ải qua Kháng Hồ Bảo cách cửa Cự Lỗ vài dặm. Hỏi quân canh giữ phong hỏa đài, bọn họ cũng chỉ biết có khói lửa dấy lên nên tăng cường đề phòng ở quan ải này, nhưng không hề biết quân Thát đang tấn công ở nơi nào.

Vương Thủ Nhân nghe tin lập tức chạy như bay đến Đại Đồng, còn tiện tay lấy vài món lợi khí mang theo. Hắn cũng biết hôm nay Hoàng đế cùng Đóa Nhan Tam Vệ bàn bạc kết minh ở núi Bạch Đăng, tuy rằng phỏng đoán quân Thát đã dễ dàng lọt vào quan ải và đang đánh úp núi Bạch Đăng đúng là quá lớn mật, nhưng chuyện này quá quan trọng, luôn phải đề phòng cho yên tâm. Cùng lắm xem như là mình lui quân về nghỉ ngơi là xong.

Đại quân vừa chạy tới Thủy Thanh Sách, còn cách thành Đại Đồng vài dặm, bọn hắn đã nghe thấy tiếng chém giết rung trời từ xa xa, đúng lúc này trên núi Bạch Đăng cũng dấy lên khói lửa. Hiểu rõ địa hình bản địa, Vương Thủ Nhân lập tức ra lệnh đại quân bỏ đường lớn đi đường tắt chạy đến núi Bạch Đăng, vừa kịp chạy tới đúng lúc núi sắp bị công chiếm.

Xa xa nhìn thấy quân lính rợp núi, không biết bây giờ Hoàng đế còn sống hay đã chết, Vương Thủ Nhân sợ đến mức tái mặt. Vì vậy, hắn lập tức thúc ngựa đi đầu, dẫn quân lao tới. Cơn mưa tên của giặc Thát bay tới, các binh sĩ đều cầm lá chắn tròn bên cạnh yên ngựa lên che chắn. Vương Thủ Nhân tay trái cầm cung, tay phải cầm lá chắn, ngồi trên ngựa hét lớn: "Bắn thần hỏa tiễn!"

Đám binh lính xông lên đầu tiên đều mang những loại vũ khí có hình thù khá kỳ lạ. Tất cả các loại vũ khí lấy từ Kháng Hồ Bảo này đều là các loại tên lửa gọn nhẹ. Có tên tổ ong (nhất oa phong tiễn), tên đàn ưng đuổi thỏ (quần ưng trục thố tiễn), tên lửa sao băng (hỏa nỗ lưu tinh tiễn), tên trường xà phá địch (trường xà phá địch tiễn). Chỉ trừ hai loại tên phi liêm bốn mươi chín mũi (tứ thập cửu thỉ phi liêm tiễn) khá nặng nề và loại tên trăm hổ cùng chạy (bách hổ tề bôn tiễn) phải dùng xe đẩy hoặc phải hai người mới bắn được, còn lại hắn đều vơ vét sạch sẽ. Các binh sĩ dùng dây đeo buộc trước ngực, có khoảng hai mươi mấy hòm.

Đám binh lính xông lên đầu tiên đội mưa tên đánh đá lửa, trong tiếng xé gió, từng mũi tên lửa bay vụt ra ngoài. Độ chính xác của tên lửa thì không có gì đáng chờ mong, nhất là ngồi trên khoái mã mà bắn thì càng khỏi phải nói.

May là kỵ binh Thát Đát phía trước xếp thành đội hình đao nhọn tập trung, quả thực chính là bia ngắm sống. Danh tướng Thích Kế Quang đời sau có một cách nói rất thú vị để hình dung về tên lửa, đại để là: “Bắn tên lửa giữa vạn kỵ binh, hoàn toàn không cần ngắm ai, châm lửa rồi mặc cho số phận. Phương hướng bắn chúng ta không đoán được, địch cũng không đoán được, thật sự vừa thú vị lại vừa kỳ diệu.”

Những mũi tên này chủ yếu là nhanh, bắn liên tục, còn nhanh gấp mấy lần những xạ thủ cao minh nhất của quân Thát. Vô số mũi tên bay ngang bay dọc, còn có mũi vừa bay vừa uốn lượn. Hai đội quân càng ngày càng gần, quân Minh ngã xuống mười mấy tên, quân Thát lại bị bắn chết gần trăm người. Làm mọi người khó hiểu nhất chính là những mũi tên bay xiêu xiêu vẹo vẹo đó, có mũi còn tránh qua tên địch phía trước rồi bắn trúng tên chạy phía sau.

Hơn trăm con chiến mã mất người cưỡi lập tức khiến đội hình xung phong sắc bén của Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ bị lộn xộn. Khí thế phá núi mở đường biến mất, lập tức hai luồng nước lũ đan xen vào nhau, tiếng hét đinh tai nhức óc, tiếng vũ khí va chạm không dứt bên tai. Binh lính hai bên điên cuồng mượn đà xông của khoái mã liều mạng chém giết.

Trong trận chém giết giữa hai đội kị binh lao ngược chiều này không có chuyện chiến đấu một chọi một. Thường thường kỵ sĩ hai bên vừa chém được một đao thì hai con ngựa đã lướt qua nhau, họ lại giao thủ với đối thủ mới, giao đối thủ vừa rồi cho đồng đội đằng sau.

Trong giờ khắc này chỉ có giết người mới có thể tránh cho mình khỏi bị giết. Những binh lính thường ngày rất nhỏ bé này, bất kể trước kia là ti tiện hay là gian manh, cương nghị hay là hèn nhát, âm hiểm hay là quang minh, bây giờ tất cả đều hò hét với khí thế ngất trời, tạo thành một làn sóng xung kích làm mọi người sôi trào nhiệt huyết đưa mình trong chiến trường xay thịt, nghe thấy từng tiếng ma sát chói tai ghê răng.

Bởi vì thuật cưỡi ngựa của quân Minh không bằng quân Thát, mà mã đao muốn phát huy hết ưu thế tấn công thì phải mượn lực cánh tay, lực vặn eo và sức lao của chiến mã; người cưỡi ngựa kém thì cả ba yếu tố này đều kém theo. Vương Thủ Nhân tạm thời không thể nâng cao kỹ năng cá nhân của đội quân tổ hợp tạm thời này nên đành phải giở trò ở binh khí.

Gần năm nghìn kỵ binh đi đầu đều dùng lang nha bổng, lực cánh tay của bọn họ không đủ để sử dụng lang nha bổng bằng sắt thật sự, cho nên tất cả đều dùng những khúc gỗ lê trên to dưới nhỏ vừa cứng vừa nặng, trên đầu đóng rất nhiều đinh sắt to bằng ngón út dài nửa thước. Lang nha bổng va chạm với mã đao sắc bén của đối phương, tiếng ken két vang lên không dứt, còn có thể lợi dụng những móc câu trên đinh sắt để giảm tốc độ vung đao của đối phương.

Lang nha bổng nhẹ nhàng vẫy trái cản phải, đâm trước đập sau, triệt tiêu nhược điểm kỹ năng cá nhân của chiến sĩ. Ưu thế tuyệt đối về nhân số áp đảo sự dũng mãnh thiện chiến của đội quân Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ tinh nhuệ. Một cơn sóng cuồn cuộn tràn tới, ba nghìn tinh kỵ Thát Đát rơi vào giữa biển quân gần hai mươi ngàn người của quân Minh.

Từ đỉnh núi nhìn xuống, đội quân tiên phong và hai cánh quân Minh vẫn đang xung phong, còn chính giữa đội ngũ lại như xoáy nước cuồn cuộn không ngừng. Ba nghìn kỵ binh của Húc Nhật Can cũng đã xông lên, sử dụng mưa tên ngăn cản thế công của quân Minh chỉ trong chốc lát rồi sau đó cũng rơi vào vòng vây của quân Minh.

Lại là một trận hỗn chiến.

Vương Thủ Nhân chỉ mang mấy trăm người lao ra khỏi đội hình của Húc Nhật Can, cùng mấy ngàn binh mã hai cánh lao thẳng tới chiếc lều lông cừu phía trước.

Trong lều lông cừu là Đại Hãn Thát Đát và thủ lĩnh các bộ đã không còn đại quân bảo vệ.

Bắt giặc phải bắt vua trước!

Muốn cứu chỗ phải cứu của ta thì hãy tấn công chỗ phải cứu của địch trước!

Nếu như Vương Thủ Nhân thúc ngựa lên núi thì hắn sẽ không phát huy được ưu thế của kỵ binh, xông đến lưng chừng núi tất nhiên sẽ phải xuống ngựa khổ chiến với quân Thát đang tấn công núi. Cho dù rốt cuộc có đuổi tận giết tuyệt được toàn bộ quân Thát Đát đi chăng nữa thì việc có thể bảo đảm được an toàn của Hoàng đế trong đám loạn quân hay không lại là một vấn đề khác. Chiêu vây Ngụy cứu Triệu của hắn nhắm khiến cho quân Thát sắp đánh chiếm đỉnh núi không thể không lập tức quay lại cứu người, hiểm cảnh trên núi sẽ lập tức được giải khai.

Quả nhiên ngay từ lúc đội kị binh cứu viện của quân Minh lao tới, các đầu lĩnh quân Thát đang chỉ huy công núi đã phải chú ý theo dõi. Nay vừa thấy tình hình nguy hiểm, bọn họ liền lập tức tập kết đại quân lao ngay trở lại.

Tất cả thân binh bên người Bá Nhan và các thủ lĩnh cộng lại cũng chỉ được hơn một ngàn người, nhưng đều là những chiến sĩ dũng cảm. Bọn họ lập tức vung binh khí chặn trước mặt các thủ lĩnh, bắt đầu chém giết với quân Minh.

Xác người xác ngựa ngổn ngang, tay cụt chân gãy vô cùng thê thảm, máu tươi trộn lẫn bùn đất, mặt đất vốn phủ tuyết trắng tinh sớm đã đổi màu, không khí tràn đầy mùi máu tanh khiến mọi người buồn nôn.

Quan sát tình hình trước mắt, Dương Lăng lập tức bảo với Hứa Thái và Mã Cáp Lư đang máu nhiễm chiến bào:
- Thắng bại là ở lần này! Lập tức tập hợp toàn quân, tấn công quân địch chính diện, đón binh mã của Vương tướng quân tới gần!

Hứa Thái nhận lệnh, lập tức tập hợp đám quan binh còn chưa thở dốc xong. Trừ bộ binh, toàn bộ lên ngựa lao xuống núi. Tay cầm cây gậy sắt nặng nề, Mã Cáp Lư cũng gọi đám binh sĩ ba vệ còn sống sót lại, rồi cùng gào thét lao xuống núi. Hai luồng đại quân trang phục khác màu, đan xen vào nhau lao xuống, khói bụi bay lên cuồn cuộn. Trường thương, cương đao lấp lánh đầy sát khí bức người.

Bị Vương Thủ Nhân vây quanh tạo thành hai nửa vòng tròn một lớn một nhỏ là sáu ngàn thiết kỵ quân hậu bị Thát Đát và một ngàn tinh binh của Khả Hãn Bá Nhan và các thủ lĩnh bộ minh. Bên ngoài là binh lính Mông Cổ lũ lượt kéo về cứu viện, theo sát là hơn tám ngàn kỵ binh Đại Minh và Đóa Nhan Tam Vệ lao xuống, cố gắng thừa dịp trận hình phản bao vây của quân Thát chưa kịp hình thành để mở một lối đón viện quân lên núi.

Vó ngựa rầm rập, mặt đất rung động, các kỵ sĩ xung phong gào thét điên cuồng, trước sau trái phải khắp nơi đều là chiến sĩ địch ta lẫn lộn. Ngôn ngữ bất đồng nhưng tiếng gào thét như dã thú lại tương tự nhau.

Chính Đức trên đỉnh núi nhìn mà máu nóng sôi trào, vô cùng háo hức. Có điều, trừ phi Dương Lăng phơi thây tại chỗ, bằng không, dù chỉ còn một hơi thở y cũng không bao giờ chịu để hắn lên ngựa tham chiến.

Đúng lúc này tiếng sấm rền vang, tiếng hô xung phong rung trời, từ phía Phi Hồ Độ xuất hiện một cánh quân điên cuồng đạp tuyết chạy đến. Đội kỵ binh này giáp trụ sáng ngời, tất cả đều là đại đao cán dài, người như hổ, ngựa như rồng, bốn vó chiến mã tung bay, bụng ngựa gần như dán sát mặt đất.

Đội kỵ binh này quân số không nhiều, cùng lắm chỉ hơn ngàn người. Đội hình lại kéo rất dài, chỉ phi như bay chứ không hề quan tâm đến phối hợp, hơn nữa ngay cả chiến kỳ cũng không có, tỏ ra là một đội quân rời rạc. Nhưng đối với binh lính Thát Đát đã mất niềm tin tất thắng thì cánh quân xuất hiện đột ngột này đã triệt để đánh sập chiến ý của họ: Quân đội tiếp viện của quân Minh đã bắt đầu ùn ùn xuất hiện!

Dưới sự bảo vệ của hơn ngàn thân binh quyết tử, Bá Nhan cùng các đầu lĩnh đột phá vòng vây hội hợp với một chi hơn năm ngàn người ngựa từ trên núi kéo về tiếp viện, lúc này đội thân binh đã tổn thất hơn ba trăm người. Lòng đau như dao cắt, Bá Nhan biết trận tất tay này đã thất bại triệt để, lúc này còn không rút đi thì sợ rằng toàn quân đều phải bỏ mạng tại đây.

Tiếng kèn thê lương vang lên, đó là tín hiệu phá vòng vây rút lui của quân Thát...




Chú thích:

(1)




Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180&page=218
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
28-11-2012, 06:16 PM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 211 Công Phu Trốn Chạy Vô Địch



Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:





Trông thấy Dương Lăng nhíu mày nghi hoặc, hắn bèn giải thích:
- Ý là nói thuật cưỡi ngựa của chúng cao siêu, có thể vừa chạy vừa bắn tên ra phía sau. Đại nhân, tầm bắn của cung tên chúng ta không bằng giặc Thát, hơn nữa nếu chúng ta đuổi lên, vừa vặn hứng trọn tên bắn của giặc Thát; còn giặc Thát lại chạy lên phía trước, vừa khớp tránh được tên của quân ta. Chạy đi chạy lại như vậy, rốt cuộc bên trốn chạy sẽ giành được thắng lợi, ngược lại bên truy sát sẽ bị tổn thất lớn. Năm xưa thiết kỵ Mông Cổ viễn chinh các nước, nhờ vào phương pháp giả vờ trốn chạy này mà đã đánh thắng không biết bao nhiêu trận rồi.







Quyển 5 - Quần Ma Loạn Vũ
Chương 211 Công Phu Trốn Chạy Vô Địch






Quyển năm - Quần ma loạn vũ - Chương 211 Công phu trốn chạy vô địch

------------------------

Mấy vạn quân Thát Đát liều mạng tập kết về phía Bá Nhan Khả Hãn. Quân số bọn chúng quá lớn, ý chí liều chết chiến đấu cũng trở nên ngoan cường dị thường. Quân Minh không thể ngăn trở quân đội Thát Đát tập kết, đành thừa lúc đội hình bọn chúng đang bị chia cắt mà ra sức đâm chém, cố giết được càng nhiều kẻ địch càng tốt.

Đội kỵ binh quân Minh vừa phi vội tới cũng đã tham gia vào chiến trường đẫm máu. "Keng" một tiếng, cây thác thiên xoa trong tay một tên giặc Thát bị thanh đại đao trong tay viên kỵ sĩ phóng nhanh đến thuận thế choảng trúng, một sức mạnh không thể chống nổi hất tung thanh xoa bay xa hơn hai trượng.

Kỵ sĩ thứ hai đã đến. Lưỡi đao chĩa nghiêng về phía trước, mượn sức xông tới của khoái mã, dễ dàng vót lấy đầu tên Thát Đát đã mất binh khí. Thi thể không đầu vẫn đứng sững một lúc rồi mới phun máu ào ào, ngã oặt xuống đất.

Đang ở tư thế gò ngựa nghênh chiến, giặc Thát tự biết không thể đấu sức với kỵ mã quân Minh đang mượn sức ngựa lao tới. Dưới tình thế cấp bách, có mấy tên Thát Đát bèn phóng thương và kích trong tay phóng lao, mấy tên đứng xa hơn thì vội vã giương cung lắp tên bắn liên tục mấy mũi tên nhằm ngăn trở bớt thế xung phong của quân Minh.

Song bọn chúng còn chưa vững vị trí, thì kỵ binh đằng sau lại ùn ùn kéo qua, dẫn đầu là một viên tướng lĩnh mặt thanh mày tú, chính là Kinh Phật Nhi. Vốn hắn phụng mệnh thủ ở Phi Hồ Độ phòng ngừa có người bám theo Đoá Nhan Tam Vệ lén xông qua ải, nay trông thấy trên Trường Thành có khói lửa truyền tin, hắn bèn lập tức ra lệnh quân bảo vệ Phi Hồ Độ cảnh giới toàn diện, đề phòng giặc ngoài xâm nhập. Nhưng sau đó lại thấy trên đỉnh Bạch Đăng đốt lửa hiệu, hắn mới phát hiện có điều không ổn.

Tuy trên núi Bạch Đăng có trang bị lửa hiệu, nhưng vốn không có cơ hội dùng đến, trang bị chẳng qua cho có mà thôi. Cho dù binh mã Bá Nhan có mạnh cỡ nào cũng không thể trong khoảng thời gian ngắn như vậy mà có thể xông qua quan ải Trường Thành, ùa tới núi Bạch Đăng. Còn nếu Di Lặc giáo tụ tập dân chúng làm loạn, vây công núi Bạch Đăng, thì chỉ cần năm nghìn nhân mã trên núi và bảy nghìn phục binh cất giấu trong thành Đại Đồng là đủ để tiêu diệt bọn chúng cả chục lần.

Vậy, đã xảy ra chuyện gì khiến núi Bạch Đăng phải nổi lửa hiệu báo nguy? Phản ứng đầu tiên của Kinh Phật Nhi chính là "Đoá Nhan Tam Vệ giả trá!". Bọn chúng dẫn quân lên núi ký kết minh ước là giả, thí vua giết chúa mới là thật. Ngoài năm nghìn tinh binh của Đoá Nhan Tam Vệ ra, còn ai có thể nhanh chóng uy hiếp đám quân Minh cố thủ trên đỉnh núi đến như vậy? Thế là Kinh Phật Nhi không cần nghĩ ngợi gì, tức tốc dẫn hơn nghìn huynh đệ của hắn điên cuồng chạy về cứu giá.

Khi đến chân núi trông thấy trận chiến thảm liệt đang xảy ra trước mặt, Kinh Phật Nhi cũng giật nảy người. Ở đâu ra mà nhiều quân Thát Đát như vậy? Song lúc này hắn cũng không có thời gian đi hỏi nhiều đến thế; nếu hai bên đang chém giết, mình cũng đừng khách sáo gì hết mà xông lên giết người mới là chính đạo.

Trong tay Kinh Phật Nhi là một thanh đại khảm đao sống dày. Hắn đâm mạnh thanh đao tới trước, đại đao lướt qua ngực một tên tướng lĩnh Thát Đát vận giáp sắt hộ thân, tia lửa bắn lên, áo giáp hộ thân thủng một lỗ lớn kinh người, tức thì thịt bong máu vãi.

Nhát đao này vẫn chưa trí mạng, nhưng viên tướng lĩnh đó bị đâm ngã xuống ngựa, đang lăn mấy vòng trên đất. Không đợi hắn kịp bò dậy, vó ngựa cất lên rầm rầm đã đạp lên người hắn phóng qua. Tiếng la thét lẫn thân người giãy giụa chỉ kéo dài trong nháy mắt, khi một chiếc vó ngựa to bằng chiếc bát khác đạp lên lưng hắn, hắn đã không còn chút phản ứng.

Từng thanh đại đao điên cuồng vung chém, như bổ dưa thái rau, tước đi máu thịt một cách vô tình, mỗi khi ánh đao loé xuống, liền có máu tươi bắn lên.

Cuộc đại hỗn chiến đã bắt đầu. Khắp trên mảnh bình nguyên dưới núi Bạch Đăng là người với người. Toàn bộ vũ khí công kích tầm xa như cung tên, thương giáo, đều đã mất tác dụng, tất cả mọi người chỉ có thể nhặt lấy đao kiếm, đoản kích tìm lấy đối thủ mà đánh tay đôi. Đầu người lăn lông lốc, tay cụt bay tứ tung. Tiếng rên la rợn óc, tiếng vó ngựa hãi hùng, y hệt như chốn Tu La địa ngục.

Đến tận lúc này, Dương Lăng mới có thể thở phào nhẹ nhõm. Y lật đật chạy tới trước mặt Chính Đức, sụp người quỳ xuống, vui sướng bẩm:
- Chúc mừng Hoàng thượng! Hoàng thượng ngồi trong màn trướng bày kế, điềm tĩnh chỉ huy, khiến cho Bá Nhan không trộm được gà. Lần này quả thực hắn đã lỗ vốn lớn rồi!

Khuôn mặt tuấn tú trắng trẻo của Chính Đức cũng bị khói hun như vẽ bùa, hai con mắt đỏ ngầu, nhưng lại trông rất vui vẻ. Hắn vội bước tới đỡ Dương Lăng dậy, hớn hở:
- Dương ái khanh mau đứng lên đi. Dưới núi là hai lộ viện binh nào vậy? Bọn họ đến kịp thời như vậy, trẫm nhất định sẽ ban thưởng hậu hĩnh!

Không bỏ qua cơ hội tốt, Trương Vĩnh và Miêu Quỳ cũng lật đật bước lên ra sức nịnh hót Hoàng thượng một hồi.

Vừa rồi đám người Hoa Đáng thấy đỉnh núi suýt bị công chiếm, tim cả bọn đã nhảy lên tới cuống họng. Bọn họ thừa biết đã trúng kế hoãn binh của Dương Lăng, bị dụ dốc hết tinh binh giúp y giữ núi đợi đại quân tới bao vây Bá Nhan. Thực ra là Hoàng đế Đại Minh bị người ta lén tập kích, chẳng qua gặp được vận may mới chuyển nguy thành an mà thôi.

Song dưới tình thế này, hiện tại Chính Đức là bên thắng lớn, ai dám bước ra nói toạc sự thật để rước họa vào thân chứ? Hai bên đều biết rõ điều này, không cần phải nói ra.

Dù sao thì ván bài này Hoa Đáng cũng đã đặt đúng cửa, hắn bèn vội dẫn các thủ lĩnh bước tới nịnh hót Thiên Khả Hãn một lúc.

Ngân Kỳ nguýt Dương Lăng, thấp giọng:
- Số ngài thật tốt đấy!

Vòng vây trùng điệp đã được giải, Dương Lăng như vứt được đá tảng trong lòng, cảm thấy nhẹ nhõm cả người. Nghe vậy, y không khỏi cười nói:
- Số của bản quan lúc nào cũng tốt cả! Chỉ hại cô nương không thể trở thành Khả Đôn của Đại Hãn, thật là áy náy quá!

- Ngân Kỳ, lại đây ra mắt Thiên Khả Hãn!- Hoa Đáng cất tiếng gọi nàng, rồi khom người vỗ ngực bẩm với Chính Đức - Thưa Thiên Khả Hãn tôn quý, đây là đứa con gái Ngân Kỳ Kỳ Kỳ Cách của thần. Nó đòi đi theo tiểu thần để được yết kiến Thiên Khả Hãn, thần lo nó thất lễ trước mặt ngài, cho nên mới để nó cải trang làm thị vệ cận thân.

Nghe cha gọi mình, Ngân Kỳ quay sang hừ với Dương Lăng một cái vô thưởng vô phạt rồi rảo bước tới trước mặt Chính Đức thi lễ.

Sau một trận hỗn chiến, quân Minh đã xông tới dưới chân núi tụ tập thành một bước tường người, quân Thát Đát đối diện cũng dần co cụm lại, hai phe phòng thủ nghiêm ngặt. Dương Lăng bèn bẩm:
- Hoàng thượng, thần xin được xuống núi gặp gỡ tướng soái lĩnh binh một chốc.

Chính Đức gật đầu đồng ý, Dương Lăng lập tức dẫn hơn trăm tên thị vệ chạy xuống núi. Lúc này đại quân Thát Đát đã tập kết xong, quân số vẫn còn đông hơn quân Minh hơn một vạn. Vương Thủ Nhân bày nghiêm thế trận đối địch, đề phòng Bá Nhan tấn công. Còn bên phía đại kỳ của Bá Nhan, trong làn sóng la hò quái dị, đại quân Thát Đát cấp tốc rời khỏi chiến trường, chạy như điên về phía Đại Đồng.

Dương Lăng chạy tới bên Vương Thủ Nhân. Trong kinh hai người đã từng quen biết, lúc này cũng không có thời gian chào hỏi. Vương Thủ Nhân chỉ vội gật đầu tỏ ý chào, rồi liền tức tốc ra lệnh cho trung quân vẫy cờ truyền lệnh cho đại quân đuổi theo đánh giết những kẻ địch chậm chân.

Vương Thủ Nhân biết Hoàng đế còn ở trên núi, nên không dám xuất hết kỵ binh. Hơn nữa cho dù có xuất hết binh lực đi chăng nữa thì quân số vẫn còn thua xa đối phương, không thể tiêu diệt Bá Nhan hoàn toàn. Mà ngoài thành Đại Đồng còn có người Thát Đát, hai nhóm quân đó tụ hợp lại thì sẽ càng mạnh không thể chống nổi. Do đó, hắn chỉ hạ lệnh cho hai vị du kích tướng quân bày thế "đuổi sói ra khỏi ải" từ xa, giữ lại ba nghìn kỵ binh hộ giá dưới chân núi, còn mình đi theo Dương Lăng lên núi.

Trông thấy giặc Thát bỏ chạy, Kinh Phật Nhi bèn dẫn quân của mình reo hò đuổi theo chém địch, muốn gọi hắn trở lại cũng không kịp. Vương Thủ Nhân cũng không thấy mặt hắn trong đám loạn quân nên cũng không rõ đó là đội viện binh nào.

Bá Nhan đang tháo chạy, theo lý luận bình thường, truy sát bại binh là cơ hội hiếm có. Lúc giáp chiến với giặc Thát, quân của Vương Thủ Nhân hung hãn vô cùng, sao đến khi giặc Thát bỏ chạy hắn lại trở nên cẩn thận như vậy? Dương Lăng bụng đầy nghi vấn, rất khó hiểu sự thu xếp của Vương Thủ Nhân, cho nên giữa đường lên núi bèn hỏi luôn.

Vốn Vương Thủ Nhân rất có cảm tình với Dương Lăng. Hắn và Dương Nhất Thanh thì một an nhàn tại nhà, một bị nhốt trong đại lao, nay được tín nhiệm giao cho trọng trách như thế này là đều nhờ vào Dương Lăng đứng giữa hoà giải. Đại học sĩ Vương Hoa đã nhắc tới những chuyện này với con mình, vì vậy khi hắn càng có hảo cảm với Dương Lăng hơn.

Nghe Dương Lăng hỏi vậy, Vương Thủ Nhân mới cười khó xử đáp:
- Nếu như ti chức đoán không lầm, Cự Lỗ Môn đã lọt vào tay quân Thát Đát. Với tốc độ của kỵ binh bọn chúng, nếu muốn xông qua ải đột phá vòng vây, không ai sẽ có thể ngăn cản chúng được. Ưu thế của chúng ta là dựa vào binh lực chiến đấu trực diện, truy kích địch ở xa hậu phương không phải là sở trường của quân ta. Vả lại, cung đánh trận của giặc Thát bắn xa hơn trăm trượng, đặc biệt là tinh thông “Mông Cổ đãi xạ pháp”...

Trông thấy Dương Lăng nhíu mày nghi hoặc, hắn bèn giải thích:
- Ý là nói thuật cưỡi ngựa của chúng cao siêu, có thể vừa chạy vừa bắn tên ra phía sau. Đại nhân, tầm bắn của cung tên chúng ta không bằng giặc Thát, hơn nữa nếu chúng ta đuổi lên, vừa vặn hứng trọn tên bắn của giặc Thát; còn giặc Thát lại chạy lên phía trước, vừa khớp tránh được tên của quân ta. Chạy đi chạy lại như vậy, rốt cuộc bên trốn chạy sẽ giành được thắng lợi, ngược lại bên truy sát sẽ bị tổn thất lớn. Năm xưa thiết kỵ Mông Cổ viễn chinh các nước, nhờ vào phương pháp giả vờ trốn chạy này mà đã đánh thắng không biết bao nhiêu trận rồi.

Hơn nữa, ngựa Mông Cổ trông thì thấp bé như vậy, song lại dẻo dai vô cùng. Nó có thể chạy cự ly xa không cần phải nghỉ ngơi, hơn nữa bất kể giá rét hay nóng bức thế nào nó vẫn có thể sống được nơi dã ngoại. Kỵ binh chúng ta mới vừa đuổi tới, giờ đã mệt lử, bất luận là so về nhân số hay chiến lực đều kém hơn địch rất nhiều. Chẳng qua chúng ta chiếm được địa lợi và nhân hoà, cho nên Bá Nhan mới không còn lòng dạ nào ham chiến mà thôi.
Vả lại ngựa Mông Cổ cũng không đòi hỏi cao về thức ăn, chốn ở. Bất kể cao nguyên hoang mạc hay là đồng cỏ đất bằng, ngựa Mông Cổ cũng đều có thể tự tìm thấy thức ăn. Quân Mông Cổ đánh trận không bao giờ mang theo quân nhu. Một là bởi chúng dựa vào cướp bóc, dùng phương thức lấy chiến tranh nuôi chiến tranh; hai là bởi ngựa chúng phần lớn là ngựa cái, có thể cung cấp sữa ngựa để duy trì cuộc sống.
Người đời chỉ biết binh sĩ Mông Cổ cưỡi ngựa bắn cung đều giỏi, mà không biết rằng thuật trốn chạy của chúng càng đứng đầu thiên hạ. Giỏi nhất là giết địch trong lúc bỏ chạy, tiêu hao quân địch mà giành lấy thắng lợi. Bởi vậy cho nên trừ phi nắm chắc có thể ép chúng quyết chiến trực diện; bằng không bất cứ lúc nào, bất luận ở đâu binh lực chiến đấu cũng sẽ không bằng bọn chúng. Khi không thể ép chúng quyết chiến trực diện thì vạn lần không thể đuổi theo.

Dương Lăng nghe mà ấn đường chau lại, chợt bảo:
- Nghe Vương đại nhân nói vậy, bản quan khiếp sợ vô cùng. Thảo nguyên sa mạc là bãi săn thiên nhiên của bọn chúng. Nếu như không khiến chúng tự tàn sát làm hao mòn thực lực của nhau, thì cho dù quân ta gấp mấy lần quân địch, việc đối phó với mấy vạn thậm chí mấy chục vạn quân Thát Đát cũng đều phải bỏ ra cái giá không biết sẽ lớn đến dường nào.

Vương Thủ Nhân mỉm cười:
- Chính là như vậy! Cho nên nếu đã không thể tận diệt Bá Nhan và Hỏa Sư trong biên cảnh Đại Minh ta, chi bằng để chúng cùng nhau chạy về thảo nguyên. Chờ diệu kế của đại nhân phát huy hiệu quả, chúng ta lại mời chúng quay lại cũng không muộn.

Hai người đưa mắt nhìn nhau cùng cười, có cảm giác đồng cảm lẫn mến mộ giữa những người hiểu biết.

Giữa Đoá Nhan Tam Vệ cùng Thát Đát và quân Minh thường xuyên xảy ra chiến tranh, cho nên bọn họ hiểu rõ chiến lực và tính cơ động của đôi bên. Vì vậy khi thấy Bá Nhan dẫn quân đột phá vòng vây, quân Minh đang đuổi theo sau lại có binh lực thua kém Thát Đát thấy rõ thì Bá Nhan đoán rằng trận này khó mà tận diệt Thát Đát tại đây.

Có điều quân tinh nhuệ Thát Đát có bốn năm vạn quân, nay cả chết lẫn bị thương nằm lại đây gần một vạn người. Đối với triều đình nhà Minh thì con số một vạn người này chẳng là gì, song đối với những bộ lạc thảo nguyên, con số này có ý nghĩa lớn đến thế nào bọn họ đều biết rõ rành rành. Huống hồ phía trước còn có quân đội Đại Minh trở về cứu viện, nên đến khi quân Thát Đát thực sự xông được qua quan ải thì không biết sẽ còn tổn thất biết bao nhiêu người ngựa nữa.

Bên này yếu đi thì bên kia mạnh lên. Được Đại Minh chống lưng, Hoa Đáng dường như thấy được ngôi báu Đại Hãn Mông Cổ đã vẫy tay gọi mình.

Thế là Hoa Đáng mừng rỡ cáo từ Chính Đức. Bá Nhan rời khỏi quan ải ắt sẽ chạy không ngừng nghỉ trở về đại mạc, vừa vặn chắn ngay trên đường bọn họ trở về Đoá Nhan Tam Vệ, cho nên bọn họ phải mau chóng ly khai. Ngoài ra cũng cần phải trở về để sớm chuẩn bị phòng ngừa Thát Đát lại quay sang cướp đoạt lương thảo của bọn họ.

Chính Đức đồng ý ngay, sai người lấy năm nghìn lạng vàng ròng, năm mươi rương tơ lụa và bánh trà được chuẩn bị sẵn trong hang ra tặng cho Đoá Nhan Tam Vệ. Ba nghìn kỵ binh còn lại của Đoá Nhan mang theo giấc mơ trở thành vì vua của đại mạc phóng ngựa về phía Phi Hồ Độ dưới sự hướng dẫn của kỵ binh quân Minh.

Sau khi bọn họ đi rồi, Chính Đức bèn gọi Vương Thủ Nhân lại, hỏi rõ nhân thân của hắn. Khi biết được hắn là con của đại học sĩ Vương Hoa, Thái phó của phụ hoàng mình, thì Chính Đức không khỏi mừng rỡ bảo:
- Tốt lắm! Quả nhiên hổ phụ không sinh khuyển tử. Ái khanh cứu giá kịp thời, vây hãm Thát Đát, giúp đỡ xã tắc, sau khi hồi kinh trẫm nhất định sẽ luận công ban thưởng.

Đoạn hắn sa sầm nét mặt, nghiêm giọng:
- Trẫm cùng Dương khanh bày diệu kế diệt trừ cái hoạ trăm năm. Nay mục đích phân hoá hai đại thủ lĩnh của Thát Đát đã đạt được; mục đích lập minh hữu cùng Đoá Nhan Tam Vệ, xua sói đấu cọp cũng đã đạt được. Thế nhưng Tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh đang làm gì chứ?
Trẫm có rãnh trời Trường Thành chống giữ, trẫm bày binh mười vạn cho quan ải! Thế mà ngay ngoài thành Đại Đồng này, Bá Nhan lại có thể lùa toàn bộ đại quân xâm nhập biên cảnh, suýt nữa lấy đầu của trẫm! Dương Nhất Thanh tội không thể tha! Trẫm nhất định sẽ xử hắn thật nặng!

Thấy tiểu hoàng đế toát sát khí lẫm liệt, Vương Thủ Nhân rùng mình, thầm nhủ Dương Nhất Thanh tiêu rồi.

Suy nghĩ một lúc, hắn từ tốn thưa:
- Vi thần vốn dĩ bám theo sau đuôi Hỏa Sư, trông thấy khói hiệu nổi lên liền chạy vội tới cứu giá, cho nên vẫn không rõ tường tận Bá Nhan xâm nhập quan ải thế nào, vốn không tiện xen vào...
Nhưng trong lúc lùng đuổi Bá Nhan, thấy đại quân của hắn không hề có dấu hiệu gì là vừa trải qua chiến đấu gian khổ mà lại có vẻ dễ dàng tiến thẳng vào trong quan ải. Thần nghi ngờ trong tướng lĩnh canh giữ biên giới đã có người tư thông Thát Đát. Dương tổng chế mới vừa nhậm chức liền đã phải lĩnh quân tác chiến, cho nên quả thật không kịp chỉnh đốn tướng lĩnh phòng thủ các quan ải. Nếu... nếu như có người mở cửa dâng ải cho giặc, ấy không phải là tội của Dương tổng chế vậy...

Chỉ huy tác chiến bất lực, gây tổn thương lớn là đủ bị tống vào trong đại lao. Nay Hoàng đế gặp mặt Đoá Nhan Tam Vệ trên núi Bạch Đăng, đã thông báo cho Dương Nhất Thanh từ trước, chỉ sử dụng năm nghìn tinh binh thuộc Kinh doanh nhằm đề phòng giặc trong là Di Lặc giáo, còn hắn thì phòng bị giặc ngoài. Thế mà đại quân của Bá Nha lại vẫn dễ dàng chọc thủng khu vực phòng thủ của hắn, xuất hiện dưới chân núi Bạch Đăng một cách đường hoàng, suýt nữa đẩy Hoàng đế vào chỗ chết, chỉ bị chém đầu đã là xử nhẹ tội lắm rồi.

Không dám trực tiếp ra mặt gỡ tội cho ông ta, Vương Thủ Nhân chỉ giải thích qua rồi nhìn sang Dương Lăng với ánh mắt khẩn cầu. Hiện tại người có thể thuyết phục được Hoàng đế đại khái chỉ có Trương Vĩnh và Dương Lăng. Hắn không quen biết Trương Vĩnh, cho nên chỉ có thể trông mong Dương Lăng ra mặt nói hộ.

Ngụ ý của hắn là, đúng là Dương Nhất Thanh là Tam biên tổng chế phụ trách việc phòng ngự khu vực này, nhưng lần này Bá Nhan xông qua quan ải không phải là vì Dương Nhất Thanh chỉ huy không giỏi mà là vì có nội gián tiếp ứng; cho dù Gia Cát Vũ Hầu sống lại cũng không thể sắp xếp đề phòng chu toàn. Chẳng lẽ lại đem thay hết toàn bộ tướng lĩnh tam quan bằng tâm phúc của ông ta? Nếu thật sự muốn truy cứu... có lẽ nên truy cứu kẻ đã đề bạt nội gián đi nhậm chức ở biên ải hiểm yếu mới phải.

Hiểu được ý trong lời của Thủ Nhân, Dương Lăng bèn vội bước tới rỉ tai Chính Đức:
- Hoàng thượng mới vừa kế vị liền đã lên núi Bạch Đăng thương thảo với Đoá Nhan Tam Vệ, kết minh tương trợ lẫn nhau, giúp yên ổn Liêu Đông, ấy là công tích văn trị to lớn vậy. Tương kế tựu kế, lấy thân làm mồi, dụ giặc vào tròng, lấy ít thắng nhiều, giết địch hơn vạn, lập nên chiến tích lẫy lừng nhất từ thuở Vĩnh Lạc đại đế xua quân bắc phạt, ấy là thành tựu võ công vĩ đại vậy.
Dương tổng chế vừa đến biên thùy liền đã kềm chặt Bá Nhan, lại tách một đạo kỳ binh tập kích sau lưng địch, giúp Hoàng thượng phân hoá Thát Đát, lập được công trạng lẫy lừng, thật sự là tướng tài khó được. Bá Nhan vượt ải không phải là tội Dương tổng chế thua trận. Nếu trách phạt quá nặng, khó tránh tổn thương đến lòng tướng sĩ biên cương, lại khó tránh bá quan trong triều nảy lòng nghi ngờ. Vả lại bọn họ vốn phản đối Hoàng thượng đích thân tuần thú, nếu làm vậy chẳng phải sẽ tạo thêm cơ hội cho bọn họ ư?

"Văn trị, võ công"? "Chiến tích lẫy lừng nhất từ thuở Vĩnh Lạc đại đế xua quân bắc phạt"? Nghe xong hai câu này, Chính Đức vốn thích được nịnh bợ liền hớn hở mặt mày, vội bảo:
- Ái khanh nói rất phải, suýt nữa thì trẫm đã tự hủy chiến công... à không... tự hủy trường thành (ý là Dương Nhất Thanh – Ba_Van) của mình rồi. Dương Nhất Thanh vẫn là tướng tài canh giữ biên cương hiếm có. Có điều chuyện này tuy không thể làm lớn, song vẫn phải điều tra biên quân tận tường, phàm là kẻ khả nghi đều phải thay mới hết. Chuyện này trẫm sẽ giao cho khanh làm. Tướng lĩnh canh giữ biên quan có nhiều gian tế trà trộn vào như vậy, có trời mới biết lúc nào lúc nào sẽ trở thành đại họa?

Dương Lăng vội gật đầu khen phải. Vương Thủ Nhân nhìn y đầy cảm kích, rồi xin phép Hoàng đế quay trở xuống núi. Hắn bắt đầu chỉ huy sĩ tốt kiểm kê thương vong, quét dọn chiến trường, giam giữ tù binh, đồng thời sai người chạy về Đại Đồng theo dõi tình hình cuộc chiến để quyết định hành động kế tiếp của Hoàng đế.

...

Khi trông thấy lửa hiệu từ phía Đại Đồng, Trung vệ chỉ huy sứ của Thái Nguyên vệ là Đặng Học Anh liền lập tức chạy vào trong lều soái của Trương Dần bẩm báo, tiếp đó Tả chỉ huy sứ cùng các tướng lĩnh cao cấp đưới trướng đều giáp trụ chỉnh tề lần lượt kéo đến lều soái.

Trương Dần thầm cao hứng trong lòng. Đã mấy ngày rồi mà Bá Nhan vẫn chưa thực hiện cuộc tấn công quan ải có quy mô nào, nay lửa hiệu được đốt lên, tám chín phần mười là đã tập kích quan ải thành công. Khổ tâm sắp đặt bao năm, rốt cuộc hôm nay đã có kết quả, bảo sao mà hắn không mừng như điên cho được?

Ý định ban đầu của Trương Dần là đóng quân tại chỗ, lẳng lặng ngồi chờ xem kết quả cuộc chiến. Dương Nhất Thanh điều đại quân của hắn tới, vốn để đề phòng Bá Nhan tiến đánh quan ải trong lúc Hoàng đế liên kết đồng minh, cho nên chỉ ra lệnh cho hắn chi viện thành lũy bị tập kích. Nhưng Dương Nhất Thanh không ngờ đại quân Bá Nhan lại có nội ứng từ trước, dễ dàng đột nhập vào quan ải tiến thẳng đến núi Bạch Đăng.

Nếu như hai bên quyết chiến giằng co trên quan ải, thì còn kịp phái người thông tri cho Trương Dần. Đằng này đã Bá Nhan lao thẳng tới chân núi Bạch Đăng rồi thì Dương Nhất Thanh mới được bẩm báo, thế là ông ta hồn phi phách tán, lập tức điều động đại quân từ quan ải lại, đồng thời phái quân dịch trạm điều động gấp Trương Dần về cứu viện. Còn về phần đại quân hắn có đến kịp để cứu giá hay không thì ông ta cũng chẳng còn thời gian để mà quan tâm nữa.

Khoái mã trạm dịch mang lệnh tiễn của Dương tổng chế còn chưa tới, nội bộ tướng lĩnh đội quân của Thái Nguyên vệ đã cãi nhau ỏm tỏi. Trương Dần thì cho rằng cứ nên tuân theo mệnh lệnh của Dương Nhất Thanh, đóng quân tại chỗ chờ lệnh rồi mới quyết định hành động kế tiếp. Trung vệ chỉ huy sứ Đặng Học Anh thì lại cho rằng nên làm theo thông lệ, khi có lửa hiệu nổi lên, quân trú đóng lân cận phải tức tốc tiếp viện quan ải. Tả vệ chỉ huy sứ Quan Dũng thì lại khăng khăng rằng "tướng ở ngoài trận không nhất thiết phải tuân quân lệnh", nếu lửa hiệu đã nổi thì nên lập tức chạy về Đại Đồng để phòng bất trắc.

Trương Dần cố ý kéo dài thời gian, dung túng cho hai tướng tranh chấp, còn mình thì ngồi ngoài xem, chỉ phái thám mã sử dụng khoái mã đi Đại Đồng dò sát quân tình. Mãi đến lúc tranh cãi gần được một canh giờ, nhận định cho dù bây giờ có nhổ trại ngay lập tức thì cũng không kịp tiếp viện núi Bạch Đăng, hắn mới bèn "quyết đoán" làm theo ý kiến của Quan Dũng, khởi binh tiến về Đại Đồng.

Đại quân đi được nửa đường thì gặp được quân dịch trạm do Dương Nhất Thanh cử đến. Các tướng nghe báo Bá Nhan đã công phá quan ải, đang đánh về hướng núi Bạch Đăng thì hoảng hốt thất kinh, liền gấp rút chỉ huy đại quân chi viện.

Khi đi qua Kháng Hồ Bảo nơi Vương Thủ Nhân tiến vào quan ải, thám mã của hắn cũng đã đưa tin báo Đại Đồng và núi Bạch Đăng cùng đang bị bao vây, Vương Thủ Nhân mang tinh kỵ gấp rút tiếp viện núi Bạch Đăng, đại quân của Dương Nhất Thanh cũng đang trên đường trở về tiếp viện.

Vốn Trương Dần dự liệu rằng quân giữ ải đều là lính bộ nên không thể chi viện Bạch Đăng kịp thời, giờ hắn nghe nói đội quân chuyên tìm giặc tác chiến ngoài quan ải của Vương Thủ Nhân đi sau mà tới trước, không ngờ đã chạy tới núi Bạch Đăng, thì không khỏi cảm thấy bất an trong lòng. Toàn bộ quân sỹ của Vương Thủ Nhân đều là kỵ binh. Một vạn sáu, vạn bảy kỵ mã tuy thua xa binh mã Bá Nhan về số lượng, nhưng nếu dùng để giữ núi thì lại dư giả đến thừa. Nếu như bọn họ chạy đến kịp, diệu kế tìm thắng lợi trong nguy hiểm của hắn nhất định sẽ thất bại trong gang tấc.

Thấy Trương Dần bồn chồn lo lắng ra mặt, Tả và Trung chỉ huy sứ lại tưởng đại nhân trung thành tận tụy, lo lắng cho an nguy của Hoàng thượng nên bèn giục binh mã vứt bỏ quân trang nặng nề, chỉ đeo hành trang gọn nhẹ chạy nhanh tới Đại Đồng.

Đại quân mới vừa tới con đường chính dẫn tới Cự Lỗ Môn, mọi người đã nghe thấy tiếng vó ngựa như sấm vọng lại từ xa, dường như muôn ngựa rong ruổi. Đại quân của Bá Nhan Khả Hãn ra sức tháo chạy về Đại Đồng, tụ họp với đội binh mã của Hỏa Sư đang công thành trong vô vọng đã cùng trốn chạy đến...




Chú thích:

(1)




Topic bình luận : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48180&page=218
Góp ý bản dịch: http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=48794
Tham gia dịch cùng anh em : http://www.tangthuvien.com/forum/showthread.php?t=43332 :025::025::025:
Ba_Van
08-12-2012, 09:55 AM
Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển năm – Quần Ma Loạn Vũ

Chương 212 Một Chiến Thành Danh



Dịch: Losedow

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com



Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!:grin::grin::grin::grin:






"Đoàng! Đoàng! Đoàng!" Tiếng súng hỏa mai vang lên. Khoát Khoát Đài vừa xoay người đã bị bốn năm mũi tên đâm sâu vào lưng, máu phun ra theo thân tên, cùng lúc đó tấm áo choàng bằng da thuộc cũng bị đạn bắn tan nát.

Hắn không nén được giận trợn tròn mắt:
- Vì sao... Vì sao không cho ta chết trận một cách anh hùng?

Khoát Khoát Đài muốn xoay người lại chất vấn quân Minh, nhưng cánh tay lực lưỡng của hắn không còn sức mạnh để nắm chắc cương ngựa nữa. Thân thể chỉ hơi lay động rồi hắn trợn trừng mắt, ngã cắm đầu xuống đất...

- Cường đạo chính là cường đạo, cho dù hắn rất dũng cảm... thì chẳng qua cũng chỉ là một cường đạo dũng cảm. Ngươi đã bao giờ thấy quan binh giết cường đạo còn phải tuân thủ luật lệ, qui tắc với chúng chưa?
Hai năm sau, tay lính hỏa mai Lỗ Nhị Ngưu đã thăng đến Bách hộ, nghiêm khắc giảng giải cho tiểu binh dưới quyền về trận chiến này.







[COLOR="Green"][SIZE="4"]Quyển 5 - Quần Ma Loạn Vũ
Chương 212 Một Chiến Thành Danh


Chương 212: Một Chiến Thành Danh


Lúc này, chúng ta chỉ có thể hình dung tâm tình của Trương Dần bằng câu không biết nên khóc hay nên cười. Vì sao đúng vào lúc này đại quân của Bá Nhan lại trốn về quan ải? Kế hoạch ám sát hoàng đế Đại Minh đã thành công rồi hay sao?

Bất kể thế nào đi nữa, muốn tiếp tục ẩn giấu trước mắt bao người thì mình cũng chỉ có thể cố gắng ngăn chặn đại quân của Bá Nhan lại. Nếu như Hoàng đế còn sống thì Bá Nhan chẳng qua chỉ là một con chó săn đã không còn giá trị sử dụng giống như Dương Hổ, đội quân của hắn bị tống lên thiên đình chính là đại công của mình, giúp mình che giấu được triều đình càng tốt hơn nữa.

Nếu như Hoàng đế đã chết thì nhân cơ hội này mình chặn giết một mớ quân Bá Nhan khiến Thát Đát suy yếu, nâng đỡ Ninh vương lên ngôi. Sau đó dựa vào chiến công và công phò tá để nắm giữ binh quyền, dần dần mình liền có thể ung dung giành lấy giang sơn. Thật sự cho rằng ta sẽ cắt nhường Cam Túc, Thanh Hải và Liêu Đông cho thằng ngu như ngươi sao?

Trương Dần cười lạnh lùng, không đợi tướng lĩnh dưới quyền hỏi lệnh đã lập tức hạ lệnh:
- Đặng chỉ huy nhanh chóng bố trận bán nguyệt cản địch. Quan chỉ huy dẫn quân chiếm giữ điểm cao bên cạnh khe núi hẹp. Tướng sĩ bản bộ xếp thành phương trận!

Lúc này quân Thát cũng đã phát hiện cửa quan ải có đại đội quân Minh ngăn chặn. Đây là lối thoát duy nhất để bọn chúng chạy ra tái ngoại, vượt qua được thì chính là lên thiên đường, bị chặn lại thì sẽ có nguy cơ toàn quân bị diệt. Giữa ranh giới sống chết, đám quân Thát Đát đang liều mạng chạy trốn lại nổi lên bản tính hung hãn, kỵ binh vừa xông lên vừa bắt đầu nhanh chóng tụ tập lại tạo nên trận hình xung phong quyết chiến "đầu lợn rừng".

Loại trận hình này tương tự như trận hình tấn công mũi dùi của Trung Nguyên nhưng đội hình tập trung hơn, gần như ném bừa một hòn đá vào là có thể trúng ngay một tên lính hoặc một con ngựa. Đàn khoái mã đồng loạt phi nhanh nhằm mượn xung lực mạnh mẽ phá tan đội hình của quân ngăn chặn chỉ trong một lần xung phong.

Nhìn thấy uy thế dũng mãnh của địch đến mức này, Đặng Học Anh cũng không khỏi thầm hoảng sợ, nhưng lúc này cũng không thể lo nghĩ được nhiều nữa. Dưới sự chỉ huy của hắn, trường thương binh lập tức lao tới cửa khe núi vội vã lập thành một trận hình chặn đánh có dạng nửa vòng tròn lồi, sâu chín lớp.

Đối phó với làn sóng xung phong điên cuồng của kỵ binh như vậy, biện pháp tốt nhất của bộ binh là đứng phía sau chiến xa để ứng chiến. Nhưng nhiệm vụ cánh quân này khi hộc tốc chạy tới Đại Đồng là tiếp viện cho quan ải bị tấn công, hoàn toàn không mang theo chiến xa để tác chiến trên đất bằng.

Nếu như chỉ dùng bộ binh được trang bị nặng với trường thương cản địch thì phải lập ba nhóm quân hình tròn cách xa nhau năm sáu trượng, mỗi nhóm xếp thành mười sáu lớp chiều sâu, mới có thể chặn được đại đội kỵ binh xung phong. Nhưng lúc này có muốn cũng không còn kịp nữa.

Đội quân Thát Đát đánh úp núi Bạch Đăng vốn định một trận là thành công nên đều mang theo rất nhiều tên, mỗi người co cả sáu mươi mũi tên nanh sói, bây giờ trong túi của mỗi người cũng còn lại hơn mười mũi. Còn cách xa, bọn chúng đã đồng loạt giương cung bắn như vũ bảo, hàng vạn mũi tên bay lên không, khí thế cực kì đáng sợ.

Đội trường thương binh cùng hô lên một tiếng, lũ lượt cúi sát xuống đất, tay phải cầm cán thương dài đến hai trượng buộc tua đỏ, đầu cán chống chắc xuống đất, tay trái cầm lá chắn tròn che đầu. Lá chắn tròn không lớn nhưng binh lính đều cúi sát xuống đất nên cũng đủ để bảo vệ các phần yếu hại trên người.

Nhưng loạt tên của quân Thát quá mức dày đặc. Hàng loạt tiếng soạt soạt vang lên, dương như mặt đất trắng xóa bởi tuyết đột nhiên mọc đầy một mảng cỏ dại, những mũi tên có góc độ xảo quyệt vẫn bắn trúng một vài binh lính. Ngay tiếp đó đoàn thiết kỵ Thát Đát sải vó như rồng phi đã đến nơi.

Loại thương tua đỏ dài đến hai trượng này có sáp ong làm lõi, thân trúc làm cán, lại quấn thêm nhiều lớp sợi tơ, các lớp tơ này được kết dính bởi nhiều lớp sơn, cuối cùng lại sơn đen toàn thân. Cán thương kết hợp cương nhu vô cùng chắc chắn, đao búa tầm thường khó thể làm sức mẻ, có thể chịu được sức mạnh mà không gãy, không hề thua kém cán thương bằng sắt thép mà lại hơi nhẹ nhàng hơn.

Thiết kỵ Thát đát đã lao tới. Tuy bọn chúng biết rõ là sẽ phải chết thảm nhưng cũng không còn con đường thứ hai để chọn, thậm chí chỉ cần hơi chần chừ do dự thì sẽ lập tức bị đại quân cuồn cuộn không ngừng phía sau đụng ngã, giẫm đạp đến chết. Bọn chúng chỉ có thể xông lên, bất kể trong lòng có sợ hãi, có thật lòng muốn vậy hay không.

Mũi thương sắc lạnh lấp lánh chói mắt san sát như rừng đâm chếch lên một góc khoảng 35 độ. Chiến mã còn chưa chạm đến mũi thương thì kỵ sĩ trên ngựa đã tuyệt vọng hét điên cuồng, dướn mình lên vung đại đao mãnh liệt bổ xuống.

Tiếng “phụp phụp” , “răng rắc” vang lên không dứt bên tai. Đó là âm thanh trường thương xuyên vào thân thể máu thịt của người lẫn ngựa cùng với tiếng vũ khí bị sức mạnh khủng khiếp bẻ gẫy. Kị mã trên ngựa rú thảm, lính trường thương dưới đất chặn đánh kẻ dịch cũng kêu thảm, người ngã ngựa đổ, hoa máu tung tóe.

Tiếng vó ngựa như sấm, đợt kỵ binh thứ hai đã ùa tới trong nháy mắt. Máu tươi trên không trung còn chưa rơi xuống đất, vó ngựa của bọn chúng đã giẫm đạp không lưu tình lên thân xác chiến mã và đồng đội vừa ngã xuống. Lại là âm thanh nặng nề khi trường thương xuyên vào cơ thể và tiếng kêu thảm tuyệt vọng của binh lính.

Đoàn ngựa đạp đội quân. Nếu như đội quân này là rừng rậm do thương dài, kích bén tạo thành thì sao?
Quân Thát tràn tới như thủy triều, các chiến sĩ xông vào trước tiên giống như sóng nước vỗ vào tảng đá, đột nhiên tung lên không trong tiếng gầm giận dữ rồi nặng nề ngã xuống tan xương nát thịt. Làn sóng sau lại tiếp tục quyết đoán tràn tới.

Trận địa trường thương dày chín lớp không thể ngăn cản đại quân Thát Đát liều mạng xung phong. Rốt cục "đầu lợn rừng" cũng phá vỡ được đội hình ngăn chặn rồi tiếp tục chạy trối chết vào trong khe núi. Xác người xác ngựa ngổn ngang ngoài cửa khe khiến tốc độ tháo chạy của đại quân Thát Đát hơi chậm lại.

Lúc này quan binh bản bộ của Trương Dần đã chia ra lập thành bốn phương trận thật lớn ngoài khe núi không ngừng bắn tên vào đám kỵ binh Tatar đông nghìn nghịt đang tràn tới. Đây là cửa khe núi, Bá Nhan và Hỏa Sư biết rõ nếu như ham chiến ở đây thì quân Minh đã chiếm được điểm cao ngoài cửa khe núi sẽ có thể ung dung bố trí, lúc ấy tình hình không thể vãn hồi được nữa. Các đội truy binh cùng kéo đến thì chắc chắn phía trước Cự Lỗ Môn sẽ biến thành Diệt Lỗ Cốc. Vì vậy bọn họ không còn lòng dạ nào ham chiến mà chỉ nghiêm lệnh đại quân tăng tốc, cố gắng vượt qua rừng thương mưa tên càng nhanh càng tốt để xông qua khe núi, rồi hợp quân với đội quân đang vất vả phòng thủ Cự Lỗ Môn.

"Soạt! Soạt" Lông trắng đầy trời gào thét ào tới. "A! A!" Tiếng kêu thảm thiết thê lương vang lên từ trong đội ngũ, thân hình những kẻ trúng tên lộ ra nửa mũi tên với đuôi lông tới tấp ngã xuống ngựa. Kỵ binh phía sau dựa vào lực quán tính tiếp tục lao mạnh về phía trước.

Binh lính Thát Đát chưa bao giờ phải tham gia một trận đánh hèn nhát như vậy. Nếu như tác chiến chính diện thì bốn phương trận quân Minh sắp xếp ngoài cửa khe núi kia hoàn toàn không chống đỡ nổi thế xung phong của kỵ binh. Một khi đã bị bọn chúng chia cắt, chém gãy soái kỳ và cờ lệnh thì đám quân Minh không còn tổ chức và chỉ huy chắc chắn sẽ không đủ để chúng tàn sát trong một canh giờ.

Tuy nhiên ai biết triều đình nhà Minh còn có bao nhiêu viện quân đang lần lượt chạy tới? Ăn gỏi được đám quân này cũng đồng nghĩa với toàn quân bên mình sẽ phải chôn vùi ở đây. Khoái mã lao nhanh, người ngựa chen chúc, bọn chúng thậm chí không thể bắn tên phản kích mà chỉ có thể không ngừng xông, xông, xông lên dưới làn mưa tên và lửa đạn! Liên tiếp có người rơi xuống ngựa, liên tục có người mất mạng.

Đám quân Thát Đát xông được vào khe núi đã nhìn thấy quan ải Trường Thành xa xa trong tầm mắt. Nhưng vẻ mừng rỡ còn chưa kịp hiện lên mặt thì cơn mưa tên trí mạng từ đội quân của Đặng Học Anh trên điểm cao đã dội xuống đầu bọn chúng.

- Dựng lá chắn! Dựng lá chắn!
Có người hô to bằng tiếng Mông.

Nhưng quân Minh từ trên cao bắn xuống, cho dù một số kẻ đang phi nhanh vẫn còn kịp lấy lá chắn gỗ hoặc lá chắn bằng thép ra che chắn thì cũng chỉ bảo vệ được người chứ không bảo vệ được ngựa. Chỉ trong chốc lát, khu vực mưa tên rải xuống đã máu chảy thành sông.

- Chia quân công núi, đoạt điểm cao đó!
Có người lớn tiếng ra lệnh.

Hai tướng lĩnh Thát Đát gào thét dẫn mấy ngàn binh mã điên cuồng xông lên sườn núi. Bọn chúng không mong thật sự có thể đoạt được điểm cao này mà chỉ cần kiềm chế được quân Minh để che chở cho đội quân chủ lực thuận lợi vượt qua khe núi.

Cưỡi ngựa trên sườn núi bất lợi nhưng chiến sĩ Mông Cổ nhảy xuống ngựa vẫn thành thạo cung tên. Bọn họ bắn tên nhanh hơn, tầm bắn xa hơn quânMinh, đội quân của Đặng chỉ huy tạm thời bị ngăn chặn. Đã dùng mạng người tranh thủ được chút thời gian quý giá, quân Thát không ngừng xông vào khe núi, lao tới Cự Lỗ Môn như nước lũ.

Quân Thát đã xông vào hơn nửa. Dưới những đợt tấn công không ngừng của quân Minh, khắp trong và ngoài khe núi đầy xác chết. Truy binh quân Minh phía sau cũng đã rượt đến. Trương Dần cưỡi ngựa đứng trên một con dốc nhỏ quan sát tình thế chiến trường, trong tay là một cây trường thương dài trượng tám, cán thương chống xuống đất. Đột nhiên nhìn thấy cờ xí quân Minh xa xa, Trương Dần chăm chú nhìn kỹ,một lúc sau trong mắt hắn không khỏi thoáng qua một tia thất vọng.

Kinh Phật Nhi thúc quân rượt sát theo quân Thát Đát để kiếm chác, nhưng đuổi được tới Đại Đồng thì ngựa đã đuối. Hắn dùng thanh đại đao sáu mươi cân, thật sự là quá mức nặng nề, chiến mã không chịu nổi sức nặng của hắn lẫn vũ khí trên cả quảng đường dài. Hơn nữa hắn dốc toàn lực chạy một hơi từ Phi Hồ độ về núi Bạch Đăng, chưa hề ngơi nghỉ, nay thực sự không thể đuổi theo giặc được nữa. Vừa thấy thành Đại Đồng đã được giải vây, hắn liền xuống ngựa vào thành ra mắt bố nuôi trước. Lúc này đuổi ở phía sau quân Thát chính là binh mã của hai vị thiên tướng dưới quyền Vương Thủ Nhân.

Truy binh Đại Minh xa xa đã uể oải dừng lại cách một tầm tên giống như vui vẻ đưa tiễn tàn binh Thát Đát ra khỏi bờ cõi, đâu có vẻ nào nóng lòng báo thù cho chúa? Nếu bảo ngựa bọn họ đã đuối sức thì sao khi thấy phía trước có quân đội bạn chặn địch thì họ lại đột nhiên thúc ngựa nhanh chóng chạy tới? Chỉ cần xem tình hình này, Trương Dần đã biết Bá Nhan thất bại.

Hắn nặng nề thở dài một hơi trong lòng rồi mới lấy lại tinh thần, giơ trường thương trượng tám lên, mũi thương chỉa về phía trước lẫm liệt quát:
- Ba quân ra hết! Chặt đứt đội quân đoạn hậu của giặc Thát!Giết!

Ra lệnh xong, hắn thúc ngựa dẫn dội thân binh của mình lao ra.

Tuy Trương Dần được xem như một viên nho tướng nhưng tài cỡi ngựa của hắn quả thực rất tuyệt. Cây trường thương trượng tám như rắn độc phun lưỡi, gạt trái đâm phải tung hoành giữa trận địa địch, xuyên qua xuyên lại như con thoi, gạt, đâm, quét, chọc. Thế thương của hắn loang loáng qua lại khó thấy bóng dáng, trong khoảnh khắc đã đâm ngã năm sáu binh sĩ Thát Đát rơi xuống ngựa.

Mấy trăm thân binh của hắn theo sát phía sau như một thanh kiếm sắc cắt đứt đường đi của hơn một ngàn quân Thát đi cuối cùng. Chỉ bị trì hoãn một chút thôi, đại đội quân Minh đã phong tỏa cửa khe núi. Tiếng vó ngựa phía sau dồn dập vang lên, hai vị tướng quân du kích cũng dẫn hàng vạn kỵ binh nhanh chóng tràn tới.

Phía trước là rừng thương um tùm bày trận chờ địch, cung thủ đã giương cung tên cùng các tay súng hỏa mai ở hai cánh lạnh lùng nhìn bọn chúng chằm chằm. Chỉ cần vị tướng lĩnh quân Minh đang hoành thương ngăn ở phía trước kia ra lệnh một tiếng thì tên súng sẽ cùng bắn.
Lúc này tiếng vó ngựa như sấm nổ phía sau cũng càng lúc càng gần.

Thiên phu trưởng Thát Đát Khoát Khoát Đài giật cương cho ngựa chồm lên, cất cao hai vó trước, khua loạn trên không. Hắn đưa mắt nhìn quanh, đột nhiên không cam lòng giơ cao mã đao lên, bi phẫn hát to:
- Trời sao xoay tròn, các nước chinh chiến, đến thời gian lên giường ngủ một giấc cũng không có.
Giành giật cướp bóc lẫn nhau, thế giới quay vòng, các nước công phạt, ngay cả thời gian chui vào chăn ngủ một giấc cũng không còn.
Tranh đoạt, sát phạt lẫn nhau, không có thời gian mà suy ngẫm, chỉ có dốc lòng làm việc.
Không có nơi trốn tránh, chỉ có xung phong đánh trận.
(Tinh thiên toàn chuyển, chư quốc chinh chiến, liên thượng sàng phô thụy giác đích công phu dã một hữu. Hỗ tương thưởng đoạt, lỗ lược. Thế giới phiên chuyển, chư quốc công phạt, liên tiến bị oa thụy giác đích công phu dã một hữu. Hỗ tương tranh đoạt, sát phạt, một hữu tư khảo dư hạ, chỉ hữu tận lực hành sự. Một hữu đào tị địa phương, chỉ hữu xung phong đả trượng ).

Hơn ngàn kỵ binh Thát Đát đầy người vấy máu tươi cùng giơ binh khí lên cao đồng loạt hát theo, âm thanh thê lương hùng tráng vang vọng trong khe núi mãi không thôi.

Mặc dù nghe không hiểu lời nhưng qua vẻ mặt và âm thanh của bọn chúng, toàn bộ binh lính quân Minh đều hiểu được, đều biết rõ hơn ngàn kỵ binh Thát Đát này đã quyết tâm tử chiến với mấy vạn quân Minh, thề chết không hàng.

- Đã đến nơi ta nói sẽ đến, đập vỡ tan từng tảng đá cứng, đã công nơi ta nói sẽ công, phá hủy từng tảng đá cứng. Chém vỡ núi cao, cắt đứt nước sâu; dũng cảm như vậy để giết địch, làm cho cả mặt đất biến thành bãi cỏ của người Mông Cổ!

Không có người phát hiệu lệnh. Câu cuối cùng vừa hát xong, tất cả kỵ binh Mông Cổ không hẹn mà cùng ghìm cương xoay ngựa trở lại; dương đao, đạp chân, hơi chồm người lên xông tới kỵ binh Đại Minh vừa đuổi tới nơi! Bọn chúng dĩ nhiên tàn khốc, khát máu, tham lam, nhưng đồng thời cũng đầy tâm huyết, dũng cảm và cao ngạo. Bọn chúng thà làm anh hùng trên ngựa quyết chiến đến cùng với đội kỵ binh của một dân tộc khác!

"Đoàng! Đoàng! Đoàng!" Tiếng súng hỏa mai vang lên. Khoát Khoát Đài vừa xoay người đã bị bốn năm mũi tên đâm sâu vào lưng, máu phun ra theo thân tên, cùng lúc đó tấm áo choàng bằng da thuộc cũng bị đạn bắn tan nát.

Hắn không nén được giận trợn tròn mắt:
- Vì sao... Vì sao không cho ta chết trận một cách anh hùng?

Khoát Khoát Đài muốn xoay người lại chất vấn quân Minh, nhưng cánh tay lực lưỡng của hắn không còn sức mạnh để nắm chắc cương ngựa nữa. Thân thể chỉ hơi lay động rồi hắn trợn trừng mắt, ngã cắm đầu xuống đất...

- Cường đạo chính là cường đạo, cho dù hắn rất dũng cảm... thì chẳng qua cũng chỉ là một cường đạo dũng cảm. Ngươi đã bao giờ thấy quan binh giết cường đạo còn phải tuân thủ luật lệ, qui tắc với chúng chưa?
Hai năm sau, tay lính hỏa súng Lỗ Nhị Ngưu đã thăng đến Bách hộ, nghiêm khắc giảng giải cho tiểu binh dưới quyền về trận chiến này.

* * *

Hoàng đế đã khởi giá trở về Đại Đồng. Dân chúng toàn thành đều đã nghe đến sự tích anh hùng của thiên tử thiếu niên định ra diệu kế đại thắng thiết kỵ Thát Đát. Nếu như lúc chen chúc nhìn lọng vàng rời khỏi thành đến núi Bạch Đăng, dân chúng chỉ tràn ngập tò mò với vị thiên tử sống tại Tử Cấm thành kia thì nay, bọn họ xếp hàng hoan nghênh lại hoàn toàn xuất phát từ nội tâm.

Hoàng đế là đại biểu của người Hán, quang vinh của hắn chính là quang vinh của tất cả mọi người Hán. Ai không muốn lãnh tụ của mình là một anh hùng có thể khiến cho mình tự hào và kiêu ngạo?

Quân Thát đã gây ra bao nhiêu tội ác ở vùng biên giới, bao nhiêu người cửa nát nhà tan, vợ con ly tán vì chúng, bao nhiêu người phải rời xa quê quán, lo lắng hãi hùng vì chúng?

Đủ loại tin đồn lan truyền rất nhanh trên phố, mặc dù đều rất ly kỳ, thậm chí hoang đường không hợp logic. Quân số giặc Thát bị giết chết được tăng lên gấp mấy lần, thậm chí đã vượt qua tổng dân số của cả đại mạc thảo nguyên nhưng trăm họ đều tình nguyện truyền bá nó, sẵn sàng tin tưởng nó. Ai dám nghi ngờ một câu sẽ lập tức bị một đám người mắng nhiếc nước bọt văng tung tóe đành ôm đầu chạy trốn.

Tốc độ Dương Nhất Thanh kéo quân về cứu viện đã tới cực hạn của bộ binh nhưng chung quy hai chân vẫn không thể chạy nhanh bằng bốn chân. Đến nửa đường, mấy vạn đại quân đã nhận được tin Hoàng thượng về thành, bộ đội sở thuộc của ông ta lập tức tới trước cửa thành Đại Đồng nghênh giá.

Đội quân của ông ta cuồn cuộn kéo đến dưới thành Đại Đồng. Vừa nhìn qua đã thấy quân uy nghiêm chỉnh, giáp trụ sáng ngời, đâu có chút dáng vẻ gì vừa trải qua một trận huyết chiến? Dân chúng thấy vậy càng tin tưởng lời đồn Hoàng Đế thân chinh khiến tướng sĩ dũng cãm như hổ như rồng, lấy một địch trăm, lấy một cản ngàn, Bá Nhan Khả Hãn quăng mũ cởi giáp,vừa nghe thấy tiếng đã bỏ chạy.

Đại vương, Hồ Toản, Dương Nhất Thanh, Đỗ Nhân Quốc cung nghênh thánh giá tại cửa thành Đại Đồng. Hoàng đế Chính Đức vừa đến nơi, cả bọn lập tức đồng loạt quỳ rạp xuống đất không dám ngóc đầu. Trên đường đi, lòng Dương Nhất Thanh tràn đầy tâm sự nặng nề. Ông ta là Tổng chế tam quan, có trách nhiệm phòng ngự cả chiến khu. Giờ đây Hoàng đế không bị thích khách ám sát mà là toàn bộ đội quân chủ lực của hoàng đế Thát Đát đàng hoàng tiến vào quan nội đánh giết lên núi Bạch Đăng. Thật sự ông ta không nghĩ ra được bất kỳ lý do gì để bào chữa cho mình.

Loan giá dừng lại, hoàng đế Chính Đức bước tới trước mặt bọn họ. Gương mặt nhà vua đã được lau rửa sạch sẽ, đương nhiên dáng vẻ chật vật của Hoàng đế vẫn không thể để cho bề tôi nhìn thấy.

Hai tay được chăm sóc rất tốt của Đại vương chống trên mặt đất trộn lẫn tuyết bùn dơ bẩn, lão run giọng tâu:
- Hoàng thượng bị tấn công! Hạ thần khó có thể chối tội, xin Hoàng thượng nghiêm trị!

Hồ Toản, Dương Nhất Thanh, Đỗ Nhân Quốc đồng loạt dập đầu:
- Tội thần đáng chết vạn lần, xin Hoàng thượng trị tội!

Các nhóm tướng lĩnh và quan chức đến nghênh tiếp cùng đồng loạt quỳ xuống. Mấy vạn đại quân cũng lũ lượt quỳ xuống kính cẩn, không một tiếng động.

Trong đó thật sự lo sợ chỉ có ba người Đại vương, Hồ Toản và Dương Nhất Thanh.

Không cần phải nói đến Dương Nhất Thanh hiện đang là Tổng chế tam quan.

Hồ Toản là tuần phủ Đại Đồng. Trước khi Dương Nhất Thanh nhận lệnh thống lĩnh ba quân, việc quân sự lẫn chính trị Đại Đồng đều nằm trong tay lão, quan chức cấp dưới thiên tổng đều do lão ký lệnh bổ nhiệm. Tuy lão là quan văn, không rành quân vụ, hai tên phản tặc Vương Hổ, Lý Nghĩa đều do các lão tướng trong quân đội tiến cử rồi lão mới bổ nhiệm; nhưng lý lẽ này mang ra phân trần với ai được đây?

Còn Đại vương thân là biên vương trấn thủ Đại Đồng. Dù thường ngày không can thiệp vào việc quân sự lẫn chính trị quá nhiều, nhưng trên danh nghĩa ông ta cũng là quan chức có cấp bậc cao nhất, hơn nữa vào thời chiến lại có quyền nắm tướng, điều binh. Trong quân xuất hiện gian tế thì ông phạm tội tắc trách, Hoàng đế gặp nạn lại đóng cửa thành không cứu càng là tội lớn, làm sao không sợ hãi cho được?

Lúc bước xuống kiệu, Chính Đức đang cực kì vui vẻ. Vừa nghe mấy lời thỉnh tội, hắn chợt nhớ lại nỗi nguy hiểm trên núi Bạch Đăng, lập tức sa sầm nét mặt.

Trên đường về, ngồi trong kiệu hắn càng nghĩ càng thấy vui vẻ. Trận này đánh cho Bá Nhan thảm bại chạy trốn, địa vị Đại Hãn của hắn khó lòng yên ổn được nữa, ngọn lửa nội chiến dấy lên trên thảo nguyên cũng ít nhất có thể đổi lấy mười năm an bình cho chốn biên thùy. Hơn nữa có sự hợp tác của Đóa Nhan Tam Vệ, có sự phân liệt bên trong Thát Đát, nếu như mọi việc phát triển theo đúng trù liệu của Dương Lăng thì thậm chí ngay trong lúc hắn thống trị giang sơn đã có khả năng nhất thống đại mạc, đó chính là diện tích của mấy tỉnh cơ đấy!

Chính Đức tuy nhỏ tuổi nhưng cũng biết điều đó có ý nghĩa gì: “khai cương thác thổ” “mở mang bờ cõi”! Địa vị của hắn trong Tông miếu sẽ vượt qua ông cha trở thành thánh quân chỉ thua hoàng đế khai quốc! Công nghiệp lớn lao bao nhiêu đế vương cẩn trọng cầm quyền cả đời cũng không đạt được, còn hắn vừa mới đổi niên hiệu Chính Đức, trở thành hoàng đế Đại Minh đã làm được rồi.

Tính khí trẻ con, vừa mới hết sợ hắn đã nghĩ đến chuyện hay: không phải Nhất Tiên rất thích anh hùng hay sao? Không phải cô ấy nói phu quân tương lai của mình phải là một đại anh hùng đội trời đạp đất, phải có bản lãnh bảo vệ cô ấy, có bản lãnh bảo vệ trăm họ Đại Minh không bị người khác bắt nạt hay sao? Không phải Trẫm đã làm được rồi sao?

Ha! Ban đầu cùng Dương Lăng đến Thì Hoa quán, bị đánh một trận được quen biết Đường Nhất Tiên. Lần này cùng hắn đến núi Bạch Đăng, bị dây đậu với thạch tín hun nhem nhuốc một hồi lại thu được công lao hiếm có. Y đúng là phúc tướng của Trẫm. Loại chuyện thua thiệt chút ít mà lợi lộc vô biên như thế này phải nên xảy ra càng nhiều càng tốt.

Chính Đức càng nghĩ càng thích, lúc xuống kiệu mặt mày vẫn còn hớn hở, nay vừa nghe đám người Đại vương này thỉnh tội thì nộ khí của hắn chợt bốc lên. Hắn vừa định phát tác, đột nhiên Lưu Đại Bổng Chùy lớn giọng hô to:
- Hoàng thượng bày mưu tính kế anh minh thần võ, đánh bại Khả Hãn Bá Nhan, kết minh Đóa Nhan Tam vệ, thực là minh quân đương thời, thiên cổ hiếm có! Ngô hoàng vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!

- Ngô hoàng vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!
Mấy vạn đại quân đang quỳ gối cùng hô to. Âm thanh chấn động nhà cửa, quả thực có thể làm chim trên cây phải rơi xuống đất. Tiếng hô chưa dứt, trăm họ xếp hàng chào đón trong thành cũng nô nức hoan hô theo.

Dương Lăng tiến lên một bước, khẽ ho một tiếng rồi tâu nhỏ:
- Hoàng thượng, toàn thể tướng sĩ biên quân và trăm họ đều đang khen ngợi công đức của bệ hạ.

Nói xong, y lướt nhìn Đại Bổng Chùy với vẻ khen ngợi. Tuy gã này không biết chữ nhưng trí nhớ lại tốt. Chỉ cần dạy gã một lần, bất kể có hiểu ý gì hay không thì gã cũng có thể nhắc lại y chang, không sai chữ nào.

Vừa nghe Dương Lăng nói vậy Chính Đức lập tức hết giận. Chuyện trong quân xuất hiện gian tế vốn đã không nên để lộ ra ngoài, tránh cho bá tánh hoang mang, huống chi nếu để mọi người biết công lao này của mình là do đánh bậy đánh bạ mà thu được thì còn đâu là vinh quang nữa? Không chừng mấy lão già trong kinh lại lợi dụng việc này mà rêu rao can gián. Tốt nhất vẫn nên xử trí nhẹ nhàng việc này là hơn.

Nghĩ tới đây, Chính Đức liền đổi qua gương mặt hớn hở, mỉm cười nói:
- Các vị ái khanh đại thắng Thát Đát, có công với xã tắc, nào có tội gì? Nếu không có Đại vương đốc thúc tử thủ Đại Đồng, không trúng kế dẫn quân ra thành để tránh bị địch lợi dụng, thì chẳng những Đại Đồng rơi vào tay giặc làm muôn vàn dân lành gặp nạn mà Trẫm cũng đành phải vội vàng bỏ trốn về kinh.
Còn các tướng như Dương khanh, Trẫm sẽ thưởng phạt phân minh. Cái gọi là khuyết điểm không che lấp được ưu điểm, công không che lấp được tội. Nào nào! Các vị ái khanh hãy bình thân. Trước hết theo trẫm về thành đã.Tư thông kẻ địch phản bội tổ quốc đương nhiên phải nghiêm trị, nhưng giờ đây chính là lúc quân dân toàn thành cùng vui, trước hết cứ gác việc này lại một bên.

Hồ Toản nghe Hoàng thượng chỉ nhắc tới Dương Nhất Thanh và Đại vương, còn mình thì ngài không hề đề cập tới chữ nào liền biết tám chín phần mười là mình sẽ phải gánh chịu án oan này rồi. Nhưng hai tướng lĩnh gian tế đó quả thật là do mình bổ nhiệm khi làm Tuần phủ giám sát quân vụ Đại Đồng, giờ đây Hoàng thượng chỉ bị kinh sợ chứ không bị nguy hiểm. Quân đội đã đánh bại giặc Thát, mình được thơm lây nên chỉ bị bãi quan chứ không bị chém đầu đã là ân đức lắm rồi, còn có gì để nói nữa? Cho nên lão đành lặng lẽ đứng lên không nói một lời.

Tiếng Dương Lăng thì thầm với Chính Đức rất nhỏ, Trương Dần quỳ ở phía sau không hề nghe thấy, nhưng hắn lại quan sát vẻ mặt của hai người cực kì tỉ mỉ. Thoạt tiên Chính Đức bất chợt lộ vẻ giận dữ rồi lại lập tức có thể thản nhiên bỏ qua đại tội lơ là phòng bị khiến cho Hoàng đế gặp nguy hiểm, tất nhiên là vì nghe lời Dương Lăng. Tầm ảnh hưởng của người này đối với Hoàng đế thật sự là quá lớn.

Kế hoạch mượn tay Dương Hổ ám sát Hoàng đế đã thất bại, kế hoạch mượn tay Bá Nhan diệt trừ Hoàng đế cũng thất bại nốt. Lần nào trong kế hoạch cũng chỉ xuất hiện một điều bất ngờ, nhưng chính do một sơ suất này đã làm cho mình thua thiệt dưới tay người khác, từng bước bị dồn vào thế bị động. Kế hoạch đã được tính toán tinh vi lại không thể không năm lần bảy lượt sửa đi đổi lại, đúng là không cam lòng.

Là số mệnh của Chính Đức vẫn chưa hết hay là vận may của ta quá kém? Mấy vạn đại quân của Bá Nhan cũng không thể ám sát được Hoàng đế, xem ra ta phải thay cung đổi tên rồi. Không thể giải quyết Chính Đức để phò trợ Ninh vương thuận lợi kế vị thì ta sẽ khơi dậy dã tâm của Ninh vương, khiến cho thời Đại Minh lại diễn màn kịch chú đoạt quyền cháu lần nữa.

Nghĩ tới đây, Trương Dần lặng lẽ đánh giá Dương Lăng. Hắn thầm nghĩ: "Người này rất được Hoàng đế tin cậy, có uy tín với Hoàng thượng. Thay vì hao hết tâm tư diệt trừ y mà không được thì tại sao ta lại không thể lợi dụng y? Dương Hổ là đệ nhất hảo hán Bá Châu, Bá Nhan là tay kiêu hùng đại mạc mà ta còn có thể lợi dụng lòng tham của chúng để đùa bỡn chúng trong lòng bàn tay, chẳng lẽ ta lại không lợi dụng nổi Dương Lăng? Người có ưu điểm sẽ có nhược điểm! Y thích quyền, thích lợi, thích danh hay là thích sắc?"

Trương Dần cẩn thận suy tính các thông tin đã biết về Dương Lăng. Hắn khẽ gật gù: "Người này tuổi trẻ đã được quyền cao chức trọng, chắc chắn những điều y thích không ngoài quyền, sắc! Y có thể cõng vợ tìm thầy thuốc, kháng cự thánh chỉ, hiển nhiên là tính khí thiếu niên, hết lòng yêu mến phụ nữ, người như vậy lại không khó đối phó. Có lẽ ta có thể sắp đặt một tai mắt đáng tin cậy bên cạnh y. Cho dù không thể có ảnh hưởng đối với y thì cũng nhất định có thể giúp cho ta nắm giữ những việc cơ mật của triều đình."

Mặt không đổi sắc, Trương Dần ngẫm nghĩ: "Thạch lựu quần hà túy an miên, tỉnh thời do ức tiểu man yêu. (Rượu say ngủ dưới chân nàng, thức thời tưởng đến chiếc eo thon mềm). Hoàng đế có thể cho y quyền lợi, còn bản giáo lại có đầy mĩ cơ tuyệt sắc. Đối phó với tay quyền thần trẻ tuổi như vậy thì lấy sắc đẹp dụ dỗ làm nước cờ đầu là thỏa đáng nhất!"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro