"Sống"

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

"Tiểu thư Veronica, ngài ăn chút gì đi ạ!" Cô hầu nhỏ bé lo lắng quỳ phục dưới chân tôi, cầu mong tôi ăn chút gì đó sau khi thay những cây nến sáp đã cháy hết.

Ánh chiều tà yếu ớt tạt ngang qua khung cửa sổ sát trần, bị thanh âm của một ngày mưa dập tắt. Bên trong, thư viện nồng mùi gỗ mục nhưng không khí vẫn ấm áp như thế. Tôi đóng sách lại, lặng im, đôi mắt vẫn chăm chú nhìn vào những giá nến. Dưới những ngọn lửa bập bùng cháy, vài giọt sáp nến men theo thân chảy xuống rồi đặc cứng lại, thê lương như giọt nước mắt của những mảnh đời héo úa xứ này.

"Ta chưa muốn ăn. Em ra ngoài cùng ta chứ." Tôi lắc đầu, đứng dậy, tà váy đen phết nhẹ trên sàn tạo ra những tiếng động khe khẽ. Cô hầu gái không nói gì cả, chỉ lủi thủi theo tôi. Bước ra đại sảnh xa hoa, tiếng mưa hòa lẫn với đoàn nô bộc nhộn nhịp, tôi vén chân váy, đi xuyên qua dòng người. Không một sự để ý, không một tiếng chào hỏi, tôi và em hầu của tôi chui rúc trong nơi lạnh lẽo này. Nơi mà tình thương vốn không có chỗ cho chúng tôi.

Hầu gái bước đến, cầm cây dù che cho tôi khi cả hai cùng bước lên xe ngựa, tôi lại lắc đầu, đẩy nó về phía em.

"Em cần tán dù này hơn tôi." Tôi thỏ thẻ, nhanh chóng bước lên xe ngựa mà chẳng cần ai nâng đỡ, rồi vươn tay về phía em, cười. Sam vẫn chưa quen với cách hành xử của tôi, em vẫn luống cuống, vẫn rụt rè vươn đôi tay chai rộp vì lao động của mình ra, để tôi dùng chút sức ít ỏi của một vị tiểu thư kéo em vào.

"Đến nhà thờ," tôi đanh giọng ra lệnh với phu xe, hắn đáp lại tôi bằng tiếng hừ lạnh. Song xe ngựa vẫn lộc cộc chuyển động.

Mưa vẫn an ổn như vậy, tôi thở dài, vén lại sợi tóc đen vô tình sổ ra khỏi búi, rồi dặn dò người duy nhất sẵn lòng trung thành với tôi: "Em không cần theo ta đâu, dù ta tự cầm là được. Ngồi đây đi, ta đi một mình thôi." Xong, không đợi câu trả lời, tôi bước xuống, hòa vào màn mưa.

Nhà thờ độ này vắng heo, người dân đã về từ sớm, sẽ chẳng còn ai muốn ra khỏi nhà khi bầu trời đương buông lệ. Tôi vén váy, ngồi trên bậc thềm ốp đá nhẵn chín, ngắm nhìn những giọt mưa lao xuống vỡ tan tành như loài thiêu thân. Sau lưng tôi lại vang vọng tiếng bước chân, quen thuộc đến đỗi như thể tôi đã nghe qua cả trăm lần.

Ngài bước tới cạnh tôi, nhưng không ngồi xuống, chỉ vươn tay đưa qua một tách trà. Tôi cũng chẳng từ chối, quay đầu cười khẽ như một lời cảm ơn. "Ít nhất, hôm nay, Con hãy vào trong ngồi." Ngài nói, giương đôi mắt biếc màu trời nhìn tôi, như thể tin tưởng tôi sẽ đồng ý. Lần nào, ngài cũng nhìn tôi như vậy.

"Không, tôi không tin vào chúa." Tôi thốt ra một câu trả lời lạc đề, nhiều hơn sự cần thiết cho một lý do. Ngài có vẻ ngạc nhiên, song vẫn không ý kiến gì, chỉ nhẹ nhàng ngồi xuống. "Vậy tại sao em lại đến nơi này?" Giọng ngài dịu lại, nhưng vẫn thanh như tiếng gió ngoài thảo nguyên.

Vì tôi muốn thấy ngài, tôi nói. Bỏ qua ánh mắt sững sờ của người con trai thuộc về cung đường vàng, tôi nói.

Tôi muốn thấy ngài, không phải dưới danh nghĩa một con chiên ngoan đạo hướng lòng cầu khẩn về phía chúa. Tôi muốn thấy ngài, khi ngài là ngài, khi ngài chỉ đơn thuần là người con trai với mái đầu hoe vàng và đôi mắt biếc trời thu.

"Em yêu ta?" Ngài hỏi bằng những âm thanh từ tính nhất, như cố che đậy những gợn sóng dấy nên nơi đáy mắt. Phải chăng, lúc nào chẳng hay, tôi đã vô tình chìa ra trước mặt người linh mục trẻ tuổi này một thứ trái cấm. Còn ngài, lại chẳng đủ ngây thơ để phạm vào nó.

"Không, tôi không yêu ngài. Tôi chỉ muốn biết ngài là ai" Tôi bộc bạch, vươn bàn tay về phía mưa, rồi làm động tác buông thả, mong rằng đòi hỏi mình không quá sỗ sàng. Tôi đối với ngài là sự tò mò đơn thuần nhất. Còn vì sao lại tò mò? Có lẽ vào một thoáng bâng quơ nào đó, tôi nghĩ ngài và tôi là những con người giống nhau.

Mưa càng ngày càng dữ dội, trên bầu trời đặc quách những đám mây đen, thỉnh thoảng lại tạt ngang những tia sét. Thời tiết u ám chẳng khác gì một con rồng cuồng dại. Hàng cây xung quanh nhà thờ bị gió thổi nghiêng ngả. Bậc thềm nhà được được xây cao lên vào sâu vào trong, trên là mái hiên vươn ra che chắn, nên dù cho bão có tới, tôi vẫn sẽ không bị ướt.

"Thật ra, ta muốn từ bỏ. Từ rất lâu rồi, ta muốn từ bỏ sự sống." Ngài thì thầm, nhỏ đến mức bị tiếng mưa át đi. Nhưng bằng cách nào đó, tôi vẫn nghe thấy. Tôi quay đầu nhìn ngài, trong khi ánh mắt ngài vẫn hướng về phía màn mưa xa xăm.

Ngài đang khóc. Từng tế bào trên cơ thể ngài đang khóc, ánh mắt ngài khóc như cơn mưa vần vã ngoài kia, dẫu cho giọt lệ không lăn dài trên gò má, và đôi môi không nhuốm vị bi thương. Giọng nói ngài lại run run rạn nứt, để rồi lạc đi giữa cơn mưa của một buổi chiều tắt nắng.

Tôi nhấp một ngụm trà, thứ chất lỏng nguội ngắt trôi tọt vào trong cổ họng, chỉ để lại trên đầu lưỡi cái đắng chát lạnh lẽo. "Ngài không tin vào Chúa." Tôi rũ mắt nói. "Nên ngài mới mong mỏi cái chết. Vì ngài không tin những vị thánh trên kia sẽ cứu rỗi ngài."

Nghe tôi hoang đường, ngài cười, học theo tôi mà nhấp một ngụm trà lạnh. Nhìn sắc trời vốn không còn mấy sáng sủa, tôi nhớ mình còn có một cô hầu hay lo lắng, liền lấy lý đó mà giã từ.

"Ta là Dominic Nelson. Em gọi ta là Dominic được rồi." Ngài kính cẩn giới thiệu. Khác hẳn với điệu bộ nghiêm túc của ngài, tôi bật cười: "Hẳn là hai ta mang nghiệt duyên mất rồi. Tôi là Veronica Eden." Nghe tôi nói vậy, ánh mắt của ngài cũng hiện lên tia bất đắc dĩ.

Quả đúng là nực cười mà, khi những cái tên thần thánh như vậy lại đem gắn trên người của hai kẻ ngoại đạo.

Kể từ hôm đó, tôi lại có thói quen đến nhà thờ vào những buổi chiều trời phủ mây đen, lâu lâu lại cầm theo một ít sách và trà bánh. Vị chủ nhà cũng không tỏ ra khó chịu gì, nên tôi nương theo lý đó mà có thêm một nơi trú ngụ.

Ngài mời tôi vào vườn hoa sau nhà thờ, nơi những bức tường đều được thay bằng mặt kính thủy tinh. Vào những ngày mưa, không khí ở đây đằm thắm đến lạ. Dominic bước đến gần tôi, tay cầm một ngọn nến đã cháy quá nửa rồi đặt nó lên bàn. Tình cảm giao sơ ban đầu của chúng tôi dần được thời gian hàn gắn, trở thành những người bạn có phần "đồng bệnh tương liên".

Mà kể ra, ngoài những buổi trà chiều đọc sách dưới những ngọn nến sáng, ngài còn hát cho tôi nghe, ngài hát những bản thánh ca ngài đã thuộc từ bao giờ, như thể những ca từ ấy đã luôn chảy dọc huyết quản ngài từ lúc ngài sinh ra. Tôi nhớ mình đã từng hỏi ngài về những câu hát, hỏi ngài về vị Chúa ngài dâng hiến cả tuổi thanh xuân. Nhưng ngài chưa bao giờ trả lời, ngài chỉ tiếp tục hát vì Chúa, vì cánh cổng mang tên trách nhiệm ngài không dám bước qua.

Dẫu vậy, giọng Dominic vẫn ngân lên như một cơn gió, khao khát tự do đến tột cùng.

"Em luôn đến vào những thời điểm không hợp ngắm hoa nhất." Ngài ngồi xuống đối diện tôi, rót cho bản thân một tách trà. "Ngài đẹp hơn hoa nhiều." Tôi nói không mà không cần nghĩ.

Dominic Nelson, có lẽ ngài không biết, vẻ đẹp của ngài, hàng triệu đóa hoa cũng không sánh nổi. Tôi cười khúc khích, không quan tâm đến câu nói có phần hơi tán tỉnh của mình. Chẳng biết từ bao giờ, việc chọc Dominic sững người đã trở thành trò ưa thích của tôi. "Em lại đùa rồi." Ngài có phần hơi ngại ngùng, song không tránh né ánh nhìn chăm chú của tôi nữa. Bằng một cách nào đó, ngài cũng giống như tôi, vào lúc nào không hay, vị linh mục chỉ biết nghe những lời cầu khẩn bắt đầu quen với sự chòng ghẹo lỗ mãng.

Chúng tôi dần thay đổi. Vì quen nhau mà thay đổi.

Và không may, chúng tôi đắm say.

Thời gian chảy như thoi đưa, mối quan hệ của tôi và Dominic vẫn cứ tiếp tục theo cách khẽ khàng nhất, với những tách trà, những bài hát và những buổi chiều mưa. Chúng tôi sống một cuộc sống đem người còn lại trở thành một vệt sáng trong bức tranh tối tăm của mình. Có những lúc, tôi đã nghĩ rằng, chúng tôi sẽ vĩnh viễn như thế. Tiếc rằng không có gì là vĩnh viễn.

Bi kịch luôn ập đến vào những lúc tôi không ngờ nhất. Tin tức em hầu của tôi và Dominic bị Giáo Hoàng chịu tập nhanh chóng truyền đến đinh thự Hầu Tước Eden. Quân lính kéo tới, người dân vây quanh.

Đám đông trở nên điên loạn, tiếng chửi bới, nguyền rủa va đập vào nhau, trở thành một mớ bòng bong các loại tiếng ồn. Sam của tôi, Sam của tôi, Sam, Sam, Sam!!

Tôi hốt hoảng đuổi theo bọn người gông em đi. Đôi giày cao gót gãy nát, bộ váy đen trở nên nặng nề. Tâm nhìn của tôi mờ đi và đôi chân như muốn rã rời, tôi vẫn chạy. Đinh thự trở nên rộng lớn lạ lùng. Bọn hầu vẫn bám theo tôi, chưa bao giờ trong cuộc đời tôi quyền rủa bọn chúng bằng tất cả lời nguyền cay độc nhất tôi biết. Lòng ngực tôi quặn lại khi nghĩ về Sam. Tôi không thể để ai bắt em đi!

Tôi khản giọng gọi em, Sam xoay người nhìn lại, lắc đầu. Mặc cho bàn tay tôi chới với giữa không trung, em vẫn không bắt lấy. Ngày hôm đó, lần đầu tiên Hầu tước cho gọi tôi.

Veronica Eden, đứa con hoang của dòng tộc Eden, vết nhơ lớn nhất trong đời Hầu tước, đứa trẻ được mụ phù thủy đến từng phương Đông sinh ra. Tôi chẳng nhớ nổi mình người ta đặt cho mình bao nhiêu cái tên, mà đúng hơn, tôi vốn chẳng màng nhớ. Tôi sống đủ lâu để thôi trông chờ người ta sẽ chấp nhận mình, nhưng đôi khi gia đình lại là một ngoại lệ.

Đứng trước vị thân sinh ngàn vàng này, tôi đột nhiên cảm thấy mệt mỏi quá. Mệt mỏi vì mình đã sống cuộc đời của một đứa trẻ bị nguyền rủa, với mái tóc đen và đôi mắt nâu được thừa hưởng từ người mẹ đã qua đời từ bao giờ. Mệt mỏi vì những thứ quý giá tôi khó khăn lắm mới có được dần tuột khỏi tay tôi, tôi mệt mỏi với sự sống này quá. Mệt mỏi đến mức, tôi sẵn sàng quỳ xuống cầu xin: "Hầu tước, con cầu người, con cầu người cứu Sam và Dominic đi ạ."

"Kẻ như ngươi mà chẳng có quyền yêu cầu gì cả. Ngươi xem ngươi và con hầu ngu ngốc của ngươi đã làm ra gì kìa." Ông ta túm tóc tôi lên, và giáng cho tôi một cái tát đau điếng.

Haha, thì ra sau những năm này, ông ta chỉ gọi tôi duy nhất một lần chỉ vì cái danh dự của ông ta à. Tôi trừng mắt, nước mắt sinh lý bắt đầu túa ra vì đau. Cái tủi nhục bây giờ còn chẳng bằng lửa giận, tôi vùng dậy, cơ thể theo bản năng đánh trả lại ông ta, rồi lao xồng xộc ra ngoài. Tôi thừa biết, bản thân mình thời khắc này đã không thể quay đầu.

Hầu tước cũng là một kẻ thích dày vò người khác, sau khi cho ông ta bẽ mặt. Ông ta để yên cho tôi hơn tôi tưởng, cốt là để đợi qua ngày xét xử rồi tính. Nhưng có những điều tôi sẽ không bao giờ ngờ được. Em hầu của tôi và ngài bị phán tội chết, vì Giáo Hoàng nhận được tin cả hai đã gian díu với nhau trong một thời gian dài. Một người dân xác nhận luôn thấy bóng một cô gái ở nhà thờ vào những buổi chiều mưa, và một người khác vô tình bắt gặp Sam hẹn riêng Dominic sau một buổi cầu nguyện.

Giàn hỏa thiêu được dựng lên ngay ngày sau đó. Người dân hẳn không muốn "những thứ dơ bẩn" tồn tại trong thành phố của họ thêm giây phút nào nữa. Tôi lẩn người trong đám đông, nhìn những kẻ đã từng một lòng ca tụng ngài quay lưng lại chửi rủa, còn có những người không dám nhìn, cốt vì không nỡ.

Giữa đám đông ồn ã, tôi im lặng nghe Giáo Hoàng bảo lão ta sẽ ban cho ngài một đặc ân cuối cùng vì như lão nói Chúa luôn từ bi và cảm ơn khoảng thời gian ngài đã phục vụ trong nhà thờ. Tôi thấy ánh mắt ngài lướt xuống đám đông, rồi dịu lại, tôi biết ngài không nhận ra tôi. Ánh mắt ngài hôm nay lại như thế, trở về với ánh mắt lần đầu chúng tôi gặp nhau. Tôi hiểu ngài muốn từ bỏ. Nhưng không, tôi đã lầm, tôi nhận ra mình đã lầm ngay giây phút ngài nhắm mắt lại và cất tiếng hát.

Dominic Nelson, người con trai có mái tóc vàng như dệt từ từng sợi nắng, đôi mắt biếc như bầu trời thu sau những ngày mưa mãi chẳng tạnh, người con trai bị chính cha mẹ ruồng bỏ từ lúc sinh ra, và bị giam cầm trong cái cũi trách nhiệm mang tên Chúa, giờ đây đang hát. Ngài thôi hát những bản thánh ca bao dung chúng dân. Ngài hát bài hát của tôi, bài hát ru đã theo tôi cả tuổi thơ với người mẹ ngoại tộc.

Dẫu câu từ không rõ, ngài vẫn đang ngân lên như ngọn gió chu du trên thảo nguyên.

The moon shines bright, the wind ceases to blow,

the shadow of leaves rest on my window.

The grasshoppers whispering

like euphonious melodies

played on a delicate string.

Nước mắt tôi bắt đầu ứa ra, và lòng ngực điên cuồng dậy sóng. Tôi muốn ôm lấy ngài, như ôm lấy một người tình vào lòng.

Không, không, không, Dominic, ngài phải sống, ngài phải sống. Da thịt sau lưng tôi đau đến lạnh người, nhưng tôi không còn quan tâm. Tôi phải cứu ngài và Sam, nhìn người hành quyết bắt đầu chăm lửa, đồng tử tôi co rụt lại. Vứt bỏ áo choàng, tôi bất chấp sinh mạng, bay về phía ngài, với đôi cánh trắng chưa vơi mùi máu.

___

Người dân sau đó truyền lại rằng, linh mục Nelson vì bị oan. Chúa lại không nỡ nhìn đứa con của mình chịu đau khổ, đã phái thiên thần xuống mang ngài đi cùng với cô hầu của gia đình Hầu tước. Nhưng bọn họ sẽ vĩnh viễn không biết được rằng, vị "thiên thần" ấy vốn là một đứa con của một phù thủy, còn người linh mục kia lại là đứa trẻ bị ruồng bỏ. Đau khổ hơn rằng, người sau sẽ không bao giờ biết, họ đã cứu rỗi nhau như thế nào.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro