Nguoi tinh Sputnik PART1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ngày 4 tháng Mười năm 1957, Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên trên thế giới, Sputnik I, từ Trung Tâm Vũ Trụ Baikonor thuộc nước cộng hòa Kazakhstan. Sputnik có đường kính 58cm, nặng 83,6 kg và bay vòng quanh Trái đất 96 phút 12 giây.

Ngày 3 tháng Mười một cùng năm, Sputnik II được phóng thành công, mang theo chú chó Laika. Laika trở thành sinh vật sống đầu tiên rời khí quyển Trái đất, nhưng vệ tinh này không bao giờ trở về, và Laika đã hiến thân cho mục đích nghiên cứu sinh học trong không gian.

Theo Tổng tập biên niên lịch sử thế giới.

1

Mùa xuân năm hai mươi hai tuổi, Sumire yêu lần đầu tiên trong đời. Một

tình yêu mãnh liệt, một cơn lốc xoáy thực sự quét qua các bình nguyên -

san phẳng tất cả những gì nó gặp trên đường, tung mọi thứ lên trời, xé

chúng ra từng mảnh, nghiền nát thành từng miếng. Cơn lốc không hề

giảm cường độ khi băng qua đại dương, biến Ăngko Vat thành đống hoang

tàn, thiêu cháy rừng già Ấn Độ với hổ báo và muôn loài, rồi biến thành cơn

bão cát sa mạc vùng vịnh Ba Tư, chôn vùi cả một thành phố pháo đài kỳ lạ

dưới biển cát. Tóm lại, đó là một tình yêu thực sự vĩ đại. Người Sumire

đem lòng si mê hóa ra lớn hơn cô mười bảy tuổi. Đã có gia đình. Và, tôi

phải nói thêm, là phụ nữ. Đây là nơi tất cả bắt đầu, và là nơi tất cả kết thúc.

Gần như tất cả.

Hồi ấy, Sumire - tiếng Nhật nghĩa là "Hoa violet" - đang phấn đấu thành

nhà văn. Dù cuộc sống có thể mang đến cho cô bao nhiêu lựa chọn đi nữa thì nó vẫn là hoặc thành nhà tiểu thuyết hoặc không gì cả. Quyết tâm của cô vững như bàn thạch. Không gì có thể xen vào giữa cô và lòng trung thành đối với văn chương của cô.

Sau khi tốt nghiệp trung học tại trường công lập tỉnh Kanagawa, cô thi vào

ban khoa học xã hội của một trường tư thục nhỏ thoải mái ở Tokyo. Cô

nhận thấy ngôi trường này hoàn toàn lạc lõng, một nơi dửng dưng, chán

nản, và cô căm ghét nó - thấy đám bạn sinh viên ( tôi e trong đó có cả mình

) toàn một lũ hạng hai, đần độn vô phương cứu chữa. Cho nên không có gì

ngạc nhiên là ngay trước khi bước sang năm cuối, cô tỉnh ngộ và bỏ học.

Cô kết luận có ở lại thì cũng chỉ lãng phí thời gian. Tôi nghĩ đi là đúng,

nhưng nếu tôi được phép suy rộng theo cái lối suy nghĩ tầm thường thì

phỏng trong cái thế giới còn-lâu-mới-hoàn-hảo này có gì là không vô

nghĩa? Cứ loại bỏ mọi điều vô nghĩa ra khỏi cuốc sống không hoàn hảo đi,

và thậm chí nó sẽ mất luôn cả sự không hoàn hảo của mình.

Sumire là người lãng mạn đến vô phương cứu chữa, tính tình có phần bảo

thủ - mù tịt về sự đời nên không biết cách xử sự cho đúng đắn. Hễ đã nói

chuyện là cô nói liên hồi, nhưng nếu cô ở cùng ai đó mình không thích - nói

cách khác là hầu hết mọi người trên đời - thì hiếm khi cô mở miệng. Cô hút

thuốc rất nhiều và bạn có thể tin chắc là lần nào đi tàu cô cũng làm mất vé.

Đôi khi cô mải mê suy nghĩ đến nỗi quên cả ăn, và cô gầy như đứa trẻ mồ

côi thời chiến trong một bộ phim cũ của Ý - giống như một cây sào có mắt.

Tôi rất muốn đưa cho bạn xem một tấm ảnh của cô nhưng lại không có cái

nào. Cô ghét chụp ảnh - không muốn để lại cho hậu thế Chân dung một

nữ nghệ sĩ thời trẻ. Nếu có một tấm ảnh chụp Sumire hồi ấy thì tôi biết nó

sẽ là tư liệu giá trị cho thấy một số người có thể trở nên đặc biệt như thế

nào.

Tôi đã kể lộn xộn rồi. Người phụ nữ Sumire yêu tên là Miu. Ít ra đây cũng là

tên mọi người gọi chị. Tôi không biết tên thật của chị, điều này sẽ gây ra

những rắc rối về sau, nhưng tôi lại nói trước mất rồi. Miu là người gốc Hàn

Quốc nhưng chị không nói được một từ tiếng Hàn nào cho đến khi quyết

định học nó ở giữa độ tuổi hai mươi. Chị sinh ra và lớn lên ở Nhật Bản rồi

đi học nhạc ở Pháp, cho nên chị thông thạo tiếng Pháp và tiếng Anh cũng

như tiếng Nhật. Chị luôn ăn mặc đẹp, tinh tế, đeo trang sức đắt tiền nhưng giản dị, và lái chiếc Jaguar mười hai xilanh màu xanh nước biển.

Lần đầu tiên Sumire gặp Miu, cô đã nói về tiểu thuyết của Kerouac. Sumire

thực sự say mê Kerouac. Cô luôn có Thần tượng Văn học trong Tháng và

vào thời điểm đó lại tình cờ là nhà văn hết thời Kerouac. Cô thường mang

theo trong túi áo khoác một cuốn Trên đường hay Người lữ hành đơn độc

và hễ có cơ hội là lại giở ra xem. Hễ gặp đoạn nào thích là cô lại lấy bút chì

đánh dấu và ghi nhớ như thể đó là Kinh Thánh vậy. Cô thích nhất đoạn nói

về chuyện canh phòng cháy rừng trong cuốn Người lữ hành đơn độc.

Kerouac đã trải qua ba tháng đơn độc trong túp lều trên đỉnh núi cao làm

việc như một nhân viên phòng chống cháy rừng.

Sumire đặc biệt thích đoạn này:

Không người nào đi hết cuộc đời mà chưa một lần trải nghiệm tình cảnh cô độc dữ dội, thậm chí buồn chán, giữa chốn thâm sơn cùng cốc, chỉ dựa vào chính mình và nhờ đó biết được sức mạnh thực sự đang ẩn chứa trong con người mình.

"Cậu không thích sao?" Cô nói. "Hàng ngày cậu đứng trên đỉnh núi, đảo mắt 360 độ, kiểm tra xem có ảnh lửa nào không. Chỉ thế thôi. Cậu làm việc ban ngày. Thời gian còn lại cậu có thể đọc, viết, làm gì tùy thích. Đêm đêm những con gấu bẩn thỉu lởn vởn quanh lều của cậu. Sống thế mới là sống chứ! So với nó thì việc ngồi trong trường mà nghiên cứu văn chương cũng giống như cắn vào cái đầu dưa chuột đắng nghét vậy."

"Đồng ý," tôi nói, "nhưng rồi cũng đến ngày cậu phải xuống núi." Như

thường lệ, những ý kiến nhàm chán, thực tế của tôi chẳng khiến cô bối rối.

Sumire muốn được giống như một nhân vật trong tiểu thuyết của Kerouac -

hoang dã, lạnh lung, phóng túng. Cô đứng nghiêng người, xọc tay vào túi

áo khoác, mái tóc rối bù không chải, nhìn mông lung lên bầu trời qua chiếc

kính đen gọng nhựa Dizzy Gillespie mà cô vẫn đeo dù mắt tinh như mắt cú.

Cô luôn diện chiếc áo khoác vải chéo quá cỡ tậu được ở cửa hàng đồ cũ

và đôi bốt thô. Tôi chắc nếu nuôi được rây thì cô cũng làm.

Thực ra Sumire không đẹp. Má hóp, miệng hơi rộng. Mũi hơi nhỏ và hếch.

Cô có khuôn mặt biểu cảm và rất hài hước mặc dù cô ít khi cười to. Cô có

dáng người thấp và ngay cả khi vui vẻ vẫn nói năng như thể sắp sửa xông

vào đánh nhau. Tôi không bao giờ thấy cô dung son môi hay bút chì kẻ

mắt, và tôi không chắc là cô biết áo lót cũng có các cỡ khác nhau. Tuy

nhiên Sumire vẫn có điều gì đó thật đặc biệt, một điều gì đó khiến mọi

người bị cuốn hút. Thật không dễ xác định rõ rang điều đặc biệt đó, nhưng

khi nhìn thẳng vào mắt cô thì lúc nào bạn cũng có thể nhận ra nó, phản

chiếu sâu thẳm bên trong.

*

* *

Thôi thì nói gần nói xa chẳng qua nói thật. Tôi yêu Sumire. Tôi bị cô hớp

hồn từ lần đầu tiên chúng tôi nói chuyện và ngay sau đó không còn đường

lui nữa. Suốt một thời gian dài cô là mối bận tâm duy nhất của tôi. Tôi cố

nói cho cô hay những gì tôi cảm thấy nhưng chẳng hiểu sao cảm xúc đi

một đàng lời lẽ đi một nẻo. Có lẽ thế lại hay. Nếu tôi diễn tả được cho cô

biết cảm xúc của mình thì chắc cô sẽ cười phá lên chế giễu tôi mất.

Trong thời kỳ Sumire và tôi làm bạn với nhau, tôi đã có tình cảm với hai, ba

cô gái khác. Không phải tôi không nhớ chính xác. Hai hay ba - điều đó phụ

thuộc vào cách tính của bạn. Nếu thêm vào đâu những cô gái tôi qua đêm

một vài lần thì danh sách còn dài hơn nữa. Dù sao đi nữa, khi làm tình với

những cô gái đó, tôi lại nghĩ về Sumire. Hay ít nhất những ý nghĩ về cô cứ

lởn vởn trong đầu tôi. Tôi hình dung mình đang ôm cô. Làm như vậy thì có

phần đểu cáng, nhưng tôi không sao tự thoát ra được.

Để tôi trở lại chuyện Sumire và Miu gặp nhau.

Miu từng nghe nói đến Jack Kerouac và biết loáng thoáng ông ta là một nhà tiểu thuyết gì đấy. Nhưng nhà tiểu thuyết kiểu gì thì chị không nhớ ra được. "Kerouac à...hừm...Ông ta có phải một Sputnik không?"

Sumire không hiểu chị muốn nói gì. Dao và nĩa lơ lửng giữa không trung, cô suy nghĩ một lúc. "Sputnik à? Có phải chị muốn nói đến vệ tinh đầu tiên do Liên Xô phóng lên vào thập niên năm mươi? Jack Kerouac là một nhà tiểu thuyết Mỹ. Em đoán cả hai trùng nhau về thời gian..."

"Thế không phải hồi đó các nhà văn như Kerouac được gọi như vậy à?" Miu hỏi. Chị lấy ngón tay vẽ một vòng tròn trên mặt bàn như thể đang lục tìm trong chiếc bình đặc biệt đựng đầy ký ức.

"Sputnik...?"

"Tên một trào lưu văn học. Em biết đấy - cách họ phân loại các nhà văn theo các trường phái văn chương khác nhau. Như Shiga Naoya thuộc trường phái Bạch Dương (1)."

Cuối cùng Sumire đã hiểu ra. " Beatnik!(2) "

Miu lấy khăn ăn chấm nhẹ vào khóe miệng "Beatnik - Sputnik. Chị không bao giờ nhớ nổi những kiểu thuật ngữ ấy. Giống như thời Trùng hưng Kenmun (3) hay Hiệp ước Rapallo. Lịch sử cổ đại."

Một khoảng lắng lại giữa hai người, nhớ về dòng chảy thời gian. "Hiệp ước Rapallo ư?" Sumire hỏi.

Miu mỉm cười. Nụ cười thân tình, hoài cổ, như thể một thứ của cải cất giữ

lâu đời đã được lôi ra khỏi đáy ngăn kéo. Mắt chị nheo lại hết sức đáng

yêu. Chị vươn tay ra, dịu dàng lùa những ngón tay thon dài vào mái tóc rối

bù của Sumire. Cử chỉ đó đột ngột nhưng tự nhiên đến nỗi Sumire chỉ còn

biết cách mỉm cười đáp lại.

1. "Sirakaba" ( tiếng Nhật - "Bạch Dương" ) là một nhóm gồm các nhà văn theo khuynh hướng tân nhân văn, hoạt động trong khoảng thời gian 1910 -

1923. (Theo chú thích bản tiếng Nga).

2. "Beatnik" là tên gọi nhóm nhà văn nhà thơ thuộc "thế hệ Beat" (Beat

Generation) nổi lên ở Mỹ cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960. Ba nhân

vật Beatnik chủ chốt là Allen Ginsberg, William S. Burroughs và Jack

Kerouac. (ND)

3. Thời Trùng hưng Kenmun (1334) - sự khôi phục chính quyền một hoàng

đế ở Nhật Bản do nhà vua Go-Daigo tiến hành sau thời kỳ quyền lực thực

sự của đất nước năm trong tay chính quyền quân sự, tức "mạc phủ." (Theo

chú thích bản tiếng Nga)

Kể từ ngày đó, (Theo chú thích bản tiếng Nga) gọi Miu một cách thân mật là

Người tình Sputnik. Cô thích âm thanh của mấy tiếng đó. Nó khiến cô nhớ

tới con chó Laika. Con tàu vệ tinh nhân tạo lao đi êm như ru xuyên qua

bóng tối vũ trụ. Đôi mắt đen long lanh của chú chó dán vào ô cửa sổ nhỏ tí

xíu. Trong sự hiu quạnh vô tận của không gian, Laika có thể nhìn thấy gì?

Cuộc trò chuyện có nhắc đến Sputnik này diễn ra trong tiệc cưới của chị họ

Sumire tại một khách sạn sang trọng ở Akasaka. Sumire không gần gũi

người bà con này lắm, thực tế là hai người chẳng hợp nhau chút nào. Cô

cảm tháy như bị tra tấn khi phải tham dự các đám cưới như thế nhưng

không thể tránh được đám này. Cô và Miu ngồi cùng bàn, ngay cạnh nhau.

Miu không kể chi tiết nhưng hình như chị có dạy piano cho chị họ của

Sumire - hay thứ gì đó đại loại thế - khi cô này chuẩn bị thi vào khoa nhạc.

Mối quan hệ giữa hai người không kéo dài hay quá thân mật, nhưng Miu

cảm thấy buộc phải tham dự.

Ngay khoảng khắc Miu chạm tay vào tóc cô, Sumire đã yêu, giống như cô

đang băng qua một cánh đồng thì đùng! một tia sét giáng thẳng xuống đầu

cô. Một điều gì đó giống như một mặc khải nghệ thuật. Do vậy, khi đó

Sumire chẳng thấy có gì đáng quan tâm trong việc người cô yêu tình cờ lại

là một phụ nữ.

Tôi không cho rằng Sumire từng có ai đó mà bạn sẽ gọi là tình nhân. Hồi

trung học cô có vài cậu bạn , nhưng anh chàng thường cùng cô đi xme

phim, đi bơi. Tôi không hình dung được bất kỳ mối quan hệ nào trong số

đó đã trở nên sâu sắc. Sumire quá bận tâm đến việc trở thành nhà tiểu

thuyết đến nỗi không thực sự yêu được người nào. Nếu trung học cô từng

trải qua kinh nghiệm tình dục - hay cái gì gần như thế - thì tôi tin chắc nó

bắt nguồn từ sự tò mò văn chương hơn là từ ham muốn tình dục hay tình

yêu.

"Nói thật với cậu, tớ không hiểu về ham muốn tình dục," một hôm cô bảo tôi, mặt ra vẻ nghiêm trang. Tôi nhớ chuyện xảy ra ngay trước khi cô bỏ học; cô đã uống hết năm cốc sinh tố chuối. "Cậu biết đấy - nó xảy ra như thế nào. Cậu thử giải thích xem?"

"Ham muốn tình dục không phải thứ cậu hiểu được," tôi nói theo kiểu lấp lửng quen thuộc của mình. "Nó chỉ là có đấy thôi."

Cô chăm chăm nhìn vào tôi một lúc như thể tôi là cỗ máy chạy bằng nguồn

năng lượng trước tới nay chưa từng có. Cụt hứng, cô nhìn chằm chằm lên

trần nhà và câu chuyện nhạt dần. Nói với hắn ta về chuyện ấy cũng chẳng

ích lợi gì, chắc hẳn cô đã quyết định thế.

Sumire sinh ra ở tỉnh Chigasaki. Nhà cô gần bờ biển và cô lớn lên với âm

thanh khô khốc của ngọn gió dày đặc cát thổi vào cửa sổ nhà mình. Bố cô

mở một phòng khám nha khoa ở Yokohama. Ông đẹp trai có tiếng, cái mũi

cân đối gợi nhớ đến Gregory Peck trong Spellbound. Sumire không thừa

hưởng được cái mũi đẹp ấy, và theo lời cô thì cả cậu em trai cũng không.

Cô thấy thật kỳ lạ là loại gen sinh ra cái mũi ấy đã biến đi đâu mất . Nếu

quả thực nó đã bị chôn vùi vĩnh viễn dưới tận đáy vốn gen thì thế gian này là

nơi còn đáng buồn hơn nữa. Cái mũi ấy tuyệt vời đến thế đấy.

Bố Sumire gần như là nhân vật huyền thoại đối với những phụ nữ có nhu

cầu chăm sóc răng miệng ở Yokohama. Trong phòng khá lúc nào ông

cũng đội mũ phẫu thuật và đeo cái khẩu trang to tướng, vì vậy thứ duy nhất

bệnh nhân có thể nhìn thấy là cặp mắt và đôi tai. Tuy nhiên, rõ ràng ông

cũng vô cùng hấp dẫn. Cái mũi đẹp và nam tính của ông nhô lên một cách

khêu gợi dưới lớp khẩu trang khiến các bệnh nhân nữ của ông thẹn thùng.

Ngay lập tức - không thèm để ý liệu số tiền dành cho chăm sóc răng miệng

của họ có đủ trả chi phí khám chữa răng hay không - họ đã đem lòng yêu

ông.

Mẹ Sumire mất vì bệnh tim bẩm sinh khi mới ba mươi mốt tuổi. Khi đó

Sumire chưa đầy ba tuổi. Ký ức duy nhất của cô về mẹ là mùi da thịt mơ hồ

của bà. Chỉ có hai tấm ảnh của bà được giữ lại - một tấm ảnh tạo dáng bà

chụp trong lễ cưới của mình và một tấm chụp nhanh ngay khi Sumire vừa

chào đời. Sumire thường hay lôi album ảnh ra và chăm chú nhìn hai bức

đó. Mẹ của Sumire - nói một cách nhẹ nhàng - là người rất dễ bị quên lãng.

Kiểu tóc ngắn, đơn điệu, những bộ quần áo khiến bạn phải tự hỏi không

biết bà đang nghĩ gì nữa, và nụ cười gượng gạo. Nếu bà lùi lại một bước

có khi tan ngay vào bức tường. Sumire quyết định khắc sâu khuôn mặt mẹ

vào trí nhớ. Rồi một ngày nào đó cô có thể gặp bà trong mơ. Hai mẹ con

nắm tay nhau, chuyện trò vui vẻ. Nhưng mọi việc không dễ dàng đến thế.

Cô càng gắng sức nhớ lại khuôn mặt mẹ thì nó càng nhanh nhạt nhòa.

Quên các giấc mơ đi - nếu Sumire có bước qua trước mặt mẹ mình trên

phố, giữa thanh thiên bạch nhật, cô cũng chẳng thể nhận ra bà.

Bố Sumire ít khi nói về người vợ quá cố của ông. Ông không phải người

hay nói, và trong mọi phương diện của cuộc sống ông không bao giờ hé

miệng về các tình cảm của mình - cứ như thể đó là một loại bệnh nhiễm

trùng qua đường miệng mà ông không muốn bị lây. Sumire không nhớ đã có lần nào hỏi bố về người mẹ đã mất. Trừ một lần, khi cô hãy còn rất bé, vì lý do nào đó cô đã hỏi bố :" Mẹ của con là người như thế nào?" Cô còn nhớ rất rõ cuộc trò chuyện này.

Bố cô nhìn đi chỗ khác và suy nghĩ một lúc trước khi trả lời. "Mẹ con có trí nhớ rất tốt," ông nói. "Và bà ấy viết rất đẹp."

Một cách kỳ lạ để mô tả một người nào đó. Sumire đang nóng lòng chờ

đợi, trang giấy trắng tinh ở đầu cuốn sổ tay của cô đã mở ra để ghi lại

những lời quý báu có thể trở thành nguồn mạch ấm áp và an ủi - một trụ

cột, một cái trục góp phần chống đỡ cho cuộc đời bấp bênh của cô trên

hành tinh thứ ba trong Hệ Mặt trời này. Lẽ ra bố cô nên nói một điều gì đó

mà cô con gái nhỏ bé của ông có thể bám víu vào. Nhưng ông bố điển trai

của Sumire đã không nói ra những lời đó, chính những lời cô cần nhất đó.

Bố Sumire tục huyền khi cô lên sáu và hai năm sau cô có em trai. Mẹ kế

của cô cũng không đẹp. Thêm vào đó, bà không có trí nhớ tốt, và chữ viết

thì không đẹp chút nào. Tuy nhiên bà là người tử tế và thẳng thắn. Đây là

một điều may mắn cho Sumire bé bỏng, đứa con ghẻ mới toanh của bà.

Không, may mắn không phải là từ chính xác. Xét cho cùng, bố cô đã chọn

người phụ nữ đó. Ông có thể không phải người cha lý tưởng nhưng khi

phải chọn vợ ông biết mình phải làm gì.

Tình thương của người mẹ kế dành cho cô không bao giờ chao đảo trong

suốt thời thanh niên khó khắn kéo dài của cô, khi Sumire tuyên bố bỏ học

và viết tiểu thuyết thì người mẹ kế - dù bà có ý kiến riêng của mình về vấn

đề này - đã tôn trọng ý muốn của Sumire. Bà luôn tỏ ra hài lòng khi thấy

Sumire thích đọc sách và thường cổ vũ những hoạt động theo đuổi văn

chương của cô.

Cuối cùng mẹ kế của cô đã thuyết phục được bố cô, và hai người quyết

định trước khi Sumire bước sang tuổi hai mươi tám, họ sẽ cấp cho cô một

số vốn nhỏ. Nếu cô không thể kiếm sống bắng nghề viết lách thì cô phải tự

lo lấy. Nếu người mẹ kế không lên tiếng bênh vực thì chắc Sumire đã bị

ném ra ngoài - không xu dính túi, không có các kỹ năng xã hội cần thiết -

vào trong một thực tế khắc nghiệt, hoang dã. Xét cho cùng Trái đất không

hoàn thành quãng đường nặng nề vất vả vòng quanh mặt trời của nó chỉ

để cho con người có thể có được khoảng thời gian tốt đẹp và chút vui thú.

Sumire gặp Người tình Sputnik của cô hơn hai năm sau khi cô bỏ học. Cô

sống trong căn hộ một phòng ở Kichijoji được cô sắp xếp với tối thiểu đồ

đạc và tối đa sách báo. Cô ngủ đến tận trưa, và buổi chiều đi dạo quanh

công viên Inogashira, với tất cả sự hăm hở của một người hành hương

đang trên đường xuyên qua các ngọn đồi thiêng. Những hôm trời nắng cô

ngồi trên ghế đá công viên, gặm bánh mỳ, hút hết điếu thuốc này đến điếu

thuốc khác và đọc sách. Những ngày mưa hay trời lạnh, cô chui vào một

quán cà phê kiểu cũ có nhạc cổ điển mở to hết cỡ, thả lút mình vào chiếc

ghế bành sờn cũ và đọc sách, vẻ mặt nghiêm trang khi nghe các bản giao

hường của Schubert hay các bản cantat của Bach. Chiều muộn cô uống

bia rồi mua một ít đồ ăn sẵn ở siêu thị cho bữa tối.

Đến 11h đêm cô ngồi vào bàn làm việc. Bao giờ trên bàn cũng có sẵn một

bình cà phê nóng, một tách uống cà phê ( quà tôi tặng cô nhân dịp sinh

nhật, trên tách có vẽ hình Snafkin), gói thuốc lá Marlboro và chiếc gạt tàn

thủy tinh. Tất nhiên là cô có một chiếc máy xử lý văn bản. Mỗi phím là một

ký tự.

Không gian lặng ngắt như tờ. Tâm trí cô sáng rõ như bầu trời đêm đông,

chòm sao Đại Hùng và Bắc Đẩu ở nguyên chỗ, sáng lấp lánh. Cô có bao

điều phải viết ra, bao chuyện để kể lại. Chỉ cần cô khơi được dòng chảy là

những ý tưởng sôi sục trong đầu sẽ tuôn trào như dung nham rồi động lại

thành một dòng chảy ổn định gồm những tác phẩm thế gian chưa bao giờ

được thấy. Thiên hạ sẽ mở to mắt kinh ngạc trước sự khởi đầu bất ngờ

của Nhà văn trẻ tài năng hiếm có đầy hứa hẹn này. Một tấm ảnh của cô,

đang mỉm cười bình thản, sẽ xuất hiện trên trang văn nghệ của các báo và

cánh biên tập viên sẽ thi nhau đập cửa nhà cô.

Nhưng chuyện không bao giờ diễn ra theo cách ấy. Sumire đã viết vài tác phẩm có đoạn mở đầu. Và vài tác phẩm có đoạn kết thúc. Nhưng chưa bao giờ viết tác phầm nào có cả mở đầu và kết thúc.

*

* *

Không phải cô bế tắc với việc viết - hoàn toàn không phải. Cô viết không

ngừng, viết tất cả mọi thứ xuất hiện trong đầu. Vấn đề là cô viết quá nhiều.

Bạn sẽ cho rằng cô chỉ việc cắt gọn những đoạn thừa là ổn, nhưng mọi

chuyện không đơn giản thế. Trên bức tranh lớn đó cô không bao giờ quyết

định được cái gì cần thiết, cái gì không. Hôm sau khi đọc lại những gì đã

viết cô thấy dòng nào cũng có vẻ tuyệt đối quan trọng. Hoặc nếu không thì

cô lại xóa tất cả. Đôi khi, trong nỗi thất vọng, cô xé hết bản thảo tống vào sọt

rác. Nếu là vào một đêm đông và trong phòng có lò sưởi thì chắc chắn

cảnh tượng sẽ khá ấm áp - hãy nhớ lại cảnh trong phim La Bohème -

nhưng cản hộ của Sumire không chỉ thiếu lò sưởi mà thậm chí còn chẳng

có điện thoại nữa. Chưa nói gì đến một tấm gương cho tử tế.

Những dịp cuối tuần, Sumire vẫn đến căn hộ của tôi, ôm đầy các bản nháp tiểu thuyết - những bản thảo may mắn thoát khỏi cuộc tàn sát. Tuy nhiên, chúng vẫn chồng thành đống. Sumire chỉ đưa bản thảo của cô cho một người duy nhất trên thế giới này xem. Tôi.

Ở trường đại học, tôi trên cô hai khóa, mỗi người lại học một ngành riêng

nên chúng tôi ít có cơ hội gặp nhau. Cuộc gặp đầu tiên cưa chúng tôi rất

đỗi tình cờ. Đó là một ngày thứ hai của tháng Năm, sau chuỗi ngày nghỉ, tôi

đứng ở bến xe buýt trước cổng chính của trường, đọc một cuốn tiểu thuyết

của Paul Nizan kiếm được ở hiệu sách cũ. Một cô gái dáng người thấp

đứng cạnh tôi cúi nhìn cuốn sách và hỏi tôi, tại sao lại là Nizan, trong số tất

cả tác giả khác? Cô nói nghe như đang tìm cách gây sự. Như thể cô muốn

đá bay một cái gì đó, nhưng vì không có mục tiêu thích hợp nên đã chuyển

sang công kích sự lựa chọn sách đọc của tôi.

Sumire và tôi rất giống nhau. Niềm đam mê sách vở đến với cả hai đều tự

nhiên như hơi thở. Hễ có được chút thời gian rảnh rỗi là chúng tôi rúc vào

một góc vắng vẻ nào đó, không ngừng lật hết trang này đến trang khác.

Tiểu thuyết Nhật Bản, tiểu thuyết nước ngoài, sách mới, sách cổ điển, tác

phẩm theo xu hướng mới cho đến sách bán chạy - hễ cứ thấy trong sách

có gì đáng chú ý là chúng tôi đọc. Hai đứa chúng tôi lang thang khắp các

thư viện, dành cả ngày đọc lướt qua các quyển sách trong Kanda, một

thánh địa sách cũ tại Tokyo. Tôi chưa từng gặp một ai đọc ngấu nghiến,

đọc sâu rộng như Sumire, và tôi chắc cô cũng cảm thấy như vậy.

Tôi tốt nghiệm cùng khoảng thời gian Sumire bỏ học, sau đó cô thường

ghé lại chỗ tôi mỗi tháng vài ba lần. Đôi khi tôi cũng đến căn hộ của cô,

nhưng gần như không thể nhét nổi hai người vào đó, vì vậy đa phần cô đến

chỗ tôi. Chúng tôi trò chuyện về những cuốn tiểu thuyết đã đọc và trao đổi

sách cho nhau. Tôi nhiều lần nấu bữa tối. Tôi không thấy phiền khi phải

nấu nướng, và Sumire thuộc kiểu người thà nhịn đói còn hơn vào bếp. Cô

tặng tôi những món quà kiếm từ chỗ làm bán thời gian để tỏ lòng cám ơn.

Có lần cô làm việc ở kho hàng của một công ty dược và mang về cho tôi cả

sáu tá bao cao su. Có lẽ chúng vẫn còn nằm đâu đó tận góc trong cùng

của ngăn kéo.

Các tiểu thuyết - hay nói đúng hơn là các đọan tiểu thuyết - mà Sumire viết

không kinh khủng như cô nghĩ. Thực ra, đôi khi văn phong của cô giống

như một tấm chăn vá víu do các bà già ương nhạnh, mỗi bà một ý thích,

một sự phàn nàn, khâu vá lại trong sự im lặng tàn nhẫn. Thêm vào đó

thỉnh thoảng cô lại mắc chứng trầm cảm, và mọi chuyện có lúc vượt ra

ngòai tầm kiểm soát. Dường như thế vẫn chưa đủ, Sumire còn quyết chí

sáng tạo ra một Tiểu thuyết Tổng hợp đồ sộ theo phong cách văn chương

thế kỷ XIX, một kiểu rương chật ních mọi sự kiện có thể để nắm bắt tâmhồn

và số phận con người.

Phải nói rằng những gì Sumire viết ra đều đặc biệt mới mẻ, cô muốn khắc

họa một cách trung thực những điều cô thấy là quan trọng. Thêm nữa, cô

không tìm cách bắt chước văn phong của bất kỳ ai khác và không có ý định

chưng cất mọi thứ thành những mẩu nhỏ bé cầu kỳ, khéo léo. Đó là điều

tôi thích nhất trong cách viết của cô. Thật không phải nếu làm giảm bớt sức

mạnh trực tiếp trong cách viết của cô chỉ để cho nó có thể có được một

hình thức dễ chịu, vừa ý nào đó. Chẳng cần phải vội vã làm gì. Cô vẫn còn

nhiều thời gian để đi vòng. Như một câu ngạn ngữ nói, "nuôi chậm thì lớn

tốt."

"Đầu tớ y như một cái kho chứa đầy những thứ tớ muốn viết ra," cô nói.

"Các hình ảnh, khung cảnh, ngôn từ...tất cả chúng đều vô cùng sống động

trong tâm trí tớ. Viết đi! Chúng hét lên với tớ thế. Một câu chuyện mới mẻ

tuyệt hay đang hình thành, tớ có thể cảm thấy nó. Nó mang tớ đến một nơi

nào đó hoàn toàn mới. Nhưng rắc rối là một khi tớ ngồi vào bàn và trút tất

cả ra giấy thì tớ lại thấy không diễn tả được cái chính yếu. Chúng không kết

tinh lại được, chỉ là đá cuội chứ không phải pha lê . Và tớ chẳng đi đến đâu

cả."

Với vẻ tư lự, Sumire nhặt viên sỏi có lẽ là thứ hai trăm năm mươi ném

xuống hồ.

"Có lẽ tớ thiếu cái gì đó. Một cái gì đó nhất thiết phải có để trở thành nhà

tiểu thuyết."

Im lặng nặng nề. Hình như cô đang chờ đợi ý kiến chẳng có gì đặc biệt của

tôi.

Một lúc sau tôi lên tiếng. "Thuở xưa ở Trung Quốc có những thành phố

tường cao, cổng lớn. Những chiếc cổng không chỉ là đường ra lối vào của

người dân mà còn có ý nghĩa lớn lao hơn. Dân chúng tin rằng linh hồn

thành phố nằm ở các cổng thành. Hoặc ít nhất nó lẽ ra phải nằm ở đó.

Giống như ở châu Âu thời Trung cổ người ta tin rằng trái tim của một thành

phố nằm ở thánh đường và quảng trường trung tâm của nó. Đó chính là lý

do thậm chí cho tới ngày nay ở Trung Quốc vẫn còn giữ lại được rất nhiều

cổng thành tuyệt đẹp. Cậu có biết người Trung Quốc xây cổng thành thế

nào không?"

"Tớ không biết," Sumire đáp.

"Dân chúng kéo xe đến các bãi chiến trường xưa và thu lượm các mảnh

xương trắng được chon ở đấy hay nằm rải rác xung quanh. Trung Quốc là

đất nước khá cổ kính - rất nhiều chiến trường xưa - nên họ chẳng phải tìm

đâu xa. Tại lối vào thành phố họ xây một cái cổng to và gắn xương bên

trong. Họ hy vọng với việc tưởng niệm các tử sĩ theo cách này, các chiến

binh sẽ tiếp tục bảo vệ thành phố của họ. Còn hơn thế nữa. Khi cổng xây

xong họ dắt mấy con chó đến, cắt họng chúng và rưới máu lên cổng. Chỉ

bẳng cách trộn máu tươi với xương khô đó, những linh hồn cổ xưa của

người chết sẽ sống lại một cách thần kỳ. Ít ra thì đấy cũng là một quan

niệm."

Sumire im lặng chờ tôi nói tiếp.

"Viết tiểu thuyết cũng giống vậy. Cậu phải gom xương về xây cổng, nhưng cho dù cái cổng có đẹp đến mấy thì chỉ riêng nó cũng không làm nên một cuốn tiểu thuyết sống động, có hồn. Một câu chuyện không phải một cái gì đó thuộc về thế giới này. Câu chuyện thực sự đòi hỏi phải có một kiểu rửa tội thần bí nối thế giới bên này với thế giới bên kia."

"Theo như cậu nói thì tớ phải dựa vào sức mình và phải tìm thấy con chó của riêng mình?"

Tôi gật đầu.

"Và lấy máu tươi?"

Sumire cắn môi suy nghĩ về điều này. Cô ném một viên sỏi không may

khác xuống hồ. "Tớ thật sự không muốn giết một con vật nếu tớ có thể giúp

được nó."

"Đó là một ẩn dụ," tôi nói. "Cậu không thật sự phải giết cái gì cả."

Chúng tôi ngồi sát bên nhau như thường lệ trong công viên Inogashira,

trên chiếc ghế ưa thích của cô. Hồ nước trải rộng trước mặt chúng tôi. Một

ngày đứng gió.Những chiếc lá nằm y nguyên tại nơi chúng đã rơi xuống và

dán trên mặt nước. Tôi có thể ngửi thấy mùi khói rác ở đâu đó đằng xa.

Không khí đậm đặc mùi vị cuối thu, những âm thanh xa xa cũng nghe thấy

rất rõ.

"Cái cậu cần là thời gian và kinh nghiệm," tôi nói.

"Thời gian và kinh nghiệm," cô trầm ngâm, nhìn chăm chăm lên trời. "Về thời gian thì cậu chẳng thể làn được gì nhiều, nó cứ thế mà trôi qua. Nhưng kinh nghiệm à? Đừng nói điều đó với tớ. Tớ không tự hào về chuyện này, nhưng tớ chẳng có chút ham muốn tình dục nào. Và một nhà văn có thể có loại kinh nghiệm nào nếu cô ta không cảm thấy đam mê chứ? Như một bếp trưởng mà không thèm ăn."

"Tớ không biết ham muốn tình dục của cậu đã biến đi đâu mất," tôi nói. "Có

thể nó chỉ đang ẩn nấp ở một nơi nào đó thôi. Hoặc đã dạo chơi và quên

không về nhà. Nhưng việc yêu đương lúc nào cũng là một thứ hơi điên

khùng. Nó có thể xuất hiện rất bất ngờ và túm lấy cậu. Ai mà biết được, có

thể ngay ngày mai cũng nên."

Sumire rời mắt khỏi bầu trời và nhìn thẳng vào mặt tôi. "Giống như cơn lốc

vậy hả?"

"Có thể nói như thế."

Cô trầm ngâm suy nghĩ. "Cậu đã bao giờ thực sự thấy một cơn lốc chưa?" "Chưa," tôi đáp. Nhờ trời, ,Tokyo không phải Hẻm Lốc xoáy.

Khoảng nửa năm sau, đúng như tôi tiên đoán, hết sức bất ngờ và rồi dại, một tình yêu tựa như cơn lốc đã chộp lấy Sumire. Với một phụ nữ hơn cô 17 tuổi. Người tình Sputnik của riêng cô.

Khi Sumire và Miu ngồi cùng bàn tại đám cưới đó, họ đã làm điều mà tất

cả những ai trên thế giới này đều làm trong hoàn cảnh đó, tức là tự giới

thiệu. Sumire rất ghét tên mình nên bất cứ khi nào có thể cô đều tìm cách

giấu nó đi. Nhưng khi có ai hỏi tên bạn thì điều lịch sự duy nhất phải làm là

hiên ngang nói nó ra.

Theo lời bố cô thì chính mẹ cô đã chọn cái tên Sumire. Bà thích bài hát

cùng tên của Mozart nên đã quyết định từ trước đó rất lâu là nếu có con gái

bà sẽ đặt cho nó tên đó. Trên giá đĩa đặt trong phòng khách của họ có một

đĩa hát gồm các bài của Mozart, chắc chắn đây là chiếc đĩa mẹ cô đã nghe và khi còn nhỏ Sumire đã cẩn thận đặt chiếc đĩa to nặng này lên máy hát nghe đi nghe lại bài đó. Elisabeth Schwarzkopt đơn ca, Walter Gieseking chơi piano. Sumire không hiểu lời ca nhưng từ motif êm đềm của nó cô cảm thấy chắc chắn bài hát là khúc tụng ca những bông hoa violet xinh đẹp nở trên cánh đồng. Sumire thích hình ảnh đó.

Nhưng khi lên trung học, cô tình cờ phát hiện ra bản dịch tiếng Nhật của

bài hát trong thư viện trường và cảm thấy choáng váng. Lời bài hát kể lại

câu chuyện cô con gái nhẫn tâm của người chăn cừu đã giẫm nát một

bông violet nhỏ bé thiếu may mắn trên cánh đồng. Cô gái thậm chí còn

không nhận ra mình đã giẫm nát bong hoa. Bài hát phỏng theo một bài thơ

của Goethe, và Sumire thấy nó không sao có thể bào chữa, không có gì

hay ho để mà học hỏi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#cuong