Người Khăn Trắng

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Người Khăn Trắng

Trước khi ra khỏi nhà trọ, Lê Thanh còn nghe lão già cụt chân nhắc lại: - Cậu hãy nhìn cái chân chỉ còn một cọng như cái chân tôi đây để mà tính con đường tương lai của mình. Nên nhớ nằm lòng đều này: “Không ai được cái gì vô điều kiện từ mẹ rừng cả. Mà vàng, trầm đều là sản phẩm của rừng không thể tự tiện lấy đi mà được yên lành hoàn toàn đâu…”.

Đi đã xa trên con đường rừng rồi mà Thanh vẫn còn nghe vang vọng trong đầu câu nói ấy. Anh còn nhớ như in chuyện về cái chân bị mất của lão già. Chính một lần đi lấy trầm hương ở cánh rừng này lão đã bị hổ vồ và may mắn thoát được sau khi mất một chân trong miệng hổ đói, nhờ đã nhanh trí dùng con dao trên tay mình chặt đứt cẳng chân con hổ đang ngoạm.

Đâu phải ai tìm được trầm đều phải hy sinh thân thể. Đã có khối người làm giàu nhờ tìm được kỳ nam, trầm hương. Họ có sao đâu ngoài sự giàu sang và đổi đời?

Vả lại, với Thanh chuyện tìm trầm để làm giàu không phải là mục đích chính. Mà mục đích quan trọng hơn của anh là thực hiện lời nguyền của người cha quá cố. Trước khi nhắm mắt, ông đã gọi Lê Thanh đến bên và dặn chỉ một mình anh nghe thôi: “Con phải nhớ, cả đời ba đã tiêu tốn bao công sức chỉ cho mỗi mục đích là tìm cho ra một miếng trầm mà như lời ông nội con miêu tả lại, ông nội con đã để vuột mất nó chỉ trong nháy mắt chỉ vì một mỹ nhân xuất hiện bất ngờ khi ông con vừa tìm thấy trầm! Chính ba cũng vậy, sau hơn ba tháng canh chừng gian khổ, ba sắp lấy được nó thì cũng bỗng bị hoa mắt ngã té từ trên cây xuống gộp đá sâu, may mà không chết, chỉ bị hôn mê và sau đó bị bại liệt luôn, không còn khả năng trở lại rừng nữa... Nhưng ba quyết phải thành công. Đời ba làm chưa được thì tới phiên con. Con phải hứa với ba, phải tiếp tục con đường của ba, nếu không thì ba sẽ mãi mãi làm oan hồn, không thể siêu thoát...”.

Lê Thanh lao vào cái nghiệp đi tìm trầm không phải vì để làm giàu, mà vì chính lời ước nguyện của cha. Vả lại, chẳng biết phải do ám ảnh lời ước nguyện hay nguyên do nào khác, mà những lúc gần đây Thanh lại nghe niềm đam mê đi tìm trầm trong người cháy bỏng lên hơn bao giờ hết. Anh đã thề với lòng rằng phải tìm cho bằng được trầm hương mà không phải đánh đổi bất cứ thứ gì!

Soát lại túi thức ăn mang theo, Thanh khá yên tâm, bởi với lượng thức ăn này một mình anh thừa khả năng sống hơn một tuần giữa rừng. Cũng giống như lần trước, Lê Thanh không cần sự trợ giúp của ai, sẽ một mình lặng lẽ tìm kiếm và nhận mọi nguy hiểm chỉ với đôi tay và ý chí của mình. Anh nhớ lời cha anh đã nói lúc ông còn làm nghề đi rừng: “Tìm trầm hương là thử thách cái cơ duyên của mỗi người. Vậy đi tìm trầm thì tốt nhất là đi một mình. Có duyên thì vận may sẽ tới...”.

Đã sống qua một tuần trong chốn thâm u này mà cơ may chưa tới, nên hôm nay bắt đầu tuần thứ hai Thanh có vẻ tự tinh hơn, anh vừa tìm chỗ mắc võng nghỉ chân vừa lâm râm khấn vái vong hồn cha: “Con sẽ thực hiện được ước nguyện của cha, cha yên tâm đi. Trước sau gì con cũng thành công!”.

Những lời khấn vái như thế này đồng thời là những lời tự động viên của Thanh. Anh luôn muốn làm như vậy mỗi khi mệt mỏi, chán nản...

- Chào người anh em trẻ!

Câu chào của ai đó làm cho Lê Thanh giật mình quay lại. Một lão già người thượng quẩy chiếc gùi trên lưng, đang đi từ một con đường nhỏ băng ra. Họ chẳng quen nhau, nhưng thường người đi hay chào hỏi nhau nếu bất chợt gặp nhau giữa rừng.

- Dạ, chào già... ông cũng đi săn?

Ông lão cười nhe ra hai cái răng còn lại chổng trơ trên hàng nướu thâm xì:

- Anh trẻ đi săn gì? Có giống già đi tìm con tra trả hay không?

(Thanh đã có nghe về con chim gọi là tra trả này, nó là loài chim chuyên bám theo các loại thú dữ như cọp, beo để kêu lên mỗi khi loài ác thú xuất hiện. Người đi rừng thường bảo loài chim đó giống như loài chim báo bão ngoài biển khơi. Nó là loài cứu tinh của con người!)

Anh hỏi thăm:

- Rừng này có ông hổ nào có loài chim đó?

Lão già vẻ sợ hãi:

- Đây là hang ổ của chúng, sao lại không có! Mà sao anh trẻ đi một mình và không mang theo cái cây bùm bùm?

Biết ông già hỏi đến súng, Thanh cười đáp:

- Cháu không đi tìm ông hổ thì đem súng theo làm gì già ơi! Hổ sẽ không hại người khi người không tìm đến chúng phải không?

Lão già thượng rùn vai:

- Người ta nói vậy, chớ ở đây người đi rẫy, lên nương bị “ông” hạ hoài. Phải nói là không có ý săn hổ, nhưng có tiền kiếp thâm thù với hổ, thì cũng bị “ông” sát khi gặp mặt.

- Vậy già đi tìm chim tra trả để làm gì?

- À, già tìm cho Thần Hương. Thần ra lệnh đi tìm, bảo chim mau về đây, mang ông hổ cùng về, để giúp thần đuổi bọn xấu đi!

Lê Thanh ngạc nhiên:

- Thần Hương là ai? Có phải là Thần Trầm hay không?

Nghe Thanh nói, già thượng hoảng hốt:

- Đừng nói tên đó ra!

- Tên nào?

Lão hạ thấp giọng như sợ có người nghe:

- Ở đây không ai gọi là trầm hương cả, mà phải gọi là Thần Hương!

Lê Thanh càng tò mò thêm:

- Sao lại có Thần Hương?

Thấy anh chàng quá lờ mờ, già thượng phải nói rõ hơn:

- Lâu nay nhiều người đổ xô về đi tìm trầm, họ tận dụng chặt phá không chừa cây già đến cây con. Chỉ có những loài trầm hóa kiếp rồi mới thoát nạn, nhưng các vị ấy đã nổi giận!

Chạm vào đúng mục đích của mình, Thanh hỏi tới:

- Sao lại gọi là trầm đã hóa kiếp?

- Thì… trầm đã hiển linh, đã không còn là trầm mà bất cứ ai cũng có thể nhìn thấy.

- Thì ra là thế!

Lê Thanh nhớ lại những chi tiết về cái chết của ông nội, rồi tai nạn của cha, anh liên tưởng đến điều mà già thượng vừa kể. Anh hỏi lại:

- Trầm đó có lấy được không?

- Trầm nào?

- Trầm hiển linh ấy!

Lão già nhẹ lắc đầu:

- Đừng hòng.

Ông ta đáp xong đưa mắt nhìn Lê Thanh ra vẻ ái ngại. Rồi lặng lẽ bỏ đi mà chẳng nói thêm một lời nào...

Anh chàng định gọi lại, nhưng nghĩ sao lại thôi. Đợi lão kia đi xa rồi Thanh mới rẽ về một hướng khác, nơi mà hôm trước anh đã từng đi qua, mà cũng là địa điểm mà theo lời chỉ dẫn của cha, ông đã từng ở đó lâu ngày và đã tìm được dấu vết của trầm hương.

Đến xế chiều hôm đó, chợt có một cơn mưa lớn. Lê Thanh đã thủ sẵn mọi thứ, nên chỉ trong vòng 5 phút anh đã mắc được chiếc võng treo lơ lửng giữa hai nhánh cây và có cả tấm bạt che mưa.

Mưa ở rừng có khi kéo dài cả ngày, nhưng cũng có những cơn mưa chỉ ồ lên một chút rồi ngừng, như cơn mưa hôm nay. Mưa tạnh, nhìn đồng hồ thì đã quá giờ, nên Lê Thanh quyết định ngủ lại, sáng mai sẽ đi tiếp. Theo anh nhẩm tính thì đã sắp đến địa điểm có ghi dấu của cha và ông nội, Thanh yên tâm chờ đêm xuống...

Giật mình tỉnh giấc bởi mùi hương nức mũi, Lê Thanh nhìn xung quanh một lượt, nhận ra mình vẫn nằm yên trên võng treo giữa hai thân cây. Ánh trăng trên đỉnh đầu sáng trong tỏa khắp khu rừng, mà bằng mắt thường cũng nhìn thấy vạn vật như đang lay động theo từng cơn gió. Đêm rừng đẹp lạ thường!

Và còn đẹp hơn khi Thanh chợt nhìn xuống gốc cây và bắt gặp một người con gái đang đứng co ro, mái tóc xõa tung bay theo gió...

- Cô là…?

Thanh hỏi rất khẽ, nhưng cô gái đứng dưới vẫn nghe, cô không nhìn lên, thốt lời:

- Thật vô tình, mình nằm ngủ ấm áp như thế, để người khác lạnh cóng cả người…

Trước hoàn cảnh bất ngờ, Lê Thanh lúng túng:

- Cô là… là ai vậy? Tại sao nửa đêm lại ở đây? Cô là…

- Hỏi gì mà lắm thế? Không kịp để cho người ta trả lời!

- Nhưng... cô là...

- Là người thiếu lịch sự, ngồi trên cao nói chuyện với một người đang sắp chết vì lạnh dưới này, coi được lắm sao!

Bây giờ Lê Thanh mới nhớ ra, anh chuẩn bị bước xuống thì đã nghe nàng ta cười khúc khích:

- Thôi, để người ta lên!

Nói xong, cô này thoăn thoắt leo lên, còn giỏi hơn là Thanh lúc leo lên ban chiều.

- Cô biết leo cây?

- Nếu không tập leo thì đã bị hổ ăn thịt từ đầu hôm rồi. Vừa rồi... chỉ vì ngại nên... người ta mới còn đứng đây, chớ còn mùi hổ đang rất gần đây.

Vừa lúc ấy Thanh nghe tiếng chim tra trả kêu lên liên hồi. Dấu hiệu có hổ đến gần!

Không còn kịp suy nghĩ, Thanh đưa tay kéo cô nàng lạ mặt lên ngay cùng chung võng với mình. Cũng may dây võng khá chắc nên hai người ngồi vẫn an toàn. Tuy vậy Thanh vẫn nói:

- Hay để tôi qua cành cây ngồi, cô nằm nghỉ...

Cô gái liếc nhìn rất sắc:

- Lịch sự có thừa, đúng là người thành phố!

Bây giờ Thanh mới kịp nhìn kỹ cô gái, bất chợt anh giật mình, bởi sắc đẹp lạ thường của cô nàng!

- Cô là...

- Lại hỏi nữa! Hay Ià không muốn cho người ta chung võng?

- À không, tôi chỉ...

Có thể thông cảm cho sự lúng túng của anh chàng, nên nàng ta nói, giọng khác hẳn nãy giờ:

- Em theo đoàn đi săn hổ, bị hổ rượt nên lạc đường.

- À, thì ra...

- Còn anh, sao lại chọn rừng già đầy hiểm nguy này nằm ngủ, hay là muốn làm bạn với thú dữ?

- Cô hiểu như thế cũng không sai.

Bây giờ đã xác định hương thơm lừng nãy giờ là do từ thân thể cô gái phát ra, Thanh đột ngột đưa mũi dí sát vào mái tóc nàng ta và hỏi:

- Có phải cô ướp hương trầm?

Cô gái nhìn sâu vào mắt Thanh:

- Anh không thích?

Lê Thanh hít một hơi dài:

- Chỉ vì mùi hương này mà tôi nguyện gắn cuộc đời mình với chốn này.

Nàng chau mày:

- Anh đi tìm trầm?

Thanh không giấu:

- Tôi không chuyên nghiệp, nhưng vẫn là người tìm trầm hương. Mà như vậy thì có gì không nên chăng? Nàng nhẹ lắc đầu:

- Đâu có sao. Miễn là...

Nàng có vẻ như muốn tránh không muốn nói chuyện đó, nên lảng sang chuyện khác:

- Anh có biết là vùng này có hổ?

- Có. Tôi có nghe ông già thượng nói lúc chiều. Cô cũng biết?

- Không, em bị lạc đường... cũng may có anh. Anh là...?

Lê Thanh chợt nhớ ra:

- Nãy giờ quên không giới thiệu, tôi là Lê Thanh. Còn cô?

- Lệ Hương.

Lúc ấy chợt có một tiếng gầm thật lớn. Có lẽ lũ hổ đang đến gần.

Lệ Hương vội ôm chặt lấy Thanh, người run run lên nhè nhẹ. Mặc dù cũng sợ, nhưng có hơi ấm của cô nàng, đồng thời hương thơm lạ thường cứ phả vào mũi, đã làm cho anh như ngất ngây, quên cả loài mãnh thú đang rình rập dưới kia.

Một con hổ thật to đi thẳng về chỗ hai người. Cách khoảng hơn chục bước chân, bỗng nó dừng lại, nghểnh cổ lên nhìn và rõ ràng hai cánh mũi nó phập phồng như ngửi hương thơm kỳ lạ đó vào buồng phổi. Vài mươi giây trôi qua, rồi bỗng dưng con hổ quỳ phục xuống như một người đang quỳ gối! Mắt nó hướng chỗ hai người như chờ đợi...

Lê Thanh muốn tiếp tục theo dõi động tĩnh của con hổ, nhưng vòng tay của cô nàng ghì chặt cổ anh xuống. Giọng cô thật khẽ:

- Em sợ... hãy ôm chặt vào... nữa... vào nữa...

Trời đất như quay cuồng, đảo lộn... Lê Thanh dần dần có cảm giác như toàn thân mình nóng ran lên, đôi mắt muốn mở ra mà sao không tài nào mở được.

Chừng như có bàn tay ai đó lùa vào ngực anh và vuốt nhẹ xuống. Cái vuốt tay đến đâu người anh run lên đến đó...

- Nè, cái anh trẻ ơi! Làm gì mà giờ này còn nằm trên võng vậy?

Lão già thượng gọi ba bốn lần vẫn chẳng thấy động đậy, nên lầu bầu:

- Mặt trời đã đứng bóng rồi, sao vẫn còn ngủ...

Linh tính như báo điều chẳng lành, lão đặt gùi xuống rồi leo lên cây. Phát hiện Lê Thanh đang nằm bất động hai mắt nhắm nghiền, lão kêu lên:

- Anh trẻ sao vậy?

Vẫn không có phản ứng, lão đưa tay sờ lên trán rồi lên mũi và hoảng hốt:

- Không xong rồi! Trúng gió rừng rồi!

Khó khăn lắm lão mới mở được võng đưa Thanh xuống. Anh chàng đã ngất lịm từ lúc nào rồi, người lạnh như băng. Có điều lạ là dù không biết gì, nhưng hai bàn tay anh chàng vẫn ôm ghì lấy khúc gỗ được đẽo gọt giống như một hình nhân, một mỹ nữ! Lạ hơn nữa, hương thơm phát ra từ khúc gỗ đẽo làm cho lão thượng phải ngẩn ngơ. Lão lẩm bẩm:

- Trầm hương! Thần hương!

Lão chợt nhìn ra sau, thấy con hổ vẫn quỳ ở đó, thì thật nhanh, lão chấp tay lại, đọc lầm thầm gì đó trong miệng.

Con hổ hiền khô, nó từ từ đứng lên rồi đi biến vào rừng cây.

Cất tiếng hú mấy hồi dài... lát sau người làng của lão thượng tới bốn, năm người nữa. Lão bảo họ khiêng Thanh về bản. Để mọi người không nhìn thấy, lão khéo léo lấy áo choàng của Thanh quấn chặt anh lại, nhét pho tượng vào trong đó.

Lão tỏ ra vô cùng cung kính khúc gỗ trầm. Gần như không dám chạm mạnh vào.

Về đến bản, nhờ có thuốc gia truyền, đồng thời chừng như đoán được căn bệnh của Thanh, nên đến tối hôm đó thì Thanh tỉnh lại.

Vừa tỉnh, anh đã bật dậy hỏi ngay:

- Nàng đâu?

Lão già thượng ngạc nhiên:

- Nàng nào?

Chợt nhận ra trong tay mình có pho tượng gỗ trầm, đến phiên Thanh ngơ ngác:

- Cái này... ở đâu vậy?

- Thì của cậu. Lúc tôi leo lên võng thì thấy cậu bị ngất mà trong tay vẫn còn ôm chặt lấy pho tượng này. Chẳng của cậu thì của ai?

Lê Thanh nhớ lại chuyện hôm qua. Anh lẩm bẩm:

- Thì ra...

- Cậu nói gì?

- À, không. Cháu chỉ...

Thanh săm soi pho tượng thật kỹ, hương thơm từ đó phát ra nức mũi, chẳng khác mùi hương của cô gái lạ đêm qua.

- Hay là…?

Anh quay sang lão thượng, hỏi:

- Có một đoàn đi săn ở gần đây phải không?

Lão già lắc đầu:

- Đây là vùng cấm săn bắn, mà cũng đã lâu chẳng hề nghe thấy cuộc đi săn nào.

Thanh muốn kể lại chuyện cô gái, nhưng lưỡng lự một lúc rồi thôi. Anh chỉ nói:

- Cháu muốn nghỉ nhờ ở đây đến sáng mai.

Lão già thượng thật lòng:

- Anh trẻ muốn ở bao lâu cũng được. Bởi vì già này có hứa với Thần Hương hễ ai là bạn thì sẽ bảo vệ tới cùng.

- Nhưng cháu đâu phải là bạn?

Chỉ pho tượng gỗ, lão nói:

- Pho tượng này theo lão biết thì đã ở trong hang gió từ mấy chục năm rồi, không một ai lấy được. Theo truyền thuyết thì tượng này do một người đi tìm trầm, khi bị kẹt dưới hang không lên được, đã bỏ ra mấy tháng trời mới tạc xong pho tượng này bằng chính khúc gỗ trầm do mình tìm được. Tạc xong tượng thì ông ta chết. Hiện nay xương cốt trong Hang Gió. Hang quá hiểm trở, không một ai xuống đó được. Vậy anh trẻ có được pho tượng này chắc là… có điều gì đó thiêng lắm…

Thanh nhớ lại có lần cha mình đã muốn kể rõ về cái chết của ông nội đi lấy được trầm thì bị rơi xuống vực. Rồi thôi, không kể nữa… có thể xác chết trong hang Gió đúng là ông nội của anh? Ông đã chết thảm và đầy bí ẩn như thế, chớ không như lời kể của cha. Giờ đây kết nối câu chuyện của ông già thượng, Thanh bắt đầu hiểu ra…

Nhưng tại sao anh có được pho tượng này, nếu không do cô gái lạ hồi đêm? Thanh khẩn thiết van nài lão già:

- Cháu có liên quan đến người bỏ xác trong hang Gió mà lão vừa nhắc tới đó. Cháu muốn biết có phải lúc sáng lão nói về cây trầm hương hiển linh có liên quan đến tượng này?

Có lẽ muốn giấu, nhưng thấy thái độ thành khẩn của Thanh, nhất là khi nghe anh nói mình là cháu của bộ hài cốt trong hang, lão trầm ngâm một lúc rồi nhẹ giọng kể:

- Chuyện này già đã thề dưới hang Gió là không nói cho ai biết. Nhưng đến nay có lẽ già cũng phải phá lệ thôi. Hồi đó, có lẽ cũng ngót 20 năm rồi, già mạo hiểm đuổi theo một con chồn bị thương chạy vào hang Gió và bị lọt xuống hang, ở đó già tình cờ gặp một bộ xương tay còn ôm pho tượng trầm tỏa hương này. Trên vách hang có mấy hàng chữ viết bằng máu đã sẫm màu, ghi lại ý nguyện của người đó trước khi chết...

Không đợi lão kể hết, Thanh chen ngang:

- Viết gì vậy?

Lão kể tiếp:

- Người ấy dặn con cháu không nên tìm lấy trầm hương nơi này nữa, bởi đây là trầm thiêng. Bởi nó quá thiêng nên ai tìm thấy nó đều chịu nhiều bất trắc. Cũng như người đó, tiết lộ rằng trong lúc đốn trầm đã vô tình gây thương tích và để lại máu thấm vào thân trầm hương. Mà dân rừng ở đây ai cũng đều biết, một khi máu người thắm vào trầm thì khúc trầm đó sẽ... thành tinh!

Lão kể tới đây thì lạc hẳn giọng, liếc nhìn pho tượng gỗ trầm, lộ vẻ sợ sệt…

Lê Thanh xiết chặt pho tượng vào lòng, anh quay qua chỗ khác, nói chỉ mình nghe:

- Đúng cô nàng ấy là...

Lão già thượng hỏi:

- Cậu nói gì?

- Dạ... không có gì.

Lê Thanh về thành phố mang theo cả pho tượng trầm hương. Về nhà, anh lục tìm trong tủ sách cha để lại, thật bất ngờ, anh bắt gặp một quyển sổ tay mà trong đó có những dòng mà do chính tay cha anh ghi lại:

“Tôi hai lần trở lại chỗ Hang Gió, cố tìm cách thâm nhập vào hang để đưa xác cha về, nhưng lần nào cũng thất bại. Tôi đã giấu không kể hết sự thật về cái chết của ông nội thằng Lê Thanh cho nó nghe, chỉ sợ nó sau này lặp lại điều mà ông nội nó phạm phải. Kể cả tôi, suốt gần mười năm tìm trầm chưa bao giờ tôi dám nghĩ chuyện trở lại Hang Gió lần nữa, mặc dù cho đến hôm nay hài cốt cha tôi vẫn chưa đem về được...”.

Thế là rõ, những gì ở Hang Gió có liên hệ trực tiếp tới nhà anh. Đặc biệt là pho tượng gỗ trầm này…

Kể từ hôm trở về nhà Thanh đặt pho tượng lên trên đầu tủ ngay trong phòng mình. Nhưng ngay đêm đầu tiên, giữa giấc ngủ, anh phải giật mình bật dậy nhiều lần, bởi cứ khi nào nhắm mắt là y như rằng có một thứ ánh sáng xanh kỳ lạ phát ra từ pho tuợng!

Cứ ngỡ là do mình đi xa mới về còn mệt nên bị tình trạng như vậy. Nhưng đến đêm thứ hai, thứ ba vẫn xảy những chuyện giống như thế. Điều này đã làm cho Thanh bắt đầu lo ngại.

Tới ngày thứ năm Thanh chuyển bức tượng ra phòng khách, nơi có tủ thờ ông nội và cha. Tượng được để trang trọng trong một hộp kính, đặt trên một tủ thờ riêng.

Đêm đó quả nhiên những cơn ác mộng không xảy ra nữa. Lê Thanh ngủ yên tới sáng.

Nhưng có một điều lạ thường đã xảy ra vào sáng sớm hôm đó! Vừa bước ra phòng khách, Thanh đã sững sờ trước một bộ hài cốt đặt ngay dưới chân bàn thờ.

Trong nhà chỉ một mình Lê Thanh sống, lúc ngủ cửa nẻo đều đóng kín, khóa chặt. Như vậy nhất khoát không phải do ai mang bộ xương vào nhà...

Lúc xem kỹ lại bộ hài cốt, Thanh phát hiện ở xương cổ còn có một thẻ bài bằng kim loại, trên đó ghi rõ danh tính là Lê Văn Hạo. Đó chính là ông nội của Lê Thanh!

Lê Thanh sống yên ổn với bức tượng gỗ trong nhà. Còn hài cốt ông nội thì anh mai táng ngay vườn sau nhà.

Cuối năm đó Thanh có ý định lấy vợ. Cô gái anh dự tính lấy tuy không phải do mối tình lãng mạn, nồng thắm... Tuy nhiên, do có người mai mối, đồng thời Thanh cũng muốn có người tiếp tay lo chuyện nhà nên Thanh đồng ý, chuẩn bị chọn ngày làm lễ hỏi.

Nhưng thật lạ lùng, nửa đêm hôm đó bỗng nhiên những bát nhang đặt trên bàn thờ bốc cháy dữ dội. Khi Thanh phát hiện chạy ra thì lạ hơn nữa, cái hộp kính bao pho tượng trầm bỗng nổ to và vỡ ra từng mảnh. Thứ ánh sáng xanh hôm trước lóe lên rất lâu!

Như được báo trước một điều gì đó, tự nhiên Thanh đổi ý, hủy lễ hỏi sáng ngày mai. Dù bị khá nhiều rắc rối ngay sau đó, nhưng Thanh cam chịu, không hối tiếc điều gì…

Và cũng lạ lùng hơn, kể từ hôm ấy, nếu Lê Thanh đóng cửa ở trong nhà thì không có việc gì, trái lại nếu anh ra đường và có quan hệ với ai là nữ giới, thì y như rằng bàn thờ tổ tiên nhà anh bốc cháy! Mỗi lần như vậy thì pho tượng cũng phát ra lửa xanh kỳ lạ, rồi tự nhiên mùi hương nức mũi cũng biến mất. Hiểu điều đó, nên kể từ đó Thanh chỉ đóng cửa và luôn nhang khói đều đặn cho cả pho tượng trầm hương.

Về sau, người ta đồn rằng cậu Lê Thanh có quan hệ với hồn ma hay một người con gái nào đó trong nhà mình. Cô ta chỉ xuất hiện vào ban đêm và mỗi khi xuất hiện thì mùi hương lạ thường lan tỏa khắp xóm.

Hư thực ra sao, chỉ có Lê Thanh mới biết...

Chỉ có điều là hàng chục năm sau vẫn chẳng thấy anh chàng lấy vợ. Vậy mà ngôi nhà anh ta ở lúc nào cũng như tràn đầy hạnh phúc

Mười ba oan hồn

Dọn về ngôi nhà mới mua được hai tháng, nhưng hầu như chẳng đêm nào vợ chồng chị Lành ngủ được yên giấc. Nhất là chị Lành, hễ chợp mắt được một vài giờ thì vào lúc nửa đêm, y như là chị phải giật bắn người, ngồi bật dậy, ngơ ngác tìm quanh bởi cảm giác như có ai đó đang có mặt trong nhà.

Có lần anh Lành hỏi, thì chị nói: 

- Vừa rồi có ai nắm chân em lay thật mạnh, mà cái tay ấy lạnh như nước đá! 

Anh Lành cũng nói: 

- Thì tui cũng vậy, hồi nãy như có ai đó ngồi đè lên bụng tôi, tức thở muốn chết mà kêu không được! 

Thế là hai vợ chồng lại thức. Mà thức thì không sao, hễ ngủ lại thì thế nào cũng gặp những chuyện kỳ lạ như vậy. Suốt mấy đêm liền như vậy, cuối cùng chịu không nổi anh Lành mới đi tìm một người lớn tuổi trong xóm để hỏi thăm. Sau khi nghe anh kể đầu đuôi, chú Tư Ấn trầm ngâm một lúc rồi mới nói: 

- Tao nói thiệt, không riêng vợ chồng tụi bây. Ngôi nhà đó từ lúc mới cất từ 3 năm trước, chưa ai về ở được quá sáu tháng! 

Hai Lành nghe lạnh cả người. Anh lo sợ hỏi: 

- Chuyện ra sao chú Tư? 

Chú Tư Ấn kể rành rọt: 

- Tụi bây không hỏi nên người ta không nói, sợ tụi bây nói là dân ở đây nhiều chuyện. Nhưng nay đã như vậy rồi thì tao kể hết cho nghe. Ngôi nhà đó ngay từ lúc mới cất thì đã gặp chuyện như vậy rồi. Nói thẳng ra, nhà đó có ma! 

Hai Lành càng lạnh lưng hơn: 

- Trời ơi, nói vậy đó là... ma sao! Thảo nào tay chân nó lạnh như… xác chết! 

Chú Tư Ấn kể tiếp: 

- Hồi năm ngoái cả gia đình sáu người trong một đêm khi đang nằm ngủ trên giường đã giật mình tỉnh dậy và... thấy mình đang nằm phía sau nhà như có ai khiêng ra lúc họ ngủ! Mà không phải một lần, mấy đêm sau cũng y như vậy. Đến ngày thứ ba thì không ai còn dám ngủ trong nhà nữa, phải đi ngủ nhờ nơi khác, thì không có gì xảy ra nữa. Chịu không nổi, họ treo bảng bán nhà. Gần cả năm không ai dám mua. Xui rủi thế nào tụi bây lại về đây mua. 

- Nhưng có ai biết tại sao lại có ma như vậy không chú? 

Chú Tư Ấn cười khà khà: 

- Nếu biết thì còn nói gì nữa! 

Tuy vậy, lúc Hai Lành sắp ra về thì chú Tư kéo lại, nói khẽ: 

- Điều này tao chỉ nói riêng với mày thôi, đừng kể lại với ai chuyện là vầy… 

Chú ngừng lại, nhìn quanh như sợ có người nghe: 

- Nghe nói dưới nền nhà, chỗ phòng ngủ của tụi bây ngày trước có mấy nấm mồ… 

Vừa nghe kể tới đó Hai Lành đã đứng bật dậy lên: 

- Hèn chi có lần con nghe có tiếng người kêu vọng lên từ dưới đất! 

Chú Tư đứng lên và ra dấu cho Lành theo mình: 

- Mày muốn biết thêm thì đi theo tao. 

Hai Lành bước theo mà trong lòng ngổn ngang những câu hỏi. Tới chỗ bìa rừng, nơi có con suối cạn chảy qua, chú chỉ tay và hỏi: 

- Đã lần nào mày xuống dưới lòng suối này chưa? 

Hai Lành lắc đầu: 

- Từ ngày về đây, ngoài khu vườn nhà con, con chưa từng đi tới đâu cả. Vả lại, thấy dòng suối cạn nước, con đâu có hứng thú mà xuống đó. 

Nghe Lành đáp thế, chú Tư Ấn muốn nói điều gì đó, nhưng chợt có người gọi ơi ới phía sau: 

- Anh Lành! Anh Lành! 

Hai Lành hốt hoảng: 

- Con vợ con. Chẳng hiểu nhà có chuyện gì? 

Lúc ấy vợ Hai Lành chạy tới, chị ta mặt mày tái mét: 

- Về nhà mau lên, má... má có chuyện rồi... 

- Má sao rồi? 

Chị Lành vẫn còn chưa bình tĩnh: 

- Má... bị... bị ma bắt đi rồi! 

Chú Tư Ấn cũng ngạc nhiên: 

- Ma bắt thế nào? 

Lúc ấy vợ Lành mới nói rõ hơn: 

- Tui đi chợ về tới thì nghe mấy đứa nhỏ nói bà nội ngủ từ sáng tới giờ chưa dậy. Đoán là có chuyện không lành, tui gõ cửa phòng bà già thì không nghe trả lời, cửa lại cài then bên trong. Hoảng quá tui kêu ông Lành thì chẳng thấy đâu, phải nhờ mấy đứa ở nhà bên phá cửa phòng vô, chẳng thấy bà già đâu, trên giường chăn màn còn nguyên! 

Hai Lành nắm tay vợ chạy bay về nhà. Đúng như lời vợ kể. Hai Lành tìm khắp phòng chẳng phát hiện điều gì khả nghi. Còn đang hoang mang thì từ bên ngoài có tiếng của ai đó gọi: 

- Ra mà khiêng bà Tám vô ngay! 

Cả nhà chạy ra thì thấy hai người hàng xóm khiêng một người trong tình trạng giống như xác chết. Vừa nhìn thấy, Hai Lành đã kêu lên: 

- Má! 

Hai người hàng xóm kể: 

- Lúc đi hái cà phê về, ngang khu rừng lồ ô thì tụi tui thấy bà Tám nằm trong bụi gai, hình như đã mê man từ lâu rồi.

Cả nhà lay gọi thật lâu bà mới tỉnh lại, vừa nhìn thấy người chung quanh bà la hoảng lên, rồi bò lê, lùi vào vách nhà như đang sợ hãi tột độ. Hai Lành phải lên tiếng: 

- Con đây mà. Má sao vậy? 

Nghe tiếng con, bà Tám càng sợ hơn, bà đưa hai tay lên lạy lia lịa, vừa van xin: 

- Đừng... đừng hại tui! Tha cho tui... 

Chú Tư Ấn đứng bên ngoài quan sát nãy giờ, nhẹ lắc đầu rồi đi thẳng về nhà. Chừng như có điều gì đó chú chưa nói ra… 

Nghe Hai Lành báo tin sắp dọn nhà đi, chú Tư trầm ngâm một lúc rồi nói: 

- Hôm qua tao muốn kể cho mày nghe chuyện này, nhưng chưa kịp. Bây giờ tao hỏi thiệt, mày sợ hồn ma rồi phải không? 

Hai Lành nhìn ông, ngạc nhiên: 

- Sao chú hỏi vậy? Ma thì ai không sợ. Nhất là những chuyện vừa xảy ra đó, theo chú chẳng lẽ không đáng sợ sao? 

- Đáng sợ, nhưng tao thấy chưa đến đỗi phải dọn nhà đi. Bởi để ý điều này hầu hết những người ở trong nhà mày trước đây, rồi tới mày nữa, đã có ai bị ma hại chưa? 

Hai Lành chau mày: 

- Hình như là chưa. Nhưng không có nghĩa là sẽ không bị. Như chuyện má con hồi chiều, theo bà kể lại thì lúc đang ngủ thì dường như có ai đó khiêng lên, chạy như bay trong không trung rồi ném vào nơi nào đó. Họ đông lắm, có đến hơn chục người, đứng vây quanh má con như chực ăn tươi nuốt sống, nói là má con chiếm nhà của họ, phải dời đi ngay, nếu không thì... 

Kể đến đây Hai Lành chợt rùng mình, người ớn lạnh và không dám kể nữa. Hỏi thì anh ta giọng run run nói: 

- Như có ai đó muốn bóp cổ con! 

Chú Tư Ấn cũng chợt rùng mình, chú bảo: 

- Chuyện không đơn giản như tao nghĩ. Thôi, mày về lập mâm nhang đèn bày ra ở giữa nhà, để tao cúng vái cho. 

Tối đó đích thân chú Tư Ấn khấn vái. Hai Lành nghe được trong những câu khấn có nhắc tới vong hồn ai đó gọi là Cậu Ba, mợ Ba, thì kinh ngạc lắm, đợi sau buổi cúng Hai Lành liền hỏi: 

- Cậu mợ Ba nào vậy chú Tư? 

Tư Ấn chờ cho những người hiếu kỳ về bớt, lúc ấy mới hạ giọng kể: 

- Cách đây trên mười năm, xóm này còn là một bãi đất hoang, đã xảy ra một câu chuyện mà tới giờ nhắc lại tao còn rùng mình… 

Chú vừa nói đến đó thì bỗng đèn đóm trong nhà vụt tắt hết, cả mâm đồ cúng cũng như có ai đó xô ngã, đổ tung tóe! 

Khi đốt được đèn lên thì Hai Lành kinh hoàng khi thấy chú Tư Ấn ngã lăn ra, miệng trào máu tươi! 

Tuy vậy tính mạng chú không sao. Lúc bình tĩnh lại, chú lẳng lặng bước ra khỏi nhà, ai hỏi gì cũng không nói. 

Đêm đó chẳng một ai trong gia đình Hai Lành dám ngủ. Bỗng đến hơn canh ba thì bỗng nghe có tiếng khóc của ai đó văng vẳng bên tai. Càng lúc tiếng khóc càng rõ hơn, nhưng không phải phát ra từ bên ngoài, mà hình như ở ngay trong nhà. Người này nhìn người nọ, chẳng ai khóc mà hầu hết đều sợ hãi. Nghe kỹ lại, bỗng vợ Hai Lành chỉ xuống đất, thều thào: 

- Ở… ở dưới đó! 

Hai Lành cũng nghe vậy. Sợ nói ra bà mẹ và mấy đứa con sợ, nên anh kề tai vợ nói khẽ: 

- Có khi nào... ở dưới có mộ không? 

- Dưới… mộ? 

Cả hai đều rùng mình, nhưng họ không có thì giờ để nghĩ ngợi thêm nữa, bởi vừa khi ấy chiếc giường ngủ của họ bỗng rung lắc dữ dội và rồi chúng đổ sụp xuống làm vợ chồng con cái đều bị bắn tung ra nền nhà. 

Mấy đứa bé khóc thét lên vì sợ. Và cũng từ lúc đó tiếng khóc lạ từ dưới đất cũng im bặt. Vợ chồng Hai Lành bò dậy, vừa định kéo các con mình ra thì chợt tiếng khóc lại vang lên, mà lần này nhiều giọng cùng cất lên một lượt, nghe rùng rợn lạ thường! 

Hai Lành bình tĩnh hơn vợ, anh nói khẽ: 

- Em ở đây với mấy đứa nhỏ, đừng làm gì kinh động, để tôi ra ngoài này… 

Chạy thẳng tới nhà chú Tư Ấn, vừa gặp chú từ trong nhà ra, Lành nói liền với chú ý định của mình. Nghe xong chú Tư có vẻ tán thành, nhưng vẫn còn ngại: 

- Tao là người không biết sợ, nhưng hôm qua tự nhiên bị hộc máu rồi về nhà tao bị sốt suốt đêm, làm cho tao lo... Nhưng mà được, tao sẽ cùng làm với mày. 

Chú đi huy động thêm năm sáu người nữa rồi cùng kéo tới nhà Hai Lành. Theo ý chú, Hai Lành bảo vợ thịt ngay con gà trống cồ, dọn một mâm hoa quả thịnh soạn, đồng thời đi mời khá nhiều bà con gần đó tới cùng chứng kiến. 

Lời khấn của chú Tư Ấn, bà con ai cũng nghe rõ: 

- Tôi, Nguyễn Văn Ấn, thường gọi Tư Ấn, nay đứng trong nhà của Hai Lành, có mặt cả bà con chòm xóm chứng kiến, tôi xin thành kính dâng chút lễ mọn, cùng tấm lòng thành, kính xin các vong hồn uổng tử, những vị đã thác và chôn thân ở chốn này, xin hãy về đây chứng giám cho sự biết lỗi của gia đình Hai Lành và cả thôn chúng tôi, mà rộng lòng hỉ xả, đừng hiển linh ra oai nữa. Hãy cho phép chúng tôi khai quật và đem hài cốt quý vị lên, để chúng tôi mai táng một nơi khác đàng hoàng hơn, trang nghiêm hơn. Nếu quý vị bằng lòng thì xin thể hiện bằng cách thổi tắt ngọn đèn chính giữa ba ngọn đèn cầy đang cháy. Được vậy chúng tôi xin một lần nữa dâng lên quý vị ba lạy. 

Chú và cả nhà Hai Lành đều cúi lạy rất thành kính. Những người đứng xem gần đó cũng đồng lạy theo. Và... thật lạ lùng, ngọn đèn ở chính giữa tự dưng tắt phụt, trong khi hai ngọn kia vẫn cháy! 

Chú Tư Ấn reo lên: 

- Được phép rồi! 

Chú ta hiệu cho hơn chục người dùng cuốc xuổng bắt đầu đào bới ngay chỗ giường ngủ của Hai Lành. Lúc đầu có lẽ còn e ngại, nên một số người chưa dám đào bới thẳng tay, sau vài phút, khi thấy không có chuyện gì xảy ra, họ mới bắt đầu đào cật lực. 

Đào xuống khoảng hơn nửa thước thì một người kêu lên: 

- Có cái gì giống như... nắp quan tài! 

Đích thân chú Tư Ấn soi đèn nhìn kỹ rồi nói: 

- Anh em nhẹ tay thôi, đừng làm kinh động người đã khuất. 

Sau vài phút nữa thì chính người phát hiện lúc nãy lại nói: 

- Hình như không phải nắp hòm... chỉ là một miếng ván lót ngang thôi. 

Họ kéo được tấm ván đó lên thì lộ rõ cả một đống xương trắng toát, phản chiếu dưới ánh đèn! 

Hai Lành nói to: 

- Xương người! 

Chú Tư Ấn nhìn cảnh tượng trước mắt, ông lẩm bẩm: 

- Đúng là cảnh ngày xưa rồi... 

Từ đó đến mười giờ sáng, họ đưa lên mặt đất gần trọn vẹn mười bộ xương người. Nhiều người đã mệt nên muốn ngưng đào, mà theo họ như thế chắc là đủ rồi, nhưng Tư Ấn chưa chịu: 

- Nếu tôi nhớ không lầm thì tới mười ba bộ xương mới đủ! 

Ai cũng ngạc nhiên: 

- Sao ông biết? 

Tư Ấn nghiêm giọng: 

- Vụ thảm sát mười ba người trong một gia đình tại chốn này cách đây mười một năm, nhưng do ngày đó, trong số bà con đây không ai có ở đây, nên không biết. Còn tôi, là người duy nhất che chòi giữ rẫy nên đã vô tình chứng kiến từ đầu đến cuối… Đúng là phải mười ba mạng người! 

Các tay đào đất lại tiếp tục đào và quả nhiên, đến hơn mười hai giờ trưa hôm đó thì họ đã lấy lên được mười ba bộ xương hài cốt không thiếu một lóng xương. 

Vợ chồng Hai Lành do không dư dả, nên chú Tư Ấn vận động bà con góp thêm vô được một số tiền để đi mua quan, quách về khâm liệm, đem mai táng ở đỉnh đồi trọc gần đó. Đến chiều tối đó thì mọi việc hoàn thành. Một buổi cúng mả mới diễn ra, tuy không linh đình lắm, nhưng cũng rất trang nghiêm. 

Chú Tư Ấn kể lại: 

- Ban đầu tôi không biết họ là ai. Chỉ biết lúc đó là nhá nhem tối, sau khi đi rẫy về, tui đang lui cui nhóm lửa định nấu cơm thì chợt thấy có ánh đèn pha từ ngoài đường cái rọi thẳng vào, ánh sáng đó báo cho tôi điều chẳng lành, nên nhanh tay tôi dụi tắt bếp lửa, núp trong chòi xem động tĩnh. Một lát sau thì một chiếc xe tải lớn bám đầy bùn đất, chứng tỏ nó từ xa đến, từ từ chạy vào phía rẫy. Cũng may là nó không cán phải cái chòi lá của tôi và cũng nhờ vậy họ không phát hiện có người rình thấy mọi việc… 

Chiếc xe tải sau đó tắt hết đèn, rồi từ trên xe nhảy xuống bốn người đàn ông. Trên tay những người này đều có súng, ngoài ra có hai người còn cầm theo nào xuổng, cuốc, búa, dao... 

Người thứ năm, tới sau đó chừng mười phút, xem ra mới là người cầm đầu của nhóm kia. Tên này nói gì đó, hình như là ra lệnh. Lập tức bốn tên trước đó mở bửng sau của thùng xe và lôi từ trong đó ra nhiều cái bao cột kín miệng. Ban đầu tôi tưởng đó là bao hàng hóa, nhưng sau đó thì nhận thấy nhiều bao tải đó nhúc nhích, cựa quậy và còn phát ra những tiếng kêu như kêu cứu! Lúc này thì tôi đã hiểu. Nhưng khi hiểu, tôi lại càng run khi nghĩ tới số phận mình... 

Đằng kia, bốn tên cầm súng, đưa súng lên, nhưng thay vì bắn, chúng trở báng súng đập mạnh vào từng bao. Cứ mỗi lần đập thì có những tiếng rú không phát ra được, do bị nhốt chặt trong bao, nên âm thanh kỳ dị, thê thảm lắm! Cứ thế, lần lượt mười ba chiếc bao tải đều chịu chung một số phận. 

Chứng kiến tới phút đó thì người tôi lạnh toát mồ hôi, thần khí biến đi tự lúc nào rồi... vừa hoang mang thì chợt có đứa trong bọn chúng la lên: 

- Hình như có cái chòi đàng kia! 

Dù gần như đã kiệt sức vì sợ, nhưng bản năng sinh tồn đã khiến tôi bò lết được ra khỏi chòi, rồi cứ thế tôi thoát chạy, chạy và chạy… Cho đến lúc nào đó tôi ngất đi... 

Khi tỉnh lại thì tôi thấy mình nằm bên một dòng suối. Có lẽ nhờ nước suối mát đã giúp tôi tỉnh lại. Chẳng biết tình hình ở chỗ chòi ra sao, tôi thắc mắc, nhưng với sức lực lúc ấy tôi đành nằm đó chờ... Ngày hôm sau khỏe lại tôi định mò về, nhưng khi đi tới vạt rừng gần rẫy thì tôi phát hiện ra chiếc xe tải vẫn còn đậu ở đó, nên không dám về, tôi quay lại cánh rừng già và ở đó đến ba, bốn ngày sau… 

Lúc tôi quay lại lần nữa thì hỡi ôi, cả một vùng rừng rộng lớn, trong đó có cái chòi và rẫy của tôi đã bị ai đó đốt sạch. Lần tìm mãi tôi cũng chẳng tài nào nhận ra chỗ cũ là chỗ nào. Hình như bọn người gây án xong đã đốt để phi tang! 

Như thế là ý định định báo làng chuyện đã chứng kiến tôi đành để trong lòng. Muốn bỏ đi để không bị ám ảnh, nhưng tứ cố vô thân, lại không có tiền bạc, nên cuối cùng tôi đành phải ở lại đây. Dựng một cái chòi khác ở tạm. Rồi lần lần những năm sau bà con mình tới định cư càng lúc càng đông. Tôi cũng không biết những cái xác người bị giết ngày ấy được chôn ở đâu và bọn người gây án là ai… Mãi mấy năm gần đây tình cờ khi đi qua làng bên, tôi nghe có người kể rằng, khoảng thời gian đó có một vụ tranh chấp hàng hóa buôn lậu mà nguyên đoàn người đi từ thành phố lên đã bị chận lại bởi một chiếc xe tải của bọn côn đồ và sau đó chúng đã bắt hơn chục người trong đoàn mang đi biệt tích… Nghe vậy tôi nghi có liên quan tới vụ mình chứng kiến, nhưng cũng không dám nói ra. Cho đến khi ngôi nhà này xảy ra nhiều hiện tượng kỳ lạ, khiến những gia đình trước đây phải bỏ đi thì tôi mới nghi ngờ. Không ngờ nó lại đúng. Chính những người bị hại ấy đã được chôn chung trong một nấm mồ ở đây! 

Nghe chú kể xong ai nấy đều rùng mình, bất giác có người khóc ngất lên! 

Những ngày sau đó, gia đình Hai Lành ngủ được yên giấc, không hề thấy bất cứ hiện tượng nào nữa. Ban đầu sau khi khai quật hài cốt xong, vợ Hai Lành cũng còn lo, nên bàn với chồng là nên bán nhà, đi chỗ khác để làm ăn hơn. Nhưng Hai Lành nói: 

- Mình đã được người khuất mày khuất mặt chấp nhận cho ở lại rồi, thì còn lo gì nữa. Theo tui, biết đâu chính ngôi nhà này sẽ giúp cuộc đời mình đi lên không chừng. 

Đúng như ước mơ của Hai Lành, mấy mùa rẫy liên tiếp nhà anh trúng vụ, hết cà chua rồi đậu leo và mới nhất là vụ cà phê trúng chưa từng thấy. Chỉ ba năm sau ngôi nhà cũ đó được thay bằng ngôi nhà đúc hai tấm thật khang trang. Nếu ai để ý sẽ thấy ngay trong nhà, ngoài bàn thờ tổ tiên, Hai Lành còn có một bàn thờ khác, trên đó có mười ba bát nhang mà lúc nào cũng ngát hương thơm. 

Câu chuyện về mười ba bộ hài cốt hay mười ba oan hồn được truyền miệng khác xa với trước đó

Âm hồn xe lửa (1)

Đêm hôm đó vì công việc phải đi vào ban khuya. Khoảng hai giờ rưỡi,anh Tư Ngựa (Tư Ngọ) cỡi "con ngựa sắt già 78" cho chạy theo con lộ từ cầu móng TC đi Phú Quý. Trời mưa lất phất,con đường tối đen như mực không một bóng người. Ngoài ánh đèn pha mờ mờ chiếu xa chừng hơn mười thước được phát ra từ "con ngựa già mệt mỏi"chỉ đủ để cho anh có thể tránh những ổ gà ổ voi,còn phía trước thì tối tăm mù mịt như trong một đường hầm hun hút.

Dưới ánh sáng tù mù hắt ra từ chiếc xe,những bụi cây lúp xúp hai bên vệ đường trông như những sinh vật có hình thù kỳ quái đang đứng ,đang ngồi,hoặc như đang chòm ra giơ những cánh tay xương xẩu chực chờ vồ lấy người nào đi ngang qua chúng. Một mình trong đêm vắng,trời mưa,với lại hay nghe nói trên đoạn đường này có nhiều ma lắm nhất là ma Chàm,tuy không phải là một người nhát gan,không hay tin những chuyện ma quái,song anh cũng thấy có cái cảm giác lành lạnh,rờn rợn xâm chiếm tâm hồn.

Cho xe chạy cà rịch-cà tang,lòng suy nghĩ vẩn vơ.Bỗng lúc đó anh chợt thấy ở phía cuối ngoài tầm ánh đèn xe xuất hiện mấy cái bóng người mặc đồ trắng đang di chuyển nhanh về phía trước.Tự nhiên có một luồng khí lạnh từ bụng dưới lan toả khắp châu thân làm anh phải rùng mình, nổi da gà.Sau một giây định thần,anh cho xe chạy chậm lại rồi quan sát kỹ.Anh thấy bốn người đang ghé vai vào bốn góc một chiếc cán trắng phía bên trên có mui che phủ màu trắng,nằm dọc theo chiếc cán là một khúc trắng lợp tựa như một xác người quấn vải,theo sau nữa là mấy bóng người.Dường như tất cả đều vội vã đi về phía trước.Theo kinh nghiệm,anh biết đó là một đám ma của người Chàm đang đưa xác chết đi chôn (Vì anh thường gặp đám chết người Chàm).Nhưng có đám chết nào mà chôn vào giờ này?Lại không có đèn lửa gì hết?Hay là ma Chàm?Vừa nghĩ tới đó anh thấy lạnh cứng cả châu thân,không dám chạy tiếp nữa,mà cũng chẳng dám quay đầu trở lại. Đánh liều,anh dừng xe lại rồi rồ ga thật to,mong tiếng xe nổ lớn hồng để phá tan cái cảnh tượng ma quái trước mặt anh và cũng là để trấn an tinh thần.Tiếng xe gầm rú làm kinh động đêm trường tĩnh mịch, ánh đèn chiếu sáng thêm xua bóng đêm ra xa hơn.Tuy thế mà mấy cái bóng trắng kia không biến mất hay đi xa hơn cứ vẫn chờn vờn phía trước.Trong lúc quýnh quáng không biết xoay trở ra sao,thì một cơn gió lốc lạnh buốt không biết từ đâu đưa tới nghe cái "ào…"Khi cơn gió đi qua rồi thì mấy cái bóng trắng kia cũng không còn thấy đâu nữa.Có lẽ gió đã cuốn đi rồi!Chưa kịp hoàn hồn thì một cảnh tượng còn rùng rợn hơn: ở phía trước toàn đá cuội đường kính cũng cở cái chén ăn cơm hay to hơn đang kéo nhau lăn lụp cụp về phía anh.Trời ơi,lúc này hồn vía như lên mây lên mưa,anh không còn biết gì nữa ngoài việc nhắm mắt lại mà rồ ga như để kêu cứu còn mặc sự thể ra sao thì ra!Mặc dầu vậy,song anh cũng còn ý thức được:có những hòn đá va chạm vào xe,còn các hòn khác trúng vào chân đau điếng.

Cũng vừa lúc ấy, một hồi còi dài vang lên rồi tiếp là tiếng xình xịch mỗi lúc càng gần.Biết là có tàu đi qua,mừng quá như thể là được cứu tinh xuất hiện đúng lúc vây.Anh mở mắt ra thì thấy từ nơi anh đứng cho tới cả trăm mét về phía trước ánh đèn tàu chiếu sáng rực rỡ.Song, trong ánh đèn anh chẳng thấy hòn đá cuội nào cả! Không biết chúng lăn đi đâu mất rồi!Chắc chắn đó là ma Chàm nhát anh rồi,anh nghĩ thế!May mà có đoàn tàu đi qua đúng lúc;còn không thì cũng chẳng biết làm sao! "Thôi bây giờ còn không biết "tẩu vi thượng sách" nữa hay sao mà còn đứng đây?!"-Anh tự nói với mình như thế.Rồi rồ ga chạy cùng với đoàn tàu.Nhưng xe anh thì làm sao chạy nhanh bằng tàu!Chạy được một quãng thì đầu tàu cũng vượt qua rồi dần dần đổi hướng (vì đường sắt lúc này không còn song song với đường bộ nữa mà rẽ về hướng khác.).Và đoàn tàu đã trả lại cái không gian tối mịt phía trước cho anh.Vừa tiếp tục cho xe chạy vừa nhìn đoàn tàu một cách luyến tiếc.Trông những toa tàu đang vùn vụt lướt qua,hành khách trong toa ngủ gà ngủ gật, thỉnh thoảng có vài người còn thức nhìn ra cửa sổ ngắm bầu trời đêm.Qua ánh sáng hắt ra từ cửa sổ một toa tàu kế tiếp, anh chợt thấy bóng một người đàn bà tóc xoã mặc bộ đồ trắng lợp (loại đồ giống như đồ người ta thường mặc cho xác chết trước khi liệm)hai tay đang chống lên thành cửa sổ toa tàu,một nửa thân trên đã chòm vào bên trong,nửa kia thẳng đuổng còn ló ngang bên ngoài.Không biết anh chàng đang ngồi bên khung cửa sổ đó có thấy người đàn bà kia hay không?!Vừa mới qua một cơn kinh hoàng như ác mộng chưa kịp hòan hồn,rồi tiếp cái cảnh tượng ghê hồn này nữa làm anh sắp vãi ra quần luôn! Cũng may là cái bóng người kỳ quái đó theo đoàn tàu nhanh chóng bỏ anh lại phía sau nên anh chỉ rùng rùng mình mấy cái mà thôi.Anh nói, giả như lúc ấy người đàn bà bất ngờ không bám theo tàu nữa mà bay về phía anh với cái mặt trắng bệch như trét sáp không có mắt mũi miệng gì hết thì không biết bây giờ anh có còn ngồi đây mà kể cho tôi nghe không!

Còn lại một mình trên con đường tưởng như vạn lý,giờ này anh mới thấm thía cái nỗi sợ hãi khi cô đơn một mình ở nơi ma quái!Rồi anh cũng chợt nhớ ra trên đoạn đường anh thấy người đàn bà ban nãy,cũng là chỗ vợ thầy ba Xoài đã bị xe lửa tung chết. "Hay đó là hồn ma bà ấy?"-Anh mơ hồ nghĩ vẫn vơ.

Chạy được một quãng chừng hơn cây số,anh thấy một lũ trẻ nhỏ độ chừng mươi đứa đang đùa giỡn với nhau giữa đường ngay trước đầu xe của anh dường như chúng chẳng quan tâm gì sự có mặt của anh cả.Chúng chẳng những không tránh đường cho anh mà cứ xô đẩy nhau về phía anh.Qua ánh đèn,anh thấy lũ trẻ trông đứa nào, đứa náy đen đúa,lem luốc lắm, mặc độc chiếc quần tà lỏn,mình trần trùng trục.Có một đứa ngước lên nhìn anh,rồi kéo một đứa khác lại nói gì đó anh không nghe rõ.Thấy đứa kia gật đầu tỏ vẻ đắc ý lắm. "Quái lạ,con nít nào lại chơi giỡn vào canh khuya thế này?!Thôi chết,gặp rồi!".Vừa nghĩ tới đó da gà bắt đầu nổi lên,anh thấy run,tay chân dường như muốn cứng lại.Song anh cũng đánh liều lách qua đám con nít,chớ hết đường rồi!Khi xe mới vừa lọt qua được,anh chưa kịp rồ ga lấy đà… vọt thẳng thì anh nghe có tiếng: "Tụi mày ơi, quá giang xe về nhà đi!".Anh thấy chiếc xe chao đảo mạnh,anh phải giữ chặt tay lái lắm chiếc xe mới không bị ngã.Anh nghĩ chắc tụi nó leo lên xe hết rồi,vì cảm thấy chiếc xe như đang chở nặng lắm, chạy không muốn nổi,nhưng anh cũng không dám nhìn ra đằng sau.Bây giờ chỉ còn cách duy nhất là ráng gồ hết ga mà chạy thôi!Trông cho mau tới chỗ,vái trời cho "con ngựa già" đừng trở chứng! Xe cũng từ từ bắt được trớn chạy nhanh dần,nhanh dần.Rồi anh thấy mình cứ chạy mãi,chạy mãi!!!

*

* *

Anh nghe văng vẳng bên tai: "Ông này uống rượu say rồi chạy lủi vô đây nằm ngủ.Gan thiệt! Đúng là điếc chẳng sợ súng!". "Hay ổng bị té chấn thương sọ não chết rồi?"Lúc đó anh giật mình tỉnh lại,ngơ ngác nhìn quanh quất mới biết là anh đang nằm kề chiếc xe của mình trên một láng đất rộng,chớ đâu có đang lái xe!Anh muốn trả lời cho mấy người đang nhìn anh,nhưng anh không tài nào nói được,chỉ ớ ớ được vài tiếng.Thấy anh tỉnh dậy,mọi người mới dám lại gần đỡ anh,dựng xe dậy.Có người giúp anh lấy từ trong họng ra nào là giẻ rách,cứt dê,cứt bò đủ thứ.Rồi cố gắng lắm anh mới nói được bình thường trở lại.Anh kể lại toàn bộ sự việc xảy ra với anh hồi đêm.Người ta nói là anh đã gặp ma Chàm và chúng đã dẫn anh vào nghĩa địa của đàn chúng để làm mồi cho cặp rắn thần giữ mộ.May mà phước phận của anh còn lớn lắm nên mới không bị cặp rắn đen to bằng bắp vế nơi đây làm hại.Người ta còn cho biết thêm: ở nghĩa địa này đã có nhiều người bị cặp rắn này cắn chết,xác họ bầm đen.Nghe nói thế,lúc đó một lần nữa,anh lại gần vãi ra quần!Anh lấm lét đảo mắt nhìn quanh và nhận ra: đây chính là khu nghĩa địa của người Chàm-những nấm đất lúp lúp, hai đầu mỗi nấm có hai viên đá cuội tròn tròn,thứ đá mà anh thấy lăn hồi hôm. Ôi kinh quá!

Không biết có phải vì sợ quá hay sao mà khi về nhà,anh Tư ngựa ốm liệt giường hơn cả tháng,thuốc thang đủ thứ mà vẫn không khỏi,bệnh tình mỗi lúc càng nặng thêm.Hàng đêm anh ngủ thường mơ thấy anh lạc tới một nơi nào đó âm u,hoang vắng lắm.Bỗng nhiên một cặp rắn có mồng trên đầu,toàn thân đen xì to và dài lao tới trước mặt anh ngóc đầu lên thật cao lắc lư qua lại dường như muốn nhào tới cắn anh.Khi đó anh sợ quá hét to lên rồi giật mình tỉnh giấc.

Có người nói anh đã bị vướng ở nghĩa địa Chàm.Cho nên hàng đêm anh mơ thấy cặp rắn,có nghĩa là hồn anh đã trở lại khu nghĩa địa.Thấy hồn anh tới cặp rắn giữ nghĩa địa mới ra để doạ anh.Cặp rắn này chẳng phải là rắn thường.Mà cặp rắn này là rắn thần do các thầy Chàm cao tay ấn luyện phép mà thành.Do đó bệnh anh chỉ còn cách mời thầy Chàm làm phép hoá giải may ra mới khỏi được.

Âm hồn xe lửa (2)

Một đêm nọ,bà con lối xóm dọc theo hai bên đường xe lửa bị đánh thức bởi ba hồi còi tàu dài lanh lảnh trong đêm.Theo kinh nghiệm khi nghe ba hồi còi dài như thế ở cùng một địa điểm, đó là tiếng còi báo hiệu tàu có sự cố.

Chẳng hạn như máy hư,xì ống hơi thắng…hay tung phải người,súc vật…Nhưng trên đoạn đường này thì khả năng tàu đã tung người hay trâu bò thường xảy ra hơn cả.

Sau ba hồi còi dài,rồi cứ vài phút lại một hồi dài vang lên.Biết có chuyện chẳng lành,những người hiếu kỳ mới chạy về chỗ xe lửa dừng để tìm hiểu sự thể ra sao.

Sáng hôm sau tin chuyến xe lửa hồi đêm bị dừng đột ngột và toàn thể nhân viên cùng khách trên tàu phải chứng kiến một cảnh tượng ghê rợn chưa từng thấy từ trước tới nay nhanh chóng loang ra khắp nơi. Đi tới đâu cùng thấy người ta tụ năm tập ba xôn xao bàn tán,nhìn bộ ai nấy cũng đều tỏ ra nghiêm trọng lắm.Nguồn thông tin được xem là đáng tin cậy hơn hết là của nhóm nhân viên xe lửa.

Qua tìm hiểu thì được biết câu chuyện như sau:

Đêm hôm đó chuyến tàu khách Bắc –Nam đang chuyển bánh trên đoạn đường vừa tới gần cầu Sông Quao.Người điều khiển tàu kéo một hồi còi thật dài để báo hiệu có tàu sắp qua cầu; đồng thời dưới ánh đèn pha sáng rực của tàu,anh ta quan sát chẳng thấy bất kỳ chướng ngại nào ở phía trước.Yên tâm cho tàu qua cầu bình thường như mọi lần.Khi đoàn tàu vừa qua hết cầu thì anh bỗng thấy xuất hiện một bóng người đàn bà đang ngồi cúi gục giữa lòng đường,lưng quay về phía đoàn tàu và chỉ cách đoàn tàu chừng vài mươi mét.Quá bất ngờ,anh chỉ kịp hành động theo phản xạ:kéo còi và đạp hơi thắng, rồi nhắm mắt lại để đừng trong thấy những gì ghê gớm sắp xảy ra phía trước.Cho đến lúc nghe một tiếng "rầm" cụt ngủn ở đằng trước, anh mới kinh hoảng la lên : Ááááá,trời ơi,tung chết người rồi!Tiếng la thất thanh của anh đã đánh thức các nhân viên khác. Đoàn tàu cũng chạy được một quãng nữa rồi dừng lại.

Khi tàu dừng hẳn,mấy người mới cầm đèn chạy xuống.Trời ơi, dưới ánh đèn, đập vào mắt họ là một cảnh vô cùng rùng rợn mà ai cũng không khỏi kinh hãi:Một cái xác bị đứt làm hai khúc,khúc đầu nằm mé ngoài đường ray;khúc kia là một một đống nhày nhụa,máu me đỏ lòm nằm bên trong lòng đường ray,dưới lòng tàu, cách khúc kia hai ba thước.Chỗ hai đầu bị bánh xe nghiến đứt ra:những sợi thịt bị dập lầy nhày,cùng với ruột,gan,phèo,phổi lòi ra cả đùm.Nhìn cái đầu lại càng rùng rợn hơn:cái miệng há to toác hoác,cái lưởi thè dài ngã qua một bên,máu đang trào qua khoé miệng.Còn hai con mắt trợn to đang nhìn trừng trừng.

Ôi,kinh khiếp quá!Tội nghiệp quá!Ai nấy khi mới nhác trông thấy,tay chân cũng muốn rụng rời!Nhưng nỗi kinh hãi ấy cũng nhanh tan biến đi,và liền thay vào đó là nỗi vui mừng của những tay bợm nhậu vì đã gặp một món mồi béo bở!

Họ nhanh chóng vực hai khúc xác kia lên tàu.Ai nấy đều hí hững vì sắp được thưởng thức món cừu nướng thơm lựng với mấy lon Tiger;thật ngon bổ biết chừng nào!

Lên tàu,bọn họ còn chế giễu anh chàng kia trông gà hoá quốc!Tức lắm,nhưng anh không thể nào chống chế được.Vì bằng chứng rõ ràng trước mắt anh là xác một con cừu bị cán đứt làm hai khúc chớ đâu phải xác người, nên đành nín lặng mà không nói một lời nào,nhưng trong lòng anh cảm thấy như có một điều gì đó không được bình thường cho lắm.Vì anh thấy một bóng người đàn bà rõ ràng kia mà!

Sửa soạn cho tàu chạy lại,nhưng kỳ lạ,đã mở máy thật lớn mà đoàn tàu chẳng nhích được chút nào.Xem lại mới biết hệ thống thắng không hoạt động được nữa.Vài người cầm đèn xuống tàu kiểm tra hệ thống ống thắng. Thì cũng vừa lúc đó toàn bộ ánh sáng trên tàu bỗng nhiên tắt phụt làm hành khách nhốn nháo cả lên (bởi họ chưa quen với bóng tối).Song cũng nhờ hôm ấy trời có trăng,ánh trăng hạ huyền mờ mờ soi qua mấy cửa sổ tàu cũng tạm làm cho không gian bên trong các toa cũng không đến nổi tối đen như mực.

Cũng bất ngờ như hành khách nên mấy người còn lại đang kiểm tra trên đầu máy vẫn đứng đó nhắm và mở mắt liên tục để quen dần với bóng tối.Có một anh chàng vừa mở mắt ra thì chợt thấy, ối trời ơi khủng khiếp quá, ở đằng trước một khúc thân người gồm một cái đầu tóc tai bù xù xoã xuống che khuôn mặt nửa kín,nửa hở,song cũng đủ để trông thấy rõ rang cái gương mặt trắng bệch,hai hóc mắt đen ngòm,cái miệng toàng hoạc,phía là một phần ngực đeo thêm một đùm gì đó lòng thòng. Ôi, cái khúc thân ấy đang bay thật nhanh về phía anh,về phía đầu tàu. Đang lúc hoảng hốt ,hồn vía như lên mây lên mưa,miệng mồm cứng ngắt không nói được lời nào thì, ào một cái,cái khúc thân người kinh dị kia đã dán sát vào tấm kính.Theo phản xạ, anh hét lên cái "Á!!!",hai tay giơ lên chới với,chân bước lùi ra sau.Vừa mới lùi được chừng hai bước,chân anh bị cản lại bởi một khối gì đó mềm mềm làm anh té phịch nằm chết lặng trên đó.Khi đó hai anh kia cũng hoảng hồn la bài hãi vì họ thấy khúc thân người kia đang dán sát vào kính mở mắt trừng trừng nhìn hai đứa ảnh!

Còn anh chàng kia vừa ngã xuống chưa kịp hoàn hồn thì lại tiếp nghe các bạn của mình la bài hãi như thế, nên nhắm mắt lại luôn để không phải chứng kiến cái cảnh gì nữa tiếp theo sau đó.Nếu lỡ mà cái khúc người ấy có đập kính chui vô được thì cũng tưởng là anh đã chết rồi, không thèm lôi anh dậy để liếm láp vào mặt nữa!Xui rủi mà cái khúc người đó lôi anh dậy liếm cái mặt anh một cái,chắc anh sẽ không còn cơ hội nào ngồi nhắm miếng thịt…cừu béo bỡ nữa rồi!Thôi giả chết cho chắc ăn!

Nhưng rồi sau đó, anh không còn nghe tiếng la nữa,tưởng cái khúc người đó đã chui vô hớp hồn hay ăn thịt hai tên kia rồi.Anh mới len lén hé mắt nhìn vì sợ tới lượt mình. Ôi,may quá,anh không còn thấy cái khúc người kia đâu nữa cả,nó đã biến đâu mất rồi,chỉ còn hai tên kia đang ngồi ôm nhau run cầm cập, mà bản thân anh cũng chẳng khác gì chúng nó.Thấy sự thể không còn nguy hiểm nữa,anh vừa run vừa chống tay lòm còm ngồi dậy.Song, cũng vừa lúc ấy anh chợt phát hiện ra cái đống mềm mềm mà anh đã ngã đè lên là không phải xác con cừu chính anh đã vực lên hồi nãy mà là một xác người đàn bà bị đứt làm hai khúc.Thật vậy,anh đã nằm trên một xác người đàn bà bị đứt làm hai khúc,cái mặt y chang như cái mặt của khúc thân người hồi nãy! " Á!!!!!!!!" một tiếng dài rồi anh ngã quật ra nằm chết giấc bên cái xác.

Thấy điện vừa bị tắt rồi tiếp đó là tiếng la hét thất thanh,không biết đã xảy ra chuyện gì,một số hành khách hiếu kỳ ở mấy toa gần đó mới quờ quạng mò lên xem sao.Cũng lúc đó mấy người kiểm tra hệ thống ống thắng ban nãy cũng vừa kịp chạy về bước lên đầu máy.Trời ơi, dưới ánh ánh đèn Pin, đập vào mắt mọi người là một cảnh tượng khủng khiếp quá:rõ ràng cái xác người bị đứt làm hai khúc đang mở mắt trừng trừng nhìn bọn họ.Tên cầm đèn hoảng quá tung mấy tên kia ngã lăn nghiêng lăn ngửa tìm đường nhảy lại xuống tàu vừa chạy thục mạng vừa la hét thất thanh như điên như dại.Mấy hành khách chạy lên trước cũng thấy cảnh tượng hãi hùng như thế nên thất kinh hồn vía la hét om xòm chạy ngược trở lại xô đẩy mấy người lên sau té ngã rầm rầm làm ai nấy trên mấy toa gần đó cũng phách tán hồn siêu.Như một luồng điện lan truyền,hành khách ở các toa khác cũng hoảng loạn khóc kể ,la lối om xòm.Sau đó hỏi ra mới biết họ đã thấy một người đàn bà bị đứt làm hai khúc,ruột gan lòi ra lòng thòng di chuyển ngờ ngờ như quỷ nhập tràng theo lối đi giữa hai hàng ghế từ đầu tới cuối toa.May mà nó chỉ di chuyển thôi chớ không tới ôm ai.Chắc nó chưa thấy ai hợp với nó?!

Khi sự hoảng loạn của mọi người loang tới toa khách cuối cùng thì đèn đuốc cũng vừa bật sáng,tất cả đều hoạt động bình thường trở lại, chẳng cần có một sự sửa chữa nào.Lúc này mọi người cũng vừa phát hiện ra là cái xác người bị đứt làm hai hay cái xác con cừu đã biến đi đâu mất tiêu rồi.Hay thừa lúc hoảng loạn có ai đó đã phỏng tay trên vác cái xác người đàn bà ấy về làm mồi nhậu"?!"Toàn bộ sự việc vừa xảy ra đối với mọi người như là một cơn ác mộng vô cùng khủng khiếp!Rồi dần dần mọi người cũng lấy lại được bình tỉnh.Duy chỉ còn anh chàng chết giấc hồi nãy,vẫn còn bất tỉnh nhân sự,chờ chuyển đi cấp cứu.

Sau đó đoàn tàu được lệnh chạy ngược lại về ga để kiểm tra lại.Nghe nói toàn bộ hành khách chỉ bị nỗi sợ hãi ám ảnh mà thôi chớ không ai bị thương bị bọng gì cả!

*

* *

Người ta bàn tán,cái hồn ma làm náo loạn đoàn tàu tối hôm đó chắc không ai khác ngoài hồn ma vợ thầy ba Xoài đã bị xe lửa cán chết cách đó chừng hơn một năm. (còn tiếp)

Âm hồn xe lửa (3)

Người ta bàn tán,cái hồn ma làm náo loạn đoàn tàu tối hôm đó chắc không ai khác ngoài hồn ma vợ thầy ba Xoài đã bị xe lửa cán chết cách đó chừng hơn một năm.

Nghe nói vợ thầy ba Xoài bị chết thảm lắm.Hôm ấy vợ thầy ba đang đi xe đạp trên đường,tự nhiên tới đó bà để chiếc xe đạp ngã nhào vào bụi lức bên lề đường rồi rảo bước lên đường xe lửa.Lúc bà mới bước lên đường ray,có một vài người đi đường trông thấy.Nghĩ bà tìm chỗ đi tiêu, đi tiểu gì đó cho nên họ không quan tâm lắm.Cho đến khi xe lửa tới gần kéo còi inh ỏi mà bà chẳng hề hay biết,cứ như người mộng du lầm lủi bước đi mãi giữa lòng đường ray.Mặc dù tàu có hãm thắng,song không còn kịp nữa.Đoàn tàu còn ngon đà hung hản lao tới như con mãnh thú hất bà ngã nhào xuống nằm vắt ngang qua đường ray rồi nghiến thân bà đứt thành hai khúc.Bà chết mà hai mắt cứ mở trừng trừng!

Có người nói,bà chết là do âm hồn xe lửa xúi dục. Đó là những oan hồn của những người đã chết trên khúc đường này trước đây.Do họ chết oan ức hay chết bất đắc kỳ nên vong hồn của họ không siêu thoát được mà cứ lẫn quất chỗ họ đã chết để hù nhát những người còn sống,hay tìm người hạp với họ mà xúi dục người ta phải chết như cách họ đã chết.

Lại cũng có người cho rằng vợ thầy ba Xoài chết là do sự giải quyết ân oán giữa hồn ma hai mẹ con người đàn bà nọ cũng bị xe lửa cán chết với thầy ba Xoài.

Đó là những lời người ta bàn tán.Còn sự thật thì vợ thầy ba Xoài chết là do nguyên nhân nào thì tôi không biết.Song theo tôi biết trước vụ vợ thầy ba Xoài chết thì đã có nhiều vụ tai nạn chết người xãy ra trên đoạn đường này lắm.

Trước vụ tai nạn vợ thầy ba Xoài chừng vài năm,có một đôi tra gái yêu nhau mà cha mẹ không đồng thuận.Họ hẹn thề với nhau,nếu ở kiếp sống này họ không được là vợ chồng với nhau thì họ cũng sẽ mãi là chồng vợ ở cõi u huyền cho trọn lời nguyện ước. Và rồi cuối cùng họ đã chọn cái chết để được đến với nhau.Tối hôm ấy hai người dắt nhau ra đường xe lửa,ngồi ôm nhau bên vệ đường khóc than thảm thiết lắm.Cũng vừa lúc ấy họ thấy từ đằng xa,một vùng sáng đang di chuyển tới gần.Rồi càng lúc cái vùng sáng chói loà ấy càng đến gần hơn.Họ biết giây phút quyết định cuộc đời họ đã đến.Người con gái nắm tay chàng thanh niên kéo về phía đường ray,rồi cả hai nằm vắt ngang qua đó,nhắm mắt lại.Khi nghe tiếng động rầm rầm bên tai mỗi lúc càng gần hơn,lúc ấy cái bản năng hiếu sinh chợt trở lại dữ dội làm tan biến đi cái ý nghĩ quyên sinh,anh chàng không còn can đảm nằm chờ chết nữa.Anh mở mắt ra.Trời ơi, tàu đến quá gần rồi.Anh vung tay vọt dậy mà quên kéo theo người bạn chung tình.Tránh ra ngoài tầm sát thương của xe lửa,anh đứng đó như trời trồng lặng nhìn người yêu của anh vẫn yên lặng nhắm mắt để cho đoàn tàu ầm ầm chuyển động đi qua! Xác cô gái chung tình bị đoàn tàu cán đứt làm ba.Thấy sự việc xảy ra nhanh quá và khủng khiếp quá mức tưởng tượng, anh chàng kia như điên như dại khóc khóc,cười cười nói năng lảm nhảm.Mọi người đến xem,ai nấy cũng không tránh khỏi ngậm ngùi xót thương cho cô con gái còn trẻ người,non dạ!

Rồi hàng đêm sau đó,những người đi đường thường nghe có tiếng con gái khóc than thảm thiết.Có người dạn dĩ lần lên xem thử thì lại chẳng thấy ai,mà cũng không còn nghe tiếng khóc than nữa.Nhưng vừa quay trở xuống thì lại nghe càng rõ hơn.Nhất là những buổi chiều có mưa lớn,tối lại, khúc đường chỗ ấy-trời tối đen như mực, ếch ,nhái, ễnh ương hoà lên một bản nhạc thê lương não nùng buồn bã cùng với tiếng người con gái khóc than kể lể nữa khiến ai đi qua đều phải rợn tóc gáy!

Một buổi sáng nọ,cách ngày cô gái chết chừng một tháng,người ta phát hiện anh chàng người yêu cô gái cũng đã chết trên cùng chỗ ấy.Anh bị xe lửa cán đứt đầu:phần mình nằm xoài bên ngoài đường ray, còn cái đầu nằm lăn lóc trong lòng đường.Trông thật tội nghiệp!

Nghe nói,sau hôm cô gái chết,cứ mỗi chiều chiều,người ta thường thấy anh chàng này hay thơ thẩn chỗ người yêu đã chết với dáng bộ sầu thảm.Ai thấy cũng cảm thương!

Buổi chiều hôm trước cái đêm anh ta chết,anh ta có rủ mấy tên bạn đi nhậu.Bữa hôm đó anh ta uống thật nhiều.Trong cuộc nhậu anh ta có nói với bạn bè là anh ta uống với bọn họ lần cuối.Nhưng trong cơn men ngà ngà chẳng ai quan tâm đến lời anh trăn trối cả.Tàn cuộc nhậu mọi người ai về nhà nấy.Bọn bạn cũng tưởng anh về nhà,chớ đâu biết rằng kể từ hôm đó anh đi mãi không về!

Chắc cũng từ lúc anh chàng nọ chết cho đến sau này, ở khúc đường ấy,người ta không còn nghe tiếng người con gái khóc than nữa,mà thỉnh thoảng lại hay thấy hai cái bóng mờ mờ hình như thân thể không được toàn vẹn đang nắm tay nhau bay ngờ ngờ trên đường ray.Nhất là trong giới nhân viên xe lửa,họ kể truyền cho nhau nghe,có những chuyến tàu đêm qua chỗ đoạn đường này,họ thường thấy ở phía trước tàu có đôi trai gái,hình như người con trai bị cụt đầu ,nắm tay nhau di chuyển như bay về phía trước,hoặc có lúc bay ngược về phía đoàn tàu.Khi đụng vào đầu tàu thì không còn thấy họ đâu nữa, như là họ đã tan biến vào không gian.

Cho đến một tối hôm nọ,cũng trên đoạn đường đó,một đoàn tàu bất ngờ dừng lại ,hú còi inh ỏi.Mọi người kéo lại xem thì thấy nạn nhân là một người đàn bà bị xe lửa tán lộn nhào vào bụi gai ven đường chết ngay tại chỗ.Có người nhận ra người đó là một người bị mất trí đêm ngày đi lang thang lượm những đồ bỏ dơ dáy bậy bạ.Chắc trong lúc đi lang thang vô định như vậy tàu đến mà không hay biết nên bị cán chết.Nhìn chị ta nằm chết,ai cũng thấy động lòng trắc ẩn.Nhưng rồi cũng tự an ủi,thôi chị ta chết cho khoẻ xác,chớ thấy sống mà như thế tội nghiệp quá! Chết để giải nghiệp!

Sau vụ tai nạn của người đàn bà mất trí chẳng bao lâu,thì xảy ra hai vụ nữa gần như liên tiếp.Có một chị bán cá đồng,nhà ở tận mải ngoài này,cách chỗ thường xảy ra tai nạn xe lửa nói trên xa lắm.Nhưng chẳng hiểu sao chiều tối hôm ấy sau khi bán cá xong,chị lại không về nhà như thường lệ mà cứ lầm lủi đạp chiếc xe đạp cà tàng đi miết vào tận trong đó (nơi xe lửa cán chết người). Đến nơi,chị ta để chiếc xe lại bên dưới rồi lên chỗ đường ray.Vừa bước tới mép đường thì xe lửa cũng vừa trờ tới hất chị ta ngã nhào chết ngay giống như chị khùng trước đó.Tai nạn,tai nạn cứ liên tiếp xảy ra gần như ở một chỗ làm bà con sống ở những xóm dọc theo đường xe lửa kinh hoàng và lo lắng lắm.Bởi họ cho rằng chị bán cá ở xa như vậy mà còn bị âm hồn giục nữa,chớ nói gì họ ở gần!Nỗi lo lắng chưa nguôi thì một buổi sáng nọ,họ lại nghe ba hồi còi dài inh tai,biết là đã xảy ra chuyện nữa rồi khiến ai nấy cũng rụng rời tay chân!Nạn nhân hôm ấy là một chị ở Quảng Sơn đi bán khoai mỳ cũng chết cùng chỗ chị bán cá hôm nọ!

Sau cái vụ tai nạn đó nữa,cánh nhân viên xe lửa lẫn bà con, ai nấy ai cũng khiếp sợ chỗ đoạn đường này lắm!Tàu lửa qua đây dù thấy có hay không người cũng đều kéo một hồi còi thật dài cho đến khi tàu qua hết khúc đường này mới thôi.Còn người ta gọi đoạn đường chỗ này là đoạn đường âm hồn.Mà đúng vậy.Bởi nhiều hiện tượng ma quái xuất hiện thịch thượng ở nơi đây ngay cả vào ban ngày.

Theo như những người ở mấy cái rẩy gần gần đó kể:có những buổi tròn bóng nhìn ra chỗ ấy,người ta thấy bóng một người đàn bà cứ lầm lủi đi trên đoạn đường ray,đi tới một đoạn xa rồi quay trở lại,rồi lại đi tới,cứ thế.Có những lúc tàu lửa chạy tới,người ta thấy tung vào người đó rõ ràng,làm ai nấy trông thấy cũng hoảng hồn,vì nghĩ một tai nạn nữa đã xảy ra.Nhưng kỳ lạ thay,khi xe lửa đi qua rồi,họ lại thấy người đó vẫn lầm lủi đi bình thường như không hề biết có đoàn mới đi qua.Có người hiếu kỳ lần mò tới gần xem sao thì chẳng thấy gì cả ngoài những luồng khí nóng tung tăng uốn lượn bốc lên. Đó là vào ban ngày,còn ban đêm thì khỏi cần phải nói cũng biết nó rùng rợn tới cỡ nào!

Bẵng đi một thời gian không thấy tai nạn xảy ra,ai nấy cũng mừng thầm.Họ nghĩ chắc là mấy âm hồn kia đã đi đầu thai hết rồi, không còn ở đó xui giục người ta nữa.Song niềm vui chưa trọn vẹn thì bỗng tan biến đi thay cho nỗi kinh hoàng vì cái chết của vợ thầy ba.

Vợ thầy ba chết được một tuần,thầy ba có thiết lập một lễ cầu hồn lớn lắm để cầu hồn vợ thầy và cầu cho những âm hồn còn lẫn quất nơi đó siêu thoát, đừng khiến xui người ta phải bị tai nạn hay chết chóc nữa.

Mấy ngày sau lễ cầu hồn,thầy ba Xoài lại suýt bị chết vì xe lửa cán như vợ thầy.Người ta nghe thầy nói lại là bữa đó đang ngồi uống trà một mình thì thầy bỗng nghe có tiếng ai nói như là tiếng của vợ thầy: "Ông ơi ông, ông lên đường rày chơi với tôi đi ông.Một mình tôi ở đó buồn lắm!"Thầy nói,lúc đó thầy như mơ,như tỉnh,không còn biết phán đoán hay suy luận gì nữa,rồi thầy đi lúc nào cũng không hề hay biết.Bỗng nghe tiếng ầm ầm bên tai,thầy sực giật mình nhìn lên thì thấy xe lửa chỉ còn cách thầy trong gang tất. Ối,trời ơi,không còn kịp phản ứng gì nữa,thầy nhắm mắt lại thì thấy bị nhất bổng lên rồi rơi xuống một cái ịch.Thầy tưởng là mình đã chết rồi.Thầy mở mắt ra đưa tay ngắt thử thấy còn biết đau, đưa tay lên mũi thấy còn hơi thở.Thầy mừng quá biết mình chưa chết.Lúc này thầy mới thấy toàn thân nhức nhối khó chịu, định thần mới biết là thầy đang nằm trụm lụm trên bụi gai bàn chải.

Tin thầy ba suýt bị xe lửa cán lan đi rất nhanh.Ai cũng nói, phước của thầy cũng còn nên mới có lực vô hình trợ giúp.

Có người biết rõ về thầy ba,người ta nói sở dĩ thầy ba bị giục lên đường rày, đó là do sự trả thù của hai hồn ma mà ngày trước đã bị thầy khống chế. Chuyện của thầy với hồn ma là thế này:

Hồi đó, vào khoảng những năm 80,một hôm nọ có một số chị em đi làm sớm.Lúc ấy còn khuya lắm, độ chừng hai-ba giờ sáng.Trong nhóm chừng năm người,họ vừa đi vừa nói chuyện.Tới khúc đường chỗ ấy,thì tự nhiên có một cô gái không nói chuyện với chị em nữa mà tách ra khỏi nhóm lầm lủi đi trước.Nghĩ là cô gái muốn sớm đến chỗ làm, nên mọi người cũng không nói gì chỉ chú ý đi nhanh hơn một chút thôi.Nhưng thấy đi hoài mà chưa đuổi kịp cô gái ấy.Có người định gọi cô ta đi chậm lại.Song chưa kịp gọi thì bỗng nhiên họ nghe có tiếng con nít khóc ở bụi cây lức phía trước.Tiếng khóc gọi mẹ,mà sao cái âm thanh phát ra nghe éo éo,mơ mơ hồ hồ lạ thường lắm! Thấy vậy mọi người liền sinh nghi.Họ thắc mắc, làm sao mà có chuyện con cái nhà ai lại bỏ khóc la ở chỗ vắng vẻ vào lúc còn khuya khoắc thế này!Hay là ma?Chắc có lẽ gặp rồi!Họ nghĩ vậy nên không dám gọi cô gái nữa.Họ sợ gặp ma mà nói là nó hớp hồn.Cho nên họ cố đi nhanh tới mà miệng câm như hến không ai nói với ai tiếng nào.Họ thấy thằng nhỏ vừa khóc vừa sấn lại gần cô gái kêu mẹeeee,meeee.Họ nghe cô gái trả lời với thằng nhỏ: "Chị không phải là mẹ của em đâu.Chớ mẹ em đi đâu mà bỏ em ở đây? Hình như chỉ chờ cho cô gái trả lời thì thằng nhỏ im bặt không còn khóc kể gì nữa.Thấy vậy họ mới khả nghi hơn,giả vờ đi bình thường như không hay không biết chuyện gì,nhưng thật ra họ chú ý quan sát rất kỹ.Coi con ma này giở trò như thế nào!Nói chung lúc ấy ai cũng cảm thấy sợ, nhưng vì có mấy người nên đở sợ hơn.Khi ấy họ thấy cô gái cứ lầm lủi bước theo thằng nhỏ như người mộng du.Cô ta theo thằng nhỏ bước vào lối mòn ở giữa các bụi cây lức rồi lần bước lên chỗ đường ray.Biết chắc là âm hồn giục cô gái rồi,ai cũng thấy rợn tóc gáy.Song thấy tình hình nguy quá,vì xe lửa đang đến gần cô gái rồi,mọi người quên hết sợ hãi chạy nhào lên nắm tay cô gái kéo ngược trở lại.Còn thằng nhỏ thì biến đâu mất biệt.Thình lình bị kéo giật lùi trở lại,suýt bị ngã ngửa,cô gái bỗng giật mình bừng tỉnh.Ngơ ngác nhìn quanh quất,không biết chuyện gì đã xãy đến với mình.Cũng vừa lúc ấy,mọi người đều nghe rõ mồn một tiếng cười sằng sặc ma quái lẫn trong âm thanh chuyển động ầm ầm của đoàn tàu chạy ngang qua.

Những ngày sau đó,cô gái không còn được bình thường như trước nữa:Hay có những cử chỉ,hành động kỳ cục,nói năng lảm nhảm,khóc cười vô cớ…Có lúc cô chạy lên đường ray nằm vắt ngang qua đó.May mà người nhà phát hiện dẫn cô về.

Biết cô bị mắc chuyện, gia đình đưa cô đến các vị pháp sư chạy chữa.Mặc dù đã đến nhiều vị pháp sư nghe đồn rất giỏi,nhưng rồi cũng chẳng ăn thua gì!

Cuối cùng đến lượt thầy ba Xoài.Không biết thầy dùng phép thuật sao đó mà gọi được hai cái vong về lần lượt nhập vào cô gái. Đó là vong của hai mẹ con.Qua xét hỏi thì vong người mẹ khai là hai mẹ con họ bị xe lửa cán chết.Khi trên chuyến tàu đi về Sài Gòn,vì không mua vé nên sợ kiểm soát viên đuổi xuống.Người mẹ ẳm đứa con trên tay không dám vào bên trong toa mà đứng ngoài đầu tâm bong (chỗ nối hai toa tàu với nhau).Khi tàu tới đoạn đường này thì bị hụt chân rớt xuống tàu rồi bị đoàn tàu cán chết cả hai mẹ con.Từ đó đến nay hai mẹ con sống vất vưởng chỗ khúc đường này.Bây giờ đứa con trai đã lớn nó đòi vợ nên bà ta đã chọn cô gái này cho nó làm vợ.Tới lượt đứa con nhập vào và cho biết nó yêu cô gái này,rất muốn lấy cô ta làm vợ.Tối hôm đó gặp trúng giờ linh lại thấy cô ta đang đi qua chỗ đó nên nó mới giả ra đước nhỏ để dụ cô gái lên đường rày cho xe lửa cán chết, rồi nó bắt phải ưng nó.Nhưng nó rất tiếc số cô gái còn có cứu tinh nên chưa chết được.Cho nên bây giờ nó cứ theo một bên để giữ cái xác của cô ta không cho cô ta lấy chồng.Chờ đến lúc thuận tiện nó sẽ dẫn cô cho xe lửa cán chết.Nó nói,theo luật cõi âm,nếu nó muốn ưng được cô ta thì phải tìm cách khiến cô ta phải chết giống nghiệp của nó.

Chờ họ nói xong, thầy ba mới khuyên hai mẹ con nên tha cho cô con gái tội nghiệp,nên buông xã tất cả để được siêu thoát.Nhưng mà họ chẳng chịu.Thằng con trai nói là nó thương cô gái lắm rồi,nhứt quyết nó không chịu bỏ cô gái ấy.Thấy không còn cách nào thuyết phục được nữa,nên thầy đành phải dùng tới phép thuật.Lúc đó nó mới chịu bỏ cô gái.Nhưng trước khi ra đi,nó còn nói với ông thầy là một ngày nào đó nó sẽ gặp lại ông.

Về sau này hình như hết lộc làm thầy, thầy ba Xoài làm phép không còn linh nghiệm nữa,nên thầy mới treo ấn,xả phép giải nghệ làm thầy.Phải chăng cái vong thằng con trai đó chờ dịp này trả thù thầy?!Khiến vợ thầy chết rồi tới thầy?!

Sau bữa thầy chết hụt,con cháu quan tâm để ý tới thầy nhiều lắm,sợ thầy bị dẫn đi lần nữa.Nhưng một bữa nọ,cách đó mấy hôm, không biết con cháu sơ ý thế nào mà thầy ba lại ra đi .May mà con cháu phát hiện kịp thời chặng lại khi thầy đang bước lên đường rày.Lại một phen hú hồn.Không dám để thầy ba ở đây nữa,nghe nói gia đình đã đưa thầy ba vào ở với đứa con gái đâu ở tận miền nam. (còn tiếp)

Linh miêu và câu chuyện quỷ nhập tràng

Linh miêu - theo truyền thuyết - là một loại "mèo ma", được sinh ra từ cuộc hôn phối "rừng rú" ngẫu nhiên và hiếm có giữa con mèo cái đen tuyền với một con rắn hổ.

Đặc điểm của linh miêu là rất thích ăn trứng gà sống, thích rình bắt và cắn cổ gà cho đến chết rồi nhai xương luôn. Nó lớn lên nhanh hơn nhiều so với đồng loại, càng lớn móng vuốt của nó càng dài, càng bén nhọn như dao, đặc biệt đôi mắt thường toát lên những tia nhìn dữ tợn, đầy ma lực.

Từ những đặc điểm "ma quái" trên và qua những lời đồn đại nhiều đời, người ta bảo linh miêu nhảy chồm qua xác chết luôn gây nên hiện tượng quỷ nhập tràng. Hiện tượng đó ngày nay được giải thích, đại khái người chết bỗng nhiên ngồi dậy là do hấp lực của luồng điện dương (của các cơ thể sống) đối với nguồn điện âm chưa kịp tan hết (của thi thể người vừa qua đời) và xem đây là cảm ứng điện trường. 

Tuy vậy, người ta vẫn tiếp tục bị cuốn hút bởi những câu chuyện về quỷ nhập tràng và linh miêu được truyền miệng đến tận nay ở khắp nơi như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Sri Lanka và Việt Nam.

Tương truyền có một cô gái xinh đẹp chưa đầy 20 tuổi bị ám hại, trước lúc qua đời trên mặt và dưới cằm cô gái bỗng mọc đầy một lớp lông mỏng mịn trắng như tơ và hai mắt chợt xanh biếc sáng long lanh như mắt một con mèo cái đi hoang giữa đêm trừ tịch. Cô xuất thân từ một gia đình nghèo khổ. Ngày kia có đoàn người giàu có bưng mâm quả đựng của ngon vật lạ đến trước túp lều cỏ xin cưới cô gái về làm vợ cho người chủ của mình. 

Cha mẹ cô gái nghèo khổ đồng ý gả cô gái để cô có được cuộc sống sung sướng. Nhưng khi về nhà chồng, cô đối diện với một nỗi bẽ bàng. Vì người vợ cả không sinh được con nên ông chủ muốn tìm một người vợ nhỏ để có con nối dõi tông đường. Khi cô gái mang thai, người vợ cả nảy lòng ganh ghét. Ngoài mặt bà tỏ ra vui vẻ lui tới thăm hỏi, nhưng âm thầm hãm hại người vợ nhỏ, lén lút trộn thuốc vào đồ ăn để phá thai. Đến kỳ mang thai lần thứ hai, người vợ nhỏ vẫn không hay biết gì, nên bị người vợ cả một lần nữa trộn thuốc làm hư thai. Đến lần mang thai thứ ba thì người vợ nhỏ phát hiện ra việc làm độc ác của người vợ cả nên giấu kín cái thai trong bụng.

Đến khi cái thai to dần và thấy rõ, lòng ghen tức của người vợ cả bùng lên. Bà tiếp tục dùng vàng bạc mua chuộc gia nhân để trộn thuốc phá thai vào các thang thuốc bổ cho người vợ nhỏ uống. Hậu quả là đứa trẻ sắp ra đời chết trong bụng mẹ, khiến người mẹ đau đớn, vật vã suốt ngày đêm đến kiệt sức. Trong cơn hấp hối, người vợ nhỏ uất hận cất lời nguyền:

"Ngươi đã ba lần giết chết ba đứa con ta trong khi còn thai nghén. Lần này ngươi đã giết cả ta nữa. Ta thề nếu đầu thai vào kiếp sau ta sẽ đi theo người để hễ người sinh đứa con nào ta sẽ ăn thịt đứ con đó và sẽ giết chết cả ngươi!"

Quả nhiên, khi chết đi, cô vợ nhỏ đầu thai làm một con mèo đen, còn người vợ lớn đầu thai làm một con gà mái. Hai con vật có tiền kiếp ân oán nặng nề kia cùng ở chung một mái nhà. Hễ con gà mái (người vợ lớn) đẻ ra trứng nào đều bị con mèo đen (người vợ nhỏ) rình ăn sạch. Qua ba lứa mèo đen ăn hết trứng, đến lứa thứ tư ăn tròng đỏ trứng xong, nó liền vồ luôn gà mẹ ăn sống tại chỗ.

Cả hai chết đi, con gà mái lại hóa kiếp làm con beo (người vợ lớn), con mèo đen hóa kiếp thành con nai cái (người vợ nhỏ). Hai con sống trong một cánh rừng. Hễ con nai cái đẻ được đứa con nào đều bị con beo trườn tới bắt ăn thịt. Đến lứa thứ ba, con beo ăn luôn con nai mẹ.

Con nai mẹ chết đi trong oán giận, đầu thai thành một loài quỷ dữ, tay chân có móng vuốt, mắt sáng như đốm lửa và mặt mũi y như một con mèo ma, đó là hắc dạ xoa (người vợ nhỏ). Còn con beo lại hóa kiếp thành một phụ nữ xinh đẹp, lấy chồng và sinh con (người vợ lớn). Những đứa con đầu lòng vừa đầy tháng , hắc dạ xoa dùng phép thần thông hóa ra một cô gái hiền lành bắt lấy đứa con nhỏ ra khỏi nhà ăn thịt. Đứa thứ hai cũng bị hắc dạ xoa bắt đi như vậy. Đến đứa thứ ba, hai vợ chồng bàn nhau bồng đứa con mới sinh đi nơi khác sinh sống.

Trên đường đi, hắc dạ xoa đuổi theo và hóa thành một cô gái tiến lại gần hai mẹ con nọ. Người mẹ linh cảm nguy hiểm, biết quỷ giả dạng người để hại mình, nên bồng đứa con chạy vào nơi Phật Thích ca mâu ni đang thuyết pháp để xin cứu giúp. Lúc ấy, hắc dạ xoa đã đuổi tới nơi, được Phật gọi vào và giải thích ân oán của hai bên, khiến người này phải ăn thịt người kia, con của người kia đẻ ra bị người này ăn thịt lại, làm gà, làm nai, làm beo, làm mèo, làm hắc dạ xoa, cứ thế xoay vòng bất tận nếu không thức tỉnh. Rồi Phật khuyên: "Lấy oán kết oán, oán ấy không tan - lấy ân giải oán, là lẽ muôn đời". Nghe xong, hắc dạ xoa, tức miêu quỷ (người hóa kiếp mèo), rụng hết móng vuốt, lông lá và phát tâm đại bi, khôi phục lại thân người và không lâu sau thành quả thánh.

Người kể chúng tôi nghe chuyện trên là một thiền sư ở tịnh viện Bát Nhã núi Dinh, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, với lời nhắn nhủ đầu năm: "Đây không phải là câu chuyện truyền miệng bâng quơ hoặc sáng tác văn học thời nay, mà đã chính thức được chép vào tam tạng Thánh điền từ xưa và nằm trong kho tàng các chuyện cổ về giáo huấn của phương Đông".

Cây ráy thành tinh (1)

Nhớ hồi đó tôi được điều động đến tăng cường công tác ở một nơi xa nhà hơn năm mươi cây số. Lần đầu tiên phải nhận công tác ở miền sơn cước xa xôi, hẻo lánh, vùng mà trước đây được xem như vùng rừng thiêng nước độc, tôi thật bị động vô cùng. Cho dù cấp trên chưa đúng trong việc phân công, nhưng trước mắt phải nhận sự phân công cái đã, còn chuyện đúng sai tính sau. 

Trước ngày chính thức nhận công tác, tôi đã tới nơi này quan sát, làm quen với đường đi nước bước ở một nơi mà mình chưa hề đặt chân đến; mà cũng là để tìm hiểu nhân tình ở đây và tìm cho mình một nơi trọ tương đối tin tưởng. 

Trong lúc chạy xe dạo vòng quanh cách chỗ tôi sẽ công tác chừng hai cây số, tôi bỗng phát hiện một ngôi chùa. Lòng mừng khấp khởi, vì nghĩ chỉ có chùa là chốn an toàn và lý tưởng nhất để cho con người lần đầu tiên đến một nơi xa lạ không một người quen biết như tôi chọn làm chỗ dung thân. Nghĩ thế, nên tôi đánh bạo vào chùa xá sư trụ trì, kể rõ tình cảnh của mình, và xin được tá túc. Với tâm từ bi nhà Phật luôn thương xót , mong muốn cứu vớt chúng sinh, sư trụ trì đã hoan hỷ cho tôi trọ tại chùa. Lòng vui mừng khôn xiết, tôi đảnh lễ sư tỏ lòng tri ân. 

Ngôi chùa được xây dựng đơn sơ trên khu đất tương đối rộng với nhiều cây cối sầm uất, hơi cách xa khu dân cư. Nhìn ngôi chùa ẩn hiện sau những tán cây cổ thụ thấy toát lên vẻ thanh thoát, u trầm, tĩnh mịch, trang nghiêm, cổ kính làm cho ta có cảm giác bình yên, tạm quên đi bao nỗi muộn phiền, những vất vả, lo toan của cuộc sống thường ngày cứ luôn đè nặng tâm trí. 

Trừ những ngày lễ, kỵ còn ngày thường, ban ngày chùa vắng lắm vì bà con bận đi làm, buổi tối thì có các cụ, các cô lớn tuổi đến tụng kinh một chút rồi về. Chùa chỉ còn lại một mình sư trụ trì thui thủi! 

Tôi được sư cho trọ ở gác trống sấm. Cơm nước ăn chung với sư. Sau mỗi buổi làm về tôi nhận công việc quét dọn chùa, xách nước tưới mấy cây cảnh xung quanh. Còn sư thì kinh kệ công phu hai buổi sớm chiều. 

Sau buổi cơm chiều hai thầy trò ngồi ở bàn nước bên hiên chùa hủ hỷ tâm sự chuyện đời, chuyện đạo, cùng ngắm cảnh núi rừng chìm dần trong tối. Trong đó có những câu chuyện thầy kể về lịch sử, địa lý, con người của vùng đất nơi đây. Mỗi câu chuyện đều gắn liền với bao điều linh thiêng bí ẩn, nhưng nó là sự thật đối với người dân nơi đây, nhất là bậc tiền nhân một thời có công “mở đất”. 

Khi có công tác Phật sự ở xa, thầy thường vắng chùa cả mươi ngày nửa tháng. Mỗi lần như vậy, thầy có nhờ một bác Phật tử đến ngủ và công phu vào ban đêm. Còn tôi sau mỗi buổi đi làm về cũng một mình thui thủi! Trong những ngày thầy đi vắng còn lại một mình thơ thẩn vào ra, tôi thật sự thấy lòng cô đơn, trống vắng dành cho bao nỗi buồn, vui, giận, hờn, thương, nhớ cứ liên tục tràn về đầy, vơi. 

Có những buổi chiều sau những cơn mưa dông, một mình ngồi nhìn dãy núi xa xa phía trước đã chuyển sang một màu xanh thẳm làm hiện rõ những luồng khí đang tung tăng uốn lượn bốc lên từ chân núi, những sợi khí bốc lên khi nhặt, khi khoan, khi mờ khi tỏ, khi tụ, khi tán tạo thành những hình thù mông lung, kỳ quái…, rồi cuối cùng kết thành một dải trắng đục bồng bềnh nơi lưng chừng núi. Người ta nói ở miền sơn cước nhiều khí núi, các hồn ma bóng quế thường hay nương tựa vào những dòng khí này mà hiện hình nên thường có nhiều ma quỷ lắm. Cách lý giải như thế nghĩ cũng có phần hữu lý. Vì hồn ma bóng quế suy cho cùng cũng là một dạng khí mà thôi. Nhớ có lần nhà văn Tchya cũng đã thấy nương theo luồng hơi đất sau một buổi chiều mưa là vong hồn hai anh em cụt đầu đang luyện võ với nhau trên đồi nương vắng. Thì bây giờ cũng biết đâu nương theo những luồng khí kia là những vong hồn, oan hồn của tiền nhân một thời đi “mở đất” phải đối mặt, chống chọi với bao gian lao nguy hiểm, đến nỗi phải bỏ mạng làm mồi cho hùm, beo, thú dữ, hay bởi độc tà sơn lâm chướng khí nơi nước độc, rừng thiêng. Để rồi vì lý do gì đó, họ không siêu thoát được mà cứ mãi vấn vương với núi rừng. 

Chuyện cây ráy hấp thụ quái khí của núi rừng mà thành tinh giết chết không biết bao nhiêu người là một trong nhiều chuyện gắn liền với lịch sử khai phá vùng đất này, mà ngày nay thế hệ con cháu đều được nghe ông bà kể lại như là một điển hình cho muôn vàn sự kỳ bí nơi đây. 

Mãi miên man với những dòng suy nghĩ mông lung mà màn đêm buông xuống lúc nào không hay cho đến khi mấy cụ đến tụng kinh thời Tịnh Độ mới chợt nhớ trời đã tối thui rồi. 

Tụng kinh xong, các cụ, các bác ra ngoài uống nước chuyện trò. Tôi nhân thuận tiện nhắc lại câu chuyện cây ráy thành tinh mà sư trụ trì kể hôm trước. Trong đó có cụ bà trên 80 tuổi xác nhận về sự thực của câu chuyện này vì cụ là nhân chứng chứng kiến trong một quá trình dài lúc cây ráy còn gây chết chóc cho cư dân nơi đây cho đến lúc người Pháp điều động cả trung đội lính tới đây dùng đại bác triệt hạ mà nhưng không thành công… 

Tôi xin bà vui lòng kể lại câu chuyện. Bà vui vẻ nhận lời. Bà chậm rãi têm miếng trầu cho vào miệng nhai móm mém, rồi dõi mắt về một nơi xa xăm phía trước một hồi lâu dường như bà đang làm sống lại cái ký ức của một thời ở cái tuổi thanh xuân. Nhìn mái tóc bạc phơ, đôi mắt hơi mờ đục, những nếp thời gian chất chồng hằn sâu trên da mặt nhăn nheo khắc khổ cho ta cảm giác bà cụ là hình ảnh đại diện cho thế hệ tiền bối từng song pha, tranh đấu mưu cầu cuộc sống ở vùng đất này, là lớp người nhân chứng của bao biến thiên thời cuộc ở nơi đây. 

Bà nhổ miếng trầu, lấy khăn lau vệt nước trầu hai khoé mép, rồi bà thong thả kể câu chuyện, vừa kể vừa dõi mắt xa xăm như để ký ức lần lượt hiện về, hiện về tiếp thêm câu chuyện. Mọi người ngồi chung quanh đều lặng yên chăm chú lắng nghe câu chuyện của bà, mặc dù ai cũng đã ít nhất một lần được nghe hoặc biết câu chuyện. Nhưng câu chuyện bà kể có sức lôi cuốn kỳ lạ, được sắp xếp có lớp lang, mạch lạc;vì như thế cũng có thể là những tình tiết trong câu chuyện có gắn liền với những thực tế mà bà đã tận chứng kiến. Trong cái không khí rờn rợn của câu chuyện kể, bỗng đâu một luồng gió núi lạnh ngắt thổi tới, cùng với tiếng éc, éc của con ch***m heo ma quái đang bay trên bầu trời đêm vắng lặng làm cho mọi người đều có cảm giác chung quanh toàn bao phủ bởi thế giới vô hình mà trong đó là những oan hồn, cô hồn là nạn nhân nơi nước độc rừng thiêng đang sinh hoạt theo cách riêng của họ, hay là đang lang thang, vất vưởng, hoặc hoà quyện với tà khí núi rừng thành một thứ ma chướng trở lại tác hoạ cho người còn sống! 

Câu chuyện bà kể dài lắm, trong đó có xen lẫn những kỹ niệm riêng tư một thời của bà. Bây giờ tôi xin lược lại vắn tắc mong được hầu quý vị cùng các bạn.

Cây ráy thành tinh (2)

A- A A+

Câu chuyện kể rằng: Ngày xưa vùng đất này là rừng hoang vắng lắm mọc phần lớn là cây dầu và toàn là dã thú.Rãi rác đó đây vài buôn Thượng,chứ chưa có người Kinh.Tới thời Pháp thuộc,người Pháp mở đường xe lửa đi qua vùng này,họ mới khai phá,xây dựng một nhà ga để làm nơi tiếp thêm nhiên liệu,cũng là để kiểm tra lại tàu trước khi leo đèo.

Nên họ mới mộ nhân công người Việt tới đây làm cu li làm đường sắt hay làm phu chặt củi thước để chạy máy xe lửa.Biết nơi đây là nơi nước độc rừng thiêng,song vì phải mưu sinh nên người phải chấp nhận đến đây sinh cơ lập nghiệp.Khí hậu và nguồn nước độc địa lắm,ai vốn sức khoẻ yếu mà tới đây thì chẳng bao lâu cũng ngã gục vì bệnh chói nước,hay sốt rét rừng.Tuy vậy,song thiên nhiên vẫn có luật bù trừ của nó.Hễ có thế đánh,tất phải có thế giải.Chẳng hạn như lỡ bị phải rắn độc cắn ở một nơi nào đó,tất cây cỏ xung quanh đó có khả năng giải được nọc rắn. Ở đây cũng vậy,sơn lâm chướng khí gây ra cái bệnh sốt rét rừng nguy hiểm chết người, thì cây ráy tía mọc vô số theo hai bên mé nước nơi đây chính là liều linh dược cứu không biết bao nhiêu sinh mạng.Ngoài khả năng chữa bệnh sốt rét,thương hàn đại tài,cây ráy còn được dùng trong nhiều vấn đề trừ tà,sát quỷ nữa.Còn phép phòng bệnh chói nước:người ta chỉ đơn giản chọn một nơi đất sạch,đào lấy một cục đất bỏ vào lửa nung đỏ rồi nhúng vào một gáo nước,xong uống hết gáo nước đó thì sau này có thể tránh được bệnh chói nước.

Tuy cây ráy có công dụng chữa bệnh đại tài như thế nhưng càng ngày người ta càng thấy có nhiều người mắc bệnh sốt rét đã dùng cây ráy chữa trị mà không mang lại một chút hiệu quả nào.Hễ ai không may mắc phải bệnh là chỉ có con đường chết mà thôi,cho dù họ có điều trị bằng thuốc Tây thuốc Tàu gì đi nữa.Số người chết càng lúc càng đông đến nỗi người ta gần như không dám tiếp tục ở đây nữa.

Sau đó người ta mới phát hiện là những người sống dọc theo khúc sông đó mới mắc chứng bệnh sốt rét không chữa được này;còn những người sống xa hơn không dùng nước khúc sông đó thì dù có mắc bệnh cũng được chữa khỏi.Nghi ngờ dòng nước sông có độc tà,người Pháp mới cho các nhà bác vật đến phân chất nguồn nước thì cũng thấy chẳng khác gì hơn so với mẩu nước ở những nguồn khác chảy qua nơi đây.Dù vậy nhưng người ta vẫn hoài nghi về nguồn nước sông này.

Về sau người ta mới được các người dân tộc Thượng cho biết là trên đầu nguồn khúc sông này có một cây ráy cổ thụ thân to độ hai người ôm vì sống lâu năm do thụ nhiều tà khí của sơn lâm nên đã thành tinh làm hại chết rất nhiều người Thượng rồi.Cứ đến khoảng đầu tháng cây này còn có kinh kỳ làm đỏ cả một khúc sông,hễ ai dùng nước sông này vào những ngày cây ráy có kinh kỳ là bị bệnh chết ngay;không những có kinh kỳ, mà vào những ngày đó nó còn tiết ra khí độc nữa,người nào hít phải thì bị phù mình phù mẩy,khó thở mà chết.Trước đây có những buôn còn ở gần đó cứ ba đến năm năm phải làm lễ tế một trinh nữ mới được yên ổn.Bây giờ các buôn đã chuyển đi nơi khác xa hơn, không còn cúng tế nữa cho nên cây ráy mới tác quái hại người trở lại.

Mà thực vậy,cứ vào những ngày đầu tháng là người ta thấy nước sông có màu nhờ nhờ như huyết loãng trên một khúc dài chừng hơn ba cây số bắt đầu nơi cây ráy mọc.Còn khúc chỗ người ta ở thì nước không còn màu đỏ nữa,song vẫn còn độc.

Biết cây ráy là thủ phạm hại chết người thân của mình,một số người quyết ra đi tiêu diệt cây ráy yêu tinh để trả thù.Nhưng tội nghiệp thay,họ một lần ra đi không bao giờ trở lại và không ai có thể biết tông tích họ nơi đâu.

Vì như vậy,người ta mới hiểu ra là tiêu diệt cây ráy không phải là chuyện dễ dàng gì.Nên họ mới bàn kế hoạch nhầm triệt hạ cây ráy yêu tinh như thế nào mà an toàn không tổn hao đến sinh mạng.

Kế hoạch được trù tính rất chu đáo.Họ tìm đến buôn Thượng bàn với các thầy mo về chuyện triệt hạ cây ráy bằng cách: trước khi chặt phá cây ráy,thầy mo giúp họ cúng tế cho cây ráy một lần cuối cùng để con Tinh trong cây ráy khi không còn chỗ trú ngụ thì trở lại rừng xanh có phẩm vật mang theo.Nhưng kỳ này thay trinh nữ bằng một con dê cái.Khi cúng xong thì nhờ mấy người đàn ông Thượng chặt dùm cây ráy.Nhưng thầy mo chỉ nhận công việc cúng tế chứ không dám cho người chặt cây,vì thầy mo sợ con tinh quay lại làm hại người của dân trong buôn.

Cuối cùng kế hoạch cũng được thực hiện,tuy nhiên những người chặt cây ráy là những người Kinh tình nguyện-những người này đã có thân nhân chết vì chất độc cây ráy.

Đến ngày đã định,người ta chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng cả.Thầy mo đảm nhận công việc tế lễ cây ráy.Còn pháp sư người Kinh thì lập một pháp đàn quy mô làm phép.Vị pháp sư cũng trang bị cho tám người thanh niên tham gia chặt cây ráy rất là kỹ lưỡng:Mỗi người mặc một chiếc áo kiểu pháp sư,mặt trước và mặt sau chiếc áo có vẽ hai chữ sát quỷ to tướng,phần còn lại được vẽ rất nhiều chữ bùa ngoằn ngoèo,bùa bát quái,hình ông Tề Thiên cầm thiết bản múa…;đầu và tứ chi của họ, pháp sư còn cho quấn vải điều có đính ở mỗi chỗ ba đồng tiền cổ thuộc ba đời vua.

Khi thầy mo làm cúng tế xong,tám người đàn ông được lệnh của vị pháp sư tiến đến cây ráy “khai đao”.Nhưng khi “đao” mới chạm những nhát đầu tiên vào thân cây thì tự nhiên toàn thân cây ráy bắt đầu chuyển động càng lúc càng mạnh,càng dữ dội hơn.Nhiều người đi xem thấy hiện tượng quái lạ như thế thì không dám xem nữa mà lật đật bỏ chạy trối chết.Cùng lúc đó bỗng đâu một trận cuồng phong đen ngòm không biết từ đâu kéo tới ầm ầm,lúc đầu chuyển động dữ dội trên không trung các cành cây nơi trận cuồng phong đi qua bị bẽ gãy kêu răng rắc, đổ xuống rầm rầm.Thấy tình thế quá nguy cấp,vị thầy mo,vị pháp sư,cùng tám chàng “đao phủ”toan bỏ của chạy lấy người.Nhưng không còn kịp nữa rồi,trận cuồng phong bắt đầu hạ xuống xô những người hiếu kỳ ngã rạp xuống,rồi xoáy mấy vòng,cây cối ngã đổ rào rào…một lát sau trận cuồng phong tan đi đâu mất.Thấy yên tỉnh trở lại,mấy người bị trận gió xô ngã hồi nãy mới kịp hoàn hồn thì thấy cây ráy còn đứng y nguyên,mà vị thầy mo,vị pháp sư,và tám người kia cùng lễ vật,pháp đàn thì không còn thấy đâu nữa.

Cây Ráy Thành Tinh (3)

A- A A+

Mấy ngày sau,có người thấy xác vị thầy mo,vị pháp sư và tám người kia nằm chồng một đống nát nhừ ở một nơi cách chỗ làm phép hôm trước rất xa. Như thế là kế hoạch tiêu diệt cây ráy không thành mà còn thiệt hại thêm về nhân mạng nữa.

Chuyện cây ráy thành tinh không ai có thể diệt được lập tức được theo các chuyến xe lửa lan đi khắp nơi rất nhanh làm mọi người hiếu kỳ đáp xe lửa đến đây ngày một đông để được thấy cây ráy tận mắt.

Việc này làm cho chính phủ Pháp lo ngại.Vì họ rất sợ tụ tập đông đảo để chống lại họ;với lại họ không ưa chuyện ma quái,khi vừa đặt bộ máy thực dân cai trị ở Việt Nam họ lập tức cấm các trò chơi huyền bí thịnh hành trong dân chúng thời đó như:trò chơi sai roi,sai quạt,sai vung, đánh đồng thiếp cho người dương gian gặp người âm phủ.v.v…Nếu để các trò đó tồn tại thì họ khó lòng truyền đạo Thiên Chúa!Bởi thế,họ quyết định dùng vũ khí tiêu diệt cây ráy;một là để giải tán những đám đông hiếu kỳ,và cũng là để giữ chân người làm thuê cho họ ở đây.

Một ngày nọ,họ kéo đến đây một trung đội lính,một khẩu đại bác cùng súng ống to nhỏ đủ loại.Họ lên phương án “tác xạ”rất kỹ lưỡng.Họ còn lên phương án tháo chạy phòng hờ khi trận cuồng phong thình lình kéo tới.Mọi thứ chuẩn bị xong xuôi,tới giờ “ khai hoả”,một tiếng nổ vang động núi rừng, quả pháo đầu tiên bay vọt ra khỏi nòng súng rồi rơi xuống nghe…cái bịch, như ai đứng trên cao ném cục đá ba lông xuống vậy.Họ bắn tiếp quả thứ hai,quả này rơi đúng mục tiêu… nổ tung,nhưng chưa suy suyễn gì cây ráy,chỉ làm xây xát sơ sơ lớp vỏ bên ngoài.Tuy nhiên người ta cũng thấy những dòng nước đỏ túa ra từ thân cây ráy.Rồi tiếp là tiếng nổ long trời của quả pháo thứ ba,người ta kịp thấy cây ráy rướng lên một cái rồi ngã bật ra,từ phần gốc còn dưới mặt đất phụt lên ba vòi nước màu đỏ trông như máu tươi cao chừng một thước,rồi sau đó thấp dần,thấp dần cho đến khi chỉ còn tứa ra trên bề mặt của gốc cây.Dòng nước đỏ chảy ra từ thân và gốc cây ráy là đỏ cả một khúc sông, loang dài bốn năm cây số.

Cây ráy ngã rồi,tưởng đã yên,họ cho rút quân đem vũ khí về.Nhưng thực tế thì trái lại:Từ khi cây Ráy ngã,nước sông vẫn đỏ ngầu liên tục,không ai dám dùng.Còn quanh vùng nơi đây luôn xảy ra những hiện tượng bất thường ma quái.Tự nhiên những vật nuôi như gà vịt,heo gà,mèo chó lăn ra chết một cách quái lạ:con nào khi chết, máu từ trong họng cứ chảy ra, đầu dường như bị bẽ quẹo ra sau.Có người còn nói là vào những đêm khuya họ còn thấy có nhiều người từng đoàn,từng đoàn dắt díu nhau đi trông họ khổ sở, đói khác,rách rưới,bẩn thiểu lắm;lớn có,nhỏ có,già có,trẻ có-người cụt đầu,kẻ cụt chân,cụt tay đủ hết.Người ta cho rằng đó là những ma thương,ma đói,là những cô hồn,oan hồn đã bỏ mạng nơi đây vì nhiều lý do như bệnh hoạn,tai nạn cây ngã, đá đè…Những cô hồn,oan hồn đó có lẽ một thời đã bị con tinh trú trong cây ráy ràng buộc,chi phối nên không thể siêu thoát được.Bây giờ con tinh không còn lãnh địa nữa,mất khả năng chi phối họ nên họ mới được thoát khỏi sự kiểm soát của con tinh mà lang thang tìm nơi nương tựa.Trong đó có những người hiểu biết ít nhiều về vấn đề bùa phép,luyện ngãi, âm binh cho biết:những cô hồn,vong hồn này mà bị ai đó thu phục luyện thành âm binh thì họ sẽ trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho người đó.Họ sẽ làm bất cứ chuyện gì theo sự sai khiến của anh ta,ngay đến chuyện hại người họ cũng không từ nan!Do vậy nên phải lập tức làm cho họ sớm không lọt vào tay những tên pháp sư bất lương, để tránh hậu quả khó lường.

Mọi người bàn với nhau định nhờ thầy chùa đến siêu độ cho họ được siêu thoát.Nhưng có người bàn thêm,nếu chỉ thỉnh thầy chùa thì không thể giải quyết dứt điểm cây ráy cho nên cần phải thỉnh pháp sư phối hợp với thầy chùa để giải quyết cho ổn thoả đôi đường. Ý kiến đó liền được chấp thuận.Họ cho người rành đường đi nước bước vào tận tới miệt thất sơn,tà lơn,núi cấm để thỉnh cho được một vị pháp sư và một vị cao tăng phật giáo.Họ phải băng rừng leo núi cực kỳ gian nan vất vả để đến được nơi các vị sư đang trụ tu.Trời không phụ lòng người hữu tâm,mà có lẽ cũng do người dân ở đây trả xong nghiệp dữ rồi.Nên họ mới có duyên lành gặp và thỉnh được hai vị đắc đạo phép thuật cao cường.

Đến nơi hai vị cho lập một đàn tràng để kỳ siêu bạc độ cho các vong hồn,oan hồn, và một pháp đàn để làm pháp ngũ lôi thần chưởng.Hai đàn được thiết lập rất kỹ lưỡng bằng tất cả bản lĩnh của hai vị sư đắc đạo, đắc thần thông.

Từ giờ Dậu chiều hôm đó,hai vị sư bắt đầu đăng đàn tác pháp, đến đầu giờ Tý thì người ta thấy gió thổi ào ào,mây đen kéo tới cuồn cuộn đen kịt bầu trời,rồi sấm nổ ầm ầm,chớp nháy liên hồi soi sáng liên tục một vùng núi rừng.Sau một tiếng sét khởi điểm,mưa bắt đầu tuôn xối xả,mưa như trút nước trong tiếng sấm chớp không dứt.Mưa kéo dài đến giữa giờ Tý thì một tiếng sét đinh tai,buốt óc,chấn động núi rừng,tiếng sét to gấp mấy lần tiếng sét lúc đầu,mưa nhỏ dần rồi dừng hẳn,trời quang mây tạnh trở lại.

Sáng sớm người ta kéo nhau tới chỗ dựng đàn chiều hôm qua thì mọi người kinh ngạc vì không thấy bóng dáng hai vị sư đâu cả và cũng chẳng còn gì dấu vết của hai đàn.Có người cho rằng do mưa hồi hôm to quá nên nước lũ đã cuốn trôi đi tất cả.Họ dẫn nhau tới chỗ cây ráy thì mọi người đều không khỏi ngạc nhiên khi thấy toàn bộ gốc rễ cây ráy bị cháy đen nằm phơi một đống chình ình trên mặt đất,chỗ gốc cây mọc là một hố sâu hun hút, đường kính mấy sải tay, đất nám đen thui;còn nước sông thì không còn đỏ ngầu nữa.Nhìn thấy cảnh tượng trên,mọi người đều vui mừng khôn xiết.Lúc này họ đều tin rằng tiếng sét hồi hôm đã đánh bật gốc ráy,và mưa thật lớn để cuốn trôi những độc địa…;còn hai vị sư đã vận thần thông trở về lại núi tu hành.Nghĩ như vậy nên mọi người đều quỳ xuống hướng mặt về núi cấm khấu đầu lạy tạ hai vị sư đắc đạo.

Câu chuyện bà kể tới đây thì trời đã khuya rồi,cảnh vật bên ngoài như chìm trong lớp sương mù dầy đặc,không gian miền sơn cước yên ắng như vốn dĩ của nó,chỉ có tiếng suối chảy rào rào ở sau chùa,và thỉnh thoảng con chim rừng ăn đêm bay qua kêu quát quát làm xé tan vùng không gian tĩnh lặng của trời đêm.

Tới lúc mọi người phải ra về,tôi theo tiển ra tới tận cổng chùa.Mới dợm bước quay vào thì tôi bỗng thấy từ hướng đông bắc xuất hiện năm khối cầu sáng nối đuôi nhau bay chầm chậm về hướng tây nam.Khi năm khối cầu bay ngang trên đầu,tôi mới kịp thấy rõ:khối cầu đầu tiên to bằng cái tô lớn,còn các khối phía sau cứ nhỏ dần theo một tỷ lệ nhất định.Có điều đặc biệt là các khối cầu đều sáng với những màu hơi khác nhau,sáng như kiểu sáng của chất lân tinh,chứ không phát ra tia sáng chiếu rọi.Lúc này tôi thấy các vị phật tử ban nãy cứ hướng theo mấy khối sáng đó mà quỳ lạy không biết bao nhiêu lạy mà tính,chờ cho tới khi các khối sáng khuất dạng rồi sau đó nghe một tiếng ầm thì mới thôi.Tôi hỏi các vị các khối cầu đó là gì,các vị cho tôi biết đó là năm bà ngũ hành giáng hạ vào miếu. Ở đây bà thường giáng hạ về lắm,một năm các bà giáng về hai ba lần.Các vị còn nói:tôi là người từ xa mới tới,có duyên lắm mới thấy được bà giáng hạ.Nghe nói thế,lòng tôi thấy vui vui.

Ma Mèo

A- A A+

Hoàng hôn lịm tắt trên biển Trà Cổ. Rừng phi lao chuyển sang mầu đen thẫm reo vi vu như tiếng sáo trúc ngân dài trên bãi cát. Gió từ phía vịnh Bái Tử Long theo các triền núi đá vôi ào ạt về biên ải. Từng đợt sóng xô đẩy nhau vào bờ, liếm lên cát mịn. Hiếm thấy ở đâu trên đất nước có bãi cát rộng dài, thoai thoải và mịn như ở Trà Cổ.

Cả dáng hoàng hôn dần dần tắt cũng chầm chậm, sắc màu biến đổi kỳ ảo hơn những bãi biển phía Nam, mang vẻ rất riêng của vùng than Đông Bắc bởi màu tím thẫm có những vệt đỏ, vàng đan cài trên bầu trời. 

Quán cà phê nhạc Kinh Hoa đã thưa khách, chỉ còn lác đác mấy bàn ngồi ngoài sân hóng gió. Tôi và Chiến ngồi nhâm nhi ly rượu Quế Châu – Trung Quốc với con mực khô, ngắm nhìn những đốm sáng trên các bè mảng đánh cá lung linh di động trên mặt biển. Đêm cuối tháng làm tôi chạnh nhớ tới câu thơ tài hoa của Nguyễn Bính: “Suốt giời không một vì sao - Suốt giời mực ở nơi nào loãng ra - Lửa chài chăng cái giăng hoa...” Thời mở cửa không còn ánh sáng lửa đò như trong thơ Nguyễn Bính. Người dân chài vùng Đông Bắc bây giờ đi mảng trong đêm bằng đèn nê ông chạy ắc quy nhập của Trung Quốc. Nhưng trời, đất, mặt biển đêm nay vẫn thấm đậm hồn thơ thi nhân. Cái đẹp tự nó của mỹ học Nuel Kant quả là đang chắp cánh vượt lên phơi phới trên biên giới của không gian, thời gian...

Chợt từ rặng phi lao bước ra bãi biển một bóng trắng mờ ảo. Người đàn bà mặc váy ngủ mỏng tanh màu trắng. Nàng xuất hiện như một bóng ma vừa đi vừa hát: “Meo, meo, meo... chúng cháu yêu cô lắm!... Ngao, ngao, ngao... em nhớ anh làm sao. Chúng ta yêu nhau xem nào...” Chiến bảo tôi, đó là bà chủ khách sạn Bồng Lai ở Hà Nội lên Trà Cổ an dưỡng, lấy thuốc chữa bệnh của một thầy lang bên kia biên giới. Người ta đồn nàng bị ma mèo ám. Chuyện của nàng, Chiến biết khá tường tận vì anh là bạn học cũ của nàng ở trường cấp hai phố huyện. 

Chiến xoay xoay ly rượu trên bàn, nét mặt đăm chiêu, môi ngậm chặt điếu thuốc rít liền hơi mấy lần rồi quẳng mẩu thuốc cháy dở xuống sàn. Anh hỏi tôi bằng giọng trầm buồn: 

- Anh có tin rằng loài vật cũng có linh hồn không? Liệu trong cõi giới vô hình có những hồn ma động vật lẩn khuất, oán giận con người không? 

- Mình chưa tin có hồn ma tồn tại dù là người hay động vật. Nhưng có những nỗi ám ảnh hằn sâu trong tâm linh người đang sống sẽ tạo nên ảo giác về những hồn ma. 

- Có thể anh nói đúng, nhưng có nhiều việc xảy ra khiến tôi phải hoang mang ngỡ ngàng, nửa tin nửa ngờ. 

- Hình như điều anh nói có liên quan đến bà chủ khách sạn Bồng Lai bị ma mèo ám?- Tôi hỏi. 

- Cũng không hẳn thế... Hồi nhỏ, ở quê tôi có ông Tư yêu, gọi là Tư yêu vì ông ấy như yêu tinh với loài chó vậy. Có lẽ ông giết quá nhiều chó nên bao giờ quanh người ông toàn những hồn ma, linh cẩu. Mỗi lần ông vào xóm, lũ chó sủa vang rồi cúp đuôi chạy rạp. Con chó lài nhà tôi to lớn, khét tiếng là chó dữ mà hễ nhìn thấy ông bốn chân cứ run lên, chạy vào gầm giường vẫn còn lùi sâu tận góc tường và chỉ dám ư ử sủa lên vài tiếng yếu ớt. Nói đúng hơn là nó rên chứ không dám sủa. 

- Cái đó có thể lý giải vì ông ta quanh năm suốt tháng mổ chó, nấu và bán thịt chó nên người ngợm, áo quần bám đầy mùi thịt chó. Giống chó trời ban cho mũi rất thính, đánh hơi thấy và khiếp, thế thôi. 

-Tôi lại xin kể một chuyện khác. Sát giậu cúc tần nhà tôi là nhà cô Mão. Ngày ấy tôi và cô Mão cùng học lớp năm trường làng. Tính cô rất nanh ác. Ở sân nhà hay đi trên đường, hễ gặp con vật nào làm vướng chân là cô đá thẳng cánh. Mấy đứa bạn gái cùng lớp bảo thế nào cũng không chừa. Một lần, con mèo nhà tôi có chửa, sang ăn vụng khúc cá nhà cô Mão. Cô chủ bé tí thế mà dám cả ngan bắt mèo nhà tôi ném xuống giếng. Năm ấy mẹ cô Mão đẻ ra quái thai, có một cái đuôi và sau đó chết cả mẹ lẫn con. 

- Cái chuyện “oan oan tương oán” của Chiến vừa kể, mình đã nghe nhiều, nhưng cảm thấy nó huyền hoặc thế nào ấy. Ta nói sang chuyện khác đi... 

Tôi cố lái Chiến bàn sang chuyện thời sự, chuyện nhân tình thế thái, chuyện văn thơ để giết thời gian trong lúc đợi mấy người cùng đoàn công tác đi chơi ngoài Móng Cái trở về. Những câu hát lẫn tiếng meo meo, ngao ngao và cái bóng trắng vật vờ ngoài bãi biển hình như đang ám ảnh Chiến. Mắt anh rõi theo bóng trắng của bà chủ khách sạn Bồng Lai, miệng lầm rầm kể chuyện, bất cần tôi có chịu ngồi nghe hay không. 

Cô Mão hàng xóm của tôi ngày xưa chính là bà chủ khách sạn Bồng Lai đang meo meo, ngao ngao ngoài bãi cát vắng tanh. Bẵng đi mười mấy năm, đi lao động ở nước ngoài về, tôi gặp Mão đang làm nghề phe tem phiếu quanh chợ Bắc Qua, Đồng Xuân. Nàng đã đổi tên thành Lệ Hằng và rất xinh đẹp, đài các. Chồng nàng là người cùng quê, học trước tôi ba lớp. Tính anh ta hiền lành, cần mẫn, yên phận với công việc giữ thư viện trong một cơ quan nghiên cứu khoa học. Cơ quan thấy anh sống kham khổ, dành dụm từng mét phiếu vải, mua từng cân đường hay bánh xà phòng mang về quê nên ưu tiên nhận Mão vào làm tạp vụ, lại còn giải quyết cho vợ chồng anh gian nhà cấp bốn và nhập hộ khẩu cho các con. Hồi ấy, người nhà quê ra Hà Nội có việc làm, nhập được hộ khẩu là một đặc ân lớn của cơ quan với gia đình Mão. Cái tính đành hanh, nanh nọc hồi bé hình như đã nhiễm vào máu của cô Mão quê mùa, mỏng học. Được một thời gian quen hơi, ấm chỗ, Mão bắt đầu tọc mạch, xoi mói vào đời tư của hết thẩy mọi người trong cơ quan. Đã thế cô còn kiện cáo, đòi tăng lương, đòi chuyển công tác sang phòng vật tư. Nhân có đợt giảm biên chế, anh chồng thấy xấu hổ với bạn bè đã gặp riêng lãnh đạo, xin cho vợ nghỉ việc. Lúc đầu, Mão lồng lên xỉa xói, đay nghiến chồng. Sau nhờ có bạn bè dẫn dắt đi phe tem phiếu, kiếm được bộn tiền, có của ăn của để, Mão may sắm ăn diện nhất khu tập thể cho thiên hạ biết tay. Cái tên Mão do cha mẹ đặt cho cô cũng tự nhiên biến mất, thay bằng Lệ Hằng. Cô coi chồng như cỏ rác. Bố mẹ chồng từ quê lên chơi, cô chửi đổng là lũ nhà quê ăn bám, thậm chí còn vu cho mẹ chồng ăn cắp tiền để đuổi khéo họ về. Nhiều lần anh chồng đang giữa giờ làm việc bất chợt chạy về lấy tài liệu, bắt gặp vợ đang làm tình với người đàn ông lạ, nhưng cô ả vẫn nằm tênh hênh khiêu khích. Người ta ở đời ai hiền lành lại thường hay cục tính và cả nghĩ. Một đêm anh chồng cãi cọ, xô sát với vợ không lại, ức quá uống thuốc sâu tự tử... 

Những chuyện vừa kể, mãi sau này tôi mới biết. Hôm ở nước ngoài về, vô tình gặp Lệ Hằng trên đường phố, tôi bị choáng ngợp bởi sắc đẹp đầy vẻ ma quái, quyến rũ của nàng. Trong hết thảy mọi thứ ngộ nhận ở đời, ngộ nhận về tình yêu là dễ mắc nhất. Tôi mê mẩn xách va li, đồ đạc đến nhà Lệ Hằng chung sống như vợ chồng. Bao nhiêu tiền, hàng dành dụm những năm lao động ở nước ngoài tôi nghe Hằng dồn vào mua khu đất ở Quảng Bá. Vì mới về nước, chưa nhập hộ khẩu nên giấy tờ mua đất nghiễm nhiên đứng tên nàng. Đêm nằm, Lệ Hằng tỉ tê khuyên tôi quay trở lại nước ngoài vài năm, kiếm thêm vốn xây biệt thự, sống sung sướng suốt đời. Nàng lo chạy hộ chiếu , mua vé máy bay, sắm sanh một ít hàng... Tôi như kẻ bị bùa mê thuốc lú, răm rắp nghe theo sự sắp đặt của nàng, một lần nữa, mang sức trâu đi làm công xứ người. Gặp dịp mấy nước Đông Âu kinh tế hỗn loạn, đám công nhân người Việt chúng tôi thả sức tung hoành đi buôn lậu. Đô la, hàng hoá tôi gửi về cho Lệ Hằng và hai đứa con riêng của nàng ngày một nhiều. 

Tin tức trong nước tới tấp báo sang rằng, Mão lừa đảo chiếm đoạt hết tài sản, tôi chỉ là anh chồng hờ ngoài hôn thú, còn chồng thực sự của nàng là Dũng quỷ nổi tiếng trong giới giang hồ... Tôi vẫn mê muội không tin, ngỡ thiên hạ ghen ăn tức ở, phá ngang hạnh phúc của mình. Chỉ khi bạn bè quay phim, chụp ảnh đầy đủ bằng cứ về sự phản bội, lừa đảo tôi mới tỉnh ngộ thì đã muộn. Khu đất ở làng Quảng Bá đươc xây thành khách sạn Bồng Lai đứng tên Dũng quỷ. Khi tôi về nước hai đứa con riêng của nàng còn mang dao doạ giết tôi vì đã quyến rũ mẹ nó. Trong cơn tuyệt vọng, tôi đã theo gót anh chồng cũ của nàng ngày xưa uống bốn mươi viên thuốc ngủ, may được cứu thoát. 

Chiến ngừng kể, mắt đăm đăm nhìn ra bãi cát, nơi cái bóng trắng vật vờ, thất thểu đi men theo mép sóng. Tôi gọi người nướng mực và lấy thêm chai rượu Quế Châu. Hai đứa ngồi uống rượu, lắng nghe tiếng sóng reo, gió thổi. Đêm cuối tháng trên biển Trà Cổ tối thẫm và huyền bí. Xa xa trong đất liền, phía bờ sông Ka Long có con chim bắt cô trói cột bay lượn, cất lên tiếng kêu thảng thốt. Hàng phi lao reo vi vút như tiếng hú gọi bầy của loài vượn trên trườn núi đá. Lẫn trong những âm thanh ấy là câu hát rợn người vọng lại từ cái bóng trắng vật vờ: “Meo, meo, meo...Chúng cháu yêu cô lắm... Ngao, ngao, ngao... em nhớ anh làm sao. Chúng ta yêu nhau xem nào...”. Đến lúc này, câu chuyện tình của Chiến làm tôi không thể dửng dưng được nữa. Nó thật sự hút hồn tôi bởi cái bóng trắng và những tiếng meo meo, ngao ngao rờn rợn kia. 

-Vì sao Lệ Hằng mắc bệnh, bị ma mèo ám? Vì sao Chiến gặp lại nàng ở biển Trà Cổ? – Tôi hỏi. 

- Quả đất này xem ra vẫn còn bé. Việc đời quay tròn theo số mệnh. Tôi bây giờ thành ông lang băm. Nói vui vậy thôi chứ tôi làm đại lý cho một hãng thuốc Đông y của Quảng Tây. Hãng này có loại thuốc chữa lão hoá tuổi già lấy tên nhãn là “Bách niên lạc” rất nổi tiếng. 

- Nhưng anh hiểu biết gì về nghề thuốc? 

- Số là sau lần được đem đi bệnh viện cấp cứu, tẩy ruột vì uống bốn mươi viên thuốc ngủ, tôi mắc bệnh đau dạ dày, lại thêm chứng suy nhược thần kinh. Nghe bạn bè khuyên nhủ, tôi vét nốt ít tiền còn lại sang Nam Ninh – Trung Quốc chữa bệnh và du lịch cho khuây khoả. Ở bên đó lâu, quen biết nhiều thầy thuốc Đông y giỏi, tôi được họ bổ túc cho một ít kiến thức để làm đại lý phân phối thuốc “Bách niên lạc”cho họ ở Móng Cái. Cửa hàng của tôi do họ đầu tư toàn bộ. Nhiệm vụ của tôi là tuyên truyền, phân phối thuốc “Bách niên lạc” nghĩa là trăm năm khoái lạc. Nếu có ai bên Việt Nam mắc bệnh nan y muốn chữa, tôi liên lạc với công ty bên Nam ninh, đón thày lang giỏi sang chữa trị. Hoa hồng tôi được hưởng cả từ hai phía cũng kha khá. 

- Nhờ thế anh gặp lại Lệ Hằng? – Tôi sốt ruột hỏi. 

- Chuyện còn dài, anh cứ nhẩn nha uống rượu, tôi sẽ kể tiếp… 

Một chiều cách đây vài tháng, có chiếc xe Nhật đầu cá mập xịch đỗ trước cửa hàng. Người ta khiêng vào một thiếu phụ ngoài bốn mươi tuổi, nhưng còn nhiều nét đẹp. Mắt nàng trợn trừng, trắng dã. Miệng luôn kêu meo meo, ngao ngao. Móng tay để dài nhọn hoắt, gặp vật gì cũng cào nát. Người ta phải lồng vào hai chiếc bít tất quân dụng loại dày rồi buộc chặt. Lúc đầu, Chiến chưa nhận ra Lệ Hằng vì tóc nàng xoã xuống che kín nửa mặt. Nhưng anh nhận ra bộ râu quai nón của Dũng quỷ. Hắn tảng lờ như không quen biết Chiến. Nghề thuốc Đông y có nguyên tắc “Vấn - Vọng - Thiết” nghĩa là hỏi chuyện về người bệnh, xem mạch và quan sát sắc mặt, thần khí. Nhờ vậy, Chiến biết rõ căn bệnh của nàng qua lời kể của Dũng quỷ. 

Khách sạn Bồng Lai đang hồi phát đạt, khách nước ngoài đặt phòng kín chỗ. Nghề khách sạn khi đã kín phòng sẽ lại có thêm nhiều khoản thu phụ như: điện thoại, đồ uống, dịch vụ taxi, tươi mát... Trong số khách thuê có cặp vợ chồng trẻ người Bắc Âu. Họ mang theo chú mèo cái giống Nam Mỹ rất đẹp. Nó to cỡ bằng con chó Bắc Kinh. Lông dài, óng mượt, màu trắng tuyết. Móng và gót chân nó được chăm sóc kỹ, đỏ hồng như bôi son nhạt. Cặp mắt nó to tròn, sáng trong như viên ngọc lưu ly. Tập tục phương Đông kiêng nuôi mèo trong phòng ngủ khách sạn sẽ bị xui xẻo. Nhưng vì giá phòng của cặp vợ chồng người Bắc Âu này, qua mối lái của du lịch hàng không được ngã giá rất cao, gấp đôi người khác nên Lệ Hằng vui vẻ đồng ý. Thường ngày thì chú mèo Liu Ba chỉ quanh quẩn chơi trong phòng. Nó sử dụng toa lét thành thạo như người nên cũng rất sạch sẽ. Một lần “cô nàng” Liu Ba theo chủ lên sân thượng ngắm cảnh Hồ Tây, gặp “chàng” mèo đực vàng đi hoang trên mái nhà hàng xóm. Giống vật đực – cái gặp nhau trong cơn hứng tình sẽ rất quyến luyến. Từ đó, chú mèo vàng kia đêm đêm chạy sùng sục trên mái nhà, ngao ngao gọi bạn. Có lần nó nhảy sang ban công khách sạn, cào cửa từng phòng gào lên ngao ngao nghe da diết và hậm hực. Khách thuê phòng không ngủ được, lần lượt bỏ đi. Lệ Hằng muốn tống khứ cặp vợ chồng người Bắc Âu, nhưng hợp đồng thuê ba tháng chưa hết, tiền họ đã trả trước. Nàng lừa lúc khách đi vắng, cho mèo Liu Ba ăn bả chuột liều lượng đậm đặc. Mèo Liu Ba chết, khách nghi ngờ nó bị trúng độc, kiện ra chính quyền đòi khám nghiệm, phát hiện Liu Ba đang có chửa. Theo luật quốc tế, Lệ Hằng phải bồi thường cho khách với giá thoả thuận là năm ngàn đô la. Tai tiếng vụ mưu sát mèo Liu Ba lan truyền, gây bất bình cho các hãng du lịch trong và ngoài nước. Họ đồng loạt tẩy chay khách sạn Bồng Lai. Phòng ốc trống không, nhân viên bỏ việc, khách sạn Bồng Lai trở nên hoang lạnh. Đêm đêm chú mèo vàng hàng xóm chạy lồng trên sân thượng tìm bạn, kêu gào những tiếng ngao ngao nghe ai oán, thê thảm. Có đêm nó tìm đúng phòng Lệ Hằng cào cửa, ngao ngao như nguyền rủa quân sát nhân tàn ác. Nàng đổ bệnh sinh ốm lửng và suy sụp rất nhanh. Những tiếng ngao ngao gào thét của con mèo đực biến thành cơn ác mộng kéo dài. Lệ Hằng luôn tưởng tượng thấy hồn ma mèo Liu Ba về đòi mạng... 

Đêm đã chìm vào sâu. Gió biển thổi mạnh, huýt dài trên các ngọn phi lao. Sóng ào ạt xô bờ. Xa xa, phía bờ sông Ka Long lại vọng về tiếng chim bắt cô trói cột. Tôi ái ngại nhìn Chiến dốc ngược chai rượu Quý Châu uống tràn. Tóc anh xoã bay trong gió, cặp mắt ngơ dại như người điên. “Có ma, nhất định trong cõi người cũng có ma.”- Anh làu bàu nói. Tôi nhìn ra mép sông lần tìm cái bóng trắng vật vờ như hồn ma trong đêm tối trăng bên bãi biển Trà Cổ. Lòng tôi nôn nao, dâng lên những đợt sóng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#anh#tran