nguoc ve trieu minh 160-170

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 160 Chưa Hết Nghi Ngờ 

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Shandian

Hiệu đính: 

Nguồn: www.tangthuvien.com

Dương Lăng chạy gấp về phủ, vất ngựa cho gia nhân, vừa hỏi biết được Hoàng thượng vẫn còn trong nội viện liền vội vã chạy vào.

Đến phòng khách gọi mấy tiếng nhưng lại không thấy ai trả lời, Dương Lăng cuống lên, một nỗi sợ hãi vô cớ ùa vào lòng. Y chạy đến tìm kiếm khu tiểu viện nơi Ấu Nương ở rồi lại đến chỗ ở của Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai và Thành Khởi Vận bên đối diện song vẫn không có lấy một bóng người, Dương Lăng đứng đó mà không khỏi ngơ ngác bần thần.

Đang không biết phải làm thế nào, y chợt nghe một tràng những tiếng cười truyền đến từ vườn hoa sau nhà, liền vội vã chạy qua xem. Dãy nhà này là nơi ở của đám nha hoàn thị nữ, chính giữa căn lầu nhỏ hai tầng có một cánh cửa có thể thông ra sân vườn phía sau.

Dương Lăng chạy đến hậu viện thì chỉ thấy trên mảng đất trống nơi Ấu Nương thường ngày luyện võ, mười mấy nữ tỳ đang đứng cạnh bên vỗ tay reo hò, trên mảnh đất trống bằng thẳng, Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai và Ấu Nương đều vận tuyền một màu xanh, nét mặt rạng ngời đang đá cầu (*).

(*) cầu là quả bóng làm bằng da ngày xưa, gọi là túc cúc, cũng gọi là tháp cúc. Xem hình

http://imagewa.com/PhotoPreview/136/136_2990.jpg

Ba tiểu cô nương xinh đẹp mỹ lệ đứng về một phía, theo động tác chân của bọn họ quả bóng da được chuyền tới chuyền lui song thủy chung không hề rơi xuống đất. Quả cầu tròn trịa tựa châu, ba vị kiều thê dáng vẻ dịu dàng, dung nhan mỹ miều như ngọc tạo cho người ta một cảm giác xinh đẹp khác lạ.

Phía bên kia, một thanh niên áo xanh vóc người cao ráo cột vạt áo trước và sau lại giắt bên hông, lộ ra ống quần sa tanh trắng tinh bên trong, trông hết sức thong dong. Ba người Hàn Ấu Nương chuyền cầu qua lại đến hoa cả mắt, rồi thừa dịp đối phương không phòng bị liền đá quả cầu sang. Nam tử áo xanh nọ tiến lui đều có trình tự, nhịp nhàng, không vội không hoảng, vô luận quả cầu da bay sang với góc độ hiểm hóc và nhanh như thế nào thì y vẫn có thể kịp thời bắt lấy; ngón chân, mu bàn chân, hai má bàn chân và gót chân khéo léo tâng quả cầu lên đủ kiểu.

Hoàng đế Đại Minh - Chu Hậu Chiếu - là thành viên của trong đội này. Kỹ thuật đá cầu của vị huynh đài này có hạn, đá được một lát rồi lại mất cầu, thế là tự giác gia nhập vào nhóm "cổ động viên", đứng một bên hò hét khản cổ quả thực còn căng thẳng hơn cả vị thư sinh áo xanh đang đá cầu nọ.

Dương Lăng thấy vậy thì thở phào nhẹ nhõm. Vị thư sinh áo xanh đó đương nhiên là Thành Khởi Vận, không ngờ cô nàng lại là một hảo thủ môn đá cầu. Vào thời Minh môn đá cầu rất được thịnh hành, thậm chí trong quân cũng thường tổ chức thi đấu, Dương Lăng cũng hay gặp. Từ lúc dọn đến trang viện này thì ban ngày khi có thời gian rảnh rỗi, Ấu Nương và mấy người Ngọc Đường Xuân thường chơi đá cầu với nhau.

Trò này vừa có thể khoẻ chân, lại vừa rèn luyện thân thể, bản thân Dương Lăng tuy không thích chơi song thỉnh thoảng vẫn thường đến bên cạnh xem ba vị ái thê và nha hoàn vui chơi.

Kỹ thuật đá cầu chia làm hai loại là "đối đả" và "bạch đả". Đối đả khá giống bóng đá hiện đại còn bạch đả thì lại hoàn toàn là phô diễn kỹ thuật đá cầu cá nhân. Xem tình hình trận đấu thì Thành Khởi Vận lấy một chọi ba, sau khi tiếp cầu thì song phương sẽ bạch đả trước, thi triển xong kỹ thuật tâng cầu thì sẽ "bắn phá" đối phương.

Dương Lăng để ý đến chín người đang đứng ở bãi sân đối diện, tám gã tráng niên khí phách nội liễm hiển nhiên là cao thủ thị vệ của đại nội còn người đang bó ống tay áo mỉm cười đứng bên sân da mặt trắng trẻo, mày nhợt mắt híp, lưng hơi khom do thói quen tạo thành chính là Lưu Cẩn.

Lúc này lão cũng đã thấy Dương Lăng liền vội giơ tay ra dấu chào hỏi. Dương Lăng thấy Chính Đức hết sức chăm chú dõi theo quả cầu da, dường như vẫn còn hứng thú thì mỉm cười đáp lại Lưu Cẩn rồi chuyển ánh mắt nhìn về phía Thành Khởi Vận.

Thành Khởi Vận cầu kỹ cao siêu nhưng vì lấy một chọi ba nên lúc này má ngọc đỏ bừng, trán đã lấm tấm mồ hôi. Hiển nhiên nàng ta cũng đã trông thấy Dương Lăng. Vừa thấy Dương Lăng nhìn mình thì nàng bỗng nhướng mày, chân phải đột nhiên vung lên, mũi chân chạm trán; do đang mặc quần áo nam nhân nên nàng không sợ động tác đó sẽ có gì bất nhã.

Chỉ thấy quả cầu da bị đá tung lên đến mấy trượng, thong dong, lãng đãng. Mọi người ngước đầu dõi mắt nhìn lên không. Quả cầu thoáng dừng lại trên không trung trong nháy mắt rồi từ từ rơi xuống, rơi đúng trên mũi giày vẫn đang giơ cao của Thành Khởi Vận. Đầu gối chân trụ của nàng hơi trùng xuống, mượn thế giữ cho quả cầu được ổn định. Quả cầu xoay trên mũi giày, thuỷ chung vẫn không hề rơi xuống. Mọi người không khỏi ồ lên tán thưởng.

Khoé môi Thành Khởi Vận khẽ nhếch lên, trong lúc đó, quả cầu tựa như dính chặt trên mũi giày, theo động tác hạ chân tạo thành tư thế chuẩn bị đá. Ba người Hàn Ấu Nương không biết nàng bày ra tư thế đó là muốn đá đến chỗ nào nên căng thẳng khom người chăm chú nhìn quả cầu đó. Không ngờ Thành Khởi Vận lại tung chân đá một cái thật nhẹ, quả cầu bay chậm rãi đến bên cạnh ba người Hàn Ấu Nương, đến lúc ba người muốn chạy tới tiếp cầu thì đã muộn.

Chính Đức mừng rỡ vô cùng, Tuyết Lý Mai giơ tay áo lên chấm chấn khuôn mặt đỏ bừng của mình, hờn trách:

- Thành... công tử chơi xấu, ai lại dùng kế như vậy.

Thành Khởi Vận mỉm cười nháy mắt với nàng một cái, lúc này Tuyết Lý Mai mới trông thấy Dương Lăng đang đứng bên cạnh, khuôn mặt đỏ bừng xinh xắn lập tức trở nên thẹn thùng, bèn vội nhún người làm lễ, rồi rụt rè gọi một tiếng:

- Lão gia.

Lúc này Chính Đức mới trông thấy Dương Lăng. Dương Lăng bước tới định dùng đại lễ để yết kiến, song mới vừa mở miệng gọi:

- Hoàng thượng, thần...

Thì Chính Đức đã bước tới đỡ lấy cánh tay y cười ha hả:

- Dương thị độc bình thân, trẫm cải trang rời cung, không cần phải dùng đại lễ quân thần.

Đoạn hắn vui vẻ cười tiếp:

- Dương khanh, các vị phu nhân của khanh lấy ba chọi một vẫn không phải là đối thủ của biểu huynh khanh. Không ngờ thư sinh Giang Nam nho nhã yếu đuối như thế lại có được kỹ thuật đá cầu cao siêu như vậy.

"Biểu huynh?" Dương Lăng thoáng ngẩn ra, liếc nhanh về phía Thành Khởi Vận một cái rồi mới cất tiếng cười to, sau đó quay đầu lại nhìn Chính Đức.

Hắn mặc áo dài màu tím nhạt, ống rộng vạt to, lưng đeo thắt lưng hổ phách ngũ sắc, thân trên còn khoác thêm một chiếc so chẽn gấm màu xanh ngọc, mái tóc đen nhánh búi vào trong chiếc mũ bán nguyệt màu ngọc bích, chỉ cài một chiếc trâm bạc để giữ, khuôn mặt Chính Đức như thoa ngọc, anh tuấn bất phàm.

Hắn đã lại cao thêm một chút, trên mép đã lưa thưa lớp ria măng, giữa hai hàng lông mày toát ra khí chất thành thục và uy nghiêm, thấy thế thì Dương Lăng chợt có cảm giác vui mừng và kích động, cảm giác ấy giống như chứng kiến người thân của mình lớn lên và trưởng thành mà vui mừng và cao hứng thay cho họ. Không biết bắt đầu từ bao giờ bản thân Dương Lăng lại có cảm giác như vậy với Chính Đức, thế là nhất thời trong lòng hơi thấy hoảng hồn.

Nhưng khi y thấy Chính Đức cũng nhìn y với ánh mắt thân thiết và bịn rịn như vậy, trong lòng lại rất mừng và cảm động. Hai người đã cách biệt mấy tháng, lần gặp vội vã trên kim điện lại là trước mặt bá quan, khi đó hai người phải đóng kịch mãi đến bây giờ mới có thể trò chuyện thân mật thật sự. Thời khắc này hai người đột nhiên đều cảm thấy con tim mình đã xích lại gần nhau hơn rất nhiều, đã không chỉ là sự tín nhiệm giữa vua và tôi, mà là một loại tình cảm thân thiết bình đẳng.

Sự giao lưu tình cảm trong cái nháy mắt ngắn ngủi giữa hai người phát sinh hết sức tự nhiên. Trước cái thời khắc ấy bản thân hai người đều không biết đáy lòng mình sẽ nảy sinh ra tình cảm như vậy. Lưu Cẩn hầu hạ Chính Đức từ nhỏ, mọi hờn vui giận ghét, mọi hành động cử chỉ gì của hắn đều rõ như lòng bàn tay, cho nên tâm tình Chính Đức hơi có biến hoá lão liền cảm giác được ngay. Loại cảm giác thân thiết bịn rịn như với người nhân này, ngoại trừ Hoằng Trị, Chính Đức chưa từng có với người khác, thậm chí cả mẫu hậu của hắn. Trong lòng Lưu Cẩn bất giác có chút kính sợ.

Bản lĩnh quan sát sắc mặt của Thành Khởi Vận giỏi vô cùng, đảo mắt một cái cũng nhìn thấy vẻ mặt của hai người. Chính Đức đã khôi phục lại vẻ tự nhiên, mỉm cười nói:

- Gần đây có quá nhiều chuyện, trẫm tuy không thích quản lý sự vụ nhưng lão Lý bận rộn đến đầu tắt mặt tối, trẫm cũng không đành đi chơi đây đó đây. Nay Tiêu Phương nhập các, trẫm mới dám dày mặt mà trốn ra ngoài đó. Ha ha... hắt xì!

Lưu Cẩn liền vội nhanh nhảu chộp lấy chiếc áo khoác gấm da sóc dày mà mềm mại trên tay thị vệ khoác lên cho Chính Đức, miệng ríu rít:

- Hoàng thượng, xin hãy mau trở về phòng uống trà ấm. Trời lạnh lên rồi, không thể để nhiễm phong hàn đâu.

Đoàn người kéo nhau trở về sân trong. Hàn Ấu Nương dẫn "đội quân tóc dài" lánh đi. Thành Khởi Vận cũng định lui theo, Chính Đức trông thấy liền nói:

- Thành khanh cứ ở lại, trẫm đến hỏi thăm Dương thị độc, chỉ ra ngoài cung du ngoạn cho nên khanh không cần phải tránh đi.

Thành Khởi Vận lén liếc Dương Lăng một cái, thấy vẻ mặt y không có gì là khó chịu, nàng mới khẽ đáp một tiếng rồi cùng theo vào nội thư phòng. Dương Lăng vừa châm trà cho Chính Đức vừa cười hỏi:

- Hoàng thượng, người còn nhớ Hộ Quốc tự, nơi mà thần và người gặp nhau lần đầu không?

Chính Đức cười nói:

- Sao không nhớ chứ, ha ha! Trẫm còn nhớ là lúc đó khanh dùng cái câu gì mà 'ngoái đầu nhìn năm trăm lần' để gạt Ấu Nương tỷ... Khục khục, ờm để gạt phu nhân, còn gạt trẫm nói ta và khanh nếu kiếp trước không phải là tình nhân thì là trẫm nợ khanh tiền. Ha ha... miệng mồm láu lỉnh, đáng đánh!

Nói đến đây, hắn chợt nhớ tới phụ hoàng, nụ cười trên khuôn mặt thoát thu lại, môi mím chặt. Dương Lăng biết hắn đang nhớ tới người cha hiền, trong lòng cũng không kìm được mà thở dài một tiếng.

Y lại châm trà cho Lưu Cẩn và Thành Khởi Vận, sau đó được Chính Đức ra hiệu, y bèn nhẹ nhàng ngồi xuống đối diện và nói:

- Lúc đó, thần vẫn chưa biết thân phận của Hoàng thượng. Nhớ khi đó mấy tăng lữ Tây dương bị tăng lữ Tây Vực ức hiếp, tiên đế nhân từ lại quyên góp ba ngàn lạng tiền hương hoả cho chùa, để bọn họ chiếu cố tốt mấy hoà thượng ngoại quốc vì hâm mộ mà đến Đại Minh ta.

Chính Đức nói:

- Đúng rồi, những tăng lữ ngoại quốc đó có mấy đồ chơi kỳ lạ, có điều chơi xong một lần thì không còn thấy hiếm lạ nữa, suýt nữa thì trẫm đã quên rồi.

Dương Lăng mỉm cười nói:

- Những tăng lữ ngoại quốc ấy nghe nói Đại Minh ta là nơi cường đại và giàu có nhất thiên hạ, vì vậy đã chạy từ vạn dặm xa xôi đến truyền giáo. Có điều hình như vị thần của bọn họ thua còn thua xa so với Ngọc hoàng đại đế, Thái thượng Lão quân và Phật tổ Như Lai nên tín đồ rất ít. Hôm nay thần gặp lại bọn họ trên đường, đáng thương cho những hoà thượng Tây dương đó đã biến thành ăn mày cả rồi. Hãy khoan nói Đại Minh ta oai danh vang rộng, bọn họ nhờ được thượng quốc Trung Hoa ta giáo hoá mà đến mà đường đường nước lớn trọng lễ nghi như Đại Minh ta không thể để bọn họ lâm vào cảnh ấy, chỉ dựa vào sự nhân hậu và yêu mến của tiên đế đối với bọn họ thì thần cũng không dám bỏ mặc mà không quản, thế nên lúc nãy đã thu nhận bọn họ vào trong điền trang, để bọn họ ở tạm.

Y thoáng ngó sắc mặt của Chính Đức, thấy Chính Đức nghe y nói mà nhớ đến sự nhân ái của tiên đế và liên tục gật đầu biểu thị sự đồng ý về việc y tăng phần lễ kính với những hoà thượng Tây dương đó, thì liền chuyển giọng, nói:

- Nhưng mà... cứ nuôi như vậy cũng không phải là cách tốt. Vả lại, bách tính có thêm thần linh để gởi gắm tâm linh cũng không phải là chuyện xấu gì. Nay Đại Minh ta đã có Phật giáo, Đạo giáo, Hồi giáo và các tôn giáo lớn nhỏ được các dân tộc phụng thờ, trong đó lại chia ra đủ loại trường phái, có thêm một Thiên Chúa giáo cũng không phải là việc tệ hại gì, dẫu gì bọn họ cũng khuyên bảo người ta hướng thiện mà. Thiên triều thượng quốc như biển rộng vô biên, dung nạp được cả trăm con sông. Thần nghĩ rằng... sao không cho phép bọn họ xây dựng miếu đường giảng kinh, chỉ là mấy phiên tăng dị quốc mà thôi nên cũng không có gì đáng ngại.

Quả thật tác dụng của tôn giáo tại Trung Quốc rất bị hạn chế, bản thân Chính Đức cũng từng xem lướt qua Phật giáo, Lạt-Ma giáo, Hồi giáo. Y thoải mái hỏi mấy câu về Thiên Chúa giáo, thấy thượng đế Thiên Chúa giáo dường như na ná với Hồi giáo, thì không khỏi cười thầm trong bụng: chẳng lẽ giáo phái Tây phương cũng chia ra làm Đại thừa và Tiểu thừa giống như Phật giáo hay sao?

Chính Đức khua tay nói:

- Không sao, bọn họ đi đường xa xôi đến Đại Minh thì dẫu gì cũng là khách. Tiên hoàng đã rất chiếu cố đến bọn họ nên trẫm cũng không thể hẹp hòi, cứ cho phép bọn họ đi. Lưu Cẩn, quay về thông tri cho bộ Lễ một tiếng, lập sắc tại án (*).

(*) lưu chép vào trong hồ sơ.

Lưu Cẩn kín đáo ngồi mé sau Chính Đức, nghe vậy liền lập tức đứng dậy nhận mệnh. Dương Lăng thấy thế mừng lắm, giải quyết được chuyện này rồi thì không sợ mấy người Tây dương đó không dốc lòng bán mạng cho mình nữa.

Chính Đức cười bảo:

- Vừa nãy nghe biểu huynh của khanh kể chuyện khanh đánh hải tặc ở Giang Nam, quả thật rất kích thích. - Đoạn y thở dài, giọng say mê:

- Thật đáng tiếc, nếu như trẫm cũng có mặt ở đó, đích thân chém chết mấy tên hải tặc rồi ngự thuyền cỡi sóng ngao du một phen giữa trời cao biển rộng, vậy sẽ thoả thích biết dường nào.

Dương Lăng liếc sang Thành Khởi Vận, mặt tỉnh như không nói:

- Hoàng thượng nói chí phải, vạn dặm lãnh hải ấy cũng là cương thổ do Hồng Vũ hoàng đế Đại Minh ta gầy dựng nên, há có thể mặc cho một đám hải tặc ngang ngược hoành hành? Đợi ngày khác trừ Oa dẹp khấu, Hoàng thượng cũng có thể tìm cơ hội tuần du hải vực của Đại Minh một chút, nếu là như vậy thì Hoàng thượng sẽ là vị vua đầu tiên từ trước đến nay có thể tuần du hải vực cương thổ đó!

Có lẽ, điều khiến một vị hoàng đế nắm cả thiên hạ động tâm nhất chính là uy danh vua hiền của mình có thể lưu danh thiên cổ. Chính Đức vừa nghe lời này, hùng chí dâng trào, cặp mày liền nhướng cao, nói:

- Được đó, Đại Minh ta lãnh thổ bao la, vạn dặm lãnh hải há có thể mặc cho giặc cướp ngang tàng? Chẳng lẽ phải đợi đến khi biển êm sông lặng ư? Trẫm đang muốn diễn võ trong cung đây, đến lúc ấy trẫm sẽ làm đại nguyên soái, tự mình dẫn binh bình định giặc biển.

- Việc này... - Dương Lăng giả vờ do dự, Chính Đức trông thấy vậy lòng hiếu thắng liền trỗi lên, không phục bèn nói:

- Sao hả, Dương khanh không tin vào văn trị (*) và võ công của trẫm ư?

(*) thành tựu về văn hoá và giáo dục.

Dương Lăng cười lớn đáp:

- Hoàng thượng mê võ hiếu học, dẫn quân tác chiến đương nhiên có thể xứng là tướng tài, nhưng chiến đấu trên biển không như trên đất liền, thần không phải là không tin vào năng lực của bệ hạ...

Lưu Cẩn đã biết về kế hoạch giải cấm thông thương cho nên nhất thời bứt rứt hối y:

- Dương đại nhân, có gì xin hãy nói thẳng, không nên che giấu quân thượng à.

Thành Khởi Vận nãy giờ bàng quan, chợt thừa cơ nói vào:

- Hoàng thượng thứ tội, thảo dân từng nghe biểu đệ có nói, từ khi Đại Minh ta cấm biển đến nay đã trăm năm, các tướng sĩ đã không còn quen thuộc với hải cương của Đại Minh chúng ta nữa, chiến hạm vô địch từng khiến cho bốn bể thần phục năm đó hiện đã không còn mấy người biết chế tạo ra nữa. Thuyền bè bây giờ chỉ có thể tuần tra gần bờ, ngay cả sóng gió cũng chịu không nổi, cho nên đám hải tặc đó hung tàn ngang ngược không phải vì tướng sĩ Đại Minh ta không chịu phục tùng mệnh lệnh mà thực tế là vì chỉ có thể bị động phòng thủ chịu đòn mà thôi.

Chính Đức nghe vậy cả kinh. Y bỗng đứng dậy đi lại trong phòng một lát rồi mới chậm rãi mở miệng:

- Thuỷ quân Đại Minh ta đã đến nông nỗi này rồi sao?

Trong phòng nhất thời im phăng phắc, Lưu Cẩn thấy sắc mặt y âm u liền vội nháy mắt với Dương Lăng rồi nói:

- Những đồ vật tân kỳ của dị vực nước ngoài mà Dương đại nhân mang về từ Giang Nam rất được Hoàng thượng yêu thích, thường xuyên lấy chơi không rời tay. Nếu như cấm biển tuyệt thương, theo lý mà nói thì ngoại trừ cống vật dị quốc, dân gian hẳn không nên có vật phẩm như vậy, nếu thế thì những vật đó được lưu nhập vào như thế nào đây?

Dương Lăng thầm tán thưởng sự cơ trí của lão, liền tiếp lời luôn:

- Bờ biển dài đằng đẵng, triều đình cấm biển sẽ chỉ ngăn trở bách tính Đại Minh ra khơi song lại không thể ngăn trở những con thuyền buôn lớn từ nước ngoài vào Đại Minh ta càng lúc càng nhiều, chỉ tiếc cho lãnh hải của Đại Minh ta lại trở thành sân sau của người khác, mặc cho bọn họ ra vào, dân gian vì bị cái lợi mê hoặc mà có kẻ liều mạng lén lút giao dịch với bọn họ. À đúng rồi, thần còn tìm được một vật tốt ở Giang Nam, thần đã mang theo bên người về nhưng vẫn chưa trình lên cho Hoàng thượng, nay thần mang tới cho người.

Nói đoạn y đứng dậy nhưng rốt cuộc vẫn không yên tâm để Thành Khởi Vận lại ở đây, sau thoáng do dự, y bèn liếc nhìn nàng đầy thâm ý.

Thành Khởi Vận lấy làm lạ nhìn y, mắt chợt loé lên, cặp mày đen thoáng rút lại, chợt có cảm giác như sực tỉnh và bị thương, cặp mắt sáng ngời cháy bừng lên ngọn lửa giận. Nàng khẽ đứng dậy, khom người nói với Chính Đức:

- Thảo dân xin cùng... biểu đệ đi lấy vật nọ.

Dương Lăng ngó vẻ mặt của nàng thì tuy trong lòng có phần hổ thẹn nhưng sự nghi ngờ đã có từ lâu, chôn chặt dưới đáy lòng rồi cũng có ngày sẽ phát tác cho nên bầu không khí giữa hai người trở nên ngột ngạt, kẻ trước người sau lặng lẽ bước vào trong kho. Dương Lăng mở cửa tìm kiếm một lát, lôi ra một cây trường kiếm hơi cong chứa trong bao da cá mập màu xanh sẫm, cầm lấy rồi bước ra ngoài.

Cánh cửa sắt nặng trịch đóng rầm một tiếng, vòng xích khoá vào cách một tiếng. Thành Khởi Vận lặng lẽ nhìn theo y, đột nhiên hít sâu một hơi, rèm mi chớp nhanh vài cái, một làn sương mỏng bao quanh con ngươi, nàng cất giọng nghèn nghẹn hỏi:

- Đại nhân, tín nhiệm một người... khó đến vậy ư?

Dương Lăng hạ mắt, dằn lòng nói:

- Thân nơi miếu đường hiểm trở, không thể không lo nghĩ cẩn thận, sự thật là... 

Dương Lăng thoáng do dự, rồi nói tiếp:

- Sự thật là cô quá tha thiết với công danh lợi lộc khiến bản quan không thể không lo ngại, dùng sắc dụ vua không phải là một ý kiến tồi.

Đoạn y ngước mắt, trong ánh mắt y toát ra sát khí và sự lạnh lùng xa lạ, không chút e dè nói thẳng:

- Nếu như hôm nay cô thật sự có ý quyến rũ Hoàng thượng thì ta cam đoan dù Hoàng thượng đã bị cô mê hoặc hoàn toàn ta vẫn có thể ngang nhiên đưa cô vào chỗ chết!

Vừa nói ngón tay y vừa bấm lên tay chắn, "cách" một tiếng, kiếm khí lạnh lẽo tràn ngập giữa hai người. Thành Khởi Vận bỗng nhiên ngẩng đầu, lọt vào mắt nàng là một mũi kiếm lạnh toát.

Dương Lăng thở hắt ra một hơi, lạnh nhạt nói:

- Có điều... biểu hiện của cô rất tốt, là bản quan đa nghi rồi. Cô đã giúp đỡ bản quan rất nhiều, hy vọng sự hợp tác giữa chúng ta sẽ có thể tiếp tục, cô không có hành động thiếu khôn ngoan nào. Rất tốt.

Thành Khởi Vận bật cười tự giễu:

- Thiếu khôn ngoan? Đương nhiên là thiếu khôn ngoan rồi, ti chức có thân phận gì chứ, làm sao có thể thích một thứ vô lương tâm? Xuất thân của ti chức như vậy, chịu bỏ ra một mảnh chân tình, coi như là báo ứng vậy.

Dương Lăng nghe không hiểu nàng ta đang nói gì, không khỏi ngạc nhiên liếc mắt nhìn nàng một cái.

Thành Khởi Vận cụp mắt, cất giọng xa xăm:

- ... cung đình nguy hiểm, nào bằng nơi giang hồ, hồng nhan chớp mắt phôi pha, tóc mây ngoảnh lại nay đà như sương (*)... người thông minh như ti chức đây, đương nhiên sẽ không bao giờ hành động thiếu khôn ngoan rồi. Lý do này... không biết đủ khiến đại nhân... yên tâm chưa?

(*) 

trích tên hồi 35 của Thiên Long Bát Bộ.

Hai hàng lệ châu trong vắt xuôi theo gò má ngọc của nàng lăn nhanh xuống. Khuôn mặt vừa mới khỏi bệnh có chút hốc hác trắng nhợt, trông càng thêm đáng thương. Dương Lăng dằn chặt chuôi gươm, lưỡi gươm tra vào bao kêu "keng" một tiếng. Y cười nhạt mấy tiếng, nói:

- Rất tốt, rất tốt...

Tường trắng ngõ đen, sắc hương cổ kính, Dương Lăng dường như lại thấy người ngọc dáng mềm như nước tay trái cầm chiếc ô dầu, tay phải nâng váy tươi cười bước đi nhẹ nhàng như én sà mặt nước, đạp lên những khóm cỏ xanh bóng mượt.

Y mang thanh trường kiếm bước mấy bước, rồi chợt dừng chân, không hề quay đầu lại, nói:

- Chuyện cũ của cô có rất nhiều chỗ xảo quyệt, ta cũng không muốn truy cứu, thực sự cũng là vì tư tâm, do cô nương hỗ trợ ta rất nhiều... Sự đa nghi của ta, vẫn mong cô nương hiểu và bỏ qua cho. Chuyện ở Giang Nam, việc lớn ngàn đời tịnh không phải vì tiền đồ của riêng ta... Có lẽ nói ra cô sẽ không hiểu nhưng chỉ cần giải quyết được việc lớn này, chỉ cần ta còn ở nhân gian, cô thích quyền lực cũng được, tiền bạc cũng được, Dương mỗ nhất định sẽ giúp cô đạt được ước nguyện. Áo xuân lệ sắc, ngõ hẽm hành lang, người kia như nước, đạp sóng mà đi. Hình ảnh ấy Dương mỗ luôn tạc ở trong tim, thật sự không mong cô có bất cứ liên hệ gì với những âm mưu bẩn thỉu kia... thôi... 

Đoạn y thở ra một hơi dằng dặc, rồi lặng lẽ bỏ đi.

Thành Khởi Vận chợt xoay người lại, nhìn theo bóng lưng y trong nước mắt mà ai oán: "Kẻ vô lương tâm kia, ngươi cự tuyệt tấm lòng của ta thì thôi, chẳng biết kiếp trước ta mắc nợ ngươi thế nào mà sao còn phải tiếp tục chịu sự đày đoạ của ngươi như vậy..."

Chương 161 Chính Đức Múa Đao

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính: 

Nguồn: www.tangthuvien.com

Cùng lúc đó, Lưu Cẩn đang múa mép khua môi xúi giục Hoàng thượng trong phòng. Mặc dù không được mạch lạc nhưng lão cũng lờ mờ biểu đạt được đại ý rằng ngày nay đế vương mở mang bờ cõi phải nhìn ra biển rộng, từ đó thêm oai với thiên hạ mới là vương đạo. Lão khiến cho tiểu hoàng đế Chính Đức thích công to việc lớn nghe đến rạo rực trong người, hận không thể lập tức chế tạo hàng loạt chiến hạm, dẹp yên vùng biển, kiến tạo nên công trạng lừng lẫy.

Nhưng hắn cũng biết chỉ có thể nghĩ vậy mà thôi, những việc này không phải nghĩ được là có thể làm được. Nếu như văn võ cả triều nguây nguẩy không chịu, mà hoàng đế như hắn lại không thể xắn tay xắn áo đích thân xuất mã đi tạo thuyền luyện binh thì việc này xem ra còn phải chờ lâu.

Về đến thư phòng, Dương Lăng sợ Chính Đức hỏi tới Thành Khởi Vận nên vội nâng hai tay dâng trường kiếm lên, cười nói: 

- Thần biết Hoàng thượng đam mê võ nghệ, yêu thích binh pháp, vừa may tìm được một cây bảo đao chém sắt như chém bùn, vì vậy có ý muốn hiến dâng để Hoàng thượng thưởng lãm.

Quả nhiên Chính Đức nghe nói là thần binh lợi khí liến rất mừng. Hắn liền vội cầm lấy rồi rút "xoẹt" cây đao ra khỏi vỏ, cả phòng lập tức sáng choang, thanh trường đao ấy có thân thon dài, lưỡi mỏng như giấy, trên mũi đao sáng bóng như tuyết ẩn hiện long văn (hoa văn hình rồng), nhìn hàn quang lấp loé xem ra sắc bén vô cùng.

Dương Lăng mỉm cười thưa: 

- Đây là...

- Oa đao, đây là bảo đao cực phẩm!

Chính Đức hưng phấn ngắt lời y. Hắn giơ cây đao lên ngang mày, nheo mắt quan sát lưỡi đao, sau đó lại cầm hai tay nâng lên cân nhắc trọng lượng đao, rồi cười ha hả: 

- Đao này so với Oa đao cất trong cung xem ra còn tốt hơn mấy phần. Thuật rèn đao của Nhật Bản đã tiến bộ hơn trước rồi.

Dương Lăng kinh ngạc hỏi: 

- Hoàng thượng nhận ra cây đao này sao?

Chính Đức cười đắc ý: 

- Trong cung có sáu thanh bảo đao do Túc Lợi Nghĩa Mãn (Ashikaga Yoshimitsu) tiến cống, trẫm thường lấy ra chơi, có điều đó đều là đao của cả trăm năm trước rồi.

Năm Vĩnh Lạc, sứ giả các nước Lưu Cầu, Nhật Bản, và Xiêm La đến Đại Minh triều cống, Túc Lợi Nghĩa Mãn từng tiến cống sáu thanh bảo đao. Hai năm sau vua Vĩnh Lạc phái Trịnh Hoà thống lĩnh 10 vạn thuỷ quân đến Nhật Bản, tuyên chỉ với Túc Lợi Nghĩa Mãn: "Giao cho (Nhật Bản) tự mình tiễu trừ giặc khấu, dùng pháp luật của bản quốc mà trừng trị."

Đồng thời vua Vĩnh Lạc ban thưởng cho Túc Lợi Nghĩa Mãn ấn vàng "Nhật Bản Quốc Vương", phong ông ta làm quốc vương Nhật Bản. Túc Lợi Nghĩa Mãn liền viết thư phúc đáp, tự xưng là "quốc vương Nhật Bản, thần nguyên là Nghĩa Mãn", đồng thời bắt giao giặc Oa cho Đại Minh để biểu đạt thành tâm.

Vốn Dương Lăng đã biết nhà Minh từng có chuyện Trung - Nhật hợp tác lùng diệt hải tặc nên mới cố tâm chuẩn bị thanh bảo đao này, tự thân dâng lên cho Chính Đức, định mượn dịp để góp lời, không ngờ Chính Đức lại biết rõ chuyện này như lòng bàn tay.

Dương Lăng rất lấy làm kinh ngạc, do vậy y cần phải sắp xếp lại những ý kiến ban đầu lại một chút. Trong lúc y đang nghĩ ngợi, Chính Đức lấy ngón tay vuốt nhẹ mũi kiếm, vui vẻ ngâm: 

- Côn di đạo viễn bất phục thông, thế truyền thiết ngọc thuỳ năng cùng? (Côn Ngô xa tắp lại chẳng thông với Trung thổ, chỉ lưu lại truyền thuyết về thanh bảo kiếm Côn Ngô bổ ngọc như chém bùn.)

Bảo đao cận xuất Nhật Bản quốc, việt cổ đắc chi thương hải đông. (Nay có bảo đao Nhật Bản sản xuất, thương nhân Giang Chiết có được nó tại vùng biển phía đông.)

Ngư bì trang thiếp hương mộc sao. Hoàng bạch gian tạp thâu dữ đồng; (Bao đao làm bằng gỗ hương, trên bao dán hoa văn da cá, thân đao dùng hợp kim đồng kẽm đồng thau đúc thành.)

Bách kim truyền nhập hảo sự thủ, bội phục khả dĩ nhượng yêu hung. (Người thích dùng bỏ ra trăm vàng mua nó, đeo bên người có thể diệt yêu trừ hung.)

Dương thị độc, đó là bài thơ Âu Dương Tu thời Tống tán dương Oa đao, khi ấy danh tiếng Oa đao đã truyền xa. Oa đao nguyên là Đường đao, dùng phương pháp bọc thép để chế tạo. Cũng chính là Tấn Thiết* đao mà người ta thường gọi. Quả thực sắc bén vô cùng, đao này đích thực là một thanh bảo đao, tên nó là gì vậy?" (*

thép ròng

Rồi không đợi Dương Lăng đáp lời, hắn đã xoay thanh đao lại. Nhìn thấy chuôi đao khắc hai chữ Hán: "Đoạn Lãng", hắn không khỏi bật cười: 

- Đao đúng là đao tốt, có điều hơi cuồng vọng, chém vàng bổ ngọc thì còn nghe được, chẳng lẽ chưa nghe 'rút đao chém nước nước càng chảy mạnh' à? Đoạn Lãng? Hừm hừm, Đoạn Lãng! (*

chém gió, à nhầm ,chém sóng

Dương Lăng không ngờ Chính Đức lại rất hứng thú với vũ khí, mà lại hiểu tận tường như vậy, bèn bội phục nói: 

- Dạ, lãng nhân(*) Nhật Bản phần lớn dùng thứ vũ khí sắc bén tiện lợi cho việc bổ chém này. Lúc ở Giang Nam thần thấy vũ khí quân đại Minh ta không bằng người, trên chiến trận hầu như không bằng, cho nên..., nếu như quân đội Đại Minh ai nấy đều mang thanh bảo đao sắc bén như vậy, người Oa nhất định sẽ không dám càn rỡ như thế nữa.

(*) 

hiệp sĩ lang thang, không thuộc một vương gia vọng tộc, tướng quân nào; thường là kẻ du đãng hơn là hiệp sĩ

.

Chính Đức nghe vậy thì cười to: 

- Tuy Dương thị độc thạo pháp dẫn binh, song dẫu sao vẫn là xuất thân tú tài, ha ha ha... Quân đội Đại Minh ta ai nấy đều đeo loại đao bọc thép này ư? Không thể nào, không thể nào.

Dương Lăng thấy y cười như vậy thì không khỏi sốt ruột hỏi: 

- Sao lại không thể? Thanh Long Tuyền kiếm đó của Hoàng thượng sắc bén không kém gì đao này, chẳng nhẽ Đại Minh ta không rèn được đao đấy ư?

Chính Đức cười hề hề bảo: 

- Không phải là không có thợ rèn đao, thực tế là rèn đao bọc thép rất tốn sức và phí thời gian, thép tinh chất cần để dùng đa phần lấy từ Cáp Mật* vệ, sản lượng không đủ mà dùng. Nhật Bản đấy hả... song phương có thể huy động mấy ngàn nhân mã đánh nhau đã là chuyện lớn kinh thiên động địa rồi. Còn quân đội Đại Minh ta nào chỉ trăm vạn, ai nấy đều đeo bảo đao này à? Cho dù trẫm có ngồi trên núi bạc cũng không cách nào làm được." (*

thành phố Ha Mi thuộc Tân Cương ngày nay

Dương Lăng không ngờ vị tiểu hoàng đế ngày thường ghét học, chỉ thích nghiên cứu âm nhạc, kinh Phật và những thứ không liên quan đến chính trị nhưng khi bàn về binh khí lại sành sõi như vậy, muốn giấu cũng không giấu được hắn, thế là thất vọng hỏi: 

- Nói như vậy, chúng ta chỉ có thể chấp nhận thua kém về mặt binh khí sao?

Vừa hỏi xong y liền máy động trong lòng, lại nhớ tới hoả khí. Nếu có thể chế tạo được súng trường tầm bắn xa, tốc độ nhanh, hẳn sẽ có thể đối phó với đao bén của người Oa, nếu lại phát triển thêm ít đại pháo có lực sát thương cực lớn...

Chính Đức cười đáp: 

- Binh khí không như con người, chưa hẳn đã không có biện pháp khắc chế nó.

Có cơ hội khoe tài học vấn, vẻ mặt hắn trông vô cùng đắc ý: 

- Đao bọc thép sắc bén, cứng chắc, nhưng một khi va chạm mạnh sẽ bị hư tổn, sẽ trở thành sắt vụn không thể phục hồi, dùng thiết côn hoặc phác đao sống dày đều có thể khắc chế.

Hắn hơi dạng chân, vung bảo đao chém "vút vút" vài cái rồi nói tiếp: 

- Đao Nhật Bản xem trọng tốc độ, sử dụng lực cánh tay và hông. Chúng dám đối cứng với chúng ta thì đao của chúng coi như là xong.

Hiện tại trong quân còn hơn nửa số sĩ tốt dùng trường mâu phải không? Những cây giáo cán gỗ đó chạm phải loại Oa đao sắc bén như vậy đương nhiên sẽ bị chém đứt ngay. Tuy nhiên... nếu lấy cán thương ngâm trong dầu cây tung đun sôi, vừa chống cháy lại vừa rắn chắc. Lúc đó, cho dù chỉ dùng trường mâu, loại Oa đao này cũng sẽ không có ưu thế.

Dương Lăng nghe mà há hốc mồm, y vốn định khoe khoang chỗ cao siêu của nước khác một chút để khích thích Chính Đức, vạn lần không ngờ Chính Đức lại có thể nghĩ ra được biện pháp như vậy.

Dương Lăng hoàn toàn khâm phục: 

- Hoàng thượng anh minh, thần thấy vũ khí địch nhân cường đại thì nghĩ chỉ có chế tạo được vũ khí cường đại hơn mới có thể khắc chế, mà không hề nghĩ đến biện pháp đơn giản dễ làm lại phù hợp với thực tế như vậy, thật sự hổ thẹn.

Chính Đức thấy đã khiến y nhụt chí, bèn mới đắc ý cười nói: 

- Dương thị độc không cần lấy làm hổ thẹn, thực ra trẫm nào nghĩ ra được biện pháp ấy? Lúc khanh dẹp Oa ở Hải Ninh có nhánh vệ quân bỏ chạy, tin báo về kinh, tất cả đám ngôn quan ngự sử đều dâng sớ yêu cầu nghiêm trị tướng lĩnh dẫn binh, chỉ có một người dâng sớ nói rằng vũ khí vệ sở không bằng đối phương nên đã đề ra những biện pháp này. Trẫm xem thấy thú vị nên mới nhớ một ít. Tấu chương đã phát cho bộ binh chiếu theo mà làm rồi.

Hắn nghĩ ngợi một lát rồi hỏi: 

- Người đó là ai ấy nhỉ? Vương... Vương cái gì Nhân đó, là một viên quan nhỏ... Lưu Cẩn, ngươi có nhớ không?

Lưu Cẩn giật nảy mình. Cái tay chủ sự bộ binh tên là Vương Thủ Nhân đó là một tên quan bé xíu như hạt vừng thế mà lại dám dâng sớ cầu xin cho đám người Đới Tiễn, mắng thẳng lão là gian thần lộng quyền, giờ đã bị lão cho đánh ba mươi đình trượng, ném vào trong đại lao. Chỉ bởi kẻ ấy là con trai của thượng thư bộ Lễ là Vương Hoa cho nên nhất thời lão chưa biết phải xử trí thế nào. Sao hoàng thượng lại nhớ đến hắn vậy.

Lưu Cẩn ấp úng đáp: 

- Ơ... nô tài cũng không nhớ rõ lắm, hình như là có viên quan như vậy.

Dương Lăng nghe tên cảm thấy quen tai, đang định chen miệng vào hỏi lại thấy Thành Khởi Vận khoan thai bước vào, y liền ngậm miệng lại. Thành Khởi Vận hai mắt nhìn thẳng, không thèm để ý đến Dương Lăng chỉ điềm nhiên mỉm cười nói với Chính Đức: 

- Thảo dân tuy không thông thạo võ nghệ nhưng cũng thấy được thanh đao này của Hoàng thượng sát khí đằng đằng, là bảo đao thì phải.

Chính Đức cười đáp: 

- Đúng vậy, Dương thị độc biết rõ lòng trẫm, những thứ giúp trẫm tìm về đều rất hợp khẩu vị của trẫm. Trung thổ tuy lớn, nhưng xem ra bên ngoài bầu trời này vẫn còn một số vật tốt.

Thành Khởi Vận vui vẻ tiếp lời: 

- Hoàng thượng nói rất phải, Đại Minh tuy lớn nhưng cũng không thể bao trùm bốn bể. Không nói những cái khác, cho dù là vương hầu công khanh, tiểu thương tiểu lái đều cần rất nhiều rau dưa và gia vị như hành, tỏi, ngò, cần, dưa leo,... Chẳng phải những loại trái cây như nho, dưa hấu, và lựu đều từ nước ngoài truyền vào nước ta từ thời Hán - Đường đấy ư?

Thời ấy ngựa xe đường bộ, thuyền buồm đường thuỷ đều không đi được xa, nhưng nay thì không như vậy. Đã có phiên quốc từ vạn dặm xa xôi đến thăm viếng. Thường có câu sơn ngoại hữu sơn, thiên ngoại hữu thiên, sao biết bên ngoài dị quốc không có dị quốc chứ?

Thiên triều thượng quốc có dung nạp thì mới lớn mạnh. Nếu quen thuộc sở trường kẻ khác, hội tụ đồ vật bốn bể, trong triều có những thần tử trung tâm báo quốc, văn thao vũ lược như Lưu công công và Dương đại nhân, Hoàng thượng lại biết tin dùng người tài, thưởng phạt công minh, vua tôi một lòng như vậy, thì sao phải lo không thể mở đầu trang thịnh thế cho Đại Minh, lưu danh thiên cổ?

Lưu Cẩn nghe Thành Khởi Vận đặt lão lên trước Dương Lăng, tung hô lão là trung can tài giỏi trước mặt Hoàng thượng thì không khỏi nở mặt nở mày. Chính Đức nghe xong cũng liên tục gật đầu, bộ dáng như có điều suy ngẫm.

Nếu nói ra mấy đạo lý to tát thì chưa chắc hắn đã nghe lọt tai, nhưng Thành Khởi Vận lại bắt đầu từ những thứ thông dụng như hành tỏi mà gia đình nào cũng cần ra để nói, đơn giản và tinh tế, càng khiến người ta dễ tiếp thu.

Dương Lăng thấy nàng ta biểu đạt lời mà mình muốn trình bày một cách khéo léo như vậy thì không khỏi nhìn nàng tỏ ý khen ngợi, trong lòng cảm thấy hối hận: “Có phải mình đã quá khắc khe với nàng ta rồi không? Bạt kiếm uy hiếp cô ta, là bởi việc cô ta xuống tay đâm chết Mạc Thanh Hà đã lưu lại cho mình ấn tượng quá đậm, hay vì bởi mưu trí thường ngày của cô ta không thua kém bậc mày râu khiến mình mang dạ đề phòng?”

Thành Khởi Vận nói xong liền liếc nhanh về phía y, vừa chạm vào ánh mắt y nàng liền thu ánh mắt lại. Chợt phát hiện ánh mắt của y hơi không bình thường, thế là nàng lại lướt nhìn một cái thật sâu rồi mới cười nhạt một tiếng, khuôn mặt như phủ một làn sương nhẹ, nhìn không ra nàng ấy đang vui hay giận hờn.

*****

Chính Đức ngồi trong nội thư phòng nghe Dương Lăng kể chuyện y làm ở Giang Nam, Thành Khởi Vận cơ trí khôn lanh, đứng bên cạnh ra sức phụ hoạ, kể một cách hết sức sống động. Chính Đức nghe nói về phong thổ nhân tình dân gian thì cảm thấy rất là mới lạ và thú vị, nghe nói tới hành động phạm pháp của đám nịnh thần thì giận đến đỏ bừng mặt rồng, mãi đến lúc trời đã nhá nhem, Lưu Cẩn nhắc nhở, hắn mới sực nhớ đã đến lúc phải trở về cung rồi.

Hàn Ấu Nương dẫn hai vị phu nhân cáo mệnh là Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đưa tiễn thánh giá khỏi hậu viên. Dương Lăng và Thành Khởi Vận đi theo Chính Đức đến tiền sảnh, đứng dưới hành lang, Lưu Cẩn chạy xuống chỉ huy người dắt hai thớt bạch mã ở bên sân buộc vào càng xe.

Thành Khởi Vận tâm tư nhanh nhạy, qua cảm nhận thần sắc của Chính Đức nàng biết rằng hoàng thượng chưa có dịp tâm sự riêng với Dương Lăng, bèn ôm thanh bảo đao "Đoạn Lãng" mỉm cười đi theo Lưu Cẩn, để hai người có thời gian ở riêng với nhau.

Chính Đức đứng dưới hành lang mỉm cười nói với Dương Lăng: 

- Được rồi, khanh cũng đừng giả vờ nằm ở nhà nữa. Cho khanh thêm mười ngày nữa để nghỉ ngơi, sau đó phải ngoan ngoãn hồi triều đó.

Dương Lăng đáp: 

- Hoàng thượng, cho dù thần có hồi triều cũng sẽ làm việc ở đây thôi, nha môn Nội xưởng được thiết lập ở hậu sơn mà.

Chính Đức sực nhớ ra, bèn nói: 

- Ừ nhỉ,... ừm... 

Hắn quan sát Dương Lăng một lượt, lại hỏi: 

- Có muốn kiêm thêm chức vụ gì không? Khanh không thể vào triều nghị chánh (thảo luận chính sự), trẫm muốn tìm khanh để thương nghị việc gì cũng rất phiền toái.

Dương Lăng đáp: 

- Người của xưởng vệ không thể kiêm chức trong triều, nay Nội xưởng mới vừa chuẩn bị được thành lập, thần lại không thể bỏ dỡ nửa chừng. Nếu thần vào triều can dự chính sự thì Hoàng thượng sẽ lại bị ngôn quan hặc tội đó. Hay là Hoàng thượng muốn tìm thần cứ sai người triệu thần một tiếng, thần sẽ lập tức vào cung kiến giá là được.

Chính Đức đồng ý: 

- Cũng được, đầu xuân trẫm sẽ dọn đến báo phòng ở, lúc đó sẽ bớt được nhiều quy củ, đỡ phải bị mấy lão già đó gắt giận vô cớ, khanh muốn đến cũng tiện hơn nhiều. Trẫm đang bảo bọn Lưu Cẩn và Mã Vĩnh Thành dọn dẹp gấp rút đây.

Từ đằng xa nghe nhắc đến tên mình, Lưu Cẩn liền vội chạy ào qua hỏi: 

- Hoàng thượng, người cho gọi nô tài ạ?

Chính Đức cười mắng: 

- Cút ngươi đi, trẫm gọi ngươi để làm gì?

Lưu Cẩn cười nịnh hùa theo rồi lại chạy ù đi. Chính Đức thở dài nói tiếp: 

- Trẫm ở trong cung chán lắm rồi. Mỗi lần đi thỉnh an Thái hậu thì suốt ngày người cứ càm ràm bảo trẫm phải quan tâm chiếu cố đến huynh đệ Thọ Ninh hầu, đến gặp Thái hoàng thái hậu thì ngài lại cả ngày trách móc trẫm chơi bời lêu lổng.

Ôi, trẫm mà đi dạo lòng vòng trong cung ấy hả, cái đám thần tử ngoại đình đó rất thính, lập tức chúng dâng sớ lên ngay, cung Khôn Ninh cũng không được yên ổn - nói đến đây hắn cười khổ sở một tiếng rồi tiếp: - Thấy gia đình khanh hoà thuận vui vẻ, trẫm hâm mộ khôn thôi. Ấu Nương tỷ tỷ rất có phong phạm vợ cả, nào như trong cung...

Hoàng hậu cả ngày chỉ chú ý đến lễ nghi hoàng hậu, cô nương mười bốn tuổi mà tính tình khô khan chán ngắt, trẫm lười chả muốn gặp nàng ta. Ngược lại Ngô phi còn biết thức thời hiểu chuyện, nhưng mà vì Hoàng hậu giận trẫm, nên nhiều lần hoạnh hoẹ khó dễ, khiến trẫm càng ghét nàng ta hơn.

Dương Lăng ngẩn ra, những chuyện như sau đại hôn hoàng thượng không còn thiết tha đến chuyện nội cung, rất ít khi sủng ái hậu phi y cũng từng nghe nói. Thì ra hoàng thượng vẫn thích Ngô phi hơn, nhưng y lại ngại hoàng hậu do chuyện gì vậy?

Nhớ lại những quy củ cung đình mình từng được đọc lúc còn làm phó sứ tổ chức đại hôn cho Hoàng thượng, Dương Lăng mới sực hiểu. Lý do là tuy trong cung Hoàng thượng có quyền tuyển chọn phi tử hầu hạ mình, nhưng còn có một thủ tục đó là phải được Hoàng hậu phê thuận bằng cách đóng dấu kim ấn thì Kính Sự phòng mới có thể đưa phi tử vào tẩm cung gặp Hoàng thượng được.

Nghe ngữ điệu này của Chính Đức, y hiểu một thiếu niên mười sáu và một thiếu nữ mười bốn, tuy nói là Hoàng đế và Hoàng hậu nhưng chẳng qua cũng chỉ là đôi nam nữ trẻ tuổi thôi. Đôi vợ chồng son giận nhau, nhất định Hoàng hậu tìm mọi cách gây khó dễ với việc thị tẩm của Hoàng thượng, hòng ép Chính Đức phải cúi đầu. Nhưng với tính khí của mình, Chính Đức sẽ chịu xuống nước nói ngọt ư?

Mấy chuyện bí ẩncung đình này Dương Lăng cũng không tiện chen vào, nhất thời y cũng ấp úng không biết nói thế nào. Chính Đức ngó xung quanh một chút rồi ngượng nghịu thấp giọng: 

- Không giấu gì khanh, chuyện phòng the có cái lạc thú riêng của nó, nhưng mấy vị hậu phi của trẫm quá khô khan đi, trẫm... trẫm bỗng rất nhớ tám người nữ quan đã dạy trẫm nhân luân đại lễ khi làm đại hôn đó. So với bọn họ, mấy người nữ quan nọ đáng yêu hơn nhiều.

Dương Lăng nhìn hắn với ánh mắt kỳ dị, thầm nghĩ: "Trong sách sử nói rằng Chính Đức yêu thích những phu nhân đã có gia đình, chẳng lẽ... là do bệnh căn lưu lại từ lúc này à? Mấy người nữ quan dung mạo xinh đẹp đó đều mười tám mười chín tuổi, trước đó đã từng học qua thuật khuê phòng, Chính Đức đương nhiên là thích vui vẻ với những cô gái dịu dàng biết điều như bọn họ hơn là ba thiếu nữ ngây thơ mới mười bốn tuổi rồi.”

Dương Lăng lúng túng ho khan vài tiếng. Hoàng thượng chịu kể chuyện riêng tư thầm kín như vậy với y, đương nhiên đã coi y như tri kỷ có thể thổ lộ hết mọi tâm sự, nhưng mình có thể giúp đỡ gì đây?

Đúng vào lúc này, trước cửa bỗng vọng lại những âm thanh huyên náo kịp thời giải cứu Dương Lăng khỏi tình huống khó xử, y liền vội quay sang lão quản gia đang giữ cổng quát lớn: 

- Chuyện gì mà ồn ào vậy?

Cao quản gia liền vội chạy đến khom người đáp: 

- Hồi bẩm lão gia, Lý cử nhân làm ầm ĩ đến cửa tìm đại nhân, lão nô đã bảo hắn trong nhà có khách quý, ngày khác hãy đến nhưng hắn lại nói cái gì mà cho dù có mặt Hoàng thượng hắn cũng phải gặp mặt lý luận với đại nhân một phen.

- Lý cử nhân? Lý cử nhân nào vậy? 

Dương Lăng lấy làm khó hiểu, những người mình quen biết đâu có lão gia cử nhân nào đâu ta?

Cao quản gia ngẩng đầu trộm nhìn Hoàng thượng đang cải trang vi hành một chút rồi nhỏ giọng nhắc: 

- Chính là... là... vị hôn phu của Văn Tâm tiểu thư ạ...

- À, là hắn!

Dương Lăng thoáng giật mình, kế đó bừng giận, mặt thoáng đỏ lên. Ngày đó kẻ hủy hôn là hắn, tung tin bịa đặt nói y và Cao Văn Tâm làm ra những chuyện hạ lưu, rõ thật sao có thể thế được. Hắn còn dám tìm đến cửa nhà mình, cho dù mình thật sự muốn Văn Tâm đi nữa thì hắn dựa vào thân phận gì để gây gỗ chứ?

Chu Hậu Chiếu nghe vậy thì đảo mắt nghi ngờ hỏi: 

- Vị hôn phu của ai đánh đến cửa vậy? Dương thị độc, khanh ... khanh cưỡng bắt dân nữ hay sao?

Hoàng thượng đã hỏi không thể không đáp, Dương Lăng giậm chân đáp: 

- Hoàng thượng! Chính là con gái của Cao thái y năm xưa. Hoàng thượng ban thưởng nàng ta cho thần, phụ trách chữa trị cho vợ thần. Vì thân phận nàng ta là gia nô nên người trước đây đã đính hôn với nàng ta là Lý cử nhân đã huỷ hôn, không biết sao y còn cố đến nhà gây chuyện.

Chính Đức tỉnh ngộ bèn bảo: 

- Ồ, té ra là cô ta! 

Hắn nghe kể người đã huỷ hôn lại đến nhà Dương thị độc kiếm chuyện gây hấn thì không khỏi sinh lòng hiếu kỳ, liền nói tiếp: 

- Đi, đi xem sao! Xem hắn có gì muốn nói. Nếu như vô lý sinh sự thì sẽ cho hắn một trận.

Chính Đức đi trước dẫn đường, Dương Lăng vội theo sau, Lưu Cẩn và Thành Khởi Vận cũng dẫn theo đám thị vệ đuổi theo. Mọi người chạy đến cổng, chỉ thấy hai tay gia đinh đang chặn một người vận áo dài xanh khoác áo kép hoa tròn, dáng người mập mạp, tuổi trạc ba mươi, mặt đen chữ điền, hai hàng ria đen trông rất oai nghiêm.

Dương Lăng quan sát một chút, thấy sau lưng hắn còn có hai người thanh niên tuổi hơn hai mươi, ăn mặc phong phanh giản dị hơn, thì không khỏi lấy làm lạ hỏi: 

- Quản gia, Lý cử nhân đâu?

Lão quản gia còn chưa đáp lời, người mặc áo dài xanh nọ bỗng giận tím mặt, quát to: 

- Tên họ Dương kia, đừng khinh người quá đáng! Cho dù ngươi là mệnh quan triều đình đi nữa cũng không thể khinh thường ta như vậy?

Đoạn hắn lùi một bước, cuối xuống phủi phủi áo rồi lại khinh miệt liếc qua Dương Lăng, vênh mặt lên trời, ngạo nghễ: 

- Sĩ tử thi Hương năm Hoằng Trị thứ mười lăm Lý Kế Mạnh chính là tại hạ!

Dương Lăng trợn mắt kinh ngạc nhìn hắn. Đây chính là vị hôn phu của Cao Văn Tâm sao? Tướng mạo xấu xí cũng không sao, nam nhân xem trọng người tài mà, nhưng tuổi tác này... chẳng phải người thời này đều tảo hôn sao?

Dương Lăng chắp tay lắp bắp chào: 

- Hoá ra... huynh đài chính là Lý cử nhân, thất kính thất kính.

Lý cử nhân phất tay áo, hậm hực: 

- Không dám trèo cao!

Tuy bị mắng tét tát song Dương Lăng lại không cảm thấy tức giận. Y biết những kẻ mọt sách này rất xem trọng thành phần xuất thân, mình chỉ là tú tài năm Hoằng Trị thứ mười lăm, còn người ta là cử nhân, thua kém một cấp. Nếu không phải vì mình có địa vị cao thì quả thực khi gặp nhau, mình sẽ phải bợ đỡ người ta mất rồi.

Y cười trừ, đổi giọng hỏi: 

- Lý gia thôn và Cao Lão trang là láng giềng lân cận, có điều Dương mỗ mới dọn đến không lâu, vẫn chưa có dịp kết giao với quý láng giềng các hạ đây. Chẳng hay hôm nay Lý cử nhân đến viếng là có việc gì?

Lý cử nhân giận đến run tay, hắn trợn mắt nhìn Dương Lăng một hồi lâu rồi mới tức giận nói: 

- Học sinh là môn đệ thư hương, quan hoạn thế gia, cớ sao Dương đại nhân khinh học sinh đến vậy? Cao gia mạo phạm thiên nhan, vốn phải bị xử tử cả nhà!

Rồi hắn ôm quyền hướng lên trời chắp tay, dõng dạc nói tiếp: 

- Thánh thượng nhân đức, chỉ giáng ả làm nô tỳ, Lý mỗ mang công danh trên người, sao có thể cưới một nữ tỳ về làm vợ? Mỗ huỷ hôn là việc thiên kinh địa nghĩa, ai dám nói không, ý tốt thành toàn của đại nhân, học sinh đã khéo lời từ tạ. Ả là nô hay thiếp ở Dương gia, đều không liên quan gì đến Lý mỗ. Thế mà cái con tiện tỳ này...

Dương Lăng nãy giờ kiên nhẫn lắng nghe, song nghe đến những lời vô lễ này, y lập tức bùng lửa giận, liền bước lên một bước, đanh mặt: 

- Ai là tiện tỳ? Cao Văn Tâm đã vào nhà họ Dương thì chính là người nhà họ Dương, há có thể mặc cho ngươi sỉ nhục như vậy?

Dương Lăng nắm đại quyền trong tay, sinh sát trách phạt chỉ xảy ra trong nháy mắt, lâu ngày tự tạo thành quan uy. Lúc này thần sắc nghiêm nghị, nét mặt và cử chỉ của y đều toát ra khí thế bức nhân.

Lý cử nhân không khỏi hoảng sợ lui lại mấy bước, nhưng vẫn ương ngạnh: 

- Chẳng lẽ một người đắc đạo thì gà chó đều được lên trời hay sao? Thân phận Cao Văn Tâm đang là quan nô, cho dù là tiểu thương tôi tớ, nông phu ruộng đồng đều có thể gọi ả là tiện tỳ. Cho dù đại nhân quyền khuynh triều chính thì ả vẫn là đứa tiện tỳ!

Sắc mặt Dương Lăng tím bầm, nhưng Cao Văn Tâm đúng là đang có thân phận tiện nô, địa vị ngang bằng với kỹ nữ thanh lâu, đó là sự thật không thể chối cãi. Lý cử nhân nhắm vào điểm này, y còn có thể cậy vào quyền thế để đòi mạng người ta hay sao?

Hoàng đế Chính Đức bó ống tay áo đứng trên bậc thềm, khoan thai bảo: 

- Lý cử nhân nói vậy là sai rồi. Ngươi đã biết là Hoàng thượng nhân đức, thế sao lại không biết Hoàng thượng đã hạ ân chỉ, tước bỏ tiện tịch* của Cao Văn Tâm? (*

thân phận ti tiện

Hiện nay nàng ta đã là thái y ngự tứ* chuyên chữa bệnh cho nhà họ Dương, là nữ quan có phẩm tước. Dám phỉ báng mệnh quan triều đình, ngươi hãy coi chừng đường công danh của mình đó! (*

được vua ban cho

Dương Lăng mừng rơn, y ngoái đầu nhìn Chính Đức, mắt tràn ngập sự cảm kích. Chính Đức mỉm cười, thấy y như vậy, lòng hắn cũng thấy rất vui.

Trước đây vì giận dữ mà hắn đã giết nhầm Cao thái y, về sau mới biết là thái giám bốc sai thuốc, hắn biết rằng mình đã giết nhầm người. Nhưng thân là thiên tử sao có thể nhận sai? Nên cũng chỉ đành đã đâm lao thì phải theo lao, nhưng hắn đã không còn oán giận gì nhà họ Cao nữa. Lúc này thấy Dương Lăng để ý đến việc một nữ tỳ bị sỉ nhục như vậy, y cũng lờ mờ đoán ra mấy phần tâm ý của y, đành thuận nước giong thuyền, đền bù cho sai lầm của mình lúc trước.

Có được câu nói này của Hoàng thượng, Dương Lăng cảm thấy yên tâm vô cùng, y liền bước tới một bước, sảng khoái cười nói: 

- Lý cử nhân, ngươi đã nghe rồi chứ? Niệm tình ngươi cô lậu quả văn, ta cũng không so đo việc hôm nay nữa, sau này ngươi còn mở miệng vô lễ, ta sẽ giao ngươi cho Thuận Thiên phủ, mời Học Chính đại nhân hỏi xem học sinh của lão có biết tôn ti trên dưới hay không!

Lý cử nhân chỉ mới có tư cách làm quan, nhưng Cao Văn Tâm lại đã trở thành quan viên đương chức, địa vị đương nhiên cao hơn hắn. Lý cử nhân ngạc nhiên nghi ngờ, không biết vị công tử đứng trên bậc thềm đó là người nào, tuy nhiên giả truyền thánh chỉ là tội đại nghịch, gã Dương Lăng cũng không dám bịa ra, vậy con tiện tỳ đó được ân chỉ này từ lúc nào?

Phải rồi, Dương Lăng là thân tín của Hoàng thượng. Hắn với con tiện tỳ đó có tư tình, đương nhiên sẽ cầu tình cho ả. Không ngờ con tiện tỳ này ôm hận trả thù, lại dùng sắc mê hoặc Dương Lăng, khiến hắn chia rẽ nhân duyên của mình. Chuyện này sao có thể bỏ qua?

Nghĩ vậy, Lý cử nhân vừa ghét vừa hận. Hắn nghiến răng, đành phải thuận theo: 

- Học sinh không biết, mong đại nhân thứ tội. Nhưng mà... học sinh và tiểu thư của Hữu đô ngự sử Lưu đại nhân hứa hôn đã ngăn trở đại nhân việc gì sao? Cớ sao đại nhân lại dùng quyền thế mà áp bức, khiến cho Lưu đại nhân trả lại sính lễ của học sinh?

Hữu đô ngự sử Lưu đại nhân? Là ai vậy? Dương Lăng vừa tức giận vừa thấy buồn cười, y thật sự không hề có hảo cảm gì với tên Lý cử nhân ngu đần cổ hủ hám danh lợi này. Nghe thấy hắn nói nay cũng đã nếm phải mùi vị bị người ta từ hôn, trong lòng y bất giác cảm thấy sảng khoái, nhưng trong ấn tượng của mình thì hình như mình không hề quen biết với ai là Hữu đô ngự sử à, sao lại đổ cái tiếng xấu này lên đầu mình vậy ta?

Lưu Cẩn đứng bên cạnh nghe, bỗng nhiên sực tỉnh ngộ: “Cái tên Lưu Vũ này, cái đứa con gái bà không yêu cậu không quý nhà ngươi đó gả được vào nhà nào thì gả đi, ngươi nghĩ Dương đại nhân rảnh để để ý đến cái chuyện xui xẻo này của ngươi à? Lúc ta nghe chuyện con gái ngươi đính hôn đã bép xép kể cho ngươi chuyện hiềm khích giữa Dương Lăng và Lý gia. Cho dù ngươi muốn vuốt đuôi ngựa thì cũng không cần phải làm như vậy chứ?”

Lưu Cẩn biết rằng một khi Dương Lăng bắt tay truy vấn thì nhất định y sẽ tìm đến Lưu Vũ để đối chứng, lão liền đảo tròng mắt, ghé vào tai Chính Đức nói nhỏ mấy câu...

Chương 162 Sóng Gió Trong Công Cuộc Cải Cách Nông Nghiệp.

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính: 

Nguồn: www.tangthuvien.com

Sau khi kiên nhẫn lắng nghe một hồi, rốt cuộc Dương Lăng cũng hiểu được đại khái sự việc. Hoá ra vị Lý cử nhân này cũng là con cháu quan lại, phụ thân từng làm Hữu thị lang bộ Công, có anh trai hiện đang làm quan của bộ Lại. Ba năm trước sau khi đỗ đạt, có công danh (*)Lý cử nhân mới đính ước chuyện hôn nhân. Sau khi từ hôn Cao Văn Tâm, được huynh trưởng tác hợp, hắn đã đính hôn với nhà Lưu ngự sử.

(*) có khi chỉ có nghĩa là thi đậu, có danh vọng (ví dụ đậu tú tài); ở đây vì đã đậu Cử hân nên được đưa vào danh sách chờ bổ nhiệm làm quan.

Không ngờ mấy ngày trước Lưu ngự sử lại đột nhiên sai người huỷ hôn. Hai nhà chưa lập hôn thú, chuyện này vốn cũng chẳng đáng chê trách gì, song Lý cử nhân lại nuốt không trôi, bèn tìm đến nhà để tranh luận phải trái. Lưu ngự sử chẳng nói gì nhiều, chỉ lạnh nhạt nói một câu tiểu nữ cứng đầu hư hỏng không dám trèo cao rồi đuổi hắn về.

Lý cử nhân bị hai tên gia đinh lôi ra khỏi cửa, nghe thấy bọn chúng trong lúc đóng cửa cười nhạo hắn đã đắc tội với Dương đại nhân của Nội xưởng mà còn vọng tưởng bám víu vào Lưu ngự sử. Do vậy hắn mới nảy lòng nghi ngờ Dương Lăng đã âm thầm gây chuyện phá đám, bèn tìm đến nhà để lý sự.

Dương Lăng nghe vậy mà bực cả mình, loại chuyện xúi quẩy này làm sao giải thích rõ ra đây? Y đảo mắt nhìn quanh, thấy đằng xa đã bắt đầu có nhiều thôn dân kéo đến xem náo nhiệt, bèn cười nhạt một tiếng rồi nói: 

- Dương mỗ xuất thân ở chốn hoang vu, trong nhà mấy đời làm nông, mãi đến đời Dương mỗ, may được Tiên đế và đương kim Hoàng thượng tín nhiệm mới giao cho trọng trách. Thiên ân tẩy rửa thân phận, kẻ làm bề tôi nào dám không tận trung báo đáp?

Dương mỗ thân là tổng đốc Nội xưởng, lo nghĩ cũng là cho cả đất nước. Nơi nào có kẻ phạm thượng gây loạn, nơi nào có quan lại tham ô phạm pháp, nơi nào có thiên tai nhân hoạ, cần cấp báo về cho vua hay thì Dương mỗ mới nhúng tay vào. Ngươi nghĩ bản quan là ông tơ bà mối của nhà họ Lý à? Ngươi cưới vợ cũng được, nạp thiếp cũng được, chuyện đó có liên quan gì tới bản quan?

Thân là cử nhân, ngươi nên biết rằng kiện cáo vu vơ, nhục mạ bản quan là có tội. Ngươi đã biết tội chưa? Niệm tình ngươi có được công danh không dễ, bản quan cũng không muốn so đo. Nếu như có bằng chứng, ngươi có thể đến phủ Thuận Thiên kiện bản quan phá hỏng nhân duyên, nếu như không bằng không chứng, vậy mời ngươi về đi cho.

Dương Lăng dùng khẩu khí mà Lý cử nhân trả lời lúc trước trả lại hết cho hắn, ngay sau đó quay sang nháy mắt với gia nhân. Hai tên gia nhân đã biết gã Lý cử nhân này bạc tình vô lễ với tiểu thư nhà mình, vốn đã không ưa, vừa thấy lão gia ra hiệu liền xông lên cắp nách đẩy hắn đi một mạch thật xa.

Lý cử nhân biết Dương Lăng xuất thân văn nhân, vốn còn tưởng đến nhà đấu lý lẽ một phen, ai ngờ Dương Lăng lại không thèm đấu khẩu mà sai người đuổi hắn về, thế là giận run người mắng: 

- Hổ thẹn cho kẻ văn nhân, thật sự là hổ thẹn cho kẻ văn nhân!

Dương Lăng cũng cảm thấy chán nản trong người. Chuyện này hoàn toàn không cách nào giải thích rõ ràng được, lại còn bị Hoàng thượng nhìn thấy. Nhưng giờ không phải là thời kỳ căng thẳng nên lại không thể điều phiên tử Nội xưởng về giữ cửa, e rằng sau này quan viên tới thăm càng lúc càng nhiều, bọn họ thấy được sự phô trương như vầy há chẳng sẽ chỉ trích mình sao?

Dương Lăng xoay người gượng cười nói với Chính Đức: 

- Hoàng thượng! Thần và láng giềng có chút hiểu lầm đã khiến Hoàng thượng chê cười rồi.

Chính Đức cười lớn đáp: 

- Vị cử nhân đó nghĩ khanh trộm búa(1) mà thôi, nào có liên hệ gì với ái khanh đâu? Được rồi, trời cũng không còn sớm nữa, trẫm phải về cung đây. 

Hắn vừa nói vừa cười, vẫy tay chào Dương Lăng đang đứng ngây người; gia nhân đã mở cửa hông dắt ngựa ra ngoài.

Hoá ra khi nãy Lưu Cẩn đã đem hết sự tình kể từ đầu đến cuối cho Chính Đức. Đúng là trong triều có người thân thì mọi việc cũng thuận lợi: bản thân Dương Lăng không thể biện bạch, có người khác giải thích giùm mình sẽ dễ khiến người ta tiếp nhận hơn.

Số lần Lưu Cẩn lui tới Dương phủ hơn xa Chính Đức, cho nên lão đã nghe chuyện Lý cử nhân hủy hôn từ trước. Ngày đó Lưu Vũ đem một tấu chương khá quan trọng vào triều, trong lúc tán gẫu đã đề cập đến chuyện cưới hỏi của con gái mình, Lưu Cẩn buột miệng kể lại vài câu, ai ngờ Lưu ngự sử này ghi nhớ trong lòng. Vì muốn tránh nảy sinh khúc mắc với Dương Lăng nên lão đã hủy hôn.

Phải nói vị Lưu Vũ này cũng là một kẻ khôn khéo. Tuy lão ta giao hảo với Tiêu Phương nhưng đám lão thần chính phái trong triều chỉ ghét cay ghét đắng Tiêu Phương mà lại rất khen ngợi lão. Đỗ tiến sĩ năm Thành Hoá thứ tám, trước tiên lão làm Tri huyện rồi thăng làm Ngự sử, lại từng làm Án sát sứ tỉnh Sơn Đông.

Về sau Đại học sĩ Lưu Kiện đề bạt lão làm Hữu thiêm đô ngự sử. Sau khi hoàng đế Chính Đức kế vị, Thượng thư Mã Văn Thăng của bộ Lại tiến cử lão lên làm Hữu đô ngự sử, kiêm Tổng đốc quân vụ Tuyên phủ, Đại Đồng và Sơn Tây, cũng là một vị đại thần có thực quyền trong triều.

Quan hệ giữa Lưu Cẩn và Lưu Vũ cũng rất tốt, nên Lưu Cẩn không nói thật với Chính Đức rằng Lưu ngự sử e ngại ân oán giữa Dương Lăng và Lý gia, mà chỉ nói vị ngự sử này nghe nói Lý cử nhân là kẻ ném đá xuống giếng (dậu đổ bìm leo), hoài nghi phẩm hạnh của hắn nên bèn hủy hôn. Chính Đức lại là kẻ đầu têu gây nên chuyện này*, nghe vậy đương nhiên chỉ cười bỏ qua. 

(*ý nói vì hắn nên Cao Văn Tâm mới bị phạt nô tịch và bị hủy hôn, dẫn đến ân oán hai nhà Dương-Lý)

Hiện Dương Lăng cũng chẳng có sức đâu mà lo bao đồng được nữa, bấy nhiêu quan viên trong triều còn đang tìm cách gây phiền phức cho y, kể chi là một tên cử nhân như thế này. Vả lại Cao Văn Tâm đã vì nhà họ Dương, vì mình mà bỏ ra rất nhiều công sức, mình mắc nợ nàng ấy rất nhiều.

Nay vì Lý cử nhân đến gây sự, Hoàng thượng đã mở kim khẩu ban cho Cao Văn Tâm kế thừa chức vị thái y của cha nàng, chẳng những mình đã thực hiện được lời hứa với nàng mà cũng đủ để nàng ấy an ủi linh hồn người cha già nơi chín suối.

Ngay khi đưa tiễn Chính Đức về, Dương Lăng phấn khích định chạy vào hậu viên. Luôn theo cạnh y, Thành Khởi Vận thấy thần sắc y như vậy liền khẽ thở dài bảo: 

- Đại nhân không cần phải vội! Vừa rồi lão quản gia đã sai người vào hậu viện báo tin rồi.

Dương Lăng "ồ" lên một tiếng, rồi cũng cảm thấy mình hơi nóng vội, y không khỏi ngượng ngập cười trừ: 

- Biết rồi thì tốt. Cô ấy vốn là thiên kim tiểu thư cao cao tại thượng, tuy nhà họ Dương chưa từng đối đãi với nàng ấy như thị tỳ, nhưng dẫu gì thì lớp thân phận ấy cũng khiến nàng ấy tự ti mãi. Giờ đây nỗi lòng của ta cuối cùng đã được giải quyết.

Nghĩ đến thân thế của mình, Thành Khởi Vận không khỏi cảm thấy xót xa, nàng lặng lẽ một lát rồi nói: 

- Văn Tâm tiểu thư tuy rằng bất hạnh, nhưng gặp được đại nhân là vận phước của nàng ấy.

Nói đến đây ánh mắt nàng trở nên mê mang, dừng lại một chút rồi nàng mới nhỏ nhẹ nói tiếp: 

- Nàng ta bị giáng thành quan nô, cha mình chết đi cũng không thể mặc áo chịu tang. Nếu đại nhân muốn giúp nàng một chút, vậy hãy lập linh đường cho Cao thái y trong nhà ngang ở dãy trước, rồi ngay mai cho phép thân quyến Cao gia đến phần mộ cúng tế cho tận lòng nhi nữ được không?

Dương Lăng mừng rỡ nhìn nàng tán thưởng: 

- Vẫn là phụ nữ tinh tế! Sao ta lại không nghĩ đến việc này nhỉ? Quản gia, lão quản gia...

*****

Phải xắn tay vào làm việc mới biết nó gian nan dường nào. Vốn Dương Lăng cho rằng khó khăn là ở chỗ làm sao thuyết phục bá quan đồng ý với việc giải trừ cấm biển, ai ngờ bản điều trần về việc thay đổi giống cây trồng mới đó đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của bá quan.

Mặc dầu hiện tại Dương Lăng và Bát Hổ đã có thực quyền hơn Lý Đông Dương, có thể nói là “quyền khuynh triều chính”, và việc hai người Lưu Tạ bãi quan rời triều cũng được đa số quan viên đón nhận với thái độ trầm mặc, nhưng những việc lớn có liên hệ đến quốc kế dân sinh và giang sơn xã tắc như thế này thì bá quan lại không hề cẩu thả qua loa.

Giống cây trồng mới có thích nghi để sinh trưởng tại các nơi trên Đại Minh hay không, sản lượng như thế nào, những việc này chưa biết rõ ngọn ngành thì ai mà dám mạo hiểm? Bản điều trần vừa được trình lên, lập tức “quần chúng” liền ùn ùn tấn công tới tấp, triều đình mới vừa được chút yên ả lập tức lại nổi phong ba.

May mà Tiêu Phương đa mưu túc trí, không hề ra mặt ủng hộ kiến nghị của Dương Lăng. Ông ta chỉ bày vẽ ý tưởng cho hảo hữu là chủ sự Trương Thái ở bộ Lại dâng tấu chương lên. Vốn lời nói của Trương Thái không có trọng lượng, cho dù hắn có bị người ta mắng cho té tát thì vẫn dửng dưng như không. Dẫu gì thì hắn chỉ là một viên quan bé tí bằng hạt đậu, cùng lắm là bị người ta mắng cho là tùy tiện lỗ mãng là cùng, không đến nỗi khiến cho đám người Dương Lăng, Lưu Cẩn và Tiêu Phương rơi vào thế bị động trên triều đình.

Dương Lăng nghe trình báo của Tiêu Phương xong thì không khỏi chau mày. Việc này bá quan không sai, cho thứ không rõ nguồn gốc trồng trọt đại trà rộng rãi khắp toàn quốc, ở bất cứ triều đại nào cũng đều là chuyện không thể xảy ra. Do mình biết rõ đặc tính của những thứ lương thực này cho nên mới có thể cho qua, nhưng liệu điều đó có thể được dùng làm chứng cứ thực tế để thuyết phục bá quan ư?

Dương Lăng nhìn sang Tiêu Phương. Thấy lão nhíu mày, tay vân vê chòm râu, vẻ như vô kế khả thi, y không khỏi cười ảo não. Trông bộ dạng đó của Tiêu Phương thì thứ này sản lượng cao hay thấp, có thích hợp để sinh trưởng hay không, e rằng lão cũng không tự tin cho lắm. Ngay cả bè đảng của mình còn chưa tin tưởng, khó trách bá quan lại cẩn thận như vậy.

Trầm ngâm hồi lâu, Dương Lăng mới từ từ nói: 

- Chúc Chi Sơn mà bản quan có nhắc đến với đại nhân lần trước hiện đã về Tô Châu mang giống cây và thợ trồng vào kinh rồi, tạm thời sắp đặt cho y đến Đào Nguyên tỉnh Hồ Nam nhậm chức tri huyện, thử trồng ở một huyện trước.

Tiêu Phương đáp: 

- Hay! Nhưng nếu chỉ trồng thử ở một huyện, cho dù có hiệu quả vẫn không thể chứng minh loại cây ngô và khoai lang này thích hợp với mọi đất màu mà.

Dương Lăng gật đầu: 

- Không chỉ như vậy! Mà như thế thì chuyện giải trừ bế môn tỏa cảng mau nhất cũng sẽ phải đợi đến sang năm. Cho nên năm sau nhất định phải có thu hoạch của một tỉnh, hơn nữa phải chứng minh được thứ này thích hợp sinh trưởng ở nhiều nơi. Lúc đó, hai vị đại học sĩ Lý Đông Dương và Dương Đình Hoà và những người cùng phe với bọn họ mới sẽ ra mặt ủng hộ ta.

Y nghĩ ngợi một chốc rồi nói tiếp: 

- Phó sứ Diêm vận ti Hải Ninh là Mẫn Văn Kiến trước đây chém chết vương tử Thát Đát, lại có công chống Oa, bảo người phe ta trong Ngự sử đài tạo chút thanh thế cho ông ta, thăng làm Phó chỉ huy sứ ty Chỉ huy sứ của Chiết Giang, để ông ấy phát động quân đội Giang Nam khai hoang, trồng thử ở những nơi cằn cỗi vùng đó trước.

Ngoài ra, chuyện nông canh không thể thiếu bộ Hộ. Chuyển Nghiêm Tung của Hàn Lâm Viện làm lang trung bộ Hộ, bảo y làm trung gian hoà giải mọi chuyện. Y chinh là cái vị hàn lâm cao gầy mà ngày trước đại nhân đến đã gặp đó.

Nhắc đến Nghiêm Tung, Dương Lăng không khỏi mỉm cười. Tính tình của vị “gian thần” nổi tiếng trong lịch sử này không ngờ lại cẩn thận thông minh. Mình hồi kinh lâu như vậy mà hắn vẫn chưa dám đến nhà thăm viếng, mãi đến khi trong triều yên ắng trở lại, thế lực của mình đã định hình, không còn có nguy hiểm gì nữa thì hắn mới chịu ló mặt. Có điều nếu hắn là người xem trọng quyền thế thì không sợ không có chỗ cho mình dùng.

Tiêu Phương liên tục gật đầu, âm thầm ghi nhớ. Dương Lăng chợt nhớ tới vị Trương Thái đáng thương đã thay y đứng ra làm bia đỡ đạn, bèn hỏi: 

- Trương Thái bị bá quan chỉ trích, hiện tại vẫn có thể trụ được chứ?

Tiêu Phương cười ôn hoà đáp: 

- Không sao! Có lẽ mấy ngày nay bá quan trong triều ấm ức đã lâu, nên lấy Trương Thái làm chỗ để trút giận mà thôi. Hắn chỉ là một chủ sự cỏn con, vua cũng thua thằng liều mà, đám người đó cũng không còn cách nào khác với kẻ phiền phức như hắn hết. Vả lại hắn và Lưu công công là đồng hương Thiểm Tây, rất được Lưu công công đánh giá cao, nếu lão phu không khuyên nhủ thì Lưu công công còn muốn thăng quan cho hắn nữa đó.

Dương Lăng không nhịn được cười to một tiếng, đoạn hỏi: 

- Người này có thể dùng không?

Sau một thoáng trầm ngâm, Tiêu Phương chậm rãi đáp: 

- Người này xuất thân tiến sĩ, khôn khéo có tài, tuổi tuy trẻ nhưng rất am hiểu lẽ quan trường. Lần này, trước khi dâng tấu thăm dò hắn đã từng quả quyết với lão phu rằng nhất định hắn sẽ bị bá quan công kích, đích thực nhãn quan hắn rất độc đáo. Có điều hắn tham tiền háo sắc, đó là khuyết điểm lớn nhất của người này.

Dương Lăng thở dài. Những kẻ mà mình có thể dùng đều là dưa sâu táo xấu, có được người thiếu đức nhưng có tài đã là hiếm lắm rồi, cứ cố mà dùng tạm thôi. Đợi khi tranh thủ được sự ủng hộ của Lý Đông Dương và Dương Đình Hoà thì khi đó mình sẽ có nhiều người để dùng. Y bèn quyết đoán: 

- Bản quan không dùng hắn thì Lưu Cẩn sẽ dùng hắn. Mượn cơ hội bá quan công kích mà giáng cho hắn làm Cấp sự trung bộ Hộ, ngoài giáng trong thăng(2), vị trí này không nằm trong tay chúng ta nhưng thực chất là để kiềm chế bọn họ.

Tiêu Phương đồng ý rồi nói: 

- Đại nhân vẫn nên lưu ý bộ Lại, nếu nắm quyền thăng chức bá quan trong tay thì mọi việc mới có thể thuận lợi, như cá gặp nước vậy. Hiện tại chúng ta chỉ điều chỉnh một ít quan viên nên Mã Văn Thăng vẫn chưa dám không nể mặt. Còn nếu đại nhân muốn phát triển thì không thể không bắt bộ Lại, bộ Lễ và bộ Binh phải nghe theo lời ngài.

Dương Lăng biết xưa nay lão vẫn không hợp với vị thượng cấp cũ đó, tuy là có ý tốt nhắc nhở y, song cũng có ý muốn mượn tay mình để trị Mã Văn Thăng. Nhưng mà Mã Văn Thăng tay nắm đại quyền, đức cao vọng trọng, hiện tại triều chính mới vừa yên ổn, vẫn chưa phải lúc thay đổi toàn bộ các cương vị quan trọng một lượt.

Vương Hoa của bộ Lễ là người theo chủ nghĩa trung dung, hành sự đều theo quy củ, đến giờ vẫn hoà thuận với mình. Hơn nữa, con trai lão vì đắc tội với Lưu Cẩn hiện đang bị nhốt trong lao, qua ít ngày nữa đợi Lưu Cẩn hết giận mình mở miệng bảo lão thả hắn ra, có được phần nhân tình này sẽ càng không sợ lão ấy làm khó mình.

Lưu Đại Hạ của bộ Binh tuy không xem trọng mình, nhưng đám võ quan của lão lại rất khách khí với mình, cộng thêm mình kiêm chức thống lĩnh thân quân thị vệ, ít nhiều cũng có thể can dự được vào chút việc của bộ Binh, nên trước mắt sẽ không cần thiết phải thu lấy nó.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng lắc đầu đáp: 

- Cứ từ từ thôi! Căn cơ còn chưa ổn định nên việc này không thể gấp được.

Đoạn y đứng dậy, mỉm cười: 

- Đi thôi, bản quan cùng đại nhân về thành. Muốn thuyết phục Hoàng thượng cho trồng thử trước ở một tỉnh thì bản quan không thể không vào cung một chuyến.

Ngồi trong kiệu Dương Lăng vén rèm lên, nhìn những mảnh ruộng tiêu điều của mình, lặng lẽ chìm vào tâm sự của bản thân: sau khi nắm quyền lớn trong tay Lưu Cẩn đã bắt đầu âm thầm tự đề bạt tâm phúc của lão mà không thông báo cho mình biết.

Lưu Cẩn biết chữ không nhiều, phê duyệt tấu chương cũng gặp không ít trở ngại. Nhưng bây giờ lão ta trọng dụng cháu rể của mình là Tôn Thông và một tên tú tài thi rớt tên là Trương Văn Hoảng, không ngờ "ba anh thợ giày"(3) này cũng bắt đầu phúc đáp tấu chương đâu vào đấy. Người này là kẻ có dã tâm nhất trong Bát Hổ, hiện tuy là đồng minh, nhưng không thể không đề phòng.

Sau này nhất định phải chú trọng việc thân cận với mấy người Trương Vĩnh và Cốc Đại Dụng. Mình không thể thường xuyên ở cạnh Hoàng đế, chỉ cần mấy đại thái giám có thể chung vai chung vế với Lưu Cẩn này cùng hội cùng thuyền với mình thì có lẽ Lưu Cẩn sẽ ngoan ngoãn nghe lời thôi.

Giờ đây nếu muốn trồng thí điểm ở một tỉnh, e rằng việc này sẽ còn phải phụ thuộc vào Lưu Cẩn. Không phải là lão mới vừa đề bạt một tay Hữu phó đô ngự sử tên là Tào Nguyên làm Bố chánh sứ Thiểm Tây sao? Nơi đó là cố hương của Lưu Cẩn, ý thức về quê hương của Lưu Cẩn rất nặng, chỉ cần mình biết dùng công danh lợi lộc dụ dỗ, lại có thân tín mà lão ta đề bạt ở Thiểm Tây làm chủ trì, thì việc phát triển giống mới tất sẽ là chuyện làm chơi ăn thật.

Dương Lăng thở ra một hơi, dưới tiết trời lạnh lẽo hơi thở của y hoá thành một làn sương trắng. Bên đường đã không còn bao nhiêu màu xanh, gốc liễu gốc hoè chỉ còn trơ lại những cành cây khô tàn lụi, xa hơn, mảnh đất màu mỡ sau đợt thu hoạch nay đã biến thành một vùng cằn cỗi.

Trong lòng Dương Lăng nóng bừng, nếu như trồng thử trong hoàng trang(*) này thì sao? Khoai lang lớn nhanh, loại củ này có thể trồng một năm ba vụ, sau năm sáu tháng đã có thể thu hoạch một số lượng lớn. Đến lúc đó, mình có lương thực chất thành núi để bá quan văn võ trong triều tận mắt chứng kiến, há chẳng sẽ có sức thuyết phục hơn miệng lưỡi ư?

(* xin nhắc lại: hoàng trang là thôn trang trực thuộc hoàng gia)

Thế nhưng ruộng đất thuộc hoàng trang cũng có địa chủ riêng, hoàng cung chỉ tự trưng thu thuế thóc không thông qua triều đình thôi; mình có thể thuyết phục được những địa chủ đó thay đổi trồng loại cây trồng sản lượng cao không? Dương Lăng suy nghĩ cặn kẽ một chút, vùng hoàng trang này được sở hữu bởi bảy đại địa chủ, trong đó nhà của Lý cử nhân chiếm mấy ngàn mẫu ruộng. Y có thể không cần phải lo lắng lắm về vị nhân huynh này, nhưng sáu vị địa chủ còn lại cũng đều là những người có bối cảnh, sẽ rất khó để thuyết phục, dùng thủ đoạn cứng rắn lại càng không khôn ngoan, nên làm thế nào mới tốt đây?

Dương Lăng suy nghĩ mãi cho đến khi đi vào kinh thành. Đến cổng cung, Dương Lăng và Tiêu Phương xuống kiệu, trình thẻ bài tiến cung. Tiêu Phương cáo từ trở về Văn Uyên các phê duyệt tấu chương, Dương Lăng đến cung Càn Thanh. Y thấy trong đấy vắng tênh, chỉ có mấy tên tiểu thái giám trực ban đang bó ống tay áo ngủ gật trên ghế.

Sau khi hỏi thăm bọn họ, Dương Lăng biết hoàng đế Chính Đức mới học được một vở hí kịch nên đã phấn khởi chạy đến hậu cung, mời hết Thái hoàng thái hậu, Thái hậu và các vị nương nương, công chúa xem đích thân mình lên sân khấu diễn.

Dương Lăng nghe mà dở khóc dở cười. Y ngồi đợi trong cung Càn Thanh một hồi, cảm thấy trong một khoảng thời gian ngắn nữa ắt Chính Đức vẫn chưa về bèn đứng dậy đi thẳng đến ty Lễ Giám. Tiểu thái giám giữ cửa nơi này từng theo Lưu Cẩn đến Dương phủ mấy lần, vừa thấy Dương Lăng đến liền vội tươi cười hành lễ rồi quay vào trong cao giọng báo: 

- Dương Lăng Dương đại nhân đến!

Dương Lăng cười bảo: 

- Có kêu to cũng không có bạc thưởng cho ngươi đâu, sau này ta đến không cần thông báo nữa.

Dương Lăng bước vào trong phòng. Kê sát vào bức tường đối diện là bộ bàn ghế mũ quan bằng gỗ lim(*), hai bên là thông phòng(4) được phủ rèm dày. Dương Lăng rẽ vào căn phòng bên phải, vén rèm bước vào, y thấy trong phòng châm bốn cây nến đỏ sáng trưng. 

(*http://image.big5.made-in-china.com/...D%E6%A4%85.jpg)

Trên chiếc giường đất kê một chiếc bàn lò bằng gỗ tử đàn, trên bàn sắp mấy chồng công văn. Lưu Cẩn đang tươi cười bước xuống giường xỏ giày, trông thấy y vào, lão liền cười lớn: 

- Dương đại nhân, ngài đến thật đúng lúc. Ta đang chuẩn bị ngày mai đến thăm ngài đây.

Dương Lăng cười nói: 

- Ta vốn không nghĩ công công sẽ ở đây. Nghe nói Hoàng thượng đang hoá trang diễn kịch trong hậu cung, còn đóng vai nữ nữa, công công không phải ở bên người hầu hạ sao?

Lưu Cẩn nghĩ đến bộ dạng hoang đường cải trang giả giọng làm con gái của tiểu hoàng đế Chính Đức thì cũng không khỏi bật cười. Lão xuống giường mời Dương Lăng ngồi rồi quay ra ngoài gọi: 

- Thằng nhóc không có mắt đâu rồi, mau dâng trà lên coi!

Đoạn lão quay đầu cười nói với Dương Lăng: 

- Bây giờ không giống như trước kia nữa rồi. Ta cũng muốn hầu hạ bên cạnh Hoàng thượng mọi lúc mọi nơi, có điều tấu chương cần chỉnh lý vẫn chưa xong. Đám quan viên nọ viết tấu chương cũng dài dòng hệt như hát tuồng vậy, lê tha lê thê, không đọc hết đến câu cuối cùng thì thật chẳng biết bọn họ muốn nói gì nữa, khiến người ta sốt ruột chết đi được. Hiện tại Mã Vĩnh Thành đang theo hầu Hoàng thượng đó.

Dương Lăng biết lão đọc những tấu chương đó không hiểu bao nhiêu. Thông thường lão sẽ mang chúng về nhà, trước tiên bảo tên tú tài mà lão rước về giải thích cho lão hiểu, sau đó lại mang kiến nghị của Lý Đông Dương, Tiêu Phương, Dương Đình Hoà ra cho cả ba người (thêm đứa cháu rể) vừa uống trà vừa thảo luận, sau cùng sẽ chọn xác nhận được xem là thích hợp nhất.

Những chuyện này là do Cốc Đại Dụng lúc đến thăm kể thành chuyện cười cho y nghe, đương nhiên Dương Lăng sẽ không nói toạc ra.

Hai người trò chuyện vài câu, Dương Lăng thấy trong phòng chỉ có hai người, thích hợp để khuyên lão trồng thử khoai lang ở quê nhà, bèn nói: 

- Bản quan có một chuyện muốn bàn bạc cùng công công.

Không ngờ cùng lúc Lưu Cẩn cũng nói: 

- Ta có việc muốn bàn bạc cùng đại nhân.

Hai người vừa nói xong, đồng thời cùng thoáng sững người, rồi cùng bật cười lớn. Dương Lăng xua tay cười nói: 

- Chuyện của bản quan nói ra thực hơi phiền phức. Công công có việc gì xin hãy nói trước cho ta nghe thử.

Lưu Cẩn vươn người nhón lấy một bản tấu chương dày cộp ở trên bàn rồi nói: 

- Hiện nay ta nắm giữ nội đình, không thể không có cống hiến gì cho triều đình. Đại nhân đề xuất việc giải cấm thông thương ích nước lợi dân, khiến ta có chút gợi ý, bèn trăn trở mấy đêm, nghĩ ra được một ít kiến giải bài trừ những tệ nạn hủ bại trong triều, muốn trình lên cho Hoàng thượng.

Dương Lăng sửng sốt, nhìn vẻ mặt nghiêm túc lẫn hưng phấn của Lưu Cẩn mà không dám cười, bèn ho khan vài tiếng rồi hỏi: 

- Không biết công công muốn đưa ra kiến nghị về phương diện nào?

Lưu Cẩn hăng hái: 

- Ta suy nghĩ ba đêm, tổng hợp những vấn đền liên quan đến năm bộ Lại, Hộ, Binh, Công, Hình, tổng hợp những mặt về luật pháp, liêm chính, trị lại, hộ tịch, đất đai, tiền lương đã đề xuất ra bốn mươi sáu kiến nghị.

Lão cười khiêm tốn nói tiếp: 

- Thật ra... còn có mấy kiến nghị khác nữa, có điều ta vẫn chưa nghĩ ra được biện pháp thích hợp cho nên chưa nêu ra.

Dương Lăng vất vả nuốt ngụm nước bọt, trợn mắt nhìn vị “tiên phong về cải cách” mà không mở miệng nói được câu nào.

Chú thích:

(1) Nguyên văn "nghi lân đạo phủ" (nghi: nghi ngờ; lân: láng giềng; đạo: lấy trộm; phủ: búa/rìu), tạm dịch nghi ngờ láng giềng trộm búa của mình. Truyện kể rằng có một người bị mất cái búa, nghi ngờ đứa con nhà hàng xóm lấy trộm, nên cảm thấy bất cứ hành động dáng vẻ gì của đứa bé nọ cũng đều đáng ngờ. Vài hôm sau, ông ta tìm lại được cái búa bị mất, thế là không còn cảm thấy thằng bé nhà bên cạnh giống như kẻ trộm cắp nữa. Truyện dạy ta rằng: chớ nên dễ dàng nghi ngờ người khác, cần phải có chứng cứ thiết thực.

(2) Nguyên văn "minh hàng ám thăng": bề ngoài chuyển làm một chức vụ bé hơn nhưng quyền hạn thực tế lại cao hơn.

(3) Trích từ câu nói "ba anh thợ giày bằng một ông Gia Cát Lượng": đại ý nói nếu không có cá nhân giỏi thì tập thể cũng có thể làm nên chuyện (giống như "ba cây chụm lại nên hòn núi cao" vậy).

(4) Hai phòng liên thông với nhau.

Chương 163 Cải Cách Của Lưu Cẩn

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Shandian

Hiệu đính: 

Nguồn: www.tangthuvien.com

Thấy bộ dạng há hốc kinh ngạc của Dương Lăng, Lưu Cẩn càng thêm đắc ý trong lòng. Luận về tâm ý thì gian thần chẳng qua là sự đánh giá của người khác về hành vi việc làm của người đó chứ bản thân gian thần lại không nghĩ như vậy. Sao Lưu Cẩn lại không muốn tạo nên sự nghiệp chứ? Chỉ là...

Dương Lăng cầm lấy bản tấu chương dày cộp từ tay Lưu Cẩn giở ra xem. Phải nói, tấu chương của Lưu Cẩn tuyệt đối không bị mắc phải khuyết điểm vừa dài vừa dở, không vòng vo tam quốc mà đi thẳng vào trọng tâm ngay. Đầu tiên nêu ra sự cồng kềnh của cơ cấu triều đình, chính lệnh không nghiêm, lạm dụng quyền lực để mưu cầu riêng tư, tình hình vi phạm pháp luật vô cùng nghiêm trọng, sau đó đề ra cải cách chính trị nhằm vào những tệ chính này.

Ví dụ: hiện tượng bổ nhiệm người mình, nịnh hót để thăng quan cực kỳ nghiêm trọng, quan viên đã từ lâu không còn tuân theo quy định "quan viên không được nhậm chức ở quê nhà". Sau khi lên ngôi Chính Đức từng dựa theo kiến nghị của Lưu Cẩn và Dương Lăng đề xuất lại việc này, sai bộ Lại chấp hành. Lưu Cẩn rất đắc ý với biện pháp đó, lần này bình mới rượu cũ, lão kiến nghị đưa nó vào điều luật triều đình làm thành một quy định khảo hạch quan viên.

Ví dụ khác, việc kiểm soát tiền lương địa phương xưa nay chưa được triều đình thực hiện một cách kỹ lưỡng cho lắm nên đã xảy ra hiện tượng kỳ lạ là: thuế khoá Đại Minh cực ít, thu nhập của quốc khố cực nhỏ nhưng bá tánh cùng dân lại kham khổ không thôi, nguyên nhân chính là vì triều đình giám sát bất lực để cho bên dưới tầng tầng bóc lột. Thế là (Lưu Cẩn) quyết định đề nghị biến việc quan viên bộ Hộ bất chợt kiểm tra kho lương các nơi thành một quy định mang tính thường xuyên và mỗi năm mười hai lần.

Bên cạnh đó còn có vô số những kiến nghị về coi trọng đo đạc ruộng đất, đả kích thương nhân buôn lậu, chỉnh đốn luật về muối, dùng cực hình trừng trị tham ô, giảm nhẹ gia tăng thuế khoá và lao dịch, quan văn chỉ huy quân đội,... chẳng những nêu lên vấn đề mà còn đề ra các biện pháp tương ứng cho từng vấn đề đó.

Dương Lăng xem kỹ lưỡng, bất giác lấy làm kinh ngạc. Trong đó có rất nhiều quan điểm đã chỉ đúng tệ nạn thực tế, nói đúng vanh vách. Có lẽ bởi vì bản thân Lưu Cẩn xuất thân bần cùng, “cố vấn” của lão lại là một tú tài thi rớt nhỏ nhoi nên rất nhiều vấn đề sau khi đến được triều đình thì đều bị che giấu nhưng không qua mắt bọn họ được.

Lưu Cẩn cười híp mắt nhấp trà nhẫn nại chờ Dương Lăng đọc xong rồi mới hỏi:

- Dương đại nhân, ngài thấy những chính sách này của ta có thể thực hiện được không?

Tuy là lão hỏi Dương Lăng song lại đắc chí chờ Dương Lăng khen ngợi. Có rất nhiều điểm trong sách lược của lão chính xác nhưng để thật sự thi hành thì riêng việc chọn lựa quan viên chấp hành đã là một vấn đề lớn.

Ví dụ như chính sách dùng cực hình để hạn chế tham ô, lúc Dương Lăng đọc đến đó liền cảm thấy buồn cười. Sau khi Lưu Cẩn làm nội tướng thì chính lão đã thu nhận không ít lễ vật, hơn nữa cũng như ngoại đình nghi kỵ nội đình thì chính Lưu Cẩn cũng không hề tin tưởng ngoại đình, nếu để cho đồng minh của mình là Đông Xưởng chấp hành thì thử hỏi một đám lưu manh côn đồ chỉ biết doạ dẫm bắt chẹt dân đen nay làm việc dẹp trừ tham ô sẽ có hiệu quả gì?

Có điều Dương Lăng tán đồng chính sách đổi mới việc đo đạc ruộng đất, dựa vào số lượng điền địa để nộp thuế. Lúc còn ở Kê Minh y từng gặp phải loại chuyện kỳ lạ này: có những hộ gia đình lúc Đại Minh lập nước là địa chủ nhưng nay đã trầm luân thành bần nông thế nhưng số ruộng đất ghi trong sổ sách của triều đình lại vẫn dựa theo cả trăm năm trước rồi cứ thế mà thu thuế, thiếu điều bức con nhà người ta phải thắt cổ tự tử.

Còn chính sách cho phép quan văn lĩnh binh thì Dương Lăng kiên quyết phản đối. Chẳng qua y biết Lưu Cẩn làm vậy là xuất phát từ suy nghĩ bảo vệ quân quyền. Hiện tại Dương Lăng đã không còn là thằng nhóc mới vào kinh không biết gì nữa, y sẽ không tranh cãi kịch liệt với người khác về sự non nớt về quan trường của họ. Sau khi nghe Lưu Cẩn hỏi xong, y trầm ngâm một chốc rồi thở dài nói:

- Phần lý luận này của công công quả thật rất có lý, tuy nhiên... để thực hiện sẽ có điều khó khăn à.

Lưu Cẩn thấy y tán đồng, trong lòng mừng lắm, về phần khó khăn... lão vô cùng lạc quan. Tít mắt cười, lão hỏi:

- Đại nhân, ngài thấy ta trình bản tấu chương này lên cho Hoàng thượng có được không?

Dương Lăng vội vàng ngăn cản:

- Ờm... có vài vấn đề nhỏ. Ví dụ như, công công cho rằng bộ Hộ nên điều tra tiền lương các nơi mỗi tháng một lần. Tần suất này... là hơi nhiều đó. Người sẽ không chịu nổi mệt mỏi dong duổi đường dài, mà tốp quan viên thứ nhất rời kinh còn chưa về thì tốp thứ hai đã phải đi tiếp rồi. Hơn nữa thuế thóc đa phần là thu theo năm, kiểm tra nhiều lần, quan viên địa phương bận lo nghênh đón tiễn đưa nào còn thời gian để xử lý chính vụ?

Lưu Cẩn nghe xong gật đầu lia lịa:

- Phải à phải à, ta quên mất thương khố các nơi không nằm trong kinh. Sửa lại thành một năm hai lần vậy.

Đoạn lão cầm tấu chương lên đánh dấu rồi hỏi tiếp:

- Còn chỗ nào chưa ổn thoả nữa không? Xin Dương đại nhân chỉ giáo thêm.

Dương Lăng chỉ vào chính sách quan văn lĩnh binh và nói:

- Khi còn ở Kê Minh, vị ngự sử đại nhân thân là văn nhân không hiểu việc quân song lại can thiệp vào việc hành quân bố trận, hại khiến đại quân bị vây ở Hồ Lô cốc cuối cùng táng thân trong loạn quân, công công cũng đã cảm nhận tác hại của nó mà. Công công xem, chỗ này nói là cử quan văn quản lý toàn bộ cửu biên: trấn giữ hay tuần tra cũng đều nằm dưới sự quản lý của bọn họ. Quả như giặc Thát lại tới tập kích biên giới lại để một quan văn đứng ra chỉ huy bậy bạ thì đại sự há chẳng hỏng ư?

Lưu Cẩn nghe vậy thì mặt đỏ bừng. Lần đó lão cũng là một trong những kẻ nói bậy nói bạ cuối cùng lại để Hà tham tướng gánh lấy oan ức, trong lòng lão cũng biết kẻ ngoài nghề chỉ trỏ loạn xạ sẽ rất không ổn. Điều khoản này là do muốn biểu thị lòng thành mà tay tú tài đó đã tự chủ trương thêm vào cho lão.

Lưu Cẩn cầm bút gạch chính sách này đi rồi hỏi:

- Đại nhân nói đúng lắm, còn gì nữa?

Dương Lăng chỉ vào chính sách "phạt gạo" (1) nói:

- Việc phạt gạo này, Dương mỗ lo rằng...

Lưu Cẩn không cho là đúng bèn nói:

- Đây la việc cần thiết. Năm Hồng Vũ, tham ô sáu mươi lạng đã bị lột da nhồi cỏ, ta phạt gạo thay cho bạc đã là nhẹ lắm rồi. Trừng trị quan lại hủ bại tất phải dùng hình phạt nặng thôi.

Mặt như cười nhưng không phải cười, Dương Lăng nói:

- Ngoài ra thì không còn vấn đề gì nữa. Nhưng mà... có lẽ công công không nên nóng vội.

Lưu Cẩn nghĩ rằng Dương Lăng có ý tranh công, sợ chính sách của mình có hiệu quả, cho nên nghe vậy chỉ cười cười song lại bỏ ngoài tai lời của y. Dương Lăng biết Lưu Cẩn mới được thăng quan nên khó mà khuyên bảo lão kiềm chế lòng nhiệt tình đó, hơn nữa hiện tại lão đang nắm giữ trung khu nội đình, quyền lực cao hơn mình nhiều nên nếu mình mà tấu lại những điều trên trước mặt Hoàng thượng thì chỉ sợ Lưu Cẩn sẽ càng phản đối kịch liệt hơn.

Dương Lăng nhớ lại năm xưa Hoàng Kỳ Dận vì dâng tấu khuyên cắt giảm quan viên mà rơi vào tình cảnh đáng thương thế là không khỏi liếc mắt nhìn Lưu Cẩn một cách thương hại. Tuy không thể đánh đồng người này với Hoàng Kỳ Dận vốn chỉ là một ngự sử bé cỏn con, nhưng cách làm cấp tiến này của lão nhất định sẽ đắc tội với vô số quan viên. Mặc dù những quan viên đó sẽ không dám chống đối trước mặt, song qua lâu ngày, cát vụn rồi cũng ngưng tụ thành sỏi đá, đến khi đó... Dương Lăng khẽ lắc đầu.

Lưu Cẩn lại nhìn tấu chương trong tay mình một cách yêu thích một chút rồi hỏi:

- Đúng rồi, đại nhân đến tìm ta có phải là chuyện gì quan trọng?

Dương Lăng cười đáp:

- Đúng vậy, Dương mỗ tìm được hai giống cây trồng của dị quốc, chống hạn và sản lượng tốt hơn giống cây hiện tại của Đại Minh, cũng ít bị sâu bệnh hơn. Chỉ là... muốn mở rộng trồng trọt thì phải trồng thử ở một số nơi trước, đồng thời nuôi cấy ra một số lượng hạt giống và đào tạo một đám nông phu biết trồng trọt. Bản quan đã chọn ra ba nơi là Hồ Nam, Tô-Hàng và kinh sư, mỗi nơi một huyện để trồng thử. Thật ra bản quan biết rõ hiệu quả của giống cây trồng này, việc làm này chẳng qua là để cho bá quan trong triều được an tâm. Trước mắt thì loại ngô tạm thời chỉ đủ trồng thử ở vài nơi thế nhưng dây khoai lang lại rất dễ sinh trưởng, một củ khoai có thể nuôi trồng ra mấy mẫu khoai. Thiểm Tây hoang vu mà mười năm thì có hết chín năm hạn hán, năm nào cũng có bá tánh chết đói vì thiên tai, do đó bản quan muốn bàn bạc với Lưu công công cho gieo trồng toàn bộ đất đai tỉnh Thiểm Tây, ngoại trừ ruộng nhất đẳng nhị đẳng vẫn tiếp tục trồng trọt hoa màu cũ thì còn lại đất cằn, đất hoang trên triền núi và đất mới khai hoang đều cho trồng khoai hết, đến lúc đó bá tánh không còn phải chịu cảnh chết đói tất sẽ cảm kích ơn đức của công công. Không biết ý của công công thế nào?

Lưu Cẩn nghe xong tim đập thình thịch, nếu thật sự có hiệu quả kỳ diệu bậc này vậy sẽ cứu sống được vô số bá tánh quê nhà rồi. Họ Lưu mình còn không trở thành đức Phật sống của vạn nhà sao? Lần này về quê thăm nhà...

Lưu Cẩn nghĩ ngợi một chút, rồi cẩn thận hỏi lại:

- Dương đại nhân, giống cây này thật sự thích nghi để trồng à? Nếu không thu hoạch được, khi đó có trồng những loại cây hoa mầu khác thì mùa vụ đã lỡ mất rồi. Hương thân của cả một tỉnh Thiểm Tây.... sao chúng ta không chọn một nơi trồng thử, chờ xác minh hiệu quả rồi mở rộng cũng không muộn mà.

Dương Lăng bèn giải thích:

- Lưu công công nói vậy không sai. Có điều bản quan biết rất rõ giống cây này, nếu trơ mắt chờ đến năm sau thì chẳng những sẽ có nhiều bá tánh chịu khổ mà đại kế giải cấm thông thương của chúng ta cũng bị ảnh hưởng lây. Huống hồ chúng ta chỉ chọn ra vài vùng đất bần cùng hẻo lánh thu hoạch kém và đất đồi, đất hoang, ảnh hưởng đối với cả tỉnh Thiểm Tây sẽ là rất nhỏ. Bản quan đã có tính qua thu hoạch năm ngoái của những vùng đất cần thay đổi giống cây trồng này. Nếu như công công cho phép, bản quan sẽ thu mua số lương thực tương ứng chuyển về Thiểm Tây, phân phát cho bá tánh chấp nhận trồng trọt giống cây trồng mới trước đã, như vậy bọn họ sẽ không phải lo lắng về sau, như vậy thì không có ai phản đối nữa, đợi đến khi được mùa rồi mới đổi ra lúa gạo để trả lại, công công thấy thế nào?

Lưu Cẩn vừa nghe thấy có biện pháp đảm bảo thu hoạch như vậy thì lập tức tán thành ngay:

- Được, một lời đã định. Nếu đã như vậy mong đại nhân hãy chuẩn bị sớm, chốc nữa ta sẽ thông tri cho Bố chánh sứ của Thiểm Tây là Tào Nguyên, sau khi đại nhân chuyển hạt giống và thợ trồng trọt đến rồi cứ bảo y ra sức phối hợp là được.

Hai người đang bàn bạc trong phòng, bên ngoài chợt có giọng của một tiểu thái giám vọng vào:

- Đây là vị tỷ tỷ của cung nào vậy, sao lại tùy ý xông vào... Ối chết, ối mẹ ơi, nô tài tham kiến Hoàng thượng!

Bên ngoài vang lên một tiếng "bộp" liền sau đó rèm cửa được gạt ra, một người con gái áo hồng rảo bước xông vào, đứng giữa phòng khách, hai tay khoanh trước ngực mắng:

- Tức chết mất thôi, thật không ở được thêm được ngày nào trong cái hoàng cung này nữa. Ai cũng thấy trẫm không vừa mắt, trẫm nhìn người nào... cũng thấy không vừa mắt.

Phát tiết xong, trông thấy Dương Lăng, “mỹ nhân” đó mới phất ống tay áo, cả tiếng nói:

- Dương thị độc đến đây à? Sao không kêu nội thị đi báo với trẫm?

Lưu Cẩn ra vẻ điềm nhiên nhanh nhẹn quỳ xuống đất thưa:

- Nô tài bái kiến Hoàng thượng.

Dương Lăng nhìn thấy “mỹ nhân” mặc đồ cung nữ áo hồng nhạt đó thì ngẩn ra thật lâu. Vị “cô nương” này có cặp mắt xinh đen láy, má đào mặt trắng, mũi thẳng dọc dừa, eo lưng bó chặt, bộ ngực nhởn nhơ mỹ lệ cao vút, trong lúc nói chuyện cây thoa cài trên mái tóc đen dày đong đưa qua lại, trông có sáu phần giống công chúa Vĩnh Phúc.

“Mỹ nhân” thấy Dương Lăng đứng ngây ra thì không nhịn được mà bật cười rồi khẽ xoay eo giơ ống tay lụa (2) che miệng, “e thẹn” nói:

- Dương đại nhân thật vô lễ quá đi, sao lại nhìn nô gia như vậy?

Dương Lăng nghe mà cảm thấy buồn nôn, lúc này y mới nhận ra vị cô nương xoay người ra vẻ ngượng nghịu chính là hoàng đế Chính Đức cải trang, xem ra hắn còn bỏ rất nhiều công sức nữa; tay áo giơ lên, ánh mắt đong đưa, điệu bộ và tác phong trên sân khấu ấy... oẹ...

Dương Lăng dở khóc dở cười vái lạy:

- Thần Dương Lăng tham kiến Hoàng thượng.

Lúc này rèm cửa lại được vén lên, một người nữa lại xông vào, cất giọng nhu mì như hoàng oanh:

- Hoàng huynh, hoàng huynh, huynh đổi lại y phục...

Chắc người đó cũng thấy có ngoại thần ở đây nên lập tức ngưng lời. Dương Lăng khẽ ngẩng lên, chỉ thấy trước mặt là một chiếc váy màu vàng nhạt dài chấm đất, phía trước thoáng lộ ra hai mũi giày tinh xảo, mũi có thể ngửi được mùi thơm cực phẩm nhàn nhạt.

Dương Lăng thầm nghĩ: "Hoàng huynh? Đây là vị công chúa nào nhỉ?"

Chính Đức "hừ" một tiếng rồi nói:

- Kêu cái gì mà kêu, lâu lâu diễn vở kịch cho vui vẻ một chút thôi mà, có gì mất mặt chứ. Trong nhị thập tứ hiếu còn có người mặc áo màu đùa giỡn làm vui cha mẹ (3), trẫm làm như vậy không phải là diễn cho Thái hoàng Thái hậu và Hoàng thái hậu được vui sao? Dương khanh, đứng dậy đi. Đây là hoàng muội Vĩnh Phúc. Không cần giữ lễ.

Dương Lăng liền vội dập đầu thưa:

- Thần Dương Lăng bái kiến trưởng công chúa điện hạ!

Hai mũi giày đó khẽ rút về sau, ẩn mình vào trong chiếc váy vàng sóng sánh như nước trên mặt hồ. Sau đó một giọng nói mềm mại nhỏ nhẹ cất lên:

- Bình thân.

Đây là lần đầu tiên Dương Lăng quỳ gần nàng ta như vậy. Thường ngày y quỳ với Hoàng đế đều giống như đóng kịch cho người khác xem, hết sức tuỳ tiện nhưng với công chúa người ta thì y lại không dám sơ suất. Dương Lăng lúng túng đứng dậy rồi liếc nhanh nàng ta một cái. Mấy tháng không gặp, Vĩnh Phúc như chồi non đã nhú ra khỏi mặt đất, dáng người thướt tha trông đã cao hơn.

Nàng có vẻ thích mặc đồ màu vàng. Hôm nay vẫn là một bộ cung trang màu vàng óng, tóc mây lượn lờ, mày đậm như tranh, mắt sáng tựa sao, mặt như tranh vẽ nhưng vẻ mặt và khí chất đã dè dặt hơn một chút so với vẻ ngây thơ lúc đầu gặp mặt.

Nàng đang ôm trong tay bộ long bào và kim quan (mũ vua), ánh mắt vừa chạm với Dương Lăng liền vội rời đi. Nàng quay sang dịu dàng nói với Chính Đức:

- Hoàng huynh, Thái hoàng thái hậu cũng chỉ có ý tốt mà thôi. Huynh là vua của một nước, lên đài diễn kịch đùa vui một lát cũng được thôi, dù sao cũng là ở trong cung. Nhưng huynh lại muốn cải trang làm nữ nhân, đừng nói là Thái hoàng thái hậu nhìn không vừa mắt mà huynh không thấy vẻ mặt của mẫu hậu cũng không vui đó sao?

Chính Đức hậm hực nói:

- Thật là xui xẻo. Lần tới diễn hí khúc trẫm không mời bọn họ đến nữa là được. Cả hoàng hậu và quý phi nữa, không mời ai cả - Y vừa bực bội nói vừa cởi đai lụa quấn eo, cởi bộ cung trang màu hồng nhạt ra. Lưu Cẩn vội vàng bò qua giúp y mặc đồ.

Dương Lăng thấy Chính Đức lấy dây tơ nhiều màu buộc thành hai bó trước ngực, căng lên trông giống như bộ ngực cao vút thì không khỏi ho khan vài tiếng nén cười rồi khuyên nhủ:

- Hoàng thượng, người chẳng qua nhàn rỗi tìm ít trò để giải sầu, đương nhiên không phải là không được, nhưng dù sao người vẫn là thiên tử cao cao tại thượng, nếu để truyền vào tai ngoại đình thì thực sẽ kinh hãi thế tục, đi ngược với đạo lý đó. Hoàng thượng hãy nghĩ thử, đừng nói là người, cho dù là thần nếu cải trang thành con gái rồi mở tiệc diễn kịch trong nhà thì một khi truyền ra e rằng tấu chương hặc tội của bá quan sẽ lập tức được trình lên, không bãi chức quan của thần mới lạ đó.

Chính Đức cười ha hả, sau đó nhìn đánh giá y mấy lượt rồi cười nói:

- Khanh dám làm vậy sao. Ấu Nương... phu nhân người mà không nổi giận thì mới lạ. Có điều... khanh mà cải trang nhất định không xinh đẹp bằng ta.

Công chúa Vĩnh Phúc thoáng liếc Dương Lăng, tưởng tượng bộ dáng ăn mặc trang phục phụ nữ của y nhịn không được liền bật cười rồi lập tức cảm thấy hơi thất thố nên mặt đẹp đỏ bừng.

Dương Lăng dở khóc dở cười phụ họa:

- Phải phải phải, đương nhiên là Hoàng thượng người xinh... à không... người anh tuấn tiêu sái. Không phải vậy sao, người cũng biết vợ thần sẽ nổi giận, vậy người hãy nghĩ xem Thái hoàng Thái hậu, Thái hậu, hoàng hậu và quý phi nương nương làm vậy không phải là vì yêu tiếc thanh danh của người ư?

Nghĩ ngợi một chút, Chính Đức cười xòa, nói:

- Ừm, nghĩ như vậy thì trẫm không giận nữa. Ha ha, Lưu Cẩn, chốc nữa hãy gọi Mã Vĩnh Thành tiến cống vào cung của Thái hoàng Thái hậu và Thái hậu mỗi nơi trăm cuộn lụa tơ, mười cân trà quý, còn chỗ của hoàng hậu và quý phi thì... cũng ban thưởng một chút, giảm một nửa là được.

Chính Đức đã đổi mặc long bào, Lưu Cẩn dìu y ngồi lên ghế và nhanh nhẹn sửa tóc cho y. Thấy trên mặt y vẫn còn son phấn, Dương Lăng liền lấy trong người ra một chiếc khăn tay song vừa lấy ra liền rụt vội về như chạm phải lửa: y sực nhớ ra chiếc khăn tay này là đồ của công chúa Vĩnh Phúc.

Công chúa Vĩnh Phúc tinh mắt, nàng đã nhìn thấy động tác của y, bốn chữ "Vĩnh Phúc Tú Ninh" hình đoá hoa mai thêu ở góc khăn vẫn còn đó, nàng sao không nhận ra. Con tim thiếu nữ của tiểu công chúa lập tức đập thình thịch. Nếu bị hoàng huynh phát hiện thì nguy mất, biết giải thích làm sao đây. Vị Dương đại nhân này thật là... sao y còn cất mang trên người vậy chứ.

May thay Chính Đức không hề phát hiện. Y vừa ngửa đầu cho Lưu Cẩn sửa tóc vừa hỏi:

- Dương thị độc, hôm nay vào cung trễ như vậy có phải là có chuyện muốn nói với trẫm không?

Dương Lăng bước tới một bước đáp:

- Dạ phải. Hai loại cây trồng mà thần từng bẩm tấu với Hoàng thượng dễ sinh trưởng vô cùng, có điều bá quan trong triều vì cẩn thận nên đã kiến nghị trồng thử ở vài nơi trước. Thần đã chọn được vài địa phương nên khi nãy đã bàn bạc với Lưu công công...

Y vừa nói vừa giấu tay ra sau lưng lắc lắc. Công chúa Vĩnh Phúc mím môi, nhón chân, rón rén gót ngà rồi thò tay chụp nhanh đoạt lấy chiếc khăn đó về.

Dương Lăng báo với Chính Đức về việc chuẩn bị trồng thử tại hai vùng nam bắc nơi có hoàn cảnh khí hậu bất đồng, kết hợp tập trung trồng thử ở vùng đất cằn và triền núi ở Thiểm Tây, do Nội xưởng cung cấp vốn riêng và bảo hộ thì ngón tay sau lưng thoáng giật lên, cảm giác như chiếc khăn lụa mềm mại đó đã bị người ta kéo mất, Dương Lăng không khỏi âm thầm thở phào nhẹ nhõm.

Liền sau đó y chợt thấy gót chân mình bị người ta đá một cái. Y ngẩn ra, bên cạnh thoảng qua một làn gió thơm, tiểu công chúa Vĩnh Phúc đã thướt tha uyển chuyển đi đến bên cạnh Chính Đức, xoay người đứng im, sắc mặt như cười nhưng không phải cười, hàm răng trắng tinh thấp thoáng sau cặp môi anh đào, ánh mắt dịu dàng song lại không liếc y lấy một cái.

Dương Lăng thoáng có một cảm giác kỳ quái. Vẫn tưởng vị tiểu công chúa này thanh tao nho nhã mà hoá ra thiếu nữ trên thế giới ai nấy đều có tính cách như vậy, cho dù cô nàng có là con gái của vua.

Chính Đức nghe Dương Lăng nói được một nửa liền bị cái gì mà ươm giống, trồng cây, cái gì mà thổ nhưỡng nước nôi sâu bệnh làm cho váng cả đầu. Tuy rằng lên làm hoàng đế thì hắn cũng từng ‘canh tác’ khi tiến hành tế Trời tại Thiên Đàn nhưng thật ra ngay cả hoa mầu và cỏ dại hắn còn không phân biệt được thì sao có hứng thú với mấy chuyện này. Có điều hắn rất tín nhiệm Dương Lăng và Lưu Cẩn, nếu như hai người này đều đã đồng ý vậy thì còn có gì để nói nữa.

Chính Đức bèn khoát tay bảo:

- Được, vậy cứ theo các khanh. Lưu Cẩn soạn chỉ bảo Bố chánh sứ Thiểm Tây đảm nhiệm đi, đưa ra triều đình nghị luận chỉ tốn thời gian cãi vã.

Dương Lăng vui mừng khôn xiết. Cấp sự trung bộ Hộ đổi thành Trương Thái, Đường quan bộ Hộ là Nghiêm Tung. Một khi thánh chỉ được hạ thì lập tức được truyền đạt đến Thiểm Tây, đến lúc đó ván đã đóng thuyền, bốn mươi con ngựa cũng đừng hòng đuổi kịp.

Lưu Cẩn thấy thế cũng thừa cơ thượng tấu:

- Hoàng thượng, nô tài có đề xuất một ít kiến nghị nhằm vào chính sách, chế độ hủ bại trong triều, khi nãy có mời Dương đại nhân xem qua. Nôi tài tính sửa đổi một chút rồi sẽ giao cho người thi hành. Hoàng thượng cầm quyền trị quốc, cũng nên có chút thay đổi mới được.

Chính Đức cả mừng, vỗ bàn khen:

- Hay lắm, có thế chứ! Có các khanh san sẻ lo âu, trẫm sao còn phải lo ôm đồm mọi việc?

Dương Lăng nghe vậy thì biết đã hỏng bét. Phương châm của bộ biến pháp này còn cấp tiến hơn cả mình, hơn bốn mươi chính sách này một khi được đề xuất thì triều đình không bùng nổ mới lạ đó. Ôi chao, mới vừa yên ổn được có mấy ngày.

Dương Lăng liền vội tâu:

- Hoàng thượng, thần muốn chuẩn bị mầm giống, đào tạo nhân viên nên trong khoảng thời gian này e sẽ không thể lên triều được nữa.

Chính Đức cảm thấy hơi thất vọng, trong ánh mắt của công chúa Vĩnh Phúc đang đứng bên cạnh cũng thoáng hiện sự mất mát. Chính Đức vừa định mở lời, Dương Lăng lại nói:

- Hoàng thượng, Nội xưởng đang nghiên cứu chế tạo ra một loại súng mới. Nếu thành công thì tốc độ bắn của nó sẽ lợi hại hơn hoả khí trước đây rất nhiều. Thần nhất định sẽ mau chóng chế tạo ra, đến khi đó mời Hoàng thượng đích thân bắn thử.

Câu này đã khơi gợi lên sự hứng thú của Chính Đức, hắn liền nói:

- Được, vậy khanh hãy đi làm việc của mình đi. Nếu cần điều nhân thủ từ cục Quân khí thì cứ nói với trẫm.

Dương Lăng dạ một tiếng, rồi mỉm cười liếc nhìn Lưu Cẩn đang xun xoe muốn ra sức, thầm nói: "Lưu đại quan nhân, các người cứ đi chịu khổ đi, hiện tại vẫn chưa phải lúc tôi đây xuất hiện, theo lành tránh dữ là hơn."

Chú thích:

(1) Theo sử chép, Cẩn không phải là loại bất tài. Ông ta đã đưa ra một số cải cách về chính trị. 'Phạt gạo' là một trong những chính sách nằm trừng phạt quan lại tham ô hoặc không làm tròn trách nhiệm, tính theo đơn vị bổng lộc; nặng thì năm trăm thạch (30 tấn), nhẹ thì ba trăm (18 tấn) trở xuống, nếu đã bãi quan thì giảm một nửa. (theo http://baike.baidu.com/view/28371.htm)

(2) Nguyên văn "thuỷ tụ", là loại tay áo may bằng lụa dài thường gặp trong các hí kịch truyền thống Trung Quốc. Vì khi múa tạo thành hình sóng nước nên có tên này. Xem hình http://a2.att.hudong.com/51/61/01300...16014102_s.jpg

(3) Nguyên văn "thái y ngu thân" (hay "hý thái ngu thân" 戲彩娛親). Trích trong "Nhị Thập Tứ Hiếu" truyện. Truyện rằng Lão Lai Tử sanh vào đời Xuân Thu, ông phụng dưỡng song thân rất chu đáo. Tuy Lão Lai Tử đã trên bảy mươi tuổi nhưng cha mẹ ông vẫn còn sống, ông không bao giờ nói là mình già vì còn cha mẹ thì không xưng là già, "Phụ mẫu tại hỗ ngôn bất xưng lão." Lão Lai Tử tìm mọi cách cốt ý để làm cho cha mẹ lúc nào cũng vui vẻ trong lòng. Ông cải trang, mặc áo sặc sỡ năm màu và múa hát trước mặt cha mẹ mình. Lại có khi Lão Lai Tử bưng nước hầu song thân, ông giả vờ bị trượt té rồi ngồi khóc oa oa như trẻ nít lên ba. Cha mẹ ông vui cười trước sự ngộ nghĩnh của con mình.

Chương 164 Thành Quả Ban Đầu

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Shandian

Hiệu đính: 

Nguồn: www.tangthuvien.com

Mặt đất phủ màu trắng xóa, Dương Lăng phấn khởi trở về từ Nội xưởng. Vứt roi ngựa cho gia nhân, y xoa tay đi đến hành lang cười hỏi:

- Hôm nay không có ai đến à?

Cao quản gia giúp y cởi chiếc áo khoác màu vàng sẫm lót nhung bên trong rồi trả lời:

- Đêm qua tuyết lớn, có thể mấy vị đại nhân cảm thấy đi đường bất tiện, vì vậy cả ngày hôm nay rất yên tĩnh ạ.

Áo khoác được cởi ra, bên trong là một bộ mãng bào vàng óng. Bộ mãng bào này rất giống long bào nhưng bên trên lại thêu rồng vàng bốn vuốt, kém một vuốt so với long bào. Mãng bào, phi ngư bào, đấu ngưu bào (1) đều không phải là quan phục theo phẩm tước triều đình mà là thuộc tứ phục (*) do Hoàng thượng đặc ý ban cho.

(*)trên ban cho dưới gọi là "tứ".

Hiện tại Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng cũng đã được ban cho mặc mãng bào, tuy nhiên mãng bào của Cốc Đại Dụng thêu hình một con mãng xà nằm nghiêng còn mãng bào mà Dương Lăng và Lưu Cẩn được ban cho lại thêu bốn con mãng xà ngẩng đầu nhìn thẳng, tôn quý vô cùng.

Vu Vĩnh đã trở về từ phương nam. Thương nhân kinh doanh thóc gạo ở Huy Châu và thương nhân chủ chốt buôn trà và ngựa ở Thiểm Tây bị gã dùng lợi to mê hoặc đều đã đáp ứng hợp tác cùng Nội xưởng còn thương nhân Chiết Giang thì không cần phải kể. Những thân hào cự phú này đều có thế lực to lớn vô cùng.

Có bọn họ gia nhập liên minh cộng thêm sự phối hợp của thái giám trấn thủ các nơi khiến chỉ một hoạt động này của Nội xưởng đã lấn át nhiều năm kinh doanh cực khổ của Đông xưởng và Cẩm y vệ. Căn cơ của tổ chức tại phương nam không những nhanh chóng được ổn định mà còn nắm giữ năng lực khổng lồ.

Dương Lăng không ngờ một tên Vu Vĩnh chưa từng được ai xem trọng lại có bản lĩnh lớn như vậy. Y mừng đến cười không khép miệng được, lập tức mời mấy vị tâm phúc đắc lực vào ngày tết ông Táo dẫn theo gia quyến đến nhà cùng mở hội uống rượu. Thượng quan đã khoản đãi như vậy thực là một ân đức to lớn vô cùng nên đám người Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận và Vu Vĩnh đương nhiên mừng rỡ đáp ứng ngay.

Lúc này Chúc Chi Sơn đã hớn ha hớn hở đến Đào Nguyên nhậm chức, chàng ta mang theo tất cả gia nhân biết trồng loại cây từ Nam Dương này vào kinh. Điều khiến cho Dương Lăng kinh ngạc và vui mừng chính là ngoài hạt ngô ra thì Chúc Chi Sơn còn có cả ớt, lạc (đậu phộng), khoai tây và một loại thực vật mang tính thưởng thức khác; căn cứ theo miêu tả của người nông dân ấy về giống thực vật này thì Dương Lăng biết được giống cây đó tên là cà chua.

Những người đó nào phải nông dân gặp nạn từ Nam Dương trở về nữa mà thật sự đã là Đường Tam Tạng thỉnh được Đại thừa chân kinh rồi; Dương Lăng may mắn đến rạng rỡ mặt mày. Còn nhớ những giống cây vừa giàu chất dinh dưỡng lại dễ sinh trưởng này truyền vào phương Tây đã nhiều năm, bị người dân nơi đó cho rằng có độc nay lại sắp khai hoa kết quả tạo phước cho dân Đại Minh trước rồi.

Từ miệng của Chúc Chi Sơn y biết được mấy người Đường Bá Hổ sau khi nghe nói về việc làm của y thì đều rất là hâm mộ liền cũng bày tỏ tâm nguyện muốn tham gia làm quan, báo đáp triều đình, tuy nhiên chuyện này tạm thời vẫn chưa vội.

Song điều khiến cho y hưng phấn nhất chính là rốt cuộc Hỏa Giả Á Tam và thợ thuyền của Nội xưởng đã nghiên cứu và chế tạo ra được loại súng kiểu mới. Loại súng mới này có tầm bắn đạt tới 40 trượng (khoảng 130 mét), xa gấp đôi và tốc độ bắn nhanh hơn gấp sáu lần so với súng trước đây, sức uy hiếp của nó đã hơn xa trước kia.

Nhìn khẩu súng đó mà Dương Lăng cảm thấy quy trình nhồi đạn vẫn còn hơi khó khăn, hơn nữa y còn nhớ nòng súng thời hiện đại hình như còn có rãnh xoắn, tạo chuyển động xoay tròn cho viên đạn, lực ly tâm khiến cho viên đạn được bắn đi xa hơn.

Dương Lăng giải thích những nguyên lý này cho các chuyên gia về khí giới rồi lại vẽ ra kết cấu cơ bản của loại đạn hiện đại. Những người thợ mới được trọng thưởng này liền lập tức quên mình lao đầu vào cuộc nghiên cứu. Dương Lăng biết đãi ngộ cho nhà phát minh vào thời đó kém đến đáng thương cho nên mới ban thưởng hậu hĩnh cho mấy vị thợ thầy chế tạo này khiến rất nhiều chưởng ban và đáng đầu Nội xưởng ghen tỵ không thôi.

Y vốn định nhờ Hỏa Giả Á Tam tiếp tục giúp cải tiến hỏa pháo một chút. Bất luận là xưa hay nay thì tác dụng của hỏa pháo trên chiến trường đều không thể coi thường do chúng có sức sát thương kinh người. Tiếc rằng số lượng nguyên liệu trên tay y lại không đủ để nghiên cứu loại vũ khí cỡ lớn như vậy, hơn nữa nó cũng động chạm tới sự kiêng kị của triều đình, xem ra chỉ có cách đợi cho súng trường cải tiến có thêm thành quả thì khi đó chính mình sẽ bẩm báo với Hoàng thượng để hợp tác cùng cục Quân khí.

Dương Lăng giậm cho rơi tuyết đọng trên giày rồi đi vào đại sảnh, bụng nghĩ: "Hôm nay bọn Cốc Đại Dụng, Trương Vĩnh và Miêu Quỳ đều không đến phủ, bên Tiêu Phương cũng không có động tĩnh gì xem ra trong triều không có việc gì hệ trọng vậy mình đi xem thử việc ươm giống cây trồng tiến triển thế nào rồi. Chúng chính là báu vật của mình."

Y quay đầu ngước nhìn đỉnh tháp cao hơn trăm trượng ở trước mặt. Đó là đại giáo đường mới đang được xây dựng, đã có dáng dấp một giáo đường Cơ Đốc. Vì trời chuyển lạnh mà tuyết lại rơi dày cho nên hiện đã dừng thi công. Đỉnh tháp trắng lóa một màu tuyết tạo cho người ta cảm giác lạ lẫm.

Dương Lăng mỉm cười chậm rãi bước vào hậu đình. Trong sân được bao phủ bởi một màu trắng bạc, trắng xen lẫn hồng, ngọn giả sơn và hành lang đá nổi bật trong tuyết, trông đẹp đến lạ thường. Xa xa vẳng lại tiếng đàn trong vắt khiến người nghe sảng khoái tâm hồn như bước vào tiên cảnh.

Dương Lăng bước chậm lại, nghiêng tai lắng nghe tiếng đàn, thầm nghĩ: "Là ai gảy đàn vậy nhỉ, nghe âm điệu thành thạo, hiển nhiên không phải là Ấu Nương mới biết đàn sơ sơ. Xem ra nếu không phải là Tuyết Lý Mai thì nhất định là Thành Khởi Vận rồi."

Vốn Dương Lăng định lợi dụng ảnh hưởng của mình với hoàng đế, cho dù không thể dỡ bỏ toàn bộ lệnh cấm biển cũng phải buộc mở một hai bến cảng. Nhất là Thiên Tân vệ, nằm sát dưới chân thiên tử, nhất định phải mở cửa. Nơi này địa lý không bằng phương nam nhưng vị trí chính trị lại quá quan trọng.

Nơi này có mở cửa đối ngoại thì mới có thể mau chóng mở rộng tầm mắt và quan niệm của văn võ bá quan, tầm mắt và quan niệm này đang khống chế đường lối chính sách chính của Đại Minh. Chỉ cần trong số bọn họ có ba phần chịu đồng ý và chấp nhận quan niệm của mình thì sẽ không lo Đại Minh không sớm giải trừ cấm biển.

Ấy vậy mà không ngờ có nhiều rắc rối như thế. Đầu tiên là do giải cấm nên mới liên quan đến cấy cày, vì cấy cày mà dính dáng đến thay đổi giống cây trồng. Lần lữa cho đến hôm nay mục đích quan trọng nhất vẫn chưa bắt đầu, hành trình trở về Nam của Thành Khởi Vận cũng vì vậy mà năm lần bảy lượt bị hoãn lại khiến nàng ta đành phải ở lại trong Dương phủ.

Bước vào phòng tấu đàn bên trong phòng khách, Dương Lăng không kìm được kinh ngạc. Người con gái đang chậm rãi khéo léo lướt ngón gảy đàn ấy không ngờ lại là Cao Văn Tâm. Nàng khoác chiếc áo ngắn tay cân vạt màu bạc bằng da chồn, tôn lên dung nhan thanh nhã, môi đỏ răng ngà. Trông thấy Dương Lăng bước vào thì ánh mắt nàng thoáng lộ ra vẻ vui mừng, vội đưa tay chặn dây đàn lại.

Tiếng đàn thoáng ngân lên rồi ngưng bặt, Cao Văn Tâm bước xuống chiếc giường la hán, khuôn mặt thuần khiết khẽ ửng hồng, nàng hơi khom người vái chào:

- Ra mắt... đại nhân.

Từ sau khi trong cung truyền chỉ cho Cao Văn Tâm nhận bổng lộc triều đình, làm nữ quan Thái Y viện thì Dương Lăng liền cho xây thêm một khu nhà trong khoảnh sân vườn rộng mấy mẫu ở hậu viện dành riêng chị em nhà họ Cao cư ngụ. Tuy chi phí sinh hoạt thường ngày vẫn do nhà họ Dương cung cấp nhưng cũng có thể xem như ở nhà riêng nên Cao Văn Tâm cũng không tiện đến thăm hằng ngày, do đó hai người ít khi gặp nhau. Không ngờ hôm nay đến lại gặp nàng, Dương Lăng mới biết nàng gảy đàn hay như vậy.

Trước đây Cao Văn Tâm gọi Dương Lăng là "lão gia", sau khi được xóa bỏ thân phận nô tỳ, vì nàng còn là nghĩa tỷ kết bái của Ấu Nương cho nên đúng ra nên gọi Dương Lăng là "muội phu" nhưng Cao Văn Tâm nào chịu. Một khi hai tiếng muội phu thốt ra nàng sẽ mất đi một đức lang quân như ý, thế nên nàng vẫn cứ dựa theo chức quan mà gọi Dương Lăng là đại nhân.

Dương Lăng thấy nàng mặc áo cánh và váy bó thêu sợi màu lam nhạt, lúc xuống giường dưới đáy váy ẩn hiện chiếc quần (tất khố) đơm hoa màu hồng nhạt, đôi giày đế cao đầu phượng màu đỏ pha vàng. Lúc nàng đứng lên, cặp hoa tai bảo thạch màu xanh khẽ đong đưa hợp cùng vóc dáng thanh tú làm toát lên một vẻ đẹp tao nhã.

Dương Lăng cười nói:

- Đây là bài 'Phong Nhập Tùng' mà Ấu Nương học, ta rất thích nghe. Ban đêm nghe bài từ khúc thanh nhã này dễ ngủ vô cùng, không ngờ cô cũng thích bài này. Sao chỉ có mình cô ở đây, những người khác đâu rồi?

Cao Văn Tâm nghe y nói vậy thì mặt thoáng ửng hồng. Vì nàng nghe Ấu Nương nói rằng Dương Lăng thích nhất là nghe bài từ khúc này mà trong tay lại không có khúc phổ cho nên mới nhờ Thành Khởi Vận chỉ dạy cho. Tâm sự con gái này sao nói cho Dương Lăng biết được! Nàng mỉm cười liếc mắt về phía chiếc giường khẽ nói:

- Dạ, còn có một vị nữa, Thành nhị đáng đầu của đại nhân cũng ở đây.

Lúc này Dương Lăng mới để ý đến phía trong giường, cạnh đầu giường là Thành Khởi Vận đang nằm dựa nghiêng trên một chiếc đệm gấm, trên người đắp một tấm chăn xanh biếc chỉ để lộ khuôn mặt trắng ngà, hai má đỏ au, mắt đẹp mơ màng đang say sưa ngủ.

Dương Lăng không nhịn được cười bảo:

- Làm khó nàng ấy rồi! Từ nhỏ đến giờ chưa từng lên phương bắc, chưa từng cảm nhận thời tiết lạnh như vậy. Người ta nói 'miêu đông' (2), đúng là ‘miêu đông’, nàng ấy thật sự trông như con mèo cả ngày chỉ biết ngủ, sắp thành ủ đông rồi.

Cao Văn Tâm phì cười, liền đó liếc vội Dương Lăng một cái, sắc mặt có phần kì lạ song Dương Lăng lại không phát hiện. Y mới hơn hai mươi, Thành Khởi Vận lớn hơn y sáu bảy tuổi vậy mà trong lúc vô ý khẩu khí y thốt ra dường như lại coi Thành Khởi Vận nhỏ hơn mình. Cao Văn Tâm nào biết tuổi tác tâm lý của Dương Lăng lớn hơn không chỉ chục tuổi.

Thành Khởi Vận lờ mờ nghe thấy có tiếng đàn ông, bèn khẽ mở hai mắt, nhìn thấy Dương Lăng, liền vội ngồi dậy, tung chăn, chào hỏi:

- Đại nhân đã về rồi à, ty chức thất lễ.

Dương Lăng đáp:

- Khổ cho cô rồi, không thích nghi được với khí hậu phương bắc phải không? Bây giờ vẫn chưa tính là lạnh lắm đâu, đến lúc thật sự lạnh thì nước cũng đóng thành băng ấy - Vừa nói đến đây y nhìn sang chiếc giường cùng tấm chăn trên đó, ánh mắt thoáng trở nên thất thần.

Hai má Thành Khởi Vận nóng lên, nàng mất tự nhiên nhìn lại trang phục của mình: áo khoác lụa cân vạt màu trà đơm hình chim nhạn ngậm bông lau, bên ngoài lại khoác thêm chiếc áo chẽn màu xanh lót nền hồng đào, cổ áo lụa bạch lĩnh dựng thẳng, đầu cổ thêu hoa, cúc áo hình ong mật ruổi hoa (3), tuy rằng hơi thùng thình nhưng thắt lưng thanh mảnh không che giấu được bộ ngực vun cao. Sao đại nhân lại nhìn mình như vậy?

Thành Khởi Vận thấy ánh mắt Dương Lăng vẫn nhìn mình chằm chằm mà chỗ cặp đùi dưới chăn bị y nhìn bắt đầu nóng lên và nhột nhạt. Nàng mím môi, khẽ dịch tay sang một bên giường rồi nhỏ nhẹ:

- Đại nhân, ngài làm sao vậy?

Dương Lăng thoáng ngẩng người, rồi mới sực tỉnh:

- Hả? À... - y hít vào một hơi thật sâu rồi nói:

- Ta nhớ lúc này năm ngoái trời lạnh hơn bây giờ nhiều, căn nhà ọp ẹp trong sơn cốc, cửa sổ cũng bị gió lùa vào, trong nhà khi ấy chỉ có một chiếc giường và tấm chăn bông sờn rách, không khác chiếc giường này là bao. Đêm nào Ấu Nương cũng đều đắp chăn bông cho ta còn mình thì chỉ đắp tấm chăn mỏng tanh, cứ vậy mà chống chọi qua nửa mùa đông...

- A! - Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận đều trợn tròn mắt. Nhất là Thành Khởi Vận chưa từng đến nơi phương bắc này, vừa tưởng tượng ra còn lạnh hơn lúc này mấy phần, bên giường lại không có lò than mà cửa sổ còn bị gió lùa, như vậy còn không phải là muốn lấy mạng người ta sao? Thảo nào... thảo nào y đối xử với Ấu Nương tốt như vậy, vì nàng ấy mà dám kháng cả thánh chỉ, bị chém cũng không sờn lòng.

- Than ôi... - Dương Lăng lắc đầu nhè nhẹ, thở dài một tiếng rồi nói:

- Lúc đó, ta chỉ muốn lang bạt kiếm chút gia nghiệp để Ấu Nương không phải chịu thêm khổ cực, như vậy đã là đủ rồi. Ai ngờ... lòng người mãi mãi không bao giờ biết đủ cả, nay gia nghiệp đã có rồi thế mà ta vẫn muốn có thêm...

Khi nghèo chỉ biết lo thân, giàu rồi lại muốn lo cho mọi người. Lúc này đây đứng trên vị trí này, có cơ hội khiến Đại Minh trở nên hùng mạnh hơn, có cơ hội để cho bá tánh giàu sang sung túc hơn, thử hỏi là một người chỉ cần có chút trách nhiệm, ai sẽ có thể chống cự lại với sự mê hoặc này?

Thành Khởi Vận và Cao Văn Tâm không biết tâm sự của y, tưởng rằng y đang ám chỉ đến công danh lợi lộc. Thành Khởi Vận mỉm cười bảo:

- Đại nhân nghĩ vậy thật ra cũng không có gì sai. Hôm qua vì phu nhân mà lo toan, ấy là cho tận trách nhiệm của người chồng, hôm nay vì triều đình mà lo toan, ấy là để tận trách nhiệm của kẻ bề tôi, ngày mai còn phải vì con cháu mà lo toan. Cuộc đời con người bao giờ cũng có đủ loại lý do để ép mình luôn tranh đấu không ngừng. Muốn không màng đến thế sự thì cho dù đại nhân có chịu thì người khác cũng sẽ không chịu.

Vừa nghe nàng ta nói vậy thì Dương Lăng chợt nhớ rằng từ lúc mình trở về đã hơn một tháng, ngày nào cũng siêng năng "cày bừa", tuổi của ba người vợ xinh xắn của mình cũng không lớn, thân thể non nớt lại thường hay nũng nịu kêu chịu không nổi. Hiện tại ngay cả dưa leo trồng dưới hầm sưởi cũng sinh trưởng không ngừng mà sao thân thể bọn họ vẫn chưa có động tĩnh gì vậy? Chẳng lẽ y thuật của Cao Văn Tâm đã thất bại rồi sao?

Nghĩ đến đây, Dương Lăng cảm thấy không vui, y thở dài nói:

- Các cô cứ tiếp tục đàn đi, ta đi ra phía sau.

Thành Khởi Vận vội vàng xuống giường, xỏ giày, vuốt nhẹ chiếc váy sợi nếp cạnh viền vàng da dê thêu đính hoa văn rồi cười duyên dáng:

- Phu nhân đang ở dưới hầm sưởi trong hậu viện, ty chức cũng ngủ đủ rồi, đi cùng đại nhân qua đó xem một chút vậy.

Trong hầm sưởi trồng vài giống cây, đồng thời ươm trồng rất nhiều mầm củ khoai lang và khoai tây. Dương Lăng nghĩ sau này nếu muốn đồng thời trồng trọt ở bốn nơi sẽ cần số lượng lớn người làm để chỉ điểm, vì vậy đã dùng điều kiện lương cao để mời về mấy chục thợ trồng trọt lành nghề của bản địa, cho bọn họ đi theo gia đình người Hoa từng sống ở Nam Dương nọ học tập kỹ thuật vun bón và ươm trồng. Nhà truyền giáo Nhã Các Tư cũng thường xuyên ghé đến để chỉ điểm một ít về kỹ xảo trồng trọt và những việc cần chú ý.

Thấy phu quân hết sức coi trọng chuyện này, bản thân lại giỏi việc đồng áng nên Hàn Ấu Nương thường đến hầm sưởi để phụ giúp, đồng thời cũng học cách trồng trọt những giống cây này. Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận thì dốt đặc về phương diện này, hơn nữa quả thật hai nàng có phần xem thường nghề nông và cũng không có hứng thú như vậy.

Còn Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai thì cho dù bản thân mình cảm thấy thế nào đi chăng nữa nhưng khi đại phu nhân đã đích thân xắn tay vào làm thì hai người cũng không thể ngồi yên trong nhà. Thế là hai mỹ nhân yêu kiều e lệ cũng mặc quần áo vải thô vào rồi đi theo Ấu Nương bón phân tưới nước, chăm bón hoa mầu.

Hầm sưởi trong hậu viên rất lớn, được quan binh Nội xưởng xây cất dưới sự hướng dẫn của các vị sư phụ trồng trọt rau cải trong hầm sưởi hoàng gia: hai phần ba nằm dưới mặt đất, một phần ba nằm bên trên. Lều lán phủ kín giàn hoa mầu, xây đường hầm thông gió đặc biệt, trên nóc lắp sáu cửa sổ, ánh sáng được dẫn vào bằng cách chiết xạ bởi hơn hai mươi tấm gương đồng lớn chiếu cho bên trong hầm sưởi sáng như ban ngày.

Dương Lăng cùng Thành Khởi Vận và Cao Văn Tâm đi qua hơn hai mươi bậc thang xuống dưới hầm, chỉ thấy ba hàng giàn lán trồng đủ các loại mầm cây xanh mượt. Những thứ này chủ yếu để trồng thử, qua xuân sẽ dời trồng trực tiếp ở vùng này. Phải đến lúc đó thợ làm vườn đã được đào tạo xong mới sẽ mang giống cây đến ba nơi còn lại trồng trọt.

Lão gia tử Vương Đông Hoài của gia đình trở về từ Nam Dương nọ đang dẫn mấy người nông phu chỉ vào một bụi khoai giải thích gì đó, sau đó ngắt một đoạn rễ cắm vào trong đất. Trông thấy Dương Lăng và hai người Thành Khởi Vận, ông ta liền vội khum tay, kính cẩn thưa:

- Lão gia.

Dương Lăng khoát tay bảo:

- Mọi người cứ tiếp tục đi, không cần để ý đến ta. Phu nhân đâu?

Vương Đông Hoài chỉ vào bên trong nói:

- Phu nhân đang ở bên trong, đang kiếm ngắt trái cây tên là 'ớt' do lão gia ban đó ạ.

Lúc Dương Lăng phát hiện ra quả ớt này thì kinh ngạc và mừng lắm, có điều cái tên mà Vương Đông Hoài gọi nó rất là khó đọc, hiện tại y còn không nhớ nó gọi là gì nữa, thế nên lúc đó y thuận miệng đặt tên cho nó, gọi nó là 'quả ớt' luôn.

Thứ này chỉ thích hợp trồng ở nơi ôn đới, mọc suốt quanh năm, so với hai ngày trước mầm ớt xem ra đã nhú rất cao rồi, nụ hoa nở ra trăng trắng. Dương Lăng gật đầu rồi đưa hai người đi tiếp. Đằng xa trên một mảng sắc xanh tươi mới nơi ánh sáng vừa vặn rọi thẳng vào, ba người Hàn Ấu Nương, Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đang mặc áo dài xanh cân vạt ống bó, ngoài khoác áo bông cộc tay màu tro đang hào hứng nhẹ nhàng chăm sóc cho những mầm xanh đó.

Dương Lăng liền gọi:

- Ấu Nương

Hàn Ấu Nương nghe tiếng liền quay đầu, mừng rỡ kêu lên:

- Tướng công, chàng mau lại đây mà xem, những cây ớt này đã bắt đầu ra hoa rồi này. Sau này nó sẽ kết thành quả ớt đỏ mà chàng nói để cho vào lẩu đúng không? Thật muốn biết nó sẽ có mùi vị gì đây - nói đoạn nàng quay sang Cao Văn Tâm khẽ cười chào:

- Văn Tâm tỷ tỷ.

Dương Lăng nghe nói cây ớt đã ra hoa, chân bèn bước dồn, mừng rỡ chạy đến xem. Hàn Ấu Nương xắn áo, để lộ một cánh tay trắng như trứng gà bóc, tươi cười chỉ vào nụ mầm xanh mởn:

- Tướng công xem, hoa đã nở thât nhiều, cả chỗ này đều do thiếp chăm sóc đó - nàng hớn hở nói, giọng hết sức tự hào.

Cạnh bên, chồi non của đám cây cà chua cũng cực kỳ tươi tốt. Dương Lăng biết những thứ này đều cần phải được cắt tỉa có điều y cũng không biết được phải cắt tỉa trước hay sau khi khai hoa, càng không biết phải cắt tỉa cái gì, có điều y đoán cắt tỉa là để đề phòng mầm cây lớn lên chỉ ra lá mà không cho quả cho nên y bảo nông phu gieo mầm những quả cà đó theo nhóm, mỗi nhóm hai cây, chia làm mười nhóm, chuẩn bị áp dụng phương pháp cắt tỉa trước và sau khi khai hoa đồng thời ghi chép sự thay đổi, sau đó dựa vào tình trạng sinh trưởng mới phán đoán xem phương pháp nào là chính xác.

Dương Lăng nhìn mảng cây ớt đó thấy quả nhiên mới có mấy ngày mà rất nhiều cây đã nở hoa, có hoa mới vừa hé nụ, mầm dưới đài vẫn còn xanh non.

Hàn Ấu Nương duyên dáng mỉm cười lay tay y và nói:

- Tướng công, lúc nào mới sẽ kết quả vậy, cái quả be bé dài dài và đo đỏ mà chàng nói đó?

Dương Lăng vuốt chóp mũi nàng một cái đầy trìu mến rồi cười đáp:

- Theo tình trạng này có thể sẽ không ra được mấy quả đâu.

- Hả? - Hàn Ấu Nương tròn xoe mắt kinh ngạc. Nàng thấy Dương Lăng hơi khom lưng, thò tay chọn một bông hoa trắng đã khá lớn ngắt một cái. Hàn Ấu Nương không kiềm được kêu lên xót xa.

Lại thấy Dương Lăng ngắt đài hoa, vừa cẩn thận cầm nhuỵ hoa thoa nhẹ lên trên từng đoá hoa đã nở rộ vừa cười nói:

- Ấu Nương, cây gì ra hoa đều cần phải thụ phấn, bình thường nàng chỉ trồng trọt trên mặt đất chắc không biết đâu đúng không? Phương pháp thụ phấn có khi là mượn sức gió, đôi khi chỉ cần chút gió nhẹ cũng có thể đưa phấn trên một đoá hoa đến thụ phấn cho những bông hoa khác. Nhưng đa phần là nhờ những con ong mật, hoặc những côn trùng khác bò qua bò lại trên đoá hoa, phấn hoa bám vào trên chân của chúng, sau đó chúng bay đi thụ phấn cho hoa khác. Dưới hầm sưởi này mùa đông trồng rau thì còn được, chứ trồng những loại cây kết quả, gió thì quá yếu, lại không có ong mật, cho nên cần phải thụ phấn nhân tạo cho chúng.

Đạo lý này đừng nói là người biết làm ruộng như Hàn Ấu Nương không biết, bụng đầy thi thư như Thành Khởi Vận và Cao Văn Tâm không biết mà ngay cả mấy vị sư phụ chăm lo hầm sưởi của ngự điền (ruộng của vua) được phái tới đứng bên cạnh vô tình nghe được cũng đều kinh ngạc vô cùng, nói:

- Không ngờ lại có đạo lý như vậy? Tiểu nhân thấy bình thường vài loại cây ăn quả trồng đều sinh trưởng rất tốt nhưng sao mùa đông muốn trồng một ít trong hầm sưởi cho Hoàng thượng ăn thì lại cho ra rất ít trái. Khi ấy chỉ nghĩ tiết trời không tốt, không thể nghịch thiên hành sự, không ngờ là vì nguyên nhân này. Đại nhân thật sự... thật sự là bác học đa tài, trở về tiểu nhân nhất định sẽ thử nghiệm một chút mới được.

Dương Lăng cười gượng gạo nói:

- Đó là một nguyên nhân. Có điều trái cây trồng vào mùa đông sẽ không thể bì được so với trồng trong thời tiết bình thường, do độ ấm, ánh nắng mặt trời, khí hậu kém hơn rất nhiều. Ừm... nếu các vị muốn thu hoạch được trái cây ngon thì phải cố gắng mô phỏng ra hoàn cảnh khí hậu tương ứng mới được.

Vị sư phụ ngự điền đó gật đầu lia lịa, hận không thể lập tức chạy về trồng thử vài cây. Thụ phấn nhân tạo cho từng cây là một công việc đòi hỏi sự nhẫn nại và tỉ mỉ, chưa được bao lâu thì Dương Lăng đã mất kiên nhẫn liền vứt đoá hoa đi rồi nói:

- Đi thôi, thông gió nơi này cũng không tệ, có điều vẫn hơi ngột ngạt. Hôm nay Văn Tâm đến thăm nàng, chúng ta ra ngoài uống trà đi.

Hàn Ấu Nương ngoan ngoãn để im cho y nắm tay lôi đi, hàng người vừa nói vừa cười đi ra ngoài. Dương Lăng thuận miệng hỏi:

- Ngọc Nhi, Tuyết Nhi, sáu trướng phòng (nhân viên kế toán) trong Nội xưởng ta phái theo hai nàng học cách ghi chép sổ sách hiện đã học xong chưa?

Ngọc Đương Xuân vừa vuốt ống tay áo vừa đáp:

- Dạ, sáu vị tiên sinh đó đều là trướng phòng lâu năm. Đây chỉ là học thêm một phương pháp mới cho nên họ học rất nhanh, chưa đến hai ngày đã thuộc rồi, lại còn mày mò ra được rất nhiều nguyên tắc ngay cả thiếp và Tuyết Nhi cũng không nghĩ tới.

Dương Lăng nói:

- Đó là lẽ đương nhiên! Những tiên sinh này đều là tay tổ có nghề về ghi chép sổ sách. Phương pháp ghi sổ này ta cũng chỉ nhớ được có bấy nhiêu, nay đem dạy cho bọn họ, chỉ cần hiểu được nguyên lý trong đó đương nhiên bọn họ sẽ có thể bổ sung hoàn thiện hơn. Nếu như bọn họ đều biết rồi vậy thì dễ làm hơn. Vài ngày nữa ta phải để bọn họ đến bộ Hộ, bộ Công chỉ dạy những trướng phòng ở đó một chút. Hiện tại trong triều muốn thống kê một ít con số cũng tốn quá nhiều công sức đi!

Tuyết Lý Mai nãy giờ nôn nóng như muốn nói điều gì đó nhưng bên cạnh Dương Lăng có nhiều người nên nàng cũng không tiện mở miệng, mãi đến khi đến cửa hầm lúc men theo bậc thềm leo lên nàng mới nhân cơ hội sáp lại ghé vào tai Dương Lăng nói nhỏ một câu thật nhanh. Dương Lăng vừa nghe lập tức quay phắt người lại, kinh ngạc lẫn mừng rỡ kêu lên:

- Thật không?

Tiếp đó y quay đầu lại dìu vịn hai vai Ấu Nương nói:

- Nha đầu nàng đó, có phải là muốn để tướng công lấy phép nhà ra 'hầu hạ' không vậy? Tại sao... tại sao có thai rồi mà cũng không nói cho ta biết? - Giọng y run rẩy, mang theo một sự vui mừng.

Giọng y vang lớn, Thành Khởi Vận và Cao Văn Tâm mới cất được nửa bước thì thiếu chút nữa đã ngã nhào. Hai người cũng lập tức xoay lại đánh xoạt một cái rồi chạy đến bên cạnh Hàn Ấu Nương vừa kéo tay nàng nhìn lên xuống đánh giá vừa lia lịa hỏi thăm không ngớt, đẩy Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai sang một bên.

Mặt Hàn Ấu Nương tức thì thẹn tới đỏ bừng, cặp mắt đen láy cụp xuống không dám nhìn ai. Cuối cùng nàng vừa lúng túng nhìn chằm chằm xuống đất vừa lí nhí nói:

- Ưm... có thể... đại khái... có lẽ..., Ôi chao Tuyết Nhi! Biết vậy đã không nói cho muội hay.

Nàng giậm nhẹ chân, trừng mắt oán trách liếc sang Tuyết Lý Mai rồi mới bẽn lẽn cúi đầu nói với Dương Lăng:

- Tướng công, người ta cũng không dám xác định... sợ lỡ đâu uổng công vui mừng cho nên mới không nói ngay...

Cao Văn Tâm lập tức cầm lấy cổ tay Ấu Nương bắt mạch, bốn bề tức thì im phăng phắc. Dương Lăng cảm thấy tim mình muốn nhảy khỏi lồng ngực. Hàn Ấu Nương mím chặt môi, không dám nhìn sắc mặt của Cao Văn Tâm, chỉ chăm chăm ngó tướng công mình, ánh mắt nhu mì, khuôn mặt đỏ bừng.

Một hồi sau, Cao Văn Tâm mới thở hắt ra một hơi thật dài, nhẹ nhàng buông tay Ấu Nương ra. Dương Lăng sốt ruột kêu lên:

- Thế nào vậy, Văn Tâm, Ấu Nương nàng ấy...?

Hàn Ấu Nương cũng hồi hộp nuốt nước miếng. Cao Văn Tâm nhìn Hàn Ấu Nương với một ánh mắt phức tạp rồi khẽ giọng:

- Chúc mừng muội, Ấu Nương.

Tuyết Lý Mai và Ngọc Đường Xuân vừa hâm mộ vừa mừng rỡ reo lên. Dương Lăng cũng vui đến quên mình, cầm tay Ấu Nương hưng phấn hồi lâu, rồi mới vui sướng cười lớn nói:

- Hay lắm, Ấu Nương bảo bối của ta chưa từng khiến ta thất vọng. Ha ha ha, mau mau, chúng ta mau đi lên trên, không khí nơi này không tốt, sau này nàng không cần phải xuống đây nữa.

Nghe Cao Văn Tâm nói xong thì trái tim của Hàn Ấu Nương yên tĩnh trở lại, thấy bộ dáng hí hửng của tướng công, trong lòng nàng cũng cảm thấy hết sức ngọt ngào. Nàng khẽ níu tay y, thấp giọng nài nỉ:

- Tướng công, người ta thích chăm sóc những thứ này mà, thiếp muốn xem chúng kết ra trái đỏ như lửa, hẳn là sẽ đẹp lắm.

Dương Lăng vung tay nói ngay:

- Không thành vấn đề! Chốc nữa ta sẽ kêu người trồng chúng vào chục cái chậu, đặt toàn bộ trong nhà chúng ta, thế nào? Thế còn... cà chua, khoai lang, nàng có muốn không?

Hàn Ấu Nương gật đầu lia lịa như gà mổ thóc, hân hoan đáp:

- Muốn muốn muốn, thật tốt quá. Tướng công, chàng thật tốt với Ấu Nương.

Dương Lăng ngạo nghễ nói:

- Vậy thì mỗi loại đặt mười chậu đi. Nàng có chút việc để làm thì tâm tình mới tốt, tâm tình tốt thì con cái đẻ ra sẽ thông minh. Ha ha ha..., đi thôi, chúng ta lên nào.

Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai chạy theo sát dìu đỡ Hàn Ấu Nương khiến cho nàng vừa bực vừa cảm thấy buồn cười, bèn mắng khẽ:

- Làm cái gì vậy hả, tỷ đâu có sao đâu! Nhưng mà muội đó nha Ngọc Nhi, lúc nãy đi xuống thiếu chút té nhào đó. Tỷ không cần dìu đâu.

Dương Lăng cũng cảm thấy Ấu Nương mới có thai không cần phải làm lớn chuyện như vậy nhưng khi nhìn bậc thang dốc đứng thì y vẫn cảm thấy lo lắng, thế là không yên tâm mà giữ chặt tay Ấu Nương và nói:

- Đi, để tướng công giúp nàng, sau này nàng đừng đến nơi này nữa. Có điều vận động thân thể thì vẫn nên, mỗi ngày tướng công sẽ đưa nàng ra ngoài tản bộ, dẫn nàng đi dạo khắp thôn.

Được y quan tâm săn sóc chu toàn như vậy, Hàn Ấu Nương cảm thấy ấm áp không thôi. Nhìn thấy cảnh tượng ấy, Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai hận chính mình đã không thể sớm mang trong mình bảo bối của tướng công để hưởng thụ một chút sự quan tâm và săn sóc ấy, Thành Khởi Vận và Cao Văn Tâm mỗi người cũng mang tâm sự riêng. Đoàn người chậm rãi rời khỏi căn hầm.

Những bông tuyết mềm mại lượn lờ rơi xuống, tin Dương gia có vị tiểu chủ nhân sắp ra đời khiến cả phủ vui mừng khôn xiết. Vào mùa đông đa phần nông dân đều ở trong nhà, trong thôn ngoại trừ vài ba đứa trẻ nghịch ngợm chạy nhảy ngoài đường thì khó lòng thấy được bóng người nào khác.

Lúc khói bếp trên mái nhà vài hộ gia đình còn chưa tan đi thì cổng lớn phủ nhà họ Dương đã được mở ra. Dương Lăng khoác chiếc áo lông cừu dài, oai phong lẫm liệt bước ra ngoài, phía sau y là Cao Văn Tâm, Thành Khởi Vận bầu bạn cùng Ấu Nương cũng đang rời khỏi phủ.

Ba người đều khoác áo choàng da cáo màu tuyết trắng, mũ Chiêu Quân khắc hình mây trôi, ba mỹ nhân khí chất bất đồng dịu dàng bước đi trong tuyết, xinh đẹp tú lệ khiến người ta nhìn mà quên hết những thứ tầm thường. Bước theo sau là sáu tên gia đinh, lặng lẽ che chắn cho bọn họ.

Dương Lăng nói:

- Đi chậm thôi, chúng ta sẽ đến đầu thôn thả bộ.

Đoàn người rời khỏi thôn, chậm rãi bước bên bờ ruộng phủ màu trắng xoá. Dương Lăng chỉ tay vào một mảnh đất, hỏi:

- Văn Tâm, mảnh đất này là của cô đúng không?

Cao Văn Tâm gật đầu, nheo cặp mắt tròn nhìn mảnh trang viên đã hoà chung một màu với xung quanh và nói:

- Dạ, Cao gia mấy đời hành nghề y, vốn không thạo việc đồng áng cho nên ruộng đất không nhiều, chỉ có mười mẫu đất này. Tuy hiện nay đại nhân đã trả lại cho hạ quan nhưng hạ quan cũng không biết làm gì với chúng. Nếu như đại nhân muốn trồng những giống cây Nam Dương nọ vậy xin cứ lấy mà dùng.

Hàn Ấu Nương mừng rỡ hỏi: "Tướng công muốn dùng toàn bộ mảnh đất này để trồng các giống cây mới sao? Sao chàng không bỏ ra giá cao mua lại toàn bộ số đất chung quanh luôn?"

Dương Lăng cười lớn nói:

- Cô nàng ngốc này, nàng quên chuyện tướng công bán đi mảnh ruộng nghèo đã bị Dương lão thái công mắng cho một trận rồi ư? Trong hộ nông dân người ta coi đất đai như tính mạng, cho dù có trả gấp mười gấp trăm lần thì bọn họ vẫn sẽ không chịu bán đâu.

Thành Khởi Vận cười lãnh đạm nói:

- Không chỉ là vậy, cho dù mua hết nơi này nhưng làm sao để thuyết phục những tá điền đó trồng các loại cây mới cũng sẽ là việc tốn nhiều sức lực đó.

Dương Lăng nghe vậy thì cảm thấy bất ngờ, bèn nói:

- Liên quan gì đến tá điền vậy? Nếu như nơi này là đất của ta thì chẳng phải ta muốn trồng gì thì trồng nấy sao? Tá điền không đồng ý à? Không sợ ta đuổi bọn họ sao?

Hàn Ấu Nương, Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận nhất tề tròn mắt kinh ngạc nhìn y, một hồi lâu Thành Khởi Vận mới bật cười nói:

- Hôm nay ở dưới hầm sưởi chăm sóc hoa mầu đại nhân lộ ra học vấn rất cao sao những lẽ thường như thế lại không biết vậy? Hi hi hi, không có địa chủ nào dám đối đãi với tá điền như vậy đâu. Đối đãi kiểu như với đầy tớ như vậy thì có, nhưng cũng hiếm vô cùng.

Dương Lăng nghe mà cảm thấy khó hiểu vô cùng. Y biết hình tượng của địa chủ đều là hung thần ác sát, là những ác bá mặt mũi dữ tợn sao lại không làm chủ được đất của mình?

Thành Khởi Vận giải thích:

- Đại nhân! Những tài chủ ở thôn quê này có mấy loại, một là có được gia nghiệp tổ tiên truyền lại, hai là làm quan nơi khác, buôn bán phát tài rồi về quê hưng gia lập nghiệp, mua nhiều ruộng đất mà trở thành địa chủ. Ba là cần cù tiết kiệm, thông minh hiếu học, giỏi việc kinh doanh lại cả đời kiềm ăn kiệm dụng, tiết kiệm được bao nhiêu đều bỏ vào mua ruộng mua đất, dần dần rồi trở thành địa chủ. Loại thứ tư ấy là chèn ép bán buôn, bóc lột lãi nặng mà thành tài chủ nhưng chỉ chiếm số ít. Thật ra những thân sĩ thôn quê này cũng từng đọc "Tứ Thư" "Ngũ Kinh", tôn sùng 'đạo Khổng - Mạnh', thương nghèo cứu già, giúp đỡ quả phụ, xây trường dựng lớp, cứu tế thiên tai, xây cầu sửa đường, hoà giải tranh chấp. Quan viên địa phương phần lớn cần dựa vào những thân hào nông thôn địa phương này cho nên bọn họ rất coi trọng danh vọng cá nhân. Cưỡng bách tá điền khuất phục là việc mà rất hiếm người làm, hơn nữa tiếng ác truyền xa cho nên sẽ không có tá điền nào chịu trồng trọt trên đất kẻ đó. Nói đại khái là năm nay tá điền cày thuê cho địa chủ này, năm sau có thể bỏ đi không cày, chuyển sang cày thuê cho địa chủ khác. Nếu như là tá điền có sẵn nông cụ và trâu cày trong nhà thì càng được các chủ điền tranh nhau chiêu nạp. Dẫu sao địa chủ làm vậy cũng là vì kiếm lời, nếu tự chăn nuôi trâu cày và chuẩn bị nông cụ thì sẽ tốn kém hơn nhiều.

Cao Văn Tâm vừa đi theo cạnh Hàn Ấu Nương vừa nói:

- Đúng đó, đại nhân, hơn nữa địa tô là nộp lương tô (thóc lúa) và kim tô (tiền bạc), chỉ cần người ta nộp đủ tô thuế đúng hạn thì họ trồng gì đi nữa địa chủ cũng không có quyền can thiệp. Cho dù là tôi tớ trong nhà thì chỉ cần là ông chủ thông minh một chút cũng phải đối đãi cẩn thận bằng không bọn họ không làm hết sức, kẻ chịu thiệt thòi sẽ là đám ông chủ nọ. Đất nhà hạ quan không nhiều nhưng đầu tháng hoặc ngày rằm cha của hạ quan vẫn phải cho tôi tớ tá điền ít thịt, ngày lễ ngày tết còn đưa cho bọn họ chút lương thực, quần áo đồ dùng, làm như vậy mới có thể giữ lại những tá điền giỏi, những tôi tớ hiền lành chịu làm việc. Nếu làm theo cách của đại nhân, hi hi... chưa tới mấy năm thì ruộng tốt trong tay cũng sẽ trở nên hoang vu hết thôi.

Dương Lăng thoáng đỏ mặt, ngượng ngập không biết nói gì. Y đâu biết thì ra địa chủ còn bị nhiều hạn chế như vậy, còn tưởng rằng chỉ cần mình trở thành địa chủ thì sẽ có thể muốn gì làm nấy, giờ thì...

Dương Lăng khẽ nhíu mày, ngẩn người nhìn mảnh ruộng đó, xem ra cảnh tượng phổ biến trồng trọt ở khắp ngoại thành, đến lúc được mùa khiến cho bá quan rung động sẽ không thể xuất hiện rồi. Cho dù những địa chủ đó chịu bán, y sẽ phải làm thế nào để ép đám tá điền đi trồng các giống cây mới đây?

Không thể đem so sánh nơi này với đám đất bạc màu mà mình chuẩn bị cho trồng thử ở Thiểm Tây được. Dân chúng nơi ấy đã được hứa hẹn cung cấp khẩu phần lương thực tương ứng, năm nay anh muốn bọn họ trồng gì bọn họ cũng sẽ đồng ý. Nhưng bên ngoài kinh thành phần lớn đều là ruộng màu, cái giá phải trả e rằng phải gấp mấy lần mới có thể khiến cho dân chúng động lòng. Nhưng còn những địa chủ đó thì phải làm thế nào đây?

Chậc, mấy ngày nay một mặt mải lo việc Nội xưởng nghiên cứu chế tạo súng mới, mặt khác dò thám xu hướng cải cách chính trị của Lưu Cẩn trong kinh mà y đã xem nhẹ những việc này. Nếu như sang xuân để sĩ tốt khai khẩn ít ruộng đồi thì không biết hiệu quả sẽ ra sao.

Thành Khởi Vận thoáng đảo mắt, nói:

- Đại nhân, tâm địa bồ tát mà dùng thủ đoạn bồ tát sẽ không thể làm cho mưa rào khắp chốn, nhưng nếu tâm địa bồ tát mà dùng thủ đoạn tu la cứu giúp cho thiên hạ sẽ lại có thể cứu khốn cho dân. Không bằng đại nhân giao việc này cho ty chức, chỉ cần bày ra chút kế mọn ty chức nhất định sẽ có thể đoạt được bảy khoảnh ruộng đất của hoàng trang một cách dễ dàng.

Dương Lăng quay đầu lại nhìn nàng thật lâu, chỉ thấy cặp mắt đen láy trên khuôn mặt trắng ngà của nàng đang nhìn y không chớp, bông tuyết rơi trên má nàng hoá thành giọt nước, mấy sợi tóc dài dính lại bên trên làm y không nỡ trách mắng mà chỉ thở dài rồi nói:

- Chưa tạo được phước cho dân mà đã muốn làm ác rồi à?

Thành Khởi Vận lặng lẽ cúi đầu. Nàng chậm rãi bước đi một hồi, trong đầu bỗng nghĩ ra một biện pháp, khoé môi không khỏi lộ ra một nụ cười đắc ý. Nàng ngẩng đầu định gọi Dương Lăng song chợt ngậm miệng lại, thầm nghĩ: "Mình tạm thời bàn bạc với Ngô đại đáng đầu trước, đợi khi thành công sẽ kể cho y sau, để y được chứng kiến thủ đoạn của mình. Cho dù không dùng thủ đoạn của ác bá thì mình vẫn là Gia Cát trong giới nữ nhi!"

Nàng vươn bàn tay trắng nõn như ngọc đợi một bông tuyết rơi vào trong lòng bàn tay, chưa kịp cảm nhận cái vị se lạnh thì bông tuyết đã hoá thành giọt nước. Khẽ thở ra một hơi, nàng thấp giọng ngâm:

"Tương tư như tửu thuần dục huân, bán tuý thường ký mộng trung tầm.

Đông phong diêu ký tinh oánh tuyết, hà thời tu đắc lạc mai hoa?"

(Nỗi tương tư giống như rượu thuần dễ say, khi say người ta thường chìm vào trong giấc mơ mà tìm kiếm bóng hình người còn lại

Gió đông đưa bông tuyết đến, biết khi nào mùa đông mới có thể nhìn thấy được hoa mai?)

Hàn Ấu Nương đi theo Dương Lăng một lúc chợt phát hiện Thành Khởi Vận còn rớt lại ở phía sau, bèn quay đầu lại gọi:

- Thành cô nương... í?

Mắt nàng rất tinh, lúc này sắc trời tuy đã chạng vạng nhưng từ xa nàng vẫn trông thấy hai thớt khoái mã một trước một sau đang phi băng băng lại. Nàng bất giác dừng chân kéo tay áo Dương Lăng nói:

- Tướng công, có khoái mã tới, sợ là có chuyện rồi!

Trong đám sáu tay gia đinh có kẻ xuất thân là phiên tử trong quân đội nên sớm đã rút ra phác đao và súng ngắn giấu trong áo choàng bông ra, quát lớn:

- Kẻ nào? Mau ghìm cương chạy chậm lại!

Người chạy phía trước nhảy phóc xuống ngựa, rảo bước đến thưa:

- Ty chức từ Đại Đồng chạy đến, có quân tình khẩn cấp cần bẩm báo. Ngô đại đáng đầu sai ty chức xuống núi bẩm báo trước cho Xưởng đốc đại nhân, đại đáng đầu ông ấy sẽ theo sau.

Chương 165 Hồi Phong Ba Của Bè Lũ Gian Thần

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Shandian

Hiệu đính: 

Nguồn: www.tangthuvien.com

Dương Lăng vội vã trở vào phủ, mấy người Hàn Ấu Nương nối gót theo sau. Tuy Ấu Nương có thai nhưng động tác vẫn còn rất nhanh nhẹn, bước chân thoăn thoắt trong khi Thành Khởi Vận chân bó gót sen, bước nhanh một chút là tóc tai tán loạn, má đào đỏ bừng phải nhờ Hàn Ấu Nương và Cao Văn Tâm dìu đỡ một bên.

Dương Lăng vòng qua bức tường chữ "Phúc" vẽ hình cá chép vượt long môn, nhìn thấy trong phòng khách đèn đóm sáng trưng thì biết Ngô Kiệt nhất định đã đến liền xoay người dặn dò Ấu Nương:

- Ấu Nương, nàng cùng Thành cô nương và Cao Văn Tâm xuống hậu đường nghỉ ngơi trước đi, ta đi gặp Ngô đại đáng đầu một chút.

Biết sự tình khẩn cấp, theo như thời tiết hiện tại thì Hàn Ấu Nương đoán có lẽ Thát Đát lại xâm lược biên cương, không biết bao nhiêu bá tánh sẽ gặp nạn binh đao. Nàng hơi nhíu mày nói khẽ:

- Tướng công đi đi, việc công quan trọng, Ấu Nương sẽ cùng hai vị tỷ tỷ đến hậu đường đợi chàng.

Dương Lăng gật đầu rồi liếc Thành Khởi Vận một cái đoạn xoay người bước vào phòng. Hàn Ấu Nương cùng Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận đứng đó một lúc rồi vòng theo hành lang bên đi về phía hậu đường.

Ngô Kiệt mặc áo dài xanh ngoài khoác áo da, tay chắp sau lưng đi lòng vòng trong phòng. Vừa thấy Dương Lăng bước vào, lão liền vội ôm quyền thi lễ:

- Ty chức ra mắt đại nhân.

Dương Lăng cũng không khách sáo vội kéo lão bước vào trong thư phòng, chưa đợi ổn định chỗ ngồi thì đã hỏi ngay:

- Đã xảy ra chuyện gì vậy? Giặc Thát lại kéo sang cướp bóc hay sao?

Ngô Kiệt gật đầu, nghiêm túc đáp:

- Dạ, năm ngoái tiểu vương tử Bá Diên Khả Hãn tập hợp năm vạn binh mã chia nhau tập kích cửu biên. Kết quả tuy thắng lợi trở về nhưng lại tổn thất thảm trọng, thậm chí con hắn cũng táng thân nơi chiến trường. Năm nay giặc Thát trở lại, tiểu vương tử liên thủ cùng Hoả Sư rồi tập hợp đại quân lên đến bảy vạn, trọng binh khí thế ào ào đã tiến đến Đại Đồng. Tổng binh Tuyên phủ là Trương Tuấn bại trận rút lui, tham tướng Trương Hùng và Mục Vinh đều chiến tử sa trường. Trước khi chiến báo của chúng ta kịp theo ngựa báo về thì giặc Thát đã công chiếm được Trấn Di sở, chỉ huy sứ Lưu Kinh chết trận, Hoa Mã Trì cũng bị công chiếm, Long Đức, Tĩnh Ninh, Hội Ninh đều bị xâm phạm. Sóc châu, Mã ấp giáp mặt với nguy hiểm trùng trùng.

Dương Lăng nghe vậy thì rùng mình lo ngại, y chắp tay đi loanh quanh trong thư phòng. Cây nến mờ mờ tỏ tỏ khiến khuôn mặt y trở nên âm u không rõ. Một lát lâu sau y mới dừng lại, hỏi:

- Quân trấn thủ Đại Đồng hiện còn bao nhiêu người?

Ngô Kiệt liền đáp:

- Trú quân bốn vạn, khách quân một vạn, chia ra trú thủ tại các thành ấp, lần này Thát Đát tấn công nhanh mà mãnh liệt, lại không chia quân tập kích các lộ như trước đây mà tập trung quân đội về một ngả trong khi chỉ chia một vạn quân công hướng Hoài An. Cánh quân thiết kỵ này tiến lui như gió khiến thủ quân các nơi đều kiêng dè không dám chủ động xuất binh chi viện, do vậy thế giặc hơn hẳn chúng ta.

Dương Lăng trở lại bên bàn, lôi dưới bàn ra mấy tấm bản đồ, rồi trải tấm bản đồ Thuyên phủ ra nói:

- Thám mã chúng ta phái đi tìm hiểu tình hình quan ngoại đã trở về. Lần trước chỉ nghe đại đáng đầu nhắc sơ qua, bây giờ ông trình bày kỹ càng tình hình cho ta, ngoài ra hãy nói rõ thêm phân bố binh lực và hướng tấn công của quân giặc cho ta...

Dưới ánh nến trong phòng, hai người trò chuyện suốt đêm khuya. Mãi tận lúc trời tờ mờ sáng Dương Lăng mới co duỗi cơ thể mệt mỏi của mình một chút rồi khẽ thở dài nói:

- Trời còn chưa sáng, cổng cung chưa mở, mặc dù giặc Thát đã mau chóng cắt đứt mấy yếu điểm nhưng tin tức từ phong hoả đài lúc này chắc đã truyền vào cung rồi.

Ánh mắt Ngô Kiệt loé lên, một chốc sau mới từ từ nói:

- Có phải đại nhân định dâng tấu lên Hoàng thượng?

Dương Lăng quay đầu lại hỏi:

- Ngô lão có kiến nghị gì?

Ngô Kiệt hơi cụp mắt, khẽ thở dài một tiếng và nói:

- Tình hình mà chúng ta nắm được chắc chắn sẽ chi tiết và đầy đủ hơn do thám của Cẩm y vệ, đại nhân có thể giải thích rõ ràng cho Hoàng thượng và bộ Binh, có điều đại nhân không nên can dự quá sâu vào việc tiến cử người xuất binh. Thế giặc quá mạnh, nếu lại chiến bại thì đại nhân sẽ khó tránh bị liên luỵ .

Dương Lăng lẳng lặng nhìn lão, khuôn mặt lấm lét của Ngô Kiệt đã có phần lúng túng và sợ hãi. Dương Lăng thấy mái đầu lão đã lấm tấm hoa râm thì nghĩ lão cũng chỉ muốn tốt cho mình, thế là thu lời trách mắng về, chỉ chậm rãi lắc đầu rồi lại gật đầu, lẩm bẩm:

- Ta biết, Nội xưởng chỉ là tai mắt của Hoàng thượng, không nên can thiệp quá nhiều vào chiến sự. Ôi! Người nào trong triều có thể dẫn quân xuất chinh đây...?

*****

Bầu trời đã toả ra ánh sáng nhưng mặt đất vẫn là một mảng xám tro, lúc này tuyết lớn bay lả tả, tuyết dày đọng lại khiến cho mặt đất lầy lội khó đi.

Lúc Dương Lăng dẫn hai mươi tay thị vệ cưỡi ngựa chạy đến dưới cổng thành thì mồ hôi đã đầy đầu, ngựa thở ra như khói. Trông thấy cổng thành vẫn đóng chặt y không khỏi cảm thấy lạ kỳ. Thủ hạ thị vệ khum tay hướng về phía đầu thành gọi lớn:

- Thủ vệ trên thành mau mau mở cổng.

Gọi mấy tiếng mà trên đầu thành vẫn không nghe, một tay thị vệ bèn rút cung ra, quay vòng ngựa lui về sau hơn hai mươi trượng rút tên ngắm bắn, một mũi tên rít lên âm thanh xé gió bay vào trong thành, "cốp" một tiếng, mũi tên đã cắm ngay giữa cánh cổng phòng vệ trên đầu thành.

Trong phút chốc, hai tay binh sĩ ló đầu ra khỏi đầu thành nhìn xuống quát to:

- Hôm nay cấm thành, kẻ nào gọi cổng?

Thị vệ kêu lớn:

- Tổng đốc Nội xưởng Dương Lăng muốn vào thành, ai đang giữ thành? Hãy mau mở cổng.

Sau khi liên tục xưng tên mấy lần, tên thủ vệ trên thành rốt cuộc đã nghe rõ nên hoảng sợ kêu lên một tiếng rồi rụt đầu vào. Đợi một lúc thì cổng thành được mở ra, một vị tướng lĩnh thủ thành khôi giáp chỉnh tề vội vàng chạy xuống nghênh đón, bước đến trước mặt Dương Lăng làm quân lễ:

- Ty chức là thiên hộ thủ thành Kiều Giới An tham kiến Dương đại nhân.

Dương Lăng chống tay lên đầu ngựa, lạnh lùng quát:

- Ai cho phép ngươi phong toả các cửa thành vậy? Đã xảy ra chuyện lớn gì?

Kiều Giới An là thủ lĩnh Kinh doanh và bộ hạ của Trương Vĩnh, hắn biết rằng Trương Vĩnh cũng rất kính sợ vị Dương đại nhân này, thấy mặt y nghiêm khắc thì không khỏi khiếp hãi đáp:

- Hồi bẩm đại nhân, hôm qua sau khi tan triều, Lưu công công của ty Lễ Giám đã ban một đạo chỉ liệt kê tên năm mươi sáu người gồm cả Lưu Kiện và Tạ Thiên, họ bị quy tội là gian đảng. Bá quan trong triều bất chấp gió tuyết đã tề tụ ở Ngọ môn suốt đêm để kháng nghị. Lưu công công sợ có người thừa cơ làm loạn kinh động thánh giá nên đã lệnh cho Trương công công phong tỏa cửa thành và Cốc công công điều động phiên tử Đông xưởng giám sát ngoài cổng cung.

Dương Lăng vừa nghe vậy liền cả kinh. Thảo nào cả ngày hôm qua không có người nào đến nhà, mà người của mình cũng không đưa được tin tức gì từ trong kinh đến, thì ra là Lưu Cẩn đã phong bế cửa thành, trừ mình ra thì người tầm thường đương nhiên sẽ không qua cửa được.

Theo tin tức từ hai ngày nay nhận được thì quả nhiên cải cách chính trị của Lưu Cẩn đã bị bá quan phản đối, ngay cả Lý Đông Dương và Dương Đình Hoà trước giờ vẫn luôn giữ miệng ra sức phối hợp cùng Lưu Cẩn thì hiện tại cũng đồng loạt dâng sớ can dừng, bảo rằng các hạng mục cải cách chính trị này hoặc không phù hợp với thực tế, hoặc quá vội vàng hấp tấp, thỉnh cầu Hoàng thượng hạ chiếu khoan làm.

Dương Lăng nhận thấy có Lưu Cẩn thu hút sự chú ý của bá quan thì sẽ rất có lợi cho chính sách mà mình chuẩn bị chấp hành, hơn nữa hai ngày nay y bận rộn với việc ươm giống và nghiên cứu chế tạo vũ khí mới nên cũng không để ý lắm, ai ngờ sự tình lại chuyển biến bất ngờ như vậy. Sao Lưu Cẩn đột nhiên lại trả đũa lại những quan viên đã bãi quan hồi hương vậy? Là vì muốn giết gà doạ khỉ hay vì giận chó đánh mèo?

Năm mươi sáu người? Dương Tâm máy động trong lòng, chợt hiểu ra đại khái, bởi vì những quan viên có liên quan đến vụ án của Lưu Kiện và Tạ Thiên không nhiều như vậy. Lưu Cẩn tuyên bố năm mươi sáu người là bè đảng gian thần ắt hẳn là muốn mượn danh nghĩa đả kích Lưu Tạ mà gom một số quan viên dám phản đối cải cách của lão vào, lấy đó để lập oai, đe dọa bá quan.

Ý của tuý ông (1), văn võ trong triều ai mà nhìn không ra chứ? Một khi mở ra tiền lệ này thì tranh đấu chính trị có thể tuỳ ý co giãn, sự trói buộc liên đới có thể thu hẹp mà cũng có thể mở rộng, về sau còn kẻ nào phản đối Lưu Cẩn nữa thì chỉ cần hơi phóng đại sự liên đới này, lão sẽ có thể đẩy bọn họ vào "gian đảng". Bá quan biết rõ sự lợi hại trong đó cho nên đương nhiên sẽ phản kích cật lực.

Dương Lăng vừa giận vừa sốt ruột, y khoát tay nói:

- Biết rồi, tránh nhanh ra một chút, bản quan vào thành!

Kiều thiên hộ vâng vâng dạ dạ, cung kính tránh sang một bên, Dương Lăng quất roi dẫn thị vệ phi thẳng tới Ngọ môn.

Tuyết rơi im lìm, ngự đạo rộng lớn mờ mịt không một dấu chân người. Sáng sớm vì tuyết lớn và cửa thành bị phong tỏa nên tất cả người đi đường đều đã trở về nhà, không ai dám đi lại lung tung trên đường vì sợ bị xưởng vệ bắt đi.

Đền điện đình đài của các gia đình hào phú và quán rượu lầu gác trong các con phố đều được phủ lên một lớp tuyết trắng thê lương, chỉ có tiếng chuông chùa thi thoảng vang lên, hùng hồn và du dương, báo cho người ta biết rằng trong toà thành này vẫn còn sự sống.

Dương Lăng còn chưa chạy đến Phụng Thiên môn thì từ hai bên đường đã có phiên tử Đông xưởng cầm đao cầm thương chạy tới chặn đường. Đến lúc thấy rõ là người của Nội xưởng, dẫn đầu còn là tổng đốc Dương Lăng của Nội xưởng, đám phiên tử lần trước bị Nội xưởng chém giết cho sợ đến vỡ mật này liền vội cuống quít bò dạt ra hai bên, trơ mắt nhìn bọn họ phóng ngựa phi qua.

Đến Ngọ môn, Dương Lăng ghì cương ngựa, tuấn mã hí vang một tiếng dài phá tan bầu không khí tĩnh mịch của buổi ban mai.

Tuyết rơi lả tả trên mặt đất mịt mờ, Dương Lăng ngạc nhiên nhìn quảng trường rộng mênh mông trước Ngọ môn, tim đập thình thịch, hai mươi thớt khoái mã đuổi theo cũng dừng lại sau lưng y, đám thị vệ nín thở đưa mắt nhìn.

Trên quảng trường là một mảng tuyết trắng mênh mông, chung quanh lại có mấy trăm tay phiên tử đang lặng lẽ đi lại, thấy đám người Dương Lăng đi tới bọn chúng liền đều lần lượt dừng chân nhìn sang.

Tại trung tâm quảng trường, ngay trước Ngọ môn, mấy trăm “bức tượng” đang im lìm đắm mình trong tuyết, mỗi bức tượng là hình nhân bằng tuyết đang quỳ trên mặt đất. Chỉ khi tuyết bám rơi khỏi thân hình lảo đảo sắp ngã để lộ quan bào màu lam và đỏ bên trong thì mới nhận ra được đó đều là những quan viên đang kiên trì quỳ gối.

Dương Lăng ghìm chặt cương, quay ngựa một vòng tại chỗ rồi chợt nhún người nhảy xuống và chạy qua bên đó, hai mươi tay thị vệ liền vội theo sát ngay sau. Đến gần y mới phát hiện trong tuyết đã có rất nhiều người ngã xuống, do tuyết rơi dày, tất cả đều tuyền một màu trắng xóa cho nên khi nãy ở đằng xa y mới không thấy rõ.

Dương Lăng lật đật phủi tuyết trên thân thể của một người. Người nọ tuổi tác khá trẻ, thoạt trông chỉ tầm mười tám mười chín tuổi, lúc này mặt đã tái mét, thân thể cứng đờ, chân mày mép tóc đều đã đóng một lớp băng mỏng.

Người này không phải là quan viên, nhìn phục sức của hắn thì hẳn là học sinh thái học (2) của Quốc Tử giám. Dương Lăng vội cởi chiếc áo khoác trên người mình xuống bọc người hắn lại rồi cố sức bế hắn lên. Hai tên thị vệ liền vội chạy lại đỡ lấy người nọ từ trong tay y.

Có mấy quan viên quỳ quanh đó vì hành động của y mà lặng lẽ xoay người lại, trên tấm thân bị phủ lớp tuyết dày chỉ lộ một khuôn mặt bị cóng đến trắng nhợt đang nhìn y một cách vô hồn.

Dương Lăng lại phủi lớp tuyết đọng trên thân thể một người đã bị cóng đến ngất xỉu. Đây là một quan văn ngũ phẩm, dưới cằm có ba chòm râu ngắn, hai mắt nhắm nghiền đã bất tỉnh nhân sự. Dương Lăng nắm chặt lấy hai bàn tay lạnh ngắt của ông ta rồi ngẩng đầu nhìn quanh. Từ xa, một tên đáng đầu được vây quanh bởi mấy chục tên phiên tử cầm đao hùng hổ đi tới, còn cách mấy trượng thì đã lớn giọng quát:

- Bản quan phụng mệnh Xưởng đốc đại nhân giám sát nơi này, kẻ nào dám tự ý can dự vào chính sự?

Lửa giận bùng lên, Dương Lăng ngẩng đầu quát trả:

- Chính sự cái rắm! Văn võ bá quan chính là nhân tài trị nước, là gốc rễ của xã tắc giang sơn! Ai ra mệnh lệnh cho ngươi mà dám ngược đãi đại quan triều đình hả?

Dương Lăng vừa thốt ra câu này thì đám quan viên thần chí đã hôn mê một nửa chung quanh không khỏi lần lượt quay đầu lại, kích động và kinh ngạc nhìn y. Tên đáng đầu nọ bước tới gần trông thấy rõ diện mạo Dương Lăng thì không khỏi giật nảy mình, hai gối mềm nhũn liền quỳ xuống vái lạy, lo sợ đáp:

- Ty chức không biết đại nhân giá đáo, thật thất lễ, mong đại nhân thứ tội.

Lúc này Dương Lăng cũng nhìn rõ người này. Tên này nguyên là lục đáng đầu của Đông xưởng, tên là Chu Khởi Phượng. Trước khi Cốc Đại Dụng tiếp nhận Đông xưởng thì Phạm Đình và mấy nhân vật chủ chốt như nhị đáng đầu và tam đáng đầu đều đã bị đám người Bành Kế Tổ âm thầm tiêu diệt vịn cớ ngoan cố chống cự. Chu Khởi Phượng sợ đến mất mật bèn đem hết toàn bộ bí mật mà mình biết được bẩm rõ với Nội xưởng, nhờ vậy mà giữ được tính mạng, về sau lại đến nương dựa vào Cốc Đại Dụng, lại được phục hồi nguyên chức.

Thấy người tới là Xưởng đốc Nội xưởng Dương Lăng, hắn liền vội dập đầu hành lễ, đám phiên tử theo sau chuẩn bị bắt người vừa trông thấy cũng liền vội quỳ theo. Dương Lăng tím mặt mắng to:

- Mau gọi người giúp đưa các vị đại nhân vào nhà dân quanh vùng sơ cứu, kêu người nấu một ít canh nóng... đợi đã, trước khi cứu tỉnh người thì hãy lấy tuyết chà khắp người, đừng đặt ngay lên giường sưởi.

Y thấy Chu Khởi Phượng còn hơi do dự thì liền trừng mắt quát:

- Lập tức đi làm ngay, về phía Cốc công công sẽ có bản quan nói thay cho ngươi!

Chu Khởi Phượng liền vội luôn mồm vâng dạ :

- Dạ dạ, ty chức lập tức làm theo, lập tức làm ngay. Người đâu, mau đỡ các vị đại nhân dậy.

Một giọng nói yếu ớt già nua bỗng cất lên:

- Dương đại nhân, bọn ta chết không đáng tiếc, song cái gốc của hoạ này là Lưu Cẩn loạn chính, thi hành luật ác nay lại gán tội cho người, buộc tội Lưu đại học sĩ, Tạ đại học sĩ đã bãi quan hồi hương và những người bất đồng chính kiến trong triều là gian đảng, Hoàng bảng (3) mà không được niêm phong trả lại, tội danh của năm mươi sáu đồng liêu không được xá bỏ thì bọn ta thà chết cóng tại đây, học theo tuyết kia giữ lòng thanh khiết!

Dương Lăng thấy người đó râu tóc bạc trắng, thân thể run rẩy, tuy mặt mày đã cóng đến độ tái ngắt song y vẫn nhận ra được vị đó là người từng đối đầu với mình nay được thăng lên làm thị lang bộ Lai, Vương Ngao.

Sau khi Dương Lăng “trọng thương” hồi kinh cùng với tin tức cái chết của Vương Quỳnh là do Phạm Đình của Đông xưởng 'giá họa' được truyền ra, lão phu tử này không còn căm ghét Dương Lăng nữa. Hôm nay nghe thấy lời của y thì cảm thấy có mấy phần hảo cảm với hành động của y, vì vậy lão mới xuất ngôn biểu đạt ý nguyện của bá quan đang quỳ gối tỏ lòng can gián.

Quan viên và đám học sinh thái học quỳ gối chung quanh đồng thanh hô to:

- Đúng, hoàng bảng mà không gỡ bỏ, trung thần không được xá tội thì chúng ta thà nguyện chết cóng tại đây, học theo tuyết kia giữ lòng thanh khiết!

Dương Lăng thở hắt ra một hơi, giao vị quan văn đã bị hôn mê trong tay cho thủ hạ rồi chậm rãi bước tới phía trước, bước chân dẫm lên lớp tuyết dày phát thành tiếng "rộp rộp". Dương Lăng đi đến chỗ trên cùng gần sát với cổng cung, có hơn nửa số quan viên Lục Bộ Cửu Khanh đang quỳ tại đây, trên cùng là hai quan văn, người già nua hơn là Lý Đông Dương, người còn lại tuổi trạc hơn bốn mươi đang quỳ cạnh dìu đỡ ông ấy là Dương Đình Hoà.

Trên người Lý Đông Dương được khoác thêm vài chiếc quan bào, cũng không biết là những quan viên nào đã cởi áo mình khoác lên cho ông ấy. Trong tay ông ôm một cuộn giấy vàng, hiển nhiên đó là hoàng bảng dán ở cổng cung nhằm tuyên cáo tên của năm mươi sáu thành viên 'gian đảng'.

Dương Lăng vội bước tới, dìu đỡ Lý Đông Dương dậy, khẽ nói:

- Đại học sĩ, ông... sao ông lại dẫn đầu quỳ gối can gián trước cổng cung vậy chứ. Nếu như hai vị đại học sĩ có ý kiến gì thì có thể vào cung bẩm rõ với Hoàng thượng mà. Làm vậy... làm như vậy sẽ tổn hại đến thân thể...

Lý Đông Dương lảo đảo đứng dậy, trông thấy là y, mắt lão không khỏi hiện lên sự vui mừng Nghe được ngữ khí mang chút trách móc của y, Lý Đông Dương cười khổ sở đáp:

- Dương đại nhân, hôm nay Hoàng thượng vịn cớ mang bệnh mà hủy tảo triều, đại học sĩ như ta lúc này cũng không có cách nào để yết kiến thánh thượng. Nếu như hoàng bảng được ban bố thiên hạ thì sẽ không thể rút lại nữa, bất đắc dĩ ta mới dùng đến hạ sách này. Ai ngờ... bá quan quỳ gối can gián vậy mà Lưu Cẩn vẫn còn lẫn tránh như vậy.

Dương Lăng giậm chân thầm nghĩ bá quan và Lưu Cẩn có giằng co thì y mới có thể thu lợi từ trong đó, còn nếu để Lưu Cẩn lật đổ được toàn bộ văn võ, cả triều đình bị ngưng trệ vậy há chẳng rất nguy sao?

Y đoạt lấy hoàng bảng trong tay Lý Đông Dương rồi khẽ giọng nói:

- Nếu như hai vị đại học sĩ tin tưởng hạ quan vậy hãy giao chuyện này cho hạ quan xử lý. Hai vị đại học sĩ hãy khuyên nhủ bá quan mau chóng về nhà điều dưỡng, vạn lần đừng để lỡ quốc sự. Chẳng lẽ... hai vị đại học sĩ còn chưa biết Hoả Sư và tiểu vương tử dẫn bảy vạn đại quân công thành cướp đất, những quan ải biên cương đã tràn ngập trong khói lửa chiến tranh rồi sao?

Lý Đông Dương giật mình thất kinh, hỏi ngay:

- Lại có chuyện này sao? Hàng năm gặp thời tiết này Thát Đát cũng đều dấy binh tập kích biên giới, trong kinh đã nhận được phong hoả truyền tin, chỉ là hiện tại vẫn chưa nhận được quân báo chi tiết. Năm nay tình hình lại nghiêm trọng vậy sao?

Dương Lăng thầm nghĩ: "Khoái dịch truyền tin ở biên quan vị tất đã nhanh bằng bên tôi. Huống hồ mấy người đều chạy đến đây quỳ gối can gián, bên ngoài lại bị Đông xưởng và quân đoàn Kinh doanh phong toả, cho dù có tin tức mang đến chỉ sợ cũng không thể mang vào."

Dương Lăng vội đáp:

- Đúng vậy! Quốc sự làm trọng, kính xin hai vị đại học sĩ dẫn các quan viên trở về trước. Hiện tại cần phải chữa trị ngay các quan viên bị cóng rét, những người có thể trở về nha môn làm việc cũng không thể lại làm việc theo cảm tính. Hạ quan sẽ lập tức vào cung, vụ án 'gian đảng' này hãy giao phó cho hạ quan vậy.

Lý Đông Dương cũng biết lúc này tuyệt đối không phải là thời khắc nội đình và ngoại đình tiếp tục tranh chấp, biên quan cấp báo việc ngoại xâm, hết thảy phải lấy đại cuộc làm trọng. Lão lập tức gật đầu:

- Được! Nếu quả như Lưu Cẩn khơi mào chuyện đả kích những người bất đồng chính kiến là 'gian đảng' thì nhất định từ đây về sau bè cánh sẽ không ngừng tranh đấu, ngày một thêm nghiêm trọng. Việc này đành phải xin nhờ tới đại nhân rồi, văn võ bá quan thì hãy giao cho ta và Giới Phu khuyên nhủ vậy.

Dương Lăng gật đầu, tay cầm hoàng bảng, cao giọng nói to:

- Các vị đại nhân, Dương mỗ nguyện gánh vác việc gỡ bỏ hoàng bảng và giải trừ vu cáo 'gian đảng', nhưng triều đình không thể một ngày không có bá quan, bá quan không thể một ngày không đoái hoài đến chính sự. Giờ đây biên thùy báo nguy, bảy vạn đại quân hùng hậu của Thát Đát đã áp sát biên giới, công thành cướp đất, thành trì rơi vào tay giặc, bá tánh gặp tai ương. Xin các vị đại nhân hãy tạm thời rời khỏi Ngọ môn, bảo trì thân thể, lấy giang sơn xã tắc làm trọng, lấy lê dân bá tánh làm trọng!

Lưu Đại Hạ có thân thể khoẻ mạnh, chớ thấy lão là ông già bảy mươi mà xem thường. Trải qua suốt đêm cực khổ ở đây nhưng tinh thần vẫn quắc thước, nghe vậy lão liền lập tức đứng bật dậy, thất kinh hỏi dồn:

- Cái gì? Biên cảnh đã nguy cấp đến vậy rồi sao? Bộ Binh vẫn chưa nhận được công văn, ngươi... tin tức của ngươi có đáng tin không?

Dương Lăng gật mạnh đầu, đáp:

- Tuyệt không giả dối, xin đại nhân mau chóng trở về bộ Binh. Sợ rằng một khi Hoàng thượng nhận được tin tức sẽ lập tức triệu kiến ngài đó.

Lý Đông Dương được Dương Đình Hoà dìu đỡ xoay người lại, lấy hơi nói to:

- Các vị đồng liêu, Dương đại nhân sẽ lập tức vào kinh kiến giá, đã nhận lời hứa sẽ bẩm rõ với thánh thượng cho bá quan chúng ta. Giờ đây biên quan nguy cấp, quốc sự làm trọng, mọi người... hãy tạm thời hồi phủ, cố sớm quay về nha môn làm việc.

Có được câu nói này của Lý Đông Dương, bá quan bắt đầu xao động, từng người lảo đảo đứng dậy rồi đi dìu đỡ đồng liêu đã bị hôn mê. Tuyết dày rét cóng, (lúc tuyết rơi thì trời mới hơi ấm lên một chút), hơn nữa đây là trận tuyết lớn đầu tiên đầu mùa đông, vừa đói vừa mệt cộng với lạnh giá đã khiến một ít quan viên thể chất yếu nhược ngất xỉu, may mà chưa có ai chết cóng.

Đám phiên tử Đông xưởng có lòng muốn đến dìu đỡ, những quan viên đó tuy đứng còn không vững nhưng lại khăng khăng không chịu để bọn chúng giúp đỡ, tuy nhiên Dương Lăng đã hạ lệnh, phiên tử Đông xưởng đặt tại các cửa khẩu đều đã lần lượt rút về, ngựa xe và gia bộc của các vị đại nhân bị chặn lại ở ngoài đầu phố lần lượt kéo vào đón các vị đại nhân của mình lên kiệu rồi nhanh chóng kéo đi.

*****

Đưa tiễn kiệu của Lý Đông Dương và Dương Đình Hoà xong, Dương Lăng mới trở lại trước cổng cung, gõ tấn khẩu (4) bên hông, trình thẻ bài ra. Bên trong tra xét xong, thấy rõ là Dương Lăng thì lúc này cổng cung mới được mở ra.

Dương Lăng thấy cấm vệ đại nội đứng gác trong cung cũng mâu giáp uy nghiêm thì càng không khỏi chau mày, lòng thầm cảnh giác.

Lần này y có ý muốn giao cho Lưu Cẩn đi làm loạn cả kinh thành, vả lại trên danh nghĩa Đông xưởng và Tây xưởng đều bị Lưu Cẩn quản hạt. Lưu Cẩn thân là thủ lĩnh ty Lễ Giám, hạ lệnh phong tỏa kinh thành, đám người Cốc Đại Dụng, Trương Vĩnh và Miêu Quỳ tất sẽ không dám ngang nhiên kháng lệnh, không ngờ bởi vì chuyện xảy ra đột ngột như vậy mà ngay chính mình cũng bị giấu kín, không nhận được tin tức gì.

Dẫu rằng Hoàng đế Chính Đức vẫn tin cậy mình hơn Lưu Cẩn nhưng lão ta lại chiếm được một ưu thế, chính là hàng ngày hầu hạ bên cạnh Hoàng thượng. Xem ra ngoài con đường truyền tin thông thường trong kinh mình cũng nên âm thầm bố trí thêm liên lạc ngầm, bằng không đôi lúc khó tránh sẽ bị che mắt. Giả như Lưu Cẩn có ác ý gì với mình...

Dương Lăng vừa nghĩ thầm vừa chạy thẳng về phía gác Tây Noãn trong cung Càn Thanh. Hoàng đế Chính Đức thích nhất là ở trong toà cung điện mà năm xưa vua Hoằng Trị thường ở này, từ lúc lãnh đạm với hậu cung đến nay thì hắn càng không chịu đến nơi khác ở.

Dương Lăng thong thả tiến vào gác Tây Noãn. Ngoài điện trống trơn, hai tiểu hoàng môn thấy y tới vừa mới khom người hành lễ thì y đã vội khoát tay ngăn lại. Rẽ trái đi vào chính là trung điện, là nơi Chính Đức thường xử lý chính vụ. Dương Lăng vừa định đưa tay vén bức rèm gấm thêu hình rồng vàng thì chợt nghe bên trong có tiếng người vọng ra, ngón tay mới vừa vén ra một chút liền dừng lại đó.

Y nghe thấy tiếng Miêu Quỳ cất lên:

- Lưu công công, lần này có phải đã gây ra chuyện lớn rồi hay không? Ta đã sai người đi xem thử, bá quan đã quỳ trước cổng cung một đêm rồi, nếu bị cóng chết mấy người khiến cho bọn họ nổi giận thì chúng ta càng sẽ chịu phải công kích của người ta đó.

Liền đó giọng nói của Trương Vĩnh họa theo:

- Phải đó, theo ta thấy, có nên thông báo cho Dương đại nhân một tiếng, mời y đến cùng nhau bàn tính một chút hay không?

Lúc này y lại nghe Mã Vĩnh Thành "hừ" một tiếng rồi nói:

- Còn kịp à? Lúc này đã cưỡi trên lưng cọp rồi, thánh chỉ mới vừa xin ngày hôm qua, nói hay như vậy với Hoàng thượng, nói là bá quan trong triều khi phụ quân chủ nhỏ tuổi, chúng ta chỉ phạt thanh danh đám người Lưu Kiện mà không dùng hình cụ, lấy đó để cảnh cáo bá quan khiến chúng kính sợ. Muốn quay lui thì sẽ giải thích sao với Hoàng thượng bây giờ đây? Dương đại nhân à... làm ra đến mức này rồi, người ta sẽ chịu dọn dẹp giúp cho chúng ta ư?

Dương Lăng ghé mắt vào khe hở rèm cửa nhìn vào bên trong, thấy một dãy ghế dựa mũ quan bằng gỗ lim, Lưu Cẩn thân vận mãng bào, tay cầm bình tử sa miệng bồ câu (*) đưa lên miệng hớp ngụm trà, căm hận nói:

- Cho dù bọn chúng không sợ chết, ta không tin đám thư sinh được cưng chiều từ bé đó sẽ chịu được cái lạnh, chống nổi cái đói. Mấy người sợ cái gì chứ? Chờ đến giữa ngọ mà xem. Hừ, đến lúc đó cho người rút hết phiên tử, cho phép gia bộc bọn chúng vào, bảo đảm bọn chúng sẽ lăn ngay về nhà giả chết như mấy con lừa cho xem.

(*) bình trà làm bằng đất sét nâu.

Lúc này một chiếc mãng bào lại tiến vào trong tầm mắt, xoay người lại ngồi cạnh Lưu Cẩn, đó là Xưởng công Cốc Đại Dụng của Đông xưởng. Lão cười gượng nói:

- Nói đúng lắm, bây giờ cũng chỉ có thể đi bước nào xem bước nấy thôi. Bây giờ đọ sức cùng ngoại đình, kẻ nào lui trước là thua, đừng tìm Dương đại nhân đến mà khiến y chê cười. Chúng ta cứ chờ thôi.

Lão suy nghĩ một chút rồi nói:

- Lưu công công, ông thấy có nên gỡ phong toả cửa thành trước không? Tuy rằng trời lạnh tuyết to ít người ra vào nhưng người đi nam về bắc cũng có không ít, phong toả kinh thành dân gian khó tránh sẽ đồn đoán linh tinh. Hơn nữa việc này vốn cũng không cần phải che tai mắt người ta.

Lưu Cẩn nghĩ ngợi một chút rồi nói:

- Ừ, Trương công công, phiền ông thông tri mở cửa thành vậy. Có điều... Cốc công công, Đông xưởng vẫn phải chú ý mấy con đường quan trọng đến Ngọ môn một chút, đừng để những kẻ tạp nham nhàn rỗi chạy đến xem náo nhiệt. Loạn như vậy là đủ rồi.

Hai người vâng dạ đáp lời. Thấy Cốc Đại Dụng đứng dậy định đi ra ngoài, Dương Lăng vội vén rèm, ho khan một tiếng rồi thong thả bước vào.

Trương Vĩnh vừa quay người lại, liếc mắt trông thấy Dương Lăng liền không khỏi kinh ngạc kêu lên:

- Dương đại nhân? Sao hôm nay lại vào kinh vậy?

Dương Lăng quét mắt nhìn lướt mọi người, thấy ngoài kinh ngạc phần lớn còn lộ ra sự mừng rỡ. Những vẻ mặt vốn dĩ có phần lo lắng bất an đã tiêu tan không ít, như thể cảm thấy đã tìm được trợ thủ mạnh mẽ, ngay cả Lưu Cẩn dẫu rằng mặt không đổi sắc nhưng trong mắt cũng không giấu được vẻ vui mừng.

Dương Lăng thầm nghĩ: "Xem ra lần này bọn họ giấu giếm mình cũng không phải cố ý muốn gạt mình sang một bên mà là tự cho rằng có thể chi phối văn võ cả triều, nhưng không ngờ càng làm càng rối."

Y giơ hoàng bảng trong tay lên, ra vẻ hoảng hốt nói:

- Đây là chủ ý của ai vậy? Thật hồ đồ quá rồi. Lưu công công thi hành tân chính đang cần đến sự ủng hộ đắc lực của bá quan. Lưu, Tạ nhiều lắm chỉ là những kẻ bị bãi quan, không bao lâu nữa sẽ bị người ta quên đi, ảnh hưởng và uy đức trên quan trường cũng sẽ dần dần phai nhạt. Giờ lại chỉ trích bọn họ là gian đảng vậy khác nào lại nâng bọn họ lên thành lãnh tụ của bá quan, làm vậy không phải là tự tạo thêm cường địch ư?

Đám người Cốc Đại Dụng nghe vậy thì ngơ ngác nhìn nhau, không hẹn mà cùng lặng lẽ hướng mắt về phía Lưu Cẩn, khuôn mặt già nua của Lưu Cẩn thoáng đỏ lên. Lão nghe nói bá quan đã quỳ một đêm, trong lòng cũng đã thấp thỏm bất an, cảm thấy biện pháp của vị quân sư tú tài mà mình rước về có hơi quá đáng nhưng lại không thể cúi đầu khuất phục bá quan, thành ra vẫn cố đấm ăn xôi. Giờ nghe Dương Lăng nói vậy, lão cũng không biết mình đã phạm phải sai lầm lớn gì, không khỏi ngượng ngập hỏi:

- Ừm..., Dương đại nhân cảm thấy biện pháp này không tốt ư?

Đoạn lão đứng dậy nói:

- Nghe nói năm Huy Tông thời Bắc Tống, trong triều đả kích bè lũ gian thần đã dựng lên bia đá gọi là "Gian Đảng"(5). Kết quả bè lũ gian thần đã bị hốt gọn, về sau cũng không còn ai dám chỉ trích triều chính bậy bạ nữa. Vậy sao... sao...?

"Năm Huy Tông? Đó là triều đại có nhiều bè lũ gian thần nhất của Đại Tống." Thật ra Dương Lăng nhớ được rất nhiều sự kiện của triều đại này nhờ từng xem truyện trào phúng, cũng biết chuyện dựng bia đá “Gian Đảng”, y thở dài nói:

- Lưu công công, đây là ý tưởng của vị tú tài nào vậy? Hắn muốn đẩy chủ mình vào chỗ bất nghĩa hay sao? Lưu công công ngài thử nghĩ đi, cầm quyền vào triều đại đó đều là những kẻ nào? Là đám lục tặc hại nước Thái Kinh và Đồng Quán đó!

Đoạn y nhìn một vòng rồi cười nhạt nói:

- Hay lắm, khéo lắm. Năm vị công công Lưu, Mã, Trương, Cốc, Miêu cộng thêm Dương Lăng ta, bảng gian đảng này một khi được dán lên thì Đại Minh sẽ xuất hiện lục tặc hại nước mới đây.

Đám người Lưu Cẩn nghe vậy muốn cười song lại nín nhịn, nhất thời cũng không hỏi xem tại sao một khi dán bảng “gian đảng” lại có nhiều tác hại như vậy, trong lòng chỉ cảm thấy học vấn của Dương Lăng hơn xa bọn họ, y nói như vậy tất có lý lẽ của mình. Về phần gian tặc hại nước hả, ai mà thèm làm, bọn họ còn nghĩ mình là mấy đại trung thần đó.

Lưu Cẩn ngắc ngứ nói:

- Ta thi hành tân chính, bá quan nhất loạt đều phản đối. Đám mọt sách này vốn luôn xem thường nội đình chúng ta, chỉ cần là những gì chúng ta đề xuất hoặc nói ra bọn chúng đều sẽ nhắm mắt phản đối luôn, ngay cả lý do cũng lười nói cho đại nhân biết. Cái bản mặt khinh thường người khác đó thật sự khiến cho người ta tức chết đi được. Ta vốn chỉ định đánh vào cái dáng vẻ kiêu ngạo của bá quan một chút nhưng không ngờ bọn chúng lại kiên quyết như vậy, quỳ gối cả đêm trong tuyết, may mắn là sáng nay Hoàng thượng bãi bỏ tảo triều bằng không chúng ta thật sự sẽ rất bận rộn. Nhưng mà Dương đại nhân lại lấy hoàng bảng về rồi, nếu như lấy về thì mặt mũi mấy người bọn ta để đâu? Biết phải giải thích sao với Hoàng thượng đây?

Mấy người Cốc Đại Dụng mới vừa thăng chức, việc mà bọn họ quan tâm nhất chính là điều này, nghe vậy liền gật đầu lia lịa. Dương Lăng nói:

- Cho dù không có chuyện này thì chẳng lẽ ngoại thần sẽ coi trọng chúng ta ư? Hơn nữa... trọng binh Thát Đát đã áp sát biên cương, lúc này biên quan cấp báo, cần nội thần và ngoại thần đồng tâm hợp lực chống giặc ngoại xâm. Lý do này đã đủ hay chưa? Các vị hãy dùng lý do này mà dâng tấu lên cho Hoàng thượng, xin Hoàng thượng thu hồi thánh chỉ. Hoàng thượng tất sẽ khen ngợi các vị công công biết phân nặng nhẹ, coi trọng triều đình, trung quân yêu dân đó.

Lý do này quả thật vừa có thể tiếp nhận, lại có thể lấy lòng Hoàng thượng, đám người Lưu Cẩn đương nhiên gật đầu, đồng thời cũng có chút kinh hãi. Miêu Quỳ nhịn không được bèn hỏi:

- Dương đại nhân, giặc Thát lại tập kích biên giới sao?

Sắc mặt Dương Lăng trở nên nghiêm trọng, y gật đầu đáp:

- Ừm, lần này Bá Diên Khả Hãn và Hoả Sư dẫn theo bảy vạn thiết kỵ một đường tập kích Tuyên phủ Đại Đồng ta, hiện tại đã có rất nhiều thành trì rơi vào tay giặc. Cần phải lập tức bẩm rõ với Hoàng thượng, lập tức triệu tập đại quan trong triều cùng thương nghị kế sách khởi binh chống giặc. Hoàng thượng đâu rồi? Sao chỉ thấy các vị ở đây?

Mã Vĩnh Thành nhỏ giọng cười gượng nói:

- Ninh Vương vừa tiến cống cho Hoàng thượng một gánh xiếc, trong đó có hai vị cô nương xinh đẹp dị thường lại biết ca hát và làm xiếc. Hoàng thượng rất thích bọn họ, hôm qua đã triệu vời bọn họ thị tẩm, có lẽ thân thể mệt mỏi nên sáng sớm truyền khẩu dụ rằng hôm nay huỷ bỏ tảo triều. Ta cũng không dám vào quấy rầy...

Hoàng thượng muốn triệu vời phi tần thị tẩm trong hậu cung thì phải có kim ấn của Hoàng hậu thì Kính Sự phòng mới có thể tiến ngự, vả lại còn hạn chế thời gian, đến giờ sẽ phải đưa phi tử về cung, không thể chung giường cùng gối yên ngủ suốt đêm với Hoàng thượng.

Với tính khí của tiểu Chính Đức, chịu phải ước thúc như vậy hắn sẽ ghét không tới hậu cung nữa. Không ngờ hắn lại tự tìm phụ nữ cho mình. Chỉ có điều... Ninh vương à? Ninh vương!

Dương Lăng cả kinh, định co cẳng chạy vào tẩm cung của hoàng đế. Vừa dợm chân, y chợt định thần lại. "Ninh vương sẽ tạo phản, việc này chỉ một mình biết, nói ra cũng sẽ không ai tin. Song nếu hai người con gái này đã được Ninh vương ngang nhiên cống tặng vậy trong cấm cung đã ghi vào sổ sách, quyết hắn sẽ không dùng bọn họ để ám sát Hoàng đế. Quả như bọn họ chỉ là những con hát bình thường vậy sẽ là công cụ Ninh vương dùng để lấy lòng hoặc mê hoặc Chính Đức. Một khi bọn họ là tâm phúc của Ninh vương liền trở thành tai mắt của hắn bên cạnh Hoàng đế vậy mình gấp gáp như thế làm gì?"

Y cười tự giễu mình, chợt thấy mấy vị công công đang kinh ngạc nhìn mình liền nói:

- Chuyện hôm nay không nên xé ra to. Biên cảnh đang có hoạ, nếu như nội đình vẫn cứ dán bảng công bố xử phạt triều thần, ắt sẽ dẫn đến công kích của thiên hạ. Như vậy đi, Trương công công, Cốc công công, hai vị hãy mau chóng gỡ bỏ cấm thành và rút phiên tử về. Mã công công, xin công công hãy sai người cấp tốc giục Hoàng thượng thức dậy, chúng ta xin người hạ chỉ thu hồi lệnh phạt gian đảng trước để yên lòng bá quan, sau đó xin Hoàng thượng điều binh khiển tướng bắc phạt Thát Đát là hơn.

Miêu Quỳ tuy là thái giám song luôn muốn dẫn binh đánh trận, kiến lập công huân, vừa nghe lời này liền xoa tay hăm hở:

- Được, ta và đại nhân sẽ cùng đi gặp Hoàng thượng. Giặc Thát quá ngông cuồng, nhất định chúng ta phải phái trọng binh đánh cho chúng biết mặt mới được!

*****

Hai người thiếu nữ trong gánh xiếc đó dung mạo xinh đẹp, thân thể mềm mại lại rất thức thời, hiểu chuyện gió trăng cộng thêm từ nhỏ nhờ luyện tập tạp kỹ nên cơ thịt khắp người linh hoạt dẻo dai, so với tiểu thư con nhà phú quý bình thường thì vẻ phong tao nóng bỏng, khêu gợi và bạo dạn trong khuê phòng đó thật khiến cho Hoàng đế Chính Đức vốn thích phóng đãng, không chịu câu thúc này mừng rỡ như điên.

Một đêm phong lưu ấy, hai người con gái dân gian quả thật đã đánh bại hoàn toàn ba vị phi tần chỉ biết đọc thi thư, trên giường cũng rụt rè nho nhã, khiến Chính Đức yêu thích đến không rời tay. Quấn quít nguyên đêm, sung sướng lên tiên, mãi đến rạng đông hắn mới chìm vào mộng đẹp, đến nỗi tảng sáng mà mệt dậy không nổi.

Lúc Mã Vĩnh Thành phái tên tiểu hoàng môn lấy hết can đảm đi vào hô hoán, Chính Đức và hai thiếu nữ mới vừa thức dậy. Chính Đức mỉm cười ngắm nhìn hai mỹ nhân trang điểm trước gương, ôm lấy eo bọn họ, hôn trộm một cái, rồi luồn tay chụp lấy bộ ngực của họ, cười ha hả trông thích thú vô cùng.

Nghe nói Dương Lăng và đám người thân cận của mình là Lưu Cẩn đang chờ yết kiến, Chính Đức hứng chí nắm tay dẫn hai thiếu nữ ra ngoài. Đám người Dương Lăng vừa thấy Hoàng thượng mặc thường phục đi ra liền vội nhất tề quỳ xuống hành lễ:

- Tham kiến Hoàng thượng.

Hai thiếu nữ đó thấy có người quỳ xuống thì không muốn gánh phải tội nhận sằng lễ tiết liền vội tránh sang hai bên. Dương Lăng thấy hai đôi hài cong trắng như tuyết tránh sang hai bên, bước chân hết sức nhẹ nhàng, tuy không nhìn ra bọn họ có biết võ nghệ hay không song cảm thấy một người con gái trong gánh xiếc dân gian lại hiểu biết lễ nghi như vậy thì không khỏi sinh lòng ngờ vực.

Chính Đức cười hì hì bảo:

- Đứng lên đi, đứng lên đi, cũng đâu phải là người ngoài. Dương thị độc, trẫm đã thu nạp được hai người con gái hợp lòng, khanh xem có đẹp hay không?

Dương Lăng thầm cười khổ trong lòng: "Tuy rằng hai người con gái này xuất thân ti tiện nhưng đã thị tẩm cho Hoàng đế thì thân phận đã không thể so với người bình thường, sao mình dám to gan mà bình phẩm đánh giá chứ? Vị Hoàng thượng này thật là..."

Đám người Dương Lăng lập tức đứng dậy. Dương Lăng liếc nhìn, thấy hai người thiếu nữ đó đều có khuôn mặt trái xoan trắng như tuyết, mắt hạnh má đào, thanh nhã phong lưu.

Một người mặc áo đỏ, người mặc áo xanh, đều dùng áo cân vạt quần bó ống, eo buộc một sợi dây lưng bằng lụa trắng, giày cong nhỏ nhắn nhẹ nhàng như én, tuy vẫn là bộ đồ đoản đả (*) như lên đài biểu diễn song trông càng thêm khả ái yêu kiều.

(*)võ phục ngắn, quần áo chẽn, diễn viên võ mặc khi biểu diễn.

Tuy bọn họ chỉ có tám phần xinh đẹp nhưng lại có mười hai phần phong thái, cử chỉ và dáng điệu dịu dàng chân thành, mặc dù chỉ là áo vải trơn màu nhưng lại khiến mắt người ta như chìm trong ngũ sắc, không giống như con gái tầm thường.

Dương Lăng thầm nghĩ bụng: "Dung nhan thật xinh đẹp, phong thái thật đặc biệt, Ninh vương thật chịu đầu tư."

Dương Lăng điềm nhiên cười nói:

- Hoàng thượng thân là thiên tử, tầm mắt ấy đương nhiên là số một rồi, hai vị cô nương có thể nói là tuyệt sắc trên đời.

Hai vị cô nương nghe vậy mới cẩn thận quan sát y. Dương Lăng đưa mắt lên thì thấy hai vị cô nương này một người xinh đẹp lạnh lùng, một người ngọt ngào vui vẻ.

Người con gái xinh đẹp có vẻ lạnh lùng vốn không hề nở nụ cười nhưng khi thấy Dương Lăng lại là một công tử phong lưu anh tuấn đang ngắm mình thì chợt nhoẻn miệng cười với y, để lộ hai hàm răng trắng đều như bắp, đôi môi hồng đào hơi vểnh lên như môi mèo. Nụ cười của nàng ta vốn đã xinh tươi, thêm vào vẻ đẹp lạnh lùng càng khiến người ta cảm nhận một cách mãnh liệt.

Chính Đức nghe thấy Dương Lăng khen ngợi thì mừng rỡ nói:

- Đúng đó, trẫm cũng cảm thấy so với phi tần ở hậu cung thì các nàng hiểu biết và thức thời hơn nhiều, tên của bọn họ là Giải Ngữ và Tu Hoa. Giải Ngữ, Tu Hoa, vị này là ái khanh của trẫm, Dương Lăng.

Hai người con gái thoáng lộ vẻ kinh ngạc liếc nhìn Dương Lăng, sau đó hai người dịu dàng nhún chào, yêu kiều nói:

- Dân nữ ra mắt Dương đại nhân, ngưỡng mộ thanh danh đại nhân đã lâu.

Chính Đức ngạc nhiên hỏi:

- Hai người từng nghe nói về Dương ái khanh à?

Tiểu cô nương hay cười nọ mặc một bộ áo chẽn sát thân màu đỏ, bộ ngực cao ngất ép thành một khe sâu mê người, ở giữa đeo một bức tượng phật bạch ngọc thoạt trông không rõ bao nhiêu tiền, nàng ta mân mê bức tượng phật bằng ngọc hơi gật đầu rồi hé miệng cười đáp:

- Những câu truyện truyền kỳ về Dương đại nhân cửu thành tầm y, đế lăng hàm oan, Giang Nam chống Oa rất nhiều, dân nữ là khách giang hồ nên đã nghe đến chai cả tai.

Chính Đức ôm lấy chiếc eo thon của nàng ta rồi hôn dưới mái tóc mai và nói:

- Giải Ngữ, đó là vì trẫm không có cơ hội thôi, sau này có thời gian rảnh trẫm sẽ cùng nàng đi khắp giang hồ, truyện truyền kỳ nhất định sẽ còn nhiều hơn.

Người con gái tên là Giải Ngữ bị Hoàng đế ôm eo ngay trước mặt mọi người, khuôn mặt hơi đỏ lên, hai má ửng ráng mây hồng, sóng mắt đong đưa càng toát lên vẻ xuân sắc điên đảo tâm hồn. Nàng ta khẽ mím môi, bờ mi cong dài chớp chớp không ngừng, vẻ nửa thẹn nửa sợ ấy khiến ngay cả đám người Lưu Cẩn cũng không nhịn được mà nhìn thêm mấy lần.

Ánh mắt của Dương Lăng lại tập trung giữa cặp tuyết lê cao vút: đó là một bức tượng phật Di Lặc há miệng tươi cười. Những người thờ phật trên thế gian bất luận là nam hay nữ thì rất ít người đeo tượng phật Di Lặc. Tín đồ nữ đa số thường hay đeo tượng Quan Âm Bồ Tát hơn.

Dương Lăng vì lỡ gạt Ấu Nương cho nên luôn đeo cây thánh giá trên người nên khi thấy tượng phật của nàng ta thì hơi ngạc nhiên và tò mò, không khỏi nhìn kỹ hơn nhưng thật ra trong lòng lại không có ý gì khác.

Thấy vậy, người con gái tên là Tu Hoa đứng bên cạnh lộ ra vẻ căng thẳng rồi mau chóng bước vòng ra trước mặt, giả vờ giúp tỷ muội sửa lại vạt áo để che chắn ánh mắt của Dương Lăng rồi nhân lúc Chính Đức không để ý mà nghiêm khắc trừng mắt với nàng ta một cái. Lúc này Giải Ngữ mới sực tỉnh ngộ, khuôn mặt xinh xắn thoáng trắng bệch rồi vội vã nhét bức tượng phật đó vào trong người.

Chú thích:

(1) trích "Tuý Ông chi ý bất tại rượu", lời của Tuý Ông không phải ở rượu; nghĩa bóng chỉ trong lời nói có dụng ý khác.

(2) cấp học cao cấp nhất thời phong kiến

(3) bảng yết thị của vua

(4) cửa phụ, có khe nhỏ để đưa thư từ

(5) Sau khi lên làm thừa tướng, để triệt hạ hoàn toàn phe phái cũ, Sái Kinh (Thái Kinh) kiến nghị Huy Tông liệt kê tên tuổi những người thuộc phe này gồm 109 người từng theo Tư Mã Quang, khắc tên lên bia đá gọi là “danh sách gian đảng” bêu danh xấu trước cửa Đoan Lễ tại điện Văn Đức để noi gương cho đời sau.

Chương 166 Binh Xuất Chính Kỳ

Dịch: Ba_Van

Biên dịch: Vo Vong 

Biên tập: Shandian

Hiệu đính: 

Nguồn: www.tangthuvien.com

Chính Đức không hề chú ý đến hành động của Giải Ngữ mà quay sang cười hỏi Dương Lăng:

- Dương khanh! Sáng sớm ngươi đã tiến cung, có chuyện gì quan trọng sao?

Dương Lăng ho khan một tiếng, liếc mắt nhìn Lưu Cẩn, Cẩn hiểu ý vội đỡ lời:

- Hoàng thượng! Đám người Lưu Kiện, Tạ Thiên cấu kết nội đình bức hiếp thiên tử vô pháp vô thiên, hôm qua nô tài xin người hạ thánh chỉ định tội mấy kẻ này sau đó công bố khắp thiên hạ nhằm khiến cho bá quan sợ hãi dè chừng mà tự xét lại mình. Tuy nhiên hôm nay lại nghe tin chiến sự biên cương khẩn cấp, lúc này không nên khiến triều đình rúng động bởi vậy kính xin Hoàng thượng lại hạ chỉ ban ân, miễn tội danh cho bọn họ.

Chính Đức không vui đáp:

- Hôm qua vừa hạ chỉ, cớ sao hôm nay đã muốn thu lại rồi? À.........- Hắn hồ nghi liếc mắt nhìn Dương Lăng, cười hỏi:

- Nhất định là Dương khanh không đành lòng nên ra mặt cầu xin tha thứ cho bọn họ, phải không?

Hắn suy nghĩ một hồi, nhận thấy Lưu Kiện, Tạ Thiên tuy đáng ghét nhưng dù sao cũng từng là Thái phó của mình, nay bọn họ đã không muốn truy cứu nữa, chuyện này bỏ qua cũng được. Hắn gật đầu đồng ý:

- Được! Trước tiên hạ chỉ khiển trách, sau lại ra ân chỉ miễn trách phạt cũng không có vấn đề gì. Việc này ngươi cứ đi làm đi!

Lưu Cẩn vội cất tiếng tạ ơn với vẻ mặt mừng rỡ. Chính Đức lại nói với Dương Lăng:

- Tín hiệu phong hỏa từ biên ải đã truyền đến kinh thành đêm trước nhưng vẫn chưa có tin tức gì thêm. Bây giờ đã có tin tình báo chính xác rồi sao?

Dương Lăng bước lên một bước đáp:

- Vâng! Thần đã có tin tức tường tận hơn đang định bẩm với Hoàng thượng.

Y đưa mắt nhìn hai cô gái. Chính Đức hiểu ý, quay sang hai cô mà từ tốn:

- Giải Ngữ! Tu Hoa! Hai nàng hãy theo Mã Vĩnh Thành rời đi, rồi để hắn thu xếp chỗ ở cho. Đợi đầu xuân trẫm sẽ dọn đến Báo viên ở, đến khi đó trẫm sẽ chuẩn bị cho các nàng hai căn phòng thực lớn.

Hai cô gái ngoan ngoãn vâng một tiếng. Tu Hoa cẩn thận liếc nhìn Dương Lăng rồi khoan thai bước theo Mã Vĩnh Thành.

Chính Đức vươn vai ngáp dài, bảo Dương Lăng:

- Dương thị độc, chúng ta vào phòng đã rồi có gì hãy nói!

Đám Lưu Cẩn không tiện theo vào nhưng cả bọn đều không quan tâm tới chuyện này lắm, duy có Miêu Quỳ rất mong lập quân công nên kìm lòng không được cứ đứng ngóng ngay cạnh cửa đỏ mắt mong chờ.

Chính Đức dẫn Dương Lăng về đến tẩm cung, để nguyên quần áo mà nằm xuống sập đoạn khoan khoái nói:

- Dương khanh! Tới hôm nay trẫm mới cảm nhận được niềm vui khi làm đàn ông.

Dương Lăng chưa biết tiếp lời thế nào, Chính Đức đã xoay người lại, đưa tay chống cằm mỉm cười nói:

- Trẫm có hoàng hậu, có phi tần, nếu trẫm bằng lòng còn có thể đưa vô số mỹ nữ như hoa vào cung nhưng điều trẫm muốn chỉ là cái cảm giác gia đình. Mặc dù hai cô gái dân gian này vẫn còn hơi gò bó khép nép với trẫm nhưng so với nội cung thì đã tốt hơn nhiều.

Dương Lăng không ngờ Chính Đức không vội hỏi tình hình quân sự ở tiền phương mà lại lải nhải việc nhà. Y thấy mặt Chính Đức đầy vẻ mơ mộng ngọt ngào nên không tiện cắt ngang lời hắn ngay lúc này liền nhẫn nại nói:

- Hoàng hậu nương nương và hai vị quý phi nương nương đều là những người tri thư đạt lễ, hiền lương thục đức......

Chính Đức bực bội khoát khoát tay trợn mắt lườm y:

- Chớ có giở trò này với trẫm nữa! Tính tình, nhan sắc của Hoàng hậu và hai vị quý phi đều rất tốt, nhưng trẫm lại không thể cảm thấy thân thiết với họ được.

Chính Đức thở than:

- Vợ chồng gặp mặt một chút thôi vậy mà đứng có nghi lễ đứng, ngồi có nghi lễ ngồi, cái bộ dạng trang trọng đó khiến người nhìn mà như phải chịu tội. Thậm chí khi chỉ có hai người mà vẫn phải luôn luôn chú ý đến thân phận, lễ nghi......

Hắn nheo mắt nhìn ánh đèn cung đình lộng lẫy, ánh mắt xa xăm, nhẹ giọng nói:

- Trẫm thường suy nghĩ, không biết chốn dân gian vợ chồng ân ái, cầm sắt hài hòa thú vị đến thế nào? Còn nhớ ngày hè lần đó ta đi thăm ngươi, thấy ngươi nằm trên giường trúc bên bờ suối, Ấu nương tỷ tỷ ngồi đối diện với ngươi, vài cô gái khác quây quần bên cạnh ngươi. Khi đó ngươi nghe đàn uống rượu thong dong nhàn nhã, xung quanh là vợ hiền thiếp đẹp, thực là đã được tận hưởng hết niềm hạnh phúc! Trẫm chỉ muốn được bớt đi một chút gò bó mà thôi.

Ánh mắt Dương Lăng chợt lóe sáng, nhân cơ hội nói:

- Hoàng thượng! Chuyện đời chính là như vậy, đấng quân vương mong có thể tự do một chút như ở gia đình bình thường, có thêm một chút tình thân trong hoàng tộc. Còn người ở gia đình bình thường lại ngóng trông có thể hưởng chút vinh hoa như kẻ giàu sang, bớt đi phần nào nghèo khổ. Thực ra ở hoàn cảnh nào cũng có cái được, có cái mất mà thôi.

Y hít một hơi thật sâu, nói tiếp:

- Giống như hôm nay, Hoàng thượng ở trong cung, tuy vướng nhiều ràng buộc nhưng lại được ăn ngon mặc đẹp, có mỹ nhân bầu bạn. Còn Đại Đồng, Tuyên Phủ phải chịu ngọn lửa chiến tranh mấy ngày liền, dân chúng lưu lạc khắp nơi, tính mạng hết sức nguy ngập. Trong thời buổi loạn lạc thì tình cảnh dân chúng còn không bằng chó lợn!

Chính Đức bỗng nhiên ngồi thẳng dậy, mặt hơi lộ vẻ xấu hổ. Hắn định thần lại một chút, rồi vội hỏi:

- Dương khanh, chiến sự ở tiền phương thế nào? Hàng năm giặc Thát đều đến cướp bóc một phen, thực đã coi Đại Minh ta như kho thóc của bọn chúng rồi. Không phải năm ngoái quân Thát từng chịu thua thiệt lớn sao?

Dương Lăng nghiêm nét mặt đáp:

- Chính là vì năm trước quân Thát chịu thiệt thòi cho nên năm nay bọn chúng mới tập kết trọng binh trở lại tấn công Đại Đồng. Hơn nữa lần này Bá Nhan khả hãn và Hỏa Sư hợp tác, hai người đều là mãnh tướng cực kỳ kiêu dũng. Hiện giờ tổng binh Tuyên Phủ là Trương Tuấn hao binh tổn tướng, phải lui giữ Đại Đồng, Chỉ huy sứ Lưu Kinh và nhiều quan tướng chết trận. Hoa Mã Trì, Đức Long, Tĩnh Ninh, Hội Ninh đều đã bị công chiếm, Sóc Châu, Mã Ấp chỉ sợ cũng......

Chính Đức giận dữ đứng bật dậy, rảo bước đi loanh quanh trong phòng, hai nắm đấm siết chặt, oán hận nói:

- Lòng lang dạ sói, khinh người quá đáng! Trẫm nhất định phải dạy dỗ bọn chúng một phen!

Rồi hắn lại nhíu mày hỏi:

- Trẫm thường nghe nói đến danh tiếng của tiểu vương tử (*) và Hỏa Sư, có điều cũng nghe nói bọn họ trước nay không hòa thuận, sao lần này lại hợp tác? Bây giờ tình hình quan ngoại rốt cuộc thế nào rồi? Giữa bọn họ là quan hệ phụ thuộc hay sao?

(*) Biệt hiệu của Bá Nhan.

Dương Lăng đêm qua đã được Ngô Kiệt giảng giải kĩ càng tỉ mỉ nên hiểu rõ thế cuộc chính trị bây giờ của người Mông Cổ ở quan ngoại, lập tức đáp:

- Bây giờ người Mông Cổ chia làm Ngõa Thích Mông Cổ và Thát Đát Mông Cổ. Ngõa Thích ngày càng suy bại, bây giờ không đủ sức xâm nhập phía nam, nhiều lần tập kích biên giới đều là người Thát Đát. Đại Hãn của Thát Đát Mông Cổ là Bá Nhan, là con cháu trực hệ của Hốt Tất Liệt. Người này cai trị tổng cộng sáu vùng đất là Sát Cáp Nhĩ, Ngột Lương Cáp, Khách Nhĩ Khách, Ngạc Nhĩ Đa Tư, Mông Quách Lặc Tân và Vĩnh Tạ Bố, trướng của Đại hãn đặt tại Sát Cáp Nhĩ. Hỏa Sư là kỳ chủ của tộc Thổ Mặc Đặc Mông Quách Lặc Tân, là lực lượng quân sự mạnh thứ nhì sau Bá Nhan trong quân Thát Đát. Hắn cưới con gái của Đại hãn đời trước Mãn Đô Lỗ là công chúa Y Khắc Tích làm vợ, mà Vương phi Mãn Đô Hải Tư Cầm của Mãn Đô Lỗ lúc ba mươi ba tuổi thì tái giá với đứa cháu (*) Bá Nhan mới bảy tuổi. Y Khắc Tích chính là con ruột của Mãn Đô Hải Tư Cầm cho nên tuy Bá Nhan nhỏ tuổi hơn Hỏa Sư nhưng trên danh nghĩa lại là nhạc phụ của Hỏa Sư, thêm vào đó lực lượng của Bá Nhan so với Hỏa Sư thì mạnh hơn, bởi vậy Hỏa Sư đối với Bá Nhan ... có thể nói là bằng mặt mà không bằng lòng.

(*) cháu trong bà cháu.

Chính Đức nghe mà to cả đầu, hắn suy nghĩ một hồi lâu vẫn không hiểu nổi quan hệ giữa hai người đó là như thế nào nên thành ra vô cùng bực bội. Hắn trầm ngâm một lúc rồi hỏi:

- Lần này binh lực của Thát Đát thế nào?

Sắc mặt Dương Lăng cũng tỏ ra nghiêm trọng, y nặng nề đáp:

- Bảy vạn thiết kỵ, tất cả đều là kỵ binh dũng mãnh thiện chiến, hơn nữa bọn chúng không chia binh như trước đây. Phòng thủ biên thuỳ chỉ có năm vạn quân cho nên đối phương công thành chiếm đất dễ dàng, thế như chẻ tre, mang đi vô số phụ nữ, trẻ nhỏ lẫn tất cả tiền tài vật chất......Thần đã từng ở nơi đó, biết dân chúng nơi đó... hàng năm đều phải trải qua một lần kiếp nạn giữa sự sống và cái chết, vừa bước vào mùa đông là đã bị cường đạo Thát Đát truy đuổi phải chạy tới núi hoang rừng thẳm, có thể là trượng phu bị giết chết, có thể là thê tử bị ô nhục, cũng có thể là con trẻ bị bắt đi làm nô dịch. Người may mắn sống sót trở về thì tiền tài của cải đã bị cướp đi sạch sẽ, còn phải vùng vẫy cầu sinh, năm sau lại vất vả trồng một ít lương thực vậy mà cũng không quên nộp thuế cống hiến cho triều đình......

Ngực Hoàng đế Chính Đức phập phồng mãnh liệt, tức giận đến đỏ bừng khuôn mặt. Mặc dù hắn thường oán trách mình bị nhiều ràng buộc, không được tự do như một người dân tầm thường nhưng cũng không hề quên trách nhiệm của bản thân. Lời của Dương Lăng đã khơi dậy lòng tự trọng mãnh liệt của hắn: Hắn là hoàng đế Đại Minh, dân chúng Đại Minh bị người ta khi dễ hỏi làm sao mà hắn không xấu hổ, không tức giận?

Bỗng nhiên Chính Đức căng họng thét lớn:

- Trẫm muốn ngự giá thân chinh! Trẫm muốn đích thân dẫn đầu thiên quân vạn mã, tiêu diệt giặc Thát, cứu dân chúng của trẫm!

Lời này không phải chỉ mình Dương Lăng nghe thấy mà ngay cả bọn Miêu Quỳ, Lưu Cẩn ở bên cửa cũng nghe được rõ ràng. Bọn chúng sợ tới mức nhanh như chớp xông vào, lật đật quỳ rạp xuống bái lạy, luôn miệng tâu xin:

- Hoàng thượng! Không thể được! Hoàng thượng! Không thể được! Biến cố Thổ Mộc Bảo (2) năm xưa vẫn chưa phai nhạt, quyết không thể giẫm vào vết xe đổ ấy được......

Chính Đức tức giận:

- Đánh rắm! Một năm bị rắn cắn, mười năm sợ dây thừng, có mỗi một chuyện như vậy mà cứ nói đi nói lại mãi là sao? Hoàng đế Hồng Vũ triều ta không mang binh đánh giặc hay sao? Hoàng đế Vĩnh Lạc triều ta không đích thân Bắc phạt hay sao?

Dương Lăng cũng hơi hốt hoảng. Y lấy lại bình tĩnh, bỗng nhiên nói:

- Nếu như vậy, thần nguyện từ chức Xưởng đốc Nội xưởng, làm một tên tiểu tốt trong quân vì Hoàng thượng chinh chiến sa trường, thề hết lòng giết giặc!

Chính Đức sửng sốt, lập tức cười to:

- Ngươi? Không được không được! Trẫm đã tập qua võ nghệ còn ngươi chỉ là một người đọc sách. Nếu cho ngươi điều binh khiển tướng, bày mưu tính kế thì trẫm tin ngươi làm được, còn ra trận giết địch quả thực không phải là sở trường của ngươi.

Dương Lăng khẽ mỉm cười đáp:

- Hoàng thượng nói chí phải, mỗi người có một vị trí và tác dụng riêng. Hoàng thượng là chủ thiên hạ, có Hoàng thượng trấn thủ kinh thành để thiên hạ trông vào, để vạn dân không loạn nên nếu Hoàng thượng tự mình nắm ấn soái ra trận chỉ huy thì chính là dùng tài lớn vào việc nhỏ vậy. Hoàng thượng muốn thân chinh dẫn binh nhưng bây giờ lại không phải lúc vì biên ải đang nguy cấp, cần phái một lão tướng tới trấn thủ mới đúng.

Miêu Quỳ cũng dập đầu tâu:

- Hoàng thượng! Dù chỉ là con cháu quý tộc thôi cũng đã cần hết sức cẩn thận rồi, huống chi ngài là thiên tử. Nô tài nguyện thay Hoàng thượng thân chinh ra trận giết địch, chém giặc lập công!

Chính Đức vừa nghe, tâm tình vốn kích động cũng hơi bình phục một chút. Hắn xoa xoa cằm, hỏi:

- Dương khanh có đề nghị gì không?

Dương Lăng trầm ngâm đáp:

- Hoàng thượng! Việc này cần triệu tập đại thần các bộ thương nghị. Thần là người của xưởng vệ, không tiện cùng bá quan luận bàn chính sự.

Y chần chừ một chút, rút cuộc cũng nhịn không được phải nói ra kiến giải của chính mình:

- Thần đã phái thám mã tìm hiểu kĩ càng tình hình của người Thát Đát. Quân Thát người người đều cưỡi ngựa tốt, đi lại như gió. Trước đây, khi quân ta đối địch với bọn chúng thường thường chỉ chạy sau kẻ địch, theo bọn chúng chạy ngược chạy xuôi. Cuối cùng tuy nói là đuổi giặc Thát đi nhưng thực chất là để bọn chúng cướp bóc thỏa thíc rồi mới thuận thế lui binh. Tốc độ hành quân không bằng Thát Đát chính là nhược điểm của quân ta, cho nên thần cho rằng triều đình xuất binh không thể noi theo sách lược chia binh trong quá khứ mà nên tập trung quân đội lại một chỗ, đánh chắc tiến chắc, từng bước đẩy lùi kẻ địch. Ngoài ra, tái ngoại là vùng giá lạnh, dân cư thưa thớt, muốn bổ sung thêm binh lực không phải là chuyện dễ chút nào.

Hơn nữa giặc Thát cũng không có ý định chiếm giữ lâu dài thành trì của chúng ta cho nên không cần so đo với bọn chúng việc được mất một vùng đất mà nên lấy việc tiêu hao lực lượng của quân địch làm chủ, giết người là chính, giết được nhiều sẽ khiến bọn chúng đau lòng, đến sang năm tự nhiên các bộ lạc sẽ phải suy nghĩ thật cẩn thận trước khi xuất binh. Thêm nữa, Hỏa Sư vẫn luôn luôn dã tâm bừng bừng, nhất định không cam lòng ở lâu dưới trướng người khác, cho nên lần này xuất binh thì chủ soái cần phải ra quân có trọng điểm, chủ lực hãy nhằm vào tiểu vương tử mà buông tha Hỏa Sư, cố nín nhịn mối oán hận nhất thời. Trong tình huống cán cân lực lượng của người Thát Đát có sự thay đổi thì Hỏa Sư nhất định sẽ nảy dị tâm. Nếu nội bộ Thát Đát bắt đầu phân tranh vậy Đại Minh ta chỉ việc tọa sơn quan hổ đấu, khi cần thiết còn có thể ra tay giúp phe yếu một chút khiến cho bọn chúng tiếp tục cắn nhau.

Chính Đức lẩm bẩm:

- Đánh chắc tiến chắc, giết người là chính, không thể chia binh, đánh Tiểu nhường Hỏa. Tốt, trẫm nhớ rồi!

Ánh mắt Dương Lăng đột nhiên lóe sáng, y lại nói:

- Thực ra...... Còn có một nhánh kì binh, nếu như ta sử dụng tốt sẽ trở thành cánh tay phải của Đại Minh. Nhưng chuyện này chỉ có Hoàng thượng mới quyết định được.

Chính Đức ánh mắt sáng ngời, vội hỏi tới:

- Kì binh gì vậy? Dương thị độc mau nói đi!

Dương Lăng nhấn từng chữ:

- Đóa Nhan Tam Vệ!

Chính Đức làm gì mà chẳng biết uy danh của Đóa Nhan Tam Vệ? Chỉ là những năm gần đây mặc dù trên danh nghĩa Đóa Nhan Tam Vệ vẫn là phiên thuộc của Đại Minh nhưng lại không qua lại nhiều, hơn nữa quan tướng Đại Minh vùng ấy thỉnh thoảng vẫn đến vùng biên giới cướp bóc một phen. Chỉ là cũng không gây ồn ào cho lắm nên Đại Minh luôn luôn mắt nhắm mắt mở bỏ qua. Chính Đức quả thực không nghĩ ra được Đóa Nhan Tam Vệ sẽ có ích gì.

Hắn tỏ vẻ nghi hoặc hỏi:

- Bây giờ Đóa Nhan Tam Vệ có vẻ ngoan ngoãn đối với Đại Minh nhưng thực ra sớm đã không nghe lệnh. Dương khanh muốn sử dụng bọn họ như thế nào?

Dương Lăng mỉm cười đáp:

- Đóa Nhan Tam Vệ gian nan sinh tồn giữa Đại Minh, Ngõa Thích, Thát Đát, về cơ bản bọn họ chính là cỏ đầu tường, trở cờ theo gió. Ngõa Thích Mông Cổ và Thát Đát Mông Cổ cũng thường thường cướp bóc bọn họ. Chỉ có Đại Minh ta luôn luôn dành cho họ đặc ân cho nên bọn họ thân cận hòa thuận với Đại Minh hơn. Chỉ là, khi trước Diệc Tư Mã của Ngõa Thích đánh cướp Đóa Nhan Tam Vệ, bọn họ từng cầu cứu Đại Minh lẫn Bá Nhan. Lúc ấy Bá Nhan xuất binh giúp họ còn Đại Minh lại chẳng có hành động gì. Sau đó Tổng binh Liêu Đông là Lí Cảo vì muốn mạo công xin thưởng nên vô cớ giết hại dân thường ở Hỗ thành thuộc Đóa Nhan Tam Vệ khiến cho Tam Vệ càng thêm xa lánh Đại Minh, bây giờ gần như là phiên thuộc của Bá Nhan.

Khi đó Đại Minh mang nặng tư tưởng thiên triều, chính quân đội cũng lan tràn xu hướng đó. Trong mắt bọn họ thì những dân man di ở quan ngoại thuần là một đám giặc cỏ mà hoàn toàn không hề chú ý đến tình hình chính trị của bọn họ. Dương Lăng tất nhiên biết tình hình quân sự trong nháy mắt có thể có vô số thay đổi nhưng nắm được tình hình chính trị của quốc gia khác từ trước đôi khi cũng có công hiệu bốn lạng bạt ngàn cân. Bởi vậy khi Ngô Kiệt thành lập thám mã ở quan ngoại thì y liền yêu cầu trọng điểm đặt ở phương diện chính trị kinh tế của người Thát Đát.

Những tin tình báo này ngay cả Chính Đức cũng không biết rõ, hắn không kìm được nghe đến nhập thần.

Dương Lăng tiếp tục nói:

- Thế lực của Hoa Đương (*) từ Liêu Đông trải đến tận Tuyên Phủ. Có bọn họ làm bình phong bên ngoài, các châu vùng Bình Loan sẽ rất ít bị Thát Đát quấy nhiễu. Nếu Hoàng thượng nắm giữ được bọn họ ở trong tay thì đó sẽ là một thanh đao sắc bén. Thêm nữa, nếu như khu vực Hà Sáo không ở trong tay chúng ta, đa số ngựa tốt Đại Minh cần nhờ Hỗ thành của Đóa Nhan Tam Vệ cung ứng cho nên nhất định phải tranh thủ được sự ủng hộ Đóa Nhan Tam Vệ, có chuyện gì xảy ra cũng không thể từ bỏ!

(*) Thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ

Chính Đức gật gật đầu, suy nghĩ một lúc lại lắc đầu, chần chờ nói:

- Bây giờ mới phục hồi quan hệ có phải là đã hơi muộn rồi không? Bọn họ lại chịu đồng ý công khai đối lập với Tiểu vương tử sao?

Dương Lăng giải thích:

- Không cần bọn họ xuất binh. Chính quyền triều Nguyên luôn thay đổi, luôn bất ổn. Chỉ cần chúng ta lấy quan to lộc hậu ra dụ, hứa gia tăng đáng kể tổng số lượng hàng hóa hai bên trao đổi tại Hỗ thành thì đương nhiên quý tộc Đóa Nhan sẽ động lòng. Đến lúc đó, chúng ta lại thi hành kế mọn với bọn họ, gây một ít tranh chấp giữa bọn họ và thế lực đang suy vi mà lại có cừu oán với bọn họ là Ngõa Thích Mông Cổ, để hai bên đánh nhau vài trận thì Hoa Đương nhất định sẽ không từ chối. Giữa hai bên và các bộ lạc mà Bá Nhan thống nhất đều có quan hệ thân thích, các bộ lạc kia tất sẽ phải dính dáng đến việc này. Lúc đó sân sau của Bá Nhan nổi lửa, hỏi hắn còn yên tâm dẫn quân đánh bên ngoài sao? Giữa hai phiên thuộc xảy ra chiến tranh thì kể như hắn tức không được mà giận cũng chẳng xong. Đến lúc đó chúng ta lại sử ra kế ly gián, Đóa Nhan cho dù không lập tức trở lại trong lòng Hoàng thượng thì cũng phải ngầm đánh tín hiệu một phen.

Chính Đức nghe xong liền cười ha hả, hắn nhếch miệng trừng mắt liếc nhìn Dương Lăng, ngẫm nghĩ một tí lại cười rộ lên, vừa cười vừa sẵng giọng:

- Ngươi thật biết ăn nói quá đấy! Nơi đó rặt một lũ vai u thịt bắp lông lá đầy người, còn nói trở về trong lòng trẫm nữa? Thật ghê tởm quá đi!

Dương Lăng cười hì hì đáp:

- Hoàng thượng, tái ngoại cũng có tiểu mỹ nhân đấy, người khí chất tuyệt vời có thể xứng với cái danh bông sen trên núi tuyết.

Chính Đức đời nào chịu tin, hắn cười rồi lắc đầu, nói:

- Được! Trẫm lập tức triệu tập sáu bộ, chọn lựa tướng soái.

Hắn liếc nhìn Dương Lăng, có ý để cho người mình tín nhiệm nhất dẫn quân ra trận nhưng lại không nỡ rời xa y, suy đi nghĩ lại đành phải thôi.

***

Bảy ngày sau, rốt cuộc đại quân triều đình cũng xuất phát. Chính Đức điều từ trong Đoàn doanh ra năm vạn tinh binh, để Miêu Quỳ của Tây xưởng làm Giám quân, Bảo quốc công Chu Huy làm Tổng binh, Đô ngự sử Sử Lâm làm Đề đốc.

Dương Lăng không biết vị Chu tổng binh này có bản lĩnh chỉ huy đánh trận như thế nào, nghe nói Lý đại học sĩ đề nghị để Dương Nhất Thanh vừa bị bãi chức đang nhàn rỗi nhận chức tổng binh, đáng tiếc lại bị đám Lưu Cẩn ngầm phá hoại.

Dương Lăng nhớ tới trong ngục còn giam giữ chủ sự Bộ binh Vương Thủ Nhân. Tuy rằng được mình chăm sóc nên hắn không hề cực khổ nhưng nằm dài chờ đợi ở chỗ kia cũng không hay, huống chi bản thân còn thiếu Vương Hoa một món nợ nhân tình. Nghe những lời mà Vương Thủ Nhân nhiều lần dâng lên cho Hoàng thượng thì có thể nhận ra hắn nhất định là một nhân tài về quân sự. Dương Lăng cũng đã nhắc tới hắn với Chính Đức, chỉ là chức quan của hắn quả thực quá nhỏ đồng thời cũng chưa từng tham gia chiến trận còn Lưu Cẩn lập tức nhớ tới vị tiểu quan này từng gọi thẳng hắn là kẻ quyền gian, cơn giận cũ vẫn chưa nguôi nên chuyện này tạm thời đành gác lại.

Có điều Chính Đức đã nhớ kỹ những lời dặn dò của Dương Lăng. Khi đăng đàn bái tướng, điểm binh, hắn lại hết lần này đến lần khác dặn dò bọn Miêu Quỳ không được chia binh tránh để địch lợi dụng cơ hội, phải tập trung quân lực nhằm tiêu diệt giặc Thát là chính, Chu Huy đều nhất nhất vâng dạ nghe theo.

Khi Chính Đức tập hợp các vị quan lớn của sáu bộ để cùng thương nghị kế sách dùng binh thì Thị Lang bộ Lại là Vương Ngao dâng lên tám phương sách chống địch: Định sách lược, trọng chủ tướng, nghiêm pháp lệnh, thương biên dân, quảng chiêu mộ, dùng ly gián, phân chia binh, đánh bất ngờ.

Bên trong đó có hư có thực. Định sách lược và nghiêm pháp lệnh giao cho bộ Lễ làm là được, còn nó đối với việc kháng địch ở tiền tuyến có hiệu quả hay không thì chẳng cần quan tâm làm gì, dù sao mỗi lần xuất binh đều phải có quá trình này.

Việc “trọng chủ tướng” đã được Dương Lăng bàn riêng với Chính Đức. Đối với việc này Chính Đức cũng không hồ đồ. Hắn hoàn toàn không tin những hoạn quan, thư sinh chưa từng đánh giặc lại so được với các đại tướng có kinh nghiệm cầm quân cho nên hắn nghiêm khắc khuyên bảo Miêu Quỳ, Sử Lâm không được can thiệp quá nhiều vào quân vụ.

Thương xót biên dân lại là việc sau khi chiến tranh kết thúc mà hiện giờ chiêu mộ binh lính cũng không kịp, còn chia binh lại trái với sách lược của Dương Lăng nên Chính Đức không chút nghĩ ngợi đã lập tức bác bỏ ngay.

Chính Đức đưa ra kế ly gián phân hoá Hỏa Sư và Tiểu vương tử, Lưu Đại Hạ tưởng đây là chủ ý của Chính Đức nên lập tức khen không dứt miệng. Chính Đức được đệ nhất võ tướng đương triều ca ngợi thì ngay lập tức lâng lâng như ở trên mây, hơn nữa hắn cũng không cảm thấy Dương Lăng là người ngoài nên liền mặt dày vui lòng nhận lấy phần công lao này.

Dương Lăng từ khi nhận được mật chỉ của Chính Đức thì nhiều ngày nay đang lên kế hoạch liên lạc Đóa Nhan Tam Vệ, ly gián nội bộ Mông Nguyên (3). Vài năm gần đây khúc mắc giữa thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ và triều đình nhà Minh rất sâu, mặc dù hứa cho lợi nhiều nhưng nếu như không có một người đủ cho Đóa Nhan Tam Vệ tin phục thì có lẽ sẽ rất khó được bọn họ tin tưởng.

Nhưng việc tiếp cận lôi kéo Đóa Nhan Tam Vệ không chỉ có lợi cho một trận chiến này nên Dương Lăng rất cẩn thận. Đồng thời nếu như toàn bộ bốn mươi sáu biến pháp của Lưu Cẩn bị gác lại, chẳng những Lưu Cẩn mất thể diện mà thế lực ngoại đình cũng vượt trội, đối với chính sách bỏ lệnh cấm thông thương của mình cũng gây ra ảnh hưởng rất nhiều.

Cho nên Dương Lăng chuyển sang thỏa hiệp, khuyên Lưu Cẩn giao sách lược biến pháp cho Tiêu Phương sửa chữa, trau chuốt, sau đó đệ trình lên để ba vị Đại học sĩ cùng thảo luận. Trong chính sách của Lưu Cẩn cũng có rất nhiều chỗ lợi, ví dụ như việc gia tăng quyền giám sát của bộ Hộ, chẳng những có ích với triều đình mà cũng có thể tăng cường quyền lực của bộ Hộ. Dương Lăng không tin ngoại đình lại bác bỏ toàn bộ, chỉ cần cho thi hành hơn chục điều thì trận phong ba giữa nội đình và ngoại đình liền có thể lắng xuống, danh vọng của bản thân cũng sẽ dâng cao.

Cũng vì như thế nên nhiều ngày qua Dương Lăng bận rộn tối mày tối mặt. Y phải nghe ngóng tình hình, sắp xếp chuyện của bản thân, đồng thời y không hề tin tưởng vị Đại tướng quân được phái ra này có thể đối phó với thế công mãnh liệt của Bá Nhan khả hãn nên y dặn dò Ngô Kiệt phái ra hàng loạt thám mã đi lại như mắc cửi liên tục mang tình hình hành quân và chiến đấu của quân Minh ở tiền phương đưa về. Bất cứ lúc nào y cũng chú ý đến tình hình tiền tuyến, nếu không vì lo lắng đến Ấu Nương vừa mới có thai thì ngay cả nhà mình y cũng không về.

Buổi trưa, Dương Lăng từ trong cung đi ra. Đến lân cận tây môn, y thấy bên đường có một người bán hàng rong đang bán một số quả khô trên chiếc xe đẩy tay. Những quả táo gai trông như mã não đỏ kia nhìn vô cùng hấp dẫn khiến người ta chỉ muốn ăn ngay, y vội dung chân đá đá vào vách kiệu.

Kiệu phu nghe tiếng liền dừng kiệu. Dương Lăng vén rèm kiệu bước xuống, mỉm cười bước đến vệ đường. Dấu hiệu nôn ọe của Ấu Nương vẫn chưa rõ ràng mà bình thường việc ăn uống cũng có người chăm lo chu đáo còn Cao Văn Tâm gần đây cũng chăm chỉ thăm nom, thường xuyên pha chế chút thuốc bổ cho nàng dùng. Những việc này vốn không cần Dương Lăng lo tới, nhưng hôm nay y thấy những trái cây này chín mọng đỏ rực, quả thực rất đáng yêu liền muốn tự tay mua về cho Ấu Nương một ít.

Hôm nay Dương Lăng mặc thường phục, có điều lại ngồi trên kiệu mà trước sau đều có thị vệ nên hiển nhiên là người quyền thế. Người bán hàng rong vội cúi đầu khom lưng cười hỏi:

- Khách quan, ngài muốn mua gì?

Dương Lăng nhón một quả táo gai lên, trái cây đỏ tươi như máu, quả thật càng nhìn càng muốn ăn. Dương Lăng vui vẻ nói:

- Bán cho ta độ năm cân táo gai đi, ồ, hạch đào kia cũng lấy năm cân.

Người bán hàng rong mừng khấp khởi gói kỹ hai bọc trái cây, Liễu Bưu bước lên phía trước thanh toán tiền. Đang lúc Dương Lăng quay người muốn đi chợt nghe phía trước ầm ĩ huyên náo, có một số người qua đường chạy ùa vào một ngõ hẻm. Dương Lăng không nén nổi nghi hoặc nhìn sang, hỏi:

- Xảy ra chuyện gì vậy?

Liễu Bưu lắc lắc đầu, quay đầu ra hiệu thủ hạ ở lại với đại nhân rồi thưa:

- Để ty chức đi xem thử!

Người bán hàng rong lại tặc lưỡi thở dài, lắc đầu nói:

- Ôi! Những tên du côn này lại đến gây rối rồi, đúng là không có lương tâm.

Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:

- Chủ quán! Ông biết đã xảy ra chuyện gì sao?

Người bán hàng rong thấy y là một vị đại gia qua đường, nói chuyện lại ôn hòa liền đáp:

- Lão gia, ngài có điều không biết đâu, năm nay giặc Thát ở biên ải lợi hại lắm. Nghe nói bọn họ đánh chiếm thành trì so với năm trước nhiều gấp đôi, rất đông dân chúng nơi nơi chạy nạn, hai ngày nay đã có người chạy nạn tới kinh thành rồi.

Dương Lăng trong lòng trầm xuống, thất thanh:

- Dân chạy nạn đã vào kinh rồi sao?

Người bán hàng rong đáp:

- Sao có thể chứ? Lão gia là đại nhân vật ắt phải biết kinh thành này là vùng đất trọng yếu, sao có thể để cho đám đông ăn mày xin cơm, dân chúng chạy nạn vào thành kêu gào? Một khi có người thừa dịp lộn xộn gây loạn thì nguy mất! Lý đại học sĩ đã sai người dựng lều ở ngoại thành và ra lệnh cho bộ Hộ cung cấp củi lửa lương thực để vỗ yên nạn dân, phát động dân chúng quyên góp một ít quần áo, chăn mền. Có một số lão gia có lòng tốt cũng ào ào ra ngoài thành lập trạm phát cháo làm việc thiện. Trong ngõ hẻm nhỏ kia có một vị nương tử tạm trú, nàng đi ngang qua nơi này nhìn thấy nạn dân liền nảy ý tốt, cũng ở ngoài thành lập trạm phát cháo cứu tế dân chúng. Vài tên lưu manh trong thành nhìn thấy nương tử người ta xinh đẹp lại là người ngoại xứ bèn vin cớ cháo nóng làm bỏng tay của bọn hắn để không ngừng tới cửa làm phiền. Đây đã là lần thứ ba rồi.

Dương Lăng cả giận, nhưng cố nén, bảo Liễu Bưu:

- Đi, đi xem sao!

Dương Lăng dẫn đầu đi vào ngõ thì cả bọn thấy trước cửa một cái tứ hợp viện nho nhỏ có rất đông dân chúng đang vây quanh xem náo nhiệt, vài tên du côn ở trước cửa đang liên tục mắng chửi. Trước cửa có một tiểu nha đầu xinh xắn, hai tay chống nạnh, hai má tức giận đến đỏ rực, hai mắt giống như là muốn phun ra lửa, mặt quay về phía những tên lưu manh đang nói năng thô tục, hiển nhiên đang gắng sức kềm chế cơn giận.

Dương Lăng đang muốn bước tới mang mấy tên lưu manh vô lương lên quan tra xét, bên trong chợt bước ra một cô gái xinh đẹp mặc áo đỏ khoác áo choàng cũng đỏ rực. Đôi mắt to quyến rũ của nàng nhìn quét qua những tên lưu manh, đoạn hướng về phía những người chung quanh chắp tay thi lễ nói:

- Các vị hương thân phụ lão! Tiểu nữ là khách đi ngang qua kinh thành, nhìn thấy có nạn dân chạy đến tận đây, nghĩ trong túi mình coi như rủng rỉnh nên có lòng muốn cứu tế một chút. Mấy vị đại gia này làm khó dễ như thế chính là lễ tiết của dân chúng kinh thành đối xử với người khác xứ hay sao?

Những tên này là lưu manh nổi tiếng vùng lân cận, mặc dù dân chúng bình thường không ưa bọn chúng nhưng không ai dám mở miệng lên tiếng ủng hộ nàng. Một tên côn đồ cười dâm đãng nói:

- Tiểu nương tử, ngươi bố thí cháo là ngươi làm việc thiện, nhưng cháo nóng kia vô ý làm phỏng tay huynh đệ của chúng ta cho nên ngươi phải biết điều một chút mới đúng chứ?

Cô gái áo đỏ khoảng chừng hai sáu hai bảy tuổi, eo nhỏ mềm mại, khuôn mặt thanh tú xinh đẹp, hai mắt thật to, mũi cao xinh xắn, tuy miệng không phải anh đào nhỏ nhắn nhưng đôi môi no tròn gợi cảm, thực là rung động lòng người.

Lúc này tuy đôi mày thanh tú kia cau lại nhưng làn da nàng trắng như tuyết, chiếc cổ nõn nà trông vẫn vô cùng quyến rũ xinh đẹp. Nàng liếc tên du côn vẻ khinh miệt, thản nhiên hỏi:

- Vị đại gia này! Tiểu nữ không phải đã đưa ngươi năm lượng bạc làm tiền thuốc thang rồi sao?

Tên du côn cười ti tiện đáp:

- Tiểu nương tử, chỉ năm lượng bạc mà đã muốn đuổi bọn đại gia ta sao? Ngươi cũng quá coi thường khẩu vị của dân chúng kinh thành dưới chân thiên tử này rồi.

Cô gái áo đỏ mày liễu dựng ngược, đột nhiên quắc mắt nhưng không biết vì sao nàng lại vẫn tiếp tục nhẫn nại, không hề phát tác. Nàng cố nén lửa giận, lạnh lùng cười một tiếng rồi đáp:

- Được! Vậy tiểu nữ tử sẽ bồi thường đại gia mười lượng bạc ròng, phụ nữ chúng ta đi ra ngoài cũng không dễ dàng, xin các vị đại gia khoan dung cho một phen.

Nói xong cô gái áo đỏ liền lật cổ tay một cái. Tên du côn kia vừa ngây người ra một chút, một thỏi bạc ròng đã xuất hiện trong bàn tay gã. Liễu Bưu kinh ngạc hô lên một tiếng, ghé sát vào tai Dương Lăng thì thầm:

- Đại nhân! Cô gái biết võ công, hơn nữa công phu còn rất lợi hại!

Dương Lăng ừ một tiếng. Đã biết nàng kia có một thân võ nghệ, ắt sẽ không bị người ức hiếp, y cũng không lo lắng nữa. Lại thấy tên du côn nhón nhón nén bạc trong lòng bàn tay, liếc mắt qua huynh đệ đang đứng quanh rồi cười hì hì bảo:

- Tiểu nương tử, nàng thực là ngoan ngoãn đấy, có điều... bọn đại gia ta đây cũng không thiếu bạc.

Cô gái áo đỏ hơi nghiêng đầu một chút, vẻ như suy nghĩ, mắt vẫn không rời kẻ kia. Giữa đôi môi hồng lộ ra hàm răng chỉnh tề trắng tinh, nàng hơi cụp mắt rồi lại nhẹ nhàng ngước lên, đôi mắt hơi có ý cười, nhẹ giọng hỏi:

- Vậy đại gia rốt cuộc có ý gì vậy?

Dáng vẻ quyến rũ của nàng khiến lòng người xao động, tên du côn nọ càng bị vẻ đẹp của nàng làm cho lửa dục khó nhịn nổi. Bọn chúng nghe ngóng được người phụ nữ này là người khác xứ, ngoài việc có tiền thì hình như thân phận cũng không tính là cao quý nhưng trước mặt nhiều người như vậy vẫn không dám nói thẳng ra mục đích của mình.

Những tên du côn này hoàn toàn không chú ý đến việc tuy thiếu phụ lộ vẻ tươi cười nhưng trong đôi mắt lại thoáng toát ra một chút sát khí, nhất thời cất tiếng reo hò vui đùa ầm ĩ, nửa thật nửa giả đáp:

- Tay của đại ca bọn ta bị ngươi làm phỏng, Tiểu nương tử hãy tới chỗ chúng ta giúp đỡ chăm sóc đại ca. Khi nào đại ca hành động được tự nhiên thì ngươi sẽ có thể rời đi.

Thiếu phụ áo đỏ đột nhiên quắc mắt, gương mặt xinh đẹp rắn đanh lại, lạnh lùng nói:

- Thì ra là thế! Chắc hẳn mấy vị đại gia thấy ta là một nữ tử không có chỗ dựa, lại là người ở phương xa nên tưởng dễ ức hiếp phải không?

Nàng ta phất tay áo, xoay người lại bảo:

- Thúy nhi, tiễn khách! Còn kẻ nào làm bừa sẽ báo quan truy xét!

Tiểu nha hoàn kia sớm đã chờ đến bực bội, vừa nghe phu nhân dặn dò bèn lập tức bước nhanh lên trước, hùng hổ quát:

- Mấy tên du côn vô lại không biết điều này, cút ngay cho bà cô! Chớ có ở chỗ này làm ô uế đôi mắt của ta.

Tên du côn không giận mà cười dâm, tay nhằm trước ngực nàng chộp tới,:

- Cô bé này, nàng còn thú vị hơn chủ nhân của nàng nữa... Ôi chao! Ôi! Ôi! Buông tay...

Thiếu nữ kia vung tay chụp một cái đã bắt được cổ tay gã liền thuận thế hất mạnh khiến gã lảo đảo ngã văng ra xa. Mấy tên du côn bên cạnh vừa thấy vậy liền ngay lập tức chen nhau xông lên. Lúc đó chưa có vôi, cũng không biết bọn chúng dùng cái gì mà vừa vung tay một cái thì một chùm khói vàng đã tràn ra. Thiếu nữ kia không ngờ mấy tên du côn nho nhỏ lại mang bên người vật như vậy nên ngay lập tức bị che mắt. Nàng liền thét một tiếng, chân giẫm mạnh, thân thể mềm mại tựa như quả bóng da nhảy bật về bậc thềm phía sau, phản ứng vô cùng nhanh nhẹn.

Thiếu phụ áo đỏ đã đi lên bậc thểm nhưng thấy tình cảnh này thì cổ tay trắng như ngọc liền đưa ra giúp thiếu nữ ổn định thân thể rồi phóng người nhảy lên. Nàng không ngờ lại tựa như chim yến nhẹ nhàng nhảy lên hơn một trượng, xoạt một tiếng đã hạ xuống trước mặt đám du côn. Sau một tiếng thét đầy sát ý, nàng giống như mãnh hổ hạ sơn đứng tại chỗ vung chân ra chiêu. Mấy tên du côn vừa mới đến gần đã bị nàng tung cước đá bắn ngược trở về.

Chú thích:

(1) Phép dùng binh có chia ra hai lối cơ bản nhất, đó là chính binh và kỳ binh. Chính binh tức là phép đánh quang minh chính đại, dựa vào thực lực quân đội là chủ yếu. Kỳ binh là phép đánh dựa vào mưu kế, lấy các hiểm chiêu làm chủ. Ở đây tên chương có nghĩa là ra quân đồng thời sử dụng cả chính binh lẫn kỳ binh.

(2) Năm 1449 quân Ngõa Thích xâm phạm Trung Nguyên, vua Minh Anh Tông nhà Minh ngự giá thân chinh, bị quân Ngõa Thích đánh bại và bắt sống tại Thổ Mộc Bảo. Người Trung Quốc coi đây là một mối sỉ nhục lớn.

(3) Trong lịch sử, nhà Nguyên vẫn tồn tại cho đến năm 1635 khi vua Hậu Kim Hoàng Thái Cực xâm lược Mông Cổ và ép khan lúc đó là khan Ejei phải trao ấn đế triều Nguyên cho người Nữ Chân thì triều đại Nguyên mới kết thúc.

Chương 167 Hoa đang thời nở

Dịch: TheJoker 

Biên dịch: Ba_Van 

Biên tập: 6300

Hiệu đính: 

Nguồn: www.tangthuvien.com

Tuy xuất chiêu trong lúc phẫn nộ, song cú đá của cô gái áo đỏ vẫn còn nương chân vài phần nên mấy tên vô lại bị đá văng ra ngoài, khi ngã xuống đất lại không hề cảm thấy đau đớn. Chúng thoáng ngẩn ra, cho rằng phụ nữ sức yếu, dũng khí lập tức tăng lên, thế là lại nhao nhao lao hét rồi nhào tới.

Thủ hạ của cô gái áo đỏ chỉ có nữ tì áo lục đang căm phẫn muốn xông lên tương trợ, nhưng mắt nàng đã bị mờ, lúc này nước mắt trào ra không ngừng. Mấy tay đàn ông ăn vận như phu khuân vác có vẻ chỉ được thuê đến phụ giúp, thấy mấy tên vô lại hung hãn như vậy thì đã sợ cứng người.

Thấy bọn vô lại này không biết tốt xấu, khuôn mặt của cô gái áo đỏ lộ vẻ khó xử, nàng khép ngón tay lại thành kiếm, thân hình mềm mại như một đám mây đỏ lướt qua mấy tên vô lại, ngón tay hoặc điểm hoặc đâm vào người chúng. Người nàng vừa lướt qua, năm sáu tên lập tức ngã gục xuống đất như bị điện giật, cả người run lên cầm cập, nhất thời cũng không còn sức bò dậy.

Đứng bên cạnh Dương Lăng, Liễu Bưu thấp giọng nói:

- Đại nhân, cô gái này biết công phu điểm huyệt thượng thừa, là cao thủ nội gia.

Dương Lăng kinh ngạc nhìn cô gái có hai đám mây hồng trên má đó rồi lại ngó mấy tên vô lại đang nằm quằn quại dưới đất; thấy bọn chúng co rúm người, mặt mày trông cực kỳ thống khổ.

Dương Lăng nhớ Hàn Ấu Nương từng nói công phu điểm huyệt là võ học thượng thừa cực điểm, cho dù phụ thân nàng học võ trên Thiếu Lâm hơn chục năm cũng chỉ được luyện công phu ngoại môn, không ngờ mỹ nhân yêu kiều thướt tha như cành liễu phất phơ trong gió đó lại biết được môn võ lợi hại này.

Có điều, đám vô lại bị đánh ngã lăn trên mặt đất kia dù quằn quại bất lực nhưng vẫn có thể cử động, chứ không phải đứng trơ như phỗng giống như y thường thấy trên TV trước đây; cũng không biết là do chỉ lực của cô gái này yếu hay điểm huyệt vốn dĩ là như vậy.

Y thấp giọng hỏi:

- Liễu Bưu, nếu như để huynh động thủ, huynh có thể khống chế được cô ta không?

Mặt Liễu Bưu thoáng đỏ lên, gã ngượng ngập đáp:

-Xem thân thủ của cô ta... nhiều nhất ti chức chỉ có thể chống đỡ được hai mươi chiêu mà thôi...

Dương Lăng dù không biết võ vẽ gì, nhưng y từng chứng kiến thân thủ của Liễu Bưu. Nhìn cô gái đó nhún người nhảy cao hơn một trượng, thân pháp tiến lui như gió, thi triển công phu điểm huyệt thượng thừa, y đoán chừng Liễu Bưu cũng chỉ có thể chống đỡ được tầm mười chiêu, nói hai mươi chiêu có lẽ là vì giấu ngượng nên cố ý thổi phồng thôi. Y cũng không muốn vạch trần nên chỉ cười khà.

Lại nghe tên thủ lĩnh của bọn vô lại đó hung tợn chửi rủa:

- Con đàn bà thối tha, ui da... mày đã dùng tà phép gì rồi. Nửa người của lão tử không cử động được nữa, lão tử quyết sẽ không bỏ qua... bỏ qua cho mày đâu.

Cô gái áo đỏ khẽ hếch chiếc mũi xinh xắn như ngọc, khinh thường hừ nhạt một tiếng, rồi đi đến bên cạnh tì nữ áo xanh cúi xuống ngửi một chút, sau đó mới yên tâm nói:

- Không có gì đáng ngại. Đi, ta đỡ em về lấy nước sạch rửa qua là được.

Chính vào lúc này, bên ngoài đám đông chợt có người nghênh ngang đi tới, dài giọng quát:

- Dưới chân thiên tử, kẻ nào dám gây rối ở đây? Bắt hết lại cho bản quan!

Đám đông chợt tách ra. Chỉ thấy mấy tên tiểu lại thuộc Ngũ thành binh mã ty cầm xiềng xích, giắt đao ngông nghênh đi tới. Tên thủ lĩnh đám vô lại trông thấy thì mừng rỡ, gọi to:

- Tứ ca! Mau bắt con ả này lại đi, nó dám đả thương đệ, lại còn đánh huynh đệ của tiểu đệ, hãy cho ả đi ăn cơm tù đi.

Gã đao khoái tuần thành* được gọi là tứ ca trừng mắt với hắn rồi đảo mắt quan sát cô gái áo đỏ. Tuy trông dung mạo nàng ta xinh đẹp, dáng người thướt tha, nhưng quần áo mặc lại không như các phu nhân gia đình giàu có, thế là gã cảm thấy yên tâm. Gã bèn cười dâm dật bước tới trước nói:

- Tiểu nương tử, trong kinh thành mà quấy phá đả thương người, tội đó không nhẹ đâu nhé. Đi thôi, theo bọn ta đến cổng nha môn một chuyến.

(* tuần tra trong thành)

Dương Lăng lắc đầu cười khổ. Tiết mục này quá quen mắt, song nghĩ cũng phải, mấy tên vô lại đó không chút kiêng dè dám khinh nhờn cô gái đất khách ngay dưới chân thiên tử như vậy, nếu không có quan hệ gì với người trong nha môn thì mới là lạ. Y cũng lười xem tiếp mặt mày của đám người đó, bèn đưa tay vỗ nhẹ vai Liễu Bưu rồi hất nhẹ cằm về phía trước. Liễu Bưu hiểu ý liền sải chân bước tới.

Cô gái áo đỏ nọ mới vừa nén giận nói: "Quan gia, rõ ràng là đám vô lại này ức hiếp..." thì Liễu Bưu đã mỉm cười bước tới trước nói:

- Quan sai lão gia muốn bắt kẻ nào vậy? Ta thấy ngài nên bắt mấy tên lưu manh vô lại này về nha môn đánh cho một trận mới phải đó.

Gã đao khoái tuần thành đó kiếm ăn tại kinh thành, biết rõ dưới chân thiên tử cao quan quý nhân rất nhiều, nên nghe xong thì không nổi trận lôi đình mà vung tay ngăn mấy tên vô lại đang rống miệng ầm ĩ, cẩn thận đánh giá Liễu Bưu một lượt, rồi nghi hoặc hỏi:

- Vị công tử đây là...?

Liễu Bưu hơi vén vạt áo bào lên để hắn nhìn rõ ngân bài giắt bên hông rồi cười nhạt bảo:

- Vị cô nương từ xứ khác này tốt bụng thí cháo cứu dân, mấy tên lưu manh vô lại này lại thấy sắc nổi lòng mà bắt chẹt sách nhiễu. Ta tận mắt chứng kiến, ngươi còn không tống bọn chúng vào ngục truy xét sao?

Gã đao khoái vừa nhìn thấy đó là yêu bài của Nội xưởng thì sợ túa cả mồ hôi lạnh, liền vội gật đầu khom lưng vâng dạ:

- Dạ dạ dạ, có đại nhân làm chứng, tiểu nhân còn có thể không tin sao? Tiểu nhân sẽ lập tức bắt bọn chúng về dạy dỗ.

Đoạn hắn nháy mắt với mấy tên thủ hạ của mình, mấy tay bộ khoái lập tức xông lên lấy xiềng xích cùm mấy tên vô lại kia lại. Tên thủ lĩnh của đám vô lại đó bèn trợn tròn mắt la lên:

- Kim tứ ca, sao huynh lại...?

Đầu gã đao khoái mướt mồ hôi lạnh, liền bước tới vả vào mồm hắn một bạt tai thật mạnh, đồng thời tức giận trừng mắt ngăn hắn tiếp tục nói năng bậy bạ, gằn giọng quát:

- Lôi đi, lôi tất cả về.

Bộ khoái vội kéo mấy tên vô lại ra khỏi đám đông, ở đằng sau Liễu Bưu cười nói với theo:

- Ngự sử tuần thành của thành tây là Thân Đắc Vĩ phải không? Trở về nói với hắn là rảnh rỗi bản quan sẽ đến xem thử hắn xử án công bằng ra sao. Nếu như bản quan vẫn thấy mấy tên vô lại này sinh sự nhiễu dân thì bản quan sẽ đến hỏi thăm hắn đấy.

Kim đao khoái nghe vậy thì sống lưng cứng đờ. Hắn vốn định đưa mấy gã bạn thân này đến chỗ không người rồi thả ra, song khi nghe lời này thì không còn dám lỗ mãng nữa. Hắn quay người lại cười gượng gạo đáp:

- Dạ, thành tây là khu vực do Thân đại nhân quản hạt ạ. Đại nhân yên tâm, tiểu nhân nhất định sẽ nghiêm trị mấy tên vô lại này không tha.

Thấy cảnh này cô gái áo đỏ có chút bất ngờ. Liễu Bưu vừa quay lại, nàng vội vái một lễ, dịu dàng nói:

- Đa tạ đại nhân chủ trì công đạo.

Khi nãy nàng thấy Liễu Bưu đứng sau lưng Dương Lăng, nay thấy mấy tên bộ khoái tuần thành đó khi gặp Liễu Bưu thì như chuột thấy mèo thì biết rằng thân phận của vị công tử trẻ tuổi này ắt càng cao thâm hơn nữa, vì vậy nói xong ánh mắt không kiềm được mà khẽ hướng về phía Dương Lăng.

Dương Lăng thấy làn thu ba hướng về phía mình thì mỉm cười gật đầu tỏ ý chào nàng. Nét mặt của cô gái áo đỏ thoáng cứng lại, ngỡ rằng tên cẩu quan này cũng nhìn trúng sắc đẹp của mình cho nên mới có ý lấy lòng, thế là không khỏi âm thầm hối hận mình nhất thời xúc động ra ngoài cứu tế nạn dân, kết quả kéo theo một đám bướm ong dập dờn.

Có điều, nàng và trượng phu đã có hẹn ước chờ nhau ở nơi này, lại không thể tuỳ ý rời đi, đành phải cố gắng cảm tạ Liễu Bưu rồi vội vã dẫn mấy người làm thuê và tì nữ lui vào trong sân nhà.

Thấy Liễu Bưu vẫn còn dõi mắt nhìn theo cánh cổng nhà người ta đang đóng lại đến xuất thần, Dương Lăng mỉm cười đi tới vỗ vai hắn khuyên:

- Đừng nhìn nữa, ta thấy cô nương nhà người ta hình như đã có chồng rồi.

Liễu Bưu gượng gạo đáp:

- Đại nhân lại nói đùa rồi. Trong thiên hạ biết công phu điểm huyệt đều là cao thủ nhất đẳng một vùng, cô gái này nhất định không đơn giản. Xem cô ta nén giận với mấy tên vô lại ngang ngược đó, hôm nay chúng ta tương trợ cô ta song cô ta lại e ngại dính dáng quan hệ với chúng ta, cho nên ti chức có điều nghi ngờ mà thôi.

Dương Lăng bị nhiễm tiểu thuyết võ hiệp nặng, cho nên nghe vậy thì cười bảo:

-Kỳ nhân dị sĩ trong dân gian rất nhiều, hơn nữa phần đông không muốn kết giao cùng quan phủ. Dẫu sao chúng ta cũng không thể vì người ta có võ công giỏi mà đâm ra nghi ngờ họ muốn kiếm chuyện, phải không nào? Huống chi cô ta còn phát cháo cứu dân, trên đời có cường đạo như vậy sao? Ha ha, đi thôi, chỉ cần cô ta không gây chuyện ở kinh thành, chúng ta cũng không thể vì nghi ngờ mà đi điều tra. Một khi tin tức lộ ra, vậy thực sẽ là trò cười cho người khác đó.

Dương Lăng trở về hậu viện trong phủ, thấy trong phòng khách đặt ba chậu than, trong phòng ấm như ngày xuân, khắp phòng giăng lụa chu sa đỏ. Hàn Ấu Nương, Tuyết Nhi, Ngọc Nhi, Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận, những mỹ nữ xinh đẹp quyết rũ, phong tình xuất chúng đang mặc áo chẽn vân nổi lụa Tô Châu, áo kép cân vạt gấm Tứ Xuyên đang tụ tập một chỗ, duyên dáng nói cười, mắt đẹp ngóng trông, thực như bước vào khu vườn đầy ắp hoa đẹp vậy.

Dương Lăng cười hỏi:

- Sao hôm nay rãnh rỗi tập trung hết trong phòng tán gẫu vậy?

Thành Khởi Vận sợ lạnh nhất, cho nên mặc cũng nhiều đồ nhất, nhưng trong phòng đặt ba chậu than, lại có nhiều người như vậy, khiến khuôn mặt mềm mại và trắng phau của nàng đỏ phừng phừng, nên lúc này đã cởi bớt áo bào ngoài, áo kép cân vạt cũng cởi bớt hai nút, lờ mờ thấy được chiếc áo bó ngực màu hồng nhạt. Khi thấy Dương Lăng bước vào, nàng liền cuống quít cài nút áo lại.

Dương Lăng chỉ kịp nhìn thấy một khe ngực trắng mịn mê người liền vội quay mặt đi chỗ khác, thấy Hàn Ấu Nương đang thu dọn mấy thứ trông giống như quần áo được bày ở trên bàn; trông kích cỡ thì hẳn là áo quần chuẩn bị cho em bé.

Ngọc Nhi và Tuyết Nhi thấy ánh mắt lão gia đặt trên Ấu Nương, biết rằng mấy ngày nay y bộn bề công việc, ngày thường không thể ở nhà với phu nhân, cho nên mỗi khi về nhà sẽ thường ở bên cạnh nàng ấy. Hai người rất là lanh lợi, bèn đãi bôi linh tinh vài câu rồi tìm lý do lui ra ngoài.

Hai người đi rồi, Thành Khởi Vận và Cao Văn Tâm càng không còn lý do gì để nán lại. Cao Văn Tâm đợi ở đây đã một ngày, chỉ gặp được Dương Lăng một chốc, ngay cả cơ hội nói chuyện cũng không có, thế là không khỏi ai oán liếc y một cái rồi cũng vái cáo từ, lui ra ngoài cùng Thành Khởi Vận.

Thấy mọi người đã ra ngoài, Dương Lăng đi đến hôn lên má Ấu Nương một cái, đặt cái bọc nàng đang cầm lên bàn rồi ngồi xuống chiếc ghế dựa, vòng tay kéo nhẹ chiếc eo thon của nàng, bờ mông tròn lẳng vênh vênh thuận thế sà lên đùi y. Dương Lăng ôm nàng vào lòng thủ thỉ:

- Ấu Nương, hôm nay có thấy mệt trong người không? Nếu mệt thì nghỉ ngơi nhiều một chút, đừng làm việc vất vả quá. Tiếc là hiện tại thời tiết không có trái cây tươi để ăn, đợi thêm chừng hơn tháng nữa, đợi cà chua trong hầm sưởi ra trái rồi sẽ cho nàng ăn nhiều một chút.

Y vừa thủ thỉ vừa lần bàn tay lên bộ ngực mềm mại của Ấu Nương xoa nắn. Hàn Ấu Nương yêu kiều thở hổn hển giữ tay y lại, giọng khẩn nài:

- Tướng công, chàng đừng... đang ở ngoài sảnh đó.

Dương Lăng cười nói:

-Tướng công nhớ nàng mà, Ấu Nương có thai được một tháng, tướng công còn phải đợi chín tháng... à... không đúng, phải gần một năm cơ, mới có thể thân mật cùng nàng.

Bị y xoa nắn, cặp nhũ hoa của Hàn Ấu Nương nhú cao, hai má đỏ bừng, thân thể nhũn mềm. Nàng yếu ớt víu lấy cổ Dương Lăng, kề tai y nói với hơi hướm ghen tị:

- Không phải là còn Tuyết nhi và Ngọc Nhi à? Mấy đêm hôm nay tướng công chẳng phải thường hay ngủ lại trong phòng bọn họ, người ta lại không thể... không thể hầu hạ tướng công.

Dương Lăng nói:

- Ta sợ nhất thời nhịn không được, làm động đến thai của nàng mà. Ừm... Ấu Nương đã muốn ta đi tiếp bọn họ, vậy tướng công đành đi tìm bọn họ thôi.

Nói đoạn y làm bộ như muốn đứng dậy. Tâm hồn ngây thơ của Hàn Ấu Nương cuống lên, vội vàng ôm chặt lấy cổ y, cái miệng nhỏ nhắn cũng rất cong lên hết sức không tình nguyện. Nhưng khi cặp mắt của nàng chạm với ánh mắt có phần ranh mãnh của Dương Lăng, nàng mới sực hiểu là đã bị y trêu đùa, thế là không khỏi ngượng chín mặt.

Nàng mím môi tựa nhẹ vào lòng Dương Lăng, hai chân hơi quíu lại, cặp mông vặn vẹo bên dưới khiến cho Dương Lăng bị kích thích. Ấu Nương cảm nhận sự biến hoá của y, nhịn không được bèn liếc y một cái, rồi thẹn thùng cúi đầu thỏ thẻ:

- Tướng công, Văn Tâm tỷ tỷ nói... nói... Ấu Nương khí huyết dư thừa, thai nguyên ổn định, nếu nhẹ nhàng một chút thì trong ba tháng đầu... vẫn có thể hầu hạ phu quân...

Đến đoạn cuối, nàng không nén được xấu hổ nên âm thanh đã lí nhí như muỗi kêu. Dương Lăng cũng bị vẻ e thẹn đến mê người của nàng gợi khêu lửa dục, nhưng lại không dám manh động, bèn vội lắc nhẹ đầu nói:

- Không được, không được, tướng công thực không dám. Ấu Nương còn nhỏ, thân thể vốn dĩ còn non nớt, tướng công thực không dám mạo hiểm. Nào, ngồi cạnh tướng công, để tướng công đập hạch đào* cho nàng ăn nhé, bổ não lắm đó.

(*quả óc chó)

-Ưm.

Hàn Ấu Nương xúc động khẽ rên lên, thân thể không nghe theo lời mà thoáng dao động, làn thu ba yêu kiều đã ngân ngấn nước, cặp nhũ hoa trước ngực bị xoa nắn cũng đã nhú cao, săn lại.

Dương Lăng thò tay vào trong bầu ngực nóng hừng hực như lửa của nàng, ngón tay đùa nghịch đôi đầu nhũ mềm như chiếc mào gà non, khiến thân thể của nàng run rẩy từng đợt.

Ánh mắt cháy bỏng của nàng ngước nhìn Dương Lăng, chủ động đưa lên tìm kiếm môi y hôn một cái thật sâu, sau đó kề gò má láng mịn của mình bên tai y, hổn hển:

- Người ta... cũng muốn tướng công yêu thiếp, tướng công có nhiều kiểu đa dạng như vậy... Cùng lắm thì người ta... người ta dùng cách khác để hầu hạ chàng mà.

Dương Lăng lẳng lặng ngắm nhìn nàng trong chốc lát, rồi chợt cúi xuống đỡ bên eo nàng, ôm lấy tấm thân nhỏ nhắn mềm mại của nàng dậy, rồi kề tai nàng khẽ cười nói:

- Tiểu yêu tinh, theo bọn Ngọc Nhi không học điều hay mà lại học dụ dỗ tướng công à.

Mặt Hàn Ấu Nương đỏ au, nàng 'ưm' một tiếng, hai tay bụm mặt, không dám nhìn y, cả người mơ mơ màng màng; Dương Lăng bế nàng đưa vào phòng ngủ.

. . .

Bước đi trên con đường nhỏ uốn khúc, Cao Văn Tâm cảm thấy có phần mất mát. Hiện nàng đã có thân phận tự do, nhưng Dương Lăng lại vẫn không hề có ý muốn rước nàng về nhà. Anh em trong tộc của nàng phản đối nàng không nói, bản thân nàng là một người con gái sao có thể không biết thẹn mà chủ động mở miệng gợi ý đây. Thấy thanh xuân phí hoài, mình đã sắp đến tuổi hai mươi, vậy mà chuyện chung thân đó...

Nàng khẽ thở dài, đưa mắt nhìn một gốc mai xa xa trong tuyết, cười đau khổ. Vừa bước ra khỏi cửa, Thành Khởi Vận vì sợ lạnh nên vội siết chặt chiếc áo khoác lại. Trông thấy Cao Văn Tâm đứng ngơ ngẩn ở đằng xa, nàng bèn đứng dõi nhìn Văn Tâm một chốc, trong lòng như có điều suy nghĩ, sau đó nhẹ nhàng bước tới gần.

Nghe tiếng bước chân, Cao Văn Tâm liền quay đầu lại, trông thấy Thành Khởi Vận nàng không khỏi ngạc nhiên hỏi:

- Thành cô nương, bên ngoài trời lạnh, sao còn chưa trở vào phòng?

Từ dạo lên đường hồi kinh, chứng kiến Thành Khởi Vận hết lòng hết sức bán mạng cho Dương Lăng, cộng thêm khoảng thời gian qua sống chung trong Dương Phủ biểu hiện của Thành Khởi Vận luôn rất đúng mực, cho nên Cao Văn Tâm đối với thái độ của Thành Khởi Vận cũng không còn nặng thành kiến nữa.

Thành Khởi Vận mỉm cười điềm nhiên, khẽ đáp:

- Cả ngày trốn trong nhà cũng cảm thấy rất chán. Tôi vốn dĩ thấy tài phú văn chương của mình không kém đấng mày râu, nhưng mấy ngày nay đại nhân vì triều chính mà bôn tẩu ngược xuôi, có rất nhiều kiến thức cũng không phải là thứ mà tôi có thể lý giải được.

Rồi nàng cười khổ sở nói:

- Dường như tôi thạo là âm mưu quỷ kế, nhưng trên triều đường địch ta phân chia, dương mưu chiếm đa số, chính kiến bất đồng căn bản không giấu được ai, tôi lại không thể ra sức được gì, thực sự đã trở thành kẻ nhàn nhã nhất của Nội xưởng.

Nàng thở dài một hơi rồi đảo mắt cười hỏi:

- Không biết Cao cô nương có nguyện ý đến phòng tôi ngồi một chút, tôi và cô đánh vài ván cờ được không?

Cao Văn Tâm lặng lẽ lắc đầu nói:

- Khí trời lạnh lẽo, không có tâm tình, tôi đi về trước. Thành cô nương cũng nên sớm trở về phòng đi, chớ để nhiễm phong hàn trở lại.

Thấy vẻ mặt nàng cô đơn, Thành Khởi Vận đột nhiên mỉm cười nói:

- Cô nương tư nhan xuất chúng, lại có chức vị ngự y thất phẩm trên người, cũng đã đến tuổi hai mươi, chẳng lẽ không lo chăn đơn gối chiếc, không muốn có người đàn ông tri âm bên giường bầu bạn đêm dài hay sao?

Khuôn mặt Cao Văn Tâm đỏ bừng, nàng thoắt xoay người nhìn Thành Khởi Vận, thấy ánh mắt nàng ta trong veo như nước, không có vẻ gì là trêu đùa, cơn tức giận vì thế giảm đi, nhịn không được bèn hỏi:

- Thành cô nương nói vậy là ý gì?

Thành Khởi Vận cười đáp:

- Chỉ là tôi không nỡ thấy cô nương đau khổ vì tình cho nên nói lời khuyên nhủ mà thôi.

Đoạn nàng siết chiếc áo choàng chặt lại một chút, rồi vươn bàn tay thanh mảnh ưu mỹ như bạch ngọc ra nhẹ nhàng vuốt ve một nụ hoa chực nhú ở đầu cành, giọng khe khẽ:

- Thực ra cô cũng chớ nên oán trách Dương đại nhân vội. Tuy rằng nam nhi tam thê tứ thiếp là chuyện hết sức bình thường, nhưng chưa đến tuổi hai mươi mà đã nạp ba người thê thiếp cũng không phải là ít. Y lại yêu thương kính mến phu nhân như vậy, cho dù có người con gái mà y ngưỡng mộ trong lòng, sợ rằng... Dù y có lòng yêu thích, cũng sẽ không động lòng rước vào trong nhà đâu.

Thành Khởi Vận khẽ co ngón tay lại rồi búng ra, nụ hoa thuận theo hướng ngón tay bay đi rồi nhẹ nhàng rơi xuống thảm tuyết trắng tinh. Cao Văn Tâm nhìn nửa nụ hoa hồng nhạt chôn dưới mặt tuyết xốp mềm đến xuất thần.

Chỉ nghe tiếng Thành Khởi Vận tiếp tục vẳng lại bên tai:

- Tuy nhiên... hiện tại đã vào nhà Dương đại nhân, theo y đến răng long đầu bạc, cô gái được như vậy so với những thiếu nữ mới lớn mà đám lão gia tuổi đã nửa trăm, râu tóc bạc trắng mới rước về thực may mắn hơn nhiều.

Vừa ngượng vừa giận Cao Văn Tâm giậm chân nói:

- Y có chịu nạp thiếp hay không thì liên quan gì đến ta? Thành cô nương rốt cuộc là muốn nói gì?

Thành Khởi Vận hứng thú đưa mắt nhìn vẻ thiếu nữ xấu hổ hiếm thấy của Văn Tâm, rồi mỉm cười nói:

- Từ xưa hôn nhân đều thuận theo ý cha mẹ, lời của người mai mối, nhưng hạnh phúc chân chính có thể được bao nhiêu? Người đàn ông tầm thường đương nhiên không thể lọt vào tầm mắt của cô. Nếu đó là người đàn ông tài cán, tương lai y lại sẽ khó tránh khỏi muốn nạp thêm vài thiếp thất có nhan sắc hơn cô.

Cho nên nữ nhân thông minh nên chọn gả cho người nam nhân chịu yêu tiếc và quý trọng họ, chịu đối đãi bình đẳng với họ, sẽ không vì tuổi già phai sắc mà đối xử lạnh nhạt với họ. Nhưng trên đời có mấy nam nhân được như vậy? Nếu như cô đã gặp được một người, lại tự than tự oán đợi người ta chủ động đến tiếp nhận cô, chẳng lẽ sự dè dặt còn quan trọng hơn cả hạnh phúc cả đời ư?

Cao cô nương, cô hãy suy nghĩ kỹ một chút, thảng như cảm thấy gả cho y không thể cho cô hạnh phúc, vậy thì hãy chóng vung thanh gươm lý trí chặt đứt sợi dây tình, tìm một phu quân khác, tránh tự rước phiền não vào người. Còn quả như trái tim đã gởi gắm cho y, chỉ cần chọc thủng lớp giấy này liền sẽ có thể đạt được hạnh phúc nhưng lại cứ thế mà bỏ qua cơ hội này thì cô sẽ hối tiếc cả đời đó.

Đoạn Thành Khởi Vận cất giọng xa xăm:

- Bướm ong chẳng chắc mến thương thầm, lòng đắng ngắt khi rời áo đỏ...(1)

Chợt nàng nhướng mày nói:

- Nữ nhân không phải chỉ là một đoá hoa vô tri vô giác, được ong bướm chiếu cố đến liền cảm thấy hạnh phúc vừa lòng. Cô có người trong lòng không? Nếu có thì chỉ đợi y tìm đến cô sao? Nữ nhân thì không thể lựa chọn phu quân cho mình sao?

Cao Văn Tâm nhìn Thành Khởi Vận chằm chằm một hồi, miệng mấp máy như muốn nói rồi lại thôi. Một lát sau nàng xoay người bước đi vội vã như trốn chạy về chỗ ở của mình.

Khuôn mặt trắng như bạch ngọc của Thành Khởi Vận từ từ nở một nụ cười xinh đẹp. Nàng đưa tay vịn lên một cành mai, nhẹ nhàng đưa mũi gần lại. Hoa đỏ héo tàn, kiều nhan như tuyết, trông đẹp không tả thành lời.

Thành Khởi Vận lười nhác đưa cánh hoa mềm mại vuốt ve gò má của mình, mỉm cười ngâm:

- ‘Hoa đang thời nở mau mau hái, chớ để hoa rơi lại bẻ cành’(2). Thường nói nữ nhân như hoa... nếu cũng coi nam nhân là hoa thì hình như mới công bằng...

Thành Khởi Vận đưa hai ngón tay búp măng thon dài ngắt lấy nhánh hoa, nhón một đoá hoa mai đã thành hình rực rỡ, nhìn chăm chú một chốc, trong mắt chợt hiện lên một nụ cười xảo quyệt và tinh quái.

Chú thích:

(1) Đoạn vô phong điệp mộ u hương, hồng y thoát tận phương tâm khổ. . .

Trích trong bài từ "Đạp Sa Hành" của Hạ Chú

(2) 'Hoa khai kham chiết trực tu chiết, mạc đãi hoa lạc không chiết chi'

Trích trong bài thơ "Kim Lũ Y" của Đỗ Thu Nương

Chương 168

Lời đồn về xuất thân của Hoàng đế

Dịch: TheJoker 

Biên dịch: Ba_Van 

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính: 

Nguồn: www.tangthuvien.com

Hàn Ấu Nương ngả người vào lòng Dương Lăng thoả mãn, đôi má vẫn còn nóng hôi hổi.

Dương Lăng mơn trớn cặp mông trơn nhẵn của nàng, lơ đãng gọi: 

- Ấu Nương!

- Dạ? 

Hàn Ấu Nương khẽ đáp rồi ngước đầu nhìn y dò hỏi. Dương Lăng vỗ nhẹ bờ mông khuất dưới chăn của nàng, hỏi: 

- Ta vừa sực nhớ nàng nói Văn Tâm bảo trong vòng ba tháng nàng vẫn có thể làm chuyện phòng the. Các nàng... trước giờ đều chia sẻ mọi thứ như vậy sao?

Hàn Ấu Nương rúc người vào lòng y cười thật tươi, nũng nịu như một chú mèo con: 

- Văn Tâm tỷ tỷ sợ người ta bị mất lòng yêu thương của tướng công chứ bộ...

Dương Lăng vờ giận trách: 

- Nói bậy, tướng công là người như vậy à? 

Rồi y trừng mắt, khẽ búng mũi nàng, Hàn Ấu Nương kêu á lên một tiếng, chun mũi lại.

Dương Lăng gác đầu lên cánh tay, ngửa mặt lên trần nói tiếp: 

- Tuy rằng nàng ấy là thái y nhưng suy cho cùng vẫn là cô gái chưa xuất giá, sau này nàng hãy hạn chế đề cập những chủ đề như vậy với Văn Tâm. Tuy các nàng là bạn gái thân thiết chốn khuê phòng song e là... cũng không thích hợp lắm.

- Đúng rồi! 

Hàn Ấu Nương lật sấp người lại, nằm đè lên ngực Dương Lăng, mở to cặp mắt tròn xoe hỏi: 

- Tướng công! Sang năm Văn Tâm tỷ tỷ hai mươi tuổi rồi. Ngày ấy, trước lúc ra pháp trường, khi kết bái thiếp đã từng nói sẽ nguyện tiếp nhận bọn họ vào nhà. Tướng công... không thích Văn Tâm tỷ tỷ sao?

Dương Lăng vỗ mông nàng một cái rồi bảo: 

- Leo xuống, đừng đè lên bụng nữa!

Hàn Ấu Nương "í" một tiếng, le lưỡi rồi ngoan ngoãn bò xuống khỏi người y.

Dương Lăng ôm lấy nàng, dịu dàng: 

- Ấu Nương! Nàng đương nhiên nghĩ rằng tướng công nhà mình là nam nhân tốt nhất thế gian, người con gái nào cũng phải được gả cho y mới sẽ có hạnh phúc. Nhưng người đàn ông tốt trên đời không phải là không còn, chẳng qua là nàng chưa có cơ hội gặp gỡ mà thôi.

Không thể so sánh Văn Tâm với Tuyết Nhi và Ngọc Nhi được! Có lẽ khi đó xuất phát vì lòng muốn báo ơn hoặc vì không còn sự lựa chọn nào khác nên nàng ấy mới thuận ý nàng gả cho tướng công. Nay Văn Tâm đã được khôi phục tự do lại có chức quan trên người, chưa hẳn đã không thể tìm được một người chồng tốt. Chẳng lẽ gả vào Dương phủ làm thiếp mới là sự lựa chọn tốt nhất cho nàng ấy sao?

Các nàng phải cho nàng ấy một cơ hội được cân nhắc kỹ lưỡng ở một góc độ mới, dưới một thân phận mới, chứ đừng mặt trong mặt ngoài ép nàng ấy coi mình là người nhà họ Dương để nàng ấy cũng phải nghĩ rằng gả cho ta là lẽ đương nhiên. Nói thật, nếu như không phải do trời xui đất khiến mà Văn Tâm trở thành nô tì của ta, có thể lúc này gặp mặt nàng ấy sẽ kính nhi viễn chi ta đó.

Hàn Ấu Nương trợn tròn mắt, hờn dỗi trách: 

- Tướng công lúc nào cũng lý sự nhiều như vậy cả! Chàng nghĩ Ấu Nương mong muốn có thêm tỷ muội để chia sẻ chàng lắm sao? Nhưng mà cha nói rất đúng, hiện tại chàng đã làm quan rất to, nếu không nạp thêm thiếp thất thì cả chàng và thiếp đều sẽ bị người ta bàn tán sau lưng.

Hơn nữa, trong dòng họ Dương, nhân khẩu của nhà tướng công là ít ỏi nhất, tướng công lại là con duy nhất. Để nhà họ Dương này được hưng thịnh không phải chỉ là trách nhiệm của chàng mà cũng còn là trách nhiệm của thiếp. Tướng công luôn đối đãi tốt với Ấu Nương như vậy, đương nhiên Ấu Nương cũng thỏa lòng rồi.

Rồi nàng khẽ thở dài nói tiếp: 

- Có lẽ chàng nói đúng. Nếu như ở những hoàn cảnh khác, chàng và tỷ ấy tuyệt đối sẽ không thể ở cùng nhau. Nhưng tỷ ấy gặp nạn lại được chàng cứu giúp, há chẳng phải là duyên phận sao?

Nghe nói Trương hoàng hậu tranh giành sự sủng ái duy nhất, không cho Tiên hoàng sủng hạnh nữ nhân khác. Kết quả khiến cho rất nhiều đại thần chỉ trích bà ấy là được cưng chiều mà kiêu ngạo, không biết suy nghĩ cho tông miếu xã tắc, khiến cho hiện nay dòng dõi của Tiên hoàng chỉ có mỗi đương kim Hoàng thượng. Còn có người nói...

Nàng hơi ngần ngừ, thấy sắc mặt Dương Lăng vẫn bình thản mới nói tiếp: 

- Còn có người bảo rằng đương kim hoàng thượng là đứa con mà thái hậu nhận về nuôi do bị bá quan chỉ trích không thể hạ sinh hoàng tử, đây chính là một điều danh bất chính ngôn bất thuận. Hoàng hậu và thái tử cao cao tại thượng còn có thể vì những chuyện trong nhà mà bị người ngoài bàn tán xôn xao, Ấu Nương thực không muốn mang lấy cái tiếng đố phụ(*).

(*) người phụ nữ hay ghen, hay tị nạnh.

Dương Lăng biết mấy năm trước, khi tiên đế còn tại vị, trong triều từng vì chuyện này mà ầm ĩ một hồi, cho nên nghe Ấu Nương nói vậy thì y chỉ cười, định bỏ qua. Nhưng liền đó y lại chợt nghĩ nay Chính Đức đã lên làm Hoàng đế, tự khi nào dân gian lại lan truyền thứ lời đồn đại này? Dám bôi nhọ đương kim Hoàng đế ư?

Tuy là lời đồn đại này không chứng cứ, khi mình đến thời đại này thì cũng phát hiện nếu dân gian có tuyên truyền bậy bạ một ít lời đồn đãi vu vơ thì quan phủ cũng sẽ không quan tâm lắm. Nhưng nếu như xuất phát từ kẻ có lòng bày mưu đặt kế thì mục đích sẽ không còn đơn giản nữa.

Dương Lăng lờ mờ nhớ lại vụ Ninh Vương tạo phản dường như là có sử dụng đến tội danh này, thế là y không khỏi nhíu mày lại hỏi: 

- Ấu Nương, nàng nghe ai kể chuyện này vậy?

Thấy sắc mặt y thận trọng, Hàn Ấu Nương không khỏi hơi phát hoảng, lắp bắp đáp: 

- Ấu Nương... nghe nương tử nhà họ Nghiêm kể lúc đến nhà trò chuyện. Nghe nói rất nhiều học sĩ Hàn Lâm Viện cũng lén lút bàn tán về chuyện này, hiện nay trong kinh cũng đã loan truyền hết sức ly kỳ.

Dương Lăng ngẫm nghĩ một lúc. Ngô Kiệt chưa từng bẩm báo với y những tin tức về phương diện này. Lời đồn hoàng đế Chính Đức không phải là máu mủ của tiên hoàng đã tồn tại từ lâu, chắc hẳn bên phía xưởng vệ cũng không để ý lắm đến loại tin đồn như thế này.

Nhưng y lại biết việc thừa kế ngôi vua coi trọng nhất là danh chính ngôn thuận. Lúc tân hoàng vừa kế vị, Ninh Vương đã mang tặng một số lượng lớn đèn hoa pháo bông để chơi đùa, hôm qua hắn lại đưa hai mỹ nữ vào cung. Bản thân hắn ta là hoàng thúc, đấy há là đạo phò tá minh quân sao? Chẳng lẽ hắn đã chuẩn bị tạo phản? Lời đồn lan rộng này là do hắn tạo ra ư?

Dương Lăng vỗ vỗ trán, thầm nghĩ: "Xem ra phải căn dặn Ngô Kiệt chú ý kiểm tra nguồn gốc của những lời đồn đãi này mới được. Để tin đồn lưu truyền trong dân gian thì thực ra cũng dễ, nhưng để cho chuyện này cũng được đồn đãi, bàn tán trong Hàn Lâm Viện thì không thể nào là việc dân đen làm được. Rốt cuộc là kẻ nào đang truyền bá lời đồn đãi này?"

Thấy sắc mặt Dương Lăng nghiêm trọng, Hàn Ấu Nương bèn hỏi: 

- Tướng công, có gì không ổn à?

Không muốn nàng lo lắng, Dương Lăng mỉm cười lắc đầu đáp: 

- Ồ, không có gì! Ta đang nhớ đến việc này, hôm nay lúc từ trong cung trở về ta đã thấy có rất nhiều nạn dân chạy nạn từ biên tái đến kinh thành. Bọn họ thiếu ăn thiếu mặc, tuy có bộ Hộ chẩn tế nhưng e khó lòng chống chọi cho qua nổi mùa đông rét hại. Ta tính mai sẽ dẫn người đi dựng lều phát cháo. Trong nhà còn thóc gạo, quần áo không?

- A! 

Hàn Ấu Nương ngồi bật dậy thất kinh hỏi: 

- Năm nay nạn giặc Thát nghiêm trọng như vậy sao? Chốc nữa Ấu Nương sẽ đi đến nhà kho kiểm tra qua, chuẩn bị chút lương thực và quần áo, ngày mai sẽ cùng chàng ra ngoài thành phát cháo nhé. Tướng công còn phải lo liệu việc công, không thể phân tâm quá mức.

Dương Lăng vội kéo chăn đắp cho nàng rồi bảo: 

- Mau nằm xuống đi, đừng để nhiễm lạnh. Đến lúc đó ta để Cao quản gia phụ trách là được rồi. Thành cô nương giỏi về điều hành, Văn Tâm biết y thuật, để hai người bọn họ thi thoảng đến thăm qua là đủ rồi, việc phát cháo không cần nàng đi đâu.

Đoạn y ôm Ấu Nương, cắn nhẹ lên bộ ngực mềm mại của nàng khiến nàng rên khẽ một tiếng yêu kiều, nhẹ giọng nói: 

- Nàng đó, chỉ cần phụ trách nghỉ ngơi, giữ gìn thân thể cho tướng công để mai này sinh một đứa con bảo bối khoẻ mạnh kháu khỉnh là được rồi, đừng làm lụng quá sức.

****

Sáng sớm hôm sau, Dương Lăng chạy lên núi nghe ngóng tình hình liên lạc với Đóa Nhan Tam Vệ và tình hình chiến sự ở tiền phương.

Dân du mục coi dân nông canh là kho lúa và là đối tượng cướp bóc "hiển nhiên" của bọn họ. Cho dù đang khi song phương bảo trì quan hệ hoà thuận thì những chuyện như lúc thì giao dịch khi thì cướp bóc vẫn thường xảy ra như cơm bữa. Gặp khi cuộc sống đến bước đường cùng, Đoá Nhan Tam Vệ cũng thường đến vùng biên giới cướp bóc kiếm ăn, nhưng bọn họ cũng không dám quá đắc tội với Đại Minh: một là chú ý không giết dân thường, hai là tuyệt không ra tay cùng lúc với người Thát Đát.

Cho nên lần này người Thát Đát công chiếm biên tái, Đoá Nhan Tam Vệ lập tức ước thúc bộ hạ đóng cửa không ra, nghiêm ngặt bảo trì cự ly với Tiểu vương tử, tránh để Đại Minh hiểu nhầm rằng bọn họ cùng hành động chung với người Thát Đát.

Có điều người do Dương Lăng phái đi liên lạc với Đoá Nhan Tam Vệ lần này cũng phải gặp rất nhiều trắc trở; cho nên đến tận bây giờ vẫn chưa có tin tức gì về việc song phương đã liên hệ được với nhau.

Miêu Quỳ cùng Bảo Quốc công Chu Huy và Ngự sử Sử Lâm đã đến Đại Đồng. Cùng với hơn bốn vạn trú quân đã có sẵn, bọn họ liền có trong tay chín vạn nhân mã để đối đầu với bảy vạn quân địch. Cuộc chiến ác liệt với Thát Đát đã qua đến ngày thứ ba, quân Minh đã giành lại được hai toà thành trì. Tin tức đưa về cho biết đại quân đang khổ chiến cùng giặc Thát tại Hoa Mã Trì.

Quân Minh phải chia ra một phần binh lực để thủ thành trong khi giặc Thát lại không bị vướng bận bởi vấn đề này, vì vậy hiện tại binh lực song phương ngang nhau, đang trong thế giằng co. Trước mắt quân Minh vẫn chưa rơi vào thế thua.

Nghe báo cáo xong, cảm thấy hơi an tâm, Dương Lăng bèn dặn dò Ngô Kiệt phái thêm người đi điều tra nguồn gốc tin đồn Hoàng đế Chính Đức không phải là máu mủ của tiên đế, một khi có kết quả phải lập tức bẩm báo với y ngay. Sau đó y chạy đi xem đám Hỏa Giả Á Tam nghiên cứu chế tạo hỏa súng.

Khi Hỏa Giả Á Tam vừa nghe xong nguyên lý khắc thêm rãnh xoắn trong nòng súng khiến viên đạn chuyển động xoay tròn sinh ra lực ly tâm làm gia tăng tầm bắn thì gã liền hiểu ngay, có điều thực sự bắt tay vào làm mới thấy đủ thứ phức tạp.

Đầu tiên là chất lượng nòng súng không tốt lắm, về sau bọn họ phải chọn dùng tinh thép có giá thành cực cao. Thí nghiệm hỏng mất mấy trăm nòng súng bằng tinh thép họ mới đại khái lần ra được chút manh mối, nhưng công nghệ gia công như thế quá mức phiền hà khiến cho chi phí sản xuất loại súng như vậy còn tốn kém hơn cả làm đao bọc thép.

Song nhóm phụ trách nghiên cứu kết nối đầu đạn chung với việc kích nổ lại có được tiến độ rất lớn. Bộ phận phóng đạn được thay đổi hết sức khéo léo, hơn nữa việc nạp đạn đã được chuyển thành nạp từ phía sau.

Do không có máy dập tương ứng, chế tạo thủ công loại đầu đạn và thân đạn mà Dương Lăng nói vô cùng khó khăn, nhóm thợ bèn đổi sang dùng vỏ giấy làm kíp nổ, lấy đá lửa và hỗn hợp lưu huỳnh làm "ngòi nổ". Khi bóp cò, đá lửa đập xuống, đốt cháy ngòi nổ, kích hoạt thuốc súng bên trong viên đạn khiến viên đạn được bắn đi.

Bên cạnh đó, loại đạn sử dụng cũng được chuyển từ hình tròn thành hình thoi, đầu đạn có thêm ba khía giống như mũi tên, tầm bắn tăng lên gần mười trượng song lực sát thương tăng lên không chỉ ba thành. Hơn nữa tốc độ bắn lại nhanh hơn súng hỏa mai kíp đá lửa thông thường gấp mấy lần, gần bằng với tốc độ bắn tên.

Khuyết điểm của nó là tầm bắn vẫn còn ngắn hơn cung tên, nhưng bù lại là tuy độ chính xác vẫn còn hơi kém nhưng vẫn nhỉnh hơn tên bắn một chút. Quan trọng nhất là Dương Lăng căn dặn bọn họ không ngừng thí nghiệm điều chế thuốc súng, nên sau khi thử nghiệm nhiều lần, bọn họ đã chế tạo được loại thuốc súng tốt hơn; hỗn hợp ni-trát, lưu huỳnh và bột than theo tỷ lệ khoảng 7.5:1.5:1 thì đạt được hiệu quả phát nổ tốt nhất.

Xung lực phát nổ lớn, khói súng và bã thuốc súng cũng ít đi, ước chừng có thể bắn liên tục sáu mươi đến tám mươi phát đạn mà không cần phải lau chùi nòng súng. Trong khi đó một cung tiễn thủ lợi hại cỡ nào cũng không thể bắn liên tục được hai mươi mũi tên. Cho nên chỉ cần quân đội song phương tiếp cận thì dưới sự phối hợp và bảo hộ của binh chủng khác, đội hỏa súng ba hàng bắn luân phiên sẽ là một cơn ác mộng không thể chống lại.

Có điều vấn đề kẹt đạn của loại hỏa súng này vẫn chưa có cách giải quyết hoàn toàn, tính ổn định lại kém, có lúc lại bắn ra đạn lép. Dương Lăng quyết định mau lẹ, y lập tức chạy đi lôi nhóm Hỏa Giả Á Tam đang nghiên cứu rãnh nòng súng (lúc này cả bọn đã nghiên cứu đến mắt xanh biến thành mắt đỏ, tóc tai dựng đứng bù xù, thượng đế là ai cũng quên mất) đến tham gia vào đội ngũ nghiên cứu chế tạo vỏ đạn giấy và súng lắp đạn phía sau. Y bảo bọn họ hãy dốc sức nghiên cứu chế tạo loại vỏ đạn giấy trước, còn về phần rãnh xoắn thì nhất định cũng phải nghiên cứu nhưng tạm thời không vội.

Dương Lăng cho rằng trước khi các ngành nghề liên quan như luyện thép, máy móc, thiết bị tinh vi đạt tới năng lực sản xuất và khoa học kỹ thuật tương ứng mà y vẫn cưỡng ép phát triển súng ống tiên tiến hơn là điều không thực tế. Bản thân y lại không phải là kỹ sư vạn năng, nếu như việc đã không giải quyết được thì nên tạm thời buông bỏ thôi. Loại kỹ thuật này vẫn có thể tiếp tục được nghiên cứu, tin rằng nó cũng sẽ có tác dụng thúc đẩy những ngành nghề khác, nhưng không nên lấy nó làm phương hướng nghiên cứu chủ đạo.

Hồi nhỏ, Dương Lăng thấy một thằng bạn béo ở trong doanh trại quân đội mang một cây dao găm quân sự rất sắc bén ra khoe. Với bản tánh thông minh lanh lợi Dương Lăng bèn lấy một bộ truyện tranh "Bảng Phong Thần" ra dụ đổi lấy cây dao găm của nó. Đáng tiếc y cầm chơi được có mấy ngày thì đã bị người bố làm tiểu đoàn trưởng của người bạn béo đó đến nhà đòi lại mất.

Giờ nhìn cây súng kíp đã có hình dáng ban đầu, nhớ tới cây dao găm sắc bén có thể lấy máu giết người nọ, Dương Lăng bèn đề nghị lắp thêm lưỡi lê vào. Song nói cho cùng, súng kíp không tiện dụng như trường thương và mã tấu. Trong thế giới hiện đại song phương cùng cầm súng trường thì người cầm súng có gắn lưỡi lê chỉ cần dùng vài động tác đơn giản như hất, gạt, đâm là đã có thể giết người. Còn thời này, trước mặt kẻ địch chủ yếu sử dụng vũ khí lạnh thì việc gắn thêm lưỡi lê vào súng kíp chỉ là chuyện vô nghĩa.

Chỉ cần Dương Nhất Thanh cầm dao thực hiện vài động tác đâm chém đơn giản làm mẫu thì lập tức Dương Lăng bỏ qua ý định lắp lưỡi lê vào súng. Quyết định cuối cùng vẫn là sẽ chia thêm cho mỗi tay súng kíp một thanh đao giắt hông, đồng thời đội quân bắn súng sẽ liên hợp tác chiến cùng kỵ binh và các binh chủng bảo hộ khác.

Dương Lăng đi đến khu vực nghiên cứu chế tạo đang được trọng binh canh gác. Đứng trong ánh dương quang ấm áp đưa mắt nhìn những thôn xóm xa xa dưới núi, lòng y cảm thấy hơi ngậm ngùi: "Tiếc là Hoả Giả Á Tam không biết gì về hỏa pháo, còn mình thì ngoại trừ biết được cấu tạo đạn pháo và đạn của thời hiện đại chẳng khác nhau mấy, còn nguyên lý cơ bản của hỏa pháo thì lại không biết gì, bằng không bây giờ đã có thuốc súng uy lực mạnh hơn. Nếu chế tạo được hỏa pháo có lực sát thương cao hơn, trên chiến trường nhất định sẽ đánh đâu thắng đó."

Y hít một hơi dài, thầm nghĩ: "Nghe Hỏa Giả Á Tam nói quốc gia bọn họ đã nghiên cứu chế tạo được hỏa pháo lắp đạn phía sau. Nếu như có thể kiếm được một khẩu về nghiên cứu qua, có được chút gợi ý thì dựa vào tay nghề của những thợ thuyền này nhất định sẽ có thể chế tạo được súng ống lợi hại hơn. Tiếc là đường xá xa xôi, đến giờ vẫn chưa nghe nói có thuyền pháo của Phật Lang Cơ đến Trung Thổ quấy nhiễu."

"Hỏa pháo..." Dương Lăng chợt nhớ đến loại pháo cỡ nhỏ có giá đỡ ba chân mà người Nhật Bản sử dụng trong mấy bộ phim kháng chiến chống Nhật, rồi lại nhớ đến lựu đạn. Đó là những loại vũ khí xem chừng dễ chế tạo, dễ mang theo, uy lực lại chắc chắn lợi hại hơn nhiều so với loại súng kíp thông thường này.

Lúc còn ở trạm Kê Minh y từng thấy hỏa khí tương tự như lựu đạn thời hiện đại, có điều chúng quá cồng kềnh nên chỉ có thể dùng để ném từ trên thành xuống dưới đất. Hơn nữa sức công phá của thuốc súng lại không đủ cho nên không thể chế tạo vỏ bằng sắt.

Hiện tại thuốc súng cường lực đã có. Nếu như bọn y chế tạo được lựu đạn hình quả dưa có vỏ hình mai rùa dễ vỡ rồi trang bị cho mọi binh sĩ, tuy rằng công thành phá trại có chút khó khăn nhưng khi tác chiến ngoài đồng trống, loại sức sát thương khổng lồ đó nhất định sẽ có thể chống lại kỵ binh dũng mãnh của Mông Cổ. Hơn nữa những tiếng nổ lớn có thể khiến những con chiến mã Mông Cổ vốn chưa từng quen với hỏa lực hiện đại sẽ hoảng sợ. Chỉ cần người ngựa bọn họ rối loạn thì ưu thế về kỵ binh của bọn họ cũng sẽ không còn.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng phấn khích định quay trở về nói với đám người Hỏa Giả Á Tam về ý tưởng của mình. Nhưng mới vừa đi được vài bước, y lại cảm thấy hiện giờ bọn họ đã quá hao tâm phí sức vào việc nghiên cứu chế tạo vỏ đạn giấy, cứ đợi bọn họ có thành quả rồi mới đưa một mục tiêu mới cho bọn họ vậy.

Dừng chân, Dương Lăng chắp tay sau lưng quay lại đi men theo bước tường đầu chái nhà. Vừa đi được vài bước, y chợt trông thấy ở xa xa cửa phòng của Ngô Kiệt hé mở, một thư sinh vận áo dài xanh bước ra ngoài quay người lại nói với Ngô Kiệt đang theo sau mấy câu gì đó, rồi chắp tay vái chào, đi thẳng đến viên môn.

Dương Lăng nhận ra người thư sinh là Thành Khởi Vận đang cải nam trang, trong lòng không khỏi giật đánh thót: "Thành Khởi Vận tự mình lên núi để làm gì?" Dương Lăng bèn rảo bước từ con đường bên đuổi theo, vừa kịp đến cổng chặn đường Thành Khởi Vận.

Trông thấy Dương Lăng, mặt Thành Khởi Vận thoáng hiện lên vẻ kinh ngạc. Nàng thoáng chần chừ rồi bước lên gượng cười chào: 

- Ti chức ra mắt đại nhân!

Dương Lăng nghiêm ánh mắt hỏi: 

- Cô... sao lại lên núi vậy? Đường núi đầy tuyết trơn trợt không dễ đi, trong quân lại toàn là đàn ông...

Khuôn mặt Thành Khởi Vận đã không còn vẻ hoảng loạn, nàng trấn tĩnh lại, khẽ cười đáp:

- Ti chức ở trong phủ cảm thấy nhàm chán, hôm nay trời rất ấm cho nên lên núi đi dạo một vòng. Mang thân phận là Nhị đáng đầu của Nội xưởng, suy cho cùng thì không thể không biết chút gì về nha môn của chính mình có phải không? Hì hì...

Dương Lăng mỉm cười, nói: 

- Việc này thực sự là do bản quan sơ ý rồi. Đã đi tới những đâu rồi? Đại đáng đầu không đi cùng cô sao? Có muốn bản quan đi cùng cô tham quan khắp nơi một chút không?

Thành Khởi Vận có cảm giác được yêu mến quá mức nên hơi lo sợ. Nhưng khi ngẩng đầu nhìn thấy rõ ánh mắt chất chứa sự dè chừng của Dương Lăng, nàng thoáng nghĩ đến điều gì đó, liền không khỏi tức giận.

Nàng mím môi lại, thoáng hiện hai hàng răng ngọc trắng đều như bắp, rồi cất giọng yêu kiều đáp: 

- Đa tạ đại nhân, chẳng qua là ti chức đi vãn cảnh mà thôi! Không phải là đại nhân phải ra ngoài thành bố thí lương thực sao? Ti chức đi chậm, xin phép về phủ trước đợi ngài vậy.

Nói đoạn Thành Khởi Vận duyên dáng vái chào cáo từ. Y phục xanh nhạt dễ thương cùng gương mặt xinh đẹp chỉ trang điểm nhẹ, nụ cười rực rỡ dưới ánh dương quang khiến người ta hoa mắt, thật là muôn phần tươi đẹp.

Trong lúc Dương Lăng thoáng thất thần, Thành Khởi Vận đã nhướng mày, liếc nhanh y rồi khoan thai xuống núi.

Thành Khởi Vận lướt ngang qua người Dương Lăng. Tuy cải nam trang, song nàng lại cố ý bước đi kiểu phụ nữ, eo mảnh khoan thai, dáng người tha thướt, vẻ liếc mắt trông vô cùng mê người. Nàng vừa đi qua, một mùi thơm thoang thoảng kéo ngay đến, khiến Dương Lăng cũng lay động tâm tình, khởi lên bao ý niệm!

Dương Lăng ngạc nhiên đưa mắt nhìn theo bóng lưng nàng ta. Người con gái này bình thường thì có vẻ hoàn toàn vô hại, song nếu nàng ta đã định tâm cám dỗ thì với sắc đẹp, dáng điệu, tâm kế và thủ đoạn của nàng, quả thực chả có mấy người không bị lung lạc. Chẳng lẽ ngay cả Ngô Kiệt đã đến tuổi ”tri thiên mệnh” (tuổi năm mươi) cũng không kháng cự được sự mê hoặc của nàng ta?

Dương Lăng muốn đi hỏi Ngô Kiệt, song lại cảm thấy khó mà mở miệng. Chần chừ hồi lâu, y chợt nhớ lại cảnh ngày trước khi Chính Đức đến thăm, chính y cầm kiếm đe dọa đã khiến Thành Khởi Vận phải sa lệ. Rốt cuộc y đành khẽ thở dài rồi đi theo nàng ta xuống núi.

Đi đến trước sườn núi, Thành Khởi Vận đưa khoé mắt khẽ liếc về phía sau, thấy bóng dáng Dương Lăng đang chậm rãi theo sau lưng, nàng tựa cười mà như không cười, quay đầu lại thong thả nhiếc khẽ: "Tiểu oan gia, người ta vì ngươi mà lo sống lo chết. Còn ngươi thì sướng rồi, không biết thông cảm thì thôi, còn đi nghi ngờ người ta cám dỗ này nọ, hừ! Ngươi mắc nợ ta, sớm muộn... sớm muộn rồi có một ngày ta sẽ bắt ngươi trả hết cho ta."

Nàng oán hận vung chân đá bay một cục đá nhưng lại trượt chân ngã ngồi oạch xuống đất. Thành Khởi Vận tức giận đập mạnh tay xuống mặt đất, nhưng băng tuyết chạm vào tay lạnh buốt, thế là lại vội rụt về. Đúng lúc này, Dương Lăng đã đi đến bên cạnh, mỉm cười đưa tay ra.

Thành Khởi Vận liếc y một cái, giận dỗi quay ngoắt đầu đi, bảo: 

- Chẳng phải đại nhân hoài nghi ti chức dụ dỗ Ngô lão đầu sao? Sao không đi hỏi cho rõ?

Dương Lăng cười ha hả: 

- Không thể trách ta, ai bảo lúc trước cô.... À, có điều ta đã nghĩ thông suốt rồi, cô sẽ không làm thế đâu. Với tầm mắt tài tình của cô nương, sao lại đi làm việc đó chứ?

Thành Khởi Vận vụt quay đầu lại, ngạc nhiên ngước nhìn y, nhất thời tâm tình xao động, chỉ cần có lời này của Dương Lăng, mọi tâm huyết và nỗ lực của mình đều đáng giá.

Con tim tung tăng nhảy múa, nàng vui sướng đưa tay lên. Dương Lăng nắm lấy bàn tay xinh xắn mềm mại của nàng kéo dậy, nhưng y lại buông thêm một câu rất không hợp thời: 

- Nếu như cô nương có lòng muốn trèo cao thì ngày đó ở trước mặt Hoàng thượng đã không giữ khuôn phép như vậy. Cho nên cho dù cô nương có muốn cám dỗ ai đi chăng nữa, cô cũng sẽ không cám dỗ Ngô lão. Có lỗi, có lỗi!

Thành Khởi Vận vừa nghe thì giận đến bốc khói, nàng hất tay Dương Lăng ra, cả giận la lên: 

- Ngươi... ngươi... ngươi... ngươi cố ý có phải không? Ta tham công danh lợi lộc đến vậy sao? Nhất định phải có lợi ích thì mới chịu thật lòng đối đãi với người ta ư?

Đoạn nàng căm hận quay người bỏ đi. Nhưng do bước vội, đôi giày da hươu lót nhung bị trượt, nàng lại ngã bệch xuống đất, mông đập trúng một cục đá đau điếng khiến nàng trào nước mắt.

Dương Lăng bước ngang qua, ánh cười trong mắt. Thành Khởi Vận thấy ý cười trong mắt y, nhất thời trong lòng dấy lên một nỗi bi thương, đau đớn nói: 

- Ta muốn về nhà, ta muốn về phương nam. Ngươi luôn gây khó dễ cho ta, ngay cả tuyết ở đây cũng ăn hiếp ta.

Dương Lăng mỉm cười kéo nàng dậy: 

- Đường núi vốn trơn trợt, lúc tôi lên núi còn bị ngã một lần đó, hà cớ gì cô lại trút giận sang người khác? Nào, để tôi dìu cô xuống núi. Ờ... dù gì đi đường không có việc gì làm, cô có thể kể cho tôi nghe rốt cuộc cô tìm Ngô lão để làm gì không?

Mới vừa được kéo dậy, nghe y nói vậy thì Thành Khởi Vận không nhịn được phì cười, một lúm đồng tiền thoáng hiện lên rồi biến mất. Ngay lập tức nàng nhanh chóng che giấu nụ cười, liếc y đáp: 

- Không nói! Dù gì thì ta cũng là đồ vô dụng trong mắt ngài, nếu không dụ dỗ con nít thì là dụ dỗ ông già. Ngài có chiêu gì thì cứ dùng đi, nói không chừng khi trường kiếm kề lên cần cổ này rồi, cái gì nên nói cái gì không nên nói ta cũng sẽ khai ra hết đó.

Mũ ô sa của Thành Khởi Vận hơi lệch sang một bên, tóc lộ ra ngoài. Thỉnh thoảng có cơn gió thổi qua, một vài sợi tóc phơ phẩy nhẹ lên mặt Dương Lăng; nhột nhạt, thơm ngát...

Chương 169

Đạo tặc Dương Hổ

Dịch: TheJoker 

Biên dịch: Ba_Van 

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính: 

Nguồn: www.tangthuvien.com

Phủ đệ của Dương Lăng không tích trữ nhiều quần áo cũ và lương thực cho nên y phải cho người vào nội thành mua thêm hai xe ngũ cốc đưa ra ngoài cửa thành tây. Tại đây, y cho dựng lều phát cháo hai lần một ngày. Ở đấy có tổng cộng bốn gia đình dựng lều thí cháo; ngoại trừ lều cháo của vị thiếu phụ áo đỏ nọ thì còn có lều của một vị phú thương Giang Nam đến kinh thành buôn bán và của một vị đại tài chủ bản địa.

Bốn nhà dựng lều thành một hàng, treo cờ trước quán để phân biệt; lần lượt là "Dương, "Dương", "Trâu", "Lý". Những người nông dân áo quần rách rưới, gầy trơ xương chạy nạn trú đông trong những chiếc lều dựng sơ sài của bộ Hộ dường như đã thích ứng với mùa đông giá rét cho nên có rất ít người ngã bệnh.

Sau khi đi đến vài gia đình kê toa biếu thuốc cho những vị lão nhân kém sức ngã bệnh, Cao Văn Tâm trở về lều nhìn xung quanh rồi nói với Dương Lăng: 

- Đại nhân! Nhà bên trái cũng họ Dương đó, không ngờ vị thiện nhân này lại là người cùng họ với đại nhân.

Lúc nãy khi Thành Khởi Vận và Cao quản gia dặn dò gia nhân đang tham gia phát cháo tại đây, Dương Lăng đã đi xem xét chung quanh. Y biết Trâu gia ở lều bên phải hình như là cự phú ở thành Vô Tích thuộc Giang Nam, ông chủ họ Trâu tên Vọng. Chỉ riêng ruộng tốt ông ta đã có tới ba mươi vạn mẫu, nô bộc ba nghìn, dinh thự hơn trăm tòa, có thể nói là giàu nứt đố đổ vách.

Lần này Trâu Vọng vào kinh làm ăn, thấy nạn dân chạy đến kinh sư thế là đại phát thiện tâm, phái gia nhân phát cháo cứu tế ở đây, nhà ông ta giàu có nên có thể phát cháo ba lần một ngày. Lúc này là lượt phát cháo vào giữa trưa, tất cả nạn dân đang xếp một hàng dài trước lều của nhà họ Trâu chờ được thí cháo.

Cũng may những nạn dân đứng đó ngăn trở tầm mắt nên Cao Văn Tâm không thấy được nhà họ Lý ở tận cùng bên tay phải chính là nhà của Lý Kế Mạnh từng có hôn ước với nàng, do đó cũng tránh được nhiều điều khó xử.

Dương Lăng lo lắng chốc nữa nạn dân tản đi, Cao Văn Tâm chạm mặt với người nhà họ Lý sẽ sinh chuyện, bèn đáp: 

- Ừm! Nhà đó cũng là người ở địa phương khác đi qua kinh sư, họ bỏ tiền cứu trợ bá tánh như vậy thực sự là gia đình tích thiện.

Rồi y nhìn Thành Khởi Vận đang sưởi ấm trước nồi cháo đang dần tắt lửa, mỉm cười nói tiếp: 

- Tôi vốn vẫn hơi lo, giờ thấy những nạn dân này tuy ăn không đủ no nhưng ai nấy đều tuân thủ pháp luật, không ai dám đánh cướp lương thực. Chốc nữa cô và Thành cô nương hãy về phủ trước đi, nơi này giao cho Cao quản gia lo liệu là được rồi.

Thành Khởi Vận lạnh đến mũi ửng đỏ, hai má tê rần, nàng sụt sịt nói: 

- Nơi này lạnh thật. Ti chức đã có lửa sưởi ấm mà còn lạnh không chịu nổi, thực không tưởng tượng được những người dân đó làm sao sống cho qua được mùa đông. Đại nhân nên phát động thêm nhiều gia đình giàu có ra tay phát chẩn. Những gia đình đó đều có của cải hàng vạn, một nhà giúp đỡ mấy chục nhân khẩu qua mùa đông thực dễ như trở bàn tay.

Ngoài ra, những người chạy loạn này tuy bần cùng đáng thương nhưng phần lớn vẫn còn sức lực, hơn nữa trong đó không thiếu hạng ăn no lười biếng; mấy tháng tới không thể cứ dựa dẫm vào người khác nuôi ăn, bọn họ vẫn có thể làm phu khuân vác hay nô bộc được. Không bằng đại nhân tổ chức tập hợp một số thanh niên khoẻ mạnh lại, cho bọn họ vào thành làm việc. Một là để họ có thể kiếm được chút ít tiền công, hai là cũng để tránh bọn họ không có việc gì làm, ở không lâu ngày lại sinh ra những chuyện bắt gà trộm chó lôi thôi.

Dương Lăng bật cười lớn bảo: 

- Nói đúng lắm, ý tưởng này không tệ. Chốc về ta sẽ ghé thăm Thành Quốc công và Thọ Ninh hầu. Hai người này một là huân khanh một là quốc thích, nếu thuyết phục được hai vị ra mặt cứu tế, tiếp đó lại để triều đình và dân chúng ca tụng công đức một hồi thì những hào môn cự phú khác nhất định sẽ hưởng ứng thôi. Ta sẽ lại thương nghị cùng Lý đại học sĩ, bảo Ngũ thành binh mã ti đăng ký những nạn dân này vào sổ, sau đó chọn những thanh niên khoẻ mạnh, gia thế thanh bạch để phát giấy cho phép vào thành làm việc.

Nói xong, thấy Thành Khởi Vận đang nép sát người bên bếp lửa như một chú chim cun cút, y bật cười bảo: 

- Có lạnh đến vậy không? Hay là cô hãy vào trong kiệu một lát đi, lấy áo khoác của ta trùm cho ấm người.

Y đang nói chợt thấy một thợt ngựa bờm vàng từ trong cổng thành phóng nhanh lại. Người kỵ sĩ rẽ qua góc thấy lá cờ lớn chữ ”Dương” treo trên lều, khom người nhìn vào trong lều mấy lượt rồi lại quất ngựa phi về phía lá cờ chữ “Dương” còn lại.

Gã phóng ngựa có phần vội vã, một thanh niên ngoài hai mươi mới vừa lấy cháo về, vì vội tránh ngựa nên phải nhảy sang một bên bị trượt chân, bát cháo lập tức bị đổ mất một nửa. Người thanh niên đỏ bừng mặt giận dữ, cất tiếng mắng người kỵ sĩ.

Gã kỵ sĩ trên ngựa vung tay vất lại một xâu tiền đồng xuống tuyết, cất giọng trong tiếng cười vang: 

- Đắc tội đắc tội! Ngươi hãy tự đi mua chút gì ăn đi, ta đang có việc gấp.

Gã trạc trên ba mươi tuổi, râu quai nón rậm rì trông rất thô kệch. Hành động tuy vô lễ song xem ra vẫn biết thương mến quý trọng những người dân cùng khổ này.

Nhưng người thanh niên nọ vận bộ áo dài màu xanh cũ nát, mặt trắng mày dài, nho nhã lịch sự, xem ra có vẻ cũng là kẻ từng đọc sách, làm sao lại chịu cúi đầu nhặt lấy từng đồng tiền trên mặt tuyết như ăn xin chứ. Hắn hừ một tiếng, thấy trong bát cháo vơi còn non nửa, bèn vội cẩn thận bưng đến một lều cháo.

Thành Khởi Vận thấy vậy thì cười khinh miệt nói: 

- Xin cháo không phải là xin à? Nếu thực sự không ăn đồ bố thí thì cứ chết đói cho xong!

Cao Văn Tâm lại nhìn theo thư sinh áo xanh nọ với vẻ đồng tình: 

- Vậy cũng không hẳn! Phát cháo là thiện tâm, người gặp nạn tiếp nhận chút hỗ trợ cũng đâu có gì là mất mặt! Nhưng gặp phải chuyện sỉ nhục, là người hơi có khí phách thì sao lại chịu tiếp nhận?

Thành Khởi Vận cười châm chọc: 

- Người kỵ sĩ vừa rồi tuy có cử chỉ thô tục, nhưng đụng đổ cháo của hắn xong đã trả lại tiền đồng chẳng phải là nhận lỗi đó sao? Trong lòng hắn cảm thấy khó chấp nhận chuyện cúi mình khom lưng chẳng qua là vì chỉ có một mình hắn cúi mình khom lưng thì sẽ mất mặt mà thôi. Nếu như bên cạnh cũng có một đoàn người che chắn cho hắn giống như lúc hắn bưng bát đi xin cháo thì hắn sẽ không còn thanh cao như vậy đâu.

Cao Văn Tâm vừa định biện bác thêm thì Dương Lăng đã cười bảo: 

- Thôi đi! Quan điểm về giá trị của hai cô hoàn toàn bất đồng, có tranh luận thêm cũng sẽ không ra kết quả gì đâu.

Thành Khởi Vận chớp mắt, ngạc nhiên hỏi: 

- Quan điểm về giá trị?

Dương Lăng sực nhớ mình đã lỡ lời, đang ấp úng không biết nên giải thích thế nào thì thớt ngựa bờm vàng nọ lại phi trở về, bên cạnh có kèm thêm một con tuấn mã màu trắng lực lưỡng, trên ngựa là một phụ nữ xinh đẹp áo đỏ như lửa. Nàng vừa phóng ngựa vừa hỏi vội: 

- Thật là vô dụng, làm sao mà Hổ ca của ngươi lại bị thương vậy? Đã đưa đến đâu rồi?

Gã râu quai nón thô kệch bên cạnh oang oang giọng đáp: 

- Tiểu đệ vào thành tìm chị dâu trước, Hổ ca cũng sắp vào thành rồi.

Ngựa lướt ngang qua, người phụ nữ áo đỏ mắt tinh như điện trông thấy Dương Lăng đang đứng trước lều, hiển nhiên nàng vẫn nhận ra hình dạng của y nên tỏ vẻ hơi ngạc nhiên. Nhìn thấy trên lều treo lá cờ to chữ “Dương”, nàng không khỏi mỉm cười duyên dáng khẽ gật đầu chào y rồi lướt ngựa qua như một cơn gió.

Thành Khởi Vận chống tay dưới cằm, đảo mắt hỏi: 

- Thuật cưỡi ngựa của vị nương tử áo đỏ ấy thật cao. Đại nhân quen biết cô ta à?

Dương Lăng lắc đầu đáp: 

- Cô ta chính là bà chủ của lều nhà họ Dương phát cháo bên cạnh. Hôm qua có mấy tên vô lại trêu ghẹo cô ta, ta đã được chứng kiến cô ta ra tay, thật là võ công hết sức cao cường. Liễu Bưu từng nói rằng bản thân gã không thể tiếp được hơn hai mươi chiêu của cô ta.

Thành Khởi Vận chợt ngồi thẳng người dậy, lẩm bẩm: 

- Nương tử áo đỏ, võ nghệ cao cường. Đại nhân nói... cô ta họ Dương? Vừa nãy bọn họ nói gì ấy nhỉ, ti chức hình như nghe thấy nói Hổ ca gì đó?

Dương Lăng cười nói: 

- Có lẽ là cô ta họ Dương, cũng có lẽ nhà chồng họ Dương. Không biết Hổ ca trong miệng bọn họ là anh trai hay là chồng của cô ta.

Thành Khởi Vận chợt nhíu mày lại, nghi ngờ nghĩ bụng: "Sẽ không trùng hợp đến vậy chứ? Đạo tặc Dương Khóa Hổ(1) dám vào kinh thành?"

Hai thớt ngựa một vàng một trắng chạy ra đón chưa xa, đằng trước đã có mấy thớt ngựa và một chiếc xe ngựa chạy tới. Song phương dừng lại trò chuyện một chốc rồi liền cùng quay trở lại. Dương Lăng đứng dưới lều quan sát đội nhân mã đó. Thành Khởi Vận cũng đứng dậy, bó ống tay áo tiến đến, cùng với Cao Văn Tâm đứng hai bên y.

Đội nhân mã càng lúc càng đến gần, Dương Lăng thong thả bước ra mấy bước, đứng ở ven đường. Đội xe ngựa đến gần, người phụ nữ áo đỏ chợt kêu lớn: 

- Hà Cương! Đi gọi Thúy Nhi dọn lều cháo đi, ta đưa Hổ ca của ngươi về thành trước.

Lều phát cháo của Dương Lăng dựng bên rìa quan đạo cạnh thành. Chiếc xe ngựa trờ tới gần, rèm xe được vén lên, một người trạc bốn mươi thò đầu ngó ra ngoài, nhìn thấy cổng thành nguy nga đồ sộ thì mừng rỡ kêu lên: 

- Dương huynh đệ, nơi này chính là kinh thành ư?

Gã vừa đảo mắt liền trông thấy Dương Lăng. Thoạt tiên gã thoáng ngẩn người, sau đó mừng rỡ kêu lên: 

- Lăng đệ? Ngươi là Lăng đệ?

Dương Lăng hơi ngơ ngẩn, thấy người trên xe nọ xấp xỉ bốn mươi, tướng mạo không quá khó coi nhưng vẻ mặt hơi tà dâm. Hắn đang nhìn y với khuôn mặt đầy vẻ mừng rỡ, nụ cười ra vẻ muốn lấy lòng. Dương Lăng cảm thấy người này hơi quen, bèn chắp tay đáp: 

- Tại hạ chính là Dương Lăng, các hạ là... A! Dương... Dương... Ngươi là tam... ca?

Dương Lăng cảm thấy hết sức thất vọng. Gã này không phải là cái tên tam ca đã nhiều lần muốn trêu ghẹo Ấu Nương, muốn chiếm đoạt tài sản cả nhà của y đây sao? Sao gã cũng mò đến kinh sư vậy?

Dương Tuyền nghe y xác nhận thân phận thì mừng lắm, liền vội vỗ càng xe gọi to: 

- Dừng xe! Mau dừng xe! Đây chính là huynh đệ Dương Lăng của ta, là huynh đệ trong tộc của ta, là tổng đốc đại nhân của Nội xưởng Đại Minh! Ha ha ha...

Từ trong xe lại có một thanh niên mặt mũi thanh tú trạc hơn hai mươi tuổi chui ra. Trông thấy Dương Lăng hắn cũng mừng rỡ kêu lên:

- Lăng thúc? Đúng thật là Lăng thúc thúc!

Người này còn lớn hơn Dương Lăng hai tuổi. Dương Lăng biết vai vế của mình khá cao, khi từ cõi chết trở về đã có không ít người lớn tuổi hơn y cũng gọi y là “thúc thúc”. Lúc này nhất thời y cũng không nhớ nổi hắn là ai, có điều chắc hẳn là người họ Dương rồi.

Cưỡi ngựa bên cạnh là một người đàn ông tráng kiện tuổi hơn ba mươi, mặc chiếc áo khoác màu vàng bằng vải thô. Hắn ghì cương, co chân nhảy xuống ngựa, cười hào sảng: 

- Các hạ là Dương đại nhân? Thảo dân Dương Phúc, ra mắt đại nhân.

Người phụ nữ áo đỏ cũng nhảy xuống ngựa đi đến bên cạnh hắn, đôi mày thanh tú khẽ nhíu lại, giọng không vui: 

- Hổ ca, huynh... 

Kẻ tên Dương Phúc quay lại khẽ gật đầu ra hiệu, nàng lập tức hiểu ý ngậm miệng lại.

Thành Khởi Vận thu hết vẻ mặt bọn họ vào trong mắt, khoé miệng thoáng lộ một nụ cười nhàn nhạt.

Dương Tuyền thấy xe ngựa dừng lại, liền cùng người cháu xuống xe, bước tới chào hỏi: 

- Lăng đệ! Vị huynh đệ họ Dương này trên đường đã cứu chúng ta, suốt chặng đường còn hộ tống đến kinh thành, là đại ân nhân của chúng ta đó.

Tuy Dương Lăng rất ghét Dương Tuyền và cũng không có cảm tình gì với nhà họ Dương nhưng hiện tại y là người có danh vọng cao nhất nhà họ Dương nên đành phải quay sang gã đại hán thô kệch có sắc mặt vàng vọt, mày rậm đen như mực mỉm cười thi lễ: 

- Đa tạ Dương huynh đã cứu giúp anh và cháu của tại hạ.

Khi đại hán nọ nhảy xuống ngựa, tay trái đong đưa mấy cái, xụi lơ, mềm oặt như không còn sức lực. Lúc này hắn vội đưa tay phải ngăn Dương Lăng lại, đáp: 

- Đại nhân chớ nên khách khí! Thảo dân là người giang hồ thồ ngựa bán buôn, thực nhận không nổi đại lễ của đại nhân. Trên đường gặp gỡ tương trợ lẫn nhau cũng là duyên phận thôi.

Dương Lăng nhìn thấy cánh tay của hắn rũ xuống bất động, liền hỏi: 

- Tay của Dương huynh...?

Dương Tuyền liền chen vào: 

- Lăng đệ! Dọc đường chúng ta gặp phải một đạo sĩ có khinh công rất là lợi hại, không biết sao lại đánh nhau với một thanh niên. Người thanh niên nọ bị trúng một chưởng giờ vẫn còn đang hôn mê bất tỉnh, không ngừng thổ huyết, hiện đang nằm trên xe đó. Vị Dương huynh đệ này bị đạo sĩ nọ đánh một chưởng trúng tay, tay liền mềm oặt không còn sức lực gì.

Dương Lăng thấy người đi đường bắt đầu kéo lại xem náo nhiệt bèn bảo: 

- Chốn này cũng không phải là nơi trò chuyện, chúng ta cùng đi đến chỗ ở của huynh. Bên tại hạ có một vị thần y, hãy mời nàng ta chẩn đoán trị liệu cho huynh. Đến đó chúng ta hãy nói tiếp.

Dương Lăng dẫn Thành Khởi Vận đang cải nam trang và Cao Văn Tâm đi cùng bọn họ vào thành. Dọc đường hỏi thăm y mới biết thành Kê Minh cũng đã thất thủ. Lần này giặc Thát ồ ạt tiến công biên thùy, đốt nhà giết người cướp bóc hung bạo hơn xa năm ngoái, rõ ràng là mang lòng báo thù cho đứa con yêu quý bị giết của Bá Nhan Mãnh Khả (Khả Hãn).

Dương Gia Bình nằm nơi hẻo lánh, trước đó đã nhận được tin nên dân chúng liền chạy ngay lên núi. Nhưng Dương lão thái gia tuổi tác đã cao, trong núi chịu rét chịu đói, kết quả mắc bệnh nặng, không gượng nổi nên đã mất.

Lúc trước, khi Dương Tuyền nghe nói Dương Lăng làm quan lớn, gã đã có ý vào kinh dựa dẫm. Nhưng ông già Dương lão thái gia lại hết sức cố chấp, ông rất ghét việc con cháu trong nhà trông cậy vào quan hệ để leo cao cho nên khăng khăng không cho. Nay lão chết rồi, không còn ai ước thúc được Dương Tuyền nữa, gã liền xúi giục một người cháu trong họ cùng vào kinh nhờ vả Dương Lăng.

Hai người trèo non lội suối, chỉ chọn đường nhỏ để đi, vất vả lắm mới vòng qua được chiến trường giữa giặc Thát và quân Minh, lại gặp một trận đại chiến giữa một thư sinh trẻ tuổi và một đạo sĩ áo xám dưới núi, liền đó có một đoàn ngựa xe đi qua. Hai bên đánh nhau kịch liệt, thư sinh nọ bị đạo sĩ đánh trọng thương, một nam tử mặc áo vải thô tên Dương Phúc trong đội xe ngựa nhịn không được bèn xông lên trợ chiến. Tuy dựa đông người đuổi được đạo sĩ đi, song bản thân hắn cũng bị đánh trúng một chưởng.

Ở phía bên kia, Dương Phúc đang dắt ngựa sóng vai đi cùng người phụ nữ áo đỏ. Cô ta liếc Dương Lăng rồi thấp giọng hỏi: 

- Huynh bị trúng phải chưởng lực nội gia thâm độc, cho dù là muội cũng phải tốn chút công sức mới có thể khử hết độc tính cho huynh. Đã gặp phải kẻ nào vậy?

Gã đàn ông vóc dài vai rộng, gân nổi đầy trên cặp tay to khỏe, nếu Liễu Bưu nhìn thấy thì biết ngay đấy là do ngoại môn công phu đã luyện đến cảnh giới cao nhất. Hắn quét mắt sang Dương Tuyền đang thì thầm với Dương Lăng, khẽ đáp: 

- Huynh không tin, chẳng lẽ cánh tay này phải phế đi ư? Kẻ đó là Lý Phúc Đạt, giáo chủ Di Lặc giáo. Thư sinh trong xe võ nghệ rất cao, đã khiến cho lão ta bị thương. Huynh vốn định thừa cơ trừ khử lão, tiếc là... vẫn để lão ta chạy thoát.

Người phụ nữ áo đỏ trừng mắt mắng: 

- Lão yêu đạo đó võ nghệ rất cao cường, chỉ dựa vào huynh mà cũng đả thương được lão à? Hơn nữa, lão ta cũng đang tập hợp dân chúng tạo phản, rất có lợi cho chúng ta. Huynh thực là không có đầu óc!

Tuy Dương Phúc là chồng của nàng nhưng hiển nhiên bị nàng ấy rầy mắng đã quen. Một đại hán khôi ngô như gã mà nay bị mắng như thế chẳng những không giận mà còn lấy làm e sợ. Hắn ngượng ngập giải thích: 

- Lý Phúc Đạt tuyên truyền “Phật Thích Ca suy tàn, Phật Di Lặc giữ vững”, tự xưng là Di Lặc chuyển thế, rất giỏi mê hoặc lòng người. Huynh cũng được người ta gọi là chân long thiên tử. Nếu như huynh cùng hợp tác với lão ta, liệu còn có thể tập hợp đông đảo nhân mã một lòng theo huynh tranh giành giang sơn không? Nếu có cơ hội, đương nhiên là nên trừ khử lão ta rồi."

Người phụ nữ áo đỏ cười nhạt một tiếng, lạnh lùng: 

- Chân long thiên tử cái rắm. Thiên hạ còn chưa giành được mà đã bắt đầu tự sướng rồi. Ta hỏi huynh, huynh lại nổi lòng tốt gì vậy? Việc huynh chịu khuất ép lòng kết giao với cái tên Dương Lăng đó! Y là tổng đốc Nội xưởng, còn chúng ta là một quân một cướp. Huynh cũng dám đùa với lửa sao?

Dương Phúc dày mặt đáp: 

- Vốn huynh không định mang theo hai tên tiểu tử đó, nhưng nghe bọn họ tự xưng là họ hàng thân thuộc của Dương Lăng của Nội xưởng. Ta nghĩ kết giao với y sẽ rất có ích cho hoạt động của chúng ta trong vùng này. Đúng rồi, nương tử, nàng đến Sơn Đông một chuyến sao rồi? Đám cướp ở Thái Hành Sơn có đồng ý hưởng ứng khởi sự không?

Nàng lắc đầu đáp: 

- Khó! Tên nào tên nấy đều là thứ ếch ngồi đáy giếng. Mới làm đại vương của một núi mà đã tự cho là giỏi lắm rồi, không ai chịu phục ai, đừng nói là có hùng tâm tráng chí gì!

Đoàn người vào đến lạc viện do nàng thuê trọ. Hai bên chào hỏi nhau lần nữa, mới biết người đàn ông tự xưng Dương Phúc này là thủ lĩnh một đoàn ngựa thồ, và người con gái áo đỏ là phu nhân họ Thôi của hắn.

Trên mặt Thành Khởi Vận mang một nụ cười như có như không, lạnh nhạt thờ ơ. Cao Văn Tâm đi tới giúp Dương Hổ kéo tay áo lên, chỉ thấy trên cánh tay thô chắc rậm lông in dấu năm ngón tay đen sì, bắp thịt của cả cánh tay trái hơi sưng lên. Tuy không biết võ nhưng Cao Văn Tâm vẫn nhận thấy được nội phủ hắn đã bị chấn động, kinh mạch trên cánh tay bị tổn thương, hơn nữa phát chưởng lại có độc tính bại huyết.

Dương Lăng rất có hảo cảm với cặp vợ chồng này, thấy vậy bèn vội hỏi: 

- Văn Tâm! Thương thế huynh ấy thế nào?

Thôi thị muốn dùng nội công khử độc nhưng nếu không quá nửa tháng thì cũng không thể có biến chuyển gì tốt, cho nên cặp mắt xinh đẹp cũng tập trung trên người Cao Văn Tâm, lộ vẻ hết sức quan tâm.

Lúc nãy Cao Văn Tâm đã xem qua thương thế của thư sinh sắc mặt xám như tro tàn nên lúc này xem xong thương thế của Dương Phúc thì lại thở ra một hơi thật dài, đáp: 

- Đại nhân! Vết thương của vị tráng sĩ này lại không nguy cấp. Thân thể của tráng sĩ vốn đã cường tráng nên chỉ cần trích hết máu bầm, trong uống ngoài thoa thêm chút thuốc, điều trị năm sáu ngày thì sẽ khỏi. Nhưng còn vị thư sinh ngực bị trúng thương kia, việc chẩn đoán chữa trị phải tốn chút sức lực, ngoại trừ thuốc men còn cần phải châm cứu trị liệu.

Nói đoạn nàng rút cây bút và nghiên mực mang theo bên người ra, như rồng bay phượng múa viết một đơn thuốc, đưa cho Thôi thị bảo: 

- Trước hết tôi sẽ dùng dao bạc giúp quí phu quân rút hết máu bầm. Phu nhân hãy dựa theo hai loại thuốc này tìm mỗi thứ mười thang về.

Thấy người phụ nữ họ Thôi xinh đẹp nọ cầm ngược đơn thuốc, Dương Lăng suýt chút nữa thì bật cười, liền vội ho khan vài tiếng để nén cười.

Thôi thị dĩ nhiên chính là Hồng nương tử, còn được giới lục lâm gọi là Dương Khóa Hổ. Cha mẹ nàng ta đều là hảo hán trong chốn lục lâm. Thôi Oanh Nhi từ thuở nhỏ đã múa thương đánh côn, theo hảo hán lục lâm phá nhà cướp của, khí phách hơn cả đàn ông.

Năm đó nàng tỉ võ chọn chồng, trong số hảo hán của tam sơn ngũ nhạc cũng chỉ có võ nghệ và tướng mạo của Dương Hổ là tạm chấp nhận được nên nàng ta mới cố tình giả thua, gả làm vợ hắn. Tuy dáng vẻ nàng ta thướt tha, dung nhan xinh đẹp, nhưng một chữ bẻ đôi cũng không biết.

Tiếng ho khan quái dị của Dương Lăng khiến nàng cảm thấy như y cười mỉa mình không biết chữ, mặt không khỏi đỏ lên. Nàng liền gọi Thuý Nhi lại, đưa cho đơn thuốc bảo: 

- Mau đi tìm tiệm thuốc, dựa theo đơn thuốc mua về cho ta.

Nói xong nàng ngẩng đầu trừng mắt ngó Dương Lăng, càng lúc càng thấy cái tên mặt trắng đó thật không vừa mắt.

Vốn Dương Hổ tính tình hào sảng, lại có ơn cứu giúp thân quyến nhà họ Dương nên hắn hoàn toàn không để ý đến thương thế mà ngồi cùng Dương Lăng bên bàn trò chuyện một hồi, hai bên rất là hợp ý. Chỉ một chốc sau, Thuý Nhi cầm theo hai bao thuốc lớn trở về, một bao là thuốc để thoa ngoài da, một bao là dược liệu sắc uống.

Cao Văn Tâm lấy một con dao bạc rạch ngay trên vết dấu tay đen sì trên cánh tay của Dương Phúc ra. Đến khi máu đen tanh rình chảy hết, trở thành màu đỏ tươi nàng mới cẩn thận rịt đắp thuốc bột lên miệng vết thương, rồi lại dùng vải trắng đã được đun sôi buộc chặt lại. Dương Phúc cảm thấy cánh tay trái vốn mất cảm giác nay đã hơi đau, liền mừng rỡ khen: 

- Quả nhiên hữu hiệu.

Cao Văn Tâm khẽ mỉm cười, bảo Oanh Nhi: 

- Phu nhân hãy mang thuốc này đi sắc. Mỗi ngày thay thuốc một lần, uống thuốc một lần, khoảng chừng năm sáu ngày sẽ có thể khỏi hẳn.

Cô nàng mừng rỡ ra mặt, liền vội cung tay uyển chuyển nhún người vái tạ.

Dương Lăng cười nói: 

- Dương huynh còn đang bị thương, bôn ba đường dài nhất định cũng mệt rồi, chúng tôi không quấy rấy thêm nữa. Còn vị thư sinh đang hôn mê bất tỉnh nọ thì thương thế quá nặng, tại hạ thấy hay là để tại hạ đưa về phủ chăm sóc đi. Dương huynh thấy thế nào?

Dương Hổ đứng dậy cười nói: 

- Được! Thương thế thảo dân không nghiêm trọng, đại nhân công vụ bộn bề, vậy xin hãy trở về. 

Rồi không để ý đến Thôi thị đang ngầm đưa mắt ra hiệu, hắn cười lớn nói tiếp: 

- Được quen biết với đại nhân là may mắn của thảo dân. Ngày khác Dương mỗ nhất định sẽ lại đến nhà cảm tạ ơn cứu mạng của đại nhân.

Dương Lăng đưa chú cháu Dương Tuyền về trong phủ, bố trí cho bọn họ trọ ở sương phòng, sau đó dọn một căn phòng khác, kêu người khiêng thư sinh đang hôn mê bất tỉnh kia vào. Với sự giúp đỡ của gia nhân, Cao Văn Tâm lại giúp thư sinh sắc mặt xám ngoét, sốt cao không hạ đó chích máu rịt thuốc. Sau khi nàng bận rộn xử lý xong, tuy vẫn chưa tỉnh dậy song chàng thư sinh đã dần dần bớt sốt.

Dương Lăng cúi người quan sát vị thư sinh trẻ tuổi đó một hồi. Bị thương thế hành hạ mấy ngày, khuôn mặt chính trực và sáng sủa của hắn đã lún phún râu ria; chiếc áo dài xanh tuy nhăn nhíu nhưng có thể nhìn được chất liệu khá tốt. Dương Lăng bảo Cao Văn Tâm: 

- Văn Tâm, để gia nhân chiếu cố y được rồi. Cô hãy ra nhà sau nghỉ ngơi đi.

Cao Văn Tâm nhẹ nhàng ngồi xuống chiếc ghế dựa, khẽ liếc y rồi thấp giọng đáp: 

- Còn cần phải quan sát thêm một hồi nữa. Nếu đại nhân bận rộn công việc thì xin hãy về trước đi.

Dương Lăng cười nói: 

- Ta cũng không có việc gì, ở đây đợi thêm một lát vậy.

Cao Văn Tâm ngồi im một lúc, len lén quan sát Dương Lăng một hồi rồi khẽ thở dài: 

- Quả thực rất nhớ...

- Hửm? Cô nhớ gì? 

Dương Lăng ngạc nhiên ngẩng đầu hỏi.

Cố lấy hết dũng khí, Cao Văn Tâm đáp: 

- Nhớ những ngày cùng đại nhân xuống Giang Nam. Tuy lúc đó mang phận nô tỳ, nhưng thiếp lại có thể thường xuyên ở bên cạnh đại nhân. Từ lúc trở về kinh, từ cái đêm hôm đó... đại nhân nghe em họ thiếp nói... Nay càng lúc càng xa lánh thiếp, mỗi lần đến Dương phủ, thiếp đều cảm thấy thân phận mình thực rất bất tiện, không biết nên cư xử thế nào...

Dương Lăng lập tức cảm thấy áy náy. Hai tay bó gối, im lặng một hồi lâu y mới cười khổ sở: 

- Văn Tâm! Nàng là tiểu thư khuê các, tài năng và dung mạo đều hơn người, còn lo không có phu quân vừa ý sao? Chính vì ta yêu nàng, kính trọng nàng, mới không muốn nàng phải làm thiếp.

Ấu Nương thuần phác lương thiện, ta cũng đối đãi Ngọc Nhi và Tuyết Nhi như nhau. Mặc dù như thế nhưng bọn họ vẫn giữ lòng kính sợ với Ấu Nương, để tâm lấy lòng. Giữa vợ chồng không phải chỉ có chàng chàng thiếp thiếp mà thôi. Nàng tâm cao khí ngạo, mấy đời thư hương, nếu chỉ vì muốn trả ơn mà gả vào nhà họ Dương thì sớm muộn gì cũng sẽ hối hận.

Cao Văn Tâm xúc động đứng dậy, ánh nến phản chiếu ánh mắt nàng sáng ngời. Nàng lắc đầu, khẽ đáp: 

- Đại nhân, thiếp sẽ không hối hận. Thiếp biết, nếu... với thân phận hiện tại của thiếp có lẽ có thể gả làm chính thê người khác, sinh trai đẻ gái, bạc đầu giai lão. Nhưng mà... thân phận còn quan trọng gì khi mình không thể được ở chung với người mình thích?

Ánh mắt nàng trở nên mê mang, nàng mơ màng nói tiếp: 

- Khoảng thời gian ở Giang Nam cùng với đại nhân là khoảng thời gian mà thiếp vui vẻ nhất. Đại nhân ra ngoài làm việc, thù tạc, thiếp ở trong phòng đợi đại nhân về; cùng đại nhân lột cua nghe sóng vỗ, cùng chèo xuồng hái ấu, nghe đại nhân thì thầm dai dẳng dưới gốc liễu. Khoảng thời gian đó thực vui vẻ. Ấu Nương muội muội cùng Ngọc Nhi, Tuyết Nhi, bốn người chúng thiếp kết nghĩa kim lan, đã từng đồng sinh cộng tử. Ở chung với bọn họ, thiếp cũng rất vui vẻ.

Ánh mắt nàng dần trở nên ảm đạm, giọng ai oán: 

- Nhưng mà hiện tại... thiếp cảm thấy mình và bọn họ cũng đã càng ngày càng cách xa.

Dương Lăng không biết nói gì cho phải, một hồi lâu sau mới cười tự giễu: 

- Hiện tại ta cảm thấy mình giống như miếng thịt Đường Tăng vậy. Việc chung thân đại sự của nàng, thật sự chỉ có một sự lựa chọn này thôi sao?

Cao Văn Tâm ngờ vực hỏi lại: 

- Thịt Đường Tăng?

Dương Lăng lập tức sực nhớ mình lại lỡ lời, bèn cười gượng gạo sửa lại: 

- À! Ta nói nhầm đó, là thịt Đông Pha...

Nói đến đây y chợt nhớ lại lúc hai người cùng chèo xuồng ở Thái Hồ, uống rượu trong biển sen, nhớ lại lúc nàng bị trật chân, y giúp nàng rửa đôi chân xinh xắn, nhớ tới nụ hôn nhẹ của hai người. Lòng y cũng hơi xao động, y liền vội đứng dậy bước ra cửa, nói: 

- Nàng vẫn chưa quên lời ta đã nói với nàng chứ? Không biết chừng ngày này năm sau ta đã chôn xương dưới mồ rồi đó.

Cao Văn Tâm thấy rõ y đã động tâm song lại “rút chân về”, nàng cả giận hét lớn: 

- Chưa quên! Tiểu tì vẫn nhớ rõ những gì lão gia đã nói. Nếu ngày này năm sau lão gia bỏ mạng dưới suối vàng, tiểu tì sẽ kết bái huynh muội với lão gia trước linh vị của người, nhược bằng lão gia có thể may mắn không chết thì sẽ phải đội khăn gả cho tiểu tì!

Lúc này nàng lại dùng kiểu nói khi còn là nô tì trong Dương phủ trước kia. Dương Lăng nghe vậy thì cười khan mấy tiếng rồi đáp: 

- Được, vậy chúng ta hãy chờ xem! Ngày này năm sau nói tiếp.

Sau khi nghe Thành Khởi Vận khuyên bảo vào hôm qua, hôm nay Cao văn Tâm đã nén ngượng thổ lộ hết tâm sự với Dương Lăng, không ngờ y lại vẫn khước từ. Thế là tính khí đại tiểu thư lại nổi lên, cô nàng bèn giậm chân gắt gỏng: 

- Chờ thì chờ! Đại nhân nhớ kỹ lấy ước hẹn của mình đó!

Chương 170 Điều thêm tướng soái

Dịch: TheJoker 

Biên dịch: Ba_Van 

Biên tập: 6300

Hiệu đính: 

Nguồn: www.tangthuvien.com

Dương Lăng vừa về tới nhà, Hàn Ấu Nương đã ra đón y, hỏi ngay: 

- Tướng công, nghe nói nhà mình mới đón về mấy vị khách phải không?

Dương Lăng "ừ" rồi đáp: 

- Một vị thư sinh trọng thương chưa tỉnh, nghe nói rất giỏi võ nghệ...

Vừa nói đến đây, y sực nhớ ra một chuyện, bèn buột miệng hỏi: 

- Đúng rồi, Ấu Nương này, nếu như là nàng, thì có thể nhảy cao đến một trượng không?

Hàn Ấu Nương ngạc nhiên hỏi lại: 

-Sao tướng công lại hỏi chuyện này?

Rồi nàng nghênh mặt cười đắc ý: 

-Tướng công đã quên trước đây thiếp từng phóng lên đài hành hình cao hơn một trượng rồi à?

Dương Lăng búng mũi nàng một cái, cười nói: 

- Biết nàng lợi hại rồi! Tướng công muốn hỏi là nếu đứng tại chỗ bật lên cao một trượng, nàng làm được không?

Hàn Ấu Nương suy nghĩ một chút rồi lắc đầu đáp: 

- Không thể, kể cả cha cũng không làm được. Thuật bật thẳng người nếu chỉ dựa vào lực bắp chân thì không thể nào nhảy cao đến một trượng. Thiếp và cha học môn Ngạnh khí công cũng chỉ để cường thân kiện thể, trừ khi là biết thuật điều tức thổ nạp(1) thì mới có thể làm được, cao thủ như vậy cũng cực hiếm.

Nàng bỗng mở to mắt, kéo tay áo Dương Lăng hỏi: 

- Tướng công đã gặp qua cao nhân như vậy rồi à?

Dương Lăng cười lớn đáp: 

- Cũng không cao lắm, chỉ cao hơn nàng có nửa cái đầu thôi.

Nghe Ấu Nương nói vậy, y chợt cảm thấy có chút nghi ngờ. Lăn lộn cùng đám người Liễu Bưu bấy lâu, y cũng biết được ít nhiều về võ học. Tục ngữ có câu "cùng văn phú võ"(2), trên thực tế thì đa số kẻ luyện võ là những người nghèo khổ, song phần lớn bọn họ đều chỉ tu luyện công phu ngoại môn. Một người con gái trong đoàn ngựa thồ có thể mời ở đâu ra được danh sư về truyền thụ cho võ công thượng thừa, hơn nữa còn luyện thành xuất sắc như vậy chứ?

Tuy nhiên vừa nhớ đến chuyện người thiếu phụ áo đỏ ấy không biết chữ, y lại xua tan ý nghi ngờ nàng có thân phận khác. Hàn Ấu Nương hỏi: 

-Tướng công đang nghĩ gì vậy?

Dương Lăng vội nói: 

- Hả? À không có gì, tướng công chỉ... Do quê nhà đang gặp phải chiến tranh loạn lạc nên cũng có người vào kinh nhờ cậy, có vẻ bọn họ cũng không định trở về nữa. Ta đang nghĩ làm sao thu xếp cho bọn họ đây.

Hàn Ấu Nương mừng rỡ reo lên: 

-Khách đến là đồng hương với chúng ta sao? Là vị thân thích nào vậy?

Dương Lăng cười gượng gạo: 

-Là... tam ca Dương Tuyền và con thứ Vân Long nhà đại ca.

Nụ cười của Hàn Ấu Nương lập tức cứng đơ. Dương Lăng cũng biết vị anh con bác này trước đây quả thực không ra gì, nhưng dẫu sao những việc xấu xa hắn làm cũng kín, chưa bị phanh phui, nay hắn gặp nạn, từ ngàn dặm xa xôi chạy đến nhờ vả, nếu cự tuyệt không cho hắn vào nhà, mình sẽ bị người ta nhổ nước bọt dìm chết thôi.

Thời đó quan niệm về dòng họ và hương thổ thật sự rất nặng. Đến nỗi kẻ si mê danh lợi, bo bo giữ mình như Tiêu Phương mà một khi có khách cố hương đến nhờ vả cũng còn không dám không hết lòng góp lời cầu xin hoàng thượng giúp đỡ bọn họ. Huống hồ Dương Tuyền là đường huynh(3) của y, luận về huyết thống xa gần trong quan niệm dòng họ thời bấy giờ thì còn thân thiết hơn thê tử cả một tầng.

Thường ngày Dương Lăng trò chuyện với đám người Lưu Cẩn, từng nghe bọn họ kể rằng, năm xưa vua Hoằng Trị từng tin yêu một người hầu thân cận họ Trương. Do gia cảnh bần cùng, lúc chín tuổi vị thái giám đó đã bị phụ thân thiến đưa vào trong cung, để rồi hai mươi năm sau hắn trở thành một trong những hoạn quan được tin yêu nhất bên cạnh vua Hoằng Trị.

Khi người cha già nghèo túng của hắn vào kinh cầu kiến, do Trương thái giám vẫn còn canh cánh trong lòng chuyện ngày xưa nên mặc dù thái giám bên người nhiều lần khuyên nhủ, hắn vẫn nhất định không chịu gặp mặt. Kết quả lập tức trở thành cái đích cho mọi người chỉ trích. Về sau hoàng đế nghe được chuyện này, từ đó cũng trở nên lạnh nhạt xa lánh hắn, bảo rằng hắn không biết đạo lý làm người, đại nghịch bất đạo.

Mình đến từ thời hiện đại, trong lòng không có nhiều điều kiêng kị, nhưng không thể không suy xét đến quan niệm của người thời này, không nhận thân tộc họ hàng là trái với luân lý cương thường, trong khi thiên hạ được cai trị bởi những nhà Nho, chỉ cần một điểm này thôi là anh đã đủ bị người ta hặc tội bãi quan rồi.

Dương Lăng bối rối nói: 

- Hôm nay bọn họ vừa mới vào kinh, ta cũng không có cách gì khác. Đợi dăm ba ngày nữa sẽ giúp bọn họ tìm chỗ ở, tiếp tế ít lương thực, nếu hắn không chơi bời lêu lổng nữa, ta sẽ tìm cho hắn một công việc, coi như đã tận tâm rồi.

Hàn Ấu Nương liền nhớ tới tên đốn mạt kia. Đường đệ của mình còn bệnh nằm liệt giường mà đã động tay động chân với em dâu, nhớ lại hành vi không chút liêm sỉ của hắn làm nàng lại cảm thấy không thoải mái. Trước đây khi gia tộc mình đến Kê Minh nương nhờ, mình không hề có bất kì hành động thất lễ nào với trưởng bối tôn thất của tướng công. Nay tướng công đã là quan lớn, mình càng phải nên chú ý hơn đến những điểm dễ bị người ta chê trách chỉ trích này mới được.

Thấy bộ dạng khó xử của Dương Lăng, nàng vội khoác áo choàng lên, nhẹ giọng nói: 

- Ở lâu trong nhà quả thực bất tiện, nhưng mà tướng công cũng không cần phải tìm chỗ ở cho bọn họ vội, để người ngoài không hiểu chuyện nhìn vào sẽ nói những lời khó nghe.

Dương Lăng thấy nàng khoác thêm áo ngoài, bèn hỏi: 

- Nàng định ra ngoài đi dạo à? Hôm nay gió lớn, nàng đừng đi.

Hàn Ấu Nương dịu dàng cười đáp: 

- Thiếp đi thăm vị khách nọ còn đang bị thương mà. Nói cho cùng thì Dương Tuyền cũng là tam ca của chàng, Vân Long lại gọi thiếp một tiếng thẩm nương(4). Thiếp là vợ của chàng, sao có thể không quan tâm gì đến cuộc sống của bọn họ chứ?

Dương Lăng vui sướng nói: 

- Vợ ngoan, quả nhiên đã có phong thái chủ mẫu(5) nhà họ Dương rồi! Ta còn lo nàng sẽ không vui, nên đang tính giấu nàng nữa cơ.

Hàn Ấu Nương chun mũi, cười tinh nghịch: 

- Người ta không có hẹp hòi như vậy đâu. Trước đây hắn buông lời ve vãn ong bướm, nếu không phải vì thấy trong nhà họ Dương, tướng công thân đơn thế cô, sợ chàng không thể tự lo cho mình thì đã dùng côn đánh bay hắn đi rồi. Nay thì không cần Ấu Nương ra tay nữa, tướng công của người ta lợi hại mà... Hắn mà dám... hừm hừm, kể cả cho hắn hai lá gan...

Đôi vợ chồng trẻ rôm rả, cùng nói cười đi đến sương phòng(*) ở nhà chính sân trước. Chú cháu Dương Tuyền mới vừa ăn xong chưa ngủ, vừa nghe vợ chồng bọn họ đến liền vội ra đón. Xưa và nay khác nhau như trời với đất; trạch viện đẹp đẽ sang trọng, gia bộc kính cẩn, loại phong thái cao sang đó Dương Tuyền chưa từng thấy bao giờ.

(*):sương phòng: căn phòng bên cạnh căn phòng chính.

Nhớ lại hành vi vô lễ trước đây, trong lòng hắn thấp thỏm không yên, hắn còn nghe nói thậm chí Hàn Ấu Nương cũng đã được yết kiến hoàng thượng, nay được ban cho thân phận Cáo Mệnh tam phẩm, điều đó đã được huyện Kê Minh ghi chép một cách hết sức long trọng. Dương Lăng rất yêu thương nàng, nếu như nàng ta mượn cớ ấy để trị mình thì hậu quả sẽ rất thê thảm, song hắn lại không nỡ bỏ qua vinh hoa phú quý trong tầm tay.

Đến khi thấy thái độ ân cần, hào phóng và tự nhiên của Hàn Ấu Nương, Dương Tuyền mới cảm thấy yên tâm, liền vội nịnh nọt tâng bốc một phen, chỉ lo nàng vẫn ghi thù hành vi của mình ngày đó.

Dương Vân Long tuy lớn hơn Dương Lăng ba tuổi, nhưng quả thực là con trai của đường huynh y, thế nên hết sức giữ lễ với hai vị tiểu thúc thúc, tiểu thẩm thẩm này. Hắn cũng từng đọc sách, có điều đã đi thi hai lần song vẫn chưa đỗ được tú tài. Tự thấy công danh vô vọng, hắn mới bèn theo tam thúc vào kinh sư dựa dẫm Dương Lăng.

Đợi khi rời khỏi sương phòng, Dương Lăng mới mỉm cười nói với Hàn Ấu Nương: 

- Ấu Nương của hôm nay so với trước đây thực đã có khí độ hơn nhiều. Vào kinh được mở mang kiến thức, lại được bọn Ngọc Nhi và Tuyết Nhi hun đúc cho, đối nhân xử thế đã rất có lễ độ.

Chỉ là... nàng vốn không biết giả vờ, lúc nãy cười vẫn hơi gượng gạo. Sau này không cho phép làm vậy với tướng công, bằng không... ta sẽ lấy gia pháp ra 'hầu hạ', chắc chắn phần bên dưới khuôn mặt này sẽ không biết cười vịt vờ đâu.

Vừa nói y vừa vỗ nhẹ bờ mông căng tròn của Ấu Nương một cái, Hàn Ấu Nương kêu lên "ui da", rồi vừa mỉm cười vừa nhảy tới phía trước mấy bước. Dương Lăng vội lật đật kéo nàng lại.

Hàn Ấu Nương kéo một cánh tay của y lên, áp mặt lên tay y thủ thỉ: 

- Nghĩ đến sự đáng ghét của hắn là người ta lại không chịu được. Có điều... lúc còn ở quê nhà, Dương tam ca chỉ biết chơi bời lêu lổng, không nghề ngỗng gì, nếu như chàng muốn kiếm cho hắn một công việc, vậy thì phải suy nghĩ kỹ đó. Ca ca làm ở bộ Hình, thường nói với thiếp rằng ở đó quan viên trên dưới đều có vẻ sợ y. Với tính tình hào sảng của huynh ấy mà cũng khó tìm được một bằng hữu tri âm, còn không phải là vì những người đó sợ chàng ư? Với tính cách của Dương tam ca... nếu như hắn lại cáo mượn oai hùm, cậy vào oai danh chàng để làm những điều xằng bậy thì...

Việc đó tự cổ chí kim thực ra không hiếm, Dương Lăng nghe vậy thì khẽ gật đầu. Y cũng cảm thấy cái tên lấc cấc này đến kinh sư khiến mình nuôi thì không ổn, mà đuổi cũng không xong, quả thực có điều khó xử. Đừng thấy hắn lúc này khép nép sợ sệt mà lầm, giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời. Lúc còn ở Dương Gia Bình, hắn đã ỷ là người của gia tộc lớn nhất trong thôn mà bắt gà trộm chó, gây chuyện khắp xóm làng, xem ra không thể chỉ tìm đại một công việc cho hắn là sẽ có thể đuổi hắn đi được.

*****

Cao Văn Tâm cố lấy dũng khí thổ lộ tâm tình nhưng không ngờ lại khiến cho Dương Lăng sợ chạy mất dép. Lúc này nàng đang ngồi âu sầu, tưởng tượng ra cảnh vào lúc này năm sau Dương Lăng vẫn sống sờ sờ không hề hấn gì, đành phải đội khăn đỏ lên đầu gả cho mình. Trong lòng càng nghĩ càng thấy thú vị, thế là nhịn không được bật cười khúc khích, sự bực tức liền tan biến sạch.

Nàng bước đến bên giường, giơ ngọn đèn cúi xuống nhìn, thấy hơi thở vị thư sinh nọ đã ổn định, sau khi tan hết máu bầm trên ngực, cơn sốt cao đã dần được khống chế. Thuốc giao cho nhà bếp sắc đã được đưa đến, có điều còn nóng chưa uống được, Cao Văn Tâm bèn tính châm cứu trước cho y.

Nàng xoay người lấy túi thuốc châm cứu, kéo chiếc ghế đến bên đầu giường ngồi. Mới vừa mở bọc kim châm, thư sinh nọ chợt rên khẽ một tiếng, rồi từ từ mở mắt ra. Cao Văn Tâm mừng rỡ kêu lên: 

- Công tử, ngài đã tỉnh rồi sao?

Lúc này, mặt thư sinh lún phún râu ria, hắn cũng chẳng thể biết được vẻ bề ngoài ra sao, có điều tuy đang bị trọng thương, ánh mắt lại vẫn linh động sáng ngời, trông hết sức lanh lợi. Hắn ngờ vực ngước nhìn người thiếu nữ dung mạo xinh đẹp trước mặt, thật lâu sau mới yếu ớt hỏi: 

- Phải, tại hạ đã đỡ nhiều rồi, đa tạ ơn cứu mạng của cô nương. Nơi này... là đâu vậy?

Cao Văn Tâm cười tươi đáp: 

- Nơi này là Dương phủ ở kinh sư, công tử được lão gia... được đại nhân nhà ta cứu về. Công tử chớ vội ngồi dậy, thương thế trên người vẫn còn nghiêm trọng. Công tử tỉnh dậy thì tốt rồi, ta sẽ châm cứu cho công tử một phen trước, chỉ cần giữ cho thần chí tỉnh táo, vết thương này sẽ không chuyển xấu nữa.

Thư sinh thấy vị cô nương này đang mở bọc vải, rút cây ngân châm ra thì liền ngưng miệng. Lúc này sắc trời khá tối, dưới ánh đèn nến hắn thấy Văn Tâm tóc mây vấn cao, phong thái trang nhã, buột miệng hỏi: 

- Cô nương, kẻ hèn nhớ rằng mình thọ thương tại Diên Khánh, sao lại chớp mắt đã đến kinh thành rồi?

Cao Văn Tâm tay vê ngân châm, mắt liếc ngang sang, cười nhẹ đáp: 

- Thương thế của công tử tuy nặng, song cũng không đến nỗi hôn mê suốt cả chặng đường, đến nỗi mình được ai cứu giúp, đã đi đến nơi nào cũng đều không hay không biết chứ?

Thư sinh nọ vốn thấy nàng có dung nhan xinh đẹp, phong thái tao nhã bất phàm, tính vịn cớ chuyện trò thêm mấy câu, không ngờ người thiếu nữ này lại thông minh như vậy, lập tức nhìn thấu ý đồ của y. Bị ngầm châm chọc một vố, thư sinh không khỏi đỏ mặt, ngượng ngập không biết nói gì.

Cao Văn Tâm khẽ "hừm" một tiếng, xắn tay áo lên, nghiêm mặt lại bảo: 

- Có thể ngồi dậy không? Nếu như tỉnh rồi, lại còn có sức nói nhiều như vậy thì nằm dịch lên chút đi, bản cô nương châm cứu cho.

Cao Văn Tâm học được y thuật cao minh từ thuở nhỏ, vừa lớn đã được gán cho danh hiệu "Nữ thần y", trước giờ tâm cao khí ngạo, tầm mắt rất cao, lúc chẩn đoán chữa bệnh cho quan to khách quý cũng hiếm khi nở được nụ cười. Cũng chỉ có cái đêm kinh tâm động phách được Dương Lăng cứu ra khỏi bể khổ, bị y thấy tấm thân chỉ được che đậy bởi áo yếm, về sau lại có Hàn Ấu Nương ám thị cùng nàng ấy hầu hạ chung chồng, thì nàng mới đối xử với y thùy mị dịu dàng như nước.

Lúc này nhận ra sự ngưỡng mộ của thư sinh này, nàng đương nhiên không vui. Thư sinh nọ chống tay dịch lên một chút, dẫu sao thân thể mới vừa tỉnh lại vẫn còn yếu ớt. Thấy vậy Cao Văn Tâm thừa dịp hắn chống người lên liền kê gối bên dưới, rồi nói: 

- Được rồi, cứ nằm như vậy đi.

Thư sinh thở hổn hển mấy hơi, thấy Cao Văn Tâm đưa nến đến sát người, tóc mây hơi rối, nét mặt thanh lệ dịu dàng, bất giác buột miệng khen: 

- Vân kế kinh khinh vãn tựu, duyên hoa đạm đạm trang thành. Thanh yên tử vụ tráo khinh doanh, phi nhứ du ti vô..."(*) (tạm dịch: Tóc mây vấn khẽ cao cao, phấn son nhàn nhạt xuyến thêm sắc màu. Khói xanh sương tím bao quanh, bềnh bồng sợi tóc không...)

Còn chưa dứt lời, một tia sáng màu bạc chợt loé lên, một cây ngân châm đã đâm xuyên qua gò má y. Thư sinh chỉ cảm thấy dưới cằm cứng đơ, miệng không khép lại được nữa. Cao Văn Tâm nhíu cặp mày liễu, hừ lạnh mắng: 

- Buông lời cợt nhả, thực là đáng ghét!

Liền đó chợt nghe bên ngoài cửa có tiếng người vọng vào: 

- Văn Tâm, cô còn ở trong đó không vậy?

Cao Văn Tâm nghe được giọng của Dương Lăng liền mừng rỡ đứng dậy, làm mặt uy hiếp với thư sinh nọ, rồi lật đật xoay người ra đón.

Thư sinh nọ có thể đả thương yêu đạo Lý Phúc Đạt, hiển nhiên có một thân võ nghệ vô cùng phi phàm, một cây ngân châm nho nhỏ đương nhiên không thể chế ngự được hắn, nhưng hắn lại thấy vẻ giận dỗi của Cao Văn Tâm có một ý vị đặc biệt, tâm tình nhất thời xao động, không dám rút cây ngân châm ra để tránh chọc giận giai nhân.

Cao Văn Tâm đón Dương Lăng và Hàn Ấu Nương vào phòng. Dương Lăng nghe nói người nọ đã tỉnh, liền mừng rỡ đi đến trước giường thăm hỏi: 

- Huynh đài tỉnh rồi à? Cảm thấy thế nào?

Thư sinh nọ há miệng ú ớ mấy tiếng, hết nhìn Dương Lăng rồi lại ngó sang Cao Văn Tâm, vừa định đưa tay rút cây ngân châm ra, trông thấy Cao Văn Tâm trừng cặp mắt bồ câu lên, liền vội rụt tay lại. Cao Văn Tâm vờ cười trả lời thay: 

- Công tử mới vừa được châm cứu, hiện tại vẫn chưa thể cử động.

Thư sinh nghe vậy thì khổ sở gật đầu, Dương Lăng nghi ngờ hỏi: 

- Ngực bị thương mà cần phải châm cứu mặt à, y thuật Cao gia quả nhiên thần diệu vô cùng.

Hàn Ấu Nương dịch chiếc ghế ra một chút, nói: 

- Tướng công gấp làm gì, nếu như vị tráng sĩ này đã tỉnh rồi, đợi thêm một chút rồi trò chuyện cũng đâu muộn. Tỷ tỷ à, thương thế của tráng sĩ có nghiêm trọng không?

Thư sinh nọ nghe tiểu cô nương thanh tú này gọi vị công tử anh tuấn hiên ngang ở trước mặt mình là tướng công, lại gọi người con gái mỹ mạo mà hắn ngưỡng mộ là tỷ tỷ, thì không khỏi giật thót trong lòng. Hắn biết giữa thê thiếp các hộ gia đình giàu có thường gọi nhau là tỷ muội, chẳng lẽ giai nhân đã có nơi gắm gửi rồi?

Nãy giờ hắn vẫn há miệng, nước miếng đã sắp chảy cả ra ngoài, nếu như mỹ nữ đã có chồng, vậy hắn cũng không cần phải lấy lòng chi cho mất mặt nữa. Thư sinh rút cây ngân châm ra khỏi mặt, vặn vẹo miệng mấy cái rồi gượng cười nói: 

- Đa tạ ơn cứu mạng của công tử và phu nhân, kẻ hèn thực cảm kích không hết.

Dương Lăng thấy vị thư sinh này da ngăm đen, mặc dù dung nhan tiều tuỵ, nhưng mặt mày sáng sủa vô cùng, nhìn trông rất vừa mắt, bèn cản vai hắn bảo: 

- Cứ nằm đi. Huynh đài là người phương nào, họ tên là gì, nghe nói... là một đạo sĩ đã đả thương huynh đài?

Thư sinh thuận thế nằm xuống, mắt thấy công tử trẻ tuổi này dung mạo còn tuấn tú hơn mình mấy phần, khí độ cũng rất bất phàm, hai giai nhân đó hẳn là hiền thê mỹ thiếp của người ta, bèn tự hơi cảm thấy hổ thẹn khi nãy đã buông lời khinh xuất. Hắn mỉm cười đáp: 

- Dạ, kẻ hèn là người Tùng Tư, Hồ Bắc, họ Ngũ tên Hán Siêu, thuở nhỏ học nghệ trên Võ Đang. Ngày đó thấy một yêu đạo đang mê hoặc hương dân, nên muốn bắt gã giao cho quan phủ truy xét, tiếc là bản lĩnh không bằng người...

Rồi hắn khẽ lắc đầu cười, nói tiếp: 

- Công tử không cần phải nghi ngờ, gia phụ vừa mới nhậm chức Đồng tri ở phủ Thành Đô, tên húy là Văn Tự. Kẻ hèn cũng là gia đình quan lại, không phải là phường lưu manh trộm cướp đâu.

Dương Lăng nghĩ ngợi một chút rồi nói: 

- Ngũ Văn Định à? Ồ... nhớ rồi nhớ rồi, ha ha, hoá ra là công tử của Ngũ Văn Định. Ta quả có nghe qua danh hiệu của lệnh tôn đại nhân.

Ngũ Văn Định nguyên là quan tiến cử ở Thường Châu, mấy ngày trước Nguỵ Quốc công Từ Phủ tranh chấp ruộng đất với dân, kiện cáo lên đến tận trên châu. Ngũ Văn Định phán giao mảnh ruộng đó cho bá tánh bình dân nọ khiến cho Ngụy Quốc công nổi giận đùng đùng, cậy vào quan hệ mà chuyển vụ án vào kinh thành, hòng nghiêm trị Ngũ Văn Định. May thay lúc đó Hàn Uy đang ở bộ Hình, khi tới thăm vợ chồng Dương Lăng buột miệng nhắc đến chuyện này, cho nên Dương Lăng đã bảo Tiêu Phương chiếu cố một chút. Do đó chẳng những ông ta không bị trừng phạt mà còn được thăng chức lên làm Đồng tri ở phủ Thành Đô. Dương Lăng không ngờ kẻ mình cứu lại là con trai ông ta.

Ngũ Hán Siêu nghe y gọi thẳng tên húy cha mình không hề kiêng kị, thì tỏ vẻ không vui. Thấy vậy, Cao Văn Tâm liền nói: 

- Đại nhân nhà ta là thống lĩnh ngự tiền thân quân, tổng đốc Nội xưởng Dương đại nhân, không biết Ngũ công tử có từng nghe nói tới chưa?

Ngũ Hán Siêu vừa nghe lập tức cả kinh. Tiêu Phương giỏi về lung lạc lòng người, lại biết thế lực Dương Lăng, cũng là chỗ dựa của lão, vẫn còn rất yếu, cho nên lúc giúp đỡ cho Ngũ Văn Định đã âm thầm tiết lộ cho ông ta biết rằng do Dương Lăng hỏi đến nên Ngụy Quốc công mới không thể hãm hại ông ấy.

Sau khi Ngũ Hán Siêu học nghệ thành tài xuống núi du lịch bốn bể đã từng gặp cha, đương nhiên biết được mấu chốt trong đó. Hắn càng biết rằng quyền thế Dương Lăng như mặt trời chính ngọ, đừng nói là gọi thẳng tên húy của phụ thân hắn mà cho dù vị Đồng tri đại nhân đó có đứng trước mặt y cũng sẽ phải khom gối quỳ vái ra mắt thượng quan.

Ngũ Hán Siêu là con cháu quan lại, vừa nghe đây là quan lớn trong triều, vẻ tự nhiên tiêu sái lập tức biến mất hoàn toàn, lúng túng nói: 

- Thì ra... thì ra là Dương đại nhân. Nghe uy danh đại nhân đã lâu, thảo dân mang thương thế trên người, không thể làm tròn lễ...

Dương Lăng ngắt lời: 

- Chậc, ta và huynh đài xưng hô huynh đệ không phải là tốt hơn sao? Hà tất dùng những lễ nghi rườm rà chốn quan trường đó? Huynh đài trên người còn mang thương thế, đừng nói chuyện nhiều. Văn Tâm, mau giúp Hán Siêu huynh trị thương đi.

Cao Văn Tâm dạ một tiếng, đi đến thu lại cây ngân châm trong tay Ngũ Hán Siêu, rồi lại rút ra một cây khác, nhắm ngay huyệt đạo dưới cần cổ mà vê nhẹ xuống. Người ngọc ở ngay trước mắt, mùi thơm nhàn nhạt lan toả khắp người, làn da trơn nhẵn như ngọc ửng lên vầng sáng dịu dàng dưới ánh nến, Ngũ Hán Siêu lại không dám có tơ tưởng gì, đành phải nín thở thu mắt lại, im lặng cho nàng chữa trị.

*****

Chú cháu Dương Tuyền đến Dương phủ đã được năm ngày, vào ngày thứ hai Dương Lăng và thê thiếp đã mở tiệc thết đãi cặp chú cháu trong tộc này. Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đều là tuyệt sắc giai nhân, lại mặc lụa hoa tơ gấm, đeo vòng châu lắc ngọc, thực ngỡ như tiên nữ giáng trần.

Mặc dù Dương Tuyền không còn dám có bất kỳ ý nghĩ không yên phận gì với gia quyến của vị đường đệ này, song vẫn ngây mắt nhìn. May mà theo lễ nghi, những vị nội quyến này chỉ ra mắt một lần liền quay trở lại nội viện, cho nên Dương Tuyền mặc dù hâm mộ cũng chỉ đành ”ngắm trăng dưới giếng” mà thôi.

Mấy ngày qua khí trời trong lành ấm áp, tuyết đã ngừng rơi, Dương Lăng cũng thầm kêu may mắn không thôi. Nếu trời lại đổ thêm trận tuyết lớn nữa, dân chạy nạn quanh thành sẽ khó mà sống nổi.

Được sự gợi ý của Thành Khởi Vận, y biết rằng để khiến những phú hộ giàu có phát chẩn cứu tế thực ra không khó. Lương thực hao phí mỗi ngày không đến trăm lạng bạc, đối với những phú hộ giàu có đó mà nói thật sự như muối bỏ bể, chỉ cần dùng danh tiếng dụ bọn họ thì không lo bọn họ sẽ không góp tay.

Dương Lăng bèn đi gặp Lý Đông Dương, lại đích thân tới thăm Chu Cương và Trương Hạc Linh. Có hai nhà này làm gương phát chẩn cứu tế, có Lý Đông Dương đích thân viết tên lên bia công đức đặt ở Hộ Quốc tự trong kinh sư, lập tức thân hào quý tộc kinh sư ùn ùn hưởng ứng, dân góp người, quan góp sức, lều lán cứu tế được dựng lên khắp kinh thành. Những lao động khoẻ mạnh cũng được cho vào thành tìm việc; bọn họ lấy tiền công thấp, lại chịu được vất vả, thế là bỗng chốc cả làng đều vui.

Lúc này, Dương Lăng vừa mới chạy vào trong cung, lòng ngổn ngang trăm mối. Mấy ngày qua khắp triều đình liên tục nhận được tình báo đại quân giành lại được đất bị cướp, đuổi đánh giặc Thát, thế là cả triều phấn khởi.

Nhưng theo tin hỏa tốc truyền về từ Nội xưởng, thì mấy trận đầu quân Minh cậy vào nhuệ khí quả thực đã chiến thắng, chém rơi nghìn đầu giặc, thu được mấy nghìn thớt ngựa và lạc đà, đồng thời cướp lại được số lớn của cải và người dân bị bắt đi.

Thế nhưng không biết Miêu Quỳ có phải bị thắng lợi làm mê muội đầu óc hay không mà lòng tham công nổi lên, thấy quân địch rút lui liền dốc toàn lực truy kích. Kỵ binh quân Minh có hạn, lực chiến đấu và tính cơ động không đủ, lại phải chia binh đuổi theo giặc Thát chia làm ba lộ rút lui. Kết quả bị Bá Nhan Khả Hãn điều khiển đại quân vây đội quân tiên phong đang đơn độc thâm nhập lại thành như bánh kẹp, ba nghìn quân tinh nhuệ mất sạch vào tay giặc. Nay địch quân thừa dịp quân Minh phân tán chưa kịp tập hợp, đã bắt đầu tập kết trọng binh phản công Đại Đồng.

Dương Lăng suy tính trước sau, đã quyết định đề bạt Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân đến biên cương lĩnh soái. Nhưng hai người này một người nhàn rỗi ở nhà, một người đang ăn cơm tù, đều là những người từng đắc tội với Lưu Cẩn, tiến cử tuỳ tiện nhất định sẽ dẫn đến khúc mắc với Lưu Cẩn. Dương Lăng lo nghĩ rất lâu mới quyết định thuyết phục Lưu Cẩn trước, rồi mới đi gặp Chính Đức. Y đã chuẩn bị sẵn câu từ, nào ngờ khi gặp Lưu Cẩn, vừa mới nói rõ ý định thì chỉ thoáng trầm ngâm lão liền đã vui vẻ đồng ý luôn, khiến Dương Lăng rất bất ngờ. Tuy nhiên chiến sự biên giới quá khẩn cấp, y cũng chẳng để tâm nghĩ ngợi nhiều, vội vàng lôi Lưu Cẩn đi gặp Chính Đức.

Mã Vĩnh Thành dẫn hai người bọn họ chạy đến Ngự Hoa viên, thấy Chính Đức đang được mấy cung nữ thái giám hầu hạ chơi đánh quay trên mặt băng, trên con quay gắn thêm cái còi, phát ra tiếng kêu "tu tu".

Chính Đức mặc bộ áo ống bó màu đỏ sẫm, bên ngoài khoác áo lông cừu cộc tay màu thạch anh, đang chơi rất hăng say. Trông thấy Dương Lăng đến, hắn liền chỉ tay vào một cô nương mặc áo da chồn viền tím bên cạnh cười giục: 

- Đánh mau lên, đánh mau lên, nếu con quay bị ngã, trẫm sẽ phạt nàng đó.

Chính Đức vừa quay đầu lại nói một cách luyến tiếc, vừa đi đến bên cái hồ cảnh đỡ Dương Lăng đang định sụp lạy dậy, cười nói: 

- Miễn lễ miễn lễ, Dương khanh có biết chơi trò đánh quay này không? Trẫm và Giải Ngữ cùng Tu Hoa mới vừa học được đấy, chơi vui lắm.

Dương Lăng lắc đầu cười đáp: 

- Trò này vi thần không biết, nhưng mà lúc nhỏ thần từng chơi trượt băng, phải sử dụng cả hai chân, nếu không thì sẽ ngã ngay.

Ánh mắt Chính Đức sáng rỡ, thích thú hỏi ngay: 

- Chơi như thế nào? Mau chỉ cho trẫm đi!

Dương Lăng ho khan một tiếng rồi nói: 

- Hoàng thượng, hay là bỏ qua trò đó đi, hai chân chơi xong đứng dậy không nổi đó. Một chân thì trượt rất nhanh, nhưng sẽ khiến cho ngài ngã đến mặt mũi bầm dập, lúc đó hoàng thái hậu còn không lấy đầu của thần ư?

Chính Đức đang vò đầu bứt tai thực sự nghĩ không ra cái gì mà chốc thì hai chân chốc thì lại một chân, đang định hỏi rõ thêm thì Dương Lăng đã giành kể ngắn gọn tình hình chiến sự mới nhất ngoài biên tái một lượt. Chính Đức vừa nghe liền cả giận, quát lớn: 

- Láo toét!

Mã Vĩnh Thành hoảng sợ quỳ mọp xuống đất, mấy người trên mặt tuyết nghe hắn quát cũng không dám tụ tập chơi đùa nữa, đứng ở xa không dám lại gần. Chỉ có hai cô nương một cao một thấp, khoác áo và đội mũ lông chồn nâu, mắt sáng răng ngà bước đến, người con gái thấp hơn tươi cười nói: 

- Hoàng huynh, đừng có như pháo hễ động vào là nổ bùng lên như thế chứ. Dương đại nhân lại trêu chọc gì huynh rồi à?

Dương Lăng mỉm cười, thấy người thiếu nữ tươi cười như hoa đó là công chúa Vĩnh Thuần, còn vị cô nương dong dỏng như ngọc đẹp, áo đen da trắng rạng ngời đứng bên cạnh chính là Vĩnh Phúc, thì liền vội khom người hành lễ: 

- Ra mắt trưởng công chúa và Vĩnh Thuần công chúa điện hạ!

Chính Đức đỏ mặt quát lên: 

- Trước lúc bọn chúng đi trẫm đã ba lần bảy lượt căn dặn bọn chúng không được chia quân, không được tiến bừa, vậy mà bọn chúng lại coi lời của trẫm như gió thoảng bên tai. Mã Vĩnh Thành, lập tức truyền ý chỉ của trẫm, bắt ba cái tên ngu xuẩn đó về kinh trị tội!

Công chúa Vĩnh Thuần thấy ông anh mình thật sự đang nổi trận lôi đình, thế là tinh nghịch le lưỡi không nói nữa. Công chúa Vĩnh Phúc liếc nhanh Dương Lăng một cái, thấy y khoác áo khoác da chồn màu đen viền vàng, anh tuấn trang nghiêm, khí chất càng trưởng thành chững trạc, khuôn mặt không khỏi hơi ửng lên, vội khẽ giọng nói: 

-Dương đại nhân hãy mau đứng dậy, không cần câu nệ.

Chính Đức hậm hực vất chiếc roi sang một bên. Chiếc roi đó được làm từ san hô, trên chuôi quấn tơ vàng, núm chuôi còn cẩn bảo thạch. Mã Vĩnh Thành vội cuống quít bò tới nhặt lại từ trong đống tuyết rồi dùng tay áo lau phủi tuyết đi như thể nó là bảo bối của mình vậy.

Chính Đức cũng chả thèm nhìn, đỡ Dương Lăng đứng dậy rồi nói: 

- Đi, theo trẫm về cung Càn Thanh, chúng ta bàn bạc kỹ lưỡng một phen.

Lưu Cẩn và Mã Vĩnh Thành mau lẹ bước theo sau. Công chúa Vĩnh Phúc chậm rãi bước đến dưới hành lang bên hồ, ống tay áo lợp nhung đen mượt đặt trên thành lan can chạm trổ, đưa mắt nhìn theo hướng mấy người rời đi, gương mặt thanh nhã trắng ngần chất chứa một nỗi cô đơn.

Trở về tới gác Tây Noãn, vừa đặt mông xuống ghế, Chính Đức liền nói: 

- Đại Đồng đông nối liền Thượng Cốc, nam thông với Tịnh Hằng, tây tiếp giáp Hoàng Hà, bắc đổ ra sa mạc, cả ba mặt đều giáp biên giới, thực sự là bức thành che chở kinh sư của trẫm, nếu bị mấy vạn đại quân giặc Thát đánh sâu vào nội địa Trung Nguyên, vậy hậu quả thực sẽ khó lường. Ba tên... ba tên..., Dương khanh, khanh thấy trẫm có cần phải phái thêm đại quân không?

Dương Lăng liền thưa: 

- Hoàng thượng, Miêu Quỳ cũng xem như đã cẩn thận, quân phòng thủ tập kết ở Đại Đồng được bốn vạn. Không có quân số đông gấp mấy lần và vũ khí công thành lợi hại thì giặc Thát có muốn đánh chiếm tòa thành lũy sâu tường vững này cũng sẽ không hề dễ dàng. Hơn nữa binh mã các lộ tiến công cũng đang gấp rút quay về chi viện, Đại Đồng hẳn sẽ không thất thủ đâu.

Chính Đức tuy ham chơi, song cũng biết coi trọng chuyện dùng binh, nghe vậy mới cảm thấy yên tâm hơn. Dương Lăng lại nói: 

-Điều mà thần lo lắng là giặc Thát công thì ta ắt cứu, đại quân bị bọn chúng kiềm chế và dắt mũi, tất cả mọi bố trí ban đầu đều bị xáo trộn, sẽ khó mà vãn hồi được thế cuộc suy tàn.

Chính Đức vỗ mạnh bàn một cái, đột nhiên hưng phấn đứng dậy nói: 

- Để trẫm thân chinh, Dương khanh làm tiên phong, chúng ta đánh thắng một trận thật hoành tráng cho kẻ khác thấy.

Mã Vĩnh Thành định mở miệng nói, Dương Lăng đã vội cướp lời: 

- Hoàng thượng, đạo dùng binh không đơn giản như vậy đâu. Thần đang nghĩ rằng, quân đoàn tinh nhuệ của Đại Minh là kinh quân, nhưng sức chiến đấu của kinh quân lại không bằng biên quân vốn chỉ có trang bị và khí giới sơ sài, nguyên do chính là vì thiếu tập luyện.

Sau khi chiến sự kết thúc, hoàng thượng có thể điều kinh quân đến biên tái, dùng bọn giặc Thát hung hãn làm thầy giáo tốt nhất, các bộ luân phiên canh giữ biên cương và luyện binh, đồng thời điều biên quân về kinh thành, do thần và hoàng thượng mỗi người tự lĩnh quân tác chiến, học hỏi bản lĩnh thống binh lĩnh soái từ những đội quân có kinh nghiệm thực chiến phong phú này. Đến khi ấy, quân đội Đại Minh ai ai cũng đều có kinh nghiệm trận mạc phong phú, quân có thể chiến đấu, quan có thể làm tướng, lúc đó hoàng thượng lại đích thân lĩnh binh tiến ra biên giới, diễn lại oai phong thời hai vua Hồng Vũ và Vĩnh Nhạc. Hoàng thượng thấy thế nào ạ?

Chính Đức nghe vậy sướng rơn, hỏi dồn: 

-Hay lắm, rất hay, vậy theo khanh thấy thì hiện tại trẫm nên làm thế nào?

Dương Lăng liếc mắt sang Lưu Cẩn, Lưu Cẩn vội cười siểm đỡ lời: 

- Chiến sự tiền phương bất lợi, không phải là vì quân ít tướng hèn, mà vì không có tướng tài thống lĩnh. Nô tài đã kiểm tra Dương Nhất Thanh mà Lý đại học sĩ tiến cử, nghe nói người này rất am hiểu binh pháp, hiểu rõ biên cương, thiện dã chiến, có thể làm chủ soái Đại Đồng.

Chính Đức gật đầu nói: 

- Chuẩn cho, Dương Nhất Thanh này hiện đang ở chỗ nào?

Dương Lăng mỉm cười đáp: 

- Mấy ngày trước gã không biết thức thời, dâng sớ nói giúp cho Lưu Kiện và Tạ Thiên, hiện bị bãi chức đang ở nhà nhàn rỗi. Bất quá một khi hoàng thượng hạ thánh chỉ, gã nhất định sẽ vui mừng tòng mệnh. Ngoài ra thần còn xin tiến cử thêm một người, là con của thượng thư Vương Hoa của bộ Lễ tên là Vương Thủ Nhân, chính là chủ sự bộ Binh người đã trình lên hoàng thượng phương pháp khắc chế đao sắc của người Oa. Người này không câu chấp mưu lược trận địa, thích tùy cơ ứng biến, rất hợp với tình thế chiến trường có thể thay đổi trong nháy mắt, có thể đề bạt hắn trợ giúp cho Dương Nhất Thanh.

Lưu Cẩn thấp thỏm lo lắng, sợ Chính Đức lại hỏi một câu "người này hiện đang ở chỗ nào", may mà khi Chính Đức nghe nói chủ sự bộ Binh thì tưởng rằng gã vẫn còn đương nhiệm, nên cũng không hỏi nhiều.

Dương Lăng lại thưa: 

- Hoàng thượng, Dương Nhất Thanh vì phạm tội nên bị bãi chức. Lần này hoàng thượng trọng dụng lại gã, gã nhất định sẽ mang ơn đội nghĩa. Nhưng thân gã đang mang tội, nếu lại phái giám quân, Dương Nhất Thanh ắt sẽ nhụt tâm thoái chí, còn phải chịu cản trở, không thể thi triển hết sở trường.

Tục ngữ có câu 'nghi ngờ thì không nên dùng người, đã dùng người thì chớ nghi ngờ', hoàng thượng có thể ra lệnh gã toàn quyền phụ trách chiến sự, tiết chế tam quan, làm tam trấn tổng binh huyện Thiên Quan, tỉnh Thái Nguyên. Nếu có thể lập chiến công, đánh bại giặc Thát, thì thăng lên làm Tam biên tổng chế. Cùng lúc sử dụng ơn huệ và an ủi, Dương Nhất Thanh tất sẽ toàn lực làm việc, dốc sức phục vụ!

Lưu Cẩn vừa nghe lập được chiến công thì sẽ thăng Dương Nhất Thanh lên làm Tam biên tổng chế giống như Vương Việt năm xưa, nắm giữ mười vạn đại quân, trong lòng liền cảm thấy không ổn. Vừa định khuyên can, Chính Đức đã nói: 

- Được, nghi ngờ thì không nên dùng người, đã dùng người thì không nên nghi ngờ, chỉ cần gã giải quyết được nỗi ấm ức này cho trẫm, trẫm sẽ phong hắn làm Tam biên tổng chế.

Nói đoạn Chính Đức chấp bút đích thân viết một tờ thánh chỉ, bảo Mã Vĩnh Thành triệu Thượng Bảo giám đóng ấn, rồi lệnh cho lão ta lập tức đi truyền chỉ. Lưu Cẩn nhớ ra mình vẫn còn một chiêu ám kế, thế là cũng không nói thêm gì.

Đến khi hai người rời khỏi cung Càn Thanh, Lưu Cẩn mới oán trách: 

- Dương đại nhân, cái tên Dương Nhất Thanh đó và chúng ta không chung thuyền, ngộ nhỡ để gã lập được đại công, nắm giữ trọng binh, há chẳng sẽ mang phiền phức đến cho chúng ta sao?

Dương Lăng cười đáp: 

- Ngài sợ gì chứ? Năm xưa Vương Việt cũng là Tam biên tổng chế, vậy mà chẳng phải một tờ thánh chỉ nói bắt vào kinh liền bắt vào kinh đó sao. Công công là nội tướng của Đại Minh, nắm giữ một nửa triều đình, tục ngữ thường nói 'bụng tể tướng có thể chèo thuyền'(6), gã dâng sớ cầu xin cho Lưu Kiện và Tạ Thiên, chứng tỏ người này cũng trọng tình trọng nghĩa, công công hà tất quá so đo?

Sắc mặt Lưu Cẩn lập tức trở nên hết sức hoà hoãn, lão ta mỉm cười dè dặt nói: 

- Nói chí phải, khà khà, đến khi đó ta lại động tay chân vào quân giới khiến hắn không hoàn thành đại sự là được.

Dương Lăng giật mình thất kinh, vội ngăn: 

- Vạn lần không thể!

- Hử?

Lưu Cẩn nghi hoặc nhìn y, hỏi: 

-Chẳng lẽ Dương đại nhân không phải vì muốn tìm một kẻ chết thay đỡ tội cho Miêu Quỳ nên mới đẩy hai cái tên chướng mắt này ra chiến trường sao? Cớ sao lại bảo vệ bọn chúng như vậy?

Dương Lăng định thần lại một chút rồi mới nói: 

- Ờ... thì đúng là như vậy. Miêu Quỳ và chúng ta là ngựa chung một tàu, gặp họa thì cùng chịu mà gặp phước thì cùng hưởng, nếu để lão ta thua đến không thể vãn hồi mới triệu về kinh, công công và ta nhất định sẽ bị ngoại quan hặc tội. Nhưng công công chớ quên, hiện tại Dương Nhất Thanh không phải là do Lý đại học sĩ đề cử, mà là chính miệng công công tiến cử, cái tên Vương Thủ Nhân nọ cũng là do bản quan tiến cử.

Nếu như hai người bọn họ lập được chiến công thì chúng ta sẽ được xem là biết nhìn người, biết dùng người, nước lên thì thuyền lên, uy danh chói lọi. Nhược bằng bọn họ thất bại, đừng thấy bọn họ cùng một hệ với Lý Đông Dương mà lầm, đám người ngoại đình ắt sẽ đổ món nợ ấy lên đầu chúng ta. Công công mới nhậm chức nội tướng, nếu dưới sự chủ trì của công công, quân ta đánh bại bọn giặc Thát hung tợn thiện chiến, ai sẽ dám không thừa nhận tài phò chính của công công? Công lao bọn họ có lớn dường nào, phần công lao lớn nhất còn không phải là của công công à?

Lưu Cẩn vỗ trán nói: 

-Phải rồi, Dương đại nhân nói chí lí, xem ra phần cung ứng quân nhu này ta không thể qua loa được. Hừ! Có điều không ngờ hai cái tên không biết thức thời đó đối đầu với ta, nay lại phải chia cho bọn chúng một phần công to, thực là béo bở cho bọn chúng quá.

Lưu Cẩn nói với giọng không phục, trong lòng cũng đã âm thầm tính toán. Bản thân lão là kẻ tham ô, song lại không muốn thấy người khác tham ô, lão thích sử dụng thân nhân làm thân tín, song ghét nhất là kẻ khác dựa dẫm bám víu vào quan hệ. Hơn nữa lão tuy là thái giám song lại không hề tín nhiệm thái giám, cho nên vẫn luôn muốn trọng dụng một số người phe ngoại đình, phát triển thế lực của bản thân. Hiện tại nếu đã không thể lật đổ Dương Nhất Thanh, lão liền âm thầm tính toán làm sao để có thể chiêu nạp cho mình dùng.

Thấy đã thuyết phục được Lưu Cẩn, lúc này Dương Lăng mới thầm thở phào nhẹ nhõm. Đại quân đang chiến đấu ở bên ngoài, nếu như trong triều có người tay nắm quyền lớn như vậy mà ngấm ngầm ngáng chân, thì cho dù là Nhạc Vũ Mục(7) tái thế cũng đừng hòng thắng giặc.

*****

Trong Dương phủ, Hàn Ấu Nương, Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai và Cao Văn Tâm tiễn Âu Dương phu nhân ra về, bọn họ nói cười vui vẻ, hợp ý vô cùng.

Vị phu nhân của Nghiêm Tung còn lớn hơn tướng công thị một tuổi, nhưng tri thư đạt lễ, nết na hiền lành. Nàng giống như Ấu Nương, cũng bầu bạn cùng tướng công mình từ thuở cơ hàn, cho nên rất được Nghiêm Tung kính trọng.

Bà ta thường hay đến nhà trò chuyện cùng đám người Hàn Ấu Nương việc vặt trong nhà, một mặt là do tướng công vốn không có thế lực chống lưng, hắn đã ngầm tỏ ý muốn bà ta kết giao với một đám nhân vật quyền thế nhằm có thể đứng vững trong kinh sư, đồng thời đích thực cũng bởi bà ta và mấy người Hàn Ấu Nương rất tâm đầu ý hợp.

Bà ta cùng trượng phu mình thành thân đã lâu, nay đã hai mươi sáu tuổi song lại vẫn chưa có mụn con. Hiện tại tướng công đã có quan tước, điều kiện gia cảnh cũng rất tốt, bà ta cũng từng nảy ra ý định muốn nạp thiếp lấy vợ bé cho trượng phu, song lại bị Nghiêm Tung nghiêm khắc cự tuyệt. Việc này càng khiến cho Âu Dương phu nhân cảm thấy hổ thẹn không thôi.

Hôm nay đến Dương phủ viếng thăm, nghe tin vui Hàn Ấu Nương đã mang thai, Âu Dương thị rất đỗi hâm mộ. Cao Văn Tâm nghe bà ta kể tâm sự bèn bắt mạch giúp cho, rồi ghi một đơn thuốc, bảo cầm về uống thử. Vốn đã từng nghe đại danh của nữ thần y, thế là bà ta bèn cất kỹ đơn thuốc vào người như thể là báu vật, hận không thể lập tức lắp hai cánh bay đến tiệm thuốc ngay.

Nhìn thấy điệu bộ hồn vía trên mây của bà, Hàn Ấu Nương bèn cùng mấy tỷ muội đưa tiễn về. Lúc này Ngũ Hán Siêu đang luyện kiếm trước tiền đình. Hắn vẫn chưa khỏi hẳn thương thế, nhưng người từng tu luyện nội công thượng thừa lấy điều hoà hơi thở bên trong làm phụ trợ, khiến tốc độ hồi phục mau chóng vô cùng.

Hàn Ấu Nương cùng Âu Dương phu nhân đi ở phía trước, vừa mới rẽ từ hành lang hông qua, trông thấy vị công tử của Ngũ đồng tri hất, đâm, quét, chém; kiếm pháp sử dụng kình lực liên miên, cương nhu có cả, kiếm thế uyển chuyển mà hùng hồn. Nàng tuy không biết kiếm pháp nội gia song lại hiểu được lợi hại trong đó, nhịn không được kinh ngạc thốt lên: 

- Công phu thật giỏi!

Ngũ Hán Siêu nghe tiếng bèn thu kiếm, trông thấy rõ Dương phu nhân và mấy vị nội quyến, mắt liền hướng thẳng, chắp tay thi lễ chào: 

- Kẻ hèn ra mắt phu nhân.

Đám người Hàn Ấu Nương vòng từ hành lang bên hông đi ra, Hàn Ấu Nương cười khẽ nói: 

- Ngũ công tử bị thương nặng như vậy, không ngờ đã chóng khỏi rồi.

Ngũ Hán Siêu cười đáp: 

- Đó đều nhờ... Cao cô nương diệu thủ hồi xuân. Còn phải cảm tạ đại nhân và phu nhân đã quan tâm chu đáo cho kẻ hèn này.

Vừa nói ánh mắt vừa không kiềm được liếc sang Cao Văn Tâm. Ngày đó hắn nghe Cao Văn Tâm gọi Dương Lăng là 'đại nhân nhà ta', khẩu khí lại không giống như thiếp thất của Dương Lăng, con tim liền hoạt bát trở lại. Bóng hình xinh đẹp lung linh dưới ánh nến và khí chất cao quý của Cao cô nương trong khoảnh khắc vừa tỉnh dậy đã in sâu vào trong lòng hắn; vị thanh niên học nghệ trên núi mười năm này đã động lòng ái mộ.

Hắn nghĩ phụ thân mình tốt xấu gì cũng là châu đồng tri tòng ngũ phẩm, mình lại văn võ song toàn, nhất biểu anh tài, nếu Cao Văn Tâm chỉ là tì nữ Dương phủ, bất luận thế nào mình cũng xứng đôi với nàng ấy. Nhưng bản thân hắn không tiện dò hỏi gia bộc Dương phủ về cô nương nhà người ta. Từ sau ngày đó mỗi lần Cao Văn Tâm đến xem bệnh cho hắn đều luôn kéo theo Cao lão quản gia kè kè bên người, hại hắn đến giờ vẫn như ngắm hoa trong sương mù, tra không ra được thân phận thật của cô nương này. Hiện tại thấy nàng đi chung cùng hai vị thiếu nữ kiều mị cùng búi kiểu tóc phụ nữ đã có gia đình, dáng vẻ không giống như là một thị nữ, trong lòng cảm thấy kế hoạch thất bại rồi.

Khi nãy Hàn Ấu Nương thấy công phu của hắn, biết đó là võ nghệ vô cùng cao siêu, còn võ công của mình là đi theo con đường ngoại gia bá đạo. Tướng công cứ nói điều này đã lâu mà vẫn chưa được học, võ công của người này lại thích hợp để tướng công học tập. Tuy tướng công đã quá tuổi thích hợp để luyện võ, nhưng dùng để cường thân kiện thể vẫn tốt, hơn nữa người này văn võ song toàn, gia thế thanh bạch, nếu có thể giữ lại để phò tá tướng công cũng vẫn có thể xem là một nhân tài.

Hàn Ấu Nương mang trong lòng phần tâm tư này, cho nên đối đãi với hắn càng thêm khách khí, dừng lại chuyện trò vài câu, rồi mới kéo tay Âu Dương phu nhân ra cổng. Cao Văn Tâm cũng nheo mắt liếc hắn một cái, rồi cũng đi theo sau Hàn Ấu Nương ra ngoài.

Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai vừa trò chuyện vừa lặng lẽ đi theo phía sau, một cơn lốc cuộn tới, Ngọc Đường Xuân không chú ý, chiếc khăn hoa quàng cổ đã bị ngọn gió cuốn phăng treo trên ngọn cây cao.

Chiếc khăn quàng cổ này là của Dương Lăng đích thân tặng cho nàng lúc từ Giang Nam trở về, Ngọc Đường Xuân nào nỡ vứt bỏ, liền vội chạy đến bên gốc cây, ngước nhìn ngọn cây cao đến mấy trượng, giậm chân kêu: 

- Tuyết Nhi, mau đi tìm người mang thang đến đi.

Ngũ Hán Siêu ngửa đầu nhìn thân cây, nói: 

- Thang cũng không bắt tới ngọn đâu, xin phu nhân hãy tránh sang bên, kẻ hèn sẽ giúp người lấy xuống.

Ngọc Đường Xuân nhấc váy lùi lại vài bước, đứng cùng Tuyết Lý Mai kinh ngạc nhìn hắn. Ngũ Hán Siêu hít sâu một hơi, găm kiếm vào trong tuyết, nhẹ nhàng búng người tới trước vài bước rồi phóng người nhảy lên trượng hai trượng ba, một chân điểm nhẹ chính xác lên một cành cây, khóm tuyết rơi lả tả, hắn mượn thế lại phóng lên thêm hơn trượng, liên tục hai lần, vươn một tay với lấy chiếc khăn, rồi vặn lưng trên không trung, nhẹ nhàng sà xuống như một con diều hâu.

Nội thương của hắn chưa khỏi hẳn, chỗ bị thương trên ngực cũng chưa lành, cú nhảy này không dám dốc toàn lực, lúc tiếp đất mặt hơi ửng đỏ. Hắn ho khẽ vài tiếng rồi mới đưa khăn qua, nói: 

- Phu nhân, khăn của người đây.

Ngọc Đường Xuân cầm lấy khăn, thán phục: 

- Thật lợi hại, con người có thể nhảy cao như vậy sao?

Ngũ Hán Siêu mỉm cười đáp: 

- Chỉ là chút tài mọn, khiến phu nhân chê cười rồi. Dương đại nhân là tổng đốc nội xưởng, dưới tay tàng long ngoạ hổ, cao thủ như mây, những kẻ tài giỏi hơn xa tại hạ nhất định đều tề tụ dưới trướng.

Tuyết Lý Mai quả không biết dưới trướng phu quân có những người nào, nhưng dẫu sao trước mặt người ngoài quyết không thể lộ dốt cho tướng công được, thế là nàng cười khẽ một tiếng, tinh nghịch nói: 

- Xem như ngươi thức thời, dưới trướng lão gia chúng ta quả thực cao thủ như mây, lúc bắt phản loạn Đông xưởng, năm nghìn đấu với tám nghìn mà chỉ bị thương chưa tới bốn chục.

Ngũ Hán Siêu thấy vị tiểu phu nhân này hãy còn ấu trĩ, dễ đối phó hơn vị đứng cạnh bên, bèn thừa cơ dò hỏi: 

- Tại hạ tạm trú ở Dương phủ, song lại không biết hai vị phu nhân, cho nên vừa nãy chưa chào hỏi, thật sự thất lễ, không biết nên xưng hô thế nào?

Tuyết Lý Mai và Ngọc Đường Xuân hơi sững người. Thiếp thất ở các hộ gia đình lớn bình thường đương nhiên sẽ phân làm 'nhị phu nhân', 'tam phu nhân'. Hai người được gả vào cùng lúc, Dương Lăng lại không phân biệt đối xử với bọn họ.

Ngọc Đường Xuân thoáng trù trừ, khi nãy thấy Hàn Ấu Nương đối đãi hết sức kính lễ với hắn, nàng cũng không dám đánh mất lễ nghi, bèn điềm đạm đáp: 

- Công tử chớ nên khách khí, trong phủ vẫn luôn gọi ta là Ngọc phu nhân, muội ấy là Tuyết phu nhân.

Ngũ Hán Siêu lại thi lễ hỏi tiếp: 

- Ra mắt Ngọc phu nhân, Tuyết phu nhân. Ờm... vị cô nương họ Cao giúp kẻ hèn chẩn bệnh trị thương nọ cũng là Dương phu nhân sao? Kẻ hèn không tiện hỏi thẳng trước mặt, lại sợ xưng hô không đúng lễ phép.

Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đưa mắt nhìn nhau, bất tri bất giác lại đột nhiên nhớ đến bức tranh xuân cung khiêu khích nọ, vẻ mặt lập tức có phần ngượng ngập. Quan hệ của hai người bọn họ đã phát triển đến tình trạng như vậy mà vẫn không thấy lão gia có vẻ gì là sốt ruột, chẳng lẽ vì cảm thấy trong một năm mà nạp ba thiếp vào nhà là chuyện khiến người chê cười, nên muốn lần lữa sang năm sao?

Ngọc Đường Xuân do dự đáp: 

- Cao cô nương là... thái y ngự tứ của Dương phủ, cũng không phải là nội quyến nhà họ Dương.

Ngũ Hán Siêu vừa nghe liền cả mừng. Vẻ mừng rỡ vừa thoáng hiện bên khóe chân mày, Tuyết Lý Mai đã cười hì hì như một chú chim khách bồi thêm một câu: 

- Nếu công tử gọi tỷ ấy là Dương phu nhân thì tỷ ấy cũng sẽ không nổi giận đâu. Hiện tại chưa phải, nhưng qua mấy tháng nữa thì nhất định sẽ phải.

Chú thích:

(1) điều hoà hơi thở

(2) nghèo học văn, giàu học võ; vì đụng tới võ nghệ (thứ thiệt) rất tốn kém. Thậm chí dựng phim chiến tranh cũng tốn kém hơn phim tình cảm nhiều, lúc đó đạo diễn cũng cảm khái "Cùng văn, phú võ".

(3) đường huynh, đường đệ là anh/em con bác bên nội; biểu huynh/đệ là anh/em con cậu bên ngoại

(4) thím

(5) nữ chủ nhân

(6) nguyên văn 'Tướng quân ngạch hoành kham tẩu mã, tể tướng đỗ nội năng xanh thuyền' nghĩa là trán tướng quân có thể phi ngựa, bụng thừa tướng có thể chèo thuyền, ý khuyên con người nên rộng lượng và khoáng đạt trong cách đối nhân xử thế.

(7) chỉ danh tướng Nhạc Phi thời Tống

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro