Nguoi lai do song da

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

I . Mở bài

Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa , uyên bác , cả đời say mê tìm kiếm vẻ

đẹp của cuộc sống . Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút . Một trong

những sáng tác tiêu biểu của ông là tuỳ bút " Người lái đò sông Đà" .

Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con

sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông .

II . TB

1. Giới thiệu chung .

Tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" dược in trong tập tuỳ bút "Sông Đà"

(1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm

được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của

chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống

Pháp,đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều

vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc.

Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn

nguồn cảm hứng sáng tạo.

Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, NT

còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là

"thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc."

Qua "Người lái đò sông Đà", Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã

khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vỹ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên

đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thơi, nhà

văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con

người lao động mới : chất vàng mười của đất nước trong xây dựng CNXH

qua hình ảnh người lái đò sông Đà.Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi

rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng

cảm, rất tài tử, tài hoa.

2. Phân tích nhân vật người lái đò .

Người lái đò hiện lên trước hết là một người lao động từng trải , có

nhiều kinh nghiệm đò giang , có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh

nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào

ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc

lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. nhà văn gọi

đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông

Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vựơt

thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một

trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số

một :

"Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi

lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi

lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy

để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đat nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng

nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này... Sông Đà đã giao việc cho

mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn

chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền , một cái

thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà

có đá dàn trận địa sẵn...

Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất

lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng

đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng

lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn

không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con

thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố

nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như

cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm.

"Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất", người lái đò "phá luôn

vòng vây thứ hai". Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần

đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết

cả, nhưng người lái đã chủ động "tấn công": Cứ phóng thẳng thuyền, chọc

thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa

ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên

nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Trong

cuộc chiến không cân sức ấy , người lái đò chỉ có một cán chèo , một

con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh

siêu nhiên của loài thuỷ quái . Tuy nhiên , kết cục cuối cùng , người

lái đò vẫn chiến thắng , khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh

lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé .

Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh , làm lụng âm

thầm , giản dị , nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ , trở nên

lớn lao , kì vĩ , trở thành đại diện của CON NGƯờI . Người lao động nhờ

ý chí kiên cường , bền bỉ , quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần

thánh của thiên nhiên . Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của

nhân dân Tây Bắc .

Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái

của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của

Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà

cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được

coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu

phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình

tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa.

Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm

chủ được nó nên có tự do.

Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút

thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá

bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác lại dễ dại tay

dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão

lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm

trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận

mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi

giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính

xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt

thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình.

Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về

cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những

tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai

bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng

dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức

mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức

của mình. nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét : Cuộc sống của

họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành

lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp,

đáng nhớ... Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng

có lẽ dế thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có Nguyễn Tuân.

III . Kết bài

Tuỳ bút " Người lái đò sông Đà" là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách

nghệ thuật tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân . Tác phẩm không

chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca

ngợi vẻ đẹp bình dị , anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi

đây . Qua đó , nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước , niềm tự

hào hứng khởi , gắn bó tha thiết với non sông Việt Nam .

(Sưu tầm)

DÀN BÀI

I. Mở bài:

- Nguyễn Tuân

là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam.

Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của cuộc sống, con người

với tình cảm gắn với quê hương, đất nước.

- "Người lái đò sông Đà" là thiên tùy bút thể hiện rõ nét phong cách đó.

- Thông qua việc miêu tả người lái đò trên sông Đà,

tác giả ngợi ca những người lao động bình thường nhưng là một nghệ sĩ

điêu luyện trong nghề nghiệp. Họ đóng góp một phần công sức nhỏ bé của

mình vào quá trình xây dựng miền Tây Bắc Tổ quốc nói riêng, xây dựng

đất nước nói chung.

II. Thân bài:

1. Khái quát:

- "Người lái đò sông Đà" rút từ tập tùy bút "Sông Đà" của Nguyễn Tuân.

- Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây Bắc trong thời kỳ

kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là kết quả của chuyến đi thực tế Tây

Bắc năm 1958.

- Tuân đến với nhiều vùng khác nhau, sống với bộ đội, thanh niên

xung phong, công nhân cầu đường và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây

dựng cuộc sống mới đã đem lại cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

2. Phân tích:

Bằng sự quan sát và khả năng miêu tả chuẩn xác, Nguyễn Tuân đã dựng lên hình tượng người lái đò hết sức độc đáo:

a. Tuổi tác và công việc: Người lái đò là ông già 70 tuổi, giành phần lớn đời mình cho nghề lái đò.

b. Ngoại hình:

- "Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh

gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như

tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vời vợi như mong một cái

bến xa xăm nào đó trong sương mù ->. Những từ láy gợi hình, gợi cảm,

những hình ảnh so sánh ví von độc đáo, gắn với những hình ảnh của nghề

sông nước, gợi ông lái đò gân guốc, khỏe mạnh, lanh lẹ.

- Thân thể ông mang đậm dấu ấn của nghề nghiệp, chứng tỏ ông là một con người yêu nghề, gắn bó với nghề.

c. Một người lao động trí dũng, một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật leo ghềnh vượt thác:

- Hoàn cảnh sống của người lái đò, chính là cuộc đấu tranh với thiên

nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay mình. Hàng ngày, người lái đò

phải đối đầu với các kẻ thù trên sông nước như: vách đá, những cái hút

nước, thác nước, đá sông ... chúng bày thạch trận như một la bàn khổng

lồ, một trận đồ thiên la địa võng để thách đố và khủng bố tinh thần

những người chiến sĩ làm nghề sông nước.

- Đây là một con người từng trải, hiểu biết thành thạo nghề lái đò và

đã đạt đến trình độ "lấy mắt và nhớ tỉ mỉ những luồng nước của tất cả

các con thác hiểm trở".

- Trí nhớ tuyệt vời của ông lái đò về con sông Đà thật

đáng khâm phục, ông thuộc lòng con sông Đà như thuộc một thiên trường

ca, thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống

dòng.

- Người lái đò hiểu biết sâu sắc đối tượng, nắm vững qua luật biến đổi "tính tình phức tạp" của sông Đà.

+ Ông biết bọn đá mai phục và bày thạch trận trên sông: nào là đá, đá

tảng chia ba hàng tiền vệ, có hai hòn canh cửa như là để dụ đối phương.

Nào là những boong ke chìm ở tuyến hai, pháo đài nổi ở tuyến ba. Nào là

chiến thuật đánh "khuýp quặt vu hồi", nào là quyết tâm chiến lược "phải

tiêu diệt thuyền trưởng và thủy thủ ngay ở chân thác".

=> Ông lái đồ hiểu đối phương đông đặc, ranh ma, một con thuyền đơn

độc thì quá mỏng manh, nhỏ bé, thật mạo hiểm, ở vào cái thế thập tử

nhất sinh, ngàn cân treo sợi tóc.

+ Với lòng quả cảm, niềm tin vào bản thân, người lái đò như một viên

tướng xung trận, oai phong, tỉnh táo ứng phó linh hoạt ở ba vòng thạch

trận để giành phần thắng.

* Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì "hất hàm" đứa thì "thách

thức", "mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo", sóng nước "đá trái,

thúc gối vào bụng vào hông thuyền"... Ông lái đò đã bị thương nhưng cố

ném, "hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái", "mặt méo bệch" nhưng "tiếng chỉ

huy vẫn ngắn gọn, tỉnh táo"

->Đây là cuộc tỉ thí giữa hai đô vật quá chênh lệch về sức lực và

thế võ, người lái đò chiến thắng ở sự bình tĩnh, gan dạ, dũng cảm quyết

tâm cao.

* Trùng vi thạch trận thứ II: Vì nắm chắc binh pháp của thần sông, thần

đá và thuộc quy luật phục kích của lũ đá (sông Đà tăng nhiều cửa tử,

cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn) nên người lái đò thay đổi chiến thuật:

"cưỡi lên thác sông Đà như cưỡi hổ", chỗ "rảo bơi", chỗ "đè sấn", chỗ

"chặt đôi ra" để mở đường tiến

-> Hàng loạt những động từ cho ta thấy người lái đò thông minh, chủ động, đầy kinh nghiệm, lấn lướt con sông Đà.

* Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là

luồng chết, luồng sống ở ngay giữa. Người lái đò phóng thẳng thuyền

chọc thẳng cửa giữa, vút, vút thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua

hơi nước

-> Biện pháp nghệ thuật so sánh nhằm thể hiện trình độ lái đò đạt

đến sự tài hoa nghệ thuật, người lái đò táo bạo, quyết liệt, lái đò

nhanh và chính xác như tên bay khỏi nỏ cắm trúng đích đến.

+ Ung dung, khiêm tốn: vượt qua ba vòng thạch trận đầy khó khăn, nguy

hiểm nhưng sau đó chẳng ai bàn lời nào về những chiến thắng vừa qua mà

họ chỉ nói về cá anh vũ, cá dầm xanh, ...

-> Họ thật khiêm nhường, cái phi thường đã trở thành cái bình thường, chất chiến sĩ hòa vào phong thái tài hoa, nghệ sĩ.

III. Kết bài:

- Tác phẩm mang đậm phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân,

ngôn ngữ phong phú, kiến thức uyên bác, cảm hướng trước những cảnh

tượng gây cảm giác mãnh liệt, yêu những con người lao động bình thường

nhưng mang đậm chất tài hoa, tài tử ...

- Hình ảnh người lái đò trong thiên tùy bút này không chỉ mang dáng dấp

của một cá nhân cụ thể mà còn là hình ảnh nhân dân trong thời kỳ mới -

thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước, xây dựng chủ

nghĩa xã hội.

- Với "Người lái đò sông Đà" nhà nghệ sĩ Nguyễn Tuân đã đem đến cho người đọc "chất vàng mười" trong nhân cách con người.

(Sưu tầm)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro