nguoi khmer

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

  1  Tết Chol-chnam-thmay

Tết Chol-chnam-thmay được tổ chức vào đầu tháng Pôsăk, còn gọi là tháng Chét theo Phật lịch Tiểu thừa. Nhưng dù vào tháng nào theo lịch Khmer, Tết này cũng rơi vào các ngày 14, 15 và 16 tháng 4 Dương lịch (nếu năm nhuần thì bắt đầu từ ngày 13- 4 Dương lịch). Đây là thời gian khô ráo, mùa màng đã thu hoạch xong, người dân trong giai đoạn nông nhàn nên tha hồ vui Tết. Ăn tết xong là chuẩn bị đón mùa mưa, gieo sạ lúa.

Cũng như tết cổ truyền của các dân tộc khác, Chol- chnam- thmay của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ tuy có cùng ý nghĩa nhưng lại được tổ chức với vài tập tục khác biệt theo bản sắc văn hóa của mình. Vì là một cộng đồng dân tộc theo Phật giáo Tiểu thừa nên mọi sinh hoạt Tết Chol-chnam- thây của đồng bào Khmer Nam Bộ đều diễn ra tại chùa.

Chùa Khmer Nam Bộ được xây cất trong khuôn viên rộng lớn, sạch sẽ, u trầm dưới bóng mát những hàng sao, hàng dầu cổ thụ được trồng ngay hàng thẳng lối, đẹp như tranh. Chùa Khmer là nơi sinh hoạt văn hóa, là chỗ dựa tinh thần, là nơi tín ngưỡng tôn nghiêm nhất dành cho cả cộng đồng. Nên bất kỳ một cuộc lễ nào của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ cũng đều được diễn ra hoặc kết thúc tại chùa.

Tết Chol-chnam- thmay còn gọi là tết “chịu tuổi”, diễn ra trong ba ngày với những nghi lễ khác nhau. Ngày thứ nhất gọi là Sang-kran có nghĩa là “bước đi”. Ngày thứ hai gọi là Won-bot có nghĩa là “thiếu hoặc thừa”. Ngày thứ ba gọi là Lon-sătk có nghĩa là “tăng lên”. Trước tết mọi người sơn phết lại các ngôi chùa, và bàn thờ tổ tiên. Các chùa Miên ở Trà Vinh, Châu Đốc, Sóc Trăng, Hậu Giang được tu bổ, trang trí lại với nhiều màu sắc sặc sỡ. Mấy ngày tết mọi người chủ yếu vào các chùa để cúng vái các thần linh như thần Vitnu, Siva, Hanuman…

Gia đình nào cũng vậy, dù rất nghèo cũng có nồi bánh nùm-chrụt (gần giống bánh tét của người Kinh Nam Bộ), và bánh nùm-tiên (gần giống bánh ít Nam Bộ). Hai loại bánh này tượng trưng cho sự no ấm, làm ăn thịnh vượng, được mùa của người Khmer, nó cũng như bánh chưng, bánh dầy của người Kinh vùng đồng bằng Bắc Bộ dùng trong ngày tết Nguyên đán. Ngoài ra còn có các loại bánh như: nùm-chết (bánh dừa nhân chuối), nùm- niềng- nóc, sùm-bóc-cháp (bánh bột nhân dừa)

Vào đêm giao thừa mọi nhà đều thắp đèn sáng, cúng bánh, trái cây, hương hoa trên bàn thờ tổ tiên, để tiễn thần Tê-vô-đa cũ về nhà trời, và rước thần Tê-vô-đa mới xuống ăn tết, cai quản đất đai, thổ trạch trong một năm. Người ta tin rằng thần Tê-vô-đa được nhà Trời sai xuống để cai quản dương thế trong một năm. Hết năm cũ nhà trời lại sai vị thần Tê-vô-đa khác xuống thay thế.

Sáng ngày Tết thứ nhất Sang-kran (như ngày mùng một tết Nguyên đán của người Kinh), mọi người tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc đẹp, đem theo nhang, đèn, phẩm vật đến chùa để lễ, tụng kinh, niệm Phật, làm lễ rước đại lịch (Ma-ha-sang-kran). Tại đây có vị gọi là Acha điều khiển mọi người đứng xếp hàng rồi đi vòng quanh chánh điện ba lần để làm lễ chào mừng năm mới. Sau đó tổ chức rước “thần bốn mặt”. Theo truyền thuyết thì đó là thần Tho-ma-bat. Ka-bun, Ma-ha và Prun. Đến đêm những người lớn tuổi tụ tập trong nhà nghe sư thuyết pháp, còn thanh niên nam nữ ra sân chùa múa hát, vui chơi.

Ngày Tết thứ hai là ngày Won-bót, mọi người làm lễ dâng cơm cho các sư sãi ở chùa, còn gọi là Wên-chô-han. Tới chiều thì đắp những núi cát (còn gọi Puôn-fun-khsach) tượng trưng cho sự bền vững của vũ trụ, trời đất ở chín hướng. Núi thứ chín nằm ở chính giữa gọi là Mê-ru, biểu tượng trung tâm của trái đất. Cuối buổi chiều họ làm lễ quy y cho núi.

Ngày tết thứ ba gọi là Lon-sătk mọi người tiếp tục dâng cơm, ban phát quần áo cho các sư sãi, rồi tắm cho các tượng Phật để cầu hên. Sau đó họ về nhà tắm cho những người lớn tuổi để tẩy trần những điều phiền muộn của năm cũ. Tới chiều họ làm lễ cầu siêu (còn gọi là lễ Băng-skot) cho những vong hồn được siêu thoát tới miền cực lạc. Sau cùng mọi người về nhà lạy ông bà, cha mẹ trước bàn thờ, rồi tắm cho ông bà, cha mẹ để tỏ tấm lòng hiếu thảo của con cháu.

Trong ba ngày Tết, nam nữ thanh niên Khmer vui chơi ca hát thoả thích các điệu dù-kê, rô-băm, múa lăm-thôn… tại sân chùa. Đây cũng là dịp để họ tìm hiểu nhau, hò hẹn và phô bày tình cảm, và nhiều đôi đã nên vợ nên chồng. Vui nhất là hát “dù-kê” (còn gọi là hát lò-khôn). Hai bên nam nữ hát đối đáp (còn gọi xác-cô-va) kết hợp ném Chơ-hung. Đó là những chiếc khăn màu sắc sặc sỡ kết tròn lại như hình trái bóng rồi nam nữ ném đi, ném lại cho nhau cùng bắt như người Thái ở Tây Bắc ném “còn”. Phần thưởng thường thuộc về phái nữ. Bởi họ tin rằng nữ gắn liền với mặt trăng, với nước, là biểu tượng cho mùa màng năm mới tốt tươi. Trong lễ hội này còn có nhiều nam nữ thanh niên người Kinh, người Hoa, người Chăm cùng vui chơi. Ngoài ra còn có các trò chơi như kéo co, hát bo-suông (hát giao duyên), đánh bóng chuyền…

Người Khmer ở Nam Bộ rất trọng lễ nghĩa. Trong một năm họ tổ chức rất nhiều ngày lễ, hội, giỗ, chạp, nhưng chỉ có tết Chol-chnam- thmay là lớn nhất. Tại nhà văn hoá Khmer ở ao Bà Om- ngoài thị xã Trà Vinh, chùa Sa-mar-hum ở Sóc Trăng, các chùa Miên ở An Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang…đều được tổ chức lễ, hội rất lớn. Đặc biệt đồng bào Khmer ở Bạc Liêu còn có lễ Thanh minh, gọi là Bang skoil.

Trước Tết Chol-chnam- thmay, bà con dọn dẹp, sơn phết tháp thờ hài cốt ông bà, cha mẹ mình cho gọn gàng, đẹp đẽ. Sau đó nhờ nhà sư làm lễ cầu cho linh hồn ông bà tổ tiên được siêu sanh miền Tịnh độ. Đây cũng là dịp họ nhờ các sư tụng kinh siêu thoát cho những tháp mộ không người thân chăm sóc. Lễ viếng mộ kết thúc, họ trở về nhà tắm tượng Phật thờ trong gia đình.

Tiếp đó, con cháu đem bánh, mứt, trà, rượu mời ông bà, cha mẹ dùng cùng những lời chúc mừng năm mới tràn đầy sức khỏe, gặp nhiều may mắn... Nhiều năm trước, đây còn là dịp để họ tổ chức lễ tát nước vào người lớn tuổi lấy hên, giống như lễ Song- kra ở Thái Lan. Nhưng tập tục này đã chấm dứt từ lâu, thay vào đó là dùng nước sạch ngâm các loài hoa có mùi thơm thấm vào quần áo, đồ dùng của ông bà, cha mẹ như một lời cầu chúc may mắn đầu năm.

Vào dịp Tết Chôl Chnăm Thmây, một cụm từ được người Khmer nhắc đến nhiều nhất là “Băng sô côl”, tức là ban phước lành cho những người đã quá cố, gọi theo tiếng Việt là “lễ cầu siêu”. Lễ này, thường diễn ra ngày cuối Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây.

Đến dịp Chôl Chnăm Thmây, dù sống ở nơi đâu con cháu cũng phải về quê sum họp với gia đình, thể hiện lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ mà quan trọng nhất là làm Lễ băng sô côl cho những người đã quá cố, cầu cho linh hồn siêu thoát về miền cực lạc.

Băng sô côl là một phong tục giống như tục “cúng mã-thanh minh” của người Kinh-người Hoa, mà con cháu phải làm để đền đáp công ơn đối với ông bà, cha mẹ. Ngược lại, ông bà, cha mẹ cũng phải làm cho con cháu (đã chết), cầu cho linh hồn được siêu thoát. Nói chung, ai còn sống đều phải có bổn phận làm lễ băng sô côl vào dịp Tết Chôl Chnăm Thmây để chia sẻ tình cảm đối với người đã khuất, không phân biệt. Đây là sự thể hiện tình cảm công bằng giữa người còn sống và người chết, tạo nên một truyền thống tốt đẹp, gắn bó với cuộc sống. Từ đó, người Khmer quan niệm rằng: “Khi còn sống phải làm việc tốt để khi chết đi còn được nhiều người nhắc đến, hay hổ chết để da, con người ta chết để tiếng”, là như vậy. Trước khi làm lễ băng sô côl cũng phải làm mồ mả, hay bảo tháp cho sạch sẽ.

Khi làm Lễ băng sô côl vào dịp Tết Chôl Chnăm Thmây, người Khmer thường mời 2 vị sư đến tận mả, hay bảo tháp-nơi an nghỉ cuối cùng của người quá cố, đọc kinh cầu siêu. Đồ vật thường dùng vào lúc này là vải trắng đắp lên mồ mả, bảo tháp và khi nhà sư đọc kinh xong, người ta lấy miếng vải dâng cho nhà sư. Vải càng nhiều càng tốt, bởi người ta quan niệm, sau khi miếng vải được dâng cho nhà sư, thì miếng vải sẽ trở thành trang phục để người chết hưởng

                                     2  Lễ cúng trăng

Cứ vào trung tuần tháng mười âm lịch, đồng bào Khmer Nam bộ lại háo hức chuẩn bị cho Lễ cúng trăng (Óoc om bok), lễ lớn thứ ba trong năm của người dân nơi đây.

Sở dĩ gọi là Lễ cúng trăng vì lễ được tổ chức nhằm tưởng nhớ đến công ơn của mặt trăng, coi mặt trăng là một vị thần điều tiết mùa màng, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhà nhà ấm no, hạnh phúc.

Tuy trong Lễ cúng trăng, phần lễ là chính nhưng cũng như nhiều lễ hội dân gian khác, ngày lễ này của đồng bào Khmer cũng có hai phần lễ và hội.

Phần lễ được tổ chức vào tối ngày 14/10 âm lịch, chủ yếu là những hoạt động xung quanh nghi thức cúng trăng. Việc cúng trăng có thể tại chùa, tại nhà, miễn sao nơi đó có thể nhìn rõ mặt trăng và phải cúng trước khi mặt trăng lên đến đỉnh đầu. Dưới ánh trăng, mọi người cùng thành kính chắp tay làm lễ. Một cụ già sẽ được cử làm chủ lễ và đọc lời khấn Thần Mặt Trăng nói lên lòng biết ơn của mọi người với mặt trăng, xin mặt trăng tiếp nhận những lễ vật do mọi người dâng và chúc phúc cho loài người có sức khỏe dồi dào, được mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, dân chúng được hưởng ấm no, hạnh phúc trong năm tới.

Ngoài các vật phẩm cúng có nguồn gốc từ nông nghiệp, cốm dẹp là lễ vật không thể thiếu trong Lễ cúng trăng. Càng gần đến ngày lễ, tiếng cối, chày gỗ quết cốm dẹp trong các sóc của đồng bào Khmer lại rộn vang. Cháy hết tuần hương, người già gọi trẻ con đến ngồi xếp hàng trước ban thờ và vừa đút cốm dẹp, vừa hỏi: "Con muốn được gì?". Người dân Khmer cho rằng, năm nào câu trả lời của các em suôn sẻ, lễ độ, rõ ràng, năm đó mọi điều tốt lành sẽ đến với họ. Có lẽ vì thế mà Lễ cúng trăng còn có tên là Lễ đút cốm dẹp.

Phần hội trong Lễ cúng trăng cũng rất sôi động và đặc sắc mà tâm điểm là các cuộc đua ghe ngo. Các hoạt động trong phần hội của Lễ cúng trăng lôi cuốn không chỉ đồng bào dân tộc Khmer mà còn hấp dẫn cả đồng bào dân tộc khác sinh sống cùng tham dự. Nhạc ngũ âm, tiếng trống, tiếng cồng và tiếng hò - hụi của các đội đua vang dội cả một khúc sông.

Đánh Kol: Kol là một khúc cây tròn ngắn, cứng, dài chừng 5 đến 8cm bằng ngón tay cái. Trên một khoảng sân rộng bằng non nửa sân bóng đá, người chơi chia làm hai phe, từ 5 đến 10 người một phe. Mỗi phe đứng dàn ngang ở vạch cuối sân. Giữa sân có một gạch ngang chia đôi bên. Giữa lằn gạch có một lỗ tròn.

Bắt đầu chơi, mỗi bên lần lượt cử người cầm khúc gậy gỗ dài chừng 1m gõ cho kol bay lên vừa tầm và đánh về phía đối phương. Nếu người cầm gậy phía bên kia bắt (chụp) được kol thì mang lại lỗ và đánh trả lại. Nếu đỡ hụt (không bắt được kol) thì người đỡ phải nhặt khúc kol chạy đến vạch cho vào lỗ. Lúc nầy mọi người phe kia ùa ra cản và giành khúc kol trở lại. Người bị truy đuổi phải chuyền khúc kol lại cho phe mình và tìm cách làm sao cho kol vào lỗ là thắng. Phe kia nếu cướp được kol thì bên giữ kol bị thua. Tùy theo giao kết, thường thì những người bên thua phải cõng những người bên thắng đi một vòng sân hoặc chịu một yêu cầu khác. Chơi kol gần giống như trò chơi “đánh trổng” (Nam bộ), đánh khăng (phía Bắc) của người Kinh.

Lbeng Arat Sva là trò chơi của trẻ Khmer Nam bộ còn gọi là trò chơi “khỉ nhập”. Lbeng Arat Sva thường được tổ chức vào những đêm trăng sáng ở trước sân nhà, sân phơi lúa. Bắt đầu cuộc chơi, bọn trẻ gom lại rồi chọn một người làm “khỉ”. “Khỉ” bị bịt mắt và ngồi giữa sân. Bọn trẻ con đi vòng quanh vừa vỗ tay vừa nói những câu chọc tức. Khi đám trẻ đi đủ ba vòng và không nói nữa, người làm khỉ lộn đầu ba lần rồi nhảy lên đuổi bắt bọn trẻ. Bắt được người nào khỉ cắn người đó (giả vờ). Bọn trẻ không được đánh khỉ mà chỉ xúm lại cố kéo người bị khỉ cắn ra. Trò chơi cứ thế kéo dài đến khi lũ trẻ chán thôi. Khi nghỉ chơi, một đứa trẻ phải đi hái lá môn múc nước về tạt vào khỉ cho nó trở lại kiếp người, vì lúc đầu nó đã bị “khỉ nhập” rồi!

Qòng Hơ Khlen còn gọi là Bòng Hơ Khlen là trò thả diều thường tổ chức vào tháng 11 (tháng Maksir của người Khmer). Diều có nhiều loại khác nhau như: Khlen Phnong dài 3-4m trên đầu mang một “cây đờn” được làm bằng tre dán giấy (giống như sáo diều của người Kinh). Tùy theo gió mạnh hay yếu, diều bay cao hay thấp mà “cây đờn” phát ra âm thanh to hay nhỏ. Ngoài loại diều sáo còn có loại diều đấu. Diều đấu có mỏ nhọn bằng tre vót sắc bén, có thể đâm rách diều đối phương. Một loại diều đấu khác có dây se keo dán các mảnh thủy tinh nhỏ để nghiến đứt, cứa rách diều địch. Ngoài mục đích vui chơi người Khmer còn thả diều để cầu trời cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.

Tok Sây là trò chơi đá cầu. Quả cầu làm bằng lông vịt và mỗi lần chơi có ít nhất 4 người đứng ở 4 góc chuyền theo đường thẳng hay vòng tròn tùy thích. Giữ cho trái cầu không rơi xuống đất càng lâu càng hay. Người nào đá hỏng (hụt) sẽ phải ra ngoài và bị bôi lọ lên mặt tùy theo lời giao. Nhiều người có kỹ thuật đá rất độc đáo như: đá móc, đá giò lái, đá bàn, đá ngoéo, đá tạt ngang. Ngoài ra, còn có loại cầu bằng sợi mây đan tròn như quả bóng quần vợt gọi là “Sây kem pôn”. Loại nầy khó đá nên kén người chơi. Mỗi lần đá có từ 4 đến 12 người đứng thành vòng tròn hoặc chéo góc giống như đá cầu lông vịt. Tok Sây rất giống đá cầu lông của người Kinh.

Qòng Hot Kon (Thả đèn gió, đèn trời) cũng là một trò chơi dân gian hấp dẫn. Làm đèn gió và đốt đèn khá đơn giản. Miệng đèn là một thanh tre được làm như cạp rổ. Thông thường đường kính miệng đèn rộng 0,8m và thân đèn cao 1m. Miệng đèn làm khuôn để dán giấy. Giấy dán đèn là giấy bản hoặc giấy dó, có độ dai bền. Tim bấc đèn bằng sợi vải tẩm với dầu phộng hoặc mỡ heo. Từ miệng đèn có sợi dây để buộc bấc đèn. Khi đốt, người ta giữ cho đèn thăng bằng rồi châm lửa vào bấc, lửa nóng làm không khí trong lòng đèn giãn nở và đèn từ từ bay lên, gặp gió đèn sẽ bay cao, bay xa.

Vào dịp lễ Ok-Om-Bok, người Khmer hay thả đèn gió với mục đích cầu cho trời đất phù hộ mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, nhân dân an lành. Tuy nhiên, do tránh hỏa hoạn nên hiện nay không được phép thả đèn gió.

Bà con dân tộc Khmer còn có rất nhiều các trò chơi dân gian đặc sắc khác như: On Kul (đánh bông vụ, con quay), Tielprot (kéo dây), Qòng Na ga (rồng rắn)...

      3 Lễ hội Sene Dolta của dân tộc Khmer

Hằng năm, vào cuối tháng 8 âm lịch, người dân tộc Khmer Nam Bộ thường tổ chức ngày hội Sene Dolta từ ngày 16 đến 30-8 âm lịch. Cũng giống như lễ Vu Lan của người Kinh, người Hoa lễ hội Sene Dolta thể hiện lòng tri ân, báo hiếu của con cháu đối với các bậc tiền bối.

Ngày xưa, khi mùa mưa đến, công việc đồng áng được gác lại chờ mùa vụ mới. Do nước mưa và thủy triều dâng cao, không ra đồng được, những người con xa quê thường thu xếp về thăm ông bà, cha mẹ, bà con thân thuộc.

Nhưng vì giao thông cách trở, việc về quê cũng gặp nhiều khó khăn nên một bộ phận cư dân Khmer đã phát kiến hình thành một ngày lễ tại gia đình để tưởng nhớ đến ông bà, cha mẹ ở quê. Ngày lễ đó gọi là Sene Dolta có nghĩa là cúng ông bà. Ban đầu chỉ một vài hộ ở cùng quê, sau lan tỏa ra khắp toàn bộ cư dân trong vùng thành một lễ hội có tính cộng đồng.

Trước ngày lễ, các hộ gia đình Khmer phải quét dọn trang hoàng nhà cửa, dán giấy hoa, bày cúng hoa, quả, nhang, đèn… tươm tất như một ngày Chol ChnamThmay (Tết cổ truyền). Độ khoảng giữa trưa, họ bày mâm cỗ lên bàn thờ cúng tổ tiên, khấn vái. Kế tiếp, họ gắp thức ăn (mỗi thứ một ít) ra một cái chén hoặc dĩa, đem ra đầu đất của gia đình, cạnh gian thờ Neaka để mời quỷ, thần và những người khuất mặt không được vào nhà dùng. Sau đó, bà con chòm xóm xúm xít bên nhau ăn cỗ, trò chuyện, thăm hỏi. Đến nay, phần lễ hội này vẫn được đồng bào dân tộc Khmer gìn giữ.

Khi Phật giáo xâm nhập vào đời sống của người Khmer thì lễ hội Sene Dolta không chỉ diễn ra trong ngày cuối tháng 8 âm lịch mà diễn ra trong suốt thời gian khoảng nửa tháng kể từ ngày 16-8 đến ngày Sene Dolta (trong mùa an cư kiết hạ). Mùa lễ hội này được bà con Khmer gọi là Phchum Banh (gọi tắt là Phchum) nghĩa là cùng nhau tụ hội lại làm phước. Bản thân mùa Phchum Banh không thể tách rời với ngày Sene Dolta nên có nơi còn gọi là Phchum và Sene Dolta là ngày kết thúc mùa lễ hội.

Mùa này, con cháu khắp nơi trở về quê hương, trợ giúp ông bà, cha mẹ, người cao niên trong dòng họ. Nhiều thì tiền chục, tiền trăm; Ít thì lon gạo, nải chuối để họ mang đến chùa thiết lễ Đat bai-banh (đặt cơm nắm). Mỗi gia đình cử một người lớn tuổi túc trực trong chùa suốt cả mùa lễ (16 ngày). Con cháu trong nhà, dòng họ thay nhau mang thức ăn, cơm, gạo, vật dụng đến phục vụ. Đây chính là dịp để họ báo hiếu cha mẹ, ông bà sau một thời gian bôn ba khắp nơi tìm kế sinh nhai.

Hiện nay, mùa lễ hội Phchum ở Cà Mau chỉ tập trung vào những ngày cuối, ngày hội chính Sene Dolta với tinh thần tiết kiệm.

Mùa lễ hội Phchum của dân tộc Khmer là một lễ hội văn hóa đặc biệt, cần được nghiên cứu, bảo tồn. Nó vừa mang màu sắc tín ngưỡng, vừa có yếu tố tôn giáo và thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của cộng đồng các dân tộc Việt.

Bên cạnh đó, lễ hội này còn là dịp để các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng thắt chặt các mối quan hệ, sự đoàn kết chòm xóm, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau về các mặt trong đời sống.

                          4 Lễ hội Cúng Biển

Hàng năm vào ngày 12 tháng Năm âm lịch tại tỉnh Trà Vinh có truyền thống tổ chức Lễ hội Cúng Biển. Đây là một truyền thống có hang trăm năm, được tổ chức rất long trọng tại thị trấn Mỹ Long (huyện Cầu Ngang) cách thị xã Trà Vinh khoảng 20km về hướng Đông (Biển Đông). Từ những ngày đầu tháng Năm ÂL hàng năm thu hút hàng chục ngàn du khách các nơi về thăm dự. Cúng biển Mỹ Long tổ chức theo nghi thức cổ truyền, rất hoành tráng, lịch sự và bên cạnh đó có nhiều trò chơi náo nhiệt, hào hứng, ngoạn mục, mới lạ được tổ chức chu đáo, tưng bừng...

Lễ hội cúng biển Mỹ Long từ lâu đã được xem là một trong những lễ hội quan trọng diễn ra hàng năm ở Trà Vinh. Cứ vào dịp lễ hội (từ 10- 12 tháng 5 ÂL), ngư dân lại tưng bừng tổ chức lễ hội Nghinh Ông hay còn gọi là lễ cúng biển. Theo những người lớn tuổi trong thị trấn kể lại, Lễ hội này đã được tổ chức lần đầu tiên từ năm 1917 nhằm thể hiện lòng thành của ngư dân trong vùng tạ ơn biển cả đã đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho người dân làng. Cùng với việc cầu cho mưa thuận gió hòa, trời yên biển lặng, lễ hội còn mang tính chất tạ ơn cá voi (cá Ông) mà ngư dân thường gọi là ông Nam Hải. Đối với người đi biển, cá Ông là vị cứu tinh của họ. Nhiều câu chuyện kể về các ngư dân đi biển gặp bão, lúc thuyền sắp chìm đã được cá Ông cứu đưa vào bờ hoặc bảo vệ không cho cá mập ăn thịt...

Các lão ngư dân Mỹ Long kể: Ngày xưa cá mập ở Mỹ Long nhiều lắm, ngư dân ra khơi bằng tàu buồm, khi bị bão tố thường bị chìm, nhiều người không may bị cá mập ăn thịt nên từ đó vào giữa mùa biển ngư dân tổ chức cúng biển để trả lễ. Lúc đầu, ngư dân cúng ở mé biển, đến năm 1922 mới cất miếu Bà Chúa Xứ để thờ. Lễ cúng biển được chia ra làm 6 phần chính gồm: Đi nghinh Nam Hải bằng ghe biển; Giỗ tiền chức; Chánh tế; Chánh tế Bà Chúa; Đi nghinh ngũ phương; Tống tàu ra khơi.

                    5 Đám cưới người khmer

Lễ nhập gia

Sau lần đầu đem trầu cau, bánh trái mỗi thứ đủ đôi, trao một số tiền cho bên đàng gái, tặng đồ kỷ niệm cho cô dâu xin cầu hôn và quyết định ngày cưới. Buổi sáng ngày bắt đầu lễ cưới, gia đình đàng trai đưa chú rể đến nhà cô dâu làm lễ nhập gia gọi là Pithi-đong-he-kôn-prốs-tâu-kanh-khang-srây, dưới sự hướng dẫn của ông Achar, hai ông Maha Tếp và Maha Montrey. Bên cạnh chú rể còn có họ hàng thân tộc và một số thanh niên nam nữ trong phum sóc mang các mâm lễ vật:

Đầu heo

Vịt luộc

Rượu nếp

Bánh mứt

Trái cây

Trầu cau

Mâm đựng buồng hoa cau non Phka-sla (bắt buộc phải có).

Cùng đàng trai đến còn có dàn nhạc dây “Vong-phlêng-ka” tăng thêm phần không khí vui tươi trong ngày cưới.

Nghi thức mở rào

Hôm đó, nhà đàng gái phải rào kín cổng, (nếu nhà không có cổng rào, thì sử dụng cổng rạp cưới dựng phía trước) tượng trưng cho sự trong trắng của người con gái trưởng thành. Đến cổng nhà, chú rể muốn bước vào thì ông Maha phải bày mâm lễ vật dâng đàng gái và múa đủ ba điệu để nói lời cầu xin “Pithi-bơk-rôbong”. Khi cổng rào mở, mẹ cô dâu ra đón và một cháu bên đàng gái bưng nước trà mời chú rể uống thì bên đàng trai mới được vào nhà làm lễ tiếp.

Nghi lễ cúng ông bà tổ tiên

Tiến hành dưới sự hướng dẫn của ông Maha là “Pithi-sene-chas-tum”. Chú rể ngồi bên tay trái ông Maha, cô dâu ngồi đối diện với các vị sư làm lễ. Sau khi tụng kinh chúc phúc, bên đàng trai dâng bánh trái cho ông bà và cha mẹ cô dâu. Lễ nghi này có ý nghĩa tượng trưng sự đền ơn công sinh thành nuôi dưỡng cô dâu.

Nghi thức dâng lễ vật

Pithi-chun-com-nóth là nghi thức bắt buộc trong lễ cưới của người Khmer. Sau khi làm lễ nhập gia, đúng vào giờ tốt, ông Maha cùng gia đình chú rể bày các lễ vật mang đến trình gia đình cô dâu xem có đầy đủ không? Khi họ hàng nhà đàng gái thuận thảo thì tiến hành các bước lễ chính tiếp theo để kết thúc.

Lễ cắt hoa cau

Pithi-kách-khanh-sla gia đình hai bên dẫn dắt cô dâu và chú rể ngồi làm lễ sánh duyên cho đôi vợ chồng mới cưới, dưới sự chủ trì của ông Maha. Trước khi cắt buồng hoa cau non, ông Maha múa điệu “Rom-bơk-bai-srây” có ý nghĩa là họ hàng đôi bên đã chính thức cho phép hai người kết duyên thành vợ thành chồng. Ông Maha cắt lấy hoa cau trắng rắc lên tân lang, tân nương và rắc từ chỗ ngồi cho đến đường đi vào buồng tân hôn để chúc phúc đôi uyên ương.

Lễ cột tay

Pithi-chon-đay họ hàng hai bên chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ sống trăm năm bằng cách lấy sợi chỉ hồng cột tay chú rể trước rồi đến cô dâu. Họ đàng trai cột tay phải cô dâu và chú rể, họ đàng gái cột tay trái chú rể và cô dâu, dưới sự chủ trì của ông Maha.

Sau lễ cột tay, đôi vợ chồng dắt nhau vào buồng tân hôn, người chồng nắm vạt áo “Sbai” của người vợ theo sau. Nghi lễ này bắt nguồn từ truyền thuyết “Pres-Thôn Neang-Neath” được dân gian kể rằng: Hoàng tử Pres-Thôn cưới nàng công chúa Thera-Wath-Tây con gái của Long Vương. Do trên đường về thủy cung, hoàng tử là người trần gian không thể nào đi được dưới nước. Nhờ trí thông minh của công chúa Rắn nghĩ ra cách cho chồng nắm lấy vạt áo của nàng theo đường rẽ nước về long cung.

Xong thủ tục ấy, cô dâu và chú rể thay y phục ra ngoài đón khách đến dự tiệc cưới. Tối đến, có nơi còn tổ chức lễ chung giường cho đôi vợ chồng mới. Thường nhà gái chọn hai người đàn bà đứng tuổi có gia đình hòa thuận và khá giả để trải chiếu mới lên giường. Dọn một ít bánh trái, nước ngọt, trầu cau, nhang đèn cúng tổ tiên rồi cho hai vợ chồng cùng ăn như đút cho nhau chuối, chia nước dừa cho nhau để tình yêu đậm đà hơn. Ăn xong, hai người vào buồng tân hôn, cô dâu đi trước và chú rể theo vào sau.

6, Món ăn của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long

Mắm là món ăn hết sức đặc trưng của người Khmer. Đó chính là kết quả tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên, lấy những nguyên liệu từ tự nhiên để chế biến thành một món ăn theo cách riêng. Đối với bà con Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long, mắm không chỉ là một món ăn không thể thiếu trong cơ cấu bữa ăn hàng ngày mà nó còn là một thứ gia vị đặc biệt, đôi khi mang tính bắt buộc trong việc chế biến một số món ăn.

Mắm pro-hốc là món ăn điển hình. Mắm pro-hốc có thể được làm từ nhiều loại cá nhỏ, như: cá sặt, cá chốt, cá lòng tong... Hoặc những loại cá lớn, như: cá trê, cá lóc... Người ta lựa những con cá lóc còn tươi đem đánh vẩy, mổ bụng ra rồi rửa cho sạch nhớt đem ngâm nước lạnh một đêm, vớt ra đem phơi nắng cho ráo nước. Sau đó người ta ướp muối, trộn với cơm nguội, đem cho vào hũ, hoặc khạp, rải muối hột vào rồi gài cứng, đậy nắp lại, để khoảng từ bốn tháng đến sáu tháng là ăn được. Có thể để nguyên con đem kho, hoặc ăn sống; hoặc cho vào ít lá chanh, lá gừng xắt nhỏ, ớt, đường, và chanh chưng.

Còn có loại mắm chua gọi là pò-ót, được làm từ tép mòng - một loại tép rất phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long. Khi ăn, người ta trộn với đu đủ, riềng hoặc gừng non. Pò-ót làm khoảng 10 ngày là ăn được.

Mắm pro-hốc có hai loại: mắm cá nhỏ gọi là pro hoc trey changvar, gồm tất cả các loại cá trắng, đen, như các loài: sặt, trèn, chốt, lòng tong, cá chạch đất,...; mắm cá lớn gọi là pro hoc trey thom gồm các loại cá lóc, cá bông, đặc biệt là cá trê vàng.

Để làm mắm pro-hốc đầu tiên là làm sạch cá: đánh vảy, chặt kỳ, mổ bụng bỏ sạch ruột. Để cá chảy hết máu rồi rửa nhiều lần, chừng nào thấy nước trong mới thôi. Nếu cá làm không sạch, còn máu hoặc nhớt, vảy dơ cá sẽ thối, đắng ăn không được.

Cá làm sạch cho vào cái vịm nước (vật dụng làm bằng sành, sứ - như cái thau) ngâm nước một đêm, sau đó vớt ra rổ để ráo nước và đem phơi nắng một ngày.

Muối hột rửa cho trắng (bỏ tạp chất làm cho muối có màu đen, sẫm), cho vào cối giã nhuyễn rồi trộn với cá. Lượng muối nhiều hay ít là do kinh nghiệm của người làm. Chất lượng mắm cũng từ đó mà xác định. Bỏ ít muối (lạt muối) thì cá sẽ sình, hoặc ngược lại bỏ nhiều muối mắm quá mặn.

Trộn muối với cá xong, bỏ cá vào cối quết nhẹ bằng chày cây. Khi quết cho thêm cơm nguội vào tán nhừ, ước chừng một tô mắm thì hai muỗng cơm. Quết xong, múc cá ra rổ để cho nước rỏ xuống. Phía trên mắm lót ít lá chuối tươi, lấy gạch đá dằn lên khoảng một ngày đêm cho nước trong mình cá chảy ra hết. Ngày sau, người ta xếp mắm vô hũ hoặc tỉn đã rửa sạch để khô, nhận ém thật cứng, phía trên gài bằng mo nang dừa, trên cùng gài mắm bằng các dọc dừa già chẻ vừa mặt dụng cụ nhận mắm. Trên đổ nước muối. Quan trọng là phải ém mắm cho kỹ không để nước muối lọt xuống thấm vào mắm. Khoảng từ 4 đến 6 tháng trở lên giở mắm ra là ăn được. Mắm pro-hốc để càng lâu, càng ngon.

Mắm pro-hốc được người Khmer dùng nêm cho gần hết các món ăn. Hoặc ăn riêng thì chưng, kho, chiên,... Một nồi xiêm lo, một nồi nước lèo thì đồ nêm tất nhiên không thể thiếu mắm pro-hốc!

Xiêm lo cũng là một món canh tiêu biểu trong văn hóa ẩm thực của người Khmer khác với tất cả các loại canh của người Việt hay người Hoa. Nấu món canh này người ta dùng thịt, cá tươi và rau ngổ, chuối rém, hoặc trái đu đủ non và được nêm bằng mắm pro-hốc. Canh xiêm lo còn được nấu với nhiều loại rau như: lá bồ ngót, lá bình bát dây, bông điên điển, đọt bí, đọt bầu, cùng với măng, mướp, khoai môn, khoai lang, bầu, bí đao, rồi rau đắng... Canh xiêm lo cũng có nhiều loại khác nhau như xiêm lo mít, xiêm lo bình bát... Mỗi loại canh đều thể hiện sự phong phú, tài khéo léo của bà con Khmer.

Bà con Khmer còn có một số món canh độc đáo khác, như: canh chua nấu với trái chuối xiêm xanh. Người ta tước bỏ vỏ chuối xiêm xanh, xắt hơi dày, nấu với cá và thịt gà, thêm cơm mẻ và các loại rau om, tần dày lá, ngò gai, sả và mắm pro-hốc. Canh chua nấu bằng bắp chuối thái mỏng với cá khô và lá me non...

“Người nội trợ Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long còn nhớ rất nhiều món canh quen thuộc của dân tộc mình, đặc sắc nhất là các món canh xiêm lo ko-kô tức canh thập cẩm, được nấu với nhiều loại rau rừng và rau đồng như rau cỏ chai, cải trời, rau đắng, rau ngổ, rau chóc, rau chay, rau bợ, rau chuối, khổ qua, đu đủ non... cùng các loại tôm, thịt, cá và các thứ gia vị như sả, ớt, thính, củ gừng, củ riềng, bột cà ri, dừa khô, mắm pro-hốc... Hoặc như món xiêm lo prohơ cũng là một loại canh nấu với thịt hoặc cá với gia vị là mắm pro-hốc, sả, ớt, ăn với gỏi đu đủ, dưa leo chấm với nước chua là cơm mẻ (một loại vi khuẩn trong cơm nguội để lên men)v.v...”

Đặc biệt, món bún nước lèo của người Khmer được cả người Việt và người Hoa ưa thích - đã trở thành một đặc sản chung của cư dân Đồng bằng sông Cửu Long, được nhiều du khách phương xa thưởng thức và nhớ mãi. Để nấu món này, người ta dùng tôm, cá nấu nhừ lấy nước cốt, đem cá ra rút hết xương, nước cốt của cá được nêm muối ớt, sả... và hai món nêm không thể thiếu là ngải bún giã nhỏ và mắm pro-hốc. Nước cốt sau khi nêm và nấu kỹ đã trở thành một thứ nước lèo rất tuyệt hảo.

Cũng như các dân tộc khác ở Đồng bằng sông Cửu Long, người Khmer cũng có nhiều món bánh. Bánh ngọt có mặt gần như hầu hết trong các dịp lễ hội của người Khmer. Tiêu biểu các loại bánh: bánh củ gừng, bánh tai yến... nhưng đặc sắc hơn cả có thể nói là bánh thốt nốt. Đó là, nguyên liệu được làm từ trái thốt nốt, mà trái thốt nốt chỉ có nhiều ở những khu vực đông đảo người Khmer sinh sống. Người ta bẻ trái thốt nốt xuống, sau đó đem chà vào rổ để lấy bột, rồi đem bột này trộn với bột gạo, thêm chút dừa nạo, sau đó lấy lá thốt nốt gói lại, rồi sau đó đem hấp. Bánh có màu vàng ươm, có mùi thơm hết sức đặc biệt vị ngọt tinh khiết, vị béo của dừa rất ngon. “Người Khmer từng tự hào về các loại bánh ngọt cổ truyền của dân tộc mình vì nó chiếm một số lượng khá phong phú, lại vô cùng độc đáo. Bánh ngọt giữ một vị trí khá quan trọng trong đời sống của người Khmer vì nó không thể vắng mặt trong tất cả các dịp lễ, Tết, cúng bái theo phong tục.”2 Bánh ngọt của người Khmer gồm một số loại tiêu biểu sau:

* Num còn khuyên

Người Việt gọi Num còn khuyên là bánh rế. Bánh làm bằng đậu xanh, đậu nành và nếp. Mỗi thứ lấy trọng lượng bằng nhau, vo sạch, để ráo rồi đem rang riêng. Rang để lửa nhỏ, đến khi vừa vàng thì đổ ra, sau đó trộn cả ba thứ vào chung, vọt nát như xây thín.

Nước đường thốt nốt thắng đến rít lại, bỏ bột đã vọt nhuyễn vào quậy đều như nhân bánh ít, đem ra nắn hình tròn như cá mâm có chân, gọi là bánh rế.

Lấy bột gạo, ít nhiều tùy theo kinh nghiệm của người làm bánh, trộn trong thau, cho bột nghệ xay vào để tạo màu vàng, đổ nước vào quậy sền sệt, đem từng cái bánh rế nhúng vào rồi chiên với mỡ. Bánh vàng, vớt ra để ráo, ăn giòn ngon.

* Num Crọp Khnô

Num Crọp Khnô nghĩa là bánh hột mít. Bánh làm đậu xanh nấu mềm, đãi bỏ vỏ, giã nhuyễn trộn với đường thốt nốt như nhân bánh ít. Sau đó, dùng tay vắt viên tròn như hột mít, lăn vào tròng đỏ trứng vịt, gà. Sau đó, đem chiên giòn. Ăn khi ráo mỡ.

* Num chô

Bánh làm bằng gạo trắng vọt sạch, để ráo rồi cho vào cối vọt nhừ nát, khi vọt dùng sàng rây nhiều lần để giã lại cho thật nhuyễn, bột càng nhuyễn, bánh càng nổi to. Nước đường thốt nốt thắng đến rít lại, bỏ bột gạo vào quậy đều như nhân bánh ít, đem ra nắn từng cái hình tròn hay vuông, dẹp lớn nhỏ tùy ý. Sau đó, bỏ vào chảo mỡ chiên. Bánh sẽ nổi lớn như bánh tiêu của người Tiều (Triều Châu). Bí quyết độc đáo của loại bánh này nằm ở lượng đường ngào, nếu không ngọt thì bánh sẽ tan trong chảo chiên, ngược lại ngọt quá, bánh sẽ chai, không nổi, ăn không ngon.

* Num Khnhây

Num Khnhây là bánh gừng. Nếp trắng vo sạch, để ráo đem quết thành bột, khi quết dùng sàng rây nhiều lần để giã cho thật nhuyễn, bột càng nhuyễn, bánh càng nổi lớn. Bột giã xong, đem phơi cho thật khô. Sau đó, lấy lòng trắng trứng vịt đánh nổi, cho bột vào quậy đến sền sệt, sau đó nắn thành hình củ gừng (có người nắn hình cá, hình chim, cua, tôm,...). Bánh gừng chiên bằng mỡ. Bánh nổi lớn, sau đó ngào với nước đường thốt nốt thắng sền sệt. Bí quyết của cách làm bánh này là khi cho bột vào lòng trắng trứng vịt sau cho vừa phải liều lượng thì bánh mới nổi đều. Khi chiên phải lẹ tay lật bánh qua lại.

Bánh gừng thường không thể thiếu trong đám cưới của người Khmer.

* Num Niềng Nóc

Num Niềng Nóc nghĩa là bánh của Nàng Nóc, theo các bậc trưởng thượng thì Nóc là tên người đầu tiên làm thứ bánh này. Người Khmer sau đó lấy tên người đặt cho tên bánh như để ghi công cho nàng. Gạo đem vo sạch, ngâm trong nước độ một đêm, sau đó quết thành bột, đổ nước sền sệt, lấy màu vàng của nghệ, màu đỏ của gấc pha vào cho đẹp mắt.

Nhân làm bằng đậu xanh quết nhuyễn trộn với đường thốt nốt, nước cốt dừa.

Bắc chảo lên bếp, cho mỡ vào. Đợi mỡ gần sôi thì lấy bột nhúng vào kéo lên, kéo xuống, tréo qua, vắt lại cho đến khi bột giòn thì nắn thành hình hộp như hộp thuốc lá, để nhân ở giữa. Chiên tiếp cho vàng, vớt ra, ăn khi ráo mỡ.

Nhìn chung, các món ăn của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long tuy không cầu kỳ, nhưng nó phản ánh khá rõ nét đặc điểm văn hóa trong ẩm thực của cộng đồng tộc người này. Đó là quá trình thích ứng, tương tác và tận dụng đối với môi trường thiên nhiên mà đồng bào Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long dễ chế biến ra nhiều món ăn phong phú, mang bản sắc riêng.

              7 văn hóa

Thần Neak Tà trong đời sống văn hóa người Khmer tỉnh Trà Vinh 

Ở Trà Vinh, cũng có nhiều dạng Neak Tà như : Neak Tà Xam rông (cây Trôm), Neak Tà Dom Chey (cây Đa), Neak Tà bến đò, Neak Tà giếng vẹo, Neak Tà bến Bình An. Ngoài ra, còn có một số Neak Tà ở ngã ba, ngã tư sông như Neak Tà Ok và Neak Tà Rumpotmia. Còn Neak Tà Wat được thờ ở các khuôn viên chùa như : Chùa Ông Mek (Phường 1, Thành phố Trà Vinh), chùa Chim (Phường 7, Thành phố Trà Vinh), Neak Tà chùa Phướn (Phường 7, Thành phố Trà Vinh), chùa Xoài Xiêm (Xã Ngãi Xuyên, huyện Trà Cú), chùa Bãi Xào Dơi (Xã Thanh Sơn, huyện Trà Cú)… Đặc biệt, ngoài hình tượng Neak Tà là những hòn đá theo kiểu thờ truyền thống giống như nhiều nơi khác ở Đồng bằng sông Cửu Long (Sóc Trăng, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cà Mau…), thì riêng tại Phường 8 và Phường 9 (Thành phố  Trà Vinh), Ấp Quy Nông A, Quy Nông B (Xã Hòa Lợi, Huyện Châu Thành), Neak Tà được đắp tượng và thể hiện là một ông già tay cầm gậy hoặc cầm chày, cối giã thuốc…Điều này phản ánh sự thay đổi quan niệm, tư duy của con người, cụ thể là từ trừu trượng chuyển sang cụ thể của người Khmer ở những nơi này.  Vậy, Neak Tà ở đây không còn là một vị thần chung chung, mà đã mang một dáng dấp cụ thể, phù hợp với quan niệm của người dân tại các địa phương khác nhau. Phải chăng đây là kết quả của quá trình giao lưu văn hóa do quá trình tiếp xúc tộc người (Việt, Hoa, Khmer) và sự phát triển kinh tế, xã hội ở những địa phương trên ?

Neak Tà đối với người Khmer Trà Vinh không chỉ là thần bảo hộ mà còn là thần ban phúc, giáng họa, thần xét xử, thần chữa bệnh... Trước kia, khi có xích mích, khiếu kiện, nghi kị lẫn nhau họ đến miếu Neak Tà để giải quyết bằng cách thề thốt trước sự chứng dám của Ông. Người bị bệnh thường đến đây khấn và hứa trả lễ khi lành bệnh. Ai mất mát đồ đạc gì cũng khấn Neak Tà nhờ tìm và chỉ giúp. Lời khấn, qua tư liệu sưu tầm thực tế, về đại thể như sau:

- Phần khấn: Vái Neak Tà… cho tôi… (điều mà người Khmer mong ước),

- Phần hứa trả lễ : Nếu được như lời khấn, tôi sẽ cúng… (vật phẩm). Lễ vật là nải chuối hoặc con gà, con vịt hoặc đầu heo…,tùy thuộc vào mức độ quan trọng của sự việc cầu xin và lời khấn.

Người Khmer Trà Vinh có hai loại tín ngưỡng phổ biến: Arăk và Neak Tà. Cả hai đều là thần bảo hộ, nhưng trong tâm thức của họ, thì Neak Tà có vị trí cao hơn hẳn Arăk, bởi phạm vi ảnh hưởng của Neak Tà thường là cả cộng đồng trong phum sóc. Có trường hợp còn mở rộng ra đối với nhiều phum sóc, còn phạm vi ảnh hưởng của Arăk chủ yếu trong gia đình, dòng họ. Đối với người Khmer, Neak Tà được coi là vị thần cai quản có quyền lực nhất trong phum sóc tương tự như Thành Hoàng Bổn Cảnh của người Việt. Tuy nhiên, mỗi phum sóc của người Khmer có thể có nhiều Neak Tà, trong đó Neak Tà Méchas Srok (ông Tà chủ xóm) là thần bảo hộ có địa vị cao nhất.

Miếu thờ Neak Tà của người Khmer ở Trà Vinh có nhiều loại. Loại miếu thờ đơn giản được làm bằng tre, lợp lá dừa nước trầm, nhà sàn hoặc nhà đất, thường làm dưới gốc cây trong khuôn viên một phum nhỏ hay dựng ở một góc ruộng. Loại miếu lớn hơn, thường được xây bằng gạch ở hướng đông bắc trong khuôn viên chùa, hay một điểm nào khác trong phum sóc. Loại miếu này dành cho Neak Tà Wat (Neak Tà chùa) và Neak Tà Méchas Srok (Neak Tà chủ xóm).

Hàng năm, người Khmer trong mỗi phum sóc cúng Neak Tà một lần

vào trước mùa mưa, khoảng tháng 4 âm lịch. Hiện nay, nếu so với các tỉnh Sóc Trăng, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu thì ở Trà Vinh có nhiều miếu thờ Neak Tà hơn và có nghi thức thờ cúng khá phức tạp với thời gian hành lễ kéo dài từ 2 - 3 ngày. Điều này đã được Nguyễn Xuân Nghĩa ghi nhận từ năm 1978 (7).  Qua quan sát của chúng tôi vào năm 2008, một số nơi tiêu biểu ở Trà Vinh tổ chức cúng Neak Tà như : Miếu Neak Tà tại xã Lương Hòa cũ (nay là Phường 8, Thành phố Trà Vinh) vào ngày 14 tháng 4 âm lịch, miếu Neak Tà gần chùa Phướng (Khóm 8, Phường 9, Thành phố Trà Vinh) vào ngày 16 tháng 4 Âm lịch, miếu Neak Tà tại Ấp Phố Giữa (Xã An Quảng Hữu, Huyện Trà Cú) vào ngày 17 tháng 4 Âm lịch.... Tín ngưỡng thờ Neak Tà ở Trà Vinh là yếu tố liên kết, tập hợp cư dân trong phum sóc. Cúng Neak Tà có sự tham gia của toàn cộng đồng. Họ tự nấu những thức ăn theo điều kiện kinh tế của mỗi gia đình, thường là một món canh, một món mặn - rồi lần lượt đem thức ăn đến miếu Neak Tà dâng cúng. Cúng xong, các vị sư không trở về chùa mà dùng bữa tại miếu. Sau đó, đến lượt mọi người trong phum sóc cùng ăn. Trong khi ăn, họ bàn bạc với nhau về công việc, về sức khỏe và chia sẻ với nhau nhiều kinh nghiệm về việc đồng áng, việc làm ăn…Người Khmer Trà Vinh gọi bữa cơm này là bữa cơm đoàn kết (samaky). Đặc biệt, tính cộng đồng và dân chủ được thể hiện rõ trong buổi lễ này. Việc phụ nữ cùng ăn chung, ngồi chung trong miếu với đàn ông, hay  việc trẻ con có quyền ngồi ăn mâm riêng với đầy đủ thức ăn như người lớn là một điều không bị cấm đoán, không hề bị la rầy. Việc mời một hay nhiều khách tình cờ tham dự cùng ăn chung bữa cơm, uống chung ly rượu với họ là một việc rất bình thường.

Nếu ngày xưa, khi cộng đồng bị uy hiếp, bị thiên tai, địch họa, dịch bệnh hay những việc hệ trọng khác như cầu mưa đầu mùa thì các con sóc (từ của người Khmer gọi những người cùng sóc) họp nhau làm lễ Bon ban chan Neak Tà (nhập xác Neak Tà) để hỏi ý kiến về nguyên nhân của tai họa cũng như hướng giải quyết. Còn ngày nay, việc nhập xác Neak Tà ở Trà Vinh không còn nữa một phần do xã hội ngày càng tân tiến, một phần do tín ngưỡng này bị Phật giáo lấn át. Trong nghi thức cúng Neak Tà của người Khmer Trà Vinh hiện nay thường có các vị sư tụng kinh và lễ này được coi là lễ cầu an của Phật giáo. Nhưng nếu quan sát kỹ, ta thấy đó chỉ là hình thức biểu hiện bên ngoài, còn thực chất các thức cúng trên bàn thờ là những lễ vật cúng cho thần chứ không phải cho Phật. Bởi ngoài cơm, canh, thịt mặn xào, người ta còn để chai rượu trắng là một trong những thứ thuộc giới cấm của Phật giáo. Rõ ràng có sự dung hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng Neak Tà của người Khmer, thông qua vai trò chính của các vị sư trong các buổi lễ cúng Neak Tà từ tụng kinh, thuyết pháp, cầu an đến cầu mưa. Các vị sư chỉ nhường vai trò cho các Achar ở phần  cúng  sau cùng. Nếu quan sát kỹ ở  phần sau này, tuy là chiếm thời lượng rất ít trong chương trình cúng tế, nhưng nó mang đậm chất dân gian, diễn tả một cách chân thực các nghi thức cúng Neak Tà trước khi chịu ảnh hưởng Phật giáo. Thức cúng cho Neak Tà như đã nói là cơm, rượu, thịt và đặc biệt là đầu heo (thông thường là luộc chín, nhưng có nơi để sống). Khi cúng xong, các vị sư tụng kinh dẫn đầu đoàn người trong phum, sóc kiệu (có nơi các thanh niên thay nhau khiêng trên vai) Neak Tà (là một hòn đá to nhất trong miếu) đi vòng phum, sóc trong tiếng reo hò, hoan hỉ của mọi người. Các con phum, con sóc tranh nhau chạm tay vào Neak Tà, vì họ tin rằng làm như thế sẽ được Neak Tà ban bình an, phúc lộc và may mắn.

Ngày nay, có một điều cần ghi nhận là sau gần ba  thế kỷ cùng cộng cư ở Trà Vinh, thông qua quá trình giao lưu văn hóa với người Việt và người Hoa, mà nhất là người Hoa, tín ngưỡng Neak Tà của người Khmer đã có sự pha trộn với tín ngưỡng thờ Thần, thờ Quan công của người Hoa. Trong một số miếu thờ Neak Tà của họ, ngoài thờ những hòn đá tượng trưng cho Neak Tà thì ở phía sau là một tấm vải đỏ viết chữ Thần (hoặc được sơn đỏ lên vách phía sau và viết chữ thần lên đó). Bên cạnh những hòn đá tượng trưng cho Neak Tà còn có ảnh Quan Công là vị nhân thần rất được người Hoa sùng kính. Hình thức thờ có tính hỗn dung văn hóa trên đây được thấy ở nhiều nơi tại Trà Vinh như : Các miếu Neak Tà ở xã Lương Hoà cũ (nay là Phường 8, Thành phố Trà Vinh), ở xã An Quảng Hữu, huyện Trà Cú. Trong quá trình cộng cư, tiếp xúc sẽ dẫn đến quá trình giao thoa văn hóa lẫn nhau. Vì vậy, người Khmer ở Trà Vinh lần hồi đã dung nạp các hình thức tín ngưỡng dân gian của người Việt, người Hoa. Ngược lại, người Việt, người Hoa địa phương cũng tiếp nhận, tôn thờ tín ngưỡng Neak Tà trong đời sống tinh thần, tâm linh của họ. Quan sát ở những nơi cư trú của người Việt và người Hoa trên địa bàn tỉnh Trà Vinh cho thấy những miếu thờ Neak Tà của người Khmer trước đó được tôn tạo và dung hợp với tín ngưỡng thờ thổ thần, phúc thần. hoặc thờ cô hồn…. Rồi tín ngưỡng thờ Neak Tà tồn tại trước cổng đình thần ấp Ngã Ba, xã An Quảng Hữu (Bắc Trăng) ở huyện Trà Cú.

                Nghệ thuật múa Khmer truyền thống .

Người Khmer có 2 loại hình múa truyền thống, đó là múa sinh hoạt cộng đồng và múa sân khấu cung đình.

Loại hình múa sinh hoạt cộng đồng như Răm vông, Lăm leo, Saravan hiện vẫn được phổ biến rộng rãi trong đời sống sinh hoạt cộng đồng thôn, ấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Vào những dịp Tết Chol chnăm thmây, Lễ Đol ta, Ók om bok, đám cưới, mừng nhà mới..., đồng bào Khmer thường tổ chức múa hát tập thể, tạo nên không khí giao lưu, phấn khởi, đoàn kết, thân ái trong cộng đồng. Khi tiếng trống hoặc bản nhạc vang lên, từng đôi nam- nữ, già trẻ cùng uyển chuyển bước ra sân, hoà mình vào điệu múa tập thể. Phái nữ thể hiện động tác múa lượn 2 cánh tay ra trước ngực, còn phái nam thì lượn cánh tay rộng ra như để che chở cho người bạn múa của mình. Trong điệu múa Răm vông, những cánh tay lúc uốn sang trái, lúc lại lượn sang phải theo điệu nhạc dập dìu. Sau mỗi bước nhún, đội hình múa di chuyển dần lên phía trước theo vòng tròn.

Múa Răm vông, Lăm leo, Saravan động tác khá đơn giản nên mọi người dễ bắt chước để có thể hoà nhập được ngay. Tuy vậy, khi tham gia múa, mọi người cũng phải tuân theo một số nguyên tắc nhất định như: người ít tuổi, địa vị thấp hơn sẽ ra múa trước, sau đó mới tiến đến mời các vị quan khách, người cao tuổi ra múa giao lưu. Đội hình múa di chuyển càng nhiều vòng, động tác múa càng nhanh hơn theo nhịp trống. Khi trống ngừng, mọi người cùng dừng lại chắp tay chào nhau rồi trở về vị trí cũ.

Ngoài loại hình múa sinh hoạt dân gian người Khmer còn có loại hình múa sân khấu cung đình: Rô băm.

Trong Rô băm, múa là ngôn ngữ chính nên được gọi là kịch múa. Thông qua ngôn ngữ động tác, tính cách nhân vật được khắc hoạ, nội dung vở diễn được thể hiện. Ngoài ngôn ngữ múa, sân khấu Rô băm cũng dùng thêm lời nói hoặc câu hát nhằm phụ hoạ, giải thích cho những tình tiết, sự kiện, điển tích, điển cố... mà ngôn ngữ múa khó biểu đạt.

Loại hình múa Rô băm rất khó thể hiện nên chỉ những người làm nghệ thuật dày công tập luyện mới có thể diễn xuất tốt. Khi múa, các nghệ sỹ thường phối hợp nhịp nhàng những động tác uốn mềm dẻo của hông, lưng, cánh tay, bàn tay, bước chân... nhằm thể hiện nội dung câu chuyện. Bàn tay hướng về phía nào thì ánh mắt nhìn theo hướng đó. Động tác múa Rô băm thường được mô phỏng theo hình tượng các nàng tiên nữ Apsara tạc trên các bức phù điêu trang trí trên các ngôi chùa Khmer.

Rô băm có xuất xứ từ múa cung đình, vì vậy, nhân vật trong sân khấu thường là vua, chúa, quan lại, quý tộc. Thú vật trong Rô băm cũng là những vật linh, được nhân hoá như: khỉ Hanuman, chằn, ngựa, chim thần, yêu tinh, ma quái...

Các vở kịch múa Rô băm nổi tiếng trong đời sống sân khấu nghệ thuật Khmer như: Riềm kê, Sự tích Chol chnăm thmây, Ratanavông, Linh Thôn… đều có nội dung phản ánh cuộc đấu tranh căng thẳng, quyết liệt giữa cái thiện và cái ác, kết thúc câu chuyện, người ở hiền sẽ gặp lành, kẻ ác phải đền tội.

Trong bối cảnh chung hiện nay, trước sự tác động của nhiều loại hình nghệ thuật, giải trí hiện đại khác, nghệ thuật sân khấu Rô băm đang có nguy cơ dần bị mai một. Tại các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long, chỉ còn 2 đoàn nghệ thuật có khả năng dàn dựng loại hình kịch múa Rô băm (dạng trích đoạn), đó là Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh (tỉnh Trà Vinh) và Đoàn Nghệ thuật Khmer Sóc Trăng.

Để bảo tồn, phát triển các loại hình nghệ thuật múa Khmer truyền thống (đặc biệt là loại hình múa sân khấu cổ điển), các đoàn nghệ thuật Khmer rất cần sự quan tâm, đầu tư hơn nữa của Nhà nước, nhằm đào tạo đội ngũ diễn viên trẻ, khuyến khích sự tham gia của quần chúng nhân dân, nghệ sỹ, nghệ nhân để có những tác phẩm tốt phục vụ công chúng, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro