nguoc ve thoi minh (chuong 125_p2-136)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 125 - Trong Hỏi Ngoài Tra

------------------------

Ngày hôm sau, quan viên bản xứ và thân sỹ địa phương lần lượt đến chính thức thăm viếng khâm sai đại nhân, nhất là những quan lại và thân sỹ hôm qua không có tư cách tham dự tiệc tẩy trần khoản đãi Dương khâm sai.

Đương nhiên tất cả những người đến viếng thăm đều không thể đi tay không: hoặc ngân phiếu, hoặc châu báu thư họa, hoặc đặc sản địa phương; dược liệu trân quý các loại cũng không ít. Dương Lăng cố ý tạo hình tượng một viên quan tham tiền hám lợi vô trách nhiệm, cho nên y không khước từ một ai.

Cao Văn Tâm không biết rõ nội tình, nàng không thích lão gia nhà mình biến thành kẻ cơ hội như vậy. Trong lòng bực bội song lại không tiện phát tiết, cho nên mặc dù được Dương Lăng sai ngồi làm "kế toán viên", nàng lại chẳng thèm đếm xỉa đến những kẻ biếu quà.

May mà những người này đều sớm hay rằng Dương Lăng lần này đến đây chỉ mang theo một cô tỳ nữ xinh đẹp này, hơn nữa nghe nói mỗi tối nàng thường xuyên len lén chui vào phòng khâm sai. Ai còn dám đối đãi với nàng như thị nữ chứ? 

Giang Nam là địa phương đông đúc và giàu có nhất thiên hạ. Những phú hào đó đều có gia tài ức vạn, đến thăm viếng xưởng đốc Nội xưởng có quyền lực khuynh đảo triều đình nào dám tặng lễ vật tầm thường? Tuy không dám nói là kỳ trân dị bảo nhưng những món quà biếu tặng cũng đều đắt giá vô cùng.

Cao Văn Tâm đang ghi chép từng hạng mục, bỗng nhiên nha sai dẫn một thương nhân buôn muối vào. Không ngờ người này đem tặng bốn mỹ nữ gồm hai người Cao Ly và hai người Đông Doanh. Bốn nữ tử này dáng điệu tuy không xinh đẹp bằng Cao Văn Tâm, nhưng vẻ phong tình ngoại quốc ấy lại quả thực rất mới mẻ.

Cao Văn Tâm thật sự đã nổi giận, nàng mang bút lông xông thẳng vào phòng khách. Dương Lăng vừa mới tiễn một thương nhân buôn trà về, thấy nàng đang cầm bút lông, dáng điệu tức giận trông rất xinh đẹp, không khỏi cười hỏi: 

- Sao vậy? Ai lại chọc cô giận à?

Cao Văn Tâm chua chát đáp: 

- Lễ vật người ta tặng, tiểu tỳ đều sai người đưa vào trong kho. Giờ có người đến tặng bốn món vật sống, tiểu tỳ không biết có nên đưa lên giường lão gia hay không, cho nên phải đến xin ý kiến lão gia.

Dương Lăng đảo tròng mắt rồi cười nói: 

- Đưa lên giường tôi à? Ha ha, có phải có người đến tặng mỹ nữ không? Đi đi đi, ra ngoài xem thử.

Y còn tưởng có người tặng mỹ nữ Giang Nam cho mình, khi ra ngoài nhìn thì lại là bốn nữ tử nước ngoài, đương nhiên nhận ra người đeo bọc vải nhỏ trên lưng là người Nhật Bản, bất giác ngẩn ra.

Đang cung kính chờ đợi khâm sai đại nhân triệu vào gặp, vị thương gia buôn muối trông thấy bốn tay nha sai đang vây quanh một vị công tử thiếu niên vận cẩm bào đai ngọc đi ra, vị mỹ nhân ghi chép sổ sách nọ đang cầm cây bút lông đi theo sau, môi cong như thoa mỡ, thì biết người đi trước chính là khâm sai đại nhân. Gã không khỏi có cảm giác được yêu mến mà lo sợ, bèn quỳ xuống cười nịnh nọt thưa: 

- Thảo dân Đỗ Sách bái kiến khâm sai đại nhân!

Dương Lăng nói: 

- Bản quan xuôi Giang Nam chỉ là tuần tra tình hình thuế khoá địa phương thôi, thực không muốn làm phiền đến danh lưu thân sỹ địa phương. Đỗ tiên sinh đang bao bộn bề lo toan mà vẫn đến thăm viếng, bản quan thẹn không dám cáng đáng.

Tay thương gia buôn muối Đỗ Sách đó cười bồi đáp: 

- Nào có nào có! Thảo dân may mắn gặp được đại nhân, đó vận tốt của thảo dân. À... thảo dân nghe nói đại nhân đi đường mệt mỏi, ngay cả nha đầu để sai vặt bên người cũng không có, cho nên đã cố công mua bốn thị tỳ tặng đại nhân để hầu hạ hằng ngày, xin đại nhân vui lòng nhận cho.

Đứng bên cạnh, Cao Văn Tâm ho khan hai tiếng. Dương Lăng nghe thấy trong lòng cười thầm, y cũng không tính sẽ xuống Giang Nam đem theo một đám mỹ nữ về biến nhà mình thành Đại Quan viên(4). Đang tính mở miệng từ chối khéo, y chợt nghe một giọng cười nói oang oang cất lên: 

- Thì ra ông chủ họ Đỗ cũng đến rồi à? Chạy còn nhanh hơn ta! Ha ha ha, ông có tặng mỹ nhân thì cũng nên tặng cực phẩm một chút mới được! Nhớ khi xưa có vị tuyệt sắc giai nhân, đến ta thấy mà còn mê mẩn, âm thầm trao lòng cho Dương đại nhân mà Dương đại nhân vẫn năm lần bảy lượt từ chối khéo, sao đại nhân có thể để mắt đến mấy cô gái này?

Lời vừa dứt, liền thấy một vị quan văn râu ria xồm xoàm, hai tay chắp sau lưng, ưỡn bụng bước dài đến nơi. Dương Lăng ngước mắt nhìn, trông thấy đúng là huyện lệnh Mẫn Văn Kiến một đao chém chết vương tử Thát Đát ở Kê Minh khi xưa, liền vội chạy lên mấy bước, nắm chặt tay lão mừng rỡ chào: 

- Mẫn đại nhân!! Đã mấy tháng không gặp, thật nhớ ông muốn chết.

Mẫn Văn Kiến vẫn trực tính như xưa, chỉ là bụng đã bự hơn một chút, lão vội cựa khỏi tay y, quỳ xuống làm lễ: 

- Hạ quan Mẫn Văn Kiến ra mắt...

Dương Lăng ngăn đỡ lão dậy, trách: 

- Mẫn đại nhân của ta ơi! Đến Giang Nam rồi, nhìn đại nhân nói chuyện cũng đã ra vẻ nho nhã, sao lại còn chú trọng đến những thứ lễ nghi rườm rà này nữa? Nếu không có ơn tri ngộ của đại nhân, sao có tại hạ hôm nay. Đại nhân cũng đừng khách khí như vậy nữa.

Mẫn Văn Kiến đứng thẳng người lên cười nói: 

- Lễ nghi nào nên chú trọng vẫn cần phải chú trọng chứ! Ha ha ha! Từ lúc đại nhân đến kinh sư, thường có những tin tức khó tin lan truyền đến Giang Nam, Mẫn mỗ nghe kể xong lúc thì thấp thỏm lo lắng, khi lại vui sướng không thôi. Vốn dĩ còn tính chạy chọt khắp nơi để điều đại nhân đến Giang Nam. Giờ thực tốt quá, rốt cuộc đại nhân đã đến, nhưng lại không phải do Mẫn mỗ điều động, ha ha ha...

Thương gia Đỗ Sách bước tới cười nói: 

- Hoá ra Diêm vận sứ đại nhân và khâm sai đại nhân là cố giao à! Thất kính thất kính.

Mẫn Văn Kiến nheo cặp mắt tròn như đậu xanh nhìn hắn rồi cười nói: 

- Sao? Có phải là cảm thấy kính nể bản quan rồi không? 

Lão lại liếc mắt sang bốn mỹ nhân ngoại quốc nọ, nói tiếp: 

- Đừng bảo bọn họ ở đây nữa! Ngươi cũng được xem như là một nhân vật khôn khéo, không lẽ chưa từng nghe nói chuyện đương kim thiên tử hạ chỉ ban thiếp sao? Dương đại nhân có tầm mắt như thế nào? Mấy nha đầu non nớt này lọt được vào mắt đại nhân ư?

Dương Lăng bật cười nói: 

- Mẫn đại nhân! Đại nhân đến Giang Nam mới có mấy tháng mà giờ đã xuất khẩu thành thơ rồi. Thật sự khiến người ta phải rửa mắt mà nhìn.

Mẫn Văn Kiến nghe vậy thì cười lớn: 

- Không còn cách nào khác, không còn cách nào khác! Cả ngày nghe bọn họ nói những từ ngữ này nên lỗ tai ta cũng quen rồi, thế nào cũng phải nhớ được mấy câu.

Dương Lăng vừa chuyện trò cùng lão, vừa mời hai người vào phòng khách, rồi kêu người dâng trà tiếp đãi.

Thật ra vị thương nhân buôn muối nọ còn buôn bán thứ khác. Lần này hắn đến Hàng Châu là để tiếp nhận một lượng hàng hóa lớn từ trong kinh do thuyền quan Dương Lăng vận chuyển. Mắt thấy người đẹp mà mình đem tặng không hợp tâm ý của khâm sai đại nhân nhưng cũng không thể cứ đến tay không một chuyến như vậy. Phải biết rằng bấu víu được vào gốc cây to này, sau này có chuyện gì, chỉ cần đại nhân thuận miệng nói một câu thì hắn cũng được ích lợi không biết đến dường nào.

Nghĩ đến đây, ông chủ họ Đỗ lấy từ trong ngực ra một đôi khuyên tai trân châu, vốn là món quà lão mua từ Kim Lăng chuẩn bị tặng cho người thiếp xinh đẹp mà lão sủng ái nhất, hai tay dâng lên thưa: 

- Là thảo dân lỗ mãng rồi! Bốn cô gái này chốc nữa thảo dân sẽ dẫn đi. Đôi khuyên tai trân châu này chính là chút lễ mọn, thật sự không tỏ được lòng kính trọng, đại nhân nhất định phải nể mặt cho.

Đôi khuyên tai trân châu đó được chế tạo xinh đẹp tinh xảo, trân châu bóng tròn chắc mẩy, kích cỡ đều đặn, màu sắc và ánh sáng thu hút người ta, đặt trong lòng bàn tay tỏa ra ánh sáng mượt mà thăm thẳm, vừa nhìn liền biết ngay nó là châu báu đắt giá vô cùng. Dương Lăng thuận tay nhận lấy rồi đưa cho Cao Văn Tâm, thấy nàng còn cầm bút, liền cười nói: 

- Không cần ghi đâu, đôi khuyên tai này tặng cho cô đó.

Cao Văn Tâm đỏ mặt liếc y một cái rồi nhanh nhẹn xoay người đi ra. Vẻ vui mừng e thẹn hiện lên bất chợt ấy cực kỳ rung động lòng người. Ông chủ họ Đỗ bừng tỉnh, thầm nhủ: "Thì ra khâm sai đại nhân mê luyến người con gái này, khó trách y không nhận mỹ tỳ mình tặng. Tư dung của vị cô nương này quả thực hơn bọn chúng không chỉ là một bậc."

Hai người và Dương Lăng chuyện trò một hồi về chuyện nhà chuyện cửa. Tâm ý đã tặng xong, biết rõ rằng khâm sai đại nhân và Mẫn đại nhân xa cách lâu ngày mới gặp ắt có nhiều chuyện muốn thổ lộ, cho nên Đỗ Sách ngồi một lát thì đứng dậy cáo từ.

Tiễn Đỗ Sách về xong, Dương Lăng và Mẫn Văn Kiến quay lại chỗ ngồi. Mẫn Văn Kiến mời: 

- Đại nhân! Lần này xuôi Nam nhất định ngài phải tranh thủ đến Hải Ninh một chút đấy. Khoảng cách không quá xa, đến khi ấy để ta cũng được tận lễ chủ nhà.

Dương Lăng cười đáp: 

- Nếu có cơ hội, tại hạ nhất định sẽ đi. Mẫn đại nhân ở Hải Ninh mọi thứ vẫn tốt chứ?

- Vẫn tốt, sự giàu có và sung túc nơi đây còn lâu phương Bắc mới sánh bằng, có điều quân đội nơi này so với biên quân của chúng ta thực thua kém quá xa. Nghe nói bây giờ phía bên kia biển, chư hầu các nơi của Nhật Bản đang làm loạn, thường có một vài võ sỹ và lãng nhân(5) thất thế không chốn nương thân bèn cấu kết với một số thuyền buôn đi đến chỗ của chúng ta cướp bóc khắp nơi.

Con bà nó chứ! Không ngờ là còn có một đám gian thương, cường hào, lưu manh, hải tặc của địa phương mật báo tin tức cho bọn chúng, dẫn đường cho bọn chúng, thậm chí còn trực tiếp tham gia cướp bóc.

Ta vừa đến Hải Ninh gặp đúng lúc phải giặc Oa đến tập kích quấy rối. May mà bản thân Diêm vận ty có đội ngũ hộ tống hơn ba trăm người, sức chiến đấu còn phải mạnh hơn quan binh một chút. Bọn giặc Oa đó lại không đông, bị ta dẫn người ra sức giáo huấn những tên ranh đó một trận, một cây Đại Khảm đao đã chém chết hơn hai chục tên. Hiện không còn thấy bọn chúng dám đến Diêm vận ty của ta sinh sự nữa.

Dương Lăng lại một lần nữa nghe đến hai chữ "giặc Oa" này, không kiềm lòng được bèn chú ý hỏi: 

- Thế lực của những tên giặc Oa này lớn mạnh lắm sao?

Mẫn Văn Kiến cười khinh thường: 

- Sức chiến đấu không bằng giặc Thát, nhân số lại chỉ là một đám giặc lang thang. Có điều đường bờ biển quá dài nên khó đề phòng cho xuể; hơn nữa quân đội nơi đây quá yếu, thông thường một đám giặc Oa khoảng trăm tên đổ bộ thì đã đủ để tung hoành ngang dọc rồi.

Ta nghe nói chư hầu các nơi ở Nhật Bản đang đấu đá tranh quyền lẫn nhau, trong tay đều thiếu bạc, cũng có chư hầu từng muốn thông thương buôn bán với Đại Minh chúng ta. Đáng tiếc số lượng bến cảng thương mại và hàng hoá giao dịch mà chúng ta cho phép lại quá ít, không thể thoả mãn nhu cầu của bọn chúng.

Bọn chúng chó cùng rứt giậu, bèn tổ chức luôn nhân mã rồi cấu kết với đám thương gia phạm pháp âm thầm buôn lậu. Nhược bằng bị thuỷ quân truy đuổi không buôn bán được thì đổi nghề chuyển sang làm cường đạo. Bọn chúng đến rồi đi ngay, trốn vào biển khơi, chúng ta thật không làm gì được bọn chúng.

Dương Lăng máy động trong lòng, thầm nghĩ: "Thì ra trong những hải tặc này có kẻ vì muốn làm ăn buôn bán hợp pháp không được mới đổi nghề làm hải tặc. Trước kia chỉ nghe nói giặc Oa tham lam tàn bạo, thường xuyên cướp bóc dân chúng vùng duyên hải chứ chưa hề được nghe ai nói đến nguyên nhân này.”

Dương Lăng lặng lẽ gật đầu, suy nghĩ một lúc rồi nói: 

- Muốn giải quyết những vấn đề này, xem ra phải thực hiện song song việc khơi thông và ngăn chặn mới được. Một mặt tăng cường sức mạnh quân sự, khiến bọn chúng phải e dè, không dám tuỳ tiện xâm phạm; mặt khác còn phải mở cảng thông thương hợp pháp, chủ động làm ăn buôn bán với chúng, đôi bên cùng có lợi, có gì là không tốt

Những hải tặc đó chỉ dựa vào cướp bóc thì có thể cướp được bao nhiêu thứ từ trong tay dân chúng chứ? Đa số chỉ đủ trám miệng bọn chúng mà thôi. Nếu thấy rõ những ích lợi có thể kiếm được, ắt những kẻ này sẽ lắc mình biến thành thương nhân ngay...

Nói đến đây, Dương Lăng chợt ngậm miệng: Chỉnh đốn quân đội là việc Nội xưởng làm được sao? Mở cảng thông thương? Văn thần trong triều không gật đầu, chính sách này có thể được thực hiện à? Chỉ quyền lực và quan hệ không thì không đủ, còn phải thay đổi tư tưởng và nhận thức của mọi người, còn quá nhiều điều kiện chưa chín muồi, cho nên toàn bộ những thứ này dứt khoát không phải là những điều mà hiện giờ y có thể làm. Y có cơ hội và thời gian đi làm mấy việc này sao?

Mẫn Văn Kiến nghe nhưng không hiểu những thứ này, thấy y nhíu mày lo lắng cho dân chúng Giang Nam, bèn vội cười nói: 

- Đại nhân không phải lo lắng. Giặc Oa phần lớn đến từ biển, từ biển muốn đổ bộ ắt phải dựa vào sức gió; cho nên mùa nào nổi gió gì, lúc nào giặc Oa lên bờ, phần lớn đều phải theo qui luật, có muốn thay đổi cũng không được.

Chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng thì bọn chúng sẽ không dấy lên được bao sóng gió đâu. Cùng lắm chúng chỉ cướp đoạt ít làng chài, cũng không có bao bản lĩnh. Ờ... thông thường là giữa tháng tư, tháng năm và tháng chín, tháng mười hằng năm là những tháng thích hợp để đi thuyền vượt biển, lúc đó giặc Oa sẽ chạy đến cướp bóc. Trước khi đến thăm đại nhân ta đã sai quan binh Diêm vận ty tăng cường phòng bị, chỉ cần qua hai tháng này, bọn chúng có muốn đến nữa cũng phải đợi đến tháng tư năm sau thôi.

Dương Lăng và Mẫn Văn Kiến đang tán gẫu, Trịnh bách hộ chạy vào thưa: 

- Khải bẩm xưởng đốc đại nhân, Mạc công công đã chuẩn bị xong kiệu xe, mời đại nhân cùng đến núi Sư Tử khảo sát.

Dương Lăng nghe vậy đứng lên, áy náy bảo: 

- Mẫn đại nhân! Đại nhân và tại hạ xa cách từ lâu mới gặp lại, đáng lý tại hạ nên bày rượu cùng đại nhân chuyện trò cho thỏa thích một phen. Chỉ là hôm nay tại hạ đã cùng Mạc công công thoả thuận sẽ cùng đến núi trà tuần tra. Không biết Mẫn đại nhân trọ ở nơi nào, đợi tối nay tại hạ trở về sẽ lại cho người mời đại nhân đến, chúng ta cùng nhau nâng chén, không say không về.

Mẫn Văn Kiến cười hào sảng đáp: 

- Với giao tình của hai ta, đại nhân còn nói những lời khách sáo này làm gì? Có điều đại nhân đường sá xa xôi đến đây, muốn gặp mặt một lần không dễ, cho nên ta mới tranh thủ thời gian chạy đến. Cha già bệnh tình nguy kịch, Diêm vận sứ đại nhân đã xin phép nghỉ về quê; ta thực không dám gác lại công việc quá lâu, cho nên hôm nay sẽ phải chạy về rồi. Nếu đại nhân có thể đến Hải Ninh tuần tra, chúng ta sẽ lại uống thoả thích một phen.

Dương Lăng hồ hởi: 

- Được! Khó có dịp đến Giang Nam một chuyến, tại hạ nhất định sẽ đến Hải Ninh.

Mẫn Văn Kiến chợt nhướng mày, cười giảo quyệt: 

- Đã biết khó có dịp đến Giang Nam một chuyến, vậy... có đi Kim Lăng không?

Dương Lăng ngẩn ra: 

- Nam Kinh? Lần này tuần thị thuế khoá Giang Nam, hình như không cần đi Nam Kinh thì phải?

Y vừa đáp vừa thầm nghĩ trong lòng: "Đi đến đó làm gì nhỉ? Vương Quỳnh đang ở Nam Kinh, tuy rằng lão già ấy hận mình đến thấu xương nhưng thực ra bản tính không tệ, mình cũng không muốn làm khó lão, nhưng nếu đi đến đó khó tránh phải chạm mặt cùng lão. Con trai lão chết trong tay mình, đến lúc gặp lão cũng không biết sẽ xảy ra chuyện gì đây. Còn về phần Mã Liên Nhi... chậc!”

Mẫn Văn Kiến cười hắc hắc đáp: 

- Lộ trình không xa quá, thật ra nhín chút thời gian đại nhân cũng có thể đi thăm Kim Lăng một lúc. 

Lão mỉm cười nói tiếp: 

- Lúc ta vận chuyển muối đến Nam Kinh, đã từng tình cờ gặp ái nữ của Mã dịch thừa. Cô nàng đó thực sự là nghĩa nặng tình sâu với đại nhân à! Nếu đại nhân phụ người ta, ngay cả ta cũng sẽ nhìn không vừa mắt đâu.

Lão vừa nói vừa rút từ trong ống tay áo một tờ giấy đã được gấp lại, nhét vào trong tay Dương Lăng: 

- Đây là nơi ở của nàng ấy. Ha ha, ta đã hết lời trong chuyện này rồi, đi hay không đại nhân hãy tự quyết định. 

Xử lý xong việc này, dường như Mẫn Văn Kiến hết sức vui vẻ, toét miệng cười đắc chí.

Dương Lăng tiễn lão ra khỏi cổng, trông thấy trước cổng đã có hai kiệu ngựa đang đậu, Trịnh bách hộ dẫn theo một ít nha sai, còn có thuế lại (nhân viên thu thuế) và một ít nô bộc của Mạc phủ đang đứng bên ngoài.

Dương Lăng cáo từ Mẫn Văn Kiến, dõi theo chiếc kiệu của lão từ từ đi xa. Y đứng dưới bức tường xanh mọc đầy dây leo, ngắm nhìn liễu xanh sông biếc cạnh bờ tường, ngẩn ngơ vuốt ve miếng giấy trong tay thật lâu.

Bồi hồi, y dường như nhìn thấy một người con gái xinh đẹp mặc đồ trắng thướt tha mờ ảo, yểu điệu mảnh mai như một đoá thược dược, nhẹ nhàng bước ra từ trong nước, khuôn ngài ẩn chứa mối thâm tình, đang đi về phía y. Dáng đi thong thả ấy, cử chỉ không chỗ nào không quyến rũ ấy, khiến cho người ta phải thất thần.

"Quân tự minh nguyệt ngã tự vụ, 

Vụ tùy nguyệt ẩn không lưu lộ,

Chích duyên cảm quân nhất hồi cố, 

Ngã tiện tư quân triều dữ mộ.

Hồn tuỳ quân khứ thiên nhai lộ, 

Y đái tiệm khoan bất giác khốc,

Tích thán niên hoa như triều lộ, 

Hà thời hàm nên sào quân ốc...

Tam thập lục luân minh nguyệt hậu, 

Đương vi quân tác nghê thường vũ..." 

Dịch thơ:

Thiếp tựa mù giăng chàng tựa trăng

Trăng lặn mù tan đọng sương lan

Cảm lòng chàng một phen ngóng lại

Tim này nhớ ai bao ngày sang

Hồn theo chàng đến cuối chân trời

Thân gầy áo rộng lệ tuôn rơi

Xuân xanh tàn tận dường sương sớm

Khi nao hội ngộ hỡi người ơi

Ba sáu mùa trăng tỏ sẽ qua

Sẽ múa chàng khúc Nghê Thường ca... (hieusol)

Dương Lăng khẽ ngâm hết câu thơ cuối cùng, nghĩ đến ba mươi sáu mùa trăng tỏ sau, mình và Mã Liên Nhi sớm đã người, ma hai ngả, đôi đường li biệt, trong lòng không khỏi dâng lên một nỗi bi ai. Y dằn lòng, vo chặt mảnh giấy ghi nơi ở của Mã Liên Nhi lại, đang định thuận tay vứt xuống sông, chợt nghe bên cạnh có tiếng người vỗ tay khen:

- Thơ hay! Thơ hay! Nếu như ty chức đoán không sai, đây hẳn là của một vị cô nương đa tình tặng cho đại nhân thì phải.

Dương Lăng quay đầu lại nhìn, thấy Mạc Thanh Hà đang đứng bên cạnh vỗ tay mỉm cười, vị phu nhân xinh đẹp muôn vẻ phong tình cũng đứng cạnh bên, ánh mắt đầy vẻ kỳ lạ, hiển nhiên tán thưởng vô cùng.

Phong tục tập quán Giang Nam cởi mở, khác xa với kinh thành phương Bắc, vị phu nhân này của Mạc Thanh Hà cũng không quá kiêng kị. Lão gia nhà mình muốn đi đến núi Sư Tử, nàng ta liền tiễn ra đến cổng. Vừa nghe thấy Dương Lăng ngâm thơ, nàng không khỏi tán thưởng, cười nói với Mạc Thanh Hà: 

- Lão gia! Từ sau khi nghe được bài thơ "Đào Hoa am" do tài tử Đường Dần(6) của Tô Châu sáng tác ở biệt thự Đào Hoa am vào tháng sáu năm nay, thiếp thân đã không còn nghe được bài thơ hay nào có ý cảnh như vậy nữa. Nếu như Dương đại nhân không chê, có thể cho phép thiếp thân chép bài thơ này lại hay không?

Mạc Thanh Hà chau mày vờ trách: 

- Chớ nên vô lễ! Sao lại để cho đại nhân khó xử như vậy?

Dương Lăng cười nói: 

- Việc này không sao! 

Y vừa nói vừa thuận tay cất miếng giấy nọ vào ngực, rồi tiếp: 

- Đợi bản đốc và Mạc đại nhân từ trên núi trở về, sẽ đọc lại cho phu nhân nghe là được.

Trước mặt vị "thái giám có vợ" này, Dương Lăng không tiện gọi hắn là công công, bèn đổi gọi thành đại nhân. Vợ chồng Mạc Thanh Hà nghe xong trên mặt lập tức lộ vẻ vui mừng. Mạc Phu Nhân tươi cười duyên dáng nói:

- Khi nãy thiếp thân chỉ chú ý đến ý cảnh trong thơ, chưa nhớ hết lời. Chỉ cần đại nhân ngâm lại một lượt, thiếp thân liền sẽ nhớ ngay.

Dương Lăng kinh ngạc nhìn nàng ta, không ngờ người con gái này học thức uyên bác, có khả năng xem qua là nhớ, thế là y liền đọc lại bài thơ một lượt. Mạc phu nhân chăm chú lắng nghe, sau đó không nén được vui mừng vỗ tay: 

- Thiếp thân đã nhớ rồi, giờ thiếp thân sẽ về chép lại. 

Nói đoạn cũng không cáo biệt, nàng dịu dàng như hoa xuyên liễu phớt, hạnh phúc dẫn hai nha hoàn quay trở vào phủ.

Mạc Thanh Hà chỉ biết cười nhìn theo bóng lưng nàng, rồi nói với Dương Lăng: 

- Tiện thiếp trước giờ vẫn luôn không biết lễ phép, khiến đại nhân chê cười rồi.

Dương Lăng nói: 

- Thẳng tính mà làm, ấy là chân nhân*. Tôn phu nhân tính tình bộc trực, không hề có tâm cơ, như vậy có gì là không tốt? Ha ha, bản quan phải tiếp với mấy vị khách nên ra hơi trễ, đã phiền đại nhân phải đợi lâu. Giờ chúng ta đến núi Sư Tử đi dạo thôi. 

*(chân nhân vừa nghĩa là người đắc đạo vừa nghĩa là người sống thật)

Mạc Thanh Hà nghe y nói "đi dạo" núi Sư Tử, không khỏi cười lớn. Hai người cùng lên kiệu ngựa, Dương Lăng dẫn theo một trăm hai mươi nha sai, Mạc Thanh Hà cũng mang theo bốn mươi viên thuế lại, cùng chạy về phía núi Sư Tử.

Hàng Châu có Tây Hồ trong veo trang nhã, có bờ Phú Xuân trong xanh gợn sóng, có dòng Tiền Đường thủy triều lên thủy triều rút, có núi Nam Ngô, Bắc Cô, phong cảnh rất nhiều. Thật ra quang cảnh của Hàng Châu chủ yếu nằm ở những lâm viên và cảnh quan nhân văn của vùng Giang Nam êm dịu; có rất nhiều cảnh vật tự nhiên nhưng mang nặng dấu ấn của con người, nếu bỏ lớp ý cảnh đó đi thì cũng sẽ không còn gì hay ho nữa.

Chẳng hạn như ngôi mộ của Tô Tiểu Tiểu bên cạnh Tây Hồ. Nếu không phải vì nàng là danh kỹ Giang Nam phong lưu thiên cổ, có nhiều câu thơ ưu mỹ như:

"U lan lộ, như đề nhãn. Vô vật kết đồng tâm, yên hoa bất kham tiễn. 

Thảo như nhân, tùng như cái. Phong vi thường, thuỷ vi bội..."* 

được văn nhân mặc khách lưu lại, thì chỉ nhìn phần mộ đó thôi cũng sẽ chẳng thấy ý vị gì. 

*Lan đọng sương, như giọt lệ, lấy gì kết đồng tâm. Trăng hoa đâu nỡ dứt? 

Cỏ như tơ, thông che bóng. Gió là áo, nước điểm trang...

Quang cảnh Hàng Châu vốn không phải theo kiểu "nhìn núi ra thơ", núi Sư Tử lại hết sức tầm thường. Trong con mắt của người đã quen nhìn những ngọn danh sơn trên thế giới như Dương Lăng, nó càng cực kỳ nhạt nhẽo vô vị. Nhưng chính trên mỏm núi trông hết sức tầm thường này, lại sản xuất ra thứ trà ngon Long Tỉnh vang danh thiên hạ.

Ở Tô Hàng, núi Hổ Khâu vì suối mà có tiếng, ngọn Phi Lai vì Linh Ẩn tự mà nổi danh. Ngọn Sư Tử sơn này chính là nhờ trà Long Tỉnh mà vang danh thiên hạ.

Khi kiệu quan vừa lên núi, sớm đã có viên thuế giám phụ trách trông coi núi này dẫn người chạy vội ra nghênh đón, đưa hai vị đại nhân vào trong một căn nhà gỗ được xây dựa sườn núi.

Dương Lăng ngồi xuống chiếc ghế dựa bằng tre, cười ha hả: 

- Tháng này, nếu ở phương Bắc thì sớm đã có gió thu hiu hiu, cây cối điêu linh rồi. Nơi này lại vẫn cỏ cây xanh ngát, hơn nữa khí trời vẫn còn thiêu đốt như vậy!

Mạc Thanh Hà đáp: 

- Ở Giang Nam sông nước hãy coi như còn mát mẻ, xuôi Nam vào trong nội địa một chút sẽ càng nóng bức hơn. Người đâu rồi, mau dâng trà ngon lên cho đại nhân giải nhiệt coi!

Dương Lăng nghe hai chữ "trà ngon", không khỏi âm thầm cười nhạt. Y rờ bọc trà nhỏ cất trong người, chỉ đợi nước trà được bưng lên, nếm thử tư vị liền sẽ hỏi rõ Mạc Thanh Hà trước mặt mọi người. Có điều y có ý định thu phục Mạc Thanh Hà nên cũng không muốn làm quá, chỉ muốn răn đe áp bức hắn một chút, khiến hắn thần phục là được.

Một người con gái hái trà mặc áo màu xanh ngọc, váy vải hoa bằng sáp nhạt màu, eo thon thắt dây đai màu đen, tóc buộc khăn vải, trên gương mặt mang một nụ cười dịu dàng, nhẹ bước vào phòng, nhanh nhẹn pha một ấm trà, rồi dâng cho Dương Lăng và Mạc Thanh Hà mỗi người một chén.

Dương Lăng nâng chén trà lên, thấy lá trà vẫn đang xoay tròn trong nước như lưỡi con chim sẻ. Y liếc Mạc Thanh Hà, rồi thong thả ung dung đưa chén lên mũi ngửi thử, không khỏi lại ngẩn ra.

Mùi vị của trà này thơm nức mũi, giống hệt như mùi vị của loại cực phẩm hoàng gia mà lúc ở trấn Thượng Hải y đã thưởng thức. “Mạc Thanh Hà giấu riêng trà ngon, trà cung phụng cho cung đình so với thứ này kém hơn rất nhiều. Hôm nay ở trước mặt vị khâm sai từ trong kinh đến để điều tra như mình mà hắn lại không hề biết kiêng kị, thản nhiên dâng lên loại trà này. Chẳng lẽ hắn không sợ mình phát giác ra sự khác thường, hạch hắn tội khi quân sao?”

Dương Lăng thoáng ngẩn ra, ngước mắt nhìn Mạc Thanh Hà đang mỉm cười chờ y thưởng thức mùi vị, không dằn lòng được bèn hỏi: 

- Mạc đại nhân! Trà này của đại nhân mùi hương ngào ngạt, thấm tận tâm can tỳ phế, quả thực là cực phẩm. Có điều... khi ở trong kinh bản đốc cũng đã từng uống ngự trà trong cung, trà tiến cống mà Hoàng thượng uống so với trà này của ngài kém hơn không chỉ một bậc. Không biết Mạc đại nhân giải thích thế nào đây?

Chú thích:

(4) Đại Quan viên là ngôi biệt thự do Giả Phủ xây dựng dùng làm hành cung cho quý phi thăm viếng trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, được dùng để ví như chốn Bồng Lai.

(5) tiếng Nhật là Ronin, nghĩa là "con người trôi dạt", một thuật ngữ chỉ những samurai vô chủ. (trích wiki)

(6) Đường Dần (1470 - 1523) là một danh hoạ, một nhà thơ nổi tiếng đời nhà Minh. Đường Dần tự là Tử Uý, Bá Hổ (nên còn được gọi là Đường Bá Hổ), hiệu là Lục Như cư sĩ, Đào Hoa am chủ, tự xưng là Minh triều Giang Nam đệ nhất phong lưu tài tử. 

Bài Đào Hoa am

Chương 126 - Thủ thế chờ “bung”

----------------------------------------------

Mạc Thanh Hà kinh ngạc nói:

- Khâm sai đại nhân đã từng uống loại cực phẩm hoàng gia rồi ư? À, đúng rồi, Dương đại nhân là thần tử đắc lực bên cạnh hoàng thượng, đương nhiên là có cơ hội thưởng thức trà tiến cống cực phẩm rồi. Ha ha ha!

Hắn nói xong bèn mỉm cười khoát tay ra hiệu cho cô gái hái trà và đám thuế lại, trà giám của đỉnh Sư Tử lui hết ra ngoài.

Trịnh bách hộ chần chừ đưa mắt nhìn Dương Lăng. Dương Lăng lại không tin Mạc Thanh Hà sẽ vì chuyện này mà dám công nhiên gây bất lợi cho mình, huống hồ những người mà mình dẫn theo ai nấy đều võ nghệ siêu quần, nhân thủ cũng hơn xa số người của Mạc thuế giám, vì thế y tuỳ ý khoát tay lệnh cho Trịnh bách hộ dẫn người đi ra.

Mạc Thanh Hà cầm chén trà lên, thong thả thổi những hoa trà đang trôi nổi trong chén tản ra, chậm rãi hớp một ngụm trà tỉnh rồi mới mỉm cười nói:

- Trà này của ty chức so với loại cực phẩm hoàng gia được tiến cống kỳ thật còn ngon hơn một bậc, khó trách đại nhân nếm xong lại sinh nghi. Có điều đây cũng không phải là bí mật gì, người trong nghề đa phần đều biết chuyện này.

- Ồ?

Dương Lăng xoay nhẹ chén trà, nghi hoặc hỏi:

- Trà tiến cống chẳng phải là loại trà ngon nhất à? Vì sao trà Long Tĩnh của Tây Hồ cung phụng hoàng gia đại nội lại không bằng loại trà mà ông giữ lại vậy?

Mạc Thanh Hà cười lớn đáp:

- Đại nhân có điều không biết, trà này chỉ có sản xuất ở mấy ngọn núi gần đây mới là trà cực phẩm chính tông. Lá trà ngon nhất bị ảnh hưởng rất lớn bởi khí hậu. Cho dù năm nay mưa thuận gió hòa, khí hậu thích hợp, có thể sản xuất ra một ít trà ngon cực phẩm, nhưng vận chuyển đường dài gặp phải mưa dầm liên miên, mùi vị cũng sẽ chịu nhiều ảnh hưởng.

Hắn ngừng một chút rồi nói tiếp:

- Bởi vậy loại trà dâng cho hoàng thượng uống cần phải có mùi vị ổn định, phẩm chất như nhau. Trà tiến cống không yêu cầu phải ngon nhất, chỉ cần ổn định nhất là được. Bằng không nếu như năm nay hoàng thượng uống thấy mùi vị khác biệt, năm sau mùi vị lại hơi khác đi, cho rằng kẻ dưới làm việc không tốt, truy cứu xuống thì có đem chém toàn bộ người ở vườn trà này cũng sẽ không sinh ra trà mới đâu.

Hắn lại tiếp tục giải bày:

- Đây không phải là kẻ dưới bất kính với hoàng thượng, mà thực sự là không có biện pháp giải quyết. Trong kinh thỉnh thoảng vẫn có người dùng nhận thấy sự khác biệt giữa hai loại trà này, nhưng cũng chỉ cho rằng do trà mới được hái nên có mùi vị ngon hơn, sẽ không vì vậy mà sinh nghi. Ty chức hết sức kính ngưỡng Dương đại nhân, do đó không dám giấu giếm. Đương nhiên… danh tiếng thương cảm cho bá tánh của Dương đại nhân ty chức đã nghe từ lâu, cho nên cũng không đành che giấu.

Dương Lăng nghe mà ngỡ ngàng. Y cứ tưởng Mạc Thanh Hà giấu giếm trà ngon làm của riêng là vì trục lợi cá nhân, không ngờ bên trong lại có lý do này.

Mạc Thanh Hà cười khổ nói:

- Đại nhân à, những kẻ hầu hạ bên dưới như chúng tôi đây dựa vào thân phận sai dịch cho hoàng thượng để diễu võ giương oai, người người đều cảm thấy oai phong vô cùng, nào có ai biết muốn bình an vô sự chúng tôi cũng phải lao tâm khổ tứ chứ.

Hắn lại thở dài một hơi rồi nói:

- Nhưng cũng không còn cách nào khác. Ngoài việc không dám tiến cống trà không biết được phẩm chất ngon hay kém do bị ảnh hưởng của thời tiết, chúng tôi thực không dám giấu làm của riêng. Ngân lượng chúng tôi có được từ việc bán loại trà ngon cực phẩm này đều dựa theo số lượng mà nộp lên kinh sư. Đương nhiên… cũng không tránh được phải trích ra một ít biếu tặng cho quan trên, Vương công công và mấy vị thủ lĩnh của Ty Lễ Giám trong kinh. Mỗi năm ty chức đều phải hiếu kính chục cân trà ngon. Giờ đây ty chức thuộc sự quản hạt của đại nhân, thành thật bẩm báo, vẫn mong đại nhân thể nghiệm và quan sát tình hình bên dưới, thông cảm với những khó khăn của đám nô tài chúng tôi đây.

Dương Lăng nghe vậy cười khổ không thôi. Vốn tưởng là một vụ án khi quân to tát, hoá ra lại là một quy củ lớn được ước định mà thành trên quan trường: phàm là cống phẩm không thể bảo đảm chất lượng để cung ứng, thà giảm yêu cầu chất lượng của nó cũng không cung phụng cho đại nội, tránh để mặt rồng nổi giận ngược lại sẽ không hay.

Có điều Mạc Thanh Hà thẳng thắn bẩm báo như vậy cũng khiến y có nhiều hảo cảm hơn. Bất luận Mạc Thanh Hà giả vờ thật thà hay tâm tư bộc trực, ít nhất cũng chứng minh rằng hắn xác thực có ý muốn dựa vào mình. Dương Lăng cười ha hả, nâng chén hướng về phía Mạc Thanh Hà nói:

- Đa tạ Mạc đại nhân thẳng thắn nói cho hay, tháo gỡ nghi hoặc trong lòng tại hạ. Dương mỗ cũng hầu hạ quân chủ, đương nhiên hiểu được nỗi khổ của các vị đại nhân, nay đã biết được đầu đuôi trong đó, dĩ nhiên sẽ không trách móc.

Sau khi nghe xong tình hình do Liễu Bưu báo cáo, Dương Lăng đã quyết định sẽ khai đao lập oai với thuế giám trấn thủ Viên Hùng, chỉ là vụ trà tiến cống của Mạc Thanh Hà vẫn luôn là mối tâm bệnh vướng mắc trong lòng y. Nay đã biết được tường tận tình hình, y cảm thấy vô cùng thoải mái. Hai người uống trà trò chuyện, cảm tình đôi bên cũng thân thiết hơn không ít.

Sau khi đi hai vòng trong vườn trà trên sườn núi, xem như đã hoàn thành sứ mệnh thị sát, lúc hai người lên kiệu xuống núi, Mạc Thanh Hà bỗng đưa tay lên vẫy, thuế giám trông coi vườn trà vội vàng dẫn mấy người khiêng hai chiếc rương nhỏ sang. Dương Lăng nghi hoặc hỏi:

- Đây là…?

Mạc Thanh Hà cười nịnh nói:

- Đại nhân, trên núi này ngoại trừ lá trà thật sự không có thứ gì đáng giá cả. Trong một chiếc rương này là mười cân trà xuân Long Tĩnh cực phẩm, xin đại nhân cầm về thưởng thức. Nếu vụ thu hoạch trà năm sau gặp phải thời tiết không tốt, đại nhân sẽ không thể uống được thứ trà ngon như vậy đâu.

Dương Lăng biết nếu bây giờ đem loại trà xuân cực phẩm chân chính như vậy ra chợ bán cho phú hào Giang Nam, một lạng trà phải có giá mười lượng bạc. Một rương trà cỏn con này là cả ngàn lượng bạc, uống một ngụm e phải bằng phần ăn cả một tháng của bá tánh bình thường, thật sự là hơi quá xa xỉ.

Có điều nếu trước đây mọi người của Ty Lễ Giám đều đã quen tiếp nhận, bây giờ Mạc Thanh Hà vẫn chưa quy thuận, nếu như không nhận khó tránh sẽ khiến hắn sinh nghi, thế là y bèn tủm tỉm gật đầu.

Mạc Thanh Hà xoa tay nói:

- Còn chiếc rương này bên trong là bốn chiếc gối uyên ương. Lá trà trong gối tuy không phải là loại trà xuân cực phẩm hoàng gia, nhưng cũng là loại trà ngon hạng nhất. Một khi gối lên, mùi trà sẽ lan toả khắp người, lòng thanh mắt sáng, giúp ngủ ngon tốt nhất. Ha ha, xin tặng cho đại nhân và phu nhân.

Dương Lăng nghe nói là gối trà thì rạng rỡ mặt mày. Gối trà này hương thơm nức mũi, ba nha đầu trong kinh nhất định sẽ thích lắm, nhưng vừa nghe nói đến số lượng thì lại thoáng ngẩn ra: “Nếu là gối uyên ương, vậy Ấu Nương, Ngọc Nhi và Tuyết Nhi cộng lại mới có ba người, hắn tặng bốn cái là ý gì? Chẳng lẽ việc này cũng coi trọng ‘tặng lễ theo cặp’(1) ư?”

(1) Nguyên văn “hảo sự thành song”. “Thành song” ở đây nghĩa là “theo đôi, theo cặp”. Theo phong tục Trung Hoa, phàm tặng lễ mừng cho chuyện vui nào đó, lễ vật thường được tặng theo đôi, kị tặng đơn lẻ.

Dương Lăng ngước mắt nhìn, thấy trong mắt Mạc Thanh Hà ngậm cười, mặt bèn chợt nóng lên, biết rằng hắn đã nhận định Cao Văn Tâm sớm muộn gì cũng sẽ được mình cưới về làm thiếp. Y cũng không có cách nào giải thích, chỉ đành ậm ờ ưng thuận, sai người nhận lấy hai chiếc rương, sau đó hai người khởi kiệu rời khỏi núi Sư Tử.

Rời khỏi miệng núi, đầu tiên phải đi qua một thôn nhỏ mới có thể rẽ sang đường lớn về thành. Dương Lăng đang ngồi trong kiệu chợt nghe phía trước có tiếng người quát mắng, vội vén rèm kiệu lên nhìn. Chỉ thấy hai tên thuế lại đang giơ roi đuổi đánh một đứa bé ăn mặc rách rưới, nhìn cũng chỉ khoảng mười tuổi, liền giận dữ quát một tiếng:

- Dừng tay!

Hai tên thuế lại kia đang say sưa quất roi, hoàn toàn không nghe thấy. Trịnh bách hộ đi bên cạnh kiệu liền phóng tới một bước, chụp lấy roi da trong tay tên thuế lại, đẩy một cái khiến cho hắn lảo đảo, quát lên:

- Đại nhân có lệnh, ngươi không nghe thấy à?

Tên thuế lại đó quay đầu lại, nhìn thấy Dương Lăng đã xuống kiệu, bộ mặt hung thần ác sát lập tức đổi thành vẻ mặt tươi cười siểm nịnh, gật đầu khom lưng đứng sang một bên. Mạc Thanh Hà cũng xuống kiệu ngựa, vội vã chạy qua hỏi:

- Đại nhân, đã xảy ra chuyện gì vậy?

Dương Lăng thấy đứa bé đó đã lùi về bên một sạp trà. Trông nó hết sức ốm yếu, thân thể gầy gò để lộ một cái đầu hơi quá khổ, đôi mắt to hiện lên vẻ lanh lợi cứng cỏi, có điều quần áo lại rách rưới, thân thể và mặt mũi trông rất bẩn thỉu.

Dương Lăng bước tới ngồi xổm xuống, đặt tay lên vai thằng bé, chỉ cảm thấy da bọc xương, gầy đến thảm thương. Y ôn hoà hỏi:

- Tiểu huynh đệ, đệ không phải là người bản địa à? Người nhà đệ đâu rồi?

Dương Lăng vừa bước tới phía trước, Trịnh bách hộ đã dẫn bốn tay nha sai đuổi theo sau. Thằng bé đó trông thấy năm đại hán oai phong lẫm liệt tay cầm đơn đao sau lưng Dương Lăng thì co rúm người lại không dám trả lời. Dương Lăng quay đầu lại nhìn, nhíu mày nói:

- Chỉ là một đứa bé, còn sợ bản quan bị hành thích sao? Đừng doạ thằng bé, các người lui ra chút đi!

Trịnh bách hộ vội dẫn người lùi ra mấy bước. Mạc Thanh Hà cũng bước qua, ngồi xổm xuống, ôn tồn cười nói:

- Nhóc con, vị đại nhân này là người tốt, đại nhân hỏi thì ngươi phải trả lời đàng hoàng, đại nhân mà cao hứng sẽ thưởng ngươi mấy văn tiền để mua mấy cái bánh bao thịt lớn ăn đó.

Thằng bé vừa nghe nói đến bánh bao thịt, cặp mắt liền sáng lên. Nó nuốt một ngụm nước bọt rồi mới ấp úng nói:

- Đại lão gia, cháu tên là Ôn Tiểu Hoa, là người ở trấn Tư Khẩu. Khi nãy đói bụng, trông thấy cây bên đường có quả dại nên định hái mấy trái xuống ăn. Vị đại gia đó… ông ta lấy roi đánh cháu.

Dương Lăng nhìn sang Mạc Thanh Hà. Mạc Thanh Hà nhướng mày nói:

- Trấn Tư Khẩu à? Đó là địa giới Tô Hàng mà, đứa nhỏ như ngươi một mình chạy đến nơi này sao? Người nhà của ngươi đâu?

Thằng bé rụt rè gật đầu đáp:

- Ừm! Người nhà cháu đều chết cả rồi, cháu phải đi ăn xin khắp nơi để sống qua ngày, đi hoài đi mãi thì đến nơi này.

Dương Lăng hỏi:

- Thế nào mà người trong nhà đều không còn vậy? Nơi đó đã xảy ra ôn dịch sao?

Mạc Thanh Hà lắc đầu nói:

- Chưa từng nghe nói có ôn dịch. Đứa nhỏ, nói cho ta biết người trong nhà ngươi làm sao mà chết hết vậy?

Thằng bé chớp đôi mắt to, rụt rè đáp:

- Ruộng nhà cháu ở kế bên sông, tháng năm nổi lụt ngập hết cả ruộng. Cha cháu bán nhà vào thành làm chút buôn bán nhỏ, nhưng mà vào thành cũng bị thu thuế. Cha… cha lén trèo tường nên té bị thương, mẹ cháu mới bán ruộng để chữa thương cho cha, nhưng bọn người lùn lại kéo đến, cướp tiền và đồ nhà cháu, giết chết cả cha mẹ cháu. Cháu phải… phải ăn xin khắp nơi.

Dương Lăng nghe mà cảm thấy xót xa trong lòng. Lúc này ông già mở quán trà bên đường nhận ra Mạc Thanh Hà, không nén được mừng rỡ kêu lên:

- Ngài là Mạc gia? Mạc đại thiện nhân!

Mạc Thanh Hà ngẩn ra, hỏi ngược lại:

- Ông nhận ra ta à?

Lão hán đó hưng phấn reo lên:

- Nhận ra chứ, nhận ra chứ. Mùa đông năm ngoái, Mạc gia bố thí cháo trong thành, lão đây đã từng đến trước phủ ngài xin miếng ăn đó. Cái đứa nhỏ không cha bị Trương quả phụ thôn chúng tôi tái giá bỏ rơi, đứa nhỏ tên là Thuỷ Sinh không có ai nuôi đó, không phải Mạc gia đã nhận nuôi sao? Ha ha, lão đây còn nhớ ngài mà. Đứa nhỏ này thật là đáng thương, lại có vẻ lanh lợi, không bằng Mạc gia ngài rủ lòng thương thu nhận nó đi.

Dương Lăng nhìn Mạc Thanh Hà, lấy làm bất ngờ nói:

- Mạc đại nhân thật không hổ được gọi là thiện nhân, hóa ra không chỉ bố thí cháo cứu người mà còn thu dưỡng cô nhi.

Mạc Thanh Hà còn chưa kịp nói mấy câu khiêm tốn, ông già nọ đã cướp lời nói tiếp:

- Mạc gia là người tốt, thành Hàng Châu ai mà không biết chứ? Mạc gia đã thu dưỡng mấy chục đứa nhỏ bơ vơ không nơi nương tựa. Thằng bé này hôm nay gặp được ngài thật đúng là phước đức tổ tiên à.

Mạc Thanh Hà nghe lão ta khen ngợi mình trước mặt Dương Lăng, dường như hơi không được thoải mái lắm, vội nói:

- Được rồi được rồi, cái ông lão này!

Hắn quan sát thằng bé tên là Ôn Tiểu Hoa mấy lượt, rồi khẽ gật đầu nói:

- Được rồi, ngươi hãy đi theo ta, thế nào? Ta sẽ tìm một chỗ cho ngươi, có ăn có uống, còn có thể học chút nghề.

Thằng bé rất lanh lợi, nghe xong vội vàng quỳ xuống, vui mừng phấn khởi đáp:

- Tạ ơn đại lão gia! Chỉ cần có miếng ăn, ngài sai cháu làm gì cũng được.

Mạc Thanh Hà không ngại nó bẩn thỉu, vừa cười lớn vừa xoa đầu nó, sau đó quay đầu gọi quản gia:

- Lão Lý, mang thằng bé này theo! Có mang theo thứ gì ăn không? Cho nó một chút lót dạ đi!

Dương Lăng vừa cùng hắn trở về, vừa nói:

- Mạc đại nhân đã thu nhận mấy mươi cô nhi à? Đây… đây thật là việc đại thiện đó. Có điều trong phủ nuôi dưỡng nhiều con nít như vậy cũng thật khó khăn cho đại nhân rồi.

Mạc Thanh Hà hơi đỏ mặt nói:

- Đại nhân quá khen rồi. Chúng ta… chà, chúng ta là người gì hẳn đại nhân cũng rõ, chỉ muốn làm chút việc thiện, kiếp sau có thể được báo ứng tốt mà thôi. Ty chức chỉ là giúp đỡ những đứa nhỏ này kiếm miếng ăn, cũng không giữ lại trong phủ mà nhờ người đưa đến hộ dệt bản địa làm ít việc vặt, đồng thời học chút tay nghề. Cũng vì nể mặt ty chức nên những hộ dệt đó không dám làm khó bọn chúng, cho bọn chúng một con đường sống mà thôi.

Đến đây Dương Lăng quả thật đã cảm thấy kính nể người thái giám này. Bất kể hắn có thật muốn tích âm đức để cầu thiện báo hay không, những việc làm và hành động ấy đã hơn biết bao kẻ đọc sách cả ngày ra rả vì nước vì dân, song lại chỉ biết nói suông. Tuy hắn không hiểu nhiều đạo lý lớn, nhưng lại thật sự làm được rất nhiều việc tốt.

Mặc dầu, lợi dụng sự tiện lợi của chức quyền hắn cũng thu được không ít chỗ tốt, nhưng hắn có thể nghĩ đến việc cứu tế dân chúng cùng khổ, đây đã là chuyện rất đáng quý rồi.

Tất cả hộ dệt của bản địa đều thuộc sự cai quản của thái giám dệt may Lý Đại Tường. Các hộ dệt may tập trung ở Tô Châu, cho nên nha môn của Lý Đại Tường cũng đặt tại Tô Châu. Dương Lăng và Mạc Thanh Hà trở về thành, không quay thẳng về phủ mà đến một cửa điếm nhỏ đặc sắc của địa phương. Hai người ngồi dưới gốc thuỳ dương, khoan thai đối ẩm, vui vẻ bình phẩm phong cảnh Giang Nam. Sau đó còn chưa dứt chuyện thì lại quyết định đi đến hộ dệt bản địa để quan sát.

Dương Lăng nhớ lúc nhỏ đọc sách, có nghe nói vào thời Minh hộ dệt Giang Nam thuê mướn thợ thuyền, đã có quy mô khá lớn, có hình thức ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Hộ dệt mà y đến tham quan lần này là một trong mười mấy hộ dệt lớn của Hàng Châu, tuy không lớn bằng hộ dệt Tô Châu nhưng cũng có mấy chục khung cửi, thuê mướn gần hơn trăm thợ nữ. Dạo một vòng bên trong, Dương Lăng có cảm giác rất giống với xưởng sản xuất dây chuyền công nghiệp hiện đại, không khỏi vô cùng hưng phấn.

Khi sắp ra khỏi cửa, y chợt nhìn thấy một thằng bé mập mạp độ mười một mười hai tuổi vác một bao sợi trắng đi vào. Vừa trông thấy có người ngoài, nó bèn đứng một bên cửa, đưa tay áo lên quệt mồ hôi đầy trán, chỉ đứng đó cười ngây thơ.

Mạc Thanh Hà cười chỉ vào thằng bé đó, nói:

- Thằng nhỏ này cũng không cha không mẹ, ty chức thấy tội nghiệp nên đã thu nhận rồi đưa đến đây. Ừm, đó là chuyện của mùa hè năm ngoái rồi.

Hắn lại cười nói:

- Ha ha! Không sợ đại nhân chê cười, người do ty chức đưa đến những hộ dệt này còn không dám không nể mặt. Bọn họ quyết sẽ không ngược đãi chúng, cho nên ty chức cũng chưa bao giờ đến thăm. Ty chức nhớ được thằng nhỏ này cũng bởi cái bướu to đấy của nó, bằng không quả thật không thể nhớ nổi.

Dương Lăng bèn đưa mắt nhìn, thấy thằng bé đó thân thể khoẻ mạnh rắn chắc, xem ra cuộc sống nơi đây quả nhiên không tệ. Có điều cổ nó vừa thô lại ngắn, bên cổ lại mọc ra một cái bướu thịt to dễ sợ màu đỏ tía, khiến người ta trông thấy liền có ác cảm.

Mặc dù Dương Lăng biết thân thế thằng bé này đáng thương, nhưng nhìn xong trong lòng cũng có cảm giác dị dạng, đừng nói là người khác. Nếu không vì Mạc Thanh Hà rủ lòng thương, phỏng chừng thằng bé này có muốn kiếm chút miếng ăn một cách chính đáng cũng sẽ không có ai dùng nó, chỉ có thể ăn xin cả đời. Đối với việc làm vĩ đại của Mạc Thanh Hà, trong lòng y không khỏi càng sinh ra một sự ngưỡng mộ.

Nhưng kỳ quái chính là, sao thằng nhóc đó gặp Mạc Thanh Hà mà vẻ mặt lại bình thường, không có vẻ gì như gặp được ân nhân vậy? Dương Lăng hơi động nghi ngờ, song lập tức nhớ ra thằng nhóc mập này mới chỉ gặp Mạc Thanh Hà một lần, trải qua lâu ngày một đứa bé làm sao nhớ rõ như vậy được, thế là lòng nghi ngờ lập tức tan biến.

Thằng bé mập mạp đó chỉ nhìn mấy vị khách cười ngây thơ, cũng không bước lên chào hỏi. Hộ dệt Cao Minh cười mắng:

- Tiểu tử ngốc, nhìn gì mà nhìn, mau mang đồ vào đi, đừng che mắt đại nhân!

Thằng bé mập đó nghe thấy liền vội vác bao sợi lên rồi chạy vụt vào.

oOo

Dương Lăng mặt đỏ như gấc đi vào Tây khoá viện. Cao Văn Tâm ngồi dí trong nhà cả ngày, nghe nói y trở về liền tung tăng ra đón, trông thấy vẻ mặt Dương Lăng quái dị, không khỏi ngẩn ra. Dương Lăng lúng túng đưa một cuộn giấy qua nói:

- Văn Tâm, đem cất cái này cẩn thận đi!

Cao Văn Tâm ngạc nhiên hỏi:

- Lại có người tặng lão gia thư hoạ của danh nhân gì sao?

Nàng vừa mở cuộn giấy ra nhìn, sắc mặt lập tức trầm xuống, chua chát nói:

- Thiếp tựa mù giăng chàng tựa trăng… Quả là một bài thơ tình hay. Không ngờ lão gia nhà chúng ta còn là nhân vật hết sức phong lưu nữa, đến vùng Giang Nam sông nước không biết đã khiến bao nhiêu người con gái phải điên đảo thần hồn rồi.

Dương Lăng dở khóc dở cười bao biện:

- Bài thơ này… là tôi nghe được lúc ở cố hương. Mạc phu nhân thấy hay nên đã phỏng chép ra hai cuộn, cuộn này là tặng lại cho tôi. Cô đừng có nghĩ ngợi lung tung! Đúng rồi, cô thấy thư pháp của vị Mạc phu nhân này thế nào? Thật là khéo tay hay chữ nhỉ.

Cao Văn Tâm nào tin lời nói dối của y. Nếu như thật sự đường hoàng như vậy, cớ gì khi nãy sắc mặt lại lúng túng? Nàng nhìn thư pháp ấy một chút rồi hừ giọng nói:

- Chữ thì không tệ, nhưng cũng không thấy đẹp hơn chữ tiểu tỳ. Trái lại bài thơ này… ý nặng tình thâm, chẳng lẽ là của Ấu Nương tỷ tỷ tặng lão gia?

Dương Lăng đằng hắng hai tiếng, không đáp lời nàng. Khi nãy vừa trở về phủ, Mạc phu nhân liền hưng phấn cầm hai cuộn tranh ra. Nàng ta đã chép bài thơ thành hai phần giống nhau, một phần tặng cho Dương Lăng để tạ ơn.

Chuyện này vốn không có gì to tát, chỉ là không biết vì con gái Giang Nam phóng khoáng như vậy, hay vì Mạc phu nhân lăn lộn chốn thanh lâu nhiều năm, không biết chừng biết mực, lại chẳng hề kiêng kị áp sát đến trước mặt Dương Lăng, mở tranh thư pháp ra, duyên dáng tươi cười, chỉ chỉ trỏ trỏ.

Nếu như cử chỉ đó được đặt vào thời nay thì cũng không tính là gì, nhưng Dương Lăng ở niên đại này đã lâu mà vẫn chưa từng thấy phu nhân người nào không biết tránh hiềm nghi như vậy, cứ kề sát lại gần. Chỉ ngửi thấy làn gió thơm rười rượi, hơi thở như lan đã khiến y trở nên khó chịu bất an, thế mà Mạc Thanh Hà không hề cho đó là ngỗ ngược. Vì vậy y càng không thể nổi giận được.

Cuối cùng khi Mạc phu nhân thu cuộn tranh về, buộc lại rồi đặt vào tay y, ngón tay ngọc thon thả lại thuận thế lẳng lơ khều nhẹ lòng bàn tay y một cái, làm Dương Lăng sợ giật nảy tim. Y ngước mắt nhìn, đúng lúc trông thấy cặp mắt khiến cho hồn xiêu phách lạc của Mạc phu nhân liếc sang: yêu kiều, quyến rũ, răng trắng cắn khẽ môi hồng, tuy vẻ phong tình chỉ hiển lộ ra trong chớp mắt, nhưng lại như hòn đá ném xuống mặt nước yên ả, khiến lòng người nổi lên từng gợn sóng. Lúc này Dương Lăng mới hiểu được không phải nàng ta không câu nệ tiểu tiết mà là có ý quyến rũ mình.

Vẻ phong tình của mỹ nữ này, phong lưu mà không thấp hèn, tuy ở trước mặt trượng phu mình quyến rũ người khác, nhưng sức mê hoặc đặc biệt đó lại khiến người ta không thể nảy sinh chút ác cảm nào. Dương Lăng chỉ cho rằng nàng cưới phải ông chồng thái giám, khao khát xuân tình, đột nhiên có người đàn ông trẻ tuổi vào ở nơi này, mới khiến nàng ta suy nghĩ vẩn vơ. Thế là y không dám ngồi lâu, trò chuyện vài câu với Mạc Thanh Hà xong liền vắt giò lên cổ mà chạy.

Chuyện khó xử như vậy y đương nhiên không thể kể cho Cao Văn Tâm nghe. Nhìn thấy nàng vẫn còn chút giận dỗi, Dương Lăng vội cười ruồi nói:

- À… Văn Tâm này, chúng ta có phải nên uống thuốc châm cứu không?

Cao Văn Tâm duyên dáng lườm y một cái, nói:

- Không được, hay là lão gia người đi gặp Liễu thiên hộ trước đi rồi hẵng bàn! Đừng để khi châm cứu lại kêu ầm lên, đến lúc đâm cho cái lưng ngài thành cái sàng, trở về Ấu Nương tỷ tỷ mà không đòi mạng tiểu tỳ mới lạ đó.

Dương Lăng buột miệng cười nói:

- Vậy thì không sợ, chỉ sợ tôi kêu la trong phòng, bị đám nha sai nghe được lại hiểu lầm chúng ta…

Y nói đến đây chợt ngậm miệng lại, hối hận đến suýt nữa thì đã vả vào miệng mình: “Thằng khốn nạn này, rõ ràng không muốn gánh thêm nợ tình, sao còn ngứa miệng nhiều chuyện vậy! Mày nghĩ đây là đang trong công ty tám chuyện với đồng nghiệp nữ sao? Phụ nữ thời này chung tình lắm đó.”

Y còn ngượng ngùng xấu hổ, Cao Văn Tâm sao không thẹn đến đỏ bừng cả mặt. Thế nhưng nàng lại không hề có chút vẻ giận hờn nào, ánh mắt hết sức phức tạp, cũng không biết đang nghĩ gì. Nàng liếc Dương Lăng một cái thật sâu rồi nhẹ giọng nói:

- Tiểu… tiểu tỳ sẽ đi mời Liễu thiên hộ vào.

Trong khoảnh khắc, ngữ khí ấy càng mê ly và thuỳ mị không nói nên lời.

oOo

Quả thật phụ nữ mỗi khi ăn mặc trang điểm lại có một diện mạo khác. Cao Văn Tâm mặc một bộ phục sức phổ thông của con gái vùng Giang Nam, vẻ ung dung sang trọng hoàn toàn biến mất mà lại hơi giống như một cô con gái cưng vậy. Nàng vội vã chạy lên lầu, tay cầm vạt váy màu xanh lá, giậm mạnh đôi hài thêu màu đỏ, bực bội liếc Dương Lăng một cái rồi nói:

- Lần sau lão gia đừng tìm tiểu tỳ nữa, còn muốn người ta cười với hắn một cái, thật muốn ói quá!

Cao Văn Tâm dáng người thon cao, dung mạo trong veo như nước, lúc này giậm chân hờn dỗi, cả người toát lên phong thái xinh đẹp khiến người ta phải động lòng. Dương Lăng nhìn mà hai mắt sáng rực, liền vội gật đầu nói:

- Đương nhiên, đương nhiên, yên tâm, yên tâm, nếu không phải sợ đánh rắn động cỏ, tôi cũng không nỡ… A hèm, cô lánh ra sau một chút đi, để tôi xem thử tên háo sắc ngửi mùi mà tới này trông như thế nào.

Cao Văn Tâm hừ một tiếng, xoay người lánh ra phòng sau. Chỉ nghe ngoài cửa có tiếng một gã đàn ông cười ha hả:

- Không tệ, không tệ. Ngươi không có gạt ta, cô gái này quả nhiên có mùi vị. Nhưng nói đến chuyện trước mắt, tiền quà cáp lão tử chỉ có thể chi ra mười lượng. Trong tay ngươi đã có thóc gạo, lát nữa ta về kêu quan ty vụ thu mua với giá cao là được. Lợi nhuận của ngươi không ít được đâu, ha ha ha…

Theo giọng nói, một gã quan quân mặt cáo, râu ngắn đen đúa đang cười híp mắt cùng với Liễu Bưu đóng giả thành một thương nhân đầu cơ tiến vào phòng. Hắn nhìn thấy trong phòng lại không phải khuê phòng thiếu nữ như trong tưởng tượng mà là một gian phòng khách không lớn, một công tử trẻ tuổi vận đồ trắng, thắt lưng xanh lam đang mỉm cười ngồi trên nghế dựa nhìn hắn, đứng sau lưng gã công tử đó là bốn hán tử mặc đồ đen, thân hình nhanh nhẹn dữ dằn, vẻ mặt âm trầm thì không khỏi sững sốt, lập tức đưa tay mò cán thanh đao giắt bên hông.

Dáng vẻ thương nhân của Liễu Bưu lập tức biến mất, y giơ chân đá một cái vào sau gối hắn, tiếp đó một thanh chuỷ thủ sáng choang đã kề lên cổ. Hắn chỉ nghe kẻ tự xưng là thương nhân có thóc gạo để bán, muốn dùng mỹ sắc để dâng tặng này lạnh lẽo quát:

- Ngồi bên trên chính là đề đốc nội xưởng, thống lĩnh thân quân thị vệ đại nội, khâm sai phụng chỉ kiểm tra thuế phú Giang Nam, Dương Lăng Dương đại nhân, còn không khấu đầu làm lễ!

Gã quan quân đó cảm thấy hồ đồ, khi nghe nói không phải là cường đạo giặc cướp, mối nguy hiểm mất mạng giảm đi nhiều, hắn mới trút bỏ được một nửa gánh nặng. Nhưng đường đường quan tổng đốc nội xưởng, khâm sai đại nhân, muốn gặp hắn không phải chỉ nói một câu là được sao, thần thần bí bí như vậy để làm gì? Nghĩ đến những chuyện vi phạm pháp luật và kỷ cương mà mình đã làm, hắn không kìm được mà túa mồ hôi lạnh, hoảng hốt bổ nhào về phía trước, run giọng nói:

- Hạ quan thiêm sự Đinh Lâm chỉ huy Long Sơn vệ, bái kiến Dương… Dương đại nhân…

Dương Lăng cúi người cười nói:

- Đinh thiêm sự, bản đốc mạo muội mời ngươi đến đây, ngươi có biết là vì chuyện gì không?

Thiêm sự Đinh Lâm chỉ huy Long Sơn vệ trán mướt mồ hôi hột, thần sắc hoảng sợ đáp:

- Hạ… hạ quan không biết.

Nội xưởng thành lập chưa lâu, có những thủ đoạn lợi hại gì hắn vẫn không biết, nhưng cực hình của Đông xưởng, Tây xưởng và Cẩm Y vệ thì đã sớm có nghe qua. Nghe nói nội xưởng còn có chức trách đốc sát hai xưởng một vệ, vậy thủ đoạn có thể ít sao? Đinh Lâm đã làm ra không ít trò phạm pháp, cho nên vừa nói vừa không nhịn được run lên lập cập.

Dương Lăng thẳng lưng lên phất áo một cái, bắt chéo chân qua. Chiếc giày trắng như tuyết đung đưa trước trán Đinh Lâm. Y khoan thai nâng chén trà lên nói:

- Trịnh bách hộ, đọc cho hắn nghe!

- Ty chức tuân mệnh!

Trịnh bách hộ kính cẩn đáp một tiếng rồi bước lên một bước, liệt kê ra từng hành vi phạm pháp của Đinh Lâm như: ép mua ruộng đất của quan binh vệ sở, tham ô quân hưởng, thông dâm cùng thê tử của binh sỹ.

Đinh Lâm nghe mà mặt vàng như nghệ, Trịnh bách hộ còn chưa đọc hết, hắn đã bò lên phía trước, bi ai cầu khẩn:

- Hạ quan có tội, hạ quan đáng chết, xin đại nhân thứ tội, xin đại nhân khai ân cho!

Vừa nói hắn vừa dập đầu bồm bộp.

Dương Lăng đặt chén trà xuống, khẽ mỉm cười nói:

- Đinh thiêm sự, những việc này ta đều tra ra chứng cứ xác thực, tin rằng nếu cần nhân chứng, những quan binh được ngươi “đối đãi tốt” như vậy cũng sẽ vui vẻ đứng ra làm chứng. Bất cứ một điều nào trong đây đều đủ để lấy đầu ngươi, ngươi có gì để nói không?

Đinh Lâm run rẩy van xin:

- Dạ dạ, hạ quan biết, hạ quan đáng chết, xin đại nhân…

Dương Lăng ngắt lời hắn:

- Thường nói “xin người chi bằng tự xin mình”, nếu như Đinh đại nhân muốn đoái công chuộc tội, vẫn phải dựa vào bản thân mới được à!

Đinh Lâm nghe ra ẩn ý trong lời nói của y, hai mắt không khỏi sáng lên, vội ngẩng mặt sốt sắng nói:

- Xin đại nhân hãy chỉ điểm bến mê, hạ quan sẽ nghe theo tất thảy!

Dương Lăng bảo:

- Thật ra bản quan cũng biết, trong sáu huynh đệ ngươi chỉ có ngươi là theo nghề binh, gia tộc đông đúc hoàn toàn đều dựa vào một mình ngươi nuôi dưỡng, chỉ với chút bổng lộc đó quả thật không đủ để dùng. Còn về phần ngươi thông dâm với thê tử của sĩ tốt, âu cũng là đôi bên tình nguyện, mặc dầu tội không thể tha nhưng cũng có thể niệm tình. Nếu như ngươi chịu giúp bản quan làm ít việc, những tội lỗi này ta sẽ giúp ngươi thay đổi một chút, tự nhiên có thể chuyện lớn hoá nhỏ, chuyện nhỏ hoá không.

Đinh Lâm mừng rỡ nói:

- Đa tạ đại nhân khai ân! Không biết đại nhân muốn hạ quan làm… làm những việc gì?

Dương Lăng tập trung ánh mắt lại nói:

- Ta nghe nói chỉ huy sứ Tất Xuân Tất đại nhân của Long Sơn vệ thường hay mưu hại sĩ tốt vi phạm quân quy, sau đó bức ép sĩ tốt tướng vệ khoanh tay phục tùng, cùng với giám quân Viên công công chiếm dụng làm của riêng. Ngoài ra định mức trong quân là sáu ngàn năm trăm người, nay chỉ còn một phần ba, lại đều là người già yếu bệnh tật. Tất Xuân và Viên Hùng giấu giếm không báo, gạt chiếm quân hưởng, thậm chỉ ngay cả ngân lượng trích cấp để đóng thuyền cũng chảy vào trong hầu bao mỗi người. Giờ đây quân giới cũ hỏng, không thể sử dụng được. Thực có chuyện này không?

Đinh Lâm tuy là thiêm sự chỉ huy, nhưng quyền bính đều nằm trong tay Tất Xuân; Tất Xuân lại cấu kết cùng Viên Hùng, một tay che trời, căn bản không hề để hắn vào mắt. Hắn chỉ có thể vơ vét được một ít lợi trong đó, cho nên trong lòng sớm đã bất mãn với Tất Xuân. Nghe khẩu khí vị khâm sai này dường như muốn trị Tất Xuân và giám quân Viên công công, hắn không khỏi mừng thầm trong bụng.

Nhưng do lâu năm bị chèn ép dưới oai, hắn nhất thời vẫn không dám thổ lộ thật tình, cho nên không khỏi do dự. Dương Lăng thấy vậy hừ nhạt một tiếng, bảo:

- Nếu ngươi đã không thể thành thật với bản quan, vậy bản quan cũng chẳng muốn cứu ngươi nữa. Ngươi về đi!

Đinh Lâm không còn thời gian để suy nghĩ thêm nữa, lật đật nói:

- Đại nhân đừng trách, hạ quan thú nhận ngay đây!

Ngay sau đó Đinh Lâm lôi tất cả những chuyện xấu của Viên Hùng và Tất Xuân mà mình biết được lần lượt kể hết ra. Càng khiến người ta thêm căm phẫn chính là, ngoại trừ hơn năm trăm binh sĩ trong thân binh doanh của Tất Xuân là tinh nhuệ, còn lại toàn bộ đều không có sức chiến đấu. Vì thế lúc giặc Oa kéo đến, hắn cùng thân binh liền mỗi người một ngả, cố ý tránh né giặc Oa, để mặc cho bọn chúng cướp bóc.

Nếu luận năng lực chỉ huy và dũng cảm, Tất Xuân thực ra là một viên tướng kiêu hùng, bằng không lúc tập trung mấy tinh binh vệ sở chống giữ biên giới phía Bắc ngày đó, hắn đã không có gan chiến đấu trực diện với giặc Thát. Nhưng lần này nếu liều mạng chống chọi với giặc Oa, kẻ chết sẽ đều là quân tinh nhuệ của hắn. Xuất phát từ tư tâm, hắn thân mang trọng trách giữ đất nhưng lại để mặc giặc Oa cướp bóc, đợi đến khi bọn chúng rút lui mới gióng trống khua chiêng truy đuổi. Mỗi khi chạy không kịp, giặc Oa bèn vứt lại rất nhiều của cải cướp được, khi ấy Tất Xuân liền thừa cơ thu lượm bỏ vào trong túi mình. Tướng quân Đại Minh mà lại làm “bá vương hôi của”.

Dương Lăng nghe mà giận sôi lên. Đợi Đinh Lâm nói xong, một nha sai cúi đầu hí hoáy ghi chép ở góc phòng liền cầm một tờ giấy cung khai còn ướt mực đi qua. Đinh Lâm bất đắc dĩ phải lăn tay. Lúc này mới nghe Dương Lăng cười nhạt nói:

- Rất tốt, kẻ thức thời mới là trang tuấn kiệt, hy vọng Đinh đại nhân có thể chân thành hợp tác với bản đốc. Những chuyện đại nhân vừa khai nhận bản đốc đã ghi chép vào văn kiện. Việc này còn phải nhờ Đinh đại nhân lợi dụng quan hệ để thu thập nhiều chứng cứ hơn, lúc đó bản đốc bắt người cũng hợp lý hợp lẽ.

Đinh Lâm nghe vậy thì ngẩn ra: “Hoá ra vị xưởng đốc đại nhân này đang gạt mình. Tuy y nghe nói có những chuyện này, song lại căn bản không có chứng cứ!”

Đinh Lâm hơi hối hận, nhưng hắn vừa mới lăn tay ký tên, giờ đã lên thuyền giặc, nếu muốn xuống, chỉ cần dựa vào tờ cáo trạng này Dương Lăng đã có thể bắt hắn vào nội xưởng tra khảo.

Lòng người như sắt, phép quan như lò, ai còn có thể giữ được bí mật dưới cực hình của xưởng vệ chứ? Cho dù Viên công công và Tất Xuân chịu cứu hắn, đến lúc ra được thì người cũng đã tàn phế. Đến nước này Đinh Lâm chỉ đành ảo não đáp ứng mà thôi.

Dương Lăng lại không phải là người dựa vào doạ dẫm để khiến người ta làm việc cho mình, thấy Đinh Lâm đã đáp ứng vội mỉm cười đỡ hắn lên, hứa hẹn phong quan một phen, vẽ ra cho hắn một tiền đồ đầy gấm vóc, đến khi Đinh thiêm sự đang ủ rũ lấy lại tinh thần mới thả hắn đi.

Đợi hắn đi khỏi, Liễu Bưu hơi thắc mắc hỏi:

- Đại nhân, xưởng vệ chúng ta bắt người, chỉ cần có chút manh mối thì không cần xin ý chỉ vẫn có thể bắt loại quan như Tất Xuân và Đinh Lâm này về tra khảo. Huống chi chúng ta ít nhiều cũng đã có chút chứng cứ xác thực, đại nhân cần gì phải phí công lợi dụng tên này cho phức tạp thêm?

Dương Lăng thản nhiên cười nói:

- Liễu Bưu này! Đinh Lâm… không đáng sợ. Tất Xuân… không đáng sợ. Viên Hùng… cũng không đáng sợ. Có điều, huynh cho rằng kẻ địch của chúng ta thật sự là bọn chúng sao?

Nói đoạn y lắc đầu, mỉm cười nói:

- Không đâu, đối thủ chân chính của chúng ta đang ở trong kinh đó. Thay vì nói mấy kẻ này là người mà chúng ta cần đối phó, nói chúng là một món vũ khí thì đúng hơn. Những kẻ ở trong kinh đang dùng bọn chúng để đối phó với chúng ta, chúng ta cũng đang dùng bọn chúng để đối phó với trong kinh. Ha ha, cho nên chứng cứ càng xác thực càng tốt, nếu như nhân chứng vật chứng đều vững chắc, cho dù bọn chúng muốn đặt điều thị phi cũng không có cớ mà vịn lấy.

Liễu Bưu nghe vậy khiếp đảm thất kinh:

- Phải rồi, sao lại quên lý do chúng ta đến Giang Nam nhỉ? Đây vốn là một ván cờ của Ty lễ giám và Đông xưởng lập ra, bọn chúng có thể ngồi yên nhìn Dương đại nhân đến giải ván cờ này sao? Giờ đây đối phó với mấy tên thái giám trấn thủ này thật ra là đánh một trận chiến, thắng thì sẽ giành được sự ủng hộ của mấy trăm vị thuế giám trong thiên hạ, làm yếu đi thực lực của Ty lễ giám và Đông xưởng, thua thì không chỉ mất một ty thuế giám, mà đến lúc đó thuế giám các nơi sẽ dùng mọi cách để gây khó dễ, e rằng con đường tiền tại và thế lực hiện giờ cũng sẽ đi tong.

- Đại nhân càng ngày càng có tâm kế à.

Liễu Bưu nhìn Dương Lăng một cách khâm phục, cung kính nói:

- Vậy thì chúng ta phải chờ Đinh thiêm sự lấy được bằng chứng rồi mới xử lý bọn chúng sao?

Dương Lăng lắc đầu nói:

- Không! Bây giờ cung đã lắp tên, không thể không bắn. Ba đại thái giám trấn thủ Giang Nam đích thực có hành vi phạm pháp, nếu như một tên cũng không xử lý kỹ thì vẫn sẽ tạo cớ cho người ta. Tên Viên Hùng này nhất định phải bắt, có điều cái cớ của chúng ta không can hệ gì đến thuế phú, mà là bại hoại quân kỷ. Thân làm khâm sai, ta có trách nhiệm thuận tiện khảo sát, chưa phụng chỉ thì chưa thể xử lý được.

Y lại nói tiếp:

- Bây giờ cần lập tức phái người vào kinh đem sự tình bẩm rõ với hoàng thượng, xin chỉ lập tức bắt người. Việc này căn bản không che mắt được xưởng vệ, cho nên chỉ có thể xem ai nhanh hơn. Huynh hãy chọn mấy người cơ trí lập tức hồi kinh, trước tiên đến gặp Ngô đại bộ đầu, sau đó vào cung diện kiến thánh thượng.

- Vâng!

Liễu Bưu đáp một tiếng rồi vội xoay người đi ra.

Cao Văn Tâm từ sau vách tường nhẹ nhàng bước ra, chớp chớp mắt hỏi:

- Đại lão gia chuẩn bị quan binh bắt giặc à? Vậy… ngày mai huynh muội Trương thiên sư mời lão gia đến Tô Châu du ngoạn, lão gia có đi hay không?

Duơng Lăng duỗi lưng nói:

- Đi, tại sao không đi, tin tức trong kinh chuyển về nào nhanh như vậy chứ? Nơi này có Liễu Bưu trông coi tôi cũng rất yên tâm.

Trông thấy Cao Văn Tâm trong trang phục con gái Giang Nam, hai mắt y không khỏi sáng lên, giãn mày cười nói:

- Đẹp quá, mặc bộ quần áo này vào, trông thật giống giai nhân vùng sông nước. Tôi thấy cô cũng không cần thay nữa, ngày mai cứ mặc quần áo như vầy, kéo ống quần, để chân trần, chúng ta đến Thái Hồ chèo thuyền hái ấu. Học… học…

Đoạn y vỗ trán nói:

- Học ai ấy nhỉ?

Cao Văn Tâm thấy y không nhớ, nhịn không được bèn buột miệng nói:

- Là Tây Thi Phạm Lãi.

Dương Lăng vỗ tay nói:

- Đúng rồi, là Tây Thi Phạm Lãi.

Không phải là y cố ý dụ Cao Văn Tâm nói ra, mà vì y không biết cách phát âm chữ “Lãi”(2) của vị Phạm đại phu đó. Cao Văn Tâm vừa nói ra, y mới phát giác ví dụ này hơi không thích hợp. Ví quan hệ giữa mình và Cao Văn Tâm như Tây Thi Phạm Lãi, vậy thành ra cái gì đây? Cho nên nói xong y nhịn không được bèn bật cười.

(2) Chữ 蠡 (lãi) có hai cách phát âm là “lǐ” (thanh 3) và “lí” (thanh 2). Tên của Phạm Lãi là thanh 3.

Cao Văn Tâm đảo mắt, chỉ thấy Dương Lăng cười một cách xấu xa, Trịnh bách hộ và mấy tay nha sai đứng sau đều mím chặt môi, trông thì hết sức nghiêm túc, thế nhưng mặt người nào người nấy đều lộ vẻ kỳ dị, thế là không khỏi ngượng chín người, cả cổ cũng đỏ ửng lên.

Chương 127 Ngoại thành Cô Tô

------------------------

Từ khi nhà thơ Trương Kế thời Đại Đường thi rớt về quê, đêm cập bến Phong Kiều sáng tác bài "Phong Kiều dạ bạc"(1) nổi tiếng được mọi người yêu thích, tháp cổ Hàn Sơn cũng vì thế mà vang danh thiên hạ. Đã đến Tô Châu, thì sao có thể không đến chùa Hàn Sơn một chuyến chứ?

Phú ông Ngô Tế Uyên đất Tô Châu cung thỉnh Trương thiên sư đến phủ chúc phúc cho lão thái gia. Huynh muội họ Trương cũng mới đến Giang Nam lần đầu, nghe danh phong cảnh Thái Hồ đã lâu, có ý muốn ngoạn hồ, chèo thuyền hái ấu một chuyến nên đặc biệt sai người đến Hàng Châu mời Dương Lăng. Ba đại thái giám trấn thủ Giang Nam quyền cao chức trọng, mà Dương Lăng lại đang trọ tại Mạc phủ, đương nhiên Ngô Tế Uyên sẽ không thể không đoái hoài gì đến vị Mạc công công trấn thủ Giang Nam này, vì vậy lão cũng mời vợ chồng Mạc công công đi cùng.

Thuyền quan rẽ sóng dọc theo con kênh cổ xưa. Khi đi qua chùa Hàn Sơn, huynh muội Trương thiên sư và Ngô Tế Uyên đã chờ sẵn trên bến Phong Kiều. Hôm nay Dương Lăng đổi sang mặc quần áo chẽn, nếu không phải vì cái đám nha sai đeo cung cầm đao bên cạnh là cái chiêu bài sống của y, thì với tướng mạo và cách ăn mặc bình dị này nhất định y sẽ bị người khác lầm tưởng là một vị công tử nho nhã phong độ.

Tuy sớm đã nghe nói vị khâm sai này tuổi còn rất trẻ, song khi trông thấy diện mạo của y, Ngô Tế Uyên vẫn không khỏi lộ vẻ kinh ngạc. Vị phú ông Tô Châu này tuổi trạc ngũ tuần, tướng mạo hiền lành tao nhã. Mặc dù nhà họ Ngô mấy đời buôn bán nhưng sở hữu đất đai trong khu vực Tô Hàng cũng rất nhiều, con cháu Ngô gia cũng nhiều người thi đỗ làm quan, cho nên có thể xem họ Ngô là thế gia vọng tộc, hào phú đất Giang Nam.

Hôm nay Trương thiên sư là chủ, vị khách mời quan trọng nhất chính là khâm sai đại nhân; nhưng nói đến quen biết thì Mạc Thanh Hà và Ngô Tế Uyên quen biết hơn. Thế là Mạc Thanh Hà lập tức giới thiệu Dương Lăng với Ngô Tế Uyên, Ngô Tế Uyên thì giới thiệu huynh muội Trương thiên sư với Mạc Thanh Hà. Một đoàn người vui vẻ nói cười bước vào trong chùa Hàn Sơn.

Hôm nay Mạc Thanh Hà cũng đổi sang mặc một bộ thường phục. Hắn có vóc người cao lớn, dáng vẻ đường đường, thật không còn thấy bộ dáng của một thái giám. Hắn đứng cạnh Mạc phu nhân chan chứa phong tình, quyến rũ mê người thực cũng khiến cho người ta có cảm giác đó là một cặp trai tài gái sắc.

Nghe nói hôm nay khâm sai đại nhân từ kinh đô và thái giám trấn thủ Mạc công công muốn đến chùa tham quan, phương trượng chùa Hàn Sơn không dám sơ suất chút nào, sớm đã ra đứng đón ngoài cổng chùa. Lão hoà thượng tuổi quá bát tuần, râu tóc bạc phơ, sắc mặt hồng hào, thân thể rất là tráng kiện.

Lão hòa thượng khoác cà sa màu đỏ thẫm, dẫn theo các trưởng lão, tri khách tăng và mười mấy tiểu sa di trong chùa cung kính nghênh đón nhóm người Dương Lăng. Tuy thanh danh vang dội nhưng thật ra chùa Hàn Sơn này rất nhỏ, đi hết một vòng cũng không mất bao thời gian. Vừa bước vào cổng chùa, đập vào mắt mọi người là một chiếc lư hương lớn, hương hoả cực thịnh, cắm đầy những cây nhang to bằng hai ngón tay do các tín đồ kính dâng, từ rất xa đã ngửi thấy mùi nhang khói nồng nặc.

Tuyệt đối không vì có khâm sai đại nhân quang lâm mà nhà chùa đuổi những khách hành hương khác ra ngoài. Có điều trông thấy đám nha sai xông thẳng vào chùa, đứng canh ở khắp nơi thì ai cũng biết là có nhân vật tai to mặt lớn đến, cộng thêm lão phương trượng ngày thường không dễ ra gặp khách lại đích thân tháp tùng giới thiệu cảnh chùa, những tín đồ nọ sớm đã thức thời mà tránh sang một bên.

Chủ yếu Dương Lăng chỉ tò mò về cái chùa Hàn Sơn này. Tuy nói rằng đến Tô Châu thì Viên Lâm(2) và chùa Hàn Sơn là những nơi phải tham quan, song trong tâm trí Dương Lăng thì Yến Tử Ổ(3) mới là nơi đáng đến nhất. Trương thiên sư có thân phận là bậc chí tôn của đạo gia, đến nơi thánh địa của Phật gia này cũng cảm thấy có phần bất tiện, còn Mạc Thanh Hà và Ngô Tế Uyên lại đã viếng thăm nơi này chán chê, nên tuy là lão phương trượng vô cùng ân cần, mọi người đều không cảm thấy hào hứng lắm.

Do đó mọi người chỉ cưỡi ngựa xem hoa, ngôi chùa vốn không lớn đi càng mau hết, mới nửa canh giờ, Dương Lăng đã đi đến sau chùa. Lúc vòng qua các tượng phật được cung phụng trong lầu gác ở đằng trước, y chợt trông thấy hai tăng lữ đang chắp tay quỳ trên bồ đoàn bái lạy. Ban đầu Dương Lăng còn tưởng đó là tăng nhân trong chùa đang tham thiền tụng kinh lễ Phật, nên bèn vội dừng bước. Song thấy bọn họ lại quỳ lạy phía sau tượng Phật, y lại cảm thấy có chút quái lạ.

Phương trượng vốn không nghĩ rằng khâm sai đại nhân sẽ đi đến hậu viện nhanh như vậy, cho nên không kịp gọi những tăng nhân ở hậu viện này tránh đi. Lúc này thấy bọn họ làm ảnh hưởng đến hứng thú tham quan của đại nhân, lão bèn vội vẫy tay ra hiệu tri khách tăng đuổi hai hoà thượng áo xám này ra ngoài.

Dương Lăng thấy tăng y hai hoà thượng đó mặc hơi khác với những tăng lữ khác trong chùa, sau lưng hai người lại đều đeo mũ rộng vành, tựa như đi đường xa mà đến, nhìn chung vừa cảm thấy hơi là lạ vừa lại cảm thấy hơi quen quen. Y nhíu mày suy nghĩ ngợi một lúc, chợt nhớ ra những tăng lữ mà y thấy trong truyện tranh Nhật Bản cũng ăn vận như vầy, y lấy làm lạ hỏi:

- Phương trượng đại sư, hai vị cao tăng này có phải là tăng nhân của quý tự không vậy?"

Phương trượng cung kính đáp: 

- Khâm sai đại nhân! Hai vị tăng lữ này đến từ chùa Thập Đắc ở Nhật Bản, đến bản tự để chiêm ngưỡng và thỉnh kinh Phật, tượng Phật.

Ngô Tế Uyên đứng bên cười nói: 

- Đại nhân! Trong những năm Trinh Quán thời Đường chùa này có hai vị cao tăng đắc đạo, tên là Hàn Sơn và Thập Đắc. Về sau hoà thượng Thập Đắc đông độ (đi truyền đạo về phía đông đến) Nhật Bản, đã dựng nên một ngôi chùa "Thập Đắc" ở Nhật Bản, truyền đạo dạy kinh, rất được người bản xứ kính trọng. Vì vậy nếu có tăng lữ hoặc tín đồ Nhật Bản đến Đông Thổ, phần lớn đều sẽ đến chùa Hàn Sơn thăm viếng.

- Ồ? 

Dương Lăng thấy phương trượng chùa Hàn Sơn và Ngô Tế Uyên bàn luận về Nhật Bản mà thần sắc lại thong dong, không hề có vẻ gì là phẫn hận, thì hơi lấy làm ngạc nhiên, song sau đó liền nhớ ra rằng lúc này Nhật Bản vẫn chưa gây ra tội ác tày trời với Trung Quốc*. Mặc dù giặc Oa làm nhiều điều ác ở vùng duyên hải, song đám hải tặc đó cũng là phường vô lại phạm pháp ở Nhật Bản. Huống hồ trong đó còn xen lẫn rất nhiều hải tặc Trung Quốc, cho nên người dân lúc này vẫn chưa vì vậy mà oán hận người Nhật. Thế là y cũng thoải mái tươi cười. 

(*: tác giả nhắc đến những chuyện trong Thế Chiến thứ hai chăng?)

Y cất bước đến trước mặt hai hoà thượng Nhật Bản đang định lui ra điện nọ để chào hỏi. Nhìn trên tường, y thấy treo một bức tranh đã mờ, niên đại xem ra rất xưa, vẽ chân dung hai hoà thượng trông rất chấc phác, thậm chí có phần khôi hài. Phương trượng đại sư đi đến gần tươi cười: 

- Đại nhân! Đây chính là chân dung của hai vị cao tăng Hàn Sơn và Thập Đắc đó.

Dương Lăng gật nhẹ, nhìn thấy bên trái bức tranh có hai hàng chữ. Hai câu đối thoại này rất nổi tiếng, y đã từng được nghe qua, có điều vẫn không biết xuất xứ từ đâu, lúc này trông thấy thì mới biết là lời của Hàn Sơn và Thập Đắc.

Y thuận miệng đọc: 

- Người đời phỉ báng tôi, khi dễ tôi, làm nhục tôi, chê cười tôi, khinh rẻ tôi, căm ghét tôi, lừa gạt tôi, thì tôi phải xử trí thế nào?

Bên cạnh lập tức có người tiếp lời: 

- Chỉ cần nhịn họ, nhường họ, mặc họ, tránh họ, chịu đựng họ, kính họ, không để ý đến họ, rồi chờ ít năm nữa ông hãy nhìn họ xem.

Dương Lăng kinh ngạc quay đầu, trông thấy đó là một trong hai vị tăng nhân Nhật Bản trẻ tuổi nọ đang chắp tay trả lời y. Dương Lăng không khỏi cười nói: 

- Hoà thượng! Đúng là ông nhớ thật kỹ.

Được y khen ngợi, mặt vị tăng nhân Nhật Bản đó không khỏi lộ vẻ vui mừng, nói: 

- Đa tạ đại nhân khen ngợi! Bần tăng Viên Nhân, là tăng lữ chùa Thập Đắc ở Nhật Bản. Bần tăng còn nhớ Hàn Sơn đại sư từng hỏi: “Còn có bí quyết gì có thể tránh họ được không?” Thập Đắc đại sư đáp: “Bồ tát Di Lặc từng có bài kệ rằng: ‘có người mắng lão khờ, nói lão khờ còn tốt; có người đánh lão khờ, lão khờ tự ngủ khì. Phun nước miếng vào mặt, để nó tự khô luôn, mình cũng đỡ phí sức, họ cũng khỏi não phiền’..."

Bài kệ đó hơn ba trăm chữ, thế mà vị hoà thượng này nhớ rõ mồn một, đọc rõ ràng từng câu từng chữ, du dương trầm bổng. Phương trượng đại sư nghe xong vui vẻ vỗ tay khen: 

- Thiện tai! Thiện tai!

Viên Nhân mỉm cười, cẩn thận chắp tay vái phương trượng, rõ ràng cũng có phần tự đắc. Ngô Tế Uyên đứng cạnh cười ha hả nói: 

- Thập Đắc đại sư đông độ truyền kinh, quả nhiên thu được nhiều tín đồ, thật là công đức vô lượng.

Dương Lăng nhìn vị hoà thượng miệng đọc kệ ngữ cao tăng, mặt mày hoan hỷ, bèn nhớ đến đời sau cả nước bọn họ hoá thân thành cường đạo, đến Trung Thổ làm ra những hành vi phóng hoả đốt nhà giết người cướp của. Y không khỏi cười nhạt hỏi: 

- Lời nói đó của Thập Đắc đại sư quả thực bao hàm phật lý diệu huyền, đại sư quả nhiên thuộc làu. Vậy ta hỏi đại sư, những gì đại sư thuộc... đại sư có làm được hết không?

Viên Nhân thoáng ngẩn ra, trầm ngâm một hồi lâu rồi mới cung kính đáp: 

- Bần tăng không làm được.

Dương Lăng lại hỏi: 

- Thế... quý quốc là quốc gia thờ Phật, chẳng hay có bao nhiêu người làm được?

Viên Nhân trầm ngâm thật lâu, mồ hôi túa đầy trán, song thuỷ chung vẫn không nói được tiếng nào. Dương Lăng mỉm cười ung dung nói: 

- Cho dù có thuộc làu từng quyển kinh Phật, "Phật" đó bất quá chỉ là lời nói đầu môi. Khi nãy đại sư vừa nói... "ngộ đắc chân thường lý, nhật nguyệt vi lân bạn"(4). Lẽ chân thường ấy là ngộ ra như vậy ư?

Hoà thượng Viên Nhân trầm mặc một lát đoạn gập người vái sâu, rồi thản nhiên đáp: 

- Từng chữ của đại nhân như lời cảnh tỉnh, bần tăng xin thọ giáo, đa tạ đại nhân chỉ điểm.

Dương Lăng cười nói: 

- Không dám, ta chỉ nói bừa mà thôi. “Ngộ ra lẽ chân thường, lấy nhật nguyệt bầu bạn”! Ha ha, nhật nguyệt là ánh sáng, nếu như quý quốc thật sự giúp mọi người làm điều tốt, thì ánh sáng nhật nguyệt ấy... Triều đình Đại Minh(*) ta há không phải chính là bạn tốt láng giềng của quý quốc đấy ư?

(*): Dương Lăng chơi chữ: Chữ Minh明 gồm chữ nhật日 và chữ nguyệt 月 tạo nên.

Hoà thượng Viên Nhân nghe vậy bèn ngẩng đầu nhìn y, cảnh giác hỏi: 

- Đại nhân nói vậy... có phải bởi vì quý quốc gặp nạn hải tặc mà trút giận sang nhân dân đất nước của bần tăng không?

Dương Lăng cười nói: 

- Đại sư dám khẳng định trong đám "hải tặc" đó không có quân đội do các Mạc chúa hám lợi đen lòng phái ra, giả hải tặc làm ác ư?

Những chuyện này là bí mật được công khai, triều đình Đại Minh có rất nhiều người biết chứ đừng nói là Viên Nhân vốn đến từ Nhật Bản. Viên Nhân nghe vậy thì đỏ mặt, không dám mở miệng phản bác. Nhà sư suy nghĩ một chút rồi bảo: 

- Nhưng... quý quốc đã có bao giờ từng biểu thị thiện ý không? Đất nước của bần tăng muốn chung sống hảo hữu cùng quý quốc, hỗ trợ cho nhau, nhưng quý quốc lại vô lý yêu cầu nước bần tăng phải dùng lễ bề tôi mà tiếp kiến.

Nếu dùng lễ bề tôi, thì quý quốc sẽ không tiếc ban thưởng. Mà tăng lữ nước bần tăng cũng phải thường xuyên vượt biển đến đây, mang theo bên người về được một ít, mất bao trắc trở vẫn không thể thoả mãn đủ yêu cầu của các tín đồ. Thế nhưng khi chúng tôi tình nguyện đưa ra nhiều tiền mua sắm, quý quốc lại cho rằng nước của bần tăng không chịu dùng lễ bề tôi mà gây khó dễ. Nếu không phải vì quý quốc hà khắc như vậy, chúng tôi... chúng tôi...

Nói đến đây, mặt nhà sư đỏ lên, rõ ràng cũng tự cảm thấy việc người ta không chịu mua bán với mình mà mình liền ra tay đánh cướp cũng quá vô sỉ, cho nên không thể nào nói xong cái lý do này.

Đương nhiên Dương Lăng cũng biết những nguyên nhân ấy. Năm xưa, khi y đọc lịch sử đã phát hiện quả thật người Trung Quốc xưa rất "đần", thà cầu danh chứ không cầu lợi. Nếu nước khác chịu tự nhận là bề tôi thì cho dù có đưa đến một sọt cỏ cũng hận không thể ban thưởng số hoàng kim gấp mười lần để biểu đạt sự khẳng khái lẫn hào phóng của thiên triều thượng quốc. Nhưng nếu đối phương không chịu xưng thần, thì cho dù có cuộc mua bán trăm lợi mà không hại thì cũng quyết không chịu giao dịch cùng, xem như là mình trừng phạt đối phương.

Y thấy hoà thượng Viên Nhân tuy trong lời nói có ý tức giận bất bình, nhưng mặt lại hiện vẻ xấu hổ, rõ ràng là hổ thẹn với hành vi của người nước mình thì bất giác có mấy phần hảo cảm với hắn. Y giãn mặt mỉm cười rồi nói: 

- Lời đại sư nói, bản quan cũng biết một phần. Những việc này ta sẽ bẩm rõ với Hoàng thượng, cầu xin Hoàng thượng cho phép mở hải cảng thông thương, tăng cường giao lưu qua lại giữa hai nước. Chỉ có điều... những hải tặc đó của quý quốc, bất kể vì lý do gì, chỉ cần bọn chúng tới, chúng ta sẽ đập nát chúng ngay.

Nói xong, Dương Lăng lại thâm thúy nhìn chăm chú hoà thượng Viên Nhân dường như đang có điều đăm chiêu. Sau đó y cùng nhóm người Trương thiên sư và Mạc Thanh Hà chậm rãi quay về. Trông thấy Ngô Tế Uyên dường như có điều nghĩ ngợi, Dương Lăng không nhịn được bèn hỏi: 

- Ngô tiên sinh vẫn còn đang nghĩ đến lời vị hoà thượng đó sao?

Ngô Tế Uyên giật mình thất kinh, liền vội chắp tay đáp: 

- A! Phải... à không phải... thảo dân...

Dương Lăng cười nói: 

- Ngô tiên sinh không cần phải kinh hoảng. Ngài là phú ông đất Tô Châu, có đất đai, có xưởng dệt và còn có cửa hàng, chắc hẳn hiểu những chuyện này hơn. Lần này bản quan đến Giang Nam chính là để kiểm tra việc thuế khóa. Không những bản quan chỉ tra xét sự thanh liêm của thuế lại mà cũng muốn hiểu rõ hơn về nguồn gốc thuế khóa và phương pháp gia tăng thuế khóa nữa. Tiên sinh cứ việc nói thẳng, bản quan quyết sẽ không trách tội.

Ngô Tế Uyên nhìn Trương thiên sư hỏi ý, thấy y gật đầu khích lệ mới bèn lấy hết dũng khí đáp: 

- Đại nhân! Theo thảo dân thấy, thật ra... nếu như triều đình chịu mở cảng thông thương với Nhật thì chẳng những lợi cho bá tánh, mà thuế khóa của triều đình nhất định cũng sẽ tăng lên rất nhiều.

Hiện nay trong nước Nhật Bản chiến loạn liên miên, rất nhiều thứ bị thiếu hụt, ví dụ như tơ sống, vải bông, lụa gấm, thủy ngân, thậm chí là cây kim, dây xích, nồi sắt, đồ sơn mài, đồ sứ, thảm len, và cả dược liệu, đồ gia vị, vân vân,… đặc biệt là sách vở kinh điển của Phật giáo. Nhu cầu này rất cao, nếu bán được cho bọn họ, chúng ta có thể thu về lợi nhuận gấp mười lần đó.

Tuy Dương Lăng biết thông thương nhất định mang lại lợi ích cho đất nước, nhưng y cũng không ngờ những thứ không đáng giá này mang sang Nhật Bản lại được lãi lớn như vậy. Nếu như một số lượng lớn những vật dụng hằng ngày này được Nhật Bản tiêu thụ, vậy chẳng phải tiền bạc của Nhật Bản sẽ chảy như nước vào Đại Minh ư? Dương Lăng vẫn chưa quên việc xe hơi cùng đồ điện Nhật Bản tràn ngập thị trường Trung Quốc. Thì ra trong lịch sử cũng có lúc bọn họ điên cuồng theo đuổi hàng hoá Trung Quốc à. Cơ hội này sao có thể bỏ qua?

Dương Lăng nửa ngạc nhiên nửa hào hứng hỏi: 

- Lại được lợi nhuận lớn như vậy sao? Ngô tiên sinh hãy nói rõ hơn một chút đi!

Ngô Tế Uyên thấy y mừng rỡ ra mặt thì càng tăng thêm dũng khí. Lão nghĩ ngợi một chút rồi đáp: 

- Đại nhân đừng cho rằng thảo dân nói bừa. Thảo dân lấy ví dụ như nuôi tằm, lấy tơ, dệt lụa. Từ nuôi tằm con thành thành tằm có thể kéo tơ phải mất một năm, sau đó là sản xuất tơ sống, một cân chỉ có thể bán được năm sáu phân tiền. Trừ chi phí tiền vốn và thuế, phần còn lại phải cố gắng lắm mới có thể sống tạm qua ngày mà thôi.

Nhưng nếu vận chuyển được tơ sống sang Nhật Bản sẽ có thể bán được năm sáu lạng bạc, chênh lệch gấp cả chục lần đấy! Cho dù một cây kim ở đây mang sang bên chỗ bọn họ cũng có thể bán được bảy phân tiền, đúng là một vốn bốn lời à. Đương nhiên, bên đó bọn họ cũng có đồ tốt mà chúng ta cần, tỉ như đồng, hưu huỳnh, gỗ vang (tô mộc, danh pháp khoa học: Caesalpinia sappan, lõi rất cứng), vân vân… Chúng ta mua về gia công chế tạo một tí rồi bán lại cho bọn họ, lại kiếm thêm một khoản nữa.

Dẫu sao Ngô Tế Uyên cũng là thương nhân, nói một hồi thì sự sợ sệt e dè hoàn toàn tan biến, mặt mày lão hớn hở hẳn lên. Dù Dương Lăng nghe như thế nào cũng thấy giống như một phiên bản tình hình kinh tế hai nước Trung - Nhật vào khoảng thời gian nào đó ở đời sau, chỉ có điều là thịnh vượng hơn và cung cầu của song phương được đảo ngược lại, bèn không khỏi bật cười nói: 

- Người Nhật cũng không ngu. Những Mạc chúa, tướng quân đó hối hả buôn bán với chúng ta như thế, không phải chỉ vì nhu cầu của người dân mà họ để tâm như vậy, đúng không?

Ngô Tế Uyên cười lớn nói: 

- Đó là lẽ đương nhiên. Bình phong, quạt, hộp, nghiên mực của bọn họ được chế tạo tinh mỹ, phú ông bên chúng ta cũng vui vẻ trả giá cao để mua về. Nếu thông thương qua lại, triều đình còn có thể nhập một lượng lớn đao kiếm từ chỗ bọn họ. Chất lượng đao Nhật tốt hơn đao của chúng ta, bán lại ít nhất phải lời gấp ba lần.

Dương Lăng nghe xong lặng lẽ gật đầu. Đến lúc rời khỏi cổng chùa Hàn Sơn, y bỗng dừng bước, trịnh trọng nói với Ngô Tế Uyên: 

- Làm phiền Ngô tiên sinh việc này. Không biết liệu ông có thể ghi cặn kẽ những việc mà ông biết, càng chi tiết càng tốt. Khi hồi kinh bản quan sẽ trình báo những việc này lên cho Hoàng thượng.

Ngô Tế Uyên trợn tròn cặp mắt nhìn y, mãi lúc sau mới hào hứng kêu lên: 

- Đại nhân... Đại nhân nói thật đấy chứ? Đại nhân tự nguyện vì chuyện ích lợi của thương nhân này mà dâng lời lên Hoàng thượng sao?

Dương Lăng lắc đầu, nghiêm túc đáp: 

- Đây không phải là chuyện ích lợi của thương nhân. Đây là việc quốc gia đại sự!

Ngô Tế Uyên nghe vậy, ánh mắt chợt lóe lên, đoạn lão vái Dương Lăng một vái thật sâu, trịnh trọng: 

- Có câu này của đại nhân, Ngô mỗ nếu biết sẽ không tiếc lời, nếu nói sẽ nói ra hết. Thảo dân nhất định sẽ trong thời gian sớm nhất nhanh chóng thuật lại tỉ mỉ những gì mình biết để đưa cho đại nhân.

Dương Lăng gật đầu nhè nhẹ, trong lòng cũng âm thầm quyết định. Về đến kinh thành bất kể thế nào y cũng phải tâu chuyện này cho Chính Đức, thuyết phục hắn thông thương giao lưu. Y cũng biết đám đại thần thủ cựu xưa nay vẫn một mực cho rằng thiên triều thượng quốc có thể tự cung tự túc, lấy thân phận bình đẳng mà thông thương cùng mọi rợ ngoại bang là việc làm mất mặt thượng quốc nên nhất định sẽ ra mặt can thiệp. Nhưng y cũng biết rõ tầm quan trọng và tất yếu phải xảy ra của việc mở cửa thông thương. Việc này nhất định phải làm. Chỉ cần làm tốt, để triều đình và bá tánh nếm chút lợi lộc của nó, đến khi nó phát triển lớn mạnh rồi thì không ai có thể ngăn cản được nó nữa.

Ngô Tế Uyên đứng thẳng lưng lại, vui vẻ cười nói: 

- Thảo dân nói chuyện cả buổi, vất vả cho đại nhân phải nói đến việc công rồi. Hôm nay đại nhân tới để giải sầu, chuyện này để chốc nữa hẵng nói tiếp. Thảo dân đã đoán biết đại nhân nếu đã đi du ngoạn, điểm dừng đầu tiên phải là ngôi chùa cổ Hàn Sơn này rồi. Gần đây có một tiệm ăn chay Hàn Sơn, hương vị độc đáo, thảo dân đã đặt trước tiệc rượu, mời đại nhân đến đó thưởng thức trước một tí, sau đó chúng ta sẽ đi du ngoạn Thái Hồ ngắm cảnh thu tiếp nhé!

Mạc Thanh Hà thoáng ngẩn ra rồi bảo: 

- Hôm nay đại nhân dùng thân phận cá nhân du ngoạn Tô Châu cho nên bản quan không thông báo cho tri phủ Tô Châu. Có điều bản quan đã thông báo cho Lý Đại Tường thết tiệc tẩy trần cho đại nhân ở lầu Sư Tử. Đại nhân xem...

Dương Lăng thoáng suy nghĩ rồi đáp: 

- Thôi, bỏ đi! Vào thành chạy tới chạy lui sẽ lại lãng phí thời gian, hơn nữa đoàn người đông đảo này cũng không tiện phô trương thanh thế. Đi Thái Hồ xong, tối nay chúng ta hãy trọ lại một đêm rồi phải trở về Hàng Châu. Thôi đừng làm phiền hắn nữa.

Thật ra Dương Lăng định đi nhanh về sớm là muốn khi trở về sẽ đến Hải Ninh gặp Mẫn Văn Kiến một lúc. Song nếu nói cho Mạc Thanh Hà biết trước, nhất định hắn ta sẽ thông tri quan phủ Hải Ninh rằng có khâm sai giá đáo; bọn họ lại rầm rầm rộ rộ chuẩn bị tiếp đón tất sẽ khiến cho cái huyện Hải Ninh bé xíu loạn cả lên.

Cái cảm giác bị cả đoàn người tiền hô hậu ủng, mất hết tự do như lúc này đã khiến Dương Lăng nhức đầu không thôi rồi, y không mong khi đến Hải Ninh thì những người ở nơi ấy sẽ lại bày vẽ chiêu đãi như thể sắp lâm đại địch, cho nên không hề nói cho Mạc Thanh Hà hay. Mạc Thanh Hà nghe y nói muốn nhanh về Hàng Châu, ngẫm nghĩ nếu mình tỏ ý ngăn trở thì ngược lại sẽ giống như sợ y điều tra mình ở Hàng Châu vậy, nên hắn không nói gì thêm.

Tiệm cơm chay Hàn Sơn phía tây nhìn bến Phong Kiều, nam dựa chùa Hàn Sơn, Bắc kề dòng Phong Tân, tựa vào lan can uống rượu, lên lầu trông về phía xa, thoả sức thưởng lãm vẻ tú lệ của Cô Tô. Các món ăn như Phật Thiên Thủ, Công Đức Kim Thối, La Hán Trai, Bát Trân Hoà Hợp, Phỉ Thuý Cầu, Cua Xào Chay do nơi đây làm rất chú trọng đến việc chọn lựa nguyên liệu, màu sắc và mùi vị đều tuyệt vời, hương vị của nó đủ để "mượn giả làm thật".

Nơi ấy cũng không xa, đoàn người không ngồi kiệu, vừa nói vừa cười cuốc bộ mà đi. Ngô Tế Uyên dẫn mọi người đến tiệm cơm chay Hàn Sơn, đang tủm tỉm mời vào thì Liêu quản sự chờ sẵn ở đó chợt hổn hển chạy ra thưa: 

- Lão gia! Xảy ra chuyện rồi. Tiểu nhân đã bao hết tiệm ăn này chờ khâm sai đại nhân quang lâm, nào ngờ lão gia Lý Quý câu cá ven sông trở về, khăng khăng đòi thưởng thức khẩu vị nơi đây một chút. Tiểu nhân đã nói rõ với hắn là nơi này đã được lão gia bao, song hắn vẫn không nghe...

Ngô Tế Uyên nghe vậy thì thoáng sững người, lão không ngờ đến đây mà còn chạm phải oan gia đối đầu là Lý Quý. Nhưng mà... Liêu quản sự này cũng thật không biết làm việc gì cả, chỉ cần nói mình bày tiệc là để chiêu đãi khâm sai đại nhân và Trương thiên sư, thì cho dù tên Lý Quý đó có to gan hơn nữa cũng lại dám ở đây sinh sự sao?

Ngô Tế Uyên hầm hầm nhìn Liêu quản sự. Lão vừa định cất lời trách mắng thì đột nhiên chú ý thấy Liêu quản sự vừa nói với lão vừa không ngừng nhìn sang Dương Lăng, lúc này mới sực hiểu ra ý tứ của hắn ta. Lão cười thầm trong bụng, lập tức đổi thành vẻ mặt khó xử nói: 

- Vậy... tiệm này đã bị Lý Quý bao rồi à? Nếu vậy thì hơi có chút rắc rối rồi.

Nguyên lai họ Ngô đã cư ngụ ở nơi này hơi một trăm sáu mươi năm, sáu mươi năm trước đã trở thành phú hộ giàu có nhất Tô Châu. Mà cái tên Lý Quý này, lại là một vị nhà giàu mấy năm gần đây đột nhiên phất lên, là một phú hộ mới nổi chuyên cho vay nặng lãi, đầu cơ trục lợi.

Không ai biết lai lịch xuất thân của tên Lý Quý này, chỉ biết dường như khi hắn đến đã có sẵn nguồn vốn rất hùng hậu rồi. Mỗi khi gặp phải thiên tai nhân hoạ, nhất là sau mỗi lần giặc Oa đến cướp bóc, có mấy nông dân trả nổi nợ nần chứ? Khi đó, cùng đường bí lối, những người nông dân nghèo khổ đói khát này buộc lòng phải cầm cố đất đai mà trả nợ, từ nông dân trở thành tá điền cho hắn, một số người thì trở thành dân lang thang không nghề không ngỗng được các xưởng thủ công làm giấy, dệt tơ thuê mướn; một số thì vì tuổi già sức yếu không cách mưu sinh đành phải đi ăn xin, lang bạc khắp nơi.

Dựa vào thủ đoạn này, chỉ trong vòng vài năm ngắn ngủi Lý Quý đã mua gom được một lượng lớn đất đai của hai vùng Tô-Hàng, giờ đây nghiễm nhiên trở thành địa chủ lớn nhất hai châu Tô-Hàng. Gia nô tôi tớ của gã phải dùng con số hàng ngàn mà tính, nhà ở thì lầu cao cửa rộng, ra đường thì quần áo lụa là, thanh thế có vẻ đã vượt trội nhà họ Ngô.

Hành vi của gã hiển nhiên khiến thân sĩ Tô Châu khinh thường, cộng thêm người dân địa phương cũng có tâm lý bài ngoại, cho nên những thân sĩ này bèn tố cáo những việc làm xấu xa của Lý Quý với quan phủ. Nhưng không biết tên Lý Quý đó rốt cuộc có lai lịch thế nào, mà nha môn tri phủ tiếp nhận cáo trạng xong lại nhắm mắt làm ngơ.

Thế gia hào phú với mạng lưới quan hệ rộng lớn như nhà họ Ngô bèn phản ánh sự tình với Bố chánh sứ cùng nha môn ti Án Sát sứ, không ngờ cũng không hề có kết quả. Lúc này mấy đại gia tộc địa phương mới hiểu chỗ dựa của tên Lý Quý này nhất định vô cùng vững chắc. Bọn họ lật gã không đổ, lại sợ bị gã trả thù nên đành phải căn dặn người trong nhà bình thường bớt qua lại với tên ác nhân này.

Lý Quý làm mưa làm gió ở Tô Châu, gia nghiệp nhà họ Ngô lại khổng lồ, cho dù có muốn tránh cũng chẳng thể nào tránh hết được, cho nên không ít tôi tớ và quản sự trong nhà bị gã hà hiếp lắm lần. Gần đây Lý Quý lại bắt đầu dòm ngó đến sản nghiệp họ Ngô, quan hệ hai nhà như nước với lửa. Liêu quản sự cố ý không nói rõ khâm sai đại nhân muốn đến dùng bữa, chính là muốn mượn tay Dương Lăng để trút nỗi bực tức này.

Mạc Thanh Hà đứng bên cạnh nghe được chuyện, da mặt liền hơi dúm lại, không nén được giận bước lên cả tiếng: 

- Lý Quý? Là cái tên thân hào địa phương không đáng giá đó à? Hừ! Bình thường ỷ vào mấy đồng tiền mà đã ngang tàng hống hách, lần này lại dám bày trò trước mặt cả khâm sai đại nhân!

Dương Lăng nghi hoặc hỏi Ngô Tế Uyên: 

- Lý Quý này là ai vậy?

Tuy thân phận thấp kém, nhưng Liêu quản sự từng ngồi cùng thuyền với Dương Lăng, quan hệ còn thân hơn cả lão gia của hắn, nên bèn vội tranh bước tới mấy bước, thêm mắm thêm muối kể lại thái độ đối nhân xử thế của Lý Quý. Dương Lăng nghe mà liên tục nhíu mày.

Mạc Thanh Hà cười ha hả nói: 

- Trong số những kẻ giàu có ở vùng Tô Châu thì tên Lý Quý này là kẻ vi phú bất nhân nhất. Tuy gã chưa từng làm chuyện thương thiên hại lý gì, song chỉ mỗi bộ mặt nhà giàu mới nổi đó đã khiến người ta thấy ghét rồi. Hôm nay gã lại dám động chạm đến đại nhân, bản quan đang muốn nhân cơ hội này dạy dỗ gã, cũng là để khiến gã an phận một chút vậy.

Tuy Dương Lăng cảm thấy ghét Lý Quý, nhưng gã chưa hề có hành vi xấu xa trắng trợn gì, cho vay nặng lãi lại không phạm pháp, nếu chỉ vì gã va chạm với mình mà mình lại nghiêm khắc trừng trị gã, đến khi đám ngôn quan biết được, nhất định bọn họ sẽ dâng tấu hạch tội mình, cho nên y không muốn đa sự. Có điều nghe lời nói của Mạc Thanh Hà, Dương Lăng biết hắn ta sẽ không làm gì quá mức, nên chỉ cười cười không nói.

Mạc Thanh Hà thấy y cho phép, bèn quay đầu ra lệnh cho quản gia của lão: 

- Lão Lý! Đập cái tên không biết điều đó một trận cho ta, bảo gã sau này bớt phóng túng lại mộ chút. Ngươi lôi gã ra xa xa đi, đừng làm mất khẩu vị của đại nhân.

Lý quản gia mỉm cười đáp một tiếng. Hắn vừa khoát tay mang theo mấy người bước tới trước cửa, cửa phòng chợt mở ra, một gã tráng niên tầm hơn ba mươi, mặt mày to béo đen đúa, chắp tay sau lưng, hất hàm ngạo mạn nói: 

- Ngô lão gia mời nhân vật nào ăn chay thế? Thật ngại quá, hôm nay bản lão gia đã bao quán này rồi.

Chú thích:

(1) Phong Kiều dạ bạc (dạ: đêm, bạc: cập bến), tạm dịch "Đêm cập bến Phong Kiều", là bài thơ rất nổi tiếng của Trương Kế (张继). Tác giả sống vào khoảng trước sau năm 756 - đời vua Đường Túc Tông. Bài thơ Phong Kiều dạ bạc về sau đã được Khang Hữu Vi đời nhà Thanh khắc trên tấm bia lớn dựng trong chùa Hàn Sơn để cho người đời sau qua đây thưởng lãm.

Hán Việt:

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Bản dịch của Tản Đà:

Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi

Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co

Con thuyền đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.

(2) Tô Châu Viên Lâm hay còn gọi là Cô Châu là một kiến trúc lâm viên ở trong nội thành của Tô Châu, lấy khuôn viên tư gia là chủ đạo, bắt đầu từ thời Xuân Thu (514 trước Công Nguyên), hình thành thời Ngũ Đại, hoàn thành thời nhà Tống, hưng thịnh thời nhà Minh. Đến cuối thời nhà Thanh thì Tô Châu đã có hơn 170 vườn cây cảnh đặc sắc, hiện nay có hơn 60 nơi được bảo tồn hoàn chỉnh, có 19 nơi là vườn cây cảnh mở.

(3) tạm dịch "tổ én", là nơi cư ngụ của nhà Mộ Dung trong Thiên Long Bát Bộ.

(4) hiểu ra được lẽ chân thường (chân lý), mặt trời mặt trăng sẽ quây quần làm bạn, ý nói một khi hiểu ra lẽ phải thì anh sẽ tìm được ánh sáng (mặt trời và mặt trăng tượng trưng cho ánh sáng).

Chương 128 Chèo thuyền du ngoạn Thái Hồ

------------------------

Gã hán tử mập lùn, da dẻ đen đúa dương dương đắc ý nói xong, tròng mắt mới dần khôi phục lại vẻ bình thường. Chợt nhìn thấy quản gia của Mạc phủ đang đứng trước mặt, gã không khỏi thất kinh, mặt lập tức biến sắc.

Lý quản gia cười khà khà: 

- Lý đại lão gia thực là oai phong! Lão gia nhà ta cũng định nếm thử đặc sản của quán Hàn Sơn này, xem ra sẽ uổng công một chuyến rồi.

Lúc này Lý Quý mới nhìn thấy ngoài cửa còn có mấy người đang đứng, trong đó gã chỉ nhận ra được Ngô Tế Uyên và Mạc Thanh Hà, vẻ mặt hai người đều như nhau, miệng mỉm cười, điềm nhiên quan sát.

Lý Quý chửi thầm trong bụng, biết mình đã trúng kế của Ngô Tế Uyên, hôm nay khó tránh bị mất sạch thể diện rồi. Nhưng Mạc Thanh Hà chủ quản việc thu thuế gạo thóc, mà gã là địa chủ đứng đầu hai vùng Tô – Hàng; có thể nói Mạc Thanh Hà tha cho gã một phần, ấy là được vạn gánh thóc gạo, căng với gã một phần, ấy là mất đi một số bạc lớn, cho nên gã không dám đắc tội với vị thần tài này chút nào.

Lý Quý lật đật bước ra khỏi cửa, cúi đầu khom lưng thưa: 

- Mạc gia! Lão nhân gia ngài cũng đến à! Úi chao, tiểu nhân không biết là lão nhân gia ngài, mời ngài vào! Tiểu nhân đã lâu không gặp ngài rồi, muốn hiếu kính ngài cũng không có cơ hội nữa. Thực khó có dịp lão nhân gia ngài đến Tô Châu, xin để tiểu nhân thết tiệc tẩy trần cho ngài.

Mạc Thanh Hà nở nụ cười nhàn nhạt, đáp: 

- Ăn đồ chay phải chú trọng đến ý cảnh, lời của Lý viên ngoại thực không thích hợp lắm.

Vị Lý đại viên ngoại này nhìn như kẻ thô kệch nhưng lại không thiếu thông minh. Gã hiểu ý Mạc Thanh Hà giễu gã người đầy mùi tiền, mặt không khỏi lúc trắng lúc đỏ, ngượng ngập nói: 

- Phải phải phải! Tiểu nhân không biết Mạc gia còn mời khách, mời các ngài vào, tiểu nhân lập tức đi ngay. Khoản tiền này ngàn vạn lần lão nhân gia ngài hãy để tiểu nhân lo liệu, xem như nể mặt tiểu nhân vậy.

Thấy bộ dạng ảo nảo của gã Lý Quý đang hoành hành khắp phủ Tô Châu, trong lòng Ngô Tế Uyên hết sức hể hả. Lão thấy Lý Quý vẫn đang lấy lòng Mạc Thanh Hà bèn chen miệng vào: 

- Không cần nhọc Lý viên ngoại tốn phí. Ngô mỗ đây đã mời các vị đại nhân đến du ngoạn Tô Châu, chút tiền này vẫn có thể trả được.

Lý Quý thấy Ngô Tế Uyên mở tiệc thết đãi Mạc Thanh Hà, hiển nhiên quan hệ đôi bên không nhạt, bên cạnh còn có một vị công tử tôn quý và một đạo nhân trông cũng không phải nhân vật tầm thường, nên càng không dám lộ vẻ kiêu ngạo. Mấy tên tay sai của gã tay áo xắn cao, mặt mày bặm trợn trong quán trà hùng hổ đi theo ra lúc này cũng đã phải rón ra rón rén. Lý Quý thấy Mạc Thanh Hà không thèm nhìn mình, vội ngượng nghịu khom lưng, mãi đến khi Ngô Tế Uyên mỉm cười mời đám người Dương Lăng vào quán xong, gã mới vội vã rời đi.

Lý quản gia được Mạc Thanh Hà căn dặn, nào dám dễ dàng bỏ qua cho gã, sớm đã mỉm cười theo sau. Đương nhiên "dạy dỗ" mà Mạc Thanh Hà nói không phải là sai người tẩn gã một trận; phỏng chừng khi đuổi tới nơi, sợ rằng Lý quản gia sẽ nả gã một món lớn, chưa khiến gã đau thịt buốt xương ba ngày thì chưa thôi.

Ngô Tế Uyên đưa mấy người vào nhã phòng, áy náy xin lỗi: 

- Thảo dân không biết tên Lý Quý này sẽ đến, đã quấy rầy nhã hứng của các vị đại nhân, thật có lỗi quá.

Dương Lăng thấy trong quán ngoài đường đều có tuỳ tùng đứng gác, ngay cả ông chủ và tiểu nhị của quán cũng trở nên sợ sệt, y hơi nhíu mày nói: "Hôm nay chúng ta chỉ lấy cương vị cá nhân du ngoạn ngắm cảnh, làm to chuyện như vầy quả thật cũng không ổn. Tại hạ nghĩ... có thể hay chăng phiền Ngô tiên sinh chuẩn bị vài bộ y phục của bá tánh phổ thông, lát nữa chúng ta đến Thái Hồ du ngoạn, cứ đồ xe đơn giản là được. Về phần người của tại hạ thì chỉ cần chọn ra vài người đi theo là được, những người khác chờ trên thuyền. Có điều... phải phiền huynh muội thiên sư thay đổi y phục rồi."

Tuy lần này Trương thiên sư đi với tư cách là người tu đạo, song thật ra đó không phải là lễ nghi trọng đại gì, sau khi lập đàn tế tự thì thiên sư ăn mặc cũng không khác người thường là bao, cho nên không dị nghị gì về việc này. Trịnh bách hộ nghe Dương Lăng giao việc xong, bản thân đảm trách an nguy cho Dương Lăng nên gã không dám qua loa, liền vội tìm Liêu quản gia bảo hắn nhanh chóng thu xếp, còn bản thân gã chọn trong đám nha sai được hơn hai mươi người thân thủ cao cường, thông minh tháo vát, hỏi rõ Liêu quản sự về lộ trình du ngoạn, rồi chạy đến Thái Hồ chuẩn bị trước.

Mạc phu nhân nhẹ nhàng cởi áo khoác ngoài ra, thị nữ đứng bên cầm lấy rồi đứng hầu sau lưng nàng. Nàng cười duyên dáng ngồi xuống cạnh Mạc Thanh Hà, dịu dàng: 

- Lão gia, đã lâu thiếp thân không đến Tô Châu, thiếp muốn ghé thăm Bố chánh sứ phu nhân một chút. Vả lại, không được ngồi trên thuyền lớn thiếp lại thấy chóng mặt, thiếp sẽ không đi Thái Hồ đâu.

Nàng vừa nói vừa đưa mắt nhìn sang Dương Lăng và Trương thiên sư cười áy náy. Dương Lăng luôn cảm thấy hơi mất tự nhiên trước mặt nàng, giờ nghe nàng nói không cùng điđến Thái Hồ, trong lòng lại nhẹ nhỏm hẳn. Mạc Thanh Hà khẽ gật đầu, vỗ nhẹ tay nàng, nhẹ giọng bảo: 

- Được, nàng cũng không cần về gấp, trên đường về ta sẽ cho người đi đón nàng.

Đoạn hắn quay đầu, nhỏ nhẹ nói với Dương Lăng: 

- Chuyết nội (vợ nhà) và như phu nhân (vợ lẽ) của Bố chánh sứ Ngưu đại nhân rất thân thiết, đến Tô Châu mà không ghé thăm thì không tiện tí nào. Hơn nữa chúng ta chèo thuyền du ngoạn Thái Hồ, nếu đi thuyền lớn thì mất hết ý vị, còn nếu đi thuyền nhỏ thì cô nàng lại hay chóng mặt, thôi không đi cũng được.

Dương Lăng nghe vậy bèn gật nhẹ đầu, thầm nghĩ: "Nghe nói vị Mạc phu nhân này là danh kỹ Giang Nam, không biết vị thiếp của Bố chánh sứ Ngưu đại nhân có phải cũng là nhân vật trên chốn phong lưu không nữa."

Y vừa nghĩ vừa không khỏi ngẩng đầu liếc nhìn Mạc phu nhân, không ngờ cặp mắt sắc lẹm của Mạc phu nhân cũng đang "ngầm đưa tình" với y, thấy vậy Dương Lăng liền nổi da gà.

Vị Mạc phu nhân này tuy xuất thân từ chốn thanh lâu, nhưng lại không khiến cho người ta có cảm giác quyến rũ yêu mị, mỗi cái nhăn mày, mỗi một nụ cười của nàng đều vô cùng xinh đẹp thanh nhã. Hôm nay nàng vận váy lụa trắng thuần, càng tôn lên vẻ đẹp như đoá phù dung nổi trên mặt nước; mày ngài tựa núi xuân, mắt như đọng thu thủy, quyến rũ mê người.

Lúc cặp mắt như biết nói đó thuỳ mị nhìn người khác, cho dù không hề có ý khêu gợi sắc tình, cũng khiến người ta suy nghĩ vẩn vơ, càng huống chi ngày đó Dương Lăng từng bị nàng âm thầm trêu ghẹo, sao không chột dạ chứ?

Vừa lảng mắt tránh đi, lại trông thấy Cao Văn Tâm đang đứng đối diện, cặp mắt sáng ngời ấy cũng đang chằm chằm nhìn y không chớp. Cả người Dương Lăng càng mất tự nhiên hơn, như thể đã bị nàng nhìn trúng chỗ uý kị trong lòng.

Hôm nay Cao Văn Tâm quả nhiên mặc bộ đồ màu xanh biếc mà hôm qua Dương Lăng đã khen. Quần áo của con gái bình dân tràn trề phong thổ nhân tình của vùng Giang Nam sông nước khoác lên tấm thân thiếu nữ phương Bắc mang đậm khí chất thanh cao điềm tĩnh của nàng, càng toát lên một ý vị khác. Dẫu rằng tuyệt nhiên không thể đánh đồng với khí chất muôn vẻ phong tình như nước của Mạc phu nhân, song nó lại mang một nét đẹp thanh tao ngọt ngào khác hẳn.

Dương Lăng bất giác nhẹ giọng nói với nàng: 

- Văn Tâm! Bản quan không cần người hầu hạ, cô cũng mệt rồi. Liêu quản sự, xin ông hãy bố trí một bàn tiệc rượu khác, để nàng ta... à... và hai vị thị nữ của Mạc phu nhân cùng ăn uống rồi nghỉ ngơi vậy.

Khâm sai đại nhân ngồi ghế đầu còn chưa mở lời nói câu chào hỏi hình thức nào mà đã sai người an bài cho thị nữ của y dùng bữa nghỉ ngơi trước rồi! Người thị nữ này thật sự là thị nữ đấy ư?

Ngô Tế Uyên nghe Dương Lăng dặn dò vậy, bèn quan sát kỹ lưỡng Cao Văn Tâm vài lượt. Tuy Cao Văn Tâm ăn mặc như một thị nữ nhưng đứng chung với hai tiểu tỳ của Mạc phu nhân nàng lại toát ra khí độ ung dung khuê các mà bọn họ thua kém cả vạn phần. Lão máy động trong lòng, không khỏi thầm nghĩ: "Phong độ và khí chất của vị cô nương này thật sự không giống nữ tỳ. Khâm sai đại nhân yêu mến nàng ta như vậy, chẳng lẽ bọn họ...?"

Ngô Tế Uyên nghĩ ngợi một chốc, cảm thấy không ổn thoả, hình như hậu lễ chuẩn bị ban đầu đã tính sót một phần, liền vội gọi Liêu quản sự lại, chum tay căn dặn khẽ thêm mấy câu.

**********************************

Trên Thái Hồ, non xanh nước biếc, phong cảnh hoàn toàn tự nhiên. Cảnh sơn thủy này dung hoà vẻ u nhã thanh tú cùng sự bao la hùng vĩ. Nước biếc bao la, khói sông bát ngát, núi non ẩn hiện, muôn hình vạn trạng.

Bốn người Dương Lăng, Mạc Thanh Hà, Ngô Tế Uyên và Trương thiên sư hoá trang thành thư sinh ngoạn cảnh hồ. Trương Phù Bảo cũng thay một bộ quần áo thị nữ nhỏ nhắn, tóc bới ba búi, theo sau với dáng vẻ lanh lợi hoạt bát.

Tướng mạo nàng vốn đã vô cùng xinh xắn dễ thương, nay đổi mặc trang phụ nữ nhi, vẻ mặt thanh tú vui buồn đều đẹp ấy liền trông như tranh vẽ. Ngay cả Ngô Tế Uyên mấy ngày qua quen nhìn nàng vận trang phục đạo sỹ cũng sáng rỡ hai mắt.

Trịnh bách hộ mang theo bốn tay nha sai giả trang làm gia đinh, trong ngực thủ sẵn dao nhọn, trên vai gánh hộp đồ ăn, cảnh giác quan sát chung quanh. Thỉnh thoảng có nha sai cải trang làm du khách hoặc thuyền phu lặng lẽ đưa tay làm vài động tác, ra hiệu không có gì khả nghi.

Lúc này đã là buổi chiều, mặt trời không còn khốc liệt nữa mà đã hơi ửng đỏ. Cỏ lau lay động theo gió, bóng cỏ múa lượn đong đưa. Thi thoảng có cơn gió mát rượi thổi qua mặt hồ mang theo mùi vị tươi mát sảng khoái lùa phớt qua khuôn mặt âm ấm do ngà ngà men rượu của đám người Dương Lăng, khiến cho bọn họ cảm thấy toàn thân thư thái.

Đám nha sai do Trịnh bách hộ phái đến trước đã cải trang phân tán rải rác gần hồ chuẩn bị thuyền hái ấu. Tuy trên hồ có vài du khách, nhưng cũng đều là hai ba người chèo một con thuyền nhỏ, cử chỉ tiêu dao tự tại, nhìn không ra bộ dáng khả nghi nào.

Lúc này đang là mùa ấu nổi rộ, phía trước là mấy khoảnh sen, lá sen xanh biếc bát ngát bao trùm, thỉnh thoảng thấp thoáng những cánh sen trắng nõn hoặc phấn hồng và những củ ấu đã trưởng thành. Lá sen xanh biếc không hề có chút dấu hiệu khô héo điêu tàn, sắc xanh tràn trề một mảng. Có những chiếc lá sen xanh biếc làm nền, những đoá sen gần như bị che khuất lại càng thêm phần xinh đẹp.

Ngô Tế Uyên dẫn đoàn người đến ngồi nghỉ chân dưới một mái đình nhỏ, cười nói: 

- Đại nhân thích yên tĩnh du ngoạn hồ, cho nên thảo dân cũng không dám quá khoa trương. Thảo dân đã kêu Liêu quản sự an bài vài chiếc thuyền lá* nhỏ. Hôm nay chúng ta chèo thuyền hái ấu, dập dờn trong sóng biển sen này một lát, đợi trở về bờ, chúng ta sẽ lại lột ít ấu tươi, nhắm rượu thoả thích một phen. Đại nhân thấy thế nào? 

(*: thuyền thon hình chiếc lá)

Trong đám người này Dương Lăng có thân phận và địa vị cao nhất, đương nhiên trên mâm tiệc mọi người không ngừng kính rượu với y, cho nên mặc dù năm lần bảy lượt thoái thác, y vẫn phải uống đến gần say, ngực cũng hơi tưng tức, buồn nôn. Vừa nghe lên bờ rồi còn phải uống tiếp nữa, y không khỏi cười khổ sở không thôi.

Những khóm sen nơi đây mọc lan tới cả sát bờ. Trên bờ trồng một hàng cây dương liễu, hơn chục chiếc thuyền nho nhỏ được buộc vào đó. Liêu quản sự đã dẫn vài người đứng dưới gốc cây, thấy mấy vị đại nhân đã đến, hắn liền sai người tháo dây thừng buộc thuyền ra.

Ngay lúc này, từ trên hồ bỗng cất lên một giọng ca trong trẻo ngọt ngào, hát rằng:

- Đào hoa hồng lai dương liễu thanh, 

Thanh thủy đường lý chủng hồng lăng, 

Muội chủng hồng lăng ca chủng ngẫu, 

Hồng lăng khiên đáo ngẫu ti căn. 

Tạm dịch: Hoa đào đỏ cho liễu thêm xanh, trong ao nước biếc trồng ấu đỏ, em trồng ấu đỏ anh trồng sen, ấu đỏ nối gốc với sen anh.

Tiếng hát ngọt ngào đắm say lòng người, ca từ trong sáng tao nhã, mấy người Dương Lăng nghe xong bất giác đưa mắt nhìn ra hồ, thấy một chiếc thuyền hoa (thuyền trang hoàng rực rỡ để đón đưa du khách) đang lắc lư tiến về phía bờ bên này. Ở đầu thuyền là một người con gái thướt tha áo đỏ váy đỏ, thắt đai lưng màu hồng phấn, cặp chân trần trắng muốt như tuyết, đang vừa múa vừa hát.

Ở đuôi thuyền, thuyền phu đã ngưng chèo, đầu thuyền rẽ biển sen đỏ lá xanh như cắt ngang một tấm gương, khoan thai rẽ sóng vào bờ. Từ trong khoang thuyền, một thư sinh trẻ tuổi mặc áo chẽn xanh nhạt tay cầm chén rượu lảo đảo bước ra, cười nói với thiếu nữ áo đỏ : 

- Bài hát thật hay, quả hợp để uống rượu. Chỉ là không biết Liên Nhi cô nương nối tình ấu đỏ là cho vị công tử nào vậy nhỉ?

Người thiếu nữ xinh đẹp áo đỏ như lửa cười khúc khích, giơ tay ném một hạt sen qua chàng công tử, cất giọng thân mật: 

- Đương nhiên là Từ công tử chàng rồi, còn có thể là người nào chứ?

Khuôn mặt của vị công tử đã đỏ bừng, rõ ràng y đã say túy lúy. Nghe nàng nói xong y cất tiếng cười to, mắt lờ đờ ngoái đầu vào trong khoang thuyền bảo: 

- Xem Liên Nhi cô nương thực biết nói nhiều câu hay. Có điều đã mở miệng hứa với ta, sao đêm qua ngủ trên giường hoa của nàng lại là Tử Úy huynh thế?

Vốn Cao Văn Tâm nghe giọng hát nọ rất lấy làm thích, nhưng nghe đoạn đối đáp này của bọn họ, nàng biết là mấy thư sinh phong lưu đang mời kỹ nữ thanh lâu du ngoạn trên hồ, không khỏi hơi nhíu mày, mặt lộ vẻ chán ghét.

Lúc này trong khoang lại có một người mặc áo xanh bước ra, tay cầm một chiếc quạt, tuổi độ bốn mươi. Trên nước da trắng trẻo đã lờ mờ có nếp nhăn, mặt ông tuy tươi cười, nhưng dường như từ trong nội tâm vẫn toát ra ngoài một dáng vẻ cô độc.

Ông cười phóng đãng hỏi: 

- Sao thế, Xương Cốc mới ngủ với Linh Lung Nhi chưa được một tháng mà đã có ý với Liên Nhi của ta rồi sao?

Thiếu nữ áo đỏ tên gọi Liên Nhi chợt xoay eo thon, nhẹ nhàng lách khỏi bên thư sinh áo xanh nhạt rồi như én về rừng sà vào lòng thư sinh áo xanh, cười ngọt ngào: 

- Nói đúng đó, Từ công tử thật không có lương tâm, uổng cho Linh Lung muội muội của thiếp nặng tình với y. Xem khi về thiếp mà không tố cáo y với Linh Lung mới lạ đó...

Thư sinh áo xanh ôm lấy eo nàng ta cười lớn. Lúc quay đầu nhìn lên bờ, vừa trông thấy Cao Văn Tâm, mặt thư sinh nọ chợt ngẩn ngơ. Ánh mắt của vị thư sinh áo xanh tuổi trạc tứ tuần này mờ mịt vì men rượu, nhưng khi ông nhìn kỹ người khác lại vẫn hết sức có thần.

Ánh mắt ông nhìn chằm chằm vào Cao Văn Tâm đang đứng trong đình, quan sát từ trên xuống dưới mấy lượt, trên mặt liền lộ vẻ thích thú, tán tụng: 

- Đã lâu chưa từng gặp được cô gái có khí chất u nhã hơn người như vậy. Úi chà, còn là một thị nữ sao? Phủ Tô Châu này người nào lại dùng được thiếu nữ như vậy làm tỳ nữ thế nhỉ?

Ông đập quạt vào tay liên tục, mặt đầy vẻ tiếc hận, thiếu điều sắp đấm ngực giậm chân kêu gào một phen.

Trong khoang nghe tiếng khen ngợi, lập tức lại có hai thư sinh nhào ra. Đi đầu là một người râu ria xồm xoàm, mặc một trường bào màu xanh, chòm râu đen đúa dài chấm ngực, tay y cầm một chén rượu lớn, đủ để so với một chiếc bát con.

Hai người nhìn thấy Cao Văn Tâm, hai mắt lập tức sáng rỡ, thay nhau nói: 

- Tử Úy có pháp nhãn, người được khen tất phải bất phàm. Úi chà, quả nhiên đoan trang xinh đẹp, có ý vị khác, đáng để cạn một chén to.

Cao Văn Tâm nghe bọn họ bình phẩm mình từ đầu tới chân, đôi mày lớn không khỏi cau lại. Nếu không vì trước mặt có tới mấy nhân vật có uy tín và danh tiếng, thân là tỳ nữ mà tùy tiện mở miệng sẽ làm mất mặt Dương Lăng thì nàng đã sớm phát tác với mấy thư sinh này rồi.

Ngô Tế Uyên thấy sắc mặt nàng không vui, trong lòng liền trở nên thận trọng. Khi nãy tại tiệm ăn chay Hàn Sơn lão đã tận mắt thấy khâm sai đại nhân cưng chìu nàng như thế nào. Ngô Tế Uyên không sợ nữ tỹ xinh đẹp này không vui mà sợ bọn họ chọc ghẹo khiến khâm sai đại nhân nổi giận. Lão liền vội bước lên một bước quát lớn: 

- Hi Triết vô lễ! Không được ăn nói quàng xiên.

Thấy lão gọi thẳng tên tự người đó, xem ra đôi bên đã từng quen biết. Người râu rậm nghe thấy có người gọi mình, liền vội đưa tay lên che trán nheo mắt nhìn kỹ đối phương, đoạn khoái trá cười lớn: 

- Hóa ra trước mặt là Ngô ông! Vậy thì tốt rồi, vậy thì tốt rồi! Trưng Trọng, mau lấy hộp tranh của huynh ra, ta muốn vẽ người con gái này, Ngô ông nhất định phải cho phép vãn sinh đấy nhé. Cùng lắm ta về tặng ông một bức tranh sơn thủy là xong.

Ngô Tế Uyên xấu hổ nói với Dương Lăng: 

- A hèm... Dương đại nhân! Mấy vị đó là tứ đại tài tử của đất Ngô Trung, ngày thường quen thói phóng đãng, mong đại nhân chớ trách. Vị vận áo xanh tên là Đường Bá Hổ (*), thường ngày buôn tranh bán chữ để mưu sinh. Người này giỏi nhất là vẽ tranh mỹ nữ, có điều tầm mắt rất cao, thường luôn nuối tiếc không có nhân vật đáng để y đặt bút. Cho nên hôm nay trông thấy thị nữ của đại nhân phong tư xuất chúng, hắn nhất thời vui quá nên mới thất lễ, để thảo dân đuổi bọn họ đi là được.

(*) Xem thêm http://home.thuhoavn.com/?p=671

Ba_Van: Có lẽ tác giả nhầm; kẻ rau rậm tỏ ý muốn vẽ tranh là Chúc Chi Sơn chứ nhỉ!

Dương Lăng vừa nghe ba chữ Đường Bá Hổ, toàn thân không khỏi chấn động. Đường Bá Hổ! Nhân vật thanh danh hiển hách này không ngờ lại đang đứng sờ sờ trước mặt y, Dương Lăng vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Nghe Ngô Tế Uyên muốn đuổi bọn họ đi, y liền vội kéo lại, vui vẻ bảo: 

- Không sao, không sao! Ngô tiên sinh mau mời... mời mấy người bọn họ lên đây. Dương mỗ nghe danh tứ đại tài tử Giang Nam đã lâu, hôm nay được gặp mặt thật là có phước. Nếu đuổi bọn họ đi như vậy, thật sẽ tiếc lắm.

Ngô Tế Uyên không ngờ Dương Lăng cũng đã nghe danh của bốn tài tử Ngô Trung, nghe y tán thưởng như vậy, bản thân là người đồng hương, lão cũng có chút vẻ vang lây, bèn vội cao hứng gọi Liêu quản sự cho mời bốn người Đường Bá Hổ lên.

Bốn vị tài tử này bước vào đình, ra mắt Ngô Tế Uyên trước. Trong bốn người thì Chúc Chi Sơn lớn tuổi nhất, gia cảnh cũng giàu có nhất, qua lại với Ngô phủ rất thân mật, cho nên thoải mái nhất, đi tới chỉ cười hì hì làm lễ một cái, vẫn nâng chén rượu to đùng của y uống không ngừng. Văn Trưng Minh và Từ Trinh Khanh thì tương đối câu nệ hơn.

Dương Lăng quan sát kỹ bốn đại tài tử nổi tiếng gần xa này, nhận thấy Đường Bá Hổ mà y muốn kết giao nhất, khi nãy mặc dù vui quá mà không câu nệ hành vi và thái độ, nhưng sau khi bước vào đình, vừa nghe nói thị nữ đó không phải tỳ nữ của Ngô phủ mà là của vị công tử sang trọng mà ngay cả Ngô Tế Uyên cũng phải cung kính lễ độ, vẻ mặt ông liền lập tức trở nên cẩn trọng. Thần thái đó thật sự không giống với Giang Nam đệ nhất tài tử phong lưu phóng đãng như trong tưởng tượng của y, khiến Dương Lăng vốn mong được gặp "phong thái Đường Giải Nguyên"(1) một lần bèn cảm thấy thất vọng không ít.

Y không biết vị Đường Bá Hổ này trong truyền thuyết dân gian tuy là nhân vật phong lưu phóng đãng, không câu nệ lễ pháp, nhưng thật ra trong số tứ đại tài tử thì Đường Bá Hổ là người có số phận long đong nhất, cuộc sống vô cùng nghèo khổ. Trong lòng ông tuy ngông cuồng cao ngạo, căm ghét thế tục, nhưng do cuộc sống bức bách nên vẫn phải thường xuyên cúi đầu với người ta, nào còn phóng túng gì nổi chứ?

Vị Đường Giải Nguyên mười sáu tuổi đỗ tú tài, vừa vặn cùng độ tuổi mà Dương Lăng đỗ tú tài, nhưng vận mệnh lại kém xa. Mười chín tuổi ông cưới vợ là Từ Thị, trong nhà mở một quán rượu, sinh hoạt cũng thoải mái.

Thế nhưng về sau tai họa lại theo nhau ập đến. Đầu tiên phụ thân y trúng gió qua đời, mẫu thân vì quá đau buồn nên cũng ra đi theo, không lâu sau em gái lại chết ở nhà chồng. Tiếp đó vợ ông sau khi sinh xong thì sốt cao, vì bệnh mà qua đời, con trai ra đời được gần ba ngày thì cũng theo mẹ mà đi.

Liên tục gặp đả kích như thế, dưới sự giúp đỡ của những bạn bè tốt khó khăn lắm Đường Bá Hổ mới gắng gượng vui sống trở lại, cưới vợ mới là Hà Thị, lao tâm đọc sách. Nhưng khi ông vào kinh thi cử lại bị người ta vu cáo tội đút lót chủ khảo, bị đày vào đại lao. Tuy về sau được thả vì không tra được chứng cứ, song ông lại bị buộc cả đời không được làm quan.

Vị đại tài tử đa tài đa nghệ này dường như chịu phải lời nguyền của thần vận mệnh, gặp đả kích liên miên khiến ông cửa nát nhà tan, nghèo túng thất vọng, người vợ cũng chê nghèo mà bỏ đi, người em thì lại chạy ra ở riêng chỗ khác.

Đường Bá Hổ tán gia bại sản, thân không của nả, lang thang khắp nơi. Đến thời điểm này ông mới trở về Tô Châu được chưa đầy hai năm, cuộc sống mới vừa có chút khởi sắc. Ông tái giá với một kỹ nữ thanh lâu tên Thẩm Cửu Nương, mưu sinh bằng cách buôn tranh bán chữ.

Dương Lăng nghe ông nói muốn vẽ tranh cho Cao Văn Tâm, không khỏi vui mừng hết đỗi. Y nghĩ, được Đường Bá Hổ vẽ tranh cho là vinh hạnh tới dường nào, nên lập tức không ngần ngại mà đồng ý ngay.

Vốn Đường Bá Hổ thấp thỏm lo lắng y sẽ không chịu đáp ứng, lúc này thấy y gật đầu Đường Bá Hổ cũng lộ rõ vẻ vui sướng trên mặt. Sợ Dương Lăng đổi ý, ông liền vội vui vẻ gọi Văn Trưng Minh mang hộp vẽ tới, rồi lập tức trải sạp để vẽ cho Cao Văn Tâm.

Cao Văn Tâm thấy bọn họ cùng đi chơi kỹ nữ, trong lòng vốn đã không có hảo cảm, giờ lại bảo nàng đứng yên ở đó để người ta vẽ. Trong mắt người con gái xuất thân là tiểu thư khuê các này, việc đó tuyệt không phải là việc vinh dự gì, thế nên trong thâm tâm nàng cực kỳ không bằng lòng.

Dương Lăng thấy thần sắc nàng không vui, bèn bước đến gần nói nhỏ: 

- Văn Tâm, chỉ là để người ta vẽ dung mạo thôi, có gì không vui vậy? Tranh vẽ của vị Đường công tử này rất là nổi tiếng đó. Hôm trước tôi đã có được thư pháp của Giang Nam đệ nhất danh kỹ, hôm nay nếu có thể có được tranh vẽ của đệ nhất tài tử Giang Nam này, tương lai sẽ có thể làm báu vật gia truyền. Dung mạo khí chất của cô, vạn người không có lấy một, đành phiền cô chịu khó đứng yên trong chốc lát để ông ta vẽ tranh. Nhiều năm sau lấy ra xem lại, sẽ có ý vị khác đó.

Y nói lời này tự đáy lòng, nhưng Cao Văn Tâm lại hiểu lầm thành ý khác. Nghe y nói muốn đem tranh vẽ mình làm báu vật gia truyền, để lại cho con cháu đời sau, cái ẩn ý đó... Vừa nghĩ đến đây, con tim nàng liền nhảy thình thịch như trống trận, thế là nàng vui vẻ đồng ý ngay.

Chúc Chi Sơn chỉ biết đứng ở một bên vuốt râu uống rượu. Hành động của vị tài tử luôn đóng vai nhân vật gây cười trong những truyền thuyết về Đường Bá Hổ trông cũng hết sức bình thường, không hề có vẻ gì điên điên khùng khùng cả.

Có điều tửu lượng của hắn thật sự kinh người, ban đầu còn thỉnh thoảng gọi thuyền phu lên thuyền rót thêm rượu cho, sau cùng cứ thế mà bê cả vò rượu lên, ngồi bên thành lan can tự rót tự uống.

Đường Bá Hổ đã sớm trải sạp ra, bắt đầu chăm chú vẽ chân dung Cao Văn Tâm. Văn Trưng Minh, Từ Trinh Khanh và nhóm người Dương Lăng cùng Mạc Thanh Hà cũng đều đứng sau lưng ông hiếu kỳ theo dõi. Trương Phù Bảo lại chê chán, kéo anh nàng cùng ra bờ sông chơi.

Bên này Đường Bá Hổ vừa mới phác thảo vài nét, Chúc Chi Sơn chợt như nghĩ đến điều gì, đột nhiên bỏ chén rượu, nhảy xuống thành lan can la lên quái gở: 

- Hỏng rồi, hỏng rồi! Sao ta lại cũng tham dự theo chứ nhỉ? “Thập mỹ đồ” đó thật sự sắp hoàn thành rồi! 

Rồi hắn giậm chân la lên: 

- Ba trăm lạng ơi là ba trăm lạng! Tính sai rồi! Tính sai rồi! Lần này lão Chúc ta phải đền tiền rồi.

Đường Bá Hổ chỉ ngẩng đầu cười lớn một tiếng rồi lại cúi đầu tiếp tục vẽ tranh, vẻ mặt hơi đắc ý. Dương Lăng phảng phất nhớ dường như có cái "Cửu mỹ đồ"(2) gì đó liên quan đến Đường Bá Hổ, không khỏi lấy làm tò mò hỏi: 

- "Thập mỹ đồ” gì vậy?

Văn Trưng Minh cười lớn: 

- Hôm nay du ngoạn trên hồ là ý tưởng của lão Chúc. Chuyến đi du ngoạn hồ này hao mất ba trăm lạng, y thật sự đã tính sai rồi. 

Thấy thân phận Dương Lăng dường như cực kỳ cao quý, nhưng tính tình ôn hoà, không hề có phong thái cao kỳ của con cháu thế gia quyền quý, hắn bèn cười cười giải thích: 

- Dương công tử! Hi Triết huynh và Tử Uý huynh đã đánh cuộc, chỉ cần trong vòng một năm Tử Uý huynh có thể vẽ được mười bức tranh mỹ nữ, hơn nữa phải là mỹ nữ mà bốn người chúng ta đều công nhận, thì Hi Triết huynh sẽ thua Tử Uý huynh ba trăm lạng bạc.

Chỉ là mười mỹ nữ này thực khó kiếm à nha! Chùa Huyền Diệu ở Tô Châu có nhiều thiếu nữ tới lui nhất, Đường huynh thường hay đến nơi đó ngồi canh chừng, nhìn thấy tuyệt sắc giai nhân chân chính nào liền ghi nhớ kỹ trong lòng, sau đó vẽ lại. Nhưng mà tin tức này dần dần bị tiết lộ, nhà ai có nữ quyến định đến chùa dâng hương đều sai người đuổi vị đại tài tử này đi trước.

Kết quả là sau bảy tháng đầu tiên, Tử Uý huynh đã có thể vẽ được chín mỹ nữ, nhưng người thứ mười lại tìm mãi không thấy. Chúng tôi cứ tưởng rằng lần này Tử Uý huynh sẽ thua rồi, nào ngờ hôm nay lại có duyên gặp được vị cô nương của quý phủ đây. Ha ha, đây cũng xem như là ý trời, muốn Hi Triết huynh đưa bạc cho Tử Uý huynh tiêu dùng.

Dương Lăng nghe vậy cũng cảm thấy mắc cười, thì ra đám tài tử này cũng giống như những người bình thường khác, lúc ăn không ngồi rồi cũng lấy mỹ nữ ra làm đề tài câu chuyện, không ngờ còn dùng nó để đánh cuộc.

Y ngồi xổm bên cạnh Đường Bá Hổ, thấy bút pháp tuyệt diệu của ông hất lên móc xuống, bức tranh trong tay đã vẽ được sáu phần, tuy mắt mũi ngũ quan vẫn mới chỉ được hoạ phác đơn giản, vẫn cần phải chấm phá thêm, nhân vật cũng hãy còn chưa tô màu, nhưng một mỹ nữ sinh động như thật đã dần hiện ra trên trang giấy. Thấy vậy y không khỏi ngợi khen: 

- Nhân vật của Đường huynh vẽ quả nhiên giống như đúc, bút lực quả thực bất phàm.

Đang vẽ say sưa, Đường Bá Hổ nghe vậy mặt liền tươi rói, đáp: 

- Dương công tử quá khen! Mỹ nữ tập trung thiên địa linh khí, bản thân đã là một bức tranh sáng đẹp tuyệt luân, tại hạ chẳng qua chỉ lấy bút trong tay vẽ một phần vạn nét phong tình của họ mà thôi. Cái tĩnh của mỹ nữ thì thanh nhã u khiết, còn cái động của mỹ nữ lại bay bổng như hạc. Mái tóc, chân mày, cặp mắt, đôi môi, làn da, cần cổ, tấm eo, đôi chân, không chỗ nào không thể vẽ nên tranh. Vẻ đẹp ấy có thể họa vào thơ, có thể nhập vào trong tranh vẽ, có thể hoà vào rượu, còn có thể bước vào mộng nữa thay.

Dương Lăng không ngờ vị đại tài tử này nói đến mỹ nữ lại cũng có bài bản như vậy. Văn Trưng Minh cũng là cao thủ về hội hoạ, có nhận thức bất phàm về hội hoạ nên có thể lý giải được cái ý trong lời Đường Bá Hổ, vả lại hắn cũng cực kỳ sùng bái kỹ xảo vẽ chân dung của Đường Bá Hổ.

Lúc này thấy Dương Lăng tràn đầy thích thú, trong lòng hắn có cảm giác như gặp người đồng đạo, liền hào hứng nói với Dương Lăng: 

- Dương công tử hãy đợi một chút, trên thuyền hoa có một bức tranh tuyệt diệu mà Tử Uý mới vẽ đêm qua, để tôi lấy cho công tử xem!

Đường Bá Hổ phong lưu phóng khoáng. Tuy ông đã cưới người bạn thân thiết chốn khuê phòng của Liên Nhi cô nương là Thẩm Cửu Nương làm vợ, nhưng vẫn thường lưu luyến chốn thanh lâu. Những cô nương này cũng mến tài nghệ của ông nên cũng chưa từng đòi tiền qua đêm, vị Liên Nhi cô nương này cũng là một người ái mộ ông.

Nàng mắt to môi đỏ, da trắng như mỡ, cũng là một mỹ nhân, tuy nhiên hôm nay Đường Bá Hổ vừa thấy Cao Văn Tâm liền miệng khen không ngớt, Liên Nhi tự thấy tư sắc thua người nên vẫn luôn đứng một bên, trề môi vẻ không vui lắm. Bây giờ nghe Văn Trưng Minh nói muốn lấy bức vẽ đêm qua, tuy tức giận, nhưng nàng vẫn không nén khỏi đỏ mặt, hung hăng trừng mắt với hắn, dường như có chút ngượng ngùng.

Văn Trưng Minh hấp tấp chạy về thuyền hoa lấy một cuộn tranh. Hắn trở vào trong đình, mới vừa giở cuộn tranh vẽ ra một nửa, một cơn gió lùa tới suýt nữa thổi rách bức vẽ. Văn Trưng Minh liền kéo Đường Bá Hổ nói: 

- Tử Uý huynh ngừng một chút đi! Để Dương công tử kiến thức bức tranh phong nguyệt mà huynh vẽ ngày hôm qua một chút.

Văn Trưng Minh nói xong, liền đoạt lấy bàn vẽ trong tay Đường Bá Hổ, giở cuộn tranh trong tay ra đặt lên trên. Dương Lăng vừa nhìn thì thấy bức tranh đó tịnh không phải là tranh đen trắng, mà dùng thuốc màu sơn lên. Trong tranh vẽ một mỹ nữ khỏa thân dáng vóc nẩy nở rung động lòng người, người con gái đó nửa quỳ trên chiếc giường nhỏ, một dải lụa đỏ vắt ngang eo, một tay che chỗ xấu hổ, eo thon hơi trũng xuống, cặp mắt yêu kiều ngoái nhìn ra sau, trong nét mặt đó có thể lờ mờ nhìn ra người thiếu nữ chính là vị Liên Nhi cô nương nọ.

Phía sau là một nam tử đang nằm chồm sấp trên mông nàng trong trạng thái giao hợp, cạnh bên có lưu hai hàng chữ như rồng bay phượng múa: "Bán liêm thanh phong, nhất tháp minh nguyệt, bán tự hàm tu bán thôi thoát, hồi đầu đinh ninh khinh ta cá, bất tỉ tầm thường lãng phong nguyệt"*. Không ngờ bức tranh này lại là một xuân cung đồ kiều diễm mê người. 

(* Tạm dịch: nửa mành gió mát, một mảnh trăng thanh, nửa như e ấp nửa như khước từ, ngoảnh đầu dặn nhẹ cho em, không như cảnh sắc gió trăng tầm thường)

Dương Lăng chưa từng nghe nói đại tài tử Đường Bá Hổ vẽ tranh xuân cung, y ngẩn người nhìn chằm chằm vào bức tranh, vừa chỉ tay vào vừa lắp bắp hỏi: 

- Đây... đây là của Đường huynh vẽ sao?

Văn Trưng Minh cười đáp: 

- Đúng vậy! Nét vẽ tinh tế tỉ mỉ, nhân vật sinh động có thần, tranh xuân cung mà Đường huynh vẽ không dưới trăm bức, song đây là bức vẽ mà tại hạ thích nhất, nên đã xin y. Tại hạ và Dương công tử tuy vừa gặp mặt nhưng như đã quen lâu, nếu như công tử thích, tại hạ xin tặng cho công tử, không biết công tử thấy thế nào?

Dương Lăng cười gượng: 

- Ơ... Đệ nhất tài tử Giang Nam cũng vẽ loại tranh này sao? Ha ha, đúng là nằm ngoài dự liệu của tại hạ.

Từ Trinh Khanh cười nói: 

- Nghe khẩu âm của công tử, đoán là người đến từ phương Bắc nên không biết tập tục phương Nam. Vẽ tranh này cũng không có gì cả, thật ra rất nhiều tiểu thư khuê các cũng sao đi vẽ lại tranh xuân cung này đấy. Có điều những bức được chính tay Tử Uý huynh vẽ ra đều có thể gọi là trân phẩm, khắp phố phường đều tranh giành đấy!

Đường Bá Hổ dường như cũng rất là hài lòng với bức tranh này, ông lấy bản vẽ lại, xoa nhẹ lên bức tranh cười nói: 

- Nào chỉ ở phương Nam, cho dù vùng phụ cận kinh sư cũng học theo tập tục này đấy chứ. Đa số nữ tử khéo tay của Thiên Tân vệ đều tinh thông môn này, chẳng những thường ngày vẽ tranh, mỗi khi đến cuối năm còn vẽ tranh xuân cung đem ra chợ bán, bản địa gọi họ là "Nữ nhi xuân". Dương công tử đến từ phương Bắc, chẳng lẽ không biết chuyện này ư?

Cao Văn Tâm ngồi nghiêng trên lan can mái đình, nhìn chăm chăm vào khói sông trên Thái Hồ theo sự hướng dẫn của Đường Bá Hổ để cho ông ta vẽ. Nàng đã ngồi yên một hồi lâu nên cảm thấy vai và cổ hơi mỏi, vừa quay đầu cho mau huyết lưu thông đột nhiên nhìn thấy Dương Lăng và mấy thư sinh đang chỉ chỉ trỏ trỏ vào bức tranh, thậm chí Ngô Tế Uyên và Mạc Thanh Hà cũng đang đứng sau đám người kiễng chân lên xem. 

Nàng tưởng bức chân dung đã vẽ xong rồi nên mừng rỡ đứng dậy, đi lại gần mọi người, vui vẻ hỏi: 

- Đường công tử đã vẽ xong rồi à?

Cao Văn Tâm vừa hỏi vừa cúi đầu nhìn bức tranh, mặc dù nhìn ngược xuống, nhưng tổng thể bức tranh vẽ gì nàng vừa liếc mắt liền nhận ra ngay. Khuôn mặt xinh xắn của nàng liền thoáng trắng bệch, mặt cắt không còn giọt máu, liền tiếp đó lại đột nhiên đỏ bừng, cả người cũng phát run lên.

Nàng vạn lần không ngờ kẻ này lại dùng tướng mạo của nàng để vẽ ra một bức tranh sỉ nhục như vậy. Cao Văn Tâm giận đến choáng váng mặt mày, không chút nghĩ ngợi nàng vung tay tát bốp một bạt tai vào mặt Đường Bá Hổ, giận dữ mắng: 

- Đồ vô sỉ!

Cao Văn Tâm mắng xong, hai hàng lệ đã không nén được mà trào ra. Điều khiến cho nàng đau lòng khôn xiết chính là: Dương Lăng chẳng những không nổi giận, mà không ngờ... không ngờ cũng hùa với người ngoài chỉ chỉ trỏ trỏ lên bức tranh. Nếu như y thật sự thích mình, xem mình như nữ nhân của y, sao y lại có thể đối xử với mình như vậy, mặc cho mình bị người ta khinh thị?

Nghĩ đến đây, Cao Văn Tâm đau lòng như cắt. Hai tay ôm mặt, nàng xoay người lao về phía bờ hồ.

Chú thích:

(1) vì Đường Bá Hổ đỗ giải Nguyên (đỗ đầu trong kỳ thi Hương) nên được gọi là Đường "Giải Nguyên"

(2) "Cửu mỹ đồ" kể về chuyện tình giữa Đường Bá Hổ và Thu Hương

Chương 129: Oan Gia Cưỡi Sóng Tới

------------------------

Ai nói phụ nữ "chân yếu tay mềm"? Cú tát của Cao Văn Tâm vừa giáng xuống tức thì má trái của Đường Bá Hổ lập tức "nở hoa". Đã bị người ta đánh còn bị mắng là bỉ ổi, đệ nhất tài tử Giang Nam phong lưu đa trí như ông cũng bị đòn đến sững người.

Dương Lăng trông thấy bộ dạng của ông ta như vậy, không khỏi thầm kêu may mắn trong lòng: may mà chỗ ngày đó Văn Tâm đánh chỉ là cái mông của mình, chứ nếu mặt mình bị ăn cái tát như vậy thì e rằng suốt ba ngày cũng đừng hòng gặp ai!

Điều Cao Văn Tâm đau lòng nhất chính là không ngờ nàng bị chính người nàng luôn quan tâm trong tâm tưởng đã quá khinh rẻ và sỉ nhục nàng đến thế. Lệ tuôn đầy mặt, nàng lao về phía bờ hồ, chỉ muốn trầm mình vào dòng khói sóng mênh mông cho kết thúc mọi chuyện từ đây.

Những thuyền phu đang kéo thuyền bên bờ hồ có một nửa là nha sai nội xưởng hoá trang. Vừa thấy người tỳ nữ luôn như hình với bóng với xưởng đốc đại nhân ôm mặt chạy tới, còn Dương khâm sai vừa đuổi theo vừa kêu to cứu người, lập tức có hai gã tráng niên cải trang thành ngư phủ sóng vai bước tới trước cản Văn Tâm lại, cười nói: 

- Cô nương, xin dừng bước!

Cao Văn Tâm quát: 

- Tránh ra cho ta! 

Vừa quát vừa đưa tay đẩy. Tay còn chưa chạm ngực hai nha sai đó, eo thon chợt bị siết chặt, cả người đã bị nhấc bổng lên.

Cao Văn Tâm vừa sợ vừa giận, vùng vẫy kêu la: 

- Thả ta ra, ngươi thả ta ra! 

Ngoái đầu trông thấy chính Dương Lăng đang ôm eo mình nhấc bổng lên, lập tức hành động vùng vằng của nàng tức thì yếu đi vài phần, hai chân vốn đang dãy đạp về phía sau cũng buông lỏng xuống.

Thừa thế Dương Lăng bước thêm vài bước vòng ra sau một gốc liễu xù xì thấp bé đoạn đặt Cao Văn Tâm xuống, nói vội: 

- Đại tiểu thư của tôi ơi! Cô gây náo loạn quá chừng rồi! Đã hiểu lầm rồi, hiểu lầm rồi!

Đám người Mạc Thanh Hà, Ngô Tế Uyên và tứ đại tài tử đang đứng ở trong đình nhìn về phía cây liễu trông thấy mỹ nhân đáo để nọ chợt ló đầu ra dường như muốn bỏ chạy đi, ngay lúc đó hai cánh tay đột nhiên vươn ra, ôm lấy eo cô nàng kéo trở lại.

Sau đó, do gốc liễu che khuất tầm mắt nên cả bọn chỉ có thể nhìn thấy nửa bóng lưng của hai người. Họ thấy rõ phần bóng lưng của khâm sai Dương đại nhân - xưởng đốc Nội xưởng, thống lĩnh thân quân phụng chỉ tuần sát - thoạt khom thoạt thẳng như đang cúi người vái lạy, không ngừng xin tha thứ. Đám nha sai Nội xưởng thấy vậy, lòng chợt cảm thấy như bị kim chích, lập tức không hẹn mà cùng xoay người đi vờ như không thấy.

Vị tài tử râu dài họ Chúc cũng không uống rượu nữa. Hắn vuốt chòm râu dài, cố sức rướn cổ nhìn, chỉ thấy hai bóng người sau gốc cây ban đầu thì xô xô đẩy đẩy, tiếp đó càng lúc càng nhích gần lại nhau, cuối cùng trừ hai gót chân ra, cả bóng lưng cũng không nhìn thấy được nữa.

Bỗng một cơn gió thổi tới, hắn mới thấy một dải thắt lưng lụa tung bay sau gốc cây, áo choàng Dương Lăng khẽ lay động, bèn không khỏi đảo mắt nhướng mày, chớp mắt nói to: 

- Đường Giải Nguyên mau lấy bút ra ! Lão Chúc thấy hình như sắp diễn xuân cung trực tiếp rồi.

Văn Trưng Minh huých khuỷ tay vào người y, mắng khẽ: 

- Lo uống thứ rượu vàng quí hóa(*) của huynh đi. Ngô ông và khách quý của phủ ông ấy cũng đang ở đây đó.

(*):nguyên văn là “hoàng thang” (rượu vàng), cụm từ này được sử dụng với hàm ý chê trách người say sưa.

Từ Trinh Khanh cũng gượng cười nói: 

- Vị tỳ nữ đó tuy không phải thiên kim thế gia vọng tộc nhưng xem ra cũng cực kỳ tự trọng tự ái. Lão Chúc hãy cẩn thận cái miệng, kẻo lại bị như Đường huynh...

Đường Bá Hổ nghe vậy bèn xoa cái má đang đau rát mà cười khổ một hồi. Xem ra mình đã ăn không cái tát này một cách oan uổng rồi, còn e rằng mấy bằng hữu to mồm không có lòng dạ này sẽ mang chuyện đi rêu rao khắp chốn một phen. Có điều bọn họ là người phóng đãng không chịu gò bó, tạm thời xảy ra một chuyện phong lưu ân ái cũng không thấy mất thể diện gì.

Dương Lăng vừa giải thích vừa dỗ dành. Hồi lâu, cũng không biết do chưa hết giận hay Cao Văn Tâm vẫn muốn được hưởng cảm giác dựa vào lòng y, bị Dương Lăng ôm chặt, nàng nép sát vào người y như một chú chim nhỏ, lại thút thít một hồi, rồi mới uất ức nói: 

- Cho dù bọn họ và lão gia vừa gặp như đã quen lâu, cũng không có lý gì... đem tranh vẽ trộm rêu rao khắp nơi. Vị Liên Nhi cô nương đó xuất thân thanh lâu thì bọn họ sẽ phơi bày nàng ta với người khác một cách tuỳ tiện sao? Chỉ là ngang ngạnh phóng đãng thôi ư? Đó còn không phải là sỉ nhục người ta à? Con đường làm quan của bọn họ không thuận lợi nên mới vờ mượn tiếng phong lưu mà khinh nhờn thế tục, chung quy vẫn là khinh bạc, không giữ đức hạnh, không tuân thủ khuôn phép. Trong triều hiện đang có không biết bao nhiêu kẻ đang nhìn chòng chọc vào lão gia, muốn bươi móc tìm kiếm khuyết điểm của lão gia. Lão gia thật sự không nên kết giao thân thiết với bọn họ quá.

Lời Cao Văn Tâm nói rất có lý. Những hành vi phóng đãng của mấy tài tử này nếu đặt ở đời sau thì mọi người sẽ chỉ cảm thấy đó là sự phản kháng đối với lễ giáo phong kiến; ai nấy chỉ hăng say bàn về những chuyện phong lưu mà bọn họ mơ mộng, cho rằng ông trời ghen ghét bậc kỳ tài, khiến họ chịu phải cảnh bất công; mà không biết hành động sa ngã của bọn họ, tuy trong mắt người đương thời cũng tạo được những câu chuyện thú vị để mọi người say sưa bàn tán nhưng bọn họ cũng đã tự tuyệt hoạn lộ rồi: có đủ loại "kiến thức" này, làm sao còn có thể gặp mặt triều đình?

Nói trắng ra, hành vi của bọn họ là khoe mẽ, là hình ảnh không tao nhã. Mọi người có thể dùng nó làm đề tài chuyện trò trong những lúc trà dư tửu hậu, song không ai coi kiểu "minh tinh" này là rường cột của xã hội cả.

Tâm tình bị kích động lúc mới gặp tứ đại tài tử đã hơi bình phục, Dương Lăng đột nhiên tỉnh ngộ. Ví như mình si mê thanh danh đời sau của bọn họ mà đàng đúm cùng bọn họ, vậy há chẳng phải mình đang tạo cơ hội cho những kẻ đang nhìn mình chằm chằm như hổ đói muốn dồn mình vào chỗ chết sao?

Dương Lăng thở dài một hơi rồi nắm chặt cổ tay Văn Tâm, chân thành: 

- Văn Tâm, cô nói đúng! Bất luận thế nào, với thân phận của tôi mà cùng bọn họ công khai thảo luận những thứ này như vậy thì quả là đã hơi khinh xuất mất rồi. Đến Giang Nam một khoảng thời gian, thoát khỏi những chuyện minh tranh ám đấu trong triều, tôi thật sự đã có hơi sơ ý rồi.

Cao Văn Tâm được y vừa dỗ dành vừa khuyên giải, biết rằng mình đã hiểu lầm, nộ khí trong lòng sớm đã tan đi, lại nghe y nói với giọng chân thành, ngược lại hơi cảm thấy áy náy trong lòng. Nàng đỏ mặt rụt tay về, mắng khẽ: 

- Bị lão gia nắm đau quá đi! Tiểu tỳ đã không tính nhảy xuống hồ nữa, người còn kéo tiểu tỳ làm gì?

Dương Lăng bật cười ha hả, buông tay ra nói: 

- Đi thôi, trở về thôi! Mấy người Mạc công công và Ngô tiên sinh nhất định đang lo lắng lắm đây.

Cao Văn Tâm cúi đầu, di di chiếc giày thêu trên mặt đất, ngượng nghịu: 

- Tiểu... tiểu tỳ ngại lắm! Lão gia muốn du ngoạn hồ thì tiểu tỳ chờ lão gia ở đây là được rồi.

Dương Lăng cười nói: 

- Loại thuyền nhỏ đó một chiếc chở được hai người. Hôm nay tôi chèo thuyền để cô rong chơi vui vẻ một ngày, có được không?

Cao Văn Tâm ngẩng đầu, mừng rỡ nhìn y, rồi lập tức chần chừ: 

- Lão gia, tiểu tỳ chỉ là hạ nhân, lão gia... lão gia không cần phải khách sáo với tiểu tỳ như vậy.

Dương Lăng thở dài một hơi, đoạn cười trêu: 

- Cao đại tiểu thư à, từ khi đón cô vào nhà đến giờ, cô nói xem, tôi có từng xem cô như tỳ nữ chưa? Còn dùng kiểu nói này với tôi nữa, cô sẽ tự thẹn với lòng thôi.

Khuôn mặt xinh xắn của Cao Văn Tâm thoáng đỏ lên, nàng khẽ hé môi nhưng lại không nói được lời nào. Dương Lăng mỉm cười, xoay người đi về phía mái đình.

Dương Lăng cao đầu ưỡn ngực bước vào trong đình. Ngô Tế Uyên lật đật bước lên hỏi han: 

- Đại... Dương công tử, à... Cao cô nương đã hết giận chưa?

Dương Lăng khoát tay, ra vẻ bất cần: 

- Phụ nữ ấy mà, thật không hiểu ra sao cả! Bị tại hạ dạy dỗ cho một trận, giờ cô ta đã ngoan ngoãn hơn nhiều rồi.

Mạc Thanh Hà bật ho khan vài tiếng, cố nhịn cười, sau đó quay đầu đánh xoạt một cái về phía Thái Hồ, chắp hai tay sau lưng ra vẻ đang thưởng thức phong cảnh.

Dương Lăng vẫn không hay bộ dạng trốn sau gốc cây cúi đầu thi lễ của mình đã sớm bị người ta thu vào trong mắt, y quay sang Đường Bá Hổ cười áy náy: 

- Đường huynh! Thật xin lỗi, tiểu đệ quản giáo không nghiêm, để tỳ nữ đó ra tay tổn thương Đường huynh, thật rất lấy làm hổ thẹn. 

Đường Bá Hổ cười khan hai tiếng, đáp: 

- Không sao không sao! Nếu không được tặng một cái tát này, Đường mỗ còn hòng thấy hình ảnh mê người như vậy được ư?

Dương Lăng ngạc nhiên hỏi: 

- Hình ảnh gì? Đường huynh đã lại vẽ một bức tranh sao?

Đường Bá Hổ vội vàng nhoẻn cười đáp: 

- Không dám không dám, không có không có, ờ... Có điều bức Thập mỹ đồ này, tại hạ đã có ý tưởng mới rồi, song cần phải chỉnh sửa một chút. E rằng khó có thể hoàn thành trong hôm nay...

Dương Lăng vội nói: 

- Không vội không vội! Không biết Đường huynh vẽ tranh, một bức ra giá bao nhiêu? Huynh cứ việc về nhà vẽ, trở về tại hạ sẽ cho người đến lấy, ngân lượng văn tiền không thành vấn đề.

Đường Bá Hổ liền đáp: 

- Dương công tử! Tuy bức tranh này mượn ý từ cô tỳ nữ của phủ công tử, nhưng nó lại là của tại hạ. Thập mỹ đồ này tại hạ quyết sẽ không bán lẻ, mong công tử lượng thứ.

Thời ấy còn chưa có bản quyền tranh chân dung, Đường Bá Hổ nói một cách đầy lý lẽ khiến Dương Lăng cũng không cảm thấy có gì không đúng. Y nghĩ tranh của Đường Bá Hổ giá trị liên thành, vậy nếu y muốn lấy cả bộ Thập mỹ đồ thì không biết phải tiêu tốn hết bao nhiêu bạc cho đủ? Nhưng y lại không muốn để bức tranh của Cao Văn Tâm bị kẻ khác mang đi.

Dương Lăng không khỏi do dự: 

- Như vậy những bức Thập mỹ đồ này, không biết Đường huynh muốn giá bao nhiêu mới chịu bán ra?

Nhìn bộ dạng cung kính mà Ngô Tế Uyên đối đãi với y, Đường Bá Hổ đã sớm kết luận người này hẳn là công tử tôn quý rất có thân phận. Có thể khiến phú hộ số một Tô Châu kính cẩn nghe lời như vậy, nói không chừng y còn là hào phú kinh sư, cho nên ông nảy ý muốn kiếm chác một mớ. Đường Bá Hổ vừa chăm chú nhìn thần sắc của Dương Lăng, vừa ngập ngừng nói: 

- Việc này à... Tập hợp Thập mỹ đồ rất ư không dễ, Đường mỗ cũng đã hao tốn gần một năm trời, cho nên giá bán ra so với bán lẻ từng bức tranh có đắt hơn một chút. Ít nhất cũng phải năm... năm...

Những bức mà Đường Bá Hổ dày công ra vẽ cùng lắm cũng chỉ rao giá hai mươi lạng. Mặc dầu Thập mỹ đồ khó kiếm, nhưng đòi đến năm trăm lạng thì bản thân ông cũng cảm thấy có phần quá cao rồi. Nhưng hiếm khi gặp phải một kẻ không tiếc bỏ tiền như thế này, nhìn Dương Lăng cưng yêu người tỳ nữ xinh đẹp nọ như vậy, khẳng định là một công tử phú gia thương hoa tiếc ngọc. Cơ hội này thật sự khó mà có được.

Ông vừa ngập ngừng đang muốn nói giá thì Ngô Tế Uyên nghe được, trong lòng đã sáng tỏ. Gần đây lão bị gã phú hộ mới nổi Lý Quý chèn ép kịch liệt, vậy mà Bố chánh sứ và tri phủ Tô Châu bình thường vẫn nhận của lão từng món bạc lớn ấy lại vẫn ngoảnh mặt làm ngơ, nếu như lão có thể bấu víu vào cái gốc cây cao như Dương Lăng này, ai còn dám khi dễ Ngô phủ nữa chứ?

Nếu như Đường Bá Hổ ra giá thấp thì dù lão có mua tặng cho Dương Lăng cũng chẳng biểu lộ được lòng thành, thế là lão vội lật đật cướp lời: 

- Năm ngàn lạng? Được, Đường Giải Nguyên hãy mau vẽ Thập mỹ đồ đi, ta sẽ lấy năm ngàn lạng bạc mua nó.

Nói xong lão cười nịnh với Dương Lăng: 

- Đợi tôi nhận Thập mỹ đồ này rồi, sẽ cho người đem đến phủ tặng cho công tử.

Nghe vậy rất mừng rỡ, Đường Bá Hổ giơ bức tranh trong tay lên, nói: 

- Được, vậy Đường mỗ sẽ tặng miễn phí bức “Nguyệt Dạ Hậu Đình Hoa”* này, đến lúc đó nhất định sẽ đưa đến quý phủ. 

(*tạm dịch: Khúc nhạc Hậu Đình Hoa trong đêm trăng; Hậu Đình Hoa cũng là một vở kịch nổi tiếng, có nhiều phiên bản)

Dương Lăng nghe mà không biết nên khóc hay nên cười. Y gãi nhẹ mũi, ngắm bức tranh một lúc lâu rồi hỏi: 

- Bức tranh này của Đường huynh là... Hậu Đình Hoa à? Ha ha, vị nhân huynh trong tranh che thật đến kín, thật sự là không nhìn thấy được gì.

Đường Bá Hổ vừa nghe Dương Lăng khơi ra khuyết điểm của bức tranh mình vẽ liền có phần nôn nóng, ông ra vẻ nghiêm túc nói: 

- Vẽ là phải chú trọng đến cái đẹp của hàm súc, cái thần của ý cảnh. Công tử không thấy một tay của mỹ nhân che chỗ xấu hổ đó ư? “Có người ngư phu đến hỏi, Đào Nguyên giờ ở chốn nào?” Công tử còn chưa hiểu rõ ý sao?

Chúc Chi Sơn và hai người đàn ông háo sắc còn lại nhất tề đắc ý cười dâm, phụ họa:

- Chí phải, chí phải! Huống chi còn có câu này: “Quay đầu dặn nhẹ cho em, nào như trăng gió phong lưu bình thường...”, chính là kỹ thuật điểm mắt(1) đấy nhé!

Dương Lăng nghe vậy, trong lòng phát lạnh: "Đây là những đại tài tử của lòng mình à, thần tượng lớn đấy ư? Mấy người cũng... cũng thật... Khó trách sao mấy người không làm quan cho nổi, thì ra có bao nhiêu tài hoa mấy người đều dùng vào khía cạnh này hết cả rồi.”

***

Một mảng sen xanh bồng bềnh gợn sóng. Thấp thoáng gần xa, vài chiếc thuyền nhỏ đang chèo trong những khóm lá sen xanh biếc cao tới gối trên mặt nước mà nếu không đứng lên thì sẽ khó thấy được nhau.

Trịnh bách hộ và hơn hai mươi tay nha sai chèo trên những con thuyền nhỏ ra xa, bao quanh vùng này lại, đề phòng du khách xâm nhập. Huynh muội thiên sư một thuyền, Mạc Thanh Hà và Ngô Tế Uyên một thuyền còn Dương Lăng quả nhiên đã thực hiện lời hứa, tự chèo một chiếc thuyền nhỏ cùng Cao Văn Tâm dập dờn trong những con sóng sen liên miên bất tuyệt.

Cao Văn Tâm vui vẻ ngồi ở đầu thuyền, vốc nước hồ trong vắt rót lên những chiếc lá sen xanh ngát. Nước hồ chảy tràn, phần nước còn lại dần dần ngưng tụ lại thành những giọt nước nhỏ tròn trĩnh, xinh xinh. Thuyền trôi nhẹ về phía trước, những chiếc lá ấu rậm rạp gặp phải áp lực nước, tự động rẽ sang hai bên.

Từng đoá hoa ấu trắng tinh lung linh xinh xắn điểm xuyết giữa những bông sen đỏ lá xanh, trang nhã mà tươi mát. Cao Văn Tâm bươi gốc ấu ra, vui thích tìm từng trái ấu đỏ hồng, ngắt lấy bỏ lên váy, đã gom được hai vốc lớn.

Bỗng nhiên, một con cá lớn bị kinh động nhảy vọt lên khỏi mặt nước, vẽ thành một hình cung ngay dưới mắt Cao Văn Tâm, rồi quẫy đuôi đánh "ùm" xuống nước, bụi nước bắn lên tung toé một mảng, làm cho nàng giật nảy mình. Dương Lăng thấy vậy không nhịn được bèn cười to.

Cao Văn Tâm yêu kiều lườm y, nét mặt cực kỳ quyến rũ. Mái tóc đen mướt như gương trên trán hơi bị rối xoà, bọt nước trong vắt óng ánh thấm trên gò má trắng ngần diễm lệ, như thể từ trong da thịt tiết ra. Dương Lăng thấy vậy hai mắt sáng rực, y vừa tính mở miệng khen nàng nhưng lại kịp thời ngậm miệng lại.

Trông thấy vẻ mặt của y, khoé mắt Cao Văn Tâm thấp thoáng một tia hờn oán. Nàng cầm một củ ấu đỏ lên, cúi đầu ngâm khẽ: 

- Lăng nhi cá cá tương y sanh, thu thủy hữu tình tổng giác lãnh. (- Tạm dịch: Ấu kia mỗi củ nương tựa vào nhau mà sống, làn thu thủy có tình mà sao vẫn thấy chán chường.)

Dịch thơ: Ấu kia sống tựa vào nhau, mắt ai sóng sánh mà sao đượm buồn. (TheJoker)

Miệng ngâm thơ, khoé mắt nàng lại trộm ngắm Dương Lăng. 

Dương đại lão gia chân thành phối hợp, liền vội ra sức vỗ tay bôm bốp khen hay: 

- Thơ hay, thơ hay... 

Cao Văn Tâm hơi thất vọng: "Lão gia đang giả vờ hay thật sự không hiểu vậy? Không phải mười sáu tuổi y đã đỗ đầu kỳ thi tú tài của Tuyên phủ hay sao?"

Dương Lăng lại không hay biết Cao Văn Tâm đang mượn thơ khêu tình. Y vỗ tay xong nhưng thấy Cao Văn Tâm vẫn hơi phiền muộn không vui, bèn ngượng ngập buông tay nói:

- Chèo nãy giờ cũng hơi đói rồi. Tới đây, chúng ta ăn tí gì trước đi.

Cao Văn Tâm ngoan ngoãn đồng ý, gom mấy củ ấu lại, bước đến giữa thuyền ngồi xuống, đưa tay qua cầm lấy hộp đồ ăn sơn màu sáng bóng. Hộp đồ ăn tổng cộng có bốn tầng, nàng lấy từng món bên trong ra, đặt lên chiếc bàn nhỏ ở giữa.

Đáy loại hộp đồ ăn này của Ngô phủ làm bằng sắt, bên trong đặt than nóng, bên trên là một tầng cách thủy, cho nên để lâu như vậy mà đồ ăn trong hộp vẫn nóng hổi. Người miền Nam ăn uống luôn chú trọng đến sự tinh tế, mỗi loại đồ ăn trong hộp không nhiều, đại khái chỉ đủ vài miếng, song lại rất đa dạng. Đĩa đầu tiên là một miếng thịt vuông vức, dày cộp, thơm phức, béo ngậy, miếng da lợn lại óng ánh sắc vàng, khiến người ta vừa trông thấy đã phát thèm. Đó chính là một miếng thịt Đông Pha(2).

Món thứ hai là Tôm Bóc Vỏ Động Đình, dùng đặc sản "Hách Sát Nhân Hương"(3) của Động Đình Hồ nấu chung với tôm sông mà thành, sắc, hương, vị tuyệt cả. Giống như Chè Khoai Môn Hương Quế, Chả Giò Rán, Đậu Hũ Chiên Giòn, Bánh Bao Hấp, Vịt Kho, Lương Bung, món này thể hiện rõ đặc điểm văn hóa Đông Ngô: tinh, nhã, tế (tỉ mỉ), xảo (khéo).

Thuyền dập dờn trên sóng, hái sen giữa rừng hoa, cao lương mỹ tửu, lại có áo hồng thêm hương, cho dù không uống cũng say. Huống hồ chung quanh lá sen cao vút trên mặt nước, giữa nơi đây lại chỉ riêng mình cùng một mỹ nhân xinh đẹp khéo cười bầu bạn.

Nghĩ đến dáng vẻ giận dữ của Cao Văn Tâm khi nãy, Dương Lăng thầm nổi lòng "xấu xa", muốn "dạy dỗ" nàng một phen, nên y bèn giở điệu bộ lão gia ép nàng cũng phải uống mấy chén.

Cao Văn Tâm không thoái thác được, đành phải uống vài chén rượu. Rượu thuần thấm vào bao tử, hai má nàng ửng lên một màu đỏ xinh đẹp, thấy vậy Dương Lăng thầm đắc ý trong lòng. Nhưng đã ép người ta uống rượu, y cũng không thể không uống, kết quả là rượu trong chiếc bình bằng thiết đã được uống sạch trơn. Dương Lăng đã cảm thấy đầu nặng chân nhẹ mà Cao đại tiểu thư nhà người ta, mặc dù màu da như được phết thêm một lớp son, đôi mắt lại càng lúc càng sáng, lại không hề có vẻ gì là say. Lúc này Dương Lăng mới biết tửu lượng Cao đại tiểu thư khá cao, thế là y không khỏi ngầm kêu khổ.

Đây là lần đầu Cao Văn Tâm ở riêng cùng một chỗ với Dương Lăng, lần đầu cùng y chung bàn uống rượu, lần đầu được y ôm vào lòng, cũng là lần đầu được y dùng những lời lẽ ngọt ngào để dỗ dành. Thiếu nữ ôm ấp mối u tình này hạnh phúc không thể tả, sau khi uống rượu vào, lòng càng thêm vui vẻ. 

Nàng cầm chiếc bình bằng thiết đã cạn lên, nhoẻn miệng cười duyên dáng với Dương Lăng: 

- Lão gia mười sáu tuổi đã đạt công danh, là tài tử phương Bắc, hôm nay rượu đã cạn bầu, nô tỳ và lão gia dùng câu đối thế rượu, không biết ý lão gia thế nào? Ở đây nô tỳ có một vế trước (thượng liên), mời lão gia đối lại một câu nhé: Đề tích hồ, du Tây Hồ, tích hồ lạc Tây Hồ, tích hồ, tích hồ!* Lão gia, mời người đối lại. 

*: chữ 'tích' (vật làm bằng thiết), 'Tây' (phía Tây) và 'tích' (luyến tiếc) đều có một âm đọc là 'xī'. Tạm dịch: Cầm bình thiết, dạo Tây Hồ, bình thiết rơi xuống Tây Hồ, tiếc thay cái bình, tiếc thay cái bình!

Dương Lăng vừa nghe phải đối câu đối thì giật nảy mình, người hiện đại có mấy ai học qua cái thứ này? Đến lúc nghe nàng tay nói mấy cái gì mà 'tích hồ', 'Tây Hồ', rồi 'tích hồ', y lại càng cảm thấy nhức đầu. Tuy y chưa từng nghe câu đối này, nhưng cũng nghe hiểu được cái khó của câu đối chính là cả ba từ đều đồng âm của từ 'Tây Hồ'.

Y không biết rằng năm xưa có người đã dùng câu đối này làm khó đại học sỹ Tô Đông Pha, khi ấy chính Tô Đông Pha cũng đã từng bị bắt bí. Y còn tưởng rằng đây là câu đối do Cao Văn Tâm nghĩ ra nên trong lòng bội phục không thôi.

Nghĩ ngợi thật lâu, cuối cùng y cũng nghĩ ra ba từ có phát âm na ná nhau, miễn cưỡng có thể lắp thành một câu, bèn nói với Cao Văn Tâm: 

- Ờ... Tôi vừa nghĩ được một câu, song nếu so ý cảnh với vế trên của cô, thật sự kém hơn nhiều lắm. Bây giờ tôi đọc, cô không được cười đó.

Cao Văn Tâm nghe vậy trên mặt không khỏi lộ vẻ kinh ngạc. Câu đối này từ khi ra đời đến nay đã mấy trăm năm, đã có không biết bao nhiêu tài tử hao tổn tâm tư tìm câu đối lại, kết quả cũng chỉ vì quá truy cầu từ phát âm tương đồng mà miễn cưỡng ghép thành một vài hạ liên (vế sau), song không có câu nào có được ý cảnh ưu mỹ như vế trước.

Lão gia nhà mình chỉ trong chốc lát đã có thể nghĩ ra vế đối, như vậy đã là vô cùng quý hoá lắm rồi, còn mong gì đến ý cảnh nữa.

Cao Văn Tâm vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, liền nói: 

- Xin lão gia hãy mau đọc ra, tiểu tỳ rửa tai cung kính lắng nghe đây.

Dương Lăng cắn răng, rồi quyết đoán đọc: 

- Hảo tỷ phu, sính tiết phụ, tỷ phu thất tiết phụ, ta phu, tỷ phu. 

*Tạm dịch: Anh rể tốt, cưới tiết phụ, anh rể phản bội tiết phụ, ôi chồng, anh rể! 

Ba chữ 'tỷ' (jiě), 'tiết' (jié) và 'ta' (jiē) đọc na ná nhau.

Cao Văn Tâm trợn tròn mắt, đôi môi xinh há ra, ngạc nhiên nhìn y thật lâu, không nói câu nào. Dương Lăng không khỏi ngượng ngùng:

- Cô thấy đó, tôi nói rồi, ý cảnh kém lắm...

Cao Văn Tâm đột nhiên xoay người lại, tựa người vào mạn thuyền, đưa ống tay áo lên che mặt, rồi đôi vai nàng rung lên bần bật không ngừng, con thuyền nhỏ cũng theo đó mà lắc lư qua lại. Sau cùng vị tiểu thư khuê các lâu nay vẫn luôn chú trọng đến phong thái này rốt cuộc cũng không đếm xỉa gì đến hình tượng nữa mà bắt đầu cất tiếng cười to.

Dương Lăng cứng người nhìn nàng, mặt lúc trắng lúc đỏ, sau một hồi lâu mới hậm hực nói: 

- Cô xem! Đang uống rượu vui vẻ lại đòi đối này đối nọ cho bằng được, thật làm mất cả vui.

Cao Văn Tâm thấy y giận, vội vàng ngồi ngay ngắn lại, đôi môi mím chặt ra sức nhịn cười, nước mắt cứ ứa ra, người run lên bần bật như trúng sốt rét. Dương Lăng không khỏi giận quá hoá thẹn, đứng bật dậy, gắt: 

- Cười đi, cười đi, cười cho chết tôi thì thôi.

Cao Văn Tâm thấy y đã thật sự giận dữ bèn không dám cười nữa, lật đật đứng dậy, nhỏ nhẹ dỗ dành: 

- Lão gia! Nô tỳ xin nhận lỗi, lão gia đừng giận nữa.

Chiếc thuyền nhỏ vốn đã đang tròng trành, Dương Lăng đứng lên đột ngột, con thuyền lại càng nghiêng sang bên trái. Do Cao Văn Tâm đứng lên vội nên chân không vững, thiếu chút nữa đã ngã xuống sông.

Dương Lăng tuy tức giận nhưng thật ra là bởi câu đối của mình quá kém. Khi nãy y cho rằng có thể nghĩ ra ba từ gần âm, trong đó còn có một thán từ giống như chữ "tích hồ" (tiếc thay cái bình) là nhanh trí lắm rồi, như vậy đã là hiếm có lắm rồi.

Cho nên khi thấy Cao Văn Tâm bật cười lớn, y mới cảm thấy thật mất mặt. Giờ y thấy Cao Văn Tâm cuống cuồng nên đứng không vững chực ngã xuống sông, bèn vội đưa tay đỡ lấy. Cao Văn Tâm hốt hoảng nhào vào lòng y, mãi đến khi con thuyền chầm chậm ổn định lại, mới đỏ mặt mắc cỡ rời khỏi lòng y.

Lúc này Cao Văn Tâm vừa uống rượu xong, mặt ngọc đỏ bừng, tóc mây tán loạn, mày như liễu mảnh che lấp một mảng xuân quang, mắt sáng như trăng nằm nhởn nhơ trong nước hồ thu. Nhất thời Dương Lăng ngẩn ngơ nhìn ngắm.

Cao Văn Tâm đã đứng vững lại, nhìn thấy ánh mắt y, không khỏi khẽ cụp hàng mày đen mướt, thẹn thùng cúi đầu, song lại không nhịn được mà ngước lên liếc y một cái thật nhanh.

Một cái cụp mày, tình ý khôn kể xiết, mê ly hơn cả lời tỏ tình. Mày ngài nhướng trộm, ngầm tỏ ý đàn lang(4), lại là vẻ lay động hồn phách người ta biết dường nào. Biết rõ là không nên song Dương Lăng lại không thể dằn lòng, y nhịn không được bèn hôn trộm môi nàng một cái thật nhanh.

Bờ môi đỏ thắm của Cao Văn Tâm vốn đầy đặn và mềm mại, chỉ vừa được y hôn nhẹ, môi nàng lập tức trở nên ẩm ướt, cặp mắt sáng ngời của nàng cũng chợt sâu thẳm phảng phất như biến thành hai hũ rượu lâu năm, tinh thuần không gì sánh được.

Chiếc thuyền mui đen thong thả đong đưa, gió đưa đến hương sen thơm ngát, tuy chưa hề uống say song lúc này nữ thần y lại lờ mờ như muốn say, tựa như gởi tới Dương Lăng lời mời tình cảm nồng nàn.

Dương Lăng hôn xong, từ trong mỹ sắc bừng tỉnh lại, cuống quýt buông thỏng đôi tay:

- Văn Tâm! Tôi thật không phải. Chúng ta không thể... tôi thật không nên.

Sau khi say rượu, người ta khó tự kiềm chế tình cảm của mình. Giờ đây hôn xong một cái thoả thê, y mới giật mình phát giác đã phạm sai lầm lớn. Tình ý của Cao Văn Tâm với y, trong lòng y sớm đã biết rõ, và cũng đã luôn cảnh tỉnh mình đừng lún vào quá sâu. Nhưng trên chặng đường xuôi Nam này, bất tri bất giác lưới tình miên man của nàng lại sớm đã trói chặt lấy y.

Cho đến lúc này đây, Dương Lăng mới phát hiện thì ra con tim mình cũng đã thích nàng từ lâu, nhưng bởi nỗi khổ tâm của chính mình, y chỉ có thể giống như con cá mắc vào trong lưới, khổ sở vùng vẫy, khổ sở trốn chạy...

Dương Lăng trở về chỗ ngồi, cầm chén rượu lên, lòng ngổn ngang trăm mối, song lại phát hiện chén rượu đã cạn khô. Y không dám ngẩng đầu nhìn ánh mắt ai oán và thất vọng của Cao Văn Tâm đang ngồi đối diện, lòng chỉ thầm nghĩ: “Không thể lại gây thêm nợ tình nữa. Văn Tâm hiểu chuyện hơn mấy người Ngọc Nhi, mình... Không bằng tiết lộ cho nàng một ít chuyện của mình, cắt đứt ý niệm của nàng ấy vậy.”

Dương Lăng nghĩ đến đây, ngẩng đầu tính mở lời, phía trước bỗng nhiên có một giọng nói giòn dã yêu kiều vọng đến: 

- Í, vừa mới thấy đứng ở gần đây mà? Ca à, đi tới trước chút nữa đi, này này, mấy người đâu rồi?

Dương Lăng nghe thấy tiếng nước cùng lá sen lay động, huynh muội Trương thiên sư đã chèo thuyền trôi tới, bèn nuốt lời định nói ngược vào bụng. Y thấy Cao Văn Tâm đang cúi đầu vân vê góc áo, dáng vẻ rất đáng thương, bèn vội nói với nàng: 

- Văn Tâm! Tôi tự có nỗi khổ của mình, tuyệt không xem nhẹ thân phận của cô. Ôi... đợi đến lúc về đến Hàng Châu, tôi sẽ nói bí mật của tôi cho cô nghe thì cô sẽ rõ hết thảy.

Chú thích:

(1) trích từ thành ngữ "điểm mắt cho rồng" (hoạ long điểm tình), là kỹ thuật làm nổi bật nét chính của bức tranh (hoặc bài viết) khiến cho nó phong phú, sinh động hơn. Tích rằng Trương Tang Do vẽ bốn con rồng nhưng không vẽ mắt, vì lo rằng nếu vẽ mắt thì rồng sẽ bay mất. Mọi người không tin. Nhưng khi Trương lấy bút điểm mắt cho một con rồng thì sấm sét nổi lên, bức vách lung lay và con rồng có mắt bay vút lên, ba con kia vẫn ở yên chỗ cũ.

(2) một món ăn nổi tiếng trên thực đơn trong các nhà hàng ở Tô Châu, do nhà thơ nổi tiếng Tô Đông Pha chế biến.

(3) tên cổ của loại trà "Bích Loa Xuân" nổi tiếng. Vì trà được hái vào dịp tiết Thanh Minh, tiết Cốc Vũ nên có tên gọi là “Bích La Xuân “ và được liệt vào là một trong những vật cống phẩm.

(4) chỉ Phan An đời Tấn, sau được người con gái dùng gọi người con trai tuấn tú mà mình ái mộ.

Người ta nói có qua có lại mới toại lòng nhau. Vui chơi thoả thích xong, khi đoàn người quay trở về, Mạc Thanh Hà cũng nhiệt tình mời huynh muội thiên sư đến Hàng Châu một chuyến. Lúc trước, khi vừa mới đến Hàng Châu, hai anh em này chỉ được những người ở các đạo quán nghênh tiếp một hồi rồi lại ngồi kiệu xe của Ngô phủ đi đến Tô Châu nên chưa hề được dạo chơi Tây Hồ, vì thế cả hai đều vui vẻ nhận lời đi ngay.

Dọc đường nhàn rỗi, Trương thiên sư và Mạc công công bèn ngồi trong khoang đánh cờ vây. Chớ thấy cờ tướng của Trương thiên sư kém cỏi mà lầm, cờ vây của y cao siêu vô cùng. Không biết đánh cờ vây, Dương Lăng nhìn một hồi cảm thấy nhàm chán bèn ra trước khoang ngắm nhìn phong cảnh một lát rồi trở về khoang mình.

Cao Văn Tâm đang ngồi một mình trong khoang đắm mình trong tâm sự, vừa thấy y trở về nàng liền vội đứng lên. Từ lúc dạo Thái Hồ trở về, hai người luôn cảm thấy không được tự nhiên khi ở chung một chỗ với nhau. Dương Lăng cười gượng gạo, nói: 

- Tôi ngồi lâu ở bên ngoài nên cảm thấy hơi mệt, định vào khoang trong nghỉ ngơi một lát.

Cao Văn Tâm vẫn luôn mang nghi vấn trong lòng, không biết rốt cuộc y có bí mật gì (phụ nữ tò mò LOL) mà đã có thể tiếp nhận Ngọc Nhi và Tuyết Nhi, lại có tình cảm với mình, thế mà lại khăng khăng không chịu tiếp nhận mình. Nàng rất muốn hỏi y ngay bây giờ, nhưng bản thân là con gái nên không tiện tỏ ra bức thiết quá mức. Thấy Dương Lăng vén rèm định vào trong, rốt cuộc nàng nhịn không được bèn mở miệng: 

- Lão gia...

Dương Lăng dừng bước, quay đầu lại hỏi: 

- Hử? Có chuyện gì vậy?

Mặt Cao Văn Tâm thoáng đỏ lên, nàng lắp bắp: 

- A... không có gì, chúng ta... chúng ta về thẳng Hàng Châu à?

Dương Lăng lắc đầu đáp: 

- Không, về đến Hàng Châu thì trời cũng khuya quá rồi. Chúng ta sẽ dừng lại giữa đường, đến Hải Ninh trọ lại một đêm, mai sẽ lại về Hàng Châu.

- Ồ..., 

Cao Văn Tâm nghe đêm nay không thể nghe được bí mật mà mình rất muốn biết không khỏi thất vọng hỏi: 

- Lão gia đến Hải Ninh có phải là vì muốn thưởng thức thủy triều Hải Ninh vang danh thiên hạ phải không?

Dương Lăng ngạc nhiên hỏi: 

- Hải Ninh có thuỷ triều đáng xem sao? Tôi chỉ có nghe nói đến thuỷ triều sông Tiền Đường vang danh thiên hạ thôi.

Khoé miệng Cao Văn Tâm hơi nhếch lên song nàng lại không dám cười nữa, chỉ nói khẽ: 

- Thuỷ triều Hải Ninh... chính là thuỷ triều sông Tiền Đường mà...

Dương Lăng hơi ngẩn ra, rồi cúi đầu ủ rũ: 

- Thôi đi! Lão gia tôi coi như là đã mất sạch thể diện trước mặt cô rồi. Thuỷ triều sông Tiền Đường không gọi là thuỷ triều sông Tiền Đường mà lại gọi là thủy triều Hải Ninh gì đó, thật là mất mặt.

Mặc dù bụng đầy tâm sự nhưng Cao Văn Tâm vẫn bị y trêu đến bật cười phì, nàng vội khoan thai giải thích: 

- Lão gia là người phương Bắc, lúc ở kinh sư cũng không rảnh nghe ngóng những chuyện đâu đâu này nên không biết cũng là thương, có gì mất mặt chứ? Có điều nên đi xem thủy triều sông Tiền Đường vào mười tám tháng tám, lúc ấy thủy triều mới tráng lệ; tuy bây giờ cũng có thủy triều nhưng kém hơn nhiều.

Dương Lăng đáp: 

- Tiện thể ngắm xem một chút cũng được rồi. Chủ yếu tôi đi Hải Ninh là để thăm viếng Mẫn đại nhân một phen. Ông ấy là thượng cấp cũ của tôi. Tôi vừa đến Giang Nam ông ấy đã đến thăm tôi, tôi không ghé thăm lại ông ta thì khó tránh có lỗi với cố nhân.

Nói đến đây, y hơi ngừng lại rồi dịu dàng nhìn Cao Văn Tâm nhẹ giọng bảo:

- Tôi đi ngủ một lúc đây, không cần kêu người hầu hạ. Nếu cô mệt rồi thì cũng nghỉ ngơi đi.

Đột nhiên Cao Văn Tâm nhớ đến một chuyện định kể cho Dương Lăng hay. Nhưng nghĩ lại chuyện này không có quan hệ gì với Dương Lăng và mình, hơn nữa một người con gái lại đi kể những chuyện này thực cũng khó mở miệng, thế là bèn gật nhẹ đầu. Đưa mắt tiễn Dương Lăng về phòng xong, bản thân nàng cũng thu vén y phục rồi nằm lên giường, mở mắt nhìn lên mui thuyền, không ngờ lại nhớ đến việc kỳ lạ nọ.

Hôm nay Mạc phu nhân trở về từ nha môn của Bố chánh sứ, dáng điệu và vẻ mặt hơi khác thường. Mặc dầu người thường không thể nhận thấy sự khác biệt nhưng Cao Văn Tâm lại nhìn ra nguyên do. Nàng thấy vị Mạc phu nhân đó hai má đỏ bừng, mày mềm như nước, dáng đi dịu dàng mềm mại, không khỏi cả kinh trong lòng.

Với sự hiểu biết y học về cơ thể con người, nàng biết rõ khi dáng đi và vẻ mặt của một người phụ nữ đột nhiên xuất hiện dị trạng như vậy chắc chắn là cô nàng vừa mới trải qua một cuộc mây mưa.

Mạc công công là người đã bị hoạn, hắn lại đã cùng Dương Lăng chèo thuyền dạo Thái Hồ. Mạc phu nhân đi một mình từ nha môn Bố chánh sứ về, mặt mày tràn trề lạc thú giống như mới vừa giao hoan với người khác, chẳng lẽ thị ta không giữ đạo làm vợ, lén chồng vụng trộm hay sao?

Cao Văn Tâm vắt tay lên trán ngẩn ngơ suy nghĩ một hồi, rồi mới thở dài u uẩn: "Bỏ đi! Tuy rằng việc này tổn hại lễ giáo nhưng đó chỉ là chuyện riêng nhà người ta. Mình muốn kể cho lão gia nghe cũng ngượng mở miệng. Chuyện mình còn chưa đủ lao tâm sao, còn quản chuyện đâu đâu của người ta làm gì chứ?"

"Chao ôi... lão gia rõ ràng cũng... cũng có tình ý với mình, vì sao không chịu tiếp nhận mình vậy? Bởi vì mình đang là nô tì ư? Không! Không phải! Y không phải là người như vậy. Y nói là có bí mật, rốt cuộc y có bí mật gì mà lại khiến y không chịu tiếp nhận mình nhỉ?"

Cao Văn Tâm nằm trên giường, tai nghe tiếng nước rì rào, sóng lòng cũng dâng trào theo. Suốt chặng đường dài nàng cứ trằn trọc băn khoăn suy nghĩ không ngừng đến vấn đề này, thuỷ chung khó lòng yên giấc.

. . .

Dương Lăng đang khoác hờ chiếc áo khoác dài đen màu mực đứng trong đình Quan Triều (trạm xem thủy triều) dưới gò Trấn Hải, trấn Diêm Quan, huyện Hải Ninh. Cao Văn Tâm duyên dáng đứng sau lưng y; Mạc Thanh Hà, Mạc phu nhân, huynh muội Trương thiên sư, Diêm vận sứ Mẫn đại nhân cùng Chủng thiên hộ trú đóng tại đây và mấy diêm thương lớn của địa phương cùng đứng bên cạnh.

Mẫn Văn Kiến đứng nghênh sóng, há miệng cười to: 

- Dương đại nhân! Thủy triều lớn ở Hải Ninh thời tháng tám cao đến mấy trượng, tiếng sóng như sấm rền, vô cùng hoành tráng, bây giờ ngài đến xem thì thủy triều không thể sánh bằng. Tuy nhiên hiếm khi đại nhân ghé thăm một chuyến nên thế nào ngài cũng phải xem một chút mới được.

Tuy rằng Mẫn Văn Kiến không hề có ý nghĩ bám vào quyền quý, nhưng giao tình hai người không nhạt. Hôm nay cố nhân đã làm quan lớn đến như vậy trong kinh sư lại đặc biệt đến đây thăm mình, trong lòng lão cảm thấy vinh hiển vui sướng cũng là thường tình, cho nên mặt mày rất là hớn hở.

Đến thăm Hải Ninh lần này, ngoài việc viếng thăm Mẫn huyện lệnh có ơn tri ngộ với mình ra, thật sự Dương Lăng còn có tính toán khác. Y đã phái người về kinh bẩm báo với Hoàng thượng về hành vi phạm pháp của Chỉ huy sứ Tư Tất Xuân của Long Sơn vệ và thuế quan trấn thủ Viên Hùng.

Thuở trước, lúc còn ở Kê Minh dịch y đã gặp Tất Xuân, biết rõ kẻ này tuyệt không phải là người dễ đối phó. Đặc biệt là đội thân binh bảo vệ gần hai trăm người của gã, ai nấy đều kiêu dũng thiện chiến và còn hết lòng trung thành với Tất Xuân. Về phần Viên Hùng, hắn đặt trạm thu thuế khắp nơi, dưới tay có một đám lưu manh trộm cướp, cũng không thể nào là kẻ bó tay chờ chết. Tội danh hai kẻ này một khi được xác lập thì sẽ là đại tội tử hình, cho nên không thể không đề phòng bọn chúng chó cùng rứt giậu.

Lúc Dương Lăng chưa rời kinh đã nghe Ngô Kiệt báo cáo ở vùng Giang Chiết từng có quan tướng phạm vào tội chết bèn liều mình dẫn thân quân giết quan tạo phản, cướp quân nhu khí giới trốn ra biển gia nhập hải tặc. Nếu như Hoàng đế hạ chỉ giao Dương Lăng bắt người, y cũng không biết tướng lĩnh vệ sở phụ cận có phải cùng một giuộc với Tất Xuân hay không, cho nên để không rò rỉ tin tức, đương nhiên y không thể dùng người của bọn họ.

Nếu chỉ mang ba trăm thân quân của y tấn công vào đại doanh có gần ba ngàn người của Tất Xuân, vạn nhất Tất Xuân cả gan cương quyết chống lại thì chắc chắn y không đàn áp nổi mà e rằng còn bị cắn trả. Cho nên lúc trước khi nghe Mẫn Văn Kiến nói nơi đây có đội “hộ diêm binh” (quân bảo vệ việc vận chuyển muối; đồng thời kiểm tra, giám sát việc buôn lậu muối) khoảng chừng hơn ba trăm người, sức chiến đấu so với lính vệ sở bình thường còn cao hơn một chút, Dương Lăng liền lưu ý ngay.

Y phái Liễu Bưu nghe ngóng, biết được còn có một Thiên hộ sở đồn trú nơi này. Nói là Thiên hộ, thật ra cũng chỉ có hơn năm trăm người, quân số thiếu mất một nửa; nhưng lúc nguy cấp y vẫn có thể xin thánh chỉ giành quân đoạt soái của nó, để Mẫn Văn Kiến nắm đội quân này trong tay, phối hợp với y bắt Tất Xuân và Viên Hùng.

Lần này đến đây, Dương Lăng mượn cớ duyệt binh, yêu cầu Mẫn Văn Kiến và Chủng thiên hộ điều toàn bộ ba trăm hộ diêm binh và năm trăm quan binh vệ sở đến bên sông. Y dự định sau khi xem thủy triều xong sẽ cho bọn họ diễn tập, xem thử sức chiến đấu của bọn họ như thế nào.

Dương Lăng có trách nhiệm đốc sát văn võ bá quan, lại là thống lĩnh thân quân thị vệ của Hoàng đế, nên dẫu rằng chưa xin thánh chỉ thì việc khảo sát chiến lực quân đội với quy mô nhỏ như vậy cũng không bị xem là vượt quá phép tắc.

Mạc công công bó ống tay áo đứng một bên, có phần không hào hứng gì. Lần này Dương Lăng đột nhiên thay đổi lộ trình, ghé Hải Ninh thăm viếng bạn bè mà không hề thông báo cho hắn biết trước nên trong lòng hắn ít nhiều có phần không vui; cộng thêm thủy triều tháng mười thua xa thủy triều tháng tám rất nhiều nên hắn cũng không có hứng thú để xem, vì thế hắn lui về phía sau tránh gió chứ không đứng ở phía trước.

Mấy diêm thương lớn đều nằm dưới sự cai quản của hắn, dĩ nhiên phải cùng đứng cạnh hắn, không ngừng chào hỏi Mạc gia này nọ. Mạc Thanh Hà cũng chỉ tiếp chuyện qua loa.

Người địa phương không có hứng thú mấy với thủy triều sớm của tháng mười. Nhưng mà lần này gần ngàn quan binh đang đứng thẳng tắp bên bờ sông chờ đợi kiểm binh. Đây đúng là cảnh tượng hiếm có, cho nên không ít người dân lẫn phú hộ trong trấn cũng chạy đến bờ sông tụ tập xem náo nhiệt. Trong chốc lát, khí thế ấy thực giống như lúc xem thủy triều tháng tám.

Gió mạnh dần lên, Mẫn Văn Kiến phấn khởi tinh thần, nói: 

- Đại nhân xem kìa, thủy triều đến rồi.

Dương Lăng nheo mắt nhìn ra xa, từ chân trời phương đông của dòng sông mênh mông mơ hồ vọng đến âm thanh dồn dập. Nơi cuối tầm mắt có một đường kẻ trắng, theo âm thanh rì rầm mỗi lúc một to, đường kẻ trắng hoá thành một dải lụa trắng vắt ngang sông, cuồn cuộn kéo tới gần. Những tiếng rầm rầm như sấm nổ vang lên liên miên không dứt.

Mẫn Văn Kiến căng họng át tiếng thủy triều trên sông, cả tiếng: 

- Dương đại nhân, Trương thiên sư! “Bảo Tháp Nhất Tuyến Triều”(5) ở Diêm Quan này hùng tráng lắm đó. Tiếc rằng hôm nay thủy triều hơi nhỏ, không đủ hùng tráng.

Lão nói hôm nay thủy triều hơi nhỏ, nhưng chỉ trong chốc lát nước sông đã dâng cao mãnh liệt. Trong khoảnh khắc, dải lụa sóng lớn màu trắng biến thành một bức tường nước sừng sững cao hơn mấy mét. Tiếng thủy triều như hàng vạn con ngựa tung vó phi nhanh, như sấm bên tai. Trông thấy cảnh tượng đặc sắc chưa bao giờ thấy qua này, Dương Lăng và Trương thiên sư đều vui vẻ hào hứng, khen không ngớt miệng.

Đỉnh triều đập vào đê, tung bọt sóng lên cao ngất. Đầu sóng trắng xoá như tuyết, tựa như núi tuyết non băng, khiến cho lòng người rúng động. Lúc triều sông vỗ vào trước đê, một tiếng sét gầm vang, đầu con sóng triều bất ngờ dựng thẳng, trong nháy mắt bụi nước ngập trời, ngọn gió mang chúng ào đến mọi người, đem đến một luồng không khí ẩm ướt, dễ chịu sảng khoái. Trương Phù Bảo thích thú chen đứng đằng trước thế là hứng trọn bụi nước, không khỏi nhếch nhác lui về phía sau khiến Dương Lăng và Trương thiên sư lớn tiếng cười to.

Trương Phù Bảo hậm hực hừm một tiếng, lấy ống tay áo của anh mình lau mặt, song lòng hứng thú xem thủy triều lại không hề giảm. Một khi sóng trước rút về, nó sẽ trở thành vật cản đối với sóng sau; từng cơn sóng triều va vào nhau, sóng trước bị ngăn, sóng sau lại bung lên, sóng này cao hơn sóng kia. Tuy không có sóng cả mạnh nhất làm rung động lòng người, nhưng cũng là những đỉnh sóng thẳng đứng, hùng dũng tung trào.

Dương Lăng thấy mặc dù sóng không cao lắm, nhưng hôm nay gió lớn thổi xuôi, luôn bắn những bụi nước li ti tới, y bèn cố ý đứng chếch phía trước Cao Văn Tâm, che chắn hơi nước cho nàng. Cao Văn Tâm nhận thấy tâm ý của y, trong lòng không khỏi cảm thấy ngọt ngào.

Triều dâng tuy nhanh, nhưng rút đi cũng chóng. Mấy người ở vùng khác như Dương Lăng chưa từng thấy thủy triều sông Tiền Đường nên xem còn chưa đã mắt, thủy triều đã bắt đầu có dấu hiệu rút đi.

Lúc này Trương Phù Bảo mới quay đầu cười nói: 

- Dương đại nhân! Nhớ lúc ở trấn Thượng Hải đại nhân từng nói Bạch Nương Tử hô phong hoán vũ, nước ngập Kim Sơn. Khi ấy tiểu nữ vẫn không tưởng tượng ra cảnh tượng đó phải hùng tráng như thế nào. Hôm nay được thấy thủy triều như thế này, mới xem như trong lòng tiểu nữ có chút hình dung.

Dương Lăng nghe xong cười lớn: 

- Nào chỉ vậy, nào chỉ vậy! Sóng ấy có thể ngập cả chùa Kim Sơn, đỉnh sóng há chẳng phải còn cao hơn núi ư? Cô hãy tưởng tượng trên đầu ngọn sóng còn có rất nhiều binh tôm tướng cá, con thì cầm giáo, con thì cầm chùy, đứng trên đầu ngọn sóng...

Y vừa chỉ vào nước triều sông vừa cười nói. Đang nói hăng say, nụ cười trên khuôn mặt y bỗng dưng cứng lại. Y kinh ngạc chỉ tay về phía xa hỏi: 

- Đó là gì vậy?

Nhìn theo hướng ngón tay y, mọi người cùng thấy phía cuối dòng thủy triều liên miên đang lờ mờ xuất hiện vài chấm đen. Trương Phù Bảo kinh ngạc cười nói: 

- Lạ quá, lạ quá! Chẳng lẽ thật sự có binh tôm tướng cá đến sao?

Nhờ thủy triều và gió lớn, những chấm đen đó di chuyển rất nhanh, trong chốc lát đã thấy rõ điểm đen to nhất là một chiếc thuyền buồm. Có cảm giác chiếc thuyền nọ hơi vuông, trên thuyền căng cánh buồm đen rất to.

Mạc Thanh Hà trông thấy thất kinh, vừa sợ vừa giận kêu lên: 

- Thật đáng giận! Cờ Bát Phan Đại Bồ Tát, đó là thuyền biển của bọn người Oa, mau hộ tống đại nhân rời khỏi đây!

Lúc này Mẫn Văn Kiến cũng đã nhìn rõ ký hiệu trên thuyền, cả kinh kêu to: 

- Quả nhiên là giặc Oa đến. Bà mẹ bọn nó, lần này lại có nhiều giặc đến như vậy! Mau lên, bảo hộ khâm sai đại nhân và thiên sư rời khỏi nơi này!

Bọn họ đứng trên cao nên nhìn được xa, những người dân đứng trên bờ đê dưới lầu chỉ thấy có hơn hai mươi chiếc thuyền từ xa xa đi tới, họ chưa nhìn rõ ký hiệu trên thuyền nên vẫn không vội không hoảng mà vẫn đứng bên bờ sông.

Dương Lăng thấy vậy, nào chịu tự mình bỏ chạy. Huống chi hôm nay y vừa khéo đã điều cả quan binh ty Diêm vận lẫn vệ sở đến để duyệt binh, mọi người đều cầm sẵn vũ khí. Mặc dù trong ba trăm thân quân của mình có hai trăm người đã theo thuyền quan về Hàng Châu, nhưng tùy thân cũng còn một trăm quân tinh nhuệ, sức chiến đấu giờ đây gần sánh với ngàn người. Đối phương có hơn hai mươi chiếc thuyền, lớn có, nhỏ có, lớn có thể chứa ba trăm người, nhỏ thì cũng bốn năm chục, áng chừng nhân số tổng cộng cũng không quá nhiều, chưa hẳn đã không thể đánh một trận.

Dương Lăng lập tức quát lớn: 

- Không được hoảng loạn! Tất cả dân chúng và diêm thương trong đình lui xuống. Mẫn đại nhân, Chủng thiên hộ, lập tức ước thúc toàn quân, lập trận chặn địch. Trịnh Bách hộ, lập tức sơ tán bá tánh trên bờ.

Vị Chủng thiên hộ này cả người mặc khôi giáp sáng choang, vốn hôm nay gã định biểu lộ tài năng trước mặt đại nhân, nào ngờ lại gặp phải chuyện này. Trước kia chỉ có ba đến năm trăm tên giặc Oa đến bờ sông cướp bóc đã xem như rất nhiều giặc rồi. Lần này xem ra lại có cả ngàn tên giặc cướp trở lên, khiến gã sợ đến xanh mặt nhưng lại không dám tỏ ra sợ hãi, gã lật đật dạ một tiếng rồi xuống đình chỉnh đốn và tập hợp đội ngũ.

Mẫn Văn Kiến là tên lính điên do Tổng binh Đại Đồng - lão Đỗ điên - một tay nặn ra, thấy đánh nhau là hưng phấn khôn thôi. Khi xưa lão dám đơn thương độc mã đánh vào trong quân doanh Thát Đát, chém chết thân vương gia của bọn họ, thì làm sao thèm để ý đến mấy tên lùn này.

Lão cười ha hả: 

- Mụ nội nó! Đã nói phải diễn võ cho khâm sai đại nhân xem, giờ đã biến thành động đao động thương thật rồi. Mỗ lập tức xuống dưới. Dương đại nhân hãy xem oai phong của đại đao ta đây!

Vừa nói lão vừa chạy thình thịch xuống lầu. Mạc Thanh Hà mặt mày tái mét, miệng méo xệch: 

- Diệt trừ giặc Oa không phải là trách nhiệm của đại nhân. Đại nhân nên mau lánh khỏi đây một chút đi. Nếu đại nhân có mệnh hệ gì, ti chức vạn lần không đảm đương nổi đâu.

Dương Lăng liếc sang Cao Văn Tâm, bảo: 

- Văn Tâm! Cô hãy cùng Mạc phu nhân và Trương tiểu thư mau chạy về trấn trước. Nếu như thủ không được, chúng ta sẽ lập tức dùng khoái mã rời khỏi đây.

Cao Văn Tâm ưỡn ngực đáp: 

- Lão gia ở đâu, tiểu tỳ ở đó. Tiểu tỳ không đi!

Dương Lăng giậm chân quát: 

- Làm chuyện vô nghĩa, chỉ là ngu xuẩn thôi! Cô ở lại thì có tác dụng gì? Cô xông trận giết giặc được sao?

Cao Văn Tâm hiên ngang đáp: 

- Đại nhân là nho sĩ, chẳng lẽ xông trận giết giặc được sao? Người lâm trận không lui là vì muốn trấn định lòng quân. Còn tiểu tỳ là nữ nhân, lâm trận không lui, là vì muốn cùng... cùng đại nhân đồng sanh cộng tử!

Dương Lăng nghe thế sững người, nhất thời không đáp lại được. Mặc dù mặt hoa tái nhợt nhưng Trương Phù Bảo nghe Cao Văn Tâm nói như vậy, lại thấy tuy anh mình mặt mày căng thẳng nhưng cũng không có ý định đào tẩu, thế là cô bèn nổi dũng khí: 

- Đại nhân không đi, ta cũng không đi. Trấn này có rất nhiều tín đồ của Thiên Sư đạo ta. Đêm qua khi chúng ta đến trấn, bọn họ đã quỳ lễ cầu phước với Thiên sư, vô cùng tôn kính. Nếu như hôm nay chúng ta lùi bước thì còn mặt mũi gặp lại bọn họ sao?

Lúc này, theo tiếng hò hét kêu gọi của nha sai Nội xưởng, dân chúng bên bờ sông đã biết xảy ra chuyện gì nên bắt đầu dìu già dắt trẻ, kêu cha gọi mẹ, vừa la vừa khóc tranh nhau xuống đê, chạy thục mạng về trấn.

Chủng thiên hộ triệu tập binh sĩ của gã lại, tập hợp phía bên phải bờ đê. Mẫn Văn Kiến vẫn mặc trang phục quan văn (xem ra lão này thích mặc đồ quan văn đánh giặc), vác cây đại đao vốn là chiêu bài của lão, dẫn một đám diêm binh ăn mặc lộn xộn đứng mé trái phía trước đê.

Những chiếc thuyền của người Oa nương theo nước sông đi thẳng vào bờ. Bọn chúng vừa hò hét vừa nhảy xuống thuyền, tụm ba tụm năm thành từng nhóm lao lên bờ. Dương Lăng thấy trang phục của bọn giặc Oa này hết sức hỗn tạp, có tên mặc Oa phục, có tên mặc Hán phục, có tên mặc áo bào văn sĩ, nhưng lại nhét vạt áo trong thắt lưng. Thậm chí còn có mấy tên mặc cả đồ phụ nữ, đủ thấy cuộc sống lăn lộn trên biển của đám giặc Oa này cũng chẳng tốt đẹp gì.

Mặc dù áo quần không đồng bộ, vũ khí trong tay cũng đủ loại mẫu mã, nhưng những tên hải tặc tạp nham này ai nấy đều hung hãn dũng mãnh, hành động cũng nhanh nhẹn vô cùng.

Nha sai nội xưởng chỉ có trăm người, trong đó có hai mươi cung tiễn thủ, toàn bộ đều đang đứng dưới đình Quan Triều không dám rời khỏi. Dù sao toàn bộ những nhân vật quan trọng nhất đều đang ở trên lầu, nếu lỡ có sơ suất gì thì bọn họ đều sẽ rơi đầu. Bây giờ đang có quân đội của vệ sở ở đây, bọn họ vui lòng lui về vị trí hậu bị, chỉ bảo hộ đại nhân.

Không ngờ giặc Oa mới vừa xông lên bờ, quan binh vệ sở đã có người hét lên một tiếng, không xông lên mà lại quay đít bỏ chạy.

Đứng trên đình thấy thế, lỗ mũi Dương Lăng thiếu chút nữa xịt khói. Lúc này số giặc Oa vừa đổ bộ không đông, chỉ cần một trận loạn tiễn chăm sóc hoặc giả trực tiếp đưa quân tập kích phủ đầu, đều có thể chiếm được tiên cơ. Chút đạo lý hiển nhiên này cũng không hiểu, đây là thứ quan binh gì vậy?

Không nén được giận dữ, Dương Lăng đập tay mạnh xuống thành lan can, lạnh lùng quát xuống đình: 

- Kẻ nào lâm trận bỏ chạy, giết không tha!

- Dạ! Kẻ nào lâm trận bỏ chạy, giết không tha!

Trịnh bách hộ vung tay, mấy tay nha sai lập tức giương cung lắp tên, bắn thẳng vào phía tên quan binh vệ sở tranh chạy trước tiên. Loại tên do những nha sai này dùng đều là Nhiếp Hồn Hưởng tiễn (tiếng tên khiếp hồn), là loại tên mà Dương Lăng kiếm được từ chổ Cẩm Y vệ lúc y huấn luyện thân quân. Khi tên được bắn ra sẽ phát nên tiếng rít sắc bén, có hiệu quả chấn nhiếp hồn vía người ta.

Mấy cung tiễn thủ này đều là thần tiễn thủ trăm người chọn một, tên bay người ngã, khiến đám quan binh vệ sở đang chạy theo tên nọ đều sững sờ khiếp sợ. Đến khi nghe nha sai Nội xưởng giống như hung thần ác sát quát tháo bọn họ: 

- Kẻ nào lâm trận bỏ chạy, giết chết không luận tội!

Cả bọn đành phải sợ sệt quay trở về.

Lúc này Mẫn Văn Kiến đã dẫn diêm binh xông lên tiền tuyến. Diêm binh của lão không có cung tên, chỉ có thể giao chiến trực diện với giặc Oa. Giặc Oa lập thành nhóm hai ba tên phối hợp rất ăn ý: trong lúc vờn quanh, chúng thường xuyên thừa lúc đối phương không đề phòng cả bọn cùng đột nhiên ra tay tấn công mãnh liệt.

May mà những diêm binh này chuyên hộ tống diêm đội, trèo non lội suối, thường hay chiến đấu cùng giặc sông cướp núi nên cũng giỏi quần công. Mặc dù sát khí tàn bạo hơi kém đối phương, nhưng có Diêm vận sứ Mẫn đại nhân vung cây đại khảm đao nặng mấy chục cân xông lên phía trước như một con mãnh hổ nên nhuệ khí cũng dâng cao vô cùng, do đó bọn họ vẫn có thể chống đỡ ngang ngửa với giặc, không hề lùi bước.

Thấy những quan binh vệ sở mặc dù đã quay trở lại nhưng vẫn co cụm sợ sệt, không dám tiến lên phía trước, Dương Lăng giận sôi máu. Lúc này lại không phải là lúc chỉnh đốn quân đội, y chỉ đành hô gọi Trịnh bách hộ: 

- Trịnh bách hộ! Dẫn người của ngươi xông lên cho ta, bảo Chủng thiên hộ bắn tên yểm trợ!

Trịnh bách hộ nghe thế vội thưa: 

- Đại nhân! Chức trách của ti chức là bảo vệ đại nhân, trước mắt bên cạnh đại nhân chỉ có hơn trăm thân binh này, ti chức không dám rời xa!

Dương Lăng cả giận, gắt: 

- Nếu ngươi không đi, ta sẽ tự đi!

Hết cách, Trịnh bách hộ đành hậm hực giậm chân, giữ hai mươi cung tiễn thủ ở lại bảo vệ đình Quan Triều, còn bản thân bạt đao dẫn tám mươi tay lính khoẻ xông lên trước.

Vị Chủng thiên hộ đang đứng đực ở đó, nay nghe Dương Lăng truyền lệnh bắn tên mới như từ trong mơ bừng tỉnh lại, ra lệnh cho quan binh lập tức bắn tên.

Bọn họ bày trận phía rìa cùng bờ bên phải. Chỗ đó gần bờ có mấy tảng đá to, nước sông lại khá thấp nên chiến thuyền của người Oa không cập bến ở chỗ bọn họ. Hơn nữa bọn họ không hề chủ động công kích nên đám giặc Oa xông lên bờ chỉ tấn công diêm binh của Mẫn Văn Kiến và thân quân của Dương Lăng, tạm thời còn chưa "chiếu cố" đến bọn lính này.

Vì vậy bọn quan binh vệ sở dư dả thời gian chuẩn bị cung tên. Chỉ thấy mấy ông lính này dù đang căng thẳng song vẫn ung dung giương cung, lắp tên, kéo dây, bắn tên. Một tiếng "tách" vang lên, tên bắn ra hàng loạt, một trận mưa tên ùn ùn kéo đến bắn vào đám giặc Oa đang ào ào nhảy khỏi thuyền.

Ở trong đình, Dương Lăng thấy vậy cười to. Trận mưa tên này thể nào cũng có thể bắn chết và bị thương khoảng trăm tên giặc Oa, có thể gọi là "Cập Thời Tiễn Vũ"(6) rồi.

Cơn mưa tên đó bắn khắp các thuyền, ít nhất có một nửa bắn trúng người giặc Oa. Nhưng khi tên nhọn vừa chạm vào người chúng thì lại trượt xuống quần áo, có mấy mũi bắn trúng nón rộng vành của người Oa, cắm đong đưa trên đó mà chẳng hề gây thương tổn gì tới người. Phóng mắt nhìn khắp trận tuyến, dường như trận mưa tên này không làm cho tên giặc Oa nào bị thương cả.

Dương Lăng và Trương thiên sư đứng trên đình trông thấy mà sững sờ. Bọn họ há hốc mồm kinh ngạc nhìn cảnh tượng kỳ lạ này. Mãi lâu sau hai người mới đưa mắt nhìn nhau, sau đó đồng loạt nhảy dựng lên như thể bị lửa đốt mông, la lớn: 

- Sao lại như vậy được! Chẳng lẽ bọn người Oa đều đao thương bất nhập sao?

Chú thích:

(5) do thủy triều tại đoạn đê biển phía Đông Nam trấn Diêm Quan huyện Hải Ninh là điểm đẹp nhất, thủy triều giăng thành một đường kẻ đặc sắc, nên mới có tiếng khen là 'Hải Ninh Bảo Tháp Nhất Tuyến Triều'.

(6) Trong tác phẩm Thuỷ Hử, Tống Giang có biệt hiệu là Cập Thời Vũ (mưa thuận, hay mưa đúng lúc). Ở đây tác giả mượn chữ để mô tả trận mưa tên đúng lúc.

CHƯƠNG 130: Đại Chiến Ven Sông Tiền Đường

Trận mưa tên của vệ quân không những hoàn toàn không hề có lực sát thương chút xíu nào mà ngược lại còn kích thích hung tính của giặc Oa[1] bộc phát. Hơn hai chục tên giặc Oa hò hét xông vào đám quan binh vệ sở[2]. Cầm đầu là một tên giặc Oa có thân hình khá thấp nhưng sức bật nhảy lại vô cùng kinh người, trên bãi sông cát lún mà gã vẫn nhảy nhót như bay.

Gã cầm trên tay một thanh Oa Đao[3] dài, đơn thương độc mã xông vào giữa đám quan binh kia, hống to một tiếng rồi bỗng nhảy bật lên, ánh đao như nước chảy bổ thẳng xuống. Đối mặt gã là một tên quan binh cầm thương, nhưng tên này không giơ thương lên để đâm, cũng không hoành thương để đỡ, mắt vừa thấy tên người Oa[4] đang xông đến này vô cùng hung hãn, hắn đã hét to một tiếng rồi vứt thương quay người tháo chạy.

Nhát đao của tên giặc Oa kia chém thẳng xuống từ vai đến lưng, bổ chéo tên binh sĩ muốn tháo chạy kia thành hai mảnh. Tiếp đó gã lại giống như một con ếch, vừa nhảy vừa tung người tả xung hữu đột giữa đội ngũ vệ quân, vung đao nhá trên phạt dưới, nhất thời chém giết làm trận tuyến của đám quan binh nhát gan kia rối loạn cả lên.

Lúc này đám giặc Oa cầm các loại vũ khí xếp thành một hàng dài rồng rắn từ phía sau cũng xông đến. Chủng Thiên tổng đứng ở phía sau vung đao quát lớn: 

- Xông lên! 

Thế nhưng khí thế đám quan binh đã bị đoạt mất. Bọn chúng hoàn toàn không còn ý chí chiến đấu, vừa thấy có người bị giết chết thì nhất tề hét to, đồng loạt quay người bỏ chạy về trấn, cuốn Chủng Thiên Tổng và mấy tên thân binh lùi về phía sau một khoảng.

Đám diêm binh ở phía kia chẳng qua chỉ ba trăm người, nhưng cũng chiến đấu ngang sức ngang tài với đám giặc Oa có cùng quân số. Còn năm trăm quân chính quy ở bên này chỉ phải đụng độ với hai mươi tên giặc nhưng chỉ vừa mới giao chiến với địch một hiệp, chỉ bị giết một tên lính thì cả bọn đã tháo chạy! Trong lòng Dương Lăng – người hoàn toàn không hiểu gì về quân đội Giang Nam - chỉ cảm thấy phẫn nộ, kinh ngạc đến cực điểm: “Sao có thể như vậy? Năm trăm người chiến đấu với hai mươi người thôi, dù đè cũng đè bọn chúng đến chết, mà chỉ giao phong một hiệp thì toàn quân đã tan tác tháo lui?”

Huyệt Thái Dương của Dương Lăng giật thình thịch, gân xanh trên trán cũng nổi lên, lúc này lòng hận thù với giặc Oa cũng không bằng sự phẫn nộ vì người của mình chẳng có chí khí. Dương Lăng quay người định xông xuống đình, Mạc Thanh Hà nhanh tay kéo y lại, vội vàng cản: 

- Đại nhân! Quân tâm của vệ quân Giang Nam luôn rời rạc mà người Oa lại hung ác tàn bạo, cho nên mỗi khi gặp địch, thường thường vừa nhìn thấy địch thì họ đã sợ, không chiến đấu mà chỉ tháo chạy. Bây giờ vệ quân đã tháo lui, hoàn toàn không kịp chỉnh đốn đội ngũ, đại nhân tuyệt đối không được xông lên phía trước, nếu như ngài có mệnh hệ gì thì chúng tôi thật sự đi đời.

Dương Lăng nghe vậy thì đầu óc tỉnh táo trở lại, nhớ tới những lời mình giảng giải với chúng tướng khi mình dẫn quân luyện tập trong núi. Bây giờ bản thân mình đã làm chủ soái, thủ ở đây chỉ huy còn có tác dụng hơn hẳn việc làm một tên sĩ tốt xung phong đi đầu giết địch. Hơn nữa nếu như quả thật bản thân mình bị giết chết thì chí ít thân binh mà mình dắt đến cũng sẽ không còn tiếp tục tử thủ không lùi nữa.

Nghĩ đến đây Dương Lăng dừng bước lại, lao lên phía trước đình quát đám sai nha đang lắp tên vào cung sẵn sàng đợi địch ở phía dưới: 

- Tất cả các ngươi lên đây cho ta!

Ở phía kia, hơn hai chục tên giặc Oa đang đuổi theo năm trăm tên vệ binh giống như thủy triều lên. Nhìn thân thủ của bọn chúng thì cũng chỉ có tên giặc Oa đánh tiên phong lúc nãy là võ nghệ cao cường, còn bọn ở phía sau đều bình thường, nhưng đám vệ quân sợ vỡ mật đều có ý nghĩ để người khác chịu chết còn mình thì tháo chạy. Rõ ràng là bọn lính chỉ cần lấy hết dũng khí quay lại chiến đấu thì đủ để lấy ưu thế số đông tiêu diệt đám giặc Oa này, nhưng bọn họ chỉ biết ôm đầu tháo chạy.

Làm cho Dương Lăng hơi ngạc nhiên là Chủng Thiên tổng thoạt nhìn có vẻ nho nhã kia lại không thoái lui. Gần hai chục tên thân quân do gã thống lĩnh bị quan binh quân mình xông vào làm rối loạn đội hình nên bất ngờ không kịp đề phòng bị bọn giặc Oa đuổi đến chém chết vài người. Nhưng tiếp đó gã lại vung đao dẫn quân xông lên.

Dương Lăng thấy vậy thần sắc không khỏi lộ ra vẻ vui mừng: Còn may, tuy rằng đám binh lính này không có chí khí, vị Chủng Thiên tổng kia cũng không biết chỉ huy tác chiến, nhưng ít ra còn biết tận trung làm tròn chức trách. 

Do Dương Lăng được cử thẳng một lèo lên chức Tham tướng, hoàn toàn không phải từ cơ sở thăng tiến dần dần mà lên, nên y làm sao biết được vị Thiên tổng đáng thương này quyết chiến không lùi, nguyên nhân thực sự không phải là muốn làm tròn trách nhiệm gì, mà là bởi vì Dương Lăng – quan khâm sai - còn tọa trấn ở đây.

Quan binh của vệ sở vốn có trách nhiệm giữ đất, nếu như lâm trận tháo chạy thì còn có thể nói dối bên trên rằng thế địch quá mạnh, không thể không lùi. Nhưng hôm nay lại có một vị khâm sai đến đây, hơn nữa vị khâm sai này lại thủ ở phía trước không đi; nếu như Chủng thiên tổng bỏ quan khâm sai lại mà tháo chạy thì chắc chắn gã phải bị chém đầu cách chức.

Lùi cũng chết, không lùi cũng chết (trong lòng Chủng Thiên tổng vốn không cho rằng mình là đối thủ của đám giặc Oa hung tàn này), nhưng ít ra không lùi thì còn được tiếng tốt, người nhà cũng không bị liên lụy. Bởi vì vậy nên thần sắc Chủng thiên Tổng rất bi phẫn, gã vừa chửi thầm tám đời tổ tông của Dương Lăng trong bụng, vừa vung đao liều mạng với đám quỷ tử[6].

Còn nguyên nhân mà thân binh của gã cũng không lùi thì lại cũng giống như của gã. Theo luật pháp Đại Minh, nếu như tướng lĩnh chiến đấu hy sinh mà thân binh không việc gì thì tên thân binh đó cũng bị chặt đầu. Cho nên hai chục tên thân binh này cũng vừa chửi thầm tám đời tổ tông của Chủng thiên tổng vừa liều chết kháng cự.

Lúc nãy năm trăm quân bị hai chục tên giặc Oa lao vào đánh cho tan tác phải tháo chạy thục mạng, còn bây giờ hai chục chiến đấu với hai chục, trong lúc nóng lòng liều mạng, bọn họ lại có thể địch được với đám giặc Oa kia.

Dương Lăng thấy vậy trong lòng cũng hơi yên tâm, đợi hai chục tên sai nha lên trên đình, Dương Lăng chỉ về phia trước, hạ lệnh: 

- Muốn bắt giặc, trước hết phải bắt tướng! Các người đừng có hoảng, nhìn thật kỹ cho ta, chọn đám người Oa cầm cờ, cầm quạt mà bắn cho ta.

Dương Lăng đứng ở trên cao, chỉ trong chốc lát y đã phát hiện đám giặc Oa lập thành từng nhóm ba hay năm người xông vào đội ngũ của đám Diêm binh chém giết, thoạt nhìn có vẻ hỗn loạn không ra chương pháp nhưng thực ra đằng trước luôn có một người cầm cờ có hình dáng kỳ quặc hoặc một người một tay cầm đao một tay cầm quạt. Chỉ cần bọn chúng vung cờ hoặc quạt lên, đám tiểu đội người Oa đều nhất tề hét lớn, thanh thế kinh người đồng thời múa tít vũ khí tấn công, đến lúc hơi mệt thì cùng chuyển sang đánh cầm chừng, vờn quanh thủ thế đợi hồi phục sức lực.

Đám sai nha nghe lệnh tiến lên phía trước đình, chuyên chọn những người có vẻ là thủ lĩnh của người Oa để hạ thủ. Ám tiễn của bọn chúng vừa chuẩn vừa độc, đám tiểu đầu lĩnh của giặc đang lớn tiếng hò hét vừa giết người vừa chỉ huy, thường thường không kịp đề phòng thì đã bị một mũi tên bắn trúng. Vốn tin pháp thuật, lúc nãy Trương Thiên Sư thấy cảnh đám người Oa bị trúng tên nhưng không hề bị thương tích gì thì kinh sợ vô kể. Bây giờ lại thấy đám người Oa cũng chỉ là người trần mắt thịt, cũng có thể bị giết chết như người thường, Thiên sư mới thở phào. 

Lúc nãy Dương Lăng cũng giật mình sợ hãi, nhưng trong lòng y hoàn toàn không tin đám người Oa này biết thuật đao thương bất nhập gì. Nếu như bọn chúng thật sự biết loại công phu này thì hà tất còn phải mưu sinh trên biển nữa? Bọn chúng sớm đã có thể đánh thốc một mạch chiếm cả thiên hạ rồi.

Lúc này thấy đám thân quân của mình quả nhiên từng phát tên đoạt mạng bọn chúng, Dương Lăng càng tin vào phán đoán của mình. Chỉ là tại sao những phát tên của quan binh vệ sở lại không giết được bọn chúng thì y vẫn không thể hiểu được, thế nhưng lúc này cũng chưa có thể điều nghiên gì được.

Đầu lĩnh của đám giặc Oa này là một võ sĩ Nhật Bản sa sút tên Phì Tiền Thọ và một tên cướp biển Trung Quốc tên Trần Đông.

Đám giặc Oa này mỗi khi đến dịp xuân thu lại hóa thân thành hải tặc đến duyên hải cướp bóc, các mùa khác thì mua hàng từ những thương nhân phạm pháp Đại Minh vận chuyển về các vùng như Nhật Bản, Lã Tống[7]để kiếm chác những món lời lớn.

Gần một năm nay, chiến tranh tại đất Nhật Bản ngày càng kịch liệt, những lãnh chúa cần gấp một lượng hàng hóa và tiền bạc lớn để ổn định địa bàn của mình. Nhưng kể từ khi tướng quân Mặc Phủ Túc Lợi không còn xưng thần với Đại Minh, Đại Minh đã không còn khám hợp giao dịch[8] với Nhật Bản nữa. Các lãnh chúa, tướng quân bèn chỉ thị tay chân tham gia buôn lậu và làm hải tặc, cho nên bọn hải tặc thật sự đã bị giành mất mối làm ăn, khiến cho việc sinh nhai của bọn chúng ngày càng sa sút. Do vậy hai cánh hải tặc này bèn sát nhập với nhau để tăng cường lực lượng.

Kỹ thuật chế tạo thuyền chiến của bọn chúng vô cùng lạc hậu. Những chiếc thuyền đó đều dùng gỗ lớn đẽo thành hình vuông, khi đóng lại với nhau thì không dùng đinh sắt mà dùng các miếng sắt, không dùng các sợi đay và dầu trẩu để vá mà dùng rơm cỏ để chặn các khe hở, hoàn toàn không thể chống cự được thuyền lớn của quân Minh. Đặc biệt là chỉ cần thuyền Phúc[9] hay thuyền Quảng[10] tông nhẹ vào thì thuyền bè của bọn chúng sẽ vỡ tan như xác pháo. Không có ưu thế ở trên biển, bọn chúng chỉ biết lợi dụng đường duyên hải rộng lớn của Đại Minh để đi lại khắp nơi, lên bờ cướp giật.

Đây là chuyến ăn hàng lớn đầu tiên sau khi hai cánh đạo khấu này sát nhập. Vốn chúng nghĩ rằng lợi dụng thủy triều tấn công bất ngờ thì có thể cướp sạch Hải Ninh, không ngờ thuyền vừa mới cập bờ thì phát hiện quân Minh đã sẵn sàng chờ địch. Phì Tiền Hải và Trần Đông cũng thầm thất kinh, cho rằng âm mưu của mình đã bị lộ nên dừng thuyền chiến của hai người lại ở phía sau cùng, trước sau không dám dốc toàn bộ quân binh vào trận chiến để đề phòng bị trúng mai phục của quân Minh.

Hai người đứng trên đầu thuyền quan chiến, nhận thấy quân số của quân Minh trên bờ không nhiều, cách ăn mặc cũng không phải là quân đội chính quy, trong đám binh lính ăn mặc giống như Diêm binh còn có một người múa may một thanh đao lớn. Đại đao trên tay gã giống như cối xay gió, chỉ cần bị gã áp sát vào thì lập tức đao qua người chết, giống như hổ giữa bầy dê, tới đâu quét sạch giặc tới đó.

Phía trước Quan Triều Lầu có một nhóm quân binh áo xanh mũ nhỏ, toàn bộ dùng phác đao (đao thân dài hẹp bản, chuôi hơi dài, sử dụng bằng hai tay). Đám binh lính này tuy ít người nhưng ai ai cũng kiêu dũng thiện chiến, hơn nữa cả đội ngũ xếp thành một hình tam giác nhọn, giống như một mũi tên cắm thẳng về phía trước. Phương thức chia thành từng nhóm năm ba người quấy nhiễu, phá hoại đội hình địch mà bọn giặc Oa thường dùng hoàn toàn không còn tác dụng khi đối kháng với đội quân này. Thỉnh thoảng binh lính ở phía bên trong tam giác lại thò ra một khẩu hỏa khí nòng ngắn để giết địch, loại hỏa khí này không phải là thứ hỏa khí mà binh lính vệ sở duyên hải được trang bị.

Binh khí chủ yếu của giặc Oa là đao và cung, thỉnh thoảng cũng có vài hỏa khí tầm thường thô sơ. Nhưng đám hải tặc này tương đối nghèo khó. Trên biển ẩm ướt, bảo dưỡng cung tên không dễ, hơn nữa độ chính xác và lực sát thương của các mũi tên thô sơ cũng không cao, mà gỗ và đầu mũi tên của loại tên thượng hạng cũng tương đối đắt đỏ, cho nên bọn này cũng không được trang bị nhiều cung tên. Nhưng trường đao của bọn chúng lại vô cùng lợi hại. Trường đao Nhật Bản mà bọn giặc Oa sử dụng dài khoảng một mét bốn, gần như là dài gần bằng chiều cao của bọn người lùn. Chiều dài và trọng lượng của loại đao này gần như gấp đôi bội đao mà quân Minh thường dùng, hơn nữa còn có thể dùng hai tay để sử dụng. Đơn đao của quân Minh chỉ có thể dùng một tay sử dụng, nên sức mạnh, tốc độ và độ dài đều thua xa hẳn. Hơn nữa đao Nhật bản được chế tạo bằng kỹ thuật bọc thép của Đường đao[11], còn quân Minh thì do giá của đao bọc thép đắt đỏ, ngoại trừ sĩ quan ra thì đao được trang bị cho binh lính chỉ có phần lưỡi được bọc thép mà thôi. Khi thực lực của hai bên ngang bằng thì dù chưa đánh cũng có thể biết được ngay ai thắng ai thua.

Tuy nhiên, hôm nay bọn chúng không may gặp phải thân binh của Dương Lăng đều sử dụng phác đao chuôi dài, bọc thép toàn bộ. Phác đao dài một mét ba, hầu như không ngắn hơn đao của bọn chúng, hơn nữa người dùng đao đều là quân lính tinh nhuệ của kinh thành trải qua huấn luyện của cao thủ dùng đao từ Thiếu Lâm Tự và Cẩm Y vệ.

Đám sai nha này hoàn toàn không thèm để ý đến sự khiêu khích dụ dỗ của bọn giặc Oa, nhiệm vụ của bọn chúng là bảo vệ Dương Lăng cho nên tuyệt đối không thể phân khai. Trận hình do tám mươi người xếp thành giống như một mũi tên nhọn, tám mươi thanh đao lúc lên lúc xuống, đao trận di chuyển không ngừng, xông xáo dọc ngang giống như một chiếc máy xay thịt trên bãi cát trước Quan Triều đình, chỉ cần lại gần là bị loạn đao chém chết. Có tên giặc Oa cầm trường đao định lấy dài để chống ngắn, nhưng còn chưa kịp lại gần, một tên sai nha ở phía trong đội hình đã rút súng ngắn bắn cho hắn “nở hoa khắp mặt”. Đám sai nha này mỗi khi di chuyển một vòng thì phía trong lại biến thành phía ngoài, vòng ngoài lại biến thành vòng trong. Sai nha ở phía trong thu đao đổi súng, vừa hồi phục thể lực vừa nhồi đạn dược sử dụng hỏa khí. Chính vì vậy bọn giặc Oa vốn chỉ được trang bị rất ít cung tên lập tức bị biến thành giống như quân Minh vệ sở mà trước đây bọn chúng từng đồ sát, hoàn toàn ở hẳn vào thế chịu đòn. Cho dù bọn hải tặc vốn dũng mãnh không sợ chết nhưng cũng không khỏi nảy ý định thoái lui. 

Lúc này hai chục tên Thần xạ thủ bên cạnh Dương Lăng cũng phát huy hết mức tác dụng của những tay bắn tỉa. Bọn chúng vững vàng đứng ở nóc đình chỉ chú ý quan sát những tên giống như thủ lĩnh của giặc Oa, ngắm thật kỹ rồi mới bắn một phát tên. Bị mất thủ lĩnh, không chỉ chiến pháp của bọn giặc Oa hỗn loạn mà sự trấn áp về mặt tâm lý còn hơn hẳn sự sợ hãi với cái chết. Không đợi đại thủ lĩnh hạ lệnh, bọn chúng đã dần dần bắt đầu dồn dập thoái lui.

Tính đa nghi của người Oa vốn nặng, không chỉ Phì Tiền Thọ nghi thần nghi quỷ, mà đến hải tặc sinh trưởng tại Trung Quốc như Trần Đông cũng thầm sinh nghi, không rõ đám quan binh này có lai lịch như thế nào?

Phì Tiền Thọ thấy sức sát thương của viên quan văn cầm đại đao trong đội ngũ Diêm binh thực sự kinh người, quân Minh lại có ám tiễn bắn ra không ngừng, liền vẫy tay kêu người mang một cây cung cứng đến. Gã lắp tên vào cung, ngắm chuẩn Mẫn Văn Kiến, cũng muốn dùng ám tiễn bắn chết tướng lĩnh quân Minh.

Nhóm xạ thủ đứng trên đình thấy trên bãi cát không còn thủ lĩnh giặc Oa để ngắm bắn nữa bèn dần dần chuyển dịch mục tiên lên trên thuyền. Một tên chưởng ban (đội trưởng đứng đầu đám sai nha) quan sát thấy bọn giặc vây quanh hai người trên một con thuyền lớn đậu phía sau cùng, trong đó có một người đang giương cung lắp tên ngắm vào đám quân Diêm binh. Lập tức tên chưởng ban gọi một tên tiểu đội trưởng (dịch trưởng) lại, đổi lấy Bách Biến cung trên tay hắn. Loại cung này không phải là vũ khí trang bị cho quân đội phổ thông mà là một loại lợi khí do Cẩm Y vệ nghiên cứu chế tạo được: loại cung này có thể tùy ý tăng giảm dây cung, điều chỉnh sức mạnh của cung. Đổi lấy Bách Biến cung xong, tên chưởng ban lập tức điều chỉnh cung thành cung tam thạch[12], lắp một mũi tên lông điêu. Sử dụng hết sức lực toàn thân để kéo cung, hắn nhắm chuẩn vào trước ngực của tên đầu lĩnh người Oa đang giương cung kia bắn đi.

Tam thạch cung này rất hao tốn sức lực. Tuy đứng ở trên đình không bị bất kỳ uy hiếp gì nhưng cả hai chục người đều đã trải qua một thời gian dài phải cẩn thận ngắm chuẩn các tên thủ lĩnh người Oa rồi mới bắn tên nên lúc này cả bọn đều đã mệt đến mức tứ chi bải hoải, cả người rã rời. Tên chưởng ban này tuy trời sinh thần lực nhưng mũi tên vừa được bắn ra, cung cũng đã buông rơi xuống đất, cánh tay cũng rã rời.

Thanh đao trong tay của Mẫn Văn Kiến nặng đến bốn mươi cân, khi vung lên thì sức mạnh không phải chỉ có một hai trăm cân nữa. Nếu như triển khai thế đao mượn lực dùng lực thì đở phải tốn nhiều sức, cho nên để không bị bó chân bó tay cũng như để tiện sử dụng đao, lão vừa xông vào đám giặc Oa thì lập tức kéo dãn cự ly với đám Diêm binh thủ hạ của mình, tha hồ vung đao di chuyển chém giết. Cả bộ quan phục sớm đã bị vấy đầy máu tươi.

Phì Tiền Thọ đứng ở đầu thuyền giương cung nhắm tên vào Mẫn Văn Kiến. Nhưng Mẫn Văn Kiến đang xông pha chém giết không ngừng, thỉnh thoảng lại có tên người Oa chạy qua chạy lại chắn trước mắt hắn, cho nên rốt cuộc mũi tên của hắn vẫn còn chưa bắn đi được thì mũi tên của tên chưởng ban đã bắn tới. Vốn được ngắm vào ngực trái của Phì Tiền Thọ, nhưng khi tên rời khỏi dây cung thì hơi bị chấn động nên mũi tên liền bị mất độ chính xác, cắm thẳng vào vai của hắn.

Phì Tiền Thọ đang cảm thấy bả vai không còn sức để giương cung nữa bỗng một luồng lực lớn đẩy lùi hắn lại vài bước, lưng tông thẳng vào cột buồm một tiếng “bùng”. Lúc này hắn mới cảm nhận được một cơn đau thấu tim gan, nhìn lại thì thấy một mũi tên sắc cắm vào vai phải xuyên qua phía sau vai, chỉ còn lại một đoạn lông điêu ở trước ngực.

Phì Tiền Thọ đau đớn la to “Ay da”, tưởng chừng như ngất đi luôn. Trần Đông thấy vậy cũng hãi hùng, hoảng sợ ngồi thụp xuống, vội quát lớn: 

- Mau, mau rút quân! Quân Minh đã đề phòng sẵn, lập tức rút binh.

Bọn giặc Oa xung quanh cũng giật mình kinh hãi. Chúng không ngờ khoảng cách xa như vậy mà quân Minh lại có thể bắn tên trúng đích, hơn nữa lực bắn lại uy mãnh bá đạo, có thể xuyên qua cơ thể con người, chứ không còn hời hợt như đám mưa tên lúc ban đầu. Hai tên lâu la vội vàng giơ ốc biển, nằm mọp trên mạn thuyền thổi lên “Tu tu”.

Sớm đã có ý rút lui nên vừa nghe tiếng ốc biển vang lên, bọn giặc Oa trên bờ cảm thấy như được đại xá, lập tức quay người tháo chạy, hộc tốc trèo lên thuyền, hạ buồm, thả mái chèo xuống, vội vội vàng vàng khua chèo trốn chạy. 

Hai chục tên giặc Oa đuổi theo bọn vệ quân bỏ chạy khi nãy đã chiến đấu hồi lâu với bọn người Chủng thiên tổng, chém giết đến sức cùng lực kiệt, bị thương lẫn chết chỉ còn lại bảy tám tên, còn Chủng thiên tổng dẫn theo ba tên thương binh vừa chiến vừa lùi. Đến lúc gió truyền tiếng ốc biển thu quân đến, bọn giặc Oa định quay người tháo chạy thì thấy chiến thuyền lớn bên sông đã đi đến giữa sông.

Bây giờ đã là lúc thủy triều xuống, nước đang rút nên thuyền đi khá nhanh, hơn nữa bọn giặc trên thuyền cũng đang dốc hết sức lực để chèo, cho dù bọn chúng có chạy đến bên sông thì cũng không thể đuổi kịp để lên thuyền. Lúc này từ trong trấn lại vang đến tiếng reo hò inh ỏi. Thì ra đám diêm thương lớn trong trấn biết rằng nếu như giặc Oa mà đánh được lên bờ thì những người bị tổn thất lớn nhất chính là bọn họ, nay lẵng lặng quan sát một hồi thì thấy quân Minh có thể chống đỡ được giặc Oa liền dẫn theo gia đinh, người hầu mang côn, gậy, cuốc, xẻng… chạy ra bờ sông trợ chiến.

Tên giặc Oa kiêu dũng nhất kia giết được năm, sáu tên thân quân, trên người cũng bị trúng hai đao. Tuy gã bị thương không nặng nhưng lại không được băng bó nên mất máu quá nhiều, đầu óc sớm đã choáng váng, lúc này vung đao lên giống như vờn múa, không còn thấy cái vẻ uy phong giống như sát tinh khi mới xông lên bờ. Gã bị bọn gia bộc của đám diêm thương vây quanh dùng đòn gánh, cuốc xẻng đồng loạt đánh ngã. Nếu như Dương Lăng không muốn giữ lại vài tên còn sống, cho người đến ngăn lại thì gã đã bị đập chết tươi.

Đầu tiên Dương Lăng dẫn người ra bãi cát xem xét. Ngoại trừ xác chết và thương binh khắp nơi, ở trên bờ còn có hơn bốn mươi tên người Oa bị thuyền giặc bỏ lại, bị tám mươi thanh đao thép kiềm chế, hoàn toàn không còn sức lực để kháng cự.

Dương Lăng nhặt một mũi tên mà quan binh vệ sở đã bắn lên quan sát. Nhận thấy mũi tên đó nhẹ tênh không đầy một lạng, y mới chợt hiểu tại sao những mũi tên này hoàn toàn không thể khiến giặc bị thương. Đám quan binh của vệ sở thường ngày chểnh mảng luyện tập, không kéo nổi cung, không bắn được tên nên để đánh lừa người khác, bọn chúng chỉ còn cách chế loại tên nhẹ tênh này. Tên thì bắn xa được rồi, nhưng lại quá nhẹ nên hoàn toàn không có lực, hơn nữa bên bờ sông lại có gió thổi mạnh, nói là bắn tên thì không bằng nói là thổi xuống, làm gì có sức sát thương cơ chứ?

Coi như đã biết được khả năng chiến đấu của vệ quân Giang Nam, Dương Lăng chỉ còn biết lắc đầu. Y căn dặn thuộc hạ quét dọn chiến trường rồi đích thân dẫn mấy tên thân binh vội vàng đi về phía Chủng Thiên tổng. Lúc này Chủng thiên tổng mũ giáp xô lệch đang đứng ỳ một chỗ giống như đang nằm mơ, bắp tay bị trường thương đâm trúng, cả cánh tay nhuốm máu hồng nhưng tựa như gã không hề có cảm giác gì.

Từ trước đến nay, quan binh ở duyên hải sợ giặc Oa như sợ cọp. Sự sợ hãi đó phát xuất từ tận tâm can, vừa thấy bọn chúng thì thật là hồn bay phách tán, hoàn toàn không còn dũng khí để chiến đấu. Hình ảnh hai trăm tên giặc Oa đuổi hai nghìn quan binh chạy loạn khắp rừng khắp núi giống như sói đuổi đàn dê cũng không phải là cảnh hiếm thấy gì. Hôm nay, nhân số tương đương nhau lại có thể chiến đấu ngang sức với bọn chúng lâu như vậy, còn đích thân giết chết bốn tên giặc Oa, xem ra bọn chúng cũng chẳng phải tài giỏi gì, dũng khí và tự tin của Chủng thiên tổng lập tức tăng cao vùn vụt. Cũng đến lúc này gã mới bực tức nghĩ đến năm trăm tên binh lính khiếp nhược chỉ biết ăn chứ chẳng biết đánh chác gì của mình.

Dương Lăng đi đến trước mặt mấy tên người Oa bị đánh đến rách đầu chảy máu, nhìn chòng chọc vào tên người Oa một đao chém chết binh lính Minh, một mình xông vào trong đội hình của quân Minh, hỏi: 

- Có biết nói tiếng Hán không? Thủ lĩnh của các ngươi là ai?

Tên giặc Oa khắp mặt đầy máu kia chỉ hung hãn lườm Dương Lăng, đứng ngạo nghễ không trả lời. Một tên gia bộc của đám diêm thương thấy gã ương ngạnh bèn vung cuốc đập mạnh vào sau đầu gối gã, quát: 

- Không nghe thấy lão gia hỏi gì sao?

Cuốc đập vào sau đầu gối khiến một gối của tên người Oa đó dập mạnh xuống đất, nhưng gã lại lập tức nhẩy bật lên, cái chân cong lại hơi run rẩy, hiển nhiên là bị thương không nhẹ nhưng vẫn gắng gượng không quỳ. Dương Lăng giơ tay ngăn cản người dân vẫn còn muốn đánh gã, hạ lệnh:

- Trói bọn chúng lại, trở về tìm một người biết tiếng Oa đến, ta có điều muốn hỏi bọn chúng.

Lúc này Mẫn Văn Kiến mồ hôi nhã nhễ nhại vác thanh đại đao đã bị cong lưỡi chạy lại, hào hứng cười lớn: 

- Sảng khoái, sảng khoái! Tháng năm vừa rồi, ta thống lĩnh ba trăm Diêm binh đánh lùi hai trăm tên giặc Oa đã cảm thấy mình uy phong lẫm liệt lắm rồi, không ngờ ngài vừa mới đến thì ta đã dùng ít thắng nhiều, ha ha ha… quả nhiên là phúc tướng của ta.

Lão nói đến đây bỗng chợt nhớ hiện giờ chức tước của Dương Lăng cao hơn mình rất nhiều nên không khỏi nhếch miệng cười miễn cưỡng. Dương Lăng quay về phía lão chắp tay vái, thán phục: 

- Nếu như nói về xông trận giết địch, tôi thế nào cũng không thể bì được với uy phong của Mẫn đại nhân. Bảo đao của đại nhân hôm nay quả thật là đại khai sát giới rồi. Bọn giặc còn lại bên bờ sông đã được bắt giữ rồi, phải không?

Mẫn Văn Kiến trừng đôi mắt tròn như đỗ xanh, ngạc nhiên hỏi: 

- Bắt giữ làm gì? Ta đã sai người giết hết bọn họ rồi, những ai vẫn còn chưa chết hẳn thì chém thêm một đao, nếu không phải sợ làm thối nước sông thì đã ném toàn bộ chúng xuống sông cho cá ăn. Trói mấy tên này làm gì? Mau chóng giải quyết luôn cho xong chuyện.

Nghe vậy, Dương Lăng sững sờ chẳng biết nói gì. Lúc nãy khi y đi đến đây, đám giặc Oa không kịp lên thuyền rút lui vẫn còn khoảng bốn mươi người, cộng thêm đám người bị thương ngã xuống đất chưa chết thì cũng không dưới một trăm người. Dương Lăng vốn định sai người bắt giữ toàn bộ, không ngờ Mẫn Văn Kiến tự thị sai người giết sạch. Dương Lăng đến từ hậu thế nên y cảm thấy ngược đãi tù binh là không nhân đạo, cho nên nghe vậy không khỏi lộ ra vẻ bất nhẫn, không hài lòng.

Trong đám diêm thương dẫn gia đinh, kẻ hầu chạy lại trợ giúp có một người trung niên tên Mai Xuân An. Đám diêm thương này ngoại trừ một số ít được kế thừa gia sản từ tay cha ông, phần lớn đều là dân khốn khó dần dần làm giầu từ buôn bán muối lậu, trở thành thương nhân đại lý cho triều đình bán muối, cho nên phần lớn đều khỏe mạnh, biết võ nghệ. Tuy Mai Xuân An có cái tên nho nhã nhưng lại có thân hình dũng mãnh uy vũ, nét mặt hung tợn.

Gã thấy Dương Lăng có ý không hài lòng, liền giả lả cười: 

- Đại nhân nhân hậu, nhưng đám người Oa này tham lam thành bản tính, không biết hối cải. Thảo dân có nghe trưởng bối kể lại, trước đây khi bắt được giặc Oa đầu hàng, chúng ta cũng thả chúng đi, kết quả là bọn chúng trở về vẫn kéo đến chà đạp người dân của chúng ta rồi đánh cướp tài vật chở về nước, còn dẫn thêm càng nhiều người Oa đến gây tội ác. Cho nên bây giờ, bắt được người Oa đều phải giết chết. So với quân đội ôn hòa văn minh, quân đội dũng mãnh hung tàn càng khiến cho người ta phải kính sợ hơn.

Dương Lăng nhớ đến người Mỹ thả bom hạt nhân đồ sát hai thành phố Nhật Bản khiến cho người Nhật Bản sợ đến tận bây giờ; còn người Trung Quốc rộng lượng, thả phạm nhân chiến tranh của bọn họ về nước, đến bây giờ dù tóc bạc đã đầy đầu, phần lớn những người đó vẫn cổ vũ chủ nghĩa quân quốc, kích động hận thù, làm tổn hại người Trung Quốc. Y không khỏi cười khổ. 

Mạc Thanh Hà chưa bao giờ thấy quân Minh anh dũng như vậy, lúc này cũng không khỏi nhìn nhận sức chiến đấu của thân quân của Dương Lăng với con mắt hoàn toàn khác hẳn. Hắn mỉm cười nói với Dương Lăng: 

- Lần này Dương đại nhân đích thân chỉ huy, quân ta giành được thắng lợi hoàn toàn, tiêu diệt hơn bốn trăm tên tặc khấu. Ít ngày nữa tấu trình về Kinh Sư, tên tuổi của đại nhân sẽ vang dội khắp nơi, thật đáng vui mừng. Hạ chức xin chúc mừng đại nhân trước.

Mẫn Văn Kiến nghe vậy cũng rất phấn khởi. Lần này đích thân Dương Lăng tọa trấn, y là khâm sai, công lao này chẳng còn ai có thể giật mất. Thế nhưng lão hiểu rất rõ phẩm hạnh của Dương Lăng, biết rằng Dương Lăng quyết không tham công, anh hùng chống Oa lần này cũng sẽ có phần của mình. Lão không khỏi khấp khởi vui mừng: 

- Đúng vậy! So với quân lính chính quy của chúng ta, vệ quân ở duyên hải kém rất xa, trước giờ chỉ biết bại trận chứ chưa hề biết thắng trận. Lần này đại nhân vừa đến thì nghịch chuyển càn khôn, công lao thật to lớn. Ái à, Chủng đại nhân! Không phải ta nói ngài đâu! Coi ngài thường ngày nho nhã, quan văn như ta trông giống võ tướng, còn võ tướng như ngài lại giống quan văn, nói một câu thật tâm, trong lòng lão Mẫn ta vẫn coi thường ngài. Thế nhưng hôm nay xem ngài thật là một tay hảo hán, lão Mẫn ta bội phục vô cùng!

Chủng thiên tổng nghe Mẫn Văn Kiến nói đến đỏ mặt, ngượng ngùng đáp:

- Mẫn đại nhân quá khen rồi. Mạt tướng… hổ thẹn quá. Binh lính dưới tay toàn là một đám vô dụng, vừa thấy giặc Oa đã hoảng sợ, thật là hổ thẹn.

Dương Lăng thấy nửa người hắn còn nhuốm đầy máu tươi nên cũng không nỡ khiển trách, đành phải an ủi: 

- Bổn tướng khi còn ở phương bắc từng gặp một viên mãnh tướng họ Giang, đối mặt với đám thát tử còn lợi hại hơn bọn giặc Oa này mà y cũng có thể lấy một địch mười. Y từng nói lần đầu tiên ra chiến trường y cũng sợ đến hồn bay phách tán, phải nhờ vị thập trưởng[13] cứu y ra khỏi vòng vây. Qua lần chiến đấu này ngươi cũng nhìn thấy đấy, đám giặc Oa này cũng chả có gì lợi hại, chỉ cần không nhát gan sợ chiến thì bọn chúng cũng chả chiếm được ưu thế gì. Chỉ là… đám quân lính của ngươi … thật sự cần phải luyện tập cho tốt.

Chủng thiên tổng ngượng đến đỏ cả mặt, vâng vâng dạ dạ đáp: 

- Vâng vâng vâng! Mạt tướng xin thọ giáo, mạt tướng xin tuân lệnh.

Mẫn Văn Kiến lưu lại một số quân binh quét dọn chiến trường; đám diêm thương cũng tự tổ chức dìu đám binh lính bị thương vào trấn trị thương. Sau khi thống kê, đám diêm binh kiêu dũng thiện chiến và hơi du côn kia do vũ khí không bằng người nên tử thương quá nửa, hoàn toàn không thương tổn gì chỉ còn lại một trăm bốn mươi người.

Về phía giặc Oa, ngoại trừ phải bỏ lại bốn mươi người và hơn trăm tên thương binh, còn có hai trăm sáu mươi người chết ngay tại chỗ, trong đó sáu phần là chết dưới đao, súng và cung tên của sai nha. Nhưng tám mươi tên kiện tốt xung phong đi đầu cũng tử thương gần ba mươi người làm cho Dương Lăng cảm thấy vô cùng hối hận. Nếu biết có chuyện như vậy, y đem toàn bộ ba trăm thân quân đến thì chiến công há chỉ có chừng đó.

Dương Lăng quay lại dinh thự lâm thời do thị trấn sắp sẵn, tìm được một người hiểu tiếng Oa. Y đang chuẩn bị đi đến căn phòng nhỏ phía tây – nơi nhốt bọn tù binh người Oa - để tìm hiểu tình hình của hải tặc thì mấy vị trưởng giả trong trấn được người dìu tìm đến. Vừa thấy Dương Lăng thì các vị lập tức dập đầu cảm tạ, cảm ơn khâm sai đại nhân đã tấn kích mạnh mẽ bọn giặc Oa, trừ hại cho nhân dân trong trấn; tiếp đó liền khóc sướt mướt yêu cầu khâm sai đại nhân làm chủ cho dân, xử tử hết tất cả giặc Oa.

Dương Lăng thấy mấy vị trưởng giả này đều đã bảy tám chục tuổi mà còn dập đầu vái lạy y, nên liền vội vàng đỡ bọn họ dậy. Nhưng muốn y đích thân ra lệnh giết chết tù binh, quả thực y không thể thốt ra lời được nên chỉ biết khó xử đưa mắt nhìn Trương Thiên sư. Những người già này đều tin phật tin đạo, nếu như Trương thiên sư ra mặt khuyên giải một hồi, có lẽ có thể khuyên được bọn họ ra về.

Trương thiên sư hội ý, tiến lên trước cúi đầu chào mấy vị lão nhân, nói: 

- Các vị lão nhân gia, trời có đức hiếu sinh. Bây giờ những tên giặc Oa này đã thúc thủ chịu trói, nếu như nhất loạt xử tử bọn chúng thì không tránh khỏi tổn thương hòa khí của trời đất. Bọn chúng làm nhiều điều ác, Dương đại nhân sẽ không tha cho bọn họ. Để bọn chúng chịu tội trong lao ngục, có gì mà không được chứ?

Tuy Trương Thiên sư còn ít tuổi, nhưng quả nhiên mấy vị lão nhân gia này đều vô cùng tôn kính chàng, không dám thất lễ. Một ông lão khóc kể: 

- Thiên sư! Đám giặc Oa này không còn nhân tính, cho dù có xử lăng trì cũng không thể chuộc được tội của bọn chúng, bọn chúng giết người phóng hỏa, đào mồ quật mả, việc xấu xa gì cũng làm. Năm trước giặc Oa đổ bộ, chính là ở Lão Diêm Thương[14], chúng đã ném một đứa bé mới tám tháng tuổi lên giường, dùng nước nóng để tưới, nghe tiếng nó khóc để mua vui, Thiên sư ơi…

Nghe vậy, một luồng khí lạnh từ chân bốc lên đỉnh đầu Dương Lăng. Vì sinh sống hay vì cầu tài mà giết người thì y còn miễn cưỡng chấp nhận; cường đạo mà, bạn còn mong bọn chúng phát lòng từ tâm sao? Nhưng hành vi mất hết nhân tính này, hoàn toàn là để thỏa mãn một loại dục vọng biến thái không còn nhân tính. Tưới nước sôi lên người một đứa trẻ vô tội chỉ để nghe tiếng nó khóc làm vui hay sao?

Da đầu Dương Lăng như muốn nổ tung, Cao Văn Tâm và Trương Phù Bảo nghe vậy đã tràn nước mắt. Ngay cả Trương thiên sư luôn miệng thiên đạo, nhân tâm cũng dựng đứng đôi chân mày, sát khí bừng bừng trong mắt, không còn chút nào hình dáng của một người tu đạo.

Một lão nhân khác lại kể: 

- Không chỉ có thế! Buổi trưa bọn chúng ăn cơm ở một hộ gia đình, khi đi giết toàn bộ gia đình người ta, lấy máu ngâm rượu, nói là rất bổ cho cơ thể. Gia đình đó có một phụ nữ có thai, bọn chúng đánh cuộc là trai hay gái rồi mổ bụng lấy thai nhi để kiểm tra. Còn có một phú hộ ở đó, bị bọn chúng bắt cóc đòi tiền chuộc, tiền bạc trong nhà gom không đủ số lượng thì chúng cưa người thành từng mảnh trả về.

Sắc mặt của Dương Lăng tái xanh, run giọng: 

- Không cần nói nữa, không cần nói nữa!

Ông lão trước lại kể lể tiếp: 

- Đại nhân! Chúng ta coi bọn chúng là con người, nhưng bọn chúng không coi chúng ta là con người. Bọn chúng cướp của cải thì thôi, chứ giết người phóng hỏa như vậy, ngài nói xem không phải súc sinh thì là gì? Bọn chúng còn thích nhất là bắt sống đàn bà và trẻ em đẹp đẽ, ép buộc bọn họ làm những việc xấu xa, đến như lão già ta cũng không thể kể ra được à!

Dương Lăng chẳng thể nghe thêm được nữa, quay người bước vội về phía cửa. Y vừa bước đến cửa, Trương Phù Bảo từ trong phòng đã phẫn nộ hét lớn: 

- Giết hết bọn chúng! Họ Dương kia! Nếu như ngươi còn định giữ mạng sống cho bọn chúng, ta… ta… ta ngày ngày sẽ vẽ bùa đọc chú trù yểm nhà ngươi!

Dương Lăng dậm mạnh chân, không hề quay đầu lại mà bước nhanh ra khỏi đại sảnh. 

Trong một căn phòng nhỏ phía tây, mấy tên giặc Oa bị trói vào cột nhà, Dương Lăng sắc mặt âm trầm bước vào. Trịnh bách hộ và mấy tên sai nha thấy vậy vội đứng lên thi lễ: 

- Đại nhân!

Dương Lăng gật gật đầu: 

- Ừ, hôm nay nhờ có các ngươi. Ngươi nhớ thu nhặt cho kỹ thi thể của các tướng sĩ vì nước quên thân. Khi trở về kinh, bổn quan nhất định trợ cấp trọng hậu, các huynh đệ tham chiến hôm nay cũng nhất loạt được trọng thưởng.

Y nói xong quay đầu lại, ánh mắt quét qua người mấy tên giặc Oa kia, cuối cùng nhìn vào một gã đàn ông mặc một bộ quần áo phụ nữ người Hán, ánh mắt của hắn chạm vào mắt Dương Lăng thì run rẩy né tránh một hồi. Dương Lăng liền đến trước mặt hắn, hỏi: 

- Thủ lĩnh của các ngươi là ai? Có bao nhiêu người? Thường ngày hoạt động ở đâu?

Người hiểu tiếng Oa do Dương Lăng gọi đến vội dịch sang tiếng Oa, tên đó nghe xong vẫn không nói một lời. Dương Lăng cười nhẹ, hỏi tiếp: 

- Ngươi cho rằng bọn ta không biết dùng thủ đoạn lợi hại gì để đối phó ngươi phải không? Tưới nước nóng ư? 

Ánh mắt lạnh lẽo của Dương Lăng đảo trên người hắn một lúc, nói tiếp: 

- Nếu như lấy nước sôi tưới lên người ngươi, rồi dùng bản chải sắt sát muối chà qua xát lại, ngươi sẽ cảm thấy thế nào? Hay là lấy miếng sắt nung nóng chọc vào chân ngươi…

Những thứ mà Dương Lăng vừa nói đều là thủ đoạn đối phó phạm nhân của Cẩm Y vệ. Người đứng bên cạnh còn chưa kịp dịch thì trên trán của tên mặc quần áo phụ nữ đã nhễ nhại mồ hôi lạnh, bỗng nhiên khàn giọng hỏi: 

- Nếu như ta khai báo, đại nhân có tha chết cho ta không?

Dương Lăng sững người rồi tiếp đó nổi giận đùng đùng, lạnh giọng quát hỏi:

- Ngươi là người Hán?

Nghe Dương Lăng quát lớn, tên đó giật mình run rẩy một hồi, nhưng vẫn ngoan cố đáp: 

- Đó là do tôi không còn cách gì để sống nên mới đi theo con đường này. Mấy người bọn chúng đều là người Oa thực sự, sẽ không chịu khai đâu. Nếu đại nhân đồng ý tha cho tôi, tôi mới chịu khai.

Ánh mắt của Dương Lăng đập vào chiếc áo phụ nữ mầu xanh nhạt trên người hắn. Y vân vê vạt áo của chiếc áo đó một hồi rồi hỏi: 

- Bộ y phục này do ngươi ăn cướp? Chủ nhân của nó… cô nương kia thế nào rồi?

Sắc mặt của tên này biến đổi hẳn. Chiếc áo này là lúc lên bờ cướp bóc ở Phúc Kiến vào năm trước hắn đã lột từ trên người một thiếu phụ, người con gái đó… người con gái đó… Nhớ đến hình dạng khủng khiếp vào phút cuối của nàng thiếu phụ có dung mạo tương đối đẹp đẽ đó, hắn bất giác run sợ rùng mình.

Thấy hắn ấp úng định nói dối, Dương Lăng phải quay người đi, cố dẹp bỏ ý tưởng muốn bóp cổ hắn vừa thoáng qua trong đầu. Một lúc sau y mới gằn từng chữ từng chữ: 

- Ngươi khai thật, ta sẽ để ngươi chết một cách thoải mái! Đây là điều kiện duy nhất! Ngươi không còn sự lựa chọn thứ hai!

Tên đó đờ người ra, nghiền ngẫm lại một lần lời nói của Dương Lăng, lúc này mới ngộ được ý nghĩa trong lời nói của Dương Lăng, ánh mắt bất giác lộ vẻ sợ hãi. Dương Lăng lành lạnh nói tiếp: 

- Ngươi quyết định chưa? Ta không nhất thiết phải biết tình hình của các ngươi, nếu như ngươi không khai, ta sẽ không cho ngươi cơ hội thứ hai nữa đâu!

Mắt thấy Dương Lăng từng bước tường bước đi ra khỏi cửa, rốt cuộc tên hải tặc đã từng dùng nhiều cách kỳ lạ cổ quái để hành hạ người khác làm vui không nén được kêu lớn: 

- Đại nhân dừng bước, tôi khai, tôi khai hết! Chỉ xin đại nhân cho tôi được toàn thây.

Tên đó đem những tình hình hắn biết lần lượt khai rõ ra hết. Thực ra thì tin tức hắn cung cấp cũng không có giá trị to lớn gì, đám giặc Oa này lẩn trốn khắp nơi, không có nơi ở cố định. Hiện giờ thủy sư nhà Minh cũng không đủ thực lực để ra biển vây bắt, nên muốn đối phó với bọn chúng, chủ yếu vẫn phải đợi bọn chúng vào đất liền cướp bóc để nghiêm trị, hơn nữa còn có thể dự đoán được: “Bọn chúng nhất định sẽ đến.”

Thế nhưng làm cho Dương Lăng ngạc nhiên là từ miệng người này y còn biết được nhiều điều liên quan đến nội tình của Nhật Bản. Mạc Phủ ngày càng suy yếu, đã không thể khống chế các lãnh chúa ở các nơi; hơn nữa các lãnh chúa, võ sĩ, thủ lĩnh ở các nơi cũng vô cùng mong muốn được giao dịch với Đại Minh để khuếch trương thực lực của bản thân.

Có một số thế lực có con đường bí mật riêng để buôn lậu từ Đại Minh cho nên cũng phản đối giặc Oa hoành hành gây ảnh hưởng xấu đến việc làm ăn của bọn họ. Hơn nữa những tập đoàn buôn lậu do chính phủ tổ chức này không những giao dịch ngầm với thương nhân duyên hải Đại Minh, mà còn cùng với Lã Tống, Nam Dương tìm được một tuyến giao dịch đường biển. Những thông tin này hiện giờ vẫn còn chưa dùng đến nhưng chưa chắc sau này sẽ không dùng đến, Dương Lăng đều thầm ghi nhớ cả trong lòng.

Càng làm cho Dương Lăng ngạc nhiên là tiền tệ thông dụng của Nhật Bản lại là tiền đồng của Đại Minh. Nhật Bản đã từng thử tự chế tạo tiền tệ, nhưng tiền đồng do bọn họ chế tạo lại có chất lượng rất kém, dùng không bao lâu thì đã bị mài mòn, nứt gãy, trở thành một đám bột đồng. Cho nên chỉ có thể lấy tiền tệ của Đại Minh làm tiền tệ thông dụng của nước Nhật Bản.

Sau khi gia tộc Túc Lợi không còn xưng thần với Đại Minh thì hai nước đã đoạn tuyệt giao dịch. Nhật Bản cần gấp một lượng lớn tiền đồng, nhưng không có cách gì để đạt được, mà một quốc gia không có tiền tệ thì tình hình thật là tệ hại không thể tưởng tưởng nổi, cho nên chính phủ chỉ có thể buôn lậu, thậm chí là làm hải tặc.

Dương Lăng nghe vậy sửng sốt một hồi. Y không ngờ tiền tệ khi ấy của Trung Quốc lại có thể hoàn toàn thay thế thay thế tiền tệ của một quốc gia khác. Sự hận thù và căm ghét đối với bọn giặc Oa hoàn toàn không còn nhân tính kia không làm Dương Lăng mất đi lý trí; y không cho rằng chỉ có chém giết mới là thủ đoạn duy nhất để giải quyết triệt để đám gieo họa trên biển. 

Dương Lăng nghĩ thầm: “Giặc Oa trên biển nhất định cần phải đánh, nhất định phải nghĩ ra cách tiêu diệt bọn chúng. Nhưng không nhổ bỏ tận gốc mầm mống tai họa này thì tiêu diệt hết đám này sẽ lại tiếp tục xuất hiện một đám khác. Cần phải ổn định lâu dài, nhất định cần phải tiến hành cả khơi thông lẫn ngăn ngừa.”

Vốn Dương Lăng không nắm chắc sau khi về kinh sẽ thỉnh cầu được Hoàng thượng cho thông thương với Nhật Bản, bởi vì y không tự tin đủ sức kiềm chế sự cản trở từ trong triều đình, đặc biệt là ba vị đại thần trong Nội các. Y lờ mờ nhớ rằng trong lịch sử, khi Lưu Cẩn nắm quyền thì quyền lực của lão khuynh đảo triều đình. Nếu như triều đình do lão làm chủ, thì tên bất tài vô học chỉ biết thu gom tiền bạc này nhất định sẽ không cản trở giao thương hai nước, thế nhưng Dương Lăng không thể nhớ chính xác khi đó là lúc nào, y cũng không còn thời gian để đợi nữa. Nhưng bây giờ y lại có chút chắc chắn, nếu như dùng thủ đoạn kinh tế như thông thương để tiếp nối thủ đoạn chính trị, đám quan văn kia còn phản đối sao? Thông thương có thể làm cho hai nước hợp lực đả kích hải tặc, khống chế bọn chúng từ kinh tế. Hơn nữa để nỗ lực duy trì địa vị lãnh chúa, tướng quân bọn chúng sẽ không nảy sinh dã tâm nhòm ngó trung nguyên. Nếu như tiền tệ của bọn họ đều xuất phát từ tay của chúng ta thì một khi thật sự nảy sinh tranh chấp, chỉ cần ngầm chế tạo một lượng lớn tiền tệ đưa vào đất nước bọn chúng thì còn sợ chính phủ đối địch kia không sụp đổ sao?

Còn về tương lai sau này, bọn chúng có khả năng chế tạo tiền tệ của mình hay không, thậm chí kinh tế có phát triển mạnh hơn nữa hay không thì cũng không còn nằm trong những suy tính của Dương Lăng. Người ta không thể chỉ dựa vào lão tổ tông để hưng thịnh nhiều đời, bậc tiền bối xây dựng nên nền móng tốt cho ngươi, những việc còn lại tự nhiên hậu bối phải quan tâm.

Kinh sư như thế nào rồi, đã rời kinh được một tháng, mọi việc trong triều đều bình thường chứ? Đợi người được phái đi Kinh sư quay về thì sẽ biết. Dương Lăng cảm thấy hiện giờ mình có quá nhiều việc cần phải chạy đua với thời gian, hận rằng không thể lập tức kết thúc mọi việc lúc này, mau chóng về kinh thành, thế nhưng… có thể sao? Không thể xử lý mọi việc ở đây thì không thể hàng phục được Cẩm Y vệ của Đông Xưởng, không hàng phục được Cẩm Y vệ của Đông Xưởng thì làm gì có thực lực để kháng cự lại với ngoại triều, nhanh chóng thực thi chính sách?

Dương Lăng dừng bước, thở dài một tiếng, đưa chân bước ra khỏi cổng. Bỗng y dừng lại ra lệnh: 

- Cho tên này chết một cách thoải mái, những người khác thì giao cho người dân trong trấn xử lý!

Chú thích:

[1]giặc Oa: (tức giặc lùn)chỉ hải tặc Nhật Bản quấy nhiễu cướp bóc duyên hải TQ thế kỷ 14-16.

[2]Vệ sở: Quân đội triều Minh thực thi biên chế “Chế độ Vệ Sở”, tổ chức quân đội có hai cấp Vệ, Sở. Một Phủ thì thiết lập Sở, nhiều Phủ thì thiết lập Vệ. Vệ thiết lập chỉ huy sứ, thống lĩnh binh sĩ năm nghìn sáu trăm người. Dưới Vệ có Thiên hộ sở (một nghìn sĩ binh), dưới Thiên hộ sở thiết lập Bách hộ sở (một trăm binh sĩ ).

[3]Oa Đao: Chỉ một loại đao Nhật bản được sử dụng từ cuối nhà Minh đến nhà Thanh. Loại đao này có ưu thế bổ, chém, công thủ đều được, có thể sử dụng bằng hai tay.

[4]người Oa: chỉ người Nhật Bản.

[5] nha sai(phiên tử) : phụ trách truy bắt tội nhân.

[6]Quỷ tử: cũng chỉ người Nhật Bản.

[7]Lã Tống: Chỉ đảo Lữ Tống thuộc quần đảo Philippin. Thời Tống Nguyên, các thương thuyền thường đến đây buôn bán. Thời Minh gọi đảo này là Lã Tống.

[8]Khám hợp tức giấy phép; thời Minh, nhằm chỉ việc nước ngoài đến TQ tiến hành triều cống, giao dịch. Sau khi sơ Minh thực hiện “hải cấm”, chỉ cho phép nước ngoài và triều đình tiến hành triều cống giao dịch theo quy định về địa điểm và thời gian. Thương thuyền của nước ngoài chở cống phẩm và thổ sản của mình đến TQ, sau khi triều đình nhà Minh thu nhận cống phẩm, thu mua thổ sản, họ dùng hình thức “Quốc gia ban tặng” để ban trả các vật phẩm TQ mà các lái thương nước ngoài cần. Thời hạn cống của các nước từ 3 đến 5 năm. Đối với Nhật Bản thì quy định 10 năm. Các thuyền cống nhất định phải có khám hợp do triều đình nhà Minh cấp phát.

[9]Thuyền Phúc: Một loại thuyền biển nổi tiếng trong “tứ đại cổ thuyền” của TQ xưa. Thuyền có đặc điểm: phía đầu nhọn, phần đuôi rộng, hai đầu vểnh lên. Hai bên mạn thuyền hướng ra ngoài, hai bên đều có ván bảo vệ. Đặc biệt đầu thuyền cao, kiên cố, có thể xung kích, thích hợp làm thuyền chiến.

[10]Thuyền Quảng: Một loại thuyền biển nổi tiếng trong “tứ đại cổ thuyền” của TQ xưa. Sản xuất ở Quảng Đông. Đặc điểm cơ bản: thuyền dài, đầu thuyền nhọn, trên rộng dưới hẹp.

[11]Một loại đao thời Đường. Là một trong hai loại đao nổi tiếng thế giới khi ấy cùng với Đao Damascus của Ả rập.

[12]Đơn vị trọng lượng, một thạch bằng 60 kg. Chỉ lực kéo cung, càng nhiều thạch thì càng cần nhiều sức lực.

[13] Thập trưởng: Một loại quân hàm thời cổ. Năm người có lập một ngũ trưởng, hai mươi người lập một thập trưởng, trăm người lập một bách phu trưởng, năm trăm người lập tiểu đô thống, một nghìn người lập đại đô thống, ba nghìn người lập chánh, thiên tướng, năm nghìn người lập chánh, thiên nha tướng, một vạn người lập chính, phó tướng quân.

[14]Lão Diêm Thương: Tên gọi của một vùng đất thuộc Hải Ninh.

CHƯƠNG 131: TÊN ĐÃ LÊN DÂY

Dương Lăng ở lại Hải Ninh năm ngày, mỗi ngày đều đích thân cùng Cao Văn Tâm bôi thuốc trị thương cho đám diêm binh và thân quân của mình, hơn nữa phái đám người Trịnh Bách hộ giúp đỡ Chủng Thiên tổng huấn luyện vệ quân.

Đao của vệ quân không bằng đao của giặc Oa mà tạm thời lại không có cách nào để giải quyết vấn đề này, Trịnh Bách hộ đành dốc hết tinh thần và sức lực để vệ quân tăng cường trang bị cho lực lượng cung thủ và lính đánh thương, cho dù huấn luyện nhất thời không thể thấy hiệu quả nhưng dù sao cũng đã dạy bọn họ phương pháp rồi, chỉ cần kiên trì luyện tập thì lâu ngày tự nhiên có thể thấy được hiệu quả.

Việc đám vệ quân này không chịu nổi một đòn thì nguyên nhân quan trọng nhất là lòng quân rời rạc, bây giờ Chủng Thiên tổng dựa vào việc dùng hai mươi người chiến đấu không thua đám giặc Oa có số lượng tương đương thì lòng tự tin trong chốc lát tăng lên nhiều, sau khi tiếp thu kinh nghiệm xương máu đã chỉnh đốn quân đội vô cùng nghiêm ngặt. Các biện pháp như thưởng phạt phân minh xem ra không đáng chú ý nhưng lại đang dần dần từng bước thay đổi đạo quân này. 

Mấy ngày này, đám quan viên của Tam ty[1] và Tri phủ của hai vùng Tô Hàng cùng với danh sĩ thân hào nườm nượp kéo đến Hải Ninh để an ủi quan binh khiến vệ quân bỗng chốc tiếng thơm vang dội. Đây là trận đánh giặc Oa đặc sắc nhất hoành tráng nhất của các tỉnh khu vực duyên hải Giang Chiết Mân Lỗ[2], năm trăm quân binh chiến đấu với số giặc Oa đông gấp đôi mà làm cho giặc Oa để lại bốn trăm thi thể, kết quả chiến đấu này làm cho vệ, sở khắp nơi phải nhìn với con mắt khác mà dân chúng và đám phú thương chịu đủ nỗi khổ bị hải tặc quấy rối cũng được mở mày mở mặt.

Đám diêm binh kia đã được sự khao thưởng của Bố Chánh sứ, Chỉ Huy Sứ ty, đám con buôn đến thăm viếng này đều có gia tài bạc tỉ, ra tay cũng hào phóng, luôn miệng gọi tráng sĩ, động cái là rút túi tặng vạn lượng bạc ròng mà Dương Lăng không lấy một đồng, Mẫn Văn Kiến cũng không phải là tham quan ăn chặn cho nên mỗi một quan binh đều gom góp được một phần tài sản không nhỏ.

Tính lưu manh của đám diêm binh này rất nặng, bình thường trộm gà bắt chó cũng bị nhân dân bản địa chửi bới không ít nhưng lúc này lại thành anh hùng trong mắt của dân chúng, đi đến chỗ nào chỉ cần nói là quan binh của ty Diêm Vận thì dân chúng đều hết lòng kính nể, cho dù đến cửa hàng ăn bữa cơm thôi chủ quán cũng không chịu lấy tiền. Tình cảnh này lọt vào mắt đám quan binh vệ quân làm họ thật là vừa xấu hổ vừa thẹn. Chịu sự kích thích sâu đậm đó, bọn họ chỉ hận không thể làm đám giặc Oatháo chạy kia quay lại một lần nữa, để có cơ hội làm cho dân chúng biết bọn họ cũng là đàn ông, cũng không phải là đồ sợ chết.

Bố Chánh sứ đã sai người đem tin chiến thắng báo về kinh thành, Dương Lăng cũng bí mật viết một bản tấu chương, đem tình hình duyên hải hiện tại kể lại tỉ mỉ một lần rồi nhanh chóng chuyển về kinh thành. Y không lập tức bẩm báo với Chính Đức về dự định kia của mình bởi vì vị tiểu hoàng đế này thường làm việc mà không nghĩ đến hậu quả, nếu như tiểu hoàng đế thấy kiến nghị của Dương Lăng rồi lập tức vội vã thi hành rồi vạn nhất bị bách quan trong ngoài triều ngăn cản thì sau này Dương Lăng đề ra sẽ mất đi hiệu quả bất ngờ.

Cho đến tận ngày thứ năm, Dương Lăng chuẩn bị hai mươi cỗ xe lớn, dự định mang theo thương binh trở về Hàng Châu, Ngô Tế Uyên lúc này cũng phái Liêu Quản sự đến để động viên quan binh. Hắn đã đem cái lợi-hại, được-mất của việc giao dịch đối với nước ngoài ghi lại kỹ càng, cùng đưa tới còn có cả Thập Mỹ Đồ của Đường Bá Hổ. Dương Lăng đón Liêu Quản sự vào phòng khách rồi vui vẻ mở bức Thập Mỹ Đồ đã nghe danh từ lâu này ra thưởng thức.

Chín bức tranh khác trong Thập Mỹ Đồ đều là do vị đại tài tử họ Đường này nhìn trộm dung mạo các mỹ nữ Tô châu rồi vẽ nên. Thẩm mỹ của vị Đường Nguyên giáp này quả nhiên không tầm thường, chín người đẹp này muôn vẻ rạng ngời, tươi đẹp như hoa tựa nguyệt, ai ai cũng kiều diễm đến rung động lòng người.

Bức tranh thứ mười vẽ Cao Văn Tâm quả nhiên đã được sửa, trong bức tranh là một mĩ nhân nhỏ nhắn đứng dưới gốc liễu, lau sậy chập chờn quanh đó, khói sóng mênh mông ngoài xa, bên cạnh gốc liễu phía sau người hiện ra một cánh tay ôm lấy bờ eo nhỏ nhắn của nàng, mĩ nhân quay đầu lại nhìn, vẻ kinh ngạc trên khuôn mặt còn chưa tan biến thì sự vui mừng đã trào dâng, biểu cảm e thẹn dễ thương được khắc họa sinh động như thật.

Nhìn dáng vẻ như giận như vui, nửa kháng cự nửa nghênh đón thì rõ ràng nhân vật chỉ lộ ra một cánh tay trên bức tranh là tình lang mà nàng đã mến mộ từ lâu. Có thể khắc họa nhân vật sinh động như vậythì kỹ năng vẽ tranh của Đường Bá Hổ quả thật xuất thần nhập hóa, Dương Lăng thích đến không muốn rời tay liền lấy hai sợi tơ buộc lại để làm kí hiệu.

Ngoại trừ Thập Mĩ Đồ, tất nhiên còn bao gồm bức "Nguyệt Dạ Hậu Đình Hoa" mà lão Đường tặng miễn phí, tuy đây là một bức Xuân Cung đồ (tranh khiêu dâm) nhưng lại được vẽ bởi Đường Bá Hổ, Dương Lăng sao nỡ lòng thiêu hủy nên chỉ vội vội vàng vàng nhìn thoáng qua rồi cũng buộc lại, đặt vào trong đống tranh kia.

Liêu Quản sự cười tủm tỉm nói: 

- Khâm sai đại nhân, lão gia nhà tôi nói đại nhân chống Oa giành toàn thắng ở đây, giúp nhân dân Giang Nam trút được nỗi oán giận, thực là đáng vui mừng, cho nên sai tiểu nhân mang lợn, bò và tiền bạc tặng cho thân quân của đại nhân và diêm binh chống Oa, xin đại nhân kiểm tra và thu nhận.

Dương Lăng vội vàng xua tay nói: 

- Liêu Quản sự, Ngô tiên sinh tặng những lễ vật này cho bản quan đã quá hậu hĩ, nếu lại làm cho Ngô tiên sinh tốn kém thì bản quan thực là thấp thỏm không thể yên lòng, những thứ kia có lẽ xin Liêu Quản sự mang về cho, ý tốt lần này của Ngô tiên sinh bản quan xin ghi nhớ trong lòng.

Liêu Quản sự không đồng ý, nói: 

- Đại nhân, lão gia nhà tôi nhà to nghiệp lớn, có vô số sản nghiệp ở hai vùng Tô, Hàng. Oa nhân lộng hành khiến Ngô gia mỗi năm đều phải chịu ít nhiều tổn thất, hiện giờ đại nhân đả kích mạnh mẽ giặc Oalàm lão gia nhà tôi cũng được lợi không ít, các chiến sĩ ở tiền phương dùng sinh mạng đánh đổi thì biếu tặng một chút tiền tài cũng là phải, đại nhân không cần khách khí. Hơn nữa, các thân hào danh sĩ có tiếng ở hai vùng Tô, Hàng đều có bày tỏ rồi, huống chi mấy đời lão gia nhà tôi sinh sống ở Giang Nam nếu không bày tỏ gì với tướng sĩ há chẳng phải là bị dân chúng mắng chửi là làm giàu bất nhân, keo kiệt vô lương tâm sao? Tiểu nhân chịu sự sai khiến của lão gia, nếu như đại nhân không nhận thì tiểu nhân cũng chẳng có cách gì trình bày với lão gia, xin đại nhân hãy thành toàn cho tiểu nhân.

Dương Lăng bất đắc dĩ đành phải cùng y ra ngoài tiếp nhận lễ vật và bức hoành mà Ngô gia biếu tặng. Mới ra khỏi đại sảnh vừa hay thấy Cao Văn Tâm mới sắc thuốc và băng bó cho tướng sĩ bị thương trở về, Dương Lăng vội dừng bước, nói: 

- Văn Tâm, Liêu Quản sự mới mang đến cho ta vài bức tranh, nàng hãy thu dọn chúng vào hòm, hôm nay sẽ khởi hành quay về Hàng Châu. Mấy bức tranh đó là tác phẩm lớn của Giang Nam tài tử Đường Dần, nàng đừng có làm hỏng chúng.

Cao Văn Tâm “dạ” một tiếng rồi trở vào đại sảnh thấy hơn mười cuốn họa quyển (tranh cuốn) xếp trên mặt bàn, nàng nghĩ tới trong mười bức Thập Mỹ Đồ kia có một bức tranh vẽ bản thân, cũng không biết cái người tự xưng là Giang Nam đệ nhất tài tử kia vẽ nàng thành hình dáng thế nào nữa liền vội vàng mở từng bức ra xem. Các cô nương trong Thập Mỹ Đồ đều là những người đẹp vạn người mới có một, mỗi người một vẻ, đoan trang dịu dàng, xinh đẹp hết mực.

Cao Văn Tâm nảy ra ý so sánh, thấy dung mạo bất phàm của các mỹ nữ kia khiến nàng càng thêm hồi hộp khi mở thêm một bức tranh nữa, thì ra là bức Xuân Cung Đồ mà nàng hiểu nhầm là cợt nhả nàng hôm đó, Cao Văn Tâm không kìm nổi đỏ mặt tía tai "xì" một tiếng, vội vội vàng vàng quăng nó vào trong đống tranh.

Khi nàng tìm thấy bức tranh vẽ mình, thấy dáng vẻ trong tranh dường như căn cứ vào tình cảnh Dương Lăng và nàng sau gốc liễu mà vẽ thành, nhất thời khuôn mặt thanh tú nổi hai áng mây hồng. Bức tranh này ngoài vẻ diễm lệ tuyệt luân còn làm cho người ta hồi tưởng liên miên, khắc họa kĩ càng hết mức thần thái thướt tha rung động lòng người của nàng. Nếu như luận dung mạo thì chín mỹ nữ kia chưa chắc kém hơn nàng, thế nhưng trong bức tranh có thêm cánh tay cùng với thần thái cúi đầu dịu dàng của nàng liền khiến cho bức tranh này vượt lên chín bức kia.

Cao Văn Tâm thấy vậy trong lòng vui mừng, cũng không khỏi nảy sinh một chút thiện cảm với tên thư sinh bất lương vẽ bức Xuân Cung Đồ kia, nàng mỉm cười rồi cẩn thận buộc lại bức tranh, quay sang chỗ khác lại nhìn thấy bức Xuân Cung Đồ vội vàng nhét vào đống tranh khi nãy kia vẫn còn chưa buộc lại liền đem hai sợi dây còn lại trên bàn buộc vào.

Nàng nghĩ tới lão gia của mình bình thường đàng hoàng chững chạc thì ra cũng thích những thứ như thế, trong lòng không khỏi vừa bực vừa buồn cười. Đáng thương cho vị đại tài tử họ Đường chỉ vẽ Xuân Cung Đồ mà chịu một cái tát oan uổng còn vị Dương lão gia này cất giữ bức tranh đó lại nhận được nụ cười thẹn thùng, nhưng ai bảo y là người trong lòng của mĩ nhân yêu kiều này nên đối xử mới một trời một vực như thế.

Cao Văn Tâm cầm bức Xuân Cung Đồ trong tay nghĩ tới vẻ hoan lạc vô biên mà khi nãy thoáng thấy trong bức tranh, liên tưởng nếu như mình có một ngày cùng lão gia… cõi lòng nàng run rẩy một hồi, tựa như bức tranh đó chính là vẽ bản thân và Dương Lăng liền không khỏi giống như bị bỏng tay mà vội vàng quăng bức tranh đó ra. Tình cảm ấp ủ của người con gái như thơ như mộng. Những cô gái mười tám, mười chín thời này phần lớn đã trở thành vợ, thành mẹ người từ lâu. Nữ thần y giống như trái đào đã chín mọng này làm sao không ngẫm mình xót phận, lòng xuân dập dềnh chứ.

***

Dương Lăng vừa mới quay lại Hàng Châu, Liễu Bưu đã vội vội vàng vàng tới gặp y. Khi chuyện chống Oa ở Hải Ninh đã truyền đến tai hắn liền làm cho hắn sợ đến hồn bay phách lạc, hai tên Bách hộ dẫn binh theo quan thuyền lớn quay về Hàng Châu bị y chửi rửa một trận thậm tệ. Nếu không phải khi tin tức truyền đến tình hình chiến đấu đã có kết quả, Đô Chỉ Huy sứ ty cũng đã nhanh chóng tăng cường phái quan binh của hai Vệ khống chế gắt gao cửa biển Hải Ninh để đề phòng bất trắc xẩy ra lần nữa thì hắn thật muốn vứt bỏ để tất cả lập tức đi Hải Ninh.

Bây giờ Dương Lăng đã quay trở về, việc cần hắn xử lý cũng đã có manh mối nên hắn vội vã từ Long Sơn quay về, gặp Dương Lăng rồi lại quan sát tỉ mỉ một hồi, thấy đại nhân quả nhiên không việc gì hắn lúc này mới yên tâm. Ở cùng với nhau lâu như vậy, con đường làm quan của Dương Lăng lên lên xuống xuống hắn đều ở bên cạnh, bây giờ không chỉ bởi vì tiền đồ của cá nhân đều buộc chặt trên người Dương Lăng mà hắn cũng thật sự rất có cảm tình với vị thượng quan này.

Dương Lăng qua chuyến đi Tô Châu, Hải Ninh này càng muốn kết thúc công việc ở Giang Nam sớm để mau chóng quay về kinh thành cho nên vừa mới thấy Liễu Bưu thì lập tức hỏi:

- Liễu Bưu, việc ta cần ngươi làm như thế nào rồi?.

Liễu Bưu nói: 

- Đại nhân, Chỉ Huy Thiêm Sự Vệ Long Sơn Đinh Lâm đã lấy được chứng cứ quan trọng, thế nhưng tên tiểu tử này dường như khi ấy lại có ý hối hận, chần chừ không chịu giao ra, hạ quan nói với hắn rằng chứng cứ của hắn chẳng qua cũng chỉ thêu hoa trên gấm, chỉ cần binh lính của Vệ Long Sơn không đủ một nửa định mức, Tất Xuân tham ô bao năm nay số lương lộc thừa ra cũng đủ để chúng ta trừng trị hắn, tên tiểu tử này mới giao chứng cứ ra.

Nói rồi hắn lôi một bọc vải từ trong lòng ra, đưa cho Dương Lăng, nói: 

- Đại nhân, đây là chứng cứ phạm pháp của Tất Xuân và Viên Hùng mà Đinh Lâm ghi lại, tất cả thời gian, địa điểm, những người có liên quan đều ghi rõ trong hồ sơ. Ngoài ra mật chỉ của kinh thành cũng đã đến tối qua.

Dương Lăng vừa nghe nói kinh thành có mật chỉ không kìm nổi bỗng dưng đứng bật dậy, hỏi vội: 

- Ở đâu, mau đưa cho ta xem.

Liễu Bưu lật tay áo, cởi mảnh vải được bí mật buộc trên cánh tay, lấy ra một mảnh lụa vàng mềm mại, Dương Lăng vội vàng nhận lấy, mở ra để xem, không kiềm được mỉm cười, nói:

- Hoàng thượng trước nay luôn chuộng võ, ta đã đoán được rằng khi Hoàng thượng nghe nói Vệ, Sở bất tài hủ bại như vậy nhất định sẽ nổi giận đùng đùng, ha ha, Hoàng thượng muốn ta tùy cơ ứng biến, phụng chỉ trong thời gian thay vua đi tuần tra xét được toàn quyền xử lý mọi việc phạm pháp ở Giang Nam, có đạo thánh chỉ này thì chúng ta có thể danh chính ngôn thuận bắt người.

Dương Lăng vui mừng thu thánh chỉ lại, suy nghĩ một hồi, hỏi: 

- Động tĩnh của Viên Hùng và Tất Xuân thế nào? Có phát giác ra hành động của chúng ta không?

Liễu Bưu cười nhẹ, nói: 

- Chuyến đi Tô Châu này của đại nhân náo động ầm ĩ, cho dù bọn chúng có chút ngờ vực, lúc này cũng đã xóa bỏ dè chừng. Vậy đó, nếu nói về việc thu thuế má thì hắn xếp cuối trong ba tên Trấn Thủ Thái Giám, đại nhân đi kiểm tra Hàng Châu trước rồi lại đi Tô Châu đã thể hiện rằng đại nhân coi trọng nguồn gốc thuế má của lương thực, trà, hàng dệt hơn. Thế nhưng từ sau khi đại nhân đến đây thì Viên Hùng có phần giảm bớt bóc lột, hiện nay đã bãi bỏ bớt bốn phần trạm thu thuế, gần đây cũng luôn thu mình an phận thủ thường tại Vệ Long Sơn. 

Dương Lăng cười lạnh một tiếng, nói: 

- Đợi ta vừa mới rời khỏi, số bạc thiệt thòi trong những ngày an phận thủ thường này lại vơ vét gấp bội từ dân chúng về, hừ! Nhưng cũng không thể không quan tâm đến hắn, xa lánh hắn quá thì không khỏi làm hắn ngờ vực, nói cho hắn biết, năm ngày sau bản quan sẽ đến tuần thị Vệ Long Sơn.

Liễu Bưu hội ý, cười nói: 

- Vâng, đại nhân cho hắn uống viên Định tâm hoàn này thì đảm bảo hắn sẽ yên tâm đợi đại nhân. Thế nhưng… khi nào thì chúng ta động thủ?.

Ánh mắt của Dương Lăng chăm chú, nói: 

- Bắt đầu từ ngày mai, bổn quan muốn mở tiệc ba ngày đáp lễ quan viên, thân sĩ của Hàng châu để tặng cho y thêm một viên Định tâm hoàn nữa. Ngươi ngay trong đêm đi đến Hải Ninh, kế hoạch vạch ra trước đây thay đổi một chút, không cần phải tước đi binh quyền của Chủng Thiên tổng nữa, qua mấy ngày tiếp xúc bản quan cảm thấy người này còn có thể dùng được, chỉ cần giám thị chặt chẽ một chút là được. Sau ba ngày nữa, triệu tập vệ quân và diêm binh khởi hành lúc mặt trời lặn, ngay trong đêm đến Vệ Long Sơn, đến canh bốn bản quan muốn bọn họ xuất hiện ở đại doanh của Vệ Long Sơn!.

Liễu Bưu phấn chấn nói: 

- Vâng, ty chức tuân mệnh, nếu như đại nhân không còn việc gì khác, ty chức xin được cáo lui.

Dương Lăng nghĩ một lát, bỗng nhiên hỏi: 

- Đúng rồi, ta sai ngươi về kinh thành nhân tiện dò xét chút hành tung Nội đình và Ngoại đình, thế Ty Lễ Giám và Nội Các có động tĩnh gì khác thường không?

Liễu Bưu vỗ trán một cái, nói: 

- Ty chức chỉ biết vui mừng suýt nữa quên mất việc này, ha ha, đại nhân yên tâm được rồi, đám quan viên trong triều hiện nay chẳng thể để ý đến đại nhân nữa, Đại Đương Đầu nói, hiện giờ Hoàng thượng đã bỏ buổi chầu trưa, chầu sớm cũng thường đến muộn khiến ba vị Đại học sĩ Nội Các vì việc này mà dẫn đầu văn võ bá quan can gián suốt ngày, thường xuyên nảy sinh tranh chấp với Hoàng thượng. Hoàng thượng sau khi kết hôn, đối với hoàng hậu và hai vị quý phi nương nương thập phần lạnh nhạt, thường xuyên lén lút chuồn đến Báo Phòng (phòng nuôi báo) chơi đùa, Hoàng thượng kêu bọn người Cốc Đại Dụng thu gom mười con báo nuôi ở đấy, phái ba trăm võ sĩ phụ trách nuôi dưỡng huấn luyện, các chi phí nuôi dưỡng khác không tính, riêng thịt nuôi báo mỗi ngày đã chi dùng sáu mươi cân, bởi vì chuyện này, Ngự Sử đài và Hàn Lâm viện mỗi ngày đều liên tục dâng tấu, triều đình cũng đau hết cả đầu vì việc Hoàng thượng xao lãng triều chính, chơi đùa lãng phí.

Dương Lăng lấy làm kinh hãi, nghi hoặc hỏi: 

- Ta mới rời kinh thành chưa đầy một tháng, tại sao lại xảy ra nhiều việc như vậy? Hoàng thượng tuy rằng ham chơi nhưng nếu không có người xúi giục dụ dỗ thì cũng không thể hoang đường lệch lạc đến như vậy, Thế nhưng… Nội đình còn có đám người Vương Nhạc, Phạm Đình, bọn Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng cũng thuộc sự cai quản Ty Lễ Giám, sao dám làm xằng như vậy?

Liễu Bưu nhủ thầm: "Có một người bạn Xưởng Đốc của Nội Xưởng đang lên như mặt trời giữa trưa như ngài, bọn họ có gì mà không dám làm chứ?", thế nhưng hắn không dám nói ra lời nói này.

Dương Lăng cau mày nghĩ ngợi một lát, luôn cảm thấy trong một thời gian ngắn như vậy bọn người Lưu Cẩn dám to gan như vậy có chút không bình thường. Dương Lăng biết có đám người Vương Nhạc đè trên đầu, bọn Lưu Cẩn không có dã tâm thăng quan tiến chức nhanh, bình thường bọn chúng dỗ Hoàng thương chơi đùa chẳng qua cũng chỉ làm cho Hoàng thượng vui vẻ để kiếm chác chút lợi ích mà thôi, bây giờ bọn chúng làm như vậy chắc chắn sẽ dẫn tới sự căm ghét của các ngoại thần, bọn chúng không có to gan như vậy hay ít ra bây giờ là tuyệt đối không có, việc này nhất định có mờ ám.

Dương Lăng nghĩ đến đây, quả quyết nói với Liễu Bưu: 

- Thông qua mạng lưới thông tin của chúng ta nói với Đại Đương Đầu, chú ý cặn kẽ mọi tin tức Nội đình và Ngoại đình, có bất kỳ động tĩnh nào đều phải kịp thời trình báo cho ta.

Liễu Bưu thấy sắc mặt của Dương Lăng nghiêm trọng cũng không dám cười đùa nữa liền vội vàng “dạ” một tiếng, thấy Dương Lăng dường như đang có tâm sự, bấy giờ mới cáo từ lui ra ngoài, sau khi xắp đặt xong mọi việc lập tức đi Hải Ninh.

Hiện giờ Dương Lăng đã không còn là dịch thừa Kê Minh non nớt nữa, cũng đã ít nhiều hiểu rõ một số âm mưu thủ đoạn đả kích đối thủ chính trị như ném đá giấu tay, gắp lửa bỏ tay người ở trong triều. Khi y rời Kinh thành thì lo lắng Nội đình và Ngoại đình[4] sẽ gây bất lợi với mình, bây giờ nghe nói hành vi khác thường của Chính Đức nhất thời cũng không đoán được nguyên do trong đó cũng không khỏi ngấm ngầm nảy ý cẩn thận, chỉ sợ rằng đây là âm mưu do đối thủ bày ra. Ban đầu, Dương Lăng muốn mau chóng trở về Kinh, bây giờ có sự cảnh giác này lại trở nên cẩn thận không dám manh động, sợ dẫm vào cái bẫy do đối phương bày ra.

Dương Lăng đợi cho Liễu Bưu rời khỏi, ngồi yên lặng đem những việc mình đã làm từ khi xuống Giang Nam đến nay để cân nhắc kỹ càng lại một lần, không phát hiện ra chỗ nào có thể để người khác tố cáo hãm hãi y, sự lo lắng trong lòng mới dần lắng xuống.

Lúc này bức rèm châu vang lên đinh đang, một thân hình thanh tú lặng lẽ tiến vào, Dương Lăng quay đầu lại chỉ thấy Cao Văn Tâm đứng ở bên cửa, liền cười nhẹ rồi nói: 

- Mới sáng sớm đã phải châm cứu rồi sao?.

Cao Văn Tâm u oán liếc y môt cái, vị đại lão gia này quả thật không coi nàng như người hầu nhưng lại xem nàng như thầy thuốc tư nhân, lẽ nào không phải vì trị bệnh thì bản thân không thể đến gặp y sao?

Dương Lăng đứng dậy duỗi mình một cái, nói: 

- Được rồi, mỗi ngày một lần châm cứu, bây giờ một ngày mà không châm cứu ta cũng thấy không quen. Ha ha, đúng rồi, cách trị liệu Khư Hư Kiện Thể này nhất định cần nửa năm sau mới phát huy tác dụng sao?

Tuy nói là có bàn tay ngọc mềm mại của Cao Văn Tâm xoa bóp cũng coi là một sự hưởng thụ, thế nhưng mũi châm cuối cùng trong mỗi ngày kia đều châm y thành "một cột chống trời", làm Dương Lăng phải nằm sấp ở đó yên lặng chờ "nhị đệ" tâm bình khí hoà, một ngày hai ngày còn có thể chịu đựng được, chứ ngày nào cũng vậy, lại không có mấy cô gái nhỏ như Ấu Nương, Tuyết nhi ở đây, điều này giống như uống một cốc Xuân dược, sau đó lại dùng nước lạnh tạt vào, ngày tháng dài lâu quả thật là có chút khổ sở không thể nói thành lời. 

Khuôn mặt của Cao Văn Tâm ửng hồng, nàng nói dối Dương Lăng là phương thuốc làm khỏe cơ thể cho Dương Lăng thực ra là phương thuốc dùng để chữa trị bệnh vô sinh, dùng đến phương thuốc này thì chắc có chút tác dụng, còn như bây giờ có hiệu quả hay không thì cho dù nàng có là thần y cũng nhìn không ra được, liếc trộm vẻ mặt không tình nguyện của Dương Lăng, nàng chỉ biết bất đắc dĩ nói: 

- Bẩm lão gia, đúng vậy, phương thuốc này không dùng đủ nửa năm thì hoàn toàn không có hiệu quả, cho nên lão gia nhất định phải kiên trì uống thuốc châm cứu mới được.

Dương Lăng bất đắc dĩ, nói: 

- Được rồi, vào phòng trong dùng châm nào.

Dương Lăng nằm sấp trên giường, nhận thấy dáng vẻ muốn nói lại thôi của Cao Văn Tâm không nhịn được cười, nói: 

- Ta nói mà, hôm nay sao lại châm cứu sớm như vậy, có phải nàng có điều gì muốn nói với ta không?

Cao Văn Tâm sững người, tiếp đó lại cúi đầu nói: 

- Thị tỳ.... Thị tỳ không có điều gì muốn nói với lão gia... Thế nhưng... Có phải lão gia quên mất nói điều gì nói với thị tỳ?

Dương Lăng lấy làm ngạc nhiên hỏi: 

- Ta có điều gì… A! Nàng nói là… 

Y nằm sấp một lát, mới bất đắc dĩ nói: 

- Đợi lát nữa châm cứu xong, nàng thay trang phục rồi cùng ta ra ngoài dạo chút nhé. Đến đây lâu như vậy, đi đến đâu cũng nói ngắm cảnh nhưng thực ra cũng chỉ là đón tiếp tiễn đưa người đến thăm. Cùng nàng chèo thuyền ngắm sen có lẽ là việc vừa ý nhất của chuyến xuống Giang Nam lần này, tý nữa chúng ta cùng đi dạo hẻm nhỏ ở Hàng Châu, khi ấy… ta nói cho nàng nghe.

Các hẻm nhỏ ở Hàng Châu, thực giống như các tài nữ dòng dõi thư hương của Giang Nam, làm cho bạn mới nhìn thoáng qua thì sững sờ về vẻ đẹp của nó, thế nhưng có đi lại bao nhiêu lần bên cạnh nó bạn cũng không thể nào đoán ra được bí mật u nhã, thần bí ẩn chứa trong đó. Vừa mới bước vào hẻm nhỏ, tựa như thoáng cái từ đô thị phồn hoa bước vào giấc mộng mờ ảo. Sự u nhã tĩnh lặng của nó làm cho bước chân của người đi đường không tự chủ được thả lỏng một chút.

Dương Lăng và Cao Văn Tâm cải trang giống như sĩ tử dạo bước trên con đường đá xanh, chầm chậm thong thả đi vào hẻm nhỏ, ánh mặt trời sau buổi trưa nhè nhẹ rơi rụng trên mái hiên ở hai bên. Ở hai bên hẻm, từng căn nhà tường trắng ngói xám lẳng lặng đứng sững sững. Những viên ngói xám đã nếm đủ sự xâm nhập của mưa gió, hiện ra một vẻ buồn bã tang thương.

Trong hẻm nhỏ rất yên tĩnh, thỉnh thoảng người đi đường qua lại cũng rất thong dong, nhàn nhã. Bốn gã hộ vệ cải trang thành người qua đường ở phía trước, cách nhau khoảng mười bước chân đang cẩn trọng quan sát khách qua đường mở lối cho bọn họ, đằng sau cũng có bốn gã giữ khoảng cách như vậy chậm rãi đi theo.

Đến được địa vị như ngày hôm nay của Dương Lăng thì nếu như muốn một mình ra ngoài đi dạo và hưởng thụ không gian riêng tự do tự tại luôn là điều vọng tưởng mà tình cảnh như bây giờ đã là sự nhượng bộ lớn nhất của Trịnh Bách hộ rồi, con người ta đạt được cái này thì phải mất đi cái khác.

Giữa dãy nhà tường trắng ngói xám có mấy cửa tiệm nhỏ, hoặc là tiệm may, hoặc là quán mỳ, hoặc là tiệm tạp hóa, phần lớn chủ nhân trong tiệm đều đang ngủ gật. Đằng sau dãy nhà bên trái của hẻm nhỏ là một con sông nhỏ êm đềm, những căn nhà này đều xây dựng tựa vào sông, cửa sổ phía sau trông ra chính là dòng nước chảy róc rách, bên ngoài bức tường thấp phía sau dãy nhà bên phải là một con đường cái, có vẻ đẹp kiều diễm khác lạ của "Tường lí thu thiên tường ngoại đạo, tường ngoại hành nhân, tường lí giai nhân tiếu". (bên trong tường là xích đu, bên ngoài tường là đường cái, ngoài tường có người đi lại, bên trong giai nhân cười)

Bước qua một cây cầu nhỏ thấp thoáng dưới gốc cây Du nghiêng ngả là một hàng hiên dài, sát bên trái là sông, bên phải đều là tửu lầu. Tửu lầu đều không lớn nhưng phong cách lại rất cao nhã, dường như là các quán xưa mấy trăm tuổi, các cột hiên trước cửa đều đã phai hết sơn mạ, các chấn song cửa sổ chạm trổ mang phong cách cổ xưa.

Dương Lăng dừng bước trước một tòa tửu lầu, nói với Cao Văn Tâm – đã cải trang thành một công tử tuấn tú: 

- Đi nào, chúng ta lên lầu ăn một chút đồ.

Cao Văn Tâm cùng Dương Lăng vai kề vai đi dạo trong hẻm nhỏ tĩnh mịch, trong lòng vô cùng an nhàn chỉ muốn cùng Dương Lăng như vậy đi mãi, nghe Dương Lăng nói muốn lên lầu uống rượu nàng mỉm cười rồi dịu dàng gật đầu.

Trong tửu lầu không có khách, mà thực sự thì lúc này cũng ít có người ra vào các tửu lầu, ông chủ và tiểu nhị đều úp mặt ngủ gật trên bàn, sự nhàn nhã đó thật là làm cho người khác ngưỡng mộ. Tửu lầu ở ngay sát bên sông, trong lầu lúc này vẫn chưa có khách, hai người đi lên lầu hai rồi ngồi xuống vị trí gần cửa sổ, trước cửa sổ bày hai chậu cúc vàng nở rộ rực rỡ, ở phía trên treo một chiếc lồng chim trong có hai chú anh vũ đang hót véo von.

Dương Lăng kêu ông chủ giới thiệu vài món ăn, chỉ một lát rượu và thức ăn được bưng lên, thức ăn tinh xảo đẹp mắt như thịt chó hấp tương, cá tươi áp chảo, chân giò ninh măng, hạt sen chưng đường, hai vò hoàng tửu ấm, Dương Lăng chỉ biết vùi đầu ăn uống, Cao Văn Tâm có tâm sự trong lòng nên không ăn được, nàng chỉ nếm qua rồi thôi. Đôi mắt đẹp nhìn Dương Lăng chằm chằm, đợi y nói ra điều bí mật to lớn kia.

Dương Lăng thấy không thể tránh được nên đành phải bỏ đũa xuống, than nhẹ một tiếng, nói:

- Thức ăn ở đây tinh xảo, phong cảnh u nhã, lại có một người con gái tâm đầu ý hợp như nàng làm bạn, thật giống như thiên đường ở trần gian, chỉ tiếc là… thời gian mà ta có thể hưởng thụ không còn nhiều nữa.

Cao Văn Tâm cau hàng lông mày thanh tú lại, nghi hoặc hỏi: 

- Lão gia, ngài… lời này của ngài có ý gì?.

Dương lăng cười bất dắc dĩ một cái, nhẹ giọng nói: 

- Bởi vì .... tuổi thọ của ta chỉ còn lại một năm, một năm sau hồn về địa phủ, khi đó thế gian sẽ không còn ai là Dương Lăng nữa.

Cao Văn Tâm há đôi môi anh đào kinh ngạc sững sờ một lúc lâu, bất chợt nắm lấy cổ tay y. Bình thường nàng chỉ cần một ngón tay là đủ xem mạch cho người khác, lúc này người trong lòng nói ra những lời kinh hãi thế nên quan tâm quá tất loạn, trong lúc lo lắng mà dùng đến ba ngón tay.

Dương Lăng để mặc cho nàng nắm lấy cổ tay, ôn nhu nói: 

- Nàng là một người con gái tốt, tình ý của nàng đối với ta, Dương mỗ chẳng phải là tượng đất tượng gỗ nên trong lòng sao lại không biết? Với thân phận cao quý của nàng, nếu như không phải trong nhà bỗng nhiên gặp phải điều bất trắc mà trầm luân thành tôi tớ thì cho dù nàng và ta có duyên gặp mặt cũng chẳng thể nảy sinh tình ý, điều này há không phải là ý trời sao?.

Rốt cuộc Dương Lăng cũng thẳng thắn thừa nhận nảy sinh tình cảm với nàng, nếu như đổi thành khi khác nói ra thì Cao Văn Tâm không biết phải vui mừng đến thế nào, nhưng bây giờ nàng chỉ muốn biết Dương Lăng có ám tật trí mạng nào nên phảng phất giống như không nghe, chỉ ngưng thần lắng nghe mạch đập của Dương Lăng.

Dương Lăng khe khẽ nói:

- Nếu như nàng đồng ý... ta và nàng kết thành huynh muội khác họ được không? Sau khi về kinh thành ta sẽ xin hoàng thượng xóa bỏ nô tịch cho nàng, nàng lớn hơn bọn người Ấu Nương mấy tuổi, biết nhiều hiểu rộng lại lanh lợi hơn nhiều, sau khi ta qua đời xin nàng trông nom bọn họ nhiều hơn.

Cao Văn Tâm kinh hãi nhìn y chằm chằm, run giọng nói: 

- Ngài… mạch đập của ngài ổn định có lực, tuyệt không có bất kỳ chứng bệnh gì, tại sao lại nói như vậy?.

Cao Văn Tâm nhà tan cửa nát, từ sau khi mến mộ Dương Lăng đã coi y thành người thân nhất, là người duy nhất có thể nương tựa, lúc này kiểm tra không ra Dương Lăng có bệnh trên người nhưng y lại nói vô cùng nghiêm túc, tuyệt đối không giống như nói đùa làm Cao Văn Tâm lo lắng sợ hãi, trên trán đã toát mồ hôi.

Dương Lăng thấy vậy không nhẫn tâm, trở tay nắm lấy bày tay nhỏ ấm áp của nàng, khóe miệng nở một nụ cười khổ bất đắc dĩ: 

- Không phải kiểm tra nữa, ta không có bệnh, đây là số mạng, nàng hiểu không? Diêm La kêu người ta canh ba chết, ai có thể sống đến canh năm? Văn Tâm, nàng được xưng là thần y, nhưng đã gọi là y thì chỉ chữa đuợc bênh thôi còn vận mệnh thì làm sao mà chữa đuợc.

Cao Văn Tâm lắp bắp nói nói: 

- Lão gia, ngài... ngài nói mình chỉ còn một năm tuổi thọ, là .... là có người xem bói cho ngài? Thuyết tướng số có nhiều chỗ huyễn hoặc, ngài... ngài quá hồ đồ rồi , làm sao lại tin vào những thứ đó? A! Chẳng nhẽ là Trương Thiên sư bốc quẻ xem bói cho ngài?

Trên thế gian này ngoài trừ Trương Thiên sư thì còn ai khi xem bói dám nói thẳng tuổi thọ của người khác là như thế nào? Hơn nữa còn làm cho người ta tin tưởng không nghi ngờ? Cao Văn Tâm bỗng nhiên đứng bật dậy, định đi tìm Trương Thiên sư hỏi cho rõ ràng, Dương Lăng vội vã đứng lên, kéo lấy tay nàng: 

- Không liên quan đến Trương Thiên sư, tóm lại là… đạo hạnh người này còn lợi hại gấp trăm lần Trương Thiên sư, muộn nhất tháng mười năm sau chính là lúc thọ chung của ta. Ba người Ấu Nương bọn họ ta đã thấy mặc nợ quá nhiều, nàng nói đi… ta làm sao lại có thể nhẫn tâm làm hỏng tuổi thanh xuân của nàng?.

"Sao lại có thể chứ?" Cao Văn Tâm nghe vậy vừa giận vừa lo, người xưa tuy rằng nói là tin vận mệnh nhưng cũng chưa nghe ai dám xem bói nói tuổi thọ của người khác còn lại mấy năm, nếu thật có người xem bói như vậy đoán chừng sẽ từ đại sự biến thành lừa đảo rồi bị quan phủ coi là "yêu ngôn hoặc chúng" mà đánh chết.

Lão gia rõ ràng là rất khỏe mạnh nhưng lại cứ khăng khăng tin tưởng vào những lời nói xằng bậy đó, thì ra lão gia không tiếp nhận nàng không phải là ngại tuổi tác của nàng lớn, cũng không phải ngại nàng có thân phận gia nô mà hóa ra là... hóa ra là… Cao Văn Tâm hận là không thể ngay lập tức tìm thấy người đã nói Dương Lăng chỉ còn lại một năm tuổi thọ để giáng cho y một cái tát thật đau.

Nàng bực tức giậm chân, nói: 

- Không được, ta đi tìm Trương Thiên sư, nếu như ngài thật có mệnh hệ gì thì Trương Thiên sư sao có thể ngoảnh mặt làm ngơ? Đây rõ ràng là có người hồ ngôn loạn ngữ, cố ý ăn nói hù dọa.

Lúc này nàng cải trang thành con trai nhưng nhíu mày dậm chân thì lại là dáng vẻ yêu kiều của con gái, xem ra vô cùng dễ thương. Dương Lăng kiên quyết lắc đầu, nói: 

- Nha đầu ngốc, ta là người dễ tin những lời không căn cứ sao? Không cần phải đi tìm Trương Thiên sư nữa, cho dù là y cũng chưa chắc đã xem ra được. Những lời ta nói đều không phải giả dối cho nên… ta quyết không thể tiếp nhận tình ý này của nàng.

Dương Lăng thấy nàng lo lắng đến sắp chảy nước mắt, vội cười đùa cợt nhả dỗ dành, nói:

- Hay là chúng ta đánh cược, ngày này năm sau nếu như ta chết rồi thì nàng phải cùng ta kết bái huynh muội trước linh vị của ta rồi sau đó yên phận xuất giá, nếu như ta không chết thì là ta đã dối lừa nàng, lúc đó… thì ta sẽ gả cho nàng được rồi, ha ha ha.

Cao Văn Tâm thấy dáng vẻ cợt nhả cười đùa của y cũng không biết là y nói thật hay giả. Nếu lời y nói là thật thì cái dáng vẻ vô lại muốn bị ăn đòn kia quả thực không giống. Còn nếu nói là giả… nhưng rõ ràng trong ánh mắt kia ẩn chứa một sự bi ai sâu đậm, sao mình lại thích một người như vậy?

Dương Lăng hít một hơi dài, lấy lại tinh thần, nói: 

- Chúng ta bây giờ như thế này, làm một đôi hồng nhan tri kỷ có gì là không tốt? Chẳng mấy khi nàng cùng ta đơn độc đi dạo, nàng xem chỗ này… ý?

Dương Lăng chỉ ra ngoài cửa sổ, ngạc nhiên mở to mắt, sau đó đi tới vin vào cửa sổ nhìn xuống dưới. Cao Văn Tâm không hiểu ra sao, cũng vội đi theo. Chỉ thấy ở phía dưới của sổ là một con sông nhỏ nước chảy chầm chậm. Lúc này đang có một con thuyền Ô Bồng chầm chậm trôi đến. Trên đầu thuyền có một đứa trẻ mới lớn dáng vẻ chất phác khỏe mạnh. Chỉ là nhìn từ phía trên xuống thì trên gáy đứa trẻ đó có một cái bướu thịt lớn mầu tím đỏ, nếu như nhìn tỉ mỉ sẽ làm cho người thấy dựng hết tóc gáy.

Lúc này đứa trẻ đó đứng dậy, kêu lớn về phía sau: 

- Cha, khi nào cậu từ Quảng Đông về? Cậu nói khi nào quay về sẽ mang cho con nhãn và vải, bây giờ đã ba tháng rồi mà còn chưa thấy quay về?

Người đàn ông khua chèo ở phía sau cười ha ha: 

- Đứa nhóc ngươi chỉ biết thèm ăn, lớn như vậy rồi cũng nên hiểu chuyện đi, mẹ của con ở phường dệt nhà Cao lão gia rất vất vả, đừng có luôn cứ quấn lấy mẹ đòi mua quà vặt cho con ăn.

Dương Lăng hít một hơi lạnh.

"Đứa trẻ này… cũng không cha không mẹ, ta trông thấy đáng thương nên thu giữ nó lại đưa đến đây… à đúng, đó là việc mùa hè năm ngoái". Câu nói này của Mạc Thanh Hà giống như tiếng sét vang lên bên tai, Dương Lăng sững sờ nhìn theo con thuyền nhỏ nhè nhẹ trôi xa, trong lòng chỉ nghĩ: "Tại sao hắn lại lừa ta? Chẳng qua chỉ là thu giữ một đứa bé, ta lại không nói đến chuyện đi thăm những đứa trẻ đó, tại sao hắn lại phải tìm một thiếu niên đến giả vờ là đứa trẻ y thu nhận để lừa ta? Sợ ta nảy ý nghi ngờ như vậy, rốt cuộc hắn đã làm cái gì?’.

Dương Lăng bỗng nhiên bừng tỉnh quay người chạy xuống lầu, Cao Văn Tâm không biết đã xảy ra chuyện gì liền vội vàng đuổi theo người y nhưng chỉ mới xuống hai bậc cầu thang thì Cao Văn Tâm kêu một tiếng “ái a”, dẫm hụt một chân làm cổ chân bị trẹo, nàng đau đến sắc mặt tái nhợt phải dựa vào tay vịn mà đôi môi cũng run lên lẩy bẩy.

Dương lăng thấy thế vội vàng quay lại đỡ lấy nàng, tám gã nha sai khi nãy thấy lầu hai không có người liền chiếm lấy hai bàn ở lầu một, gọi đồ nhậu rồi canh gác, khi này thấy đại nhân vội vã chạy xuống lầu thì vội vàng bỏ đũa xuống rồi tiến lên trước nghênh đón.

Dương Lăng hạ thấp giọng nói: 

- Nhanh, cử hai người đi theo con sông ở phía đằng sau kia, đuổi theo một con thuyền. Trên thuyền có một đứa bé trên gáy có mọc bứu thịt, đi theo họ về nơi ở và tra xét rõ mọi thứ về họ, mau đi.

Hai gã sai nha mau chóng dạ một tiếng rồi quay người chạy khỏi tửu lầu. Dương Lăng đỡ lấy Cao Văn Tâm hỏi: 

- Nàng thế nào rồi?.

Vẻ mặt của Cao Văn Tâm đau khổ, nói: 

- Đau quá, cổ chân trẹo rồi, thị tỳ… thị tỳ không đi được nữa.

Hai gã sai nha thấy đại nhân đỡ người đi xuống cầu thang không tiện nên muốn đỡ lấy Cao Văn Tâm từ tay của Dương Lăng, Cao Văn Tâm làm sao chịu để bọn chúng lại gần người mình, Dương Lăng bất đắc dĩ phải cúi người luồn một tay nâng hai gối của nàng rồi bế ngang nàng lên, hai tay của Cao Văn Tâm thuận thế ôm chặt lấy cổ y, tuy rằng chân đau như kim đâm vào tim nhưng khóe miệng đã khe khẽ nở một nụ cười ngọt ngào. 

***

Nếu như người bạn gái của bạn bị trẹo cổ chân, bạn giúp nàng cởi giày tháo tất, xoa một chút rượu thuốc rồi sau đó sẽ như thế nào?

Đáp án rất đơn giản, không phát sinh bất kỳ việc gì hết, nàng ta sẽ thoải mái nói tiếng cảm ơn rồi sau đó lại thoải mái giơ tay ra cho bạn để bạn dìu nàng ta đi gọi xe, đợi cho nàng vào trong nhà thì không còn việc gì của bạn nữa.

Nếu như tại một thời đại đối với người con gái chân còn quan trọng hơn danh tiết, trinh tiết, nhiều người con gái đến thân thể đều trao cho đàn ông nhưng lại coi bàn chân của mình là bộ phận riêng tư không cho phép đàn ông chạm vào mà nói thì nàng ta chịu ngồi ở trên giường để cho bạn tháo giầy cởi tất, xoa nhẹ bàn chân nhỏ như bông sen, vậy điều đó có nghĩa gì?

Cao Văn Tâm biết điều đó có nghĩa gì cho nên nàng nhìn Dương Lăng lặng lẽ đưa tình, hé răng cắn nhẹ làn môi đỏ, đôi mắt phượng xinh đẹp quyến rũ khép lại như một sợi tơ.

Dương Lăng đang cúi đầu chăm chú giúp nàng xoa chân thì không biết, y chưa từng nghe qua câu nói "Đầu của đàn ông, chân của phụ nữ, chỉ được nhìn không được sờ", cho nên Dương Lăng không những sờ mà còn sờ tương đối tỷ mỉ.

Trong lòng Cao Văn Tâm, bắt đầu từ giây phút này, nàng đã hoàn toàn là người của Dương Lăng, cả đời cả kiếp này, không còn có thể gả cho người đàn ông thứ hai, còn Dương Lăng lại ngậm ngùi trong lòng: Bàn chân của Cao Văn Tâm thật đẹp, đây là đôi chân đẹp nhất mà y từng thấy, người phụ nữ có thân hình đẹp không dễ tìm, người phụ nữ có khuôn mặt đẹp càng khó tìm, còn người phụ nữ có đôi chân đẹp…”

Hai bàn chân của của Cao Văn Tâm nhỏ nhắn, gọn gàng, làn da trắng như tuyết, lóng lánh, hiện lên vẻ nhẵn bóng, thật là giống như vẻ trơn tru như ngọc, nét mềm mại như lụa, màu da trên mu bàn chân tựa như trong suốt, móng chân của mười ngón chân đều hiện màu hồng nhạt, giống như mười cánh hoa nhỏ.

Tào Thực có viết: “Lăng ba vi bộ, la miệt sinh trần” (nhẹ nhàng đạp sóng, áo phất bụi hồng - ND); Lý Bạch viết: “Phúc thượng túc như sương, bất chiếu Nha Đầu miệt" (bàn chân trắng trên đôi guốc gỗ, không đi vớ Nha Đầu- ND); đến như suốt ngày vì nước vì dân lo lắng âu sầu như Đỗ Phủ cũng từng viết: "La miệt hồng tảo diễm” (áo lụa màu đỏ tươi - ND), nếu như chưa từng thấy qua mỹ nữ có bàn chân thanh tú mềm mại mảnh mai đến thế thì sợ rằng cũng chẳng thể phát ra được cảm khái như vậy?

Cao Văn Tâm bị y xoa nhẹ đến rạo rực cả người, lòng xuân dập dềnh lại nhớ tới Dương Lăng năm lần bảy lượt khước từ tuyệt tình, coi tình cảm chân thành của mình như không có gì chỉ bởi vì một lý do đáng cười như thế làm nàng không khỏi lại có chút bực bội. Người con trai này, tại sao mình lại cứ khăng khăng thích y, thế nhưng nếu như đó chỉ là lý do vu vơ vậy không phải có nghĩa là chung thân đại sự của mình có hi vọng rồi sao?

Nàng cắn môi, không thoải mái vặn vẹo nửa người dưới, định hỏi hai người họ đã đến nước này rồi vậy khi nào y cưới mình về nhà, thế nhưng lời nói vừa đến miệng đã lại biến thành:

- Lão gia, thị tỳ… thị tỳ đỡ nhiều rồi, không phải lão gia nói Mạc công công là người biết điều nhất trong ba vị Trấn Thủ Thái Giám sao? Tại sao… Ái, có phải là hắn đem những đứa trẻ kia lừa bán cho người khác?

Dương Lăng nhè nhẹ lắc đầu, nói: 

- Không phải, sự bóc lột của hắn tuy rằng không lợi hại nhưng ở Giang Nam này cũng có thể coi như là tiền vào như nước, lừa bán mấy đứa trẻ có thể kiếm được bao nhiêu tiền chứ? Ta thấy kỳ lạ là ở chỗ này, hắn không nhất thiết tính toán mấy đứa cô nhi, nhưng bây giờ xem ra, tung tích những đứa trẻ mà hắn thu dưỡng kia đích thực có vấn đề, thoạt nhìn việc này cũng nhỏ nhưng y ra sức che đậy, tất có chuyện lớn, ta nhất định phải tra xét kỹ càng việc này.

Cao Văn Tâm im lặng một lát, gắng sức hít một hơi vào lấy hết dũng khí quyết tâm nói: 

- Lão gia, phần lớn giang hồ đạo sĩ cố ý nói bừa nói bậy để gạt tiền người ta thôi, một năm tuổi thọ cái gì chứ, làm sao mà tin tưởng được, thị tỳ… ngài.

Dương Lăng cười khổ nghĩ thầm chân tướng sự việc kia đích thực là kinh thế hãi tục, nếu như nói toàn bộ ra không chừng Cao Văn Tâm sẽ coi y thành yêu quái mượn xác hoàn hồn nên y làm sao dám nói ra, đành phải ậm ờ: 

- Ta không phải là một người hồ đồ, nếu như không chắc chắn mười phần thì ta cũng sẽ không nói vậy. Văn Tâm… sinh mệnh của ta quả thật không còn nhiều nữa .... Ài, những rối rắm ở trong đó không nhắc đến cũng được.

Y nói rồi ngẩng đầu nhìn một cái thấy Cao Văn Tâm đỏ mặt, trong đôi mắt dưới hàng lông mi dài kia đầy vẻ tủi thân và u oán lại vội vàng cúi đầu xuống, thế nhưng vừa mới cúi xuống thì chiếc áo dài mềm mại dán sát vào người chậm rãi hiện ra cặp đùi thon dài tươi mọng kia của Cao Văn Tâm, chóp mũi còn thoảng mùi hương thiếu nữ nhè nhẹ, động tác hai tay nắm lấy bàn chân ngọc nõn nà kia của y cũng không khỏi trở nên ngập ngừng.

Cao Văn Tâm thấy y vẫn khờ dại tin vào lời nói của đạo sĩ chấp mê bất ngộ, trong lòng bực bội vô cùng: “Lão gia ngốc nghếch nói thì đường đường chính chính, được rồi, nguyên phối là Ấu Nương, ngài cưới rồi, Ngọc Nhi, Tuyết Nhi là Hoàng thượng ban cho, ngài cũng cưới rồi, hiện giờ ngài còn… ngài còn… còn nói kết nghĩa kim lan, kêu ta gả cho người khác gì chứ, ta còn gả cho người khác được sao?”

Cao Văn Tâm nghĩ đến đây, cắn răng lẳng lặng rút một mũi kim châm từ trong búi tóc ra cầm trên tay. Dương Lăng đang cúi đầu thoa nhẹ cổ chân cho nàng, gáy ở ngay trước mắt nàng, chỉ cần nhè nhẹ châm một cái thần không hay quỷ không biết thì con người vô tình này đêm nay có thể trở thành lang quân của mình.

"Có nên châm xuống hay không?" Cao Văn Tâm tự hỏi, bàn tay nắm đuôi kim cũng khẩn trương toát mồ hôi ướt đẫm, lòng dạ nàng ngổn ngang đấu tranh không ngừng, trăm nghìn ý nghĩ xoay vòng trong đầu, bàn tay cầm kim châm kia run rẩy rốt cuộc không nhấc lên được.

Chú thích:

[1] Tam ty gồm Thừa tuyên bố chánh sứ ty, đề hình án sát ty, đốc chỉ huy sứ ty.

[2] Giang Chiết Mân Lỗ: Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Sơn Đông.

[3]Nội đình- Ngoại đình: là hai chế độ chính trị kìm chế lẫn nhau với quyền lực quân chủ là hạt nhân thời Minh.

Nội đình: tập đoàn chính trị với thành phần là hoạn quan (thái giám), gồm 12 giám, 4 ty, 8 cục. Trong đó, ty Lễ Giám là trung tâm quyền lực.

Ngoại đình: chỉ tập đoàn quan văn do Nội các, lục bộ thái thú, tuần phủ địa phương hợp thành. Trong đó, Nội các là trung tâm quyền lực.

CHƯƠNG 132: Niềm vui của cá [1]

Mũi châm run rẩy lẳng lặng tiến đến sát gáy của Dương Lăng. Cao Văn Tâm biết là mũi châm này vừa đâm xuống, Dương Lăng sẽ chỉ hơi cảm thấy tê ngứa giống như bị sợi tóc lướt qua nhè nhẹ, chắc chắn y không phát hiện có điều khác lạ, sau đó trong tình trạng tinh thần mê ảo, y có thể phát khởi dục tính mạnh mẽ. Sau khi đã quyến luyến một đêm xuân phong ngọc lộ, y còn có thể vịn cái cớ nực cười kia để từ chối bản thân mình sao?

Đáng thương cho nữ thần y, từ khi học được châm pháp "Kim Phụng Ngọc Điệp" tổ truyền của Cao Gia, nàng luôn dùng đến để cứu nhân độ thế. Lần phá lệ duy nhất là vì Dương Lăng, nàng đã thi triển tuyệt học làm cho người bình thường biến thành kẻ điên. Bây giờ nàng định phá lệ lần thứ hai muốn từ thiếu nữ biến thành thiếu phụ vẫn là bởi vì y, cũng không biết kiếp trước nàng đã thiếu nợ y bao nhiêu tiền chưa trả.

Thế nhưng lần này... cảm giác tội lỗi thật là nặng, trái tim của nàng đập như ngựa phi, mũi châm đó run lẩy bẩy, nếu cứ như vậy mà cũng có thế châm trúng huyệt đạo thì thật là quái lạ. Ngay lúc đó bỗng nhiên Dương Lăng thở dài nhẹ một hơi. Tuy tiếng thở dài này rất nhẹ nhưng Cao Văn Tâm vừa nghe thấy đã lập tức thu châm vào trong tay áo đánh "soạt" một tiếng, chột dạ hỏi: 

- Lão gia... lão gia thở dài gì vậy?

Dương Lăng lại đổ một chút rượu thuốc vào lòng bàn tay, nhè nhẹ xoa bóp cổ chân cho nàng, mỉm cười nói: 

- Chân của cô thật là đẹp! Tuy nhiều người là mỹ nữ, thế nhưng đôi chân cũng không bằng một phần vạn của cô. Đôi chân nhỏ nhắn rung động lòng người này nếu như ở... các nước phương Đông hải ngoại thì có thể tiền vào như nước.

Cao Văn Tâm là tiểu thư khuê các gia phong rất nề nếp, lại từng ở ty Giáo Phường cho nên sợ nhất là bị người khác so sánh với kỹ nữ. Nàng nghe vậy không khỏi biến sắc, cắn chặt môi, lúc sau mới cười một tiếng bi thương, sùi sụt: 

- Tuy thị tì đã từng ở ty Giáo Phường, nhưng cũng biết tự tôn tự trọng, may mắn được lão gia cứu khỏi hầm lửa. Bằng không, nếu như thị tì bị kẻ khác lăng nhục thì tuyệt đối cũng không chịu sống tạm bợ trên đời nữa, sao lão gia lại dùng việc này để làm nhục thị tì?

Dương Lăng kinh hãi, cuống quít giải thích: 

- Cô hiểu lầm rồi, đó là... phong tục tập quán của quốc gia đó không giống với Đại Minh, phơi bày bàn chân đẹp cũng giống như làm thơ vẽ tranh hiện giờ, ồ... Đó là việc có thể kiếm tiền một cách đường đường chính chính, trong lòng ta tuyệt không có ý làm nhục cô.

Làm thơ vẽ tranh để kiếm tiền? Giống như Đường Bá Hổ vẽ tranh xuân cung? Cũng chẳng phải là hạng người thấp hèn dùng để bán sao? Nghe y giải thích như vậy, Cao Văn Tâm càng thêm đau buồn trong lòng, không kiềm được vặn người nằm úp mặt lên đệm khóc rống lên. Dương Lăng không biết nên khóc hay cười, những người thời đại này đều có bệnh gì vậy nhỉ? Khen chân nàng đẹp mà cũng gặp nhiều rắc rối như vậy.

Y đứng dậy ra vẻ lão gia, hung dữ nói: 

- Đừng khóc nữa! Ta chỉ thấy đôi chân tự nhiên của cô tuyệt đẹp, khen ngợi vài câu tận đáy lòng. Cô thanh cao thuần khiết, không ngại lấy cái chết để tỏ lòng, người khác không biết thì thôi chứ ta còn không rõ sao? Sao lại có thể coi thường cô chứ? Thật là...

Cao Văn Tâm vẫn còn đau buồn, nghe thấy Dương Lăng khen nàng thanh cao thuần khiết, một nỗi hổ thẹn bỗng dưng trào dâng từ nơi sâu thẳm của trái tim thiếu nữ: "Sao ta lại như vậy? Nếu dùng cách này để lừa gạt lão gia, sau này lão gia nổi lòng nghi ngờ thì sẽ coi ta là người như thế nào? Những người đàn bà ngoại tình trong tộc đều bị thả rọ trôi sông, ta làm như thế này há chẳng phải là nữ tặc hái hoa, không bằng cả cô ả hạ tiện kia sao?

Không! Ta cần phải tìm Trương Thiên sư, xin hắn đoán vận mệnh cho đại nhân. Dù có thích lão gia đến thế nào chăng nữa cũng cần phải đường đường chính chính, trong trong sạch sạch gả vào nhà họ Dương, không thể dùng loại thủ đoạn đê tiện này."

Dương Lăng thấy tiếng khóc của nàng đã yếu nhưng vẫn chưa dừng hẳn, hai vai y chùng xuống, mặt mày rầu rĩ đổi sang vẻ cầu khẩn, nói: 

- Cô nãi nãi của tôi ơi, xin nàng nhỏ nhẹ một chút, người khác nghe thấy lại tưởng ta làm gì nàng!

Lúc này Cao Văn Tâm nằm sấp ở trên giường, chiếc áo khoác công tử kia dính sát vào người nổi bật cặp mông căng tròn chắc nịch. Câu nói "nhỏ nhẹ một chút"(*) vừa mới thoát khỏi miệng Dương Lăng, y đột nhiên nhớ tới cảnh Giang Nam tứ đại tài tử cười dâm đãng: "Quay đầu dặn nhẹ cho em" (*), không khỏi lén ngắm bờ mông vểnh cao của nàng.

(*) nguyên văn: “khinh ta cá”, mời xem lại chương 128

Cao Văn Tâm nghe y mềm giọng cầu xin, tuy trong lòng thất vọng vì y không hề ôm mình, nhưng cũng không dám vì được cưng chiều mà kiêu ngạo. Nàng quay đầu lại định nói chuyện, thì vừa kịp bắt gặp ánh mắt Dương Lăng đang lén lút ngắm nhìn thân thể mình, khuôn mặt ngọc không khỏi ửng đỏ. Dương Lăng thu ánh mắt, phát hiện đang bị người ta bắt gặp tại chỗ, y ngượng ngùng: 

- Ta... ta xem... ta xem cổ chân của cô có sưng nhiều lắm không. Cô nghỉ ngơi cho tốt, ta ra ngoài trước, nếu như... nếu như quả thực là không tiện, để ta kêu Mạc Thanh Hà phái hai tì nữ đến chăm sóc cô.

- Đừng...! 

Cao Văn Tâm vội vã ngồi dậy, quệt vội vệt nước mắt trên má: 

- Ai biết Mạc công công có chủ ý gì, tốt nhất là không để người của hắn đến căn nhà ngang phía tây này, thị tì... thị tì không… không sao cả.

Dương Lăng "ừ" một tiếng, nói: 

- Được, vậy cô nghỉ ngơi đi, chút nữa ta kêu người đem bữa tối vào phòng. 

Nói rồi y không đợi Cao Văn Tâm trả lời, ỉu xìu xìu tháo chạy ra ngoài.

Cao Văn Tâm đờ đẫn nhìn bức rèm châu ở cửa phòng lay động không ngừng, một lúc sau mới thở dài thất vọng, nàng lấy cây kim châm từ tay áo ra, chầm chậm cắm vào búi tóc. Nghĩ tới ánh mắt nóng bỏng Dương Lăng nhìn mình khi nãy, trong lòng nàng không khỏi vừa mừng vừa ngượng. Phụ nữ vì người mình thích mà điểm trang, nếu như sớm biết y đang nhìn... nhìn mình, thì mình quay đầu lại muộn một chút để y nhìn cho thỏa.

Vừa nghĩ như vậy, Cao Văn Tâm cảm thấy lòng bàn chân được Dương Lăng sờ qua lúc nãy bắt đầu ngứa, một luồng khí nóng từ lòng bàn chân chầm chậm chạy lên tim, đến trái tim cũng bắt đầu ngứa. Bất giác, một nét thẹn thùng đã lặng lẽ phủ lên hàng chân mày, khuôn mặt của nàng…

***

Ngày hôm sau, Khâm sai đại nhân Dương Lăng mời đáp lễ danh lưu thân sĩ của Hàng Châu. Dương Lăng làm chủ, Tri phủ Hàng Châu Dương Mạnh Anh và Trấn thủ thái giám Mạc Thanh Hà bồi tiếp, bày tiệc rượu lớn tại "Lư viên" Tây Hồ, tức là một trong Tây Hồ thập cảnh: "Hoa cảng quan ngư".

Ba ông lớn cùng nhau mời khách, thật là thể diện biết bao, thân sĩ danh lưu của Hàng Châu cùng tụ tập lại, đều đáp lại lời mời mà đến. Dương Lăng mặt mày vui vẻ, nâng cốc chúc rượu từng bàn, nghe bọn họ nịnh hót công lao dẹp giặc Oa bảo vệ dân chúng của mình, trong vẻ khiêm tốn còn mang theo dáng vẻ đắc ý lâng lâng. Thỉnh thoảng có người hỏi thăm y về lộ trình, Dương Lăng đều đáp sau khi tuần sát xong vệ sở Long Sơn thì sẽ lập tức quay về kinh sư, do đó tiến hành bày tiệc cảm tạ sự khoản đãi thịnh tình của thân sĩ Hàng Châu trước.

Đang chúc rượu, đột nhiên Dương Lăng cảm thấy hình như có người đang nháy mắt ra hiệu với mình ở phía đối diện. Dương Lăng nhìn kĩ lại thì thấy đó là Hoàng Chi Ninh - chưởng ban thân vệ tùy thân của mình. Hôm qua hắn đi điều tra đứa trẻ đáng nghi kia, theo dấu đuổi đến một gia đình, dùng chút thủ đoạn nghe ngóng hàng xóm xung quanh, hắn dò xét được gia đình đó đã ở vùng này nhiều đời, phụ thân của đứa bé đó họ Triển, kiếm sống bằng việc dẫn khách du lịch, mẫu thân làm thợ dệt tại hộ dệt của Cao Minh phủ. Đứa trẻ này tuy có khuyết tật nhỏ nhưng lại là hậu duệ duy nhất của nhà họ Triển, cho nên hai vợ chồng đều nuông chiều bé vô cùng.

Vốn Dương Lăng còn ôm mối hy vọng mỏng manh rằng đứa bé đó có lẽ đã được người nhận nuôi sau khi được đưa vào phường dệt Cao phủ, bây giờ đã hoàn toàn không còn nghi ngờ gì nữa. Y lập tức ra lệnh cho Hoàng Chưởng ban dẫn người tìm cách điều tra cho rõ những cô nhi mà Mạc phủ đã thu nhận còn ở trong những phường dệt đó hay không?

Vốn đám người Hoàng chưởng ban được đề bạt lên từ thân quân của Dương Lăng và từ trong Xích Hầu doanh. Trước đây bọn họ đã từng học qua các kỹ thuật, phương pháp điều tra từ Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh, sau khi trở thành nha sai lại được Ngô Kiệt huấn luyện thêm nên bây giờ đều là cao thủ trong nghề này.

Cho dù Mạc Thanh Hà có thủ đoạn thông thiên đi nữa, nếu như có người thật sự muốn điều tra tung tích của những đứa trẻ kia thì hắn cũng không thể che giấu được mấy chục người còn sống sờ sờ kia, chẳng qua là trước đây không có ai hỏi han gì đến đám cô nhi đó mà thôi. Bây giờ Dương Lăng đã có ý điều tra thì chẳng mất bao công sức, bọn Hoàng Chi Ninh đã lấy được tin tức chuẩn xác, vội vã quay về bẩm báo với Dương Lăng.

Dương Lăng đưa mắt ra hiệu cho hắn, kêu hắn đợi ở trên cây cầu gấp khúc (khúc kiều) gần đó, còn y lại tiếp tục chúc rượu vài bàn. Thấy Mạc công công và Dương Tri phủ đang bị đám người quen biết kéo lại trò chuyện, y liền lặng lẽ đi lại chiếc cầu.

Đình, đài, lầu, các, hoa cỏ trong Lư viên sum suê, hoa tươi chập chờn khắp nơi, các khóm Mẫu đơn quý báu như "Quý phi túy tửu", "Kiều dung tam biến" nở ra những bông hoa tươi to bằng bát cơm, tỏa ra mùi hương thoang thoảng. Nước ở dưới cây cầu trong như gương, cá chép vảy vàng đông nghìn nghịt, chỉ cần có người bước tới, lập tức từ bốn phương tám hướng chen nhau đến, ào ào nhảy ra khỏi mặt nước, con này nhảy lên, con khác rơi xuống, giống như có người đang giặt một tấm vải hồng trên mặt nước.

Dương Lăng bước lên trên cầu, dựa vào lan can nhìn xuống nước, dáng vẻ tựa như say rượu cần nghỉ ngơi một lúc. Hoàng Chưởng ban cũng rất tinh tế, hắn giả bộ đi đến đỡ lấy y, sau đó nói nhỏ: 

- Đại nhân! Theo điều tra của ti chức, Mạc công công trấn thủ Giang Nam đã năm năm. Nghe nói ba năm trước, sau khi hắn cưới đệ nhất danh kĩ của "Xuân vũ Hạnh hoa lâu" làm vợ, nghe theo sự khuyên nhủ của vợ đã làm nhiều việc thiện, xây đường đắp cầu, xây lán phát chẩn, còn thu nhận cô nhi đưa đến các phường dệt để làm thuê. Tính cho tới bây giờ, cộng thêm đứa trẻ vừa rồi thì đã thu nhận ba mươi lăm em rồi.

Dương Lăng gật đầu, hỏi: 

- Bây giờ đám trẻ đó còn làm thuê tại các hộ dệt kia không?

Hoàng Chưởng ban lắc đầu, nhẹ giọng đáp: 

- Tất cả đều không thấy nữa!

Dương Lăng giật mình, quay đầu lại, hỏi vội: 

- Người đi đâu?

Hoàng chưởng ban báo cáo: 

- Ti chức nghe ngóng tình hình của một đứa trẻ, đóng giả làm cậu họ xa của đứa trẻ đó từ Hiệp Bắc đến thăm nom, đến hộ dệt kia hỏi thăm. Theo như hộ dệt đó nói, đứa trẻ đó đến chưa đầy một tháng thì được người khác mua mất. Bởi vì đám trẻ đó chưa bán thân cho hộ dệt, hộ dệt đó sợ ti chức kiện bọn họ lừa gạt buôn người, liền nói số bạc đó chỉ là tiền ăn ở trong thời gian thu nhận đứa trẻ. Một phú thương Tô Châu vừa ý đứa trẻ đó, nói nó thông minh lanh lợi nên đưa về phủ làm bộc đồng, so ra còn tốt hơn việc mưu sinh tại hộ dệt nhiều.

Ty chức sợ rằng chỉ dùng kiểu thân phận này sẽ làm người khác hoài nghi, lại dùng các thủ đoạn mua chuộc để hỏi thăm các hộ dệt khác. Vô cùng kỳ lạ là đám trẻ đó ở chưa đầy một tháng thì đều bị người khác mua mất, càng kỳ lạ hơn nữa là người mua chỉ là một người, tên gọi là Lý Quý.

- Lý Quý? Cái tên này nghe quen quen... 

Nghĩ ngợi một hồi, bỗng nhiên Dương Lăng nhớ tới tên Lý Quý đã gặp ở Hàn Sơn tự tại Tô Châu, không khỏi nảy lòng nghi ngờ. Gia tài của Lý Quý hàng vạn, tôi tớ hơn nghìn, gã muốn mua vài bé cô nhi cũng chẳng có gì là lạ, nhưng đáng nghi là tại sao lại trùng hợp như vậy, những đứa trẻ Mạc Thanh Hà nhận nuôi đều bị gã mua tất, hơn nữa tất cả đều là trong vòng một tháng. Gã kiếm tiền chủ yếu từ cho vay nặng lãi và kinh doanh đất đai, không có liên quan gì đến nghề dệt vải, dù cho mỗi tháng đều đến Hàng Châu một lần, nhưng cũng chẳng có lý do gì mà lần nào cũng đến các hộ dệt thu thập đám cô nhi không người chú ý kia.

Hơn nữa..., hôm đó thấy gã vô cùng kính sợ Mạc công công. Gã dùng lương thực để cho vay, dùng đất để siết nợ, nếu muốn phát tài thì đương nhiên phải chịu sự quản lý của Mạc Thanh Hà, cho nên bợ đỡ nịnh nọt hắn cũng không có gì là lạ. Nhưng nếu như vì gã muốn lấy lòng Mạc Thanh Hà nên mới thu nhận đám cô nhi do Mạc Thanh Hà thu nuôi thì cũng không có lý nào mà đã ba năm rồi vẫn còn chưa báo cho Mạc Thanh Hà biết!

Lại liên tưởng đến việc cố ý dùng cô nhi giả để giải thích lòng dạ mình của Mạc Thanh Hà, trong lòng Dương Lăng không khỏi chấn động, một ý nghĩ nảy nên: "Bất kể trong này có điều cổ quái gì, chắc chắn là Mạc Thanh Hà đã biết chuyện này từ lâu. Hơn nữa hắn cũng không dám để cho ta biết chuyện này, cho nên trên đường quay về hắn mới vội vã sai người tìm một em bé giả làm cô nhi trong hộ dệt. Chẳng trách sau khi về đến thành, chính hắn chủ động đề xuất mời ta đi xem xét tình hình dệt vải ở Tô Châu...”

Nghĩ đến đây, Dương Lăng lại hỏi Hoàng Chưởng ban: 

- Tai mắt của chúng ta đã giăng đến Tô Châu chưa?

Hoàng Chưởng ban tự hào đáp: 

- Bẩm đại nhân, mạng lưới tình báo của chúng ta phát triển nhanh chóng vô cùng. Ngài vừa xuống Giang Nam, thì Vu đương đầu liền lấy Giang Nam làm trọng điểm phát triển, hiện giờ mấy thành lớn ở Giang Nam đều đã có người của chúng ta đóng ở đấy.

Dương Lăng nghe vậy trong lòng rất vui mừng, y suy nghĩ một lát rồi cười lạnh: 

- Được, lập tức tra xét tên Lý Quý kia! Không những điều tra tung tích của những đứa trẻ kia, mà còn cần phải điều tra lai lịch của Lý Quý. Chỉ trong thời gian vài năm ngắn ngủi mà tiền tài và quyền thế của gã đã đuổi kịp Ngô Tề Uyên - người giầu nhất đất Ngô có cả trăm năm lịch sử - xem ra có điều khả nghi.

Phần lớn các hào phú địa phương đều cấu kết với quan phủ, Ngô gia cũng không ngoại lệ. Nhưng tiền tài và quyền thế của Lý Quý bây giờ còn chưa sánh được với họ Ngô, mà hôm đó gã đã dám vô lễ như thế với Ngô Tề Uyên, chắc chắn sau lưng gã có chỗ dựa còn lớn mạnh hơn của Ngô gia. Cho nên ngươi cần phải cẩn thận khi điều tra gã, có bất kì tin tức gì đều phải lập tức báo cho ta biết.

Hoàng Chưởng ban gật đầu tuân lệnh. Đúng lúc này Mạc Thanh Hà mỉm cười bước đến, hỏi: 

- Dương đại nhân, có phải ngài đã say?

Dương Lăng khoát tay ra hiệu Hoàng Chưởng ban rời khỏi, sau đó "ha ha" cười nói với Mạc công công - người làm cho y càng lúc càng không thể đoán được lòng dạ: 

- Quả nhiên Hoa Cảng Quan Ngư đẹp hết chỗ nói. Lúc nãy bản quan uống rượu hơi vội, nay đã nghỉ ngơi được một lát, bây giờ cũng cảm thấy đở hơn rồi.

Mạc Thanh Hà nhìn lướt qua, thấy tên sai nha đỡ Dương Lăng lúc nãy đã lùi xuống nhưng không rời khỏi, vẫn đứng ở đầu cầu, hình như là tùy tùng phụ trách bảo vệ Dương Lăng. Nét nghi ngờ trong mắt lúc này mới tan biến, hắn vui vẻ đến bên Dương Lăng, vung tay rải một vốc thức ăn cá xuống nước. Đầu cá nhấp nhô, giống như một cơn sóng hồng dâng lên, đám cá đó chen nhau đến một chút nước cũng không nhìn thấy, nếu như thò tay vớt thì cũng có thể dễ dàng bắt được vài con cá chép.

Mạc Thanh Hà không kềm được than thở: 

- Cá đã từng bị mắc câu thì sẽ không dễ bị lừa, nhưng cá nuôi trong ao, chỉ biết sự nuôi dưỡng của con người, hoàn toàn không hề cảnh giác với con người. Ở nơi giống như thiên đường này mà cởi trần bắt cá sẽ làm hỏng mất phong cảnh; bằng không hạ quan gần như muốn xuống dưới đó bắt vài con để nhắm rượu rồi.

Dương Lăng mỉm cười: 

- Người chết vì tiền, chim chết vì mồi, đám cá bị trói buộc trong ao này rồi, thực ra muốn chạy cũng không chạy thoát được. Đã là như vậy, chi bằng tự vui với mình; suy nghĩ cho lắm lại là tự tìm phiền não.

Vừa nghe câu "người chết vì tiền, chim chết vì mồi", nụ cười trên mặt Mạc Thanh Hà không khỏi đông cứng lại. Vốn hắn đang định vung tay rải một vốc thức ăn cho cá, cánh tay hơi khựng lại, phần lớn thức ăn rơi thẳng xuống mặt cầu.

Dương Lăng nhìn thấy tất, nhưng vẫn ung dung thản nhiên nhìn đám cá đang vội bơi đến kia, dường như cảm khái vô cùng, nói tiếp: 

- Đời người một kiếp, cỏ cây một mùa, không tính những năm tháng trẻ tuổi và thời gian xế chiều, thời gian dùng để ăn chơi đàng điếm, hưởng thụ vinh hoa còn có được bao nhiêu? Cho nên mới nói: “Đời người khi đắc ý thì cần phải vui sướng hết mình!”

Mạc Thanh vui mừng vô cùng, hắn cười vui vẻ tán thành: 

- Lời nói của đại nhân làm thức tỉnh người trong mộng, ti chức thọ giáo rồi. Nghe nói đại nhân đi Long Sơn vệ xong thì sẽ quay ngược về kinh ngay; ti chức vốn định chuẩn bị một chút thổ sản để đại nhân mang về kinh, nhưng nghe nói đại nhân đã mua một ít rồi, trong nhất thời ty chức cũng không biết mua gì nữa. Một chút lễ mọn này xin đại nhân vui lòng nhận cho, dọc đường nếu đại nhân thấy thích thứ gì thì mua thứ đó, coi như là chút tâm ý của ti chức.

Dương Lăng đón lấy, thấy đó là một xấp ngân phiếu dầy cộm, đều là giấy bạc có hạn ngạch cao nhất – một vạn lượng bạc trắng. Y không khỏi cả kinh, đây là một hậu lễ rất to lớn, những đồ vật cao nhã mà đám thân sĩ danh lưu tặng cho, nhiều nhất cũng chỉ hơn vạn lượng, không bằng số lẻ của hắn biếu mình.

Lễ vật trọng hậu như vậy, nếu như trước ngày hôm nay thì Dương Lăng không dám nhận, nhưng lúc này y lại thản nhiên nhận lấy, vội vội vàng vàng đút vào trong tay áo, mặt mày hớn hở:

- Chuyến đi Giang Nam lần này, bản quan thấy Mạc đại nhân là người thanh khiết nhất trong ba vị Trấn Thủ, vì quốc gia thu thuế, không tiếc sức mình cúc cung tận tụy, bản đốc vô cùng hài lòng. Bản đốc trấn thủ Kinh sư, còn ở các địa phương khác phải nhờ cậy vào các vị trấn thủ. Giang Nam là vựa thóc của thiên hạ, là vùng đất trù phú giầu có và đông đúc, về sau còn phải nhờ vả đại nhân rất nhiều.

Những ngày này Mạc Thanh Hà cũng chẳng hề nhàn rỗi. Hắn đã nắm được thông tin về việc Nội Xưởng mở một con đường riêng, dùng vận chuyển đường biển, đường bộ để khai thác tiền tài, tin tức; nay thế lực Nội xưởng đã trải khắp khắp thiên hạ. Qua trận chiến Hải Ninh, hắn còn tận mắt thấy được sự lợi hại của Nội Xưởng và năng lực của Dương Lăng nên trong lòng đã quyết ý trung thành, cống hiến sức lực cho Dương Lăng, từ giờ sẽ đi theo hẳn Dương Lăng.

Chỉ là tất cả các quan lại giám sát việc thuế khóa trong cả nước, không có ai là không tham ô, có khác biệt cũng chẳng qua là tham ô nhiều hay ít mà thôi. Dương Lăng vừa mới rời khỏi Kinh sư thì hắn đã nghe ngóng được lúc trước Dương Lăng là thị độc của Thái tử, mỗi ngày đều đi bộ vào cung, làm quan cũng rất thanh liêm, sau này dân chúng kinh sư lại lan truyền rằng Dương Lăng vì dân chúng mà bị rơi vào tử lao, cho nên trong lòng hắn luôn kiêng dè Dương Lăng.

Dương Lăng vừa mới đến Giang Nam thì hắn thấy y mang theo một thuyền đầy hàng lậu, việc này đã khiến cho hắn rất đỗi kinh ngạc; sau đó lại thấy Dương Lăng thu nhận lễ vật, thu mua đặc sản Giang Nam, hình tượng Dương Lăng trong lòng hắn bị đảo lộn hoàn toàn. Hôm nay lại nghe thấy những lời kiến giải về tận hưởng lạc thú trước mắt này, hắn lập tức dâng hậu lễ chuẩn bị từ trước lên nhằm bày tỏ lòng trung thành.

Vừa nghe thấy lời nói có ý lôi kéo này của Dương Lăng, Mạc Thanh Hà lập tức lộ nụ cười, nói: 

- Đại nhân quá khen! Ti chức đã ngưỡng mộ uy danh của đại nhân từ lâu, bây giờ lại là thuộc hạ của đại nhân, tự nhiên ti chức sẽ tận hết toàn lực, tận trung vì nước, đem sức lực phục vụ đại nhân, mong đại nhân cất nhắc nhiều hơn.

Dương Lăng cười "ha ha", vỗ nhẹ vào vai hắn, bóng gió: 

- Điều này tất nhiên rồi! Chỉ cần Mạc công công đối đãi thành thật với Dương Lăng ta, vậy thì... Chỉ cần có Dương mỗ ta thì không thể thiếu Mạc công công ngài được.

Mạc Thanh Hà được y vỗ vai, thoáng chốc người đã nhẹ như bông, hắn cười nịnh: 

- Đại nhân yên tâm! Đại nhân phong nhã hào hoa, tiền đồ tựa gấm, ti chức cam lòng làm lính hầu cho đại nhân, từ bây giờ cùng đại nhân vui buồn có nhau, phúc họa cùng chịu.

Hắn chỉ cá chép ở trong nước, nói tiếp: 

- Hôm nay nói chuyện gan ruột với đại nhân, ti chức nhìn lại đám cá bơi lội trong nước này cũng cảm thấy khác biệt so với trước. Người khác cảm thấy con cá này ngu dại, thì ra bọn chúng mới thật sự hiểu ý vị của nhân sinh. Ha ha, ta không phải cá, sao biết được niềm vui của cá.

Dương Lăng mỉm cười tiếp lời: 

- Ngài không phải tôi, sao biết được niềm vui của tôi?

Hai người cùng nhìn nhau, đồng loạt cất tiếng cười to...

Chú thích:

[1] Nguyên văn "Quan Ngư Chi Nhạc" 

Xuất phát từ điển cố: “Bác không phải cá, sao biết được niềm vui của cá?”

Trang Tử cùng Huệ Tử dạo chơi trên cầu sông Hào.

Trang Tử nói: “Cá ra chơi thong thả, đó là niềm vui của cá.”

Huệ Tử hỏi: “Bác không phải cá, sao biết được niềm vui của cá?”

Trang Tử hỏi lại: “Bác không phải tôi, sao biết tôi không biết niềm vui của cá?”

Huệ Tử đáp: “Tôi không phải bác nên không biết bác đã đành. Nhưng bác vốn không phải cá, thì hẳn là bác không biết được niềm vui của cá.”

Trang Tử nói: “Xin nói lại từ đầu. Bác hỏi tôi sao biết được niềm vui của cá, thế là bác đã biết tôi biết rồi mà hỏi tôi. Tôi thì biết điều đó ở trên sông Hào nầy.

Chương 133 - Đàn Ông Thật Khổ

Cao Văn Tâm đưa mắt quan sát Trương Phù Bảo đang mặc đạo bào nhưng lại để xõa mái tóc dài mượt mà đang đứng trước mặt. Nhận thấy đôi mày cô ta đẹp như tranh vẽ, khuôn mặt tràn ngập một vẻ đẹp non nớt ngây thơ, rõ ràng là một nha đầu còn chưa lớn hẳn, nàng dở khóc dở cười hỏi: 

- Cô… liệu có ổn không? Chuyện này quan trọng, không biết Bảo Nhi cô nương có thể đưa ta đi gặp Thiên sư được chăng?

Trương Phù Bảo đang rảnh đến phát ốm, khó khăn lắm mới kiếm ra việc để làm, đời nào nàng chịu đưa Cao Văn Tâm đi gặp ca ca? Huống chi hiện giờ ca ca đã được một vị tín đồ giàu có là thương nhân bán trà Mai lão tiên sinh mời đi rồi.

Ngồi nghiêm trang trên ghế, cô nàng bày đầy các dụng cụ bói toán lên bàn, ra vẻ già dặn: 

- Có gì mà không ổn? Đạo hạnh của tôi so với gia huynh cũng chẳng hề thua kém chút nào, hơn nữa… Thiên sư không tùy tiện gieo quẻ cho người khác đâu. Nếu tỷ tin tôi, tôi sẽ bói cho tỷ một quẻ, chúng ta quen nhau cũng là duyên phận, tiền quẻ khỏi phải trả. Còn nếu như không tin tôi… Vậy xin Văn Tâm cô nương hãy về đi. Cho dù tỷ gặp được gia huynh, huynh ấy cũng không chịu ra tay đâu.

Thấy Cao Văn Tâm có vẻ thẫn thờ ngẩn ngơ, Trương Phù Bảo chợt nở một nụ cười tinh quái để lộ hai chiếc răng khểnh đáng yêu, nói tiếp: 

- Tỷ tỷ muốn bói nhân duyên hay sao? Ồ… Tuổi tác tỷ tỷ như vậy cũng sớm nên lấy chồng rồi, có điều nhìn vẻ mặt tỷ lại không giống như là sắp có chuyện mừng. Tỷ tỷ hãy đưa sinh thần bát tự cho tôi đi, để tôi bói thử một quẻ xem sao. Có điều phải thanh minh trước, tôi chỉ có thể bói được đại khái ngày giờ tỷ gặp hỷ sự chứ không xác định được người đó là ai đâu.

Cao Văn Tâm thẹn đến đỏ bừng cả mặt vì sau lưng nàng đang có hai gã nha sai theo hộ vệ. Lần này nàng đã cố sống cố chết nhất định đòi đi ra ngoài, nếu để bọn họ tưởng là vì nguyên nhân này, há chẳng phải nàng sẽ bị người ta cười đến chết mất sao?

Thì ra nàng thấy Dương Lăng bày tiệc tại Lư Viên để mời các bậc danh sỹ có tiếng ở chốn này bèn muốn lẻn ra khỏi phủ đi tìm Trương thiên sư hỏi quẻ xem sao. Tuy cổ chân nàng đã bị trẹo nhưng rượu thuốc do nàng tự chế lại rất hiệu quả, sau một đêm chân đã hết sưng, chỉ cần đi nàng đi chầm chậm là sẽ ổn.

Những người ở lại canh giữ Mạc phủ có ai mà không biết vị cô nương xinh đẹp này mỗi lúc đêm khuya vắng lặng đều thường ra vào phòng ngủ của Xưởng đốc đại nhân, nếu nói giữa hai người bọn họ không có quan hệ gì ám muội thì ai mà chịu tin chứ? Trong lòng những người này đều sớm đã coi cô thị nữ xinh đẹp như hoa ấy là tứ phu nhân. Nàng ta nằng nặc đòi đi gặp Trương thiên sư, người trấn giữ dinh thự là Hạ bách hộ ngăn cản hồi lâu mà chẳng được, chỉ đành phái một chiếc kiệu nhỏ cùng với hai thủ hạ đắc lực đi sát theo bên cạnh nàng.

Thấy vị Bảo Nhi cô nương này cứ khoác lác mãi, một mực vỗ ngực tự xưng là đã được chân truyền từ Thiên sư đời trước, Cao Văn Tâm đành ngồi xuống, ngoảnh đầu thấp giọng bảo hai gã nha sai: 

- Phiền hai vị hãy ra ngoài cửa đợi ta, ta muốn… mời nữ chân nhân bói cho ta một quẻ.

Hai gã nha sai cho rằng vị đại cô nương này mong lập gia đình, nóng lòng muốn qua cửa để làm Xưởng đốc phu nhân. Mà con gái vốn e thẹn, bản thân mình đứng bên cạnh quả thực không thích hợp nên hai gã bèn y lời mà lùi ra ngoài cửa, đứng chờ ở hành lang.

Cao Văn Tâm lấy từ trong ngực ra một mảnh giấy, nàng còn chưa kịp nói gì thì Trương Phù Bảo vốn nóng lòng muốn khoe tài đã giật lấy, đưa tay ngăn không cho nàng lên tiếng, vẻ mặt ngạo nghễ bảo: 

- Không cần phải nói! Thiên sư biết thiên cơ, mười phần cũng đúng được tám chín, đợi tôi nhất nhất bói ra cho tỷ.

Cô nàng có tâm khoe mẽ. Vốn chỉ cần dùng một loại công cụ chuyên bói việc nhân duyên là được, nhưng lúc này nào là tiền đồng, thẻ trúc, mai rùa, la bàn (đây là loại la bàn phong thủy dùng để bói toán, không phải la bàn chỉ hướng thông thường – ND.),… tất cả đều được cô nàng lần lượt lôi ra sử dụng, động tác thuần thục đẹp mắt, khiến Cao Văn Tâm nhìn mà nhức mắt choáng đầu nhưng lòng tin thì tăng lên vùn vụt.

Trương Phù Bảo càng tính động tác lại càng chậm lại, cuối cùng do dự nói không ra lời. Cao Văn Tâm không kìm được hỏi: 

- Thế nào? Có gì không ổn sao?

Trương Phù Bảo ngẩng đầu lên, cặp mắt to tròn trong veo lấp lánh lén liếc nhìn Cao Văn Tâm, bụng nhủ thầm: “Hỏng rồi! Lần này thì thật mất mặt quá, hôm nay quẻ bói không linh. Rõ ràng người ta ngồi ngay trước mặt mình, nếu mình nói theo số mệnh thì tỷ tỷ này đã phải chết từ lâu rồi mà tỷ ấy không tát cho mình mấy cái mới là lạ.”

Trương Phù Bảo cười khan đáp: 

- Hơ… Chuyện này… Hì hì hì! Tỷ muốn đoán việc nhân duyên phải không? Chuyện nhân duyên này là do trời định, duyên phận chưa tới biết cũng vô dụng, duyên phận tới rồi thì nửa kia khắc sẽ tìm đến cửa. Tùy tiện tiết lộ thiên cơ chỉ e vận mệnh sẽ vì thế mà biến đổi mất.

Cao Văn Tâm không kìm được trừng mắt bực bội, hơi bất mãn: 

- Không phải cô đã nói thứ gì cũng đều có thể bói được hay sao? Sinh thần bát tự này không phải là của ta, mà là của Dương đại nhân, ta muốn... muốn nhờ cô bói xem đại nhân còn hưởng được bao nhiêu năm dương lộc.

Trương Phù Bảo cả kinh, cô nàng chợt nắm chặt lấy la bàn đứng bật dậy nhìn chằm chằm Cao Văn Tâm, khiến Cao Văn Tâm không khỏi thầm bủn rủn, cũng lật đật đứng dậy.

Sinh thần bát tự của Dương tú tài đã từng được đưa đến nhà họ Hàn khi hai bên hợp hôn (Một nghi lễ trong quá trình kết hôn ngày xưa, hai bên trao đổi sinh thần bát tự để xem có hợp với nhau không - ND.), do đó trong tay Hàn Ấu Nương vẫn còn giữ sinh thần bát tự của phu quân mình. Cao Văn Tâm tìm được phương thuốc chữa chứng “nội hư bất dục” của Dương Lăng trong thư tịch cổ, dựa theo yêu cầu của phương thuốc thì cần biết sinh thần bát tự của bệnh nhân.

Thời thượng cổ y thuật và thuật phù thủy vốn không được phân chia rõ ràng, do vậy trong y thuật thường xen lẫn một số pháp thuật bừa bãi, có một số thì cần căn cứ vào sinh thần bát tự để quyết định lượng thuốc và thời gian chữa trị. Cao Văn Tâm cũng không biết là việc đó có linh hay không, nhưng bốc thuốc cho người mà mình cực kỳ coi trọng thì tất nhiên nàng không dám sơ xảy. Do đó nàng cứ y theo sách mà làm, lén hỏi Ấu Nương về sinh thần bát tự của Dương Lăng.

Từ lúc vừa gặp Dương Lăng, nhìn tướng mạo của y, Trương Phù Bảo đã đoán định được rằng mệnh tướng của người này quái dị, nhất định là được người nào đó có đạo thuật cực cao đoạt xá tục mệnh (mượn xác hoàn hồn ) giúp cho. Nay có sinh thần bát tự của y trước mắt, cô nàng càng tin chắc vào nhận xét khi xưa của mình.

Nếu người bình thường mà nghe được chuyện này, nói không chừng sẽ coi kẻ được mượn xác hoàn hồn là yêu quái. Nhưng Trương Phù Bảo xuất thân từ Long Hổ sơn, cả ngày toàn nghiên cứu mấy chuyện về thần với quỷ. Nghe nói Gia Cát Lượng thời Tam Quốc đã từng dùng đèn thất tinh để cầu kéo dài dương thọ, đáng tiếc là bị Ngụy Diên xông vào trong lều, vô tình đá đổ ngọn đèn thất tinh nên ông thất bại trong gang tấc. Những chuyện như thế này Bảo Nhi cô nương đã từng được nghe nói rất nhiều.

Do đó Trương Phù Bảo không coi Dương Lăng như quái vật. Nàng chỉ ngạc nhiên vì không ngờ trên đời này lại có vị cao nhân thực hiện được môn pháp thuật trong truyền thuyết mà ngay cả cha nàng cũng không làm được như vậy.

Trương Phù Bảo nhìn Cao Văn Tâm hồi lâu, nhớ đến việc ca ca đã từng nói Dương Lăng quyền cao chức trọng, hơn nữa sau lưng còn có một vị đạo nhân đạo hạnh cao siêu, Long Hổ sơn không dây đến được. Nàng bèn vội xoa xoa khuôn mặt sớm đã cứng đờ, đổi sang bộ mặt tươi tỉnh ngọt ngào, cười híp mắt: 

- Tỷ… Tỷ muốn tính thọ lộc của Dương đại nhân phải không? Mệnh cách của y quý lắm, còn về thọ lộc…

Cao Văn Tâm căng thẳng hỏi: 

- Thọ lộc thế nào?

Trương Phù Bảo buồn bực ngồi trở lại ghế, đáp: 

- Thọ lộc cực cao, chắc chắn sẽ sống rất thọ. Có điều tuổi tác cụ thể như thế nào thì chẳng ai có thể tính ra được.

Vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, Cao Văn Tâm vội hỏi lại: 

- Cô chắc chắn chứ? Không có sai sót gì chứ?

Trương Phù Bảo bực bội đáp: 

- Cụ thể thì tôi tính không ra, không phải đã nói mười phần thì đúng được tám chín rồi sao? Trên thế gian này ngoài chính phúc chính thọ ra thì còn có tai bay vạ gió, mệnh tướng chỉ có thể tính ra được cái chính phúc chính thọ ấy thôi. Vậy nên mới có câu thiên cơ khó đoán, lỡ có tai vạ bất ngờ xảy ra thì tôi cũng không dám đảm bảo.

Dương Lăng nắm quyền bình trong tay, đi đến đâu cũng có thị vệ bao quanh trùng trùng, có thể gặp phải tai vạ bất ngờ gì chứ?

Vốn Cao Văn Tâm cũng chẳng tin vào mấy lời quỷ quái của Dương Lăng, luôn cho rằng có người giả thần giả quỷ lừa gạt y. Bây giờ nghe được lời của Trương Phù Bảo, lập tức nàng giống như được uống thuốc an thần, cứ ngồi đó ngẩn ngơ thích thú một hồi lâu, hồn phách bay về nơi xa tít tắp, chẳng biết là đang nghĩ gì.

Đến khi tỉnh táo trở lại, nhìn thấy Trương Phù Bảo đang hai tay chống cằm, chớp chớp đôi mắt to tròn tò mò nhìn mình đang thả tâm hồn bay tận đâu đâu, nàng mới đỏ mặt nói: 

- Vậy Bảo Nhi cô nương… Cô có thể theo ta trở về giải thích với đại nhân chuyện này được không? Đại nhân… Đại nhân không biết là nghe gã lừa đảo nào nói bậy, cứ luôn tin rằng bản thân chẳng còn sống được bao lâu nữa…

Trương Phù Bảo thầm nghĩ: “Y nghĩ như vậy thì lại càng đúng rồi! Chắc hẳn là vị cao nhân đã thi triển phép đoạt xá tục mệnh giúp y kia cũng không hoàn toàn tin tưởng vào đạo thuật của mình, không biết chuyện nghịch thiên cải mệnh có thể thành công hay không, do đó y mới có suy nghĩ này. Ồ… Con người y cũng không tồi, nhìn chẳng đáng ghét chút nào cả! Chà, cả ngày y cứ phải lo lắng như thế cũng thật đáng thương. Chỉ cần ta không vạch trần bí mật của y, cứ bịa bừa mấy câu rằng y phúc thọ song toàn, sống lâu trăm tuổi chắc là cũng không sao đâu. Nhưng không biết liệu ca ca có đồng ý hay không…”

Nghĩ đến đây, Trương Phù Bảo bèn cười nói với Cao Văn Tâm: 

- Được rồi! Phần tôi thì không vấn đề gì cả, nhưng ca ca đã đi làm khách ở bên ngoài, đợi huynh ấy trở về tôi hỏi lại huynh ấy đã.

Đã biết được sự thực, Cao Văn Tâm cũng không ngại phải đợi thêm một thời gian. Nàng bèn đứng dậy tươi cười thi lễ: 

- Đa tạ Bảo Nhi cô nương, vậy tôi xin cáo từ đây, hôm khác sẽ lại đến bái phỏng.

***

Có những người dù ở cạnh nhau cả đời cũng không thể trở thành bằng hữu cho dù giữa bọn họ chẳng có mâu thuẫn gì, đó là bởi giữa bọn họ thiếu một thứ mà cả hai cùng cảm thấy có hứng thú. Còn những người cùng chung chí hướng thì rất nhanh sẽ trở thành bạn bè tri giao của nhau.

Sau khi hai con người “cùng chung chí hướng” là Dương Lăng và Mạc Thanh Hà từ “Lư viên“ (Chính là “Hoa cảng quan ngư”, một trong Tây hồ thập cảnh) trở về Mạc phủ, bọn họ đã trở thành một cặp hảo hữu tri giao. Giữa hảo hữu với nhau thì chuyện gì cũng đều có thể mang ra bàn luận một cách vui vẻ, hai người nói từ phong tục Hàng Châu cho tới chốn quan trường ở kinh sư, nói từ đám mây trên trời cho tới bụi hoa bên đường, rồi lại nói tới những nữ nhân xinh đẹp…

Hì hì… Nếu vị thái giám lão huynh kia đã chủ động nói đến chuyện này rồi, sao còn phải xấu hổ làm gì nữa chứ?

Hiển nhiên Dương Lăng đã say, khuôn mặt anh tuấn đỏ bừng mang theo bảy phần tửu ý. Còn Mạc Thanh Hà thì cũng đã có mấy phần say, nhìn cái vẻ loạng choạng lảo đảo của hắn, dường như nếu không có vị quản gia họ Lý ở bên cạnh dìu đỡ thì chỉ e hắn đã đâm đầu ngay xuống rãnh rồi.

Vừa mới bước vào khu nhà Mạc phủ cổ kính, Dương Lăng đã dừng ở tiền sảnh cười bảo Mạc Thanh Hà:

- Hôm nay dốc gan dốc ruột đàm luận với Mạc đại nhân một phen, lại được cùng đại nhân đối ẩm, quả nhiên là sảng khoái vô cùng. Hiện giờ bản đốc đã chẳng thể uống thêm, xin phép được trở về nghỉ ngơi. Ngày mai còn có một lượt khách khác cần khoản đãi, Mạc đại nhân cũng nên chú ý nghỉ ngơi đi!

Dường như ngay cả mắt cũng không mở ra được nhưng Mạc Thanh Hà vẫn khoác lác: 

- Ùi, Dương đại nhân, chúng ta nói chuyện đang vui, sao lại đi ngủ ngay thế chứ? Nào nào nào, hãy đến nội thư phòng của hạ quan ngồi chơi một chút, hạ quan có trà ngon cực phẩm dâng lên. 

Nói đoạn bèn kéo tay Dương Lăng bước đi luôn.

Dương Lăng vừa đi vừa tò mò hỏi: 

- Còn có trà ngon ư, chẳng lẽ lại ngon hơn cả loại trà cực phẩm mà ngài tặng ta lần trước à?

Mạc Thanh Hà cười khà khà đáp: 

- Đại nhân chớ trách! Không phải là hạ quan không chịu dâng lên cho đại nhân, quả thực là trà này… trà này quá hiếm. Hạ quan cũng chỉ thỉnh thoảng mới uống thôi, nếu mà đem tặng cho đại nhân thì cũng chỉ tặng được một tí tẹo, không khỏi có vẻ bủn xỉn quá.

Dương Lăng nảy lòng tò mò, không kìm được hỏi gặn: 

- Trà gì mà lại hiếm có như vậy?

Mạc Thanh Hà ghé sát tới bên tai y, nhỏ giọng: 

- Trà này cũng là loại Long Tỉnh cực phẩm trước mưa, có điều… nó không phải là dùng tay hái. Hạ quan đã chọn ra những người trẻ tuổi xinh đẹp nhất từ trong số các vị cô nương hái trà, kêu bọn họ dùng răng và đầu lưỡi để hái búp trà, sau đó lại mời trà sư chế biến sơ qua một chút rồi đựng vào trong túi, cuối cùng thì đặt những cái túi đó vào trong ngực các cô nương kia để hong khô. Hà hà, cực phẩm đấy! Dùng miệng để hái trà nên suốt cả ngày cũng chẳng hái được bao nhiêu, do đó loại trà này ít đến đáng thương.

Lão thái giám này, thật biết hưởng thụ quá thì phải?

Kêu các thiếu nữ mười bốn mười lăm tuổi dùng cái miệng nhỏ xinh để hái trà, sau đó lại hong khô trà trên những bộ ngực thơm tho ấy. Tuy công nghệ này chưa chắc đã tạo ra được loại trà ngon hơn trà do các vị trà sư điều chế, nhưng mỗi khi uống trà lại nhớ đến những công đoạn kia, cái ý cảnh ấy thật là…

Cũng như người ta đồn rằng Churchill thích hút xì gà Cu Ba là bởi vì ông ta đã từng tận mắt chứng kiến những cô gái làm ở xướng sản xuất xì gà vén váy lên, quấn xì gà trên những chiếc đùi trắng nõn gợi cảm đến mê người, do đó ông mới say mê cái thứ xì gà mang theo mùi vị lãng mạn ấy. Mà là đàn ông, ai có thể kháng cự được sự lãng mạn kiểu này cơ chứ?

Dương Lăng không kìm được liếc nhìn Mạc Thanh Hà, vẻ mặt tràn ngập ngưỡng mộ: 

- Mạc đại nhân thật lợi hại… thật lợi hại… Trà ở đâu vậy? Mau đưa bản quan đi xem thử một phen!

Hai người đi qua sân trước, sảnh giữa, sân sau, cuối cùng đi tới một ngôi lầu trang nhã, dọc đường hoa cỏ khắp nơi chẳng khác gì chốn tiên cảnh.

Giữa hồ giả sơn cao vút, đặc sắc tinh xảo, một ngọn tựa sư tử, một ngọn tựa chim ưng; quanh bờ hồ là những lùm trúc xanh biếc, xen lẫn bên trong là những khóm hoa trà rực rỡ sắc màu…

Trên bức tường chắn trước sân sau có khắc bốn chữ “Hoa Trúc Di Tĩnh”, bốn phía xung quanh bức tường gạch là những hàng mai lan trúc cúc được cắt tỉa gọn ghẽ, hàng lối thẳng tắp, tinh tế vô cùng.

Loại trang viện của nhà giàu này hai bên đâu đâu cũng có cửa, cũng chẳng rõ là rốt cuộc có bao nhiêu gian phòng, giữa trang viên thì đầy những ao hồ giả sơn, còn đá tảng kỳ dị trông như tổ ong thì nơi nào cũng có. Tùng la hán với những tán cây hình tròn cong mình uốn khúc leo cao, trên mặt nước là những lá sen xanh biếc, cùng kết hợp với những ngọn giả sơn tạo ra một khung cảnh an lành thảnh thơi vô hạn.

Tại tầng một của tòa lầu là một đại sảnh bọc lấy một tiểu sảnh, bố trí trang nhã hoa lệ; kề đỉnh phòng gần như là chen chúc những ô cửa sổ được trang trí tinh tế tỉ mỉ, toàn bộ đều được làm bằng hồng mộc đắt tiền.

Sát với bức tường trong tiểu sảnh có kê một chiếc giường nhỏ, trên giường có chăn, xem ra có lúc Mạc công công cũng ngủ lại đây. Đằng trước tấm bình phong là một chiếc bàn bát tiên cùng một chiếc bàn tròn, hai người đang ngồi trước chiếc bàn tròn đó. Mạc Thanh Hà gọi một người tì nữ xinh đẹp mặc bộ quần áo màu hồng đến, dặn dò mấy tiếng, người tì nữ đó bèn vội vàng đi pha một ấm trà.

Dương Lăng có dáng vẻ như đã ngà ngà say, nhưng từ khi y tình cờ nhìn thấy đứa bé kia thì quả thật đã nảy lòng cảnh giác với vị Mạc công công này. Hiện giờ y không biết đối phương mời trà rốt cuộc là có ý đồ gì nên trong lòng cũng thầm nhắc bản thân phải cẩn thận.

Lúc này Lý quản gia đã bước vào, đứng ở ngoại sảnh cung kính thưa: 

- Lão gia, đợt bạc thuế đầu tiên đang chuẩn bị khởi hành vận chuyển đến kinh thành. Áp vận sứ đại nhân mời lão gia đến kiểm tra dấu niêm phong, ngài xem…

Dường như Nội thư phòng này của Mạc Thanh Hà có rất nhiều quy định, người tì nữ pha trà kia sau khi đưa trà vào liền lập tức rời đi, hiện giờ vị Lý quản gia mà hắn tín nhiệm nhất cũng chỉ có thể đứng ở ngoài chờ lệnh, không dám tùy tiện bước vào. Mạc Thanh Hà hơi chau mày, sau đó vỗ đầu với vẻ như chợt giật mình hiểu ra: 

- Ái chà! Ta quên mất, hôm nay bắt đầu khởi hành hay sao?

Rồi hắn quay sang cười nói với Dương Lăng: 

- Đại nhân! Ngài xuống phía nam tuần tra việc thu thuế, hạ quan cũng không thể làm đại nhân mất mặt được, bạc thuế năm nay đợt đầu tiên hạ quan sẽ giao đủ tám phần. Bây giờ thuyền sắp khởi hành, do thuyền bạc đi chậm nên cần đi trước một bước, đợi khi đại nhân vừa về đến kinh thì thuyền bạc cũng vừa kịp tới đó, hà hà…

Dương Lăng nghe vậy vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, đây đúng là dấu hiệu tốt. Hiện giờ Thuế giám khắp nơi trong thiên hạ đều đang chờ đợi quan sát động tĩnh ở Giang Nam. Chỉ cần mở được một đột phá khẩu ở Giang Nam này, Thuế giám khắp nước sẽ cho rằng thế lực Đông xưởng đã mất, không còn ảnh hưởng gì nữa. Lần này bản thân mình xuống phía nam coi như là đã làm được một chuyện lớn. Không cần biết Mạc công công là người như thế nào, hành vi này của hắn rõ ràng là để tỏ ý muốn đi theo mình; chỉ cần thuyền bạc ấy được vận chuyển đi, tình thế sẽ thay đổi hẳn, đến khi đó dù hắn có hối hận cũng không kịp nữa.

Dương Lăng vội đứng dậy nói: 

- Hay lắm, vậy thì mau đi làm đi, à nầy… Mạc đại nhân đã có việc công, vậy hôm khác chúng ta hãy lại uống trà tán gẫu, bản quan xin về Tây viện trước đây.

Mạc Thanh Hà vội cản: 

- Đừng vội, đừng vội! Trà này tươi ngon lắm, pha rồi mà để lâu sẽ kém hương vị đi mất! Hà hà, xem ra đây là khẩu phúc của đại nhân rồi, bây giờ hạ quan lại phải ra ngoài, ờ… 

Hắn do dự một chút, khi đi đến cửa thì chợt ngẩng đầu lên phía lầu trên gọi: 

- Phu nhân! Mau mau xuống đây thay ta tiếp đãi đại nhân!

Dương Lăng sợ đến giật nảy mình, vội vàng đứng dậy thối thác: 

- Mạc đại nhân còn có việc công phải làm, ta cứ tạm rời đi là được, Ơ… Trong tòa lầu này không có người nào khác, chỉ còn nữ quyến tiếp đãi thì e không được thỏa đáng lắm.

Mạc Thanh Hà ra vẻ khó xử: 

- Bây giờ mà đại nhân rời đi, há chẳng phải là khiến hạ quan không làm tròn đạo đãi khách ư? Đại nhân bất tất phải đề cao thị, nói là phu nhân, nhưng chẳng lẽ đại nhân còn không biết hạ quan là người thế nào sao? Tiểu Lâu vốn là danh kỹ Giang Nam, cưới thị về nhà chẳng qua chỉ là để khoe mẽ với bên ngoài, có tính là phu nhân gì đâu chứ? Không có gì đáng ngại đâu…

Trong khi hắn đang nói, từ trên lầu chợt nghe một âm thanh trong trẻo yêu kiều vọng xuống: 

- Lão gia, ngài phải ra ngoài hay sao?

Kế đó một đôi giày thêu màu đỏ nhẹ nhàng xuất hiện ở chỗ ngoặt trên cầu thang, chiếc váy xanh biếc đung đưa khe khẽ, một bóng người yểu điệu mỹ miều chậm rãi đi xuống lầu, chính là vị Mạc phu nhân tràn đầy quyến rũ.

Dương Lăng không khỏi ngượng ngập cung tay chào: 

- Mạc phu nhân…

Nhìn thấy y, dường như Mạc phu nhân hơi ngẩn ra, sau đó cặp mắt hớp hồn cứ nhìn chăm chăm vào y không chớp, thị mỉm cười:

- Không biết Dương đại nhân tới đây, thiếp thân đã thất lễ rồi. 

Vừa nói vừa nhẹ nhàng nhún người thi lễ.

Mạc Thanh Hà bảo: 

- Phu nhân! Ta phải tới nha môn Thuế giảm để kiểm tra số bạc thuế chuẩn bị vận chuyển đến kinh sư. Ấm trà ngon vừa pha kia đang định dùng để giúp đại nhân giải rượu, nàng hãy ngồi lại đây cùng với đại nhân một lúc. À, Dương đại nhân bất tất phải gò bó quá, hạ quan đi trước đây. 

Nói đoạn hắn bèn vội vàng theo Lý quản gia đi khỏi. 

Dương Lăng nhớ đến chuyện Mạc phu nhân trêu ghẹo mình lần trước, trái tim không kìm được đập nhanh hơn, thầm nghĩ: “Không phải là Mạc Thanh Hà muốn dùng mỹ nhân kế với mình chứ? Nhưng hôm nay hắn đã hoàn toàn yên tâm về mình, quả thực không cần mình cắm giúp cho hắn một cái sừng to tướng như thế. Hắn là thái giám, vợ lại xuất thân là danh kỹ hàng đầu, chẳng lẽ hắn thật sự chỉ coi vợ như một món đồ trang trí nên mới không tôn trọng vợ như vậy?”

Mạc phu nhân thấy y đang ngẩn ngơ bèn khẽ đưa tay gạt nhẹ mấy sợi tóc vương trên trán, dáng vẻ thật sự là quyến rũ động lòng người đến cực điểm. Bàn tay thon đưa lên, ống tay áo xanh biếc trượt xuống để lộ ra một đoạn cổ tay trắng ngần.

Thấy Dương Lăng nhìn mình, Mạc phu nhân đung đưa lúng liếng ánh mắt, cười tươi: 

- Đại nhân, hãy vào nhà ngồi đi! Trà này lão gia quý lắm đấy, nói là cái gì mà cực phẩm trong cực phẩm, bủn xỉn đến nỗi thường ngày không hề cho tiện thiếp uống thử. Hôm nay may được nhờ phúc của đại nhân. 

Vừa nói thị vừa cất bước khoan thai đi thẳng tới. Đang đứng ở cửa, Dương Lăng cảm thấy một làn hương thơm cao nhã ập thẳng vào trong mũi nên vội lùi lại hai bước, đành xoay người ngồi trở lại ghế.

Mạc phu nhân đi tới bên cạnh y, nhẹ nhàng rót hai chén trà. Lẳng lặng liếc thấy Dương Lăng đang mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim tựa như một vị lão tăng nhập định, khóe miệng thị hơi nhếch lên, một nụ cười quyến rũ mà tà dị thoáng qua rồi chợt tắt. Thị yểu điệu nâng chén, hai tay dâng lên: 

- Đại nhân, xin hãy nếm thử trà này xem mùi vị thế nào?

Thấy chén trà đã được đưa tới trước ngực mình, Dương Lăng đành phải dùng hai tay đón lấy. Y nhất thời không đoán được tâm tư của Mạc Thanh Hà, tuy biết đối phương chưa chắc và cũng không cần thiết phải hạ độc hại mình nhưng vẫn phải cẩn thận đề phòng, chỉ khẽ nhấp một ngụm nhỏ ra vẻ như đang thưởng thức.

Cặp mắt lãng đãng tràn ngập ý xuân của Mạc phu nhân cứ nhìn chằm chằm vào y, dường như đang chờ y bình phẩm, ngụm trà này lại chẳng thể nhổ ra, còn có thể ngậm đến lúc nào đây? Dương Lăng đành phải bấm bụng liều nuốt xuống. Trong bụng cũng không phát sinh cảm giác gì khó chịu, y mới thấy yên tâm.

Mạc phu nhân thấy vậy cũng nâng chén lên, nhưng đôi mắt hút hồn lại vẫn nhìn Dương Lăng không chớp, cặp môi hồng khẽ hé ra nhấp một ngụm trà rồi dịu dàng cười nói: 

- Quả nhiên là trà ngon, chỉ là mùi vị này… cũng không có gì đặc biệt cả, đúng không Đại nhân?

Thị vừa mới cười, vẻ quyến rũ liền lan tỏa khắp nơi. Nụ cười này thật sự là lẳng lơ đến thấu tâm can, tựa như có thể câu hồn hút phách; lại kết hợp với giọng nói trong trẻo yêu kiều mang theo một chút vẻ dịu dàng kia, thật càng có vẻ ngọt ngào vô hạn.

Dương Lăng cũng không thể không thừa nhận nữ nhân này thật đúng là một vưu vật bậc nhất trên đời. Trong số các cô gái mà y từng gặp, có lẽ chỉ có Mã Liên Nhi khi lớn thêm một chút, phong vận thành thục thêm một chút là có thể so được với thị. Còn những cô gái khác đẹp thì có đẹp, nhưng lại căn bản không thể so được với cái vẻ quyến rũ trời sinh tỏa ra từ tận trong xương tủy kia. 

Dương Lăng cười khan, đáp: 

- Đúng vậy, trà này… thực ra…

Mạc phu nhân khom người xuống, thân hình càng lúc càng sáp đến gần Dương Lăng, cặp mắt câu hồn cứ nhìn chăm chăm vào y, khẽ cất tiếng: 

- Thực ra trà này đích thực có một phong vị đặc biệt riêng, chỉ là cách uống của đại nhân không đúng. Đại nhân có muốn biết trà này cần phải uống như thế nào không?

Dương Lăng hơi thẳng người ra phía sau, đáp: 

- Hiểu biết của Dương mỗ về loại trà này có hạn, mong Mạc phu nhân hãy chỉ giáo cho!

Mạc phu nhân nghe xong bèn lộ một nụ cười quỷ dị, vừa nâng chén trà lên miệng vừa nói: 

- Sở dĩ trà này khác với trà thường, đó là bởi nó phải uống như thế này này!

Dứt lời, thị ngậm một ngụm trà trong chiếc miệng nhỏ xinh, đặt chén trà xuống, chậm rãi xoay eo thon, đột ngột ngồi ngay vào lòng Dương Lăng, tay phải ôm lấy cổ y, bờ môi tươi tắn động lòng người ghé sát tới môi y.

Dương Lăng sợ đến giật nảy người. Nhưng cặp mông căng tròn mềm mại đã ngồi xuống đùi y, trước mắt y lại là một cặp nhũ phong đầy đặn cao vút, nếu muốn đẩy ra thì phải đẩy vào đâu đây? Y chỉ đành vội vàng quay đầu né tránh: 

- Mạc phu nhân, xin hãy tự trọng!

Tuy nữ nhân này cực kỳ xinh đẹp quyến rũ nhưng lại quá đê tiện. Nếu không phải Dương Lăng còn chưa biết được rốt cuộc Mạc Thanh Hà có phạm tội ác tày trời gì hay không nên chưa tiện trở mặt, lúc này y sớm đã phất tay áo đứng dậy, đẩy thị ra rồi.

Mạc phu nhân cũng không miễn cưỡng, thị tự nuốt ngụm trà, kế đó vòng nốt tay trái qua ôm lấy cổ Dương Lăng, giọng yêu kiều: 

- Dương đại nhân! Ngài đang lo rằng khinh nhờn vợ của quan cấp dưới sẽ bị người ta tố cáo hay sao?

Thị thở ra một hơi buồn bã, hai hàng lông mi dài trĩu xuống, nói tiếp: 

- Đại nhân! Ngài còn không biết lão gia… lão gia muốn ta đến hầu hạ đại nhân là có ý gì sao?

Thị đưa mắt liếc nhìn Dương Lăng, dáng vẻ nhu mì quyến rũ: 

- Tiện thiếp vốn là nữ tử ở chốn trăng hoa, ngoài chút nhan sắc này ra thì chẳng còn sở trường gì khác. Lão gia… lão gia cưới tiện thiếp về chẳng qua chỉ là cho có mà thôi, nào có từng coi tiện thiếp như người vợ bao giờ! Ông ấy thành tâm muốn thân cận với đại nhân nên mới muốn tiện thiếp đến hầu hạ ngài, tuyệt đối không dám có ý đồ gì bất lợi với ngài đâu.

Mạc phu nhân vừa nói, vừa không ngừng cọ sát đôi mông căng tròn đầy đặn vào thân thể Dương Lăng. Tuy người thị rất nhẹ nhưng đôi mông mỹ miều đang ngồi trên đùi Dương Lăng dường như lại nặng đến lạ thường, từ đùi y không ngừng truyền lên cái cảm giác mềm mại mà đầy vẻ đàn hồi ở những nơi được cọ sát.

Nếu không phải cặp mông đầy đặn kia cách chỗ yếu hại còn xa và nếu không phải Dương Lăng đang ngồi khép đùi thì e rằng lúc này y đã phải lâm vào cảnh xấu hổ rồi.

Không thể nhẫn nhịn được nữa, Dương Lăng vươn người đứng dậy đẩy thị ra khỏi lòng, lạnh lùng nói: 

- Xin phu nhân hãy tự trọng! Phu nhân là vợ yêu của Mạc đại nhân, Dương mỗ sao có thể làm những chuyện như thế này được? Cáo từ!

Dương Lăng chẳng phải là kẻ ngốc. Nếu Mạc công công không làm chuyện gì xấu thì lôi kéo được hắn đương nhiên là chuyện tốt. Nhưng nếu phải dùng phương thức hưởng thụ thê tử của hắn để thể hiện ý liên minh, cho dù không có điều kiêng kị gì về mặt đạo đức thì ít nhất cũng sẽ bị người ta nắm lấy điểm yếu; sau này khó tránh khỏi sẽ bị Mạc công công đem ra uy hiếp. Hơn nữa, trong nhà y còn có ba vị vợ đẹp thiếp xinh nên y vẫn chưa đến mức đói khát phải ăn vụng bừa bãi bên ngoài như thế này.

Lấy vẻ quyến rũ vô ngần của mình làm vũ khí, trước giờ Mạc phu nhân chưa từng gặp phải chuyện gì bất lợi, hoàn toàn không hề có người đàn ông nào có thể kháng cự được sự quyến rũ của thị cả. Hiện giờ Mạc Thanh Hà đã ngầm tỏ ý bảo thị hãy lên giường với Dương Lăng, nhất định là hắn sớm đã thăm dò kỹ càng về Dương Lăng rồi, y không phải là loại quan viên tham tiền háo sắc mới là lạ. Nhưng tại sao… y lại vẫn cứ giả bộ cự tuyệt mình như thế cơ chứ?

Mạc phu nhân hơi bất ngờ, đồng thời cũng nảy lòng háo thắng. Thị chợt bước tới chắn trước cửa, cười yêu kiều: 

- Đại nhân là sủng thần của Hoàng thượng, là tổng đốc Nội xưởng, một tay che trời thì còn sợ cái gì chứ? Thiếp muốn cùng ngài nam hoan nữ ái triền miên một đêm, đó tuy cũng là một cách biểu hiện thành ý của lão gia nhà thiếp với đại nhân nhưng thực ra thiếp… thiếp cũng…

Thị cắn chặt môi, liếc nhìn Dương Lăng với vẻ thẹn thùng vô hạn, khuôn mặt ửng hồng: 

- Một công tử trẻ tuổi anh tuấn bất phàm, phong lưu tiêu sái như đại nhân đây, tiện thiếp mới lần đầu nhìn thấy đã thầm ghi tạc vào lòng rồi. Đại nhân… ngài hãy thành toàn cho nô gia đi…

Vừa nói Mạc phu nhân vừa nhẹ nhàng đưa tay lên kéo dải áo, chiếc váy lụa màu xanh tựa như một bóng chim hồng lướt đi trên mặt nước, dán sát vào tấm thân mỹ miều vô hạn của thị trượt xuống dưới. Không ngờ trên người thị chẳng còn mảnh vải nào khác cả.

Bờ vai thon gọn mịn màng kia, bầu ngực đầy đặn rung rinh kia, cái eo thon không đầy một vòng ôm kia, cặp đùi trắng nõn thon dài thẳng tắp được khép chặt lại không để lộ ra khe hở nào ở giữa kia, còn cả chiếc gót ngọc đẹp đẽ kia nữa…

Trên tấm thân nõn nà mà mịn màng ấy nổi bật lên những đường cong nhấp nhô lên xuống chết người. Tuy thân thể thị đang trần trụi nhưng vẫn tràn ngập nét phong tình, tự nhiên cởi mở, cặp mắt như mọng nước đang nhìn Dương Lăng với những tình cảm chứa chan, khóe miệng hơi nhếch lên để lộ một nụ cười yêu kiều quyến rũ còn phảng phất mang theo một ít vẻ lẳng lơ…

Đằng sau một cái lỗ xuyên tường bí mật đang có một đôi mắt chăm chú quan sát thân thể hoàn mỹ không chút tì vết nào của thị. Ánh mắt dần trở nên nóng bỏng, đó chính là đôi mắt của Mạc Thanh Hà.

Một phụ nữ đẹp xiết bao, thật đúng là tác phẩm hoàn mỹ nhất của tạo hóa! Hơi thở của hắn dần trở nên dồn dập. Hắn rất muốn xách thương lên ngựa đích thân xông pha chiến trường nhưng lại không làm được, do đó hắn mới rất thích nhìn lén phu nhân của mình gian díu với người khác, và đây đã dần trở thành sở thích lớn nhất của hắn.

Khi nhìn người khác hoan hảo với Tiểu Lâu, hắn có thể tưởng tượng mình chính là kẻ đó, hắn có thể nhìn thấy cảnh xuân sắc vô biên khi người phụ nữ lẳng lơ đến tận xương tủy kia uyển chuyển rên rỉ dưới thân thể mình, lập tức… hắn sẽ lại có thể nhìn thấy, hắn sẽ có thể cảm nhận niềm vui sướng khi làm đàn ông.

Bởi vì hắn tin rằng tuyệt đối không có chính nhân quân tử nào có thể kháng cự được thân thể và dung nhan tuyệt thế của vị đệ nhất danh kỹ chốn Giang Nam. Loại quan viên áo mũ chỉnh tề như Bố chánh sứ đã không kháng cự được, loại quan viên tự xưng thanh liêm không yêu tiền tài như Án sát sứ cũng không kháng cự được thì loại quan viên mà nhà đã có ba thê thiếp, cả ngày chỉ nghĩ đến chuyện buôn lậu kiếm tiền như Dương Lăng lại có thể kháng cự được sao?

Lúc này Dương Lăng đã ý thức được rằng đây là một cái bẫy, một cái bẫy rất lớn! Y không biết rốt cuộc Mạc Thanh Hà có ý đồ gì? Rõ ràng mình đã nhận tiền hối lộ của hắn, tại sao hắn còn vội vàng dâng thê tử lên cho mình chứ?

Những đứa trẻ đã biến mất một cách kỳ quái kia, tên hào phú Lý Quý đất Giang Nam đột nhiên quật khởi kia, còn cả ánh mắt yêu thương sủng ái đầy vẻ chân thành của Mạc Thanh Hà khi nhìn Mạc phu nhân lúc y vừa mới đến Mạc phủ kia nữa… Bao nhiêu bức tranh thoáng qua trong óc y, nhắc nhở y rằng chắc chắn có một âm mưu to lớn trong chuyện này.

Nên làm thế nào đây? Cự tuyệt với vẻ đầy chính nghĩa, sau đó phất tay áo rời đi? Như thế hình tượng tham quan mà mình tốn công tạo dựng còn có thể khiến Mạc Thanh Hà tin tưởng được không?

Xuôi thuyền theo nước mà tiếp nhận thị? Thị vốn là nữ tử chốn trăng hoa, cũng chẳng có cái gì gọi là trinh thao danh tiết; một vưu vật tuyệt thế như vậy quả thực là có một mị lực khiến người ta không cách nào kháng cự nổi. Nhưng cho dù không bận tâm đến cảm giác của các vị phu nhân nhà mình thì chẳng lẽ từ nay mình lại phải trở thành con rối cho Mạc Thanh Hà thả sức giật dây hay sao?

Phải làm thế nào để đối phương không hoài nghi mà đồng thời vẫn có thể an toàn thoát thân đây? Thân thể yêu kiều quyến rũ của Mạc phu nhân đã tới gần, trông thật hấp dẫn vô cùng. Khuôn mặt thị nở một nụ cười ngọt ngào tự tin khiến người ta say đắm, cánh tay đã giang rộng tự lúc nào…

Đột nhiên, Dương Lăng chợt nảy ra một kế. Khuôn mặt tỏ ra vô cùng đau khổ, y xoay người lại vỗ mạnh lên bàn khiến cốc đĩa lung lay kêu vang không ngớt, sau đó nghiêm giọng quát to: 

- Đứng lại! Đừng có tới đây!

Mạc phu nhân vạn vạn lần không ngờ được Dương Lăng lại có hành động như vậy. Thị cũng từng gặp những vị quan có tiếng thanh liêm hơn y nhiều rồi. Như vị ngự sử Giang Nam kia, một lão già tuổi quá lục tuần, dáng vẻ đạo mạo như một chính nhân quân tử, nhưng vừa thấy tấm thân trần trụi của thị rồi cũng chẳng giống như một con chó đực mà nhào tới sao?

Y… Y thật sự đứng đắn như vậy sao? Không phải lão gia đã từng điều tra về y rồi sao? Y tham tiền háo sắc, còn xưng huynh gọi đệ với một gã vẽ xuân cung đồ, y thật sự là chính nhân quân tử được sao?

Thị ngạc nhiên đứng lại, buột miệng hỏi: 

- Đại nhân, ngài... ngài không thích ta? Chẳng lẽ Tiểu Lâu không xứng được quyến luyến với ngài một phen hay sao chứ?

Dương Lăng đau khổ chau mày lại, chậm rãi ngoảnh đầu đi, khóe miệng thoáng hiện một nụ cười nhăn nhó: 

- Ta có một thị tì xinh đẹp theo hầu bên cạnh. Có phải phu nhân cho rằng giữa ta và cô ấy có điều gian díu gì, phải không?

Mạc phu nhân không biết vì sao y lại đột nhiên hỏi tới chuyện này, không kìm được ngạc nhiên há hốc miệng. Một mỹ nhân đang lõa thể mà khuôn mặt lại như thế, nhìn thật là vừa cổ quái vừa tức cười.

Thị hơi ngẫm nghĩ một lúc rồi lắc đầu đáp: 

- Tiện thiếp đã gặp vị cô nương đó mấy lần. Cô ấy... gáy thẳng eo ngay, lông mày tụ mà không tan, còn cả tư thái khi bước đi nữa... Tiểu Lâu nhìn người đã nhiều, vị cô nương đó hẳn vẫn còn nguyên tấm thân xử nữ.

Nói đến đây thị chợt bụm miệng cười, yêu kiều cất tiếng: 

- Đại nhân đã có ba phòng thê thiếp rồi mà còn sợ phải nạp thêm một phòng nữa sao? Cớ gì không tiếp nhận luôn vị cô nương ấy? Tư sắc của cô ta quả thực không tồi.

Dương Lăng đột nhiên ngẩng đầu lên trời cười ha hả một tràng dài. Tràng cười này không phải là giả mà là thật sự phát ra từ nội tâm: “Thật đúng là trời giúp ta rồi. Vốn còn tưởng Mạc phu nhân đã hiểu lầm giữa ta và Văn Tâm có gì nhơ nhuốc, ta không tránh khỏi phải mất công miệng lưỡi một phen. Nhưng giờ thị đã nhận ra Văn Tâm vẫn còn là xử nữ, như vậy lý do mà ta bịa ra sẽ càng đáng tin hơn rồi.”

Tràng cười như bị thần kinh của Dương Lăng khiến Mạc phu nhân ngẩn người, lắp bắp hỏi: 

- Đại nhân… Đại nhân cười cái gì vậy?

Dương Lăng cười lạnh một tiếng, khóe miệng hơi co giật (vì nén cười), sau đó mới buồn bã giải thích: 

- Phu nhân tưởng ta không muốn sao? Đại trượng phu ai mà chẳng muốn tam thê tứ thiếp, con cháu đầy nhà? Ôi, Mạc phu nhân…

Y ra vẻ “tham lam” liếc nhìn tấm thân mê người của Mạc phu nhân, nhưng ánh mắt lại không dám nhìn xuống chỗ hấp dẫn quá độ bên dưới, rồi vội vàng rời ánh mắt đi, ngẩn ngơ nhìn về ô cửa sổ nói tiếp: 

- Hôm nay ta và phu nhân đã đứng với nhau ở đây thế này, quyết sẽ không bao giờ kể chuyện giữa chúng ta với người khác, do đó chuyện xấu này của ta cũng chẳng ngại nói cho phu nhân nghe. Phu nhân tưởng ta muốn nạp thiếp sao? Nếu không phải là Hoàng thượng ban hôn, ta sao chịu để bọn họ qua cửa chứ? Phu nhân có biết tại sao ta vì thê tử mà dám kháng chỉ không? Đó là vì ta có lỗi với cô ấy, cô ấy gả cho ta đã được hơn một năm nhưng vẫn còn nguyên tấm thân xử nữ vậy mà cô ấy chẳng hề oán hận ta chút nào. Sao ta có thể không yêu không thương cô ấy chứ?

Mạc phu nhân cả kinh trợn tròn mắt, đưa tay chỉ về phía y, lắp bắp: 

- Ngài… Ngài… Thân thể ngài có tật kín… 

Thị vừa nói vừa lùi lại, đột ngột nhặt chiếc váy dưới đất lên khoác vào người.

Một phụ nữ giống như thị, lại trải qua những chuyện như thế, căn bản không sợ bị nam nhân nhìn thấy tấm thân lõa lồ của mình, thậm chí là hy vọng được nhìn thấy dáng vẻ thần hồn điên đảo của nam nhân khi nhìn vào tấm thân ấy. Nhưng thị lại không muốn để cho một nam nhân không phải là đàn ông thực thụ nhìn ngắm mình.

Dương Lăng gật gật đầu đầy vẻ đau đớn, u sầu đáp: 

- Phải! Cô nữ tì mà ta mang theo bên người đó vốn là con gái của Cao thái y bị chém khi tiên đế băng hà. Ta đã cứu cô ấy, mang theo cô ấy bên người chỉ vì muốn cô chữa giúp ta khỏi cái bệnh không tiện nói ra kia, nhưng… đến bây giờ vẫn chưa tiến triển chút nào. Ta… Ta…

Nói tới đây y chợt xoay người lao qua bên cạnh Mạc phu nhân, dáng vẻ hổ thẹn hoang mang chạy trốn ra khỏi đại sảnh.

Mạc phu nhân nắm chặt chiếc váy trên người, ngẩn ngơ đứng yên tại chỗ, một hồi lâu sau mới chợt khom người ôm bụng cười vang. Thị cười đến nỗi chảy cả nước mắt, không biết là đang cười Dương Lăng hay là cười chính bản thân mình.

Mạc công công đứng phía sau lỗ bí mật trên bức tường đang chờ xem kịch hay cũng ngây dại cả người. Thảo nào… thì ra là thế…, đáng thương, thật là đáng thương! Mình là một thái giám hàng thật giá thật, lẽ nào y lại không phải?

Là người chung cảnh ngộ, rốt cuộc Mạc công công đã hiểu được vì sao Xưởng đốc Nội xưởng vừa mới nhậm chức đã bắt đầu vừa nhận hối lộ vừa đi buôn lậu, liều mạng kiếm tiền như thế rồi.

Đúng thế, loại đàn ông không hoàn chỉnh như chúng ta thì ngoài việc nắm lấy tiền bạc, ngoài việc dùng tiền bạc để chứng tỏ mình là một kẻ có thể khiến người ta phải tôn kính ra thì còn có thể làm được gì khác nữa?

Đằng sau bức tường, hắn không kìm được cũng bật cười. Ban đầu là cười khe khẽ, sau đó cất tiếng cười rộ, tiếng cười pha lẫn nước mắt…

Chương 134 - Giương cung phải trái (Làm vài việc một lúc)

Dọc dường y đi, đám gia đinh nô bộc kinh ngạc liếc nhìn khâm sai đại nhân đang vội vã trở về khu nhà ngang ở phía tây với vẻ mặt đầy bi phẫn, không biết là đã xảy ra chuyện gì.

Vừa bước vào trong sân, vẻ mặt Dương Lăng chợt trở lại bình thường như làm ảo thuật. Nghĩ đến nét kinh ngạc, thương hại, khinh thường lẫn chán ghét trong đôi mắt của vị Mạc phu nhân quyến rũ vô ngần kia, y muốn cất tiếng cười lớn.

Dương Lăng vừa mới bước vào trong sảnh với nụ cười xấu xa trên mặt thì Cao Văn Tâm đã giống hệt như một con chim én vui vẻ lao vụt tới nghênh đón, hớn hở gọi to: 

- Lão gia!

Dương Lăng kinh ngạc liếc nhìn nàng, tò mò hỏi: 

- Chân cô khỏi rồi sao? Cớ gì lại vui vẻ như vậy?

Cao Văn Tâm hai tay nắm chặt, cười tươi đáp: 

- Dạ! Chân đã hết sưng rồi, cũng không có gì vui vẻ cả, hì hì hì…

Dương Lăng nhìn khuôn mặt rạng rỡ của nàng lại nhớ đến cái khổ nhục kế của mình khi nãy, cũng không kìm được bật cười mấy tiếng, sau đó căn dặn Cao Văn Tâm: 

- Văn Tâm! Nếu có người dò hỏi cô về tình hình sức khỏe của ta, cô hãy trả lời qua loa, mơ hồ một chút. Cô nói như thế nào không quan trọng, nhưng hãy tỏ ra ngập ngùng ấp úng, càng thần bí càng tốt.

Cao Văn Tâm ngẩn người, ngạc nhiên hỏi: 

- Tại sao? Ai muốn dò hỏi về sức khỏe của lão gia vậy?

Dương Lăng cười hà hà đáp: 

- Thiên cơ không thể tiết lộ. Chưa chắc y đã dám hỏi, có điều không thể không đề phòng. Ôi… Hôm nay đi dự tiệc uống cũng hơi nhiều rồi, tôi đi nghỉ đây. Đúng rồi, hãy pha giúp tôi một bình trà nhé!

Vừa bước được hai bước, chợt y dừng chân cười hì hì liếc nhìn cái miệng đỏ tươi nhỏ nhắn của Cao Văn Tâm, hỏi: 

- Cô có biết nên uống loại trà cực phẩm trong cực phẩm như thế nào không?

Tròng mắt hơi xoay chuyển, nàng đáp: 

- Về trà đạo thì… nô tì cũng hơi hiểu biết, có điều quan trọng là sự chuẩn bị và quá trình pha chế, còn về cách uống… dường như chẳng được nhắc đến nhiều lắm. Không phải là đều dùng miệng uống sao?

Dương Lăng khẽ cười, nói: 

- Không có gì! Cứ pha nhạt một chút, tôi về phòng trước đây.

Dương Lăng vừa đi vừa nghĩ: “Cách này cũng hay thật, khi trở về mình phải tìm Ấu Nương thử xem sao. Nàng hay xấu hổ nhất nên trêu đùa mới càng thú vị.”

Nghĩ đến đây, y lại bất giác nhớ lại dáng vẻ tràn ngập phong tình của vị Mạc phu nhân kia, trái tim không kìm được cơn rung động: ”Không thể không thừa nhận, nếu chỉ xét đến phong vận, ả thật sự là tuyệt thế vô… Không đúng, còn có một người, đó chính là Liên Nhi…

Liên Nhi không những tướng mạo xinh đẹp, mà ngay cả thân hình cũng không có chỗ nào là không quyến rũ, nếu nàng lớn thêm chút nữa…

Ôi! Không biết bây giờ nàng có khỏe không? Ta đến Giang Nam gây ra những sự kiện chấn động lớn như vậy, nhất định nàng đã nghe nói tới rồi, liệu nàng có trách ta vì sao chưa đến thăm nàng không?”

Nghĩ đến đây, bước chân Dương Lăng bất giác trở nên nặng nề, sự vui vẻ vừa rồi lập tức tan biến sạch.

***

Ba ngày liền liên tục bày tiệc đãi khách, Mạc Thanh Hà một mực đi theo bên cạnh Dương Lăng. Từ sau lần thăm dò cuối cùng đó, Mạc Thanh Hà đã thật sự yên tâm hoàn toàn nên sáng sớm hôm sau đã bắt đầu cho chuyển bạc thuế về kinh thành.

Đội thuyền chở bạc khổng lồ khởi hành đi về kinh sư, cờ xí rộn ràng lại có quan binh hộ tống nên chẳng mấy chốc tin tức đã lan truyền đi khắp đất nước. Vị thái giám quản lý việc dệt may ở Tô Châu là Lý Đại Tường vừa được khoái mã báo tin, lập tức dứt khoát sai người vận chuyển bạc thuế đến kinh sư, tốc độ đội thuyền của Tô Châu còn nhanh hơn Hàng Châu một chút. Việc nịnh hót đã chậm hơn Mã Thanh Hà rồi, thuyền bạc nhất định phải đến kinh sư sớm hơn mới được, như vậy cũng coi như là gã đã tỏ rõ lòng trung với xưởng đốc đại nhân rồi.

Đến ngày thứ ba, mượn cớ mấy ngày nay uống rượu quá nhiều nên tửu lượng suy giảm, trên bàn tiệc Dương Lăng chỉ uống chút ít mà thôi. Mọi người đều biết ba ngày nay y liên tục thết tiệc đãi khách nên cũng chẳng nghi ngờ gì, vì vậy phần lớn mọi người đều chỉ kính rượu Mạc công công và Dương tri phủ, chuốc cho hai người say mèm.

Dương Lăng về phủ, chờ cho đám người Lý quản gia khiêng Mạc công công vào trong xong y mới đi nhanh về phía khu nhà ngang của mình. Vừa vào cửa gặp Cao Văn Tâm y đã hỏi: 

- Liễu Bưu đã về chưa?

Cao Văn Tâm hơi ngớ người, đáp: 

- Liễu thiên hộ vẫn chưa về. Có điều Hoàng chưởng ban đã từ Tô Châu trở về rồi, vẫn đang đợi lão gia đấy.

Dương Lăng hơi bất ngờ: 

- Nhanh vậy sao? Tốt lắm, hãy đưa hắn tới gặp ta!

Dương Lăng đi đến cạnh chiếc chậu đồng ở góc phòng rửa tay rửa mặt. Đang lúc y lau rửa, hai hán tử mặc áo xanh đội mũ nồi theo lối nha sai chợt bước vào, quỳ một chân thưa: 

- Tham kiến Xưởng đốc đại nhân!

Dương Lăng ngoảnh đầu lại, nhìn thấy một người là Hoàng chưởng ban còn người kia là Liễu Bưu, bèn bật cười: 

- Khéo thật đấy, vừa mới trở về sao?

Liễu Bưu đáp vâng một tiếng. Đợi Cao Văn Tâm đón chiếc khăn bông từ trong tay Dương Lăng rồi bưng chiếc chậu đồng ra ngoài, hắn mới bước tới cười nói: 

- Đại nhân, mọi việc đều ổn thỏa. Mẫn đại nhân nghe nói ngài muốn ông ấy cầm quân đi bắt người, lập tức vỗ vai thuộc hạ mà khen đại nhân nghĩa khí, có việc tốt thế này liền nghĩ tới ông ấy ngay.

Dương Lăng bật cười: 

-Chắc hẳn Mẫn đại nhân làm quan văn rất đau khổ nên vừa thấy có đánh trận là lập tức hào hứng như vậy. Hà hà, chỗ Chủng thiên tổng thì sao?

Liễu Bưu đáp: 

- Nhóm diêm binh đi theo đại nhân đánh thắng giặc đều được lợi rất nhiều, sớm đã khiến đám quan binh vệ sở kia thèm đến đỏ mắt. Tuy rằng tin tức hiện giờ chỉ có Mẫn đại nhân và Chủng thiên tổng biết, nhưng chắc hẳn tối nay sau khi hạ lệnh xuống, vệ quân sẽ không có ai là không vui mừng cả.

Hiện giờ nhuệ khí bọn họ cao vọt. Tuy rằng việc huấn luyện còn nhiều thiếu sót, đối phó với đám cướp biển khát máu thiện chiến kia có lẽ chưa được nhưng dùng để đối phó với đám quan binh Long Sơn vệ cũng bất tài y như thế thì nhất định là không có vấn đề gì.

Dương Lăng cười cười: 

- Chớ nên sơ suất! Ta từng gặp Tất đô ty rồi, người này quả thực là một tướng tài, tuy rằng quân của y rất đỗi hủ bại, chiến lực thấp kém, nhưng thân binh của y ai nấy đều kiêu dũng thiện chiến, hơn nữa gần như là tư binh của y, tuyệt đối trung thành đối với y. Những người lính này tuy nhân số chưa đầy ba trăm, nhưng nếu để bọn chúng chó cùng rứt giậu gây ra tổn thất nặng nề thì cũng không phải là chuyện hay.

Liễu Bưu gật đầu đáp: 

- Vâng! Ti chức cũng đã nghĩ tới điều này, nên mặc dù Mẫn đại nhân ba lần xin đánh, nhưng ti chức đều nói với ông ta rằng diêm binh và vệ binh chỉ phụ trách việc bao vây để dọa dẫm và gây uy hiếp với quan binh ở vệ sở Long Sơn. Còn về thân binh của Tất Xuân… đã có ba trăm nha sai của chúng ta, việc đó còn chẳng phải là dễ như chẻ tre sao?

Dương Lăng nhớ lại cái khí thế không gì sánh nổi khi tám mươi tay đao kia càn quét trên bờ biển, không khỏi gật gật đầu, ngay sau đó lại nghiêm nghị hỏi: 

- Đúng rồi! Trong vệ quân có tên nặng không? Đã giao cho diêm binh sử dụng chưa?

Thể lực của vệ quân thông thường đều rất yếu, hoàn toàn không thể kéo căng được cung cứng nên tên nặng thì chẳng bắn nổi ra xa, do đó bọn họ mới dùng đến cái loại tên nhẹ tênh để dối gạt cấp trên khi diễn tập.

Diêm binh không giỏi bắn tên, nhưng cả ngày phải xông pha nam bắc ứng phó với đám giặc cướp trên sông trên núi, do đó sức chiến đấu khá mạnh. Giao cung tên cho bọn họ thì cũng chẳng cần họ phải bắn chuẩn gì cả, cứ bắn tràn ra một lượt. Để đối phó với đám thủ hạ liều mạng của Viên Hùng thì nhất định loạt tên bắn bừa này cũng sẽ có hiệu quả đặc biệt.

Cũng khó trách Dương Lăng cẩn thận như vậy. Vốn y tưởng rằng bắt Tất Xuân sẽ khá khó khăn, còn Viên Hùng chẳng qua chỉ là đề đốc thái giám quản lý việc thuế quan ở Giang Nam, đến lúc đó cứ trực tiếp đến tận cửa bắt người là được. Chẳng ngờ tin tình báo do Liễu Bưu thăm dò được lại khiến y cả kinh.

Thủ hạ của Viên Hùng có tất cả là bao nhiêu người? Đến tận năm nghìn! Ngoài đám tay chân được phái đi khắp các nơi, lũ ngồi không kiếm miếng cơm trong nha môn thuế giám cũng còn lại tới hai nghìn, hơn nữa phần lớn đám này đều là dân lưu manh vô lại hoặc là tội phạm đang lẩn trốn, trong lòng căn bản chẳng có triều đình, cũng chẳng có vương pháp. Do vậy việc bắt giữ Viên Hùng đâm ra còn khó hơn cả bắt Tất Xuân.

Cho nên Dương Lăng mới muốn lặng lẽ giải quyết Tất Xuân, sau đó thì toàn lực đối phó với Viên Hùng.

Nhớ lúc xưa vị tổng giám thuế quan này rời kinh chỉ mang theo mười gã tùy tùng. Hắn muốn nắm quyền thu thuế nhưng lại không thể sử dụng người của quan phủ, vì thế chỉ đành chiêu binh mãi mã, thu nạp một đám côn đồ vong mạng vào dưới trướng.

Mười người mà hắn đem tới mỗi người chiêu nạp chừng hơn trăm tên thủ hạ, mỗi tên thủ hạ lại có ít nhất năm gã tùy tùng. Cứ tựa như là quả cầu tuyết càng lăn càng lớn, tất cả đám lưu manh vô lại, cướp của giết người ở vùng Tô Châu đều được bọn hắn thu nạp. Dù sao bọn chúng cũng là khâm sai, “miệng hô luật pháp, tay nắm kỷ cương”, nên quan lại địa phương cũng chẳng làm gì được.

Liễu Bưu gật đầu đáp: 

- Tên quân dụng thì có, chỉ là trong vệ quân ngoài thân binh của Chủng thiên tổng ra chẳng còn mấy ai có thể sử dụng được; thuộc hạ đã kêu y đem cung tên phát hết cho người của Mẫn đại nhân rồi, đại nhân bất tất phải lo lắng nữa! Theo ti chức thấy, Viên Hùng vị tất đã dám phản kháng, người của hắn đều do hắn dùng tiền thu nạp lại, ai lại chịu thật lòng bán mạng cho hắn chứ? Chỉ cần một loạt tên bắn ào tới, hiểu được sự lợi hại của chúng ta thì bọn chúng sẽ tan vỡ ngay thôi.

Dương Lăng trầm ngâm: 

- Mong là như vậy! Sáng sớm ngày mai giải quyết Tất Xuân xong sẽ lập tức đưa quân đi bao vây nha môn thuế giám. 

Dứt lời y lại quay đầu qua hỏi Hoàng chưởng ban: 

- Chuyện ở Tô Châu tra xét thế nào rồi?

Hoàng chưởng ban vội đáp: 

- Đại nhân! Ti chức đã điều tra kỹ càng về Lý Quý. Những cô nhi đó sau khi rời khỏi thành Hàng Châu thì chẳng rõ tung tích, chưa từng xuất hiện tại Tô Châu, tựa như là đã hoàn toàn biến mất khỏi thế gian này, không còn ai biết bọn chúng đang ở đâu.

Hắn liếc nhìn ánh mắt của Dương Lăng, lại kể tiếp: 

- Ti chức phụng mệnh điều tra lai lịch của gã Lý Quý kia, nhưng lại chẳng ai có thể nói ra rõ ràng. Ti chức hết cách chỉ đành phải công khai lộ diện, mượn cớ rằng có nha sai do Nội Xưởng chiêu mộ tại địa phương đã mang bạc bỏ trốn, sau đó đến chỗ quan phủ tra rõ tình hình hộ tịch, ngầm đọc tài liệu về Lý Quý… Lý Quý có nhà có đất, còn có một hãng thuyền buôn dùng để vận chuyển lúa gạo mua thấp bán cao, có lúc còn thay triều đình vận chuyển gạch vàng để tu sửa hoàng cung và đế lăng, lợi nhuận thu được khá lớn. Mà chủ nhân thật sự của tất cả những thứ ấy đều không phải là Lý Quý, mà là đại phú thương Đỗ Thanh Giang ở Kim Lăng.

Dương Lăng ngớ người: 

- Thì ra là phú hào Kim Lăng muốn phát triển sản nghiệp tại Tô Châu sao? Vậy hắn hà tất phải giấu đầu hở đuôi, phái một con rối ra ứng phó với người đời như thế?

Hoàng chưởng ban thưa tiếp: 

- Chuyện này có rất nhiều điều kỳ lạ. Khi đó ti chức đã lập tức phái người đến Kim Lăng điều tra, vừa hay người của chúng ta từ kinh sư tới đã đứng vững được ở Kim Lăng, nắm rõ tình hình của người này.

Việc làm ăn của Đỗ Thanh Giang cực lớn, nào là tiệm tơ lụa, tiềm cầm đồ, tiệm vàng bạc, tiệm lương thực, còn có mấy hãng xe ngựa và đội thuyền buôn lớn. Thậm chí ngay đến việc vận chuyển lương thực cho triều đình, vận chuyển các loại vật phẩm cấm kị để xây dựng hoàng cung và đế lăng như gạch vàng…, tất cả cũng đều thường tìm đến nhờ hắn vận chuyển.

Người của chúng ta đã từng thử liên lạc để bắt tay làm ăn với bọn họ. Có điều thế lực của Đỗ gia khá lớn, khi vận chuyển bọn họ hoàn toàn không phải lo lắng bị quan binh làm khó dễ nên họ cũng chẳng cần người của chúng ta ra mặt; do đó bọn họ bèn lên tiếng cự tuyệt thẳng thừng.

Nghe nói đại nhân muốn tra hỏi về căn cơ của Đỗ gia, người ở Kim Lăng bèn lập tức điều tra kỹ càng về Đỗ gia. Vị Đỗ Thanh Hà này vốn nghèo rớt mùng tơi, thời thiếu niên từng làm thuê tại một tiệm vịt muối, sau đó cưới người con gái tàn tật của chủ tiệm nên cuộc sống mới đở hơn một chút, có điều tại Kim Lăng vẫn chưa thể được coi là một nhân vật thực sự.

Về sau Đỗ Thanh Hà đột nhiên trở nên giàu có, mua nhà mua đất phát triển cực nhanh. Mọi người đồn rằng Đỗ Thanh Hà đã đào được bảo tàng mà năm xưa Thẩm Vạn Tam chôn giấu nên mới phát tài.

Tuy nhiên, có một lần Đỗ Thanh Hà mở tiệc sinh nhật mời các bậc danh lưu ở đất Kim Lăng, nhưng Nam Kinh tả đô ngự sự Kim đại nhân đã trả lại thiệp mời và không đến dự. Đỗ Thanh Hà thẹn quá hóa giận, trong lúc uống rượu đã mở miệng mắng lớn, vô ý lỡ lời, tiết lộ rằng huynh đệ của hắn ở ti Lễ Giám ghê gớm như thế nào, chỉ là quan lớn một tỉnh mà cũng dám không nể mặt hắn, Kim lão thất phu hiếp người quá đáng, sau này nhất định phải khiến cho lão ta biết mặt. Từ đó ở Kim Lăng mới bắt đầu lưu truyền rằng hắn có một người anh em ruột, là công công nắm quyền trong ti Lễ Giám.

Ti chức đã điều tra về hộ tịch của Đỗ Thanh Giang, lại tìm được người vợ cũ tàn tật đã bị Đỗ Thanh Giang bỏ, được biết hắn ta còn có một người anh em, năm mười hai tuổi vì gia cảnh bần hàn nên người này đã tự thiến mình nhập cung. Vì việc này mà người đó cảm thấy xấu hổ với liệt tổ liệt tông, nên chỉ giữ tên mà không giữ họ, đổi thành họ Mạc, chính là Mạc Thanh Hà!

Dương Lăng nghe đến đây thì lập tức ngẩn người ra, hồi lâu sau mới hỏi với giọng khó tin: 

- Mạc Thanh Hà? Thái giám nắm quyền ở ti Lễ Giám? Mạc Thanh Hà… Chính là Mạc Thanh Hà này… Thì ra là thế… Thì ra là thế…

Liễu Bưu biết rõ rằng lần này Dương Lăng tới Giang Nam chính là để giải quyết việc ba đại thái giám trấn thủ đất này, khiến các thuế giám trong thiên hạ nhìn thấy rõ thủ đoạn của Nội Xưởng, cũng là cho bọn họ một viên thuốc an thần.

Hôm nay vừa trở về gã liền nghe nói về việc Mạc Thanh Hà đã cho vận chuyển bạc thuế về kinh, hiển nhiên hắn đã ngả về phía Dương Lăng rồi. Nếu quá hà khắc với hắn, thuế giám các nơi sẽ cho rằng Xưởng đốc khắt khe quá đáng, nhất định sẽ có người nảy dị tâm, do đó Liễu Bưu vội khuyên: 

- Đại nhân! Thực ra quan viên và thuế giám các nơi lợi dụng chức quyền để mưu lợi cho gia tộc cũng là lẽ thường tình. Có câu rằng “nước quá trong thì không có cá”, thêm vào đó hắn còn cố gắng che giấu, lại cũng không phải loại người ngông nghênh kiêu ngạo, không biết nặng nhẹ. Chỉ cần hắn thành tâm làm việc cho đại nhân, đại nhân bất tất phải suy nghĩ quá nhiều làm gì! 

Dương Lăng chậm rãi ngồi trở lại ghế, cười cay đắng: 

- Hắn chỉ muốn kiếm tiền thì ta có thể không tính toán, nhưng còn những người kia thì sao? Những đứa nhỏ kia đã đi đâu mất rồi? Chuyện này mà không tra rõ, ta khó mà yên lòng được… 

Nói tới đây y đột ngột nhảy bật dậy, hỏi Hoàng chưởng ban: 

- Đứa nhỏ mấy hôm trước đâu? Chính là đứa nhỏ được đưa từ vườn trà về Cao phủ vào mấy hôm trước ấy, bây giờ nó thế nào rồi?

Hoàng chưởng ban gian nan nuốt một ngụm nước bọt, ngập ngọng: 

- Đại nhân! Hôm trước ti chức đã báo cáo rồi… Những đứa nhỏ mà Mạc công công thu nhận hiện giờ đều đã biến mất, đứa nhỏ kia cũng…

Dương Lăng vỗ bàn đánh bộp, cười lạnh: 

- Thật là to gan! Nếu không phải ngày đó bản quan ra ngoài tình cờ gặp được đứa nhỏ kia, có lẽ sẽ chẳng nghi ngờ chút nào. Rốt cuộc hắn đã làm gì những đứa cô nhi không cha không mẹ, không có ai hỏi đến kia chứ?

Liễu Bưu và Hoàng chưởng ban cùng đưa mắt nhìn nhau, nhưng chẳng ai có thể trả lời.

Cho dù Dương Lăng là kẻ ngốc thì cũng biết rằng chuyện này nhất định là có quan hệ với Mạc Thanh Hà, y chỉ tay về phía Hoàng chưởng ban hạ lệnh: 

- Hơn ba mươi mạng người! Tung tích của hơn ba mươi đứa nhỏ chưa thể làm rõ, bản quan làm sao mà yên lòng bỏ qua cho Mạc Thanh Hà được đây? Ngươi hãy tìm người đóng giả họ hàng xa của đứa nhỏ đó, làm khổ chủ tố cáo Lý Quý, lấy đó làm nguyên cớ để tra xét hắn.

Liễu Bưu do dự một hồi, cung tay thưa: 

- Đại nhân đã quyết ý muốn tra xét, vậy xin hãy nghe lấy một lời của ti chức chứ cứ thế này mà tra xét nhất định sẽ chẳng tra ra được gì đâu. Nếu Lý Quý cứ một mực khẳng định rằng đã đem bán đứa nhỏ ấy cho người khác, sau đó lại khai bừa ra mấy vùng đất hoang vu. Chúng ta muốn tìm chứng cứ thì phải cần tới mấy tháng, mà nếu đến lúc đó người chúng ta tìm được kia lại dùng lại kế cũ thì chẳng biết phải tra xét đến năm nào tháng nào đây…

Vừa nghe, Dương Lăng lập tức nhớ đến kế kéo dài thời gian mà khi xưa mình đã bày cho Mẫn huyện lệnh để đối phó với bọn chủ tiệm nhạc khí Vương Đại, Vương Nhị. Tuy rằng khá thô thiển, nhưng trong thời đại giao thông bất tiện này lại rất hữu hiệu. Y không khỏi chau mày hỏi: 

- Vậy ngươi có kế hay gì không?

Liễu Bưu hơi nhếch miệng, cười lạnh: 

- Gạch vàng của triều đình đều được sản xuất tại thôn Ngự Dao, trấn Nguyên Hòa ở ngoài thành Tô Châu, hãng thuyền của Đỗ gia chẳng phải chuyên môn thay triều đình vận chuyển thứ nguyên liệu cấm kị này sao? Vụ làm ăn này sao có thể thiếu phần của Lý Quý chứ? Chúng ta hãy phái người đến thôn Ngự Dao kiếm lấy một viên gạch mẫu về đây, sau đó trực tiếp đến lục soát Lý phủ, nói rằng có người tố cáo hắn cất giấu vật cấm. Nếu mà tìm được đứa nhỏ thì thôi, còn nếu không tìm được thì hãy vứt viên gạch kia vào trong nhà hắn, vu cho hắn tội khi quân. Trọng tội đó là phải chém đầu, đến khi ấy hắn lại chẳng ngoan ngoãn mà khai toàn bộ chân tướng sao?

Dương Lăng nghe vậy thì hơi do dự. Y chắp tay sau lưng chậm rãi đi lại trong phòng một lát, nhưng nhớ đến đứa nhỏ gầy khô như que củi nhưng lại thông minh đáng yêu mình đã gặp kia, cuối cùng y nghiến răng gật đầu quyết định:

- Hoàng chưởng ban hãy cứ làm như vậy đi! Không hành động thì thôi, hành động thì phải nhanh, phải độc! Mạc Thanh Hà là địa đầu xà ở đây, Viên Hùng có thể có đến năm ngàn nanh vuốt sao Mạc Thanh Hà lại chịu kém được? Không thể để hắn kịp phản ứng!

Kế đó y ngoảnh đầu qua bảo Liễu Bưu: 

- Đêm nay sẽ xuất binh bắt giữ Tất Xuân, Viên Hùng. Khi trở về cần lấy cớ đề phòng nanh vuốt của hai kẻ này nổi loạn, tăng cường phòng vệ khu nhà ngang phía tây, không phải người của Nội xưởng quyết không cho phép tiến vào, đặc biệt phải phòng bị…

Y liếc nhìn qua phía Liễu Bưu, gã hiểu ý gật gật đầu, ôm quyền bẩm: 

- Ti chức xin vâng lệnh!

***

Đội diêm binh và vệ binh Hải Ninh hành quân cực nhanh, dãy đuốc dài liên miên như rồng rắn uốn lượn. Thỉnh thoảng khi đi qua thôn trấn bọn họ lại gặp những phu tuần điểm canh hay là gã sắc lang vừa từ trong kỹ viện đi ra đang nheo mắt hồi tưởng cảm giác tiêu hồn vừa nãy, có lúc còn gặp con bạc bị đá ra khỏi sòng bạc. Tất cả bọn họ đều ngây người nhìn đại đội binh mã đeo cung cầm đao đang giơ cao ngọn đuốc lặng lẽ đi qua bên cạnh mình, một mảng sát khí ập thẳng vào mặt.

Nam quận có rất ít đội kỵ binh hoàn chỉnh, muốn gom đủ ngựa quân dụng thì khó vô cùng nhưng để kiếm được mấy trăm con ngựa mà cưỡi thì chỉ cần mượn từ phủ của các đại phú hào, đại diêm thương là được.

Mẫn Văn Kiến vừa chỉ huy toàn quân hành quân vừa ngầm chú ý hành vi của Chủng thiên tổng. Dương Lăng đã gửi mật thư nếu Chung thiên tổng lâm trận mà có hành động khả nghi thì lập tức giết không tha. Nhưng dọc đường ông thấy Chung thiên tổng có thần thái ung dung, dường như gã cảm thấy được làm việc cho khâm sai đại nhân là một điều cực kỳ vinh dự, còn hăng hái, hào hứng hơn ông mấy phần, gần như chẳng thể nhìn ra có gì khác lạ.

Lúc này Mạc Thanh Hà vốn say túy lúy vừa mới tỉnh lại trong Mạc phủ. Hắn vươn vai, day day cái trán vẫn còn hơi nằng nặng rồi ngồi dậy, vừa lúc một đôi tay nõn nà đưa tới một chén trà. Ngẩng đầu nhìn lên, đôi mắt kia vẫn nguyên nét dịu dàng như làn nước mùa xuân; chỉ cần nữ nhân này muốn, bất cứ lúc nào thị cũng có thể nở một nụ cười quyến rũ khiến nam nhân phải động lòng.

Mạc Thanh Hà cười bảo: 

- Đã lâu lắm rồi chưa uống say đến mức này! Mấy ngày nay giải được nỗi lo, uống rượu cũng thấy sảng khoái.

Hắn đón lấy chén trà. Lúc này trà đã hơi lành lạnh, có điều đối với tình trạng khô miệng nóng người của hắn lúc này thì vừa hay có thể giải khát. Mạc phu nhân dịu dàng: 

- Phu quân thì sảng khoái uống say túy lúy. Nhưng chàng có biết sắc trời vừa tối Dương đại nhân đã không từ mà biệt, vất vả dẫn hết đám nha sai đi mất, hiện giờ trong khu nhà ngang phía tây ngoài một tì nữ và hai mươi nha sai thì đã chẳng còn người nào khác nữa không?

Mạc Thanh Hà lập tức bị sặc trà. Hắn ho mấy tiếng, sau đó mới ngẩng đầu lên bừng bừng giận dữ hỏi: 

- Khâm sai đại nhân đi đâu vậy? Chuyện lớn như vậy, sao nàng không gọi ta dậy chứ?

Mạc phu nhân chẳng hề sợ hãi, ả khẽ nở nụ cười, nháy nháy mắt với Mạc Thanh Hà, làm bộ tinh nghịch nói: 

- Thiếp thân vốn cũng muốn hỏi y, chỉ là sợ vị khâm sai đại nhân đó không dám gặp thiếp… Thiếp kêu người nhà đi xem thử rồi, y dẫn người ra khỏi cổng thành phía tây, sát khí đằng đằng. Do đó thiếp nghĩ… tin tức này… Đợi sau khi lão gia tỉnh rượu nghe được liệu có phải là càng sảng khoái hơn không?

Mạc Thanh Hà lặng yên một lát rồi đột nhiên ngẩng đầu lên trời cười rộ. Hắn phát mạnh lên bờ mông đầy đặn của Mạc phu nhân, cười ha hả: 

- Người hiểu ta chính là Tiểu Lâu! Ừm… Ta và Viên gia cộng sự nhiều năm, không thể không niệm tình xưa. Nàng hãy kêu người đi thu dọn phòng chứa củi ở nhà sau đi, trước khi khâm sai đại nhân về kinh chúng ta cũng phải tìm cho Viên gia một chỗ ở chứ, ha ha ha ha…

Khi cưỡi ngựa tới trấn Phong Diệp ở trước thung lũng Long Sơn, Mẫn Văn Kiến hạ lệnh cho toàn quân dập đuốc đi vòng qua trấn. Rời khỏi trấn đi tiếp ba dặm chính là thung lũng Long Sơn, bên trong thung lũng chính là nơi đóng trại của Long Sơn vệ sở. Cửa vào thung lũng có hình chữ “chi” (Tương tự chữ Z - ND.), Liễu Bưu đã qua lại nơi này nhiều lần, lại có viên chỉ huy thiêm sự Đinh Lâm làm nội ứng, sớm đã biết khi rẽ đến lần thứ hai thì mới có trạm gác, hơn nữa bình thường người ở bên trong đều không ra ngoài, do đó thân vệ của Dương Lăng vẫn ung dung yên lặng chờ đợi ở chỗ rẽ thứ nhất.

Sắc trời lúc này đã biến thành màu trắng đục. Khi Mẫn Văn Kiến và Chủng thiên tổng dẫn theo sáu trăm binh sỹ đến nơi, các nha sai mặc áo xanh đội mũ đỏ, hông mang đao dài, lưng đeo trường cung sớm đã xếp thành ba phương trận (đội ngũ hình vuông). Bọn họ đứng nghiêm chẳng hề động đậy tựa như bị đinh ghim xuống đất, hơn nữa lưng mọi người đều thẳng tắp.

Hạng mục biểu diễn sở trường của những quan binh vốn là người của Thần Cơ doanh này chính là xếp hàng bày trận biễu diễn; bây giờ đã có kinh nghiệm chém giết trên chiến trường thì đội hình của bọn họ càng oai phong lẫm liệt, uy nghiêm vô cùng.

Sự trang nghiêm lạnh như băng sương, sự huấn luyện khiến toàn thể đội hình chỉnh tề như nhất này lập tức khiến khoảng không giữa bọn họ lan tràn những luồng sát khí đằng đằng, tuy nhìn không thấy nhưng lại có thể cảm giác được.

Đám diêm binh lưu manh sớm đã được thấy thủ đoạn lạnh lùng tàn khốc như tay đồ tề của tám mươi đao thủ nên lập tức thu lại dáng vẻ cười đùa cợt nhả, trở nên nghiêm túc vô cùng. Diêm binh bị tử thương nặng nề trong trận chiến vừa rồi, trước mắt vẫn chưa kịp bổ sung thêm người, nên ngoại trừ một bộ phận ở lại giữ nhà, lần này bọn họ chỉ phái ra một trăm người.

Một trăm diêm binh này đã được rèn luyện qua cuộc tử chiến với giặc lùn ở bên bờ sông Tiền Đường, tuy rằng thần thái bước đi vẫn còn hơi lỏng lẻo nhưng đã có được loại sát khí kinh người mà chỉ các chiến sỹ thường xuyên chinh chiến ở vùng biên giới phía bắc mới có.

Không khí trang nghiêm ấy cũng làm ảnh hưởng tới cả vệ quân, sắc mặt bọn họ đều trở thành nghiêm trọng. Trong thung lũng lúc này tập trung chừng chín trăm quan binh nhưng lại tĩnh lặng vô cùng, chỉ thỉnh thoảng mới có tiếng thở nhẹ của chiến mã vang ra.

Mẫn đại nhân và Chủng thiên tổng bước tới gặp gỡ khâm sai đại nhân trong bộ quan bào xưởng đốc, hai bên khẽ rì rầm với nhau vài câu. Sau đó ba trăm nha sai liền giữ nguyên hàng ngũ tiến vào thung lũng, ai nấy đều im lặng, chỉ nghe thấy tiếng bước chân loạt xoạt vang lên.

Tướng lĩnh các cấp lần lượt truyền xuống mệnh lệnh của xưởng đốc: 

- Hai mươi người ở lại trông coi ngựa, những người khác hãy bám theo, không được phát ra âm thanh nào.

Trước trạm gác, bốn viên binh sỹ trực đêm đang đứng thẳng tắp, chỉ là khóe mắt lại lén liếc nhìn về phía thiêm sự đại nhân đang không ngừng đi đi lại lại, trong lòng cảm thấy hơi kỳ lạ.

Quân doanh này được đặt trong thung lũng, hơn nữa bây giờ không phải là thời chiến nên quyết không thể nào xảy ra việc quân địch tập kích được. Gọi là trạm gác chẳng qua cũng chỉ là cho có mà thôi, tối đến các binh sỹ trực gác đều chỉ ở trong nhà gỗ ngủ hoặc trò chuyện. Nhưng hôm nay còn chưa tới canh tư thiêm sự Đinh Lâm lại đột nhiên xuất hiện nói kiểm tra việc canh gác gì gì đó rồi lại còn không chịu rời đi, hại bọn họ cứ phải ngoan ngoãn đứng yên tại chỗ.

Đúng lúc đó, ngay chỗ rẽ trước mặt đột nhiên xuất hiện một đội nhân mã, một binh sỹ kinh hãi buột miệng kêu lên: 

- Kẻ nào? Đứng lại! Không được đi tiếp!

Hai viên binh sỹ bên cạnh hoang mang cầm trường thương lên, một người khác thì đưa tay vớ lấy chiếc kèn lệnh bên hông. Lúc này sắc trời đã hơi sáng, vừa nhìn thấy lối ăn mặc của các binh tốt đang tiến đến Đinh thiêm sự không khỏi thở phào một hơi, gã cuối cùng cũng có thể yên tâm được rồi.

Đinh Lâm lập tức nghiêm giọng quát bảo: 

- Hoang mang cái gì? Tất cả đứng trở lại cho ta, đây là binh mã của Dương đại nhân - thống lĩnh thân quân thị vệ của Hoàng thượng, tổng đốc Nội xưởng, phụng chỉ khâm sai. Bản quan đã nhận được mệnh lệnh nên tới đây nghênh đón, các ngươi chớ có vô lễ!

Một loạt quân hàm khiến bốn binh sỹ đó ngây ra, tướng lĩnh cao cấp trong quân đã nói như thế rồi, chẳng lẽ còn sai được sao? Thế là bọn họ chỉ đành chĩa mũi thương xuống đất, tránh qua một bên.

Đinh Lâm vội vàng bước tới nghênh đón, quỳ một chân xuống thực hiện quân lễ với Dương Lăng:

- Hạ quan Đinh Lâm khấu kiến khâm sai đại nhân.

Dương Lăng vội vàng bước lên phía trước đỡ lấy gã, mỉm cười bảo: 

- Đinh thiêm sự đúng là người đáng tin, rất tốt! Hôm nay ngươi giúp bản khâm sai bắt được lũ quan lại phạm pháp, sau khi về kinh bản quan nhất định sẽ bẩm báo với thánh thượng, xin ngài ban thưởng cho ngươi.

Đinh Lâm đã nghe nói về sự tích Dương Lăng đánh bại giặc lùn nên cực kỳ tin tưởng sức chiến đấu của đội thân quân của y. Lúc này gã vừa thấy đội quân trước mặt có tới mấy trăm nha sai Nội xương, đằng sau lại còn có một lượng lớn quan binh không biết là được điều từ đâu tới nữa, không khỏi cảm thấy hoàn toàn yên tâm, thần sắc cũng trở nên ung dung hơn nhiều.

Gã mừng rỡ trả lời: 

- Đại nhân khoan hồng đại lượng, cho ti chức có cơ hội lập công chuộc tội làm sao ti chức dám không dốc hết toàn lực chứ.

Dương Lăng chỉ khẽ mỉm cười, cũng không khách sáo với y nữa mà đi thẳng vào việc: 

- Tình hình trong quân thế nào?

Đinh Lâm đáp: 

- Đại nhân đi tuần tra phương nam chủ yếu là vì vấn đề bạc thuế. Tuy Viên Hùng kiêm nhiệm chức giám quân Long Sơn vệ nhưng đại nhân lấy đó làm lý do đi thanh tra Long Sơn vệ thì không khỏi hơi khiên cưỡng, hạ quan vốn còn lo Tất đô… Tất Xuân nghi ngờ. May mà tin đại nhân ở Hải Ninh dựa vào tám mươi tay đao đại chiến với hơn ngàn tên giặc lùn, còn năm trăm vệ quân tại địa phương thì lại hoang mang bỏ chạy đã lan ra khắp nơi. Tất Xuân cho rằng đại nhân giận dữ vì sức chiến đấu của vệ quân quá kém nên mới tới thanh tra, chẳng hề nghi ngờ gì cả.

Đã tới bên cạnh Dương Lăng, Chủng thiên tổng nghe thấy lời của Đinh Lâm thì cảm thấy xấu hổ vô cùng nhưng đồng thời cũng cảm thấy còn may mắn: “Khi vệ quân tan vỡ bỏ chạy có bao nhiêu đôi mắt nhìn vào, hoàn toàn chẳng thể che giấu ai được. Tuy bản thân mình dẫn theo thân quân tử chiến không lùi nhưng cũng chẳng bù được cái tội trị quân không nghiêm, sau này ti đô chỉ huy sứ nhất định sẽ truy cứu chuyện này. Hôm nay có thể đi theo Dương đại nhân tới bắt Tất Xuân, Viên Hùng, lập được công lao, có Dương đại nhân nói giúp cho mình một câu thì nhất định sẽ có thể biến nguy thành an.”

Dương Lăng gật gật đầu hỏi: 

- Ngươi đã thu xếp ổn thỏa cả rồi chứ?

Đinh Lâm đáp: 

- Vâng, vì sợ rò rỉ tin tức nên ti chức không dám dùng quá nhiều người. Ti chức chỉ tìm tới năm người đều do một tay ti chức đề bạt; trong đó có hai người còn là thân thích của ti chức, tuyệt đối đáng tin.

Dương Lăng gật đầu nói: 

- Tốt, lát nữa cứ y kế hành sự! Kêu người của ngươi dẫn nhân mã của Chủng thiên tổng khống chế vòng ngoài, bắt lấy binh sỹ trong tất cả các trạm gác, gây áp lực với sỹ tốt trong quân, đề phòng sinh biến! Ta sẽ phái hai trăm thân quân và một trăm diêm binh tập kích trung quân, nhân lúc đám quan binh trong năm cái lều lớn còn ngủ say chưa tỉnh mà tước vũ khí rồi bắt giữ bọn chúng! Ngươi thì theo ta dẫn một trăm thân quân tiến thẳng vào lều soái, đi gặp người bạn cũ kia!

Dứt lời y lại liếc nhìn bốn viên binh sỹ đứng không xa sau lưng Đinh Lâm, hỏi: 

- Bọn họ là người của ngươi sao?

Đinh Lâm vội lắc đầu đáp: 

- Bọn họ không phải là người của ti chức. Vì sợ kẻ khác hoài nghi, ti chức không dám dẫn người tới. Có điều bọn họ đều đang đợi ở gần đây, ti chức có thể gọi bọn họ ra dẫn đường bất cứ lúc nào.

Dương Lăng gật gật đầu, đưa mắt ra hiệu cho Trịnh bách hộ. Trịnh bách hộ lập tức dẫn theo bốn người bước tới, cười hì hì bảo: 

- Bốn vị huynh đệ vất vả rồi. Trước mắt nơi này đã có bọn ta tiếp quản, các ngươi có thể đi nghỉ ngơi một chút rồi!

- A? 

Bốn binh sỹ đó nghe thế thì ngẩn người, còn chưa kịp trả lời thì trên cổ đã bị một thanh đao sáng loáng kề sát. Nụ cười trên mặt Trịnh bách hộ thu lại, hắn lạnh lùng hạ lệnh: 

- Trói lại, vứt qua một bên!

Tất đô ti vốn đã đón người mỹ thiếp được sủng ái nhất tới an bài tại trấn Phong Diệp ở phía trước, thường ngày đều ngủ lại trong trấn. Vì nhận được tin trong vài ngày nữa khâm sai Dương Lăng sẽ tuần tra Long Sơn vệ nên gã mới dọn trở vào ngủ trong doanh trại.

Dương Lăng chính là viên dịch thừa nhỏ bé ở trạm Kê Minh khi xưa, chuyện này tất nhiên gã sớm đã biết. Ngày đó tại Kê Minh mọi người đều biết gã vừa ý con gái của Mã dịch thừa, nhưng Mã Liên Nhi lại chẳng thèm để ý tới thể diện của gã, giục ngựa đuổi theo Dương Lăng đang phụng chỉ tiến kinh, khiến gã mất hết mặt mũi. Không những gã vô cùng căm ghét Mã Liên Nhi mà đồng thời còn cực kỳ thù hận Dương Lăng nữa.

Tiếc rằng trời chẳng thỏa lòng người. Sau khi vào kinh Dương Lăng liền đi theo bên cạnh thái tử, nhân cơ duyên này mà trở thành tân sủng bên cạnh thánh thượng, hiện giờ đã như mặt trời chính ngọ, trở thành đề đốc Nội xưởng. Ngoài việc thầm căm hận trong lòng ra thì gã cũng chẳng còn cách nào khác, chỉ đành thở dài than rằng trời cao không có mắt.

Có điều gã cũng chưa từng nghĩ rằng Dương Lăng sẽ gây bất lợi gì cho bản thân gã. Dương Lăng tới đây là để tra xét việc bạc thuế, chẳng liên quan gì tới gã, hơn nữa hai người vốn không thù không oán. Gã làm sao có thể nghĩ tới việc giám quân của hắn - đồng thời cũng là thái giám trấn thủ thuế quan Giang Nam Viên Hùng - phạm tội, do vậy mà đối phương mò ra việc tham ô của hắn.

“Tu… Tu tu…” Tiếng kèn hiệu đột nhiên vang lên, sau đó là tiếng trống vang trời. Tất đô ti từ trong mộng giật mình tỉnh dậy, bừng bừng nổi giận: 

- Ai gõ trống thổi kèn vậy? Chán sống rồi hay sao?

Thân binh Trịnh Đại Bằng vốn ngủ tại phòng ngoài, nghe thấy tiếng gầm của Tất đô ti liền hoang mang bò dậy, vội khoác áo chạy ra ngoài xem thử.

Lều soái ở trung quân là một khu vuông vắn, bốn phía được bao quanh bởi hàng rào gỗ cao bằng nửa thân người, ba phía phải, trái, sau bên ngoài hàng rào là năm ngôi lều lớn bao quanh lều soái tựa như quần tinh ủng nguyệt, ở trong đó là ba trăm thân quân được Tất Xuân đích thân đề bạt, tận bên ngoài nữa mới là nơi ở của các binh sỹ bình thường.

Trịnh Đại Bằng thấy năm cái lều lớn đều không có động tĩnh gì, còn đám binh sỹ canh gác xung quanh lều soái ở phía trước lều riêng của đô ti đang đứng trước ánh dương đầu tiên từ đằng đông chiếu tới mà chẳng hề động đậy, xem ra cũng chẳng có vấn đề gì. Hắn bèn vội vàng chạy vào báo: 

- Bẩm đô ti đại nhân, bên ngoài không có dị trạng gì, binh sỹ trước lều soái vẫn canh gác cẩn mật…

Lời của hắn còn chưa dứt, đội trưởng đội thân binh Quan Thụ Anh đã vội vàng từ bên ngoài chạy vào. Lúc này Tất Xuân đang mặc quần áo, thấy hắn tiến vào bèn hừ lạnh một tiếng, vừa khoác chiến bào lên người vừa giận dữ trừng cặp mắt tam giác lên quát bảo: 

- Đám khốn kiếp đó cả ngày ăn không chờ chết, ngay cả một chút kỹ luật quân đội cũng không hiểu nổi phải không? Không phải ta đã nói ngày kia khi khâm sai đại nhân tới thì mới có thể thổi kèn hiệu, gõ trống trận tập trung binh mã sao? Lũ khốn ngủ nhiều quá thành bệnh rồi chắc?

Quan Thụ Anh sắc mặt trắng bệnh thưa: 

- Đại nhân, khâm sai đại nhân đã tới rồi.

- A?

Tất Xuân cả kinh, chiếc áo giáp vừa cầm lên rơi đánh bộp xuống đất, gã nghi ngờ hỏi: 

- Y đến lúc nào? Sao ta lại không nghe thấy chút tin tức nào thế? Bây giờ y đang ở đâu?

Quan Thụ Anh đáp: 

- Thuộc hạ cũng không biết y tiến vào quân doanh từ lúc nào, hiện giờ y đang ở trong soái trướng chờ đại nhân đấy!

Trong mắt Tất Xuân thoáng qua thần sắc kinh ngạc, sau đó gã chậm rãi khom người nhặt chiếc áo giáp lên, cẩn thận mặc vào người, trầm giọng cất tiếng: 

- Tập hợp thân quân, xếp hàng chờ đợi trước lều soái, giờ bản quan sẽ đi gặp vị Dương đại khâm sai này.

Quan Thụ Anh cười nhưng còn khó coi hơn khóc, lắp bắp: 

- Đại nhân! Khâm sai đại nhân dẫn người tới, không cho phân bua gì cả đã tước hết vũ khí của các huynh đệ, bây giờ mọi người đều bị giam giữ trong lều, ai dám phản kháng đều giết không tha. Dương… Dương đại nhân còn nhận ra thuộc hạ, do đó mởi thả cho ra, nói là kêu thuộc hạ đi mời đại nhân đến lều soái gặp mặt.

Tất Xuân tức giận đến nỗi sắc mặt lúc xanh lúc trắng, nghĩ bụng: “Mình tốt xấu gì cũng là chủ tướng trong quân, Dương Lăng làm vậy là có ý gì chứ? Muốn thể hiện oai phong? Có cần phải làm lớn như vậy không? Muốn bắt mình? Tội danh gì chứ?”

Tất Xuân căng thẳng suy nghĩ một lúc lâu. Tất nhiên bản thân gã đã từng làm những chuyện phi pháp, hơn nữa còn không ít, nhưng Dương Lăng phụng chỉ xuống Giang Nam không phải là để điều tra việc bạc thuế sao? Vệ sở ở Giang Nam vốn đã tệ như vậy rồi, y dựa vào cái gì mà đem gã ra khai đao, lại dựa vào cái gì mà vượt quyền làm vậy chứ?

Tất Xuân suy nghĩ hồi lâu mà vẫn chẳng thể nào hiểu rõ được vấn đề, thanh đao bên hông đeo lên rồi lại bỏ xuống, bỏ xuống rồi lại đeo lên. Đang lúc gã hoang mang lo lắng, bên ngoài cửa đã có người hô lớn: 

- Ti chức là bách hộ Trịnh An Đức của Nội xưởng phụng lệnh khâm sai đại nhân kính mời Tất đô ti đến lều soái gặp gỡ!

Tất Xuân nghiến răng, vứt thanh đao lại lên bàn, rảo bước ra ngoài.

Trước lều soái là hơn hai mươi tướng tá ăn mặc chỉnh tề, khôi giáp mới tinh đang băn khoăn do dự từ từ đi vào lều soái, trong mắt bọn họ lúc này lều soái cứ tựa như là một con mãnh hổ đang há cái miệng to như chậu máu ra. Vừa bước vào, nhìn thấy mấy chục người ăn mặc theo lối nha sai của xưởng vệ đang đặt tay trên cán đao sát khí đằng đằng, người người đều không khỏi cảm thấy run sợ.

Họ thấy những nha sai đang tay giữ cán đao đó đều mang trường cung trên lưng hoặc là súng ngắn bên hông, có người còn có cả nỏ liên hoàn, loại Gia Cát thần nỗ có thể bắn ra năm phát liên tiếp, ở cự ly gần chắc hẳn không thể tránh nổi.

Năm thân tín mà Đinh Lâm tìm tới đều là những quan chức cấp thấp trong quân. Tuy phẩm hàm của họ không cao nhưng so với đám binh sỹ phải đứng gác đêm thì vẫn cao hơn nhiều; có bọn họ dẫn đường, đội quân của Dương Lăng tiến dễ như chẻ tre, tất cả mọi trạm gác đều bị xóa sạch. Đợi đến khi có tiếng kèn lệnh, trống lệnh tập hợp vang lên, các tướng sỹ hoang mang bò dậy thì những binh sỹ lạ mặt có trang phục giống hệt bọn họ đã canh giữ chắc chắn bên ngoài mỗi ngôi lều rồi.

Cùng là binh sỹ, nhưng lại có thể quát bảo ra lệnh cho đội quân khác kể cả một số viên quan chỉ huy, khiến đám sỹ tốt thuộc vệ sở Hải Ninh đều cảm thấy đắc ý vô cùng. Bọn họ không tin rằng đám sỹ tốt và tướng tá kia lúc này đã ở vào thế kém rồi mà còn dám tạo phản làm loạn, nên lại càng oai phong vô cùng, chẳng để ai vào trong mắt. Cái loại khí thế đó lại càng khiến người ta chẳng thể nhìn ra thực lực và gốc gác của bọn họ thế nào, lại càng khiến không ai dám khinh động.

Vệ quân Hải Ninh vừa tuần tra vừa cao giọng tuyên bố mệnh lệnh của khâm sai: 

- Tất cả sỹ tốt phải ở trong lều chờ lệnh; những sĩ quan từ cấp bả tổng trở lên phải lập tức đến lều soái nghênh đón đại giá của khâm sai đại nhân. Kẻ nào dám không tuân lệnh, giết! Sỹ tốt nào dám tự tiện rời lều, giết! Kẻ nào dám phản kháng bỏ chạy, giết!

Đến khi vệ quân hô tới lần thứ ba, bắt đầu có những tướng tá lớn mật ăn mặc chỉnh tề lục tục bước ra ngoài lều, có điều để tránh hiểu lầm tất cả đều không dám mang theo binh khí. Khi hô đến lần thứ năm thì tất cả mọi tướng tá đều đã tập trung đến trước hành dinh của đô ti ở trung quân, dựa theo quan chức cao thấp mà run rẩy bước vào trong lều khấu kiến khâm sai đại nhân.

Trong lều soái bắt đầu từ chỗ soái án, mỗi bên đứng một hàng nha sai gồm bốn chục người, vươn dài xuống hai bên theo hình cánh nhạn, bao quanh khâm sai đại nhân đang ngồi sau soái án vào giữa. Giữa các nha sai là hai hàng người, hai vị tướng lĩnh đứng đầu là Lục Quý Vân, chỉ huy phó sứ Long Sơn vệ và chỉ huy thiêm sự Đinh Lâm.

Lục Quý Vân là người thân tín của Tất Xuân, hắn không biết khâm sai đại nhân sáng sớm đến tập kích, khống chế tam quân rồi tập trung tất cả các tướng tá vào trong lều soái là có ý gì, trong lòng cực kỳ sợ hãi. Đinh Lâm thấy đại cục đã định, cả doanh trại đã nằm trong sự khống chế của khâm sai đại nhân nên trên mặt đầy vẻ đắc ý, còn mang theo nét cười nhàn nhạt.

Trên soái án có bày văn phòng tứ bảo, nơi góc bàn còn có một cái hộp làm bằng gỗ đàn hương, bên trong có cắm hai mươi cái hỏa bài lệnh tiễn.

Khâm sai đại nhân phong lưu anh tuấn đang ngồi trên chiếc ghế sau soái án, nghịch ngợm chiếc bút lông trong tay. Y không nói gì, trong lều soái cũng vô cùng tĩnh lặng. Hơn sáu chục người ở trong lều soái mà chỉ nghe thấy có những tiếng hô hấp nặng nhọc do bị kềm nén vang lên, khiến áp lực trong lòng mỗi người càng lúc càng nặng nề.

Đúng vào lúc này, bên ngoài lều soái có người hô vang: 

- Bẩm khâm sai đại nhân, chỉ huy sứ Long Sơn vệ là Tất Xuân đô ti đã đến!

Lời vừa mới dứt, một vị tướng lĩnh mặc giáp nghiêm trang rảo bước vào, ngang nhiên đi tới trước soái án. Khi gã chỉ còn cách soái án không xa, hai viên nha sai ở bên cạnh lập tức bước ra giơ đao ngăn cản, miệng quát lớn: 

- Phải hành lễ, chờ lệnh; không được đến gần!

Cơ thịt trên đôi má gầy khô của viên tướng lĩnh khẽ co giật, đôi mắt tam giác nhiều lòng trắng ít lòng đen hơi nhướng lên, dường như gã đã bừng bừng nổi giận. Đôi mắt ấy vừa nhướng lên gặp cặp mắt ung dung của Dương Lăng thì không khỏi run sợ cúi xuống. Sau một lúc do dự, gã bèn đưa tay kéo vạt dưới của chiến bào qua một bên, quỳ gối làm lễ: 

- Hạ quan Tất Xuân, khấu kiến khâm sai đại nhân!

Chiếc bút lông đang xoay tròn trong tay Dương Lăng chợt dừng lại. Y đưa mắt liếc nhìn vị tướng quân giáp trụ đường hoàng đang quỳ trước mặt kia, chợt nhớ lại cái ngày mùa đông lúc hai người lần đầu gặp mặt.

Khi đó y đang ở giếng nước ven đường múc nước uống, nước giếng lạnh băng, trong gàu còn có những mảnh băng phập phù trôi nổi; một vị tướng quân khôi giáp chỉnh tề cưỡi chiến mã đi đến bên cạnh y, vênh mặt hất hàm chỉa roi ngựa vào mặt y mà hò hét.

Thời gian thấm thoắt thế sự vô thường, vừa chia tay chẳng bao lâu thì hiện giờ gã đã phải quỳ xuống dưới chân mình rồi. Dương Lăng cảm khái thở dài một tiếng, chậm rãi đứng dậy: 

- Xin Tất tướng quân đứng dậy. Ngày đó chia tay ở Kê Minh, vốn tưởng ngài và ta sẽ chẳng có ngày gặp lại, không ngờ hôm nay trùng phùng lại ở trong hoàn cảnh thế này.

Chương 135 - Cái Khó Ló Cái Khôn

Tất Xuân chậm rãi đứng dậy, đôi mắt hơi cụp xuống, hờ hững nói: 

- Hạ quan xin chúc mừng đại nhân một bước lên mây, quyền cao chức trọng. Nghe nói đại nhân muốn thị sát Long Sơn vệ, ti chức không dám sơ suất chút nào, đang cố gắng chỉnh đốn việc quân chờ đại nhân đến. Có điều không biết vì sao đại nhân còn chưa thông báo mà đã vào doanh khống chế thân quân của ti chức rồi sau đó mới triệu ti chức đến gặp là có ý gì?

Dương Lăng liếc nhìn qua hai bên chỉ thấy hơn hai chục vị tướng tá đứng nghiêm ở đó, ngay cả thở mạnh cũng không dám nhưng người người đều dỏng tai lên, hiển nhiên là rất quan tâm đến ý đồ của y khi đến đây lần này.

Y nở nụ cười mỉm, hôm nay tập kích Long Sơn vệ nhờ có Đinh thiêm sự làm nội ứng, lại ra tay trong lúc đối phương không đề phòng do đó chẳng cần động đến đao thương đã có thể giải quyết được Tất Xuân, trái tim vốn căng thẳng như đeo đá của y cũng nhẹ nhõm hơn nhiều, do đó thần thái cực kỳ ung dung. Dương Lăng thản nhiên liếc nhìn qua phía Liễu Bưu, Liễu Bưu lập tức hiểu ý bước lên trước một bước, cao giọng hô: 

- Xưởng đốc Nội xưởng kiêm khâm sai đại thần Dương đại nhân phụng chỉ tuần tra Giang Nam, nhận được sự tố cáo của chỉ huy thiêm sự Long Sơn vệ là Đinh tướng quân, tra xét việc chỉ huy sứ của Long Sơn vệ là Tất Xuân cùng đồng bọn là phó sứ Lục Quý Vân cắt xén quân lương, cưỡng chiếm đồn điền, báo sai quân số, để khí giới hư tổn lại nhiều lần gian dối nhằm nhét đầy túi riêng khiến lòng quân oán hận, sỹ tốt khổ sở vô cùng, tội chứng xác thực. Trong thời gian khâm sai đại nhân tuần tra, tất cả những hành vi phi pháp về quân sự và chính trị ở Giang Nam đều quyền hỏi tới. Giờ xin vâng theo thánh dụ, lập tức bắt giữ Tất Xuân và Lục Quý Vân, mấy hôm nữa sẽ áp giải về kinh lĩnh tội.

Đám tướng tá phía dưới lập tức trở nên nhộn nhạo. Bọn họ sớm đã cảm thấy việc khâm sai đại nhân hôm nay đột nhiên vào doanh rồi lại động can qua như thế tuyệt đối chẳng phải là chuyện tốt gì, không ngờ lại đúng là muốn bắt người, hơn nữa còn là bắt cả chính và phó chỉ huy sứ.

Lục Quý Vân nghe xong không khỏi run lên, hắn và Tất Xuân vừa kinh hãi vừa tức giận. Chỉ huy thiêm sự Đinh Lâm không ngờ Liễu Bưu lại nói ra tên mình ở ngay trước mặt mọi người như thế, sắc mặt không khỏi lúc trắng lúc đỏ: rõ ràng là khâm sai muốn giải quyết Tất Xuân, vậy mà lại nói là nhận được sự tố cáo của y rồi mới điều tra, lần này dù y có nhảy xuống sông Hoàng Hà cũng chẳng rửa được hết tội rồi.

Tất Xuân vừa kinh hãi vừa tức giận nói: 

- Đại nhân cớ gì lại nói như vậy? Hạ quan một lòng trung với triều đình, đây rõ ràng… rõ ràng là Đinh Lâm và hạ quan bất hòa, cố ý trả thù, ngậm máu phun người. Đại nhân chớ nên nghe lời nói từ một phía của y!

Đinh Lâm nghe thế cũng chỉ đành hạ quyết tâm, nhảy ra nói: 

- Tất đô ti, ngài đã từng làm những chuyện gì thì tự ngài rõ, việc ngài và Lục phó sứ đồng lõa với nhau tham ô quân lương chẳng phải là sự thực sao? Quân lương theo luật thì phải do vị quan thiêm sự ta quản lý, ngài dựa vào cái gì mà một tay nắm hết chứ? Khi ngài đi lên phía bắc thì quyền quản lý lại được giao cho gã họ Lục, sợ ta dính dáng vào…

Dương Lăng khoát tay ra hiệu cho y dừng lại, nói: 

- Bản quan được nhiên sẽ không nghe lời từ một phía mà trị tội ai cả, ngươi muốn có chứng cứ sao?

Y vươn người đứng dậy, nói: 

- Người đâu, đưa chứng cứ vào đây!

Lập tức có bốn viên nha sai bước vào trong lều, hai người bưng theo một chồng công văn rất dày, hai người còn lại thì khiêng một cái rương lớn, Dương Lăng chỉ tay vào một cuốn sổ nói: 

- Đây là sổ ghi chép danh sách quan binh, bên trên ghi nhân số là 6539 người. Bây giờ bản quan sẽ kiểm tra thử, nếu nhân số không chênh lệch quá một trăm người, bản quan sẽ không tính là ngươi ghi khống để cắt xén quân lương.

Tất Xuân nghe xong lập tức mặt vàng như đất, chênh lệch một trăm người? Chuyện đùa, ngàn người còn là ít ấy chứ! Triều đình chính là dựa vào số lượng này để phát quân lương, Dương Lăng làm sao mà biết được? Làm sao lại có vẻ chắc chắn như thế?... Nhất định là tên cẩu tặc Đinh Lâm kia mật báo rồi! Vừa nghĩ hắn vừa hằn học trừng mắt nhìn Đinh Lâm một cái, dáng vẻ tựa như thể chỉ muốn xông lên cắn chết đối phương ngay.

Dương Lăng lại chỉ tay vào một cuốn sổ khác nói: 

- Trong quân mỗi một binh sỹ được giao cho một suất ruộng, do quan phủ cung cấp trâu cày, nông cụ và hạt giống, đồng thời trưng thu lương thực theo từng suất, đây là chế độ đồn điền vệ sở. Hiện giờ phần lớn đất đai đều đã bị đám tướng tá cao cấp các ngươi phân chia, chỉ có một số đất cằn cỗi hoang vu là được giao vào tay binh sỹ, các ngươi cưỡng ép tước đoạt như thế, khiến các binh sỹ khó mà sống nổi nên không thể không đào ngũ, lưu lạc tha hương, đây cũng là Đinh tướng quân vu cáo sao? Có cần bản quan phải lần lượt chỉ ra từng chứng cứ không?

Tất Xuân sắc mặt trắng bệch, hai tay run rẩy, khí chất vững vàng đúng mực vốn có đã biến mất hoàn toàn. Dương Lăng thở dài khoát tay một cái, hai nha sai bưng công văn sổ sách liền đứng qua hai bên phải trái, hai nha sai phía sau thì đặt chiếc rương xuống đất, lấy ra một tấm lá chắn, tấm lá chắn đó vốn được làm bằng gỗ cứng rồi bọc sắt bên ngoài, nhưng hiện giờ nhìn mặt ngoài của nó đã rỉ sét, màu sắc thì cũ kỹ, bên trên còn hơi ẩm ướt và có rêu xanh, chẳng biết là đã bao lâu chưa được quét sơn và bão dưỡng rồi. Hai người giống như biểu diễn, một người cầm lá chắn, người kia rút thanh đao bên hông ra, một người chém một người đỡ, đao vừa chém xuống lá chắn liền vỡ tan, hệt như cắt rau vậy.

May mà hai người đã sớm có chuẩn bị, lực dùng đao vừa phải, lá chắn vừa bị chém vỡ là người cầm lá chắn liền thu tay lại ngay, sau đó lại thuận tay lấy từ trong chiếc rương ra một quả địa lôi. Dương Lăng cười lạnh nói: 

- Hỏa khí trong quân nhất định phải bảo dưỡng hợp lý, ngươi đem bạc mà triều đình phát cho để duy tu xây dựng phòng chứa hỏa khí đi đâu rồi? Trong mười quả Thần Nha Hỏa Lôi này liệu có tới hai quả có thể nổ được không?

Tất Xuân ngẩng đầu lên trời thở dài một tiếng, nhắm hai mắt lại chẳng nói năng gì, Lục phó sứ tựa như con gà trống bị cắt tiết, ú ớ chẳng biết phải nói gì, sau đó đột nhiên quỳ đánh bộp một cái xuống đất, run rẩy chẳng nói lên lời.

Dương Lăng thở dài một tiếng, ngoảnh đầu lại bảo: 

- Ngoài đội thân binh của ngươi, cánh quân này của Đại Minh ta có khác gì với một đám ăn mày chứ? Càng đừng nhắc đến ngươi… Ngươi khi đối địch với lũ giặc lùn thì còn đục nước béo cò… có vô số hành vi táng tận lương tâm!

Y khoát tay một cái, lập tức có bốn nha sai xông vào, ấn Tất Xuân và Lục Quý Vân xuống đất, trói thật chặt rồi lôi ra bên ngoài. Trong lều lúc này vô cùng tĩnh lặng, một số tướng lĩnh có chia phần trong việc này thì đều run lẩy bẩy, sắc mặt trắng bệch.

Sắc mặt Dương Lăng hòa hoãn hơn một chút, nói với chúng tướng: 

- Ta biết các ngươi ít nhiều đều có chút hành vi phi pháp, có điều phần lớn là tình thế bức ép, sợ quan trên ghét bỏ nên không thể không vào hùa theo. Hiện giờ bản quan đã trừ bỏ kẻ thủ ác, những người bị bức ép phạm pháp bản quan cũng không truy cứu nữa.

Hơn hai mươi tướng tá nghe vậy đều mừng rỡ vô cùng, lập tức quỳ cả xuống đất, dập đầu tạ ơn: 

- Bọn mạt tướng xin cảm tạ Dương đại nhân đã khai ân!

Dương Lăng khẽ mỉm cười, đưa mắt nhìn Đinh thiêm sự nói: 

- Đinh tướng quân!

Đinh Lâm thân hình chấn động, vội bước ra nói: 

- Có mạt tướng!

Dương Lăng nói: 

- Trong quân không thể một ngày không có tướng, hiện giờ trong vệ sở Long Sơn phẩm hàm của ngươi là cao nhất, nhiệm vụ nặng nề này ngươi hãy tạm thời đảm nhận đi, đợi sau này trong kinh có thánh dụ ban xuống thì sẽ trở về chức cũ.

Đinh Lâm mừng rỡ vô cùng, vội quỳ xuống nói: 

- Mạt tướng tuân lệnh!

Dương Lăng gật gật đầu, đưa ngón tay ra nói: 

- Đại tội của Tất Xuân chính là đại công của ngươi. Hắn cắt xén quân lương, báo sai quân số, cưỡng chiếm đồn điền, để khí giới tổn hại, ngươi biết nên làm thế nào rồi chứ?

Đinh Lâm hơi ngẩn ra, ngẩng đầu lên nhìn thấy ánh mắt sắc bén của Dương Lăng, trong lòng không khỏi run lên, vội trả lời: 

- Mạt tướng hiểu, mạt tướng sẽ lập tức đem quân lương bị cắt xén phát cho sỹ tốt, đo đạc lại đồn điền lần lượt trả về cố chủ, sau đó điểm lại nhân số báo cho ty đô chỉ huy sứ, chỉnh đốn lại tác phong quân đội, đồng thời cho duy tu sửa chữa các loại khí giới…

Dương Lăng tựa cười mà chẳng phải cười nói: 

- Rất tốt, sau này bản quan sẽ phái người trở lại xem ngươi làm thế nào. Nếu có người dám cản trở hay gây khó dễ, bản quan nhất định sẽ làm chủ cho ngươi. Nhưng chỉ làm những chuyện này thôi vẫn chưa đủ, ngươi còn phải cầm quân cho tốt, khi giặc lùn tới thì có thể đại chiến một phen, đuổi bọn chúng trở về biển cả làm tôm cá. Đừng học theo Tất Xuân chỉ biết đi theo sau đít người ta mong nhặt lấy chút tài vật do đối phương vứt lại, đó đều là mồ hôi nước mắt, là nguồn sống của trăm họ, làm thế thật thất đức lắm!

Đinh Lâm và hơn hai chục viên tướng tá phía dưới đều mặt mũi đỏ bừng, mồ hôi tuôn ra cuồn cuộn nói: 

- Vâng vâng vâng, mạt tướng tuân lệnh!

Dương Lăng đứng dậy nói: 

- Đinh tướng quân, ngươi hãy ước thúc quân đội của mình cho tốt. Được rồi, bản quan phải lập tức đưa phạm nhân về thành.

Trước khi quyết định ra tay Dương Lăng đã phái người đi thương nghị với Đinh Lâm, chỉ cần Tất Xuân và Lục Quý Vân bị bắt thì trong tình huống như rắn không đầu, cho dù thân quân của Tất Xuân nhất thời không phục thì cũng không có dũng khí công khai phản kháng, huống chi Đinh Lâm ít nhiều cũng có một số thân tín, y tự tin rằng mình có thể giải quyết ổn thỏa chuyện này.

Dương Lăng cũng từng nghĩ đến việc điều quân ở Long Sơn vệ đi tiễu trừ Viên Hùng, nhưng nếu bây giờ sử dụng đến đội quan binh vốn lòng quân chưa vững này, trong loạn quân liệu thân tín của Tất Xuân có ngầm giở trò hay không thật sự là khó nói, do đó để cho an toàn, Dương Lăng quyết định chỉ cần Long Sơn vệ có thể giữ được sự ổn định là đã tốt lắm rồi, không dám hy vọng rằng bọn họ có thể có tác dụng gì khác cả.

Các tướng tá của Long Sơn vệ vội vàng lùi qua hai bên, bốn mươi nha sai bảo vệ Dương Lăng ở giữa nối đuôi nhau bước ra ngoài. Chỉ thấy hai người bạn cũ là Quan Thụ Anh và Trịnh Đại Bằng đang ngẩn ngơ đứng ngay ngoài cửa, trên hai chiếc xe tù tạm thời được trưng dụng là Tất Xuân và Lý Quý Xuân bị trói nghiến vào, vẻ mặt mịt mờ khôn tả, nhìn thấy Dương Lăng bước ra mới chợt cúi đầu xuống hằn học trừng mắt nhìn y, ánh mắt như thể muốn ăn tươi nuốt sống y vậy. Dương Lăng ngày trước từng xưng huynh gọi đệ với Quan Thụ Anh và Trịnh Đại Bằng, giờ đây thấy bộ dạng bọn họ như thế, trong lòng có chút bất nhẫn, do đó mới dừng chân lại, nhưng cũng không tới nói chuyện với bọn họ, chỉ nhỏ giọng bảo Đinh Lâm vốn đi ra theo sau mình: 

- Trong vệ sở Long Sơn sức chiến đấu của đội thân quân của Tất Xuân là mạnh nhất, nên vỗ về chứ không nên đàn áp, đừng làm khó bọn họ quá, nên dùng ân đức để thu phục lòng người, bọn họ nhất định sẽ trở thành cánh tay đắc lực cho ngươi.

Đinh Lâm nào dám không theo, vội vàng lên tiếng: 

- Vâng vâng, đại nhân yên tâm, lòng dạ hạ quan tuy không so được với đại nhân, nhưng cũng không đến nỗi không chứa nổi mấy tên thân binh, quyết sẽ không làm khó bọn họ.

Dương Lăng gật gật đầu, chậm rãi rời khỏi trung quân, Mẫn Văn Kiến và Trịnh bách hộ dẫn ba trăm sỹ tốt đi theo sau, bên cạnh những ngôi lều ở hai bên, binh sỹ của Chủng thiên tổng vẫn cầm đao cầm thương cẩn thận phòng bị. Đúng vào lúc này trong một ngôi lều ở phía xa có người hô lớn: 

- Ta muốn gặp khâm sai đại nhân, ta muốn gặp khâm sai đại nhân.

Dương Lăng ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ thấy trong một ngôi lều có một người binh sỹ chạy ra, vệ quân Hải Ninh đã ngăn y lại, mấy binh sỹ nóng tính còn đá y ngã lăn ra đất, sau đó đấm đá một trận. Không khí xung quanh lập tức trở nên náo động, thân quân dưới trướng Dương Lăng đều cẩn thận đề phòng, những binh sỹ có nỏ liên châu trong tay đều đã giơ cây nỏ lên ngang người, hướng đầu mũi tên về phía trước.

Dương Lăng lạnh lùng bảo: 

- Chẳng qua chỉ là một người, còn sợ y làm phản chắc? Đưa y tới đây!

Tuy bị vệ quân Hải Ninh đánh cho một trận, nhưng người đó không dám phản kháng, sợ bị người ta hiểu lầm là thích khách mà giết chết, chỉ đành ôm đầu bảo vệ chỗ yếu hại, lớn tiếng kêu lên: 

- Ta và đại nhân vốn có giao tình, chớ có đánh ta!

Nghe thấy thân quân của Dương Lăng lớn tiếng quát, đám lính Hải Ninh đó mới chịu dừng tay nhấc người kia lên, bẻ quặt tay y ra phía sau mang lại gần. Dương Lăng vừa nhìn thấy người đó, tuy mặt mũi đã sưng vù nhưng vẫn có thể nhận ra là Mã Ngang, không khỏi cả kinh. Y phải lo nghĩ việc bắt giữ Tất Xuân, Viên Hùng, bố trí người ngầm quan sát Mạc Thanh Hà, có nhiều việc phải quan tâm, không ngờ lại quên mất việc Mã Ngang đang ở trong quân của Tất Xuân.

Dương Lăng vội vàng bước lên hai bước, ra lệnh: 

- Mau thả y ra! - Dứt lời liền đi tới nắm lấy tay Mã Ngang, nhìn khắp trên dưới bảo - Mã huynh, quả nhiên là huynh.

Mã Ngang vừa bị đánh cho một trận, nhưng thấy Dương Lăng đối với mình cực kỳ thân thiết, trong cơn mừng rỡ không khỏi quên hết nỗi đau đớn trên người, vội cười bồi nói: 

- Khâm sai đại nhân, ta… tiểu nhân…

Dương Lăng vội cất tiếng: 

- Mã huynh chớ nên nói như vậy, chúng ta quen biết đã lâu, xưa nay vốn xưng huynh gọi đệ, bây giờ huynh xưng hô như thế thật khiến tiểu đệ áy náy lắm!

Mã Ngang nghe y nói như vậy, lập tức mừng rỡ vô cùng. Xem ra Dương Lăng vẫn chưa quên em gái mình, bây giờ em rể mình đã là xưởng đốc Nội xưởng rồi, hà hà, lần này thì đúng là một bước lên trời.

Thì ra sau lần Mã Liên Nhi đắc tội với Tất Xuân, việc nạp thiếp không thành, Tất Xuân liền không thèm gặp y nữa. Y vốn là thân binh đắc sủng nhất, hơn nữa còn đã được thăng làm thập trưởng nhưng sau đó lại bị Tất Xuân tìm cớ giáng xuống làm tốt đen, cuối cùng thì bị đuổi đi nuôi ngựa.

Trở thành một binh sỹ nhỏ nhoi, lại rời xa tầm mắt của Tất Xuân, Tất Xuân cũng chưa từng làm khó gì y cả. Nhưng y vốn tâm cao khí ngạo, lại từng đọc qua thi thư, có một thân võ nghệ vậy mà giờ phải ở cùng với mười mấy người nuôi ngựa vốn chẳng biết chữ nhất bẻ đôi, suốt ngày bị người ta sai đi gọi lại, cuộc sống thật chẳng dễ chịu chút nào. Về sau dần dà nghe kể Dương Lăng ở kinh sư thăng quan tiến chức vùn vụt, Mã Ngang vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, em gái nhà mình quả nhiên là biết nhìn người, Dương Lăng này thật chẳng phải vật trong ao. Vốn dĩ y cảm thấy em gái mình tướng mạo tài năng đều thuộc vào hàng tuyệt phẩm, làm thiếp cho một tên dịch thừa không những thiệt thòi cho em gái mình mà hơn nữa còn làm mất hết mặt mũi của nhà họ Mã, nhưng bây giờ thì lại suốt ngày lo lắng thiệt hơn, sợ Dương Lăng sau khi vào kinh trở thành nhân vật ở trên muôn người, tầm mắt cũng cao hơn, sẽ không còn thích em gái mình nữa. Y vốn dự định đợi khi Dương Lăng đến tuần tra thì sẽ xin cầu kiến, thử thăm dò xem ý tứ Dương Lăng thế nào.

Nhưng hôm nay Dương Lăng không ngờ lại đột ngột xuất binh, sau khi khống chế xong Long Vệ quân mới vào trong lều soái, y cứ một mực chờ đợi cho tới bây giờ nhưng lại thấy Tất Xuân và phó chỉ huy sứ Lục đại nhân bị trói vứt trên xe, Dương Lăng thì chuẩn bị rời đi rồi. Mã Ngang sợ bỏ lỡ lần này thì sẽ không còn cơ hội gặp lại Dương Lăng nữa, bèn dứt khoát kêu lớn mà xông tới. Dương Lăng thấy làn da màu đồng cổ của Mã Ngang trở nên càng đậm hơn, nhưng khí thế hiên ngang ngày trước thì đã biến mất hoàn toàn, quần áo… cũng quả thực có chút mộc mạc, không kìm được ngạc nhiên hỏi: 

- Mã huynh, không phải huynh được làm thân binh ở trong quân sao? Thế này là…?

Đinh Lâm thấy một tên tiểu tốt trong quân của mình không ngờ lại quen biết khâm sai đại nhân, trong lòng kinh ngạc vô cùng, nhưng Mã Ngang vừa mới vào Long Sơn vệ đã là phu nuôi ngựa, y căn bản chưa từng gặp bao giờ, cũng chẳng thể gọi ra tên nên không khỏi tò mò nhìn ngắm hai người.

Mã Ngang thấy chỉ huy thiêm sự Đinh Lâm cung kính đứng sau lưng Dương Lăng mà vị đại nhân bên cạnh kia bản thân cũng nhận ra được, không ngờ lại là Kê Minh huyện lệnh Mẫn đại nhân khi xưa, bèn thừa cơ lớn tiếng nói: 

- Đại nhân, từ sau khi xá muội ngầm tự định chung thân với ngài, Tất Xuân trút giận sang ta, còn chưa tới Long Sơn vệ đã giáng ta xuống làm phu nuôi ngựa và làm nhục đủ điều. Hôm nay được gặp ngài ở đây, ta rốt cuộc cũng có lối thoát rồi, xá muội từ sau khi từ biệt đại nhân đến bây giờ vẫn đang ở nhà cũ tại Kim Lăng chờ đợi ngài…

Dương Lăng không khỏi đỏ bừng mặt, vội vàng ngắt lời y lại, nói: 

- Mã huynh, Mã huynh, hiện giờ Tất Xuân đã bị bắt, chẳng bao lâu sau sẽ bị ta áp giải về kinh, Đinh tướng quân đã tạm thay chức chỉ huy sứ, ta nghĩ Đinh tướng quân nhất định sẽ không bạc đãi huynh đâu.

Đinh Lâm nghe nói đây là anh vợ của khâm sai đại nhân, lập tức nở nụ cười tươi rói, vội vàng nói: 

- Chính thế, chính thế, mạt tướng đang thiếu một vị thân quân đội trưởng, còn chưa tìm được người nào thích hợp, nếu…

Mã Ngang nghe thế thì có chút sốt ruột, Dương Lăng và Tất Xuân không giống nhau, nước lên thì thuyền lên theo, đường đường là xưởng đốc Nội xưởng sao có thể để anh vợ làm một thân quân đội trưởng nhỏ nhoi ở vệ sở chứ? Y bèn vội nói: 

- Đại nhân, nghe nói Nội xưởng vừa mới thành lập còn đang thiếu người, hiện giờ chiến sự ở biên cương phía nam cực ít, dốc sức trong quân chẳng bằng…

Mẫn đại nhân vội ngăn lời y lại, nói: 

- Đại nhân, diêm binh hiện giờ tổn thất nặng nề, ba bả tổng dưới trướng ta chỉ còn lại một, đang rất thiếu người. Mã Ngang văn võ kiêm toàn mà ta cũng hiểu khá rõ về y, chi bằng xin đại nhân hãy giúp cho một chút để Mã Ngang tới dưới trướng của ta được chăng?

Dứt lời ông ta bèn bước lên phía trước, kéo tay Mã Ngang cười bảo: 

- Lâu ngày không gặp hiền điệt, trông ngươi lại càng cường tráng hơn nhiều rồi - Kế đó lại kề sát đến bên tai y nhỏ giọng bảo - Đồ ngốc, ở trước mặt bao nhiêu người như thế ngươi bảo đại nhân làm sao có thể làm việc theo tình riêng được chứ? Trước tiên hãy tới trong quân của ta, chỉ cần lệnh muội không chạy ra khỏi cửa nhà họ Dương thì ngươi còn phải lo cái gì chứ? 

Mã Ngang ngẩn ra, tới lúc này mới phát giác mình đã quá nôn nóng, y vừa chỉ rõ thân phận của Dương Lăng ra rồi, lại kêu Dương Lăng thu vén cho mình ở ngay trước mặt mọi người quả thực là không thích hợp, bèn vội ngậm miệng lại.

Dương Lăng thở phào một hơi, quay sang phía Đinh Lâm bảo: 

- Mã Ngang là người quen của ta, y văn võ toàn tài, làm một mã phu quả không thích hợp, Mẫn đại nhân dốc sức cho triều đình mấy lần giết địch, trước mắt nhân mã đã tổn thất quá nửa, sỹ tốt thì dễ kiếm nhưng tướng tá khó tìm, Đinh tướng quân có bằng lòng buông người không?

Đừng nói là chỉ một Mã Ngang, cho dù có mang hết người hết ngựa đi Đinh Lâm cũng không dám không đồng ý, y liền vội vàng nói: 

- Tất nhiên tất nhiên, vậy thì… Mã huynh đệ xin hãy theo Mẫn đại nhân tới Hải Ninh trước đi, thủ tục điều động hạ quan sẽ làm sau!

Mã Ngang có một thân võ nghệ, văn tài cũng tạm ổn nhưng bây giờ còn chưa chính thức nhậm chức, diêm binh cũng chẳng nhận ra y nên Dương Lăng không tiện để y tham ra vào việc bắt giữ Viên Hùng, bèn phái ra ba mươi quan binh vệ sở để y thống lĩnh, lệnh cho áp giải hai chiếc xe tù chậm rãi đi ở phía sau, còn bản thân thì dẫn theo đại đội nhân mã tiến nhanh về phía nha môn thuế quan.

Lúc này trời đã sáng rõ, ánh dương rạng rỡ vô cùng. Gần ngàn quan binh được điều động đã chẳng thể giấu được tai mắt người ta, bọn họ chỉ đành tiến thật nhanh hầu đạt được hiệu quả xuất kỳ bất ý.

Nha môn thuế quan của Viên Hùng cách Long Sơn vệ không xa, rời khỏi thung lũng đi qua trấn Phong Diệp chừng mười dặm về phía bên trái sẽ tới một nơi có tên là bến Lạc Nhạn, rộng chừng mấy chục dặm. Nơi này vốn chỉ có một bến đò, phía trước là hồ nước mặn, trong hồ có vô số hòn đảo, nước hồ thông thẳng tới biển rộng.

Viên Hùng đã xây dựng nha môn thuế quan ở trên bến Lạc Nhạn này, hiện giờ đám tay chân đi theo hắn càng lúc càng đông, xung quanh nha môn không ngừng được xây dựng thêm phòng ốc, đã dần dần hình thành một thôn trấn độc lập. Ngoài một con đường lớn ra, xung quanh toàn là những cây lau sậy cao đến đầu người. Viên Hùng bỏ thành trì không ở, chạy đến nơi này tự lập làm vương, thật cũng tiêu dao tự tại.

Đại quân vừa mới tiếp cận bến Lạc Nhạn lập tức tỏa ra theo hình cánh quạt rồi tiếp tục tiến đến gần nha môn thuế quan, đội ngũ cầm cung nỏ đi đầu, những người cầm đao thương đi sau. Bãi lau sậy này có diện tích cực lớn, từ xa nhìn lại rậm rạp như rừng, gần ngàn binh sỹ tỏa ra lập tức mất hết tung tích. 

Bốn phía xung quanh nha môn thuế quan đều là lau sậy, nhưng lại có ba mặt giáp với đất liền, mặt còn lại thì chính là bến đò xuyên qua giữa bãi lau sậy. Dương Lăng sớm đã phái năm mươi nha sai cưỡi khoái mã tiến thẳng đến bên đò, mục đích chỉ có một, đó là phá hỏng tàu thuyền, như vậy cho dù Viên Hùng có ý chạy trốn thì cũng không thể dùng đường thủy nữa.

Dương Lăng dẫn theo mấy chục thân binh đi giữa bãi lau sậy, mùi thơm nhàn nhạt như mùi bánh theo làn gió ẩm ướt bay tới, khiến người ta đắm say.

Trong bãi lau sậy thỉnh thoảng cũng có dòng sông, nước sông rất nông, khi đại quân đi qua thỉnh thoảng lại làm lũ vịt trời, cò trắng sợ hãi bay vụt cả lên trời, còn có mấy con thỏ hoang, cáo chạy loạn khắp nơi, nhìn rất thú vị. Nhưng mọi binh sỹ đều biết rằng nha môn thuế quan có binh lực gấp đôi bản thân, ai nấy đều rất cẩn thận, do đó cũng chẳng có người nào còn tâm trạng mà ngắm nhìn.

Dương Lăng từng nghĩ đến việc bày tiệc rượu mời khách, giải quyết Viên Hùng mà không phải đổ máu chút nào, nhưng từ sau khi nảy lòng đề phòng với Mạc Thanh Hà thì chủ ý này liền bị bỏ qua. Y quả thực không thể nhìn thấu tâm tư của người này, nếu bản thân mà bày tiệc trong Mạc phủ thì Mạc Thanh Hà là nhân vật nhất định phải mời. Nếu chuyện này bị hắn phát giác mà hắn lại có quan hệ với Viên Hùng, thì chuyện nhất định sẽ thất bại, cho dù có bắt người thành công chỉ e hắn cũng sẽ phái người đi thông báo cho Tất Xuân, vậy là để lọt mất một nhân vật quan trọng rồi, còn nếu muốn đồng thời mời cả Viên Hùng và Tất Xuân thì lại không có cái cớ nào thích hợp.

Nếu xua quân tiến thẳng vào đại doanh của Viên Hùng, hắn nghe theo chỉ ý không phản kháng thì còn đỡ, nhưng nếu phản kháng mà người của bản thân bị bao vây hết trong đó thì khi ấy ai thắng ai bại thật là khó nói.

Do đó Dương Lăng quyết định lặng lẽ chỉ huy đại quân bao vây nha môn thuế quan, đám tay sai kia thường ngày phụ trách thu thuế, truy bắt những thương nhân bỏ trốn, trong tay có đao có thương nhưng không có cung tên, bao vây bọn chúng từ bên ngoài, có tên sắc trong tay, tuy người của đối phương nhiều, nhưng phần thắng ít nhất cũng đạt bảy thành trở lên.

Đại quân chậm rãi áp sát, từ xa đã có thể nhìn thấy nóc phòng của nha môn thuế quan, đúng vào lúc này chợt nghe có người quát lớn: 

- Kẻ nào? Đứng lại cho ta, không được đến gần!

Dương Lăng nghe vậy thì ngẩn ra, lập tức nghĩ thầm: 

- Chẳng lẽ tin tức đã bị tiết lộ rồi? Nếu không ty thuế quan sao lại đặt trạm gác bên trong bãi lau sậy này như thế chứ?

Y khoát tay một cái, thấp giọng bảo: 

- Mau tăng tốc độ, tiêu diệt trạm gác kia!”

Đội nhân mã dàn hàng chữ nhất tăng nhanh tốc độ xông thẳng về phía trước, đúng vào lúc này chợt nghe “bùm” một tiếng vang lên, trong bụi lau sậy truyền ra âm thanh như tiếng chổi quét nhà, ngay sau đó lại có người kêu lên:

- Ôi chao, bọn chúng có súng, ta bị bắn trúng rồi.

Liễu Bưu kinh hãi đẩy Dương Lăng xuống đất, cao giọng hô lên: 

- Nằm xuống, nằm xuống hết cho ta, bọn chúng sẽ không nhìn thấy chúng ta, cứ bò về phía trước, phải xông ra khỏi bãi lau sậy ngay rồi sau đó lập tức dùng cung tên hầu hạ bọn chúng!

Nghe thấy tiếng súng thì nằm sấp xuống đất, bò về phía trước chính là thủ đoạn phòng thủ mà khi ở trong quân Dương Lăng đã dạy cho y, lúc này vừa hay có thể dùng. Dương Lăng vừa kinh hãi vừa tức giận, lúc này đại quân chỉ cần xông về phía trước thêm hai trăm mét nữa là tới được nha môn thuế quan rồi.

Xung quanh nơi đó có hơn trăm mét được chặt sạch để làm dải đất trống phòng lửa, chính là tầm bắn hữu hiệu của cung tên. Chỉ cần đại quân bao vây được nơi đó, Viên Hùng chỉ còn nước bỏ tay chờ chết, vậy mà lúc này lại thất bại trong gang tấc, hắn rốt cuộc đã nghe được tin tức từ đâu đây? Không ngờ lại có sẵn an bài thế này. Trời ạ, nếu hắn đã sớm có chuẩn bị, vậy… đội quân tinh nhuệ được phái tới bến đò liệu còn có hiệu quả của kỳ binh không?

Vừa nghĩ như vậy, Dương Lăng lập tức lo lắng đến toát mồ hôi hột, nếu không phải có Liễu Bưu đang ra sức đè y, y đã lập tức nhảy ra ngay rồi. Thực ra Viên Hùng cũng chẳng phát giác ra được hành tung của y, chuyện này chỉ là trùng hợp ngãu nhiên, người cầm súng kia là một tay thuế quan đắc lực dưới trướng Viên Hùng, hắn ta dẫn theo mấy tên thân tín đi săn vịt hoang trong bãi lau sậy.

Không ngờ vừa mới đi được không xa, hắn đã nhìn thấy vịt hoang, cò trắng bốn phía bay lên tới tấp, dưới chân thì có thỏ hoang và cáo sợ hãi chạy tán loạn, nhìn thấy người liền hoang mang chạy qua hướng khác. Vị thuế quan này không phải kẻ ngốc, lập tức đoán được có người đang lén đến gần, hơn nữa nhìn thanh thế này còn không chỉ có một người, không kìm được kinh hãi bèn lớn tiếng hô lên.

Có một số binh sỹ dễ kích động thấy kẻ địch bắn súng thì lập tức bắt đầu bắn tên bừa bãi, những mũi tên ấy tuy không bắn trúng được tay thuế quan kia, nhưng lại dọa cho hắn sợ gần chết.

Súng của ty thuế quan không nhiều, tổng cộng chỉ có không quá năm mươi cây, mấy tên thủ hạ mà hắn mang theo có ba cây súng, lập tức bắn khắp bốn phía, ngăn cản người trong bãi lau sậy tiến về phía trước. Người của Dương Lăng ở trong bãi lau sậy chẳng nhìn thấy gì, đặc biệt là phần lớn quan binh đều không phải là quan binh của Thần Cơ doanh vốn đã được trải qua sự huấn luyện của Dương Lăng, nghe thấy tiếng súng bèn lập tức ngồi xổm xuống đất không dám tiến đi nữa.

Trong tình cảnh địch ta đều chẳng thể thấy nhau thế này, không có biện pháp bảo vệ nào hữu hiệu nên Liễu Bưu tuyệt đối không dám để Dương Lăng mạo hiểm. Dương Lăng hết cách, chỉ đành ra lệnh cho quan binh hô vang rằng khâm sai phụng chỉ đến bắt người, chỉ bắt kẻ thủ ác là Viên Hùng, những người khác không được phản kháng.

Tay thuế quan đó vội vã phái người trở lại nha môn, đem chuyện này bẩm báo cho Viên Hùng. Viên Hùng dẫn người xông ra, nghe nói là khâm sai đại nhân thì sắc mặt không khỏi biến đổi hẳn. Có người đưa lên một mũi tên được bắn ra từ trong bụi lau sậy, Viên Hùng vừa nhìn, quả nhiên là tên dùng trong quân, sắc mặt lại càng tái hơn. Hắn từng làm bao nhiêu chuyện ác trong lòng đương nhiên biết rõ, thấy Dương Lăng dùng đến quân đội lặng lẽ tiến đến đây, nhất định là đã có chứng cứ xác thực, bản thân dựa vào cái gì mà chống lại khâm sai cùng với quân đội chứ?

Viên Hùng sắc mặt trắng bệch, hồi lâu sau mới run rẩy ra lệnh: 

- Đừng… Đừng bắn súng làm đối phương bị thương, đón khâm sai ra đây, ta muốn hỏi khâm sai đại nhân xem y dựa vào cái gì mà bắt người? 

Trong lòng hắn còn ảo tưởng rằng có thể mua chuộc Dương Lăng, cứ tặng tiền tài và mỹ nữ nhiều một chút, chỉ cần khâm sai chịu buông tay vậy là chẳng phải mọi chuyện đều ổn sao?

Một gã thuế quan thân tín bên cạnh nghe vậy thì lo lắng vô cùng. Kẻ này có họ kép là Đông Phương, vốn là tam công tử của Đông Phương viên ngoại ở Tang Mộc trang bên bờ Thái Hồ, bởi vì thông gian với đại tẩu bị huynh trưởng phát hiện liền dứt khoát giết chết huynh trưởng rồi chạy đến Thái Hồ làm cướp. Hắn từng đọc sách lại có tâm kế, rất nhanh đã leo lên được chức đầu lĩnh. 

Về sau vì quan binh càn quét quá dữ, hắn chẳng còn cách nào chỉ đành đi theo Viên Hùng. Người này hung tàn thành tính, ép người ta nộp thuế cực giỏi, rất được Viên Hùng tin tưởng. Cái gã cường đạo có giấy phép này hiện giờ sống rất ổn, bất luận là làm bao nhiêu chuyện ác thì quan phủ đều không dám bắt hắn, ngay đến nha sai nhìn thấy hắn cũng đều phải cung kính gọi một tiếng Đông Phương tam thiếu gia.

Ở nơi này không những kiếm được nhiều bạc hơn khi làm cướp, hơn nữa một số người nợ tiền thuế quá nhiều bị hắn bức ép cho chẳng còn cách nào chỉ đành đưa vợ và con gái tới cho hắn làm nhục, hiện giờ trong nhà hắn còn có một thiếu phụ khá có nhan sắc đã bị hắn giam giữ chơi đùa nhiều ngày, cuộc sống thế này cho dù đổi làm thần tiên hắn cũng chẳng chịu.

Cái tay khâm sai chó má gì đó mang người tới mà chẳng thông báo trước, lén lút mò đến cửa, trong giới thủy tặc ở Thái Hồ loại hành vi này rõ ràng là đã trở mặt ngươi chết ta sống, sao có thể cho đối thủ có cơ hội trở mình? Nếu bây giờ mà chịu nhận thua, Viên Hùng bị bắt thì bản thân coi như là chẳng còn gì.

Hắn lập tức kêu lên: 

- Viên gia, ngàn vạn lần không được! Cái tên khâm sai gì đó lén lút mang người đến đây, hiển nhiên là chẳng có ý đồ gì tốt đẹp, thù này coi như đã kết rồi, nếu Viên gia mà chịu nhận thua thì chắc chắn sẽ trở thành cá thịt trên thớt của hắn thôi.

Đừng thấy thường ngày Viên Hùng diễu võ dương oai, trông ghê gớm vô cùng nhưng thực ra tâm kế và bản lĩnh so với rất nhiều tên tay sai vẫn còn kém xa, nghe vậy lập tức thẫn thờ nói: 

- Nhưng… Nhưng y là khâm sai, hiện giờ y mang quân đến bắt ta, ta còn có thể làm gì được chứ?

Đông Phương tam thiếu gia cười gằn một tiếng, nói: 

- Viên gia, hắn nói hắn là khâm sai, ai nhìn thấy chứ? Chúng ta chỉ nhìn thấy có một đám thủy tặc định tới đánh cướp nha môn thuế quan, chỉ cần giết sạch bọn chúng, hà hà, không phải Viên gia đã nói các công công ở kinh sư rất bất mãn với hắn sao? Đến lúc đó tặng cho các vị ấy một chút bạc, chúng ta lại đã giúp họ trừ một mối họa lớn, bọn họ lại chẳng bảo vệ cho chúng ta ư?

"Giết khâm sai?" Viên Hùng sợ đến giật nảy mình, việc này và giết quan tạo phản thì có gì khác biệt? Nhưng Đông Phương tam thiếu gia nói vậy cũng có đạo lý. Hắn tỉ mỉ suy nghĩ hồi lâu, ánh mắt dần hiện nét hung tàn. Đúng thế, các công công ở ty Lễ Giám coi gã họ Dương như cái gai trong mắt, căn cơ của hắn trong triều đình còn nông, chỉ cần giết chết hắn, có ty Lễ Giám và Đông xưởng chống lưng, thìcho dù là Hoàng Thượng đi chăng nữa cũng chẳng lẽ lại chịu vì một người đã chết mà trở mặt với tiền bạc sao?

Hắn do dự một chút rồi bảo: 

- Ngươi có cách chứ? Không biết khâm sai mang bao nhiêu người tới đây, giết khâm sai là tử tội, lỡ mà không thành…

Đông Phương tam thiếu gia cười hà hà một tiếng, nói: 

- Viên gia yên tâm, đây là bọn chúng tự tìm đường chết, chúng ta chẳng cần phí một binh một tốt nào cả cũng có thể đưa hết bọn chúng xuống đáy hồ làm bạn với tôm cá.

Lúc này những tên tay sai cầm súng còn đang bắn bừa bãi đi khắp bốn phía, Đông Phương tam thiếu gia chỉ tay vào bãi sau lậy bảo: 

- Viên gia, chúng ta hãy phóng hỏa đốt con bà nó một cái, lau sậy xung quanh chỉ cần có lửa là sẽ cháy ngay, đến lúc đó bọn chúng tuyệt đối chẳng còn đường sống!

Viên Hùng nhìn bãi lau sậy rậm rạp kia, hơi có chút do dự, Đông Phương tam thiếu gia lại nói: 

- Viên gia, dạ nhỏ há phải người quân tử, không độc đâu xứng bậc trượng phu, hãy làm đi thôi!

Viên Hùng giậm chân một cái, dùng giọng the thé gào lên: 

- Thủy tặc giả mạo quan binh định đánh cướp ti thuế quan, chúng bay đâu, phóng hỏa cho ta, thiêu chết cái lũ khốn kiếp ấy!

Mấy người Dương Lăng đang ở trong bụi lau sậy, chợt thấy có khói bay tới, ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy khói đã mịt mờ, kèm với đó là những tiếng nổ lốp bốp loáng thoáng vang lên ở phía trước. Liễu Bưu thất thanh kêu lên:

- Không hay, Viên Hùng phóng hỏa rồi! Đại nhân, làm thế nào đây?

Dương Lăng cũng sợ đến giật nảy mình, vừa nghe tiếng súng đã dừng lại bèn vội vàng đứng dậy, nhưng y vừa mới đứng lên lại càng bị khói hun nhiều hơn, chỉ thấy ngọn lửa ở một trăm mét phía trước đã cháy bùng lên cao tới hơn trượng, lúc này gió lại đang từ mặt hồ thổi về hướng này, ngọn lửa có thể tràn thẳng tới.

Bãi lau sậy dày đặc thế này mà bốc cháy, sức người há có thể cản nổi? Dương Lăng không ngờ việc mình lợi dụng bãi lau sậy để áp sát nha môn thuế quan lại bị người ta phát giác, kế đó Viên Hùng lại dám phóng hỏa, vội vã kêu lên: 

- Mau, mau rút lui, lập tức lùi lại phía sau!

Bọn họ đã đi vào bãi lau sậy này không dưới năm dặm, đi bộ làm sao có thể thoát ra được, khi lửa còn chưa cháy tới thì khói đã tràn đến rồi, làn khói dày đặc đó có thể hun cho người ta bất tỉnh, đợi khi lửa nóng cháy đến…

Các quan binh chỉ mới chạy ra được chừng ba trăm mét, khói đã theo gió cuồn cuộn tràn đến rồi, khiến mọi người bị sặc phải ho lên sù sụ, lập tức không chạy nổi nữa. Rất nhiều người đều dừng chân lại với tâm trạng tuyệt vọng, ngay cả một người trước giờ luôn lắm mưu nhiều kế dũng mãnh không sợ chết như Liễu Bưu cũng phải dừng lại, khuôn mặt đầy vẻ thê lương.

Dương Lăng gập người ho lên liên hồi, sau đó liền cắn chặt răng, tuyệt vọng nhìn trời, trong lòng thì hối hận không thôi: Bãi lau sậy liên miên này vốn là chỗ yểm hộ tốt nhất, nhưng bây giờ lại trở thành cái lưới chết chóc không cách nào tránh khỏi, nên làm thế nào đây? Gần ngàn mạng người chẳng lẽ vì sai lầm của mình mà phải vùi thân ở đây sao? Nhưng mình đâu phải thần tiên, chẳng lẽ còn có thể thay đổi hướng gió? 

Hướng gió? Hướng gió! Dương Lăng ngẩn ngơ suy nghĩ một lát, chợt kêu lớn một tiếng, khuôn mặt đầy vẻ vui mừng nhảy lên bảo: 

- Tất cả mọi người nghe đây, lập tức chặt lau sậy, làm thành một dải đất trống ngăn lửa cho ta, mau lên! Hãy lấy con sông nhỏ này làm ranh giới, lập tức động thủ!

Liễu Bưu tuyệt vọng nói: 

- Đại nhân, ngài không biết sự lợi hại của ngọn lửa này, cho dù có chặt ra được một dải ngăn lửa rộng mấy chục trượng thì cũng vô ích, chỉ dựa vào đám khói kia cũng đủ hun chết chúng ta rồi.

Dương Lăng cười ha hả nói: 

- Gió cần phải có lửa thổi tới, không có gió thì chúng ta tất nhiên sẽ sống được. Các ngươi mau mau động thủ làm ra một dải ngăn lửa đi, càng rộng càng tốt, bản quan tự sẽ có cách mượn gió đông!

Liễu Bưu bán tín bán nghi, nhưng thấy thần sắc trấn tĩnh của Dương Lăng, lập tức bị cảm nhiễm, lòng tin cũng khôi phục lại mấy phần, nhưng dù y có tin, gần ngàn quan binh kia liệu có chịu tin không?

Liễu Bưu chợt nghĩ ra một kế, lập tức rút đao ra hướng về phía hai bên phái trái hô vang: 

- Mọi người lập tức chặt lau sậy, làm ra một dải ngăn lửa, khâm sai đại nhân từng học phép mượn gió ở chỗ Trương thiên sư, nhất định sẽ cứu được mọi người.

Nếu bây giờ hạ một đạo thánh chỉ xuống nói với những quan binh này rằng họ sẽ không chết, chưa chắc đã có người chịu tin, nhưng các nha sai với quan binh này vừa nghe nói khâm sai đại nhân đã từng học phép thuật ở chỗ Trương thiên sư, có thể mượn gió cứu người, lập tức không còn hoài nghi gì nữa. Còn chẳng phải sao, mấy ngày trước khi đại chiến với giặc lùn ở Hải Ninh, khâm sai đại nhân và Trương thiên sư đã đứng sánh vai bên nhau trên đài Quan Triều, thiên sư thần thông quảng đại, nếu đã từng dạy khâm sai đại nhân pháp thuật, mượn gió há lại chẳng dễ như trở bàn tay?

Tất cả mọi người đều liều mạng chặt lau sậy, mỗi người khống chế một mảng lau sậy rộng chừng một trượng xung quanh mình, các quan binh phía trước thì ra sức chặt, quan binh phía sau ôm những cây lau sậy đã bị chặt sát gốc tới chất thành một đống.

Khi chặt ra được một dải ngăn lửa rộng chừng sáu mươi mét, khói đã càng lúc càng nồng, càng lúc càng khó chịu, chui vào mũi vào cổ họng mọi người, khiến bọn họ chẳng còn sức mà chặt lau sậy nữa.

Dương Lăng chỉ tay vào một phía có lửa cháy bảo: 

- Chỉ còn thiếu một bước cuối cùng nữa thôi, đem những cây lau sậy đã bị chặt đổ chất hết qua bên này, sau đó châm lửa đốt, bản khâm sai sẽ thi triển pháp thuật ngay đây.

Các quan binh đã chẳng còn tâm trí mà suy nghĩ xem vì sao mình lại phải châm lửa, làm như thế liệu có khiến bản thân chết nhanh hơn không, bọn họ dốc hết chút sức lực cuối cùng, nheo đôi mắt đã bị khói hun cho cay sè lại, liều mạng chất lau sậy tới chỗ mà Dương Lăng chỉ, sau khi châm lửa đốt thì bèn vội vàng chạy ngược trở lại.

Cổ họng của Dương Lăng cũng đã trở nên khản đặc, y cất giọng khàn khàn hô lớn: 

- Mau truyền mệnh lệnh, tất cả mọi người cứ nằm sấp xuống, dùng nước sông thấm ướt quần áo rồi đưa lên bịt mũi miệng khi lửa chưa tan thì chớ có đứng lên!

Các quan binh khi chặt lau sậy sớm đã xé rách vạt áo nhúng nước rồi bịt mũi bịt miệng rồi, lúc này lại chạy tới bên bờ sông nhúng nước lại lần nữa, sau đó nằm sấp cả xuống bên bờ sông.

Có một số quan binh không yên tâm còn gắng kìm nén nước mắt mà ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy đống lau sậy vừa bị đốt cháy lửa bốc lên cao ngút trời, làn khói nồng đậm tràn đến lại càng khiến người ta khó thở. Nhưng tình hình này chỉ kéo dài trong khoảnh khắc, sau đó ngọn lửa không còn tràn về phía bên này nữa.

Hiện giờ tuy vẫn có gió nhẹ thổi về phía quan binh nhưng khói và lửa nóng lại đã tràn về phía ngược lại, dường như hai ngọn lửa có sức hấp dẫn đối với nhau, lập tức khiến khói ở nơi này nhạt đi không ít.

Người thời đó không biết mối quan hệ giữa sự lưu động của không khí và nhiệt độ, thấy hiện tượng quái dị này thì không kìm được vừa kinh ngạc vừa tò mò. Tuy vị khâm sai đại nhân kia cũng đang dùng vải che mặt mà nằm sấp xuống bên bờ sông, căn bản không giống như đang thi triển pháp thuật nhưng tất cả mọi người đều tin rằng khâm sai đại nhân thật sự đã thi pháp cứu mình, lòng tin cũng theo đó mà tăng vọt.

Viên Hùng đứng bên ngoài ty thuế quan thấy ngọn lửa nuốt chửng tất cả đang tiến về phía trước thì không kìm được cười lên ha hả. Xung quanh nha môn của hắn tuy có dải ngăn lửa nhưng một khi cả bãi lau sậy này đều bốc cháy thì cũng không thể kháng cự được những ngọn khói nồng đậm kia, may mà xung quanh bãi Lạc Nhạn này rất hoang vu, hơn nữa cũng chưa từng xảy ra tình trạng bốn phía đều bốc cháy do đó cũng không phải lo lắng tới điều này. Hiện giờ ba mặt đã cháy cả chỉ còn lại phía bên này là nơi đầu gió, đám quan binh kia ẩn nấp trong bãi lau sậy liệu còn có thể sống được sao?

Đúng vào lúc này, những ngọn khói nồng đậm đột nhiên bay tới cuồn cuộn, dọa cho Viên Hùng sợ giật nảy mình, hắn vội vã kêu lên: 

- Chuyện gì thế này? Gió đổi hướng rồi sao?

Một tên tay sai bật cao người nhảy lên, hoang mang kêu lớn: 

- Hỏng rồi hỏng rồi, Viên gia, chuyện lớn không hay, phía bến đò cũng đã bốc cháy, ngọn lửa đang tràn về phía bên này.

Viên Hùng cả kinh, vội vàng ngoảnh đầu lại nhìn, còn chẳng phải sao, một ngọn lửa nóng bỏng đang từ phía bến đò tràn thẳng tới với thanh thế kinh người. Lau sậy ở phía đó mọc tại nơi bùn lầy, nước ngập quá mu bàn chân do đó rất ẩm ướt, vừa bị đốt cháy liền bốc khói lên rất nhiều khiến người ta cay xè hai mắt, lửa vẫn còn ở xa nhưng cái cảm giác nghẹt thở thì đã tràn thẳng đến rồi…

Chương 136 - Bứt Dây Động Rừng

Lửa cháy ngợp trời, khói tràn khắp đất. Khu vực này toàn là lau sậy nên tuy rằng đốt vội nhưng lửa cháy lan cũng rất nhanh. Cái nóng trên mặt đất đủ để khiến người ta rát da rát thịt, gió nhẹ thổi qua, từng mảng từng mảng khói xoay tròn giữa không trung, chui vào mũi vào mắt người ta khiến nước mắt nước mũi giàn dụa.

Năm mươi nha sai Nội xưởng chậm rãi bước đi qua những chỗ bùn lầy, lau sậy đã bị đốt sạch, bên trên mặt nước nông được bao phủ bởi một lớp tro đen. Lúc này đám lau sậy trước mặt đã bị cháy sạch, biến thành một bãi đen ngòm, phía xa xa chỉ còn mấy trăm căn nhà của nha môn thuế quan là vẫn đứng sừng sững.

Trịnh bách hộ và mấy chục viên nha sai đều dùng khăn bịt mặt để tránh khói bụi, chỉ để lộ ra đôi mắt. Tuy trong chốn bùn lầy nhưng do mọc đầy lau sậy, gốc rễ bám chặt vào bùn đất, nên giày bọn họ bước trên những gốc rễ đó cũng không quá khó khăn, cuối cùng cả bọn cũng đến được chỗ đất rắn, phía trước đã gần sát với hàng rào bao quanh ty thuế quan. Trịnh bách hộ cầm đao đứng trước hàng rào cẩn thận quan sát bốn phía một vòng, từ trong đôi mắt đen lánh thoáng toát lên vẻ lo lắng khôn cùng.

Hắn quan sát một hồi rồi khẽ hô lên: 

- Võ Dũng! Bọn bên trong chắc đã bị hun cho bất tỉnh cả rồi, ngươi hãy dẫn ba mươi người tiến vào trong, kẻ nào còn động đậy được thì hãy tiễn về trời luôn cho gọn!

Một người bịt mặt bên cạnh đáp lại một tiếng, sau đó lại do dự hỏi: 

- Vậy… xưởng đốc đại nhân…

Trịnh bách hộ thở dài bảo: 

- Ta sẽ dẫn người đi tìm thử xem sao, e là… e là lần này đại nhân lành ít dữ nhiều rồi…

Người bịt mặt đó giậm giậm chân cho những mảng bùn đất nặng nề trên chân rơi xuống, sau đó đột ngột rút đao, nghiêm giọng quát lớn: 

- Ba mươi người theo ta vào trong! Ty thuế quan giết quan tạo phản, tội không thể tha, kẻ nào dám phản kháng: giết không luận tội!

Sau một tiếng “rõ” vang lên như sấm động, ba mươi tay tráng niên đồng thời rút đao, sát khí đằng đằng chém bung hàng rào, xông thẳng vào bên trong. Trịnh bách hộ biết nếu bọn hắn cứ tiến vào như thế này thì e rằng rất nhiều người vốn đang hôn mê bất tỉnh cũng vẫn sẽ bị giết chết, bèn há miệng ra định ngăn cản nhưng lời đến bên miệng lại nuốt trở vào. Nếu thật sự đại nhân đã vùi thân trong biển lửa, y há lại không hận chẳng thể giết sạch toàn bộ đám người trong ty thuế quan kia hay sao?

Trịnh bách hộ hừ lạnh một tiếng, vung chân đá bay một cây cọc gỗ vốn đã bị chém đứt, sau đó rảo bước đi vào, hai mươi tay nha sai còn lại theo sau y, đi xuyên qua dãy phòng ốc dày đặc xông thẳng về hướng đối diện. Dọc đường gặp phải những kẻ đã bị khói hun cho mặt mũi đen xì nằm hôn mê trên mặt đất, bất luận là có còn hơi thở hay không, các nha sai đã đỏ ngầu hai mắt đều tặng cho một đao gọn nhẹ, Trịnh bách hộ chỉ coi như chẳng thấy gì.

Trước đó Dương Lăng đã cho người đóng giả làm thương nhân đến nộp thuế, từng đến ty thuế quan thám sát hai lần. Nơi này bốn bề hoang vu vắng lặng nên nếu dùng phương thức khác tùy tiện đến gần, một khi bị người của ty thuế quan phát hiện thì khó tránh khỏi việc khiến người ta sinh nghi. Cũng chỉ có cách giả làm thương nhân mới an toàn hơn một chút.

Qua một phen điều tra tỉ mỉ, bọn họ phát hiện người của ty thuế quan thường ngày sau khi thu thuế về chỉ tụ tập ở bên trong mà đánh bạc chơi gái. Mười mấy con thuyền thu thuế trên bến đò chỉ để cho vài người giữ thuyền ở lại canh giữ, chỉ cần một số ít quan binh đột ngột tập kích cũng đủ sức phá hoại hết những chiếc thuyền nọ.

Quả nhiên, công tác chặt đứt đường đối phương rút lui của Trịnh bách hộ tiến hành rất thuận lợi. Sau khi phá hoại hết cột và cánh buồm xong, Trịnh bách bộ cho quân giữ chặt quanh bến đò. Vì trước mặt là một bãi lau sậy lớn nên nếu hắn vượt qua bãi lau sậy đến tập kích ty thuế quan thì người từ ty thuế quan trốn ra chỉ cần ẩn nấp hết vào trong bãi lau sậy, lúc đó năm mươi người của hắn hoàn toàn không thể lục soát hết được. Do đó hắn muốn chờ đợi ở bến đò để bắt những con cá lọt lưới, đồng thời phái thân tín là Võ Dũng đi tới ty thuế quan quan sát động tĩnh.

Võ Dũng ẩn nấp trong bãi lau sậy lẻn đến gần ty thuế quan, vừa kịp nhìn thấy cảnh thủ hạ của Viên Hùng nổ súng, sau đó còn phóng hỏa đốt người. Trong cơn kinh hãi gã bèn vội trở về hồi báo. Vốn Trịnh bách hộ nhờ tiêu diệt giặc cướp đắc lực, tích lũy quân công nên mới được làm quan tại Thần Cơ doanh, kinh nghiệm dã chiến mười phần phong phú. Sau khi trù tính một lúc, hắn bèn đưa ra mệnh lệnh chiến đấu hợp lý nhất: “Địch đã phóng hỏa, chúng ta ở phía đầu gió so với kẻ địch, chúng ta cũng phóng hỏa!”

Hiện giờ mấy chục người bọn y căn bản không thể nào cứu được tính mạng của Dương Lăng, cách duy nhất có thể làm bây giờ là lấy hỏa trị hỏa tiêu diệt Viên Hùng. Bằng không, đợi đến lúc Viên Hùng dẫn người đánh tới, chỉ e rằng ngay cả người báo thù cho xưởng đốc cũng chẳng có.

Nhóm Trịnh bách bộ xông đến dãy ngăn lửa ở phía bên kia, bắt gặp trên mặt đất nằm ngổn ngang rất nhiều người. Bởi vì khói tràn tới quá nhanh, vốn xưa nay ty thuế quan chỉ ra vào bằng đường thủy lại chẳng có ngựa mà dùng, do đó những người này không có đường thoát; bất luận là trốn vào trong phòng hay là trốn đến góc tường khe rãnh, phần lớn đều bị khói hun đến hôn mê.

Các nha sai đã giết đến đỏ cả mắt đang xách những thanh đao nhơm nhớp máu tươi định lần lượt chém chết bọn người đang nằm lăn trước mặt, Trịnh bách hộ đột nhiên kêu lớn: 

- Dừng tay hết cho ta! Các ngươi nhìn… Các ngươi nhìn đằng kia kìa…

Trong giọng nói khàn khàn của Trịnh bách hộ toát ra một nỗi mừng rỡ đến điên cuồng, thậm chí giọng đã hơi run run. Vốn hắn đoán rằng đại nhân gần như không có hy vọng sống sót. Nhìn ngọn lửa vừa rồi, nếu người ở trong đó còn sống được thì quả thực là kỳ tích trong kỳ tích, do đó tuy vẫn mang theo một chút hy vọng mong manh mà xông tới nơi này, nhưng hắn đã chuẩn bị tinh thần sẵn sàng cho tình huống xấu nhất.

Nhưng khi đến đây y mới kinh ngạc phát hiện mảng lau sậy ở cách xa hơn một dặm vẫn còn chưa cháy. Tuy rằng trong lúc bị gió thổi đung đưa, những bông hoa lau theo gió bay lên trời đều có màu đen xì, còn mảng lau sậy kia trông chẳng khác gì một bức tranh thủy mặc, nhưng đó quả thực là một mảng lau sậy.

Không ngờ mảng lau sậy đó vẫn còn chưa cháy, vậy đại nhân…? Trịnh bách hộ lê đôi giày nặng nề lao thẳng vào trong khoảng lau sậy đã bị thiêu cháy ra tro trong tâm trạng mừng rỡ điên cuồng, làm cuộn lên một mảng tro đen. Sau khi vất vả chạy tới bên cạnh mảng lau sậy chưa cháy nhưng đã bị hun khói thành đen ngòm, hắn thấy bên cạnh dòng sông nhỏ phía trước nằm dày đặc toàn người là người, nhìn trang phục thì rõ ràng là người của nha sai Nội xưởng và quan binh vệ sở.

Trịnh bách hộ tiện tay lật một người lên, gỡ chiếc khăn ẩm trên mặt y xuống. Người đó khắp người khắp mặt đều đầy tro đen, đầu tóc với lông mày đã chẳng thể nhìn rõ nữa, phần bên dưới chiếc khăn ẩm tuy sạch sẽ hơn một chút nhưng trong lỗ mũi cùng toàn là tro đen. Trịnh bách hộ đưa tay dò thử thấy vẫn còn hô hấp không khỏi lòng tin tăng vọt, hắn bỏ viên quân binh vệ sở đó xuống đất, đứng bật dậy gầm lớn: 

- Lập tức tìm, lập tức tìm cho ta! Tìm được xưởng đốc đại nhân sẽ được trọng thưởng! 

Không đợi hắn ra lệnh, các nha sai khác đã vội vã tìm kiếm khắp xung quanh. Nhóm người của Dương Lăng nhờ có ngọn lửa cháy ngược trở lại, khói cũng theo đó cuộn ngược trở về nên tình trạng bị hun khói còn nhẹ hơn người của ty thuế quan một tí. Tuy rằng cũng có người bị hôn mê, nhưng chỉ cần được gọi to một tiếng hay vỗ vỗ vào má vài lượt là đã dần dần tỉnh dậy, rồi kế đó họ bèn rửa mặt luôn bên dòng sông nhỏ kia, hồi phục lại thể lực rất nhanh.

Trịnh bách hộ đang tìm kiếm với tâm trạng vô cùng lo lắng, chợt một nha sai ở đằng xa điên cuồng kêu to: 

- Ta tìm được xưởng đốc đại nhân rồi, ha ha ha ha, đại nhân vẫn còn sống!

- Ở đâu? Ở đâu? 

Trịnh bách hộ cả mừng bèn cùng mấy viên nha sai ở gần đó vội vàng chạy tới. Tên nha sai đó đang ôm một người trong lòng, tuy rằng đã bị hun đen thui giống như ông táo, nhưng nhìn quần áo và tướng mạo kia thì vẫn còn có thể nhận ra được Dương Lăng.

Trịnh bách hộ đưa tay thử thấy vẫn còn hơi thở, bèn vội vàng xé vạt áo của mình ra nhúng xuống dòng sông, lau bừa trên mặt Dương Lăng một lượt. Nhờ có sự kích thích của nước, Dương Lăng từ từ tỉnh lại, y muốn mở miệng nói chuyện, nhưng lại cảm thấy cổ họng mình nóng như thiêu như đốt, không kìm được ho lên mấy tiếng dữ dội, rồi y bèn gạt lớp tro tàn nổi trên mặt nước ra mà vục lấy hai ngụm nước uống cho mát họng. Sau khi đưa tay lau sơ qua đám tro đen trên mặt và bên khóe mắt một chút, y mới đứng dậy đưa mắt quan sát tình hình xung quanh một vòng, hỏi: 

- Sao ngươi lại đến đây? Người của Viên Hùng đâu?

Trịnh bách hộ mừng khấp khởi đáp: 

- Đại nhân ở hiền gặp lành, vừa rồi thực khiến ti chức sợ chết khiếp. Đại nhân yên tâm, Viên Hùng phóng hỏa, hạ quan cũng phóng hỏa. Người trong ty thuế quan đều đã bị hun cho bất tỉnh cả rồi, dù còn có người tỉnh táo thì cũng chẳng phản kháng gì được.

Tinh thần phấn chấn, Dương Lăng vội hạ lệnh: 

- Mau, dội nước cho tất cả mọi người tỉnh lại! Đến khống chế nha môn thuế quan nhanh lên, chớ để kẻ nào chạy thoát.

Đội quan binh da đen do Dương Lăng cầm đầu vội vàng đến ty thuế quan, ngăn cản ba mươi nha sai đang chém giết đến đỏ cả mắt kia lại, lệnh cho bọn họ cùng mọi người đi tịch thu vũ khí của đối phương, sau đó trói nghiến cả lại, đi tiếp nhận ngân khố. Bọn họ bất ngờ phát hiện trong số những người bị khói hun bất tỉnh còn có mấy chục phụ nữ. Sau khi dội nước cho tỉnh lại rồi tra hỏi một phen mới biết ngoài mấy kỹ nữ được bỏ tiền ra đưa về, còn lại đều là phụ nữ nhà dân bị ép phải dùng thân trả nợ hoặc là bị người của ty thuế quan dùng vũ lực cướp về. Như thế trong tờ cáo trạng dành cho Viên Hùng sẽ lại có thêm một tội lớn.

Khi lục soát ty thuế quan, tuy không ai dám động đến ngân khố nhưng đám tay sai gian ác của ty thuế quan có kẻ nào mà không vơ vét được một đống tài sản chứ? Những quan binh kia khi đi lục soát từng nhà đều tiện tay dắt dê nhét vào người không ít thứ. Dương Lăng đều nhìn thấy cả, nhưng đối với quân đội thời bấy giờ thì có thể yêu cầu cao đến đâu cho được? Thêm nữa họ lại đều là những người vừa mới vào sinh ra tử với mình nên Dương Lăng cũng chỉ đành nhắm mắt làm ngơ.

Không còn ty thuế quan chống lưng, án cũ án mới của lũ người gian tà thất đức này đầy ra cả rổ, tất nhiên sẽ có quan phủ lần lượt xét xử phán quyết.

***

Bên trong Mạc phủ, Dương Lăng tắm đi tắm lại bốn lượt, rốt cuộc màu của nước tắm cũng trong hơn nhiều. Da của y đã bị hun nóng đến nỗi chuyển thành màu đỏ rực, y cứ thế ngồi trong thùng nước, thoải mái nhắm hai mắt lại.

Phen bắt người lần này tuy gian nan nhưng gần như không bị tổn thất gì, dù sao cũng không phải động đến binh đao. Tuy đám Viên Hùng suýt nữa đã khiến bọn y toàn quân bỏ mạng, nhưng may mà ở trong tuyệt cảnh bọn y lại tìm được đường sống, thành ra không phí một binh một tốt mà đã bắt được Viên Hùng và toàn bộ lũ tay sai gian ác kia. Lúc này Dương Lăng đang suy nghĩ xem nên giải quyết những chuyện còn lại như thế nào.

Bởi vì hiện giờ đã nảy lòng nghi ngờ với Mạc Thanh Hà, Dương Lăng không dám đem nhốt Tất Xuân và Viên Hùng vào trong Mạc phủ. Vừa về đến Hàng Châu y bèn lập tức hạ lệnh cho chiếc thuyền quan vốn chở đầy hàng hóa và tiền tài áp giải hai gã phạm nhân này lên đường về kinh luôn. Hành động này của y đã khiến cho công công Mạc Thanh Hà vốn đầy hào hứng chờ được nghênh đón vị oan gia đối đầu Viên công công vô cùng thất vọng.

Hiện giờ Dương Lăng có quá nhiều việc cần làm, hơn nữa mỗi việc đều phải tùy cơ ứng biến, trước khi có thêm tin tình báo thì không có cách nào ra quyết định được. Rốt cuộc y vẫn còn chưa biết Mạc Thanh Hà có âm mưu gì không, nếu cứ tùy tiện ủy thác việc thu thuế ở Giang Nam cho hắn, mà người này lại không phải là hạng có thể nhờ cậy thì địa bàn khó khăn lắm mới giành được này coi như là đã giao lầm vào tay quân ác. Do đó nếu chưa điều tra rõ về Mạc Thanh Hà thì y không cách nào yên lòng về kinh.

Người của Viên Hùng đã bị một lưới bắt gọn nhưng ty thuế quan nhất định vẫn phải thiết lập. Trả lại nó cho bộ Hộ ư? Hoàng đế Chính Đức sẽ không đồng ý, tất cả những thuế giám khác cũng sẽ vì việc này mà coi y như kẻ thù. Như vậy thì phái ai đến trấn thủ thuế quan đây? Chuyện này nhất định phải suy nghĩ cho thật kỹ càng trước đã, hiện giờ bản thân mình đang nắm giữ ty thuế giám trong tay nên nhất định không thể giao quyền bố trí nhân sự cho kẻ khác.

Còn cả tình hình của Hoàng thượng gần đây. Có thể ảnh hưởng tới Hoàng thượng thì ngoài bản thân mình ra chỉ còn đám Bát Hổ, bọn họ có hành động kỳ lạ như thế là vì cái gì chứ? Là vì bản thân nắm giữ quyền cao cho nên nảy lòng ham mê chức tước, muốn nịnh nọt Hoàng đế để kiếm lấy một chức quan rồi dựa theo xu thế của lịch sử mà trở thành tám đại gian thần nhiều năm lũng đoạn triều chính, hay là còn có âm mưu gì khác nữa? Tại sao ty Lễ Giám lại ngồi yên không quản bọn chúng?

Dương Lăng suy nghĩ đến nỗi đau đầu, không kìm được khẽ thở dài một hơi, đột nhiên bên cạnh đưa tới một giọng nói dịu dàng:

- Lão gia, nước nguội chưa vậy? Có cần thêm nước nóng không?

Dương Lăng sợ đến nhảy dựng. Vừa mở mắt ra y đã thấy Cao Văn Tâm xắn hai ống tay áo để trần đôi tay trắng nõn đang đỏ bừng mặt đứng ở bên cạnh nhưng đầu nàng lại cúi gằm xuống đất, hoàn toàn chẳng dám nhìn y.

Dương Lăng vội vàng giật chiếc khăn bông vắt bên thùng nước tắm quấn nhanh qua eo, lắp bắp: 

- Cô… Cô vào đây làm gì vậy? Để tự ta tắm lấy là được rồi.

Vốn Cao Văn Tâm đã hơi ngượng ngập. Dương Lăng vẫn đang ngồi trong thùng nên nàng cũng chẳng nhìn thấy gì cả, nhưng Dương Lăng luống cuống càng che càng hở như thế lại càng khiến nàng cảm thấy xấu hổ hơn.

Cao Văn Tâm thẹn thùng đáp: 

- Nô tì… vốn phải hầu hạ đại nhân tắm rửa thay quần áo. Tỳ nữ đứng ở bên ngoài, đám nha sai múc nước đi ra đi vào thấy vẻ thanh nhàn của tỳ nữ đều ra vẻ rất kỳ lạ, hay là… để nô tì giúp lão gia cọ lưng nhé.

Dương Lăng cười khan: 

- Không có gì, không sao cả đâu ! Quan tâm đến bọn họ làm gì chứ? Kẻ nào dám ăn nói linh tinh nào? Ta chẳng phải là thiếu gia xuất thân ở gia đình giàu có nên thực không quen với việc để phụ nữ hầu hạ tắm rửa. Cô… hãy đợi ta ở bên ngoài là được.

Cao Văn Tâm đang đỏ bừng hai má, nhìn vẻ mặt dường như nàng còn căng thẳng hơn cả Dương Lăng. Vừa nghe y nói như vậy nàng bèn lập tức thở phào một hơi, vội vàng thưa: 

- Vậy… nô tì ra ngoài đây. 

Mới đi được mấy bước, như chợt nhớ đến điều gì nàng bèn quay trở lại, ngoảnh đầu qua hướng khác mà vội vàng rắc một nắm linh tinh vào trong thùng gỗ.

Nhìn bộ dạng của nàng thật khiến người ta phải cảm thấy khó hiểu. Mỗi ngày nàng đều nhìn thấy cái mông của Dương Lăng một lần mà cũng chẳng hề sợ hãi, không biết tại sao lúc này Dương Lăng chỉ để lộ phần ngực và phần vai bên trên mặt nước thôi mà lại khiến nàng xấu hổ và thẹn thùng đến vậy.

Dương Lăng nhìn chăm chăm vào cái thứ nhòn nhọn đang trôi nổi phập phù giữa làn hơi nước mù mịt, tò mò hỏi: 

- Đây là thứ thuốc gì vậy?

Cao Văn Tâm đáp: 

- Đây không phải là thuốc mà là lá trà. Bỏ một chút vào… mùi sẽ thơm.

Dương Lăng khẽ cười, khoát tay bảo: 

- Tốt lắm, lá trà vừa mát vừa thơm, vừa hay có thể trị được cái thân thể đang tràn đầy hỏa khí này của ta. Hà hà, đợt lát nữa tắm xong sẽ châm cứu nhé, hôm nay đã bôn ba cả ngày lại kinh sợ đến suýt chết, lâu lắm chưa có cảm giác thân thể rã rời như thế này rồi. Tiếc là Ngọc nhi không ở đây, cô ấy xoa bóp* tài lắm.

(nay là massage, còn gọi là đấm bóp)

Vốn Cao Văn Tâm một mực thẹn thùng không dám ngẩng đầu nhưng nghe y nói thế thì lại chợt ngẩng đầu lên, có vẻ không phục: 

- Nô tì… Nô tì cũng biết xoa bóp, tay nghề của ngự y chuyên việc xoa bóp trong thái y viện cũng không so được với nô tì. Giờ nô tì đi chuẩn bị sẵn, đợi lát nữa sẽ xoa bóp cho lão gia.

***

Dương Lăng nằm sấp trên giường, được Cao Văn Tâm xoa bóp nên đầu óc y cứ mơ mơ màng màng. Trong phòng có đốt hương, ngửi vào rất dễ ngủ. Một cô gái xinh đẹp đáng yêu đang dịu dàng xoa bóp bả vai và tứ chi cho y.

Tuy nói là Ngọc Đường Xuân xoa bóp, nhưng thực ra gọi là mơn trớn vuốt ve thì càng xác đáng hơn, còn Cao Văn Tâm mới thật sự là tinh thông môn này. Trước tiên nàng dùng một chiếc lược ngọc nhẹ nhàng cạo thẳng một đường qua lớp áo mỏng từ gáy Dương Lăng cho tới tận chỗ thắt lưng, giúp cho mạch máu thêm thông thuận, sau đó mới nhẹ nhàng xoa bóp huyệt đạo và các đường kinh lạc. Dương Lăng cảm thấy toàn thân đều thoải mái, lâng lâng phiêu đãng tựa thần tiên.

Thời Minh chính là lúc thuật xoa bóp đạt tới đại thành, mà Cao Văn Tâm lại là cao thủ của môn này, Dương Lăng không kìm được khép hờ đôi mắt mơ màng, hàm hồ cất tiếng: 

- Thoải mái quá, thế mà ta lại chẳng hay biết gì… Sau này mỗi lần châm cứu xong cô hãy xoa bóp cho ta một chút, được không?

Cao Văn Tâm đưa ống tay áo lên khẽ lau mồ hôi trên trán, mỉm cười: 

- Được, nô tì còn biết nhiều loại thủ pháp lắm, vừa rồi… nếu lão gia để nô tì cọ lưng, nô tì cũng còn một bộ công phu học được từ trong Đạo Dẫn Đồ (Tên một cuốn sách dạy thuật dưỡng sinh bằng tranh vẽ - ND.), vừa hay có thể thi triển thân thủ.

Dương Lăng cười hà hà đáp: 

- Nữ nhân thì làm gì mà có sức cọ lưng cho nam nhân chứ, nếu đổi lại thì còn nghe được… Ặc… À… Nếu dùng chân cọ thì còn nghe được.

Cao Văn Tâm đã nghe rõ y muốn nói gì nên không khỏi đỏ bừng hai má, nghĩ bụng: “Vị lão gia này cũng thật là… Nếu bảo y lớn gan thì không dúng, mới nói để tì nữ của mình hầu hạ tắm rửa mà đã có vẻ sợ hãi đến vậy; còn nếu bảo y nhát gan thì lại có những lúc y cứ hay nói linh tinh, cứ trêu ghẹo khiến cho người ta lòng dạ nhộn nhạo.

Nam nhân cọ lưng cho nữ nhân sao? Y… Y cọ cho mình…”

Cao Văn Tâm vừa nghĩ đến đây, ngón tay đang ấn xuống lập tức trở nên mềm nhũn chẳng còn chút sức lực nào, tựa như đã bị rút mất gân. Dương Lăng thấy ngón tay trên lưng mình đã trở nên mềm nhũn đâm ra cảm thấy nhồn nhột, không kìm được cười hà hà, hơi vặn người rồi bảo: 

- Thấy chưa, ta đã nói nữ nhân sức yếu rồi mà… Được rồi, cô xoa bóp thế này càng lúc ta càng buồn ngủ, thôi ta ngủ đây.

Cao Văn Tâm hậm hực trừng mắt nhìn y, đưa tay làm động tác véo một cái sau lưng y, sau đó mới đứng dậy nhẹ nhàng buông rèm cho Dương Lăng. Khi đi đến trước bàn nàng chợt quay đầu lại hỏi: 

- Lão gia! Bây giờ đám Viên công công đã bị bắt cả rồi, Có phải… có phải là chúng ta chuẩn bị về kinh ngay không?

Dương Lăng quay sang nàng, ngáp dài rồi đáp: 

- Sao vậy? Muốn về nhà sao? Sắp rồi, sắp rồi! Có lẽ… mấy ngày nữa là sẽ có thể trở về thôi.

Cao Văn Tâm hơi do dự một lúc rồi hỏi: 

- Vậy, mấy ngày này chắc không có việc gì chứ? Lão gia có cần… mời huynh muội Thiên sư đến phủ làm khách một chuyến không?

Dương Lăng hơi ngẩn người, sực tỉnh: 

- A! Cô nói đúng, dạo gần đây huynh muội Thiên sư đều bị tín đồ của bọn họ mời đi làm khách, ta cũng quên mất chuyện này. Không mời lại bọn họ một lần thì quả là thất lễ, ừm! Lát nữa cô hãy phái người mang thiếp mời của ta đến gặp Thiên sư, xem y có lúc nào rảnh thì mời đến phủ hàn huyên một lúc.

Cao Văn Tâm mừng khấp khởi đáp: 

- Vâng, đại nhân! Nô tì ra ngoài đây, lão gia hãy nghỉ ngơi cho khỏe!

***

- Ngươi nói cái gì? Người của Nội xưởng đã bắt Lý Quý? 

Vốn hai ngày nay Mạc Thanh Hà luôn tràn đầy hưng phấn, mặt mũi tươi cười nhưng lúc này sắc mặt đã trở nên tái xanh, trong cặp mắt lấp loáng vẻ hung hãn. Hắn đưa tay túm chặt cổ áo Lý quản gia, gằn giọng hỏi.

- Đúng… Đúng vậy, lão gia! Nội xưởng bắt người, quan phủ địa phương cũng không thể hỏi tới. Tri phủ Tô Châu, thậm chí là Bố chính sứ đại nhân cũng đã phái người đi dò hỏi nhưng đều bị nha sai của Nội xưởng đuổi về, hiện giờ tình hình Lý Quý như thế nào chúng ta hoàn toàn không hề hay biết tí gì. Bọn họ cứ một mực khẳng định Lý Quý lén giấu vật cấm, một viên gạch vàng to tướng bày ngay ra đó, thật sự là trăm cái miệng cũng chẳng cãi nổi.

Lý quản gia mặt mày ủ rũ đáp.

- Bốp! 

Một cái tát nặng nề giáng thẳng vào mặt Lý quản gia khiến cho gã xiêu người suýt ngã. Mạc Thanh Hà chỉ thẳng tay vào mặt gã mắng to: 

- Khốn khiếp! Thường ngày em trai ngươi hung hăng kiêu ngạo, hoành hành khắp nơi; ta đã bảo hắn phải an phận một chút cho ta rồi mà vẫn không chịu nghe. Gạch vàng đó là vật cấm, thứ đồ như thế mà hắn cũng vơ vét về nhà như đồ quý hiếm là sao? Thế này còn chẳng phải là vác họa về cho ta hay sao chứ?

Lý quản gia ấm ức đáp: 

- Lão gia! Đúng là có một số người thích vật hiếm lạ, người thu thập gạch vàng cũng không phải là không có, nhưng em trai tiểu nhân… ngoài vàng bạc ra thì nó chẳng thích cái gì khác, sao có thể đem cái thứ đó về nhà cơ chứ? Tiểu nhân cho rằng người của Nội xưởng cũng giống như Đông xưởng đang tìm cớ đổ tội cho nhà giàu để vơ vét tiền tài, nhưng đưa tiền đến nơi… tiền thì bọn họ nhận đủ nhưng người thì lại không chịu thả!

Mạc Thanh Hà giận dữ nhấc chân lên định đá gã, Mạc phu nhân chợt tha thướt bước đến ngăn hắn lại rồi bảo: 

- Lão gia bớt giận, chuyện này có lẽ đúng là oan cho Lý Quý. Hiện giờ Nội xưởng vừa mới thành lập, xưởng đốc lại đang tuần sát Giang Nam chúng ta, cho dù người của Nội xưởng muốn vơ vét tiền tài của nhà giàu, liệu có dám làm ở ngay Giang Nam này không? Không có sự đồng ý của Dương Lăng, cho bọn chúng mười lá gan cũng chẳng dám!

Cặp mắt Mạc Thanh Hà lóe sáng, ánh mắt âm trầm nhìn ả một hồi, khuôn mặt dần trở nên đỏ rực: 

- Ý nàng là… Dương Lăng đang có ý đồ với ta? Không thể nào, chuyện này không thể được! Dạ dày của y lớn đến đâu được chứ? Muốn một miếng nuốt trọn cả ba thái giám trấn thủ ở đất Giang Nam này sao, đến lúc đó còn ai chịu bán mạng cho y?

Mạc phu nhân cười lạnh: 

- Y đi chơi Tô Châu, ngắm cảnh Hàng Châu, đến đâu cũng chỉ du sơn ngoạn thủy không màng chính sự, lão gia đã từng thấy y tra xét gì Viên Hùng chưa? Nhưng bây giờ Viên Hùng đang ở đâu rồi? Dưới tay hắn có năm ngàn tên tay sai không sợ chết, trời không thu đất chẳng quản, ai thấy mà chẳng đau đầu? Vậy mà chỉ trong một đêm, trước tiên Dương Lăng dùng kế rút củi đáy nồi bắt sống Tất Xuân, sau đó lại tập kích ty Thuế Quan, dùng một ngàn người đối phó với kẻ địch đông gấp mấy lần, dạ dày ấy liệu có lớn không?

Nghe xong, sắc mặt Mạc Thanh Hà trở nên trắng bệch, trên khuôn mặt xinh đẹp của Mạc phu nhân cũng hiện nét băng giá: 

- Còn cả việc y đột nhiên đi tuần tra Hải Ninh nữa, trước đó lão gia có biết không? Người này nhìn bề ngoài thì rất tùy tiện, hình như chuyến đi Giang Nam chỉ là để ứng phó cho có mà thôi, nhưng ai biết trong lòng y rốt cuộc có ý đồ gì chứ? Bây giờ nghĩ lại… Nếu không phải là y đã nảy lòng đề phòng lão gia, tại sao Viên Hùng và Tất Xuân đều chẳng giữ lại ngày nào mà đã lập tức đưa ngay về kinh thành như thế chứ?

Mạc Thanh Hà sắc mặt lúc xanh lúc đỏ, hồi lâu sau mới giật dữ quát to: 

- Ta đã quyết ý quy thuận y, y còn muốn dồn ta vào chỗ chết sao?

Mạc phu nhân khoát khoát tay, Lý quản gia vội biết điều lui ra ngoài. Mạc phu nhân đi tới bên cạnh Mạc Thanh Hà, thấp giọng hỏi: 

- Lão gia, gã Lý Quý này có đáng tin không?

Mạc Thanh Hà hừ một tiếng, đáp: 

- Kêu hắn đi vơ vét tiền tài thì còn được, nhưng bảo hắn liều mạng giữ bí mật cho người khác thì thà kêu lợn leo cây còn hơn. Có điều… cho dù Dương Lăng muốn đối phó với ta, nhưng không bằng không cứ thì y dám làm gì người của ta chứ?

Mạc phu nhân cười lạnh: 

- Lý Quý là người của lão gia sao? Khâm sai đại nhân người ta nào có biết, y chỉ biết người này lén giấu vật cấm, phạm trọng tội đáng chém đầu. Còn đám người dưới tay lão gia, hừ! Có tên nào chịu đựng nổi sự tra tấn của xưởng vệ không?

Mạc phu nhân vừa nói tròng mắt vừa xoay chuyển một cách giảo hoạt, sau đó lại tiếp: 

- Đám người trên biển kia… thế nào rồi? Nếu thực sự không được… 

Đôi mày lá liễu của ả nhíu chặt lại, đưa bàn tay thon thanh tú lên cạnh cổ ra dấu chặt đầu.

Thân hình Mạc Thanh Hà đột nhiên run lên, hắn đưa tay bám vào chiếc bàn, ngay đến chiếc bàn đó cũng run lên theo. Mạc phu nhân cả kinh, vội bước tới đỡ hắn: 

- Lão gia, lão gia sao vậy?

Mạc Thanh Hà phá lên cười ha hả, nhưng tiếng cười nghe thê thảm vô cùng, thần thái có chút điên cuồng. Hắn vừa cười vừa ngồi xuống ghế, chụp lấy một bình trà đập mạnh xuống đất, nghiến răng chửi bới: 

- Hai nhóm hải tặc Phì Tiền Thọ, Trần Đông khốn khiếp ấy ta sớm đã nên tiêu diệt rồi mới phải! Chỉ vì có bọn chúng ở đó mới có thể giúp ta lừa gạt người đời nên ta mới tha cho bọn chúng. Không ngờ chuyện lớn của chúng ta lại bị hỏng trong tay bọn chúng…

Mạc phu nhân tò mò hỏi: 

- Hai đám hải tặc chẳng ra gì ấy thì có liên quan gì với chúng ta chứ? Người của Tiểu Thôn Thứ Lang đâu? Kêu bọn chúng mang người giết thẳng vào Hàng Châu, có chúng ta làm nội ứng, chỉ cần giải quyết Dương Lăng ở trong đám loạn quân…

Đôi hàng lông mày thanh tú của ả nhướng lên, ả nở một nụ cười quyến rũ ôm lấy Mạc Thanh Hà cất giọng ngọt ngào nói tiếp: 

- Dương Lăng mà chết thì Nội xưởng sẽ chẳng là gì nữa, đến lúc đó chúng ta lại giúp Đông xưởng trừ bỏ bớt thực lực của Nội xưởng. Lão gia… địa vị của ngài tại ty Lễ Giám còn có thể tăng thêm một bậc nữa đấy.

Mạc Thanh Hà mặt vàng như đất thở dài nói: 

- Muộn rồi, muộn rồi, đúng là ý trời! Đây là trời muốn hại ta!

Hắn cười nhăn nhó đưa mắt nhìn phu nhân bên cạnh, nói: 

- Người của Tiểu Thôn Thứ Lang không thể vào được nữa rồi. Ta chỉ để tâm tới việc ước thúc Tiểu Thôn Thứ Lang, nào ngờ đám hải tặc Phì Tiền Thọ bất tài ấy lại đi tập kích Hải Ninh vào lúc này, lại còn gặp phải khâm sai đại nhân nữa.

Từ sau khi xảy ra chuyện này, Đô chỉ huy sứ ti(1) đã cho một lượng lớn thủy quân đi phòng thủ tại tất cả các cửa biển đề phòng việc người Oa lại tới quấy nhiễu, khiến cho khâm sai về kinh sẽ vạch tội hắn phòng thủ bờ biển bất lực. Bây giờ muốn Tiểu Thôn Thứ Lang mạo hiểm tính mạng như thế để giúp ta sao? 

Dứt lời hắn lại không khỏi lắc lắc đầu tuyệt vọng.

Vốn Mạc phu nhân rất điềm tĩnh, mãi cho tới khi nghe tới đây sắc mặt mới biến đổi hoàn toàn. Ả ngẩn người hồi lâu, sau đó mới khẽ nói: 

- Lão gia, vậy chúng ta nên làm thế nào? Nhất định phải sớm trù tính sẵn kế hoạch mới được. Không có ai đến tra xét thì không sao, nhưng Dương Lăng đã động thủ rồi, Lý Quý lại là người không giữ được bí mật, những chuyện đó của lão gia… nhất định y sẽ biết được rõ ràng.

Giọng nói của ả toát ra vẻ lạnh lẽo đến thấu xương: 

- Lén buôn lậu hàng hóa với người Oa, vẽ bản đồ và thông báo trước tình hình đóng quân cho bọn chúng, dẫn đường cho bọn chúng vào đánh cướp, sau đó lại bán chịu lương thực cho những gia đình đã bị cướp bóc sạch trơn, thừa cơ cướp đoạt ruộng đất của bọn họ. Chỉ một điều trong đó thôi cũng là tử tội rồi, huống chi còn có việc ăn óc của bọn trẻ kia nữa, hơn ba mươi mạng người đấy…

Mạc Thanh Hà đột nhiên nhảy bật lên, phần thịt trên hai má co giật liên hồi, nắm lấy tay ả nói: 

- Tiểu Lâu ! Chi bằng nhân lúc sự tình còn chưa bại lộ, chúng ta hãy đi thôi, trốn đến nơi nào đó thật xa. Dù Dương Lăng có thần thông quảng đại đến cỡ nào đi chăng nữa thì cũng làm gì được ta chứ?

Mạc phu nhân ngớ người, ngạc nhiên hỏi: 

- Trốn? Trốn đến đâu đây? Khắp thiên hạ này, có chỗ nào không phải là đất của nhà vua, chẳng lẽ lại trốn đến một chốn thôn quê bần cùng hoang vắng, giấu họ giấu tên mà sống hay sao?...

Mạc Thanh Hà lắc đầu: 

- Không, chúng ta vượt biển trốn đến Nhật Bản. Với số tiền bạc đã tích lũy được, bất luận đi đến đâu chúng ta cũng có thể sống một cách tốt đẹp. Ở đó chúng ta sẽ giàu ngang vương hầu, Đại Minh còn có thể đuổi theo tới đó mà bắt ta được sao?

Chú thích:

(1): Đô chỉ huy sứ ti là thủ lĩnh quân sự tối cao của một địa phương lớn (ở kinh đô thì gọi là Chỉ Huy Sứ ti). Cùng bố chính sử ti, án sát ti gọi là tam ti, chia nhau lãnh đạo quân sự và chính trị, dân chính, hình ngục của địa phương. 

Thời Minh có 13 Đô chỉ huy sứ ti.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro