90-131

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 90: Tiêu Phương dùng kế

Tiêu Phương cười nhẹ:

- Đúng vậy! Chỉ là... hai vị đại nhân Vương Ngao và Lưu Phương vừa mới bị hoàng thượng từ chối thẳng thừng, lão phu sợ mình cũng sẽ bị đuổi cổ ra thôi. Dương đại nhân là bầy tôi đắc lực trước mặt Hoàng Thượng, có chuyện này lão phu muốn nhờ đại nhân hỗ trợ dâng lời.

Dương Lăng chợt máy động trong lòng, giật mình hỏi:

- Đại nhân cũng là vì việc Tín Dương mà tới à? Không dối đại nhân, khi nãy hạ quan cũng đã khuyên Hoàng Thượng rồi...

Dương Lăng kể lại từ đầu chí cuối việc vừa rồi cho lão nghe, rồi khẽ thở dài:

- Hoàng Thượng ít tuổi, hãy còn chưa hiểu chuyện dân gian, có một số việc chưa chắc có thể trình bày rõ ràng được với Hoàng Thượng. Hiện nay hạ quan cũng chẳng còn biện pháp gì nữa!

Tiêu Phương không giống bọn người Vương Ngao, Dương Phương chú trọng đến khí phách thư sinh. Mặc dù tuổi quá thất tuần, râu tóc bạc phơ nhưng tấm lòng nhiệt tình mưu cầu danh lợi của lão lại chẳng hề giảm bớt. Bây giờ Dương Lăng đang là nhân vật được Chính Đức coi trọng nên lão đã có ý muốn kết giao, vì vậy tuy quan chức cao hơn Dương Lăng, nhưng lão lại có thái độ cực kỳ khiêm tốn với y.

Nghe Dương Lăng nói xong, Tiêu Phương cau đôi mày bạc trắng, suy nghĩ rất lâu rồi cẩn thận nói:

- Hoàng Thượng từ bé đã ở trong cung, chẳng biết nỗi khổ của dân gian cũng là lẽ thường. Không giấu gì Dương đại nhân, lão phu là người Bí Dương, Hà Nam, quê nhà cũng đang chịu phải tai ương, khắp chốn Hà Nam lúc này nạn dân kêu khóc đòi ăn, người bị nạn nào chỉ có ở một nơi. Bạn bè thân hữu ở Bí Dương và Tín Dương đều lên kinh nhờ vả, dù thế nào lão phu cũng phải cố gắng nói một lời trước mặt hoàng thượng. Nếu đã không thể can gián trực tiếp thì lão phu nghĩ nên đi đường vòng. Có điều việc này vẫn phải nhờ Dương đại nhân giúp đỡ, mong rằng Dương đại nhân sẽ tương trợ.

- Ồ! Nếu có thể giúp đỡ cho người dân đang khốn khó, Dương Lăng sẽ không chối từ. Không biết lão đại nhân có cao kiến gì?

Dương Lăng vội hỏi.

Tiêu Phương nghe y đồng ý, lập tức vui vẻ kề tai nói nhỏ với y một hồi. Dương Lăng nghe xong ngạc nhiên nhìn lão, thầm nghĩ: "Tuy rằng hoàng đế trẻ người non dạ, nhưng cũng đã là thiếu niên mười lăm sáu tuổi rồi; tuy y rất ham chơi, nhưng liệu y lại khoái mấy thứ trò chơi con nít này sao?"

Nhưng vị lão đại nhân này đã nói thế, mình cũng không ngại giúp lão một tay, nếu có thể thành công thì quả là công đức vô lượng rồi. Dương Lăng bèn gật đầu đáp:

- Cứ như vậy đi, ty chức đi đây. Ngày mai đại nhân chuẩn bị sẵn đồ vật cho tốt chờ Hoàng Thượng triệu kiến là được.

**************************

Kết thúc buổi triều sớm, hoàng đế Chính Đức bãi giá về điện Trung Hoà. Vừa vào cửa điện, hắn đã ngáp một cái rõ to, càu nhàu với Dương Lăng đang đứng đợi:

- Ngày nào cũng khởi giá sớm như vậy, thực mệt chết đi được. Đáng ghét nhất là cái ngai vàng. Ta có thể nói kẻ chế ra cái ngai vàng này nhất định có thù oán với hoàng đế. Cái bản ghế quá cứng, ngồi rất khó chịu; lưng ghế quá sâu,dựa lưng được; tay vịn hai bên lại quá xa, muốn dựa vào một chút cũng không xong. Rõ là muốn người ngồi trên đó mệt bao nhiêu là cho mệt bấy nhiêu.

Dương Lăng nghe xong cảm thấy hơi buồn cười, chợt nhớ Đại Minh từng có vị hoàng đế làm thợ mộc, nhưng theo trí nhớ thì dường như không phải là hắn. Nghe hắn nói rõ ràng mạch lạc như vậy, chẳng lẽ con cháu họ Chu đều có thiên phú làm thợ mộc à?

Cốc Đại Dụng thấy hoàng đế nói về mấy chuyện này bèn vội đuổi đám cung nữ thái giám ra ngoài hết. Tuy Lưu Cẩn là người tâm phúc của hoàng đế Chính Đức, nhưng chức vụ hiện nay của lão vẫn còn chưa thay đổi, vẫn là thái giám thủ lĩnh của Chung Cổ ty. Khi bên này bãi triều, lão phải chỉ huy gõ chuông giống trống ở bên kia, bận rộn vô cùng, cho nên lúc này không có thời gian chạy tới hầu hạ hoàng thượng. Còn bọn Mã Vĩnh Thành và Trương Vĩnh thì ai nấy đều có công việc riêng, do đó bên cạnh hoàng đế chỉ có mỗi mình Cốc Đại Dụng hầu hạ mà thôi.

Chính Đức ngồi xuống sau long án, lấy từ trong hộp gấm trên bàn ra một chiếc bánh ngọt xốp giòn, vừa ăn nhồm nhoàm, vừa lúng búng nói:

- Được rồi! Ngươi nói Hà Nam có nhiều bảo vật, hôm nay muốn cho người đến tiến cống vài món đồ hiếm lạ. Vậy mau lấy ra cho ta coi.

Dương Lăng mỉm cười đưa mắt ra hiệu cho Cốc Đại Dụng. Sớm được y dặn dò, Cốc Đại Dụng vội đi ra trước điện, cao giọng gọi:

- Tuyên thị lang bộ Lại Tiêu Phương vào yết kiến!

Chỉ lát sau, Tiêu Phương đầu tóc tóc bạc phơ, tay tuồn vào trong ống tay áo, chạy chầm chậm từ trước điện lại. Đến cửa điện lão thở phì phò một hồi rồi mới rảo bước qua bậc cửa, quỳ sụp xuống, hô to:

- Thần Tiêu Phương ra mắt hoàng thượng!

Chính Đức uống một ngụm trà, cười toe toét bảo:

- Tiêu ái khanh hãy đứng lên! Trẫm nghe nói Hà Nam có nhiều bảo vật, khanh có đem theo không, mau lấy ra cho ta xem thử.

Tiêu Phương dập đầu tâu:

- Khải bẩm Hoàng Thượng, vùng Hà Nam không có vàng, không có bạc, không có ngọc ngà châu báu. Cái gọi là bảo vật chẳng qua là những sinh vật hiếm khi thấy được ở những vùng khác, thần sợ sẽ làm kinh động thánh giá.

Chính Đức vừa nghe lập tức mừng rỡ. Mấy thứ vàng bạc châu báu thì có gì mà xem? Vừa nghe lão nói là có những sinh vật hiếm lạ, khó thấy được nơi khác, trong lòng y càng ngứa ngáy hơn, tâm tính thiếu niên cũng lập tức nổi lên, Y bất chấp uy nghi hoàng thượng, vỗ bàn cười, sốt ruột giục:

- Mau lên! Mau lấy ra cho trẫm xem một chút, trẫm thích mấy thứ này lắm.

- Dạ, vi thần tuân chỉ!

Tiêu Phương ngẩng đầu liếc mắt nhìn Dương Lăng. Dương Lăng mỉm cười, khẽ kín đáo gật đầu với lão, lúc này Tiêu Phương mới yên tâm.

Hôm nay lão lên đây hiến lời ngay, thực sự cũng rất phiêu lưu mạo hiểm. Nếu hoàng thượng nhìn thấy vật do lão trình lên, chẳng những không thích mà còn nổi giận, lão sẽ thành ra trộm gà không được mà còn bị ăn mất nắm gạo, không khéo phải vào thiên lao bầu bạn với Vương Quỳnh Vương đại nhân chứ chẳng chơi. Bây giờ có Dương Lăng gật đầu nhận hỗ trợ, nếu lát nữa chẳng may hoàng thượng phát hoả, có y bảo kê hẳn sẽ không sao.

Tiêu Phương lấy từ trong tay áo ra ba hộp nhỏ, cung kính dâng lên, nói:

- Quê nhà của thần không sản sinh ra bảo vật gì khác, chỉ có mấy thứ hiếm lạ này, mời hoàng thượng ngự lãm.

Chính Đức sốt ruột:

- Đưa lên đi! Mau đem qua cho trẫm xem.

Tiêu Phương đứng dậy bước tới trước, đặt ba chiếc hộp trên long án trước mặt Chính Đức rồi cẩn thận mở một hộp ra, nhè nhẹ đẩy tới trước mặt Chính Đức.

Chính Đức mở to hai mắt chăm chú nhìn. Hắn thấy trong hộp có một con vật có mấy cái chân màu vàng óng, gần như trong suốt, trên lưng là một lớp vỏ đen xì, dày cứng, cái đuôi giương cao quắp lại thành móc câu, trông như đại tướng quân uy vũ. Hắn không khỏi ngạc nhiên cười hỏi:

- Đây là con gì vậy? Trông thật thú vị!

Hắn vừa nói vừa thò tay vào định sờ, Dương Lăng vội giữ tay hắn lại, can:

- Hoàng Thượng cẩn thận! Con vật này gọi là bò cạp, là độc vật. Nếu bị cái móc trên đuôi nó chích trúng sẽ đau đớn không chịu được, chớ có đụng vào nó.

Chính Đức thích chí:

- Thì ra con vật đáng yêu này chính là bò cạp à, trông thật đẹp và oai vệ. Trẫm có nghe qua về 'Ngũ Độc'*, đáng tiếc lại chưa được thấy. Hôm nào tập hợp những độc vật này lại cùng một chỗ, cho chúng đánh nhau xem thử con nào độc hơn. Trong hỰ đó còn có cái gì nữa, đem cả ra đây xem nào!

(*:gồm bò cạp, rắn, rết, thạch sùng và cóc)

Cốc Đại Dụng cầm nắp đậy cái hộp đó lại, rồi mở một cái khác ra. Trong hộp có một con gì đó trông mềm mềm, đen thui, bò tới bò lui trong hộp rất nhanh. Chính Đức thấy vậy không thích, nhíu mày hỏi:

- Đây là con gì?

Tiêu Phương đáp:

- Hồi bẩm Hoàng Thượng, con vật này tên là con xâu tiền*. Cuộc sống của dân chúng Hà Nam nghèo khổ, trên người không có tiền, nhìn thấy con vật này giống như một dây để xâu tiền, bèn dùng nó để trêu đùa, mong có ngày gia cảnh sung túc hơn.

(*: hay còn gọi là du diên, tên khoa học là Thereuonema tuberculata)

Chính Đức ờ một tiếng, nhạt nhẽo phán:

- Con xâu tiền trông chán chết! Còn hộp thứ ba là gì?

Tiêu Phương mở hộp cuối cùng. Nắp hộp vừa mở ra, chỉ nghe một tiếng vù, một con vật từ trong hộp bay ra, bay vòng quanh điện vài vòng, rồi kêu lên một tiếng bay vụt ra khỏi cửa điện.

Hoàng đế Chính Đức nhìn mà há hốc mồm, ngạc nhiên thích thú hỏi:

- Đây là vật gì, là chim à? Sao lại bay đi rồi?

Dương Lăng thấy mấy con vật bình thường như vậy mà hoàng đế Chính Đức đều chưa thấy qua, xem ra thật là đáng thương. Nhưng ngẫm lại có những đứa trẻ đô thị tới nông thôn, ngay cả cây ngô (bắp) non cũng không nhận ra, còn lấy làm lạ là tại sao lại có thứ cỏ dại trông thẳng tắp như vậy. Cho nên vị hoàng đế này không biết mấy thứ nọ cũng không có gì là lạ.

Dương Lăng bèn cười đáp:

- Hoàng Thượng! Con vật đó gọi là con ve, cũng được gọi là ve sầu. Vì tiếng kêu của nó như hai chữ 've sầu' (nguyên văn "tri liễu"). Con vật này ăn gió uống sương, lấy nhựa cây làm thức ăn.

Tuy Tiêu Phương đọc rất nhiều sách, nhưng xưa nay mọi người đều cho rằng con ve uống sương mà lớn, còn có người chuyên làm thơ phú để ca ngợi sự cao thượng của con ve. Đây là lần đầu lão nghe nói con ve hút nhựa cây nên không khỏi liếc mắt nhìn Dương Lăng, nhưng rồi lập tức phụ họa:

- Dương đại nhân nói đúng đó! Mấy năm nay Hà Nam nếu không hạn hán thì là lụt lộ đất đai không trồng trọt được lương thực, đến cả chim chóc cũng sắp chết đói, chỉ có những con vật không cần ăn gì thì mới có thể sống được.

Chính Đức nghe xong, không dám tin bật thốt:

- Hà Nam là nơi cằn cỗi như thế sao? Những bảo vật nơi ấy chỉ là... chỉ là bò cạp, ve sầu, xâu tiền sao? Đáng thương! Thật là đáng thương!

Nhân cơ hội, Tiêu Phương bèn quỳ xuống tâu:

- Hoàng Thượng từ bi, dưới sự trị vì của tiên đế và hoàng thượng, vốn là quốc thái dân an, dân chúng an cư lạc nghiệp. Thế nhưng không hiểu sao mà mấy năm nay Hà Nam liên tiếp bị thiên tai, do đó đời sống dân chúng rất khổ cực, mặc dù chưa tới nỗi "đổi con cho nhau để ăn", nhưng có rất nhiều người dân không kiếm được ba bữa. Hai ngày trước, thần gặp vài người đồng hương chạy nạn tới đây, thần mới biết mức độ nghiêm trọng của tình hình thiên tai ở cố hương.

Thần là người Hà Nam, nhưng đồng thời cũng là bề tôi của Hoàng Thượng, do đó không dám thổi phồng việc này, e làm rác tai bệ hạ, đồng thời cũng không dám không báo cho Hoàng Thượng. Do đó thần mạo muội tâu lên, xin Hoàng Thượng làm chủ cho dân chúng Hà Nam.

Chính Đức lúc này mới rõ ý lão. Hắn nhìn các hộp gỗ trên bàn một lúc, rồi bật cười:

- Tiêu thị lang rất có thủ đoạn! Thôi được, trẫm sẽ chuẩn những tấu chương của những quan viên Hà Nam các ngươi, miễn thuế ruộng cho Hà Nam. Đã ban ân đức, phải ban nhiều một chút, vậy trẫm sẽ miễn... cho Hà Nam năm năm thuế khóa, khanh thấy thế nào?

Tiêu Phương vừa nghe liền mừng như điên. Lão quỳ sụp xuống đất, dập đầu lia lịa, liên thanh ca ngợi Hoàng Thượng thánh minh, rồi một loạt những từ ngữ ca ngợi thao thao bất tuyệt được tuôn ra như nước lũ tràn bờ, khiến cho cả Chính Đức nghe xong cũng chịu không nổi. Hắn bụm miệng cười ha hả rồi bảo:

- Đủ rồi! Đủ rồi! Khanh hãy lui xuống đi, lát nữa ngọ triều trẫm sẽ hạ chỉ là được.

Chính Đức đảo mắt nhìn thấy Dương Lăng đang đứng một bên cười tủm tỉm, không khỏi mỉm cười, giả vờ giận dữ trừng mắt nhìn y, nói:

- Khanh chớ đắc ý! Hôm nay trẫm tưởng có vật hiếm lạ để chơi, nhưng lại rất thất vọng. Chuyện này vẫn ở trên người khanh! Trong vòng ba ngày, khanh phải tìm mấy thứ đồ chơi thật tốt cho trẫm xem!

Dương Lăng cười hì hì vâng lệnh, rồi cùng thị lang bộ Lại Tiêu Phương dập đầu tạ ơn, cùng nhau lui ra khỏi đại điện. Tiêu Phương kéo tay Dương Lăng liên tục cảm ơn, cao hứng tới mức nói năng lộn xộn.

Dương Lăng nghe lão nói người Hà Nam nhất định sẽ đội ơn y lần này, bèn không khỏi cười nói:

- Việc này cũng không hẳn! Đại thần trong triều nhiều người hiểu lầm với hạ quan, e rằng... ngay cả hai vị đại nhân Dương Phương và Vương Ngao là người Hà Nam cũng vẫn xem tại hạ như giặc.

Tiêu Phương khoát tay khinh thường nói:

- Chớ để ý đến đám người đó. Dân chúng chỉ biết ai cho họ cơm ăn, ai cứu mạng sống của họ. Còn đám người chỉ biết lễ giáo, chẳng biết thực hành đó, đại nhân đừng để ý tới họ.

Tiêu Phương là tiến sĩ năm Thiên Thuận thứ tám. Đầu năm Hoằng Trị được điều tới Hoắc Châu làm Tri phủ, được đề bạt làm Đề học phó sứ ở Tứ Xuyên, rồi được điều tới Hồ Quảng, không lâu sau, lại thăng làm Hữu thông chánh ở Nam Kinh, sau lại được thăng làm Hữu thị lang bộ Lễ, cho đến giờ thì ngồi vào vị trí thị lang bộ Lại.

Để hiển thị tài hoa của mình, lão thường xuyên dâng thư tấu sự, đưa ra những kiến giải của mình đối với sự việc trong triều đình và địa phương, hy vọng có thể khiến cho hoàng đế Hoằng Trị coi trọng và trọng dụng.

Đáng tiếc quan viên khi ấy hoặc nhiều hoặc ít đều có địa bàn của mình. Lão lần lượt nhậm chức bộ Lễ và bộ Lại, hai thượng thư Vương Quỳnh và Mã Văn Sinh tuy rất trung thành với triều đình, nhưng về mặt đạo đức cá nhân cũng không thể thập toàn thập mỹ được: bản sớ của Tiêu Phương thường bị bọn họ gạt bỏ không trả lời. Vì phần lớn những quan viên này là người phương nam nên Tiêu Phương rất oán hận đám quan viên phương nam.

Lúc này trong triều ngoại trừ đại học sĩ Lưu Kiện, những người nắm quyền phần lớn là tài tử vùng Chiết Giang, Hồ Nam và Giang Tây. Do đó quan viên trong triều mà lão nhìn vừa mắt cũng chẳng có mấy ai.

Dương Lăng đến từ Kê Minh, là đồng hương phương bắc, lại là cận thần của thiên tử, hơn nữa vừa rồi lại giúp đỡ nhiệt tình khiến lão có thể ăn nói với các phụ lão ở quê nhà, trong lòng Tiêu Phương tự nhiên cảm kích tới rơi nước mắt.

Nghe Dương Lăng nói y bị triều thần kỳ thị, Tiêu Phương nhớ tới những bản sớ của mình bị gạt bỏ, không khỏi dâng lên mối đồng cảm, lập tức chắp tay:

- Việc thiện hôm nay của Dương đại nhân sẽ cứu sống mấy chục vạn dân chúng Hà Nam. Sau này nếu đại nhân có gì sai khiến, chỉ cần nói một tiếng, lão phu nếu có khả năng, quyết sẽ không chối từ.

Dương Lăng cười cười cám ơn, rồi chắp tay tiễn vị đại nhân này đi. Lúc này y chỉ nghĩ mạng mình có hạn, cố sống sao cho vui vẻ một chút, nếu có thể tiện tay làm chuyện tốt thì cứ làm một ít. Mặc dù đây là cơ duyên người khác cầu cả đời cũng không được, nhưng y lại không có chí lớn gì, do đó y hoàn toàn không để tâm đến lời hứa của vị "phó bộ trưởng bộ khen thưởng" này.

Ngọ triều đã tan, Chính Đức thở phào nhẹ nhõm. Y trở lại Càn Thanh cung bỏ nghi trượng, vừa ăn chút đồ ăn vặt vừa bảo tên tiểu thái giám đi gọi mấy người Mã Vĩnh Thành tới, tìm tiếp mấy trò chơi mới mẻ giải buồn. Lúc này bên ngoài chợt có người cao giọng hô:

- Đại học sĩ Lưu Kiện của Vũ Anh điện, đại học sĩ Lý Đông Dương của Cẩn Thân điện và đại học sĩ Tạ Thiên của Hoa Cái điện cầu kiến Hoàng Thượng.

Hoàng Đế Chính Đức "a" lên một tiếng, lật đật kéo ngăn kéo, đút hộp mứt hoa quả vào. Lần trước hắn không để ý, lúc tiếp kiến Lưu Kiện vẫn còn bày trên bàn một hộp trái cây khô. Lưu Kiện trông thấy liền tức thì hùng hồn buông lời răn bảo một phen, phê phán Hoàng Thượng không quan tâm đến long thể, ăn uống lung tung, cơm nước không đúng giờ, làm cho Chính Đức lúc đó phải thề thốt đã biết lỗi, rằng sau này sẽ không ăn bậy uống bạ nữa, lúc đó Lưu Kiện mới bỏ qua. Nếu hôm nay lại bị bọn họ bắt gặp, ba vị đại học sĩ đồng loạt mở miệng thì làm sao hắn sống cho nổi?

Chính Đức giấu kỹ hộp mứt hoa quả rồi mới ngồi thẳng người dậy, bảo:

- Mời ba vị đại học sĩ vào điện!

Ngoài cửa điện, ba ông già cất tiếng đáp lời rồi đi vào điện. Hôm nay ba vị đại học sĩ cùng dắt tay nhau tới đây là vì một chuyện lớn. Tân vương kế vị, lục cung vô chủ, tuy hoàng đế tuổi tác còn nhỏ, nhưng việc này cũng phải thu xếp càng nhanh càng tốt.

Đương nhiên, việc nạp hậu là việc mà Chính Đức không tự làm chủ được. Bọn họ đến đây, cũng chỉ là theo lễ tiết xin sự đồng ý của hoàng đế, chỉ cần hắn gật đầu lập tức có người lo liệu toàn bộ, hoàng đế chỉ cần chờ vào động phòng là xong.

Việc tuyển lập hoàng hậu, sẽ là người trung cung* mẫu mực, tuân thủ điển lễ, là một việc to lớn vô cùng. Tuy tầm quan trọng không bằng việc hoàng đế tuyển chọn người thừa kế, nhưng tính công khai lại rất cao. Bậc mẫu nghi thiên hạ đứng đầu chánh cung phải do phủ Nội Vụ lựa chọn cẩn thận; sau khi chọn được ứng cử viên, nội quan, nội các cùng với Thái Hoàng thái hậu, Thái hậu tiến hành thương thảo quyết định. Diện mạo của người được chọn chỉ là thứ yếu, người đó nhất thiết phải là con nhà quan lại, thân thế trong sạch, hiền lương thục đức mới có thể làm mẫu nghi thiên hạ. (*: cách gọi khác của hoàng hậu)

Lúc này ngoại trừ chút tình cảm mơ hồ về Đường Nhất Tiên, đối với tình yêu nam nữ thì Chính Đức hoàn toàn không biết gì hết, những chuyện giường chiếu thì càng mù tịt. Do đó điều làm ba vị đại học sĩ mừng rỡ vô cùng chính là hoàng đế Chính Đức mấy ngày nay luôn luôn làm bọn họ đau đầu khi thương lượng bất kỳ chuyện gì, không ngờ hôm nay lại tỏ ra ăn ý vô cùng, không đưa ra bất cứ ý kiến phản bác gì cả.

Vốn ba vị đại học sĩ đang thẳng lưng vác một bộ mặt sẵn sàng chiến đấu, chỉ cần Chính Đức phản đối, lập tức họ sẽ phát động cuộc đại chiến nước bọt. Nay thấy hoàng đế Chính Đức đồng ý mọi thứ như vậy, ba lão thần liền vui vẻ cáo từ, lao tới phủ Nội Vụ bàn việc tuyển hoàng hậu.

Hoàng đế Chính Đức vẫn chưa hiểu việc tuyển vợ cho mình có ý nghĩa gì cho lắm. Hắn lôi hộp mứt hoa quả dưới bàn ra, nhón lấy một miếng cắn vài cái, rồi nằm dài bên cạnh bàn suy nghĩ một hồi, song vẫn không cảm thấy việc này có gì quan hệ gì với mình.

Ngẩng đầu lên, thấy Dương Lăng đang đứng trước mặt, hắn đột nhiên vỗ trán nói:

- Trẫm mới nhớ ra, hình như ngươi lâu lắm rồi chưa về nhà thì phải? Hôm nay cũng không cần phải tuần thủ trong cung, về nhà đi! Dù sao ngươi cũng không phải tảo triều, mai cũng không cần tới sớm như vậy đâu.

Ha ha, trẫm nhớ lúc phụ hoàng bãi triều đều tới thăm mẫu hậu, lần nào không đi là mẫu hậu không vui. Ngươi đi lâu như vậy rồi, Ấu Nương tỷ tỷ nhất định cũng sẽ không vui, bảo nàng không được trách trẫm đó. Này, ngươi cầm hộp mứt hoa quả này về đi, làm lễ vật ta bồi tặng cho Ấu Nương tỷ tỷ.

Dương Lăng vừa nghe Chính Đức thả y về nhà, vui tới cả người lâng lâng bay bổng. Y cũng không cần khách sáo với hoàng đế Chính Đức, vội vàng cám ơn rối rít rồi vui vẻ cất hộp mứt hoa quả. Đầu tiên y chạy đi gặp Liễu Bưu dặn dò gã quản thúc quan binh cho tốt, ít ngày nữa sẽ phải dời quân vào đóng trong ngự trang.

Sau đó y xin một thớt khoái mã, vừa ra khỏi hoàng cung là xoay người phóng lên ngựa, lao đi như tên bắn về phía Hộ Quốc Tự. Lúc này dân chúng toàn thành vẫn sinh hoạt như thường, chỉ có điều quần áo mặc trên người đều đổi thành màu trắng, trên đầu quấn khăn tang. Dọc đường đi y loáng thoáng nghe tiếng chuông trầm bổng trong các chùa chiền bồng bềnh vọng lại.

Theo quy định do Vương Quỳnh soạn, các chùa chiền lớn nhỏ đều phải đánh ba vạn tiếng chuông, ngày đêm không nghỉ. Đến hôm nay đã là ngày thứ ba, phỏng chừng số lần đánh cũng không còn nhiều. Mặc dù không ai đếm, nhưng người đánh chuông cũng phải tận tâm, không ai dám qua loa tắc trách, nghe nói có một số chùa chiền đã đánh hỏng mất vài cái chuông rồi.

Dương Lăng phi ngựa chạy vội về phố Hộ Quốc Tự. Vừa vào ngõ, y đã thấy một chiếc kiệu đang đi về phía mình. Hai gia nhân áo xanh đi bên cạnh kiệu lướt sát qua người y.

Dương Lăng xoay người xuống ngựa, phấn khởi dắt ngựa đến trước cửa nhà, đưa tay đẩy. Cửa nhà không khóa, Dương Lăng lập tức đẩy rộng cửa sân rồi dắt ngựa vào.

Y vừa vào sân, liền nhìn thấy Tuyết Lý Mai đang khom lưng đứng ở góc sân, cần cổ thanh mảnh, da thịt trắng như ngọc. Bóng dáng xinh đẹp ấy chỉ nhìn từ phía trắc diện mà đã tao nhã mê người không nói nên lời. Chỉ là mỹ nhân khí chất bất tục này lại đang mặc áo vải, đeo tạp dề xanh, trên đầu quấn một dải lụa trắng, trên chiếc eo giắt một cái gàu nhỏ, đang lụi cụi rắc thức ăn vào một cái chuồng nhỏ được dựng bằng củi ở góc sân.

Nghe thấy tiếng động, Tuyết Lý Mai liền quay đầu lại. Vừa nhìn thấy kẻ bước vào là y, nàng lập tức vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, đặt chiếc gàu xuống, phấn khởi chạy ra đón, mở miệng gọi:

- Đại...,

Dương Lăng lập tức ra hiệu cho nàng im lặng, khẽ giọng cười:

- Đừng kêu! Ấu Nương có ở trong nhà không? Ta sẽ len lén đi vào.

Trên gương mặt vui mừng của Tuyết Lý Mai hiện lên chút hâm mộ. Nàng vội gật đầu lia lịa, dịu dàng đáp:

- Ừm! Tỷ tỷ ở trong đó. Vừa rồi có người tới gặp đại nhân, mà đại nhân không có ở nhà, hắn còn nói là hai ngày qua đại lễ tân đế đăng cơ đã xong, đại nhân sắp về thôi. Ấu Nương tỷ tỷ và chúng tôi nghe thế đều rất vui. Hì hì, không ngờ hắn vừa mới đi, đại nhân đã về thật rồi.

- Ồ?

Dương Lăng vừa cột cương ngựa vào gốc hòe to, vừa thuận miệng hỏi:

- Ai tìm ta vậy? Tìm ta có chuyện gì?

Tuyết Lý Mai ngoan ngoãn theo tới bên cạnh gốc cây, vuốt những sợi tóc mai vương trên trán, hé miệng cười đáp:

- Vị công tử đó tựa hồ có tâm sự trong lòng, nhưng lại không kể với chúng tôi. Hắn chỉ nói hắn là tam công tử của thượng thư bộ Lễ, tên là Vương Cảnh Long, còn nói ngày mai sẽ lại tới tiếp kiến.

- Vương Cảnh Long?

Tên người này nghe rất quen. Dương Lăng đột nhiên nhớ ra "chẳng phải Vương Cảnh Long chính là chân mệnh thiên tử trong lòng Ngọc Đường Xuân trong lịch sử sao?" Vương Cảnh Long đến thăm, không cần phải hỏi cũng biết, chính là vì lão Vương Quỳnh bị giam hơn mười ngày rồi, ba vị đại học sĩ xin tha cho mà hoàng đế vẫn không chịu. Nhà họ Vương bồn chồn lo lắng nên đã gõ cửa nhà y nhờ vả.

Không nghĩ tới Vương Cảnh Long và các nàng Ngọc Đường Xuân rốt cuộc vẫn gặp nhau. Nếu nói đây là số mạng, không biết đôi tình nhân vốn được định sẵn từ trước này, sẽ vẫn có duyên đến với nhau hay không? Dương Lăng nhớ trong câu chuyện nọ cuối cùng cả Tô Tam lẫn Tuyết Lý Mai đều gả cho Vương Cảnh Long, trở thành sủng thiếp của hắn.

Dương Lăng vừa nghĩ thầm, vừa dùng ánh mắt quái dị đánh giá Tuyết Lý Mai vài lần. Tuyết Lý Mai không biết suy nghĩ của y, chỉ nhận thấy ánh mắt Dương tướng công cứ nhìn mình chằm chằm. Lần này quan sát cẩn thận, Dương tướng công mà nàng đã nhiều ngày không gặp đã trưởng thành thêm vài phần, có vẻ nam nhân uy vũ, làm tâm hồn thiếu nữ của nàng không khỏi rộn lên, trong mắt bất chợt dâng lên chút ngượng ngùng, khuôn mặt ngọc ngà ửng lên một lớp phấn hồng.

Dương Lăng sực tỉnh lại, việc này có suy tính cũng vô dụng. Dù sao ngày mai Vương Cảnh Long vẫn sẽ tới, nếu như Tô Tam và Tuyết Lý Mai đúng là có duyên với hắn thì y cũng không ngại chu toàn chuyện này cho họ. Nhà họ Vương là quan lại thế gia, dòng dõi Nho học, cũng sẽ không làm khó mấy người Tuyết Lý Mai.

Nghĩ thông suốt xong, Dương Lăng liền dứt bỏ tâm sự, đưa roi ngựa cho Tuyết Lý Mai, mỉm cười với nàng, rồi rón ra rón rén đi về phía cửa phòng mình. Cửa phòng khép hờ, xộc vào mũi y là mùi thịt kho thơm phức, trong lòng Dương Lăng tràn đầy cảm giác hạnh phúc được gặp lại người mình yêu.

Y lặng lẽ thò đầu vào nhìn, thấy Hàn Ấu Nương đang quay lưng về phía mình. Nàng ngồi ở trước bếp, mặc một chiếc váy màu xanh lơ, lớp vải lót bên trong chắc hẳn đã sờn, do đó bộ đồ đơn bạc làm cho thân thể nhỏ nhắn xinh xắn trông gầy hơn so với trước, eo thon uyển chuyển uốn lượn, cặp mông nhỏ vẫn săn chắc đẫy đà.

Trong lòng Dương Lăng nóng hầm hập, y liền sải bước đi vào vươn tay ôm ngang eo Ấu Nương, vỗ mạnh vào mông nàng, rồi cất tiếng cười vang trong tiếng kêu kinh hãi của nàng:

- Tướng công về nhà mà không ra đón! Vi phu phải chấp hành gia pháp, trước hết sẽ phát vào mông ba mươi cái.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 91: Lập kế trừ gian

Dương Lăng nghe tiếng Hàn Ấu Nương la to thì cảm thấy có gì đó không hợp lý, thế nhưng đã đánh ra rồi không thu lại được. Cho nên một tiếng 'Bốp' vang to, quả nhiên cảm giác khác với Ấu Nương: mềm mại, tuy cũng đàn hồi nhưng lại không săn chắc được như của Ấu Nương.

Dương Lăng sững sờ, Hàn Ấu Nương tay cầm mớ hành lá xanh ngắt từ buồng trong thò đầu ra, ngạc nhiên kêu lên:

- Tướng công về rồi?

Nàng chạy ù ra, nhìn thấy tình cảnh trước mặt cũng ngây cả người.

Dương Lăng vẫn không hiểu cô gái mình đang ôm này là ai. Thiếu nữ đó gương mặt ngượng ngùng đỏ như mã não chợt xoay người lại. Dương Lăng nhìn xuống, thì ra là Ngọc Đường Xuân, mặt y cũng ửng đỏ lên, xí xóa:

- Cô nương sao lại mặc y phục của Ấu Nương, còn... còn búi tóc, việc này... lần này... ta...

Ngọc Đường Xuân mặt đỏ rực, tâm hồn thiếu nữ cũng không biết là ngượng hay giận, thấy lão gia cũng bối rối lúng túng, nàng cũng vừa không thoải mái, lại vừa hoang mang bối rối, ngượng ngùng thi lễ:

- Đại nhân đã về.

Tô Tam thi lễ xong liền ngước mắt lên, thấy Ấu Nương và tiểu Vân từ buồng trong đi ra đang nhìn mình, tức thời càng thêm khó xử. Nhớ tới mới vừa rồi Dương tướng công phát một cú vào mông kêu rất to, bây giờ bàn tọa ê ê rát rát lại hơi ngưa ngứa, nhất định là Ấu Nương tỷ tỷ và tiểu Vân nghe thấy được, nàng không kìm được ôm lấy hai má đỏ như lửa vội vàng chạy ra ngoài.

Tiểu Vân cố nhịn cười nói:

- Tiểu tỳ ra mắt lão gia!

Nói rồi nàng không đợi Dương Lăng trả lời đã vội vàng lựa dịp lẻn luôn ra ngoài.

Dương Lăng hắc hắ cười gượng vài tiếng, rồi nói:

- Sao cô nương ấy mặc áo của nàng, còn để tóc nữa, ta nhất thời...

Hàn Ấu Nương vẻ mặt là lạ nói:

- Quần áo hai vị muội tử đều có thêu hoa, không phù hợp với tang lễ của Hoàng Thượng cho nên phải thay đổi đồ của thiếp. Nàng nói sau này không cần ca múa cho người xem nữa, nên... nên cắt tóc đi.

Nàng vừa nói chuyện, vừa đi đến gần bên người Dương Lăng. Sau khi ngắm y cẩn thận, thân thể mềm mại của Ấu Nương chợt run lên rồi lập tức ào vào trong lòng Dương Lăng, run giọng:

- Tướng công, người ta... người ta rất nhớ chàng... nhớ chàng muốn chết...

Tiếng kêu này đã rung động đến tâm can khiến Dương Lăng cũng không khỏi rơm rớm nước mắt. Ấu Nương như một con chim nhỏ nép sát vào ngực y, sóng mắt yêu kiều, si mê vuốt ve hai gò má y rồi nói:

- Tướng công đen gầy đi, nhưng... cũng cường tráng lên, vẻ anh tuấn còn pha chút uy vũ nữa.

Dương Lăng nháy nháy mắt, vui vẻ:

- Đương nhiên rồi, tướng công bây giờ là Uy Vũ Bá mà.

Hàn Ấu Nương ôn nhu gật đầu:

- Ừm, thiếp biết rồi. Việc này truyền đi rất nhanh, mấy người láng giềng cũng sớm chúc mừng thiếp rồi.

Dương Lăng cau mày, kỳ quái:

- Sao mà nàng cứ thiếp thiếp mãi thế. Trước giờ nàng đều không xưng hô như vậy, nghe ra rất không tự nhiên.

Hàn Ấu Nương hé miệng cười, ôn nhu đáp:

- Tướng công bây giờ có quan có tước, trong nhà không thể không có một chút quy củ. Trước kia thiếp không hiểu việc nên phải thỉnh giáo Ngọc Nhi muội tử mới biết đó.

Dương Lăng lắc đầu cười nói:

- Tướng công không thích, nghe như nàng thấp hơn ta một cái đầu ấy. Ta thích xưng là Ấu Nương hơn,

Y cúi người ghé vào bên tai Ấu Nương, thấp giọng:

- Nhất là lúc nàng cực khoái, luôn luôn kêu 'Ấu Nương sắp chết đây, Ấu Nương hạnh phúc muốn chết rồi', tướng công nghe mấy câu đó trong lòng như có cọng cỏ quẹt qua quẹt lại, cảm thấy ngứa ngáy lắm.

Hàn Ấu Nương nghe thế đỏ mặt, ngượng ngùng thốt lên:

- Tướng công, thiếp... người ta...

Dương Lăng tròn mắt, bàn tay uy hiếp từ cái eo nhỏ nhắn của nàng di chuyển xuống dưới rồi phủ xuống kiều đồn nhô cao, làm bộ khẽ vỗ vài cái. Thân thể mềm mại của Ấu Nương run lên, nói lẩm bẩm:

- Ấu Nương... Ấu Nương... Ấu Nương nhớ tướng công lắm.

Dương Lăng cười cười, ôn nhu hỏi:

- Nhớ thật không?

Hàn Ấu Nương vội vàng gật đầu cười:

- Ừ ừ ừ, nhớ... nhớ thật.

Dương Lăng khẽ nheo mắt lại, cười xấu hỏi:

- Chỗ nào nhớ tướng công?

Hàn Ấu Nương cũng không phải là người chưa trải việc, vừa nghe tướng công nói lời này gương mặt lập tức đỏ như hoa lựu, cắn môi khó xử không dám trả lời.

Dương Lăng hôn lên mặt nàng một nụ hôn dài, cười khà khà nói:

- Bảo bối của ta còn thẹn thùng gì nữa, coi như tướng công không hỏi đi.

Hàn Ấu Nương nhất thời thở phào nhẹ nhõm, không ngờ Dương Lăng lại nói:

- Vậy nàng nói xem, nàng nhớ chỗ nào của tướng công?

Hàn Ấu Nương kêu lên một tiếng rồi vùi khuôn mặt nóng đỏ vào trong lòng y, nắm nắm tay đấm lia lịa, ngượng ngùng:

- Tướng công thật xấu, tướng công vừa về đã khi dễ người ta.

Dương Lăng nâng cằm nàng lên thấy mắt nàng khép hờ, hơi thở như tơ, răng cắn nhẹ đôi môi đỏ mọng ra vẻ hết sức kiều mỵ động lòng người làm cho lòng y nhất thời nóng lên. Dương Lăng không kìm được vươn tay bế ngang Ấu Nương lên, nàng vội vàng ôm chặt cổ y, giật mình hỏi:

- Tướng công... chàng... chàng làm cái gì thế?

Ấu Nương vừa thấy con ngươi Dương Lăng tóe lửa thì lập tức tỉnh ngộ, thân thể cũng mềm nhũn không còn sức lực nữa, thanh âm phản đối càng nói không nên lời, chỉ dám lắp bắp:

- Trời... trời còn sớm, cửa... cửa...

Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai và tiểu Vân đứng ở trong viện hồi lâu, chỉ thấy một chiếc giầy rơm giơ ra, cạch cạch hai tiếng đóng cửa lại rồi trong khoảnh khắc chợt nghe trong buồng có tiếng kêu duyên dáng. Một lúc lâu sau lại nghe thanh âm của Đại lão gia kêu lên quái gở:

- Này, tay nàng lột tỏi hả! Nóng lắm, chặt lắm... Ừm...Ặc... Ặc...

Rồi không có tiếng động gì truyền ra nữa. Tuyết Lý Mai mặt đỏ như hơ lửa cố làm gan ghé tai Ngọc Đường Xuân đang run run, nói:

- Lão gia thật quá đáng, sao... sao lại tuyên dâm giữa ban ngày thế.

Ngọc Đường Xuân bị hơi thở dồn dập của nàng phun vào tai, còn mình cũng thở dồn dập hai má nóng bừng bừng. Nàng còn chưa nói gì, tiểu Vân đột nhiên vung vẩy đôi tay còn dính đầy bột trắng toát kêu lên:

- Hỏng rồi, hỏng rồi, bánh bao của người ta...

oOo

Dương Lăng tiễn Vương Cảnh Long khỏi cửa rồi trở lại gian chính ngồi xuống, không khỏi thở dài một hơi, mấy thứ khách sáo hư tình giả ý thật là mệt. Vị Vương tam công tử này lớn hơn y hai tuổi nhưng bản thân lại rất ngây thơ. Rõ ràng là oán hận y đầy bụng mà thần sắc cũng không hề che giấu vậy còn làm ra vẻ ăn nói khép nép xin người khác giúp đỡ, quả thật là làm khó hắn.

Bên cạnh Ngọc Đường Xuân đang giả làm tỳ nữ ngoan ngoãn đưa tới một chén trà. Dương Lăng nhận lấy uống một ngụm, rồi nhìn nàng cười nói:

- Cô nương xem vị Vương công tử này như thế nào?

Lúc Dương Lăng tiếp kiến Vương Cảnh Long đã bảo Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đều tới giả làm thị nữ, muốn xem cái nhìn của các nàng đối với Vương Cảnh Long.

Ngọc Đường Xuân hôm qua bị y vỗ một cái vào mông nên vẫn bối rối khi gặp y. Mãi đến hôm nay bị Dương Lăng gọi ra mới ngượng ngượng ngùng ngùng thò đầu ra ngoài.

Nghe Dương Lăng hỏi, nàng cúi đầu ngẫm nghĩ một lát, rồi chau mày nói:

- Vị Vương công tử này tuy là thuộc gia tộc lớn nhưng không hoài bão gì, ngôn ngữ ngây thơ, nhìn kỹ thì cũng chỉ có vậy. Tiện thiếp cảm thấy hắn cầu khẩn đại nhân cũng chẳng có thành ý gì.

Dương Lăng nghe xong cũng hơi bất ngờ. Hai người này không phải nhất kiến chung tình sao? Sao Tô Tam đánh giá hắn như vậy?

Y quên mất Tô Tam trong trí nhớ của mình gặp Vương Cảnh Long ở đâu, khi nào? Vương Cảnh Long lúc đó là một công tử bột còn trẻ nói năng tuỳ tiện chỉ có tướng tá là trông còn ngon lành, mà Tô Tam lại là kỹ nữ bán rẻ tiếng cười cho nên cơ bản là nàng không có quyền chọn lựa khách. Có thể gặp được một người trẻ tuổi lắm tiền đệ tử con nhà quan lại thế gia lại đa tình như vậy đã là phúc phận khó cầu rồi thì sao nàng không đem hạnh phúc của mình mà dựa vào người đó chứ. Bây giờ tâm tình lẫn thân phận đều khác hẳn ngày xưa cho nên góc độ nàng nhìn người tự nhiên cũng không giống.

Bên kia Tuyết Lý Mai ngọt ngào cười nói:

- Vương thượng thư có ba con trai. Đại công tử làm quan ở Kim Lăng, nhị công tử làm quan ở Hàng Châu, vị tam công tử này nhỏ hơn huynh trưởng tận ba mươi tuổi. Nghe nói là con thiếp thất của Vương thượng thư sinh ra, mà Vương thượng thư năm mươi tuổi mới sinh thằng con út cho nên cực kỳ sủng ái hắn. Vị Vương công tử này xưa nay cưỡi ngựa thưởng hoa với đám công tôn quý tử ở kinh sư cũng là một tên vung tiền như rác. Nhưng hắn cũng có tiếng là người tài hoa, tương lai không biết chừng cũng làm quan đó. Vương gia cả nhà làm quan, môn sinh bạn cũ rất nhiều, hôm nay đại nhân cho hắn thuận nước giong thuyền tất sẽ có ích với mình.

Dương Lăng cười cười, dựa lưng vào ghế nhắm mắt lại ngẫm nghĩ một lát. Vị Vương Cảnh Long này thật ra cũng tuấn tú lịch sự, tuy thần khí hơi hão huyền không thực tế nhưng đó là khuyết điểm chung của đám công tôn quý tử chốn kinh sư, xét cho cùng cũng không phải vấn đề gì lớn.

Chỉ là thấy hai cô nương nhà mình chẳng có dao động gì với hắn, vậy xem ra mấy thứ nhất kiến chung tình, nhân duyên tiền thế đều chỉ là chuyện đồn thổi. Cảm tình con người không thể suy đoán lung tung được. Gặp được vận may, rất nhiều việc sẽ không thể dùng lẽ thường mà nói được.

Dương Lăng thở dài, đứng lên duỗi vai vặn lưng. Không ngờ tay y vừa vươn ra thì Ngọc Đường Xuân như phản xạ có điều kiện né qua bên cạnh làm cho Dương Lăng vừa bực mình vừa buồn cười. Y đưa mắt thấy Tuyết Lý Mai bưng miệng cười trộm một bên, không khỏi giả vờ giận dữ trừng mắt liếc nàng, phẩy tay áo quát:

- Láo! Đi lấy quan bào mau lên, lão gia ta phải vào cung.

oOo

Vương Cảnh Long cưỡi ngựa tinh thần hoảng hốt không yên, hình ảnh hai nữ tỳ thanh t thoát trần, xinh đẹp động lòng người ấy vẫn luôn quanh quẩn trong đầu hắn. Vừa rồi lúc còn ở Dương gia, hắn không dám ngẩng đầu lên liếc nhìn quá nhiều, lúc này khi về nhớ tới thì khắp nơi chỉ còn hình ảnh mỹ nữ nhưng lại nhớ không nổi bộ dáng rõ ràng của hai nàng.

Hôm qua hắn tới bái phỏng Dương Lăng thì chỉ gặp một tiểu nha hoàn, hôm nay trở lại quả nhiên như nguyện gặp được Dương Lăng, hơn nữa còn được hắn hứa hỗ trợ góp lời. Càng làm hắn kinh động chính là hai nữ tỳ tuyệt đẹp đứng phía sau Dương Lăng.

Hai tỳ nữ đó xinh đẹp thiên kiều bá mị, đoan trang yêu kiều, đẹp hơn phu nhân mình rất nhiều. Cái khó mà tưởng tượng chính là tuy nói hai cô nương đó đều là thị nữ nhưng vẻ mặt khí chất lại có phong phạm tiểu thư khuê các, nhìn qua thật sự làm người ta điên đảo tâm hồn. Vương Cảnh Long nghĩ tới bộ dáng yêu kiều của hai cô nương không khỏi thở dài tiếc hận: trước giờ giai nhân phối với tài tử, sao các nàng lại lạc tới Dương gia, rõ là hoa lài cắm bãi cứt trâu mà.

Phía trước người đi đường rất nhiều, Vương Cảnh Long lắc đầu dứt bỏ ý nghĩ thương hoa tiếc ngọc rồi cho ngựa chạy chậm lại. Mấy ngày nay phụ thân xảy ra chuyện khiến Vương Cảnh Long phải chạy quanh bôn ba cầu cứu những người bạn có quan chức của cha. Đám bạn xưa nay vẫn cùng ngâm thơ thưởng trăng hắn vẫn không ngó tới, nhưng hôm nay từ chối không được hắn đành đáp ứng dẫn đám hảo hữu đi 'Túy Tiên Lâu' ăn nhậu.

Lúc này được một quyền thần như Dương Lăng hứa sẽ hỗ trợ, cũng có nghĩa là cha mình nhất định sẽ không xảy ra việc gì, những lo nghĩ của Vương Cảnh Long cũng nhẹ đi nhiều. Hắn đi tới "Túy Tiên Lâu", một tên tiểu nhị tươi cười đón hắn nói ngay:

- Ủa, Vương công tử, mấy hôm rồi ngài không tới, mau mau lên lầu, vẫn là Lục Châu Các. Các công tử đều đang chờ ngài.

Vương lão thượng thư bị Hoàng Thượng hạ ngục, tiểu nhị cũng sớm nghe nói rồi. Nhưng hắn nào dám trước mặt Vương Cảnh long có biểu hiện gì, chỉ có nước làm bộ chẳng biết. Vương Cảnh Long đưa cương ngựa cho hắn, ừm một tiếng rồi đi thẳng lên lầu ba.

"Túy Tiên Lâu" ở kinh sư xem như là một đại tửu lâu hạng nhất, tổng cộng ba căn, bốn phương đều có lầu các quây quanh một sân giếng trời, trong sân có trồng rất nhiều kỳ hoa dị thảo. Bình thường từ sớm đã có người uống rượu đàm tiếu, đàn sáo nhã nhạc vang lừng, kỹ nữ mỹ lệ nhẹ nhàng múa hát, quả nhiên là thiên đường nhân gian.

Bây giờ cả nước để tang Hoàng Thượng, mặc dù khách sạn tửu lâu của Đại Minh đều có thể làm ăn bình thường, vẫn tiếp đãi khách thương nam lai bắc vãng nhưng việc chơi đàn múa hát bị cấm tuyệt đối, do đó thanh tĩnh đi rất nhiều.

Trong Lục Châu Các lầu ba, sáu vị công tôn quý tử đang uống rượu cười nói. Thấy Vương Cảnh Long đi vào, một tên công tử vỗ tay cười nói:

- Thuận Khanh, ngươi đã tới muộn, phải tự phạt ba chén mới được.

Một khi thanh niên tới hai mươi tuổi làm xong lễ thành nhân thì sau đó có thể được mang tên chữ. Tên chữ Thuận Khanh của Vương Cảnh Long chính là do cha của vị công tử Dương Lâm này là Dương Phương, giữ chức Chiêm sự đặt cho, hai nhà có quan hệ rất tốt. Vương Cảnh Long cố cười, ôm quyền thi lễ:

- Tiểu đệ trên đường có ghé qua Uy Vũ Bá Phủ, do đó trễ một chút, chư vị huynh đài hảo hữu bỏ qua cho.

Dương Lâm nghe xong đặt chén xuống nói:

- Chuyện gì? Thuận Khanh mà đi cầu tên Uy Vũ Bá à? Hừ, tên gian nịnh nói lời gièm pha mị hoặc hoàng thượng, đầu độc thánh quân, dân chúng ai không biết? Thuận Khanh mà khuất phục hắn, cầu hắn ra mặt cho lệnh tôn, một khi việc này lan truyền ra ngoài thì Vương lão thượng thư một đời tên tuổi anh hùng đều sẽ bị trôi mất.

Bên cạnh mấy vị công tử đều vội gật đầu lia lịa, công tử của thị lang bộ Hình là Triệu Ung cười lạnh:

- Nghe nói tên tặc tử đó ở bên người Hoàng Thượng cấu kết với đám hoạn quan nói lời gièm pha, ở ngay kinh sư vạch ra bảy tòa ngự trang, được chuyển sang nhậm chức thống lĩnh thân quân thị vệ của hoàng đế. Bây giờ lại cổ động Hoàng Thượng hạ chỉ, không cho quan chức các tỉnh nhậm chức ở quê quán, làm các đại thần tiếng oán dậy đất.

Một vị công tử khác cũng nói vẻ không vui:

- Mười năm gian khổ học tập, ai không muốn công thành danh toại, ăn ngon mặc đẹp để có thể có được cảnh tượng áo gấm vinh quy về làng? Ta là người Chiết Giang, chẳng lẽ nếu ta làm quan thì chỉ có thể đi tới chỗ hoang vu lạnh lẽo không thể về quê hương nhậm chức sao? Thuận Khanh kết giao với nhân vật như vậy, rõ là khiến người xem thường!

Vương Cảnh Long bị nói tới mặt ngọc đỏ bừng, xấu hổ và giận dữ nói:

- Chư vị hảo hữu, gia phụ năm nay đã già nua cao tuổi rồi. Bây giờ bị giam trong thiên lao, phận làm con sao có thể không đau xót chứ? Ta tuy bề ngoài gượng cười đến nhà cầu hắn xin giúp đỡ, kỳ thật hận không thể lột da lóc xương tên tặc tử kia, như vậy mới giải được mối hận trong lòng ta.

Dương Lâm đập bàn:

- Đây mới là khí khái của người đọc sách. Tên gian nịnh này mà không trừ, mọi người đều bất an. Bây giờ Dương Lăng căn cơ chưa ổn nên còn có cơ hội trừ bỏ hắn. Nếu cứ ngồi chờ để hắn thanh thế lớn lên, chẳng lẽ không phải tai hoạ cho thiên hạ sao?

Triệu Ung thở dài nói:

- Nói dễ vậy sao. Bây giờ hắn đang là người được bệ hạ sủng ái, ba vị đại học sĩ tuy bất mãn hắn nhưng hình như cũng không có ý diệt trừ hắn. Chúng ta chỉ là thư sinh yếu đuối, có thể làm gì được chứ?

Dương Lâm cười nói:

- Hiền đệ hà tất phải nhụt chí thế, Dương Lăng đã là tên gian nịnh, tất sẽ làm nhiều việc phạm pháp. Nếu ta dụng tâm cố công dò tìm thì cuối cùng cũng có thể bắt được đuôi của hắn. Đến lúc đó đưa chứng cớ vô cùng xác thực đến trước mặt hoàng đế thì có gì mà không trảm được cái đầu hắn? Cho dù Hoàng Thượng sủng tín hắn khiến phương pháp này không làm được thì chúng ta lại tìm cơ hội khác, chỉ bằng bảy tài tử chúng ta đầy bụng kinh luân, đọc đủ loại thi thư, chẳng lẽ không nghĩ ra biện pháp trừng trị tên tặc tử này sao?

Vương Cảnh Long tinh thần chấn động, nói giọng căm hận:

- Không sai! Chúng ta có thể cho gia đinh nô bộc theo dõi hắn khắp nơi, tìm mọi chứng cớ phạm pháp của hắn. Một khi lật đổ được hắn há chẳng phải tên của bảy người quân tử chúng ta sẽ được truyền tụng khắp nơi sao?

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 92: Bão Tố ở Ngự Trang

Dương Lăng vừa tới Càn Thanh Cung đã thấy Mã Vĩnh Thành và Cốc Đại Dụng đều ở trong điện. Cốc Đại Dụng đang đứng hầu phía sau Chính Đức, Mã Vĩnh Thành đứng trước án thưa chuyện. Thấy y tới, Chính Đức ngắt lời Mã Vĩnh Thành, quay sang cười nói với y:

- Bảo ngươi tới trễ một chút, quả nhiên ngươi tới thật trễ! Trẫm đã xong buổi triều sớm rồi ngươi mới đến.

Dương Lăng thi lễ xong, cười hì hì đáp:

- Hoàng Thượng đã dặn dò thần nghỉ ngơi nhiều hơn. Đã được Hoàng Thượng thông cảm như vậy, nếu thần vẫn cứ tới sớm thì thành ra phạm thánh ý mất rồi!

Hoàng Đế Chính Đức bĩu môi:

- Vờ vĩnh! Ngươi có nương tử bầu bạn, tự nhiên không muốn theo ta rồi.

Thấy Dương Lăng ngẩn người, hắn không khỏi phá ra cười, vỗ tay cười nói:

- Quả nhiên là ta đoán trúng. Ấu Nương tỷ tỷ cũng giống như mẫu hậu, phụ nữ trong thiên hạ đều tương tự nhau, ha ha!

Dương Lăng nghe thế dở khóc dở cười. Mã Vĩnh Thành, Cốc Đại Dụng nghe một Hoàng Đế như hắn mà không hề ý tứ cứ gọi người ta là Ấu Nương tỷ tỷ, cũng chỉ đành cười gượng, không dám chỉ trích thói quen này.

Mã Vĩnh Thành ho khan hai tiếng, cười bồi chào Dương Lăng, rồi vội vàng đổi đề tài:

- Hoàng Thượng! Sau khi lão nô tại triều phòng đem ý của ngài lộ ra, thượng thư bộ Hộ Hàn Văn lại nói: "Ngân khố quốc gia trống rỗng, quan chức quản lý tài sản không phải là đám xiếc ảo thuật do Đông cung mời tới mà có thể ảo thuật ra tiền của được. Bây giờ đang xây công sự Bát Đạt Lĩnh, Thái Lăng cũng đang thi công, hẳn Hoàng Thượng nên tiết giảm tiêu dùng mới phải".

Chính Đức nghe xong, vỗ bàn cả giận:

- Nói thế là thế nào? Đại Minh ta luôn luôn thu thuế nhẹ để dưỡng dân, mức thu thuế vốn không cao, huống chi ta còn ra lệnh xuất trong ngân khố ra một nửa số tiền. Chỉ bảo họ tu sửa khu vườn Bắc Hải, cắt bớt cỏ dại, làm mấy chiếc thuyền nhỏ để trẫm du ngoạn khi rảnh rỗi, thế mà cũng lắm ý kiến như vậy. Mấy tên đại thần này thật!

Mã Vĩnh Thành cúi đầu khom lưng đáp:

- Dạ, đúng! Thị lang bộ Lại Tiêu Phương cũng nói: "Dân chúng bình dân cũng có những chi phí ngoài dự tính, có khi cũng du ngoạn tiết đạp thanh (tiết Thanh Minh). Nhà dân thường còn tu sửa vườn tược này nọ, huống chi là hoàng gia? Triều đình luôn luôn khoan dung, hiện nay thiên hạ nợ dồn thuế ruộng lẫn trốn thuế nhiều vô kể! Cho dù là đôn đốc thu về chỉ được một hai thành thôi, cũng không cần bảo Hoàng Thượng phải hạn chế chi phí".

Hoàng đế Chính Đức nghe xong chuyển giận thành vui:

- Tiêu Phương? Là Tiêu Phương mà hôm qua đem mấy con vật nhỏ tới can gián trẫm à? Ha ha, phương pháp vị quan này dùng để can gián rất dí dỏm, không giống như những tên thầy đồ đó, động một tí là trách trời thương dân, làm như nếu trẫm không nghe lời mấy lão thì trời sập xuống ngay lập tức ấy! Ừm! Nghe lão nói những lời này xem ra khá là thông cảm cùng trẫm, đó là một vị quan tốt.

Mã Vĩnh Thành cười hùa nói:

- Hoàng Thượng nói rất đúng! Nhưng Tiêu đại nhân lập tức bị các vị Hàn đại nhân, Dương đại nhân, Lưu đại nhân ùa lên phê phán, ông ta sợ quá cũng không dám lên tiếng nữa.

Hoàng đế Hoằng Trị rất ít đi du lịch. Cả đời ông ta chẳng mấy khi ra khỏi Tử Cấm thành. Tuy đôi khi ông cũng mang theo con trai ra ngoài đi chơi, nhưng cũng chỉ là loanh quanh phố phường một chút, đương nhiên không hề đi thăm Hoa viên hoàng gia bao giờ. Bao nhiêu năm không tu sửa, vườn hoa Bắc Hải cũng đã hoang vu nhiều.

Lúc này Chính Đức muốn tu sửa một chút, thật ra công trình cũng không lớn, tiêu phí tiền bạc cũng rất ít. Dương Lăng trước đó cũng có nghe ý của hắn, rồi cũng phong thanh nghe nói triều thần sở dĩ kiên quyết phản đối việc này cũng chỉ là do đề phòng cẩn mật mà thôi. Họ sợ một khi chìu lòng Hoàng Thượng việc này cũng giống như mở một đột phá khẩu, sẽ khiến cái tâm ham chơi của Hoàng Thượng càng ngày càng nặng, do đó họ kiên quyết phản đối, buộc Hoàng Đế phải gò mình trong Tử Cấm thành.

Theo quan điểm của Dương Lăng, đó là một chuyện nhỏ, sửa hay không sửa thì đối với Đại Minh bây giờ cũng không có ảnh hưởng gì. Tương tự, đối với những gì y biết về lịch sử thì việc này cũng không sinh ra thay đổi gì cả. Việc nhỏ như thế còn chưa tới mức hao tài tốn của, Dương Lăng lại không ảo vọng có thể cải tạo Chính Đức thành công bộc của nhân dân, nên đương nhiên y cũng chẳng hề góp ý gì.

Chính Đức lẩm bẩm bất bình một hồi, rồi lại giống như một trái bóng cao su xì hơi, bảo:

- Cứ vậy đi! Họ không cho tiền, trẫm bỏ tiền của mình. Ngươi giúp trẫm quản chặt tiền bạc. Được rồi, bây giờ ngươi theo Dương Lăng đi ra ngoại ô, tiếp thu mấy cái ngự trang cho trẫm, khi rỗi trẫm sẽ tự mình tới đó nhìn qua.

Dương Lăng và Mã Vĩnh Thành thấy tâm tình Hoàng Thượng không ổn, vội vàng lĩnh ý chỉ rời khỏi điện, vừa lúc gặp Liễu Bưu thống lĩnh năm trăm thân quân đến. Dương Lăng gặp Mã Vĩnh Thành, nhớ tới việc lúc trước chính Mã Vĩnh Thành đưa bạc cho mình để chuộc thân Đường Nhất Tiên, rồi mình mới đưa ba vị cô nương đó về nhà. Vốn tưởng rằng cứu người ta ra khỏi hố lửa, bây giờ lại làm hại Nhất Tiên mất tích, không rõ nàng đang lưu lạc nơi đâu, trong lòng cũng hơi phiền muộn.

Mã Vĩnh Thành thấy thần sắc y có vẻ buồn bực, không khỏi làm lạ hỏi:

- Dương đại nhân! Sao đại nhân lại tâm sự trùng điệp thế, có chuyện gì à?

Dương Lăng cười gượng, đáp:

- À, không có gì! Đúng rồi! Lần trước công công đưa bạc để chuộc thân cho Đường cô nương, ta chỉ xài một vạn lượng, vẫn chưa tìm được cơ hội đem ngân lượng thừa trả lại cho công công. Chốc nữa trở về nhà, ta sẽ lấy bạc hoàn lại cho công công.

Mã Vĩnh Thành mặt mày hớn hở chối từ:

- Không cần! Không cần! Hoàng Thượng tin yêu Dương đại nhân, bên trong ngự trang còn ban cho đại nhân một tòa nhà to, sự coi trọng này quả không người nào khác có thể so sánh được. Sau này chúng ta còn cần Dương đại nhân nâng đỡ nhiều hơn.

Lão đắc ý khoe:

- Huống chi bây giờ cũng khác với ngày xưa. Chúng ta đã là chưởng quản nội khố, việc mua sắm trong cung cũng hoàn toàn giao cho chúng ta, chút ngân lượng này đã là gì?

Lúc này Dương Lăng mới hiểu được Mã Vĩnh Thành đã nắm quyền tài chính trong cung, vội vàng chúc mừng lão. Mã Vĩnh Thành hỉ hả cười rạng rỡ: trong hoàng cung có mấy vạn nhân khẩu, đương nhiên chi phí hằng ngày rất lớn. Từ một một quan thu mua nho nhỏ biến thành đại tổng quản hậu cung về tài chính, quả thực là một mông ngồi trên đỉnh núi vàng rồi, nên lão không thèm quan tâm tới vạn lượng bạc bỏ ra hồi xưa.

Cả một vùng bảy thôn trang liền kề ở Tây giao (vùng ngoại ô phía tây kinh sư) đều bị Chính Đức khoanh lại để làm ngự trang. Dương Lăng phụng chỉ ngụ ở đây. Lại nghe nói Hoàng Thượng ban cho y một tòa nhà xây dựng sẵn, lẽ nào y không về báo tin cho Ấu Nương? Do đó y nhận năm trăm thân quân, trở về kéo theo gia quyến rồi mới chạy tới Tây giao.

Tân đế đăng cơ, kinh sư đã yên ổn, đột nhiên có rất nhiều binh lính di chuyển như vậy tự nhiên không giấu được người khác, huống chi đây là việc của Dương Lăng, người gần đây danh nổi như cồn. Tin tức lập tức lan truyền khắp kinh sư. Đám Triệu Ung đang ăn nhậu trên tửu lâu cũng nghe được tin tức này, vội vàng bảo một tên gia nhân đi theo xem thử rốt cuộc là gì.

Dương Lăng dẫn quân tới Tây giao thì mặt trời đã đỏ ối, sắp lặn xuống núi rồi. Lúc này cả vùng núi xa xa như sương như khói, trước mắt đồng ruộng phì nhiêu, một khoảng hoa màu xanh mượt tít tắp, dòng suối nhỏ giống như một chiếc đai ngọc vòng quanh đồng ruộng, không khí vô cùng u nhã. Một vùng ruộng lúa xanh mượt, những tiếng ếch kêu vang vang, cả một vùng điền viên êm đềm thanh thản.

Bọn Ấu Nương, Trương thị thấy thế thầm vui mừng trong lòng. Ngọc Tỷ Nhi và Tuyết Lý Mai hiếm khi thấy được loại cảnh sắc nông thôn như thế này này, tâm thần hơi mê đắm, như tỉnh như say.

Tòa nhà ban cho Dương Lăng là tòa giàu có nhất trong bảy thôn trang. Cả thôn trang này có năm sáu mươi hộ dân, các sân nhà đều phân cách nhau bằng hàng rào cao nửa thân người, chung quanh đình viện có khe nước róc rách, liễu xanh rủ bóng. Trên những lối mòn trong thôn, vài mục đồng đang vội vã lùa trâu bò về chuồng.

Những ông già bà lão bên đường thấy đoàn nhân mã rầm rộ đều dừng chân quan sát, mắt đầy vẻ ngạc nhiên. Mặc dù những người này đều ở vùng kinh thành, nhưng lại giống như cả đời không ra khỏi mảnh đất nhà mình, có vẻ cực kỳ chất phác.

Tới địa giới, Dương Lăng vừa nhìn thấy tên của thôn không khỏi phì cười. Thôn này gọi là Cao Lão trang, cũng không biết có phải tiểu tử Ngô Thừa Ân cũng đã từng tới nơi này không.

Nhưng từ khi tới thế giới này, Dương Lăng đã biết người đời này vẫn còn chưa biết tới truyện Tây du ký. Phỏng chừng nếu không phải lão Ngô chưa sinh ra thì lão cũng còn chưa chấp bút. Nếu không phải thời trước của Dương Lăng chưa có cái thứ gọi là bảo vệ tác quyền, hơn nữa lúc này viết sách cũng không kiếm được tiền bạc gì, chưa biết chừng Dương Lăng sẽ động thủ ăn cắp bản quyền, để tên tuổi mình nằm trên bìa một trong tứ đại tác phẩm nổi tiếng lưu danh hậu thế.

Thôn trưởng đã dẫn vài thân hào trong thôn đứng đón chào ở cửa thôn. Vừa thấy Dương Lăng, bọn họ liền cung kính bước lên đón tiếp. Vị thôn trưởng có tuổi không lớn lắm, chừng hơn bốn mươi tuổi, chính là lứa tuổi còn rất khoẻ mạnh. Xem cách ông ta ăn mặc nói năng, xem ra cũng từng được đi học, gia cảnh giàu có.

Dương Lăng được họ đưa tới nhà mới của mình. Đây là một tòa nhà to, trước sau có ba viện. Đại viện nhà cao cửa rộng, trên khung cửa cao treo một tấm biển mới tinh, đen kịt: "Uy Vũ Bá Phủ". Phía dưới là chiếc cửa sơn son, trên cửa có vòng đồng, đang mở rộng. Vừa bước vào cửa là bắt gặp ngay một bức bình phong họa ảnh, thoạt nhìn biết ngay chủ nhân cũ là người rất hoang phí.

Thôn nhỏ khó có thể chiêu đãi nổi năm trăm thân quân của Dương Lăng. Dương Lăng sớm đã ra lệnh cho quân mình tạm thời hạ trại ở cánh rừng hạnh không xa phía sau phủ Uy Vũ Bá. Bọn chúng phải tự nấu tự ăn, vạn lần không được quấy nhiễu dân chúng địa phương. Cũng may năm trăm quân binh nói nhiều không nhiều, nói ít cũng không ít, dựng lên hơn hai mươi đại trướng là đủ để họ nghỉ ngơi.

Vừa vào nhà, ngoại trừ vài nhân vật có uy tín trong thôn cung kính chào đón, điều làm cho người ta không ngờ tới là còn có hai hàng nam nữ người hầu đứng nghiêm chờ sẵn. Dương Lăng thấy gia nhân nô lệ sắp hàng nghênh đón, mặc dù mỗi người đều áo xanh mũ quả dưa như gia nhân bình thường, nhưng khí chất thì đều có vẻ nho nhã lịch sự, không khỏi cảm thấy vui sướng trong lòng: ai bảo tiểu hoàng đế trẻ người non dạ? Hắn thật sự thể hiện món ân tình này rất tốt.

Buổi tiệc tuy mở tại phủ Uy Vũ Bá nhưng lại do thôn trưởng Cao viên ngoại và các thân hào trong thôn đóng góp chi phí. Mọi người vào nhà, đám gia nhân chuyển hòm xiểng vào trong, rồi lập tức bày bàn ghế, khai tiệc khoản đãi tân chủ nhân.

Dương Lăng và bọn người Cao viên ngoại chưa quen nhau. Đám nữ thân quyến đều ở phòng trong tự ăn với nhau. Ngoại trừ chút lời khách sáo cũng không có gì hay để nói, Mã Vĩnh Thành cũng chỉ bắt chuyện vài câu với Dương Lăng, gần như không để ý gì tới đám người quê mùa ở nông thôn này. Cao viên ngoại là một người rất khôn khéo, thấy thế, chỉ trả lời xã giao một lát rồi vội vàng cáo từ.

Dương Lăng rất khách khí tiễn bọn Cao viên ngoại ra tận ngoài cửa, rồi trở vào uống rượu nói chuyện với đám Mã Vĩnh Thành, Liễu Bưu cùng vài quan tướng trong thân quân. Mã Vĩnh Thành cơm no rượu say cũng cười hì hì cáo từ. Dương Lăng muốn lấy ngân lượng trả lại cho lão, Mã Vĩnh Thành chết sống gì cũng từ chối, bước thẳng vào tiểu kiệu, vội vàng hồi cung.

Khi Dương Lăng tiễn mấy người Liễu Bưu ra về, cả chiếc sân to lớn trở nên quạnh quẽ. Hai gia nhân đốt hai chiếc đèn lồng màu đỏ treo lên cửa tòa nhà, rồi đóng cửa chính lại. Vừa đi vòng qua bức bình phong, thấy Dương lão gia đang đứng ở giữa đám hoa tươi đang nở trong viện mà ngẩn ngơ nhìn ánh trăng, hai người vội chạy tới hầu một bên.

Dương Lăng nhẹ hít vài hơi, rồi hỏi:

- Sao có mùi thuốc men ở đâu nhỉ?

Lão quản gia vội khom người đáp:

- Lão gia! Chủ nhân cũ của tòa nhà này có trồng một ít dược liệu trong vườn. Bây giờ hoa đang nở nên phảng phất có vị thuốc.

Dương Lăng à một tiếng, hài lòng nhìn ngôi nhà mới của mình. Y lại mỉm cười nhìn sắc trời chuyển đêm, cảm thấy nhà cửa cổ kính, cảnh tượng nông thôn thuần phác u nhã làm cho người ta cảm giác rất gần gũi dân gian, huống chi những nữ chủ nhân của nó lại vô cùng đáng yêu.

Vẻ đẹp ôn nhu là phần mộ của anh hùng, hay tổ ấm hạnh phúc của anh hùng đây? Đột nhiên Dương Lăng cảm thấy nếu không phải tranh đấu gì, cứ bình thản cùng Ấu Nương ở đây như vậy, trồng đủ loại hoa cỏ, cuộc sống hạnh phúc này chẳng phải còn tiêu dao hơn cả thần tiên sao?

Dương Lăng mỉm cười thỏa mãn, quan sát hai gia nhân vẫn cung kính đứng hầu bên cạnh. Hình dáng cùng thần thái cử chỉ của lão quản gia có vẻ trầm ổn, còn người kia là một thiếu niên còn khá trẻ nhưng lại có vẻ hơi sợ hãi y. Y không khỏi ôn hòa cười nói:

- Đừng sợ! Lão gia ta không khó tính đâu. Sau này mọi người chính là người trong gia đình cả. Ta sẽ không tùy tiện trừng phạt người làm đâu.

Lão quản gia nghe xong vội vàng đáp:

- Dạ, lão gia rộng lượng, tiệc rượu ở hậu viện cũng đã xong. Lão gia vừa mới tới nhà, thân thể mệt nhọc, có vẻ bây giờ là lúc có thể an giấc rồi? Bọn nha đầu đã thu dọn xong phòng ngủ cho lão gia và phu nhân rồi.

Lão nói xong vội huých vai tên tiểu hậu sinh có vẻ lịch sự vẫn còn đứng sững bên cạnh. Tên người hầu áo xanh mũ quả dưa vội vàng thưa:

- Dạ, xin mời lão gia an giấc.

Dương Lăng kỳ lạ liếc nhìn hắn, có cảm giác tên nô bộc này hơi kỳ quái. Y còn tưởng rằng do mình vừa tới, hai bên chưa quen nên tên này hơi nhát sợ; do đó y cũng không để ý lắm, chỉ hiền hoà nói:

- Ừm! Ta đi dạo một lát, các ngươi dọn xong phòng tiệc rồi cũng sớm nghỉ ngơi đi.

Tòa nhà khá rộng. Sau bức bình phong ở tiền viện là đại sảnh, hai bên chính là hai dãy sương phòng, là nơi gia đinh nô bộc cư ngụ. Đại sảnh là phòng chính để tiếp khách gồm hai gian nhà. Một gian là thư phòng, một gian là sảnh nhỏ để tiếp khách quan trọng.

Qua phòng chính là một hoa viên, một hòn giả sơn ở giữa ao, hành lang, đình đài, dây leo quấn quanh khắp nơi. Gió thổi nhè nhẹ, phảng phất một mùi hoa tươi mát. Mặc dù vườn không lớn, nhưng lại rất tinh xảo, rất có phong vị lâm viên của vùng sông nước Giang Nam.

Dương Lăng rất vui vẻ trong lòng, bây giờ bóng đêm đang chậm buông xuống, không thấy rõ cảnh vật nữa. Ngày mai mình phải nhìn xem cho kỹ, căn nhà ở chốn nhỏ hẹp này lại giống như tiên cảnh. Y đi qua một hành lang uốn khúc, vừa mới bước qua cửa tròn tiến vào hậu viện, nơi ở của gia quyến, chợt y nghe loáng thoáng tiếng khóc vọng đến.

Dương Lăng cả kinh, vội vàng tăng tốc chạy tới chỗ có tiếng khóc. Hậu viện là một ngôi lầu nhỏ hai tầng hình cánh cung, chính giữa tầng một là một phòng khách, trước cửa có hai nữ tỳ đang đứng, thấy y tới vội thi lễ:

- Nô tỳ ra mắt lão gia!

Dương Lăng nghe tiếng khóc từ phía trong sảnh vọng ra, bèn không lý tới các nàng mà vội vàng tiến vào phòng. Y thấy Hàn Ấu Nương, Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai cùng đại tẩu Trương Thị đều mặt mũi bi ai, còn Vân nhi đang nâng một thiếu nữ mặc áo hoa đang khóc như mưa đứng dậy.

Dương Lăng cả kinh hỏi:

- Ấu Nương! Chuyện gì vậy?

Hàn Ấu Nương thấy y, vội bước nhanh ra đón rồi giữ chặt tay y, giọng thương tâm:

- Tướng công! Nhà người này rất đáng thương. Chàng... chàng cố nghĩ cách cứu các nàng được không?

Dương Lăng kinh ngạc hỏi:

- Nhà này à? Rốt cuộc là chuyện gì?

Y hỏi mà tim đập thình thịch. Không phải là tiểu hoàng đế bị người ta mê hoặc, rồi ban cho mình tòa nhà này để làm việc gì thương thiên bại lí chứ? Tội này mình không thể gánh chịu nổi.

Tô Tam kéo thiếu nữ áo hoa đến gần, báo:

- Vị cô nương này là thân thích của Cao lão gia, cựu chủ nhân của tòa nhà này, là cháu của Cao gia. Cao tiểu thư đem mọi sự tình kể cho đại nhân nhà chúng ta biết đi! Đại nhân nhà ta rất bản lĩnh, nhất định có thể cứu được tỷ tỷ ngươi.

Dương Lăng nhìn thiếu nữ mặc áo hoa. Y thấy thiếu nữ đó chừng mười bảy mười tám tuổi, trên mặt lấm chấm tàn nhang, dung mạo thật ra cũng khá đoan chính, nàng đang nhè nhẹ lau nước mắt.

Dương Lăng vội hỏi:

- Rốt cuộc xảy ra chuyện gì? Ngươi nói cho ta nghe!

Vốn bọn người Ấu Nương cùng ăn cơm ở phòng sau. Chuyển sang nhà mới, thấy phong cảnh trong viện như chốn thần tiên, các cô nàng không khỏi vui mừng trong lòng. Mấy nàng ngồi trong phòng khách vừa ăn vừa nói chuyện, thỉnh thoảng vui vẻ cười vang.

Có một tỳ nữ đứng hầu bên cạnh, thấy các nàng chuyện trò vui vẻ như thế, không khỏi lộ vẻ bi thương, rồi lặng lẽ xoay người lau nước mắt. Ngọc Đường Xuân đang ngồi đối diện nàng, nhìn thấy thần sắc nàng khác thường, liền gọi tới gần dò hỏi. Thiếu nữ đó lúc đầu còn bối rối cố che giấu, sau không chống được nên phải quỳ xuống tạ tội, đem mọi việc kể lại. Đám Ấu Nương nghe chuyện bi thảm cũng không khỏi mềm lòng rơi lệ.

Thì ra chủ nhân của tòa nhà to lớn này tên là Cao Đình Hòa, chính là vị thái y xui xẻo vừa bị Hoàng Đế Chính Đức cho áp giải ra chợ chém đầu mấy ngày trước. Hoàng đế Hoằng Trị vừa uống thuốc xong chợt đổ máu mũi không ngừng rồi mất. Trong cơn giận dữ, Chính Đức lôi đám thái giám cho Hoàng Thượng uống thuốc là Trương Du cùng đại nhân viện trưởng Thái Y viện Lưu Văn Thái ra chém đầu. Người thầy thuốc phụ trách việc kê thuốc cho Hoàng đế làm sao thoát chết được chứ?

Hơn nữa ông còn chịu tội nặng hơn hai tử tù kia. Để phân biệt, bộ Hình phán ba người tử tội, còn Cao Đình Hòa thì tội tăng thêm một tầng nữa: bị tịch thu nhà cửa, tài sản sung công, con trai bị chém, con gái sung vào Giáo Phường ty, những người còn lại trong nhà đều bị bắt làm nô lệ.

Trong nhà Cao thái y có rất ít người lớn, không có con trai, chỉ có một con gái tên là Cao Văn Tâm, năm nay vừa mười tám tuổi. Vốn nàng đã hứa hôn cho nhà họ Lý ở thôn bên từ lâu. Nhưng ba năm trước, lão thái thái của họ Lý mất, vị thiếu gia phải giữ đạo hiếu ba năm, nên hôn sự bị hoãn lại. Kết quả bây giờ nàng bị bắt vào Giáo Phường ty.

Thiếu nữ áo hoa tên là Cao Văn Lan, còn có một người em trai là Cao Văn Cử, chính là thanh niên lúc nãy ở tiền đình hầu hạ Dương Lăng. Anh trai của Cao Đình Hòa là Cao Đình Chính đã chết sớm, Cao thái y đem hai con của ca ca về nhà chăm sóc. Vốn lão định tháng tám năm nay sẽ cho con gái mình vu quy, sau đó nhận Cao Văn Cử làm con thừa tự cho mình. Cũng may mà muộn một chút, bằng không hương khói duy nhất của nhà họ Cao cũng bị chém đầu.

Vốn đã có một gia đình tốt đẹp, chỉ khoảng khắc mà cửa nát nhà tan, vốn mình là thiếu gia tiểu thư, nay phải ở lại chốn này để hầu hạ cho những người chiếm nhà mình. Tình cảnh ấy làm sao không khiến cho người ta thương tâm rơi lệ?

Dương Lăng nghe nàng kể chuyện xong cũng cảm thấy bùi ngùi. Hàn Ấu Nương giữ chặt tay y nài nỉ:

- Tướng công! Cô nương nhà họ Cao là tiểu thư con nhà gia giáo, có đọc sách có lễ nghĩa, bị đưa đến chốn người ta chà đạp, vậy không phải sống không bằng chết sao? Tướng công, xin chàng cứu nàng đi, được không?

Dương Lăng nghe xong không khỏi do dự. Muốn lấy người của Giáo Phường ty, với thân phận y bây giờ thì chỉ là việc nhỏ không đáng kể gì. Nhưng người này là khâm phạm, việc này không phải là việc dễ trêu vào. Tội của Cao Đình Hòa có liên quan tới cái chết của tiên đế, đâu có thể tùy tiện để người ngoài vào cứu thân quyến của lão chứ?

Đồng tình là một việc, nhưng khi gặp chuyện bất bình cũng phải xem cân lượng của mình tới đâu đã chứ! Việc này phải xem thử Hoàng Đế Chính Đức nghĩ ra sao, xem hắn có đồng ý thả người hay không.

Dương Lăng còn đang trù trừ, Cao Văn Lan thấy y do dự bèn quì sụp xuống đất, liên tục cầu khẩn:

- Đại nhân! Van người cứu muội muội tiểu nữ. Nàng đọc sách biết lễ, là người thiện lương, đã cứu không ít bệnh nhân trong vòng mười dặm quanh đây, luôn luôn làm việc thiện. Cầu xin đại nhân cứu nàng!

Cao Văn Lan dập đầu liên tục, chiếc trán mịn màng đã rớm máu. Ấu Nương thấy vậy càng thêm không đành lòng, cầu khẩn:

- Tướng công! Danh tiết thiếu nữ là chuyện lớn. Sao mà người ta lại có thể làm như vậy với một nữ hài nhi như thế. Tướng công! Chúng ta đã ở đây rồi, cũng là có duyên phận, sao lại thấy chết mà không cứu được?

Dương Lăng hít vào một hơi, lòng thầm cười khổ: "Nha đầu ngốc, tại ngươi nghĩ rằng tướng công rất có bản lĩnh. Hoàng đế Hoằng Trị tuổi thọ đã hết, ai chẳng biết mấy vị thái y chết oan. Nhưng văn võ cả triều không một ai dám ra mặt cầu tình, mấy tên ngự sử ấy còn thượng tấu chương yêu cầu nghiêm trị những người có liên quan nữa là!

Với lại, đến giờ đã qua ba ngày rồi. Nếu Cao tiểu thư không chịu khuất phục, e rằng sớm đã tự tử chết mất rồi còn đâu. Nếu nàng sợ chết khuất phục, bây giờ chẳng biết đã đem thân tiếp bao nhiêu người khách rồi, có cứu cũng đã muộn. Nếu nàng đã rơi vào hoàn cảnh như vậy, nàng còn chịu trở về gặp lại thân nhân và gia nhân cũ của mình sao?"

Dương Lăng suy tính trong lòng như thế, ngẩng đầu lên thấy Ấu Nương và Ngọc Tỷ Nhi, Tuyết Lý Mai đang tha thiết chờ đợi, ánh mắt tín nhiệm vô hạn, lại nhìn thấy thiếu nữ vẫn không ngừng dập đầu, trán đầy những vết máu loang lổ. Y không khỏi thở dài một tiếng, giậm chân liên tục nói:

- Được, được! Ta đi! Các cô ở nhà đợi, ta lập tức vào thành, đi Giáo Phường ty.

Dương Lăng vội vàng đi tới chỗ đóng quân, gọi bốn thị vệ mang đao, lên ngựa lao về phía kinh thành. Con đường trong thôn uốn lượn liên tục, ngựa không chạy nhanh được. Mất cả buổi y mới rẽ được ra quan đạo.

Phải làm sao để cứu người được? Nếu đây là thủ đoạn xuất phát từ sự trả thù của hoàng đế Chính Đức, mà mình tùy tiện cứu người ra, vậy...

Một trận gió thổi qua, Dương Lăng nghĩ tới kết quả của người nhà Cao thái y, không khỏi rùng mình. Y quay phắt đầu nhìn về phía thôn, do quá xa nên hai ngọn đèn lồng trước cửa nhà đã biến thành những điểm sáng nhạt nhòa.

Dương Lăng tự cảnh tỉnh: con đường làm quan cực kỳ hung hiểm. Hôm nay ta rất oai phong ở triều đình, nhưng vạn nhất có một ngày không ổn, sẽ thành ra kết cục gì? Nếu Ấu Nương của ta, và những nữ hài nhi luôn luôn đi theo bên người ta cũng bị đưa đến...

Lòng Dương Lăng lạnh đi: "Ta không thể cứ thờ ơ như vậy, không thể chỉ dựa vào lòng tin của Hoàng Đế; nơi an toàn nhất cũng là nơi hung hiểm nhất. Vì an toàn của những người ta yêu dấu, ta phải nghĩ biện pháp để có năng lực tự bảo vệ. Nếu có người cố tình gây bất lợi cho ta, cho dù hắn là Hoàng Đế, thì hắn cũng là kẻ thù của ta. Dương Lăng ta làm việc chỉ theo lương tâm, chứ không nói gì tới 'vua tôi cha con' cả!"

Không dám hành sự lỗ mãng, trước hết Dương Lăng tới chỗ Cẩm Y Vệ gặp Tiền Ninh. Nghe y nói muốn cứu khâm phạm, Tiền Ninh cũng có vẻ sợ hãi. Nhưng thằng nhãi này cũng còn có chút lương tâm, sau mấy lần khuyên can không được, gã cũng kể cho y rõ về mấy thứ quy định của Giáo Phường ty, sau đó gã mới bảo là có chuyện quan trọng cần làm rồi vội vàng chạy mất.

Thì ra Giáo Phường ty trực thuộc bộ Lễ, gồm các quan chức Tả Hữu Thiều Vũ, Tả Hữu Ty Nhạc. Không phải là chỉ quản lý quan kỹ (kỹ nữ nhà nước) mà Giáo Phường ty còn là cơ quan tổ chức lễ nhạc cho triều đình. Các tiết mục âm nhạc của đại lễ cung đình đều do Giáo Phường ty phụ trách.

Giáo Phường ty phân ra hai loại là kỹ gia (kỹ nữ) và nhạc gia (nhạc công). Trong kỹ gia, đám con trai con gái phải sống với kiếp bán rẻ tiếng cười mua vui cho thiên hạ; còn đám nhạc công trong nhạc gia thì cũng giống như nhạc kỹ bình thường. Một khi vào Giáo Phường ty, con cháu đời đời sẽ phải nam là nô lệ, nữ là xướng ca. Thậm chí hiện nay có không ít kỹ nữ Giáo Phường ty là hậu duệ của những quan lại, đại thần, vương hầu đã phạm tội cả trăm năm trước.

Tuy nói Giáo Phường ty do Tả Hữu Thiều Vũ, Tả Hữu Ty Nhạc phụ trách, nhưng vì lễ nhạc cung đình thường thường phải do Giáo Phường ty phụ trách tập luyện diễn tấu nên để tiện điều hành, trong cung còn có một vị thái giám phụ trách chỉ huy Giáo Phường ty. Người này mới là người cầm quyền chính thức của Giáo Phường ty. Trước kia Lưu Cẩn từng làm thái giám chủ quản Giáo Phường ty, sau vì bị người tố giác nhận hối lộ nên lão bị Hoằng Trị miễn chức, chuyển tới làm ở Chung Cổ ty. Mỗi ngày lão cho gõ chuông đánh trống, tuy vẫn làm công việc thuộc dòng nhạc, nhưng lại không có thực quyền như trước.

Vừa nghe thái giám trong cung phụ trách Giáo Phường ty, Dương Lăng không khỏi mừng rỡ. Hiện nay, khi y đã ra mặt, cho dù là Vương Nhạc Vương công công cũng phải nể mặt vài phần, huống chi là kẻ khác. Cho dù vì e dè Chính Đức nên nhất thời y không cứu người ra được, thì chỉ cần y xin thái giám chủ quản nói một câu, tạm thời không đưa Cao tiểu thư đi đón khách cũng đã hoãn binh được một thời gian rồi.

Dương Lăng suy tính xong, bèn không đi Giáo Phường ty nữa mà trước hết chạy tới hoàng thành. Tới ngoài cửa hoàng thành, y mới sực nhớ ra bây giờ cung điện đã đóng cửa, cho dù y có trình thẻ ngà được phép vào cung cũng đừng nghĩ tới việc kêu mở cửa cung ra được, y không khỏi tròn mắt, sững người.

o0o

Giáo Phường ty ở phía nam kinh thành. Ba bước một lầu, năm bước một viện, kỹ viện ca lâu ở kinh sư phần lớn tập trung ở đây. Bên trong Giáo Phường ty, Hữu Thiều Vũ Tư Không Minh đang bắt chéo chân thưởng thức trà nóng, mí mắt cụp xuống, hỏi người đối diện:

- Nhà họ Cao vẫn không có ai tới à?

Người đứng trước mặt lão ước chừng năm mươi tuổi, có hai hàng râu dài, mặc áo ngắn, đầu đội khăn cột góc màu xanh lá, cười bồi:

- Đại nhân! Nhà họ Cao bị tịch biên gia sản không còn gì, cả nhà hoặc chết hoặc bị bán làm nô lệ, làm gì có người bỏ tiền ra chứ.

Tư Không Minh hừ một tiếng không vui. Phụ nữ ở Giáo Phường ty có mấy loại ca kỹ, vũ kỹ, nhạc kỹ. Ý chỉ của Hoàng Thượng không nói rõ loại tiếp khách nên Giáo Phường ty có quyền an bài loại chức nghiệp cho cô tiểu thư này.

Nếu họ Cao có thể bỏ nhiều tiền nhiều bạc đút lót cho gã, mặc dù Cao tiểu thư cả đời vẫn là kỹ nữ, hơn nữa tương lai nếu lập gia đình có con có cái thì chúng vẫn tiếp tục làm nghề ca xướng, nhưng nàng không bắt buộc phải là kỹ nữ bán mình. Tư Không Minh còn tưởng mình có thể chấm mút một chút. Bây giờ nhìn lại nhà họ Cao, quả nhiên là tường đổ người chạy, rốt cuộc không còn ai có thể đỡ một tay.

Gã cầm chén trà uống rột một hơi. Nhìn thấy tên kỹ nam nón xanh vẫn còn đứng trước mặt, gã không khỏi trừng mắt ra lệnh:

- Còn đứng đó làm gì? Đi, gọi vài người tắm táp cô Đại tiểu thư đó, đêm nay treo biển hành nghề đón khách.

Tên nón xanh xoa xoa tay cười xu nịnh:

- Đại nhân! C bé đó tính tình ghê lắm, còn chúng ta không thể đắc tội với khách được. Hay là trước hết tiểu nhân mở hàng cho nàng. Phụ nữ mà, đã có một lần, cô nàng cũng sẽ không còn gìn giữ gì nữa.

Tư Không Minh vừa nghe thế bèn phá lên cười lớn, đoạn vừa cười vừa mắng:

- Giáo Phường ty chúng ta nhiều năm rồi chưa có cô gái thanh danh cao quý nào cả. Cô tiểu thư Văn Tâm này có cha là y quan, là thái y hầu hạ Hoàng Thượng, bản thân nàng lại là một nữ thần y. Có cả hàng đàn hàng lũ mong muốn thưởng thức nàng lắm, không cho ngươi động vào. Chỉ cần tung ra vài lời đồn, cái giá cho lần đầu thưởng thức sẽ tăng lên rất nhiều, ha ha ha ha...

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 93: Tính kế cứu người

Dương Lăng trở về Trấn Phủ ty thay áo choàng, ra lệnh cho bốn gã thân binh tạm ở lại đó, một mình chạy tới Giáo Phường ty ở thành nam.

Xưa nay quan chức không thể ngang nhiên ra vào nơi hoa bướm, huống chi đang lúc để tang Tiên đế. Tuy Dương Lăng không đi thăm kỹ nữ, nhưng tâm tình y cũng vẫn khẩn trương, kéo vành nón sùm sụp. Mặc dù trong thành Bắc Kinh y cũng chẳng quen biết được bao nhiêu người, hơn nữa nếu không phải là ông lão thì cũng là lão thái giám, nhưng cẩn thận vẫn tốt hơn.

Dương Lăng lén lén lút lút vào Giáo Phường ty. Y thấy có trên mười người đàn ông cũng lén lén lút lút trước sau mò vào như y, mỗi người đều mặc áo dài, đội mũ rộng vành, có người còn xòe quạt che mặt, ai nấy đều lấm la lấm lét nhìn quanh.

Tuy Tiên đế mất, nhưng dân đen hạ đẳng cũng chẳng có tư cách gì để tang cho Hoàng Thượng, nên kỹ viện cứ theo lệ thường mà mở cửa. Điều ngạc nhiên chính là không hiểu sao hôm nay những người tới chơi kỹ nữ cũng đều có vẻ lén lút như y. Dương Lăng kín đáo quan sát một hồi vẫn không phát hiện ra đám nô bộc đội mũ xanh của Giáo Phường ty, trong lòng đang cảm thấy lạ, chợt có một gã đàn ông cầm cây quạt che mặt đi tới nhìn nhìn y một hồi.

Tên che mặt thấp giọng cười nói:

- Lão đệ! Việc đấu giá tốn tiền nhiều lắm đó, ngươi cũng muốn đến nếm thử mùi vị của nữ thần y à? Hắc hắc! Ta thấy nên chờ hai ngày nữa hãy trở lại, ta cho ngươi làm ấm phòng là được.

Dương Lăng nghe hắn nói chuyện dơ bẩn, không khỏi khẽ nhíu mày ác cảm, nhưng vừa nghe hắn nói tới đấu giá, lòng chợt nhẹ nhõm: "Chẳng lẽ vị Cao tiểu thư kia còn chưa bị người ta chà đạp à?"

Y vội che giấu vẻ ác cảm, rồi giả như một khách làng chơi đáp lời:

- Nữ thần y đại danh đỉnh đỉnh, ta cũng tới mong nhờ vào vận khí, tự nhiên không so được với huynh đài tiền nhiều thế mạnh rồi.

Người nọ thấy y nói chuyện khách khí, mà hai bên không quen biết nhau nên thu cây quạt đánh xoạt, nhìn xung quanh rồi thì thào:

- Lão ca ta sớm sẽ được thôi. Giáo Phường ty bao nhiêu năm nay chưa có gia quyến của phạm quan, muốn chơi khuê nữ đàng hoàng cũng khó.

Dương Lăng nhìn lên vị nhân huynh tự xưng là lão ca này. Tóc lão tuy còn đen, nhưng mặt đầy nếp nhăn, xem bộ dáng thật sự là tiều tụy già nua rồi.

Vị nhân huynh đó vẫn đắc chí nói tiếp:

- Lão đệ! Loại việc ong bướm về những tiểu thư chưa biết sự đời này không thích hợp với ngươi đâu, ta bỏ bạc ra không phải để hưởng thụ mùi vị trên giường, biết chưa? Mà chính là ta muốn cái gia thế của nàng, đem tiểu thư của lục phẩm ngự y đương triều đặt dưới thân mình thì quả là thoải mái!

Dương Lăng nghe hắn vô sỉ như vậy, hận không thể một cước đá bay hắn ra ngoài, chỉ nghe tên "Đại ca" này vẫn trơ mặt mo nói tiếp:

- Nghe nói vừa rồi khi muốn nàng đón khách, nàng đã đập đầu vào cạnh bàn, mọi người ở Giáo Phường ty phải xông vào cứu người. Cũng không biết hôm nay thẻ bài có mở được hay không? Chậc chậc, phía dưới chưa thấy đỏ mà phía trên lại đỏ trước! (wm: Hic)

Trước mặt hai người có một gã đàn ông mặc trường bào màu xanh, mặt dài như ngựa nghe giọng nói của hắn bèn quay đầu lại nhìn. Vừa thấy rõ tướng mạo hắn, gã lập tức thấp giọng cả kinh kêu lên:

- Quản lão bản?

Vị nhân huynh này giật bắn cả người, vội vã muốn đưa cây quạt lên che mặt nhưng chậm mất rồi. Hắn nhìn thấy người nọ, cũng thất thanh buột miệng:

- Đái viên ngoại! Sao là... khụ khụ...

Lời còn chưa dứt, vị Đái viên ngoại vội xông tới che miệng hắn, thấp giọng:

- Câm miệng, chớ để người ta nghe được!

Quản lão bản gỡ tay gã, trừng mắt hỏi:

- Đã tới đây còn ai không có ý định đó chứ? Ngươi còn sợ gặp người khác hay sao?

Đái viên ngoại cười ngượng nghịu, hỏi lại:

- Ngươi không sợ? Ngươi không sợ thì làm gì phải che mặt?

Quản lão bản cười gượng đáp:

- Nàng chỉ là người giúp ta bán thuốc, Quản Bình Triều ta cũng chẳng sợ gì cả, muốn chơi thì chơi thôi. Nhưng Cao tiểu thư đã từng cứu người vô số, là nữ thần y nổi danh kinh sư, nhiều người biết tiếng. Nếu bị người ta biết được việc này thì thanh danh của ta cũng hơi bị ảnh hưởng.

Hắn liếc mắt nhìn Đái viên ngoại, khẽ cười lạnh nói tiếp:

- Nhưng Đái đại viên ngoại Đái Tiểu Lâu nhà ngươi thì không nên tới đây chứ. Không nói tới trong nhà của ngươi đã có chín bà, vợ đẹp thiếp xinh, mà Cao tiểu thư đã từng cứu mạng cho ngươi. Ngươi cũng không biết xấu hổ mà lợi dụng lúc người ta gặp khó khăn à?

Đái viên ngoại đỏ mặt, vô sỉ đáp:

- Cứu mạng thì đã sao? Hừ! Ngươi chẳng biết ta phải khẩn cầu cô ta bao nhiêu lần, cô nàng mới bằng lòng đến thăm bệnh cho ta. Ta đã tốn mất hai mươi lượng vàng, mà khi tới nhà cô ta còn phán bảo ta phải làm nhiều việc thiện, chớ để "vi phú bất nhân" (làm giàu thì không nhân đức). Đã thế, ta hôm nay sẽ cho cô nàng biết mặt, bắt cô ta nằm dưới người của ta để biết cái gì gọi là vi phú bất nhân.

Đây đúng là đồ vô sỉ! Nếu không phải Dương Lăng cũng đang lén lút không muốn người ta biết đến, nhất định y sẽ tìm cớ để tống hai tên bại hoại này tới Cẩm Y Vệ cải tạo lại. Hai tên sắc quỷ đang nói chuyện thì Hữu Thiều Vũ Tư Không Minh mặc đồng phục của nhạc nghệ quan Giáo Phường ty, tay áo thêu hồng tuyến, đầu đội khăn xanh từ hậu đường đi ra.

Tư Không Minh tiến vào đại sảnh liền vỗ vỗ tay ra hiệu, tiếng xì xào khắp nơi lập tức im bặt. Tư Không Minh cười nói với vẻ lưu manh:

- Đa tạ các vị tới cổ động. Chắc hẳn tất cả mọi người đều biết cô nương hôm nay là con gái của quan lục phẩm triều đình đã phạm tội, ngự y Cao Đình Hòa. Nàng là một thần y ngang hàng với Kim Châm Lưu của Dã Cúc Trai, Tam Chỉ Điền của Hạnh Hoa Cư, xưng là tam đại thần y kinh sư, thân phận rất cao quý. Các vị xưa nay bất luận danh phận to lớn thế nào, có bạc nhiều ít ra sao thì đến cả một đầu ngón tay của Đại tiểu thư nhà người ta cũng chẳng đụng tới được, phải không?

Bên dưới ầm ầm vang lên những tiếng hưởng ứng. Tư Không Minh cười đắc ý, nói tiếp:

- Nhưng hôm nay lại khác! Chỉ cần các vị chịu bỏ tiền ra, các vị muốn chơi vị Đại tiểu thư này ra sao thì chơi. Ha ha, cơ hội này dù đốt đèn tìm cũng chẳng thấy. Được rồi! Không nói nhảm nữa, đêm nay giá mở động đào là ba trăm lượng, các vị cảm thấy thích hợp thì cứ việc ra giá.

Hắn vừa phán ba trăm lượng, phía dưới chợt ồ lên. Tuy nói mọi người đều giàu có nhưng ba trăm lượng bạc cho một đêm với gái thì cũng quá đắt. Lập tức đã có những người thoái lui. Quản lão bản cùng Đái viên ngoại mặc dù cũng xót ruột, nhưng vừa nghĩ tới vị Đại tiểu thư xưa nay họ chỉ có thể cúi đầu khom lưng mà hôm nay có cơ hội đoạt được ngọc thể, mặc tình mây mưa ngang dọc gì cũng được, lại thật sự không đành buông tay.

Quản lão bản mất cả buổi mới dám bỏ chừng đó tiền, rốt cục nghiến răng hô:

- Ta xuất ba trăm lượng!

Đái viên ngoại liếc mắt nhìn hắn, cao giọng:

- Ba trăm lẻ một lượng!

Dương Lăng vuốt ngực, cũng hơi yên tâm. Hôm nay y lấy bạc muốn hoàn lại cho Mã Vĩnh Thành, nhưng lão không nhận, y cũng chưa trả lại cho Ấu Nương, trong ngực còn số ngân phiếu trị giá bốn ngàn lượng bạc. Y cũng không còn quá lo âu nữa: đêm nay cứ giả làm khách làng chơi bao Cao tiểu thư, rồi ngày mai tới cung tìm vị thái giám Quản Sự kia mà nhờ vả.

Sau một hồi trả giá, cuối cùng chỉ còn lại có Quản lão bản, Đái viên ngoại và một vị công tử còn đang tiếp tục đấu giá. Lúc này giá đã lên tới bốn trăm sáu mươi lượng. Dương Lăng đột nhiên cao giọng hô:

- Ta ra năm trăm lượng!

Y tăng một hơi luôn bốn mươi lượng khiến ba người kia không khỏi bất ngờ liếc nhìn y. Tư Không Minh mặt mày hớn hở:

- Tốt tốt! Mời vị công tử này bước lên phía trước.

Dương Lăng bước ra phía trước. Hai tên đểu cáng giả làm người đạo mạo và vị công tử kia đều liếc mắt nhìn y đánh giá cẩn thận. Hữu Thiều Vũ Tư Không Minh thấy y bèn cười hà hà đi đến gần. Đột nhiên hắn ngẩn người ra, lộ vẻ kinh dị; nhưng vẻ kinh ngạc chỉ chợt lóe lên rồi biến mất, hắn lập tức cười ha ha nịnh hót:

- Vị công tử này vừa gặp đã biết ngay là người phong lưu phóng khoáng, là chủ nhân thương hương tiếc ngọc. Cao tiểu thư lần đầu mây mưa cũng không chịu nổi mạnh tay, tối nay cứ giao cho công tử đi.

Đái viên ngoại vừa nghe thế vội ra giá:

- Chậm đã! Ta trả năm trăm hai mươi lượng.

Dương Lăng lập tức đáp:

- Sáu trăm lượng!

Tư Không Minh cười hắc hắc, bảo:

- Chúng ta cho phép các vị đưa giá tiền, nhưng cô nương đó giao cho ai thì do ta định đoạt. Vừa rồi trước mặt bao nhiêu người ở đây, ta đã nói là Cao tiểu thư tối nay giao cho vị công tử này, ta còn có thể nuốt lời hứa hay sao? Cứ năm trăm lượng đi. Công tử gia, mời ngài ra phía sau.

Tất cả mọi người đều sửng sốt. Vị Nhạc Quan này có bệnh à? Sao lại không quan tâm đến tiền bạc như thế! Trong lòng Dương Lăng cũng thầm thấy lạ, nhưng lúc này y cũng cố không nghĩ gì nhiều, lập tức theo vị Thiều Vũ đại nhân ra sau sảnh trong tiếng bàn luận ồn ào của mọi người.

Tư Không Minh thật sự biết mặt Dương Lăng. Mấy ngày trước, trong lễ tang tiễn Hoằng Trị lên trời, đại điển tân đế đăng cơ, Tả Hữu Thiều Vũ Giáo Phường Ty cùng phụ trách âm nhạc cung đình. Tả Hữu Ty Nhạc cả ngày quanh quẩn trong cung, còn Dương Lăng là thống lĩnh cấm quân thị vệ, luôn luôn tuần phòng trong hoàng thành. Y không chú ý tới mấy tên ca múa nhạc này, nhưng Tư Không Minh lại nhận được nhân dạng của y. Vừa rồi hắn nhận ra đây là Dương đại nhân vinh quang tột đỉnh trước mặt Hoàng Thượng, làm sao hắn có thể không cố ý lấy lòng cho được?

Tư Không Minh đưa Dương Lăng tới một tiểu lâu rường cột chạm trổ, thấp giọng cười nói:

- Tiểu nhân xin được đưa công tử tới nơi này thôi. Cao tiểu thư tính tình dữ dằn, nhưng đã bị tiểu nhân trói lại trên giường rồi, công tử gia đêm nay nhất định sẽ tận hứng.

Nữ thân quyến của phạm quan bị sung vào chốn này trước nay không cần dùng dược vật đánh mê. Bởi vì những người thích loại này phần lớn cũng thích vẻ xấu hổ và giận dữ của các nàng. Tư Không Minh nghĩ rằng Dương Lăng cũng là loại người như vậy, hắn cười nịnh:

- Mấy cái thứ thuốc Chiến Thanh Kiều, Trợ Tình Hoa quả là vô dụng với tiểu nhân. Nhưng nhìn công tử uy vũ bất phàm, chắc việc kéo cương sải vó, chỉ huy ngàn quân cũng là việc dễ dàng, huống chi chỉ điều khiển một cô gái?

Dương Lăng nghe thế rùng mình trong lòng, quay đầu nhìn hắn. Vừa bắt gặp ánh mắt y, Tư Không Minh lập tức khiêm tốn cúi đầu, rồi khẽ cười:

- Tiểu nhân là Tư Không Minh, là Hữu Thiều Vũ của Giáo Phường ty. Hôm nay có thể giúp công tử, quả là vinh hạnh của tiểu nhân. Công tử cứ việc thưởng ngoạn thoải mái, tiểu nhân xin cáo từ.

Tư Không Minh âm thầm báo cho Dương Lăng biết một ít thông tin về mình để y nhớ phần nhân tình này, rồi lặng yên lui xuống. Dương Lăng nghe trong giọng lưỡi hắn có vẻ đã nhận biết được mình, trong lòng kinh nghi vô cùng. Nhưng bây giờ đã đến trước cửa, y cũng không thể bất kể nỗi khổ của cô gái này mà quay đầu bỏ đi. Dương Lăng định thần, đẩy cửa lầu ra, bước vào phòng.

Căn lầu không rộng, trong phòng có đầy đủ bàn ghế. Trên bàn còn có một bầu rượu, vài món thịt nguội, xem ra Giáo Phường ty nhận bạc rồi chiêu đãi khách hàng cũng rất chu đáo. Phía trong là một cái giường hoa, cửa mùng được vén lên hai bên treo vào hai chiếc móc vàng, có một cô gái đang nằm trên giường. Nàng chỉ mặc quần áo lót, nhìn lên thấy có người đi vào thì sợ hãi tới mức muốn rách cả khóe mắt, lập tức hoảng sợ giãy dụa.

Nàng vừa giãy dụa, lập tức cả chiếc giường hoa đều rung lên. Lúc này Dương Lăng mới phát hiện tay chân nàng bị mấy dải băng trắng cột vào bốn góc giường gỗ. Mái tóc cô gái rối bời, trên đầu quấn đầy băng trắng, lờ mờ rỉ một ít máu, gương mặt đỏ rực, miệng cũng bị bịt bởi một dãi băng vải trắng để ngăn nàng cắn lưỡi tự tử, nàng đang điên cuồng vặn vẹo giãy dụa. Ngoại trừ vóc người uyển chuyển phổng phao, còn nếu chỉ nhìn gương mặt thì thật sự nhìn không ra là đẹp hay xấu.

Dương Lăng vội vàng đóng cửa phòng, đi đến bên người nàng. Ánh mắt cô gái đó càng thêm vô cùng lo lắng bi phẫn. Nàng càng liều mạng giãy dụa mạnh hơn, miệng ú ớ. Dương Lăng vội nói:

- Cô nương đừng sợ! Ta... chỉ muốn đến cứu cô thôi.

Cô gái nghe xong giật mình ngơ ngác, ngừng không giãy dụa nữa, ánh mắt kinh hoảng nửa tin nửa ngờ đánh giá y. Dương Lăng thấy nàng chỉ mặc áo lót, thân thể mềm mại lồ lộ, bộ ngực căng phồng như một hòn đảo nổi lên giữa hồ nước, trước mặt một thanh niên xa lạ thì hơi bất nhã, vội vàng kéo một cái áo ngủ bằng gấm đắp cho nàng, rồi nhẹ giọng:

- Tiểu thư chớ hoài nghi! Tại hạ được sự ủy thác của hai chị em Cao Văn Lan, Cao Văn Cử tới đây cứu tiểu thư.

Cao tiểu thư nghe tới tên hai người em họ của mình, lúc này mới tin. Nàng ú ớ, mắt không kìm được lệ tuôn ròng ròng. Dương Lăng vội dặn:

- Tôi mở trói cho tiểu thư, tiểu thư chớ để lộ ra. Sau đó chúng ta sẽ bàn tới cách cứu tiểu thư chạy trốn sau.

Cao Văn Tâm gật đầu lia lịa, Dương Lăng gỡ băng bịt miệng và cởi trói tay chân nàng. Cao tiểu thư vươn tay kéo tấm chăn che lên người, run giọng:

- Thiếp đa tạ đại ân của ân công cứu mạng!

Dương Lăng quay đầu đi chỗ khác, đáp:

- Cao tiểu thư không cần phải cám ơn tại hạ. Nếu có thể giúp được thì tại hạ nhất định sẽ viện thủ tương trợ. Nhưng có mấy lời khó nghe tại hạ cũng nên nói cho cô nương biết trước,...

Y hít dài một hơi, trầm giọng:

- Cô nương là khâm phạm, tại hạ không đoan chắc có thể cứu thoát được cô nương.

Cao Văn Tâm dán chặt đôi mắt sưng đỏ vào y hồi lâu, rồi buồn bã cười nói:

- Dù sao thiếp vẫn phải đa tạ công tử! Chỉ cần bản thân thiếp có thể thanh thanh bạch bạch mà chết, thiếp cũng đã vô cùng cảm kích đại ân đại đức của công tử rồi.

Dương Lăng thầm thở dài trong lòng. Y cố tươi tỉnh nói:

- Cao tiểu thư, không phải Dương mỗ vô tình. Nhưng Dương mỗ cũng có nhà có cửa, không thể làm bừa, không úy kỵ gì. Chà... Có thể đặc xá cho cô nương được hay không, tất cả đều do một câu của hoàng đế. Sáng sớm ngày mai tại hạ sẽ tiến cung, trước hết nhờ thái giám Quản Sự hoãn việc xử lý cô nương. Còn việc cứu cô nương ra ngoài... Dương mỗ còn phải tìm biện pháp khác.

Cao Văn Tâm lau nước mắt đáp:

- Thiếp không sợ chết, chỉ sợ bị mất trong sạch thôi. Nếu có thể thoát được thì đương nhiên là tốt rồi. Nếu không thể, thì thà chết cũng xong. Công tử không cần phải khó xử. Công tử hôm nay cứu thiếp, đã là ân huệ lớn lao rồi. Thỉnh giáo cao tính đại danh của công tử?

Dương Lăng quay đầu lại nhìn nàng, không che giấu chút nào đáp ngay:

- Tại hạ Dương Lăng, tham tướng Thần Cơ doanh!

C ngươi của Cao Văn Tâm chợt mở lớn, vui mừng thốt:

- Dương Lăng Dương Thị Độc?

Cõi lòng vốn đã tuyệt vọng của nàng trong nháy mắt tràn ngập nỗi mừng rỡ vô chừng. Người này chính là thị độc Đông cung đã dám kháng chỉ, là đại thần cực kỳ tin cẩn của hai vị đế vương cũ lẫn mới. Nếu như mình thật sự có thể thoát khỏi cảnh này, ngoại trừ y ra thì còn ai có thể giúp mình được chứ?

...

Sắc trời sáng dần, Cao Văn Tâm còn đang ngủ say. Nàng đã lo lắng hãi hùng mất mấy ngày, hôm qua lại mất máu khá nhiều rồi còn bị buộc phải uống một hồ rượu mạnh, nên đến nửa đêm về sáng thì rốt cục nàng không kìm được phải ngủ thiếp đi.

Cao Văn Tâm đang ngủ say, đột nhiên cảm giác như bên cạnh có người. Mấy hôm nay nàng thường xuyên rất cảnh giác nên vô cùng mẫn cảm. Mặc dù ý thức vừa mới trở lại, nàng vẫn hơi giật mình, rồi bỗng mở to đôi mắt. Mở mắt ra đã thấy ngay một cặp mắt sáng quắc, nàng sợ hãi đến hơi co rúm cả người. Tập trung nhìn kỹ, thấy rõ đó là Dương Lăng, nàng không khỏi hấp tấp kéo chăn lên tới cằm.

Dương Lăng mỉm cười, vươn vai nói:

- Nhìn tiểu thư ngủ rất ngon, tại hạ không đành lòng gọi tiểu thư dậy, không ngờ tiểu thư đã tỉnh rồi.

Cao Văn Tâm lúng túng đáp:

- Dương đại nhân nói đùa rồi, tiểu nữ thật sự quá mức mệt mỏi...

Dương Lăng cười cười nói:

- Tại hạ biết! Bây giờ tại hạ phải vào cung rồi. Nếu mọi việc thuận lợi, có lẽ buổi chiều Giáo Phường ty sẽ phái người đưa cô nương tới một phòng riêng, tại hạ sẽ tìm cơ hội từ từ góp lời với Hoàng Thượng. Nếu chiều tối mà tại hạ vẫn không có tin tức thì...

Mặt Cao Văn Tâm trắng bệch đi, nàng cắn môi, bình tỉnh đáp:

- Thiếp hiểu. Nếu đêm nay trước lúc lên đèn, chỗ thiếp vẫn không có biến hóa gì, như vậy là sự không thể thành, thiếp sẽ tìm cơ hội để tự tử... Bất kể như thế nào, thiếp cũng vô cùng cảm kích ân huệ của đại nhân.

Dương Lăng vô lực xua xua tay, thở dài một tiếng, bước luôn ra ngoài phòng, không hề quay đầu lại.

********************

Tại nha môn Chung Cổ ty... Lưu Cẩn đang uy phong lẫm liệt chỉ huy hơn mười tên tiểu thái giám bận rộn đánh chuông gõ trống. Cảnh Dương Chung được tám tiểu thái giám dùng một chiếc vồ bằng gỗ lớn dộng vào. Đây là loại chuông không khắc toàn bộ bát quái, chỉ khắc có vài quẻ, trên đất nước Đại Minh chỉ có ba cái. Một cái ở Thiên Bồn, một cái ở Đông Nhạc miếu, một cái ở ngay chính Ngự Hoa viên này, đại biểu cho tam tài Thiên Địa Nhân.

Trong Ngự Hoa Viên có một cái Thất Bảo Đăng Lậu (đồng hồ nước, trong đó bày một cái đèn thất bảo) khổng lồ, cao một trượng sáu thước, dẫn nước chảy từ Ngự hoa viên vào chạy các linh kiện máy móc, tự động vận chuyển. Trong những linh kiện máy móc đó có bánh xe, vòng bi, cần, trục quay; ở hai đầu ống dẫn có vòi nước để điều chỉnh tốc độ nước chảy nhanh chậm. Trong Thất Bảo Đăng Lậu có mười hai cái thẻ bài tượng trưng cho các canh giờ, luân phiên báo giờ, còn có bốn khúc gỗ nhỏ lần lượt đập vào chuông, gõ vào trống để báo thời khắc.

Ngay khi tên tiểu thái giám thấy đúng thời khắc, lập tức gã ra đứng trước cửa hoa viên dùng cờ nhỏ thông báo cho thái giám chấp chưởng Chung Cổ ty là Lưu Cẩn đang đứng trên lầu Cảnh Dương Chung. Lưu Cẩn liền chỉ huy đám tiểu thái giám đánh Cảnh Dương Chung, gõ Tư Thần Cổ, tuyên cáo buổi triều sớm bắt đầu, bá quan lên triều.

Lúc này đã đánh chuông gõ trống xong, Lưu Cẩn đang bước xuống lầu, định đi tới nha môn Chung Cổ ty uống một ngụm trà, ăn chút lót dạ. Đột nhiên lão nhìn thấy Dương Lăng đi tới nên vội bước lên đón tiếp, cười nói:

- Dương đại nhân! Sao rỗi rãi tới nơi này thế?

Dương Lăng chắp tay chào:

- Lưu công công! Dương mỗ hôm nay có ý đến tìm ngài.

Lưu Cẩn ngạc nhiên hỏi:

- Dương đại nhân có chuyện gì mà tìm chúng ta? Tới đây, cùng tới Chung Cổ ty uống ngụm trà, chúng ta sẽ từ từ nói chuyện cũng không muộn.

Dương Lăng vội vươn tay giữ chặt lấy lão:

- Công công chậm đã! Dương mỗ có việc này thực sự cũng hơi gấp. Không có thời gian đi Chung Cổ ty đâu!

Y kéo Lưu Cẩn qua một bên, đem sự tình từ đầu chí cuối kể lại.

Dương Lăng cũng không hề giấu diếm lão chút nào, việc này là muốn cho Chính Đức mở lời tha người. Nếu giấu diếm, sau này để Chính Đức biết sẽ cho rằng y cố ý che giấu thiên tử. Không bằng y thản nhiên làm người tốt, lúc đó cho dù Chính Đức không bằng lòng cũng sẽ không bắt tội y.

Lưu Cẩn nghe y kể xong, cười nói:

- Ừm! Việc này mười phần thì tám chín là Hồng thượng thư vì muốn lấy lòng Hoàng Thượng mà trừng phạt nặng. Việc gia quyến các quan phạm tội bị bán vào Giáo Phường ty chắc là vạn tuế gia cũng không biết đâu.

Lão nhìn nhìn khắp nơi, lại nhỏ giọng nói:

- Chúng ta nói thực với đại nhân nhé. Hoàng Thượng giận Cao thái y chữa bệnh lại khiến Tiên đế chết nên kéo đám người liên can ra ngoài chém sạch. Nhưng sau đó điều tra mới rõ, thật ra là vì lúc Tiên đế phát bệnh, Trương Du nhất thời kinh hoảng nên lấy nhầm dược vật. Hắc! Cao thái y, Lưu viện phán đều chết oan cả. Nhưng việc này đã xảy ra rồi thì làm sao bây giờ? Đành đâm lao phải theo lao thôi!

Dương Lăng rợn tóc gáy, sững sờ: "Đường đường là thiên tử, thì ra cũng có thể khiến người ta phải chết uất ức như vậy. Chỉ một đạo ý chỉ của hắn là có thể làm cho hàng vạn hàng nghìn đầu người rơi xuống. Còn lần này, lại chỉ vì một tên tiểu thái giám nhất thời kinh hoảng nên lấy nhầm thuốc đã làm cho bao nhiêu người phải mất mạng."

Y cau mày hỏi:

- Nếu nói như vậy, chẳng phải Cao tiểu thư càng thêm oan uổng sao? Người chết thì thôi, sao lại để người vô tội phải chịu cảnh như vậy?

Lưu Cẩn không đồng ý, đáp:

- Việc này có gì mà to chuyện? Vì thể diện của hoàng gia, cho dù chết một ngàn người, một vạn người thì cũng đâu có sao? Huống chi việc Trương Du lấy nhầm thuốc đã phong thanh lan truyền ra ngoài rồi. Nếu Hoàng Thượng tha cho nàng, chẳng phải là càng khẳng định việc này là đúng hay sao? Do đó, việc đặc xá nàng là vạn lần không thể được. Nhưng mà...

Dương Lăng vừa nghe thế vội la lên:

- Nhưng mà cái gì? Lưu công công đừng thừa nước đục thả câu nữa, xin mau mau chỉ dạy ta đi!

Lưu Cẩn cười gian hai tiếng đáp:

- Đại nhân quả là có lòng thương người. Việc cứu người thực ra cũng không khó, việc này chỉ cần khi làm việc phải nhớ tới thể diện của Hoàng Thượng, có thể làm sao cho có vẻ Hoàng Thượng ban ơn cho bầy tôi! Ha ha, việc đặc xá một con nhóc đâu phải là chuyện gì lớn?

Dương Lăng biết rõ điều Lưu Cẩn giỏi nhất chính là việc phỏng đoán tâm tư của Chính Đức, vội vàng truy vấn:

- Dương mỗ vốn định nhờ công công tiến cử tại hạ đi gặp công công Quản Sự Giáo Phường ty, không nghĩ tới công công còn có diệu kế như thế, vậy xin Lưu công công vui lòng chỉ giáo. Nếu cô gái kia thoát đại nạn, nhất định sẽ mang ơn công công rất nhiều, lập bài vị trường sinh cho người, mỗi ngày đều thắp ba nén hương.

Lưu Cẩn được y bốc thơm, cả gương mặt nở to như hoa cúc. Lão vội vàng khoát tay khiêm tốn một hồi, mãi cho đến lúc Dương Lăng sốt ruột không chịu nổi nữa, lão mới kéo tay y lại gần, ghé tai nói nhỏ một tràng.

Dương Lăng nghe xong vui vẻ chắp tay thi lễ:

- Dương Lăng nghĩ việc này khó như lên trời, công công vừa ra tay, lập tức giải quyết dễ dàng. Kế này cực diệu, chỉ cần đại công cáo thành, Dương Lăng sẽ bày tiệc rượu đáp tạ công công.

Lưu Cẩn cười tủm tỉm đáp:

- Dương đại nhân không cần khách khí. Chỉ bằng vào giao tình giữa ngài và ta, một việc nhỏ như thế này thì chúng ta còn không hỗ trợ nhau sao? Đi thôi, ta trước hết đưa ngài đi gặp Tĩnh công công của Giáo Phường ty, thu xếp ổn thoả cho cô gái kia. Tĩnh công công xưa nay gần như không để ý gì tới chúng ta. Nhưng từ khi Hoàng Thượng đăng cơ, hắn thật ra cũng tỏ ra nịnh bợ ta. Chút việc như thế này, hắn nhất định sẽ phải ưng thuận.

*****************

Buổi triều sớm đã tan, thượng thư bộ Hình Hồng Chung, thượng thư bộ Công Từ Quán trở về triều phòng, nhận lại những văn thư trình cho nội các hôm qua. Vừa vào đã thấy thượng thư bộ Lại Mã Văn Thăng đang ngồi trong triều phòng chau mày, vẻ mặt đầy ưu sầu. Hồng Chung không khỏi ngạc nhiên hỏi:

- Mã Đại nhân, cớ gì mà than thở thế?

Mã Văn Thăng thấy hai vị đồng liêu, không khỏi thở dài đáp:

- Ba vị đại học sĩ đã tới hậu cung vấn an Thái Hoàng thái hậu, thương lượng việc đại hôn của Hoàng Thượng, lão phu ở đây chờ ý kiến. Ý chỉ bổ nhiệm quan chức không được làm quan ở quê mình vừa ban thì hằng ngày cổng nhà lão phu đều có đủ thứ quan lại tới càu nhàu, than thở không dứt. Lão phu thật sự chịu không thấu rồi!

Hồng Chung cười nói:

- Đó cũng không phải là việc xấu hoàn toàn. Cũng có một số quan lại ở tỉnh hơi nghèo nàn được bổ nhiệm tới tỉnh giàu có, chẳng phải họ đều hoan hô cả sao? Nhưng đạo ý chỉ này của Hoàng Thượng quả là làm thay đổi rất nhiều. Đám đại quan ở biên giới ai mà không có bạn thân bạn cũ, về quên quán của mình mà làm quan còn có thể nâng đỡ lẫn nhau, cũng đỡ được nhiều thứ. Lúc này phải dời tới chỗ mới, sẽ không còn cơ hội nữa. Chẳng lẽ phải đưa cả gia tộc dòng họ đi cả sao?

Thượng thư bộ Công Từ Quán có người em họ làm quan ở Kim Lăng, lần này cũng phải thuyên chuyển đi chỗ khác, nghe xong hừ lạnh một tiếng, nói:

- Phương cách này vốn đã không được tính toán kỹ. Nghe nói là do tên thái giám chưởng ấn Chung Cổ ty Lưu Cẩn cùng với tên thống lĩnh Dương Lăng, cả hai tên ngu không hiểu chính sự buông lời gièm pha, làm cho bây giờ tiếng oán than dậy đất.

Mã Văn Thăng cau đôi lông mày trắng, can ngăn:

- Việc này tuy hơi lỗ mãng, nhưng thực ra không phải là không có ích. Bằng không, ba vị đại học sĩ nội các cũng sẽ không tán thành. Bây giờ thánh chỉ đã ban, chúng ta là bầy tôi thì phải nên thống nhất thi hành mới đúng. sau này đừng nói những lời như thế này nữa!

Từ Quán thấy lão không vui, cũng cười lạnh đáp:

- Đại nhân quả là lấy bụng quân tử để đo lòng tiểu nhân. Tuy Dương Lăng được tin cậy nhưng vẫn không thể nhúng tay vào việc triều chính. Rốt cuộc không phải là y muốn lấy việc công làm việc tư, tới làm quan ở một vùng thật giàu có hay sao?

Lão lấy cuộn công văn của mình rồi giận dữ ra khỏi triều phòng. Liếc mắt nhìn thấy thủ hạ tâm phúc là tả thị lang bộ Công Lý Kiệt đang vội chạy tới đón, lão không khỏi ngạc nhiên hỏi:

- Lý Kiệt! Việc đốc thúc xây dựng Thái Lăng là đại sự, sao ngươi lại tự tiện hồi kinh như vậy?

Vốn Lý Kiệt đang vô cùng lo lắng, vừa nhìn thấy lão không khỏi vừa mừng vừa sợ, vội vàng chạy tới đón, báo:

- Đại nhân! Ở lăng xảy ra chuyện lớn rồi.

Từ Quán ngập ngừng hỏi:

- Ở lăng đã xảy ra chuyện à? Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?

Lý Kiệt nhìn nhìn chung quanh, rồi tới gần lão nói nhỏ:

- Đại nhân! Huyền Cung Thái Lăng tiết khí, Kim Tỉnh phun nước rồi.

Thượng thư bộ Công Từ Quán nghe xong buột miệng "A" một tiếng, biến sắc, cuộn văn thư đang ôm trong lòng chợt rơi xuống đất.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 94: Đơn giản như đang giỡn

Từ Quán nghe vậy kinh hãi, kêu lên:

- Huyền Cung tiết âm khí, Kim Tỉnh phun nước. Đây là điềm xấu, phải lập tức bẩm báo Hoàng thượng, xin chỉ dời lăng.

Lão ta vừa mới xoay người, trong lòng thoạt động, dừng lại ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

- Việc đôn đốc xây dựng thái lăng là do bộ Lễ dẫn đầu, quan viên các bộ khác có cái nhìn như thế nào về việc này?

Lý Đạc kể rằng:

- Hạ quan phụ trách kiến tạo La thành, lúc nghe nói Kim Tỉnh phun nước, vội chạy đi xem thì nguồn suối đã bị bịt kín. Thị lang bộ Lễ, Giám phó Khâm Thiên Giám và Đới công công đang trách mắng mấy tên sĩ tốt, còn quất roi đánh một gã Thập Trưởng, nói Kim Tỉnh phun nước là chuyện bậy bạ đặt điều.

Hạ quan thấy thần sắc bọn họ hoang mang, muốn tự mình xuống Kim Tỉnh xem rốt cuộc có chuyện gì, lại bị Thị lang bộ Lễ tìm cớ đuổi trở về. Hạ quan đã phải lén hỏi tên Thập Trưởng bị ăn roi nọ mới biết được tình hình cụ thể trong đó.

Từ Quán ngạc nhiên hỏi:

- Gì cơ? Bọn họ cố ý che giấu không báo à? Tại sao lại như vậy? À! Lão phu hiểu rồi.

Từ Quán bỗng sực tỉnh, không khỏi nở một nụ cười lạnh lùng.

Lúc trước việc khảo sát đế lăng là do Thị lang bộ Lễ và Giám phó Khâm Thiên Giám phụ trách. Đầu năm nay khi tiên đế bệnh nặng, thì đế Lăng đã được xác định địa điểm và bắt đầu được kiến tạo, cho tới nay đã hao tốn rất nhiều tài của. Nếu lúc này mới phát hiện ra việc khảo sát có sai sót, phong thuỷ không tốt, quan viên bộ Lễ và Khâm Thiên Giám sẽ không thể tránh bị mất quan cách chức, bọn họ đương nhiên muốn giấu diếm việc này.

Còn thái giám Ti Lễ Giám Đới Nghĩa là chủ quản chi tiêu xây dựng công trình thái lăng. Công việc béo bở bực này không phải tùy tiện có thể có được, nếu phải khảo sát lăng mới sẽ mất rất nhiều thời gian. Đến khi đế lăng một lần nữa tuyển chọn xong, chưa chắc sẽ lại đến lượt hắn giám sát kiến tạo, do đó...

Lý Kiệt thấy Từ Quán trầm ngâm không nói, lại kể:

- Hạ quan đôn đốc xây công trình vòng ngoài, nơi quan trọng trong lăng tẩm là do quan binh Thần Cơ doanh phụ trách. Hạ quan vài lần muốn trộm đi vào thăm dò, nhưng những quan binh ấy được Đới công công ra lệnh, năm lần bảy lượt ngăn cản hạ quan. Vì vậy, hạ quan mới tìm cớ chạy về kinh để bẩm báo với đại nhân.

- Thần Cơ doanh?

Từ Quán nghe xong tên đột nhiên nhớ tới Dương Lăng. Dương Lăng không phải là phụ trách điều động quan binh sao?

Trong lòng lão như có điều tỉnh ngộ, trầm ngâm hồi lâu, rồi đột nhiên mặt mày rạng rỡ, cười lớn:

- Lý Kiệt, chuyện này ngươi làm tốt lắm. Nhưng việc này liên quan đến bộ Lễ, Khâm Thiên Giám, Thần Cơ doanh, mà Đới Nghĩa lại là thân tín của nội giám Vương công công. Bây giờ mới chỉ nghe phong phanh, chúng ta không thể cứ như vậy mà bẩm báo cho Hoàng thượng. Bằng không nếu tình hình không đúng, nha môn chúng ta sẽ đắc tội với rất nhiều người.

Lý Kiệt nghe xong vội nói:

- Đại nhân, mỗi ngày có rất nhiều tiền bạc của cải đổ vào Thái Lăng như nước, nếu bây giờ không mau chóng tra rõ, không biết sẽ còn lãng phí bao nhiêu tiền nữa.

Từ Quán đưa tay cản hắn, ngữ khí hoà hoãn, ra vẻ chân thành nói:

- Lý Kiệt, tuổi ngươi mới ba mươi có lẻ đã vinh dự được chức Thị lang nhị phẩm, tuổi trẻ đầy hứa hẹn, tiền đồ rộng lớn, lão phu luôn rất xem trọng ngươi.

Ngươi phải biết rằng, con đường làm quan rất hiểm ác, những quan viên nha môn này không phải là cây đèn cho người ta rút dầu (*). Nếu không nắm được chứng cứ rõ ràng, sẽ đắc tội với rất nhiều người, con đường làm quan của ngươi cũng sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều đó. Lão phu ở triều đình chẳng còn mấy năm nữa, còn ngươi lại có tiền đồ rộng lớn, thử hỏi lão phu sao có thể lỗ mãng như thế, làm ảnh hưởng tới tiền đồ của ngươi. (*: không tầm thường, không đơn giản - ND)

Lý Thị lang chắp tay cảm kích:

- Ơn bồi dưỡng của đại nhân đối với hạ quan, hạ quan luôn ghi nhớ trong tim.

Từ Quán cười to, nói:

- Ừm, vậy hãy nghe lão phu, ngươi lập tức chạy về lăng, âm thầm điều tra việc này. Một khi có được chứng cớ xác thực, chúng ta sẽ bẩm báo cho Hoàng thượng.

Lý Kiệt thấy Từ Thượng thư cẩn thận như thế, chỉ đành chắp tay cáo từ. Từ Quán tay vuốt chòm râu, nhìn theo bóng lưng hắn mỉm cười, trong lòng tràn đầy đắc ý: "Kim Tỉnh của lăng mộ là nơi quan trọng nhất trong lăng tẩm. Để phòng người tiết lộ bố trí cơ quan bên trong, mới sai quan binh Thần Cơ doanh xây dựng.

Nếu như lời của Lý Kiệt nói là thật, mà người của Thần Cơ doanh biết chuyện nhưng không báo, vậy Dương Lăng cũng khó mà thoát được tội khi quân này. Dương Lăng ơi là Dương Lăng, ngươi được nhiều thánh quyến, muốn đánh đổ ngươi thật không dễ dàng. Nhưng bây giờ thì 'lê gót mỏi mòn tìm không thấy, đến khi có được chẳng phí công' rồi."

* * *

Ngọ triều, Chính Đức ở kim điện tiếp kiến đám sứ giả Phiên Vương đầu tiên vào kinh. Lúc này, sứ giả chúc mừng tân đế đăng cơ của bốn vị Vương gia là Đại Vương, Tấn Vương, Lỗ Vương, Ninh Vương đều đã tới kinh. Không tính cái bài sớ chúc mừng bài nào cũng như bài nấy đó, thì mấy thứ cống nạp đa số chỉ là mấy vật biểu tượng như cóc vàng, ngọc như ý. Tuy là quý giá, nhưng lễ vật cũng không nhiều lắm. Chỉ có Ninh Vương ở Giang Tây khi lên điện, ngoại trừ mấy thứ ngọc ngà châu báu bình thường, còn đem theo ba mươi cái rương có đủ, nhất thời văn võ cả triều đều lé mắt.

Đừng nói là Phiên Vương địa phương không có tiền tài quyền thế, mà cho dù là vùng đất Giang Nam giàu có, Phiên Vương phú khả địch quốc, sao lại ngu xuẩn như vậy, dám khoe khoang trước mặt Hoàng đế, chẳng lẽ không sợ phạm vào điều kiêng kị của thiên tử sao? Các vị đại thần lập tức đều tò mò, không biết Ninh Vương tiến cống là lễ vật gì.

Các lễ vật trân quý mà các Phiên Vương tiến cống từng món đều phải được Xướng Nghi quan xướng tên, hiểu dụ bá quan. Nhưng những hòm rương quà tặng này thì lại không hề được công bố trong danh mục, xem ra cũng không phải là vật phẩm trân quý gì. Chính Đức ngồi trên long ỷ, nhận tờ kê khai danh mục do tiểu thái giám trình lên, mới nhìn lướt qua thì đã không kìm được mặt mày hớn hở.

Cốc Đại Dụng bên cạnh thấy Hoàng thượng chỉ lo nhìn mấy thứ đó, vội tới gần nhắc nhở vài câu. Chính Đức mới chợt tỉnh ra, trấn an tất cả Phiên Vương một lúc, rồi bảo Hồng Lư Tự tiếp đãi cho tốt, sau đó sốt ruột không chờ nổi nói:

- Các ái khanh có tấu chương gì không? Nếu không có chuyện quan trọng, trẫm sẽ đi vấn an Thái Hoàng Thái hậu và Thái hậu hai vị lão nhân gia.

Thượng thư bộ Công Từ Quán lập tức rời khỏi hàng, tâu:

- Khải bẩm Hoàng thượng, thần có bản tấu.

Chính Đức trừng mắt nhìn tên không biết điều đó, sốt ruột hỏi:

- Chuyện gì cần tấu, ái khanh hãy nói mau.

Từ Quán khom người tâu rằng:

- Hoàng thượng lệnh cho bộ Lễ, bộ Công, Khâm Thiên Giám, Nội Vụ phủ, Thần Cơ doanh phụ trách công trình thái lăng cho tiên đế; bây giờ quan chức các bộ đều tận trung tận lực, nhưng Tham tướng Thần Cơ doanh Dương Lăng lại vẫn lần lữa ở kinh thành, thật sự phụ kỳ vọng của Hoàng thượng. Thái lăng là lăng tẩm tiên đế, Thần Cơ doanh phụ trách kiến trúc lăng mộ, bố trí cơ quan, nơi quan trọng nhất của thái lăng. Thần cho rằng cần phải cấp tốc sai Dương Tham tướng đi nhậm chức, để tránh có điều sai sót.

Chính Đức không tập trung đầu óc, nói:

- Ừm, trẫm biết rồi, hai ngày vừa rồi trẫm bảo Dương Lăng đi tiếp nhận hoàng trang (thôn trang vua ban), hơi bận rộn với mấy việc vặt vãnh. Từ hôm nay trở đi trẫm lệnh hắn đi nơi lăng tẩm là được. Các vị ái khanh còn có tấu chương nào không? Nếu không có thì... Thoái triều!

Chính Đức vừa về đến hậu cung, liền réo Cốc Đại Dụng ngay:

- Nhanh lên, lấy đèn màu và pháo hoa mà Ninh Vương thúc hiến tặng ra đây cho trẫm.

Cốc Đại Dụng vội vàng sai mấy tên tiểu thái giám khiêng hai cái rương vào, mở nắp một cái rương ra, chỉ thấy trong rương xếp đầy những chiếc đèn lồng.

Lễ vật chúc mừng tân đế đăng cơ có thể sử dụng những vật có màu sắc vui tươi, nhưng đèn lồng mà Ninh Vương tiến cống lại không chọn dùng màu đỏ thẫm. Những chiếc đèn lồng với thiết kế tinh xảo, màu sắc rực rỡ, đều dùng trúc tốt lụa đẹp chế thành những hình hoa cỏ cá cua, sống động như thật, cũng không biết đã dùng bao nhiêu thợ thuyền khéo tay mới chế ra được chừng đó lồng đèn.

Những thứ lụa đẹp này đều sử dụng màu nhạt, phía trên có những hình chim thú sống động như thật, ý tưởng tinh diệu, thiết kế khéo léo. Chính Đức Hoàng đế vừa thấy lập tức tay chân múa máy, miệng há hốc ra.

Một cái rương khác được mở ra, trong đó lại có đủ các loại pháo hoa, bên trong dùng giấy lụa mỏng để ngăn cách. Mặc dù nhất thời nhìn không ra sự xảo diệu, nhưng những giấy màu bao bên ngoài mấy ống pháo hoa đều vẽ những hoa văn mô tả hình ảnh pháo hoa nổ.

Chính Đức nhìn xong càng cảm thấy ngứa ngáy, không khỏi luôn miệng khen:

- Lễ vật do các vị Phiên Vương tặng thì chỉ có Ninh Vương là hiểu tâm ý ta nhất, rõ ràng toàn là những thứ tốt.

Chính Đức đang vô cùng vui vẻ thì Lưu Cẩn cùng Dương Lăng đi vào, hai người vừa mới đi gặp thái giám quản sự Giáo Phường ty Tĩnh công công xong. Tĩnh công công tuổi chưa đầy ba mươi, trắng trẻo mập mạp, trông khá phúc hậu. Hắn vừa thấy hai người tâm phúc của Chính Đức Hoàng thượng cùng dắt tay nhau tới nhờ vả, mà việc nhờ vả lại chỉ là tạm thời trì hoãn việc xử trí gia quyến của phạm quan, thì đáp ứng ngay. Để tỏ lòng kính trọng của mình với hai người, Tĩnh công công lập tức cầm tấm lệnh bài bằng ngà của mình tự thân chạy tới Giáo Phường ty. Lúc này, Dương Lăng mới yên lòng.

Dương Lăng vừa đi tới cung Càn Thanh vừa tính toán làm sao đem kế sách của Lưu Cẩn mở lời với Chính Đức, không ngờ vừa mới bước vào Đông Noãn các, còn chưa kịp nói chuyện, Chính Đức đã kéo cánh tay y hồ hởi khoe:

- Các ngươi tới đúng lúc lắm, mau đến xem mấy thứ lễ vật do Ninh Vương hiến tặng này.

- Ninh Vương?

Dương Lăng giật mình.

Từ khi tới kinh thành, y cũng không phải không lo lắng về những tin tức ít ỏi mà mình biết được về triều đại này. Chuyện về Ninh Vương y cũng biết, nhưng việc Ninh Vương tạo phản rất không có khả năng. Dựa theo phát triển của lịch sử, nó căn bản không phải là một tai họa, do đó Dương Lăng vẫn luôn không để hắn trong lòng. Có điều, đột nhiên nghe đến tên này, y vẫn không khỏi cả kinh.

Chính Đức hớn hở nâng lên một ống pháo hoa cỡ lớn khá nặng, nói:

- Đi, chúng ta ra Ngự Hoa viên đốt pháo!

Dương Lăng thấy hắn giống như đang vác hỏa tiễn chạy khắp nơi, vội đi tới giật lấy ống pháo hoa, khuyên rằng:

- Hoàng thượng cẩn thận, trong loại đồ vật này có hỏa dược, tuyệt đối không thể sơ ý.

Cốc Đại Dụng nghe Dương Lăng nói thế cũng chợt tỉnh ngộ về sự nguy hiểm của mấy thứ đồ vật này. Vừa rồi nhất thời sơ ý, đem cả rương tới trước mặt Hoàng thượng, còn để hắn tự mình thò tay vào lấy. Nếu không cẩn thận mà đốt một quả, cho dù Hoàng thượng không việc gì, nhưng chỉ cần Hoàng thượng bị sợ hãi một chút cũng đủ khiến hắn rơi đầu rồi. Sắc mặt Cốc Đại Dụng lập tức tái nhợt, lật đật chạy tới nhận lấy ống pháo hoa trong tay Dương Lăng nhét vào rương, lại sai tên tiểu thái giám nhanh đem cất rương pháo hoa đi.

Chính Đức giương mắt nhìn theo cái rương, luyến tiếc nói:

- Đáng tiếc... Đáng tiếc, lúc này trời còn sớm, không phải lúc đốt đèn.

Dương Lăng lại xối thêm một gáo nước lạnh nữa:

- Hoàng thượng, bây giờ là trong lúc đại tang, nếu như đốt nhiều đèn màu trong Ngự Hoa viên, để quần thần biết được thì sẽ phiền phức lắm. Huống hồ, hai vị lão nhân gia Thái Hoàng Thái hậu và Thái hậu nhất định cũng sẽ không đáp ứng đâu.

Suy cho cùng, Chính Đức vẫn còn mang tính trẻ con, tuy cũng thường xuyên nhớ tới phụ hoàng, song thấy mấy thứ đồ vật mới mẻ, sao có thể nhịn mà không thử được. Nhưng sau khi nghe Dương Lăng nói xong, hắn cũng biết việc này không thể cứ theo bản tính mà làm, bèn không khỏi tiu nghỉu như có đám.

Lưu Cẩn thấy Chính Đức Hoàng đế mặt đầy thất vọng, đột nhiên lóe linh cơ, không khỏi cười khà khà mà hiến kế:

- Nếu Hoàng thượng muốn xem pháo hoa đèn màu, cũng không phải không có cách, nhưng nói ra sợ Hoàng thượng khó tránh bị ba vị Đại học sĩ trách cứ.

Chính Đức vội hỏi:

- Lão Lưu có cách gì hay? Mau nói ra xem!

Lưu Cẩn cười hì hì rồi thưa với hắn:

- Hoàng thượng đã rào bảy thôn trang, song vẫn chưa rảnh rỗi đi xem. Nếu lấy cớ đi xem xét hoàng trang một chút, đám Đại học sĩ dẫu có ý phê bình, chắc hẳn cũng sẽ không quở trách quá mức. Đến đấy chúng ta kiếm một khe núi nào đó chui vào, còn không phải muốn đốt đèn thì đốt đèn, muốn đốt pháo thì đốt sao?

Chính Đức sáng mắt lên, lập tức vỗ tay khen:

- Được, trẫm đến thôn trang của mình xem xét một chút, bọn họ còn có thể lắm mồm cản trở hay sao? Dương Lăng, ngươi mau về chuẩn bị, chiều nay trẫm muốn đến hoàng trang xem một chút.

Dương Lăng thấy Lưu Cẩn nháy mắt ra hiệu với y, trong lòng tức thì bừng tỉnh: "Lưu Cẩn quả nhiên tuyệt vời. Biện pháp của lão ta quả là một mũi tên hạ hai con chim. Vừa hợp ý Hoàng thượng, cũng giúp cho mình."

Dương Lăng bèn bỏ ý định ngăn cản Hoàng thượng xuất cung, lập tức nói:

- Dạ, thần lập tức đi làm ngay!

* * *

Dương Lăng trở lại Trấn phủ ty, dẫn bốn gã thân binh phi ngựa chạy về Cao Lão trang, thậm chí không về nhà, mà tới đại trướng Thần Cơ doanh trước. Quan binh lúc này đang ở sau núi đốn cây chặt cỏ để xây doanh trại, năm trăm thân binh của Dương Lăng vẫn giao cho Liễu Bưu chỉ huy. Y chạy lên núi tìm Liễu Bưu, đem việc Hoàng đế muốn tới đốt pháo nói với hắn, rồi cẩn thận dặn dò một phen. Liễu Bưu lập tức tập hợp thân binh, tự mình dẫn người vào núi an bài mọi việc.

Sắp xếp ổn thỏa tất cả xong, Dương Lăng lại vội vã chạy về nhà. Cả đêm y chưa về nhà, mấy người Hàn Ấu Nương tuy không tin sẽ xảy ra chuyện gì nhưng trong lòng cũng khó tránh khỏi lo lắng cho y, một đêm cũng ngủ không ngon giấc.

Lúc này mấy người đang hóng mát dưới dàn nho trong hoa viên. Bây giờ đã sắp tháng sáu, tiết trời oi bức, cộng thêm đêm qua không ngủ ngon, tinh thần bọn họ đều uể oải, buồn ngủ.

Hàn Ấu Nương đang ngồi chống cằm, vừa vô tình ngẩng đầu, liền nhìn thấy Dương Lăng đang đi dọc theo hành lang quanh co tới, lập tức reo lên mừng rỡ:

- Tướng công về rồi!

Những người khác quay đầu lại thấy Dương Lăng, đều vui mừng đi tới đón. Dương Lăng lướt mắt, thấy chỉ có bốn người Ấu Nương, Trương Thị, Tô Tam và Tuyết Lý Mai, còn cô nương Cao Văn Lan thì không ở đây, bèn hỏi:

- Cao tiểu thư không có ở đây à?

Tuyết Lý Mai đáp:

- Chúng tôi đã mời nàng tới đây uống trà, nhưng Cao gia tiểu thư nói rằng nàng đã là nô lệ của quý phủ, đòi đứng một bên dùng lễ nữ tỳ mà hầu hạ. Ấu Nương tỷ tỷ thấy vậy không đành lòng, đành phải cho nàng ấy lui xuống rồi.

Ấu Nương vừa thấy tướng công mồ hôi đầy đầu, vội kéo y ngồi dưới hành lang, bảo:

- Tướng công, nhìn chàng chạy tới mồ hôi mồ kê kìa, uống chút trà giải khát trước đi. Văn Tâm tiểu thư bây giờ... bây giờ thế nào rồi?

Ấu Nương vừa nhắc tới vị tiểu thư Văn Tâm, mấy người con gái đều có chút khẩn trương, bốn cặp mắt đều không nhịn được mà dán vào người y. Dương Lăng nhìn quanh, thấy không có người ngoài, bèn nhỏ giọng nói:

- Đừng lo, Cao tiểu tỷ tạm thời vẫn không có chuyện gì, ta đã giao cho người của Giáo Phường ty chăm sóc rồi.

Bọn người Ấu Nương nghe xong lập tức thở phào nhẹ nhõm. Đại tẩu Trương Thị không nhịn được mà vỗ tay, vui mừng nói:

- Cám ơn trời đất, một vị cô nương tốt vô tội như vậy, may mà ông trời có mắt.

Dương Lăng thở dài nói:

- Các người đó, khâm phạm dễ cứu vậy sao? Hoàng thượng vẫn không tha thân phận khâm phạm của nàng đâu, ai dẫn nàng ta về nhà chính là tội lớn tịch thu tài sản và giết cả nhà đó!

Ấu Nương, Trương Thị đến từ nông thôn, Tô Tam và Tuyết Lý Mai cả ngày chỉ biết cầm kỳ thư họa, sao hiểu được thiệt hơn trong đó. Vừa nghe Dương Lăng nói thế, ai nấy đều biến sắc.

Tô Tam lo lắng nói:

- Việc này lại nghiêm trọng như vậy sao? Vậy... vậy có phải là vị cô nương đó không cứu được rồi không?

Dương Lăng lắc đầu nhè nhẹ, nói:

- Cũng không hẳn vậy. Thật ra tôi đã nghĩ ra một cách, nhưng vẫn chưa kịp nói với Hoàng thượng. Bây giờ Hoàng thượng muốn tới hoàng trang, đêm nay nhất định muốn dùng bữa ở nhà chúng ta. Dọc đường đi tôi đã nghĩ, nếu tối nay Ấu Nương cùng tôi đi gặp Hoàng thượng, nói không chừng sẽ có thể mã đáo thành công đó.

Ấu Nương ngạc nhiên hỏi:

- Gì cơ? Tướng công muốn thiếp đi gặp Hoàng đế?!

Dương Lăng gật đầu cười bảo:

- Theo tính tình của Hoàng thượng, nếu dùng biện pháp này, ta nắm chắc sáu thành có thể khiến Hoàng thượng tha cho Cao tiểu thư. Nếu... nàng xuất hiện trước mặt Hoàng thượng, sau đó lại làm ra vẻ bị bệnh, vậy ta nắm chắc ít nhất là chín thành. Có điều... ta lo nàng thấy Hoàng đế sợ quá không nói nên lời, nếu bị hắn nhìn ra sơ hở thì không hay đâu.

Hàn Ấu Nương nghe xong suy nghĩ một chút, rồi kiên quyết nói:

- Tướng công, cho dù thấy Hoàng đế... thấy Hoàng đế thiếp cũng không sợ, chàng nói cho thiếp biết phải làm như thế nào, thiếp nhất định sẽ làm được.

Dương Lăng an ủi:

- Nàng cũng đừng lo. Hoàng đế này không có chút dáng vẻ gì, dễ nói chuyện lắm, trước đây nàng đã từng gặp hắn rồi.

Hàn Ấu Nương giật mình thốt:

- Sao cơ? Thiếp đã gặp Hoàng thượng lúc nào?

Dương Lăng mỉm cười đáp:

- Còn nhớ lần chúng ta vừa tới kinh thành, lúc đó ta là Thị độc Đông cung không? Cái thằng nhóc to họng mà lúc thì gọi nàng là chị dâu (tẩu tử), lúc lại gọi nàng là Ấu Nương tỷ tỷ đó chính là đương kim Hoàng thượng.

* * *

Thần Cơ doanh nắm giữ hỏa khí, đám lính lác đều giỏi sử dụng súng hoả mai và pháo, bây giờ trong tay quan binh lại là một đống pháo hoa cỡ lớn do Ninh Vương ở Giang Tây tiến cống. Dương Lăng vừa về tới thôn, việc đầu tiên nghĩ đến chính là đề phòng cháy rừng, bởi vậy mới căn dặn Liễu Bưu vào núi tìm một nơi có ít cỏ cây.

Liễu Bưu trước tìm đám lính bảo vệ thôn hỏi rõ về hình dạng bề mặt mặt đất chung quanh. Dựa theo chỉ điểm của đám bảo vệ, chẳng mấy chốc đã tìm được một chỗ hẻm núi. Nơi đây cỏ cây thưa thớt, còn gần hơn một trăm cây cũng bị Liễu Bưu phái người chặt cành tước nhánh, chỉ còn lại thân cây trụi lủi.

Trời chập tối, Chính Đức dưới sự hộ vệ của đám Ngự Lâm quân tới Cao Lão trang. Đám đại hán tướng quân khiêng mười lăm cái rương đi theo sau. Ngoại trừ mười rương pháo hoa, không ngờ còn đem theo cả năm rương đèn.

Đến khi đại đội nhân mã đi dọc theo đường nhỏ trong núi, tới chỗ hẻm núi nọ, thì sắc trời đã tối đen. Dương Lăng thấy mang đến năm rương đèn màu, bèn sai người lấy hết ra, cột vào gần trăm thân cây đã được chặt trước đó. Đèn lồng trong năm cái rương đều do trúc tốt lụa đẹp chế thành, vừa được nhóm lên, lập tức liền như những đốm lửa nhỏ sáng rực đầy trời. Sơn cốc vốn hoang vu đen kịt lập tức tràn ngập một bầu không khí lãng mạn thần bí, khiến người ta ngỡ như đang đặt mình trong dải ngân hà.

Cảnh đêm mĩ lệ như vậy, không chỉ Chính Đức chưa bao giờ thấy, mà cả Lưu Cẩn, Cốc Đại Dụng cùng với đám quan binh theo đến đều cảm thấy vui vẻ thoải mái, yên lặng mà nhìn, như thể sợ sẽ quấy nhiễu tới bầu không khí thần tiên này.

Chợt nghe 'vút' một tiếng, cây pháo hoa đầu tiên được bắn lên không trung: lúc thì giống như cúc vàng tơ bạc nở rộ đầy trời, hồi lại như mưa sao sa, chốc lại như đèn hoa rực rỡ, sau lại như ngàn vạn con rồng lửa; màu bạc, màu đỏ tươi, xanh thẳm, màu vàng óng như liễu rủ xuống, muôn hồng nghìn tía, rực rỡ tươi đẹp vô cùng.

Dương Lăng đứng bên cạnh Chính Đức, ngước nhìn bầu trời đêm mỹ lệ lúc này đây đang làm cho người ta thất thần, trong lòng chỉ tiếc không mang theo Ấu Nương để cùng ngắm cảnh đẹp hiếm có này.

Thứ gì tươi đẹp rực rỡ luôn ngắn ngủi. Đống pháo hoa đã cần đến không biết bao nhiêu thợ thuyền khéo tay, hao phí không biết bao nhiêu ngân lượng mới chế tạo ra, rốt cục cũng đã hết. Trong sơn cốc tràn ngập mùi khói thuốc súng. Dương Lăng cố hít lấy mùi thuốc súng cay nồng, trong lòng âm thầm thề rằng, sang năm trước khi rời khỏi nhân thế, nhất định cũng phải để Ấu Nương được một lần thưởng thức pháo hoa mỹ lệ như vậy. Cảnh sắc ấy nhất định phải hoành tráng hơn, không khí càng lãng mạn hơn, để trong tim Ấu Nương mãi mãi giữ lại một giấc mơ lãng mạn.

Đến khi bước vào Uy Vũ Bá phủ, Hoàng đế Chính Đức vẫn còn hưng phấn mãi. Đối với một tiểu hài tử ở lâu trong chốn thâm cung, cảnh sắc như vậy là vô cùng lãng mạn, thật sự là một sức hút không thể cưỡng nổi, đến mức đã vào tiệc rượu thịnh soạn mà hắn vẫn hào hứng bàn về những cây pháo hoa đó không thôi.

Hoàng đế lão tử không ăn cơm, người khác sao dám động đũa? Mọi người đành phải cùng nhau nhịn cả. Chính Đức hưng phấn hồi lâu, mới quay sang nói với Dương Lăng:

- Dương Lăng, Ấu Nương tỷ... Khục khục, phu nhân của khanh đâu? Sao trẫm không thấy?

Dương Lăng mừng thầm, vội vàng đứng dậy thưa:

- Hồi bẩm Hoàng thượng, từ khi vợ thần biết Hoàng thượng muốn đến, cũng rất vui mừng. Nhưng nàng là phụ nữ, không tiện ra gặp người.

Chính Đức khoát tay bảo:

- Đâu ra mấy cái quy củ này vậy, kêu nàng ra gặp mặt chút đi. Ha ha, sớm biết chơi vui như vậy, khanh nên đưa nàng cùng đi mới đúng. Được rồi, khanh vẫn chưa nói ra thân phận ta với nàng đó chứ?

Dương Lăng vội đáp:

- Hoàng thượng đã từng căn dặn, thần nào dám trái lời? Nàng còn chưa biết Hoàng thượng chính là vị tiểu công tử kia.

Chính Đức mừng rỡ, dường như lại tìm được trò vui, liền vội vàng nói:

- Bảo nàng ra đây. Ha ha, chắc hẳn vừa thấy trẫm, nàng nhất định sẽ sợ đến giật mình.

Lúc Ấu Nương đi ra, cả Dương Lăng, Chính Đức, và Hàn Ấu Nương đều giật mình. Ấu Nương là cố ý giả vẻ khiếp sợ, song tuy rằng đã biết vị Hoàng đế này chính là tiểu công tử lúc trước gặp qua, tâm tình của nàng vẫn thập phần căng thẳng. Tuy là làm ra vẻ, nhưng cũng phải thực tới bảy tám phần.

Dương Lăng và Chính Đức thì lại giật bắn cả người. Tuy rằng Dương Lăng muốn nàng cải trang như là ốm lâu trên giường, nhưng cũng không ngờ Hàn Ấu Nương lại làm ra hình dạng này. Đầu tóc rối bù, mặt vàng như nghệ, giống như người bệnh nặng vừa mới rời khỏi giường.

Chính Đức nhìn thấy bộ dáng của nàng thì không khỏi cả kinh, chỉ vào nàng lắp bắp nói:

- Ngươi... ngươi... sao lại có bộ dáng như vậy?

Hàn Ấu Nương căng thẳng sờ mặt, cũng không biết mấy thứ Tô Tam tô vẽ có bị người ta nhìn ra sơ hở không.

Dương Lăng thấy Ấu Nương hãy còn hơi căng thẳng, vội đáp thay:

- Hoàng thượng, từ sau cơn bệnh nặng lần trước, vợ thần vẫn chưa khỏi hẳn. Thân thể càng ngày càng yếu, vi thần thật sự là... Chà! Bệnh này của nàng nếu có lang trung bên cạnh hầu hạ, từ từ điều dưỡng thì đã tốt rồi, nhưng mà... a hèm!

Chính Đức không cho là đúng, nói:

- Vậy khanh cứ tìm lang trung tốt đi, chẳng lẽ đến cả một lang trung khanh cũng không mời nổi à?

Dương Lăng mặt mày ủ ê giãi bày:

- Hoàng thượng có điều không biết, vợ thần bị là bệnh của đàn bà, huống chi còn phải luôn có người kề bên hầu hạ, nam nhân thật sự không tiện. Thần tìm tới tìm lui mà không tìm thấy một lang trung nào thích hợp, sau đó vất vả lắm mới tìm tới được một lang trung, chẳng những y thuật cao siêu, hơn nữa lại là nữ tử, thật sự là nhân tuyển thích hợp nhất. Nhưng mà nàng ta... a hèm! Thôi không nói tới nữa!

Chính Đức nghe mà không hiểu đầu cua tai nheo ra sao, bèn hỏi:

- Đã tìm được lang trung thích hợp, tại sao không đưa nàng đến chẩn đoán và điều trị? Khanh còn có nỗi niềm gì khó nói chăng?

Lưu Cẩn liếc Dương Lăng một cái, rồi vội tới trước mặt Chính Đức nhẹ nhàng ôn tồn bẩm:

- Hoàng thượng, Dương đại nhân thà để phu nhân bệnh, cũng không dám tìm nữ lang trung đó, thật sự là bởi vì... vị nữ lang trung đó là con gái của Cao Đình Hòa.

Chính Đức nghe vậy ngẩn ra, hồi lâu mới ngạc nhiên hỏi:

- Cao Đình Hòa? Cao Đình Hòa là ai? Con gái hắn giỏi lắm ư? Đã làm lang trung, tại sao lại không thể chữa cho Ấu Nương tỷ... Dương phu nhân chứ?

Lưu Cẩn nghe thế thiếu chút nữa thì sung huyết não. Lão vội hít mạnh vài hơi, rồi mới bày ra vẻ mặt quái dị đáp:

- Hoàng thượng, Cao Đình Hòa chính là... chính là thái y đã chẩn đoán và chữa bệnh cho tiên đế.

Sắc mặt Chính Đức lập tức trầm xuống. Hắn nhìn Dương Lăng và cơ thể bệnh hoạn gầy yếu của Hàn Ấu Nương, im lặng hồi lâu rồi mới chậm rãi hỏi:

- Là con gái hắn à? Trẫm nhớ hình như con gái hắn cũng bị trừng phạt, nữ tử đó bây giờ đang ở đâu?

Lưu Cẩn vội đáp:

- Hồi bẩm Hoàng thượng, Cao thái y không làm tròn bổn phận, chẩn đoán sai lầm nên đã bị chém đầu. Con gái hắn... bộ Hình đã phán ả sung vào Giáo Phường ty, trọn đời làm nô lệ.

- Hả? Giáo Phường Ty?

Chính Đức đương nhiên là biết đến nha môn này, nhưng chưa có ai nói với hắn về việc ngoại trừ mấy thứ ca nhạc cung đình thì Giáo Phường ty còn có cái gì.

Hắn không khỏi lấy làm kỳ quái hỏi:

- Đưa vào Giáo Phường ty làm nô lệ? Làm những gì ở trong đó?

Lưu Cẩn cười bồi, đáp:

- Chính là hầu rượu, nhảy múa, mua vui cho đám nam nhân.

Lưu Cẩn nói rất khéo, câu này thực chẳng hề có sơ hở nào. Đầu tiên là Giáo Phường ty đích xác có loại nhạc kỹ này, ai biết Giáo Phường ty có phải là an bài cho Cao tiểu thư làm việc này hay không, hay là làm một việc khác hèn hạ hơn. Nếu thật có người bới móc câu chữ, chỉ cần nói một câu là 'Hoàng thượng còn nhỏ, không nên làm bẩn tai vua' thì cũng đủ để đối phó rồi.

Chính Đức nghe xong quả nhiên rất bất mãn, bỏ qua vấn đề về 'tiết tháo kiên trinh' mà hắn vẫn chưa thể hiểu được, loại trừng phạt này khiến hắn có cảm giác như không phải là trừng phạt. Làm loại nô tỳ này sướng quá đi, đây là làm nô lệ hay là hưởng phúc thế?

Chính Đức vung tay áo tỏ vẻ không vui, nói:

- Lão hồ đồ Hồng Chung này, đây mà là trừng phạt gì chứ? Lưu Cẩn, ngày mai ngươi tới Giáo Phường ty, truyền khẩu dụ của trẫm, điều ả Cao... gì gì đó tới Uy Vũ Bá phủ làm nô lệ, chuyên trách chẩn bệnh cho Dương phu nhân!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 95: Thư của cử nhân

Sáng sớm hôm sau, nữ thần y Cao Văn Tâm tiểu thư thoát khỏi nhạc tịch*, được một chiếc kiệu nhỏ lặng lẽ đưa ra khỏi thành.

(*: chỉ thân phận kỹ nữ)

Buổi trưa, thượng thư bộ Lễ Vương Quỳnh được hoàng đế ân chỉ thả ra khỏi ngục. Vương thượng thư tóc bạc trắng vừa ra khỏi đại ngục của bộ Hình liền được đám quan viên chạy tới vây đón hỏi han ân cần như một anh hùng chiến thắng trở về. Phong thái ấy (của lão) thật là oanh liệt. Hơn phân nửa số quan viên trong triều đã kéo tới đây. Ba vị đại học sĩ mặc dù không tiện lộ diện song cũng sai người tới chúc mừng.

Phủ Thượng thư bày ra đại yến, một đám quan viên có tài văn chương không khỏi chia vần đấu thơ nghênh đón chúc mừng một phen. Rượu uống chưa mềm môi, Vương Quỳnh đã giơ cao chén, bước ra giữa đại sảnh, vòng tay nói:

- Các vị đồng liêu hảo hữu, Vương Quỳnh xúc phạm thiên nhan, bị giam vào ngục. Nhờ có các vị hảo hữu tìm mọi cách giúp đỡ, Vương mỗ mới thoát khỏi ngục tù. Vương mỗ thật sự phải đa tạ các vị. Chén rượu này, lão phu xin kính mọi người!

Vương Quỳnh dứt lời, lập tức giơ cao chén uống cạn một hơi. Lão tuy bày rượu thết đãi đáp tạ các vị đồng liêu ở nhà, song vẫn nghiêm túc tuân thủ lễ nghi: một thân quần áo hiếu (tang) phục cho tiên đế, râu trắng tóc bạc, mặt ngời chính khí. Những quan viên đến đây chúc mừng thấy thượng thư kính rượu, lần lượt đứng dậy đáp lễ.

Thượng thư bộ Lại Mã Văn Thăng cười đáp:

- Vương thượng thư phẩm đức văn chương đứng đầu, thiên hạ kính ngưỡng, thân là thượng thư bộ Lễ lại càng tận chức tận lực. Ngày ấy vì khuyên can hoàng thượng giữ lễ, nhất thời kích động phẫn nộ mà xúc phạm tới thánh giá, vốn cũng không phải là chuyện lớn gì. Cho dù chúng tôi không dâng thư xin miễn tội, hoàng thượng cũng nhất định sẽ xá tội cho đại nhân.

Vương Quỳnh nghe thiên quan* bộ Lại khen ngợi như thế, không khỏi cười vui vẻ, trở về chỗ ngồi rồi nói:

- Mã thượng thư quá khen, thượng quốc như Hoa Hạ của chúng ta là lễ nghĩa chi bang, thực lễ chi quốc, thánh nhân sáng lập ra ngũ lễ, chúng ta phải hiểu lễ, học lễ, thủ lễ, trọng lễ. Đây là đại sự cai trị quốc gia, ổn định xã tắc, trật tự nhân dân, lợi cho con cháu. Thân là thần tử há có thể thấy vua phạm lỗi mà không nói? Nhưng có thể khuyên được hoàng thượng thủ lễ, đừng nói là ngồi tù, cho dù phải mất mạng thì đã sao?

(*: chỉ thượng thư bộ Lại)

Vương Ngao gật đầu lia lịa khen hay:

- Thánh nhân dùng lễ để soi sáng cái đức, dùng lễ để kính trọng cái đức. Có câu người mà không có lễ thì không thể sống, việc mà không có lễ thì không thành, quốc gia mà không có lễ thì không yên. Đại nhân mạo phạm thiên nhan trực ngôn can gián có thể nói là gương tốt cho bá quan. Chúng tôi dâng sớ xin thánh thượng tha tội, ấy chính là bổn phận.

Hữu đô ngự sử, thị lang bộ Binh, tổng đốc quân vụ Tuyên Hoá, Đại Đồng và Sơn Tây là Lưu Vũ Lưu đại nhân nghe vậy chợt nói:

- Theo hạ quan biết, sáng nay thống lĩnh thân quân thị vệ Dương Lăng Dương đại nhân từng xin hoàng thượng tha cho đại nhân. Y là người tâm phúc của hoàng thượng, nói không chừng lần này đại nhân được ra ngục, người góp sức nhiều nhất chính là Dương đại nhân đó.

Vương Quỳnh nghe xong phật ý không vui, cười lạnh:

- Một thằng oắt con, ỷ là cựu thần Đông cung, mới có thể ra vào triều đường. Hắn thì biết gì? Hừ! Lúc lão phu khuyên nhủ hoàng thượng quay về điện để túc trực bên linh cữu, chính hắn đã buông lời gièm pha ngăn cản. Lão phu tức giận mới lấy nghiên mực ném hắn. Sao hắn lại có thể cầu xin cho lão phu?

Dương Phương nghe vậy thưa:

- Chuyện Dương Lăng góp lời cầu xin cho Thượng thư đại nhân quả thật là có. Nhưng... theo bản quan thấy, nhất định là hắn thấy lúc Thượng thư đại nhân vào tù, mọi người ản đối, bá quan phẫn nộ, để tránh cho mình khỏi trở thành mục tiêu công kích, mới làm bộ làm tịch như vậy!

Thị lang bộ Hình Triệu Giản Chi vỗ đùi đánh đét:

- Đúng vậy, lão đại nhân ở trong ngục mấy ngày nay chắc hẳn còn chưa biết, tên Dương Lăng đó còn dâng lời với hoàng thượng, bảo quan viên ở những tỉnh giàu có trong thiên hạ không được nhậm chức tại tỉnh nhà, lấy cái tên mỹ miều là "phòng ngừa tham ô". Bây giờ loạn đến rối tinh rối mù cả lên.

- Cái gì?

Vương Quỳnh giận run người:

- Đạo trị thế, không dùng pháp lệnh để ép buộc, mà lấy giáo hoá làm đầu. Nếu muốn phòng tham ô, phải nói về lễ nhạc, chính bản thân phải thực hiện, phổ biến giáo hoá, tuân thủ phong tục. Thay vì dùng chế độ phòng tham ô, chi bằng lấy đạo đức để giáo hoá? Làm vậy chẳng phải là bỏ gốc lấy ngọn sao?

Thượng thư bộ Công Từ Quán nhìn thấy quan viên chung quanh bàn luận về chính sách mới do Dương Lăng đề ra, phần lớn đều không tán thành, trong lòng bèn mừng thầm, mỉm cười:

- Vương thượng thư nói đúng. Dùng pháp lệnh để cấm đoán chỉ là giải pháp nhất thời, mà giáo hoá mới là biện pháp lâu dài. Những việc trị nước này, vẻn vẹn một tên tú tài đồng tiến sĩ xuất thân như hắn có thể hiểu được sao?

Thị lang bộ Lại Tiêu Phương vốn là bộ hạ cũ của Vương Quỳnh khi còn nhậm chức ở bộ Lại, vì mặt mũi nên không thể không tới chúc mừng. Nhưng lão là người bụng dạ hẹp hòi, Vương Quỳnh vì tư tâm mà từng chèn ép lão, Tiêu Phương vẫn luôn luôn canh cánh trong lòng. Lúc này thờ ơ quan sát, thấy bọn họ đa số mang lòng đố kị với sự thăng tiến nhanh chóng của Dương Lăng, người được tân đế tin tưởng, thì trong lòng không khỏi thầm cười nhạt, lặng lẽ tự tính kế riêng của mình

Thượng thư bộ Binh Lưu Đại Hạ cau đôi mày trắng nói:

- Ừm, lão phu cũng thấy tiểu tử đó gây chuyện hơi quá đáng. Hôm qua Hoàng Thượng đột nhiên xuất cung đến hoàng trang ở tây giao, đêm đến màu sắc ngập trời trong sơn cốc tây giao, mà Thần Cơ doanh Tả Tiêu Quân phụng thánh dụ đóng quân ở nơi đó. Hôm nay trên triều, lão phu đã hỏi về việc đêm qua, hoàng thượng lại nói là quan khán diễn võ ban đêm. Theo lão phu thấy, hắc hắc...

Lưu Đại Hạ nói tới đây không nói nữa, chỉ không ngừng lắc đầu.

Vương Cảnh Long và mấy tên bạn tri giao của hắn đang ngồi chung một mâm ở phòng bên, nghe được bọn họ nói chuyện, Triệu Ung bèn cười đáp:

- Các vị, đã nghe chưa? Lúc này có nhiều bá quan trong triều đang rất bất mãn với tên gian nịnh đó. Chỉ là đáng tiếc không nắm được chứng cứ phạm pháp của hắn. Nếu chúng ta có thể lập được kỳ công này, chẳng phải sẽ sảng khoái lắm sao?

Dương Lâm lắc đầu nói:

- Khó, bá quan trong triều ai mà không tai mắt thông tỏ? Nếu hắn có gì, sớm đã bị người nắm thóp rồi.

Triệu Ung cười lạnh nói:

- Dương lão đệ, kẻ làm đại sự không câu nệ tiểu tiết. Dương Lăng gian trá giảo hoạt, làm việc cẩn thận, mới khiến người ta không nắm được nhược điểm của hắn. Tìm không được nhược điểm, chẳng lẽ chúng ta không thể tạo cho hắn một cái sao?

Vương Cảnh Long nghe xong ngạc nhiên hỏi:

- Phải làm sao mới tạo được đây? Hay là Triệu huynh có diệu kế gì? Nếu như có bằng chứng thật thì được.

Đoạn hắn thấp giọng nói:

- Nhưng ngụy tạo chứng cớ hãm hại đại thần là tội lớn đó.

Triệu Ung cười lạnh một tiếng:

- Thuận Khanh, nếu không phải vì Dương Lăng chọc giận lệnh tôn, lão đại nhân sao lại nổi giận mà kinh động thánh giá chứ? Lão nhân gia tuổi quá thất tuần, còn phải chịu cảnh lao ngục, thân là con, thù này nếu không báo, thật uổng phận làm nam tử hán hiên ngang rồi.

Vương Cảnh Long bị hắn khích đỏ bừng mặt, vội vã chống chế:

- Tiểu đệ sao lại không muốn trả thù cho gia phụ? Có điều nếu không có bằng chứng thật thì sẽ không thể làm gì được hắn đâu!

Triệu Ung cười ngạo nghễ nói:

- Biện pháp không phải là do người nghĩ ra sao? Hai ngày trước đệ từng tới Dương phủ nhờ Dương Lăng giúp cho thế bá, hôm nay mượn cái cớ này đến nhà tạ ơn, chủ động giao du với hắn. Hừ, đợi sau khi kết thân với hắn rồi, chúng ta sẽ tùy cơ mà hành sự.

Nói đoạn hắn thấp giọng thì thầm:

- Thậm chí nếu như thật sự không tìm thấy gì, vậy cứ tạo dựng vài tang chứng đổ tội cho hắn. Đến lúc đó nắm được thóp hắn, bá quan hạch tội, còn không đánh đổ được hắn sao? Chỉ cần làm khéo, hắn có chứng cớ gì mà nói là chúng ta vu oan giá họa chứ?

Cha của Triệu Ung là thị lang bộ Lại, thủ đoạn trị người của nha môn này ít nhiều hắn cũng từng nghe qua một chút. Thật ra Triệu Ung không có ân oán gì với Dương Lăng, chỉ là sớm nghe cha và thúc bá bề trên rất bất mãn với Dương Lăng, cho rằng hắn không phải là quan tốt, nên muốn làm anh hùng trượng nghĩa trừ gian.

Vương Cảnh Long nghe xong, thoạt lấy làm mừng, nhưng suy nghĩ một chút thì lại khó xử nói:

- Nhưng... ngày mai Dương Lăng đã đi đôn đốc kiến tạo đế lăng, chẳng lẽ ta phải đuổi theo tới đế lăng hay sao?

Triệu Ung vừa mới nghĩ ra một trọng tội đủ để khiến cho Dương Lăng 'rơi đài', vừa nghe vậy thì càng mừng rỡ, không khỏi hớn hở đáp:

- Hay lắm, hắn không có ở nhà, trong phủ chỉ còn lại một đám nữ quyến không kiến thức, càng tiện bề cho chúng ta hành động.

Vương Cảnh Long trợn mắt, tức giận hỏi:

- Triệu huynh, Dương phủ chỉ còn một đám nữ quyến, ta làm sao có thể đến nhà thăm viếng được?

Nghe nói thế, Triệu Ung cũng ngớ ra. Dương Lâm lại cười khà khà trả lời:

- Tiểu đệ đã có biện pháp rồi. Hôm nay không phải Hoàng Thượng đã xóa bỏ thân phận nhạc tịch cho con gái của phạm quan Cao Đình Hòa, giáng vào nhà họ Dương làm nô lệ sao? Tẩu phu nhân bị bệnh triền miên, mãi vẫn chưa tìm được lương y. Vậy Vương huynh có thể đi tới Dương phủ đáp tạ một phen, sau đó đề cập tới việc chẩn trị bệnh. Thiết nghĩ không lý nào Dương Lăng không đồng ý. Như vậy cho dù khi hắn không có ở nhà, chẳng phải là Vương huynh vẫn có thể quang minh chính đại vào nhà sao?

Triệu Ung nghe vậy cả mừng, khen rằng:

- Đúng vậy, kế này thật tuyệt. Thuận Khanh cứ theo kế mà làm, đợi khi nắm rõ nội tình trong nhà họ Dương, chúng ta sẽ từ từ mưu tính!

Vương Cảnh Long nghe xong cũng không khỏi động lòng. Chẳng biết vì sao, trong tâm trí hắn đột nhiên hiện lên hình bóng của hai nữ tỳ xinh đẹp động lòng người.

* * *

Ánh nắng rọi xuống hoa viên mang đầy vẻ phong nhã theo phong cách Giang Nam của Cao phủ, xinh tươi và rực rỡ, rồi chiếu lên cánh cửa đá đã bị rêu xanh phủ màu xanhc. Mỗi khi nghe có tiếng chân nhè nhẹ vang lên, đám cá vàng cá đỏ đang tung tăng bơi lội trong ao dưới bóng râm của hành lang cửu khúc đổ xuống vội lủi trốn vào trong những khóm rong.

Vô số những dây hoa tử đằng trên hòn giả sơn rũ xuống, thả lơ lửng trên ao, trông như một tấm rèm tuyệt đẹp, kéo dài tới những cây cột trên hành lang quanh co, che khuất ánh mặt trời, chỉ còn lại vô số tia nắng loang lổ xuyên qua những kẽ lá.

Cảnh sắc yên tĩnh ưu mỹ như vậy, nhưng Dương Lăng lại hoàn toàn không có lòng để thưởng thức. Đêm qua y hộ tống hoàng đế Chính Đức hồi kinh, buổi sáng phái thân binh theo Lưu Cẩn đến Giáo Phường ty truyền thánh dụ, hộ tống tiểu thư nhà họ Cao về, rồi lại phụng mệnh ở lại trong cung.

Dương Lăng còn tưởng rằng tiểu hoàng đế lại nghĩ ra trò chơi gì đó, muốn sai y đi làm. Không ngờ sau khi bãi triều, hoàng đế Chính Đức lại muốn y ngày mai tức khắc đi đến Thái Lăng vì nhiều đại thần trong triều bất mãn với việc y cứ lần lữa trong kinh thành, không chịu phụng chỉ làm việc. Dương Lăng bắt buộc phải đáp ứng.

Thân phận và địa vị hôm nay đã khiến y thỏa mãn rồi, cũng không mong mỏi thêm tiếng tăm chi. Y chỉ mong có thể dành nhiều thời gian hơn bầu bạn với Ấu Nương. Nhưng đã dấn thân vào trong giang hồ cuộc sống đã không còn do mình định đoạt nữa. Y không phải là công tử vương hầu, sinh ra đã được ngậm thìa vàng bát bạc. Muốn có được cuộc sống không lo không nghĩ thì phải xắn tay làm khi có việc. Có điều để hoàn tất công trình Thái Lăng ít nhất cũng phải bốn tháng mà hắn còn được bao nhiêu cái bốn tháng để lãng phí đây?

Dương Lăng ôm bầu tâm sự, chậm rãi đi về phía trước. Đang cảm thấy khó mà mở miệng nói việc mình sẽ rời nhà với Ấu Nương, đột nhiên nghe thấy tiếng đàn khoan thai réo rắt vang lên. Y biết đó là Tuyết Lý Mai đang đánh đàn. Dừng cước bộ lại lắng nghe một chút, trong lòng lại càng buồn hơn, Dương Lăng không khỏi thở dài, rồi tiếp tục đi về phía trước.

Trong hành lang đá thấp thoáng những hàng lá xanh, vừa vào đã có cảm giác u nhã mát mẻ. Dương Lăng vừa rẽ qua một góc, chợt thấy sau khúc quanh lộ ra một mái đình nhỏ hình lá sen được xây trồi trên mặt nước Mái đình xanh biếc, bốn cột làm bằng gỗ, toát lên vẻ cổ kính.

Dưới đình ao nước dập dờn, trên đình có một người con gái xinh đẹp đang ngồi dựa vào lan can. Nàng mặc một bộ đồ xanh, hai tay vịn vào lan can, cằm tựa lên tay, mặt soi bóng nước, mái tóc đen huyền như mực, trên trán quấn một tấm băng trắng.

Dương Lăng tự nhiên đi chậm lại. Thiếu nữ áo xanh nghe tiếng bước chân liền quay đầu nhìn. Dương Lăng thấy hình như mình chưa gặp người thiếu nữ này bao giờ, bất giác ngẩn người ra.

Thiếu nữ đó vừa quay đầu nhìn thấy y, liền vội vàng đứng dậy bước tới, yêu kiều sụp người vái chào:

- Văn Tâm chờ đại nhân đã lâu. Đại ân đại đức của đại nhân tiểu tỳ suốt cuộc đời này cũng không thể nào báo đáp được. Xin đại nhân nhận một lạy này của tiểu tỳ!

Vừa nói nàng vừa quì gối dập đầu lạy ba cái.

Dương Lăng nghe vậy tức thì tỉnh ngộ. Thì ra thiếu nữ này chính là vị nữ thần y mà mình cứu về. Y vội vàng đỡ nhẹ rồi nói:

- Xin tiểu thư hãy đứng lên, đừng xưng hô như thế. Dương Lăng thật sự rất hổ thẹn vì không thể thuyết phục Hoàng Thượng miễn xá cho cô. Nhưng thân phận nô lệ lúc này chỉ để ngụy trang ứng phó với người ngoài mà thôi. Nữ thần y danh tiếng khắp kinh sư, Dương Lăng tuyệt đối không dám đối đãi như tỳ nữ đâu.

Dương Lăng vừa nói, vừa quan sát nàng. Đêm qua trán nàng chảy máu, mặt đầy những vệt nước mắt, tóc tai bù xù, mặt mày đỏ bừng. Buổi sáng khi thức dậy cũng trông rất khó coi, lúc này trang điểm lên thực sự dễ coi hơn nhiều.

Ngũ quan nàng không phải là tuyệt mỹ, không đáng yêu như Ấu Nương, lại không quyến rũ như Liên Nhi. Nhưng đoan trang thanh khiết, khắp người từ trong ra ngoài đều khiến cho người ta có một cảm giác không nhiễm bụi trần. Vẻ tao nhã này, không phải chỉ dựa vào tướng mạo là có thể có được.

Cao Văn Tâm nhẹ nhàng đứng dậy, thấp giọng thưa:

- Cao gia gặp phải nguy nan, tiểu tỳ nhà tan cửa nát, nay đã là người tứ cố vô thân. Đại nhân đã cứu tiểu tỳ, ân đức ấy tựa như núi cao biển rộng. Huống chi thánh chỉ dễ sửa như vậy sao? Đại nhân có thể làm tới mức này, đã là kết cục mà tiểu tỳ mơ cũng không dám mơ tới rồi. Tiểu tỳ cũng không dám có suy nghĩ dại dột gì nữa, chỉ muốn làm một tiểu tỳ trong Dương phủ. Ba chữ Cao Văn Tâm này, từ nay không nhắc tới nữa cũng được.

Đêm qua lúc Dương Lăng gặp nàng, thiếu nữ này cũng như một nữ tử tầm thường: hốt hoảng, thất thố, kinh hãi, tuyệt vọng. Không ngờ bây giờ vẻ mặt lại trầm tĩnh như nước, lời lẽ tự nhiên phóng khoáng, hoàn toàn khác hẳn với đêm qua.

Dương Lăng nghe nàng nói như thế, trong lòng không khỏi thầm kêu khổ. Trong nhà có một Ngọc Đường Xuân, một Tuyết Lý Mai với thân phận không rõ ràng đã khó xử lắm rồi. Nếu lại thêm một vị nữ thần y nữa vào đây, vậy hậu hoa viên nhà họ Dương thật quá náo nhiệt rồi.

Dương Lăng vội đáp:

- Đây chỉ là một thân phận hờ mà thôi, tiểu thư hà tất để ý. Tôi biết tiểu thư đã hứa gả cho công tử của Lý viên ngoại ở lân thôn. Chút nữa tôi sẽ cử người đi tới thông báo với Lý công tử một tiếng, sớm ngày đón cô về thành hôn

Khóe miệng Cao Văn Tâm lộ ra vẻ như mỉa mai, lại như tự giễu, lạnh nhạt thưa:

- Đại nhân, nhà Lý công tử là dòng dõi thư hương, quan lại thế gia. Y lại đường đường là cử nhân Đại nhân cho rằng y sẽ cưới một đứa con gái phạm quan, một nữ nhân đã từng ở Giáo Phường ty sao?

Nói tới đây, ánh mắt vốn bình tĩnh của nàng đột nhiên nhòa đi, đau đớn nhìn Dương Lăng. Dương Lăng chợt nghẹn lời, né tránh ánh mắt nàng rồi nói:

- Tiểu thư thuộc giới nữ lưu, tai bay vạ gió từ trên trời giáng xuống, sao cô có sức kháng cự đây? Phàm là người có vài phần thiện lương, ai mà nhẫn tâm trách móc nặng nề cô chứ? Như vậy đi, tôi lập tức soạn một phong thư, sai người đưa tới Lý phủ.

Cao Văn Tâm vừa mở miệng, còn chưa kịp nói gì thì Dương Lăng đã xoay người vội vã đi luôn. Cao Văn Tâm ngơ ngác đứng lặng hồi lâu, rồi mới buồn bã thở dài:

- Thế sự ấm lạnh, tình người như sương khói. Văn Tâm đến nông nỗi này đã khổ lắm rồi. Dương đại nhân, tội gì người lại đa sự, khiến ta phải xấu hổ thêm?

Dương Lăng không nghĩ tới việc cứu người xong còn phải giải quyết một đống chuyện rắc rối. Bây giờ nơi y ở chính là nhà của Cao gia. Dù cho Cao Văn Tâm là tiểu thư hay nha đầu, để ở đây cũng đều không thích hợp lắm.

Kỳ thật trong lòng y cũng thấp thỏm không yên, không biết vị Lý cử nhân kia có quan tâm tới việc Cao gia gặp nạn, có quan tâm tới Cao tiểu tỷ từng bị đưa vào Giáo Phường ty không? Bây giờ y cũng là hết nước đành liều đường, chỉ hy vọng có thể dựa vào thân phận và uy tín của mình, viết một phong thư giải thích những gì đã trải qua, để vị cử nhân lão gia đó tin tưởng mà thôi.

Dương Lăng trở vào thư phòng, viết gấp một phong thư, rồi giao cho lão quản gia, bảo lão lập tức tới Lý phủ một chuyến. Lão quản gia cả đời ở nhà họ Cao, tuy rằng hôm nay Cao gia mắc nạn, nhưng lão vẫn còn rất nhiều cảm tình với chủ cũ, vừa nghe Dương đại nhân muốn tác hợp cho tiểu thư cùng Lý gia, lập tức cầm lấy bức thư phấn khởi chạy tới thôn Lý gia.

Dương Lăng vừa mới sai quản gia đi, Vương Cảnh Long đã đem tứ sắc lễ đăng môn bái phỏng. Dương Lăng thấy lần trước y cố nén giận ôm hận, ra vẻ mềm mỏng xuống nước nhờ vả, tưởng rằng một khi Vương Quỳnh ra tù, vị Vương công tử này cũng sẽ không đến nhà nữa. Không ngờ Vương thượng thư vừa mới được phóng thích, y đã tới tỏ lời cảm ơn.

Vương Cảnh Long có lòng 'kết giao', nên không còn vác bộ mặt tức giận nhưng không dám nói ra như lần trước tới nữa. Vẻ mặt và động tác lần này đã tự nhiên hơn nhiều,. Dương Lăng cũng không muốn kết thù với Vương thượng thư vốn có môn sinh bạn cũ khắp thiên hạ, thấy vị Vương tam công tử thập phần nhiệt tình, y cũng không dám thất lễ, bèn vội dâng trà đãi khách. Chuyện trò không vui không nhạt cả buổi, Vương Cảnh Long mới chuyển đề tài, nói rằng muốn đem thê tử đến đây, xin vị nữ thần y nhà họ Dương khám và chữa bệnh cho nàng.

Dương Lăng tưởng rằng y vì nguyên do này mới thay đổi thái độ từ ngạo mạn chuyển sang cung kính, vì vậy thái độ vốn mang theo vài phần đề phòng ban đầu lúc này cũng lập tức được giải trừ.

Y tính toán một chút. Nếu công tử nhà họ Lý đọc xong thư của mình mà chịu tiếp nhận Cao tiểu thư, thì để việc Ấu Nương bị bệnh không bị người ta vạch trần, mình vẫn phải thường xuyên mời Cao tiểu thư tới phủ. Ấu Nương vốn không có bệnh, việc này chỉ là thuận nước giong thuyền, thế nên y không ngại mà lập tức đồng ý luôn với Vương Cảnh Long.

Vương Cảnh Long lại đàm đạo một hồi, thấy hôm nay Dương Lăng tiếp khách, trong phòng chỉ có bốn gã gia nhân hầu hạ, không gọi hai người tỳ nữ xinh đẹp mà lần trước mình gặp ra, biết rằng hôm nay không có duyên được gặp, thế là đành thất vọng cáo từ ra về.

Dương Lăng tiễn Vương Cảnh Long xong, trở lại thư phòng ngồi một chút. Khoảng thời gian hai chén trà sau, lão quản gia đã vội vã chạy về, Dương Lăng trông thấy cả mừng, vội vàng đón lão vào nhà hỏi:

- Lão quản gia, đã đưa thư rồi à? Công tử họ Lý nói sao?

Lão quản gia tức giận đến mặt đỏ bừng bừng, căm phẫn thưa:

- Lão gia, tiểu nhân cầm thư của người chạy tới phủ Lý viên ngoại. Nào ngờ nhà họ Lý cứ như tránh ôn thần ấy, đến cả cửa cũng không cho lão nô vào, chỉ bảo lão nô nhét thư vào khe cửa. Lão nô đợi nửa canh giờ, công tử Lý gia mới viết một phong thư, lại nhét vào khe cửa chuyển ra, từ đầu đến cuối ngay cả mặt cũng không thấy.

Dương Lăng nghe lão quản gia nói xong, lòng không khỏi trầm xuống. Y vội lấy phong thư hồi âm của Lý công tử, mở ra đọc kỹ. Phong thư này là một phong thư theo thể văn ngôn điển hình, lời văn cao siêu, nội dung sâu xa, khiến vị "tú tài dỏm" đọc bức thư văn nhã tỉa tót của gã cử nhân thật đó vất vả vô cùng.

Dương Lăng xem từng chữ cả một buổi, mới đại khái hiểu được nội dung bức thư. Thư của vị Lý công tử này tuyệt không hề đề cập tới việc nhà họ Cao gặp nạn, cũng không đề cập tới chuyện Cao tiểu thư bị đưa vào Giáo Phường ty. Trong thư, đầu tiên là nói về lễ nghĩa liêm sỉ mà một nữ tử phải tuân thủ, sau đó lại tự hào kể về sự tích làm quan vinh quang chói lọi của nhà họ Lý từ thời Ngũ Đại đến nay. Cuối cùng rất khách khí hỏi một câu rằng: đại nhân muốn cử nhân như ta đây làm phu quân của tỳ nữ nhà ngươi sao?

Dương Lăng xem xong, lập tức nghẹn họng. Trong lúc y đang ngẩn người, Hàn Ấu Nương khấp khởi chạy vào, hỏi:

- Tướng công, sáng nay thiếp làm canh mơ chua hiện đang ướp lạnh dưới giếng, chàng có muốn uống một chén không?

Dương Lăng lau mồi hôi đáp:

- Ừm... Ấu Nương à, lấy cho ta chăn nệm chiếu gối. Đêm nay tướng công sẽ không về hậu viện nữa, mà sẽ ngủ trong thư phòng này.

Chú thích:

"thực lễ" là lễ nghi về ẩm thực. Lễ nghi về ẩm thực là những quy tắc chuẩn mực đạo đức và xã hội trong sinh hoạt ăn uống mà mọi người phải tuân thủ.

"Ngũ lễ" chỉ năm loại lễ chế cổ đại, bao gồm:

1. Cát lễ: lễ cúng bái thiên thần (Hạo Thiên thượng đế), địa chi (Ngũ Đế) và nhân quỷ (tiên vương, tiên đế)

2. Hung lễ: lễ phúng viếng chia sẻ đau thương khốn khó

3. Quân lễ: lễ thao diễn và chinh phạt quân sự

4. Tân lễ: lễ tiếp đãi tân khách

5. Gia lễ: lễ nghi về kết nối quan hệ và tình cảm giữa người với người

Chỉ bốn loại lễ vật, tượng trưng cho bốn mùa, hàm ý chúc phúc cát tường. Bốn loại lễ vật (thường là món ăn) khác biệt tuỳ theo phong tục từng vùng, ví dụ thịt, cá, gà, vịt, rượu, trà, thuốc lá...

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 96: Kim Tỉnh ở Đế Lăng

Dương Lăng xem xong thư hồi âm của Lý cử nhân, xấu hổ không biết trả lời với Cao tiểu thư thế nào. Suy đi tính lại thấy lúc này mà nói với nàng thì chỉ sợ càng làm cho người ta thương tâm, trước đành gác lại việc này, rồi sau này ậm ờ nói gì cho qua là được. Y cũng không tiện đi đến hậu viện, thế là bèn ngủ tại thư phòng một đêm. Hôm sau trời vừa sáng là đi Thái Lăng luôn.

Cao Văn Tâm lòng như gương sáng*, kỳ thật sớm đã đoán biết kết cục như thế rồi. Cha nàng là người bản địa, cũng là thái y trong cung, ở quê nhà có thanh danh cực lớn. Cao Văn Tâm theo cha hiền từ nhỏ, học được một thân y thuật cao siêu. Những lúc Cao thái y làm việc trong cung mà ở nhà có thôn dân gặp phải bệnh khó trị đến gõ cửa cầu khẩn, vị đại tiểu thư này đã không màng tới thân phận mà ra mặt trị liệu cho họ. Vì vậy danh tiếng cũng vang xa. (*: ý nói lanh trí)

Do tiếp xúc với nhiều người nên Cao tiểu thư cũng nghe nói về vị tướng công mà nàng chưa từng gặp mặt. Nàng cũng hiểu Lý phủ là dòng dõi thi-lễ gia truyền, mấy đời Nho học nên phần nào hiểu rõ tác phong cư xử của vị tướng công này.

Nàng đã bị đày vào Giáo Phường ty thì dù thân thể có còn trong sạch hay không cũng không quan trọng. Cái quan trọng chính là không ai có thể tuyên bố sự trong sạch của nàng cho thiên hạ biết. Lý gia là thân sĩ địa phương có thân phận, sao có thể cưới một đứa con dâu về để người ta bàn ra tán vào? Huống hồ thân phận nàng bây giờ còn là nô lệ, Lý gia sẽ không thể vì nàng mà tự hạ thấp địa vị của mình.

Việc Dương Lăng e ngại không dám trở lại hậu viện gặp nàng càng làm nàng có cảm giác áy náy. Bây giờ Cao Văn Tâm không dám ôm hy vọng xa vời gì với tương lai của mình. Hàn Ấu Nương tuy chiếu cố nàng rất nhiều, đối đãi với nàng như khách, nhưng Cao Văn Tâm vẫn khăng khăng giữ phận tỳ nữ, thi lễ nô tỳ.

Thái Lăng nằm trên ngọn Bút Giá sơn phía tây bắc Trường Lăng. Lúc Dương Lăng mới tiếp chỉ đã tới đây hai lần. Lần này trở lại, thấy La thành với chu vi gần hai trăm trượng đã loáng thoáng có quy mô. Tuy mấy kiến trúc quy hoạch bên trong lăng viên như hương điện, sương phòng, thần trù, phụng tự vẫn chưa được kiến tạo, nhưng Kim Tỉnh và Bảo Sơn thành thì đã được xây lên.

Kim Tỉnh là vị trí trung tâm nhất của lăng mộ, cũng là nơi quan trọng nhất của cả hoàng lăng. Tuy chỉ là phụ trách việc thi công mấy phòng, sẽ không có gì sai sót, song Dương Lăng vẫn sai nhân mã Tả Tiêu Quân do mình trực tiếp quản hạt phụ trách xây dựng tẩm cung Đế lăng. Phụ trách công trình bên trong Thái lăng là Phùng Đường, Đô ty mới của Đệ tam ty. Người này tính tình điềm tĩnh, cũng là người chịu khổ được.

Trên núi, cách khu vực bên ngoài lăng viên không xa, một loạt những căn nhà được cất lên. Đây là chỗ làm việc hàng ngày của quan viên các bộ như Khâm Thiên giám, bộ Công, bộ Lễ, Thần Cơ doanh.

Ở trên lăng, ba người Liên Đắc Lộc, Bành Kế Tổ và Phùng Đường nghe nói tham tướng đại nhân đã tới, bèn tuần tự chạy về bái kiến.

Bành Kế Tổ vừa thấy Dương Lăng liền cười khà khà nói:

- Đại nhân, khoảng tầm tháng nữa ngài quay lại xem thì sẽ xong thôi. Mấy người chúng tôi cũng đang trông chừng đám ranh kia làm việc. Xây đắp lăng tẩm thế nào thì đã có các nha môn khác lo, sẽ không có chuyện gì đâu.

Dương Lăng đáp:

- Ừm, thật cực khổ cho các vị tướng quân rồi. Nhưng Hoàng Thượng phái ta làm nhiệm vụ này, quan viên các bộ đều đang coi giữ trên lăng. Nếu ta cứ lần lữa không đến, sẽ khó tránh khỏi bị người ta chỉ trích. Kỳ thật bản quan cũng thấy người của chúng ta bỏ rất nhiều công sức, chỉ cần bọn quan binh không lười nhác là được. Việc kiến trúc lăng tẩm như thế nào đâu tới lượt mấy binh lính chúng ta can dự vào.

Phùng Đường khẽ cau mày, bộ dáng muốn nói lại thôi nhưng nghe Dương Lăng đáp vậy, cuối cùng không kìm được bèn thưa:

- Đại nhân! Mấy ngày trước đây lúc cơm trưa, từng có huynh đệ báo là Kim Tỉnh trong lăng thấm nước, việc này hạ quan còn chưa bẩm báo cho đại nhân.

Liên Đắc Lộc sờ gương mặt rỗ của mình, phản bác:

- Lão Phùng, ngươi cũng quá cẩn thận rồi. Việc đào lăng mộ sâu như vậy, thấm nước thì có gì là ngạc nhiên. May mà đây là trên núi, bằng không cũng phải đào được vài chục cái giếng rồi ấy chứ.

Mấy vị tướng quân này không có nhiều người biết chữ, phong thuỷ lại càng mù tịt, vốn không ai ý thức được sự nghiêm trọng trong đó. Phùng Đường được đề bạt chưa lâu, bị Liên đô tư châm chọc không khỏi đỏ mặt, vội vàng giải thích:

- Mạt tướng nghe xong cũng tưởng không có gì nghiêm trọng. Nhưng kỳ quái chính là Nghê đại nhân của Khâm Thiên giám và thị lang bộ Lễ nghe tin lại vội vàng dẫn người tới ngay, bộ dạng như gặp đại địch. Mạt tướng thấy vậy lấy làm lạ, định theo vào lăng xem một chút, nhưng bị họ ngăn trở. Nghê đại nhân lấy cớ muốn thăm dò địa lý để đoán cát hung, đuổi hết bảy tám huynh đệ trấn thủ trong đó ra. Hơn một canh giờ sau mới cho phép chúng tôi trở vào địa cung.

Dương Lăng thoáng đổi sắc mặt, nghiêng người chăm chú nhìn gã hỏi:

- Nói tiếp đi, sau đó thì thế nào?

Hai người Liên, Bành thấy vẻ mặt y hơi nghiêm trọng, cũng không dám nói đùa, chỉ nhìn Phùng Đường. Phùng Đường đáp:

- Lúc hạ quan trở về thì nhận thấy trên miệng giếng không hề có nước suối tràn ra. Sau đó, Đới công công và Lý thị lang của bộ Công nghe tin cũng chạy tới. Vừa đúng lúc nghe được một tên thập trưởng nói với người khác về việc phát hiện Kim Tỉnh tràn nước, Đới công công giận tím mặt, giật lấy roi da đánh mắng hắn một trận, rồi không cho bất luận kẻ nào đặt điều kiếm chuyện nữa. Mạt tướng thấy bọn họ cẩn thận như vậy nên mới cảm thấy nghi ngờ.

Dương Lăng chậm rãi đi lại trong phòng vài bước, rồi trầm ngâm:

- Lăng mộ là nơi bài trí và đặt quan tài tiên đế. Nếu lăng mộ bị thấm nước, đích thực là một chuyện lớn. Nhưng... khai quật địa cung sâu như vậy, vẫn chưa từng thấy có chuyện thấm nước mà. Không phải chung quanh lăng mộ cũng dùng đất sét, bùn đặc và đá xây thành bức tường dày tới mười hai mét để chống thấm nước sao? Lần trước ta tới còn thấy Lý thị lang tự mình lắp tên bắn lớp đầm nén để kiểm tra xem tường đất có chắc không, có thể thấy được việc thấm nước khi đào lăng mộ là chuyện bình thường. Tại sao khi Kim Tỉnh thấm nước lại khẩn trương như vậy?

Y suy nghĩ hồi lâu mà vẫn chưa nắm được mấu chốt, bèn đưa mắt nhìn Dương Nhất Thanh. Dương Nhất Thanh cũng lắc đầu nhè nhẹ:

- Đại nhân! Các vị đại nhân đều là tướng quân lãnh binh chiến đấu, những chuyện xem phong thuỷ đất cát này chúng tôi không hiểu đâu. Có điều... Khâm Thiên giám và thị lang đại nhân bộ Lễ đó nhất định biết, sao đại nhân không thử hỏi họ xem?

Liên Đắc Lộc cười khẩy:

- Tiểu Dương, ngươi không thấy các vị đại nhân đó rất ghét binh lính chúng ta à? Đến cả tham tướng đại nhân mà bọn họ còn không thèm để ý tới. Nếu bọn họ chủ tâm muốn giấu, ngươi hỏi ra được ư?

Dương Nhất Thanh mỉm cười, chỉ nhìn sang Dương Lăng. Dương Lăng hiểu ý cười ha ha:

- Không nói sao? Không nói thì ta tự mình đi xem. Đi, Nhất Thanh sai người mang theo hương án, bản quan muốn tế địa lăng, sau đó vào trong xem một chút.

Dương Lăng đến Thái Lăng, long trọng đốt hương kính lăng, giương cờ gióng trống tế bái một phen. Sau đó lệnh cho tất cả lính canh trong địa lăng lui ra, rồi mới dẫn ba vị quan đô ty vào lăng mộ thăm dò. Y cố tình làm cho đình đám, sớm đã đánh động người của những nha môn khác chạy về bẩm báo với đại nhân mình.

Kim Tỉnh của địa cung chính là long huyệt của hoàng lăng. Do đó một khi đào xong, sẽ không phải ai cũng có thể tuỳ ý chạm vào. Kim Tỉnh kỳ thật chỉ là một cái hố đường kính nửa thước (tàu), sâu chừng một mét. Ngay khi được đào xong, bên trên liền cất mái che để chắn ánh sáng của mặt trời, mặt trăng và các vì sao.

Hơn nữa phần đất lấy ra khi đào mộ huyệt được gọi là 'cát thổ' (đất lành), phải trình lên cho hoàng đế ngự lãm, sau đó bảo quản tại đại sảnh của bộ Lễ. Đợi sau này khi an táng Hoàng Thượng, sẽ được lấp cùng với những kỳ trân dị bảo khác nhằm cầu mong lăng mộ yên bình, thổ nhưỡng tốt lành. Bởi vậy có thể thấy được tầm quan trọng của nó.

Do đó nơi Kim Tỉnh này, trên lý thuyết thì chỉ có năm vị đại thần phụng chỉ mới có tư cách vào xem. Dương Lăng dâng hương, rửa tay xong, lúc này mới đi tới địa cung. Bên trên địa cung đã được đậy nắp, nhưng vẫn chưa đắp đất. Những cột điện và bệ đá to lớn bên trong lăng mộ đã bố trí xong được bảy phần, ngay giữa bệ đá nơi đặt quan tài chính là Kim Tỉnh, nơi kết nối âm dương, trao đổi linh khí.

Dương Lăng đi tới bên cạnh Kim Tỉnh, đưa tay sờ thành giếng. Mặc dù hơi man mát nhưng lại không giống như bị nước thấm, không khỏi giật mình. Phùng Đường vội thưa:

- Đại nhân, mạt tướng từng hỏi tay thập trưởng đó, nhưng hắn một mực khẳng định đã từng tận mắt nhìn thấy Kim Tỉnh phun nước. Hơn nữa lúc đó mấy huynh đệ trong địa cung cũng đều nói như vậy, chắc không phải đều nhìn nhầm cả đâu?

Dương Lăng ngẫm nghĩ một lát, nâng tảng đá chui hơn nửa người vào trong dò xét. Lần mò dưới đáy hố một hồi, cảm giác dưới đáy rất là khô ráo. Tuy nhiên miếng đất hình tròn ở chính giữa Kim Tỉnh đáng lý phải lồi lên, thì lúc này lại có vẻ như bị lõm vào. Hơn nữa hơi nhám tay, dường như đã bị thứ gì đó chọc vào.

Dương Lăng sờ soạng một hồi, rồi đứng dậy soi đèn nhìn. Bụi đất trên tay rất khô ráo, nhưng lại có dạng bột vụn, không giống loại đất nện gốc dưới đáy động. Trong lòng y bất giác dấy lên lòng nghi ngờ.

Dương Lăng mang trong lòng trăm mối nghi ngờ trở về chỗ ở của mình. Vừa mới ngồi xuống đã thấy Nghê Khiêm của Khâm Thiên giám và thị lang Lý Đạc của bộ Lễ vội vàng chạy tới. Vừa vào cửa Nghê Khiêm đã cười nói với vẻ không được tự nhiên lắm:

- Dương đại nhân vừa mới trở về đã đến địa cung xem xét ngay rồi à? Dương đại nhân từ trong kinh tới đây, không biết Hoàng Thượng có ý chỉ gì về việc kiến tạo Đế Lăng không?

Dương Lăng đứng dậy cười đáp:

- Ra là Nghê đại nhân, Lý đại nhân, xin mời ngồi. Hoàng Thượng hết sức quan tâm tới Đế Lăng, lo lắng quan binh lười biếng, dây dưa lỡ công việc, do đó sai bản quan trở về lăng đốc thúc quan binh. Bản quan vừa mới đi tế bái lăng tẩm tiên đế xong, đang định đi gặp các vị đại nhân, không ngờ hai vị đại nhân đã đến trước rồi.

Nghê Khiêm đã sai Đới công công lôi kéo thị lang Lý Kiệt của bộ Công tính toán chi phí công trình, cố quấn lấy hắn, còn mình thì vội vàng tới đây, muốn xem Dương Lăng có biết gì về tin tức địa cung thấm nước hai ngày trước hay chưa, khi nghe thấy vậy thì gượng cười:

- Công trình tiến triển thông thuận, cũng không có gì không ổn, Dương đại nhân không cần phải lo lắng.

Dương Lăng cười nhạt:

- Bản quan chỉ phụ trách an nguy Đế Lăng, đốc thúc quan binh thi công theo đúng qui định, nói thẳng ra thì không có gì phải lo lắng. Huống hồ một kẻ tay ngang như bản quan đây cho dù có muốn lo cũng chẳng lo được gì. Nhưng mà... sao bản quan nghe nói hai ngày trước Kim Tỉnh ở địa cung phun nước?

Cả người Nghê Khiêm thoáng run rẩy, lão cười gượng gạo trả lời:

- Đó chỉ do một tên thập trưởng trộm uống rượu say nên nhìn nhầm mà thôi. Những quan binh khác cũng chỉ nghe rồi đồn bậy theo, thực không đáng tin đâu!

- Vậy sao?

Dương Lăng nhìn chằm chằm vào lão:

- Bản quan nghe nói mấy vị đại nhân đã xem xét rồi, vốn cũng không tin những lời của hắn. Nhưng bản quan vừa mới tự mình đi xem. Ở đáy giếng quả nhiên rất là ẩm thấp, bùn lầy, giống như là có nước thấm ra đó.

Thị lang bộ Lễ Lý Đạc vừa nghe xong, sắc mặt liền tái nhợt, thầm nghĩ: "Suối nước đó đã được những thanh gỗ bịt rồi, lại dùng tới ba lớp đất nện nén lại rất chắc chắn mà, sao lại rỉ nước ra? Mình phải tìm cơ hội bế kín lại mới được. Nhưng Dương Lăng vừa là một trong năm đại thần có tên trong thánh chỉ, vừa là người tâm phúc trước mặt Hoàng Thượng, mình tuy có chức quan cao hơn y, sợ cũng không đuổi y được. Có y ở đây, mình làm sao động tay động chân được đây?"

Nghê Khiêm cũng sợ hãi, vội vàng thưa:

- Dưới lòng đất âm u ẩm ướt, bùn lầy cũng là việc bình thường. Chúng tôi thật sự đã xem kỹ, quả thực chưa từng thấy... chảy nước...

Nói tới đây lão không nén được sợ hãi, giọng bắt đầu run rẩy.

Dương Lăng cười lớn:

- Không có chuyện gì thì tốt rồi. Có điều đã có lời đồn, việc này không thể qua loa được. Bản quan phải đem việc này bẩm báo với Hoàng Thượng, xin Hoàng Thượng phái cao nhân tinh thông phong thuỷ địa lý trở lại để xem rõ ngọn ngành, để bọn họ thấy là không sao. Mai sau nếu có việc gì thì cũng sẽ không can hệ gì đến chúng ta.

Hai người Nghê Khiêm nghe xong liền đồng thanh thốt lên:

- Vạn lần không thể!

Nghê Khiêm bước lên giữ chặt tay Dương Lăng lo sợ thưa:

- Xây lăng là đại sự, sao có thể chỉ vì nghe tin đồn võ đoán mà kinh động tới thiên tử, xin Dương đại nhân đừng lỗ mãng!

Dương Lăng thấy vẻ mặt kinh hoảng của bọn họ thì trong lòng đã chắc mẩm tới tám chín phần. Y không khỏi cười lạnh một tiếng:

- Nhị vị đại nhân! Chuyện Kim Tỉnh chảy nước Dương mỗ đã tra rõ ràng rồi, nhân chứng vật chứng đều ở trong tay tại hạ. Nhị vị còn muốn giấu tại hạ tới bao giờ đây?

Hai người Nghê Khiêm liền giật nẩy mình. Trên trán Lý Đạc mồ hôi chảy xuống ròng ròng, sắc mặt vàng ệch, nhìn cực kỳ khó coi. Khâm Thiên giám Nghê Khiêm hai đầu gối rung lên bần bật, run rẩy hồi lâu rồi đột nhiên quì sụp xuống đất, hoảng sợ:

- Dương đại nhân! Chúng tôi cũng không còn cách nào khác mới phải làm hạ sách này, xin Dương đại nhân hãy cứu chúng tôi!

Dương Lăng đưa mắt ra hiệu với Dương Nhất Thanh. Dương Nhất Thanh hiểu ý lui ra ngoài, lặng lẽ đóng cửa phòng lại. Dương Lăng lúc này mới bước lên đỡ Nghê Khiêm dậy, nguôi giận mỉm cười nói:

- Đại nhân hà tất phải làm như thế. Có điều tình hình cụ thể bên trong như thế nào, vẫn mong đại nhân nói rõ ngọn ngành cho tại hạ nghe. Dương mỗ phải nghe hết rõ ràng, phải nắm rõ thì mới có thể quyết định làm gì!

* * *

Vương Cảnh Long ngồi trong thư phòng của Dương Lăng, tay cầm chén trà, trông như lão tăng nhập định.

Nơi này vốn là thư phòng của thái y Cao Đình Hòa. Trên tường không tranh không chữ. Nơi giá sách chỉ có mấy quyển sách thuốc (y thư), căn bản không có thứ gì để tiêu khiển.

Bảy ngày nay hắn đã tới Dương phủ bốn lần. Ngoại trừ lần đầu tiên Dương phu nhân nhờ thị nữ đỡ thân thể ốm yếu của mình ra gặp hắn và thê tử Trương Thị một lần, bắt chuyện vài câu rồi quay vào nhà trong, những lần sau đến nhà đều là do lão quản gia đang đứng chầu chực ở cửa kia mang theo hai gia nhân tới hầu hạ hắn.

Ban đầu Vương Cảnh Long cũng còn khách khí bắt chuyện với lão, nói bóng nói gió hòng nghe ngóng tình hình về Dương Lăng. Đáng tiếc những gì mà vị lão quản gia này biết về Dương đại nhân chẳng nhiều hơn hắn là bao. Do đó hắn cũng chẳng moi được gì từ miệng của lão bộc này.

Vị lão quản gia này hỏi một câu thì đáp một câu, không hỏi thì chỉ đứng yên đó, cả ngày cũng không nói một tiếng. Có khi Vương Cảnh Long ngồi đó chán quá, muốn đi lại trong phòng khách một chút, lão quản gia cũng bắt chước đi theo nửa bước không rời, khiến cho hắn hết đường xoay sở, căn bản không tìm thấy cơ hội xuống tay để gieo tang chứng.

Có điều phu nhân Trương thị của hắn vì nhiễm phải bệnh bạch đới nên ốm yếu, quanh năm nằm liệt trên giường. Bệnh này lại không tiện mời lang trung tới khám chữa kỹ cho nên càng ngày càng nặng. Từ lúc hắn tới Dương Phủ mời Cao tiểu thư chẩn đoán và trị bệnh, không ngờ lại hiệu quả. Đây cũng xem như là "mất cái này được cái kia". Vương Cảnh Long bèn dùng kế không thành, tạm thời đưa thê tử tới chữa bệnh luôn.

Chỉ là hắn mỗi ngày tới đều ngồi như ngồi thiền, thật sự rất nhàm chán. Hai người tỳ nữ xinh đẹp tuyệt sắc khiến cho người ta động tâm nọ lại chẳng hề xuất hiện cho hắn gặp một lần. Hắn vẫn cho là hai nữ tử đó là tỳ nữ trong Dương phủ, thường ngày lo liệu những việc lặt vặt trong nhà, hắn ngồi đây thể nào cũng sẽ có cơ hội gặp mặt. Không ngờ đến mấy lần mà vẫn không gặp được người. Vương tam công tử tựa như bị bệnh tương tư càng thêm nhớ nhung khuôn mặt tuyệt đẹp và tư thái phong lưu của hai mỹ tỳ ấy, cho nên người thì ở thư phòng mà trái tim đã bay tới tận hậu hoa viên nhà người ta rồi.

Vương Cảnh Long đặt chén trà xuống, xem canh giờ thấy chắc phu nhân đã châm cứu xong rồi, không khỏi thầm thở dài. Đang lúc thất vọng, đột nhiên có một loạt những tiếng bước chân vang lên, sau đó lão quản gia đang đứng ngoài cửa chợt cung kính thưa:

- Hai vị cô nương sao lại tới tiền viện vậy?

Chỉ nghe một giọng thiếu nữ trong trẻo êm tai cất lên:

- Văn Tâm tỷ tỷ hôm nay cần dùng Mai Hoa châm. Châm này đang để ở trong thư phòng, con tới lấy cho tỷ ấy.

Theo tiếng nói, hai thiếu nữ mặc đồ xanh, khuôn mặt trắng nõn thanh tú thoát trần nhanh nhẹn xuất hiện ở trước cửa thư phòng. Vương Cảnh Long vừa thấy hai người thiếu nữ xinh đẹp đó chính là đôi giai nhân mà hắn ngày đêm mong nhớ, không khỏi ngạc nhiên đứng dậy, mừng rỡ nói:

- Thì ra là hai vị cô nương.

Từ khi tiểu thư nhà họ Cao trở về, trong nhà từ trên xuống dưới không ai xem nàng là nô lệ cả. Nhưng vị Cao tiểu thư này thủy chung vẫn dùng lễ nữ tỳ mà đối đãi với Ấu Nương. Hai người Ngọc Đường Xuân vốn rất thông minh, lập tức cũng học theo cách. Chỉ là kiểu trang phục màu xanh với khuôn mặt không trang điểm này càng làm cho vẻ mỹ lệ của thiếu nữ đôi tám thêm bắt mắt, khiến cho Vương Cảnh Long nhất thời nhìn mà không thể dời ánh mắt đi.

Ngọc Đường Xuân vốn cảm thấy vị Vương công tử này là người tô vàng nạm ngọc, chỉ có mẽ ngoài. Nhưng nhiều ngày qua thấy hắn tự mình đi cùng với vợ đến cầu thầy trị bệnh, cảm thấy gã thư sinh này mặc dù tính tình hào nhoáng không thật, nhưng cũng rất chân tình với phu nhân, nên cái nhìn về hắn không khỏi có sự thay đổi lớn.

Nàng nhớ lần trước mình dùng thân phận tỳ nữ gặp Vương công tử, lúc này thấy Vương Cảnh Long đứng dậy chào, vội nghiêng người thi lễ, cười tươi thưa:

- Vương công tử! Tiểu tỳ là thân phận nô bộc, không nhận nổi lễ của quý nhân như công tử đâu. Hôm nay Văn Tâm tỷ tỷ muốn dùng châm Mai Hoa châm cứu cho tôn phu nhân thêm một lần. Tiểu tỳ lấy châm xong là đi ngay, xin công tử đợi chút nữa.

Dung mạo Ngọc Đường Xuân còn đẹp hơn Tuyết Lý Mai ba phần, áo xanh da trắng tôn lên vẻ đẹp như ngọc, nụ cười rực rỡ như hoa xuân, khiến Vương Cảnh Long trông thấy mà rạo rực trong lòng. Bất giác hắn vừa đi theo nàng đến bên cạnh giá sách vừa ghé sát người nói:

- Được được, làm phiền cô nương, đa tạ cô nương. Cô nương lan tâm huệ chất, khí chất cao nhã, Vương mỗ nào dám đối đãi như tỳ nữ. Một lễ đó là điều nên làm.

Ngọc Đường Xuân đi đến trước quầy sách, nhón chân lấy hộp châm đặt ở trên cao. Nghe thấy Vương Cảnh Long khen nàng không giống tỳ nữ, trong lòng vui mừng, không khỏi mỉm cười:

- Hi, Vương công tử nhân phẩm xuất chúng, tài hoa hơn người, là đại tài tử nổi danh khắp kinh sư. Tiểu tỳ thường nghe đại nhân nhắc tới công tử, có thể được công tử khích lệ, tiểu tỳ rất lấy làm vinh hạnh.

Tuyết Lý Mai đứng sau lưng hai người, nghe hai người tâng bốc nhau, không khỏi làm mặt quỉ với Ngọc Đường Xuân, rồi làm ra vẻ muốn nôn oẹ. Ngọc Đường Xuân thấy động tác của Tuyết Lý Mai, không nhịn được bèn bật cười 'phì' một tiếng, rồi lập tức biết mình thất lễ, không khỏi đỏ mặt, vội vàng vái hắn một cái:

- Công tử ngồi chơi, tiểu tỳ đi đây.

Vương Cảnh Long nhìn thấy Ngọc Đường Xuân cười với hắn rồi đỏ mặt, sau đó liền như một đám mây trắng bồng bềnh lướt đi. Hắn tưởng rằng thiếu nữ này đã bị vẻ phong lưu phóng khoáng của mình hấp dẫn, bất giác trong lòng rung động, si ngốc nhìn nhìn theo hai người biến mất khỏi cửa một hồi lâu. Dường như mùi thơm khi nàng lướt qua vẫn còn vương nơi chóp mũi.

Tuyết Lý Mai dắt tay Ngọc Đường Xuân chạy đến hành lang hậu viên mới dừng bước lại rồi cười khanh khách:

- Gớm muốn chết. Lâu rồi không thấy tỷ sử dụng thủ đoạn lừa người. Nhìn bộ dáng Vương công tử thần hồn điên đảo, sao không thấy tỷ khen lão gia như vậy?

Ngọc Đường Xuân cười khúc khích, rồi lườm nàng:

- Lão gia chúng ta mà còn cần được khen sao? Nếu có thể khen được y cũng... cũng... Tỷ mong mà không được nè. Chà! Đại nhân làm quan trong triều, thêm một bằng hữu vẫn tốt hơn là thêm một đối thủ. Nhà Vương thượng thư lại rất có thế lực. Làm vậy không phải vì lão gia chúng ta đó sao?

Tuyết Lý Mai cười:

- Không biết xấu hổ. Lão gia bây giờ không cần tỷ thương đâu. Có phải là muốn để lão gia ở trên lăng về đét yêu tỷ một cái nữa không?

Đoạn nhân lúc Tô Tam không kịp đề phòng, đột nhiên đét vào mông nàng một cái, rồi cười khanh khách chạy đi.

Chú thích:

(

thần trù: bếp; phụng tự: nơi thờ cúng

nguyên văn "thất chi đông ngung, thu chi tang du". Đông ngung: phía đông, nơi mặt trời mọc; tang du: hoàng hôn, lúc mặt trời lặn.

Trước tiên Dương Lăng đi dạo lăng mộ một vòng, cố ý đánh động bọn họ, quả nhiên đã lôi kéo được hai vị đại nhân trong lòng có quỷ tới. Lúc này y lại dùng lời lừa gạt, Giám phó Khâm Thiên giám Nghê Khiêm, tả thị lang bộ Lễ Lý Đạc lập tức mặt xanh như tàu lá, quỳ xuống đất liên tục xin tha.

Dương Lăng nghe hai người kể sự thật về việc Kim Tỉnh bị trào nước rồi giải thích rằng theo phong thuỷ đấy là điềm không lành, thì trong lòng âm thầm kinh hãi. Y tuy không tin phong thủy, nhưng lại biết rất rõ trong lòng những người tin phong thủy điều này quan yếu đến dường nào.

Nhớ hồi nhỏ dọn đến nhà mới, việc đầu tiên mà bà nội của y làm là đem treo một cái gương nhỏ ở phía sau cửa sổ, nói là để xua đuổi tà khí ra khỏi phòng. Kết quả là một ông già ở lầu sau thấy vậy rất khó chịu, cho rằng bà y xua đuổi tà khí qua nhà lão. Bà y và ông già đó cãi nhau ầm ĩ mấy lần, hai ông bà già bèn đua nhau treo đủ các loại gương lên cửa sổ. Đại khái về sau trên cửa sổ hai nhà đều chi chít những chiếc gương nhỏ, cũng không biết nhà ai nhiều hơn ai. Bởi vì chuyện này hết sức buồn cười nên Dương Lăng vẫn nhớ kỹ đến tận bây giờ.

Người hiện đại còn mê tín như thế, huống chi người xưa? Đế Lăng lại là nơi chôn cất Tiên đế, nếu Chính Đức biết việc này, chắc chắn không phải chỉ đơn giản là tội bị mắng mỏ trách phạt bình thường đâu, mà là tội chém đầu chứ chẳng chơi.

Nghĩ tới điểm này, Dương Lăng lập tức biến sắc, vung tay nói lớn:

- Nhị vị đại nhân! Chuyện lớn như vậy mà hai vị cũng dám lừa dối Hoàng Thượng sao? Chẳng lẽ các vị không sợ bị diệt tộc tịch biên à? Thứ lỗi, Dương mỗ phải lập tức trở lại kinh thành, bẩm rõ việc này cho Hoàng Thượng, xin Hoàng Thượng hạ chỉ dời lăng.

Nghê Khiêm, Lý Đạc vừa nghe vậy thì hồn phi phách tán. Bọn họ vì nhất thời tham lam mà che giấu việc này, kỳ thật sau khi suy tính thiệt hơn cũng đã hối hận trong lòng rồi. Nhưng việc này đã khiến cho thị lang Lý Kiệt của bộ Công hoài nghi, dù bây giờ họ có thú nhận sự thật, chưa chắc tên Lý Thị Lang muốn lập được công lớn đó sẽ chịu bỏ qua. Nếu lúc đó hắn vẫn dâng sớ tố cáo bọn họ, lại thêm đám ngự sử nói ra nói vào, e rằng cho dù mấy người bọn họ chỉ mong bị phạt cách chức bãi quan cũng sẽ không được.

Hai người nghĩ tới hậu quả tịch biên diệt tộc khủng khiếp, không khỏi liên tục dập đầu, chỉ trong khoảnh khắc trán đã chảy máu ròng ròng. Tuy Dương Lăng không đành lòng nhìn, nhưng cho dù Hoàng Đế Chính Đức có yêu mến và tin tưởng y thế nào đi nữa, hắn cũng sẽ không hạ thủ lưu tình khi nghe nói bọn họ đã lừa gạt việc Đế Lăng như vậy. Y dằn lòng quyết không để ý tới hai người đang khổ sở cầu khẩn mà nhấc chân định đi ra ngoài.

Lý Đạc thấy Dương Lăng không động lòng, lập tức quì lết lên vài bước, ôm lấy đùi y gào khóc nức nở:

- Dương đại nhân đừng đi, Dương đại nhân dừng bước! Bọn tôi nhất thời vì lòng tham mà phạm vào lỗi lớn, dù có chém đầu tịch biên cũng không đáng tiếc, nhưng việc này không phải là việc tốt đối với dân chúng đâu, đại nhân!

 Dương đại nhân! Thu nhập hằng năm của Đại Minh ta chỉ có bốn trăm vạn lượng, ngân lượng bỏ vào xây Thái Lăng từ đầu tới giờ cũng phải tới hai trăm ba mươi vạn lượng rồi. Để hoàn tất toàn bộ công trình, ít nhất phải hao tốn ba trăm tám mươi vạn lượng. Cho dù khi chúng tôi phát hiện Kim tĩnh bị rỉ nước liền lập tức bẩm báo Hoàng Thượng để dời Thiên lăng, thì số bạc đã bỏ ra này cũng không thể thu lại được nữa. Đó chính là hai trăm ba mươi vạn phần lương thực trong cả một năm của dân chúng đó.

 Đại nhân! Lúc này đây Hà Nam Hà Bắc đang gặp lũ lụt liên miên, Cam Túc Thiểm Tây đã chịu phải liên tiếp ba năm hạn hán nặng. Nếu Hoàng Thượng dời lăng, không có bạc dùng, tất phải tăng thuế khóa thật nặng, đến lúc đó chẳng phải ngàn vạn dân chúng đã khổ càng thêm khổ hay sao?

 Đại nhân! Ngài đã từng thấy cha ruột đem đổi con mình với hàng xóm, để người ta làm thịt con thơ của mình ăn cho đỡ đói bao giờ chưa? Ngài có từng gặp cảnh bà lão tuổi bát tuần một ngày ba bữa chỉ có đất sét trắng để ăn, ăn đến bụng trương lên như cái trống rồi chết bao giờ chưa?

 Dương đại nhân! Thánh nhân nói: "Quân vi khinh. Xã tắc vi trọng(*)", cho dù đại nhân không để ý tới việc sống chết của hai người chúng tôi, chẳng lẽ ngài lại nhẫn tâm nhìn ngàn vạn oan hồn chết trong tay mình sao? Đại nhân vì tiền đồ bản thân mà bỏ mặc lê dân bá tánh trong thiên hạ hay sao? (*: vua là thứ yếu, xã tắc mới quan trọng)

Dương Lăng nghe xong những lời này thì ngẩn người, bất giác dừng chân. Vừa rồi Khâm Thiên giám Nghê Khiêm dập đầu khẩn cầu, dùng mọi lời lẽ để năn nỉ, thiếu điều đem dâng cả hai mỹ thiếp mà lão vừa nạp cho Dương Lăng, vậy mà Dương Lăng vẫn không mảy may động lòng. Lúc này thấy những lời của Lý Đạc dường như đã làm Dương Lăng chuyển ý, lão không khỏi mừng rỡ bèn cũng vội vàng quì lết tới ôm lấy chân còn lại của Dương Lăng:

- Dương đại nhân! Xây dựng địa lăng phải đào rất sâu, rỉ nước là chuyện bình thường. Nếu đổi đến một nơi khác mà vẫn bị thấm nước thì sẽ làm sao? Đến lúc đó dân chúng không kham nổi thuế nặng, nhất định sẽ khổ lắm đó. Đến lúc đó e rằng chỉ vì tòa cung điện dưới lòng đất này mà sẽ... sẽ làm lung lay cả kim loan* đó. (*: ngai vàng)

- Thật ra từ xưa việc Đế Lăng bị tươm nước cũng từng xảy ra đến bảy tám phần mười. Nếu Nghê mỗ không biết chuyện này thì sao lại biết cách dùng cây gỗ dầm đất để bịt nước chứ? Nơi bị thấm nước được bịt lại thì sẽ không đáng ngại nữa, chỉ đợi linh cữu tiên đế hạ táng, lăng mộ được đóng kín thì sẽ không còn gì nguy hiểm nữa. Vẫn mong đại nhân khai ân, cứu lấy chúng tôi, việc này đối với hai người chúng tôi là ân huệ, mà đối với dân chúng thiên hạ lại là việc thiện, chẳng những chúng tôi cảm kích rơi nước mắt, mà dân chúng trong thiên hạ cũng sẽ đội ơn đại nhân đó.

Sau khi vào kinh, Dương Lăng cũng đã nghe nói về thu nhập hằng năm của vương triều Đại Minh, vừa nghe nói Đế Lăng hao tốn tiền thuế của cả nước trong một năm, y không khỏi do dự.

Nhớ lúc còn làm sư gia ở Kê Minh, y cũng nghe nói rất nhiều người dân có gia cảnh bần cùng khốn khổ, nợ thuế nhiều năm. Nơi đó tuy chiến loạn liên miên nhưng ít thiên tai hơn nên cũng không phải là địa phương nghèo khổ nhất. Còn những nơi mà Lý Đạc vừa nêu còn khổ hơn cả Kê Minh, mình thật sự sẽ vì xây một phần mộ cho người chết mà đẩy ngàn vạn người dân vào nơi dầu sôi lửa bỏng sao?

Nhất thời Dương Lăng không biết phải làm thế nào cho phải. Y ngẩng đầu nhìn trời, thầm suy tính: "Hoàng đế Hoằng Trị, ông là một vị vua tốt yêu dân như con. Ở trên trời có linh thiêng, ông mong người ta sẽ xây cho mình một ngôi mộ nguy nga tráng lệ, phong thuỷ tốt lành, hay mong ngàn vạn dân chúng có thể được giảm chút thuế khóa hà khắc để sống qua ngày đây?"

Chao ôi! Dương Lăng trầm tư thật lâu, lòng như nghe thấy được những tiếng kêu than dậy trời khắp đất của người dân. Dân chúng đang cơm ăn không đủ no, áo mặc không đủ ấm, nếu đem việc này bẩm báo với Hoàng Thượng, không cần nghi ngờ gì nữa, chắc chắn mấy vị đại thần này đều sẽ bị chém đầu, còn y nhất định sẽ lập được công to, thăng quan tiến chức.

Nhưng đến khi triều đình tăng thuế khóa, dân chúng trong thiên hạ sẽ phản ứng ra sao? Hơn một năm nữa là mình sẽ nhắm mắt xuôi tay rồi, há chẳng phải Ấu Nương ở lại trên đời sẽ phải thay mình nhận những lời thoá mạ của dân chúng ư?

Dương Lăng cắn răng xoay người, chằm chằm nhìn Nghê Khiêm gạn hỏi:

- Nghê đại nhân! Lúc tại hạ xuống xem Kim Tỉnh, dùng ngón tay có thể rờ thấy ván gỗ. Nếu dùng đèn soi, ẽ lập tức phát hiện được ngay. Để bịt kín Kim Tỉnh không cho thấm nước ra cũng chỉ có cách dùng cọc gỗ trát vôi vữa này thôi sao?

Nghê Khiêm và Lý Đạc nghe ngữ khí Dương Lăng mềm mỏng thì không khỏi mừng rỡ như điên. Nghê Khiêm ngẫm nghĩ cẩn thận một lát rồi mới đáp:

- Đương nhiên cách không chỉ có một, nhưng đó là cách nhanh nhất. Ngày ấy hạ quan sợ để người ta biết, cuống quá nên mới tòng quyền mà dùng đến cách này. Ý của đại nhân là...?

Dương Lăng lắc đầu nói:

- Chính giữa chèn bằng cọc gỗ, lâu ngày cũng sẽ mục nát, nước ngầm vẫn sẽ trào ra, đến lúc đó cho dù đã giấu được Hoàng Thượng thì tại hạ cũng không yên tâm. Đại nhân có cách gì có thể làm như tự nhiên, để người ta nhìn không thấy sơ hở, đồng thời cũng có thể hoàn toàn bịt kín những chỗ thấm nước đó không?

Nghê Khiêm mừng rỡ ra mặt, cảm kích:

- Đa tạ đại nhân cứu mạng! Chỉ cần đại nhân tương trợ tại hạ, tại hạ vẫn còn vài cách khác ổn thỏa hơn. Chỉ cần nhét thêm đá vụn vào chỗ bị rò rỉ, dùng đất đầm kỹ, rồi lấy đất sét trộn với nước gạo theo một tỷ lệ nhất định đổ vào thì sẽ bảo đảm không phải lo nữa. Hơn nữa trông rất tự nhiên, trừ phi cố tình đào ra khám đất, nếu không cho dù là thần tiên cũng nhìn không ra sơ hở. Chỉ có điều cách này hơi tốn thời gian.

Dương Lăng gật đầu bảo:

- Được! Vì dân chúng trong thiên hạ, tại hạ tin rằng Hoàng Đế dưới suối vàng có linh thiêng cũng sẽ tán thành tại hạ làm như vậy. Hôm nay tại hạ sẽ tìm cớ điều quan binh thủ vệ ở Tả Điện Kim Tỉnh dời đi, để đại nhân tự mình động thủ rút mấy cọc gỗ ra rồi bịt kín lại. Thời gian ba ngày có đủ không?

Nghê Khiêm mừng quýnh, luôn miệng đáp:

- Đủ, đủ! Thời gian như vậy là đủ rồi, tại hạ chỉ cần hai ngày là có thể làm kín như bưng ngay!

* * *

Bây giờ đã qua tám ngày. Dương Lăng đang lặng lẽ đi tuần bên trong toà cung điện ngầm đồ sộ không gì sánh nổi này. Đưa mắt nhìn qua đã thoáng thấy đại khái hình dạng kiến trúc bên trong của địa cung. Cả tòa địa cung đồ sộ không dùng cột trụ chống đỡ, chỉ toàn dùng vòm cung. Năm cung điện hoa mỹ chia làm Tiền, Trung, Hậu, Tả, Hữu đều chỉ dùng đá ròng mà xây nên, trông rất nguy nga tráng lệ.

Công trình khổng lồ như vậy, cho dù đặt vào thời hiện đại cũng hao tốn rất nhiều tài lực, huống hồ thời đó năng lực sản xuất rất thấp. Chỉ riêng việc đào đá, mài bóng, rồi vận chuyển những khối đá lớn vuông vức từ xa xôi ngàn dặm đến đây, phí tổn của nó cũng đã làm cho người ta nghẹn họng rồi. Xem ra quyết định của mình rất chính xác, thay vì lãng phí mấy trăm vạn lượng bạc vào đây, chi bằng làm chút gì đó tốt đẹp cho dân chúng.

Dương Lăng dừng lại ở Tả Điện, nền cung điện nơi đây được tạo nên bởi một quy trình công nghệ cực kỳ phức tạp. Thợ thủ công bình thường khó có thể chế những thứ 'gạch lát' như vậy được. Từng khối từng khối gạch lát vuông vức như những tấm gương phẳng lì. Phía cuối nền đá đá rộng rãi vuông vức là một chiếc hòm đá nạm cẩm thạch ở chung quanh, ở giữa chính là Kim Tỉnh.

Nhìn Kim Tỉnh, Dương Lăng không khỏi khẽ thở phào nhẹ nhõm. Nghê Khiêm quả là người khéo tay, lúc lão vừa bịt kín xong Dương Lăng đã kiểm tra ngay. Sau khi rút những cây cọc gỗ dùng để bít chỗ rò rỉ ở dưới hố ra, dùng đất đá trộn với nước gạo lấp lại, thì bên trong không còn rỉ nước ra nữa. Bây giờ trừ phi đào đất ra xét nghiệm, bằng không chỉ dựa vào hai tay sờ thì không thể nhận thấy bất kỳ chút sơ hở nào.

Vị thị lang bộ Công Lý Kiệt thường xuyên lấy cớ kiểm tra công trình muốn vào địa cung, song luôn bị nhóm Nghê Khiêm lấy cớ cản trở, hoặc đi cùng hắn vào lăng khiến cho hắn khó có thể kiểm tra kỹ lưỡng được. Nhưng nếu cứ che giấu như vậy sẽ khó tránh việc khiến người ta nảy tâm nghi ngờ. Do đó sau khi Nghê Khiêm bịt kín Kim Tỉnh xong, Dương Lăng liền cố ý để hắn vào lăng mộ một mình.

Dương Lăng âm thầm quan sát, thấy hắn quả nhiên không nhìn ra sơ hở gì, mấy ngày nay số lần đến lăng cũng thưa thớt dần, lúc này y mới dần bớt hồi hộp, bất an.

Đi vòng quanh lăng một hồi, y đang định xoay người đi ra thi đột nhiên Dương Nhất Thanh vội vã đi vào, thần sắc vô cùng lo lắng báo với y:

- Đại nhân, trong Thần Cơ doanh có người mất tích rồi.

Dương Lăng giật mình, hỏi ngay:

- Mất tích? Có phải là mấy tên lính địa phương không tuân quân kỷ lén trốn xuống núi không? Ở đây thì sao có thể mất tích được chứ?

Dương Nhất Thanh lắc đầu đáp:

- Bốn bề nơi đây không một bóng người, binh lính chẳng lẻn xuống núi làm gì đâu! Hơn nữa người mất tích... chính là tên thập trưởng Lục Ân Lỗ mà mấy ngày trước nói đã nhìn thấy Kim Tỉnh rỉ nước đó.

Dương Lăng nghe mà tim muốn nhảy khỏi lồng ngực, y vội vàng hạ lệnh:

- Lập tức phái người đi tìm, bằng mọi giá phải tìm được hắn, sống phải thấy người, chết phải thấy xác!

Dương Nhất Thanh gật đầu đáp:

- Dạ! Ty chức đã sai người đi tìm rồi, đã hỏi rất nhiều người, song sĩ tốt trong quân đã nửa ngày không thấy hắn rồi, mà vừa khéo chính là... sáng sớm hôm nay, Lý Đại nhân của bộ Công đột nhiên hồi kinh. Ty chức đã quan sát dấu chân kiệu phu của Lý Đại nhân, cỗ kiệu đó xem ra khá nặng...

Dương Lăng nghe mà hối hận không thôi "Lý Kiệt mỗi ngày đều lén lén lút lút muốn vào lăng kiểm tra, để mình chỉ mãi chú ý đến Kim Tỉnh này, mà quên béng mất ngoại trừ vật chứng còn có nhân chứng nữa."

Y vội suy nghĩ một chút rồi nói:

- Lập tức điều hết bảy tên lính trong lăng đã trông thấy việc này ra ngoài, nhập lẫn vào đám quân ở trước lăng, đồng thời mật báo cho quan viên Sở ty giám sát chặt chẽ, nhất định không thể để mất bất kỳ một người nào nữa. Còn về phần tên thập trưởng đó...

Dương Nhất Thanh ngắt lời:

- Đại nhân! Ty chức đã cho người hồi kinh nhờ huynh đệ của Trấn phủ ty bí mật lo xếp việc này.

Đoạn y bước lên trước một bước, nhỏ giọng:

- Đại nhân! Bảy người đó là bảy chứng cứ sống bỏ không được, giấu không xong. Đại nhân thấy có cần.... Dương Nhất Thanh vừa nói vừa chém mạnh tay phải xuống, trên mặt mang một nụ cười lạnh lùng: Trong lăng chỉ có người của chúng ta, đại nhân cứ yên tâm, cam đoan sẽ giải quyết sạch sẽ.

Dương Lăng nghe thế chấn kinh, giật mình nhìn Dương Nhất Thanh. Dương Nhất Thanh cười nhạt, nói:

- Đại nhân! Rắn độc cắn tay, tráng sĩ chặt bỏ. Vô luận là dùng công danh lợi lộc dụ dỗ hay dùng cực hình tra khảo, thì đối với mấy tiên tiểu tốt đó đều là những thứ bọn chúng không vượt qua được. Đại nhân không thể có lòng dạ đàn bà được đâu.

Dương Lăng thấy gã nói rất đúng, nhưng y thật sự khó mà thích ứng với cái luận điệu của chính khách máu lạnh này, nên nhất thời lòng dạ rối bời, cũng không biết nên làm sao mới tốt. Do dự một hồi, thiện ác trong lòng tranh đấu thật lâu, cuối cùng y quyết định dẹp bỏ ý định giết người.

Chán nản thở dài, y cười khổ vỗ vai Dương Nhất Thanh rồi nói:

- Nhất Thanh! Huynh cũng là bộ hạ của ta. Nếu có một ngày huynh uy hiếp tới an nguy của ta, ta phải đối xử với huynh thế nào đây? Thôi đi, nói mà không có chứng cứ, cho dù bọn họ có nói hay tới đâu, cũng chưa hẳn đã có thể chứng minh được điều gì. Huống hồ đã có một tên Lục Ân Lỗ biến mất. Việc này không che giấu được đâu, thôi... đừng nhắc tới nữa.

Dương Nhất Thanh nhìn bóng lưng Dương Lăng rời khỏi, khẽ thở dài một tiếng. Vị đại nhân này cái gì cũng tốt, đáng tiếc làm việc lại không đủ quyết đoán. Thường có câu vô độc bất trượng phu, bớt một nhân chứng là bớt đi một phần nguy hiểm; việc đã tới nước này, phải quyết định thật nhanh thôi

Dương Nhất Thanh sờ cằm, bắt đầu âm thầm suy tính. Gã không phải là Cẩm Y Vệ thế tập, lại không có vận khí như Dương Lăng nên vốn rất khó thăng tiến. Nhưng gã đang là tuỳ tùng của Dương Lăng, mắt thấy y nhỏ tuổi mà tiền đồ đã như gấm, tiền đồ của y chính là tiền đồ của gã. Quan hệ thiệt hơn giữa hai người luôn ràng buộc với nhau, gã sao có thể không suy nghĩ cho Dương Lăng cơ chứ?

Huống hồ Dương Lăng là một vị thượng cấp hiếm có, vừa không chuyên quyền, lại xử sự hòa nhã. Những việc như trình công văn Nam Trấn Phủ ty lên kinh sư, nếu có thể tuỳ nghi hành sự Dương Lăng đều yên tâm giao cho gã làm. Hơn nữa phần lớn những vị quan to ở Cẩm Y Vệ đều dựa vào hai bàn tay đầy máu mà thăng tiến, cả ngày chỉ vắt óc nghĩ tới việc hại người gạt của, quả thực có thể nói thượng cấp như Dương Lăng là của hiếm trong Cẩm Y Vệ. Nếu y bị trị tội, mình đi đâu để kiếm được vị thượng cấp như vậy đây?

Dương Nhất Thanh nghiến răng, lặng lẽ rời khỏi địa cung...

Trên Kim điện, văn võ bá quan đang tụ năm tụ ba rải rác khắp triều, vẻ mặt phẫn uất.

Đã thượng triều gần nửa canh giờ rồi, nội thị vào nội cung thúc giá đã ba lần, ấy vậy mà ngai vàng vẫn trống trơn. Thời vua Hoằng Trị chưa từng xảy ra chuyện này, nhưng tới triều của Chính Đức thì lần này đã là lần thứ tư rồi.

Các quan viên đang to nhỏ thì thầm với nhau chợt một tên tiểu thái giám lật đật từ sau bức bình phong bước ra, kéo dài giọng hô:

- Hoàng Thượng thượng điện, văn võ bá quan tiếp giá!

Văn võ bá quan vừa nghe, không kịp chỉnh lại hàng ngũ, vội vàng quỳ xuống kiến giá. Có người trộm ngẩng đầu nhìn lên, thấy hoàng đế Chính Đức đầu đội mũ Dực Thiên, thân mặc long bào, từ sau bức bình phong đi ra, vừa đi vừa ngửa mặt ngáp dài.

Tiểu hoàng đế bước lên bệ rồng, đặt mông ngồi xuống ngai vàng, mặt mày khó chịu. Y nhìn thoáng qua đám quần thần, lại nhìn ra ngoài cửa điện. Lúc này mới tờ mờ sáng, mặt trời còn chưa ló dạng mà! Chính Đức bực bội díp mắt lại, bảo:

- Các ái khanh bình thân! Có bản tấu gì thì mau trình lên đi!

Ba vị đại học sĩ Nội Các cũng đang rất tức giận. Ban nãy khi bọn họ thúc giục nội thị mời Hoàng Thượng thăng điện, mới nghe nói rằng hôm qua Hoàng Thượng đã phế truất đám người hầu trực ở tẩm cung và văn thư phòng, thế này thì còn ra thể thống gì nữa? Như vậy buổi tối canh mấy Hoàng Thượng đi ngủ, bãi triều xong canh mấy Hoàng Thượng đọc sách cũng sẽ không ai biết, há chẳng phải thiên hạ đại loạn hay sao?

Ba vị đại học sĩ uất ức chuẩn bị can gián thẳng thắn một phen nên Hoàng Đế Chính Đức vừa dứt lời, Tạ Thiên lập tức bước ra khỏi hàng khải tấu. Vị lão thần này quả nhiên không thẹn với cái tên "ngay thẳng", vừa mở lời đã thao thao bất tuyệt:

- Hoàng Thượng! Mấy ngày gần đây Hoàng Thượng thiết triều quá muộn, có khi mặt trời mọc cao mới thượng điện. Đám người thị vệ và phục vụ trong triều đứng lâu mệt mỏi, cũng sẽ không tránh khỏi thất lễ. Hơn nữa quan lại và sứ thần ngoại quốc đến triều cống khi lên triều đều phải chờ đợi rất lâu, chẳng những tinh thần mệt mỏi, mà phí phạm thời gian, bỏ lỡ công việc.

- Nên biết buổi tảo triều (chầu sớm) là việc cao nhất của vua, là bộ mặt của thiên hạ. Người đã làm vua thì thân gắn liền với thiên hạ; nếu ngại tu tỉnh e rằng sẽ kém sút. Nếu vua mà bê trễ ở trên, bầy tôi xao nhãng ở dưới, thì làm sao có thể trị nước được thái bình? Thần nhận trọng thác, đứng giữa lo âu, cũng là vì lo thánh tâm (lòng vua) có điều vướng bận, phòng có gì cơ nhỡ mà liều chết trần tình. Xin bệ hạ nghĩ lại!

Chính Đức nhướng một mắt lên nhìn lão một lúc, rồi đờ đẫn đáp:

- Trẫm biết rồi!

Lưu Kiện thấy Hoàng Đế Chính Đức không hề cho đó là đúng, trong lòng cả giận. Lão lập tức cao giọng bẩm:

- Hoàng Thượng! Từ xưa tới nay, người làm vua nếu siêng năng lo nghĩ thì hưng thịnh, nếu ngạo nghễ ham vui thì thất bại. Nghe nói Hoàng Thượng đã phế truất những người hầu trong tẩm cung và văn thư phòng, thần cho rằng việc này rất không ổn. Cổ ngữ có câu: sa vào chơi bời để ên thân, chìm vào dâm dật để sung sướng, ấy là nguyên nhan chính dẫn đến suy đồi vậy. Hoàng Thượng cần lập tức khôi phục lại quy định cũ, đến tảo triều đúng giờ!

Lưu Kiện nói xong, lùi về phía sau một bước, Lý Đông Dương ở bên tay trái lão lập tức lách mình bước ra. Chính Đức thấy vậy không khỏi cuống lên, y vội vàng phán:

- Trẫm biết rồi, trẫm nhất định sẽ sửa đổi! Ờ... việc này để thương nghị sau đi. Các ái khanh còn có có tấu chương gì khác không?

Từ Quán đưa mắt ra hiệu cho tả thị lang bộ Công Lý Kiệt. Lý Kiệt hiểu ý, lập tức phấn chấn tinh thần ứng thanh bước ra, vận khí từ đan điền cất giọng oang oang tâu:

- Hoàng Thượng! Thần có bản tấu!

Chính Đức như trút được gánh nặng, vội bảo:

- Ái khanh mau nói đi!

Lý Đông Dương thấy vậy, bèn mỉm cười lui trở về.

Lý Kiệt hiên ngang bẩm:

- Hoàng Thượng! Thần phụng chỉ đôn đốc xây dựng lăng tẩm cho tiên đế. Thần cảm thấy trách nhiệm trọng đại, nên vô cùng thận trọng, như bước vào vực sâu, như đi trên băng mỏng, không dám buông lỏng chút nào...

Lý Kiệt nói cả buổi, Chính Đức nghe mà buồn chán, chỉ ờ một tiếng, hoàn toàn chẳng tỏ ý đúng sai gì. Lý Kiệt không thấy Hoàng Đế khen ngợi gì, trong lòng cũng cảm thấy hơi thất vọng đành chuyển sang trọng tâm:

- Trước đây vài ngày thần nghe nói địa khí ở Đế Lăng không ổn, huyệt mộ lạnh lẽo, huyền cung Kim Tỉnh lại trào nước, ấy là điềm chẳng lành vậy. Thế nhưng Khâm Thiên giám Nghê Khiêm, thị lang bộ Lễ Lý Đạc, Ty Lễ Giám Đới Nghĩa và Thần Cơ doanh Dương Lăng chẳng biết có lòng dạ gì mà giấu giếm không báo...

Hắn tấu tới đây, cả triều đình liền nổ tung như có sét đánh giữa trời quang. Bá quan lập tức rì rào sôi nổi. Vụ án này thoáng cái đã một hơi lôi kéo luôn năm nha môn vào, có thể xem là vụ án lớn nhất triều Chính Đức. Một khi điều tra được sự thực là vậy, chẳng biết có bao nhiêu nhân vật quan trọng rơi đầu xuống đất, bọn họ làm sao không sợ hãi cho được?

Ba người Lưu Kiện, Tạ Thiên, Lý Đông Dương cũng kinh ngạc vô cùng, đưa mắt nhìn nhau rồi đều khẽ lắc đầu tỏ ý mình không biết gì. Tạ Thiên liếc qua Lý Kiệt rồi lại dời ánh mắt sang thượng thư bộ Công Từ Quán. Thấy trong mắt Từ Quán thoáng lóe lên vẻ đắc ý, lão lập tức hiểu rõ mọi việc, không khỏi hừ thầm trong lòng.

Lưu Kiện cũng hơi không vui. Lão là người đứng đầu nội các mà gặp việc lớn như vậy, bộ Công không chịu báo trước cho lão biết mà lại vượt cấp tâu thẳng lên Hoàng Đế. Lòng tranh giành ân sủng của Từ Quán đã hiển thị quá rõ ràng rồi.

Bộ Lễ cũng là một trong những nha môn bị liên can, nhưng thần sắc Vương Quỳnh lại thản nhiên, không hề kinh hoảng chút nào. Trước đó Từ Quán đã mật nghị với lão ta, Vương Quỳnh thầm nhận định Hoàng Đế không giữ lễ nghi, bây giờ lại bê trễ triều chính, nhất định là do Dương Lăng và đám nội giám Lưu Cẩn xui khiến mà nên, chính bọn chúng là mối họa lớn của triều đình. Vì vậy vừa nghe chuyện lão liền lập tức quyết định: cho dù có mất Lý Đạc cũng phải hạ cho được Dương Lăng.

Lý Kiệt vừa bẩm xong, lão liền bước ra khỏi hàng quỳ xuống tâu:

- Hoàng Thượng! Mấy vị khâm sai phụng chỉ rất được Hoàng Thượng tin cậy mới được giao cho trọng trách lớn như vậy. Không ngờ bọn họ lại cả gan làm xằng, tội không thể tha! Thần đang là thượng thư bộ Lễ, quan viên thuộc hạ cũng tham dự trong đó, thần cũng có tội không biết nhìn người, quả thật rất hoảng sợ, xin bệ hạ giáng tội.

Từ Quán bước ra tâu:

- Hoàng Thượng! Năm trước khi nền Đế Lăng được kiểm tra, Vương thượng thư đang ở kinh thành lo kỳ thi Hội, dẫu rằng mang tội không biết, song cũng có thể thông cảm được.

Nhưng những đại thần phụng chỉ đôn đốc xây lăng gặp việc lớn tổn hại đến long mạch, thương tổn tới vận mệnh quốc gia mà lại dám khi quân không báo, cần phải lập tức bắt về xét hỏi, xử phạt mức cao nhất của luật pháp, để an ủi vong hồn Tiên đế trên cao.

Vốn Chính Đức nghe nói lăng tẩm phụ hoàng xảy ra sự cố đã vô cùng tức giận, lại nghe nói long mạch hao tổn ảnh hưởng tới vận mệnh quốc gia thì lòng càng thêm bất an. Sự mệt mỏi lập tức tan biến, y tức giận đến nhảy dựng lên, nhưng nghĩ lại cũng thấy hơi nghi ngờ, bèn hỏi lại:

- Việc này là thật ư? Các ngươi có bằng chứng cứ gì không?

Lý Kiệt lập tức đáp như chém đinh chặt sắt:

- Thần có chứng cớ! Lục Ân Lỗ là thập trưởng Thần Cơ doanh phụ trách canh gác lăng mộ, đã từng chính mắt thấy Kim Tỉnh tươm nước. Thần đã mang nhân chứng về kinh rồi!

Chính Đức nghe thế thì nổi giận thật sự, y vỗ án đánh "bộp", quát to:

- Thật đáng trừng trị! Lập tức áp giải những kẻ có liên can về kinh, giao cho bộ Hình, Đô Sát viện, Đại Lý tự tam ty hội thẩm, nếu điều tra đúng là thật...

Trong lòng y chợt nghĩ đến Dương Lăng, thoáng do dự một chút, rồi lại nghĩ mình tín nhiệm với y như thế, vậy mà cả y cũng làm rối kỉ cương, chỉ vì cầu lợi mà giấu giếm mình, thế là trong lòng vừa thương tâm vừa phẫn nộ, cắn răng phán:

- Nếu thực sự bọn chúng khi quân phạm thượng, chém!

* * *

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 98: Bàn về phong thủy

Thông thường chỉ khi xử lý phúc thẩm thì Tam Pháp Ty mới cùng thẩm vấn, song lần này việc Kim Tỉnh ở Đế Lăng tươm nước rất trọng đại, hơn nữa lại liên quan đến nhiều nha môn, nên ba khanh của bộ Hình, Đốc Sát Viện, Đại Lý tự được lệnh vua cùng hội thẩm vụ án này. Lập tức tiếng đồn lan truyền khắp kinh sư.

Hữu thị lang bộ Hình Ngụy Thân vừa áp tải đám Dương Lăng, Nghê Khiêm vào đại lao bộ Hình thì thượng thư bộ Công Từ Quán, thượng thư bộ Lễ Vương Quỳnh liền cùng nhau tới bộ Hình bái phỏng. Hai người tuy không nói chuyện về vụ án, nhưng lại trắng trợn nói về việc long mạch bị hao tổn rất nguy hiểm cho xã tắc, rồi Hoàng Thượng rất coi trọng việc này, v.v... Nghe thế, thượng thư bộ Hình Hồng Chung trong lòng lo sợ không an.

Những người bị giam vào đại lao liên quan tới nhiều nha môn, hơn nữa điều làm cho người ta đau đầu nhất là có cả người của ty Lễ Giám và thậm chí có cả Dương Lăng, người tâm phúc của Hoàng Thượng. Hồng Chung nhất thời cũng không dò được thánh ý rốt cuộc muốn nghiêm trị tới trình độ nào, trong lòng chưa biết phải làm sao. Bây giờ nghe hai vị Thượng Thư đại nhân nói chuyện, tựa như thấy tia sáng khi bị lạc đường giữa đêm, lập tức lão bèn hơi có chủ ý.

Ngụy Thân đem bọn Dương Lăng xuống tù xa, tự mình đưa vào đại lao, thu xếp ổn thỏa xong vừa đi ra khỏi cửa ngục liền thấy hai viên chức Cẩm Y Vệ cầm công văn đang tranh cãi với tên trưởng ngục. Ngụy Thân lập tức bước nhanh tới hỏi:

- Chuyện gì mà tranh chấp trước đại lao bộ Hình như vậy?

Viên trưởng ngục khom người bẩm:

- Ngụy đại nhân! Hai vị này là bách hộ chưởng hình Trấn Hộ ty (cơ quan bảo vệ an ninh trật tự), muốn hỏi cung nghi phạm vụ án Đế Lăng.

Ngụy Thân liếc nhìn hai vị bách hộ Cẩm Y Vệ mặc áo cá chuồn. Bọn họ vừa thấy đây là Ngụy Thân danh chấn kinh sư về tính chính trực, lập tức bao nhiêu dáng vẻ bệ vệ đối với tên trưởng ngục đều bay mất. Một tên tiến lên thi lễ:

- Hạ quan Thôi Đề ra mắt Ngụy đại nhân. Theo luật Đại Minh, phàm có án nào mạo phạm Hoàng Đế bệ hạ và liên quan tới quan chức trong triều, thì Trấn Phủ đều có quyền hỏi cung, thậm chí tra tấn. Nhưng Hoàng Thượng đã giao án này cho Tam Pháp Ty, Trấn Phủ chúng tôi không hề dám tranh giành việc thẩm vấn, nhưng chúng tôi lại phải dự thính vụ án này. Bất kể là đưa ra hỏi cung hoặc tra tấn tù phạm, cũng xin đại nhân kịp thời cáo tri cho chúng tôi biết.

Sớm đã bất mãn về sự ngang bướng của Cẩm Y Vệ, Ngụy Thân nghe thế rất giận, đáp ngay:

- Việc này tuy liên quan đến Đế Lăng và hoàng gia, nhưng lại là việc xử lý quan chức gian lận tham ô, không liên quan gì tới đại án mưu phản. Huống chi Hoàng Thượng đã giao phó vụ án này cho Tam Pháp Ty toàn quyền, Cẩm Y Vệ cũng có thể nhúng tay vào sao?

Thôi Đề cười không vui:

- Đại nhân làm theo nhiệm vụ cũng phải theo lẽ công bằng mà làm. Đây cũng là nhiệm vụ của Cẩm Y Vệ, ý chỉ Hoàng Thượng không nói là không cho Cẩm Y Vệ giám sát vụ án này mà?!

Ngụy Thân ngửa mặt lên trời cười ha hả, vuốt bộ râu dài nói:

- Đới Nghĩa là người của ty Lễ Giám. Ai chẳng biết Cẩm Y Vệ cùng nhà với Đông Xưởng và ty Lễ Giám! Xin chuyển cáo đến đề đốc Trương đại nhân và Trấn Phủ Sứ Mưu đại nhân: nên tránh khỏi hiềm nghi cho xa!

Vừa dứt lời, Ngụy Thân bèn phất tay áo bỏ đi. Hai vị bách bộ cẩm y nhìn theo hình bóng Ngụy Thân, nhất thời cũng không biết phải làm sao. Thôi Đề nhíu mày nói:

- Bộ Hình giao vụ này cho Ngụy phán quan xử lý, e rằng muốn làm khó Trấn Phủ Sứ đại nhân rồi. Lão thất phu này đến cả hoàng thân quốc thích cũng chẳng để vào mắt, há lại quan tâm tới chúng ta?

Tên bách bộ cẩm y kia là Hoàng Tử Duy cười nói:

- Thôi huynh! Diêm vương dễ gặp, tiểu quỷ khó đối phó. Lão gia hỏa Hồng Chung rất cẩn thận, cũng rất biết điều. Chúng ta đưa thẳng thiếp cho lão, chắc lão không dám không nể mặt Mưu đại nhân đâu!

Không ngờ Hồng Chung tự cho rằng mình đã hiểu được tâm ý Hoàng Thượng nên sau khi nhận được thiếp của Trấn Phủ Sứ Mưu Bân, lão trầm ngâm thật lâu rồi bảo tả thị lang bộ Hình Trình Văn Nghĩa:

- Đi! Nói cho hai tên bách hộ cẩm y đó là vụ án này rất khẩn yếu, các phạm nhân liên quan vẫn chưa bắt đủ, vì vậy chưa thể thẩm vấn. Bảo họ trở về đi.

Trình Văn Nghĩa lo lắng:

- Đại nhân! Cớ này chỉ hiệu quả nhất thời, không làm được một đời. Nếu như Cẩm Y Vệ muốn nhúng tay vào lúc thăng đường thẩm án thì chúng ta phải làm sao cho tốt đây?

Quả là một lão hồ ly gian trá, Hồng Chung chỉ cười hắc hắc đáp:

- Đến lúc Tam Ty hội thẩm, cả triều đều chăm chú nhìn, chúng ta bảo Ngụy Thân tìm bừa một cớ nào đó giữ họ ở bên ngoài, chẳng lẽ Mưu Bân dám không kiêng dè gì mà cố xông vào công đường sao?

Vốn Hồng Chung xử sự luôn luôn mềm dẻo, hôm nay lão dám chống lại Cẩm Y Vệ làm Trình Văn Nghĩa thầm ngạc nhiên. Hắn "Dạ" rồi lặng lẽ lui ra ngoài.

Hồng Chung mỉm cười thầm nghĩ: "Ta là một viên quan bộ Hình, không phải đối thủ của Cẩm Y Vệ, nhưng Tam Pháp Ty cùng thăng đường thẩm vấn, vậy Mưu Bân dám đồng thời đắc tội với công khanh của cả ba ty không? Án này mà thẩm vấn xong, đến lúc đó sợ nội tướng (*) cũng phải thay người rồi, đến lúc đó danh vọng của ta lập tức lên cao. Mưu Bân thấy vậy còn dám kiêu ngạo như thế nữa không?

(*): ở đây chỉ đại thủ lĩnh thái giám.

Trong phòng của Mưu Bân thuộc Trấn phủ ty, đề đốc chỉ huy sứ Trương Tú đang chắp hai tay sau mông, đi đi lại lại trong phòng. Một lúc sau, lão hừ một tiếng:

- Rõ là ngu xuẩn! Xây Đế Lăng vốn là một cơ hội khó cầu, chỉ cần làm tốt một chút lập tức Dương Lăng sẽ có thể tiến thêm một bước dài trên hoạn lộ, sao y lại chui đầu vào một vụ án lớn như vậy? Ta vừa mới trở lại kinh thành còn chưa biết tình hình cụ thể thế nào, thật sự trong lăng có tuôn nước à?

Mưu Bân mỉm cười đáp:

- Tuôn hay không cũng không quan trọng. Điều trọng yếu chính là khi Tiên đế còn sống thì ngài dùng nhân hậu trị thiên hạ, thanh thế của Cẩm Y Vệ chúng ta không lớn lắm. Bây giờ nếu để cho bộ Lễ, bộ Công và cái đám quan văn lật đổ nhóm thân quân (bên cạnh vua) ty Lễ Giám và Cẩm Y Vệ chúng ta, thì đám quan văn lại càng thêm uy phong rồi.

Trương Tú trừng mắt nhìn hắn, mắng:

- Nói như thế, việc này là thật à? Long mạch bị hao tổn là việc nước, việc này là đại sự trọng yếu đến mức nào? Sao ngươi dám thản nhiên như vậy, còn muốn gây rắc rối nữa à?

Tuy Mưu Bân chỉ là thống lĩnh Trấn Phủ ty Cẩm Y Vệ, nhưng vì hắn nắm giữ bộ phận quan trọng nhất của Cẩm Y Vệ nên quyền lực và địa vị không hề thấp hơn Trương Tú. Nghe Trương Tú nói như vậy, hắn không khỏi ung dung cười đáp:

- Đại nhân! Việc đào đất thì tổn hại gì tới vận mệnh quốc gia? Những lý luận của những tên ngu ngốc đó mà ngài thật sự tin à?

Ha ha! Thuở trước vì có ít con cháu nên Tống Huy Tông nghe lời bày vẽ của thầy địa lý, hao tài tốn của xây góc thành tây bắc của Biện Lương cao gấp mấy lần, bảo là nhờ đó sẽ được con cháu đông đúc, thịnh vượng, quốc gia hưng thịnh. Kết quả là như thế nào?

Ông ta mê tín thuật phong thủy, xây dựng rầm rộ, tu đạo để thành tiên, kết quả trở thành vua mất nước. Đến nỗi con trai là Tống Khâm Tông cũng bị quân Kim bắt làm tù binh, hai vua cùng bị bắt, có thể nói là chuyện lạ trong thiên hạ. Còn có triều đại...

- Đủ rồi!

Da mặt Trương Tú co rút lại, hồi lâu lão mới nói:

- Có câu nói "nhất mạng, nhì vận, tam phong thuỷ, tứ tích âm đức, năm đọc sách". Việc này mặc dù hư vô mờ mịt, không thể tin hết, cũng không thể không tin. Bây giờ việc đã như thế này, chỉ có nước tận nhân lực rồi tùy thiên mạng thôi. Ngươi phái người liên lạc với Dương Lăng, xem y có phương cách gì không. Tính toán xem, nếu có thể cứu y ra, hãy tận lực làm. Nếu không thể, hơn nữa còn liên luỵ tới Cẩm Y Vệ ta... Ngươi hiểu chứ?

Mưu Bân khẽ gật đầu, trầm tĩnh đáp:

- Ty chức hiểu! Ty chức cử người đi làm ngay.

***

Ngụy Thân xem bọn Dương Lăng là trọng phạm của triều đình nên giam vào những phòng giam riêng, không cho trao đổi với nhau để tránh họ thông cung. Một mình Dương Lăng bị giam trong một phòng ngục rất hôi hám. Y đang ngồi ngơ ngác, chợt một tên ngục tốt dùng chuôi đao gõ gõ vào song sắt, gọi:

- Ăn cơm!

Nói rồi gã tiện tay nhét vào một bát cơm.

Từ khi bị bắt về kinh thành giam vào phòng tù mịt mù tăm tối, chỉ mới uống nước chưa được ăn cơm nên bụng Dương Lăng đói sôi lục bục. Nghe gọi, y vội đứng lên đi tới nhận bát cơm.

Tên ngục tốt hơi cúi đầu xuống, thận trọng nhìn bốn phía, rồi đột nhiên ngẩng đầu lên, thấp giọng cười nói:

- Dương đại nhân, đã lâu không gặp! Mưu đại nhân bảo ty chức căn dặn ngài vài câu, ngài cần phải lắng nghe cẩn thận.

Dương Lăng thấy gã ngẩng đầu lên, hóa ra là tên thiên hộ Cẩm Y Tiền Ninh, không khỏi vừa mừng vừa sợ, thất thanh hỏi:

- Là ngài? Sao Tiền đại nhân lại lẻn vào đây. Cẩn thận kẻo bị người ta phát hiện!

Tiền Ninh mỉm cười nói:

- Nếu ty chức không đến mà phái một huynh đệ khác, chỉ sợ ngài tưởng là bộ Hình lừa ngài nên sẽ không dám nói thật! Yên tâm đi, trong bộ Hình có người của chúng ta, không đưa ngài ra ngoài được nhưng đi vào thăm ngài một lúc lại là việc nhỏ. Mưu đại nhân hỏi ngài việc này làm có hoàn toàn kín kẽ không?

Dương Lăng chấn động trong lòng: "Mưu Bân hỏi như vậy, hiển nhiên hắn đã nhận định Đế Lăng tuôn nước là chính xác trăm phần trăm rồi. Nghe ngữ khí hắn, xem ra hắn chẳng mấy quan tâm tới thuật phong thủy gì cả."

Dương Lăng không dám thoải mái kể lại tình hình thực tế. Y không thân với Mưu Bân, nếu Mưu Bân cố ý lừa y mà y lại nói thật thì đúng là tự mình tìm tử lộ. Do đó Dương Lăng hàm hồ đáp:

- Ty chức không rõ ý của đại nhân. Kim Tỉnh vốn không hề bị hư hỏng gì, tại sao lại có sơ hở có thể tìm ra?

Tiền Ninh giơ ngón cái, mỉm cười gật đầu nói:

- Như thế là tốt nhất, nhưng trong triều có người mưu hại, việc này luôn khó có thể nói rõ.

Gã hỏi thêm:

- Đại nhân có tính toán gì không, có thể báo cho tại hạ, tại hạ sẽ bẩm báo cho Mưu đại nhân đem toàn lực tương trợ.

Dương Lăng suy tính một lát, rồi bàn với Tiền Ninh mấy biện pháp, nhưng đều chỉ là những biện phápây áp lực khiến cho Tam Pháp Ty không dám quá tay, loại việc làm này cũng không thể thu được ích lợi gì nhiều.

Tiền Ninh nghe xong chau mày suy nghĩ một chút rồi nói:

- Khó! Thật sự là khó, việc này ồn ào như vậy, e rằng không dễ giải quyết đâu!

Dương Lăng cười u ám, đáp:

- Ta biết, Tiền huynh cứ làm hết sức là tốt rồi! Cổ nhân nói: "Nhân gian nói nhỏ, trời nghe rất rõ". Dương mỗ tin rằng trên đầu ba thước có thần minh. Ta chỉ cần làm việc có thể không gì sai sót, có trời đất chứng giám là được. Việc đã đến nước này, ta cứ tận nhân lực rồi tùy thiên mạng đi! Chỉ là... Mong Tiền huynh cử người thông báo cho vợ của ta: nếu Hoàng Thượng tức giận mà liên lụy tới người nhà, bảo nàng đem vật đang được thờ cúng ở nội đường cầu Hoàng Thượng tha cho. Chỉ cần Tiền huynh truyền đạt giúp lời này, Dương mỗ có chết thì dưới suối vàng cũng vô cùng cảm kích!

Tiền Ninh nhìn y một lúc rồi thở dài nói:

- Đại nhân không nói, ty chức cũng biết nguyên do. Huynh đệ chúng tôi không phải là người tốt, nhưng Dương huynh là người như vậy, huynh đệ chúng tôi cũng rất kính trọng. Dương đại nhân yên tâm! Ty chức sẽ sai người đưa tin cho những vị đại nhân khác, để họ nghiến răng kiên quyết không thừa nhận, đại nhân tự thu xếp ổn thoả nhé.

Vừa về tới bộ Hình, Ngụy Thân lại nghĩ tới việc Cẩm Y Vệ có quan hệ mật thiết với Đông Xưởng, còn Đông Xưởng lại cùng hệ với ty Lễ Giám. Hôm nay Cẩm Y Vệ tích cực nhúng tay vào, có phải là để cứu thái giám Đới Nghĩa, thủ lĩnh của ty Lễ Giám hay không?

Nghĩ đến đây, lo ngại Cẩm Y Vệ đút lót ngục tốt tổ chức thông cung, Ngụy Thân vội vàng phi ngựa chạy trở lại đại lao bộ Hình. Lão chia ngục tốt thành từng nhóm bốn người trực trước cửa phòng giam nghi phạm, hơn nữa chính lão cũng tự mình cố thủ ở đại lao không rời nửa bước.

Tiền Ninh chân trước mới vừa đi, Ngụy Thân đã trở lại. Ở bốn cửa lao cả ngày lẫn đêm không lúc nào không có ngục tốt trấn thủ. Dù Cẩm Y Vệ chỗ nào cũng có thể nhúng tay vào nhưng nếu muốn đưa tin cũng khó như lên trời. Tiền Ninh cố thử vài lần nhưng suýt khiến cho Ngụy Thân nghi ngờ, gã đành bỏ cuộc, chỉ có nước đem những lời dặn dò của Dương Lăng về bẩm báo với Mưu Bân.

Nha môn Tam Ty đột nhiên hội thẩm hai lần, quả nhiên Cẩm Y Vệ bị gạt ra ngoài. Mắt thấy Cẩm Y Vệ quyền thế lại bị khiêu khích và bỏ qua một bên như vậy, đến cả Trương Tú cũng cảm thấy giận dữ. Lão lập tức tung mật thám Cẩm Y Vệ rphao những lời đồn đoán, phỉ báng quan chức các bộ Lễ, Công, Hình, đồng thời thu thập những cái đuôi của họ.

Tam Pháp Ty hội thẩm hai lần. Bốn người Dương Lăng cùng nói một giọng mặc cho tên thập trưởng ra mặt làm nhân chứng. Cả bốn chỉ nói hắn vì thù oán bọn họ nên vu cáo hãm hại, khiến cho Tam Pháp Ty hết đường xoay sở.

Thượng thư bộ Hình Hồng Chung bất lực chỉ có nước tâu với Chính Đức Hoàng Đế ở phiên triều sớm:

- Khải bẩm Hoàng Thượng! Thần phụng chỉ cùng Đốc Sát Viện, Đại Lý Tự thẩm tra án Đế Lăng thấm nước. Nhân chứng đối chất với phạm quan (quan phạm tội) ở công đường, nhưng cả bốn phạm quan hoàn toàn không chịu thừa nhận, bảo là tên thập trưởng bị bệnh hoang tưởng, hoa mắt nhìn lầm, chết cũng không thừa nhận. Thần xin phép Hoàng Thượng hạ chỉ cho phép bộ Hình được phép tra tấn bốn phạm quan.

Mặc dù mấy cái thứ ưu đãi 'Hình không áp dụng cho đại phu', sớm bị tên Chu Trọng Bát (tức Chu Nguyên Chương, hoàng đế lập nên triều Minh) phá tan hoang rồi, nhưng ngoại trừ khi bị Cẩm Y Vệ hạ ngục, trước giờ chưa từng nghe nói bộ Hình cũng có thể dùng cực hình bức cung với quan chức. Một khi thành lệ, bộ Hình nắm quyền sinh sát trong tay lập tức có thể biến thành Cẩm Y Vệ thứ hai rồi. Bá quan nghe vậy, không khỏi trợn mắt nhìn.

Đại học sĩ Lưu Kiện lập tức bước ra khỏi hàng tâu:

- Hoàng Thượng! Việc này vạn lần không thể được. Bốn phạm quan thật sự có tội hay không, trước mắt chỉ có một nhân chứng, cũng không vật chứng. Thần nghe nói tên thập trưởng đó từng bị khâm sai Đới Nghĩa trừng phạt. Bởi vì một chút ân oán cá nhân, trước nay cũng có những người dân điêu ngoa, gian ác gan lớn bằng trời dám hãm hại đại thần triều đình rồi. Nếu các vị ấy bị cực hình mà nhận tội, thành ra bức cung, chẳng phải là oan uổng sao?

Từ Quán vội la lên:

- Hoàng Thượng! Cẩm Y thân quân cũng được thiên tử giao cho quyền tra tấn. Nhưng việc này vì có liên quan tới ty Lễ Giám, để tránh hiềm nghi, Hoàng Thượng nên đưa phạm quan cho Tam Ty thẩm vấn. Mấy tên phạm quan đó biết long mạch bị hao tổn ảnh hưởng tới vận mệnh quốc gia, hậu quả rất là nghiêm trọng; ai cũng sợ chết nên đương nhiên ngoan cố, không dùng cực hình là không chịu cung khai. Gặp sự phải tòng quyền, xin bệ hạ ân chuẩn.

Tạ Thiên bước ra, tâu:

- Người không nói loạn về thần linh. Đại Minh ta được thiên hạ, đó là nhờ vào thiên mạng. Chỉ một lần phong thủy cũng có thể có được thiên hạ, cũng có thể mất thiên hạ, chẳng lẽ đó không phải là việc bất chính, quá là hoang đường sao? Thánh nhân từ trước đến nay coi phong thủy là thuật xằng bậy, mê hoặc lòng người. Mấy năm trước, sau vụ án "Lý Quảng" (*), tiên đế đã từng đuổi mấy ngàn tên đạo sĩ phiên tăng thuật sĩ chuyên dùng tà thuyết mê hoặc dân chúng. Bệ hạ đâu thể chỉ vì một người tố cáo như vậy mà trị tội đại thần chứ?

(*): Xem c h ư ơ n g 82: Gạo vàng gạo trắng;

Xem thêm http://bbs.daqi.com/bbs_editor/05/724286719.html (Cám ơn StormRaider)

Đệ tử nho gia chính thống từ trước đến nay không tin phong thủy, cho rằng người có đạo là có thiên hạ, có được lòng dân là có thiên hạ. Họ cho rằng mấu chốt của vận mệnh họa phúc đều do cá nhân tu dưỡng, nếu có thể giữ được lòng lành, nhận thức được thiên tâm là có thể chuyển họa thành phúc, cải tạo vận mệnh. Do đó phần lớn văn võ bá quan trong triều đều phản đối thuật phong thủy.

Nhưng khi Hoàng Đế về trời, hoàng gia tìm một vùng đất an táng, tìm một thầy phong thuỷ tới thăm dò thì cũng không quan hệ gì lắm tới việc triều chính, do đó bọn họ luôn luôn mắt nhắm mắt mở bỏ qua. Nhưng bây giờ bộ Hình muốn dựa vào chuyện này mà lạm quyền, ba vị đại học sĩ cũng hơi bất mãn.

Hơn nữa hiện nay dân gian có lời đồn đoán, bảo là vì dời lăng Tiên đế nên triều đình sẽ phải đánh thuế nặng, phần lớn dân chúng đã hơi hoang mang, lo lắng. Không ở nhà thì chẳng biết củi gạo quý. Ba vị đại học sĩ quản lí triều chính nên biết chi phí tiền lương tuy không tới nỗi phải giật gấu vá vai, nhưng cũng không chịu nổi việc tiêu xài hoang phí như thế. Huống hồ Đại Minh đang chịu thiên tai ở vài địa phương, đã có dấu hiệu dân muốn nổi loạn, lúc này mà tăng thuế thì không khác gì lửa cháy đổ thêm dầu. Do đó ba vị đại học sĩ vốn luôn luôn cùng tiến cùng lùi, lần này nhất trí cho rằng bộ Công, bộ Lễ cứ chuyện bé xé ra to là do người khác có mưu đồ riêng; nên cả ba vị quyết tâm phải phản đối cho bằng được.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 99: Vương tam xúi giục

Chính Đức không vui nói:

- Phận làm con phải lấy chữ hiếu làm đầu. Lăng tẩm của Tiên đế bị thấm nước như vậy còn chưa tính là không lành sao? Còn chưa tính là đại sự sao?

Lý Đông Dương thấy Hoàng Đế Chính Đức rất không vui, bèn vội bước ra khỏi hàng tâu:

- Hoàng Thượng! Đất bị động thổ đã là trái với lẽ tự nhiên rồi, lẽ nào còn lắm điều huyền bí như vậy? Huống hồ nói theo phong thuỷ, cũng có kiến giải rằng nhân sinh họa phúc do trời, người tài đức thì có thể được yên mạng. Vì vậy mới có câu: "Nơi đất lành chỉ có người có đức mới được ở". Thái Lăng vốn là đất lành, cớ chi đột nhiên vì Kim Tỉnh thấm nước báo điềm mà thành đất dữ? Tiên đế là lệnh chủ trung hưng (phục hưng?) của Đại Minh, là một minh quân xưa nay hiếm thấy. Chẳng lẽ Tiên đế không có phước được ở nơi đó sao?

Ông dùng phong thuỷ phản bác phong thuỷ, kỳ thật ý tứ cũng giống như Lưu Kiện, Tạ Thiên, vẫn cho rằng Từ Quán, Vương Quỳnh chuyện bé xé to. Mã Văn Thăng nghe xong không nhịn được nữa. Tuy lão luôn kính trọng ba vị đại học sĩ, nhưng cũng không có nghĩa là ba người nói gì thì lão cũng nghe.

Từ xưa vốn có lệ là quan viên không được làm quan tại nguyên quán, nhưng chế độ này sớm chỉ còn trên danh nghĩa. Từ lúc Dương Lăng và Lưu Cẩn góp lời cho Hoàng Đế lập lại chế đô này, Mã Văn Thăng bị đám quan viên hành cho sứt đầu mẻ trán nên rất bất mãn về việc Dương Lăng "khuấy đảo triều chính". Bởi vậy vừa nghe ba đại học sĩ bảo vệ đám người Dương Lăng, lão không nhịn được mà phản bác:

- Đại học sĩ nói vậy sai rồi. Người xưa có câu: "Nhất mạng, nhì vận, tam phong thuỷ, tứ tích âm đức, ngũ độc thư"*. Đại sự này có ảnh hưởng tới sự thay đổi vận mệnh cá nhân và an nguy xã tắc của triều đình, đương nhiên phải thận trọng mà hành động, sao có thể coi thường nó?

(*: số mạng là quan trọng nhất, kế đến là vận số, thứ ba là phong thuỷ, thứ tư tích âm đức, và cuối cùng là đọc sách. Vậy là độc thư hay đọc thư?)

Thượng thư Hàn Văn của bộ Hộ trông nom 'túi tiền' của Đại Minh. Bấy giờ tin triều đình tăng thuế đang lan truyền đi rất nhanh. Kinh sư vốn giàu có thì không sao. Nhưng có những nơi dân chúng cơm không đủ ăn, chỉ có thể sống tạm bợ qua ngày mà thôi. Nếu triều đình thực sự ban hành chính sách này, thì lão sẽ phải đứng mũi chịu sào gặp đủ mọi điều khó xử, cho nên người sợ dời lăng nhất chính là lão ta.

Cho nên lão lập tức cũng vội vàng bước ra tấu:

- Hoàng Thượng! Thánh nhân có câu: "Quý không ở nơi chốn, mà do thiên mạng", Đại Minh ta thiên mạng vốn đã định, vận nước hưng thịnh. Phong thuỷ chỉ là bàng môn tiểu thuật, sao có thể xem là chính đạo?

Ba vị đại học sĩ và thượng thư bộ Hộ cùng chung ý kiến, nói về thiên mạng chính đạo, còn bốn vị thượng thư của bộ Lại, bộ Công, bộ Lễ, bộ Hình thì lại bàn tới phong thuỷ. Nhất thời cả đại điện tranh luận tới lui không ngừng nghỉ.

Chính Đức bị bọn họ tranh cãi đến đầu óc rối mù, đành bất lực quay sang hỏi Lưu Đại Hạ:

- Lưu thượng thư, khanh nghĩ thế nào?

Lưu Đại Hạ khom người bẩm:

- Bệ hạ! Thần cũng cho rằng gửi gắm vận mệnh quốc gia vào phong thuỷ là điều hết sức nực cười. Nếu nói phong thuỷ có thể quyết định họa-phước của quốc gia, vậy trị quốc bình thiên hạ cũng không cần vua hiền tôi trung hay đạo thánh nhân nữa. Nếu vậy khi xưa Đại Tống bị nhà Nguyên xâm lược, người Đại Tống chỉ cần dời lăng mộ Tiên đế tới vùng đất có phong thủy tốt, thì người Nguyên sẽ ngoan ngoãn lui binh rồi.

Văn võ bá quan nghe xong lời này không khỏi phá lên cười.

Lưu Đại Hạ đợi chúng thần bớt ồn ào mới nói tiếp:

- Do đó thần cho rằng không cần phải úy kỵ việc vọng động đến Kim Tỉnh. Nếu cần có thể sai đại thần trong triều đến kiểm tra. Nếu Kim Tỉnh có bị người ta động tay chân hay không, tự nhiên liếc mắt sẽ thấy ngay thôi.

Hoàng đế Chính Đức cũng không biết thuật phong thuỷ có đáng tin hay không, nhưng xem ra việc này thà tin còn hơn không, không tin thì không ổn. Nghe Lưu Đại Hạ nói như vậy, hắn đang muốn bảo Khâm Thiên giám lên điện hỏi để xem có kiểm tra Kim Tỉnh được không, thì thượng thư Vương Quỳnh của bộ Lễ đã lên tiếng:

- Hoàng Thượng, thần nghe nói bảy binh sĩ đứng cạnh Kim Tỉnh chứng kiến việc Kim Tỉnh trào nước bất ngờ đã bị chết khi đang xây dựng đế lăng. Đây còn không là chứng cứ lớn nhất cho việc giấu đầu hở đuôi sao? Hà tất phái người đi tới lăng kiểm tra, khiến Tiên đế dưới suối vàng không được yên ổn. Thần nghĩ rằng, cho dù nó phong thủy ảnh hưởng tới vận mệnh quốc gia là vô căn cứ, nhưng những kẻ này khi quân phạm thượng không phải giả. Theo lý nên nghiêm trị, lấy đó làm gương!

Chính Đức nghe xong bèn hạ quyết tâm, vỗ ngự án một cái phán:

- Được! Bảo bộ Hình dùng cực hình, để xem bọn chúng cứng đầu tới đâu!

* * *

Mồng hai tháng sáu, mới sáng sớm đã có hàng loạt những tiếng sấm ì ầm, nhưng mưa lại không lớn, chỉ tí tách rơi. Gần đến trưa, một hiếc kiệu nhỏ đội mưa xuất hiện trên con đường nhỏ trong thôn quê lầy lội.

Mấy ngày qua phủ Uy Vũ Bá bị bao trùm trong một bầu không khí thê lương và ảm đạm. Hàn Ấu Nương nghe nói tướng công có chuyện, sợ tới mức hồn phi phách tán. Nàng đã đi đến bộ Hình nhiều lần, nhưng nơi ấy được canh gác nghiêm ngặt, tuyệt nhiên không cho nàng vào.

Sau khi Thái Lăng xảy ra chuyện, vua Chính Đức đã cho người quản giáo Đế Lăng, không cho phép bất cứ ai xuống núi. Cha con họ Hàn cũng bị giam lỏng trên núi. Hàn Ấu Nương chỉ là một nữ tử yếu đuối, không chốn khẩn cầu. Nàng cả ngày lo lắng chạy tới ngoài cửa đại lao bộ Hình nhưng thủy chung vẫn không tìm được cơ hội để gặp mặt tướng công một lần, tâm lực tiều tụy, trong lòng vô cùng thương tâm.

May mà nàng có nghe ngóng biết được tướng công mặc dù qua hai lần thăng đường, nhưng chưa bị dùng hình (tra tấn), bốn đại thần không ai chịu cung khai nên mới yên lòng một chút. Lúc này Ấu Nương mới vừa được Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đưa về phủ. Cao Văn Tâm nghe tin vội vàng chạy tới, vừa vào cửa trông thấy sắc mặt Ấu Nương, liền biết hôm nay nàng vẫn chưa gặp được Dương đại nhân.

Cao Văn Tâm vịn cửa trầm ngâm hồi lâu, chỉ có thể than nhẹ một tiếng, rồi vào phòng lấy quần áo khoác thêm cho Ấu Nương, nhẹ nhàng an ủi:

- Phu nhân, người đừng quá lo lắng để tránh tổn hại tới thân thể. Hai ngày qua, mọi người bên ngoài đều truyền miệng nhau, nói rằng triều đình muốn gia tăng thuế khoá nên mới lấy cớ Đế Lăng không lành để nguỵ biện. Lão gia vì bá tánh Đại Minh mới phải vào tù, lòng người đều ủng hộ. Lão gia cát nhân thiên tướng, nhất định sẽ có thể chuyển nguy thành an thôi.

Hàn Ấu Nương mặt hoa u sầu, nghe vậy chỉ cố gượng cười, nước mắt lưng tròng, nói không nên lời.

Đúng vào lúc này, một tiểu tỳ áo xanh lặng lẽ đi tới cửa, khẽ nói:

- Phu nhân, tam công tử nhà Vương thượng thư đã đến rồi.

Cô nàng cũng biết hai ngày qua không khí trong nhà vô cùng căng thẳng, cho nên không dám lớn tiếng.

Tuyết Lý Mai nghe vậy, mày liễu liền cau lại, hầm hầm nói:

- Hắn tới làm gì? Lão gia nhà ta xảy ra chuyện lớn như vậy, ai có lòng thanh thản mà xem bệnh cho phu nhân hắn chứ? Đuổi hắn đi đi!

Ngọc Đường Xuân vội ngăn lại bảo:

- Khoan đã, hắn là con trai thượng thư bộ Lễ. Có lẽ có thể nhờ hắn cầu xin Vương thượng thư ra mặt xin tha cho đại nhân.

Tuyết Lý Mai cười khẩy:

- Tỷ nói xem vì sao mấy ngày nay hắn không đến nhà chúng ta? Dân chúng khắp thiên hạ đều nói bộ Lễ và bộ Công liên thủ sắp đặt tội cho lão gia. Cha hắn chính là kẻ hãm hại lão gia. Hắn sẽ cứu sao?

Tiểu tỳ áo xanh rụt rè chen vào:

- Phu nhân, các vị cô nương, Vương tam công tử... tới có một mình thôi, không hề dẫn theo phu nhân.

- Sao?

Hàn Ấu Nương và mấy người Ngọc Đường Xuân đều đưa mắt nhìn nhau, lấy làm nghi hoặc. Hàn Ấu Nương nghĩ ngợi một chút, rồi cắn răng đứng lên:

- Đám phụ nữ chúng ta ở đây cũng không nghĩ ra được cách nào. Ta đi gặp hắn, xem rốt cuộc là hắn có mục đích gì.

Cao Văn Tâm ngăn lại:

- Phu nhân khoan đã. Đại nhân gặp nạn, nhà họ Vương cũng có hiềm nghi. Phu nhân không nên trực tiếp ra mặt. Theo tiểu tỳ thấy, trước tiên hay là cho người thăm dò mục đích của hắn thì tốt hơn.

Tuyết Lý Mai nổi giận đùng đùng nói:

- Để muội đi gặp hắn. Nhà họ Vương lấy oán trả ơn, muội cũng muốn xem Vương tam công tử có gì để nói?

Ngọc Đường Xuân lườm nàng, trách:

- Với cái tính tình đó của muội, đi sẽ chỉ làm hư chuyện.

Đoạn nàng hỏi ý Ấu Nương:

- Phu nhân, hay là để tôi đi thử. Vương tam công tử đã tới nhiều lần, tiểu tỳ cũng tương đối hiểu hắn, trước hết thăm dò xem ý đồ của hắn đã rồi mới quyết định sau.

Hàn Ấu Nương khẽ gật đầu:

- Tô Tam muội muội tính tình trầm ổn, phiền muội đi một chuyến vậy.

Những tiếng sấm ì ầm vọng lại từ phía chân trời. Vương Cảnh Long đứng ở cửa phòng, đưa mắt nhìn về phía chân trời âm u, lại nhìn lão quản gia đang thõng tay đứng một bên, vẻ mặt thẫn thờ. Mặc dù hôm nay lão quản gia không mời hắn vào thư phòng, cũng không dâng lên chén trà nào, nhưng Vương Cảnh Long vẫn không khỏi mỉm cười, trong lòng lại hỉ hả không thôi.

Hắn và mấy hảo hữu vốn định lật đổ Dương Lăng, nhưng thủy chung vẫn không nắm được nhược điểm gì. Triệu Ung gợi ý bảo hắn tới Dương phủ tìm cơ hội gieo vạ hãm hại, tỷ như lúc đến nhà cầu thầy tặng lễ vật sẽ bí mật mang theo mấy thứ đồ cấm hoặc vượt khỏi quy định gì đó. Bọn chúng cho rằng, Dương Lăng là tên tú tài quê mùa ở nông thôn, chưa hẳn đã biết những thứ này, vậy còn không ngoan ngoãn chui vào rọ sao?

Thế nhưng Vương Cảnh Long cũng không ngốc. Triệu Ung bảo hắn bí mật kẹp mấy tấm vải màu vàng chói vào trong những lễ vật biếu tặng. Có điều phương pháp này quá dễ thấy, rất dễ bị người ta phát hiện. Hơn nữa một khi xảy ra chuyện hắn cũng không thoát khỏi liên can, do đó lo sợ mà vẫn chưa dám thi hành.

Mấy tên này chỉ trích tệ chính thì thao thao bất tuyệt, tựa hồ việc diệt gian trừ ác chỉ là việc trong nháy mắt. Điều nực cười chính là mấy tên công tử này giống như con chuột thiên tài muốn đeo lục lạc cho mèo : ý tưởng thì không tồi, nhưng khi bảo chúng đi làm thì lại không biết phải làm sao.

Sau đó Vương Cảnh Long đứng sau cửa sổ thư phòng nhìn thấy trong ao nước giữa vườn hoa có hai ngọn giả sơn nằm ở hai bên, bèn chợt nảy ra ý tưởng,. Hắn định khuyên nhà họ Dương xây thêm một ngọn giả sơn ở giữa ao. Nên biết rằng ba hòn núi trong một ao chính là mô phỏng hành vi tiếm quyền đế vương. Hơn nữa đến lúc đó cũng không có chứng cớ để kéo hắn vào.

Đáng tiếc biện pháp này mặc dù xảo diệu, nhưng hắn lại không gặp được Dương Lăng. Nếu để thê tử của hắn mạo muội bàn luận về kiến trúc hoa viên với Dương phu nhân, sợ rằng sẽ khiến người hoài nghi. Mãi đến khi bọn người Vương Quỳnh đột nhiên phát động, dùng thế sét đánh không kịp bưng tai bắt được Dương Lăng, thì không cần đến hắn ra mặt nữa.

Nhưng nhiều ngày qua tin đồn trong kinh thành về việc sắp tăng thuế càng lúc càng nhiều. Dân chúng bần hàn gần như coi đám người Vương Quỳnh, Từ Quán là đám gian nịnh hút máu nhân dân, còn Dương Lăng thì lại được tiếng thanh liêm trong sạch, trở thành trung thần cứu giúp nhân dân.

Vương Cảnh Long biết được thì cực giận. Vừa khéo lúc ấy Nhất Xứng Kim của Thì Hoa quán sau khi nghe nói Dương Lăng bị bắt, nhất thời hưng phấn đem chuyện ba thanh quan nhân của mụ bị y cưỡng ép mua về kể cho viên ngoại lang bộ Lễ đang đi chơi kỹ viện nghe. Thê tử Vương Cảnh Long lắm bệnh, hắn lại không có vợ bé, nên cũng là khách hàng thường xuyên qua lại thanh lâu, cũng có chút giao tình với viên ngoại lang bộ Lễ, nghe lão kể xong nghĩ rằng đã tới lúc, bèn lập tức nảy ra ý tưởng.

Hắn tự nghĩ nếu xúi giục được Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai phản lại Dương Lăng, biến y trở thành một tên ngụy quân tử ức hiếp người lương thiện, cưỡng đoạt mỹ nữ. Vậy hình tượng "kháng chỉ cứu thê" tốt đẹp của y lúc trước sẽ sụp đổ ầm ầm. Chỉ cần làm được việc này, thì sẽ có thể thêu dệt ra rất nhiều điều khác để vu cáo, bôi nhọ thanh danh của y. Ai còn tin y cầu xin cho dân nữa. Danh tiếng của cha hắn cũng sẽ không chịu ảnh hưởng.

Thế là cũng không bàn với mấy vị bằng hữu, Vương Cảnh Long vội vội vàng vàng chạy đến nhà họ Dương ngay. Hắn nghĩ, bằng vào tướng mạo tài hoa và gia thế của hắn, muốn gạt cho một người con gái xinh đẹp xuất thân thanh lâu, lại vốn ái mộ mình còn không dễ như trở bàn tay sao?

Ngọc Đường Xuân đi tới phòng khách, lão quản gia trông thấy vội chào:

- Tô cô nương đến sao?

Ngọc Đường Xuân khoát tay ra hiệu cho lão bộc lui ra, còn mình lặng lẽ đi đến sau lưng Vương Cảnh Long yêu kiều vái chào, nhẹ giọng nói:

- Tiểu tỳ Tô Tam ra mắt Vương công tử.

Vương Cảnh Long thoáng dừng lại, xoay người ngạc nhiên:

- Chà, là Tô tiểu thư đến, thất lễ thất lễ.

Ngọc Đường Xuân nói:

- Mời Vương công tử vào phòng khách ngồi. Phu nhân không có tới cùng với công tử sao? Lúc này nhà họ Dương đang có chuyện, Văn Tâm tỷ tỷ lại mang thân phận phạm nô do Hoàng Thượng khâm định. Nếu công tử muốn mang tỷ ấy về nhà khám bệnh cho phu nhân, phu nhân nhà tiểu tỳ không đảm đương nổi đâu.

Vương Cảnh Long đi vào phòng khách ngồi, rồi thở dài:

- Vương mỗ không phải vì bệnh của tiện nội mà đến. Dương Lăng xảy ra chuyện, Vương mỗ cũng có nghe nói. Chà! Dương Lăng được nhiều thánh sủng, tiền đồ như gấm, không ngờ lại thỏa hiệp với mấy tên tham quan lừa dối triều đình, thật khiến cho người ta đau đớn vô cùng.

Trên mặt Ngọc Đường Xuân thoáng hiện lên vẻ tức giận, nhưng đang không biết hắn đột nhiên tới đây là có dụng ý gì, bèn cố nén giận. Vương Cảnh Long thấy nàng im lặng đứng trước mặt mình, vội nói:

- Mời Tô tiểu thư ngồi.

Ngọc Đường Xuân khẽ nhún người, lãnh đạm:

- Trước mặt Công tử, tiểu tỳ nào dám ngồi.

Vương Cảnh Long khoát tay:

- Tiểu thư sao lại nói vậy? Tiểu thư đọc sách hiểu lễ, trời sinh đoan trang. Vương mỗ chưa từng xem tiểu thư là tỳ nữ.

Ngọc Đường Xuân cười nhạt, tránh chủ đề này, nói:

- Hôm nay công tử tới đây, nếu không phải xem bệnh cho phu nhân, chẳng lẽ có chuyện gì sao? Nếu là chuyện quan trọng, không tiện cho tiểu tỳ biết, tiểu tỳ đi mời phu nhân ra vậy.

Vương Cảnh Long vội vàng đứng dậy ngăn lại:

- Tiểu thư chậm đã. Tiểu thư đã hỏi, vậy Vương mỗ cũng đành mạo muội. Không dám giấu tiểu thư, Vương mỗ hôm nay đến chính là vì... Tô tiểu thư đó.

- Sao?

Ngọc Đường Xuân lộ vẻ ngạc nhiên, không dám tin hỏi:

- Vương công tử là vì... vì tiểu tỳ mà đến à?

Vương Cảnh Long thấy trong phòng không có người khác, bèn mỉm cười quỷ dị nói:

- Tiểu thư ở Dương phủ, thật sự chỉ là một tỳ nữ sao?

Ngọc Đường Xuân tròn xoe đôi mắt, đầy nghi hoặc hỏi:

- Vương công tử nói lời này... rốt cuộc là có ý gì?

Vương Cảnh Long cười khẩy nói:

- Ngụy quân tử đúng là ngụy quân tử. Nếu hắn đã thèm muốn vẻ xinh đẹp của tiểu thư, chuộc tiểu thư về nhà thì phải hết sức yêu quý tiểu thư mới phải. Đáng hận là hắn chỉ vì cái thanh danh trọng tình trọng nghĩa đẹp đẽ, sau khi mua một người con gái yêu kiều quyến rũ như cô nương về làm thiếp lại gán cho danh phận nô tỳ, thật là khiến người ta đau lòng!

Ngọc Đường Xuân nghe ngữ khí của hắn tưởng rằng mình là thiếp của Dương Lăng nhưng bình thường lại bị sai bảo như là nha đầu. Nàng không biết chuyện mình là thiếp thị hay nô tỳ có liên quan gì với với chuyện hắn đội mưa chạy tới nơi này, trong lòng kinh ngạc và nghi ngờ không thôi, nên cũng không phản bác gì.

Vương Cảnh Long thấy nàng muốn nói lại thôi, càng cho rằng phỏng đoán của mình là chính xác. Hắn đắc chí nói:

- Dương Lăng bỏ ra vạn lượng bạc chuộc cô nương ra khỏi Thì Hoa quán, nhưng lại bắt làm nô tỳ. Việc này nói ra ai chịu tin? Hắn coi người trong thiên hạ đều không có mắt sao! Hừ! Còn cố làm ra vẻ. Chỉ tiếc cho cô nương, tài hoa tướng mạo như thế, đáng lý phải được người ta che chở như châu như ngọc, lại rơi vào kết cục như vậy.

Ngọc Đường Xuân chớp chớp cặp mắt xinh, thấy vị công tử gia này tỏ vẻ đau xót, thiếu điều giậm chân đấm ngực gào khóc. Nhưng hắn nói tới nói lui, vẫn chưa nói đến điểm quan trọng, nàng đành phải lẩm bẩm:

- Vương công tử... Vì sao lại nói lời này. Thật ra đại nhân đối đãi với tiểu tỳ... đối đãi với tiểu tỳ rất tốt, cũng chưa từng ngược đãi tiểu tỳ.

Nàng nói tới đây chợt nghĩ Dương Lăng lần này đắc tội với thiên tử, không biết chừng còn bị chém đầu, tịch biên gia sản. Trái tim thiếu nữ của mình vừa có nơi gởi gắm đã lại rơi vào kết cục như vậy. Người ta nói "hồng nhan bạc mệnh", số phận mình đúng là bất hạnh mà. Nghĩ rồi vành mắt nàng không khỏi đỏ lên.

Chú thích:

Chuyện cổ tích, kể rằng để tránh cho họ nhà chuột bị mèo ta xơi tái, chuột con bèn nghĩ ra cách đeo lục lạc cho mèo để báo động cho loài chuột biết đường mà chạy mỗi khi mèo đến gần. Nhưng ai dám đến gần mèo để đeo lục lạc? Câu chuyện châm biếm những ý tưởng "điên rồ", "phi thực tế". Thế nên có thơ rằng:

Quanh năm mèo bắt chuột ăn

Mỗi ngày mấy chú chết lăn vì mèo

Muốn cho thoát cảnh hiểm nghèo

Họ hàng nhà chuột họp nhau lại bàn

Suy đi nghĩ lại miên man

Không ra cách thoát muôn vàn tai ương

Chuột con lên tiếng tỏ tường:

"Giống mèo đi lại thường thường rất êm

Rình mò ăn chuột ban đêm

Chuột không phát hiện, một phen đi đời

Chỉ còn một cách này thôi

Phải đeo lục lạc vào nơi cổ mèo

Khimèo đến nhạc kêu

Chúng ta kịp chạy, hiểm nghèo thoát ngay"

Nghe con chuột nhắt trình bày

Chuột già vội phán: "Mẹo này tốt thôi

Cậu đeo nhạc cổ mèo rồi

Họ hàng nhà chuột chúng tôi chịu liền!"

Nguyên văn "nhất trì tam sơn". Trong truyền thuyết cổ đại Trung Quốc, trong Đông Hải có ba ngọn núi là Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Trên núi mọc đầy những cây thuốc trường sinh bất lão, là nơi ở của những vị thần tiên khoái lạc trường thọ. Các vì vua phong kiến ai nấy đều ao ước được "vạn thọ vô cương" và "trường cửu thống trị", cho nên bắt đầu từ thời Hán Vũ Đế đã cho xây "Dao Trì tam tiên sơn" tại thành Trường An mang tính tượng trưng. Về sau "nhất trì tam sơn" đã trở thành bố cục truyền thống dựng trong lâm viên hoàng gia qua các triều đại.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 100: Cứu chồng chốn pháp trường

Vương Cảnh Long thấy giai nhân áo xanh da trắng miệng thì nói lời "dối lòng", nhưng mắt lại ngấn lệ, chỉ tưởng rằng mình đã nói trúng chuyện thương tâm của nàng ta nhưng nàng không dám thú nhận nên lòng mừng khấp khởi. Hắn lập tức làm ra vẻ thành thật, lấy giọng điệu chân thành thuyết phục:

- Tô tiểu thư! Hôm nay Vương mỗ mạo muội đến đây chính là để cứu cô nương ra khỏi hố lửa. Cô nương không nói ra lời tự đáy lòng, thế là vẫn không tin tại hạ sao? Xin tiểu thư chớ hoài nghi tấm lòng chân thành của tại hạ. Không dám giấu Tô tiểu thư, hôm nay Tam ty hội thẩm, Nghê Khiêm của Khâm Thiên Giám không chịu nổi tra tấn nên đã nhận tội rồi. Hoàng thượng đã hạ chỉ giờ Ngọ ngày mai sẽ lôi cả bốn người Dương Lăng ra cửa chợ khai đao xử chém. Ha ha! Cô nương không cần phải sợ hắn nữa!

Lời hắn thốt ra như sấm sét giữa trời quang. Ngọc Đường Xuân lảo đảo lùi về phía sau mấy bước, mặt hoa tái nhợt, giọng run rẩy:

- Ngươi... Ngươi nói cái gì? Dương đại nhân người... Người sẽ bị chém đầu ư? Ta không tin! Không thể tin! Ta không tin!

Vương Cảnh Long thấy dáng vẻ khiếp đảm hoảng sợ của nàng càng khiến người ta thêm động lòng, bèn ra vẻ doạ dẫm:

- Vương mỗ tuyệt không nói dối! Chẳng những Dương Lăng phải chết mà e rằng cả nhà họ Dương cũng sẽ không yên ổn. Cô nương hoa nhường nguyệt thẹn, quốc sắc thiên hương, chẳng lẽ không sợ bị sung làm quan nô(*), bán vào Giáo Phường ty chịu khổ ư?

(*: nô lệ cho quan lại)

Lúc này trong đầu Tô Tam chỉ ầm ầm dội lại lời nói ngày mai Dương Lăng sẽ bị xử chém, hoàn toàn không thể mở miệng trả lời. Vương Cảnh Long thấy mặt Ngọc Đường Xuân tái mét, bờ môi run run đã đánh mất vẻ hồng hào, còn tưởng rằng lời mình nói đã dọa được nàng, liền dịu giọng an ủi:

- Tuy nhiên tiểu thư cũng không cần phải quá sợ!

Ngay khi Vương mỗ trông thấy tiểu thư lần đầu thì đã thương nhớ khôn nguôi, không thể nào quên. Sao có thể đành lòng nhìn tiểu thư chịu khổ như vậy! Tô tiểu thư, Dương Lăng lấy cô nương làm thiếp nhưng lại giấu giếm gán cho danh phận nô tỳ, thấy rõ hắn chỉ vì tướng mạo của cô nương mà chưa từng có nửa điểm chân tình với cô nương. Tiểu thư còn chưa mau chóng tỉnh ngộ sao?

Hắn thở dài một hơi, cất giọng tiêu sái hỏi:

- Nàng là giai nhân, sao lại theo giặc?

Ngọc Đường Xuân nghe vậy liền giật mình. Vị Vương công tử này hiển nhiên biết không ít nội tình, hắn nói như vậy chỉ vì muốn cứu mình ư? Nếu như Hoàng Thượng thật sự muốn tống cả nhà họ Dương vào Giáo Phường ty, hắn làm gì có cách cứu người cho nổi? Chẳng lẽ hắn còn có chủ ý gì khác?

Ngọc Đường Xuân là người như thế nào chứ? Nàng là người sống bằng nghề vui cười trước mặt người, gạt giấu lệ sau lưng, rất giỏi việc che giấu tình cảm. Nảy lòng nghi ngờ, nàng lập tức lao lên phía trước, phủ phục xuống thút thít:

- Hồng Phất dạ bôn , Lục Châu trụy lầu . Những nữ tử mạng khổ như nô tỳ chúng tôi cả đời cũng chỉ cầu có được một đấng lang quân có tình mà thôi. Dương Lăng không phải là kẻ thiện lương, mong công tử hãy xót thương mà cứu lấy tiểu tỳ!

Vương Cảnh Long mừng rỡ, vội vàng bước lên đỡ nàng dậy, an ủi:

- Tiểu thư không cần đa lễ! Vương mỗ có thể có được người ngọc như tiểu thư, chính là ôm được mộng đẹp, cầu còn không được.

Nói rồi hắn không nhịn được bèn sỗ sàng vuốt nhẹ cổ tay mềm mại của Ngọc Đường Xuân.

Ngọc Đường Xuân mặt ửng hồng, vội rụt tay về, vờ trách khẽ:

- Công tử ngàn vạn lần đừng như vậy! Nơi này là nhà họ Dương đó.

Vương Cảnh Long nghe nàng nói "nhà họ Dương", rõ ràng đã nảy ý phản bội Dương Lăng, bèn mừng rỡ ra sức thuyết phục:

- Phủ Uy Vũ Bá này chẳng bao lâu sẽ thành đống đổ nát, họ Dương cũng mau chóng không còn tồn tại nữa, tiểu thư cần gì phải kiêng dè? Chỉ cần gật đầu, tiểu thư sẽ thành người ngọc của phủ thượng thư ngay.

Ngọc Đường Xuân lộ vẻ lo lắng hỏi: - Nhưng... Dương Lăng rất được Hoàng Thượng coi trọng mà, sao có thể vừa nói giết là đã giết liền chứ? Hơn nữa, nếu như Hoàng Thượng hạ chỉ bắt cả nhà họ Dương phải làm nô bộc, công tử sẽ... sẽ cứu nô tỳ bằng cách nào?

Vương Cảnh Long thấy nàng hoài nghi, càng chắc mẩm nàng đang nóng lòng muốn thoát ra khỏi nhà họ Dương tìm một chỗ dựa khác, liền cười nói:

- Chuyện này dễ thôi! Chỉ cần nàng theo đúng xếp đặt của ta, ta cam đoan nàng sẽ bình yên vô sự.

Vương Cảnh Long biết chắc chắn ngày mai số phận Dương Lăng sẽ được định đoạt, cả nhà họ Dương còn có ai đáng để hắn kiêng dè chứ. Cho nên lần thăm viếng này hắn hết sức cuồng vọng, mục hạ vô nhân. Trong suy nghĩ của hắn, một ả con gái xuất thân từ kỹ viện chỉ biết đến thiệt hơn, nào biết đến tình ý gì? Hắn cho rằng với gia cảnh của mình, nhất định Ngọc Đường Xuân sẽ chỉ mong sao có thể trở thành nàng thiếp của hắn mà thôi.

Với vẻ kiêu ngạo đắc ý, hắn liền kể cho mỹ nhân đã dốc lòng thuần phục nghe dự định của mình. Ngọc Đường Xuân nghe xong âm thầm cắn răng căm hận, nhưng mặt lại tỏ vẻ thẹn thùng nói:

- Thế thì, Tô Tam đa tạ công tử! Hết thảy Tô Tam xin phó mặc cho công tử an bài vậy.

Trước đây nghề của nàng là mua vui chuốc cười trong chốn kỹ viện, cho dù trong lòng có uất ức hơn đi nữa vẫn luôn có thể khoác bộ mặt vui vẻ. Lúc này nàng cố ý gạt hắn, điệu bộ càng hết sức quyến rũ. Vương Cảnh Long nghe mà trong lòng lại lập tức nghĩ đến nghĩa khác của câu "phó mặc cho công tử an bài", nhất thời thần hồn bay bổng, hận không thể dẫn ngay tiểu mỹ nhân khiến cho người ta động lòng này về nhà.

Mỹ nhân thân thể mềm mại như thế này... Đúng rồi, còn có một người nữa. Vương Cảnh Long vội

- Đúng rồi! Vị cô nương Tuyết Lý Mai được chuộc cùng lúc với nàng đó, không biết nàng ấy có lòng thoát khỏi hố lửa này hay không? Nếu như hai người các nàng cùng ra mặt thì sẽ càng đáng tin hơn...

Ngọc Đường Xuân thật muốn tát cho cái tên vô sỉ này một tát, thầm nghĩ nếu như Tuyết Lý Mai, cái cô nàng không biết kiềm nén cảm xúc đó mà tới đây, khó tránh sẽ bị nhìn ra sơ hở. Ngọc Đường Xuân vội cản:

- Tuyết Lý Mai rất được Dương đại nhân sủng ái, e rằng chưa hẳn đã chịu dựa vào công tử, tiểu tỳ không nắm chắc. Nếu công tử gấp gáp như vậy, nói chuyện này với ả trước, chẳng may tiết lộ tin tức thì...

Vương Cảnh Long nghe xong vội nói:

- Tiểu thư cân nhắc rất phải, hay là đừng nói vậy. Nếu ả không biết thức thời, thì ả tự chuốc vạ vào mình thôi.

Miệng thì nói vậy, nhưng trong lòng Vương Cảnh Long lại thầm đắc ý, nghĩ rằng Ngọc Đường Xuân đang nổi lòng ghen tỵ, muốn tranh thủ tình cảm của hắn. Người con gái kia cũng yêu kiều không kém, hơn nữa còn có một vẻ đẹp lạnh lẽo như mai. Nếu đã có cơ hội đưa nàng về phủ một cách danh chính ngôn thuận, hắn thật có phần không nỡ bỏ qua. Hắn định ngày mai chờ đến lúc họ Dương tan nhà nát cửa, sẽ chia nửa phần công lao tố giác gian thần của Ngọc Đường Xuân cho nàng, tìm cách đem nàng về phủ luôn.

Vương Cảnh Long bèn đem kế hoạch hắn đã chuẩn bị kể tỉ mỉ cho Ngọc Đường Xuân nghe. Thấy lão quản gia mấy lần thập thò ở ngoài sảnh, sợ lão sinh nghi, hắn đành phải quyến luyến cáo từ, quay về đặt chuyện bêu xấu Dương Lăng.

Ngọc Đường Xuân gọi quản gia tiễn Vương Cảnh Long ra khỏi cửa, còn mình thì vội vã xoay người chạy vào nhà trong. Vừa vòng qua sảnh chính (trung đường), nàng đã thấy Tuyết Lý Mai tái mặt đứng ở phía sau. Vừa gặp mặt, Tuyết Lý Mai chẳng nói chẳng rằng đã nhào tới giáng ngay một bạt tay vào mặt nàng, khiến nàng sững cả người.

Tuyết Lý Mai cười gằn:

- Uổng công ta coi ngươi là tỷ muội bấy lâu, không ngờ tâm địa ngươi lại độc ác như vậy! Hồng Phất dạ bôn, Lục Châu trụy lầu ư? Ta khinh! Bọn họ là nữ nhân hiếm thấy trong chốn phong trần, Tô Tam ngươi mà cũng đòi sánh với họ ư?

Ngươi cút ngay! Cút đi! Nếu thật sự đại nhân không thể cứu vãn, cùng lắm thì Tuyết Lý Mai ta tự vẫn chết theo, cùng xuống suối vàng với người. Ngươi đi mà hưởng lấy vinh hoa phú quý của mình đi. Nếu muốn ở lại hãm hại đại nhân thì đừng trách ta trở mặt vô tình!

Ngọc Đường Xuân sờ dấu năm ngón tay hằn trên gương mặt mặt, cười khổ:

- Cái tính tình nóng nảy của muội đến khi nào mới chịu sửa đổi đây? May mà hôm nay người gặp tên ngụy quân tử đó là tỷ. Nếu là muội, ngay khi người ta vừa thốt lời bất lương với lão gia thì sớm đã gây gổ rồi, còn có thể moi được những tin tức này sao? Mau! Theo tỷ về hậu đường, gặp phu nhân rồi nói tiếp!

Tuyết Lý Mai bị nàng kéo chạy về hậu đường, lúc này mới hiểu được nguyên do. Ngọc Đường Xuân cũng không giải thích dài dòng, vội báo với Ấu Nương tin tức dò được từ Vương Cảnh Long. Ấu Nương vừa nghe ngày mai trượng phu sẽ bị xử trảm, suýt nữa thì ngất lịm. Cao Văn Tâm thấy nàng sắc mặt tím tái, sợ hãi vội đỡ lấy nàng, rút từ trong ống tay áo ra hai cây ngân châm chích nhanh vào sau gáy nàng vài cái.

Văn Tâm lo lắng:

- Phu nhân mà hoang mang thì không được đâu! Hôm nay đại nhân đang chờ chết như vậy, phu nhân nên cố gắng tìm biện pháp mới phải.

Tuy rằng Hàn Ấu Nương rất yêu Dương Lăng, dẫu bỏ mạng cũng không muốn y chịu tổn thương. Nhưng Hoàng Đế hạ lệnh giết người, nàng thật sự không nghĩ ra được trên cõi đời này còn người nào có thể cứu y.

Nàng có lòng dùng một thân võ nghệ của mình xông vào ngục cứu người bằng mọi giá. Mặc dù biết rõ hy vọng là mong manh, cùng lắm thì chết cùng tướng công mà thôi. Nhưng còn phụ thân và ba huynh đệ đang còn sống thì làm sao? Nếu làm như vậy há chẳng phải sẽ liên lụy bọn họ cùng chịu chết chung ư?

Hàn Ấu Nương bị xoay trong trăm nỗi ưu sầu, cảm giác lực bất tòng tâm, hai hàng nước mắt lã chã rơi xuống không ngừng.

Ngọc Đường Xuân lo sợ nói:

- Vương Cảnh Long muốn hãm hại thanh danh công tử là để cha hắn có thể hại người một cách chính đáng (lý trực khí tráng). Chuyện này chúng ta đủ sức trị được hắn, nhưng Hoàng Thượng sẽ không vì chuyện này mà tha tội cho đại nhân đâu. Chúng ta là phận gái, có thể làm được gì chứ?

Tuyết Lý Mai tức giận:

- Sao lại cứu không được! Chúng ta là người mà phủ Thọ Ninh Hầu muốn, ngay cả Cẩm Y Vệ cũng phải e sợ Thọ Ninh Hầu ba phần, chẳng phải đại nhân vẫn trị được bọn chúng, chuộc chúng ta ra đó sao? Văn Tâm tỷ tỷ là khâm phạm, ai cũng đều nói là cứu không được, thế nhưng không phải đại nhân vẫn nghĩ được biện pháp cứu tỷ ra được đó sao? Hôm nay đại nhân gặp nạn, đám phụ nữ chúng ta lại chỉ có thể ngồi đây khóc lóc chờ chết ư? Không suy nghĩ thì làm sao ra biện pháp chứ? Muội muốn học là học Lương Hồng Ngọc nổi trống giúp chồng, quyết không học theo Lục Châu chỉ có thể nhảy lầu tỏ chí.

Ở trong nhà họ Dương, Tuyết Lý Mai vẫn luôn là người không giống nô tỳ, không ra thê thiếp nhất, nhưng lời này nói ra, rõ ràng nàng đã coi mình như thê thiếp của Dương Lăng. Nàng vừa nói xong, thấy ba người đều nhìn mình với ánh mắt kỳ quái, bèn đỏ mặt, ấp úng:

 Ấu Nương tỷ tỷ, mạng đại nhân chỉ còn một sớm một chiều. Muội, muội...

Hàn Ấu Nương thở dài, giọng buồn bã:

- Tâm tư muội làm sao mà tỷ không biết? Nhưng tướng công đã không thể cứu được rồi. Tỷ là thê tử của chàng, hiển nhiên phải cùng chàng đồng sanh cộng tử, không bao giờ chia lìa! Các vị ở nhà họ Dương không danh không phận, tội gì phải chịu sự liên luỵ này. Bây giờ có được tin tức sớm cũng tốt, ta đi lấy tiền bạc, các vị nhận lấy rồi mau chạy đi. Cả Văn Tâm tỷ tỷ nữa, tỷ cũng chạy đi. Lúc tướng công bị chém sẽ chính là giờ chết của Ấu Nương, muội cũng chả còn ngại đắc tội với thiên tử để thả các tỷ trốn đi.

Ngọc Đường Xuân đỏ mặt:

- Ấu Nương tỷ tỷ! Nếu tỷ nhất định ôm lòng phải chết, Tô Tam nguyện lòng... cùng tỷ đồng sanh cộng tử theo đại nhân. Có điều... không còn một chút hy vọng nào sao? Ngộ nhỡ tên thập trưởng tố cáo đó chịu phản cung thì sao?

Cao Văn Tâm lắc đầu thở dài:

- Đừng suy nghĩ hão huyền nữa! Hắn lại không điên, làm sao sẽ... Điên... điên à?

Nói đến đây lòng Cao Văn Tâm chợt máy động, nàng lẩm bà lẩm bẩm, ánh mắt có phần kỳ lạ.

Tuyết Lý Mai vội nói:

- Vậy thì mời Hoàng Thượng đến lăng điều tra đi. Hai ngày trước Tiền đại nhân đến phủ báo tin, không phải đã nói chúng ta cứ yên tâm chờ đợi, nói rằng chuyện trong lăng đã được xử lý kín kẽ, không thể tra ra chứng cứ hay sao? Chẳng lẽ triều đình lại rất e ngại đụng chạm đến phong thủy mà không cho nghiệm xét, chỉ bằng khẩu cung của một người mà đã giết người khác ư? Chúng ta hãy đi tố ngự trạng (dâng cáo trạng lên vua), yêu cầu Hoàng Thượng phái người đi Thái lăng khảo sát!

Ngọc Đường Xuân bảo:

- Đây là phương pháp duy nhất, cầu sống trong cái chết. Nhưng làm sao chúng ta có thể vào được Tử Cấm Thành, chúng ta tuyệt không gặp được Hoàng Thượng đâu!

Lúc này Cao Văn Tâm đột nhiên ấp úng:

- Nếu như để tỷ gặp nhân chứng đó, tỷ sẽ có biện pháp làm cho hắn... làm cho hắn trở nên điên điên khùng khùng, lời nói của hắn sẽ không thể làm chứng cứ được nữa. Chỉ có điều phải làm sao mới có thể gặp hắn đây? Huống chi chính ngọ ngày mai Dương đại nhân sẽ... sẽ... Không kịp nữa rồi!

Nghe bọn họ nói như vậy, tâm tư Hàn Ấu Nương trở nên linh hoạt, nàng chợt nhớ đến lời Dương Lăng nhờ Tiền Ninh chuyển lại cho nàng. Thế là tinh thần phấn chấn, nàng bèn bảo ba người Ngọc Đường Xuân:

- Những chuyện này có thể từ từ rồi tính, việc cấp bách trước mắt là ngăn cản việc hành hình. Ấu Nương đã có chủ ý, có lẽ có thể buộc được Hoàng Thượng phải phúc thẩm. Nhưng biện pháp này rất là nguy hiểm, cũng có khả năng khiến cho Hoàng Thượng phẫn nộ, chém đầu chúng ta ngay tức khắc. Các vị tỷ muội... các vị thật sự nguyện ý ở lại?

Ba người con gái đồng loạt kiên quyết gật đầu, không hề có chút do dự. Hàn Ấu Nương nén lệ đứng lên bái lạy ba người. Ba người Cao Văn Tâm thấy vậy lật đật quỳ xuống hoàn lễ. Cao Văn Tâm nói:

- Phu nhân vạn lần chớ làm như vậy, chúng tôi thật không dám nhận.

Hàn Ấu Nương ngậm lệ cười nói:

- Tuyết Nhi nói rất đúng, vì tướng công, dù chỉ còn một tia hy vọng, ta cũng phải nỗ lực tranh thủ. Tướng công vì ta mà chống lại thánh chỉ, một đứa con gái như ta lại không tố được ngự trạng sao? Ba vị ở nhà họ Dương ta gặp đại nạn mà không rời bỏ, Ấu Nương thay mặt tướng công tạ ơn các vị. Nếu không chê, Ấu Nương nguyện cùng các vị kết làm tỷ muội, từ đây đồng cam cộng khổ, họa phúc cùng chia!

Ba vị cô nương đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng dập đầu lạy theo Ấu Nương. Bầu trời đang trút cơn mưa dầm dề bỗng loé ánh chớp, liền sau đó là một tiếng sấm nổ vang rền, toàn bộ khung cửa sổ rung lên bần bật.

...

Chú thích:

Hồng Phất dạ bôn là một câu truyện kể về một người con gái. Nàng vốn là người của Dương Tố, một kẻ vô cùng giàu có. Về sau nàng gặp được Lý Tĩnh (sau là đại thần nhà Đường), một kẻ nghèo kiết xc, tiền đồ mờ mịt, nàng đã chọn y. Trong đêm tối nàng trốn ra ngoài cùng theo y chịu khổ, lang bạt, cuối cùng cũng đổi được một cuộc sống tốt đẹp.

Lục Châu trụy lầu là một câu truyện cổ kể về số phận một ca kỹ nổi danh thời Tấn. Tán kỵ thường thị Thạch Sùng trên đường đi sứ trở về thì gặp một đám cường đạo đánh cướp mẹ con Lục Châu. Sùng hạ lệnh cho quân sỹ đánh đuổi cường đạo, cứu mẹ con Lục Châu, đồng thời đưa Lục Châu về Lạc Dương. Tôn Tú là thuộc hạ của Phan Nhạc, theo Phan đi đón Sùng, thấy vẻ đẹp của Lục Châu sỗ sàng khen ngợi, bị mắng cho. Tôn thẹn quá hoá giận, nhờ vả Tư Mã Luân, rình cơ hội đoạt lấy Lục Châu. Tư Mã Luân muốn soán vị đã lâu, nhưng lại sợ Tư Mã Duẫn sẽ đối đầu với mình, nên sau đó dùng kế của Tôn Tú, giết chết Tư Mã Duẫn. Tôn Tú thừa cơ tấu lời sàm ngôn, giết chết Thạch Sùng, Phan Nhạc, rồi bao vây Kim Cốc viên, lùng bắt Lục Châu. Bị cưỡng ép, Lục Châu đã nhảy lầu tự tử.

Lương Hồng Ngọc, người Sở Châu, Hoài An, sinh vào niên hiệu Sùng Ninh, đời Tống Huy Tông (1102), mất năm 1153. Nàng xuất thân trong một gia đình cả cha và ông nội đều là những võ tướng kiệt xuất của Đại Tống, vì dẹp loạn Phương Lạp thua trận nên bị tội chém đầu, khiến cảnh nhà lâm vào túng quẫn. Nàng phải bán thân, nhưng với tinh thần quật khởi, đã trở thành một nữ tướng duy nhất xuất thân từ kỹ nữ, thành phần được coi là thấp kém trong xã hội phong kiến. Nàng lấy chồng là Hàn Thế Tung, một danh tướng nhà Tống, cùng thời với Nhạc Phi.

Văn Thiên Tường (6/6/1236 - 9/1/1283), người Cát Châu, Lô Lăng (nay là huyện Cát An, Giang Tây), là anh hùng dân tộc Trung Hoa. Ban đầu có tên Vân Tôn, tự Thiên Tường, sau khi được tiến cử vào triều, đổi thành Thiên Tường, tên tự thành Lữ Thiện, sau khi đỗ trạng nguyên lại đổi tên tự thành Tống Thuỵ. Sau vì cư trú ở Văn Sơn, nên lại có hiệu là Phù Hưu đạo nhân. Văn Thiên Tường trung liệt danh truyền hậu thế. Sau khi ông bị bắt làm tù binh, Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt) lấy cao quan hậu lộc dụ dỗ khuyên hàng, Văn Thiên Tường thà chết không chịu khuất phục, ung dung chấp nhận hy sinh, được hậu thế khen ngợi. Ông cùng với Lục Tú Phu, Trương Thế Kiệt được sử Tàu xưng làm "Tống mạt tam kiệt" (ba bậc hào kiệt thời mạt Tống).

Lục Phiến môn (nha môn cửa xanh) là một nha môn nằm gần cửa Tây trong thành Bắc Kinh phồn hoa, là nơi làm việc của các thư lại (quan đưa chuyển công văn). Tương truyền "Lục Phiến môn" được bộ Hình lập nên nhằm giải quyết các thế lực tàn dư và cường hào lục lâm, là trại huấn luyện bí mật, chuyên huấn luyện những thiếu niên khoẻ mạnh làm tay sai.

Lạc khoản (trong thư pháp cũng gọi là khoản thức) là dòng chữ nhỏ để tên họ và ngày tháng ở trên các bức hoạ hay bức đối trướng.

Ngô hoàng ở đây nghĩa "vua của chúng ta" chứ không phải là vua nước Ngô. Trong Hán ngữ, "Ngô hoàng" hay "Ngô vương" chỉ danh xưng của các vị hoàng đế phương Bắc nói chung. Có ý kiến cho rằng, vì người sáng lập ra triều đại nhà Minh, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, sau khi đánh chiếm Tập Khánh (Nam Kinh ngày nay), được Tiểu Minh vương Hàn Lâm Nhi tiến phong làm Ngô Quốc công, cho nên các vị vua triều Minh sau đó được gọi là Ngô hoàng. Dân ta khi xưa chống quân xâm lược phương Bắc cũng gọi chúng là giặc Ngô.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 101 → 150

Ebook truyện Ngược về thời Minh làm vương gia được làm và chia sẻ bởi A Bư – Bàn Long Hội – www.banlong.us

Xin cảm ơn các aCe đã tham gia đả tự bộ truyện này: Sanguis, kien201689, Vong Chi Cảnh, tchyat, ram76... và các MTQ đã share truyện cho ae đọc.

Mọi ý kiến đóng góp và báo lỗi vui lòng pm nick A Bư trên 4rum hoặc email: [email protected].

Chúc mọi người có một thời gian đọc truyện vui vẻ.

Chương 101: Chiếu chỉ khám lăng

Trên kim điện, Hoàng Đế Chính Đức ngồi trên ngai vàng mà lòng dạ rối bời. "Lúc này chắc hẳn ở đầu chợ đã khai đao xử chém rồi thì phải?" Nghĩ đến đây, Chính Đức không khỏi cảm thấy phiền não.

Tiểu hoàng đế còn nhỏ, chưa có nhiều tâm cơ đế vương cho lắm. Cho nên y chỉ phản ứng đơn thuần về mặt tình cảm: y không thể nào chấp nhận được sự phản bội của Dương Lăng. Vừa nghe Dương Lăng cũng tham dự vào chuyện che giấu tin xấu về lăng tẩm của phụ hoàng mà y rất kính trọng, Chính Đức hận không thể tự tay giết chết gã bầy tôi mà y hết lòng đối đãi chân thành này.

Nhưng dù hận, y vẫn nhớ khi mình còn làm Thái Tử, rồi làm Hoàng Thượng, y luôn là một kẻ cô đơn, mãi cho đến khi Dương Lăng xuất hiện. Trong ánh mắt hắn nhìn y không có sự sợ hãi và nịnh nọt mà y thường thấy trên gương mặt của những kẻ khác, mà là một sự quan tâm chân thành. Do đó y cũng luôn coi Dương Lăng như một người bạn.

Nhưng... người bạn duy nhất của y lại đã phản bội y. Nghĩ đến đây, Chính Đức không nén được tiếng thở dài.

Ngự sử Lục Trọng Côn thấy Hoàng Đế không nghiêm túc nghe lão phát biểu, bèn cất cao giọng gọi lớn:

- Hoàng Thượng!

- Hả? Cái gì?

Chính Đức ngây người một chốc, thu lại ánh mắt lơ đễnh, ngạc nhiên nhìn lão ngôn quan ngự sử đã ê a dài dòng nửa ngày mà y vẫn chưa biết lão muốn nói cái gì.

Lục Trọng Côn cố nén giận, bẩm:

- Giờ đang là đại tang của Tiên đế, giỗ đầu chưa lâu, mới bắt đầu kỷ nguyên của Hoàng Thượng, mà người đã ham mê lạc thú, thỉnh thoảng lại đến dự tảo triều muộn, ngọ triều thì trễ đến xế chiều; sinh hoạt vô thường, ăn ngủ trái bữa, khiến cho tinh thần bị tổn hao, hại lỡ chính sự. Đó không phải là việc làm của minh quân đâu. Thần nghe đêm qua mưa lớn sấm vang, đánh vỡ mỏ diều hâu (*) của điện Phụng Thiên và con thú trên nóc Thái Miếu, cây cối trong thành bị gãy hơn trăm gốc. Hoàng Thượng nên lấy cái tai hoạ do trời gây ra ấy mà cảnh tỉnh.

(*: vật trang trí hai đầu nóc nhà kiểu Trung Quốc)

Chính Đức thờ ơ đáp:

- Biết rồi! Trẫm đã phái Khâm Thiên giám nghiệm tính cát hung.

Lục Trọng Côn cảm khái:

- Hoàng Thượng! Chiếu theo thông lệ của triều trước, hễ gặp thiên địa kịch biến, đế vương phải giảm bữa bớt vui, hạ chiếu tự ngẫm. Hoàng Thượng nên lệnh cho bá quan văn võ dâng tấu thảo luận khuyên ngăn, chỉ điểm tệ nạn đương thời mới phải.

Hoàng Đế Chính Đức thoáng nhướng mày, thầm nổi giận trong lòng: "Thật là quá vô lý! Mưa to gió lớn thổi ngã vài gốc cây, sấm sét đánh vỡ mấy con thú đá trên mái điện cũng muốn nói vòng nói vo để trút lên đầu trẫm. Cái gì mà 'đó không phải là việc làm của minh quân' chứ! Chẳng lẽ ta là hôn quân sao?"

Nhưng đã là ngôn quan, nghĩa là có thể tấu mà không bị hạch tội; cho dù là cha y, vị hoàng đế Hoằng Trị mẫu mực ấy, cũng từng có lúc bị bọn ngự sử tấu đến chịu không nổi. Vì vậy Chính Đức đành nén giận, bảo:

- Vậy thì hạ chiếu, lệnh cho bá quan vào can gián đi!

Chính Đức ho một tiếng, nói tiếp:

- Các vị ái khanh! Hôm nay nghịch thần dối gạt chuyện Đế Lăng bị tươm nước đã bị giải đến pháp trường xử tử. Việc dời lăng của Tiên đế đã là chuyện bắt buộc. Có thể tháo dỡ một phần vật liệu từ chỗ cũ để xây dựng lại lăng mới, như thế ước tính hao tốn khoảng ba trăm vạn lượng. Trẫm muốn trưng thu thêm một chút thuế khóa, các vị ái khanh có kiến nghị gì để điều trần không?

"Quả nhiên là đến lúc rồi đây!" Ba vị đại học sỹ không khỏi đưa mắt nhìn nhau. Hôm qua sau khi Chính Đức rời khỏi ngọ triều, Từ Quán đã vào cung bẩm báo chuyện khâm phạm đã cung khai nhận tội. Trong cơn giận ngất trời, Hoành Đế Chính Đức đã hất đổ bàn ngự (ngự trác), la hét ỏm tỏi muốn lập tức nghiêm trị đám nghịch thần tặc tử này. Ba vị đại học sỹ biết tin liền biết rằng chuyện dời lăng của Tiên đế đã ngã ngũ. Nhưng phí tổn khổng lồ này sẽ lấy từ đâu ra?

Kẻ khác có thể không biết tường tận, nhưng bọn họ còn chẳng biết mấy năm nay vì thiên tai liên miên không ngớt, tài chính của Đại Minh đã túng quẫn đến mức nào ư? Còn bọn Vương Quỳnh, Từ Quán, Hồng Chung chỉ hô hào giữ gìn bảo vệ vận mệnh Đại Minh nhằm để cho địa vị lẫn quyền thế bọn chúng sẽ tăng thêm một bậc; còn những uy hiếp trực tiếp khác đến địa vị lẫn vương quyền, bọn họ chỉ xem là thứ yếu.

Không còn cách nào khác, Lý Đông Dương đành liều mạng bước ra khỏi hàng tâu:

- Hoàng thượng! Thu nhập hằng năm của triều đình là bốn trăm vạn lượng, vừa đủ chi tiêu. Lăng tẩm tiên đế đã dùng hết ba phần tư, bộ Hộ đã cạn kiệt tiền bạc gom góp bấy lâu. Nếu di dời Hoàng Lăng, tất phải gia tăng thuế khóa. Dân chúng sẽ không chịu nổi cái khổ đâu.

Chính Đức nghe thế cả giận gắt:

- Bách tích Đại Minh có ức vạn (trăm triệu) người, chỉ thu mỗi người thêm một phần thuế, khanh không cần phải buông lời doạ nạt như vậy!?

Lý Đông Dương vội bẩm:

- Hoàng Thượng bớt giận! Hoàng Thượng có điều không biết, những năm gần đây thiên tai liên tiếp, Hà Nam Hà Bắc bị lũ lụt gây họa, Cam Túc Thiểm Tây hạn hán không mưa, ngay cả ở Giang Nam giá gạo cũng đã rất đắt đỏ, khiến cho khắp nơi đạo tặc hoành hành. May vì Tiên đế nhân từ, lấy thuế thấp nuôi dân, yêu thương dân chúng, trăm họ mới có thể miễn cưỡng vượt qua khó khăn. Nhưng dân chúng ở những vùng đất nghèo khổ đã phải mỗi ngày chỉ một bữa sống lay lắt qua ngày, nếu tăng thêm thuế má, sợ rằng sẽ gây nên biến loạn.

Lý Đông Dương chỉ lo Chính Đức không nghe lời khuyên can, gấp đến độ toát cả mồ hôi. Nếu không phải vì thời đó Đại Minh còn chưa biết đến truyện ngụ ngôn "Cọng rơm cuối cùng làm gãy lưng con lạc đà", lão cũng sẽ bắt chước Tiêu Phương đi đường vòng khuyên nhủ rồi.

Tạ Thiên lập tức bước ra tâu:

- Hoàng Thượng! Hôm nay rợ Miêu không ngừng nổi loạn gây hại cho hậu phương. Thát Đát đang vì Tiên đế về trời mà đang lom lom nhìn ngó Đại Minh chúng ta như hổ đói. Trong nước tổn hao, lũ lụt hạn hán dồn dập, dự trữ biên phòng thiếu hụt, thật sự không thể gây thêm tai hoạ nữa đâu.

Chính Đức đập bàn đánh "chát", quát:

- Thái Lăng không tốt, chẳng lẽ muốn Tiên đế vẫn an táng ở nơi đó ư? Hay đường đường là thiên tử Đại Minh ta lại phải nằm lại trong áo quan cả chục năm không thể nhập thổ an nghỉ, chờ cho dân chúng nghỉ ngơi lấy lại sức sao?

Uy danh Hoằng Trị trong đám quần thần cực cao, Chính Đức lại dùng tôn nghiêm của đế vương và đạo hiếu của người làm con mà lý sự, nên mặc dù trong quần thần có khối người phản đối tăng thuế nhưng nhất thời cũng đành cứng họng.

Dưới điện im lặng một hồi lâu, Lưu Kiện hiên ngang bước ra khỏi hàng, quỳ phục xuống đất tâu:

- Thần liều chết nói thẳng! Hoàng Thượng ở trong cung rộng rèm xinh có hay dân đen nhà củi lều tranh khó chống được bão giông? Hoàng thượng ăn ngon mặc đẹp, có hay dân đen cơm không đủ ăn, áo không đủ ấm? Tiên đế được khâm liệm về lăng, nghi lễ có định chế, bầy tôi như thần nào dám xem nhẹ. Thế nhưng việc cũng phân nặng, nhẹ, gấp rút và thư thả. Mạnh Tử nói: "Dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc giang sơn vi trọng (*)", Đại Minh giữ nước là thuận theo thiên mệnh, thiên mệnh tức là bách tính. Đại Minh thuận theo thiên mệnh thì thuật phong thủy cỏn con sao đáng để e dè. Xây dựng Thái Lăng đã hao tốn của cải quốc gia, sao có thể dễ dàng nói hủy là hủy? Tiên đế nhân đức yêu thương con dân, tin rằng Tiên đế trên trời có linh, cũng sẽ xem trọng nhân dân chứ không xem nặng phong thuỷ. Cúi mong bệ hạ suy nghĩ kỹ lại.

(*: nguyên văn "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" nghĩa là, trong một nước quý trọng nhất là dân, kế đó là đất đai và lúa gạo (xã tắc), còn vua thì chỉ được xem nhẹ. Bởi do vua là do dân đặt ra chứ không phải vua đặt ra dân.)

Nói rồi Lưu Kiện úp mặt quỳ sấp tại chỗ. Lời của lão tuy rằng rất khách khí, thật ra cũng không ngoài việc nói bách tính mới là gốc rễ của xã tắc giang sơn, thuyết phong thủy là vô căn cứ, không thật. Còn về phần Tiên đế thì cứ an táng ở Thái Lăng là được rồi, đừng phung phí tiền bạc một cách mù quáng.

Trên kim điện, văn võ bá quan nghe vậy đều nín thở. Cái tính nết mưa nắng thất thường của vị tiểu hoàng đế này bọn họ đã sớm thưởng thức qua. Nếu như y nổi giận, kêu người lôi Lưu đại học sỹ xuống đình trượng (phạt gậy)(*), không phải ông già cao tuổi như vậy sẽ bị đánh chết tươi sao?

(*: đình là triều đình, trượng là gậy dùng để đánh người. Phàm là chuyện ở trong cung thì gọi là đình, như đình nghị, đình đối)

Bọn người Vương Quỳnh, Từ Quán có lòng ra mặt tranh luận giùm Chính Đức, nhưng dân gian đã xôn xao truyền miệng tin triều đình tăng thuế rồi, hơn nữa còn chỉ thẳng chính là do bọn họ sàm tấu, thành thử danh tiếng của bọn họ đã sa sút lắm rồi. Lúc này bọn họ ra mặt há chẳng phải xác nhận chuyện xấu đó sao? Thế là bọn họ cũng không dám bước lên phát ngôn bừa bãi.

Chính Đức nhìn ngó một hồi, thấy văn võ bá quan không ai ra mặt phụ họa tán đồng y, không ngờ y lại cảm thấy vừa bực vừa buồn cười: "Cái đám đại thần chết tiệt này! Hôm qua còn ông ổng bảo vừa là ảnh hưởng đến quốc vận vừa tổn hại cho hạnh phúc mai sau. Thế mà hôm nay ba vị đại học sỹ vừa lấy nhân dân ra ngăn cản thì không có lấy một người giúp ta. Rốt cuộc các ngươi là trung quân hay là yêu quý cái danh tiếng của bản thân các ngươi?"

Chính Đức đang chống hai tay lên ngự án, bất chợt đứng thẳng dậy chỉ vào Lưu Kiện, vừa định mở miệng nói, bỗng nhiên tướng quân giữ điện hối hả chạy vào, quỳ xuống hô to:

- Khải tấu Hoàng Thượng! Thượng thư bộ Hình Hồng Chung cho người phi ngựa về báo. Người vợ của phạm quan (quan phạm tội) Dương Lăng là Hàn thị xông vào pháp trường, tay cầm tranh vẽ của Tiên đế che trên đầu phạm quan Dương Lăng. Hồng Chung không dám tự ý hành hình, sợ tổn hại đến di vật của Tiên đế. Khẩn xin Hoàng Thượng định đoạt!

Bá quan bèn rào rào sôi nổi bàn tán. Có lẽ vì những buổi họp triều hằng ngày quá khô khan nhàm chán, cho nên vừa nghe tin vợ của Dương Lăng cầm tranh vẽ của Tiên đế xông vào pháp trường cứu chồng, văn võ bá quan liền như uống phải thuốc kích thích.

Đang quỳ sấp mặt ở dưới đất, Lưu Kiện nghe vậy cũng không khỏi mừng rỡ. Lão to gan nói thẳng, thật ra trong lòng cũng thấp tha thấp thỏm, tin vừa rồi đánh lạc sự chú ý của Chính Đức, lão sẽ không bị sao nữa. Lưu Kiện thầm thở phào, đưa ống tay áo lên lau mồ hôi lạnh trên trán.

Chính Đức nghe vậy thì đứng ngây tại chỗ, một lúc lâu mới lẩm bẩm lặp lại:

- Ngươi nói Ấu Nương, vợ của Dương Lăng xông vào pháp trường? Nàng cầm thủ bút của phụ hoàng đã ban thưởng cho nhà họ Dương từ đời nào rồi à? Trên đó vẽ gì?

Y lẩm bẩm với bản thân, âm thanh rất nhỏ, chỉ có tiểu thái giám ở trước bàn nghe được. Nhưng chưa được Chính Đức ra hiệu, hắn cũng không dám lớn tiếng hỏi thay cho y.

Chính Đức ngây người một hồi, rồi bắt đầu chậm rãi cất bước đi lại trên bệ rồng. Tất cả bá quan chăm chú dõi theo động tác của y, thấy Chính Đức lúc thì nghiến răng nghiến lợi, lúc thì lại ngơ ngẩn xuất thần. Mãi một lúc sau y mới quát:

- Truyền dụ! Sai Ngự mã giám Trương Vĩnh đến đó tra hỏi trước, thu hồi thủ bút của Tiên đế đưa cho trẫm xem. Bãi triều!

Ở đầu chợ, Hồng Chung hổn hà hổn hển đi đi lại lại trên đài hành hình. Mặt trời hừng hực trên cao, chói loà, nhưng lão vẫn không nhận ra mặt mình đã đầm đìa mồ hôi. Tuy vật mà Ấu Nương cầm không phải là thánh chỉ, và bức thư họa đó cũng không hề liên can gì đến vụ án này, nhưng đó chính là bức họa do tự tay Tiên đế vẽ. Ở trước mặt bao người, cướp thì không cướp được, làm hư hại cũng không xong, lão đành phải đực mặt đứng ở đây.

Chợt lão giậm chân quát:

- Hàn thị! Ngươi nghĩ kỹ đi, xông vào pháp trường cản trở hành hình chính là tội chém đầu. Chồng ngươi Dương Lăng vi phạm pháp lệnh, khi quân phạm thượng, là kẻ ác không thể dung tha. Hoàng Thượng chỉ giết một mình hắn là đã quá khai ân rồi. Ngươi tuổi hãy còn nhỏ, chẳng lẽ không tiếc mạng sao?

Đã nâng bức thư họa đến mỏi nhừ cả tay, Hàn Ấu Nương ngẩng đầu liếc xéo Hồng Chung rồi bảo:

- Ông không phải là người tốt!

- Cái gì?

Hồng Chung kinh ngạc sửng sốt, giận dữ quát:

- Dương Hàn thị, ngươi dám phỉ báng mệnh quan triều đình ư?

Hàn Ấu Nương quật lại:

- Tướng công ta là một nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất, là vị quan tốt vì nước vì dân. Ông nói tướng công ta không phải là người tốt, vậy ông nhất định không phải là người tốt.

Dân chúng bu quanh xem náo nhiệt phần lớn là những kẻ quanh năm nghèo khổ, dựng sạp buôn bán sống qua ngày, vì chuyện tăng thuế nên đã hận mấy người Hồng Chung đến thấu xương, vừa nghe Hàn Ấu Nương nói vậy lập tức đồng loạt reo hò. Có kẻ lớn mật còn chen vào trong đám đông thừa cơ chửi lão ta, khiến Hồng Chung giận đến tím mặt.

Lão phất ống tay áo hầm hầm:

- Chỉ là đám tiểu nhân và đàn bà khó dạy, lão phu không thèm so đo với ngươi!

Hồng Chung giận đến líu lưỡi. Ngay vào lúc này, một người cưỡi khoái mã phi đến pháp trường, kỵ mã vận trang phục thái giám trong cung. Khoái mã chạy theo thông đạo tạo bởi hai sợi dây thừng bện bằng cỏ đến trước đài. Không ngờ lúc phóng người xuống ngựa, thân thủ người đó lại rất mạnh mẽ.

Dương Lăng biết Chính Đức có tình cảm quấn quýt như trẻ con quấn chị với Ấu Nương, vốn nghĩ rằng Chính Đức sẽ không vì chuyện của mình mà trút giận sang nàng. Nếu vẫn không ăn thua thì với tình cảm của Chính Đức đối với Tiên đế, khi thấy bức thư hoạ đó thì hắn cũng sẽ bỏ qua cho nàng. Nhưng hôm nay nàng đã gây ra chuyện náo loạn pháp trường, Dương Lăng thật không đoán được với tính nết bốc đồng, mưa nắng thất thường của hắn thì Chính Đức sẽ xử trí như thế nào.

Lúc này vừa thấy khoái mã trong cung chạy đến, tinh thần của y không khỏi phấn chấn hẳn lên. Hàn Ấu Nương cũng tròn mắt, căng thẳng dõi theo người vừa đến. Bốn bề tĩnh lặng, Trương Vĩnh phi thân xuống ngựa, bước lên đoạn đầu đài cao nửa thân người. Dương Lăng nhận ra lão, buột miệng gọi:

- Trương công công!

Trương Vĩnh bước đến gần nhưng không đáp lời Dương Lăng. Lão ra vẻ nhìn chăm chú bức thư hoạ một hồi, rồi cũng quỳ xuống đất cung kính bái lạy một lúc. Hồng Chung và Trình Văn Nghĩa trố mắt nhìn lão thong thả thi lễ xong xuôi, Hồng Chung mới không nhịn được bèn hỏi:

- Vị công công này, xin hỏi Hoàng Thượng có gì căn dặn?

Lúc này Trương Vĩnh đã gia nhập Ngự mã giám, chỉ huy Tả Tương mã, là một trong tứ đại thủ lĩnh dưới trướng Miêu Quỳ, chỉ là vẫn chưa có duyên gia nhập vào Tây Xưởng, lực lượng trung tâm của Miêu Quỳ. Nhưng thân phận và địa vị lão đã khác xa lúc trước, nói chuyện trước mặt Hồng thượng thư cũng có vài phần tự tin. Nghe Hồng Chung ra vẻ bề trên, Trương Vĩnh mỉm cười đáp:

- Đại nhân yên tâm chớ nóng! Chúng ta phụng thánh dụ hỏi Dương Hàn Thị mấy lời.

Nói rồi lão bước lên một bước, điềm đạm hỏi Ấu Nương:

- Dương Hàn Thị! Hoàng Thượng hỏi ngươi: Dương Lăng phạm tội khi quân phạm thượng, lý nên xử chém, ngươi thân phận nữ lưu lại xông vào pháp trường là muốn làm gì?" (TJ: là để cứu chồng bà, rõ thế mà cũng hỏi?!)

Hàn Ấu Nương phản đối:

- Tướng công ta bị nhục hình mà nhận, xin Hoàng Thượng hãy cho về xét xử lại.

Trương Vĩnh gật gù nói:

- Hiểu rồi! Các ngươi đợi đi, bức thư hoạ này của Tiên đế, ta muốn thỉnh về kinh đưa cho Hoàng Thượng xem qua. Dương Hàn Thị, xin hãy đưa bức thư hoạ đó cho ta.

Vốn Hàn Ấu Nương dựa cả vào bức thư hoạ này mới tạm thời bảo vệ được tướng công, nghe Trương Vĩnh nói vậy thì không khỏi chần chừ. Trương Vĩnh cười ha hả nói:

- Dương Hàn Thị! Ta đang phụng ý chỉ của Hoàng Thượng, chẳng lẽ còn có thể gạt ngươi sao?

Dương Lăng bèn trấn an nàng:

- Ấu Nương! Giao bức tranh vẽ của Tiên đế cho Trương công công đi, không cần phải hoài nghi.

Nghe y nói vậy, Hàn Ấu Nương mới nâng cao hai tay, cung kính dâng bức thư họa lên. Trương Vĩnh cẩn thận nhận lấy bức thư họa đã được bồi giấy trang trọng, cuộn lại, nhét chéo vào trong ngực rồi quay lại thượng thư Hồng Chung:

- Hồng đại nhân! Hoàng Thượng có khẩu dụ tạm thời đình chỉ hành hình, ở pháp trường chờ lệnh!

Nói đoạn lão xoay người bước xuống đài, nhảy lên ngựa phóng băng băng.

Trong điện Bảo Hoà, Chính Đức cầm bức vẽ nhẩm đọc: "Cây tùng trăm trượng um tùm, dẫu rằng sần sùi xấu xí, nhưng là vật liệu chính để xây nhà to." ("Sâm sâm bách trượng tùng, tuy lỗi kha đa tiết, dụng chi đại hạ, chung thị đống lương chi tài.")

Chính Đức đọc xong liền giận dữ đập bàn:

- Phụ hoàng! Người nghĩ rằng Dương Lăng lỗi nhỏ, trông đợi vào y rất nhiều. Thế nhưng hôm nay y phạm đại tội, còn có thể xem là một chút lỗi vặt sao?

Trương Vĩnh chợt đảo khoé mắt. Lão cẩn thận quan sát vẻ mặt Chính Đức rồi bẩm:

- Hoàng Thượng! Nô tài ngu dốt, nghĩ mãi không thông. Hoàng Thượng tín nhiệm Dương Lăng có thừa, tên Dương Lăng này có thể nói là tiền đồ như gấm, cớ gì chỉ đi xây lăng vỏn vẹn có mấy ngày mà đã ngu ngốc phạm vào tội lớn tày trời như vậy? Nô tài ít học, nhưng cũng biết nếu một kẻ phạm tội, thì nhất định là do kẻ ấy hám lợi. Nếu là tội khi quân thì món lợi càng phải lớn. Vậy thứ Dương Lăng mưu cầu chính là cái gì chứ?

Chính Đức chợt đổi sắc mặt, quay đầu nhìn lão nói:

- Lão Trương! Có gì thì nói, không cần quanh co với trẫm. Có phải khanh nói Dương Lăng không có lý do gì để khi quân?

Trương Vĩnh cười hùa đáp:

- Lão nô thật sự không dám nói như vậy. Có điều theo lý mà nói, cho dù công trình xây lăng có món lợi để y mưu cầu, cũng không thể tốt bằng đứng ra tố cáo chuyện này. Dương Lăng sao lại ngu xuẩn đến như vậy, lão nô thật nghĩ không thông.

Chính Đức hừ lớn một tiếng, nói:

- Có nhân chứng ở lăng chính miệng làm chứng, còn có những kẻ khác biết sự tình bị chết một cách kỳ lạ, như vậy vẫn chưa đủ để chứng minh sao? Huống chi bọn họ cũng đã nhận tội rồi.

Trương Vĩnh cười nịnh lấy lòng:

- Đúng đúng đúng! Cho nên lão nô mới nói mình ngu dốt. Kể ra mấy kẻ bọn họ thật chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, khi bị bắt giải về kinh không chịu nhận tội để bị phạt cho xong, phải đợi đến lúc bị dùng đến đại hình (tra tấn nặng) mới khai. Đấy chẳng phải là đê tiện sao?

Chính Đức nghe lão vẫn có hàm ý bọn Dương Lăng vì bị bức cung nên nhận tội, bèn quay sang liếc lão một cái. Đoạn y lại quay về xem xét tỉ mỉ bức thư hoạ của phụ hoàng thật lâu, nhớ lại lời ngày đó phụ hoàng đã nắm tay y dặn dò: "Hoàng nhi! Trong triều toàn là các vị lão thần, không thể trợ tá hoàng nhi cả đời. Dương Lăng là người trọng tình trọng nghĩa, có cái nhìn rất độc đáo về chính trị lẫn quân sự. Tôi luyện thật kỹ một phen, không chừng y sẽ có thể trở thành bề tôi đắc lực cho con đó."

Chính Đức nhớ đến đây, cảm thấy nụ cười và dáng điệu của phụ hoàng tựa như đang ở trước mặt, liền không kềm nén nổi đau thương. Y lưỡng lự một hồi lâu rồi mới bảo:

- Đáng tiếc Kim Tỉnh ở Đế Lăng không thể tùy tiện động thổ. Bằng không trẫm thật muốn sai người đến khảo sát qua, xem thử Dương Lăng có thật sự đã lừa gạt trẫm hay không.

Trương Vĩnh vừa nghe liền bẩm ngay:

- Hoàng Thượng! Đúng là Thái Lăng vốn không thể tuỳ tiện động thổ, nhưng nay Hoàng Thượng muốn dời lăng, vậy là bỏ nơi đó rồi. Đừng nói là khảo sát một chút thôi, cho dù là khai quật mọi thứ lên cũng chẳng hề gì. Chi bằng Hoàng Thượng hãy phái người đi xem xét một chút; nếu chứng cứ xác thực, thì trong triều trên dưới cũng sẽ không ai có ý kiến gì nữa. Nếu như không có vấn đề gì, nếu phong thủy ở đó chưa từng bị phá hủy, mà chỉ mới động chạm một chút, không chừng mọi người sẽ nghĩ được một biện pháp nho nhỏ liền có thể tu bổ lại, vẫn có thể tiếp tục dùng làm Đế lăng. Lúc đó, Hoàng Thượng cũng sẽ không cần phải ra lệnh tăng thuế khiến cho bá quan khó xử nữa.

Chính Đức vừa nghe xong bất chợt vỗ trán, buột miệng:

- Đúng thật! Trẫm cứ mãi nhớ là nơi đó không thể động thổ, lại quên mất bây giờ không giống khi trước nữa. Trương Vĩnh! Khanh hãy mau đi truyền chỉ áp giải đám người Dương Lăng trở về thiên lao, trẫm phải sai người thân cận đến Thái Lăng xét nghiệm.

Chính Đức nói xong cảm thấy vô cùng thích chí. Hôm nay trên triều ba vị Cố mệnh lão thần cùng lên tiếng phản đối, phê phán việc tăng thuế một cách nghiêm trọng như vậy, Chính Đức vẫn chưa thật sự có gan áp chế Tam công, cưỡng ép ban chỉ. Hơn nữa đã thấy nét bút của phụ hoàng, lại nghe được lời của Trương Vĩnh, trong lòng y cũng bắt đầu hoài nghi. Nếu thật quả như lời Trương Vĩnh nói, há chẳng phải cả nhà sẽ đều vui ư?

- Lão nô tuân chỉ!

Trương Vĩnh cười hì hì đáp lời, rồi xoay người vội vàng đi ra.

Lão vừa bước ra khỏi cửa liền thấy mấy vị đại thần Lưu Kiện, Tạ Thiên, Từ Quán, Tiêu Phương, Lưu Vũ, Dương Phương đi đến điện Bảo Hoà. Vì vội đi truyền chỉ nên Trương Vĩnh cũng không quan tâm nhiều đến bọn họ, vẫn vội vã bước đi.

Lý Đông Dương và Tạ Thiên đến là vì việc trưng thuế. Có vài lời không tiện nói thẳng trên triều nên cả hai muốn đến hậu điện lý luận kỹ thêm với Hoàng Đế. Còn đám người Từ Quán thì lại đến để khuyên Hoàng Đế tăng thuế. Có điều bọn họ đã nghĩ ra một biện pháp dung hoà, đó là trưng thu thuế theo vùng, vùng nghèo thì tăng thuế ít, vùng giàu có thì tăng nhiều. Như vậy, thuế má của vùng giàu có năm nay sẽ phải tăng gấp đôi, nhưng vùng nghèo chỉ tăng ba phần. Mặc dù vẫn sẽ gây ra tiếng oán than, song chỉ là sẽ làm cho vùng giàu nghèo đi, vùng nghèo nghèo thêm, biện pháp này dù sao vẫn tốt hơn là tăng thuế đều khắp cả nước.

Không ngờ bọn họ vừa mới bước vào điện, Chính Đức đã vui vẻ bảo:

- Các vị ái khanh đến thật tốt! Trẫm đang muốn sai người đi đến Thái Lăng khám nghiệm, để thẩm tra xem có phải đám người Dương Lăng đã khi quân phạm thượng hay không. Các khanh thấy phái ai đi thì ổn?

Vị tiểu hoàng đế này luôn có những ý nghĩ kỳ quặc quái đản, mỗi khi có một ý tưởng gì thì chỉ làm được một nửa liền vất qua một bên để làm cái khác, những đại thần này sớm đã quen rồi. Tuy rằng đám lão thần này vẫn chưa bắt kịp lối tư duy của Chính Đức, nhưng cũng đã có thể tùy cơ ứng biến, điềm tĩnh giải quyết rồi.

Lý Đông Dương thoáng ngây ra rồi lập tức nói ngay:

- Thần tình nguyện đến Thái Lăng một chuyến.

Từ Quán biết lão phản đối tăng thuế, còn nghe Vương Quỳnh kể lão ta từng trực ngôn phản đối, bảo vệ Dương Lăng ở trước mặt vua Hoằng Trị; lão già này lại không tin phong thủy, không chừng sẽ vì tư tâm mà gỡ tội cho Dương Lăng. Vì vậy Từ Quán liền lập tức lên tiếng phản đối:

- Không được! Đường đường là đại học sỹ đương triều lại đi làm quan khám nghiệm sao?

Tạ Thiên phản bác:

- Từ thượng thư nói vậy là sai rồi! Chuyện của Thái Lăng, cho dù chúng ta không bàn đến phong thủy, nhưng lúc này liên quan đến việc tăng thuế cũng thật sự đã là chuyện can hệ đến vận mệnh quốc gia. Đó là chuyện trọng đại cỡ nào chứ? Lão thần cũng muốn xin Hoàng Thượng cho phép được đi.

Từ Quán là người tố cáo vụ án Đế Lăng thấm nước, để tránh hiềm nghi, đương nhiên lão không thể xin đi khám nghiệm được. Lão sốt ruột, vội nói:

- Đã là như vậy, chuyện này càng phải nên cẩn thận. Theo lão thần thấy, Hoàng Thượng nên tuyển chọn những triều thần không hề có lợi ích và thiệt hại gì với vụ án này đi đến đó mới ổn thoả.

Tiêu Phương bèn hỏi:

- Vậy theo Từ thượng thư, chúng ta nên cử ai đi?

Từ Quán thoáng trầm ngâm rồi bảo:

- Không bằng như vầy: Chọn một vị huân thích (hoàng thân quốc thích có công lao), một vị triều thần, một vị Hàn Lâm. Ba người cùng đi, lấy đất về đối chiếu với đất Kim Tỉnh mà bộ Lễ đã niêm phong cất giữ, có nhầm lẫn hay không liếc mắt sẽ thấy ngay. Ba bên kiềm chế giám sát lẫn nhau, cũng hết sức công bằng.

Lão tin chắc rằng Kim Tỉnh đã bị người động tay động chân, cho nên không chút lo sợ. Trong ba người được đề cử, một người là bầy tôi trong triều, một người là huân thích chỉ có công danh lợi lộc mà không hề có thực quyền, một người là quan dự khuyết, chưa từng can dự triều chính, nên đương nhiên là thoả đáng nhất.

Dương Phương nghe vậy cười nói:

- Đã như vậy, thần xin đề cử Thành quốc công Chu Cương. Quốc công tuổi cao đức trọng, công chánh vô tư, đã là huân khanh, lại là quốc thích, có thể nói là nhân tuyển thích hợp nhất.

Hoàng Đế Hiến Tông từng nạp con gái của Thành quốc công làm phi, cho nên Dương Phương mới nói như vậy.

Tiêu Phương rất có hảo cảm với Dương Lăng, mà kẻ muốn "hạ" Dương Lăng lại là Vương Quỳnh, tử thù của lão, nên hiển nhiên lão rất muốn bênh vực Dương Lăng. Có điều Tiêu Phương không dám mạo hiểm tiến cử chính bản thân. Lão chợt nhớ khi Dương Lăng chờ xét xử tội kháng chỉ, từng có một sỹ tử thi Hội viết một bài văn chương gấm vóc lên tiếng ủng hộ y. Đại thần trong triều biết chuyện này không nhiều, nhưng Tiêu Phương thích nhất là sưu tập những bài kỳ văn chốn phường chợ, nên lại biết rất rõ việc này. Tiêu Phương thầm nghĩ: "Sỹ tử này chắc hẳn là có chút giao tình với Dương Lăng. Nay hắn đã được vào Hàn Lâm Viện, tuy chưa chắc hắn sẽ chịu xả thân vì Dương Lăng, nhưng đến lúc xét nghiệm Kim Tỉnh ở Đế Lăng, chỉ cần hắn có thể tiện tay làm qua loa, nhất định sẽ tạo thuận lợi cho Dương Lăng."

Nghĩ vậy Tiêu Phương vội tâu:

- Thần xin tiến cử Nghiêm Tung. Người này là tân khoa tiến sỹ năm nay, đã trúng tuyển làm Thứ cát sỹ Hàn Lâm Viện. Người này tài văn xuất chúng, lại đỗ đạt tiến sỹ tân khoa, chưa từng bước chân vào triều đình, có thể làm Khâm sai.

Chính Đức gật đầu nói:

- Được, vậy là hai người này đã được xác định. Còn trong các triều thần sẽ cử ai đi đây?

Mọi người đưa mắt nhìn nhau, nhất thời không ai dám lên tiếng. Sau khi tân đế đăng cơ, vụ án này đã trở thành võ đài để Lục Bộ thậm chí là Tam Công phân phối lại quyền lực và đấu đá lẫn nhau. Chỉ cần nhúng tay vào nhất định sẽ đắc tội với một bên, ai dám tùy tiện trả lời chứ?

Chính Đức thấy không ai lên tiếng, bèn nhìn vào từng người một. Bộ Lễ, Bộ Công, Bộ Hình, mấy nha môn này đều có liên quan đến vụ án, không dùng được. Chính Đức lắc đầu. Đột nhiên y nhìn thấy Thị lang bộ Binh Trần Hồng Mạc, bèn mừng rỡ nói:

- Bộ Binh không hề có liên can đến vụ án này, đại thần trong triều hãy do Trần khanh đại diện vậy.

Trần Hồng Mạc vừa nghe liền giật thót mình, lão nào có thể nhận nhiệm vụ làm kẻ đắc tội người ta này chứ. Lão cuống quýt thoái thác:

- Thần tạ ơn Hoàng Thượng tin cậy! Nhưng thần không dám giấu, tiến sỹ Khâm Thiên giám Hoa Phó là thân nhân của vi thần, mà vụ án này lại liên quan đến Khâm Thiên giám, thần nên lánh đi để tránh hiềm nghi mới phải.

Lão thấy Chính Đức lộ vẻ không vui, vội vàng nói thêm:

- Tuy nhiên vi thần xin tiến cử một người. Người này cũng là quan viên bộ Binh, thường ngày rất là cẩn trọng, hơn nữa hoàn toàn không có liên can gì đến vụ án này. Chỉ là quan chức hơi thấp kém một chút.

Chính Đức sốt ruột gắt:

- Trẫm muốn phái người đi, chỉ là muốn tìm vài người không liên can đến vụ án này để giúp trẫm kiểm tra rõ ràng mà thôi. Quan chức lớn hay nhỏ chẳng sao, người khanh nói là ai?

Trần Hồng Mạc vội đáp:

- Chủ sự bộ Binh Vương Thủ Nhân. Người này xưa nay có tiếng là người hiền, có thể đảm nhận trọng trách!

Chú thích:

Nguyên văn "tiểu tường": giỗ đầu.

Thời cổ, sau khi Hoàng đế, Hoàng thái hậu, Hoàng hậu mất 12 ngày thì cúng tiểu tường.

Từ thời Hán Văn Đế, để giảm nhẹ tang kỳ, triều đình sử dụng một ngày thay cho một năm, nên sau 12 ngày xem như đã đủ năm, sẽ cúng tiểu tường; sau 24 hoặc 25 ngày thì cúng đại tường, giải tang cho quan lại.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 102: Dương Minh thấu trời

Lý Đông Dương rảo bước ra khỏi cửa điện. Vừa chui vào trong kiệu, lão lập tức vén rèm, gọi một gia nhân lớn tuổi đi cùng lại, bảo:

- Nhanh, đến bộ Lễ một chuyến, mời Vương Hoa Thị lang đại nhân đến phủ của ta uống rượu thi thơ.

Thị lang bộ Lễ Vương Hoa, cha của Chủ sự bộ Binh Vương Thủ Nhân, là Trạng nguyên Thành Hoá năm Tân Sửu, là Thị giảng học sỹ Đông Cung thời tiên đế Hoằng Trị còn làm Thái tử, danh tiếng và địa vị không hề thua kém Vương Quỳnh.

Nếu không phải gặp lúc chiến sự thì bộ Binh là nha môn nhàn nhã nhất trong Lục Bộ. Ty phủ khố (đơn vị quản lý ngân khố một phủ) nằm ở dãy nhà thứ hai phía tây. Ngày hè hừng hực nắng, đóng cửa sổ thì không khí ngột ngạt oi bức thở không ra hơi, mở cửa sổ thì mặt trời lại chói chang gay gắt; rất nhiều sỹ tốt, tạp dịch đã trốn ra khỏi phòng, ngồi trên hành lang dưới mái hiên phe phẩy quạt hương bồ (*) tán gẫu. (*: loại quạt làm bằng lá cây hương bồ; quạt tròn dẹt, giống như cây mà Tế Công cầm.)

Một tên dịch tốt chỉ mặc áo cộc đang văng nước miếng tứ tung kể về cái việc lạ lùng xảy ra ở đầu chợ ngày hôm nay:

- Nghe nói Dương đại nhân của Thần Cơ doanh là con cháu của Dương gia tướng trung thần Bắc Tống đó. Phải nói con gái nhà họ Dương này còn lợi hại hơn cả đàn ông. Đoạn đầu đài cao bằng thân ngựa, ở ngoài một trượng còn ngăn bởi dây thừng, thế mà vị Dương phu nhân này chân đạp tiễn bộ thoắt một cái đã nhảy lên trên đài rồi, nhẹ nhàng hơn cả một con báo nữa. Hồng Thượng thư cả giận, đích thân lên đài sai chém. Hây! Dương phu nhân nọ liền mở một bức vẽ, là bức vẽ mà Hoằng Trị Hoàng thượng tự mình đề bút, kê trên đầu trượng phu. Đó là đồ vật do tiên hoàng ban thưởng, bất luận ngươi là vương hầu công khanh, đã có phúc trông thấy đều phải cung cung kính kính dập đầu, ai dám chém chứ? Cứ như vậy, bốn gã đao phủ đành giương mắt ếch ra mà nhìn.

Một tên binh sỹ nghe thấy thú vị bèn chen miệng vào, hỏi:

- Ồ, nhưng mấy vị đại nhân khác đâu có mặc bảo (bức vẽ thư pháp) hộ thân, Dương phu nhân lại không bảo vệ bọn họ, tại sao không chém họ trước nhỉ?

Gã hán tử mặc áo cộc trợn mắt lên, nói:

- Ngươi nói coi? Đó là vì sợ vô lễ với mặc bảo của tiên đế. Đâu phải là hạ thánh chỉ đặc xá cho một mình Dương đại nhân đâu, ai dám một bên nặng một bên nhẹ, chém một nửa chừa lại một nửa chứ? Người nhà của mấy phạm quan khác sẽ chịu bỏ qua sao? Người trong thiên hạ sẽ nghĩ như thế nào? Thượng thư bộ Hình còn không mất sạch mặt mũi à?

Bị quở trách một trận, binh sỹ kia đành ngượng ngập cười trừ không nói nữa. Bọn họ ngồi quanh một chiếc bàn vuông nhỏ, trên bàn đặt một ấm trà lớn và sáu bảy bát trà. Hán tử nọ nói đến chỗ cao hứng, bê một bát trà lên nốc ừng ực mấy ngụm mới phát hiện ra là mình đã cầm nhầm, bèn quay sang người bên cạnh, áy náy nói:

- Úi, xin lỗi Vương đại nhân, tiểu nhân đã cầm nhầm bát của ngài rồi.

Vị Vương đại nhân đó chính là Chủ sự Ty phủ khố của bộ Binh - Vương Thủ Nhân, tuổi chừng hơn ba mươi, mày trơn mặt nhẵn, tướng mạo có vài phần giống người phương Nam, cặp mắt tuy không to nhưng rất có thần.

Nghe hán tử xin lỗi, y xua tay, cười bảo:

- Uống thôi mà, có gì to tát chứ.

Nói rồi, cầm lấy ấm rót cho hán tử đó một bát nữa.

Vị Chủ sự này cũng mặc mỗi áo cộc, trông không giống dáng vẻ của một Tiến sỹ. Vị nhân huynh này và Đại Minh Thất Tử (bảy tài tử của Đại Minh), cầm đầu là Lý Mộng Dương, thường hay ngâm thơ vẽ tranh, nghiên cứu thơ văn cùng nhau, quan hệ rất thân thiết. Cho dù là gặp những kẻ bán dạo, bán rong, tạp dịch, nô bộc y cũng có thể chuyện trò rất là hợp ý. Các nha dịch cùng y đều đã rất quen với nhau, chưa từng coi y như quan viên cao cao tại thượng.

Vương Thủ Nhân cầm ấm rót đầy nước trà, mỉm cười liếc mọi người rồi từ tốn nói:

- Hoàng thượng long nhan đại nộ chính là vì phong thuỷ đế lăng không tốt, có thể tổn hại đến quốc vận. Nghe nói Hoàng thượng đã quyết chí dời lăng, vậy ắt muốn trưng thu thêm thuế. Hôm nay trên triều, ba vị Đại học sỹ t có thể tạm thời ngăn cản việc này, nhưng chuyện long mạch bị tổn hại còn nằm ở đó, e rằng tăng thuế cũng là việc bất khả kháng.

Một nha dịch nói:

- Đúng vậy! Chuyện phong thuỷ này sao có thể làm qua loa chứ! Long mạch liên quan đến vận mệnh Đại Minh, nếu thật bị tổn hại vậy không phải sẽ rất nguy ư?

Một nha dịch khác nghe vậy, tức giận chen vào:

- Phong thuỷ gì chứ! Bây giờ lão bá tánh sống còn không qua nổi ngày, còn lo nghĩ đến chuyện mấy trăm năm sau sao? Huynh đệ ta mở hiệu đánh ngựa (mã hành) nho nhỏ chuyên đi con đường kinh sư và Thông Châu này, y cũng nghèo lắm, tiền kiếm được mỗi năm chỉ có thể miễn cưỡng sống qua ngày. Lần này tăng thuế, thu nhập lại ít đi. Hơn nữa, thuế tăng mà lãi có hạn, thương nhân bộ hành chịu thuê ngựa tất nhiên cũng sẽ giảm bớt. Huynh đệ ta đang sầu não làm thế nào để sống qua ngày đây này, nói gì đến những bá tánh bình dân kia chứ.

Có nha dịch đang phe phẩy quạt hỏi:

- Nghe nói Dương đại nhân chính là vì để cho người dân trăm họ có con đường sống nên mới giấu chuyện đế lăng rỉ nước. Nói cho cùng đó cũng là vị quan tốt vì nước vì dân, nhưng mà chuyện phong thuỷ này cũng không thể làm qua loa lấy lệ. Vương Chủ sự, ngài thấy thế nào?

Vương Thủ Nhân thoáng trầm tư rồi nói:

- Theo ta thấy, thế gian vạn vật đều có đạo lý tồn tại của nó. Phong thuỷ là một loại tồn tại, bá tánh cũng là một loại tồn tại, cho nên phong thuỷ có đạo lý của phong thuỷ, mà bá tánh có đạo lý của bá tánh. Nếu nói chút đất đai bị hư hại sẽ ảnh hưởng đến quốc vận, vậy mạng sống của ngàn vạn bá tánh chẳng phải sẽ càng ảnh hưởng đến vận mệnh quốc gia ư? Chu Tử nói: 'Khử nhân dục, tồn thiên lý' . Ký thác hết thảy hoạ, phúc, thịnh, suy lên phong thuỷ, đó chẳng phải là 'nhân dục' sao? Vì 'nhân dục' mà bất chấp sinh tử của bá tánh, ấy là làm trái với 'thiên lý'. Đem hai thứ lên cân, bỏ cái nhỏ lấy cái to, đương nhiên sự sống và cái chết của bá tánh mới là đạo lý.

Mọi người nghe xong gật đầu lia lịa. Một nha dịch cười, nói:

- Vương Chủ sự đọc nhiều sách, lời nói ra cũng khiến người tin phục. Đúng là phong cách của kẻ đọc sách 'nhìn cây trúc bảy ngày', chúng ta không thể so bì.

Đám sai dịch nghe xong thì cười ầm lên. Nguyên là Vương Thủ Nhân thuở nhỏ hiếu học, thời niên thiếu sùng bái "tòng Đạo ngộ lý" (hiểu Đạo thì sẽ ngộ ra mọi lẽ), từng mời đạo sỹ đến nhà xin chỉ giáo. Nhưng các đạo sỹ đó nào có học hành gì, ngoài biết niệm mấy câu vô nghĩa trong kinh kệ ra, quả thật không nói được chữ nào khác chứ đừng nói gì đến học vấn.

Đạo giáo của Lão Tử là một trong Cửu lưu xa xưa, tề danh tam giáo, là đại gia triết học chân chính. Nhưng những đạo sỹ hôm nay tuy là phụng thờ Lão Tử làm thuỷ tổ, thật ra đa số là có quan hệ sư đồ với Trương Đạo Lăng của Ngũ Đấu Mễ Giáo thời Hán, đạo nghĩa hoàn toàn khác với của Lão Tử.

Vương Thủ Nhân học không có kết quả, về sau lại theo nhà đại nho là Lâu Lượng du học, bắt đầu tin vào thuyết 'cách vật tri lý' của Chu Hy, đã từng đối mặt với một cây trúc ở trong nhà ngộ bảy ngày bảy đêm. Kết quả chưa ngộ ra được đạo lý thì đã nhiễm phong hàn ngã bệnh. Chuyện này được truyền thành chuyện cười trong kinh sư, ai nấy đều biết, vì thế mọi người nghe xong câu trêu đùa ấy đều hiểu ý cười rần. Vương Thủ Nhân tính tình phóng khoáng, không câu nệ, không thủ lễ một cách cứng nhắc, vả lại chuyện này đã nhiều lần bị người lôi ra trêu nên nghe xong y cũng cười to theo, không hề vì thế mà mất vui.

Chờ cho tiếng cười của mọi người ngưng lại, một tên quan sai nói:

- Nói như vậy là Vương Chủ sự tán thành với Dương Lăng Dương đại nhân rồi. Nghe nói ba vị Đại học sỹ trong Nội các cũng bảo vệ y. Nếu như khi đó Vương Chủ sự cũng đụng phải chuyện như vậy, ngài sẽ làm như thế nào?

- Ta ư?

Vương Thủ Nhân ngẩn người, rồi bắt đầu trầm tư.

- Quân vương, bá tánh, phong thuỷ, xã tắc.

Như đèn kéo quân, những hình ảnh này bắt đầu chuyển động trong đầu y. Qua một hồi lâu, ánh mắt khó xử của Vương Thủ Nhân dần dần trở nên kiên định. Tuy rằng đám quan sai nha dịch đang yên lặng trông chờ đáp án không nghe thấy lời đại nghịch bất đạo thốt ra từ trong miệng y, nhưng hiển nhiên đã nhìn thấy được câu trả lời. Trong nhất thời, bọn họ đã thu lại nét mặt cười đùa, vẻ mặt mọi người đều trở nên trang trọng.

Tin Dương Lăng vào ngục, đưa lên pháp trường, Nghiêm Tung đều đã nghe được từ trong miệng đám đồng liêu. Tuy hắn rất cảm kích Dương Lăng, nhưng lòng mang công danh lợi lộc của hắn rất nặng. Vụ án phong thuỷ của đế lăng biết bao trọng thần trong triều đều không thể chen miệng vào, hắn bất quá chỉ là một tên vô danh tiểu tốt, cho dù dâng sớ cũng không cứu nổi Dương Lăng, có khi còn liên luỵ đến tiền đồ của chính mình. Những chuyện 'không cần chí tiến thủ, chỉ cầu khí phách thư sinh' hắn sẽ không làm. Bởi vậy, khi nghe nói Dương Lăng bị xử chém mặc dù cảm thấy cực kỳ khó chịu, nhưng hắn lại thức thời, thậm chí không bén mảng đến pháp trường.

Nhưng tin tức về việc Hàn Ấu Nương dùng mặc bảo của tiên đế cản trở hành hình, Hoàng thượng giam giữ Dương Lăng để thẩm vấn lại vừa truyền ra, đầu óc của Nghiêm Tung liền trở nên linh hoạt. Cách đây ít lâu Dương Lăng kháng chỉ cứu thê, Hoằng Trị chậm chạp không bắt giam Dương Lăng, Nghiêm Tung đoán rằng thánh ý có lòng muốn gỡ tội cho y, vì vậy nên đã vội viết một bài văn chương tạo ra thanh thế lớn cho y.

Lần này Hoàng thượng ngưng hành hình để tái thẩm, hạ chỉ khám lăng, chẵng lẽ lại có thâm ý gì đó ở bên trong? Nghiêm Tung tiếp ý chỉ xong lập tức đóng cửa không ra, suy xét kỹ lưỡng đạo lý bên trong đó. Hắn nhíu mày ngồi ở trước bàn, ánh mắt bất động, trầm ngâm thật lâu. Phu nhân vừa được đón vào kinh của hắn là Âu Dương thị trông thấy phu quân hôm nay về sớm, vừa vào nhà liền ngồi đó chẳng nói chẳng rằng, bèn vội châm chén trà đem đến, nhẹ giọng hỏi:

- Tướng công, hôm nay đã gặp phải chuyện gì khó xử à?

Nghiêm Tung rất kính trọng vị thê tử kết tóc này. Thấy thê tử châm trà mang đến, vội vàng đưa hai tay ra đón rồi nhìn thê tử, gượng cười, nói:

- Ờ, không có gì. Hôm nay Hoàng thượng hạ chỉ khảo sát thái lăng, phái ba vị khâm sai, vi phu cũng là một trong ba người được Hoàng thượng khâm điểm. Ta chỉ cảm thấy kỳ quái, ta là quan viên mới vào làm quan, lúc thi Đình lại không có biểu hiện gì xuất sắc. Trong Hàn Lâm viện tài tử như mây, vì sao Hoàng thượng chỉ định mỗi ta?

Âu Dương thị nghe xong không khỏi hé miệng cười, trách:

- Chàng đó, lúc chưa làm quan thì nghĩ đến việc làm quan, làm quan rồi lại nghĩ đến thăng quan. Bây giờ Hoàng thượng trọng dụng chàng, chàng lại đi nghĩ quàng nghĩ xiên.

Nghiêm Tung liền lắc đầu, nói:

- Phu nhân không biết đó thôi, oai vua khó dò lắm. Nếu không đoán ra được thánh ý, Hoàng thượng muốn bảo nàng đi bên trái, nàng lại đi bên phải thì làm sao có ngày được vang danh chứ.

Âu Dương thị nghe trượng phu nói nghiêm trọng như vậy, cũng không khỏi nhíu mày. Thị trầm ngâm rồi hỏi:

- Tướng công, nghe nói hôm nay Dương Hàn thị cứu chồng nơi pháp trường là nhờ vào một bức tự hoạ của tiên đế. Không lẽ Hoàng thượng cũng biết được chàng và Dương đại nhân có giao tình, nên mới đem việc này giao cho chàng, ý bảo chàng gỡ tội cho y sao?

Nghiêm Tung giậm chân, nói:

- Chính vì vi phu không dò ra được có phải thánh thượng có ý này hay không nên mới hết sức khổ não. Nếu nói Hoàng thượng có ý để ta trợ giúp Dương đại nhân, nhưng người truyền chỉ lại không hề có chỉ bảo gì, truyền chỉ xong liền trở về cung ngay. Ta đã suy nghĩ đi suy nghĩ lại về ý chỉ nhiều lần, nhưng nghĩ không ra trong đó có ngụ ý gì. Nếu như Hoàng thượng có ý gỡ tội cho y, ít nhiều cũng nên chỉ rõ chút gì đó cho ta mới phải chứ.

Âu Dương thị nói:

- Thiếp không hiểu việc nước, chỉ suy nghĩ từ phương diện tình lý. Chàng nói xem, một vị quan lớn giận một người, tìm tội danh để phạt gậy hắn ta. Nhưng hắn và cha của vị quan này có giao tình và thư từ qua lại. Vị quan này, vốn là một người con hiếu thảo, cho ngưng phạt gậy rồi kêu người tra lại vụ án. Vậy vị quan muốn gỡ tội hay là vẫn muốn trị tội hắn ta?

Mắt Nghiêm Tung chợt sáng lên, nhưng hắn lại lập tức lắc đầu, cười nói:

- Ví dụ này không ổn, bức hoạ đó của tiên hoàng không thể so với thư từ. Tiên đế nhân hậu, những thần tử được ban thưởng lễ vật rất nhiều, lại không chỉ một mình Dương đại nhân. À! Không đúng, quả thực không giống nhau.

Nghiêm Tung chợt nhớ lại lời Thị lang Trình Văn Nghĩa đã nói qua, bức hoạ đó là vẽ vách núi và cây tùng hùng vĩ, trên bức vẽ có chữ đích thân tiên hoàng viết lên: 'Cây tùng trăm trượng um tùm, dẫu rằng sần sùi xấu xí, nhưng là vật liệu chính để xây nhà to.' Đây rõ ràng là một sự tín nhiệm mà tiên đế ủy thác, kỳ vọng Dương đại nhân sẽ trở thành bề tôi đắc lực mà.

Nghiêm Tung nắm lấy tay Âu Dương thị, hưng phấn nói:

- Vi phu ngu dốt, may mà có hiền thê nhắc nhở, giờ ta đã rõ thánh ý. Chỉ là... ba vị khâm sai, một vị là Chủ sự bộ Binh, còn một vị là Thành Quốc công đương triều, quan chức và địa vị đều hơn xa ta. Xét về công hay về tư, vi phu đều nên giúp Dương đại nhân mới phải, nhưng chỉ e một cây làm chẳng nên non.

Âu Dương thị cười hì hì, nói:

- Phu quân tốt của thiếp à, nếu như Hoàng thượng đã có ý gỡ tội cho Dương đại nhân, há sẽ chọn chàng làm chủ chuyện này, nói không chừng Quốc công gia và Chủ sự bộ Binh người ta đã sớm được mật chỉ của Hoàng thượng rồi. Chuyện chàng và Dương đại nhân từng có giao hảo tuy trong triều kẻ biết không nhiều, nhưng Hoàng thượng có Cẩm Y Vệ, có Đông xưởng, Tây xưởng; nghe nói bọn thám tử đó chỗ nào cũng nhúng tay vào, rất ư là lợi hại, Hoàng thượng có thể không biết sao? Chọn chàng chỉ là để bịt miệng đám đại thần đó mà thôi. Chuyến đi này, thiếp thấy chàng chỉ cần giả vờ câm điếc, sắm vai ông bồ tát bằng đất sét thì coi như đã hợp với thánh ý rồi.

- Bồ tát bằng đất sét à?

Nghiêm Tung cũng cảm thấy thê tử mình nói rất có lý. Có điều, nghĩ đến lý do Hoàng thượng dùng mình vốn chỉ vì hắn có giao hảo với Dương Lăng, không hề có điều xem trọng hắn, hắn không nén được có chút mất mát thất vọng. Niềm vui dò đoán ra được thánh ý lập tức phai nhạt đi nhiều.

oOo

Bên ngoài Ngọ Môn, đội nghi trượng của khâm sai đã xếp thành hàng ngũ chỉnh tề. Vương Thủ Nhân và Nghiêm Tung vì không quen biết nhau, cho nên gặp mặt chỉ chuyện trò vài câu rồi mỗi người ôm suy nghĩ riêng đứng đó chờ Thành Quốc công Chu Cương.

"Tình hình bây giờ, di dời đế lăng thì tăng thuế, bá tánh thì khổ mà xã tắc lại bất an. Năm xưa, Phương Hiếu Nhu vì muốn duy trì chính thống bị tru di thập tộc mà không hề hối hận. Hôm nay, Vương gia ta vì giang sơn xã tắc chẳng lẽ lại tiếc đầu này?!" Lời của phụ thân Vương Hoa lại vang bên tai, Vương Thủ Nhân nghĩ đến kế hoạch đó, trong lòng chợt hơi khẩn trương.

Từ nhỏ y đã đam mê binh pháp, ham thích võ học, nhưng vẫn chưa từng ra trận giết địch, trải nghiệm chém giết; mà việc sắp làm ngày hôm nay, chẳng khác gì lấy kê trong lửa, phải đối mặt với nguy hiểm to lớn. Một khi thất bại, thì cả nhà Lý Đông Dương và Vương Hoa do mưu đồ chuyện này đều có thể sẽ bị xử chém. Với định lực của Vương Thủ Nhân, nghĩ đến chuyện này cũng không tránh khỏi thấp thỏm trong lòng.

Nếu muốn không tăng thuế thì chỉ có cách không dời lăng, nếu muốn không dời lăng thì chỉ có cách chứng minh Kim Tỉnh chưa từng bị người động tay chân. Hết cách, Lý Đông Dương đành mời bạn thân là Vương Hoa, nói rõ vì đại nghĩa quốc gia, cùng ông ta lập ra một kế hiểm: "Man thiên quá hải điều bao kế! (*)" (*: Giấu trời vượt biển để đánh tráo)

Dạng đất như dưới Kim Tỉnh có hiện đang được giữ trong bộ Lễ, mà Vương Hoa là quan lớn nhất chỉ đứng sau Vương Quỳnh ở bộ Lễ, nên mặc dù đất Kim Tỉnh này được trông coi rất nghiêm ngặt, nhưng với thân phận của Vương Hoa, muốn đánh tráo ít nhất cũng nắm chắc bảy phần.

Khó khăn nhất lại là Vương Thủ Nhân. Y là con của Vương Hoa, đồng thời cũng không phải là gã hủ nho, mê tín phong thuỷ. Lý Đông Dương dự liệu rằng để Vương Hoa ra mặt nhất định sẽ có thể khuyên được y đồng loã vào chuyện này, nhưng khó là khó ở chỗ khâm sai khám lăng có tới ba người mà không phải chỉ một mình Vương Thủ Nhân; muốn một tay che trời, tráo đổi đất lấy từ thái lăng về quả thực là việc cực kỳ khó khăn.

Lý Đông Dương bàn bạc cùng Vương Hoa, muốn để Vương Thủ Nhân tuỳ cơ hành sự, mang theo bên người một bao đất, đợi khi lấy được loại đất dưới Kim Tỉnh của đế lăng xong sẽ tìm cơ hội tráo đổi chúng, sau đó báo tin cho gia nhân thân tín trong phủ âm thầm đi theo cưỡi khoái mã gấp rút chạy về trước hồi báo cho Lý Đông Dương và Vương Hoa. Chỉ cần hai người nghe thấy tin Vương Thủ Nhân đắc thủ sẽ lập tức chạy đến bộ Lễ, Lý Đông Dương cầm chân Vương Quỳnh, còn Vương Hoa sẽ phụ trách tráo đất. Nơi đặt đế lăng lại không xa, có thể đi về trong ngày, nhưng thời gian cũng chưa hẳn sẽ dư dả.

Vì vậy, nhiệm vụ của Vương Thủ Nhân không những nguy hiểm mà còn vô cùng gian nan. Tình hình bên trong đế lăng rốt cuộc ra sao, ngay cả tài tử thông thái như Lý Đông Dương và Vương Hoa cũng không nắm rõ. Thời đó không cho phép tham quan đế lăng, lại không cung cấp bản vẽ để người ta tham khảo và nghiên cứu; cho nên, có thể tạm thời nghĩ ra được biện pháp này, Lý Đông Dương đã là cơ trí lắm rồi, thật không cách nào lập ra được kế hoạch tỉ mỉ hơn.

Nghĩ đến đây, Vương Thủ Nhân không nén được thở dài. Thành Quốc công cả nhà trung liệt, từ triều Hồng Vũ đến nay đã có ba vị Quốc công sau khi mất đi được phong vương, rất được vua yêu mến. Thành Quốc công đời này tuổi tác tuy đã cao, nhưng không hề hồ đồ mà là một ông già thông thái, Vương Thủ Nhân quả thực không dám đảm bảo có thể qua mặt lão. Có điều, nếu như lão Quốc công không chịu làm ngơ cho qua, hy vọng thành công sẽ vô cùng mờ mịt. Thậm chí vị Hàn Lâm thân gầy như cây trúc ở trước mặt này, qua cử chỉ và ngôn từ của hắn, dường như cũng không phải là nhân vật đơn giản.

Vương Thủ Nhân nghĩ đến đây không khỏi quay đầu liếc trộm Nghiêm Tung một cái, không ngờ Nghiêm Tung cũng đang nhìn y. Ánh mắt hai người vừa chạm, bọn họ lập tức chột dạ, mỗi người đều ôm tính toán riêng của bản thân.

Chính vào lúc này, một chiếc kiệu lớn tám người khiêng đong đưa kẽo kẹt đi đến Ngọ Môn, theo sau là tám tên thị vệ. Kiệu được đặt xuống đất, quản gia liền vén rèm kiệu lên, dìu một lão già đầu tóc bạc phơ, người mặc áo mãng bào , lưng đeo đai ngọc, bước một bước thì lảo đảo đến ba lần, run run rẩy rẩy. Vương Thủ Nhân trông thấy vậy không khỏi thất kinh.

Tết năm nay y từng theo phụ thân viếng thăm vị lão công gia này. Khi ấy huyền tôn (cháu cố) thứ mười bốn của Chu lão công gia đốt pháo ở trong lầu các, ông già nổi giận cầm cây chổi lông gà đuổi đứa cháu chạy khắp đại viện, bước chân thật sự là rất dẻo dai. Làm thế nào mà mới có nửa năm lão đã già yếu đến nông nỗi này rồi?

Vừa nghi ngờ vừa kinh ngạc, Vương Thủ Nhân vội bước lên phía trước vái sâu một lễ:

- Thủ Nhân bái kiến Chu lão công gia. Thân thể lão công gia gần đây vẫn khoẻ chứ ạ?

- Hả?

Giọng vang như sấm, giọng nói của lão công gia thế mà lại khá lớn:

- Đừng có lí nhí như muỗi thế, lão nhân gia ta nghe không rõ! Úi chào, tuổi tác già rồi, năm nay cũng xấp xỉ tám mươi, mắt cũng đã mờ, lỗ tai cũng nghễnh ngãng cả. Giờ thì nhìn cũng nhìn không rõ, nghe cũng nghe không được... Này! Ngươi là con cháu nhà ai thế?

"Lão già này thậm chí không nhận ra cả mình à?" Vương Thủ Nhân ngạc nhiên ngước mắt nhìn Thành Quốc công. Chỉ thấy trong mắt lão già chợt loé lên sự giảo quyệt, nhìn kỹ lại, vẫn là một đôi mắt đùng đục già nua đang ngỡ ngàng nhìn y.

Vương Thủ Nhân thấy vậy trong lòng mừng rỡ: "Đại sự được định rồi!"

Mặt y vừa lộ vẻ vui mừng, chợt liếc thấy Nghiêm Tung đang đăm đăm quan sát vẻ mặt của bọn họ, Vương Thủ Nhân vội vàng thu lại tâm trạng, ngầm hiểu ý thi lễ lần nữa rồi lớn tiếng nói:

- Thủ Nhân hành lễ với lão công gia! Lão công gia vẫn luôn mạnh khoẻ chứ ạ?

Ghi chú của tác giả: Vương Thủ Nhân là người trùm nhất trong ba trăm năm lịch sử triều Minh, qua các triều đại đã được thần thánh hoá. Vân Trung Nhạc có thể nói là chuyên gia về sử Minh, viết mấy chục quyển tiểu thuyết đều lấy triều Minh làm bối cảnh vậy mà mỗi Vương Thủ Nhân là sót lại không dám viết, chỉ dám mượn miệng kẻ khác để đề cập sơ những chuyện liên quan đến ông chứ không dám viết theo ý mình. Tiểu Quan muốn tránh cũng không được, đành thấp thỏm không thôi. Nếu muốn chửi xin quý vị cứ chửi đi, tại hạ quyết sẽ không màng!

Chú thích:

Dương Minh là tên hiệu của Vương Thủ Nhân; "man thiên" trích từ kế "man thiên quá hải" (giấu trời qua biển), lợi dùng tình thế (hoặc thời tiết) để gạt người.

Trừ bỏ Vọng tâm thì sẽ có được Chân tâm.

Cửu lưu thập gia là các trường phái học thuật chủ yếu trong thời kỳ Chiến Quốc ở Trung Quốc. Các trường phái này bao gồm: Nho gia, Đạo gia, Âm Dương gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Tung Hoành gia, Tạp gia, Nông gia và Tiểu Thuyết gia. Trong đó, chín trường phái đầu được gọi chung là Cửu lưu.

Trương Lăng (hay Trương Đạo Lăng) tự là Phụ Hán (trợ giúp nhà Hán) (3456) được xem là người đã khai sáng giáo phái Ngũ Đấu Mễ Đạo (Đạo năm đấu gạo) trong Đạo giáo Trung Quốc. Ngũ Đấu Mễ Đạo, cũng gọi là Thiên Sư Đạo, là một giáo phái ra đời trong giai đoạn đầu của Đạo giáo, tức cuối đời Đông Hán (2520). Từ đời Đông Tấn trở đi, Ngũ Đấu Mễ Đạo được gọi là Thiên Sư Đạo, từ đời nhà Nguyên trở đi gọi là Chính Nhất Đạo. (theo wiki)

Nguyên là "cách vật trí tri". Cách là suy xét, tìm tòi. Vật là sự vật. Trí là tới cùng và Tri là hiểu biết. Cách vật trí tri là suy xét cho thấu suốt về sự vật để hiểu biết đến tận cùng cái lý của nó. (theo Cao Đài)

Phương Hiếu Nhu (1357 - 1402), người Ninh Hải Chiết Giang, là đại thần triều Minh, và là nhà học giả, văn học, tản văn (văn xuôi) và tư tưởng trứ danh. Ông tự là Hy Trực, hiệu Tốn Chí, từng lấy tên "Tốn Chí" đặt cho thư phòng. Thục Hiến vương đổi lại thành "Chính Học", nên đời gọi ông là "Chính Học tiên sinh". Trong giai đoạn "tĩnh nan chi dịch" (cuộc chiến do Minh Thành Tổ Chu Lệ phát động nhằm chiếm ngôi của cháu là Kiến Văn Đế), ông đã cự tuyệt chiếu thư đăng ngai mà Yến vương Chu Lệ soán vị thảo ra. Cương trực bất khuất, hết lòng đơn độc cứu nước, ông bị tru di mười họ.

Mãng bào: Lễ phục của quan viên thời cổ, thêu hình mãng xà, nay không còn. Còn gọi là "hoa y", "mãng phục". Phụ nữ được thụ phong cũng có thể mặc.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 103: Dương Lăng vượt biển

Trước đó, vì đã được vợ nhà nhắc nhở nên Nghiêm Tung càng xác định rằng Hoàng thượng có ý gỡ tội cho Dương Lăng, như vậy có nghĩa là người đứng đầu trong ba vị khâm sai nhất định cũng đã sớm nhận được mật dụ, cho nên từ lúc lão công gia vừa xuống kiệu, Nghiêm Tung đã nhìn lão chằm chằm không chớp mắt. Lão hồ ly đó cũng không ngờ lớp trẻ ngày nay thật là đáng sợ, thần sắc mới chỉ hơi khác thường một chút thôi mà đã bị Nghiêm Tung nhìn thấy hết.

Lúc này Nghiêm Tung càng tin chắc rằng mình đoán không sai. Nhưng thật ra, nếu Hoàng đế Chính Đức muốn giúp Dương Lăng thoát tội, với tính tình của y, y sẽ không quan tâm đến kẻ khác nghĩ như thế nào mà sẽ miễn xá thẳng luôn, cần gì mà phải lòng vò mấy thứ này. Vả lại lão công gia cũng chưa hề nhận được mật chỉ của Hoàng Đế.

Thật ra, việc Lý Đông Dương vừa rời khỏi cung liền gấp rút hẹn Vương Hoa gặp mặt hôm qua đã sớm bị vị Thành quốc công này biết được. Sở dĩ như vậy là vì trong số những người mà Lý Đông Dương hẹn, có một người tên là Vương Tự Văn, y là học sỹ Hàn Lâm được lão công gia mời đến làm thầy giáo cho mấy đứa cháu. Khi Vương Hàn Lâm đến phủ Thành quốc công thì vô tình đã để lộ một ít tin tức.

Thành quốc công có thể đứng sừng sững trong vương triều họ Chu vốn rất nặng tính đa nghi, nhưng lão lại bao đời nhận được quốc ân, đương nhiên là vì lão tự có bí quyết riêng. Những người đứng đầu họ Chu ai nấy đều có "trái tim bảy lỗ" , nhưng bề ngoài phần lớn lại giống như những kẻ võ biền thô lỗ không hề có cơ trí;hơn nữa bọn họ còn giỏi về quan hệ xã giao.

Đừng cho rằng Thành Quốc công không thượng triều mà nghĩ lão không biết gì, ngược lại, bất kể việc lớn việc nhỏ gì trong triều cũng đều không giấu được lão. Cộng với vô số sự tình phát sinh ở triều đình và trong dân chúng hai ngày nay, tuy rằng Thành quốc công đoán không chính xác trong đó có ẩn ý gì nhưng cũng không sai biệt lắm. Vì vậy, lão đã nghi ngờ việc Lý Đông Dương hẹn gặp Vương thị lang và việc Vương Thủ Nhân được chọn làm khâm sai tất có liên quan với nhau.

Nghĩ thông suốt điểm này, Thành quốc công không khỏi thầm bội phục lòng son dạ sắt của Lý Đông Dương và Vương Hoa. Mấy thần tử Đại Minh này, vì giang sơn xã tắc và bá tánh lê dân, dám bất chấp nguy hiểm có thể bị tịch biên gia sản, chém đầu cả họ. Nhưng phủ Thành quốc công bây giờ có hơn ngàn người, lão nhân gia không thể tự mình ra trận được nữa nhưng bản lĩnh giả ngây giả ngô thì lão vẫn còn. Thế là lão già có thể nhìn một con muỗi bay qua trước mặt thì biết ngay nó là cái hay đực này liền biến thành ông già mờ mắt nghễnh tai, đi đứng lảo đa lảo đảo.

Vương Thủ Nhân thấy Thành quốc công đồng ý âm thầm tương trợ, trong lòng cũng yên tâm hơn nhiều. Vậy là cả ba người lên kiệu quan đến Thái Lăng, lúc này thái giám tổng quản của Ngự Mã Giám kiêm xưởng đốc Tây xưởng Miêu Quỳ và Tả thị lang bộ Công Lý Kiệt vội vàng ra chào đón, sau đó cùng ba vị khâm sai bước vào Đế Lăng.

Vương Thủ Nhân vừa đi vừa rờ bao đất vàng lớn nhét ở phía sau hông rồi trộm liếc lão công gia. Chỉ thấy Thành quốc công được quản gia dìu đỡ, vừa run run rẩy rẩy bước về phía trước vừa oang oang trò chuyện với Miêu Quỳ, như thể sợ người ta không biết lão vừa mù vừa điếc.

Vừa vào đến cửa điện bên trái, Miêu Quỳ liền dừng bước mỉm cười rồi quay sang Thành quốc công hành lễ, nói:

- Thành quốc công lão nhân gia! Ty chức sẽ đợi ngài ở đây.

Thành quốc công liếc y một cái có ý tán thưởng, hổn hển đáp một tiếng rồi đi vào. Riêng Lý Kiệt là công thần đứng đầu tố cáo vụ án này, nếu hắn lật đổ được bốn vị khâm sai kia thì hắn sẽ có công lớn giúp cho xã tắc, còn nếu như thất bại, thì nhẹ nhất cũng bị khép vào tội mưu hại đồng liêu, cho nên cũng mặc kệ lão công gia bất mãn, hắn vẫn lập tức bám sát theo sau, không rời nửa bước.

Ba vị khâm sai dừng lại ở trước bậc đá của Kim Tỉnh, Vương Thủ Nhân nói to:

- Lão công gia! Ngài đã cao tuổi rồi, xin mời ngài cứ đứng ở đây giám sát đi. Việc lấy đất này hãy giao cho chúng con, được không ạ?

Nói rồi y nhìn qua Nghiêm Tung. Kế hoạch mà Vương Thủ Nhân lập ra là, lấy đất xong, trên đường đi bọn họ sẽ đánh tráo. Nhưng hôm nay có Lý Kiệt đứng đó quan sát, bên cạnh còn có Nghiêm khâm sai, e rằng bọn họ sẽ khó lòng mà ra tay được. Chi bằng mình ra vẻ hào phóng, nhường cho Nghiêm Tung đi lấy đất sẽ không khiến người ta nghi ngờ.

Lúc này, Nghiêm Tung đứng gần Kim Tỉnh nhất. Khi nãy thông qua ánh sáng đèn, hắn liếc nhìn vào trong Kim Tỉnh trước, vừa nhìn thấy hình dạng của Kim Tỉnh, hắn liền không khỏi giật mình. Thì ra hình dạng Kim Tỉnh là như vậy, nếu muốn ra tay quả nhiên rất dễ dàng.

Hừ! Chỉ đáng tiếc cơ hội lập công như vậy lại đem biếu không cho vị Chủ sự Bộ Binh này. Nghiêm Tung trong lòng máy động, thầm cười khẩy nghĩ: "Để ta giả làm Bồ Tát bằng đất sét cũng được, nhưng không thể xem ta như thằng ngốc. Mưu kế của bọn họ mình đã đoán ra rồi, nếu như mình có thể nghĩ biện pháp nói cho họ biết, không lo bọn họ sẽ không thiếu mình một phần nhân tình nữa."

Nghĩ đến đó, Nghiêm Tung vội vàng khách khí nói:

- Đúng đúng đúng! Xin lão quốc công cứ đứng đây đôn đốc, công việc lấy đất này hãy giao cho vãn bối chúng con là được. Vương đại nhân, mời ngài, học sinh sẽ ở một bên coi giữ.

Vương Thủ Nhân nghe y nói xong cũng không khách khí nữa, lấy một cái xẻng con lúc vào lăng đã mang theo ra rồi bước lên chiếc giường bạch ngọc. Lý Kiệt lập tức trừng to hai mắt, nhìn chằm chằm vào động tác của y không chớp. Thành quốc công cũng không biết Vương Thủ Nhân sẽ lấy đất như thế nào để che giấu việc Đế Lăng thấm nước, nhưng lão thấy Lý Kiệt đứng đó như một con ưng già, hai tay căng thẳng quắp đến độ sắp biến thành móng vuốt.

"Dưới cặp mắt chằm chằm như hổ đói này, tiểu Vương sẽ hành động như thế nào đây?"

Lão công gia nhíu hàng mày trắng, thong thả đến bên cạnh Lý Kiệt, vỗ vai lão ta rồi cười lớn nói:

- Ngươi chính là Thị lang Bộ Công Lý Kiệt hả? Ừ, trông được đấy. Ngay cả việc lăng mộ tiên hoàng xảy ra vấn đề mà cái đám tặc tử đó cũng cả gan dám che giấu, tội không thể tha à. Nếu không phải nhờ ngươi, toàn thể triều đình đều đã bị giấu gạt rồi.

Lý Kiệt cười bồi nói:

- Lão công gia quá khen rồi, đó đều là bổn phận phải làm của thần tử.

Nói thì vẫn nói, nhưng cặp mắt lão vẫn nhìn chằm chằm vào Kim Tỉnh không chớp, chỉ lo có người sẽ giở trò.

Nghiêm Tung nhìn thấy lão như vậy thì trong lòng cả mừng. Cái tên thối tha không biết điều này thực đã giúp mình không ít. Gã đang băn khoăn không biết làm sao để Thành quốc công biết mình cũng là bảo vệ Dương Lăng, tên này lại tạo cho ông Bồ Tát bằng đất sét mình đây cơ hội lập công.

Hai chữ "kim tỉnh" này, nhiều người đã nghe đến nó, nhưng chưa tận mắt thấy thì không ai biết thật ra nó trông như thế nào Trong dân gian có vài công tượng (thợ thủ công) vì ôm lòng hư vinh đã tiết lộ đôi chút, song đại đa số cũng thổi phồng sự tráng lệ của Kim Tỉnh, cho nên đây là lần đầu tiên mấy vị này được nhìn thấy diện mạo thật sự của nó.

Vương Thủ Nhân lúc này đang quỳ trên bệ đá, đánh giá cái động đất có đường kính rộng nửa xích, sâu chừng một thước đó. Y lấy tay thăm dò một lát, bốn vách là hoàng thổ bị dính ẩm, nhưng khi sờ đến đáy, thì thấy đất đai nơi đó thấm nước gạo nhưng lại khô ráo bóng nhẵn. Vương Thủ Nhân giật bắn người thầm nghĩ: "Quả nhiên bọn họ đã động tay chân vào rồi".

Vương Thủ Nhân mới vừa nghĩ đến đây, câu nói bóng gió như lời độc thoại đó của Chu lão quốc công lọt vào tai y. Ngay lập tức, trong lòng Vương Thủ Nhân liền loé lên một ý nghĩ, khoé mắt y nhanh chóng liếc qua bên cạnh, chỉ thấy Lý Kiệt đang trừng hai mắt quan sát nhất cử nhất động của mình, thế là y cực kỳ thất vọng.

Không ngờ ngay vào lúc này, thân thể cao ráo gầy gò của Nghiêm Tung bỗng chợt xoay lại, lách đến trước mặt Lý Kiệt cúi người thi lễ, bộ dạng vô cùng kính cẩn:

- Học sinh thân là con dân Đại Minh, cũng nên tạ ơn đại nhân. Xin đại nhân hãy nhận của học sinh một ạy!

Cái "cây sậy" gầy đét này cao phải hơn một thước tám, vừa xoay người là chắn hết mọi thứ, thậm chí khi gã cúi xuống hành lễ cũng đã che khuất Lý Kiệt khiến lão ta không nhìn thấy gì. Lý Kiệt có ý muốn lách người tránh gã, nhưng sợ làm như vậy sẽ quá lộ liễu, rõ ràng là có ý bất kính với gã và có lòng nghi ngờ Vương Thủ Nhân. Nhân lúc lão chỉ mới hơi chần chừ, Nghiêm Tung liền kéo tay thân mật nịnh nọt lão:

- Bộ Hình dùng đại hình bức được khẩu cung, bá quan bất phục, cho nên bây giờ mới đem về phúc thẩm. Nếu bộ Hình có được bực trí giả như đại nhân đây, dùng lời nói bóng gió, dăm ba câu chữ nhất định sẽ có thể khiến cho mấy tên phạm quan đó cung khai!

Ngay đúng lúc này, chỉ nghe thấy tiếng xẻng sắt xúc đất sột soạt truyền nhanh lên trên, đúng vào lúc vừa hết thời gian một khắc thì nghe tiếng của Vương Thủ Nhân reo vui:

- Đã lấy được đất của Kim Tỉnh, hãy mau mang hộp vàng đến đựng đất!

...

Vương Quỳnh thong thả tản bộ bên trong thư phòng một lúc lâu, bỗng dừng chân cười nhạt nói:

- Đám nghịch thần gian xảo đó không chịu ngồi yên, ngông cuồng vọng tưởng dám lấy đất khám nghiệm. Hừ hừ, cái tên Thập trưởng nhỏ nhoi đó nếu không phải đúng sự thật há dám phỉ báng ư? Binh khoẻ trong quân nếu không có nội tình gì sao lại đột nhiên chết đi chứ? Ta đã sai người giữ hộp vàng đựng đất và huỷ hết mọi chìa khoá, chỉ còn chừa lại một chiếc này của ta. Chỉ cần đất trong hộp vàng không việc gì, để xem bọn chúng còn có thể giở được trò gì!

Từ Quán mừng rỡ nói:

- Khâm sai chắc hẳn cũng đã trở về rồi chứ nhỉ? Thắng bại được thua đều ở một lần hành động này đây! Tam Công trong nội các bao che tội phạm, chỉ vì chút lợi cỏn con mà không đếm xỉa gì đến việc long mạch bị tổn thương, vì vậy nhất định Hoàng Thượng sẽ không vui. Vụ án này kết thúc rồi, tiền đồ của bọn họ cũng sẽ tận thôi.

Vương Quỳnh chau mày nói:

- Từ thượng thư! chúng ta làm như vậy chính là vì giang sơn xã tắc của Đại Minh, không phải là vì tiền đồ cá nhân. Tam Công trong nội các đều là công thần vì nước, bọn họ lo lắng chuyện tăng thuế cũng là vì nghĩ cho triều đình Đại Minh ta, Từ công sao có thể nói những lời như vậy được?

Từ Quán vội cười bồi đáp:

- Phải phải phải, Vương thượng thư nói rất phải.

Song trong lòng lại thầm rủa: "Lão thất phu, nếu như ông quang minh chính đại, vì nước vì dân, sao lại xúi giục con mình đến bộ Hình tố cáo để chém đầu người ta và bôi nhọ thanh danh người ta chứ?"

Hồng Chung nói:

- Vương đại nhân, không bằng chúng ta hãy vào cung ngay, đem chuyện Dương Lăng phạm pháp bẩm báo cho hoàng thượng. Đợi đến khi hoàng thổ của Kim Tỉnh về rồi, chân tướng rành rành, sẽ có đủ lý do giết hắn!

Vương Quỳnh thoáng trầm ngâm rồi mỉm cười lắc đầu bảo:

- Chuyện này không cần nhọc đến ông và ta ra mặt, làm vậy chẳng phải sẽ thành chuyện bé xé ra to sao? Bảo Thị lang bộ Hình Trình Văn Nghĩa dâng sớ, lấy danh nghĩa sỹ tử tố cáo dâng lên cho Hoàng Thượng là được.

Trong cung Càn Thanh, hoàng đế Chính Đức đang nghe đại học sỹ Tạ Thiên lải nhải với một tâm trạng bất an. Hôm nay y mượn cớ vấn an Thái hậu và Thái Hoàng Thái hậu nên đã miễn Ngọ triều, cả ngày ở trong cung chờ tin tức. Vừa vặn đúng lúc Lưu Kiện và Tạ Thiên có việc liên quan đến đại hôn của hoàng đế muốn bẩm báo và hội ý, nghe nói y muốn đi thỉnh an Thái hậu, thế là cũng vội vã theo vào.

Nào ngờ tiểu hoàng đế vốn không hề có lòng đi thăm Thái Hoàng Thái hậu và Thái hậu, hai vị đại học sỹ cũng biết thời gian rất quý giá, nên không chút lãng phí, lập tức ra sức khuyên can Hoàng Đế đừng sa đà vào chơi bời, đừng đi lại trong cung mà không mang thị vệ, đừng bỏ ra quá ít thời giờ đọc sách, đừng không mở Kinh Diên, tận tình khuyên bảo một phen khiến hoàng đế Chính Đức nhức hết cả đầu.

Khi Chính Đức đang bắt đầu mất kiên nhẫn thì một tên tiểu thái giám hấp tấp chạy vào bẩm báo:

- Khải bẩm Hoàng Thượng, Thị lang bộ Hình Trình Văn Nghĩa khẩn cấp dâng sớ, sự tình có liên quan đến vụ án Đế Lăng thấm nước.

Nghe vậy, hoàng đế Chính Đức giật mình, vội vàng bảo:

- Dâng sớ lên!

Chính Đức nhận sớ, giở ra xem. Trên sớ Trình Văn Nghĩa viết lưu loát hơn ba ngàn chữ, bỏ những câu sáo ngữ ra, đại khái ý nói phát hiện ra Dương Lăng bề ngoài tỏ vẻ thanh liêm, nhưng trong tối lại tham ô xa xỉ, bỏ ra nhiều tiền mua thiếp, hà hiếp tăng lữ vân vân, xin Hoàng Thượng cho phép thẩm tra cùng với vụ án Đế Lăng thấm nước một lượt.

Giống như con bạc đang đợi chờ con bài tẩy được lật lên, không biết hoàng thổ được mang từ Đế Lăng về rốt cuộc có bị người giở trò không, nhưng vừa nhìn thấy tấu chương này, lòng Chính Đức liền nguội đi một nửa. Vốn dĩ Trương Vĩnh vẫn nói Dương Lăng không có lý do tham ô, nhưng giờ đã có chứng cứ, sau khi xem những tội danh được liệt kê xong, Chính Đức cũng không còn tâm tư để xem tiếp những nội dung sau đó nữa.

Y tức tối vứt tấu chương lên long án, cơ mặt giần giật. Ngồi ngây ra trên ghế một hồi lâu, y bỗng nhảy phắt dậy, giận dữ quát:

- Mang tất cả những phạm nhân có liên can đến đây cho trẫm! Trẫm muốn đích thân xét xử vụ án này!

Lưu Kiện nghe thấy liền vội vã can ngăn:

- Khải bẩm bệ hạ, việc này vạn vạn lần không thể. Luật pháp có cơ quan hành xử riêng, hoàng thượng là vạn thừa chi tôn , há có thể vượt quyền can thiệp? Đế vương tự cổ trừ Hiến Văn Đế không biết tự trọng ra, thần vẫn chưa từng nghe nói có vị minh quân cao quý nào hạ cố đến đại sảnh bộ Hình ngồi cả.

Chính Đức nghe vậy nổi giận đùng đùng, đanh mặt chỉ lão ta hét:

- Minh quân! Minh quân! Tai trẫm nghe đến sắp chai hết cả rồi. Ông luôn miệng nói vạn thừa chi tôn, thế nhưng Hoàng thượng ta đây lại mặc cho ông khoa tay múa chân, chưa từng làm chủ được chuyện gì! Thiên hạ này là của ông hay là của ta hả?

Lưu Kiện nghe thế mặt mày tái mét, quỳ sụp dỡ mão run rẩy nói:

- Hoàng Thượng sao lại nói lời như vậy. Lão thần một lòng thành tâm tận sức, có trời đất chứng giám, nếu như lời của lão thần vô lễ xúc phạm đến Hoàng Thượng, thần nguyện xin Hoàng Thượng giáng tội!

Tạ Thiên thấy vậy vội lên tiếng giảng hoà:

- Hoàng Thượng, lấy địa vị đế vương đi thẩm tra xử lý phạm nhân, đích thực có điều không hợp lý. Hoàng Thượng thân là quân chủ của cả thiên hạ, đâu lại có đạo lý Hoàng Đế tự thân xử án chứ? Song nếu như Hoàng Thượng muốn nghe xét xử vụ án này, chi bằng ngồi phía sau đại sảnh của Hình Đường dự thính, Hoàng Thượng thấy thế nào?

Hoàng đế Chính Đức phất tay nói:

- Được! Nghe thẩm vấn thì nghe thẩm vấn, theo trẫm đến đại sảnh bộ Hình, ta muốn xem thử rốt cuộc y đã làm những chuyện xấu xa nào làm tổn thương đến lòng dạ của trẫm như vậy! Phái người báo cho Đô Sát Viện, Đại Lý Tự, khâm sai khám lăng, đợi khi thổ nhưỡng Kim Tỉnh đến kinh, lập tức tới ngay bộ Hình, Tam đường hội thẩm!

Hoàng Đế Chính Đức hùng hùng hổ hổ mang hai vị đại học sỹ và ba gã thái giám tâm phúc là Trương Vĩnh, Lưu Cẩn và Mã Vĩnh Thành "đánh thẳng" đến Bộ Hình, khiến cho bọn Ngụy Thân và Trình Văn Nghĩa bị doạ đến nhảy dựng. Hai người lật đật phái người đến bộ Lễ mời Hồng Chung về. Vương Quỳnh, Từ Quán nghe tin cũng vội vã đến theo.

Hoàng Đế Chính Đức không nén được sự sốt ruột, Hồng Chung vừa trở về, y lập tức hạ lệnh thăng đường xử án. Bởi vì vụ án này chỉ liên quan đến một nhà Dương Lăng, cho nên Ngụy Thân chỉ dẫn Dương Lăng, Hàn Ấu Nương, Tuyết Lý Mai và Cao Văn Tâm lên sảnh đường, giải Lý Đạc, Nghê Khiêm, Đới Nghĩa và nhân chứng Thập trưởng nọ xuống dưới sảnh đường, chờ nghe Tam ty hội thẩm. Đám người Hàn Ấu Nương lại không phải vừa khéo mà tới, bọn họ vì tự ý xông vào pháp trường, cho nên trước khi chuyện Đế Lăng được tra rõ, bọn họ cũng là người đợi xét xử tội, vì vậy hôm qua cũng bị giải vào nữ lao (ngục dành cho nữ) đợi sau án Đế Lăng sẽ xử lý tiếp.

Bên nguyên cáo chính là bảy văn sỹ bọn Dương Lâm, Triệu Ung, Vương Cảnh Long và nhân chứng Ngọc Đường Xuân.

Ngọc Đường Xuân vừa lên đến sảnh đường, đôi mắt tựa nước hồ thu liếc nhanh qua Dương Lăng, thấy y toàn thân vận đồ trắng, loang lổ vết máu, ngón tay bị cùm bê bết máu me, trong ánh mắt không nén được vẻ đau xót.

Sợ bị người khác nhìn ra sơ hở, nàng vội cụp mắt, rụt rè quỳ xuống phía trước, cất tiếng nhỏ nhẹ:

- Dân nữ Tô Tam, khấu kiến đại nhân!

Hồng Chung vuốt râu mỉm cười, ôn tồn bảo:

- Nhân chứng Tô Tam chớ nên sợ hãi, ngươi vốn là gia tẩu phủ họ Dương, nay có sỹ tử Trình Huy nói Dương Lăng dùng quan uy bức người, cưỡng bách Thì Hoa quán cưới ngươi về, hơn nữa khi chủ quán Nhất Xứng Kim không đáp ứng, Dương Lăng đã bỏ ra vạn kim. Ngươi hãy nói cụ thể và chi tiết ra đi.

Ngọc Đường Xuân theo sự phân phó của Vương Cảnh Long, ra vẻ chân thật đem chuyện Dương Lăng cưỡng ép Thì Hoa quán mua bọn họ về Dương gia, mang tiếng là tì nữ, thực chất là làm thiếp thị nói ra một lượt. Từ Quán và Vương Quỳnh ngồi sau sảnh nghe mà mở cờ trong bụng. Khi ấy Dương Lăng mới vừa vào kinh, nhiều lắm chỉ là Đông cung thị độc, vậy vạn lượng bạc trắng có được từ đâu?

Như vậy, số bạc này nhất định có lai lịch bất chính. Hơn nữa, nếu y đã vung tiền vô độ, thì nhất định ở Đế Lăng đã bị người khác cám dỗ, hiển nhiên cũng có lý do tham gia che giấu chuyện Đế Lăng thấm nước.

Nhưng Hoàng Đế Chính Đức càng nghe lại càng thấy buồn bực và khó hiểu. Vừa rồi ở trong cung xem tấu chương, y chỉ thấy Dương Lăng dùng số tiền lớn mua thiếp, nhưng lại không biết mua thiếp gì, bây giờ mới biết rõ đầu đuôi. Có điều lời khai này của Ngọc Đường Xuân có nhiều chỗ không thật. Vì để làm nổi bật sự ngang ngược vô sỉ của Dương Lăng, Vương Cảnh Long sai người chỉ dẫn cho Ngọc Đường Xuân thổi phồng thêm một chút. Vì vậy, Chính Đức nghe xong không khỏi lấy làm hoài nghi mà liếc sang Mã Vĩnh Thành.

Thấy vậy, Mã Vĩnh Thành vội kề tai Chính Đức, đem sự tình kể lại tường tận một lượt. Đích thân Chính Đức đầu têu vụ này nên hiển nhiên tin người của mình hơn một chút. Đừng nói Dương Lăng không hề cường quyền ép người, không hề bởi vì Nhất Xứng Kim không chịu bán mà sai người đánh đập doạ dẫm, cho dù có thật sự phạm pháp như vậy, cũng e rằng đó là bởi Dương Lăng vì mình mà ra sức làm việc.

Vừa nghe Ngọc Đường Xuân đổi trắng thay đen như vậy, Hoàng Đế Chính Đức mặt đỏ phừng phừng, cảm giác như là đang nói y, thật sự không nhịn được, bèn thẹn quá hoá giận mà nhảy dựng lên quát:

- Lời khai của nữ tử nhà ngươi có đúng mỗi câu đều là thật? Ngươi nên biết vu khống đại thần triều đình thì sẽ bị đánh chết đấy. Ngươi còn chưa chịu nói thật?

Ở phía trước, ngoài Hồng thượng thư, Ngụy Thân và Trình Văn Nghĩa ra, những người khác đều không biết phía sau còn có Hoàng đế Chính Đức đang ngồi. Đột nhiên nghe thấy có tiếng người quát bèn giật nảy mình, ngay cả đám sai dịch đang chống Thuỷ Hỏa côn cũng vậy.

Lúc này Chính Đức đã qua khỏi thời kỳ vỡ giọng, đám người Ngọc Đường Xuân không quen biết y, nên không nhận ra được tiếng của y cũng là chuyện bình thường, nhưng Dương Lăng và Hàn Ấu Nương thì lại nghe ra. Phu thê hai người không khỏi đưa mắt nhìn nhau, trong mắt đồng thời hiện lên vẻ mừng rỡ. Có ông chủ nghe được vở kịch hay này, hai người lại càng có thêm chút hy vọng thoát hiểm rồi.

Ngọc Đường Xuân thất kinh hỏi:

- Đại nhân, phía sau sảnh đường là người nào hỏi vậy?

Nói đoạn nàng liếc nhanh đôi mắt ngọc nhìn qua phía Hàn Ấu Nương, đôi mắt to tròn biết nói ấy cũng tràn ngập sự nghi hoặc.

Kế sách mà hai người thương lượng ban đầu với nhau là đợi đến khi Ấu Nương phản bá thì nàng mới giả vờ "cùng đường đuối lý", hoang mang sợ hãi, nên nói ra sự thật, như thế mới càng dễ lấy được sự tín nhiệm của người khác. Nhưng bây giờ sau sảnh đường đột nhiên có người cất tiếng hỏi, hơn nữa ngữ khí rõ ràng không tin lời nàng nói, cho nên Ngọc Đường Xuân còn ngỡ là một ngày này không có liên lạc, Ấu Nương đã tìm thêm được người giúp đỡ rồi.

Hồng Chung nghe thấy Hoàng đế Chính Đức ở sau lưng lên tiếng, người trên sảnh, nhân chứng, phạm nhân lẫn ba nhóm nha dịch đều kinh ngạc như vậy thì lấy làm khó xử, bèn nói:

- Phía sau... phía sau sảnh là một vị lão đại nhân đang nghe dự thẩm, ngươi không cần hỏi nhiều, cứ trả lời thành thật là được.

Ngọc Đường Xuân thấy Hàn Ấu Nương đưa mắt ra hiệu thì trong lòng đã tỏ, nàng sợ sệt quỳ ở đó, bộ dạng xinh đẹp động lòng người, lo lắng nói:

- Đại nhân, dân nữ không dám trả lời. Sợ vị lão đại nhân đó sẽ dùng hình với dân nữ.

Thấy người con gái xinh đẹp này không hiểu biết, Hồng Chung vội mỉm cười an ủi:

- Chỉ cần ngươi lời ngay nói thật, thành thật trả lời, lão đại nhân sẽ không trách đánh ngươi đâu, thậm chí bổn đại nhân cũng sẽ làm chủ cho ngươi.

Lão liếc Dương Lăng một cái, rồi cười nhạt nói tiếp:

- Bất kể kẻ đó quyền cao chức trọng đến đâu, đã đến trước sảnh đường này đều phải nghe theo bổn quan... à không, nghe theo vị lão đại nhân đằng sau bổn quan xử trí. Ngươi có oan uất bất bình gì thì hãy cứ nói ra hết, có bổn quan và vị lão đại nhân đó làm chủ, không ai có thể làm hại đến ngươi đâu!

Ngọc Đường Xuân nghe đến đây vội vã dập đầu kêu:

- Đa tạ đại nhân, đa tạ lão đại nhân, dân nữ bị oan, dân nữ bị oan quá!

Hồng Chung mỉm cười bảo:

- Chớ nên sợ hãi, bổn quan tự sẽ làm chủ giải oan cho ngươi. Tô Tam, ngươi cứ việc mạnh dạn nói ra đi.

Ngọc Đường Xuân liền chỉ Vương Cảnh Long lớn tiếng khóc rống:

- Dân nữ bị oan, sở dĩ dân nữ hãm hại chủ cũ, đều là vì bị vị Vương tam công tử này đe doạ. Vị Vương tam công tử này nói đại nhân nhà dân nữ đã bị giam vào trong ngục, nếu dân nữ không làm theo lời hắn, hắn sẽ bán dân nữ vào ty Giáo Phường.

Ngọc Đường Xuân khóc như mưa, không ngớt nghẹn ngào nói:

- Vương tam công tử còn nói không tới mấy ngày, họ Vương nhà hắn sẽ chỉ dưới một người mà trên vạn kẻ. Nếu dân nữ chịu theo hắn, hắn sẽ mua dân nữ về phủ làm thiếp, hưởng mọi vinh hoa phú quý. Dân nữ chỉ là một đứa con gái yếu đuối, gia chủ chịu oan, bơ vơ không nơi nương tựa, do đó bất đắc dĩ mới hãm hại vu cáo chủ cũ, thật không phải là ý nguyện của dân nữ đâu. Xin đại nhân làm chủ cho dân nữ...

Ngọc Đường Xuân còn chưa dứt lời, hơn chục người trước và sau sảnh đường khi nãy còn không ngớt cười mỉa tất cả nghe vậy đều biến sắc!

Ngay vào lúc này, nghi trượng của ba vị khâm sai đã tiến vào trong kinh thành, mà Lý Đông Dương và Vương Hoa vẫn còn ngồi ở trong nhà, từ đầu chí cuối không thấy gia nhân hồi âm, đoán biết là chuyện đã không thể thực hiện được, thế là hai ngươi chỉ đành im lặng ngồi nhìn nhau, thất vọng thở dài.

Ngay đúng lúc này, gia nhân được phái đến Đế Lăng thám thính tin tức đã vội vội vàng vàng trở về, Vương Hoa vội vã nhảy dựng lên, run rẩy hỏi:

- Thủ Nhân bên đó đã có tin tức rồi ư?

Gia nhân đáp:

- Lão gia, lão bộc đuổi theo rất lâu, thuỷ chung không thấy công tử gia ra hiệu, bây giờ nghi trượng khâm sai đã về đến ngọ môn, nhưng chỉ ngừng lại một chút rồi đi đến thẳng bộ Hình. Lão bộc đành phải trở về báo tin.

Vương Hoa và Lý Đông Dương ngạc nhiên nhìn nhau: khâm sai không đến hoàng cung trả chỉ mà lại đi thẳng đến bộ Hình? Chẵng lẽ...

Lý Đông Dương vội nói:

- Mau, chuẩn bị kiệu... Không! Chuẩn bị ngựa, chúng ta lập tức chạy đến bộ Hình!

Hai vị đại nhân lật đật rời khỏi phủ môn, gia nhân vừa dắt ngựa đến, hai người đã vội vàng lên ngựa ra sức dồn roi phóng thẳng đến đại sảnh bộ Hình. Vừa chạy đến cổng sảnh đường, chỉ thấy một chiếc kiệu đặt chếch bên dưới cổng, trong kiệu chui ra một lão nhân độ năm mươi, dáng bộ đắc ý. Lý Đông Dương vẫn chưa xuống ngựa, trông thấy người đó không khỏi lấy làm kinh ngạc hỏi:

- Mạt giám chính , ông đến bộ Hình làm gì?

Giám chính Khâm Thiên giám ngẩng đầu, vừa thấy đó là Đại học sỹ Lý Đông Dương và Thị lang Bộ Lễ Vương Hoa thì vội chắp tay cười bồi nói:

- Ra mắt hai vị đại nhân. Hoàng thượng lệnh cho hạ quan nghiệm đoán báo hiệu của lôi kích (sét đánh), hôm nay đã có kết quả, hạ quan đến là để bẩm báo cho hoàng thượng.

Lý Đông Dương nghe vậy cả kinh hỏi:

- Hoàng thượng quả nhiên đã đến bộ Hình. Chẳng lẽ... chẳng lẽ Hoàng Thượng muốn ngự giá đích thân xét xử sao?

Chú thích:

nguyên văn "thất xảo linh lung tâm" hay "trái tim của Tỷ Can", trích trong Phong Thần truyện, chỉ người thông minh.

thừa: xe tứ mã; tôn: tôn quý. Vạn thừa chi tôn chỉ sự tôn quý khác xa người thường của các bậc đế vương và vương hầu.

chức quan trông coi Khâm Thiên giám

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 104: Hoàng đế phát biểu

Vương Cảnh Long vừa kinh ngạc vừa giận dữ. Hắn ngỡ rằng mình tướng mạo tuấn nhã, nhân phẩm phong lưu, gia thế so với một võ tướng lại cũng cao hơn rất nhiều. Mỹ nhân Ngọc Đường Xuân xinh đẹp tựa như tranh vẽ và hắn chính là một đôi tài tử giai nhân, châu liên bích hợp. Cho nên hắn không hề nghĩ rằng nàng lại phản cung ở ngay trước mặt mọi người.

Vương Cảnh Long căm hận chỉ vào Ngọc Đường Xuân mắng:

- Con tiện tỳ nhà ngươi, bổn công tử có lòng cứu ngươi, ngươi lại vu tội cho ta. Ta đường đường là công tử của thượng thư bộ Lễ, sao có thể làm ra chuyện này? Ngươi nghĩ phản cung thì có thể hại được ta ư?

Vương Cảnh Long rút từ trong ống tay áo ra tờ giấy chuộc thân lấy từ chỗ Nhất Xứng Kim, cười khẩy nói:

- Trên đời này thực có chuyện bỏ ra vạn lượng bạc trắng mua con gái về làm tỳ nữ sao? Nếu nói Dương Lăng không hề đụng chạm đến ngươi, ai sẽ tin chứ?

Nhìn người con gái dung nhan kiều diễm không gì sánh được này, trong lòng mọi người đều hết sức tán đồng. Trừ phi vị Dương đại nhân kia đột nhiên mắc phải bệnh kín, nếu không thì làm gì có chuyện bỏ ra một vạn lượng bạc mua tiểu mỹ nhân xinh đẹp yêu kiều như vầy về chỉ để làm tỳ nữ.

Ở phía sau sảnh đường, Hoàng đế Chính Đức lại đang vô cùng cảm động. Nếu không phải vì vụ án Đế lăng thấm nước giống như một cái gai lúc nào cũng đâm vào lòng y, y thực muốn lập tức hạ chỉ miễn xá cho Dương Lăng. Đây mới là bề tôi trung thành này! Làm việc cho mình, gánh chịu ô danh thay cho mình, cho dù phải bị chém đầu cũng không hề hé lộ chân tướng. Người như vậy không phải là trung thần thì ai mới là trung thần?

Từ Quán vội ghé đến cạnh Chính Đức nói:

- Xin Hoàng thượng chớ tin lời nói bậy của nữ tử đó. Hoàng thượng người thử nghĩ xem, cho dù thượng thư đại nhân và tam công tử muốn thêu dệt tội danh cho Dương Lăng, cấu kết với tỳ nữ này để vu cáo hắn nhưng làm sao có thể nói ra lời phạm húy "dưới một người trên vạn kẻ" với một tỳ nữ mới mua về chứ?

Lời như vậy gần như là phản nghịch. Cho dù Vương Quỳnh thực có dã tâm cũng sẽ không nhắc với bất kỳ ai, đừng nói là Ngọc Đường Xuân biết được. Cho nên chẳng những Từ Quán, Hồng Chung không tin, ngay cả đám người Lưu Kiện và Tạ Thiên cũng không tin. Những người này đã lăn lộn trên quan trường lâu năm, mấy nữ tử như Hàn Ấu Nương và Ngọc Đường Xuân sao có thể qua mắt được bọn họ.

Nhưng mấy vị này không tin, tự có người khác tin. Hoàng Đế Chính Đức chính là kẻ đứng sau giật dây chuyện chuộc người này. Vừa rồi Ngọc Đường Xuân được Vương Cảnh Long bày mưu đặt kế gán tội cho Dương Lăng, lời kể tội đó có quá nhiều chỗ không thật. Chính Đức nghe xong những "tội trạng" đổi trắng thay đen "hùng hồn" ấy thì nào còn có thể tin được lời này của Từ Quán nữa.

Hoàng đế Chính Đức liếc xéo Từ Quán và Vương Quỳnh, trong mũi phát ra một tiếng cười gằn không nhỏ, thậm chí không thèm tiếp chuyện.

Ngay vào lúc này, bên ngoài huyên náo một trận. Viên ngoại lang bộ Hình Quách Duy Thông chạy xồng xộc vào trong bẩm báo:

- Các vị khâm sai đại nhân Thành quốc công Chu Cương, Chủ sự bộ Binh Vương Thủ Nhân và Thứ cát sỹ Hàn Lâm Viện Nghiêm Tung phụng chỉ đã lấy được đất mẫu của Kim Tỉnh, nay đã đến đại sảnh bộ Hình...

Vì Chính Đức bí mật mặc thường phục đến, chưa công khai thân phận, cho nên vị Viên ngoại lang này ngỡ rằng ở đây chức cao nhất là hai vị Đại học sỹ và mấy vị thượng thư đại nhân. Lưu Kiện phất tay bảo:

- Biết rồi. Lui xuống đi!

Đợi cho tay Chủ sự đó lui xuống, lão xoay người về phía Chính Đức nói:

- Hoàng Thượng, người xem...

Vừa nghe nói đất mẫu ở Kim Tỉnh đã đến, Chính Đức bình tĩnh lại. Suy cho cùng, chuyện này mới là trọng yếu. Y liếc sang Đại Lý Tự khanh và Tả đô ngự sử, bảo:

- Vụ án này tạm gác sang một bên. Lập tức thăng đường Tam ty hội thẩm.

Vương Quỳnh đang âm thầm oán giận vì bị người ám chỉ tham quyền nhưng lại vô pháp thanh minh. Vừa nghe khâm sai đã về, lão tất nhiên là cao hứng vạn phần. Chỉ cần vụ đại án này được chứng thực, còn ai sẽ để ý đến những lời hồ ngôn loạn ngữ của Ngọc Đường Xuân chứ?

Lão liền mừng rỡ tâu với Chính Đức:

- Khải tấu hoàng thượng, thần đã ban xuống nghiêm lệnh, nếu không phải là đích thân vi thần, bất cứ ai cũng không thể đụng đến hộp vàng giữ đất đó. Cho nên thần phải lập tức trở về bộ Lễ, lấy đất mẫu được niêm phong của Kim Tỉnh.

Hiện tại Chính Đức nhìn Vương Quỳnh thế nào cũng không thấy vừa mắt. Y vẫn cảm thấy hai cha con người này không thành thật, cho nên nghe xong chỉ hừ nhạt một tiếng rồi bảo:

- Tạ đại học sỹ, khanh hãy đi theo Vương Quỳnh đến bộ Lễ lấy hộp vàng giữ đất, đi nhanh về gấp.

Tạ Thiên gấp rút rời đi cùng với Vương Quỳnh. Đằng trước Hồng Chung lệnh cho người dẫn một đám phạm nhân, nhân chứng, kẻ tố cáo đến hạ sảnh, rồi tự thân nghênh đón ba vị khâm sai vào công đường. Vương thủ nhân tay ôm hộp vàng đi theo sau Thành quốc công, Thị lang bộ Công Lý Kiệt cũng về kinh sư, theo sát bên y một tấc không rời.

Ba vị khâm sai theo Hồng Chung xuống hậu đường để bái kiến hoàng đế xong, chúng quan viên bộ Hình mới hiểu ra người thiếu niên vận cẩm bào ngồi sau sảnh đường đó chính là đương kim Thiên tử. Hoàng đế đích thân thẩm án, xưa nay hiếm thấy. Đám quan viên nha dịch ai nấy đều thấp thỏm lo âu, chỉ sợ thất thố lễ nghi, không ngờ ngược lại khiến cho tình hình càng trở nên hỗn loạn.

Vương Quỳnh đã cầm hộp vàng trở về. Thượng thư bộ Hình, Tả đô ngự sử, Đại Lý Tự khanh ngồi trên vị trí chủ thẩm. Hồng thượng thư cao giọng quát:

- Dẫn phạm nhân!

Đang bị hoàng đế thân lâm làm cho khiếp sợ đến lóng ngóng chân tay, gã quan quản lý ty vụ nghe vậy liền không dám chậm trễ, chạy vù đi áp giải toàn bộ bảy tên quân tử cùng đám mỹ nữ có liên quan đến bốn phạm quan Dương Lăng, Lý Đạc và gã nhân chứng Lục thập trưởng lên.

Hồng thượng thư thấy vậy thì giận tái mặt. Hôm nay thẩm vấn chính là vụ án đế lăng, giải đám người không có liên can lên sảnh đường thì phải làm thế nào? Hồng Chung nén giận nói:

- Giải những kẻ không có liên quan xuống. Bây giờ bổn quan và Đốc Sát Viện, Đại Lý Tự xét thẩm vụ án Đế lăng thấm nước.

Cao Văn Tâm trông thấy bên trái phía dưới Túc Tĩnh bài có một võ quan đang đứng. Nàng nhận ra trang phục võ quan đó là trang phục Thập trưởng trong quân. Văn Tâm tức thì hiểu ra gã chính là tay tiểu quan đã tố giác Dương đại nhân. Nàng vội ghé tai Hàn Ấu Nương nói:

- Muội muội, tên võ quan đó chính là gã Thập trưởng đã tố giác đại nhân. Muội nghĩ cách tiếp cận hắn, tỷ sẽ có biện pháp khiến hắn không thể làm nhân chứng!

Hàn Ấu Nương nghe nói gã võ quan ấy chính là tên ác nhân hại cho tướng công mình thiếu chút nữa thì đã đầu rơi xuống đất, đôi mắt ngọc trợn trừng nhìn hắn cơ hồ muốn toé lửa. Nhưng những nhân chứng, phạm nhân, kẻ tố cáo trên sảnh đường đông lúc nhúc, bọn họ thì bị dồn lại ở tận rìa phải, phải làm sao để có thể tiếp cận hắn mà không gây ra động tĩnh nào đây?

Hàn Ấu Nương sốt ruột không yên. Tuyết Lý Mai thấy cơ hội sắp như bóng câu qua cửa, trong lúc cấp bách nàng vội kề vào bên tai Ấu Nương bày kế:

- Tỷ tỷ, khóc đi!

Nói đoạn nhảy bổ về phía tên Thập trưởng nọ, vừa khóc vừa mắng:

- Tên gian tặc ngươi, cớ gì lại vu cáo đại nhân nhà ta?

Hàn Ấu Nương liền tỉnh ngộ, lập tức cũng lao lên. Bị bất ngờ không kịp phòng bị, Lục Ân Lỗ bị bọn họ lôi kéo đến thảm hại. Nhưng hắn là nam nhân, lại không tiện tung ra quyền cước, đành phải lấy tay che chắn mặt mũi tránh né khắp nơi.

Quan quản lý ty vụ thấy mấy nữ phạm lôi kéo nhân chứng khóc lóc mắng chửi, bèn vội dẫn mấy tay nha dịch xông lên bắt lại. Thấy sự chú ý của đám người đều bị Hàn Ấu Nương và Tuyết Lý Mai thu hút, Cao Văn Tâm lập tức rút từ trong tóc ra ba chiếc châm bạc bỏ vào trong ống tay áo, rảo bước nhanh qua vờ khuyên bảo:

- Phu nhân, đừng làm đại nhân nổi giận, chúng ta hãy lui xuống hạ sảnh đi.

Tuyết Lý Mai và Hàn Ấu Nương vung hai ống tay áo thùng thình, trông như phụ nữ bình thường đang đánh nhau. Mười ngón tay thanh mảnh không vung lên thì đập xuống, khiến cho người khác cũng không thấy rõ mặt mũi của Lục thập trưởng. Cao Văn Tâm nhân cơ hội lật tay vung lên ba chiếc châm bạc, hết sức nhanh lẹ đâm vài châm vào mấy huyệt đạo sau gáy tên Lục thập trưởng.

Cây châm bạc mỏng như sợi tóc ấy một khi đâm trúng huyệt đạo thì chỉ cảm thấy hơi tê tê. Lục thập trưởng lại đang bị hai người Hàn Ấu Nương đánh đập, mặt mũi đau rát, nên càng không hề có cảm giác dị thường.

Cao Văn Tâm một tay y thuật xuất thần nhập hoá, bình sinh chỉ dùng để chữa bệnh cứu người. Đây là lần đầu nàng hại người cho nên trong lòng cũng vô cùng căng thẳng. May thay, tuy trong lòng hoảng loạn, song công phu dò huyệt kích huyệt lại không hề bị ảnh hưởng gì. Chiếc châm bạc này của nàng mảnh nhỏ như tơ, phá huỷ huyệt đạo kinh lạc trên đỉnh đầu xong, đối phương tạm thời sẽ không xuất hiện dị trạng. Nhưng kinh lạc bị máu huyết ứ đọng làm cho tắc nghẽn, chỉ sau thời gian ba chén trà, ngũ thức (chỉ năm giác quan) của kẻ đó sẽ bị huỷ hoại, thính thị mơ hồ, thần trí ngu si.

Đắc thủ xong Cao Văn Tâm vội vàng đưa mắt ra hiệu cho Hàn Ấu Nương và Tuyết Lý Mai. Hai người hiểu ý, giả vờ vừa khóc vừa mắng để đám quan quản lý ty vụ và nha dịch áp giải xuống.

Ở bên trên, Thành quốc công ngồi bó ống tay áo tủm tỉm cười xem náo nhiệt. Thấy ba người con gái và Vương Cảnh Long bị giải xuống hạ sảnh, lão mới chuyển ánh mắt lên mặt Hồng Chung, căng cổ nói lớn:

- Hồng đại nhân, xin hãy khai đường xử án thôi. Lão phu nhận ý chỉ của hoàng thượng, cùng hai vị khâm sai đã lấy được đất mẫu của Kim Tỉnh về. Mời thượng thư đại nhân nghiệm chứng ở công đường, lão phu còn phải báo cáo với Hoàng Thượng!

Hồng Chung khom người cười bồi đáp:

- Lão công gia nói rất phải, bổn quan sẽ khai đường xử án ngay!

Lão quay về ghế ngồi, rồi quay sang bốn người Đới Nghĩa và Dương Lăng cười nhạt nói:

- Các ngươi vì mưu cầu lợi ích của bản thân, giấu diếm chuyện Đế lăng bị thấm nước. Sau khi nhận được tố giác, bổn quan cùng với Đốc Sát Viện và đại nhân của Tả đô ngự sử, đại nhân của Đại Lý Tự khanh Tam ty hội thẩm. Giám phó Khâm Thiên giám Nghê Khiêm vốn đã sợ pháp mà cung khai, không biết các ngươi may mắn thế nào, lại được vợ của phạm quan họ Dương là Hàn Thị kêu oan nơi pháp trường...

Chính Đức hoàng đế ở sau sảnh đường nghe đến ba chữ Khâm Thiên giám, đột nhiên nhớ ra ban nãy lúc đám quan mất trật tự hành lễ với y, hình như Giám chính Khâm Thiên giám cũng đến. Chính Đức đưa mắt nhìn quanh, vừa thấy vị Giám chính Khâm Thiên giám Mạc Đạo Duy đang thậm thà thậm thụt lấp ló đằng sau đám thượng thư, y liền chỉ hắn bảo:

-Khanh, qua đây. Khanh đến đây để làm gì?

Giám chính Mạc Đạo Duy thấy Hoàng Đế Chính Đức gọi mình, bèn vội vã ba chân bốn cẳng chạy đến quỳ xuống, tâu:

- Hoàng Thượng lệnh cho vi thần nghiệm toán chuyện sét đánh tượng thú trên mái điện xem thiên ý có điềm báo gì, vi thần nghiệm toán xong, hôm nay đã có kết quả...

Mạc Đạo Duy vừa nói đến đây, trên sảnh đường Hồng thượng thư đã cao giọng nói:

- Mạng người quan trọng, Hoàng Thượng nhân đức, đã có ý lệnh cho ba vị khâm sai đại thần đi đến Đế lăng lấy đất, giờ sẽ đối chiếu với đất mẫu được cất giữ ở bộ Lễ. Nếu như đất mẫu có khác biệt, tội khi quân của các ngươi sẽ tăng thêm một bậc, chiếu theo luật sẽ bị xử lăng trì!

Hoàng đế Chính Đức nghe thấy sắp chứng nghiệm đất mẫu của Kim Tỉnh liền khẩn trương quát:

- Im lặng!

Nói rồi bỗng đứng lên khỏi ghế, hồi hộp đi đến bên vách tường ngăn phía sau sảnh đường, dỏng tai lắng nghe.

Vị Giám chính của Khâm Thiên giám đó đang há miệng thì thấy hoàng thượng đã chạy đến bên bức tường, đành phải ngậm miệng lại. Nhưng Hoàng Đế không kêu y đứng lên, y lại không dám động đậy, nên chỉ đành quỳ ở đó lắng nghe.

Theo mệnh lệnh của Hồng Chung, Tả hữu Thiêm đô ngự sử của Đốc Sát Viện mỗi người tay ôm một hộp vàng tiến lên thượng sảnh. Nhìn thấy hộp vàng, thân thể đám người Nghê Khiêm, Đới Nghĩa không kiềm được mà run lên từng chập. Lúc đầu ở trên pháp trường đao sắt kề trên đầu, bọn họ hận không thể tìm hết lý do mong sao có thể kéo dài mạng sống thêm một giờ nửa khắc. Nhưng bây giờ nghĩ đến hậu quả đáng sợ sống không bằng chết của việc phản cung kêu oan mà bị tra ra và chứng thực phán quyết ban đầu, sắc mặt xám ngoét như tro.

Ba người Hồng thượng thư, Tả đô ngự sử Đốc Sát Viện và Đại Lý Tự khanh đứng dậy, kính cẩn vái chiếc hộp vàng ba lạy. Sau đó Tả đô ngự sử bóc niêm phong, mở chiếc hộp vàng cất giữ ở bộ Lễ đó ra. Đại Lý Tự khanhmở chiếc hộp vàng mà ba vị khâm sai đem từ thái lăng về, rồi đẩy hai chiếc hộp đó đến trước mặt Hồng thượng thư.

Trong nhất thời, trên sảnh dưới đường là cả một mảng trang nghiêm yên tĩnh, đến độ một chiếc kim rơi cũng cơ hồ có thể nghe được. Nhìn thấy đám người Nghê Khiêm mặt vàng như nghệ, Hồng Chung không khỏi mỉm cười. Lão có chủ tâm đùa bỡn, nên không hề vội vã lấy đất ra ngay. Lão bưng chén trà lên hớp một ngụm trước, sau đó chậm rãi đặt xuống, đưa hai tay ra, mỗi tay bốc lấy một nắm đất, rồi cầm quan sát kỹ lưỡng ở trên tay.

Đám người Đới Nghĩa và Nghê Khiêm căng thẳng nhìn chằm chằm vào sắc mặt của lão, vẻ mặt cực kỳ hoảng sợ. Nhưng một lúc lâu sau, chỉ thấy cặp mắt Hồng thượng thư càng lúc càng trợn tròn, sắc mặt cũng bắt đầu tái nhợt lại. Vẻ tươi cười khi nãy đã ngưng lại trên khuôn mặt, trong mắt biểu lộ vẻ kinh ngạc không dám tin.

Hồng thượng thư ngây ra một hồi lâu rồi mới khó nhọc cất tiếng:

- Thổ nhưỡng Kim Tỉnh này... này... này...

Thành quốc công đột nhiên đưa một tay lên che sau vành tai, cả tiếng:

- Hồng thượng thư, loại đất này đã kiểm nghiệm ra rồi chứ?

Cánh tay Hồng Chung thoáng run lên, đất vàng thuận theo kẽ hở ngón tay mà rơi xuống bàn. Hai chân mềm nhũn, lão ngồi phịch xuống ghế. Tả đô ngự sử và Đại Lý Tự khanh phẩm tước kém hơn lão, vốn đều đang đợi lão tuyên bố, lúc này thấy lão ngồi ngây ra trên ghế như người mất hồn, Tả đô ngự sử đành phải đằng hắng một tiếng rồi nói:

- Bẩm Thành quốc công gia, loại đất Kim Tỉnh này không hề có gì khác biệt...

Ông ta vừa nói đến đây, Hồng Chung đột nhiên như sực tỉnh đứng phắt dậy, cầm lấy phán gỗ đập "bốp" một tiếng, khiến cho Tả đô ngự sử sợ run cầm cập, nửa câu sau kia tức thời lại bị nuốt vào trở lại. Chỉ thấy Hồng Chung vung tay chỉ vào Lục thập trưởng, không nén được cơn giận quát:

- Lục Ân Lỗ thật to gan! Không phải ngươi nói chính mắt ngươi thấy Kim Tỉnh thấm nước sao? Ngươi có biết hãm hại mệnh quan triều đình, đó là tội lớn như thế nào không?

Lão vì nóng giận vung tay đột ngột, ống tay áo hất chén trà văng xuống đất "choang" một tiếng, vỡ tan tành.

Từ lúc Hồng thượng thư nói chuyện với bốn phạm quan vừa rồi thì gã Lục thập trưởng đáng thương đó đã cảm thấy buồn nôn từng đ㴬 cảnh vật trước mắt bay tới bay lui, giống như bị uống say. Lúc này nghe Hồng thượng thư quát to một tiếng, gã quýnh quáng trong lòng, chỉ muốn lớn tiếng biện bạch. Nhưng khí huyết vừa vọt lên, trong đầu bỗng "ầm" một cái, cả người chợt thấy lâng lâng, đầu óc quay cuồng, vừa loạng choạng mấy bước thì đã ngã nhào xuống đất.

Ngã xong, thần trí gã đã hoàn toàn mơ hồ, gò má va xuống đất bị mảnh vỡ của chén trà cắt phải, máu chảy khắp mặt mà gã cũng không cảm thấy đau đớn gì. Môi vừa chạm vào nước trà trên nền gạch xanh, gã lại hết sức hưng phấn bò dậy, hai tay cố vốc lấy vết nước trên nền gạch trong vô vọng, phấn khởi kêu lên:

- Đại nhân, ta không có nói bừa, ta không có nói bừa. Ngài xem, ngài xem nè, thật nhiều nước, nước ở khắp nơi. Ha ha ha... Ta muốn thăng quan nè, ta muốn phát tài nè. Lý đại nhân, ta tìm ra nước rồi, tìm ra chứng cứ này. Hoàng Thượng đâu? Không phải ngài nói Hoàng Thượng sẽ thăng quan cho ta sao?

Hồng Chung thấy vậy sững ra một lát rồi lại ngã phịch xuống ghế: lần này xong hết rồi. Sớm không điên muộn không điên, thế mà lúc này hắn lại sợ quá hoá điên. Nhưng ai mà tin là bây giờ hắn mới điên chứ? Đường đường là thượng thư bộ Hình, tin vào lời nhảm nhí của một tên điên, bức cung khiến bốn trọng thần triều đình phải khai bừa. Việc này...

Lục thập trưởng điên điên khùng khùng ôm cứng Đới Nghĩa, xem y là Lý Kiệt đang đứng ở một bên. Có điều vì không ngừng xin quan đòi tiền, trong đầu hắn chợt ảo tưởng ra cảnh sau khi thăng quan phát tài, cưới về mấy cô vợ xinh đẹp như mấy mỹ nhân lúc nãy. Thế là hắn liền ôm lấy lão thái giám, vừa hôn vừa cắn, ngây ngô cười nói:

- Tiểu nương tử, đừng theo Dương Lăng nữa. Hắn đã bị Hoàng Thượng chém đầu rồi. Hoàng Thượng đã thăng quan cho ta, nàng hãy làm vợ của ta đi.

Đới Nghĩa bị hắn cắn dính đầy nước dãi, không chịu nổi bèn xô hắn ra, rồi thẳng lưng nhìn về phía Lý Kiệt cười lớn, bộ dạng trông cực kỳ đắc ý. Tuy lão không biết là ai đã ra tay, nhưng biết rằng cửa ải nghiệm thổ lần này đã vượt qua an toàn. Khí thế ngang tàng kiêu ngạo khi còn ở ty Lễ Giám ngày trước đó tức thời lại đã quay về với lão.

Đầu mướt đầy mồ hôi, mặt vàng như nghệ, Lý Kiệt lẩm bẩm:

- Sao lại như vậy? Chuyện này sao lại như vậy?

Lục thập trưởng bị Đới Nghĩa xô ra nhưng vẫn lầu bầu:

- Tiểu nương tử thật là thô lỗ. Nàng không tin hoàng thượng đã thăng quan cho ta sao? Hoàng thượng? Hoàng thượng, ngươi nói cho tiểu nương tử nghe, có phải là đã thăng cho ta làm đại quan hay không? Hi hi hi...

Ở phía sau, Hoàng Thượng Chính Đức đã sớm giận đến bốc khói: giỏi cho một đám thần tử, không ngờ lại xem lời của tên điên là thật, hại ta suýt phải giết hại trung thần, di dời Đế lăng, khuấy đảo khiến triều thần phản đối, bá tánh bất an. Những tội danh ngu muội này hết thảy đều đã đổ lên người trẫm.

Chính Đức nổi cơn tam bành. Vừa nhảy xuống ghế bước ra mấy bước, thấy vị Giám chính Khâm Thiên giám nọ vẫn còn quỳ ở trước mặt, y bèn cả giận quát:

- Ngươi thậm thà thậm thụt quỳ ở đây làm cái gì? Có chuyện gì quan trọng cần tâu?

Mạc Đạo Duy vắt hết óc nghĩ ra được một lời quẻ tuyệt diệu, không kém hơn câu "Đào nguyên tam kết nghĩa, cô độc nhất chi" dùng để đoán số cho người bao nhiêu. Lời bình tám chữ của lão là "Lôi kích cung đình, ứng tại thái lăng" . Giờ đây tình tiết vụ án đã rõ, "thầy bói" họ Mạc liền tuỳ cơ ứng biến, lập tức tâu rằng:

- Khải bẩm Hoàng Thượng, ban đêm thần xem thiên tượng, suy diễn ra được mười sáu chữ phê rằng 'Lôi kích cung đình, ứng tại Thái lăng, vô đoan đình công, cự sanh thiên tượng'.

Chính Đức nghe xong sắc mặt tím lại, y nghiến răng kèn kẹt, rồi xông thẳng như bay ra tiền sảnh. Đám quan viên thấy vậy vội vã nối gót theo sau.

Hoàng đế Chính Đức bước lên công đường, sắc mặt xám xịt, cũng chẳng quản ba vị quan chủ thẩm đang lật đật quỳ sụp xuống nghênh đón, y giành lấy vị trí chủ thẩm, chộp lấy phách gỗ đập loạn một trận, rống họng quát:

- Giải hắn đi, đỡ y dậy, dẫn bọn họ lên, ngươi cút xuống cho ta!

Đám đại thần ở bên dưới cũng không hiểu là Hoàng Thượng đang nói ai với ai. Vì thế trên công đường bỗng chốc trở nên náo loạn.

Chú thích:

Túc: nghiêm trang; Tĩnh: yên lặng. Chỉ tấm biển cấm đoán kẻ không phận sự lớn tiếng ồn ào

kiểu câu đoán mệnh hài hước như "sinh con đầu lòng không gái thì trai" của các ông thầy bói. Câu này tạm dịch thành "vườn đào ba cây kết nghĩa, lẻ loi/đi một cây", nghĩa là: nếu đối phương là con một thì thầy bói sẽ nói là trong mệnh y lẽ ra là có ba anh em, nhưng hiện giờ chỉ có một mình, vậy nên "cô độc nhất chi" (lẻ loi một cây). Nếu đối phương có anh hoặc em, hai người, vậy thầy bói sẽ nói rằng huynh đệ ba người "cô độc" (lẻ đi) hết một cây, cho nên chỉ còn lại hai... Cứ như vậy, bất luận đối phương có bao nhiêu anh em thì cứ dùng câu này mà "cô độc" bớt cho đủ số.

nghĩa là "việc sét đánh cung đình ứng nghiệm với chuyện xảy ra ở đế lăng"

nghĩa là "việc sét đánh cung đình ứng nghiệm với chuyện xảy ra ở đế lăng, vì dừng thi công vô cớ nên mới sinh ra thiên tượng" (thiên tượng là hiện tượng của đất trời)

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 105: Chính Đức xử án

Sau khi Hoàng Đế Chính Đức chỉ trỏ loạn xạ một trận, có kẻ vội vã dập đầu hành lễ, có người thì muốn lấy lòng nhưng lại không biết Hoàng Thượng muốn dẫn ai lên, lôi ai xuống. Đang trong lúc hỗn loạn, Nghiêm Tung chớp được thời cơ, đột ngột đứng lên quát lớn:

- Tất cả yên lặng!!!

Tiếng quát này so với thanh âm Chính Đức đập phách gỗ "bộp bộp" còn có tác dụng hơn. Đám người đang chạy nháo nhào đều lập tức dừng lại, chỉ có gã Lục Ân Lỗ điên điên khùng khùng vẫn ôm cứng một vị Kiểm hiệu của bộ Hình mà cười hì hì hà hà, la hét thăng quan phát tài.

Lúc trước Dương Lăng vẫn không kịp để ý tới mấy vị khâm sai đại nhân. Bây giờ thấy cái vóc cao kều, gầy gò của Nghiêm Tung thì y mới chợt nhớ ra hắn, liền nghĩ đến chuyện mình đã an toàn vượt qua vụ việc "nghiệm thổ đế lăng" một cách kỳ lạ, trong lòng Dương Lăng thấy ngạc nhiên và ngờ vực mãi.

Hoàng Đế Chính Đức đưa mắt nhìn Nghiêm Tung, tán thưởng:

- Khanh làm tốt lắm! Người đâu! Mau dọn chỗ cho bốn vị ái khanh Dương Lăng. Bốn vị ái khanh, giờ đây chân tướng đã rõ, bốn vị ái khanh quan phục nguyên chức, đợi sau khi kết thúc hãy về phủ dưỡng thương, rồi tiếp tục đảm đương trách nhiệm kiến tạo Đế Lăng. Về phần những kẻ vu cáo hãm hại...

Chính Đức chỉ gã Lục Ân Lỗ vẫn đang nói cười lảm nhảm, lạnh lùng nói:

- Lôi cái tên điên này đi cho trẫm. Dẫn toàn bộ tất cả các nhân chứng, phạm nhân lên công đường. Hôm nay trẫm sẽ đích thân xử án!

Hoàn Thượng sắm vai quan Chủ thẩm lâm thời, bên dưới nào dám không ra sức tuân theo. Thế là lập tức có mấy nha dịch ba chân bốn cẳng khiêng gã điên đó ra, quăng cái "thịch" vào trong phòng hậu thẩm đầu tiên, lại có người dẫn bảy vị công tử nổi danh kinh thành đang run lập cập cùng nhóm Hàn Ấu Nương và những kẻ có liên quan lên công đường.

Ba tốp nha dịch lấy sức hô vang "uy vũ" . Chính Đức ngồi thẳng trên chính đường, trước mặt là hai hộp đất vàng, bắt đầu tự mình thẩm án. Thị lang bộ Công là Lý Kiệt vừa thấy Chính Đức nhìn về phía lão, thân thể liền như thấp đi một nửa. Lão khóc lóc tâu:

- Hoàng Thượng, là thần nhất thời hồ đồ. Tên điên đó thường ngày vẫn nói năng tỉnh táo rành mạch, vi thần trong phút chốc đã không xem xét kỹ, lại do chuyện Đế Lăng trọng đại, quan hệ đến vận mệnh hưng thịnh của quốc gia...

Lão cũng biết bây giờ mà còn biện bạch thêm thì đơn giản là tìm chết, chi bằng cứ thẳng thắn nhận tội, dùng Đế Lăng để chứng minh rằng lão xem trọng lăng tẩm của Tiên đế. Một khi Hoàng Thượng mềm lòng thì tội trạng lão sẽ nhẹ đi nhiều.

Hắn nào biết vừa rồi ở hậu đường "thầy bói" họ Mạc đã bịa ra mấy câu đoán mò. Thế nên vừa nhắc đến Đế lăng, Chính Đức chợt nhớ lại mười sáu chữ "lôi kích cung đình, ứng tại Thái lăng, vô đoan đình công, cự sanh thiên tượng". Lời đó vừa thốt ra, trong lòng Chính Đức tức thì dấy lên sự oán ghét. Y vung ống tay áo, phách gỗ liền biến thành ám khí, bay "vèo" một phát về phía Lý Kiệt.

Lý Kiệt bị phách gỗ đập trúng trán kêu "bốp", bầm ngay thành cục, đau quá phải "ui da" một tiếng. Chính Đức mắng:

- Đế lăng, Đế lăng!!! Ngươi hại khiến Đế lăng phải đình công, thiên lôi cảnh báo đánh xuống hoàng cung của trẫm, giờ còn dám nhắc tới Đế lăng sao? Lột áo quan, tước mũ mão của hắn!

Lập tức có hai sai dịch nhanh nhẹn kéo Lý Kiệt lại, lột áo quan và mũ mão của hắn rồi đạp sau gối bắt quỳ xuống. Dương Lăng thấy vậy hơi có chút bất an. Dẫu gì thì Kim Tỉnh Đế lăng đích thực đã bị giở trò, Lý Kiệt không hẳn đã đổ oan cho y. Y lại lo lão ta bị ép đến cùng đường, chó cùng rứt giậu, một mực quả quyết Kim Tỉnh thấm nước là thật, không chừng sẽ mang phiền phức đến cho mình.

Thị lang bộ Lễ là Lý Đạc thấy mặt y có vẻ không nỡ liền rỉ tai nhắc khẽ:

- Dương đại nhân không thể mềm lòng. Cậu cho rằng hắn sẽ vì vậy mà cảm kích bỏ qua sao? Đánh rắn không chết sẽ hậu hoạn vô cùng!

Bình thường nếu nói ra câu này, Dương Lăng tất sẽ không để trong lòng. Nhưng vừa rồi mới dạo một vòng ở Quỷ Môn quan nên y đã rút ra được kinh nghiệm xương máu, hiểu được vài điều về sự nguy hiểm trên chốn quan trường "cười nói chuyện trò mà trên thân lăm lăm đao kiếm". Sau khi nghe Lý Đạc nói xong thì y khẽ gật đầu, nhớ lại vì chuyện này mà thiếu chút nữa y và Ấu Nương hai người đã âm dương chia cắt, ánh mắt không tự chủ tìm về phía nàng.

Hàn Ấu Nương vẫn xinh đẹp như vậy, chỉ có đôi mắt vốn trong veo như nước đã hơi sưng đỏ. Nhưng đôi mắt dịu dàng đó vẫn nhìn y chăm chú với một tình cảm nồng nàn. Dương Lăng cố mỉm cười trấn an.

Hàn Ấu Nương cũng nhoẻn miệng cười đáp lại, khuôn mặt xinh xắn ấy ngập tràn niềm hân hoan và thoả mãn. Dương Lăng nhìn thấy Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai ở sát bên cạnh Hàn Ấu Nương, nghĩ đến hai người con gái này trọng tình trọng nghĩa, thấy mình gặp phải đại nạn, không những bỏ mặc mà còn giúp đỡ Ấu Nương. Y lấy làm cảm kích liền gật đầu cảm tạ.

Không nghĩ tới Dương Lăng vừa gật đầu tỏ ý thì gò má hai người con gái lại bất chợt ửng đỏ lên, thẹn thùng nhìn đi chỗ khác khiến y không khỏi có chút lấy làm kỳ lạ. Dương Lăng vẫn chưa biết ngày đó vì cảm kích, Hàn Ấu Nương đã cùng tam nữ kết bái, thề rằng "đồng thuyền hợp mạng, họa phúc cùng chia".

Đồng chiếc thuyền nào? Đương nhiên là "chiếc thuyền" mang tên Dương đại lão gia này rồi. Hai nha đầu đó thông minh lanh lợi hơn người, nghe xong đã sớm hiểu được tâm ý của Ấu Nương. Chỉ có điều lúc đó bọn họ cũng ôm lòng tin chắc đại sự sẽ không thành, quyết tâm lấy thân phận thê thiếp của Dương Lăng mà cùng chết theo, thật sự không có mấy hy vọng sẽ cứu được y. Bây giờ Dương Lăng chết đi sống lại, phần tâm tư kia trỗi dậy, trong lòng mới thẹn thùng như thế.

Chính Đức trừng mắt nhìn Lý Kiệt, nhất thời không nghĩ ra được phải xử trí như thế nào, nhịn không được bèn quay sang Hồng Chung để hỏi:

- Hồng Chung! Lý Kiệt vu cáo đại thần, mưu hại khâm sai, bịa đặt chuyện Đế lăng thấm nước thì đáng xử tội gì?

Lúc trước Chính Đức quát Hồng Chung một câu, dọa cho Hồng lão thượng thư luôn biết thời biết thế này phải ngoan ngoãn lui xuống hạ đường, chạy đi trốn sau lưng Mạc Đạo Duy. Bây giờ vừa nghe Hoàng Thượng đích thân hỏi, Hồng Chung liền "thụ sủng nhược kinh" (được quan tâm mà nơm nớp lo sợ), còn tưởng rằng Hoàng Thượng không truy cứu tội của lão nữa.

Thế là lão lật chạy lên vài bước, tâu:

- Thần khải bẩm Hoàng Thượng, theo luật Đại Minh, nếu một khi bị tra ra sự thật thì kẻ vu cáo sẽ chịu phản tọa .

Chính Đức mất kiên nhẫn, giục:

- Bớt nói lời thừa thãi đi, rốt cuộc xử trí như thế nào?

Hồng Chung vội đáp:

- Hoàng Thượng minh giám, vu cáo bị phản tọa chính là, quan viên mà hắn vu cáo phải chịu hình phạt gì thì hắn sẽ chịu hình phạt ấy.

Hồng Chung nói tiếp:

- Quan viên mà hắn vu cáo bị phán tội "chém không tha". Người đâu, lôi hắn xuống, chém không tha!

Lý Kiệt quýnh quáng lên. Hắn còn tưởng Hồng Chung có thể cứu vớt, nào ngờ lão ta lại "giậu đổ bìm leo". Lý Kiệt chỉ mặt Hồng Chung mà mắng:

- Hồng thượng thư! Ta vu cáo đại thần ư? Nếu không phải do ông xin thánh dụ dùng hình thì há sẽ có chuyện bức cung mà khai sao?

Hồng Chung lật lọng, mỉa mai:

- Nếu không phải vì ngươi cố ý hại người thì lẽ ra sau khi nghe được tin tức sẽ phải bẩm báo với Hoàng Thượng để xin người kiểm tra, cớ gì lại tìm một tên điên giả làm nhân chứng chứ? Ta đã bị ngươi dối gạt mà thôi!

Lý Kiệt tức khí, hổn hển mắng:

- Ta cùng mấy vị đại nhân không thù không oán, cớ gì phải hại bọn họ? Ta nghe thấy chuyện Đế lăng thấm nước đã bẩm báo cho Từ thượng thư. Là do Từ thượng thư bảo ta chưa được công khai mà cần thu thập nhân chứng, vật chứng nên ta mới tạm thời không nói. Thượng thư đại nhân, có phải là vậy không?

Từ Quán vừa nghe hắn muốn kéo mình theo, lập tức lắc đầu quầy quậy:

- Nói xằng! Lão phu chỉ kêu Đế lăng thấm nước là chuyện lớn vô cùng, sao có thể tố cáo bừa bãi, cần sai ngươi điều tra sự thật rồi báo cáo tiếp chứ ai bảo ngươi thu thập nhân chứng, vật chứng? Ngươi và các vị đại nhân không có thù, chẵng lẽ lão phu lại có hay sao?

Mấy người Lưu Kiện, Tạ Thiên vốn còn muốn xin tha cho bọn họ, vừa thấy bọn họ vào thời khắc nguy cấp chỉ cố đùn đẩy trách nhiệm, không khỏi lộ vẻ khinh bỉ. Vương Quỳnh xem trò hề của ba người mà giận dữ đến cùng cực, quát lớn:

- Đủ rồi!!!

Lão quát ngăn ba người bọn họ cãi nhau xong, liền xoay người quỳ thẳng xuống đất, cất giọng lẫm liệt:

- Hoàng Thượng, hạ thần không tra xét kỹ, tố cáo sai lầm, có tội ngộ cáo, chỉ xin thánh thượng ân giảm!

Vương Quỳnh dỡ mũ mão đặt sang một bên, khấu đầu không dậy. Chiêu "lấy tiến làm lùi" này của lão thực cao minh hơn nhiều so với ba người Hồng Chung. Đầu tiên là cải biến tội danh thành "giám sát thiếu trách nhiệm và ngộ cáo", sau đó cột toàn bộ ba thượng thư và một thị lang chung vào một con thuyền, tin rằng tân hoàng mới đăng cơ, ngôi vị còn chưa ổn, liệu có dám tùy ý xử trí nhiều trọng thần như vậy không?

Chính Đức thấy bốn kẻ đang quỳ lại có đến ba người là thượng thư, thực sự có chút lúng túng. Y đưa mắt nhìn sang mấy vị đại học sỹ cầu cứu. Lưu Kiện thừa dịp liền tâu:

- Hoàng Thượng, thần cho rằng Hồng lão thượng thư lạm dụng trọng hình, bức cung ép khai, hại bốn vị khâm sai suýt trầm mình nơi tử địa. Hơn nữa, tin tức triều đình muốn dời Đế lăng truyền ra khiến dân tâm bất an, quả thực là có tội. Nhưng Hồng thượng thư cũng chỉ vì bị kẻ khác che giấu nên xử án không thoả đáng chứ không phải vì ham muốn cá nhân. Thần cho rằng bắt ông ta... bắt ông ta bãi quan hồi hương là được!

Hồng Chung nghe vậy bủn rủn cả người. Lão vất vả gian nan lắm mới leo lên vị trí quan nhất phẩm, giờ đây chỉ một câu nói mà hết thảy liền đã trở thành hư không. Cực khổ mấy mươi năm, không ngờ lại như giấc mộng.

Còn Lý Kiệt nghe mà ruột gan lại như muốn đứt rời. Lưu Kiện nói vậy là muốn "thí tốt" để "giữ tướng", ngay cả lão là người đứng đầu nội các mà cũng còn mang suy nghĩ như vậy thì hắn còn có thể sống được sao?

Chính Đức nghe xong, gật đầu bảo:

- Vậy làm theo lời tấu của đại học sỹ đi, Hồng Chung bộ Hình sẽ bị bãi chức hoàn hương.

Lưu Kiện lại nói:

- Thượng thư bộ Công là Từ Quán, nghe thấy công trình Đế lăng có sự cố nhưng lúc đó vì quá thận trọng, biết chuyện mà không báo, sau lại chưa tra thực hư mà đã tố cáo đại thần, quá đỗi trù trừ lười nhác, đã phụ chức phận. Thần thấy rằng nên cho...

Lưu Kiện vừa muốn nói "giảm lương phạt bổng" (bổng ở đây là bổng lộc), nhưng Chính Đức đã tự cho mình thông minh, cướp lời luôn:

- Được, cho bãi quan luôn đi.

Lưu Kiện tức thời nghẹn họng, mãi một hồi lâu không nói được gì. Chính Đức lấy làm ngạc nhiên, bảo:

- Kiến nghị của Lưu ái khanh rất có lý, khanh hãy nói tiếp đi.

Lưu Kiện hít sâu một hơi, nói tiếp rất nhanh:

- Thượng thư bộ Lễ là Vương Quỳnh, lấy thi lễ giáo hoá thiên hạ, đức cao vọng trọng, tài đức vẹn toàn, khiến cho lòng người cảm động . Ông ta vốn không liên quan đến vụ án này, chỉ bởi tin lầm lời người, vì muốn thanh trừng lại trị nên mới giục xin Hoàng Thượng xử phạt quan viên tham ô, tội có thể tha thứ. Nhưng Vương Quỳnh không phải là ngôn quan lại đi nghe lời đồn mà dâng tấu, cũng nên bị trừng phạt, có thể phạt ba năm bổng lộc để cảnh cáo.

Lão sợ Chính Đức giữa chừng sẽ lại chen miệng vào, cho nên lần này nói vừa nhanh vừa gấp, rào rào như rang đậu. Chính Đức không vui, nói:

- Vương Quỳnh lạm quyền vượt quá chức vụ của mình, suýt nữa đã gây ra tội lớn. Lỗ mãng như vậy thì sao cai quản việc khoa cử, tế tự, lễ nghi, bang giao được? Phạt bổng lộc có phần quá nhẹ, vậy... chuyển làm thượng thư bộ Lễ ở Nam Kinh đi.

Tạ Thiên, Lý Đông Dương nghe xong đang muốn bước lên cãi lẽ cho Vương Quỳnh, không ngờ lão nghĩ rằng mình một lòng vì nước mà Hoàng Thượng lại hồ đồ không hay, không biết nên trong lòng tràn ngập bi thương cùng phẫn uất, dập đầu nói:

- Hoàng Thượng thương cảm lão thần, lão thần cảm kích không thôi!

Chính Đức nghe giọng điệu phẫn uất của lão thì cả giận, quát:

- Ngươi vẫn không phục sao? Ngươi cai quản bộ Lễ, giáo hoá thiên hạ, thế mà ngay cả con mình cũng dạy không xong. Hắn bức bách tỳ nữ người khác hãm hại gia chủ, đó cũng là việc mà đường đường phủ thượng thư bộ Lễ có thể làm sao?

Rồi y cười gằn, quay sang thị lang bộ Hình là Ngụy Thân hỏi:

- Ngụy thị lang! Dân tố quan, bịa chuyện hãm hại thì đáng bị phạt gì?

Nguỵ Thân vốn thiết diện vô tư, trong mắt chỉ có vương pháp không có nhân tình, nghe lời lập tức khom người, đáp:

- Hồi bẩm hoàng thượng! Dân tố quan, bịa chuyện phỉ báng, một i tra ra sự thật thì tước công danh, đày đi biệt xứ. Song theo thần thấy, nghi án Đế lăng tuy rằng không đúng nhưng việc tố cáo Dương Lăng cưỡng ép mua tỳ nữ, nếu chỉ dựa vào lời nói từ phía nàng ta thì vẫn chưa đủ tin cậy, cần cho kiểm chứng mới có thể khép tội.

Chính Đức ngửa mặt lên trời cười ha hả, rồi lại cười nhạt nói:

- Không cần tra nữa, việc này trẫm biết rõ ngọn ngành. Chuyện này bắt nguồn bởi gia nhân của Thọ Ninh hầu ỷ thế hiếp người, mưu đoạt ba cô gái của Thì Hoa quán. Khi ấy trẫm vẫn còn là thái tử Đông cung, sau khi nghe chuyện đã sai thị độc Dương Lăng cứu giúp bọn họ. Số bạc của y cũng không phải tham ô mà có, mà là của trẫm cấp cho. Ngươi không phải là vẫn muốn tra xem lời trẫm nói là thật hay không đó chứ?

Nguỵ Thân lật đật quỳ xuống, thưa:

- Thần không dám. Nếu hoàng thượng đã làm chứng cho Dương Lăng, vậy tội danh vu cáo này đã xác thực.

Vương Quỳnh nghe Hoàng Thượng muốn tước bỏ công danh của con mình rồi lưu đày biệt xứ thì sắc mặt lập tức trắng bệch, cũng không còn dám ương bướng chống cãi nữa, chỉ dập đầu xin tha cho con. Mấy công tử hào phú cũng hoàn toàn mất sạch vẻ kiêu ngạo, chỉ quỳ mọp dưới đất mà run rẩy.

Lý Đông Dương nghe xong thì rất lo ngại. Bảy cậu công tử này tuy không tính là nhân vật gì, nhưng sau lưng mỗi người đều có cha già là trọng thần trong triều. Hôm nay Lục Bộ nhoáng một cái đã bãi chức một nửa quan viên, trong triều lòng người đã bất ổn, nếu như lại có thêm mấy vị đại thần ôm hận bất mãn thì bọn họ sẽ quản lý triều chính như thế nào đây?

Vụ án Đế lăng đã vứt bỏ một Lý Kiệt để giữ lại ba vị thượng thư. Hôm nay xem ra vụ án Dương Lăng cưỡng đoạt dân nữ chỉ có thể thí bỏ Vương Cảnh Long, cứu lấy sáu người còn lại thôi. Lý Đông Dương quyết định dứt khoát, lập tức nhanh miệng tâu:

- Hoàng Thượng! Mua chuộc nữ tỳ Dương phủ, hãm hại Dương đại nhân chỉ có một mình Vương Cảnh Long, những thư sinh khác nhỏ tuổi không hiểu chuyện, chỉ là ham muốn hư vinh, hùa theo náo nhiệt, không nên xử nặng.

Đám người Tạ Thiên, Lưu Kiện, Vương Hoa biết rõ nếu trừng phạt quá nặng sẽ không có lợi cho triều đình, vì vậy lần lượt quỳ xuống cầu xin. Chính Đức bực bội nói:

- Thôi được, sáu tên hùa theo trẫm có thể không so đo tính toán. Nhưng cái tên Vương Cảnh Long thêu dệt tội danh, nếu tha cho hắn thì thể diện triều đình vứt đi đâu? Lột bỏ công danh kẻ này, lưu đày Quý Châu, cả đời không được tuyển dụng!

Vương Quỳnh nghe thấy thế thì hoàn toàn tuyệt vọng. Vương Cảnh Long quỳ dưới đất mà như kẻ mất hồn, cuộc đời này của hắn coi như đã xong rồi. Một lúc lâu sau hắn mới dần tỉnh lại, tựa hồ nghe thấy Hoàng Thượng đã phán Lý Kiệt tội chết, sai người giải đi.

Vương Cảnh Long cười thê lương "Tội chết ư? Thà cũng phán mình một tội chết, còn hơn là đày đoạ như vậy. Mình vốn là con nhà thế gia, tiền đồ rực rỡ, nếu không phải do bị con tiểu tiện nhân đó lừa gạt thì sao có thể đến nông nỗi sống không bằng chết thế này?" Trong lòng Vương Cảnh Long đột nhiên nảy sinh một ý niệm ác độc "Tiểu tiện nhân! Không phải ngươi xu nịnh tên Dương Lăng đó mà tính kế ta sao, cho dù ta bị lưu đày đến Quý Châu thì cũng sẽ mua chuộc đám trộm cướp cố làm nhục ngươi cho đến chết, khiến ngươi phải hối hận về việc đã làm..."

Thái giám của ty Lễ Giám là Đới Nghĩa thấy Hoàng Thượng đã khâm phán xong vụ án mà Vương Quỳnh vẫn chưa chịu từ bỏ, vẫn còn quỳ ở đó để tận lời, kiệt sức cầu khẩn cho con trai của mình thì vội bước ra khỏi ghế, quỳ xuống tâu:

- Hoàng Thượng! Quý Châu hoang vu cằn cỗi, cách đó lại là quan ải trùng trùng, chướng khí khắp nơi, lưu đày đến nơi đó quả thực khó lòng sống được. Theo nô tài thấy, nếu các vị đại nhân đã thỉnh cầu, chi bằng Hoàng Thượng hãy đày hắn đến Thái Lăng làm một tên khổ dịch, sửa lăng lót đường cho Tiên đế để chuộc lấy tội nghiệt, vừa là trừng phạt hắn mà lại vừa thể hiện sự nhân hậu của hoàng thượng.

Vương Cảnh Long đang thầm cân nhắc cái ý nghĩ ác độc thì nghe người ta muốn đưa hắn đi Thái Lăng làm khổ dịch, mặc dù khổ thì có khổ một chút, nhưng dẫu sao nơi đó vẫn gần kinh sư. Phụ thân hắn tuy bị đày đi Kim Lăng làm quan nhưng môn sinh, bạn cũ còn rất nhiều, đến lúc đó hắn tìm người ra tay một chút thì còn sợ không được việc hay sao?

Nhưng lúc hắn vừa ngẩng đầu thì vừa vặn trông thấy Đới Nghĩa đang nhìn mình cười nham hiểm. Thấy nụ cười không có ý tốt lành đó, Vương Cảnh Long liền như bị dội một thau nước lạnh từ đầu đến chân, trái tim lập tức trở nên lạnh ngắt.

Chính Đức vui vẻ nói:

- Tốt lắm, cứ làm vậy đi!

Vương Quỳnh biết rõ con mình đi Thái Lăng nguy hiểm còn hơn đi Quý Châu bội phần, lo lắng đến độ muốn phát điên. Mấy người Lưu Kiện cùng lão làm việc chung với nhau đã lâu năm, thấy vậy trong lòng không nỡ, đành phải bước lên dìu dậy, sau khi nhỏ giọng nhận lời chiếu cố cho Vương Cảnh Long thì Vương lão phu tử mới rơi lệ lui xuống công đường.

Sau khi Chính Đức đuổi tất cả mọi người đi hết chỉ giữ lại một nhà Dương Lăng, hắn mới ngại ngùng đến bên người y, nói:

- Dương thị độc! Trẫm... trẫm suýt nữa đã phụ khanh rồi.

Trong lòng Dương Lăng cũng khá hậm hực. Y không tin phong thuỷ quan trọng hơn ngàn vạn tính mạng của bá tánh nên giúp bọn Đới Nghĩa che giấu chuyện Đế lăng thấm nước. Nhưng dù sao cũng đã giấu chuyện với tiểu hoàng đế này nên y vội khom người vái, đáp:

- Hoàng Thượng chớ nói như vậy. Bất luận lấy thân phận vua một nước hay con của Tiên đế thì người xử trí như vậy đều là làm theo trách nhiệm. Thần không lời oán hận.

Chính Đức cười thẹn nói:

- Ái khanh! Khanh hãy bớt muộn phiền mà dưỡng thương cho thật tốt, đợi khi thương thế lành lặn thì trẫm sẽ trọng dụng khanh. Khanh hãy trở về trước, ba lão già lắm chuyện đó vẫn còn đang chờ trẫm ở bên ngoài, khi nào về trẫm sẽ trốn đến phủ thăm khanh.

Dương Lăng vội nói:

- Đa tạ Hoàng Thượng quan tâm. Xin Hoàng Thượng hãy đừng tuỳ tiện rời cung kẻo ba vị đại học sỹ biết được sẽ lại dâng tấu sớ lên can gián. Giờ vi thần về đây.

Tuy y đã được tháo bỏ cùm tay, xích chân nhưng hai mắt cá chân vẫn bầy hầy máu thịt, muốn bước ra khỏi công đường dài dằng dặc này cũng đau như xát muối, đâm kim. Y được Hàn Ấu Nương và Ngọc Đường Xuân một trái một phải dìu, lại thêm Tuyết Lý Mai cùng Cao Văn Tâm đi theo bên cạnh, sau khi hành lễ với Hoàng Đế xong liền xoay người bước đi.

Chính Đức thấy khuôn mặt xinh đẹp của Hàn Ấu Nương nghiêm lại, tuy chưa thất lễ nhưng không hề thân thiết như lúc trước đã đối đãi với mình. Trong lòng hơi cảm thấy khó chịu, Chính Đức bất chợt gọi giật lại:

- Khoan đã!

Dương Lăng ngạc nhiên quay người, chỉ thấy Chính Đức vừa bước tới vừa nói:

- Nếu không nhờ Ấu Nương tỷ tỷ cầm bức vẽ của phụ hoàng ngăn cản, trẫm suýt nữa đã mất đi một vị trung thần. Ấu Nương tỷ tỷ có công với xã tắc, trẫm nên phong thưởng.

Y hơi trầm ngâm rồi nói:

- Trẫm muốn hạ chỉ, khâm phong Ấu Nương tỷ tỷ làm "Cáo Mệnh phu nhân", Ấu Nương tỷ tỷ đừng giận trẫm nữa nhé?

Hàn Ấu Nương thấy đường đường là thiên tử lại nhận lỗi với mình, cũng không dám được voi đòi tiên, vội cúi mình vái một vái rồi nói:

- Thần thiếp nào dám giận Hoàng Thượng chứ? Đa tạ Hoàng Thượng ban thưởng.

Thân phận là mối tâm bệnh của Hàn Ấu Nương. Khi trượng phu là tú tài, nàng vẫn luôn cảm thấy một cô con gái của gia đình thợ săn như mình đã không xứng với người ta. Bây giờ có được lệnh phong của Hoàng Thượng, trong lòng sao mà không vui chứ.

Thấy chân mày Hàn Ấu Nương hiện lên chút hân hoan, Chính Đức mới yên tâm, vui vẻ cười nói:

- Trẫm không những muốn thưởng tỷ tỷ, còn muốn thưởng Dương thị độc nữa. Chẳng phải là Vương Cảnh Long nói khanh bỏ ra vạn lượng bạc trắng mua tỳ nữ là không hợp tình hợp lý sao? Ha ha, số bạc đó là của trẫm bỏ ra, vậy coi như trẫm mua về tặng khanh làm thiếp là được rồi. Phủ nội vụ đã xác định Hoàng Hậu cho trẫm, còn tuyển chọn ra hai Hoàng Phi. Ừm... (hiện) đang định ngày đại hôn của trẫm. Đến ngày đó trẫm sẽ hạ chỉ ban thưởng hai người bọn họ làm thiếp của khanh rồi động phòng thành thân.

- Hả?

Dương Lăng nghe xong giật mình thất kinh, Hàn Ấu Nương cũng khá bất ngờ, còn Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai thì ngạc nhiên pha lẫn mừng rỡ. Ánh mắt hai người vừa chạm nhau liền lập tức dời đi, gò má không kìm được mà đỏ lựng, nhưng trong đôi mắt trong veo lại đầy vẻ thẹn thùng và vui sướng không nói thành lời.

Cao Văn Tâm chỉ hơi cụp mi, thần sắc bình tĩnh, nhìn không thấy vẻ gì khác thường. Tuy rằng Hàn Ấu Nương đã ngầm chấp thuận cho phép chung chồng, nhưng nàng tự biết thân phận nô tỳ khó bỏ, trước giờ chưa từng ôm vọng tưởng này nên không suy tính thiệt hơn với hai người Ngọc Đường Xuân.

Tiểu hoàng đế vỗ vai Dương Lăng một cái, trịnh trọng nói:

- Ngày trẫm thành hôn sẽ chính là ngày khanh thành hôn. Trẫm nguyện thề cùng khanh cùng vui tiệc chúc, cả đời tin nhau, từ nay về sau vừa là vua tôi, vừa là bạn tốt.

Đoạn y vui vẻ nói tiếp:

- Lần trước ở trong núi bắn pháo hoa trông thật đẹp, trẫm vẫn luôn mong muốn có thể xem lại. Chờ đến ngày đại hôn của trẫm sẽ không còn ai có thể mượn cớ ngăn trẫm nổi lửa đốt pháo nữa. Ha ha ha!!! Trẫm thật sự đã trông đợi lễ đại hôn này lâu lắm rồi. Ừm, đêm đại hôn của trẫm, khanh hãy vào trong cung giúp trẫm đốt pháo cho thoả thích.

Y vung tay, cười nói:

- Trẫm phải xem pháo hoa cả đêm, thâu đêm suốt sáng...

Cao Văn Tâm nghe xong cái mệnh lệnh hồ đồ này, thiếu chút nữa thì đã cười phì. Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai liếc mắt nhìn nhau, khoé miệng đang cười cũng không khỏi ngầm mang một nỗi thất vọng...

-------

Chú thích:

chức thẩm tra đối chiếu lời khai với sự thật

phòng chờ thẩm vấn

"wèi... wù..." tiếng hô kéo dài của nha dịch khi bắt đầu thăng đường xử án. Xem Bao Thanh Thiên sẽ rõ

phản tọa là thuật ngữ chỉ việc lấy tội danh và hình phạt của người bị vu cáo ghép cho kẻ vu cáo

nguyên văn "đào lý thành hề" trích từ câu "đào lý bất ngôn, hạ tự thành hề". Đào và mận không cần biết nói để thu hút người khác (đào lý bất ngôn), nhưng hoa thơm quả ngọt của chúng đủ lôi cuốn người ta nườm nượp tới lui, tạo thành một con đường nhỏ dưới gốc của chúng (hạ tự thành hề). Câu thành ngữ này xuất xứ từ "Sử ký Lý tướng quân liệt truyện" này ví von rằng, chỉ cần là người chân thành và trung thực thì sẽ có thể cảm hoá người khác.

tác phong và uy tín của quan lại.

Người nào là vợ quan cũng được gọi là "phu nhân" cả, nhưng đó là "phu nhân danh phận", dựa theo chồng, không oai bằng tước "phu nhân" do vua ban thưởng. "Cáo Mệnh phu nhân" là tước do vua ban cho phụ nữ có công, tước này có bổng lộc, không có thực quyền.

Theohttp://baike.baidu.com/view/597131.htm

thì từ ngũ phẩm trở lên mới gọi là "cáo", từ lục phẩm xuống cửu phẩm gọi là "sắc".

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 106: Giai nhân hầu rượu

Ven con suối là liễu, du hòe, long lão mọc lẫn vào nhau. Do mấy ngày nay vừa phải hứng chịu cơn mưa lớn nên dấu vết cơn lũ vừa quét qua còn in rất rõ. Dòng suối đổ vào một con sông nhỏ nay đã cạn nước, còn rải rác vài thân cây khô, những búi rễ sần sùi của một vài gốc cây già ở mép sông trơ cả ra ngoài.

Bên gốc thùy dương liễu (*) là một tảng đá xanh nghiêng nghiêng chìm một nửa vào nước. Dưới tảng đá, nước sông trong vắt dồn về thành dòng chảy xiết, sâu hơn một đầu người, rộng khoảng bốn trượng. Trên triền núi bên trái là doanh trại do năm trăm thân quân của Tả tiêu doanh dựng lên. Từ sơn đạo có thể nhìn khắp cả Cao gia trang, thấy rõ từng đình đài lạc viện trong vườn nhà.

(*:loại liễu rủ, lá dài; khác với cây dương ở vùng biển có lá ngắn hơn.)

Cảnh vật thôn làng vốn vẫn u nhã tĩnh lặng nhưng đã vào trung tuần tháng sáu, khí trời oi ả lẫn tiếng ve sầu ra rả suốt ngày khiến người ta khó lòng an giấc. Lúc này, trên một chiếc giường tre làm bằng trúc Tương phi đặt bên cạnh con sông nhỏ, Dương Lăng thảnh thơi nằm như một lão thái gia, ánh dương quang loang lổ vương rắc lên người khiến y lim dim muốn ngủ.

Hai tay hai chân y đều được quấn băng trắng, một chiếc cần câu dựng thẳng trước người, chiếc phao nhẹ đung đưa trên mặt nước, cá đã sớm thoát câu nhưng chẳng có ai thay mồi.

Từ kinh sư trở về được mươi ngày, những ngón tay bị nẹp gỗ kẹp nát, cẳng chân bị gông xiềng cứa bầm dập của Dương Lăng được sự chăm sóc tận tình của nữ thần y Cao Văn Tâm nên cũng sớm hồi phục được bảy tám phần. Tuy nhiên các cô nương Hàn Ấu Nương và Ngọc Đường Xuân không dám chủ quan, thấy cổ tay lẫn mắt cá chân của y mới lên da non, sợ bị bong tróc nên vẫn quấn băng vải dày cộm bắt nghỉ ngơi tử tế.

Chiếc giường tre y đang nằm là lễ vật do Nghiêm Tung biếu tặng. Nơi quê nhà, gia đình họ Nghiêm cũng được xem là một tiểu địa chủ, nhưng ở kinh thành thì thực không có gì đáng để tự hào. Đã không thể biếu được lễ vật hậu hỉ, thôi thì gã cứ tặng chút nhã vật hợp thời, ấy vậy mà lại rất hợp lòng dạ Dương Lăng.

Đối với chuyện vì sao đất lấy từ Đế Lăng về lại khớp với đất do bộ Lễ đang giữ, Dương Lăng vẫn luôn ôm mối hoài nghi trong lòng.

Khi Nghiêm Tung đến viếng thăm, y đã quanh co dò hỏi thử. Vốn Nghiêm Tung luôn cho rằng Thành quốc công và Vương Thủ Nhân mới là những người phụng chỉ hành sự, không chừng Dương Lăng cũng biết rồi, mà gã lại không dám khoe công, nên ban đầu không dám kể sự thật, cứ quanh co vờ vịt một hồi.

Nhưng sau gã nghĩ mình đã phát hiện được bí mật, trong lòng lại đâm ra ngứa ngáy khó chịu, e rằng người ta không biết mình cũng đã góp sức giúp đỡ nên trong lời nói không khỏi để lộ một số tin tức.

Dương Lăng nghe biết được ba người Thành quốc công, Vương Thủ Nhân và Nghiêm Tung liên thủ giúp y vượt ải khó, đương nhiên đầy lòng cảm kích khó tả bằng lời.

Mấy ngày qua, hầu hết những người có giao tình và quan hệ với y như Tiền Ninh, Vu Vĩnh của Cẩm Y Vệ, phó quan ở Tam Ty và Thần Cơ Doanh, Lưu Cẩn và Mã Vĩnh Thành của nha môn nội cung đều đích thân đến thăm; những ai không đi được cũng sai người đến tặng hậu lễ.

Những người này vung tay nào chỉ ngàn vàng. Dương Lăng ăn phải trận đòn, ra đến đầu chợ lại biểu diễn xuất sắc vai viên quan thanh liêm nên không những danh tiếng trung thành và nhân ái của y lan truyền khắp dân gian mà còn kiếm được vàng bạc tràn bồn đầy chén. Chẳng những mấy người Đới Nghĩa, Lý Đạc, Nghê Khiêm chẳng thể bì được mà bọn họ còn phải mua lễ vật đến nhà thăm hỏi Dương Lăng. Đến nước này, bọn họ cũng biết mình thoát chết là hoàn toàn nhờ vào Dương Lăng; do đó bọn họ đến thăm tất nhiên là để tạ ơn, chẳng qua trong lòng ai nấy đều rõ nhưng không nói ra thôi.

Dương Lăng từng nhậm chức đông cung thị độc, chịu sự cai quản của phủ Chiêm Sỹ, thế nên theo lễ tục thông thường, phủ Chiêm Sỹ cũng đã phái người đến thăm hỏi y. Giờ đây Dương Lăng đang là sủng thần của nhà vua, vuốt mặt cũng phải nể mũi cho nên phủ Chiêm Sỹ không dám qua loa chậm trễ, phái ngay một vị Hàn Lâm học sỹ đến thăm viếng.

Dương Lăng là tú tài trẻ tuổi nhất Tuyên phủ, mười sáu tuổi đã có công danh. Vị học sỹ được phủ Chiêm sỹ phái tới này lại càng không hề kém cạnh. Vị này là Thị giảng học sỹ của vua Chính Đức tên Dương Đình Hoà, mười hai tuổi đã là thần đồng nổi tiếng khắp Ba Thục. Vì học lực vượt trội đồng sinh (*) nên từ tú tài lão được thi thẳng lên cử nhân. Mười tám tuổi đỗ tiến sỹ, đến năm hai mươi tám tuổi được tuyển vào Hàn Lâm. Học bạ của Dương Lăng đem so với cái lý lịch chói lọi huy hoàng này thực như đom đóm so với ánh mặt trời.

(*): tên gọi thư sinh chưa thi tú tài hoặc chưa đậu kỳ thi tú tài, chữ đồng 童 nghĩa là nhỏ.

Được cái vị Dương học sỹ tuổi ngũ tuần này tính tình hết sức hiền hoà, bình thường trò chuyện cũng tuyệt đối không vì mình đọc nhiều Kinh Thư mà mở miệng ngậm miệng sặc điều hủ lậu. Hai người vừa chuyện trò một hồi, Dương Lăng bỗng nảy sinh hảo cảm với vị Thị giảng đại học sỹ này.

Vốn nể mặt mũi Hoàng Đế nên Dương Đình Hoà mới theo lệnh của phủ Chiêm Sỹ đến thăm hỏi sức khoẻ Dương Lăng. Trong lòng lão cũng xem thường vị sủng thần của Hoàng Đế thăng tiến như hoả tiễn nhưng lại có xuất thân tú tài này.

Song vừa mới bắt chuyện, Dương Đình Hoà đã phát hiện tuy vị tú tài này nói năng lung tung, không hề có một quan niệm mang tính hệ thống về các loại sự việc, nhưng mỗi khi y mở miệng, nếu không trúng vào trọng tâm thì cũng nói ra được lợi và hại trong đó. Còn như khi đưa ra cách giải quyết vấn đề, tuy rằng vài nhận xét và tư tưởng của y quá cấp tiến, chưa hẳn đã thích hợp để triều đình áp dụng, nhưng những kiến thức hiện đại hơn người này của y có rất nhiều bậc túc nho đầy bụng kinh thư cũng không thể nghĩ tới. Thỉnh thoảng y thờ ơ buông một câu tưởng chừng vô thưởng vô phạt, nhưng lão ngẫm nghĩ kỹ thì lại thấy rất có lý. Dương Đình Hoà không khỏi nhìn y bằng một con mắt khác, vẻ hờ hững lập tức không còn.

Cũng may Dương Lăng không hề biết uy danh lừng lẫy của vị "đồng tộc" (cùng họ) này, nên trong lúc chuyện trò y mới bạo gan nói thẳng những suy nghĩ của mình mà không hề kiêng dè gì cả. Tuy học vấn của y không sánh được với Dương Đình Hoà, nhưng thỉnh thoảng y thuận miệng nói một câu lại là những kết luận mà các bậc nhân sỹ có kiến thức ở đời sau quan sát các giai đoạn lịch sử sau đó mới đúc kết lại được. Vì vậy trong con mắt của Dương Đình Hoà, đương nhiên Dương Lăng là người nhìn xa trông rộng, kiến thức bất phàm.

Điều này cũng giống như là một thằng bé tinh quái và một võ lâm cao thủ. Mỗi lời nói, mỗi cử động vô tình của thằng bé đều chứa đựng cái gì đó chí lý, tuy rằng bản thân nó mù tịt không hay biết gì, nhưng trong mắt của người thạo nghề, đó lại là những gợi ý rất thích hợp.

Dương Đình Hoà cũng không ngờ là những quan điểm và kiến thức trước giờ lão chưa hề nghe tới, khiến cho người nghe phải giật mình tỉnh ngộ mà Dương Lăng phát biểu một cách không hệ thống đó, ngay cả bản thân Dương Lăng cũng không thấu đáo nội tình bên trong. Lão chỉ tưởng rằng y không chịu nói sâu, nói rõ thêm thôi.

Nhưng học vấn của lão vô cùng sâu rộng, chỉ cần tiếp thu những gợi ý này, kết hợp với học thức và kinh nghiệm của bản thân, đương nhiên lão có thể lập tức suy diễn, biến hoá thành những chính sách trị nước có thể được triều đình thi hành. Đến lúc này Dương Đình Hoà đã không còn xem Dương Lăng là kẻ viết không hay, nắm cày không thạo nữa, mà cho rằng y là người thâm tàng bất lộ, trong lòng không khỏi khâm phục và kính nể y.

Dương đại học sỹ là người không hề đố kỵ kì tài, từ đó về sau khi nhắc đến Dương Lăng lão đều không ngớt lời tán tụng. Dương Đình Hoà là tài tử cực kỳ có danh vọng trong Hàn Lâm viện, được lão khen ngợi cộng thêm việc gã Nghiêm Tung mới vào viện không tiếc lời tâng bốc, đám người Hàn Lâm vốn đọc sách bao năm mà vẫn phải lãng phí thời gian trong viện vẫn luôn bất mãn với việc Dương Lăng thăng chức vượt cấp ào ào cũng không còn dám quá ngông cuồng nữa. Những kẻ vốn thường xuyên công khai chỉ trích việc Dương Lăng chỉ xuất thân tú tài khó lòng đảm đương việc lớn cũng lập tức giảm bớt chê bai, biếm nhẽ rất nhiều. Chuyện tốt này khiến cho Dương Lăng rất đỗi bất ngờ.

Thực ra mấy người Lý Đạc và Đới Nghĩa đến thăm Dương Lăng xong thì hôm sau liền trở về Thái lăng ngay. Không phải vì thương thế của bọn họ khỏi nhanh hơn Dương Lăng, mà bọn họ còn ước gì ngày đó bị Hồng Chung đánh tàn nhẫn thêm một chút để bọn họ phải được khiêng về Thái lăng làm việc, có như vậy mới biểu lộ được sự trung thành của bọn họ với triều đình.

Lúc này Dương Lăng cũng đã khôn ra, y không dám chậm trễ việc công để người ngoài đàm tiếu nên cũng muốn theo về Thái lăng. Đới Nghĩa lại nghĩ là y chưa "yên tâm" với vị tam thiếu gia họ Vương đã vu cáo y, nên vội vỗ ngực tỏ ý trung thành, ra vẻ "ta đã làm thì cậu cứ yên tâm".

Thế nhưng nhìn cái vẻ cười gian của lão, vốn không muốn kết mối thâm thù với Vương Quỳnh, Dương Lăng lại càng không yên tâm. Vừa đúng lúc này, ân chỉ của đương kim Hoàng Đế Chính Đức lại đến.

Ý chỉ này trước hết tặng lại bức vẽ dốc núi và cây tùng do vua Hoằng Trị đã ban tặng cho Dương Lăng. Phỏng chừng Chính Đức cũng biết dù sao đi nữa thì trình độ hội họa của y cũng không thể bì được với Tiên đế, cho nên y cũng không dám tô vẽ, ghi chữ đề thơ gì gì lung tung lên bức hoạ đó, nhưng y lại đóng một cái ấn to đùng lên. So tranh chữ thì không thể hơn người cha quá cố, vậy so xem ấn của ai lớn hơn đi! Cái ấn của Chính Đức to gần bằng ngọc tỷ (ấn vua), một cái ấn lớn vuông vưng vức nằm chình ình chói lọi trên một bức tranh sơn thủy rất đẹp, trông như thế nào cũng chẳng ra ngô ra khoai gì cả!

Tiếp đó trên ý chỉ lệnh phong Hàn Ấu Nương làm tam phẩm Cáo Mệnh phu nhân, căn dặn Dương Lăng dưỡng thương thật tốt, ở yên trong nhà đợi ý chỉ an bài. Thế là Dương Lăng, vốn không thật sự muốn đi sửa mồ sửa mả, đã có lý do chính đáng để ở lại trong nhà hưởng phúc.

Bận rộn đón đưa khách khứa hết mấy ngày, hôm nay yên tĩnh, Dương Lăng liền kêu người mang chiếc giường tre cùng Ấu Nương đến bên nơi khe sông hẻm núi này hóng mát, câu cá. Thấy tướng công mệt mỏi thiu thiu ngủ, Hàn Ấu Nương bèn khẽ rút bàn tay xinh xắn mềm mại ra khỏi tay y, kéo chiếc áo mỏng ở cạnh đắp lên người tướng công rồi lặng lẽ nhón chân rời khỏi.

Cử động nhẹ nhàng của nàng khiến cho Dương Lăng vốn chỉ hơi lim dim liền tỉnh dậy. Y nheo mắt gạt nhẹ nhành cây nhìn theo Ấu Nương. Ấu Nương rón ra rón rén di chuyển một lát mới đi đứng bình thường trở lại. Nàng đứng dưới một gốc cây xoay hai vòng, ngửa mặt quan sát một hồi rồi lại lấm la lấm lét ngoái đầu nhìn về phía Dương Lăng.

Dương Lăng nổi lòng hiếu kỳ, không biết Hàn Ấu Nương định làm gì. Vừa thấy nàng quay đầu, y liền nhắm mắt vờ ngủ. Thấy Dương Lăng đã ngủ, Hàn Ấu Nương lại nhìn quanh thêm mấy lần, sau đó nàng vén nhanh vạt váy nhét vào hông, xoắn hai ống tay áo, nhổ nước bọt vào bàn tay, rồi hai tay bám vào thân cây trèo soàn soạt lên cao. Nàng di chuyển nhanh nhẹn như một con khỉ lanh lợi, cặp mông tròn lẳn lắc lư.

Dương Lăng cả kinh. Ban đầu y còn sợ Hàn Ấu Nương té ngã, nhưng khi thấy thân thủ nàng khoẻ khoắn như vậy, y cũng không khỏi thán phục. Đứng trên cây, vẻ mặt Hàn Ấu Nương rất là hoan hỉ, như thể nàng đã không được chơi trò này từ rất lâu rồi.

Đây là một cây đào cổ thụ, cành cây bên dưới đã bị tiều phu chặt bỏ, chỉ để lại vài nhánh cây bén nhọn. Trong những tán lá xum xuê tươi tốt che giấu rất nhiều quả đào xanh, lông mềm, vị chát, to cỡ quả óc chó.

Hàn Ấu Nương nhón chân ngắt vài quả, lấy trong người ra một chiếc khăn tay bọc lại, nhét vào trong người rồi trèo xuống. Nàng chạy đến bên bờ sông mang quả đào xanh ra rửa, cắn rộp một quả ăn ngon lành, cũng mặc kệ quả đào đó chua hay chát.

Dương Lăng lặng lẽ đứng dậy, chậm rãi bước tới gần. Cổ chân y quấn băng vải dày nên đi đứng không được linh hoạt, y không cẩn thận đạp phải một cục đá. Một tiếng "sột" vang lên khiến cho Hàn Ấu Nương vừa mới đứng dậy giật thót mình. Nàng nhảy bắn người lên, một chân đạp xuống nước.

Ấu Nương cuống quýt rút chân lên. Quay đầu nhìn thấy tướng công đang đứng cạnh mình mỉm cười, nàng xấu hổ đứng yên, rụt cổ như một đứa trẻ đang đợi bị trách phạt, trong chiếc miệng xinh xắn còn đang ngậm một miếng đào xanh mang vị thơm chát.

Dương Lăng thấy Hàn Ấu Nương đứng ngây người tại chỗ, váy quấn trên eo, một chiếc giày thêu sũng nước, tay trái cầm khăn bọc sáu bảy quả đào xanh, tay phải cầm một quả đang cắn dở, khuôn mặt hơi ngăm đen thanh tú đỏ bừng, trên chóp mũi thẳng tắp xinh xắn còn lấm tấm vài giọt mồ hôi, thì không nhịn được bật cười phì, hỏi:

- Tam phẩm Cáo Mệnh phu nhân của ta ơi, nàng đang làm chuyện xấu gì đó hử?

Hàn Ấu Nương vẫn luôn dịu dàng hiền thục, suýt chút nữa Dương Lăng quên mất tuổi tác của nàng. Giờ thấy hình dáng này của nàng, y mới sực nhớ nàng là một cô nhóc từ nhỏ đã quen với cuộc sống hoang dã nơi núi rừng, bây giờ cùng lắm mới mười sáu tuổi, đang là tuổi tinh nghịch ham chơi, thế mà lại đã giúp chồng tề gia, sắm vai vợ hiền. Cũng may mà nàng có thể kiềm nén lâu như vậy.

Thấy Hàn Ấu Nương vẫn đứng nguyên tại chỗ, dáng điệu cực kỳ ngây thơ lẫn vẻ mặt ngốc nghếch hiếm thấy, Dương Lăng mỉm cười kéo xoã váy xuống hộ nàng, rồi nhẹ vuốt tóc bên má nàng, âu yếm:

- Thích ăn quả xanh thì về bảo gia nhân đi mua là được rồi. Trái dại như vầy hơi chát, ăn không được đâu!

Vốn tính tinh nghịch hiếu động, từ lúc cưới ông tú tài này thực không rõ Hàn Ấu Nương đã phải kiềm chế biết bao lâu. Hôm nay trở lại vùng rừng núi quen thuộc, trong lúc quá vui nàng đã trèo cây hái quả. Là một người phụ nữ đã có chồng, hơn nữa còn là Cáo Mệnh phu nhân, mà lại không giữ phong thái như vậy, nàng thực lòng lo ngại Dương Lăng sẽ quở trách. Đến khi thấy gương mặt đầy vẻ cưng chiều của y, Hàn Ấu Nương mới cảm thấy nhẹ nhõm. Nàng vội vã nuốt miếng đào trong miệng, vứt quả đào đã cắn một nửa trong tay đi, rồi nắm chéo áo y bẽn lẽn:

- Tướng công, thiếp... thiếp... xin lỗi...

Dương Lăng cười, không đồng ý:

- Chỉ là trèo cây thôi mà! Trèo thì trèo thôi, nhà chúng ta không có những quy định lộn xộn kia.

Đoạn y choàng vai Ấu Nương đi đến giường tre, vừa đi vừa bảo:

- Nàng đừng có nghĩ ngợi quá nhiều! Mấy ngày nay ở nhà, ta chỉ thấy nàng ngồi luyện khí, công phu côn bổng đã lâu không đụng tới rồi. Ấu Nương! Luyện võ có thể cường thân kiện thể, tịnh không phải là hành vi thấp hèn gì. Cáo Mệnh quý phụ thì sao chứ? Nàng đừng quá để ý đến thái độ của người khác. Đừng quên là ngoài chợ ngoài phố hiện đang đồn rằng tướng công là con cháu Dương Gia Tướng. Con gái nhà họ Dương võ nghệ cao cường là điều đương nhiên. Ha ha! Trở về ta sẽ bảo lính dọn miếng đất ở hậu viên, sau này mỗi ngày nàng vẫn phải luyện võ, tướng công cũng sẽ theo nàng học võ.

Y ngồi lên giường tre, thuận tay kéo nhẹ, Hàn Ấu Nương liền ngã lên đùi y. Hàn Ấu Nương bẽn lẽn vùng vằng lấy lệ một chút rồi cười ngượng ngùng không lên tiếng nữa. Dương Lăng ôm chiếc eo thon của Ấu Nương, bàn tay xấu xa "tập kích" bộ ngực mềm mại của nàng, kề tai thì thầm:

- Ấu Nương! Chỗ này đã to lên không ít à.

Hàn Ấu Nương vừa qua tuổi trăng rằm, thân thể vẫn đang phát triển, ngực đã dần dần n nở. Bộ ngực bé như chồi non muốn nở đằng sau chiếc yếm lót căng lên thấy rõ. Ban ngày ban mặt ở trên núi bị tướng công bạo gan sờ nắn như vậy, Hàn Ấu Nương ngượng đến nỗi mặt nóng hầm hập. Nàng giữ tay Dương Lăng, không nén được xấu hổ van nài:

- Tướng công! Đừng mà! Mình đang ở bên ngoài đó.

Dương Lăng cười khà khà (TJ: cười gian bỏ mẹ), không nỡ nhìn nàng khó xử bèn thuận thế bỏ tay xuống. Tay chạm đến những quả đào xanh đẫm nước, trong lòng Dương Lăng chợt máy động. Y kinh ngạc xen lẫn vui mừng kêu thất thanh:

- Ấu Nương! Có phải nàng đã cấn thai không? Sao lại... sao lại thích ăn đào chua vậy?

Nói rồi y không tự chủ rờ tay lên bụng dưới phẳng lì của Ấu Nương. Hàn Ấu Nương ngượng ngùng đẩy tay y ra:

- Không có mà, không có mà! Từ nhỏ người ta đã thích ăn đào xanh rồi.

Đoạn nàng quay mặt lại, sợ hãi hỏi:

- Tướng công! Có phải là Ấu Nương không thể sinh con không?

Dương Lăng bật cười:

- Sao lại thế được!? Chúng ta cứ tiếp tục cố gắng rồi sẽ có thôi. Vả lại, nếu như không có con được thì cũng chưa chắc là đã do nàng.

- Hở?!

Hàn Ấu Nương lấy làm lạ lùng khó hiểu. Không phải là phụ nữ sinh con sao? Nếu sinh không được không phải là lỗi của phụ nữ vậy thì lỗi của ai đây?

Dương Lăng không muốn giải thích những thứ quá phức tạp với nàng. Trông thấy mắt ngọc xoe tròn, bộ mặt đáng yêu đang kinh ngạc nhìn mình, y không nhịn được hôn lên má nàng một cái rồi cười nói:

- Lại đây, cởi giày ra đi! Mang giày thấm nước không thoải mái đâu.

Nói rồi y giúp Ấu Nương cởi giày cởi vớ, để lộ đôi chân nhỏ nhắn trắng phau.

Chân của phụ nữ không thể để người khác thoải mái nhìn. Cho dù đó là tướng công của mình nhưng đang ở ngoài trời ban ngày ban mặt nên cũng khiến Hàn Ấu Nương rất ngượng. Nàng vội co chân lên giường, kéo chiếc áo khoác mỏng che phủ bản chân. Nàng vẫn bận lòng về vẻ mặt tràn đầy thất vọng của trượng phu vừa rồi: "Quả thực cũng đã gần nhau được bốn tháng rồi, sao cái bụng này lại không biến hóa gì vậy nhỉ?"

Cô nàng xoa bụng, không còn chút hứng thú ăn đào nào. Trề môi suy nghĩ một hồi lâu, nàng bỗng lắp bắp hỏi:

- Tướng công! Khi nào Hoàng Thượng làm lễ đại hôn vậy?

Dương Lăng giật thót mình, buông chiếc giày vừa mới cởi ra, ngập ngừng khó trả lời. Ngày đại hôn của Hoàng Thượng cũng chính là lúc mà y sẽ nạp thiếp, còn là phụng chỉ nạp thiếp, làm sao cự tuyệt đây?

Từ kinh trở về, y đã cố tránh không bàn đến chuyện này, nhưng người trên kẻ dưới trong phủ ai nấy đều đã thích ứng, cho rằng việc lão gia nạp thiếp là chuyện hết sức tự nhiên. Nhất là lão gia được Hoàng Thượng ban thưởng, nô bộc trong phủ khi ra ngoài kể chuyện với người khác đều đầy vẻ tự hào. Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai cũng sớm đã tự học dùng lễ thiếp mà hầu hạ y và Ấu Nương, bắt đầu gọi Ấu Nương tỷ tỷ, dường như cũng có ngụ ý khác.

Dương Lăng thoáng thừ người, ấp úng đáp:

- Hoàng Đế ban thưởng, tướng công cũng không biết phải cự tuyệt như thế nào nữa. Ngọc nhi, Tuyết nhi đều là những cô nương tốt, nhưng nàng cũng thấy đấy, quan trường hiểm ác, lần này mất đi ba vị thượng thư, trong triều không biết bao nhiêu đại thần bất mãn với ta. Đi theo ta... chưa hẳn đã là phúc đâu.

Hai tay ôm lấy gối, Hàn Ấu Nương bật cười như tiếng suối reo:

- Tướng công lúc nào cũng buồn lo vô cớ, Ấu Nương thật không biết rốt cuộc tướng công lo lắng về cái gì? Tướng công đừng trách Ấu Nương lớn mật, nhưng theo chàng thì phải đối đãi với bọn họ thế nào thì bọn họ mới sẽ vui vẻ, bọn họ mới sẽ hạnh phúc?

Rồi nàng thở dài, giọng xa xăm:

- Tướng công! Chàng không biết chứ, sau khi Hoàng Thượng hứa chuyện thành thân, trong lòng bọn họ rất là vui sướng, thiếp có thể cảm nhận được điều đó. Có lúc thiếp đã nghĩ, người ta đã bước vào nhà chúng ta, nếu không thể như vậy thì còn có thể làm thế nào đây? Ấu Nương biết tướng công thương thiếp, nhưng nếu để Ấu Nương mang tội ghen tỵ, Ấu Nương... thật sự sẽ không vui đâu. Đối với các cô Ngọc Nhi và Tuyết Nhi, được đi theo tướng công chính là phúc khí của bọn họ. Tuy rằng bọn họ xuất thân đê hèn, nhưng trọng tình trọng nghĩa, lúc chúng ta lâm nạn đã chịu vứt bỏ mạng sống mà theo cùng.

Tướng công càng làm quan thì chức vị càng lớn, thê thiếp khắp nhà là việc mà Ấu Nương đã dự liệu. Nếu như thật sự phải đón vài tỷ muội vào nhà, Ấu Nương tình nguyện đón bọn họ. Phải nói thật sự Văn Tâm tỷ tỷ nặng ân tình với tướng công nhất. Nếu không phải tên Thập trưởng đó đã bị tỷ ấy ra tay, mấy vị Thượng thư đại nhân tuyệt sẽ không dễ dàng nhận tội như vậy đâu, không biết tướng công sẽ còn phải chịu bao trắc trở nữa mới thoát được.

Hàn Ấu Nương thấy y suy nghĩ đến nhập thần, còn tưởng tướng công hơi động lòng, bèn vừa thẹn thùng vừa "thêm dầu vào lửa":

- Ngọc Nhi muội muội bảo tướng Văn Tâm tỷ tỷ mắn con lắm đó! Không chừng tỷ tỷ sẽ sinh được thất lang bát hổ (bảy sói tám cọp, đại khái đông con cái khoẻ mạnh) nữa đó...

Chú thích:

Trúc Tương phi: trúc đốm. Tương truyền Vua Thuấn đi tuần ở Thương Ngô rồi băng hà, hai vợ Vua Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh thương chồng than khóc ở khoảng giữa hai sông Trường Giang và Tương Giang. Nước mắt hai bà vẩy lên cây trúc, từ đó da trúc có đốm.

phủ Chiêm Sỹ là cơ quan phụ trách trợ giúp Thái tử thời Minh. Phủ được bố trí một Chiêm sỹ hàm Chánh tam phẩm, một Thiếu chiêm sỹ hàm Chánh tứ phẩm, một Phủ thừa hàm Chánh lục phẩm. Phủ Chiêm Sỹ lập Tả hữu xuân phường, cục Tư Kinh, và ty Chủ Bộ.

Cổ cầm: một loại đàn cổ. Theo truyền thuyết, cây đàn cổ cầm được sáng chế vào thời Nghiêu Thuấn, và chỉ có năm dây thôi nên được gọi là "ngũ huyền cầm". Về sau, mỗi vị hoàng đế Văn và Võ thêm dây vào làm thành cây đàn bảy dây hay "thất huyền cầm". Hai dây thứ sáu và thứ bảy được gọi là dây Văn và dây Võ.

đây là những câu thơ trong bài "Xuân nhật li hợp" (Chia ly ngày xuân) của nhà văn học Dữu Tín (51381) thời Bắc Chu.

Nguyên văn:

Code:

田家足闲暇,士友暂流连。

三春竹叶酒,一曲鹍鸡弦

Dịch nghĩa:

Cuộc sống nhà nông khá nhàn hạ,

Bạn bè lưu luyến đến chơi.

Ba tháng xuân ngồi uống rượu Trúc Diệp,

đàn một khúc tỳ bà.

Dịch thơ:

Nhà nông cuộc sống an nhàn,

Bạn thân lưu luyến hàng ngày sang chơi.

Ngày xuân rượu Trúc đem mời,

Đàn ca một khúc tỳ bà thêm vui.

nguyên văn là "tiễn y" hay "tiễn tụ y", là loại trang phục mà ống tay áo được sít chặt. Xem hìnhhttp://imgsrc.baidu.com/baike/pic/it...151d95831c.jpg

nơi Hoàng Đế nghe quần thần đàm luận kinh sử gọi là "Kinh Diên". Xem hìnhhttp://imgsrc.baidu.com/baike/pic/it...1962d09f92.jpg

- Ừm! Hả?...

Dương Lăng định thần lại, không biết Hàn Ấu Nương đang nói gì. Y đang muốn hỏi lại thì từ trong bụi cỏ cao cỡ đầu người dưới khe suối phát ra một tràng tiếng cười trong trẻo, hai cô gái xinh đẹp hiện ra trên con đường nhỏ. Nhìn thấy hai người, bọn họ mừng rỡ kêu lên:

- Lão gia! Ấu Nương tỷ tỷ!

Dương Lăng ngước mắt nhìn, nhận thấy Tuyết Lý Mai và Ngọc Đường Xuân đang tươi cười bước tới. Tuyết Lý Mai mặc một bộ đồ xanh, tay ôm một cây cổ cầm . Ngọc Đường Xuân cũng ăn mặc như thị tỳ, xách một chiếc giỏ. Do tập vũ nhạc nên tuy mặc trang phục thị tỳ, bước chân nàng vẫn nhẹ nhàng uyển chuyển, như thể đong đưa theo gió, dáng bộ hết sức dịu dàng.

Sau lưng hai người, Cao Văn Tâm vừa mới bước qua khỏi bụi cỏ, mái tóc đen được cột bằng khăn xanh, thần thái nhã nhặn trầm tĩnh.

Hai người Ngọc Đường Xuân đến trước mặt nhún người thi lễ với Dương Lăng. Hàn Ấu Nương vội vàng xỏ vớ, giày, bước xuống giường kéo tay Tuyết Lý Mai hỏi:

- Sao các cô đến đây vậy?

Tuyết Lý Mai cười đáp:

- Ngọc tỷ tự tay chuẩn bị rượu và thức ăn đưa đến cho lão gia và tỷ tỷ. Tiểu tỳ nghĩ lão gia câu cá buồn chán, nghe một vài bản nhạc cũng vui nên tiện thể ôm đàn đi theo luôn.

Ngọc Đường Xuân đặt chiếc giỏ bên cạnh giường, hơi thở có phần hơi gấp. Dương Lăng thấy nàng xách giỏ đi hơn hai dặm đường núi, trên khuôn mặt yêu kiều li ti những giọt mồ hôi thì buột miệng:

- Ngọc Nhi! Ta chạy đến đây hóng mát lại nhọc các nàng chạy đến chạy lui. Thật sự đã ệt cho nàng rồi.

Ngọc Đường Xuân đỏ mặt liếc y, khoé miệng mang theo một nụ cười ngọt ngào, nhỏ nhẹ nói:

- Lão gia không cần khách khí, đó là việc tiểu tỳ nên làm.

Cao Văn Tâm bước đến, dịu dàng chỉnh đốn trang phục thi lễ:

- Lão gia! Xin để tiểu tỳ xem lại thương thế của người một chút.

Nàng cẩn thận ngồi bên giường, gỡ băng vải quấn trên tay chân Dương Lăng xuống, nhẹ nhàng quan sát chỗ bị thương một lúc. Thấy lần này y lên núi mà vết thương không bong, da thịt non nơi bị kẹp nát đã bắt đầu dần dần cứng cáp lại, nàng không khỏi nở một nụ cười hài lòng.

Nàng lấy từ trong người ra một bao vải bày lên trên giường, rút ra một cây kim châm mỏng. Ngón tay trắng nõn ấn lên chân Dương Lăng vài cái, tìm trúng huyệt đạo rồi đâm xuống.

Chỗ da non mới mọc của Dương Lăng vốn đã ngứa, bị nàng vê kim châm, lúc đầu chỉ cảm thấy chân tê tê, sau đó vừa mỏi lại vừa ngứa, thế là theo phản xạ có điều kiện chợt duỗi thẳng chân ra, đá trúng vào đùi Cao Văn Tâm.

Dương Lăng cảm thấy đầu mũi chân chạm vào bắp đùi rất mềm dẻo của cô nương người ta, vội xấu hổ rụt lại, ngượng nghịu tìm một chủ đề nói lảng:

- Tiểu thư! Có phải chính cây kim châm nhỏ xíu này đã khiến cho Lục thập trưởng điên đảo thần hồn... Á! A, không phải, là mất thần trí không?

Tuyết Lý Mai phì cười, hào hứng trêu:

- Lão gia nói sai rồi! Lục thập trưởng là bị ba cây ngân châm khiến cho mất thần trí. Còn cây kim châm điên đảo thần hồn này... hình như là để dành cho người khác đó!

Cao Văn Tâm vẫn thờ ơ như không nghe thấy. Một mặt nàng chăm chú vê kim châm, một mặt khẽ giọng giải thích:

- Tiểu tỳ dùng cây kim châm này để kích thích huyết mạch, chỗ bị thương của đại nhân sẽ có thể mau lành hơn. Không phải hôm qua Thị lang bộ Lại Tiêu đại nhân nói vì thu xếp thượng thư của Lục Bộ nên trong triều quần thần đang không ngừng tranh chấp sao? Theo tiểu tỳ thấy, đại nhân sẽ không hưởng thụ được mấy ngày bình yên rồi.

Tuyết Lý Mai thu vẻ mặt của hai người vào mắt, không nhịn được bèn giả mặt quỷ, cười hi hi với Hàn Ấu Nương nói:

- Muội đã được kiến thức thần châm của Văn Tâm tỷ tỷ, chỉ không hiểu được có phải thật là y thuật có thể khiến cho người ta điên đảo thần hồn hay không. Nếu trên đời thật sự có công phu này, con gái trong thiên hạ đều nên đi học một chút. Gặp được đấng lang quân mình cảm mến liền đưa tay lên đâm một cái, ha ha ha...

Cao Văn Tâm đang vê kim châm, sắc mặt vẫn bình tĩnh như không. Nhưng Tuyết Lý Mai vừa nói "gặp được đấng lang quân mình cảm mến liền đưa tay lên đâm một cái", không hiểu sao tay nàng lại rối lên.

Dương Lăng cảm thấy đùi chợt nhói lên. Lúc ngẩng đầu nhìn, y thấy Cao Văn Tâm đang khẽ cúi đầu, cần cổ thanh tú tao nhã, da dẻ như ngọc, có điều hô hấp dồn nhanh, hơi thở thơm ngát như lan, thần sắc trong ánh mắt như mặt nước hồ lấp lánh, cũng không biết là đang thẹn thùng hay đang hờn giận.

Thấy vậy Tuyết Lý Mai le lưỡi, ôm hộp đàn đến bên cạnh, lấy đàn ra đặt trên đùi. Ngón ngọc khẩy đàn, tiếng đàn du dương ngân lên, nghe như một ca khúc có làn điệu cổ xưa.

Dương Lăng nghe không hiểu, nhưng trong bụng Cao Văn Tâm nào chỉ là y thuật, nàng biết ca khúc đó là "Khúc tương tư xưa". Nét mặt cố tạo ra vẻ bình tĩnh thật lâu kia rốt cuộc đã không kiềm nén nổi ửng lên một đám mây hồng. Dương Lăng cảm thấy đùi lại nhói lên, bất giác nhăn mặt khổ sở:

- Cô nương nhẹ một chút... đau...

Cao Văn Tâm cắn môi, đôi mắt đen láy khẽ nguýt y. Khuôn mặt thanh tú đỏ bừng chợt như tràn trề mùi vị quyến rũ của nữ nhân. Nàng mất tự nhiên đưa tay vén mái tóc che lấp hoàn toàn khuôn mặt đỏ bừng của mình, giữ chặt lấy bắp đùi của Dương Lăng không ngừng vê kim. Nửa bên người Dương Lăng đau tê không thôi, nhưng y lại không dám la lên nữa, trong lòng không khỏi thầm kêu khổ.

Cuối cùng Cao Văn Tâm kịp thời tỉnh lại, nhìn thấy đùi Dương Lăng đang run rẩy như đang kìm nén đau đớn, nàng liền vội vàng rút châm, đổi qua chân kia. Đợi nàng châm xong, Ngọc Đường Xuân mới xách giỏ qua mời Dương Lăng và Ấu Nương dùng bữa.

Khó trách vì sao Ngọc Đường Xuân lại mệt đổ mồ hôi. Chiếc giỏ đựng một quả dưa hấu, bốn món ăn bắt mắt, hơn mười miếng bánh kẹo ngọt ăn nhẹ, dùng khăn bọc mấy cục đá lạnh đè giữ hũ sứ, thật chứa không ít đồ.

Trời tháng sáu uống Trúc Diệp Thanh ướp đá! Dĩ nhiên cách thưởng thức rượu này là do Cao Văn Tâm nói lại; cho dù Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai vốn vẫn thết đãi rượu ở Thì Hoa quán cũng chưa hề cầu kỳ như vậy. Người cha già của Cao Văn Tâm mê rượu nên trong nhà bố trí hầm trữ băng, bây giờ Dương Lăng hoàn toàn được hưởng lợi.

Trên giường bổ dưa uống rượu, bên suối liễu rũ nghe đàn, nâng chén giơ đũa, mỹ nữ hầu quanh, người nào người nấy dung nhan xinh đẹp, có tình có ý với y. Đối với đám lão tử phong lưu ngày xưa, có phải đây là cuộc sống đáng mơ ước nhất không? Vậy đối với đàn ông hiện đại thì sao?

Dương Lăng cầm đũa lên nhìn quanh, lòng dạ rối bời. Ài! Có phải việc mình quyết tâm tận tình hưởng thụ mọi thứ có được hiện nay mới là chân thực đối mặt với cuộc sống, và cũng là để mình và những người bên cạnh vui vẻ vượt qua không? Bất kể đó có phải là ý định ban đầu của mình hay không, nhưng hết thảy mọi thứ này đều đã đến bên mình. Địa vị như là một lực từ trường, khi anh thăng tiến đến một độ cao nhất định nào đó thì mặc kệ bản thân anh có muốn hay không, cái gì phải tới thì chắc chắn cũng sẽ tới.

Hàn Ấu Nương ngồi đối diện với Dương Lăng, chiếc miệng nhỏ nhắn cắn chiếc bánh nướng thơm mềm, ngọt ngào gắp thức ăn cho y. Ngọc Đường Xuân vén tay áo xanh biếc lên, rót đầy chén cho y. Rượu trong chén óng ánh sắc vàng lẫn xanh biếc, hương thơm nức mũi. Cao Văn Tâm đứng cạnh giường tre nói khẽ:

- Lão gia! Trong Trúc Diệp Thanh đã cho thêm sa nhân, tử đàn, lục quy, trần bì và đường phèn, lòng trắng trứng, có công dụng cân bằng và làm ấm dạ dày, thông máu bổ huyết, rất có ích cho thương thế của lão gia.

Trong tiếng đàn du dương tao nhã, Ngọc Đường Xuân hai tay nâng chén, ngọt ngào ngâm:

- Điền gia túc nhàn hạ, sĩ hữu tạm lưu liên. Tam xuân trúc diệp tửu, nhất khúc côn kê huyền .

Mời lão gia uống hết chén này!

Chịu hết nổi rồi! Chịu hết nổi rồi! Dương Lăng cả người mất tự nhiên. Loại cuộc sống "sa đoạ trụy lạc" của bọn sỹ phu phong kiến này cũng không phải là thứ mà những người chưa từng được "bồi dưỡng" và "rèn luyện" như y có thể chung sống thản nhiên với nó à!

Y đón lấy chén rượu, nét mặt căng thẳng. Vừa đang tính đáp lời, y bỗng nghe xa xa có người cao giọng gọi lớn:

- Dương đại nhân! Dương đại nhân có ở đó không? Ta là Cốc Đại Dụng, nếu nghe được thì đại nhân hãy trả lời một tiếng đi!

"Cốc Đại Dụng?" Hai ngày trước Mã Vĩnh Thành xuất cung mua sắm đã đến thăm y. Còn Cốc Đại Dụng theo hầu nhà vua, không dễ gì rời khỏi cổng cung. Nếu gã đã đến, vậy Hoàng Thượng...

Dương Lăng nghĩ đến đây liền vội vàng từ trong chốn hương sắc dịu dàng nhảy lên, vội vã mang giày vào. Y vừa mới đứng dậy đã thấy hơn chục gã đàn ông lực lưỡng mặc áo xanh bó ống từ con lộ khuất sau bụi cỏ chợt hiện ra, phía sau là một công tử nhà giàu đang thong thả bước. Công tử này mặc một bộ đồ bó ống thêu hoa màu nhạt, bên dưới mặc quần rộng ống xanh, ống quần nhét cẩu thả vào trong đôi giày da dê cổ ngắn, trông như cái đèn lồng. Đây là trang phục phong lưu nhất của giới quần là áo lượt trong kinh sư tháng này.

Vị công tử có diện mạo trông rất tuấn tú, tay đeo một cây roi ngựa nhọn đầu đen sì. Từ xa trông thấy Dương Lăng y liền cười ha hả, nói to:

- Dương thị độc! Trẫm bày chút kế mọn thì đã chạy thoát ra khỏi cung rồi. Thương thế của khanh đã khá hơn chưa?

Dương Lăng vội chạy đến trước mặt làm lễ nghênh đón rồi hỏi:

- Sao Hoàng Thượng lại đến vậy? Làm bệnh thần không biết, không kịp nghênh đón từ xa...

Hoàng Đế Chính Đức cười hì hì giơ cây roi ngựa lên khẽ đánh lên vai y, vờ mắng:

- Bớt khách sáo với trẫm đi!

Đoạn hắn nhìn lướt ra đằng sau vai Dương Lăng, rồi tặc lưỡi nói tiếp:

- Trẫm thật hâm mộ khanh đó! Khanh muốn câu cá thì câu cá, muốn ăn dưa thì ăn dưa, muốn chạy lên trên này ngủ cũng có người khiêng giường trúc đến. Trong khi đó ở trong cung trẫm muốn làm gì cũng đều có người ỉ ôi can gián, bị người ta quản đến nỗi thở không ra hơi. Ài! Khổ quá, thật muốn đổi với khanh một chút để thư thái hưởng thụ mấy ngày.

Dương Lăng nghe xong giật thót mình. Tuy là Chính Đức nói đùa, nhưng từ dạo suýt ăn đao lần trước, Dương Lăng đã không còn dám bất cẩn với những tiểu tiết mà xưa nay y không hề đề ý đến. Y không để ý, Chính Đức không để ý, thì có kẻ khác để ý. Trong mắt một số người thì những thứ này lại là những nghi lễ mà quân thần phụ tử nhất thiết phải tuân theo, nếu không thì sẽ là bất quân bất thần, bất trung bất nghĩa. Dương Lăng thực không dám để cho kẻ khác mượn cớ hạch tội nữa.

Y vội cười theo rồi nói:

- Hoàng Thượng là vua của một nước, bá quan dĩ nhiên hết sức trông mong vào Hoàng Thượng. Bọn họ làm vậy cũng là vì muốn tốt cho Hoàng Thượng thôi.

Chính Đức hậm hực hừ một tiếng. Lúc này Cốc Đại Dụng đi đến bờ sông giặt một chiếc khăn tay, chạy về đưa cho Chính Đức. Chính Đức cầm lấy lau khắp mặt, sau đó kéo tay Dương Lăng lại nhìn nhìn ngó ngó, rồi vui vẻ bảo:

- Ái khanh đã khoẻ, vậy thì tốt, thật tốt! Trẫm khó có được dịp rời cung, mấy cái chuyện rộn tâm này không ai nói với các lão, khanh cũng không cần giả vờ khuyên ngăn nữa. Trẫm biết khanh không giống mấy con mọt sách đó, ha ha... Đi thôi! Đi du ngoạn một chuyến với trẫm cho thật thoải mái, trở về trẫm còn có đại sự muốn thương nghị cùng khanh.

Dương Lăng quay đầu lại nhìn, nhanh chóng đưa mắt ra hiệu cho đám người Ngọc Đường Xuân rời khỏi, sau đó ngần ngừ hỏi:

- Vậy..., nếu Hoàng Thượng không ngại thì cùng đi nghe đàn uống rượu, cùng nhau câu cá có được không?

"Danh tiếng" háo sắc của vị Hoàng Đế Chính Đức trong lịch sử quá "lẫy lừng" đi. Tuy Dương Lăng không thông thuộc chính sử nhưng đã đọc không ít giai thoại dã sử. Trong những giai thoại về Chính Đức, có giai thoại nói rằng ban đêm Hoàng Đế dạo chơi Tuyên phủ, thấy một hộ gia đình liền đi vào, tự mình kêu mấy nữ quyến vừa ý vào buồng, bảo đàn ông của gia đình đó chờ ở trong sân; sau khi chơi đã lại đi đến nhà khác chơi tiếp. Lúc Dương Lăng đọc đến đoạn cố sự này, ngoại trừ có đôi chút hoài nghi về quan điểm thẩm mỹ "bụng đói vơ quàng" và năng lực "siêu khoẻ" của Hoàng Đế Chính Đức, y không hề nghi ngờ tính thật giả về sự háo sắc của nhà vua. Dẫu sao thì lịch sử cũng là do "nhiều miệng một lời" mà ra.

Từ lúc khéo duyên quen biết Hoàng Đế Chính Đức đến nay, tuy trước mắt vẫn chưa thấy chút dấu hiệu háo sắc nào của hắn, nhưng hoàn cảnh hôm nay, tư tưởng này, ờ... thật sự rất dễ khiến cho người ta "no cơm ấm cật, dậm dật linh tinh" lắm. Hơn nữa Chính Đức đang dần trưởng thành, cũng đã sắp kết hôn, ngộ nhỡ đụng vào con gái rồi "đầu óc mở mang" thì sao? Không thể không đề phòng à nha!

Dương Lăng hơi cảnh giác, cho nên muốn điều nữ nhân rời xa, dụ Chính Đức đi câu cá. Không ngờ Hoàng Đế Chính Đức nghe xong cau mày, mất kiên nhẫn:

- Nghe nhạc, câu cá thì có gì hay mà chơi chứ? Đi! Nếu khanh đã khoẻ, đi điều thân quân của khanh đến, cùng trẫm đi vào trong núi diễn võ. Xem binh sỹ đánh trận, như vậy chơi mới vui.

Số thân quân hiện giờ Dương Lăng có thể cung ứng thao luyện chỉ có năm trăm người, nhân số tuy ít nhưng tinh, đạn dược cũng rất là sung túc, cho nên theo yêu cầu của Dương Lăng, hằng ngày vào núi luyện quân là chuyện bình thường. Dương Lăng không ngờ Chính Đức nói muốn đi chơi lại là chơi súng ống đạn phá. Cái này thì dễ xử. Y thở phào một hơi, vội tâu:

- Nếu như Hoàng Thượng muốn xem luyện binh, vậy thì dễ. Có điều long thể quý trọng, khi lên núi Hoàng Thượng cần phải ở trong công sự quan sát, không nên khinh suất hiện thân.

Chính Đức mừng rỡ đáp:

- Điều này có gì là khó chứ! Đi, đi, đi!

Nói rồi hắn không nhẫn nại lôi tay Dương Lăng, quay về phía Ấu Nương gọi:

- Ấu Nương tỷ tỷ! Trẫm và Dương thị độc đi xem luyện quân đây, các người tự câu cá nghe nhạc đi nhé.

Mắt cá chân Dương Lăng mới lên da non nên y không dám đi quá nhanh. Y vẫy tay chào Hàn Ấu Nương rồi theo Chính Đức đang vui mừng khấp khởi đi trên con đường nhỏ trong núi. Thuận tay y ngắt một nhánh ngải xanh đậm mùi đưa lên mũi ngửi, thoải mái hỏi:

- Hoàng Thượng có đại sự gì muốn thương nghị cùng thần vậy? Là muốn thần đi đôn đốc kiến tạo Thái Lăng sao?

Chính Đức vẫn bước đi phía trước, thuận miệng đáp:

- Chuyện của Thái Lăng khanh cử một người nào khác đi là được. Hiện giờ mấy người Đới Nghĩa ra sức rất nhiều, trong triều cũng không thấy còn ai ồn ào nữa, những chuyện này không cần khanh bận tâm. Khanh không biết chứ, bây giờ Lục Bộ đã khuyết mất vài viên quan, trẫm không muốn lại dùng mấy lão già tóc bạc, muốn bổ nhiệm khanh làm thượng thư bộ Hình. Nhưng đám lão già không chịu, nói là uy đức và tài trí của khanh không đủ để đảm nhận trách nhiệm to lớn như vậy, làm trẫm tức mà không biết phải làm sao. Không ngờ Đại Dụng thông minh, đã hiến một biện pháp hay cho trẫm.

Vừa nghe mấy vị thái giám đại ca này lại đề xuất biện pháp giúp y, tim Dương Lăng không khỏi đập thình thịch. Y lại nghe Chính Đức hùng hồn nói tiếp:

- Không phải bọn họ nói khanh không đủ tài trí, không kham nổi trọng trách ư? Trẫm cho phép khanh tham dự Kinh Diên , khiến cho đám lão già đó phải chấn động. Đúng rồi... khanh biết Kinh Diên chứ?

Từ sau khi Chính Đức kế vị, bá quan không ngừng dâng sớ thỉnh cầu Hoàng Đế mở lại Kinh Diên, Dương Lăng sớm đã nghe qua, sao lại không biết Kinh Diên này là cái gì chứ? Y vừa nghe Chính Đức cho phép y tham dự Kinh Diên, đi đàm kinh luận đạo, nghị luận điển chương văn học, đại sự triều chính với những văn võ bá quan đầy bụng kinh thư, vị Dương tú tài mạo danh thế thân, hữu danh vô thực này liền sợ đến nỗi trong ngực lập tức như có mấy trăm con ếch Ỡtrong giếng đang kêu "bà thùm, bà thùm, bà thùm".

Chú thích:

Trúc Tương phi: trúc đốm. Tương truyền Vua Thuấn đi tuần ở Thương Ngô rồi băng hà, hai vợ Vua Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh thương chồng than khóc ở khoảng giữa hai sông Trường Giang và Tương Giang. Nước mắt hai bà vẩy lên cây trúc, từ đó da trúc có đốm.

phủ Chiêm Sỹ là cơ quan phụ trách trợ giúp Thái tử thời Minh. Phủ được bố trí một Chiêm sỹ hàm Chánh tam phẩm, một Thiếu chiêm sỹ hàm Chánh tứ phẩm, một Phủ thừa hàm Chánh lục phẩm. Phủ Chiêm Sỹ lập Tả hữu xuân phường, cục Tư Kinh, và ty Chủ Bộ.

Cổ cầm: một loại đàn cổ. Theo truyền thuyết, cây đàn cổ cầm được sáng chế vào thời Nghiêu Thuấn, và chỉ có năm dây thôi nên được gọi là "ngũ huyền cầm". Về sau, mỗi vị hoàng đế Văn và Võ thêm dây vào làm thành cây đàn bảy dây hay "thất huyền cầm". Hai dây thứ sáu và thứ bảy được gọi là dây Văn và dây Võ.

đây là những câu thơ trong bài "Xuân nhật li hợp" (Chia ly ngày xuân) của nhà văn học Dữu Tín (51381) thời Bắc Chu.

Nguyên văn:

Code:

田家足闲暇,士友暂流连。

三春竹叶酒,一曲鹍鸡弦

Dịch nghĩa:

Cuộc sống nhà nông khá nhàn hạ,

Bạn bè lưu luyến đến chơi.

Ba tháng xuân ngồi uống rượu Trúc Diệp,

đàn một khúc tỳ bà.

Dịch thơ:

Nhà nông cuộc sống an nhàn,

Bạn thân lưu luyến hàng ngày sang chơi.

Ngày xuân rượu Trúc đem mời,

Đàn ca một khúc tỳ bà thêm vui.

nguyên văn là "tiễn y" hay "tiễn tụ y", là loại trang phục mà ống tay áo được sít chặt. Xem hìnhhttp://imgsrc.baidu.com/baike/pic/it...151d95831c.jpg

nơi Hoàng Đế nghe quần thần đàm luận kinh sử gọi là "Kinh Diên". Xem hìnhhttp://imgsrc.baidu.com/baike/pic/it...1962d09f92.jpg

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 107: Mở lại Kinh Diên

Dương Lăng chưa từng thống lĩnh quân đội. Tuy nhiên tướng lĩnh dưới trướng y đều là những kẻ kinh qua chiến trận mà lên chức. Dương Lăng chỉ cần truyền thụ cho họ những lý luận kiến thức nửa vời của mình rồi kết hợp với kinh nghiệm tác chiến của bọn họ vào mà thôi.

Từ khi thủ hạ chỉ còn năm trăm thân quân, y đã có thể tự mình đối phó. Để huấn luyện năm trăm thân quân này, Dương Lăng không sử dụng phương pháp huấn luyện binh sỹ mà dựa theo phương pháp huấn luyện quan quân (sĩ quan).

Trong những người này không thiếu nhân tài có năng lực quân sự khá cao. Được tướng lĩnh truyền thụ và sự ủng hộ mạnh dạn của Dương Lăng, bọn họ đã sử dụng nhuần nhuyễn các phương cách chiến lược và chiến thuật tiến công, phòng thủ, triệt thoái, mai phục, vu hồi , biến đội quân bên trong thành đội quân bên ngoài, bao vây bọc sườn, lấy hoả khí làm chủ ...

Tuy nhiên với tuổi tác của Hoàng Đế Chính Đức hiện nay, tạm thời hắn chưa thể lĩnh hội được nhiều đến như vậy. Trong thâm tâm, tiểu Hoàng đế hận không thể tự thân xông trận cầm đao giết giặc. Chơi như vậy mới đã. Quân đội của y hiện tại đang dùng hoả khí nên Dương Lăng sao dám để Hoàng đế mạo hiểm. Tuy nhiên tận mắt chứng kiến từng đợt tiếng súng, tiếng pháo nổ rền trời cũng khiến cho vị Hoàng đế chưa từng thấy cảnh này phải xoa tay, không kìm được hào hứng phán:

- Sau đại hôn trẫm muốn diễn võ trong cấm cung. Hoả khí quả thật lợi hại. Lúc đó điều lính đao thương ra, trẫm sẽ cùng khanh đối chiến.

Dương Lăng ậm ờ vâng dạ. Để tiểu hoàng đế tinh lực dồi dào này tập võ luyện binh chưa hẳn đã là chuyện xấu. Có lẽ lúc đầu phần lớn thời gian sẽ chỉ là nghịch phá, song lâu ngày chầy tháng hắn nhất định sẽ hiểu thêm vài điều về lĩnh binh, dụng binh. Lúc đó nếu mình lại cố ý đánh bại hắn mấy lần, với tính cách cứng đầu của tiểu hoàng đế, chắc chắn hắn sẽ nghiêm túc nghiền ngẫm binh thư.

Đột nhiên Dương Lăng lại suy tưởng lung tung nhưng bị chuyện Kinh Diên đè nặng trong lòng nên hiện giờ y không còn tâm tình nghĩ ngợi nhiều như vậy nữa.

Để mình tham gia Kinh Diên ư? Mình sẽ nói gì đây? Nếu anh biết thế giới năm trăm năm sau sẽ ra sao, liệu anh có dám đứng trên bục giảng đại học Thanh Hoa mà vung tay múa chân trước mặt đám giáo sư không?

Dương Lăng tạm nén mối lo âu này lại, cố nặn bộ mặt tươi cười tiễn vị Hoàng Đế Chính Đức đang rất cao hứng ra về rồi mới chau mày nhíu mặt quay về phủ. Lúc y bước vào hoa đình ở hậu viên, hai tỳ nữ trông thấy lão gia đã về liền vội vàng bước tới làm lễ. Tâm tư đang đặt ở nơi khác nên Dương Lăng hờ hững gật đầu rồi đưa mắt nhìn quanh, hỏi:

- Phu nhân đâu?

Cô thị tỳ này là Cao Văn Lan, nguyên là tiểu thư cháu nhà họ Cao, Dương Lăng cũng không nỡ để nàng làm mấy công việc nặng nhọc thấp hèn nên giữ lại nội viện làm Tổng quản thị tỳ. Nàng vội vã trả lời:

- Phu nhân và cô nương Tuyết nhi cùng tỷ tỷ Văn Tâm đã ra hậu viên hái rau, một lúc nữa sẽ quay về.

Hàn Ấu Nương không chịu an nhàn. Phía sau nội viên nhà họ Cao có mảnh đất trống, Ấu Nương thấy tiếc nên đã khai phá một mẫu để trồng trọt nhiều loại rau củ mới. Lúc đầu nàng cũng chỉ dám đứng ngoài chỉ trỏ, sau thấy Dương Lăng có ý làm ngơ như không thấy, thế là nàng liền thay bộ đồ thô, xắn tay áo tự thân "xông trận".

Trong việc đồng áng, nàng còn tinh thông hơn cả mấy nha đầu trong phủ. Dưới sự trông nom và làm việc chuyên chú của nàng, rau củ trên mảnh đất này phát triển rất tốt. Những rau củ tươi xanh trong phủ dùng mỗi ngày đều là mấy loại tự trồng.

Dương Lăng ờ một tiếng rồi bước vào thư phòng. Ngồi xuống nghế, nhìn những quyển sách đóng bằng chỉ trên giá, y chợt nghĩ đến hai chồng bí tịch võ công dầy cộp mà khi Vi Tiểu Bảo tiến cung Trần Cận Nam đã bắt gã học.... "Giống như mình bây giờ!" Dương Lăng không khỏi cười khổ.

Ngoài cửa thấp thoáng một bóng áo xanh, tựa như có người nhẹ nhàng lướt qua, Dương Lăng cũng không chú ý. Ngay sau đó người nọ chợt quay lại, kinh ngạc mừng rỡ kêu lên:

- Lão gia về rồi!

Dương Lăng ngẩng đầu nhìn. Người thị tỳ xinh đẹp vận áo xanh đang đứng trước cửa chính là Ngọc Đường Xuân. Dường như nàng mới vừa đi phơi quần áo xong, tay áo vén lên một nửa để lộ hai cánh tay trắng muốt như ngó sen. Khuôn mặt trắng thuần chưa trang điểm nhưng vẫn đẹp ngời ngời.

Trông thấy Dương Lăng vẫn còn mặc giáp trụ, khuôn mặt không chút tươi cười, nàng lanh trí vội bước đến hỏi thăm:

- Lão gia đang có tâm sự phải không?

Làm sao Dương Lăng dám nói thật mình sắp đi thi chứ, doạ chết người à? Y vội gượng cười đáp:

- Ờ, không có gì! Vừa rồi lên núi hầu Hoàng Thượng diễn binh nên hơi mệt thôi.

Lúc này Ngọc Đường Xuân mới thư thái trở lại, không nhịn được cười yêu kiều một tiếng rồi nhẹ nhàng bước đến, nói:

- Thân thể lão gia khoẻ thật, cứ mặc khôi giáp nặng như vầy mà lên núi, thảo nào ...!

Vốn dĩ Dương Lăng phải quay về doanh trại thay khôi giáp. Chỉ vì trong lòng có tâm sự, vả lại đưa tiễn Chính Đức xong về nhà gần hơn cho nên y đã đi thẳng về nhà.

Ngọc Đường Xuân nói:

- Lão gia, để tiểu tỳ cởi giáp trụ cho người nghỉ ngơi một chút nhé.

Dương Lăng đứng dậy, nhíu mày bảo:

- Đã bảo không cần tự xưng là tiểu tỳ, sao vẫn cứ gọi như vậy?

Ngọc Đường Xuân đang giúp y cởi dây đai lụa (ti thao) trên giáp, nghe thấy thế khuôn mặt xinh xắn không hiểu sao chợt đỏ bừng. Nàng thẹn rũ rèm mi, lúng túng:

- Tiểu tỳ vẫn chưa... vẫn chưa... Hoàng Thượng còn chưa tổ chức đại hôn mà!

Cô nàng xấu hổ không dám nói thẳng ra bèn chuyển sang nhắc chuyện đại hôn của Hoàng Đế. Dù sao thì hiện giờ ai cũng đều biết đại hôn của hoàng đế chính là đại hôn của Dương Lăng. Dương Lăng nghe xong ngượng nghịu không nói thành lời.

Khôi giáp của y được chế tạo tinh xảo, không những oai vệ, tinh tế mà còn rất nặng. Trên các ngăn giữa của kệ sách đều là sách vở, Ngọc Đường Xuân tháo xong kiễng chân định để khôi giáp lên ngăn trên, song không đủ sức bèn ngồi xuống đặt nó ở dưới.

Dương Lăng nhìn bóng lưng nàng, đường cong lung linh, kiều diễm động lòng người, bộ đồ thị tỳ màu xanh vừa vặn ôm khít thân hình. Lúc này nàng ngồi xổm xuống, thấy rõ bờ mông tròn trịa đầy đặn như vẽ bằng com-pa, mê người khôn tả. Dương Lăng chột dạ, vội dời mắt, về chỗ mình ngồi rồi cầm bừa một quyển sách lên xem.

Chợt cảm thấy vai hơi trĩu xuống, Dương Lăng ngẩng đầu lên, chỉ thấy hai bàn tay thon thả đang đặt trên vai nhẹ nhàng xoa bóp cho mình, y bỗng nghĩ tới vận mệnh éo le của Tô Tam. Nguyên số mệnh đã định sẵn Tô Tam phải lưu lạc chốn phong trần. Đầu tiên là gả làm thiếp thương gia, trải qua họa lao tù, cuối cùng gả cho Vương Cảnh Long. Còn về phần sau khi trở thành thiếp thất của Vương Tam nàng có được hạnh phúc hay không là chuyện không thể biết được. Dù sao thì câu chuyện này cũng có một kết cục viên mãn.

Còn bây giờ thì sao? Ma xui quỷ khiến thế nào mà người con gái thông minh xinh đẹp này lại đến bên mình, Vương Cảnh Long thì gặp họa bị đày đi Thái lăng. Vận mệnh của nàng rồi sẽ như thế nào? Tương lai rồi sẽ lại lưu lạc nhà ai?

Dương Lăng bỗng cản bàn tay nàng lại, khẽ hỏi:

- Tô Tam, năm nay cô bao nhiêu tuổi?

Bị bàn tay y chặn lên mu bàn tay mình, Ngọc Đường Xuân không khỏi đỏ mặt, đáp:

- Lúc Nhất Xứng Kim mua tiểu tỳ về, khi đó tiểu tỳ mới bảy tuổi, bây giờ tiểu tỳ đã mười lăm tuổi rồi.

"Mười lăm...", Dương Lăng trong lòng máy động, liền hỏi:

- Người nhà của cô... Cô còn nhớ không? Nếu như có cơ hội gặp lại...

Ngọc Đường Xuân nhanh chóng ngắt lời y:

- Tiểu tỳ không có người thân!

Dương Lăng không nói được gì, lúc này mới ngẫm lại: "Nàng bị cha mẹ vì mấy trăm văn tiền mà bán cho kỹ viện, lúc đó nàng đã bảy tuổi, làm sao lại không nhớ chuyện đó? Làm sao có thể bảo trong lòng không hề oán hận được?"

Ngọc Đường Xuân dựa sát một chút, giọng khe khẽ:

- Tiểu tỳ xuất thân hàn vi, lại lưu lạc chốn phong trần, sớm đã quên mình đến như thế nào và sẽ đi về đâu. Từ khi vào nhà họ Dương, gặp được lão gia và phu nhân, tiểu tỳ như đã đến được chốn tiên, một ngày trôi qua còn vui vẻ hơn cả một năm. Hôm nay nhà họ Dương chính là nhà của tiểu tỳ, người và phu nhân chính là người thân của tiểu tỳ.

Nàng vừa dựa người lại gần, Dương Lăng chợt cảm thấy bờ vai đang khoác một lớp áo mỏng của mình có một cảm giác kỳ dị, loại cảm giác đàn hồi mà lại mềm mại tuyệt vời. Dương Lăng lập tức hiểu đó là bầu ngực của nàng. Tim y không kềm được bắt đầu đập thình thịch, dây thần kinh xúc giác trên khắp người trong nhất thời tựa hồ đều tập trung lên vai phải.

Y thả sức cảm thụ cảm giác mỹ diệu tiêu hồn, thứ cảm giác mềm mại, có tính đàn hồi đó. Nàng ấy mới mười lăm tuổi a! Chẳng lẽ vưu vật trời sinh đều phát dục sớm thế này ư?

Hình như trời càng lúc càng nóng, những con ve sầu ngoài cửa sổ đã kêu đến phát phiền. Sao lại chẳng có một tí gió nào thế nhỉ?

Ngọc Đường Xuân càng nói càng xúc động, như thể đang kể chuyện trong vô thức:

- Ấu Nương tỷ tỷ đã từng kể cho chúng tiểu tỳ về nỗi lo âu của người. Lão gia, người suy nghĩ sâu xa cho chúng tôi đến như vậy, tiểu tỳ và Tuyết Nhi trong lòng cảm kích không biết bao nhiêu mà kể. Từ trước đến nay kẻ khác chỉ thích tướng mạo của chúng tiểu tỳ, nào có ai lo nghĩ cho chúng tiểu tỳ nhiều như vậy đâu chứ?

Dương Lăng cảm thấy mu bàn tay mát lạnh, từng giọt nước mắt trong vắt đã nối đuôi nhau lã chã rơi xuống:

- Cuộc đời như là một giấc mơ. Ngọc Nhi chỉ hy vọng rằng mình khổ lâu như vậy rồi sẽ có thể kết thúc bằng một giấc mơ đẹp. Mộng dài hay ngắn, ai có thể so đo chứ. Chẳng phải có câu 'Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân gian vô số' (đã chú ở chương 44) đó sao? Sao lão gia lại có thể có suy nghĩ kỳ quái như vậy? Lão gia không biết trái tim của Ngọc Nhi đã trao cho lão gia từ lâu rồi sao?

Được người đẹp như hoa như ngọc nỉ non bên tai như vậy, ai còn có thể giữ vững được "lòng son dạ sắt"? Dương Lăng đã tạm thời vứt bỏ cái bí mật phiền não chôn sâu tại đáy lòng, chỉ muốn quay người lại an ủi nàng mấy câu. Song y vừa cựa vai, Ngọc Đường Xuân phát giác mình kề sát như vậy thành quá đỗi ám muội, buột miệng kêu lên một tiếng thánh thót rồi rụt người lại.

Dương Lăng quay đầu lại, chỉ thấy mỹ nhân nổi danh trong lịch sử đang nồng nàn nhìn mình với một đôi mắt đẫm lệ, song trên khuôn mày ửng hồng thẹn thùng lại nở một nụ cười ngọt ngào như đường như mật, có một một vẻ dịu dàng đôn hậu như thể tuỳ tiện là có thể chiếm được.

Trong lòng Dương Lăng bùng lên hào khí nam nhân "Mỹ nhân lưu truyền thiên cổ này cũng có thể bị mình chinh phục, mình còn sợ gì nữa chứ? Chẵng lẽ Kinh Diên thì sẽ rất đáng sợ sao? Chẵng lẽ mình không chinh phục nổi mấy lão già cổ hủ ư?"

Y bỗng đứng phắt dậy, nắm lấy hai tay Ngọc Đường Xuân. Tay Ngọc Đường Xuân bị y nắm chặt, cặp mắt lập tức trở nên say đắm mông lung như đang ngấnước. Chiếc miệng nhỏ nhắn đo đỏ cong cong cũng nửa khép nửa hở, toàn thân đã sắp nhũn ra.

Dương Lăng nắm lấy đôi bàn tay búp măng của nàng, gọi một cách thâm tình:

- Ngọc nhi...

Con tim Ngọc Đường Xuân đập thình thịch, một hồi lâu mới phát ra một tiếng rên rỉ từ cổ họng:

- Dạ? Lão... lão gia...

- Đi! Giúp ta soạn hết tất cả sách sử ra, lão gia ta hôm nay phải đọc sách thâu đêm!

Dương Lăng bừng bừng ý chí.

Ngọc Đường Xuân: "..."

...

Cuối cùng Kinh Diên đã được mở lại.

Những Hàn Lâm học sỹ, Đốc sát ngự sử mà hàng ngày dâng sớ tận lực can gián, thiếu điều viết cả huyết thư đều tung hô chúc tụng, vui mừng khôn xiết: một Hoàng Đế mà không mở Kinh Diên thì sao có thể gọi là Hoàng Đế tốt? Hôm nay thần phật khắp cõi trời đều đã bị tinh thần của bọn họ cảm hoá, cuối cùng thì thiên tử đã quay về với con đường chính đạo của minh quân rồi.

Thế nhưng tin tức tham tướng Dương Lăng của Thần Cơ doanh cũng muốn tham gia Kinh Diên lại khiến cho bọn họ kinh ngạc đến ngây người. Kinh Diên là nơi mà văn võ bá quan và Hoàng Đế giảng kinh luận đạo. Tuy Đại Minh chưa từng có quy định võ tướng không thể tham dự Kinh Diên, nhưng từ trước đến nay chưa từng có một võ tướng nào chủ động tham gia. Cho dù Dương Lăng là một nho tướng đi, song mớ học thức ấy đủ tư cách để thi triển bản lĩnh ở Kinh Diên sao?

Hoàng thượng muốn trao binh quyền cho y, muốn tin yêu trọng dụng y, những thứ đó đều có thể nhẫn nhịn. Nhưng Kinh Diên này là thánh địa của quan văn chúng ta, thứ người như y mà cũng có thể đến sao? Đây chính là một sự khiêu khích nghiêm trọng bậc nhất!

Đây lại là hội Kinh Diên đầu tiên mà Hoàng Đế Chính Đức mở lại, vì vậy mọi con mắt đều đổ dồn vào nó.

Hàn Lâm viện, Đốc Sát viện, Chiêm Sỹ phủ, bao gồm tất cả quan văn trong triều đều như lần đầu vào kinh dự thi: trích dẫn kinh điển, tụng chữ thâu đêm, trải qua bao đắn đo rồi lại cân nhắc, xoá bôi rồi lại bôi xoá, sau cùng viết nên một bài văn chương gấm hoa rực rỡ, thuộc đến làu làu, quyết phải cất tiếng kinh nhân, khiến cho Dương Lăng thấy mà ủ ê chán nản.

Trên điện Văn Hoa, chưa đến giờ mà bá quan đều đã tụ tập, còn náo nhiệt hơn cả lúc thượng triều. Dẫu sao Hoàng Đế Chính Đức cũng đã mở kim khẩu: tất cả bá quan văn võ đều có thể tham gia Kinh Diên lần này, cho nên những kẻ không có việc gì cũng chạy đến xem náo nhiệt.

Ngày hôm nay Kinh Diên được mở lại, ba đại học sỹ của nội các rất xem trọng. Ba người Lưu Kiện, Tạ Thiên và Lý Đông Dương được cử làm Đồng tri Kinh Diên sự. Thượng thư bộ Lại Mã Văn Thăng, Thượng thư bộ Binh Lưu Đại Hạ, Thượng thư bộ Hộ Hàn Văn, Thượng thư bộ Lễ tân nhiệm Luân Văn Tự, tất cả đều có mặt. Giảng quan là Chiêm Sỹ phủ Dương Đình Hoà, Triển thư quan là Hàn Lâm viện Luân Văn Tự.

Hội Kinh Diên này có thể nói là xa hoa chưa từng có.

Đại thái giám ty Lễ Giám Vương Nhạc tự thân dẫn hai thủ lĩnh thái giám, tám tên tiểu thái giám (tiểu hoàng), bưng Kinh, Sử, Tử, Tập đến đặt lên ngự án và giảng án . Vào đến điện Văn Hoa, trông thấy rất đông võ tướng, lão Vương Nhạc liền giật thót mình. Tuy lão đã theo hầu hạ bốn đời Hoàng Thượng mà chưa từng thấy đông đảo võ tướng đến tham gia Kinh Diên như thế này. Thực tế trong đám người này nhiều người chỉ có thể viết được mỗi tên mình, bọn họ chạy đến đây tụ tập náo nhiệt để làm gì?

Mặc dù Vương Nhạc này quyền cao chức trọng, đứng đầu Nội tướng , trong tay nắm giữ Đông xưởng và Tây xưởng, nhưng lại không hề có dã tâm, một lòng trung thành tận tụy. Tuy Đới Nghĩa là thân tín của lão, song sau khi nghe nói lão ta che giấu chuyện lăng tẩm Tiên đế bị thấm nước, Vương Nhạc đã phẫn nộ không kém gì vua Chính Đức. Cho nên đường đường là thủ lĩnh thái giám ty Lễ Giám bị hạ ngục nhưng lão lại không nghe không hỏi, thuỷ chung không hề đếm xỉa đến việc đó. Bởi vì lão có thái độ này, cho nên Đông xưởng Phạm Đình là người có giao hảo với Đới Nghĩa cũng không dám manh động, khiến cho Trương Tú cũng trở nên sợ bóng sợ gió trong việc cứu giúp Dương Lăng.

Giờ đây Đới Nghĩa thoát khỏi ngục tù, lão đã thầm ghi hận việc Vương Nhạc khoanh tay đứng nhìn vào trong lòng. Chỉ là lão già Vương Nhạc này tuy là tổng đầu lĩnh đặc vụ, song không ngờ tính tình lại rất trung thực nên không mảy may nhận thấy điều đó.

Điện Văn Hoa vốn là thế giới của quan văn, nhưng lần đầu kể từ khi Đại Minh lập quốc cho đến nay số lượng võ tướng trong kinh đến tham dự lại không kém hơn bọn họ. Vì thế văn võ bá quan liền theo quy củ thượng triều: quan văn đứng bên trái điện, quan võ đứng bên phải điện.

Phía quan văn tôn Lưu Kiện đứng đầu, bên võ tướng sắp Lưu Đại Hạ làm thủ lĩnh, nhưng lại đưa tham tướng tam phẩm nhỏ nhoi là Dương Lăng đứng ở trước điện. Tất cả võ tướng bất luận phẩm tước cao hay thấp hơn y đều ngầm lui về sau nửa bước, vây quanh y như sao quanh trăng sáng.

Thật xúc động! Thật vinh quang! Hôm nay võ tướng rốt cuộc đã có thể ưỡn ngực thẳng lưng mà bước vào điện Văn Hoa rồi. Còn về phần học vấn của Dương tham tướng... đừng nghĩ rằng những võ tướng này dốt chữ mà vô tri nhé. Trước đó bọn họ đã sớm nghe ngóng rồi. Thần đồng lão tử đại học sỹ Dương Đình Hoà cũng đã từng khen ngợi y, thế thì sao có thể kém cỏi được?

Dương Lăng vững vàng đứng đó, quyết định "nói nhiều không bằng nói ít", cái gì không hiểu kiên quyết sẽ không nói, bắt được cơ hội thì sẽ nói bừa. Nếu bàn luận về Sử, Điển, Đính (đính nghĩa là luận bàn) của Khổng Tử, y một khiếu chẳng thông, ngoại trừ vài câu kiểu "Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên" , "Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ" ra thì y cũng chẳng thuộc được mấy câu. Đấu văn không được, huyên thuyên cả buổi cũng được mà!

Vì lẽ đó, Dương Lăng thân mặc khôi giáp, anh tuấn bất phàm, hai chân không xiên không vẹo đứng nghiêm sừng sững, hai mắt tựa khép mà không khép, nét mặt trầm tĩnh như mặt hồ. Nếu lắp thêm một bộ râu xồm vào, thoạt nhìn nhất định sẽ tưởng rằng ai đó đã khiêng tượng đất của ông thánh Quan Công lên điện.

Lúc trước mấy người thái giám Lưu Cẩn bị Dương Lăng lừa gạt, nghe y kể huyên thuyên về mấy kiến thức nước ngoài, đã thật sự tưởng rằng kiến thức học tập của y bao gồm cả Trung - Tây, không thứ gì không biết. Cho nên bọn họ đã tự tin đề ra chủ ý bao đồng này, làm Hoàng đế Chính Đức mù quáng nghe theo. Không ngờ vừa nghe thời điểm Kinh Diên mở, lần đầu tiên y lại tràn trề hứng thú lên thượng điện nghe giảng.

Hoàng đế Chính Đức bước lên điện ngồi, bá quan ba quỳ chín lạy xong, thị vệ mang đao (*** đao thị vệ) khiêng giảng án đến trước ngự án thư của Chính Đức, quan Hồng lư (11) truyền chỉ khai giảng. Vì đây là lần đầu vua Chính Đức mở Kinh Diên, cho nên Luân Văn Tự và Dương Đình Hoà không kể tràng giang đại hải mà chỉ kể về ý nghĩa quan trọng của việc vua Hồng Vũ mở ra Kinh Diên, đế vương lấy bá quan làm thầy mà học tập kinh điển Nho gia, rồi mỉm cười lui sang một bên, giao chiến trường lại cho bá quan văn võ.

Thượng thư tân nhiệm của bộ Công là lão thần Dương Tuỳ Thủ lập tức bước ra khỏi hàng, bắt đầu bàn về Tứ Thư Ngũ Kinh. Bài luận của lão đã được nghĩ ra từ sớm, bắt đầu nói liền trích dẫn kinh điển, trầm bổng du dương, mỗi khi nói đến chỗ hay, đám quan văn liền nở gan nở ruột, không ngớt lời khen.

Đám võ tướng đang giương to mắt trâu chờ xem đánh trận lại ngáp lên ngáp xuống, thậm chí hai mắt Hoàng Đế Chính Đức cũng dại đi.

Vương lão tiên sinh (tức Vương Ngao, Tả thị lang bộ Lại) lại quyết "truy đuổi tàn binh", đọc làu làu một bài văn bát cổ, thao thao bất tuyệt, khiến cho ngay cả Dương Lăng đang vểnh tai lên hòng moi ra chút đề tài trong đó nghe mà cũng thấy chán nản.

Dương Lăng bèn thầm thở dài một hơi: mấy cái 'hồ' với 'dã' của những người này, nói ra toàn bộ đều coi văn chương là nhất, thỉnh thoảng mới có điểm có thể liên quan đến những sự việc thực. Nhưng bố cục thế giới và phân bố thế lực mà thánh nhân của cả trăm, nghìn năm trước đối diện đã rất khác biệt so với hôm nay, sao chép một cách máy móc thực không có chút ý nghĩa. Cái gọi là Kinh Diên, thật sự cực kỳ nhàm chán, làm khó cho con cháu của lão Chu gia rồi. Làm sao mà bọn họ có thể chịu đựng được hơn cả trăm năm nay nhỉ?

Vương Ngao nói xong lui xuống, Dương Phương lại đã "mình trần xông lên". Con của y là Dương Lâm, cùng hội với Cảnh Long hãm hại Dương Lăng. Mặc dù có tam đại học sỹ cầu xin, nói rằng con y nhỏ tuổi không hiểu chuyện, ham mê hư vinh, hùa theo gây rối, cho nên Chính Đức cũng không trừng phạt, song đã hạ chỉ mắng nhiếc Dương Phương thậm tệ một trận.

Ai mà không tin con mình chứ? Huống chi Dương Phương vốn cho rằng Dương Lăng nịnh hót nhà vua, là một tên tiểu nhân văn dốt võ dát. Lạnh lùng trộm liếc Dương Lăng đang đứng thẳng hiên ngang, mắt chỉ nhìn thẳng, Dương Phương cau hai hàng lông mày lại, cất cao giọng:

- Vừa rồi Dương đại nhân và Vương đại nhân đã nói về Tứ Thư Ngũ Kinh và đạo thánh nhân. Kinh điển ấy đã kể xong, nay thần xin kể đến lịch sử một chút.

- Bệ hạ, từ xưa các bậc quân vương trị thiên hạ đều lấy đạo đức giáo hoá bốn phương, lấy văn võ làm cánh tay trị vì bách tính, thế nên tuyển hiền chọn đức, dụng kẻ anh tài, gần gũi hiền thần, xa lánh tiểu nhân, ấy mới thành thánh nhân; mà thân cận tiểu nhân, lánh xa hiền thần thì sẽ ham vui khoái lạc, bỏ bê chính sự, khiến cho tiểu nhân lộng quyền, triều chính hủ bại. Xưa Hán Linh đế mù quáng tin bọn Thập thường thị (12), Lương Vũ đế mê tín đạo Phật, Ninh Huy Tông sủng tin Đồng Quán, Thái Kinh mà sa vào ăn chơi, triều chính bị một đám gian thần lộng quyền nắm giữ, đổi trắng tay đen (lược dịch "âm mạo vu dương", đổi âm thành dương), tôi thần khi quân, tiểu nhân chuyên quyền, dưới thì phản trên, khiến cho nước mất nhà tan, đó nên là tấm gương cảnh báo cho đời sau.

Hoàng đế Chính Đức hả miệng ngáp to, cặp mắt lờ đờ bảo:

- Trẫm không mở Kinh Diên, các người la khóc đòi mở. mở Kinh Diên rồi, chẳng lẽ để các ngươi kể lể những thứ gọi là kinh sử này sao?

Vu: đi, Hồi: về. Thuật Vu hồi để chỉ một cách đánh vòng lại (sau lưng hoặc trước mặt), công thủ đều dùng được. Thuật này phụ thuộc vào địa hình, là một chiến thuật thường được áp dụng trong quân sự (và cả kinh doanh).

một kiểu đóng sách truyền thống của Trung Quốc, sợi chỉ lộ rõ ra bìa ngoài. Xem hình: http://imgsrc.baidu.com/baike/pic/it...27349bf7c0.jpg

Hiện nay, những tiệm cho thuê sách vẫn đóng sách như thế.

thường võ tướng thời ấy dốt chữ, nên những kẻ biết chữ thì được gọi là "nho tướng"

vị quan giảng giải, thuyết minh trong hội Kinh Diên

quan giở sách (trong Kinh Diên)

"Kinh, Sử, Tử, Tập" là Kinh điển, Lịch sử, Chư tử, Văn tập

bàn của Giảng quan

Chỉ tất cả thái giám.

nghĩa đen: trong ba người cùng đi ắt có một người là thầy ta. Nghĩa bóng chỉ sự quan trọng của tập thể.

nghĩa là: học mà thực hành theo điều mình học há chẳng vui sao?

(11) hay còn gọi là "Tự khách", là quan trông coi lễ tân.

(12) chỉ bọn hoạn quan thao túng chính quyền thời Linh đế nhà Đông Hán.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 108: Suýt rơi vào bẫy

Đồng Quán là một trong số "Lục tặc" thời Bắc Tống . Dương Phương nói Hán Linh đế tin sủng Thập thường thị, Lương Vũ đế mê tín đạo Phật, đều không hề nêu ra danh tính của bọn gian nịnh đó, duy chỉ khi nhắc đến thời Tống Huy tông thì mới nêu đích danh ra, lại còn đem đặt đại tướng quân Đồng Quán lên trước quyền tướng Thái Kinh, rõ ràng là có ngụ ý. Các võ tướng "dốt nát ngây ngô" nghe không hiểu, nhưng các quan văn đã sớm to nhỏ thì thầm ở bên dưới.

Dương Phương thấy mình khổ tâm một phen mà Hoàng Đế Chính Đức lại không hiểu ý, nên cũng không cố dùng lời ám dụ nữa, đành phải quỳ xuống tâu:

- Đọc sử chính là để răn dạy người sau, Hoàng Thượng nên thông hiểu đạo đức văn chương, chăm thờ quang minh chính nghĩa, kính thiện trọng đức, báo đáp công ơn, thì dù có chắp tay giũ áo (bỏ mặc không làm gì) mà vẫn khiến thiên hạ vẫn thái bình. Giờ đây Hoàng Thượng ham mê bắn cung, cưỡi ngựa, xao nhãng đọc sách. Nghe nói Hoàng Thượng đã nhiều lần tự ý rời khỏi hoàng cung đi Tây giao (ngoại thành phía tây) xem võ. Cứ trầm mê vào những trò vặt này thì không phải là việc làm của một vị vua tài đức đâu.

Dương Phương vừa dứt lời, trên điện chợt có một giọng nói ung dung cất lên:

- Hoá ra ham mê bắn cung cưỡi ngựa thì không phải là quân vương tài đức. Đại nhân đọc sách sử thật hay! À, hoá ra vua Tần và Hán Vũ cho diễn võ trong cấm cung, mở mang bờ cõi, đều không phải là những vị vua tài đức sao?

Dương Phương liền xoay người, thấy kẻ đáp lời là Dương Lăng thì lập tức nói ngay:

- Khổng Tử nói:...

Dương Lăng lại nghe là "Tử viết (Khổng Tử nói)(*)" thì lập tức cướp lời luôn:

- Tử viết "Ngươi đừng có nói, câu nào cũng đều là dùng của ta hết."

(*)Viết: từ cổ, nghĩa là nói.

- Ha ha ha ha...!

Lần này không những đám võ tướng không quản Hoàng Thượng đang ngồi trên, buột miệng lớn tiếng cười vang, thậm chí rất nhiều quan văn cũng không nhịn được mà che miệng cười. Về sau bọn võ tướng lấy câu "danh ngôn" này của Dương Lăng làm vũ khí có tính sát thương hữu hiệu để đối phó với quan văn, khiến cho một nửa số quan văn thường ngày luôn dùng "Tử viết" đành nghẹn họng, trợn trắng cả mắt.

Lý Đông Dương vội ho khan vài tiếng, giấu vẻ buồn cười, nghiêm giọng:

- Dương đại nhân! Trên triều đường, trước mặt Hoàng Thượng, không thể đem thánh nhân ra làm trò đùa!

Dương Lăng lia mắt nhìn, quả nhiên thấy rất nhiều quan văn đang vô cùng tức giận, bất mãn, liền quay sang Lý đại học sỹ cười nói:

- Đại học sỹ thứ tội! Hạ quan chỉ cảm thấy thời của Khổng thánh nhân là từ thời Xuân Thu chiến quốc. Bố cục, tình thế, nhân văn, triều chính và kinh tế của các nước thời ấy so với hiện tại hoàn toàn bất đồng. Qua nghìn năm bể dâu, người và vật đều đã không còn. Thánh nhân dạy mọi người "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín", tất nhiên lúc nào cũng đúng, thiên thu không đổi. Nhưng quan điểm và nhận định của thánh nhân đối với triều chính lại chỉ nhắm vào nền chính trị đương thời. Nếu như người thời nay cứ trích dẫn lung tung, khăng khăng không sửa đổi, giả danh thánh hiền để nói xàm nói bậy, chẳng những sẽ hại nước hại dân mà còn bôi nhọ danh dự thánh nhân.

Thật ra, chỉ cần bước ra làm quan, chân chính tách rời khỏi đám văn nhân ôm sách vở, các quan viên nhà ta khi thực thi triều chính đều đã sớm cảm thấy nếu chỉ dựa vào thành tích học tập thánh nhân sẽ không đủ để trị thiên hạ, nên "Nửa bộ Luận Ngữ trị thiên hạ" chẳng qua chỉ là câu nói "tự sướng" mà thôi. Các đại hiền thần đều xưng là môn đồ của Khổng - Mạnh, nhưng phương châm quản lý triều chính đã sớm bóp nặn theo học phái của Hoàng lão rồi . Bọn họ ngoài miệng thì nói chuyện xúc động lòng người, nhưng trong lòng cũng không tin chỉ bằng mấy câu lưu truyền của thánh nhân là đã có thể giải quyết hết thảy mọi vấn đề.

Chính vì vậy, sau khi nghe y giải thích xong, Lý Đông Dương không nói gì tiếp. Dương Lăng quay sang Dương Phương hỏi:

- Dương đại nhân nói chỉ cần thông thạo đạo đức văn chương thì có thể chắp tay giũ áo trị thiên hạ, còn diễn binh tập võ lại là trò vặt. Vậy hiện nay Miêu Cương gây loạn, Thát Đát như hổ đói rình mồi, đây là hoạ lớn trước mắt cả trong lẫn ngoài Đại Minh, phải chăng chỉ dựa vào giáo hoá thì có thể bình ổn? Chỉ trọng giáo hoá, không trọng dân sự, không trọng quân sự, quốc gia có thể ổn định lâu dài sao?

Dương Phương nghe vậy thì khinh thường đáp:

- Một đám lưu vong gây loạn bất quá chỉ là thứ bệnh ghẻ mà không phải là cái hoạ của xã tắc. Người Thát Đát cậy vào địa thế hiểm trở của man hoang, không hề có chí lớn, sao đáng để lo. Chuyện bé xé to, bất quá chỉ là lớn tiếng hù dọa mà thôi.

Dương Lăng vỗ tay, cười nói:

- Diệu thay! Dòng nước lũ Trần Thắng và Ngô Quảng chỉ là thứ bệnh ghẻ, bọn người man dã Nguyên Mông không đáng để lo. À! Hẳn là Đại Tống năm xưa đã có rất nhiều "hiền thần" có suy nghĩ như ngài đấy.

Dương Phương đỏ mặt, giận dữ nói:

- Trần Thắng, Ngô Quảng phản bội là do sự bạo ngược, vì bạo Tần không am hiểu việc giáo hoá, hà khắc với dân, nên dân chúng mới nhất hô bá ứng cùng nhau nổi dậy.

Dương Lăng vặn hỏi:

- Vậy nhà Nguyên diệt Tống thì sao? Người Nguyên là nước chính nghĩa sao? Người Nguyên không đáng để lo sao?

Vương Ngao nhảy ra đáp:

- Đó là chuyện khác! Giờ đây người Nguyên chia năm xẻ bảy, chỉ đóng ở nơi hoang vắng, giống như dã nhân, có gì đáng sợ?

Dương Lăng phản bác:

- Vốn người Nguyên đến từ quan ngoại, không phải đã vào làm chủ Trung Nguyên sao? Nay họ lại quay về quan ngoại, vậy việc ngăn người Nguyên vẫn ở quan ngoại thì không đáng quan tâm à?

Thượng thư bộ Công là Dương Thủ Tuỳ bước khỏi hàng nói:

- Nay đã khác trước, giờ đây bốn bể yên bình, quốc thái dân an, vì vậy chỉ cần thực thi chính sách nhân đức cho dân là đủ. Người Thát Đát sinh sống ở vùng đất bần hàn, lấy du mục để sinh tồn, thông thạo cưỡi ngựa bắn cung, không sở trường về nông canh như ta, so võ với họ là không khôn ngoan. Cho nên chỉ cần lấy một đội quân ngăn bọn dã man này ở ngoài biên cương là đủ. Nội loạn không phát sinh thì bọn họ làm sao có thể thừa cơ?

Dương Lăng giơ một ngón tay lên, nói:

- Thứ nhất, "bốn bể yên bình, quốc thái dân an", nói một chút cho sướng miệng cũng không phải là không được, nhưng làm bề tôi thờ chúa, lúc nào cũng phải có ý thức lo toan. Không phải có câu nói "sống phải lo toan, chết mới được an nhàn" đó sao? Lúc này nền chính trị nhân từ của Đại Minh ta rất được lòng dân nhưng đáng tiếc mấy năm nay thiên tai không dứt, trong nước thỉnh thoảng có những kẻ cùng đường tụ tập làm bừa. Những chuyện này không chịu tâu cho Hoàng Thượng biết, ngài lại luôn miệng nói "bốn bể yên bình, quốc thái dân an" ở trước mặt Hoàng Thượng là có ý gì?

Dương Thủ Tuỳ giận vểnh cả chòm râu hoa râm. Câu nói đó của lão chính là kiểu nói sáo rỗng, kẻ nói không có tâm, người nghe không để ý, vậy mà Dương Lăng lại dùng nó để xoi mói câu chữ khiến cho ông lão này giận đến run người.

Dương Lăng lại giơ thêm một ngón tay, nói tiếp:

- Thứ hai, ngài nói "nay đã khác trước", như vậy cũng thừa nhận việc thực thi chính sách nên thay đổi tuỳ thời, tuỳ nơi, tuỳ tình thế đúng không? Vậy nếu cứ ôm khư khư lấy quy tắc cũ, không biết biến hóa thì cũng là điều mà thánh nhân dạy ngài đấy ư?

- Thứ ba!!!

Dương Thủ Tuỳ vừa tính mở miệng, Dương Lăng đã quát to một tiếng, chặn ngay lão lại. Nếu để lão già này thuyết một hồi tràng giang đại hải, Dương Lăng nào phải là đối thủ. Thừa lúc ở đây toàn các bô lão, đầu óc không nhanh nhạy bằng thanh niên, hơn nữa mỗi câu nếu không phải đỡ hộ Hoàng Thượng thì cũng đỡ hộ cho các vị Hoàng Đế các triều dựng nước, mất nước. Các vị lão gia này nói chuyện vốn cẩn thận, e sợ phạm huý, chỉ cần chần chừ để sắp xếp lại từ ngữ một chút, là y có thể nói tiếp.

Dương Lăng giơ ngón thứ ba lên, cất giọng đĩnh đạc:

- Chỉ cần nội chính thái bình thì không lo ngoại địch ư? Làm sao ngài biết được nội chính của giặc ngoài không thể phát triển, tiến bộ và thái bình như chúng ta chứ? Đang yên ổn mà vẫn phải lo nguy, cũng chỉ có hoàng đế Thái tổ, Thành tổ mới hùng tài đại lược như vậy. Những vị quân chủ anh minh có mắt nhìn xa trông rộng như thế mới có thể mấy lần dấy binh chinh phạt người Nguyên, phòng ngừa bọn họ ở quan ngoại phát triển lớn mạnh.

Dương Thủ Tuỳ, Dương Phương, Vương Ngao tức giận đến muốn sung huyết não. Y lôi Thái tổ, Thành tổ ra trợ chiến thì làm sao mà tranh biện đây? Kẻ này cũng vô sỉ quá đi!

Những bá quan khác có lòng trợ giúp cũng không dám ra mặt, có người cũng đã không nhớ nổi chủ đề lúc nãy là gì, bàn luận như thế nào mà lại nhảy qua vấn đề quân sự và đối ngoại rồi.

Dương Lăng không dám cho bọn họ thời gian suy nghĩ, lại nói tiếp:

- Thứ tư!

Chính Đức nghe mà sướng rơn. Hắn quay đầu nhìn khắp nơi, không khỏi có phần hối tiếc đã không dẫn bọn Lưu Cẩn, Cốc Đại Dụng, mấy nhân tài có mắt nhìn người đó đến đây. Nghe Dương thị độc nói chuyện thật sướng tai, dễ nghe hơn cái thứ kinh thư mà bọn kia tụng nhiều.

Dương Lăng bước lên một bước, quay đầu nhìn đám võ tướng đang nghe đến nhập tâm, y không khỏi cảm thấy hơi xấu hổ "Tri thức này của ta cũng chỉ gạt được cái đám quê mùa các ông thôi," rồi xoè ngón tay ra:

- Thứ tư! Ngài nói người Nguyên thiện xạ, mà người Trung Nguyên ta không lấy võ lực làm sở trường, vậy ngài giải thích thế nào về thời Hán, Đường nhiều lần đánh bại Hung Nô, Đột Quyết, những dân tộc du mục cực kỳ hùng mạnh đây? Truyền thuyết nói rằng quân Kim (là Nữ Chân) không đủ vạn người, nếu quá vạn người thì không ai địch lại, thế nhưng người Kim giáp mặt với quân đội của dn tộc nông canh của Nhạc gia lại liên tiếp chiến bại, phải hoảng sợ mà thốt lên rằng "Lay đổ núi dễ, xô ngã quân Nhạc gia khó!" Điều này giải thích như thế nào? Tạ An (Tạ An Thạch) lấy tám vạn người phương Nam đánh bại hai mươi bảy vạn kỵ binh cùng hơn sáu mươi vạn bộ binh của Phù Kiên nhà Tiền Tần phương Bắc thì giải thích như thế nào? Thái tổ hoàng đế và Thánh tổ hoàng đế của bổn triều mấy lần chinh Bắc, đánh cho người Nguyên vừa nghe tiếng đã chuồn, có lúc đại quân vừa đến, bọn chúng đã chạy mất bóng, điều này giải thích ra sao? Tôi nói cho ngài biết, thời Đông Hán, người Hán ta chỉ phái ra một cánh quân lớn thì đã diệt hết nửa số quân Hung Nô, đuổi chạy nửa còn lại. Thậm chí đám tàn binh bại tướng này trên đường tháo chạy về hướng Tây đã liên tục chinh phục người Ca Đặc (Visigoth), Nhật Nhĩ Man (Đức) gì đó... khiến cho đế quốc của một lãnh thổ quốc gia khổng lồ xa xôi ở phương Tây phải diệt vong. Ông có thể tưởng tượng võ công người Hán ta năm xưa oai phong cỡ nào!

Dương Lăng cũng không biết những lão già này có bao nhiêu lý lẽ muốn luận bàn với y, nhưng tóm lại y sợ lôi đứa trẻ chăn bò Chu Trùng Bát và tên đồ tể Chu Lệ tiêu diệt thập tộc vẫn chưa đủ, cho nên cứ lôi tất cả người Hán vào. Chủ nghĩa dân tộc thời đó so với bây giờ còn phải mãnh liệt hơn gấp trăm lần nên y vừa nói xong thì các võ tướng sôi trào nhiệt huyết liền hô to:

- Hay!!!

Còn Chính Đức như thể đang nghe kể chuyện, mặt tươi roi rói, vung tay múa chân.

Dương Lăng nói một hồi xong, ai dám phản bác y chính là phản lại Đại Minh, phản Chu Nguyên Chương, phản tất cả người Hán! Nếu mở miệng không khéo, tương lai sẽ có thể trở thành đầu đề câu chuyện cho người ta. Kinh nghiệm quan trường của những người này phong phú biết dường nào, lời nói của Dương Lăng đâu đâu cũng là bẫy, ai lại nguyện ý chui vào.

Thế nhưng... nếu không phản bác, vậy không phải sẽ đại biểu cho việc y đã chiến thắng sao?

Nhiều đại thần lặng lẽ lục lọi lại những bài văn chương mà bọn họ đã chuẩn bị cả đêm, rồi thở dài ảo nảo. Tài liệu mà bọn họ chuẩn bị đều là những đạo đức và lý tưởng viển vông, xa rời thực tế, căn bản không dính dáng tới những thứ mà người ta đang nói.

***

Chú thích:

chỉ lục đại gian thần những năm cuối Bắc Tống, bao gồm: Thái Kinh, Vương Phủ, Đồng Quán, Lương Sư Thành, Chu Miễn, Lý Bang Ngạn, trong đó Thái Kinh đứng đầu.

nguyên văn "nhân vật lưỡng phi"

học phái Hoàng lão (Hoàng lão chi học) xuất hiện vào giữa thời Chiến quốc, là một học phái của Tắc hạ học cung ở nước Tề, với đại biểu là "Lão tử", kết hợp đạo gia và pháp gia.

Dương Lăng muốn nói đến trận Phì thủy (Phì thủy chi chiến), một trận đánh nổi tiếng, đại diện cho tình thế dùng quân số ít đại thắng đội quân đông hơn.

Xem thêmhttp://vi.wikipedia.org/wiki/TrậnPhì Thủy

tên của Chu Nguyên Chương thuở nhỏ

xem hình để rõ thêmhttp://img8.zol.com.cn/bbs/upload/8484/8483619_0800.jpg(mất rồi!)

trong tướng pháp, đàn bà mũi trái mật treo (huyền đảm tị) có tướng vượng phu ích tử, thành danh và có tài quyền. Ở đây ý chỉ mũi đẹp.

theo tra cứu, vị này hẳn là Trương Ngạn Vũ (trên wiki ghi là Trương Ngạn Phiến, nhưng phiên âm là yu3, không phải shan, pian, hay fan phải đọc Vũ chứ nhỉ), tự Sĩ Chiêm (1490 - 1550). Năm 1501, được Minh Hiếu Tông ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Trí Hư Xung Tĩnh Thừa Tiên Hoằng Hoá Đại Chân Nhân. Năm 1526, được Minh Thế Tông gia phong là Chính Nhất Tự Giáo Hoài Huyền Bão Chân Dưỡng Tố Thủ Mặc Bảo Quang Lý Hoà Trí Hư Xung Tĩnh Thừa Tiên Hoằng Hoá Đại Chân Nhân.

một loại áo bào thêu con vật giống rồng nhưng chỉ bốn vuốt, kém rồng một vuốt. Xem hìnhhttp://a0.att.hudong.com/57/29/01300...98571535_s.jpg

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 109: Chuyện nhà của đế vương

Trương Thiên sư đến từ Long Hổ sơn, mang theo ba mươi sáu đệ tử.

Một cỗ xe ngựa to lớn dừng bên ngoài cổng cung, Trương Ngạn Thạc leo lên xe, tiểu đạo đồng cũng tót lên theo. Vừa vào trong xe gã liền hạ rèm kiệu, dỡ mũ đạo sỹ ra, một mái tóc đen nhánh mượt mà trút xuống như thác, khuôn mặt anh tuấn lập tức tăng thêm vài phần dịu dàng xinh đẹp.

Vị tiểu đạo đồng này mắt như thu thuỷ, mày tựa tranh vẽ, tóc dài buông xoã, thì ra là một thiếu nữ.

Nàng căng thẳng nhìn anh trai, thấp giọng:

- Ca ca! Gã Dương Lăngcó vấn đề à nha! Xem tướng mạo y là kẻ bạc phước chết yểu, thế nhưng giờ đây chẳng những hợp với mệnh cách cao sang khôn cùng, thọ phước còn rất cao, há chẳng kỳ quái ư?

Thiên sư Trương Ngạn Thạc cười khan vài tiếng rồi nói:

- Làm gì có chuyện đó? Có thể muội đã tính sai, hoặc cũng có thể là y đã làm được việc thiện nào đó khiến cho vận mệnh thay đổi. Bảo Nhi, chuyện này không nên nhắc đến nữa!

- Ồ?

Bảo Nhi đảo cặp mắt tròn xoe, ánh mắt quái dị mà đắc ý:

- Ý ca ca là đạo thuật mà cha truyền lại có vấn đề à? Thiên sư đạo của chúng ta đã được truyền lại hơn nghìn năm, chẳng lẽ đều là gạt người hay sao?

- Bảo Nhi!

Trương Ngạn Thạc nén giận, quắt mắc rầy em gái:

- Đừng khoe khoang chút đạo thuật đó của muội! Đại đạo thanh hư, thuật pháp tiểu kỹ (ý nói đại đạo rộng lớn khôn cùng, thuật pháp chỉ là tài vặt mà thôi). Thuật pháp của chúng ta chỉ dùng để tìm lành tránh dữ. Bậc minh triết (người thông thái, sáng suốt) hãy còn chưa thể tự bảo vệ mình; cải thiên nghịch vận, nhận biết quốc thế càng là việc xưa nay không thể làm được. Muội nhìn vị Dương tướng quân đó mắt sáng lòng trong, tuyệt không phải là kẻ gian nịnh, vậy là đủ. Nếu thật sự có người nghịch thiên cải mệnh, duyên thọ tăng phúc cho y, loại đạo hạnh đó muội và huynh có thể đối phó được sao? Không lẽ muội còn muốn cầm Đào Mộc kiếm xông vào hoàng cung tróc nã yêu ma ư?"

duyên thọ tăng phúc nghĩa là kéo dài tuổi thọ và tăng thêm sự tốt lành.

Kiếm trừ ma quỉ làm bằng gỗ đào. Người Trung quốc tin cành đào có thể trừ được điều bất tường nên đến tết, nhà nhà đều cắm cành đào trước cửa.

Tuổi tuy chưa cao, song tính tình Tiểu thiên sư lại hết sức thận trọng, y nén giọng bảo tiếp:

- Ta vốn là người nhàn tản giang hồ, cần gì chứ? Được vua ban thưởng ư? Họa phước không hình không tướng, tự người tác nghiệt mà ra . Chuyện của hoàng gia không cần phải chen vào, cũng không cần nhắc đến, đó không phải là thứ mà chúng ta chạm đến được.

nguyên văn "hoạ phúc vô môn, vi nhân tự triệu" hay "hoạ phúc vô môn duy nhân tự chiêu" trích trong "họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu; thiện ác hữu báo, như ảnh tùy hình" (thiện ác đáo đầu, như bóng với hình)

Vương triều nhà Chu trước nay khắc nghiệt vô cảm. Chu Nguyên Chương dựa vào tôn giáo lập nghiệp, rất sợ người khác cũng học theo cho nên lão ta rất kiêng kị hai giáo phái đạo, tăng.

Bất kể là người nào chiếm giữ được giang sơn đều rất là kính trọng Trương Thiên sư của Long Hổ sơn và Khổng thánh nhân của Khúc Phụ (*). Chu Nguyên Chương cũng không dám phá lệ, nhưng lại thi hành quốc sách hạn chế hai nhà Phật, Đạo phát triển thế lực. Do lo ngại thế lực bọn họ phát triển, đến cả quyền phát hành độ diệp của Long Hổ sơn cũng bị đưa về Đạo Lục ty ở kinh thành quản lý. Tiểu thiên sư nào dám huênh hoang?

(*) Khúc Phụ là quê hương của Khổng Tử, nằm ở tỉnh Sơn Đông.

thẻ chứng nhận là tăng lữ do nhà chùa phát hành, hoặc chứng nhận là đạo sĩ do đạo quán phát hành.

Huống chi chuyện quỷ thần thực sự rất mù mờ. Kẻ làm Hoàng Đế luôn luôn mong muốn người khác đều tin vào quỷ thần, như vậy mới có lợi cho y ngồi vững trên ngai vàng. Nhưng y lại không hề muốn có một người thật sự biết phép thuật xuất hiện ngay trước mặt, đó là thứ sức mạnh mà ngay cả vương quyền cũng không thể quản thúc, nên tất nhiên y sẽ nghĩ cách để loại trừ. Lý luận này dòng dõi Trương thiên sư đã sớm nằm lòng, cho nên bọn họ cố hết sức làm ra vẻ cầu phúc cho hoàng gia. Bọn họ không sợ bị Hoàng Đế khám phá việc mình cầu phúc là giả, nhưng lại không dám để cho ông ta phát hiện được chút bản lĩnh thật của mình.

Hơn nữa, tuy bọn họ có thể biết được vận mệnh của một người, nhưng cũng chưa hẳn là đã có thể thao túng được vận mệnh của kẻ đó. Mà vận mệnh quốc gia lại càng có nhiều biến số, quyết không phải là thứ mà đạo thuật có thể trộm biết được thiên cơ. Không ngờ người có tướng mạo quái dị như Dương Lăng lại xuất hiện trong triều đình, ai biết là họa hay là phước? Đương nhiên cứ tránh đi cho lành.

Bọn họ sống trên Long Hổ sơn ở Giang Tây. Mấy năm nay, Ninh Vương ở Giang Tây từng nhiều lần sai người đem ngày sinh tháng đẻ của con lên núi xin Trương thiên sư bói quẻ, tính toán vận mệnh cho con trai mình. Ninh vương là Vương gia thế tập, con y dĩ nhiên cũng là Ninh Vương, còn đoán số làm quái gì? Mặc dù sứ giả của Ninh Vương luôn miệng giải thích là con y từ nhỏ bệnh nhiều, bản thân làm cha vô cùng lo lắng nên phải mời thiên sư bói toán, nhưng dã tâm của y lại không qua mắt được vị tiểu thiên sư này.

Nếu không phải vì Dương Lăng mặt mày chính khí, Trương Ngạn Thạc cũng đã hoài nghi y là thám tử của vị Phiên Vương nào đó sai vào kinh. Tuy y là thiên sư, nhưng cũng không biết đám mây nào sẽ có mưa. Năm xưa Yến Vương Tĩnh Nan không phải đã thành công đó sao ? Ai biết bây giờ Dương Lăng thực sự là người của nhà nào! Đối với loại sự việc này, giả vờ ngu ngơ không dính vào là tốt nhất.

tích xưa kể rằng Yến Vương Chu Đệ giả điên, âm thầm chiêu binh mãi mã để đánh lạc hướng Kiến Văn Đế, sau tuyên bố khởi binh, lật ngôi Chu Doãn Văn Kiến Văn Đế.

Có điều y rất yêu thương đứa em gái này. Thấy giọng điệu nặng nề của mình đã gây ra bất hoà, y vội vàng hoà nhã an ủi mấy câu.

Lại nói đến Trương Phù Bảo, tuy là con gái, lại do vợ lẽ của Trương thiên sư sinh ra, thế nhưng địa vị của nàng ở Long Hổ sơn rất là đặc biệt.

Đại thiên sư đời thứ bốn mươi sáu là Trương Vô Cát từng bị người ta tố cáo gây hại ở địa phương, cậy thế ức hiếp chiếm đoạt dân nữ, bị Hoàng Đế đày đi tha hương. Kế thừa chức vị của anh mình, Trương Nguyên Khánh luôn hành sự khiêm tốn, tuân thủ pháp luật, không dám làm bừa, cũng không dám khoe khoang tiên thuật, chỉ thật thà an phận đảm trách chức vị thiên sư.

Nhưng vào năm Hoằng Trị thứ tư, Hoàng Đế sai thái giám đến Long Hổ sơn ban ấn thưởng phù. Vị thái giám nhất thời cao hứng, mượn lời thánh dụ yêu cầu Trương Thiên Sư cầu cho tuyết rơi, hạc bay đầy trời để làm điềm cát tường. Muốn gọi trăm hạc đến lượn quanh, thiên sư tự có biện pháp của mình, nhưng nếu muốn trời đổ tuyết thì thật sự có phần làm khó lão.

Bất chấp khó khăn, Trương thiên sư chọn ngày lành tháng tốt, tổ chức lễ đàn niệm chú vẽ phù cầu khấn một phen. Cũng không biết là do lão biết khí tượng hay là do may mắn mà quả nhiên hôm đó trời đổ tuyết lớn, thật là nở mày nở mặt.

Đến khi lão trở về Triều Thiên cung, mới hay người vợ lẽ thứ tư là Lưu Thị vừa mới hạ sinh một bé gái. Trương Nguyên Cát cho rằng đứa bé gái này đã mang may mắn cho lão nên hết sức yêu thương đứa con gái do vợ lẽ sinh ra này, đặt tên là Phù Bảo (nghĩa là bảo bối mang đến điềm tốt), thường xuyên dẫn theo bên mình, địa vị khác xa những đứa con vợ lẽ khác. Nàng và người anh trai này chơi thân với nhau từ nhỏ cho đến lớn, vì vậy rất quý mến nhau.

Nhưng lần này Trương Phù Bảo thấy anh trai mình nghiêm mặt mắng nàng không biết điều, chuyện này xưa nay chưa từng xảy ra nên Trương Phù Bảo cũng phát hoảng, không dám nói bậy bạ nữa.

Xe đến trước phủ Thành quốc công, sớm đã có người chạy đi báo tin trước. Trương Ngạn Thạc là cháu ngoại của Thành quốc công, tuy hắn là quốc sư nhưng lại dùng thân phận thân thích đến viếng thăm, không có lý bề trên lại ra nghênh tiếp, nên lão cử hai người anh họ của hắn là Chu Hạ Nghĩa và Chu Hạ Lễ làm đại diện ra đón.

Thành quốc công càng già càng dẻo càng dai nên tuổi tác con cái chênh lệch nhau rất nhiều, người lớn nhất cũng đã sáu mươi còn đứa nhỏ nhất chỉ mới mười bốn. Con gái gả cho Trương thiên sư năm nay mới vừa ba mươi ba.

Hai vị biểu ca nghênh tiếp huynh muội thiên sư vào phủ, vừa đi vòng qua bức bình phong đã thấy một người đàn ông mặt mày đỏ au nồng nặc mùi rượu, được người dìu thất tha thất thểu bước ra, suýt nữa đâm sầm vào người Trương Ngạn Thạc.

Chu Hạ Nghĩa chau mày, hỏi người đàn ông trạc ba mươi đang dìu gã say đó:

- Lục ca! Tiết huynh lại uống say nữa à?

Vị Lục ca "À" một tiếng rồi cười nói:

- Lúc nào y về mà chẳng say? Không cần lo đâu, ta sẽ đưa y về.

Nhìn thấy huynh muội Trương Ngạn Thạc bận đạo bào, biết là biểu đệ và biểu muội vừa tới, y bèn tươi cười:

- Huynh đưa vị bằng hữu này về phủ, biểu đệ biểu muội hãy lên chính sảnh, gia gia đang chờ gặp hai người đó.

Trương Ngạn Thạc chắp tay mỉm cười, đưa mắt tiễn hai người bọn họ. Trương Phù Bảo đưa tay vào chậu hoa cạnh bờ tường ngắt một đoá hoa to bằng cái chén lên ngửi, rồi hỏi:

- Biểu ca, ông ngoại là võ tướng nên những người mà các huynh kết giao cũng đều thật là hào sảng đó. Mỗi lần bạn bè các người đến phủ đều uống đến say bí tỉ như vậy sao?

Chu Hạ Lễ bật cười đáp:

- Tiết huynh không phải là võ tướng, mà là tiến sỹ Đầu Giáp năm Hoằng Trị thứ sáu, là một đại tài tử.

Đầu giáp là đệ nhất giáp. Tiến sỹ sau khi thi Đình chia ra làm ba loại là Đệ Nhất Giáp, Nhị Giáp và Tam Giáp. Đệ Nhất Giáp chỉ có ba người Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa, được gọi là "Tam khôi".

Chu Hạ Lễ vừa nói vừa lắc đầu một cách bất đắc dĩ, đoạn thở dài nói:

- Chỉ là từ dạo cưới Ninh Thanh công chúa, làm Đô uý phò mã, than ôi... Thôi không nhắc đến chuyện này nữa! Vào thôi!

Huynh muội Trương Ngạn Thạc kinh ngạc nhìn nhau, rồi nối gót bọn họ vào trong.

...

Dương Lăng vào đến Đông Noãn các. Cốc Đại Dụng tinh mắt, vừa thấy y đến vội vàng cười hềnh hệch ra đón:

- Dương đại nhân đến rồi! Hoàng Thượng đang chờ đại nhân đó, nhanh lên nhanh lên!

Cái chủ ý để Dương Lăng tham dự Kinh Diên là do lão đưa ra. Quả nhiên hôm nay Dương Lăng đã làm cho một đám quan văn rúng động, khiến Hoàng Thượng Chính Đức khoái chí mặt mày tươi rói, đương nhiên lão cũng hết sức phấn khởi, mình cũng được thơm lây vậy.

Chính Đức vừa thấy Dương Lăng, khuôn mặt anh tuấn liền đỏ bừng hào hứng. Y hồ hởi:

- Dương thị độc! Đến đây, đến đây, ban cho ngồi. Ha ha ha, hôm nay trẫm thực là vui, thấy mấy lão già ngày thường như một đám ruồi nhặng bâu trước mặt trẫm nay lại không nói được một câu nào, thực sự khiến trẫm mắc cười gần chết. Lần này trẫm muốn thăng quan cho khanh, ta xem còn ai dám phản đối.

Dương Lăng mỉm cười làm lễ với Hoàng Thượng rồi đáp:

- Nhờ hồng phúc của Hoàng Thượng, vi thần cũng chỉ là may mắn vượt ải mà thôi. Hoàng thượng yêu mến vi thần, vi thần ghi khắc trong lòng. Nhưng thần trẻ tuổi, kiến thức hạn hẹp, nếu cứ thăng bừa làm công khanh ở Lục Bộ, quả thực sẽ như trò đùa. Chỉ dựa vào một hội Kinh Diên thôi, các đại thần sẽ không chịu phục. Cho dù là thần tiếp nhận đi chăng nữa, cũng không dám khẳng định mình cáng đáng nổi trách nhiệm này.

Y vừa nói xong, chẳng những Chính Đức mà cả Cốc Đại Dụng, Mã Vĩnh Thành và Lưu Cẩn, ba người hầu bên cạnh Chính Đức cũng sững người. Lưu Cẩn dẫu gì cũng đọc qua dăm ba quyển sách, vội vàng lên tiếng khuyên nhủ:

- Cam La mười hai tuổi đã được bái làm Thượng khanh, sao Dương đại nhân không thể làm thượng thư bộ Hình chứ? Có đương kim hoàng thượng hộ giá cho đại nhân, chỉ mấy quan văn phản đối thì có gì mà phải sợ?

Cày cuốc ôn luyện cả đêm, thực sự Dương Lăng đã thu được không ít tiến bộ về tri thức lịch sử này, biết câu chuyện về "Cam La bái tướng" . Y thầm nhủ: "Cam La mười hai tuổi được bái Thượng khanh à? Y mười hai tuổi bị chém đầu thì có. Ông đưa ví dụ này ra khiến ta không thoải mái tí nào."

: Cam La bái tướng: Tích thời Đông Châu Liệt Quốc (xem Đông Châu Liệt Quốc, chương 104). Cam La 12 tuổi đã được phong thượng khanh (thời đó, chức thượng khanh gần bằng Thừa Tướng nên mới có câu "Cam La (được) bái tướng"), sau đó không bệnh mà mất sớm.

Nhưng lại có thuyết Cam La bị giết trong một vụ biến loạn cung đình.

Đối với việc được tuỳ tiện tấn phong làm Thượng khanh, Dương Lăng vẫn lo lắng do dự. Hôm nay thấy rõ thái độ của văn võ bá quan trên triều, y càng kiên quyết giữ vững ý mình.

Nếu chỉ luận thanh danh, Dương Lăng giờ đây thật như mặt trời đứng bóng. Hơn nữa trong đại nội có Hoàng Thượng, ngoài cung có Cẩm y vệ làm hậu thuẫn, giờ lại chiếm được sự tin cậy của một đám võ tướng, Dương Lăng cho rằng dù bản thân có chết đi, được những mối quan hệ giao tiếp này chiếu cố, có bổng lộc của Uy vũ bá, cũng đủ để Ấu Nương... và hai người Tuyết Nhi, Ngọc Nhi mà y phụng dụ cưới về không phải lo lắng cái ăn cái mặc nữa.

Nhưng nếu như thật sự làm thượng thư, y liền sẽ bị cuốn vào giữa vòng tranh chấp quyền lực cùng đám quan văn. Qua một năm, quan hệ cũng vừa thiết lập xong thì mình cũng ra đi rồi, Ấu Nương sẽ làm sao đây? Người cầm bút không phải đều là hạng thiện lương, nếu khi đó lại có kẻ đến đâm bị thóc chọc bị gạo, thánh quyến (*) có còn được như xưa không?

(*) được vua yêu quý thì gọi là thánh quyến

Mang nỗi lo canh cánh trong lòng, Dương Lăng đã quyết định bất kể Kinh Diên hôm nay biện luận hay dở ra sao, y phải kiên quyết từ chối không nhận chức vụ thượng thư bộ Hình.

Từ khi tân hoàng đăng cơ, tiếng tăm và quyền lợi của đám người Lưu Cẩn đều đã cao hơn lúc trước rất nhiều. Mấy tên vốn không có chí lớn này cũng đã rất là thoả mãn. Có điều chặn ngang trên đầu bọn họ là một lão già Vương Nhạc. Thấy bọn họ bầy trò mua vui khiến cho Hoàng Thượng hư hỏng, thỉnh thoảng lão lại đi mắng bọn họ một trận, thành ra bọn họ rất khó chịu.

Cả bọn thầm tính nếu như được một người ngoài cung có quan hệ mật thiết với bọn họ như Dương Lăng làm Thượng khanh, giữ chức thượng thư, cuộc sống của bọn họ cũng có thể dễ thở hơn. Cho nên vừa nghe Dương Lăng không muốn làm quan thì cả bọn lập tức nhao nhao lên khuyên bảo không ngừng; thật khớp với câu ngạn ngữ "Hoàng Đế còn chưa vội, thái giám đã quýnh lên".

Không thể nói rõ những tính toán của mình, Dương Lăng đành phải làm ra vẻ thành thật tâu với Chính Đức:

- Hoàng Thượng! Người vừa lên ngôi báu, lúc này nên nghĩ cách giành lấy sự ủng hộ của bá quan mới phải. Trước đây Hoàng Thượng vì vi thần mà đã giáng chức ba vị thượng thư. Chỗ tốt là nhờ thế Hoàng Thượng đã lập uy,xấu là Hoàng Thượng vừa mới lên ngôi chí tôn, liền đã giáng chức đại thần, khó tránh bá quan không phục. Giờ đây nếu lại phá lệ đề bạt vi thần, các đại thần sẽ nghĩ sao? Không chừng bọn họ sẽ lo rằng Hoàng Thượng muốn đổi hết toàn bộ cựu thần, như vậy sẽ bất lợi cho triều chính đó.

Chính Đức nghe Dương Lăng nói hợp tình hợp lý như vậy, trong lòng vô cùng cảm động: "Phụ hoàng quả nhiên mắt sáng như sao (nv: tuệ nhãn như cự), Dương thị độc này không hề có chút dã tâm. Mang đến cho y chức quan lớn như vậy mà y cũng không đoái hoài, chỉ một lòng một dạ lo nghĩ cho trẫm."

Tâm tính trẻ con là vậy, ai đối xử tốt với nó, đương nhiên nó sẽ nóng lòng muốn trao hết tất cả lợi ích cho người ta. Dương Lăng vừa nói xong, hắn càng cảm thấy nếu không phong cho y chức quan thật to thì sẽ không khỏi có lỗi với trung thần của mình. Nhưng Dương Lăng nói cũng rất có lý, vậy trao cho y chức quan nào mới thích hợp đây?

Đang lúc Chính Đức nhíu mày suy nghĩ cân nhắc, một tiểu cô nương xinh đẹp mặc váy xanh đã nổi giận đùng đùng xông vào, không thèm liếc xem người đứng ở bên là ai, nàng chỉ sấn sổ nói với Chính Đức:

- Hoàng huynh! Ai đời Công chúa Ninh Thanh bị một tên gia nô ức hiếp phải khóc lóc không ngừng, thực đâu lại có chuyện như vậy được!?! Hoàng huynh không thể bàng quan với cái kết cục đáng xấu hổ này được!

Vừa nhìn thấy người con gái váy xanh lỗ mãng xông vào chính là công chúa Vĩnh Thuần, Dương Lăng vội vàng bước lên làm lễ, mấy người Lưu Cẩn cũng thi nhau quỳ xuống. Khuôn mặt xinh xắn đang đỏ bừng vì giận, công chúa Vĩnh Thuần cũng không thèm để ý đến bọn họ, cặp mắt tròn xoe đầy uất ức nhìn chằm chằm vào Chính Đức không rời.

Chính Đức rất yêu mến người ngự muội tinh nghịch hoạt bát này. Thấy nàng giận đến thở hổn hển thì hắn vội vàng đứng dậy cười ha hả, nói:

- Công chúa Ninh Thanh à? Đã xảy ra chuyện gì vậy? Xem muội giận kìa! Lại đây, hoàng huynh mới có mức táo Kim ti của Thương Châu vừa dâng tới, muội lại nếm thử đi! Có gì thì từ từ hãy nói.

Bản thân Hoàng Đế Chính Đức không có điểm nào ra dáng hoàng đế, tiểu công chúa Vĩnh Thuần cũng không giác ngộ mấy về thái độ của thần tử đối với người hoàng huynh vừa mới đăng cơ này. Nàng dẩu cái miệng xinh xắn, hầm hầm bước qua ngồi lên chỗ cao hơn vị trí của Chính Đức (*), rồi vỗ bàn nói:

- Ninh Thanh cô cô từ nhỏ đã rất yêu thương chúng ta, bây giờ hoàng huynh đã làm tới Hoàng Đế, phải đỡ lưng cho người.

(*) Theo lễ nghi, người có vai vế thấp hơn phải ngồi ở phía dưới.

Hôm nay Tiết phò mã vào cung thăm hoàng cô, không ngờ bị nữ quan phủ công chúa đuổi đi, khiến cho cô cô giận đến trào nước mắt. Nhưng khi người tìm đến Thái hoàng thái hậu kể khổ, Thái hoàng thái hậu lại mắng người không biết giữ lễ. Muội thật tức quá đi.

Kể xong, Công chúa Vĩnh Thuần nhón lấy một miếng mứt táo ở trong hộp cho vào miệng tức tối nhai.

Mã Vĩnh Thành nay đã làm tổng quản đại nội, nghe công chúa Vĩnh Thuần kể lại như vậy xong, sắc mặt lão không khỏi có chút hoảng sợ. Lão liền đảo mắt, ghé bên tai Chính Đức nói nhỏ mấy câu.

Chính Đức nghe xong bèn góp ý với công chúa Vĩnh Thuần:

- Ờ... Hoá ra chuyện là như vậy! Trong cung có quy củ của trong cung, cho dù là phò mã cũng không thể phá bỏ quy củ được, nếu không sao Thái hoàng thái hậu lại có thể trách mắng hoàng cô chứ? Đúng là chuyện bé xé ra to.

Công chúa Vĩnh Thuần đứng phắt dậy, chỉ tay vào Chính Đức, giọng run rẩy:

- Huynh... huynh...

một hồi, rồi trào nước mắt không nói thành lời.

Mã Vĩnh Thành ở bên cạnh đằng hắng một tiếng, giọng âm hiểm:

- Điện hạ! Hoàng Thượng là hoàng huynh của người, cũng là quân thượng của người, mong người hãy để ý đến lễ nghi của thần tử.

Công chúa Vĩnh Thuần chợt chụp hộp mứt ném úp về phía Mã Vĩnh Thành, giậm chiếc hài cong giận dữ la lên:

- Được, được lắm! Huynh là Hoàng Thượng, huynh giết ta đi!

Nói rồi nàng nâng váy định lao ra ngoài.

Thấy Mã Vĩnh Thành mặt mũi dính đầy mứt hoa quả, trên đầu còn đội mấy miếng mứt, cặp lông mày và đôi ngươi Chính Đức đảo tới đảo lui, cố nén không cười thành tiếng. Hắn thấy tiểu hoàng muội giận đến run người, vội hoà giải:

- Được rồi, được rồi! Để hoàng huynh giúp muội, được chưa?

Ngoái đầu nhìn thấy Dương Lăng, hắn không khỏi mừng rỡ gọi:

- Dương thị độc! Khanh cùng đihoàng muội một chuyến, xem thử đã xảy ra chuyện gì. Chỉ cần làm cho hoàng muội vui vẻ là được, để nàng ấy khỏi phải ném đồ của trẫm nữa.

Dương Lăng giật mình, vội đáp:

- Vi thần là ngoại thần, đây hình như là tránh nhiệm của phủ Nội Vụ mà?

Chính Đức bực mình phán:

- Không sao đâu, không sao đâu! Dù sao trẫm cũng đã bẩm với Thái hoàng thái hậu rồi. Đại hôn của trẫm sẽ do bộ Lễ và phủ Nội Vụ cùng tổ chức, việc tuyển dụng nhân sự này sẽ do Hồng Lư Quan, Ôn Tắc An của bộ Lễ và khanh đảm nhiệm. Bây giờ khanh sẽ phải thường xuyên ra vào đại nội hoàng cung đó.

Nói đến đây như chợt nhớ ra điều gì, Chính Đức bèn tháo chiếc ngọc bội hình rồng giắt ở bên hông xuống đưa cho y, rồi bảo tiếp:

- Nội cung không như ngoại cung, thẻ bài bình thường không thể vào được. Trước tiên khanh hãy mang miếng ngọc bội này của trẫm đã.

Công chúa Vĩnh Thuần vẫn chưa khô nước mắt, bờ mi mượt mà, cặp mắt to tròn trong veo chớp chớp nhìn Dương Lăng một hồi, rồi chợt kêu lên:

- Ta nhận ra ngươi rồi! Sao ngươi lại mặc khôi giáp vào cung Càn Thanh vậy?

Tiểu công chúa Vĩnh Thuần chỉ cao tới ngang ngực Dương Lăng. Cũng không biết là vì tuổi còn nhỏ chưa hiểu cái gì là nam nữ cách biệt hay là vì bị người cha tốt bụng đó của nàng chiều hư, không ngờ nàng đến sát trước mặt Dương Lăng rờ rờ mảnh giáp trên ngực y một hồi, rồi tặc lưỡi khen:

- Nhìn không ra, thật là rắn chắc, chịu hai mươi gậy nhất định sẽ không sao. (B_V: Chà, hai mươi gậy không sao, còn ba mươi gậy??!)

Tiểu cô nương vừa đến sát bên, hương thơm mê người liền ùa tới, Dương Lăng không khỏi lúng túng lui lại một bước. Cốc Đại Dụng há hốc miệng ra, vừa tính nhắc nhở "Vĩnh Thuần điện hạ hãy chú ý đến khuôn phép của công chúa", nhưng nhìn thấy miếng mứt khô trên đầu Mã Vĩnh Thành, còn vị Hoàng Đế ca ca nóng tính của nàng cứ như là một kẻ bàng quan, vẫn bình chân như vại không hề phản đối, lão bèn thức thời không lên tiếng nữa.

Lần trước Dương Lăng bị chính cô nhóc này ép chui ra làm con dê thế tội cho công chúa Vĩnh Phúc, bị Hoàng Đế Hoằng Trị nổi trận lôi đình lôi ra đánh cho một trận. Nay hoàng đế "già" đã đổi thành hoàng đế "trẻ", vị tiểu công chúa này lại càng không kiêng nể ai; nhìn thấy cô nhóc ranh này, thật sự y cảm thấy hơi sợ.

Công chúa Vĩnh Thuần duỗi tay ấn lên ngực y một cái, hài lòng nói:

- Tốt lắm, ngươi hãy mặc bộ đồ liền thân này, cùng bổn công chúa đến phủ Thập vương dạy dỗ cái đám gia nô càn quấy đó.

Chính Đức đưa cây quạt tròn lên che miệng, ho khan hai tiếng, nháy mắt với Dương Lăng, ra hiệu y mau đưa tiểu sát tinh này đi, song khoé miệng lại ậm ờ nói:

- Sự việc quan hệ đến thể diện hoàng gia, đi xem thử chuyện gì đã xảy ra, mọi việc đã có trẫm làm chủ.

Rốt cuộc ở phủ của vị công chúa Ninh Thanh này đã xảy ra chuyện gì thế?

Thì ra sau khi lấy chồng, công chúa triều Minh không được ở cùng một chỗ với chồng mà phải dời vào phủ Thập vương ở trong cung, một mình một điện. Hoàng Đế chỉ phái một nữ quan trong cung phụ trách ăn uống ngủ nghỉ cho công chúa, cho dù công chúa muốn gặp phò mã cũng phải được sự đồng ý của vị nữ quan này, bằng không đừng hòng phò mã bước qua được cửa cung.

Vì viên nữ quan này do Hoàng Đế sai phái, đồng nghĩa với việc phụng chỉ khâm sai, nên cho dù là công chúa cũng không dám đắc tội với ả, lại càng không tiện đi nói với Hoàng Đế là mình muốn gặp trượng phu. Cho nên khi chưa kết hôn thì công chúa là một cánh phượng hoàng, nhưng một khi đã cưới phò mã rồi thì lại phải chịu rất nhiều uất ức. Để phu thê có thể gặp nhau được một lần, rất nhiều công chúa phò mã phải bỏ ra rất nhiều vàng ròng bạc nén hối lộ nữ quan, thành thử nữ quan càng lúc càng kiêu ngạo.

Vào thời Minh, bất luận anh có học vấn cỡ nào, một khi cưới công chúa trở thành phò mã, anh sẽ phải chấp nhận từ bỏ mọi chức quan mà sống một mình tại phủ phò mã. Một số còn có thể được nhận làm công việc lặt vặt ở phủ Tông Nhân , nhưng đại đa số lại chỉ có thể lĩnh bổng lộc mà không được chức quan nào. Thực là sống như kẻ goá vợ: đã không được nạp thiếp lại không dám ra vào chốn lầu xanh (không phải lauxanh.us a hèm).

phủ Tông Nhân (Tông Nhân phủ) là tên một phủ trong cung đình, chuyên quản lý gia phả dòng họ hoàng thất.

Hơn nữa, một khi công chúa qua đời, hoàng gia sẽ thu hồi toàn bộ tài sản và phủ đệ đã ban tặng. Quyền thế của những vị phò mã này thậm chí không bằng của một tên quan nhỏ, mà phần lớn những nữ quan đó lại thường xuyên biếu tặng tiền tài cho những đại thái giám có quyền trong cung, được người chống lưng, thế nên phò mã cũng không làm gì được bọn họ.

Mã Vĩnh Thành đã nhận tiền đút lót của nữ quan phủ công chúa Ninh Thanh. Lão biết nữ quan này chê tiền đút lót ít nên cố ý làm khó việc phu thê người ta gặp nhau, vì vậy vừa nghe công chúa Vĩnh Thuần muốn tìm nữ quan đó kiếm chuyện, lão liền nói nhỏ với Chính Đức mấy câu. Lão bảo Tiết phò mã thường xuyên chưa được phép đã tự tiện ra vào hoàng cung, làm tổn hại đến thể diện hoàng gia, rằng nữ quan nọ chỉ làm theo luật lệ, khuyên Hoàng Đế không cần xen vào chuyện giữa những người phụ nữ trong cung này.

Vĩnh Thuần tính tình tinh quái, sao lại không hiểu ý tứ trong lời hoàng huynh. Nàng chun mũi, cũng chẳng phản bác, vừa thầm nghĩ cách vừa hừ nhạt một tiếng, nói:

- Đi thôi! Theo bổn công chúa đến phủ Thập vương.

Dương Lăng không thể thoái thác, đành phải đi theo nàng xử lý chuyện nhà hoàng đế. Công chúa Vĩnh Thuần bước ra khỏi cung Càn Thanh, uyển chuyển men theo hành lang uốn khúc đến một nơi vắng vẻ. Nàng đưa mắt khẽ liếc chung quanh rồi chợt dừng chân, xoay người lại, nhìn Dương Lăng mỉm cười, hỏi:

- Bổn công chúa nghe nói... mấy ngày trước suýt nữa thì ngươi đã bị hoàng huynh chém đầu hả?

Nhìn thấy vẻ mặt của cô nàng, Dương Lăng không nhịn được phải cẩn thận lui lại một bước, thận trọng đáp:

- Dạ, vi thần bị người hãm hại, nhất thời không cách nào biện bạch. May mà Hoàng Thượng thánh minh, vi thần mới có thể thoát ngục.

Công chúa Vĩnh Thuần chắp tay sau lưng, gật gù ra vẻ bà cụ non:

- Ừ, tự cổ có câu "làm bạn với vua như đùa với hổ", Dương đại nhân giờ chắc hẳn đã có thể lĩnh hội sâu sắc rồi nhỉ?!

Dương Lăng cảm thấy vẻ mặt của vị công chúa Vĩnh Thuần này hơi hơi kỳ quái, trong lòng lờ mờ cảm nhận mối nguy. Loại con gái được nuông chiều từ bé này vốn không dễ hầu hạ, mà cô nhóc này lại là công chúa. Dương Lăng thật sự nhức đầu khi giao tiếp với loại con gái như vầy.

Công chúa Vĩnh Thuần đảo tròn đôi mắt, đoạn chậm rãi nheo mắt lại, trên khuôn mặt ngây thơ hiện rõ chữ "ta muốn hãm hại ngươi", ranh mãnh hỏi:

- Bị người ta hãm hại đáng sợ lắm phải không? Mùi vị bị lôi ra đầu chợ có dễ chịu không?

Vĩnh Thuần cười gian xảo nói tiếp:

- Ngươi nghĩ rằng ta không hiểu được ý tứ vừa rồi của hoàng huynh ư? Ta nói cho Dương đại nhân hay, nếu như ngươigiúp cô cô ta trút giận, ta không cần đưa ngươi ra đầu chợ, bổn công chúa sẽ trực tiếp gọi Cẩm y vệ bắt ngươi chém đầu tại chỗ!

Dương Lăng cười gượng gạo đáp:

- Công chúa điện hạ! Dù thế nào cũng phải để vi thần biết rõ nguyên nhân hậu quả mới đưa ra quyết định chứ? Vi thần chết không đáng tiếc, nhưng lạm sát đại thần, thật sẽ gây trở ngại đến tiếng thơm của công chúa đó.

Miệng thì nói vậy, nhưng trong lòng Dương Lăng không khỏi thầm kêu khổ: "Thật đúng là anh em ruột cùng cha cùng mẹ mà. Anh của cô nàng xách bảo kiếm đuổi giết Thọ Ninh hầu khắp cung, bây giờ vị tiểu công chúa này lại muốn truy sát Dương tham tướng mình hay sao?"

Công chúa Vĩnh Thuần chợt cười "phì" một tiếng như hoa xuân nở rộ. Tuy cô nàng tuổi còn nhỏ, nhưng lúc này đắc ý cười, trông lại hết sức tao nhã, cử chỉ cũng cực kỳ đáng yêu. Cô nàng cười mím chi hỏi lại:

- Trở ngại cái gì mà trở ngại? Nếu như ta bảo ngươi gan lớn trùm trời, vô lễ với bổn công chúa, ngươi nghĩ xem có đủ tội chém đầu không?

Dương Lăng vừa nghe liền giận tím mặt. Đột nhiên thấy Dương Lăng quắc mắt, khí thế giận dữ bộc phát ngút trời, cô nàng tiểu công chúa sợ hãi phải lui lại một bước. Nàng biết Dương Lăng quan hệ thân thiết với những nội quan nọ, e rằng y sẽ hành động theo tư tâm nên mới giả bộ doạ nạt y. Nào biết vừa nói lời này, Dương Lăng đã xem cô nàng như mỹ nhân độc địa coi mạng người như cỏ rác.

Cố dằn cơn giận, Dương Lăng khép hờ mắt, điềm nhiên đáp:

- Công chúa điện hạ là lá ngọc cành vàng, con rồng cháu phượng. Vi thần đã là gì chứ? Hoàng thượng đã phái thần đi làm chuyện này, vi thần đương nhiên sẽ xử lý công bằng. Nếu như lý lẽ không nằm bên phía điện hạ, chỉ mong công chúa điện hạ có thể lượng thứ cho vi thần.

Công chúa Vĩnh Thuần thấy Dương Lăng điềm nhiên như vậy, không khỏi có phần ngượng nghịu, nói:

- Ta... ta cũng không phải là kẻ không biết lý lẽ, đương nhiên là ta có lý nên mới yêu cầu ngươi giúp ta trút giận...

Nàng thấy Dương Lăng tuy cung kính hành lễ đứng nghiêm, nhưng cặp mắt lại nhìn thẳng xuống chân, không thèm liếc nàng lấy một cái, thế là cũng không kiềm được cơn giận của thiếu nữ, thầm nghĩ: "Ta đường đường là một công chúa Đại Minh, dựa vào cái gì mà phải xuống giọng khép nép giải thích với ngươi như vậy chứ?"

Nàng phất tay áo, nghiêm mặt nói:

- Hãy nhớ lấy lời ngươi nói: xử lý công bằng! Bằng không, ta cũng sẽ không bỏ qua cho ngươi đâu, hừ!

Nói đoạn nàng xoay người, đùng đùng bỏ đi.

...

Trong cung Càn Thanh, thái giám Ti Lễ phụ trách công trình Thái lăng là Đới Nghĩa vừa mới long đong mệt mỏi chạy về.

Mấy người Lưu Cẩn, Cốc Đại Dụng địa vị thấp kém, ở trước mặt lão vốn chỉ có thể vâng vâng dạ dạ. Nhưng từ khi nảy sinh hiềm khích với Vương Nhạc, Đới Nghĩa cũng biết, luận quan hệ hay địa vị lão đều không bì được với Vương Nhạc, trong khi đám người Lưu Cẩn tuy hiện giờ có thế lực mà không có thực quyền, nhưng lại là những thái giám đang được đương kim hoàng thượng vô cùng tin tưởng và thương yêu, do đó lão nảy tâm muốn kết nạp bọn họ. Cho nên lúc gặp mặt, lão cũng tỏ ra vui vẻ hoà nhã, thực khác xa với vẻ coi rẻ trước kia, khiến bọn người Lưu Cẩn vui sướng không thôi.

Chính Đức trông thấy Đới Nghĩa liền bảo:

- Đới Nghĩa! Trẫm có một chuyện muốn trao đổi với khanh cho nên mới vội gọi khanh về gấp.

Đới Nghĩa vừa mừng vừa lo, vội tâu:

- Hoàng Thượng có chuyện gì chỉ việc phân phó, nô tài nào dám không nhận lời?

Chính Đức trầm ngâm rồi hỏi:

- Chi phí cho công trình Thái lăng thế nào rồi? Có còn thiếu bạc không?

Từ khi vụ án Đế Lăng thấm nước kết thúc, dù sao thì sổ sách chi tiêu ở Thái Lăng đã ít nhiều được triều thần chú ý hơn. Hiện giờ, Đới Nghĩa không dám vơ vét nhiều bạc trong đó nữa mà thật sự dốc rất nhiều công sức, coi nó như công trình điểm cho sự nghiệp của chính mình, cho nên số bạc triều đình phân bổ dành cho việc chi tiêu công trình khá là dư dả. Nghe Chính Đức hỏi, Đới Nghĩa vội đáp:

- Hồi bẩm Hoàng Thượng! Chi phí của công trình Thái lăng đã đủ dùng rồi.

Chính Đức gật đầu nói:

- Ừm, vậy là tốt rồi! Đã sắp đến đại hôn của trẫm, số bạc cần cho đại hôn và tặng thưởng là một trăm tám mươi vạn lượng. Trẫm yêu cầu bộ Hộ xuất kho, Hàn Văn lại muốn trẫm lấy trong nội khố (kho nội cung) để chi ả. Nhưng Mã Vĩnh Thành nắm giữ nội khố, sau khi kiểm tra qua, lão cho biết bây giờ trong kho cũng không dư dả, nhiều nhất chỉ có thể lấy một trăm vạn lượng, tám mươi vạn lượng còn lại thì không cách nào thu xếp được. Trẫm hỏi thêm tám mươi vạn lượng nữa, cuối cùng bộ Hộ đã phải chấp thuận, nhưng Hàn Văn chỉ chịu cấp cho trẫm ba mươi vạn lượng, số còn lại y muốn trẫm dùng bạc giấy (nguyên văn: ngân sao) để ban thưởng thay cho ngân lượng. Hừ! Trẫm nhất thời hồ đồ suýt nữa thì đã nhận lời, may nhờ Lưu Cẩn nhắc nhở, trẫm mới vỡ lẽ ra. Lễ đăng cơ và đại hôn của trẫm cùng cử hành trong một năm, đó là song hỷ lâm môn, muốn trẫm phân phát bạc giấy cho bầy tôi và tướng sỹ canh giữ biên cương, đây không phải là làm xấu mặt trẫm à? Vì vậy...

Chính Đức nhìn Đới Nghĩa, trong lòng hơi lưỡng lự: "Ta bảo Đới Nghĩa giả vờ báo số bạc dành cho công trình Thái Lăng không đủ để đòi bạc với triều đình, làm như vậy có phải là quá bất kính với Phụ Hoàng hay không?"

Đới Nghĩa thấy vẻ mặt Chính Đức do dự, lại tưởng rằng Hoàng Thượng muốn "vắt" bạc từ công trình Thái Lăng ra. Lúc này lão đang rất muốn lấy lòng Chính Đức nên bèn tính toán nhanh trong bụng: nếu kiểm soát chặt chẽ hơn nữa, không cho phép bất kỳ đốc công nào vơ vét bòn rút, lúc mua sắm vật liệu cũng dè sẻn lại một ít, thì hẳn sẽ có thể cố gắng tích góp được bốn năm chục vạn lượng bạc.

Tính toán xong, Đới Nghĩa vội quỳ xuống tâu:

- Hoàng Thượng yên tâm! Vốn công trình Thái Lăng được dự toán là ba trăm tám mươi vạn lượng bạc. Nô tài và mấy vị đại nhân làm việc cho Hoàng Thượng không dám lười biếng sơ suất, tiến độ công trình cũng rất mau, phỏng đoán ba trăm ba mươi vạn lượng đã đủ để chi dùng. Vậy năm mươi vạn lượng còn thiếu đó, Hoàng Thượng hãy lấy từ Thái Lăng ra chi dùng đi.

Chính Đức nghe vậy cả mừng, không nhịn được đứng bật dậy hỏi:

- Gì hả? Công trình Thái Lăng có thể nhín ra năm mươi vạn lượng à?

Y thoáng trầm tư, rồi tái mặt nghi hoặc hỏi:

- Không lẽ ngươi vì lấy lòng trẫm, muốn ăn bớt ăn xén lăng tẩm tiên vương hay sao?

Đới Nghĩa vừa nghe vội bẩm ngay:

- Hoàng Thượng, nô tài nào dám làm vậy chứ! Thật sự là khi đưa ra yêu cầu, áng chừng nguyên liệu đã có dư. Bây giờ công trình đã hoàn thành được một nửa, nô tài đã tính kỹ qua: chỉ nội cung lăng (cung của lăng tẩm) trên mặt đất xây xong hẳn có thể tiết kiệm được mười mấy vạn lượng bạc. Nô tài không dám giấu giếm, vốn đã muốn bẩm báo với Hoàng Thượng, vừa may Hoàng Thượng cần dùng bạc, nô tài nào dám không vì Hoàng Thượng mà lo nghĩ chứ?

Lúc này Chính Đức mới chuyển giận thành mừng, nói:

- Vậy thì tốt, vậy thì tốt! Chỉ cần không tổn hại gì đến lăng tẩm của phụ hoàng là được. Trẫm vì chuyện này mà đã ưu sầu lâu nay rồi. Vương Nhạc nắm giữ cung điện to như vậy mà trẫm hỏi ý kiến của lão ta, lão lại chẳng có biện pháp gì, không ngờ khanh lại có bản lĩnh giúp trẫm tháo gỡ lo âu.

"Vương Nhạc?" Đới Nghĩa là một kẻ "có thù tất báo". Vốn lão một lòng trung thành với Vương Nhạc, nhưng khi lão nằm ngục chờ chết thì Vương Nhạc lại khoanh tay đứng nhìn nên bây giờ Đới Nghĩa hận Vương Nhạc đến thấu xương. Lão trộm nhìn quanh, thấy trước mặt chỉ có ba người Lưu Cẩn, Cốc Đại Dụng và Mã Vĩnh Thành, đều là những thái giám mà Vương Nhạc không sao ưa thích. Đới Nghĩa bèn lấy dũng khí cười nịnh tâu:

- Đương nhiên rồi! Cho dù có biện pháp, e rằng Vương công công cũng sẽ không nỡ đưa ra đâu.

- Hử?

Vừa hiểu ẩn ý trong lời, Chính Đức không khỏi ngờ vực liếc mắt nhìn lão, hỏi:

- Nói rõ ra đi! Ngươi hãy thành thật nói cho trẫm biết!

Đới Nghĩa lật đật dập đầu bẩm:

- Nô tài không dám, nô tài không dám! Vương công công nắm quyền Đông xưởng, Tây xưởng. Nô tài mà nói một câu khiến cho ông ấy không vui, ông ta muốn nô tài chết thì lập tức sẽ nghiền nát nô tài như một con kiến, nô tài thực không dám nói.

Chính Đức vừa nghe liền phẫn nộ, đập bàn "bốp" một cái, giận dữ quát:

- Chẳng lẽ Vương Nhạc còn lợi hại hơn cả trẫm ư? Ngươi sợ Vương Nhạc thì không dám nói thẳng với trẫm sao?

Hiểu ẩn ý trong lời nói của Đới Nghĩa, Lưu Cẩn bèn cười nham hiểm:

- Đới công công! Ở đây trừ Hoàng Thượng ra chính là ba nô tài bọn ta, đều một lòng trung với Hoàng Thượng, có chuyện gì cứ việc nói với Hoàng Thượng đi! Bất kể đúng hay không, Hoàng Thượng biết là được rồi. Trừ mấy người chúng ta trong điện ra, tuyệt đối sẽ không để người ngoài biết được.

Đới Nghĩa mừng thầm trong bụng, vội tâu:

- Đúng rồi! Phải phải! Nô tài đã hồ đồ rồi! Nô tài không dám nói, không phải là vì không sợ Hoàng Thượng mà thực ra là lời nói vu vơ, không chứng không cứ, sợ sẽ khiến cho Hoàng Thượng phiền lòng không đáng.

Lão vừa tâu vừa thấp thỏm ngẩng đầu lên:

- Hoàng Thượng! Đông xưởng giám sát bá quan và Cẩm y vệ, quyền lực ngút trời, bình thường chỉ riêng số bạc biếu tặng đã nhiều không biết bao nhiêu. Còn như Tây xưởng, giám sát Đông xưởng ấy, lợi ích càng thêm ngất ngưỡng, tiện tay bóp ra một chút cũng sẽ không để Hoàng Thượng phải lo sầu đến như vậy đâu.

Hơn nữa, Đông xưởng và Tây xưởng này là do ai cai quản chứ? Thái giám Ty Lễ Vương công công đó. Toàn bộ thuế giám (giám sát thuế), quặng giám (giám sát khai mỏ), diêm giám (trông coi muối ăn), châu giám (giám sát việc khai thác ngọc trai) trên cả Đại Minh đều do Vương công công phái ra từ ty Lễ Giám. Những giám sát nội cung này được quyền tự thiết lập nha môn trưng thu thuế má. Dân gian có câu: " Bộ Hộ chiếm ba phần quyền thu thuế, ty Lễ Giám lại đến bảy phần". Nếu nói ty Lễ Giám không xoay sở được chút bạc, vậy thực rất đáng ngạc nhiên.

Đúng là "thà đắc tội quân tử, chớ đắc tội tiểu nhân". Tuy đúng là Vương Nhạc nắm quyền ty Lễ Giám, và trong các triều đại, chính các đời Đại Minh cũng có vô số giám sát nội cung bị gọi là "Bác bì" (lột da), nổi danh khắp nơi, nhưng ở triều đại Hoằng Trị, bọn giám sát này vẫn còn tương đối an phận thủ thường.

Tuy rằng Vương Nhạc cũng ngăn cấm không nổi những chuyện bóc lột lớp lớp bên dưới (dù sao tai mắt lão cũng không thể linh hoạt đến mức ấy), nhưng số bạc mà lão nộp lên kinh phần lớn là đủ, đúng theo sổ sách kiểm tra chéo với bộ Hộ và nội khố; số dư trong tay lão quả thực không nhiều.

Nhưng bây giờ Đới Nghĩa lại nói như vậy, mặc dù tất cả đều là "có thể", "biết đâu", "phỏng chừng", thực chất vẫn chưa đủ trọng lượng để truy cứu, nhưng đã khiến Chính Đức nổi lòng nghi ngờ. Chính Đức nghe xong, vừa phẫn nộ vừa kinh ngạc kêu lên:

- Vương Nhạc dám lừa dối trẫm như vậy sao? Lời khanh nói có đúng không?

Đới Nghĩa vội vã dập đầu đáp:

- Hoàng Thượng đã hỏi tới, nô tài chỉ theo việc mà luận bàn, căn cứ theo lẽ thường để phỏng đoán mà thôi, thật sự không có bằng chứng.

Lưu Cẩn cũng sớm bất mãn với Vương Nhạc, nhưng Vương Nhạc là nguyên lão bốn đời, trong cung tai mắt cũng rất đông, nếu không nắm chắc lão thật chẳng dám mở mồm nói bậy. Lúc này, được cơ hội hết sức hiếm có, lão bèn thừa cơ tâu:

- Những chuyện này nếu thật sự có người rắp lòng tư lợi, làm sao Đới công công có thể biết được chứ? Mật thám giỏi thì chỉ có ở Đông xưởng và Tây xưởng, nhưng hai xưởng này lại đều dưới quyền của Vương công công, ai dám nói ra nói vào?

Nghe thế, nghi vấn trong lòng Chính Đức càng thêm sâu. Nhịn không được, y cả giận bảo:

- Tiên hoàng tin yêu Vương Nhạc, giao phó hết Đông xưởng và Tây xưởng cho lão ta, từ lúc trẫm lên nắm quyền cho tới nay cũng chưa từng hỏi đến. Vương Nhạc nắm giữ hai xưởng đã lâu năm, e rằng toàn bộ dây mơ rễ má đều là thân tín của lão ta, đương nhiên sẽ không lộ cho trẫm biết tin tức. Hừ! Xem ra trẫm phải tra xét bọn chúng thật kỹ một phen.

Đới Nghĩa mừng rỡ ra mặt, song lại cố làm ra vẻ lo lắng, nhíu mày tâu:

- Đông xưởng và Tây xưởng đều do Vương công công nắm giữ, Cẩm y vệ lại vốn chịu sự quản thúc của Đông xưởng. Nay Hoàng Thượng muốn tra xét, sợ cũng không tra ra được gì đâu!

Chính Đức đập bàn "bốp" một cái, không phục:

- Đông xưởng và Tây xưởng còn không phải là do Hoàng Đế cho bọn chúng thiết lập ư? Đông xưởng, Tây xưởng đều là người của lão ta à? Hừ! Chẳng lẽ trẫm không thể lập thêm một xưởng nữa sao... Đúng rồi! Trẫm sẽ thiết lập thêm một Nội xưởng, do trẫm đích thân cai quản. Đông xưởng, Tây xưởng, Cẩm y vệ, văn võ bá quan đều sẽ nằm dưới sự giám sát của Nội xưởng của trẫm, xem còn ai dám giấu gạt trẫm nữa không!

Bốn người Đới Nghĩa, Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành và Cốc Đại Dụng vừa nghe, tim đập một phát nhảy tót lên tới cổ họng. Hoàng Đế đích thân cai quản hả? Nói như đùa, Hoàng Đế làm gì có thời gian mà quản lý xưởng vệ, còn không phải chỉ là đứng tên rồi kiếm kẻ khác làm thay à!

Miếng bánh từ trên trời rơi xuống đó nha, nói không chừng bộp một cái liền rơi giữa bốn người bọn mình. Giám sát Đông xưởng, Tây xưởng, Cẩm y vệ, văn võ bá quan, ôi trời đất ơi...

Ngay khi bốn người đang nín thở đến độ ù cả tai vì thiếu dưỡng khí, thiên tử Chính Đức chợt vỗ bàn, phán ra một câu kinh thiên động địa:

- Đi gọi Dương Lăng về, bảo y tổ chức Nội xưởng cho trẫm!

- A!!!

Đám người Lưu Cẩn vừa nghe xong liền choáng váng mặt mày. Lâu nay các xưởng (Đông xưởng, Tây xưởng, nay thêm Nội xưởng) vẫn luôn do hoạn quan chấp chưởng, xưa nay chưa từng dùng ngoại thần, không lẽ Hoàng Thượng Chính Đức muốn Tiểu Lăng tử tiến cung(*) hay sao?

(*): ý là vung đao tự...

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 110: Phó sứ đại hôn

Dương Lăng theo sau công chúa Vĩnh Thuần đi thẳng đến Thập Vương phủ. Cấm cung của nội cung vô cùng nghiêm ngặt. Ngoài cung, tuy y được công chúa Vĩnh Thuần dẫn theo, thị vệ trong cung vẫn bước đến ngăn lại. Chỉ đến khi thấy được ngọc bội hình rồng của Hoàng Đế thì mới kinh hoảng thi lễ lui ra.

Dương Lăng đang mặt mày ủ dột lẽo đeo theo sau cô nàng tiểu công chúa, đột nhiên nhìn thấy trước ao nước nơi có ngọn giả sơn ở phía xa hiện ra một bóng dáng màu vàng nhạt. Y nhận ra đó là công chúa Vĩnh Phúc đang dẫn hai cung nữ rắc đồ ăn xuống nước sau lan can mái hiên, trong lòng không nén được mừng rỡ. Như thấy được cứu tinh, y rảo bước nhanh tới, đứng cách thật xa cất tiếng gọi lớn:

- Vi thần Dương Lăng tham kiến trưởng công chúa điện hạ.

Công chúa Vĩnh Phúc kinh ngạc quay người, trông thấy Dương Lăng, đầu tiên lộ vẻ hân hoan, tiếp đó ngơ ngác hỏi:

- Dương tướng quân, sao ngươi lại... vào hậu cung?

Nàng liếc sang hoàng muội, cả kinh thốt lên:

- Là muội dẫn Dương tướng quân vào ư? Còn không mau... mau đưa Dương tướng quân về đi. Chốn cung cấm này sao có thể tuỳ tiện bước vào.

Vĩnh Thuần đắc ý nói:

- Muội đến chỗ hoàng huynh cáo ngự trạng dùm Ninh Thanh cô cô. Là hoàng huynh sai Dương Lăng đến giúp cô cô trút giận đấy, Có phải vậy không Dương đại nhân?

Công chúa Vĩnh Phúc nhìn muội muội, lại ngó bộ dáng liên tục cười gượng của Dương Lăng, không khỏi vừa bực mình vừa buồn cười. Vị hoàng huynh này của nàng luôn làm việc cẩu thả. Bây giờ chuyện riêng của hoàng gia không giao cho phủ Tông Nhân xử lý lại phái vị tướng quân đến tra án. Không phải muốn đánh giặc chứ?

Công chúa Vĩnh Phúc lại nghĩ đến cảnh ngộ sau khi kết hôn của những công chúa trong hoàng gia, không khỏi thở dài, cất giọng xa xăm:

- Ôi, thanh quan khó xử việc nhà, quy củ tổ tiên truyền xuống thì ai có thể thay đổi được? Muội cần gì phải làm khó Dương tướng quân như vậy?

Công chúa Vĩnh Thuần ngạc nhiên nói:

- Sao tỷ tỷ lại nói vậy? Chẳng phải tỷ đã nói với muội tình cảnh hoàng cô hôm nay sẽ là tương lai của tỷ và muội sau này. Đến khi đó một mình đơn độc trong thâm cung, như chim trong lồng, đừng nói là nghĩ đến trời cao biển rộng, thậm chí ban đêm gối chiếc đơn côi khó bề nhắm mắt, ngay cả một người tri kỷ bầu bạn trò chuyện bên giường cũng không có đó ư? Giờ muội tìm hoàng huynh trút giận giúp cô cô, áp chế sự kiêu căng của bọn chúng, tránh có một ngày chúng ta cũng sẽ chịu những cơn cáu giận vô lối của chúng thì có gì là không phải?

Lời tâm sự riêng của con gái, giờ để cho cái "loa kèn nhỏ" lắm điều này rêu rao như vậy, công chúa Vĩnh Phúc vừa giận vừa thẹn. Nàng oán giận giậm chân, chỉ muội muội u uất nói:

- Muội... muội...

Dương Lăng nhìn hai tỷ muội cãi nhau, nén cười ho khan vài tiếng rồi thưa:

- Công chúa điện hạ, hoàng thượng lệnh cho vi thần đi đến chỗ của Ninh Thanh công chúa để thẩm tra sự tình. Nhưng... suy cho cùng đây là chuyện hoàng gia, vi thần thật sự không tiện xen vào. Nếu như công chúa thấy tiện, vi thần muốn mời công chúa đi đến đó làm chứng, vi thần cũng dễ bề thưa lại với hoàng thượng.

Công chúa Vĩnh Phúc liếc mắt nhìn Dương Lăng, thấy ánh mắt y ngó vội Vĩnh Thuần rồi nháy máy ra hiệu với mình, trong lòng lập tức hiểu ra mấy phần. Nàng cắn môi thoáng nghĩ ngợi, rồi giãn mày cười nói:

- Được thôi, bản công chúa cũng đang muốn đi gặp cô cô một lát, tiện thể đi cùng tiểu muội vậy.

Vừa nói nàng vừa bước đến kéo tay Vĩnh Thuần, quay đầu mỉm cười với Dương Lăng rồi đi trước dẫn đường. Có công chúa Vĩnh Phúc đi cùng, Dương Lăng không khỏi thở phào nhẹ nhõm. Tính tình của vị tiểu công chúa điêu ngoa giống hệt như người anh của nàng, bốc đồng lỗ mãng, bất chấp hậu quả. Nếu làm cho cô ả phiền lòng, có khi thật sự sẽ bị hãm hại cũng không chừng. Có công chúa Vĩnh Phúc đi cùng suốt hành trình, thật sẽ an toàn hơn nhiều.

Công chúa Vĩnh T nắm tay tỷ tỷ hiên ngang đi vào cung điện của công chúa Ninh Thanh trong phủ Thập Vương. Vừa vào đến chính điện nàng liền lạnh giọng quát đám thị nữ ra đón:

- Gọi tổng quản ra gặp ta!

Công chúa Vĩnh Thuần rất có tình cảm với công chúa Ninh Thanh, thường hay qua lại phủ đệ nên người trong phủ công chúa đều nhận ra nàng. Vừa thấy tiểu công chúa đến, tất cả đều hoảng sợ hành lễ. Chỉ một lát sau, nữ quan phủ công chúa Ninh Thanh nhận được tin liền thong dong bước ra nghênh đón. Từ xa nhìn thấy hai vị công chúa, mụ liền vội bước lên mấy bước, nhanh nhẹn quỳ sụp xuống hô:

- Nô tỳ bái kiến Đại trưởng công chúa, trưởng công chúa điện hạ. Hai vị điện hạ muốn gặp Ninh Thanh công chúa phải không?

Động tác đi đứng, bái lạy của nữ quan này liền mạch lưu loát, tựa nước chảy mây trôi, tư thế gọn gàng nhanh nhẹn, lộ vẻ tự nhiên tao nhã, hết sức dễ coi.

Vĩnh Thuần hừ mũi một tiếng, hất cằm xẵng giọng:

- Không cần vội gọi cô cô ra, bản công chúa hôm nay đến đây là để gặp ngươi.

Vị nữ quan đó vừa đứng dậy, nghe thế không khỏi kinh ngạc nói:

- Công chúa điện hạ muốn gặp nô tỳ? Điện hạ sao có thể nói lời này. Người có chuyện gì, chỉ việc gọi một tiếng, nô tỳ còn không vội vã chạy đến ư, nào dám nhọc công người. Nô tỳ thực không đáng được như vậy.

Vĩnh Thuần ngồi lên đôn gấm, cười gằn một tiếng nói:

- Ngươi có gì mà không dám chứ? Ngươi đuổi phò mã gia ra khỏi phủ, còn dám chạy đến chỗ Thái hoàng thái hậu cáo trạng công chúa, hại hoàng cô chỉ có thể nuốt lệ vào lòng. Bản lĩnh lớn như vậy ta nào dám gọi ngươi?

Dương Lăng vốn nghĩ vị nữ quan phủ công chúa này nhất định là một bà già xấu xí xảo trá. Nhưng nhìn vị nữ quan này, tuổi tác bất quá chỉ khoảng bốn mươi, da dẻ chăm sóc rất tốt, nõn nà khoẻ khoắn thướt tha, trông vô cùng đoan trang thanh tú, khi cười thì hoà nhã chân thành, không hề có chút ác độc xảo trá, bất giác hơi cảm thấy bất ngờ.

Nữ quan vừa nghe Vĩnh Thuần nói vậy thì hé môi cười, duyên dáng đáp lời:

- Nô tỳ đang lấy làm kỳ quái, công chúa điện hạ sao lại như đang bực bội ai, hoá ra là vì cho rằng nô tỳ lấy phận nô tài lấn át chủ.

Nói đoạn nuan thu lại nụ cười, quỳ xuống khấu đầu, mặt đầy vẻ oan ức:

- Nô tỳ năm tuổi vào cung, tập lễ nghi vũ nhạc cung đình, hầu hạ Thái hoàng thái hậu lão nhân gia người. Khi Ninh Thanh công chúa gả cho phò mã, tiên đế Hoằng Trị đã khâm mệnh cho nô tỳ nhậm chức nữ quan phủ công chúa, coi sóc cuộc sống thường ngày của công chúa, xử lý các sự vụ trong phủ. Nô tỳ quả thực đã chăm sóc cho công chúa từng li từng tí. Nói đến phò mã, chuyện của thiên tử gia nô tỳ vốn không nên lắm lời. Nhưng quy củ của người thực không thể đem so với dân gian. Hoàng thượng còn có Kính Sự phòng trông nom mọi việc, lẽ nào phủ công chúa có thể qua loa hay sao? Phò mã gia chưa được cho phép đã thường xuyên vào cung. Hơn nữa còn hay say rượu mà về. Nếu rêu rao ra ngoài, bị những thần tử nhìn vào há chẳng sẽ mất thể diện hoàng gia ư? Nô tỳ tuy là phận nữ lưu, nhưng cũng là phụng thánh dụ. Tiên đế người đã tín nhiệm, giao cho nô tỳ chức vụ này, nô tỳ cũng biết đây là chức vụ đắc tội với mọi người, trong ngoài đều không ưa. Nhưng cho dù bị đánh chết cũng không dám giả câm giả điếc, nhắm mắt làm ngơ. Tiểu tỳ hầu hạ Thái hoàng thái hậu, lại hầu hạ Ninh Thanh điện hạ, vẫn luôn cẩn thận kỹ lưỡng, không dám qua loa chuyện gì. Nếu công chúa điện hạ cho rằng nô tỳ làm sai, vậy hãy đánh chết nô tỳ đi.

Nữ quan này vừa nói vừa rơi lệ, quay đầu nói với đám thái giám và cung nữ trong điện:

- Đi, lấy roi ra. Nô tỳ đã mạo phạm công chúa điện hạ Vĩnh Thuần, hôm nay hãy để công chúa điện hạ đánh chết đi. Thể diện hoàng gia quan trọng, các ngươi không được ra ngoài rêu rao bậy bạ.

Đám cung nữ thái giám đó nghe xong lập tức quỳ xuống, cầu xin không ngừng:

- Xin công chúa điện hạ tha mạng. Lư tổng quản một lòng hầu chủ, chúng nô tài đều tận mắt nhìn thấy, xin công chúa điện hạ hãy khai ân!

Công chúa Vĩnh Thuần nghe xong giận không nói nên lời. Vị Lư nữ quan này luôn miệng liến thoắng 'Thái hoàng thái hậu' và 'tiên hoàng', điệu bộ giống hệt như thủ đoạn của Dương Lăng trên Kinh Diên, khiến cho công chúa Vĩnh Thuần không tài nào gây được khó dễ cho mụ.

Dương Lăng vừa nhìn tướng mạo bộ dạng, lời nói ngữ khí của mụ, vốn thật sự tin mụ một lòng gìn giữ lễ nghi hoàng gia. Nói không chừng vị phò mã gia nọ thật sự có điều quá đáng. Đáng tiếc vị nữ quan này mặc dù trông thấy Dương Lăng, lại nghĩ đó là Cẩm y vệ do Vĩnh Thuần kiếm tạm đến để xử lý ả, mà không biết thân phận thật của y, thành thử diễn hơi quá lố.

Dương Lăng tỏ vẻ lạnh lùng thờ ơ quan sát, thấy ánh mắt của đám cung nữ và thái giám khi nhìn về phía nữ quan luôn mồm liến thoắng "nô tỳ" này "nô tỳ" nọ còn khiếp sợ hơn lúc nhìn công chúa Vĩnh Phúc, trong lòng y đã hiểu ra vài phần.

Y mỉm cười, chậm rãi bước đến trước mặt nữ quan họ Lư, cúi người nói:

- Xin Lư tổng quản hãy đứng dậy đi. Chỉ vì công chúa điện hạ nhìn thấy Ninh Thanh công chúa đau lòng, cho nên nhất thời nóng nảy. Ngươi vâng theo ý chỉ của tiên đế, giữ gìn tôn nghiêm, chẳng những không có tội, mà còn có công. Có điều... ngươi một lòng vì chủ, song cách làm lại hơi quá quyết liệt, sao không khiến Ninh Thanh công chúa mất thoải mái chứ? Trở về ngươi vẫn nên thỉnh tội với công chúa mới phải.

Lư tổng quản vốn tính làm bộ làm tịch, ra vẻ nô bộc trung thành để mắng vị quan quân Cấm quân này không biết tôn ti, tranh phát biểu trước mặt công chúa. Song khi nghe giọng điệu y dường như lại nói đỡ cho mụ, thế là nở ruột nở gan, vội nói:

- Đại nhân là thị vệ trong cung sao? Đại nhân nói rất phải, nô tỳ sợ Tiết phò mã phá hỏng quy củ, nhất thời nóng lòng nên đã kiên quyết đuổi người ra khỏi cung, thật đã làm tổn hại thể diện của công chúa điện hạ. Nô tỳ sẽ hướng tới công chúa điện hạ thỉnh tội ngay.

Nói rồi cũng không đợi công chúa Vĩnh Thuần cho phép, liền thuận thế đứng lên.

Khi mụ ta đứng lên, Dương Lăng ngửi thấy trên người mụ thoang thoảng có mùi rượu. Nhưng y cũng không vạch trần mụ ngay mà thẳng lưng lên, một mặt đưa tay ra sau lưng xua xua, ra dấu bọn họ đừng lên tiếng, một mặt nói:

- Bổn quan là Dương Lăng, Tham tướng Tả tiêu quân Thần Cơ doanh, không phải là thống lĩnh thị vệ trong cung. Hoàng thượng nghe nói việc này nên sai bổn quan đến tra rõ mà thôi.

Lư tổng quản nghe y xưng là Dương Lăng, không khỏi vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Quả nhiên là người mình. Nghe đâu quan hệ giữa mấy vị công công Mã tổng quản, Cốc tổng quản và y hết sức tốt đẹp. Hoàng thượng phái một ngoại thần như y đến tra xét chuyện này, khẳng định là vì Mã tổng quản đã dâng lời lên hoàng thượng rồi. Ha ha, có y nói đỡ cho mình trước mặt hoàng thượng, Thái hoàng thái hậu thì chỉ nghe lời phiến diện từ phía mình, cho dù có thêm bảy, tám công chúa nữa đến thì làm được gì?

Lư tổng quản không giấu được sự đắc ý trong lòng, liếc nhìn hai vị tiểu công chúa với ánh mắt khiêu khích. Công chúa Vĩnh Thuần thấy vậy lửa giận bốc lên ngùn ngụt, thiếu chút nữa đã bộc phát. Công chúa Vĩnh Phúc ở bên cạnh khẽ ngắt hông nàng một cái, lúc này Vĩnh Thuần mới sực tỉnh, nén giận hừ một tiếng.

Vừa rồi công chúa Vĩnh Phúc nhìn thấy Dương Lăng dùng tay ra hiệu, lại nghe y nói thì biết y ắt có dụng ý, nên sớm đã âm thầm căn dặn muội muội chớ nên hành động khinh xuất. Rõ ràng tất cả mọi người trên dưới phủ công chúa đã bị Lư tổng quản mua chuộc và khống chế, cho dù hoàng đế đích thân đến đi chăng nữa, e rằng cũng sẽ không có ai nói giúp cho công chúa Ninh Thanh. Vụ kiện cáo mơ hồ này căn bản là không thể thắng, nói không chừng vị Dương tham tướng này thật sự có biện pháp cũng nên.

Dương Lăng cười càng thêm tươi, chắp tay nói với Lư tổng quản:

- Hoàng thượng phái đến tra hỏi nên mong tổng quan đem đầu đuôi sự tình nói cho bản quan, bản quan cũng dễ bề thưa lại với hoàng thượng.

Lư tổng quản vốn không phải là kẻ cả tin như thế. Nhưng Dương Lăng và đám người Mã Vĩnh Thành có quan hệ rất tốt với nhau là chuyện mà trong triều ngoài phố ai ai cũng biết. Chuyện nhà Hoàng đế lại phái ngoại thần đến điều tra càng là chuyện xưa nay chưa từng có. Trừ phi vì hai vị công chúa cáo ngự trạng cho nên Mã Vĩnh Thành đã dâng lời trước mặt hoàng thượng, bằng không loại chuyện kỳ lạ này nói nghe không lọt. Cộng vào ngữ điệu lời nói của Dương Lăng lại công khai thiên vị cho mụ, Lư tổng quản đã sớm vứt sạch nghi ngờ. Thế là bèn thêm mắm thêm muối kể lại một lượt chuyện phò mã gia không giữ quy củ trong cung thế nào, thường xuyên ra vào cung đình khi chưa được ả cho phép ra sao. Thậm chí mụ còn dám bịa chuyện phò mã vào cung mượn rượu giả say đùa bỡn cung nữ trước mặt hai vị công chúa.

Dương Lăng nghe mà thầm cười nhạt: ngoại trừ vị phò mã gia này chán sống lắm rồi chứ khó khăn lắm mới được gặp thê tử một lần thì làm gì có tinh thần mà trêu ghẹo mấy cung nữ tầm thường bên cạnh vợ mình. Không lẽ ngoài cung không có gái đẹp sao?

Dương Lăng nén giận nghe mụ nói xong, lập tức cười bảo:

- Hoá ra là như vậy. Giờ bản quan sẽ về bẩm lại với Hoàng thượng. Có điều Lư tổng quản tận trung chức vị, cũng nên chú ý đến cách làm. Hoàng thượng trăm công nghìn việc, bận rộn vô cùng, đại sự triều chính còn chưa xử lý xuể, về sau đừng để mấy chuyện này làm cho công chúa nổi giận, khiến Hoàng thượng phải lao tâm theo.

Lư tổng quản hiểu ý liền cười, vội đáp ngay:

- Dạ, dạ, dạ, đại nhân cứ việc yên tâm.

Dương Lăng khoan thai xoay người, nháy mắt một cái thật nhanh với công chúa Vĩnh Phúc, sau đó hành lễ nói:

- Hai vị điện hạ, vi thần đã tra hỏi xong, giờ sẽ quay về bẩm báo với Hoàng thượng.

Công chúa Vĩnh Thuần tuy đầy bụng nghi hoặc, song khi nghe vậy vẫn giận tím mặt. Nàng đỏ bừng mặt la lên:

- Ngươi tra hỏi cái... cái... Ngươi chỉ nghe lời phiến diện của mụ ấy liền đã quay về bẩm báo với hoàng huynh sao?

Dương Lăng trừng mắt với nàng một cái, rồi vội quay sang nháy mắt với công chúa Vĩnh Phúc, nhếch nhếch môi, sau đó ra vẻ tự tin hùng hồn nói:

- Hoàng thượng phái vi thần đến tra xét việc này. Việc tra hỏi đương nhiên là hỏi người của phủ công chúa, vi thần sao dám mời Ninh Thanh công chúa ra đối chất? Bây giờ cung nữ, thái giám hầu hạ công chúa điện hạ đều là nhân chứng, sao có thể nói là lời phiến diện của Lư tổng quản chứ? Điện hạ, Hoàng thượng vẫn đang chờ vi thần, vi thần xin cáo lui.

Nói rồi Dương Lăng liền bước ra khỏi điện. Lư tổng quản thấy Dương Lăng không thèm để ý đến hai vị công chúa, trong lòng càng thêm đắc ý. Dương Lăng vừa ra khỏi điện, khuôn mặt thanh tú khoan thai nọ của mụ liền lộ ra vẻ mỉa mai. Mụ vờ kính cẩn nói:

- Công chúa điện hạ thực muốn gặp Ninh Thanh công chúa sao? Ôi chết, hai vị công chúa vừa vào cửa thì đã xông lên hỏi tội nô tỳ, nô tỳ hoảng quá, quên cả dâng trà cho hai vị điện hạ mất rồi. Mau, mau, cái thứ không biết điều chúng bây, mau đi dâng trà cho người!

Lần này thì ngay cả người hiền hoà là công chúa Vĩnh Phúc cũng nổi giận. Nàng phất tay áo, hừ một tiếng, rồi kéo tay muội muội mình bảo:

- Chúng ta đi!

Hai người xoay người ra khỏi đại điện, Lư tổng quản nhanh nhẹn như mây bay nước chảy đuổi theo đến cửa, quỳ xuống làm lễ thưa:

- Nô tỳ kính tiễn hai vị công chúa điện hạ, công chúa điện hạ đi thong thả.

Công chúa Vĩnh Thuần ức muốn rách phổi, vừa ra khỏi phủ Thập Vương lập tức ngóng mắt khắp nơi hét lên:

- Cái tên khốn khiếp Dương Lăng kia đâu? Cái tên khốn khiếp Dương Lăng kia đâu?

Phía sau một cánh cổng vòm, Dương Lăng bỗng ló đầu ra, cười đáp:

- Dương Lăng ở đây!

Công chúa Vĩnh Thuần giật ra khỏi tay tỷ tỷ, lao qua đốp ngay:

- Rốt cuộc vừa rồi ngươi nhấp nháy mắt với tỷ tỷ ta là có ý gì? Mau nói ngay! Nếu như ngươi thật sự dám giúp mụ Lư tổng quản đó hãm hại cô cô ta, bản công chúa quyết sẽ không tha cho ngươi.

Dương Lăng ló đầu nhìn ra phía sau bọn họ, ở trong phủ Thập Vương kín cổng cao tường này không chỉ có một vị công chúa, Lư tổng quản không thể phái người đuổi theo rình trộm, nhưng Dương Lăng vẫn cảnh giác bảo:

- Đi, chúng ta vừa đi vừa nói.

Dương Lăng bước cạnh hai vị công chúa, vừa đi vừa phân tích:

- Số bạc chi tiêu hàng tháng của toàn bộ phủ công chúa đều do Lư quản gia nắm giữ phải không? Ừm, thảo nào có thể khống chế cả phủ trong tay. Trong vụ này, bây giờ khắp phủ công chúa đều là nhân chứng của mụ ta, còn công chúa và phò mã thì ngay cả một người chịu nói lời công đạo cho bọn họ cũng không có. Lư quản gia lại cứ luôn mồm đưa ra quy củ tổ tiên và tiên hoàng, xử lý mụ ta thế nào đây? Cho dù hai người cầu xin để hoàng thượng đổi quản gia cho phủ công chúa, điện hạ cho rằng sẽ có thể tốt hơn chăng? Lợi ích của bọn họ vốn được xây dựng từ việc gây khó dễ cho công chúa. Vì vậy ở điểm này bọn họ tất nhiên sẽ 'cùng chung kẻ thù'.

Công chúa Vinh Phúc nhớ lại khi nãy Lư tổng quản mở lời thì vâng vâng dạ dạ, thật ra thái độ lại cực kỳ kiêu ngạo, trong lòng không khỏi nguội lạnh. Nàng buồn bã nói:

- Vậy... vì lẽ gì Dương tướng quân lại khua tay ra ý bảo chúng ta đừng mở miệng chứ?

Rồi nàng chợt dừng bước ngóng nhìn Dương Lăng hỏi:

- Tướng quân nhất định đã có biện pháp hay rồi phải không?

Dương Lăng khẽ cười đáp:

- Điện hạ thật là anh minh sáng suốt. Ha ha, quả thực vi thần đã có chủ ý, chẳng qua nhất thời vẫn chưa nghĩ thấu triệt tới như vậy.

Y thấy Vĩnh Thuần lại sắp sốt ruột, vội nói tiếp:

- Cách làm thì thần đã nghĩ ra rồi, nhưng thần vẫn chưa nghĩ ra làm sao để trước lúc đó không lâu có thể cho Hoàng thượng biết. Song biện pháp chỉnh đốn loại tiểu nhân tham lợi này thì thần vẫn có...

Dương Lăng thấp giọng giải thích tỉ mỉ một lượt, sau đó cười nói:

- Hai vị công chúa vốn thường hay ra vào phủ công chúa Ninh Thanh, cho nên thích hợp để làm chuyện này nhất. Vả lại dẫu gì cũng chỉ là một nô tỳ, cho dù bại lộ Hoàng thượng cũng sẽ không nổi giận.

Công chúa Vĩnh Phúc nhìn y bằng cặp mắt long lanh như nước thật lâu không chớp, rồi chợt cười phì một tiếng, yêu kiều nói:

- Phương pháp này của Dương tướng quân thật là... thật là... ờ... nhất định hữu hiệu.

Vẻ giận trên khuôn mặt của công chúa Vĩnh Thuần đã sớm tan biến, nàng hớn hở gật đầu phụ hoạ:

- Đúng vậy, đúng vậy. 'Ác nhân phải lấy ác nhân trị'. Bây giờ bản công chúa đã bắt đầu tin lời Trương quốc cữu nói với mẫu hậu rồi. Cái tên nhà ngươi thật sự là một đại đại ác nhân!

************

"Đại ác nhân" Dương Lăng giúp hai đại, tiểu công chúa đề ra "chiêu thức" hại người xong, vô cùng đắc ý trở về cung Càn Thanh. Chẳng ngờ Hoàng đế Chính Đức đã sớm quên béng chuyện phái y đi điều đình việc nhà của công chúa, vừa thấy y liền hào hứng nói ra kế hoạch điên rồ của mình. Dương Lăng nghe xong lập tức ngây ra như phỗng.

Y đờ người một hồi lâu, nhìn bốn người Lưu Cẩn đang đỏ mắt vì hâm mộ, lại thấy Thiên tử Chính Đức mũi hất lên trời, bèn lấy làm kinh ngạc hỏi:

- Hoàng thượng muốn vi thần thành lập nội tập sự xưởng sao? Không phải Nội tập sự xưởng trước nay vẫn luôn do ty Nội Quan đảm nhiệm ư?

Chính Đức cười nói:

- Không hẳn. Chẳng qua đúng là vào thời Tĩnh Nạn nội quan đã dốc ra nhiều sức cho Vĩnh Nhạc đại đế cho nên Đông xưởng mới do nội quan nắm giữ. Vì vậy về sau khi thiết lập tiếp Tây xưởng cũng theo lẽ đó mà để nội quan nhậm chức xưởng đốc. Nhưng trẫm lại muốn thay đổi cách làm, ngoài mọi dự liệu. Như vậy mới có thể xuất thần nhập hoá, chiến thắng bất ngờ.

Hắn đắc ý:

- Nếu như nội xưởng của trẫm lại cử nội quan làm xưởng đốc, chẳng phải sẽ vẫn quy về dưới sự cai quản của Vương Nhạc ư? Hiện tại Cẩm y vệ là ngoại thần thân quân, được giám sát bởi Đông xưởng của Ti lễ giám, mà Tây xưởng thuộc ty Lễ Giám lại giám sát Đông xưởng. Nay trẫm lại điều ngoại thần thiết lập nội xưởng, giám sát ty Lễ Giám, như thế sẽ liền mạch không chút sơ hở. Cho nên nhất thiết phải dùng ngoại thần. Trẫm tin tưởng nhất là khanh, đương nhiên sẽ để khanh làm. Khanh không muốn làm thượng thư bộ Hình, trẫm đã phê chuẩn nên việc này không cho phép khước từ nữa.

Dương Lăng khổ sở nói:

- Nhưng mà thần... thật sự không có kinh nghiệm gì cả.

Y nghĩ bụng: mặc dù những kẻ đứng đầu hai xưởng một vệ mà không có được cái chết yên lành thực ra không nhiều, nhưng thanh danh vệ, xưởng thật sự không được tốt đẹp cho lắm. Hơn nữa Cẩm y vệ kết hợp với Đông xưởng hết lòng nâng đỡ mình như vậy, chính là sợ mất đi thánh quyến. Giờ đang tốt lành, mình lại thoát ly khỏi bọn họ tự lập môn hộ, Trương Tú và Phạm Đình liệu có chịu ngậm bồ hòn làm ngọt không?

Chính Đức lại không nghĩ vậy, y nói:

- Trẫm làm Hoàng thượng cũng chưa có kinh nghiệm đây, khanh xem trẫm chẳng phải đã làm rất tốt ư? Có trẫm chống lưng cho khanh, khanh còn sợ gì chứ?

Dương Lăng hít sâu một hơi, xấu hổ hỏi:

- Vậy... chẳng hay Hoàng thượng muốn thần thiết lập nội xưởng ở nơi nào? Nhân lực đó lấy từ đâu ra? Xây dựng nha môn phủ đệ, bố trí phòng ốc, mua gì cũng phải có bạc đúng không? Bộ Hộ chịu bỏ ra sao? Chức trách chủ yếu của nội tập xưởng là gì?

Chính Đức nghe thế ngẩn ra, một lúc sau mới nói:

- Việc này... việc này cũng phải hỏi trẫm sao? Nơi chốn thì khanh tự lựa lấy cho mình. Nhân lực thì khanh tự tuyển chọn. Bạc thì...

Hoàng đế Chính Đức nghĩ ngợi một chút, dường như có chút nhức đầu:

- Khanh thử nghĩ xem có thể lấy bạc từ đâu rồi nói cho trẫm nghe, trẫm chuẩn tấu được. Còn về phần chức trách, điều chủ yếu chính là thay trẫm trông coi hai xưởng một vệ, còn cái khác... Phải rồi, bạc... Quyền giám thuế của ty Lễ Giám nhất định phải thu hồi lại.

- Ừm...

Hoàng đế Chính Đức lại nghiêm túc nghĩ ngợi một lát, rồi nhún vai nói:

- Trẫm tạm thời chỉ nghĩ ra bấy nhiêu, nếu khanh nghĩ ra được gì thêm thì hãy nói với trẫm.

Dương Lăng trố mắt nhìn Chính Đức một hồi lâu, rồi mới thưa:

- Vậy... không phải là vi thần phải tham dự chủ trì đại hôn của Hoàng thượng sao? Hay là đợi sau đại hôn hãy xúc tiến được không? Bằng không vi thần e sẽ không cách nào để phân chia thời gian ạ.

Chính Đức cười:

- Chuyện này được thôi. Thế thì sau đại hôn của trẫm hãy tuyên bố thành lập nội xưởng vậy. Trước hết khanh hãy đến bộ Lễ, nghe nói quy củ của bọn họ rất là nhiều. Khanh là sứ thần thiên tử do trẫm đích thân tuyển chọn, chớ làm mất mặt trẫm đấy.

Dương Lăng đành phải đáp ứng:

- Dạ, vi thần tuân chỉ.

Y vừa mới rời khỏi cung Càn Thanh được mấy bước, Lưu Cẩn đã đuổi theo sau lưng, vừa đuổi đến nơi liền vội kêu lên:

- Dương đại nhân, thiết lập nội xưởng là việc vô cùng trọng đại, sao ngài không sốt sắng vậy. Nếu để hai xưởng một vệ biết được, nói không chừng sẽ ngấm ngầm thọc gậy bánh xe đó. Chuyện này phải nên nắm chắc mới được.

Chính Đức đã mở miệng rồng, nói rõ nội xưởng sẽ giám sát thái giám hai xưởng Đông Tây cho nên kiên quyết không dùng thái giám. Lưu Cẩn cũng đã hết hy vọng. May mắn thay vị xưởng đốc nội xưởng tân nhiệm này lại là huynh đệ tốt của lão, 'không cá thì tép tôm' cũng tốt. Dù sao cũng hơn là để người ngoài làm. Cho nên khi trông thấy bộ dạng thờ ơ hờ hững của y thì lão rất đỗi sốt ruột.

Dương Lăng thấy hoàng đế Chính Đức này làm việc bộp chà bộp chộp, sớm nắng chiều mưa, trong đầu còn mong sau lễ đại hôn thì hắn sẽ quên đi ảo tưởng về việc thiết lập nội xưởng, cho nên lần lữa được thì cứ lần lữa. Còn việc phòng bị hai xưởng một vệ, đơn giản là chuyện đùa. Việc này sao có thể sánh được với việc Hoằng Trị bí mật mở ra Tây xưởng, có ty Lễ Giám phối hợp, lại dùng Ngự mã giám làm nòng cốt thuyên chuyển tinh anh mà xây nên, cho nên mới có thể che giấu được nhất thời.

Trong khi mình, cần người chẳng có người, cần tiền thì không có một xu, cần chỗ thì không có chỗ, một chút cơ sở cũng không có. Chỉ cần bên này vừa khởi động, tin tức được giữ kín nhất định sẽ lập tức truyền đến tai hai xưởng một vệ. Thay vì giấu giếm khiến bọn họ nghi kỵ, chi bằng đến lúc mở ra cứ công khai cho bọn họ có thời gian chuẩn bị.

Dương Lăng nghĩ đến đây, trong lòng chợt máy động nổi lên một ý nghĩ: nòng cốt của Cẩm Y vệ là thân quân Cẩm Y năm đó. Lịch sử của Đông xưởng lâu đời, nha sai và bộ đầu phần lớn được chiêu nạp từ dân gian, Tây xưởng thì lại lấy Ngự mã giám làm cơ sở. Nếu quả thực muốn thành lập nội xưởng, vậy năm trăm thân quân của Thần Cơ doanh, thậm chí là toàn bộ nhân mã của Tả tiêu quân mà mình đích thân mang ra...

Vừa nghĩ đến đây, Dương Lăng trong lòng tràn ngập hưng phấn. Vốn còn mù tịt chẳng biết phải làm sao, bây giờ ngược lại y đã hạ quyết tâm. Nếu lấy thân quân của mình làm thành viên nòng cốt, thì cả nhân thủ lẫn địa bàn đều đã có cả, nói là thành lập chẳng qua chỉ là treo biển hợp thức hoá thôi.

Chẳng phải Hoàng thượng đã nói cần người nào thì cho người ấy sao? Hoàng Kỳ Dận - huyện thừa Kê Minh, Thiên hộ Ngô Kiệt - Cẩm Y vệ trước giờ vẫn không được toại ý. Những người này đều là quan lại có kinh nghiệm phong phú nhưng quan trường lận đận. Nếu lôi kéo bọn họ vào, có bọn họ bày mưu vạch kế, chẳng phải mình sẽ có thể tiếp tục bon chen sao?

Nghĩ đến đây, Dương Lăng hớn hở vỗ vai Lưu Cẩn. Lần đầu tiên thấy y có động tác thân mật như vậy, Lưu Cẩn sững người ra, lại nghe Dương Lăng mỉm cười nói:

- Lưu công công quan tâm đến Dương mỗ, Dương mỗ trong lòng biết rõ. Có điều việc này có giấu cũng sẽ không giấu nổi. Vậy cứ để tự nhiên cho bọn họ biết đi. Có ý chỉ của thánh thượng, còn ai dám gây phiền toái sao? Ha ha ha...

Lúc này Dương Lăng đột nhiên cảm thấy trong lòng thoải mái, thầm nghĩ nếu Hoàng thượng khăng khăng muốn mở nội xưởng, không bằng tung tin này ra trước, lấy tĩnh chế động, xem thử phản ứng của hai xưởng một vệ. Vả lại mình trù trừ không hành động, thế nào cũng khiến bọn họ nghĩ năng lực mình có hạn, trầy trật tính toán tổ chức, cho dù thật sự có người nổi lòng kiêng kị, ắt cũng sẽ vì thế mà đâm ra xem thường. Khi đó chớp nhoáng thành lập nội xưởng, những trở ngại ngầm nhất định sẽ giảm đến mức tối thiểu.

Vì thế, Dương Lăng gạt bỏ tâm sự, hết sức phấn khởi chạy đến bộ Lễ làm người chủ trì hôn lễ. Lưu Cẩn vẫn đứng ngây ra ở đó thật lâu chưa tỉnh.

***********

Dương Lăng vẫn chưa biết trong đại hôn của hoàng đế thì kẻ chủ trì như mình đây phải làm những gì. Dù sao cũng có bộ Lễ và phủ nội vụ ở đó, mình chắc chủ yếu là thu xếp châm đèn đốt pháo đêm đại hôn là được. Ai ngờ lễ nghi đại hôn của Hoàng đế phức tạp rườm rà, thủ tục nhiều như lá mít. Tuy tác dụng của y ở trong đó có hạn, nhưng những chuyện cần tham dự thật sự cũng không ít.

Hiện nay thượng thư bộ Lễ là Vương Hoa. Vương Hoa lại không có thành kiến gì với y, nhất là khi Vương Hoa nghĩ rằng trong vụ án Đế Lăng Dương Lăng vì muôn dân trăm họ nên mới liều chết không dâng tấu, là trung thần có tâm huyết, vì vậy đối đãi với y cực kỳ khách khí. Thị lang bộ Lễ Lý Đạc và y thì lại "chung một giàn", vì thế quan văn trên dưới bộ Lễ không ai dám gây khó dễ cho y.

Hồng Lư Quan kiên nhẫn giảng giải tỉ mỉ từng bước một cho Dương Lăng về nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp trưng, thỉnh kỳ, thân nghênh , nghi lễ sắc phong hậu, phi, song song cùng với phương pháp "Tam thẩm" (Ba lần kiểm tra) dùng để tuyển nạp cung nữ mới, khiến Dương Lăng nghe đến độ hoa mắt nhức đầu.

Đến lúc cuối cùng Dương Lăng chỉ nhớ những hậu, phi này đều là các tiểu thư quan lại đọc sách hiểu lễ, thân thế thanh bạch. Có điều quá trình tuyển chọn so với việc sỹ tử vào kinh thi cử còn nghiêm khắc và quyết liệt hơn.

Các cô nương mà bọn thái giám tuyển chọn chẳng những phải được quan sát dung mạo, nghe giọng nói, còn phải được cung nữ kiểm tra kỹ lưỡng tóc tai, thân thể, ngũ quan của bọn họ. Bất cứ chỗ nào không hợp mắt đều là không hợp cách. Lúc "nhị thẩm" lại lấy thước đo cánh tay, eo, chân và vóc người, không đủ cân đối cũng không được. Đến "tam thẩm", nữ quan trong cung sẽ cởi đồ ra kiểm tra, nếu cơ thể có mùi, da dẻ trên thân có chỗ nào có sẹo cũng không xong. Tiếp đó dựa trên cơ sở này lại kiểm tra tiếp phong thái, dáng vẻ, rồi còn phải ở lại trong cung học phép tắc lễ nghi, quy củ trong cung. Trong quá trình này nếu phát hiện dáng ngủ bất nhã lại đuổi về một nhóm lớn. Sau cùng những tinh anh còn lại mới được Thái hoàng thái hậu, Hoàng hậu và phủ Nội vụ tiến hành tuyển chọn nhân tài.

Dương Lăng nghe xong âm thầm tặc lưỡi, quá trình tuyển chọn này còn nghiêm ngặt hơn cả tuyển chọn hoa hậu Hồng Kông, đủ biết nữ nhân được chọn ra sẽ được đẹp cỡ nào rồi. Y không nhịn được bèn buột miệng hỏi:

- Có phải đã chọn được nhân tuyển làm Hoàng Hậu rồi không?

Hồng Lư Quan cười nói:

- Đúng vậy. Thái hoàng thái hậu và Hoàng thái hậu đã chọn trúng trưởng nữ của Đô đốc đồng tri phủ Hạ Nho Hạ đại nhân làm Hoàng hậu. Đồng thời cũng đã chọn ra hai người con gái của kinh quan làm phi tử, ngày đại hôn sẽ đồng thời nhập cung. À đúng rồi, ngày kia đại nhân sẽ phải đi nạp thái, vấn danh cùng với hạ quan. Đại nhân hẳn chưa quen với những lễ tiết này, cầm tạm những quyển sách này về xem một chút vậy.

Cầm lấy hai chồng sách dày cộp, Dương Lăng không khỏi trợn mắt hỏi:

- Những... những thứ này đều ghi chép nội dung đại lễ sao?

Hồng Lư Quan nói:

- Đúng vậy. Trong đó là những nội dung có liên quan mà ngài phụ trách. Đại nhân nhất định phải cẩn thận một chút, làm sứ giả cho thiên tử, chớ để mất lễ nghi.

Dương Lăng chỉ biết gật đầu vâng dạ rồi ôm lấy hai chồng sách lên kiệu chạy về nhà. Trong kiệu y tuỳ ý mở ra xem một chút. Những chữ li ti đều là viết dọc từ trên xuống dưới, ngay cả dấu chấm câu cũng không có. Ngày thường xem vài công văn còn có thể cố kiên nhẫn chứ mấy thứ cổ ngữ xem vốn đã choáng mắt, kiệu lại lắc tới lắc lui, Dương Lăng mới nhìn một chút liền thấy nhức cả đầu, thật sự không xem tiếp được nữa.

Dương Lăng ôm đống sách trở về đến phủ thì trời đã quá chiều. Để sách vào trong thư phòng, thấy mấy người Ấu Nương không có ở trong phòng, y hỏi tỳ nữ mới biết mọi người đều đã ra hậu viên, bèn thay thường bào rồi lững thững bước ra hậu viên.

Sân này không nhỏ, chu vi vây quanh chừng ba mẫu, vốn không có dùng để làm gì, ngoại trừ mấy cây ăn quả, khắp nơi đều là cỏ dại. Nay được Dương Lăng phân phó, gian đầu của hậu viên đã được san bằng thành một mảnh đất chuẩn bị dùng làm diễn võ trường. Trên mặt đất được dãy cỏ còn chất vài gò đất vàng, xem chừng vẫn chưa làm xong.

Đi tiếp vào trong, bên phải chính là vườn rau mà Ấu Nương chăm bón. Đầu tiên là một dãy những giàn đậu mắc cao hơn đầu người, vào trong nữa là giàn dưa leo, sau cùng mới là các loại rau dưa hành tỏi.

Dương Lăng bước qua giàn đậu. Vừa bước qua hai giàn dưa leo liền trông thấy một bóng người đang khom nửa lưng xuống ruộng chăm bón mầm dưa non. Nhìn kỹ hoá ra là Ấu Nương. Y liền khấp khởi cúi người chui vào. Đám dưa này được chăm bón rất tốt, đã cho ra rất nhiều trái dưa leo mọng nước, trên đầu trái còn nở những đoá hoa rất đẹp.

Ấu Nương nghe thấy tiếng lá xào xạc, ngoái đầu nhìn thì thấy tướng công đã về, liền vội ngẩng đầu cười thật tươi:

- Tướng công, chàng đến đây làm gì? Đừng làm dơ quần áo đó.

Dương Lăng trông thấy Ấu Nương đã thay một bộ áo vải thô, tay cầm kéo, chắc hẳn đang cắt tỉa dưa non, thì cười:

- Nàng nhé, trời nóng như vầy, chui vào trong ruộng dưa kín mít không gió để bị nóng như vậy. Giờ đây tướng công đã có thân phận vương hầu rồi, nàng lại có phúc mà không hưởng.

Hàn Ấu Nương đưa ống tay áo lên quệt mồ hôi trên mặt, tươi roi rói nói:

- Ở không cũng khó chịu lắm. Tướng công bây giờ là tước gia chứ không phải là vương hầu. Chúng ta ở đây nói thế thì không sao, nhưng ở bên ngoài chàng ngàn vạn lần đừng nói như vậy, tránh để đám tiểu nhân bươi móc khuyết điểm của chàng.

Dương Lăng trừng mắt với nàng, trách:

- Ta chính là có ý như vậy đó, không nói vương hầu chẵng lẽ nói là công hầu, bá hầu à?

Nói đoạn y cũng không nén bật cười bảo:

- Nếu ta thật sự thăng đến công hầu, nàng chẳng phải sẽ là mẫu hầu (khỉ cái) đó ư?

Hàn Ấu Nương phát ngượng, không thèm nghe nói:

- Tướng công lại nói bậy nữa, lúc nào cũng thích trêu người ta.

Lúc này nàng bước tới phía trước. Dương Lăng sợ đụng phải dưa leo mà luống ruộng dưới chân lại xốp nên y đứng không vững, vừa ôm lấy người Ấu Nương liền "úi da" một tiếng, té phịch mông xuống bờ ruộng, đè dập mất một mầm dưa.

Hàn Ấu Nương bèn trách:

- Tướng công, nhìn chàng kìa. Chàng đó, trời sinh đã không phải là người vào ruộng rồi.

Dương Lăng đã ngồi bệt dưới đất, cũng không vội đứng lên. Y kéo tay Ấu Nương để nàng ngồi trên đùi mình, rồi cảm khái than:

- Ài, tướng công cũng biết, trong phủ nàng cũng không có chuyện gì làm. Nhưng với thân phận của tướng công bây giờ, đừng nói là nàng ra ngoài tìm việc, cho dù tuỳ ý đi lại trên đường cũng không dễ, cả ngày nằm dí trong phủ cũng thật khó chịu. May mà có mấy người Ngọc Nhi, bằng không nàng sẽ còn buồn hơn.

Nói rồi y mới sực nhớ là mình vẫn chưa thấy mấy người Ngọc Nhi, Tuyết Nhi và Cao Văn Tâm đâu, lấy làm lạ hỏi:

- Mấy người bọn họ đâu rồi?

Hàn Ấu Nương đáp:

- Bọn họ không cắt tỉa nên đã lên phía trước hái rau rồi.

Dương Lăng ừm một tiếng rồi hôn phớt lên vành tai Ấu Nương, nói:

- Nếu chúng mình có con sớm một chút thì đã tốt rồi. Con nít đứa nào cũng nghịch ngợm cả ngày không để ai nghỉ, như vậy cô vợ của ta sẽ không phải buồn nữa.

Khuôn mặt Hàn Ấu Nương thoáng đỏ lên, trong lòng lại hơi bất an. Nàng có chút chán nản liếc sang Dương Lăng, rụt rè nói:

- Tướng công thích có con, nhưng Ấu Nương giờ vẫn chưa...

Dương Lăng thấy đã chạm vào tâm tư của nàng, liền vội an ủi:

- Không gấp, không gấp, nàng còn nhỏ, vả lại...

Y kề sát vào tai Ấu Nương thủ thỉ:

- Chúng mình mới chung chăn gối bốn tháng mà, nương tử nhà ai lợi hại vậy chứ, một tên có thể trúng đích ngay? Ha ha.

Hàn Ấu Nương nghe vậy lúng túng vặn vẹo bờ vai, có phần mắc cỡ. Dương Lăng thấy vẻ ngượng ngùng của nàng, không khỏi hơi động tình. Nhìn quanh thấy không có ai, y bỗng kề sát vào tai Ấu Nương khẽ hát:

- Bà xã ơi bà xã ta yêu nàng, cầu trời phật chở che cho nàng, mong nàng có được một thân thể tốt, khoẻ mạnh và xinh đẹp. Bà xã ơi bà xã ta yêu nàng, cầu trời phật chở che cho nàng, mong nàng mọi sự đều như ý, chúng mình mãi không chia ly. Tình yêu của ta, chính là nàng, nàng có biết, ta yêu nàng lắm không...

Vào thời đó, bài hát như thế bảo đảm có thể coi như bài dân ca ở thôn quê, nhưng ca từ của nó lại chan chứa cảm xúc ấm áp và ngọt ngào khiến Hàn Ấu Nương nghe mà hai mắt sáng rỡ. Nàng thích thú kéo tay Dương Lăng hỏi:

- Bài ca này nghe hay quá. Tướng công nghe được ca khúc hay như vậy từ đâu thế?

Dương Lăng cười:

- Nghe hay không? Tuy 'bà xã' là cách xưng hô dân dã, nhưng ta cảm thấy so với cách xưng 'nương tử' văn nhã nó càng tỏ rõ tình yêu của tướng công với nàng hơn. Chỉ cần đem đổi chữ này thành ông...

Dương Lăng chợt sực nhớ chữ "ông xã" hình như cũng là một cách gọi thái giám (trong tiếng Trung 'lão công' cũng có nghĩa là thái giám, như 'công công'), liền vội sửa lời:

- Chỉ cần đem đổi chữ này thành tướng công, nàng cũng có thể hát cho tướng công nghe. Tướng công dạy nàng, nàng hát cho tướng công nghe có được không?

Hàn Ấu Nương xấu hổ nói:

- Tướng công, người ta... người ta chưa hát bao giờ, sợ hát không hay đâu.

Dương Lăng khó có dịp ngồi cùng một chỗ với Ấu Nương chuyện trò thân mật như thế này, nên cũng không nề hà trong vườn oi bức ngột ngạt, y nắm lấy tay nàng nói:

- Dễ lắm, lại đây, ta sẽ hát trước vài lần, nàng nghe bài này nhiều lần sẽ quen thôi.

***********

Ăn tối xong, Dương Lăng chui vào thư phòng chăm chỉ xem nửa ngày trời. Hai chồng sách đều là nói chi tiết về những khâu nạp thái, vấn danh, nạp trưng, thỉnh kỳ. Từng hạng mục, cử hành giờ nào, đội nghi trượng cần bao nhiêu thái giám, bao nhiêu cung nữ, mấy chuyện vặt vãnh như chủ sứ giả và phó sứ giả ai cầm ấn tín, ai cầm chiếu thư vân vân, nhìn hoa cả mắt.

Dương Lăng thấy trong hai quyển sách dày như vậy, những thứ mà mình cần chú ý đến không nhiều lắm, nếu như chọn lọc chép ra cộng với ghi nhớ thì sẽ dễ hơn rất nhiều, bèn nghĩ đến chuyện đi tìm mấy người Ngọc Nhi, Tuyết Nhi đến giúp.

Dương Lăng biết buổi tối bọn họ thường thích hóng mát ngoài hành lang cong ở vườn hoa. Y men theo giàn nho bước được mấy bước, chợt nghe phía sau góc quanh hành lang có một giọng khe khẽ ngâm nga:

- Lão gia - lão gia thiếp yêu chàng, mong trời phật chở che cho chàng, cầu chàng có được một thân thể tốt, khoẻ mạnh và xinh đẹp...

Dương Lăng nghe xong suýt tý nữa thì đã té xỉu. Hồi chiều ở trong vườn dưa dụ dỗ cỡ nào Ấu Nương cũng không chịu mở miệng ra hát, không ngờ bây giờ lại chạy ra chỗ không người học hát, "bà xã" sửa lại thành "lão gia" coi như không tính đi, lại còn... "khoẻ mạnh và xinh đẹp"...

Dương Lăng dở khóc dở cười, vội vã chạy vòng qua. Trông thấy một bóng hình xinh đẹp đang ngồi bên lan can, tay cầm hòn đá nhỏ vứt xuống ao một cách nhàm chán, miệng vẫn đang ngâm nga, y vội đi tới gọi:

- Ấu Nương...

Bóng người đó vừa nghe thấy tiếng động liền giật bắn người như thỏ trúng tên, thét lên một tiếng chói tai, sau đó định thần lại mới run rẩy nói:

- Lão... lão gia?

Dương Lăng vừa nghe giọng nói, nhìn kỹ lại một lượt, thấy vị cô nương chúc mình "khoẻ mạnh và xinh đẹp" này không ngờ lại là Tuyết Lý Mai, thế là cũng không khỏi sững người.

Hồi chiều Tuyết Lý Mai bận rộn đến khát khô cả họng nên đã chạy qua vườn dưa hái dưa leo ăn, đúng lúc nghe được lão gia đang dạy phu nhân hát ở ngoài bờ ruộng. Vì y hát đến nhập tâm, âm thanh lại lớn, bị nàng nghe hai lượt đã nhớ hết. Bây giờ nhàn rỗi không gì làm nên thuận miệng hát một chút, không ngờ bị lão gia bắt gặp tại chỗ khiến nàng không khỏi ngượng chín cả người, hận không thể quay người lại nhảy ùm xuống ao chết phứt cho xong.

Xa xa trong góc đình, Hàn Ấu Nương, Ngọc Đường Xuân và Cao Văn Tâm nghe thấy tiếng thét vội vàng chạy lại, vừa thấy Dương Lăng và Tuyết Lý Mai đang đứng đó, Tuyết Lý Mai thì vẫn còn rụt rè sợ hãi, không khỏi lấy làm nghi ngờ hết nhìn người này một chút, lại ngó người kia một tẹo.

Dương Lăng thấy thế thì biết đã hỏng bét, sợ mấy người con gái này sẽ hiểu lầm, vội ho một tiếng nói:

- Ta đang có chuyện cần các nàng giúp đỡ cho nên đi hơi vội, không ngờ Tuyết Nhi cô nương đang đứng ở đây, nên đã doạ cho cô ấy giật mình.

Hàn Ấu Nương nghe xong mới thư thái trở lại, song Ngọc Đường Xuân lại không tin. Nhìn Tuyết Lý Mai trong đêm cả người đỏ bừng như sắp bốc lửa, còn lâu nàng mới tin đó là do bị doạ. Trong lòng cô bé này không khỏi dấy lên một sự chua xót. "Có phải là lão gia thích Tuyết Nhi hơn mình? Không lẽ... mình không đủ đẹp ư?"

Cao Văn Tâm liếc nhanh mấy vị cô nương đang mang những tâm trạng khác hẳn nhau này một cái, đoạn chỉnh đốn trang phục, hành lễ, rồi điềm đạm nói:

- Lão gia có gì phân phó cho tiểu tỳ làm sao?

Dương Lăng thở phào một hơi, vội nói:

- Là như vầy, Hoàng thượng sai ta làm sứ giả cho đại hôn, cầm chiếu thư đi đến phủ của Hoàng Hậu vừa tuyển để làm lễ nạp thái và vấn danh. Nhưng sách lễ tiết thật sự quá hỗn tạp, ta muốn sắp xếp những việc mà phó sứ của thiên tử cần chú ý và làm ở trong đó, ngày mai sẽ học cho thuộc, để tránh đến lúc đó lại xảy ra chuyện.

Mấy nữ tử vừa nghe có việc để làm, lập tức vứt chuyện vừa rồi qua một bên rồi theo Dương Lăng đến thư phòng. Loại sách đóng chỉ đó dễ tháo, Dương Lăng tháo ra thành bốn phần chia cho bọn họ sắp xếp lại, còn bản thân thì pha trà thảnh thơi nhấm nháp ngồi chờ.

Qua một hồi, Tuyết Lý Mai lại kinh hãi kêu lên một tiếng, ánh mắt mấy người không khỏi tập trung trên người nàng. Dương Lăng vốn còn hơi mất tự nhiên vì chuyện ban nãy thấy vậy không khỏi cả mừng. "Ha ha, thì ra cô ấy có tật như vậy. Lần này Ngọc Đường Xuân sẽ không vừa chép sách vừa ngó mình như ngó đặc vụ nữa đó chứ?"

Hàn Ấu Nương không nhịn được bèn cười hỏi:

- Tuyết Nhi, sao hôm nay lúc nào muội cũng kêu hoảng hốt lên thế, đang chép sách mà cũng bị hù dọa à?

Tuyết Lý Mai đỏ mặt, ngượng ngập đáp:

- Tỷ tỷ, muội... muội chỉ không ngờ phó sứ của thiên tử còn... còn phụ trách những thứ này, cho nên nhất thời ngạc nhiên...

Hàn Ấu Nương, Ngọc Đường Xuân và Cao Văn Tâm nghe vậy đều lấy làm hiếu kỳ sáp gần lại. Không ngờ mới xem một chút, Cao Văn Tâm đã khẽ mỉm cười, trở về bên bàn chép tiếp phần của nàng. Hàn Ấu Nương và Ngọc Đường Xuân chớp mắt xem một hồi, cũng đỏ bừng mặt mà lẩn ra.

Dương Lăng nổi tính tò mò, liền vội đứng dậy, hứng thú chen cổ qua hỏi:

- Có gì cần ta làm à? Để ta xem thử nào.

Dương Lăng giành lấy quyển sách ngó vào, chỉ thấy trên đó ghi "Phần nhân luân (luân lí làm người): trên phụng dưỡng tông miếu, dưới kế tục đời sau." Tiếp đó lại là mấy bức xuân cung đồ.

Phim cấp ba "súng thật ống thật" Dương Lăng cũng đã coi rồi nên thứ đồ "con nít" này đương nhiên không để vào mắt. Y khinh thường xem tiếp, nội dung hoạt động bên dưới lại nói đến việc thờ cúng trong cung có thờ Hoan Hỉ phật có thể chuyển động được. Vào ngày nào tháng nào đó, phó sứ lễ đại hôn sẽ đi cùng thái tử đến đại điện thờ Hoan Hỉ phật, rồi dựa theo sự biểu thị của tượng phật, phó sứ sẽ giảng giải cho thái tử kiến thức về giao hợp.

Dương Lăng xem xong không khỏi cười lớn nói:

- Hoá ra là mấy thứ này. Dào, tưởng là thứ gì, cái này có gì đáng dạy chứ. Ai mà chẳng biết thứ này, nhớ hồi ta mười ba tuổi... ớ...

- Hử?

Bốn cặp mắt mang những vẻ mỹ lệ bất đồng lập tức đổ dồn lên người Dương Lăng. Bốn ánh mắt đều tràn ngập sự tò mò "hiếu học". Mặt Dương Lăng nóng bừng, y cố tạo ra vẻ uy nghiêm của lão gia, ho khan vài tiếng rồi cất giọng khô khốc:

- Sắc trời chưa tối, chúng ta không nói chuyện phiếm nữa. Ta thấy mọi người nên mau chóng sao chép cho tốt đi.

Chú thích:

Cưới hỏi theo văn hoá Trung Quốc thời cổ đại có sáu bước (lục lễ), được phân ra như sau:

Lễ nạp thái: sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp "nhạn" để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.

Lễ vấn danh: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của người con gái.

Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi.

Lễ nạp trưng (hay nạp tệ): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, minh chứng cho sự hứa hôn chắc chắn.

Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới.

Và sau cùng là lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang sính lễ đến để rước dâu về.

những câu này được trích từ bài hát "Bà xã ơi bà xã anh yêu em" (老婆老婆我爱你) rất nổi tiếng. Mời nghehttp://www.youtube.com/watch?v=PPLtKcmEjM0

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 111: Cảnh long vượt ngục

Đã đến ngày Nạp thái và Vấn danh. Vừa đến chính điện cung Càn thanh, Dương Lăng đã thấy người của Giáo Phường ty đang diễn tấu lễ nhạc trên thềm rồng. Ở chính điện, một đám thái giám và cung nữ đang bận rộn bài trí; trong điện đặt tạm hai cái bàn, được trải bằng vải gấm màu vàng đỏ; trên một chiếc bàn đặt "Tiết"(*), trên chiếc bàn còn lại đặt chiếu thư cho "Vấn danh", bên cạnh đều là lễ vật được chuẩn bị để đưa đến phủ Ngũ quân Đô đốc của Đô đốc Đồng tri Hạ Nho Hạ đại nhân. (*: kiểu ấn tín của sứ giả ngày xưa, dùng trong lễ hoàng tộc)

Hôm nay là đại hôn của Hoàng Đế, đám người không vai không vế như bọn Lưu Cẩn đương nhiên không có cơ hội để lộ diện. Không tìm thấy mấy đại nhân quen thuộc, Dương Lăng bèn đứng yên ở dưới điện. Đợi đến khi Giám chính Mạc Đạo Duy của Khâm Thiên Giám trong bộ dạng đắc ý và ngạo nghễ tuyên bố giờ lành đã đến, Dương Lăng mới nhìn thấy Hoàng Đế Chính Đức với trang phục chỉnh tề long trọng xuất hiện trong tiếng nhạc được nội quan, thị vệ, thái giám vây quanh, bước vào chính điện cung Càn Thanh ngồi xuống.

Những bá quan văn võ có tư cách đến dự lễ liên tục chúc mừng, vương công đại thần quỳ gối dập đầu bái lạy, hô to vạn tuế. Quan tuyên chế phụng chiếu thư đứng trên mé đông thềm rồng cao giọng tuyên chiếu, bổ nhiệm hai vị Chính và Phó sứ giả đến phủ Hạ đại nhân làm lễ Nạp thái và Vấn danh.

Những trình tự này đã được Dương Lăng học thuộc làu làu, cạnh bên lại có Hồng Lư Quan của bộ Lễ để y bắt chước theo, tư thế tiến lui cũng đã ra hình ra dáng. Phụng thánh chỉ xong, Hồng Lư Quan của bộ Lễ làm Chính sứ cầm "Tiết", Dương Lăng làm Phó sứ bê chiếu thư "Vấn danh", đội nghi trượng và trống nhạc đi trước mở đường, xuất phát từ cung Càn Thanh. Ngọ môn được mở ra, dòng người cuồn cuộn tiến về Hạ phủ.

Thống lĩnh thị vệ của nội quan phụ trách bảo vệ đội nghi trượng là Miêu Quỳ. Trên đường, hai Chính và Phó sứ giả đi song song, ở phía sau Miêu Quỳ tự dẫn đầu Ngự Mã Giám và đội nghi trượng. Khi đoàn người đến phủ của Hạ đô đốc, Hạ đại nhân quỳ xuống tiếp sứ giả, sau đó giao nộp "Biểu" (biểu tấu) ghi họ tên, lý lịch sơ lược, ngày sinh tháng đẻ, vân vân của con gái cho Chính sứ giả. Đến lúc thết tiệc long trọng chiêu đãi sứ thần của thiên tử, Miêu Quỳ mới có thể ngồi chung bàn với Dương Lăng; còn đội nghi trượng, cổ nhạc và thị vệ, chỉ có thể ngồi xổm trong sân ôm lấy bát to kèm cơm rau cố ăn một ít lót dạ.

Dương Lăng không quen chuyện trò với quan viên lạ, nhưng tuy là Phó sứ, y lại là ngoại thần mà đương kim Hoàng thượng tin yêu nhất, nội quan hầu cạnh Hoàng đế lại đều có giao hảo với y. Mặc dù sắp làm Quốc trượng, Hạ Nho cũng biết rõ con gái nếu muốn được Hoàng thượng sủng ái, không thể thiếu sự phối hợp của nội thần và ngoại thần được tin sủng nhất, do đó đối đãi với Dương Lăng hết sức nhiệt tình.

Đám người Dương Lăng Nạp thái, Vấn danh xong còn phải về cung phục chỉ, cho nên nhà họ Hạ chuẩn bị đều là rượu nếp Giang Nam có nồng độ khá nhẹ, trong hương thơm thoang thoảng có vị ngọt của gạo nếp. Khí trời oi bức, thứ rượu này giải khát rất tốt, Dương Lăng không tránh khỏi uống liền mấy chung.

Thừa lúc Hồng Lư Quan và Hạ Đô đốc trò chuyện, y gọi một gã đầy tớ của Hạ phủ lại, hỏi chỗ đi vệ sinh, rồi đứng dậy cáo lỗi các vị đại nhân cùng bàn, xoay người đi về phía nhà xí.

Gã đầy tớ đó ân cần dẫn y đến sân bên hông, chỉ rõ chỗ rồi lui ra. Hôm nay Hạ gia trang trí nguy nga tráng lệ, gấm hoa rực rỡ, thậm chí trước cửa nhà xí cũng treo đèn lồng đỏ to đùng. Nhà xí của nhà họ Hạ được xây như khuê phòng, trồng mấy cây anh đào để che cửa. Từng chùm hoa anh đào rũ đầy cành trông như những viên mã não đỏ chót.

Dương Lăng gạt một cành chìa ra, rồi vào đi giải, vừa chuẩn bị đi ra thì Miêu Quỳ cũng đã lách mình bước vào. Dương Lăng nghĩ đến Miêu Quỳ là thái giám, lúc đi giải mà mình đứng ở bên cạnh hẳn sẽ có phần khiến lão khó xử, liền vội cười nói:

- Miêu công công, hạ quan trở lại bàn tiệc trước đây.

Miêu Quỳ lùi lại một bước, cản đường y, hơi thò đầu ra ngoài liếc một cái, rồi mới cười ha hả, nói:

- Khoan đã, Dương đại nhân. Ta đến là muốn bắt chuyện kết giao với Dương đại nhân, tạo lợi ích cho đại nhân và ta.

Trong lòng Dương Lăng máy động, y điềm tĩnh hỏi:

- Miêu công công sao lại nói lời này? Mong ngài có thể nói rõ cho Dương mỗ hay.

Miêu Quỳ mỉm cười, đoạn nói:

- Ta đây thuộc loại người không thấy phật thật không thắp hương (*), hành động hôm nay quả thực là tấm lòng thành. Chẳng lẽ Xưởng đốc đại nhân vẫn không thể tin ta sao? (*: ý nói chưa thấy tận mắt thì chưa tin)

Dương Lăng cả kinh, suy nghĩ đầu tiên của y là: "Trong Bát Hổ nhất định đã có người thông đồng với Miêu Quỳ. Thiết lập Nội xưởng là chuyện Hoàng đế Chính Đức ngày đó nhất thời nảy ý. Khi ấy, trong điện không hề có tiểu thái giám nào hầu hạ, cho dù hai xưởng một vệ có cao thâm thế nào cũng không thể nhúng tay sâu đến mức như vậy được. Trừ phi trong bốn người Lưu Cẩn, Cốc Đại Dụng, Mã Vĩnh Thành với Đới Nghĩa có kẻ là tâm phúc của Miêu Quỳ."

Tuy trong lòng kinh hãi âm thầm tính toán, song y lại khoác lên vẻ tươi cười, nói:

- Ồ, thì ra là Miêu công công nói đến chuyện này. Ha ha ha, Dương mỗ không dám giấu diếm. Hoàng thượng bỗng nhiên hạ ý chỉ này, Dương mỗ cũng đang không hiểu đầu cua tai nheo thế nào, tính rằng qua mấy ngày không chừng tâm tư Hoàng thượng sẽ phai nhạt, cho nên chuyện chưa có gì là chắc chắn như vầy cũng không dám phô trương ra ngoài, không biết "tiện lợi" mà Miêu công công nói đến là...

Miêu Quỳ hơi híp đôi mắt ti hí của mình lại, cười hắc hắc, nói:

- Ta phụng ý chỉ của tiên đế mở lại Tây xưởng vẫn chưa lâu, chuyện này ít nhiều cũng có kinh nghiệm. Nói ra giờ đây đại nhân và ta đều là những kẻ phục vụ cho Hoàng thượng, nếu như công việc xúc tiến Nội xưởng của Dương đại nhân có chỗ nào gặp khó khăn, chỉ cần nói một câu, ta nhất định sẽ dốc toàn lực hỗ trợ.

Dương Lăng cười hờ, nói:

- Đội ơn Miêu công công âm. Nếu muốn nói từ đầu, Đông xưởng từ lúc mở ra đến nay đã có năm có tuổi, Tây xưởng cũng đã có tiền lệ từ trước. Dương Lăng cho dù phụng thánh chỉ thành lập Nội xưởng, đó mới bất quá là môn hộ cỏn con, không tài không cán, nói ra thật không thể lo liệu được gì, không dám nhọc tâm công công.

Miêu Quỳ vốn cũng chẳng trông mong Dương Lăng sẽ đáp ứng, nghe y nói xong, lão thu lại vẻ tươi cười, nghiêm sắc mặt, nói:

- Dương đại nhân, đối với Xưởng vệ của chúng ta, ngoài triều không hề có chút hảo cảm. Còn nội bộ Xưởng vệ của chúng ta, Đông xưởng và Cẩm Y vệ mặc chung một quần. Tuy nói Tây xưởng có chức trách giám sát Đông xưởng và Cẩm Y vệ, nhưng bọn họ căn cơ bền vững, thực lực hùng hậu, cho nên ta đã ăn phải không ít quả đắng từ tay Phạm Đình và Trương Tú.

Ta làm Xưởng công của Tây xưởng này, ai ai nhìn vào cũng cho rằng tiền đồ vô hạn; nhưng mỗi ngày ta đều thấp tha thấp thỏm, lo sợ bị bọn họ nắm bắt được sai sót gì đó, nào có dễ chịu như vẻ bề ngoài. Một khi Dương đại nhân lập ra Nội xưởng, chẳng những sẽ có quyền ngăn trở bọn họ, mà còn đoạt lại quyền giám thuế của ty Lễ Giám vào tay mình, quả thực là cắt đứt con đường tiền tài của bọn họ. E rằng... đến lúc đó nha sai và Cẩm Y vệ của Đông xưởng trên khắp thiên hạ đều sẽ vắt óc để tìm ra khuyết điểm của đại nhân đấy.

Đoạn, lão cười nham hiểm, nói:

- Kẻ ngăn cản con đường tiền tài của bọn họ xưa nay chỉ có một con đường chết, Dương đại nhân không lo mai kia sơ sẩy lật thuyền trong mương sao? Một trăm tám mươi cực hình của Cẩm Y vệ như bỏ vào vạc sôi, rút ruột, cưa chân, giã cột sống, đổ chì vào miệng, "chải đầu rửa mặt" ; loại nào loại nấy đều là những cực hình ma quỷ nghe đều phải rùng mình, hơn nữa còn liên luỵ gia đình đại nhân. Cho dù thánh quyến đang thịnh, cũng khó mà ngăn nổi khi Cẩm Y vệ và Đông xưởng đã có lòng bày mưu lập kế.

Tây xưởng này của ta là lấy Ngự Mã Giám làm nòng cốt. Nếu như ta đoán không sai, Dương đại nhân thành lập Nội xưởng hẳn sẽ lấy thân tín trong Thần Cơ doanh để tổ chức. Đại nhân và ta cùng xuất thân trong quân, đôi bên có thể nói là rất có quan hệ, cho nên ta mới mạo muội tỏ lời, chẳng hay Dương đại nhân nghĩ sao?

Dương Lăng nghe xong mới bừng tỉnh, y thầm tính toán một phen thật nhanh. Bản thân tuy có quan hệ mật thiết với Cẩm Y vệ, nhưng một khi phát sinh xung đột về lợi ích, cho dù Trương Tú chịu bỏ qua cho mình, tầng lớp quyền lực của Cẩm Y vệ cũng tuyệt đối sẽ không chịu buông tha. Mà Đông xưởng, thậm chí là ty Lễ Giám phía sau Đông xưởng, bị cướp mất quyền giám thuế, càng tuyệt đối sẽ không bỏ qua cho mình.

Miêu Quỳ thẳng thắn như vậy, chính là vì đã liệu cục diện mà mình nhất định sẽ gặp phải, vốn không có lựa chọn khác. Xem ra việc mở lại Tây xưởng, chia cắt quyền lực của bộ phận Đông xưởng và Cẩm Y vệ đã ngầm đụng phải sự chèn ép của Đông xưởng và Cẩm Y vệ, cho nên Miêu Quỳ mới vội vã muốn lôi kéo mình làm đồng minh.

Đối với mình, đây là cơ hội hiếm có, chuyện này nếu kết hợp thì đôi bên cùng có lợi, chia tách thì chỉ có hại. Nếu như mình thật sự bị đẩy lên con đường đó, thì không còn sự lựa chọn nào khác. Dương Lăng nghĩ đến đây, liền quyết định dứt khoát:

- Từ lúc phụng thánh chỉ đến nay, trong lòng Dương mỗ cũng thấp thỏm không yên. Nếu như có Miêu công công chỉ điểm giúp đỡ, đó là phúc khí của Dương mỗ rồi. Đôi bên hợp tác, Dương mỗ cầu còn không được đó chứ.

Miêu Quỳ nhướng hàng chân mày, cười ha hả, nói:

- Tốt, lão phu đã không nhìn lầm người, Dương đại nhân quả nhiên sảng khoái. Như vậy chúng ta coi như một lời đã định.

Miêu Quỳ vừa nói vừa đưa tay lên, kích nhẹ ba chưởng với Dương Lăng lập thệ.

Và thế là, kế hoạch hợp tác lâu dài của Xưởng công Tây xưởng Miêu Quỳ và Xưởng đốc Nội xưởng Dương Lăng đã được thiết lập trong nhà xí của đương kim Hoàng Hậu như thế.

oOo

Trên Thái Lăng, một đám tù nhân tóc tai bù xù, áo quần rách rưới, chân trần đeo chiếc cùm sắt phát ra những tiếng kêu loảng xoảng đang cố sức kéo mấy chục sợi dây thừng buộc quanh một con rùa đá rất to được lót trên một bè gỗ nhỏ về phía công trường dưới sự chỉ huy hô hào của Giám ngục.

Nhưng những tù nhân này chỉ có thể phụ trách mấy loại nhiệm vụ công trình trên mặt đất và dọn dẹp chung quanh đường sông, trồng trọt cây ăn quả, nơi trọng yếu tuyệt đối không cho phép qua tay bọn họ. Nếu như cần những tù nhân này vào địa cung làm việc, vậy chỉ có một khả năng, bọn họ sẽ phải bồi táng theo lão Hoàng đế.

Lúc này, con rùa đá đang được vận chuyển đến công trường. Trên mai rùa là một bia đá khắc thánh hiệu được điêu khắc cả khối, vì vậy cả con rùa đá nặng vô cùng. Trong đám tù nhân đang nghiêng người về phía trước gần như thành một góc ba mươi độ so với mặt đất, dây thừng trên vai của một phạm nhân bất chợt bị đứt, người đó không kịp đề phòng, ngã cắm đầu xuống đất, mồm ngoạm đầy đất, lập tức hàm dưới đầm đìa máu tươi.

Gã bị đau chưa kịp kêu lên, mấy đòn roi của Đốc công đã đổ ập xuống đầu, quất rách quần áo, lộ cả da thịt đằng sau vai; chỗ bị roi quất đã tróc da chảy máu, đau khiến gã run lên lập cập. Gã chợt xoay đầu ác độc trừng mắt nhìn gã Đốc công đó.

Tên Đốc công này cũng là tù phạm, nhưng có quan hệ khá tốt với Quản đốc, mới vớ bẫm công việc nhàn hạ. Hắn vốn là nhân vật cùng hung cực ác, bị người ta nhìn nhiều một chút là cũng có thể hung hãn động đạo. Thấy phạm nhân mặt mũi thanh tú này không ngờ dám không phục, hắn không nhịn được cười khẩy, nói:

- Thằng chó đẻ, còn dám nhìn lão tử à?

Vừa nói, roi dài lại đã rít lên một tiếng "chát", quất cho phạm nhân đó giật nảy người, trên cổ lập tức đầm đìa máu me.

Tù nhân bị đòn roi này chính là con trai của Thượng thư bộ Lễ Vương Quỳnh. Tên Đốc công sớm nhận được lời căn dặn của Đới công công là phải "tận tình săn sóc" gã tù nhân mới đến này; ngày thường có việc gì khó nhọc, bẩn thỉu thì cứ an bài cho hắn đi làm; ăn tối thì cho ăn sau cùng, ngủ thì để nằm kế bên cầu tiêu.

Những tên phạm nhân này vốn đã thích bắt nạt người mới, nhìn thấy hành động của Đốc công, càng muốn lấy lòng hơn. Gã thư sinh mặt mày sáng sủa, nhất biểu nhân tài này luôn bị bọn chúng dày vò, khổ sở không nói nên lời.

Nhưng gã thư sinh vừa nhìn thì thấy là kẻ quần là áo lụa không biết làm việc, mới đến thì nhút nhát sợ sệt hệt như con thỏ, song dần dần lại như được thoát thai hoán cốt, càng ngày càng trở nên kiên cường. Những công việc cực nhọc kham khổ ngay cả phạm nhân vốn xuất thân khuân vác cũng than trời than đất không thôi này, ấy vậy mà hắn vẫn cắn răng cố gắng vượt qua.

Tối hôm trước, có một tù nhân đồng tính thừa lúc hắn mệt lử không chịu nổi ngủ say, tính cởi quần hắn để giở trò với gã thư sinh da dẻ mềm mại này. Hắn bừng tỉnh lại liền như dã thú rống lên một tiếng, bổ chồm tới cắn tai tên đó không buông; sau cùng bị người khác kéo ra, hắn lại cắn đứt luôn cả lỗ tai tên đó, toác miệng nuốt xuống luôn, trên mép máu me đầm đìa như ma quỷ.

Lần đó đã làm đám tù nhân đó bị chấn động, phạm nhân bình thường từ đó không còn dám tuỳ tiện ức hiếp gã thanh niên thoạt trông nho nhã yếu đuối đó nữa. Khi Vương Cảnh Long bị giải từ đại lao bộ Hình đến Thái Lăng, thư tay của ba vị Đại học sỹ đã theo tới. Ba người này cho dù là thủ lĩnh nội quan như Vương Nhạc cũng không dám không nể mặt mấy phần, huống chi là Đới Nghĩa, cho nên y không thể không vứt bỏ ý niệm khiến cho Vương Cảnh Long cực khổ mà chết; nhưng đã là khâm phạm, cho hắn chịu chút cực khổ thì ba vị Đại học sỹ cũng không thể nói gì.

Vương Cảnh Long của hôm nay đã không còn hình tượng công tử bảnh bao phong lưu văn nhã của ngày đó, đầu bù tóc rối, hôi thối nồng nặc, không hề khác gì những tù nhân kia. Tên Đốc công thấy hắn chịu một roi nhưng không hề khiếp sợ, trừng đôi mắt đỏ ngầu như dã thú nhìn mình chằm chằm, không khỏi thẹn quá hoá giận, cây roi dài trong tay lại quật xuống chan chát, nạt:

- Muốn chết à? Còn không mau làm việc, tưởng lão tử không dám đánh chết ngươi ư?

Lúc này, hai chiếc xe la đưa rau từ bên cạnh lắc lư đi qua. Trên xe, ông chủ bán rau nhìn thấy có người đang ăn đòn thì không khỏi cười, nói:

- Ôi chao, đại gia ngài nhẹ tay một chút đi. Cây roi này chơi thì đã tay đấy, nhưng không cẩn thận một chút là mũi roi nó móc mất mắt tiểu nhân như chơi.

Ông chủ bán rau này nói chuyện dí dỏm, lại mở miệng nịnh nọt gọi tên phạm nhân Đốc công đó là đại gia khiến hắn cảm thấy rất có thể diện, bất giác cười ha hả rồi thu tay về, dương dương tự đắc, nói:

- Sợ quái gì, roi này của ta ngoài hai trượng chỉ có thể vụt tắt nến, còn có thể quất lên tới mặt ngươi sao? Ha ha ha, đi qua đi, đi qua đi.

Vương Cảnh Long cảm kích nhìn ông chủ bán rau, ánh mắt vừa dời đến đột nhiên sững ra, trong mắt hiện lên vẻ vui mừng khôn xiết, nhìn chằm chằm vào người đầy tớ ngồi cạnh ông chủ bán rau không chớp.

Người đó tuổi trạc hơn tứ tuần, mặt mũi tầm thường, trông ra không có gì thu hút, nhưng Vương Cảnh Long vừa liếc mắt liền nhận ra lão là quản sự Vương Bình của Nội thư phòng đã theo bên phụ thân hơn ba mươi năm. Vương Bình một lòng trung thành với phụ thân, đừng nói hiện tại nhà họ Vương vẫn chưa suy sụp, cho dù họ Vương suy bại đến mức phải ăn xin đầu phố, y cũng sẽ không bỏ rơi chủ cũ. Nay phụ thân đã đi Nam Kinh nhậm chức, y giả làm dân trồng rau đi đến lăng tẩm làm gì?

Tim Vương Cảnh Long không khỏi đập thình thịch. Vương Bình trông thấy tiểu thiếu gia bị đày đoạ đến gần như không ra hình dáng con người, suýt nữa thì đã rơi lệ. Lão vội chớp mắt, thoắt quay đầu đi, thừa lúc người khác không để ý gạt lệ trên khoé mắt.

Vương Cảnh Long hiểu ý, ngoan ngoãn về chỗ buộc chặt lại dây thừng rồi theo sự hô hào của đốc công cố sức kéo con rùa đá. Lúc này đây toàn thân hắn sôi trào nhiệt huyết, dường như tràn trề sức lực dùng không hết. Phụ thân chưa quên hắn, không ngờ vì hắn mà phụ thân đã dám mạo hiểm mất đầu, phái người đến cứu hắn ra.

Công danh bị tước, Vương Cảnh Long đã không thể ra làm quan được nữa, ngay cả thân phận khâm phạm này cũng không biết năm nào Hoàng thượng mới sẽ vui vẻ miễn xá cho. Hết thảy mọi thứ đều "nhờ ân huệ" Ngọc Đường Xuân ban cho. Hắn hận Ngọc Đường Xuân đến mức có thể lột da rút xương, ăn tươi nuốt sống mới có thể hoá giải được cừu hận vô biên này.

Nhờ có cừu hận vô cùng vô tận này, hết thảy mọi giày vò tủi nhục hắn đều ngấm ngầm chịu đựng vượt qua. Tiền đồ đã không còn, cuộc đời bị huỷ hoại, mục tiêu duy nhất trong lòng hắn chính là giày vò Ngọc Đường Xuân đến chết mới cam tâm. Giờ đây rốt cuộc đã có cơ hội, Vương Cảnh Long sao có thể không vui sướng như điên chứ.

Sau khi rùa đá được kéo đến nơi, đám tù nhân lại bị đuổi đến bên hông đế lăng trồng cây ăn quả. Vương Cảnh Long bị sắp xếp cho gánh hai thùng phân, đi đến chỗ "Ngũ Cốc Luân Hồi" (*) để gánh những thứ bài tiết của đám quan binh và thợ thuyền. Hai vai Vương Cảnh Long sớm đã bị lở loét chịu không nổi, chưa hề có cơ hội để lành hẳn, giờ gánh đòn gánh khiến hắn đau như thể kim châm muối xát. (*: phiếm chỉ nhà xí, đây là cụm từ được trích trong tác phẩm Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân)

Hắn đang gánh hai thùng phân loạng choạng đi qua một bụi cây, bên tai đột nhiên có tiếng gọi vọng lại:

- Tam công tử!

Dứt lời, quản sự Vương Bình từ trong bụi cây chợt chui ra, lấm lét nhìn quanh một vòng rồi ôm chầm lấy Vương Cảnh Long, tuôn lệ như mưa, nói:

- Công tử, làm sao mà người bị đày đọa ra nông nỗi này rồi?

Lão nhìn Vương Cảnh Long tóc tai bẩn thỉu, mắt cá chân trần loang lổ vết máu, thân thể bị roi quất không còn ra hình dáng gì, không khỏi thương tâm rơi lệ.

Vương Cảnh Long vội buông gánh phân, lạnh lùng nạt khẽ:

- Giờ không phải là lúc khóc lóc. Nói mau, có phải là phụ thân kêu ngươi đến không?

Vương Bình lau nước mắt, vội gật đầu, rối rít nói:

- Lão gia biết nhà chúng ta đã đắc tội với mấy vị đại thần xây lăng, công tử gia đến đây nhất định sẽ cửu tử nhất sinh, do đó lúc gần đi đã an bài hết thảy. Tiểu nhân sẽ dốc lòng cứu người ra.

Vương Cảnh Long vô cùng sốt ruột, hỏi:

- Làm sao có thể chứ? Bên ngoài đế lăng có quan binh trấn giữ, ngươi xem bộ dạng hiện giờ của ta, lại đeo xích chân, chạy chưa được bao xa thì sẽ bị người ta bắt về rồi.

Vương Bình vội nói:

- Thiếu gia chớ gấp, lão gia đã có kế sách vẹn toàn rồi.

Lão ngẩng đầu nhìn chung quanh một chút, đoạn đạp đổ thùng phân, kéo tay Vương Cảnh Long nói:

- Mau! Theo tiểu nhân.

Vừa nói vừa kéo Vương Cảnh Long chui vào trong bụi cây.

Vương Quỳnh vì đứa con bảo bối của mình đã lao tâm khổ tứ. Trước lúc bị đày đi đã an bài gia bộc trung thành nhất là Vương Bình ở lại trong kinh, trước tiên tìm đến một gã quản sự mà năm đó lão tiến cử, nhờ hắn giúp đỡ mua chuộc một đám tội phạm liều mạng trợ giúp. Sau khi điều tra ra gia đình đưa rau đến đế lăng, đã yêu cầu bọn họ bán lại cửa hàng rau này. Sau đó chế ra chiếc xe la có ván lật lõm vào có thể giấu người, chuẩn bị cứu con mình ra.

Có điều, trong kế hoạch này thiếu mỗi thi thể có thân hình tương tự, vì vậy mới lần lữa đến giờ này. Mãi đến hôm qua, Vương Bình nghe ngóng được tú tài của một hộ gia đình đã qua đời, tuổi tác và thân hình tương tự với Vương Cảnh Long, nên mới thừa lúc đêm hôm đào mộ, trộm lấy thi thể chạy đến thái lăng.

Khi nãy đến công trường bốc dỡ rau dưa xong, thừa lúc kẻ khác không đề phòng Vương Bình đã cùng người của y mang thi thể đó đến một sơn cốc hẻo lánh, đeo cùm sắt lên, thay y phục tù nhân rách nát đã được phỏng chế vào, đập nát khuôn mặt rồi mới chạy về cứu thiếu gia.

Vương Bình dẫn Vương Cảnh Long đến chiếc xe la đang đậu bên bụi cây, mấy kẻ được dùng khoản tiền lớn mua chuộc đang đứng quanh xe, trông như thể mới vừa đi giải về, quan sát tình hình chung quanh. Vương Bình vội vã lên xe, dỡ một tấm ván gỗ ra, để lộ một máng lõm vỏn vẹn cho một người nằm, gấp gáp nói:

- Thiếu gia, mau nằm vào đi.

Vương Cảnh Long cũng không cố chuyện trò nữa, vội vã leo lên xe nằm vào máng. Vương Bình đậy kỹ tấm ván gỗ lại, lúc này mới buông lơi tâm tình căng thẳng, lại thoắt co giò ngồi lên xe. Đầu lĩnh trong mấy kẻ được thuê là một hán tử râu ria xồm xoàm, thấy chuyện đã ổn thoả, hắn phun cọng cỏ ngậm trong miệng ra, nhảy lên xe khẽ giậm chân lên tấm ván gỗ, nói:

- Ông chủ Ngưu, đây là huynh đệ ngươi à? Chuyện đã ổn thoả, chúng ta mau về thôi, nửa số bạc còn lại đó...

Vương Bình cười theo, nói:

- Hoàng lão đại cứ yên tâm, ta đã kêu người chuẩn bị tốt bạc rồi. Chỉ cần huynh đệ ta rời khỏi thái lăng đến nơi an toàn, bảy trăm lạng bạc còn lại lập tức sẽ được dâng lên bằng hai tay.

Hoàng lão bản mặt đầy râu ria nhe chiếc răng cửa vàng khè cười hài lòng, gọi:

- Các huynh đệ lên xe, đi nào.

Vương Cảnh Long nằm dưới đáy xe, nín thở, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Chiếc xe rời khỏi công trường thái lăng, quan binh trấn giữ bên ngoài thấy đó là hai chiếc xe la đưa rau hàng ngày thì chỉ ngó sơ trên chiếc xe trống một chút rồi vẫy tay cho qua.

Cả người Vương Cảnh Long căng cứng, như thể bất cứ lúc nào cũng có thể bật dậy. Nghe gã quan quân đó quát ra lệnh cho qua, hắn mới như bị rút hết gân cốt nằm bẹp ở trong, lúc này mới phát hiện toàn thân đã ướt đẫm mồ hôi lạnh.

Nằm dưới đáy xe, hắn nghiến răng cười gằn, phát thệ trong lòng: "Ta đã trở về rồi, Ngọc Đường Xuân! Ngươi cứ chờ đi, Vương Cảnh Long bị ngươi hại thảm đến như vầy, ta sẽ không tham sống sợ chết mà mai danh ẩn tích. Ta muốn ngươi chết! Nhất định sẽ bức ngươi phải đau khổ không nói lên lời mà chết! Ha ha ha ha!"

oOo

Trước lầu Vũ Hoa phía tây bắc hoàng cung, hai tên tiểu thái giám mở cửa điện. Dương Lăng và Hoàng đế Chính Đức mặc thường phục, hai người một trái một phải đứng đưa mắt nhìn nhau, chần chừ một hồi lâu mới mang sắc mặt quái lạ bước vào.

Trong điện thờ cúng năm tượng phật, mỗi tượng đều cao đến đầu người, cố lắm mới nhìn ra được tất cả tượng phật đều là cảnh một nam một nữ quấn lấy nhau, chỉ là vóc dáng và tướng mạo hơi quái dị một chút.

Bốn tên tiểu thái giám theo vào, tay bê khay. Dương Lăng lấy trong khay ra ba cây nhang. Tiểu thái giám chạy qua, thắp hương nến trên bàn thờ của tượng phật chính. Dương Lăng dùng lửa nến thắp nhang, vung tay cho tắt lửa, rồi đưa cho Chính Đức.

Chính Đức bước tới trước ngắm nhìn năm tượng phật hình thù kỳ quái nọ, sau đó giơ tay vái ba vái, cắm nhang vào lư hương. Bốn tên tiểu thái giám thấy vậy lặng lẽ lui ra khỏi cửa cung rồi khép cửa lại.

Lúc này Dương Lăng mới ho khan một tiếng, nói:

- Hoàng Thượng, nhân luân đại sự, trên cúng tế tông miếu, dưới nối tục đời sau. Đại hôn Hoàng Thượng sắp đến, nên có hiểu biết về chuyện này mới là điều phải. A hèm, xin hãy nhìn chỗ này...

Y bước đến trước pho tượng phật thứ nhất, ngồi xổm xuống tìm cơ quan mà trên sách lễ tiết có thuyết minh, dùng sức xoay mấy vòng, tiếng "lầm rầm" vang lên, tượng phật nam nữ ôm nhau đó bắt đầu thực hiện động tác giao hợp một cách cứng nhắc. Dương Lăng lúng túng chỉ vào vị trí giao hợp, nói:

- Hoàng Thượng, người hãy nhìn chỗ này. Bậc tiên hiền cũng nói, "ăn uống và quan hệ nam nữ là dục vọng lớn nhất trong bản năng sinh tồn của con người ". Người sau khi trưởng thành, sẽ cưới vợ thành thân. Phu thê ấy mà, sẽ làm chuyện giao hợp này, giống như vầy... vầy...

Hoàng đế Chính Đức thấy vậy mặt trắng bệch, hết hồn nói:

- Dương Thị độc, ngươi nói, là... là... là như vậy à? Trẫm và Hoàng Hậu cũng phải như vầy ấy ư?

Dương Lăng trông thấy bộ dạng khiếp vía của hắn, không khỏi cười khổ: "Hình như lúc trước mình đã suy nghĩ hơi quá đơn giản rồi. Rốt cuộc phải làm thế nào mới có thể khiến hắn cảm thấy hứng thú đây? Có thể nào kể cho hắn truyện tiếu lâm mặn không? Cho dù kể truyện tiếu lâm mặn thì hình ảnh và âm thanh phối hợp này cũng ảnh hưởng đến hứng thú à."

"Thầy giáo" họ Dương cố gắng suy nghĩ: "Chỉ cần không để hắn nảy sinh tâm lý khiếp sợ là được, cho dù mình thật sự dạy không rõ... Không phải sau khi học khoá lý thuyết này xong, Hoàng Thượng còn phải làm chuyện sinh hoạt phòng the với tám vị cung nữ được tuyển ra từ Ti môn, Ti trướng và Ti tẩm sao? Có những cung nữ trưởng thành làm tình với hắn, hắn còn có thể không hiểu sao? Người thầy như mình đây... hay là cứ dạy bừa cho có vậy..."

Chú thích:

Ái chà! Đây không phải là kiểu chải chuốt, rửa ráy, trang điểm của phụ nữ; đơn giản là trói phạm nhân vào cột, dùng bàn chải đinh sắt cào da thịt mặt phạm nhân ra cho đến khi lòi xương, tắt thở thì thôi.

Nguyên văn "ẩm thực nam nữ, nhân chi đại dục tồn yên", trích từ phần Lễ vận trong Lễ ký (bộ Kinh Lễ, một trong Ngũ Kinh do Khổng Tử biên soạn hoặc hiệu đính).

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 112: Khởi động

Một thi thể bầy hầy máu thịt được lôi đến trước mặt Đới Nghĩa, Lý Đạc và Nghê Khiêm.

Đới Nghĩa tới gần quan sát kỹ một hồi, khi thấy cùm sắt, quần áo, hình dáng hoàn toàn không sai biệt, lão buột miệng cười lớn, nói:

- Các vị đại nhân! Tên Vương Cảnh Long này không chịu nổi lao dịch khổ sở, tính trốn khỏi Đế Lăng, không cẩn thận đã bị ngã xuống sơn cốc mà chết, không hề can hệ gì đến chúng ta. Nếu đám đại học sỹ có hỏi tới, vẫn mong các vị có thể làm chứng cho nhau.

Vương Cảnh Long tự tìm đến cái chết, Đới Nghĩa là người vui vẻ nhất. Vừa có thể tránh khỏi liên can, lại có thể lấy lòng xưởng đốc Nội xưởng sắp tân nhậm, sao có thể không vui chứ? Lý Đạc, Nghê Khiêm nghe xong gật đầu lia lịa. Song Dương Nhất Thanh lại đi quanh thi thể mấy vòng, mặt đầy vẻ nghi ngờ, khẽ lắc đầu nói:

- Không đúng! Các vị đại nhân, chuyện này hơi lạ.

Dương Nhất Thanh là người thân tín của Dương Lăng. Giờ đây Dương Lăng thăng chức như thuỷ triều dâng cao, không ai dám tiên đoán tiền đồ của Dương Nhất Thanh sẽ ra thế nào. Đới Nghĩa nào dám xem nhẹ gã, nghe vậy vội vàng khách khí hỏi:

- Dương hiệu úy có cao kiến gì?

Dương Nhất Thanh chỉ vào thây ma nói:

- Xin các vị đại nhân hãy nhìn xem! Mặc dù thi thể này dính đầy bùn đất, nhưng đều do lăn từ trên sườn dốc, bụi bặm cỏ dại trên quần áo lại không nhiều, hơn nữa trên mắt cá chân cũng không có dấu vết xây xước, trên người không có vết roi. Không lẽ Vương Cảnh Long chỉ té ngã mà mọi vết thương trên người đều mất sạch sao?

- A!

Một đốc công đang đứng cúi đầu khom lưng bên cạnh xác chết đột nhiên kêu lên một tiếng kinh ngạc, vội nói:

- Đúng rồi! Đúng rồi! Trước đây không lâu tên khốn này vừa mới ăn roi, trên cổ và vai đều có dấu roi.

Gã vừa nói vừa nhảy lại xé áo thi thể ra. Mọi người đều thấy rõ trên lưng và trên cổ tử thi, ngoại trừ những vết trầy xước do va chạm ra, những chỗ khác hoàn toàn không bị tổn thương gì.

Đới Nghĩa vừa kinh ngạc vừa giận dữ la lên:

- Thay mận đổi đào? Tên nhãi này đã trốn thoát rồi sao? Vậy thi thể này... trên núi nhất định đã có người giúp y trốn thoát. Thôi chết rồi, để khâm phạm này trốn thoát, ta phải quay về bẩm báo sao với Hoàng Thượng đây? Làm sao để Dương đại nhân biết đây? Giờ phải làm thế nào cho ổn đây?

Dương Nhất Thanh thoáng trầm ngâm suy nghĩ, rồi vội nói:

- Trừ chỗ vách núi đó ra, quanh Thái Lăng đều nằm dưới sự canh tuần, giam sát của quan binh Thần Cơ Doanh. Ti chức nhớ là giữa khoảng thời gian này nhân viên ra vào không nhiều. Đới công công, ti chức sẽ lập tức dẫn người truy đuổi trước. Xin công công điều tra bên trong Thái Lăng, không chừng tên thư sinh đó vẫn chưa kịp trốn đi.

Thị lang bộ Lễ Lý Đạc cười lạnh, nói:

- Giỏi cho Vương Quỳnh! Bản thân lão thì đã chạy đến Nam Kinh làm quan, cho dù Vương Cảnh Long có chạy trốn lão cũng sẽ không bị hiềm nghi. Tuy nhiên dám liều lĩnh bất chấp cái giá phải trả để cứu Vương Cảnh Long, ngoài lão thất phu đó ra thì còn ai nữa chứ? Đới công công, môn sinh bạn cũ của Vương Quỳnh ở trong kinh rất nhiều, đối với chuyện lão ta bị giáng chức đều có lòng bất mãn. Vương Cảnh Long trốn thoát, rất có thể hắn sẽ xuôi nam đến Kim Lăng, hoặc trốn đến chỗ huynh trưởng của hắn ở Chiết Giang. Vẫn còn một khả năng khác là... chính là to gan liều lĩnh đi đến nơi mà hắn không nên đến...

Đới Nghĩa giật mình, buột miệng thốt:

- Kinh sư?

Đoạn lão nghiến răng nói với Dương Nhất Thanh:

- Dương hiệu úy! Hãy nhanh chóng tra hỏi những kẻ khả nghi đã ra vào Đế Lăng hôm nay. Lý đại nhân! Nghê đại nhân! Làm phiền hai vị mang người kiểm tra tất cả quan binh thợ thuyền và các địa điểm trọng yếu của công trường có thể ẩu náu được.

Lão vẫy tay gọi một tiểu thái giám thân tín lại rồi dặn:

- Mau cầm lấy tấm thiệp của ta đến Đông xưởng một chuyến, mời Phạm công công sai người kiểm tra mọi con đường dẫn đến các giao lộ lớn nhỏ của Kim Lăng và Giang Chiết, cũng phải chiếu cố kỹ những nhân vật trong kinh có quan hệ mật thiết với Vương Quỳnh.

Kinh sư nằm dưới chân thiên tử. Đới Nghĩa tuy kiêu ngạo cũng không dám điều động kinh quân (quân đồn trú trong kinh - ND) và Ngũ Thành binh mã ty lục soát khắp thành giống như thời Thọ Ninh hầu được vua Hoằng Trị sủng ái, nên lão chỉ điều động những bọn đầu sỏ mà Đông xưởng khống chế âm thầm gia tăng chú ý. Lão thoáng trầm ngâm rồi nói tiếp:

- Còn nữa! Báo với Dương đại nhân một tiếng, bảo y đề phòng cẩn thận.

...

Tám thiếu nữ, mỗi người thướt tha mỗi vẻ, khuôn mặt xinh xắn đỏ rực đang đứng trước mặt Dương Lăng. Phó sứ lễ đại hôn chỉ phụ trách chỉ điểm lễ tiết lúc hầu hạ Hoàng Đế, còn chuyện quan hệ nam nữ đã có nữ quan nội cung truyền thụ. Dương Lăng thở phào một hơi nhẹ nhõm, nếu không sợ rằng đến lúc đối diện với Chính Đức sẽ còn khó xử lắm đây.

Những âm thanh kẽo cà kẽo kẹt không ngừng của năm pho tượng Bồ Tát trong lầu Vũ Hoa như vẫn còn vọng lại bên tai y, hàm răng vẫn còn ê buốt. Dương Lăng cắn răng, nghiêm mặt nhìn thẳng vào một cây cột trạm trổ rồng uốn lượn trong điện rồi nói:

- Mỗi ngày bốn người vào hầu, hai lượt liên tục. Vào tẩm cung của Hoàng Thượng, phải nghiêm ngặt tuân thủ quy củ...

Dương Lăng càng nói càng cảm thấy không được thoải mái. Nếu biết ngoài việc làm người chủ trì cho nghi thức hôn lễ, phó sứ của thiên tử còn phải làm mấy trò này, y sớm đã mượn cớ xin khước từ rồi. Đâu đến nổi như hiện nay, cho dù y có nói thế nào cũng vẫn cảm thấy mình giống như là đại tổng quản của Kính Sự phòng vậy.

Tám mỹ nữ mi thanh mục tú động lòng người đó tuy không nén được chút xấu hổ trên khuôn mặt khi nghe mấy chuyện nam nữ này, nhưng trong ánh mắt bọn họ lại là niềm thích thú và hưng phấn, thậm chí là... lửa dục!

Rõ ràng đây là những mỹ nhân yểu điệu, nhưng trong ánh mắt ấy của mỗi người lại bùng lên một ngọn lửa... một ngọn lửa dục vọng đủ để thiêu đốt đàn ông thành tro. Dương Lăng chỉ liếc một cái thì đã không khỏi rùng mình mấy lượt.

Một khi vào cung, những cung nữ này sẽ phải ở lại nơi đây cả đời, tận đến khi tiêu phí hết thanh xuân, rồi bị người ta quẳng vào trong giếng hỏa táng thành tro bụi. Cho dù gặp được Hoàng Đế có lòng hảo tâm thải những cung nữ lớn tuổi về quê, lúc đó bọn họ cũng đã quá ba mươi tuổi, còn có thể lấy ai được chứ?

Giờ đây may mắn được tạo điều kiện để hầu hạ Hoàng Đế, từ nay về sau bọn họ sẽ là nữ quan có thân phận, mặc dù không thể được phong làm phi, nhưng mỗi tháng có thể nhận được kha khá bổng lộc, không cần phải làm việc cực nhọc nữa. Có được cơ hội này, bọn họ thật sự đã thoát ly bể khổ, một bước lên trời rồi. Vả lại e rằng đây sẽ là cơ hội đầu tiên và là duy nhất trong đời bọn họ tiếp xúc với nam nhân, tuy vì ngại ngùng không dám biểu hiện ra, nhưng trong lòng sao không mừng điên lên được chứ?

Dương Lăng ngâm nga một cách vô vị:

- Sau khi tắm rửa, không được mặc lại y phục, công công kiểm tra xong sẽ lấy chăn gấm quấn các người lại, đưa vào tẩm cung Hoàng Đế. Các người nhớ kỹ, Hoàng Thượng nằm trên giường, chỉ để lộ hai chân ra ngoài. Sau khi công công lui ra khỏi phòng, các người phải từ bên phía "long trảo" (tay vua - ND) đưa ra mà chui vào chăn, sau đó cùng vua giao hợp. Không được nhầm vị trí.

Dương Lăng khịt mũi, đoạn nói tiếp:

- Công công sẽ chờ ở bên ngoài, khi đến giờ sẽ gọi các người, các người phải lập tức lui ra. Nếu như Hoàng Thượng giữ lại, cũng không thể quá hai lần gọi của công công. Nhớ kỹ, không được xoay lưng về phía Hoàng Thượng, phải bò ngược xuống giường...

Nói đến đây, Dương Lăng trộm nhìn những mỹ nữ thân thể dịu dàng xinh đẹp, mỗi người một vẻ trước mắt, không khỏi thầm lắc đầu: "Rốt cuộc thì làm Hoàng Đế có gì hay chứ? Ngay cả chuyện này cũng có người quản, lắm quy củ thối hoắm như thế! Hoàng Đế nằm trên giường như vậy, ngoài dục vọng với nữ nhân làm sao còn tự do để vuốt ve trò chuyện yêu đương nữa? Tiểu Chính Đức đáng thương, chỉ mong sao chú có thể thích ứng được với loại sinh hoạt này...

...

Lúc này Chính Đức đang hết sức cao hứng chỉ huy đám tiểu thái giám treo đèn màu do Ninh vương dâng trong các cung Khôn Ninh, Càn Thanh, và Ngự Hoa Viên. Còn ba ngày nữa là đại hôn, tuy bây giờ chưa được đốt pháo hoa nhưng y đã không thể chờ nữa mà cho treo đèn lồng lên luôn. Khi đêm đến, Chính Đức vẫn bồi hồi lưu luyến trong biển đèn lồng rực rỡ như ngân hà, không ngủ được vì cao hứng.

Hồng Lư Quan của bộ Lễ không ngừng lẽo đẽo theo sát bên Chính Đức không rời dù chỉ một khắc, hổn hển báo cáo với hoàng đế về tiến độ thu xếp các hạng mục, khiến y bực mình khoát tay bảo:

- Đừng nói mấy chuyện này với trẫm. Thái hoàng thái hậu, Thái hậu và ba vị đại học sỹ đồng ý là được rồi.

- Dạ dạ dạ! thần tuân chỉ.

Hồng Lư Quan với mái tóc bạc phơ vội vã đáp lời, song vẫn đuổi theo sau mông y bẩm tiếp:

- Ngày đại hôn, lúc Hoàng Hậu nương nương và Hoàng Thượng giao bái thiên địa, tuyên lễ thành thân, phải có bốn vị Cáo Mệnh phu nhân bên cạnh phụ giúp. Phụng ý chỉ của Thái hoàng thái hậu và Thái hậu, thần đã tuyển chọn ra bốn vị nhất, nhị phẩm Cáo Mệnh phu nhân của Thành Quốc công, Phụ Quốc công, Thọ Ninh hầu và Lâm Hoài hầu, Hoàng Thượng có vừa ý không?

Chính Đức đang ngắm nghía một chiếc đèn lồng hình con cá có vảy bằng giấy dát vàng, nghe vậy bèn suy nghĩ một chút rồi nói:

- Bỏ phu nhân của Thọ Ninh hầu đi, thay bằng... Ừ, thay bằng phu nhân của Uy Vũ bá. Ha ha, đó là vị Cáo Mệnh phu nhân đầu tiên mà trẫm phong hiệu từ lúc đăng cơ đến nay đó.

Hồng Lư Quan lộ vẻ khó xử, lão bẩm:

- Hoàng Thượng! Bốn vị Cáo Mệnh phu nhân này đều là những người con đàn cháu đống, một năm gần đây đã chiếm được sự yêu mến của nương nương, sẽ phù hộ Hoàng Thượng có lắm con nhiều cháu. Còn phu nhân của Uy Vũ bá phẩm hàm đã thấp, lại không con nối dõi, hình như không thích hợp lắm. Vả lại Thọ Ninh hầu là đương kim quốc cữu, nếu thay phu nhân của quốc cữu đi, bên thái hậu sẽ...

Chính Đức cả giận nạt:

- Lúc trước nói tới những chuyện này, trẫm không để ý đến thì ngươi cứ muốn đến hỏi trẫm, giờ trẫm đã có quyết định, ngươi lại đưa ra một đống lý do để ngăn cản trẫm! Hừ! Có phải là ngươi đang đùa bỡn thiên tử không?

Hồng Lư Quan lật đật quỳ sụp xuống tâu:

- Thần không dám! Thần thật sự không dám, xin Hoàng Thượng bớt giận.

Hoàng đế Chính Đức cười nhạt:

- Sợ cái rắm ấy! Sắp đến đại hôn của trẫm rồi, nghĩa là trẫm đã sắp trưởng thành, các ngươi vẫn còn coi trẫm như con nít ư? Hừ, nghĩ là trẫm không nhìn ra à? Các ngươi làm ra vẻ như chuyện gì cũng phải thông qua sự đồng ý của trẫm, thật ra trong lòng sớm đã quyết định. Cứ tự cho là mình thông minh! Hừ! Ngươi không làm phiền trẫm, trẫm cũng lười chẳng để ý đến ngươi, nếu ngươi đã hỏi, thì trẫm sẽ ra quyết định. Phu nhân Uy Vũ bá phẩm hàm thấp hử? Thấp thì khâm phong làm nhất phẩm Cáo Mệnh đi! Nàng ấy không có con nối dõi hử? Được, câu này trẫm cũng gửi lại cho ngươi, chờ khi phu nhân Uy Vũ bá mang thai, trẫm sẽ xử ngươi tội khi quân!

Hồng Lư Quan mặt vàng như nghệ, dập đầu lia lịa:

- Dạ dạ dạ, thần sẽ theo ý Hoàng Thượng, nhưng mà những người này... Thái hoàng thái hậu và Thái hậu đã quyết định, nếu lại thay thì sợ rằng không thoả đáng. Chi bằng... chi bằng thần chọn lựa thêm một vị tam phẩm Cáo Mệnh phu nhân vào cung cùng với phu nhân của Uy Vũ bá, sửa "tứ Cáo Mệnh" thành "lục Cáo Mệnh", Hoàng Thượng thấy sao ạ?

Lúc này Chính Đức mới đổi giận thành vui, liếc lão ta một cái rồi đắc ý nói:

- Coi như ngươi thông minh, đi truyền chỉ đi.

Hồng Lư Quan nghe xong như được đại xá. Đi mời mấy nữ khách quý cho Hoàng Thượng mà suýt nữa biến thành mời đầu mình rời khỏi cổ, lão nào còn dám lải nhải nữa. Lão liền vội bò dậy lủi nhanh như chớp về ty Lễ Giám, sai người đi truyền chỉ.

Gian nan vất vả mãi, Dương Lăng mới dặn dò hết mấy chục quy củ "lên giường cùng Hoàng Đế" cho tám cô cung nữ mỹ lệ đầy ắp xuân tình. Sau khi ra khỏi điện, y rút từ trong ngực ra một tờ giấy xem một lát. Bây giờ việc còn lại cần y làm chỉ là vào ba ngày sau sẽ đi nghênh đón một vị Hoàng Hậu và hai vị Hoàng Phi vào cung thôi.

Xem xong, bất giác Dương Lăng thở phào nhẹ nhõm. Mấy ngày nay có quá nhiều lễ nghi cần phải chuẩn bị, có lúc bận đến tận khuya, y đành phải ngủ đỡ trong triều phòng , đã hai ngày rồi chưa về nhà. Cuối cùng bây giờ cũng đã "đến hồi kết".

Y đi đến cung Càn Thanh trước. Khi nghe nói Hoàng Đế Chính Đức đang tự mình chỉ huy bố trí treo đèn trong Ngự Hoa viên, y bèn vội thừa cơ rời khỏi hoàng cung. Y cũng không ngồi kiệu mà chỉ cưỡi một thớt khoái mã, đem theo bốn thị vệ tùy thân chạy về Tây giao (vùng ngoại ô phía tây kinh thành).

Vừa vào trong phủ Uy Vũ bá, Dương Lăng đã thấy trong phủ giăng đèn kết hoa, khắp nơi tràn ngập không khí vui vẻ.

Lúc này đã qua hai mươi bảy ngày chịu tang (*) cho vua Hoằng Trị, trên xà ngang của tòa tam tiến viện(**) đều được đều được treo đèn đỏ, dọn dẹp rực rỡ hẳn lên. Khắp sân bươm bướm tung tăng bay lượn quanh những khóm hoa tươi, khiến người ta nhìn mà lòng khoan khoái. (*: nguyên văn là "tam cửu thủ hiếu kỳ", ba lần chín hai bảy ngày)

(**): xem video http://v.youku.com/v_show/id_XODIzNzQxNTY=.html)

Dương Lăng thấy vậy lấy làm kỳ lạ, hỏi lão quản gia đang bước tới nghênh đón:

- Cao quản gia! Vì sao đại hôn của Hoàng Thượng mà nhà chúng ta cũng phải bố trí như vậy? Mọi nơi cùng ăn mừng sao?

Cao quản gia bật cười đáp:

- Chắc lão gia ở trong cung bận rộn quá mà đã quên mất chuyện lớn của chính mình rồi? Sao người lại quên ngày đại hôn của Hoàng Thượng cũng chính là ngày vui của người chứ. Phải nói nha, đây chính là chuyện mừng do Hoàng Thượng ban thưởng. Tuy rằng nó không phải là ngày lão gia cưới đại phu nhân vào nhà, nhưng ngày cưới hai vị tiểu phu nhân vào nhà cũng không thể làm qua loa, cho nên phu nhân đã sớm cho thu xếp chuẩn bị cả rồi.

- À!

Dương Lăng chợt dừng bước. Hai ngày nay bận tối mày tối mặt, thật sự y đã quên mất chuyện của chính mình. Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai gả vào nhà ư? Sắp làm vợ mình rồi ư?

Dưới ánh dương tươi đẹp, lọt vào tầm mắt là một khu vườn rực rỡ, xộc vào mũi là những hương thơm dịu nhạt. Trong nhất thời trong lòng Dương Lăng ngổn ngang trăm mối cảm xúc, chợt nhớ lại tình huống lần đầu tao ngộ hai cô. Lúc đó mình chưa hề nảy sinh tình cảm gì với bọn họ, vốn chỉ là lữ khách tình cờ gặp nhau. Ai biết được thoắt một cái đã lại biến thành người đầu gối tay ấp bên nhau trọn đời.

Ngẩn ngơ, y dường như lại nhìn thấy Tuyết Lý Mai mặc chiếc áo lụa mỏng thêu hoa, váy dài xanh màu lá mạ oán hận từ trong Tú lầu bước ra, khuôn mặt xinh xắn đang đanh lại bắt bẻ Nghiêm Khoan. Còn có Ngọc Đường Xuân mang theo tiếng thở dài dằng dặc như tiếng sáo chợt xuất hiện trong lầu gác, y phục trắng như tuyết, mái tóc dài lượn quanh, khi chăm chú nhìn như một vầng trăng sáng.

Còn có... còn có... còn có Đường Nhất Tiên xinh xắn hoạt bát với giọng nói ngọt ngào ấy nữa...

Nghĩ đến Đường Nhất Tiên giờ đây chưa rõ sống chết, lòng Dương Lăng chợt trở nên u ám. Sau khi Đường Nhất Tiên mất tích, Cẩm Y vệ và quan phủ địa phương dưới sự nhờ vả của y quả thực đã ra công dốc sức tìm kiếm kỹ lưỡng, nhưng thuỷ chung vẫn không tìm thấy tung tích của nàng. Tuy trong lòng Dương Lăng đã có chín phần xác tín nàng vẫn chưa chết, nhưng... vì sao đến giờ nàng vẫn chưa hiện thân?

Dương Lăng lo lắng nhất chính là, mặc dù nàng đã được cứu, nhưng kẻ cứu nàng lại thấy nàng đẹp mà nổi lòng hưu dạ vượn, đem nàng giam cầm. Một người con gái yếu ớt cô độc lại không thể phản kháng, vậy sẽ có một kết cục gì? Mỗi khi nghĩ đến chuyện này trong lòng y lại hết sức bất an, cho nên y luôn cẩn thận né tránh không nghĩ đến nó. Nhưng hôm nay câu "cưới hai vị tiểu phu nhân vào nhà" đã lại chạm vào nỗi đau trong tim y.

Dương Lăng lặng lẽ khoát tay, một mình bước vào nhà trong. Bốn người Hàn Ấu Nương, Cao Văn Tâm cùng với vị đại tẩu Trương Thị kiệm lời đều đang cười nói trong phòng khách. Trên bàn bày ba bộ gấm bào rực rỡ và ba chiếc mũ trân châu có đính kim thoa ngọc bích đang khẽ rung rinh theo gió.

Vừa bước vào trông thấy vậy, Dương Lăng lấy làm lạ hỏi:

- Đây là gì vậy? Trang trí nhiều châu báu quá! Là trọng lễ của ai đưa đến thế?

Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai thấy y đã về, thẹn thùng yêu kiều kêu lên một tiếng, vội vàng chạy đến mỗi người ôm lấy một bộ gấm bào đỏ thẫm và mũ trân châu, đỏ mặt nhún người chào "Lão gia!" rồi bỏ chạy mất.

Cao Văn Tâm nén cười, hành lễ:

- Tiểu tỳ ra mắt lão gia. Hai bộ đồ khi nãy không phải của người ta tặng, mà là khăn choàng và mũ phượng. Có điều chúng đều là đồ phỏng chế, là... là của Tuyết Nhi cô nương và Ngọc Nhi cô nương chuẩn bị để mặc lúc xuất giá ạ.

Vào thời Thái Tổ, được Mã hoàng hậu ân điển, nhân dân trăm họ được phép phỏng chế khăn choàng và mũ phượng. Phụ nữ trời sinh đã thích đồ đẹp, giờ thấy khăn choàng và mũ phượng này, bọn họ quây lại cùng nhau sôi nổi tán chuyện một hồi, thậm chí còn đề cập đến một số chuyện trong khuê phòng cũng là điều bình thường. Khó trách sau khi thấy mình thì các nàng đã xấu hổ bỏ chạy.

Dương Lăng rờ mũi, có chút ngài ngại. Nhìn thấy trên bàn còn một bộ gấm bào, y không khỏi thất kinh hỏi:

- Sao vẫn còn một bộ? Bộ... bộ này lại là của ai đây?

Y vừa hỏi vừa không kiềm lòng nhìn sang Cao Văn Tâm.

Không dưới một lần Hàn Ấu Nương đã nhắc đến tình nghĩa Cao Văn Tâm đối với nhà họ Dương và thân thế đáng thương của nàng, thỉnh cầu tướng công đồng ý thực hiện lời hứa của nàng khi cùng bọn họ kết bái (lời hứa mọi người cùng ngồi chung thuyền Dương Lăng), nhưng mà y vẫn chưa ưng thuận. Lúc này nhìn thấy khăn choàng mũ phượng y còn tưởng Hàn Ấu Nương tự nghĩ tự làm, muốn gả luôn Cao Văn Tâm cho y.

Cao Văn Tâm là người con gái lanh lợi cỡ nào, bốn mắt vừa chạm liền lập tức hiểu ngay Dương Lăng đang nghĩ những gì, khuôn mặt nàng tức thì đỏ lên như quả táo chín, cả người cũng bắt đầu thấy mất tự nhiên.

Hàn Ấu Nương nhìn thấy vậy cũng không biết là hiểu hay không hiểu, chơp chớp mắt rồi cười duyên dáng nói:

- Bộ này là của thiếp mà! Nè, chàng xem, trên gấm bào của hai cô vừa rồi thêu phượng hoàng, còn bộ của thiếp là thêu chim công. Đây là bộ áo bào tam phẩm Cáo Mệnh mà Hoàng Thượng ban thưởng, tướng công lại nghĩ là của ai chứ?

Hàn Ấu Nương vừa nói lời này, Cao Văn Tâm càng ngượng không dám ngẩng đầu lên. Nàng đưa tay giật mép áo của Trương Thị, hỏi khẽ:

- Trương phu nhân! Có phải hai ngày nay ve kêu rền rĩ khiến cho người ngủ không được ngon không? Tiểu tỳ đi pha thuốc thanh thần dưỡng khí cho người dùng đây.

Là người từng trải, Trương Thị cũng nhìn ra bầu không khí nhuốm vẻ ám muội. Đương nhiên nàng ta không nói toạc ra là mình ăn rất tốt, ngủ rất ngon, bệnh gì cũng không có, liền vội đáp lời, theo Cao Văn Tâm rời khỏi.

Dương Lăng ngượng nghịu hỏi:

- Hoàng Thượng ban thưởng bộ quan phục này, không phải là nàng vẫn luôn tiếc không lấy ra mặc sao? Sao giờ lại lấy ra rồi...?

Hàn Ấu Nương hớn hở đáp:

- Tướng công vẫn chưa biết hay sao? Người trong cung đã đến truyền chỉ: Hoàng Thượng nói muốn Ấu Nương vào bầu bạn với Hoàng Hậu đó.

Nói rồi nàng ôm lấy tay Dương Lăng líu lo:

- Cuối cùng lần này Ấu Nương đã có thể kiến thức phong cảnh của hoàng cung rồi. Nơi ở của chân long thiên tử đó nha!

Nghe nàng nói vậy, Dương Lăng bật cười đáp:

- Vậy là quá tốt! Ngày đại hôn của Hoàng Đế, ta làm người chủ trì, nàng làm cô phù dâu, chỉ là không biết Hoàng Thượng có lì xì cho chúng ta phong bao thật dày không nhỉ, khà khà khà...

Ấu Nương không hiểu ý nghĩa của "người chủ trì" và "bao lì xì", còn tưởng đó là một trong những danh từ nghi lễ trong đại hôn của hoàng đế, nàng mỉm cười hỏi:

- Tướng công trở về sớm như vậy, chẳng lẽ hai ngày này có thể nhàn hạ rồi ư?

Dương Lăng vuốt chiếc mũi xinh xắn của nàng một cái, đáp:

- Thông minh đó! Hai ngày này tướng công sẽ không cần làm việc vất vả nữa, ngược lại Hoàng Thượng...,

Nghĩ đến tám vị nữ quan mỹ lệ đầy vẻ quyến rũ kèm với ánh mắt như muốn "ăn thịt" người ta đó, y không khỏi cười khổ nói tiếp:

- Ngược lại hai ngày này e là Hoàng Thượng sẽ phải chịu khổ rồi, cũng không biết ngài có vượt qua nổi hay không, hà hà...

Ngọc Đường Xuân ôm bộ đồ tân hôn của mình đỏ mặt chạy về khuê phòng. Tim nàng vẫn còn đang đập thình thịch. Thường ngày nàng chỉ mong sao được gặp lão gia nhiều hơn một chút, nhưng mắt thấy ngày bước vào nhà họ Dương càng lúc càng đến gần, nhi nữ hoài tình, ý nghĩ xấu hổ đó cũng càng lúc càng tăng.

Nàng thu xếp quan phục lại gọn gàng, chờ khuôn mặt bớt nóng, mới rón rén rời khỏi phòng sau. Vừa mới bước vào sảnh chính, đúng lúc Cao quản gia từ ngoài sảnh bước vào, vừa nhìn thấy nàng thì mừng ra mặt, thưa:

- Tô tiểu thư, cô đến thật đúng lúc quá! Đây là phong thư, lão nô đang muốn đưa cho cô đây.

- Thư? Có người đưa thư cho ta ư?

Ngọc Đường Xuân ngạc nhiên hỏi lại.

Lão quản gia cười hùa, đáp:

- Phải, ờ... là một người thân của tiểu thư đó.

Lấy làm lạ, Ngọc Đường Xuân hỏi:

- Người lão nói đâu rồi?

Lão quản gia cười đáp lời:

- Người đó đưa thư xong thì bỏ đi ngay, bảo là trong thư sẽ nói rõ, còn những thứ khác lão thật sự không biết.

Vừa nói lão vừa thầm nghĩ: "vị cô nương này đã sắp trở thành thiếp nhà Uy Vũ bá rồi, trong nhà đột nhiên lòi ra tên thân thích nghèo đến làm tiền, bị hạ nhân như mình biết được thì mất mặt biết dường nào chứ? Thôi thì mình cứ làm ra vẻ hồ đồ vậy." Lão quản gia thông thạo sự đời, nói xong liền trao thư rồi kiếm cớ rời đi.

Kinh ngạc nhận lấy thư xong, thần sắc Ngọc Đường Xuân đầy vẻ mờ mịt. Người thân ư? Người thân của mình ở đâu ra?

Nàng ngập ngừng bước vào ngồi trong thư phòng của sảnh chính rồi mở phong thư trong tay ra. Chỉ vừa lướt mắt nhìn qua chữ ký dưới phong thư, nàng liền đứng bật dậy, cả người run lẩy bẩy như thể đang gặp phải một nỗi khiếp sợ dị thường.

Chu Ngạn Hưởng, Chu Ngạn Hưởng! Không ngờ người cha ruột của nàng lại từ trên trời rơi xuống xuất hiện trước mặt nàng, khúm núm ghi thẳng tên với con gái của chính mình. Cái tên này gắn liền với nỗi đau và nước mắt của nàng đã chôn vào đáy lòng quá lâu quá xa, giờ chợt xuất hiện khiến lòng nàng bị chấn động mạnh, đầu óc quay cuồng. Nàng vội vã vịn vào bàn, nước mắt không kiềm được đã rơi xuống từng dòng lã chã: "Tại sao là ông ta? Tại sao lại là ông ta? Ông ấy còn đến tìm mình để làm gì?"

Ngọc Đường Xuân cố ép mình phải quên, nhưng trước giờ nàng chưa bao giờ thật sự quên được, chưa quên được cái tên này, chưa quên được người cha ruột đã mang đến cho nàng thân tình và tình thương của người cha, vừa lại nhẫn tâm đẩy nàng vào nơi hố lửa, chưa quên được kẻ đọc sách nghèo khó vô lương, ăn uống chơi bời này.

Từ khoảng khắc nàng lưu lạc vào trốn phong trần ấy, nàng đã quyết định quên hết mọi thứ về con người đó, thậm chí quên cả cái tên gốc của chính mình, cái tên thật đẹp mà nàng đã không xứng đáng có: Chu Ngọc Khiết.

Ngọc Khiết, băng thanh ngọc khiết (ngọc ngà trong trắng - ND), người con gái lưu lại chốn phong trần còn xứng được gọi cái tên này sao? Nàng được gọi là Ngọc Đường Xuân, gọi là Tô Tâm, là Ngọc Tỷ Nhi. Giờ đây, khi nàng đã rửa sạch phấn son, chuẩn bị trọn đời trọn kiếp bầu bạn với lang quân của nàng, truy tìm hành phúc của chính mình thì tại sao ông ấy lại tìm đến cửa chứ?

Hai mắt đẫm lệ, Ngọc Đường Xuân cầm phong thư lên, thút thít đọc...

Chú thích:

Năm Vĩnh Niên thứ hai (tức năm 1404), triều đình thiết lập ty chỉ huy quân đội Bắc Kinh. Sau khi đóng đô ở Bắc Kinh phân ra lập thành ty binh mã Ngũ thành (Ngũ thành binh mã ty), tức năm thành Trung, Đông, Tây, Nam, Bắc. Chỉ huy ty binh mã Ngũ thành là quan có hàm Chánh lục phẩm. Mỗi ty thiết lập một chỉ huy, bốn phó chỉ huy và một tiểu lại phụ trách trị an các loại, tương đương với khu cảnh vệ Bắc Kinh và cục công an bây giờ.

giống phòng hành chính và tài vụ, tạp vụ.

phòng nghỉ cho quan lại trước khi thiết triều

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 113: Không làm quân tử

Vương Bình với bộ dạng thư sinh thảm hại còng lưng rời khỏi phủ Uy Vũ bá. Khi đến chỗ mấy gốc dương liễu rủ gần đầu cầu qua suối, hắn lập tức thẳng lưng rảo bước.

Từ sau khi Dương Lăng vào ngục, chúng nữ ngăn cản pháp trường, mọi người đều biết đến thân thế của Ngọc Đường Xuân. Vương Cảnh Long và Vương Bình định lợi dụng chuyện này làm cớ. Vì thể diện của tiểu phu nhân, Cao quản gia nhất định sẽ lặng lẽ giao thư đến tận tay nàng, như vậy kế hoạch đã thành công được một nửa.

Theo kế hoạch của Vương Quỳnh lúc đầu, sau khi Vương Cảnh Long được cứu ra sẽ lập tức phóng ngựa đưa hắn đến Giang Nam. Nhưng Vương Cảnh Long đã bị thù hận làm mê muội đầu óc, thà ngọc nát đá tan, cũng quyết không trộm kiếp sống thừa; bất đắc dĩ Vương Bình đành phải phối hợp với kế hoạch của hắn.

Hai người đàn ông mặc áo xám đội mũ trúc rộng vành bước vòng ra từ sau một đống rơm khô chất trên sân phơi. Một người khoảng chừng ngoài hai mươi tuổi dán mắt vào Vương Bình đang bước vội trên con đường ven sông đầu thôn cười nói:

- Mấy kẻ xuất thân từ Xưởng Vệ ra đều ngu xuẩn như vậy sao? Chẳng lẽ hắn không thể đợi ra khỏi thôn rồi mới thẳng lưng lên được à?

Người áo xám còn lại trạc ba mươi cẩn thận liếc chung quanh một chút rồi nói:

- Không thể trách hắn, cho dù là phủ đệ của vương hầu công khanh, ai mà rảnh đi bố trí người giám sát ở ngoài cửa chứ? Ngươi đi theo hắn, ta quay về bẩm báo với Bả tổng.

Dương Lăng biết chuyện chuẩn bị thành lập Nội Xưởng sớm muộn gì cũng sẽ "ngửa bài" với Cẩm Y vệ và Đông Xưởng. Trong Cẩm Y vệ, Liễu Bưu chỉ là một hiệu uý cỏn con luôn hết mực trung thành với mình, trong thời gian y bị giam trong ngục cũng đối đãi với Ấu Nương rất cung kính. Hơn nữa kế hoạch thành lập Nội Xưởng của y cũng thật sự thiếu người, nên thẳng thắn ngỏ lời với Liễu Bưu. Muốn Liễu Bưu giết quan tạo phản thì gã không dám làm, nhưng đi theo Dương Lăng thăng quan phát tài, gã có lý do gì mà không đồng ý đây?

Thế là Liễu Bưu một lòng quyết tâm theo Dương Lăng ra đi. Để đề phòng Đông Xưởng và Cẩm Y vệ có người to gan lớn mật gây chuyện bất lợi cho người thân, Dương Lăng đã cẩn thận dặn dò Liễu Bưu canh phòng nghiêm ngặt. Đương nhiên Liễu Bưu cũng dốc hết sức mình.

Năm trăm thân quân này đều là những kẻ lực lưỡng được tuyển lựa ra từ trong quân trinh sát, lại trải qua sự huấn luyện đặc biệt của bọn Hàn Lâm và Liễu Bưu trong núi, cho nên ai nấy đều là cao thủ ẩn nấp, theo dõi và ám sát. Liễu Bưu đã bí mật bố trí mấy chục người ngày đêm theo dõi canh chừng chung quanh Dương phủ. Thôn trang nhỏ này vốn ít có người ngoài, giờ cho dù có con ruồi lạ bay vào sợ rằng cũng đừng hòng qua mắt bọn họ.

Dương Lăng trông thấy Liễu Bưu vào trong phòng khách, nghe gã bẩm báo xong thì nghi hoặc hỏi lão quản gia:

- Vừa rồi có một thư sinh trung niên ghé qua phủ phải không?

Cao quản gia thưa:

- Lão gia, đúng là có người như vậy. Người đó nói là bà con xa của Tô tiểu thư, nghe được Tô tiểu thư gả vào nhà chúng ta, muốn xin tiểu thư tiếp tế một chút. Lão nô nghĩ đây cũng không phải là chuyện vinh dự gì, sợ Tô tiểu thư bị mất thể diện, nên đã lén giao phong thư của người thân tiểu thư cho người rồi, cho nên chưa thưa bẩm với lão gia, mong lão gia thứ tội.

Dương Lăng nghi ngờ hỏi:

- Họ hàng của nàng ấy ư? Làm gì có đạo lý đến nhà làm tiền mà đưa thư xong lại vội vã rời khỏi chứ?

Liễu Bưu bổ sung:

- Không chỉ là vậy, khi đến kẻ đó là một thư sinh gù lưng, nhưng vừa ra khỏi cổng thôn liền thẳng lưng vội vã rời đi. Nếu là họ hàng nghèo khó đến nhà sao lại phải lén lút như vậy, chuyện này nhất định có điều mờ ám.

Dương Lăng lo là Tô Tam quả thật có ẩn tình riêng, đang cân nhắc xem có nên đi hỏi nàng hay không thì một gia bộc chạy đến báo:

- Lão gia, có người đưa tin của Đới công công muốn gặp lão gia.

Dương Lăng vội kêu người đưa tên tiểu thái giám đưa tin vào sảnh, nhận lấy thư mật của Đới Nghĩa, mở ra xem một hồi lâu, đột nhiên xoa tay vo tròn phong thư lại, nhếch miệng cười.

*********************

Chùa Diệu Ứng, còn gọi là chùa Bạch Tháp, nằm gần cổng thành trên con phố lớn phía bắc kinh sư. Hai cỗ kiệu nhỏ đến trước cổng chùa, rèm kiệu vén lên, hai mỹ nhân xinh đẹp như tranh bước ra.

Hai mỹ nhân này, tóc đen như gỗ mun, cùng vận áo cánh màu xanh biếc, váy lụa màu xanh nhạt, hài cong khẽ di chuyển, nếp váy chậm rãi đong đưa, lượn lờ như làn nước, càng hiện rõ phong thái thướt tha, phiêu diêu như làn sóng xanh trong vắt. Hai người con gái mỹ lệ tức thì lôi cuốn ánh mắt của đám khách hànhương.

Tuyết Lý Mai buồn chán đã lâu, hôm nay lần đầu được cùng Ngọc Đường Xuân ra khỏi nhà cho nên tâm tình hết sức vui vẻ. Nàng cũng không chú ý đến vẻ do dự không muốn cất bước của Ngọc Đường Xuân, lập tức chạy thẳng vào đại điện, tranh lấy bồ đoàn rồi gọi Ngọc Đường Xuân:

- Tỷ tỷ, đến đây. Chúng ta bái Phật Tổ trước.

Ngọc Đường Xuân gượng cười, bước đến bên cạnh nàng rồi quỳ xuống. Tuyết Lý Mai khẽ nhắm mắt lại, thành kính bái lạy Phật Tổ, khoé miệng toát lên sự thỏa mãn và ngọt ngào, cũng không biết đã cầu nguyện điều gì.

Tâm tình Ngọc Đường Xuân lại thấp tha thấp thỏm. Oán hận bao năm, nhưng khi đọc lá thư thuật lại nỗi bi thảm và đáng thương của người cha ruột, cùng đường bí lối mới phải đến nhà cầu xin nàng nhưng lại không có mặt mũi gặp nàng vì sợ bị trách mắng, chỉ cầu xin nàng nếu như chịu giúp đỡ, hôm nay hãy đến tháp lâm chùa Diệu Ứng để gặp một lần, rốt cuộc đã lay động được lòng thương hại của nàng.

Cho dù ông ta đáng hận thế nào, tấm thân và sinh mạng này của mình cũng là do ông ấy ban cho, giúp ông ta một lần này cho trọn nghĩa cha con vậy. Ngọc Đường Xuân âm thầm thở dài một tiếng, tờ ngân phiếu đang cất trong người là toàn bộ số tiền dành dụm của nàng.

Trong đám người ngoài điện, mấy người đàn ông nhàn nhã đứng bên chiếc lư đồng lớn hương khói lượn lờ, nheo mắt nhìn theo bóng lưng hai nàng, như thể đang theo dõi con mồi. Một gã đàn ông trên mặt có vết sẹo nhìn quanh một lúc, không thấy có người ngoài, thắc thỏm hỏi:

- Hoàng đại ca, chuyến này chúng ta vào kinh làm mấy cuộc mua bán đã đủ kiếm vạn lạng bạc rồi, có cần thiết phải mạo hiểm vậy không?

Gã râu quai nón được gọi là Hoàng đại ca kia chính là kẻ đã giúp Vương Cảnh Long vượt ngục, nghe thấy vậy thì cười nhạt, hỏi ngược lại:

- Thế nào, sợ rồi à?

Gã mặt sẹo đáp:

- Đại ca, không phải tiểu đệ sợ, mà là... Nữ quyến này là nữ nhân của Uy Vũ bá, nghe nói vì những kẻ bần cùng như chúng ta đây mà y đã can ngăn hoàng thượng tăng thuế, thiếu chút nữa bị chém đầu. Đụng vào nữ nhân của y...

Hoàng đại ca cười một cách cay nghiệt, khinh thường nói:

- Bọn cẩu quan đó có kẻ nào là người tốt? Hắn làm vậy còn không phải vì lấy thơm cho chính mình sao? Ruộng đất của chúng ta vẫn bị đám nhà quan và vương hầu chiếm đoạt như thường, hằng năm vẫn bị triều đình ép nuôi ngựa như thường. Mụ nội nó chứ, ngựa giống mà chết thì nộp tiền, ngựa giống không đẻ ra được ngựa con cũng phải nộp tiền, biết bao người bị bức bách đến nỗi nhà tan cửa nát rồi hả? Cái thiên hạ này, rốt cuộc đã đến hồi kết thúc rồi. Hổ ca chiêu binh mãi mã, hiện tại thiếu hụt chính là bạc, chúng ta kiếm thêm chút nữa rồi quay về. Hà, chờ khi Hổ ca dựng cờ khởi nghĩa đánh xong thiên hạ, ngươi và ta sẽ là khai quốc nguyên lão.

Một gã khác nghe vậy nóng lòng mong mỏi, không nhịn được hỏi:

- Lão đại, người nói Hổ ca thật sự có thể thành công sao? Nếu mà không thành, vậy... sẽ bị tội chém đầu đó.

Hoàng lão đại trừng mắt với gã, thấp giọng mắng:

- Chuyện nhảm nhí, hiện giờ chúng ta có thể tiếp tục sống sao? Không phải Lưu thần tiên đã xem tướng cho Hổ ca sao? "Bá châu Dương Hổ, Tử Vi chuyển thế" . Hổ ca có tướng đế vương, rất được ông trời che chở.

Rồi dường như không muốn nói nhiều về vấn đề này, hắn chuyển đề tài nói:

- Lát nữa, sau khi cái tên họ Ngưu nọ dẫn hai đứa con gái đến tháp lâm, lập tức đi theo bắt người rồi đi ngay.

Cơ mặt gã mặt sẹo thoáng giần giật, hắn nói:

- Đại ca, đệ thấy kẻ họ Ngưu này không phải là người bình thường, bằng không sao dám đối đầu với Uy Vũ bá chứ? Hơn nữa y vung tay hào phóng, chúng ta trói người rồi đi theo y tìm nơi bọn họ náu thân, có muốn... hề hề, tóm cả bọn luôn không?

Hoàng lão đại buông giọng kiên quyết:

- Không được, trộm cướp cũng có đạo đức của trộm cướp! Không thể phá bỏ quy tắc đạo đức, bằng không sau này còn ai dám tìm chúng ta để làm ăn nữa? Nhận bạc của bọn họ xong chúng ta lập tức chạy đến Thanh Phong quán ở Tây Sơn, trốn tránh vài ngày chờ mọi sự yên ắng rồi sẽ quay về Bá châu. Tự mỗi người bọn họ sẽ có mệnh trời an bài thôi.

Tuyết Lý Mai và Ngọc Đường Xuân đang sóng vai bái lạy. Tuyết Lý Mai nhích gần sang Ngọc Đường Xuân, hai tay chắp lại, hỏi khẽ:

- Ngọc Tỷ Nhi, tỷ cầu gì vậy?

Ngọc Đường Xuân đang ngơ ngẩn xuất thần, vừa bị hỏi một cái không khỏi hoảng hốt:

- Hả? Cái gì? Đâu... đâu có cầu gì đâu.

Tuyết Lý Mai bĩu môi trêu:

- Vậy tỷ hoảng hốt như vậy làm gì? Còn dám giấu muội, hứ, có lão gia rồi thì không thèm thân với muội muội này nữa. Nhưng muội không sợ nói cho tỷ hay, muội... muội cầu... cầu xin Phật Tổ phù hộ, năm sau sinh cho lão gia một đứa con trai, một đứa con gái...

Ngọc Đường Xuân tuy lòng đầy tâm sự, nhưng vẫn bị nàng trêu phì cười một tiếng, mắng yêu:

- Muội đó, thật không biết xấu hổ, có đại cô nương nhà ai cầu nguyện như vậy chứ?

Tuyết Lý Mai vểnh môi lên nói:

- Không thì làm sao đây? Muội không so được với phu nhân, lại không đẹp bằng tỷ, nếu không giành sinh con trước các người, lão gia có thể cưng muội ư?

Ngọc Đường Xuân thở dài:

- Cô bé ngốc, phụ nữ còn phải coi trọng đức hạnh, muội xem phu nhân hiền lành như vậy, lão gia kính trọng người biết bao. Dùng sắc đẹp với người, sao có thể bền vững chứ? Muội đó, cứ tiếp tục ở đây mà mơ mộng viễn vông đi.

Nói rồi nàng đứng lên bóp gối, Tuyết Lý Mai cũng đứng lên theo, hỏi:

- Tỷ đi đâu vậy? Nghe nói quẻ trong chùa này linh lắm đó, chúng ta đi bói một quẻ đi.

Ngọc Đường Xuân lắc đầu đáp:

- Muội đi đi, tỷ muốn... tỷ muốn đi vệ sinh, lát nữa sẽ quay lại.

Ngọc Đường Xuân đưa ra lý do đối phó, bước ra khỏi điện giả vờ muốn ra khỏi chùa đi vệ sinh. Đi một hồi, thấy không có ai chú ý nàng bèn lẻn vào con đường nhỏ trong rừng tùng bách vòng về hướng tháp lâm ở trung điện.

Có chừng hơn trăm tòa bảo tháp trắng toát, trên những ngọn tháp đều buộc một chiếc chuông đồng nho nhỏ, khi gió thổi qua phát ra tiếng leng keng vui tai. Ngọc Đường Xuân nâng váy, vội vã bước vào tháp lâm, đưa mắt ngó quanh.

Do phần lớn người đi bái phật đều là người bản địa, sớm đã ngắm chán tháp lâm này rồi, vì thế trong tháp lâm không có nhiều người, thỉnh thoảng mới thấy được vài người đi đường xa xa. Ngọc Đường Xuân đi vòng qua mấy tòa bảo tháp, đang nhìn ngó chung quanh, đột nhiên một giọng nói lạnh lùng từ sau lưng cất tiếng gọi:

- Chu Ngọc Khiết!

Ngọc Đường Xuân giật mình, quay nhanh người lại. Chỉ thấy một thư sinh mặc áo bào xanh, sắc mặt âm u đang lạnh lùng nhìn nàng. Ngọc Đường Xuân lập tức phát hoảng, biết là đã trúng gian kế người ta, nàng lui lại mấy bước, thất thanh kêu lên:

- Vương Cảnh Long, là ngươi... Ngươi đã trốn khỏi Thái Lăng rồi sao?

Vương Cảnh Long không giấu được sự thù hằn và đắc ý ngập tràn trên khuôn mặt, cười nham hiểm:

- Đại khuê bất trác, mỹ kỳ chất dã , cho dù là kinh hoàng Chu tiểu thư cũng vẫn quyến rũ như vậy.

Hắn hưng phấn áp sát tới, rít lên:

- Con ranh con, ngươi hại ta rất thảm, hôm nay ở ác gặp ác, ta xem ngươi còn có thể trốn đi đâu? Ha ha ha, ngươi yên tâm, ta sẽ không giết ngươi đâu, ta sẽ mang ngươi đi, trị cái con ranh con ngàn kẻ chơi vạn người cưỡi nhà ngươi thật sướng một phen rồi sẽ đưa về bên Dương Lăng.

Hắn không ngừng cao hứng cười điên cuồng:

- Đến lúc đó, mắt ngươi không thể nhìn, tai không thể nghe, miệng không thể nói, tay chân không có, bẩn thỉu dơ dáy như heo, chỉ mong Dương Lăng sẽ vẫn thương ngươi, yêu ngươi, ha ha ha ha...

Ngọc Đường Xuân nghe hắn mô tả hình dạng sống không bằng chết đó, sợ đến nỗi mặt mày trắng bệch. Nàng rùng mình, vội xoay người chạy. Vừa rồi khi Vương Cảnh Long đi vào tháp lâm, mấy người Hoàng lão đại đã lặng lẽ theo sau, lúc này nghe thấy tiếng bước chân ở phía sau mình thì hắn không khỏi ôm bụng cười to:

- Ngươi có thể chạy đi đâu chứ? Ha ha ha, bắt lấy nó cho ta, lập tức đưa nó ra khỏi thành.

Sau lưng, một giọng nói theo tiếng đáp lại:

- Tiểu nhân không dám, tiểu nhân lại không điên, nào dám chạm vào nữ nhân của Dương đại nhân chứ?

Vương Cảnh Long ngạc nhiên xoay người, lập tức trông thấy một quả đấm to đùng đánh tới mặt, "bộp" một tiếng, quả đấm đã nện vào ngay sống mũi của hắn.

*********************

Xin được một que xăm thượng thượng, Tuyết Lý Mai vui sướng hân hoan chạy ào ra điện, tính khoe với Ngọc Đường Xuân. Vừa bước ra khỏi điện, nàng chợt thấy trong sân có tiếng huyên náo, mười mấy gã đàn ông lực lưỡng mặc đủ loại trang phục đang lôi mấy người từ trong rừng tùng bách bước ra, không khỏi cảm thấy hơi ngạc nhiên.

Ngay sau đó lại thấy hai hòa thượng đầu trọc lôi một người như lôi một con chó chết bước nhanh ra, theo sau là một thanh niên mặc đồ xanh đang mỉm cười, phía sau nữa là Ngọc Đường Xuân đang được sáu bảy người vây vào giữa như những vì sao vây quanh trăng sáng bước tới.

Tuyết Lý Mai nhìn thấy người đàn ông mặc đồ xanh đó, nhận ra y là thống lĩnh thân quân của Dương Lăng, lại nhìn sang Ngọc Đường Xuân ở phía sau, không khỏi ngạc nhiên bước lên đón đường hỏi:

- Liễu đại nhân, Ngọc Tỷ Nhi, chuyện này... chuyện này là thế nào?

Liễu Bưu ôm quyền định trả lời, một gã đàn ông bỗng chạy lại nói với Liễu Bưu:

- Bẩm báo đại nhân, trong tốp giặc cướp này có một tên võ nghệ hết sức cao cường, hắn đã trúng một phi tiêu của tiểu nhân, thấy tình hình không ổn đã leo tường trốn thoát rồi.

Liễu Bưu giận dữ quát:

- Mấy chục người bắt không được mấy tên cướp, thật là một đám ăn hại, mau đuổi theo.

Lúc này bên ngoài cổng chùa, bốn hiệu úy thân quân đao giắt bên hông, vây quanh Dương Lăng ăn mặc giản dị hông giắt bội kiếm bước vào. Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai trông thấy vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Dương Lăng lại chỉ quét hờ mắt qua phía bọn họ một cái, sau đó tươi cười rảo bước quay sang đón tri khách tăng đang bước tới, chắp tay làm lễ nói:

- Hôm nay có thể bắt được những tên giặc cướp này, phải cảm ơn đại sư đã tạo thuận lợi cho.

Tri khách tăng mập mạp đó cười tươi như phật Di Lặc, mở miệng cười lấy lòng với vị thống lĩnh ngự tiền thân quân này:

- Nào có nào có, tướng quân vạch kế trừ gian, biểu dương chính nghĩa, bần tăng theo lý nên hỗ trợ.

Dương Lăng cười ha hả. Ngay lúc đó, hai nhân viên ty binh mã của Ngũ thành hay tin chạy đến, hùng hùng hổ hổ xông lại, vừa bước đến cổng chùa liền lớn tiếng kêu ầm lên:

- Kẻ nào chưa được ty binh mã cho phép đã tùy tiện bắt người?

Bọn họ đưa mắt nhìn, trông thấy trang phục cấm quân của đám người Dương Lăng, còn chưa nhìn ra được phẩm hàm của Dương Lăn, hai "thành quản " đã chùn xuống ba phần, giắt đao và xiềng xích vào hông gật đầu chắp tay thi lễ với mọi người:

- Tiểu nhân là Tiêu Vũ và Kinh Qua, bộ khoái ty binh mã của Ngũ thành, ra mắt các vị quân gia, ơ... quân gia đang bắt đám giặc nào vậy?

Dương Lăng bước đến nói:

- Bản quan là Dương Lăng! Kẻ bị bắt chính là bọn cướp có ý đồ bắt cóc nữ quyến của bản quan. Ha ha, các ngươi đến thật đúng lúc, hãy đưa bản quan đến gặp ngự sử đại nhân của các ngươi một chút.

Thân quân hoàng đế tuy quyền cao chức trọng, song lại không có quyền tùy ý bắt người trong kinh thành. Dương Lăng không muốn tạo cớ cho người ta nói y tự lập công đường, cho nên đương nhiên muốn giao phạm nhân cho ty binh mã của Ngũ thành xử lý. Ngọc Đường Xuân thấy từ lúc lão gia bước vào cổng chùa thì không thèm nhìn tới nàng, trong lòng vừa tủi thân vừa sợ hãi. Nàng dè dặt bước tới, thấp giọng gọi:

- Lão gia...

Dương Lăng giận nàng có chuyện mà không bàn bạc cùng mình. Tuy y vẫn chưa biết vì sao Ngọc Đường Xuân bị Vương Cảnh Long dụ ra ngoài, nhưng nếu không phải vì mình đề phòng Xưởng Vệ, và được Đới Nghĩa kịp thời báo tin, lúc này nàng ấy há không phải đã bị người ta bắt đi làm nhục không ngừng rồi ư? Cho nên trong lòng y bực bội, thấy nàng bước tới, mặt liền nghiêm lại, hừ lớn một tiếng nói:

- Có gì về nhà sẽ nói, theo ta đến ty binh mã Ngũ thành.

Hai bộ khoái là Tiêu Vũ và Kinh Qua thấy vị tâm phúc của hoàng thượng này phối hợp như vậy, cảm động đến rơi lệ, liền vội theo sau lưng y, không ngừng quát tháo dân chúng đang xem náo nhiệt tản ra. Do trời nóng, viên ngự sử tuần thành vừa cởi áo quan ra uống trà, nghe nói Dương Lăng đến, vội vàng mặc trở lại, hối hả chạy ra.

Lúc này Dương Lăng đang ngồi trên một chiếc ghế dựa, diễn vở "Thuần thê ký" (ý nói dạy dỗ vợ). Ngọc Đường Xuân quỳ trước mặt y, tủi thân ấm ức đem đầu đuôi câu chuyện mình bị lừa kể lại một lượt. Dương Lăng hừ nhạt nói:

- Thế là cô liền tự mình quyết định, bịa ra lý do muốn vào chùa dâng hương để trốn ra hả? Nếu không phải ta có được tin tức trước đó, cô thử tự nghĩ xem bây giờ sẽ có kết cục gì?

Dương Lăng quay sang nháy mắt với Tuyết Lý Mai, song vẫn ra vẻ quan lại oai phong ra lệnh:

- Đứng lên đi, về phủ sẽ tính tiếp với cô.

Tuyết Lý Mai thấy y đưa mắt ra hiệu, hiểu ý chạy qua dìu Ngọc Đường Xuân dậy, kéo nàng ra sau giá cờ, cười khúc khích bên tai nàng nói:

- Được rồi được rồi, lão gia thương tỷ nên mới nổi giận mà, đừng sợ nữa, trở về giở ra thủ đoạn quyến rũ lão gia thật tốt vào, khiến lão gia nhìn thấy phải bủn rủn chân tay, tự nhiên sẽ tha cho tỷ thôi.

Ngọc Đường Xuân bị Dương Lăng dọa cho hoảng lên, lại còn nghe nha đầu đó nói mấy lời điên khùng, trong lòng vừa giận vừa thẹn. Nhưng suy nghĩ một chút, nếu không phải hôm nay Dương Lăng bố trí mai phục ở đây từ trước, sai thân binh hóa trang làm khách dâng hương thăm chùa, bán rong và tăng lữ, kịp thời bắt giữ đám giặc cướp đó, hậu quả thật không thể tưởng tượng nổi.

Cho nên bất kể lão gia có trách phạt nàng thế nào, nàng cũng không thể nói gì được hết. Ngọc Đường Xuân thắc thỏm không yên, nghĩ: chỉ là không biết gia pháp của lão gia là gì, nghe nói vài gia đình quan lại quất roi đánh nô tỳ và thê thiếp, không dùng roi thì dùng gậy gỗ, chỉ mong lão gia sẽ không nhẫn tâm như vậy.

Vị ngự sử tuần thành nọ lật đật chạy ra, trông thấy trên đại sảnh nhà mình, Dương đại nhân người ta lại đang giở quan uy ra giáo huấn bà vợ nhỏ nhà y, gã không tiện chen miệng vào, chỉ đành khúm na khúm núm đứng chờ ở một bên, lúc này khó khăn lắm mới có cơ hội, thế là vội bước lên làm lễ chào:

- Hạ quan ngự sử tuần thành Hồ Chu, tham kiến Dương đại nhân.

Thật ra Dương Lăng không phải cố ý làm ra vẻ ngạo mạn trước mặt lão ta, mà là trước đó Liễu Bưu đã nhắc nhở y, biết vị ngự sử tuần thành Hồ đại nhân này cũng là quan viên được Vương Quỳnh đề bạt. Tuy Vương Quỳnh không nắm bộ Lại, nhưng làm thượng thư bộ Lễ lâu năm, rất nhiều kẻ lên kinh thi cử làm quan đều đã được lão ta đề bạt khi nhậm chức quan sát hạch, theo quy củ đều xem như là học trò của lão. Cho dù cái chức "thầy giáo" béo bở này làm rất dễ, nhưng rất nhiều quan lại cũng thực sự cảm kích cái ơn nâng đỡ của lão. Dương Lăng lo Hồ Chu sẽ nể mặt Vương Quỳnh mà làm theo cảm tính, cho nên cố ý ra oai phủ đầu lão ta.

Lúc này thấy lão cung kính làm lễ, Dương Lăng mới đứng dậy nói:

- Hồ đại nhân, kẻ trên công đường đây là con của thượng thư bộ Lễ ở Nam Kinh, Vương Quỳnh, là phạm nhân do hoàng thượng tuyên án. Hắn chạy trốn khỏi Thái lăng, cấu kết với một đám trộm cướp, rắp tâm mưu hại gia quyến bản quan, may nhờ thị vệ bản quan tóm được, xin đại nhân hỏi tội.

Tuy nói Vương Quỳnh đã bị "hạ đài", nhưng trong kinh quan hệ rộng rãi, một ngự sử tuần thành cỏn con như Hồ Chu thực không thể đắc tội. Nhưng vị Dương đại nhân ở trước mặt này, lão ta lại càng không thể đắc tội. Hồ Chu đành phải gượng đáp lời một tiếng rồi thăng đường xử án.

Nha dịch bê chậu nước đến, hắt "ào" một cái cho Vương Cảnh Long tỉnh lại. Vương Cảnh Long yếu ớt mở mắt, trông thấy Dương Lăng ngồi nghiêm nghị một bên, Ngọc Đường Xuân thanh tú đứng sau lưng y thì biết chuyện đã bại lộ, không khỏi căm hờn rống lên một tiếng, cặp mắt đỏ ngầu, bổ nhào tới.

Tuy Vương Cảnh Long là thư sinh nho nhã yếu đuối, nhưng lúc này khí thế điên cuồng khiến người ta nhìn mà lạnh sống lưng. Dương Lăng bị hù giật nảy người, không kìm được đứng phắt lên. Hai nha dịch phản ứng cực nhanh, đuổi theo điểm hai cây phong hỏa côn vào đầu gối Vương Cảnh Long một cái, Vương Cảnh Long liền khuỵu xuống đất đánh "cộp", lập tức bị hai nha dịch bẻ ngoặt hai tay khống chế.

Vương Cảnh Long không thể động đậy, lại cố vươn cổ ra ngoạm chặt lấy vạt áo của Dương Lăng, cặp mắt như muốn ăn tươi nuốt sống người ta trợn trừng nhìn y không rời. Ánh mắt thù hận vô tận đó khiến Dương Lăng lạnh cả người, lông tóc bỗng chốc đều dựng đứng lên.

Vương Cảnh Long muốn báo thù y, chuyện đó y có thể lý giải, nhưng tại sao hắn lại hận mình đến mức như vậy? Không lẽ loại người này không hề có chút lý trí sao? Không thèm cân nhắc nguyên do sự tình, không thèm nghĩ lúc mình hại người nếu thành công sẽ tạo ra biết bao tổn thương đối với người khác hay sao?

Chú thích:

Quần thể mộ hình tháp của những người tu hành, thường toạ lạc gần chùa chiền

Nghĩa "Dương Hổ ở Bá châu chính là sao Tử Vi chuyển thế". Dương Hổ, không rõ năm sinh, mất năm 1511, người Giao Hà (nay thuộc tỉnh Hà Bắc). Ban đầu đi theo Bạch Anh, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa của nông dân khu vực kinh đô và vùng lân cận, liên tục chiến đấu khắp vùng Sơn Đông và Lâm Thanh. Về sau kết hợp cùng quân khởi nghĩa của Lưu Lục và Lưu Thất.

Câu này được trích trong Lễ Ký, tạm dịch "ngọc khuê không mài vẫn đẹp bởi bản chất sẵn có của nó". Ngọc khuê là ngọc trên nhọn dưới vuông, thiên tử phong chư hầu thì ban cho ngọc đó.

Vị sư tiếp khách

Nhân viên quản lý trật tự trị an trong thành

Dương Lăng tự biết mạng mình ngắn ngủi, cho nên người khác có gây tổn hại gì đến y, y cũng đều không coi trọng, nhưng y tuyệt đối không thể tha thứ cho kẻ nào làm tổn thương đến người nhà của y. Đó là lập trường duy nhất mà y giữ vững, lập trường duy nhất mà y quyết không nhượng bộ.

Lúc này, thấy ánh mắt như rắn độc của Vương Cảnh Long, y rốt cuộc đã hiểu, thù hận hai nhà căn bản đã không thể hòa giải: khi thân ở trên cao y có thể suy nghĩ bỏ qua cho kẻ khác, lại chưa hề nghĩ chuyện làm tổn hại người nhà kẻ khác, nhưng nếu y rơi vào tay kẻ khác, liệu kẻ đó sẽ bỏ qua cho y sao? Sẽ bỏ qua cho người nhà vô tội của y sao?

Dương Lăng vừa kinh hãi vừa giận dữ nói:

- Hồ đại nhân, phạm nhân này vượt ngục chạy trốn, mua chuộc kẻ ác hại người, trên công đường còn điên cuồng ngang ngược như vậy, ông đã thấy chưa?

Hồ Chu nghiến răng, nạt lớn:

- Người đâu, lôi phạm nhân xuống, đánh mạnh bốn mươi gậy, rồi tiếp tục giải lên công đường xét hỏi!

Lại có thêm hai nha dịch xông tới, bốn người túm lấy Vương Cảnh Long lôi xuống dưới. Vương Cảnh Long lại trừng cặp mắt ngập tràn căm thù nhìn Dương Lăng không rời, cắn chặt hàm răng không chịu nhả. Mấy tên nha dịch lập tức nổi giận, bọn họ nào quản ngươi là ai, tức thì có nha dịch buông tay ra, rút ở bên hông ra cây thước gỗ vả miệng, nhắm vào hai má hắn quất mạnh "bộp bộp bộp" mấy cái, khiến cả hai má Vương Cảnh Long đều tê dại, mép hắn ứa máu, thậm chí răng cũng đã long ra.

Đám nha dịch thừa cơ dùng sức kéo mạnh, áo bào của Dương Lăng bị kéo rách một mảnh. Mấy người vừa lôi Vương Cảnh Long ra khỏi bậc cửa, một nha dịch lật đật chạy vào thưa:

- Khải bẩm đại nhân, ba đại học sỹ của Nội các, thượng thư bốn bộ Lễ, Công, Lại, Hộ và mấy vị đại nhân trong triều đã đến.

Vương Cảnh Long nghe vậy liền há ngoác miệng đầy máu điên cuồng cười to. Hồ Chu nghe báo lại giật nảy người, đứng bật dậy, vội vàng chỉnh lại mũ ô sa rồi nói:

- Mau mau, áp giải phạm nhân vào lao, tạm thời thoái đường.

Dương Lăng nghe nói nhiều nhân vật tai to mặt lớn như vậy đã đến cũng không khỏi kinh ngạc, liền vội khoát tay bảo Tuyết Lý Mai và Ngọc Đường Xuân lui ra ngoài công đường, Tam ban nha sai lui xuống. Hai người vừa bước đến cửa, liền thấy một đám nguyên lão trong triều đầu tóc bạc phơ đang vội vội vàng vàng đi đến.

Thì ra Vương Cảnh Long mua chuộc mấy tên giặc cướp nọ định bắt cóc Ngọc Đường Xuân ra khỏi thành để trút hận, Vương Bình đánh xe ngựa chờ bên ngoài chùa, không ngờ thấy kiệu của Dương phủ đến không lâu thì Dương Lăng đã dẫn một đám thân quân bước vào, lập tức biết là không ổn, thông báo cho thiếu gia cũng đã muộn, thế là y lập tức bỏ xe trốn vào con hẻm kế bên.

Cũng may mấy tên trộm cướp đó cũng có nghĩa khí, sau khi bị bắt không ai khai ngoài chùa còn có đồng bọn tiếp ứng. Y thấy mấy người này cùng với thiếu gia đã hôn mê bất tỉnh bị mang đến ty binh mã của Ngũ thành thì lập tức theo đường tắt chạy đến Ngọ môn.

Mấy người Lưu Kiện, Tạ Thiên và Vương Quỳnh thường ngày cũng là bạn bè thường xuyên uống rượu họa thơ. Với tư cách là quản sự thư phòng trong phủ thượng thư, Vương Bình rất quen thuộc với bọn họ, ngay cả quản gia và kiệu phu của bọn họ cũng nhận ra. Đến Ngọ môn, y vừa tìm được kiệu phu của mấy vị đại nhân, đúng lúc đám đại nhân này cũng vừa tan ngọ triều đi ra.

Vương Bình vừa thấy mấy vị đại học sỹ lập tức lao tới dập đầu, chỉ nói thiếu gia ở Thái lăng bị bọn người Đới Nghĩa rắp tâm hành hạ, muốn dồn y vào chỗ chết. Thiếu gia không chịu nổi khổ nhục, đã trốn về kinh dưới sự giúp đỡ của y, tính xin triều đình ban cho con đường sống, không ngờ lại bị Dương Lăng vu oan hãm hại, bắt đến ty binh mã của Ngũ thành.

Tuy trước đó ít lâu đám lão thần này có ít nhiều bất mãn với Vương Quỳnh, nhưng suy cho cùng, là đồng liêu bạn tốt lâu năm, giờ đây con trai Vương Quỳnh bị đày lên Thái lăng, bản thân lão thuyên chuyển về Kim Lăng, nói ra cũng đủ thê thảm rồi, nên đám đại thần nghe vậy đều nổi lòng thương xót. Trong đó, những đại quan sớm không hài lòng với Dương Lăng càng tức giận chỉ trích Dương Lăng quá đáng, nên cùng đến theo.

Trông thấy đại học sỹ cùng các vị thượng thư và đám người Dương Phương, Vương Ngao, Dương Lăng và Hồ Chu vội vàng cúi người làm lễ. Mấy người Lưu Kiện và Lý Đông Dương còn giữ được bình tĩnh, đám người Dương Phương, Vương Ngao và Dương Thủ Tùy thấy Dương Lăng thì lửa giận bốc lên ngùn ngụt, phất tay áo hầm hầm đi vào công đường.

Hồ Chu vội vã xếp ghế mời các vị đại nhân ngồi, ngước mắt nhìn, ai nấy đều cao hơn lão ta ba cấp, Hồ Chu đáng thương đành phải làm lễ với từng người. Dương Phương đẩy trà nóng nha dịch dâng lên, nhìn thẳng vào Dương Lăng nạt lớn:

- Dương đại nhân, cả nhà Vương thượng thư bị ngươi hại còn chưa đủ thảm sao? Vương Cảnh Long là một cử nhân tài giỏi, nay bị tước đi công danh thành tù nhân, vì sao ngươi vẫn không chịu bỏ qua cho y?

Dương Lăng vịn kiếm điềm nhiên đáp:

- Từ đâu truyền ra lời ấy? Dương Lăng hôm nay lên công đường, là với thân phận người bị hại, không phải lấy thân phận đại thần trong triều ép Hồ ngự sử xử án. Vương Cảnh Long vạch kế lừa người nhà trong phủ Dương mỗ ra ngoài, muốn trả thù làm hại Dương mỗ, vật chứng là phong thư lừa gạt nội quyến của bản nhân, nhân chứng có một đám giặc cướp mà hắn đã mua chuộc. Nhân chứng vật chứng đủ cả, sao trở ngược thành Dương mỗ hại người rồi? Đại nhân đừng đổi trắng thay đen!

Lưu Kiện thấy bọn họ cãi nhau, nhíu mày quay sang Hồ Chu hỏi:

- Hồ ngự sử, chuyện này rốt cuộc là như thế nào?

Hồ Chu lúng túng đáp:

- Hạ quan vừa mới thăng đường xử án, tình hình cụ thể vẫn chưa rõ lắm, có điều....có điều phong thư đó và giặc cướp bị bắt ở hiện trường quả thực là có.

Tạ Thiên và Lý Đông Dương nghe xong không khỏi liếc mắt nhìn nhau. Dương Lăng trước đây chưa từng dây dưa với nhà họ Vương, giờ sẽ càng không ngu xuẩn đến mức lợi dụng lúc đại hôn của hoàng đế mà chèn ép đối phương. Lời nói của Vương Bình mười phần có tám chín phần là tráo trở. Nhưng dù biết rõ là như vậy, không lẽ có thể trơ mắt khoanh tay đứng nhìn đứa con của bạn cũ gặp nạn?

Tạ Thiên vuốt râu trầm ngâm một lát rồi nói:

- Chúng ta nghe gia nhân Vương phủ khẩn cầu, nhất thời không biết chuyện ấy, chỉ vì có quan hệ đến con trai của bạn cũ, cho nên chạy đến xem kết cục, không phải có ý trở ngại ty pháp. Bản quan cũng tin tưởng thái độ đối nhân xử thế của Dương đại nhân, có điều tục ngữ nói 'oan gia nên giải không nên kết, bậc quân tử lấy cái đức sâu dày để nâng đỡ mọi vật'. Cùng là đại thần trong triều, Dương đại nhân có thể tha cho y một con đường hay không?

Dương Lăng nhớ lại cặp mắt tràn ngập sự thù hận của Vương Cảnh Long và hành động điên cuồng cắn chặt lấy áo y, miệng đầy máu mà vẫn không nhả, trong lòng không khỏi ớn lạnh, bèn nói một cách kiên quyết:

- Các vị đại nhân có biết Vương Cảnh Long lừa người thân Dương mỗ ra ngoài, là muốn báo thù như thế nào không? Thủ đoạn ấy thật sự khiến con người và thánh thần cùng căm phẫn! Thường nói 'vương tử phạm pháp cùng tội với thứ dân'. Dương mỗ cũng là quan, nếu chỉ vì người hắn muốn hãm hại là người nhà của ta, ta liền rút lời buộc tội, để tỏ cái đức sâu dày của bậc quân tử. Vậy nếu người mà hắn muốn hại là dân chúng bình thường thì sao? Đấy há chẳng phải là vì tư bỏ công, vì người buông luật đó sao?

Mấy vị đại nhân nghe vậy không khỏi nghẹn họng, Lý Đông Dương thoáng do dự, rồi đứng dậy đi đến bên cạnh Dương Lăng mỉm cười nói:

- Dương đại nhân, bước ra ngoài nói chuyện nhé.

Dương Lăng khá có thiện cảm với vị Lý đại học sỹ này, thấy thái độ lão hòa nhã, liền cất bước đi theo. Lý Đông Dương nhẹ giọng thành khẩn:

- Dương đại nhân, lão phu mượn tuổi già, gọi cậu một tiếng hiền điệt. Ân ân oán oán của cậu và nhà họ Vương, hôm nay tạm thời không bàn đến, lão phu chỉ suy nghĩ từ phương diện của cậu. Vương Cảnh Long cuộc sống được nhiều ưu đãi, không hiểu sự đời, đột nhiên gặp phải nạn to, khó tránh mang lòng oán hận, tâm tính thất thường, may mà y vẫn chưa làm tổn hại đến cậu. Cậu tha y một con đường sống, sẽ chỉ có lợi đối với cậu, tuyệt không có hại. Hôm nay các vị đại nhân đang thay mặt Vương thượng thư thỉnh cầu một vãn bối như cậu. Nếu như hiền điệt nể phần thể diện này, sau này làm quan trên triều, sẽ luôn thuận lợi hơn. Thời điểm này là đại hôn của hoàng thượng, làm mấy chuyện không vui, cậu cũng biết là không thích hợp mà, huống gì nếu cậu lấy đức báo oán, Vương thượng thư tất nhiên sẽ cảm kích trong lòng. Vương Cảnh Long chẳng qua là một kẻ thư sinh, cho dù hận thấu trời xanh, thì có năng lực gì hại người? Y hành hung chưa được, có nhiều lão thần như vậy thay mặt Vương thượng thư cầu xin cho y, hoàng thượng quyết sẽ không phán y tội chết, sao cậu không thuận nước đưa thuyền, lợi cho người, cũng là lợi cho mình?

Những lời này của Lý Đông Dương thấu tình đạt lý, khiến cho Dương Lăng không khỏi lưỡng lự. Lý Đông Dương mỉm cười đợi y trả lời. Dương Lăng do dự một hồi lâu, nhìn thấy đám lão thần trên công đường đều đang nhìn y chằm chằm, rốt cuộc hạ quyết tâm. Y hít sâu vào một hơi, rồi nói:

- Lý đại học sỹ, hạ quan muốn nói chuyện với Vương Cảnh Long một chút đã!

Lý Đông Dương vui vẻ gật đầu nói:

- Được! Hồ đại nhân, hãy để Dương đại nhân gặp Vương Cảnh Long một chút, để bọn họ trò chuyện riêng một chút đi.

Hồ Chu vội đáp:

- Dạ dạ dạ, hạ quan sẽ thu xếp ngay đây.

Dương Lăng bước vào phòng giam, chỉ thấy Vương Cảnh Long đang ngồi trên ghế, trên người bị trói mấy vòng dây thừng, bị hai nha dịch giữ chặt. Vừa thấy y bước vào, Vương Cảnh Long lập tức dùng ánh mắt thù hằn nhìn y chòng chọc.

Dương Lăng khoát tay nói:

- Các ngươi ra đi, đóng cửa phòng lại, ta muốn chuyện trò cùng Vương công tử một chút!

Hai tên nha dịch vâng lời lui ra, khép nhẹ cửa phòng lại. Dương Lăng bước đến trước mặt Vương Cảnh Long, kéo ghế ngồi xuống, nhìn y chăm chú một hồi lâu. Mới có một tháng mà đã không còn thấy cậu công tử phong thái văn nhã, ra vẻ lịch sự đó nữa. Vương Cảnh Long của hiện tại hai má hóp lại, sắc mặt tái nhợt, xem ra thật đã chịu không ít đau khổ.

Dương Lăng thở dài, nói:

- Vương công tử, có biết lần đầu huynh và ta gặp nhau, ta có cảm giác gì không?

Vương Cảnh Long vẫn nhìn chòng chọc đầy thù hận, không nói lời nào. Dương Lăng tự trả lời thay:

- Đó là cảm giấc rất kỳ diệu. Vừa thấy huynh, ta đã nghĩ rằng sẽ tình nguyện xem huynh là bạn bè, thậm chí còn nghĩ... Ha ha, không biết sao lệnh tôn đại nhân dường như rất có thành kiến với Dương mỗ, dường như Vương huynh cũng có nhiều hiểu lầm. Huynh từng sắp đặt hại ta, cho dù là vậy ta cũng không hận huynh, huynh tin không? Ta căn bản chưa từng hận huynh.

Vương Cảnh Long nhếch khoé môi đang chảy máu cười khẩy, hiển nhiên không hề tin lời y. Dương Lăng bất đắc dĩ nói:

- Ta biết huynh không tin, nhưng lời ta nói là sự thật. Ta thậm chí còn nghĩ, để qua mấy ngày sẽ cứu huynh ra, đưa huynh về Kim Lăng. Tại sao huynh cứ khăng khăng phân chia thù địch với ta vậy?

Vương Cảnh Long cười gằn:

- Bởi vì ngươi... Dương Lăng ngươi là quốc tặc! Có đại nhân các bộ trong triều bảo vệ ta, ngươi giết không được ta có phải không? Cho nên đến đây lấy lòng, đồ tiểu nhân!

Dương Lăng phiền não nói:

- Giữa chúng ta rốt cuộc có thù hận gì? Điều này không phải kỳ lạ sao? Huynh đừng quy hết lỗi lầm đổ lên đầu người khác. Ta thật sự muốn hòa giải với huynh. Ta không truy cứu chuyện huynh hôm nay âm mưu làm hại đến người nhà ta, đưa huynh trở lại Thái lăng. Qua ít thời gian, đợi sau đại hôn của hoàng đế, ta sẽ nghĩ tiếp biện pháp bảo lãnh huynh ra. Thậm chí công danh của huynh... Nếu như hoàng thượng nói một câu, cũng không phải không thể đặc xá, huynh có thể đừng cố chấp mối thù này nữa được không?

Vương Cảnh Long cười gằn ác độc nói:

- Có thể, đương nhiên là có thể. Chỉ cần ra khỏi cửa này, ta sẽ khóc lóc đổ lệ nhận lỗi với các vị trưởng bối bạn thân của phụ thân, đau đớn ăn năn hối lỗi, ngoan ngoãn thành thật làm một phạm nhân. Lần này ta báo thù quá lỗ mãng rồi, lần sau, ta sẽ cẩn thận hơn!

Trong tiếng cười gằn, hắn ác độc tiếp:

- Ta sẽ luôn nhẫn nại, nhẫn đến một ngày thấy ánh mặt trời. Dương đại nhân ngươi quyền bính thông thiên, chắc cũng không thể cả ngày điều động nhân mã bảo vệ người nhà của ngươi chứ nhỉ? Ta sẽ không từ thủ đoạn nghĩ ra biện pháp hại ngươi, cho dù nữ nhân ngươi vĩnh viễn trốn trong nhà không bước ra, cũng có thể đột nhiên bị một mũi tên bắn lén xuyên tim ả...

Trong lòng Dương Lăng âm thầm nổi lên một luồng sát khí, Vương Cảnh Long lại vẫn không hay không biết ngông cuồng nói:

- Sau này ngươi sẽ cần phải cẩn thận dè chừng hơn cả hoàng thượng, bởi vì trái cây rau quả mà ngươi mua về sẽ phải cho người khác nếm rồi mới dám dùng. Đến khi ngươi có con trai, ngươi còn phải trông chừng nó cho kỹ, bằng không, mấy mươi năm sau, có thể sẽ có một tên ăn mày tay chân tàn phế đến gõ cửa nhà ngươi xin ăn, mà nó chính là đứa con ruột của vị Dương đại nhân quyền cao chức trọng ngươi đấy!

Hoặc giả là, ngươi có con gái, ngươi đoán thử xem nó sẽ có kết cục gì? Ha ha ha, ngươi sợ rồi hả? Tại sao sắc mặt lại tái nhợt thế, tại sao cả người đều run rẩy thế? Ta là tù nhân của ngươi mà không phải sao? Ngươi sợ ta làm gì chứ? Ha ha ha, ta chính là muốn ngươi sợ, để ngươi cả đời phải sống trong sợ hãi!

Đoạn hắn cất cao giọng quát:

- Dương Lăng, tên gian tặc nhà ngươi, ngươi hại cha ta phải đi Kim Lăng, ngươi hại mất tương lai của ta, ta đường đường là một cử nhân, nay biến thành một tù nhân mặc người lăng nhục! Những điều ngươi hại ta, ta sẽ bắt ngươi trả lại gấp ngàn, gấp vạn lần!

Ánh mắt biểu lộ sự điên cuồng, hắn nói như mê sảng:

- Ta sẽ dùng bất kỳ thủ đoạn nào để đối phó với ngươi, ta muốn ngươi vĩnh viễn phải sống trong sợ hãi, ta muốn ngươi... a...

Hắn vừa nói đến đây đột nhiên nghẹn lại, trong chớp mắt đồng tử kinh hãi giãn ra, giữa cổ một dòng máu tươi men theo mũi kiếm chầm chậm chảy xuống.

Dương Lăng đứng dậy, nói khẽ với Vương Cảnh Long:

- Vương Cảnh Long, ngươi nghĩ là ngươi dọa được ta ư? Ngươi vẫn chưa đủ tư cách! Lời ngươi nói chỉ có thể khiến ta nổi sát ý mà thôi!

Y nén giận, giọng mỉa mai:

- Vương Cảnh Long, ngươi thật là một tên công tử bột không ra hồn, trước đã vậy, bây giờ vẫn vậy. Ngươi không nên chọc giận ta, càng không nên lấy người mà ta coi trọng nhất ra dọa ta, đồ ngu!

Như con gà trống bị cắt tiết, Vương Cảnh Long phát ra tiếng kêu khùng khục, nhưng dây thanh đới của hắn đã không còn phát ra những lời nguyền rủa ác độc được nữa. Hắn tuyệt nhiên không ngờ có nhiều trưởng bối bạn thân của cha hắn tìm tới cửa để nói giúp cho hắn như vậy mà Dương Lăng lại dám lạm dụng tư hình, giết chết hắn.

"Như vậy cũng tốt, tuy mình là phạm nhân nhưng cũng không phải muốn giết thì giết. Dương Lăng, ta dùng mạng của mình để trả thù ngươi!" Ánh mắt đang trắng dã dần của Vương Cảnh Long đột nhiên phủ lên một vẻ khoái trá bệnh hoạn.

Nhưng hắn lập tức nhìn thấy Dương Lăng bước đến bên cạnh cởi dây thừng quấn trên người hắn ra, sau đó trở tay đâm một kiếm vào cánh tay mình, thét lớn:

- Người đâu đến mau, Vương Cảnh Long muốn giết ta!

"Có lẽ mình vẫn chưa đủ nhẫn nại! 'Quân tử, có thể dễ bị gạt '. Nhưng hắn... không phải quân tử..."

Chú thích:

Phiếm chỉ các loại nhân viên các cấp trong nha môn

Nguyên văn "quân tử, khả khi chi dĩ phương" xuất phát từ truyện "giáo nhân phanh ngư" (người hầu nấu cá) của Mạnh tử. Câu cuối có nguyên văn là "quân tử khả khi chi dĩ phương, nan võng dĩ phi kì đạo". Ý là đối với chính nhân quân tử có thể dùng phương pháp hợp lý để lừa gạt họ, khó mà dùng cách không hợp lý để gạt họ. Có người tặng cá cho Tử Sản nước Trịnh, Tử Sản bảo người hầu bỏ xuống hồ nuôi, nhưng người hầu nấu cá ăn mất, sau đó lại nói với Tử Sản là bỏ cá xuống hồ cá đã bơi đi mất rồi. Tử Sản nói "Đã tới nơi cần tới". Người hầu đi ra nói "Ai nói là Tử Sản thông minh, cá đó ta đã ăn mất rồi". Quả là quân tử có thể dùng cách hợp lý để gạt.

http://zhidao.baidu.com/question/747...ex=3&fr2=query

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 114: Đại gian như trung

Hai nha dịch chờ ngoài phòng giam đang rỗi hơi cãi vã, bỗng nghe trong phòng có tiếng thét, không khỏi giật mình hốt hoảng, ba chân bốn cẳng đạp tung cửa phòng nhìn vào. Chỉ thấy hai chiếc ghế đổ sang một bên, tên tù nhân nọ đã thoát khỏi dây trói, đẩy Dương đại nhân ngã xuống đất.

Hai người bọn họ vội lao tới bẻ quặt tay Vương Cảnh Long lại, phát hiện thân thể hắn đã mềm nhũn không còn chút sức lực, Dương Lăng ở bên dưới dính đầy máu tươi, cũng không biết bị thương chỗ nào, không khỏi sợ run ra đấy.

Dương Lăng hổn hển nói:

- Mau kéo hắn ra, tên này... tên này bị điên rồi, vùng khỏi dây thừng rồi nhảy bổ tới, cướp lấy bội kiếm của bản quan, suýt nữa đã giết chết ta rồi.

Hai tên gác ngục thấy Dương đại nhân vẫn có thể nói được, lúc này mới yên lòng, vội lật xác Vương Cảnh Long qua một bên, vừa lật đật dìu y dậy, vừa quay ra bên ngoài la lớn:

- Người đâu mau lên, tù nhân thoát trói, hành thích Dương đại nhân rồi!

Trên công đường, các vị đại nhân cao tuổi đang sốt ruột chờ đợi. Đám người Dương Phương, Vương Ngao vốn đã rất có thành kiến với Dương Lăng, nghe lời nói một phía của Vương Bình, chỉ nghĩ Dương Lăng mượn việc công để trả thù riêng, muốn lợi dụng cơ hội xây Thái lăng để hành hạ Vương Cảnh Long, đó là chuyện thường thấy trên quan trường, cho nên hoàn toàn tin tưởng.

Vương Cảnh Long không thể cầu cứu, chỉ có thể vượt ngục vào kinh tố cáo để cứu sống chính mình, cũng thật sự đáng thương. Bọn họ nhất thời động lòng thương xót, chỉ sợ Dương Lăng lợi dụng quyền thế áp bức ngự sử tuần thành dùng hình phạt đánh chết Vương Cảnh Long, cho nên vội vã chạy lại. Không ngờ đến nơi này lại thấy Vương Cảnh Long thuê kẻ ác để báo thù, Dương Lăng nhân chứng vật chứng đều có, tức thì ngẩn người.

May mà những lời thấu tình đạt lý của Lý Đông Dương đã lay động được Dương Lăng. Chỉ cần y không truy cứu, với ảnh hưởng của mọi người, Hoàng Thượng nhất định sẽ không dám tăng thêm tội danh cho Vương Cảnh Long, cũng coi như có thể ăn nói với bạn cũ. Lưu Kiện nhấp ngụm trà, do dự quay sang Lý Đông Dương hỏi:

- Tân Chi , ông nghĩ Dương Lăng có chịu mắt nhắm mắt mở cho qua không?

Lý Đông Dương vuốt râu cười đáp:

- Đại nhân yên tâm, Dương Lăng tuyệt không phải là loại người lòng dạ độc ác, y sẽ không làm chuyện đuổi tận giết tuyệt đâu. Huống hồ tam công lục bộ cầu xin cho phạm nhân, ngay cả Hoàng Thượng cũng phải nể mặt mấy phần, huống gì Dương Lăng tuy là khổ chủ, nhưng trên thực tế chưa bị tổn hại gì.

Vương Ngao lạnh lùng "hừ" một tiếng, tức tối nói:

- Mặt mũi y thật không nhỏ, vào kinh chưa được một năm, mỗi tháng đều phải gây ra một ít chuyện. Nhắc đến vụ án Đế lăng, Vương thượng thư chỉ là bị kẻ khác lừa dối, mới tán thành yêu cầu trừng phạt nghiêm khắc Dương Lăng, cùng lắm phạt lương bổng nửa năm cũng đã đủ rồi, giờ lại bị đuổi đến Kim Lăng. Vương Cảnh Long trong lúc hồ đồ, vì muốn giải vây cho phụ thân nên mới tố cáo y ép mua kỹ nữ làm thiếp, theo luật Đại Minh, luận tội phản tọa, cho dù tội tăng thêm ba bậc, hình phạt cao nhất cũng chẳng qua là đánh trăm gậy, đi đày ba ngàn dặm. Hơn nữa hắn đã bị tước đi công danh, cũng có thể đền tội rồi. Không may hắn lại xui xẻo gặp phải Hoàng Thượng đích thân nghe xử, làm thân khâm phạm thật đúng là oan uổng. Nếu mấy lão già chúng ta ngay cả một thế điệt cũng cứu không nổi, chuyện hôm nay để truyền ra ngoài thì thực đúng là mất hết thể diện.

Thượng thư bộ Lễ Vương Hoa cười ghẹo:

- Từ khi Đại Minh dựng nước đến nay, khâm phạm không phải là quan lại được tam công lục bộ cùng lúc ra mặt xin tha, ngoại trừ Thẩm Vạn Tam thời Hồng Vũ ra, đại khái cũng chỉ có một mình Vương Cảnh Long. Không lẽ mặt mũi Dương Lăng còn lớn hơn cả hoàng đế Thái Tổ sao?

Nghe ông ta nói như vậy, thần sắc trên mặt mọi người lập tức hòa hoãn trở lại. Nói vậy cũng đúng, Thẩm Vạn Tam nhiều lần trái ý quân vương, cuối cùng hoàng đế Hồng Vũ không phải vẫn phải nể mặt quần thần, thu hồi thánh chỉ, sửa tội chết thành đi đày đó sao? Hôm nay quan viên ngồi trên công đường đây có ai mà phẩm hàm không cao hơn Dương Lăng chứ? Chẳng qua chỉ là muốn y nể mặt bỏ qua, tránh đẩy Vương Cảnh Long vào chỗ chết, y dám khăng khăng làm theo ý mình à?

Thượng thư bộ Hộ Hàn Văn quét mắt nhìn mọi người một cái, thấy mấy người Dương Phương, Vương Ngao mặt mày kiêu ngạo đắc chí, không khỏi thầm lắc đầu. Với thể diện của bọn họ, lão đúng là không tin Dương Lăng dám làm gì Vương Cảnh Long, lão chỉ lo Vương Quỳnh nóng lòng thương con, bất chấp vương pháp, quả nhiên đã sai người cứu Vương Cảnh Long trốn thoát. Nếu không phải vì Vương Cảnh Long xui xẻo trở thành khâm phạm, với thế lực nhà họ Vương, tội vu cáo này cũng không có gì đáng phải lo. Nhưng giờ hắn đã là khâm phạm, cứu hắn thoát ra chính là coi thường quân chủ, tội này mới thật không nhẹ.

Lão nghĩ một chút, nhìn thấy Hồ Chu cũng đang trên công đường, lại không tiện nói ra lo nghĩ trong lòng. Dương Thủ Tùy ngồi bên cạnh, thấy sắc mặt lão, biết lão có lo lắng trong lòng, không khỏi mỉm cười, đưa một ngón tay ra viết nhanh lên vạt áo lão mấy chữ: "Gia nhân tự ý, không có bằng chứng".

Hàn Văn nhìn thấy khẽ "a" lên một tiếng. Phải rồi, trong triều Vương Quỳnh không có kẻ thù, chỉ cần lấy cớ này làm qua loa cho có lệ, ai lại lựa gió bẻ măng, truy cứu tới cùng hành vi cứu con của một ông lão tuổi đã bảy mươi chứ? Làm vậy há không khiến người ta cảm thấy vô liêm sỉ sao?

Ông quay sang Dương Thủ Tùy mỉm cười, đang muốn tỏ ý, chợt nghe dưới công đường vọng đến tiếng la "tù nhân hành thích". Mấy vị đại nhân không khỏi đứng bật dậy, vừa ngạc nhiên vừa ngờ vực nhìn ra ngoài. Chỉ thấy một tên nha sai chạy như bay vào báo:

- Kính bẩm đại nhân, tên tù nhân kia thoát khỏi dây trói, ý đồ hành thích Dương đại nhân.

- Cái gì? Dương đại nhân (phạm nhân kia) thế nào rồi?

Hồ Chu bất chấp bản thân chức quan nhỏ, cũng tranh hỏi cùng Dương Phương. Dương Phương hỏi là hỏi sự sống chết của Vương Cảnh Long, còn lão lại lo lắng cho tính mạng của Dương Lăng. Nếu Dương Lăng xảy ra chuyện ở chỗ lão, bãi quan cuốn gói ra đi sẽ là điều không thể tránh.

Mặt như đưa đám, tên nha sai thưa:

- Dương đại nhân bị thương, cả người đầy máu, cũng không biết nghiêm trọng đến mức nào, tù nhân kia đã bị Dương đại nhân trở tay đâm chết rồi.

Lưu Kiện giậm chân, dẫn mấy vị đại nhân vội vã chạy tới phòng tạm giam phạm nhân chờ thẩm vấn ở dưới công đường. Vào trong phòng, Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai sớm nghe tin chạy tới đang ôm lấy Dương Lăng khóc lóc sướt mướt. Mấy vị đại nhân trông thấy Dương Lăng cả người đầy máu, cũng không biết đó là máu của Vương Cảnh Long vấy lên, quả thực đã bị dọa giật thót mình.

Nói cho cùng đây là lần đầu Dương Lăng giết người. Mặc dù nghe xong ý đồ độc ác đó của Vương Cảnh Long, y không nén được cơn giận, song dẫu sao trong lòng vẫn rất sợ, thêm vào một kiếm tự đâm cũng quả thực rất đau, cho nên sắc mặt trắng bệch, vẻ kinh hoàng không giống như giả bộ. Lại nhìn Vương Cảnh Long đang nằm dưới đất, nụ cười nham hiểm ác độc nọ vẫn còn hiện trên khuôn mặt, trông dữ tợn khác thường, tình hình xem ra thực đúng như lời tên nha dịch vừa rồi đã nói.

Khuôn mặt Lý Đông Dương thoáng hiện vẻ kinh hãi, thương xót lẫn hoài nghi, ông chạy qua đỡ Dương Lăng hỏi:

- Dương đại nhân, thương thế cậu sao rồi?

Dương Lăng thấy ông ta không hề hỏi về chuyện đã xảy ra, song cặp mắt lại nhìn chằm chằm vào mình như thể muốn tìm ra sơ hở từ trong đó, trong lòng cũng hơi run, may mà sắc mặt y vốn tái nhợt, không ai phát hiện được vấn đề gì. Y đáp:

- Đại nhân, hạ quan cũng có lòng muốn tha cho hắn, không ngờ hắn thù hận quá sâu, đột nhiên vùng thoát khỏi dây trói đoạt lấy bội kiếm của hạ quan rồi đâm vào tay hạ quan một kiếm, may mà hắn không đủ sức lực, hạ quan cướp lại kiếm, đâm ngược lại giết chết hắn. Hạ quan... thương thế hạ quan cũng không nghiêm trọng.

Lý Đông Dương không nhìn ra sơ hở, thất vọng đứng dậy, ngơ ngơ ngẩn ngẩn một hồi lâu rồi mới thở dài một tiếng, mệt mỏi khoát tay nói:

- Dương đại nhân không có trở ngại gì lớn thì tốt. Mau băng bó cho Dương đại nhân một chút rồi đưa đến chỗ đại phu chẩn đoán chữa trị thật tốt.

Dương Lăng thấy bọn họ người nào người nấy mắt sáng quắc như đuốc, sợ nói chuyện lâu sẽ để lộ ra sơ hở, vội cố gượng đứng lên nói:

- Hạ quan đã băng bó sơ rồi, chỉ là chảy máu quá nhiều, có hơi váng đầu, thật sự không thể gắng gượng lâu. Các vị đại nhân, kết cục hôm nay thật sự nằm ngoài ý nghĩ của hạ quan... Ài, hạ quan... hạ quan xin cáo lui trước.

Mấy người Lưu Kiện nhìn y được Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai mỗi người dìu một bên, loạng choạng rời đi. Một lúc sau Dương Thủ Tùy giận dữ gào lên:

- Bố láo! Tên tiểu nhân này rõ ràng không muốn bỏ qua cho Vương Cảnh Long. Không ngờ y lại giả vờ bằng lòng, cố ý giết người, thật quá nham hiểm!

Hàn Văn cười gượng một tiếng, dùng những chữ khi nãy Dương Thủ Tùy đã viết cho mình đáp lại: "Chuyện trong phòng kín, không có chứng cứ".

Trong số các vị đại nhân tại hiện trường, ngoại trừ Vương Hoa tin lời Dương Lăng, Lý Đông Dương có chỗ nghi ngờ, những người khác không một ai tin Vương Cảnh Long có thể thoát trói giết quan. Đó chẳng phải là tự tìm đường chết sao? Vì thế họ vô cùng căm phẫn. Nhưng chuyện này thật sự không thể điều tra được chứng cứ xác thực, lại không thể nào chất vấn Dương Lăng.

Tạ Thiên cười khổ một tiếng, thở dài:

- Chỉ là... Lúc trước chúng ta hết lòng thề thốt sẽ bảo vệ cho Vương Cảnh Long, nay thật sự hổ thẹn với bạn cũ rồi.

Lưu Kiện lúc này đã định thần lại, khẽ lắc đầu nói:

- Nói nhiều vô ích, ôi! Đợi khi ty binh mã kiểm tra thi thể xong, lão phu sẽ sai người đến giúp hắn thu liệm thi thể. Tân Chi, chuyện này thật sự khó mà mở miệng, phiền huynh viết một phong thư, báo cho Vương thượng thư vậy.

Lý Đông Dương lặng lẽ gật đầu, rồi quay lại nói với Hồ Chu:

- Giao đám phạm nhân cho bộ Hình thẩm vấn, nói với bọn họ, tiến triển của vụ án phải luôn sẵn sàng trình lên!

Hiện nay vị trí thượng thư bộ Hình vẫn còn để trống, tạm thời do đại học sỹ Lý Đông Dương quản lý. Vụ án này vừa liên quan đến khâm phạm, lại có dính dáng đến mạng người, ty binh mã ngũ thành cỏn con rõ ràng không có quyền can dự. Hồ Chu nghe xong như được đại xá, lật đật vâng dạ.

Dương Lăng ngồi trong kiệu ngựa, Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai cũng không ngại hiềm nghi ngồi sát mỗi người một bên. Vương Cảnh Long chỉ muốn khoái trá trong chốc lát, tuôn ra những lời lẽ ác độc khiến Dương Lăng trong cơn giận điên người (nv: nhất phật xuất thế, nhị phật thăng thiên chỉ sự luân hồi, chết đi sống lại, nghĩa bóng chỉ sự hiếm có), sát khí dâng trào đã giết chết hắn. Nhưng y tự đâm mình một kiếm lại không quá sâu, máu trên người chủ yếu là của Vương Cảnh Long vấy lên.

Có điều nói là vậy, nhưng thấy y sắc mặt tái nhợt, lúc này ngoài áo đẫm máu, trên người vẫn còn mùi máu tanh, hai người con gái sao có thể không sợ? Ngọc Đường Xuân nước mắt lưng tròng thút thít:

- Lão gia, đều do tiểu tỳ không tốt, tiểu tỳ tự ý làm chủ, liên lụy lão gia bị thương. Tiểu tỳ nguyện bị lão gia trách phạt.

Trong lòng Dương Lăng nhớ lại những lời nguyền rủa ác độc nọ của Vương Cảnh Long, nghe xong không khỏi cười gằn một tiếng:

- Tên súc sinh đó, không biết kiểm điểm mình, chỉ biết đổ lỗi cho người khác, như thể cả thiên hạ đều thiếu nợ hắn không bằng, đáng chết!

- Dạ?

Ngọc Đường Xuân tâm tư lanh lợi cỡ nào, nghe xong lời này lập tức kinh ngạc nhìn y, mặt đầy vẻ nghi hoặc. Dương Lăng thoáng chột dạ, tuy nói hai người con gái này sẽ không hại y, bí mật này vĩnh viễn vẫn không nên để lộ thì hơn. Y nhẹ bớt giọng, chuyển hướng:

- Ta có lòng muốn tha cho hắn, hắn lại đâm ta một kiếm, còn không đáng chết sao?

Tuyết Lý Mai hậm hực:

- Lão gia nói đúng đó! Chúng ta lại không mắc nợ họ Vương nhà hắn cái gì, toàn là bọn chúng tìm sơ hở của chúng ta, ỷ cha mình làm quan lâu năm, trong triều nhân sự hùng hậu, hết lần này đến lần khác khinh người quá đáng. Hắn không hiểu đạo lý vua nào thần nấy à? Chết là đáng!

Dương Lăng hơi mỉm cười, cô bé này khá đơn thuần, lại yêu ghét rạch ròi, quả là rất dễ dỗ dành. Ngọc Đường Xuân thấy sắc mặt y đã hòa hoãn trở lại, trong lòng nhẹ nhõm hơn. Dương Lăng quay đầu lại nhìn, không khỏi lại nghiêm mặt trách:

- Cô đừng có mà đắc ý, gây ra tội lớn như vậy, ta không phạt cô, người trong phủ còn không làm loạn hết à? Cho dù cô lầm tưởng là người cha ruột đến cửa cầu xin giúp đỡ, không lẽ chuyện này không nên để ta biết sao?

Chú thích:

tên tự của Lý Đông Dương, ông hiệu là Tây Nhai, Thiệu Văn Chính

chỗ quen biết nhau gọi là "thế", "thế điệt" chỉ hàng con cháu người có qua lại với mình

Thẩm Vạn Tam (1330379), tên thật Thẩm Phú, tự Trọng Vinh, người đời gọi là "Vạn Tam", người huyện Trường Châu, vùng Bình Giang. Theo truyền thuyết dân gian, nguyên nhân Thẩm Vạn Tam làm giàu là nhờ có "tụ bảo bồn" (chậu châu báu), kể rằng Thẩm Thị nhặt được một cái tụ bảo bồn, đem bỏ bất cứ thứ gì vào cũng sẽ hoá thành châu báu.

Ngọc Đường Xuân nghe y trách mắng, chợt thấy xót thương cho cảnh đời của mình, không nhịn được ngân ngấn nước mắt. Nàng được Dương Lăng chuộc thân mua về, định sẵn là tài sản riêng của người ta, cho dù là làm nô tỳ hay tiểu thiếp, đều không thể thay đổi mối quan hệ lệ thuộc này. Cho dù là cha sinh mẹ đẻ cũng không quyết định được chuyện gì của nàng.

Giờ đây nàng giấu lão gia lấy tài sản tích góp được tặng cho cha ruột, Dương Lăng chỉ cần báo quan một tiếng, lôi nàng ra công đường loạn côn đánh chết cũng sẽ không ai thương xót nàng. Tuy nàng đoan chắc Dương Lăng sẽ không làm vậy với nàng, nhưng thấy vẻ mặt Dương Lăng nghiêm khắc như vậy, trong lòng vừa hoảng vừa sợ. Nàng vân vê góc áo cúi đầu không dám nhìn y, chỉ rụt rè lí nhí:

- Tiểu tỳ biết lỗi rồi. Lão gia muốn đánh muốn giết, tiểu tỳ cũng không dám oán thán một lời.

Dương Lăng trông thấy bộ dạng sắp khóc đến nơi của nàng, cũng không nỡ ép quá, y quay đầu đi nói:

- Biết sai thì tốt, về nhà tự mình nhận lấy gia pháp của phu nhân!

Tuyết Lý Mai đời nào chịu tin Dương Lăng nỡ lòng trách phạt bọn họ. Giờ nghe y bảo Ngọc Đường Xuân tìm Ấu Nương nhận gia pháp. Phu nhân là người tốt như thế, đối đãi với bọn họ như tỷ muội, sao lại nỡ lòng trách phạt, lão gia rõ ràng có ý bỏ qua. Nấp sau lưng Dương Lăng, nàng le lưỡi, vòng qua lưng Dương Lăng kéo tay áo Ngọc Đường Xuân, làm mặt quỷ với nàng.

Dương Lăng về nhà dưới sự bảo vệ của thân quân. Hàn Ấu Nương nhận được tin, mặt trắng bệch như tuyết vì căng thẳng. Nàng hoảng hốt nâng tay y, lại không dám tự tháo băng quấn vết thương trên tay y, chỉ sốt ruột giậm chân nói:

- Mau, mau đi mời Văn Tâm tỷ tỷ đến.

Ngọc Đường Xuân thấy bộ dạng phu nhân, vừa sợ vừa xấu hổ, cúi đầu đứng một bên không dám hé miệng lên tiếng.

Mấy ngày nay không biết Cao Văn Tâm đang bận rộn làm gì mà chuyển một chồng lớn sách thuốc vào trong phòng mình, khi không có việc gì làm liền ở trong phòng ghi ghi chép chép. Hàn Ấu Nương thấy nàng có việc bận bịu, bình thường cũng không kêu người quấy rầy nàng. Lúc này Cao Văn Tâm đang ở trong phòng lật xem sách cổ, bỗng dưng bị Tuyết Lý Mai và một tiểu nha hoàn kéo tay lôi vào phòng phu nhân, nàng ngẩn ngơ không biết đã xảy ra chuyện gì.

Người con gái này một khi bắt đầu nghiên cứu tìm tòi tri thức thì cũng hơi lôi thôi luộm thuộm giống như đàn ông vậy. Cao Văn Tâm điềm tĩnh nhã nhặn, hệt như một tiểu thư khuê các, cộng thêm khí chất ung dung, dáng người dong dỏng, vóc người lại thành thục hơn Hàn Ấu Nương và Ngọc Đường Xuân, cho dù ngày thường ăn mặc quần áo thị tỳ, khí chất đó cũng không giống người con gái hầu hạ người khác.

Lúc này nàng bị kéo thẳng từ phòng mình ra ngoài, chỉ mặc độc áo cánh trong nhà, một chiếc quần ống chẽn, tóc mai xõa tung, dáng thiếu nữ thành thục ấy quyến rũ khôn tả. Đặc biệt là vóc người đầy đặn, thân dưới thon dài, mặc chiếc quần vải mềm ôm sát thân, phơi bày đường cong đẹp đẽ của cơ thể, hết sức mê người.

Đây mới là lần đầu Dương Lăng nhìn thấy con gái mặc quần, nhất là trên người nàng lại mặc áo đuôi ngắn. Từ lúc đến thời đại này đến nay, y thấy mặc váy quá nhiều, nên giờ đột ngột nhìn thấy y cảm thấy rất thân thiết. Cao Văn Tâm bị y nhìn chằm chằm, mặt lập tức ửng đỏ, liền vội đến bên y, xem xét vết thương trên người, không dám đón lấy ánh mắt của y.

Tuy rằng loại quần ống chẽn đó là thường phục mặc nhà, song lại được phát triển từ loại quần vải bông, chỉ có thể mặc ở nhà trong, lúc cần đi ra bên ngoài vẫn sẽ mặc váy lụa, sao nàng có thể không ngượng khi bị Dương Lăng nhìn lom lom chứ? Cao Văn Tâm mặt nóng bừng bừng giúp y tháo chiếc khăn băng bó qua quýt trên cánh tay. Xắn tay áo kiểm tra vết thương xong, nàng không khỏi thở phào mỉm cười nói với Hàn Ấu Nương:

- Phu nhân không phải lo lắng! Vết thương của lão gia không sâu, giờ máu cũng đã ngưng chảy, không có gì đáng ngại. Đợi tiểu tỳ lấy ít bạch dược (bột thuốc trắng để rịt lên vết thương) đắp lên là được.

Hàn Ấu Nương nghe xong mới thở phào một hơi, rồi quở trách Dương Lăng:

- Tướng công mang theo nhiều người đi như vậy, sao còn để mình bị thương? Sớm biết vậy Ấu Nương đã đi theo chàng rồi. Vừa rồi thật là dọa chết người ta đi.

Tuyết Lý Mai nhanh nhảu tức tối kể lại chuyện Vương Cảnh Long ý đồ bắt cóc Ngọc Tỷ Nhi, bị tóm xong lại lấy oán trả ơn, mưu toan đâm lão gia, khiến Hàn Ấu Nương nghe xong cũng cực kỳ phẫn nộ. Cao Văn Tâm nghe vậy đảo mắt, ánh mắt nhìn về phía Dương Lăng lại có điểm nghi ngờ, khác lạ.

Chỉ thấy Cao Văn Tâm chần chừ một lát rồi nói:

- Lão gia, vết thương này tuyệt không đáng ngại, có điều... lâu dài sẽ khó tránh để lại vết sẹo khá lớn, để tiểu tỳ thử dùng dao châm được không? Lão gia yên tâm, tiểu tỳ đắp thuốc tê lên, tuyệt sẽ không đau đâu.

Dương Lăng lại không nghĩ vậy, cười nói:

- Việc gì mất công như vậy chứ? Vết thương lại không phải ở trên mặt, có vết thương này... ơ... thôi được.

Đang nói, y ngẩng đầu thì thấy Cao Văn Tâm nháy mắt ra hiệu, trong đó có vài phần là đã biết tỏng, vài phần xảo quyệt. Dương Lăng tuy không phải là tú tài chân chính, song vừa thấy ánh mắt quai quái này, lập tức sực tỉnh: chẳng lẽ vết thương kiếm đâm này là do tự đâm hay người khác đâm, người thời này có thể kiểm tra ra sao? Đúng rồi, góc độ, sức lực đều có khác biệt, nếu là người có nghiên cứu về vết thương, khó tránh khỏi sẽ bị nhìn ra manh mối. Cao Văn Tâm muốn giúp mình xử lý đây.

Hàn Ấu Nương nghe xong lại trở nên lo lắng, vội hỏi:

- Tỷ tỷ, không phải tướng công không có gì đáng ngại sao? Sao... sao còn phải dùng đến dao kéo?

Dương Lăng và Cao Văn Tâm nhìn nhau một cái, ngầm hiểu trong lòng. Duơng Lăng không khỏi cười nói:

- Ấu Nương, nàng vẫn không tin y thuật của nữ thần y sao? Ta có nghe nói, đây mới là y thuật cao minh, vết thương sẽ càng mau lành hơn. Nàng không cần lo, giờ không phải ta có thể đi có thể chạy sao? Ha ha ha...

Dương Lăng mỉm cười đứng dậy, nói:

- Ta đi được rồi, nàng đừng đi theo, tránh phải thấy máu thịt để rồi lại hốt hoảng lo sợ.

Trong mắt Cao Văn Tâm loé lên vẻ triết gia. Thấy y đi trước ra khỏi cửa, nàng mới khẽ mỉm cười, nói với Ấu Nương:

- Đừng lo, chỉ cần thời gian hai chén trà tỷ tỷ cam đoan sẽ trao trả một tướng công nguyên vẹn lại cho muội ngay.

Hàn Ấu Nương đỏ mặt, vờ trách:

- Ấu Nương xem tỷ như chị ruột, giờ tỷ lại bắt chước bọn Tuyết Nhi trêu muội. Rồi sẽ có một ngày... hừm hừm, người ta sẽ không thèm uống trà tỷ dâng đâu.

Cao Văn Tâm liền đỏ bừng mặt, vừa thẹn vừa hoảng, tính mở miệng song lại không dám chối bỏ. Nàng hờn dỗi giậm chân rồi vội vã chạy đi.

Tuy rằng Hàn Ấu Nương thấy cử chỉ của trượng phu mình tự nhiên, và cũng hết sức tin tưởng y thuật của Cao Văn Tâm, song vẫn muốn đi theo giúp đỡ một tay. Nhưng nàng mới vừa đi ra vài bước, Ngọc Đường Xuân đã rụt rè kéo áo khoác ngắn của nàng, tủi thân nói:

- Phu nhân, lão gia bị thương là do tiểu tỳ gây ra, xin phu nhân hãy trách phạt tiểu tỳ.

Hàn Ấu Nương dở khóc dở cười, nói:

- Ai ngờ được Vương Cảnh Long có thể vùng thoát khỏi dây trói mà hành hung làm người bị thương chứ? Muội đừng làm phiền thêm nữa.

Ngọc Đường Xuân quỳ xuống, đau lòng nói:

- Cho dù nói thế nào, chuyện này đều do tiểu tỳ gây ra. Vả lại... vả lại lão gia đã bảo tiểu tỳ tìm phu nhân để nhận lấy gia pháp, tiểu tỳ sao dám không nghe?

Hàn Ấu Nương vội vàng đỡ nàng dậy, lấy làm kỳ lạ nói:

- Nói sao đây nhỉ, nhà chúng ta không có gia pháp gì cả. Gia pháp... ớ... "gia pháp"...

****************

Ngày thứ hai, Hữu thị lang bộ Hình Ngụy Thân trình báo kết quả thẩm tra xử lý vụ án lên Lý Đông Dương, quá trình thẩm tra vụ án diễn ra hết sức thuận lợi, căn bản chưa cần dùng đến cực hình, Vương Bình đã cung khai: được sự căn dặn của lão gia ở lại kinh thành chăm sóc công tử, vì thấy công tử chịu đọa đày nơi lăng tẩm nên gã mới tự ý quyết định thuê người cứu hắn ra, nay trái lại thành hại thiếu chủ nhân mất mạng, chỉ mong được chết.

Những tên trộm cướp kia đều đã sớm có chuẩn bị phòng khi bị bắt, tên nào cũng nói là cuộc sống nghèo khổ, chui nhủi khắp nơi xin miếng cơm manh áo, bị vàng ròng bạc nén của Vương Bình cám dỗ nên mới giúp y trộm xác cứu người, bắt cóc người thân nhà người ta.

Ngụy Thân điều tra một phen, thấy tình huống đúng là như vậy, còn về thân phận đám giặc cướp đó, có thể nói trời nam đất bắc nơi nào cũng có, cho nên lấy được lời khai xong cũng không phái người rong ruổi ngàn dặm xa xôi thu thập chứng cứ mà giao ngay hồ sơ vụ án cho Lý đại học sỹ.

Lý Đông Dương thấy vụ án không liên lụy đến Vương Quỳnh, trong lòng mừng lắm. Đừng nói không thể tra ra được Vương Quỳnh là chủ mưu, cho dù có chỗ hoài nghi, bạn già đã bị cách chức điều tới Kim Lăng, con thơ lại bị chết thảm, ông cũng không thể làm ra chuyện giậu đổ bìm leo nữa.

Thấy phán quyết của Ngụy Thân khá là công bằng, theo luật Đại Minh, bày mưu cướp ngục, kẻ bày mưu thì treo cổ, tòng phạm đi đày ngàn dặm, bày mưu bắt cóc không thành, kẻ chủ mưu bị giam mười năm, tòng phạm phạt đánh trăm gậy, giam một năm. Gộp chung hai tội, phán Vương Bình tội chém ngang lưng, mấy tên giặc cướp phạt một trăm gậy, đi đày ba ngàn dặm, bắt tới trạm trung chuyển Tạp Mộc Khẩu ở Lương Châu làm phu xe, cho vận chuyển quân nhu.

Lý Đông Dương cầm một thẻ tre lên, nâng bút suy nghĩ một chút rồi viết lên đó: "Xét thấy hình phạt công bằng, thiết nghĩ có thể cho phép. Nhưng đại hôn hoàng thượng sắp đến, khắp chốn mừng vui, không nên thấy máu, thiết nghĩ nên treo cổ thủ phạm chính, miễn phạt gậy tòng phạm, đày chúng đi Lương Châu. Thần Lý Đông Dương, đại học sỹ điện Cẩn Thân. Ngày hai mươi bảy tháng sáu".

Viết xong hai hàng chữ khải nhỏ đẹp, trơn tru tròn trịa nhưng vẫn cứng cáp, Lý Đông Dương cầm thẻ tre lên thổi thổi, phết lên một chút hồ, rồi dán nhẹ lên một góc hồ sơ.

Ông nhíu mày ngó tập hồ sơ đó một hồi, đột nhiên lấy một tờ giấy ra, nâng bút viết nhanh hai chữ "Dương Lăng" thật to trên tờ giấy, bên dưới lại viết hai hàng chữ "Thiện Ác Trung Gian" nho nhỏ. Ngắm nghía một lát, ông cầm bút gạch một cái, xoá chữ "Ác" đi, đầu cây bút lông sói lơ lửng dừng trên hai chữ "Trung" và "Gian" một hồi lâu, khó mà hạ bút.

Ông thở dài một tiếng, khẽ gác bút, rồi cất giọng xa xăm:

- Đại trung giống như gian, đại gian giống như trung, bề ngoài gian thực tế lại trung, bề ngoài trung thực tế lại gian. Lão phu cả đời đã thấy nhiều người, nhưng không hiểu sao... vẫn không nhìn thấu được cậu...

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 115: Mỗi người đều có nỗi niềm riêng

Ngày mai chính là ngày hoàng đế nạp một hậu hai phi, phủ họ Dương cũng giăng đèn kết hoa khắp từ trong nhà ra ngoài sân. Bên phải nội viện, hai căn phòng vừa được sơn quét, ngăn cách bởi một gian nhỏ dùng làm nhà kho cất giữ những đồ lặt vặt, chính là phòng tân hôn mà Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai sắp sửa bước vào; phòng được trang hoàng rực rỡ, tràn đầy không khí hoan hỷ.

Khuê phòng của hai nàng tuy không lớn nhưng rất tinh tế. Phòng ngoài của Ngọc Đường Xuân treo đầy những bức thư hoạ, còn của Tuyết Lý Mai lại là cầm, sắt và tỳ bà được đặt ngay ngắn chỉnh tề. Nội thất của hai người đơn giản hơn nhiều, giường thêu hoa lệ, căn phòng đỏ rực, một khóm hoa tươi được cắm trên bàn trang điểm. Một khi đã bước vào phòng, mùi hương dịu êm nức mũi lại thêm mỹ nhân muôn vẻ yêu kiều thực là cảnh sắc tiêu hồn khiến người ta mê đắm.

Giường thêu hoa lệ của hai người được khâu ngay ngắn chỉnh tề, trên giường không nhiễm chút bụi trần, ngay cả bản thân bọn họ cũng không nỡ ngồi lên, dĩ nhiên sẽ không để bọn nha hoàn chạm vào giúp đỡ. Tất cả những thứ này đều do hai cô hao phí nửa ngày trời chuẩn bị.

Làm chuyên sứ cho Thiên tử cần phải xử lý rất nhiều việc, Dương Lăng mới nghỉ ngơi được một ngày thì đã không thể tiếp tục cáo bệnh nữa, đêm nay y sẽ phải chạy vào cung chuẩn bị. May mà vết thương của y không sâu, lại rất mau lành nên không ảnh hưởng đến hoạt động bình thường.

Trong thư phòng, Dương Lăng ghi nhớ cẩn thận một lượt những quy trình cần làm vào ngày mai rồi trở về phòng viện của mình. Hai tiểu nha hoàn đang giăng đèn kết hoa trong sảnh, một người đứng trên ghế, một người đỡ ở bên dưới. Trông thấy lão gia, bọn họ định làm lễ, thấy bọn họ đang bận bịu, Dương Lăng vội khoát tay ngăn lại, tự mình bước vào trong phòng.

Lặng lẽ đi đến cửa phòng, vừa tính mở cửa, y chợt nghe tiếng Hàn Ấu Nương từ trong phòng vọng ra:

- Sao muội càng nghĩ càng cảm thấy không thích hợp đó. Tướng công nạp đồng thời hai nàng thiếp về nhà, như vậy có tốt không?

Lòng Dương Lăng chìm xuống: "Thôi rồi! Ngoài miệng Ấu Nương không nói gì nhưng quả nhiên trong lòng không vui rồi. Tuy nhiên nàng cũng biết kiềm nén vứt bỏ lòng ghen đáng xấu hổ của phụ nữ đi, cho dù Hoàng Đế ban thưởng cho một cặp ma lem thì cũng không thể cự tuyệt đâu à..."

Hai người Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai muôn vẻ yêu kiều, nhìn là muốn yêu, sớm chiều gặp mặt, sao có thể không nảy sinh chút cảm tình nào? Nhưng nếu Hàn Ấu Nương công khai tỏ ý buồn phiền, Dương Lăng thực sẽ không "được voi đòi hai bà Trưng", bởi vì việc đó sẽ khiến nàng không hạnh phúc.

Tuy y có gan vì sự sống chết của Ấu Nương mà kháng lại thánh chỉ, nhưng lại không có dũng khí vì chuyện như vậy mà đắc tội với Hoàng Đế. Nghe thấy câu nói của ái thê, trong lòng thấy bất an, Dương Lăng không dám cất bước vào phòng.

Y lại nghe tiếng Cao Văn Tâm trong phòng khẽ cười nói:

- Rốt cuộc muội muội lo lắng chuyện gì chứ? Chỉ thấy muội ấp a ấp úng nửa ngày trời, tỷ tỷ vẫn chưa hiểu là chuyện gì nè.

Hàn Ấu Nương lắp ba lắp bắp:

- Ai da, sao tỷ tỷ ngốc vậy chứ. Muội muốn nói là... là tướng công một đêm phải động phòng hai lần. Muội sợ chàng... sợ chàng... sợ chàng chịu không nổi thôi...

Cao Văn Tâm không nhịn được cười phì một tiếng, trong phòng vẳng ra những tiếng trêu đùa, sau đó y nghe Cao Văn Tâm cười khúc khích, thở dốc:

- Hoá ra... hoá ra muội đây là thương xót cho tướng công, hi hi, a ha, ha ha!!!

Không nghe được tiếng Ấu Nương nói trong phòng, Dương Lăng chỉ có thể tưởng tượng ra vẻ dẩu miệng yêu kiều của nàng, trong lòng không khỏi ngứa ngáy. Y lại nghe tiếng Cao Văn Tâm rối rít xin lỗi:

- Được rồi! Được rồi! Tỷ nhận lỗi, tỷ xin lỗi! Cáo Mệnh phu nhân của ta, đừng lo lắng! Hai tỷ muội chúng ta sẽ đóng cửa nói chuyện riêng tư một chút.

Tuy là thầy thuốc, nhưng bản thân cũng là thiếu nữ chưa chồng, nói tới mấy chuyện này mặt Cao Văn Tâm cũng nóng ran, nàng ngượng nghịu:

- Muội muội, "buông thả dục vọng tổn hại sức khoẻ" chỉ là lời thầy đồ khuyên răn người ta đừng trầm mê nữ sắc, chứ trong y đạo không có quy tắc như thế. Chỉ cần không dùng thuốc thang tráng dương quá độ gây tổn hại đến thân thể, thì cho dù... cho dù mỗi ngày làm chuyện phòng the một lần cũng không đáng ngại. Nếu ngày thường chú ý điều dưỡng, chuyện này... ngược lại sẽ có ích cho thể xác lẫn tinh thần.

Hàn Ấu Nương ngạc nhiên hỏi:

- Không sao ư? Nhưng mà... nhưng mà chẳng phải nói là "một giọt tinh bằng mười giọt máu", tinh khí cơ thể con người nếu tiêu hao hằng ngày thì sẽ bị khô kiệt, tổn hại sức khoẻ sao? À... muội... muội chỉ là đọc một ít sach thuốc phổ thông ở thôn quê, tỷ tỷ đừng cười muội.

Cao Văn Tâm đáp:

- Tinh khí hoá huyết đều là những lời nói vu vơ, không hề có căn cứ. Ừm... nói thế này vậy, không phải bây giờ mỗi ngày muội đều tập võ buổi sáng hay sao? Chuyện phòng the còn không hao tổn thể lực bằng việc muội luyện võ, làm sao lại quá kỳ bí như thế?

Dương Lăng nghe mà thầm kinh ngạc, y thuật của Cao Văn Tâm quả nhiên cao minh. Y học hiện đại dùng thiết bị hoá nghiệm mới biết cái gọi là "tinh huyết" chỉ là lời nói vô căn cứ, suy đoán chủ quan của người xưa. Không ngờ nàng tuy chưa hẳn đã biết rõ ràng đến như vậy, song cũng đã nói đúng đến tám chín phần.

Hàn Ấu Nương thở ra một hơi, nhẹ nhõm:

- Vậy thì muội yên tâm rồi. Trước đây thân thể tướng công yếu ớt, quanh năm bệnh tật, nằm ẹp trên giường, suýt nữa thì đã... Muội chỉ lo cho sức khỏe chàng, tỷ tỷ tinh thông y đạo, tỷ nói như vậy thì muội yên tâm rồi. Ôi, ngày mai lại phải lo chuyện cưới hỏi. Tướng công luôn muốn có con, nhưng muội lại không cố được, chỉ mong hai muội muội có thể sớm sinh con cho nhà họ Dương.

Cao Văn Tâm nghe xong sắc mặt hơi đổi, nói:

- Muội muội! Nếu như lão gia muốn có con nối dõi, e rằng... e rằng sẽ hơi khó.

Hàn Ấu Nương trong phòng và cả Dương Lăng đang ở ngoài phòng nghe vậy đều cả kinh. Hàn Ấu Nương nắm chặt tay Cao Văn Tâm, căng thẳng hỏi:

- Sao tỷ tỷ lại nói vậy?

Cao Văn Tâm an ủi:

- Muội muội đừng quá lo lắng, muội hãy nghe tỷ nói. Tỷ quan sát khí sắc của lão gia, vốn có vài phần hoài nghi. Gần đây tỷ xem vài cuốn cổ tịch, hôm qua lại bắt mạch cho lão gia, chỉ cảm thấy nội thể lão gia hư tổn nghiêm trọng, vốn còn không biết vì sao, bây giờ mới biết thì ra lão gia từng bị bệnh liệt giường liệt chiếu triền miên nên mới ra cớ sự. Thân thể tráng kiện và nội thể hư tổn là hai chuyện khác nhau, muội đừng thấy bây giờ thân thể lão gia khoẻ mạnh mà lầm, nó không giống nhau. Muốn chữa khỏi cho lão gia, trong dùng thuốc điều trị, ngoài châm thạch phụ trợ. Nếu để tỷ ra tay, ước chừng nửa năm tỷ sẽ có thể chữa khỏi cho đại nhân.

- A!

Vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, Hàn Ấu Nương vội hỏi dồn:

- Tỷ tỷ! Vậy phải chữa trị như thế nào?

Thấy sự việc liên quan đến chính mình, trống ngực Dương Lăng cũng đập dồn dập. Y không có cái suy nghĩ "kế tục hương hoả", "vô hậu vi đại" , nhưng lại rất muốn cùng Ấu Nương mến yêu của mình sinh ra một kết tinh của tình yêu, để nàng có mục tiêu và dũng khí tiếp tục cuộc sống sau khi y qua đời.

Vốn còn tưởng vì Ấu Nương tuổi hãy còn nhỏ, không ngờ lại là chính thân mình mang bệnh ngầm, phỏng chừng một loại bệnh suy thận hư khí do lâu ngày nằm liệt trên giường nào đó. Nhất thời mình mềm lòng cứu giúp Cao tiểu thư, lần này thật đúng là "có lòng tốt ắt gặp báo đáp". Bằng không hai năm sau mình trả mạng về trời, thậm chí con nối dõi cũng không có, cho dù Ấu Nương có dũng khí sống tiếp, nhất định nàng cũng sẽ áy náy cả đời.

Nghe thấy hai người to nhỏ thì thầm, bắt đầu bàn tới những biện pháp chữa trị, y bèn lặng lẽ lùi ra ngoài cửa. Sau một lát, Dương Lăng cất cao giọng nói với cô nữ tỳ bên ngoài:

- Ừ! Được rồi! Không cần phải treo nhiều đèn như vậy đâu, dán thêm chữ HỶ lên cửa sổ là được rồi.

Nghe tiếng Dương Lăng, Ấu Nương vội mở cửa phòng, thấy y ăn mặc chỉnh tề, nàng bèn hỏi:

- Tướng công, chàng muốn đi ra ngoài sao?

Thấy Cao Văn Tâm trốn trong phòng không ra, Dương Lăng bèn cười nói với Ấu Nương:

- Đúng vậy! Sớm mai ta phải đến phủ của Hạ đại nhân, đêm này còn nhiều thứ phải làm, giờ ta phải chạy vào trong cung. Đêm nay nàng cũng nghỉ ngơi sớm một chút đi, sáng sớm mai còn phải chạy vào hoàng cung hộ tống loan giá (xe) của Hoàng Hậu đó.

Hàn Ấu Nương vẫn luôn tưởng mình hiếm muộn, trong lòng thường hay thấp thỏm bất an. Hôm nay tuy trong lòng nhẹ nhõm, nhưng biết được vấn đề là do tướng công, nàng lại sợ y biết rồi sẽ xấu hổ buồn phiền nên cũng không dám kể những lời của Cao Văn Tâm cho y nghe. Nàng tiễn Dương Lăng ra khỏi cổng, thấy tướng công đã cưỡi ngựa đi xa mới lật đật trở vào sân, vội vã chạy đến chỗ Cao Văn Tâm xin lĩnh giáo y thuật.

*****

Chú thích:

tên ba loại đàn, đàn cầm dài ba thước sáu, căng bảy dây; đàn sắt hai mươi lăm dây; đàn tỳ bà bốn dây.

loại thuốc chữa dùng đá để tiêm vào người chữa bệnh.

"không người nối dõi là tội bất hiếu hàng đầu" (theo Mạnh Tử)

hay Yến Thanh quyền là một bộ quyền pháp dựa trên sự biến ảo (Mê nghĩa là biến ảo, Tung nghĩa là dấu vết). Nghĩa bóng chỉ sự tấn công mà không để lại dấu vết.

chỉ việc Hoàng Đế qua đêm cùng các loại phi tần.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 116: Một hậu hai phi

Sáng sớm, công thần công khanh, vương hầu quan tướng đã tập trung vào hoàng cung. Các cung điện chính đã được chuẩn bị bánh pháo, chữ Song Hỷ (囍) đỏ thếp vàng, nến to, thảm đỏ trải dài trên sân rồng (ngự lộ).

Đội Trung Hoà Thiều nhạc được bố trí trước điện Thái Hoà còn bệ đỏ rực của dàn đại nhạc được bố trí bên trong điện Thái Hoà. Đội nghi trượng rước dâu được sắp xếp bên ngoài Ngọ môn, trong đó có một chiếc kiệu lễ hoàng hậu, hai chiếc kiệu lễ hoàng phi. Trong ba chiếc kiệu ấy chỉ có chiếc kiệu của hoàng hậu phủ màn bằng gấm màu vàng đỏ, phía trên dùng kim tuyến thêu phượng hoàng.

Đội "nữ nhạc" được bố trí riêngđằng sau cung Càn Thanh và trước điện Giao Thái. Tại điện Thái Hoà, đám vương công đại thần đủ tư cách góp mặt đang hớn hở đứng trên thềm rồng và trong đình viện. Hồng Lư Quan của bộ Lễ và Dương Lăng với vai trò là Chính và Phó sứ giả đứng ở hàng đầu. Dương Lăng thấy hai bên đều là nữ quyến của quan lại ngoài triều, ai nấy đều vận lễ phục Cáo mệnh, y liếc trộm vài cái, lại không tìm thấy Ấu Nương trong tầm mắt.

Khoảnh khắc sau, hoàng đế Chính Đức giá lâm điện Thái Hoà, văn võ bá quan, công khanh Cáo mệnh lập tức đồng loạt rào rào quỳ xuống thực hiện "ba quỳ chín lạy" chúc mừng hoàng thượng. Trông khí sắc của Chính Đức hôm nay cũng rất tốt, y mỉm cười ngồi lên ngai vàng, bảo văn võ bá quan đứng dậy. Thượng thư bộ Lễ mới nhậm chức Vương Hoa tay ôm sắc vàng, ấn vàng, bước ra chính giữa đại điện cao giọng tuyên đọc lễ sắc phong, ấn phong cho Hoàng Hậu và Hoàng Phi của Hoàng Đế. Hồng Lư Quan và Dương Lăng tiếp nhận Tiết, sắc, ấn xong liền tiến thẳng ra Ngọ môn đi nghênh đón hoàng hậu.

Hôm nay hoàng đế Chính Đức cảm thấy thân dưới vẫn không thật thoải mái, song đã không còn có cảm giác tưng tức nữa. Nghe lời chỉ dẫn của Dương Lăng, lại gạt đi tâm sự con trai, cho nên hôm nay ngồi trên điện nhìn thấy trong cung náo nhiệt như vậy, trong lòng y cũng hết sức hưng phấn.

Chính Đức hoàn toàn không cảm giác được hôm nay y mới là chú rể, ngồi bên trên ngó đám người lúc nhúc mà vui mừng khôn tả. Lão Vương Nhạc với vẻ vui mừng tràn ngập khuôn mặt già nua ngó thấy cũng sắp đến giờ, vội lập cập bước đến trước mặt Chính Đức, khom người thưa:

- Hoàng thượng, đã đến giờ rồi, mời hoàng thượng khởi giá đến cung Càn Thanh chờ Hoàng hậu nương nương yết kiến.

Chính Đức "ờ" một tiếng, mỉm cười đứng dậy. Y vừa định trở về cung Càn Thanh, chợt liếc mắt trông thấy trong đám Cáo mệnh phu nhân ấy có một bóng người quen thuộc. Y đứng trên thềm rồng nên nhìn thấy rõ, không khỏi mừng rỡ chỉ vào đám người kêu lên:

- Ấu... Dương phu nhân, mau gọi Dương phu nhân lên đây gặp trẫm.

Đám phu nhân nọ đều là Cáo mệnh phu nhân nhất phẩm, nhị phẩm, đầu đội đầy châu ngọc, khăn choàng bào rộng, song phẩm hàm càng cao thì màu sắc của những khăn choàng đó càng nhạt. Hàn Ấu Nương và một vị tam phẩm Cáo mệnh phu nhân đứng ở sau cùng, tuổi lại nhỏ nhất, ăn vận lại tươi sáng nhất, cho nên phía trên chỉ cần liếc mắt là thấy ngay.

Hoàng Đế đột nhiên dừng chân chỉ vào đám vợ quan kêu ầm lên, lập tức kinh động văn võ bá quan đang ân cần hỏi han lẫn nhau. Mọi người kinh ngạc nhìn về phía đám nữ quyến đó, cùng thấy một người con gái xinh đẹp vận trang phục Cáo mệnh tam phẩm bước nhanh về phía trước, quỳ dưới bậc thềm, thưa:

- Thần thiếp Dương Hàn Thị tham kiến Hoàng Thượng.

Trong triều, tam phẩm Cáo mệnh trẻ tuổi như vậy có thể đếm được trên đầu ngón tay, còn là họ Dương, lập tức có mấy vị đại nhân đã đoán ra thân phận của nàng. Cho dù những vị quan văn này có thái độ đối với Dương Lăng như thế nào, phần lớn đều có cảm tình đối với người con gái dám xông vào pháp trường cứu chồng này.

Chính Đức cười lớn nói:

- Đứng lên, đứng lên, việc trẫm chính miệng ban hôn, nếu không phải vì thấy phu nhân, suýt nữa đã quên rồi. Vương Nhạc, lập tức sai Ty lễ giám ban chỉ cho phủ Uy Vũ bá, khâm thưởng Ngọc... ớ... tên thì chốc nữa khanh hỏi Dương phu nhân một chút là được. Khâm thưởng hai người con gái này làm vợ của Dương Lăng. Hôm nay ngày đại hôn của trẫm, trẫm cũng cho khanh hưởng lây chút không khí vui, tấn phong cả hai cô làm Thất phẩm Cáo mệnh.

Ban thưởng tước lộc có thể dựa theo công lao, cũng có thể dựa vào thánh quyến, cho dù bên cạnh có người không phục cũng không nói được gì. Nhưng Vương Nhạc nhìn thấy sắc mặt một số đại thần có vẻ không vui, bèn hỏi khẽ:

- Hoàng Thượng, hai người thiếp thất (vợ nhỏ) cũng phong Cáo Mệnh, hình như...

Chính Đức bực bội đáp:

- Không phải là mới phong thất phẩm thôi à? Dương Lăng sắp đảm nhiệm Xưởng đốc Nội tập sự xưởng rồi, khanh nói thiếp thất của y có nên phong thất phẩm Cáo mệnh không?

Chính Đức nói xong phất tay áo ngang nhiên bỏ đi, Vương Nhạc đứng ngây ra đó, há mồm trợn mắt: "Cái gì? Nội tập sự xưởng? Tây xưởng mới mở lại vài ngày mà, sao lại muốn mở thêm... Nội xưởng?". Nhất thời Vương Nhạc cũng cuống lên, không truy cứu tiếp chuyện phong Cáo mệnh cho thiếp thất nữa, vội vã gọi một tên tiểu thái giám tới sai đi hỏi Dương Hàn Thị tên họ của hai người thiếp, còn mình thì đuổi theo Chính Đức.

Lúc nãy hai người nói nhỏ, đa số quan viên bên dưới không nghe thấy, chỉ nghe được Hoàng Đế khâm thưởng vợ nhỏ cho Dương Lăng, còn ban thưởng phong hiệu Cáo mệnh cho hai cô, trong lòng không khỏi vừa đố kỵ vừa hâm mộ. Xem thánh quyến người ta như vậy, mình sao thể so được, thật đúng là quân nịnh thần!

Đám Cáo mệnh phu nhân nhìn thấy Hoàng Đế đi rồi thì lại thở phào một hơi. Cho dù chó mèo nhà họ Dương có được phong quan tấn chức cũng không liên quan đến bọn họ. Lão già ở nhà vốn đã sủng ái đám tiểu hồ ly tinh, nếu một ngày nào đó Hoàng Thượng cao hứng rồi phong thưởng cho toàn bộ bọn chúng, có thân phận Cáo mệnh phu nhân rồi, mình sau này há không phải sẽ càng không trị được chúng ư?

Dương Lăng và Hồng Lư Quan mang sắc vàng, ấn vàng đặt trong "Long đình", hai người cưỡi hai con ngựa cao lớn thắt lụa đỏ hoa đỏ dẫn đội nghi trượng, cổ nhạc, quan viên rước dâu, thái giám, cung nữ và thị vệ ra khỏi Ngọ môn, kết hợp với nghi trượng của Hoàng Hậu, khiêng hàng đống lễ vật, cả đoàn người ngựa với đủ màu sắc sặc sỡ nối dài hàng dặm. Chuyện nhà thiên tử quả nhiên có khí thế khác thường.

Dân chúng kinh sư sớm đã chen chúc đứng chật ních dọc hai bên đường, còn có mấy trăm người dân và trẻ con nối đuôi đi theo. Đội nghi trượng hoành tráng vừa đến trước phủ của Hạ đại nhân, Hạ Nho đã mặt mày rạng rỡ dẫn một đám già trẻ ra ngoài nghênh đón. Hồng Lư Quan xuống ngựa cao giọng tuyên đọc thánh chiếu, sau đó mỉm cười đỡ đương kim quốc trượng dậy. Trước cổng phủ đệ lập tức "tiếng pháo nổ vang giòn khắp phố, cổ nhạc kia inh ỏi khắp trời".

Đám quân tướng lực lưỡng khiêng liễn phượng của Hoàng Hậu, khiêng kiệu lễ và Long đình vào tiền viện, rồi lại do thái giám, cung nữ khiêng đến trước "Tú lâu" (lầu hoa) ở hậu viện. Giám chánh Mạc Đạo Duy của Khâm thiên giám lúi cúi chạy trước đoàn người vung tay múa chân chỉ đạo thái giám đặt kiệu đúng theo hướng may mắn.

Lập tức có thủ lĩnh thái giám dẫn cung nữ bưng lễ phục, khăng choàng và mũ phượng của Hoàng Hậu vào trong hầu hạ Hoàng Hậu thay y phục. Mắt thấy con gái mình đã "vượt long môn", trở thành Hoàng Hậu mẫu nghi thiên hạ, Hạ Nho cười tươi như hoa, nắm tay Hồng Lư Quan và Dương Lăng cảm ơn không ngớt.

Chỉ một lát sau, Hoàng Hậu nương nương đã mặc xong khăn choàng mũ phượng, khoan thai bước theo bốn cung nữ ra khỏi Tú lâu, quỳ gối tiếp nhận sắc vàng, ấn vàng. Hoàng Hậu đầu đội mũ phượng, không dùng vải đỏ trùm đầu, bọn quan viên đi theo ai nấy đều kiễng chân hòng xem mặt mũi vị Hoàng Hậu nương nương này.

Vị hoàng hậu này tuổi trạc mười lăm mười sáu, diện mạo thanh tú đoan trang, rèm châu trên mũ phượng rủ xuống càng làm tăng thêm mấy phần ý vị. Có điều tuy da nàng trắng ngần như ngọc, nhưng trên khuôn mặt hai gò má lại đỏ rực nổi bật, trông hết sức buồn cười. Hạt châu trên mũ rủ xuống hai chòm tóc mai, hàng mi cong vút, thoạt nhìn trông giống như một ma-nơ-canh không có sức sống.

Dương Lăng trông thấy vô cùng thất vọng. Người con gái này tuy nhìn không thấy khuyết điểm, nhưng lại thiếu thứ cá tính thu hút người ta. Nhất là cá khí chất điềm đạm nho nhã ấy, hoàng thượng Chính Đức sẽ thích sao?

Y đâu thể ngờ vị Hoàng Hậu này đã xin không biết bao nhiêu bậc cao nhân chỉ bảo cho cách trang điểm này. Đêm qua vị Hoàng Hậu này lại còn tắm rửa cả đêm, khiến mấy nha đầu nhóm lửa sắp mệt gãy lưng rồi.

Cả cơ thể của hoàng hậu nương nương được dùng bột đậu xanh và phấn thơm xát lên tạo nên lớp mặt nạ, tiếp đó lại dùng mật ong và cánh hoa giã ra thành bột để rửa, cuối cùng bôi một lớp mỡ dê và hương liệu thơm; thoa phấn sáp lên mặt, kẻ chân mày, đánh nền mắt, tô mày đen, quết môi đỏ. Cho dù là cô nàng Hàn Ấu Nương bé bỏng, sau một hồi trang điểm như vầy, thoạt nhìn cũng nhất định sẽ giống búp bê bằng sứ, y có thể nhận ra được hay không cũng thật khó nói.

Dương Lăng không dám nhìn lâu. Chờ Hồng Lư Quan tuyên đọc thánh chỉ xong, y vội vàng trao sắc vàng ngọc vàng, sứ giả rước dâu nghênh đón Hoàng Hậu lên kiệu khởi giá. Đến khi đội ngũ khổng lồ rời Hạ phủ trở về Ngọ môn hoàng cung, qua cổng Thái Hoà thẳng tiến đến cung Càn Thanh, sáu vị Cáo mệnh phu nhân bước lên nghênh đón loan giá của Hoàng Hậu, Dương Lăng mới nhìn thấy Ấu Nương. Chỉ thấy Ấu Nương vận trang phục Cáo mệnh đỏ thẫm thêu công vàng, dịu dàng đoan trang, cực kỳ xinh đẹp, khiến Dương Lăng vừa thấy mắt liền sáng rỡ.

Trông thấy ánh mắt thưởng thức của tướng công, lòng Hàn Ấu Nương vui phơi phới, nàng thực đã không làm mất mặt tướng công. Lần này vào cung nàng được Cao Văn Tâm, Ngọc Nhi và Tuyết Nhi tận tình giúp đỡ trang điểm. Nàng vểnh môi mỉm cười, đang định đưa mắt với tướng công, chợt thấy các bà cô Cáo mệnh già ai nấy trang nghiêm cặp mắt nhìn thẳng, mặt mày nghiêm túc, không khỏi trộm le lưỡi, vội bắt chước ưỡn ngực, bước kiểu "nhất bộ tam diêu" đi theo sau phượng liễn về cung Khôn Ninh. Trông thấy vậy, Dương Lăng bật cười phì.

Lúc này đại lễ mới chính thức bắt đầu. Dương Lăng và một đám quan viên của bộ Lễ và phủ Nội vụ lẽo đẽo theo sau hoàng thượng đến cung Khôn Ninh bái đường thành thân, đến Thái miếu bái tế liệt tổ liệt tông, đến tẩm cung của Thái hoàng thái hậu và Hoàng thái hậu yết kiến hai vị trưởng bối, rồi lại đến Ngọ môn tiếp kiến hai vị Hoàng phi. Bận rộn từ lúc canh tư đến lúc mặt trời đã lên cao ba con sào, lưng y đã mệt mỏi rã rời.

Chính Đức cũng đã mệt đến sắp phát điên. Niềm cao hứng hăng hái khi mới bắt đầu lễ cưới đã hoàn toàn mất sạch. Nhìn ba "bà vợ" không có chút sinh khí, trông như những con búp bê bằng sứ, Chính Đức lại càng không còn chút hứng thú. Dề dà mãi mới đến tiết mục Hoàng Hậu dẫn hai vị Hoàng phi làm lễ bái kiến phu quân trong cung Càn Thanh, Chính Đức vội vội vàng vàng tuyên bố kết thúc lễ đại hôn, bảo Hoàng Hậu, Hoàng phi đi đến hậu cung ra mắt dòng họ hoàng thất, còn mình thì ba chân bốn cẳng chạy đến điện Thái Hoà, thưởng tiệc khoản đãi văn võ bá quan và công thần công khanh đến chúc mừng.

Dương Lăng đã đói đến hoa mắt, nhưng mà bá quan đã ngồi vào chỗ, vị quan chủ trì là y còn phải đứng ở góc điện bận rộn chỉ huy mời ngồi, dâng đồ ăn lên. Dương Lăng thật sự đã không chịu nổi nữa, trong lúc bận rộn y chạy đến trước một cái bàn, chụp lấy một cái bánh hỷ xếp hình hoa văn gì đó mà y không hiểu ý nghĩa, quấn mấy miếng thịt rồi trở về đứng ở góc điện len lén ăn.

Dương Lăng vừa ăn lót bụng vừa quan sát chung quanh, đột nhiên nhìn thấy ở một góc khác của đại điện đặt mỗi một bàn rượu, ngồi trước bàn là vị Trương thiên sư trẻ tuổi, chếch bên chỉ có vị tiểu đạo đồng xinh xắn ngồi cùng. Tiểu đạo đồng ngồi ở đó vừa vặn đối diện với y, đang nhìn y ăn vụng đồ ăn một cách thú vị.

Quai hàm Dương Lăng đang nhai lên nhai xuống, bộ dạng đó quả thật có chút xấu hổ, y không khỏi hơi lúng túng bèn trừng mắt với tiểu đạo đồng. Tiểu đạo đồng đó lại không hề sợ hãi, hai hàng lông mày xinh xắn nhướng lên, trừng lại khiêu khích, sau đó gắp đồ ăn cho vào miệng với vẻ đắc ý.

Dương Lăng thấy vẻ trẻ con của gã thì không khỏi khẽ bật cười. Y quay đầu không để ý đến tiểu đạo đồng đó nữa, nhân lúc người khác không để ý lại vội vã cắn một miếng thịt.

Trong lúc vô tình Trương Phù Bảo bắt gặp y đang đứng ở góc đối diện, mặc dù đã bị huynh trưởng khiển trách nên không dám phô trương đạo thuật lung tung để tránh rước hoạ vào thân, nhưng nàng vẫn cảm thấy rất hứng thú với gã tướng quân tướng mạo cổ quái, dường như đã đoạt xá (mượn xác hoan hồn) này. Lúc nãy trông thấy y cười cợt, Trương Phù Bảo cho rằng y không thèm để ý đến mình, thế là không khỏi tức tối nên trừng mắt lại với y.

Lúc đó Thành quốc công cũng cười khà khà bước tới, kêu cháu ngoại cùng mình đi kính rượu Hoàng Thượng. Trương Phù Bảo cũng đứng dậy, đi theo anh về phía nhà vua. Thành quốc công đang trò chuyện cùng Chính Đức, một cung nữ áo xanh bỗng vội vã bước vào điện, chạy đến quỳ xuống trước ngự án.

Trong đại điện đang có Hoàng Thượng, tuy rằng rất đông văn võ bá quan đang tụ tập song bọn họ ăn uống lại hết sức nho nhã. Đột nhiên có một cung nữ chạy thẳng đến trước mặt vua, dưới điện lập tức tĩnh lặng, không ít người nhìn về phía Hoàng Đế.

Chỉ thấy cung nữ đó nói mấy câu gì đó, hoàng đế Chính Đức thoáng chau mày, đặt đũa xuống vẫy tay gọi Dương Lăng lại. Dương Lăng không biết có chuyện gì liền vội đi qua. đi tới nơi, Chính Đức lại không nói chuyện với y mà vẫn quay đầu tiếp tục mỉm cười trò chuyện với Trương thiên sư, nghe nội dung thì vừa là về tiên vừa là về phật, Dương Lăng đành phải đứng chờ ở một bên.

Trương Phù Bảo thấy y đứng bên cạnh mình, không khỏi nhướng mắt nhìn, nói nhỏ:

- Đường đường là đại tướng quân mà lại ăn vụng đồ ăn, thật không biết xấu hổ.

Giọng gã giòn tan, nhưng ở độ tuổi này giọng nói còn trẻ con nên việc khó đoán được là giọng nam hay giọng nữ cũng rất bình thường. Dương Lăng cũng chẳng để ý, mỉm cười đáp:

- Bản quan là người trần mắt thịt, thực không thể so với tiểu thần tiên ăn sương uống gió, không đụng đến thực phẩm nhân gian.

Trương Phù Bảo nghe xong mặt liền ửng đỏ. "Tiểu thần tiên" nàng nào chỉ đụng đến thực phẩm nhân gian, thịt đã ăn rồi, rượu cũng đã uống, cái tên đáng ghét này chẳng phải là đang châm biếm mình sao? Nàng nhếch môi, chế giễu lại:

- Ngươi làm đại tướng quân thật là đáng thương, không như tiểu đạo đồng ta đây tiêu diêu tự tại. Cẩn thận đừng để Hoàng Đế bắt gặp ngươi ăn vụng mà đánh đòn ngươi đó.

Dương Lăng hừ một tiếng rồi nói:

- Nhóc kia, ngươi cứ đi nói xằng nói xiên với Hoàng Thượng xem, để xem Hoàng Đế sẽ tin ta hay là tin ngươi. Tám chín phần kẻ bị đánh đòn sẽ là ngươi đấy.

Trương Phù Bảo nhướng đôi mày xinh đẹp, bực bội đáp:

- Ngươi chỉ mới hơn ta có mấy tuổi, không được gọi ta là nhóc.

Dương Lăng thấy Thành quốc công và Hoàng Thượng đã nói chuyện xong, đang muốn kéo Trương thiên sư rời khỏi, mà tiểu đạo đồng này nói chuyện lại rất thú vị nên không khỏi nổi lòng trêu chọc, y vội cười nói:

- Ngươi theo Trương thiên sư đi khắp thiên hạ, hẳn phải có chút đạo hạnh chứ? Bây giờ ta muốn tặng ngươi một món lễ vật, ngươi đoán thử xem là cái gì?

Trương Phù Bảo ngạc nhiên hỏi:

- Cái... cái gì? Ngươi muốn tặng lễ vật cho ta?

Dương Lăng đưa tay ra bảo:

- Cho ngươi, cầm lấy.

Có ống tay áo rộng thùng của y che đi, người khác mà nhìn vào cũng chỉ thấy tay áo nhô lên một chút, cũng không thấy được thứ mà y đưa ra. Trương Phù Bảo rất đỗi tò mò, không tự chủ được đưa tay ra, vừa chạm với ngón tay dưới ống tay áo của y, liền cảm thấy tay mình bị nhét một vật mềm mềm vào. Dương Lăng mỉm cười bước tới một bước, nghênh đón hoàng thượng Chính Đức, khom người hỏi:

- Không biết Hoàng Thượng có gì căn dặn?

Hoàng đế Chính Đức nói vẻ bất lực:

- Trẫm cũng không biết hoàng muội lại gây ra chuyện gì, nghe nói là muốn giúp công chúa Ninh Thanh bắt trộm, nói là lần trước ngươi làm việc cẩn trọng, muốn nhờ trẫm mời ngươi. Ài... tính tình của hoàng muội trẫm cũng chịu không xiết, đành phiền ngươi chạy đến đó một chuyến vậy.

Dương Lăng nghe nói đến bắt trộm, chợt nhớ đến ý tưởng mà mình đã đề xuất với Vĩnh Phúc và Vĩnh Thuần, trong lòng không khỏi thầm nhủ: "Chẳng lẽ bọn họ chọn ngày hôm nay để hành động? Hai nhóc bịp bợm này thật khéo chọn thời điểm, đại hôn của Hoàng Thượng mà bọn họ còn làm loạn thêm à!"

Chú thích:

Theo ghi chép, đế vương các triều đại Trung Hoa có đội ca múa cúng tế, gọi là Trung Hoà Thiều nhạc. Nhạc Thiều hay còn gọi là "nhạc Thuấn" chỉ chung các loại cổ nhạc.

Chỉ nô lệ ca múa

"đình" ở đây không phải là đình trạm mà là một loại kiệu, hình vuông, chung quanh để trống (hoặc có màn che thì màn cũng vén rộng), trên đỉnh có chóp nhọn.

Có hai cách giải thích: một là do tục bó chân thời xưa, phụ nữ đi đứng khó khăn, bước một bước thì đong đưa vài ba lần mới bước tiếp; cách giải thích khác là nghĩa bóng chỉ tướng đi thong dong nhàn nhã

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 117: Đến hậu cung bắt trộm

Dương Lăng không dám chậm trễ, vội đáp:

- Dạ! Thần lập tức đi ngay.

Nói đoạn y vái một lễ rồi vội vã bước ra khỏi điện. Mã Vĩnh Thành đứng sau lưng hoàng đế Chính Đức, cặp mắt ti hí đảo tới đảo lui nhìn y đi khỏi, thần sắc lộ vẻ lo lắng.

Mắt thấy bóng Dương Lăng đã khuất ngoài cung, Mã Vĩnh Thành không nhịn được, vội vàng thưa với Chính Đức:

- Hoàng Thượng! Nô tài quản việc mua sắm của phủ Nội vụ, nếu như trong nội cung có nô tỳ ăn cắp vặt, mất mát thứ gì nô tài chỉ cần liếc mắt là sẽ nhận ra ngay! Chi bằng nô tài cũng đi xem một chút nhé.

Chính Đức "ừm" một tiếng, cũng không mấy an tâm đến chuyện đó chỉ khoát tay cho phép, Mã Vĩnh Thành lật đật chạy ra. Đứng sau lưng Chính Đức, Cốc Đại Dụng trông thấy bộ dạng lo sợ của lão ta, khoé miệng không khỏi hiện lên một nụ cười nhàn nhạt.

Có ai mà không thèm nhỏ dãi cái chức tổng quản mua sắm phủ Nội vụ béo chảy mỡ này chứ? Khi ấy Cốc Đại Dụng cũng rất thèm thuồng cái vị trí này, có điều Mã Vĩnh Thành vốn đã giữ chức mua sắm cho phủ Nội vụ nên mới "gần chùa được ăn oản", nhanh chân đến trước mà thôi.

Từ khi nắm giữ được cái chức vụ này, lão ta dần trở nên rất thân thiết với xưởng công(*) Miêu Quỳ của Tây xưởng. Một khi đã leo lên đến cành cao này thì lão cũng không còn quá để mắt đến mấy người như Cốc Đại Dụng. Ngoài miệng tuy không nói, nhưng trong lòng Cốc Đại Dụng đã không vui, biết chuyện hôm nay có liên quan tới Mã Vĩnh Thành, lão không khỏi có chút hả hê.

(*: xin nhắc lại xưởng công là thủ lĩnh của xưởng, như Đông xưởng, Tây xưởng,...)

Trương Phù Bảo không biết Dương Lăng đưa cho nàng thứ gì, bóp nhẹ cảm thấy là lạ, nàng vội vã trở về chỗ ngồi, tò mò giơ lên xem. Ống tay áo vừa tuột xuống, không ngờ vật đang cầm trong tay lại là một chiếc bánh nướng quấn thịt lớn, trên đó hình như còn có dấu răng, Trương Phù Bảo không khỏi khóc dở mếu dở.

Trương thiên sư thấy vậy bèn chau mày, ra vẻ đàn anh trách em gái:

- Muội bao nhiêu tuổi rồi? Là quỷ đói đầu thai hử? Một đại cô nương đi gặp Hoàng Thượng còn không nỡ bỏ bánh xuống! Mặt mũi của Long Hổ sơn bị muội làm mất sạch hết rồi!

- Muội... muội...,

Trương Phù Bảo giận đến phùng mang trợn má, song lại không thể thốt được ra lời.

Vừa theo cung nữ nọ ra khỏi cung, Dương Lăng đã thấy công chúa Vĩnh Phúc dẫn theo một thị nữ nhỏ tuổi đang duyên dáng đứng dưới cột hè. Trông thấy Dương Lăng đi ra, nàng không khỏi mừng rỡ bước đến đón. Vừa bước được mấy bước, sực nhớ tới thân phận của mình, nàng lại lúng túng dừng bước, nhưng vẻ lo lắng hiện giữa đôi hàng chân mày lại không hề suy giảm.

Hôm nay là đại hôn của Hoàng Thượng, công chúa Vĩnh Phúc cũng đã thay đổi y phục. Nàng vận cung trang thêu màu, áo choàng đỏ, ống tay lớn thêu hoa mẫu đơn diễm lệ, cạp váy nhẹ nhàng đong đưa mang theo mấy phần thong thả và quý phái, cả người cũng toát lên sắc nước hương trời tựa đoá mẫu đơn. Dương Lăng vội vàng bước lên làm lễ:

- Vi thần ra mắt trưởng công chúa điện hạ. Nhưng mà hậu cung... hậu cung...

Công chúa Vĩnh Phúc khoát tay, bảo hai thị nữ tùy tùng:

- Các ngươi đi trước! Dương tướng quân, chúng ta vừa đi vừa nói chuyện.

Khi hai tiểu cung nữ kia đã cách một đoạn, khuôn mặt công chúa Vĩnh Phúc lập tức hiện đầy vẻ hốt hoảng:

- Dương tướng quân! Bản công chúa không có ai có thể thương lượng, đành phải cố nhờ tới tướng quân. Bây giờ hoàng tộc chí thân trong hậu cung đều biết chuyện xấu này hết rồi, tướng quân nói phải làm sao đây?

Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:

- Đã xảy ra chuyện xấu... chuyện lớn gì vậy?

Y thầm nhủ: "Lẽ nào chuyện trộm cắp trong hậu cung gì đó đều là gạt Hoàng Thượng sao? Nàng ấy có chuyện xấu gì chứ? Tiểu cô nương đoan trang tú lệ như vầy, chắc không phải đã vụng trộm gì chứ?" Thoáng quan sát khuôn mặt thơ ngây thành thật của công chúa Vĩnh Phúc, Dương Lăng lập tức xua tan cái ý nghĩ xấu xa đó.

Công chúa Vĩnh Phúc giậm chân nói:

- Hoàng tẩu dẫn hai vị Hoàng Phi bái phỏng hậu cung, các vị công chúa đã xuất giá cũng đến cung Từ Ninh để chúc mừng. Hoàng cô Ninh Thanh đem cặp xuyến "bàn long" (*) bằng ngọc bích mà tiên hoàng thưởng cho cô tặng lại cho hoàng hậu nương nương.

(*: vòng đeo tay hình rồng cuộn khúc làm bằng ngọc bích)

Dương Lăng ngớ người chen miệng hỏi:

- Sao chứ? Chẳng lẽ không được phép tặng lại vật do tiên hoàng ban thưởng ư?

Công chúa Vĩnh Phúc trợn mắt lên, bực tức đáp:

- Nếu không được phép tặng lại, hoàng cô sao dám vượt qua phép tắc? Nhưng mà... nhưng mà cặp xuyến bàn long đó là giả, công chúa Phụng An là người rất rành về châu báu, nên đã nhận ra được thật giả. Cô ta xưa nay vẫn luôn bất hoà với Ninh Thanh cô cô, thế là nói thẳng trước mặt mọi người, hại Ninh Thanh cô cô đòi sống đòi chết. Ngươi nói giờ phải làm thế nào đây?

Dương Lăng ngượng ngùng nói:

- Nếu công chúa Ninh Thanh đã tiếc không muốn đem tặng người khác thì cũng không nên dùng đồ giả để gạt người mà, để giờ bị người ta nhìn thấu. Dù sao thì cũng đã mất mặt rồi, có gì to tát đâu chứ?

Công chúa Vĩnh Phúc giậm chân, giải thích:

- Cô cô bị mất thể diện rồi, còn mặt mũi đâu để sống nữa chứ? Thái hoàng thái hậu cũng không dễ tha thứ cho cô cô đâu. Nhưng không phải cô cô cố ý lừa gạt Hoàng Hậu, sự thật là vì đồ thật đã bị hoàng muội Tú Đình đánh tráo rồi.

Nếu không phải vì Vĩnh Phúc nóng lòng buột miệng thốt ra, e rằng cả đời Dương Lăng cũng sẽ không biết được quý tính của công chúa Vĩnh Thuần. Lúc này nghe nói cô nàng đó lại trộm châu báu của công chúa Ninh Thanh, y không khỏi giật mình hỏi lại:

- Đánh tráo? A! Có phải vì lời thần nói ngày trước...

Công chúa Vĩnh Phúc liếc nhìn y rồi đáp:

- Đúng vậy! Nữ quan quản lý phủ của cô cô không coi ai ra gì, nhưng trên dưới cả phủ đều đã bị mụ ta mua chuộc, tất cả đều giúp mụ ấy nói gạt Thái hoàng thái hậu. Hoàng muội nghĩ... nếu đã muốn vu oan cho mụ ấy, thì cần tìm một cái cớ đủ để trục xuất mụ ta đi, nên... nên đã lén tráo xuyến ngọc của cô cô. Ai ngờ Hoàng cô lại đem tặng xuyến ngọc cho Hoàng Hậu chứ!

Dương Lăng nghe xong cũng vừa giận vừa lo, nói:

- Công chúa Vĩnh Thuần sao lại... sao lại làm bừa như vậy chứ! Nhét đại thứ nào đáng giá một chút cũng được rồi, làm sao mà bảo vật giá trị liên thành cũng trộm làm tang vật kia chứ.

Công chúa Vĩnh Phúc đáp bằng giọng ai oán:

- Đâu có dễ như vậy! Đám phụ nữ chúng ta tuy là dòng dõi hoàng tộc nhưng có khi còn không bằng một con hầu. Nữ quan đó đã hầu hạ Thái hoàng thái hậu gần ba mươi năm, được sủng ái hơn cả Ninh Thanh cô cô.

Cho dù mụ ấy có trộm bảo bối mà tiên hoàng ban thưởng đi chăng nữa, cũng cùng lắm bị đánh đòn một trận, giáng xuống làm người hầu cục Trữ y, tướng quân nói đồ vật bình thường sẽ trị được mụ ấy sao? Cô cô không biết chân tướng nên cứ khóc lóc đòi sống đòi chết, cho rằng trong phủ có người đã trộm bảo vật của người, nhờ Thái hoàng thái hậu tra soát kỹ phủ công chúa để trả lại sự thanh bạch cho người.

Dương Lăng suy nghĩ một hồi rồi đề nghị:

- Nếu đã như vậy, thay vì chờ Thái hoàng thái hậu nổi giận, chi bằng tiên phát chế nhân! Không phải lúc ban đầu công chúa đã muốn trị mụ nô tài gian xảo đấy ư? Tuy là hơi chệch so với kế hoạch, nhưng bây giờ cũng đành phải thuận gió bẻ măng vậy.

Công chú Vĩnh Phúc ngượng ngùng đáp:

- Nhưng mà... nhưng mà chúng ta vẫn chưa có cơ hội bỏ cặp xuyến ngọc ấy vào phòng nữ quản gia, cho dù đi lục soát cũng sẽ không tra ra gì đâu.

Dương Lăng vội hỏi:

- Vậy cặp xuyến đó đang ở đâu? Xin hay mau đưa cho thần.

Gương mặt xinh xắn của công chúa Vĩnh Phúc thoáng ửng đỏ, xấu hổ đáp:

- Ở... ở trên người ta.

Không tiện thò tay vào ngực áo lấy đồ trước mặt nam nhân, nhìn thấy ở phía trước có một hòn giả sơn, công chúa Vĩnh Phúc vội chạy đến mấy bước, trốn sau cây tử đằng của hòn giả sơn, vội vã rút cặp xuyến ngọc ra.

Cặp xuyến ngọc này là bảo vật giá trị liên thành, vì sợ làm hỏng nên công chúa Vĩnh Phúc đã dùng khăn gấm bọc lại rồi giấu kỹ trong người. Nàng lấy chiếc bọc nhỏ ra đưa cho Dương Lăng, Dương Lăng không thèm liếc lấy một cái cất luôn vào trong ngực.

Công chúa Vĩnh Phúc há hốc miệng, rồi cắn môi không nói gì. Chiếc khăn gấm đó là vật tuỳ thân của nàng, trên đó còn thêu quý tính của nàng, sao có thể dễ dàng để người khác cất mang đi cho được. Nàng đang chần chừ không biết phải mở miệng đòi lại thế nào, từ xa giọng của Mã Vĩnh Thành đã gọi vọng lại:

- Dương đại nhân! Dương đại nhân, chờ ta với...

Vừa nghe, công chúa Vĩnh Phúc bèn bỏ ý định đòi lại chiếc khăn, vội vàng nhắc nhở:

- Dương tướng quân hãy cẩn thận với tên Mã Vĩnh Thành đó. Lão nắm giữ phủ Nội vụ, cùng nữ quan đó có quan hệ không tầm thường đâu. Ta... ta đi trước đây...

Dương Lăng dừng bước, thấy Mã Vĩnh Thành tay vén áo bào đang thở hổn hển đuổi tới. Nhìn thấy Dương Lăng từ xa, Mã Vĩnh Thành không khỏi thở phào, vội đuổi theo cười nói:

- Dương đại nhân! Hoàng Thượng sai ta đi cùng đại nhân điều tra rõ ràng đây.

Vừa mới nghe công chúa Vĩnh Phúc nhắc nhở nên Dương Lăng thản nhiên cười đáp:

- Tốt lắm! Có công công ra mặt thì sẽ danh chính ngôn thuận rồi, bằng không bản quan cứ can dự mãi vào chuyện trong hậu cung, thật cũng không thích hợp lắm.

Mã Vĩnh Thành liền hớn hở mỉm cười:

- Xưa nay trong hậu cung nếu xảy ra vụ án gì không tiện để nương nương ra mặt thì đều sẽ do phủ Nội vụ và hoàng thân quốc thích ra mặt tra vấn. Dương đại nhân được giao chuyện này là đã được sự sủng tin vô bờ của Hoàng Thượng đấy.

Lão nhướng mày liếc Dương Lăng, thấy y không hề có vẻ bối rối, áy náy, nhất thời đoán không ra tâm tư của y, đành phải nói bóng nói gió:

- Có thể Dương đại nhân chưa biết, thật ra trong cung này, điện to nhiều của, thỉnh thoảng bị mất vài thứ là chuyện hết sức bình thường. Mọi người cũng cứ mắt nhắm mắt mở mà thôi.

Phải nói quản gia phủ đệ của công chúa Ninh Thanh ấy, ta cũng quý mến lắm. Cô ta hết sức để tâm dạy dỗ nô tỳ cả phủ, theo lý không thể có kẻ nào dám phạm quy củ. Ài! Làm nô tài không dễ đâu, thỉnh thoảng sẽ phải chịu oan ức vì người. Dương đại nhân, chúng ta nên đồng cảm với bọn họ.

Vị nữ quan đó ngoài thì thân thiện, trong lại chua ngoa, Dương Lăng rất ghét mụ ấy. Nghe Mã Vĩnh Thành nói vậy, trong lòng y càng thêm xác định. Xem ra, e rằng vị nữ quan đó đã thật sự trộm không ít đồ, có điều vẫn chưa dám chạm đến những thứ quốc bảo được ghi trong sổ sách mà thôi. Nếu chuyến này có thể lục soát tìm đồ vật của công chúa trong phòng mụ, thừa lúc hỗn loạn bỏ cặp xuyến này vào, có thật có giả, ai lại hoài nghi là có người vu oan chứ?

Đã quyết định trong lòng, Dương Lăng mỉm cười đáp:

- Bản quan phụng chỉ hành sự, nào dám tuỳ tiện vu oan người tốt! Chúng ta cứ tra xét một chút cho lấy có, chỉ cần có thể ứng phó công việc, không để Hoàng Thượng trách hỏi là được rồi. Xin công công cứ việc yên tâm!

Mã Vĩnh Thành nghe xong cảm thấy yên lòng. Theo suy đoán của lão, bất luận thế nào, lão là tổng quản mua sắm phủ nội vụ, cũng là tâm phúc hầu hạ bên cạnh Hoàng Thượng, sẽ mang lại nhiều trợ giúp trên con đường làm quan cho Dương Lăng hơn là một cô công chúa đã xuất giá. Dương Lăng không thể không lấy lòng lão.

Trong cung Từ Ninh, công chúa Ninh Thanh đang quỳ dưới đất, khuôn mặt đẫm lệ, không chịu đứng dậy. Nàng có lòng muốn đem tặng bảo vật yêu thích của mình cho tân Hoàng Hậu, nào ngờ lại xảy ra chuyện xấu hổ đến như vậy, còn gì là thể diện. Thường ngày nàng nhiều lần bị nữ quan nọ hoạnh hoẹ, bây giờ lại bị người ta tráo đồ, nàng lập tức nghĩ đến khả năng đã bị nữ quan đó lấy trộm, do đó khăng khăng yêu cầu Thái hoàng thái hậu tra xét kỹ phủ công chúa, trả lại sự thanh bạch cho nàng.

Đồ dâng tặng cho Hoàng Hậu lại là hàng "tây bối"(*), nay bị nhiều hoàng tộc chí thân bóc trần như vậy, Thái hoàng thái hậu cũng giận tím mặt. Nghe kẻ hầu cận báo lại Hoàng Thượng đã phái tổng quản mua sắm của phủ Nội vụ và thống lĩnh thị vệ thân quân đến điều tra vụ án này, Thái hoàng thái hậu không khỏi thở ra một hơi.

(*: "tây bối" viết là 西贝, ghép lại thành chữ "cổ" 贾, cũng đọc như chữ "giả" 假, nên "hàng tây bối" nghĩa là hàng nhái, hàng giả)

Trong phòng vị nữ quan đó có không ít món vật dụng đáng giá lấy từ phủ công chúa, song cặp xuyến ngọc đó đích thực mụ không dám đụng đến. Còn cho rằng đám thị nữ dưới trướng có kẻ lớn mật dám giấu mụ trộm xuyến ngọc, mụ đang nổi ác tâm định bụng sau khi trở về sẽ dùng nghiêm hình, lôi hết mấy nha đầu trong nhà tra khảo một lượt. Nay lại nghe Hoàng Thượng phái người đến tra xét kỹ, nếu lục ra được đồ ăn trộm trong phòng mình, há chẳng sẽ "cổng thành bị cháy một khi, ao cá bỗng bị vạ lây bất ngờ" sao? Thế là lập tức mụ sợ đến nỗi mặt mũi trắng bệch.

Vốn Thái hoàng thái hậu hoàn toàn không tin thị nữ tâm phúc hậu hạ mình nhiều năm lại có thể là ác nô phạm thượng dối chủ, trộm cắp bảo vật trong phủ, nhưng thấy bộ dạng chột dạ của mụ ta, bà lại không khỏi nổi lòng nghi ngờ.

Mới vừa tiến cung thì đã nhận phải lễ vật giả, trong lòng vị tân Hoàng Hậu cũng rất ngượng, chỉ mong người do Hoàng Thượng phái đến sẽ điều tra được đích thực đã có người trộm bảo vật. Vì dẫu sao trộm đồ còn dễ nói, nếu như quả thực Hoàng cô dùng đồ giả gạt nàng, nàng sẽ bị mất hết mặt mũi.

Trong cung Từ Ninh nhất thời yên tĩnh lại, ai nấy đều mang tâm tư riêng trong lòng, đợi phủ Thập Vương đưa tin tức đến.

Dương Lăng và Mã Vĩnh Thành đến phủ đệ công chúa Ninh Thanh, đuổi sạch thị tỳ thái giám trong phủ ra sân, rồi vào từng phòng tiến hành tra khám. Trong phòng của cung nữ và thái giám bình thường thật sự không có mấy thứ đáng giá, nhưng trong phòng của nữ quan đó lại có rất nhiều món đồ tốt. Dương Lăng không biết cái nào là của nữ quan đó cái nào của công chúa, thế là bèn lôi hết những thứ nào trông đáng tiền ra rồi bày lên đầy bàn.

Mã Vĩnh Thành thấy y lôi tất tần tật mọi trang sức và đồ dùng có giá trị đang được giấu kỹ trong phòng ra, mặt không khỏi càng lúc càng dài, rốt cuộc không nhịn được tức giận, giọng u ám:

- Dương đại nhân! Phòng của nữ quan này không hề có xuyến ngọc, lôi ra mấy thứ linh tinh này để làm gì? Hoàng Thượng bảo chúng ta tìm xuyến ngọc, hay là chúng ta đừng cố bày vẽ thêm chuyện nữa?

Dương Lăng liếc y một cái, rồi mỉm cười nói:

- Nếu đã thấy đáng ngờ thì nên tra hỏi một chút, bằng không làm việc qua loa đối phó, ngộ nhỡ Hoàng Thượng hỏi tới, chúng ta sẽ đối đáp ra sao? Ồ... đúng rồi, cũng chỉ trong phòng nữ quan lục ra nhiều thứ như vầy, bản quan lại không phân biệt được. Công công xem có nên bảo đám thái giám và cung nữ vào nhìn qua thử không, xem thử mấy thứ này có phải là đồ vật của công chúa hay không?

Nghe vậy Mã Vĩnh Thành mừng thầm trong bụng, vừa nãy còn lo Dương Lăng không chịu làm theo lẽ riêng, thì ra là y quá cẩn thận. Y muốn lấy lòng mình, lại sợ phải gánh vác trách nhiệm. Nếu bây giờ mọi người trong phủ công chúa đều khai nhận những thứ này là vật phẩm cá nhân của nữ quan, y lại không phân biệt được, vậy sau này cho dù có sai sót gì, cũng sẽ hoàn toàn không can hệ gì đến y.

Nghĩ đến đây, Mã Vĩnh Thành không khỏi nhoẻn miệng cười đáp:

- Phải phải phải! Đúng là nên gọi người đến hỏi một chút, Dương đại nhân cứ việc yên tâm.

Đáp rồi, lão vui vẻ bước nhanh ra ngoài cửa gọi thái giám quản sự tới thấp giọng căn dặn một hồi.

Bởi lão là tổng quản mua sắm cho hậu cung, toàn bộ tiểu tổng quản, tiểu thái giám của hai mươi tư cục trong Lục cung đều sống nhờ vào lão, đương nhiên chỉ nghe theo mỗi mệnh lệnh của lão. Mã Vĩnh Thành căn dặn xong, dẫn đám cung nữ và thái giám nọ vào phòng. Thái giám quản sự đó nhìn qua loa các món đồ bày ở trên bàn, rồi cuối đầu khom lưng tranh nói trước:

- Phúc đáp đại nhân, công công! Trong sổ của phủ công chúa không hề ghi lại những thứ này, không phải là đồ của phủ.

Gã đã mở miệng, nào ai còn dám nói trái, đám thái giám và cung nữ cũng lắc đầu lia lịa, nói không nhận ra. Mã Vĩnh Thành đắc ý liếc nhìn Dương Lăng, Dương Lăng cười nói:

- Ừm, không có thì tốt thôi! Bản quan và Mã công công cũng là phụng chỉ hành sự, nếu không làm tử tế sẽ khó tránh khỏi sự trách mắng của Hoàng Thượng!

Y vừa nói vừa tiện tay cầm một hũ sứ Thanh Hoa lên ngắm, nói tiếp:

- Đây chắc là đồ từ năm Thành Hóa nhỉ? Thực đúng là sứ tốt, ừm, để ta xem thử có đúng không?

Y lật hũ sứ Thanh Hoa lại xem dấu đóng dưới đáy, không ngờ miệng hũ vừa chúc ngược, từ trong hũ bỗng rơi xuống hai chiếc xuyến ngọc. May mà trên bàn đều là đồ vật do y lục soát ra, chỗ chúng rơi xuống được đặt bốn cuộn lụa gấm Nam Kinh thêu hoa vân nổi, hai chiếc xuyến rơi xuống đống tơ lụa nảy lên mấy cái nhưng không hề bị vỡ.

Dương Lăng đặt hũ sứ Thanh Hoa xuống, cầm chiếc xuyến lên xem mấy lượt, liếc mọi người trong phòng đang ngây ra như phỗng, mỉm cười hỏi:

- Hai chiếc xuyến này bản quan cũng không nhận ra! Các ngươi nhìn xem có phải là đồ vật của công chúa không vậy?

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 118: Nguy hiểm trùng trùng

- Nô tì bị oan, Mã công công! Nô tì thật sự chưa từng trộm lấy xuyến ngọc của công chúa, là có người hại nô tì mà! Mã công... cô...ôông!

Bên ngoài cung Từ Ninh, ả nữ quan dung mạo xinh đẹp đang nằm sấp trên băng ghế, bốn tiểu thái giám giữ chặt tay chân của ả, còn hai tên khác mỗi tên một bên đang vung gậy đánh mạnh xuống cặp mông căng đầy của ả nghe kêu "bôm bốp".

Mã Vĩnh Thành mặt mày xám xịt, môi mím chặt lại như một đường chỉ. Lão vừa căm hận Dương Lăng đã làm mất mặt lão, lại vừa oán giận ả nữ quan dám to gan lớn mật ăn trộm bảo vật do tiên hoàng ban thưởng cho công chúa.

Lẽ ra tội trộm đồ trong cung nặng lắm cũng chỉ bị phạt vài chục gậy, sau đó bị đưa đi làm lao dịch. Nhưng hôm nay Hoàng Hậu mới vào cung, chuyện vừa xảy ra đã khiến hoàng gia mất sạch thể diện; trong cơn thịnh nộ, Thái hoàng thái hậu cũng không còn tâm tư đâu mà thương tiếc ả thị tỳ đã hầu hạ mình nhiều năm, hạ ý chỉ sai Cốc Đại Dụng kêu tiểu thái giám đánh ả chết tươi.

Mã Vĩnh Thành vừa sai người thực hiện hình phạt vừa nghĩ làm sao để cứu ả. Nghĩ tới nghĩ lui, lão cảm thấy chỉ khi nào Thái hoàng thái hậu nhất thời mềm lòng, xá tội chết cho ả thì mới xong. Nhưng bọn họ là nô tài, khi được sủng ái tất nhiên thế nào cũng được, đến khi thất sủng rồi nếu còn vô lễ, một câu của chủ nhân sẽ quyết định sự sống chết của bọn họ ngay. Lão cũng không cách nào đến cầu xin Thái hoàng thái hậu, chỉ đành cố gắng chờ ở đây, mong Thái hoàng thái hậu sẽ hồi tâm chuyển ý, hoặc có vị nương nương, công chúa nào ở trong chịu ra mặt cầu xin cho ả kia.

Ả nữ quan đã bị đánh đến tróc thịt trầy da nhưng thấy Mã Vĩnh vẫn đứng đó không nói tiếng nào. Ả nào biết tâm tư của Mã Vĩnh Thành lúc này, còn cho rằng lão muốn giết người diệt khẩu, không khỏi khóc rống lên, mắng chửi:

- Mã Vĩnh Thành, ngươi thực muốn đánh chết ta sao? Ngươi thấy chết không cứu, ta phải tố cáo ngươi với Thái hoàng thái hậu. Ta đã biếu tặng ngươi...

Mã Vĩnh Thành vừa nghe đến đây bèn đột nhiên bước nhanh tới một bước, giật cây gậy trong tay tên tiểu thái giám, vung lên "vù" một tiếng rồi đập vào mang tai nữ quan, khiến đầu ả rung lên, trong lỗ tai từ từ chảy ra một bãi máu đen. Hai mắt nữ quan đó trợn tròn, nhìn chằm chằm vào Mã Vĩnh Thành, cơ thể co giật dữ dội, rồi từ từ quắp lại trên băng ghế, không còn động tĩnh gì nữa cả.

Hai mắt Mã Vĩnh Thành hiện rõ vẻ hung ác, lão đưa cây gậy lại cho tên tiểu thái giám, lạnh lùng nói:

- Còn đứng ngây ra đó làm cái gì?! Mau đi bẩm báo với Thái hoàng thái hậu rằng ả tiện tỳ trộm bảo vật đó chịu hình không nổi đã chết rồi, xin Thái hoàng thái hậu mở lòng từ bi cho phép an táng.

Dương Lăng thấy Mã Vĩnh Thành mặt mày dữ tợn, vẻ hung tàn đó so với bộ dạng ôn hoà dễ bảo thường ngày như thể thuộc về hai con người khác nhau, không khỏi rùng mình kinh sợ. Mã Vĩnh Thành giận tím tái mặt mày nhìn Dương Lăng, cố nén lòng thù hận mãnh liệt đang dâng trào trong lòng, nói:

- Dương đại nhân! Ả tiện tỳ này khiến công chúa và Hoàng Hậu nương nương đều mất hết thể diện, đáng phải chịu trừng phạt như vậy. Bây giờ nhiệm vụ đã hoàn thành, chúng ta trở về phục chỉ thôi!

Mặc dù ả nữ quan này nham hiểm xảo quyệt song tội không đáng chết, giờ có thể nói đều do ý tưởng tồi tệ của y làm hại người, trong lòng Dương Lăng áy náy không yên. Không lòng dạ nào nhìn cái thi thể chết không nhắm mắt với đôi mắt vẫn đang mở trừng trừng, y bèn lặng lẽ đi theo Mã Vĩnh Thành rời khỏi hậu cung.

Chính Đức nghe nói ả nữ quan trộm cắp đã bị đánh chết, cũng không quan tâm chút nào. Việc uống rượu cộng thêm hai đêm liên tục chưa hề được ngủ ngon đã khiến y thật sự hơi mệt mỏi, nói chuyện một hồi thì thiếp đi luôn.

Chuyện hôm nay cũng vì vô tình mà gây nên tai họa. Vốn Dương Lăng chỉ muốn trị ả nữ quan đó một trận, để ả nô tài đáng ghét đó bị báo ứng, nào ngờ lại xảy ra cơ sự dường này. Chủ ý là do y đề ra, chỉ muốn cứu giúp công chúa nhưng khi không đã hại chết một người. Mặc dù người đó không phải tốt lành gì, song trong lòng y cũng hơi cắn rứt. Lúc này y thấy Mã Vĩnh Thành vẻ mặt u ám đứng cạnh giường Chính Đức, tuy lão không dám phát tiết với mình, nhưng rõ ràng là cực kỳ oán hận mình. Y cũng không có cách nào làm dịu quan hệ đôi bên, chỉ đành thở dài một tiếng, lẳng lặng đi ra.

Cốc Đại Dụng lặng lẽ đi ra theo, thấy y đang ngồi buồn rầu, bèn ngồi sát lại cạnh bên, biết rồi song vẫn hỏi:

- Dương đại nhân! Hôm nay Hoàng Thượng ban thưởng cho đại nhân hai người thiếp xinh đẹp. Ân sủng như thế là ao ước của không biết bao nhiêu đại thần trong triều, cớ sao đại nhân còn phiền muộn không vui vậy?

Dương Lăng thở dài một hơi, rồi nhặt nhạnh những gì có thể nói ra trong chuyện hồi nãy kể lại một lượt. Cốc Đại Dụng nghe xong không khỏi bật cười khanh khách, không đồng tình:

- Chết một ả nô tỳ thì tính là gì? Trong hậu cung, chuyện phi tần bẳn tính chỉ vì vài lỗi nhỏ nhặt mà tàn nhẫn đánh đập thị tỳ đến chết có rất nhiều. Những thị tỳ biết bợ đỡ ỷ vào quy định mà ức hiếp chủ nhân, khiến những vị công chúa cành vàng lá ngọc không dám lên tiếng, ta cũng thường nghe kể rất nhiều. Chuyện hôm nay sẽ có không biết bao nhiêu công chúa âm thầm vỗ tay khen hay đó, Dương đại nhân hà tất phải tự trách mình!

Dương Lăng cười gượng, hiển nhiên y không tiện nói rõ kẻ gợi ý cho hai vị công chúa trị nữ quan đó là mình. Việc nữ quan đó ức hiếp chủ nhân là thật, trộm cắp cũng là thật, nhưng ả không có gan ăn trộm bảo vật do tiên đế ngự ban.

Cốc Đại Dụng thấy y không hé lời, bèn liếc vào trong điện một cái rồi kềm giọng nói nhỏ:

- Có điều... Chuyện ngày hôm nay đại nhân hãy nên để ý cẩn thận! Ta thấy sắc mặt của Mã công công hết sức không vui đó.

Dương Lăng gật đầu nói:

- Bản quan biết nữ quan đó và Mã công công giao tình không nhạt, chuyện hôm nay quả thực đã đắc tội với lão rồi.

Cốc Đại Dụng nghiêm mặt:

- Nào chỉ là đắc tội? Dương đại nhân à, Mã công công là kẻ có thù tất báo, huống hồ hôm nay đại nhân đã khiến cho lão mất hết sức mất mặt, lão còn không hận đại nhân đến thấu xương ư? Chẳng qua đại nhân đang được Hoàng Thượng sủng ái, lại sắp nhậm chức xưởng đốc Nội xưởng, lão lại đuối lý sẵn, cho nên không dám đắc tội với đại nhân mà thôi.

Dương Lăng nghi hoặc hỏi:

- Tuy rằng nữ quan đó và y có chút quan hệ, nhưng hẳn lão sẽ không đến mức... không đến mức vì chuyện này mà để bụng mãi chứ?

Cốc Đại Dụng đáp:

- Dương đại nhân! Chuyện này thực không phải là chuyện nhỏ đối với lão đâu. Hôm nay lão không che chở nổi cho cô nữ quan này, mai này kẻ khác làm sao còn tin lão có thể bảo vệ được mình chứ? Lão vừa mới nhậm chức tổng quản Nội cung, làm sao để lập uy với người ta đây? Các nô tài trong cung chỉ biết đến lợi ích, người của Nhị thập tứ nha môn trong Lục cung lại đều đang nhìn vào, mà Mã công công vừa leo lên cao; lão nhận quà cáp của người ta song lại không thể bảo vệ chu toàn cho người ta, thử hỏi sau này ai còn chịu biếu quà lấy lòng lão chứ?

Khi xưa ta từng theo Lý Quảng Lý công công kiếm miếng ăn trong Đông xưởng, cho nên chuyện trên quan trường đều nhận biết rõ ràng. Có khi hai phe đánh nhau đến trời long đất lở, khiến cho cả thiên hạ đều biết đến; nhưng song phương đấu đá ầm ĩ một phen xong, cuối cùng bao giờ cũng ngưng chiến, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, chỉ bởi vì trong ấy không hề có một chữ "lợi" nào. Nhưng đôi khi chỉ một chuyện nhỏ, thoạt nhìn không đáng để mắt tới, lại là mầm hoạ khôn cùng, chỉ bởi vì nó có liên quan đến lợi ích mà thôi.

Đại nhân làm lão mất mặt là chuyện nhỏ, nhưng chặt đứt con đường tiền tài của lão, đại nhân nói lão có nên hận đại nhân không nào? Quyền thế và địa vị của lão không bằng đại nhân, cho dù lão hận đại nhân thấu xương thì đại nhân cũng không phải e sợ. Nhưng đại nhân sắp lãnh đạo Nội xưởng, đến lúc đó sẽ tiếp nhận việc giám sát thuế, phải tranh lợi cùng Đông xưởng, đại nhân nói đám công công của ty Lễ Giám và Đông xưởng sẽ thế nào đây? Dương đại nhân, ngài nhiệt tình giúp đỡ mọi người, nhưng đừng xem người khác đều là hạng thiện lương. Ngài không có lòng hại người, nhưng người ta lại có ý hại ngài đó!

Dương Lăng nhìn Cốc Đại Dụng với vẻ ngạc nhiên và nghi ngờ. Cốc Đại Dụng thấy y lắng nghe mình nói, đang tính dâng thêm vài lời, đột nhiên bên ngoài có một đại thái giám bước vào, hỏi:

- Hoàng Thượng đâu?

Vừa trông thấy đó là Phạm công công của Đông xưởng, Cốc Đại Dụng vội đứng dậy, khúm núm thưa:

- Phạm công công! Hoàng Thượng uống hơi quá chén, đang nghỉ ngơi ạ.

Phạm Đình "ồ" một tiếng, xoay người tính đi, chợt trông thấy Dương Lăng lão bèn dừng lại, nhếch miệng cười nhạt, nói:

- Dương đại nhân! Hôm nay ta nghe nói Hoàng Thượng sắp mở Nội tập sự xưởng, giám sát hai xưởng một vệ, tiếp nhận quyền giám sát thuế, mà xưởng đốc của Nội xưởng này chính là các hạ. Chậc chậc chậc, thủ đoạn giỏi đấy, quả là hậu sinh khả úy! Hầy, nói thế nào ấy nhỉ, đúng rồi, đây gọi là dẫn sói vào nhà!

Dương Lăng biết Vương Nhạc không hề tham quyền, nhưng hai viên đại tướng dưới trướng lão - Phạm Đình của Đông xưởng và Miêu Quỳ của Tây xưởng - mỗi người đều mang dã tâm riêng. Khi xưa Phạm Đình và Trương Tú tìm cách đưa y vào cung chỉ là để bên cạnh hoàng đế tương lai sẽ có người của phe mình được sủng ái. Ai dè sủng tới sủng lui, cuối cùng lại trở thành đại hoạn tâm phúc của bọn lão, bảo sao lão chẳng sinh lòng phẫn nộ?

Dương Lăng ra vẻ yếu thế, nhún nhường:

- Phạm công công! Hạ quan cũng chỉ là bất đắc dĩ phải nhận chức vụ này. Thật ra đã có hai xưởng một vệ, nào cần mở thêm Nội xưởng? Hạ quan vừa không có người vừa không có tiền, nhiều lắm chỉ làm được một thứ cỏn con; không chừng một ngày nào đó Hoàng Thượng nhìn không vừa mắt sẽ dẹp bỏ đi. Công Công hà tất phải để tâm!

Thực lực của Đông xưởng quá hùng hậu. Đến Miêu Quỳ nắm giữ Tây xưởng và Ngự Mã giám, có nhiệm vụ giám sát Đông xưởng vậy mà cũng không dám khinh xuất, nhiều lần ăn phải quả đắng trong tay Đông xưởng. Dương Lăng thực không muốn đắc tội với nhân vật ghê gớm như vậy.

Chẳng ngờ lời đó của y lại chạm đúng vào nỗi đau thầm kín của Phạm Đình. Phạm Đình cười khẩy một tiếng, nói bằng giọng quái dị:

- Dương đại nhân có tiền đồ hơn Miêu Quỳ nhiều. Lần này đại nhân nhậm chức sẽ đoạt lấy quyền giám sát thuế, số bạc chạy vào tay mỗi năm có thể chất thành núi, sao lại nói là không tiền? Có điều những kẻ giám sát thuế ở ngoại tỉnh đều không phải là bọn đèn cạn dầu, nếu Dương đại nhân muốn bọn họ ngoan ngoan phục tùng thì sẽ phải tốn chút tâm tư rồi.

Dứt lời, Phạm Đình phất ống tay áo bỏ đi. Cốc Đại Dụng nói khẽ:

- Dương đại nhân! Thế nào? Đây chính là một chữ "lợi" đấy. "Nhân tại giang hồ thân bất do kỷ" , triều đình chính là danh lợi, chính là giang hồ. Lăn lộn trong cái giang hồ này, ai không cẩn thận sẽ phải chịu cảnh đao sắc kề cổ. Phạm công công đã có ý kiêng kị ngài, cho dù ngài muốn né tránh thì để diệt trừ hậu hoạn, lão cũng sẽ không cho ngài thêm cơ hội để trở mình đâu.

Một khi tin tức về việc thành lập Nội xưởng được lan ra, ngài lập tức sẽ như ngồi trên lưng cọp. Nội xưởng này lập thì phải lập, không lập cũng phải lập, đã lập thì phải lập thật nhanh. Đại nhân không mau chóng xây dựng lực lượng chống chọi với lão, chẳng lẽ muốn chờ lão từng bước thu thập ngài ư?

Nghĩ đến ánh mắt hung tàn của Mã Vĩnh Thành, nghĩ đến nụ cười lạnh lùng đầy ác cảm của Phạm Đình, nhớ đến đám ngoại thần xem mình như kẻ gian nịnh, giờ nội quan cũng lại nổi sát ý với mình, Dương Lăng không khỏi rùng mình sởn gai ốc: "Bây giờ quả thực nguy hiểm trùng trùng, quỷ gọi hồn đang rình rập khắp nơi, mình phải làm thế nào đây?"

Cốc Đại Dụng vẫn không ngừng lải nhải:

- Dương đại nhân! Năm xưa Đại Dụng đã từng làm việc trong Đông xưởng, nay đại nhân thành lập Nội xưởng, nếu có chỗ nào cần dùng đến lão, xin đại nhân cứ việc cho biết. Cốc Đại Dụng tuy không dám nói là tài năng hơn người, nhưng thật lòng muốn vì đại nhân vạch mưu vẽ kế, ra sức ngựa trâu!

Nhưng tâm trí Dương Lăng sớm đã bay tới nơi nào khác, hoàn toàn không nghe lão nói gì cả.

Chú thích:

Nghĩa là người đã ở trong chốn giang hồ, cuộc sống sẽ không còn do bản thân quyết định nữa.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 119: Thảo luận thiết lập nội xưởng

Từ sáng sớm, Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đã bắt đầu đứng ngồi không yên, bởi lẽ hôm nay chắc hẳn Dương Lăng sẽ về nhà. Tuy hôm qua là ngày vui hai người phụng chỉ thành hôn, nhưng đến chiều chỉ có phu nhân trở về, còn lão gia phải ở lại trong cung hầu thiên tử bắn pháo hoa. Điều khiến hai người vạn phần ngạc nhiên và mừng rỡ là không những trong cung truyền chỉ ban hôn mà còn phong cho bọn họ làm Thất phẩm Cáo Mệnh, khiến bọn họ vui đến nỗi mất ngủ cả đêm.

Hôm nay lang quân của mình sắp sửa trở về, nghĩ đến chuyện cần phải trải qua trong buổi tối hôm nay, nhớ tới việc phong lưu thường nghe những hồng quan nhân (*) kể lúc còn ở tại Thì Hoa quán, trong lòng bọn họ không khỏi bồi hồi mãi. Hai cô nàng rạo rực xuân tình, đứng ngồi không yên, cứ liên tục ngồi trước gương chải chuốt trang điểm, chỉ lo có thiếu sót gì khiến lão gia nhìn thấy sẽ không vui.

(*)Xin nhắc lại: Trong chốn hoan trường, Thanh quan nhân chỉ những phụ nữ chỉ bán nghệ, không bán thân; còn Hồng quan nhân chỉ những phụ nữ vừa bán nghệ vừa bán thân.

Hai người suy tính thiệt hơn, bồn chồn nôn nóng song vẫn cố kiềm nén bản thân, e ngại bị người ta nhìn thấu tâm trạng của mình. Cả hai không hề hay biết rằng dáng vẻ điên đảo thần hồn đó đã lọt vào mắt đám nha đầu quen thuộc hằng ngày, khiến bọn họ cười thầm không thôi.

Lúc này, một tiểu nha hoàn ngồi trong phòng Ngọc Đường Xuân, đang không thể nhịn cười kể cho nàng nghe tin mình mới vừa nghe được: Đêm đại hôn, đương kim thiên tử bắn pháo hoa xong bỗng nhiên tuyên bố muốn làm minh quân của đời, chuẩn bị thức trắng đêm trong cung Càn Thanh để phê duyệt tấu chương của mấy ngày này dồn lại, khiến đám đại học sỹ của Nội các mặt ủ mày chau, râu tóc sắp bị vò bứt sạch.

Ngọc Đường Xuân thấy tức cười quá, không nén được tò mò bèn hỏi:

- Đương kim Hoàng Thượng đã mười sáu tuổi, cũng không nhỏ mà, sao... sao đêm động phòng lại muốn trốn đi phê duyệt tấu chương thế nhỉ? Vậy... vậy sau khi phê hết tấu chương, y vẫn vào động phòng chứ?

Tiểu nha đầu che miệng cười đáp:

- Ban đầu những đại thần đó năn nỉ cầu xin, khuyên can ngăn giải, quỳ xuống đất khấu đầu không ngừng, thiếu điều muốn trói Hoàng Thượng lại tống vào động phòng, nhưng Hoàng Thượng vẫn không chịu. Thái hoàng thái hậu và Hoàng thái hậu phải bước ra khuyên giải, Hoàng Thượng vẫn không nghe. Song không biết lão gia nhà chúng ta đã nói với Hoàng Thượng mấy câu gì mà Hoàng Thượng liền phấn khởi vứt tấu chương đi vào động phòng ngay.

Phu nhân, người biết không? Hiện giờ chuyện cười này đã lan truyền khắp kinh thành rồi, rất nhiều người đang đoán già đoán non xem lão gia đã nói cái gì mà lại có thể dỗ cho thiên tử chịu vào động phòng. Hừ hừ, tiếc là không một ai biết vì sao Hoàng Thượng không chịu vào động phòng, và vì sao lại chịu vào động phòng.

Vừa nói xong, cô ả cũng cảm thấy rối rắm, không nhịn được thế là lại phá ra cười khanh khách.

Ngọc Đường Xuân nghe xong cũng không khỏi bật cười. Nàng đang định vòng vo dò hỏi chút tin tức về lão gia, một tiểu nha hoàn chợt chạy ào vào, reo lên:

- Lão gia về rồi, lão gia về rồi!

"A!" Ngọc Đường Xuân vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ đứng bật dậy khỏi ghế, cuống quýt ngồi vào trước chiếc gương đồng hình bông hoa để xem lại tư dung của mình. Mới ngắm nhìn vài lượt, nàng chợt nhớ ra trong phòng còn có hai tiểu nha hoàn, hành động vừa rồi đã bị bọn họ nhìn thấy cả, nàng không khỏi ngượng chín cả mặt.

Nàng ngượng ngùng xoay người lại, vờ ra vẻ bình thường, thản nhiên hỏi:

- Lão gia có đi về phía hậu viện không? Đến đâu rồi?

Nha hoàn nọ lắc đầu đáp:

- Không... Lão gia vừa về đến phủ liền kêu người lên núi tìm Liễu bả tổng tới rồi vào trong phòng khách, hai người đang trò chuyện gì đấy.

Bờ vai Ngọc Đường Xuân thoáng trùng xuống, khuôn mặt nhỏ nhắn không giấu được vẻ thất vọng. Tiểu nha hoàn thấy vậy vội nói:

- Phu nhân đừng nóng ruột! Để nô tì đến phòng khách xem thử xem sao.

***

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 120: Thần tài phương tây

Liễu Bưu cười nói:

- Đại nhân! Trong Cẩm Y vệ có trên hai mươi thiên hộ, đại khái ti chức cũng biết một ít. Nếu nói bất đắc chí nhất thì có hai người, một người là vị Ngô thiên hộ này, người còn lại chính là vị Thiên hộ người Sắc Mục tên Vu Vĩnh cả ngày gác cổng Trấn phủ ty đó.

Ngô Kiệt không phải là thân tín của Trương chỉ huy sứ vàâu trấn phủ sứ cho nên luôn luôn bị gạt qua một bên. Nếu đại nhân trọng dụng ông ta, nhất định ông ta sẽ trung thành với đại nhân.

Hơn nữa... theo ty chức thấy, chúng ta xung đột cùng Đông xưởng chủ yếu bởi vì chúng ta có quyền quản chế Đông xưởng, lại đoạt quyền giám sát thuế của bọn họ; đây là nguồn tiền bạc lớn nhất của đối phương nên sẽ không thể tránh khỏi phát sinh xung đột với họ.

Nhưng Cẩm Y vệ lại khác! Cẩm Y vệ theo chế độ quân quản, được triều đình trích bạc ra nuôi, xưa nay bọn họ hết sức hợp tác với Đông xưởng là bởi Đông xưởng có quyền giám sát thuế, tiền lắm của nhiều, hứa hẹn rất nhiều lợi ích cho Cẩm Y vệ. Chỉ cần chúng ta có thể thu thập thành công những gã Thuế giám được cử từ ty Lễ Giám đến mọi nơi, khiến bọn họ nghe theo lệnh của đại nhân thì khi đó muốn chia rẽ xưởng vệ cũng không khó.

Do đó, cho dù Ngô thiên hộ trung thành với Cẩm Y vệ, đại nhân cũng không cần lo lắng. Nếu như Trương chỉ huy sứ biết chúng ta không hề có ý làm khó ông ta, có lẽ ông ta sẽ thoát ly khỏi Phạm công công mà giao hảo với đại nhân đó.

Dương Lăng nghe xong liền bừng hiểu. Mối quan hệ giữa Cẩm Y vệ và Đông xưởng được kết dính bởi tiền bạc, ta có thể đánh một phe và lôi kéo một phe. Chỉ cần mình khống chế được các viên quan Thuế giám các nơi, nắm chắc con đường tiền bạc này, đồng thời hứa hẹn lợi ích nhất định cho Cẩm Y vệ thì ít ra cũng có thể khiến cho Cẩm Y vệ giữ vị trí trung lập.

Dương Lăng vui mừng bảo:

- Được! Ngày mai ta sẽ xin Hoàng Thượng hạ chỉ điều Ngô thiên hộ qua Nội xưởng. Ngoài ra còn có huyện thừa Hoàng lão của trạm Kê Minh, ông ấy có ơn tri ngộ với ta. Huynh đệ và Nhất Thanh đều là cao thủ xông phong hãm trận, song hai người bọn họ lại thạo xử lý tin tức tình báo và quản lý nội chính hơn. Phải có bốn người các vị, cái Nội xưởng này của ta mới có thể đứng vững được.

Y đang nói đến đây chợt lão quản gia từ ngoài cửa ló đầu vào, vẻ mặt cổ quái thưa:

- Lão gia! Ngoài cửa có vị... có vị đại nhân của Cẩm Y vệ muốn cầu kiến người ạ.

Dương Lăng ngẩn ra, buột miệng hỏi:

- Có phải là vị đại nhân đó họ Tiền không?

Lão quản gia cười bồi đáp:

- Vị đại nhân đó nói hắn họ Vu, có điều diện mạo của ông ta không giống chúng ta, là người Sắc Mục.

Người Sắc Mục! Vu Vĩnh? Vừa mới nhắc đến gã, không ngờ gã đã xuất hiện rồi. Gã đến đây làm gì nhỉ? Dương Lăng nhìn Liễu Bưu với vẻ hồ nghi. Liễu Bưu cũng không xác định được ý đồ của Vu Vĩnh, hắn suy nghĩ một chút rồi nói:

- Đại nhân! Bởi vì vị Thiên hộ Vu Vĩnh này là người Sắc Mục, cho nên ở trong Cẩm Y vệ mọi việc của ông ta đều không được như ý. Nghe nói ba người con gái của ông ấy đều là mỹ nhân dị quốc tóc vàng mắt xanh. Trưởng nữ gả cho cháu của Vương Nhạc công công làm vợ, do nể mặt Vương công công nên Trương chỉ huy sứ mới cho ông ta một chức quan nhàn tản có lộc không quyền. Ty chức đoán không phải do Trương chỉ huy phái ông ta đến. Có điều người này chỉ biết so đo chút lợi nhỏ, tuy ở trong quân song lại giống như con buôn, không có tài cán gì. Đại nhân hãy cứ thử thăm dò ý tứ của ông ta rồi tìm cớ đuổi đi là xong.

Dương Lăng gật đầu:

- Ừm! Huynh đệ hãy đến phòng khách đối diện chờ ta đã, đợi ta thăm dò được ý đồ của ông ta rồi tính tiếp.

Quả thực Vu Vĩnh mạo muội đến nhà Dương Lăng là vì muốn nương nhờ y. Trong Cẩm Y vệ gã vẫn luôn là "đồ trang trí" có chức không quyền, bị người ta cười thầm gọi là "Thiên hộ gác cổng" nên trong lòng vẫn luôn không thoải mái.

Hôm nay gã nghe nói Dương Lăng sắp thiết lập phủ nha, nhậm chức xưởng đốc Nội xưởng. Thế là sau khi cân nhắc trù tính một phen, gã cảm thấy nếu như nương nhờ Dương Lăng và được trọng dụng, chỉ cần Nội xưởng đứng vững, gã sẽ trở thành công thần, hô mưa có mưa, gọi gió có gió. Nếu như Nội xưởng địch không lại Đông xưởng và sụp đổ, gã cũng có chỗ dựa vững chắc là Nội tướng(*) Vương Nhạc, tối thiểu cũng sẽ không bị liên luỵ gì. Loại mua bán một vốn bốn lời như vậy thật là một cơ hội hiếm có.

(*: Nhắc lại Nội tướng là người cầm đầu toàn bộ hoạn quan)

Phàm đã kính Phật, đương nhiên phải đốt một bó nhang trước, còn bây giờ muốn thể hiện thành ý của bản thân, đương nhiên cũng phải chọn khi tiền đồ Dương Lăng còn chưa rõ ràng. Nếu như đợi đến lúc người ta phát đạt rồi, chỉ sợ dù có đưa con gái đến nhận họ nhận hàng thì cũng chỉ có thể được làm đại thủ lĩnh gác cổng của Nội xưởng mà thôi. Dựa trên nguyên tắc làm ăn thấy được thì phải chịu bỏ vốn liếng, Vu thiên hộ không chờ được đã vội vã đến nhà Dương Lăng.

Hai mỹ nhân Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai nghe nha hoàn báo lại có khách đến, hơn nữa còn là người Sắc Mục tóc vàng mắt xanh thì cảm thấy phát hoảng. Lão gia vừa mới về nhà liền đã liên tiếp gặp gỡ hai người khách, chẳng lẽ Hoàng Thượng lại giao cho y công việc gì bắt y phải xa nhà hay sao?

Tiểu hoàng đế này đêm tân hôn không lo động phòng mà lại chạy đi đốt pháo hoa rồi phê duyệt tấu chương, trước giờ làm chuyện đều không hề tính toán; nếu không thì y cũng không ban hôn xong rồi lại bảo lão gia hầu y đốt đèn đốt pháo, hại chúng ta gối chiếc phòng không. Đáng ghét! Hoàng Thượng lại bị động kinh rồi à? Hai cô con gái oán hận trong lòng, hoàn toàn quên sạch lòng cảm kích vô hạn với Chính Đức khi vừa nhận được thánh chỉ hôm qua.

Gặp mặt Dương Lăng, Vu Vĩnh chỉ hỏi han vài câu liền đi thẳng vào vấn đề, nói rằng muốn gia nhập Nội xưởng. Dương Lăng thấy vậy cũng không khỏi âm thầm lắc đầu: "Làm gì có chuyện vừa gặp mặt, chưa thăm dò rõ nội tình của đối phương mà đã huỵch toẹt ra như vậy nhỉ? Tốt xấu gì gã cũng đã lăn lộn trong Cẩm Y vệ nhiều năm như vậy rồi, không ngờ kinh nghiệm quan trường còn non hơn cả mình! Quả nhiên người này không dùng được."

Mặt lạnh như tiền, Dương Lăng thờ ơ đáp:

- Dương mỗ đa tạ sự thưởng thức của Vu đại nhân! Không phải Dương mỗ muốn cự tuyệt đại nhân, nhưng thật sự Dương mỗ không đành làm lỡ tiền đồ của đại nhân đâu! Vu đại nhân! Hiện tại ngài đường đường là thiên hộ trong Cẩm Y vệ, mà Nội xưởng này của ta, cần người không người, cần tiền không tiền, nào có tiền đồ gì?

Vu Vĩnh sớm đã biết được thanh danh của mình vốn không tốt, không mấy người coi trọng mình, da mặt gã đã được trui rèn từ lâu. Nghe xong gã không hề nản chí, đang muốn biểu hiện lòng trung thành thêm một phen thì Dương Lăng đã ngắt lời:

- Vu đại nhân! Nội xưởng rất nghèo túng, không so được với Cẩm Y vệ có trạm dịch địa phương để cung cấp thêm chi dụng. Ta đang tính thu mua vài cửa hàng ngựa xe từ dân gian để đảm nhận công việc thu thập tình báo và thông tin, học theo Đông Thi làm trò cười cho thiên hạ. Ngài đến gia nhập Nội xưởng nào có tiền đồ gì?!

Nghe xong, Vu Vĩnh không khỏi ngạc nhiên rồi lập tức tiu nghỉu nói:

- Đại nhân không cần khách khí nữa. Than ôi! Thì ra Dương đại nhân cũng đã nghĩ đến biện pháp này rồi. Vu mỗ biết Hoàng Thượng không phát bạc cho đại nhân, nên đã vắt óc nghĩ ra kế sách này, định hiến cho đại nhân để biểu lộ thành ý. Giờ thì... thôi vậy.

Nói rồi gã chán nản chắp tay cáo từ. Dương Lăng nghe thế rất lấy làm kỳ lạ, vội cản lại hỏi:

- Sao? Vu đại nhân cũng nghĩ đến ý tưởng mở cửa hàng ngựa xe rồi ư?

Vu Vĩnh lắc đầu thở dài:

- Vu mỗ biết những người đọc sách các ngài đều xem thường thương nhân, tưởng ngài chưa hẳn sẽ nghĩ ra được chủ ý đưa buôn bán vào chính trị. Mỗ tưởng rằng chỉ có mình mình mới nghĩ ra được nước cờ độc đáo này thôi, nào ngờ đại nhân đã... Thật hổ thẹn!

Trong lòng Dương Lăng thầm máy động, y bèn bảo:

- Xin Vu đại nhân cứ trình bày ý tưởng của ngài, hai chúng ta cùng kiểm chứng một chút đi! Nếu như ngài và ta ý kiến tương đồng, chỉ cần đại nhân thật sự coi trọng Dương mỗ, Dương mỗ nguyện sẽ làm việc cùng đại nhân.

Vu Vĩnh nghe vậy mừng rỡ hỏi lại:

- Lời của Dương đại nhân là thật ư? Ha ha, vậy ta xin thẳng thắn nói hết. Vừa rồi đại nhân có kể qua loa, nói cái gì mà cửa hàng ngựa xe nghèo kiết, có phải là sợ tin tức bị lộ sẽ đưa đến sự kiêng kị của xưởng vệ không?

Dừng một chút, gã hớn hở nói tiếp:

- Hạ quan một lòng chân thành với đại nhân, đại nhân hẳn sẽ không cần dối gạt ta nữa chứ? Đây là một ý tưởng tự thân sinh lợi, một vốn bốn lời tuyệt diệu, nhưng đám người của Đông xưởng và Cẩm Y vệ chỉ biết bóc lột đó lại không nghĩ ra.

Mở cờ trong bụng, Vu Vĩnh giải thích rõ:

- Đại nhân! Cửa hàng ngựa xe do dân gian trăm họ lập nên nhiều lắm chỉ là để kiếm miếng ăn qua nhày. Còn nếu do đại nhân mở ra thì với quyền thế của Nội xưởng, chắc chắn đi khắp nơi không hề gặp trở ngại gì, nhất định sẽ tiền vô như nước. Ngày nay Đại Minh sản vật phong phú, cái còn thiếu là cái gì? Đó chính là phương tiện vận chuyển.

Đại nhân cũng thấy đó, Đại Minh đất đai phì nhiêu, giao thông vô cùng tiện lợi, đường từ hai kinh (chỉ kinh sư và kinh đô) thông đi khắp mọi nơi, vận chuyển người hay vật đều không thành vấn đề; dọc theo bờ Nam, Bắc Vận Hà, bao nhiêu thành trì đã mọc trên những vùng đất hoang vu? Thanh Giang, Tế Ninh, Lâm Thanh, Thiên Tân, Hà Tây, có nơi nào không hưng vượng nhờ đường vận chuyển sông nước?

Dân chúng bình thường mà mở cửa hàng ngựa xe, thường là không đi được xa, chẳng có bao nhiêu động lực, còn bị quan phủ bóc lột dọc đường và khống chế nên không thể phát triển mạnh được. Song nếu là Nội xưởng mở ra, vậy thì lại khác. Nói ví dụ, Hồ Nam Hồ Bắc dư thừa chì trắng, một gánh (50kg) hai lạng bạc, vận chuyển đến Quảng Đông có thể bán được sáu lạng mỗi gánh, giá cao gấp ba lần; nếu còn được cho phép vận chuyển từ bản địa ra hải ngoại, mỗi gánh chì trắng có thể tinh luyện và lấy ra được mười tám lạng bạc trắng, gấp chín lần; vận chuyển phần chì trắng đã trải qua tinh luyện về Quảng Đông, mỗi gánh còn có thể thu được sáu lạng bạc trắng. Như vậy, một gánh chì trắng đi một vòng, sẽ lời ròng được chừng tám lạng bạc (*). Với năng lực của Nội xưởng, một chuyến buôn nào chỉ ngàn gánh vạn gánh? Đó là biết bao nhiêu bạc chứ? Nếu dựa vào năng lực của Nội xưởng để mời chuyên gia tinh luyện từ hải ngoại về, tự mình tinh luyện lấy, lợi nhuận đó còn phải gấp mấy lần.

(* Ba_Van: Nguyên văn là thế. Mình cũng chả hiểu tính toán làm sao mà thành ra lời tám lạng!!!)

Vu Vĩnh nói hăng đến độ nước bọt văng tứ tung, Dương Lăng nghe mà há mồm trợn mắt. Vu Vĩnh tưởng mình đã nói trúng tâm sự của y, không khỏi đắc ý cười nói:

- Đây mới chỉ là một điều mà thôi! Chúng ta còn có thể mang lương thảo đến biên ải, đưa muối ăn về Hoài Dương, bán vải vóc cho vùng Ngô Việt, đem trà vào Thục Xuyên, chuyển đồ sứ tới Giang Hoài... Vào Nam ra Bắc, đầy ắp các loại ngựa xe. Ngựa xe đi đến nơi nào là sẽ có một dòng sông bạc chảy qua nơi đó.

Vả lại mở cửa hàng ngựa xe, chở hàng chở khách, đi đường bọn họ phải ăn phải uống phải ngủ phải nghỉ chứ gì? Vậy tửu lâu khách sạn không cần thiết sao? Chúng ta có thể tự xây cất khách điếm dọc đường, tránh để "nước tốt chảy vô ruộng người". Dọc đường bọn họ cần tìm kỹ nữ, cần đánh bạc chứ gì? Vậy thanh lâu sòng bạc chúng ta cũng đừng bỏ qua. Có tất cả những thứ tửu sắc tài vận này, muốn thu thập tin tức tình báo kiểu gì mà không được? Ha ha ha... Đại nhân, đây thật đúng là diệu kế đấy, không biết suy nghĩ của Vu mỗ có giống với tâm ý của đại nhân không?

Dương Lăng lau nước bọt dính đầy mặt, lắp bắp:

- Ơ... Ta đúng là đang nghĩ như vậy đấy, không ngờ anh hùng sở kiến lược đồng, Vu huynh quả là... quả là thương nhân thiên tài!

Vốn Vu Vĩnh không cho nghề buôn là hổ thẹn nên được Dương Lăng khen ngợi, gã lấy làm vui sướng trong lòng, không khỏi cười lớn:

- Đó là lẽ đương nhiên! Hạ quan xuất thân từ gia tộc bá tước Phùng Y Cống Phú Nhĩ Tư Thái Bá Cách, nghe bà nội ta nói tổ tiên nhà ta đều là những vị thiên tài về kinh doanh đó!

Dương Lăng vừa nắm chặt tay gã, vừa mừng rỡ nói:

- Ngày mai nhân tiện bản quan có việc vào cung, nhất định sẽ xin Hoàng Thượng điều đại nhân gia nhập Nội xưởng. Có được Phùng... Y... Cống... Vu Vĩnh đại nhân, quả thực là may mắn của Nội xưởng!

nguyên văn "Đông Thi hiệu tần", dựa tích nàng Tây Thi xinh đẹp mỗi khi đau bụng thường hay nhăn mặt, nhưng sự nhăn mặt đó càng làm cho nàng thêm hấp dẫn. Cùng xóm có cô Đông Thi, thấy vậy cũng bắt chước ôm bụng nhăn mặt, nhưng càng nhăn thì mặt càng thêm xấu xí. Do đó có điển tích "Đông Thi hiệu tần", nghĩa là Đông Thi bắt chước nhăn mặt.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 121: Động phòng rồi lại động phòng

Tiễn vị Phùng cái gì Cống tài thần ấy về rồi mà Dương Lăng vẫn còn đứng ngây người trong sảnh đường cả nửa buổi. Ông trời thật sự quá chiếu cố mình rồi! Thật đúng là "một khi vận khí lên hương, tràn như nước lũ thành tường khôn ngăn", bỗng dưng cho mình gặp được một kỳ tài trời sinh về thương mại đến như vậy. Nếu không phải vì ở thời đại này thương nhân bị xem là tiện dân, e rằng Vu Vĩnh đã sớm bỏ quan trường theo thương nghiệp rồi.

Quả thực ý tưởng của Dương Lăng không được hay ho như của Vu Vĩnh. Nhưng ngay khi Vu Vĩnh đưa ra ý tưởng sáng tạo và lập được kế hoạch tầm cỡ như vậy, lại khiến y nghĩ đến mục đích còn cao xa hơn nữa.

Vu Vĩnh nói rất phải! Chỉ cần một thời gian ngắn, lợi dụng quyền lực và phương tiện của Nội xưởng, đích thực tài nguyên sẽ chảy về cuồn cuộn đồng thời có thể xây dựng một mạng lưới tình báo khổng lồ vươn đến mọi ngõ ngách. Nhưng ý nghĩa sâu xa hơn chính là:

Nếu thật sự xây dựng được mạng lưới giao thông thuận tiện khổng lồ đến như vậy thì tài nguyên của cả nước bắt đầu được huy động, những vùng có nhu cầu cấp thiết về những vật tư này sẽ có thể phát triển một cách nhanh chóng. Trong khi đó, vì lưu thông thuận lợi, các vùng miền vốn chỉ dựa vào việc cung cấp tài nguyên để đầu cơ trục lợi sẽ dần dần mất đi ưu thế của mình. Khi đó, bị thôi thúc bởi lợi ích kinh tế, dân chúng sẽ tự động mưu cầu thủ đoạn kiếm lời hoành tráng và lợi hại hơn.

Chính sự phát triển của thương nghiệp có tác dụng lớn nhất trong sự thúc đẩy phát triển công nghiệp. Dựa vào chuỗi phản ứng dây chuyền tác động bởi giao thông thuận lợi, vô hình chung việc giao thông thuận lợi sẽ thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá của Đại Minh.

Đây không phải là một quá trình có thể thấy ngay kết quả trong một ngày một tháng. Nhưng trong cái quá trình diễn biến một cách chậm rãi, nó lại có thể sản sinh ra một sức mạnh khổng lồ: kết nối lợi ích của nó với đông đảo nhân vật thuộc tầng lớp quý tộc, quan viên cao cấp. Như vậy không lo gì bộ phận cản trở sự phát triển kinh tế của thể chế chính trị hiện hữu không bị cải biến. Đến lúc đó cho dù là Hoàng Đế cũng không có cách nào ngăn trở trào lưu này.

Lý tưởng mà mình hằng mơ ước há không phải đã có thể thực hiện rồi sao? Đây đúng là "đạp phá thiết hài vô mịch xử, đắc lai toàn bất phí công phu' (đi mòn gót sắt nhưng chẳng thấy, đến khi tìm được lại chẳng tốn bao công sức). Ai có thể nghĩ được rằng trong hoàn cảnh hiện tại, sự cải cách hàng loạt về văn hoá, kinh tế và chính trị vốn không thể thực hiện được lại có thể được bắt đầu từ cái nghề đánh ngựa đánh xe này chứ?

Một khi đã biến toàn bộ giai cấp thống trị trở thành những kẻ được hưởng lợi nhiều nhất trong nền kinh tế kiểu mới, để bọn họ cảm nhận được cái "vị ngọt" của nó rồi thì bọn họ còn trở thành chướng ngại vật của lịch sử không? Hay bọn họ sẽ trở thành lực lượng tích cực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử?

Trong quá trình phát triển của lịch sử, bao giờ cũng có những kẻ vốn thuộc giới tinh anh nhưng rốt cuộc không theo kịp sự phát triển của xã hội nên dần dần biến thành trở lực cho sự tiến bộ của xã hội. Như vậy, tạm thời ta có thể dẹp bỏ những kẻ quá sùng tín Nho học sang một bên. Nếu mình đi trước một bước, lôi kéo được đám cường hào có danh vọng và đám hoàng thân quốc thích trọng lợi hơn trọng danh gia nhập vào đại quân thương nhân kiến tạo nhà máy, công xưởng, vậy thì... những hoàng thân quốc thích, thân hào nhân sĩ này sẽ ảnh hưởng đến bao nhiêu người? Những gia tộc cường hào danh tiếng đó có bao nhiêu con cháu đang làm quan làm tướng sẽ chịu ảnh hưởng bởi sự thay đổi vô tri vô giác của gia tộc bọn họ?

Vừa nghĩ đến đây, lòng Dương Lăng hào hứng hẳn lên. Đương nhiên những chuyện này không thể thực hiện được một cách nhanh chóng. Ngay cả việc xây dựng Nội xưởng trở thành tập đoàn lưu thông lớn nhất toàn quốc cũng không phải là chuyện có thể hoàn thành trong sáu tháng, một năm.

Nhưng Dương Lăng biết rằng, nếu như có người biết rõ phương hướng phát triển xã hội như y thúc đẩy, thì tốn một năm làm giao thông, ba năm "lôi kéo hủ bại"; chắc chắn sau mười năm trong triều đình và dân chúng sẽ hình thành một tập đoàn quyền lực mới, đủ sức để chống chọi ngang ngửa với những thế lực thủ cựu.

Hơn nữa, đến lúc đó lực lượng này đã không còn có thể bị tiêu diệt bởi bất cứ ai. Theo sự phát triển của thời gian, tất nhiên mặt tiên tiến của nó sẽ khiến nó càng lúc càng chiếm thêm được nhiều ưu thế quyền lực. Lịch sử, sẽ vì thế mà thay đổi.

Nhưng... nếu không còn mình nữa thì sao? Dương Lăng thong thả tản bộ đến ngồi bên một luống hoa. Y nhìn mê mẩn mấy chú ong mật cần cù đang loay hoay trên những nhụy hoa một hồi lâu, ánh mắt dần dần sáng lên: "Hoa nở hoa tàn tự có quy luật, không lẽ sự phát triển của lịch sử không có quy luật của nó ư?"

Cho dù lịch sử không còn sự tồn tại của y, thì thứ gì nên xuất hiện vẫn cứ sẽ nảy sinh. Mình không phải là nhà phát minh, mà chỉ là người phát hiện sớm cái quy luật vốn dĩ tồn tại này mà thôi. Chỉ cần trong những ngày còn sống, mình cố hết sức thúc đẩy cho quy luật đó phát triển, như vậy, sẽ giống như mình cắm một cột mốc phương hướng mới lên trên quỹ đạo phát triển nguyên bản của lịch sử; mở ra một con đường mới, chôn một hạt giống chứa đựng những quan niệm vô cùng khác lạ vào trong thế lực quan liêu thủ cựu. Khi đó, cho dù không có "nhà tiên tri" mình ở đây, lợi ở đâu thì người ta sẽ bu đến đó, sẽ có những người nối gót mình tiếp bước thúc đẩy quy luật phát triển tự nhiên của xã hội, cứ thế cho đến khi nó hội tụ thành dòng thác lũ khổng lồ không gì cản nổi.

Do sự xuất hiện của y, quá trình này sẽ càng diễn ra sớm hơn và nhanh hơn. Dương Lăng có thể tưởng tượng được, nhờ sự xuất hiện của mình, phao tiêu của chiếc tàu khổng lồ cồng kềnh Đại Minh này sẽ nảy sinh một sự biến đổi nho nhỏ. Sự biến đổi vô cùng nhỏ bé này sẽ đẩy bánh lái của con tàu khổng lồ chệch một chút, khiến hướng đi của nó thay đổi vô cùng to lớn.

Sai một ly đi một dặm. Sau khi con tàu khổng lồ này tiếp tục chạy qua con sông dài mấy mươi năm lịch sử, nó sẽ xảy ra biến hoá long trời lở đất như thế nào đây?

Nghĩ đến đây, ân oán được mất của cá nhân đã bị Dương Lăng vứt bỏ sạch. Y biết, với sức lực của một người, nếu gây thù chuốc oán với cả thiên hạ chắc chắn sẽ không có cách nào hoàn thành được mục đích này. Chiếc bánh ngọt này một mình Dương Lăng ăn không trôi, Nội xưởng nuốt không nổi, vậy phải liên lạc với tất cả lực lượng có thể lôi kéo được để cùng tham dự vào.

So với quan viên triều đình, Đông xưởng, Tây xưởng và Cẩm Y vệ dễ tiếp nhận quan niệm tập đoàn quyền lực này hơn. Nếu lôi kéo bọn họ về phía mình, ba xưởng một vệ liên thủ cũng đủ để chống chọi với tập đoàn quan văn rồi. Huống chi, vị tất tập đoàn quan văn toàn đều là những kẻ ngu muội cổ hủ.

Muốn đoàn kết ba xưởng một vệ, phải đấm trước xoa sau. It ra thì loại người như Vương Nhạc và Phạm Đình sẽ không thể nào hiểu được ý tưởng này của y, cũng sẽ không thể tiếp nhận quan niệm này. Phải áp chế đám người này, thay bằng một đám người "thấy lợi là làm". Hiện giờ Đại Minh không thiếu những tài tử tự kiêu tự mãn nhưng lại thiếu những nhân tài dã tâm bừng bừng. Chính bọn họ sẽ phát huy tác dụng to lớn trong việc thay đổi lịch sử.

Dương Lăng càng nghĩ càng hào hứng, thậm chí Liễu Bưu đã đến trước mặt mà y vẫn không hay. Trông thấy đại nhân đang ngồi trên thềm đá, nhìn chằm chằm vào một đoá hoa tươi, ngẩn ngơ như một kẻ si tình, lúc thì mỉm cười rạng rỡ, lúc thì nhíu mày trầm tư, Liễu Bưu không dám quấy rầy, chỉ bước đến bên cạnh chờ đợi.

Đang suy nghĩ đến nhập tâm chợt thấy có người đến gần, ngẩng đầu nhìn thấy là Liễu Bưu, Dương Lăng không khỏi vui vẻ cười nói:

- Liễu Bưu! Bây giờ ngươi hãy trở về doanh trại, bắt đầu chuẩn bị thu xếp. Ngày mai ta sẽ thỉnh cầu Hoàng Thượng điều Tả tiêu doanh từ Thái Lăng về, mở phủ lập nha môn, càng nhanh càng tốt.

Liễu Bưu thấy y hăng hái, trong lòng cũng cực kỳ hào hứng, gã vội vâng một tiếng rồi cấp tốc trở về quân doanh.

Hàn Ấu Nương nghe nói tướng công đã về, thấy trời đã quá trưa, sợ y vẫn chưa ăn gì, vội buộc váy xắn tay tự mình xuống bếp làm một bát bánh canh, chần bốn quả trứng, điểm chút dầu mè khô rồi đợi. Nhưng chờ một hồi lâu mà vẫn không thấy y quay về, nàng sai tiểu nha hoàn đến phòng chính xem thử, mới hay tướng công vẫn đang bận việc công. Thế là nàng bèn ngồi trong phòng chờ.

Ngoài cửa sổ, tiếng ve sầu vẫn đang ra rả không biết mệt. Tuy cửa sổ phòng ngủ đều mở rộng nhưng khí trời oi bức không một gợn gió. Canh ba hôm trước Hàn Ấu Nương lại phải dậy sớm đến hoàng cung, đến đêm trở về lại bận bịu với lễ nghi đón hai vị muội muội vào nhà nên ngủ trễ. Hiện giờ nàng cũng đã mệt mỏi lắm rồi, chống cằm chờ được một lát thì bất giác ngủ thiếp đi.

Dương Lăng vui vẻ quay về phòng ngủ, nhìn thấy chỉ có Ấu Nương đang ngồi trong phòng, hai tay chống cằm, rèm mi cụp xuống, bộ dáng trông thật hồn nhiên rất đáng yêu. Y liền vội rón rén, từ từ bước đến trước mặt nàng.

"Xuân xanh đôi tám yêu kiều, như bông thược dược mỹ miều dáng tiên". Tuy đã xuất giá lấy chồng, song Hàn Ấu Nương trông vẫn như một cô bé to xác. Nàng ngủ khép chặt hàng mi, đôi môi đầy đặn đỏ hồng trề ra quyến rũ lòng người, như thể đang lặng thầm mời mọc tướng công.

Dương Lăng lặng lẽ hôn trộm lên môi nàng. Đang mơ mơ màng màng ngủ, bỗng nhiên Hàn Ấu Nương cảm thấy miệng mình bị người ta hôn một cái nhẹ. Đây nào phải chuyện đùa, nàng kinh hoảng mở bừng mắt, nắm tay nhỏ nhắn vung lên theo phản xạ có điều kiện.

Sớm biết vị Cáo Mệnh phu nhân của mình có sức sát thương như thế nào rồi, nên vừa tập kích thành công, Dương Lăng đã lập tức lách mình về phía sau, chạy về phía cửa cười nói:

- Đừng đánh! Đừng đánh! Đánh bản lão gia bị thương thì người đau lòng sẽ là nàng đó.

Nhận ra tướng công, Hàn Ấu Nương không khỏi thở phào một hơi. Nàng quẹt môi, cằn nhằn:

- Xem chàng kìa! Có chút nào dáng vẻ lão gia đâu chứ? Người ngoài trông thấy sẽ cười cho!

Dương Lăng cười đáp:

- Sợ gì? Kẻ nào trước mặt vợ nhà mà vẫn còn ra bộ tịch lão gia mới là người có bệnh.

Y sáp lại ngồi cạnh Ấu Nương, nói tiếp:

- Ấu Nương! Tướng công có ít chuyện muốn thương lượng cùng nàng.

Hàn Ấu Nương đẩy một chiếc bát lại, mở nắp, đưa y đôi đũa:

- Còn nóng đấy, tướng công ăn trước một miếng đi! Trong nhà có chuyện gì mà không do chàng làm chủ? Chuyện gì mà còn phải thương lượng vậy?

Dương Lăng cầm đũa gắp miếng trứng chần nóng hổi thơm phức lên cắn một miếng, rồi úp mở:

- Chuyện này nên báo cho nàng biết một tiếng. Ấu Nương! Tả tiêu doanh sắp được rút về kinh, toàn bộ sẽ được bố trí gia nhập Nội tập sự xưởng(*), ta không muốn mấy người nhạc phụ làm việc trong xưởng vệ.

(*: gọi tắt là Nội xưởng; có nhiệm vụ giám sát Đông xương, Tây xưởng, Cẩm y vệ)

Hàn Ấu Nương nghe vậy liền trở nên căng thẳng, vội vã hỏi:

- Tướng công! Nhưng mà... Nhưng mà cha và đại ca làm việc không chăm chỉ sao?

- Hả? Vớ vẩn! Cái đầu ngốc nàng suy nghĩ gì vậy?

Dương Lăng giơ đũa cốc yêu lên đầu Ấu Nương một cái, giải thích:

- Ấu Nương! Đối với dân gian, xưởng vệ là loại người "giậm chân một cái, bốn bề run rẩy". Nàng nói nó oai phong cũng đúng, nhưng thanh danh thật sự không tốt. Ta không muốn để các vị ấy giao thiệp với đám người đó của xưởng vệ.

Hơn nữa... Đại tẩu hiền như cục bột, khó mà hoà hợp với các nàng, cả ngày ngồi mãi trong nhà như vậy chẳng khác nào bị cầm tù. Đại ca có gánh nặng gia thất, bôn ba bên ngoài cũng bất tiện. Chốc nữa ta sẽ nhờ Tiêu đại nhân ở bộ Lại kiếm giúp cho anh ấy một chức quan trong nha môn bộ Hình, vừa có thể tiếp tục ổn định trong kinh mà phu thê cũng có thể ở chung một chỗ.

Nhị ca bản tính mê võ, thích ở lại trong quân, ta chuẩn bị điều anh xuôi nam xuống Trực Lệ. Về phần nhạc phụ và tiểu đệ, ta định không để hai người có bất cứ liên hệ gì với triều đình. Nàng yên tâm, tướng công làm vậy là có dụng ý, là vì lo liệu cho mọi người đó, hiểu không?

Hàn Ấu Nương nửa hiểu nửa không, song nghe Dương Lăng giải thích xong, nàng tin y đích thực là có ý tốt với cha và anh.

Dương Lăng chuẩn bị dốc hết vốn liếng tất tay một phen, đương nhiên muốn thu xếp đường lui cho cẩn thận. Y để đại ca đến nha môn, nhị ca ở trong quân đội, nhạc phụ và tiểu đệ thì thu mua ít quán rượu và khách sạn để họ Hàn cũng có sản nghiệp ở địa phương. Như vậy cho dù y có thất bại trên con đường làm quan, miễn không phạm vào những trọng tội như phản nghịch thì người nhà và thân quyến sẽ không bị liên lụy. Nỗi khổ tâm này đương nhiên y không tiện nói rõ cho Ấu Nương nghe.

Dương Lăng vừa ăn vừa chuyện trò với Ấu Nương. Lúc này Cao Văn Tâm bưng chiếc khay từ bên ngoài bước vào, đặt lên bàn, quay sang vái chào Dương Lăng rồi nói:

- Lão gia về thật đúng lúc! Tiểu tỳ dựa theo phương thuốc xưa đã bào chế được bài thuốc cường thân kiện thể, đang chờ người về đây. Lão gia bận bịu việc công cả ngày, hằng ngày dùng thuốc này sẽ rất bổ ích cho thân thể. Mời lão gia tranh thủ dùng nóng.

Dương Lăng biết cái gọi là "cường thân kiện thể" nhất định là bài thuốc nàng dùng để trị chứng vô sinh của mình. Y cầm lấy bát thuốc, vừa uống một ngụm vào thì suýt nữa phun hết cả ra. Y nhăn nhó:

- Mỗi ngày đều phải uống thứ thuốc nước đắng nghét như vầy sao? Có thể bào chế thành thuốc viên để ta nuốt cả viên được không? Như vầy thực đắng quá đi!

Cao Văn Tâm cố nén cười, đáp:

- Là tiểu tỳ hồ đồ rồi! Hôm nay vội vã bào chế cho nên vẫn chưa kịp chế thành thuốc viên, lão gia ráng chịu khó dùng trước vậy. Lần sau tiểu tỳ sẽ làm.

Dương Lăng đành phải miễn cưỡng uống hết bát thuốc đắng nghét, rồi vội vàng súc miệng ngay. Cao Văn Tâm lại lôi ra một cuộn vải bày lên trên bàn, trên cuộn vải cắm chi chít những cây ngân châm. Cao Văn Tâm hơi mất tự nhiên nói:

- Xin lão gia nằm sấp trên giường, cởi áo ra... để trần phần lưng, tiểu tỳ còn phải châm cứu cho người một lát.

Vốn Dương Lăng không ngại trần truồng trước mặt bác sỹ nữ, nhưng phong tục thời này không giống với thời hiện đại, y không thể không kiêng kị. Y không khỏi ngại ngùng hỏi:

- Chuyện này... có bất tiện không? Chỉ uống thuốc thôi không được sao? Ta lại không có bệnh gì, cùng lắm... cùng lắm thì thân thể của người đọc sách hơi yếu một chút thôi.

Cao Văn Tâm mỉm cười nói:

- Đương nhiên lão gia không có bệnh, nhưng bệnh không kị thuốc đâu à. Lão gia yên tâm, sẽ không đau chút nào đâu.

"Ơ... không có bệnh... bệnh không kị thuốc?" Dương Lăng nghe mà thấy lùng bùng, may mà Ấu Nương cũng ở trong phòng nên đỡ lúng túng hơn. Y đứng dậy đến bên giường nằm sấp xuống, vén áo bào và áo trong lên, để trần lưng và hông. Cao Văn Tâm ngồi bên cạnh, nhón lấy ngân châm, châm một cây vào phần lưng y, mỗi lần rút ra liền dùng ngón tay day nhẹ lên huyệt vị một lát.

Lúc nàng châm cứu Dương Lăng không hề cảm giác đau nhức chút nào. Nhưng khi nàng dùng ngón tay day lên huyệt vị, y lại có cảm giác tê nóng. Một lúc sau y nghe Cao Văn Tâm nói với Hàn Ấu Nương:

- Phu nhân! Xin... xin cởi giúp quần áo của lão gia xuống... xuống thêm một chút.

"Hả?"

Không đợi Dương Lăng phản đối, sớm được nghe Cao Văn nói đến việc châm cứu huyệt đạo nên Hàn Ấu Nương đã kéo tuột quần của y xuống. Hai cái mông "bầu bĩnh" tròn tròn mềm mại được "bảo dưỡng tốt" của Dương đại tú tài liền lộ hẳn ra, khiến Dương Lăng nằm đờ tại chỗ, căng thẳng đến độ rắm cũng không dám đánh. Ừm... thực sự là không dám đánh!

Khuôn mặt trắng trẻo như ngọc của Cao Văn Tâm cũng đỏ tía, có nguy cơ sắp vỡ mạch máu. Nàng vội hít một hơi, khẩn trương cầm cây ngân châm ngắm trúng vị trí, vê tròn cắm vào đốt xương cụt, rồi quay mặt đi nói với Hàn Ấu Nương:

- Phu nhân, xin hãy vê nhẹ ngân châm, đến khi nào lão gia cảm thấy... cảm thấy khó chịu thì ngừng.

"Cảm thấy khó chịu thì ngừng là cái gì vậy?" Dương Lăng đang khó hiểu, Hàn Ấu Nương đã rụt rè bảo:

- Muội... muội không dám hạ thủ. Cha nói huyệt vị không thể đụng bậy vào, chỗ đó nhẹ thì tàn phế, nặng thì vong mạng. Tỷ tỷ, hay là tỷ cứ làm đi!

Cao Văn Tâm đành phải xoay người lại dùng hai ngón tay giữ lấy cây ngân châm, ba ngón tay còn lại khẽ rung theo quy luật.

Dương Lăng chỉ cảm thấy nơi bị châm tê tê, cả người lại vô cùng thoải mái, tựa như được mát-xa. Liền sau đó một luồng khí nóng từ xương cụt ở đáy xương chậu xông thẳng lên dương căn (gốc dương vật). Mới đầu y còn cố kiềm chế được, song chỉ lát sau "thằng nhỏ" đã dựng thẳng lên. May mà y nằm sấp trên giường nên cái vật xấu xa ấy được che khuất. Lúc này Dương Lăng mới hiểu nghĩa cái gì gọi là "cảm thấy khó chịu", y vội kêu cuống lên:

- Khó chịu rồi, khó chịu rồi! Tướng công khó chịu rồi! Ừ ừ! Lão gia cảm thấy khó chịu rồi.

Cao tiểu thư không nén được xấu hổ bèn rút châm ra. Thực sự Hàn Ấu Nương không dám qua loa chuyện quan trọng hàng đầu này của nhà họ Dương, nàng thấy hình như còn thiếu một trình tự gì đó, liền vội hỏi dồn:

- Văn Tâm tỷ tỷ, không cần xoa bóp à?

Cao Văn Tâm ngập ngừng:

- Xoa bóp thì vẫn phải xoa bóp! Chuyện này không có gì nguy hiểm cả, chỉ cần nhìn nhận đúng huyệt đạo là được. Hay là phu nhân... phu nhân làm đi!

Lúc này Hàn Ấu Nương mới nhớ ra là để người ta xoa bóp cho tướng công mình thì thực sự là làm khó người ta nên không khỏi che miệng cười, nói với Dương Lăng:

- Tướng công đừng động đậy! Ấu Nương xoa bóp cho chàng một chút rồi hẵng nói.

Dương Lăng nào dám động đậy? Cái chỗ đó của y vẫn không ngừng "lắc đầu vẫy đuôi", bảo y đứng dậy y cũng không dám nữa là. Y nghiêm chỉnh nằm sấp tại chỗ, nghĩ thầm trong bụng: "Trị liệu mỗi ngày? Ý... sau này... bản lão gia phải tắm rửa mỗi ngày, nhất định phải tắm rửa mỗi ngày!!"

*****************

Không khí oi ả đã hoàn toàn tan biến. Đến hoàng hôn, trời bỗng nổi gió to rồi trút xuống một trận mưa như thác. Cơn mưa này tới mau, đi cũng mau, tuy rằng mưa như trút nước nhưng chỉ nửa canh giờ sau thì đã dứt. Mâ tan mưa tạnh, trên bầu trời xanh thẳm chỉ còn lại ráng chiều rực rỡ.

Những cánh sen trong ao nước nhà họ Dương trông như những chiếc mâm ngọc mới được gột rửa, vài chú ếch ngồi xổm bên trên cao hứng ca hát. Từng hạt nước trong vắt đọng trên nụ sen xinh tươi nhỏ xuống mặt ao tạo nên những gợn sóng lăn tăn. Một tầng sương mù mỏng manh bọc quanh những lá sen vươn cao, tỏa hơi nước mát rượi.

Hai tiểu nha hoàn đang ngồi tán gẫu trên thành lan can bằng đá đã được lau khô nơi hành lang uốn khúc, chân đong đưa trên mặt nước. Một nha hoàn áo xanh nói:

- Đêm nay lão gia sẽ động phòng. Nếu thời tiết vẫn nóng đến độ đi đứng cũng đổ mồ hôi, cho dù Ngọc phu nhân và Tuyết phu nhân xinh đẹp tựa thiên tiên, sợ rằng lão gia cũng chẳng có hứng thú động đậy gì đâu. Muội xem, ông trời liền trút ngay một trận mưa đúng lúc, ta phải nói thực, lão gia của chúng ta là Phúc thần* từ thiên giới hạ phàm, không ai sánh bằng.

(*: vị thần mang lại điều tốt)

Tiểu cô nương có khuôn mặt tàn nhang cười khúc khích đáp lời:

- Nè, cái gì mà động đậy với không động đậy đó? Hình như chuyện gì Thúy Nhi tỷ cũng biết cả nhỉ. Mau khai ra, sao tỷ lại biết mấy chuyện này?

Thị tỳ áo xanh nọ "ý da" một tiếng, tuy mắc cỡ nhưng vẫn tiếp tục đùa nghịch không thôi:

- Chỉ có muội mới không biết à? Muội không hiểu thì sao ta nói muội hiểu ngay được? E rằng muội đã động xuân tình, nên mới xoi mói lời của ta. Muội nói đi, lúc nằm mơ có nghĩ đến không? Hử... hử...

Tiếng cười đùa khúc khích của hai thị tỳ đã kinh động đến "ngài tướng quân" ếch đang phồng bụng một cách oai phong lẫm liệt. Nó trừng cặp mắt ếch dè dặt nhìn quanh, đạp mạnh cặp chân sau, "ộp" một tiếng rồi nhảy tùm xuống ao.

Lúc này, vị Phúc thần Dương đại lão gia được trời giáng xuống trần đang ngồi uống trà trong thư phòng. Ngay sau buổi ăn tối, Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đã thẹn thùng vái lão gia, dâng trà rồi trốn về phòng chờ đợi, còn Dương Lăng vẫn ngồi ỳ uống trà trong thư phòng nhỏ. Tối nay y đã uống hết hai ấm trà, vào nhà xí đến sáu lần.

Ăn tối xong, lúc đầu y chần chừ đứng ngoài cửa phòng đã đóng chặt của Hàn Ấu Nương một lúc, rồi chạy đến trước cửa phòng Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai, cuối cùng lại lủi thủi đến thư phòng ngồi uống trà.

Cưới một lúc hai cô gái vào nhà đã là một sự thật không thể chối cãi. Dương Lăng chần chừ do dự không phải là vì muốn làm bộ làm tịch cho Ấu Nương xem, mà vì trong lòng y tuy đã tiếp nhận sự thật này, nhưng sự giáo dục và ảnh hưởng được tiếp thu từ tấm bé đã ăn sâu vào tâm thức y. Muốn phá bỏ lớp phòng ngự này của con tim, yên tâm thoải mái hưởng thụ niềm hạnh phúc "thê thiếp đầy nhà", nào phải là chuyện tỉnh bơ, dễ dàng như không?

Ngoài trời đã tối. Đã cưới về nhà, trở thành vợ của mình rồi, còn có thể tiếp tục ra vẻ khác người hay sao? Dương Lăng gom hết dũng khí đến trước phòng hai người, ngó trái, nhìn phải như một tên trộm, lưỡng lự không biết nên đột nhập vào phòng ai trước. Bỗng y nghe thấy trong phòng Ngọc Đường Xuân vang lên một tiếng "coong".

Dương Lăng bèn thừa cơ đi tới đẩy cửa ra nhìn. Y thấy một chiếc gương đồng đang lăn lông lốc trên mặt đất, Ngọc Đường Xuân đang đuổi theo sau. Thấy y bước vào, thoạt tiên nàng lộ vẻ mừng rỡ, kế đó đỏ bừng hai má, bối rối thẹn thùng đứng ỳ tại chỗ.

Dương Lăng lượm chiếc gương đồng lên đưa cho nàng, ngạc nhiên hỏi:

- Làm sao mà... đánh rơi cả gương xuống đất thế?

Vừa rồi Tô Tam ngó qua khe cửa thấy lão gia đứng bên ngoài lượn qua lượn lại như u hồn bất tán nhưng thủy chung không dám bước vào phòng nào, thế là nàng nhất thời lanh trí nghĩ đến biện pháp "lấy gương dụ người" này. Không dám nói thật, nàng vội e thẹn cầm lấy chiếc gương, khẽ đáp:

- Nô gia... Nô gia nhất thời sơ ý...

Cũng không biết tiểu cô nương này vô tình hay cố ý, lúc đưa tay ngọc đón lấy chiếc gương, bàn tay thuận thế khẽ chạm vào tay Dương Lăng. Bàn tay nhỏ nhắn của nàng mịn màng mềm mại, ngón tay thon dài linh hoạt trơn nhẵn như ngọc chuốt, khiến Dương Lăng nhìn mà tim đập thình thịch.

Ngọc Đường Xuân bẽn lẽn bước tới khép cửa lại, lúng túng chận tay lên cửa, cố trấn tĩnh lại rồi nói:

- Mời lão gia ngồi, để nô gia châm trà cho người.

Dương Lăng vội ngăn:

- Ngọc Nhi! Không cần đâu. Ta... ta đã uống trà cả đêm ở thư phòng rồi.

Nghe thấy thế Ngọc Đường Xuân bật cười, khuôn mặt trắng ngần lập tức ửng đám mây hồng. Nàng nhẹ nhàng rút tay về, mỉm cười nói:

- Vậy thì... Lão gia, sắc trời... sắc trời cũng không còn sớm nữa. Để nô gia cởi áo cho người nghỉ ngơi nhé.

Trên bàn trang điểm là một cặp nến "HỶ" đỏ đang cháy sáng, Ngọc Đường Xuân vận quần áo lụa đào giản dị, khi nàng bước đi, dáng người uyển chuyển trông như một bức tranh mỹ lệ.

Hàn Ấu Nương non nớt thuần khiết, tươi mát trẻ trung tựa như cô bé láng giềng, còn khí chất cổ điển của Ngọc Đường Xuân lại khiến nàng trông giống như người ngọc trong tranh, mờ ảo không thật. Hai người sở hữu hai vẻ đẹp hoàn toàn khác biệt.

Dương Lăng nhìn mà trong lòng nóng ran, cầm lòng không được bèn ôm choàng lấy nàng. Ngọc Đường Xuân vừa mới cởi dây thắt lưng giúp y thì bị y ôm lấy, bộ ngực mềm mại nhởn nhơ vừa lọt vào tay y, đôi mắt lóng lánh như mặt nước hồ lập tức trở nên mờ mịt, cả người mềm nhũn tựa vào lòng y.

Dương Lăng "khám phá kỹ lưỡng" người ngọc trong lòng. Ngọc Đường Xuân ở trước mặt và hình tượng vai đào đeo cùm lê xích trên sân khấu hát khúc "Tô Tam đã rời khỏi huyện Hồng Động" kia thay đổi luân phiên, thuỷ chung không cách nào hợp chung lại thành một hình ảnh trong lòng Dương Lăng.

Đúng vậy, bọn họ không giống nhau. Ngọc Đường Xuân trên sân khấu là một cô gái số khổ rơi vào chốn phong trần, còn số mạng của người con gái xinh đẹp mê người y đang ôm vào lòng đây đã biến đổi lớn. Trừ cái tên ra, nàng và cô Ngọc Đường Xuân đó đã không còn chút quan hệ nào. Nhưng nàng sẽ hạnh phúc không? Hay là sẽ lại đón nhận một nỗi bi hoan ly hợp khác?

Trong lòng Dương Lăng dâng lên một niềm yêu thương kèm ray rứt. Tô Tam được y ôm vào lòng, cõi lòng dạt dào niềm vui và sự e thẹn, nhắm mắt đón chờ giây phút hạnh phúc. Nhưng chờ mãi mà không thấy phu quân có động tĩnh gì, nàng ngạc nhiên mở mắt nhìn.

Thấy nam nhân mà sau này mình sẽ hầu hạ cả đời dường như không hề hứng thú gì, tâm tư lơ đãng tận đâu đâu, trong lòng Ngọc Đường Xuân không khỏi dâng lên một nỗi niềm u uất pha lẫn không cam lòng: "Chẳng lẽ dung mạo của mình không thể khiến phu quân vừa ý sao?"

Nàng cắn môi, ai oán liếc Dương Lăng rồi lùi lại vài bước, đưa tay rút cây trâm ngọc cài sau đầu. Mái tóc mềm mại lập tức trút xuống khiến khuôn mặt thanh tú của nàng đột nhiên tăng thêm vài phần quyến rũ. Thấy thế, Dương Lăng liền lập tức hoàn hồn.

Ngọc Đường Xuân mỉm cười duyên dáng hài lòng, dịu dàng bước đến bên giường, cởi đôi hài cong. Nàng lên giường, tháo tấm màn mắc hai bên chiếc giường hoa xuống, cả người như bị nhốt vào trong một vầng sương mù đỏ tươi.

Bóng dáng mỹ lệ bên trong vầng sương đỏ hiện rõ những đường cong xinh đẹp. Dương Lăng nhìn nàng sau tấm màn đang gỡ nhẹ vạt áo, từ từ trút bỏ áo lót, quỳ lên cởi váy lụa. Mỗi cái vươn tay, ưỡn ngực đều toát lên vẻ đẹp dịu dàng, u nhã. Trong ánh sáng mờ ảo, thân thể mềm mại của nàng khiến người ta phải phát cuồng thấp thoáng hiện ra, cong có cong, tròn có tròn, vun cao có vun cao...

Dưới ánh nến đỏ nhạt, làn da mịn màng trơn nhẵn của nàng nổi lên một quầng sáng nhàn nhạt. Hình ảnh mỹ lệ đằng sau tấm màn thực khiến người ta hít thở không thông. Ngọc Đường Xuân với hai tay ra sau đầu, hất mái tóc dài lên, rồi như một ma nữ quyến rũ, nàng nhanh nhẹn ngả người xuống giường, kéo tấm chăn gấm phủ lên người, cất tiếng dí dỏm:

- Hôm trước nô gia đã phạm khuôn phép. Đêm nay xin đại lão gia hãy chấp hành gia pháp!

Dương Lăng bước tới trước giường, vén rèm lên. Trên mặt chăn gấm hồng thêu uyên ương xanh biếc là một tấm thân mềm mại như dòng suối quyến rũ lòng người. Mái tóc dài đen nhánh xoã trên lưng như một đám mây, bên dưới lờ mờ lộ ra làn da trắng ngà như ngọc, cặp đùi ngọc tròn trịa đã bị chăn gấm che đi. Đập vào tầm mắt và không hề bị che đậy chỉ có một bờ mông thơm uốn lượn, tròn lẳn và trắng ngần, tựa như mảnh ruộng màu mỡ phì nhiêu ấy...

Dương Lăng nhìn đến hoa mắt, mất cả tự chủ. Cuối cùng dục vọng trong lòng đã lấn át một chút do dự và thương cảm còn lại trong lòng, y phóng người lên giường hoa.

Bóng nến đong đưa sắc hồng. Trên chiếc giường hoa bằng gỗ tử đàn chạm trổ tinh tế, tấm màn run rẩy như dòng suối uốn lượn. Những tiếng rên rỉ thỏ thẻ và yêu kiều theo nhau tuôn ra từ trong màn hoa. Từng vần từng tiếng tựa như dòng suối mát chảy róc rách.

- Lão... lão gia..., chàng thương tình chút đi mà. Nô gia mới là lần đầu, chịu không nổi lão gia trừng phạt...

Từ bóng người nhấp nhô uyển chuyển, tiếng nỉ non của Ngọc Đường Xuân nghe như một cơn gió dịu dàng, mơ hồ kèm theo tiếng thút thít.

Giọt nến hoá thành màu đỏ sặc sỡ, rực rỡ và tươi đẹp hệt như người con gái trên giường. Không biết qua bao lâu, tiếng rên rỉ nỉ non khe khẽ ấy bỗng nhiên trở nên gấp gáp và vui sướng. Cuối cùng, chim hót suối reo, róc rách rồi ngừng, giường hoa đã yên tĩnh trở lại...

Thì thầm an ủi một lúc, qua một lúc sau, có lẽ do trong màn oi bức, Dương Lăng kéo tấm màn bên giường lên. Trên chiếc giường hoa xuân sắc vô biên, thân ngọc Ngọc Đường Xuân nằm ngang, cánh tay ng sen duỗi nhẹ dưới cổ Dương Lăng, khuôn mặt xinh xắn mướt mồ hôi ngập tràn niềm vui sướng và thoả mãn. Nàng nép vào ngực Dương Lăng, thì thầm trong hạnh phúc:

- Lão gia, Ngọc Nhi rất yêu chàng, chàng đã khiến Ngọc Nhi lên mây rồi... Ơ... Đừng cử động mà, người ta muốn ôm chàng, ôm chàng...

Âm thanh càng lúc càng nhỏ. Sau khi triền miên lên đỉnh, Ngọc Đường Xuân đang uể oải nép vào lòng Dương Lăng, trên môi còn mang theo nụ cười ngọt ngào, tựa chừng đã hơi mỏi mệt. Dương Lăng đét lên bờ mông căng tròn của nàng một cái, cô nàng chỉ dùng giọng mũi phát ra một tiếng kháng nghị mê hồn, thân thể rã rời, ngay cả ngón tay cũng lười chẳng muốn cử động.

Nàng vùi đầu vào lòng Dương Lăng, mái tóc mượt mà như mây phủ lên tấm lưng trần trơn như thoa mỡ. Đen có, trắng có, rất nhạt mà lộng lẫy. "Ôi! Có hiền thê mỹ thiếp như vầy, có cho vương hầu cũng không đổi." Nghe tiếng thở nhẹ nhàng như của chú mèo nhỏ từ trong vòng tay mình từ từ vang lên, Dương Lăng hài lòng suy nghĩ.

Nến đỏ cũng đã cháy hết, tim nến nổ lốp đốp, thoạt mờ thoạt tỏ. Trong trời đêm tĩnh mịch, không biết từ đâu đột nhiên vọng đến những tiếng than khẽ. Đang đắm chìm trong cảnh bồng lai, vừa định gối mỹ nhân say giấc nồng, tim Dương Lăng liền đập đánh thịch, y sực nhớ đêm nay vẫn còn một lần động phòng nữa...

(Hết quyển ba)

Chú thích:

Trích từ một hí khúc về Ngọc Đường Xuân (Tô Tam). Lời rằng:

苏三离了洪洞县,

将身来到大街前。

未曾开言心好惨,

过往君子听我言。

Hán Việt:

Tô Tam li liễu Hồng Động huyền,

Tương thân lai đáo đại nhai tiền。

Vị tằng khai ngôn tâm hảo thảm,

Quá vãng quân tử thính ngã ngôn。

Đến năm 1920, tại huyện Hồng Động, tỉnh Sơn Tây vẫn còn lưu hồ sơ vụ án Tô Tam.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 122: Xưởng đốc ra quân

Không biết từ khi nào, ngoài trời lại đổ một cơn mưa nhỏ. Mưa tí tách rơi, đáp xuống những tàu lá chuối dưới khung cửa sổ phát ra âm thanh lộp bộp. Bỗng hai tiếng đàn gảy "tính tang" vang lên cùng một giọng hát ngọt ngào khẽ ngân nga trong đêm mưa sâu thẳm:

Nén nhìn bướm lượn hiên bên,

Run cành sẽ hỏi thệ nguyền biết không?

Nương tràn tâm ý gió đông

Vì ai nên bệnh, nên lòng ủ ê.

Gió đưa bướm mối mai về,

Mà nơi phòng kín áo thề chửa may.

Bàng quan mấy kẻ đâu hay

Chờ ai giải khối tình này người ơi!

Lần đầu khoác chiếc áo cưới ngồi ngóng đợi bên giường, thấy sắc trời càng lúc càng tối mà lão gia dường như không muốn đến, trong lòng Tuyết Lý Mai thực sực đã hốt hoảng. Nàng với Tô Tam vốn có tình thân như thủ túc nên không hề muốn tranh sủng. Nhưng dù xinh tươi quyến rũ thì nét đẹp hoa thơm cỏ lạ ấy của nàng sao có thể sánh với vẻ tuyệt sắc nhân gian vạn người không một của Ngọc Đường Xuân đây?

Cho dù địa vị không bằng Ấu Nương, nhan sắc không bằng Tô Tam thì tiểu cô nương cũng không lo lắm mà chỉ sợ Dương Lăng vì bị lệnh vua ép buộc mới nạp nàng về chứ thực ra trong lòng không hề thích. Ngồi cô quạnh cho đến khi nến hồng cháy hết, Tuyết Lý Mai thương xót cho bản thân mình, cầm lòng không được bèn ôm lấy đàn, vừa khẽ gảy vừa hát, nghe tiếng mưa rả rích bên ngoài cửa sổ mà trong lòng đau khổ không thôi.

Ngọc Đường Xuân tỉnh dậy từ trong mộng đẹp, nghe tiếng ca của Tuyết Nhi mà thấy thẹn muốn chui xuống đất, vội vàng ngọ nguậy tính ngồi lên để giúp lão gia vận quần áo. Vốn Dương Lăng sớm đã ngồi dậy mặc y phục xong, thấy nàng lần đầu đón nhận cơn mưa móc, dáng vẻ mệt mỏi yêu kiều, bèn vội giữ lấy bờ vai thơm mềm, kéo tấm chăn mỏng khoác lên cho nàng, rồi nhẹ giọng bảo:

- Trời mưa rồi, đừng để nhiễm lạnh, nghỉ ngơi sớm chút đi.

Ngọc Đường Xuân đang lõa phơi dáng ngọc, thấy ngồi dậy cũng hơi mất ý tứ bèn nghe lời nằm xuống. Dương Lăng quan tâm như vậy khiến nàng cảm thấy ấm áp trong lòng. Nàng hé cánh môi đào mỉm cười thật ngọt ngào, thẹn thùng gật đầu.

- Nén nhìn bướm lượn bên hiên...

Tiếng ca lại cất lên trong đêm. "Con bướm hái hoa" Dương Lăng vội vàng cuống quít mở cửa phòng đi ra...

***

Một đêm hai lần điên cuồng, đáng lý nên ngủ không dậy mới phải, song trời vừa tờ mờ sáng thì Dương Lăng đã tỉnh giấc, có lẽ do khoảng thời gian này y đã quen với việc dậy sớm vào chầu. Trong khi đó, Tuyết Lý Mai vốn quen với việc thức khuya dậy sớm lại đang ngủ say sưa. Dáng ngủ của nàng thật sự không được tốt. Quấn lấy nhau cả đêm khiến cả tấm chăn mỏng bị nàng cuộn hết lên người, chỉ để lộ một làn da trắng mịn, trên khuôn mặt được trang điểm nhẹ vẫn lờ mờ hai vệt nước mắt vừa khô.

Tuyết Lý Mai tự biết tư sắc và phong thái không bì được với Ngọc Đường Xuân. Để lấy lòng lão gia, tuy là lần đầu phá thân nhưng nàng đã nén sự xấu hổ mà rụt rè dốc sức giở mọi thủ đoạn quyến rũ mà nàng nghe được ở Thì Hoa Quán. Chỉ mong lão gia sung sướng vui vẻ mà trong tim có thể dành một vị trí cho nàng.

Trong ấy tuy vẻ kiều diễm không diễn đạt được thành lời nhưng chỉ riêng tinh thần "cần cù", "hết lòng cầu thị" của tiểu nha đầu này đã đủ khiến cho tất cả dâm thần phải cảm động rồi. Nếu không chú ý đến vệt máu đỏ và vẻ mặt non nớt lúc giao hoan mà chỉ nhìn vào các tư thế thay đổi không ngừng của nàng thì Dương Lăng có lẽ đã tưởng nàng là kẻ thạo nghề trong chốn phong nguyệt.

Thân thể Tuyết Lý Mai mềm mại, eo thon uyển chuyển gọn gàng, da dẻ mịn màng... đặc biệt là làn da ngọc ngà trắng mịn ấy như đang ửng ráng mây hồng, tinh khôi không tì vết. Lúc động tình, nàng nhíu hàng chân mày, hân hoan như chực khóc. Khuôn mặt thuần khiết khi đó phơi bày một nét quyến rũ lạ thường khiến Dương Lăng sinh ra một loại khoái cảm muốn ức hiếp, lăng nhục. Đêm phong lưu này quả là sung sướng!

***

Nên khai nụ thì đã khai nụ, phải khai trương cũng sẽ khai trương.

Nội xưởng được thành lập, mọi con mắt trong và ngoài triều đều dồn về nó. Thế nhưng nha môn Nội xưởng nằm ngoài Tây Trực môn không bỏ tiền ra mua đất mà lại tổ chức cho quan binh Tả Tiêu doanh - vốn vừa mới phục dịch ở Thái lăng nay lại lắc mình biến thành những binh sỹ nha sai - tự lực cánh sinh xây dựng nha môn trong sơn cốc phía sau Cao Lão trang, thật khiến người ta cười rụng rớt quai hàm.

Đông xưởng lo Dương Lăng sẽ lập tức tiếp nhận việc thuế giám, thế là Phạm Đình và bốn đại thủ lĩnh thái giám của ty Lễ Giám cùng ngồi lại với nhau, nghĩ ra đủ loại phương kế để định gây khó dễ, nhưng chờ mãi vẫn không thấy Dương Lăng đến tìm. Quá đỗi ngạc nhiên, bọn họ bèn phái người đi nghe ngóng thì được biết Dương Lăng đã chiêu nạp gã "Thiên hộ giữ cổng" người Sắc Mục bất tài vô dụng trong Cẩm Y vệ là Vu Vĩnh làm Nhị bộ đầu, hiện đang dẫn một đám binh sỹ liên lạc với hàng xe, hàng ngựa vận chuyển đường dài khắp nơi để hợp tác, thành lập cơ cấu tình báo cho Nội xưởng.

Nghe xong tin này, Phạm Đình suýt cười đến tắt thở, bao sự trọng thị và e dè với Dương Lăng tức thì tan theo mây khói. Nếu không phải hai bên đang ở thế đối lập với nhau thì lão cũng muốn thông cảm cho Dương Lăng, hành động lần này đã thật sự làm mất hết mặt mũi của xưởng vệ. Nếu Dương Lăng tạm thời không dám tìm đến cửa để tiếp nhận ty Thuế Giám thì mình cũng không cần e ngại mà "hào phóng" một chút. Phạm Đình bèn hạ lệnh, bảo nha sai Đông xưởng tạm thời không cần gây phiền phức cho Nội xưởng, để xem thử Dương Lăng có thức thời hay không rồi sẽ tính tiếp.

Bọn quan văn nghe nói ngoài Đông xưởng, Tây xưởng và Cẩm Y vệ, không ngờ bây giờ Hoàng Thượng lại lập thêm Nội xưởng, thế là nhao nhao yêu cầu Tam đại học sỹ thừa lúc Nội xưởng chưa đứng vững mà phát động tất cả quần thần trong triều "lấy ngòi bút làm vũ khí", thúc giục Hoàng Thượng loại bỏ xưởng này.

Tạ Thiên nghe vậy thì hơi động lòng, bèn ngầm hẹn Lưu Kiện và Lý Đông Dương để thương nghị. Khi Lưu Kiện nghe nói đến hành động yếu ớt của Dương Lăng, cũng không cảm thấy Nội xưởng có thể trở thành mối hoạ lớn, nhưng nếu có thể phát động lực lượng thần tử của triều đình diệt nó tận gốc, ắt sẽ có thể khiến cho hai xưởng Đông, Tây và Cẩm Y vệ có điều cố kỵ, không dám can dự làm loạn triều chính nên cũng vui vẻ tỏ ý tán thành.

Nhưng Lý Đông Dương lại trầm ngâm thật lâu, kề cà không nói lời nào. Tạ Thiên không nhịn được bèn cảm khái nói:

- Tân Chi, tôi biết ông rất có hảo cảm với Dương Lăng đó, thậm chí có rất nhiều kỳ vọng vào y.

- Chúng ta đều đã già rồi, còn có thể tận tâm, tận lực cho triều đình bao năm nữa chứ? Nếu như có vài vãn bối đủ tài lẫn đức có thể hết lòng phò tá Hoàng Thượng, đám lão thần chúng ta cũng không phụ lòng tiên đế, không phụ lòng với bá tánh lê dân rồi. Nhưng mà, Dương Lăng và đám lộng thần bên cạnh Hoàng Thượng xưng bạn xưng bè, nay lại mưu cầu lãnh đạo Nội xưởng, rõ ràng lòng lang dạ thú, chẳng lẽ ông còn tin y sẽ là kẻ trung lương ư?

Lưu Kiện cũng không vui, nói:

- Tân Chi, tôi biết ông trông đợi vào y rất nhiều. Tuy tài cán y không bằng Dương Đình Hoà, Dương Nhất Thanh, nhưng lại là kẻ được Hoàng Thượng tin sủng nhất. Nếu như y một lòng vì nước, chúng ta đương nhiên không ngại mà nâng đỡ cho y, nói không chừng bản triều có thể giống như "Tam Dương nắm quyền" thời Tuyên Đức, lại sản sinh ra thêm "Tam Dương tài giỏi". Nhưng nay nghe lời nói, xem hành động của y, người này tuy chưa hẳn đại gian đại ác, song tuyệt không giống như bề tôi trung hiền. Ông đừng làm việc theo cảm tính nữa.

Lý Đông Dương mỉm cười nói:

- Hai vị đại nhân cho rằng tôi không nỡ cắt đứt tiền đồ của y sao? Ha ha ha, tôi đang nghĩ, trong triều có Nội xưởng và không có Nội xưởng thì cái nào có lợi hơn.

Tạ Thiên không đồng ý, nói:

- Tân Chi, ông hồ đồ rồi sao? Ông nói xem, xưởng vệ đã làm được việc gì có ích cho triều đình, cho dân chúng rồi? Chẳng lẽ có hai xưởng một vệ tranh quyền đoạt lợi còn chưa đủ, còn muốn đẻ thêm một con ác hổ sao?

Lý Đông Dương khẽ cười nói:

- Chẳng lẽ Tạ đại nhân đã quên nơi mà con hổ Nội xưởng này chằm chằm giương mắt vào chính là ty Thuế Giám sao?

Lưu Kiện và Tạ Thiên nghe xong, ánh mắt chợt sáng lên, Tạ Thiên buột miệng nói:

- Hai hổ tranh đấu...

Lưu Kiện do dự một chút rồi nói:

- Tôi thấy Dương Lăng né tránh khắp nơi, không giao tranh cùng Đông xưởng. Giao ty Thuế Giám cho Nội xưởng là khẩu dụ của Hoàng Thượng, có thánh chỉ trong tay mà y cũng không dám đi mở miệng với Vương Nhạc, chẳng phải Tân Chi đã quá trông đợi ở y rồi sao?

Lý Đông Dương cười lớn rồi nói:

- Lão đại nhân à, ông thấy Dương Lăng ngày thường hành sự, tuy được vua sủng ái mà vẫn biết khiêm tốn. Nhưng ông quên phần kiến thức, tâm cơ nọ của y tại Kinh Diên đã khiến những vị đại nhân của cả triều muốn làm khó y một phen cũng phải cứng họng à? Tâm cơ và kiến thức của người này đủ thấy y không phải người thường. Sở dĩ tôi đây hiểu không thấu y là bởi vì y rất được ơn vua, vốn không cần cúi đầu để gia nhập Thần Cơ doanh.

- Đương nhiên nếu như y lòng nhiều dã tâm, muốn đoạt lấy hoặc được bổ ra vùng biên ngoại làm quan to hay tướng soái, chúng ta sẽ không khoanh tay đứng nhìn. Lạ là lạ ở chỗ dường như y lại gặp sao yên vậy, không hề có dã tâm.

- Nếu y vốn ẩn nhẫn như vậy, đã không lộ tài năng mà giờ lại khua chiêng gióng trống, sốt sắng với việc thiết lập Nội xưởng nên tôi mới không tin y sẽ bỏ qua vật sờ tay vào là bỏng như cái Thuế Giám này.

Sau đó ông ta mỉm cười, như đã định liệu trước, nói:

- Hãy chờ mà xem, nếu cặp mắt già này chưa mờ, cái ý nghĩ kỳ lạ đi kết hợp Nội xưởng với hàng xe, hàng ngựa gì đó làm do thám cho Nội xưởng, tám chín phần mười là cố ý tỏ ra yếu thế. Đợi khi thế lực ổn định, y nhất định sẽ tranh đoạt miếng thịt Thuế Giám béo bở này với Đông xưởng.

Tạ Thiên vỗ tay khen:

- Hay đây! Thuế của thiên hạ ba phần quy về bộ Hộ, bảy phần chảy vào ty Lễ Giám. Quyền tài chính nằm trong tay nội triều (ý chỉ các hoạn quan) chung quy không làm người ta an tâm. Vương Nhạc tuổi tác đã cao, một khi tạ thế, chuyện tương lai khó bề lường trước. Nếu như Nội xưởng và Tây xưởng tranh quyền đoạt lợi, lưỡng bại câu thương, chúng ta liền có thể thừa thế phát động việc đem trả quyền thu thuế về tay bộ Hộ.

Lưu Kiện nhíu hàng mày trắng, nói:

- Suy nghĩ của Tân Chi thực ra không tệ, nhưng mà Đông xưởng rễ sâu gốc lớn, thế lực bao trùm khắp thiên hạ. Chỉ dựa vào ơn vua và Nội xưởng không nên hồn nên vía, Dương Lăng có tư cách khiêu chiến với ty Lễ Giám, khiêu chiến với Đông xưởng sao?

Lý Đông Dương cười lớn:

- Không thể được! Cho nên chúng ta không những không thể tâu xin Hoàng Thượng triệt bỏ Nội xưởng, mà trước mắt còn phải âm thầm giúp đỡ bọn họ nhiều hơn. Thực lực Nội xưởng càng mạnh, dã tâm của y cũng sẽ càng lớn. Nhưng cho dù lớn mạnh thế nào, y cũng không thể giáng cho Đông xưởng một kích trí mạng, trừ phi chúng ta tạo cho y một hình tượng giả: ngoại triều (*) đang đứng về phía y!

(*: các quan, tướng không phải là hoạn quan)

Lưu Kiện vỗ tay khen:

- Hay! Lão Tạ, báo cho Sát, bảo bọn ngôn quan của Ngự Sử đài không cần gây phiền phức cho Nội xưởng nữa. Trước mắt vẫn phải mở rộng cánh cửa thuận lợi, để Nội xưởng có thực lực tranh đoạt quả đào trong tay Đông xưởng. Hà hà hà, vì lợi, hai đào sẽ có thể dễ dàng đoạt lấy ba mạng !

Gần hai mươi năm từ triều đại Hoằng Trị cho đến nay, ngoại triều vẫn luôn chèn ép phe nội quan. Có lẽ vì vậy mà tam đại học sỹ đã quên rằng trên đời còn có một câu ngạn ngữ rằng: dưỡng hổ di hoạ (nuôi ong tay áo)!

***

Hai tháng, chỉ vẻn vẹn hai tháng, thế lực của Nội xưởng đã phát triển vượt xa dự đoán của chính bản thân Dương Lăng. Vốn y dự tính một khi Nội xưởng khai trương, lập tức ty Lễ Giám, Đông xưởng, Cẩm Y vệ và bọn quan văn ngoại triều quyết sẽ không bỏ mặt làm ngơ, ắt khó khăn trắc trở sẽ ùn ùn kéo tới.

Vì vậy y dùng khoái mã khoẻ mạnh mời Ngô Kiệt và Hoàng Kỳ Dận về kinh, tự mình bổ nhiệm làm quan Nội xưởng. Ngô Kiệt làm Đại bộ đầu, Hoàng Kỳ Dận và Vu Vĩnh làm Nhị bộ đầu, ba vị quan đô ty Liên Đắc Lộc (*) làm Tam bộ đầu, Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh làm Chưởng hình thiên hộ, những người còn lại đều chiếu theo Bách hộ, Ty phòng, nha dịch, nha sai mà thay đổi toàn bộ thể chế. An bài mọi thứ ổn thoả xong xuôi, mỗi ngày y đều theo bên cạnh hoàng đế, chuẩn bị dựa vào gốc cây to này để ứng phó với các loại công kích có thể xảy đến. ( *: hai người còn lại là Lưu Sỹ Dung và Bành Kế Tổ)

Không ngờ đợi mãi mà phía Đông xưởng không thấy tăm hơi, quan văn trong triều và Ngự Sử đài cũng không hề có động tĩnh gì khiến Dương Lăng uổng công lo lắng một phen.

Mấy năm trở lại đây, tuy Ngô Kiệt không được xem trọng trong Cẩm Y vệ nhưng vẫn luôn cố hết sức đảm trách công tác thu thập tình báo nên có thể nói kinh nghiệm của lão về phương diện này rất phong phú.

Không những Dương Lăng điều lão về kinh mà còn cho lão một bước lên trời, nhậm chức Đại bộ đầu, chỉ đứng sau quan Tổng đốc Nội xưởng khâm sai của y. Hơn thế, Dương Lăng hoàn toàn không hề uý kỵ xuất thân Cẩm Y vệ của lão, mọi việc đều mạnh dạn giao cho lão làm.

Chịu đủ ghẻ lạnh nhiều năm, Ngô Kiệt vốn đầy lòng nghi kỵ và ghen tức của ngày trước giờ đây cảm động đến rơi lệ, hơn nữa lão đã cứu mạng Dương phu nhân, tự nhận mình đã có quan hệ vô cùng thân mật với nhà họ Dương nên có thể nói lão hết lòng, tận sức tận lực vì Nội xưởng. Dưới sự chỉ dạy của lão và hai vị Thiên hộ Liễu, Dương, đám quan binh đã qua huấn luyện tốt của Thần Cơ doanh đã nhanh chóng hoà nhập vào vai trò mới.

Nhận thánh chỉ vào đến kinh thành, Hoàng Kỳ Dận nghe nói Dương Lăng muốn điều lão đến Nội xưởng nhậm chức. Lão phu tử này tuy bị triều đình chèn ép nhiều năm, nhưng khí phách kiên cường ngạo nghễ của vị ngự sử nhiệt huyết năm xưa vẫn còn nên đã cự tuyệt thẳng thừng. Dương Lăng đã sớm chuẩn bị, y mời lão phu tử vào mật thất, thành thật cùng lão chuyện trò đại khái về mục đích của việc tạo phước cho lê dân của mình một phen.

Dù sao Hoàng Kỳ Dận đã không còn là thiếu niên vừa "trúng cử" đã được giữ lại làm ngự sử ngôn quan ở Đốc Sát viện, không biết nỗi khổ của dân gian năm xưa nữa, cũng không còn khí phách kiểu thư sinh, quý trọng danh tiếng cá nhân bên ngoài. Trong lòng lão, nếu có thể vì dân chúng mà làm những chuyện này đến nơi đến chốn, cho dù ở lại Nội xưởng có tổn hại đến danh dự cá nhân cũng không tính là gì. Huống hồ ở kinh sư bây giờ còn ai nhớ đến người thời tuổi trẻ đắc chí đã bị gán tội đày đến vùng đất hoang vu nghèo khó gần ba mươi năm như lão nữa?

Hai tháng thời gian, Nội xưởng không những đã trụ vững tại kinh sư, mà còn lấy nó làm trung tâm, ngày ngày không ngừng vươn ra khắp bốn phương, tốc độ phát triển đáng kinh ngạc này rốt cuộc đã dẫn tới sự chú ý và khiếp sợ của Đông xưởng và ty Lễ Giám.

Tốc độ lan tràn nhanh như ôn dịch này ngay cả Dương Lăng cũng không ngờ tới. Y vốn nghĩ rằng trước tiên khai thông một tuyến đường giao thông vận tải đường thuỷ và đường bộ từ kinh sư đến Giang Nam, đợi đến cuối năm có nhiều lợi nhuận, làm gương cho những thương nhân khác, sẽ lại thừa thế mở rộng phạm vi thế lực của Nội xưởng một cách toàn diện.

Cho dù là vậy, trong lòng y cũng không dám lạc quan. Thường thì thương nhân khi giao thiệp cùng quan lại luôn luôn ở thế yếu, bọn họ không thể không mảy may nghi ngờ mà yên tâm hợp tác cùng Nội xưởng. Nội xưởng lại không thể dùng quyền thế ép buộc bức bách bọn họ công tư hợp doanh . Muốn tạo dựng danh dự và uy tín với những thương nhân vốn trời sinh đa nghi và cẩn thận này, nói dễ vậy sao?

Thế nhưng Vu Vĩnh - hậu duệ của đế quốc La Mã thần thánh đến từ sông Rhine - quả thực là thiên tài về kinh doanh. Gã cho người thăm viếng mấy cửa hàng thuyền bè, cửa hàng ngựa xe vào loại lớn nhất, đưa ra những điều kiện mà không một chủ hàng nào có thể cự tuyệt: "Nội xưởng chúng ta giúp các người vận chuyển tiền bạc hàng hoá, lữ khách bán buôn. Bây giờ các người hãy kết toán lại rồi tính lợi nhuận bình quân hằng năm của các ngươi trong năm năm vừa qua. Nếu sau khi chúng ta tham gia, lợi nhuận thấp hơn con số này, chúng ta sẽ không lấy một văn tiền, nếu cao hơn con số này, dù cao hơn bao nhiêu chúng ta đều lấy một nửa. Năm nay ấy à? Nửa cuối năm nay chúng ta sẽ không lấy một văn tiền nào, coi như giúp không cho các người."

Đám chủ hàng thuyền, hàng xe trước giờ chịu đựng nỗi khổ bị bóc lột trái pháp luật nhưng lại không nơi mà tố cáo, sao không biết lợi nhuận khổng lồ ẩn chứa bên trong đó chứ. Điều kiện của Nội xưởng hào phóng đến độ cho dù nằm mơ cũng có thể cười vang, sao bọn họ lại có thể từ chối được?

Vu Vĩnh chỉ chạy đến bốn nhà thì không cần phải tiếp tục đi nữa. Trên con đường làng nhỏ hẹp dẫn vào chốn bồng lai tiên cảnh của Cao Lão trang, tới lui nườm nượp đều là những chủ nhân lớn nhỏ của các hàng vận chuyển khắp nơi nghe tiếng mà đến. Chỉ chưa quá nửa tháng, toàn bộ hàng ngựa, xe, thuyền của cả kinh sư và thậm chí những thành trì lân cận đều đã ký khế ước cùng Nội xưởng. Như khối tuyết lăn, thế lực của Nội xưởng xuôi theo sông đào và quan đạo lăn một mạch đến mọi nơi trong thiên hạ.

Hay tin, Dương Lăng hớt ha hớt hải chạy đến chất vấn Vu Vĩnh:

- Quân lương triều đình chỉ phát đến cuối tháng bảy, trong năm tháng cuối năm, mấy ngàn con người của Nội xưởng sẽ ăn gì uống gì mà sống?

Vu Vĩnh cúi đầu khom lưng, ra vẻ con buôn nói:

- Khải bẩm đốc chủ, người của chúng ta dùng ngựa xe của bọn họ, hẳn sẽ không đi tới đi lui tay không chứ? Tôi đã bảo người mang theo đặc sản của kinh sư, thẳng đường đi đến Hồ Châu, không cần nhờ thương nhân khác bán thay, khi đến nơi thì một ngàn lạng có thể lãi được năm trăm lạng rồi.

- Tiếp tục lấy một ngàn năm trăm lạng bạc này đặt tơ lụa ngay ở Kim Lăng, vận chuyển về kinh rồi tung ra bán, sẽ lại có thể lãi tám trăm lạng. Đi về một vòng mất một tháng, một ngàn lạng bạc biến thành hai ngàn ba trăm lạng. Đó là đốc chủ ngài đã căn dặn không được trốn thuế đấy, bằng không chỉ cần động chút tay chân, lúc qua trạm thuế, hai rương gộp lại thành một, ba rương báo thành hai, biết đâu có thể kiếm thêm được ba trăm lạng nữa. Một tháng sau triều đình mới ngưng phát quân lương, chúng ta đã dùng số tiền của một tháng này đẻ ra số tiền lương của ba tháng rồi. Đại nhân không cần lo lắng.

Dương Lăng nghe xong, rắm cũng không dám đánh, xoay người đi luôn. Trông thấy Hoàng đại bộ đầu chủ quản nội chính, y chỉ thòng đúng một câu:

- Hoàng lão chỉ cần trông coi tài vụ cho tốt, chi tiêu tiền lương hãy để Vu Vĩnh lo hết đi.

Chú thích:

Tam Dương chỉ Dương Sĩ Kì, Dương Vinh và Dương Phổ, ba vị đại thần của ua Minh Anh Tông, phụ trách toàn bộ công việc nội các trong thời gian đầu.

Ám chỉ Dương Đình Hoà, Dương Nhất Thanh và Dương Lăng.

Lấy từ thành ngữ "Nhị đào sát tam sỹ" trích từ một điển cố thời Xuân Thu. Xin xem thêm ở đâyhttp://www.tangthuvien.com/forum/sho...&postcount=138

Liên doanh giữa nhà nước và tư nhân

Con kênh đào dài nhất thế giới

Cung thất bên ngoài kinh đô, để cho vua chúa trọ khi vi hành.

Trong ty Lễ Giám, tại phòng của công công Vương Nhạc, bốn đại thủ lĩnh thái giám và Phạm Đình đang ngồi ở ghế dưới, mỗi người một vẻ mặt, không khí trong phòng ngột ngạt lạ thường. Vương công công đưa ngón tay chấm chút nước sạch day day khoé mắt khô khốc, run rẩy nói:

- Mấy người các ngươi đâu cần phải lo lắng như vậy chứ? Phải nói, dù sao Dương Lăng này và chúng ta đều có chung cội nguồn. Tuy rằng thế lực hiện tại của y phát triển rất mạnh, nhưng thuỷ chung không có ý đụng chạm với Đông xưởng và ty Lễ Giám chúng ta, có phải các người hơi phóng đại không?

Từ sau lần hút chết trong "vụ án phong thuỷ của Đế Lăng", Đới Nghĩa đã hận Vương Nhạc đến thấu xương và cũng đã sớm nảy sinh hiềm khích với hảo hữu khi xưa là Phạm Đình. Lão và Dương Lăng cùng là đại thần đốc tạo Thái Lăng, đôi bên đã có chút giao tình. Quan trọng hơn chính là, giữa bọn họ còn có một bí mật trọng đại cùng ảnh hưởng đến sống chết của hai người. Dựa vào cái bí mật này, lão đã có thể ngồi với Dương Lăng trên cùng một con thuyền, cùng y có phước cùng hưởng, có hoạ... thì xin cho miễn đi nhé.

Cho nên, việc Dương Lăng bắt đầu xây dựng thế lực riêng cho mình, hơn nữa phát triển nhanh chóng dị thường, đứng vào vị trí của lão mà xét thì chỉ có lợi mà không hề có hại. Vì vậy, vừa nghe Vương Nhạc phản đối, Đới Nghĩa lập tức theo đuôi, chế nhạo:

- Nói đúng lắm, có phải lão Phạm đã bắn tiếng doạ nạt quá rồi không? Ông nhìn cái đám người mà y dùng xem, ngoài mấy tên lính to đầu không biết chữ ra, còn có kẻ tài ba nào chứ?

- Cũng chỉ có một huyện thừa già bất đắc chí, một Ngô thiên hộ quanh năm ở tái ngoại thu mua hàng da, còn có gã Vu Vĩnh đó nữa... Ha ha. Nghe nói con gái hắn tóc vàng mắt xanh, rất là xinh đẹp, Vu Vĩnh muốn gả hai đứa con gái của gã cho Dương Lăng làm thiếp mới kiếm chác được chức Nhị bộ đầu ở Nội xưởng. Người mà Dương Lăng dùng, Ngô Kiệt thì xuất thân từ Cẩm Y vệ, Vu Vĩnh và Vương công công lại có quan hệ thân thích, ông nói Dương Lăng sẽ gây bất lợi cho chúng ta sao?

Trương Thọ cười thâm độc, nói:

- Đới công công! Cũng bởi chính vì chúng ta nghĩ như vậy nên mới bỏ qua cơ hội tốt nhất để áp chế y. Giờ đây y đã mọc đủ lông đủ cánh, ta thấy dã tâm của y rất lớn, tuyệt không giống nhân vật yên phận thủ thường. Ty Thuế Giám khống chế bảy thành thuế của triều đình, một khi nắm giữ được nó, chẳng những lập tức sẽ dưới một người, trên vạn kẻ, thậm chí cũng sẽ có một phần thế lực ngoại triều phải khuất phục dưới trướng của y.

- Chỉ cần ông đứng nơi đầu ngọn sóng của con đường quyền lực này, cho dù bản thân không muốn, cũng sẽ phải lên tới nơi cao hơn, bằng không ông chỉ có nước chìm xuống, thậm chí mọi thứ hiện có cũng giữ không nổi. Dương Lăng có thể không động tâm với ty Thuế Giám sao? Khà khà, tuổi trẻ đắc chí, vận khí đang rất tốt, ông cho rằng y sẽ đi ngược dòng nước chảy xiết ư? Đợi đến khi y đã gom góp đủ lực lượng rồi, đám lão già sợ chuyện chúng ta sẽ bị y coi như cái gai trong mắt cần phải nhổ sạch đi!

Phạm Đình nói với Vương Nhạc:

- Công công! Trương Thọ nói thực không sai. Khi Hoàng Thượng bổ nhiệm thái tử, mấy tên Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng chỉ biết hầu hạ, nói chuyện rất có chừng mực. Khi tân Hoàng vừa kế vị, bọn chúng vẫn yên phận thủ thường, thế mà hôm nay cũng đã dần dần nổi tâm tư.

- Khi Mã Vĩnh Thành nhậm chức tổng quản mua sắm phủ Nội vụ, Nguỵ Bân nắm giữ Kính Sự phòng, Trương Vĩnh vào Ngự Mã giám thì Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng thấy vậy thèm thuồng, suốt ngày xúi giục Hoàng Thượng cho bọn chúng cái chức tốt đấy. Lòng tham con người vô đáy, đừng thấy bọn chúng bây giờ chưa nên trò trống gì mà xem thường, trước tiên muốn tiền rồi sau đó sẽ muốn quyền, có được quyền rồi sẽ lại muốn quyền to hơn, có rất nhiều người đang nhòm ngó mấy chiếc ghế của ty Lễ Giám này lắm đó. Bọn chúng và Dương Lăng giao tình thắm thiết nên tôi vẫn luôn e ngại rằng, Dương Lăng lần lữa không hành động có phải là vì y muốn cùng bọn chúng nội ứng ngoại hợp hay có mưu toan gì đây.

Vương Nhạc nghe vậy thì hơi động tâm. Lưỡng lự một chút, ông ta quét mắt nhìn từng khuôn mặt của mấy người thân tín rồi hỏi:

- Sao? Thực sự có kẻ dám hất đổ mâm cơm của chúng ta hay sao? Ừm... vậy các ngươi nói, ta phải làm sao đây? Chúng ta đều làm việc cho Hoàng Thượng, mấy người các ngươi và Miêu Quỳ cứ đấu đá nhau suốt, ta thấy mà phiền lòng. Không lẽ lại ra tay với Dương Lăng nữa sao?

Lý Vinh nãy giờ vẫn không hé môi bỗng chậm rãi lên tiếng:

- Vương công công! Bây giờ chúng ta không ra tay, người ta sẽ ra tay trị chúng ta đó. Lão nhân gia người trực tâm nhân hậu, chúng tôi cũng không muốn tranh đấu sống chết với Nội xưởng, khiến ngoại triều nhìn vào cười nhạo chúng ta. Tôi đã nghĩ được một biện pháp có thể kìm nén nhuệ khí của Dương Lăng, khiến y không dám mặc sức phô trương như vậy nữa. Không biết công công thấy sao?

Vương Nhạc mừng rỡ:

- Vậy thì tốt, vậy thì tốt! Mau nói ra nghe thử xem.

Lý Vinh lấy từ trong ống tay áo một phong hàm, cười nói:

- Công công! Biện pháp của tôi rất đơn giản: "lạt mềm buộc chặt!"

Phạm Đình sốt ruột giục:

- Thôi ông đừng làm khó nhau nữa! Mau nói đi, thế nào là lạt mềm buộc chặt?

Lý Vinh từ tốn giải thích:

- Giao ty Thuế Giám cho Dương Lăng.

Lời vừa thốt ra, Phạm Đình và mấy thủ lĩnh thái giám liền giật nẩy mình, ngay cả Vương Nhạc cũng ngạc nhiên trợn trừng cặp mắt già nua. Lý Vinh giảo quyệt nói tiếp:

- Các ông không phát hiện sau khi tin tức ty Thuế Giám sẽ do Nội xưởng quản lý được truyền ra, sự hiếu kính của bọn thuế giám trấn thủ các nơi đã giảm đi một nửa, thậm chí cả tiền thuế thường ngày nộp lên cũng ba lần bảy lượt thoái thác, chần chừ không chịu giao hay sao?

Hà Trường Xuân phẫn nộ:

- Đám tiểu nhân nịnh hót đó, nếu không phải nhờ chúng ta tiến cử, bọn chúng có thể kiếm được công việc béo bở này sao? Bây giờ bọn chúng thấy gió buông buồm, kẻ nào cũng đều đứng xem chừng, thật đáng băm vằm trăm mảnh!

Lý Vinh cười hắc hắc nói:

- Bọn chúng còn có thể chần chừ do dự với chúng ta, huống hồ là một tên Dương Lăng không biết gốc rễ. Tên trấn thủ Thuế giám Bốc Đắc Nghĩa mà chúng ta cắt cử ở Gia Hưng có trao cho tôi một phong mật hàm, nói rằng ba vị thuế giám trấn thủ ở Tô Hàng (Giang Tô, Tô Châu và Hàng Châu - ND) lén trưng thu gấp đôi thuế quan, toàn bộ cất cho bản thân dùng, hơn nữa hình như bọn chúng còn có những hành vi phạm pháp khác. Tôi vốn định răn đe bọn chúng một chút rồi thôi, nhưng chi bằng bây giờ chúng ta lấy sự việc này ra mà sử dụng.

Lão thấy mọi người đều có vẻ hơi khó hiểu, bèn vội giải thích:

- Chúng ta lập tức giao ty Thuế Giám ra, chỉ cần y vừa tiếp nhận, lập tức nhờ ngoại thần trình bức hàm này lên cho Hoàng Thượng. Y làm tổng quản ty Thuế Giám, vậy y có xử vụ án này hay không? Xử ư, thuế giám trong thiên hạ ai mà không giở trò phạm pháp. Mọi người sẽ đều e sợ, chúng ta chỉ cần xúi giục thêm một chút thì y sẽ không thu được thuế. Năm nay tiền bạc của triều đình tiêu hao như nước, thu không được thuế, triều đình sẽ không có bạc, không có bạc thì làm được chuyện gì đây?

- Y không quản nổi ty Thuế Giám, lúc ấy sẽ xử làm sao? Ha ha ha... nếu như công công của nội triều vi phạm pháp luật, ty Lễ Giám có quyền vạch trần tố giác. Vậy y không cai quản, dung túng cho mấy kẻ đó phạm pháp thì quan viên ngoại triều cũng không thể đứng nhìn. Chỉ cần chúng ta đệ trình chút chứng cứ, y sẽ tự xử trí thế nào? Huống chi... tôi nghe nói, ba đại thuế giám trấn thủ Tô Hàng đều giao du mật thiết với Thục Vương. Chỉ cần Dương Lăng dây vào...

Thục Vương - Chu Nhượng Hủ là người giàu có nhất trong số những phiên vương, đất Thục trù phú mà tám chín phần mười ruộng nương đều tập trung vào tay y. Vị phiên vương lắm tiền nhiều của này, Dương Lăng trêu nổi sao?

Phạm Đình hào hứng vỗ bàn khen:

- Hay! Kế này thật tuyệt. Chúng ta sẽ không tốn công sức bao nhiêu mà lại có thể khiến Dương Lăng biết được lợi hại của chúng ta. Vương công công! Đừng chần chừ thêm nữa, tiên hạ thủ vi cường đó!

***

Trên dòng sông nước chảy cuồn cuộn, một bầy nhạn lướt cánh bay qua nơi chân trời mênh mông. Hoa màu đã bắt đầu chín tới trên đôi bờ bình nguyên, những người nông dân cần cù đang phơi tấm lưng trần ngăm đen vung cào xới ruộng. Từng giọt, từng giọt mồ hôi của họ đang nhỏ xuống mảnh đất phì nhiêu.

Gió khẽ thổi qua khiến những bọt sóng nhảy lăn tăn trên mặt nước. Từng tiếng ca vang vọng hòa cùng thanh âm vui vẻ nói cười của những ngư dân đang tung lưới xuống sông.

Đại Vận Hà có bờ Bắc ngăn kinh sư, bờ Nam kéo dài đến Hàng Châu. Song bởi hướng chảy vô thường, Đại Vận Hà này cũng không phải thẳng dòng từ Nam đến Bắc mà là nối liền hệ thống sông ngòi các nơi, cho nên dòng chảy quanh co uốn khúc, khi thì hướng Nam lúc thì hướng Đông.

Có chiếc khoái thuyền một cột, thân thuyền được sơn đỏ đang ngược dòng chạy lên. Thuyền chạy cực nhanh. Đây là một chiếc dịch thuyền (thuyền của trạm dịch) chở được khoảng sáu mươi người, đồng thời có khoang hàng để chở thêm một số vật phẩm trọng yếu. Loại dịch thuyền này khi thuận gió thì giương buồm, nghịch gió thì dùng chèo, trên thuyền có chuẩn bị từ tám đến mười hai mái chèo; dân gian thường gọi nó là "thuyền thoi con rết".

Trên sông nước, phàm là thuyền chài, thuyền buôn trông thấy con thuyền thoi màu đỏ của trạm dịch đều phải mau chóng tránh sang một bên. Quy định của quan phủ là mọi thuyền bè vận chuyển trên sông đều phải nhường đường cho khoái thuyền chuyên trách của trạm dịch.

Khoái thuyền chạy qua một cái ghềnh hình tam giác, chợt có người la lên:

- Dịch thừa đại nhân! Phía trước có ba chiếc thuyền lớn, mau báo đáy thuyền (những tay chèo ngồi ở đáy thuyền) giảm tốc nhường đường!

Đang rót rượu độc ẩm trong khoang, dịch thừa vận chuyển đường sông của Đức Châu, Sơn Đông là An Đạt Sung - An đại nhân nghe tiếng lật đật chạy lên đầu thuyền, cười mắng:

- Thấy ma cái con mẹ ngươi rồi à, thuyền chúng ta là thuyền gì chứ? Còn nhường đường cho người khác cái con mẹ gì, rắm cái con mẹ ngươi cứ đánh mãi thế.

Tên dịch tốt đứng đầu thuyền nọ đỏ mặt đáp:

- Đại nhân, nhưng mà thuyền này, chúng ta... chúng ta phải nhường đường cho người ta ạ!

- Hả?

An đại nhân vội vã vịn vào mạn thuyền, giương cặp mắt say xỉn lờ đờ nhìn về phía trước. Lão thấy trên mặt nước bao la, ba chiếc thuyền bốn buồm to lớn, một trước hai sau, giăng đủ mười hai cánh buồm, căng gió lướt đến. Sau thuyền là một dải sóng bạc, từ xa nhìn lại thấy khí thế thật kinh người.

Thuyền lớn chạy nhanh hơn chiếc khoái thuyền của trạm dịch gấp ba lần. Chiếc đầu tiên mới vừa rẽ qua khúc cong phía trước, trên thuyền trang trí hoa lệ, hai bên mạn thuyền cao lớn mở ra chi chít mấy chục ô cửa nhỏ chống chèo. Đầu thuyền dựng ba cột cờ cao sừng sững, chính giữa là một lá cờ thêu hoa văn hình rồng cuộn màu vàng óng ánh.

An Đạt Sung giật thót mình, men rượu lập tức vơi đi mấy phần. Long kỳ màu vàng cao quý của thiên tử, chỉ có nhân viên hoàng thất Đại Minh hoặc khâm sai phụng chỉ mới có quyền treo. Đây là thuyền của ai đến vậy?

Lại thấy hai bên long kỳ mỗi bên treo một lá cờ, bên trái là cờ tam giác lớn, đỏ thẫm như máu, chính giữa là hình phi hổ thêu bằng tơ đen, trông giống quân kỳ nhưng lại hơi khác một chút. Trên cột cờ bên phải là một lá cờ lớn màu xanh sẫm, trên viết một chữ "Dương" to bằng cái đấu.

An đại nhân tuy không biết người đến là ai, song lại biết quyền uy của đối phương vượt xa dịch thuyền của mình. Hắn khiếp sợ co chân đạp mông tên dịch tốt một cái, mắng:

- Con mẹ ngươi, còn không mau xuống dưới bảo giảm tốc à? Bay đâu! Bay đâu, mau xoay bánh lái nhường đường!

Khoái thuyền con rết vội vàng lái sang một bên. Chiếc thuyền lớn ấy chạy lướt qua bên cạnh làm dậy sóng khiến cho chiếc khoái thuyền con rết lắc lư không ngừng, An Đạt Sung đứng bên mạn thuyền thắc mắc nhìn theo lẩm bẩm:

- Đến hành cung à? Là thần thánh phương nào rời kinh vậy?

Trên chiếc thuyền thứ nhất, chiếc rèm cửa khoang được vén lên, một công tử tuấn tú, hoạt bát mặc trường bào màu vàng lợt, đầu đội khăn công tử bước ra. Mặt y như thoa ngọc, mày đen mắt đẹp, trên đai ngọc bên hông đeo một chiếc miếng ngọc bội như ý, lắc lư theo bước chân y. Phong thái như cây ngọc trước gió, nổi bật hơn người.

Hai bên đầu thuyền là hơn chục nha sai mũ nhọn áo đen, hông đeo phác đao(*) trông thấy y bước ra lập tức sụp gối quỳ xuống hô:

- Tham kiến xưởng đốc đại nhân!

(*: một loại binh khí cũ, lưỡi dài, hẹp, cán ngắn, sử dụng bằng hai tay)

Vị đại nhân này chính là Dương Lăng, xưởng đốc Nội xưởng quyền thế ngút trời. Y mở rộng lồng ngực, đón một làn gió mới trong lành thổi tới, không khỏi phấn chấn tinh thần. Dương Lăng khoát tay cho bọn họ đứng dậy, đoạn hỏi:

- Đã đến đâu rồi?

Một nha sai bước lên chắp tay thưa:

- Xin đáp xưởng đốc đại nhân, phía trước ba mươi dặm là đến mười hai liên thành của Đức Châu. Khi nãy chỉ huy sứ Lưu đại nhân của Đức Châu vệ đã được quân dịch báo tin, Lưu chỉ huy sứ đã đến bên tàu cung nghênh đại nhân rồi ạ.

Rèm khoang lại được vén lên, một thị nữ vóc dáng cao gầy, mặc quần áo màu xanh sẫm từ trong khoang bước ra. Gió mát lướt nhẹ qua thổi ống tay áo nàng phất phơ, áo khoác sau vai càng khiến nàng như sắp bay lên. Người thị nữ này chải mái tóc búi chẽ đôi đại biểu rằng hoa kia chưa chủ, chiếc eo thon được buộc chặt có vẻ như mảnh mai dễ vỡ trước cơn gió. Chiếc áo mỏng bị gió thổi ép sát vào người, lộ ra đường cong chắc nịch và ưu mỹ của song nhũ.

Mặc dù mặc đồ thị nữ, nhưng dáng đi của cô con gái này nhẹ nhàng uyển chuyển. Với dáng đi và cử chỉ ấy, khí chất phong tình, trang nghiêm lẫn tao nhã ấy, e rằng nhiều tiểu thư khuê các cũng tự thẹn không bằng.

Nàng mang một chiếc áo khoác dài màu đen có viền đỏ trên khuỷu tay, bước đến cạnh Dương Lăng, khoác lên vai y, nhẹ giọng nói:

- Đại nhân! Sắp xế chiều rồi, gió to và lạnh, đừng đứng ở đầu thuyền, tránh nhiễm phong hàn.

Dương Lăng quay đầu nhìn nàng. Từ lúc rời kinh, dọc đường đi phong cảnh tự nhiên nối tiếp nhau không dứt khiến người con gái chưa từng rời kinh sư này nhìn mà không kìm được vui thích. Lúc này trong đôi mắt sáng trong hiền lành của nàng vẫn còn thấp thoáng niềm hân hoan.

Dương Lăng cười nói:

- Không sao! Trong khoang nóng nực, chơi cờ lại toàn thua cô, ra ngoài xem phong cảnh tươi đẹp này cũng vui vẻ thoải mái hơn. Có điều cô mặc đồ hơi phong phanh, hay là cô vào khoang đi. Ta bệnh còn có cô chữa trị, nếu cô bệnh ta thực sẽ không biết phải làm sao đây.

Cao Văn Tâm nghe vậy thì cười duyên, chỉ lấy hai bàn tay mảnh mai siết chặt áo khoác lại, vẫn đứng sau lưng y. Dương Lăng nhìn hoàng hôn nơi chân trời đã biến thành sắc vàng óng ả, thở ra một hơi thật dài rồi nói:

- Còn có ngày để rong chơi ư? Vùng Giang Nam giàu nhất thiên hạ, thuế trong nước sáu, bảy phần mười là ở nơi này, không ngờ ba đại thái giám trấn thủ đồng thời bị người ta tố cáo bất tài tham ô, lại đúng một ngày sau khi ta tiếp nhận ty Thuế Giám. Rõ ràng đây là một nan đề ty Lễ Giám đã đưa ra cho ta. Chỉ mong chuyến đi này có thể giải quyết được chuyện này. Bằng không... Giang Nam không ổn định thì làm sao ta nắm vững được ty Thuế Giám đây?

Chú thích:

Tam Dương chỉ Dương Sĩ Kì, Dương Vinh và Dương Phổ, ba vị đại thần của vua Minh Anh Tông, phụ trách toàn bộ công việc nội các trong thời gian đầu.

Ám chỉ Dương Đình Hoà, Dương Nhất Thanh và Dương Lăng.

Lấy từ thành ngữ "Nhị đào sát tam sỹ" trích từ một điển cố thời Xuân Thu. Xin xem thêm ở đâyhttp://www.tangthuvien.com/forum/sho...&postcount=138

Liên doanh giữa nhà nước và tư nhân

Con kênh đào dài nhất thế giới

Cung thất bên ngoài kinh đô, để cho vua chúa trọ khi vi hành.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 123: Nghe tiếng sóng đùa, bóc cua thưởng thức

Rời kinh lần này Dương Lăng dẫn theo ba trăm thân vệ(*), tất cả đều là những sỹ tốt kiêu dũng và thiện chiến trong quân doanh. Mỗi một người đều đeo phác đao, chủy thủ (dao ngắn); ba trăm người lại chia làm ba đội, mỗi đội đều trang bị nỏ liên hoàn, súng ngắn và cung dài. Trừ phi có binh biến, bằng không chỉ cần dựa vào ba trăm người này cũng đừng hòng ai đụng được đến một cọng lông măng của Dương Lăng.

(* Xin nhắc lại: thân vệ, thân binh là binh lính thuộc đội quân bảo vệ tướng lĩnh, gần như là gia binh)

Đây đều là những thị vệ do đích thân đại bộ đầu Ngô Kiệt của Nội xưởng tuyển chọn. Dương Lăng là linh hồn của Nội xưởng, tiền đồ của toàn bộ mấy ngàn người gắn liền với y, làm sao Ngô Kiệt dám lơ là?

Nếu không phải vì Dương Lăng cảm thấy như thế là huy động quá nhiều người, thực tình Ngô Kiệt muốn điều một ngàn nhân mã và lắp thêm mấy khẩu đại pháo lên thuyền của y.

Sử dụng hai chiếc chiến thuyền to lớn chở ba trăm quân, chiếc chiến thuyền thứ ba này là để chở hàng hóa của đám hào phú trong kinh đến phương Nam. Vương công quý tộc trong kinh sư nhiều vô số kể, những đại gia tộc này ít thì mấy trăm người, nhiều thì hơn ngàn người; ngoại thành Bắc Kinh có được bao nhiêu đất đai có thể nuôi sống được bọn họ chứ? Những gia đình này đã âm thầm bắt tay tham gia vào mậu dịch thương mại từ lâu, hơn nữa còn lợi dụng thế lực của gia tộc thường xuyên lên những con thuyền "xuôi gió"(*) của triều đình.

(*: hàm ý là thuyền công, không bị tra xét dọc đường, chỉ giương buồm theo gió chạy thẳng (giống xe công, nhỉ?))

Hai ngày trước lúc khởi hành, con trai của Thành quốc công Chu Cương là Chu Hạ Nghĩa và phò mã Tiết Hoàn đã tìm đến nhà mời Dương Lăng vận chuyển hàng hóa dùm, đến nơi sẽ có gia nhân của phủ Thành quốc công tại chỗ tự tiếp nhận. Thành quốc công từng có ơn giúp đỡ Dương Lăng, cho nên yên tâm phái con mình đến, đoán y sẽ nể chút ân tình.

Còn Tiết Hoàn, từ sau khi nữ quan phủ công chúa Ninh Thanh bị đánh chết, nữ quan tân nhiệm lấy bài học đó làm gương, đã không dám quá khắt khe với phu thê hai người. Hai vợ chồng gặng hỏi nô bộc trong phủ nên biết Dương Lăng đã bênh vực giúp đỡ bọn họ, trong lòng lấy làm cảm kích, cho nên đưa hàng lên thuyền xuôi gió kiếm lợi chỉ là thứ yếu, cái chính là biểu đạt lòng biết ơn, kết thêm giao tình.

Dương Lăng nghe vậy đương nhiên đáp ứng ngay, hơn nữa việc này gợi cho y nhớ đến kế hoạch lôi kéo những kẻ quyền quý trong kinh. Y bèn chủ động gợi ý với các vị huân thần công khanh trong kinh rằng mình có thể giúp đỡ bọn họ chuyên chở hàng hóa. Thậm chí cả hai huynh đệ Thọ Ninh hầu và Kiến Xương hầu cũng mê tít cái lợi hậu hĩ mà một chuyến tuần sát phương Nam do chiếc chiến thuyền lớn có thể mang lại, đã mặt dày đưa đến năm xe đặc sản phương Bắc mà phương Nam đang khan hiếm.

Dương Lăng cũng không hề làm khó dễ bọn họ, vui vẻ tiếp nhận toàn bộ. Huynh đệ họ Trương thấy y không hề so đo những hiềm khích trước đây nên rất lấy làm cảm kích. Đương nhiên Dương Lăng có tư tâm, càng có nhiều người ràng buộc chung quyền lợi với y thì sẽ càng có ích cho kế hoạch sau này của y, những người này còn có thể vì thế mà sẽ trở thành ô dù cho y. Cùng với hoàng thân quốc thích, huân thần công khanh tạo dựng quan hệ là một chuyện vô cùng có lợi đối với y.

Hiện tại đám ngôn quan của Ngự sử đài giống như là đã ngủ đông, cả ngày không có chút động tĩnh gì. Nhưng Dương Lăng lại không vì vậy mà xem thường. Y đã cẩn thận bẩm báo trước cho thiên tử Chính Đức biết chuyện này, nói thẳng luôn là mình cũng vận chuyển lậu một ít hàng hóa, nhằm kiếm được một món tiền để mang ít vật quý hiếm ở phương Nam về dâng Hoàng Thượng để bày tỏ tâm ý.

Chính Đức nào biết Dương Lăng "nham hiểm" như vậy, nghe y bộc bạch tâm ý xong, dĩ nhiên cao hứng vô cùng. Dương Lăng dụ dỗ được Hoàng Đế làm đại thủ lĩnh của tập đoàn buôn lậu xong, bản thân cũng yên tâm, như vậy y không sợ lúc rời kinh sẽ bị người đâm lén sau lưng nữa.

Chiêu bài mà Dương Lăng sử dụng là mang danh nghĩa vừa lên nắm quyền ty Thuế Giám, phụng chỉ tuần tra nam Trực Lệ. Chuyện ba vị đại thuế giám của đạo(*) Giang Nam tham ô không được nhiều đại thần trong triều biết đến, nhưng y nghi ngờ rằng nhất định đã có người mật báo cho ba vị thái giám trấn thủ này. Ba vị đại thái giám giống như những ông vua ở bản xứ, sợ rằng bọn họ sớm đã vận sức thủ thế chờ đợi y, phải đối phó với bọn họ thế nào cho ổn thỏa đây? Hiện giờ Dương Lăng chẳng biết gì về tình hình cụ thể nên y cũng chẳng thể nào nghĩ ra được quyết sách cần thiết.

(*: đạo: đơn vị hành chính xưa, như là tỉnh hiện nay)

Chuyến đi Giang Nam lần này so với việc tranh chấp triều chính trong kinh sư càng phức tạp hơn. Nơi đó y lạ nước lạ cái, ba đại thái giám trấn thủ Giang Nam đã lâu năm nên chắc chắn có rất nhiều tai mắt, thực lực lớn mạnh. Dương Lăng vẫn chưa quên việc đường đường một công chúa mà vẫn bị một nữ quan cỏn con mua chuộc nô bộc cả phủ đùa bỡn trong tay như thế nào. Cho nên y không dám đợi đến khi mình đến tận nơi, để ba đại thái giám chuẩn bị sẵn sàng rồi mới bắt đầu điều tra mà đã phái mật thám ngày đêm gấp rút chạy xuống Giang Nam giám thị hành tung của ba đại thái giám trấn thủ trước.

Cao Văn Tâm đứng một bên lặng lẽ quan sát Dương Lăng đang trầm tư. Cánh mũi y thẳng tắp, bờ môi rõ nét, lông mày tuấn tú thẳng tắp, vóc người cân đối. Ánh mắt của y lúc trầm tư toát lên một vẻ thâm trầm không cân xứng với tuổi tác của y, khiến người khác nhìn vào tim liền đập thình thịch.

Y có một ánh mắt và khí chất khác biệt so với những kẻ cùng lứa. Nhưng khi nghĩ đến bộ dạng ngại ngùng xấu hổ lúc mình châm cứu cho y, khóe môi của Cao Văn Tâm bất giác hé một nụ cười: sự ngượng ngùng của Dương Lăng đã khiến cho sự bối rối của nàng hoàn toàn biến mất. Bây giờ châm cứu đã trở thành tiết mục truyền thống biểu diễn sự xấu hổ của đại đô đốc Nội xưởng mà nàng thưởng thức mỗi ngày.

Ba mươi dặm đường thủy đã mau chóng bị vận tốc của những con tàu khổng lồ rút lại trong phút chốc. Đứng trên đầu tàu, Dương Lăng đã nhìn thấy bến thuyền cạnh hành cung phía xa xa. Trên bến thuyền còn có mấy chiếc thuyền nhỏ hơn một chút đang từ từ rời bến. Ngược lên những bậc thềm đá dọc bến thuyền không xa là một tòa hành cung nguy nga tráng lệ.

Ven con sông đào, cứ cách khoảng một ngày lộ trình đều phải xây một tòa hành cung để Hoàng Đế ngủ trọ mỗi khi rời kinh sư xuống Nam Kinh tuần hành. Thiên tử đi tuần đương nhiên không thể tùy tiện tìm bừa một quán xá nào đó mà nghỉ lại.

Tuy nhiên, những hành cung dọc đường này ngốn không ít tiền của: phải cử quân đóng giữ bên ngoài, bên trong phải có nô bộc chăm nom,... Chỉ riêng chi phí tu bổ mỗi năm đã rất kinh người, nhưng lại không được dùng vào việc gì.

Trừ đại đế Vĩnh Lạc năm xưa từng trọ lại nơi này, các đời hoàng đế về sau đều bị ràng buộc bởi những luật lệ oai nghiêm của thiên tử do chính mình lập ra nhằm phô trương thanh thế, đành bụng làm dạ chịu, cả đời phải tự giam mình trong Tử Cấm Thành như một chú chim hoàng yến bị nhốt trong lồng.

Người ta thường nói khắp dưới gầm trời không chỗ nào không phải đất của vua, nhưng mà ông vua này lại không có quyền tuần du giang sơn của mình. Hành cung cứ bỏ không như vậy, xây rồi sửa, sửa rồi lại sửa thêm, mỗi hành cung sẽ tồn tại hơn trăm năm. Cách hành cung không xa có xây mấy dịch quán. Người của hoàng gia, của các vương phủ lẫn các khâm sai đại thần vãng lai các nơi đều lợi dụng vị thế của bến thuyền này để đỗ thuyền và nghỉ ngơi tại đây.

Dương Lăng xoay người lại, Cao Văn Tâm thấy vậy lập tức thu lại nụ cười trên môi, nhún nhường cúi chiếc cổ thanh tú nho nhã như thiên nga xuống. Dương Lăng đã sớm tinh mắt nhìn thấy nụ cười nơi khóe môi của nàng. Trước đây vị đại cô nương này không hề dám chuyện trò đùa giỡn cùng y, nhưng kể từ lúc để nàng trị bệnh đến nay, ánh mắt lo sợ, cung kính thuở quen biết ban sơ ấy giờ đã dần không còn thấy nữa.

Đau lòng quá, thật nhớ những ngày đã qua quá đi. Dương Lăng vẫn cứ cảm thấy nụ cười mà nàng nhìn mình đã hơi khác với khi xưa, nhưng y đành chịu thôi: phụ nữ mà, xa cách với họ thì họ khiêm nhường, gần gũi với họ thì họ không cung kính. Cả ngày phơi mông cho người ta sờ tới sờ lui, y đâu còn vẻ tôn nghiêm để ra vẻ đại lão gia nữa?!

Dương Lăng hừ thầm một tiếng, nói với Cao Văn Tâm:

- Đi thôi, thu xếp mấy vật tùy thân một chút, chuẩn bị xuống thuyền rồi.

- Dạ, lão gia!

Cao Văn Tâm đáp một tiếng, vừa định xoay người, chợt nghe một tiếng "bình", thân thuyền chợt lắc lư dữ dội, nàng kêu ối một tiếng rồi ngã nhào vào lòng Dương Lăng. Vốn Dương Lăng đã đứng không vững, lại bị nàng nhào vào lòng, thế là cả hai lập tức cùng ngã xuống sàn.

Không ít nha sai trên thuyền nhất thời không chú ý cũng ngã lăn, nhưng vừa ngã xuống, bọn họ liền lập tức búng người dậy, rút phác đao sáng choang ra một tiếng "keng", nhảy tới bên mạn thuyền quát lớn:

- Kẻ nào dám tập kích thuyền của xưởng đốc đại nhân?

Lúc này năm sáu tay nha sai khác cầm đao xoay người lại, dùng thân làm khiên vây hai người Dương Lăng vào giữa, cẩn thận nhìn khắp nơi. Dương Lăng thầm thất kinh: "Chẳng lẽ là Đông xưởng phái người đến ám toán mình?" Y căng thẳng quát lên:

- Đừng hoảng! Mau xem thử đã xảy ra chuyện gì?

Nằm sấp trong lòng Dương Lăng, Cao Văn Tâm giật mình phát hiện tay y đang đặt lên bộ ngực săn mẩy cao vút của mình, không khỏi vừa giận vừa thẹn. Nàng hơi tức giận trừng mắt nhìn lên nhưng lại thấy Dương Lăng đang ngước mặt lên trời ra vẻ xưởng đốc oai phong, chẳng những không có chút phản ứng gì với việc đang ôm nàng vào lòng, mà dường như y thậm chí cũng không ý thức được rằng bàn tay của y đang đặt lên bộ ngực căng tròn của cô nương nhà người ta. Trong lòng Cao Văn Tâm bỗng nhiên vô cớ lại dâng lên một nỗi thất vọng.

Quả bồ hòn này xem như là phải ngậm trọn làm ngọt rồi. Cao Văn Tâm hận ngứa cả răng nhưng lại không dám lên tiếng, đành vội cuống quýt lồm cồm bò ra khỏi người y. Lúc này chiếc thuyền lớn đã thăng bằng trở lại, một bách hộ đứng trên đài quan sát nhìn thấy tình hình phía dưới, sắc mặt khẩn trương tan đi, lập tức quát lớn:

- Đui mắt chó của ngươi rồi à, sao không biết nhường đường? Cũng không nhìn xem ai đang ở trên thuyền, làm đại nhân kinh hoảng, ta muốn lấy cái đầu của ngươi!

Bách hộ của Nội xưởng vừa dứt lời, liền nghe thấy bên dưới thuyền một giọng thổ âm Sơn Đông còn to gấp đôi gã hét lên:

- Con mạ mi, tay ta nọ sắp rách toác ra rồi ni. Ôi đau quá! Mi mù răng, lái thuyền kiểu chi rứa? Hở! Ôi mạ nó, Thiên sư mô? Trương thiên sư rơi đi mô rồi?

Giọng hắn khá to, Dương Lăng nghe rõ mồn một. Vừa nghe ba tiếng "Trương thiên sư" y cũng giật nảy mình, vội vàng bò dậy. Chạy đến bên mạn thuyền nhìn xuống, y thấy một chiếc thuyền hai cột cỡ nhỏ đã bị đụng vỡ nát đuôi, nước sông đang tràn ùng ục vào trong khoang thuyền, phần đuôi thuyền đã bắt đầu chìm xuống nước, mũi thuyền đang nhổng lên không.

Vài thuyền phu lực lưỡng như cột sắt đang chạy cuống cuồng khắp nơi trên thuyền tìm kiếm cái gì đó, nhất thời cũng không nhìn ra được ai là kẻ chửi bới vừa rồi. Chỉ thấy một văn nhân vóc người gầy gò, ăn mặc văn nhã đang ôm cột buồm kêu gào:

- Đừng tìm nữa, Thiên sư rơi xuống sông rồi, mau xuống dưới tìm đi!

Một thuyền phu có vẻ như là người cầm đầu đét mạnh đùi một cái, quát:

- Mả cha mi, mau nhảy xuộng!

Mấy đại hán thậm chí không thèm cởi bỏ y phục thi nhau nhảy "ùm" xuống nước.

Mấy tay thuyền phu tìm khắp bên đuôi thuyền bị chìm và đầu thuyền bị nhổng lên nhưng đều tìm không thấy. Dương Lăng dựa người vào đầu thuyền mình nhìn kỹ, thấy dưới mặt nước ở đầu thuyền nổi lên một búi tóc, liền vội kêu to:

- Ở đầu thuyền, ở đầu thuyền, mau lên, ai biết bơi? Mau nhảy xuống cứu !

Tuy nha sai trên thuyền đều là người phương Bắc nhưng cũng có mấy gã bơi lội không tệ, chúng liền vội vứt phác đao, búng người phóng xuống nước, chỉ một lúc sau hai tay giỏi bơi lội đã lôi một người lên. Dương Lăng mừng rỡ hỏi:

- Tìm được Thiên sư rồi à?

Người được cứu mặc đạo bào màu xanh, mũ đạo sỹ không biết đã trôi đi đâu mất, mái tóc dài rối bù nhiễu nước ròng ròng che lấp khuôn mặt, hình như là đã hôn mê. Hai tay nha sai mỗi người một bên đang đạp nước dìu gã, gã thì lại không hề cựa quậy. Một tay nha sai lau nước trên mặt nói:

- Đại nhân! Người này là nữ, không phải là Thiên sư gì đâu.

Dương Lăng nghe vậy thì giật thót mình. Trước kia y từng nghe nói có đạo sỹ tà phái dùng nữ nhân làm lư đỉnh để luyện thái âm bổ dương gì đó, không lẽ đường đường Trương thiên sư cũng là loại rác rưởi này à?

Mấy phu thuyền rất giỏi bơi lội nghe thấy bên này hô lên, bèn ào ào bơi lại rồi cùng lặn xuống đáy sông. Rốt cuộc sau một hồi, ngoài ba trượng có một phu thuyền kéo một người mặc áo xanh lên, lớn tiếng gọi:

- Chộ ni, chộ ni!

Không kịp nghĩ ngợi nhiều, Dương Lăng liền vội kêu người ném dây thừng, trước tiên buộc Trương thiên sư và nữ đạo sỹ đã hôn mê bất tỉnh vào rồi kéo lên, sau đó lại kéo những người còn lại lên thuyền. Lúc này trên bến thuyền, Lưu chỉ huy của Đức Châu từ xa cũng đã trông thấy hai thuyền đụng nhau, vội vàng đích thân cưỡi thuyền chạy đến cứu viện.

Giờ đã biết tiểu đạo đồng bên cạnh Trương thiên sư là gái, hiển nhiên không tiện cấp cứu trước mặt người khác, Cao Văn Tâm vội kêu người ôm cô ta vào trong khoang, tự tay cứu chữa.

Lưu chỉ huy lên thuyền Dương Lăng, đại lễ cũng bỏ bớt, vội vã ra mắt Dương Lăng. Hai người cùng quây quanh Trương thiên sư mặt mày trắng bệch đang hôn mê bất tỉnh. Truyền thuyết Trương thiên sư lên trời xuống đất không gì làm không được, rất là thần thông quảng đại, ở tiên cung cũng có phẩm tước, nào ngờ Long Vương sông này lại chẳng thèm nể mặt gã, cứ thế mà cho gã uống nước no căng bụng. Dương Lăng và Lưu chỉ huy ngồi xổm một bên xem nha sai đang ấn bụng gã để cấp cứu, trong miệng gã không ngừng ộc ra từng ngụm nước trong.

Một lúc sau, Chính Nhất Tự Giáo Trí Hư Xung Tĩnh Thừa Tiên Hoằng Chiêm Chân Nhân Trương Nhạc Thạc mới yếu ớt tỉnh lại. Dương Lăng và Lưu chỉ huy sứ thấy vậy không khỏi thở phào nhẹ nhõm.

Vừa mở mắt ra, dường như cũng cảm thấy chuyện Thiên sư rơi xuống sông phải nhờ mấy thuyền phu vừa đè vừa ấn cứu mạng hơi mất mặt nên tuy lờ mờ chưa nhìn rõ người ở trước mặt, tiểu chân nhân đã cười ha hả nói:

- Bần đạo sớm đã bói được trong tháng chín sẽ gặp nạn nhập thuỷ, thì ra là ứng vào hôm nay. Ha ha ha...

Dương Lăng rờ mũi, trong lòng chửi thầm một câu: "Đồ bịp bợm!"

Y chợt nhớ tới trong khoang còn có một tiểu đạo cô xinh đẹp tên là Phù Bảo, không khỏi bồi thêm một câu: "Đồ dâm tặc!"

***********

Màn đêm sắp buông xuống, Trịnh bách hộ bước vào trong khoang thuyền. Nhìn thấy xưởng đốc đại nhân đang cùng Trương thiên sư ngồi đánh cờ tướng, hắn bèn vội đứng nghiêm một bên khom người đợi. Dương Lăng đang nhíu mày, căng mắt nhìn bàn cờ trước mặt, trầm ngâm thật lâu, như thể đang do dự.

Trịnh bách hộ lén đưa mắt nhìn, chợt phát hiện người thị tỳ dáng người cao thon, khuôn mặt xinh đẹp đang đứng duyên dáng sau lưng xưởng đốc hơi rướn người tới phía trước, như thể cũng rất hứng thú theo dõi bàn cờ, nhưng cánh tay ngọc ngà thon thả lại đang lặng lẽ viết chữ lên lưng đại nhân.

Ngón tay trắng nõn của Cao Văn Tâm viết lên lưng Dương Lăng không nhanh, hơn nữa nét viết không nhiều, Trịnh bách hộ nhìn thấy rõ mồn một là chữ "pháo hai bình một". Cô nương này vừa viết xong, liền thấy xưởng đốc đại nhân nhướng mày như mới vừa nghĩ được một nước cờ hay, nhặt pháo lên đập xuống cái chát, nước cờ quả nhiên linh hoạt, gọn gàng, định liệu trước mọi nước.

Trịnh bách hộ thầm đổ mồ hôi, liền vội chuyển ánh mắt để đại nhân đỡ xấu hổ. Nào ngờ hắn vừa chuyển mắt đi, lại trông thấy vị văn sỹ tuổi hơn ba mươi, thân hình gầy còm nhỏ thó đang mỉm cười đứng bên cạnh Trương thiên sư cũng đang đưa một tay viết chữ lên lưng Thiên sư. Trịnh bách hộ không khỏi ngạc nhiên nhìn Dương xưởng đốc và Trương thiên sư, không hiểu hai "con rối" này thực sự đang cố sức làm gì.

Mỗi khi đánh cờ thắng tay mê cờ nhưng kém cỏi như Dương Lăng, Cao Văn Tâm đều vui vẻ rất lâu, dường như nàng rất hả hê với việc khiến Dương Lăng nếm mùi thất bại. Nếu muốn nàng giả bộ thua Dương Lăng một ván để y vui lòng, còn lâu nàng mới đồng ý. Nhưng lần này mắt thấy Dương Lăng liên tục thua vào tay Trương thiên sư, vị đại cô nương này thực thấy khó chịu trong lòng. Cảm giác đó giống như con mình thì mình đánh được, chứ người ngoài thì dựa vào cái gì? Thế là nàng bèn giúp Dương đại lão gia ăn gian.

Trương thiên sư bị đánh cho tơi bời hoa lá suốt mấy ngày, sau khi rút ra kinh nghiệm xương máu, kỳ nghệ đột nhiên tăng vượt bậc. Cao Văn Tâm đoán là vị Liêu quản sự bên cạnh y đang âm thầm giúp đỡ, thế là lần này nàng cũng so tài cùng hắn, rốt cuộc thành: Dương xưởng đốc và Trương thiên sư minh tranh, còn tiểu thị nữ và Liêu quản sự ám đấu.

Cao Văn Tâm thấy đối phương đi nước cờ ấy, lập tức viết lên lưng Dương Lăng "mã hai thoái bốn", khoé miệng lộ ra một nụ cười, "song mã ẩm tuyền"! Tập kích thành công rồi! Trong ba nước liên tục kế tiếp, nhất định có thể dồn chết đối phương. Quân của Trương thiên sư đang bị con pháo kềm chế nên không thể rút về cứu viện.

Liêu quản sự trợn mắt nhìn một hồi lâu, đoạn nhìn Cao Văn Tâm khẽ thở dài, không hề nói tiếng nào. Trương thiên sư hiểu ý, cười ha hả nói:

- Ta thua rồi!

Dương Lăng liếc Cao Văn Tâm một cái, nàng nháy mắt đáp lại. Dương Lăng phá ra cười to, lúc này mới quay sang hỏi Trịnh bách hộ:

- Chuyện gì vậy?

Giả vờ không nhìn thấy những cái liếc mắt qua lại giữa đại nhân và tiểu tỳ, Trịnh bách hộ khom người đáp:

- Đại nhân! Thuyền đã đến trấn Thượng Hải, đêm nay có cập bến ở đây không ạ?

- Hả? Đến Thượng Hải rồi à?

Dương Lăng ngạc nhiên, vội vàng vén rèm nhìn ra ngoài. Y thấy trên trời đầy sao, bên dưới một mảnh hoang vu, đan xen dọc trên bờ sông chỉ có lác đác vài quán rượu, nhìn ra xa xa cũng chẳng có mấy hộ gia đình, hoàn toàn không giống như thành phố phồn hoa trong ấn tượng của y chút nào. Dương Lăng không khỏi thất vọng hỏi:

- Nơi này chính là Thượng Hải à?

Liêu quản sự còn tưởng vị xưởng đốc đại nhân này chê nơi này nghèo kiết, bèn mỉm cười nói:

- Đại nhân! Tuy thôn trấn này nhìn hơi hoang vắng, nhưng thức ăn cũng khá là phong phú và đặc sắc. Chi bằng chúng ta cập thuyền lên bờ đi bộ một chút, cũng là giải lao cho thân thể đỡ mỏi mệt.

Dương Lăng đồng ý:

- Được, lên bờ đi bộ chút vậy.

Y nhìn quanh rồi hỏi Trương thiên sư:

- Lệnh muội đâu? Mời nàng ấy cùng đi ăn uống chút đi.

Trương thiên sư lắc đầu:

- Muội ấy đã nói hôm nay không khoẻ lắm, chúng ta không cần để ý đến muội ấy. Trở về ta mang chút thức ăn cho muội ấy là được rồi.

Sau lễ đại hôn của hoàng đế, vị Trương thiên sư đã lưu lại trong kinh thăm viếng thân hữu. Thân bằng quyến thuộc của Thành quốc công đông không kể xiết, mỗi nhà dự một bữa tiệc cũng mất hơn nửa tháng, hơn nữa Thiên sư hiếm khi đến kinh thành nên những thân hữu này không khỏi muốn mời y coi giúp phong thủy một chút, xem tướng một tẹo, lần lữa mất xấp xỉ gần hai tháng trời.

Trước ngày y lên kinh, phú hào ở Ngô Trung là Ngô Tế Uyên đã sớm phái quản sự trong nhà đi theo khẩn thiết mời thiên sư sau chuyến đi kinh sư sẽ đến Tô Châu một chuyến để cầu phúc cho Ngô lão thái gia. Nhà họ Ngô tuy cách xa Long Hổ sơn nhưng đã là tín đồ thành kính của Thiên Sư đạo. Hơn trăm năm trước, vào thời Chu Nguyên Chương khống chế Đạo giáo và Phật giáo cực kỳ nghiêm khắc, trên Long Hổ sơn nhang khói ảm đạm, đời sống gian nan, nhà họ Ngô đã lén phái người đến cúng dường tiền bạc và dầu mỡ tài trợ cho mấy trăm đệ tử Long Hổ sơn vượt qua khó khăn, có thể nói gia tộc họ là người có ơn rất lớn với Thiên Sư đạo.

(Ba_Van: tuy tác giả không nói rõ nhưng qua mạch truyện, chúng ta đoán biết vị quản sự của Ngô Tế Uyên chính là Liêu quản sự)

Đã có ngọn nguồn như vậy, tiểu thiên sư khó lòng từ chối tấm thịnh tình, đành phải đi theo hắn. Ai dè vừa mới rời khỏi bến thuyền của hành cung tại Đức Châu liền đã bị thuyền lớn của Dương Lăng đâm hỏng. Dương Lăng cũng thấy áy náy không thôi, thế là mời bọn họ lên thuyền đi cùng.

Nha sai hò lớn ra lệnh cho lái thuyền cập bến, bắt ván lên bờ. Cả bọn cùng xuống thuyền, chọn lấy một khách điếm nho nhỏ. Quả nhiên khách điếm nhỏ này có phong vị đặc sắc riêng: quán rượu lại là một chiếc thuyền be bé neo bên bờ sông, khẽ lắc lư theo nhịp vỗ của sóng.

Ở nơi này, trong thời tiết như vậy, muốn thưởng thức đặc sản đương nhiên là phải ăn cua. Liêu quản sự gọi bà chủ thuyền mặt mày niềm nở hâm cho hai bình rượu, rồi cười nói:

- Gió tây thổi, cua ngứa chân. Giờ là cuối thu, trời trong gió mát, chính là thời tiết để thưởng thức cua. Dương đại nhân! Thiên sư! Mời nếm thử đặc sản nơi này.

Tháng chín ăn cua mái, tháng mười ăn cua đực. Những chiếc khay bà chủ thuyền bê lên đều chất đầy cua mái lớn. Trước đây khi ăn cua, Dương Lăng đều chặt ra rồi cầm đũa chọc bừa một trận, nào biết phương pháp kỹ xảo gì? Mắt thấy Trương thiên sư và Liêu quản sự cầm cả con cua lên ăn một cách có quy trình hẳn hoi, bất giác y hơi lưỡng lự.

Tâm tư tinh tế, nhận thấy thần thái của lão gia khác thường, lập tức Cao Văn Tâm lanh trí cầm lấy một con cua, bóc mai, tách chân, khạy bỏ bọng và tai đi, lại dùng chân cua nhọn khảy bỏ yếm và ruột, đặt khối thịt cua trắng tinh thơm phức vào trong bát, trao cho Dương Lăng và mời:

- Lão gia! Món này không cần phải chấm dấm gừng, mùi vị nguyên chất càng thơm hơn, mời lão gia nếm thử một miếng.

Liêu quản sự thấy nàng thức thời hiểu chuyện như vậy, không khỏi tán dương:

- Đêm thanh hoa tỏ ý, canh vắng rượu rót đầy, đại nhân thật là tận hưởng trọn ý vị của đời người rồi!

(Nguyên văn: "深得个中三味", "thâm đắc cá trung tam vị". Trong văn hóa Phật Giáo, khi hiểu sâu sắc một sự việc hoặc một loại tình cảm thì được gọi là thâm hiểu một trong tam vị;

Tam vị có ý nghĩa thay đổi theo từng tôn giáo, từng nền văn hóa nhưng thường có nghĩa là linh thiêng, hoặc là tổng thể của vạn vật.)

Lời của Liêu quản sự tuy là khen ngợi, nhưng lại hơi lập lờ thân phận của Cao Văn Tâm. Cao Văn Tâm nghe vậy cảm thấy hơi bị khinh bạc, mặt không khỏi đỏ lên, có phần tức giận.

Dương Lăng thấy vậy liền vội lái qua chuyện khác, bảo:

- Khi nãy đánh cờ lại quên uống trà, bây giờ thấy khát khô cổ rồi. Nhà đò! Châm dùm ấm trà với.

Cao Văn Tâm nghe vậy bèn nhắc khẽ:

- Lão gia! Tuy cua có mùi vị thơm ngon, nhưng là thức ăn hàn, chốc nữa gọi bà chủ thuyền đem canh gừng pha mật đường uống mới tốt, vừa giải khát lại bổ người. Hay đừng uống trà vậy?!

Liêu quản sự lại cười nói:

- Đại nhân là người phương Bắc, cũng không thích rượu mà thích trà sao? Uống một chút cũng không sao đâu.

Vừa nói hắn vừa cẩn thận lôi từ trong ngực ra một chiếc túi vải, cười nói:

- Tiểu nhân mời đại nhân thưởng thức món trà ngon cực phẩm này. Một túi trà đây vẻn vẹn chưa tới một lạng (50gr - ND), mà trị giá bốn lạng bạc, tiểu nhân còn phải năm lần bảy lượt thỉnh cầu mới kiếm được. Hề hề, đúng thật là đồ tốt có tiền chưa chắc đã mua được à!

Nói đoạn hắn gọi chủ thuyền bảo đem chén tới, rồi nhón từng dúm nhỏ bỏ vào từng chén một.

Một lạng bạc đủ để một gia đình nông dân tiêu dùng suốt cả năm. Một lạng trà này lại có trị giá tới bốn lạng bạc, còn là nhờ vào quan hệ xin xỏ mới có được, vậy bình thường để mua được cần phải tốn bao nhiêu tiền bạc đây? Dương Lăng nghe mà kinh hãi, bất giác hỏi:

- Đây là trà gì vậy? Không ngờ lại mắc đến như vậy!

Liêu quản sự đáp:

- Đây là trà xuân (*) Long Tĩnh chánh gốc của Tây Hồ. Không giấu gì đại nhân, tiểu nhân hầu hạ ở Ngô phủ cũng tích góp được chút gia sản, có điều cho dù tiểu nhân chịu bỏ tiền, loại trà ngon cực phẩm này cũng khó cầu lắm cơ.

(*): loại trà tươi, được hái trước tiết Cốc Vũ (bắt đầu vào ngày 20 hoặc 21 tháng 4 dương lịch, kết thúc vào ngày 5 hay 6 tháng 5 dương lịch- Ba_Van)

Dương Lăng nhớ hình như ở đời sau, trà Long Tĩnh được bán đầy đường, không lẽ hiện tại vì trồng trọt quá ít, cung cầu chênh lệch nên mới đắt như vậy sao? Bị Vu Vĩnh lây nhiễm nên bây giờ trong bụng y cũng là một bồ "thương nhân", vừa nghe có thứ có thể kiếm ra món lợi kếch sù, y liền hết sức chú tâm.

Dương Lăng lập tức mừng rỡ ra mặt, hỏi:

- Thứ này trồng quá ít hay khó trồng vậy? Liêu quản sự là người địa phương Tô Hàng, thế mà cũng khó mua sao?

Liêu quản sự cười đáp:

- Cho dù là phú thương bản địa ở Hàn Châu cũng đến tám chín phần mười cầu mà không được đó. Ha ha, Mạt Thanh Hà Mạt công công đã cho người suốt ngày trấn giữ vườn trà, một chỉ (5gr - ND) trà cũng không được phép mang ra. Phàm kẻ nào trộm hái lá trà đều bị đánh năm mươi gậy, cùm xích ba ngày thị chúng. Ngài nghĩ xem, còn ai uống được nữa chứ?

Mạc Thanh Hà? Mạc công công chủ quản thuế má cung ứng trà và thóc gạo lương thực? Đây chẳng phải là một trong ba thái giám trấn thủ mà mình muốn điều tra lần này sao? Lão ta chỉ phụ trách thuế má, cho dù trà này là trà cống phẩm thì cũng phải do Tri phủ Hàng Châu phụ trách trông nom và cai quản chứ nhỉ?! Sao lão ta lạm quyền, trực tiếp sai người đến tiếp quản vườn trà vậy?

Sinh nghi, nhưng mặt không hề đổi sắc, y ra vẻ bình thản hỏi:

- Trà Long Tĩnh tiến cống không phải do tri phủ Hàng Châu quản lý sao? Thì ra... Mạc công công cũng có quyền giám sát.

Liêu quản sự đắc ý đáp:

- Vườn trà sản xuất ra trà Long Tĩnh chính gốc chỉ có ở mấy vùng đồi núi như Tiên Nhân Xung, Hoàng Khê Giản, Ô Mai Tiêm và Mông Độ Loan, tổng cộng chỉ có mười mấy mẫu, một năm sản xuất được không đến ba bốn trăm cân, chỉ riêng dùng làm cống phẩm cũng đã không đủ rồi. Long Tĩnh được bán trên chợ đều là sản phẩm của mấy huyện lân cận Hàng Châu, giả mạo trà Long Tĩnh chính gốc, mùi vị thật sự kém hơn rất nhiều.

Mạc công công lo có người hám lợi, trộm trà tiến cống bán ra ngoài nên đã sai người giám sát những vườn trà này, ngay cả tri phủ Hàng Châu cũng không được dây máu ăn phần. Bây giờ mỗi năm toàn bộ trà xuân Long Tĩnh cực phẩm đều được dùng để dâng lên cho kinh sư và vài vương phủ. Qua mồng tám tháng tư, mới cho phép phủ Hàn Châu đem trà đặc sản ra bán để thu thuế. Cháu của tiểu nhân là quản sự thân tín dưới trướng Mạc công công, biết tiểu nhân thích uống trà nên khéo lời cầu xin Mạc công công, Mạc công công mới đưa cho bấy nhiêu. Mặc dù đây cũng không được tính là hàng cực phẩm của vua chúa, nhưng cũng chẳng thua kém bao nhiêu, mời đại nhân nếm thử.

Dương Lăng cười nhạt, trong lòng không để ý lắm. Nghe hắn khoác lác đến trời, làm như túi trà của hắn là vật thế gian khó cầu lắm ấy? Ở Đông Noãn các tại cung Càn Thanh y cũng đã uống không ít các loại trà xuân cực phẩm được dùng làm cống phẩm, so với loại trà này còn hơn một bậc, song đương nhiên y không cần phải khoe khoang những lời này với Liêu quản sự làm gì.

Y hờ hững tiếp lấy chén trà, mở nắp ra, dưới ánh đèn chỉ thấy nước trà trong vắt, màu sắc xanh biếc, bên trong trôi nổi vài lá trà. Một mùi thơm dịu nhạt bay lên thấm thẳng vào trong tim phổi. Ban đầu mùi hương thơm mát đó khiến cho người ta cảm thấy thanh nhã, sau lại cảm thấy mùi hương u nhã đó vấn vương không dứt, tuy không nồng nàn, nhưng lại giống như mùi thơm dịu của hoa cỏ đồng nội trong tiết xuân, lưu luyến mãi không rời.

Mặc dù màu sắc của chiếc lá trà trong chiếc chén thô kệch này và của loại cực phẩm trong cung giống hệt nhau, nhưng mùi hương lại hoàn toàn không thể so sánh. Cầm chén trà trên tay, bất giác Dương Lăng ngây người.

Chú thích:

đây là một phong tục vùng Giang Nam, ngồi thuyền nhỏ trên sông, câu cua, hấp chín, ột cua ra ăn giữa trăng thanh gió mát, nghe sóng vỗ rì rào.

hai Mã cùng uống nước suối, chỉ sức tấn công phối hợp của hai quân Mã - cũng là một đòn rất lợi hại

chữ hoa trong câu thơ ám chỉ người con gái đẹp hoặc kỹ nữ; đó là lý do tại sao Cao Văn Tâm lại nổi giận.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 124: Quỷ Quyệt Khó Biết

Liêu quản sự thấy Dương Lăng cầm chén trà có vẻ đăm chiêu, vội thấp thỏm dò hỏi:

- Đại nhân! Phải chăng... phải chăng loại trà này không hợp với khẩu vị của ngài?

- Hả? Ồ! Đâu có, đâu có! Loại trà ngon cực phẩm này lúc ở trên kinh sư bản đốc cũng chưa từng được thưởng thức. Thật là hương thơm nức mũi, toàn thân thư thái!

Dương Lăng thấy hắn hỏi dò, vội lấy từ trong ngực ra một chiếc khăn gấm trải lên bàn, giả vờ thèm thuồng nói:

- Liêu quản sự có thể san sẻ chút trà ngon cực phẩm này cho bản đốc ta được không? Uống xong nước trà này của huynh, khẩu vị của bản đốc đã bị nâng lên rồi, trà thường thật sự là nhạt nhẽo vô vị.

Y nói xong đưa mắt ra hiệu cho Cao Văn Tâm, Cao Văn Tâm vội lấy ra một thỏi bạc nhỏ không ít hơn mười lạng đặt lên bàn.

Liêu quản gia nghe y khen, bất giác có cảm giác được yêu mến mà áy náy. Hắn vui vẻ móc túi lấy túi trà nhỏ đó ra, hai tay đưa qua:

- Đại nhân nói như vậy hẳn là đại nhân rất thích loại trà này. Là người Hàng Châu, tiểu nhân cũng được vinh dự lây vậy! Ha ha, chút trà này chỉ là tâm ý nhỏ nhoi không tỏ được lòng tôn kính, xin đại nhân vui lòng nhận dùng tạm dọc đường. Đợi đến nơi rồi, chỉ sợ Mạc công công sẽ còn có phần lễ vật lớn cho ngài đó.

Dương Lăng âm thầm cười khẩy trong lòng: "Mạc Thanh Hà dối trên lừa dưới, dùng kém trám tốt, cả gan đánh tráo cả trà tiến cống cực phẩm. Hắn lại dám đưa trà tiến cống cực phẩm cho mình thấy ư?"

Liêu quản sự ra sức từ chối không nhận bạc của y, Dương Lăng đành kêu Cao Văn Tâm cất bạc lại, rồi nhận lấy túi trà trong tay hắn.

Một cơn gió ùa đến, thổi tung chiếc khăn tay của y đang đặt trên bàn. Liêu quản sự tinh mắt, liếc mắt nhận thấy đó là lụa cực phẩm Tô Châu, không khỏi vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ kêu lên:

- Chiếc khăn tay này của đại nhân thực đúng là cực phẩm à nha!

Hắn vừa nói vừa nhẹ nhàng nhặt chiếc khăn tay lên, quan sát cành hoa mai thêu màu rực rỡ bên trên, khen ngợi:

- Thêu thật khéo! Thiếu nữ Giang Nam tính tình đặc biệt dịu dàng, thông minh khéo léo, sở trường nhất là đường thêu bay bướm, ăn nói tế nhị. Nhưng muốn nắm vững thuần thục loại kỹ thuật thêu thùa này, có rất nhiều cô nương cho dù dốc sức cả đời cũng chưa chắc đã có thể nắm bắt được. Chiếc khăn lụa này thật sự là tác phẩm của bậc thầy chân chính, có tiền cũng chưa chắc mua được, không dễ kiếm đâu!

Chiếc khăn tay đó là của công chúa Vĩnh Phúc dùng để bọc cặp xuyến ngọc Bàn Long bị Dương Lăng thuận tay nhét vào ngực khi y vào hậu cung bắt trộm. Ban đầu y có ý định sẽ trả lại cho công chúa, nhưng chờ mấy ngày mà cũng không có cơ hội gặp lại nàng.

Dương Lăng chợt nhớ đến một minh tinh nổi tiếng ở thời hiện đại mà đã có không biết mấy trăm bộ giầy dép và quần áo, huống chi là đường đường một công chúa Đại Minh? Chắc chắn người ta cũng sẽ chẳng quan tâm đến một chiếc khăn tay, thế là y thuận tay cất trên người luôn. Nếu không phải vì chiếc khăn này là do y thuận tay vớ được mà lấy mang đi tặng Ấu Nương thì thực thẹn với lòng thì y đã sớm mượn hoa kính phật rồi.

Lúc này nghe Liêu quản sự nhận định chiếc khăn gấm bé xíu này quý giá như vậy, y lại hơi hối hận vì đã không đem nó tặng cho Ấu Nương. Nghe thế, Trương thiên sư nổi lòng hiếu kỳ bèn cầm lên quan sát kỹ rồi nói:

- Đúng rồi! Quả nhiên là vật phẩm chất lượng tốt nhất trong số lụa Tô Châu. Ha ha, có điều màu hoa này hơi loè loẹt quá, Dương đại nhân mang theo người không thích hợp cho lắm!

Thiên sư vừa cười vừa mở chiếc khăn tay ra. Nhìn thấy cành hoa mai cổ xưa dưới góc bên phải hơi có chút kỳ lạ, chàng ta nâng khăn lên nhìn cẩn thận. Đột nhiên phát hiện ra ý nghĩa sâu sắc trong đó, Trương thiên sư giật nảy mình, suýt nữa buông tay khiến chiếc khăn bay đi theo gió.

Màn đêm u ám, ánh đèn mờ nhạt, người khác không quá để ý đến đoá hoa mai ở góc khăn. Nhưng Trương thiên sư cả ngày nghiên cứu bùa chú, những cổ tịch đạo gia trên Long Hổ sơn hầu hết đều là vật trân quý từ thời thượng cổ, văn tự ghi trên đó đều là những thứ cực kỳ cổ xưa cho nên Trương Ngạn Thạc rất am tường về chữ triện cổ.

Chàng ta thấy hoa mai trên góc khăn đó không ngờ là bốn chữ triện thêu thành, tiếp đó lấy bốn chữ tiểu triện hình hoa mai hợp lại thành một bức hình hoa mai, nếu không biết những chữ đó thì thực sẽ không nhận ra. Quả nhiên là hao phí tâm tư, khéo léo vô cùng.

Nhìn kỹ chữ thêu đó thì lại là bốn chữ "Vĩnh Phúc Tú Ninh". Công chúa Vĩnh Phúc khuê danh là Chu Tú Ninh, lúc Trương thiên sư lập đàn cầu phước cho hoàng thất trong cung đã biết được tên nàng; lúc này nhìn thấy trên chiếc khăn tay có cả hai chữ Vĩnh Phúc và Tú Ninh, làm sao chàng ta không đoán được đây là vật kề thân của công chúa chứ?

Trương thiên sư kinh hãi đến tim đập thình thịch. Đừng nói là Dương Lăng đã cưới thê nạp thiếp, cho dù hiện giờ y chưa vợ cũng không được phép cùng công chúa ngầm tặng tín vật, thầm trao tâm tình. Chẳng lẽ... chẳng lẽ Dương xưởng đốc gan lớn trùm trời, dám tư tình với công chúa sao?

"Người khôn phải biết giữ mình, người khôn phải biết giữ mình!" Từ khi bá phụ bị lưu đày, Trương Ngạn Thạc và phụ thân đều cùng dè chừng cẩn thận mọi lúc mọi nơi, chỉ sợ sẽ chạm vào vảy ngược của hoàng thất. Phát hiện chuyện bê bối này của hoàng thất, chàng ta lập tức ra vẻ điềm nhiên như không đưa trả lại khăn lụa, trong lòng âm thầm phát thệ: "Đời này tuyệt sẽ không để cho người khác biết được mình nhận ra các chữ triện hoa mai này!"

Mặc dầu đã đến thời đại này được một khoảng thời gian, cũng biết được chút ít cấm kỵ, nhưng Dương Lăng nào có thể gặp chuyện gì cũng lo trước tính sau giống như đang đi trên băng mỏng, cho nên y hoàn toàn không hề để ý già cả. Y thoải mái cầm lấy chiếc khăn tay nhét vào trong người rồi cười nói:

- Đã vậy, bản đốc xin cảm tạ Liêu quản sự!

****************

Trương Phù Bảo mượn cớ thân thể không khoẻ, tắm rửa thay đồ, nhập định trọn một canh giờ mới cảm thấy tinh thần sảng khoái. Thấy mình hơi có linh cảm, nàng vội cầm lấy công cụ bói toán tự bói cho mình một quẻ. Đạo hạnh của nàng có hạn, bói mãi nhưng chỉ mới ra được câu đầu, lại giống hệt với lời bình mà phụ thân đã cho nàng. Trong lòng tiểu cô nương càng bứt rứt hơn.

Nàng biết đạo hạnh của anh trai cao thâm hơn mình một chút, cũng từng có ý muốn nhờ y bói toán nghiệm chứng cho mình. Nhưng cho dù quẻ bói này can hệ đến cả đời nàng đi chăng nữa, một tiểu cô nương mười ba mười bốn tuổi nào lại có da mặt đủ dày nôn nóng đi tìm anh trai bói tìm lang quân trong mộng tương lai cho mình chứ?

Trương Phù Bảo hai tay chống cằm, chơm chớp đôi mắt tròn xoe, trầm ngâm lẩm bẩm: "Bán luân minh nguyệt nhất giang thủy, bạch cốt sơn thượng địch hồng tiêu. Binh qua khởi thời xuân ảnh động, Lão Quân tượng tiền hứa lương nhân*."

*Tạm dịch:

Nửa vầng trăng sáng, một dòng sông

Trên Bạch Cốt sơn rửa lụa hồng*

Dáng xuân lả lướt thời chinh chiến

Hẹn chàng trước tượng Lão Quân trông.

*(lụa hồng) cũng chỉ người con gái đẹp

Đọc đi đọc lại mấy lần nhưng ngẫm mãi không thông, Trương Phù Bảo căm tức vỗ bàn cằn nhằn:

- Cha thật đáng ghét! Con gái của mình mà cũng giả thần giả quỷ. Bói không ra thì thôi, bói ra được thì nói thẳng với mình cho xong, hại mình phải đoán tới đoán lui!

Nàng chán nản nhảy xuống giường, đẩy cửa sổ, ngước nhìn vầng trăng sáng tỏ trên bầu trời, hai con ngươi sáng ngời phản chiếu ánh trăng lấp lánh. Nàng si mê ngơ ngẩn hồi lâu, trong lòng thầm nghĩ: "Không thể là y, nhất định không thể là y. Y đã có thê tử, Bảo Nhi mình sao có số làm thiếp người ta được?

Cho dù y có tài ba hơn nữa mình cũng không thể gả cho y được, nhất định là mình nghĩ ngợi lung tung rồi. Nửa cái bánh nướng thế nào cũng không thể tính là nửa vầng trăng tỏ chứ? Vả lại mình ngã là ngã xuống sông đào, chứ đâu phải ngã xuống sông lớn, ngụ ý đâu phải là ngụ ý theo kiểu này. Hơn nữa ba câu sau cũng không khớp với y mà!"

Nghĩ đến đây, dường như Trương Phù Bảo hơi yên tâm, nhưng lại nghĩ đến việc xảo hợp này có thể không liên quan đến y, không hiểu vì sao nàng lại cảm thấy hơi buồn. Nàng giậm chân, tự vả vào mặt mình, xấu hổ tự mắng: "Mi bao tuổi rồi mà lại đi bận tâm mấy cái chuyện này? Đồ nha đầu không có triển vọng!"

Nàng buồn bực mở cửa thuyền, thấy có một nha sai đang xỉa răng đi ngang qua, lúc này mới cảm thấy bụng đang trống rỗng, vội hỏi gã:

- Này, ăn tối rồi sao?

Bây giờ người trên thuyền đều biết nàng là con gái, cũng biết nàng là em gái của Trương thiên sư. Người ta là em gái của quốc sư, đám nha sai thực không dám vô lễ. Tên nha sai đó liền vội làm lỠrồi đáp:

- Vâng thưa tiểu thư, xưởng đốc đại nhân và thiên sư đã xuống thuyền đến ven sông dùng tối rồi ạ!

Nghe nói bọn họ xuống thuyền mà lại không gọi mình, Trương Phù Bảo không khỏi tức giận hừ một tiếng rồi nói:

- Dẫn ta đi. Ta cũng đói bụng rồi.

Ban đầu Cao Văn Tâm đứng cạnh Dương Lăng hầu cơm nhưng rồi bị Dương Lăng bắt ép ngồi xuống cạnh mình. Lúc này nàng vừa nhã nhặn ăn gạch cua, vừa nhanh nhẹn liên tục lóc thịt và gạch cua, kịp đưa cho Dương Lăng đang ngốn lấy ngốn để như bò nhai cỏ.

Lúc uống trà, Dương Lăng lại nhỏ nhẹ nhấp miệng uống từng hớp bát canh gừng pha mật đường nóng hôi hổi. Con thuyền nhỏ khẽ lắc lư, tiếng sóng vỗ rì rào như có như không, cả miệng ngát hương ngào ngạt, quả nhiên sảng khoái vô cùng.

Trương Phù Bảo bước xuống thuyền lớn, được tay nha sai nọ dẫn đến bên chiếc thuyền nhỏ, nhìn thấy bộ dạng nhàn nhã của mọi người, trong lòng càng thêm tức giận. Thế là cũng không thèm đợi bọn họ gọi xuống thuyền, nàng liền không hề khách khí mà chọn lấy một chỗ rồi phịch mông ngồi xuống.

Nàng vẫn mặc một bộ đạo bào nhưng mái tóc dài xõa tung, xinh đẹp thướt tha, trông hồn nhiên và đáng yêu vô cùng. Song khi nàng cầm lấy một con cua lớn lên ăn, tướng ăn lại giống hệt như Dương Lăng.

Chỉ nghe Liêu quản sự cười nói:

- Cho nên có câu "giọng Tô Giang dịu dàng", vừa ngọt ngào vừa êm ái, lại nghe rất hay. Phụ nữ Tô Hàng nói chuyện luôn luôn nhẹ nhàng, ngọt ngào êm tai. Có người còn bảo, nghe bọn họ cãi nhau cũng là một loại hưởng thụ đấy!

Dương Lăng cười nói:

- Thế à! Ha ha, Hàng Châu ta đã đến một lần, có điều đó là rất rất nhiều năm về... À... về trước, vì đi vội nên chưa thưởng thức được phong thổ lẫn nhân tình nơi phố phường này.

Đang gặm cua, Trương Phù Bảo nghe bọn họ nói chuyện hào hứng sôi nổi, thậm chí anh trai mình cũng như đang thả hồn bay xa, không khỏi hừ một tiếng:

- Nghe nói khâm sai đại nhân điều quân ồ ạt xuống Giang Nam, chắc là có việc công cần làm chứ? Đại nhân ngồi đây ăn uống, trên bờ đã có mấy chục tên vệ sĩ lăm lăm vũ khí rồi. Chẳng lẽ ngài định đến Tô Hàng sẽ dẫn theo cả trăm người vào ngõ hẻm nghe cô nương người ta nói chuyện phiếm ấy à?

Dương Lăng nghe vậy hơi lấy làm xấu hổ, Cao Văn Tâm thì lại mỉm cười.

Liêu quản sự thấy tình thế không ổn, liền vội đổi đề tài:

- Tiểu nhân nhiều chuyện rồi! Thực ra đại nhân đã đến đó thì đương nhiên là phải nhìn ngắm, thưởng thức phong cảnh vùng sông nước Giang Nam một chuyến. Nói đến phong cảnh, ngày mai chúng ta đến Hàng Châu rồi, những nơi phong cảnh đặc sắc ở Hàng Châu rất nhiều, đứng đầu chính là "Tây Hồ thập cảnh". Phong cảnh ở Tây Hồ còn có rất nhiều câu truyện truyền thuyết, nổi danh nhất chính là về tháp Lôi Phong.

Liêu quản sự thấy vị đại tiểu thư Trương Phù Bảo này xuất hiện thì không còn dám nói về những nét đặc sắc của người con gái vùng Giang Nam nữa mà chuyển sang kể những câu truyện thần thoại. Đương nhiên Dương Lăng biết câu truyện về tháp Lôi Phong nhưng không ngờ câu truyện mà Liêu quản sự kể lại không giống với những gì mà y đã biết.

Theo lời hắn kể, vào năm Thiệu Hưng đời Tống, trong Tây Hồ có yêu quái Bạch xà tu luyện ngàn năm và hầu gái do Thanh ngư (cá trắm đen) hoá thành, trong mưa gặp được một người mở tiệm thuốc tên là Hứa Tiên, hai người vì thế nảy sinh tình cảm, kết làm phu thê. Nhưng Bạch xà và Thanh ngư đều là yêu tinh hoá thân, không biết lễ nghi nhân gian, thường xuyên làm mất thể diện Hứa Tiên, khiến y khó xử không thôi.

May mắn có vị cao tăng giỏi pháp thuật của Kim Sơn tự là Pháp Hải nhìn thấu nguyên hình của hai con yêu, ông đưa cho Hứa Tiên một chiếc bình bát có pháp thuật. Nhân lúc bọn họ không đề phòng, Hứa Tiên chụp chiếc bát lên đỉnh đầu hai yêu, hai yêu hiện nguyên hình và bị Pháp Hải bắt giữ. Thanh ngư định chạy trốn, bị Pháp Hải huỷ hết pháp thuật phải hiện nguyên hình. Bạch xà bị vị cao tăng đè dưới tháp Lôi Phong, vĩnh viễn không thể siêu sinh.

Liêu quản sự kể xong thì cười nói:

- Hoà thượng Pháp Hải còn từng để lại lời kệ rằng: "Tây Hồ thuỷ kiền, giang hồ bất khởi, Lôi Phong tháp đảo, Bạch xà xuất thế*." Nước của Tây Hồ làm sao có thể cạn được chứ? Cho nên Bạch xà yêu cũng chỉ có thể vĩnh viễn bị đè dưới tháp Lôi Phong, nhận chịu hết mọi dày vò mà thôi.

* Tạm dịch:

Nước Tây Hồ mà cạn thì giang hồ sẽ không yên.

Khi tháp Lôi Phong sụp đổ cũng sẽ là lúc Bạch xà xuất hiện.

Chàng Hứa Tiên đó được cao tăng cứu giúp, từ đó một lòng hối cải, hành thiện tích đức. Về sau lại cưới vợ sinh con, con trai còn đỗ Trạng Nguyên, cũng xem như gia đình tích thiện rồi.

Trương Phù Bảo tính tình chất phác, nghe xong tức giận nói:

- Cái tên Hứa Tiên đó thực quá vô tình. Tuy Bạch xà là yêu tinh, nhưng đôi bên đều có tình cảm với nhau, lại chưa từng hại hắn. Hắn không quen với hành vi của người ta thì cũng nên niệm tình phu thê mà để người ta ra đi, cớ sao lại giúp tên hoà thượng ác độc khiến thê tử mình chịu khổ dưới tháp Lôi Phong? Bản thân thì lại bỏ vợ, cưới người khác, rồi còn con đàn cháu đống gì đó, hưởng hết vinh hoa phú quý! Như thế còn có thiên lý hay sao?

Chẳng ngờ kể câu truyện này cũng bị nàng mắng, Liêu quản sự không khỏi cứng mồm, đờ cả người. Trương thiên sư thấy vậy cười trách:

- Phù Bảo! Chẳng qua chỉ là một truyện thần thoại thôi, muội so đo làm gì?

Dương Lăng không ngờ câu truyện Bạch xà của thời này lại là một phiên bản như vậy, thế là y nhất thời cao hứng kể câu truyện mà mình được biết. Câu truyện về Thanh xà Bạch xà xuất thế, gặp Hứa Tiên trên cây cầu gãy, lên Nga Mi trộm thuốc cứu chồng, dâng lũ nhấn chìm Kim Sơn, đánh cho Pháp Hải bỏ chạy, được Dương Lăng rù rì kể lại, cảm động lòng người hơn câu truyện của Liêu quản sự gấp không biết bao nhiêu lần. Không những Trương Phù Ngọc nghe say sưa mà cả Cao Văn Tâm cũng lắng nghe đến mê mẩn.

Trương Phù Bảo nghe đến kết cục phu thê đoàn tụ, cùng bay về cõi tiên thì mặt mày rạng rỡ, khen: - Câu truyện này mới hay.

Rồi nàng cầm một con cua lên, dương dương đắc ý nói:

- Vị Thanh Thanh cô nương đó dùng tam muội chân hoả đốt Pháp Hải, vậy là thần kỹ của đạo gia ta rồi. Ha ha, Pháp Hải bị đuổi đến lên trời xuống đất đều không xong, là trốn trong vỏ con cua này sao?

Dương Lăng lấy làm lạ: "Chẳng lẽ người thời này còn chưa phát hiện đường vân trong mai cua giống hình hoà thượng à?" Y vội cầm một con cua lên, bóc mai ra, quả nhiên vẫn nhìn thấy đường vân giống như hoà thượng đang tĩnh tọa, hình dáng thần thái đây đủ cả, kỳ diệu vô cùng.

Dương Lăng cười đưa cho Trương Phù Bảo nói:

Cô xem này, lão Pháp Hải đó trốn trên thân con cua đã lâu, giống như Đạt Ma diện bích nhiều năm, để lại cái hình này. Cô xem xem có phải là hoà thượng hay không?"

Trương Phù Bảo cầm lấy đưa lên ánh đèn nhìn kỹ, không khỏi vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ kêu lên: - Quả nhiên có hoà thượng, quả nhiên có hòa thượng! Ca ca! Thì ra đây không phải là truyện thần thoại, nhất định trước đây thực sự đã có việc này đó!

Trương thiên sư, Liêu quản sự và Cao Văn Tâm ai nấy đều hết sức kinh ngạc tự bóc cua ra quan sát, nhìn thấy mà tấm tắc kêu lạ kỳ. Liêu quản sự cũng khoái chí nói:

- Không ngờ trên đời lại có chuyện kỳ lạ như vậy, trong mỗi con cua lại có một vị hòa thượng. Sao trước nay không ai chú ý nhỉ? Ha ha, thực là thú vị. Tiểu nhân là người Hàng Châu mà cũng chưa từng nghe qua chuyện này. Trở về đem chuyện này kể cho người ta nghe, nhất định trong chốc lát sẽ lan truyền khắp chốn.

Dương Lăng nghe vậy thì giật mình. Câu truyện này đã trải qua không biết mấy thế hệ bổ sung và hoàn thiện, rồi miễn cưỡng ráp vào một ít kỳ văn cổ tích mới trở thành phiên bản của đời sau. Mình nhất thời buột miệng kể ra, hắn lại muốn "xuất bản trước hạn"!

Cao Văn Tâm cũng chưa từng nghe câu truyện này, nhất thời cũng say sưa chìm trong câu truyện tình của Bạch xà và Hứa Tiên. Nàng cảm khái một hồi, dựa vào bóng khuất của ánh đèn lặng lẽ ngắm nhìn vẻ anh tuấn tiêu sái của Dương Lăng, trong lòng thầm nghĩ: "Bạch xà cảm động và ghi nhớ ơn cứu mạng của tiều phu, dám hoá thân thành người, gả làm vợ hắn. Mình... mình thân phận là nô tỳ, song thậm chí cả yêu tinh cũng không bằng, so ra cũng chỉ có thể xem như thị tỳ Thanh xà kia, vác khổ thay người, lo tới lo lui, rốt cuộc vẫn không thành chánh quả."

Cao Văn Tâm nghĩ đến đây, thầm mắng mình một tiếng: "Xì! Mi đang nghĩ bậy nghĩ bạ gì thế, Thanh xà người ta chưa từng có ý với tướng công nhà nàng ấy mà."

Nàng thấy không ai chú ý đến vẻ mặt của mình, không khỏi lại suy nghĩ tiếp trong lòng: "Thanh xà đó ra sức trả công không lời than oán như vậy, thật sự chỉ xuất phát từ tình cảm tỷ muội ư? Nàng ấy... nàng ấy có bao giờ thích vị công tử Hứa Tiên đó không? Nếu nàng ấy thổ lộ tình ý với Hứa Tiên, tiểu thư lại có tình như thủ túc với nàng, Hứa Tiên có sẽ... có sẽ cưới nàng về hay không?" (TheJoker: nếu là mềnh mềnh cưới ngay! Kết em này sau mỗi Ấu Nương thoai hix)

.........

Đêm đã khuya, gió đã trở lớn, mặt nước nổi lên những bọt hoa sóng trắng, từng đợt từng đợt vỗ vào con thuyền cá nhỏ bé. Dòng cảm xúc của Cao Văn Tâm cũng bắt đầu giống như con thuyền nhỏ trên sóng, dập dềnh chao đảo.

Vầng trăng như lụa, sóng khẽ vỗ bờ, gió thu nhẹ thổi, ánh mắt mông lung. Con tim không rượu cũng say.

****************

Xa giá nghênh đón quan khâm sai đã đợi trên bến thuyền từ lâu. Mặt trời còn chưa xế núi, thái giám trấn thủ lương trà* Mạc Thanh Hà, thái giám trấn thủ dệt may Tô Hàng kiêm chưởng quản ngự dụng long y** Lý Đại Tường cùng thái giám trấn thủ thuế quan thủy bộ Viên Hùng đã dẫn đầu đám người ra sông đón đợi.

(*: lương thực và trà

**: quần áo hoàng thất)

Dương Lăng là xưởng đốc Nội xưởng, chuyện y xuôi Nam tuần tra trưng thu thuế má không can hệ với Tam ty lắm, nhưng thân phận của Dương Lăng hiện tại không thể coi thường. Vì vậy Bố chánh sứ, Án sát sứ và Đô chỉ huy sứ của Chiết Giang cũng chạy đến nghênh đón. Tri phủ Hàng Châu Dương Vu Anh là chủ nhà song lại bị chen lấn, đẩy dạt sang một bên.

Do sứ giả mau mồm mau miệng rao truyền tin Trương thiên sư cưỡi thuyền quan của Dương đại nhân cùng đến Hàng Châu, đám đạo trưởng của mấy đạo quán lớn ở địa phương cũng rất cao hứng đến bến thuyền chờ đón tổ sư gia, chen lấn đứng cùng đám danh nhân thân sỹ của địa phương.

Điển sứ, tuần kiểm mặt mày căng thẳng đang chỉ huy hơn trăm nha sai duy trì trật tự.

Đoàn long kỳ màu vàng sậm vừa đập vào mắt, đám người liền bắt đầu nhốn nháo. Ba đại thái giám trấn thủ và các vị quan lại vén áo bào chậm chậm bước xuống thềm đá, đi đến đầu bến. Thuyền lớn vừa cập bờ, đội chiêng trống do đám thân sỹ tổ chức liền nổi nhạc ầm lên, pháo nổ đì đùng không dứt, khắp nơi nhất thời mịt mù khói pháo.

Đạp ván xuống thuyền, hai bách hộ dẫn hơn trăm tay nha sai bước xuống thuyền trước, chia thành hai hàng hình cánh nhạn. Dương Lăng và Trương thiên sư vừa sánh bước xuất hiện, lập tức trên bến thuyền tiếng tung hô loạn lên:

- Hoan nghênh đề đốc nội xưởng, thị vệ thân quân khâm sai Dương đại nhân!

- Vô lượng thiên tôn, đệ tử cung nghênh thiên sư pháp giá quang lâm!

Trông thấy cảnh hỗn loạn đó, Trương thiên sư và Dương Lăng không khỏi nhìn nhau cả cười. Trương thiên sư lần này đến Hàng Châu với thân phận cá nhân nên không muốn dây dưa với phía quan lại lắm; thiên sư chỉ chào hỏi chuyện trò cùng các vị quan lại đến nghênh đón một lúc rồi dẫn em gái mình đến gặp đạo nhân và tín đồ của các đạo quán ở địa phương.

Trước mặt Dương Lăng là một đám quan viên đang khúm na khúm núm túm tụm vây quanh y. Thuế giám lương trà Mạc Thanh Hà Mạc công công đi đầu bước lên phía trước, mỉm cười thi lễ:

- Khâm sai đại nhân đi đường mệt nhọc, thật vất vả rồi. Ty chức Mạc Thanh Hà cùng Lý Đại Tường, Viên Hùng và quan viên của Tam ty cung nghênh đại nhân.

Dương Lăng quan sát hắn. Vị đại thái giám Mạc Thanh Hà này tuổi trạc tứ tuần, vóc người cao to, dáng vẻ đường đường. Mặc dầu hắn là công công trấn thủ địa phương, phẩm hàm không bằng đám công công của ty Lễ Giám trong kinh, nhưng có lẽ bởi không phải hầu hạ dưới chân thiên tử nên ngực hắn ưỡn cao, không như đám thủ lĩnh Ty lễ giám đầy quyền lực nhưng lưng vai lúc nào cũng quen khom cúi; khí chất phong độ ấy trông thật bất phàm.

Hai thái giám phía sau lại không bằng anh bằng em. Thái giám trông coi dệt may Lý Đại Tường da thịt trắng bủng, mày đen mắt híp, thực có mấy phần ẻo lả. Còn Viên Hùng cai quản ty thuế quan, kiêm nhiệm giám quân sứ giám sát mấy ngàn quân của Long Sơn vệ lại gầy gò nhỏ thó, cằm nhọn má hóp, mặc bộ quan bào rộng thùng thình, như thể gặp gió thổi liền sẽ bay lên trời vậy.

Hai người cũng vội vàng bước lên ra mắt Dương Lăng. Không những Dương Lăng là khâm sai, là xưởng đốc Nội xưởng, mà sau này còn là lãnh đạo trực tiếp của ba người. Ba ông chúa đất địa phương này dĩ nhiên sẽ khom lưng uốn gối ra sức bợ đỡ y rồi.

Đợi ba người vỗ mông ngựa một trận xong, Bố chánh sứ ty Ngưu đại nhân mới cùng hai vị đại nhân khác bước lên, cười nói với Dương Lăng:

- Cung nghênh khâm sai đại nhân! Dương đại nhân đi đường vất vả, chúng tôi đã bày tiệc rượu ở lầu Túy Tiên tiếp đãi tẩy trần cho đại nhân rồi. Mời đại nhân sang ngồi kiệu, chúng ta đến nơi sẽ nâng chén kính lời, thỏa sức no say.

Tuy các vị quan to địa phương này không sánh bằng mấy vị thái giám nọ, nhưng Dương Lăng cũng không dám vô lễ với bọn họ, y bèn vội ôm quyền từ tạ:

- Bản đốc phụng chỉ tuần tra, các vị đại nhân trăm bề bận rộn mà vẫn đến nghênh tiếp, thực khiến tại hạ sợ hãi. Thật ra tại hạ đi đường mệt mỏi, lúc này mong muốn nhất là được tắm rửa một hồi, nghỉ ngơi cho khoẻ, thật sự không muốn làm phiền đến các vị đại nhân.

Mạc Thanh Hà nghe vậy vội cười nịnh:

- Xưởng đốc đại nhân! Lầu Túy Tiên nằm ngay dưới chân núi Cô Sơn*, cách hành dinh khâm sai của ngài chỉ có một dặm đường. Các vị đại nhân đều có lòng tốt, xin xưởng đốc đại nhân chớ nên khước từ.

(* thực ra chữ "sơn" đã là núi rồi, nhưng nhóm dịch vẫn giữ nguyên "Cô sơn" để đọc khỏi thấy trỏng trỏng, giống như vẫn giữ "sông Hoàng Hà" vậy)

Dương Lăng nghe hắn nói vậy cũng không tiện từ chối quá mức. Chén tạc chén thù trên quan trường vốn là chuyện nể mặt mũi nhau, nếu như anh không đi, mặc dù tiết kiệm được tiền bạc cho người ta nhưng chắc chắn trong lòng người ta cứ vẫn không vui. Y đành mỉm cười đáp:

- Nếu như thế thì làm phiền các vị rồi.

Mạc công công vui vẻ kêu người lên thuyền đưa hành trang của Cao Văn Tâm và Dương Lăng về hành dinh, còn mình và các vị đại nhân và những nhân vật danh tiếng địa phương đi cùng Dương Lăng. Chỉ kiệu quan không đã là mấy chục cái, phía trước có đoàn gõ chiêng dẹp đường, đoàn người cuồn cuộn thẳng hướng đến lầu Túy Tiên mà đi.

Lầu Túy Tiên là tửu lâu nổi tiếng và xa hoa nhất Hàng Châu, nằm ngay dưới chân núi Cô Sơn. Tuy những tửu lâu xa hoa của kinh sư cũng rường cột chạm trổ, nguy nga lộng lẫy như thế, nhưng luận về ý cảnh sẽ không thể nào sánh được với nơi này. Dương Lăng bước vào tửu lâu mà như đang đi vào một lâm viên. Hành lang bên trong đình viện rộng lớn uốn lượn khúc khuỷu quanh co, hoa thơm chim hót. Trong sân có vài căn gác nhỏ tinh xảo độc đáo, thi thoảng vẳng ra những tiếng đàn du dương.

Hàng người đi qua ba khu lạc viện, men theo con đường nhỏ rải đá trắng tinh, vượt qua một chiếc cầu nhỏ nên thơ, xuyên qua một khu rừng trúc mới đến một căn gác nhỏ. Những cây trúc cao lớn che chắn làm nổi bật căn gác nhỏ màu hồng trong đó. Trúc xanh đong đưa giam hờ căn gác trong sự thanh tao tĩnh mịch, khiến người ta cảm thấy vui vẻ thoải mái. Dương Lăng vừa trông thấy, thân thể đang mệt mỏi lập tức phấn chấn lên.

Khi nãy trong kiệu y vẫn chưa kịp ngắm cảnh sắc Giang Nam, giờ chỉ cần nhìn thấy một góc này quả nhiên đã tựa như tiên cảnh. Mọi người bước vào gác, phân ngôi chủ khách an tọa. Còn chưa kịp chuyện trò, một hàng thiếu nữ váy trắng vải xanh, tà áo tung bay đã bưng trái cây và trà thơm lả lướt đi tới.

Váy áo tung bay, dáng người tha thướt, mắt như thu thủy, mày tựa núi xa. Những người con gái này dung mạo tịnh không phải tuyệt sắc thượng thừa, song hiếm thấy chính là ngũ quan đều tinh xảo như nhau. Từng cái nhíu mày, mỉm cười, mỗi bước đi, dừng lại đều mang theo sự ung dung dịu dàng đặc trưng của người con gái miền sông nước.

Nếu nói lâm viên nhìn thấy khi nãy là một phong cảnh thoát tục, thì những người con gái thướt tha như liễu lay trong gió này há chẳng phải cũng u nhã như vậy ư?

Dương Lăng nhìn mà không khỏi lộ ánh mắt tán thưởng. Mạc Thanh Hà trông thấy bèn đưa mắt nhìn sang Viên Hùng ngồi đối diện mỉm cười, rồi nâng chén lên mời:

- Xưởng đốc đại nhân từ phương Bắc đến, tất nhiên tửu lượng không tầm thường. Rượu Giang Nam có vị nhạt tinh thơm, mời đại nhân uống cạn ba chén trước! Hôm nay chúng ta không say không về!

Chú thích:

Rồng là một vật có thể đùa bỡn, thậm chí có thể cưỡi. Nhưng ở dưới cái cổ của nó có cái vảy ngược dài một thước ta (3 tấc). Ai động đến thì bị nó giết ngay. Các vị vua chúa cũng có cái vảy ngược, kẻ du thuyết không sờ phải cái vảy ngược của vua chúa thì mới có thể là người giỏi. (trích ký lục Tư Mã Thiên)

nguyên văn Cơ Phong, là thuật ngữ thiền lâm, còn gọi là thiền cơ, là lời nói mang ngụ ý sắc bén, thâm ảo.

Mười cảnh đẹp của Tây Hồ (西湖十景-Tây Hồ thập cảnh), được hình thành vào thời Nam Tống, chủ yếu nằm rải rác xung quanh Tây Hồ, thường được mô tả như sau:

Tô đê xuân hiểu: Buổi sáng mùa xuân trên đê Tô (do Tô Đông Pha đắp)

Liễu lãng văn oanh: Chim oanh hót trong bụi liễu

Hoa cảng quan ngư: Xem cá tại ao hoa

Khúc viện phong hà: Hương sen thổi nhẹ tại sân cong

Nam Bình vãn chung: Chuông chiều ở núi Nam Bình

Bình hồ thu nguyệt: Trăng mùa thu trên hồ yên bình

Lôi Phong tịch chiếu: Tháp Lôi Phong trong ánh sáng buổi chiều

Tam đàm ấn nguyệt: Ba đầm nước phản chiếu ánh trăng

Đoạn kiều tàn tuyết: Tuyết còn sót lại trên cầu gãy

Song phong sáp vân: Hai ngọn núi đâm vào mây (theo wiki)

theo truyền thuyết, Đạt Ma sư tổ diện bích (quay mặt vào tường) tham thiền nhập định chín năm rồi viết nên Dịch Cân Kinh và Tẩy Tủy Kinh làm nên nền tảng võ thuật Thiếu Lâm, thế nên có câu "cửu niên diện bích" là vậy. Dương Lăng mượn câu nói này.

Hành dinh của khâm sai nằm bên trong một trang viện. Cơ ngơi rộng lớn này à dinh thự của thuế giám Mạc Thanh Hà, chiếm gần một khoảnh (100 mẫu, khoảng 6,7 héc-ta), chia làm tiền viện và đông, tây khóa viện*. Bây giờ tây khóa viện đã được dọn dẹp sạch sẽ, tạm thời dùng làm hành dinh của khâm sai. (*: từ điển giải nghĩa khóa viện là nhà ngang, có thể hiểu là một dãy phòng nằm ở hướng đông và một dãy khác ở hướng tây)

Cơ ngơi này vốn là một kiến trúc lâm viên trang nhã và tinh mỹ, khắp nơi đầy giả sơn, hành lang uốn khúc, ao cá, hoa cỏ. Chuyến đi này Dương Lăng chỉ mang theo một thị tỳ là Cao Văn Tâm, còn lại toàn bộ đều là nha sai nội xưởng. Mạc Thanh Hà hào sảng mang nửa số nhân viên sai bảo trong phủ mình như nha hoàn, bà hầu, đầu bếp, vân vân đẩy sang hầu hạ y, có thể nói là dốc đủ vốn liếng với vị khâm sai đến từ kinh đô này.

Hai chiếc kiệu được khiêng về Mạc phủ, dừng lại dưới hành lang trước gian thứ nhất. Hành lang uốn khúc kiểu kiến trúc Giang Nam này được xây theo kiểu chật hẹp nên dưới hành lang hơi có vẻ âm u, trên tường thỉnh thoảng có vài cửa vào nhỏ hẹp xây thẳng lên đến nóc, sơn cùng màu với bức tường. Nếu không để ý nhìn có thể sẽ không biết bên cạnh có một cửa ra vào, đẩy cửa mở ra sẽ xuất hiện ở bên trong một thế giới khác.

Dương Lăng và Mạc Thanh Hà lần lượt ra khỏi kiệu, lúc này bên ngoài đang lất phất mưa phùn. Mưa thu rả rích thấm ướt những chiếc lá của cây cỏ dưới hành lang khiến chúng phát ra những ánh sáng bóng lưỡng. Mặc dù ngắm nhìn và lắng nghe tiếng mưa rơi tí tách, thấu được ý nghĩa sâu xa của trời thu mát mẻ tự nhiên ta sinh ra một cảm giác cô quạnh, nhưng quang cảnh này lại không hề mang vẻ điêu linh của cái thu sắp sang đông.

Mạc Thanh Hà cười nói với Dương Lăng:

- Đại nhân! Mời ngài về nghỉ ngơi tạm cho khỏe, ngài mai ty chức sẽ lại báo cáo với đại nhân về tình hình thuế má Giang Nam.

Lúc tiếp rượu, Dương Lăng bị đám quan viên thân sỹ rót cho mấy chén, nay y đã cảm thấy đầu óc quay cuồng, chỉ muốn leo lên giường uống chén trà xanh rồi nghỉ ngơi. Huống chi lúc y lên bờ đã dặn người bắt liên lạc với đám người Liễu Bưu vốn được phái trước đến nơi này, cho nên nghe vậy y vội vàng gật đầu.

Đúng vào lúc này, một tràng cười êm tai vọng đến. Bên hành lang đối diện, một cánh cửa hẹp cao đến nóc có cùng màu sơn với tường đột nhiên mở ra, một người con gái mặc áo xanh đang xoè cây dù bằng giấy dầu khom người từ bên cửa hông đó nhanh nhẹn lách người bước ra. Hai người con gái mặc áo hồng theo sau nàng ta cũng cất tiếng cười đùa cùng gọi nhau nhảy ra.

Dương Lăng liếc mắt nhìn, y thấy đằng sau cửa hông đó lại là một hoa viên. Chỉ liếc nhìn qua khe cửa mà đã cảm thấy phong cảnh thật hữu tình, tinh mỹ tuyệt luân, tựa như cõi bồng lai.

Y lại nhìn ba người con gái nọ.,Cả ba đẹp đến nín thở khiến y đứng ngẩn ra đó. Màu áo đỏ bắt mắt hơn, nhưng chỉ liếc một cái, ánh mắt của mọi người đều sẽ chỉ dừng trên thân mình của người con gái mặc áo xanh. Người con gái đó thực khiến người ta phải choáng ngợp.

Tường trắng cao cao, đường lát đá xanh màu đen nhạt, dây bìm bìm mọc dài dọc trên kẽ hở hành lang như thể đã im lìm tồn tại từ rất lâu về trước. Người con gái áo xanh hài đỏ một tay cầm cây dù giấy dầu màu vàng, một tay vén váy, mỉm cười duyên dáng từ trong vẻ cổ kính ấy lướt nhẹ ra.

Vẻ mỹ lệ, ống tay áo, con hẽm nhỏ. Độ sâu sắc ấy, sự tĩnh lặng của khung cảnh ấy cô đọng và súc tích tựa Đường thi, thanh nhã và thâm thúy như Tống từ. Có nàng nhẹ nhàng lướt qua, phong cảnh cổ kính dường như cũng hoà vào sự khẽ khàng, kiều diễm, mềm mại và ngọt ngào của nàng, bất giác trở nên ấm áp say lòng người.

Trông thấy kiệu quan, người con gái vui mừng kêu lên: "Lão gia đã về rồi à?" Nàng thong dong nhìn sang hành lang này, trông thấy Dương Lăng, thoạt tiên hơi ngẩn người, sau đó nàng vẫn vén váy, cầm dù đi giữa sắc xanh của những bồn cảnh chậu kiểng bước đến gần.

Giọt nước trên ngọn cỏ xanh lăn xuống theo bước chân êm ái của đôi hài đỏ. Trong khoảnh khắc ấy, Dương Lăng có ảo giác dường như nàng là một người ngọc bằng nước mặc y phục cũng bằng nước, đang bước trên dòng nước trong vắt.

Người con gái đi thẳng tới, đôi mắt sáng ngời như sóng nước thoáng hiếu kỳ liếc nhìn vẻ tự nhiên phóng khoáng của Dương Lăng, sau đó nhún người mỉm cười duyên dáng chào Mạc Thanh Hà:

- Lão gia!

Giọng của nàng trong như tiếng suối vỗ đá, êm ái, giòn tan. Khi nàng khẽ cười, dung nhan mỹ lệ chói ngời tựa ánh mặt trời, khiến cho hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Không ngờ thế gian lại có người như vậy! Dương Lăng không khỏi kinh ngạc tán thán tự đáy lòng.

Xét về sắc đẹp, Liên Nhi và Ngọc Nhi tuyệt không thua kém người con gái này, thậm chí còn hơn một bậc, nhưng vẻ phong tình của hai cô đem so với nàng, quả chỉ như những con nhóc ranh chưa đủ lớn. Khí chất thùy mị thành thục ấy của nàng do được hun đúc qua năm tháng, giống như ruợu ngon tinh chất, tuyệt không phải là sắc đẹp vốn có hay được huấn luyện mà có thể hình thành.

Người con gái Giang Nam dáng người cao thon, dung nhan thuần khiết như nước này, tuổi tác xem ra khoảng chừng hai bảy, nhưng sinh cơ và sức sống ấy lại khiến nàng trẻ đi ít nhất mười tuổi. Ngũ quan xinh xắn, cử chỉ dịu dàng của nàng khiến cho người ta không khỏi nghĩ tới vẻ đẹp của thiếu nữ giặt lụa, sóng xanh nước biếc, em bé hái sen.

Lúc đối diện với Dương Lăng, Mạc Thanh Hà luôn khoác lên vẻ mặt siểm nịnh và khôn khéo, nhưng khi nhìn thấy người con gái này, trong mắt hắn lại tràn trề sự dịu dàng và hạnh phúc. Hắn âu yếm:

- Trời đang mưa, còn nghịch ngợm trong vườn như con nít vậy. Mau ra mắt khâm sai Dương đại nhân đi!

Người con gái mỉm cười, đôi mắt tràn đầy sức sống lướt nhanh trên khuôn mặt anh tuấn của Dương Lăng một vòng, nhỏ nhẹ chào:

- Tiện thiếp bái kiến đại nhân!

Dương Lăng vội chắp tay, đưa mắt nhìn sang Mạc Thanh Hà, không biết nên xưng hô thế nào. Mạc công công cười lớn giới thiệu:

- Đây là tiện nội. Ngày thường ty chức quá cưng chiều nàng nên cô ta không biết nề nếp gì cả, lại khiến đại nhân chê cười rồi!

Dương Lăng nghe thế suýt nữa thì cắn lưỡi. Thái giám cũng có thể lấy vợ sao? Hơn nữa còn công khai táo bạo như vậy nữa? Đây là thế giới gì vậy trời?

Y lại nhìn vị mỹ nữ áo xanh tươi cười xinh đẹp, rồi nghĩ đến ông chồng thái giám của nàng ta, trong nháy mắt tất cả mọi linh phụ kiện trong đầu đều tan vỡ. Y cố gượng cười chào hỏi:

- Thì ra là Mạc phu nhân, thất kính thất kính. Ờm... bản quan đã hơn mệt rồi, bây giờ... bây giờ sẽ về phòng nghỉ ngơi.

Dương Lăng vội vã hàn huyên mấy câu, rồi lơ mơ đi theo gia đinh băng qua một cửa hông khác. Sau lưng vọng lại tiếng Mạc công công không thể chờ được nữa bắt đầu "dạy dỗ" vợ:

- Tiểu Lâu! Trời mưa mà còn chạy nghịch trong sân, chẳng nết na gì cả, khiến khâm sai đại nhân chê cười kìa.

Tiếp sau đó là một tràng cười hờn mát rung động đến tâm can:

- Lão gia! Người ta có một mình buồn quá hà. Người tốt ơi, chàng về thì hay rồi, mau cùng người ta về phòng trò chuyện nào.

Dương Lăng tưởng tượng cảnh cánh tay ngọc ngà của nàng ta nhẹ nhàng thong thả quấn quanh cổ Mạc Thanh Hà, làm ra vẻ nũng nịu quyến rũ. K còn thánh khiết như một dòng suối mát, thoắt cái đã có thể hoá thân thành một bát canh mê hồn*, khiến y càng cảm thấy khó hiểu: "Mạc Thanh Hà thực ra dáng vẻ đường đường, nhưng hắn... suy cho cùng là một thái giám mà. Thái giám cưới vợ, hai vợ chồng còn rất đằm thắm nữa, chuyện này là sao vậy nhỉ. Lẽ nào chuyện này không trái với chế độ sao? Ừm... quay về hỏi thử Văn Tâm cái đã." (*: thuốc lú)

Trong tiền viện, Mạc Thanh Hà dắt tay ái thê về phòng, đóng cửa lại. Nàng lập tức châm trà, hay tay bê đến trước mặt hắn, yêu kiều nói:

- Lão gia, mời dùng trà. Người đó chính là người lão gia nói là trong kinh phái đến điều tra đó sao? Hi hi, thật là một vị khâm sai trẻ tuổi.

Mạc công công đón lấy chén trà, thuận tay kéo bàn tay ngọc của nàng. Người con gái liền kêu lên một tiếng yêu kiều, nhẹ nhàng sà xuống ngồi lên đùi hắn, hai tay choàng qua cổ hắn.

Khuôn mặt xinh xắn của nàng khẽ ửng hồng, hơi thở cũng trở nên gấp gáp, nàng thỏ thẻ với Mạc công công:

- Đáng ghét! Lão gia mới vừa trở về lại muốn... lại muốn làm chuyện xấu gì đó?

Sắc mặt trầm tĩnh, trong mắt không hề chứa chút dục vọng, Mạc công công khoan thai nói:

- Tiểu Lâu! Người này niên kỷ tuy nhỏ, nhưng ta không thể xem thường. Trong triều đình, nội triều thì có mấy vị công công Vương Nhạc, Phạm Đình và Miêu Quỳ, ngoại triều có mấy vị đại học sỹ Lưu Kiện, Tạ Thiên và Lý Đông Dương, vậy mà trong khoảng thời gian ngắn ngủi y đã có thể táo bạo nổi lên, đồng vai đồng vế với bọn họ. Người này có thể đơn giản sao?

Vị mỹ nữ tên gọi Tiểu Lâu dựa sát vào tay y hớp một ngụm trà, đoạn áp môi mình vào môi hắn dùng miệng làm chén mớm trà, sau đó vui vẻ cười nói:

- Nô gia chỉ tán thưởng dũng khí kháng chỉ cứu thê của y, chỉ tiếc cuối cùng y còn nạp thêm hai người thiếp đẹp về nhà. Nô gia nghe nói bên tây khoá viện còn có một vị cô nương xinh đẹp vào ở. Hừ! Chỉ là một tên ngụy quân tử mua danh cầu tiếng!

Mạc công công cười nhạt, véo mạnh mông nàng một cái, nói:

- Nếu y thật sự là dạng người đó, vậy lại dễ xử. Phu nhân xinh đẹp của ta ra tay, còn không khiến y thần hồn điên đảo, xương cốt rã rời, mũ giáp tả tơi, ngoan ngoãn cúp đuôi về phủ ư.

Tiểu Lâu cố ý kêu lên một tiếng ngọt ngào, cắn chiếc môi đầy đặn hấp dẫn, bộ ngực cao vút phập phồng:

- Lão gia... chàng lại muốn người ta tiếp... tiếp...

Mạc công công nắm chặt cổ tay trắng ngần của nàng, thở dài:

- Tiểu Lâu, nàng biết ta... ta không thể cho nàng... Ôi! Chỉ cần con tim nàng ở bên ta, những chuyện vui người vui mình, ta sẽ không ngăn cản nàng.

Miệng nói như vậy, song sâu thẳm trong đôi mắt hắn lại chợt lóe lên một sự đau thương sâu sắc.

Tiểu Lâu ôm lấy người hắn, nói:

- Lão gia! Đều do Tiểu Lâu nói sai rồi. Trong lòng Tiểu Lâu chỉ có một mình lão gia, mãi mãi vẫn vậy. Bất luận lão gia muốn Tiểu Lâu làm gì, chỉ cần có lợi cho lão gia, Tiểu Lâu... Tiểu Lâu đều nguyện ý!

Mạc công công che dấu nỗi thống khổ, khoác lên bộ mặt vui vẻ rồi véo một cái lên bộ ngực mềm mại nẩy nở mê người của nàng, cười nói:

- Đương nhiên là nàng chịu rồi, tiểu tử đó vừa trẻ tuổi lại anh tuấn. Cái tuổi như sói này của nàng lại gặp con sói trẻ khôi ngô xuất chúng như vậy, còn không sướng như tiên ư?

Vẻ mặt của hắn rõ ràng là hết mực sủng ái người con gái áo xanh này, tình yêu đó tuyệt đối xuất phát từ chân tâm, tuyệt không giả tạo. Nhưng khi nói về việc nàng ta đi tiếp nam nhân khác, vẻ mặt hắn lại vẫn hết sức thản nhiên, thể như đã hoàn toàn chia tách tình yêu và dục vọng thành hai bộ phận bất đồng.

Tình cảm của người con gái tên là Tiểu Lâu ấy đối với hắn cũng như vậy; nghe hắn bàn chuyện để mình, là người vợ của hắn, đi quyến rũ người ngoài giao hoan như thế nào mà cứ như là giao tiếp uống rượu làm thơ bình thường, hoàn toàn không hề e ngại. Cặp vợ chồng có tình cảm kỳ lạ này thực sự khiến người ta không thể hiểu được.

Hai người trêu đùa một hồi, Tiểu Lâu lo lắng nhíu mày hỏi:

- Nhưng mà... lão gia khẳng định vị khâm sai này ít kinh nghiệm, không phải là y giả heo ăn thịt hổ sao? Nghe nói ở trong kinh y phạm vào đại tội khi quân, nhưng sau cùng chẳng những bình yên vô sự mà còn hạ bệ được ba vị thượng thư nữa, sao y là người không có chút thủ đoạn được?

Giờ y mới lên làm xưởng đốc, tiếp quản thuế giám các nơi khắp cả nước. Lần này y đến Giang Nam, không biết chừng chính là để giết người lập oai. Lão gia vẫn nên cẩn thận là hơn.

Mạc Thanh Hà mỉm cười ấm áp, đáp:

- Đó là lẽ đương nhiên. Giết người tuy có thể lập oai, nhưng trấn thủ sứ các thành các trấn trên thiên hạ ai đã không từng giết mấy mạng người? Ta thấy y vừa nhậm chức liền tìm đến chúng ta, ba đại trấn thủ sứ Nam Trực Lệ giao nộp nhiều thuế khóa nhất nước, sẽ không phải là vì chúng ta chậm giao thuế má, mà là muốn giở chút thủ đoạn vừa đấm vừa xoa. Chỉ cần ba người chúng ta bị y hàng phục, ty thuế giám ở khắp nơi trong nước sẽ tự xuôi theo chiều gió.

Tiểu Lâu lấy làm lạ hỏi:

- Nếu Hoàng Thượng đã hạ chỉ giao ty Thuế Giám cho y, sao lão gia không nương nhờ y sớm một chút, còn muốn đọ sức cùng y một phen là vì cái gì thế?

Mạc Thanh Hà cười ha hả đáp:

- Người đẹp ngoan của ta ơi, đi nương nhờ trước đương nhiên có thể được trọng dụng, nhưng y có phải là người chủ có thể nương nhờ hay không? Nếu như nương nhờ nhầm người thì... Nàng thử nghĩ khi ty Thuế Giám trở về lại tay ty Lễ Giám, mấy vị công công trong kinh đó ăn chay sao? Cứ xem thử trước đi đã. Tuy thấy chúng ta ở địa phương muốn gió có gió, cầu mưa được mưa, quan lớn địa phương đều chỉ có thể lấm lét mà nhìn, nhưng trong mắt của đám quan lớn trong kinh này, chúng ta không phải chỉ là một con kiến có thể bị bóp chết bất cứ khi nào ư? Không thể không cẩn thận đâu...

Hắn thở dài một hơi, rồi phấn chấn tinh thần lại, ôm chặt lấy bờ eo thon của mỹ nhân trong lòng, cười nói:

- Mưa xuân nghe vẳng đêm lầu nhỏ, hoa hạnh rao dần sớm ngõ xa (#). Có nhân vật phong lưu đệ nhất Giang Nam như nàng đây, cho dù vị Dương xưởng đốc này thật sự là kẻ lợi hại, lão gia ta còn sợ y không thu nhận ta hay sao? Ha ha ha, chỉ dựa vào đôi mắt làm say lòng người, thân thể quyến rũ này đây của nàng, trong thiên hạ có nam nhân nào mà không yêu thương say đắm nàng kia chứ?

Cùng với sự chòng ghẹo của hắn, trong căn phòng cất lên tiếng thở yêu kiều nhè nhẹ. Trong chốc lát, những tiếng rên khe khẽ lay động con tim từ trong phòng vọng ra, khiến cả cơn mưa thu giăng đầy trời cũng mờ mịt mang theo ý xuân.

Mãi đến lúc lên đèn, Mạc công công mới mở cửa phòng, quay đầu lại cười nói:

- Ta còn hẹn người khác gặp mặt. Bảo bối của lòng ta, nàng hãy mau thức dậy rồi tắm rửa thay đồ đi, giường bị nàng làm ướt hết rồi.

Một chiếc hài thêu hoa ném tới một cách yếu ớt, đập bộp lên cửa, đi kèm với tiếng rên rỉ liên tục khiến lòng người run rẩy là một giọng nói vô cùng quyến rũ cất lên:

- Quỷ tha chết chàng đi, bỏ rơi người ta dở lỡ, thật là khó chịu. Người ta vẫn còn muốn mà, hãy đổi cái giác tiên sinh* đi..." (*: dương cụ giả)

Mạc công công cười lớn rồi đáp:

- Cô nàng lẳng lơ ơi, một cục sắt cũng có thể bị nàng làm chảy không còn một mẩu đó.

Hắn vừa nói vừa đóng cửa phòng lại. Cửa phòng vừa đóng, nụ cười trên khuôn mặt hắn cũng như bị đóng lại, lập tức biến mất. Hắn đứng lặng im một hồi, nghe thấy trong phòng không có tiếng động gì, lúc này mới hài lòng mỉm cười, lặng lẽ xuống lầu, vòng trái rẽ phải, đi một hồi lâu mới vòng vào một phật đường.

Phòng ốc ở Giang Nam, cho dù là gia đình giàu có, cũng thường xây nhiều nhà nhiều cửa. Toàn bộ phòng sảnh,đình, lầu, bệ, gác nối với nhau bởi những dãy hành lang uốn khúc quanh co, khúc khủy. Nếu không quen nhà quen cửa, đi loanh quanh một hồi lâu chắc chắn sẽ bị lạc đường, thậm chí đến cửa ra vào cũng tìm không được.

Trong phật đường, trên hương án đốt hai cây đèn cầy, trên bồ đoàn có một người mặc đồ đen ngồi xếp bằng, hai tay đặt trên gối như đang nhập định.

Mạc công công vừa vào cửa, người áo đen lập tức búng người dậy, thân thủ cực kỳ linh hoạt. Mạc công công đóng cửa lại, mừng rỡ nói:

- Ngươi đến thật đúng lúc.

Âm điệu Giang Nam của người đó có vẻ hơi cứng, gã đáp cộc lốc:

- Nhận được lệnh Mạc gia triệu đến, ta lập tức khởi hành, một khắc cũng không trễ. Không biết Mạc gia muốn ta chạy đến ngay tức khắc là có gì dặn bảo?

Mạc công công ngoắc tay kêu người đó đến gần, to nhỏ thì thầm một hồi. Người đó nghe xong do dự nói:

- Y là khâm sai, làm như vậy có sẽ làm sự việc ầm ĩ lên không? Chỉ sợ đối với ngài và ta đều bất lợi.

Mạc Thanh Hà cười gian trá đáp:

- Ta chỉ muốn ngươi đề phòng chuyện chằng may. Nếu như Dương Lăng quả thật có chút thủ đoạn, đáng để ta theo, vậy ta tận tâm hiến sức cho y cũng không sao. Có điều ý đồ đến của y thực sự khó dò. Đây chỉ là đề phòng ngộ nhỡ, nếu y có lòng muốn bắt giết ta, vậy thì... Ngươi cũng nên biết, nếu như không có ta ở đây bảo vệ, chiếu cố, các ngươi khó mà sinh sống qua ngày. Cả vùng duyên hải còn có thể để cho các ngươi kiếm sống sao?

Người mặc đồ đen nọ chần chừ một lát, rồi nói:

- Được, trong khoảng thời gian này chúng ta sẽ bày trận chờ địch. Nếu như Mạc gia cần đến, chỉ cần ngài ra lệnh một tiếng, bọn ta sẽ lập tức đem quân giết tới.

Mạc Thanh Hà nghe vậy cười lớn:

- Rất tốt! Các ngươi là nước cờ cuối cùng của ta. Nếu như Dương Lăng thức thời, vậy thì tốt cho ngươi, cho ta và cho mọi người. Nếu như y khinh người thái quá, các ngươi cứ việc mạnh dạn mà làm, cục diện hỗn loạn sau đó đương nhiên sẽ do ta thu dọn!

****************

Dương Lăng loạng choạng bước vào phòng ngủ, ngã vật xuống giường ợ một tiếng rồi nói với những gia bộc đưa y về:

- Được rồi, ta muốn nghỉ ngơi một lúc, các ngươi lui ra đi.

Hai gia nhân vâng vâng dạ dạ rồi lui ra, nhẹ nhàng đóng cửa phòng lại. Dương Lăng cảm thấy chăn đệm mềm mại lại thêm mùi thơm nhàn nhạt, khiến cho người nằm bên trên chỉ muốn say sưa.

Y khoan khoái rên lên một tiếng, áp gò má nóng hổi lên chiếc chăn bông mịn màng trơn truột. Rời khỏi cái giường cứng ngắc trên thuyền mà y vừa nằm ngủ, vốn y đã hơi choáng váng rồi, huống hồ y lại uống thêm mấy ly rượu nên giờ thật sự y chỉ muốn cứ vậy mà nằm ngủ.

Dương Lăng vừa muốn chợp mắt, chợt cánh cửa két một tiếng, mở ra. Dương Lăng hé mắt nhìn thấy Cao Văn Tâm bưng một cái khay bước vào, thế là y rên một tiếng, nhăn nhó khổ sở.

Cao Văn Tâm nhẹ nhàng đặt khay lên bàn, trở lại đóng chặt cửa, sau đó quay lại cúi xuống nhìn y. Người Dương Lăng đầy mùi rượu, Cao Văn Tâm không khỏi nhíu đôi mày thanh tú, dường như không quen với mùi rượu lắm. Nàng khẽ gọi:

- Lão gia, lão gia, dậy uống thuốc đi!

Dương Lăng rên một tiếng, nói:

- Văn Tâm tốt bụng ơi, tha cho tôi đi! Tôi váng đầu lắm, cô để tôi ngủ một lát, ngày mai hãy uống nhé, để mai hãy uống.

Dương Lăng trước nay chưa từng gọi thẳng tên nàng, Cao Văn Tâm nghe mà khuôn mặt xinh xắn đỏ bừng, lòng ngọt ngào như được rót mật. Dương Lăng xuống nước cầu xin khiến nàng nghe mà lập tức mềm lòng, hận không thể đáp ứng mọi chuyện với y được.

Nhưng mà liều thuốc này cũng là bài thuốc mà nàng khổ công tham khảo cổ tịch phối chế ra, nếu như tùy ý ngừng sử dụng, nàng cũng không biết có ảnh hưởng đến hiệu quả trị liệu hay không, nên đành phải cứng lòng, nghiêm mặt lại nói:

- Không được! Phu nhân đã căn dặn kỹ, muốn tiểu tỳ hầu hạ lão gia dùng thuốc, một ngày cũng không thể lỡ. Lão gia... người... người mau dậy đi mà.

Cao Văn Tâm nhỏ nhẹ dỗ dành khiến Dương Lăng nghe vậy, hết cách đành định bò dậy. Nhưng vừa rồi y nằm xuống đã thả lỏng toàn thân, nay thật sự là không muốn cựa quậy chút nào. Cao Văn Tâm thấy bộ dạng lười nhác của y, thở dài một tiếng, không biết làm sao đành ngồi bên giường nâng một chân của y lên, bắt đầu cởi giày cho y.

Trước giờ Dương Lăng không hề sai bảo Cao Văn Tâm như nô tỳ thật sự, nay thấy nàng làm như vậy liền vội giãy giụa ngồi dậy nói:

- Cứ để tôi tự làm cho, làm vầy coi sao được?

Cao Văn Tâm lườm duyên y một cái, nói:

- Cái gì mà được với không được. Lão gia nằm đi! Nhìn cái dáng vẻ của lão gia là đủ biết rồi, lão gia chịu uống thuốc sao?

Cao Văn Tâm cởi hai chiếc giày của y ra, lại tháo giây buộc vớ, giúp y cởi vớ, rồi nâng y ngồi dậy. Dương Lăng ngượng ngùng ngồi yên, Cao Văn Tâm quay về rót một chén nước mát, rồi đem mấy viên thuốc qua. Dương Lăng cầm thuốc nuốt ực, ghé qua tay nàng uống mấy ngụm nước, sau đó cởi áo ngoài rồi ngoan ngoãn leo lên giường nằm sấp.

Cao Văn Tâm bĩu môi mỉm cười hài lòng. Nàng đặt chén xuống, cầm châm lên, Dương Lăng đã tự giác kéo chiếc áo lên cao, để lộ phần dưới hông. Cao Văn Tâm ngồi bên mép giường, vừa vo ngân châm vừa nói khẽ:

- Lão gia! Lúc người đi dự tiệc, có một vị tự xưng là Hải Ninh Diêm Vận phó sứ Mẫn đại nhân đến hành dinh khâm sai này tìm, nói là bạn cũ của người. Vì lão gia không có ở đây, tiểu tỳ đã mời ông ta ngày mai quay lại rồi.

- Mẫn đại nhân? Ồ! Là Mẫn huyện lệnh!

Dương Lăng mửng rỡ, không kiềm lòng được bèn thẳng lưng lên. Cây châm trong tay Cao Văn Tâm thoáng cong lên, cũng không biết đâm trúng y chỗ nào tức thì bắn ra vài giọt máu. Cao Văn Tâm hoảng sợ, cầm cây ngân châm nhỏ máu, luống cuống chỉ biết kêu lên:

- Đâm vào chỗ nào rồi? Đâm vào chỗ nào rồi? Sao lão gia lại cử động lung tung vậy. Giờ biết làm sao đây? Giờ biết làm sao mới được đây?

Dương Lăng lại không cảm thấy đau mấy. Cảm thấy sau lưng lành lạnh, ythuận tay vuốt nhẹ, thấy máu dính đỏ cả tay, lúc này y mới giật mình. Nhưng khi thấy miệng Cao Văn Tâm dẹt ra, vẻ như sắp khóc đến nơi, Dương Lăng vội cười an ủi:

- E hèm! Xem cô kìa, chắc là không cẩn thận nên đâm trúng mạch máu rồi. Châm mỏng thế này, không có gì đáng lo đâu. Tôi đè mạnh một hồi sẽ lập tức ổn thôi.

Cao Văn Tâm hoảng hốt vất châm, cuống quýt lấy tay đè lên vết thương của y, vừa sợ hãi vừa lo lắng nói:

- Xem lão gia đó! Đang châm cứu mà sao lại cựa quậy chứ, ngộ nhỡ có mệnh hệ gì thì biết làm sao?

Dương Lăng cười nói:

- Vị Mẫn đại nhân đó là cố nhân của tôi lúc còn ở huyện Kê Minh, có ơn đề bạt tôi. Tôi nghe thấy ông ta đến, trong lòng vui mừng quá cho nên có phần sơ ý đó mà. Ha ha, cô đừng sợ, không có gì đáng ngại đâu.

Y nói rồi mới nhớ rằng huyện lệnh Mẫn Văn Kiến của Kê Minh giờ làm quan ở Hải Ninh, có lẽ cách Hàng Châu cũng không xa. Lúc này nhớ đến lão ta, y không khỏi lại nhớ đến Tất Đô ty, Mã Ngang, còn Mã Liên Nhi nữa, không phải bọn họ đều ở gần đây sao?

Có nên đi thăm Mã Liên Nhi không nhỉ? Lòng Dương Lăng xao động, rồi y lập tức lại cứng rắn dằn lòng: "Thôi thì đừng đi vậy! Một con ma đoản mệnh như mình đã phụ ba vị cô nương tốt rồi. Nếu còn quyến luyến không quên người khác nữa thì cũng hơi quá vô sỉ đó!"

Dương Lăng đang trầm tư, Cao Văn Tâm đã cất giọng u uẩn trách móc:

- Gì mà không đáng ngại chứ! Về sau khi tiểu tỳ dùng châm, không cho phép lão gia cựa quậy nữa. Huyệt đạo dưới hông này là chỗ bình thường sao? Nếu đâm trật vào chỗ... chỗ đó...

Dở câu, vị cô nương như nàng không tiện nói tiếp nên nàng chỉ nói đến đó rồi đành nuốt phần còn lại vào.

Dương Lăng cười ruồi vài tiếng, cũng không đáp lời, trong phòng nhất thời yên tĩnh trở lại. Sau một hồi, Cao Văn Tâm nhẹ nhàng dời tay, thấy không còn chảy máu nữa mới thở phào, đổi lấy cây ngân châm mới, rồi bắt đầu nhẹ nhàng se se trên huyệt đạo của y.

Dương Lăng nằm sấp tại chỗ, do dự một hồi chợt nhớ đã sớm phái Liễu Bưu dẫn người đến Tô Hàng nghe ngóng nội tình của ba vị thái giám trấn thủ, đến giờ vẫn chưa thấy gã xuất hiện, không nhịn được bèn hỏi:

- Đúng rồi! Hôm nay Liễu Bưu có đến không? Tôi phái y nghe ngóng sự tình mà không biết như thế nào rồi?

Cao Văn Tâm mắng yêu:

- Lão gia à! Đi đường thủy nửa tháng trời mà thân thể người không biết mệt sao? Bây giờ nghỉ ngơi trước đi đã, điều tra xử án không phải là chuyện một ngày nửa buổi đâu. Liễu Bưu đến thì đã đến rồi, đang lẫn vào trong đám thân vệ của người, tiểu tỳ nói hôm nay lão gia tiếp rượu xã giao nhất định sẽ mệt mỏi, đã bảo y mai hãy bẩm báo tin tức với lão gia rồi.

Hôm nay trên buổi tiệc rượu Dương Lăng đã gặp ba vị thái giám trấn thủ và quan viên địa phương, ai nấy đều giống như kẻ khẩu phật tâm xà, khoe khoang việc cai quản ở Tô Hàng cũng giống như phong cảnh của nó, tất cả đều trở thành thiên đường của nhân gian. Trong cả bữa tiệc ngoại trừ uống rượu ăn thịt, ghi nhớ tướng mạo và danh tính của mấy viên danh quan đó ra, y chẳng thu hoạch được chút tư liệu có ích gì, một chút manh mối để xử án cũng không có nên y đang sốt ruột trong lòng.

Lúc này nghe thấy Liễu Bưu đã đến, y không khỏi hưng phấn, chợt thoáng nhổm người dậy, sốt sắng la lên:

- Như vậy sao được? Cô mau gọi y đến gặp ta!

Lưng y vừa nhổm lên, kim châm trong tay Cao Văn Tâm lại cong lên, may mà lần đâm này không hề chảy máu.

Vừa gấp vừa giận, Cao Văn Tâm quên luôn cả tôn ty trật tự, tính khí nữ thần y và đại tiểu thư quen được người ta nuông chiều thuở xưa lập tức phát tác. Nàng xếch ngược đôi mày liễu, vung tay ngọc vỗ mạnh một cái "chát" lên mông Dương Lăng, miệng quát khẽ:

- Lại cử động lung tung rồi! Lão gia nằm yên cho tôi coi!

đây đều là hình ảnh đẹp trong những bức tranh sơn thuỷ: cảnh hoa nở trên đá, suối ngọc nước chảy, ông già câu cá, thiếu nữ giặt lụa và em bé hái sen.

"tiểu lâu nhất dạ thính xuân vũ, thâm hạng minh triêu mại hạnh hoa". Đây là hai câu thơ trong bài "Lâm an xuân vũ sơ tễ" của Lục Du tự Vụ Quan hiệu Lục Phóng Ông (1125210), được xem là nhà thơ vĩ đại nhất Nam Tống. (Xin xemhttp://vi.wikipedia.org/wiki/Lục_Du)

Lưu ý Tiểu Lâu chính là tên vợ Mạc công công.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 125: Trong hỏi ngoài tra

Thấy y cứ cựa quậy mãi, Cao Văn Tâm không khỏi vừa giận vừa cáu, nhất thời lỡ tay vỗ mạnh, một tiếng "chát" giòn giã vang lên khiến chính nàng cũng sững sờ. Dương Lăng há hốc mồm, quay đầu ngạc nhiên nhìn nàng, một lúc lâu Cao Văn Tâm mới sực tỉnh. Nàng vội vàng quỳ xuống đất thưa:

- Tiểu tỳ vô lễ, xin lão gia trách phạt!

Đừng nói nàng chỉ là thị tỳ của Dương Lăng, cho dù là thê thiếp của y, bất kể là thân mật với trượng phu như thế nào cũng không được phép đánh vào mông của y, đó là hành vi cực kỳ vô lễ. Khi còn giúp người chẩn bệnh, Cao Văn Tâm từng nghe kể có vị cử nhân lớn tuổi đuổi vợ với tội danh là phẩm hạnh kém. Thực ra là vì trong lúc vui vẻ với trượng phu, người vợ hơi thất thố, bị cử nhân lão gia cho là bất kính nên đuổi đi, hại nàng ta xấu hổ nhục nhã mà tự vận.

Dương Lăng lại không có loại giác ngộ mà đại nam nhân nên có này, y chỉ bị hành động đột ngột của nàng làm cho ngây người ra thôi. Lúc này trông thấy nàng sợ đến độ môi trắng bệch, bản thân y lại cảm thấy áy náy, thế là y đành cười lớn rồi bảo:

- Là do tôi không phải, đột nhiên nhổm người nên cô trở tay không kịp. Ờm, lần sau khi xoa bóp, cô nhẹ tay một chút là được rồi.

Cao Văn Tâm thấy y hoàn toàn không hề nổi giận, còn vì mình mà bào chữa thành "xoa bóp" mới yên tâm. Nàng bẽn lẽn đứng dậy tiếp tục châm cứu cho y. Đến khi kéo quần lót y xuống để châm cứu, nhìn thấy mông y bị vỗ đỏ ửng cả một vùng, Cao Văn Tâm không khỏi lén le lưỡi. Không biết là cố ý hay vô tình mà mu bàn tay nàng xoa nhẹ vài vòng lên "vết thương". Bàn tay ngọc ngà trơn nhẵn chạm vào thực là cực kỳ dễ chịu khiến Dương Lăng lâng lâng đắc ý.

Châm cứu xong, Dương Lăng lập tức chỉnh đốn lại y phục rồi bảo:

- Nha hoàn và nô bộc trong phủ hiện nay đều là người của Mạc công công, không thích hợp để tôi xử lý công vụ thường ngày cho lắm. Có cô ở bên cạnh tôi là đủ rồi, không cần người khác hầu hạ nữa. Ngôi nhà này nhất định phải hoàn toàn nằm dưới sự khống chế của người chúng ta. Cô bảo Trịnh bách hộ mang đám nha sai tiếp quản tòa nhà, đưa toàn bộ người của Mạc phủ rời khỏi đây, sau đó kêu Liễu Bưu đến gặp tôi.

Cao Văn Tâm thấy sắc mặt y nghiêm nghị, đích xác y có việccần làm nên không dám ngăn trở thêm, bèn vội đáp lời. Nàng ra ngoài được khoảng uống cạn một tuần trà thì đám nha sai bắt đầu đứng gác rải rác khắp nơi trong dãy nhà, đuổi tất cả nha hoàn, nô bộc của Mạc công công ra khỏi căn dinh thự độc lập này, cả trong lẫn ngoài bố trí đầy thị vệ của Nội xưởng. Sau đó, cửa phòng mở ra, một người ăn mặc như nha sai bình thường chợt lặng lẽ đi vào.

Dương Lăng ngồi bên bàn, mới vừa rót đầy hai chén trà. Sau khi bị "đày đoạ" một phen, men rượu của y đã vơi đi mấy phần, ánh mắt cũng đã tỉnh táo lại. Trông thấy Liễu Bưu bước vào, y khoát tay bảo:

- Không cần khách sáo, đến đây! Ngồi xuống rồi hãy nói!

Liễu Bưu chắp tay thưa:

- Dạ! Ty chức ra mắt xưởng đốc đại nhân.

Rồi bước nhẹ nhàng đến ngồi đối diện với Dương Lăng. Gần nửa tháng xa cách bỗng nhiên gặp lại Dương Lăng, nét mặt của y hơi lộ vẻ vui mừng.

Dương Lăng đẩy một chén trà qua, bảo:

- Những ngày qua vất vả cho Liễu thiên hộ quá! Huynh nghe ngóng được thế nào rồi?

Liễu Bưu thưa:

- Đại nhân! Ty chức vừa xuống tới Giang Nam liền lập tức tung mạng lưới thám thính, cho người giả làm người bán dạo và du khách dò thám tin tức xung quanh. Ba vị thái giám trấn thủ nắm giữ thuế má Giang Nam đã nhiều năm, tuy đâu đâu cũng có thế lực, nhưng cũng bởi vậy bọn họ không thể nào che giấu được những hành vi, công việc của mình.

Y nói đến đây, hiển nhiên hết sức tự hào với thành tích của bản thân, cho nên vẻ mặt có phần tự kiêu. Y cầm chén trà lên nhấp một ngụm thấm họng rồi lôi trong ngực ra một quyển sổ nhỏ, nâng hai tay trao cho Dương Lăng:

- Đại nhân! Những gì ty chức điều tra được đều ghi ở trong này.

Trước tiên ty chức sẽ nói qua về viên trấn thủ thuế quan kiêm giám quân Long Sơn vệ sở Viên Hùng. Nhiệm vụ của Viên Hùng là lập trạm thu thuế trên những con đường vận chuyển thủy bộ giữa những quan ải và thành trấn trọng yếu. Ví dụ như trên tuyến vận chuyển đường sông, cách mỗi bốn mươi dặm lại cắt cử thuế sứ (nhân viên thu thuế - ND) ngăn sông chặn thuế, một chiếc thuyền đi ba bốn trăm dặm ít nhất phải bị chặn thu thuế năm sáu lần. Nhiều cửa tiệm tơ lụa, tạp hoá địa phương có quy mô nhỏ không kham nổi gánh nặng thuế khóa đã phải đóng cửa.

Dương Lăng nghe xong nhíu mày: "Thuế khoá quá nặng, nhìn ngắn hạn thì số thu có phần dồi dào, nhưng đây chỉ là cái lợi trước mắt, thực tế lại chèn ép sự phát triển của công thương nghiệp, về lâu dài sẽ rất có hại cho dân chúng và quốc gia. Viên Hùng cứ cách bốn mươi dặm lại lập một trạm thu thuế, rõ ràng đã vượt quá quy định của triều đình.

Có điều những phương sách này nhất định cũng đã được sự đồng ý của ty Lễ Giám, ta không thể dùng sai sót này để trừng trị hắn. Huống hồ chính là nhờ những món thuế khoá hà khắc phạm pháp và hợp pháp này cho nên mô hình vận chuyển của Nội xưởng mới được lan rộng, Nội xưởng mới phát triển nhanh chóng như vậy. Muốn hoàn thành mục tiêu cao xa hơn của mình, đành phải có những hy sinh tạm thời như thế này vậy!"

Y trầm ngâm hồi lâu, âm thầm tính toán một hồi rồi nói:

- Ừ, bản đốc đã ghi nhớ chuyện này. Hắn còn hành vi phạm pháp nào khác có thể buộc tội không?

Liêu Bưu mỉm cười, dường như sớm biết việc đó không đủ để trị tội Viên Hùng. Y trả lời như đã liệu trước:

- Có. Ty chức phái người đóng giả làm tiểu thương buôn bán rượu thịt, giao thiệp với quan binh của Long Sơn vệ sở. Trong lúc tửu hậu có nghe bọn họ cằn nhằn rằng quân lương bộ Hộ phân phát chỉ có bốn thành rơi vào tay bọn họ, số còn lại đều bị Viên giám quân và đám quan viên chỉ huy vệ sở tham ô cả.

Hơn nữa, trước đây quan binh vệ sở ai nấy cũng đều có đất đai của riêng mình, nhưng những năm gần đây đã sớm bị cường hào và tướng tá dùng thủ đoạn ép mua ép bán chiếm đoạt lấy. Việc này khiến cho rất nhiều quan binh vì cuộc sống của người nhà mà đành phải đào tẩu lưu vong.

Vệ sở Long Sơn vốn phải có 6500 người trú đóng, nhưng con số quan binh thực có hiện tại chỉ là 2800 người, vả lại đa số đều là quân già lính yếu; số còn lại đều bị lĩnh khống tiền lương lẫn trang bị. Thậm chí khí giới lại càng ít đến thảm thương, rất nhiều chiến thuyền đã không thể sử dụng được từ lâu, khi sắp có thượng quan đến kiểm tra sẽ trưng dụng tạm thuyền đánh cá bổ sung vào cho đủ. Đến lúc giặc Oa tập kích thì chỉ có thể nghe thấy tiếng đã phải bỏ chạy. Tuyến phòng thủ bờ biển dài mấy ngàn dặm hầu như chỉ tồn tại trên giấy.

Dương Lăng nghe xong không nén được giận, đập bàn chát một tiếng mắng:

- Không ngờ việc quân đội nội địa lại buông thả như vậy! Chẳng trách lúc ở kinh sư ta nghe nói cho dù chỉ vẻn vẹn mấy trăm tên giặc Oa cập bờ cũng có thể xông vào tập kích khắp nơi như chốn không người...

Nói đến đây y chợt nhớ đến một chuyện, lấy làm lạ hỏi:

- Có điều... Khi ta còn ở huyện Kê Minh, lúc giặc Thát đến tập kích, quân sỹ phương Nam được điều đến cứu viện đều đầy đủ quân số, vũ khí trang bị cũng không tệ, hình như... Liễu Bưu, huynh xác định tin tức do thám không nhầm lẫn chứ?

Liễu Bưu lấy làm lạ đáp:

- Ty chức điều tra hết sức kỹ lưỡng, sẽ không có nhầm lẫn đâu. Vì phương Nam không bị cường địch như giặc Thát uy hiếp, giặc Oa có lên bờ cướp bóc một phen xong cũng đi ngay, hoàn toàn không dám ở lâu, cho nên việc phòng bị luôn luôn lỏng lẻo. Không biết quân phương Nam điều lên Bắc mà đại nhân nói đến là do ai chỉ huy vậy?

Dương Lăng trả lời:

- Ờ... Ta cũng không biết bọn họ thuộc đội quân của ai. Song ta nhớ đô ty dẫn binh tên gọi là Tất Xuân.

Liễu Bưu nghe vậy bật cười giải thích:

- Đại nhân! Chỉ huy sứ của vệ sở Long Sơn chính là Tất Xuân. Thật ra khi Nam quân được điều lên phía Bắc, để phòng ngừa triều đình nhìn ra sơ hở, quân sĩ được điều động thông thường đều là quân tinh nhuệ được điều động từ vệ sở các nơi bù vào cho đủ số. Vì việc này có lợi cho quân vệ sở mọi nơi ở Giang Nam, cho nên những tướng lĩnh ở đây cũng đều ủng hộ hết lòng. Đội quân của Tất Xuân mà đại nhân thấy nhất định là do vài đội quân vệ sở có sức chiến đấu mạnh nhất chắp vá lại.

Dương Lăng nghe xong ngẩn người một lát, rồi mới giận dữ mắng:

- Thủ đoạn giỏi lắm! Chuyện khác ta còn có thể tạm thời ẩn nhẫn, nhưng bọn họ tự hủy trường thành (ý là hủy hoại quân đội, lực lượng chính bảo vệ đất nước) thì chuyện này ta không thể nhẫn nhịn được. Ta sẽ khai đao với hắn trước, giết gà doạ khỉ, để vệ sở duyên hải bớt phóng túng một chút. Huynh hãy tiếp tục thu thập tình báo của bọn chúng, chú ý đừng bứt dây động rừng.

Liễu Bưu hào hứng đáp:

- Ty chức tuân mệnh! Lại nói về vị thứ hai, trấn thủ thuế giám dệt may Lý Đại Tường. Ngành dệt tơ của Tô Hàng được phân công cực kỳ chặt chẽ, hiện có các loại thợ chuyên môn như thợ sợi bông, thợ vải đoạn, thợ dệt; những đại phú thương mở phường dệt may còn thuê hàng loạt thợ thủ công nữ chuyên phụ trách kéo sợi, nhuộm màu, sửa máy*, thêu hoa. *(chắc chỉ là sửa chữa mấy dụng cụ dệt cổ xưa)

Tính tình của Lý Đại Tường lại không quá kiêu căng, nhưng dệt may Tô Hàng vang danh thiên hạ, thu lợi rất nhiều. Hắn ngầm sai thân tín đội lốt thương nhân, lợi dụng chức quyền ép giá thu mua, đầu cơ trục lợi nên kiếm được món lãi kết xù. Phú hào cả vùng Tô Hàng đều oán giận mà không dám nói ra.

Như dân chúng phủ* Tùng Giang, đa số đều theo nghề phụ là dệt vải, mỗi ngày được một xếp (cuộn); sản lượng vải vóc do ngàn vạn bá tánh sản xuất nội trong một ngày đã đủ hoàn thành kế hoạch. Tiểu dân vùng Gia Thiện lấy nghề kéo sợi làm kế sinh nhai, sản lượng càng lớn vô cùng. Nơi này có câu rằng "vải Tùng Giang mua hoài không hết, sợi Ngụy Đường thu mãi vẫn còn". Toàn bộ những thứ vải vóc tơ sợi này đều bị hắn độc quyền ép giá thu mua, rồi lại tập trung chuyển bán khắp nơi. Bởi có thể thu được món lợi kếch sù từ trong đó rồi cho nên hắn tự nhiên không cần vơ vét đến nỗi bị người người căm ghét như Viên Hùng. *(phủ: đơn vị hành chánh trên huyện)

Vả lại vùng Hồ Châu trồng dâu nuôi tằm, phần đông dân chúng Sơn Đông và Hà Nam trồng trọt cây bông vải. Bởi dệt may Tô Hàng cần rất nhiều nguyên liệu từ những địa phương này vận chuyển vào, mà Viên Hùng lại nắm giữ thuế quan, cản trở vận chuyển những món hàng này nên cực kỳ bất lợi cho sự phát tài của Lý Đại Tường, vì vậy giữa hắn và Viên Hùng có mâu thuẫn rất sâu.

Dương Lăng âm thầm gật đầu. Thật ra tập trung thu mua, tập trung vận chuyển, tập trung buôn bán đều có ích, ví bằng sự bóc lột của Lý Đại Tường không quá hà khắc, có thể chừa lại con đường sống cho dân chúng thì không cần thiết phải so đo với hắn về chuyện này trong giai đoạn hiện tại.

Suy cho cùng, tuy bản thân Dương Lăng nắm quyền thuế giám, nhưng không ai có thể tự thân trấn thủ mọi nơi trong cả nước, cuối cùng y vẫn cần phải dựa vào những người này làm việc cho mình. Nếu như triều đình không thể hoàn mỹ về mặt pháp chế và chế độ thì cho dù đổi cả một đám quan lại cũng chưa chắc những người mới đã liêm chính hơn bọn cũ. Muốn chính trị trong sạch, không phải là chuyện chỉ trù tính mà thành. Cho dù không có đám thuế giám chuyên quyền này đi chăng nữa, nhưng sờ sờ trước mắt là những món lợi to có thể kiếm chác dễ dàng như vậy, lẽ nào thay một đám quan tham thì sẽ hết tham quan?

Dương Lăng nghĩ đến đây bèn gật đầu nói:

- Ừ, người này mặc dù tham ô, nhưng tâm địa không tính là quá xấu, là người có thể lung lạc được. Đúng rồi, còn vị Mạc công công này thì thế nào?

Liễu Bưu cười thưa:

- Trong ba vị thái giám trấn thủ, người có thanh danh tốt nhất chính là vị Mạc công công này. Thuế ruộng Giang Nam được quy thành ngân lượng. Những năm đầu khai quốc, bản triều đã quy định bốn thạch thóc gạo phải nộp một lạng bạc; về sau tỷ suất quy đổi thay đổi lớn, mỗi thạch thóc gạo bị trưng thuế một lạng bạc. Thuế nông nghiệp nơi đây chẳng khác nào đã bị tăng thêm ba lần.

Dân chúng nói rằng:

"một mẫu ruộng công bảy đấu thâu,

trước đem sáu đấu nộp Hoàng châu,

chỉ chừa một đấu chờ khi cưới,

dân chúng lo âu đến bạc đầu".

Như vậy ta có thể thấy sự hà khắc của thuế khoá như thế nào! Nếu không phải Giang Nam trù phú, gạo cá được mùa, dân chúng đã sống không nổi từ lâu.

Bởi dân chúng phải vận chuyển lương thực ra ngoài bán đổi lấy ngân lượng mới có thể nộp thuế, vốn đã bị hao hụt khi vận chuyển lại còn bị tên Viên Hùng đánh thuế không ngừng, cho nên vận chuyển ra ngoài năm đấu, bọn họ có thể cầm tiền của ba đấu về đã coi như tương đối tốt đẹp rồi.

Sau khi Mạc công công trấn thủ Giang Nam, mỗi năm đến mùa thu hoạch hắn đều phái người dùng ghe thuyền quan phủ chủ động đến tận nhà dân thu mua. Tuy rằng hắn thu mua thấp hơn giá chợ một chút, nhưng so với thuế khóa và hao tổn dọc đường, bá tánh vẫn được lợi hơn là tự mình vận chuyển đến chợ bán, thành thử ai nấy đều vui vẻ bán cho hắn. Vì vậy thanh danh của Mạc công công rất tốt, dân chúng Giang Nam gọi hắn là thiện nhân.

Ngày đó trên thuyền Dương Lăng thấy Mạc công công gan lớn trùm trời, thậm chí cả trà tiến cống dâng cho hoàng thượng cũng dám đánh tráo, y cho rằng hắn chỉ là một tên hoạn không sợ chết, trong mắt chỉ có tiền mà thôi. Nào ngờ lại nghe báo hắn tốt bụng như vậy, y không khỏi lấy làm lạ hỏi:

- Nói như vậy, hắn là thanh quan ư?

Liễu Bưu cười ha hả đáp:

- Không thể xem là thanh quan, suy cho cùng hắn làm như vậy cũng là vì muốn trục lợi cá nhân mà thôi. Nhiều lương thực như vậy, nếu mỗi thạch lương thực hắn đều kiếm chác được sơ sơ thì gom góp lại cũng đã được một ngọn núi vàng rồi. Có điều, cho dù nói thế nào đi chăng nữa thì dân chúng cũng được hưởng lợi. Những người dân này mặc kệ ngươi tham ô hay không tham ô, chỉ cần lúc cần kíp ngươi có thể chiếu cố bọn họ một chút, bọn họ đã cảm kích không thôi rồi.

Vả lại... Vì Mạc công công trông giữ cực nghiêm những loại vật phẩm quý hiếm giá cao như trà, hương liệu, dược phẩm, muối ăn, ... thậm chí chịu trách nhiệm tổ chức dân công đi xây dựng công trình cũng không ít, cho nên phần ngân lượng hắn thu được cũng phong phú vô cùng. Chỉ là trong ba người, Mạc công công được xem là kẻ rộng rãi nhất. Nếu gặp năm tai ương, hắn còn thường xuyên dựng lều thí cháo cứu sống không ít nhân mạng, cho nên thanh danh cực tốt.

Dương Lăng đứng dậy, bước chậm rãi trong phòng vài bước, trầm tư hồi lâu rồi mới quả quyết ra lệnh:

- Được! Sáng sớm ngày mai huynh hãy điều động người của huynh đến chỗ Viên Hùng, điều tra hắn kỹ càng lại cho ta. Còn về phần ta thì... ha ha, bản đại nhân du hành Giang Nam chỉ phụ trách du sơn ngoạn thủy, những thứ khác sẽ không phụ trách. Ngày mai ta sẽ đến Sư Tử thôn uống trà.

Là tâm phúc của Dương Lăng nên Liễu Bưu đã sớm biết kế hoạch của y, nghe vậy bèn đứng dậy hỏi:

- Đây là đại nhân muốn đánh Viên, lôi kéo Lý, Mạc chăng?

Dương Lăng cười nói:

- Ha ha! Dù sao cũng không thể một gậy đánh giết hết thảy được. Nếu làm thế tất cả thái giám trấn thủ trong cả nước đều dở quầy cất sạp, triều đình không còn bạc để dùng, há chẳng phải sẽ lại đẩy ty Thuế Giám về tay ty Lễ Giám ư?

Tuy là nói như vậy, nhưng chuyện Mạc Thanh Hà tráo trà tiến cống vẫn đeo nặng trong lòng y, cho nên y muốn ngày mai đến thôn Long Tỉnh trên núi Sư Tử tự mình thị sát. Vào thời tiết này đương nhiên không có trà ngon gì, lần này y đi kiểm tra, một là muốn để ba đại thái giám trấn thủ bớt lo âu, cho rằng y cũng chỉ là hư trương thanh thế chứ tịnh không có ý xử lý bọn họ, hai là để bóng gió thăm dò ý tứ của Mạc Thanh Hà.

Liễu Bưu cười đáp một tiếng, vừa tính quay người lui ra, Dương Lăng chợt nhớ đến chuyện kỳ lạ mình vừa chứng kiến khi nãy, vội giữ y lại, hỏi:

- Liễu Bưu! Có chuyện này ta muốn hỏi huynh. Thái giám Đại Minh chúng ta... cũng có thể cưới vợ sao?

Liễu Bưu ngẩn người ra. Hắn đã âm thầm điều tra kỹ càng ba vị thái giám trấn thủ nên hiển nhiên biết rõ chuyện gia đình bọn họ như lòng bàn tay. Vì vậy, hắn chỉ hơi ngẩn người liền sực tỉnh, cười đáp:

- Phải chăng đại nhân đã gặp mặt phu nhân của Mạc công công rồi?

Dương Lăng kinh ngạc:

- Huynh cũng biết? Chẳng lẽ... Mạc công công vốn sau khi xuất gia... à... sau khi lập gia đình rồi mới tiến cung sao?

Liễu Bưu bật cười đáp:

- Đại nhân hiểu lầm rồi. Thật ra trong nội cung, việc thái giam cùng cung nữ kết làm phu thê cũng không phải là ít, có điều bọn họ không gọi là phu thê, mà gọi là "Đối thực" và "Thái hộ", giữa khác giới có, giữa cùng giới cũng có nữa, chuyện này đã có từ xưa. Thời hoàng đế Hồng Vũ bản triều đã từng cấm đoán một đoạn thời gian, về sau rồi cũng buông trôi bỏ mặc. Bây giờ cho dù Hoàng Thượng, Hoàng Hậu có nghe nói đến cũng sẽ không can dự vào.

Những công công địa phương có quyền có thế không những có thể cưới vợ nhận nuôi con, mà vợ cưới về còn thường là con gái ngoan của những gia đình quan lại. Nhưng vị phu nhân của Mạc công công lại có xuất thân phong trần, nghe nói trước đây là đệ nhất danh kỹ của "Lầu Xuân Vũ" ở Giang Nam.

Dương Lăng nghĩ đến phong tình tuyệt thế của vị mỹ nữ ấy, không khỏi bật cười nói:

- Ta nói thật nhé! Hôm nay gặp cô ta mà ta giật cả mình, còn tưởng là đó là người vợ Mạc công công cưới về trước khi nhập cung, bằng không làm sao hắn có gan dám công nhiên dùng thân phận thái giám để cưới vợ như vậy!

Y vừa nói vừa nghĩ đến người con gái Giang Nam muôn vẻ phong tình ấy lại gả cho một tên thái giám, không khỏi lắc đầu thở dài, rất lấy làm tiếc rẻ.

Liễu Bưu thưa:

- Đại nhân! Ngài đừng thấy bọn họ là giả phượng hư hoàng mà coi khinh, so với người thường thì những cặp vợ chồng thái giám này càng mặn nồng hơn nhiều. Về việc "thái hộ" trong cung, thường là một khi đôi lứa nên duyên thì sẽ kính trọng và yêu thương nhau cả đời không đổi. Nếu ngẫu nhiên có thái giám hoặc cung nữ thay lòng đổi dạ, đối phương thường sẽ đau khổ không thiết sống, thậm chí vì vậy mà thắt cổ tự vẫn, chuyện đắng cay này trong cung chẳng lạ lùng gì.

Đa số bọn họ nếu như có một người chết trước, đối phương cũng cả đời không kết duyên lần nữa mà sẽ đặt linh vị của đối phương trong phòng mình, mỗi khi đến ngày giỗ đều thường khóc thương thảm thiết, khóc đến chết đi sống lại. Tình cảm của bọn họ... thật không phải là thứ mà người thường chúng ta có thể lý giải.

Có điều cưới vợ ngoài cung cũng có thể mặn nồng được như vậy hay không thì ty chức không biết.

Quả thật lúc ban đầu Dương Lăng cũng hơi khinh rẻ chuyện thái giám cưới vợ, nhưng nghe Liễu Bưu nói xong, y mới tỉnh ngộ. Những người đó mặc dù về mặt sinh lý đã không thể được gọi là đàn ông, nhưng về mặt tâm lý họ lại muốn hưởng cuộc sống của người bình thường; lòng mong muốn đó còn bức thiết hơn hẳn những người đàn ông bình thường. Kể ra cũng thật khiến người ta đồng tình.

Dương Lăng bỗng bật cười nói:

- Nghe được một câu của huynh còn hơn đọc sách mười năm, bản quan đã lĩnh giáo. Chỉ cần người ta đôi bên đều tình nguyện, chúng ta quả thực không nên vì hắn là thái giám mà ba lời bốn ý làm gì.

Chú thích:

thời xưa người Nhật Bản thấp bé nên bị gọi là người lùn (oa nhân), giặc Oa là giặc lùn, chỉ hải tặc Nhật Bản.

"Đối thực" chỉ cung nữ, "Thái hộ" chỉ thái giám

Phương giả, hoàng dối; xuất xứ từ Hồng Lâu Mộng, chỉ mối quan hệ vợ chồng hữu danh vô thực. Phượng là chim đực, hoàng là chim cái.

Ngày hôm sau, quan viên bản xứ và thân sỹ địa phương lần lượt đến chính thức thăm viếng khâm sai đại nhân, nhất là những quan lại và thân sỹ hôm qua không có tư cách tham dự tiệc tẩy trần khoản đãi Dương khâm sai.

Đương nhiên tất cả những người đến viếng thăm đều không thể đi tay không: hoặc ngân phiếu, hoặc châu báu thư họa, hoặc đặc sản địa phương; dược liệu trân quý các loại cũng không ít. Dương Lăng cố ý tạo hình tượng một viên quan tham tiền hám lợi vô trách nhiệm, cho nên y không khước từ một ai.

Cao Văn Tâm không biết rõ nội tình, nàng không thích lão gia nhà mình biến thành kẻ cơ hội như vậy. Trong lòng bực bội song lại không tiện phát tiết, cho nên mặc dù được Dương Lăng sai ngồi làm "kế toán viên", nàng lại chẳng thèm đếm xỉa đến những kẻ biếu quà.

May mà những người này đều sớm hay rằng Dương Lăng lần này đến đây chỉ mang theo một cô tỳ nữ xinh đẹp này, hơn nữa nghe nói mỗi tối nàng thường xuyên len lén chui vào phòng khâm sai. Ai còn dám đối đãi với nàng như thị nữ chứ?

Giang Nam là địa phương đông đúc và giàu có nhất thiên hạ. Những phú hào đó đều có gia tài ức vạn, đến thăm viếng xưởng đốc Nội xưởng có quyền lực khuynh đảo triều đình nào dám tặng lễ vật tầm thường? Tuy không dám nói là kỳ trân dị bảo nhưng những món quà biếu tặng cũng đều đắt giá vô cùng.

Cao Văn Tâm đang ghi chép từng hạng mục, bỗng nhiên nha sai dẫn một thương nhân buôn muối vào. Không ngờ người này đem tặng bốn mỹ nữ gồm hai người Cao Ly và hai người Đông Doanh. Bốn nữ tử này dáng điệu tuy không xinh đẹp bằng Cao Văn Tâm, nhưng vẻ phong tình ngoại quốc ấy lại quả thực rất mới mẻ.

Cao Văn Tâm thật sự đã nổi giận, nàng mang bút lông xông thẳng vào phòng khách. Dương Lăng vừa mới tiễn một thương nhân buôn trà về, thấy nàng đang cầm bút lông, dáng điệu tức giận trông rất xinh đẹp, không khỏi cười hỏi:

- Sao vậy? Ai lại chọc cô giận à?

Cao Văn Tâm chua chát đáp:

- Lễ vật người ta tặng, tiểu tỳ đều sai người đưa vào trong kho. Giờ có người đến tặng bốn món vật sống, tiểu tỳ không biết có nên đưa lên giường lão gia hay không, cho nên phải đến xin ý kiến lão gia.

Dương Lăng đảo tròng mắt rồi cười nói:

- Đưa lên giường tôi à? Ha ha, có phải có người đến tặng mỹ nữ không? Đi đi đi, ra ngoài xem thử.

Y còn tưởng có người tặng mỹ nữ Giang Nam cho mình, khi ra ngoài nhìn thì lại là bốn nữ tử nước ngoài, đương nhiên nhận ra người đeo bọc vải nhỏ trên lưng là người Nhật Bản, bất giác ngẩn ra.

Đang cung kính chờ đợi khâm sai đại nhân triệu vào gặp, vị thương gia buôn muối trông thấy bốn tay nha sai đang vây quanh một vị công tử thiếu niên vận cẩm bào đai ngọc đi ra, vị mỹ nhân ghi chép sổ sách nọ đang cầm cây bút lông đi theo sau, môi cong như thoa mỡ, thì biết người đi trước chính là khâm sai đại nhân. Gã không khỏi có cảm giác được yêu mến mà lo sợ, bèn quỳ xuống cười nịnh nọt thưa:

- Thảo dân Đỗ Sách bái kiến khâm sai đại nhân!

Dương Lăng nói:

- Bản quan xuôi Giang Nam chỉ là tuần tra tình hình thuế khoá địa phương thôi, thực không muốn làm phiền đến danh lưu thân sỹ địa phương. Đỗ tiên sinh đang bao bộn bề lo toan mà vẫn đến thăm viếng, bản quan thẹn không dám cáng đáng.

Tay thương gia buôn muối Đỗ Sách đó cười bồi đáp:

- Nào có nào có! Thảo dân may mắn gặp được đại nhân, đó vận tốt của thảo dân. À... thảo dân nghe nói đại nhân đi đường mệt mỏi, ngay cả nha đầu để sai vặt bên người cũng không có, cho nên đã cố công mua bốn thị tỳ tặng đại nhân để hầu hạ hằng ngày, xin đại nhân vui lòng nhận cho.

Đứng bên cạnh, Cao Văn Tâm ho khan hai tiếng. Dương Lăng nghe thấy trong lòng cười thầm, y cũng không tính sẽ xuống Giang Nam đem theo một đám mỹ nữ về biến nhà mình thành Đại Quan viên. Đang tính mở miệng từ chối khéo, y chợt nghe một giọng cười nói oang oang cất lên:

- Thì ra ông chủ họ Đỗ cũng đến rồi à? Chạy còn nhanh hơn ta! Ha ha ha, ông có tặng mỹ nhân thì cũng nên tặng cực phẩm một chút mới được! Nhớ khi xưa có vị tuyệt sắc giai nhân, đến ta thấy mà còn mê mẩn, âm thầm trao lòng cho Dương đại nhân mà Dương đại nhân vẫn năm lần bảy lượt từ chối khéo, sao đại nhân có thể để mắt đến mấy cô gái này?

Lời vừa dứt, liền thấy một vị quan văn râu ria xồm xoàm, hai tay chắp sau lưng, ưỡn bụng bước dài đến nơi. Dương Lăng ngước mắt nhìn, trông thấy đúng là huyện lệnh Mẫn Văn Kiến một đao chém chết vương tử Thát Đát ở Kê Minh khi xưa, liền vội chạy lên mấy bước, nắm chặt tay lão mừng rỡ chào:

- Mẫn đại nhân!! Đã mấy tháng không gặp, thật nhớ ông muốn chết.

Mẫn Văn Kiến vẫn trực tính như xưa, chỉ là bụng đã bự hơn một chút, lão vội cựa khỏi tay y, quỳ xuống làm lễ:

- Hạ quan Mẫn Văn Kiến ra mắt...

Dương Lăng ngăn đỡ lão dậy, trách:

- Mẫn đại nhân của ta ơi! Đến Giang Nam rồi, nhìn đại nhân nói chuyện cũng đã ra vẻ nho nhã, sao lại còn chú trọng đến những thứ lễ nghi rườm rà này nữa? Nếu không có ơn tri ngộ của đại nhân, sao có tại hạ hôm nay. Đại nhân cũng đừng khách khí như vậy nữa.

Mẫn Văn Kiến đứng thẳng người lên cười nói:

- Lễ nghi nào nên chú trọng vẫn cần phải chú trọng chứ! Ha ha ha! Từ lúc đại nhân đến kinh sư, thường có những tin tức khó tin lan truyền đến Giang Nam, Mẫn mỗ nghe kể xong lúc thì thấp thỏm lo lắng, khi lại vui sướng không thôi. Vốn dĩ còn tính chạy chọt khắp nơi để điều đại nhân đến Giang Nam. Giờ thực tốt quá, rốt cuộc đại nhân đã đến, nhưng lại không phải do Mẫn mỗ điều động, ha ha ha...

Thương gia Đỗ Sách bước tới cười nói:

- Hoá ra Diêm vận sứ đại nhân và khâm sai đại nhân là cố giao à! Thất kính thất kính.

Mẫn Văn Kiến nheo cặp mắt tròn như đậu xanh nhìn hắn rồi cười nói:

- Sao? Có phải là cảm thấy kính nể bản quan rồi không?

Lão lại liếc mắt sang bốn mỹ nhân ngoại quốc nọ, nói tiếp:

- Đừng bảo bọn họ ở đây nữa! Ngươi cũng được xem như là một nhân vật khôn khéo, không lẽ chưa từng nghe nói chuyện đương kim thiên tử hạ chỉ ban thiếp sao? Dương đại nhân có tầm mắt như thế nào? Mấy nha đầu non nớt này lọt được vào mắt đại nhân ư?

Dương Lăng bật cười nói:

- Mẫn đại nhân! Đại nhân đến Giang Nam mới có mấy tháng mà giờ đã xuất khẩu thành thơ rồi. Thật sự khiến người ta phải rửa mắt mà nhìn.

Mẫn Văn Kiến nghe vậy thì cười lớn:

- Không còn cách nào khác, không còn cách nào khác! Cả ngày nghe bọn họ nói những từ ngữ này nên lỗ tai ta cũng quen rồi, thế nào cũng phải nhớ được mấy câu.

Dương Lăng vừa chuyện trò cùng lão, vừa mời hai người vào phòng khách, rồi kêu người dâng trà tiếp đãi.

Thật ra vị thương nhân buôn muối nọ còn buôn bán thứ khác. Lần này hắn đến Hàng Châu là để tiếp nhận một lượng hàng hóa lớn từ trong kinh do thuyền quan Dương Lăng vận chuyển. Mắt thấy người đẹp mà mình đem tặng không hợp tâm ý của khâm sai đại nhân nhưng cũng không thể cứ đến tay không một chuyến như vậy. Phải biết rằng bấu víu được vào gốc cây to này, sau này có chuyện gì, chỉ cần đại nhân thuận miệng nói một câu thì hắn cũng được ích lợi không biết đến dường nào.

Nghĩ đến đây, ông chủ họ Đỗ lấy từ trong ngực ra một đôi khuyên tai trân châu, vốn là món quà lão mua từ Kim Lăng chuẩn bị tặng cho người thiếp xinh đẹp mà lão sủng ái nhất, hai tay dâng lên thưa:

- Là thảo dân lỗ mãng rồi! Bốn cô gái này chốc nữa thảo dân sẽ dẫn đi. Đôi khuyên tai trân châu này chính là chút lễ mọn, thật sự không tỏ được lòng kính trọng, đại nhân nhất định phải nể mặt cho.

Đôi khuyên tai trân châu đó được chế tạo xinh đẹp tinh xảo, trân châu bóng tròn chắc mẩy, kích cỡ đều đặn, màu sắc và ánh sáng thu hút người ta, đặt trong lòng bàn tay tỏa ra ánh sáng mượt mà thăm thẳm, vừa nhìn liền biết ngay nó là châu báu đắt giá vô cùng. Dương Lăng thuận tay nhận lấy rồi đưa cho Cao Văn Tâm, thấy nàng còn cầm bút, liền cười nói:

- Không cần ghi đâu, đôi khuyên tai này tặng cho cô đó.

Cao Văn Tâm đỏ mặt liếc y một cái rồi nhanh nhẹn xoay người đi ra. Vẻ vui mừng e thẹn hiện lên bất chợt ấy cực kỳ rung động lòng người. Ông chủ họ Đỗ bừng tỉnh, thầm nhủ: "Thì ra khâm sai đại nhân mê luyến người con gái này, khó trách y không nhận mỹ tỳ mình tặng. Tư dung của vị cô nương này quả thực hơn bọn chúng không chỉ là một bậc."

Hai người và Dương Lăng chuyện trò một hồi về chuyện nhà chuyện cửa. Tâm ý đã tặng xong, biết rõ rằng khâm sai đại nhân và Mẫn đại nhân xa cách lâu ngày mới gặp ắt có nhiều chuyện muốn thổ lộ, cho nên Đỗ Sách ngồi một lát thì đứng dậy cáo từ.

Tiễn Đỗ Sách về xong, Dương Lăng và Mẫn Văn Kiến quay lại chỗ ngồi. Mẫn Văn Kiến mời:

- Đại nhân! Lần này xuôi Nam nhất định ngài phải tranh thủ đến Hải Ninh một chút đấy. Khoảng cách không quá xa, đến khi ấy để ta cũng được tận lễ chủ nhà.

Dương Lăng cười đáp:

- Nếu có cơ hội, tại hạ nhất định sẽ đi. Mẫn đại nhân ở Hải Ninh mọi thứ vẫn tốt chứ?

- Vẫn tốt, sự giàu có và sung túc nơi đây còn lâu phương Bắc mới sánh bằng, có điều quân đội nơi này so với biên quân của chúng ta thực thua kém quá xa. Nghe nói bây giờ phía bên kia biển, chư hầu các nơi của Nhật Bản đang làm loạn, thường có một vài võ sỹ và lãng nhân thất thế không chốn nương thân bèn cấu kết với một số thuyền buôn đi đến chỗ của chúng ta cướp bóc khắp nơi.

Con bà nó chứ! Không ngờ là còn có một đám gian thương, cường hào, lưu manh, hải tặc của địa phương mật báo tin tức cho bọn chúng, dẫn đường cho bọn chúng, thậm chí còn trực tiếp tham gia cướp bóc.

Ta vừa đến Hải Ninh gặp đúng lúc phải giặc Oa đến tập kích quấy rối. May mà bản thân Diêm vận ty có đội ngũ hộ tống hơn ba trăm người, sức chiến đấu còn phải mạnh hơn quan binh một chút. Bọn giặc Oa đó lại không đông, bị ta dẫn người ra sức giáo huấn những tên ranh đó một trận, một cây Đại Khảm đao đã chém chết hơn hai chục tên. Hiện không còn thấy bọn chúng dám đến Diêm vận ty của ta sinh sự nữa.

Dương Lăng lại một lần nữa nghe đến hai chữ "giặc Oa" này, không kiềm lòng được bèn chú ý hỏi:

- Thế lực của những tên giặc Oa này lớn mạnh lắm sao?

Mẫn Văn Kiến cười khinh thường:

- Sức chiến đấu không bằng giặc Thát, nhân số lại chỉ là một đám giặc lang thang. Có điều đường bờ biển quá dài nên khó đề phòng cho xuể; hơn nữa quân đội nơi đây quá yếu, thông thường một đám giặc Oa khoảng trăm tên đổ bộ thì đã đủ để tung hoành ngang dọc rồi.

Ta nghe nói chư hầu các nơi ở Nhật Bản đang đấu đá tranh quyền lẫn nhau, trong tay đều thiếu bạc, cũng có chư hầu từng muốn thông thương buôn bán với Đại Minh chúng ta. Đáng tiếc số lượng bến cảng thương mại và hàng hoá giao dịch mà chúng ta cho phép lại quá ít, không thể thoả mãn nhu cầu của bọn chúng.

Bọn chúng chó cùng rứt giậu, bèn tổ chức luôn nhân mã rồi cấu kết với đám thương gia phạm pháp âm thầm buôn lậu. Nhược bằng bị thuỷ quân truy đuổi không buôn bán được thì đổi nghề chuyển sang làm cường đạo. Bọn chúng đến rồi đi ngay, trốn vào biển khơi, chúng ta thật không làm gì được bọn chúng.

Dương Lăng máy động trong lòng, thầm nghĩ: "Thì ra trong những hải tặc này có kẻ vì muốn làm ăn buôn bán hợp pháp không được mới đổi nghề làm hải tặc. Trước kia chỉ nghe nói giặc Oa tham lam tàn bạo, thường xuyên cướp bóc dân chúng vùng duyên hải chứ chưa hề được nghe ai nói đến nguyên nhân này."

Dương Lăng lặng lẽ gật đầu, suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Muốn giải quyết những vấn đề này, xem ra phải thực hiện song song việc khơi thông và ngăn chặn mới được. Một mặt tăng cường sức mạnh quân sự, khiến bọn chúng phải e dè, không dám tuỳ tiện xâm phạm; mặt khác còn phải mở cảng thông thương hợp pháp, chủ động làm ăn buôn bán với chúng, đôi bên cùng có lợi, có gì là không tốt

Những hải tặc đó chỉ dựa vào cướp bóc thì có thể cướp được bao nhiêu thứ từ trong tay dân chúng chứ? Đa số chỉ đủ trám miệng bọn chúng mà thôi. Nếu thấy rõ những ích lợi có thể kiếm được, ắt những kẻ này sẽ lắc mình biến thành thương nhân ngay...

Nói đến đây, Dương Lăng chợt ngậm miệng: Chỉnh đốn quân đội là việc Nội xưởng làm được sao? Mở cảng thông thương? Văn thần trong triều không gật đầu, chính sách này có thể được thực hiện à? Chỉ quyền lực và quan hệ không thì không đủ, còn phải thay đổi tư tưởng và nhận thức của mọi người, còn quá nhiều điều kiện chưa chín muồi, cho nên toàn bộ những thứ này dứt khoát không phải là những điều mà hiện giờ y có thể làm. Y có cơ hội và thời gian đi làm mấy việc này sao?

Mẫn Văn Kiến nghe nhưng không hiểu những thứ này, thấy y nhíu mày lo lắng cho dân chúng Giang Nam, bèn vội cười nói:

- Đại nhân không phải lo lắng. Giặc Oa phần lớn đến từ biển, từ biển muốn đổ bộ ắt phải dựa vào sức gió; cho nên mùa nào nổi gió gì, lúc nào giặc Oa lên bờ, phần lớn đều phải theo qui luật, có muốn thay đổi cũng không được.

Chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng thì bọn chúng sẽ không dấy lên được bao sóng gió đâu. Cùng lắm chúng chỉ cướp đoạt ít làng chài, cũng không có bao bản lĩnh. Ờ... thông thường là giữa tháng tư, tháng năm và tháng chín, tháng mười hằng năm là những tháng thích hợp để đi thuyền vượt biển, lúc đó giặc Oa sẽ chạy đến cướp bóc. Trước khi đến thăm đại nhân ta đã sai quan binh Diêm vận ty tăng cường phòng bị, chỉ cần qua hai tháng này, bọn chúng có muốn đến nữa cũng phải đợi đến tháng tư năm sau thôi.

Dương Lăng và Mẫn Văn Kiến đang tán gẫu, Trịnh bách hộ chạy vào thưa:

- Khải bẩm xưởng đốc đại nhân, Mạc công công đã chuẩn bị xong kiệu xe, mời đại nhân cùng đến núi Sư Tử khảo sát.

Dương Lăng nghe vậy đứng lên, áy náy bảo:

- Mẫn đại nhân! Đại nhân và tại hạ xa cách từ lâu mới gặp lại, đáng lý tại hạ nên bày rượu cùng đại nhân chuyện trò cho thỏa thích một phen. Chỉ là hôm nay tại hạ đã cùng Mạc công công thoả thuận sẽ cùng đến núi trà tuần tra. Không biết Mẫn đại nhân trọ ở nơi nào, đợi tối nay tại hạ trở về sẽ lại cho người mời đại nhân đến, chúng ta cùng nhau nâng chén, không say không về.

Mẫn Văn Kiến cười hào sảng đáp:

- Với giao tình của hai ta, đại nhân còn nói những lời khách sáo này làm gì? Có điều đại nhân đường sá xa xôi đến đây, muốn gặp mặt một lần không dễ, cho nên ta mới tranh thủ thời gian chạy đến. Cha già bệnh tình nguy kịch, Diêm vận sứ đại nhân đã xin phép nghỉ về quê; ta thực không dám gác lại công việc quá lâu, cho nên hôm nay sẽ phải chạy về rồi. Nếu đại nhân có thể đến Hải Ninh tuần tra, chúng ta sẽ lại uống thoả thích một phen.

Dương Lăng hồ hởi:

- Được! Khó có dịp đến Giang Nam một chuyến, tại hạ nhất định sẽ đến Hải Ninh.

Mẫn Văn Kiến chợt nhướng mày, cười giảo quyệt:

- Đã biết khó có dịp đến Giang Nam một chuyến, vậy... có đi Kim Lăng không?

Dương Lăng ngẩn ra:

- Nam Kinh? Lần này tuần thị thuế khoá Giang Nam, hình như không cần đi Nam Kinh thì phải?

Y vừa đáp vừa thầm nghĩ trong lòng: "Đi đến đó làm gì nhỉ? Vương Quỳnh đang ở Nam Kinh, tuy rằng lão già ấy hận mình đến thấu xương nhưng thực ra bản tính không tệ, mình cũng không muốn làm khó lão, nhưng nếu đi đến đó khó tránh phải chạm mặt cùng lão. Con trai lão chết trong tay mình, đến lúc gặp lão cũng không biết sẽ xảy ra chuyện gì đây. Còn về phần Mã Liên Nhi... chậc!"

Mẫn Văn Kiến cười hắc hắc đáp:

- Lộ trình không xa quá, thật ra nhín chút thời gian đại nhân cũng có thể đi thăm Kim Lăng một lúc.

Lão mỉm cười nói tiếp:

- Lúc ta vận chuyển muối đến Nam Kinh, đã từng tình cờ gặp ái nữ của Mã dịch thừa. Cô nàng đó thực sự là nghĩa nặng tình sâu với đại nhân à! Nếu đại nhân phụ người ta, ngay cả ta cũng sẽ nhìn không vừa mắt đâu.

Lão vừa nói vừa rút từ trong ống tay áo một tờ giấy đã được gấp lại, nhét vào trong tay Dương Lăng:

- Đây là nơi ở của nàng ấy. Ha ha, ta đã hết lời trong chuyện này rồi, đi hay không đại nhân hãy tự quyết định.

Xử lý xong việc này, dường như Mẫn Văn Kiến hết sức vui vẻ, toét miệng cười đắc chí.

Dương Lăng tiễn lão ra khỏi cổng, trông thấy trước cổng đã có hai kiệu ngựa đang đậu, Trịnh bách hộ dẫn theo một ít nha sai, còn có thuế lại (nhân viên thu thuế) và một ít nô bộc của Mạc phủ đang đứng bên ngoài.

Dương Lăng cáo từ Mẫn Văn Kiến, dõi theo chiếc kiệu của lão từ từ đi xa. Y đứng dưới bức tường xanh mọc đầy dây leo, ngắm nhìn liễu xanh sông biếc cạnh bờ tường, ngẩn ngơ vuốt ve miếng giấy trong tay thật lâu.

Bồi hồi, y dường như nhìn thấy một người con gái xinh đẹp mặc đồ trắng thướt tha mờ ảo, yểu điệu mảnh mai như một đoá thược dược, nhẹ nhàng bước ra từ trong nước, khuôn ngài ẩn chứa mối thâm tình, đang đi về phía y. Dáng đi thong thả ấy, cử chỉ không chỗ nào không quyến rũ ấy, khiến cho người ta phải thất thần.

"Quân tự minh nguyệt ngã tự vụ,

Vụ tùy nguyệt ẩn không lưu lộ,

Chích duyên cảm quân nhất hồi cố,

Ngã tiện tư quân triều dữ mộ.

Hồn tuỳ quân khứ thiên nhai lộ,

Y đái tiệm khoan bất giác khốc,

Tích thán niên hoa như triều lộ,

Hà thời hàm nên sào quân ốc...

Tam thập lục luân minh nguyệt hậu,

Đương vi quân tác nghê thường vũ..."

Dịch thơ:

Thiếp tựa mù giăng chàng tựa trăng

Trăng lặn mù tan đọng sương lan

Cảm lòng chàng một phen ngóng lại

Tim này nhớ ai bao ngày sang

Hồn theo chàng đến cuối chân trời

Thân gầy áo rộng lệ tuôn rơi

Xuân xanh tàn tận dường sương sớm

Khi nao hội ngộ hỡi người ơi

Ba sáu mùa trăng tỏ sẽ qua

Sẽ múa chàng khúc Nghê Thường ca... (hieusol)

Dương Lăng khẽ ngâm hết câu thơ cuối cùng, nghĩ đến ba mươi sáu mùa trăng tỏ sau, mình và Mã Liên Nhi sớm đã người, ma hai ngả, đôi đường li biệt, trong lòng không khỏi dâng lên một nỗi bi ai. Y dằn lòng, vo chặt mảnh giấy ghi nơi ở của Mã Liên Nhi lại, đang định thuận tay vứt xuống sông, chợt nghe bên cạnh có tiếng người vỗ tay khen:

- Thơ hay! Thơ hay! Nếu như ty chức đoán không sai, đây hẳn là của một vị cô nương đa tình tặng cho đại nhân thì phải.

Dương Lăng quay đầu lại nhìn, thấy Mạc Thanh Hà đang đứng bên cạnh vỗ tay mỉm cười, vị phu nhân xinh đẹp muôn vẻ phong tình cũng đứng cạnh bên, ánh mắt đầy vẻ kỳ lạ, hiển nhiên tán thưởng vô cùng.

Phong tục tập quán Giang Nam cởi mở, khác xa với kinh thành phương Bắc, vị phu nhân này của Mạc Thanh Hà cũng không quá kiêng kị. Lão gia nhà mình muốn đi đến núi Sư Tử, nàng ta liền tiễn ra đến cổng. Vừa nghe thấy Dương Lăng ngâm thơ, nàng không khỏi tán thưởng, cười nói với Mạc Thanh Hà:

- Lão gia! Từ sau khi nghe được bài thơ "Đào Hoa am" do tài tử Đường Dần của Tô Châu sáng tác ở biệt thự Đào Hoa am vào tháng sáu năm nay, thiếp thân đã không còn nghe được bài thơ hay nào có ý cảnh như vậy nữa. Nếu như Dương đại nhân không chê, có thể cho phép thiếp thân chép bài thơ này lại hay không?

Mạc Thanh Hà chau mày vờ trách:

- Chớ nên vô lễ! Sao lại để cho đại nhân khó xử như vậy?

Dương Lăng cười nói:

- Việc này không sao!

Y vừa nói vừa thuận tay cất miếng giấy nọ vào ngực, rồi tiếp:

- Đợi bản đốc và Mạc đại nhân từ trên núi trở về, sẽ đọc lại cho phu nhân nghe là được.

Trước mặt vị "thái giám có vợ" này, Dương Lăng không tiện gọi hắn là công công, bèn đổi gọi thành đại nhân. Vợ chồng Mạc Thanh Hà nghe xong trên mặt lập tức lộ vẻ vui mừng. Mạc Phu Nhân tươi cười duyên dáng nói:

- Khi nãy thiếp thân chỉ chú ý đến ý cảnh trong thơ, chưa nhớ hết lời. Chỉ cần đại nhân ngâm lại một lượt, thiếp thân liền sẽ nhớ ngay.

Dương Lăng kinh ngạc nhìn nàng ta, không ngờ người con gái này học thức uyên bác, có khả năng xem qua là nhớ, thế là y liền đọc lại bài thơ một lượt. Mạc phu nhân chăm chú lắng nghe, sau đó không nén được vui mừng vỗ tay:

- Thiếp thân đã nhớ rồi, giờ thiếp thân sẽ về chép lại.

Nói đoạn cũng không cáo biệt, nàng dịu dàng như hoa xuyên liễu phớt, hạnh phúc dẫn hai nha hoàn quay trở vào phủ.

Mạc Thanh Hà chỉ biết cười nhìn theo bóng lưng nàng, rồi nói với Dương Lăng:

- Tiện thiếp trước giờ vẫn luôn không biết lễ phép, khiến đại nhân chê cười rồi.

Dương Lăng nói:

- Thẳng tính mà làm, ấy là chân nhân*. Tôn phu nhân tính tình bộc trực, không hề có tâm cơ, như vậy có gì là không tốt? Ha ha, bản quan phải tiếp với mấy vị khách nên ra hơi trễ, đã phiền đại nhân phải đợi lâu. Giờ chúng ta đến núi Sư Tử đi dạo thôi.

*(chân nhân vừa nghĩa là người đắc đạo vừa nghĩa là người sống thật)

Mạc Thanh Hà nghe y nói "đi dạo" núi Sư Tử, không khỏi cười lớn. Hai người cùng lên kiệu ngựa, Dương Lăng dẫn theo một trăm hai mươi nha sai, Mạc Thanh Hà cũng mang theo bốn mươi viên thuế lại, cùng chạy về phía núi Sư Tử.

Hàng Châu có Tây Hồ trong veo trang nhã, có bờ Phú Xuân trong xanh gợn sóng, có dòng Tiền Đường thủy triều lên thủy triều rút, có núi Nam Ngô, Bắc Cô, phong cảnh rất nhiều. Thật ra quang cảnh của Hàng Châu chủ yếu nằm ở những lâm viên và cảnh quan nhân văn của vùng Giang Nam êm dịu; có rất nhiều cảnh vật tự nhiên nhưng mang nặng dấu ấn của con người, nếu bỏ lớp ý cảnh đó đi thì cũng sẽ không còn gì hay ho nữa.

Chẳng hạn như ngôi mộ của Tô Tiểu Tiểu bên cạnh Tây Hồ. Nếu không phải vì nàng là danh kỹ Giang Nam phong lưu thiên cổ, có nhiều câu thơ ưu mỹ như:

"U lan lộ, như đề nhãn. Vô vật kết đồng tâm, yên hoa bất kham tiễn.

Thảo như nhân, tùng như cái. Phong vi thường, thuỷ vi bội..."*

được văn nhân mặc khách lưu lại, thì chỉ nhìn phần mộ đó thôi cũng sẽ chẳng thấy ý vị gì.

*Lan đọng sương, như giọt lệ, lấy gì kết đồng tâm. Trăng hoa đâu nỡ dứt?

Cỏ như tơ, thông che bóng. Gió là áo, nước điểm trang...

Quang cảnh Hàng Châu vốn không phải theo kiểu "nhìn núi ra thơ", núi Sư Tử lại hết sức tầm thường. Trong con mắt của người đã quen nhìn những ngọn danh sơn trên thế giới như Dương Lăng, nó càng cực kỳ nhạt nhẽo vô vị. Nhưng chính trên mỏm núi trông hết sức tầm thường này, lại sản xuất ra thứ trà ngon Long Tỉnh vang danh thiên hạ.

Ở Tô Hàng, núi Hổ Khâu vì suối mà có tiếng, ngọn Phi Lai vì Linh Ẩn tự mà nổi danh. Ngọn Sư Tử sơn này chính là nhờ trà Long Tỉnh mà vang danh thiên hạ.

Khi kiệu quan vừa lên núi, sớm đã có viên thuế giám phụ trách trông coi núi này dẫn người chạy vội ra nghênh đón, đưa hai vị đại nhân vào trong một căn nhà gỗ được xây dựa sườn núi.

Dương Lăng ngồi xuống chiếc ghế dựa bằng tre, cười ha hả:

- Tháng này, nếu ở phương Bắc thì sớm đã có gió thu hiu hiu, cây cối điêu linh rồi. Nơi này lại vẫn cỏ cây xanh ngát, hơn nữa khí trời vẫn còn thiêu đốt như vậy!

Mạc Thanh Hà đáp:

- Ở Giang Nam sông nước hãy coi như còn mát mẻ, xuôi Nam vào trong nội địa một chút sẽ càng nóng bức hơn. Người đâu rồi, mau dâng trà ngon lên cho đại nhân giải nhiệt coi!

Dương Lăng nghe hai chữ "trà ngon", không khỏi âm thầm cười nhạt. Y rờ bọc trà nhỏ cất trong người, chỉ đợi nước trà được bưng lên, nếm thử tư vị liền sẽ hỏi rõ Mạc Thanh Hà trước mặt mọi người. Có điều y có ý định thu phục Mạc Thanh Hà nên cũng không muốn làm quá, chỉ muốn răn đe áp bức hắn một chút, khiến hắn thần phục là được.

Một người con gái hái trà mặc áo màu xanh ngọc, váy vải hoa bằng sáp nhạt màu, eo thon thắt dây đai màu đen, tóc buộc khăn vải, trên gương mặt mang một nụ cười dịu dàng, nhẹ bước vào phòng, nhanh nhẹn pha một ấm trà, rồi dâng cho Dương Lăng và Mạc Thanh Hà mỗi người một chén.

Dương Lăng nâng chén trà lên, thấy lá trà vẫn đang xoay tròn trong nước như lưỡi con chim sẻ. Y liếc Mạc Thanh Hà, rồi thong thả ung dung đưa chén lên mũi ngửi thử, không khỏi lại ngẩn ra.

Mùi vị của trà này thơm nức mũi, giống hệt như mùi vị của loại cực phẩm hoàng gia mà lúc ở trấn Thượng Hải y đã thưởng thức. "Mạc Thanh Hà giấu riêng trà ngon, trà cung phụng cho cung đình so với thứ này kém hơn rất nhiều. Hôm nay ở trước mặt vị khâm sai từ trong kinh đến để điều tra như mình mà hắn lại không hề biết kiêng kị, thản nhiên dâng lên loại trà này. Chẳng lẽ hắn không sợ mình phát giác ra sự khác thường, hạch hắn tội khi quân sao?"

Dương Lăng thoáng ngẩn ra, ngước mắt nhìn Mạc Thanh Hà đang mỉm cười chờ y thưởng thức mùi vị, không dằn lòng được bèn hỏi:

- Mạc đại nhân! Trà này của đại nhân mùi hương ngào ngạt, thấm tận tâm can tỳ phế, quả thực là cực phẩm. Có điều... khi ở trong kinh bản đốc cũng đã từng uống ngự trà trong cung, trà tiến cống mà Hoàng thượng uống so với trà này của ngài kém hơn không chỉ một bậc. Không biết Mạc đại nhân giải thích thế nào đây?

Chú thích:

Đại Quan viên là ngôi biệt thự do Giả Phủ xây dựng dùng làm hành cung cho quý phi thăm viếng trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, được dùng để ví như chốn Bồng Lai.

tiếng Nhật là Ronin, nghĩa là "con người trôi dạt", một thuật ngữ chỉ những samurai vô chủ. (trích wiki)

Đường Dần (1470 - 1523) là một danh hoạ, một nhà thơ nổi tiếng đời nhà Minh. Đường Dần tự là Tử Uý, Bá Hổ (nên còn được gọi là Đường Bá Hổ), hiệu là Lục Như cư sĩ, Đào Hoa am chủ, tự xưng là Minh triều Giang Nam đệ nhất phong lưu tài tử.

Bài Đào Hoa am

Đào hoa ổ lý đào hoa am

Đào hoa tiên nhân chủng đào thụ

Hựu trích đào hoa hoán tửu tiền

Tửu tỉnh chỉ tại hoa tiền tọa

Tửu túy hoàn lai hoa hạ miên

Bán tỉnh bán túy nhật phục nhật

Hoa lạc hoa khai niên phục niên

Đãn nguyện lão tử hoa tửu gian

Bất nguyện cúc cung xa mã tiền

Xa trần mã túc quý giả thú

Tửu trản hoa chi bần giả duyên

Nhược tương phú quý tỉ bần giả

Nhất tại bình địa nhất tại thiên

Nhược tương bần tiện tỉ xa mã

Tha đắc khu trì ngã đắc nhàn

Biệt nhân tiếu ngã thái phong điên

Ngã tiếu tha nhân khán bất xuyên

Bất kiến Ngũ Lăng hào kiệt mộ

Vô hoa vô tửu sừ tác điền.

Dịch thơ:

Lũng Ðào Hoa

Lũng Ðào hoa, am hoa một mái,

Trong hoa am tự tại tiên hoa.

Tiên hoa trồng cội đào hoa,

Chiết cành ta lấy đổi ra rượu nồng.

Khi tỉnh rượu ung dung kề cận,

Uống say nằm ngủ khểnh dưới hoa.

Tỉnh say ngày lại ngày qua,

Hoa tươi hoa rụng la đà tháng năm.

Chốn ngựa xe chẳng cần luồn cúi,

Ước nguyền rằng chết với rượu hoa.

Bụi xe dấu ngựa cao xa,

Cành hoa chén rượu cùng ta duyên nghèo.

Đem phú quý so đo đạm bạc,

Một đất bằng một ngất trời xanh.

Ngựa xe đem sánh thanh bần,

Người toan bận rộn, ta phần thong dong.

Người cười ta cuồng ngông khờ khạo,

Ta cười người điên đảo ngược xuôi.

Ngũ lăng phần mộ san rồi,

Không hoa không rượu cũng thời ruộng sâu. (Người dịch: Hạt Cát)

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 126: Thủ thế chờ "bung"

Mạc Thanh Hà kinh ngạc nói:

- Khâm sai đại nhân đã từng uống loại cực phẩm hoàng gia rồi ư? À, đúng rồi, Dương đại nhân là thần tử đắc lực bên cạnh hoàng thượng, đương nhiên là có cơ hội thưởng thức trà tiến cống cực phẩm rồi. Ha ha ha!

Hắn nói xong bèn mỉm cười khoát tay ra hiệu cho cô gái hái trà và đám thuế lại, trà giám của đỉnh Sư Tử lui hết ra ngoài.

Trịnh bách hộ chần chừ đưa mắt nhìn Dương Lăng. Dương Lăng lại không tin Mạc Thanh Hà sẽ vì chuyện này mà dám công nhiên gây bất lợi cho mình, huống hồ những người mà mình dẫn theo ai nấy đều võ nghệ siêu quần, nhân thủ cũng hơn xa số người của Mạc thuế giám, vì thế y tuỳ ý khoát tay lệnh cho Trịnh bách hộ dẫn người đi ra.

Mạc Thanh Hà cầm chén trà lên, thong thả thổi những hoa trà đang trôi nổi trong chén tản ra, chậm rãi hớp một ngụm trà tỉnh rồi mới mỉm cười nói:

- Trà này của ty chức so với loại cực phẩm hoàng gia được tiến cống kỳ thật còn ngon hơn một bậc, khó trách đại nhân nếm xong lại sinh nghi. Có điều đây cũng không phải là bí mật gì, người trong nghề đa phần đều biết chuyện này.

- Ồ?

Dương Lăng xoay nhẹ chén trà, nghi hoặc hỏi:

- Trà tiến cống chẳng phải là loại trà ngon nhất à? Vì sao trà Long Tĩnh của Tây Hồ cung phụng hoàng gia đại nội lại không bằng loại trà mà ông giữ lại vậy?

Mạc Thanh Hà cười lớn đáp:

- Đại nhân có điều không biết, trà này chỉ có sản xuất ở mấy ngọn núi gần đây mới là trà cực phẩm chính tông. Lá trà ngon nhất bị ảnh hưởng rất lớn bởi khí hậu. Cho dù năm nay mưa thuận gió hòa, khí hậu thích hợp, có thể sản xuất ra một ít trà ngon cực phẩm, nhưng vận chuyển đường dài gặp phải mưa dầm liên miên, mùi vị cũng sẽ chịu nhiều ảnh hưởng.

Hắn ngừng một chút rồi nói tiếp:

- Bởi vậy loại trà dâng cho hoàng thượng uống cần phải có mùi vị ổn định, phẩm chất như nhau. Trà tiến cống không yêu cầu phải ngon nhất, chỉ cần ổn định nhất là được. Bằng không nếu như năm nay hoàng thượng uống thấy mùi vị khác biệt, năm sau mùi vị lại hơi khác đi, cho rằng kẻ dưới làm việc không tốt, truy cứu xuống thì có đem chém toàn bộ người ở vườn trà này cũng sẽ không sinh ra trà mới đâu.

Hắn lại tiếp tục giải bày:

- Đây không phải là kẻ dưới bất kính với hoàng thượng, mà thực sự là không có biện pháp giải quyết. Trong kinh thỉnh thoảng vẫn có người dùng nhận thấy sự khác biệt giữa hai loại trà này, nhưng cũng chỉ cho rằng do trà mới được hái nên có mùi vị ngon hơn, sẽ không vì vậy mà sinh nghi. Ty chức hết sức kính ngưỡng Dương đại nhân, do đó không dám giấu giếm. Đương nhiên... danh tiếng thương cảm cho bá tánh của Dương đại nhân ty chức đã nghe từ lâu, cho nên cũng không đành che giấu.

Dương Lăng nghe mà ngỡ ngàng. Y cứ tưởng Mạc Thanh Hà giấu giếm trà ngon làm của riêng là vì trục lợi cá nhân, không ngờ bên trong lại có lý do này.

Mạc Thanh Hà cười khổ nói:

- Đại nhân à, những kẻ hầu hạ bên dưới như chúng tôi đây dựa vào thân phận sai dịch cho hoàng thượng để diễu võ giương oai, người người đều cảm thấy oai phong vô cùng, nào có ai biết muốn bình an vô sự chúng tôi cũng phải lao tâm khổ tứ chứ.

Hắn lại thở dài một hơi rồi nói:

- Nhưng cũng không còn cách nào khác. Ngoài việc không dám tiến cống trà không biết được phẩm chất ngon hay kém do bị ảnh hưởng của thời tiết, chúng tôi thực không dám giấu làm của êng. Ngân lượng chúng tôi có được từ việc bán loại trà ngon cực phẩm này đều dựa theo số lượng mà nộp lên kinh sư. Đương nhiên... cũng không tránh được phải trích ra một ít biếu tặng cho quan trên, Vương công công và mấy vị thủ lĩnh của Ty Lễ Giám trong kinh. Mỗi năm ty chức đều phải hiếu kính chục cân trà ngon. Giờ đây ty chức thuộc sự quản hạt của đại nhân, thành thật bẩm báo, vẫn mong đại nhân thể nghiệm và quan sát tình hình bên dưới, thông cảm với những khó khăn của đám nô tài chúng tôi đây.

Dương Lăng nghe vậy cười khổ không thôi. Vốn tưởng là một vụ án khi quân to tát, hoá ra lại là một quy củ lớn được ước định mà thành trên quan trường: phàm là cống phẩm không thể bảo đảm chất lượng để cung ứng, thà giảm yêu cầu chất lượng của nó cũng không cung phụng cho đại nội, tránh để mặt rồng nổi giận ngược lại sẽ không hay.

Có điều Mạc Thanh Hà thẳng thắn bẩm báo như vậy cũng khiến y có nhiều hảo cảm hơn. Bất luận Mạc Thanh Hà giả vờ thật thà hay tâm tư bộc trực, ít nhất cũng chứng minh rằng hắn xác thực có ý muốn dựa vào mình. Dương Lăng cười ha hả, nâng chén hướng về phía Mạc Thanh Hà nói:

- Đa tạ Mạc đại nhân thẳng thắn nói cho hay, tháo gỡ nghi hoặc trong lòng tại hạ. Dương mỗ cũng hầu hạ quân chủ, đương nhiên hiểu được nỗi khổ của các vị đại nhân, nay đã biết được đầu đuôi trong đó, dĩ nhiên sẽ không trách móc.

Sau khi nghe xong tình hình do Liễu Bưu báo cáo, Dương Lăng đã quyết định sẽ khai đao lập oai với thuế giám trấn thủ Viên Hùng, chỉ là vụ trà tiến cống của Mạc Thanh Hà vẫn luôn là mối tâm bệnh vướng mắc trong lòng y. Nay đã biết được tường tận tình hình, y cảm thấy vô cùng thoải mái. Hai người uống trà trò chuyện, cảm tình đôi bên cũng thân thiết hơn không ít.

Sau khi đi hai vòng trong vườn trà trên sườn núi, xem như đã hoàn thành sứ mệnh thị sát, lúc hai người lên kiệu xuống núi, Mạc Thanh Hà bỗng đưa tay lên vẫy, thuế giám trông coi vườn trà vội vàng dẫn mấy người khiêng hai chiếc rương nhỏ sang. Dương Lăng nghi hoặc hỏi:

- Đây là...?

Mạc Thanh Hà cười nịnh nói:

- Đại nhân, trên núi này ngoại trừ lá trà thật sự không có thứ gì đáng giá cả. Trong một chiếc rương này là mười cân trà xuân Long Tĩnh cực phẩm, xin đại nhân cầm về thưởng thức. Nếu vụ thu hoạch trà năm sau gặp phải thời tiết không tốt, đại nhân sẽ không thể uống được thứ trà ngon như vậy đâu.

Dương Lăng biết nếu bây giờ đem loại trà xuân cực phẩm chân chính như vậy ra chợ bán cho phú hào Giang Nam, một lạng trà phải có giá mười lượng bạc. Một rương trà cỏn con này là cả ngàn lượng bạc, uống một ngụm e phải bằng phần ăn cả một tháng của bá tánh bình thường, thật sự là hơi quá xa xỉ.

Có điều nếu trước đây mọi người của Ty Lễ Giám đều đã quen tiếp nhận, bây giờ Mạc Thanh Hà vẫn chưa quy thuận, nếu như không nhận khó tránh sẽ khiến hắn sinh nghi, thế là y bèn tủm tỉm gật đầu.

Mạc Thanh Hà xoa tay nói:

- Còn chiếc rương này bên trong là bốn chiếc gối uyên ương. Lá trà trong gối tuy không phải là loại trà xuân cực phẩm hoàng gia, nhưng cũng là loại trà ngon hạng nhất. Một khi gối lên, mùi trà sẽ lan toả khắp người, lòng thanh mắt sáng, giúp ngủ ngon tốt nhất. Ha ha, xin tặng cho đại nhân và phu nhân.

Dương Lăng nghe nói là gối trà thì rạng rỡ mặt mày. Gối trà này hương thơm nức mũi, ba nha đầu trong kinh nhất định sẽ thích lắm, nhưng vừa nghe nói đến số lượng thì lại thoáng ngẩn ra: "Nếu là gối uyên ương, vậy Ấu Nương, Ngọc Nhi và Tuyết Nhi cộng lại mới có ba người, hắn tặng bốn cái là ý gì? Chẳng lẽ việc này cũng coi trọng 'tặng lễ theo cặp' ư?"

Nguyên văn "hảo sự thành song". "Thành song" ở đây nghĩa là "theo đôi, theo cặp". Theo phong tục Trung Hoa, phàm tặng lễ mừng cho chuyện vui nào đó, lễ vật thường được tặng theo đôi, kị tặng đơn lẻ.

Dương Lăng ngước mắt nhìn, thấy trong mắt Mạc Thanh Hà ngậm cười, mặt bèn chợt nóng lên, biết rằng hắn đã nhận định Cao Văn Tâm sớm muộn gì cũng sẽ được mình cưới về làm thiếp. Y cũng không có cách nào giải thích, chỉ đành ậm ờ ưng thuận, sai người nhận lấy hai chiếc rương, sau đó hai người khởi kiệu rời khỏi núi Sư Tử.

Rời khỏi miệng núi, đầu tiên phải đi qua một thôn nhỏ mới có thể rẽ sang đường lớn về thành. Dương Lăng đang ngồi trong kiệu chợt nghe phía trước có tiếng người quát mắng, vội vén rèm kiệu lên nhìn. Chỉ thấy hai tên thuế lại đang giơ roi đuổi đánh một đứa bé ăn mặc rách rưới, nhìn cũng chỉ khoảng mười tuổi, liền giận dữ quát một tiếng:

- Dừng tay!

Hai tên thuế lại kia đang say sưa quất roi, hoàn toàn không nghe thấy. Trịnh bách hộ đi bên cạnh kiệu liền phóng tới một bước, chụp lấy roi da trong tay tên thuế lại, đẩy một cái khiến cho hắn lảo đảo, quát lên:

- Đại nhân có lệnh, ngươi không nghe thấy à?

Tên thuế lại đó quay đầu lại, nhìn thấy Dương Lăng đã xuống kiệu, bộ mặt hung thần ác sát lập tức đổi thành vẻ mặt tươi cười siỠnịnh, gật đầu khom lưng đứng sang một bên. Mạc Thanh Hà cũng xuống kiệu ngựa, vội vã chạy qua hỏi:

- Đại nhân, đã xảy ra chuyện gì vậy?

Dương Lăng thấy đứa bé đó đã lùi về bên một sạp trà. Trông nó hết sức ốm yếu, thân thể gầy gò để lộ một cái đầu hơi quá khổ, đôi mắt to hiện lên vẻ lanh lợi cứng cỏi, có điều quần áo lại rách rưới, thân thể và mặt mũi trông rất bẩn thỉu.

Dương Lăng bước tới ngồi xổm xuống, đặt tay lên vai thằng bé, chỉ cảm thấy da bọc xương, gầy đến thảm thương. Y ôn hoà hỏi:

- Tiểu huynh đệ, đệ không phải là người bản địa à? Người nhà đệ đâu rồi?

Dương Lăng vừa bước tới phía trước, Trịnh bách hộ đã dẫn bốn tay nha sai đuổi theo sau. Thằng bé đó trông thấy năm đại hán oai phong lẫm liệt tay cầm đơn đao sau lưng Dương Lăng thì co rúm người lại không dám trả lời. Dương Lăng quay đầu lại nhìn, nhíu mày nói:

- Chỉ là một đứa bé, còn sợ bản quan bị hành thích sao? Đừng doạ thằng bé, các người lui ra chút đi!

Trịnh bách hộ vội dẫn người lùi ra mấy bước. Mạc Thanh Hà cũng bước qua, ngồi xổm xuống, ôn tồn cười nói:

- Nhóc con, vị đại nhân này là người tốt, đại nhân hỏi thì ngươi phải trả lời đàng hoàng, đại nhân mà cao hứng sẽ thưởng ngươi mấy văn tiền để mua mấy cái bánh bao thịt lớn ăn đó.

Thằng bé vừa nghe nói đến bánh bao thịt, cặp mắt liền sáng lên. Nó nuốt một ngụm nước bọt rồi mới ấp úng nói:

- Đại lão gia, cháu tên là Ôn Tiểu Hoa, là người ở trấn Tư Khẩu. Khi nãy đói bụng, trông thấy cây bên đường có quả dại nên định hái mấy trái xuống ăn. Vị đại gia đó... ông ta lấy roi đánh cháu.

Dương Lăng nhìn sang Mạc Thanh Hà. Mạc Thanh Hà nhướng mày nói:

- Trấn Tư Khẩu à? Đó là địa giới Tô Hàng mà, đứa nhỏ như ngươi một mình chạy đến nơi này sao? Người nhà của ngươi đâu?

Thằng bé rụt rè gật đầu đáp:

- Ừm! Người nhà cháu đều chết cả rồi, cháu phải đi ăn xin khắp nơi để sống qua ngày, đi hoài đi mãi thì đến nơi này.

Dương Lăng hỏi:

- Thế nào mà người trong nhà đều không còn vậy? Nơi đó đã xảy ra ôn dịch sao?

Mạc Thanh Hà lắc đầu nói:

- Chưa từng nghe nói có ôn dịch. Đứa nhỏ, nói cho ta biết người trong nhà ngươi làm sao mà chết hết vậy?

Thằng bé chớp đôi mắt to, rụt rè đáp:

- Ruộng nhà cháu ở kế bên sông, tháng năm nổi lụt ngập hết cả ruộng. Cha cháu bán nhà vào thành làm chút buôn bán nhỏ, nhưng mà vào thành cũng bị thu thuế. Cha... cha lén trèo tường nên té bị thương, mẹ cháu mới bán ruộng để chữa thương cho cha, nhưng bọn người lùn lại kéo đến, cướp tiền và đồ nhà cháu, giết chết cả cha mẹ cháu. Cháu phải... phải ăn xin khắp nơi.

Dương Lăng nghe mà cảm thấy xót xa trong lòng. Lúc này ông già mở quán trà bên đường nhận ra Mạc Thanh Hà, không nén được mừng rỡ kêu lên:

- Ngài là Mạc gia? Mạc đại thiện nhân!

Mạc Thanh Hà ngẩn ra, hỏi ngược lại:

- Ông nhận ra ta à?

Lão hán đó hưng phấn reo lên:

- Nhận ra chứ, nhận ra chứ. Mùa đông năm ngoái, Mạc gia bố thí cháo trong thành, lão đây đã từng đến trước phủ ngài xin miếng ăn đó. Cái đứa nhỏ không cha bị Trương quả phụ thôn chúng tôi tái giá bỏ rơi, đứa nhỏ tên là Thuỷ Sinh không có ai nuôi đó, không phải Mạc gia đã nhận nuôi sao? Ha ha, lão đây còn nhớ ngài mà. Đứa nhỏ này thật là đáng thương, lại có vẻ lanh lợi, không bằng Mạc gia ngài rủ lòng thương thu nhận nó đi.

Dương Lăng nhìn Mạc Thanh Hà, lấy làm bất ngờ nói:

- Mạc đại nhân thật không hổ được gọi là thiện nhân, hóa ra không chỉ bố thí cháo cứu người mà còn thu dưỡng cô nhi.

Mạc Thanh Hà còn chưa kịp nói mấy câu khiêm tốn, ông già nọ đã cướp lời nói tiếp:

- Mạc gia là người tốt, thành Hàng Châu ai mà không biết chứ? Mạc gia đã thu dưỡng mấy chục đứa nhỏ bơ vơ không nơi nương tựa. Thằng bé này hôm nay gặp được ngài thật đúng là phước đức tổ tiên à.

Mạc Thanh Hà nghe lão ta khen ngợi mình trước mặt Dương Lăng, dường như hơi không được thoải mái lắm, vội nói:

- Được rồi được rồi, cái ông lão này!

Hﮠquan sát thằng bé tên là Ôn Tiểu Hoa mấy lượt, rồi khẽ gật đầu nói:

- Được rồi, ngươi hãy đi theo ta, thế nào? Ta sẽ tìm một chỗ cho ngươi, có ăn có uống, còn có thể học chút nghề.

Thằng bé rất lanh lợi, nghe xong vội vàng quỳ xuống, vui mừng phấn khởi đáp:

- Tạ ơn đại lão gia! Chỉ cần có miếng ăn, ngài sai cháu làm gì cũng được.

Mạc Thanh Hà không ngại nó bẩn thỉu, vừa cười lớn vừa xoa đầu nó, sau đó quay đầu gọi quản gia:

- Lão Lý, mang thằng bé này theo! Có mang theo thứ gì ăn không? Cho nó một chút lót dạ đi!

Dương Lăng vừa cùng hắn trở về, vừa nói:

- Mạc đại nhân đã thu nhận mấy mươi cô nhi à? Đây... đây thật là việc đại thiện đó. Có điều trong phủ nuôi dưỡng nhiều con nít như vậy cũng thật khó khăn cho đại nhân rồi.

Mạc Thanh Hà hơi đỏ mặt nói:

- Đại nhân quá khen rồi. Chúng ta... chà, chúng ta là người gì hẳn đại nhân cũng rõ, chỉ muốn làm chút việc thiện, kiếp sau có thể được báo ứng tốt mà thôi. Ty chức chỉ là giúp đỡ những đứa nhỏ này kiếm miếng ăn, cũng không giữ lại trong phủ mà nhờ người đưa đến hộ dệt bản địa làm ít việc vặt, đồng thời học chút tay nghề. Cũng vì nể mặt ty chức nên những hộ dệt đó không dám làm khó bọn chúng, cho bọn chúng một con đường sống mà thôi.

Đến đây Dương Lăng quả thật đã cảm thấy kính nể người thái giám này. Bất kể hắn có thật muốn tích âm đức để cầu thiện báo hay không, những việc làm và hành động ấy đã hơn biết bao kẻ đọc sách cả ngày ra rả vì nước vì dân, song lại chỉ biết nói suông. Tuy hắn không hiểu nhiều đạo lý lớn, nhưng lại thật sự làm được rất nhiều việc tốt.

Mặc dầu, lợi dụng sự tiện lợi của chức quyền hắn cũng thu được không ít chỗ tốt, nhưng hắn có thể nghĩ đến việc cứu tế dân chúng cùng khổ, đây đã là chuyện rất đáng quý rồi.

Tất cả hộ dệt của bản địa đều thuộc sự cai quản của thái giám dệt may Lý Đại Tường. Các hộ dệt may tập trung ở Tô Châu, cho nên nha môn của Lý Đại Tường cũng đặt tại Tô Châu. Dương Lăng và Mạc Thanh Hà trở về thành, không quay thẳng về phủ mà đến một cửa điếm nhỏ đặc sắc của địa phương. Hai người ngồi dưới gốc thuỳ dương, khoan thai đối ẩm, vui vẻ bình phẩm phong cảnh Giang Nam. Sau đó còn chưa dứt chuyện thì lại quyết định đi đến hộ dệt bản địa để quan sát.

Dương Lăng nhớ lúc nhỏ đọc sách, có nghe nói vào thời Minh hộ dệt Giang Nam thuê mướn thợ thuyền, đã có quy mô khá lớn, có hình thức ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Hộ dệt mà y đến tham quan lần này là một trong mười mấy hộ dệt lớn của Hàng Châu, tuy không lớn bằng hộ dệt Tô Châu nhưng cũng có mấy chục khung cửi, thuê mướn gần hơn trăm thợ nữ. Dạo một vòng bên trong, Dương Lăng có cảm giác rất giống với xưởng sản xuất dây chuyền công nghiệp hiện đại, không khỏi vô cùng hưng phấn.

Khi sắp ra khỏi cửa, y chợt nhìn thấy một thằng bé mập mạp độ mười một mười hai tuổi vác một bao sợi trắng đi vào. Vừa trông thấy có người ngoài, nó bèn đứng một bên cửa, đưa tay áo lên quệt mồ hôi đầy trán, chỉ đứng đó cười ngây thơ.

Mạc Thanh Hà cười chỉ vào thằng bé đó, nói:

- Thằng nhỏ này cũng không cha không mẹ, ty chức thấy tội nghiệp nên đã thu nhận rồi đưa đến đây. Ừm, đó là chuyện của mùa hè năm ngoái rồi.

Hắn lại cười nói:

- Ha ha! Không sợ đại nhân chê cười, người do ty chức đưa đến những hộ dệt này còn không dám không nể mặt. Bọn họ quyết sẽ không ngược đãi chúng, cho nên ty chức cũng chưa bao giờ đến thăm. Ty chức nhớ được thằng nhỏ này cũng bởi cái bướu to đấy của nó, bằng không quả thật không thể nhớ nổi.

Dương Lăng bèn đưa mắt nhìn, thấy thằng bé đó thân thể khoẻ mạnh rắn chắc, xem ra cuộc sống nơi đây quả nhiên không tệ. Có điều cổ nó vừa thô lại ngắn, bên cổ lại mọc ra một cái bướu thịt to dễ sợ màu đỏ tía, khiến người ta trông thấy liền có ác cảm.

Mặc dù Dương Lăng biết thân thế thằng bé này đáng thương, nhưng nhìn xong trong lòng cũng có cảm giác dị dạng, đừng nói là người khác. Nếu không vì Mạc Thanh Hà rủ lòng thương, phỏng chừng thằng bé này có muốn kiếm chút miếng ăn một cách chính đáng cũng sẽ không có ai dùng nó, chỉ có thể ăn xin cả đời. Đối với việc làm vĩ đại của Mạc Thanh Hà, trong lòng y không khỏi càng sinh ra một sự ngưỡng mộ.

Nhưng kỳ quái chính là, sao thằng nhóc đó gặp Mạc Thanh Hà mà vẻ mặt lại bình thường, không có vẻ gì như gặp được ân nhân vậy? Dương Lăng hơi động nghi ngờ, song lập tức nhớ ra thằng nhóc mập này mới chỉ gặp Mạc Thanh Hà một lần, trải qua lâu ngày một đứa bé làm sao nhớ rõ như vậy được, thế là lòng nghi ngờ lập tức tan biến.

Thằng bé mập mạp đó chỉ nhìn mấy vị khách cười ngây thơ, cũng không bước lên chào hỏi. Hộ dệt Cao Minh cười mắng:

- Tiểu tử ngốc, nhìn gì mà nhìn, mau mang đồ vào đi, đừng che mắt đại nhân!

Thằng bé mập đó nghe thấy liền vội vác bao sợi lên rồi chạy vụt vào.

oOo

Dương Lăng mặt đỏ như gấc đi vào Tây khoá viện. Cao Văn Tâm ngồi dí trong nhà cả ngày, nghe nói y trở về liền tung tăng ra đón, trông thấy vẻ mặt Dương Lăng quái dị, không khỏi ngẩn ra. Dương Lăng lúng túng đưa một cuộn giấy qua nói:

- Văn Tâm, đem cất cái này cẩn thận đi!

Cao Văn Tâm ngạc nhiên hỏi:

- Lại có người tặng lão gia thư hoạ của danh nhân gì sao?

Nàng vừa mở cuộn giấy ra nhìn, sắc mặt lập tức trầm xuống, chua chát nói:

- Thiếp tựa mù giăng chàng tựa trăng... Quả là một bài thơ tình hay. Không ngờ lão gia nhà chúng ta còn là nhân vật hết sức phong lưu nữa, đến vùng Giang Nam sông nước không biết đã khiến bao nhiêu người con gái phải điên đảo thần hồn rồi.

Dương Lăng dở khóc dở cười bao biện:

- Bài thơ này... là tôi nghe được lúc ở cố hương. Mạc phu nhân thấy hay nên đã phỏng chép ra hai cuộn, cuộn này là tặng lại cho tôi. Cô đừng có nghĩ ngợi lung tung! Đúng rồi, cô thấy thư pháp của vị Mạc phu nhân này thế nào? Thật là khéo tay hay chữ nhỉ.

Cao Văn Tâm nào tin lời nói dối của y. Nếu như thật sự đường hoàng như vậy, cớ gì khi nãy sắc mặt lại lúng túng? Nàng nhìn thư pháp ấy một chút rồi hừ giọng nói:

- Chữ thì không tệ, nhưng cũng không thấy đẹp hơn chữ tiểu tỳ. Trái lại bài thơ này... ý nặng tình thâm, chẳng lẽ là của Ấu Nương tỷ tỷ tặng lão gia?

Dương Lăng đằng hắng hai tiếng, không đáp lời nàng. Khi nãy vừa trở về phủ, Mạc phu nhân liền hưng phấn cầm hai cuộn tranh ra. Nàng ta đã chép bài thơ thành hai phần giống nhau, một phần tặng cho Dương Lăng để tạ ơn.

Chuyện này vốn không có gì to tát, chỉ là không biết vì con gái Giang Nam phóng khoáng như vậy, hay vì Mạc phu nhân lăn lộn chốn thanh lâu nhiều năm, không biết chừng biết mực, lại chẳng hề kiêng kị áp sát đến trước mặt Dương Lăng, mở tranh thư pháp ra, duyên dáng tươi cười, chỉ chỉ trỏ trỏ.

Nếu như cử chỉ đó được đXào thời nay thì cũng không tính là gì, nhưng Dương Lăng ở niên đại này đã lâu mà vẫn chưa từng thấy phu nhân người nào không biết tránh hiềm nghi như vậy, cứ kề sát lại gần. Chỉ ngửi thấy làn gió thơm rười rượi, hơi thở như lan đã khiến y trở nên khó chịu bất an, thế mà Mạc Thanh Hà không hề cho đó là ngỗ ngược. Vì vậy y càng không thể nổi giận được.

Cuối cùng khi Mạc phu nhân thu cuộn tranh về, buộc lại rồi đặt vào tay y, ngón tay ngọc thon thả lại thuận thế lẳng lơ khều nhẹ lòng bàn tay y một cái, làm Dương Lăng sợ giật nảy tim. Y ngước mắt nhìn, đúng lúc trông thấy cặp mắt khiến cho hồn xiêu phách lạc của Mạc phu nhân liếc sang: yêu kiều, quyến rũ, răng trắng cắn khẽ môi hồng, tuy vẻ phong tình chỉ hiển lộ ra trong chớp mắt, nhưng lại như hòn đá ném xuống mặt nước yên ả, khiến lòng người nổi lên từng gợn sóng. Lúc này Dương Lăng mới hiểu được không phải nàng ta không câu nệ tiểu tiết mà là có ý quyến rũ mình.

Vẻ phong tình của mỹ nữ này, phong lưu mà không thấp hèn, tuy ở trước mặt trượng phu mình quyến rũ người khác, nhưng sức mê hoặc đặc biệt đó lại khiến người ta không thể nảy sinh chút ác cảm nào. Dương Lăng chỉ cho rằng nàng cưới phải ông chồng thái giám, khao khát xuân tình, đột nhiên có người đàn ông trẻ tuổi vào ở nơi này, mới khiến nàng ta suy nghĩ vẩn vơ. Thế là y không dám ngồi lâu, trò chuyện vài câu với Mạc Thanh Hà xong liền vắt giò lên cổ mà chạy.

Chuyện khó xử như vậy y đương nhiên không thể kể cho Cao Văn Tâm nghe. Nhìn thấy nàng vẫn còn chút giận dỗi, Dương Lăng vội cười ruồi nói:

- À... Văn Tâm này, chúng ta có phải nên uống thuốc châm cứu không?

Cao Văn Tâm duyên dáng lườm y một cái, nói:

- Không được, hay là lão gia người đi gặp Liễu thiên hộ trước đi rồi hẵng bàn! Đừng để khi châm cứu lại kêu ầm lên, đến lúc đâm cho cái lưng ngài thành cái sàng, trở về Ấu Nương tỷ tỷ mà không đòi mạng tiểu tỳ mới lạ đó.

Dương Lăng buột miệng cười nói:

- Vậy thì không sợ, chỉ sợ tôi kêu la trong phòng, bị đám nha sai nghe được lại hiểu lầm chúng ta...

Y nói đến đây chợt ngậm miệng lại, hối hận đến suýt nữa thì đã vả vào miệng mình: "Thằng khốn nạn này, rõ ràng không muốn gánh thêm nợ tình, sao còn ngứa miệng nhiều chuyện vậy! Mày nghĩ đây là đang trong công ty tám chuyện với đồng nghiệp nữ sao? Phụ nữ thời này chung tình lắm đó."

Y còn ngượng ngùng xấu hổ, Cao Văn Tâm sao không thẹn đến đỏ bừng cả mặt. Thế nhưng nàng lại không hề có chút vẻ giận hờn nào, ánh mắt hết sức phức tạp, cũng không biết đang nghĩ gì. Nàng liếc Dương Lăng một cái thật sâu rồi nhẹ giọng nói:

- Tiểu... tiểu tỳ sẽ đi mời Liễu thiên hộ vào.

Trong khoảnh khắc, ngữ khí ấy càng mê ly và thuỳ mị không nói nên lời.

oOo

Quả thật phụ nữ mỗi khi ăn mặc trang điểm lại có một diện mạo khác. Cao Văn Tâm mặc một bộ phục sức phổ thông của con gái vùng Giang Nam, vẻ ung dung sang trọng hoàn toàn biến mất mà lại hơi giống như một cô con gái cưng vậy. Nàng vội vã chạy lên lầu, tay cầm vạt váy màu xanh lá, giậm mạnh đôi hài thêu màu đỏ, bực bội liếc Dương Lăng một cái rồi nói:

- Lần sau lão gia đừng tìm tiểu tỳ nữa, còn muốn người ta cười với hắn một cái, thật muốn ói quá!

Cao Văn Tâm dáng người thon cao, dung mạo trong veo như nước, lúc này giậm chân hờn dỗi, cả người toát lên phong thái xinh đẹp khiến người ta phải động lòng. Dương Lăng nhìn mà hai mắt sáng rực, liền vội gật đầu nói:

- Đương nhiên, đương nhiên, yên tâm, yên tâm, nếu không phải sợ đánh rắn động cỏ, tôi cũng không nỡ... A hèm, cô lánh ra sau một chút đi, để tôi xem thử tên háo sắc ngửi mùi mà tới này trông như thế nào.

Cao Văn Tâm hừ một tiếng, xoay người lánh ra phòng sau. Chỉ nghe ngoài cửa có tiếng một gã đàn ông cười ha hả:

- Không tệ, không tệ. Ngươi không có gạt ta, cô gái này quả nhiên có mùi vị. Nhưng nói đến chuyện trước mắt, tiền quà cáp lão tử chỉ có thể chi ra mười lượng. Trong tay ngươi đã có thóc gạo, lát nữa ta về kêu quan ty vụ thu mua với giá cao là được. Lợi nhuận của ngươi không ít được đâu, ha ha ha...

Theo giọng nói, một gã quan quân mặt cáo, râu ngắn đen đúa đang cười híp mắt cùng với Liễu Bưu đóng giả thành một thương nhân đầu cơ tiến vào phòng. Hắn nhìn thấy trong phòng lại không phải khuê phòng thiếu nữ như trong tưởng tượng mà là một gian phòng khách không lớn, một công tử trẻ tuổi vận đồ trắng, thắt lưng xanh lam đang mỉm cười ngồi trên nghế dựa nhìn hắn, đứng sau lưng gã công tử đó là bốn hán tử mặc đồ đen, thân hình nhanh nhẹn dữ dằn, vẻ mặt âm trầm thì không khỏi sững sốt, lập tức đưa tay mò cán thanh đao giắt bên hông.

Dáng vẻ thương nhân của Liễu Bưu lập tức biến mất, y giơ chân đá một cái vào sau gối hắn, tiếp đó một thanh chuỷ thủ sáng choang đã kề lên cổ. Hắn chỉ nghe kẻ tự xưng là thương nhân có thóc gạo để bán, muốn dùng mỹ sắc để dâng tặng này lạnh lẽo quát:

- Ngồi bên trên chính là đề đốc nội xưởng, thống lĩnh thân quân thị vệ đại nội, khâm sai phụng chỉ kiểm tra thuế phú Giang Nam, Dương Lăng Dương đại nhân, còn không khấu đầu làm lễ!

Gã quan quân đó cảm thấy hồ đồ, khi nghe nói không phải là cường đạo giặc cướp, mối nguy hiểm mất mạng giảm đi nhiều, hắn mới trút bỏ được một nửa gánh nặng. Nhưng đường đường quan tổng đốc nội xưởng, khâm sai đại nhân, muốn gặp hắn không phải chỉ nói một câu là được sao, thần thần bí bí như vậy để làm gì? Nghĩ đến những chuyện vi phạm pháp luật và kỷ cương mà mình đã làm, hắn không kìm được mà túa mồ hôi lạnh, hoảng hốt bổ nhào về phía trước, run giọng nói:

- Hạ quan thiêm sự Đinh Lâm chỉ huy Long Sơn vệ, bái kiến Dương... Dương đại nhân...

Dương Lăng cúi người cười nói:

- Đinh thiêm sự, bản đốc mạo muội mời ngươi đến đây, ngươi có biết là vì chuyện gì không?

Thiêm sự Đinh Lâm chỉ huy Long Sơn vệ trán mướt mồ hôi hột, thần sắc hoảng sợ đáp:

- Hạ... hạ quan không biết.

Nội xưởng thành lập chưa lâu, có những thủ đoạn lợi hại gì hắn vẫn không biết, nhưng cực hình của Đông xưởng, Tây xưởng và Cẩm Y vệ thì đã sớm có nghe qua. Nghe nói nội xưởng còn có chức trách đốc sát hai xưởng một vệ, vậy thủ đoạn có thể ít sao? Đinh Lâm đã làm ra không ít trò phạm pháp, cho nên vừa nói vừa không nhịn được run lên lập cập.

Dương Lăng thẳng lưng lên phất áo một cái, bắt chéo chân qua. Chiếc giày trắng như tuyết đung đưa trước trán Đinh Lâm. Y khoan thai nâng chén trà lên nói:

- Trịnh bách hộ, đọc cho hắn nghe!

- Ty chức tuân mệnh!

Trịnh bách hộ kính cẩn đáp một tiếng rồi bước lên một bước, liệt kê ra từng hành vi phạm pháp của Đinh Lâm như: ép mua ruộng đất của quan binh vệ sở, tham ô quân hưởng, thông dâm cùng thê tử của binh sỹ.

Đinh Lâm nghe mà mặt vàng như nghệ, Trịnh bách hộ còn chưa đọc hết, hắn đã bò lên phía trước, bi ai cầu khẩn:

- Hạ quan có tội, hạ quan đáng chết, xin đại nhân thứ tội, xin đại nhân khai ân cho!

Vừa nói hắn vừa dập đầu bồm bộp.

Dương Lăng đặt chén trà xuống, khẽ mỉm cười nói:

- Đinh thiêm sự, những việc này ta đều tra ra chứng cứ xác thực, tin rằng nếu cần nhân chứng, những quan binh được ngươi "đối đãi tốt" như vậy cũng sẽ vui vẻ đứng ra làm chứng. Bất cứ một điều nào trong đây đều đủ để lấy đầu ngươi, ngươi có gì để nói không?

Đinh Lâm run rẩy van xin:

- Dạ dạ, hạ quan biết, hạ quan đáng chết, xin đại nhân...

Dương Lăng ngắt lời hắn:

- Thường nói "xin người chi bằng tự xin mình", nếu như Đinh đại nhân muốn đoái công chuộc tội, vẫn phải dựa vào bản thân mới được à!

Đinh Lâm nghe ra ẩn ý trong lời nói của y, hai mắt không khỏi sáng lên, vội vàng ngữa mặt sốt sắng nói:

- Xin đại nhân hãy chỉ điểm bến mê, hạ quan sẽ nghe theo tất thảy!

Dương Lăng bảo:

- Thật ra bản quan cũng biết, trong sáu huynh đệ ngươi chỉ có ngươi là theo nghề binh, gia tộc đông đúc hoàn toàn đều dựa vào một mình ngươi nuôi dưỡng, chỉ với chút bổng lộc đó quả thật không đủ để dùng. Còn về phần ngươi thông dâm với thê tử của sĩ tốt, âu cũng là đôi bên tình nguyện, mặc dầu tội không thể tha nhưng cũng có thể niệm tình. Nếu như ngươi chịu giúp bản quan làm ít việc, những tội lỗi này ta sẽ giúp ngươi thay đổi một chút, tự nhiên có thể chuyện lớn hoá nhỏ, chuyện nhỏ hoá không.

Đinh Lâm mừng rỡ nói:

- Đa tạ đại nhân khai ân! Không biết đại nhân muốn hạ quan làm... làm những việc gì?

Dương Lăng tập trung ánh mắt lại nói:

- Ta nghe nói chỉ huy sứ Tất Xuân Tất đại nhân của Long Sơn vệ thường hay mưu hại sĩ tốt vi phạm quân quy, sau đó bức ép sĩ tốt tướng vệ khoanh tay phục tùng, cùng với giám quân Viên công công chiếm dụng làm của riêng. Ngoài ra định mức trong quân là sáu ngàn năm trăm người, nay chỉ còn một phần ba, lại đều là người già yếu bệnh tật. Tất Xuân và Viên Hùng giấu giếm không báo, gạt chiếm quân hưởng, thậm chỉ ngay cả ngân lượng trích cấp để đóng thuyền cũng chảy vào trong hầu bao mỗi người. Giờ đây quân giới cũ hỏng, không thể sử dụng được. Thực có chuyện này không?

Đinh Lâm tuy là thiêm sự chỉ huy, nhưng quyền bính đều nằm trong tay Tất Xuân; Tất Xuân lại cấu kết cùng Viên Hùng, một tay che trời, căn bản không hề để hắn vào mắt. Hắn chỉ có thể vơ vét được một ít lợi trong đó, cho nên trong lòng sớm đã bất mãn với Tất Xuân. Nghe khẩu khí vị khâm sai này dường như muốn trị Tất Xuân và giám quân Viên công công, hắn không khỏi mừng thầm trong bụng.

Nhưng do lâu năm bị chèn ép dưới oai, hắn nhất thời vẫn không dám thổ lộ thật tình, cho nên không khỏi do dự. Dương Lăng thấy vậy hừ nhạt một tiếng, bảo:

- Nếu ngươi đã không thể thành thật với bản quan, vậy bản quan cũng chẳng muốn cứu ngươi nữa. Ngươi về đi!

Đinh Lâm không còn thời gian để suy nghĩ thêm nữa, lật đật nói:

- Đại nhân đừng trách, hạ quan thú nhận ngay đây!

Ngay sau đó Đinh Lâm lôi tất cả những chuyện xấu của Viên Hùng và Tất Xuân mà mình biết được lần lượt kể hết ra. Càng khiến người ta thêm căm phẫn chính là, ngoại trừ hơn năm trăm binh sĩ trong thân binh doanh của Tất Xuân là tinh nhuệ, còn lại toàn bộ đều không có sức chiến đấu. Vì thế lúc giặc Oa kéo đến, hắn cùng thân binh liền mỗi người một ngả, cố ý tránh né giặc Oa, để mặc cho bọn chúng cướp bóc.

Nếu luận năng lực chỉ huy và dũng cảm, Tất Xuân thực ra là một viên tướng kiêu hùng, bằng không lúc tập trung mấy tinh binh vệ sở chống giữ biên giới phía Bắc ngày đó, hắn đã không có gan chiến đấu trực diện với giặc Thát. Nhưng lần này nếu liều mạng chống chọi với giặc Oa, kẻ chết sẽ đều là quân tinh nhuệ của hắn. Xuất phát từ tư tâm, hắn thân mang trọng trách giữ đất nhưng lại để mặc giặc Oa cướp bóc, đợi đến khi bọn chúng rút lui mới gióng trống khua chiêng truy đuổi. Mỗi khi chạy không kịp, giặc Oa bèn vứt lại rất nhiều của cải cướp được, khi ấy Tất Xuân liền thừa cơ thu lượm bỏ vào trong túi mình. Tướng quân Đại Minh mà lại làm "bá vương hôi của".

Dương Lăng nghe mà giận sôi lên. Đợi Đinh Lâm nói xong, một nha sai cúi đầu hí hoáy ghi chép ở góc phòng liền cầm một tờ giấy cung khai còn ướt mực đi qua. Đinh Lâm bất đắc dĩ phải lăn tay. Lúc này mới nghe Dương Lăng cười nhạt nói:

- Rất tốt, kẻ thức thời mới là trang tuấn kiệt, hy vọng Đinh đại nhân có thể chân thành hợp tác với bản đốc. Những chuyện đại nhân vừa khai nhận bản đốc đã ghi chép vào văn kiện. Việc này còn phải nhờ Đinh đại nhân lợi dụng quan hệ để thu thập nhiều chứng cứ hơn, lúc đó bản đốc bắt người cũng hợp lý hợp lẽ.

Đinh Lâm nghe vậy thì ngẩn ra: "Hoá ra vị xưởng đốc đại nhân này đang gạt mình. Tuy y nghe nói có những chuyện này, song lại căn bản không có chứng cứ!"

Đinh Lâm hơi hối hận, nhưng hắn vừa mới lăn tay ký tên, giờ đã lên thuyền giặc, nếu muốn xuống, chỉ cần dựa vào tờ cáo trạng này Dương Lăng đã có thể bắt hắn vào nội xưởng tra khảo.

Lòng người như sắt, phép quan như lò, ai còn có thể giữ được bí mật dưới cực hình của xưởng vệ chứ? Cho dù Viên công công và Tất Xuân chịu cứu hắn, đến lúc ra được thì người cũng đã tàn phế. Đến nước này Đinh Lâm chỉ đành ảo não đáp ứng mà thôi.

Dương Lăng lại không phải là người dựa vào doạ dẫm để khiến người ta làm việc cho mình, thấy Đinh Lâm đã đáp ứng vội mỉm cười đỡ hắn lên, hứa hẹn phong quan một phen, vẽ ra cho hắn một tiền đồ đầy gấm vóc, đến khi Đinh thiêm sự đang ủ rũ lấy lại tinh thần mới thả hắn đi.

Đợi hắn đi khỏi, Liễu Bưu hơi thắc mắc hỏi:

- Đại nhân, xưởng vệ chúng ta bắt người, chỉ cần có chút manh mối thì không cần xin ý chỉ vẫn có thể bắt loại quan như Tất Xuân và Đinh Lâm này về tra khảo. Huống chi chúng ta ít nhiều cũng đã có chút chứng cứ xác thực, đại nhân cần gì phải phí công lợi dụng tên này cho phức tạp thêm?

Dương Lăng thản nhiên cười nói:

- Liễu Bưu này! Đinh Lâm... không đáng sợ. Tất Xuân... không đáng sợ. Viên Hùng... cũng không đáng sợ. Có điều, huynh cho rằng kẻ địch của chúng ta thật sự là bọn chúng sao?

Nói đoạn y lắc đầu, mỉm cười nói:

- Không đâu, đối thủ chân chính của chúng ta đang ở trong kinh đó. Thay vì nói mấy kẻ này là người mà chúng ta cần đối phó, nói chúng là một món vũ khí thì đúng hơn. Những kẻ ở trong kinh đang dùng bọn chúng để đối phó với chúng ta, chúng ta cũng đang dùng bọn chúng để đối phó với trong kinh. Ha ha, cho nên chứng cứ càng xác thực càng tốt, nếu như nhân chứng vật chứng đều vững chắc, cho dù bọn chúng muốn đặt điều thị phi cũng không có cớ mà vịn lấy.

Liễu Bưu nghe vậy khiếp đảm thất kinh:

- Phải rồi, sao lại quên lý do chúng ta đến Giang Nam nhỉ? Đây vốn là một ván cờ của Ty lễ giám và Đông xưởng lập ra, bọn chúng có thể ngồi yên nhìn Dương đại nhân đến giải ván cờ này sao? Giờ đây đối phó với mấy tên thái giám trấn thủ này thật ra là đánh một trận chiến, thắng thì sẽ giành được sự ủng hộ của mấy trăm vị thuế giám trong thiên hạ, làm yếu đi thực lực của Ty lễ giám và Đông xưởng, thua thì không chỉ mất một ty thuế giám, mà đến lúc đó thuế giám các nơi sẽ dùng mọi cách để gây khó dễ, e rằng con đường tiền tại và thế lực hiện giờ cũng sẽ đi tong.

- Đại nhân càng ngày càng có tâm kế à.

Liễu Bưu nhìn Dương Lăng một cách khâm phục, cung kính nói:

- Vậy thì chúng ta phải chờ Đinh thiêm sự lấy được bằng chứng rồi mới xử lý bọn chúng sao?

Dương Lăng lắc đầu nói:

- Không! Bây giờ cung đã lắp tên, không thể không bắn. Ba đại thái giám trấn thủ Giang Nam đích thực có hành vi phạm pháp, nếu như một tên cũng không xử lý kỹ thì vẫn sẽ tạo cớ cho người ta. Tên Viên Hùng này nhất định phải bắt, có điều cái cớ của chúng ta không can hệ gì đến thuế phú, mà là bại hoại quân kỷ. Thân làm khâm sai, ta có trách nhiệm thuận tiện khảo sát, chưa phụng chỉ thì chưa thể xử lý được.

Y lại nói tiếp:

- Bây giờ cần lập tức phái người vào kinh đem sự tình bẩm rõ với hoàng thượng, xin chỉ lập tức bắt người. Việc này căn bản không che mắt được xưởng vệ, cho nên chỉ có thể xem ai nhanh hơn. Huynh hãy chọn mấy người cơ trí lập tức hồi kinh, trước tiên đến gặp Ngô đại bộ đầu, sau đó vào cung diện kiến thánh thượng.

- Vâng!

Liễu Bưu đáp một tiếng rồi vội xoay người đi ra.

Cao Văn Tâm từ sau vách tường nhẹ nhàng bước ra, chớp chớp mắt hỏi:

- Đại lão gia chuẩn bị quan binh bắt giặc à? Vậy... ngày mai huynh muội Trương thiên sư mời lão gia đến Tô Châu du ngoạn, lão gia có đi hay không?

Duơng Lăng duỗi lưng nói:

- Đi, tại sao không đi, tin tức trong kinh chuyển về nào nhanh như vậy chứ? Nơi này có Liễu Bưu trông coi tôi cũng rất yên tâm.

Trông thấy Cao Văn Tâm trong trang phục con gái Giang Nam, hai mắt y không khỏi sáng lên, giãn mày cười nói:

- Đẹp quá, mặc bộ quần áo này vào, trông thật giống giai nhân vùng sông nước. Tôi thấy cô cũng không cần thay nữa, ngày mai cứ mặc quần áo như vầy, kéo ống quần, để chân trần, chúng ta đến Thái Hồ chèo thuyền hái ấu. Học... học...

Đoạn y vỗ trán nói:

- Học ai ấy nhỉ?

Cao Văn Tâm thấy y không nhớ, nhịn không được bèn buột miệng nói:

- Là Tây Thi Phạm Lãi.

Dương Lăng vỗ tay nói:

- Đúng rồi, là Tây Thi Phạm Lãi.

Không phải là y cố ý dụ Cao Văn Tâm nói ra, mà vì y không biết cách phát âm chữ "Lãi" của vị Phạm đại phu đó. Cao Văn Tâm vừa nói ra, y mới phát giác ví dụ này hơi không thích hợp. Ví quan hệ giữa mình và Cao Văn Tâm như Tây Thi Phạm Lãi, vậy thành ra cái gì đây? Cho nên nói xong y nhịn không được bèn bật cười.

Chữ 蠡 (lãi) có hai cách phát âm là "lǐ" (thanh 3) và "lí" (thanh 2). Tên của Phạm Lãi là thanh 3.

Cao Văn Tâm đảo mắt, chỉ thấy Dương Lăng cười một cách xấu xa, Trịnh bách hộ và mấy tay nha sai đứng sau đều mím chặt môi, trông thì hết sức nghiêm túc, thế nhưng mặt người nào người nấy đều lộ vẻ kỳ dị, thế là không khỏi ngượng chín người, cả cổ cũng đỏ ửng lên.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 127: Ngoại thành cô tô

Từ khi nhà thơ Trương Kế thời Đại Đường thi rớt về quê, đêm cập bến Phong Kiều sáng tác bài "Phong Kiều dạ bạc" nổi tiếng được mọi người yêu thích, tháp cổ Hàn Sơn cũng vì thế mà vang danh thiên hạ. Đã đến Tô Châu, thì sao có thể không đến chùa Hàn Sơn một chuyến chứ?

Phú ông Ngô Tế Uyên đất Tô Châu cung thỉnh Trương thiên sư đến phủ chúc phúc cho lão thái gia. Huynh muội họ Trương cũng mới đến Giang Nam lần đầu, nghe danh phong cảnh Thái Hồ đã lâu, có ý muốn ngoạn hồ, chèo thuyền hái ấu một chuyến nên đặc biệt sai người đến Hàng Châu mời Dương Lăng. Ba đại thái giám trấn thủ Giang Nam quyền cao chức trọng, mà Dương Lăng lại đang trọ tại Mạc phủ, đương nhiên Ngô Tế Uyên sẽ không thể không đoái hoài gì đến vị Mạc công công trấn thủ Giang Nam này, vì vậy lão cũng mời vợ chồng Mạc công công đi cùng.

Thuyền quan rẽ sóng dọc theo con kênh cổ xưa. Khi đi qua chùa Hàn Sơn, huynh muội Trương thiên sư và Ngô Tế Uyên đã chờ sẵn trên bến Phong Kiều. Hôm nay Dương Lăng đổi sang mặc quần áo chẽn, nếu không phải vì cái đám nha sai đeo cung cầm đao bên cạnh là cái chiêu bài sống của y, thì với tướng mạo và cách ăn mặc bình dị này nhất định y sẽ bị người khác lầm tưởng là một vị công tử nho nhã phong độ.

Tuy sớm đã nghe nói vị khâm sai này tuổi còn rất trẻ, song khi trông thấy diện mạo của y, Ngô Tế Uyên vẫn không khỏi lộ vẻ kinh ngạc. Vị phú ông Tô Châu này tuổi trạc ngũ tuần, tướng mạo hiền lành tao nhã. Mặc dù nhà họ Ngô mấy đời buôn bán nhưng sở hữu đất đai trong khu vực Tô Hàng cũng rất nhiều, con cháu Ngô gia cũng nhiều người thi đổ làm quan, cho nên có thể xem họ Ngô là thế gia vọng tộc, hào phú đất Giang Nam.

Hôm nay Trương thiên sư là chủ, vị khách mời quan trọng nhất chính là khâm sai đại nhân; nhưng nói đến quen biết thì Mạc Thanh Hà và Ngô Tế Uyên quen biết hơn. Thế là Mạc Thanh Hà lập tức giới thiệu Dương Lăng với Ngô Tế Uyên, Ngô Tế Uyên thì giới thiệu huynh muội Trương thiên sư với Mạc Thanh Hà. Một đoàn người vui vẻ nói cười bước vào trong chùa Hàn Sơn.

Hôm nay Mạc Thanh Hà cũng đổi sang mặc một bộ thường phục. Hắn có vóc người cao lớn, dáng vẻ đường đường, thật không còn thấy bộ dáng của một thái giám. Hắn đứng cạnh Mạc phu nhân chan chứa phong tình, quyến rũ mê người thực cũng khiến cho người ta có cảm giác đó là một cặp trai tài gái sắc.

Nghe nói hôm nay khâm sai đại nhân từ kinh đô và thái giám trấn thủ Mạc công công muốn đến chùa tham quan, phương trượng chùa Hàn Sơn không dám sơ suất chút nào, sớm đã ra đứng đón ngoài cổng chùa. Lão hoà thượng tuổi quá bát tuần, râu tóc bạc phơ, sắc mặt hồng hào, thân thể rất là tráng kiện.

Lão hòa thượng khoác cà sa màu đỏ thẫm, dẫn theo các trưởng lão, tri khách tăng và mười mấy tiểu sa di trong chùa cung kính nghênh đón nhóm người Dương Lăng. Tuy thanh danh vang dội nhưng thật ra chùa Hàn Sơn này rất nhỏ, đi hết một vòng cũng không mất bao thời gian. Vừa bước vào cổng chùa, đập vào mắt mọi người là một chiếc lư hương lớn, hương hoả cực thịnh, cắm đầy những cây nhang to bằng hai ngón tay do các tín đồ kính dâng, từ rất xa đã ngửi thấy mùi nhang khói nồng nặc.

Tuyệt đối không vì có khâm sai đại nhân quang lâm mà nhà chùa đuổi những khách hành hương khác ra ngoài. Có điều trông thấy đám nha sai xông thẳng vào chùa, đứng canh ở khắp nơi thì ai cũng biết là có nhân vật tai to mặt lớn đến, cộng thêm lão phương trượng ngày thường không dễ ra gặp khách lại đích thân tháp tùng giới thiệu cảnh chùa, những tín đồ nọ sớm đã thức thời mà tránh sang một bên.

Chủ yếu Dương Lăng chỉ tò mò về cái chùa Hàn Sơn này. Tuy nói rằng đến Tô Châu thì Viên Lâm và chùa Hàn Sơn là những nơi phải tham quan, song trong tâm trí Dương Lăng thì Yến Tử Ổ mới là nơi đáng đến nhất. Trương thiên sư có thân phận là bậc chí tôn của đạo gia, đến nơi thánh địa của Phật gia này cũng cảm thấy có phần bất tiện, còn Mạc Thanh Hà và Ngô Tế Uyên lại đã viếng thăm nơi này chán chê, nên tuy là lão phương trượng vô cùng ân cần, mọi người đều không cảm thấy hào hứng lắm.

Do đó mọi người chỉ cưỡi ngựa xem hoa, ngôi chùa vốn không lớn đi càng mau hết, mới nửa canh giờ, Dương Lăng đã đi đến sau chùa. Lúc vòng qua các tượng phật được cung phụng trong lầu gác ở đằng trước, y chợt trông thấy hai tăng lữ đang chắp tay quỳ trên bồ đoàn bái lạy. Ban đầu Dương Lăng còn tưởng đó là tăng nhân trong chùa đang tham thiền tụng kinh lễ Phật, nên bèn vội dừng bước. Song thấy bọn họ lại quỳ lạy phía sau tượng Phật, y lại cảm thấy có chút quái lạ.

Phương trượng vốn không nghĩ rằng khâm sai đại nhân sẽ đi đến hậu viện nhanh như vậy, cho nên không kịp gọi những tăng nhân ở hậu viện này tránh đi. Lúc này thấy bọn họ làm ảnh hưởng đến hứng thú tham quan của đại nhân, lão bèn vội vẫy tay ra hiệu tri khách tăng đuổi hai hoà thượng áo xám này ra ngoài.

Dương Lăng thấy tăng y hai hoà thượng đó mặc hơi khác với những tăng lữ khác trong chùa, sau lưng hai người lại đều đeo mũ rộng vành, tựa như đi đường xa mà đến, nhìn chung vừa cảm thấy hơi là lạ vừa lại cảm thấy hơi quen quen. Y nhíu mày suy nghĩ ngợi một lúc, chợt nhớ ra những tăng lữ mà y thấy trong truyện tranh Nhật Bản cũng ăn vận như vầy, y lấy làm lạ hỏi:

- Phương trượng đại sư, hai vị cao tăng này có phải là tăng nhân của quý tự không vậy?"

Phương trượng cung kính đáp:

- Khâm sai đại nhân! Hai vị tăng lữ này đến từ chùa Thập Đắc ở Nhật Bản, đến bản tự để chiêm ngưỡng và thỉnh kinh Phật, tượng Phật.

Ngô Tế Uyên đứng bên cười nói:

- Đại nhân! Trong những năm Trinh Quán thời Đường chùa này có hai vị cao tăng đắc đạo, tên là Hàn Sơn và Thập Đắc. Về sau hoà thượng Thập Đắc đông độ (đi truyền đạo về phía đông đến) Nhật Bản, đã dựng nên một ngôi chùa "Thập Đắc" ở Nhật Bản, truyền đạo dạy kinh, rất được người bản xứ kính trọng. Vì vậy nếu có tăng lữ hoặc tín đồ Nhật Bản đến Đông Thổ, phần lớn đều sẽ đến chùa Hàn Sơn thăm viếng.

- Ồ?

Dương Lăng thấy phương trượng chùa Hàn Sơn và Ngô Tế Uyên bàn luận về Nhật Bản mà thần sắc lại thong dong, không hề có vẻ gì là phẫn hận, thì hơi lấy làm ngạc nhiên, song sau đó liền nhớ ra rằng lúc này Nhật Bản vẫn chưa gây ra tội ác tày trời với Trung Quốc*. Mặc dù giặc Oa làm nhiều điều ác ở vùng duyên hải, song đám hải tặc đó cũng là phường vô lại phạm pháp ở Nhật Bản. Huống hồ trong đó còn xen lẫn rất nhiều hải tặc Trung Quốc, cho nên người dân lúc này vẫn chưa vì vậy mà oán hận người Nhật. Thế là y cũng thoải mái tươi cười.

(*: tác giả nhắc đến những chuyện trong Thế Chiến thứ hai chăng?)

Y cất bước đến trước mặt hai hoà thượng Nhật Bản đang định lui ra điện nọ để chào hỏi. Nhìn trên tường, y thấy treo một bức tranh đã mờ, niên đại xem ra rất xưa, vẽ chân dung hai hoà thượng trông rất chấc phác, thậm chí có phần khôi hài. Phương trượng đại sư đi đến gần tươi cười:

- Đại nhân! Đây chính là chân dung của hai vị cao tăng Hàn Sơn và Thập Đắc đó.

Dương Lăng gật nhẹ, nhìn thấy bên trái bức tranh có hai hàng chữ. Hai câu đối thoại này rất nổi tiếng, y đã từng được nghe qua, có điều vẫn không biết xuất xứ từ đâu, lúc này trông thấy thì mới biết là lời của Hàn Sơn và Thập Đắc.

Y thuận miệng đọc:

- Người đời phỉ báng tôi, khi dễ tôi, làm nhục tôi, chê cười tôi, khinh rẻ tôi, căm ghét tôi, lừa gạt tôi, thì tôi phải xử trí thế nào?

Bên cạnh lập tức có người tiếp lời:

- Chỉ cần nhịn họ, nhường họ, mặc họ, tránh họ, chịu đựng họ, kính họ, không để ý đến họ, rồi chờ ít năm nữa ông hãy nhìn họ xem.

Dương Lăng kinh ngạc quay đầu, trông thấy đó là một trong hai vị tăng nhân Nhật Bản trẻ tuổi nọ đang chắp tay trả lời y. Dương Lăng không khỏi cười nói:

- Hoà thượng! Đúng là ông nhớ thật kỹ.

Được y khen ngợi, mặt vị tăng nhân Nhật Bản đó không khỏi lộ vẻ vui mừng, nói:

- Đa tạ đại nhân khen ngợi! Bần tăng Viên Nhân, là tăng lữ chùa Thập Đắc ở Nhật Bản. Bần tăng còn nhớ Hàn Sơn đại sư từng hỏi: "Còn có bí quyết gì có thể tránh họ được không?" Thập Đắc đại sư đáp: "Bồ tát Di Lặc từng có bài kệ rằng: 'có người mắng lão khờ, nói lão khờ còn tốt; có người đánh lão khờ, lão khờ tự ngủ khì. Phun nước miếng vào mặt, để nó tự khô luôn, mình cũng đỡ phí sức, họ cũng khỏi não phiền'..."

Bài kệ đó hơn ba trăm chữ, thế mà vị hoà thượng này nhớ rõ mồn một, đọc rõ ràng từng câu từng chữ, du dương trầm bổng. Phương trượng đại sư nghe xong vui vẻ vỗ tay khen:

- Thiện tai! Thiện tai!

Viên Nhân mỉm cười, cẩn thận chắp tay vái phương trượng, rõ ràng cũng có phần tự đắc. Ngô Tế Uyên đứng cạnh cười ha hả nói:

- Thập Đắc đại sư đông độ truyền kinh, quả nhiên thu được nhiều tín đồ, thật là công đức vô lượng.

Dương Lăng nhìn vị hoà thượng miệng đọc kệ ngữ cao tăng, mặt mày hoan hỷ, bèn nhớ đến đời sau cả nước bọn họ hoá thân thành cường đạo, đến Trung Thổ làm ra những hành vi phóng hoả đốt nhà giết người cướp của. Y không khỏi cười nhạt hỏi:

- Lời nói đó của Thập Đắc đại sư quả thực bao hàm phật lý diệu huyền, đại sư quả nhiên thuộc làu. Vậy ta hỏi đại sư, những gì đại sư thuộc... đại sư có làm được hết không?

Viên Nhân thoáng ngẩn ra, trầm ngâm một hồi lâu rồi mới cung kính đáp:

- Bần tăng không làm được.

Dương Lăng lại hỏi:

- Thế... quý quốc là quốc gia thờ Phật, chẳng hay có bao nhiêu người làm được?

Viên Nhân trầm ngâm thật lâu, mồ hôi túa đầy trán, song thuỷ chung vẫn không nói được tiếng nào. Dương Lăng mỉm cười ung dung nói:

- Cho dù có thuộc làu từng quyển kinh Phật, "Phật" đó bất quá chỉ là lời nói đầu môi. Khi nãy đại sư vừa nói... "ngộ đắc chân thường lý, nhật nguyệt vi lân bạn". Lẽ chân thường ấy là ngộ ra như vậy ư?

Hoà thượng Viên Nhân trầm mặc một lát đoạn gập người vái sâu, rồi thản nhiên đáp:

- Từng chữ của đại nhân như lời cảnh tỉnh, bần tăng xin thọ giáo, đa tạ đại nhân chỉ điểm.

Dương Lăng cười nói:

- Không dám, ta chỉ nói bừa mà thôi. "Ngộ ra lẽ chân thường, lấy nhật nguyệt bầu bạn"! Ha ha, nhật nguyệt là ánh sáng, nếu như quý quốc thật sự giúp mọi người làm điều tốt, thì ánh sáng nhật nguyệt ấy... Triều đình Đại Minh(*) ta há không phải chính là bạn tốt láng giềng của quý quốc đấy ư?

(*): Dương Lăng chơi chữ: Chữ Minh明 gồm chữ nhật日 và chữ nguyệt 月 tạo nên.

Hoà thượng Viên Nhân nghe vậy bèn ngẩng đầu nhìn y, cảnh giác hỏi:

- Đại nhân nói vậy... có phải bởi vì quý quốc gặp nạn hải tặc mà trút giận sang nhân dân đất nước của bần tăng không?

Dương Lăng cười nói:

- Đại sư dám khẳng định trong đám "hải tặc" đó không có quân đội do các Mạc chúa hám lợi đen lòng phái ra, giả hải tặc làm ác ư?

Những chuyện này là bí mật được công khai, triều đình Đại Minh có rất nhiều người biết chứ đừng nói là Viên Nhân vốn đến từ Nhật Bản. Viên Nhân nghe vậy thì đỏ mặt, không dám mở miệng phản bác. Nhà sư suy nghĩ một chút rồi bảo:

- Nhưng... quý quốc đã có bao giờ từng biểu thị thiện ý không? Đất nước của bần tăng muốn chung sống hảo hữu cùng quý quốc, hỗ trợ cho nhau, nhưng quý quốc lại vô lý yêu cầu nước bần tăng phải dùng lễ bề tôi mà tiếp kiến.

Nếu dùng lễ bề tôi, thì quý quốc sẽ không tiếc ban thưởng. Mà tăng lữ nước bần tăng cũng phải thường xuyên vượt biển đến đây, mang theo bên người về được một ít, mất bao trắc trở vẫn không thể thoả mãn đủ yêu cầu của các tín đồ. Thế nhưng khi chúng tôi tình nguyện đưa ra nhiều tiền mua sắm, quý quốc lại cho rằng nước của bần tăng không chịu dùng lễ bề tôi mà gây khó dễ. Nếu không phải vì quý quốc hà khắc như vậy, chúng tôi... chúng tôi...

Nói đến đây, mặt nhà sư đỏ lên, rõ ràng cũng tự cảm thấy việc người ta không chịu mua bán với mình mà mình liền ra tay đánh cướp cũng quá vô sỉ, cho nên không thể nào nói xong cái lý do này.

Đương nhiên Dương Lăng cũng biết những nguyên nhân ấy. Năm xưa, khi y đọc lịch sử đã phát hiện quả thật người Trung Quốc xưa rất "đần", thà cầu danh chứ không cầu lợi. Nếu nước khác chịu tự nhận là bề tôi thì cho dù có đưa đến một sọt cỏ cũng hận không thể ban thưởng số hoàng kim gấp mười lần để biểu đạt sự khẳng khái lẫn hào phóng của thiên triều thượng quốc. Nhưng nếu đối phương không chịu xưng thần, thì cho dù có cuộc mua bán trăm lợi mà không hại thì cũng quyết không chịu giao dịch cùng, xem như là mình trừng phạt đối phương.

Y thấy hoà thượng Viên Nhân tuy trong lời nói có ý tức giận bất bình, nhưng mặt lại hiện vẻ xấu hổ, rõ ràng là hổ thẹn với hành vi của người nước mình thì bất giác có mấy phần hảo cảm với hắn. Y giãn mặt mỉm cười rồi nói:

- Lời đại sư nói, bản quan cũng biết một phần. Những việc này ta sẽ bẩm rõ với Hoàng thượng, cầu xin Hoàng thượng cho phép mở hải cảng thông thương, tăng cường giao lưu qua lại giữa hai nước. Chỉ có điều... những hải tặc đó của quý quốc, bất kể vì lý do gì, chỉ cần bọn chúng tới, chúng ta sẽ đập nát chúng ngay.

Nói xong, Dương Lăng lại thâm thúy nhìn chăm chú hoà thượng Viên Nhân dường như đang có điều đăm chiêu. Sau đó y cùng nhóm người Trương thiên sư và Mạc Thanh Hà chậm rãi quay về. Trông thấy Ngô Tế Uyên dường như có điều nghĩ ngợi, Dương Lăng không nhịn được bèn hỏi:

- Ngô tiên sinh vẫn còn đang nghĩ đến lời vị hoà thượng đó sao?

Ngô Tế Uyên giật mình thất kinh, liền vội chắp tay đáp:

- A! Phải... à không phải... thảo dân...

Dương Lăng cười nói:

- Ngô tiên sinh không cần phải kinh hoảng. Ngài là phú ông đất Tô Châu, có đất đai, có xưởng dệt và còn có cửa hàng, chắc hẳn hiểu những chuyện này hơn. Lần này bản quan đến Giang Nam chính là để kiểm tra việc thuế khóa. Không những bản quan chỉ tra xét sự thanh liêm của thuế lại mà cũng muốn hiểu rõ hơn về nguồn gốc thuế khóa và phương pháp gia tăng thuế khóa nữa. Tiên sinh cứ việc nói thẳng, bản quan quyết sẽ không trách tội.

Ngô Tế Uyên nhìn Trương thiên sư hỏi ý, thấy y gật đầu khích lệ mới bèn lấy hết dũng khí đáp:

- Đại nhân! Theo thảo dân thấy, thật ra... nếu như triều đình chịu mở cảng thông thương với Nhật thì chẳng những lợi cho bá tánh, mà thuế khóa của triều đình nhất định cũng sẽ tăng lên rất nhiều.

Hiện nay trong nước Nhật Bản chiến loạn liên miên, rất nhiều thứ bị thiếu hụt, ví dụ như tơ sống, vải bông, lụa gấm, thủy ngân, thậm chí là cây kim, dây xích, nồi sắt, đồ sơn mài, đồ sứ, thảm len, và cả dược liệu, đồ gia vị, vân vân,... đặc biệt là sách vở kinh điển của Phật giáo. Nhu cầu này rất cao, nếu bán được cho bọn họ, chúng ta có thể thu về lợi nhuận gấp mười lần đó.

Tuy Dương Lăng biết thông thương nhất định mang lại lợi ích cho đất nước, nhưng y cũng không ngờ những thứ không đáng giá này mang sang Nhật Bản lại được lãi lớn như vậy. Nếu như một số lượng lớn những vật dụng hằng ngày này được Nhật Bản tiêu thụ, vậy chẳng phải tiền bạc của Nhật Bản sẽ chảy như nước vào Đại Minh ư? Dương Lăng vẫn chưa quên việc xe hơi cùng đồ điện Nhật Bản tràn ngập thị trường Trung Quốc. Thì ra trong lịch sử cũng có lúc bọn họ điên cuồng theo đuổi hàng hoá Trung Quốc à. Cơ hội này sao có thể bỏ qua?

Dương Lăng nửa ngạc nhiên nửa hào hứng hỏi:

- Lại được lợi nhuận lớn như vậy sao? Ngô tiên sinh hãy nói rõ hơn một chút đi!

Ngô Tế Uyên thấy y mừng rỡ ra mặt thì càng tăng thêm dũng khí. Lão nghĩ ngợi một chút rồi đáp:

- Đại nhân đừng cho rằng thảo dân nói bừa. Thảo dân lấy ví dụ như nuôi tằm, lấy tơ, dệt lụa. Từ nuôi tằm con thành thành tằm có thể kéo tơ phải mất một năm, sau đó là sản xuất tơ sống, một cân chỉ có thể bán được năm sáu phân tiền. Trừ chi phí tiền vốn và thuế, phần còn lại phải cố gắng lắm mới có thể sống tạm qua ngày mà thôi.

Nhưng nếu vận chuyển được tơ sống sang Nhật Bản sẽ có thể bán được năm sáu lạng bạc, chênh lệch gấp cả chục lần đấy! Cho dù một cây kim ở đây mang sang bên chỗ bọn họ cũng có thể bán được bảy phân tiền, đúng là một vốn bốn lời à. Đương nhiên, bên đó bọn họ cũng có đồ tốt mà chúng ta cần, tỉ như đồng, hưu huỳnh, gỗ vang (tô mộc, danh pháp khoa học: Caesalpinia sappan, lõi rất cứng), vân vân... Chúng ta mua về gia công chế tạo một tí rồi bán lại cho bọn họ, lại kiếm thêm một khoản nữa.

Dẫu sao Ngô Tế Uyên cũng là thương nhân, nói một hồi thì sự sợ sệt e dè hoàn toàn tan biến, mặt mày lão hớn hở hẳn lên. Dù Dương Lăng nghe như thế nào cũng thấy giống như một phiên bản tình hình kinh tế hai nước Trung - Nhật vào khoảng thời gian nào đó ở đời sau, chỉ có điều là thịnh vượng hơn và cung cầu của song phương được đảo ngược lại, bèn không khỏi bật cười nói:

- Người Nhật cũng không ngu. Những Mạc chúa, tướng quân đó hối hả buôn bán với chúng ta như thế, không phải chỉ vì nhu cầu của người dân mà họ để tâm như vậy, đúng không?

Ngô Tế Uyên cười lớn nói:

- Đó là lẽ đương nhiên. Bình phong, quạt, hộp, nghiên mực của bọn họ được chế tạo tinh mỹ, phú ông bên chúng ta cũng vui vẻ trả giá cao để mua về. Nếu thông thương qua lại, triều đình còn có thể nhập một lượng lớn đao kiếm từ chỗ bọn họ. Chất lượng đao Nhật tốt hơn đao của chúng ta, bán lại ít nhất phải lời gấp ba lần.

Dương Lăng nghe xong lặng lẽ gật đầu. Đến lúc rời khỏi cổng chùa Hàn Sơn, y bỗng dừng bước, trịnh trọng nói với Ngô Tế Uyên:

- Làm phiền Ngô tiên sinh việc này. Không biết liệu ông có thể ghi cặn kẽ những việc mà ông biết, càng chi tiết càng tốt. Khi hồi kinh bản quan sẽ trình báo những việc này lên cho Hoàng thượng.

Ngô Tế Uyên trợn tròn cặp mắt nhìn y, mãi lúc sau mới hào hứng kêu lên:

- Đại nhân... Đại nhân nói thật đấy chứ? Đại nhân tự nguyện vì chuyện ích lợi của thương nhân này mà dâng lời lên Hoàng thượng sao?

Dương Lăng lắc đầu, nghiêm túc đáp:

- Đây không phải là chuyện ích lợi của thương nhân. Đây là việc quốc gia đại sự!

Ngô Tế Uyên nghe vậy, ánh mắt chợt lóe lên, đoạn lão vái Dương Lăng một vái thật sâu, trịnh trọng:

- Có câu này của đại nhân, Ngô mỗ nếu biết sẽ không tiếc lời, nếu nói sẽ nói ra hết. Thảo dân nhất định sẽ trong thời gian sớm nhất nhanh chóng thuật lại tỉ mỉ những gì mình biết để đưa cho đại nhân.

Dương Lăng gật đầu nhè nhẹ, trong lòng cũng âm thầm quyết định. Về đến kinh thành bất kể thế nào y cũng phải tâu chuyện này cho Chính Đức, thuyết phục hắn thông thương giao lưu. Y cũng biết đám đại thần thủ cựu xưa nay vẫn một mực cho rằng thiên triều thượng quốc có thể tự cung tự túc, lấy thân phận bình đẳng mà thông thương cùng mọi rợ ngoại bang là việc làm mất mặt thượng quốc nên nhất định sẽ ra mặt can thiệp. Nhưng y cũng biết rõ tầm quan trọng và tất yếu phải xảy ra của việc mở cửa thông thương. Việc này nhất định phải làm. Chỉ cần làm tốt, để triều đình và bá tánh nếm chút lợi lộc của nó, đến khi nó phát triển lớn mạnh rồi thì không ai có thể ngăn cản được nó nữa.

Ngô Tế Uyên đứng thẳng lưng lại, vui vẻ cười nói:

- Thảo dân nói chuyện cả buổi, vất vả cho đại nhân phải nói đến việc công rồi. Hôm nay đại nhân tới để giải sầu, chuyện này để chốc nữa hẵng nói tiếp. Thảo dân đã đoán biết đại nhân nếu đã đi du ngoạn, điểm dừng đầu tiên phải là ngôi chùa cổ Hàn Sơn này rồi. Gần đây có một tiệm ăn chay Hàn Sơn, hương vị độc đáo, thảo dân đã đặt trước tiệc rượu, mời đại nhân đến đó thưởng thức trước một tí, sau đó chúng ta sẽ đi du ngoạn Thái Hồ ngắm cảnh thu tiếp nhé!

Mạc Thanh Hà thoáng ngẩn ra rồi bảo:

- Hôm nay đại nhân dùng thân phận cá nhân du ngoạn Tô Châu cho nên bản quan không thông báo cho tri phủ Tô Châu. Có điều bản quan đã thông báo cho Lý Đại Tường thết tiệc tẩy trần cho đại nhân ở lầu Sư Tử. Đại nhân xem...

Dương Lăng thoáng suy nghĩ rồi đáp:

- Thôi, bỏ đi! Vào thành chạy tới chạy lui sẽ lại lãng phí thời gian, hơn nữa đoàn người đông đảo này cũng không tiện phô trương thanh thế. Đi Thái Hồ xong, tối nay chúng ta hãy trọ lại một đêm rồi phải trở về Hàng Châu. Thôi đừng làm phiền hắn nữa.

Thật ra Dương Lăng định đi nhanh về sớm là muốn khi trở về sẽ đến Hải Ninh gặp Mẫn Văn Kiến một lúc. Song nếu nói cho Mạc Thanh Hà biết trước, nhất định hắn ta sẽ thông tri quan phủ Hải Ninh rằng có khâm sai giá đáo; bọn họ lại rầm rầm rộ rộ chuẩn bị tiếp đón tất sẽ khiến cho cái huyện Hải Ninh bé xíu loạn cả lên.

Cái cảm giác bị cả đoàn người tiền hô hậu ủng, mất hết tự do như lúc này đã khiến Dương Lăng nhức đầu không thôi rồi, y không mong khi đến Hải Ninh thì những người ở nơi ấy sẽ lại bày vẽ chiêu đãi như thể sắp lâm đại địch, cho nên không hề nói cho Mạc Thanh Hà hay. Mạc Thanh Hà nghe y nói muốn nhanh về Hàng Châu, ngẫm nghĩ nếu mình tỏ ý ngăn trở thì ngược lại sẽ giống như sợ y điều tra mình ở Hàng Châu vậy, nên hắn không nói gì thêm.

Tiệm cơm chay Hàn Sơn phía tây nhìn bến Phong Kiều, nam dựa chùa Hàn Sơn, Bắc kề dòng Phong Tân, tựa vào lan can uống rượu, lên lầu trông về phía xa, thoả sức thưởng lãm vẻ tú lệ của Cô Tô. Các món ăn như Phật Thiên Thủ, Công Đức Kim Thối, La Hán Trai, Bát Trân Hoà Hợp, Phỉ Thuý Cầu, Cua Xào Chay do nơi đây làm rất chú trọng đến việc chọn lựa nguyên liệu, màu sắc và mùi vị đều tuyệt vời, hương vị của nó đủ để "mượn giả làm thật".

Nơi ấy cũng không xa, đoàn người không ngồi kiệu, vừa nói vừa cười cuốc bộ mà đi. Ngô Tế Uyên dẫn mọi người đến tiệm cơm chay Hàn Sơn, đang tủm tỉm mời vào thì Liêu quản sự chờ sẵn ở đó chợt hổn hển chạy ra thưa:

- Lão gia! Xảy ra chuyện rồi. Tiểu nhân đã bao hết tiệm ăn này chờ khâm sai đại nhân quang lâm, nào ngờ lão gia Lý Quý câu cá ven sông trở về, khăng khăng đòi thưởng thức khẩu vị nơi đây một chút. Tiểu nhân đã nói rõ với hắn là nơi này đã được lão gia bao, song hắn vẫn không nghe...

Ngô Tế Uyên nghe vậy thì thoáng sững người, lão không ngờ đến đây mà còn chạm phải oan gia đối đầu là Lý Quý. Nhưng mà... Liêu quản sự này cũng thật không biết làm việc gì cả, chỉ cần nói mình bày tiệc là để chiêu đãi khâm sai đại nhân và Trương thiên sư, thì cho dù tên Lý Quý đó có to gan hơn nữa cũng lại dám ở đây sinh sự sao?

Ngô Tế Uyên hầm hầm nhìn Liêu quản sự. Lão vừa định cất lời trách mắng thì đột nhiên chú ý thấy Liêu quản sự vừa nói với lão vừa không ngừng nhìn sang Dương Lăng, lúc này mới sực hiểu ra ý tứ của hắn ta. Lão cười thầm trong bụng, lập tức đổi thành vẻ mặt khó xử nói:

- Vậy... tiệm này đã bị Lý Quý bao rồi à? Nếu vậy thì hơi có chút rắc rối rồi.

Nguyên lai họ Ngô đã cư ngụ ở nơi này hơi một trăm sáu mươi năm, sáu mươi năm trước đã trở thành phú hộ giàu có nhất Tô Châu. Mà cái tên Lý Quý này, lại là một vị nhà giàu mấy năm gần đây đột nhiên phất lên, là một phú hộ mới nổi chuyên cho vay nặng lãi, đầu cơ trục lợi.

Không ai biết lai lịch xuất thân của tên Lý Quý này, chỉ biết dường như khi hắn đến đã có sẵn nguồn vốn rất hùng hậu rồi. Mỗi khi gặp phải thiên tai nhân hoạ, nhất là sau mỗi lần giặc Oa đến cướp bóc, có mấy nông dân trả nổi nợ nần chứ? Khi đó, cùng đường bí lối, những người nông dân nghèo khổ đói khát này buộc lòng phải cầm cố đất đai mà trả nợ, từ nông dân trở thành tá điền cho hắn, một số người thì trở thành dân lang thang không nghề không ngỗng được các xưởng thủ công làm giấy, dệt tơ thuê mướn; một số thì vì tuổi già sức yếu không cách mưu sinh đành phải đi ăn xin, lang bạc khắp nơi.

Dựa vào thủ đoạn này, chỉ trong vòng vài năm ngắn ngủi Lý Quý đã mua gom được một lượng lớn đất đai của hai vùng Tô-Hàng, giờ đây nghiễm nhiên trở thành địa chủ lớn nhất hai châu Tô-Hàng. Gia nô tôi tớ của gã phải dùng con số hàng ngàn mà tính, nhà ở thì lầu cao cửa rộng, ra đường thì quần áo lụa là, thanh thế có vẻ đã vượt trội nhà họ Ngô.

Hành vi của gã hiển nhiên khiến thân sĩ Tô Châu khinh thường, cộng thêm người dân địa phương cũng có tâm lý bài ngoại, cho nên những thân sĩ này bèn tố cáo những việc làm xấu xa của Lý Quý với quan phủ. Nhưng không biết tên Lý Quý đó rốt cuộc có lai lịch thế nào, mà nha môn tri phủ tiếp nhận cáo trạng xong lại nhắm mắt làm ngơ.

Thế gia hào phú với mạng lưới quan hệ rộng lớn như nhà họ Ngô bèn phản ánh sự tình với Bố chánh sứ cùng nha môn ti Án Sát sứ, không ngờ cũng không hề có kết quả. Lúc này mấy đại gia tộc địa phương mới hiểu chỗ dựa của tên Lý Quý này nhất định vô cùng vững chắc. Bọn họ lật gã không đổ, lại sợ bị gã trả thù nên đành phải căn dặn người trong nhà bình thường bớt qua lại với tên ác nhân này.

Lý Quý làm mưa làm gió ở Tô Châu, gia nghiệp nhà họ Ngô lại khổng lồ, cho dù có muốn tránh cũng chẳng thể nào tránh hết được, cho nên không ít tôi tớ và quản sự trong nhà bị gã hà hiếp lắm lần. Gần đây Lý Quý lại bắt đầu dòm ngó đến sản nghiệp họ Ngô, quan hệ hai nhà như nước với lửa. Liêu quản sự cố ý không nói rõ khâm sai đại nhân muốn đến dùng bữa, chính là muốn mượn tay Dương Lăng để trút nỗi bực tức này.

Mạc Thanh Hà đứng bên cạnh nghe được chuyện, da mặt liền hơ dúm lại, không nén được giận bước lên cả tiếng:

- Lý Quý? Là cái tên thân hào địa phương không đáng giá đó à? Hừ! Bình thường ỷ vào mấy đồng tiền mà đã ngang tàng hống hách, lần này lại dám bày trò trước mặt cả khâm sai đại nhân!

Dương Lăng nghi hoặc hỏi Ngô Tế Uyên:

- Lý Quý này là ai vậy?

Tuy thân phận thấp kém, nhưng Liêu quản sự từng ngồi cùng thuyền với Dương Lăng, quan hệ còn thân hơn cả lão gia của hắn, nên bèn vội tranh bước tới mấy bước, thêm mắm thêm muối kể lại thái độ đối nhân xử thế của Lý Quý. Dương Lăng nghe mà liên tục nhíu mày.

Mạc Thanh Hà cười ha hả nói:

- Trong số những kẻ giàu có ở vùng Tô Châu thì tên Lý Quý này là kẻ vi phú bất nhân nhất. Tuy gã chưa từng làm chuyện thương thiên hại lý gì, song chỉ mỗi bộ mặt nhà giàu mới nổi đó đã khiến người ta thấy ghét rồi. Hôm nay gã lại dám động chạm đến đại nhân, bản quan đang muốn nhân cơ hội này dạy dỗ gã, cũng là để khiến gã an phận một chút vậy.

Tuy Dương Lăng cảm thấy ghét Lý Quý, nhưng gã chưa hề có hành vi xấu xa trắng trợn gì, cho vay nặng lãi lại không phạm pháp, nếu chỉ vì gã va chạm với mình mà mình lại nghiêm khắc trừng trị gã, đến khi đám ngôn quan biết được, nhất định bọn họ sẽ dâng tấu hạch tội mình, cho nên y không muốn đa sự. Có điều nghe lời nói của Mạc Thanh Hà, Dương Lăng biết hắn ta sẽ không làm gì quá mức, nên chỉ cười cười không nói.

Mạc Thanh Hà thấy y cho phép, bèn quay đầu ra lệnh cho quản gia của lão:

- Lão Lý! Đập cái tên không biết điều đó một trận cho ta, bảo gã sau này bớt phóng túng lại mộ chút. Ngươi lôi gã ra xa xa đi, đừng làm mất khẩu vị của đại nhân.

Lý quản gia mỉm cười đáp một tiếng. Hắn vừa khoát tay mang theo mấy người bước tới trước cửa, cửa phòng chợt mở ra, một gã tráng niên tầm hơn ba mươi, mặt mày to béo đen đúa, chắp tay sau lưng, hất hàm ngạo mạn nói:

- Ngô lão gia mời nhân vật nào ăn chay thế? Thật ngại quá, hôm nay bản lão gia đã bao quán này rồi.

Chú thích:

Phong Kiều dạ bạc (dạ: đêm, bạc: cập bến), tạm dịch "Đêm cập bến Phong Kiều", là bài thơ rất nổi tiếng của Trương Kế (张继). Tác giả sống vào khoảng trước sau năm 756 - đời vua Đường Túc Tông. Bài thơ Phong Kiều dạ bạc về sau đã được Khang Hữu Vi đời nhà Thanh khắc trên tấm bia lớn dựng trong chùa Hàn Sơn để cho người đời sau qua đây thưởng lãm.

Hán Việt:

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Bản dịch của Tản Đà:

Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi

Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co

Con thuyền đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.

Tô Châu Viên Lâm hay còn gọi là Cô Châu là một kiến trúc lâm viên ở trong nội thành của Tô Châu, lấy khuôn viên tư gia là chủ đạo, bắt đầu từ thời Xuân Thu (514 trước Công Nguyên), hình thành thời Ngũ Đại, hoàn thành thời nhà Tống, hưng thịnh thời nhà Minh. Đến cuối thời nhà Thanh thì Tô Châu đã có hơn 170 vườn cây cảnh đặc sắc, hiện nay có hơn 60 nơi được bảo tồn hoàn chỉnh, có 19 nơi là vườn cây cảnh mở.

tạm dịch "tổ én", là nơi cư ngụ của nhà Mộ Dung trong Thiên Long Bát Bộ.

hiểu ra được lẽ chân thường (chân lý), mặt trời mặt trăng sẽ quây quần làm bạn, ý nói một khi hiểu ra lẽ phải thì anh sẽ tìm được ánh sáng (mặt trời và mặt trăng tượng trưng cho ánh sáng).

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 128: Chèo thuyền du ngoạn thái hồ

Gã hán tử mập lùn, da dẻ đen đúa dương dương đắc ý nói xong, tròng mắt mới dần khôi phục lại vẻ bình thường. Chợt nhìn thấy quản gia của Mạc phủ đang đứng trước mặt, gã không khỏi thất kinh, mặt lập tức biến sắc.

Lý quản gia cười khà khà:

- Lý đại lão gia thực là oai phong! Lão gia nhà ta cũng định nếm thử đặc sản của quán Hàn Sơn này, xem ra sẽ uổng công một chuyến rồi.

Lúc này Lý Quý mới nhìn thấy ngoài cửa còn có mấy người đang đứng, trong đó gã chỉ nhận ra được Ngô Tế Uyên và Mạc Thanh Hà, vẻ mặt hai người đều như nhau, miệng mỉm cười, điềm nhiên quan sát.

Lý Quý chửi thầm trong bụng, biết mình đã trúng kế của Ngô Tế Uyên, hôm nay khó tránh bị mất sạch thể diện rồi. Nhưng Mạc Thanh Hà chủ quản việc thu thuế gạo thóc, mà gã là địa chủ đứng đầu hai vùng Tô – Hàng; có thể nói Mạc Thanh Hà tha cho gã một phần, ấy là được vạn gánh thóc gạo, căng với gã một phần, ấy là mất đi một số bạc lớn, cho nên gã không dám đắc tội với vị thần tài này chút nào.

Lý Quý lật đật bước ra khỏi cửa, cúi đầu khom lưng thưa:

- Mạc gia! Lão nhân gia ngài cũng đến à! Úi chao, tiểu nhân không biết là lão nhân gia ngài, mời ngài vào! Tiểu nhân đã lâu không gặp ngài rồi, muốn hiếu kính ngài cũng không có cơ hội nữa. Thực khó có dịp lão nhân gia ngài đến Tô Châu, xin để tiểu nhân thết tiệc tẩy trần cho ngài.

Mạc Thanh Hà nở nụ cười nhàn nhạt, đáp:

- Ăn đồ chay phải chú trọng đến ý cảnh, lời của Lý viên ngoại thực không thích hợp lắm.

Vị Lý đại viên ngoại này nhìn như kẻ thô kệch nhưng lại không thiếu thông minh. Gã hiểu ý Mạc Thanh Hà giễu gã người đầy mùi tiền, mặt không khỏi lúc trắng lúc đỏ, ngượng ngập nói:

- Phải phải phải! Tiểu nhân không biết Mạc gia còn mời khách, mời các ngài vào, tiểu nhân lập tức đi ngay. Khoản tiền này ngàn vạn lần lão nhân gia ngài hãy để tiểu nhân lo liệu, xem như nể mặt tiểu nhân vậy.

Thấy bộ dạng ảo nảo của gã Lý Quý đang hoành hành khắp phủ Tô Châu, trong lòng Ngô Tế Uyên hết sức hể hả. Lão thấy Lý Quý vẫn đang lấy lòng Mạc Thanh Hà bèn chen miệng vào:

- Không cần nhọc Lý viên ngoại tốn phí. Ngô mỗ đây đã mời các vị đại nhân đến du ngoạn Tô Châu, chút tiền này vẫn có thể trả được.

Lý Quý thấy Ngô Tế Uyên mở tiệc thết đãi Mạc Thanh Hà, hiển nhiên quan hệ đôi bên không nhạt, bên cạnh còn có một vị công tử tôn quý và một đạo nhân trông cũng không phải nhân vật tầm thường, nên càng không dám lộ vẻ kiêu ngạo. Mấy tên tay sai của gã tay áo xắn cao, mặt mày bặm trợn trong quán trà hùng hổ đi theo ra lúc này cũng đã phải rón ra rón rén. Lý Quý thấy Mạc Thanh Hà không thèm nhìn mình, vội ngượng nghịu khom lưng, mãi đến khi Ngô Tế Uyên mỉm cười mời đám người Dương Lăng vào quán xong, gã mới vội vã rời đi.

Lý quản gia được Mạc Thanh Hà căn dặn, nào dám dễ dàng bỏ qua cho gã, sớm đã mỉm cười theo sau. Đương nhiên "dạy dỗ" mà Mạc Thanh Hà nói không phải là sai người tẩn gã một trận; phỏng chừng khi đuổi tới nơi, sợ rằng Lý quản gia sẽ nả gã một món lớn, chưa khiến gã đau thịt buốt xương ba ngày thì chưa thôi.

Ngô Tế Uyên đưa mấy người vào nhã phòng, áy náy xin lỗi:

- Thảo dân không biết tên Lý Quý này sẽ đến, đã quấy rầy nhã hứng của các vị đại nhân, thật có lỗi quá.

Dương Lăng thấy trong quán ngoài đường đều có tuỳ tùng đứng gác, ngay cả ông chủ và tiểu nhị của quán cũng trở nên sợ sệt, y hơi nhíu mày nói: "Hôm nay chúng ta chỉ lấy cương vị cá nhân du ngoạn ngắm cảnh, làm to chuyện như vầy quả thật cũng không ổn. Tại hạ nghĩ... có thể hay chăng phiền Ngô tiên sinh chuẩn bị vài bộ y phục của bá tánh phổ thông, lát nữa chúng ta đến Thái Hồ du ngoạn, cứ đồ xe đơn giản là được. Về phần người của tại hạ thì chỉ cần chọn ra vài người đi theo là được, những người khác chờ trên thuyền. Có điều... phải phiền huynh muội thiên sư thay đổi y phục rồi."

Tuy lần này Trương thiên sư đi với tư cách là người tu đạo, song thật ra đó không phải là lễ nghi trọng đại gì, sau khi lập đàn tế tự thì thiên sư ăn mặc cũng không khác người thường là bao, cho nên không dị nghị gì về việc này. Trịnh bách hộ nghe Dương Lăng giao việc xong, bản thân đảm trách an nguy cho Dương Lăng nên gã không dám qua loa, liền vội tìm Liêu quản gia bảo hắn nhanh chóng thu xếp, còn bản thân gã chọn trong đám nha sai được hơn hai mươi người thân thủ cao cường, thông minh tháo vát, hỏi rõ Liêu quản sự về lộ trình du ngoạn, rồi chạy đến Thái Hồ chuẩn bị trước.

Mạc phu nhân nhẹ nhàng cởi áo khoác ngoài ra, thị nữ đứng bên cầm lấy rồi đứng hầu sau lưng nàng. Nàng cười duyên dáng ngồi xuống cạnh Mạc Thanh Hà, dịu dàng:

- Lão gia, đã lâu thiếp thân không đến Tô Châu, thiếp muốn ghé thăm Bố chánh sứ phu nhân một chút. Vả lại, không được ngồi trên thuyền lớn thiếp lại thấy chóng mặt, thiếp sẽ không đi Thái Hồ đâu.

Nàng vừa nói vừa đưa mắt nhìn sang Dương Lăng và Trương thiên sư cười áy náy. Dương Lăng luôn cảm thấy hơi mất tự nhiên trước mặt nàng, giờ nghe nàng nói không cùng điđến Thái Hồ, trong lòng lại nhẹ nhỏm hẳn. Mạc Thanh Hà khẽ gật đầu, vỗ nhẹ tay nàng, nhẹ giọng bảo:

- Được, nàng cũng không cần về gấp, trên đường về ta sẽ cho người đi đón nàng.

Đoạn hắn quay đầu, nhỏ nhẹ nói với Dương Lăng:

- Chuyết nội (vợ nhà) và như phu nhân (vợ lẽ) của Bố chánh sứ Ngưu đại nhân rất thân thiết, đến Tô Châu mà không ghé thăm thì không tiện tí nào. Hơn nữa chúng ta chèo thuyền du ngoạn Thái Hồ, nếu đi thuyền lớn thì mất hết ý vị, còn nếu đi thuyền nhỏ thì cô nàng lại hay chóng mặt, thôi không đi cũng được.

Dương Lăng nghe vậy bèn gật nhẹ đầu, thầm nghĩ: "Nghe nói vị Mạc phu nhân này là danh kỹ Giang Nam, không biết vị thiếp của Bố chánh sứ Ngưu đại nhân có phải cũng là nhân vật trên chốn phong lưu không nữa."

Y vừa nghĩ vừa không khỏi ngẩng đầu liếc nhìn Mạc phu nhân, không ngờ cặp mắt sắc lẹm của Mạc phu nhân cũng đang "ngầm đưa tình" với y, thấy vậy Dương Lăng liền nổi da gà.

Vị Mạc phu nhân này tuy xuất thân từ chốn thanh lâu, nhưng lại không khiến cho người ta có cảm giác quyến rũ yêu mị, mỗi cái nhăn mày, mỗi một nụ cười của nàng đều vô cùng xinh đẹp thanh nhã. Hôm nay nàng vận váy lụa trắng thuần, càng tôn lên vẻ đẹp như đoá phù dung nổi trên mặt nước; mày ngài tựa núi xuân, mắt như đọng thu thủy, quyến rũ mê người.

Lúc cặp mắt như biết nói đó thuỳ mị nhìn người khác, cho dù không hề có ý khêu gợi sắc tình, cũng khiến người ta suy nghĩ vẩn vơ, càng huống chi ngày đó Dương Lăng từng bị nàng âm thầm trêu ghẹo, sao không chột dạ chứ?

Vừa lảng mắt tránh đi, lại trông thấy Cao Văn Tâm đang đứng đối diện, cặp mắt sáng ngời ấy cũng đang chằm chằm nhìn y không chớp. Cả người Dương Lăng càng mất tự nhiên hơn, như thể đã bị nàng nhìn trúng chỗ uý kị trong lòng.

Hôm nay Cao Văn Tâm quả nhiên mặc bộ đồ màu xanh biếc mà hôm qua Dương Lăng đã khen. Quần áo của con gái bình dân tràn trề phong thổ nhân tình của vùng Giang Nam sông nước khoác lên tấm thân thiếu nữ phương Bắc mang đậm khí chất thanh cao điềm tĩnh của nàng, càng toát lên một ý vị khác. Dẫu rằng tuyệt nhiên không thể đánh đồng với khí chất muôn vẻ phong tình như nước của Mạc phu nhân, song nó lại mang một nét đẹp thanh tao ngọt ngào khác hẳn.

Dương Lăng bất giác nhẹ giọng nói với nàng:

- Văn Tâm! Bản quan không cần người hầu hạ, cô cũng mệt rồi. Liêu quản sự, xin ông hãy bố trí một bàn tiệc rượu khác, để nàng ta... à... và hai vị thị nữ của Mạc phu nhân cùng ăn uống rồi nghỉ ngơi vậy.

Khâm sai đại nhân ngồi ghế đầu còn chưa mở lời nói câu chào hỏi hình thức nào mà đã sai người an bài cho thị nữ của y dùng bữa nghỉ ngơi trước rồi! Người thị nữ này thật sự là thị nữ đấy ư?

Ngô Tế Uyên nghe Dương Lăng dặn dò vậy, bèn quan sát kỹ lưỡng Cao Văn Tâm vài lượt. Tuy Cao Văn Tâm ăn mặc như một thị nữ nhưng đứng chung với hai tiểu tỳ của Mạc phu nhân nàng lại toát ra khí độ ung dung khuê các mà bọn họ thua kém cả vạn phần. Lão máy động trong lòng, không khỏi thầm nghĩ: "Phong độ và khí chất của vị cô nương này thật sự không giống nữ tỳ. Khâm sai đại nhân yêu mến nàng ta như vậy, chẳng lẽ bọn họ...?"

Ngô Tế Uyên nghĩ ngợi một chốc, cảm thấy không ổn thoả, hình như hậu lễ chuẩn bị ban đầu đã tính sót một phần, liền vội gọi Liêu quản sự lại, chum tay căn dặn khẽ thêm mấy câu.

**********************************

Trên Thái Hồ, non xanh nước biếc, phong cảnh hoàn toàn tự nhiên. Cảnh sơn thủy này dung hoà vẻ u nhã thanh tú cùng sự bao la hùng vĩ. Nước biếc bao la, khói sông bát ngát, núi non ẩn hiện, muôn hình vạn trạng.

Bốn người Dương Lăng, Mạc Thanh Hà, Ngô Tế Uyên và Trương thiên sư hoá trang thành thư sinh ngoạn cảnh hồ. Trương Phù Bảo cũng thay một bộ quần áo thị nữ nhỏ nhắn, tóc bới ba búi, theo sau với dáng vẻ lanh lợi hoạt bát.

Tướng mạo nàng vốn đã vô cùng xinh xắn dễ thương, nay đổi mặc trang phụ nữ nhi, vẻ mặt thanh tú vui buồn đều đẹp ấy liền trông như tranh vẽ. Ngay cả Ngô Tế Uyên mấy ngày qua quen nhìn nàng vận trang phục đạo sỹ cũng sáng rỡ hai mắt.

Trịnh bách hộ mang theo bốn tay nha sai giả trang làm gia đinh, trong ngực thủ sẵn dao nhọn, trên vai gánh hộp đồ ăn, cảnh giác quan sát chung quanh. Thỉnh thoảng có nha sai cải trang làm du khách hoặc thuyền phu lặng lẽ đưa tay làm vài động tác, ra hiệu không có gì khả nghi.

Lúc này đã là buổi chiều, mặt trời không còn khốc liệt nữa mà đã hơi ửng đỏ. Cỏ lau lay động theo gió, bóng cỏ múa lượn đong đưa. Thi thoảng có cơn gió mát rượi thổi qua mặt hồ mang theo mùi vị tươi mát sảng khoái lùa phớt qua khuôn mặt âm ấm do ngà ngà men rượu của đám người Dương Lăng, khiến cho bọn họ cảm thấy toàn thân thư thái.

Đám nha sai do Trịnh bách hộ phái đến trước đã cải trang phân tán rải rác gần hồ chuẩn bị thuyền hái ấu. Tuy trên hồ có vài du khách, nhưng cũng đều là hai ba người chèo một con thuyền nhỏ, cử chỉ tiêu dao tự tại, nhìn không ra bộ dáng khả nghi nào.

Lúc này đang là mùa ấu nổi rộ, phía trước là mấy khoảnh sen, lá sen xanh biếc bát ngát bao trùm, thỉnh thoảng thấp thoáng những cánh sen trắng nõn hoặc phấn hồng và những củ ấu đã trưởng thành. Lá sen xanh biếc không hề có ch dấu hiệu khô héo điêu tàn, sắc xanh tràn trề một mảng. Có những chiếc lá sen xanh biếc làm nền, những đoá sen gần như bị che khuất lại càng thêm phần xinh đẹp.

Ngô Tế Uyên dẫn đoàn người đến ngồi nghỉ chân dưới một mái đình nhỏ, cười nói:

- Đại nhân thích yên tĩnh du ngoạn hồ, cho nên thảo dân cũng không dám quá khoa trương. Thảo dân đã kêu Liêu quản sự an bài vài chiếc thuyền lá* nhỏ. Hôm nay chúng ta chèo thuyền hái ấu, dập dờn trong sóng biển sen này một lát, đợi trở về bờ, chúng ta sẽ lại lột ít ấu tươi, nhắm rượu thoả thích một phen. Đại nhân thấy thế nào?

(*: thuyền thon hình chiếc lá)

Trong đám người này Dương Lăng có thân phận và địa vị cao nhất, đương nhiên trên mâm tiệc mọi người không ngừng kính rượu với y, cho nên mặc dù năm lần bảy lượt thoái thác, y vẫn phải uống đến gần say, ngực cũng hơi tưng tức, buồn nôn. Vừa nghe lên bờ rồi còn phải uống tiếp nữa, y không khỏi cười khổ sở không thôi.

Những khóm sen nơi đây mọc lan tới cả sát bờ. Trên bờ trồng một hàng cây dương liễu, hơn chục chiếc thuyền nho nhỏ được buộc vào đó. Liêu quản sự đã dẫn vài người đứng dưới gốc cây, thấy mấy vị đại nhân đã đến, hắn liền sai người tháo dây thừng buộc thuyền ra.

Ngay lúc này, từ trên hồ bỗng cất lên một giọng ca trong trẻo ngọt ngào, hát rằng:

- Đào hoa hồng lai dương liễu thanh,

Thanh thủy đường lý chủng hồng lăng,

Muội chủng hồng lăng ca chủng ngẫu,

Hồng lăng khiên đáo ngẫu ti căn.

Tạm dịch: Hoa đào đỏ cho liễu thêm xanh, trong ao nước biếc trồng ấu đỏ, em trồng ấu đỏ anh trồng sen, ấu đỏ nối gốc với sen anh.

Tiếng hát ngọt ngào đắm say lòng người, ca từ trong sáng tao nhã, mấy người Dương Lăng nghe xong bất giác đưa mắt nhìn ra hồ, thấy một chiếc thuyền hoa (thuyền trang hoàng rực rỡ để đón đưa du khách) đang lắc lư tiến về phía bờ bên này. Ở đầu thuyền là một người con gái thướt tha áo đỏ váy đỏ, thắt đai lưng màu hồng phấn, cặp chân trần trắng muốt như tuyết, đang vừa múa vừa hát.

Ở đuôi thuyền, thuyền phu đã ngưng chèo, đầu thuyền rẽ biển sen đỏ lá xanh như cắt ngang một tấm gương, khoan thai rẽ sóng vào bờ. Từ trong khoang thuyền, một thư sinh trẻ tuổi mặc áo chẽn xanh nhạt tay cầm chén rượu lảo đảo bước ra, cười nói với thiếu nữ áo đỏ:

- Bài hát thật hay, quả hợp để uống rượu. Chỉ là không biết Liên Nhi cô nương nối tình ấu đỏ là cho vị công tử nào vậy nhỉ?

Người thiếu nữ xinh đẹp áo đỏ như lửa cười khúc khích, giơ tay ném một hạt sen qua chàng công tử, cất giọng thân mật:

- Đương nhiên là Từ công tử chàng rồi, còn có thể là người nào chứ?

Khuôn mặt của vị công tử đã đỏ bừng, rõ ràng y đã say túy lúy. Nghe nàng nói xong y cất tiếng cười to, mắt lờ đờ ngoái đầu vào trong khoang thuyền bảo:

- Xem Liên Nhi cô nương thực biết nói nhiều câu hay. Có điều đã mở miệng hứa với ta, sao đêm qua ngủ trên giường hoa của nàng lại là Tử Úy huynh thế?

Vốn Cao Văn Tâm nghe giọng hát nọ rất lấy làm thích, nhưng nghe đoạn đối đáp này của bọn họ, nàng biết là mấy thư sinh phong lưu đang mời kỹ nữ thanh lâu du ngoạn trên hồ, không khỏi hơi nhíu mày, mặt lộ vẻ chán ghét.

Lúc này trong khoang lại có một người mặc áo xanh bước ra, tay cầm một chiếc quạt, tuổi độ bốn mươi. Trên nước da trắng trẻo đã lờ mờ có nếp nhăn, mặt ông tuy tươi cười, nhưng dường như từ trong nội tâm vẫn toát ra ngoài một dáng vẻ cô độc.

Ông cười phóng đãng hỏi:

- Sao thế, Xương Cốc mới ngủ với Linh Lung Nhi chưa được một tháng mà đã có ý với Liên Nhi của ta rồi sao?

Thiếu nữ áo đỏ tên gọi Liên Nhi chợt xoay eo thon, nhẹ nhàng lách khỏi bên thư sinh áo xanh nhạt rồi như én về rừng sà vào lòng thư sinh áo xanh, cười ngọt ngào:

- Nói đúng đó, Từ công tử thật không có lương tâm, uổng cho Linh Lung muội muội của thiếp nặng tình với y. Xem khi về thiếp mà không tố cáo y với Linh Lung mới lạ đó...

Thư sinh áo xanh ôm lấy eo nàng ta cười lớn. Lúc quay đầu nhìn lên bờ, vừa trông thấy Cao Văn Tâm, mặt thư sinh nọ chợt ngẩn ngơ. Ánh mắt của vị thư sinh áo xanh tuổi trạc tứ tuần này mờ mịt vì men rượu, nhưng khi ông nhìn kỹ người khác lại vẫn hết sức có thần.

Ánh mắt ông nhìn chằm chằm vào Cao Văn Tâm đang đứng trong đình, quan sát từ trên xuống dưới mấy lượt, trên mặt liền lộ vẻ thích thú, tán tụng:

- Đã lâu chưa từng gặp được cô gái có khí chất u nhã hơn người như vậy. Úi chà, còn là một thị nữ sao? Phủ Tô Châu này người nào lại dùng được thiếu nữ như vậy làm tỳ nữ thế nhỉ?

Ông đập quạt vào tay liên tục, mặt đầy vẻ tiếc hận, thiếu điều sắp đấm ngực giậm chân kêu gào một phen.

Trong khoang nghe tiếng khen ngợi, lập tức lại có hai thư sinh nhào ra. Đi đầu là một người râu ria xồm xoàm, mặc một trường bào màu xanh, chòm râu đen đúa dài chấm ngực, tay y cầm một chén rượu lớn, đủ để so với một chiếc bát con.

Hai người nhìn thấy Cao Văn Tâm, hai mắt lập tức sáng rỡ, thay nhau nói:

- Tử Úy có pháp nhãn, người được khen tất phải bất phàm. Úi chà, quả nhiên đoan trang xinh đẹp, có ý vị khác, đáng để cạn một chén to.

Cao Văn Tâm nghe bọn họ bình phẩm mình từ đầu tới chân, đôi mày lớn không khỏi cau lại. Nếu không vì trước mặt có tới mấy nhân vật có uy tín và danh tiếng, thân là tỳ nữ mà tùy tiện mở miệng sẽ làm mất mặt Dương Lăng thì nàng đã sớm phát tác với mấy thư sinh này rồi.

Ngô Tế Uyên thấy sắc mặt nàng không vui, trong lòng liền trở nên thận trọng. Khi nãy tại tiệm ăn chay Hàn Sơn lão đã tận mắt thấy khâm sai đại nhân cưng chìu nàng như thế nào. Ngô Tế Uyên không sợ nữ tỹ xinh đẹp này không vui mà sợ bọn họ chọc ghẹo khiến khâm sai đại nhân nổi giận. Lão liền vội bước lên một bước quát lớn:

- Hi Triết vô lễ! Không được ăn nói quàng xiên.

Thấy lão gọi thẳng tên tự người đó, xem ra đôi bên đã từng quen biết. Người râu rậm nghe thấy có người gọi mình, liền vội đưa tay lên che trán nheo mắt nhìn kỹ đối phương, đoạn khoái trá cười lớn:

- Hóa ra trước mặt là Ngô ông! Vậy thì tốt rồi, vậy thì tốt rồi! Trưng Trọng, mau lấy hộp tranh của huynh ra, ta muốn vẽ người con gái này, Ngô ông nhất định phải cho phép vãn sinh đấy nhé. Cùng lắm ta về tặng ông một bức tranh sơn thủy là xong.

Ngô Tế Uyên xấu hổ nói với Dương Lăng:

- A hèm... Dương đại nhân! Mấy vị đó là tứ đại tài tử của đất Ngô Trung, ngày thường quen thói phóng đãng, mong đại nhân chớ trách. Vị vận áo xanh tên là Đường Bá Hổ (*), thường ngày buôn tranh bán chữ để mưu sinh. Người này giỏi nhất là vẽ tranh mỹ nữ, có điều tầm mắt rất cao, thường luôn nuối tiếc không có nhân vật đáng để y đặt bút. Cho nên hôm nay trông thấy thị nữ của đại nhân phong tư xuất chúng, hắn nhất thời vui quá nên mới thất lễ, để thảo dân đuổi bọn họ đi là được.

(*) Xem thêm http://home.thuhoavn.com/?p=671

Ba_Van: Có lẽ tác giả nhầm; kẻ rau rậm tỏ ý muốn vẽ tranh là Chúc Chi Sơn chứ nhỉ!

Chú thích:

vì Đường Bá Hổ đỗ giải Nguyên (đỗ đầu trong kỳ thi Hương) nên được gọi là Đường "Giải Nguyên"

"Cửu mỹ đồ" kể về chuyện tình giữa Đường Bá Hổ và Thu Hương

Dương Lăng vừa nghe ba chữ Đường Bá Hổ, toàn thân không khỏi chấn động. Đường Bá Hổ! Nhân vật thanh danh hiển hách này không ngờ lại đang đứng sờ sờ trước mặt y, Dương Lăng vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Nghe Ngô Tế Uyên muốn đuổi bọn họ đi, y liền vội kéo lại, vui vẻ bảo:

- Không sao, không sao! Ngô tiên sinh mau mời... mời mấy người bọn họ lên đây. Dương mỗ nghe danh tứ đại tài tử Giang Nam đã lâu, hôm nay được gặp mặt thật là có phước. Nếu đuổi bọn họ đi như vậy, thật sẽ tiếc lắm.

Ngô Tế Uyên không ngờ Dương Lăng cũng đã nghe danh của bốn tài tử Ngô Trung, nghe y tán thưởng như vậy, bản thân là người đồng hương, lão cũng có chút vẻ vang lây, bèn vội cao hứng gọi Liêu quản sự cho mời bốn người Đường Bá Hổ lên.

Bốn vị tài tử này bước vào đình, ra mắt Ngô Tế Uyên trước. Trong bốn người thì Chúc Chi Sơn lớn tuổi nhất, gia cảnh cũng giàu có nhất, qua lại với Ngô phủ rất thân mật, cho nên thoải mái nhất, đi tới chỉ cười hì hì làm lễ một cái, vẫn nâng chén rượu to đùng của y uống không ngừng. Văn Trưng Minh và Từ Trinh Khanh thì tương đối câu nệ hơn.

Dương Lăng quan sát kỹ bốn đại tài tử nổi tiếng gần xa này, nhận thấy Đường Bá Hổ mà y muốn kết giao nhất, khi nãy mặc dù vui quá mà không câu nệ hành vi và thái độ, nhưng sau khi bước vào đình, vừa nghe nói thị nữ đó không phải tỳ nữ của Ngô phủ mà là của vị công tử sang trọng mà ngay cả Ngô Tế Uyên cũng phải cung kính lễ độ, vẻ mặt ông liền lập tức trở nên cẩn trọng. Thần thái đó thật sự không giống với Giang Nam đệ nhất tài tử phong lưu phóng đãng như trong tưởng tượng của y, khiến Dương Lăng vốn mong được gặp "phong thái Đường Giải Nguyên" một lần bèn cảm thấy thất vọng không ít.

Y không biết vị Đường Bá Hổ này trong truyền thuyết dân gian tuy là nhân vật phong lưu phóng đãng, không câu nệ lễ pháp, nhưng thật ra trong số tứ đại tài tử thì Đường Bá Hổ là người có số phận long đong nhất, cuộc sống vô cùng nghèo khổ. Trong lòng ông tuy ngông cuồng cao ngạo, căm ghét thế tục, nhưng do cuộc sống bức bách nên vẫn phải thường xuyên cúi đầu với người ta, nào còn phóng túng gì nổi chứ?

Vị Đường Giải Nguyên mười sáu tuổi đỗ tú tài, vừa vặn cùng độ tuổi mà Dương Lăng đỗ tú tài, nhưng vận mệnh lại kém xa. Mười chín tuổi ông cưới vợ là Từ Thị, trong nhà mở một quán rượu, sinh hoạt cũng thoải mái.

Thế nhưng về sau tai họa lại theo nhau ập đến. Đầu tiên phụ thân y trúng gió qua đời, mẫu thân vì quá đau buồn nên cũng ra đi theo, không lâu sau em gái lại chết ở nhà chồng. Tiếp đó vợ ông sau khi sinh xong thì sốt cao, vì bệnh mà qua đời, con trai ra đời được gần ba ngày thì cũng theo mẹ mà đi.

Liên tục gặp đả kích như thế, dưới sự giúp đỡ của những bạn bè tốt khó khăn lắm Đường Bá Hổ mới gắng gượng vui sống trở lại, cưới vợ mới là Hà Thị, lao tâm đọc sách. Nhưng khi ông vào kinh thi cử lại bị người ta vu cáo tội đút lót chủ khảo, bị đày vào đại lao. Tuy về sau được thả vì không tra được chứng cứ, song ông lại bị buộc cả đời không được làm quan.

Vị đại tài tử đa tài đa nghệ này dường như chịu phải lời nguyền của thần vận mệnh, gặp đả kích liên miên khiến ông cửa nát nhà tan, nghèo túng thất vọng, người vợ cũng chê nghèo mà bỏ đi, người em thì lại chạy ra ở riêng chỗ khác.

Đường Bá Hổ tán gia bại sản, thân không của nả, lang thang khắp nơi. Đến thời điểm này ông mới trở về Tô Châu được chưa đầy hai năm, cuộc sống mới vừa có chút khởi sắc. Ông tái giá với một kỹ nữ thanh lâu tên Thẩm Cửu Nương, mưu sinh bằng cách buôn tranh bán chữ.

Dương Lăng nghe ông nói muốn vẽ tranh cho Cao Văn Tâm, không khỏi vui mừng hết đỗi. Y nghĩ, được Đường Bá Hổ vẽ tranh cho là vinh hạnh tới dường nào, nên lập tức không ngần ngại mà đồng ý ngay.

Vốn Đường Bá Hổ thấp thỏm lo lắng y sẽ không chịu đáp ứng, lúc này thấy y gật đầu Đường Bá Hổ cũng lộ rõ vẻ vui sướng trên mặt. Sợ Dương Lăng đổi ý, ông liền vội vui vẻ gọi Văn Trưng Minh mang hộp vẽ tới, rồi lập tức trải sạp để vẽ cho Cao Văn Tâm.

Cao Văn Tâm thấy bọn họ cùng đi chơi kỹ nữ, trong lòng vốn đã không có hảo cảm, giờ lại bảo nàng đứng yên ở đó để người ta vẽ. Trong mắt người con gái xuất thân là tiểu thư khuê các này, việc đó tuyệt không phải là việc vinh dự gì, thế nên trong thâm tâm nàng cực kỳ không bằng lòng.

Dương Lăng thấy thần sắc nàng không vui, bèn bước đến gần nói nhỏ:

- Văn Tâm, chỉ là để người ta vẽ dung mạo thôi, có gì không vui vậy? Tranh vẽ của vị Đường công tử này rất là nổi tiếng đó. Hôm trước tôi đã có được thư pháp của Giang Nam ệ nhất danh kỹ, hôm nay nếu có thể có được tranh vẽ của đệ nhất tài tử Giang Nam này, tương lai sẽ có thể làm báu vật gia truyền. Dung mạo khí chất của cô, vạn người không có lấy một, đành phiền cô chịu khó đứng yên trong chốc lát để ông ta vẽ tranh. Nhiều năm sau lấy ra xem lại, sẽ có ý vị khác đó.

Y nói lời này tự đáy lòng, nhưng Cao Văn Tâm lại hiểu lầm thành ý khác. Nghe y nói muốn đem tranh vẽ mình làm báu vật gia truyền, để lại cho con cháu đời sau, cái ẩn ý đó... Vừa nghĩ đến đây, con tim nàng liền nhảy thình thịch như trống trận, thế là nàng vui vẻ đồng ý ngay.

Chúc Chi Sơn chỉ biết đứng ở một bên vuốt râu uống rượu. Hành động của vị tài tử luôn đóng vai nhân vật gây cười trong những truyền thuyết về Đường Bá Hổ trông cũng hết sức bình thường, không hề có vẻ gì điên điên khùng khùng cả.

Có điều tửu lượng của hắn thật sự kinh người, ban đầu còn thỉnh thoảng gọi thuyền phu lên thuyền rót thêm rượu cho, sau cùng cứ thế mà bê cả vò rượu lên, ngồi bên thành lan can tự rót tự uống.

Đường Bá Hổ đã sớm trải sạp ra, bắt đầu chăm chú vẽ chân dung Cao Văn Tâm. Văn Trưng Minh, Từ Trinh Khanh và nhóm người Dương Lăng cùng Mạc Thanh Hà cũng đều đứng sau lưng ông hiếu kỳ theo dõi. Trương Phù Bảo lại chê chán, kéo anh nàng cùng ra bờ sông chơi.

Bên này Đường Bá Hổ vừa mới phác thảo vài nét, Chúc Chi Sơn chợt như nghĩ đến điều gì, đột nhiên bỏ chén rượu, nhảy xuống thành lan can la lên quái gở:

- Hỏng rồi, hỏng rồi! Sao ta lại cũng tham dự theo chứ nhỉ? "Thập mỹ đồ" đó thật sự sắp hoàn thành rồi!

Rồi hắn giậm chân la lên:

- Ba trăm lạng ơi là ba trăm lạng! Tính sai rồi! Tính sai rồi! Lần này lão Chúc ta phải đền tiền rồi.

Đường Bá Hổ chỉ ngẩng đầu cười lớn một tiếng rồi lại cúi đầu tiếp tục vẽ tranh, vẻ mặt hơi đắc ý. Dương Lăng phảng phất nhớ dường như có cái "Cửu mỹ đồ" gì đó liên quan đến Đường Bá Hổ, không khỏi lấy làm tò mò hỏi:

- "Thập mỹ đồ" gì vậy?

Văn Trưng Minh cười lớn:

- Hôm nay du ngoạn trên hồ là ý tưởng của lão Chúc. Chuyến đi du ngoạn hồ này hao mất ba trăm lạng, y thật sự đã tính sai rồi.

Thấy thân phận Dương Lăng dường như cực kỳ cao quý, nhưng tính tình ôn hoà, không hề có phong thái cao kỳ của con cháu thế gia quyền quý, hắn bèn cười cười giải thích:

- Dương công tử! Hi Triết huynh và Tử Uý huynh đã đánh cuộc, chỉ cần trong vòng một năm Tử Uý huynh có thể vẽ được mười bức tranh mỹ nữ, hơn nữa phải là mỹ nữ mà bốn người chúng ta đều công nhận, thì Hi Triết huynh sẽ thua Tử Uý huynh ba trăm lạng bạc.

Chỉ là mười mỹ nữ này thực khó kiếm à nha! Chùa Huyền Diệu ở Tô Châu có nhiều thiếu nữ tới lui nhất, Đường huynh thường hay đến nơi đó ngồi canh chừng, nhìn thấy tuyệt sắc giai nhân chân chính nào liền ghi nhớ kỹ trong lòng, sau đó vẽ lại. Nhưng mà tin tức này dần dần bị tiết lộ, nhà ai có nữ quyến định đến chùa dâng hương đều sai người đuổi vị đại tài tử này đi trước.

Kết quả là sau bảy tháng đầu tiên, Tử Uý huynh đã có thể vẽ được chín mỹ nữ, nhưng người thứ mười lại tìm mãi không thấy. Chúng tôi cứ tưởng rằng lần này Tử Uý huynh sẽ thua rồi, nào ngờ hôm nay lại có duyên gặp được vị cô nương của quý phủ đây. Ha ha, đây cũng xem như là ý trời, muốn Hi Triết huynh đưa bạc cho Tử Uý huynh tiêu dùng.

Dương Lăng nghe vậy cũng cảm thấy mắc cười, thì ra đám tài tử này cũng giống như những người bình thường khác, lúc ăn không ngồi rồi cũng lấy mỹ nữ ra làm đề tài câu chuyện, không ngờ còn dùng nó để đánh cuộc.

Y ngồi xổm bên cạnh Đường Bá Hổ, thấy bút pháp tuyệt diệu của ông hất lên móc xuống, bức tranh trong tay đã vẽ được sáu phần, tuy mắt mũi ngũ quan vẫn mới chỉ được hoạ phác đơn giản, vẫn cần phải chấm phá thêm, nhân vật cũng hãy còn chưa tô màu, nhưng một mỹ nữ sinh động như thật đã dần hiện ra trên trang giấy. Thấy vậy y không khỏi ngợi khen:

- Nhân vật của Đường huynh vẽ quả nhiên giống như đúc, bút lực quả thực bất phàm.

Đang vẽ say sưa, Đường Bá Hổ nghe vậy mặt liền tươi rói, đáp:

- Dương công tử quá khen! Mỹ nữ tập trung thiên địa linh khí, bản thân đã là một bức tranh sáng đẹp tuyệt luân, tại hạ chẳng qua chỉ lấy bút trong tay vẽ một phần vạn nét phong tình của họ mà thôi. Cái tĩnh của mỹ nữ thì thanh nhã u khiết, còn cái động của mỹ nữ lại bay bổng như hạc. Mái tóc, chân mày, cặp mắt, đôi môi, làn da, cần cổ, tấm eo, đôi chân, không chỗ nào không thể vẽ nên tranh. Vẻ đẹp ấy có thể họa vào thơ, có thể nhập vào trong tranh vẽ, có thể hoà vào rượu, còn có thể bước vào mộng nữa thay.

Dương Lăng không ngờ vị đại tài tử này nói đến mỹ nữ lại cũng có bài bản như vậy. Văn Trưng Minh cũng là cao thủ về hội hoạ, có nhận thức bất phàm về hội hoạ nên có thể lýi được cái ý trong lời Đường Bá Hổ, vả lại hắn cũng cực kỳ sùng bái kỹ xảo vẽ chân dung của Đường Bá Hổ.

Lúc này thấy Dương Lăng tràn đầy thích thú, trong lòng hắn có cảm giác như gặp người đồng đạo, liền hào hứng nói với Dương Lăng:

- Dương công tử hãy đợi một chút, trên thuyền hoa có một bức tranh tuyệt diệu mà Tử Uý mới vẽ đêm qua, để tôi lấy cho công tử xem!

Đường Bá Hổ phong lưu phóng khoáng. Tuy ông đã cưới người bạn thân thiết chốn khuê phòng của Liên Nhi cô nương là Thẩm Cửu Nương làm vợ, nhưng vẫn thường lưu luyến chốn thanh lâu. Những cô nương này cũng mến tài nghệ của ông nên cũng chưa từng đòi tiền qua đêm, vị Liên Nhi cô nương này cũng là một người ái mộ ông.

Nàng mắt to môi đỏ, da trắng như mỡ, cũng là một mỹ nhân, tuy nhiên hôm nay Đường Bá Hổ vừa thấy Cao Văn Tâm liền miệng khen không ngớt, Liên Nhi tự thấy tư sắc thua người nên vẫn luôn đứng một bên, trề môi vẻ không vui lắm. Bây giờ nghe Văn Trưng Minh nói muốn lấy bức vẽ đêm qua, tuy tức giận, nhưng nàng vẫn không nén khỏi đỏ mặt, hung hăng trừng mắt với hắn, dường như có chút ngượng ngùng.

Văn Trưng Minh hấp tấp chạy về thuyền hoa lấy một cuộn tranh. Hắn trở vào trong đình, mới vừa giở cuộn tranh vẽ ra một nửa, một cơn gió lùa tới suýt nữa thổi rách bức vẽ. Văn Trưng Minh liền kéo Đường Bá Hổ nói:

- Tử Uý huynh ngừng một chút đi! Để Dương công tử kiến thức bức tranh phong nguyệt mà huynh vẽ ngày hôm qua một chút.

Văn Trưng Minh nói xong, liền đoạt lấy bàn vẽ trong tay Đường Bá Hổ, giở cuộn tranh trong tay ra đặt lên trên. Dương Lăng vừa nhìn thì thấy bức tranh đó tịnh không phải là tranh đen trắng, mà dùng thuốc màu sơn lên. Trong tranh vẽ một mỹ nữ khỏa thân dáng vóc nẩy nở rung động lòng người, người con gái đó nửa quỳ trên chiếc giường nhỏ, một dải lụa đỏ vắt ngang eo, một tay che chỗ xấu hổ, eo thon hơi trũng xuống, cặp mắt yêu kiều ngoái nhìn ra sau, trong nét mặt đó có thể lờ mờ nhìn ra người thiếu nữ chính là vị Liên Nhi cô nương nọ.

Phía sau là một nam tử đang nằm chồm sấp trên mông nàng trong trạng thái giao hợp, cạnh bên có lưu hai hàng chữ như rồng bay phượng múa: "Bán liêm thanh phong, nhất tháp minh nguyệt, bán tự hàm tu bán thôi thoát, hồi đầu đinh ninh khinh ta cá, bất tỉ tầm thường lãng phong nguyệt"*. Không ngờ bức tranh này lại là một xuân cung đồ kiều diễm mê người.

(* Tạm dịch: nửa mành gió mát, một mảnh trăng thanh, nửa như e ấp nửa như khước từ, ngoảnh đầu khẽ dặn vài câu, không như cảnh sắc gió trăng tầm thường)

Dương Lăng chưa từng nghe nói đại tài tử Đường Bá Hổ vẽ tranh xuân cung, y ngẩn người nhìn chằm chằm vào bức tranh, vừa chỉ tay vào vừa lắp bắp hỏi:

- Đây... đây là của Đường huynh vẽ sao?

Văn Trưng Minh cười đáp:

- Đúng vậy! Nét vẽ tinh tế tỉ mỉ, nhân vật sinh động có thần, tranh xuân cung mà Đường huynh vẽ không dưới trăm bức, song đây là bức vẽ mà tại hạ thích nhất, nên đã xin y. Tại hạ và Dương công tử tuy vừa gặp mặt nhưng như đã quen lâu, nếu như công tử thích, tại hạ xin tặng cho công tử, không biết công tử thấy thế nào?

Dương Lăng cười gượng:

- Ơ... Đệ nhất tài tử Giang Nam cũng vẽ loại tranh này sao? Ha ha, đúng là nằm ngoài dự liệu của tại hạ.

Từ Trinh Khanh cười nói:

- Nghe khẩu âm của công tử, đoán là người đến từ phương Bắc nên không biết tập tục phương Nam. Vẽ tranh này cũng không có gì cả, thật ra rất nhiều tiểu thư khuê các cũng sao đi vẽ lại tranh xuân cung này đấy. Có điều những bức được chính tay Tử Uý huynh vẽ ra đều có thể gọi là trân phẩm, khắp phố phường đều tranh giành đấy!

Đường Bá Hổ dường như cũng rất là hài lòng với bức tranh này, ông lấy bản vẽ lại, xoa nhẹ lên bức tranh cười nói:

- Nào chỉ ở phương Nam, cho dù vùng phụ cận kinh sư cũng học theo tập tục này đấy chứ. Đa số nữ tử khéo tay của Thiên Tân vệ đều tinh thông môn này, chẳng những thường ngày vẽ tranh, mỗi khi đến cuối năm còn vẽ tranh xuân cung đem ra chợ bán, bản địa gọi họ là "Nữ nhi xuân". Dương công tử đến từ phương Bắc, chẳng lẽ không biết chuyện này ư?

Cao Văn Tâm ngồi nghiêng trên lan can mái đình, nhìn chăm chăm vào khói sông trên Thái Hồ theo sự hướng dẫn của Đường Bá Hổ để cho ông ta vẽ. Nàng đã ngồi yên một hồi lâu nên cảm thấy vai và cổ hơi mỏi, vừa quay đầu cho mau huyết lưu thông đột nhiên nhìn thấy Dương Lăng và mấy thư sinh đang chỉ chỉ trỏ trỏ vào bức tranh, thậm chí Ngô Tế Uyên và Mạc Thanh Hà cũng đang đứng sau đám người kiễng chân lên xem.

Nàng tưởng bức chân dung đã vẽ xong rồi nên mừng rỡ đứng dậy, đi lại gần mọi người, vui vẻ hỏi:

- Đường công tử đã vẽ xong rồi à?

Cao Văn Tâm vừa hỏi vừa cúi đầu nhìn bức tranh, mặc dù nhìn ngược xuống, nhưng tổng thể bức tranh vẽ gì nàng vừa liếc mắt liền nhận ra ngay. Khuôn mặt xinh xắn của nàng liền thoáng trắng bệch, mặt cắt không còn giọt máu, liền tiếp đó lại đột nhiên đỏ bừng, cả người cũng phát run lên.

Nàng vạn lần không ngờ kẻ này lại dùng tướng mạo của nàng để vẽ ra một bức tranh sỉ nhục như vậy. Cao Văn Tâm giận đến choáng váng mặt mày, không chút nghĩ ngợi nàng vung tay tát bốp một bạt tai vào mặt Đường Bá Hổ, giận dữ mắng:

- Đồ vô sỉ!

Cao Văn Tâm mắng xong, hai hàng lệ đã không nén được mà trào ra. Điều khiến cho nàng đau lòng khôn xiết chính là: Dương Lăng chẳng những không nổi giận, mà không ngờ... không ngờ cũng hùa với người ngoài chỉ chỉ trỏ trỏ lên bức tranh. Nếu như y thật sự thích mình, xem mình như nữ nhân của y, sao y lại có thể đối xử với mình như vậy, mặc cho mình bị người ta khinh thị?

Nghĩ đến đây, Cao Văn Tâm đau lòng như cắt. Hai tay ôm mặt, nàng xoay người lao về phía bờ hồ.

Chú thích:

vì Đường Bá Hổ đỗ giải Nguyên (đỗ đầu trong kỳ thi Hương) nên được gọi là Đường "Giải Nguyên"

"Cửu mỹ đồ" kể về chuyện tình giữa Đường Bá Hổ và Thu Hương

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 129: Oan Gia Cưỡi Sóng Tới

Ai nói phụ nữ "chân yếu tay mềm"? Cú tát của Cao Văn Tâm vừa giáng xuống tức thì má trái của Đường Bá Hổ lập tức "nở hoa". Đã bị người ta đánh còn bị mắng là bỉ ổi, đệ nhất tài tử Giang Nam phong lưu đa trí như ông cũng bị đòn đến sững người.

Dương Lăng trông thấy bộ dạng của ông ta như vậy, không khỏi thầm kêu may mắn trong lòng: may mà chỗ ngày đó Văn Tâm đánh chỉ là cái mông của mình, chứ nếu mặt mình bị ăn cái tát như vậy thì e rằng suốt ba ngày cũng đừng hòng gặp ai!

Điều Cao Văn Tâm đau lòng nhất chính là không ngờ nàng bị chính người nàng luôn quan tâm trong tâm tưởng đã quá khinh rẻ và sỉ nhục nàng đến thế. Lệ tuôn đầy mặt, nàng lao về phía bờ hồ, chỉ muốn trầm mình vào dòng khói sóng mênh mông cho kết thúc mọi chuyện từ đây.

Những thuyền phu đang kéo thuyền bên bờ hồ có một nửa là nha sai nội xưởng hoá trang. Vừa thấy người tỳ nữ luôn như hình với bóng với xưởng đốc đại nhân ôm mặt chạy tới, còn Dương khâm sai vừa đuổi theo vừa kêu to cứu người, lập tức có hai gã tráng niên cải trang thành ngư phủ sóng vai bước tới trước cản Văn Tâm lại, cười nói:

- Cô nương, xin dừng bước!

Cao Văn Tâm quát:

- Tránh ra cho ta!

Vừa quát vừa đưa tay đẩy. Tay còn chưa chạm ngực hai nha sai đó, eo thon chợt bị siết chặt, cả người đã bị nhấc bổng lên.

Cao Văn Tâm vừa sợ vừa giận, vùng vẫy kêu la:

- Thả ta ra, ngươi thả ta ra!

Ngoái đầu trông thấy chính Dương Lăng đang ôm eo mình nhấc bổng lên, lập tức hành động vùng vằng của nàng tức thì yếu đi vài phần, hai chân vốn đang dãy đạp về phía sau cũng buông lỏng xuống.

Thừa thế Dương Lăng bước thêm vài bước vòng ra sau một gốc liễu xù xì thấp bé đoạn đặt Cao Văn Tâm xuống, nói vội:

- Đại tiểu thư của tôi ơi! Cô gây náo loạn quá chừng rồi! Đã hiểu lầm rồi, hiểu lầm rồi!

Đám người Mạc Thanh Hà, Ngô Tế Uyên và tứ đại tài tử đang đứng ở trong đình nhìn về phía cây liễu trông thấy mỹ nhân đáo để nọ chợt ló đầu ra dường như muốn bỏ chạy đi, ngay lúc đó hai cánh tay đột nhiên vươn ra, ôm lấy eo cô nàng kéo trở lại.

Sau đó, do gốc liễu che khuất tầm mắt nên cả bọn chỉ có thể nhìn thấy nửa bóng lưng của hai người. Họ thấy rõ phần bóng lưng của khâm sai Dương đại nhân - xưởng đốc Nội xưởng, thống lĩnh thân quân phụng chỉ tuần sát - thoạt khom thoạt thẳng như đang cúi người vái lạy, không ngừng xin tha thứ. Đám nha sai Nội xưởng thấy vậy, lòng chợt cảm thấy như bị kim chích, lập tức không hẹn mà cùng xoay người đi vờ như không thấy.

Vị tài tử râu dài họ Chúc cũng không uống rượu nữa. Hắn vuốt chòm râu dài, cố sức rướn cổ nhìn, chỉ thấy hai bóng người sau gốc cây ban đầu thì xô xô đẩy đẩy, tiếp đó càng lúc càng nhích gần lại nhau, cuối cùng trừ hai gót chân ra, cả bóng lưng cũng không nhìn thấy được nữa.

Bỗng một cơn gió thổi tới, hắn mới thấy một dải thắt lưng lụa tung bay sau gốc cây, áo choàng Dương Lăng khẽ lay động, bèn không khỏi đảo mắt ướng mày, chớp mắt nói to:

- Đường Giải Nguyên mau lấy bút ra! Lão Chúc thấy hình như sắp diễn xuân cung trực tiếp rồi.

Văn Trưng Minh huých khuỷ tay vào người y, mắng khẽ:

- Lo uống thứ rượu vàng quí hóa(*) của huynh đi. Ngô ông và khách quý của phủ ông ấy cũng đang ở đây đó.

(*):nguyên văn là "hoàng thang" (rượu vàng), cụm từ này được sử dụng với hàm ý chê trách người say sưa.

Từ Trinh Khanh cũng gượng cười nói:

- Vị tỳ nữ đó tuy không phải thiên kim thế gia vọng tộc nhưng xem ra cũng cực kỳ tự trọng tự ái. Lão Chúc hãy cẩn thận cái miệng, kẻo lại bị như Đường huynh...

Đường Bá Hổ nghe vậy bèn xoa cái má đang đau rát mà cười khổ một hồi. Xem ra mình đã ăn không cái tát này một cách oan uổng rồi, còn e rằng mấy bằng hữu to mồm không có lòng dạ này sẽ mang chuyện đi rêu rao khắp chốn một phen. Có điều bọn họ là người phóng đãng không chịu gò bó, tạm thời xảy ra một chuyện phong lưu ân ái cũng không thấy mất thể diện gì.

Dương Lăng vừa giải thích vừa dỗ dành. Hồi lâu, cũng không biết do chưa hết giận hay Cao Văn Tâm vẫn muốn được hưởng cảm giác dựa vào lòng y, bị Dương Lăng ôm chặt, nàng nép sát vào người y như một chú chim nhỏ, lại thút thít một hồi, rồi mới uất ức nói:

- Cho dù bọn họ và lão gia vừa gặp như đã quen lâu, cũng không có lý gì... đem tranh vẽ trộm rêu rao khắp nơi. Vị Liên Nhi cô nương đó xuất thân thanh lâu thì bọn họ sẽ phơi bày nàng ta với người khác một cách tuỳ tiện sao? Chỉ là ngang ngạnh phóng đãng thôi ư? Đó còn không phải là sỉ nhục người ta à? Con đường làm quan của bọn họ không thuận lợi nên mới vờ mượn tiếng phong lưu mà khinh nhờn thế tục, chung quy vẫn là khinh bạc, không giữ đức hạnh, không tuân thủ khuôn phép. Trong triều hiện đang có không biết bao nhiêu kẻ đang nhìn chòng chọc vào lão gia, muốn bươi móc tìm kiếm khuyết điểm của lão gia. Lão gia thật sự không nên kết giao thân thiết với bọn họ quá.

Lời Cao Văn Tâm nói rất có lý. Những hành vi phóng đãng của mấy tài tử này nếu đặt ở đời sau thì mọi người sẽ chỉ cảm thấy đó là sự phản kháng đối với lễ giáo phong kiến; ai nấy chỉ hăng say bàn về những chuyện phong lưu mà bọn họ mơ mộng, cho rằng ông trời ghen ghét bậc kỳ tài, khiến họ chịu phải cảnh bất công; mà không biết hành động sa ngã của bọn họ, tuy trong mắt người đương thời cũng tạo được những câu chuyện thú vị để mọi người say sưa bàn tán nhưng bọn họ cũng đã tự tuyệt hoạn lộ rồi: có đủ loại "kiến thức" này, làm sao còn có thể gặp mặt triều đình?

Nói trắng ra, hành vi của bọn họ là khoe mẽ, là hình ảnh không tao nhã. Mọi người có thể dùng nó làm đề tài chuyện trò trong những lúc trà dư tửu hậu, song không ai coi kiểu "minh tinh" này là rường cột của xã hội cả.

Tâm tình bị kích động lúc mới gặp tứ đại tài tử đã hơi bình phục, Dương Lăng đột nhiên tỉnh ngộ. Ví như mình si mê thanh danh đời sau của bọn họ mà đàng đúm cùng bọn họ, vậy há chẳng phải mình đang tạo cơ hội cho những kẻ đang nhìn mình chằm chằm như hổ đói muốn dồn mình vào chỗ chết sao?

Dương Lăng thở dài một hơi rồi nắm chặt cổ tay Văn Tâm, chân thành:

- Văn Tâm, cô nói đúng! Bất luận thế nào, với thân phận của tôi mà cùng bọn họ công khai thảo luận những thứ này như vậy thì quả là đã hơi khinh xuất mất rồi. Đến Giang Nam một khoảng thời gian, thoát khỏi những chuyện minh tranh ám đấu trong triều, tôi thật sự đã có hơi sơ ý rồi.

Cao Văn Tâm được y vừa dỗ dành vừa khuyên giải, biết rằng mình đã hiểu lầm, nộ khí trong lòng sớm đã tan đi, lại nghe y nói với giọng chân thành, ngược lại hơi cảm thấy áy náy trong lòng. Nàng đỏ mặt rụt tay về, mắng khẽ:

- Bị lão gia nắm đau quá đi! Tiểu tỳ đã không tính nhảy xuống hồ nữa, người còn kéo tiểu tỳ làm gì?

Dương Lăng bật cười ha hả, buông tay ra nói:

- Đi thôi, trở về thôi! Mấy người Mạc công công và Ngô tiên sinh nhất định đang lo lắng lắm đây.

Cao Văn Tâm cúi đầu, di di chiếc giày thêu trên mặt đất, ngượng nghịu:

- Tiểu... tiểu tỳ ngại lắm! Lão gia muốn du ngoạn hồ thì tiểu tỳ chờ lão gia ở đây là được rồi.

Dương Lăng cười nói:

- Loại thuyền nhỏ đó một chiếc chở được hai người. Hôm nay tôi chèo thuyền để cô rong chơi vui vẻ một ngày, có được không?

Cao Văn Tâm ngẩng đầu, mừng rỡ nhìn y, rồi lập tức chần chừ:

- Lão gia, tiểu tỳ chỉ là hạ nhân, lão gia... lão gia không cần phải khách sáo với tiểu tỳ như vậy.

Dương Lăng thở dài một hơi, đoạn cười trêu:

- Cao đại tiểu thư à, từ khi đón cô vào nhà đến giờ, cô nói xem, tôi có từng xem cô như tỳ nữ chưa? Còn dùng kiểu nói này với tôi nữa, cô sẽ tự thẹn với lòng thôi.

Khuôn mặt xinh xắn của Cao Văn Tâm thoáng đỏ lên, nàng khẽ hé môi nhưng lại không nói được lời nào. Dương Lăng mỉm cười, xoay người đi về phía mái đình.

Dương Lăng cao đầu ưỡn ngực bước vào trong đình. Ngô Tế Uyên lật đật bước lên hỏi han:

- Đại... Dương công tử, à... Cao cô nương đã hết giận chưa?

Dương Lăng khoát tay, ra vẻ bất cần:

- Phụ nữ ấy mà, thật không hiểu ra sao cả! Bị tại hạ dạy dỗ cho một trận, giờ cô ta đã ngoan ngoãn hơn nhiều rồi.

Mạc Thanh Hà bật ho khan vài tiếng, cố nhịn cười, sau đó quay đầu đánh xoạt một cái về phía Thái Hồ, chắp hai tay sau lưng ra vẻ đang thưởng thức phong cảnh.

Dương Lăng vẫn không hay bộ dạng trốn sau gốc cây cúi đầu thi lễ của mình đã sớm bị người ta thu vào trong mắt, y quay sang Đường Bá Hổ cười áy náy:

- Đường huynh! Thật xin lỗi, tiểu đệ quản giáo không nghiêm, để tỳ nữ đó ra tay tổn thương Đường huynh, thật rất lấy làm hổ thẹn.

Đường Bá Hổ cười khan hai tiếng, đáp:

- Không sao không sao! Nếu không được tặng một cái tát này, Đường mỗ còn hòng thấy hình ảnh mê người như vậy được ư?

Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:

- Hình ảnh gì? Đường huynh đã lại vẽ một bức tranh sao?

Đường Bá Hổ vội vàng nhoẻn cười đáp:

- Không dám không dám, không có không có, ờ... Có điều bức Thập mỹ đồ này, tại hạ đã có ý tưởng mới rồi, song cần phải chỉnh sửa một chút. E rằng khó có thể hoàn thành trong hôm nay...

Dương Lăng vội nói:

- Không vội không vội! Không biết Đường huynh vẽ tranh, một bức ra giá bao nhiêu? Huynh cứ việc về nhà vẽ, trở về tại hạ sẽ cho người đến lấy, ngân lượng văn tiền không thành vấn đề.

Đường Bá Hổ liền đáp:

- Dương công tử! Tuy bức tranh này mượn ý từ cô tỳ nữ của phủ công tử, nhưng nó lại là của tại hạ. Thập mỹ đồ này tại hạ quyết sẽ không bán lẻ, mong công tử lượng thứ.

Thời ấy còn chưa có bản quyền tranh chân dung, Đường Bá Hổ nói một cách đầy lý lẽ khiến Dương Lăng cũng không cảm thấy có gì không đúng. Y nghĩ tranh của Đường Bá Hổ giá trị liên thành, vậy nếu y muốn lấy cả bộ Thập mỹ đồ thì không biết phải tiêu tốn hết bao nhiêu bạc cho đủ? Nhưng y lại không muốn để bức tranh của Cao Văn Tâm bị kẻ khác mang đi.

Dương Lăng không khỏi do dự:

- Như vậy những bức Thập mỹ đồ này, không biết Đường huynh muốn giá bao nhiêu mới chịu bán ra?

Nhìn bộ dạng cung kính mà Ngô Tế Uyên đối đãi với y, Đường Bá Hổ đã sớm kết luận người này hẳn là công tử tôn quý rất có thân phận. Có thể khiến phú hộ số một Tô Châu kính cẩn nghe lời như vậy, nói không chừng y còn là hào phú kinh sư, cho nên ông nảy ý muốn kiếm chác một mớ. Đường Bá Hổ vừa chăm chú nhìn thần sắc của Dương Lăng, vừa ngập ngừng nói:

- Việc này à... Tập hợp Thập mỹ đồ rất ư không dễ, Đường mỗ cũng đã hao tốn gần một năm trời, cho nên giá bán ra so với bán lẻ từng bức tranh có đắt hơn một chút. Ít nhất cũng phải năm... năm...

Những bức mà Đường Bá Hổ dày công ra vẽ cùng lắm cũng chỉ rao giá hai mươi lạng. Mặc dầu Thập mỹ đồ khó kiếm, nhưng đòi đến năm trăm lạng thì bản thân ông cũng cảm thấy có phần quá cao rồi. Nhưng hiếm khi gặp phải một kẻ không tiếc bỏ tiền như thế này, nhìn Dương Lăng cưng yêu người tỳ nữ xinh đẹp nọ như vậy, khẳng định là một công tử phú gia thương hoa tiếc ngọc. Cơ hội này thật sự khó mà có được.

Ông vừa ngập ngừng đang muốn nói giá thì Ngô Tế Uyên nghe được, trong lòng đã sáng tỏ. Gần đây lão bị gã phú hộ mới nổi Lý Quý chèn ép kịch liệt, vậy mà Bố chánh sứ và tri phủ Tô Châu bình thường vẫn nhận của lão từng món bạc lớn ấy lại vẫn ngoảnh mặt làm ngơ, nếu như lão có thể bấu víu vào cái gốc cây cao như Dương Lăng này, ai còn dám khi dễ Ngô phủ nữa chứ?

Nếu như Đường Bá Hổ ra giá thấp thì dù lão có mua tặng cho Dương Lăng cũng chẳng biểu lộ được lòng thành, thế là lão vội lật đật cướp lời:

- Năm ngàn lạng? Được, Đường Giải Nguyên hãy mau vẽ Thập mỹ đồ đi, ta sẽ lấy năm ngàn lạng bạc mua nó.

Nói xong lão cười nịnh với Dương Lăng:

- Đợi tôi nhận Thập mỹ đồ này rồi, sẽ cho người đem đến phủ tặng cho công tử.

Nghe vậy rất mừng rỡ, Đường Bá Hổ giơ bức tranh trong tay lên, nói:

- Được, vậy Đường mỗ sẽ tặng miễn phí bức "Nguyệt Dạ Hậu Đình Hoa"* này, đến lúc đó nhất định sẽ đưa đến quý phủ." (*tạm dịch: Khúc nhạc Hậu Đình Hoa trong đêm trăng; Hậu Đình Hoa cũng là một vở kịch nổi tiếng, có nhiều phiên bản)

Dương Lăng nghe mà không biết nên khóc hay nên cười. Y gãi nhẹ mũi, ngắm bức tranh một lúc lâu rồi hỏi:

- Bức tranh này của Đường huynh là... Hậu Đình Hoa à? Ha ha, vị nhân huynh trong tranh che thật đến kín, thật sự là không nhìn thấy được gì.

Đường Bá Hổ vừa nghe Dương Lăng khơi ra khuyết điểm của bức tranh mình vẽ liền có phần nôn nóng, ông ra vẻ nghiêm túc nói:

- Vẽ là phải chú trọng đến cái đẹp của hàm súc, cái thần của ý cảnh. Công tử không thấy một tay của mỹ nhân che chỗ xấu hổ đó ư? "Có người ngư phu đến hỏi, Đào Nguyên giờ ở chốn nào?" Công tử còn chưa hiểu rõ ý sao?

Chúc Chi Sơn và hai người đàn ông háo sắc còn lại nhất tề đắc ý cười dâm, phụ họa:

- Chí phải, chí phải! Huống chi còn có câu này: "Quay đầu khẽ dặn vài câu, nào như trăng gió phong lưu bình thường...", chính là kỹ thuật điểm mắt đấy nhé!

Dương Lăng nghe vậy, trong lòng phát lạnh: "Đây là những đại tài tử của lòng mình à, thần tượng lớn đấy ư? Mấy người cũng... cũng thật... Khó trách sao mấy người không làm quan cho nổi, thì ra có bao nhiêu tài hoa mấy người đều dùng vào khía cạnh này hết cả rồi."

***

Một mảng sen xanh bồng bềnh gợn sóng. Thấp thoáng gần xa, vài chiếc thuyền nhỏ đang chèo trong những khóm lá sen xanh biếc cao tới gối trên mặt nước mà nếu không đứng lên thì sẽ khó thấy được nhau.

Trịnh bách hộ và hơn hai mươi tay nha sai chèo trên những con thuyền nhỏ ra xa, bao quanh vùng này lại, đề phòng du khách xâm nhập. Huynh muội thiên sư một thuyền, Mạc Thanh Hà và Ngô Tế Uyên một thuyền còn Dương Lăng quả nhiên đã thực hiện lời hứa, tự chèo một chiếc thuyền nhỏ cùng Cao Văn Tâm dập dờn trong những con sóng sen liên miên bất tuyệt.

Cao Văn Tâm vui vẻ ngồi ở đầu thuyền, vốc nước hồ trong vắt rót lên những chiếc lá sen xanh ngát. Nước hồ chảy tràn, phần nước còn lại dần dần ngưng tụ lại thành những giọt nước nhỏ tròn trĩnh, xinh xinh. Thuyền trnhẹ về phía trước, những chiếc lá ấu rậm rạp gặp phải áp lực nước, tự động rẽ sang hai bên.

Từng đoá hoa ấu trắng tinh lung linh xinh xắn điểm xuyết giữa những bông sen đỏ lá xanh, trang nhã mà tươi mát. Cao Văn Tâm bươi gốc ấu ra, vui thích tìm từng trái ấu đỏ hồng, ngắt lấy bỏ lên váy, đã gom được hai vốc lớn.

Bỗng nhiên, một con cá lớn bị kinh động nhảy vọt lên khỏi mặt nước, vẽ thành một hình cung ngay dưới mắt Cao Văn Tâm, rồi quẫy đuôi đánh "ùm" xuống nước, bụi nước bắn lên tung toé một mảng, làm cho nàng giật nảy mình. Dương Lăng thấy vậy không nhịn được bèn cười to.

Cao Văn Tâm yêu kiều lườm y, nét mặt cực kỳ quyến rũ. Mái tóc đen mướt như gương trên trán hơi bị rối xoà, bọt nước trong vắt óng ánh thấm trên gò má trắng ngần diễm lệ, như thể từ trong da thịt tiết ra. Dương Lăng thấy vậy hai mắt sáng rực, y vừa tính mở miệng khen nàng nhưng lại kịp thời ngậm miệng lại.

Trông thấy vẻ mặt của y, khoé mắt Cao Văn Tâm thấp thoáng một tia hờn oán. Nàng cầm một củ ấu đỏ lên, cúi đầu ngâm khẽ:

- Lăng nhi cá cá tương y sanh, thu thủy hữu tình tổng giác lãnh. (- Tạm dịch: Ấu kia mỗi củ nương tựa vào nhau mà sống, làn thu thủy có tình mà sao vẫn thấy chán chường.)

Dịch thơ: Ấu kia sống tựa vào nhau, mắt ai sóng sánh mà sao đượm buồn. (TheJoker)

Miệng ngâm thơ, khoé mắt nàng lại trộm ngắm Dương Lăng.

Dương đại lão gia chân thành phối hợp, liền vội ra sức vỗ tay bôm bốp khen hay:

- Thơ hay, thơ hay...

Cao Văn Tâm hơi thất vọng: "Lão gia đang giả vờ hay thật sự không hiểu vậy? Không phải mười sáu tuổi y đã đỗ đầu kỳ thi tú tài của Tuyên phủ hay sao?"

Dương Lăng lại không hay biết Cao Văn Tâm đang mượn thơ khêu tình. Y vỗ tay xong nhưng thấy Cao Văn Tâm vẫn hơi phiền muộn không vui, bèn ngượng ngập buông tay nói:

- Chèo nãy giờ cũng hơi đói rồi. Tới đây, chúng ta ăn tí gì trước đi.

Cao Văn Tâm ngoan ngoãn đồng ý, gom mấy củ ấu lại, bước đến giữa thuyền ngồi xuống, đưa tay qua cầm lấy hộp đồ ăn sơn màu sáng bóng. Hộp đồ ăn tổng cộng có bốn tầng, nàng lấy từng món bên trong ra, đặt lên chiếc bàn nhỏ ở giữa.

Đáy loại hộp đồ ăn này của Ngô phủ làm bằng sắt, bên trong đặt than nóng, bên trên là một tầng cách thủy, cho nên để lâu như vậy mà đồ ăn trong hộp vẫn nóng hổi. Người miền Nam ăn uống luôn chú trọng đến sự tinh tế, mỗi loại đồ ăn trong hộp không nhiều, đại khái chỉ đủ vài miếng, song lại rất đa dạng. Đĩa đầu tiên là một miếng thịt vuông vức, dày cộp, thơm phức, béo ngậy, miếng da lợn lại óng ánh sắc vàng, khiến người ta vừa trông thấy đã phát thèm. Đó chính là một miếng thịt Đông Pha.

Món thứ hai là Tôm Bóc Vỏ Động Đình, dùng đặc sản "Hách Sát Nhân Hương" của Động Đình Hồ nấu chung với tôm sông mà thành, sắc, hương, vị tuyệt cả. Giống như Chè Khoai Môn Hương Quế, Chả Giò Rán, Đậu Hũ Chiên Giòn, Bánh Bao Hấp, Vịt Kho, Lương Bung, món này thể hiện rõ đặc điểm văn hóa Đông Ngô: tinh, nhã, tế (tỉ mỉ), xảo (khéo).

Thuyền dập dờn trên sóng, hái sen giữa rừng hoa, cao lương mỹ tửu, lại có áo hồng thêm hương, cho dù không uống cũng say. Huống hồ chung quanh lá sen cao vút trên mặt nước, giữa nơi đây lại chỉ riêng mình cùng một mỹ nhân xinh đẹp khéo cười bầu bạn.

Nghĩ đến dáng vẻ giận dữ của Cao Văn Tâm khi nãy, Dương Lăng thầm nổi lòng "xấu xa", muốn "dạy dỗ" nàng một phen, nên y bèn giở điệu bộ lão gia ép nàng cũng phải uống mấy chén.

Cao Văn Tâm không thoái thác được, đành phải uống vài chén rượu. Rượu thuần thấm vào bao tử, hai má nàng ửng lên một màu đỏ xinh đẹp, thấy vậy Dương Lăng thầm đắc ý trong lòng. Nhưng đã ép người ta uống rượu, y cũng không thể không uống, kết quả là rượu trong chiếc bình bằng thiết đã được uống sạch trơn. Dương Lăng đã cảm thấy đầu nặng chân nhẹ mà Cao đại tiểu thư nhà người ta, mặc dù màu da như được phết thêm một lớp son, đôi mắt lại càng lúc càng sáng, lại không hề có vẻ gì là say. Lúc này Dương Lăng mới biết tửu lượng Cao đại tiểu thư khá cao, thế là y không khỏi ngầm kêu khổ.

Đây là lần đầu Cao Văn Tâm ở riêng cùng một chỗ với Dương Lăng, lần đầu cùng y chung bàn uống rượu, lần đầu được y ôm vào lòng, cũng là lần đầu được y dùng những lời lẽ ngọt ngào để dỗ dành. Thiếu nữ ôm ấp mối u tình này hạnh phúc không thể tả, sau khi uống rượu vào, lòng càng thêm vui vẻ.

Nàng cầm chiếc bình bằng thiết đã cạn lên, nhoẻn miệng cười duyên dáng với Dương Lăng:

- Lão gia mười sáu tuổi đã đạt công danh, là tài tử phương Bắc, hôm nay rượu đã cạn bầu, nô tỳ và lão gia dùng câu đối thế rượu, không biết ý lão gia thế nào? Ở đây nô tỳ có một vế trước (thượng liên), mời lão gia đối lại một câu nhé: Đề tích hồ, du Tây Hồ, tích hồ lạc Tây Hồ, tích hồ, tích hồ!* Lão gia, mời người đối lại.

*: chữ 'tích' (vật làm bằng thiết), 'Tây' (phía Tây) và 'tích' (luyến tiếc) đều có một âm đọc là 'xī'. Tạm dịch: Cầm bình thiết, dạo Tây Hồ, bình thiết rơi xuống Tây Hồ, tiếc thay cái bình, tiếc thay cái bình!

Dương Lăng vừa nghe phải đối câu đối thì giật nảy mình, người hiện đại có mấy ai học qua cái thứ này? Đến lúc nghe nàng tay nói mấy cái gì mà 'tích hồ', 'Tây Hồ', rồi 'tích hồ', y lại càng cảm thấy nhức đầu. Tuy y chưa từng nghe câu đối này, nhưng cũng nghe hiểu được cái khó của câu đối chính là cả ba từ đều đồng âm của từ 'Tây Hồ'.

Y không biết rằng năm xưa có người đã dùng câu đối này làm khó đại học sỹ Tô Đông Pha, khi ấy chính Tô Đông Pha cũng đã từng bị bắt bí. Y còn tưởng rằng đây là câu đối do Cao Văn Tâm nghĩ ra nên trong lòng bội phục không thôi.

Nghĩ ngợi thật lâu, cuối cùng y cũng nghĩ ra ba từ có phát âm na ná nhau, miễn cưỡng có thể lắp thành một câu, bèn nói với Cao Văn Tâm:

- Ờ... Tôi vừa nghĩ được một câu, song nếu so ý cảnh với vế trên của cô, thật sự kém hơn nhiều lắm. Bây giờ tôi đọc, cô không được cười đó.

Cao Văn Tâm nghe vậy trên mặt không khỏi lộ vẻ kinh ngạc. Câu đối này từ khi ra đời đến nay đã mấy trăm năm, đã có không biết bao nhiêu tài tử hao tổn tâm tư tìm câu đối lại, kết quả cũng chỉ vì quá truy cầu từ phát âm tương đồng mà miễn cưỡng ghép thành một vài hạ liên (vế sau), song không có câu nào có được ý cảnh ưu mỹ như vế trước.

Lão gia nhà mình chỉ trong chốc lát đã có thể nghĩ ra vế đối, như vậy đã là vô cùng quý hoá lắm rồi, còn mong gì đến ý cảnh nữa.

Cao Văn Tâm vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, liền nói:

- Xin lão gia hãy mau đọc ra, tiểu tỳ rửa tai cung kính lắng nghe đây.

Dương Lăng cắn răng, rồi quyết đoán đọc:

- Hảo tỷ phu, sính tiết phụ, tỷ phu thất tiết phụ, ta phu, tỷ phu.

*Tạm dịch: Anh rể tốt, cưới tiết phụ, anh rể phản bội tiết phụ, ôi chồng, anh rể!

Ba chữ 'tỷ' (jiě), 'tiết' (jié) và 'ta' (jiē) đọc na ná nhau.

Cao Văn Tâm trợn tròn mắt, đôi môi xinh há ra, ngạc nhiên nhìn y thật lâu, không nói câu nào. Dương Lăng không khỏi ngượng ngùng:

Cô thấy đó, tôi nói rồi, ý cảnh kém lắm...

Cao Văn Tâm đột nhiên xoay người lại, tựa người vào mạn thuyền, đưa ống tay áo lên che mặt, rồi đôi vai nàng rung lên bần bật không ngừng, con thuyền nhỏ cũng theo đó mà lắc lư qua lại. Sau cùng vị tiểu thư khuê các lâu nay vẫn luôn chú trọng đến phong thái này rốt cuộc cũng không đếm xỉa gì đến hình tượng nữa mà bắt đầu cất tiếng cười to.

Dương Lăng cứng người nhìn nàng, mặt lúc trắng lúc đỏ, sau một hồi lâu mới hậm hực nói:

- Cô xem! Đang uống rượu vui vẻ lại đòi đối này đối nọ cho bằng được, thật làm mất cả vui.

Cao Văn Tâm thấy y giận, vội vàng ngồi ngay ngắn lại, đôi môi mím chặt ra sức nhịn cười, nước mắt cứ ứa ra, người run lên bần bật như trúng sốt rét. Dương Lăng không khỏi giận quá hoá thẹn, đứng bật dậy, gắt:

- Cười đi, cười đi, cười cho chết tôi thì thôi.

Cao Văn Tâm thấy y đã thật sự giận dữ bèn không dám cười nữa, lật đật đứng dậy, nhỏ nhẹ dỗ dành:

- Lão gia! Nô tỳ xin nhận lỗi, lão gia đừng giận nữa.

Chiếc thuyền nhỏ vốn đã đang tròng trành, Dương Lăng đứng lên đột ngột, con thuyền lại càng nghiêng sang bên trái. Do Cao Văn Tâm đứng lên vội nên chân không vững, thiếu chút nữa đã ngã xuống sông.

Dương Lăng tuy tức giận nhưng thật ra là bởi câu đối của mình quá kém. Khi nãy y cho rằng có thể nghĩ ra ba từ gần âm, trong đó còn có một thán từ giống như chữ "tích hồ" (tiếc thay cái bình) là nhanh trí lắm rồi, như vậy đã là hiếm có lắm rồi.

Cho nên khi thấy Cao Văn Tâm bật cười lớn, y mới cảm thấy thật mất mặt. Giờ y thấy Cao Văn Tâm cuống cuồng nên đứng không vững chực ngã xuống sông, bèn vội đưa tay đỡ lấy. Cao Văn Tâm hốt hoảng nhào vào lòng y, mãi đến khi con thuyền chầm chậm ổn định lại, mới đỏ mặt mắc cỡ rời khỏi lòng y.

Lúc này Cao Văn Tâm vừa uống rượu xong, mặt ngọc đỏ bừng, tóc mây tán loạn, mày như liễu mảnh che lấp một mảng xuân quang, mắt sáng như trăng nằm nhởn nhơ trong nước hồ thu. Nhất thời Dương Lăng ngẩn ngơ nhìn ngắm.

Cao Văn Tâm đã đứng vững lại, nhìn thấy ánh mắt y, không khỏi khẽ cụp hàng mày đen mướt, thẹn thùng cúi đầu, song lại không nhịn được mà ngước lên liếc y một cái thật nhanh.

Một cái cụp mày, tình ý khôn kể xiết, mêy hơn cả lời tỏ tình. Mày ngài nhướng trộm, ngầm tỏ ý đàn lang, lại là vẻ lay động hồn phách người ta biết dường nào. Biết rõ là không nên song Dương Lăng lại không thể dằn lòng, y nhịn không được bèn hôn trộm môi nàng một cái thật nhanh.

Bờ môi đỏ thắm của Cao Văn Tâm vốn đầy đặn và mềm mại, chỉ vừa được y hôn nhẹ, môi nàng lập tức trở nên ẩm ướt, cặp mắt sáng ngời của nàng cũng chợt sâu thẳm phảng phất như biến thành hai hũ rượu lâu năm, tinh thuần không gì sánh được.

Chiếc thuyền mui đen thong thả đong đưa, gió đưa đến hương sen thơm ngát, tuy chưa hề uống say song lúc này nữ thần y lại lờ mờ như muốn say, tựa như gởi tới Dương Lăng lời mời tình cảm nồng nàn.

Dương Lăng hôn xong, từ trong mỹ sắc bừng tỉnh lại, cuống quýt buông thỏng đôi tay:

- Văn Tâm! Tôi thật không phải. Chúng ta không thể... tôi thật không nên.

Sau khi say rượu, người ta khó tự kiềm chế tình cảm của mình. Giờ đây hôn xong một cái thoả thê, y mới giật mình phát giác đã phạm sai lầm lớn. Tình ý của Cao Văn Tâm với y, trong lòng y sớm đã biết rõ, và cũng đã luôn cảnh tỉnh mình đừng lún vào quá sâu. Nhưng trên chặng đường xuôi Nam này, bất tri bất giác lưới tình miên man của nàng lại sớm đã trói chặt lấy y.

Cho đến lúc này đây, Dương Lăng mới phát hiện thì ra con tim mình cũng đã thích nàng từ lâu, nhưng bởi nỗi khổ tâm của chính mình, y chỉ có thể giống như con cá mắc vào trong lưới, khổ sở vùng vẫy, khổ sở trốn chạy...

Dương Lăng trở về chỗ ngồi, cầm chén rượu lên, lòng ngổn ngang trăm mối, song lại phát hiện chén rượu đã cạn khô. Y không dám ngẩng đầu nhìn ánh mắt ai oán và thất vọng của Cao Văn Tâm đang ngồi đối diện, lòng chỉ thầm nghĩ: "Không thể lại gây thêm nợ tình nữa. Văn Tâm hiểu chuyện hơn mấy người Ngọc Nhi, mình... Không bằng tiết lộ cho nàng một ít chuyện của mình, cắt đứt ý niệm của nàng ấy vậy."

Dương Lăng nghĩ đến đây, ngẩng đầu tính mở lời, phía trước bỗng nhiên có một giọng nói giòn dã yêu kiều vọng đến:

- Í, vừa mới thấy đứng ở gần đây mà? Ca à, đi tới trước chút nữa đi, này này, mấy người đâu rồi?

Dương Lăng nghe thấy tiếng nước cùng lá sen lay động, huynh muội Trương thiên sư đã chèo thuyền trôi tới, bèn nuốt lời định nói ngược vào bụng. Y thấy Cao Văn Tâm đang cúi đầu vân vê góc áo, dáng vẻ rất đáng thương, bèn vội nói với nàng:

- Văn Tâm! Tôi tự có nỗi khổ của mình, tuyệt không xem nhẹ thân phận của cô. Ôi... đợi đến lúc về đến Hàng Châu, tôi sẽ nói bí mật của tôi cho cô nghe thì cô sẽ rõ hết thảy.

Chú thích:

trích từ thành ngữ "điểm mắt cho rồng" (hoạ long điểm tình), là kỹ thuật làm nổi bật nét chính của bức tranh (hoặc bài viết) khiến cho nó phong phú, sinh động hơn. Tích rằng Trương Tang Do vẽ bốn con rồng nhưng không vẽ mắt, vì lo rằng nếu vẽ mắt thì rồng sẽ bay mất. Mọi người không tin. Nhưng khi Trương lấy bút điểm mắt cho một con rồng thì sấm sét nổi lên, bức vách lung lay và con rồng có mắt bay vút lên, ba con kia vẫn ở yên chỗ cũ.

một món ăn nổi tiếng trên thực đơn trong các nhà hàng ở Tô Châu, do nhà thơ nổi tiếng Tô Đông Pha chế biến.

tên cổ của loại trà "Bích Loa Xuân" nổi tiếng. Vì trà được hái vào dịp tiết Thanh Minh, tiết Cốc Vũ nên có tên gọi là "Bích La Xuân " và được liệt vào là một trong những vật cống phẩm.

chỉ Phan An đời Tấn, sau được người con gái dùng gọi người con trai tuấn tú mà mình ái mộ.

Người ta nói có qua có lại mới toại lòng nhau. Vui chơi thoả thích xong, khi đoàn người quay trở về, Mạc Thanh Hà cũng nhiệt tình mời huynh muội thiên sư đến Hàng Châu một chuyến. Lúc trước, khi vừa mới đến Hàng Châu, hai anh em này chỉ được những người ở các đạo quán nghênh tiếp một hồi rồi lại ngồi kiệu xe của Ngô phủ đi đến Tô Châu nên chưa hề được dạo chơi Tây Hồ, vì thế cả hai đều vui vẻ nhận lời đi ngay.

Dọc đường nhàn rỗi, Trương thiên sư và Mạc công công bèn ngồi trong khoang đánh cờ vây. Chớ thấy cờ tướng của Trương thiên sư kém cỏi mà lầm, cờ vây của y cao siêu vô cùng. Không biết đánh cờ vây, Dương Lăng nhìn một hồi cảm thấy nhàm chán bèn ra trước khoang ngắm nhìn phong cảnh một lát rồi trở về khoang mình.

Cao Văn Tâm đang ngồi một mình trong khoang đắm mình trong tâm sự, vừa thấy y trở về nàng liền vội đứng lên. Từ lúc dạo Thái Hồ trở về, hai người luôn cảm thấy không được tự nhiên khi ở chung một chỗ với nhau. Dương Lăng cười gượng gạo, nói:

- Tôi ngồi lâu ở bên ngoài nên cảm thấy hơi mệt, định vào khoang trong nghỉ ngơi một lát.

Cao Văn Tâm vẫn luôn mang nghi vấn trong lòng, không biết rốt cuộc y có bí mật gì (phụ nữ tò mò LOL) mà đã có thể tiếp nhận Ngọc Nhi và Tuyết Nhi, lại có tình cảm với mình, thế mà lại khăng khăng không chịu tiếp nhận mình. Nàng rất muốn hỏi y ngay bây giờ, nhưng bản thân là con gái nên không tiện tỏ ra bức thiết quá mức. Thấy Dương Lăng vén rèm định vào trong, rốt cuộc nàng nhịn không được bèn mở miệng:

- Lão gia...

Dương Lăng dừng bước, quay đầu lại hỏi:

- Hử? Có chuyện gì vậy?

Mặt Cao Văn Tâm thoáng đỏ lên, nàng lắp bắp:

- A... không có gì, chúng ta... chúng ta về thẳng Hàng Châu à?

Dương Lăng lắc đầu đáp:

- Không, về đến Hàng Châu thì trời cũng khuya quá rồi. Chúng ta sẽ dừng lại giữa đường, đến Hải Ninh trọ lại một đêm, mai sẽ lại về Hàng Châu.

- Ồ...,

Cao Văn Tâm nghe đêm nay không thể nghe được bí mật mà mình rất muốn biết không khỏi thất vọng hỏi:

- Lão gia đến Hải Ninh có phải là vì muốn thưởng thức thủy triều Hải Ninh vang danh thiên hạ phải không?

Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:

- Hải Ninh có thuỷ triều đáng xem sao? Tôi chỉ có nghe nói đến thuỷ triều sông Tiền Đường vang danh thiên hạ thôi.

Khoé miệng Cao Văn Tâm hơi nhếch lên song nàng lại không dám cười nữa, chỉ nói khẽ:

- Thuỷ triều Hải Ninh... chính là thuỷ triều sông Tiền Đường mà...

Dương Lăng hơi ngẩn ra, rồi cúi đầu ủ rũ:

- Thôi đi! Lão gia tôi coi như là đã mất sạch thể diện trước mặt cô rồi. Thuỷ triều sông Tiền Đường không gọi là thuỷ triều sông Tiền Đường mà lại gọi là thủy triều Hải Ninh gì đó, thật là mất mặt.

Mặc dù bụng đầy tâm sự nhưng Cao Văn Tâm vẫn bị y trêu đến bật cười phì, nàng vội khoan thai giải thích:

- Lão gia là người phương Bắc, lúc ở kinh sư cũng không rảnh nghe ngóng những chuyện đâu đâu này nên không biết cũng là thương, có gì mất mặt chứ? Có điều nên đi xem thủy triều sông Tiền Đường vào mười tám tháng tám, lúc ấy thủy triều mới tráng lệ; tuy bây giờ cũng có thủy triều nhưng kém hơn nhiều.

Dương Lăng đáp:

- Tiện thể ngắm xem một chút cũng được rồi. Chủ yếu tôi đi Hải Ninh là để thăm viếng Mẫn đại nhân một phen. Ông ấy là thượng cấp cũ của tôi. Tôi vừa đến Giang Nam ông ấy đã đến thăm tôi, tôi không ghé thăm lại ông ta thì khó tránh có lỗi với cố nhân.

Nói đến đây, y hơi ngừng lại rồi dịu dàng nhìn Cao Văn Tâm nhẹ giọng bảo:

- Tôi đi ngủ một lúc đây, không cần kêu người hầu hạ. Nếu cô mệt rồi thì cũng nghỉ ngơi đi.

Đột nhiên Cao Văn Tâm nhớ đến một chuyện định kể cho Dương Lăng hay. Nhưng nghĩ lại chuyện này không có quan hệ gì với Dương Lăng và mình, hơn nữa một người con gái lại đi kể những chuyện này thực cũng khó mở miệng, thế là bèn gật nhẹ đầu. Đưa mắt tiễn Dương Lăng về phòng xong, bản thân nàng cũng thu vén y phục rồi nằm lên giường, mở mắt nhìn lên mui thuyền, không ngờ lại nhớ đến việc kỳ lạ nọ.

Hôm nay Mạc phu nhân trở về từ nha môn của Bố chánh sứ, dáng điệu và vẻ mặt hơi khác thường. Mặc dầu người thường không thể nhận thấy sự khác biệt nhưng Cao Văn Tâm lại nhìn ra nguyên do. Nàng thấy vị Mạc phu nhân đó hai má đỏ bừng, mày mềm như nước, dáng đi dịu dàng mềm mại, không khỏi cả kinh trong lòng.

Với sự hiểu biết y học về cơ thể con người, nàng biết rõ khi dáng đi và vẻ mặt của một người phụ nữ đột nhiên xuất hiện dị trạng như vậy chắc chắn là cô nàng vừa mới trải qua một cuộc mây mưa.

Mạc công công là người đã bị hoạn, hắn lại đã cùng Dương Lăng chèo thuyền dạo Thái Hồ. Mạc phu nhân đi một mình từ nha môn Bố chánh sứ về, mặt mày tràn trề lạc thú giống như mới vừa giao hoan với người khác, chẳng lẽ thị ta không giữ đạo làm vợ, lén chồng vụng trộm hay sao?

Cao Văn Tâm vắt tay lên trán ngẩn ngơ suy nghĩ một hồi, rồi mới thở dài u uẩn: "Bỏ đi! Tuy rằng việc này tổn hại lễ giáo nhưng đó chỉ là chuyện riêng nhà người ta. Mình muốn kể cho lão gia nghe cũng ngượng mở miệng. Chuyện mình còn chưa đủ lao tâm sao, còn quản chuyện đâu đâu của người ta làm gì chứ?"

"Chao ôi... lão gia rõ ràng cũng... cũng có tình ý với mình, vì sao không chịu tiếp nhận mình vậy? Bởi vì mình đang là nô tì ư? Không! Không phải! Y không phải là người như vậy. Y nói là có bí mật, rốt cuộc y có bí mật gì mà lại khiến y không chịu tiếp nhận mình nhỉ?"

Cao Văn Tâm nằm trên giường, tai nghe tiếng nước rì rào, sóng lòng cũng dâng trào theo. Suốt chặng đường dài nàng cứ trằn trọc băn khoăn suy nghĩ không ngừng đến vấn đề này, thuỷ chung khó lòng yên giấc.

...

Dương Lăng đang khoác hờ chiếc áo khoác dài đen màu mực đứng trong đình Quan Triều (trạm xem thủy triều) dưới gò Trấn Hải, trấn Diêm Quan, huyện Hải Ninh. Cao Văn Tâm duyên dáng đứng sau lưng y; Mạc Thanh Hà, Mạc phu nhân, huynh muội Trương thiên sư, Diêm vận sứ Mẫn đại nhân cùng Chủng thiên hộ trú đóng tại đây và mấy diêm thương lớn của địa phương cùng đứng bên cạnh.

Mẫn Văn Kiến đứng nghênh sóng, há miệng cười to:

- Dương đại nhân! Thủy triều lớn ở Hải Ninh thời tháng tám cao đến mấy trượng, tiếng sóng như sấm rền, vô cùng hoành tráng, bây giờ ngài đến xem thì thủy triều không thể sánh bằng. Tuy nhiên hiếm khi đại nhân ghé thăm một chuyến nên thế nào ngài cũng phải xem một chút mới được.

Tuy rằng Mẫn Văn Kiến không hề có ý nghĩ bám vào quyền quý, nhưng giao tình hai người không nhạt. Hôm nay cố nhân đã làm quan lớn đến như vậy trong kinh sư lại đặc biệt đến đây thăm mình, trong lòng lão cảm thấy vinh hiển vui sướng cũng là thường tình, cho nên mặt mày rất là hớn hở.

Đến thăm Hải Ninh lần này, ngoài việc viếng thăm Mẫn huyện lệnh có ơn tri ngộ với mình ra, thật sự Dương Lăng còn có tính toán khác. Y đã phái người về kinh bẩm báo với Hoàng thượng về hành vi phạm pháp của Chỉ huy sứ Tư Tất Xuân của Long Sơn vệ và thuế quan trấn thủ Viên Hùng.

Thuở trước, lúc còn ở Kê Minh dịch y đã gặp Tất Xuân, biết rõ kẻ này tuyệt không phải là người dễ đối phó. Đặc biệt là đội thân binh bảo vệ gần hai trăm người của gã, ai nấy đều kiêu dũng thiện chiến và còn hết lòng trung thành với Tất Xuân. Về phần Viên Hùng, hắn đặt trạm thu thuế khắp nơi, dưới tay có một đám lưu manh trộm cướp, cũng không thể nào là kẻ bó tay chờ chết. Tội danh hai kẻ này một khi được xác lập thì sẽ là đại tội tử hình, cho nên không thể không đề phòng bọn chúng chó cùng rứt giậu.

Lúc Dương Lăng chưa rời kinh đã nghe Ngô Kiệt báo cáo ở vùng Giang Chiết từng có quan tướng phạm vào tội chết bèn liều mình dẫn thân quân giết quan tạo phản, cướp quân nhu khí giới trốn ra biển gia nhập hải tặc. Nếu như Hoàng đế hạ chỉ giao Dương Lăng bắt người, y cũng không biết tướng lĩnh vệ sở phụ cận có phải cùng một giuộc với Tất Xuân hay không, cho nên để không rò rỉ tin tức, đương nhiên y không thể dùng người của bọn họ.

Nếu chỉ mang ba trăm thân quân của y tấn công vào đại doanh có gần ba ngàn người của Tất Xuân, vạn nhất Tất Xuân cả gan cương quyết chống lại thì chắc chắn y không đàn áp nổi mà e rằng còn bị cắn trả. Cho nên lúc trước khi nghe Mẫn Văn Kiến nói nơi đây có đội "hộ diêm binh" (quân bảo vệ việc vận chuyển muối; đồng thời kiểm tra, giám sát việc buôn lậu muối) khoảng chừng hơn ba trăm người, sức chiến đấu so với lính vệ sở bình thường còn cao hơn một chút, Dương Lăng liền lưu ý ngay.

Y phái Liễu Bưu nghe ngóng, biết được còn có một Thiên hộ sở đồn trú nơi này. Nói là Thiên hộ, thật ra cũng chỉ có hơn năm trăm người, quân số thiếu mất một nửa; nhưng lúc nguy cấp y vẫn có thể xin thánh chỉ giành quân đoạt soái của nó, để Mẫn Văn Kiến nắm đội quân này trong tay, phối hợp với y bắt Tất Xuân và Viên Hùng.

Lần này đến đây, Dương Lăng mượn cớ duyệt binh, yêu cầu Mẫn Văn Kiến và Chủng thiên hộ điều toàn bộ ba trăm hộ diêm binh và năm trăm quan binh vệ sở đến bên sông. Y dự định sau khi xem thủy triều xong sẽ cho bọn họ diễn tập, xem thử sức chiến đấu của bọn họ như thế nào.

Dương Lăng có trách nhiệm đốc sát văn võ bá quan, lại là thống lĩnh thân quân thị vệ của Hoàng đế, nên dẫu rằng chưa xin thánh chỉ thì việc khảo sát chiến lực quân đội với quy mô nhỏ như vậy cũng không bị xem là vượt quá phép tắc.

Mạc công công bó ống tay áo đứng một bên, có phần không hào hứng gì. Lần này Dương Lăng đột nhiên thay đổi lộ trình, ghé Hải Ninh thăm viếng bạn bè mà không hề thông báo cho hắn biết trước nên trong lòng hắn ít nhiều có phần không vui; cộng thêm thủy triều tháng mười thua xa thủy triều tháng tám rất nhiều nên hắn cũng không có hứng thú để xem, vì thế hắn lui về phía sau tránh gió chứ không đứng ở phía trước.

Mấy diêm thương lớn đều nằm dưới sự cai quản của hắn, dĩ nhiên phải cùng đứng cạnh hắn, không ngừng chào hỏi Mạc gia này nọ. Mạc Thanh Hà cũng chỉ tiếp chuyện qua loa.

Người địa phương không có hứng thú mấy với thủy triều sớm của tháng mười. Nhưng mà lần này gần ngàn quan binh đang đứng thẳng tắp bên bờ sông chờ đợi kiểm binh. Đây đúng là cảnh tượng hiếm có, cho nên không ít người dân lẫn phú hộ trong trấn cũng chạy đến bờ sông tụ tập xem náo nhiệt. Trong chốc lát, khí thế ấy thực giống như lúc xem thủy triều tháng tám.

Gió mạnh dần lên, Mẫn Văn Kiến phấn khởi tinh thần, nói:

- Đại nhân xem kìa, thủy triều đến rồi.

Dương Lăng nheo mắt nhìn ra xa, từ chân trời phương đông của dòng sông mênh mông mơ hồ vọng đến âm thanh dồn dập. Nơi cuối tầm mắt có một đường kẻ trắng, theo âm thanh rì rầm mỗi lúc một to, đường kẻ trắng hoá thành một dải lụa trắng vắt ngang sông, cuồn cuộn kéo tới gần. Những tiếng rầm rầm như sấm nổ vang lên liên miên không dứt.

Mẫn Văn Kiến căng họng át tiếng thủy triều trên sông, cả tiếng:

- Dương đại nhân, Trương thiên sư! "Bảo Tháp Nhất Tuyến Triều" ở Diêm Quan này hùng tráng lắm đó. Tiếc rằng hôm nay thủy triều hơi nhỏ, không đủ hùng tráng.

Lão nói hôm nay thủy triều hơi nhỏ, nhưng chỉ trong chốc lát nước sông đã dâng cao mãnh liệt. Trong khoảnh khắc, dải lụa sóng lớn màu trắng biến thành một bức tường nước sừng sững cao hơn mấy mét. Tiếng thủy triều như hàng vạn con ngựa tung vó phi nhanh, như sấm bên tai. Trông thấy cảnh tượng đặc sắc chưa bao giờ thấy qua này, Dương Lăng và Trương thiên sư đều vui vẻ hào hứng, khen không ngớt miệng.

Đỉnh triều đập vào đê, tung bọt sóng lên cao ngất. Đầu sóng trắng xoá như tuyết, tựa như núi tuyết non băng, khiến cho lòng người rúng động. Lúc triều sông vỗ vào trước đê, một tiếng sét gầm vang, đầu con sóng triều bất ngờ dựng thẳng, trong nháy mắt bụi nước ngập trời, ngọn gió mang chúng ào đến mọi người, đem đến một luồng không khí ẩm ướt, dễ chịu sảng khoái. Trương Phù Bảo thích thú chen đứng đằng trước thế là hứng trọn bụi nước, không khỏi nhếch nhác lui về phía sau khiến Dương Lăng và Trương thiên sư lớn tiếng cười to.

Trương Phù Bảo hậm hực hừm một tiếng, lấy ống tay áo của anh mình lau mặt, song lòng hứng thú xem thủy triều lại không hề giảm. Một khi sóng trước rút về, nó sẽ trở thành vật cản đối với sóng sau; từng cơn sóng triều va vào nhau, sóng trước bị ngăn, sóng sau lại bung lên, sóng này cao hơn sóng kia. Tuy không có sóng cả mạnh nhất làm rung động lòng người, nhưng cũng là những đỉnh sóng thẳng đứng, hùng dũng tung trào.

Dương Lăng thấy mặc dù sóng không cao lắm, nhưng hôm nay gió lớn thổi xuôi, luôn bắn những bụi nước li ti tới, y bèn cố ý đứng chếch phía trước Cao Văn Tâm, che chắn hơi nước cho nàng. Cao Văn Tâm nhận thấy tâm ý của y, trong lòng không khỏi cảm thấy ngọt ngào.

Triều dâng tuy nhanh, nhưng rút đi cũng chóng. Mấy người ở vùng khác như Dương Lăng chưa từng thấy thủy triều sông Tiền Đường nên xem còn chưa đã mắt, thủy triều đã bắt đầu có dấu hiệu rút đi.

Lúc này Trương Phù Bảo mới quay đầu cười nói:

- Dương đại nhân! Nhớ lúc ở trấn Thượng Hải đại nhân từng nói Bạch Nương Tử hô phong hoán vũ, nước ngập Kim Sơn. Khi ấy tiểu nữ vẫn không tưởng tượng ra cảnh tượng đó phải hùng tráng như thế nào. Hôm nay được thấy thủy triều như thế này, mới xem như trong lòng tiểu nữ có chút hình dung.

Dương Lăng nghe xong cười lớn:

- Nào chỉ vậy, nào chỉ vậy! Sóng ấy có thể ngập cả chùa Kim Sơn, đỉnh sóng há chẳng phải còn cao hơn núi ư? Cô hãy tưởng tượng trên đầu ngọn sóng còn có rất nhiều binh tôm tướng cá, con thì cầm giáo, con thì cầm chùy, đứng trên đầu ngọn sóng...

Y vừa chỉ vào nước triều sông vừa cười nói. Đang nói hăng say, nụ cười trên khuôn mặt y bỗng dưng cứng lại. Y kinh ngạc chỉ tay về phía xa hỏi:

- Đó là gì vậy?

Nhìn theo hướng ngón tay y, mọi người cùng thấy phía cuối dòng thủy triều liên miên đang lờ mờ xuất hiện vài chấm đen. Trương Phù Bảo kinh ngạc cười nói:

- Lạ quá, lạ quá! Chẳng lẽ thật sự có binh tôm tướng cá đến sao?

Nhờ thủy triều và gió lớn, những chấm đen đó di chuyển rất nhanh, trong chốc lát đã thấy rõ điểm đen to nhất là một chiếc thuyền buồm. Có cảm giác chiếc thuyền nọ hơi vuông, trên thuyền căng cánh buồm đen rất to.

Mạc Thanh Hà trông thấy thất kinh, vừa sợ vừa giận kêu lên:

- Thật đáng giận! Cờ Bát Phan Đại Bồ Tát, đó là thuyền biển của bọn người Oa, mau hộ tống đại nhân rời khỏi đây!

Lúc này Mẫn Văn Kiến cũng đã nhìn rõ ký hiệu trên thuyền, cả kinh kêu to:

- Quả nhiên là giặc Oa đến. Bà mẹ bọn nó, lần này lại có nhiều giặc đến như vậy! Mau lên, bảo hộ khâm sai đại nhân và thiên sư rời khỏi nơi này!

Bọn họ đứng trên cao nên nhìn được xa, những người dân đứng trên bờ đê dưới lầu chỉ thấy có hơn hai mươi chiếc thuyền từ xa xa đi tới, họ chưa nhìn rõ ký hiệu trên thuyền nên vẫn không vội không hoảng mà vẫn đứng bên bờ sông.

Dương Lăng thấy vậy, nào chịu tự mình bỏ chạy. Huống chi hôm nay y vừa khéo đã điều cả quan binh ty Diêm vận lẫn vệ sở đến để duyệt binh, mọi người đều cầm sẵn vũ khí. Mặc dù trong ba trăm thân quân của mình có hai trăm người đã theo thuyền quan về Hàng Châu, nhưng tùy thân cũng còn một trăm quân tinh nhuệ, sức chiến đấu giờ đây gần sánh với ngàn người. Đối phương có hơn hai mươi chiếc thuyền, lớn có, nhỏ có, lớn có thể chứa ba trăm người, nhỏ thì cũng bốn năm chục, áng chừng nhân số tổng cộng cũng không quá nhiều, chưa hẳn đã không thể đánh một trận.

Dương Lăng lập tức quát lớn:

- Không được hoảng loạn! cả dân chúng và diêm thương trong đình lui xuống. Mẫn đại nhân, Chủng thiên hộ, lập tức ước thúc toàn quân, lập trận chặn địch. Trịnh Bách hộ, lập tức sơ tán bá tánh trên bờ.

Vị Chủng thiên hộ này cả người mặc khôi giáp sáng choang, vốn hôm nay gã định biểu lộ tài năng trước mặt đại nhân, nào ngờ lại gặp phải chuyện này. Trước kia chỉ có ba đến năm trăm tên giặc Oa đến bờ sông cướp bóc đã xem như rất nhiều giặc rồi. Lần này xem ra lại có cả ngàn tên giặc cướp trở lên, khiến gã sợ đến xanh mặt nhưng lại không dám tỏ ra sợ hãi, gã lật đật dạ một tiếng rồi xuống đình chỉnh đốn và tập hợp đội ngũ.

Mẫn Văn Kiến là tên lính điên do Tổng binh Đại Đồng - lão Đỗ điên - một tay nặn ra, thấy đánh nhau là hưng phấn khôn thôi. Khi xưa lão dám đơn thương độc mã đánh vào trong quân doanh Thát Đát, chém chết thân vương gia của bọn họ, thì làm sao thèm để ý đến mấy tên lùn này.

Lão cười ha hả:

- Mụ nội nó! Đã nói phải diễn võ cho khâm sai đại nhân xem, giờ đã biến thành động đao động thương thật rồi. Mỗ lập tức xuống dưới. Dương đại nhân hãy xem oai phong của đại đao ta đây!

Vừa nói lão vừa chạy thình thịch xuống lầu. Mạc Thanh Hà mặt mày tái mét, miệng méo xệch:

- Diệt trừ giặc Oa không phải là trách nhiệm của đại nhân. Đại nhân nên mau lánh khỏi đây một chút đi. Nếu đại nhân có mệnh hệ gì, ti chức vạn lần không đảm đương nổi đâu.

Dương Lăng liếc sang Cao Văn Tâm, bảo:

- Văn Tâm! Cô hãy cùng Mạc phu nhân và Trương tiểu thư mau chạy về trấn trước. Nếu như thủ không được, chúng ta sẽ lập tức dùng khoái mã rời khỏi đây.

Cao Văn Tâm ưỡn ngực đáp:

- Lão gia ở đâu, tiểu tỳ ở đó. Tiểu tỳ không đi!

Dương Lăng giậm chân quát:

- Làm chuyện vô nghĩa, chỉ là ngu xuẩn thôi! Cô ở lại thì có tác dụng gì? Cô xông trận giết giặc được sao?

Cao Văn Tâm hiên ngang đáp:

- Đại nhân là nho sĩ, chẳng lẽ xông trận giết giặc được sao? Người lâm trận không lui là vì muốn trấn định lòng quân. Còn tiểu tỳ là nữ nhân, lâm trận không lui, là vì muốn cùng... cùng đại nhân đồng sanh cộng tử!

Dương Lăng ng thế sững người, nhất thời không đáp lại được. Mặc dù mặt hoa tái nhợt nhưng Trương Phù Bảo nghe Cao Văn Tâm nói như vậy, lại thấy tuy anh mình mặt mày căng thẳng nhưng cũng không có ý định đào tẩu, thế là cô bèn nổi dũng khí:

- Đại nhân không đi, ta cũng không đi. Trấn này có rất nhiều tín đồ của Thiên Sư đạo ta. Đêm qua khi chúng ta đến trấn, bọn họ đã quỳ lễ cầu phước với Thiên sư, vô cùng tôn kính. Nếu như hôm nay chúng ta lùi bước thì còn mặt mũi gặp lại bọn họ sao?

Lúc này, theo tiếng hò hét kêu gọi của nha sai Nội xưởng, dân chúng bên bờ sông đã biết xảy ra chuyện gì nên bắt đầu dìu già dắt trẻ, kêu cha gọi mẹ, vừa la vừa khóc tranh nhau xuống đê, chạy thục mạng về trấn.

Chủng thiên hộ triệu tập binh sĩ của gã lại, tập hợp phía bên phải bờ đê. Mẫn Văn Kiến vẫn mặc trang phục quan văn (xem ra lão này thích mặc đồ quan văn đánh giặc), vác cây đại đao vốn là chiêu bài của lão, dẫn một đám diêm binh ăn mặc lộn xộn đứng mé trái phía trước đê.

Những chiếc thuyền của người Oa nương theo nước sông đi thẳng vào bờ. Bọn chúng vừa hò hét vừa nhảy xuống thuyền, tụm ba tụm năm thành từng nhóm lao lên bờ. Dương Lăng thấy trang phục của bọn giặc Oa này hết sức hỗn tạp, có tên mặc Oa phục, có tên mặc Hán phục, có tên mặc áo bào văn sĩ, nhưng lại nhét vạt áo trong thắt lưng. Thậm chí còn có mấy tên mặc cả đồ phụ nữ, đủ thấy cuộc sống lăn lộn trên biển của đám giặc Oa này cũng chẳng tốt đẹp gì.

Mặc dù áo quần không đồng bộ, vũ khí trong tay cũng đủ loại mẫu mã, nhưng những tên hải tặc tạp nham này ai nấy đều hung hãn dũng mãnh, hành động cũng nhanh nhẹn vô cùng.

Nha sai nội xưởng chỉ có trăm người, trong đó có hai mươi cung tiễn thủ, toàn bộ đều đang đứng dưới đình Quan Triều không dám rời khỏi. Dù sao toàn bộ những nhân vật quan trọng nhất đều đang ở trên lầu, nếu lỡ có sơ suất gì thì bọn họ đều sẽ rơi đầu. Bây giờ đang có quân đội của vệ sở ở đây, bọn họ vui lòng lui về vị trí hậu bị, chỉ bảo hộ đại nhân.

Không ngờ giặc Oa mới vừa xông lên bờ, quan binh vệ sở đã có người hét lên một tiếng, không xông lên mà lại quay đít bỏ chạy.

Đứng trên đình thấy thế, lỗ mũi Dương Lăng thiếu chút nữa xịt khói. Lúc này số giặc Oa vừa đổ bộ không đông, chỉ cần một trận loạn tiễn chăm sóc hoặc giả trực tiếp đưa quân tập kích phủ đầu, đều có thể chiếm được tiên cơ. Chút đạo lý hiển nhiên này cũng không hiểu, đây là thứ quan binh gì vậy?

Không nén được giận dữ, Dương Lăng đập tay mạnh xuống thành lan can, lạnh lùng quát xuống đình:

- Kẻ nào lâm trận bỏ chạy, giết không tha!

- Dạ! Kẻ nào lâm trận bỏ chạy, giết không tha!

Trịnh bách hộ vung tay, mấy tay nha sai lập tức giương cung lắp tên, bắn thẳng vào phía tên quan binh vệ sở tranh chạy trước tiên. Loại tên do những nha sai này dùng đều là Nhiếp Hồn Hưởng tiễn (tiếng tên khiếp hồn), là loại tên mà Dương Lăng kiếm được từ chổ Cẩm Y vệ lúc y huấn luyện thân quân. Khi tên được bắn ra sẽ phát nên tiếng rít sắc bén, có hiệu quả chấn nhiếp hồn vía người ta.

Mấy cung tiễn thủ này đều là thần tiễn thủ trăm người chọn một, tên bay người ngã, khiến đám quan binh vệ sở đang chạy theo tên nọ đều sững sờ khiếp sợ. Đến khi nghe nha sai Nội xưởng giống như hung thần ác sát quát tháo bọn họ:

- Kẻ nào lâm trận bỏ chạy, giết chết không luận tội!

Cả bọn đành phải sợ sệt quay trở về.

Lúc này Mẫn Văn Kiến đã dẫn diêm binh xông lên tiền tuyến. Diêm binh của lão không có cung tên, chỉ có thể giao chiến trực diện với giặc Oa. Giặc Oa lập thành nhóm hai ba tên phối hợp rất ăn ý: trong lúc vờn quanh, chúng thường xuyên thừa lúc đối phương không đề phòng cả bọn cùng đột nhiên ra tay tấn công mãnh liệt.

May mà những diêm binh này chuyên hộ tống diêm đội, trèo non lội suối, thường hay chiến đấu cùng giặc sông cướp núi nên cũng giỏi quần công. Mặc dù sát khí tàn bạo hơi kém đối phương, nhưng có Diêm vận sứ Mẫn đại nhân vung cây đại khảm đao nặng mấy chục cân xông lên phía trước như một con mãnh hổ nên nhuệ khí cũng dâng cao vô cùng, do đó bọn họ vẫn có thể chống đỡ ngang ngửa với giặc, không hề lùi bước.

Thấy những quan binh vệ sở mặc dù đã quay trở lại nhưng vẫn co cụm sợ sệt, không dám tiến lên phía trước, Dương Lăng giận sôi máu. Lúc này lại không phải là lúc chỉnh đốn quân đội, y chỉ đành hô gọi Trịnh bách hộ:

- Trịnh bách hộ! Dẫn người của ngươi xông lên cho ta, bảo Chủng thiên hộ bắn tên yểm trợ!

Trịnh bách hộ nghe thế vội thưa:

- Đại nhân! Chức trách của ti chức là bảo vệ đại nhân, trước mắt bên cạnh đại nhân chỉ có hơn trăm thân binh này, ti chức không dám rời xa!

Dương Lăng cả giận, gắt:

- Nếu ngươi không đi, tatự đi!

Hết cách, Trịnh bách hộ đành hậm hực giậm chân, giữ hai mươi cung tiễn thủ ở lại bảo vệ đình Quan Triều, còn bản thân bạt đao dẫn tám mươi tay lính khoẻ xông lên trước.

Vị Chủng thiên hộ đang đứng đực ở đó, nay nghe Dương Lăng truyền lệnh bắn tên mới như từ trong mơ bừng tỉnh lại, ra lệnh cho quan binh lập tức bắn tên.

Bọn họ bày trận phía rìa cùng bờ bên phải. Chỗ đó gần bờ có mấy tảng đá to, nước sông lại khá thấp nên chiến thuyền của người Oa không cập bến ở chỗ bọn họ. Hơn nữa bọn họ không hề chủ động công kích nên đám giặc Oa xông lên bờ chỉ tấn công diêm binh của Mẫn Văn Kiến và thân quân của Dương Lăng, tạm thời còn chưa "chiếu cố" đến bọn lính này.

Vì vậy bọn quan binh vệ sở dư dả thời gian chuẩn bị cung tên. Chỉ thấy mấy ông lính này dù đang căng thẳng song vẫn ung dung giương cung, lắp tên, kéo dây, bắn tên. Một tiếng "tách" vang lên, tên bắn ra hàng loạt, một trận mưa tên ùn ùn kéo đến bắn vào đám giặc Oa đang ào ào nhảy khỏi thuyền.

Ở trong đình, Dương Lăng thấy vậy cười to. Trận mưa tên này thể nào cũng có thể bắn chết và bị thương khoảng trăm tên giặc Oa, có thể gọi là "Cập Thời Tiễn Vũ" rồi.

Cơn mưa tên đó bắn khắp các thuyền, ít nhất có một nửa bắn trúng người giặc Oa. Nhưng khi tên nhọn vừa chạm vào người chúng thì lại trượt xuống quần áo, có mấy mũi bắn trúng nón rộng vành của người Oa, cắm đong đưa trên đó mà chẳng hề gây thương tổn gì tới người. Phóng mắt nhìn khắp trận tuyến, dường như trận mưa tên này không làm cho tên giặc Oa nào bị thương cả.

Dương Lăng và Trương thiên sư đứng trên đình trông thấy mà sững sờ. Bọn họ há hốc mồm kinh ngạc nhìn cảnh tượng kỳ lạ này. Mãi lâu sau hai người mới đưa mắt nhìn nhau, sau đó đồng loạt nhảy dựng lên như thể bị lửa đốt mông, la lớn:

- Sao lại như vậy được! Chẳng lẽ bọn người Oa đều đao thương bất nhập sao?

Chú thích:

do thủy triều tại đoạn đê biển phía Đông Nam trấn Diêm Quan huyện Hải Ninh là điểm đẹp nhất, thủy triều giăng thành một đường kẻ đặc sắc, nên mới có tiếng khen là 'Hải Ninh Bảo Tháp Nhất Tuyến Triều'.

Trong tác phẩm Thuỷ Hử, Tống Giang có biệt hiệu là Cập Thời Vũ (mưa thuận, hay mưa đúng lúc). Ở đây tác giả mượn chữ để mô tả trận mưa tên đúng lúc.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 130: Đại chiến ven sông tiền đường

Trận mưa tên của vệ quân không những hoàn toàn không hề có lực sát thương chút xíu nào mà ngược lại còn kích thích hung tính của giặc Oa[1] bộc phát. Hơn hai chục tên giặc Oa hò hét xông vào đám quan binh vệ sở[2]. Cầm đầu là một tên giặc Oa có thân hình khá thấp nhưng sức bật nhảy lại vô cùng kinh người, trên bãi sông cát lún mà gã vẫn nhảy nhót như bay.

Gã cầm trên tay một thanh Oa Đao[3] dài, đơn thương độc mã xông vào giữa đám quan binh kia, hống to một tiếng rồi bỗng nhảy bật lên, ánh đao như nước chảy bổ thẳng xuống. Đối mặt gã là một tên quan binh cầm thương, nhưng tên này không giơ thương lên để đâm, cũng không hoành thương để đỡ, mắt vừa thấy tên người Oa[4] đang xông đến này vô cùng hung hãn, hắn đã hét to một tiếng rồi vứt thương quay người tháo chạy.

Nhát đao của tên giặc Oa kia chém thẳng xuống từ vai đến lưng, bổ chéo tên binh sĩ muốn tháo chạy kia thành hai mảnh. Tiếp đó gã lại giống như một con ếch, vừa nhảy vừa tung người tả xung hữu đột giữa đội ngũ vệ quân, vung đao nhá trên phạt dưới, nhất thời chém giết làm trận tuyến của đám quan binh nhát gan kia rối loạn cả lên.

Lúc này đám giặc Oa cầm các loại vũ khí xếp thành một hàng dài rồng rắn từ phía sau cũng xông đến. Chủng Thiên tổng đứng ở phía sau vung đao quát lớn:

- Xông lên!

Thế nhưng khí thế đám quan binh đã bị đoạt mất. Bọn chúng hoàn toàn không còn ý chí chiến đấu, vừa thấy có người bị giết chết thì nhất tề hét to, đồng loạt quay người bỏ chạy về trấn, cuốn Chủng Thiên Tổng và mấy tên thân binh lùi về phía sau một khoảng.

Đám diêm binh ở phía kia chẳng qua chỉ ba trăm người, nhưng cũng chiến đấu ngang sức ngang tài với đám giặc Oa có cùng quân số. Còn năm trăm quân chính quy ở bên này chỉ phải đụng độ với hai mươi tên giặc nhưng chỉ vừa mới giao chiến với địch một hiệp, chỉ bị giết một tên lính thì cả bọn đã tháo chạy! Trong lòng Dương Lăng – người hoàn toàn không hiểu gì về quân đội Giang Nam - chỉ cảm thấy phẫn nộ, kinh ngạc đến cực điểm: "Sao có thể như vậy? Năm trăm người chiến đấu với hai mươi người thôi, dù đè cũng đè bọn chúng đến chết, mà chỉ giao phong một hiệp thì toàn quân đã tan tác tháo lui?"

Huyệt Thái Dương của Dương Lăng giật thình thịch, gân xanh trên trán cũng nổi lên, lúc này lòng hận thù với giặc Oa cũng không bằng sự phẫn nộ vì người của mình chẳng có chí khí. Dương Lăng quay người định xông xuống đình, Mạc Thanh Hà nhanh tay kéo y lại, vội vàng cản:

- Đại nhân! Quân tâm của vệ quân Giang Nam luôn rời rạc mà người Oa lại hung ác tàn bạo, cho nên mỗi khi gặp địch, thường thường vừa nhìn thấy địch thì họ đã sợ, không chiến đấu mà chỉ tháo chạy. Bây giờ vệ quân đã tháo lui, hoàn toàn không kịp chỉnh đốn đội ngũ, đại nhân tuyệt đối không được xông lên phía trước, nếu như ngài có mệnh hệ gì thì chúng tôi thật sự đi đời.

Dương Lăng nghe vậy thì đầu óc tỉnh táo trở lại, nhớ tới những lời mình giảng giải với chúng tướng khi mình dẫn quân luyện tập trong núi. Bây giờ bản thân mình đã làm chủ soái, thủ ở đây chỉ huy còn có tác dụng hơn hẳn việc làm một tên sĩ tốt xung phong đi đầu giết địch. Hơn nữa nếu như quả thật bản thân mình bị giết chết thì chí ít thân binh mà mình dắt đến cũng sẽ không còn tiếp tục tử thủ không lùi nữa.

Nghĩ đến đây Dương Lăng dừng bước lại, lao lên phía trước đình quát đám sai nha đang lắp tên vào cung sẵn sàng đợi địch ở phía dưới:

- Tất cả các ngươi lên đây cho ta!

Ở phía kia, hơn hai chục tên giặc Oa đang đuổi theo năm trăm tên vệ binh giống như thủy triều lên. Nhìn thân thủ của bọn chúng thì cũng chỉ có tên giặc Oa đánh tiên phong lúc nãy là võ nghệ cao cường, còn bọn ở phía sau đều bình thường, nhưng đám vệ quân sợ vỡ mật đều có ý nghĩ để người khác chịu chết còn mình thì tháo chạy. Rõ ràng là bọn lính chỉ cần lấy hết dũng khí quay lại chiến đấu thì đủ để lấy ưu thế số đông tiêu diệt đám giặc Oa này, nhưng bọn họ chỉ biết ôm đầu tháo chạy.

Làm cho Dương Lăng hơi ngạc nhiên là Chủng Thiên tổng thoạt nhìn có vẻ nho nhã kia lại không thoái lui. Gần hai chục tên thân quân do gã thống lĩnh bị quan binh quân mình xông vào làm rối loạn đội hình nên bất ngờ không kịp đề phòng bị bọn giặc Oa đuổi đến chém chết vài người. Nhưng tiếp đó gã lại vung đao dẫn quân xông lên.

Dương Lăng thấy vậy thần sắc không khỏi lộ ra vẻ vui mừng: Còn may, tuy rằng đám binh lính này không có chí khí, vị Chủng Thiên tổng kia cũng không biết chỉ huy tác chiến, nhưng ít ra còn biết tận trung làm tròn chức trách.

Do Dương Lăng được cử thẳng một lèo lên chức Tham tướng, hoàn toàn không phải từ cơ sở thăng tiến dần dần mà lên, nên y làm sao biết được vị Thiên tổng đáng thương này quyết chiến không lùi, nguyên nhân thực sự không phải là muốn làm tròn trách nhiệm gì, mà là bởi vì Dương Lăng – quan khâm sai - còn tọa trấn ở đây.

Quan binh của vệ sở vốn có trách nhiệm giữ đất, nếu như lâm trận tháo chạy thì còn có thể nói dối bên trên rằng thế địch quá mạnh, không thể không lùi. Nhưng hôm nay lại có một vị khâm sai đến đây, hơn nữa vị khâm sai này lại thủ ở phía trước không đi; nếu như Chủng thiên tổng bỏ quan khâm sai lại mà tháo chạy thì chắc chắn gã phải bị chém đầu cách chức.

Lùi cũng chết, không lùi cũng chết (trong lòng Chủng Thiên tổng vốn không cho rằng mình là đối thủ của đám giặc Oa hung tàn này), nhưng ít ra không lùi thì còn được tiếng tốt, người nhà cũng không bị liên lụy. Bởi vì vậy nên thần sắc Chủng thiên Tổng rất bi phẫn, gã vừa chửi thầm tám đời tổ tông của Dương Lăng trong bụng, vừa vung đao liều mạng với đám quỷ tử[6].

Còn nguyên nhân mà thân binh của gã cũng không lùi thì lại cũng giống như của gã. Theo luật pháp Đại Minh, nếu như tướng lĩnh chiến đấu hy sinh mà thân binh không việc gì thì tên thân binh đó cũng bị chặt đầu. Cho nên hai chục tên thân binh này cũng vừa chửi thầm tám đời tổ tông của Chủng thiên tổng vừa liều chết kháng cự.

Lúc nãy năm trăm quân bị hai chục tên giặc Oa lao vào đánh cho tan tác phải tháo chạy thục mạng, còn bây giờ hai chục chiến đấu với hai chục, trong lúc nóng lòng liều mạng, bọn họ lại có thể địch được với đám giặc Oa kia.

Dương Lăng thấy vậy trong lòng cũng hơi yên tâm, đợi hai chục tên sai nha lên trên đình, Dương Lăng chỉ về phia trước, hạ lệnh:

- Muốn bắt giặc, trước hết phải bắt tướng! Các người đừng có hoảng, nhìn thật kỹ cho ta, chọn đám người Oa cầm cờ, cầm quạt mà bắn cho ta.

Dương Lăng đứng ở trên cao, chỉ trong chốc lát y đã phát hiện đám giặc Oa lập thành từng nhóm ba hay năm người xông vào đội ngũ của đám Diêm binh chém giết, thoạt nhìn có vẻ hỗn loạn không ra chương pháp nhưng thực ra đằng trước luôn có một người cầm cờ có hình dáng kỳ quặc hoặc một người một tay cầm đao một tay cầm quạt. Chỉ cần bọn chúng vung cờ hoặc quạt lên, đám tiểu đội người Oa đều nhất tề hét lớn, thanh thế kinh người đồng thời múa tít vũ khí tấn công, đến lúc hơi mệt thì cùng chuyển sang đánh cầm chừng, vờn quanh thủ thế đợi hồi phục sức lực.

Đám sai nha nghe lệnh tiến lên phía trước đình, chuyên chọn những người có vẻ là thủ lĩnh của người Oa để hạ thủ. Ám tiễn của bọn chúng vừa chuẩn vừa độc, đám tiểu đầu lĩnh của giặc đang lớn tiếng hò hét vừa giết người vừa chỉ huy, thường thường không kịp đề phòng thì đã bị một mũi tên bắn trúng. Vốn tin pháp thuật, lúc nãy Trương Thiên Sư thấy cảnh đám người Oa bị trúng tên nhưng không hề bị thương tích gì thì kinh sợ vô kể. Bây giờ lại thấy đám người Oa cũng chỉ là người trần mắt thịt, cũng có thể bị giết chết như người thường, Thiên sư mới thở phào.

Lúc nãy Dương Lăng cũng giật mình sợ hãi, nhưng trong lòng y hoàn toàn không tin đám người Oa này biết thuật đao thương bất nhập gì. Nếu như bọn chúng thật sự biết loại công phu này thì hà tất còn phải mưu sinh trên biển nữa? Bọn chúng sớm đã có thể đánh thốc một mạch chiếm cả thiên hạ rồi.

Lúc này thấy đám thân quân của mình quả nhiên từng phát tên đoạt mạng bọn chúng, Dương Lăng càng tin vào phán đoán của mình. Chỉ là tại sao những phát tên của quan binh vệ sở lại không giết được bọn chúng thì y vẫn không thể hiểu được, thế nhưng lúc này cũng chưa có thể điều nghiên gì được.

Đầu lĩnh của đám giặc Oa này là một võ sĩ Nhật Bản sa sút tên Phì Tiền Thọ và một tên cướp biển Trung Quốc tên Trần Đông.

Đám giặc Oa này mỗi khi đến dịp xuân thu lại hóa thân thành hải tặc đến duyên hải cướp bóc, các mùa khác thì mua hàng từ những thương nhân phạm pháp Đại Minh vận chuyển về các vùng như Nhật Bản, Lã Tống[7]để kiếm chác những món lời lớn.

Gần một năm nay, chiến tranh tại đất Nhật Bản ngày càng kịch liệt, những lãnh chúa cần gấp một lượng hàng hóa và tiền bạc lớn để ổn định địa bàn của mình. Nhưng kể từ khi tướng quân Mặc Phủ Túc Lợi không còn xưng thần với Đại Minh, Đại Minh đã không còn khám hợp giao dịch[8] với Nhật Bản nữa. Các lãnh chúa, tướng quân bèn chỉ thị tay chân tham gia buôn lậu và làm hải tặc, cho nên bọn hải tặc thật sự đã bị giành mất mối làm ăn, khiến cho việc sinh nhai của bọn chúng ngày càng sa sút. Do vậy hai cánh hải tặc này bèn sát nhập với nhau để tăng cường lực lượng.

Kỹ thuật chế tạo thuyền chiến của bọn chúng vô cùng lạc hậu. Những chiếc thuyền đó đều dùng gỗ lớn đẽo thành hình vuông, khi đóng lại với nhau thì không dùng đinh sắt mà dùng các miếng sắt, không dùng các sợi đay và dầu trẩu để vá mà dùng rơm cỏ để chặn các khe hở, hoàn toàn không thể chống cự được thuyền lớn của quân Minh. Đặc biệt là chỉ cần thuyền Phúc[9] hay thuyền Quảng[10] tông nhẹ vào thì thuyền bè của bọn chúng sẽ vỡ tan như xác pháo. Không có ưu thế ở trên biển, bọn chúng chỉ biết lợi dụng đường duyên hải rộng lớn của Đại Minh để đi lại khắp nơi, lên bờ cướp giật.

Đây là chuyến ăn hàng lớn đầu tiên sau khi hai cánh đạo khấu này sát nhập. Vốn chúng nghĩ rằng lợi dụng thủy triều tấn công bất ngờ thì có thể cướp sạch Hải Ninh, không ngờ thuyền vừa mới cậpờ thì phát hiện quân Minh đã sẵn sàng chờ địch. Phì Tiền Hải và Trần Đông cũng thầm thất kinh, cho rằng âm mưu của mình đã bị lộ nên dừng thuyền chiến của hai người lại ở phía sau cùng, trước sau không dám dốc toàn bộ quân binh vào trận chiến để đề phòng bị trúng mai phục của quân Minh.

Hai người đứng trên đầu thuyền quan chiến, nhận thấy quân số của quân Minh trên bờ không nhiều, cách ăn mặc cũng không phải là quân đội chính quy, trong đám binh lính ăn mặc giống như Diêm binh còn có một người múa may một thanh đao lớn. Đại đao trên tay gã giống như cối xay gió, chỉ cần bị gã áp sát vào thì lập tức đao qua người chết, giống như hổ giữa bầy dê, tới đâu quét sạch giặc tới đó.

Phía trước Quan Triều Lầu có một nhóm quân binh áo xanh mũ nhỏ, toàn bộ dùng phác đao (đao thân dài hẹp bản, chuôi hơi dài, sử dụng bằng hai tay). Đám binh lính này tuy ít người nhưng ai ai cũng kiêu dũng thiện chiến, hơn nữa cả đội ngũ xếp thành một hình tam giác nhọn, giống như một mũi tên cắm thẳng về phía trước. Phương thức chia thành từng nhóm năm ba người quấy nhiễu, phá hoại đội hình địch mà bọn giặc Oa thường dùng hoàn toàn không còn tác dụng khi đối kháng với đội quân này. Thỉnh thoảng binh lính ở phía bên trong tam giác lại thò ra một khẩu hỏa khí nòng ngắn để giết địch, loại hỏa khí này không phải là thứ hỏa khí mà binh lính vệ sở duyên hải được trang bị.

Binh khí chủ yếu của giặc Oa là đao và cung, thỉnh thoảng cũng có vài hỏa khí tầm thường thô sơ. Nhưng đám hải tặc này tương đối nghèo khó. Trên biển ẩm ướt, bảo dưỡng cung tên không dễ, hơn nữa độ chính xác và lực sát thương của các mũi tên thô sơ cũng không cao, mà gỗ và đầu mũi tên của loại tên thượng hạng cũng tương đối đắt đỏ, cho nên bọn này cũng không được trang bị nhiều cung tên. Nhưng trường đao của bọn chúng lại vô cùng lợi hại. Trường đao Nhật Bản mà bọn giặc Oa sử dụng dài khoảng một mét bốn, gần như là dài gần bằng chiều cao của bọn người lùn. Chiều dài và trọng lượng của loại đao này gần như gấp đôi bội đao mà quân Minh thường dùng, hơn nữa còn có thể dùng hai tay để sử dụng. Đơn đao của quân Minh chỉ có thể dùng một tay sử dụng, nên sức mạnh, tốc độ và độ dài đều thua xa hẳn. Hơn nữa đao Nhật bản được chế tạo bằng kỹ thuật bọc thép của Đường đao[11], còn quân Minh thì do giá của đao bọc thép đắt đỏ, ngoại trừ sĩ quan ra thì đao được trang bị cho binh lính chỉ có phần lưỡi được bọc thép mà thôi. Khi thực lực của hai bên ngang bằng thì dù chưa đánh cũng có thể biết được ngay ai thắng ai thua.

Tuy nhiên, hôm nay bọn chúng không may gặp phải thân binh của Dương Lăng đều sử dụng phác đao chuôi dài, bọc thép toàn bộ. Phác đao dài một mét ba, hầu như không ngắn hơn đao của bọn chúng, hơn nữa người dùng đao đều là quân lính tinh nhuệ của kinh thành trải qua huấn luyện của cao thủ dùng đao từ Thiếu Lâm Tự và Cẩm Y vệ.

Đám sai nha này hoàn toàn không thèm để ý đến sự khiêu khích dụ dỗ của bọn giặc Oa, nhiệm vụ của bọn chúng là bảo vệ Dương Lăng cho nên tuyệt đối không thể phân khai. Trận hình do tám mươi người xếp thành giống như một mũi tên nhọn, tám mươi thanh đao lúc lên lúc xuống, đao trận di chuyển không ngừng, xông xáo dọc ngang giống như một chiếc máy xay thịt trên bãi cát trước Quan Triều đình, chỉ cần lại gần là bị loạn đao chém chết. Có tên giặc Oa cầm trường đao định lấy dài để chống ngắn, nhưng còn chưa kịp lại gần, một tên sai nha ở phía trong đội hình đã rút súng ngắn bắn cho hắn "nở hoa khắp mặt". Đám sai nha này mỗi khi di chuyển một vòng thì phía trong lại biến thành phía ngoài, vòng ngoài lại biến thành vòng trong. Sai nha ở phía trong thu đao đổi súng, vừa hồi phục thể lực vừa nhồi đạn dược sử dụng hỏa khí. Chính vì vậy bọn giặc Oa vốn chỉ được trang bị rất ít cung tên lập tức bị biến thành giống như quân Minh vệ sở mà trước đây bọn chúng từng đồ sát, hoàn toàn ở hẳn vào thế chịu đòn. Cho dù bọn hải tặc vốn dũng mãnh không sợ chết nhưng cũng không khỏi nảy ý định thoái lui.

Lúc này hai chục tên Thần xạ thủ bên cạnh Dương Lăng cũng phát huy hết mức tác dụng của những tay bắn tỉa. Bọn chúng vững vàng đứng ở nóc đình chỉ chú ý quan sát những tên giống như thủ lĩnh của giặc Oa, ngắm thật kỹ rồi mới bắn một phát tên. Bị mất thủ lĩnh, không chỉ chiến pháp của bọn giặc Oa hỗn loạn mà sự trấn áp về mặt tâm lý còn hơn hẳn sự sợ hãi với cái chết. Không đợi đại thủ lĩnh hạ lệnh, bọn chúng đã dần dần bắt đầu dồn dập thoái lui.

Tính đa nghi của người Oa vốn nặng, không chỉ Phì Tiền Thọ nghi thần nghi quỷ, mà đến hải tặc sinh trưởng tại Trung Quốc như Trần Đông cũng thầm sinh nghi, không rõ đám quan binh này có lai lịch như thế nào?

Phì Tiền Thọ thấy sức sát thương của viên quan văn cầm đại đao trong đội ngũ Diêm binh thực sự kinh người, quân Minh lại có ám tiễn bắn ra không ngừng, liền vẫy tay kêu người mang một cây cung cứng đến. Gã lắp tên vào cung, ngắm chuẩn Mẫn Văn Kiến, cũng muốn dùng ám tiễn bắn chết tướng lĩnh quân Minh.

Nhóm xạ thủ đứng trên đình thấy trên bãi cát không còn thủ lĩnh giặc Oa để ngắm bắn nữa bèn dần dần chuyển dịch mục tiên lên trên thuyền. Một tên chưởng ban (đội trưởng đứng đầu đám sai nha) quan sát thấy bọn giặc vây quanh hai người trên một con thuyền lớn đậu phía sau cùng, trong đó có một người đang giương cung lắp tên ngắm vào đám quân Diêm binh. Lập tức tên chưởng ban gọi một tên tiểu đội trưởng (dịch trưởng) lại, đổi lấy Bách Biến cung trên tay hắn. Loại cung này không phải là vũ khí trang bị cho quân đội phổ thông mà là một loại lợi khí do Cẩm Y vệ nghiên cứu chế tạo được: loại cung này có thể tùy ý tăng giảm dây cung, điều chỉnh sức mạnh của cung. Đổi lấy Bách Biến cung xong, tên chưởng ban lập tức điều chỉnh cung thành cung tam thạch[12], lắp một mũi tên lông điêu. Sử dụng hết sức lực toàn thân để kéo cung, hắn nhắm chuẩn vào trước ngực của tên đầu lĩnh người Oa đang giương cung kia bắn đi.

Tam thạch cung này rất hao tốn sức lực. Tuy đứng ở trên đình không bị bất kỳ uy hiếp gì nhưng cả hai chục người đều đã trải qua một thời gian dài phải cẩn thận ngắm chuẩn các tên thủ lĩnh người Oa rồi mới bắn tên nên lúc này cả bọn đều đã mệt đến mức tứ chi bải hoải, cả người rã rời. Tên chưởng ban này tuy trời sinh thần lực nhưng mũi tên vừa được bắn ra, cung cũng đã buông rơi xuống đất, cánh tay cũng rã rời.

Thanh đao trong tay của Mẫn Văn Kiến nặng đến bốn mươi cân, khi vung lên thì sức mạnh không phải chỉ có một hai trăm cân nữa. Nếu như triển khai thế đao mượn lực dùng lực thì đở phải tốn nhiều sức, cho nên để không bị bó chân bó tay cũng như để tiện sử dụng đao, lão vừa xông vào đám giặc Oa thì lập tức kéo dãn cự ly với đám Diêm binh thủ hạ của mình, tha hồ vung đao di chuyển chém giết. Cả bộ quan phục sớm đã bị vấy đầy máu tươi.

Phì Tiền Thọ đứng ở đầu thuyền giương cung nhắm tên vào Mẫn Văn Kiến. Nhưng Mẫn Văn Kiến đang xông pha chém giết không ngừng, thỉnh thoảng lại có tên người Oa chạy qua chạy lại chắn trước mắt hắn, cho nên rốt cuộc mũi tên của hắn vẫn còn chưa bắn đi được thì mũi tên của tên chưởng ban đã bắn tới. Vốn được ngắm vào ngực trái của Phì Tiền Thọ, nhưng khi tên rời khỏi dây cung thì hơi bị chấn động nên mũi tên liền bị mất độ chính xác, cắm thẳng vào vai của hắn.

Phì Tiền Thọ đang cảm thấy bả vai không còn sức để giương cung nữa bỗng một luồng lực lớn đẩy lùi hắn lại vài bước, lưng tông thẳng vào cột buồm một tiếng "bùng". Lúc này hắn mới cảm nhận được một cơn đau thấu tim gan, nhìn lại thì thấy một mũi tên sắc cắm vào vai phải xuyên qua phía sau vai, chỉ còn lại một đoạn lông điêu ở trước ngực.

Phì Tiền Thọ đau đớn la to "Ay da", tưởng chừng như ngất đi luôn. Trần Đông thấy vậy cũng hãi hùng, hoảng sợ ngồi thụp xuống, vội quát lớn:

- Mau, mau rút quân! Quân Minh đã đề phòng sẵn, lập tức rút binh.

Bọn giặc Oa xung quanh cũng giật mình kinh hãi. Chúng không ngờ khoảng cách xa như vậy mà quân Minh lại có thể bắn tên trúng đích, hơn nữa lực bắn lại uy mãnh bá đạo, có thể xuyên qua cơ thể con người, chứ không còn hời hợt như đám mưa tên lúc ban đầu. Hai tên lâu la vội vàng giơ ốc biển, nằm mọp trên mạn thuyền thổi lên "Tu tu".

Sớm đã có ý rút lui nên vừa nghe tiếng ốc biển vang lên, bọn giặc Oa trên bờ cảm thấy như được đại xá, lập tức quay người tháo chạy, hộc tốc trèo lên thuyền, hạ buồm, thả mái chèo xuống, vội vội vàng vàng khua chèo trốn chạy.

Hai chục tên giặc Oa đuổi theo bọn vệ quân bỏ chạy khi nãy đã chiến đấu hồi lâu với bọn người Chủng thiên tổng, chém giết đến sức cùng lực kiệt, bị thương lẫn chết chỉ còn lại bảy tám tên, còn Chủng thiên tổng dẫn theo ba tên thương binh vừa chiến vừa lùi. Đến lúc gió truyền tiếng ốc biển thu quân đến, bọn giặc Oa định quay người tháo chạy thì thấy chiến thuyền lớn bên sông đã đi đến giữa sông.

Bây giờ đã là lúc thủy triều xuống, nước đang rút nên thuyền đi khá nhanh, hơn nữa bọn giặc trên thuyền cũng đang dốc hết sức lực để chèo, cho dù bọn chúng có chạy đến bên sông thì cũng không thể đuổi kịp để lên thuyền. Lúc này từ trong trấn lại vang đến tiếng reo hò inh ỏi. Thì ra đám diêm thương lớn trong trấn biết rằng nếu như giặc Oa mà đánh được lên bờ thì những người bị tổn thất lớn nhất chính là bọn họ, nay lẵng lặng quan sát một hồi thì thấy quân Minh có thể chống đỡ được giặc Oa liền dẫn theo gia đinh, người hầu mang côn, gậy, cuốc, xẻng... chạy ra bờ sông trợ chiến.

Tên giặc Oa kiêu dũng nhất kia giết được năm, sáu tên thân quân, trên người cũng bị trúng hai đao. Tuy gã bị thương không nặng nhưng lại không được băng bó nên mất máu quá nhiều, đầu óc sớm đã choáng váng, lúc này vung đao lên giống như vờn múa, không còn thấy cái vẻ uy phong giống như sát tinh khi mới xông lên bờ. Gã bị bọn gia bộc của đám diêm thương vây quanh dùng đòn gánh, cuốc xẻng đồng loạt đánh ngã. Nếu như Dương Lăng không muốn giữ lại vài tên còn sống, cho người đến ngăn lại thì gã đã bị đập chết tươi.

Đầu tiên Dương Lăng dẫn người ra bãi cát xem xét. Ngoại trừ xác chết và thương binh khắp nơi, ở trên bờ còn có hơn bốn mươi tên người Oa bị thuyền giặc bỏ lại, bị tám mươi thanh đao thép kiềm chế, hoàn toàn không còn sức lực để kháng cự.

Dương Lăng nhặt một mũi tên mà quan binh vệ sở đã bắn lên quan sát. Nhận thấy mũi tên đó nhẹ tênh không đầy một lạng, y mới chợt hiểu tại sao những mũi tên này hoàn toàn không thể khiến giặc bị thương. Đám quan binh của vệ sở thường ngày chểnh mảng luyện tập, không kéo nổi cung, không bắn được tên nên để đánh lừa người khác, bọn chúng chỉ còn cách chế loại tên nhẹ tênh này. Tên thì bắn xa được rồi, nhưng lại quá nhẹ nên hoàn toàn không có lực, hơn nữa bên bờ sông lại có gió thổi mạnh, nói là bắn tên thì không bằng nói là thổi xuống, làm gì có sức sát thương cơ chứ?

Coi như đã biết được khả năng chiến đấu của vệ quân Giang Nam, Dương Lăng chỉ còn biết lắc đầu. Y căn dặn thuộc hạ quét dọn chiến trường rồi đích thân dẫn mấy tênbinh vội vàng đi về phía Chủng Thiên tổng. Lúc này Chủng thiên tổng mũ giáp xô lệch đang đứng ỳ một chỗ giống như đang nằm mơ, bắp tay bị trường thương đâm trúng, cả cánh tay nhuốm máu hồng nhưng tựa như gã không hề có cảm giác gì.

Từ trước đến nay, quan binh ở duyên hải sợ giặc Oa như sợ cọp. Sự sợ hãi đó phát xuất từ tận tâm can, vừa thấy bọn chúng thì thật là hồn bay phách tán, hoàn toàn không còn dũng khí để chiến đấu. Hình ảnh hai trăm tên giặc Oa đuổi hai nghìn quan binh chạy loạn khắp rừng khắp núi giống như sói đuổi đàn dê cũng không phải là cảnh hiếm thấy gì. Hôm nay, nhân số tương đương nhau lại có thể chiến đấu ngang sức với bọn chúng lâu như vậy, còn đích thân giết chết bốn tên giặc Oa, xem ra bọn chúng cũng chẳng phải tài giỏi gì, dũng khí và tự tin của Chủng thiên tổng lập tức tăng cao vùn vụt. Cũng đến lúc này gã mới bực tức nghĩ đến năm trăm tên binh lính khiếp nhược chỉ biết ăn chứ chẳng biết đánh chác gì của mình.

Dương Lăng đi đến trước mặt mấy tên người Oa bị đánh đến rách đầu chảy máu, nhìn chòng chọc vào tên người Oa một đao chém chết binh lính Minh, một mình xông vào trong đội hình của quân Minh, hỏi:

- Có biết nói tiếng Hán không? Thủ lĩnh của các ngươi là ai?

Chú thích:

[1]giặc Oa: (tức giặc lùn)chỉ hải tặc Nhật Bản quấy nhiễu cướp bóc duyên hải TQ thế kỷ 146.

[2]Vệ sở: Quân đội triều Minh thực thi biên chế "Chế độ Vệ Sở", tổ chức quân đội có hai cấp Vệ, Sở. Một Phủ thì thiết lập Sở, nhiều Phủ thì thiết lập Vệ. Vệ thiết lập chỉ huy sứ, thống lĩnh binh sĩ năm nghìn sáu trăm người. Dưới Vệ có Thiên hộ sở (một nghìn sĩ binh), dưới Thiên hộ sở thiết lập Bách hộ sở (một trăm binh sĩ).

[3]Oa Đao: Chỉ một loại đao Nhật bản được sử dụng từ cuối nhà Minh đến nhà Thanh. Loại đao này có ưu thế bổ, chém, công thủ đều được, có thể sử dụng bằng hai tay.

[4]người Oa: chỉ người Nhật Bản.

[5] nha sai(phiên tử): phụ trách truy bắt tội nhân.

[6]Quỷ tử: cũng chỉ người Nhật Bản.

[7]Lã Tống: Chỉ đảo Lữ Tống thuộc quần đảo Philippin. Thời Tống Nguyên, các thương thuyền thường đến đây buôn bán. Thời Minh gọi đảo này là Lã Tống.

[8]Khám hợp tức giấy phép; thời Minh, nhằm chỉ việc nước ngoài đến TQ tiến hành triều cống, giao dịch. Sau khi sơ Minh thực hiện "hải cấm", chỉ ch phép nước ngoài và triều đình tiến hành triều cống giao dịch theo quy định về địa điểm và thời gian. Thương thuyền của nước ngoài chở cống phẩm và thổ sản của mình đến TQ, sau khi triều đình nhà Minh thu nhận cống phẩm, thu mua thổ sản, họ dùng hình thức "Quốc gia ban tặng" để ban trả các vật phẩm TQ mà các lái thương nước ngoài cần. Thời hạn cống của các nước từ 3 đến 5 năm. Đối với Nhật Bản thì quy định 10 năm. Các thuyền cống nhất định phải có khám hợp do triều đình nhà Minh cấp phát.

[9]Thuyền Phúc: Một loại thuyền biển nổi tiếng trong "tứ đại cổ thuyền" của TQ xưa. Thuyền có đặc điểm: phía đầu nhọn, phần đuôi rộng, hai đầu vểnh lên. Hai bên mạn thuyền hướng ra ngoài, hai bên đều có ván bảo vệ. Đặc biệt đầu thuyền cao, kiên cố, có thể xung kích, thích hợp làm thuyền chiến.

[10]Thuyền Quảng: Một loại thuyền biển nổi tiếng trong "tứ đại cổ thuyền" của TQ xưa. Sản xuất ở Quảng Đông. Đặc điểm cơ bản: thuyền dài, đầu thuyền nhọn, trên rộng dưới hẹp.

[11]Một loại đao thời Đường. Là một trong hai loại đao nổi tiếng thế giới khi ấy cùng với Đao Damascus của Ả rập.

[12]Đơn vị trọng lượng, một thạch bằng 60 kg. Chỉ lực kéo cung, càng nhiều thạch thì càng cần nhiều sức lực.

[13] Thập trưởng: Một loại quân hàm thời cổ. Năm người có lập một ngũ trưởng, hai mươi người lập một thập trưởng, trăm người lập một bách phu trưởng, năm trăm người lập tiểu đô thống, một nghìn người lập đại đô thống, ba nghìn người lập chánh, thiên tướng, năm nghìn người lập chánh, thiên nha tướng, một vạn người lập chính, phó tướng quân.

[14]Lão Diêm Thương: Tên gọi của một vùng đất thuộc Hải Ninh.

Tên giặc Oa khắp mặt đầy máu kia chỉ hung hãn lườm Dương Lăng, đứng ngạo nghễ không trả lời. Một tên gia bộc của đám diêm thương thấy gã ương ngạnh bèn vung cuốc đập mạnh vào sau đầu gối gã, quát:

- Không nghe thấy lão gia hỏi gì sao?

Cuốc đập vào sau đầu gối khiến một gối của tên người Oa đó dập mạnh xuống đất, nhưng gã lại lập tức nhẩy bật lên, cái chân cong lại hơi run rẩy, hiển nhiên là bị thương không nhẹ nhưng vẫn gắng gượng không quỳ. Dương Lăng giơ tay ngăn cản người dân vẫn còn muốn đánh gã, hạ lệnh:

- Trói bọn chúng lại, trở về tìm một người biết tiếng Oa đến, ta có điều muốn hỏi bọn chúng.

Lúc này Mẫn Văn Kiến mồ hôi nhã nhễ nhại vác thanh đại đao đã bị cong lưỡi chạy lại, hào hứng cười lớn:

- Sảng khoái, sảng khoái! Tháng năm vừa rồi, ta thống lĩnh ba trăm Diêm binh đánh lùi hai trăm tên giặc Oa đã cảm thấy mình uy phong lẫm liệt lắm rồi, không ngờ ngài vừa mới đến thì ta đã dùng ít thắng nhiều, ha ha ha... quả nhiên là phúc tướng của ta.

Lão nói đến đây bỗng chợt nhớ hiện giờ chức tước của Dương Lăng cao hơn mình rất nhiều nên không khỏi nhếch miệng cười miễn cưỡng. Dương Lăng quay về phía lão chắp tay vái, thán phục:

- Nếu như nói về xông trận giết địch, tôi thế nào cũng không thể bì được với uy phong của Mẫn đại nhân. Bảo đao của đại nhân hôm nay quả thật là đại khai sát giới rồi. Bọn giặc còn lại bên bờ sông đã được bắt giữ rồi, phải không?

Mẫn Văn Kiến trừng đôi mắt tròn như đỗ xanh, ngạc nhiên hỏi:

- Bắt giữ làm gì? Ta đã sai người giết hết bọn họ rồi, những ai vẫn còn chưa chết hẳn thì chém thêm một đao, nếu không phải sợ làm thối nước sông thì đã ném toàn bộ chúng xuống sông cho cá ăn. Trói mấy tên này làm gì? Mau chóng giải quyết luôn cho xong chuyện.

Nghe vậy, Dương Lăng sững sờ chẳng biết nói gì. Lúc nãy khi y đi đến đây, đám giặc Oa không kịp lên thuyền rút lui vẫn còn khoảng bốn mươi người, cộng thêm đám người bị thương ngã xuống đất chưa chết thì cũng không dưới một trăm người. Dương Lăng vốn định sai người bắt giữ toàn bộ, không ngờ Mẫn Văn Kiến tự thị sai người giết sạch. Dương Lăng đến từ hậu thế nên y cảm thấy ngược đãi tù binh là không nhân đạo, cho nên nghe vậy không khỏi lộ ra vẻ bất nhẫn, không hài lòng.

Trong đám diêm thương dẫn gia đinh, kẻ hầu chạy lại trợ giúp có một người trung niên tên Mai Xuân An. Đám diêm thương này ngoại trừ một số ít được kế thừa gia sản từ tay cha ông, phần lớn đều là dân khốn khó dần dần làm giầu từ buôn bán muối lậu, trở thành thương nhân đại lý cho triều đình bán muối, cho nên phần lớn đều khỏe mạnh, biết võ nghệ. Tuy Mai Xuân An có cái tên nho nhã nhưng lại có thân hình dũng mãnh uy vũ, nét mặt hung tợn.

Gã thấy Dương Lăng có ý không hài lòng, liền giả lả cười:

- Đại nhân nhân hậu, nhưng đám người Oa này tham lam thành bản tính, không biết hối cải. Thảo dân có nghe trưởng bối kể lại, trước đây khi bắt được giặc Oa đầu hàng, chúng ta cũng thả chúng đi, kết quả là bọn chúng trở về vẫn kéo đến chà đạp người dân của chúng ta rồi đánh cướp tài vật chở về nước, còn dẫn thêm càng nhiều người Oa đến gây tội ác. Cho nên bây giờ, bắt được người Oa đều phải giết chết. So với quân đội ôn hòa văn minh, quân đội dũng mãnh hung tàn càng khiến cho người ta phải kính sợ hơn.

Dương Lăng nhớ đến người Mỹ thả bom hạt nhân đồ sát hai thành phố Nhật Bản khiến cho người Nhật Bản sợ đến tận bây giờ; còn người Trung Quốc rộng lượng, thả phạm nhân chiến tranh của bọn họ về nước, đến bây giờ dù tóc bạc đã đầy đầu, phần lớn những người đó vẫn cổ vũ chủ nghĩa quân quốc, kích động hận thù, làm tổn hại người Trung Quốc. Y không khỏi cười khổ.

Mạc Thanh Hà chưa bao giờ thấy quân Minh anh dũng như vậy, lúc này cũng không khỏi nhìn nhận sức chiến đấu của thân quân của Dương Lăng với con mắt hoàn toàn khác hẳn. Hắn mỉm cười nói với Dương Lăng:

- Lần này Dương đại nhân đích thân chỉ huy, quân ta giành được thắng lợi hoàn toàn, tiêu diệt hơn bốn trăm tên tặc khấu. Ít ngày nữa tấu trình về Kinh Sư, tên tuổi của đại nhân sẽ vang dội khắp nơi, thật đáng vui mừng. Hạ chức xin chúc mừng đại nhân trước.

Mẫn Văn Kiến nghe vậy cũng rất phấn khởi. Lần này đích thân Dương Lăng tọa trấn, y là khâm sai, công lao này chẳng còn ai có thể giật mất. Thế nhưng lão hiểu rất rõ phẩm hạnh của Dương Lăng, biết rằng Dương Lăng quyết không tham công, anh hùng chống Oa lần này cũng sẽ có phần của mình. Lão không khỏi khấp khởi vui mừng:

- Đúng vậy! So với quân lính chính quy của chúng ta, vệ quân ở duyên hải kém rất xa, trước giờ chỉ biết bại trận chứ chưa hề biết thắng trận. Lần này đại nhân vừa đến thì nghịch chuyển càn khôn, công lao thật to lớn. Ái à, Chủng đại nhân! Không phải ta nói ngài đâu! Coi ngài thường ngày nho nhã, quan văn như ta trông giống võ tướng, còn võ tướng như ngài lại giống quan văn, nói một câu thật tâm, trong lòng lão Mẫn ta vẫn coi thường ngài. Thế nhưng hôm nay xem ngài thật là một tay hảo hán, lão Mẫn ta bội phục vô cùng!

Chủng thiên tổng nghe Mẫn Văn Kiến nói đến đỏ mặt, ngượng ngùng đáp:

- Mẫn đại nhân quá khen rồi. Mạt tướng... hổ thẹn quá. Binh lính dưới tay toàn là một đám vô dụng, vừa thấy giặc Oa đã hoảng sợ, thật là hổ thẹn.

Dương Lăng thấy nửa người hắn còn nhuốm đầy máu tươi nên cũng không nỡ khiển trách, đành phải an ủi:

- Bổn tướng khi còn ở phương bắc từng gặp một viên mãnh tướng họ Giang, đối mặt với đám thát tử còn lợi hại hơn bọn giặc Oa này mà y cũng có thể lấy một địch mười. Y từng nói lần đầu tiên ra chiến trường y cũng sợ đến hồn bay phách tán, phải nhờ vị thập trưởng[13] cứu y ra khỏi vòng vây. Qua lần chiến đấu này ngươi cũng nhìn thấy đấy, đám giặc Oa này cũng chả lợi hại, chỉ cần không nhát gan sợ chiến thì bọn chúng cũng chả chiếm được ưu thế gì. Chỉ là... đám quân lính của ngươi ... thật sự cần phải luyện tập cho tốt.

Chủng thiên tổng ngượng đến đỏ cả mặt, vâng vâng dạ dạ đáp:

- Vâng vâng vâng! Mạt tướng xin thọ giáo, mạt tướng xin tuân lệnh.

Mẫn Văn Kiến lưu lại một số quân binh quét dọn chiến trường; đám diêm thương cũng tự tổ chức dìu đám binh lính bị thương vào trấn trị thương. Sau khi thống kê, đám diêm binh kiêu dũng thiện chiến và hơi du côn kia do vũ khí không bằng người nên tử thương quá nửa, hoàn toàn không thương tổn gì chỉ còn lại một trăm bốn mươi người.

Về phía giặc Oa, ngoại trừ phải bỏ lại bốn mươi người và hơn trăm tên thương binh, còn có hai trăm sáu mươi người chết ngay tại chỗ, trong đó sáu phần là chết dưới đao, súng và cung tên của sai nha. Nhưng tám mươi tên kiện tốt xung phong đi đầu cũng tử thương gần ba mươi người làm cho Dương Lăng cảm thấy vô cùng hối hận. Nếu biết có chuyện như vậy, y đem toàn bộ ba trăm thân quân đến thì chiến công há chỉ có chừng đó.

Dương Lăng quay lại dinh thự lâm thời do thị trấn sắp sẵn, tìm được một người hiểu tiếng Oa. Y đang chuẩn bị đi đến căn phòng nhỏ phía tây – nơi nhốt bọn tù binh người Oa - để tìm hiểu tình hình của hải tặc thì mấy vị trưởng giả trong trấn được người dìu tìm đến. Vừa thấy Dương Lăng thì các vị lập tức dập đầu cảm tạ, cảm ơn khâm sai đại nhân đã tấn kích mạnh mẽ bọn giặc Oa, trừ hại cho nhân dân trong trấn; tiếp đó liền khóc sướt mướt yêu cầu khâm sai đại nhân làm chủ cho dân, xử tử hết tất cả giặc Oa.

Dương Lăng thấy mấy vị trưởng giả này đều đã bảy tám chục tuổi mà còn dập đầu vái lạy y, nên liền vội vàng đỡ bọn họ dậy. Nhưng muốn y đích thân ra lệnh giết chết tù binh, quả thực y không thể thốt ra lời được nên chỉ biết khó xử đưa mắt nhìn Trương Thiên sư. Những người già này đều tin phật tin đạo, nếu như Trương thiên sư ra mặt khuyên giải một hồi, có lẽ có thể khuyên được bọn họ ra về.

Trương thiên sư hội ý, tiến lên trước cúi đầu chào mấy vị lão nhân, nói:

- Các vị lão nhân gia, trời có đức hiếu sinh. Bây giờ những tên giặc Oa này đã thúc thủ chịu trói, nếu như nhất loạt xử tử bọn chúng thì không tránh khỏi tổn thương hòa khí của trời đất. Bọn chúng làm nhiều điều ác, Dương đại nhân sẽ không tha cho bọn họ. Để bọn chúng chịu tội trong lao ngục, có gì mà không được chứ?

Tuy Trương Thiên sư còn ít tuổi, nhưng quả nhiên mấy vị lão nhân gia này đều v cùng tôn kính chàng, không dám thất lễ. Một ông lão khóc kể:

- Thiên sư! Đám giặc Oa này không còn nhân tính, cho dù có xử lăng trì cũng không thể chuộc được tội của bọn chúng, bọn chúng giết người phóng hỏa, đào mồ quật mả, việc xấu xa gì cũng làm. Năm trước giặc Oa đổ bộ, chính là ở Lão Diêm Thương[14], chúng đã ném một đứa bé mới tám tháng tuổi lên giường, dùng nước nóng để tưới, nghe tiếng nó khóc để mua vui, Thiên sư ơi...

Nghe vậy, một luồng khí lạnh từ chân bốc lên đỉnh đầu Dương Lăng. Vì sinh sống hay vì cầu tài mà giết người thì y còn miễn cưỡng chấp nhận; cường đạo mà, bạn còn mong bọn chúng phát lòng từ tâm sao? Nhưng hành vi mất hết nhân tính này, hoàn toàn là để thỏa mãn một loại dục vọng biến thái không còn nhân tính. Tưới nước sôi lên người một đứa trẻ vô tội chỉ để nghe tiếng nó khóc làm vui hay sao?

Da đầu Dương Lăng như muốn nổ tung, Cao Văn Tâm và Trương Phù Bảo nghe vậy đã tràn nước mắt. Ngay cả Trương thiên sư luôn miệng thiên đạo, nhân tâm cũng dựng đứng đôi chân mày, sát khí bừng bừng trong mắt, không còn chút nào hình dáng của một người tu đạo.

Một lão nhân khác lại kể:

- Không chỉ có thế! Buổi trưa bọn chúng ăn cơm ở một hộ gia đình, khi đi giết toàn bộ gia đình người ta, lấy máu ngâm rượu, nói là rất bổ cho cơ thể. Gia đình đó có một phụ nữ có thai, bọn chúng đánh cuộc là trai hay gái rồi mổ bụng lấy thai nhi để kiểm tra. Còn có một phú hộ ở đó, bị bọn chúng bắt cóc đòi tiền chuộc, tiền bạc trong nhà gom không đủ số lượng thì chúng cưa người thành từng mảnh trả về.

Sắc mặt của Dương Lăng tái xanh, run giọng:

- Không cần nói nữa, không cần nói nữa!

Ông lão trước lại kể lể tiếp:

- Đại nhân! Chúng ta coi bọn chúng là con người, nhưng bọn chúng không coi chúng ta là con người. Bọn chúng cướp của cải thì thôi, chứ giết người phóng hỏa như vậy, ngài nói xem không phải súc sinh thì là gì? Bọn chúng còn thích nhất là bắt sống đàn bà và trẻ em đẹp đẽ, ép buộc bọn họ làm những việc xấu xa, đến như lão già ta cũng không thể kể ra được à!

Dương Lăng chẳng thể nghe thêm được nữa, quay người bước vội về phía cửa. Y vừa bước đến cửa, Trương Phù Bảo từ trong phòng đã phẫn nộ hét lớn:

- Giết hết bọn chúng! Họ Dương kia! Nếu như ngươi còn định giữ mạng sống cho bọn chúng, ta... ta... ta ngày ngày sẽ vẽ bùa đọc chú trù yểm nhà ngươi!

Dương Lăng dậm mạnh chân, không hề quay đầu lại mà bước nhanh ra khỏi đại sảnh.

Trong một căn phòng nhỏ phía tây, mấy tên giặc Oa bị trói vào cột nhà, Dương Lăng sắc mặt âm trầm bước vào. Trịnh bách hộ và mấy tên sai nha thấy vậy vội đứng lên thi lễ:

- Đại nhân!

Dương Lăng gật gật đầu:

- Ừ, hôm nay nhờ có các ngươi. Ngươi nhớ thu nhặt cho kỹ thi thể của các tướng sĩ vì nước quên thân. Khi trở về kinh, bổn quan nhất định trợ cấp trọng hậu, các huynh đệ tham chiến hôm nay cũng nhất loạt được trọng thưởng.

Y nói xong quay đầu lại, ánh mắt quét qua người mấy tên giặc Oa kia, cuối cùng nhìn vào một gã đàn ông mặc một bộ quần áo phụ nữ người Hán, ánh mắt của hắn chạm vào mắt Dương Lăng thì run rẩy né tránh một hồi. Dương Lăng liền đến trước mặt hắn, hỏi:

- Thủ lĩnh của các ngươi là ai? Có bao nhiêu người? Thường ngày hoạt động ở đâu?

Người hiểu tiếng Oa do Dương Lăng gọi đến vội dịch sang tiếng Oa, tên đó nghe xong vẫn không nói một lời. Dương Lăng cười nhẹ, hỏi tiếp:

- Ngươi cho rằng bọn ta không biết dùng thủ đoạn lợi hại gì để đối phó ngươi phải không? Tưới nước nóng ư?

Ánh mắt lạnh lẽo của Dương Lăng đảo trên người hắn một lúc, nói tiếp:

- Nếu như lấy nước sôi tưới lên người ngươi, rồi dùng bản chải sắt sát muối chà qua xát lại, ngươi sẽ cảm thấy thế nào? Hay là lấy miếng sắt nung nóng chọc vào chân ngươi...

Những thứ mà Dương Lăng vừa nói đều là thủ đoạn đối phó phạm nhân của Cẩm Y vệ. Người đứng bên cạnh còn chưa kịp dịch thì trên trán của tên mặc quần áo phụ nữ đã nhễ nhại mồ hôi lạnh, bỗng nhiên khàn giọng hỏi:

- Nếu như ta khai báo, đại nhân có tha chết cho ta không?

Dương Lăng sững người rồi tiếp đó nổi giận đùng đùng, lạnh giọng quát hỏi:

- Ngươi là người Hán?

Nghe Dương Lăng quát lớn, tên đó giật mình run rẩy một hồi, nhưng vẫn ngoan cố đáp:

- Đó là do tôi không còn cách gì để sống nên mới đi theo con đường này. Mấy người bọn chúng đều là người Oa thực sự, sẽ không chịu khai đâu. Nếu đại nhân đồng ý tha cho tôi, tôi mới chịu khai.

Ánh mắt của Dương Lăng đập vào chiếc áo phụ nữ mầu xanh nhạt trên người hắn. Y vân vê vạt áo của chiếc áo đó một hồi rồi hỏi:

- Bộ y phục này do ngươi ăn cướp? Chủ nhân của nó... cô nương kia thế nào rồi?

Sắc mặt của tên này biến đổi hẳn. Chiếc áo này là lúc lên bờ cướp bóc ở Phúc Kiến vào năm trước hắn đã lột từ trên người một thiếu phụ, người con gái đó... người con gái đó... Nhớ đến hình dạng khủng khiếp vào phút cuối của nàng thiếu phụ có dung mạo tương đối đẹp đẽ đó, hắn bất giác run sợ rùng mình.

Thấy hắn ấp úng định nói dối, Dương Lăng phải quay người đi, cố dẹp bỏ ý tưởng muốn bóp cổ hắn vừa thoáng qua trong đầu. Một lúc sau y mới gằn từng chữ từng chữ:

- Ngươi khai thật, ta sẽ để ngươi chết một cách thoải mái! Đây là điều kiện duy nhất! Ngươi không còn sự lựa chọn thứ hai!

Tên đó đờ người ra, nghiền ngẫm lại một lần lời nói của Dương Lăng, lúc này mới ngộ được ý nghĩa trong lời nói của Dương Lăng, ánh mắt bất giác lộ vẻ sợ hãi. Dương Lăng lành lạnh nói tiếp:

- Ngươi quyết định chưa? Ta không nhất thiết phải biết tình hình của các ngươi, nếu như ngươi không khai, ta sẽ không cho ngươi cơ hội thứ hai nữa đâu!

Mắt thấy Dương Lăng từng bước tường bước đi ra khỏi cửa, rốt cuộc tên hải tặc đã từng dùng nhiều cách kỳ lạ cổ quái để hành hạ người khác làm vui không nén được kêu lớn:

- Đại nhân dừng bước, tôi khai, tôi khai hết! Chỉ xin đại nhân cho tôi được toàn thây.

Tên đó đem những tình hình hắn biết lần lượt khai rõ ra hết. Thực ra thì tin tức hắn cung cấp cũng không có giá trị to lớn gì, đám giặc Oa này lẩn trốn khắp nơi, không có nơi ở cố định. Hiện giờ thủy sư nhà Minh cũng không đủ thực lực để ra biển vây bắt, nên muốn đối phó với bọn chúng, chủ yếu vẫn phải đợi bọn chúng vào đất liền cướp bóc để nghiêm trị, hơn nữa còn có thể dự đoán được: "Bọn chúng nhất định sẽ đến."

Thế nhưng làm cho Dương Lăng ngạc nhiên là từ miệng người này y còn biết được nhiều điều liên quan đến nội tình của Nhật Bản. Mạc Phủ ngày càng suy yếu, đã không thể khống chế các lãnh chúa ở các nơi; hơn nữa các lãnh chúa, võ sĩ, thủ lĩnh ở các nơi cũng vô cùng mong muốn được giao dịch với Đại Minh để khuếch trương thực lực của bản thân.

Có một số thế lực có con đường bí mật riêng để buôn lậu từ Đại Minh cho nên cũng phản đối giặc Oa hoành hành gây ảnh hưởng xấu đến việc làm ăn của bọn họ. Hơn nữa những tập đoàn buôn lậu do chính phủ tổ chức này không những giao dịch ngầm với thương nhân duyên hải Đại Minh, mà còn cùng với Lã Tống, Nam Dương tìm được một tuyến giao dịch đường biển. Những thông tin này hiện giờ vẫn còn chưa dùng đến nhưng chưa chắc sau này sẽ không dùng đến, Dương Lăng đều thầm ghi nhớ cả trong lòng.

Càng làm cho Dương Lăng ngạc nhiên là tiền tệ thông dụng của Nhật Bản lại là tiền đồng của Đại Minh. Nhật Bản đã từng thử tự chế tạo tiền tệ, nhưng tiền đồng do bọn họ chế tạo lại có chất lượng rất kém, dùng không bao lâu thì đã bị mài mòn, nứt gãy, trở thành một đám bột đồng. Cho nên chỉ có thể lấy tiền tệ của Đại Minh làm tiền tệ thông dụng của nước Nhật Bản.

Sau khi gia tộc Túc Lợi không còn xưng thần với Đại Minh thì hai nước đã đoạn tuyệt giao dịch. Nhật Bản cần gấp một lượng lớn tiền đồng, nhưng không có cách gì để đạt được, mà một quốc gia không có tiền tệ thì tình hình thật là tệ hại không thể tưởng tưởng nổi, cho nên chính phủ chỉ có thể buôn lậu, thậm chí là làm hải tặc.

Dương Lăng nghe vậy sửng sốt một hồi. Y không ngờ tiền tệ khi ấy của Trung Quốc lại có thể hoàn toàn thay thế thay thế tiền tệ của một quốc gia khác. Sự hận thù và căm ghét đối với bọn giặc Oa hoàn toàn không còn nhân tính kia không làm Dương Lăng mất đi lý trí; y không cho rằng chỉ có chém giết mới là thủ đoạn duy nhất để giải quyết triệt để đám gieo họa trên biển.

Dương Lăng nghĩ thầm: "Giặc Oa trên biển nhất định cần phải đánh, nhất định phải nghĩ ra cách tiêu diệt bọn chúng. Nhưng không nhổ bỏ tận gốc mầm mống tai họa này thì tiêu diệt hết đám này sẽ lại tiếp tục xuất hiện một đám khác. Cần phải ổn định lâu dài, nhất định cần phải tiến hành cả khơi thông lẫn ngăn ngừa."

Vốn Dương Lăng không nắm chắc sau khi về kinh sẽ thỉnh cầu được Hoàng thượng cho thông thương với Nhật Bản, bởi vì y không tự tin đủ sức kiềm chế sự cản trở từ trong triều đình, đặc biệt là ba vị đại thần trong Nội các. Y lờ mờ nhớ rằng trong lịch sử, khi Lưu Cẩn nắm quyền thì quyền lực của lão khuynh đảo triều đình. Nếu như triều đình do lão làm chủ, thì tên bất tài vô học chỉ biết thu gom tiền bạc này nhất định sẽ không cản trở giao thương hai nước, thế nhưng Dương Lăng không thể nhớ chính xác khi đó là lúc nào, y cũng không còn thời gian để đợi nữa. Nhưng bây giờ y lại có chút chắc chắn, nếu như dùng thủ đoạn kinh tế như thông thương để tiếp nối thủ đoạn chính trị, đám quan văn kia còn ản đối sao? Thông thương có thể làm cho hai nước hợp lực đả kích hải tặc, khống chế bọn chúng từ kinh tế. Hơn nữa để nỗ lực duy trì địa vị lãnh chúa, tướng quân bọn chúng sẽ không nảy sinh dã tâm nhòm ngó trung nguyên. Nếu như tiền tệ của bọn họ đều xuất phát từ tay của chúng ta thì một khi thật sự nảy sinh tranh chấp, chỉ cần ngầm chế tạo một lượng lớn tiền tệ đưa vào đất nước bọn chúng thì còn sợ chính phủ đối địch kia không sụp đổ sao?

Còn về tương lai sau này, bọn chúng có khả năng chế tạo tiền tệ của mình hay không, thậm chí kinh tế có phát triển mạnh hơn nữa hay không thì cũng không còn nằm trong những suy tính của Dương Lăng. Người ta không thể chỉ dựa vào lão tổ tông để hưng thịnh nhiều đời, bậc tiền bối xây dựng nên nền móng tốt cho ngươi, những việc còn lại tự nhiên hậu bối phải quan tâm.

Kinh sư như thế nào rồi, đã rời kinh được một tháng, mọi việc trong triều đều bình thường chứ? Đợi người được phái đi Kinh sư quay về thì sẽ biết. Dương Lăng cảm thấy hiện giờ mình có quá nhiều việc cần phải chạy đua với thời gian, hận rằng không thể lập tức kết thúc mọi việc lúc này, mau chóng về kinh thành, thế nhưng... có thể sao? Không thể xử lý mọi việc ở đây thì không thể hàng phục được Cẩm Y vệ của Đông Xưởng, không hàng phục được Cẩm Y vệ của Đông Xưởng thì làm gì có thực lực để kháng cự lại với ngoại triều, nhanh chóng thực thi chính sách?

Dương Lăng dừng bước, thở dài một tiếng, đưa chân bước ra khỏi cổng. Bỗng y dừng lại ra lệnh:

- Cho tên này chết một cách thoải mái, những người khác thì giao cho người dân trong trấn xử lý!

Chú thích:

Xin coi post trên

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 131: Tên đã lên dây

Dương Lăng ở lại Hải Ninh năm ngày, mỗi ngày đều đích thân cùng Cao Văn Tâm bôi thuốc trị thương cho đám diêm binh và thân quân của mình, hơn nữa phái đám người Trịnh Bách hộ giúp đỡ Chủng Thiên tổng huấn luyện vệ quân.

Đao của vệ quân không bằng đao của giặc Oa mà tạm thời lại không có cách nào để giải quyết vấn đề này, Trịnh Bách hộ đành dốc hết tinh thần và sức lực để vệ quân tăng cường trang bị cho lực lượng cung thủ và lính đánh thương, cho dù huấn luyện nhất thời không thể thấy hiệu quả nhưng dù sao cũng đã dạy bọn họ phương pháp rồi, chỉ cần kiên trì luyện tập thì lâu ngày tự nhiên có thể thấy được hiệu quả.

Việc đám vệ quân này không chịu nổi một đòn thì nguyên nhân quan trọng nhất là lòng quân rời rạc, bây giờ Chủng Thiên tổng dựa vào việc dùng hai mươi người chiến đấu không thua đám giặc Oa có số lượng tương đương thì lòng tự tin trong chốc lát tăng lên nhiều, sau khi tiếp thu kinh nghiệm xương máu đã chỉnh đốn quân đội vô cùng nghiêm ngặt. Các biện pháp như thưởng phạt phân minh xem ra không đáng chú ý nhưng lại đang dần dần từng bước thay đổi đạo quân này.

Mấy ngày này, đám quan viên của Tam ty[1] và Tri phủ của hai vùng Tô Hàng cùng với danh sĩ thân hào nườm nượp kéo đến Hải Ninh để an ủi quan binh khiến vệ quân bỗng chốc tiếng thơm vang dội. Đây là trận đánh giặc Oa đặc sắc nhất hoành tráng nhất của các tỉnh khu vực duyên hải Giang Chiết Mân Lỗ[2], năm trăm quân binh chiến đấu với số giặc Oa đông gấp đôi mà làm cho giặc Oa để lại bốn trăm thi thể, kết quả chiến đấu này làm cho vệ, sở khắp nơi phải nhìn với con mắt khác mà dân chúng và đám phú thương chịu đủ nỗi khổ bị hải tặc quấy rối cũng được mở mày mở mặt.

Đám diêm binh kia đã được sự khao thưởng của Bố Chánh sứ, Chỉ Huy Sứ ty, đám con buôn đến thăm viếng này đều có gia tài bạc tỉ, ra tay cũng hào phóng, luôn miệng gọi tráng sĩ, động cái là rút túi tặng vạn lượng bạc ròng mà Dương Lăng không lấy một đồng, Mẫn Văn Kiến cũng không phải là tham quan ăn chặn cho nên mỗi một quan binh đều gom góp được một phần tài sản không nhỏ.

Tính lưu manh của đám diêm binh này rất nặng, bình thường trộm gà bắt chó cũng bị nhân dân bản địa chửi bới không ít nhưng lúc này lại thành anh hùng trong mắt của dân chúng, đi đến chỗ nào chỉ cần nói là quan binh của ty Diêm Vận thì dân chúng đều hết lòng kính nể, cho dù đến cửa hàng ăn bữa cơm thôi chủ quán cũng không chịu lấy tiền. Tình cảnh này lọt vào mắt đám quan binh vệ quân làm họ thật là vừa xấu hổ vừa thẹn. Chịu sự kích thích sâu đậm đó, bọn họ chỉ hận không thể làm đám giặc Oatháo chạy kia quay lại một lần nữa, để có cơ hội làm cho dân chúng biết bọn họ cũng là đàn ông, cũng không phải là đồ sợ chết.

Bố Chánh sứ đã sai người đem tin chiến thắng báo về kinh thành, Dương Lăng cũng bí mật viết một bản tấu chương, đem tình hình duyên hải hiện tại kể lại tỉ mỉ một lần rồi nhanh chóng chuyển về kinh thành. Y không lập tức bẩm báo với Chính Đức về dự định kia của mình bởi vì vị tiểu hoàng đế này thường làm việc mà không nghĩ đến hậu quả, nếu như tiểu hoàng đế thấy kiến nghị của Dương Lăng rồi lập tức vội vã thi hành rồi vạn nhất bị bách quan trong ngoài triều ngăn cản thì sau này Dương Lăng đề ra sẽ mất đi hiệu quả bất ngờ.

Cho đến tận ngày thứ năm, Dương Lăng chuẩn bị hai mươi cỗ xe lớn, dự định mang theo thương binh trở về Hàng Châu, Ngô Tế Uyên lúc này cũng phái Liêu Quản sự đến để động viên quan binh. Hắn đã đem cái lợi-hại, được-mất của việc giao dịch đối với nước ngoài ghi lại kỹ càng, cùng đưa tới còn có cả Thập Mỹ Đồ của Đường Bá Hổ. Dương Lăng đón Liêu Quản sự vào phòng khách rồi vui vẻ mở bức Thập Mỹ Đồ đã nghe danh từ lâu này ra thưởng thức.

Chín bức tranh khác trong Thập Mỹ Đồ đều là do vị đại tài tử họ Đường này nhìn trộm dung mạo các mỹ nữ Tô châu rồi vẽ nên. Thẩm mỹ của vị Đường Nguyên giáp này quả nhiên không tầm thường, chín người đẹp này muôn vẻ rạng ngời, tươi đẹp như hoa tựa nguyệt, ai ai cũng kiều diễm đến rung động lòng người.

Bức tranh thứ mười vẽ Cao Văn Tâm quả nhiên đã được sửa, trong bức tranh là một mĩ nhân nhỏ nhắn đứng dưới gốc liễu, lau sậy chập chờn quanh đó, khói sóng mênh mông ngoài xa, bên cạnh gốc liễu phía sau người hiện ra một cánh tay ôm lấy bờ eo nhỏ nhắn của nàng, mĩ nhân quay đầu lại nhìn, vẻ kinh ngạc trên khuôn mặt còn chưa tan biến thì sự vui mừng đã trào dâng, biểu cảm e thẹn dễ thương được khắc họa sinh động như thật.

Nhìn dáng vẻ như giận như vui, nửa kháng cự nửa nghênh đón thì rõ ràng nhân vật chỉ lộ ra một cánh tay trên bức tranh là tình lang mà nàng đã mến mộ từ lâu. Có thể khắc họa nhân vật sinh động như vậythì kỹ năng vẽ tranh của Đường Bá Hổ quả thật xuất thần nhập hóa, Dương Lăng thích đến không muốn rời tay liền lấy hai sợi tơ buộc lại để làm kí hiệu.

Ngoại trừ Thập Mĩ Đồ, tất nhiên còn bao gồm bức "Nguyệt Dạ Hậu Đình Hoa" mà lão Đường tặng miễn phí, tuy đây là một bức Xuân Cung đồ (tranh khiêu dâm) nhưng lại được vẽ bởi Đường Bá Hổ, Dương Lăng sao nỡ lòng thiêu hủy nên chỉ vội vội vàng vàng nhìn thoáng qua rồi cũng buộc lại, đặt vào trong đống tranh kia.

Liêu Quản sự cười tủm tỉm nói:

- Khâm sai đại nhân, lão gia nhà tôi nói đại nhân chống Oa giành toàn thắng ở đây, giúp nhân dân Giang Nam trút được nỗi oán giận, thực là đáng vui mừng, cho nên sai tiểu nhân mang lợn, bò và tiền bạc tặng cho thân quân của đại nhân và diêm binh chống Oa, xin đại nhân kiểm tra và thu nhận.

Dương Lăng vội vàng xua tay nói:

- Liêu Quản sự, Ngô tiên sinh tặng những lễ vật này cho bản quan đã quá hậu hĩ, nếu lại làm cho Ngô tiên sinh tốn kém thì bản quan thực là thấp thỏm không thể yên lòng, những thứ kia có lẽ xin Liêu Quản sự mang về cho, ý tốt lần này của Ngô tiên sinh bản quan xin ghi nhớ trong lòng.

Liêu Quản sự không đồng ý, nói:

- Đại nhân, lão gia nhà tôi nhà to nghiệp lớn, có vô số sản nghiệp ở hai vùng Tô, Hàng. Oa nhân lộng hành khiến Ngô gia mỗi năm đều phải chịu ít nhiều tổn thất, hiện giờ đại nhân đả kích mạnh mẽ giặc Oalàm lão gia nhà tôi cũng được lợi không ít, các chiến sĩ ở tiền phương dùng sinh mạng đánh đổi thì biếu tặng một chút tiền tài cũng là phải, đại nhân không cần khách khí. Hơn nữa, các thân hào danh sĩ có tiếng ở hai vùng Tô, Hàng đều có bày tỏ rồi, huống chi mấy đời lão gia nhà tôi sinh sống ở Giang Nam nếu không bày tỏ gì với tướng sĩ há chẳng phải là bị dân chúng mắng chửi là làm giàu bất nhân, keo kiệt vô lương tâm sao? Tiểu nhân chịu sự sai khiến của lão gia, nếu như đại nhân không nhận thì tiểu nhân cũng chẳng có cách gì trình bày với lão gia, xin đại nhân hãy thành toàn cho tiểu nhân.

Dương Lăng bất đắc dĩ đành phải cùng y ra ngoài tiếp nhận lễ vật và bức hoành mà Ngô gia biếu tặng. Mới ra khỏi đại sảnh vừa hay thấy Cao Văn Tâm mới sắc thuốc và băng bó cho tướng sĩ bị thương trở về, Dương Lăng vội dừng bước, nói:

- Văn Tâm, Liêu Quản sự mới mang đến cho ta vài bức tranh, nàng hãy thu dọn chúng vào hòm, hôm nay sẽ khởi hành quay về Hàng Châu. Mấy bức tranh đó là tác phẩm lớn của Giang Nam tài tử Đường Dần, nàng đừng có làm hỏng chúng.

Cao Văn Tâm "dạ" một tiếng rồi trở vào đại sảnh thấy hơn mười cuốn họa quyển (tranh cuốn) xếp trên mặt bàn, nàng nghĩ tới trong mười bức Thập Mỹ Đồ kia có một bức tranh vẽ bản thân, cũng không biết cái người tự xưng là Giang Nam đệ nhất tài tử kia vẽ nàng thành hình dáng thế nào nữa liền vội vàng mở từng bức ra xem. Các cô nương trong Thập Mỹ Đồ đều là những người đẹp vạn người mới có một, mỗi người một vẻ, đoan trang dịu dàng, xinh đẹp hết mực.

Cao Văn Tâm nảy ra ý so sánh, thấy dung mạo bất phàm của các mỹ nữ kia khiến nàng càng thêm hồi hộp khi mở thêm một bức tranh nữa, thì ra là bức Xuân Cung Đồ mà nàng hiểu nhầm là cợt nhả nàng hôm đó, Cao Văn Tâm không kìm nổi đỏ mặt tía tai "xì" một tiếng, vội vội vàng vàng quăng nó vào trong đống tranh.

Khi nàng tìm thấy bức tranh vẽ mình, thấy dáng vẻ trong tranh dường như căn cứ vào tình cảnh Dương Lăng và nàng sau gốc liễu mà vẽ thành, nhất thời khuôn mặt thanh tú nổi hai áng mây hồng. Bức tranh này ngoài vẻ diễm lệ tuyệt luân còn làm cho người ta hồi tưởng liên miên, khắc họa kĩ càng hết mức thần thái thướt tha rung động lòng người của nàng. Nếu như luận dung mạo thì chín mỹ nữ kia chưa chắc kém hơn nàng, thế nhưng trong bức tranh có thêm cánh tay cùng với thần thái cúi đầu dịu dàng của nàng liền khiến cho bức tranh này vượt lên chín bức kia.

Cao Văn Tâm thấy vậy trong lòng vui mừng, cũng không khỏi nảy sinh một chút thiện cảm với tên thư sinh bất lương vẽ bức Xuân Cung Đồ kia, nàng mỉm cười rồi cẩn thận buộc lại bức tranh, quay sang chỗ khác lại nhìn thấy bức Xuân Cung Đồ vội vàng nhét vào đống tranh khi nãy kia vẫn còn chưa buộc lại liền đem hai sợi dây còn lại trên bàn buộc vào.

Nàng nghĩ tới lão gia của mình bình thường đàng hoàng chững chạc thì ra cũng thích những thứ như thế, trong lòng không khỏi vừa bực vừa buồn cười. Đáng thương cho vị đại tài tử họ Đường chỉ vẽ Xuân Cung Đồ mà chịu một cái tát oan uổng còn vị Dương lão gia này cất giữ bức tranh đó lại nhận được nụ cười thẹn thùng, nhưng ai bảo y là người trong lòng của mĩ nhân yêu kiều này nên đối xử mới một trời một vực như thế.

Cao Văn Tâm cầm bức Xuân Cung Đồ trong tay nghĩ tới vẻ hoan lạc vô biên mà khi nãy thoáng thấy trong bức tranh, liên tưởng nếu như mình có một ngày cùng lão gia... cõi lòng nàng run rẩy một hồi, tựa như bức tranh đó chính là vẽ bản thân và Dương Lăng liền không khỏi giống như bị bỏng tay mà vội vàng quăng bức tranh đó ra. Tình cảm ấp ủ của người con gái như thơ như mộng. Những cô gái mười tám, mười chín thời này phần lớn đã trở thành vợ, thành mẹ người từ lâu. Nữ thần y giống như trái đào đã chín mọng này làm sao không ngẫm mình xót phận, lòng xuân dập dềnh chứ.

***

Dương Lăng vừa mới quay lại Hàng Châu, Liễu Bưu đã vội vội vàng vàng tới gặp y. Khi chuyện chống Oa ở Hải Ninh đã truyền đến tai hắn liền làm cho hắn sợ đến hồn bay phách lạc, hai tên Bách hộ dẫn binh theo quan thuyền lớn quay về Hàng Châu bị y chửi rửa một trận thậm tệ. Nếu không phải khi tin tức truyền đến tình hình chiến đấu đã có kết quả, Đô Chỉ Huy sứ ty cũng đã nhanh chóng tăng cường phái quan binh của hai Vệ khống chế gắt gao cửa biển Hải Ninh để đề phòng bất trắc xẩy ra lần nữa thì hắn thật muốn vứt bỏ để tất cả lập tức đi Hải Ninh.

Bây giờ Dương Lăng đã quay trở về, việc cần hắn xử lý cũng đã có manh mối nên hắn vội vã từ Long Sơn quay về, gặp Dương Lăng rồi lại quan sát tỉ mỉ một hồi, thấy đại nhân quả nhiên không việc gì hắn lúc này mới yên tâm. Ở cùng với nhau lâu như vậy, con đường làm quan của Dương Lăng lên lên xuống xuống hắn đều ở bên cạnh, bây giờ không chỉ bởi vì tiền đồ của cá nhân đều buộc chặt trên người Dương Lăng mà hắn cũng thật sự rất có cảm tình với vị thượng quan này.

Dương Lăng qua chuyến đi Tô Châu, Hải Ninh này càng muốn kết thúc công việc ở Giang Nam sớm để mau chóng quay về kinh thành cho nên vừa mới thấy Liễu Bưu thì lập tức hỏi:

- Liễu Bưu, việc ta cần ngươi làm như thế nào rồi?.

Liễu Bưu nói:

- Đại nhân, Chỉ Huy Thiêm Sự Vệ Long Sơn Đinh Lâm đã lấy được chứng cứ quan trọng, thế nhưng tên tiểu tử này dường như khi ấy lại có ý hối hận, chần chừ không chịu giao ra, hạ quan nói với hắn rằng chứng cứ của hắn chẳng qua cũng chỉ thêu hoa trên gấm, chỉ cần binh lính của Vệ Long Sơn không đủ một nửa định mức, Tất Xuân tham ô bao năm nay số lương lộc thừa ra cũng đủ để chúng ta trừng trị hắn, tên tiểu tử này mới giao chứng cứ ra.

Nói rồi hắn lôi một bọc vải từ trong lòng ra, đưa cho Dương Lăng, nói:

- Đại nhân, đây là chứng cứ phạm pháp của Tất Xuân và Viên Hùng mà Đinh Lâm ghi lại, tất cả thời gian, địa điểm, những người có liên quan đều ghi rõ trong hồ sơ. Ngoài ra mật chỉ của kinh thành cũng đã đến tối qua.

Dương Lăng vừa nghe nói kinh thành có mật chỉ không kìm nổi bỗng dưng đứng bật dậy, hỏi vội:

- Ở đâu, mau đưa cho ta xem.

Liễu Bưu lật tay áo, cởi mảnh vải được bí mật buộc trên cánh tay, lấy ra một mảnh lụa vàng mềm mại, Dương Lăng vội vàng nhận lấy, mở ra để xem, không kiềm được mỉm cười, nói:

- Hoàng thượng trước nay luôn chuộng võ, ta đã đoán được rằng khi Hoàng thượng nghe nói Vệ, Sở bất tài hủ bại như vậy nhất định sẽ nổi giận đùng đùng, ha ha, Hoàng thượng muốn ta tùy cơ ứng biến, phụng chỉ trong thời gian thay vua đi tuần tra xét được toàn quyền xử lý mọi việc phạm pháp ở Giang Nam, có đạo thánh chỉ này thì chúng ta có thể danh chính ngôn thuận bắt người.

Dương Lăng vui mừng thu thánh chỉ lại, suy nghĩ một hồi, hỏi:

- Động tĩnh của Viên Hùng và Tất Xuân thế nào? Có phát giác ra hành động của chúng ta không?

Liễu Bưu cười nhẹ, nói:

- Chuyến đi Tô Châu này của đại nhân náo động ầm ĩ, cho dù bọn chúng có chút ngờ vực, lúc này cũng đã xóa bỏ dè chừng. Vậy đó, nếu nói về việc thu thuế má thì hắn xếp cuối trong ba tên Trấn Thủ Thái Giám, đại nhân đi kiểm tra Hàng Châu trước rồi lại đi Tô Châu đã thể hiện rằng đại nhân coi trọng nguồn gốc thuế má của lương thực, trà, hàng dệt hơn. Thế nhưng từ sau khi đại nhân đến đây thì Viên Hùng có phần giảm bớt bóc lột, hiện nay đã bãi bỏ bớt bốn phần trạm thu thuế, gần đây cũng luôn thu mình an phận thủ thường tại Vệ Long Sơn.

Dương Lăng cười lạnh một tiếng, nói:

- Đợi ta vừa mới rời khỏi, số bạc thiệt thòi trong những ngày an phận thủ thường này lại vơ vét gấp bội từ dân chúng về, hừ! Nhưng cũng không thể không quan tâm đến hắn, xa lánh hắn quá thì không khỏi làm hắn ngờ vực, nói cho hắn biết, năm ngày sau bản quan sẽ đến tuần thị Vệ Long Sơn.

Liễu Bưu hội ý, cười nói:

- Vâng, đại nhân cho hắn uống viên Định tâm hoàn này thì đảm bảo hắn sẽ yên tâm đợi đại nhân. Thế nhưng... khi nào thì chúng ta động thủ?.

Ánh mắt của Dương Lăng chăm chú, nói:

- Bắt đầu từ ngày mai, bổn quan muốn mở tiệc ba ngày đáp lễ quan viên, thân sĩ của Hàng châu để tặng cho y thêm một viên Định tâm hoàn nữa. Ngươi ngay trong đêm đi đến Hải Ninh, kế hoạch vạch ra trước đây thay đổi một chút, không cần phải tước đi binh quyền của Chủng Thiên tổng nữa, qua mấy ngày tiếp xúc bản quan cảm thấy người này còn có thể dùng được, chỉ cần giám thị chặt chẽ một chút là được. Sau ba ngày nữa, triệu tập vệ quân và diêm binh khởi hành lúc mặt trời lặn, ngay trong đêm đến Vệ Long Sơn, đến canh bốn bản quan muốn bọn họ xuất hiện ở đại doanh của Vệ Long Sơn!.

Liễu Bưu phấn chấn nói:

- Vâng, ty chức tuân mệnh, nếu như đại nhân không còn việc gì khác, ty chức xin được cáo lui.

Dương Lăng nghĩ một lát, bỗng nhiên hỏi:

- Đúng rồi, ta sai ngươi về kinh thành nhân tiện dò xét chút hành tung Nội đình và Ngoại đình, thế Ty Lễ Giám và Nội Các có động tĩnh gì khác thường không?

Liễu Bưu vỗ trán một cái, nói:

- Ty chức chỉ biết vui mừng suýt nữa quên mất việc này, ha ha, đại nhân yên tâm được rồi, đám quan viên trong triều hiện nay chẳng thể để ý đến đại nhân nữa, Đại Đương Đầu nói, hiện giờ Hoàng thượng đã bỏ buổi chầu trưa, chầu sớm cũng thường đến muộn khiến ba vị Đại học sĩ Nội Các vì việc này mà dẫn đầu văn võ bá quan can gián suốt ngày, thường xuyên nảy sinh tranh chấp với Hoàng thượng. Hoàng thượng sau khi kết hôn, đối với hoàng hậu và hai vị quý phi nương nương thập phần lạnh nhạt, thường xuyên lén lút chuồn đến Báo Phòng (phòng nuôi báo) chơi đùa, Hoàng thượng kêu bọn người Cốc Đại Dụng thu gom mười con báo nuôi ở đấy, phái ba trăm võ sĩ phụ trách nuôi dưỡng huấn luyện, các chi phí nuôi dưỡng khác không tính, riêng thịt nuôi bo mỗi ngày đã chi dùng sáu mươi cân, bởi vì chuyện này, Ngự Sử đài và Hàn Lâm viện mỗi ngày đều liên tục dâng tấu, triều đình cũng đau hết cả đầu vì việc Hoàng thượng xao lãng triều chính, chơi đùa lãng phí.

Dương Lăng lấy làm kinh hãi, nghi hoặc hỏi:

- Ta mới rời kinh thành chưa đầy một tháng, tại sao lại xảy ra nhiều việc như vậy? Hoàng thượng tuy rằng ham chơi nhưng nếu không có người xúi giục dụ dỗ thì cũng không thể hoang đường lệch lạc đến như vậy, Thế nhưng... Nội đình còn có đám người Vương Nhạc, Phạm Đình, bọn Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng cũng thuộc sự cai quản Ty Lễ Giám, sao dám làm xằng như vậy?

Liễu Bưu nhủ thầm: "Có một người bạn Xưởng Đốc của Nội Xưởng đang lên như mặt trời giữa trưa như ngài, bọn họ có gì mà không dám làm chứ?", thế nhưng hắn không dám nói ra lời nói này.

Dương Lăng cau mày nghĩ ngợi một lát, luôn cảm thấy trong một thời gian ngắn như vậy bọn người Lưu Cẩn dám to gan như vậy có chút không bình thường. Dương Lăng biết có đám người Vương Nhạc đè trên đầu, bọn Lưu Cẩn không có dã tâm thăng quan tiến chức nhanh, bình thường bọn chúng dỗ Hoàng thương chơi đùa chẳng qua cũng chỉ làm cho Hoàng thượng vui vẻ để kiếm chác chút lợi ích mà thôi, bây giờ bọn chúng làm như vậy chắc chắn sẽ dẫn tới sự căm ghét của các ngoại thần, bọn chúng không có to gan như vậy hay ít ra bây giờ là tuyệt đối không có, việc này nhất định có mờ ám.

Dương Lăng nghĩ đến đây, quả quyết nói với Liễu Bưu:

- Thông qua mạng lưới thông tin của chúng ta nói với Đại Đương Đầu, chú ý cặn kẽ mọi tin tức Nội đình và Ngoại đình, có bất kỳ động tĩnh nào đều phải kịp thời trình báo cho ta.

Liễu Bưu thấy sắc mặt của Dương Lăng nghiêm trọng cũng không dám cười đùa nữa liền vội vàng "dạ" một tiếng, thấy Dương Lăng dường như đang có tâm sự, bấy giờ mới cáo từ lui ra ngoài, sau khi xắp đặt xong mọi việc lập tức đi Hải Ninh.

Hiện giờ Dương Lăng đã không còn là dịch thừa Kê Minh non nớt nữa, cũng đã ít nhiều hiểu rõ một số âm mưu thủ đoạn đả kích đối thủ chính trị như ném đá giấu tay, gắp lửa bỏ tay người ở trong triều. Khi y rời Kinh thành thì lo lắng Nội đình và Ngoại đình[4] sẽ gây bất lợi với mình, bây giờ nghe nói hành vi khác thường của Chính Đức nhất thời cũng không đoán được nguyên do trong đó cũng không khỏi ngấm ngầm nảy ý cẩn thận, chỉ sợ rằng đây là âm mưu do đối thủ bày ra. Ban đầu, Dương Lăng muốn mau chóng trở về Kinh, bây giờ có sự cảnh giác này lại trở nên cẩn thận không dám manh động, sợ dẫm vào cái bẫy do đối phương bày ra.

Dương Lăng đợi cho Liễu Bưu rời khỏi, ngồi yên lặng đem những việc mình đã làm từ khi xuống Giang Nam đến nay để cân nhắc kỹ càng lại một lần, không phát hiện ra chỗ nào có thể để người khác tố cáo hãm hãi y, sự lo lắng trong lòng mới dần lắng xuống.

Lúc này bức rèm châu vang lên đinh đang, một thân hình thanh tú lặng lẽ tiến vào, Dương Lăng quay đầu lại chỉ thấy Cao Văn Tâm đứng ở bên cửa, liền cười nhẹ rồi nói:

- Mới sáng sớm đã phải châm cứu rồi sao?.

Cao Văn Tâm u oán liếc y môt cái, vị đại lão gia này quả thật không coi nàng như người hầu nhưng lại xem nàng như thầy thuốc tư nhân, lẽ nào không phải vì trị bệnh thì bản thân không thể đến gặp y sao?

Dương Lăng đứng dậy duỗi mình một cái, nói:

- Được rồi, mỗi ngày một lần châm cứu, bây giờ một ngày mà không châm cứu ta cũng thấy không quen. Ha ha, đúng rồi, cách trị liệu Khư Hư Kiện Thể này nhất định cần nửa năm sau mới phát huy tác dụng sao?

Tuy nói là có bàn tay ngọc mềm mại của Cao Văn Tâm xoa bóp cũng coi là một sự hưởng thụ, thế nhưng mũi châm cuối cùng trong mỗi ngày kia đều châm y thành "một cột chống trời", làm Dương Lăng phải nằm sấp ở đó yên lặng chờ "nhị đệ" tâm bình khí hoà, một ngày hai ngày còn có thể chịu đựng được, chứ ngày nào cũng vậy, lại không có mấy cô gái nhỏ như Ấu Nương, Tuyết nhi ở đây, điều này giống như uống một cốc Xuân dược, sau đó lại dùng nước lạnh tạt vào, ngày tháng dài lâu quả thật là có chút khổ sở không thể nói thành lời.

Khuôn mặt của Cao Văn Tâm ửng hồng, nàng nói dối Dương Lăng là phương thuốc làm khỏe cơ thể cho Dương Lăng thực ra là phương thuốc dùng để chữa trị bệnh vô sinh, dùng đến phương thuốc này thì chắc có chút tác dụng, còn như bây giờ có hiệu quả hay không thì cho dù nàng có là thần y cũng nhìn không ra được, liếc trộm vẻ mặt không tình nguyện của Dương Lăng, nàng chỉ biết bất đắc dĩ nói:

- Bẩm lão gia, đúng vậy, phương thuốc này không dùng đủ nửa năm thì hoàn toàn không có hiệu quả, cho nên lão gia nhất định phải kiên trì uống thuốc châm cứu mới được.

Dương Lăng bất đắc dĩ, nói:

- Được rồi, vào phòng trong dùng châm nào.

Dương Lăng nằm sấp trên giường, nhận thấy dáng vẻ muốn nói lại thôi của Cao Văn Tâm không nhịn được cười, nói:

- Ta nói mà, hôm nay sao lại châm cứu sớm như vậy, có phải nàng có điều gì muốn nói với ta không?

Chú thích:

[1] Tam ty gồm Thừa tuyên bố chánh sứ ty, đề hình án sát ty, đốc chỉ huy sứ ty.

[2] Giang Chiết Mân Lỗ: Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Sơn Đông.

Cao Văn Tâm sững người, tiếp đó lại cúi đầu nói:

- Thị tỳ.... Thị tỳ không có điều gì muốn nói với lão gia... Thế nhưng... Có phải lão gia quên mất nói điều gì nói với thị tỳ?

Dương Lăng lấy làm ngạc nhiên hỏi:

- Ta có điều gì... A! Nàng nói là...

Y nằm sấp một lát, mới bất đắc dĩ nói:

- Đợi lát nữa châm cứu xong, nàng thay trang phục rồi cùng ta ra ngoài dạo chút nhé. Đến đây lâu như vậy, đi đến đâu cũng nói ngắm cảnh nhưng thực ra cũng chỉ là đón tiếp tiễn đưa người đến thăm. Cùng nàng chèo thuyền ngắm sen có lẽ là việc vừa ý nhất của chuyến xuống Giang Nam lần này, tý nữa chúng ta cùng đi dạo hẻm nhỏ ở Hàng Châu, khi ấy... ta nói cho nàng nghe.

Các hẻm nhỏ ở Hàng Châu, thực giống như các tài nữ dòng dõi thư hương của Giang Nam, làm cho bạn mới nhìn thoáng qua thì sững sờ về vẻ đẹp của nó, thế nhưng có đi lại bao nhiêu lần bên cạnh nó bạn cũng không thể nào đoán ra được bí mật u nhã, thần bí ẩn chứa trong đó.

Vừa mới bước vào hẻm nhỏ, tựa như thoáng cái từ đô thị phồn hoa bước vào giấc mộng mờ ảo. Sự u nhã tĩnh lặng của nó làm cho bước chân của người đi đường không tự chủ được thả lỏng một chút.

Dương Lăng và Cao Văn Tâm cải trang giống như sĩ tử dạo bước trên con đường đá xanh, chầm chậm thong thả đi vào hẻm nhỏ, ánh mặt trời sau buổi trưa nhè nhẹ rơi rụng trên mái hiên ở hai bên. Ở hai bên hẻm, từng căn nhà tường trắng ngói xám lẳng lặng đứng sững sững. Những viên ngói xám đã nếm đủ sự xâm nhập của mưa gió, hiện ra một vẻ buồn bã tang thương.

Trong hẻm nhỏ rất yên tĩnh, thỉnh thoảng người đi đường qua lại cũng rất thong dong, nhàn nhã. Bốn gã hộ vệ cải trang thành người qua đường ở phía trước, cách nhau khoảng mười bước chân đang cẩn trọng quan sát khách qua đường mở lối cho bọn họ, đằng sau cũng có bốn gã giữ khoảng cách như vậy chậm rãi đi theo.

Đến được địa vị như ngày hôm nay của Dương Lăng thì nếu như muốn một mình ra ngoài đi dạo và hưởng thụ không gian riêng tự do tự tại luôn là điều vọng tưởng mà tình cảnh như bây giờ đã là sự nhượng bộ lớn nhất của Trịnh Bách hộ rồi, con người ta đạt được cái này thì phải mất đi cái khác.

Giữa dãy nhà tường trắng ngói xám có mấy cửa tiệm nhỏ, hoặc là tiệm may, hoặc là quán mỳ, hoặc là tiệm tạp hóa, phần lớn chủ nhân trong tiệm đều đang ngủ gật. Đằng sau dãy nhà bên trái của hẻm nhỏ là một con sông nhỏ êm đềm, những căn nhà này đều xây dựng tựa vào sông, cửa sổ phía sau trông ra chính là dòng nước chảy róc rách, bên ngoài bức tường thấp phía sau dãy nhà bên phải là một con đường cái, có vẻ đẹp kiều diễm khác lạ của "Tường lí thu thiên tường ngoại đạo, tường ngoại hành nhân, tường lí giai nhân tiếu". (bên trong tường là xích đu, bên ngoài tường là đường cái, ngoài tường có người đi lại, bên trong giai nhân cười)

Bước qua một cây cầu nhỏ thấp thoáng dưới gốc cây Du nghiêng ngả là một hàng hiên dài, sát bên trái là sông, bên phải đều là tửu lầu. Tửu lầu đều không lớn nhưng phong cách lại rất cao nhã, dường như là các quán xưa mấy trăm tuổi, các cột hiên trước cửa đều đã phai hết sơn mạ, các chấn song cửa sổ chạm trổ mang phong cách cổ xưa.

Dương Lăng dừng bước trước một tòa tửu lầu, nói với Cao Văn Tâm – đã cải trang thành một công tử tuấn tú:

- Đi nào, chúng ta lên lầu ăn một chút đồ.

Cao Văn Tâm cùng Dương Lăng vai kề vai đi dạo trong hẻm nhỏ tĩnh mịch, trong lòng vô cùng an nhàn chỉ muốn cùng Dương Lăng như vậy đi mãi, nghe Dương Lăng nói muốn lên lầu uống rượu nàng mỉm cười rồi dịu dàng gật đầu.

Trong tửu lầu không có khách, mà thực sự thì lúc này cũng ít có người ra vào các tửu lầu, ông chủ và tiểu nhị đều úp mặt ngủ gật trên bàn, sự nhàn nhã đó thật là làm cho người khác ngưỡng mộ. Tửu lầu ở ngay sát bên sông, trong lầu lúc này vẫn chưa có khách, hai người đi lên lầu hai rồi ngồi xuống vị trí gần cửa sổ, trước cửa sổ bày hai chậu cúc vàng nở rộ rực rỡ, ở phía trên treo một chiếc lồng chim trong có hai chú anh vũ đang hót véo von.

Dương Lăng kêu ông chủ giới thiệu vài món ăn, chỉ một lát rượu và thức ăn được bưng lên, thức ăn tinh xảo đẹp mắt như thịt chó hấp tương, cá tươi áp chảo, chân giò ninh măng, hạt sen chưng đường, hai vò hoàng tửu ấm, Dương Lăng chỉ biết vùi đầu ăn uống, Cao Văn Tâm có tâm sự trong lòng nên không ăn được, nàng chỉ nếm qua rồi thôi. Đôi mắt đẹp nhìn Dương Lăng chằm chằm, đợi y nói ra điều bí mật to lớn kia.

Dương Lăng thấy không thể tránh được nên đành phải bỏ đũa xuống, than nhẹ một tiếng, nói:

- Thức ăn ở đây tinh xảo, phong cảnh u nhã, lại có một người con gái tâm đầu ý hợp như nàng làm bạn, thật giống như thiên đường ở trần gian, chỉ tiếc là... thời gian mà ta có thể hưởng thụ không còn nhiều nữa.

Cao Văn Tâm cau hàng lông mày thanh tú lại, nghi hoặc hỏi:

- Lão gia, ngài... lời này của ngài có ý gì?.

Dương lăng cười bất dắc dĩ một cái, nhẹ giọng nói:

- Bởi vì.... tuổi thọ của ta chỉ còn lại một năm, một năm sau hồn về địa phủ, khi đó thế gian sẽ không còn ai là Dương Lăng nữa.

Cao Văn Tâm há đôi môi anh đào kinh ngạc sững sờ một lúc lâu, bất chợt nắm lấy cổ tay y. Bình thường nàng chỉ cần một ngón tay là đủ xem mạch cho người khác, lúc này người trong lòng nói ra những lời kinh hãi thế nên quan tâm quá tất loạn, trong lúc lo lắng mà dùng đến ba ngón tay.

Dương Lăng để mặc cho nàng nắm lấy cổ tay, ôn nhu nói:

- Nàng là một người con gái tốt, tình ý của nàng đối với ta, Dương mỗ chẳng phải là tượng đất tượng gỗ nên trong lòng sao lại không biết? Với thân phận cao quý của nàng, nếu như không phải trong nhà bỗng nhiên gặp phải điều bất trắc mà trầm luân thành tôi tớ thì cho dù nàng và ta có duyên gặp mặt cũng chẳng thể nảy sinh tình ý, điều này há không phải là ý trời sao?.

Rốt cuộc Dương Lăng cũng thẳng thắn thừa nhận nảy sinh tình cảm với nàng, nếu như đổi thành khi khác nói ra thì Cao Văn Tâm không biết phải vui mừng đến thế nào, nhưng bây giờ nàng chỉ muốn biết Dương Lăng có ám tật trí mạng nào nên phảng phất giống như không nghe, chỉ ngưng thần lắng nghe mạch đập của Dương Lăng.

Dương Lăng khe khẽ nói:

- Nếu như nàng đồng ý... ta và nàng kết thành huynh muội khác họ được không? Sau khi về kinh thành ta sẽ xin hoàng thượng xóa bỏ nô tịch cho nàng, nàng lớn hơn bọn người Ấu Nương mấy tuổi, biết nhiều hiểu rộng lại lanh lợi hơn nhiều, sau khi ta qua đời xin nàng trông nom bọn họ nhiều hơn.

Cao Văn Tâm kinh hãi nhìn y chằm chằm, run giọng nói:

- Ngài... mạch đập của ngài ổn định có lực, tuyệt không có bất kỳ chứng bệnh gì, tại sao lại nói như vậy?.

Cao Văn Tâm nhà tan cửa nát, từ sau khi mến mộ Dương Lăng đã coi y thành người thân nhất, là người duy nhất có thể nương tựa, lúc này kiểm tra không ra Dương Lăng có bệnh trên người nhưng y lại nói vô cùng nghiêm túc, tuyệt đối không giống như nói đùa làm Cao Văn Tâm lo lắng sợ hãi, trên trán đã toát mồ hôi.

Dương Lăng thấy vậy không nhẫn tâm, trở tay nắm lấy bày tay nhỏ ấm áp của nàng, khóe miệng nở một nụ cười khổ bất đắc dĩ:

- Không phải kiểm tra nữa, ta không có bệnh, đây là số mạng, nàng hiểu không? Diêm La kêu người ta canh ba chết, ai có thể sống đến canh năm? Văn Tâm, nàng được xưng là thần y, nhưng đã gọi là y thì chỉ chữa đuợc bênh thôi còn vận mệnh thì làm sao mà chữa đuợc.

Cao Văn Tâm lắp bắp nói nói:

- Lão gia, ngài... ngài nói mình chỉ còn một năm tuổi thọ, là.... là có người xem bói cho ngài? Thuyết tướng số có nhiều chỗ huyễn hoặc, ngài... ngài quá hồ đồ rồi, làm sao lại tin vào những thứ đó? A! Chẳng nhẽ là Trương Thiên sư bốc quẻ xem bói cho ngài?

Trên thế gian này ngoài trừ Trương Thiên sư thì còn ai khi xem bói dám nói thẳng tuổi thọ của người khác là như thế nào? Hơn nữa còn làm cho người ta tin tưởng không nghi ngờ? Cao Văn Tâm bỗng nhiên đứng bật dậy, định đi tìm Trương Thiên sư hỏi cho rõ ràng, Dương Lăng vội vã đứng lên, kéo lấy tay nàng:

- Không liên quan đến Trương Thiên sư, tóm lại là... đạo hạnh người này còn lợi hại gấp trăm lần Trương Thiên sư, muộn nhất tháng mười năm sau chính là lúc thọ chung của ta. Ba người Ấu Nương bọn họ ta đã thấy mặc nợ quá nhiều, nàng nói đi... ta làm sao lại có thể nhẫn tâm làm hỏng tuổi thanh xuân của nàng?.

"

Sao lại có thể chứ?" Cao Văn Tâm nghe vậy vừa giận vừa lo, người xưa tuy rằng nói là tin vận mệnh nhưng cũng chưa nghe ai dám xem bói nói tuổi thọ của người khác còn lại mấy năm, nếu thật có người xem bói như vậy đoán chừng sẽ từ đại sự biến thành lừa đảo rồi bị quan phủ coi là "yêu ngôn hoặc chúng" mà đánh chết.

Lão gia rõ ràng là rất khỏe mạnh nhưng lại cứ khăng khăng tin tưởng vào những lời nói xằng bậy đó, thì ra lão gia không tiếp nhận nàng không phải là ngại tuổi tác của nàng lớn, cũng không phải ngại nàng có thân phận gia nô mà hóa ra là... hóa ra là... Cao Văn Tâm hận là không thể ngay lập tức tìm thấy người đã nói Dương Lăng chỉ còn lại một năm tuổi thọ để giáng cho y một cái tát thật đau.

Nàng bực tức giậm chân, nói:

- Không được, ta đi tìm Trương Thiên sư, nếu như ngài thật có mệnh hệ gì thì Trương Thiên sư sao có thể ngoảnh mặt làm ngơ? Đây rõ ràng là có người hồ ngôn loạn ngữ, cố ý ăn nói hù dọa.

Lúc này nàng cải trang thành con trai nhưng nhíu mày dậm chân thì lại là dáng vẻ yêu kiều của con gái, xem ra vô cùng dễ thương. Dương Lăng kiên quyết lắc đầu, nói:

- Nha đầu ngốc, ta là người dễ tin những lời không căn cứ sao? Không cần phải đi tìm Trương Thiên sư nữa, cho dù là y cũng chưa chắc đã xem ra được. Những lời ta nói đều không phải giả dối cho nên... ta quyết không thể tiếp nhận tình ý này của nàng.

Dương Lăng thấy nàng lo lắng đến sắp chảy nước mắt, vội cười đùa cợt nhả dỗ dành, nói:

- Hay là chúng ta đánh cược, ngày này năm sau nếu như ta chết rồi thì nàng phải cùng ta kết bái huynh muội trước linh vị của ta rồi sau đó yên phận xuất giá, nếu như ta không chết thì là ta đã dối lừa nàng, lúc đó... thì ta sẽ gả cho nàng được rồi, ha ha ha.

Cao Văn Tâm thấy dáng vẻ cợt nhả cười đùa của y cũng không biết là y nói thật hay giả. Nếu lời y nói là thật thì cái dáng vẻ vô lại muốn bị ăn đòn kia quả thực không giống. Còn nếu nói là giả... nhưng rõ ràng trong ánh mắt kia ẩn chứa một sự bi ai sâu đậm, sao mình lại thích một người như vậy?

Dương Lăng hít một hơi dài, lấy lại tinh thần, nói:

- Chúng ta bây giờ như thế này, làm một đôi hồng nhan tri kỷ có gì là không tốt? Chẳng mấy khi nàng cùng ta đơn độc đi dạo, nàng xem chỗ này... ý?

Dương Lăng chỉ ra ngoài cửa sổ, ngạc nhiên mở to mắt, sau đó đi tới vin vào cửa sổ nhìn xuống dưới. Cao Văn Tâm không hiểu ra sao, cũng vội đi theo. Chỉ thấy ở phía dưới của sổ là một con sông nhỏ nước chảy chầm chậm. Lúc này đang có một con thuyền Ô Bồng chầm chậm trôi đến. Trên đầu thuyền có một đứa trẻ mới lớn dáng vẻ chất phác khỏe mạnh. Chỉ là nhìn từ phía trên xuống thì trên gáy đứa trẻ đó có một cái bướu thịt lớn mầu tím đỏ, nếu như nhìn tỉ mỉ sẽ làm cho người thấy dựng hết tóc gáy.

Lúc này đứa trẻ đó đứng dậy, kêu lớn về phía sau:

- Cha, khi nào cậu từ Quảng Đông về? Cậu nói khi nào quay về sẽ mang cho con nhãn và vải, bây giờ đã ba tháng rồi mà còn chưa thấy quay về?

Người đàn ông khua chèo ở phía sau cười ha ha:

- Đứa nhóc ngươi chỉ biết thèm ăn, lớn như vậy rồi cũng nên hiểu chuyện đi, mẹ của con ở phường dệt nhà Cao lão gia rất vất vả, đừng có luôn cứ quấn lấy mẹ đòi mua quà vặt cho con ăn.

Dương Lăng hít một hơi lạnh.

"Đứa trẻ này... cũng không cha không mẹ, ta trông thấy đáng thương nên thu giữ nó lại đưa đến đây... à đúng, đó là việc mùa hè năm ngoái". Câu nói này của Mạc Thanh Hà giống như tiếng sét vang lên bên tai, Dương Lăng sững sờ nhìn theo con thuyền nhỏ nhè nhẹ trôi xa, trong lòng chỉ nghĩ: "Tại sao hắn lại lừa ta? Chẳng qua chỉ là thu giữ một đứa bé, ta lại không nói đến chuyện đi thăm những đứa trẻ đó, tại sao hắn lại phải tìm một thiếu niên đến giả vờ là đứa trẻ y thu nhận để lừa ta? Sợ ta nảy ý nghi ngờ như vậy, rốt cuộc hắn đã làm cái gì?'.

Dương Lăng bỗng nhiên bừng tỉnh quay người chạy xuống lầu, Cao Văn Tâm không biết đã xảy ra chuyện gì liền vội vàng đuổi theo người y nhưng chỉ mới xuống hai bậc cầu thang thì Cao Văn Tâm kêu một tiếng "ái a", dẫm hụt một chân làm cổ chân bị trẹo, nàng đau đến sắc mặt tái nhợt phải dựa vào tay vịn mà đôi môi cũng run lên lẩy bẩy.

Dương lăng thấy thế vội vàng quay lại đỡ lấy nàng, tám gã nha sai khi nãy thấy lầu hai không có người liền chiếm lấy hai bàn ở lầu một, gọi đồ nhậu rồi canh gác, khi này thấy đại nhân vội vã chạy xuống lầu thì vội vàng bỏ đũa xuống rồi tiến lên trước nghênh đón.

Dương Lăng hạ thấp giọng nói:

- Nhanh, cử hai người đi theo con sông ở phía đằng sau kia, đuổi theo một con thuyền. Trên thuyền có một đứa bé trên gáy có mọc bứu thịt, đi theo họ về nơi ở và tra xét rõ mọi thứ về họ, mau đi.

Hai gã sai nha mau chóng dạ một tiếng rồi quay người chạy khỏi tửu lầu. Dương Lăng đỡ lấy Cao Văn Tâm hỏi:

- Nàng thế nào rồi?.

Vẻ mặt của Cao Văn Tâm đau khổ, nói:

- Đau quá, cổ chân trẹo rồi, thị tỳ... thị tỳ không đi được nữa.

Hai gã sai nha thấy đại nhân đỡ người đi xuống cầu thang không tiện nên muốn đỡ lấy Cao Văn Tâm từ tay của Dương Lăng, Cao Văn Tâm làm sao chịu để bọn chúng lại gần người mình, Dương Lăng bất đắc dĩ phải cúi người luồn một tay nâng hai gối của nàng rồi bế ngang nàng lên, hai tay của Cao Văn Tâm thuận thế ôm chặt lấy cổ y, tuy rằng chân đau như kim đâm vào tim nhưng khóe miệng đã khe khẽ nở một nụ cười ngọt ngào.

***

Nếu như người bạn gái của bạn bị trẹo cổ chân, bạn giúp nàng cởi giày tháo tất, xoa một chút rượu thuốc rồi sau đó sẽ như thế nào?

Đáp án rất đơn giản, không phát sinh bất kỳ việc gì hết, nàng ta sẽ thoải mái nói tiếng cảm ơn rồi sau đó lại thoải mái giơ tay ra cho bạn để bạn dìu nàng ta đi gọi xe, đợi cho nàng vào trong nhà thì không còn việc gì của bạn nữa.

Nếu như tại một thời đại đối với người con gái chân còn quan trọng hơn danh tiết, trinh tiết, nhiều người con gái đến thân thể đều trao cho đàn ông nhưng lại coi bàn chân của mình là bộ phận riêng tư không cho phép đàn ông chạm vào mà nói thì nàng ta chịu ngồi ở trên giường để cho bạn tháo giầy cởi tất, xoa nhẹ bàn chân nhỏ như bông sen, vậy điều đó có nghĩa gì?

Cao Văn Tâm biết điều đó có nghĩa gì cho nên nàng nhìn Dương Lăng lặng lẽ đưa tình, hé răng cắn nhẹ làn môi đỏ, đôi mắt phượng xinh đẹp quyến rũ khép lại như một sợi tơ.

Dương Lăng đang cúi đầu chăm chú giúp nàng xoa chân thì không biết, y chưa từng nghe qua câu nói "Đầu của đàn ông, chân của phụ nữ, chỉ được nhìn không được sờ", cho nên Dương Lăng không những sờ mà còn sờ tương đối tỷ mỉ.

Trong lòng Cao Văn Tâm, bắt đầu từ giây phút này, nàng đã hoàn toàn là người của Dương Lăng, cả đời cả kiếp này, không còn có thể gả cho người đàn ông thứ hai, còn Dương Lăng lại ngậm ngùi trong lòng: Bàn chân của Cao Văn Tâm thật đẹp, đây là đôi chân đẹp nhất mà y từng thấy, người phụ nữ có thân hình đẹp không dễ tìm, người phụ nữ có khuôn mặt đẹp càng khó tìm, còn người phụ nữ có đôi chân đẹp..."

Hai bàn chân của của Cao Văn Tâm nhỏ nhắn, gọn gàng, làn da trắng như tuyết, lóng lánh, hiện lên vẻ nhẵn bóng, thật là giống như vẻ trơn tru như ngọc, nét mềm mại như lụa, màu da trên mu bàn chân tựa như trong suốt, móng chân của mười ngón chân đều hiện màu hồng nhạt, giống như mười cánh hoa nhỏ.

Tào Thực có viết: "Lăng ba vi bộ, la miệt sinh trần" (nhẹ nhàng đạp sóng, áo phất bụi hồng - ND); Lý Bạch viết: "Phúc thượng túc như sương, bất chiếu Nha Đầu miệt" (bàn chân trắng trên đôi guốc gỗ, không đi vớ Nha Đầu- ND); đến như suốt ngày vì nước vì dân lo lắng âu sầu như Đỗ Phủ cũng từng viết: "La miệt hồng tảo diễm" (áo lụa màu đỏ tươi - ND), nếu như chưa từng thấy qua mỹ nữ có bàn chân thanh tú mềm mại mảnh mai đến thế thì sợ rằng cũng chẳng thể phát ra được cảm khái như vậy?

Cao Văn Tâm bị y xoa nhẹ đến rạo rực cả người, lòng xuân dập dềnh lại nhớ tới Dương Lăng năm lần bảy lượt khước từ tuyệt tình, coi tình cảm chân thành của mình như không có gì chỉ bởi vì một lý do đáng cười như thế làm nàng không khỏi lại có chút bực bội. Người con trai này, tại sao mình lại cứ khăng khăng thích y, thế nhưng nếu như đó chỉ là lý do vu vơ vậy không phải có nghĩa là chung thân đại sự của mình có hi vọng rồi sao?

Nàng cắn môi, không thoải mái vặn vẹo nửa người dưới, định hỏi hai người họ đã đến nước này rồi vậy khi nào y cưới mình về nhà, thế nhưng lời nói vừa đến miệng đã lại biến thành:

- Lão gia, thị tỳ... thị tỳ đỡ nhiều rồi, không phải lão gia nói Mạc công công là người biết điều nhất trong ba vị Trấn Thủ Thái Giám sao? Tại sao... Ái, có phải là hắn đem những đứa trẻ kia lừa bán cho người khác?

Dương Lăng nhè nhẹ lắc đầu, nói:

- Không phải, sự bóc lột của hắn tuy rằng không lợi hại nhưng ở Giang Nam này cũng có thể coi như là tiền vào như nước, lừa bán mấy đứa trẻ có thể kiếm được bao nhiêu tiền chứ? Ta thấy kỳ lạ là ở chỗ này, hắn không nhất thiết tính toán mấy đứa cô nhi, nhưng bây giờ xem ra, tung tích những đứa trẻ mà hắn thu dưỡng kia đích thực có vấn đề, thoạt nhìn việc này cũng nhỏ nhưng y ra sức che đậy, tất có chuyện lớn, ta nhất định phải tra xét kỹ càng việc này.

Cao Văn Tâm im lặng một lát, gắng sức hít một hơi vào lấy hết dũng khí quyết tâm nói:

- Lão gia, phần lớn giang hồ đạo sĩ cố ý nói bừa nói bậy để gạt tiền người ta thôi, một năm tuổi thọ cái gì chứ, làm sao mà tin tưởng được, thị tỳ... ngài.

Dương Lăng cười khổ nghĩ thầm chân tướng sự việc kia đích thực là kinh thế hãi tục, nếu như nói toàn bộ ra không chừng Cao Văn Tâm sẽ coi y thành yêu quái mượn xác hoàn hồn nên y làm sao dám nói ra, đành phải ậm ờ:

- Ta không phải là một người hồ đồ, nếu như không chắc chắn mười phần thì ta cũng sẽ không nói vậy. Văn Tâm... sinh mệnh của ta quả thật không còn nhiều nữa.... Ài, những rối rắm ở trong đó không nhắc đến cũng được.

Y nói rồi ngẩng đầu nhìn một cái thấy Cao Văn Tâm đỏ mặt, trong đôi mắt dưới hàng lông mi dài kia đầy vẻ tủi thân và u oán lại vội vàng cúi đầu xuống, thế nhưng vừa mới cúi xuống thì chiếc áo dài mềm mại dán sát vào người chậm rãi hiện ra cặp đùi thon dài tươi mọng kia của Cao Văn Tâm, chóp mũi còn thoảng mùi hương thiếu nữ nhè nhẹ, động tác hai tay nắm lấy bàn chân ngọc nõn nà kia của y cũng không khỏi trở nên ngập ngừng.

Cao Văn Tâm thấy y vẫn khờ dại tin vào lời nói của đạo sĩ chấp mê bất ngộ, trong lòng bực bội vô cùng: "Lão gia ngốc nghếch nói thì đường đường chính chính, được rồi, nguyên phối là Ấu Nương, ngài cưới rồi, Ngọc Nhi, Tuyết Nhi là Hoàng thượng ban cho, ngài cũng cưới rồi, hiện giờ ngài còn... ngài còn... còn nói kết nghĩa kim lan, kêu ta gả cho người khác gì chứ, ta còn gả cho người khác được sao?"

Cao Văn Tâm nghĩ đến đây, cắn răng lẳng lặng rút một mũi kim châm từ trong búi tóc ra cầm trên tay. Dương Lăng đang cúi đầu thoa nhẹ cổ chân cho nàng, gáy ở ngay trước mắt nàng, chỉ cần nhè nhẹ châm một cái thần không hay quỷ không biết thì con người vô tình này đêm nay có thể trở thành lang quân của mình.

"Có nên châm xuống hay không?" Cao Văn Tâm tự hỏi, bàn tay nắm đuôi kim cũng khẩn trương toát mồ hôi ướt đẫm, lòng dạ nàng ngổn ngang đấu tranh không ngừng, trăm nghìn ý nghĩ xoay vòng trong đầu, bàn tay cầm kim châm kia run rẩy rốt cuộc không nhấc lên được.

Chú thích:

[3]Nội đình- Ngoại đình: là hai chế độ chính trị kìm chế lẫn nhau với quyền lực quân chủ là hạt nhân thời Minh.

Nội đình: tập đoàn chính trị với thành phần là hoạn quan (thái giám), gồm 12 giám, 4 ty, 8 cục. Trong đó, ty Lễ Giám là trung tâm quyền lực.

Ngoại đình: chỉ tập đoàn quan văn do Nội các, lục bộ thái thú, tuần phủ địa phương hợp thành. Trong đó, Nội các là trung tâm quyền lực.[/I]

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#không