Ngược về thời Minh - Quyển năm: Quần Ma Loạn Vũ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Quyển 5 – Quần Ma Loạn Vũ (Bát Hổ gây loạn)

Chương 154 – Lợi Ích Trên Hết

Dương Lăng nằm trên giường, Cao Văn Tâm ngồi cạnh lau mặt cho y bằng khăn nóng. Dẫu sao thì y cũng mới tắm xong, hai má ửng đỏ, da dẻ hồng hào, nhìn thế nào cũng chẳng giống như đang “thoi thóp” nên đành phải giả bộ như vừa lấy khăn ấm lau mặt xong.

Tiêu Phương ngồi cạnh bàn, thủng thỉnh vuốt râu, miệng cười tủm tỉm, nếu không phải đôi lúc ông ta để lộ nụ cười gian xảo thì trông rất nhân từ. Vị nhân huynh này đã 71 tuổi rồi, nhưng ngũ quan vẫn còn tinh tường, râu tóc trắng như cước, thân thể khoẻ mạnh, tướng mạo đường đường.

Trên đường về kinh, trong lúc suy tính tìm người cử vào vị trí nhập các* Đại học sĩ, Dương Lăng cũng đã từng cân nhắc đến vị quan văn có quan hệ khá tốt với mình này. Vị Tiêu thị lang này đỗ tiến sĩ năm Thiên Thuận thứ tám, liên tục nhậm chức Thứ cát sĩ, Biên tu, Thị giảng, sau lại đến nơi khác làm Đồng tri, Tri châu, Đề học phó sứ, Thông chính, Thái thường thiếu sư, Hữu thị lang bộ Lễ, hiện làm đến Tả thị lang bộ Lại.

(* gia nhập vào Nội các, tham dự giải quyết những sự vụ quan trọng, cơ mật trong triều)

Có thể nói chức danh kỹ thuật và chức vụ hành chính của ông ta từ thấp đến cao đều có đủ, còn năng lực và kinh nghiệm quan trường cũng có thể nói là vào bậc nhất. Lúc nhập các, phẩm quan của ba vị đương kim đại học sĩ đều nhỏ hơn ông ta, cho nên Tiêu thị lang là người có tư cách thăng chức vị đại học sĩ nhất.

Hơn nữa Dương Lăng từng giúp đỡ ông ta, còn lúc Dương Lăng vào ngục vì vụ an Đế lăng thì Tiêu Phương cũng đã nói tốt vài câu giúp y, cho nên Dương Lăng rất có hảo cảm với lão, xếp ông ta vào diện có khả năng làm ứng cử viên. Y từng phái Ngô Kiệt ngấm ngầm điều tra tình hình của người này, không ngờ mình còn chưa biết có nên liên lạc với ông ta hay không thì ông ta đã sớm tìm đến.

Dương Lăng uể oải khoác tay, bảo:

- Văn Tâm, cô lui ra trước đi! Ta muốn nói chuyện cùng Tiêu đại nhân.

Cao Văn Tâm thấy y giả bộ như sắp chết, không khỏi hờn dỗi lườm y một cái rồi mới uyển chuyển đứng dậy, dịu dàng đáp:

- Dạ! Thân thể lão gia còn yếu, đừng quá sức kẻo mệt, tiểu tì cáo lui.

Đoạn nàng lùi hai bước, hành lễ với Tiêu Phương rồi mới nhẹ nhàng lui ra, thuận tay đóng cửa phòng.

Dù bận rộn nhưng Tiêu Phương vẫn thong dong nhấp một ngụm trà, rồi vuốt râu bảo:

- Nghe nói đại nhân bị ám toán trên đường về kinh nên bị trọng thương, thậm chí hôm nay lúc vào triều gặp vua cũng không thể dậy nổi. Bản quan ở Lại Bộ nghe được tin rất lấy làm lo lắng, đứng ngồi không yên nên đành vội vàng xin nghỉ, mang ba cây nhân sâm ngàn năm đến thăm sức khỏe đại nhân.

Dương Lăng đoán không ra mục đích đến đây của lão, cho nên cũng giả vờ chấp nhận:

- Đã phiền lão đại nhân nhọc lòng rồi! Chỉ là một chút thương tích nhỏ, không sao cả đâu.

Tiêu Phương chợt hít hít mũi, rồi nói đầy hàm ý:

- Ừm! Hôm nay thấy đại nhân khí sắc vẫn còn tốt, bản quan cũng yên tâm.

Dương Lăng thấy bộ dạng của lão, thầm nhủ: “Tiêu rồi! Nếu mình được bôi thuốc kim sang (thuốc trị thương) thì sao lại không nghe mùi chứ, lão già này đúng là tinh ranh.” Y cười khan:

- Đại nhân bận rộn nhiều bề mà còn vội vã đến đây thăm hỏi, bản quan rất lấy làm cảm kích!

Tiêu Phương than thở:

- Đại nhân là rường cột của nước nhà, hiện nay chèo chống trong triều chỉ còn lại mỗi mình Lý đại học sĩ, lòng người bất an. Lúc này đang cần đại nhân ngăn cơn sóng dữ, ổn định lòng người, cho nên lão phu thật lòng mong đại nhân sớm khỏi bệnh.

Dương Lăng mỉm cười, giả vờ nâng chén trà lên uống, cúi đầu ngẫm nghĩ: “Lấy lai lịch và chức quan của vị Tiêu đại nhân này mà còn đến thăm nom mình, rồi lại nói những lời nịnh nọt như vậy, chắc chắn là có ý kết giao với mình rồi.

Có điều mình giả bộ bị thương, rút khỏi trường phong ba này để giữ lấy tấm thân, không ngờ lại bị lão già này nhìn ra, quả là tinh tế một cách đáng sợ. Người này sẽ trở thành đồng minh trên chính trường của mình ư?”

Như có điều trầm ngâm nghĩ ngợi, y cầm chén trà uống cạn một hơi. Y vừa ngẩng đầu đặt chén trà lên bàn, Tiêu Phương đã tiếp lấy, rót đầy rồi đẩy nhẹ về phía y.

Thấy thái độ kính cẩn của vị quan lớn tam phẩm bộ Lại râu tóc bạc phơ này, Dương Lăng đã có quyết định trong lòng. Y nghĩ ngợi một chặp, rồi cười nặng nề nói:

- Lão đại nhân khách sáo rồi! Dương mỗ thăng tiến nhanh khiến người ta hâm mộ, nhưng đó đều là theo đường bàng môn, chưa hề tham dự vào đại sự triều đình. Nếu luận kiến thức và kinh nghiệm thì hãy còn kém xa đại nhân, so với rất nhiều triều thần khác thì cũng chẳng bằng.

Y trầm tư một lát, rồi từ tốn nói tiếp:

- Được Hoàng thượng ưu ái, kẻ làm thần tử đương nhiên phải vì người mà san sẻ lo âu. Lần này xuôi nam tuần tra thuế má, Dương mỗ được tai nghe mắt thấy nhiều điều, trong lòng thực ra đã có vài ý tưởng, chỉ là không biết có nông cạn buồn cười hay không, cho nên cũng không dám bẩm tấu lên Hoàng thượng. Lão đại nhân đến vừa đúng lúc, bản quan đang muốn thỉnh giáo, mời đại nhân xem xét hộ cho. Không biết ý đại nhân thế nào?

Tiêu Phương nhếch mày, trong mắt loé lên vẻ vui mừng: "Lời vừa rồi của Dương Lăng chính là có ý chấp nhận mình. Lời nói của kẻ này rất được Hoàng thượng tôn trọng, hiện mấy vị thái giám chưởng quản nội đình cũng răm rắp nghe theo lời y, chỉ cần y chịu đề bạt chiếu cố cho thì mình cần gì phải chịu sự chèn ép của đám người Mã Văn Thăng nữa?

Chẳng qua tuy y còn trẻ tuổi nhưng xuôi nam tuần tra thì giải quyết được các vị thái giám trấn thủ, về kinh thì dẹp yên được sự công kích của quần thần nội ngoại đình; là người suy trước tính sau, thủ đoạn cực kỳ lão luyện, không biết y muốn kiểm tra ta những gì?

Mình phải có chút kiến giải độc đáo khiến y thưởng thức, nhưng phương châm thì phải thống nhất với y về cơ bản mới được, cơ hội khó kiếm, mình phải cẩn thận ứng phó đây."

Tiêu Phương nghĩ đến đây, tinh thần phấn chấn như năm nào vào kinh ứng thí, bèn kéo dịch ghế về phía trước một tí, hơi khom người, tập trung tinh thần:

- Không biết đại nhân có cao kiến gì, lão phu xin lắng nghe.

Dương Lăng nói:

- Lần này bản quan xuống Giang Nam, chủ yếu là tuần tra vùng duyên hải. Ở đó cướp biển hoành hành, theo như bản quan thấy thì người dân và lái buôn vì bị bế quan tỏa cảng mà phải đi buôn lậu. Buôn lậu và cướp biển, những thứ này có cấm cũng chẳng được, cho nên bản quan đến giờ vẫn nghĩ không thông: có câu “lấp không bằng thông”, vì sao triều đình không thể bãi bỏ lệnh cấm biển, khuyến khích người dân thông thương? Chỉ riêng thuế má thu nhập hàng năm há chỉ ngàn vạn.

Trên đường về kinh, bản quan có ghé qua xưởng đóng thuyền Long Giang, hiện nay nơi đó hoang vu tiêu điều, cảnh tượng phồn hoa khi Tam Bảo thái giám giong thuyền xuôi tây dương năm xưa đã không còn nữa. Nghe đâu là vì việc đó hao tốn rất nhiều tiền bạc, sức nước khó mà chịu nổi, cho nên bản quan nghĩ rằng…

Dương Lăng liếc nhìn khuôn mặt đầy nếp nhăn của Tiêu Phương rồi nói tiếp:

- Nếu như triều đình cho rằng dùng hải vận để tuyên dương uy danh quốc gia là việc lợi không bằng hại thì cũng đâu cần phải cấm dân gian thông thương. Tuy rằng triều đình lấy nông nghiệp làm gốc, nhưng cũng không nên chèn ép thương nghiệp quá đáng, bá quan trong triều chẳng lẽ không thấy được ích lợi của việc thông thương với các nước ư? Bản quan hoàn toàn không hiểu, đại nhân có thể giải đáp giúp ta không?

Tiêu Phương nhíu mày, chăm chú nhìn y, thầm nhủ: “Thì ra Dương đại nhân cũng không chịu nhàn cư, y muốn chọn bãi bỏ lệnh cấm thông thương để làm chính tích (thành tích chính trị, để người ta ghi nhớ) cho mình à? Việc này khó đây.”

Dương Lăng thấy lão vuốt râu nghĩ ngợi hồi lâu mà không nói gì thì có vẻ hơi mất kiên nhẫn. Tiêu Phương thấy thế vội đáp:

- Lão phu và đại nhân rất là hợp ý, cho nên có đôi lời thật lòng muốn bẩm cáo đại nhân. Nếu có gì không phải, xin đại nhân nghe xong bỏ qua. Có một số chuyện… dù mọi người trong lòng đều biết rõ, nhưng thực sự không tiện lấy ra thương nghị.

Dương Lăng hồ hởi:

- Đương nhiên, đây là vãn bối thỉnh giáo lão đại nhân. Chuyện riêng giữa hai ta sẽ không có người thứ ba biết được.

Tiêu Phương nghe vậy thì yên tâm, ngẫm nghĩ một lát rồi chậm rãi nói:

- Đại nhân thật sự cho rằng đám sĩ tử đọc sách cổ hủ, không thấy được lợi ích của việc thông thương với các nước sao? Ha ha, đó chỉ là bề ngoài thôi. Khoan hãy nói dân gian thông thương thu được ích lợi to lớn thế nào, chỉ tính năm đó Trịnh Hoà xuôi tây dương dù tốn kém vô cùng nhưng tham quan được nhiều nước, cũng không phải là mất nhiều hơn được.

Dương Lăng vẫn luôn nghe quan điểm cho rằng Đại Minh giong thuyền xuôi tây dương thuần tuý là truyền bá uy danh quốc gia, quốc khố hao hụt rất nhiều nhưng không có thu nhập tương ứng mới khiến bá quan phản đối, nên khi nghe Tiêu Phương nói thế thì hơi ngạc nhiên, vội hỏi:

- Sao đại nhân lại nói vậy?

Tiêu Phương mỉm cười đáp:

- Lúc lão phu nhậm chức ở bộ Lễ đã từng xem qua điệp báo về việc qua lại với các nước vào những năm Vĩnh Lạc, còn nhớ mang máng một số chuyện. Triều đình Đại Minh không thông thương với nước ngoài không có nghĩa là không cần những thứ mà trong nước không có, chẳng qua là lấy phương thức cống nạp của các nước để tiến hành giao dịch mà thôi.

Trong đó có rất nhiều hàng hoá vì sự khác biệt về lãnh thổ mà cung không đủ cầu, cho nên giá cả đắt đỏ. Lão phu lấy ví dụ thế này, Đại Minh cần hồ tiêu, nhưng trong nước không sản xuất mà do quốc gia hải ngoại tiến cống, nên giá đắt như vàng, gấp hai mươi lần giá gốc.

Năm Vĩnh Lạc thứ năm, lần đầu tiên Trịnh Hoà xuôi tây dương trở về, giá mỗi cân hồ tiêu trong nước giảm mười lần. Đến năm Tuyên Đức thứ chín, lần cuối cùng Trịnh Hoà xuôi tây dương trở về, giá hồ tiêu càng hạ xuống một cân 100 quan tiền, triều đình mỗi năm nào chỉ cần vạn cân hồ tiêu, chênh lệch giá cả nghĩ đã thấy sợ rồi. Mà lúc đó hàng hoá giao lưu giữa Trung -Tây đã đến hàng vạn loại, tiền tài dự trữ trong quốc khố nhiều không kể xiết, trừ hao phí tổn do Thiên triều ban thưởng cho các nước và xuôi tây dương, thì vẫn kiếm được rất nhiều…

Dương Lăng ngạc nhiên hỏi lại:

- Nhưng sao bản quan nghe nói…Triều đình cấm xuôi tây dương là vì tài chính cạn kiệt, cho nên bá quan mới đồng loạt phản đối?

Tiêu Phương cười kín đáo, ánh mắt loé sáng:

- Thời Vĩnh Lạc, trong nước thì xây dựng thành Bắc Kinh, đối ngoại thì Nam chinh Giao Chỉ, Bắc phạt Mông Nguyên, dụng binh khắp nơi, tiêu tiền khắp chốn, nhưng dân chúng vẫn ấm no, kho đụn vẫn dư dật, những điều này đều được ghi lại trong sử sách. Ngoài ra tơ lụa Giang Nam, đồ sứ trấn Cảnh Đức, thậm chí in ấn, trà lá, tàu thuyền, lâm nghiệp đều hưng thịnh nhờ đó, sao nói là cạn kiệt?

Mà sau khi dừng xuôi tây dương thì ngược lại, quốc khố gặp khó khăn đủ bề. Thời Anh Tông, chỉ hơi hạn hán thì đã khó điều động tiếp tế cho dân rồi. Trước đây khi dấy binh chinh phạt hay kiến tạo một toà thành trì đều dư dả, nay xây một toà đế lăng đã tiêu hao hơn một nửa thu nhập của quốc gia, điều đó giải thích thế nào?

“Về phần dương thương tổn nông(1), càng là lời vô căn cứ. Triều đại nhà Tống, diện tích đất đai không bằng Đại Minh, sản lượng trồng trọt cũng không bằng, tô thuế nặng hơn nhiều, nhưng bách tính lại vẫn có thể chịu được, sinh hoạt và thực phẩm đều dồi dào hơn Đại Minh.

Còn nay thu nhập một năm của Đại Minh không quá 400 vạn lượng, chỉ bằng một phần mười thời Nam Tống, dù hạ thuế để an dân, nhưng sinh hoạt của bách tính vẫn khó khăn. Ngoại trừ tô thuế chính thức ra còn có lắm tệ nạn, chẳng phải cấm hải cấm thương chính là nguồn gốc tai họa đó sao?

Dương Lăng nghe mà ngơ ngẩn. Đúng vậy, những chuyện này sao trước đây mình không hề nghĩ tới nhỉ, chỉ dựa vào những bài chỉ trích bằng văn chương cẩm tú mà đã có thể biến việc giong buồm xuôi tây dương thành việc làm sai trái, đám quan văn cầm cán bút đó quả thật đã cho mình thấy rõ sự lợi hại của bọn họ. Nếu lần này về kinh bị Đông xưởng giết chết, mình chẳng phải sẽ bị quy chụp đủ tội danh, muôn đời sau cũng bị coi là kẻ gian nịnh ư? Lẽ nào trong chuyện này còn có nguyên nhân khác?

Dương Lăng hào hứng đến suýt nữa ngồi bật dậy, vừa nhổm người thì mới sực nhớ ra, thế là lại vội vàng nằm xuống, thành khẩn và kích động:

- Không giấu lão đại nhân! Theo bản quan thấy bế quan toả cảng thật là hại nước hại dân, bãi bỏ lệnh cấm thông thương, tiêu diệt cái nguồn họa hải tặc từ gốc rễ, thế mới ích nước lợi dân, mới dẹp yên lãnh hải, giúp Đại Minh ta hiểu rõ về các nước hải ngoại, mở mang kiến thức, thật sự là lợi ích vô cùng. Cho nên bản quan mới có lòng muốn can gián Hoàng thượng, thế nhưng mấu chốt chuyện này là thế nào thì rốt cuộc lại không thể hiểu được. Đại nhân có thể giải thích rõ ràng cho bản quan được không?

Tiêu Phương thấy bộ dạng hào hứng đến độ quên luôn cả việc mình đang giả bị thương phải nằm trên giường của y, thì trong lòng cũng thầm buồn cười. Tuy lão cũng không lạc quan lắm về việc bãi bỏ lệnh cấm thông thương, nhưng nếu có thể nêu ra quan điểm độc đáo của mình mà lại hợp ý Dương Lăng, thì dù cho kế sách không thành y cũng nhất định cũng sẽ xem lão là người tâm phúc. Thế là Tiêu Phương cũng hăng hái tinh thần, chậm rãi nói rõ ngọn ngành.

Từ lúc Trịnh Hoà xuôi tây dương đến nay, ban đầu nhập khẩu phần lớn là xa xỉ phẩm, theo thời gian việc giao lưu tăng dần, một lượng lớn hàng hoá tuồn vào, giá cả không ngừng hạ xuống, vật dụng hàng ngày cũng bắt đầu xuất hiện nhiều lên, việc này Dương Lăng có thể hiểu được: Lúc đời sau mới cải cách mở cửa, những thứ nhập khẩu từ nước ngoài vào cũng đều là sản phẩm chất lượng cao mà trong nước còn thiếu.

Có điều thời đó tiên tiến nhất chính là triều đại nhà Minh, những vật phẩm xa xỉ nhập vào đều là hàng quý hiếm, dần dần bắt đầu nhập khẩu nhiều nguyên liệu, xuất khẩu các loại tơ lụa, đồ sứ tinh xảo, còn kích thích phát triển thủ công nghiệp trong nước. Ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, luyện kim cũng nhờ nhu cầu gia tăng mà phát triển, có thể nói là lợi ích vô cùng, sao lại chết yểu trong sự phản đối gay gắt như vậy nhỉ?

Đáp án của Tiêu Phương khiến Dương Lăng rất ngạc nhiên, y vốn cho rằng tư tưởng tiểu nông (cá thể) của nhân sĩ đời Minh khiến bọn họ chèn ép thương nhân, khinh thường tác dụng của thương nghiệp, không ngờ nguyên nhân trong đó lại phức tạp như vậy. Xem ra sách lược mà y vốn chuẩn bị để vào cung can gián hoàng đế Chính Đức phải sửa đổi lại rồi.

Dương Lăng lúc này thật sự là cảm kích Tiêu Phương vô cùng, nếu cứ ôm lấy nhận thức ban đầu, trên triều đường chỉ trích bá quan thiển cận, ca ngợi ích lợi của việc bãi bỏ lệnh cấm thông thương, chỉ sợ sẽ bị mắng cho té tát mà quay về rồi.

Tương tự, được Dương Lăng gợi ý sẽ đề cử nhập các, Tiêu Phương cũng cảm thấy chuyến đi này không tệ. Vị quan già nhiều lần tỏ ý muốn gia nhập Nội các, cùng Dương Lăng tương trợ lẫn nhau trong triều, đến lúc cáo từ ra về lòng cảm kích đến rơi lệ.

Bốn người Hàn Ấu Nương và Cao Văn Tâm, Ngọc Đường Xuân, Lý Tuyết Mai đang chờ ở sảnh ngoài, thấy Dương Lăng bước ra liền vội đi tới đón. Thấy y có tâm sự, Hàn Ấu Nương lo lắng hỏi:

- Tướng công có việc gì ư?

Dương Lăng không muốn nàng lo lắng, bèn tạm thời nén tâm sự cười đáp:

- Làm gì có? Mì còn đang nóng, để tướng công ăn mì do mấy vị hiền thê làm mới được.

Y đến trước bàn, vội vàng ăn sạch bát mì thơm phưng phức, rồi lau miệng nói:

- Xong rồi, tướng công đã ăn no. Ta vào vườn đi dạo đây.

Cao Văn Tâm mở miệng tính giữ y lại, song nghĩ ngợi một tí rồi lại thôi. Nàng khẽ thở dài tự nhủ: “Thôi vậy, cũng dừng mấy ngày rồi, cũng chẳng phải chỉ lúc này.”

Lúc này Hàn Ấu Nương mới sực nhớ còn có một việc quan trọng khác, bèn lo lắng hỏi:

- Tỷ tỷ! Tướng công và tỷ chia tay nhau vào kinh, đến nay chỉ sợ đã mười ngày rồi đúng không? Mười ngày chưa châm cứu, không biết có bị gì không?

Cao Văn Tâm phì cười đáp:

- Chắc là không sao, thật ra trị liệu lâu như vậy đến giờ, có lẽ bệnh đã khỏi hẳn rồi. Chỉ là lần đầu tỷ tỷ chữa chứng bệnh này, do muốn chắc ăn nên mới kéo dài thêm một thời gian.

Dù sao thì ba người trước mặt đều là thê thiếp của Dương Lăng, cùng là chị em kết bái với mình, không có gì phải e dè nên nàng cười khúc khích nói tiếp:

- Lần này lão gia đi công tác hơn hai tháng mới trở về, theo tỷ thấy lõa gia luôn vì muội mà thủ thân như ngọc nè, trải qua sự trị liệu của tỷ, lại có thêm đợt nghỉ dưỡng này, nói không chừng…

Nàng giảo hoạt cười nói:

- Hì hì, nói không chừng tối nay có thể “một phát trúng đích”, làm cho muội mang cốt nhục của Dương gia đó.

Hàn Ấu Nương nghe mà đỏ mặt, nàng xấu hổ đấm nhẹ vào vai Cao Văn Tâm, chợt nghĩ đến “các kiểu thế đa dạng” của tướng công trong khuê phòng, tim lại nhảy lên thình thịch.

“Cốt nhục của tướng công, bảo bối của ta và tướng công…” Nàng kích động nhìn xuống bụng, cắn nhẹ môi, khuôn mặt phơi phới xuân quang, cặp mắt đen lay láy toát ra vẻ mê mẩn.

Cao Văn Tâm cười khanh khách, bỗng nàng quay đầu, trông thấy Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đang nhìn phía sau lưng mình với vẻ mặt cổ quái, bèn sờ dưới mông, rồi lại liếc sang hai vai, thắc mắc hỏi:

- Sao vậy? Có dính gì à?

Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai lắc đầu, mặt cười mà lại như không, liếc nhìn nhau rồi cắn môi quay đi. Cao Văn Tâm ngơ ngác, nào biết hai cô đang nghĩ đến điều gì.

Ngọc Đường Xuân chợt nghĩ nếu như phu quân khỏi bệnh, mình được chàng sủng ái rồi không chừng người có thai trước lại là mình, Ấu Nương tỷ tỷ chưa chắc đã có trước, tim không khỏi đập rộn lên.

Nàng ta bỗng quay đầu liếc nhìn Tuyết Lý Mai, chỉ thấy tiểu nha đầu dường như cũng đang nghĩ ngợi điều gì, đang cúi đầu tiu nghỉu, chau mặt nhíu mày, bộ dạng chán nản không nói nên lời, thầm biết mấy ngày này nàng ta đang đến kỳ kinh nguyệt, thế là không khỏi mừng ra mặt.

Tuy nói bốn người kết bái, tình như tỷ muội, thế nhưng những chuyện như thế này thì phụ nữ bao giờ cũng có lòng riêng, há Ngọc Đường Xuân có thể rộng lượng nhiều đến thế?

Dương Lăng thong thả tản bộ về đến thư phòng, Thành Khởi Vận đang ngồi cạnh bàn uể oải xem cổ tịch. Nàng đã trang điểm gọn gàng, chẳng biết nghĩ ngợi điều chi mà lại đổi y phục nữ thành bộ trường bào màu trắng của nam nhân, cổ áo và ống tay thêu hoa văn màu tím, làn da mới tắm trong suốt như ngọc, mũi như túi mật treo, môi đỏ răng trắng. Nếu nàng ta là đàn ông thì khí chất phong lưu nho nhã đó cũng đủ để hạ bệ Dương Lăng rồi.

Như thể sớm biết Dương Lăng tiếp kiến Tiêu thị lang xong sẽ đến gặp mình, nàng đặt sách xuống, nở một nụ cười tươi tắn:

- Y thư trong giá sách của đại nhân còn nhiều gấp đôi Kinh, Sử, Tử, Tập(2). Nhìn những chỗ mà đại nhân đánh dấu chú thích, thực ra những chỗ làm ra vẻ thần bí rất nhiều… Đáng tiếc ba ngày sau ti chức phải về Kim Lăng, nếu không sẽ dâng lên thuật âm dương truyền từ Tôn Tư Mạc(3), có thể dưỡng sinh luyện khí mà ti chức có ở đây cho đại nhân.

Dương Lăng sửng sốt, sau đó mới ngộ ra ý tứ trong đó, hiểu được nàng ta nói bóng nói gió thuật âm dương gì đấy thực ra là muốn nói đến thuật phòng the, không khỏi cau mày trách:

- Ta nhìn trúng cô là ở tài học của cô, cớ gì lại quy mình vào phường đạo sĩ?

Thành Khởi Vận giật mình, bèn đứng dậy cung kính thưa:

- Đại nhân dạy dỗ phải lắm, ti chức sai rồi.

Thành Khởi Vận dáng người yểu điệu, vận bộ đồ công tử màu trắng, đai tím khăn vuông, da trắng dáng thon, quả thật là thanh lệ thoát tục, tựa như cây ngọc đứng trước gió. Dương Lăng lại hừ một tiếng, biết nàng ta giả thần như thần, giả quỷ như quỷ, điệu bộ lời nói không thể tin được.

Y ngồi vào bàn, khẽ chau mày nói:

- Sợ là trong ba ngày tới cô không thể về Kim Lăng được rồi. Bản quan vốn cho rằng nguyên nhân hải cấm quá đơn giản, hôm nay nghe Tiêu thị lang nói mới nhận ra rắc rối trong đó, một lời khó nói hết.

Thành Khởi Vận thoáng nhíu đôi mày liễu, kinh ngạc hỏi:

- Là nguyên nhân gì vậy? Ti chức thấy vị đại nhân đó chắc là có nhãn quan hơn người, đã nhận ra lần này đại nhân mới là cao thủ đứng sau việc hoá giải sự chất vấn của nội đình và ngoại đình lần này, cho nên có ý dựa giẫm. Hay là ông ta muốn được đại nhân thưởng thức mà cố ý tung chuyện doạ người?

Dương Lăng lắc đầu:

- Thì ra ta đã nghĩ về cổ nhân …à không…kẻ đọc sách chịu sự dạy dỗ của cổ nhân quá đơn giản rồi. Bọn họ hầu hết không phải là những kẻ ngốc chỉ biết ôm khư lấy lời dạy dỗ của thánh nhân như trong tưởng tượng của ta, ít ra thì đa số những kẻ lăn lộn trên chốn quan trường đều không phải là loại người như thế.

Thành Khởi Vận hé môi cười:

- Đó là đương nhiên. Những kẻ đọc sách tự cho là thanh cao, cứng nhắc bảo thủ dù có vào chốn quan trường thì chẳng mấy chốc rồi cũng sẽ như sóng cồn xô cát, cuối cùng bị người ép đi chốn núi rừng ẩn dật mà ngâm gió ngợi trăng thôi. Đã trụ lại được có ai là kẻ đơn giản, đại nhân cớ chi phải cảm khái?

Dương Lăng khẽ than thở:

- Đại Minh cấm biển, bởi rất nhiều nguyên do, không phải chỉ là một cái lý do đơn giản. Nếu chúng ta không có biện pháp thích hợp, chỉ bằng diệu kế của cô, bá quan trong triều chưa chắc đã hưởng ứng.

Vẻ mặt Thành Khởi Vận nghiêm túc hẳn lên. Nàng lật hai chén trà lên, đoạn cầm ấm rót cho Dương Lăng một chén rồi nói:

- Hiện nay trong triều vừa xảy ra đại biến, vì e sợ tiền đồ của mình nên nhiều quan lại chưa chắc dám làm khó đại nhân. Huống chi nội đình nằm trong tay đại nhân, lại được Hoàng thượng tin tưởng nghe theo, đó là đã nắm trong tay hơn nửa thế lực, chỉ cần sắp xếp thêm mấy người đắc lực ở ngoại đình để chia rẽ bọn họ, chuyện này sẽ rất có triển vọng. Xin đại nhân hãy thong thả kể rõ những lý do gì, chúng ta cùng phân tích tỉ mỉ, lần lượt đưa ra đối sách.

Dương Lăng khẽ gật đầu, bỗng dưng bật cười đáp:

- Bản quan nghĩ chuyện gì mính cũng đều không lo được mà cứ lo thua, cẩn thận quá đáng, trong khi cô thì lại lạc quan hơn ta rất nhiều.

Y trầm ngâm một chốc, rồi mới chậm rãi nói:

- Lý do thứ nhất của việc cấm hải, là đến từ tranh đấu giữa các phe cánh trong triều đình.

Y cười khổ:

- Cuộc đấu tranh phe cánh này là giữa quan văn và hoạn quan. Nội hoạn nắm quyền vận chuyển đường biển, có binh có tiền, quyền lực cực lớn, văn thần e ngại nội hoạn được thế sẽ tổn hại triều cương. Bọn họ cho rằng Thiên triều thượng quốc có thể tự cung tự cấp, không giao dịch buôn bán với nước khác cũng chẳng hề gì, những nước nhỏ càng không có năng lực phá hủy giang sơn Đại Minh, mà nội hoạn nắm quyền lại có thể khiến thiên hạ đại loạn, vì thế mà cật lực phản đối việc hải vận, là lực lượng chủ đạo của hoạn quan, và kết quả là… đã thắng.

Dương Lăng thở dài:

- Vật đổi sao dời, hiện tại muốn giải trừ lệnh bế môn tỏa cảng có lẽ ta phải dựa vào sự tương trợ của nội đình, không biết quan văn ngoại đình sẽ thấy thế nào?

Thành Khởi Vận nhíu mày, muốn nói lại thôi, hỏi tiếp:

- Thế còn lý do thứ hai?

Dương Lăng đáp:

- Lý do thứ hai, là do sự khống chế và cân bằng quyền lực của đế vương. Ngày nay quan văn lĩnh quân, bộ Binh, Ngũ Quân đô đốc phủ kiềm chế lẫn nhau chẳng qua là đề phòng tướng lĩnh nắm giữ binh quyền mà thôi. Muốn buôn bán đường biển thì phải có thuỷ quân mạnh mẽ mới được, mà thuỷ quân hùng mạnh cũng giống như là một quốc gia trên biển, ngộ nhỡ khống chế không được thì làm thế nào? Cho nên lấy đảm lược và sự quyết đoán của Vĩnh Lạc đại đế, cũng chỉ dám kiên trì cho thái giám thống lĩnh hạm đội. Bởi lẽ thái giám vốn không có con cái nối dõi nên cũng chẳng có tâm tranh quyền, hơn nữa bọn họ cũng rất khó để lập được uy quyền tuyệt đối với binh sĩ, cho nên ngài mới yên tâm mà dùng bọn họ, vậy mà đám quan văn vẫn cứ kiêng dè.

Y nhấp một ngụm trà rồi nói tiếp:

- Lý do thứ ba mới là quan điểm ban đầu của ta, nho sinh nắm quyền, chú trọng nào là “Cha mẹ ở nhà, con cái không được đi xa”(4), “Chỉ có tiểu nhân mới hám lợi”, kinh thương là đường cùng, không giúp ích gì cho quốc kế dân sinh, lại cho rằng Thiên triều ở trung nguyên, man di ngoại quốc đều không đáng nhắc đến, không chịu thông thương không phải là không thể mà là không muốn thôi.

Còn lý do thứ tư…

Thành Khởi Vận sửng sốt hỏi:

- Cái gì, còn có lý do nữa à?

Dương Lăng gượng cười đáp:

- Lý do cuối cùng, lý do cuối cùng!

Lý do này, ngay cả ta trước đây cũng không ngờ đến.

Y ngẫm nghĩ một lát rồi nói tiếp:

- Buôn bán với nước ngoài, cái lợi ích to lớn của nó khiến cho người ta phát thèm, dân chúng ít nhiều đều lén buôn lậu kiếm lời, việc Trịnh Hoà xuôi tây dương tuy là khuếch trương giao thương, ừm… nhưng vẫn là lũng đoạn hiểu không? Thực ra lợi ích đều vào tay triều đình. Các gia tộc nhân sĩ quan lại ở các thành thị lớn nhỏ ven biển có làm gì đi chăng nữa cũng không thể cạnh tranh được với hạm đội to lớn của triều đình Đại Minh. Bọn họ làm quan trong triều có nhiều quan hệ, tự nhiên tìm được đủ lý do, viện cớ cầu xin cho dân chúng để che mắt và lôi kéo nhiều triều thần dâng sớ can gián. Đất đai vùng ven biển vốn cằn cỗi, tầng lớp nhân sĩ quan lại ở đây đều dựa vào giao dịch đường biển để lập nghiệp. Từ sau khi cấm biển, mà trên thực tế là cấm nhưng không ngăn, ngay cả tô thuế cũng không cần phải nộp cho nên bọn họ thu lợi càng nhiều. Vì vậy giặc Oa càng làm loạn, bọn họ càng sung sướng; tuy hô hào ầm ĩ phải chống Oa dẹp Oa nhưng đến khi thật sự có người muốn dẹp yên lãnh hãi, quét sách tất cả thế lực buôn lậu thì bọn họ lại lờ đi, gây khó dễ trong triều. Vì vậy việc cấm biển lại trở thành thủ đoạn để gia tộc bọn họ mưu lợi.

Thành Khởi Vận nghe vậy cũng ngây người. Nàng ngẫm nghĩ một lát rồi lấy một tờ giấy trắng, cầm bút lông, mở nghiên chấm mực viết bốn dòng chữ, ghi lại vắn tắt bốn nguyên nhân, rồi nhíu mày trầm tư suy nghĩ.

Dương Lăng vừa kể bốn nguyên nhân vừa suy nghĩ đối sách ứng phó, trong lòng dần hình thành dự định. Suy tính một lúc, y thấy nếu bá quan trong triều đã phân hóa, mỗi kẻ đều có mưu toan riêng thì nếu như y có những hành động thích hợp thì coi bộ còn dễ thành công hơn là ra sức thuyết phục đám quan lại với một đống quan niệm tư tưởng bảo thủ lạc hậu. Nghĩ thế trong lòng y không khỏi càng thêm quyết tâm.

Trong lòng đã có chủ kiến, y vui vẻ hẳn lên, nhìn sang thấy dáng vẻ chăm chú suy tính của Thành Khởi Vận, không nhịn được cười khe khẽ. Thành Khởi Vận đang nhíu mày trầm tư, nghe thấy tiếng cười liền ngẩng đầu ngạc nhiên hỏi:

- Đại nhân cười gì vậy?

Dương Lăng cười đáp:

- Ta thấy cô giống như đang thi ở khoa trường vậy, ha ha, có phải còn muốn thừa đề, phá đề(5)?

Thành Khởi Vận đảo cặp mắt lúng liếng, mỉm cười đáp:

- Đúng vậy! Thi đỗ Trạng nguyên, đến khi nhập các bái tướng*, sẽ lại góp sức cho đại nhân.

(* thời Minh bãi bỏ chức danh tể tướng, cho nên “bái tướng” không phải thật sự là làm tể tướng mà cũng là chỉ gia nhập Nội các làm đại học sĩ)

Dương Lăng hừ một tiếng:

- Chỉ sợ Thành cô nương thực sự làm tể tướng, sẽ chẳng thèm đặt Dương mỗ vào trong mắt nữa.

Thành Khởi Vận hiếm khi thấy y nói đùa với mình, không khỏi lấy làm rất mừng, nàng vừa định nói: “Ta muốn làm hoàng đế, đem ngươi nạp vào hậu cung làm hoàng hậu, coi ngươi còn dám xem thường ta không.” Lời vừa đến cửa miệng lại cảm thấy thật sự là đại nghịch bất đạo, Dương Lăng là đại quan triều đình, không chừng nghe xong sẽ nổi giận, bèn nuốt xuống ngay.

Dương Lăng thấy nàng muốn nói lại thôi, bèn hỏi:

- Sao vậy? Có gì muốn nói à?

Thành Khởi Vận mỉm cười quyến rũ:

- Bất cứ việc gì đại nhân cũng đều lo bại rồi mới lo thành, nay biết rõ nguyên nhân cấm biển là rất phức tạp, nhưng vẫn có lòng đùa giỡn, phải chăng trong lòng đại nhân đã có kế sách?

Dương Lăng vui vẻ:

- Ha ha, quả nhiên là thông minh! Không giấu gì cô nương, nếu bá quan trong triều thật sự chỉ là đám hủ nho, chỉ biết tuân theo di huấn thánh nhân, còn Dương mỗ chỉ là một gã dân quê dốt nát thì sao nói lý lại bọn họ? Chỉ sợ ta có nói hộc máu thì bọn họ cũng cho là ta đang nói những lời tà thuyết mê hoặc lòng người thôi. Còn nếu như đa số đều đặt lợi ích làm đầu, dù là vì triều đình hay là vì gia tộc, thì cũng không phải là khó đối phó nữa.

Ánh mắt Thành Khởi Vận sáng lên, nàng vội vàng hỏi:

- Đại nhân có diệu kế gì?

Dương Lăng đứng dậy, xoay người thản nhiên đi ra ngoài, nói với lại:

- Hôm nay vừa mới về, ta thật muốn nếm chút cơm nhà, mời Thành cô nương. Về phần đối sách, ta vẫn cần tìm thêm mấy người, đến lúc đó hẵng thương nghị.

Thành Khởi Vận tức giận vô cùng, cố rướn mắt nhìn theo bóng lưng y sẵng giọng:

- Oai lắm sao? Đợi ta nghĩ ra chủ ý rồi xem ta có nói cho ngươi không!

Lời vừa thốt ra, nàng chợt thấy má nóng lên: “Trước đây ta cáu gắt giận dỗi, chẳng qua là làm bộ cho vui, hôm nay sao thế nhỉ? Đứng trước mặt hắn sao mình càng ngày càng khó điềm tĩnh như thế này?“

Chú thích:

Chú thích:

(1) Dương thương tổn nông: Khuyến khích làm thương nghiệp mà bỏ bê nông nghiệp

(2) Kinh, sử, tử, tập: Trung Quốc cổ đại chia đồ thư làm 4 bộ, tức “Kinh, sử, tử,

tập”, cụ thể:

Kinh bộ: chỉ học thuyết của nhà nho. Kinh thư của nho gia ban đầu có năm bộ, gồm thi, thư, dịch, lễ, xuân thu, xưng là “Ngũ Kinh”. Từ đời nhà Đường đến nhà Tống, hình thành thập tam kinh, gồm dịch, thư, thi, chu lễ, nghi lễ, lễ kỷ, tả truyện, công dương truyện, cốc lương truyện, luận ngữ, hiếu kinh, nhĩ nhã, mạnh tử.

Sử bộ: là sách sử ghi chép hưng suy loạn lạc, các nhân vật cho đến các chế độ trong lịch sử.

Tử bộ: thư tịch ghi lại học thuyết của chư tử bách gia.

Tập bộ: phàm là tán văn, biền văn, thi, từ, khúc và bình luận văn học đều quy làm tập bộ.

(3) Tôn Tư Mạc: Tôn Tư Mạc sinh ra trong triều đại Tây Ngụy, được người đời tôn xưng là Dược Vương và Tôn Thiên Y, là một thầy thuốc nổi danh thời cổ đại của Trung Hoa. Ông cũng là người áp dụng khí công trong thuật dưỡng sinh.

(4) “Phụ mẫu tại, bất viễn du”: xuất xứ từ Luận Ngữ, nguyên văn: “Phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu phương”, ý nói cha mẹ còn sống, con cái không được đi xa, phải ở bên cạnh hầu hạ thủ hiếu. Nếu muốn đi thì phải có mục đích rõ ràng và phải báo cho cha mẹ yên tâm.

(5) Một bài "Kinh nghĩa" viết theo thể bát cổ (bát: tám, cổ: vế; tức là một đoạn văn gồm tám vế, không có vần nhưng có đối) gồm hai phần lớn: A - Phần đầu là "phát đoan" (mở đầu) gồm ba phần nhỏ: 1. Phá đề: gồm hai câu mở bài, nói về mặt chữ và nghĩa của đề. 2. Thừa đề: nối theo đoạn phá vài ba câu, nêu rõ ý đồ của phá đề. 3. Khởi giảng: nói khai mào đại ý của đề mục. Ở toàn bộ phận phát đoan, về thể văn: không có yêu cầu về vần và đối (tức là văn ở đây không phải là văn biền ngẫu), về ý: các phần phá đề và thừa đề được coi là lời người viết bài nói; các phần từ khởi giảng về sau, người viết phải thay lời người xưa mà nói. B - Phần sau là "nghị luận" gồm 4 phần nhỏ: 4. Khởi cổ (hoặc khai giảng - mở ý đề bài, cuối đoạn này có một câu hoàn đề nhắc lại câu đề bài) 5. Trung cổ (giải thích rõ nghĩa của đề bài) 6. Hậu cổ (bàn rộng về ý của đề bài) 7. Mạt cổ (hoặc kết cổ, kết tị - đóng lại ý của đề bài, cuối đoạn này có một vài câu thắt đầu bài lại, gọi là thúc đề hoặc thúc kết).

Chương 155 Hội nghị gian thần mở rộng

------------------------

- Mấy bữa nay đại ca có ghé qua không?

Dương Lăng vừa đi về phòng ngủ vừa hỏi. Y mới uống vài chén rượu, khuôn mặt anh tuấn đã ngà ngà say.

- Dạ, có ghé! Thiếp nghe lão quản gia kể rằng còn chưa vào cửa thì đại ca đã gặp Dương thiên hộ đứng đón. Hai người đứng dưới cửa hiên hàn huyên một hồi, rốt cuộc khi vào trong nhà thì huynh ấy chỉ nói là đến thăm thiếp, còn khi thiếp hỏi đến tình hình của tướng công thì huynh ấy lại thoái thác không biết gì.

Nói xong nàng buông giọng u uẩn:

- Thật ra... càng như vậy, thiếp càng lo hơn. Thiếp biết bọn họ đều giấu thiếp như thế thì nhất định tướng công đã gặp phải chuyện lớn gì đó ở phương nam. Lúc đó thiếp thật chỉ muốn đi tìm chàng. Nhưng nếu Ấu Nương thật sự đi tìm chàng thì nhất định sẽ chỉ làm rối chân chàng thêm. Ngày thường trong nhà thiếp vẫn phải vờ như không có việc gì, vì nếu thiếp mà hoảng hốt thì gia nhân sẽ càng bồn chồn không yên hơn.

Dương Lăng nghe vậy thì dừng chân, nắm lấy bàn tay nhỏ bé của nàng. Chiếc đèn lồng đỏ treo dưới hiên không ngừng đong đưa trong cơn gió thu hiu quạnh. Ánh sáng chợt mờ chợt tỏ khiến cho khuôn mặt xinh xắn thanh khiết của Ấu Nương như được phủ một quầng sáng mê ly.

Dương Lăng nhẹ nhàng ôm tấm thân mềm mại của nàng vào lòng, hít mùi hương nhàn nhạt trên người nàng rồi êm giọng bảo:

- Ấu Nương của ta đã lớn rồi.

Mỹ nhân trong lòng, tay thon trong tay, bốn mắt nhìn nhau. Nhìn thấy tình ý dịu dàng trong mắt Ấu Nương, trong phút chốc Dương Lăng chỉ mong thời gian và cảm giác như vậy sẽ kéo dài mãi mãi. Thật lâu sau, y mới mỉm cười nói khẽ:

- Có điều... là tâm tư của nàng đã lớn, chứ thân thể của Ấu Nương vẫn là một tiểu cô nương đang dậy thì, khiến tướng công vừa thấy thì đã không nhịn được mà muốn nuốt chửng nàng.

Hàn Ấu Nương bị ánh mắt của tướng công làm cho con tim tan chảy, hồn phách phiêu du không biết đang ở nơi nào, chợt nghe y trêu đùa, sắc mặt bèn ửng đỏ. Nàng thoáng cụp mắt, thỏ thẻ:

- Vậy thì tướng công cứ nuốt đi, Ấu Nương chỉ mong sao có thể chui vào trong bụng chàng, để lúc nào cũng có thể ở cạnh tướng công.

Dương Lăng cười gian:

- Vậy thì hơi khó à! Nếu nàng "nuốt" tướng công vào trong bụng thì còn miễn cưỡng có thể được.

Nghe vậy lập tức mặt Hàn Ấu Nương nóng rần, nàng ôm mặt quẫy vai vùng vằng quở trách:

- Tướng công lại nói năng bậy bạ rồi.

Dương Lăng cười hềnh hệch:

- Nói năng bậy bạ hả? Hình như Ấu Nương của ta thích nhất là nghe tướng công nói năng bậy bạ à nha.

Một cơn gió thu lướt nhẹ qua, mang theo cái cảm giác se lạnh. Thấy Ấu Nương ăn mặc hơi phong phanh, Dương Lăng bèn dắt tay nàng bảo:

- Đi, chúng mình về phòng!

Sau khi đóng cửa phòng, Ấu Nương đi vào gian trong thắp đèn rồi bước ra sau bức bình phong cởi bỏ áo ngoài. Nhìn bóng người yểu điệu phản chiếu từ trên bức bình phong, Dương Lăng bỗng sực nhớ ra một chuyện, vội nói:

- Đợi ta một chút, ta đi lấy cái này.

Rồi không đợi Ấu Nương trả lời, y vội vàng chạy ra ngoài phòng, một hồi sau mới quay trở lại. Tấm màn lụa trắng thêu vân hoa nổi trên giường đã được hạ xuống nhưng chưa khép lại, Hàn Ấu Nương đang ngồi trên giường, chỉ mặc quần lụa ống đỏ, áo chẽn xanh nhạt, đang mở cặp mắt to đen láy tò mò nhìn y.

Mái tóc của nàng đã được buông rũ xuống, làm cho khuôn mặt vốn đã xinh xắn của nàng càng tăng thêm mấy phần dịu dàng. Chiếc áo chẽn màu xanh nhạt đã cởi hai nút, chính giữa là một khe rãnh mê người được tạo nên bởi làn da trắng mịn, hai bên lộ ra chiếc yếm màu hồng nhạt. Tiểu giai nhân đẹp đến mê người, khiến người ta nhìn mà tim đập thình thịch.

Thấy tướng công đi vào tay không, nàng buột miệng hỏi:

- Tướng công đi lấy đồ gì vậy?

Dương Lăng cười khà khà, rồi vội vàng vừa cởi bỏ áo dài vừa đi đến giường, nói:

- Nàng dịch vào trong một chút đi, tướng công đeo cho nàng.

Hàn Ấu Nương vừa chống tay nhích vào trong vừa tò mò hỏi:

- Đeo gì vậy?

Dương Lăng vừa kéo bàn chân thon thả của Ấu Nương, nàng đã bị nhột mà rút lại, sau đó lại ngoan ngoãn đưa chân ra, có điều vì sợ nhột nên ngón chân nàng quặp lại một cách thật đáng yêu.

Dương Lăng lấy từ trong ngực ra một cặp lắc chân bằng bạc. Cặp lắc bằng bạc ròng này được chế tác tinh xảo vô cùng, trên mỗi sợi lắc được buộc ba chiếc chuông bạc, lúc được lấy ra, chúng phát thành tiếng leng keng rất vui tai.

Tuy loại bạc ròng này rất chất lượng nhưng rõ ràng không thể sánh bằng những món châu báu mà y đã tặng cho Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai. Hàn Ấu Nương là bà lớn nhà họ Dương, có thể tuỳ ý sử dụng tất cả số châu báu đó nên đương nhiên không vì vậy mà nàng cho rằng trượng phu không yêu thương mình. Nhưng suy cho cùng nàng mới chỉ mười sáu tuổi, không được tự tay tướng công tặng vật trang sức cũng khiến trong lòng nàng không khỏi có cảm giác mất mát.

Lúc này nhìn thấy cặp lắc chân xinh đẹp, trong mắt nàng không khỏi ánh lên nét vui mừng. Nàng nhoẻn miệng cười, ngoan ngoãn duỗi thẳng chân để Dương Lăng dịu dàng giúp nàng buộc chúng bên trên cặp mắt cá chân thanh tú.

Khi đưa chân lên đu đưa nhè nhẹ, một loạt những tiếng kêu leng keng vui tai vang lên, Hàn Ấu Nương không khỏi vui sướng mỉm cười. Dương Lăng cười lớn hỏi:

- Thế nào, có thích không?

Hàn Ấu Nương rối rít gật đầu. Dương Lăng cười nói:

- Có những người con gái khi đeo trang sức tinh mỹ vào sẽ khiến họ đẹp hơn; nhưng cũng có những cô gái, bản thân đã là một viên minh châu, một viên ngọc đẹp, không đeo trang sức thì càng toát ra được vẻ đẹp của họ. Tướng công cũng đã hao phí rất nhiều công sức mới tìm được cặp lắc chân trắng thuần này, miễn cưỡng xứng được với Ấu Nương của ta.

Có lẽ một bồ kim cương hột xoàn cũng không thể làm Ấu Nương vui sướng bằng lời khen ngợi của Dương Lăng. Nàng tự biết dung mạo không bằng Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai, song lại không biết đẹp và xinh là hai khái niệm khác nhau. Vẻ xinh xắn lúc giận cũng như khi vui đó của nàng mới khiến người ta yêu thích tự đáy lòng. Dương Lăng nói như vậy khiến nàng vui tới nở ruột nở gan, thật sự nguyện vì tướng công chết trăm lần cũng không hối hận.

Nhìn cặp mắt long lanh của nàng, Dương Lăng lại cố ý thở dài, nói tiếp:

- Chỉ tiếc là món trang sức này kém hơn nhiều so với của bọn Ngọc Nhi.

Hàn Ấu Nương mỉm cười ngọt ngào, lắc đầu thỏ thẻ:

- Ấu Nương thích lắm, chỉ cần là đồ vật do tướng công tặng là Ấu Nương thích rồi. Tất cả những thứ mà tướng công tự tay tặng cho Ấu Nương, Ấu Nương đều nâng niu chúng hết.

Dương Lăng biết viên trân châu nhỏ bé mà y tặng nàng ở trấn Kê Minh ngày đó giờ đây thật sự không đáng là gì nhưng Ấu Nương vẫn luôn luôn quý nó như châu như báu.

Y cảm động ôm lấy Ấu Nương, hôn nhẹ lên đôi môi ngọt ngào của nàng, nằm duỗi người ra, thở dài một hơi rồi nói:

- Nàng thích thì tốt rồi. Đi đường vất vả, thật sự ta đã mệt rồi. Ừm... thôi mau đi ngủ đi.

- Ớ?

Hàn Ấu Nương tròn xoe đôi mắt đen láy động lòng người, kinh ngạc nhìn Dương Lăng đang khép hờ mắt, một hồi sau mới lắp bắp cất tiếng:

- Tướng công... muốn... muốn ngủ rồi à?

Dương Lăng nhắm mắt ừ một tiếng, rồi ậm ờ:

- Mới uống rượu xong, mệt rồi, mau ngủ đi thôi!

- ... Ờ...!

Khuôn mặt xinh xắn không biết giấu giếm của Hàn Ấu Nương tràn ngập vẻ thất vọng, nàng đáp một tiếng yếu ớt. Phụ nữ không được leo ngang qua người đàn ông. Dương Lăng đã nằm xuống nên nàng đành bò đến góc giường, định chùi mình ra ngoài thổi nến.

Dương Lăng đang nhịn cười nhìn chiếc quần ống trắng hồng ôm lấy bờ mông tròn lẳng vểnh cao của nàng bò đến mép giường, y chợt ngồi bật dậy, vừa cười ha hả vừa ôm chầm lấy eo nàng kéo ngã vào trong lòng mình.

Hàn Ấu Nương giật nảy mình, đến khi bờ mông cảm nhận được sự "biến hoá" ở phần thân dưới của Dương Lăng, nàng mới sực hiểu mình đã bị tướng công đùa bỡn, bèn xấu hổ vùng vằng:

- Tướng công lại trêu người ta.

Dương Lăng nút nhẹ vành tai mịn màng của nàng, ậm ờ cười khẽ, tay y mò vào trong quần nàng, vuốt ve cặp mông trơn nhẵn mềm mại của nàng. Hàn Ấu Nương kêu ríu lên một tiếng. Nàng không dám đẩy tay tướng công ra, chỉ đưa hai tay lên bụm mặt, thẹn thùng run giọng cầu khẩn:

- Tướng công, để người ta... để người ta thổi nến đã có được không?

Dương Lăng lột phăng tấm áo chẽn của nàng. Một chiếc yếm đỏ tươi hiện ra, hai nụ hoa ưu mỹ nhú lên ở trước ngực, chiếc yếm tơ Hồ mỏng tang không che được cặp tuyết lê cao vút thấp thoáng đằng sau đó.

Dưới động tác của Dương Lăng, bộ ngực căng tròn của Ấu Nương đã hoàn toàn lộ ra. Nàng cuống quít lấy tay che lại, nhưng lập tức liền bị Dương Lăng ôm lấy eo, kéo tuột cả chiếc quần lót, sau đó mới vỗ bờ mông nhẵn bóng của nàng cái bộp và cười hềnh hệch bảo:

- Vợ ngoan à! Nàng đi thổi nến đi.

- Á?!

Cả người loã lồ, Hàn Ấu Nương vừa thẹn vừa sợ, nàng nài nỉ:

- Tướng công, tha cho người ta đi mà!

Bị tấm thân phơi phới thanh xuân của nàng khêu gợi lửa dục trong lòng, Dương Lăng thật sự không muốn lãng phí thêm thời gian nữa. Y cười hề hề, buông Hàn Ấu Nương ra rồi nhảy xuống đất, thoải mái cởi hết áo quần. Hàn Ấu Nương đỏ bừng mặt, không kiềm được mà ngượng ngùng quay đầu đi.

Thổi tắt nến xong, Dương Lăng liền nhảy tót lên giường. Trong bóng tối, Hàn Ấu Nương e thẹn nép vào lòng y, song lại bị bàn tay Dương Lăng nắn bóp bộ ngực vun cao một hồi. Sau đó nàng cảm thấy vai bỗng trĩu xuống, là bị y ấn xuống, rồi nghe y cất tiếng cười khùng khục:

- Nếu nàng đã không chịu thổi cây nến đó, vậy thì "thổi" cây này đi.

- Ừm... ờ...

Trong phút chốc, trong bóng đêm mịt mờ lại hiện ra một cảnh xuân sắc vô biên...

Không biết bao lâu sau, những chiếc chuông bạc bỗng vang lên tiếng kêu rộn ràng. Trên chiếc giường gấm, hai quầng sáng êm dịu rọi lên đôi chân thon thon đang hối hả đong đưa trên không trung và khuôn mặt anh tuấn đang lấm tấm mồ hôi đang lấp ló giữa cặp đùi trắng mịn ấy.

Bỗng tiếng kêu sửng sốt của Hàn Ấu Nương cất lên:

- Ớ... tướng... tướng công! Chiếc lắc này... có thể phát... phát sáng kìa...

- Ha ha! Lắp bên trong sáu chiếc chuông bạc đều là những viên dạ minh châu giá trị liên thành cả, bảo bối nói xem nó có sáng không?

- A! Cẩn thận kẻo đụng hư chúng, tướng công... để người ta tháo ra đi.

- Ừ... ừ... đợi nàng "nuốt" ta vào trong bụng rồi hẵng nói...

Lại một lúc lâu sau, đôi uyên ương triền miên nằm dựa vào nhau trên giường, trên người đắp một chiếc chăn bông mềm láng. Bàn chân Dương Lăng lần tìm đến bàn chân Ấu Nương, ngón chân y cọ vào khiến nàng nhột phải tránh đi. Tiếng chuông lại kêu lên khe khẽ.

Cuối cùng, bàn chân y bạo lực quấn chặt lấy bàn chân nhỏ bé của Ấu Nương, quầng sáng ngoài cửa rọi vào khiến đôi bàn chân quấn chặt vào nhau của bọn họ hiện ra trong sắc đêm. Lúc này Dương Lăng mới nở nụ cười thoả mãn.

Ấu Nương nằm sấp trong lòng Dương Lăng, lười nhác thủ thỉ:

- Tướng công! Chàng đi Kim Lăng có gặp được Liên Nhi tỷ tỷ không?

- ... Ừm... có gặp.

- Tỷ ấy vẫn khoẻ chứ?

- Ừm, vẫn khoẻ. Hiện đang ở tại nhà bá phụ của nàng ấy.

- Than ôi! Liên Nhi tỷ tỷ còn phải đợi hai năm nữa mới có thể vào nhà họ Dương chúng ta. Tỷ ấy sống một mình tại nhà người khác ở nơi xa, tuy là thân thích, nhưng cuộc sống nhất định cũng sẽ không thoải mái.

- Chậc! Phong tục mà, còn cách nào đây? Ta cũng đã nghĩ đến việc này, cho nên trước lúc ra đi đã đưa cho bá phụ nàng ấy ba ngàn lạng bạc, để ông ta chiếu cố nàng cho thật tốt. À phải rồi, nàng ấy đặc biệt tự... tự tay... làm bánh mật cho nàng, cũng không biết là đã cất trong cái rương nào nữa. Để ngày mai ta bảo Văn Tâm tìm để nàng hấp ăn thử.

- Dạ! Tướng công... kể cho thiếp nghe một chút về chuyện chàng đi phương nam được không? Thiếp chỉ nghe nói phong phanh, đều là do gia nhân nghe ở bên ngoài về kể lại thôi.

Rồi nàng cất tiếng cười khúc khích, nói tiếp:

- Dân chúng thổi phồng rằng tướng công là cao đồ của Trương thiên sư ở Long Hổ sơn, bảo tướng công làm phép gọi sóng lớn dìm chết hơn vạn tên giặc Oa, còn nói tướng công trúng phải gian kế của kẻ ác bị lửa to liên tục thiêu đốt nhưng lại không bị thương tổn gì. Tướng công có đúng là thần dũng như vậy không?

Dương Lăng cười hềnh hệch:

- Sao đây? Không tin tướng công lợi hại như vậy à?

- Cái đó... phải nghe rồi mới biết, tướng công kể cho thiếp nghe đi.

Dương Lăng cười xấu xa:

- Nghe không thì sao có thể biết được? Phải làm mới biết. Hôm nay chúng ta cả đêm không ngủ, tướng công cũng nhất định phải cho nàng biết tướng công có thần dũng hay không...

Đoạn y nâng gáy nàng lên. Trong nụ hôn triền miên, người y lại từ từ phủ lên tấm thân mềm mại của nàng.

Hơi thở gấp và tiếng rên rỉ mê người hoà cùng tiếng chuông reo vui tai lại cất lên trong ân ái:

- Á... người ta xin tha đó... tướng công thần dũng... thần... thần dũng lắm... tha cho Ấu Nương đi mà...

*****

Nửa tháng trôi qua, tình hình rối loạn trong triều đình đã dần dần lắng lại.

Nghe đâu trong đêm Nội xưởng tiến công Đông xưởng, Phạm Đình và mấy đại đáng đầu của Đông xưởng vì phản kháng nên đã bị giết trong hỗn chiến, kết thúc hết mọi thứ.

Vương Nhạc và bốn đại thủ lĩnh của ty Lễ Giám thì bị đày đi Hiếu lăng(1) ở Nam Kinh trồng rau, dọc đường gặp phải "giặc cướp". Ngoại trừ Đới Nghĩa và lão Vương Nhạc ôm đầu chạy trối chết thoát được, ba người còn lại đều bị bọn giặc cướp giết sạch.

Khi Dương Lăng nghe Cốc Đại Dụng đến nhà thăm viếng rồi kể những chuyện này thì không khỏi thở dài. Đương nhiên y sớm biết sẽ có kết cuộc như thế. Vì số thân tín mà những năm gần đây đám người Trương Thọ đã bồi dưỡng phân bố khắp nơi không phải là ít, nếu để bọn họ yên ổn sống ở Nam Kinh, ai biết bọn họ sẽ lại gây ra âm mưu gì? Cho nên y đành lòng đồng ý với kế hoạch của Lưu Cẩn.

Có điều Vương Nhạc là một lão già đã hơn bảy mươi tuổi, thường ngày lại không có tâm tư gì, Dương Lăng biết lão đã không có sức phản công, không nỡ để lão chết bất đắc kỳ tử, cho nên đã khéo léo biểu đạt ý định của mình với Lưu Cẩn. Nay xem ra lão cũng còn nghe lời mình.

Lúc này Đới Nghĩa đã không còn có thể ở lại trong kinh, Dương Lăng đã đáp ứng để lão ta tạm lánh đi một khoảng thời gian, đợi trời yên biển lặng rồi sẽ bổ nhiệm lão làm thái giám trấn thủ. Chức quan này không to bằng khi trước, song lợi ích thực tế lại hơn xa trước kia. Đới Nghĩa đương nhiên vui vẻ nghe theo.

Thấy Dương Lăng nghe mà chỉ gật đầu, không hề có biểu hiện gì khác, Cốc Đại Dụng bèn nói tiếp:

- Sau khi Lưu công công nghe xong ý định của đại nhân, đã ra mặt tiến cử với Hoàng thượng. Hôm nay lúc tảo triều Hoàng thượng đã bổ nhiệm Tiêu Phương làm đại học sĩ của Văn Uyên các, nhập các xử lý công việc. Còn người cử vào vị trí đại học sĩ khác vẫn chưa quyết định, Lý Đông Dương đã tiến cử học sĩ Dương Đình Hoà của phủ Chiêm Sĩ. Hoàng thượng cũng rất có hảo cảm với ông ta, vốn có ý chấp thuận, có điều vị Thị giảng học sĩ này lại không phải là người chúng ta, Lưu công công sợ sau này ông ta sẽ đối nghịch với chúng ta cho nên hiện giờ đang tìm cách trì hoãn. Không biết đại nhân có người nào khác thích hợp hơn không?

"Dương Đình Hoà?" Dương Lăng nhớ lại lúc hai người trò chuyện trong phủ, khi đó hai người rất ăn ý, người này lại là một nhân vật thực tế, không thích ba hoa. Có điều quả thật hiện tại cũng không biết ông ta sẽ phản đối hay ủng hộ kế hoạch của mình. Bây giờ mình đang tuyên bố trọng thương nằm nhà, mọi việc đều do Bát Hổ ra mặt, cho nên cũng không tiện đi thăm dò ý tứ của ông. Vị trí này để trống thêm một tháng nữa chắc cũng sẽ không sao.

Nghĩ đến đây, y gật đầu bảo:

- Lưu công công cẩn thận như vậy là đúng, tạm thời cứ để ông ấy trì hoãn đã, chúng ta quan sát thêm rồi tính. Chứ đừng đưa phải oan gia lên đài cao để rồi tự mình chuốc lấy phiền phức.

Cốc Đại Dụng hăm hở:

- Đại nhân nói đúng đấy, ta cũng nghĩ như vậy.

Dương Lăng lại hỏi:

- Tiền Ninh vẫn chưa đi Kim Lăng nhậm chức sao?

Cốc Đại Dụng đáp:

- Chưa! Sau khi Trương Tú bãi quan hồi hương, Mâu đại nhân được thăng làm Đề đốc chỉ huy sứ. Khoảng thời gian này Mâu đại nhân đang bận bịu thanh lý Cẩm Y Vệ cho nên Tiền Ninh vẫn tạm thời tọa trấn Bắc trấn phủ ty, chưa có thời gian bàn giao công tác với Thiệu Tiết Vũ.

Dương Lăng khẽ mỉm cười. Tiền Ninh tuy tham lam tàn bạo, nhưng trước giờ luôn đối xử tốt với mình, có hắn làm Trấn phủ sứ Nam trấn phủ ty, mình sẽ được hỗ trợ rất lớn. Nam trấn phủ ty nắm quyền điều hành và sử dụng thợ thuyền trong quân đội, một khi triều đình đồng ý dỡ bỏ lệnh cấm thông thương, có hắn ngồi đó, về phương diện đóng thuyền mình sẽ không cần phải hao tổn tâm trí nữa.

Thấy y nở nụ cười, Cốc Đại Dụng chợt nhớ đến một chuyện vui khác, không nhịn được bèn kể:

- Đúng rồi! Đám người Cấp sự trung Đới Tiễn của Nam Kinh khoa đạo và Giám sát ngự sử Bạc Ngạn Huy của Tứ Xuyên đạo không thức thời, không ngờ bọn chúng còn liên danh dâng sớ xin Hoàng thượng giữ lại hai người Lưu, Tạ. Đáng ghét chính là trong sớ bọn chúng còn mắng chửi chúng ta là gian nịnh. Thật có lý nào như vậy! Thân làm nô tài, chúng ta có hầu Hoàng thượng ra ngoài du ngoạn vui chơi thì cũng chỉ là bổn phận, đã từng làm chuyện xấu xa gì đâu?

Dương Lăng cả kinh, máy động hỏi:

- Triều thần và quan lớn địa phương đã bắt đầu lên tiếng ủng hộ Lưu, Tạ rồi à? Bọn họ đã phát động được bao nhiêu người rồi?

Cốc Đại Dụng khinh thường:

- Quan lớn gì chứ? Phần lớn là đám ngôn quan ngồi mát ăn bát vàng thôi. À... để ta nhớ xem, Cấp sự trung Lữ Xung và Lưu Du của Lục Khoa, Thượng thư bộ Binh Lâm Hãn ở Nam Kinh, Cấp sự trung Đới Tiễn của Lục Khoa, còn có đám người Hữu đô ngự sử Dương Nhất Thanh và Ngự sử Bạc Ngạn Huy của Thập Tam đạo vừa mới hồi kinh nữa.

Cốc Đại Dùng vừa nói đến đây, sắc mặt liền dần xanh tím lại, hằn học:

- Đáng giận nhất là bọn Đới Tiễn và Tưởng Khâm. Bọn chúng nói chúng ta già lão vô dụng giống như con bò con ngựa bị thiến, không thể kham việc triều chính. Hai cái tên... hai cái tên súc sinh đáng chết đó!

Dương Lăng nhìn lão ấn mạnh tay lên bàn, gân xanh nổi đầy trên mu bàn tay, trong mắt bừng bừng lửa giận, cũng cảm thấy hai vị ngự sử nọ có phần cay độc quá. Phẩm đức của một người tốt hay xấu, tài học như thế nào, thì liên quan gì đến việc người ta có phải là thái giám hay không kia chứ?

Nếu đàn ông thân thể tráng kiện bị người ta nói là vô dụng, cùng lắm thì sẽ lao vào đánh nhau. Còn lấy nỗi đau thầm kín của người ta đưa vào trong tấu chương để mà mỉa mai chỉ trích, trào phúng khuyết tật trên thân thể kẻ khác, đó là hành vi của kẻ đọc sách thánh hiền đấy ư?

Không biết phải nên khuyên nhủ thế nào, Dương Lăng đành nói qua loa:

- Những kẻ đó tay ôm sách thánh hiền, có bao giờ nhìn ai vừa mắt ngoài những kẻ đọc sách khác? Huống chi là đa phần đám văn nhân đều là những kẻ ngu xuẩn cho rằng nóng nảy, tự cao mới là có khí khái văn nhân! Cốc công công không cần phải quá so đo với bọn chúng. Thế Hoàng thượng đã xử trí những người đó như thế nào?

Cốc Đại Dụng thở một hơi dài, cầm chén trà nốc đánh ực rồi đáp:

- Ta lười chả thèm so đo với cái đám đọc sách ngu đần đó, nhưng bọn chúng nhục mạ chúng ta như vậy, há có thể dễ dàng bỏ qua? Lưu công công đã xin thánh chỉ toàn quyền xử trí tội vô cớ hãm hại của bọn chúng rồi. Kẻ nào chửi hăng thì bắt lại trị tội, kẻ nào chửi nhẹ thì giáng chức bãi quan. Còn cái tên Đô thiêm sự Lữ Xung đó trước đây là bạn cũ của Lưu công công, cho nên Lưu công công mới tha cho lão, nào ngờ lão ta lại dâng sớ trực tiếp hặc tội Lưu công công, nên giờ cũng đã bị tống vào đại lao rồi. Nhưng mà không hề đánh lão ta, cứ giam lão như vậy, cho đến khi nào cái lão già cứng đầu đó chịu phục rồi thì thôi.

Dương Lăng thấy mặt lão tím tái như thể chưa nuốt trôi hết cái cảm giác bị ức hiếp và lăng nhục nọ, thì trong lòng không khỏi máy động: những vị hoạn quan này có khuyết tật, tự cảm thấy thấp hơn người ta một cái đầu, cho nên khi có cơ hội thì sẽ vơ vét tiền tài quyền lực. Người thường làm như vậy là để hưởng thụ, còn bọn họ thì có tám phần là để được kẻ khác tôn trọng.

Nếu như mình lợi dụng tốt sự tự ti này, nói không chừng có thể xúi giục bọn họ làm một hồi đại sự, mượn tiếng lưu danh sử sách để cám dỗ lòng háo danh còn cao hơn cả đám người văn nhân kia của bọn họ, cộng thêm mối quan hệ tốt đẹp giữa mình và bọn họ...

Dương Lăng trầm ngâm hồi lâu không nói. Tỉnh táo lại, Cốc Đại Dụng thấy y nhíu mày trầm tư, tưởng rằng y đang lo bá quan sẽ lại gây ra sóng to gió lớn, liền an ủi:

- Đại nhân không cần lo lắng! Ngoại trừ hai mươi mốt tên đó, những quan viên khác dẫu trong lòng có bất mãn cũng đều ẩn nhẫn cả. Lục Bộ Cửu Khanh không biết đang có suy tính gì, mà ta cũng chưa thấy có ai ra mặt.

Dương Lăng mỉm cười nặng nề, lẩm bẩm: "Hai mươi mốt người... hai mươi mốt người..." Chợt y nhớ tới việc đánh cược giữa mình và Thành Khởi Vận, thế là nhất thời cảm khái không thôi.

Đoạn y khẽ thở dài rồi ngẩng đầu nói với Cốc Đại Dụng:

- Các vị công công mới vừa nhận những chức vị quan trọng, sự tình cần xử lý thật nhiều, những ngày qua chúng ta luôn vội vã chạy đôn chạy đáo nên vẫn chưa có dịp hàn huyên tâm sự. Như vậy đi, ngày mai Cốc công công thay mặt bản quan mời mấy vị lão hữu đến nhà, do ta làm chủ, chúng ta tề tựu uống rượu một phen. Thế nào?

Lúc bọn họ còn là những tên nô tài hết sức bình thường, Dương Lăng đã đối xử bình đẳng với bọn họ, không hề có lời nói và cử chỉ bất kính nào, cũng không hề có dáng vẻ gì là khinh thị. Có thể nói cho dù không có mối quan hệ thiệt - hơn trên quan trường thì tám người này cũng vẫn cảm thấy hết sức thân thiết với Dương Lăng.

Nay Dương Lăng và bọn họ có mối quan hệ lợi ích gắn liền với nhau rất chặt chẽ, ít nhất thì hiện tại có thể nói là vững bền như thép, có phước cùng chia, có nạn cùng chịu. Bản thân Bát Hổ tài học không đủ, ở ngoại đình lại chỉ có được một minh hữu (bạn tốt) như y, cho nên đều thầm nghe theo ý của y mà làm.

Vừa nghe Dương Lăng nói vậy, Cốc Đại Dùng liền hớn hở đáp:

- Được! Ta mới tiếp quản Đông xưởng được mấy ngày, phải lo thu nạp nhân mã, thanh lý thân tín của Phạm Đình, bận tối mày tối mặt, đến nay mới có thời gian rảnh rỗi. Mấy hôm trước triều chính bị đình đốn hết mấy ngày nên bây giờ tấu chương dồn ứ nhiều lắm, toàn bộ đều dựa vào một mình Lý đại học sĩ chèo chống, cả Hoàng thượng mấy ngày nay cũng không được thanh nhàn. Mấy người bọn ta không cần phải thường xuyên hầu hạ bên cạnh nữa, cho nên ngày mai mọi người sẽ đến phủ đại nhân tề tựu.

Dương Lăng mỉm cười nói:

- Không! Không không! Là ban đêm. Đêm mai đến đi, ngoài tám vị công công, bản quan muốn mời thêm cả Tiêu đại học sĩ, Mâu đề đốc và Tiền trấn phủ nữa. Chúng ta cùng uống rượu chung vui, đồng thời... bản quan còn có một việc quan trọng muốn thương nghị trực tiếp cùng các vị!

  Chương 156 Hội nghị thành công tốt đẹp

------------------------

Tiết trời mỗi lúc một lạnh; bước vào trung tuần tháng mười một, phương bắc đã bắt đầu mang hơi thở của mùa đông. Nhìn sắc trời âm u khô lạnh thì có lẽ mấy ngày nữa trời sẽ đổ tuyết thôi.

Dõi mắt theo chiếc kiệu của Cốc Đại Dụng đang dần biến mất trong ánh chiều tà, Dương Lăng thở dài một hơi rồi xoay người đi vào trong trạch viện. Lão quản gia chỉ huy gia nhân đóng dần cửa sân lại.

Đã sắp được một năm rồi. Có ai ngờ rằng chỉ vẻn vẹn một năm mình sẽ gặp được những chuyện ly kỳ như vậy chứ? Vòng qua cổng nguyệt lượng, dây leo sớm đã trở nên khô héo, nước ao cũng không còn cái thần vận của sắc hè sắc xuân và lá sen thì héo úa uể oải rũ đầu trên mặt nước.

Đằng trước vọng tới tiếng sáo khoan thai, làn điệu thong thả vui tai, đó là Thành Khởi Vận đang truyền thụ nhạc kỹ cho Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai.

Cầm kỳ thi họa Thành Khởi Vận đều thập phần tinh thông, về phương diện ấy chẳng những Cao Văn Tâm không sánh bằng mà giỏi về ca múa đàn hát, thư họa văn chương như Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai cũng kém hơn một bậc. Mỗi ngày Thành Khởi Vận đều buồn chán chờ tin Dương Lăng trong phủ, nhất thời ngứa nghề biểu diễn thân thủ trước mặt bọn họ một chút. Kể từ dạo ấy hai tiểu nha đầu đó đã nghiễm nhiên coi nàng như sư phụ.

Dương Lăng vén rèm cửa bước vào căn phòng bên trái phòng khách. Ngọc Đường Xuân đang ngồi trên chiếc giường La Hán (1) nhẹ nhàng điều chỉnh dây đàn. Thấy y bước vào, nàng liền vội ngồi quỳ dậy, cười ngọt ngào gọi:

- Lão gia về rồi ạ.

Bên phải, Tuyết Lý Mai đã mang giày xuống giường giúp Dương Lăng cởi chiếc áo khoác dài thêu hoa văn tròn bằng lụa xanh mà khi nãy y mặc ra ngoài tiếp khách ra. Dương Lăng xoa tay, mỉm cười nói:

- Ừm, vẫn đang học đàn sáo à? Hiện tại Nội xưởng phát triển thần tốc, chưa đến nửa năm mà thế lực đã vươn đến Vân Quý (*). Ta đã bảo Hoàng lão dăm ngày nữa mời mấy lão chưởng quỹ trong xưởng đến, đến lúc đó các nàng đem phương pháp ghi chép sổ sách mà ta đã dạy đem truyền lại cho bọn họ. Tài nguyên thì cuồn cuộn mà không có một phòng kế toán tốt thì sẽ lỡ hết mọi chuyện.

(*) tên gọi chung hai tỉnh Vân Nam và Quý Châu.

Hai người Ngọc Đường Xuân dạ một tiếng, chợt nhớ tới ngày đó khi Dương Lăng truyền thụ phương pháp ghi chép sổ sách thì bên cạnh còn có người chị em tình như tay chân tên là Nhất Tiên. Giờ đây mong ước của hai người bọn họ đã được toại nguyện, được gả cho người nam tử mà mình ái mộ, còn được phong làm Cáo Mệnh phu nhân mà Nhất Tiên lại không rõ sống chết, chẳng biết đang ở nơi nào, sắc mặt không khỏi trở nên ủ rũ.

Dương Lăng trông thấy thần sắc hai người bỗng kém đi, biết là bọn họ đang nghĩ gì thế là không kìm được cũng âm thầm thở dài. Từ lúc thế lực Nội xưởng nhanh chóng mở rộng đến nay, y đã bảo Ngọc Đường Xuân vẽ tranh Đường Nhất Tiên rồi hiểu dụ toàn bộ Nội xưởng âm thầm tìm kiếm tăm tích của vị cô nương đó.

Y cẩn thận như vậy là đề phòng ngộ nhỡ kẻ cứu được Đường Nhất Tiên ngày ấy thấy nàng xinh đẹp diễm lệ đã nổi lòng bất lương mà cưỡng đoạt nàng, lúc này nếu y lại thông qua quan phủ mà giống trống khua chiêng tìm kiếm thì sẽ khó bảo đảm kẻ xấu nọ không giết người bịt miệng cho nên Dương Lăng đành phải âm thầm hành động, nhưng đến tận bây giờ vẫn chưa có tin tức gì.

Dương Lăng nhẹ thở dài, khoát tay bảo:

- Hai nàng về phòng trước đi, ta và Thành đại nhân còn có việc cần bàn.

Hai người Ngọc Đường Xuân dạ một tiếng, rồi lặng lẽ lui ra. Thành Khởi Vận xoay tít cây sáo tím trong tay một vòng, dùng ba ngón tay nõn nà nhẹ nhàng cầm lấy ống sáo rồi nhướng mày ngạc nhiên hỏi:

- Việc đại nhân dự kiến làm có manh mối gì rồi à?

Dương Lăng đứng trong phòng lắc nhẹ đầu, nói:

- Chúng ta vừa mới xây dựng cơ sở tại các vùng duyên hải Sơn Đông, Chiết Giang, Phúc Kiến và Quảng Tây, sao có thể nắm rõ nội tình của những đại phú hào địa phương nhanh như vậy chứ. Sợ rằng tin tức ta cần tạm thời sẽ vẫn chưa chuyển về đâu.

Thành Khởi Vận mặc một bộ đồ thị nữ màu xanh, nhưng lại bó gối ngồi trên giường, vừa cầm nghịch cây sáo trên tay vừa suy tư nói:

- Nói vậy việc này còn phải đợi thêm à?

Dương Lăng trả lời:

- Không phải, hiện tại trong triều đã dần ổn định, ta định sẽ bắt đầu thử nghiệm ngay lúc này luôn, trước lợi dụng cửa hàng ngựa xe trải khắp thiên hạ mà tạo thành dư luận, lấy hành động của chúng ta để tạo ra cơ sở.

Đoạn y mỉm cười nói:

- Đương kim Hoàng thượng luôn thích những thứ mới lạ, văn minh cho nên tuyệt không phải là một quân vương bảo thủ. Huống hồ Hoàng thượng tín nhiệm nhất là ta và đám người Lưu Cẩn. Đợi ta thuyết phục Bát Hổ để cùng nhau khuyên nhủ Hoàng thượng rồi lại giúp đề ra biện pháp phòng ngừa tướng lĩnh ôm quân vượt quyền thì lý do đầu tiên để cấm biển sẽ không còn nữa.Tuy nhiên từ xưa đến nay, làm hoàng đế sợ nhất là dư luận của bá quan. Bọn họ nắm quyền lên tiếng, bất cứ lúc nào cũng có thể hiệu triệu những tinh anh trong giới học sĩ, nhất hô bá ứng, tạo ra thanh thế hùng mạnh, khiến cho cả hoàng đế cũng phải sợ bóng sợ gió, sợ trở thành hôn quân trong mắt triều thần.

Thế nhưng mọi vật trên đời đều có tương sinh tương khắc, cho nên mới có chuyện chuột sợ mèo, mèo sợ hổ, hổ sợ voi, voi sợ chuột. Người trong giới học sĩ yêu tiếc cái tiếng thơm của bọn họ còn hơn cả hoàng đế, bọn họ không sợ gậy gộc của hoàng đế song lại sợ bị dân chúng mắng chửi. Chúng ta lợi dụng cửa hàng ngựa xe trải khắp thiên hạ, tiếp xúc với tam giáo cửu lưu mà tung tin, tạo ra dư luận lớn mạnh trong dân chúng để kìm hãm bọn họ, khiến cho sau này bọn họ có ý kiến phản đối sẽ phải cân nhắc năm bảy lần là được. Hơn nữa đợi cô mang người từ Giang Nam về rồi, chừa cho bọn họ một con đường lui rộng rãi thì ít nhất nửa số người sẽ gióng trống lui binh thôi. Lý do thứ ba đó cũng sẽ được giải quyết.

Dường như Thành Khởi Vận rất thích nhìn cái vẻ y tràn ngập tự tin và hứng khởi. Tuy cảm thấy trong đó vẫn còn rất nhiều tiểu tiết cần phải thương thảo thêm nhưng nàng không muốn nêu ra vào lúc này.

Cặp mắt trong suốt như pha lê chứa đựng một nụ cười đang lặng lẽ nhìn y chăm chú. Nghe y nói xong, nàng đưa cây sáo lên bờ môi đỏ thắm, ngón ngọc ấn khẽ, một điệu khúc thong dong tao nhã phát ra rồi chợt ngưng bặt.

Lúc này Thành Khởi Vận mới khép mày cười khẽ:

- Đợi người của chúng ta ở các thành phủ duyên hải lấy được chứng cứ rồi, lý do thứ tư cũng sẽ không còn nữa, tiếp đó lại chia sẻ cho bọn họ ít lợi lộc thì ngược lại bọn họ sẽ thành trợ lực cho chúng ta. Có điều... lý do thứ hai thì làm thế nào? Mâu thuẫn giữa nội hoạn và ngoại thần tuyệt không thể giải quyết, ngoài lý do ngoại thần xưa nay luôn khinh thị nội hoạn ra, thì hoàng đế cũng là nguyên nhân quan trọng nhất. Hoàng đế trọng dụng nội hoạn thì ngoại thần bị thất sủng, sủng tin ngoại thần thì nội hoạn bị bỏ rơi, kẻ nào có thể thao túng quân vương thì kẻ đó sẽ nắm quyền bính, không phải ai cũng vì danh lợi mà bị khống chế đâu.

Sắc mặt ung dung của Dương Lăng trở nên nặng nề, một hồi sau y mới trầm giọng nói:

- Mượn oai quân vương để ép họ, mượn thế Bát Hổ để dọa họ, lấy danh nghĩa bá tánh để bức họ, phân hoá bá quan để cai quản họ. Không thể cứ ôn hoà nhã nhặn, cố làm vừa ý mọi người mãi, kẻ nào ngoan cố không thay đổi thì buộc phải đuổi cổ đi!

Thành Khởi Vận liền nhướng mày, gõ sáo tán thưởng:

- Vậy mới là người thành đại sự, có thể theo hầu đại nhân là phước khí của Khởi Vận vậy.

Dương Lăng chăm chú nhìn nàng, cũng đoán không ra trong lời ấy có mấy phần thành tâm. Y yên lặng một lúc, rồi mới mỉm cười nói:

- Ngày mai ta đã hẹn Bát Hổ và hai vị đại nhân Cẩm Y Vệ cùng bàn về việc này. Lúc này cô không tiện công khai lộ diện, nên hãy giả trang làm thị tỳ đứng một bên nghe vậy. Bằng không với tính hiếu kỳ của mình, cô sẽ lại truy hỏi tới hỏi lui.

Tính cách ranh mãnh đa nghi khó tin người khác của Thành Khởi Vận đã hình thành lâu năm. Đôi khi biết rằng chuyện không liên quan đến mình, rằng không cần phải nghe ngóng song nàng vẫn muốn biết cho bằng được. Bản thân nàng cũng biết đó là một cái tật xấu nhưng khó kiềm chế, không ngờ Dương Lăng lại nhìn thấu.

Nàng cười ngượng ngùng rồi cụp mắt vâng dạ.

Dương Lăng lại thờ ơ nói:

- Nếu nói đến hiểu lòng người, ta thật không bằng cô. Phản ứng của bá quan trong triều về việc hai vị đại học sĩ bị đuổi về quê quả nhiên đã bị cô đoán trúng.

Thàn Khởi Vận mở bừng cặp mắt, tính tò mò lại nổi lên, lập tức không kiềm được mà hỏi ngay:

- Phản ứng gì vậy?

Dương Lăng thở dài một tiếng nói:

- Mặc dù bọn họ đa phần đều rất bất mãn với việc Lưu, Tạ bị đuổi, nhưng chỉ có hai mươi mốt người dám dâng sớ xin tha, còn kém hơn con số ba mươi của cô nhiều.

Thành Khởi Vận cười khẽ một tiếng, rồi mỉm cười nói:

- Đại nhân chớ nên vì thế mà lơ là. Những kẻ không chịu ra mặt mới là kẻ giỏi ẩn nhẫn, không có nghĩa là bọn họ sẽ nghe theo chúng ta. Tuy là tạm thời bọn họ sẽ không gây thêm phiền phức nhưng sau này khó tránh bị họ ngáng chân.

Dương Lăng mỉm cười xoay người bước ra cửa, ung dung nói:

- Tuỳ bọn họ, chỉ cần việc thanh trừng giặc Oa, khai thông cấm biển này thành công thì trong số bọn họ sao sẽ thiếu những người thức thời chứ?

Bước đến cửa, y bỗng lại quay đầu nhìn Thành Khởi Vận, rồi như nhớ đến chuyện gì đó bèn nói:

- Đêm mai... cô hãy cải trang xấu một chút.

- Dạ... hả? - Gật đầu xong Thành Khởi Vận mới nghe ra ý tứ trong đó của y liền ngước đầu kinh ngạc nhìn ra cửa song Dương Lăng đã vén rèm đi mất rồi.

Thành Khởi Vận siết năm ngón tay lại nắm chặt cây sáo trúc, gõ nhịp lên mép kệ kê đàn mấy tiếng "cốc cốc", đôi môi đang mím chặt từ từ nhếch lên.

***

Bên trong "Thải cúc hiên"(2) nằm bên phải phòng khách, nến cháy sáng trưng, tụ tập ở nơi này đều là "những ngôi sao mới nổi" đụng vào là bỏng của đương triều. Ngồi bên trái Dương Lăng là Lưu Cẩn, ngồi kế bên phải là Mâu Bân. Mười hai người ăn uống linh đình, say sưa chếnh choáng. Trên bàn lửa than đỏ bừng, bên trong chiếc nồi đồng chạm trổ khói nóng bốc lên nghi ngút.

Tiền Ninh và mấy người Cốc Đại Dụng vừa leo lên được ghế cao, cho nên hết sức cao hứng, uống đến liêu xiêu lảo đảo. Thành Khởi Vận và một thị tỳ khác mặc váy nguyệt hoa và áo chẽn màu hồng đào đang đứng một bên cầm vò hầu rượu.

Tiền Ninh tính vốn háo sắc, lúc mới thấy hai tỳ nữ đi tới liền bị dáng vẻ yêu kiều của Thành Khởi Vận hấp dẫn ánh mắt. Nhưng khi gã vừa nhìn thấy mặt Thành Khởi Vận thì lập tức quay mặt đi không dám nhìn thêm lần nữa.

Dung mạo mới đó của Thành Khởi Vận khiến ngay cả Dương Lăng cũng cảm thấy có lỗi với khách mời: cặp mắt bồ câu biến thành cặp mắt tam giác ti hí đã đành, chóp mũi mọc thêm mấy mụn trứng cá cũng tạm chấp nhận đi, nhưng sao lại biến khuôn mặt thành rỗ chằng rỗ chịt như tổ ong trông ghê quá vậy? Thật ảnh hưởng đến cái thú ăn uống.

Trong mắt mọi người đều đã ngà ngà men say, chỉ có mắt của Dương Lăng, Lưu Cẩn và Mâu Bân vẫn tinh tường. Ba người bọn họ ai nấy đều ôm lòng riêng, nên đương nhiên không muốn uống nhiều.

Mâu Bân là con cháu thế gia Cẩm Y Vệ tâm cao khí ngạo, xưa nay luôn mang lòng bất mãn với hành vi phụ thuộc vào Đông Xưởng, vâng lời Đông Xưởng của loại quan viên nha môn chỉ huy sứ như Trương Tú khiến cho phong độ của một Cẩm Y Vệ vốn ngang hàng ngang cấp bị hạ thấp đi. Gã vốn được coi là lãnh tụ cánh trẻ trong hàng ngũ Cẩm Y Vệ, nay gã đã gia nhập phe Dương Lăng rồi thuận lợi lật đổ bè lũ Trương Tú; để biết con đường sau này của Cẩm Y Vệ sẽ như thế nào thì gã nhất định phải hiểu rõ ý đồ của Dương Lăng đã.

Nếu như Dương Lăng vẫn muốn gã quy phục dưới trướng Nội xưởng, làm tay sai đắc lực cho Dương Lăng như trước đây từng làm với Đông xưởng thì đương nhiên gã sẽ không nguyện ý. Nhưng thế lực và danh vọng của Dương Lăng hiện giờ đã khác xa khi trước, lại nắm ty Thuế Giám trong tay. Trong nha môn Cẩm Y Vệ đông người như vậy nếu chỉ dựa vào vơ vét bắt chẹt thì sẽ ăn không đủ no, vả lại gã cũng không muốn mang cái tiếng xấu đó.

Làm sao để bảo trì được vị trí tương đối độc lập đây? Dương Lăng có chịu chia chút phần cho gã hay không? Bản thân phải bỏ ra cái giá lớn cỡ nào... Nếu giải quyết những việc này không tốt thì gã sẽ không thể nào giải thích với đám thân tín theo mình được.

Còn Lưu Cẩn, là nội tướng của ty Lễ Giám song quyền lực của lão đã bị tước đi một nửa. Ngày xưa, làm thủ lĩnh Ty lễ giám tức là trong tay có binh quyền, có tài quyền (quyền tài chính), có quyền "phê hồng". Còn nay thì sao? Binh quyền tứ phân thiên hạ, ngoài lão ra còn có Trương Vĩnh, Miêu Qùy và Dương Lăng. Đừng thấy hôm nay Dương Lăng không mời Miêu Qùy mà tưởng bở, từ chuyện truy bắt tại ty Lễ Giám ngày đó thì có thể thấy rõ Miêu Qùy và Dương Lăng chung một bè phái.

Tài quyền thì hiện nay đã hoàn toàn nằm trong tay Dương Lăng. Có tiền mới sai khiến được quân đội à nha. Trương Vĩnh và Dương Lăng rõ ràng đã thân thiết với nhau hơn là lão. Còn về "phê hồng"... Than ôi, với cái vốn chữ nghĩa mà lão biết, ngoài hai cái chữ "đồng ý" ra thì lão cũng chẳng biết có thể đưa thêm ý kiến gì khác cho những phiếu nghĩ của đại học sĩ cả.

Mà hiện tại Lưu Cẩn cũng không có dã tâm muốn lật đổ Dương Lăng. Quyền lợi mà lão mưu cầu còn lớn hơn nữa, nhưng sau khi ngồi lên chiếc "ngai vàng" mình hằng mơ ước rồi thì lão mới đột nhiên phát hiện, bất luận là sử dụng quyền lực gì lão đều "có lòng mà không có sức", thế là không khỏi cảm thấy mất mác trong lòng. Lúc này chỉ đành nhìn kẻ khác vui vẻ uống rượu còn mình thì phải thỉnh giáo với Dương Lăng một phen.

Dương Lăng mới vừa đưa chén lên, Thành Khởi Vận đang đứng phía sau liền khom lưng, nhanh nhẹn rót đầy chén, mắt trộm liếc y một cái.

Dương Lăng đưa mắt nhìn thẳng, không dám ngẩng đầu nhìn khuôn mặt rỗ ấy của nàng, rồi tự nâng chén sang phía Lưu Cẩn cười nói:

- Lưu công công, chúc mừng công công vinh thăng chức Nội tướng. Mời công công uống cạn chén này.

Lưu Cẩn cười khan đáp:

- Nội tướng gì chứ, chỉ là những lời giễu cợt của đám triều thần trêu mà thôi. Ta chỉ biết hầu hạ Hoàng thượng, thật sự không hiểu mấy việc đó. Dương đại nhân đã trêu rồi.

Dương Lăng nghiêm mặt nói:

- Dương mỗ nào dám nói đùa. Lưu công công, chúng ta là hảo hữu, có chút lời trong lòng đương nhiên không thể giấu công công. Nội tướng quyền cao chức trọng, nếu như công công không làm, thì có khác gì Vương Nhạc thứ hai chứ. Ngoài tên ra thì nó chỉ là cái bình rỗng chẳng có tý sức nặng gì.

Da mặt Lưu Cẩn thoáng giần giật, lão lấy lại bình tĩnh rồi mới hỏi:

- Việc này... ta mới lên làm chức vị này, có nhiều việc quả thật không rõ, theo lời đại nhân nói thì ta phải làm gì?

Dương Lăng mỉm cười, rồi nghiêm túc nói:

- Công công nắm quyền phê hồng, song phê hồng tịnh không phải là quyết định cuối cùng, nhất là phiếu nghĩ của nội các đa phần đều đề xuất ra vài ý kiến xin Hoàng thượng xem xét quyết định. Nếu như công công không thể chọn ra kiến nghị hợp với tâm ý của hoàng thượng nhất, lại vừa có thể khiến bá quan thành tâm bái phục thì những tấu chương mà ngài phê duyệt, nội các vẫn sẽ có thể niêm phong trả lại. Một lần hai lần còn được, nếu kéo dài, thử hỏi công công chẳng phải sẽ mất hết uy tín sao? Đến lúc đó Hoàng thượng không vui tất sẽ điều chuyển ngài khỏi ty Lễ Giám, đúng không Tiêu đại học sĩ?

Tiêu Phương mỉm cười gật đầu. Lưu Cẩn căng thẳng siết chặt nắm tay, ngượng ngập hỏi:

- Ta cùng đại nhân cùng hội cùng thuyền, không tính là người ngoài. Không biết Dương đại nhân có cao kiến gì chỉ dạy?

Dương Lăng chân thành giải thích:

- Lưu công công, nghe nói công công với Lý đại học sĩ của Nội các không hề qua lại. Theo Dương mỗ thấy, ngày thường công công nên kính lễ với Lý đại học sĩ hơn. Nên nhớ rằng, phiếu nghĩ của ông ấy và phê hồng của công công chế ước lẫn nhau. Nếu như hai người các vị không thể hoà hợp thì sao có thể làm tốt việc này? Còn nữa, công công không thể tùy ý phúc đáp phiếu nghĩ của Nội các, bởi nếu hỏi một đằng phúc đáp một nẻo há lại chẳng khiến đám ngoại thần chê cười sao? Khi ấy tôn nghiêm của công công sẽ vất đi đâu? Người tài dưới gót thiên tử rất nhiều, nếu bản thân công công bận lo không xuể thì có thể tìm một người đáng tin cậy để giúp đỡ, mỗi khi có tấu chương sẽ có thể cùng công công thương nghị kỹ lưỡng một phen trước khi phúc đáp, có vậy mới có thể trụ vững.

Dương Lăng đưa ra chủ kiến cho lão, song lại không nói lão đi giao hảo người mà y tiến cử là Tiêu Phương mà lại khuyên lão đừng gây bất hoà với Lý Đông Dương, bảo lão tìm một người có tài học xem xét tấu chương kỹ lưỡng giúp mình song cũng không hề mở miệng tiến cử ai khiến Lưu Cẩn hoàn toàn mất cảnh giác, đương nhiên tin rằng Dương Lăng đang có ý tốt với mình.

Lão cảm kích nói:

- Dương đại nhân nói chí phải. Nghe được lời hay khiến ta bỗng nhiên vỡ lẽ. Lý Đông Dương là đại học sĩ, tài hoa ấy nhất định hơn ta gấp trăm lần, sau này ta kính lễ với ông ta nhiều hơn một chút cũng là phải lẽ vậy. Về rồi ta sẽ tìm một người có thể tin dùng, những tấu chương sau này phúc đáp đâu vào đấy mới sẽ không khiến ngoại đình coi khinh nữa.

Dương Lăng khẽ cười, nói:

- Nhưng như thế cũng chỉ mới là làm theo tuần tự, đối phó công việc mà thôi. Chao ôi! Thế giới này thật không công bằng. Công công hãy nhìn những đại học sĩ đó mà xem, cho dù trăm năm sau sẽ vẫn có người nhớ tới bọn họ, ca tụng bọn họ, lưu truyền sự tích bọn họ. Nhưng mà... mười năm sau, có mấy ai còn nhớ đến Vương Nhạc của nội đình đây? Cho dù là hiện tại, có mấy người còn nhớ trước Vương Nhạc là vị nội tướng nào chứ?

Lưu Cẩn thoáng đỏ mặt, ngượng nghịu nói:

- Ôi! Nội đình chúng ta là nô tài hầu hạ Hoàng thượng, công thì chúng ta không có phần, tội thì lại không thể thiếu chúng ta. Ta chỉ mong có thể yên ổn làm tốt phận sự của mình. Lưu danh muôn thuở ư? Chuyện tốt như vậy nào đến lượt chúng ta chứ.

Dương Lăng nói:

- Vậy cũng chưa hẳn. Lần này bản quan xuống Giang Nam, có nghe người dân Giang Nam nhắc đến thái giám Tam Bảo, chuyện đã hơn trăm năm, song nghe nhiều nên vẫn thuộc. Sự tích của ông ấy, ai nấy đều rõ như lòng bàn tay. À, đúng rồi, Khởi Vận là tiểu tỳ mà bản quan thu nhận ở Giang Nam, có phải vậy không, Khởi Vận?

Thành Khởi Vận khẽ dùng mũi chân đá vào chân ghế của y một cái rồi mới không cam lòng cất tiếng nhỏ nhẹ:

- Dạ phải, đại nhân. Ngay cả một đứa bé ba tuổi ở Giang Nam chúng tỳ cũng biết đến Thái giám Tam Bảo đó. Đừng nói là những bá tánh bình dân như chúng nô tỳ đây mà ngay cả những lão gia quan lớn, tiên sinh đọc sách đều rất là kính trọng ông ấy.

Lưu Cẩn và mấy thái giám đang ngà say nghe mà dâng trào nhiệt huyết, ngực cũng ưỡn cả lên. Một lúc sau, Lưu Cẩn mới thở dài một hơi, rồi hâm mộ nói:

- Trịnh công công... chúng ta nào sánh được. Mấy trăm năm sau có thể vẫn sẽ có người còn nhớ đến công tích vĩ đại bảy lần xuôi Tây dương của ông ấy. Còn chúng ta... chao ôi!

Mấy lão thái giám già lại cúi đầu ũ rủ. Thái giám vốn đã tự ti, người xưa lại rất xem trọng chuyện giống nòi, không có hương hỏa kế thừa thì chết rồi ai nhớ đến đây? Nghĩ như vậy, cho dù là những nội hoạn tham tài tham quyền như bọn họ sao có thể không u sầu lặng lẽ? Nếu có cơ hội lưu danh sử sách thì dục vọng của bọn họ quả thực còn mạnh mẽ hơn ngoại thần nhiều.

Thế nhưng hoạn quan chỉ là gia nô của hoàng đế, lại hay chịu phải sự kì thị của quan văn, cộng thêm thái giám có kiến thức và học vấn sâu rộng có thể nói là hiếm như sừng lân lông phượng, mấy trăm năm không có nổi một người nên nào có bản lĩnh tạo phước cho dân. Cho nên có lắm kẻ một mặt thì hâm mộ Trịnh Hoà, mặt khác lại vẫn cứ tiếp tục chịu đựng mắng chửi mà lao vào tiền tài và quyền lực.

Dương Lăng mỉm cười nói:

- Một thánh chỉ của đại đế Vĩnh Nhạc đã tạo nên một Trịnh công công trăm đời lừng lẫy. Đó là vận may của người ta... lần này bản quan xuống Giang Nam, đã phát hiện ra một tệ chánh (tệ nạn về chính trị, ảnh hưởng lớn), nếu chúng ta dâng lời khuyên nhủ, xin hoàng thượng dẹp trừ thì trăm năm sau, danh vọng của công công và bản quan e rằng sẽ còn hơn cả Trịnh Hoà đó.

- Hả? - Lưu Cẩn giật mình kinh hãi, nhất thời trong người nóng ran. Ở bên cạnh, ánh mắt của đám thái giám Mã Vĩnh Thành và Cốc Đại Dụng lập tức đảo qua. Mọi ánh mắt đều tập trung trên người y.

Dương Lăng nói tiếp:

- Hoàng thượng trao ty Thuế Giám cho bản quan, cắt mất con đường kiếm tiền của ty Lễ Giám và Cẩm Y vệ. Ngày đó khi Vương Nhạc và Trương Tú còn đương quyền, Dương mỗ vẫn chưa cảm thấy gì nhưng nay đều đã là người một nhà, trong lòng Dương mỗ thực có phần áy náy. Nhưng nếu như bây giờ trao trả quyền thu thuế về Ty Lễ Giám thì e rằng thuộc hạ Dương mỗ cũng sẽ không yên lòng. Nếu như có thể bài trừ tệ chánh mà Dương mỗ nói đến thì chẳng những có thể lưu danh sử sách mà còn đem đến... tài nguyên cuồn cuộn, nan đề của các vị cũng sẽ được giải quyết dễ dàng vậy.

Lời này vừa thốt ra, mắt của đám người Bát Hổ, Mâu Bân, Tiền Ninh và Tiêu Phương liền sáng rỡ, trong mắt lấp lánh những thỏi vàng.

***

Tiễn đám người Bát Hổ ra về xong, Thành Khởi Vận chậm rãi đi theo sau Dương Lăng quay về.

Dương Lăng ngoái đầu cười nói:

- Vất vả cho cô rồi. Giả trang làm thị nữ cả đêm, xem ra, những người này đã hoàn toàn tán thành với kiến nghị của tôi. Hoàng thượng vốn không câu nệ những cái nhìn bỉ lậu, có bọn họ tiết lộ một ít với Hoàng thượng trước, chuyện này sẽ dễ làm hơn nhiều.

Thành Khởi Vận đáp khẽ:

- Ừm, đối với loại người vô học vô nghệ, không biết nghĩ cho bá tánh lê dân này, dùng đại nghĩa không bằng dụ dỗ bằng danh lợi. Đại nhân hai tay cùng vẽ (3), muốn khiến bọn họ quy thuận đương nhiên dễ như trở bàn tay. Ty chức... có phải nên trở về Kim Lăng chuẩn bị rồi không?

Dương Lăng đáp:

- Cũng sắp đến lúc rồi. Hiện nghe nói Tiền Ninh đã có bạc để dùng nên cần phải gấp rút chạy về Kim Lăng. Mật thám của Cẩm Y Vệ nơi nào cũng đều có căn cơ thâm hậu, có bọn họ trợ giúp thì việc tìm kiếm chứng cứ những danh gia vọng tộc duyên hải âm thầm thông thương tất sẽ có thể mau chóng hoàn thành. Ta đã nghỉ ngơi hơn nửa tháng giờ có thể giả vờ miễn cưỡng ra khỏi nhà. Ngày mai ta sẽ tìm cơ hội thăm dò ý tứ của Lý đại học sĩ trước, nếu như ông ấy không quá phản đối thì cô hãy về Giang Nam trước vậy.

Thành Khởi Vận trầm ngâm không nói gì. Một cơn gió bỗng lùa tới, nàng chợt cảm thấy lành lạnh.

Dương Lăng vô tình quay đầu lại nhìn. Đằng xa ánh đèn mờ mịt, không thể nhìn rõ khuôn mặt của nàng trong bóng đêm. Dương Lăng bèn nói:

- Cô quen sống ở Giang Nam, không quen khí hậu phương bắc, hai ngày trước bị nhiễm phong hàn, may nhờ có diệu thủ của Văn Tâm. Có điều cô vẫn chưa thấy cái lạnh của phương bắc đâu. Lúc đó trong nhà và ngoài trời cứ như là hai thế giới khác biệt, sợ rằng sẽ sinh bệnh đó. Nhân lúc thời tiết vẫn chưa quá lạnh cô hãy đi Kim Lăng sớm chút đi.

Thành Khởi Vận chợt cảm thấy như có một luồng hơi ấm chạy vào trong lòng, cơn gió lạnh thổi tới cũng cảm thấy nhu hoà hơn. Nàng khẽ mím môi, ngoan ngoãn đáp:

- Dạ, vậy ngày mai đợi tin tức của đại nhân xong thì ty chức sẽ đi Kim Lăng ngay.

Dương Lăng ừ một tiếng, rồi nói:

- Tôi đã dặn đầu bếp chừa lại đồ ăn cho cô, đi ăn chút gì rồi nghỉ ngơi đi. Lúc này trời lạnh, mà giường sưởi lại vẫn chưa nhóm lên đâu.

Thành Khởi Vận nhún người làm lễ, đáp vâng một tiếng rồi đưa mắt nhìn theo Dương Lăng sải bước về phía cuối hành lang. Đằng xa gió thổi đèn lay, kéo dài chiếc bóng của Dương Lăng ra đến trước mặt nàng....

Dương Lăng đi qua phòng khách, đứng giữa sân giang rộng cánh tay hít lấy cơn gió mang theo hơi lạnh. Thấy người hơi mệt, y định trở về phòng ngủ, chợt nhớ ra hôm nay chiêu đãi mấy người Bát Hổ nên vẫn chưa kịp để Cao Văn Tâm châm cứu. Do dự một chút, thấy trong sân chị em nhà Cao Văn Tâm đèn vẫn còn tỏ, y bèn cất bước đi đến.

Tính ra cũng đã xấp xỉ đến ngày, hơn nữa đợt trị liệu này cũng không cần phải canh đến đúng ngày thì mới có hiệu quả, nói không chừng "chăm chỉ tưới tiêu" hơn nửa tháng qua, chắc trong ba vị kiều thê cũng có một người có thể hoài thai cho mình rồi chứ nhỉ?

Nghĩ vậy, khoé môi Dương Lăng nhếch một nụ cười ngọt ngào. Ừ... thôi thì cứ trị liệu thêm vài tuần nữa cho chắc đi, lâu hơn tí cũng chẳng sao. Tác dụng phụ của phương thuốc này của Văn Tâm quả thực hơi "nguy hiểm".

Dương Lăng bước vào trong sân, không tiện đi vào tiếp. Y đang định cất giọng gọi Cao Văn Tâm thì nghe tiếng nàng cao giọng vẳng ra:

- Tỷ còn có liên can gì đến hắn chứ? Cớ sao hắn phải lăng nhục tỷ như vậy?

Dương Lăng nghe ngữ khí của nàng kích động, âm thanh run rẩy thì bất giác sững ra, bèn đứng yên ở đó. Y nghe trong phòng có tiếng một người con trai cất lên:

- Tỷ tỷ, nhà y mấy đời là dòng dõi thư hương, gia đình quan lại, tỷ cũng biết y rất có danh vọng ở địa phương mà. Hôm nay nghe y nói như vậy, đệ đệ cũng cảm thấy không ngẩng nổi đầu trong Phủ học. Đệ biết tỷ tỷ không phải là loại người như vậy, nhưng mà hiện giờ Dương ... Dương đại nhân kết giao đều ... đều là những loại người nào chứ? Tỷ cũng thấy đó, những kẻ đó có kẻ nào có thanh danh tốt đâu? Tự cổ có câu người phân theo bầy, vật chia theo loại; nếu nói người ta ăn nói vu vơ nhưng mắt thấy rõ rành rành thì biết giải thích thế nào đây? Tỷ à, hay là... không phải tỷ và Dương phu nhân là tỷ muội kết bái sao? Tỷ nhờ phu nhân xin Dương đại nhân ra mặt, cầu xin Hoàng thượng miễn xá thân phận nô tịch của tỷ đi. Với Dương đại nhân nó sẽ chỉ là một câu nói thôi. Chúng ta sẽ đi thật xa, đừng có bất kỳ dính líu gì với nhà họ Dương nữa. Danh dự và tiếng tăm của Cao gia kiếm được không dễ (chữ yi của 容易 đúng hơn), tuy rằng chịu phải liên lụy trong triều đình nhưng bá tánh khắp thôn cùng xóm vẫn rất tôn kính chúng ta. Chúng ta đừng đi theo nhà họ Dương để bị người ta mắng chửi...

- Câm miệng! Uổng cho đệ cũng là kẻ đọc sách thánh hiền thế mà ngay cả đạo lý tri ân bất vong báo (*) cũng không hiểu ư? Mạng của tỷ là do đại nhân cứu vớt, hiện giờ đệ không còn là một tên nô tài áo xanh mũ dưa, là ai đưa đệ đến Phủ học đọc sách chứ? - Cao Văn Tâm giận dữ đanh giọng hỏi.

(*) biết ơn người thì không quên báo đáp

Trong phòng có tiếng một người con gái khác khuyên can:

- Tỷ tỷ, đệ đệ tuổi còn nhỏ, chưa hiểu chuyện, tỷ đừng trách nó...

Dương Lăng nghe ra Cao Văn Tâm và chị em Cao Văn Lan đang nói chuyện. Cao Văn Cử vốn là kẻ đọc sách, hơn nữa chỉ là thân phận nô bộc bình thường, Dương Lăng có thể tuỳ nghi xử trí cho nên y mới đưa hắn đến Phủ học để đọc sách, hy vọng tương lai hắn có thể kiếm được công danh.

Nghe khẩu khí đó, hẳn là Cao Văn Cử đã nghe những lời đàm tiếu về mình ở bên ngoài rồi. Hừ! Loại người đọc sách như vầy, không hiểu thị phi, đúng sai không phân biệt, chẳng lẽ lời hoang đường trong miệng mọi người đáng sợ như vậy sao? "Hắn" mà Cao Văn Tâm nói đến lại là kẻ nào tung lời bịa đặt vậy?

Máu nóng bốc lên đầu, Dương Lăng vừa tính cất bước tiến vào, chợt nghĩ đến thân phận hôm nay của Cao Văn Tâm, tâm lý nàng ấy nhất định sẽ rất mẫn cảm. Nàng ấy mắng em họ của mình thì không sao, nhưng nếu chính mình xông vào quát mắng, khó tránh sẽ khiến nàng ấy đau lòng.

Dương Lăng thở dài nặng nề. Y ngước đầu xuất thần nhìn bầu trời đầy ắp những vì sao thật lâu, những lời cãi vã trong phòng hoàn toàn lọt khỏi ngoài tai. Sao sáng đầy trời, thống trị không trung, từ rất xa xưa đã có sự tồn tại của chúng, sáng rực ngay trước mắt, như thể chỉ cần với tay là có thể hái xuống ngay.

Dương Lăng thở ra một hơi bực bội, đoạn mỉm cười nghĩ: "Mặc kệ hắn đi, thanh giả tự thanh, trọc giả tự trọc (người tốt sẽ tự nổi dang thơm, kẻ xấu sẽ tự lộ xấu, không cần biện giải). Chỉ cần những người mà mình thật sự quan tâm hiểu được con người thật của mình là đủ rồi."

Y định xoay người bỏ đi, âm thanh nghẹn ngào giận dữ của Cao Văn Tâm trong phòng chợt vọng lại:

- Được, đệ là kẻ đọc sách chân chính, đệ hãy rời khỏi đây mà bảo vệ lấy cái thanh danh trong sạch của đệ đi. Từ khi đại nhân đến nơi này, xây cầu lấp đường có khi nào mà không lo cho dân chúng? Tỷ không tin dân chúng cũng đui mù như đám đọc sách các người! Tránh ra, tỷ phải đi châm cứu cho đại nhân!

Két một tiếng, cửa đã mở ra, Cạnh cửa, trong bóng đèn lồng là Cao Văn Tâm một thân váy lụa xanh biếc, vóc người thon thả thướt tha và nước mắt long lanh trên má vẫn chưa lau khô hết.

Nhìn thấy Dương Lăng đang đứng trước cửa, nàng bất giác giật mình dừng chân, vừa lúng túng cất tiếng gọi "Lão gia" vừa vội vã lau khô nước mắt. Nàng muốn bước lên song thân hình lại vẫn chắn giữ ở nơi đó, như thể e sợ Dương Lăng sẽ nổi giận xông vào trách phạt em họ của nàng.

Dương Lăng mỉm cười, bước tới nắm lấy tay nàng, làm như không có chuyện gì và nói:

- Đi thôi, Dương mỗ đang đến mời nữ thần y thi triển diệu thủ cho tại hạ đây.

Đoạn y kéo Cao Văn Tâm đang lúng túng đứng đờ ra thong dong rời khỏi sân đi về phía phòng ngủ của mình; tâm tình bình hoà, trên mặt nở một nụ cười điềm đạm không có vẻ gì là giận dữ.

  Chương 157 - Vào thẳng vấn đề

Phòng ngủ của Dương Lăng chia làm hai gian, gian trong và gian ngoài. Hàn Ấu Nương đang ở gian ngoài cắt vải may áo cho Dương Lăng. Dương Lăng mang từ Giang Nam về rất nhiều loại vải quý giá, nhưng phần lớn đều dành cho phụ nữ. Trong đó có hai mươi xấp vải đay, Dương Lăng giữ cho nhạc phụ và anh vợ năm xấp, còn lại thì để dùng.

Thời đó vải đay cực kỳ đắt đỏ, chỉ có vài địa phương như Chiết Giang, Quảng Đông và Giang Tây sản xuất được mà loại tinh xảo nhất phải là từ phủ Lôi Châu tỉnh Quảng Đông. Hai mươi xấp vải đay này là hàng thượng phẩm từ Lôi Châu, mỗi xấp chỉ có ngoài ba trượng mà đã có giá tới ba lượng bạc ròng.

Ấu Nương thành thạo nữ công hơn Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai rất nhiều, cho nên nàng tự tay cắt may lấy, muốn may cho tướng công một chiếc áo dài vừa vặn. Thấy Dương Lăng và Cao Văn Tâm bước vào, nàng đứng dậy vừa lấy tay đấm lưng vừa chào hỏi Cao Văn Tâm:

- Tỷ tỷ rồi đến à!

Tuy Cao Văn Tâm đã lau khô nước mắt nhưng nàng vẫn sợ Ấu Nương nhận ra bèn vội đáp lời, đoạn mượn cớ quay đầu đóng cửa để tránh mặt. Thoạt tiên, vừa nghe được lời của Cao Văn Cử thì Dương Lăng rất tức giận, nhưng đến lúc suy nghĩ cặn kẽ thì y chỉ thấy tội nghiệp cho tên học sinh tự cho là bất phàm nhưng lại không có chủ kiến này; vả lại gã còn là thân nhân của Cao Văn Tâm nên y cũng không tiện nghiêm khắc răn dạy, do đó y cũng đã hoàn toàn dứt bỏ tâm sự.

Thấy Ấu Nương đấm lưng, y xót xa:

- Nàng thật! Đã nói là đem vải cho cửa hàng họ may cho mà cứ đòi tự tay làm! Mệt thì nghỉ ngơi đi, ta cũng không vội mặc.

Hàn Ấu Nương vui vẻ dạ một tiếng, đoạn nói:

- Tướng công để tỷ tỷ châm cứu trước đi. Chàng đã uống rượu thì nên đi ngủ sớm một chút, thiếp may xong đoạn này cũng đi nghỉ luôn.

Dương Lăng gật đầu, thấy Cao Văn Tâm thừa cơ tránh vào phòng, y cũng đi vào, thoải mái cởi áo ngoài, mặc mỗi chiếc quần nằm sấp trên giường, hơi kéo quần xuống để lộ nửa cặp mông.

Cao Văn Tâm im lặng ngồi kế bên, lấy hơn mười cây kim châm lần lượt cắm lên mông y, sau đó vê nhẹ từng cái một theo một nhịp độ nhất định. Dương Lăng chống cằm tư lự một hồi, rồi chậm rãi lên tiếng:

- Văn Tâm…

Cao Văn Tâm cất tiếng dạ đoạn nhẹ giọng hỏi:

- Lão gia khó chịu sao? Tiểu tỳ sẽ nhẹ tay một chút.

Dương Lăng quay đầu nhìn nàng, đột nhiên mỉm cười. Cao Văn Tâm thấy vậy có phần hoảng hốt, lắp bắp hỏi:

- Lão gia cười gì vậy?

Dương Lăng khẽ lắc đầu đáp:

- Mười tám tuổi, chỉ nhỏ hơn ta một tuổi, đã là đại cô nương chưa nhỉ? Ha ha…vẫn chưa đâu. Thật ra vẫn là một cô gái nhỏ thôi, nhưng mười tám tuổi đã nổi danh kinh thành, cùng với các vị Kim Châm Lưu xếp vào hàng ngũ ba cao thủ y sư của kinh thành, nếu xét về phương diện này thì cũng xem như là đại cô nương rồi.

Cao Văn Tâm nghe y bảo lúc thì đại cô nương, lúc thì cô gái nhỏ, không biết y muốn nói gì, chỉ chớp mắt chứ không dám đáp bừa. Dương Lăng nhận thấy vẻ khó hiểu của nàng, khẽ thở dài nói:

- Không có gì! Ta có tâm sự nên nói thế thôi.

Y do dự một lát rồi nói tiếp:

- Đều là ta sơ ý, tưởng rằng chỉ cần không xem cô là nô tỳ là được mà lại xem nhẹ cách nhìn của người khác. Hai ngày nữa ta sẽ vào cung thưa chuyện với Hoàng thượng xin xóa bỏ thân phận tiện dân của cô. Nếu như…Văn Cử không muốn ở lại đây, ta sẽ tìm cho hai người một căn nhà…

Cao Văn Tâm trong lòng run lên, thất thanh:

- Lão gia, người…người muốn đuổi nô tỳ đi sao?

Dương Lăng ừ một tiếng, Cao Văn Tâm mặt mày thoắt cái đã trở nên trắng bệch, nhưng y lại nói tiếp:

- Không phải là đuổi cô, mà là đuổi đi một nô tỳ. Cô không còn là nô tỳ của Dương phủ nữa, cũng không cần xưng nô tỳ trước mặt người khác, sau này mới có thể danh chánh ngôn thuận xưng hô tỷ muội với Ấu Nương. Cô khôi phục thân phận thần y rồi, ai còn dám bịa đặt sinh sự, nhục mạ thanh danh của cô, ta sẽ tước công danh hắn, trị tội hắn!

Nếu không còn là nô tỳ, giữa hai người sẽ không còn những chướng ngại không thể vượt qua nữa, chẳng phải sẽ càng có nhiều cơ hội hơn ư?

Nghĩ thông điểm này, trong lòng hơi vui mừng, nàng khẽ cúi đầu vâng nhẹ một tiếng, lại lo lắng hỏi:

- Lão gia không giận Văn Cử sao? Nó … nó chỉ là tên ngốc đọc sách, lão gia đừng trách nó.

Dương Lăng mỉm cười đáp:

- Kể ra thì hắn chỉ yêu quý thân phận của kẻ đọc sách, muốn tránh bị chê ghét mà thôi. Ta sẽ không so đo với hắn.

Trong lòng Cao Văn Tâm thoải mái hơn, tay nàng cũng mau lẹ hẳn lên. Một lúc sau, nàng mới ngập ngừng:

- Thứ cho nô tỳ nhiều chuyện! Nghe Văn Cử kể lại người của Phủ Học và Thái Học đều rất tức giận, lấy chuyện lão gia và Bát Hổ ra mà tranh luận, mắng…

Nàng lén nhìn vẻ mặt của Dương Lăng, thấy y vẫn tự nhiên nên mới can đảm nói tiếp:

- Mắng là…quốc tặc. Nô tỳ biết nhân phẩm của lão gia, nhưng người ngoài lại không biết. Lão gia còn chưa biết sự lợi hại của đám sĩ tử, có câu lời người nói xói chảy vàng, lời nói của đám văn nhân có thể huỷ hoại cuộc đời của một con người đó.

Nàng cúi đầu xuống, yếu ớt:

- Lý Kế Mạnh xảo biện mấy câu, liền khuấy động bách tính khắp nơi xem lão gia như ác nhân ức hiếp dân lành, thật ra…Văn Cử mới đầu biện hộ cho đại nhân ở Phủ Học, chỉ là phu tử và sĩ tử liên hệ tất cả những hành vi ghê tởm của Bát Hổ lại với đại nhân. Đại nhân và Bát Hổ từng có qua lại nên dù hắn giải thích thế nào cũng không ai tin, ngược lại còn chửi hắn là nô tài, hắn vừa giận vừa thẹn nên mới muốn rời khỏi Dương phủ để chứng tỏ lòng mình. Với quyền thế và địa vị của đại nhân hiện nay vốn không cần phải kết giao với loại người thanh danh thối nát như Bát Hổ. Phải biết rõ lòng dân mới hữu dụng, nếu mất lòng dân, tiểu tỳ lo lắng lão gia sẽ rất bất lợi đó.

Dương Lăng hỏi ngược lại:

- Lòng dân là gì? Lòng dân là xu thế chung, mà xu thế này chính là lợi ích, kẻ nào mang lại lợi ích cho dân thì sẽ được lòng dân.

Y nhớ đến một câu chuyện về Viên Sùng Hoán, bèn không khỏi cảm khái kể:

- Ta nhớ có một nước nọ, lúc man tộc tấn công ngoài quan ải, có một vị tướng quân thủ hộ đơn độc tại một toà thành, thề chết không lui. Thấy tài sản của mình có thể được bảo vệ, dân chúng trong thành đều cảm kích không thôi. Nhưng càng đánh càng nguy, mắt thấy thành khó giữ, dân chúng lo sợ man tộc sẽ tàn sát cả thành để trả thù, khi đó chẳng những tiền bạc không còn mà mạng cũng sẽ mất, do đó rất nhiều người bắt đầu chửi rủa vị tướng quân nọ vì ham lập công thăng quan mà làm hại bách tính, oán trách hắn binh lực không đủ thì đừng quyết chiến mà khổ dân. May thay, thủ lĩnh man tộc lúc công thành vì sơ ý nên bị đánh chết khiến quân địch thối lui. Tính mạng và tài sản đều được bảo vệ, dân chúng vui mừng khôn siết, lại khóc lóc ca tụng vị tướng quân đó là phụ mẫu tái sinh.

Dương Lăng cười sâu xa:

- Từ câu chuyện này cô thấy được lòng dân là gì rồi chứ? Lòng dân chính là lợi ích, tránh hại theo lợi chính là lòng dân. Đừng cho rằng bọn họ ngốc nghếch mà nghĩ rằng lòng dân có thể dựa dẫm, có thể sử dụng, có thể tranh giành. Chỉ cần những việc ta làm có lợi cho dân, thì bọn họ sẽ đứng về phía ta hay là phía đám sĩ tử chỉ biết nói những lời sáo rỗng đây?

Đừng nói hiện nay Bát Hổ cũng không phải là những kẻ đại gian đại ác, cho dù bọn họ là những kẻ đại gian đại ác đi chăng nữa, trước mắt có thể hợp tác thì ta không thể vì thể diện mà trở mặt. Huống chi…ta cũng không ngu đến thực hiện công việc cho có hiệu quả rồi mới đi tranh thủ lòng dân.

Y nhếch mép nghĩ bụng: “Cửa hàng ngựa xe, tửu quán, thanh lâu, thương xá…những nơi tam giáo cửu lưu này, mỗi tầng lớp đều có bàn tay ta nhúng vào. Hãy để cho bọn chúng bị vây trong chiến thuật biển người của ta đi. Nếu như hàng xóm láng giềng, nha hoàn nô bộc, mã phu thư đồng, thậm chí là vợ con đều tiếp nhận hoặc chí ít là không phản đối chính kiến của ta, ta thực muốn xem đám đại thần và sĩ tử bị cô lập liệu còn kiên trì được bao lâu.”

Dương Lăng thấy Cao Văn Tâm vẫn lặng thinh, bèn quay lại nhìn, thấy hơn mười cây châm sáng loáng đang đung đưa trên mông của mình rất là hoành tráng, Cao Văn Tâm lại đang ngây ngẩn. Y bật cười hỏi:

- Văn Tâm, cô làm gì vậy? Ta thấy mình chẳng khác gì con nhím, không lẽ đây cũng là một quy trình chữa trị?

Cao Văn Tâm mặt ửng hồng, giật mình tỉnh lại, vội vàng châm tiếp tiếp, ấp úng:

- Không phải! Nô tỳ đang nghĩ đến vị đại nhân đó, tấm lòng của ông ta không được người ta hiểu cho, nhất định là rất đau xót.

Nô tỳ biết những việc làm của lão gia đều là vì thiên hạ bách tính nên mới không tính toán đến danh dự cá nhân. Cho dù người khác nhìn nhận và nói như thế nào, Văn Tâm đều sẽ ở bên ngài. Thoát khỏi kiếp nô tỳ… nô tỳ cũng rất muốn, có điều mặc cho ai cười nhạo, mắng chửi, nô tỳ quyết sẽ không rời Dương phủ, rời khỏi lão gia!

Dương Lăng giật mình nhìn Cao Văn Tâm, ánh nến soi rõ những đường nét ưu mỹ trên khuôn mặt của nàng; đôi mắt kiên định, bình tĩnh, vô tư trong sáng. Lời thổ lộ can đảm ấy khiến y nghe mà kích động, thiếu chút nữa đã bật dậy ôm nàng vào lòng.

Chỉ là y vừa hơi cử động thì ngân châm lại đung đưa, lúc này y mới sực tỉnh, kiềm chế tâm tình, nằm sấp lại trên gối, mỉm cười đáp:

- Được, cô không muốn đi thì không ai có thể đuổi cô đi cả. Chỉ là…mấy cây châm đó trông sợ quá đi, hay là chúng ta hãy chuyên tâm châm cứu trước đã.

Cao Văn Tâm tình ý đã sinh, sao còn không nhận ra hàm ý trong ánh mắt vừa rồi của y. Tất cả đều do…đều do….nàng bực mình cắn môi.

***

Phủ của Lý đại học sĩ.

Dương Lăng và Lý Đông Dương sánh vai đi vào thư phòng. Lý Đông Dương kinh ngạc nhìn y, không biết y mạo muội đến bái phỏng mình là có ý gì.

Dương Lăng quan sát căn phòng. Thư phòng tao nhã cổ kính, cạnh kỷ trà là một chiếc bàn Bát Tiên bằng gỗ tử đàn, trên bàn bày ấn chặn giấy, nghiên mực, còn có mấy chồng công văn cao ngất, cạnh đó là một chiếc bình sứ Thanh Hoa rỗng miệng, trong bình cắm mười mấy cuộn tranh giấy Tuyên Thành. Phía sau nữa là tấm bình phong bằng gỗ sơn son điêu khắc hoa văn bằng vàng, đằng sau loáng thoáng lộ ra một góc giường.

Dương Lăng thấy vậy không khỏi hơi ngạc nhiên, không ngờ Lý Đông Dương tiếp kiến y ở trong thư phòng. Lẽ ra những chốn riêng tư như thế này thì ngoại trừ người trong phủ và bằng hữu cực kỳ thân thiết, người bình thường sẽ không được mời vào.

Ánh mắt Dương Lăng trở lại trên người Lý đại học sĩ. Trước mặt mỗi người là một chén trà bằng sứ rất tinh xảo, trong phòng không đốt than sưởi nên hơi lạnh, hơi nóng mỏng manh từ chén trà mới pha bốc lên lưng chừng thì đã tan mất.

Rốt cuộc Lý Đông Dương cũng nhịn không được, bèn hỏi dò:

- Hôm nay Dương đại nhân đến thăm, chẳng hay có chuyện quan trọng gì?

Dương Lăng cung kính mỉm cười đáp:

- Đại học sĩ bận rộn nhiều bề, nếu là chuyện bình thường hạ quan nào dám đến làm phiền. Quả thực có một việc lớn liên quan đến triều đình và kế sinh nhai của lê dân bách tính, hạ quan muốn tham khảo ý kiến của đại học sĩ trước.

Lý Đông Dương thầm lục lọi suy nghĩ, hiện nay tầm ảnh hưởng của Dương Lăng với Hoàng đế quả là không ai sánh được. Y có đám hồ bằng cẩu hữu (bạn xấu) như Bát Hổ, lại sắp xếp được Tiêu Phuơng vào trong nội các, luận quyền thế càng không ai có thể so bì. Hơn nữa hai người có thể nói là không hề giao thiệp, y có chuyện gì mà phải đến tìm mình thương nghị chứ?

Chẳng lẽ y thấy đuổi hai vị đại học sĩ Lưu, Tạ còn chưa đủ nên còn muốn đẩy mình ra khỏi triều đình để một tay nắm quyền ư? Lý Đông Dương thầm đề cao cảnh giác, cười ha hả đáp:

- Tuy Dương đại nhân còn trẻ tuổi nhưng năng lực lại cao minh hơn người, ngài khách khí thế này thật khiến cho lão hủ phải e ngại. Thật ra nếu đại nhân có kiến nghị gì về triều chính thì có thể trực tiếp đưa ra thương nghị với bá quan toàn triều. Ví bằng muốn thảo luận riêng tư thì Lưu công công là Nội tướng, Tiêu đại học sĩ lại là bằng hữu của đại nhân, hình như còn chưa tới phiên lão hủ xen vào?

Dương Lăng nghiêm mặt đáp:

- Lý đại nhân đang nói Bát Hổ và Tiêu Phương? Bát Hổ tham quyền hám lợi, là hạng dốt nát tầm thường, há là người có thể thương nghị chuyện lớn? Tiêu Phương tuy có tài cán, nhưng nhiều lắm cũng chỉ có thể vâng dạ, tuân chỉ mà làm. Nếu luận kiến thức và tầm mắt nhìn xa trông rộng trong cả triều đình thì trừ Lý đại học sĩ ra, tại hạ còn có thể thỉnh giáo ai đây?

Lý Đông Dương nhướng mi nhìn Dương Lăng, ánh mắt sáng ngời, môi mấp máy hồi lâu mà lại không biết nên đáp lại như thế nào.

  Lấy được thứ mình cần

------------------------

Lập tức lời nói của Dương Lăng khiến Lý Đông Dương sững sờ. Tại thời điểm này, cho dù là ông thì trước mặt đồng liêu hảo hữu cũng không dám bình luận về Bát Hổ và Tiêu Phương một cách không hề kiêng nể như vậy cả. Dương Lăng cùng bè phái với Bát Hổ và Tiêu Phương mà lại dám buông lời thẳng thắn trước mặt mình như vậy, y điên rồi sao?

Sắc mặt Lý Đông Dương không ngừng thay đổi, chốc sau mới khẽ cười nói:

- Dương đại nhân nói chuyện như vậy, chẳng lẽ không sợ người trong Nội đình và Tiêu đại học sĩ sẽ trở mặt thành thù với đại nhân hay sao?

Dương Lăng bật cười hắc hắc, nói:

- Nếu Lý đại học sĩ không sợ bị người ta quy là tiểu nhân vu khống, chia rẽ ly gián thì cứ việc nói cho bọn họ biết đi.

Lý Đông Dương thoáng sững ra rồi bỗng ngửa mặt lên trời cười lớn. Dương Lăng mỉm cười nhìn ông: hai người đã truyện trò trong phòng kín, bất luận thành thật với nhau như thế nào thì những lời này đều không thể dùng làm chứng cứ truyền ra ngoài gây ảnh hưởng đến thanh danh và quan uy của bọn họ. Dương Lăng đã có thể thẳng thắn như vậy, Lý Đông Dương đương nhiên cũng không cần phải úy kị nữa.

Quả nhiên, cười thư sướng xong, Lý Đông Dương vỗ tay nói:

- Đến ngày hôm nay còn có thể nghe được lời sướng lòng mát dạ như vậy, lại được thốt ra từ miệng Dương đại nhân thực khiến lão phu kinh ngạc. Dương đại nhân hôm nay đến thăm, chẳng hay mục đích là chi, xin hãy nói thẳng.

Dương Lăng mỉm cười nói:

- Lẽ phải hay chính nghĩa, nói cho cùng chẳng qua là vì chữ lợi trong đó mà thôi. Có cái lợi của nước nhà, cái lợi của bá tánh, và cái lợi của cá nhân. Hôm nay hạ quan đến bái kiến đại nhân chính là muốn vì triều đình, vì bá tánh mà mưu lợi.

Ánh mắt Lý Đông Dương thoáng tập trung lại. Ông chăm chú nhìn y hỏi:

- Lời này của Dương đại nhân là có ý gì?

Dương Lăng hít sâu vào một hơi rồi nói:

- Hạ quan từ Giang Nam trở về, cảm thấy rằng vùng đất giàu có sung túc từ xưa như Giang Nam nếu chỉ dựa vào ruộng nương thì đã không thể phát triển thêm nữa. Thương nhân Giang Nam tuy nhiều nhưng sản vật tinh mỹ thì chỉ có thân sĩ phú hào các nơi mới có thể tiêu thụ nổi, vướng phải hạn chế này nên rất ít dân chúng được nhờ (ơn ấy). Thêm nữa, giặc Oa lộng hành vùng duyên hải, dẫu chưa thành mối hoạ ngầm nhưng dân chúng Đại Minh chịu nhiều quấy nhiễu, trong khi triều đình trú đóng trọng binh ở duyên hải, nơi nơi bị động phòng ngự nhưng lại không thể ngăn được hết lũ giặc cướp ấy. Đại quân hao tài tốn của mà lại không thể cứu giúp bá tánh ven biển khi lửa bỏng dầu sôi, đủ loại tệ bệnh sinh ra cũng bởi từ cấm biển. Hạ quan cho rằng, chỉ cần giải cấm thông thương thì sẽ có thể diệt trừ căn nguyên của nạn giặc lùn vậy, và buôn lậu bất hợp pháp sẽ không còn chốn dung thân. Triều đình vừa có thể thêm được số thuế khổng lồ mà lê dân bá tánh cũng có thể kiếm lợi từ trong đó, vậy cớ sao lại không làm?

Lý Đông Dương kinh ngạc vô cùng. Ông chỉ nghĩ rằng nay Dương Lăng nắm trọng quyền nên muốn làm nên chút thành tích để tạo dựng uy tín, song không ngờ y lại chọn con đường gian nan như vậy.

Bãi bỏ bế môn tỏa cảng không hẳn đã là phương thuốc hoàn hảo vô khuyết nhưng so với cấm biển cấm thương thì tốt hơn rất nhiều. Ông chủ trì triều chính lâu năm, đứng trên bậc cao nhất này đương nhiên có thể thấy rõ mấu chốt quan trọng trong đó, nhưng muốn thúc đẩy chính sách này thì tương lai sẽ vấp phải muôn vàn trắc trở từ phía triều đình.

Cho dù là khi ông và hai người Lưu, Tạ chủ trì triều chính, lại được vua Hoằng Trị hết sức tín nhiệm nhưng cũng biết nếu phí công mất lòng đi khuyên nhủ Hoàng đế giải cấm thông thương thì không khéo sẽ lại chuốc họa vào thân.

Khi cùng Lưu, Tạ bàn luận riêng về triều chính, nghĩ đến những mấu chốt phức tạp trong lệnh cấm biển, Lý Đông Dương cũng không khỏi tặc lưỡi lắc đầu cho rằng giải trừ cấm biển là một hy vọng xa vời.

Tuy bọn họ là những hiền thần tài giỏi nhưng cũng không ngờ hơn năm mươi năm sau, giải trừ hoàn toàn lệnh cấm biển đã trở thành nhiệm vụ cấp bách, hơn nữa dưới sự nhất trí đồng loạt của triều đình, Đại Minh đã thuận lợi thực thi nó. Có điều, quốc gia luôn thi hành biện pháp chính trị từng bước một cho nên hiệu quả thực tế khác xa một trời một vực, lúc đó đã hơi muộn.

Lý Đông Dương khép mắt đưa chén trà lên môi rồi trầm ngâm không nói gì.

Dương Lăng biết ông còn phải tiêu hoá lời nói vừa rồi và hơn nữa là suy đoán mục đích thật sự của mình khi đến đây, vì vậy chỉ lẳng lặng ngồi chờ không hề thúc giục. Một lúc sau, Lý Đông Dương mới hớp một ngụm trà rồi đặt chén xuống và mỉm cười nói:

- Dương đại nhân cho rằng bình Oa định hải, cường quốc phú dân, giải trừ cấm biển là một liều thuốc hay ư?

Dương Lăng thành khẩn nói:

- Đại nhân, phương pháp cường quốc phú dân đương nhiên không chỉ có một, có điều giải trừ cấm biển thông thương vẫn có thể xem là một biện pháp tốt. Biển khơi nằm đó, bờ biển kéo dài vạn dặm, việc buôn bán giữa trong và ngoài nước thuỷ chung khó mà cấm tiệt.

Những kẻ chế tạo thuyền hai cột muốn chém giết cũng chỉ có thể chặt chém dân chúng Đại Minh ta, cấm biển cũng chỉ có thể cấm dân chúng Đại Minh chúng ta. Thường có câu "dựa rừng nhờ rừng, dựa biển nhờ biển", biển cả giống như một cái chậu châu báu to, chỉ vì giặc lùn làm loạn mà vứt bỏ nó, kết quả bít đường buôn bán, thương nhân mất đi đường sống nên phải chuyển sang làm giặc.

Hiện nay tần suất giặc Oa hoành hành so với khi mới cấm biển thì thế nào? Mỗi lúc một tăng. Vì lợi ích mà người ta làm giặc, lương dân vì lợi ích của mình mà cũng ra biển làm giặc. Đại nhân gia nhập nội các lâu năm, bạn cũ nhiều khắp thiên hạ, tai mắt linh thông, hẳn biết rằng cái gọi là "giặc Oa" đa phần đều là dân chúng Đại Minh ta. Ép dân làm giặc là một tội, mà trừ Oa chống giặc là một công, vì vậy chuyện quan lại duyên hải đổi trắng thay đen, che giấu sự thật đâu đâu cũng có. Giặc cướp và thương nhân đều là người, đều vì lợi mà đến. Thông chợ thì giặc cướp làm thương nhân, mà cấm chợ thì thương nhân chuyển sang làm giặc cướp. Ngày nào lệnh cấm biển chưa giải trừ thì họa ấy luôn luôn vẫn sẽ tồn tại.

Đến nay mậu dịch triều cống chỉ giới hạn trong phạm vi triều đình, cho nên mậu dịch tư thương thịnh hành. Những thương nhân chuyên buôn bán trên biển và thân sĩ thế gia vùng duyên hải buôn lậu làm càn. Nếu bỏ bế môn tỏa cảng lại vừa đấm vừa xoa thanh trừ hải tặc ngoan cố, cho phép dân chúng ra biển buôn bán với Tây Dương và Đông Doanh (Nhật Bản) thì chẳng những có thể đập tan nạn giặc lùn mà thừa cơ hội này chúng ta còn có thể khiến cho bá tánh phồn vinh, quốc gia hưng thịnh, cớ sao lại không làm?

Lý Đông Dương nhìn sang Dương Lăng, nghe y ăn nói đĩnh đạc, loáng thoáng biểu lộ ra vẻ tiếc nuối và lo lắng nên bất giác cũng hơi động lòng. Con người ở trước mặt này có lẽ giỏi về mưu mô, có lẽ xu nịnh quân thượng,nhưng chưa chắc đã không có hùng tâm báo đáp triều đình, tạo phước cho bá tánh muôn dân.

Nếu y thật sự ham muốn quyền lợi thì lúc này đây y nên đặt tâm trí lên triều đình, lợi dụng sự rối ren trong triều mà không ngừng sắp đặt thân tín, thu phục nhân tâm, củng cố thế lực của chính mình, cớ gì lại khổ tâm đi lo nghĩ làm sao giải cấm thông thương?

Nay y quyền thế ngút trời, lại nắm trong tay ty Thuế Giám khống chế tài nguyên Đại Minh thì quả thực không có lý do gì phải mạo hiểm như vậy. Lưu công, Tạ công, chẳng lẽ các vị đều đã nhìn lầm y rồi? Kết giao công khanh quyền quý, dung túng Hoàng thượng ham chơi chỉ là vì lòng ôm hoài bão nên y không thể không làm vậy ư?

Lý Đông Dương khẽ thở dài một hơi, rồi trầm ngâm nói:

- Cấm biển đương nhiên có rất nhiều tệ nạn. Đời Hán hùng cường, đời Đường hưng thịnh, đời Tống trù phú dồi dào... Từ xưa đến nay chưa thấy lúc nào cấm biển, duy chỉ triều đại chúng ta...

Dương Lăng nghe ngữ khí ông buông lỏng, thì mừng khôn siết. Y đứng dậy cảm động nói:

- Đại học sĩ, hạ quan biết bởi vì một kẻ tú tài như tại hạ thăng tiến quá nhanh, lại có giao tình mật thiết với hoạn thần lộng quyền mà đại nhân và bá quan trong triều đã hiểu lầm nhiều. Giống như lúc Chu công bị người dèm pha đến khủng hoảng, lúc Vương Mãng chưa soán ngôi là người khiêm tốn(1), lâu ngày lòng người sẽ rõ, nay tại hạ cũng không muốn giải bày nhiều. Nhưng mà việc giải cấm thông thương này, hạ quan thực sự không có lòng riêng. Thảng như sự thành, ấy thực lợi nước lợi dân, hơn nữa hạ quan cũng nguyện sẽ tâu với Hoàng thượng, giao phó hải quan và Hữu ti nha môn cho quan viên địa phương quản lý.

Đại nhân, xưa nay ngoại tộc khó vượt biển tới đây, nay năng lực đóng thuyền của dị quốc tăng cường, đã có người Phật Lang Cơ (Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha) từ vạn lý xa xôi đến viếng, ai biết trăm năm nữa sẽ thế nào? Ai biết khi ấy hải dương rộng lớn như rãnh trời đó sẽ trở thành con đường bằng phẳng hay không? (đại ý khi đó giặc ngoại xâm muốn đến là đến) Đại Minh dựng lên một trường thành nơi phương bắc, chẳng lẽ lúc ấy lại dựng thêm một trường thành ven biển? Đường đường đất nước Trung Hoa, con cháu Viêm Hoàng lại phải xây tường khắp nơi, vứt không cả đại dương quý báu cho rợ ngoài hay sao? Phải ru rú trong nhà chịu đòn hay sao? Hải vực cũng là lãnh thổ Đại Minh ta, đã có trách nhiệm giữ đất thì không nên vứt bỏ nó!

Lý Đông Dương bỗng lộ vẻ xúc động. Trầm tư hồi lâu, ông mới từ tốn đáp lại:

- Giải trừ cấm biển... khó!

Dương Lăng nói:

- Đại nhân là bậc quân tử thanh cao, cho nên mới nói là khó. Hạ quan kết giao hoạn thần, nhơ danh khắp thân, ấy là vì cái gì? Chỉ cần đại nhân đồng ý, việc khác tự đã có hạ quan lo liệu.

Lý Đông Dương liếc mắt nhìn y, rồi đột nhiên cũng đứng dậy, chậm rãi tản bộ trong phòng. Dương Lăng thấy ông trầm tư mãi, bèn cúi mình nói:

- Thiên hạ lấy nông làm gốc, tự do thông thương, nếu để thóc gạo tuồn ra ngoài thì đã thế nào? Cho dù quan phủ ngăn cấm thì cũng khó mà đề phòng tất cả.

Đoạn y thở ra một hơi, cười nói:

- Thiên hạ hôm nay thử hỏi của cải trù phú hoa mỹ thì ai có thể bì với Đại Minh ta? Tơ lụa, lá trà, đồ sứ băng sông vượt biển, một thuyền lời gấp chục lần. Cho dù triều đình không cấm liệu dân chúng có bỏ qua những mặt hàng có giá mà lén buôn lậu vật dụng phổ thông không? Đại Minh vốn không cho dân gian lấy ngân lượng dùng làm tiền tệ, nhưng tiền giấy lại chưa đủ tin cậy, tiền đồng thì không đủ để dùng, dân gian đã sớm dùng bạc trắng để giao dịch là chính. Nay hàng hoá sản xuất vượt xa thời lập nước, không còn đủ bạc trắng để dùng nên dẫn đến vật giá tăng cao, đời sống dân chúng nghèo khổ. Nhược bằng lượng lớn bạc trắng chảy vào thông qua mậu dịch, vừa có thể đưa vào lưu thông trong nước lại còn có thể mua dê bò lừa ngựa của những man tộc lân cận chung quanh. Ngoài lúa gạo ra dân chúng còn phải ăn thịt nữa, mà hiện tại có mấy nhà có thịt để ăn chứ? Vả lại, cấm biển thì ngư dân chỉ còn những con thuyền bé không chống nổi sóng gió phải đánh bắt gần bờ, mà dỡ bỏ cấm biển thì thuyền lớn ra khơi, đấy mới là cái vựa cá bất tận đó. Nhớ năm xưa Đại Tống bốn bể thông thương, dân chúng giàu có, thuế khoá triều đình sung túc, mà vào đời Tống ruộng đồng không bao la bát ngát như Đại Minh ta, thóc gạo không dồi dào bằng Đại Minh ta, ấy vậy mà thức ăn dân chúng lại vẫn hơn xa Đại Minh chúng ta.

Lý Đông Dương mỉm cười nói:

- Ruộng nương Đại Tống không bằng Đại Minh ta, nhưng nhân khẩu cũng ít hơn Đại Minh ta nhiều. Đại nhân nói cũng có lý, khả năng dân chúng lén tuồn thóc gạo ra ngoài quả thực không lớn, nhưng mua dê bò sẽ chịu phải ước thúc của ngoại tộc, đánh cá khó mà ứng phó với nhu cầu sinh tồn của bá tánh, một khi trở mặt với ngoại tộc há chẳng nguy ư? Giang Nam là vựa lúa thiên hạ, Tô-Hồ được mùa, thiên hạ no đủ. Thông thương rồi, cái lợi từ tơ lụa gấp chục lần nông canh, dân chúng tham cái lợi gần, kẻ có đất ắt sẽ bỏ lúa thóc mà đi trồng dâu, kẻ trồng trọt ắt sẽ bỏ đất mà đi nuôi tằm dệt vải. Các tỉnh còn lại đều không giỏi canh tác, nếu như lương thực không đủ dự trữ thì gặp lúc thiên tai địch họa tất sẽ sinh nội loạn. Trăm năm sau thế nào thì bản quan không rõ, nhưng đại loạn có khả năng trước mắt thì không thể không phòng đâu à.

Dương Lăng lòng bừng nhiệt huyết, chỉ nghĩ đến cơ hội quan trọng liên quan đến bước ngoặt lịch sử của quốc gia, nhưng lại không suy xét gì về tình hình trước mắt của Đại Minh. Tuy Lý Đông Dương nghe y miêu tả về tiền đồ thì rất động lòng, nhưng thân là thủ phụ đại học sĩ (người đứng đầu của nhóm đại học sỹ), ông không thể không nghĩ đến việc quan trọng hàng đầu là "dĩ thực vi thiên" (2).

Có điều khi Dương Lăng nghe ông nói "Tô-Hồ được mùa, thiên hạ no đủ" thì lấy làm lạ. Không phải tục ngữ đời sau thường nói là "Hồ-Quảng được mùa, thiên hạ no đủ" sao? Chẳng lẽ vựa lúa của thiên hạ sẽ dần dần chuyển từ duyên hải vào trong đất liền à?

Dương Lăng chợt nhớ lúc Chính Đức tự thân chấp chính có từng phê một tấu chương cho trồng thử loại lúa nước năng suất cao của An Nam, còn có khoai lang ngọt mà lúc còn ở Kê Minh dịch y từng xem là trái cây ăn thử. Kìm nén sự kích động trong lòng, y chắp tay nói:

- Lý đại nhân, nếu như hạ quan có thể giải quyết vấn đề lương thực này, biến đất đai cằn cỗi thành vựa lúa sung túc thì đại nhân có chịu ủng hộ hạ quan không?

Lý Đông Dương nhìn y, ánh mắt loáng lên, mỉm cười nói:

- Tấu chương về kết quả trồng thử lúa nước của An Nam đã được đưa về kinh. Loại lúa này chịu hạn tốt đuổi trùng hay, có thể tăng năng suất lên một thành, lão phu đã tấu xin thánh thượng năm sau sẽ cho phổ biến trồng trọt ở những vùng đất thích hợp. Có điều ruộng đất để trồng loại lúa nước có hạn, tăng thu nhập lên một thành vẫn sẽ không đủ bù vào phần lúa gạo thiếu hụt của Giang Nam.

Dương Lăng nghe được điều đó liền mừng rỡ vô cùng. So với lúa nước thì khoai lang và cây ngô lại rất dễ trồng, đất phèn đất mặn, sườn dốc bụi cây gì cũng đều sinh trưởng được. Chỉ cần nông dân chăm bón tốt một chút, khi đó năng suất lương thực sẽ tăng không chỉ một thành, mà còn hơn gấp bội. Chuyện quan trọng như vậy sao mình lại quên bén đi nhỉ.

Hiện giờ y chỉ muốn về thật nhanh để giao cho bộ hạ tìm kiếm chỗ nào có trồng khoai lang và cây ngô. Nếu triều đình vẫn chưa phổ biến trồng trọt loại cây trồng này thì hiển nhiên phần lớn dân chúng vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng của chúng. Mình phải tranh thủ phát triển chúng trước, khi đó lời nói ra cũng sẽ có trọng lượng hơn.

Nghĩ đến đây, y mỉm cười nhẹ nhõm:

- Lý đại nhân không cần lo lắng, hạ quan có biện pháp giải quyết vấn đề thiếu lương thực dự trữ của Đại Minh. Đến khi đó đại nhân sẽ chịu ra sức ủng hộ chứ? Hạ quan bất tài, giấu gạt tiên đế, được đương kim hoàng thượng tin yêu nhưng lại không góp được tấc công lao nào cho xã tắc giang sơn. Chỉ cần có thể hoàn thành đại sự ích nước lợi dân này, thì hạ quan đã mãn nguyện rồi.

Lý Đông Dương kinh ngạc nhìn y: "Khẩu khí lớn thật. Trồng trọt lương thực là dựa vào tiết trời, bất luận có làm thế nào thì sản lượng kê gạo hiện hữu cũng không thể tăng vọt trong hoàn cảnh đất đai cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt cả. Ngữ khí của Dương Lăng này cũng lớn quá nhỉ?"

Ông nén lòng tò mò, điềm nhiên cười nói:

- Được, nếu Dương đại nhân có thể hoàn thành đại sự này, ấy sẽ là đệ nhất công thần Đại Minh vậy, so với công lao mở mang bờ cõi và chiến tích trăm trận chỉ hơn chứ không thua. Lão phu đương nhiên sẽ dốc hết sức ủng hộ. Có điều...

Đoạn ông thở dài nói:

- Lão phu đã già, không bằng lứa tráng niên khoẻ mạnh, gần đây luôn cảm thấy thân thể mệt mỏi, tấu chương bình thường cũng phải vất vả lắm mới phê duyệt xong. Tuổi tác của Tiêu đại học sĩ so với lão phu còn cao hơn, bản quan cũng không nỡ để Tiêu đại học sĩ quá vất vả. Công vụ thường ngày của nội các quá nhiều, không có người san sẻ, thì cho dù có lòng trợ giúp đại nhân dẹp trừ trở ngại, cũng e rằng lực bất tòng tâm.

Dương Lăng thoáng ngẩn ra. Lời này của Lý Đông Dương vừa không giống khước từ mà lại như muốn khước từ. Trong hồ lô lão rốt cuộc chứa thuốc gì đây? Dương Lăng chăm chú nhìn, thấy lão đưa nắm tay lên che miệng ho khẽ, trong cặp mắt già nua lại thoáng lộ ra vẻ giảo quyệt liền không khỏi bừng tỉnh ngộ.

Y thầm rủa một tiếng "lão hồ ly" song miệng lại tươi cười:

- Tiêu đại nhân mới vừa nhập các, triều chính phần nhiều đều dựa vào đại nhân lo toan nên khó trách đại nhân không thể chu toàn. Nghe nói đại nhân tiến cử học sĩ Dương Đình Hoà Dương đại nhân của phủ Chiêm Sĩ nhập các. Hạ quan cũng cảm thấy Dương đại nhân có tài, kiến thức chính trị trác tuyệt bất phàm, là người rất thích hợp được chọn cho vị trí đại học sĩ, Dương mỗ nghĩ rằng Hoàng thượng nhất định sẽ đồng ý với việc để Dương đại nhân nhập các thôi. Có Dương đại nhân san sẻ lo âu, đến lúc đó chắc hẳn đại quan sẽ dành thời gian chiếu cố đến những việc lớn như giải cấm duyên hải, tiếp đãi sứ thần, định ra luật pháp, dụng binh dẹp Oa, kiến tạo thuyền bè, thiết lập hải quan rồi.

Lý Đông Dương vuốt râu nói:

- Chỉ mong có thể như lời Dương đại nhân nói, vậy thì lão phu sẽ yên tâm.

Hai ngươi đưa mắt nhìn nhau, không nhịn được đều bật cười.

***

- Khoai lang, chưa bao giờ nghe nói à? Ừm... cũng gọi là khoai đỏ, khoai ngoại, củ đậu đất... cũng chưa từng nghe nói đến à?

Dương Lăng thở dài chán nản, đang định xoay người bỏ đi, ông chủ tiệm gạo thấp béo đó chợt gãi đầu nói:

- Vị công tử đây có phải là nói khoai rợ không?

"Khoai rợ? Khoai rợ là thứ gì? Có lẽ cũng là một tên gọi.", nghĩ vậy Dương Lăng bèn vội quay người, vui vẻ cười nói:

- Có thể có thể, mau lấy ra cho ta xem, chỉ cần nhìn một cái là ta sẽ biết có phải hay không.

Lúc thăm viếng Lý Đông Dương y mặc thường phục, song chất liệu quần áo cao cấp mặc trên người không che giấu được ai, cộng thêm bên người mang theo tám thủ hạ dũng mãng cường tráng, kiểu cách ấy ngay cả tại kinh sư cũng không dễ gặp. Vì vậy ông chủ tiệm gạo cũng không dám xem thường y.

Ông ta cười ngượng ngập rồi khom người nói:

- Công tử, thứ khoai rợ ấy giá rẻ như bèo, rất khó kiếm lời, mà người mua cũng ít cho nên tiểu điếm không có bán thứ ấy. Nhưng có lẽ các cửa tiệm lương thực dầu mỡ phía bắc thành có bán đó.

Phía bắc thành? Dương Lăng biết nơi ấy phần lớn là dân nghèo cư ngụ, đời sau khoai lang quả thật là thứ rẻ mạt, chẳng lẽ thời này vẫn còn hiếm mà vẫn không đáng tiền ư? Y lập tức hưng phấn chắp tay nói:

- Đa tạ ông chủ, ta sẽ đi xem thử.

Dương Lăng rời khỏi cửa tiệm, bốn tay kiệu phu nâng chiếc kiệu xanh lá lên, Dương Lăng chui vào trong kiệu rồi bảo:

- Đi, đến phía bắc thành, dạo xem mấy tiệm lúa gạo lương thực một chút.

Kiệu phu không biết tại sao lão gia rời khỏi phủ đại học sĩ xong lại chạy đến khắp các cửa hàng lương thực trong thành, bèn nghĩ bụng: "Chẳng lẽ nhà đại học sĩ đã hết gạo? Cũng có lẽ, nghe nói Lý đại học sĩ là thanh quan, trong nhà trên trăm miệng ăn mà bổng lộc triều đình lại ít cộng thêm tiết trời đã bắt đầu lạnh, nếu hết gạo thì thực thảm. Nhưng mà lão gia nhà chúng ta cũng hơi keo kiệt thật. Sao lại tặng khoai rợ cho người ta chứ, cái thứ đó mà ăn hết mùa đông thì chịu sao nổi?"

Bọn họ nghĩ vậy nhưng không dám nói ra, chỉ lặng lẽ nâng kiệu bước nhanh đến nội thành phía bắc. Chiếc kiệu kẽo kẹt lắc lư đi đến phía bắc thành, sau đó rẽ vào khu dân nghèo rách, khó khăn lắm mới tìm được một tiệm lúa gạo. Một nha sai cải trang thành gia đinh theo hầu khoát tay, chiếc kiệu con dừng lại.

Gã cảnh giác ngó quanh, rồi ra hiệu cho đám huynh đệ tản ra phòng vệ, sau đó bước đến bên kiệu gọi khẽ:

- Đại nhân, đến cửa hàng lương thực rồi.

Dương Lăng đã ngồi dựa trên chiếc đệm kiệu ngủ gật. Đêm qua y ngủ trong phòng Tuyết Lý Mai. Trong khuê phòng thì cô bé ấy "đa dạng" nhất, có dũng khí nhất. Không biết đêm hôm qua sao lại lớn gan, mặc dù trước giờ y vẫn không nỡ yêu cầu thế mà cô nàng lại thẹn thùng muốn dùng "hậu đình" (*) hầu hạ.

(*) hậu đình là "sân sau", cũng là chỉ cặp mông như trong bức tranh mà Đường Bá Hổ vẽ.

Xem ra Tuyết Lý Mai cũng đã có chuẩn bị, làm theo phương thuốc nàng học được khi còn ở Thì Hoa quán: dùng tinh mỡ chiết xuất từ mỡ heo trộn lẫn với hạnh nhân rửa sạch bôi trơn (cặp mông) một lượt. Trong cái rãnh mê người giữa hai mảng tuyết trắng nhởn nhơ ngọt ngào như đào mật, một đoá cúc non rực rỡ mềm mại hé nhuỵ nở bừng ngát hương.

Dương Lăng như được chí bảo vội ôm lấy bờ mông mịn màng như đào non ấy, chỉ thấy một cảm giác láng mịn như mỡ, co dãn nhịp nhàng, lại nghe tiếng rên rỉ dịu dàng như thổn thức của Tuyết Lý Mai, cái đêm ấy hai người điên cuồng đến kiệt lực. Trong lòng Dương Lăng cũng biết cô nàng ấy muốn lấy lòng như vậy là vì đang lo lắng điều gì.

Phụ nữ ấy, thật ra đôi khi chỉ có lòng thôi chưa đủ, nói linh tinh mấy lời ngọt ngào cũng rất cần thiết. Dương Lăng đương nhiên biết đạo lý này thế nên sau cơn khoái lạc tràn trề thì y vừa ôm tấm thân mượt mà vừa rủ rỉ nói với Tuyết Lý Mai những lời âu yếm đến quá nửa đêm, khiến cho cô nàng ấy nở ruột nở gan hạnh phúc đến phát khóc, lúc đó mới gác đùi đi ngủ, cho nên không khỏi có phần mỏi mệt. Trên đường chiếc kiệu con lại lắc lẽo đong đưa làm cho y rất buồn ngủ.

Gã phiên tử gọi mấy tiếng, không thấy đại nhân trả lời liền vội vén rèm kiệu lên, chỉ thấy Dương Lăng đang dựa nghiêng trên chiếc đệm lót mà ngủ say sưa. Gã vội rón rén thả rèm xuống rồi ra hiệu cho mọi người chú ý trật tự, chớ quấy rầy giấc ngủ của đại nhân.

Không ngờ bên gã chưa có động tĩnh gì, thì bên trong cửa hàng lương thực đã vọng ra những âm thanh huyên náo. Chỉ nghe tiếng một người đàn ông quát to:

- Đi đi, mấy cái tên ăn mày các ngươi, muốn xin ăn thì đã cho các ngươi gạo xay rồi, sao vẫn còn đứng đó lải nhải? Còn nói thêm những lời tà thuyết gạt người, lừa gạt mẹ già của ta, ta sẽ đưa các ngươi đến gặp quan phủ đó.

Theo tiếng nói, một tay chủ tiệm trẻ tuổi mặc áo dài bằng vải bông đang dẫn hai tên người làm đẩy hai người ra khỏi tiệm. Hai người nọ mặc bộ áo dài đen sì rách rưới, trông hết sức bẩn thỉu, cũng không biết đã bao lâu rồi chưa thay, mà khí trời mỗi lúc một lạnh quả thực trông có phần đáng thương.

Hai người ăn mày đó đều có vóc người cao ốm, từ đằng sau nhìn lại thì thấy tóc tai đỏ đỏ vàng vàng không giống như người Trung Nguyên. Chỉ nghe một người ăn mày nói với một âm điệu kỳ quái:

- Ông chủ, chúng tôi không phải ăn mày, chúng tôi là sứ giả của thượng đế, truyền bá giáo lý Phúc Âm. Mẹ ông thờ phụng Chúa Trời thì sẽ được cứu rỗi, được sự yên ả nơi tâm hồn...

Gã còn chưa nói hết, tay chủ tiệm trẻ tuổi nọ đã trừng mắt mắng cho:

- Bà mẹ nó, thượng đế gì chứ? Có lớn hơn Ngọc Hoàng đại đế không? Mấy cái tên quỷ đỏ ngoại quốc các người, mau biến đi cho ta, còn đứng đó cản trở buôn bán của ta nữa thì đừng có trách ta không nể mặt.

Người tóc vàng mặc áo dài đen vừa bị đẩy xuống bậc thềm vừa nói:

- Xin đừng nhục mạ thượng đế. Thượng đế nói với chúng ta rằng, chúng ta đều là anh chị em tương thân tương ái. Ôi những con chiên lạc lối... ui da...

Gã vừa đang muốn bày tỏ cảm xúc thì không biết tay chủ tiệm nọ dùng vật gì đã đánh gã một cái, khiến gã ôm đầu kêu la. Người tóc đỏ kia thấy vậy liền lớn tiếng cãi cọ.

Gã chưởng ban phiên tử thấy hai tốp người cãi nhau càng lúc càng hăng, đang định bước lên giải tán bọn họ, tránh phá giấc ngủ của Dương Lăng thì Dương Lăng đã nghe tiếng động mà tỉnh dậy. Y vén rèm kiệu nhíu mày hỏi:

- Có chuyện gì vậy? Ai đang cãi nhau đó?

Y còn chưa dứt lời, đúng lúc đó người tóc đỏ dìu người tóc vàng quay lại. Dương Lăng trông thấy bộ dạng hai người thì không khỏi sững ra. Từ lúc đến Đại Minh đến nay, mấy người có tướng mạo quái dị như vậy cũng chỉ ở Hộ Quốc tự là y mới gặp. Không phải bọn họ là đám giáo sĩ Cơ Đốc Tây dương đó sao?

Dương Lăng liền vội nhổm người xuống kiệu, cười lớn chào:

- Hai vị giáo sĩ, đã lâu không gặp.

Đến gần nhìn kỹ bộ dạng của hai vị giáo sĩ Tây dương, chỉ thấy bộ áo dài tu sĩ màu đen đã rách bươm, cả hai người mặt mày xanh xao hốc hác, xem ra đã trải qua cuộc sống vô cùng khổ cực, Dương Lăng không khỏi giật mình thất kinh:

- Hai vị, các người sao... không phải các vị vẫn luôn ở trong Hộ Quốc tự à? Hoàng... à không... vị lão gia lương thiện nọ đã quyên ba ngàn lạng bạc tiền hương quả góp cho chùa. Sao... lại đuổi các vị ra vậy?

Chú thích:

(1) Nguyên văn

Chu Công khủng cụ lưu ngôn nhật,

Vương Mãng khiêm cung vị soán thì.

Trích trong bài Phóng Ngôn 3 của Bạch Cư Dị.

Hai câu này có ý như

“Thức khuya mới biết đêm dài,

Ở lâu mới biết là người nông sâu”.

Câu đầu nhắc đến tích Chu Công ủng hộ ấu chúa lên ngôi vua, sau bị dèm là có ý phản nghịch, bị vua nghi ngờ nên sợ hãi phải về quê ở ẩn; mãi sau mới được minh oan.

Vương Mãng là cậu vua, lúc làm tướng quốc giả bộ là người rất khiêm cung, giữ lễ, tôn kính sỹ phu, … Khi được lòng người tin phục thì bèn cướp ngôi nhà Hán.

 (Ba_Van)

(2) Dân dĩ thực vi thiên (民以食為天), hay Dân dĩ thực vi tiên, có nguồn gốc xuất xứ từ "Sử ký - Lệ Thực Kỳ Lục Giả Liệt Truyện 史記•酈食其陸賈列傳", trong đó có câu nói rằng: "Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên -王者以民為天,而民以食為天" (tạm dịch: Bậc vua chúa lấy dân làm điều tiên quyết để tồn tại, mà dân thì lấy sự ăn làm điều quan trọng hàng đầu". Thiên: ở đây có nghĩa là cái tối quan trọng để tồn tại.

Chương 159 Chưa Động Binh Mã

Đa phần người Trung Quốc đều thấy người nước ngoài ai cũng như ai, nếu thả họ vào một đám người nước ngoài thì quả thực họ bó tay không thể phân biệt được. Hai vị giáo sĩ này đến Trung Quốc cũng rơi vào tình trạng như vậy, họ thật sự không nhớ được Dương Lăng là ai, huống hồ Dương Lăng ngày hôm nay từ khí phách đến cử chỉ lời nói cho dù không cố làm ra vẻ thì vẫn toát ra một sự oai nghiêm.

Có điều Dương Lăng vừa nhắc đến vị đại thiện nhân quyên góp ba ngàn lạng bạc tiền hương quả nọ, người tóc vàng thoáng cái đã nhớ lại, thế là không khỏi mừng rỡ reo lên:

- A! Chúng tôi nhớ ra cậu rồi, cậu là cái vị đại công tử lớn tuổi hơn đó. Tôi là Nhã Tư Các (Nicholas), công tử có nhớ tôi không?

Người tóc đỏ cũng như gặp lại người thân, cười híp mắt:

- Tôi là Hoả Giả Á Tam (1), tôi nhớ được công tử, công tử là... Dương công tử.

Đứng trên bậc thềm nhìn thấy vị công tử khí phách bất phàm dẫn theo tám gia nhân đó quen biết với hai tên ăn mày, vẻ kiêu ngạo của ông chủ tiệm lúa gạo lập tức giảm đi rất nhiều.

Dương Lăng tuy nhớ được tướng mạo bọn họ, song không nhớ được tên bọn họ, lúc này nghe bọn họ tự báo tính danh thì vội mỉm cười nói:

- A, giáo sĩ Nhã Tư Các, giáo sĩ Hỏa Giả Á Tam, xin chào hai vị. Ta có chút chuyện muốn hỏi ông chủ nơi này, lát nữa sẽ lại trò chuyện cùng các vị.

Nói đoạn Dương Lăng chắp tay chào bọn họ rồi bước lên bậc thềm cười hỏi:

- Chủ tiệm, nơi đây có bán khoai rợ không?

Khoai lang mùi vị nhạt nhẽo lại không thể thay làm lương thực dài hạn, chỉ có dân chúng ở những khu vực bần cùng mới dùng nó làm thức ăn. Ông chủ tiệm thấy có mối đến nhà, tuy vị công tử với phong thái và trang phục như vậy lại đến nhà mua khoai rợ có phần hơi lạ song ông ta vẫn tươi cười gật đầu đáp:

- Dạ có, mời công tử ngài vào, chỗ chúng tôi có bán khoai rợ ạ.

Tay chủ tiệm lật đật chạy vào trong tiệm lấy ra một bao khoai rợ mở ra cho Dương Lăng xem. Dương Lăng nhìn thấy thì không khỏi thất vọng vô cùng, thứ thực vật thân củ màu vàng lợt đó thoạt trông cũng là loại củ sinh trưởng dưới đất song lại không phải là khoai lang.

Y lắc đầu thở dài nói:

- Không phải là thứ này, hình dạng thì hơi giống thứ này, nhưng vị rất ngọt, có củ thì màu đỏ, có củ thì màu trắng. Ừm... ta nghe có người gọi nó là khoai lang, còn có thể gọi là khoai đỏ, khoai ngọt, ngoài ra còn có loại cây trồng hạt màu vàng óng, đại khái... nhỏ hơn móng tay một chút, từng hạt từng hạt.

Nhã Tư Các và Hoả Giả Á Tam đang đứng một bên, nghe y nói vậy thì không khỏi kinh ngạc nhìn nhau. Hoả Giả Á Tâm nhịn không được bèn chen miệng vào nói:

- Dương công tử, hai thứ mà công tử nói hình như rất giống với thứ mà tôi đã thấy.

Dương Lăng bỗng nhớ ra ngô và khoai lang vốn là sinh sản ở châu Mỹ, hình như là thông qua con đường Châu Âu mà được đưa vào Trung Quốc, không khỏi mừng rỡ vô cùng, liền vội xoay người hỏi:

- Giáo sĩ đã từng thấy thứ này rồi à? Ông đã thấy nó ở đâu?

Hoả Giả Á Tâm nhún vai đáp:

- Ồ, từng thấy nó từ lâu lắm rồi. Theo như công tử mô tả thì hẳn chính là vật ấy. Ừm... là mười hai năm trước, thuyền trưởng Ca Luân Bố (Columbus) xa khơi trở về, mang nó về từ một nơi rất xa xăm. Cách đây sáu năm, khi chúng tôi bắt đầu đi đến phương Đông thì trong nước đã trồng với số lượng lớn rồi. Chúng tôi cũng mang theo rất nhiều hạt giống.

Dương Lăng vừa kéo tay y vừa khẩn thiết nói:

- Quá tốt rồi, trong tay giáo sĩ còn hạt giống nào không? Nó có tác dụng rất quan trọng với ta.

Hoả Giả Á Tam xoè tay nhún vai nói:

- Khi đến phương Đông chúng tôi mang theo rất nhiều thức ăn, nhưng từ lúc chạy trốn khỏi Thiên Trúc thì đã mất gần hết, còn sót lại cũng đã ăn hết sạch lúc chuyển thuyền từ Lữ Tống (*) đi Đại Minh rồi.

(*) đảo LuZon, là một đảo lớn thuộc phía bắc quần đảo Philippin, thủ đô Manila là một trong tám khu hành chính thuộc đảo này.

Dương Lăng nghe thấy vậy thì nản chí vô cùng. Nhưng mà... mình đích xác đã từng ăn nó, hơn nữa còn là ở phương Bắc. Chẳng lẽ có người khác mang thứ đó đến đây sao? Nãy giờ nghe bọn họ nói chuyện, ông chủ tiệm gạo nhịn không được bèn chen miệng vào:

- Công tử, thứ mà công tử nói có thể ở chỗ tiểu nhân có đấy. Công tử có muốn xem một chút không? Quả như công tử muốn mua...

Dương Lăng vội nói:

- Mau lấy ra cho ta xem, nếu quả thật là thứ mà ta muốn thì một cân một lạng bạc, không... một cân mười lạng bạc!

Tay chủ tiệm vừa nghe một cân mười lạng bạc thì lập tức phát hoảng, vội vã nói ngay:

- Xin công tử đợi một chút, tiểu nhân lập tức lấy ngay.

Nói đoạn co cẳng chạy thẳng ra sau tiệm. Dương Lăng còn sốt sắng hơn cả hắn, hận không thể đuổi theo xem kết quả. Y bước vòng vòng trong cửa tiệm như một con ruồi mất đầu khiến cho hai tên người làm đứng khép nép ở góc tiệm nhìn người công tử hào phóng ấy bằng ánh mắt kính sợ.

Một lát sau, ông chủ tiệm vác một bao gạo không lớn lắm hối hả trở vào, vừa thở hồng hộc vừa nói:

- Bẩm công tử, ngài xem thử có phải là thứ này không.

Dương Lăng chạy nhào tới giành lấy cái bao trên vai gã chủ tiệm, đặt nó lên quầy rồi mở ra, tim đập thình thịch. Nhìn một nửa bao hạt ngô vàng óng ánh mà kiếp trước vốn y chẳng thèm đoái hoài đến mà Dương Lăng vui mừng suýt chút nữa khóc òa lên. Y bốc một vốc ngô lên, run rẩy nâng chúng trên tay mà hưng phấn còn hơn cả phát hiện một túi vàng.

Dương Lăng thì thào:

- Chính là nó, chính là nó.

Ông chủ tiệm vừa nghe là thứ mà Dương Lăng cần, nửa bao hạt ngô ấy là hơn trăm lạng bạc vào tay chứ nào phải đùa, thế là hắn lập tức cười đến không khép miệng lại được.

Lúc này một thằng bé cầm một củ khoai luộc chạy từ buồng trong ra, gọi:

- Cha, cha mang bao ngô đi làm gì vậy, mẹ bảo con đi hỏi cha cái gì mà một cân mười lạng vậy?

Gã chủ tiệm nào còn có thời gian trả lời, gã giật lấy củ khoai trong tay thằng bé chìa ra trước mặt Dương Lăng, ánh mắt tham lam nói:

- Công tử gia, đây có phải là khoai lang mà ngài nói không? Nhà tiểu nhân luộc một nồi lớn, nếu công tử thích ăn, tiểu nhân sẽ bán hết cho ngài.

- Cái gì? Luộc hết rồi? - Dương Lăng nhìn củ khoai đỏ đã bị luộc chín trong tay y mà khóc không ra nước mắt. Y đau xót kêu lên:

- Luộc hết rồi hả? Ngươi... ngươi không giữ lại vài củ sao?

Ông chủ cười nịnh nọt:

- Chưa luộc hết... còn giữ lại mấy củ, có điều đã nướng rồi. Công tử là người có thân phận, tiểu nhân thấy thứ đó bị khói hun lửa sém quả thực là khó coi cho nên không dám nói ra.

- Ngươi... - Dương Lăng hận không thể đạp cho hắn một cước, y gằn giọng:

- Nói mau, ngươi mua cái thứ này ở đâu? Chỉ cần chỉ cho ta tìm ra được người bán, ta sẽ cho ngươi một trăm lạng bạc.

Lúc này bỗng chợt có một tràng cười sang sảng cất lên:

- Ta bình sinh là kẻ mê rượu nhưng không ngờ đến kinh sư lại có kẻ mê khoai, là ai mà lại thích gặm khoai thế nhỉ?

Màn cửa được vén lên, một người râu xồm cười tủm tỉm từ buồng trong bước ra ngoài, nhưng Dương Lăng và hắn vừa trông thấy nhau thì đều không khỏi ngớ người, đồng thanh kêu lên:

- Là huynh?

Người nọ vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, cười nói:

- Hoá ra là Dương công tử, thật đúng là 'hữu duyên thiên lý năng tương ngộ'.

Dương Lăng nhìn thấy người râu xồm đó lại là Chúc Chi Sơn một trong tứ đại tài tử Giang Nam thì cũng không khỏi thất thanh kêu lên:

- Là Chúc công tử? Sao huynh lại ở đây?

Chúc Chi Sơn bước tới gần thì mùi rượu cũng xộc tới, xem ra vị Chúc tài tử này quả nhiên yêu rượu như mạng. Chàng ta cười ha hả nói:

- Dương công tử thật là hào phóng đấy, vì ăn mấy củ khoai mà không tiếc bỏ ra số tiền lớn như vậy. Ha ha ha, chủ tiệm nơi này là em bên ngoại của tại hạ, thứ hạt lúa Tây Thiên và khoai rợ này là trong vườn nhà tại hạ trồng, tại hạ mang một ít đến cho dì và người nhà nếm thử đồ lạ mà thôi. Dương công tử cũng thích ăn sao?

Con tim của Dương Lăng đã bình tĩnh lại, thật không ngờ y tìm được chính chủ của đám khoai và ngô đấy ngay tại đây, vậy thì cũng không cần phải nóng vội nữa mà tóm lại y tuyệt đối sẽ không bỏ qua Chúc Chi Sơn này. Sau khi trò chuyện với nhau vài câu, y vác cái bao hạt ngô mà Chúc Chi Sơn gọi là hạt lúa Tây Thiên như ông thần giữ của rồi nồng nhiệt mời Chúc Chi Sơn và hai nhà truyền giáo Tây Dương đến tửu lầu một chuyến.

Chúc Chi Sơn nghe có rượu để uống thì lập tức vui vẻ theo ngay. Bọn họ đi đến một tửu lầu lớn. Dương Lăng căn dặn thủ hạ trông chừng bao hạt ngô cẩn thận, sau đó cùng Chúc Chi Sơn và hai người Hoả Giả Á Tam lên tửu lầu tìm một gian nhã phòng an vị.

Vừa ngồi vào chỗ, Dương Lăng liền vội vàng hỏi về lai lịch của khoai rợ và hạt ngô đó. Hoá ra Chúc Chi Sơn là con nhà thế gia, cha già từng làm đến chức Bố chánh phó sứ Sơn Tây, về sau cáo lão về quê.

Năm 33 tuổi Chúc Chi Sơn trúng cử nhân nhưng sau đó hơn mười năm không có tiến triển gì thêm. Dẫu rằng nặng lòng theo đuổi công danh song do tuổi tác ngày một trôi đi, y cũng không dám ôm hy vọng nhiều về con đường làm quan của mình, bèn đặt mua nhà cửa điền sản nơi quê nhà là Tô Châu, rồi buôn bán thóc gạo lương thực, trở thành một phú ông.

Một gia đình người Hán từng di cư đến Nam Dương (Đông Nam Á) một trăm năm trước vì đắc tội với quyền quý địa phương mà phải chạy ngược về Đại Minh cách đây hai năm. Bọn họ được Chúc lão gia giữ lại giúp chăm sóc vườn cây ăn quả và vẫn thường trồng trong vườn một ít cây nông nghiệp mang về từ Nam Dương.

Những thứ đó tuy không phải là mỹ vị song hơn ở chỗ là hiếm lạ khó kiếm nên Chúc Chi Sơn thường mang một ít đến các cửa hàng lương thực để bán, do người ở các nơi chưa từng thấy những thứ này cho nên số lượng tiêu thụ không cao chẳng qua những ai chợt thích thưởng thức món tươi ngon sẽ trả giá cao hơn nhiều so với các loại lương thực phổ thông.

Dương Lăng nghe Chúc Chi Sơn nói những thứ cây trồng sản lượng cao này trở thành thực phẩm nuôi sống hiếm lạ mà hoàn toàn không nghĩ đến ý nghĩa trọng đại đối với dân chúng Đại Minh của nó, thì không khỏi trách móc:

- Chúc huynh à, những thứ này mà là trái cây cái khỉ gì, là hoa màu sản lượng cực lớn đó. Nếu phổ biến trồng trọt khắp Đại Minh thì tương lai sẽ cứu sống được biết bao nhiêu dân chúng còn đang bữa nay lo bữa mai. Huynh chỉ nuôi chúng trong một khu vườn cây ăn quả bé xíu thật sự là phí hết của trời.

Chúc Chi Sơn xoa xoa bộ râu xồm, chớp chớp cặp mắt như hai hạt đậu xanh nhìn vẻ đau lòng xót dạ ấy của Dương Lăng mà rất lấy làm khó hiểu.

Kỳ thực, đừng nói Chúc Chi Sơn chỉ là văn nhân nhàn rỗi chẳng bao giờ đi nghĩ đến vấn đề tăng gia sản xuất này nọ mà theo sách sử, qua mấy chục năm sau khi hạt ngô được truyền vào Trung Quốc thì rất nhiều nông dân cũng chỉ trồng hai ba chục gốc phía sân để giữ lại làm đồ ăn lạ miệng cho con cái mà không hề nghĩ đến việc dùng chúng để thay thế cây nông nghiệp hiện hữu chứ đừng nói đến những năm đầu khi mà chính quyền chưa từng chú ý và ghi chép này.

Lúc nhỏ sống ở nhà bà ngoại ở huyện Bình Nguyên tỉnh Sơn Đông, Dương Lăng từng nghe bà y nhắc tới câu ngạn ngữ "một mùa khoai đỏ nửa năm no" (nhất quý hồng thự bán niên lương). Ngô và khoai lang mỗi mẫu cho sản lượng mấy ngàn cân là điều rất bình thường.

Hơn nữa chúng có tính thích nghi rất cao, chịu hạn, sống được trên đất bạc màu, chịu gió mưa, ít bị sâu hại. Đất đồi, đất núi và đất mới khai hoang đều có thể vun trồng, không tranh giành đất đai cùng lúa gạo và lúa mạch, nấu chín hay đem phơi nắng đều có thể giữ được đến mấy năm, cất trữ còn tốt hơn là gạo.

Nghĩ đến ưu điểm này, Dương Lăng không khỏi vui mừng hết cỡ và cũng cảm thấy hơi áy náy với Chúc Chi Sơn: nếu không phải vì giải cấm thông thương, bị Lý Đông Dương đề ra vấn đề về lương thực thì y cũng sẽ xem nhẹ nó huống chi là một Chúc Chi Sơn cơm áo không lo, việc làm không có?

Thấy ngữ khí của mình hơi nặng, Dương Lăng bèn ngượng ngập giải thích:

- Tiểu đệ nhất thời nôn nóng, đã xuất ngôn lỗ mãng, mong Chúc huynh đừng trách.

Chúc Chi Sơn cầm chén nốc cạn hơi như cá voi hút nước, rồi cười đáp:

- Không hề gì, cũng do Dương lão đệ lo nghĩ đến lê dân, chứ thực là lão Chúc ta hổ thẹn mới phải.

Nói đoạn gã nghi hoặc liếc nhìn Dương Lăng một cái rồi hỏi:

- Có điều... thứ cho lão Chúc ta mạo muội. Lão đệ lưu tâm đến quốc kế dân sinh như vậy, chẳng lẽ... là công tử tôn quý của vị đại nhân nào đó trong triều?

Dương Lăng cười khó xử, không biết nói ra thân phận của mình rồi vị tài tử họ Chúc này có giũ áo bỏ đi hay không. Tuy nhiên nay đã muốn dùng người ta thì không thể giấu giếm được nữa. Sau thoáng do dự, y bèn nói:

- Tiểu đệ họ Dương, tên chỉ một chữ Lăng, kẻ hèn làm thân quân thống lĩnh thị vệ của đương kim Hoàng thượng, quản hạt Nội tập sự xưởng.

Chúc Chi Sơn nghe xong kinh hãi thất sắc. Dương công tử mà y ngồi cùng bàn uống rượu, nhún nhường tự xưng tiểu đệ chính là vị Dương đại nhân được đương kim thánh thượng sủng ái nhất đó ư? Y hoảng hốt đứng dậy chắp tay nói:

- Hoá ra là Dương đại nhân ở trước mặt, thất kính thất kính. Học sinh quả thực đã thất lễ rồi.

Dương Lăng cảm thấy bất ngờ bèn đứng dậy nói:

- Xin Chúc huynh hãy ngồi xuống. Tại hạ và huynh vừa gặp như đã quen lâu, hà tất giữ lễ như vậy? Ờ...- Y thoáng liếc nhìn Chúc Chi Sơn, dò hỏi:

- Danh tiếng tiểu đệ trong giới văn nhân thực không tốt lắm, vốn nghĩ rằng Chúc huynh nghe xong thân phận của tại hạ sẽ giũ áo mà đi. Chúc huynh không ngại thanh danh của tại hạ sao?

Chúc Chi Sơn nghe vậy cũng thoáng ngẩn ra, tiếp đó chợt nhớ tới một số lời đồn đãi về Dương Lăng mà mình nghe được, rồi không khỏi ung dung cười nói:

- Đám hủ nho đó nhìn người bằng ánh mắt ‘độc đáo’, học sinh thật không có kiến thức như vậy. Tạm chưa nói thanh danh của đại nhân trong dân gian vô cùng tốt đẹp, chỉ riêng thấy đại nhân chịu khép mình nhũn nhặn với một thị tỳ, chịu hạ mình kết giao với văn nhân như tại hạ đây, lại có thể vì cái ăn của dân chúng mà lo nghĩ như vậy, thì tấm lòng, phẩm hạnh và tính cách ấy sao có thể là xấu được?

Chúc Chi Sơn và Đường Bá Hổ phóng đãng ngang ngạnh, hận đời ghét phận, thuộc dị loại trong giới văn nhân thế nên cũng không được những văn nhân chính thống tiếp nhận. Tự đã trải qua cay đắng, lại từng quen biết với Dương Lăng từ dạo trước, kiến thức được lời nói tác phong của y nên đương nhiên gã không bị lời đồn đãi của giới học sĩ làm cho mê hoặc.

Dương Lăng nghe vậy thì như gặp được tri âm, liền kéo Chúc Chi Sơn ngồi xuống, cầm lấy bầu rượu rót đầy một chén cho gã. Hai người khẽ chạm chén rồi cùng nhấp môi. Đôi bên nhìn nhau mỉm cười cảm thấy rất đỗi thân thiết.

Hai người Hoả Giả Á Tam và Nhã Tư Các tội nghiệp vì tín ngưỡng thượng đế mà bữa đói bữa no nơi đất khách quê người này, nay may mắn lắm mới được một bữa ăn thịnh soạn, nên chỉ cố "cúng lấy cho đầy cái bụng".

Lúc này nghe Dương Lăng nói vậy, Hoả Giả Á Tam mới tá hoả tam tinh mà la lên:

- Ngài chính là Dương đại nhân? Là đại thần tin sủng nhất của hoàng đế Đại Minh? Ôi... thượng đế hiển linh, người đã dẫn dắt con đến gặp được anh ta, mang đến ánh sáng cho con.

Dương Lăng cười ha hả nói:

- Không dám không dám, hai vị giáo sĩ tiên sinh quá khen rồi. Bản quan bộn bề công vụ vẫn chưa có cơ hội dâng lời với Hoàng thượng chuyện đã đáp ứng với hai vị. Có điều hai vị có thể yên tâm, tăng nhân Tây Vực của Hộ Quốc tự lạnh nhạt với các vị vậy phát triển ở nơi đó cũng sẽ khó mà thuận lợi, chi bằng lát nữa hay đến thành tây, trọ tạm trong Nội xưởng trước rồi bản quan sẽ giúp các vị xây dựng nhà cửa vậy.

Một khi giải cấm thông thương thành công, mục đích sẽ không chỉ là làm ăn cùng đám người Đông Dương, Lữ Tống và Lưu Cầu (*), mà mục tiêu xa hơn nữa sẽ là Tây phương. Những quốc gia phương xa sắp sửa trở thành bá chủ biển khơi đó cũng là những quốc gia ngoại bang mà hiện nay Đại Minh đang cự tuyệt lui tới song lại đóng vai trò quan trọng trong lịch sử.

(*) Quần đảo Okinawa thuộc Nhật Bản ngày nay.

Mấy nhà truyền giáo đến từ Phật Lang Cơ (danh xưng người thời Minh gọi chung cho hai nước Tây Ban Nha và Bồ đào Nha) này tinh thông tiếng Trung lẫn tiếng phương Tây, hơn nữa thân phận khá là đặc biệt nên sau này sẽ là nhà môi giới rất tốt. Ở thời đại như vầy, một nhà môi giới đắc lực sẽ có thể phát huy tác dụng rất lớn, đấy gọi là "nhân tận kỳ tài, vật tận kỳ dụng"(1), sao y có thể lãng phí chứ.

Nghe Dương Lăng nói vậy, hai nhà truyền giáo mừng rỡ khôn thôi, liền vội đứng dậy cảm ơn. Đến Trung Quốc lâu như vậy, bọn họ đương nhiên là hiểu cái đạo lý "có qua có lại mới toại lòng nhau" mà người Trung Quốc coi trọng.

Nhã Tư Các liền nhanh nhảu nói:

- Đa tạ Dương đại nhân, nói về bồi dưỡng cây trồng và trồng trọt, tôi... biết một số thứ, biết tại mỗi vùng đồng bằng lẫn đồi núi thì nên trồng thứ gì, nếu như đại nhân muốn mở rộng trồng trọt giống cây này thì tôi tình nguyện cống hiến sức lực cho ngài.

Dương Lăng rất đỗi vui mừng, không ngờ người này còn là một chuyên gia thực vật học. Có cây lương thực và người thạo trồng trọt ở chỗ Chúc Chi Sơn sẵn, lại có thêm vị chuyên gia trồng trọt này chỉ đạo thì mọi thứ sẽ dễ hơn nhiều.

Thời Minh đã có nhà ươm trồng trọt cho mùa đông, chuyên môn trồng rau cải cho hoàng thất. Do ít dùng đất đồng ruộng, cho nên có thể khống chế được sâu bọ gây hại. Dương Lăng hận không thể lập tức mang mấy người này phóng ngựa về thôn trang, bắt tay chuẩn bị ngay.

Dương Lăng cảm ơn Nhã Tư Các, rồi quay sang Chúc Chi Sơn nói:

- Chúc huynh, lần này đến kinh thành, không biết có chuyện quan trọng gì không?

Chúc Chi Sơn tuy phóng túng không câu nệ, tự khoe mình là danh sĩ phong lưu và gần như đã đạt tới cảnh giới xem phú quý tựa mây trôi song nói cho cùng, là đàn ông ai không muốn công thành danh toại, sự nghiệp thăng tiến chứ, đường công danh của gã đã không thể tiến thêm bước nữa nên Chúc Chi Sơn định lấy thân cử nhân tự tiến cử một chức quan để làm.

Lần này y vào kinh tìm một vị trưởng bối bạn của cha làm trong bộ Công, vốn định nhờ ông ta giúp đỡ vận động một chút nhưng nay bố cục thế lực triều đình đại biến, đa phần quan viên đều giữ thân ngoài cuộc, trưng ra bộ mặt lạnh nhạt thờ ơ.

Vị trưởng bối nọ biết Lý đại học sĩ đang gặp phải cảnh ngộ tế nhị mà ông ta lại không muốn đi xin xỏ Lưu Cẩn của nội đình nên việc này vốn đã vô vọng. Giờ người thanh niên mà mình quen biết này lại là Dương Lăng quyền cao chức trọng, lòng y không khỏi lại sống lại.

Khuôn mặt đen đúa của Chúc Chi Sơn thoáng đỏ lên, ngượng ngập:

- Chuyện này... lão Chúc vào kinh, vốn định tìm vị trưởng bối bạn cha tìm công việc để làm. Đã uổng phí nửa đời đọc thi thư thì không thể cứ làm thương nhân cả đời được, nhưng mà...

Dương Lăng sực hiểu ra, liền cười nói:

- Hoá ra là như vậy. Chúc huynh liệt danh trong tứ đại tài tử Giang Nam, trong lòng tự có khê sơn (2). Còn như không rành về bát cổ thì sao giấu được tài học trong lòng?

Y thoáng trầm ngâm rồi chậm rãi nói:

- Tiến cử Chúc huynh giữ chức đứng đầu một huyện, việc ấy huynh đệ có thể làm được; về sau có được thành tích rõ rệt thì việc huynh một bước lên trời đương nhiên sẽ không thành vấn đề. Không biết Chúc huynh có nguyện chịu thiệt?

"Chịu thiệt?" Chúc Chi Sơn đã sớm vui đến ngất ngây. Đừng nói y là cử nhân mà cho dù là tiến sĩ thi Đình thì có thể khởi bước làm một huyện lệnh cũng đã là cơ hội vô cùng hiếm có rồi. Những người khác đa phần hoặc nhậm một chức vụ làm cảnh, hoặc sẽ dưỡng lão trong Hàn Lâm viện, nào có cơ hội này?

Chúc Chi Sơn vội cảm ơn rối rít. Tiếp đó Dương Lăng lại cùng y thương nghi về việc vận chuyển một số lượng ngô và khoai lang từ quê nhà vào kinh, Chúc Chi Sơn hiển nhiên vui vẻ đáp ứng.

Dương Lăng biết trước mắt Chúc gia chỉ có bao nhiêu đây mầm ngô, có điều khoai lang lại rất dễ nuôi trồng trong hầm nên y chuẩn bị nhân giống số lượng lớn rồi qua xuân sẽ trồng đại trà.

Quyền lực của y tuy lớn nhưng hiện tại vẫn chưa có quyền xen vào chính sự địa phương, việc đẩy mạnh phát triển cây lương thực mới có sẽ bị cản trở hay không thì y cũng chưa có toan tính gì trong lòng, nhưng hiện tại chuẩn bị chu đáo thì vẫn tốt hơn.

Mấy người vui vẻ no say, đưa tiễn Chúc Chi Sơn xong Dương Lăng đưa hai người Nhã Tư Các trở về Hộ Quốc tự, gọi mấy nhà truyền giáo còn lại thu thập hành trang rồi cùng đến Cao Lão trang ở tạm. Thấy tiết trời dần trở lạnh, mấy nhà truyền giáo mới vừa truyền giáo và hoá duyên (khất thực) về đang run lập cập trong đại điện vắng vẻ của ngôi chùa nghe được tin tức này liền hết sức phấn khởi chạy ra.

Đám người này nói đi là đi ngay, ngoài mấy bao lương thực và mấy tấm chăn rách rưới thì chẳng còn gì khác. Dương Lăng thuê một chiếc xe ngựa lớn, đưa bọn họ rời khỏi tây thành đến Cao Lão trang rồi đưa bọn họ đến ở tạm trong nội tập sự xưởng sau núi.

Nội xưởng giờ đây đang phát triển với một khí thế bừng bừng, Hoàng Kỳ Dận và Ngô Kiệt người thì bận lo nội chính, người thì bận "mở mang bờ cõi"; an bài và huấn luyện nhân viên, điều phối vật tư, thu thập, chỉnh lý và phân tích tình báo, xây dựng tổ chức, ghi chép và sử dụng số thu nhập đáng kể đem lại từ việc quay vòng hàng hoá thông qua cửa hàng ngựa xe đủ các công việc rắc rối phức tạp mà lại vô cùng trọng yếu, bất cứ thứ gì phát sinh vấn đề đều có thể ảnh hưởng đến sự vận hành của tổ chức non trẻ đang phát triển này.

Hai vị đáng đầu bận rộn xử lý công vụ cả ngày, trái ngược với vị "tổng quản" Dương Lăng thoạt trông có vẻ quá thanh nhàn. Nhưng là người nắm giữ toàn cuộc, Dương Lăng cho rằng y chỉ cần khống chế phương hướng phát triển của Nội xưởng, xử lý tốt các mối quan hệ giữa người với người, cố gắng tạo ra ít chính sách và thời cơ thuận lợi cho bọn họ, cho bọn họ đủ không gian thi thố tài năng là được. Nếu ôm đồm hết mọi việc, chuyện gì cũng can dự vào thì chưa hẳn đã là một nhà lãnh đạo giỏi cho nên công vụ thường ngày y đều buông tay để bọn họ đi làm.

Dương Nhất Thanh đi cùng Vu Vĩnh đến phương nam, Liễu thiên hộ thì đang theo phương pháp Dương Lăng sử dụng huấn huyện trinh sát cấm quân khi còn ở Thần Cơ doanh để huấn luyện đám nha sai mới được chiêu mộ. Những nông dân trẻ khoẻ này dễ huấn luyện hơn đám cựu binh lão đời kia, độ trung thành cũng cao, hiện đám ba trăm lính mới này đã bắt đầu cho thấy thành quả.

Ý của Dương Lăng là biến đám người tam giáo cửu lưu thành đội quân thu thập tình báo khắp mọi nơi, lấy cửa hàng ngựa xe làm con đường liên lạc nhưng phải thiết lập được tổ chức trung chuyển tình báo ở các nơi.

Y rút kinh nghiệm về tệ chậm chạp trong việc phân tích những tin tức tình báo từ hệ thống ngoại vi Cẩm Y Vệ thu lượm được chuyển về trung tâm, những tệ nạn không phân biệt được việc quan trọng hay không, khẩn cấp hay thong thả của tin tức đã thu lượm được. Các tổ chức trung chuyển tình báo do y thành lập sẽ thiết lập nhân viên phân tích chuyên phân loại các tin tình báo rồi dựa theo mức độ quan trọng và cấp bách mà truyền về tổng bộ khiến cho hiệu suất xử lý thông tin tình báo được tăng cao.

Đồng thời y kiên trì cho những nhân viên thu thập tình báo này sử dụng mật thám chiêu mộ "tạm thời" là những bá tánh bình dân là chính. Các tổ chức trung chuyển tình báo sẽ lập ra một lực lượng phản ứng nhanh nho nhỏ khác - một hệ thống bảo vệ và ứng phó với các loại sự kiện phát sinh đột biến. Những nhân viên mà Liễu Bưu huấn luyện thuộc về loại nhân viên này, cũng là thành viên trọng tâm của Nội xưởng.

Thấy Dương Lăng mang mấy người ngoại quốc quần áo lam lũ vào thì Liễu Bưu dẫn mấy người chạy ra nghênh đón. Dương Lăng vừa cười khoát tay ngăn gã làm lễ vừa nhìn những tân binh đã hơi có khí chất quân nhân đang tập bắn súng.

Đa phần những binh đinh này đều đã từng tập võ, có nền tảng sử dụng vũ khí lạnh nhất định cho nên trong xưởng chủ yếu huấn luyện bọn họ sử dụng cung nỏ và súng trường. Chỉ thấy những sĩ tốt nọ đang nâng súng ngắm bắn, một loạt những tiếng "đoàng đoàng đoàng" vang lên, trong khói súng mịt mù những bia bắn hình người cách mấy chục mét phía trước có mấy cái đã bị bắn cho xiêu vẹo.

Dương Lăng khẽ gật đầu tán thưởng. Liễu Bưu thấy vậy cũng không khỏi nở nụ cười dè dặt. Hoả Lão Á Tam thấy lạ, bèn hỏi:

- Đại nhân, hoả khí mà binh sĩ của ngài sử dụng có phải là hơi kém không? Chẳng những phí thời gian và sức lực lắp đạn mà tầm bắn cũng không xa.

Bọn người Liễu Bưu nghe vậy thì rất không phục, gã khinh thường liếc mấy tên ngoại quốc mắt xanh tóc vàng một cái. Nếu không phải vì tạm thời chưa đoán ra được quan hệ giữa kẻ đó và Xưởng đốc thì bọn hắn đã chửi cho một trận rồi.

Dương Lăng nghe xong lại không khỏi máy động trong lòng. Vấn đề về tốc độ và tầm bắn của súng trường luôn là nút thắt hạn chế khiến nó không thể phát huy được tác dụng lớn nhưng Dương Lăng lại không hiểu về súng ống, y từng đề cập tới một ít nguyên lý về súng ống và đạn dược hiện đại cho thợ chế tạo hỏa khí song với trình độ công nghệ và thuốc súng thời đó thì quả thực không cách nào chế tạo ra được.

Vì bó tay nên Dương Lăng mới dồn sức phát triển loại vũ khí bắn ra một đống hoả tiễn như bầy ong vỡ tổ, vậy mà cận chiến trong thành thị quân đội của y cũng đã đủ để lấy một chọi mười, lấy ít thắng nhiều rồi. Lúc này nghe được lời của Hoả Giả Á Tam, y chợt nghĩ có lẽ vị truyền giáo sĩ này biết chế tạo súng trường tiên tiến hơn?

Dương Lăng bèn xoay người mỉm cười hỏi:

- Không biết giáo sĩ tiên sinh có cao kiến gì?

Từ khi biết được thân phận của Dương Lăng thì Hoả Giả Á Tam liền biết mình có thể được triều đình Đại Minh công nhận hay không, có được phép công nhiên truyền giáo ở Đại Minh hay không hoàn toàn được quyết định bởi con người này nên bước lên một bước lập tức ra sức giải thích cho y.

Nhưng trình độ Trung văn của gã có hạn, nói xã giao bình thường thì không sao nhưng khi dính dáng đến thuật ngữ chuyên nghiệp thì nói không được rõ ràng. Hoả Giả Á Tam hết sức sốt ruột, trông thấy bên cạnh có một nha sai đang đeo một khẩu súng trường liền gọi hắn lại rồi cầm súng để giải thích cho Dương Lăng.

Thời đó súng trường mà quân Minh sử dụng còn được gọi là hoả môn thương (*). Kết cấu của hoả môn thương rất đơn giản, khi bắn thường cần tới hai người, một người lắp thuốc súng, hạt thầu dầu rồi nhồi đạn sắt hoặc đạn chì vào sau đó dùng dây làm bằng kim loại hoặc than củi được nung đỏ châm vào thuốc súng bên trong nòng súng, viên đạn sẽ bắn ra.

(*) http://baike.baidu.com/view/914286.htm.

Phương thức bắn "nhàn nhã" này dĩ nhiên không thích hợp để hỗn chiến trên chiến trường thiên quân vạn mã, sau lại sửa thành thao tác một người, chẳng những tốc độ giữa mỗi lần bắn chậm hơn mà binh sĩ một tay cầm súng một tay cầm đồ nhóm lửa hoàn toàn không thể nào nhắm chuẩn.

Phương pháp của Hoả Giả Á Tam là dùng sợi kíp dẫn cháy chậm làm mồi dẫn thuốc súng, chỉ cần trang bị một cần bóp cò đơn giản là được, cải tạo lại không khó.

Như vậy, sĩ tốt sẽ có thể cầm súng bằng hai tay, độ chuẩn xác sẽ tăng lên rất cao, hơn nữa loại nòng súng đặc chế dài hơn sẽ có thể nhồi được nhiều thuốc súng hơn, lực xoáy sinh ra khi viên đạn được bắn sẽ khiến cho tầm bắn và tốc độ bắn cải thiện lên rất nhiều.

Mấy cựu binh huấn luyện sử dụng súng trường đứng cạnh Liễu Bưu phần lớn còn kiêm thêm trách nhiệm chế tạo súng, vừa nghe Hoả Giả Á Tam ấp úng giải thích về phương pháp mới thì vẻ xem thường lập tức mất sạch.

Dương Lăng vẫn chưa hiểu lắm về những thứ mà Hoả Giả Á Tam trình bày nhưng dò thấy vẻ mặt của mấy thợ chế tạo súng liền biết phương pháp mà ông ta nói nhất định có thể thực hiện.

Nghe ông ta nói xong nguyên lý của loại ngòi dẫn lửa này, Dương Lăng bỗng sực nảy ra ý tưởng, nhịn không được bèn nói với Hoả Giả Á Tam:

- Giáo sĩ, nếu như lại cải tiến ngòi dẫn đó một chút bằng cách lắp thêm một viên đá lửa nhỏ để dùng tia lửa do ma sát sinh ra kích nổ thuốc súng, tốc độ hẳn sẽ còn nhanh hơn nhiều phải không? Hơn nữa trời mưa cũng có thể sử dụng, ông cho rằng có thể làm được không?

Có những việc không phải là không làm được, mà sợ nghĩ không ra, lời Dương Lăng vừa thốt ra, chẳng những Hoả Giả Á Tam trợn tròn cặp mắt màu xanh lam mà thậm chí những người thợ chế tạo trong quân vừa mới hiểu ra nguyên lý ngòi dẫn cũng chấn động toàn thân, lập tức nghĩ đến tính khả thi và giá trị khổng lồ của nó.

Hoả Giả Á Tâm miệng mấp máy như một con cá nửa ngày trời, rồi mới kịnh hãi thốt lên:

- Ôi Chúa ơi, thật khiến người ta đố kị vì thượng đế đã ban cho đại nhân trí tuệ vô song. Tôi nghĩ... tôi nghĩ cải tiến những thứ này không hề khó, phương pháp của đại nhân thật sự có thể thực hiện được, ngài sẽ có được một đội quân súng trường vô địch!

Dương Lăng cũng hưng phấn không thôi, y thoáng siết chặc nắm tay, hồi lâu mới hít sâu một hơi rồi dặn dò Liễu Bưu:

- Hãy thu xếp chỗ ở tốt nhất, tiếp đãi chu đáo mấy vị giáo sĩ này, bọn họ là bằng hữu tốt của ta.

Đoạn y xoay người mỉm cười nói với Hoả Gả Á Tam:

- Giáo sĩ, mời các vị yên tâm ở lại nơi này. Dân tộc du mục phương bắc thường xuyên xâm phạm cương thổ Đại Minh nên ta hết sức hy vọng giáo sĩ có thể giúp binh sĩ ta chế tạo vũ khí tốt hơn, bảo vệ quê hương và ruộng đất của chúng ta. Để báo đáp, ta xin hứa sẽ đem hết sức mình giúp đỡ giáo sĩ và các vị bằng hữu, cho phép các vị truyền giáo ở Đại Minh để Phúc Âm của thượng đế truyền đến lãnh thổ đất nước cường đại và văn minh nhất đông phương. Bản thân ta sẽ nguyện lòng quyên góp giúp các vị dựng nên một giáo đường hoa lệ nhất!

Hoả Giả Á Tam nghe mà suýt khóc, mấy nhà truyền giáo nhìn Dương Lăng mà nước mắt rưng rưng, cảm động đến khôn cùng. Ban đầu ôm đầy lòng nhiệt thành và hào tình, mang theo ý chỉ và sự giao phó của Giáo hoàng vất vả lặn lội đến nơi tha hương dị quốc này, mấy năm nay mỗi lúc càng thêm thê thảm. Lòng cuồng nhiệt về tôn giáo cùng thân phận nghèo kiết khiến bọn họ không dám và cũng không còn sức băng sông vượt biển để trở về cố hương. Nay chỉ cần bỏ ra chút ít tiền vốn, chỉ điểm cải tiến súng trường một chút thì sẽ được nhân vật có thực quyền của Đại Minh dốc sức giúp đỡ, vậy còn có gì mà không chịu?

Bọn họ dường như có thể thấy được một toà giáo đường thần thánh và trang nghiêm sừng sững tại phương đông, dường như có thể thấy được Đức Giáo hoàng đích thân khoác lên người bọn họ chiếc áo của Hồng y giáo chủ.

Dương Lăng đưa những "báu vật" này đến nơi ở tốt nhất, lại uống trà chuyện trò một hồi mong sao có thể "đào ra" thêm mấy chuyên gia hàng hải hoặc chế tạo tàu thuyền trong mấy người này. Tiếc rằng ngoài thánh kinh những người khác đa phần chỉ biết về hoá học và triết học. Trước mắt Dương Lăng chưa có ý định để bọn họ viết sách lập thuyết nên chuyển sang tán gẫu về phong thổ nhân tình của Bồ Đào Nha.

Tuy hiểu biết của Dương Lăng về nơi đó có hạn nhưng lại khiến cho những nhà truyền giáo này có cảm giác "đến quê người gặp cố tri". Hai bên đang chuyện trò bỗng có một phiên tử bước vào trong phòng nói nhỏ với Liễu Bưu mấy câu, Liễu Bưu lại gần Dương Lăng, đợi hai bên dứt lời liền bẩm luôn:

- Đại nhân, lão quản gia trong phủ đến tìm đại nhân, hình như có chuyện gấp.

Dương Lăng thoáng kinh ngạc, bèn đứng dậy nói: "Mau bảo ông ta vào."

Trong chốc lát, Cao quản gia đã chạy ù vào, trông thấy y thì mừng rỡ kêu lên:

- Lão gia, quả nhiên là người đang ở đây, trong phủ có khách đến xin lão gia mau về một chuyến.

Suốt từ đầu lão quản gia cho người gác trước cổng chờ lão gia hồi phủ rồi sau đó lại được gia nhân báo tin nói rằng kiệu của lão gia không vào bằng cửa hông mà tiến thẳng đến hậu sơn, ông ta nghe vậy nóng lòng không nhịn được mà đuổi theo. Quả nhiên đã tìm được Dương Lăng ở đây.

Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:

- Là vị đại nhân nào?

Cao quản gia định mở miệng, lại nhìn mọi người trong phòng, Dương Lăng hiểu ý bèn cáo lỗi mấy vị giáo sĩ rồi đi ra ngoài, Cao quản gia vừa kéo tay áo y vừa căng thẳng nói:

- Lão gia, Hoàng thượng đến, đã đến phủ được một lát rồi.

Dương Lăng nghe xong giật nảy cả người, vội hỏi ngay:

- Hoàng thượng? Hoàng thượng đến lâu chưa? Còn ở trong phủ không?

Vẻ mặt Cao quản gia trở nên hơi kỳ lạ, nói:

- Hoàng thượng đã đến được gần một canh giờ. Nghe nói lão gia không có ở trong phủ thì người... người đi lòng vòng trong phòng khách một hồi, phu nhân ra hầu chuyện một hồi, Hoàng thượng đợi cảm thấy nhàm chán nên đã xông vào hậu viện, lão nô lại không dám ngăn cản người.

Dương Lăng vừa nghe liền sực hiểu. Thời đó rất coi trọng lễ tiết, hậu viện nhà họ Dương là nơi ở của nữ quyến, cho dù là Cao quản gia thì bình thường cũng quyết không bước vào một bước, khách tới chỉ có thể gặp gỡ ở nhà trước. Trừ phi là bạn hữu chí thân chứ nào có đạo lý đi đến nơi ở của nữ quyến tại nhà sau, khó trách sao lão quản gia lại nóng ruột khó xử như vậy.

Với hiểu biết của Dương Lăng về tiểu hoàng đế này, biết tính cách tuỳ tiện của y, lúc ham chơi lên liền trêu đùa bát nháo, quàng vai bá cổ cùng với mấy người Lưu Cẩn, không ra dáng vẻ Hoàng thượng gì, thì mấy cái phong tục lễ nghi này y có sẽ để ý tới không? Hơn nữa Chính Đức của hiện tại chỉ ham chơi mà thôi, thật không giống hôn quân dâm ô bất trị như trong truyền thuyết, thì y còn có thể có hành vi vô lễ với thê thiếp của mình hay sao?

Tuy nhiên hành động này của lão quản gia cũng cho thấy được lòng trung thành của ông ấy với mình, Dương Lăng bèn an ủi lão:

- Biết rồi, Hoàng thượng còn nhỏ, không thích bị câu thúc nên không để ý đến những lễ tiết này lắm, ta lập tức trở về là được.

Dương Lăng quay trở vào trong phòng, nói Liễu Bưu chiếu cố mấy vị giáo sĩ cho thật tốt rồi không kịp đi gặp Ngô Kiệt và Hoàng Kỳ Dận mà đã rời Nội xường về phủ.

Trong ký ức của Dương Lăng, Chính Đức trong truyền thuyết dân gian là một hoàng đế phong lưu anh tuấn lịch lãm, hoà nhã dễ gần. Những truyện hoàng đế cải trang vi hành mà đời Thanh lưu truyền thì phần lớn lấy từ những câu chuyện dã sử về Chính Đức mà ra, còn hoàng đế Chính Đức trong chính sử của người nhà Thanh lại là một ông vua hôn quân vô đạo, háo sắc vô hạnh, thậm chí còn hơi biến thái.

Chu Hậu Chiếu mà hiện nay bản thân y tiếp xúc trông không khác mấy với đại đa số thiếu niên bình thường thời hiện đại, nhưng trong thời đại Nho học nơi trẻ em mười bảy mười tám tuổi đa phần đều thuộc làu tri thức thánh nhân, xuất khẩu thành thơ, xem trọng lễ giáo này thì tác phong và cử chỉ của vị tiểu hoàng đế được con mắt của dân chúng cả nước nhìn vào này quả thật hơi hoang đường.

Thấy lão quản gia đi theo cạnh, vẻ mặt còn nôn nóng hơn y mấy phần, Dương Lăng chợt cảm thấy buồn cười. Nếu đặt vào thời hiện đại thì hành vi của Chính Đức có còn "kinh hãi thế tục" như vậy không? Chu Hậu Chiếu đã từng tận mắt thấy vẻ xinh đẹp diễm lệ của Ngọc Đường Xuân mà vẫn chưa từng xúc động tâm tư, chẳng lẽ còn sợ hắn có ý với thê thiếp của mình à?

Dương Lăng vừa nghĩ đến đây trong lòng chợt đánh thót, sực nhớ hậu viện sau nhà còn có Đại Lâu Nhi. Người con gái này rất nặng lòng công danh lợi lộc, trời sinh lại lẳng lơ, với thủ đoạn phong lưu của nàng ta nếu muốn quyến rũ một thằng nhóc mười sáu mười bảy tuổi há chẳng phải dễ như trở bàn tay?

Từ tình hình hai người giao du và hiểu về nhau trong khoảng thời gian gần đây mà nói thì nàng ta tâm kế bất phàm, thủ đoạn lại ác độc, hiện nay đang là lúc tiểu hoàng đế thích lựa lời mà nghe, tai ưa lời ngọt, nếu để nàng ta gặp Hoàng đế rồi dựa thế bám trèo, có ý cám dỗ thì...

Nếu Bát Hổ làm ác thì mình còn có thể khống chế, nhưng nếu Thành Khởi Vận chiếm được trái tim của hoàng đế thì với thủ đoạn của người con gái này chỉ e sẽ mê hoặc khiến cho tiểu hoàng đế ngay cả cha mình tên gì cũng chẳng nhớ. Nếu như nàng ta trở thành người đầu gối tay ấp của Chính Đức mà lại có lòng làm ác thì chẳng phải sẽ sinh ra một nữ ma đầu ư?

Dương Lăng nghĩ đến điều này thì trở nên vô cùng lo lắng, không thể an nhàn ngồi kiệu xuống núi nữa mà vội gọi một chưởng ban phiên tử lại:

- Mau, dắt một thớt chiến mã lại cho ta, ta phải lập tức hạ sơn.

Chú thích:

1. Tomé Pires (1465?-1524/1540) là sứ thần Châu Âu đầu tiên ở Trung Quốc.

2. Cụm từ “nhân tẫn kỳ tài, vật tẫn kỳ dụng“ rất thường gặp trong Trung Văn. Trong thuyết “Tam Dân” của Tôn Trung Sơn có câu: "Nhân năng tận kỳ tài, địa năng tận kỳ lợi, vật năng tận kỳ dụng, hoá năng sướng kỳ lưu" nghĩa là có thể phát huy hết tài năng của mọi người, khai thác hết lợi ích của đất đai, sử dụng hết công năng của vạn vật, và để cho mọi hàng hoá đều được lưu thông.

3. Nguyên văn "hung trung tự hữu khâu hác", trích từ câu "hung hữu khâu hác". Khâu hác là khê sơn, hốc núi, nghĩa bóng chỉ trong lòng nắm được ý cảnh thâm sâu, hoặc chỉ cách xử trí và phán đoán thích hợp với từng tình huống.

Chương 160 Chưa hết nghi ngờ

------------------------

Dương Lăng chạy gấp về phủ, vất ngựa cho gia nhân, vừa hỏi biết được Hoàng thượng vẫn còn trong nội viện liền vội vã chạy vào.

Đến phòng khách gọi mấy tiếng nhưng lại không thấy ai trả lời, Dương Lăng cuống lên, một nỗi sợ hãi vô cớ ùa vào lòng. Y chạy đến tìm kiếm khu tiểu viện nơi Ấu Nương ở rồi lại đến chỗ ở của Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai và Thành Khởi Vận bên đối diện song vẫn không có lấy một bóng người, Dương Lăng đứng đó mà không khỏi ngơ ngác bần thần.

Đang không biết phải làm thế nào, y chợt nghe một tràng những tiếng cười truyền đến từ vườn hoa sau nhà, liền vội vã chạy qua xem. Dãy nhà này là nơi ở của đám nha hoàn thị nữ, chính giữa căn lầu nhỏ hai tầng có một cánh cửa có thể thông ra sân vườn phía sau.

Dương Lăng chạy đến hậu viện thì chỉ thấy trên mảng đất trống nơi Ấu Nương thường ngày luyện võ, mười mấy nữ tỳ đang đứng cạnh bên vỗ tay reo hò, trên mảnh đất trống bằng thẳng, Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai và Ấu Nương đều vận tuyền một màu xanh, nét mặt rạng ngời đang đá cầu (*).

(*) cầu là quả bóng làm bằng da ngày xưa, gọi là túc cúc, cũng gọi là tháp cúc. Xem hình http://imagewa.com/PhotoPreview/136/136_2990.jpg

Ba tiểu cô nương xinh đẹp mỹ lệ đứng về một phía, theo động tác chân của bọn họ quả bóng da được chuyền tới chuyền lui song thủy chung không hề rơi xuống đất. Quả cầu tròn trịa tựa châu, ba vị kiều thê dáng vẻ dịu dàng, dung nhan mỹ miều như ngọc tạo cho người ta một cảm giác xinh đẹp khác lạ.

Phía bên kia, một thanh niên áo xanh vóc người cao ráo cột vạt áo trước và sau lại giắt bên hông, lộ ra ống quần sa tanh trắng tinh bên trong, trông hết sức thong dong. Ba người Hàn Ấu Nương chuyền cầu qua lại đến hoa cả mắt, rồi thừa dịp đối phương không phòng bị liền đá quả cầu sang. Nam tử áo xanh nọ tiến lui đều có trình tự, nhịp nhàng, không vội không hoảng, vô luận quả cầu da bay sang với góc độ hiểm hóc và nhanh như thế nào thì y vẫn có thể kịp thời bắt lấy; ngón chân, mu bàn chân, hai má bàn chân và gót chân khéo léo tâng quả cầu lên đủ kiểu.

Hoàng đế Đại Minh - Chu Hậu Chiếu - là thành viên của trong đội này. Kỹ thuật đá cầu của vị huynh đài này có hạn, đá được một lát rồi lại mất cầu, thế là tự giác gia nhập vào nhóm "cổ động viên", đứng một bên hò hét khản cổ quả thực còn căng thẳng hơn cả vị thư sinh áo xanh đang đá cầu nọ.

Dương Lăng thấy vậy thì thở phào nhẹ nhõm. Vị thư sinh áo xanh đó đương nhiên là Thành Khởi Vận, không ngờ cô nàng lại là một hảo thủ môn đá cầu. Vào thời Minh môn đá cầu rất được thịnh hành, thậm chí trong quân cũng thường tổ chức thi đấu, Dương Lăng cũng hay gặp. Từ lúc dọn đến trang viện này thì ban ngày khi có thời gian rảnh rỗi, Ấu Nương và mấy người Ngọc Đường Xuân thường chơi đá cầu với nhau.

Trò này vừa có thể khoẻ chân, lại vừa rèn luyện thân thể, bản thân Dương Lăng tuy không thích chơi song thỉnh thoảng vẫn thường đến bên cạnh xem ba vị ái thê và nha hoàn vui chơi.

Kỹ thuật đá cầu chia làm hai loại là "đối đả" và "bạch đả". Đối đả khá giống bóng đá hiện đại còn bạch đả thì lại hoàn toàn là phô diễn kỹ thuật đá cầu cá nhân. Xem tình hình trận đấu thì Thành Khởi Vận lấy một chọi ba, sau khi tiếp cầu thì song phương sẽ bạch đả trước, thi triển xong kỹ thuật tâng cầu thì sẽ "bắn phá" đối phương.

Dương Lăng để ý đến chín người đang đứng ở bãi sân đối diện, tám gã tráng niên khí phách nội liễm hiển nhiên là cao thủ thị vệ của đại nội còn người đang bó ống tay áo mỉm cười đứng bên sân da mặt trắng trẻo, mày nhợt mắt híp, lưng hơi khom do thói quen tạo thành chính là Lưu Cẩn.

Lúc này lão cũng đã thấy Dương Lăng liền vội giơ tay ra dấu chào hỏi. Dương Lăng thấy Chính Đức hết sức chăm chú dõi theo quả cầu da, dường như vẫn còn hứng thú thì mỉm cười đáp lại Lưu Cẩn rồi chuyển ánh mắt nhìn về phía Thành Khởi Vận.

Thành Khởi Vận cầu kỹ cao siêu nhưng vì lấy một chọi ba nên lúc này má ngọc đỏ bừng, trán đã lấm tấm mồ hôi. Hiển nhiên nàng ta cũng đã trông thấy Dương Lăng. Vừa thấy Dương Lăng nhìn mình thì nàng bỗng nhướng mày, chân phải đột nhiên vung lên, mũi chân chạm trán; do đang mặc quần áo nam nhân nên nàng không sợ động tác đó sẽ có gì bất nhã.

Chỉ thấy quả cầu da bị đá tung lên đến mấy trượng, thong dong, lãng đãng. Mọi người ngước đầu dõi mắt nhìn lên không. Quả cầu thoáng dừng lại trên không trung trong nháy mắt rồi từ từ rơi xuống, rơi đúng trên mũi giày vẫn đang giơ cao của Thành Khởi Vận. Đầu gối chân trụ của nàng hơi trùng xuống, mượn thế giữ cho quả cầu được ổn định. Quả cầu xoay trên mũi giày, thuỷ chung vẫn không hề rơi xuống. Mọi người không khỏi ồ lên tán thưởng.

Khoé môi Thành Khởi Vận khẽ nhếch lên, trong lúc đó, quả cầu tựa như dính chặt trên mũi giày, theo động tác hạ chân tạo thành tư thế chuẩn bị đá. Ba người Hàn Ấu Nương không biết nàng bày ra tư thế đó là muốn đá đến chỗ nào nên căng thẳng khom người chăm chú nhìn quả cầu đó. Không ngờ Thành Khởi Vận lại tung chân đá một cái thật nhẹ, quả cầu bay chậm rãi đến bên cạnh ba người Hàn Ấu Nương, đến lúc ba người muốn chạy tới tiếp cầu thì đã muộn.

Chính Đức mừng rỡ vô cùng, Tuyết Lý Mai giơ tay áo lên chấm chấn khuôn mặt đỏ bừng của mình, hờn trách:

- Thành... công tử chơi xấu, ai lại dùng kế như vậy.

Thành Khởi Vận mỉm cười nháy mắt với nàng một cái, lúc này Tuyết Lý Mai mới trông thấy Dương Lăng đang đứng bên cạnh, khuôn mặt đỏ bừng xinh xắn lập tức trở nên thẹn thùng, bèn vội nhún người làm lễ, rồi rụt rè gọi một tiếng:

- Lão gia.

Lúc này Chính Đức mới trông thấy Dương Lăng. Dương Lăng bước tới định dùng đại lễ để yết kiến, song mới vừa mở miệng gọi:

- Hoàng thượng, thần...

Thì Chính Đức đã bước tới đỡ lấy cánh tay y cười ha hả:

- Dương thị độc bình thân, trẫm cải trang rời cung, không cần phải dùng đại lễ quân thần.

Đoạn hắn vui vẻ cười tiếp:

- Dương khanh, các vị phu nhân của khanh lấy ba chọi một vẫn không phải là đối thủ của biểu huynh khanh. Không ngờ thư sinh Giang Nam nho nhã yếu đuối như thế lại có được kỹ thuật đá cầu cao siêu như vậy.

"Biểu huynh?" Dương Lăng thoáng ngẩn ra, liếc nhanh về phía Thành Khởi Vận một cái rồi mới cất tiếng cười to, sau đó quay đầu lại nhìn Chính Đức.

Hắn mặc áo dài màu tím nhạt, ống rộng vạt to, lưng đeo thắt lưng hổ phách ngũ sắc, thân trên còn khoác thêm một chiếc so chẽn gấm màu xanh ngọc, mái tóc đen nhánh búi vào trong chiếc mũ bán nguyệt màu ngọc bích, chỉ cài một chiếc trâm bạc để giữ, khuôn mặt Chính Đức như thoa ngọc, anh tuấn bất phàm.

Hắn đã lại cao thêm một chút, trên mép đã lưa thưa lớp ria măng, giữa hai hàng lông mày toát ra khí chất thành thục và uy nghiêm, thấy thế thì Dương Lăng chợt có cảm giác vui mừng và kích động, cảm giác ấy giống như chứng kiến người thân của mình lớn lên và trưởng thành mà vui mừng và cao hứng thay cho họ. Không biết bắt đầu từ bao giờ bản thân Dương Lăng lại có cảm giác như vậy với Chính Đức, thế là nhất thời trong lòng hơi thấy hoảng hồn.

Nhưng khi y thấy Chính Đức cũng nhìn y với ánh mắt thân thiết và bịn rịn như vậy, trong lòng lại rất mừng và cảm động. Hai người đã cách biệt mấy tháng, lần gặp vội vã trên kim điện lại là trước mặt bá quan, khi đó hai người phải đóng kịch mãi đến bây giờ mới có thể trò chuyện thân mật thật sự. Thời khắc này hai người đột nhiên đều cảm thấy con tim mình đã xích lại gần nhau hơn rất nhiều, đã không chỉ là sự tín nhiệm giữa vua và tôi, mà là một loại tình cảm thân thiết bình đẳng.

Sự giao lưu tình cảm trong cái nháy mắt ngắn ngủi giữa hai người phát sinh hết sức tự nhiên. Trước cái thời khắc ấy bản thân hai người đều không biết đáy lòng mình sẽ nảy sinh ra tình cảm như vậy. Lưu Cẩn hầu hạ Chính Đức từ nhỏ, mọi hờn vui giận ghét, mọi hành động cử chỉ gì của hắn đều rõ như lòng bàn tay, cho nên tâm tình Chính Đức hơi có biến hoá lão liền cảm giác được ngay. Loại cảm giác thân thiết bịn rịn như với người nhân này, ngoại trừ Hoằng Trị, Chính Đức chưa từng có với người khác, thậm chí cả mẫu hậu của hắn. Trong lòng Lưu Cẩn bất giác có chút kính sợ.

Bản lĩnh quan sát sắc mặt của Thành Khởi Vận giỏi vô cùng, đảo mắt một cái cũng nhìn thấy vẻ mặt của hai người. Chính Đức đã khôi phục lại vẻ tự nhiên, mỉm cười nói:

- Gần đây có quá nhiều chuyện, trẫm tuy không thích quản lý sự vụ nhưng lão Lý bận rộn đến đầu tắt mặt tối, trẫm cũng không đành đi chơi đây đó đây. Nay Tiêu Phương nhập các, trẫm mới dám dày mặt mà trốn ra ngoài đó. Ha ha... hắt xì!

Lưu Cẩn liền vội nhanh nhảu chộp lấy chiếc áo khoác gấm da sóc dày mà mềm mại trên tay thị vệ khoác lên cho Chính Đức, miệng ríu rít:

- Hoàng thượng, xin hãy mau trở về phòng uống trà ấm. Trời lạnh lên rồi, không thể để nhiễm phong hàn đâu.

Đoàn người kéo nhau trở về sân trong. Hàn Ấu Nương dẫn "đội quân tóc dài" lánh đi. Thành Khởi Vận cũng định lui theo, Chính Đức trông thấy liền nói:

- Thành khanh cứ ở lại, trẫm đến hỏi thăm Dương thị độc, chỉ ra ngoài cung du ngoạn cho nên khanh không cần phải tránh đi.

Thành Khởi Vận lén liếc Dương Lăng một cái, thấy vẻ mặt y không có gì là khó chịu, nàng mới khẽ đáp một tiếng rồi cùng theo vào nội thư phòng. Dương Lăng vừa châm trà cho Chính Đức vừa cười hỏi:

- Hoàng thượng, người còn nhớ Hộ Quốc tự, nơi mà thần và người gặp nhau lần đầu không?

Chính Đức cười nói:

- Sao không nhớ chứ, ha ha! Trẫm còn nhớ là lúc đó khanh dùng cái câu gì mà 'ngoái đầu nhìn năm trăm lần' để gạt Ấu Nương tỷ... Khục khục, ờm để gạt phu nhân, còn gạt trẫm nói ta và khanh nếu kiếp trước không phải là tình nhân thì là trẫm nợ khanh tiền. Ha ha... miệng mồm láu lỉnh, đáng đánh!

Nói đến đây, hắn chợt nhớ tới phụ hoàng, nụ cười trên khuôn mặt thoát thu lại, môi mím chặt. Dương Lăng biết hắn đang nhớ tới người cha hiền, trong lòng cũng không kìm được mà thở dài một tiếng.

Y lại châm trà cho Lưu Cẩn và Thành Khởi Vận, sau đó được Chính Đức ra hiệu, y bèn nhẹ nhàng ngồi xuống đối diện và nói:

- Lúc đó, thần vẫn chưa biết thân phận của Hoàng thượng. Nhớ khi đó mấy tăng lữ Tây dương bị tăng lữ Tây Vực ức hiếp, tiên đế nhân từ lại quyên góp ba ngàn lạng tiền hương hoả cho chùa, để bọn họ chiếu cố tốt mấy hoà thượng ngoại quốc vì hâm mộ mà đến Đại Minh ta.

Chính Đức nói:

- Đúng rồi, những tăng lữ ngoại quốc đó có mấy đồ chơi kỳ lạ, có điều chơi xong một lần thì không còn thấy hiếm lạ nữa, suýt nữa thì trẫm đã quên rồi.

Dương Lăng mỉm cười nói:

- Những tăng lữ ngoại quốc ấy nghe nói Đại Minh ta là nơi cường đại và giàu có nhất thiên hạ, vì vậy đã chạy từ vạn dặm xa xôi đến truyền giáo. Có điều hình như vị thần của bọn họ thua còn thua xa so với Ngọc hoàng đại đế, Thái thượng Lão quân và Phật tổ Như Lai nên tín đồ rất ít. Hôm nay thần gặp lại bọn họ trên đường, đáng thương cho những hoà thượng Tây dương đó đã biến thành ăn mày cả rồi. Hãy khoan nói Đại Minh ta oai danh vang rộng, bọn họ nhờ được thượng quốc Trung Hoa ta giáo hoá mà đến mà đường đường nước lớn trọng lễ nghi như Đại Minh ta không thể để bọn họ lâm vào cảnh ấy, chỉ dựa vào sự nhân hậu và yêu mến của tiên đế đối với bọn họ thì thần cũng không dám bỏ mặc mà không quản, thế nên lúc nãy đã thu nhận bọn họ vào trong điền trang, để bọn họ ở tạm.

Y thoáng ngó sắc mặt của Chính Đức, thấy Chính Đức nghe y nói mà nhớ đến sự nhân ái của tiên đế và liên tục gật đầu biểu thị sự đồng ý về việc y tăng phần lễ kính với những hoà thượng Tây dương đó, thì liền chuyển giọng, nói:

- Nhưng mà... cứ nuôi như vậy cũng không phải là cách tốt. Vả lại, bách tính có thêm thần linh để gởi gắm tâm linh cũng không phải là chuyện xấu gì. Nay Đại Minh ta đã có Phật giáo, Đạo giáo, Hồi giáo và các tôn giáo lớn nhỏ được các dân tộc phụng thờ, trong đó lại chia ra đủ loại trường phái, có thêm một Thiên Chúa giáo cũng không phải là việc tệ hại gì, dẫu gì bọn họ cũng khuyên bảo người ta hướng thiện mà. Thiên triều thượng quốc như biển rộng vô biên, dung nạp được cả trăm con sông. Thần nghĩ rằng... sao không cho phép bọn họ xây dựng miếu đường giảng kinh, chỉ là mấy phiên tăng dị quốc mà thôi nên cũng không có gì đáng ngại.

Quả thật tác dụng của tôn giáo tại Trung Quốc rất bị hạn chế, bản thân Chính Đức cũng từng xem lướt qua Phật giáo, Lạt-Ma giáo, Hồi giáo. Y thoải mái hỏi mấy câu về Thiên Chúa giáo, thấy thượng đế Thiên Chúa giáo dường như na ná với Hồi giáo, thì không khỏi cười thầm trong bụng: chẳng lẽ giáo phái Tây phương cũng chia ra làm Đại thừa và Tiểu thừa giống như Phật giáo hay sao?

Chính Đức khua tay nói:

- Không sao, bọn họ đi đường xa xôi đến Đại Minh thì dẫu gì cũng là khách. Tiên hoàng đã rất chiếu cố đến bọn họ nên trẫm cũng không thể hẹp hòi, cứ cho phép bọn họ đi. Lưu Cẩn, quay về thông tri cho bộ Lễ một tiếng, lập sắc tại án (*).

(*) lưu chép vào trong hồ sơ.

Lưu Cẩn kín đáo ngồi mé sau Chính Đức, nghe vậy liền lập tức đứng dậy nhận mệnh. Dương Lăng thấy thế mừng lắm, giải quyết được chuyện này rồi thì không sợ mấy người Tây dương đó không dốc lòng bán mạng cho mình nữa.

Chính Đức cười bảo:

- Vừa nãy nghe biểu huynh của khanh kể chuyện khanh đánh hải tặc ở Giang Nam, quả thật rất kích thích. - Đoạn y thở dài, giọng say mê:

- Thật đáng tiếc, nếu như trẫm cũng có mặt ở đó, đích thân chém chết mấy tên hải tặc rồi ngự thuyền cỡi sóng ngao du một phen giữa trời cao biển rộng, vậy sẽ thoả thích biết dường nào.

Dương Lăng liếc sang Thành Khởi Vận, mặt tỉnh như không nói:

- Hoàng thượng nói chí phải, vạn dặm lãnh hải ấy cũng là cương thổ do Hồng Vũ hoàng đế Đại Minh ta gầy dựng nên, há có thể mặc cho một đám hải tặc ngang ngược hoành hành? Đợi ngày khác trừ Oa dẹp khấu, Hoàng thượng cũng có thể tìm cơ hội tuần du hải vực của Đại Minh một chút, nếu là như vậy thì Hoàng thượng sẽ là vị vua đầu tiên từ trước đến nay có thể tuần du hải vực cương thổ đó!

Có lẽ, điều khiến một vị hoàng đế nắm cả thiên hạ động tâm nhất chính là uy danh vua hiền của mình có thể lưu danh thiên cổ. Chính Đức vừa nghe lời này, hùng chí dâng trào, cặp mày liền nhướng cao, nói:

- Được đó, Đại Minh ta lãnh thổ bao la, vạn dặm lãnh hải há có thể mặc cho giặc cướp ngang tàng? Chẳng lẽ phải đợi đến khi biển êm sông lặng ư? Trẫm đang muốn diễn võ trong cung đây, đến lúc ấy trẫm sẽ làm đại nguyên soái, tự mình dẫn binh bình định giặc biển.

- Việc này... - Dương Lăng giả vờ do dự, Chính Đức trông thấy vậy lòng hiếu thắng liền trỗi lên, không phục bèn nói:

- Sao hả, Dương khanh không tin vào văn trị (*) và võ công của trẫm ư?

(*) thành tựu về văn hoá và giáo dục.

Dương Lăng cười lớn đáp:

- Hoàng thượng mê võ hiếu học, dẫn quân tác chiến đương nhiên có thể xứng là tướng tài, nhưng chiến đấu trên biển không như trên đất liền, thần không phải là không tin vào năng lực của bệ hạ...

Lưu Cẩn đã biết về kế hoạch giải cấm thông thương cho nên nhất thời bứt rứt hối y:

- Dương đại nhân, có gì xin hãy nói thẳng, không nên che giấu quân thượng à.

Thành Khởi Vận nãy giờ bàng quan, chợt thừa cơ nói vào:

- Hoàng thượng thứ tội, thảo dân từng nghe biểu đệ có nói, từ khi Đại Minh ta cấm biển đến nay đã trăm năm, các tướng sĩ đã không còn quen thuộc với hải cương của Đại Minh chúng ta nữa, chiến hạm vô địch từng khiến cho bốn bể thần phục năm đó hiện đã không còn mấy người biết chế tạo ra nữa. Thuyền bè bây giờ chỉ có thể tuần tra gần bờ, ngay cả sóng gió cũng chịu không nổi, cho nên đám hải tặc đó hung tàn ngang ngược không phải vì tướng sĩ Đại Minh ta không chịu phục tùng mệnh lệnh mà thực tế là vì chỉ có thể bị động phòng thủ chịu đòn mà thôi.

Chính Đức nghe vậy cả kinh. Y bỗng đứng dậy đi lại trong phòng một lát rồi mới chậm rãi mở miệng:

- Thuỷ quân Đại Minh ta đã đến nông nỗi này rồi sao?

Trong phòng nhất thời im phăng phắc, Lưu Cẩn thấy sắc mặt y âm u liền vội nháy mắt với Dương Lăng rồi nói:

- Những đồ vật tân kỳ của dị vực nước ngoài mà Dương đại nhân mang về từ Giang Nam rất được Hoàng thượng yêu thích, thường xuyên lấy chơi không rời tay. Nếu như cấm biển tuyệt thương, theo lý mà nói thì ngoại trừ cống vật dị quốc, dân gian hẳn không nên có vật phẩm như vậy, nếu thế thì những vật đó được lưu nhập vào như thế nào đây?

Dương Lăng thầm tán thưởng sự cơ trí của lão, liền tiếp lời luôn:

- Bờ biển dài đằng đẵng, triều đình cấm biển sẽ chỉ ngăn trở bách tính Đại Minh ra khơi song lại không thể ngăn trở những con thuyền buôn lớn từ nước ngoài vào Đại Minh ta càng lúc càng nhiều, chỉ tiếc cho lãnh hải của Đại Minh ta lại trở thành sân sau của người khác, mặc cho bọn họ ra vào, dân gian vì bị cái lợi mê hoặc mà có kẻ liều mạng lén lút giao dịch với bọn họ. À đúng rồi, thần còn tìm được một vật tốt ở Giang Nam, thần đã mang theo bên người về nhưng vẫn chưa trình lên cho Hoàng thượng, nay thần mang tới cho người.

Nói đoạn y đứng dậy nhưng rốt cuộc vẫn không yên tâm để Thành Khởi Vận lại ở đây, sau thoáng do dự, y bèn liếc nhìn nàng đầy thâm ý.

Thành Khởi Vận lấy làm lạ nhìn y, mắt chợt loé lên, cặp mày đen thoáng rút lại, chợt có cảm giác như sực tỉnh và bị thương, cặp mắt sáng ngời cháy bừng lên ngọn lửa giận. Nàng khẽ đứng dậy, khom người nói với Chính Đức:

- Thảo dân xin cùng... biểu đệ đi lấy vật nọ.

Dương Lăng ngó vẻ mặt của nàng thì tuy trong lòng có phần hổ thẹn nhưng sự nghi ngờ đã có từ lâu, chôn chặt dưới đáy lòng rồi cũng có ngày sẽ phát tác cho nên bầu không khí giữa hai người trở nên ngột ngạt, kẻ trước người sau lặng lẽ bước vào trong kho. Dương Lăng mở cửa tìm kiếm một lát, lôi ra một cây trường kiếm hơi cong chứa trong bao da cá mập màu xanh sẫm, cầm lấy rồi bước ra ngoài.

Cánh cửa sắt nặng trịch đóng rầm một tiếng, vòng xích khoá vào cách một tiếng. Thành Khởi Vận lặng lẽ nhìn theo y, đột nhiên hít sâu một hơi, rèm mi chớp nhanh vài cái, một làn sương mỏng bao quanh con ngươi, nàng cất giọng nghèn nghẹn hỏi:

- Đại nhân, tín nhiệm một người... khó đến vậy ư?

Dương Lăng hạ mắt, dằn lòng nói:

- Thân nơi miếu đường hiểm trở, không thể không lo nghĩ cẩn thận, sự thật là...

Dương Lăng thoáng do dự, rồi nói tiếp:

- Sự thật là cô quá tha thiết với công danh lợi lộc khiến bản quan không thể không lo ngại, dùng sắc dụ vua không phải là một ý kiến tồi.

Đoạn y ngước mắt, trong ánh mắt y toát ra sát khí và sự lạnh lùng xa lạ, không chút e dè nói thẳng:

- Nếu như hôm nay cô thật sự có ý quyến rũ Hoàng thượng thì ta cam đoan dù Hoàng thượng đã bị cô mê hoặc hoàn toàn ta vẫn có thể ngang nhiên đưa cô vào chỗ chết!

Vừa nói ngón tay y vừa bấm lên tay chắn, "cách" một tiếng, kiếm khí lạnh lẽo tràn ngập giữa hai người. Thành Khởi Vận bỗng nhiên ngẩng đầu, lọt vào mắt nàng là một mũi kiếm lạnh toát.

Dương Lăng thở hắt ra một hơi, lạnh nhạt nói:

- Có điều... biểu hiện của cô rất tốt, là bản quan đa nghi rồi. Cô đã giúp đỡ bản quan rất nhiều, hy vọng sự hợp tác giữa chúng ta sẽ có thể tiếp tục, cô không có hành động thiếu khôn ngoan nào. Rất tốt.

Thành Khởi Vận bật cười tự giễu:

- Thiếu khôn ngoan? Đương nhiên là thiếu khôn ngoan rồi, ti chức có thân phận gì chứ, làm sao có thể thích một thứ vô lương tâm? Xuất thân của ti chức như vậy, chịu bỏ ra một mảnh chân tình, coi như là báo ứng vậy.

Dương Lăng nghe không hiểu nàng ta đang nói gì, không khỏi ngạc nhiên liếc mắt nhìn nàng một cái.

Thành Khởi Vận cụp mắt, cất giọng xa xăm:

- ... cung đình nguy hiểm, nào bằng nơi giang hồ, hồng nhan chớp mắt phôi pha, tóc mây ngoảnh lại nay đà như sương (*)... người thông minh như ti chức đây, đương nhiên sẽ không bao giờ hành động thiếu khôn ngoan rồi. Lý do này... không biết đủ khiến đại nhân... yên tâm chưa?

(*) trích tên hồi 35 của Thiên Long Bát Bộ.

Hai hàng lệ châu trong vắt xuôi theo gò má ngọc của nàng lăn nhanh xuống. Khuôn mặt vừa mới khỏi bệnh có chút hốc hác trắng nhợt, trông càng thêm đáng thương. Dương Lăng dằn chặt chuôi gươm, lưỡi gươm tra vào bao kêu "keng" một tiếng. Y cười nhạt mấy tiếng, nói:

- Rất tốt, rất tốt...

Tường trắng ngõ đen, sắc hương cổ kính, Dương Lăng dường như lại thấy người ngọc dáng mềm như nước tay trái cầm chiếc ô dầu, tay phải nâng váy tươi cười bước đi nhẹ nhàng như én sà mặt nước, đạp lên những khóm cỏ xanh bóng mượt.

Y mang thanh trường kiếm bước mấy bước, rồi chợt dừng chân, không hề quay đầu lại, nói:

- Chuyện cũ của cô có rất nhiều chỗ xảo quyệt, ta cũng không muốn truy cứu, thực sự cũng là vì tư tâm, do cô nương hỗ trợ ta rất nhiều... Sự đa nghi của ta, vẫn mong cô nương hiểu và bỏ qua cho. Chuyện ở Giang Nam, việc lớn ngàn đời tịnh không phải vì tiền đồ của riêng ta... Có lẽ nói ra cô sẽ không hiểu nhưng chỉ cần giải quyết được việc lớn này, chỉ cần ta còn ở nhân gian, cô thích quyền lực cũng được, tiền bạc cũng được, Dương mỗ nhất định sẽ giúp cô đạt được ước nguyện. Áo xuân lệ sắc, ngõ hẽm hành lang, người kia như nước, đạp sóng mà đi. Hình ảnh ấy Dương mỗ luôn tạc ở trong tim, thật sự không mong cô có bất cứ liên hệ gì với những âm mưu bẩn thỉu kia... thôi...

Đoạn y thở ra một hơi dằng dặc, rồi lặng lẽ bỏ đi.

Thành Khởi Vận chợt xoay người lại, nhìn theo bóng lưng y trong nước mắt mà ai oán: "Kẻ vô lương tâm kia, ngươi cự tuyệt tấm lòng của ta thì thôi, chẳng biết kiếp trước ta mắc nợ ngươi thế nào mà sao còn phải tiếp tục chịu sự đày đoạ của ngươi như vậy..."

Chương 161 Chính Đức múa đao

------------------------

Cùng lúc đó, Lưu Cẩn đang múa mép khua môi xúi giục Hoàng thượng trong phòng. Mặc dù không được mạch lạc nhưng lão cũng lờ mờ biểu đạt được đại ý rằng ngày nay đế vương mở mang bờ cõi phải nhìn ra biển rộng, từ đó thêm oai với thiên hạ mới là vương đạo. Lão khiến cho tiểu hoàng đế Chính Đức thích công to việc lớn nghe đến rạo rực trong người, hận không thể lập tức chế tạo hàng loạt chiến hạm, dẹp yên vùng biển, kiến tạo nên công trạng lừng lẫy.

Nhưng hắn cũng biết chỉ có thể nghĩ vậy mà thôi, những việc này không phải nghĩ được là có thể làm được. Nếu như văn võ cả triều nguây nguẩy không chịu, mà hoàng đế như hắn lại không thể xắn tay xắn áo đích thân xuất mã đi tạo thuyền luyện binh thì việc này xem ra còn phải chờ lâu.

Về đến thư phòng, Dương Lăng sợ Chính Đức hỏi tới Thành Khởi Vận nên vội nâng hai tay dâng trường kiếm lên, cười nói:

- Thần biết Hoàng thượng đam mê võ nghệ, yêu thích binh pháp, vừa may tìm được một cây bảo đao chém sắt như chém bùn, vì vậy có ý muốn hiến dâng để Hoàng thượng thưởng lãm.

Quả nhiên Chính Đức nghe nói là thần binh lợi khí liến rất mừng. Hắn liền vội cầm lấy rồi rút "xoẹt" cây đao ra khỏi vỏ, cả phòng lập tức sáng choang, thanh trường đao ấy có thân thon dài, lưỡi mỏng như giấy, trên mũi đao sáng bóng như tuyết ẩn hiện long văn (hoa văn hình rồng), nhìn hàn quang lấp loé xem ra sắc bén vô cùng.

Dương Lăng mỉm cười thưa:

- Đây là...

- Oa đao, đây là bảo đao cực phẩm!

Chính Đức hưng phấn ngắt lời y. Hắn giơ cây đao lên ngang mày, nheo mắt quan sát lưỡi đao, sau đó lại cầm hai tay nâng lên cân nhắc trọng lượng đao, rồi cười ha hả:

- Đao này so với Oa đao cất trong cung xem ra còn tốt hơn mấy phần. Thuật rèn đao của Nhật Bản đã tiến bộ hơn trước rồi.

Dương Lăng kinh ngạc hỏi:

- Hoàng thượng nhận ra cây đao này sao?

Chính Đức cười đắc ý:

- Trong cung có sáu thanh bảo đao do Túc Lợi Nghĩa Mãn (Ashikaga Yoshimitsu) tiến cống, trẫm thường lấy ra chơi, có điều đó đều là đao của cả trăm năm trước rồi.

Năm Vĩnh Lạc, sứ giả các nước Lưu Cầu, Nhật Bản, và Xiêm La đến Đại Minh triều cống, Túc Lợi Nghĩa Mãn từng tiến cống sáu thanh bảo đao. Hai năm sau vua Vĩnh Lạc phái Trịnh Hoà thống lĩnh 10 vạn thuỷ quân đến Nhật Bản, tuyên chỉ với Túc Lợi Nghĩa Mãn: "Giao cho (Nhật Bản) tự mình tiễu trừ giặc khấu, dùng pháp luật của bản quốc mà trừng trị."

Đồng thời vua Vĩnh Lạc ban thưởng cho Túc Lợi Nghĩa Mãn ấn vàng "Nhật Bản Quốc Vương", phong ông ta làm quốc vương Nhật Bản. Túc Lợi Nghĩa Mãn liền viết thư phúc đáp, tự xưng là "quốc vương Nhật Bản, thần nguyên là Nghĩa Mãn", đồng thời bắt giao giặc Oa cho Đại Minh để biểu đạt thành tâm.

Vốn Dương Lăng đã biết nhà Minh từng có chuyện Trung - Nhật hợp tác lùng diệt hải tặc nên mới cố tâm chuẩn bị thanh bảo đao này, tự thân dâng lên cho Chính Đức, định mượn dịp để góp lời, không ngờ Chính Đức lại biết rõ chuyện này như lòng bàn tay.

Dương Lăng rất lấy làm kinh ngạc, do vậy y cần phải sắp xếp lại những ý kiến ban đầu lại một chút. Trong lúc y đang nghĩ ngợi, Chính Đức lấy ngón tay vuốt nhẹ mũi kiếm, vui vẻ ngâm:

- Côn di đạo viễn bất phục thông, thế truyền thiết ngọc thuỳ năng cùng? (Côn Ngô xa tắp lại chẳng thông với Trung thổ, chỉ lưu lại truyền thuyết về thanh bảo kiếm Côn Ngô bổ ngọc như chém bùn.)

Bảo đao cận xuất Nhật Bản quốc, việt cổ đắc chi thương hải đông. (Nay có bảo đao Nhật Bản sản xuất, thương nhân Giang Chiết có được nó tại vùng biển phía đông.)

Ngư bì trang thiếp hương mộc sao. Hoàng bạch gian tạp thâu dữ đồng; (Bao đao làm bằng gỗ hương, trên bao dán hoa văn da cá, thân đao dùng hợp kim đồng kẽm đồng thau đúc thành.)

Bách kim truyền nhập hảo sự thủ, bội phục khả dĩ nhượng yêu hung. (Người thích dùng bỏ ra trăm vàng mua nó, đeo bên người có thể diệt yêu trừ hung.)

Dương thị độc, đó là bài thơ Âu Dương Tu thời Tống tán dương Oa đao, khi ấy danh tiếng Oa đao đã truyền xa. Oa đao nguyên là Đường đao, dùng phương pháp bọc thép để chế tạo. Cũng chính là Tấn Thiết* đao mà người ta thường gọi. Quả thực sắc bén vô cùng, đao này đích thực là một thanh bảo đao, tên nó là gì vậy?" (*thép ròng)

Rồi không đợi Dương Lăng đáp lời, hắn đã xoay thanh đao lại. Nhìn thấy chuôi đao khắc hai chữ Hán: "Đoạn Lãng", hắn không khỏi bật cười:

- Đao đúng là đao tốt, có điều hơi cuồng vọng, chém vàng bổ ngọc thì còn nghe được, chẳng lẽ chưa nghe 'rút đao chém nước nước càng chảy mạnh' à? Đoạn Lãng? Hừm hừm, Đoạn Lãng! (*chém gió, à nhầm ,chém sóng)

Dương Lăng không ngờ Chính Đức lại rất hứng thú với vũ khí, mà lại hiểu tận tường như vậy, bèn bội phục nói:

- Dạ, lãng nhân(*) Nhật Bản phần lớn dùng thứ vũ khí sắc bén tiện lợi cho việc bổ chém này. Lúc ở Giang Nam thần thấy vũ khí quân đại Minh ta không bằng người, trên chiến trận hầu như không bằng, cho nên..., nếu như quân đội Đại Minh ai nấy đều mang thanh bảo đao sắc bén như vậy, người Oa nhất định sẽ không dám càn rỡ như thế nữa.

(*) hiệp sĩ lang thang, không thuộc một vương gia vọng tộc, tướng quân nào; thường là kẻ du đãng hơn là hiệp sĩ.

Chính Đức nghe vậy thì cười to:

- Tuy Dương thị độc thạo pháp dẫn binh, song dẫu sao vẫn là xuất thân tú tài, ha ha ha... Quân đội Đại Minh ta ai nấy đều đeo loại đao bọc thép này ư? Không thể nào, không thể nào.

Dương Lăng thấy y cười như vậy thì không khỏi sốt ruột hỏi:

- Sao lại không thể? Thanh Long Tuyền kiếm đó của Hoàng thượng sắc bén không kém gì đao này, chẳng nhẽ Đại Minh ta không rèn được đao đấy ư?

Chính Đức cười hề hề bảo:

- Không phải là không có thợ rèn đao, thực tế là rèn đao bọc thép rất tốn sức và phí thời gian, thép tinh chất cần để dùng đa phần lấy từ Cáp Mật* vệ, sản lượng không đủ mà dùng. Nhật Bản đấy hả... song phương có thể huy động mấy ngàn nhân mã đánh nhau đã là chuyện lớn kinh thiên động địa rồi. Còn quân đội Đại Minh ta nào chỉ trăm vạn, ai nấy đều đeo bảo đao này à? Cho dù trẫm có ngồi trên núi bạc cũng không cách nào làm được." (*thành phố Ha Mi thuộc Tân Cương ngày nay)

Dương Lăng không ngờ vị tiểu hoàng đế ngày thường ghét học, chỉ thích nghiên cứu âm nhạc, kinh Phật và những thứ không liên quan đến chính trị nhưng khi bàn về binh khí lại sành sõi như vậy, muốn giấu cũng không giấu được hắn, thế là thất vọng hỏi:

- Nói như vậy, chúng ta chỉ có thể chấp nhận thua kém về mặt binh khí sao?

Vừa hỏi xong y liền máy động trong lòng, lại nhớ tới hoả khí. Nếu có thể chế tạo được súng trường tầm bắn xa, tốc độ nhanh, hẳn sẽ có thể đối phó với đao bén của người Oa, nếu lại phát triển thêm ít đại pháo có lực sát thương cực lớn...

Chính Đức cười đáp:

- Binh khí không như con người, chưa hẳn đã không có biện pháp khắc chế nó.

Có cơ hội khoe tài học vấn, vẻ mặt hắn trông vô cùng đắc ý:

- Đao bọc thép sắc bén, cứng chắc, nhưng một khi va chạm mạnh sẽ bị hư tổn, sẽ trở thành sắt vụn không thể phục hồi, dùng thiết côn hoặc phác đao sống dày đều có thể khắc chế.

Hắn hơi dạng chân, vung bảo đao chém "vút vút" vài cái rồi nói tiếp:

- Đao Nhật Bản xem trọng tốc độ, sử dụng lực cánh tay và hông. Chúng dám đối cứng với chúng ta thì đao của chúng coi như là xong.

Hiện tại trong quân còn hơn nửa số sĩ tốt dùng trường mâu phải không? Những cây giáo cán gỗ đó chạm phải loại Oa đao sắc bén như vậy đương nhiên sẽ bị chém đứt ngay. Tuy nhiên... nếu lấy cán thương ngâm trong dầu cây tung đun sôi, vừa chống cháy lại vừa rắn chắc. Lúc đó, cho dù chỉ dùng trường mâu, loại Oa đao này cũng sẽ không có ưu thế.

Dương Lăng nghe mà há hốc mồm, y vốn định khoe khoang chỗ cao siêu của nước khác một chút để khích thích Chính Đức, vạn lần không ngờ Chính Đức lại có thể nghĩ ra được biện pháp như vậy.

Dương Lăng hoàn toàn khâm phục:

- Hoàng thượng anh minh, thần thấy vũ khí địch nhân cường đại thì nghĩ chỉ có chế tạo được vũ khí cường đại hơn mới có thể khắc chế, mà không hề nghĩ đến biện pháp đơn giản dễ làm lại phù hợp với thực tế như vậy, thật sự hổ thẹn.

Chính Đức thấy đã khiến y nhụt chí, bèn mới đắc ý cười nói:

- Dương thị độc không cần lấy làm hổ thẹn, thực ra trẫm nào nghĩ ra được biện pháp ấy? Lúc khanh dẹp Oa ở Hải Ninh có nhánh vệ quân bỏ chạy, tin báo về kinh, tất cả đám ngôn quan ngự sử đều dâng sớ yêu cầu nghiêm trị tướng lĩnh dẫn binh, chỉ có một người dâng sớ nói rằng vũ khí vệ sở không bằng đối phương nên đã đề ra những biện pháp này. Trẫm xem thấy thú vị nên mới nhớ một ít. Tấu chương đã phát cho bộ binh chiếu theo mà làm rồi.

Hắn nghĩ ngợi một lát rồi hỏi:

- Người đó là ai ấy nhỉ? Vương... Vương cái gì Nhân đó, là một viên quan nhỏ... Lưu Cẩn, ngươi có nhớ không?

Lưu Cẩn giật nảy mình. Cái tay chủ sự bộ binh tên là Vương Thủ Nhân đó là một tên quan bé xíu như hạt vừng thế mà lại dám dâng sớ cầu xin cho đám người Đới Tiễn, mắng thẳng lão là gian thần lộng quyền, giờ đã bị lão cho đánh ba mươi đình trượng, ném vào trong đại lao. Chỉ bởi kẻ ấy là con trai của thượng thư bộ Lễ là Vương Hoa cho nên nhất thời lão chưa biết phải xử trí thế nào. Sao hoàng thượng lại nhớ đến hắn vậy.

Lưu Cẩn ấp úng đáp:

- Ơ... nô tài cũng không nhớ rõ lắm, hình như là có viên quan như vậy.

Dương Lăng nghe tên cảm thấy quen tai, đang định chen miệng vào hỏi lại thấy Thành Khởi Vận khoan thai bước vào, y liền ngậm miệng lại. Thành Khởi Vận hai mắt nhìn thẳng, không thèm để ý đến Dương Lăng chỉ điềm nhiên mỉm cười nói với Chính Đức:

- Thảo dân tuy không thông thạo võ nghệ nhưng cũng thấy được thanh đao này của Hoàng thượng sát khí đằng đằng, là bảo đao thì phải.

Chính Đức cười đáp:

- Đúng vậy, Dương thị độc biết rõ lòng trẫm, những thứ giúp trẫm tìm về đều rất hợp khẩu vị của trẫm. Trung thổ tuy lớn, nhưng xem ra bên ngoài bầu trời này vẫn còn một số vật tốt.

Thành Khởi Vận vui vẻ tiếp lời:

- Hoàng thượng nói rất phải, Đại Minh tuy lớn nhưng cũng không thể bao trùm bốn bể. Không nói những cái khác, cho dù là vương hầu công khanh, tiểu thương tiểu lái đều cần rất nhiều rau dưa và gia vị như hành, tỏi, ngò, cần, dưa leo,... Chẳng phải những loại trái cây như nho, dưa hấu, và lựu đều từ nước ngoài truyền vào nước ta từ thời Hán - Đường đấy ư?

Thời ấy ngựa xe đường bộ, thuyền buồm đường thuỷ đều không đi được xa, nhưng nay thì không như vậy. Đã có phiên quốc từ vạn dặm xa xôi đến thăm viếng. Thường có câu sơn ngoại hữu sơn, thiên ngoại hữu thiên, sao biết bên ngoài dị quốc không có dị quốc chứ?

Thiên triều thượng quốc có dung nạp thì mới lớn mạnh. Nếu quen thuộc sở trường kẻ khác, hội tụ đồ vật bốn bể, trong triều có những thần tử trung tâm báo quốc, văn thao vũ lược như Lưu công công và Dương đại nhân, Hoàng thượng lại biết tin dùng người tài, thưởng phạt công minh, vua tôi một lòng như vậy, thì sao phải lo không thể mở đầu trang thịnh thế cho Đại Minh, lưu danh thiên cổ?

Lưu Cẩn nghe Thành Khởi Vận đặt lão lên trước Dương Lăng, tung hô lão là trung can tài giỏi trước mặt Hoàng thượng thì không khỏi nở mặt nở mày. Chính Đức nghe xong cũng liên tục gật đầu, bộ dáng như có điều suy ngẫm.

Nếu nói ra mấy đạo lý to tát thì chưa chắc hắn đã nghe lọt tai, nhưng Thành Khởi Vận lại bắt đầu từ những thứ thông dụng như hành tỏi mà gia đình nào cũng cần ra để nói, đơn giản và tinh tế, càng khiến người ta dễ tiếp thu.

Dương Lăng thấy nàng ta biểu đạt lời mà mình muốn trình bày một cách khéo léo như vậy thì không khỏi nhìn nàng tỏ ý khen ngợi, trong lòng cảm thấy hối hận: “Có phải mình đã quá khắc khe với nàng ta rồi không? Bạt kiếm uy hiếp cô ta, là bởi việc cô ta xuống tay đâm chết Mạc Thanh Hà đã lưu lại cho mình ấn tượng quá đậm, hay vì bởi mưu trí thường ngày của cô ta không thua kém bậc mày râu khiến mình mang dạ đề phòng?”

Thành Khởi Vận nói xong liền liếc nhanh về phía y, vừa chạm vào ánh mắt y nàng liền thu ánh mắt lại. Chợt phát hiện ánh mắt của y hơi không bình thường, thế là nàng lại lướt nhìn một cái thật sâu rồi mới cười nhạt một tiếng, khuôn mặt như phủ một làn sương nhẹ, nhìn không ra nàng ấy đang vui hay giận hờn.

*****

Chính Đức ngồi trong nội thư phòng nghe Dương Lăng kể chuyện y làm ở Giang Nam, Thành Khởi Vận cơ trí khôn lanh, đứng bên cạnh ra sức phụ hoạ, kể một cách hết sức sống động. Chính Đức nghe nói về phong thổ nhân tình dân gian thì cảm thấy rất là mới lạ và thú vị, nghe nói tới hành động phạm pháp của đám nịnh thần thì giận đến đỏ bừng mặt rồng, mãi đến lúc trời đã nhá nhem, Lưu Cẩn nhắc nhở, hắn mới sực nhớ đã đến lúc phải trở về cung rồi.

Hàn Ấu Nương dẫn hai vị phu nhân cáo mệnh là Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đưa tiễn thánh giá khỏi hậu viên. Dương Lăng và Thành Khởi Vận đi theo Chính Đức đến tiền sảnh, đứng dưới hành lang, Lưu Cẩn chạy xuống chỉ huy người dắt hai thớt bạch mã ở bên sân buộc vào càng xe.

Thành Khởi Vận tâm tư nhanh nhạy, qua cảm nhận thần sắc của Chính Đức nàng biết rằng hoàng thượng chưa có dịp tâm sự riêng với Dương Lăng, bèn ôm thanh bảo đao "Đoạn Lãng" mỉm cười đi theo Lưu Cẩn, để hai người có thời gian ở riêng với nhau.

Chính Đức đứng dưới hành lang mỉm cười nói với Dương Lăng:

- Được rồi, khanh cũng đừng giả vờ nằm ở nhà nữa. Cho khanh thêm mười ngày nữa để nghỉ ngơi, sau đó phải ngoan ngoãn hồi triều đó.

Dương Lăng đáp:

- Hoàng thượng, cho dù thần có hồi triều cũng sẽ làm việc ở đây thôi, nha môn Nội xưởng được thiết lập ở hậu sơn mà.

Chính Đức sực nhớ ra, bèn nói:

- Ừ nhỉ,... ừm...

Hắn quan sát Dương Lăng một lượt, lại hỏi:

- Có muốn kiêm thêm chức vụ gì không? Khanh không thể vào triều nghị chánh (thảo luận chính sự), trẫm muốn tìm khanh để thương nghị việc gì cũng rất phiền toái.

Dương Lăng đáp:

- Người của xưởng vệ không thể kiêm chức trong triều, nay Nội xưởng mới vừa chuẩn bị được thành lập, thần lại không thể bỏ dỡ nửa chừng. Nếu thần vào triều can dự chính sự thì Hoàng thượng sẽ lại bị ngôn quan hặc tội đó. Hay là Hoàng thượng muốn tìm thần cứ sai người triệu thần một tiếng, thần sẽ lập tức vào cung kiến giá là được.

Chính Đức đồng ý:

- Cũng được, đầu xuân trẫm sẽ dọn đến báo phòng ở, lúc đó sẽ bớt được nhiều quy củ, đỡ phải bị mấy lão già đó gắt giận vô cớ, khanh muốn đến cũng tiện hơn nhiều. Trẫm đang bảo bọn Lưu Cẩn và Mã Vĩnh Thành dọn dẹp gấp rút đây.

Từ đằng xa nghe nhắc đến tên mình, Lưu Cẩn liền vội chạy ào qua hỏi:

- Hoàng thượng, người cho gọi nô tài ạ?

Chính Đức cười mắng:

- Cút ngươi đi, trẫm gọi ngươi để làm gì?

Lưu Cẩn cười nịnh hùa theo rồi lại chạy ù đi. Chính Đức thở dài nói tiếp:

- Trẫm ở trong cung chán lắm rồi. Mỗi lần đi thỉnh an Thái hậu thì suốt ngày người cứ càm ràm bảo trẫm phải quan tâm chiếu cố đến huynh đệ Thọ Ninh hầu, đến gặp Thái hoàng thái hậu thì ngài lại cả ngày trách móc trẫm chơi bời lêu lổng.

Ôi, trẫm mà đi dạo lòng vòng trong cung ấy hả, cái đám thần tử ngoại đình đó rất thính, lập tức chúng dâng sớ lên ngay, cung Khôn Ninh cũng không được yên ổn - nói đến đây hắn cười khổ sở một tiếng rồi tiếp: - Thấy gia đình khanh hoà thuận vui vẻ, trẫm hâm mộ khôn thôi. Ấu Nương tỷ tỷ rất có phong phạm vợ cả, nào như trong cung...

Hoàng hậu cả ngày chỉ chú ý đến lễ nghi hoàng hậu, cô nương mười bốn tuổi mà tính tình khô khan chán ngắt, trẫm lười chả muốn gặp nàng ta. Ngược lại Ngô phi còn biết thức thời hiểu chuyện, nhưng mà vì Hoàng hậu giận trẫm, nên nhiều lần hoạnh hoẹ khó dễ, khiến trẫm càng ghét nàng ta hơn.

Dương Lăng ngẩn ra, những chuyện như sau đại hôn hoàng thượng không còn thiết tha đến chuyện nội cung, rất ít khi sủng ái hậu phi y cũng từng nghe nói. Thì ra hoàng thượng vẫn thích Ngô phi hơn, nhưng y lại ngại hoàng hậu do chuyện gì vậy?

Nhớ lại những quy củ cung đình mình từng được đọc lúc còn làm phó sứ tổ chức đại hôn cho Hoàng thượng, Dương Lăng mới sực hiểu. Lý do là tuy trong cung Hoàng thượng có quyền tuyển chọn phi tử hầu hạ mình, nhưng còn có một thủ tục đó là phải được Hoàng hậu phê thuận bằng cách đóng dấu kim ấn thì Kính Sự phòng mới có thể đưa phi tử vào tẩm cung gặp Hoàng thượng được.

Nghe ngữ điệu này của Chính Đức, y hiểu một thiếu niên mười sáu và một thiếu nữ mười bốn, tuy nói là Hoàng đế và Hoàng hậu nhưng chẳng qua cũng chỉ là đôi nam nữ trẻ tuổi thôi. Đôi vợ chồng son giận nhau, nhất định Hoàng hậu tìm mọi cách gây khó dễ với việc thị tẩm của Hoàng thượng, hòng ép Chính Đức phải cúi đầu. Nhưng với tính khí của mình, Chính Đức sẽ chịu xuống nước nói ngọt ư?

Mấy chuyện bí ẩncung đình này Dương Lăng cũng không tiện chen vào, nhất thời y cũng ấp úng không biết nói thế nào. Chính Đức ngó xung quanh một chút rồi ngượng nghịu thấp giọng:

- Không giấu gì khanh, chuyện phòng the có cái lạc thú riêng của nó, nhưng mấy vị hậu phi của trẫm quá khô khan đi, trẫm... trẫm bỗng rất nhớ tám người nữ quan đã dạy trẫm nhân luân đại lễ khi làm đại hôn đó. So với bọn họ, mấy người nữ quan nọ đáng yêu hơn nhiều.

Dương Lăng nhìn hắn với ánh mắt kỳ dị, thầm nghĩ: "Trong sách sử nói rằng Chính Đức yêu thích những phu nhân đã có gia đình, chẳng lẽ... là do bệnh căn lưu lại từ lúc này à? Mấy người nữ quan dung mạo xinh đẹp đó đều mười tám mười chín tuổi, trước đó đã từng học qua thuật khuê phòng, Chính Đức đương nhiên là thích vui vẻ với những cô gái dịu dàng biết điều như bọn họ hơn là ba thiếu nữ ngây thơ mới mười bốn tuổi rồi.”

Dương Lăng lúng túng ho khan vài tiếng. Hoàng thượng chịu kể chuyện riêng tư thầm kín như vậy với y, đương nhiên đã coi y như tri kỷ có thể thổ lộ hết mọi tâm sự, nhưng mình có thể giúp đỡ gì đây?

Đúng vào lúc này, trước cửa bỗng vọng lại những âm thanh huyên náo kịp thời giải cứu Dương Lăng khỏi tình huống khó xử, y liền vội quay sang lão quản gia đang giữ cổng quát lớn:

- Chuyện gì mà ồn ào vậy?

Cao quản gia liền vội chạy đến khom người đáp:

- Hồi bẩm lão gia, Lý cử nhân làm ầm ĩ đến cửa tìm đại nhân, lão nô đã bảo hắn trong nhà có khách quý, ngày khác hãy đến nhưng hắn lại nói cái gì mà cho dù có mặt Hoàng thượng hắn cũng phải gặp mặt lý luận với đại nhân một phen.

- Lý cử nhân? Lý cử nhân nào vậy?

Dương Lăng lấy làm khó hiểu, những người mình quen biết đâu có lão gia cử nhân nào đâu ta?

Cao quản gia ngẩng đầu trộm nhìn Hoàng thượng đang cải trang vi hành một chút rồi nhỏ giọng nhắc:

- Chính là... là... vị hôn phu của Văn Tâm tiểu thư ạ...

- À, là hắn!

Dương Lăng thoáng giật mình, kế đó bừng giận, mặt thoáng đỏ lên. Ngày đó kẻ hủy hôn là hắn, tung tin bịa đặt nói y và Cao Văn Tâm làm ra những chuyện hạ lưu, rõ thật sao có thể thế được. Hắn còn dám tìm đến cửa nhà mình, cho dù mình thật sự muốn Văn Tâm đi nữa thì hắn dựa vào thân phận gì để gây gỗ chứ?

Chu Hậu Chiếu nghe vậy thì đảo mắt nghi ngờ hỏi:

- Vị hôn phu của ai đánh đến cửa vậy? Dương thị độc, khanh ... khanh cưỡng bắt dân nữ hay sao?

Hoàng thượng đã hỏi không thể không đáp, Dương Lăng giậm chân đáp:

- Hoàng thượng! Chính là con gái của Cao thái y năm xưa. Hoàng thượng ban thưởng nàng ta cho thần, phụ trách chữa trị cho vợ thần. Vì thân phận nàng ta là gia nô nên người trước đây đã đính hôn với nàng ta là Lý cử nhân đã huỷ hôn, không biết sao y còn cố đến nhà gây chuyện.

Chính Đức tỉnh ngộ bèn bảo:

- Ồ, té ra là cô ta!

Hắn nghe kể người đã huỷ hôn lại đến nhà Dương thị độc kiếm chuyện gây hấn thì không khỏi sinh lòng hiếu kỳ, liền nói tiếp:

- Đi, đi xem sao! Xem hắn có gì muốn nói. Nếu như vô lý sinh sự thì sẽ cho hắn một trận.

Chính Đức đi trước dẫn đường, Dương Lăng vội theo sau, Lưu Cẩn và Thành Khởi Vận cũng dẫn theo đám thị vệ đuổi theo. Mọi người chạy đến cổng, chỉ thấy hai tay gia đinh đang chặn một người vận áo dài xanh khoác áo kép hoa tròn, dáng người mập mạp, tuổi trạc ba mươi, mặt đen chữ điền, hai hàng ria đen trông rất oai nghiêm.

Dương Lăng quan sát một chút, thấy sau lưng hắn còn có hai người thanh niên tuổi hơn hai mươi, ăn mặc phong phanh giản dị hơn, thì không khỏi lấy làm lạ hỏi:

- Quản gia, Lý cử nhân đâu?

Lão quản gia còn chưa đáp lời, người mặc áo dài xanh nọ bỗng giận tím mặt, quát to:

- Tên họ Dương kia, đừng khinh người quá đáng! Cho dù ngươi là mệnh quan triều đình đi nữa cũng không thể khinh thường ta như vậy?

Đoạn hắn lùi một bước, cuối xuống phủi phủi áo rồi lại khinh miệt liếc qua Dương Lăng, vênh mặt lên trời, ngạo nghễ:

- Sĩ tử thi Hương năm Hoằng Trị thứ mười lăm Lý Kế Mạnh chính là tại hạ!

Dương Lăng trợn mắt kinh ngạc nhìn hắn. Đây chính là vị hôn phu của Cao Văn Tâm sao? Tướng mạo xấu xí cũng không sao, nam nhân xem trọng người tài mà, nhưng tuổi tác này... chẳng phải người thời này đều tảo hôn sao?

Dương Lăng chắp tay lắp bắp chào:

- Hoá ra... huynh đài chính là Lý cử nhân, thất kính thất kính.

Lý cử nhân phất tay áo, hậm hực:

- Không dám trèo cao!

Tuy bị mắng tét tát song Dương Lăng lại không cảm thấy tức giận. Y biết những kẻ mọt sách này rất xem trọng thành phần xuất thân, mình chỉ là tú tài năm Hoằng Trị thứ mười lăm, còn người ta là cử nhân, thua kém một cấp. Nếu không phải vì mình có địa vị cao thì quả thực khi gặp nhau, mình sẽ phải bợ đỡ người ta mất rồi.

Y cười trừ, đổi giọng hỏi:

- Lý gia thôn và Cao Lão trang là láng giềng lân cận, có điều Dương mỗ mới dọn đến không lâu, vẫn chưa có dịp kết giao với quý láng giềng các hạ đây. Chẳng hay hôm nay Lý cử nhân đến viếng là có việc gì?

Lý cử nhân giận đến run tay, hắn trợn mắt nhìn Dương Lăng một hồi lâu rồi mới tức giận nói:

- Học sinh là môn đệ thư hương, quan hoạn thế gia, cớ sao Dương đại nhân khinh học sinh đến vậy? Cao gia mạo phạm thiên nhan, vốn phải bị xử tử cả nhà!

Rồi hắn ôm quyền hướng lên trời chắp tay, dõng dạc nói tiếp:

- Thánh thượng nhân đức, chỉ giáng ả làm nô tỳ, Lý mỗ mang công danh trên người, sao có thể cưới một nữ tỳ về làm vợ? Mỗ huỷ hôn là việc thiên kinh địa nghĩa, ai dám nói không, ý tốt thành toàn của đại nhân, học sinh đã khéo lời từ tạ. Ả là nô hay thiếp ở Dương gia, đều không liên quan gì đến Lý mỗ. Thế mà cái con tiện tỳ này...

Dương Lăng nãy giờ kiên nhẫn lắng nghe, song nghe đến những lời vô lễ này, y lập tức bùng lửa giận, liền bước lên một bước, đanh mặt:

- Ai là tiện tỳ? Cao Văn Tâm đã vào nhà họ Dương thì chính là người nhà họ Dương, há có thể mặc cho ngươi sỉ nhục như vậy?

Dương Lăng nắm đại quyền trong tay, sinh sát trách phạt chỉ xảy ra trong nháy mắt, lâu ngày tự tạo thành quan uy. Lúc này thần sắc nghiêm nghị, nét mặt và cử chỉ của y đều toát ra khí thế bức nhân.

Lý cử nhân không khỏi hoảng sợ lui lại mấy bước, nhưng vẫn ương ngạnh:

- Chẳng lẽ một người đắc đạo thì gà chó đều được lên trời hay sao? Thân phận Cao Văn Tâm đang là quan nô, cho dù là tiểu thương tôi tớ, nông phu ruộng đồng đều có thể gọi ả là tiện tỳ. Cho dù đại nhân quyền khuynh triều chính thì ả vẫn là đứa tiện tỳ!

Sắc mặt Dương Lăng tím bầm, nhưng Cao Văn Tâm đúng là đang có thân phận tiện nô, địa vị ngang bằng với kỹ nữ thanh lâu, đó là sự thật không thể chối cãi. Lý cử nhân nhắm vào điểm này, y còn có thể cậy vào quyền thế để đòi mạng người ta hay sao?

Hoàng đế Chính Đức bó ống tay áo đứng trên bậc thềm, khoan thai bảo:

- Lý cử nhân nói vậy là sai rồi. Ngươi đã biết là Hoàng thượng nhân đức, thế sao lại không biết Hoàng thượng đã hạ ân chỉ, tước bỏ tiện tịch* của Cao Văn Tâm? (*thân phận ti tiện)

Hiện nay nàng ta đã là thái y ngự tứ* chuyên chữa bệnh cho nhà họ Dương, là nữ quan có phẩm tước. Dám phỉ báng mệnh quan triều đình, ngươi hãy coi chừng đường công danh của mình đó! (*được vua ban cho)

Dương Lăng mừng rơn, y ngoái đầu nhìn Chính Đức, mắt tràn ngập sự cảm kích. Chính Đức mỉm cười, thấy y như vậy, lòng hắn cũng thấy rất vui.

Trước đây vì giận dữ mà hắn đã giết nhầm Cao thái y, về sau mới biết là thái giám bốc sai thuốc, hắn biết rằng mình đã giết nhầm người. Nhưng thân là thiên tử sao có thể nhận sai? Nên cũng chỉ đành đã đâm lao thì phải theo lao, nhưng hắn đã không còn oán giận gì nhà họ Cao nữa. Lúc này thấy Dương Lăng để ý đến việc một nữ tỳ bị sỉ nhục như vậy, y cũng lờ mờ đoán ra mấy phần tâm ý của y, đành thuận nước giong thuyền, đền bù cho sai lầm của mình lúc trước.

Có được câu nói này của Hoàng thượng, Dương Lăng cảm thấy yên tâm vô cùng, y liền bước tới một bước, sảng khoái cười nói:

- Lý cử nhân, ngươi đã nghe rồi chứ? Niệm tình ngươi cô lậu quả văn, ta cũng không so đo việc hôm nay nữa, sau này ngươi còn mở miệng vô lễ, ta sẽ giao ngươi cho Thuận Thiên phủ, mời Học Chính đại nhân hỏi xem học sinh của lão có biết tôn ti trên dưới hay không!

Lý cử nhân chỉ mới có tư cách làm quan, nhưng Cao Văn Tâm lại đã trở thành quan viên đương chức, địa vị đương nhiên cao hơn hắn. Lý cử nhân ngạc nhiên nghi ngờ, không biết vị công tử đứng trên bậc thềm đó là người nào, tuy nhiên giả truyền thánh chỉ là tội đại nghịch, gã Dương Lăng cũng không dám bịa ra, vậy con tiện tỳ đó được ân chỉ này từ lúc nào?

Phải rồi, Dương Lăng là thân tín của Hoàng thượng. Hắn với con tiện tỳ đó có tư tình, đương nhiên sẽ cầu tình cho ả. Không ngờ con tiện tỳ này ôm hận trả thù, lại dùng sắc mê hoặc Dương Lăng, khiến hắn chia rẽ nhân duyên của mình. Chuyện này sao có thể bỏ qua?

Nghĩ vậy, Lý cử nhân vừa ghét vừa hận. Hắn nghiến răng, đành phải thuận theo:

- Học sinh không biết, mong đại nhân thứ tội. Nhưng mà... học sinh và tiểu thư của Hữu đô ngự sử Lưu đại nhân hứa hôn đã ngăn trở đại nhân việc gì sao? Cớ sao đại nhân lại dùng quyền thế mà áp bức, khiến cho Lưu đại nhân trả lại sính lễ của học sinh?

Hữu đô ngự sử Lưu đại nhân? Là ai vậy? Dương Lăng vừa tức giận vừa thấy buồn cười, y thật sự không hề có hảo cảm gì với tên Lý cử nhân ngu đần cổ hủ hám danh lợi này. Nghe thấy hắn nói nay cũng đã nếm phải mùi vị bị người ta từ hôn, trong lòng y bất giác cảm thấy sảng khoái, nhưng trong ấn tượng của mình thì hình như mình không hề quen biết với ai là Hữu đô ngự sử à, sao lại đổ cái tiếng xấu này lên đầu mình vậy ta?

Lưu Cẩn đứng bên cạnh nghe, bỗng nhiên sực tỉnh ngộ: “Cái tên Lưu Vũ này, cái đứa con gái bà không yêu cậu không quý nhà ngươi đó gả được vào nhà nào thì gả đi, ngươi nghĩ Dương đại nhân rảnh để để ý đến cái chuyện xui xẻo này của ngươi à? Lúc ta nghe chuyện con gái ngươi đính hôn đã bép xép kể cho ngươi chuyện hiềm khích giữa Dương Lăng và Lý gia. Cho dù ngươi muốn vuốt đuôi ngựa thì cũng không cần phải làm như vậy chứ?”

Lưu Cẩn biết rằng một khi Dương Lăng bắt tay truy vấn thì nhất định y sẽ tìm đến Lưu Vũ để đối chứng, lão liền đảo tròng mắt, ghé vào tai Chính Đức nói nhỏ mấy câu...

Chương 162 Sóng gió trong công cuộc cải cách nông nghiệp

------------------------

Sau khi kiên nhẫn lắng nghe một hồi, rốt cuộc Dương Lăng cũng hiểu được đại khái sự việc. Hoá ra vị Lý cử nhân này cũng là con cháu quan lại, phụ thân từng làm Hữu thị lang bộ Công, có anh trai hiện đang làm quan của bộ Lại. Ba năm trước sau khi đỗ đạt, có công danh (*)Lý cử nhân mới đính ước chuyện hôn nhân. Sau khi từ hôn Cao Văn Tâm, được huynh trưởng tác hợp, hắn đã đính hôn với nhà Lưu ngự sử.

(*) có khi chỉ có nghĩa là thi đậu, có danh vọng (ví dụ đậu tú tài); ở đây vì đã đậu Cử hân nên được đưa vào danh sách chờ bổ nhiệm làm quan.

Không ngờ mấy ngày trước Lưu ngự sử lại đột nhiên sai người huỷ hôn. Hai nhà chưa lập hôn thú, chuyện này vốn cũng chẳng đáng chê trách gì, song Lý cử nhân lại nuốt không trôi, bèn tìm đến nhà để tranh luận phải trái. Lưu ngự sử chẳng nói gì nhiều, chỉ lạnh nhạt nói một câu tiểu nữ cứng đầu hư hỏng không dám trèo cao rồi đuổi hắn về.

Lý cử nhân bị hai tên gia đinh lôi ra khỏi cửa, nghe thấy bọn chúng trong lúc đóng cửa cười nhạo hắn đã đắc tội với Dương đại nhân của Nội xưởng mà còn vọng tưởng bám víu vào Lưu ngự sử. Do vậy hắn mới nảy lòng nghi ngờ Dương Lăng đã âm thầm gây chuyện phá đám, bèn tìm đến nhà để lý sự.

Dương Lăng nghe vậy mà bực cả mình, loại chuyện xúi quẩy này làm sao giải thích rõ ra đây? Y đảo mắt nhìn quanh, thấy đằng xa đã bắt đầu có nhiều thôn dân kéo đến xem náo nhiệt, bèn cười nhạt một tiếng rồi nói:

- Dương mỗ xuất thân ở chốn hoang vu, trong nhà mấy đời làm nông, mãi đến đời Dương mỗ, may được Tiên đế và đương kim Hoàng thượng tín nhiệm mới giao cho trọng trách. Thiên ân tẩy rửa thân phận, kẻ làm bề tôi nào dám không tận trung báo đáp?

Dương mỗ thân là tổng đốc Nội xưởng, lo nghĩ cũng là cho cả đất nước. Nơi nào có kẻ phạm thượng gây loạn, nơi nào có quan lại tham ô phạm pháp, nơi nào có thiên tai nhân hoạ, cần cấp báo về cho vua hay thì Dương mỗ mới nhúng tay vào. Ngươi nghĩ bản quan là ông tơ bà mối của nhà họ Lý à? Ngươi cưới vợ cũng được, nạp thiếp cũng được, chuyện đó có liên quan gì tới bản quan?

Thân là cử nhân, ngươi nên biết rằng kiện cáo vu vơ, nhục mạ bản quan là có tội. Ngươi đã biết tội chưa? Niệm tình ngươi có được công danh không dễ, bản quan cũng không muốn so đo. Nếu như có bằng chứng, ngươi có thể đến phủ Thuận Thiên kiện bản quan phá hỏng nhân duyên, nếu như không bằng không chứng, vậy mời ngươi về đi cho.

Dương Lăng dùng khẩu khí mà Lý cử nhân trả lời lúc trước trả lại hết cho hắn, ngay sau đó quay sang nháy mắt với gia nhân. Hai tên gia nhân đã biết gã Lý cử nhân này bạc tình vô lễ với tiểu thư nhà mình, vốn đã không ưa, vừa thấy lão gia ra hiệu liền xông lên cắp nách đẩy hắn đi một mạch thật xa.

Lý cử nhân biết Dương Lăng xuất thân văn nhân, vốn còn tưởng đến nhà đấu lý lẽ một phen, ai ngờ Dương Lăng lại không thèm đấu khẩu mà sai người đuổi hắn về, thế là giận run người mắng:

- Hổ thẹn cho kẻ văn nhân, thật sự là hổ thẹn cho kẻ văn nhân!

Dương Lăng cũng cảm thấy chán nản trong người. Chuyện này hoàn toàn không cách nào giải thích rõ ràng được, lại còn bị Hoàng thượng nhìn thấy. Nhưng giờ không phải là thời kỳ căng thẳng nên lại không thể điều phiên tử Nội xưởng về giữ cửa, e rằng sau này quan viên tới thăm càng lúc càng nhiều, bọn họ thấy được sự phô trương như vầy há chẳng sẽ chỉ trích mình sao?

Dương Lăng xoay người gượng cười nói với Chính Đức:

- Hoàng thượng! Thần và láng giềng có chút hiểu lầm đã khiến Hoàng thượng chê cười rồi.

Chính Đức cười lớn đáp:

- Vị cử nhân đó nghĩ khanh trộm búa(1) mà thôi, nào có liên hệ gì với ái khanh đâu? Được rồi, trời cũng không còn sớm nữa, trẫm phải về cung đây.

Hắn vừa nói vừa cười, vẫy tay chào Dương Lăng đang đứng ngây người; gia nhân đã mở cửa hông dắt ngựa ra ngoài.

Hoá ra khi nãy Lưu Cẩn đã đem hết sự tình kể từ đầu đến cuối cho Chính Đức. Đúng là trong triều có người thân thì mọi việc cũng thuận lợi: bản thân Dương Lăng không thể biện bạch, có người khác giải thích giùm mình sẽ dễ khiến người ta tiếp nhận hơn.

Số lần Lưu Cẩn lui tới Dương phủ hơn xa Chính Đức, cho nên lão đã nghe chuyện Lý cử nhân hủy hôn từ trước. Ngày đó Lưu Vũ đem một tấu chương khá quan trọng vào triều, trong lúc tán gẫu đã đề cập đến chuyện cưới hỏi của con gái mình, Lưu Cẩn buột miệng kể lại vài câu, ai ngờ Lưu ngự sử này ghi nhớ trong lòng. Vì muốn tránh nảy sinh khúc mắc với Dương Lăng nên lão đã hủy hôn.

Phải nói vị Lưu Vũ này cũng là một kẻ khôn khéo. Tuy lão ta giao hảo với Tiêu Phương nhưng đám lão thần chính phái trong triều chỉ ghét cay ghét đắng Tiêu Phương mà lại rất khen ngợi lão. Đỗ tiến sĩ năm Thành Hoá thứ tám, trước tiên lão làm Tri huyện rồi thăng làm Ngự sử, lại từng làm Án sát sứ tỉnh Sơn Đông.

Về sau Đại học sĩ Lưu Kiện đề bạt lão làm Hữu thiêm đô ngự sử. Sau khi hoàng đế Chính Đức kế vị, Thượng thư Mã Văn Thăng của bộ Lại tiến cử lão lên làm Hữu đô ngự sử, kiêm Tổng đốc quân vụ Tuyên phủ, Đại Đồng và Sơn Tây, cũng là một vị đại thần có thực quyền trong triều.

Quan hệ giữa Lưu Cẩn và Lưu Vũ cũng rất tốt, nên Lưu Cẩn không nói thật với Chính Đức rằng Lưu ngự sử e ngại ân oán giữa Dương Lăng và Lý gia, mà chỉ nói vị ngự sử này nghe nói Lý cử nhân là kẻ ném đá xuống giếng (dậu đổ bìm leo), hoài nghi phẩm hạnh của hắn nên bèn hủy hôn. Chính Đức lại là kẻ đầu têu gây nên chuyện này*, nghe vậy đương nhiên chỉ cười bỏ qua.

(*ý nói vì hắn nên Cao Văn Tâm mới bị phạt nô tịch và bị hủy hôn, dẫn đến ân oán hai nhà Dương-Lý)

Hiện Dương Lăng cũng chẳng có sức đâu mà lo bao đồng được nữa, bấy nhiêu quan viên trong triều còn đang tìm cách gây phiền phức cho y, kể chi là một tên cử nhân như thế này. Vả lại Cao Văn Tâm đã vì nhà họ Dương, vì mình mà bỏ ra rất nhiều công sức, mình mắc nợ nàng ấy rất nhiều.

Nay vì Lý cử nhân đến gây sự, Hoàng thượng đã mở kim khẩu ban cho Cao Văn Tâm kế thừa chức vị thái y của cha nàng, chẳng những mình đã thực hiện được lời hứa với nàng mà cũng đủ để nàng ấy an ủi linh hồn người cha già nơi chín suối.

Ngay khi đưa tiễn Chính Đức về, Dương Lăng phấn khích định chạy vào hậu viên. Luôn theo cạnh y, Thành Khởi Vận thấy thần sắc y như vậy liền khẽ thở dài bảo:

- Đại nhân không cần phải vội! Vừa rồi lão quản gia đã sai người vào hậu viện báo tin rồi.

Dương Lăng "ồ" lên một tiếng, rồi cũng cảm thấy mình hơi nóng vội, y không khỏi ngượng ngập cười trừ:

- Biết rồi thì tốt. Cô ấy vốn là thiên kim tiểu thư cao cao tại thượng, tuy nhà họ Dương chưa từng đối đãi với nàng ấy như thị tỳ, nhưng dẫu gì thì lớp thân phận ấy cũng khiến nàng ấy tự ti mãi. Giờ đây nỗi lòng của ta cuối cùng đã được giải quyết.

Nghĩ đến thân thế của mình, Thành Khởi Vận không khỏi cảm thấy xót xa, nàng lặng lẽ một lát rồi nói:

- Văn Tâm tiểu thư tuy rằng bất hạnh, nhưng gặp được đại nhân là vận phước của nàng ấy.

Nói đến đây ánh mắt nàng trở nên mê mang, dừng lại một chút rồi nàng mới nhỏ nhẹ nói tiếp:

- Nàng ta bị giáng thành quan nô, cha mình chết đi cũng không thể mặc áo chịu tang. Nếu đại nhân muốn giúp nàng một chút, vậy hãy lập linh đường cho Cao thái y trong nhà ngang ở dãy trước, rồi ngay mai cho phép thân quyến Cao gia đến phần mộ cúng tế cho tận lòng nhi nữ được không?

Dương Lăng mừng rỡ nhìn nàng tán thưởng:

- Vẫn là phụ nữ tinh tế! Sao ta lại không nghĩ đến việc này nhỉ? Quản gia, lão quản gia...

*****

Phải xắn tay vào làm việc mới biết nó gian nan dường nào. Vốn Dương Lăng cho rằng khó khăn là ở chỗ làm sao thuyết phục bá quan đồng ý với việc giải trừ cấm biển, ai ngờ bản điều trần về việc thay đổi giống cây trồng mới đó đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của bá quan.

Mặc dầu hiện tại Dương Lăng và Bát Hổ đã có thực quyền hơn Lý Đông Dương, có thể nói là “quyền khuynh triều chính”, và việc hai người Lưu Tạ bãi quan rời triều cũng được đa số quan viên đón nhận với thái độ trầm mặc, nhưng những việc lớn có liên hệ đến quốc kế dân sinh và giang sơn xã tắc như thế này thì bá quan lại không hề cẩu thả qua loa.

Giống cây trồng mới có thích nghi để sinh trưởng tại các nơi trên Đại Minh hay không, sản lượng như thế nào, những việc này chưa biết rõ ngọn ngành thì ai mà dám mạo hiểm? Bản điều trần vừa được trình lên, lập tức “quần chúng” liền ùn ùn tấn công tới tấp, triều đình mới vừa được chút yên ả lập tức lại nổi phong ba.

May mà Tiêu Phương đa mưu túc trí, không hề ra mặt ủng hộ kiến nghị của Dương Lăng. Ông ta chỉ bày vẽ ý tưởng cho hảo hữu là chủ sự Trương Thái ở bộ Lại dâng tấu chương lên. Vốn lời nói của Trương Thái không có trọng lượng, cho dù hắn có bị người ta mắng cho té tát thì vẫn dửng dưng như không. Dẫu gì thì hắn chỉ là một viên quan bé tí bằng hạt đậu, cùng lắm là bị người ta mắng cho là tùy tiện lỗ mãng là cùng, không đến nỗi khiến cho đám người Dương Lăng, Lưu Cẩn và Tiêu Phương rơi vào thế bị động trên triều đình.

Dương Lăng nghe trình báo của Tiêu Phương xong thì không khỏi chau mày. Việc này bá quan không sai, cho thứ không rõ nguồn gốc trồng trọt đại trà rộng rãi khắp toàn quốc, ở bất cứ triều đại nào cũng đều là chuyện không thể xảy ra. Do mình biết rõ đặc tính của những thứ lương thực này cho nên mới có thể cho qua, nhưng liệu điều đó có thể được dùng làm chứng cứ thực tế để thuyết phục bá quan ư?

Dương Lăng nhìn sang Tiêu Phương. Thấy lão nhíu mày, tay vân vê chòm râu, vẻ như vô kế khả thi, y không khỏi cười ảo não. Trông bộ dạng đó của Tiêu Phương thì thứ này sản lượng cao hay thấp, có thích hợp để sinh trưởng hay không, e rằng lão cũng không tự tin cho lắm. Ngay cả bè đảng của mình còn chưa tin tưởng, khó trách bá quan lại cẩn thận như vậy.

Trầm ngâm hồi lâu, Dương Lăng mới từ từ nói:

- Chúc Chi Sơn mà bản quan có nhắc đến với đại nhân lần trước hiện đã về Tô Châu mang giống cây và thợ trồng vào kinh rồi, tạm thời sắp đặt cho y đến Đào Nguyên tỉnh Hồ Nam nhậm chức tri huyện, thử trồng ở một huyện trước.

Tiêu Phương đáp:

- Hay! Nhưng nếu chỉ trồng thử ở một huyện, cho dù có hiệu quả vẫn không thể chứng minh loại cây ngô và khoai lang này thích hợp với mọi đất màu mà.

Dương Lăng gật đầu:

- Không chỉ như vậy! Mà như thế thì chuyện giải trừ bế môn tỏa cảng mau nhất cũng sẽ phải đợi đến sang năm. Cho nên năm sau nhất định phải có thu hoạch của một tỉnh, hơn nữa phải chứng minh được thứ này thích hợp sinh trưởng ở nhiều nơi. Lúc đó, hai vị đại học sĩ Lý Đông Dương và Dương Đình Hoà và những người cùng phe với bọn họ mới sẽ ra mặt ủng hộ ta.

Y nghĩ ngợi một chốc rồi nói tiếp:

- Phó sứ Diêm vận ti Hải Ninh là Mẫn Văn Kiến trước đây chém chết vương tử Thát Đát, lại có công chống Oa, bảo người phe ta trong Ngự sử đài tạo chút thanh thế cho ông ta, thăng làm Phó chỉ huy sứ ty Chỉ huy sứ của Chiết Giang, để ông ấy phát động quân đội Giang Nam khai hoang, trồng thử ở những nơi cằn cỗi vùng đó trước.

Ngoài ra, chuyện nông canh không thể thiếu bộ Hộ. Chuyển Nghiêm Tung của Hàn Lâm Viện làm lang trung bộ Hộ, bảo y làm trung gian hoà giải mọi chuyện. Y chinh là cái vị hàn lâm cao gầy mà ngày trước đại nhân đến đã gặp đó.

Nhắc đến Nghiêm Tung, Dương Lăng không khỏi mỉm cười. Tính tình của vị “gian thần” nổi tiếng trong lịch sử này không ngờ lại cẩn thận thông minh. Mình hồi kinh lâu như vậy mà hắn vẫn chưa dám đến nhà thăm viếng, mãi đến khi trong triều yên ắng trở lại, thế lực của mình đã định hình, không còn có nguy hiểm gì nữa thì hắn mới chịu ló mặt. Có điều nếu hắn là người xem trọng quyền thế thì không sợ không có chỗ cho mình dùng.

Tiêu Phương liên tục gật đầu, âm thầm ghi nhớ. Dương Lăng chợt nhớ tới vị Trương Thái đáng thương đã thay y đứng ra làm bia đỡ đạn, bèn hỏi:

- Trương Thái bị bá quan chỉ trích, hiện tại vẫn có thể trụ được chứ?

Tiêu Phương cười ôn hoà đáp:

- Không sao! Có lẽ mấy ngày nay bá quan trong triều ấm ức đã lâu, nên lấy Trương Thái làm chỗ để trút giận mà thôi. Hắn chỉ là một chủ sự cỏn con, vua cũng thua thằng liều mà, đám người đó cũng không còn cách nào khác với kẻ phiền phức như hắn hết. Vả lại hắn và Lưu công công là đồng hương Thiểm Tây, rất được Lưu công công đánh giá cao, nếu lão phu không khuyên nhủ thì Lưu công công còn muốn thăng quan cho hắn nữa đó.

Dương Lăng không nhịn được cười to một tiếng, đoạn hỏi:

- Người này có thể dùng không?

Sau một thoáng trầm ngâm, Tiêu Phương chậm rãi đáp:

- Người này xuất thân tiến sĩ, khôn khéo có tài, tuổi tuy trẻ nhưng rất am hiểu lẽ quan trường. Lần này, trước khi dâng tấu thăm dò hắn đã từng quả quyết với lão phu rằng nhất định hắn sẽ bị bá quan công kích, đích thực nhãn quan hắn rất độc đáo. Có điều hắn tham tiền háo sắc, đó là khuyết điểm lớn nhất của người này.

Dương Lăng thở dài. Những kẻ mà mình có thể dùng đều là dưa sâu táo xấu, có được người thiếu đức nhưng có tài đã là hiếm lắm rồi, cứ cố mà dùng tạm thôi. Đợi khi tranh thủ được sự ủng hộ của Lý Đông Dương và Dương Đình Hoà thì khi đó mình sẽ có nhiều người để dùng. Y bèn quyết đoán:

- Bản quan không dùng hắn thì Lưu Cẩn sẽ dùng hắn. Mượn cơ hội bá quan công kích mà giáng cho hắn làm Cấp sự trung bộ Hộ, ngoài giáng trong thăng(2), vị trí này không nằm trong tay chúng ta nhưng thực chất là để kiềm chế bọn họ.

Tiêu Phương đồng ý rồi nói:

- Đại nhân vẫn nên lưu ý bộ Lại, nếu nắm quyền thăng chức bá quan trong tay thì mọi việc mới có thể thuận lợi, như cá gặp nước vậy. Hiện tại chúng ta chỉ điều chỉnh một ít quan viên nên Mã Văn Thăng vẫn chưa dám không nể mặt. Còn nếu đại nhân muốn phát triển thì không thể không bắt bộ Lại, bộ Lễ và bộ Binh phải nghe theo lời ngài.

Dương Lăng biết xưa nay lão vẫn không hợp với vị thượng cấp cũ đó, tuy là có ý tốt nhắc nhở y, song cũng có ý muốn mượn tay mình để trị Mã Văn Thăng. Nhưng mà Mã Văn Thăng tay nắm đại quyền, đức cao vọng trọng, hiện tại triều chính mới vừa yên ổn, vẫn chưa phải lúc thay đổi toàn bộ các cương vị quan trọng một lượt.

Vương Hoa của bộ Lễ là người theo chủ nghĩa trung dung, hành sự đều theo quy củ, đến giờ vẫn hoà thuận với mình. Hơn nữa, con trai lão vì đắc tội với Lưu Cẩn hiện đang bị nhốt trong lao, qua ít ngày nữa đợi Lưu Cẩn hết giận mình mở miệng bảo lão thả hắn ra, có được phần nhân tình này sẽ càng không sợ lão ấy làm khó mình.

Lưu Đại Hạ của bộ Binh tuy không xem trọng mình, nhưng đám võ quan của lão lại rất khách khí với mình, cộng thêm mình kiêm chức thống lĩnh thân quân thị vệ, ít nhiều cũng có thể can dự được vào chút việc của bộ Binh, nên trước mắt sẽ không cần thiết phải thu lấy nó.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng lắc đầu đáp:

- Cứ từ từ thôi! Căn cơ còn chưa ổn định nên việc này không thể gấp được.

 Đoạn y đứng dậy, mỉm cười:

- Đi thôi, bản quan cùng đại nhân về thành. Muốn thuyết phục Hoàng thượng cho trồng thử trước ở một tỉnh thì bản quan không thể không vào cung một chuyến.

Ngồi trong kiệu Dương Lăng vén rèm lên, nhìn những mảnh ruộng tiêu điều của mình, lặng lẽ chìm vào tâm sự của bản thân: sau khi nắm quyền lớn trong tay Lưu Cẩn đã bắt đầu âm thầm tự đề bạt tâm phúc của lão mà không thông báo cho mình biết.

Lưu Cẩn biết chữ không nhiều, phê duyệt tấu chương cũng gặp không ít trở ngại. Nhưng bây giờ lão ta trọng dụng cháu rể của mình là Tôn Thông và một tên tú tài thi rớt tên là Trương Văn Hoảng, không ngờ "ba anh thợ giày"(3) này cũng bắt đầu phúc đáp tấu chương đâu vào đấy. Người này là kẻ có dã tâm nhất trong Bát Hổ, hiện tuy là đồng minh, nhưng không thể không đề phòng.

Sau này nhất định phải chú trọng việc thân cận với mấy người Trương Vĩnh và Cốc Đại Dụng. Mình không thể thường xuyên ở cạnh Hoàng đế, chỉ cần mấy đại thái giám có thể chung vai chung vế với Lưu Cẩn này cùng hội cùng thuyền với mình thì có lẽ Lưu Cẩn sẽ ngoan ngoãn nghe lời thôi.

Giờ đây nếu muốn trồng thí điểm ở một tỉnh, e rằng việc này sẽ còn phải phụ thuộc vào Lưu Cẩn. Không phải là lão mới vừa đề bạt một tay Hữu phó đô ngự sử tên là Tào Nguyên làm Bố chánh sứ Thiểm Tây sao? Nơi đó là cố hương của Lưu Cẩn, ý thức về quê hương của Lưu Cẩn rất nặng, chỉ cần mình biết dùng công danh lợi lộc dụ dỗ, lại có thân tín mà lão ta đề bạt ở Thiểm Tây làm chủ trì, thì việc phát triển giống mới tất sẽ là chuyện làm chơi ăn thật.

Dương Lăng thở ra một hơi, dưới tiết trời lạnh lẽo hơi thở của y hoá thành một làn sương trắng. Bên đường đã không còn bao nhiêu màu xanh, gốc liễu gốc hoè chỉ còn trơ lại những cành cây khô tàn lụi, xa hơn, mảnh đất màu mỡ sau đợt thu hoạch nay đã biến thành một vùng cằn cỗi.

Trong lòng Dương Lăng nóng bừng, nếu như trồng thử trong hoàng trang(*) này thì sao? Khoai lang lớn nhanh, loại củ này có thể trồng một năm ba vụ, sau năm sáu tháng đã có thể thu hoạch một số lượng lớn. Đến lúc đó, mình có lương thực chất thành núi để bá quan văn võ trong triều tận mắt chứng kiến, há chẳng sẽ có sức thuyết phục hơn miệng lưỡi ư?

(* xin nhắc lại: hoàng trang là thôn trang trực thuộc hoàng gia)

Thế nhưng ruộng đất thuộc hoàng trang cũng có địa chủ riêng, hoàng cung chỉ tự trưng thu thuế thóc không thông qua triều đình thôi; mình có thể thuyết phục được những địa chủ đó thay đổi trồng loại cây trồng sản lượng cao không? Dương Lăng suy nghĩ cặn kẽ một chút, vùng hoàng trang này được sở hữu bởi bảy đại địa chủ, trong đó nhà của Lý cử nhân chiếm mấy ngàn mẫu ruộng. Y có thể không cần phải lo lắng lắm về vị nhân huynh này, nhưng sáu vị địa chủ còn lại cũng đều là những người có bối cảnh, sẽ rất khó để thuyết phục, dùng thủ đoạn cứng rắn lại càng không khôn ngoan, nên làm thế nào mới tốt đây?

Dương Lăng suy nghĩ mãi cho đến khi đi vào kinh thành. Đến cổng cung, Dương Lăng và Tiêu Phương xuống kiệu, trình thẻ bài tiến cung. Tiêu Phương cáo từ trở về Văn Uyên các phê duyệt tấu chương, Dương Lăng đến cung Càn Thanh. Y thấy trong đấy vắng tênh, chỉ có mấy tên tiểu thái giám trực ban đang bó ống tay áo ngủ gật trên ghế.

Sau khi hỏi thăm bọn họ, Dương Lăng biết hoàng đế Chính Đức mới học được một vở hí kịch nên đã phấn khởi chạy đến hậu cung, mời hết Thái hoàng thái hậu, Thái hậu và các vị nương nương, công chúa xem đích thân mình lên sân khấu diễn.

Dương Lăng nghe mà dở khóc dở cười. Y ngồi đợi trong cung Càn Thanh một hồi, cảm thấy trong một khoảng thời gian ngắn nữa ắt Chính Đức vẫn chưa về bèn đứng dậy đi thẳng đến ty Lễ Giám. Tiểu thái giám giữ cửa nơi này từng theo Lưu Cẩn đến Dương phủ mấy lần, vừa thấy Dương Lăng đến liền vội tươi cười hành lễ rồi quay vào trong cao giọng báo:

- Dương Lăng Dương đại nhân đến!

Dương Lăng cười bảo:

- Có kêu to cũng không có bạc thưởng cho ngươi đâu, sau này ta đến không cần thông báo nữa.

Dương Lăng bước vào trong phòng. Kê sát vào bức tường đối diện là bộ bàn ghế mũ quan bằng gỗ lim(*), hai bên là thông phòng(4) được phủ rèm dày. Dương Lăng rẽ vào căn phòng bên phải, vén rèm bước vào, y thấy trong phòng châm bốn cây nến đỏ sáng trưng.

(*http://image.big5.made-in-china.com/...D%E6%A4%85.jpg)

Trên chiếc giường đất kê một chiếc bàn lò bằng gỗ tử đàn, trên bàn sắp mấy chồng công văn. Lưu Cẩn đang tươi cười bước xuống giường xỏ giày, trông thấy y vào, lão liền cười lớn:

- Dương đại nhân, ngài đến thật đúng lúc. Ta đang chuẩn bị ngày mai đến thăm ngài đây.

Dương Lăng cười nói:

- Ta vốn không nghĩ công công sẽ ở đây. Nghe nói Hoàng thượng đang hoá trang diễn kịch trong hậu cung, còn đóng vai nữ nữa, công công không phải ở bên người hầu hạ sao?

Lưu Cẩn nghĩ đến bộ dạng hoang đường cải trang giả giọng làm con gái của tiểu hoàng đế Chính Đức thì cũng không khỏi bật cười. Lão xuống giường mời Dương Lăng ngồi rồi quay ra ngoài gọi:

- Thằng nhóc không có mắt đâu rồi, mau dâng trà lên coi!

Đoạn lão quay đầu cười nói với Dương Lăng:

- Bây giờ không giống như trước kia nữa rồi. Ta cũng muốn hầu hạ bên cạnh Hoàng thượng mọi lúc mọi nơi, có điều tấu chương cần chỉnh lý vẫn chưa xong. Đám quan viên nọ viết tấu chương cũng dài dòng hệt như hát tuồng vậy, lê tha lê thê, không đọc hết đến câu cuối cùng thì thật chẳng biết bọn họ muốn nói gì nữa, khiến người ta sốt ruột chết đi được. Hiện tại Mã Vĩnh Thành đang theo hầu Hoàng thượng đó.

Dương Lăng biết lão đọc những tấu chương đó không hiểu bao nhiêu. Thông thường lão sẽ mang chúng về nhà, trước tiên bảo tên tú tài mà lão rước về giải thích cho lão hiểu, sau đó lại mang kiến nghị của Lý Đông Dương, Tiêu Phương, Dương Đình Hoà ra cho cả ba người (thêm đứa cháu rể) vừa uống trà vừa thảo luận, sau cùng sẽ chọn xác nhận được xem là thích hợp nhất.

Những chuyện này là do Cốc Đại Dụng lúc đến thăm kể thành chuyện cười cho y nghe, đương nhiên Dương Lăng sẽ không nói toạc ra.

Hai người trò chuyện vài câu, Dương Lăng thấy trong phòng chỉ có hai người, thích hợp để khuyên lão trồng thử khoai lang ở quê nhà, bèn nói:

- Bản quan có một chuyện muốn bàn bạc cùng công công.

Không ngờ cùng lúc Lưu Cẩn cũng nói:

- Ta có việc muốn bàn bạc cùng đại nhân.

Hai người vừa nói xong, đồng thời cùng thoáng sững người, rồi cùng bật cười lớn. Dương Lăng xua tay cười nói:

- Chuyện của bản quan nói ra thực hơi phiền phức. Công công có việc gì xin hãy nói trước cho ta nghe thử.

Lưu Cẩn vươn người nhón lấy một bản tấu chương dày cộp ở trên bàn rồi nói:

- Hiện nay ta nắm giữ nội đình, không thể không có cống hiến gì cho triều đình. Đại nhân đề xuất việc giải cấm thông thương ích nước lợi dân, khiến ta có chút gợi ý, bèn trăn trở mấy đêm, nghĩ ra được một ít kiến giải bài trừ những tệ nạn hủ bại trong triều, muốn trình lên cho Hoàng thượng.

Dương Lăng sửng sốt, nhìn vẻ mặt nghiêm túc lẫn hưng phấn của Lưu Cẩn mà không dám cười, bèn ho khan vài tiếng rồi hỏi:

- Không biết công công muốn đưa ra kiến nghị về phương diện nào?

Lưu Cẩn hăng hái:

- Ta suy nghĩ ba đêm, tổng hợp những vấn đền liên quan đến năm bộ Lại, Hộ, Binh, Công, Hình, tổng hợp những mặt về luật pháp, liêm chính, trị lại, hộ tịch, đất đai, tiền lương đã đề xuất ra bốn mươi sáu kiến nghị.

Lão cười khiêm tốn nói tiếp:

- Thật ra... còn có mấy kiến nghị khác nữa, có điều ta vẫn chưa nghĩ ra được biện pháp thích hợp cho nên chưa nêu ra.

Dương Lăng vất vả nuốt ngụm nước bọt, trợn mắt nhìn vị “tiên phong về cải cách” mà không mở miệng nói được câu nào.

Chú thích:

(1) Nguyên văn "nghi lân đạo phủ" (nghi: nghi ngờ; lân: láng giềng; đạo: lấy trộm; phủ: búa/rìu), tạm dịch nghi ngờ láng giềng trộm búa của mình. Truyện kể rằng có một người bị mất cái búa, nghi ngờ đứa con nhà hàng xóm lấy trộm, nên cảm thấy bất cứ hành động dáng vẻ gì của đứa bé nọ cũng đều đáng ngờ. Vài hôm sau, ông ta tìm lại được cái búa bị mất, thế là không còn cảm thấy thằng bé nhà bên cạnh giống như kẻ trộm cắp nữa. Truyện dạy ta rằng: chớ nên dễ dàng nghi ngờ người khác, cần phải có chứng cứ thiết thực.

(2) Nguyên văn "minh hàng ám thăng": bề ngoài chuyển làm một chức vụ bé hơn nhưng quyền hạn thực tế lại cao hơn.

(3) Trích từ câu nói "ba anh thợ giày bằng một ông Gia Cát Lượng": đại ý nói nếu không có cá nhân giỏi thì tập thể cũng có thể làm nên chuyện (giống như "ba cây chụm lại nên hòn núi cao" vậy).

(4) Hai phòng liên thông với nhau.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro