Nguyễn Khải

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

nguồn: vnthuquan

Truyện ngắn

Nguyễn Khải

Mùa lạc

Sáng, mây bốc mù chân núi vây quanh lấy cánh đồng Điện Biên, nhưng trên đỉnh chóp lại hết sức trong trẻo đến nỗi trông thấy rõ những thân cây đứng trơ trụi, và thấp thoáng một vật trắng của mái nhà người Mèo.

Bãi trồng lạc ở cánh đồng phía Tây Hồng Cúm trải ra từ chân khu nhà ở của đội sản xuất số 2 mênh mông cho mãi tới giáp rừng. Giữa cái màu xanh lặng lẽ của lá lạc, lá cỏ nghệ, và rút đồng, nổi lên một miếng vàng sẫm của mấy mảng cỏ gianh và lá cót đan lẫn lên nhau. Đấy là điểm sinh động nhất của toàn bãi: tiếng chân đạp lên bàn gỗ rình rịch, tiếng vòng trục quay ù ù của ba cái máy tuốt lạc, tiếng bào cào rê lạo xạo trên mình vỏ lạc thu gọn lại ở khoanh giữa; mùi hăng của thân lạc tươi mới nhổ xếp lớp lớp trên các cáng và mùi ẩm ướt nồng nồng của những cây lạc đã tuốt đánh đống phơi mưa suốt đêm qua. Bụi bốc mờ mờ từ cả mấy phía, và những chấm cánh nâu của con sâu ban miêu bay sè sè vụt qua vụt lại. Mồ hôi đã thấm hết lần áo ngoài những người đạp máy, khuôn lấy hình người hằn rõ những mảng thịt ở ngực, ở bả vai và vế đùi. Chiếc máy giữa và chiếc máy phía tay trái do sáu người đạp, còn chiếc máy bên phải chỉ có Huân tổ viên tổ 1 và Đào tổ viên tổ 4 đứng. Đào thuộc loại người gặp một lần có thể nhớ mãi, rất dễ phân biệt với những chị em khác. Hai con mắt hẹp và dài đưa đi đưa lại rất nhanh, gò má cao đầy tàn hương, và hàm răng trên đen nhờ nhờ hơi nhô ra ngoài môi. Chị bịt đầu bằng chiếc khăn vải kẻ ô vuông một vệt dài phía sau khiến những nét thiếu hoà hợp trên mặt càng trở nên thô, càng đỏng đảnh. Đứng cạnh người đàn bà ít duyên dáng ấy là Huân, một đoàn viên thanh niên chưa tròn hăm nhăm tuổi, rất khoẻ và đẹp trai. Anh đưa cặp mắt màu nâu nhạt ẩn dưới đôi lông mày đen và mịn như nét vẽ sang phía Đào. Mồ hôi đã thấm ướt vành khăn, chảy từng giọt dài xuống kẽ mắt, sống mũi. Cái thân người sồ sề của chị như nở to ra, hổn hển, cặp chân ngắn khoẻ đạp xuống bàn gỗ đã bắt đầu uể oải, nhưng hai bàn tay có những ngón rất to vẫn thoăn thoắt quờ ra phía sau lượm những bó lạc, và bằng một cử chỉ rất nhanh chị uốn hai cổ tay xiết những rễ cây đầy củ lạc già lên vòng trục. Huân vứt những thân cây đã tuốt hết củ sang một bên, nói khẽ:

- Xem ra mệt lắm rồi nhỉ?

Đôi mắt dài lóng lánh của Đào liếc sang Huân, phần dưới mắt hếch hẳn lên:

- Hỏi mình ấy. ý chừng muốn nghỉ chứ gì!

Huân cười rất to, hai hàm răng đều trắng loá.

- Trông đây này!

Anh dún mạnh chân trái xuống lập tức nhịp đạp nhanh hẳn lên, vòng trục xiết vào rễ cây xin xít, củ lạc bắn rào rào xuống đống lạc ở khoảnh giữa. Cả người Đào cùng nẩy bật lên theo, thớ thịt trên bả vai khẽ rung rung, hai bàn tay xoay đi xoay lại càng vội vã. Chị đã quá mệt nhưng đôi gò má đầy tàn hương vẫn nhọn hoắt bướng bỉnh và hai con mắt nhỏ tí vẫn ánh lên thách thức. Vừa lúc đến giờ nghỉ mười lăm phút, Huân đã bước ra. Đào vẫn còn dún thêm mấy đạp, rồi hai tay chống vào cạnh sườn chị nhìn mọi người lơ láo:

- Nghỉ hử, tại sao hôm nay lại rức đầu đến thế, chân tay cứ bủn nhủn ra!

Chị quay sang nhìn mái tóc xanh mỡ của Huân cười mỉm:

- Chịu thua thanh niên thôi!

Lâm tổ trưởng tổ một nháy con mắt, nói ướm:

- Chị... à quên, cô cũng còn đang lứa tuổi thanh niên chứ đã già gì... Tương lai chán!

Đấy là câu nói đùa cửa miệng của nhiều người đối với Đào, nhưng lần nào nghe thấy câu ấy chị cũng buồn tủi như được biết lần đầu về mình, người mất hết đà, quay cuồng, và chỉ trong chốc lát nét mặt chị thay đổi khác hẳn. Chị nhìn Lâm hờn dỗi, rồi ngồi tựa lưng vào đống thân lạc, giọng cay chua:

- Trâu qua xá, mạ qua thì, hồng nhan bỏ bị còn gì là xuân nữa, hử các anh?

Lâm liếc nhìn Huân cười tinh quái:

- Thế mà vẫn cón nhiều người yêu say đắm đấy!

Huân vuốt tóc ra phía sau, cặp mắt hơi nâu rất đẹp của anh lim dim nhìn Đào trìu mến. Đôi gò má cao của chị ửng đỏ, đôi môi định mím lại nhưng không chặt, vừa vui sướng vừa như cưỡng lại sự vui sướng ấy. Chị thở rất mạnh, với lấy một cây lạc bứt từng củ một:

- Các anh đã biết đời em rồi đấy. Mỗi năm một tuổi, cái tuổi nó đuổi xuân đi. Nồi nào vung ấy, em đã có nhà cháu dưới xuôi rồi, nay mai nhà cháu cũng lên đây xây dựng xã hội chủ nghĩa cùng với em đấy.

Rồi như chợt nhận ra cái trò chơi độc ác của mọi người bằng cách đem ghép chị là người xấu nhất của đội sản xuất với Huân, người đẹp trai nhất, chị thấy tiếc sự thành thật của mình, việc gì phải tủi, phải nhún mình, người nào mà chả có cái phần tốt đẹp. Chị nhổm dậy, đi vài bước tới trước mặt Huân, ngâm nga:

- Huê thơm bán một đồng mười

Huê vàng úa giữa giá đôi lạng vàng.

Giá đôi lạng vàng chứ chưa vị tất đã bán đâu anh Huân ạ...

Chị còn định nói thêm vài câu nữa, nhưng khi Huân ngẩng lên, nhe hàm răng trắng bóng ra cười thì chị lại muốn quên hết, lại ao ước mình được trẻ lại, như không bao giờ có cuộc đời đã qua, mà chỉ có lúc này, một nữ công nhân trên nông trường Điện Biên Phủ, một người có quyền được hưởng hạnh phúc như mọi người con gái may mắn khác.

Đào lên nông trường Điện Biên vào dịp đầu năm, ngoài tết chừng nửa tháng, với tâm lý con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên đi cuộc đời đã qua, còn những ngày sắp tới ra sao chị cũng không cần rõ, đại khái là cũng chẳng hơn gì trước mấy, có thể còn gặp nhiều đau buồn hơn. Quân tử gian nan, hồng nhan vất vả, số kiếp đã định thế, trước sau vẫn chỉ một con đường ấy, không thể nào tránh được. Chị quê ở Hưng Yên, nhà không có ruộng, vẫn làm nghề đậu phụ, thời địch tạm chiếm lại xoay sang úp men, nấu rượu. Lấy chồng từ năm mười bảy tuổi, nhưng chồng cờ bạc, nợ nần nhiều bỏ đi Nam, đến đầu năm 1950 mới trở về quê. ăn ở lại với nhau được đứa con trai lên hai thì chồng chết. Cách mấy tháng sau đứa con lên sài bỏ đi để chị ở một mình. Từ ngày ấy chị không có gia đình nữa, đòn gánh trên vai, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường, mùa hè vài cái áo cánh nâu vá vai, mùa đông một chiếc áo bông ngắn đã bạc, ngày mưa, ngày nắng, bàn chân đã từng đi khắp mọi nơi không dừng lại một buổi nào. Cũng có ngày đau ốm, nằm nhờ người nhà quen, bưng bát cơm nóng, nhìn ngọn đèn dầu lại sực nhớ trước đây mình cũng có một gia đình, có một đứa con, sớm lo việc sớm, tối lo việc tối. Còn bây giờ bốn bể là nhà, chỉ lo cho thân mình sao được cơm ngày hai bữa, chân cứng đá mềm. Mái tóc óng mượt ngày xưa qua năm tháng đã khô lại, đỏ đi, như chết, hàm răng phai không buồn nhuộm, soi gương thấy gò má càng cao, tàn hương nổi càng nhiều - Muốn về sống lại ở quê, nhưng quê hương nào còn có ai. Thôi đành cứ đi mãi, ngày khoẻ đã vậy, ngày ốm chưa biết ra sao, muốn chết nhưng đời còn dài nên phải sống. Chị sống táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người, và hờn giận cho thân mình. Chị về đội sản xuất số 3 chưa đầy một tháng đã quen khắp mặt, duy chỉ thân có mỗi Huân, vì tuy anh chưa từng trải bằng chị, nhưng lại tỏ ra rất thông cảm với cuộc đời của chị. Lần đầu tiên hai người quen nhau vào một buổi sáng chị đi qua nhà ban chỉ huy đội, thấy Huân đang hý hoáy pha màu vẽ cho tờ báo tường. Chị đứng khuỳnh tay, ngắm nghía khen: "Anh vẽ khéo tay nhỉ!". Huân nhìn chị cười: "Chị có bài thơ nào đưa lên báo không?". Câu hỏi ấy vừa nói cho vui, vừa hơi châm biếm. Chị gật đầu nhận lời ngay: "Được thôi, thế bao giờ đưa nộp". Huân thầm nghĩ: "Cô này biết đùa đây", nhưng cứ dặn thêm: "Phải là thơ hay đấy!". Chị trả lời ngang ngược: "à, chắc không đến nỗi dở". Chị vốn được học chữ từ ngày nhỏ, lại thuộc lòng nhiều truyện thơ cổ, các câu ca, hát ví xưa, khi nói chuyện chị cũng hay vận thành vần, ví von, nên chỉ có một buổi trưa chị đã làm xong bài thơ "Đường lên nông trường Điện Biên". Ai ngờ bài thơ lại hay, đưa lên báo có vài buổi đã nhiều người ngâm nga đọc thuộc. Anh em thấy một đôi bạn trái ngược nhau cả về hình thức lẫn tính nết liền đem họ ra gán ghép. Song chẳng qua là câu chuyện đặt cho vui để trêu chọc chị thôi. Vì kể về tuổi thì năm nay chị đã hai mươi tám, còn nhìn ngoài mà so sánh thì tưởng chị phải hơn Huân ít ra gần chục tuổi. Hơn nữa Huân đã có người yêu và cặp ấy rất xứng đôi, còn chị là gái goá chồng không hy vọng gì được yêu một người con trai chưa từng có vợ. Những mỗi buổi đi làm cùng nhổ lạc ở một khoảnh, cùng đứng tuốt ở một máy ngắm nhìn hai cánh tay cuồn cuộn những thớ thịt cháy nắng của Huân chị lại bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, lại hy vọng cuộc đời của mình chưa phải đã tắt hẳn, một cái gì chưa rõ nét lắm nhưng đầm ấm hơn, tươi sáng hơn những ngày đã qua cứ lấp lánh ở phía trước. Có thể đấy là cuộc đời còn lại của chị chăng?

Mặt trời đã lặn từ lâu. Trời trong xanh như ngọc thạch, những vệt mây màu khói, màu hồng nhạt, màu tím nhạt cứ ưng ửng lên ở bốn phía, đan vào nhau, tô điểm cho nhau rồi lại nhạt dần đi, trong mãi, thành một màu xanh mờ mờ cao tít. Những ngọn đèn nhỏ dờn dợt vàng kéo thành một dãy dọc các khung cửa của khu nhà bộ đội thấp thoáng như một dãy phố nhỏ nào đó ở vùng quê. Khu nhà nữ công nhân rộn rịp người ra vào, nhộn nhạo những tiếng cười, tiếng mời chào, cả tiếng la hét. Đào không đi chơi đâu. Một lá thư mới nhận làm chị bàng hoàng. Ông trung đội trưởng già phụ trách lò gạch của nông trường mới gặp chị có vài bận mà đã dám ngỏ lời táo bạo. Mới đọc được mươi dòng chị giận dữ tưởng như có thể xé vụn từng mảnh được, người ta coi thường chị đến thế kia ư. Nhưng khi gập lá thư lại thì một cảm giác êm đềm cứ lan nhanh ra, như mạch nước ngọt rỉ thấm vào những thớ đất khô cằn vì nắng hạn, một nỗi vui sướng kỳ lạ rào rạt không thể nén lại nổi, khiến chị ngây ngất, muốn cười to một tiếng nhưng trong mí mắt lại như đã mọng đầy nước mắt chỉ định trào ra. Từ ngày goá bụa đến nay chưa ai nói được với chị một câu nào yêu thương, một lần gắn bó, chưa ai khao khát đến chị, coi chị là nguồn hạnh phúc của họ, là niềm an ủi cho họ. Những dòng, những chữ trong bức thư xa lạ ngân vang mãi trong lòng chị, vang dội đến tận những kẽ ngách sâu kín nhất, thức tỉnh nỗi khao khát yêu đương, khao khát hạnh phúc mà chị cố hắt hủi, vùi nén một cách bất lực từ ngót chục năm nay. Cho đến lúc này chị vẫn chưa có ý định gì rõ ràng với ông trung đội trưởng mới quen biết, nhưng trong cái dòng nghĩ miên man thế nào chị lại hình dung ra cách đối đãi với đứa con riêng của người rồi đây sẽ gọi là chồng. Nó sẽ yêu quý chị hay thù ghét chị? Chị sẽ để nó ở dưới xuôi hay đem lên trên này? Và khi những hình ảnh ấy rõ nét quá chị vội nhỏm dậy, thầm chê trách mình: "Rõ hay chưa, đã ra thế nào mà cứ nghĩ vớ vẩn".

Giường nằm của Đào kê sát giường của Duệ, cách nhau có một cái bàn đóng bằng tre. Duệ, một cô gái ở ngoại thành Hà Nội cũng mới lên nông trường Điện Biên vào dịp ngoài tết, đang ghé mặt vào sát giường vuốt ve một bên mái tóc, rồi quay lại nhìn Đào cười ngượng nghịu:

- Chị không đi chơi à?

Đào nhìn đôi mắt tròn to của Duệ có những sợi lông mi rất thưa và hai cái bím tóc thưa nhỏ có buộc chỉ đỏ ở đầu, khẽ nói:

- Anh ấy sắp xuống chơi đấy.

Duệ đưa mắt nhìn xuống hai bàn tay nhỏ nhắn nhưng các ngón đá vàng sẹm lặng im một lát:

- Mặc người ta chị ạ, em không thích nói chuyện ấy đâu.

Hai bên mép Duệ khẽ nhếch lên, đầu lắc lư rồi Duệ quay đi nhìn phía khác. Từ cánh cửa bên Huân đã bước vào, tay cầm ống tiêu dài, chào mọi người rồi ngồi xuống giường của Đào, nhìn Duệ hỏi gượng gạo:

- Duệ tập nốt bài "Tình ca Tây Bắc" hôm này còn hát chứ!

Hai cái đuôi bím buộc chỉ đỏ vẫn đưa đi đưa lại trên ngực. Huân nhắc lại:

- Thế nào?

Duệ đáp lí nhí:

- Em không tập đâu.

- Chịu khó một chút.

- Em không biết hát.

- Thì cứ hát như hôm nọ là được, chỉ cần luyện thêm một chút nữa thôi.

Duệ thở dài:

- Nhưng em không thích hát nữa.

Huân đưa tay lên vuốt mái tóc óng mượt, anh định cười thật tự nhiên, nhưng môi đã đờ ra và hàm răng lạnh buốt.

- Cô giận tôi đấy ư?

- Anh có gì mà em giận.

Huân thở dài rất nhỏ, nhìn Đào, đùa gượng một câu:

- Chị không đi chơi đâu một lúc cho đỡ buồn.

Đôi mắt hẹp của Đào loang loáng nhìn sang Duệ, cặp môi như muốn mím chặt lại, gò má càng dồ lên đanh đá:

- à, khi buồn non nước cũng buồn. Khi vui gánh đá lên nguồn vẫn vui.

Lúc chị nhìn Huân định hỏi một thì anh đã chạy ra đến ngoài rồi.

Huân không về thẳng nhà, anh rẽ sang nhà kho, trèo lên cái bệ cao giát nứa, hai chân buông thõng xuống, chống tiêu lên đùi, nhìn ra cánh đồng lạc mờ mờ xanh nhạt ánh sao ở phía trước. Tình yêu giữa anh và Duệ mới nhóm lên đã nguội tắt rồi sao? Ngay buổi nói chuyện đầu với cô gái mảnh khảnh, rụt rè, Huân đã có cảm giác rằng cô ta sống không thể thiếu anh được. Cách sống ào ạt, sôi nổi của anh sẽ bù đắp cho cách sống rút rát lo âu và cô độc của Duệ. Cái khoẻ mạnh về tinh thần và về thể chất của anh sẽ là chỗ dựa tin cậy cho cái vóc mảnh dẻ của một người mới bước vào đời. Anh muốn đem lại nhiều hạnh phúc cho người yêu mà không hề đòi hỏi được trả lại. Nhưng chính cái trách nhiệm với người mình yêu đã đem lại cho anh sự say sưa làm việc chưa từng có, sự sung sướng được đưa tay ra nâng một người khác lên ngang tầm với mình, và lòng tự hào về cái tình yêu rất trong sáng đó.

Trăng đã bồng bềnh nổi lên qua dãy núi Pú Hồng. ánh trăng lọc qua lớp sương mỏng uyển chuyển như khói khiến khung cảnh cứ mờ nhạt một cách huyền ảo. Huân lại thổi bài tiêu ưa thích nhất của mình "Tình ca Tây Bắc". Anh không thích hát, vì những bài mà anh thuộc đều nhạt nhẽo, vô vị, nhưng khi những chấm nhạc không có linh hồn được âm thanh của tiếng tiêu điêu luyện chắp cánh cho bay lên thì cả một thế giới tâm hồn hiển hiện, những kỷ niệm xa xưa tưởng đã quên lãng từ lâu phút chốc lung linh kéo đến, những khao khát, những ước mơ đốt cháy trái tim, hình ảnh này chưa kịp mờ đi, hình ảnh khác đã hiện lên rõ nét, hình ảnh nào cũng kích thích, khêu gợi khiến người anh như tan đi, bay theo tiếng tiêu nhập vào những ngày đã qua đầy luyến tiếc và tới những ngày sắp tới rạo rực say mê... Qua dãy núi này, qua mấy cánh rừng nữa là sang đất Thượng Lào rồi. Đất Lào những ngày kháng chiến, hành quân trong rừng hàng trăm cây số, đêm ngủ lại trên những sườn đồi chon von, phải đào huyệt để giữ người khỏi lăn xuống vực thẳm. Những ngày rét buốt xương, há mồm không nói được, vê điếu thuốc cũng không chặt, cầm que diêm rơi mà không biết, có người đặt lưng nằm xuống là cứ nằm như thế mãi... Cũng chẳng ai ngờ khu pháo binh tây Hồng Cúm của giặc năm xưa lại là bãi trồng lạc của đội sản xuất số 2. Mới mùa xuân năm ngoái đất này còn ngợp lên một rừng cây chó đẻ, dây thép gai, mìn, vỏ đạn đại bác, nhừ nát vì những hố bom, những giao thông hào. Rải rác còn có những đoạn xương người, những mảnh vải nhựa, vài lưỡi xẻng hoen rỉ, một gói tiền bọc vải đã mục nát, những khẩu súng ngắn và tiểu liên, dấu vết còn lại của những người anh hùng Điện Biên ngày trước. Mấy tháng trời liền lưỡi xẻng đi trước, vết chân người theo sau san rừng, đào cây, gỡ mìn. Có người đã hy sinh, có người mang thương tật, dây thép gai chọc nát bàn tay, mồ hôi thấm rách từng loạt quần áo, da thịt héo quắt vì nắng, vì gió Lào, mồm lở, chân phù vì thiếu rau xanh, mùa xuân còn đầy thương tích chiến tranh, cuối hạ, đầu thu nước lũ tràn ngập, mùa đông buốt giá. Một năm đã đi qua. Mùa xuân thứ hai đã đến. Màu xanh thẫm của đỗ, của ngô, của lạc, màu xanh non của lá mạ, màu đỏ tươi của ớt chín lấn dần lên các thứ màu nham nhở, man rợ khác của đất hoang... Một mảnh vải trắng làm rèm che cửa, một giàn liễu leo có những chấm hoa đỏ thắm như nhung ở mé hiên phía trước, bóng lá loáng mướt của dặng chuối, màu vàng ửng của khóm đu đủ, mấy con ngỗng bì bạch ở mé nhà, tiếng guốc đi lẹp kẹp, bóng dáng nặng nề của những chị có mang ở khu gia đình, những ngọn đèn le lói, mảng thuốc bay qua ánh đèn trông rõ từng sợi xanh. Tiếng cười the thé, tiếng thủ thỉ, tiếng la hét, tiếng trẻ con khóc. Người ta làm việc, người ta thân thiết nhau, yêu nhau, và làm cho nhau đau khổ. Những nỗi niềm, những tâm sự, những mong ước. Cuộc sống vĩ đại đã trở lại rồi. Nhìn công việc làm mỗi ngày tưởng như con người bất lực, nhìn lại cả một năm không ngờ sức vóc mình lại có thể thay đổi cuộc sống nhiều đến thế. Mỗi chiều đi làm về ngâm mình xuống dòng sông Nậm Rốm, ngắm bộ ngực dồ cao, những thớ thịt tròn trĩnh, nhẵn nhụi, đỏ rực đầy tia máu, Huân không thể ngờ thân hình mình vẫn giữ mãi được vẻ đẹp ngày trước. Những mũi gai thép đâm, những vệt nứa cứa, những chấm đen ở lỗ chân lông của bệnh sốt rét rừng, màu xanh của thiếu ăn và bệnh tật đều đã được những tế bào mới, những dòng máu mới xoá mờ đi, thay thế, soi mặt mình trong gương anh không thấy đổi khác mấy, có lẽ chỉ thêm vài vết nhăn ở mi dưới mắt, ở cạnh sống mũi, còn thì vẫn mái tóc dày mượt ấy, đôi mắt hơi nâu ấy, và hàm răng đều trắng. Nhưng ngồi nói chuyện với Duệ thì anh cảm thấy ngay rằng anh đã thay đổi nhiều, chiến tranh, gian khổ năm tháng đã luyện cho tâm hồn anh một cái gì rất trong sáng đến nỗi anh soi vào mình mà thấy được cả tâm tư của người khác. Một nghị lực mà chỉ những lúc gặp khó khăn mới thấy được hết sức mạnh của nó, và sự hy sinh hồn nhiên, giản dị cho lý tưởng của mình, cho những người khác cùng đi với mình trên một con đường...

Chợt có tiếng chân giẫm sào sạc lên đống vỏ lạc ở phía sau, Huân giật mình ngừng thổi quay lại. Từ mé trái của đầu nhà kho nhô ra một bóng người thấp lùn, cái áo cánh trắng hớt vạt ra phía trước. Ai nhỉ? Bóng người tiền lại phía anh: Đào. Anh định nhảy xuống, nhưng rồi bối rối tự hỏi: "Chị này ra đây làm gì nhỉ? Định gặp mình hay sao?". Đào đã đứng trước mặt anh, hỏi nhỏ:

- Anh thổi tiêu đấy ư, em thích nghe lắm đấy nhé!

- Chắc vì tiếng tiêu chị mới biết ra đến đây, hỏi gì ỡm ờ thế, lại xưng em, cô này bắt đầu thiếu đứng đắn rồi. Đào đứng tựa người vào cột bương, cả thân người trên bị mái gianh che tối, tiếng nói dịu đi như một hơi thở:

- Anh Huân ạ, em muốn tâm sự với anh một câu chuyện.

Huân hầu như không nghe thấy gì, anh luống cuống vì nỗi lo: "Có người ta bắt gặp thì chết, tình ngay lý gian. Liệu mà về thôi". Nhưng anh vẫn ngồi im. Giọng của Đào thật mềm, thật nhỏ:

- Anh biết anh Dịu chứ?

- Ông thiếu uý lò gạch ấy à? Có biết! Sao?

- Anh ấy viết thư cho em, định xây dựng gia đình với em, em khó nghĩ quá... Anh thấy anh Dịu là người thế nào?

à, ra là một chuyện khác. Anh là người đầu tiên được Đào thổ lộ cái tin vui ấy. Anh phải có trách nhiệm với sự tin cẩn của người bạn gái mà anh vốn mến. Nhưng biết trả lời thế nào?

Đào đứng nhích thêm về phía Huân, chị vắt một tay lên sạp nứa, hơi thở dồn dập dưới cái áo cánh trắng còn thoảng mùi khét của xà phòng.

- Em xem ra anh ấy cũng là người thành thật còn thằng con của anh ấy mình quý nó tất nó phải quý mình... Chẳng ai ở vậy được suốt một đời, chẳng ai muốn đi vất vưởng mãi, ai cũng muốn có một quê hương. Em nghĩ mãi rồi anh ạ, em định không về dưới xuôi nữa, em ở mãi đây với các anh. Anh nghĩ xem có được không?

Quê hương thứ nhất của chị ở đất Hưng Yên, quê hương thứ hai của chị ở nông trường Hồng Cúm. Hạnh phúc đã mất đi, ai ngờ chị lại tìm thấy ở một nơi chiến tranh đã xảy ra ác liệt. ở đây trong các buổi lễ cưới người ta tặng nhau một quả mìn nhảy đã tháo kíp làm giá bút, một quả đạn cối tiện đầu, quét lượt sơn trắng làm bình hoa, một ống thuốc mồi của quả bom tấn để đựng giấy giá thú, giấy khai sinh cho các cháu sau này, và những cái võng nhỏ của trẻ con tết bằng ruột dây dù rất óng. Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy...

Đầu thu với những hơi gió mát dịu bay lướt lên những khóm lá xanh thẫm của cây cỏ nghệ, những cụm ké đồng tiền, những nụ hoa trắng của cây rau tàu bay, và những bông hoa rền tía đỏ thắm hình tháp bút. Mùa thu hoạch lạc đã vào chặng cuối. Những vệt đường mờ ngổn ngang những bụi cỏ bị nhổ đã héo rễ kéo về khu máy tuốt. Đào và Huân phụ trách một cáng. Cái đầu bịt chiếc khăn kẻ ô vuông nhọn hoắt của chị thấp thoáng sau những đống lạc chất cao. Hai bàn tay to và đen choàng lấy từng ôm chuyển lên cáng. Mồ hôi chảy từng giọt dài lên gò má nham nhở vết đất, những thớ thịt như căng ra xé rách mảng áo nâu mỏng mặc ngoài. Lúc nào chị cũng có cái dáng vừa thoăn thoắt vừa lững thững. Huân chạy ra trước cáng, anh quàng đoạn dây máy bằng vải bạt qua vai, cúi rạp xuống, chiếc quần ướt đẫm mồ hôi căng theo thớ thịt, khuôn lấy cặp đùi rất tròn của anh, hai bàn tay đỏ tía bám chắc lấy đầu cáng và anh nhấc bổng người lên, chiếc cáng nhẹ bẫng lao về phía trước, Đào chạy lắc lư ở phía sau, chị kêu to lên:

- Ông mãnh ơi, đi ngắn bước chứ!

Gió vẫn thổi rào rạt khắp cánh bãi. Huân vừa bước những bước dài, vừa nói to:

- Gió mát quá nhỉ. Thế là năm nay ở đất Điện Biên không có gió Lào!

Cái đầu nhọn hoắt của Đào vẫn đưa sang phải, sang trái, chị đắng hắng rồi hát véo von ở phía sau:

... Tháng giêng phay phảy gió may

Tháng hai gió bấc, tháng ba gió nồm

Tháng tư là gió dâng lên

Gió đóng cửa đền, gió động năm cung

Tháng năm cát gió đùng đùng

Bước sang tháng sáu gió rồng phun mưa

Tháng bảy thì gió vừa vừa

Bước sang tháng tám gió đưa đòng đòng...

Giờ nghỉ sáng nay có thêm một rá lạc luộc. Cả mấy tổ cùng kéo lại ăn chung, trò chuyện cho vui. Lâm ngồi dạng chân, tay tách lạc, mắt nhìn Đào nhấm nháy!

- Thế nào cô em, bao giờ cô em về dưới xuôi đấy.

Đào vênh hẳn một bên mặt, môi chúm lại, mắt đưa đẩy:

- Về là về cửa về nhà. Một trăm năm nữa mới đà về quê.

Lâm nói đầy ngụ ý:

- Thay đổi thái độ rồi phải không, cũng mau nhỉ! Huân ơi làm một tiết mục văn nghệ mừng bà chị, mày...

Huân bước ra, lật cái mũ bịt đầu khâu bằng vải trắng như của thầy thuốc, cúi xuống rất thấp chào mọi người.

Đào liếc nhìn Huân tủm tỉm:

- Lại sắp, lại sắp...

Nét mặt Huân nghiêm trang hẳn lên, anh bước lên một bước, một tay chống nạnh, hệt như lối đứng của Đào, một tay uốn éo đưa ra phía trước, một đoạn kịch vui sắp bắt đầu. Duệ cùng với hai cô nữa cắp giành đi mót lạc cũng vừa đến. Chị đặt chiếc giành trắng xoá những mầm lạc tươi vào một góc, khẽ lách người đứng cạnh chiếc máy tuốt. Hai con mắt có những sợi lông mi thưa cứ chớp lia lịa. Lúc bình thường Huân hay có tính thẹn, nhất là trước mặt người mình yêu, nhưng khi đã bước ra một khoảng trống, hàng trăm con mắt dồn vào, anh trở nên bạo dạn, hoạt bát. Tất cả những người đứng trước mặt chỉ là những khán giả ham chuộng tài nghệ của anh. Thấy Duệ nhìn mình Huân khẽ nhún đầu gối xuống, một mảng tóc đen nhánh xoà xuống trước trán. Tất cả vỗ tay coi đó là tiết mục mở màn.

... Tôi lạy ông Cầu, bà Quán

Phù hộ cho mẹ đĩ nhà tôi

Nó ăn nó chơi

Nó tươi nó cười

Như con ngựa ngáp

Làm ăn chậm chạp

Có tính nỏ mồm

Đi chợ bao nhiêu khoai lang củ từ cũng chứa

Vớt bèo thì ngứa

Xay thóc rức đầu...

Duệ yêu Huân cũng bắt đầu từ những cuộc biểu diễn văn nghệ trong giờ nghỉ. Cô mê say anh bởi cặp mắt dịu dàng, quyến rũ, cái miệng rất có duyên, một thân hình khoẻ mạnh, cân đối. Đôi khi cô cũng thích âm sự với anh vì anh rất hiểu tâm tình của người khác, biết an ủi và khuyến khích đúng lúc. Nhưng ngoài những nét đáng yêu của Huân mà bất cứ ai mới gặp anh lần đầu đều nhận thấy ngay, Duệ còn nhìn thấy những gì khác? Cô chẳng hiểu thêm được chút nào nữa, vì một người mới bước vào đời như cô chưa thể hiểu được, và cũng chưa thể đánh giá được cái phần cao quý trong tâm hồn một chiến sĩ cách mạng. Tình yêu của Duệ đối với Huân bồng bột và bề ngoài, dễ thay đổi. Có lúc cô thấy yêu Huân tha thiết, có lúc lại lưỡng lự vì câu hỏi: anh ấy có thể đảm bảo cho đời mình được sung sướng không? Mình còn có thể gặp được một người nào hơn thế nữa? Duệ thèm khát hạnh phúc vì từ bé đến lớn sống với chú dượng cô chỉ thấy tủi nhục, vất vả, lo âu, cô sợ cho tương lai, nhưng lại muốn phó thác tương lai của mình cho người khác. Cùng trung đội Huân, Duệ còn có cảm tình với Hào, trẻ hơn Huân vài tuổi, là giáo viên văn hoá của đội, lại sắp được về Hà Nội thi vào đại học Nông lâm.

Hiện nay anh ấy chỉ là một chiến sĩ bình thường nhưng ba năm nữa anh ấy đã trở thành một cán bộ kỹ thuật, một kỹ sư biết đâu. Hai người cùng đi nhổ lạc với nhau nhiều buổi, đã trò chuyện với nhau mấy tối ở mé nhà kho. Nhưng Duệ vẫn lo lắng vì Hào tỏ ra quá khôn ngoan trong tình yêu, anh ta dè dặt trong cả câu nói ngay những lúc tình cảm sôi nổi nhất. Anh khuyên Duệ đừng vội đưa vấn đề này ra công khai, chỉ nên coi anh như người bạn trai thôi, sau này anh tốt nghiệp rồi, có công tác rõ ràng lúc ấy hai người sẽ bàn đến chuyện xây dựng cùng nhau cũng vẫn vừa. Nhưng đến cái ngày xa xôi và mỏng manh ấy liệu anh có còn nhớ đến lời hứa năm trước không? Ba năm nữa anh ấy sẽ quen thêm bao nhiêu cô bạn mới, xinh đẹp hơn Duệ nhiều, học cao hơn Duệ nhiều.

Huân vừa đi quanh theo một đường tròn vừa nói lối hai tay uốn éo, nhưng nét mặt vẫn nghiêm nghị, thật là một tay hề đại tài. Các cô cứ ôm lấy nhau cười rũ ra, nước mắt giàn giụa, còn các người khác thì vỗ tay làm nhịp cho câu nói:

... Nay lần mai lữa

Cô giống tính ai...

Lâm hất đầu về phía Đào gào to: "Giống tính cô Đào". Phải như mọi khi Đào đã bật dậy, tìm một câu thật cay chua để đón lại, nhưng hôm nay chị sẵn sàng tha thứ cho mọi câu đùa tinh nghịch khác. Tất cả đều là những người đáng yêu, tất cả đều vun xới cho hạnh phúc của chị, đấy là anh em, là người làng, là họ nhà gái cả. Vui vẻ nữa đi rồi lại bắt tay vào công việc. Cái mảnh đất này, cái khoảng trời này đối với chị quen thuộc và thân yêu biết bao. Hai người sẽ có con, những đứa con ấy sẽ lớn lên ở nông trường. Chúng có thể đi học ở Hà Nội, ở những nơi xa xôi khác, nhưng những ngày nghỉ chúng lại trở về đây với bố mẹ già, với quê hương, với các chú các thím, và biết bao nhiêu anh chị em cùng tuổi với nó mà hiện nay chưa có mặt. Chúng nó sẽ làm việc ở đây, dựng vợ gả chồng ở đây, sinh con đẻ cái, cứ thế mà tiếp nối mãi đời này qua đời khác. Duệ ngồi ghé lên trên nắp máy tuốt, hai chân đu đưa, cái đuôi bím buộc chỉ đỏ vẫn ngọ nguậy trước ngực. Chị chẳng chú ý gì đến lời hát, cứ mỗi lần Huân bước chéo sang phía khác, chị lại đưa mắt nhìn anh, nhưng khi Huân quay mặt về phía chị thì chị lại cúi xuống lúng túng và có cảm giác hai tai mình đỏ chín. Cái giọng cố làm ra ẽo ợt của Huân cứ loang loáng bên tai.

... Nhà thì có giỗ

Luộc gà hai mề

Thổi cơm thì khê

Rang vừng thì cháy

Con mắt nhấp nháy...

Tối thứ bảy. Gian nhà của vợ chồng Lâm ở khu gia đình chật ních người. Một ngọn đèn dầu khêu to ngọn hắt sáng lên mấy đĩa kẹo lạc, kẹo vừng, bánh khảo. Nước chè mạn nóng. Người ngồi vây quanh cái bàn nhỏ và trên chiếc giường tre. Huân ngồi ở một góc trịnh trọng uống từng hớp rượu nhỏ. Mỗi một hớp môi anh lại mím lại, đôi lông mày mịn và đen nhánh khẽ nhướn lên. Ngồi cạnh anh là Lộ, tay lái máy cày của nông trường, vừa đến đội sản xuất số 2 sáng nay để cày bãi lạc, chuẩn bị cho vụ gieo trồng. Nét mặt mọi người mờ đi sau màn khói thuốc lá. Có người đề nghị chị chủ nhà hát tặng anh em một khẩu chèo, vì chị ấy trước đã ở trong đội chèo của xã. Vợ Lâm ngồi ở mé sau giường, tóc vấn trần, với rất nhiều cặp tóc lớn nhỏ sáng nhoáng vội vàng kéo cánh màn che lấy mặt mình. Cô em chồng lôi tay chị dâu năn nỉ:

- Kìa, chị Lựu hát đi một bài cho chúng em nghe nào!

Hai con mắt Lựu sáng rực lên lóng lánh, chị co rúm người lại, cười ngặt nghẽo:

- Các anh ơi, em không biết hát đâu!

Cái giọng miền trong ỏn ẻn, lên bổng xuống trầm, mới nói thường đã rất dễ nghe. Lộ nói không cười:

- Cứ hát như câu vừa rồi là được, cũng còn hay hơn giọng chúng tôi nhiều.

Lựu đằng hắng, mím chặt môi để khỏi cười, nhưng các bắp thịt trên mặt chị vẫn động đậy.

- Vậy thì em xin hát hiến dâng các anh một bài.

Chị vừa hát được hai câu cải lương cô em chồng đã chạy vào một góc nhà bưng miệng cười rúc rích. Lựu không hát nữa, gục đầu vào vai người ngồi cạnh, rồi nằm lăn ra giường, hai tay bưng lấy mặt rên rỉ. Cô em chạy lại phát vào mông chị:

- Chị Lựu, chị làm trò hề đấy ư!

Lựu vẫn nức nở trong cơn cười bị nén lại.

- ối giời ôi, em ơi, sao em lại nỡ bảo chị thế!

Vừa lúc ấy Đào và Duệ đứng lấp ló ở ngoài nhìn vào. Lâm đang pha nước vội đặt ấm xuống chạy ra, mồm mời liến thoắng, hai tay kéo hai người. Lựu ngồi phắt dậy, vấn lại tóc.

- Chị Đào ơi, chị vào nhà em chơi, nay mai vợ chồng em lại đến nhà chị.

Đào mặc chiếc áo cán bộ màu xanh nhạt, tóc búi trễ. Duệ mặc chiếc áo màu hồng nhạt, cổ bẻ vạt, hai bím tóc vừa mỏng, vừa ngắn ve vẩy ở phía sau. Đào ghé ngồi xuống cái ghế kê sát vách, mắt nhìn thấy Huân liền bước vội vào ngồi một mé giường quay lại phía bàn nói chuyện với Lựu. Nhưng hai người nói với nhau những gì Duệ chỉ còn nhớ mấy câu đầu. Mọi giác quan của cô hầu như bị tê liệt ở mặt trước, nhưng lại rất thính nhạy ở mặt sau. Cô cảm thấy rất rõ một ánh mắt đang ve vuốt hai cái bím tóc của mình, mơn trớn những sợi tóc tơ ở gáy và chạy lướt trên những thớ thịt ở lưng. Bên tai Duệ chỉ còn lại một tiếng thì thào rất quen thuộc: "Em ơi, em phải tin vào em, em phải tin vào anh, hạnh phúc ở trong tay chúng ta kia mà. Em hãy vui lên đi". Và trong lòng Duệ cũng muốn thủ thỉ: "Em không thể xa anh được, anh đừng để em sống một mình. Đời em bị đầy ải nhiều rồi. Em sợ phải khổ lắm anh ơi!...". Lựu nhìn nét mặt Duệ biến đổi rất lạ lùng, chị mỉm cười tinh quái:

- Cô Duệ người khó chịu phải không?

Tự nhiên nước mắt Duệ chảy giàn giụa cô gục đầu vào cánh tay mình:

- Em về đây, người em làm sao thế này.

Lâm dúi vào tay Duệ mấy cái kẹo:

- Cô lại sợ chúng tôi bắt cô hát chứ gì?

Huân cũng ngước đôi mắt ánh nâu nhìn Duệ, nói dịu dàng:

- Hãy còn sớm Duệ ạ, ngồi chơi một lát đã.

Chỉ một cái nhìn trìu mến ấy, một lời nói thương yêu ấy Duệ đã thấy chân tay mình rời rã. Huân vẫn yêu cô, và cô càng thấy đời mình từ nay gắn bó với anh, cô muốn kêu lên: "Em đến chơi với anh từ lúc nãy sao anh không nói với em một câu nào? Anh giận em hay sao?". Nhưng cô không thể làm theo được ý mình, chỉ đưa mắt nhìn xuống rồi trả lời lúng túng:

- Xin phép các anh, em phải về.

Tuy không ai nói nhưng mọi người đều rõ câu chuyện của hai người. Trông đẹp đôi thế ai ngờ cũng có những trắc trở. Gian nhà đang ồn ào bỗng lắng hẳn đi. Lộ nhìn Đào cất tiếng hỏi trước:

- Chị Đào vẫn giữ lời thề ngày trước đấy chứ?

Đào nghiêm mặt nhìn phía người hỏi, mắt chị lóng lánh:

- Thề gì nào?

Tất cả cười phá lên, Lộ vẫn nói thủng thỉnh:

- Thề ở vậy suốt đời ấy mà?

Lựu hễ có dịp trêu chọc ai lại trở nên hoạt bát hẳn:

- Anh Lộ mà hỏi lần nữa thì chị ấy đã có cháu rồi.

Đào cũng múm mím cười, gò má đỏ ửng. Lộ uống một hớp nước nói tiếp:

- Chuyện ấy bọn tôi đã rõ cả rồi. Thế mới phải. Anh ấy bàn với tôi là định sau mùa lạc đấy.

Chị nghĩ thế nào?

Kể ra ở cái cảnh hàn nối cũng chẳng ai muốn kéo dài thời kỳ thư đi mối lại làm gì. Nhưng sau mùa lạc thì vội vã quá. Dạo đi trảy đỗ chị mới gặp đồng chí thiếu uý lò gạch lần đầu hai bên nói chuyện với nhau cũng dửng dưng. Hôm nay bắt tay vào vụ gieo ngô, số phận hai người đã gắn bó làm một. Đoạn đời từ hôm qua trở về trước đã lùi về quá khứ, cái tia hy vọng mỏng manh như không thể có thực sẽ là những ngày sống hiện nay. Chị nhìn mọi người với ánh mắt biết ơn, vì mặc dù họ đùa bỡn họ chế giễu nhưng tất cả đều hoan hỉ vun đắp hạnh phúc cho hai người. Chị nhìn Huân đang ngồi hút thúc lá ở một góc, thầm nghĩ: "Anh Huân ơi, Duệ nó có hạnh phúc hơn tôi nhiều vì nó có được một người chồng như anh. Tôi hiểu lòng anh hơn nó, nhưng tôi không ghen với nó đâu. Nó có quyền được hưởng cái hạnh phúc tốt đẹp ấy. Nó yêu anh lắm, anh hãy bạo dạn lên đi..."./.

Truyện ngắn

Nguyễn Khải

Mùa lạc

Sáng, mây bốc mù chân núi vây quanh lấy cánh đồng Điện Biên, nhưng trên đỉnh chóp lại hết sức trong trẻo đến nỗi trông thấy rõ những thân cây đứng trơ trụi, và thấp thoáng một vật trắng của mái nhà người Mèo.

Bãi trồng lạc ở cánh đồng phía Tây Hồng Cúm trải ra từ chân khu nhà ở của đội sản xuất số 2 mênh mông cho mãi tới giáp rừng. Giữa cái màu xanh lặng lẽ của lá lạc, lá cỏ nghệ, và rút đồng, nổi lên một miếng vàng sẫm của mấy mảng cỏ gianh và lá cót đan lẫn lên nhau. Đấy là điểm sinh động nhất của toàn bãi: tiếng chân đạp lên bàn gỗ rình rịch, tiếng vòng trục quay ù ù của ba cái máy tuốt lạc, tiếng bào cào rê lạo xạo trên mình vỏ lạc thu gọn lại ở khoanh giữa; mùi hăng của thân lạc tươi mới nhổ xếp lớp lớp trên các cáng và mùi ẩm ướt nồng nồng của những cây lạc đã tuốt đánh đống phơi mưa suốt đêm qua. Bụi bốc mờ mờ từ cả mấy phía, và những chấm cánh nâu của con sâu ban miêu bay sè sè vụt qua vụt lại. Mồ hôi đã thấm hết lần áo ngoài những người đạp máy, khuôn lấy hình người hằn rõ những mảng thịt ở ngực, ở bả vai và vế đùi. Chiếc máy giữa và chiếc máy phía tay trái do sáu người đạp, còn chiếc máy bên phải chỉ có Huân tổ viên tổ 1 và Đào tổ viên tổ 4 đứng. Đào thuộc loại người gặp một lần có thể nhớ mãi, rất dễ phân biệt với những chị em khác. Hai con mắt hẹp và dài đưa đi đưa lại rất nhanh, gò má cao đầy tàn hương, và hàm răng trên đen nhờ nhờ hơi nhô ra ngoài môi. Chị bịt đầu bằng chiếc khăn vải kẻ ô vuông một vệt dài phía sau khiến những nét thiếu hoà hợp trên mặt càng trở nên thô, càng đỏng đảnh. Đứng cạnh người đàn bà ít duyên dáng ấy là Huân, một đoàn viên thanh niên chưa tròn hăm nhăm tuổi, rất khoẻ và đẹp trai. Anh đưa cặp mắt màu nâu nhạt ẩn dưới đôi lông mày đen và mịn như nét vẽ sang phía Đào. Mồ hôi đã thấm ướt vành khăn, chảy từng giọt dài xuống kẽ mắt, sống mũi. Cái thân người sồ sề của chị như nở to ra, hổn hển, cặp chân ngắn khoẻ đạp xuống bàn gỗ đã bắt đầu uể oải, nhưng hai bàn tay có những ngón rất to vẫn thoăn thoắt quờ ra phía sau lượm những bó lạc, và bằng một cử chỉ rất nhanh chị uốn hai cổ tay xiết những rễ cây đầy củ lạc già lên vòng trục. Huân vứt những thân cây đã tuốt hết củ sang một bên, nói khẽ:

- Xem ra mệt lắm rồi nhỉ?

Đôi mắt dài lóng lánh của Đào liếc sang Huân, phần dưới mắt hếch hẳn lên:

- Hỏi mình ấy. ý chừng muốn nghỉ chứ gì!

Huân cười rất to, hai hàm răng đều trắng loá.

- Trông đây này!

Anh dún mạnh chân trái xuống lập tức nhịp đạp nhanh hẳn lên, vòng trục xiết vào rễ cây xin xít, củ lạc bắn rào rào xuống đống lạc ở khoảnh giữa. Cả người Đào cùng nẩy bật lên theo, thớ thịt trên bả vai khẽ rung rung, hai bàn tay xoay đi xoay lại càng vội vã. Chị đã quá mệt nhưng đôi gò má đầy tàn hương vẫn nhọn hoắt bướng bỉnh và hai con mắt nhỏ tí vẫn ánh lên thách thức. Vừa lúc đến giờ nghỉ mười lăm phút, Huân đã bước ra. Đào vẫn còn dún thêm mấy đạp, rồi hai tay chống vào cạnh sườn chị nhìn mọi người lơ láo:

- Nghỉ hử, tại sao hôm nay lại rức đầu đến thế, chân tay cứ bủn nhủn ra!

Chị quay sang nhìn mái tóc xanh mỡ của Huân cười mỉm:

- Chịu thua thanh niên thôi!

Lâm tổ trưởng tổ một nháy con mắt, nói ướm:

- Chị... à quên, cô cũng còn đang lứa tuổi thanh niên chứ đã già gì... Tương lai chán!

Đấy là câu nói đùa cửa miệng của nhiều người đối với Đào, nhưng lần nào nghe thấy câu ấy chị cũng buồn tủi như được biết lần đầu về mình, người mất hết đà, quay cuồng, và chỉ trong chốc lát nét mặt chị thay đổi khác hẳn. Chị nhìn Lâm hờn dỗi, rồi ngồi tựa lưng vào đống thân lạc, giọng cay chua:

- Trâu qua xá, mạ qua thì, hồng nhan bỏ bị còn gì là xuân nữa, hử các anh?

Lâm liếc nhìn Huân cười tinh quái:

- Thế mà vẫn cón nhiều người yêu say đắm đấy!

Huân vuốt tóc ra phía sau, cặp mắt hơi nâu rất đẹp của anh lim dim nhìn Đào trìu mến. Đôi gò má cao của chị ửng đỏ, đôi môi định mím lại nhưng không chặt, vừa vui sướng vừa như cưỡng lại sự vui sướng ấy. Chị thở rất mạnh, với lấy một cây lạc bứt từng củ một:

- Các anh đã biết đời em rồi đấy. Mỗi năm một tuổi, cái tuổi nó đuổi xuân đi. Nồi nào vung ấy, em đã có nhà cháu dưới xuôi rồi, nay mai nhà cháu cũng lên đây xây dựng xã hội chủ nghĩa cùng với em đấy.

Rồi như chợt nhận ra cái trò chơi độc ác của mọi người bằng cách đem ghép chị là người xấu nhất của đội sản xuất với Huân, người đẹp trai nhất, chị thấy tiếc sự thành thật của mình, việc gì phải tủi, phải nhún mình, người nào mà chả có cái phần tốt đẹp. Chị nhổm dậy, đi vài bước tới trước mặt Huân, ngâm nga:

- Huê thơm bán một đồng mười

Huê vàng úa giữa giá đôi lạng vàng.

Giá đôi lạng vàng chứ chưa vị tất đã bán đâu anh Huân ạ...

Chị còn định nói thêm vài câu nữa, nhưng khi Huân ngẩng lên, nhe hàm răng trắng bóng ra cười thì chị lại muốn quên hết, lại ao ước mình được trẻ lại, như không bao giờ có cuộc đời đã qua, mà chỉ có lúc này, một nữ công nhân trên nông trường Điện Biên Phủ, một người có quyền được hưởng hạnh phúc như mọi người con gái may mắn khác.

Đào lên nông trường Điện Biên vào dịp đầu năm, ngoài tết chừng nửa tháng, với tâm lý con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên đi cuộc đời đã qua, còn những ngày sắp tới ra sao chị cũng không cần rõ, đại khái là cũng chẳng hơn gì trước mấy, có thể còn gặp nhiều đau buồn hơn. Quân tử gian nan, hồng nhan vất vả, số kiếp đã định thế, trước sau vẫn chỉ một con đường ấy, không thể nào tránh được. Chị quê ở Hưng Yên, nhà không có ruộng, vẫn làm nghề đậu phụ, thời địch tạm chiếm lại xoay sang úp men, nấu rượu. Lấy chồng từ năm mười bảy tuổi, nhưng chồng cờ bạc, nợ nần nhiều bỏ đi Nam, đến đầu năm 1950 mới trở về quê. ăn ở lại với nhau được đứa con trai lên hai thì chồng chết. Cách mấy tháng sau đứa con lên sài bỏ đi để chị ở một mình. Từ ngày ấy chị không có gia đình nữa, đòn gánh trên vai, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường, mùa hè vài cái áo cánh nâu vá vai, mùa đông một chiếc áo bông ngắn đã bạc, ngày mưa, ngày nắng, bàn chân đã từng đi khắp mọi nơi không dừng lại một buổi nào. Cũng có ngày đau ốm, nằm nhờ người nhà quen, bưng bát cơm nóng, nhìn ngọn đèn dầu lại sực nhớ trước đây mình cũng có một gia đình, có một đứa con, sớm lo việc sớm, tối lo việc tối. Còn bây giờ bốn bể là nhà, chỉ lo cho thân mình sao được cơm ngày hai bữa, chân cứng đá mềm. Mái tóc óng mượt ngày xưa qua năm tháng đã khô lại, đỏ đi, như chết, hàm răng phai không buồn nhuộm, soi gương thấy gò má càng cao, tàn hương nổi càng nhiều - Muốn về sống lại ở quê, nhưng quê hương nào còn có ai. Thôi đành cứ đi mãi, ngày khoẻ đã vậy, ngày ốm chưa biết ra sao, muốn chết nhưng đời còn dài nên phải sống. Chị sống táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người, và hờn giận cho thân mình. Chị về đội sản xuất số 3 chưa đầy một tháng đã quen khắp mặt, duy chỉ thân có mỗi Huân, vì tuy anh chưa từng trải bằng chị, nhưng lại tỏ ra rất thông cảm với cuộc đời của chị. Lần đầu tiên hai người quen nhau vào một buổi sáng chị đi qua nhà ban chỉ huy đội, thấy Huân đang hý hoáy pha màu vẽ cho tờ báo tường. Chị đứng khuỳnh tay, ngắm nghía khen: "Anh vẽ khéo tay nhỉ!". Huân nhìn chị cười: "Chị có bài thơ nào đưa lên báo không?". Câu hỏi ấy vừa nói cho vui, vừa hơi châm biếm. Chị gật đầu nhận lời ngay: "Được thôi, thế bao giờ đưa nộp". Huân thầm nghĩ: "Cô này biết đùa đây", nhưng cứ dặn thêm: "Phải là thơ hay đấy!". Chị trả lời ngang ngược: "à, chắc không đến nỗi dở". Chị vốn được học chữ từ ngày nhỏ, lại thuộc lòng nhiều truyện thơ cổ, các câu ca, hát ví xưa, khi nói chuyện chị cũng hay vận thành vần, ví von, nên chỉ có một buổi trưa chị đã làm xong bài thơ "Đường lên nông trường Điện Biên". Ai ngờ bài thơ lại hay, đưa lên báo có vài buổi đã nhiều người ngâm nga đọc thuộc. Anh em thấy một đôi bạn trái ngược nhau cả về hình thức lẫn tính nết liền đem họ ra gán ghép. Song chẳng qua là câu chuyện đặt cho vui để trêu chọc chị thôi. Vì kể về tuổi thì năm nay chị đã hai mươi tám, còn nhìn ngoài mà so sánh thì tưởng chị phải hơn Huân ít ra gần chục tuổi. Hơn nữa Huân đã có người yêu và cặp ấy rất xứng đôi, còn chị là gái goá chồng không hy vọng gì được yêu một người con trai chưa từng có vợ. Những mỗi buổi đi làm cùng nhổ lạc ở một khoảnh, cùng đứng tuốt ở một máy ngắm nhìn hai cánh tay cuồn cuộn những thớ thịt cháy nắng của Huân chị lại bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, lại hy vọng cuộc đời của mình chưa phải đã tắt hẳn, một cái gì chưa rõ nét lắm nhưng đầm ấm hơn, tươi sáng hơn những ngày đã qua cứ lấp lánh ở phía trước. Có thể đấy là cuộc đời còn lại của chị chăng?

Mặt trời đã lặn từ lâu. Trời trong xanh như ngọc thạch, những vệt mây màu khói, màu hồng nhạt, màu tím nhạt cứ ưng ửng lên ở bốn phía, đan vào nhau, tô điểm cho nhau rồi lại nhạt dần đi, trong mãi, thành một màu xanh mờ mờ cao tít. Những ngọn đèn nhỏ dờn dợt vàng kéo thành một dãy dọc các khung cửa của khu nhà bộ đội thấp thoáng như một dãy phố nhỏ nào đó ở vùng quê. Khu nhà nữ công nhân rộn rịp người ra vào, nhộn nhạo những tiếng cười, tiếng mời chào, cả tiếng la hét. Đào không đi chơi đâu. Một lá thư mới nhận làm chị bàng hoàng. Ông trung đội trưởng già phụ trách lò gạch của nông trường mới gặp chị có vài bận mà đã dám ngỏ lời táo bạo. Mới đọc được mươi dòng chị giận dữ tưởng như có thể xé vụn từng mảnh được, người ta coi thường chị đến thế kia ư. Nhưng khi gập lá thư lại thì một cảm giác êm đềm cứ lan nhanh ra, như mạch nước ngọt rỉ thấm vào những thớ đất khô cằn vì nắng hạn, một nỗi vui sướng kỳ lạ rào rạt không thể nén lại nổi, khiến chị ngây ngất, muốn cười to một tiếng nhưng trong mí mắt lại như đã mọng đầy nước mắt chỉ định trào ra. Từ ngày goá bụa đến nay chưa ai nói được với chị một câu nào yêu thương, một lần gắn bó, chưa ai khao khát đến chị, coi chị là nguồn hạnh phúc của họ, là niềm an ủi cho họ. Những dòng, những chữ trong bức thư xa lạ ngân vang mãi trong lòng chị, vang dội đến tận những kẽ ngách sâu kín nhất, thức tỉnh nỗi khao khát yêu đương, khao khát hạnh phúc mà chị cố hắt hủi, vùi nén một cách bất lực từ ngót chục năm nay. Cho đến lúc này chị vẫn chưa có ý định gì rõ ràng với ông trung đội trưởng mới quen biết, nhưng trong cái dòng nghĩ miên man thế nào chị lại hình dung ra cách đối đãi với đứa con riêng của người rồi đây sẽ gọi là chồng. Nó sẽ yêu quý chị hay thù ghét chị? Chị sẽ để nó ở dưới xuôi hay đem lên trên này? Và khi những hình ảnh ấy rõ nét quá chị vội nhỏm dậy, thầm chê trách mình: "Rõ hay chưa, đã ra thế nào mà cứ nghĩ vớ vẩn".

Giường nằm của Đào kê sát giường của Duệ, cách nhau có một cái bàn đóng bằng tre. Duệ, một cô gái ở ngoại thành Hà Nội cũng mới lên nông trường Điện Biên vào dịp ngoài tết, đang ghé mặt vào sát giường vuốt ve một bên mái tóc, rồi quay lại nhìn Đào cười ngượng nghịu:

- Chị không đi chơi à?

Đào nhìn đôi mắt tròn to của Duệ có những sợi lông mi rất thưa và hai cái bím tóc thưa nhỏ có buộc chỉ đỏ ở đầu, khẽ nói:

- Anh ấy sắp xuống chơi đấy.

Duệ đưa mắt nhìn xuống hai bàn tay nhỏ nhắn nhưng các ngón đá vàng sẹm lặng im một lát:

- Mặc người ta chị ạ, em không thích nói chuyện ấy đâu.

Hai bên mép Duệ khẽ nhếch lên, đầu lắc lư rồi Duệ quay đi nhìn phía khác. Từ cánh cửa bên Huân đã bước vào, tay cầm ống tiêu dài, chào mọi người rồi ngồi xuống giường của Đào, nhìn Duệ hỏi gượng gạo:

- Duệ tập nốt bài "Tình ca Tây Bắc" hôm này còn hát chứ!

Hai cái đuôi bím buộc chỉ đỏ vẫn đưa đi đưa lại trên ngực. Huân nhắc lại:

- Thế nào?

Duệ đáp lí nhí:

- Em không tập đâu.

- Chịu khó một chút.

- Em không biết hát.

- Thì cứ hát như hôm nọ là được, chỉ cần luyện thêm một chút nữa thôi.

Duệ thở dài:

- Nhưng em không thích hát nữa.

Huân đưa tay lên vuốt mái tóc óng mượt, anh định cười thật tự nhiên, nhưng môi đã đờ ra và hàm răng lạnh buốt.

- Cô giận tôi đấy ư?

- Anh có gì mà em giận.

Huân thở dài rất nhỏ, nhìn Đào, đùa gượng một câu:

- Chị không đi chơi đâu một lúc cho đỡ buồn.

Đôi mắt hẹp của Đào loang loáng nhìn sang Duệ, cặp môi như muốn mím chặt lại, gò má càng dồ lên đanh đá:

- à, khi buồn non nước cũng buồn. Khi vui gánh đá lên nguồn vẫn vui.

Lúc chị nhìn Huân định hỏi một thì anh đã chạy ra đến ngoài rồi.

Huân không về thẳng nhà, anh rẽ sang nhà kho, trèo lên cái bệ cao giát nứa, hai chân buông thõng xuống, chống tiêu lên đùi, nhìn ra cánh đồng lạc mờ mờ xanh nhạt ánh sao ở phía trước. Tình yêu giữa anh và Duệ mới nhóm lên đã nguội tắt rồi sao? Ngay buổi nói chuyện đầu với cô gái mảnh khảnh, rụt rè, Huân đã có cảm giác rằng cô ta sống không thể thiếu anh được. Cách sống ào ạt, sôi nổi của anh sẽ bù đắp cho cách sống rút rát lo âu và cô độc của Duệ. Cái khoẻ mạnh về tinh thần và về thể chất của anh sẽ là chỗ dựa tin cậy cho cái vóc mảnh dẻ của một người mới bước vào đời. Anh muốn đem lại nhiều hạnh phúc cho người yêu mà không hề đòi hỏi được trả lại. Nhưng chính cái trách nhiệm với người mình yêu đã đem lại cho anh sự say sưa làm việc chưa từng có, sự sung sướng được đưa tay ra nâng một người khác lên ngang tầm với mình, và lòng tự hào về cái tình yêu rất trong sáng đó.

Trăng đã bồng bềnh nổi lên qua dãy núi Pú Hồng. ánh trăng lọc qua lớp sương mỏng uyển chuyển như khói khiến khung cảnh cứ mờ nhạt một cách huyền ảo. Huân lại thổi bài tiêu ưa thích nhất của mình "Tình ca Tây Bắc". Anh không thích hát, vì những bài mà anh thuộc đều nhạt nhẽo, vô vị, nhưng khi những chấm nhạc không có linh hồn được âm thanh của tiếng tiêu điêu luyện chắp cánh cho bay lên thì cả một thế giới tâm hồn hiển hiện, những kỷ niệm xa xưa tưởng đã quên lãng từ lâu phút chốc lung linh kéo đến, những khao khát, những ước mơ đốt cháy trái tim, hình ảnh này chưa kịp mờ đi, hình ảnh khác đã hiện lên rõ nét, hình ảnh nào cũng kích thích, khêu gợi khiến người anh như tan đi, bay theo tiếng tiêu nhập vào những ngày đã qua đầy luyến tiếc và tới những ngày sắp tới rạo rực say mê... Qua dãy núi này, qua mấy cánh rừng nữa là sang đất Thượng Lào rồi. Đất Lào những ngày kháng chiến, hành quân trong rừng hàng trăm cây số, đêm ngủ lại trên những sườn đồi chon von, phải đào huyệt để giữ người khỏi lăn xuống vực thẳm. Những ngày rét buốt xương, há mồm không nói được, vê điếu thuốc cũng không chặt, cầm que diêm rơi mà không biết, có người đặt lưng nằm xuống là cứ nằm như thế mãi... Cũng chẳng ai ngờ khu pháo binh tây Hồng Cúm của giặc năm xưa lại là bãi trồng lạc của đội sản xuất số 2. Mới mùa xuân năm ngoái đất này còn ngợp lên một rừng cây chó đẻ, dây thép gai, mìn, vỏ đạn đại bác, nhừ nát vì những hố bom, những giao thông hào. Rải rác còn có những đoạn xương người, những mảnh vải nhựa, vài lưỡi xẻng hoen rỉ, một gói tiền bọc vải đã mục nát, những khẩu súng ngắn và tiểu liên, dấu vết còn lại của những người anh hùng Điện Biên ngày trước. Mấy tháng trời liền lưỡi xẻng đi trước, vết chân người theo sau san rừng, đào cây, gỡ mìn. Có người đã hy sinh, có người mang thương tật, dây thép gai chọc nát bàn tay, mồ hôi thấm rách từng loạt quần áo, da thịt héo quắt vì nắng, vì gió Lào, mồm lở, chân phù vì thiếu rau xanh, mùa xuân còn đầy thương tích chiến tranh, cuối hạ, đầu thu nước lũ tràn ngập, mùa đông buốt giá. Một năm đã đi qua. Mùa xuân thứ hai đã đến. Màu xanh thẫm của đỗ, của ngô, của lạc, màu xanh non của lá mạ, màu đỏ tươi của ớt chín lấn dần lên các thứ màu nham nhở, man rợ khác của đất hoang... Một mảnh vải trắng làm rèm che cửa, một giàn liễu leo có những chấm hoa đỏ thắm như nhung ở mé hiên phía trước, bóng lá loáng mướt của dặng chuối, màu vàng ửng của khóm đu đủ, mấy con ngỗng bì bạch ở mé nhà, tiếng guốc đi lẹp kẹp, bóng dáng nặng nề của những chị có mang ở khu gia đình, những ngọn đèn le lói, mảng thuốc bay qua ánh đèn trông rõ từng sợi xanh. Tiếng cười the thé, tiếng thủ thỉ, tiếng la hét, tiếng trẻ con khóc. Người ta làm việc, người ta thân thiết nhau, yêu nhau, và làm cho nhau đau khổ. Những nỗi niềm, những tâm sự, những mong ước. Cuộc sống vĩ đại đã trở lại rồi. Nhìn công việc làm mỗi ngày tưởng như con người bất lực, nhìn lại cả một năm không ngờ sức vóc mình lại có thể thay đổi cuộc sống nhiều đến thế. Mỗi chiều đi làm về ngâm mình xuống dòng sông Nậm Rốm, ngắm bộ ngực dồ cao, những thớ thịt tròn trĩnh, nhẵn nhụi, đỏ rực đầy tia máu, Huân không thể ngờ thân hình mình vẫn giữ mãi được vẻ đẹp ngày trước. Những mũi gai thép đâm, những vệt nứa cứa, những chấm đen ở lỗ chân lông của bệnh sốt rét rừng, màu xanh của thiếu ăn và bệnh tật đều đã được những tế bào mới, những dòng máu mới xoá mờ đi, thay thế, soi mặt mình trong gương anh không thấy đổi khác mấy, có lẽ chỉ thêm vài vết nhăn ở mi dưới mắt, ở cạnh sống mũi, còn thì vẫn mái tóc dày mượt ấy, đôi mắt hơi nâu ấy, và hàm răng đều trắng. Nhưng ngồi nói chuyện với Duệ thì anh cảm thấy ngay rằng anh đã thay đổi nhiều, chiến tranh, gian khổ năm tháng đã luyện cho tâm hồn anh một cái gì rất trong sáng đến nỗi anh soi vào mình mà thấy được cả tâm tư của người khác. Một nghị lực mà chỉ những lúc gặp khó khăn mới thấy được hết sức mạnh của nó, và sự hy sinh hồn nhiên, giản dị cho lý tưởng của mình, cho những người khác cùng đi với mình trên một con đường...

Chợt có tiếng chân giẫm sào sạc lên đống vỏ lạc ở phía sau, Huân giật mình ngừng thổi quay lại. Từ mé trái của đầu nhà kho nhô ra một bóng người thấp lùn, cái áo cánh trắng hớt vạt ra phía trước. Ai nhỉ? Bóng người tiền lại phía anh: Đào. Anh định nhảy xuống, nhưng rồi bối rối tự hỏi: "Chị này ra đây làm gì nhỉ? Định gặp mình hay sao?". Đào đã đứng trước mặt anh, hỏi nhỏ:

- Anh thổi tiêu đấy ư, em thích nghe lắm đấy nhé!

- Chắc vì tiếng tiêu chị mới biết ra đến đây, hỏi gì ỡm ờ thế, lại xưng em, cô này bắt đầu thiếu đứng đắn rồi. Đào đứng tựa người vào cột bương, cả thân người trên bị mái gianh che tối, tiếng nói dịu đi như một hơi thở:

- Anh Huân ạ, em muốn tâm sự với anh một câu chuyện.

Huân hầu như không nghe thấy gì, anh luống cuống vì nỗi lo: "Có người ta bắt gặp thì chết, tình ngay lý gian. Liệu mà về thôi". Nhưng anh vẫn ngồi im. Giọng của Đào thật mềm, thật nhỏ:

- Anh biết anh Dịu chứ?

- Ông thiếu uý lò gạch ấy à? Có biết! Sao?

- Anh ấy viết thư cho em, định xây dựng gia đình với em, em khó nghĩ quá... Anh thấy anh Dịu là người thế nào?

à, ra là một chuyện khác. Anh là người đầu tiên được Đào thổ lộ cái tin vui ấy. Anh phải có trách nhiệm với sự tin cẩn của người bạn gái mà anh vốn mến. Nhưng biết trả lời thế nào?

Đào đứng nhích thêm về phía Huân, chị vắt một tay lên sạp nứa, hơi thở dồn dập dưới cái áo cánh trắng còn thoảng mùi khét của xà phòng.

- Em xem ra anh ấy cũng là người thành thật còn thằng con của anh ấy mình quý nó tất nó phải quý mình... Chẳng ai ở vậy được suốt một đời, chẳng ai muốn đi vất vưởng mãi, ai cũng muốn có một quê hương. Em nghĩ mãi rồi anh ạ, em định không về dưới xuôi nữa, em ở mãi đây với các anh. Anh nghĩ xem có được không?

Quê hương thứ nhất của chị ở đất Hưng Yên, quê hương thứ hai của chị ở nông trường Hồng Cúm. Hạnh phúc đã mất đi, ai ngờ chị lại tìm thấy ở một nơi chiến tranh đã xảy ra ác liệt. ở đây trong các buổi lễ cưới người ta tặng nhau một quả mìn nhảy đã tháo kíp làm giá bút, một quả đạn cối tiện đầu, quét lượt sơn trắng làm bình hoa, một ống thuốc mồi của quả bom tấn để đựng giấy giá thú, giấy khai sinh cho các cháu sau này, và những cái võng nhỏ của trẻ con tết bằng ruột dây dù rất óng. Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy...

Đầu thu với những hơi gió mát dịu bay lướt lên những khóm lá xanh thẫm của cây cỏ nghệ, những cụm ké đồng tiền, những nụ hoa trắng của cây rau tàu bay, và những bông hoa rền tía đỏ thắm hình tháp bút. Mùa thu hoạch lạc đã vào chặng cuối. Những vệt đường mờ ngổn ngang những bụi cỏ bị nhổ đã héo rễ kéo về khu máy tuốt. Đào và Huân phụ trách một cáng. Cái đầu bịt chiếc khăn kẻ ô vuông nhọn hoắt của chị thấp thoáng sau những đống lạc chất cao. Hai bàn tay to và đen choàng lấy từng ôm chuyển lên cáng. Mồ hôi chảy từng giọt dài lên gò má nham nhở vết đất, những thớ thịt như căng ra xé rách mảng áo nâu mỏng mặc ngoài. Lúc nào chị cũng có cái dáng vừa thoăn thoắt vừa lững thững. Huân chạy ra trước cáng, anh quàng đoạn dây máy bằng vải bạt qua vai, cúi rạp xuống, chiếc quần ướt đẫm mồ hôi căng theo thớ thịt, khuôn lấy cặp đùi rất tròn của anh, hai bàn tay đỏ tía bám chắc lấy đầu cáng và anh nhấc bổng người lên, chiếc cáng nhẹ bẫng lao về phía trước, Đào chạy lắc lư ở phía sau, chị kêu to lên:

- Ông mãnh ơi, đi ngắn bước chứ!

Gió vẫn thổi rào rạt khắp cánh bãi. Huân vừa bước những bước dài, vừa nói to:

- Gió mát quá nhỉ. Thế là năm nay ở đất Điện Biên không có gió Lào!

Cái đầu nhọn hoắt của Đào vẫn đưa sang phải, sang trái, chị đắng hắng rồi hát véo von ở phía sau:

... Tháng giêng phay phảy gió may

Tháng hai gió bấc, tháng ba gió nồm

Tháng tư là gió dâng lên

Gió đóng cửa đền, gió động năm cung

Tháng năm cát gió đùng đùng

Bước sang tháng sáu gió rồng phun mưa

Tháng bảy thì gió vừa vừa

Bước sang tháng tám gió đưa đòng đòng...

Giờ nghỉ sáng nay có thêm một rá lạc luộc. Cả mấy tổ cùng kéo lại ăn chung, trò chuyện cho vui. Lâm ngồi dạng chân, tay tách lạc, mắt nhìn Đào nhấm nháy!

- Thế nào cô em, bao giờ cô em về dưới xuôi đấy.

Đào vênh hẳn một bên mặt, môi chúm lại, mắt đưa đẩy:

- Về là về cửa về nhà. Một trăm năm nữa mới đà về quê.

Lâm nói đầy ngụ ý:

- Thay đổi thái độ rồi phải không, cũng mau nhỉ! Huân ơi làm một tiết mục văn nghệ mừng bà chị, mày...

Huân bước ra, lật cái mũ bịt đầu khâu bằng vải trắng như của thầy thuốc, cúi xuống rất thấp chào mọi người.

Đào liếc nhìn Huân tủm tỉm:

- Lại sắp, lại sắp...

Nét mặt Huân nghiêm trang hẳn lên, anh bước lên một bước, một tay chống nạnh, hệt như lối đứng của Đào, một tay uốn éo đưa ra phía trước, một đoạn kịch vui sắp bắt đầu. Duệ cùng với hai cô nữa cắp giành đi mót lạc cũng vừa đến. Chị đặt chiếc giành trắng xoá những mầm lạc tươi vào một góc, khẽ lách người đứng cạnh chiếc máy tuốt. Hai con mắt có những sợi lông mi thưa cứ chớp lia lịa. Lúc bình thường Huân hay có tính thẹn, nhất là trước mặt người mình yêu, nhưng khi đã bước ra một khoảng trống, hàng trăm con mắt dồn vào, anh trở nên bạo dạn, hoạt bát. Tất cả những người đứng trước mặt chỉ là những khán giả ham chuộng tài nghệ của anh. Thấy Duệ nhìn mình Huân khẽ nhún đầu gối xuống, một mảng tóc đen nhánh xoà xuống trước trán. Tất cả vỗ tay coi đó là tiết mục mở màn.

... Tôi lạy ông Cầu, bà Quán

Phù hộ cho mẹ đĩ nhà tôi

Nó ăn nó chơi

Nó tươi nó cười

Như con ngựa ngáp

Làm ăn chậm chạp

Có tính nỏ mồm

Đi chợ bao nhiêu khoai lang củ từ cũng chứa

Vớt bèo thì ngứa

Xay thóc rức đầu...

Duệ yêu Huân cũng bắt đầu từ những cuộc biểu diễn văn nghệ trong giờ nghỉ. Cô mê say anh bởi cặp mắt dịu dàng, quyến rũ, cái miệng rất có duyên, một thân hình khoẻ mạnh, cân đối. Đôi khi cô cũng thích âm sự với anh vì anh rất hiểu tâm tình của người khác, biết an ủi và khuyến khích đúng lúc. Nhưng ngoài những nét đáng yêu của Huân mà bất cứ ai mới gặp anh lần đầu đều nhận thấy ngay, Duệ còn nhìn thấy những gì khác? Cô chẳng hiểu thêm được chút nào nữa, vì một người mới bước vào đời như cô chưa thể hiểu được, và cũng chưa thể đánh giá được cái phần cao quý trong tâm hồn một chiến sĩ cách mạng. Tình yêu của Duệ đối với Huân bồng bột và bề ngoài, dễ thay đổi. Có lúc cô thấy yêu Huân tha thiết, có lúc lại lưỡng lự vì câu hỏi: anh ấy có thể đảm bảo cho đời mình được sung sướng không? Mình còn có thể gặp được một người nào hơn thế nữa? Duệ thèm khát hạnh phúc vì từ bé đến lớn sống với chú dượng cô chỉ thấy tủi nhục, vất vả, lo âu, cô sợ cho tương lai, nhưng lại muốn phó thác tương lai của mình cho người khác. Cùng trung đội Huân, Duệ còn có cảm tình với Hào, trẻ hơn Huân vài tuổi, là giáo viên văn hoá của đội, lại sắp được về Hà Nội thi vào đại học Nông lâm.

Hiện nay anh ấy chỉ là một chiến sĩ bình thường nhưng ba năm nữa anh ấy đã trở thành một cán bộ kỹ thuật, một kỹ sư biết đâu. Hai người cùng đi nhổ lạc với nhau nhiều buổi, đã trò chuyện với nhau mấy tối ở mé nhà kho. Nhưng Duệ vẫn lo lắng vì Hào tỏ ra quá khôn ngoan trong tình yêu, anh ta dè dặt trong cả câu nói ngay những lúc tình cảm sôi nổi nhất. Anh khuyên Duệ đừng vội đưa vấn đề này ra công khai, chỉ nên coi anh như người bạn trai thôi, sau này anh tốt nghiệp rồi, có công tác rõ ràng lúc ấy hai người sẽ bàn đến chuyện xây dựng cùng nhau cũng vẫn vừa. Nhưng đến cái ngày xa xôi và mỏng manh ấy liệu anh có còn nhớ đến lời hứa năm trước không? Ba năm nữa anh ấy sẽ quen thêm bao nhiêu cô bạn mới, xinh đẹp hơn Duệ nhiều, học cao hơn Duệ nhiều.

Huân vừa đi quanh theo một đường tròn vừa nói lối hai tay uốn éo, nhưng nét mặt vẫn nghiêm nghị, thật là một tay hề đại tài. Các cô cứ ôm lấy nhau cười rũ ra, nước mắt giàn giụa, còn các người khác thì vỗ tay làm nhịp cho câu nói:

... Nay lần mai lữa

Cô giống tính ai...

Lâm hất đầu về phía Đào gào to: "Giống tính cô Đào". Phải như mọi khi Đào đã bật dậy, tìm một câu thật cay chua để đón lại, nhưng hôm nay chị sẵn sàng tha thứ cho mọi câu đùa tinh nghịch khác. Tất cả đều là những người đáng yêu, tất cả đều vun xới cho hạnh phúc của chị, đấy là anh em, là người làng, là họ nhà gái cả. Vui vẻ nữa đi rồi lại bắt tay vào công việc. Cái mảnh đất này, cái khoảng trời này đối với chị quen thuộc và thân yêu biết bao. Hai người sẽ có con, những đứa con ấy sẽ lớn lên ở nông trường. Chúng có thể đi học ở Hà Nội, ở những nơi xa xôi khác, nhưng những ngày nghỉ chúng lại trở về đây với bố mẹ già, với quê hương, với các chú các thím, và biết bao nhiêu anh chị em cùng tuổi với nó mà hiện nay chưa có mặt. Chúng nó sẽ làm việc ở đây, dựng vợ gả chồng ở đây, sinh con đẻ cái, cứ thế mà tiếp nối mãi đời này qua đời khác. Duệ ngồi ghé lên trên nắp máy tuốt, hai chân đu đưa, cái đuôi bím buộc chỉ đỏ vẫn ngọ nguậy trước ngực. Chị chẳng chú ý gì đến lời hát, cứ mỗi lần Huân bước chéo sang phía khác, chị lại đưa mắt nhìn anh, nhưng khi Huân quay mặt về phía chị thì chị lại cúi xuống lúng túng và có cảm giác hai tai mình đỏ chín. Cái giọng cố làm ra ẽo ợt của Huân cứ loang loáng bên tai.

... Nhà thì có giỗ

Luộc gà hai mề

Thổi cơm thì khê

Rang vừng thì cháy

Con mắt nhấp nháy...

Tối thứ bảy. Gian nhà của vợ chồng Lâm ở khu gia đình chật ních người. Một ngọn đèn dầu khêu to ngọn hắt sáng lên mấy đĩa kẹo lạc, kẹo vừng, bánh khảo. Nước chè mạn nóng. Người ngồi vây quanh cái bàn nhỏ và trên chiếc giường tre. Huân ngồi ở một góc trịnh trọng uống từng hớp rượu nhỏ. Mỗi một hớp môi anh lại mím lại, đôi lông mày mịn và đen nhánh khẽ nhướn lên. Ngồi cạnh anh là Lộ, tay lái máy cày của nông trường, vừa đến đội sản xuất số 2 sáng nay để cày bãi lạc, chuẩn bị cho vụ gieo trồng. Nét mặt mọi người mờ đi sau màn khói thuốc lá. Có người đề nghị chị chủ nhà hát tặng anh em một khẩu chèo, vì chị ấy trước đã ở trong đội chèo của xã. Vợ Lâm ngồi ở mé sau giường, tóc vấn trần, với rất nhiều cặp tóc lớn nhỏ sáng nhoáng vội vàng kéo cánh màn che lấy mặt mình. Cô em chồng lôi tay chị dâu năn nỉ:

- Kìa, chị Lựu hát đi một bài cho chúng em nghe nào!

Hai con mắt Lựu sáng rực lên lóng lánh, chị co rúm người lại, cười ngặt nghẽo:

- Các anh ơi, em không biết hát đâu!

Cái giọng miền trong ỏn ẻn, lên bổng xuống trầm, mới nói thường đã rất dễ nghe. Lộ nói không cười:

- Cứ hát như câu vừa rồi là được, cũng còn hay hơn giọng chúng tôi nhiều.

Lựu đằng hắng, mím chặt môi để khỏi cười, nhưng các bắp thịt trên mặt chị vẫn động đậy.

- Vậy thì em xin hát hiến dâng các anh một bài.

Chị vừa hát được hai câu cải lương cô em chồng đã chạy vào một góc nhà bưng miệng cười rúc rích. Lựu không hát nữa, gục đầu vào vai người ngồi cạnh, rồi nằm lăn ra giường, hai tay bưng lấy mặt rên rỉ. Cô em chạy lại phát vào mông chị:

- Chị Lựu, chị làm trò hề đấy ư!

Lựu vẫn nức nở trong cơn cười bị nén lại.

- ối giời ôi, em ơi, sao em lại nỡ bảo chị thế!

Vừa lúc ấy Đào và Duệ đứng lấp ló ở ngoài nhìn vào. Lâm đang pha nước vội đặt ấm xuống chạy ra, mồm mời liến thoắng, hai tay kéo hai người. Lựu ngồi phắt dậy, vấn lại tóc.

- Chị Đào ơi, chị vào nhà em chơi, nay mai vợ chồng em lại đến nhà chị.

Đào mặc chiếc áo cán bộ màu xanh nhạt, tóc búi trễ. Duệ mặc chiếc áo màu hồng nhạt, cổ bẻ vạt, hai bím tóc vừa mỏng, vừa ngắn ve vẩy ở phía sau. Đào ghé ngồi xuống cái ghế kê sát vách, mắt nhìn thấy Huân liền bước vội vào ngồi một mé giường quay lại phía bàn nói chuyện với Lựu. Nhưng hai người nói với nhau những gì Duệ chỉ còn nhớ mấy câu đầu. Mọi giác quan của cô hầu như bị tê liệt ở mặt trước, nhưng lại rất thính nhạy ở mặt sau. Cô cảm thấy rất rõ một ánh mắt đang ve vuốt hai cái bím tóc của mình, mơn trớn những sợi tóc tơ ở gáy và chạy lướt trên những thớ thịt ở lưng. Bên tai Duệ chỉ còn lại một tiếng thì thào rất quen thuộc: "Em ơi, em phải tin vào em, em phải tin vào anh, hạnh phúc ở trong tay chúng ta kia mà. Em hãy vui lên đi". Và trong lòng Duệ cũng muốn thủ thỉ: "Em không thể xa anh được, anh đừng để em sống một mình. Đời em bị đầy ải nhiều rồi. Em sợ phải khổ lắm anh ơi!...". Lựu nhìn nét mặt Duệ biến đổi rất lạ lùng, chị mỉm cười tinh quái:

- Cô Duệ người khó chịu phải không?

Tự nhiên nước mắt Duệ chảy giàn giụa cô gục đầu vào cánh tay mình:

- Em về đây, người em làm sao thế này.

Lâm dúi vào tay Duệ mấy cái kẹo:

- Cô lại sợ chúng tôi bắt cô hát chứ gì?

Huân cũng ngước đôi mắt ánh nâu nhìn Duệ, nói dịu dàng:

- Hãy còn sớm Duệ ạ, ngồi chơi một lát đã.

Chỉ một cái nhìn trìu mến ấy, một lời nói thương yêu ấy Duệ đã thấy chân tay mình rời rã. Huân vẫn yêu cô, và cô càng thấy đời mình từ nay gắn bó với anh, cô muốn kêu lên: "Em đến chơi với anh từ lúc nãy sao anh không nói với em một câu nào? Anh giận em hay sao?". Nhưng cô không thể làm theo được ý mình, chỉ đưa mắt nhìn xuống rồi trả lời lúng túng:

- Xin phép các anh, em phải về.

Tuy không ai nói nhưng mọi người đều rõ câu chuyện của hai người. Trông đẹp đôi thế ai ngờ cũng có những trắc trở. Gian nhà đang ồn ào bỗng lắng hẳn đi. Lộ nhìn Đào cất tiếng hỏi trước:

- Chị Đào vẫn giữ lời thề ngày trước đấy chứ?

Đào nghiêm mặt nhìn phía người hỏi, mắt chị lóng lánh:

- Thề gì nào?

Tất cả cười phá lên, Lộ vẫn nói thủng thỉnh:

- Thề ở vậy suốt đời ấy mà?

Lựu hễ có dịp trêu chọc ai lại trở nên hoạt bát hẳn:

- Anh Lộ mà hỏi lần nữa thì chị ấy đã có cháu rồi.

Đào cũng múm mím cười, gò má đỏ ửng. Lộ uống một hớp nước nói tiếp:

- Chuyện ấy bọn tôi đã rõ cả rồi. Thế mới phải. Anh ấy bàn với tôi là định sau mùa lạc đấy.

Chị nghĩ thế nào?

Kể ra ở cái cảnh hàn nối cũng chẳng ai muốn kéo dài thời kỳ thư đi mối lại làm gì. Nhưng sau mùa lạc thì vội vã quá. Dạo đi trảy đỗ chị mới gặp đồng chí thiếu uý lò gạch lần đầu hai bên nói chuyện với nhau cũng dửng dưng. Hôm nay bắt tay vào vụ gieo ngô, số phận hai người đã gắn bó làm một. Đoạn đời từ hôm qua trở về trước đã lùi về quá khứ, cái tia hy vọng mỏng manh như không thể có thực sẽ là những ngày sống hiện nay. Chị nhìn mọi người với ánh mắt biết ơn, vì mặc dù họ đùa bỡn họ chế giễu nhưng tất cả đều hoan hỉ vun đắp hạnh phúc cho hai người. Chị nhìn Huân đang ngồi hút thúc lá ở một góc, thầm nghĩ: "Anh Huân ơi, Duệ nó có hạnh phúc hơn tôi nhiều vì nó có được một người chồng như anh. Tôi hiểu lòng anh hơn nó, nhưng tôi không ghen với nó đâu. Nó có quyền được hưởng cái hạnh phúc tốt đẹp ấy. Nó yêu anh lắm, anh hãy bạo dạn lên đi..."./.

Truyện ngắn

Nguyễn Khải

Gặp gỡ cuối năm

- 2 -

Thoạt nhìn anh Chương tôi không khỏi bật cười. Anh giống như một kép hát đã về già, nhiều xương quá, nhiều trán quá, lại mặc cái quần nhung kẻ màu vàng vừa rộng vừa dài, một cái áo len cũng rộng thùng thình đã cũ, đi đôi dép lê. Chỉ riêng cặp mắt và cái miệng là còn trẻ, khi nói chuyện anh vẫn trẻ như cách đây mấy năm. Cùng đến với anh có Bình, gọi bố tôi là ông cậu, tốt nghiệp kỹ sư hóa học tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, vào thành phố Hồ Chí Minh nhận công tác từ cuối năm 75. Chẳng hiểu vì lẽ gì cặp bác cháu này lại rất quý nhau. Họ khác nhau hoàn toàn mà lại nói chuyện với nhau được, tâm sự với nhau được cũng là lạ. Năm nay Bình hăm chín tuổi, sang năm mới tính theo tuổi ta là ba mươi, tam thập nhi lập, tức thị không còn là trẻ con nữa. Hiện nay hắn là trưởng phòng kỹ thuật của một liên hợp xí nghiệp, nghe nói Sở công nghiệp thành phố sắp bổ nhiệm hắn làm phó giám đốc một xí nghiệp hóa chất. Chị Hoàng biết tin đã nói đùa: "Thời nào cái nhà này cũng có người đi xe hơi, mày có xe nhớ đón bác đi chơi Cáp với nhé". Bình mặc quần jean nhung màu tím sẫm, áo sơ mi màu xanh nhạt kẻ chỉ trắng, gót giày đóng hơi cao, dáng dấp thanh tú, mềm mại, là người đẹp nhất giữa cái đống xương thịt hư mục, đổ nát. Anh Hảo nắm chặt lấy tay Bình, nói hể hả:

- Ai dám bảo Việt cộng chúng tôi không có người đẹp nào?

Chị Hoàng vít đầu Bình xuống, hôn nhẹ lên hai má:

- Nếu thằng Việt cộng nào cũng đáng yêu như con thì má tình nguyện ở lại Việt Nam ăn cháo suốt đời.

Trong họ thường đồn rằng chị Hoàng rất thích những chàng trai xinh đẹp bất kể họ là Quốc gia hay Cộng sản. Với thằng Bình thì chẳng riêng một chị Hoàng yêu nó, mà cả họ đều yêu nó. Thằng bé đã đẹp lại ăn ở rất mực đàng hoàng. Bình hỏi bà bác nũng nịu:

- Tết này má Bò có lì xì cho con được vài trăm đi chơi với bạn không?

- Tết với mày chứ không với tao, tao không lì xì cho ai cả. Nói thế thôi, khi nào con được lên chức phó giám đốc má sẽ tặng con một món quà.

Anh Chương cười hi hí:

- Thế thì chẳng bao giờ bà phải mất cho nó một xu quà. Tính nó khó chịu lắm, rất khó chịu, lên thế nào được chức phó giám đốc!

Chị Hoàng trợn tròn mắt:

- Nó ngoan như thế mà lại bảo là rất khó chịu? Việt cộng không biết dùng người rồi.

- Bà vuốt ve nó nên nó có vẻ ngoan. Thử là cấp trên nó xem, sẽ rất khó chịu, tính nó hay xét nét, lại không chịu nhân nhượng.

Chị Hoàng kéo dài giọng đầy ý tứ:

- Nó giống tính ai ở cái nhà này thế nhỉ?

Anh Chương lại cười, nhưng môi cứ mím lại như e sợ bong mất hàm răng giả:

- Giống tôi, tôi nhận là nó rất giống tôi. Cái tính ấy ở đâu cũng gây khó cho người khác.

Trong gia đình vẫn thường nói, từ sau ngày giải phóng, tính nết anh Chương thay đổi khác hẳn. Bây giờ anh đã biết chào hỏi, biết nói chuyện với người này người kia trong gia đình, ăn thế nào cũng được, mặc thế nào cũng xong. Là người bình dân hoàn toàn. Xưa kia tính nết anh chẳng những kiêu kỳ mà còn rất khó chịu. Bố là quan đầu tỉnh, cậu ấm ngồi trong lớp ngủ gục trên bàn, bạn học mách thầy, thầy xua tay: "Lặng im để cậu ngủ!". Sang Pháp ở cả chục năm nửa chơi nửa học, về nước cầm hai bằng tiến sĩ vừa luật vừa văn chương, được giới Phật giáo ủng hộ, làm Viện trưởng Viện Đại học Huế, thay vị linh mục nổi tiếng Cao Văn Luận, rồi làm chính khách chống chế độ gia đình trị của Ngô Đình Diệm, bị cậu Cẩn nhốt hầm cả mấy chục ngày, tiếng tăm lan khắp "toàn quốc". Diệm đổ, tướng Khánh lên cầm quyền vời anh ra nhậm chức bộ trưởng Quốc gia Giáo dục, rồi làm thượng nghị sĩ trong nhóm đối lập, đọc diễn văn, đi biểu tình, trả lời phỏng vấn, là một nhân vật nổi tiếng của nền đệ nhị Cộng hòa, được ông Minh lớn để vào mắt xanh mời tham gia nội các chấm dứt chến tranh, tái lập hòa bình, liên minh với Cộng sản. Cuộc đời hoạt động chính trị của anh cho đến trưa ngày Ba mươi tháng Tư năm 75, phải nói là vui vẻ và thuận chiều, muốn gì được nấy. Tiền tiêu có gia đình lo, sinh mệnh chính trị có giới Phật giáo lo, riêng anh chỉ lo có tương lai của đất nước. Tương lai của đất nước chưa biết chắc ra sao, nhưng tương lai của anh nhất định phải ở dinh Độc lập. Chị Hoàng đã phát nguyện: "Thằng Chương phải làm tổng thống một nhiệm kỳ, tôi có chết mới nhắm được mắt!". Làm dân thường mới khó, chứ làm tổng thống có gì là khó. Lính lái máy bay còn làm được thủ tướng huống hồ một nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp lại không làm được ông tổng thống! Lần đầu tôi được gặp anh thì anh đã khác trước nhiều, là người dân thường, lại là thứ dân thường có phấp phỏng lo sợ chút ít, nên anh nhũn nhặn lắm, câu hỏi đã nhũn nhặn mà cái cách nghe tôi trả lời càng nhũn nhặn. Vì anh hiền lành và tuân phục nên sự nói năng của tôi của tôi cũng sổng sểnh, không gìn giữ. Có lần tôi giới thiệu với anh những món ăn ngon tại những khách sạn lớn ở Bắc Kinh, thấy anh gật gù ra dáng tán thưởng, liền nói ngay: "Cái thứ đầu bếp ở Chợ Lớn không sánh được với Bắc Kinh đâu. Bên ấy mới là bếp Tàu chính hiệu!". Anh nói rất tự nhiên: "Đúng là thế, tôi đã ở Đài Loan ít tháng tôi biết, họ nấu ngon lắm, các nhà hàng ở Hồng Kông cũng nấu rất ngon". Chết tôi, tôi đang nói chuyện với một chính khách có tầm cỡ lắm, chứ đâu phải anh dân thường. Lại phải gìn giữ một chút, đắn đo một chút, cái gì biết rõ thì nói, cái gì biết lờ mờ cứ nói thẳng là không được biết. Lại có lần tôi dám cao đàm với anh về Kissinger và chủ thuyết của Kít theo những sách vở tôi được học. Tôi hỏi anh: "Mấy lần Kít đến Sài Gòn anh có được tiếp xúc không?". Anh trả lời nhỏ nhẹ: "Không, nhưng tôi có nói chuyện với ông ấy nhiều lần khi tôi tu nghiệp tại Harvard, năm ấy ông ta còn là giáo sư xếp sòng một dortoir (4) có cả ngàn sinh viên và đã là tác giả cuốn sách nổi tiếng Vũ khí hạt nhân và đường lối đối ngoại". Rồi anh nói cho tôi nghe về các tôn sư của Kít trong ngành ngoại giao, về cái cương và cái nhu trong chính sách ngoại giao của Mỹ thời Kít đang còn là thần tượng. Anh kết luận: "Theo riêng ý tôi Kít đã kiếm được cho Mỹ một người bạn khổng lồ là Trung Quốc, nhưng lại mất toi một sự nghiệp vì cái kết thúc bất ngờ ở Việt Nam". Về phương diện này, nói cho thật, cái biết của anh vẫn hơn tôi nhiều lắm. Nhưng khi tôi nói với anh về cuộc kháng chiến chống Pháp ở quê ngoại tôi, một tỉnh nhỏ thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ, cái đói cái khổ, lúc thua lúc thắng của một đại đội địa phương, những miền đất xa xôi tôi đã đi qua và ở lại một ít ngày, những bà mẹ chiến sĩ, những ông già gánh gạo cả tháng theo bộ đội đi chiến dịch, bộ đội ở đảo Cồn Cỏ năm đầu chống chiến tranh phá hoại, Hà Nội tháng 12 năm 1972, các con tôi đi sơ tán với bà nội, bố mẹ ở lại làm việc giữa tiếng bom nổ ở các góc phố thì anh lạ lùng và kinh ngạc hoàn toàn, như chuyện của một hành tinh khác. Quả nhiên anh không hiểu bao nhiêu về cuộc cách mạng ở Việt Nam, về hai lần kháng chiến ở Việt Nam, nghị lực và hi sinh của dân tộc Việt Nam. Anh ít biết những gì đã xảy ra ngoài cái Sài Gòn anh cũng chỉ biết đại khái, cái biết qua báo chí, qua lời đồn, chứ không phải cái biết qua tiếp xúc. Anh vốn e ngại mọi sự tiếp xúc với dân chúng, vì anh không biết cách hỏi, lại càng không biết cách trả lời. Anh chỉ có thể nói một cách hấp dẫn và thuyết phục với những người cùng làm chính trị như anh, thuộc các phe nhóm khác nhau trong thượng nghị viện. Cái thượng nghị viện ở trong này, nhìn cho kỹ, phảng phất giống như một khoa của trường đại học Harvard, giáo trình do giáo sư - đại sứ Mỹ tại Việt Nam soạn thảo, được giáo sư - tổng thống Mỹ duyệt y. ở đó các sinh viên - nghị sĩ có quyền chửi Mỹ, chửi chính phủ đang cầm quyền, kiến nghị các đạo luật dân chủ, và cứ bốn năm một lần có cái vốn chính trị để ra ứng cử tổng thống hoặc trong một liên danh với tổng thống.

Bình ngắm bà bác một lúc, nói với tôi:

- Bác Hoàng mặc thế nào cũng đẹp, chú Việt nhỉ?

Chị Hoàng múm mím môi, khuỳnh tay ưỡn ngực, nói uốn éo:

- Bác cũng như chủ nghĩa cộng sản của cháu ấy, không bao giờ già, không bao giờ xấu, vĩnh viễn là mùa xuân.

Anh Chương cau mặt:

- Cái bà này bất cứ lúc nào cũng nói chọc được.

Chị Hoàng nói đanh đá:

- Tôi có chọc cộng sản hàng giờ, nhưng mấy cha cộng sản vẫn cứ yêu tôi. Cậu tuyên bố bắt tay với cộng sản, hết sức khâm phục cộng sản nhưng cộng sản vẫn cứ mời cậu đi cải tạo, tại sao thế?

Anh Chương ngả người, co một chân lên ghế, giọng mệt mỏi, chán nản:

- Bà đúng là ngôi sao xấu của tôi thật, tại sao tôi cứ phải sống mãi mãi bên cạnh bà nhỉ?

Anh Đại hỏi:

- Cậu Chương tuổi gì, tuổi Tý phải không?

- Tôi cùng tuổi với lão Thiệu, năm ất Mão là năm xung của tuổi Tý. Hắn mất quyền nhưng không mất của, lại thoát được cả người. Mình thì coi như mất tất cả.

Anh Quý quay cần tẩu trỏ vào chị Hoàng:

- Bà này tuổi Mão, anh Chương tuổi Tý, thảo nào chị em xung khắc nhau. Tý Ngọ Mão Dậu là tứ hành xung.

Chị Hoàng vẫn thích chọc ghẹo ông em như mắc ghiền vậy:

- Cậu Chương đâu có mất tất cả. Ba năm đi cải tạo ngoài Bắc, mất một bộ răng nhưng học được cái thiền. Sang Mỹ ăn thịt bò, uống whisky thì thiền làm sao?

Anh Chương hỏi tôi:

- Hình như Việt đang nghiên cứu thiền phải không?

Tôi cười:

- Muốn biết tí chút thôi, em là người của kẻ chợ, thiền sao được?

Nói đến Phật học, thiền học, tướng số học là anh Chương có thể giảng giải, tranh cãi cả buổi, anh đang say mê môn huyền học cũng như xưa kia anh từng say mê môn chính trị học vậy. Anh ngồi dịch ra mép ghế cho được gần tôi hơn, để có sức thuyết phục nhiều hơn.

- Cậu nói thế là không hiểu gì về thiền rồi. Ai cũng thiền được, người đã xuất gia cũng như người đang hoạt động xã hội. Cái động cái tĩnh bên ngoài chẳng có liên can gì đến thiền. Tôi nói thật, mấy năm đi học ngoài kia nếu không thiền thì tôi đã chết rồi, chết vì nhiều thứ lắm, buồn chán cũng có, tuyệt vọng cũng có, nhớ tiếc những cái đã qua cũng có. Tôi đã thiền, đã tìm được sự thăng bằng, từ đó cảm thụ được một tự do rất mênh mông, một thứ tự do tuyệt đối nếu có thể nói là như thế.

Tôi chưa kịp trả lời, anh Đại đã vội vàng nói xen:

- Xin lỗi, tôi muốn nói một chút về cái kinh nghiệm của tôi mấy năm đi tù ở Mã Đảo. Năm ấy xứ này chưa có học thiền, cũng chẳng biết thiền là cái quái gì, kể cả mấy ông sư tu chùa, có đúng thế không? Mà ở Mã Đảo thì chết dễ lắm, mấy thứ có thể chết như cậu Chương vừa nói đều có cả, nhưng cái dễ chết nhất là bệnh fièvre jaune gọi là gì nhỉ, bệnh sốt vàng da, còn cái bệnh ictère cũng là sốt vàng da, nhưng ác liệt hơn, nằm nấc vài ngày là tử thần đón đi rồi, tàu tốc hành mà, anh em tôi thường nói thế. Nhiều người chết lắm, càng ngồi buồn càng dễ chết. Nhưng tôi vẫn vô bệnh tật, vẫn khỏe như ngày còn ở nhà là do tôi làm việc rất dữ. Gánh nước, bổ củi, giặt quần áo cho bạn tù, lại vào tận các bản làng người dân tộc mua rượu cho ông Truyền, cho cụ Tắc. Cụ Tắc thì giàu lắm, giáo chủ một đạo có đến vài triệu tín đồ, có đến thế không nhỉ, tôi cho là ông ta nói phét, chắc cũng chỉ một, hai triệu là cùng, tôi mua rượu, nói ví dụ là mười đồng một lít, về bán lại cho cụ mười lăm đồng, ăn bớt năm đồng. Tiền của ông pape Cao Đài như nước, ăn bớt dăm ba đồng có thấm tháp gì. Lúc Pháp cho ra tù, anh em cảm ơn tôi, tôi cũng cảm ơn lại, không nhờ hầu hạ anh em thì tôi cũng chết từ lâu, sống một mình, sống cho mình, thì sống sao nổi.

Anh Chương vẫn hướng về tôi, tiếp tục câu chuyện về thiền:

- Một bữa nào đó cậu phải đến tôi một ngày. Tôi đang đọc một cuốn sách rất hay về thiền. Cậu là người viết nên mở rộng cái biết của mình ra nhiều lĩnh vực, thuộc nhiều xu hướng khác nhau để có được sự rộng lượng với những người mãi mãi không thể giống cậu.

Từ ngày được trở về sống tại thành phố Hồ Chí Minh, anh Chương ở hẳn nhà chị Hảo. (Vợ anh và ba con đã qua Mỹ từ giữa tháng Tư năm 75). Sống với một gia đình cán bộ cách mạng cũng tránh được lắm sự phiền phức từ nhiều phía. Phần nữa họ cũng hợp nhau, biết tôn trọng cái tự do và niềm tin riêng của nhau, biết im lặng và né tránh mọi sự tranh cãi. Chỉ duy có một khó chịu nhỏ là chị Hảo lắm nhời quá. Chị hay nói, lại nói rất to, ngồi ở đâu cũng nghe thấy tiếng nói của chị. Cả nhà đang nghe tivi buổi tối, bất chợt một đứa cháu nào đó bật ho một tiếng, lập tức chị phải tra xét tại chỗ là đứa nào đã ho, chắc hẳn bố mẹ lại lôi nó ra tắm nước lạnh phải không, tao đã dặn thời tiết trong này nóng lạnh thất thường, chớ thấy con bức mà lôi ra tắm nước lạnh, cảm chết có ngày, tiền đâu mua thuốc, bố mẹ chúng nó sau mà ngu thế, nuôi con vô tâm thế, xưa kia tao nuôi chúng mày trong rừng, cả năm không nhìn thấy một giọt nắng có đứa nào viêm họng đâu, sưng phổi đâu. Nói cả buổi, cho đến lúc tắt tivi vẫn còn nói.

Tôi nói với anh Chương:

- Bữa nào em lên anh, muốn xin anh một lá số.

- Cũng là một môn học nên biết. Cậu có nhớ ngày sinh, giờ sinh không?

- Ngày sinh thì nhớ nhưng giờ sinh thì chịu.

- Không sao, nhìn mặt, xem tính cách có thể phục được giờ.

Anh Quý nói thêm:

- Lập số thì ai cũng lập được, nhưng xem là chuyện khác, cao thấp khác nhau là ở chỗ đoán giải. Có thể gọi anh Chương là bậc sư về môn này.

Chị Hoàng lại có dịp chọc ghẹo ông em:

- Cậu xem số của mình có đoán biết được tháng nào, năm nào thì gặp lại vợ con không?

Anh Chương trả lời thản nhiên:

- Biết được cái xu hướng, cái có thể thôi, làm sao biết được thật rành mạch.

Chị Hoàng vẫn đay nghiến một cách khó chịu:

- Tháng Ba năm 75, anh nói cái xu hướng, cái có thể ấy khác với tháng Sáu. Năm 76 anh cũng lại giảng giải cho tôi nghe cái xu hướng của đời anh rất khác với sau mấy năm anh ở ngoài kia về. Việc đã đến rồi mới tìm ra cách đoán giải thì xem tử vi làm quái gì.

- Một trò chơi của riêng tôi, tôi có buộc ai phải tin đâu.

Anh Quý vẫn ngậm cái tẩu thuốc đã tắt nói trầm ngâm:

- Một môn học trải mấy ngàn năm vẫn còn quyến rũ ắt phải có cái gì cao sâu lắm, huyền nhiệm lắm. Bảo là trò bịp cả thì cũng độc đoán quá...

Chị Hoàng như đã có chủ định, chị hỏi đột ngột cả mấy người:

- Các ông đều đã biết lá số của tôi, vậy thì năm nay và sang năm đời tôi có gì biến đổi lớn không?

Anh Quý nhả tẩu cầm trong tay, kêu to:

- Năm nay coi như đã kết thúc rồi, có gì phải hỏi!

- Chưa kết thúc, vẫn còn bốn năm tiếng đồng hồ nữa.

- Theo cách tính của tử vi thì năm mới bắt đầu tháng Tý, tức tháng Mười Một ta.

Chị Hoàng vẫn bướng bỉnh:

- Tôi tính theo các cụ, cứ qua giao thừa mới gọi là sang một năm mới.

- Bà con mong ước gì trong vài giờ nữa?

- Trong vài giờ nữa rất có thể xảy đến cái điều tôi mong ước.

Tôi hỏi:

- Cái điều đó hình như chị đã cầm chắc trong tay thì phải?

- Cậu nói đúng, tôi đã cầm chắc trong hai bàn tay cái sự sẽ thay đổi, nhưng tôi chưa muốn nói vào lúc này. Gần đến giao thừa tôi sẽ nói.

Anh Chương:

- Sẽ không có gì xảy ra với chị trong vài giờ nữa đâu. Năm Mùi đối với chị đã là qua rồi. Hãy đợi đến năm Thân.

- Tôi không thích đợi đến năm Thân, năm Mùi đối với tôi vẫn còn vài giờ nữa.

- Chị chờ đợi gì vào lúc năm hết Tết đến?

- Tôi không chờ đợi, cái sự mong muốn ấy tôi đã bỏ sẵn trong túi tôi đây. Nhưng tôi chỉ công bố vào lúc sắp giao thừa.

- Nên công bố vào cái khoảnh khắc năm phút trước giao thừa, trước lúc đốt bánh pháo mừng năm mới.

- Cậu thất vọng rồi, tôi không mua pháo, đắt lắm, quá đắt. Trước lúc mở chai sâm-banh của chú Hảo thì đúng hơn.

- Ồ, thế thì sang nhất, có sâm-banh hả? Đã ba năm nay tôi không được uống sâm-banh vào lúc giao thừa.

- Cậu Chương, tôi hỏi thật, cậu có chờ đợi một cái gì từ phút này cho tới năm phút trước giao thừa?

- Hình như tôi vẫn hy vọng một điều gì thật tốt lành sẽ đến vừa vặn trước lúc giao thừa. Năm Mùi tôi đã sang một đại hạn mới, tốt lắm, tốt hơn nhiều so với mười năm vừa qua.

- Cậu đã được trở về Sài Gòn rồi còn gì?

- Giữa năm Mùi có chuyện dời chỗ ở. Còn bốn năm giờ nữa, đủ sức ra phi trường, lên máy bay, bay tới một vùng trời khác.

- Xưa kia là thế đấy. Còn bây giờ nghe cũng khó tin nhỉ?

- Cứ nên hy vọng đi. Có bao nhiêu chuyện vô lý không sao tưởng tượng nổi đã xảy ra trong năm năm nay!

- Ờ, ờ... cũng có thể, cũng có thể lắm. - Anh Chương cười hí hí rồi quay sang hỏi Bình. - Mày nghe chuyện của các bác có hiểu gì không, con?

Bình liếc nhìn tôi, cười nhẹ:

- Nghe thì vui chứ hiểu làm sao được.

Anh Chương lại hỏi:

- Con có tin ở tử vi không?

Bình vẫn cười:

- Nếu tử vi là một khoa học chính xác thì thế giới sẽ buồn lắm.

- Sao thế?

- Sự sống là bí mật. Cháu ham sống vì trước mắt mình luôn luôn là cái bí mật, là cái chưa được biết, cái không thể hiểu. Nếu như cháu biết chắc vợ cháu sẽ đẹp, lại rất ngoan, cháu sẽ buồn lắm, cái biết trước ấy sẽ giết chết mọi vẻ đẹp của tình yêu. Tất cả đều được biết trước thì mọi sự buồn vui thương nhớ đều vô nghĩa, sẽ không có hy vọng và thất vọng, không có mơ tưởng, không có phiêu lưu, không có đấu tranh, không có tôn giáo, không có cả thiền. Là một sự trống rỗng to tướng. Là cái chết, chứ còn gì nữa? Bác Chương nhìn má cháu kìa! Chưa bao giờ má thấy con "lý luận" như hôm nay nhỉ? Bác Chương thì đã chịu đựng với con nhiều lần rồi. Con không giống với chú Việt, chú Việt thích nhân nhượng để chiều lòng mọi người, còn con lại muốn mọi sự yêu ghét phải luôn luôn minh bạch.

Truyện ngắn

Nguyễn Khải

Gặp gỡ cuối năm

- 3 -

Mọi người đã ngồi vào bàn ăn, anh Hoàng mới mở cửa lững thững bước vào. Anh lần lượt bắt tay từng người, mỗi người đều thăm hỏi một câu thật âu yếm rồi mới vào buồng trong thay quần áo. Những ông già rất lịch thiệp, anh Đại thì lịch thiệp một cách phóng khoáng và bay bướm, anh Hoàng thì thận trọng, thật đúng phép tắc. Cùng đi với anh có Quân, con trai lớn của bà cô ruột tôi, hơn tôi đến dăm sáu tuổi nên tôi vẫn gọi là anh và Quân cũng xưng hô với tôi là anh, như bạn chứ không theo cái thứ bậc họ hàng. Anh sinh đẻ ở Hà Nội nhưng theo bố mẹ vào sống ở Sài Gòn từ năm còn nhỏ, cách sinh hoạt đặc dân Nam bộ nhưng giọng nói vẫn lơ lớ nửa Bắc nửa Nam. Lần đầu tôi gặp anh vào giữa tháng Năm năm 75, nhân ngày giỗ người con thứ của cô tôi bị giặc Pháp giết tại Đồng Tháp Mười hồi cuối năm 50. Nghe nói anh cũng viết báo, lại là nhân viên của nhiều hãng thông tấn nước ngoài, quen biết rất nhiều tướng tá và viên chức cao cấp của chế độ cũ, đã từng sang Mỹ học nghề làm báo những mấy năm. Người như thế là tôi muốn làm quen lắm, huống hồ còn là họ hàng. Viết về xã hội trong này được người hướng dẫn thông thạo và tin cẩn là một may mắn rất hiếm có. Nhưng ngay trong lần đầu gặp nhau tôi đã thất vọng hoàn toàn. Anh vừa lắm lời, vừa khoe khoang, lại thù địch với Việt cộng ra mặt. Anh kể đủ mọi chuyện vừa bịa vừa thực về những anh bộ đội giải phóng vào đóng quân tại một biệt thự rất sang nhưng lại đào hố mèo ngoài vườn; cho xả máy điều hòa nhưng lại mở tung các cửa vì sợ bị ngạt; gọi con ở bằng cô, gọi bà chủ là chị, nhìn người đàn bà nào cũng nghĩ là họ đã từng ngủ với Mỹ, mở sách của trẻ con rất lấy làm lạ chúng cũng học Bà Trưng, Bà Triệu, tưởng đâu chúng chỉ biết có tiểu sử ông Nixon. Vừa nói vừa cười, lại còn nhìn tôi với cái vẻ khiêu khích: "Anh không tin hả? Thì chính anh là nhà văn nhà báo mà cũng quê bỏ mẹ". Khi ra về, ông chú tôi chạy theo nói nhỏ: "Thằng Quân nó ăn nói thế nhưng nó tốt bụng lắm, cháu ở lâu sẽ hiểu". Tôi gắt lên: "Chú mời tôi đến nhà mà chú để nó chửi bộ đội tàn tệ đến thế, nghe được, hử?". Mấy lần sau gặp Quân ở nhà chị Hoàng tôi làm mặt giận, hỏi gì trả lời nấy, nhưng hắn cứ phớt lờ làm như không, lại còn muốn tiếp tục trêu chọc nữa. Một năm sau tôi có việc đến một cơ quan nghiên cứu của Đảng, vừa xuống xe đã nghe có tiếng gọi: "Ông Việt!". Tôi quay lại nhìn người gọi, trời đất ơi! Ai mà quen thế nhỉ? Quá quen, cái miệng bỡn cợt, con mắt soi mói, nhưng sao lại là hắn? Thì không là hắn còn ai nữa, nhưng tại sao, tại sao?... Người kia đã bước gần lại, vừa cười vừa hỏi: "Anh đến làm việc có lâu không?". Tôi nắm chặt lấy bàn tay Quân, đúng là Quân thật, đồng chí Quân, cuộc đời kỳ ảo như trong một cuốn tiểu thuyết tình báo, da mặt nóng bừng không biết nên nói sao cho phải. Quân vẫn cười cợt: "Bữa gặp anh đầu tiên mừng quá, muốn chọc anh chơi, biết là anh rất giận...". Tôi gạt đi: "Thôi, nói làm gì chuyện đó nữa". Anh hoạt động trong ngành quân báo từ năm 1946, tốt nghiệp trường sĩ quan ngụy ở Thủ Đức, làm việc ở cơ quan tham mưu ngụy cho đến ngày ký kết Hiệp định Genève. Năm 1955, anh giải ngũ, vẫn sống ở Sài Gòn với cái vỏ ngoài là nhân viên của hãng thông tấn AFP, viết bài bình luận về thời sự Việt Nam cho các tạp chí Life, Time của Mỹ và tờ Nouvel Observateur của Pháp. Với họ hàng, Quân là một nhà báo cỡ quốc tế, trong gia đình, anh là một trí thức yêu nước, ít nhiều có cảm tình với cách mạng, chỉ riêng một vài đồng chí lãnh đạo của kháng chiến mới biết được công việc chính của anh ta. Ba mươi lăm năm làm tình báo ở những cơ quan cấp cao nhất của địch, tham dự vào nhiều âm mưu, bồ bịch với đủ mọi loại người, đủ mọi quốc tịch, chơi chó, chơi chim, chơi cây kiểng, ăn nói như người vô tâm, làm việc như tài tử, trọng nghĩa khí, tôn thờ tình bạn và chủ nghĩa cá nhân. Sống giữa mọi người, anh là một tính cách rất rõ ràng, có một triết lý sống không mập mờ, không lẩn giấu. Còn ai dám ngờ vực một người có một cách sống rõ ràng? Khi đã biết nhau, có lần cùng ngồi trên xe hơi do anh lái, anh bảo: "Cho đến nay tôi vẫn giữ được sự phản ứng nhạy bén cả phía trước và phía sau xe, đến các ngã tư nhìn thấy chú cảnh sát giao thông tim mình vẫn đập nhanh hơn một chút". Nghe radio ở nhà cũng vậy, sau khi mở máy anh có thói quen vặn thật nhỏ và đưa mắt nhìn thoáng qua xung quanh. Một người làm tình báo dẫu là từng trải nhất cũng không thể giống hoàn toàn như người bình thường, nếu bị nghi nhất định đối phương sẽ tìm ra những chi tiết vô lý. Điều cốt tử là chớ để kẻ thù ngờ vực, tình nghi. Tôi hỏi: "Lúc nào người hoạt động tình báo dễ bị sơ suất nhất?". Anh nói: "Lúc nói chuyện, nhất là phải nói chuyện với bọn tình báo Mỹ. Cách lập luận của người cộng sản thường thiên về biện chứng pháp, thích tìm những tỷ dụ trong lịch sử, nếu lại không có bằng cấp về lịch sử thì hãy coi chừng, anh đã bị chúng chú ý. Tôi có quen tay đại sứ Mỹ ở Bangkok, William Kinmer, y cũng rất ham lý luận biện chứng, nhưng là theo cách riêng của y. Một lần thằng Adam phụ tá chính trị của đại sứ Bunker, nó còn trẻ lắm, nói tiếng Việt như người Việt, hỏi tôi: "Tại sao mày thích viết bài cho báo Mỹ?". Tôi trả lời thản nhiên: "Vì Mỹ buộc phải quan tâm tới Việt Nam nhiều hơn, hơn nữa họ trả tiền mỗi bài khá lắm!" - "Tại sao mày chống Cộng". Tôi quát lên: "Ai nói với mày tao chống Cộng! Tao chống Cộng hồi nào? Mày nói bậy, có ngày Việt Cộng nó đốp tao, tao chết mẹ!". Châm ngôn của tôi khi phải đối mặt với những thằng sừng sỏ là keep your emotion out - bỏ mọi sự xúc động ra ngoài!".

Quân nắm tay chị Hoàng bóp nhẹ một cái, bà chị giãy nảy, quát the thé: "Thằng khốn nạn, tay mày như sắt...". Anh nháy mắt với tôi rồi kéo ghế ngồi cạnh anh Quý. Hai người nói rất nhỏ với nhau một chuyện riêng, rồi nghe Quân nói to: "Nhất định là thế, tôi biết hắn mà!". Anh Quý vẫn ngậm tẩu nói tư lự: "Cảm ơn cậu, tôi sẽ có cách nói chuyện với hắn". Bình ngồi cạnh tôi, da thịt quần áo thơm nức, nom thằng bé ngon lành quá, đã có mấy cô chạy theo, không hiểu ý tứ hắn thế nào. Bình cười với tôi: "Khi nãy cháu nói hơi sỗ, chú đừng giận cháu nhá". Tôi cũng cười: "Ai lại giận nhân vật chính của mình bao giờ". Nó giương cặp mắt đen láy cực kỳ thông minh, hỏi tôi: "Định đưa cháu lên đài bất tử đấy à? Là người tốt hay kẻ xấu?". Tôi trả lời: "Cho đến nay các nhân vật chính của nền văn học ta đều là những người tốt cả" - "Theo cháu, nhân vật chính phải đặt được nhiều câu hỏi cho bạn đọc. Hắn là ai? Như thế là tốt hay xấu? Cháu là con người như thế, phải luôn luôn tự khẳng định chứ không thể chỉ khẳng định một lần".

Bình đưa mắt nhìn những người có mặt trên bàn ăn nói thì thào:

- Chú Việt, chú có e ngại một điều gì sẽ xảy ra trong bữa ăn tối nay không?

- Mình thấy cũng giống như mọi lần.

- Hình như họ đang chờ đợi, đang tính toán?

- Thì ai mà chẳng mong đợi một năm mới tốt lành hơn.

- Điều họ chờ đợi gần hơn chú ạ, họ có biết rõ cái họ đang chờ.

- Chuyện tầm phào khi nãy, hả? Nó thế thôi chứ đầu óc rỗng tuếch.

- Chưa hẳn thế đâu, có một cái gì đó buộc họ phải tính toán thật.

Chị Hoàng gõ thìa vào cạnh bát, quát to:

- Xin mời các vị không nói chuyện riêng, nghe tôi nói một tí đã.

Anh Đại mở khăn ăn gài vào cổ áo:

- Một bữa ăn có đọc diễn văn là đại tiệc rồi!

Chị Hoàng lườm nhẹ:

- Ăn rất xoàng, rượu chỉ có một chai, tiệc tùng quái gì.

Anh Hoàng ngồi cạnh Quân hỏi nhỏ:

- Rượu của cậu à?

Chị Hoàng nhướng mắt, hỏi Quân:

- Mày có mang rượu đến không?

- Một chai Martell, được không chị?

- ở đời có số thật, có bao giờ nhà này lại chỉ có một chai rượu đón giao thừa. Tôi tuyên bố vắn tắt: vì bữa ăn rất xoàng nên mỗi chúng ta phải góp vào một câu chuyện thật hay. Cấm nói chuyện riêng.

Anh Đại cười hềnh hệch:

- Mình có cái tật: bụng đã rỗng thì tai điếc đặc, ventre creux n'a point d'oreilles.

Anh Quý bênh vực sáng kiến của bà chủ nhà:

- Chị Hoàng nói có lý. Những câu chuyện thông minh nhất đều do những người bụng rỗng viết ra cả.

Anh Đại vuốt ve tấm khăn ăn trước ngực, nhìn chăm chăm vào cái đĩa không:

- Trước hết, cái bao tử phải cho chặt, rồi cái thông minh sẽ đến sau.

Anh Quý:

- Bao tử quá chặt thì chỉ nghĩ đến sự tiêu hóa thôi. Ông Truyền hồi ở Pháp thông minh hơn hồi ở Việt Nam, lúc trẻ thông minh hơn lúc già.

Nguyễn Thế Truyền là anh em con chú con bác với anh Đại, cùng ngồi tù với nhau tại Mã Đảo, là anh em nhưng không hợp nhau về chính kiến.

Chị Hoàng:

- Dân bạch đinh dám tát cụ lớn tại bến đò Tân Đệ là phải có gan lắm.

Anh Hoàng hỏi:

- Lúc ông Truyền tát ông Vi là ở đất Thái Bình hay đã sang đất Nam Định?

Anh Đại:

- Đất Nam Định, chứ đâu dám hành hung ở đất Thái Bình. Năm ấy Vi Văn Định là tổng đốc Thái Bình.

Chị Hoàng:

- Tôi lấy làm lạ tại sao Vi Văn Định lại chịu, cả thằng công sứ Thái Bình cũng chịu. Một ông bị cái tát, một ông bỗng nhiên hóa ra phò mã nước Bỉ.

Anh Đại nói lẩm bẩm:

- Vanité (5), chỉ là vanité mà thôi...

Anh Quý:

- Ông ấy đánh quan lớn Nam triều, nhưng lại bồ bịch với thằng thống sứ Bắc kỳ Tholance. Đánh tớ nhưng quen chủ thì có chuyện gì.

Anh Đại:

- Ông Truyền là người có tài lắm. Ông ấy viết văn Pháp còn giỏi hơn cả người Pháp, c'est le premier Vietnamien qui connait a fond cette langue (6), môn sinh của Anatole France mà...

Anh Quý chữa:

- Ngày ấy chưa có Vietnamien, chỉ có annamite thôi!

Anh Đại phì cười:

- Ờ, ờ... thì le premier annamite, thôi, vứt mẹ nó đi, đã là annamite thì có premier cũng chả là cái quái gì.

Chị Hoàng:

- Cái năm ông Truyền ra ứng cử cùng một liên danh với lão lang băm Hồ Nhật Tân, mình ghét quá. Lão kia là đứa vô danh, mình là người có danh lại nhà tới xin làm ét cho nó.

Anh Quý:

- Nghe người ta bảo ông Truyền có tính khiêm nhường. Năm đánh lão Vi vì đi đất mặc áo đụp nâu, như anh nông dân. Năm nọ ra ứng cử phó tổng thống là bị ép chứ thực tình chỉ muốn là người dân thường...

Anh Đại đập bàn, quát to:

- Là lập dị, là vanité, một đời làm chính trị của ông ta chỉ là cái vanité to tướng!

Anh Quý:

- Nhưng cái chết thì khá hơn, khá hơn cả cuộc đời. Ngày Bốn tháng Chín, radio báo tin Cụ Hồ mất tại Hà Nội. Tối hôm ấy, ông Truyền mời thân bằng cố hữu tới nhà ăn cơm tối với ông. Bữa đó tôi cũng được mời, cùng đi với ông bà Đại. Ăn chay, ông Truyền nhợt nhạt báo tin Cụ Hồ, một vĩ nhân còn lại của thế kỷ, người đã khai sáng một nước Việt Nam hiện đại vừa từ trần. Rồi ông nói luôn, Cụ Hồ đã mất nên ông không muốn sống thêm nữa, trên đời này chỉ có Cụ là hiểu được ông, hiểu được cả những lỗi lầm của ông, nay vị Thánh đã không còn thì ông cũng chả nên nuối tiếc cái thế giới này làm gì. Từ phút này ông đã là người chết rồi, xin có lời vĩnh biệt tất cả. Nghĩ rằng nói thế thôi, chẳng dè từ hôm sau ông tuyệt thực, nằm quay mặt vào tường, không nói hỏi với một ai nữa. Nằm được đúng mười ba ngày thì chết. Cũng là một cái chết đáng xúc động.

Quân nói khinh khỉnh:

- Dầu là một cái chết đáng xúc động cũng không thể cứu vớt một nhà cách mạng đã thất tiết. Trước sau ông ta vẫn là kẻ phản bội.

Anh Đại giơ cao hai tay:

- Nói như thế là đúng! Có tàn nhẫn một chút nhưng kết luận như thế là rất đúng. Không còn hào khí để làm cách mạng nữa thì cố giữ lấy cái tiết tháo. Chí ít cũng là một thái độ tự trọng.

Quân vẫn chưa chịu buông tha:

- Tôi cũng không tín nhiệm lắm mấy anh tri thức trùm chăn. Hèn cả, vẫn là những anh hèn. Quốc gia hữu sự, kẻ thất phu còn phải gánh trách nhiệm huống hồ là anh trí thức.

Anh Quý cười gượng gạo:

- Làm người ở cái thời buổi loạn lạc kể cũng khó nhỉ!

Quân trả lời điềm nhiên:

- Hẳn là khó rồi! Làm người đã khó, làm người trí thức lại còn khó hơn. Hằng ngày phải lựa chọn, từng việc phải lựa chọn, lầm lỡ một chút là tiếng xấu để đời.

Cả anh Chương lẫn anh Quý đều mất hẳn tự nhiên khi nghe những lời bình xét có phần gay gắt của Quân. Không hẳn là nghĩ tới chuyện đã qua, mà như có đắn đo một việc nào đó sắp tới. Quân rất hiểu họ, họ cũng biết thế, anh còn hiểu rõ cái mảnh đất họ được ươm trồng. Nhưng anh đang bàn bạc với họ chuyện gì thế? Họ đang cần ở anh sự giúp đỡ nào? Tôi không thể biết vì không bao giờ Quân nói với tôi công việc hiện nay của anh. à, chơi khơi khơi vậy thôi, lúc rảnh ngồi viết tổng kết những năm đánh Mỹ, cũng có họp hành nhưng không nhiều, đi chơi hả? ờ, thì đi, đi lúc nào chẳng được. Nói vậy thì biết vậy chứ cái tạng của anh đâu có ngồi chơi lâu được, có khi còn bận hơn cả những năm kháng chiến. Tôi đến nhà anh nhiều lần, nhưng chỉ gặp có vợ con, còn anh thì, theo anh nói, lúc ra chợ chó kiếm con Phốc nào hay hay thì mua, anh vốn rất ưa giống chó Phốc, lúc tìm một cuốn sách hiếm, lúc ra quán cà phê ngồi nhâm nhi một ly cho thoáng đầu. Vẫn còn được chơi chứ chưa phải ngày ngày đến sở, cái việc của anh, theo anh nói, giống như một nghệ sĩ, lúc tập trung xây dựng tác phẩm thì không có cả giờ ngủ giờ ăn, khi đã hoàn tất lại chơi bời dài dài. Lạy trời, đối với tôi anh vẫn giữ cái vỏ ngoài, sinh ư nghệ tử ư nghệ thuật. Nhưng tối nay tôi sẽ biết rõ hơn về tất cả. Đã có một bên đứng sát tới những quyết định hệ trọng, lập tức phía bên kia phải có sự cứu trợ kịp thời, hoặc đẩy tới hoặc chặn lại, tùy theo cái xu hướng tốt hay xấu của người trong cuộc. Sẽ là một màn kịch hứng thú đây, tôi nghĩ thầm, nhưng chưa một ai biết trước được cách kết thúc. Tạo hóa bao giờ cũng giàu óc tưởng tượng hơn nghệ sĩ, táo tợn hơn và cũng tàn nhẫn hơn. Cách kết thúc của đời sống luôn luôn là hợp lý, nhưng thông thường là ảm đạm, nghệ sĩ vốn nhân hậu và lạc quan hơn tạo hóa.

*

Bữa ăn của đêm trừ tịch không xoàng như lời rêu rao của chị Hoàng. Bàn ăn cũ cùng với bộ ghế mười hai người đã bán rồi, thay vào là cái bàn tròn rất rộng, khăn trải bàn, bát đĩa, ly tách vẫn choáng lộn như xưa, còn các món ăn dọn lên là thịnh soạn đối với thời buổi khó khăn này. Cá rút xương luộc vừa mềm, thái miếng to bày trên đĩa (mỗi khách ăn là một đĩa), rau cải xanh chẻ nhỏ nhúng tái, xếp xung quanh làm hàng, nấm Tống Cú dày thơm nhồi giò sống hầm nhừ phủ lên trên, là một món. ốc nhồi thịt băm nấm hương, lót lá gừng, hai món. Trứng muối lâu ngày ruột vỏ xanh đen trong suốt như khối ngọc. Cá nục con nhỏ kho với dầu làm giả cá sardine à l'huile. Lạp xưởng để cả chiếc. Và canh nấm, những bát canh nấm thật trong thật nhẹ. Thực đơn tạp-pí-lù. Tôi chưa được ăn một bữa cơm ngày Tết nào nấu nướng như thế cả. Không có bánh chưng, không có dưa hành và giò chả, không có những món nấu cố hữu của mọi bữa ăn được gọi là trang trọng. Nhưng nói cho thật, các món đều ngon, nấu như thế là rất khéo và tuyệt ngon. Về sau tôi được biết từng món dọn lên đều hợp với khẩu vị mỗi người, tất nhiên nhà bếp đã bỏ riêng ra hai thực khách ăn tạp là tôi và thằng Bình. Anh Đại và anh Quý rất thích cá sardine à l'huile Anh Hảo, anh Hoàng mê canh nấm. Quân thích nhắm rượu với trứng muối và ăn cơm với lạp xưởng cắn ngập chân răng. Anh Chương mấy năm đi học tập chỉ thèm có món nấm Tống Cú nhồi giò. Còn bà chủ nhà thích uống rượu vang với ốc bươu luộc. Hồi trước, có lần bà chủ nhà kỳ dị này mời khách thật sang, xe hơi đậu kín một đoạn đường để thưởng thức chỉ có một món: canh cua nấu bún sợi to với cải xanh, canh thật nóng, ớt thật cay, bưng bát mà ăn, cấm dùng thìa, vừa ăn vừa thổi, nước mắt nước mũi chảy giàn giụa. Cũng là những người biết sống, tôi nghĩ thế, vụ cái thực chứ không vụ cái danh, khỏi mất thì giờ mà sảng khoái. Nhưng là trong cách ăn, cách sống thôi, còn cách làm chính trị của cái nhà này thì dở hơn nhiều, lại chỉ vụ cái danh chứ không vụ cái thực, đã mất quá nhiều thì giờ lại còn mang thêm cái hận, cái oán.

Anh Chương ngồi trước đĩa nấm nhồi, nhăn mặt:

- Không xài được, răng lợi tôi thì xài làm sao được món này!

Chị Hoàng nguýt dài:

- Không nhai được, nuốt được thì dùng mũi mà ngửi. Vẽ chuyện!

Anh Chương cười ngượng nghịu:

- Chị Bơ ơi! Chị ơi!

Chị Bơ từ dưới bếp chạy lên, cười hiền hậu:

- Các ông các bà còn thiếu cái gì nữa?

Tất cả là vừa rồi.

Anh Chương cằn nhằn:

- Không có món nào em ăn được cả. Có còn răng đâu mà nhai được các thứ này!

- Ờ, ờ, không có món nào thật mềm nhỉ. Ông ăn tạm thịt kho nhừ nhá?

Chị Bơ tên thật là chị Hỉ, cũng như tên gọi thường của chị Hoàng là bà Bò, các cháu nội của bà Bò đứa là Chuột, đứa là Đen, lại có cả một con Thẽm nữa. Nói thật tục, tên đặt thật thô, bông đùa rất sỗ sàng là thói tục của cả một dòng họ. Các đời trước lễ nghi, quan dạng nhiều quá, đời sau không phá phách một chút không thể sống nổi. Ông nội chị Bơ và ông nội chị Hoàng là anh em ruột, một dòng làm quan, một dòng làm dân thường, là bà con nghèo sống dựa vào những bà con phú quý. Mỗi lần các cháu phải đổi phủ đổi huyện lại đánh dây thép về quê mời ông bác họ lên chơi, nhờ ông thu dọn đồ đạc, đóng buộc hòm thùng, thuê xe hoặc thuê tàu chuyển tới nơi trị nhậm mới. Còn vợ chồng con cái họ thì ra Hà Nội chơi bời thỏa thích, khi trở lại nhiệm sở tất cả đã đâu vào đó, đến một cái chổi cũng không thiếu. Để đền bù công lao của ông bác - đầy tớ, các cháu mời ông ở lại phủ huyện chơi một hai tháng, ngày ba bữa cơm rượu, sáng tối hai bận cơm đen và có cái quyền nói hách với đám thừa phái, lục sự: "Thằng phủ nó nhà tôi...". Mà cũng hãnh diện đáo để, lo lắng sốt sắng đáo để. Người con gái duy nhất của ông là chị Hỉ, lên ở với chú họ là án sát Nam Định từ năm mười lăm tuổi, thoạt đầu là hầu trà thuốc, sau là phụ việc nấu nướng, dần dần thành bà quản gia. Cô chú chết chị ở với các em thành đầu bếp chính, một đời người chỉ lo có cái miếng ăn của các em ông, em bà, thích theo cái thích của họ, ghét theo cái ghét của họ, nghĩa là chị cũng sùng bái đạo Phật và rất ghét chủ nghĩa cộng sản. Có lần chị Đại và chị Bơ cãi nhau ầm ĩ cả nhà, chị Đại quát ầm ầm: "Chị rõ thật thối, con Hoàng nó ghét cộng sản còn có lý, còn chị một đời bưng rổ cọ niêu cho nhà nó mà cũng tập tọng chống cộng". Từ đó hai người không nói chuyện với nhau, tránh cả giáp mặt nhau. Chị Hoàng đi đâu cũng rêu rao: "Con mụ Ba-trăm-lẻ-tư ấy quá quắt lắm, đến bà Bơ hiền lành là thế mà cũng phải giận!". Năm nay chị Bơ đã 67, chị tuổi Sửu, kém anh Đại một giáp, còn vài năm nữa đã là 70, không chồng con, một đời hầu hạ các em mà vẫn vui vẻ, vẫn hãnh diện vì được hi sinh cho những người thân thuộc.

Chị Hảo chạy đâu từ lúc vùng vằng với ông chồng, bây giờ đã tha thướt trở lại ngồi cạnh bà chị. Chị làm ra vẻ thế thôi, chứ xưa nay chưa biết giận ai, cũng là một nét dễ mến và dễ gần. Nhưng chị không chịu nổi những câu chuyện siêu hình, phô bày cái uyên bác, cái thông minh, tôi là người nội trợ, chị vẫn nói thế, có những ham muốn tầm thường, cái vui cái giận của tôi cũng tầm thường. Có bữa gạo Long Đỉnh mới bảy đồng một ký, chị đã te tái chạy ra chợ khuân về hai tạ, gặp ai cũng thì thào: "Có tiền thì mua gạo trữ đi, đến lúc một củ khoai một chỉ vàng lại trắng mắt". Giá tiền một cái quạt bàn của hãng National khác với hãng Sanyo, một tấm drap vải tuy cũ nhưng dày khác với một tấm thêu lòe loẹt nhưng mỏng dính, mua quần áo trẻ con thì xuống chợ An Đông, quần áo của người lớn thì ở khu Dân Sinh hoặc chợ Tân Định. Rồi quà biết cô giáo và ông chủ tịch phường, tiền phúng và tiền mừng những nơi quen biết, khách mời ăn ngày thường và khách mời ăn ngày chủ nhật, chạy vù vù từ trên gác xuống dưới nhà, từ trong nhà ra ngoài đường, sáng sớm ở đầu tỉnh, bữa ăn trưa đã ở cuối tỉnh, thẻ thót, mời chào, tính toán, đắn đo, có lúc hí hửng như chỉ trong ngày mai chị sẽ cầm trong tay bạc vạn, có lúc lại hốt hoảng như gia sản, cơ nghiệp sắp mất sạch đến nơi, không khéo thì còn chết đói. Cái số vất vả, hấp tấp thế nào. Mà là người sang hẳn hoi, xưa kia là con gái cưng của Nhà nước, các con đứa tiến sĩ, đứa kỹ sư, có ai hèn đâu mà vất vả đến thế. Đúng là cái số, là do cái giờ sinh không được nhàn.

Chị Hảo múa đũa lướt qua các bát, nếm náp một chút, bình phẩm:

- Bà Bơ nấu ngon thì có ngon nhưng món nào cũng nhạt, ăn sợ sợ là.

Cô em uốn éo nhưng bà chị lại sỗ sàng:

- Tôi bị bệnh đái đường nên phải kiêng muối cô ạ, ăn được thì ăn, không ăn được thì chống đũa nhìn bọn mình ăn.

Anh Đại ăn uống rất ngon lành, vầng trán bóng đỏ đã lấm tấm mồ hôi. Ông em hai hàm răng giả mới làm cau có, vật vã với miếng nấm nhồi giò, ăn thì khó, bỏ đi không đành, than thở:

- Ngồi cạnh người ăn ngon mình lại không ăn được, tức không chịu nổi. - Rồi anh gắt lên - Cái ông này răng lợi còn vạm vỡ thế thì bao giờ mới chịu chết.

Anh Đại cầm đầu khăn chùi miệng, nói chúm chím kiêu hãnh:

- À, à, chết thế nào, mình định sống chẵn trăm, còn những hai chục năm nữa kia.

Rồi anh hỏi mọi người:

- Các ông các bà có tin cái răng nó có tai không:

Chị Hoàng bỏ vội thìa canh húp dở, nhăn mặt cười ngắc lên:

- Nỡm ạ, chết sặc bây giờ!

Anh Đại vẫn nói từ tốn:

- Cái năm tôi vừa tròn bảy chục, một sáng nọ lấy tay sờ đủ hai hàm răng, đếm được băm hai chiếc, mới than: Người già mà răng không chịu rụng là hại con hại cháu lắm đây, ăn hết lộc của chúng nó mà. Nghĩ là nói đùa, không ngờ hôm sau rụng luôn một chiếc, tuần sau rụng luôn chiếc nữa. Năm bảy mốt rụng tiếp thêm hai chiếc, thế là mất bốn cái răng cả thảy. Lại sợ quá còn sống mà mất răng thì sống cũng vô ích. Sống cốt có miếng ăn, lại không ăn được thì chết quách cho rảnh. Cũng lại than thế. Từ đó không rụng thêm một chiếc nào nữa, cho đến nay vẫn còn hăm tám cái răng bám chắc vào chân lợi. Tức là cái răng nó có tai thật.

Uống thêm một hớp rượu, rồi như chợt nghĩ ra một điều thú vị nào đó, anh Đại giơ một ngón tay lên:

- Xin các vị chú ý: nói dại chẳng may một vị nào đó trong chúng ta chết đi...

Chị Hảo giãy nảy:

- Phỉ phui! Năm hết Tết đến anh ăn nói đến là nhảm.

Chị Hoàng chống đũa, bảo cô em:

- Cô không muốn chết thì chết sao được, còn ai muốn chết nên mặc xác họ.

Anh Đại nói tiếp:

- Nếu chẳng may một ai trong chúng ta chết đi thì nên dặn con cháu chớ có mua hòm đẹp. Hò tốt lại chạm trổ, lại sơn thếp có đến ba ngàn không?

Vì là nói tới giá cả nên chị Hảo buộc phải trả lời:

- Ba ngàn hoặc ba ngàn rưỡi, thôi, không nói cái chuyện ấy, nghe ghê quá!

- Nằm trong cái hòm ấy thì khoái, nhưng đêm đến thằng gác nghĩa trang thông lưng với thằng kẻ trộm sẽ đào mả ta lên lấy hòm đem bán, còn thân mình thì... thì...

Chị Hoàng:

- Đã chết là không cần gì hết. Xác bỏ hòm, xác bó chiếu hay xác vùi nông cũng chẳng quan hệ gì. Cần nhất là phải thật sướng lúc sống.

Anh Đại kết luận:

- Theo tôi, nên mua loại hòm xoàng xoàng, khoảng bảy tám trăm bạc là được. Tiền còn dư cho con cháu nó làm vài lần gà luộc với nấm nhồi.

Chị Hảo lại tính toán:

- Hòm bảy tám trăm thì ván hở mộng vênh để lâu trong nhà thế nào được?

Chị Hoàng hỏi kháy cô em:

- Sao bảo không thích nói chuyện chết chóc năm mới?

- ừ, nói thế thôi, chứ rồi các chuyện cưới xin ma chay nội cái họ này không thoát được bàn tay tôi đâu. Thời buổi khó khăn, không tháo vát, không đi đây đi đó, ru rú xó nhà, có mất cả đống tiền cũng chỉ mua được của giả.

Quân từ nãy uống rượu nhắm với trứng muối đen, món nhậu anh thích nhất, tất nhiên hơi đắt tiền, trong Chợ Lớn họ muối, gọi là trứng Bắc Thảo, chợt anh quay người lại hỏi chị Hoàng:

- Có một ông bạn tâm đắc nhất với chị sao chị không mời ăn bữa cơm tối nay?

Chị Hoàng cười, nói lảng:

- Thì mày chẳng đang ngồi đây là gì?

- Cám ơn chị, nhưng em muốn hỏi cái ông người Hoa kia?

- À, chú Phùng, nhưng tối nay tao chỉ mời những người ruột thịt thôi.

- Người ruột thịt đã ai dám bỏ ra mười mấy lạng vàng cho thằng Tú đi chui? Không mời nhau những ngày này là thiếu ân nghĩa lắm đấy nhá!

Chỉ là một câu nói phất phơ mà cả mấy người đều ngượng nghịu. Anh Chương nói buông:

- Người Tàu họ quý tình bạn lắm, họ không có lợi dụng sự quen biết như người Việt mình.

Chị Hoàng:

- Họ giúp là họ giúp chứ nhà này thì còn có gì để họ lợi dụng?

Quân châm hút một điếu thuốc lá thơm, nhả khói, nói lấp lửng:

- Cũng vẫn có đấy!

Chị Hoàng hỏi châm chọc:

- Họ muốn kết bạn với những người chống chế độ này à?

- Không nông cạn đến thế, ý tứ chú Phùng sâu xa hơn.

Chị Hoàng vẫn nói rất thản nhiên:

- Mấy thằng nhà báo chỉ lắm chuyện. Cái nghề kiếm ăn bằng cách bày chuyện.

Quân nhấc ly rượu cầm tay vẫn hỏi bà chị về cái ông Phùng nào đó.

- Ai giới thiệu chú Phùng với gia đình này?

Chị Hoàng cau mặt, ngờ vực:

- Thì mày chứ còn ai?

- Tôi rất ân hận đã dắt ông ta đến làm quen với gia đình.

Chị Hoàng gắt to:

- Nỡm nữa chú, say hả? Có ai trách mày về cái việc đưa chú ấy đến đây đâu. Đang thiếu chân xoa lại vớ được một tay cao cường, rồi lại nhờ vả việc này việc khác, toàn việc tốn tiền cả, người ta vẫn đưa tay ra giúp, có nhắc đến ơn nghĩa lại còn gạt đi kia. Họ quân tử lắm.

Một câu chuyện mà chủ nhà muốn gạt đi, muốn né tánh, còn khách mời cứ bám theo dai dẳng, bất chấp sự khó chịu của xung quanh. Vậy cái anh chàng nhà báo này thật sự có ý định gì?

Anh Quý chăm chú nhồi thuốc vào tẩu nói nhỏ với Quân:

- Thôi, cái chuyện chú Phùng chẳng có can dự gì với ai ở đây, bỏ đi, nói chuyện khác.

Quân mỗi lúc một đáng ghét như người cố tình nhiễu sự:

- Có chứ, có liên quan đến nhiều người.

Anh Chương đã buông đũa ngồi nhấp rượu suông, anh chỉ thèm có món nấm nhồi giò nhưng lại rắn quá, mút mát một chút rồi đành bỏ:

- Thằng cha ấy làm chính trị, hả Quân? Có cái nhà này thích làm chính trị, chứ có phải ai cũng thích đâu. Một thằng lái buôn muốn làm ra vẻ học thức, thích ngồi đấu hót với những người có học, hắn thiếu cái đó mà, thế thôi, chỉ thế thôi.

Quân xoay xoay ly rượu đã gần cạn, hỏi ỡm ờ:

- Thế cái thằng Jerry Rose nó thiếu cái gì mà xin được cầu thân với anh chị? Con một ông tỷ phú, học vấn tốt nghiệp Sorbonne, chức vụ cố vấn Bộ Cải cách điền địa, lại rất trẻ và đẹp trai nữa. Theo anh thì thằng Rose thiếu cái gì?

Thỉnh thoảng trong câu chuyện chị Hoàng vẫn thường nhắc đến Jerry Rose. Bác gái tôi hồi còn sống cũng rất yêu hắn, coi như con nuôi. Ngày bác tôi mất hắn đi theo linh cữu, chít khăn trắng như người ruột thịt. Bữa hắn bị chết vì tai nạn máy bay cùng với Nguyễn Văn ứng là Bộ trưởng Bộ Cải cách điền địa tại Quảng Ngãi, cả nhà đều khóc, rồi đưa lên chùa cầu siêu. Ngày mới sang Việt Nam, Rose làm việc tại tòa lãnh sự Mỹ ở Huế, rồi cướp vợ của đồng liêu là Barnes. Barnes rút súng bắn tình địch, nhưng Rose thoát chết, chạy về Sài Gòn làm báo. Trước làm cho tờ Time sau làm cho tờ Washington Post. Quân và Rose quen nhau từ ngày ấy. Ai đã một lần nói chuyện với Rose đều nhận thấy hắn dễ thương một cách lạ lùng, e thẹn và rất ít nói. "Một người Mỹ không đáng ghét", đến với mọi người như một chàng trai tốt bụng, con nhà giàu và hết sức ngốc nghếch. Thực ra, cái anh chàng người Mỹ dễ thương nhất ấy lại là một nhân viên cựu trào của CIA, là người lên danh sách các nhân vật được cái quyền chửi Mỹ và lên án chính phủ bản xứ theo đúng giáo trình của trường "Đại học Nhà Trắng". Về sau này anh Chương và cả chị Hoàng đều biết việc đó do sự thổ lộ cố ý của Bill Kohlman, thằng què, như cách gọi của chị Đại. Sáng hăm chín tháng tư, Kohlman lại nhà riêng mời anh Chương đi cùng chuyến bay rời khỏi Việt Nam với hắn, nhưng anh Chương lại mắc họp với ông Minh lớn tại dinh Độc Lập bàn việc thành lập nội các hòa bình nên để lỡ mất.

Anh Chương trả lời câu hỏi hóc hiểm của Quân hết sức tự nhiên, anh là một chính khách thuộc phái mới, chơi bài ngỏ, không cần giấu giếm những lỗi lầm của mình.

- Thằng Rose là CIA còn có lý. Nó sang Việt Nam không để làm tiền, không để tạo thế, ắt hẳn phải có công vụ bí mật rồi. Còn chú Phùng cả Chợ Lớn biết gia đình chú mấy chục năm nay, không theo Tưởng, cũng không theo Mao, chỉ là tín đồ của Thần Tài, theo cái chủ nghĩa bao tử là đúng nhất? Chẳng lẽ chú Phùng là nhân viên của Xịa, Xịa mạnh đến thế mà thằng Mỹ cuốn cờ chuồn khỏi Việt Nam?

Quân với tay cầm ly rượu còn đầy của tôi rót sang cái ly cạn của anh, rồi hỏi mọi người:

- Các vị có muốn nghe một câu chuyện vui vui nhưng hơi dài dòng, chuyện kinh tế thôi chứ không phải chuyện chính trị, chuyện làm ăn ấy mà!

Chị Hoàng vẫn chưa hết nghi ngờ cái thằng em quỷ quái, nhưng chị vẫn trả lời:

- Chuyện vui thì được, thì lúc đầu tao đã nói mỗi người phải góp vào bữa ăn một chuyện vui.

Quân nhấp một ngụm rượu, nhìn buồn bã đĩa trứng muối trước mặt đã sạch nhẵn, nói khề khà với tôi, và tôi cũng hiểu được ngay anh muốn lấy tôi làm điểm tựa để tấn công vào một mục tiêu đã nhằm trước.

- Mấy ông nhà báo Hà Nội khi công kích nhóm cầm quyền nước này hay nước kia đã về hùa với Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam thường quá nhấn mạnh cái quan điểm chính trị của họ mà ít nhắc tới cái mối lợi của họ khi được thằng Mỹ chia phần. Cái chuyện kinh tế ấy mà, nhưng lại quan trọng lắm, rất quan trọng. Nhờ có chiến lược mở rộng ở Việt Nam mà Thái Lan xây cất được một hệ thống khách sạn cực kỳ tráng lệ cho vợ con Mỹ ở, mở rộng được sân bay cho máy bay Mỹ đậu nhờ, bán được gạo thừa vì Mỹ đang cần gạo đưa qua Việt Nam. Maroc cũng thích lính Mỹ mãi mãi có mặt ở Việt Nam vì quân nhu Mỹ sẽ đặt mua dài dài cá hộp Sumaco. úc thì bán được thịt gà cà-ri hộp, Nhật thì bán bao nylon đựng xác chết. Khi Mỹ rút quân, thằng Hồng Kông kêu thét vì mất toi một trăm triệu đôn mỗi năm do lính Mỹ qua nghỉ phép tung tiền vào các phòng trà và các tiệm may quần áo. Chẳng có dây trói nào bền hơn cái buộc của đồng tiền. Không có đồng tiền lăn qua lăn lại ai mà yêu nổi được ai?

Chị Hoàng ngắt lời:

- Nhà này quý thằng Rose không phải vì tiền. Bọn Mỹ thằng nào chẳng keo kiệt. Đến ăn cơm chỉ biết vác xác tới chứ có bao giờ biết cầm chai rượu theo.

Truyện ngắn

Nguyễn Khải

Gặp gỡ cuối năm

- 4 -

Quân châm tiếp một điếu thuốc, tiếp tục câu chuyện chẳng có gì là vui của anh:

- Cái việc lớn xảy ra ở miền Nam này đều được bàn trong các bữa ăn, kế bên các đống tiền, có quan hệ xa gần với cái bao tử, như anh Chương nói. Ví như cuối năm 69, tôi được ông Lầu Phước Ngũ mời ăn cơm tại nhà hàng Đồng Khánh của ông. Tôi muốn nói thêm về cái ông họ Lầu này, là dân buôn nhưng khiếp lắm. Buôn á phiện mà chở bằng xe xúc, đục ruột cây nhét nhựa đen vào. Các danh tướng Đỗ Cao Trí, Nguyễn Hữu Có, Vĩnh Lộc, nói cho gọn, các ông chỉ huy của vùng 2, đều là đàn em của ông Lầu cả, là nhân viên tải hàng cả. Các hãng máy bay đi Bangkok, đi Singapore, đi Hồng Kông, đều do một tay ông thao túng. Đó là kinh tế chính trị học, thôi, không nói tới cái chuyện ấy nữa. Nói tiếp cái bữa ăn do ông Lầu là chủ tiệc, ngoài tôi là một thằng nhà báo vô danh còn thiếu tướng Phạm Đổng, bộ trưởng cựu chiến binh, anh cả của quân đội Cộng hòa, có Sơn Ngọc Thành, lãnh tụ Serei Khmer, kẻ đối đầu với Sihanouk, có Robert Shaplen cũng là nhà báo như tôi, nhưng có danh hơn và được giới quan chức Việt Nam kính nể hơn. Bàn chuyện gì? Bàn việc lật đổ ông Sihanouk để đưa ông Lon Nol lên thay. Cơ hội lật đổ sẽ nhằm lúc ông hoàng sang Pháp chữa bệnh. Ông Lầu nói: "Nếu ông Thành làm thủ tướng thì tôi thích hơn, mối bang giao hai nước Việt - Miên sẽ phát triển tốt đẹp hơn". Bang giao có nghĩa là buôn á phiện vì bọn này có quan hệ buôn bán với Lý Mi, hiện nay ông chủ của khu Tam Giác Vàng nổi tiếng Thái - Lào - Miến. Sơn Ngọc Thành còn nói với tôi và Shaplen: "Xin các ông giới thiệu trước quốc tế phong trào Serei - Khmer và những người lãnh đạo của phong trào này. Chúng tôi không dám quên ơn các ông". Tôi quên một chi tiết, có một người đứng lùi lại phía sau một chút nhưng có tham dự buổi họp, các anh chị đều có quen, là chú Phùng.

Anh Quý nói rất nhỏ, nhưng vẫn đủ để tôi nghe rõ:

- Có cả Phùng à? Cái lai lịch của thằng cha này xem ra cũng lớn nhỉ.

Quân dừng lại, điếu thuốc trên tay đã cháy quá nửa, anh dụi luôn vào đĩa gạt tàn, hớp một chút rượu, nói tiếp câu chuyện chẳng lấy làm gì vui nhưng xem chừng đã được sự chú ý của mọi người.

- Có mấy năm tôi là người làm công cho hãng Reuter. Ông chủ của tôi là thằng Jimmy Haln, giám đốc của hãng ở Đông Nam á. Hắn là người Nam Hàn nhưng vô dân Anh, có tú tài Anh. Vợ hắn là bí thơ của Lý Quang Diệu, chỉ biết tiếng Tàu mà không biết tiếng Cao Ly. Thằng cha rất đẹp trai, cái đẹp của một thằng rất lạnh, rất rắn. Nó là người của tình báo Anh. Thằng Kohlman thì bọn ta đều biết nó là quan chức của CIA rồi, mà nó cũng không giấu diếm. Nhưng cái thằng Legeur thì xem ra chưa có ai tin nó là Xịa. Thưa, Xịa đấy ạ, Xịa có cỡ đấy ạ. Nó vốn là phụ tá của Thomas Polgar, tiền nhiệm của Polgar là Edward Shackley. Cả thằng Tôm lẫn thằng Tét đều là Giám đốc tình báo ở Viễn Đông. Tôi vốn bồ bịch từ nhiều năm với Kohlman, nó ở Việt Nam từ thời Ngô Đình Diệm, năm nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ hai năm, mười năm cả thảy. Cáo già đấy! Nó thích chó mà tôi cũng thích chó. Quen thân nhau vì cùng có một câu chuyện để nói.

Anh Đại giơ một ngón tay:

- Anh Quân chỉ thích có chó thôi à?

Chị Hoàng phẩy tay, gắt to:

- Đừng có pha trò nhạt, bố ạ, để Quân nó kể tiếp nào.

- Không, mình hỏi thật chứ không có ý giễu đâu. Anh Quân này, chỉ biết chơi có chó thì ngoại lai quá, Tây quá, người á Đông mình sâu sắc hơn, thường là biết chơi cả ba loại: một là chó vì nó trung thành, thứ hai là cá vì nó suy tư, thứ ba là chim vì nó bay nhảy, hành động. Một đời người biết hành động, lại biết suy tư và rất trung thành với chí hướng dẫu có chết cũng thỏa lắm.

Anh Quý cầm tẩu ở tay, nói theo:

- Mình góp thêm một mẩu chuyện cho vui. Cái năm tôi và Phạm Đăng Lâm họp hội nghị bốn bên ở Paris, thì Kỳ cũng sang. Trước hôtel của vợ chồng Kỳ ở không có ký giả săn tin, phỏng vấn mà chỉ có các ông các bà bá tước, nam tước nuôi chó, đem chó đến giới thiệu với Kỳ. Hắn sộp, xài tiền ngon, bán được thì lãi lắm, cố vấn chính trị của Kỳ là Đặng Đức Khôi, hắn chính là một chuyên gia về chó, mà Kỳ cũng chỉ bàn với hắn về các giống chó, chứ không bàn chuyện chính trị. Bố hắn là Đặng Đức Dục thì lại rành về chim với mèo.

Quân nói tiếp:

- Có một con berger, loại đã đổi giống, thấp chứ không cao, tuyệt đẹp, để ở Michigan đưa tới nuôi ở Florida, có một người bạn gửi qua Việt Nam cho tôi. Hắn kêu điện thoại báo trước cả tuần, con berger đó sẽ qua Tokyo bằng máy bay của hãng Panam, từ đó lại chuyển sang máy bay của hãng Air France. Cả tiền chó và tiền chuyên chở vừa tròn một ngàn đôn. Đem về nhà được một tuần thì lão Kohlman mò tới xin xem mặt con chó quý phái ấy. Và nó mê quá, không dám hỏi mua lại, nhưng tuần nào cũng đến ám mình một buổi, mất cả việc. Cuối cùng tôi cho hắn luôn.

Chị Hoàng kêu lên:

- Thằng Kohlman là cái cứt gì mà mày phải cho. Của một đồng, công một nén, quân đến ngu!

Quân cười như kẻ vô tâm:

- Giữ lại cũng chẳng được, vừa mất công nuôi chó lại mất công tiếp mấy thằng gàn đến xem chó. Cho luôn. Từ đó Kohlman coi tôi như cha nội nó. Cái thằng thích chó nhưng chẳng biết tí gì về cái nghề nuôi, nghề dạy chó cả. Tôi chơi chó công phu lắm, phải mua năm một tạp chí chuyên về chó, tờ Dog World (7), một đôn một cuốn. Bình của chó mình phải biết, đâu có hỏi được mấy ông bác sĩ thú y. Mỗi lần con chó đau nó lại đánh xe tới kêu tôi lại coi, như một bác sĩ chó thực thụ. Một lần đến nhà nó, tôi chạm mặt với chính ngay partron (8) của tôi là thằng Haln, rồi thằng Legeur, lão Lầu Phước Ngũ và cả chú Phùng của nhà này.

Cái kết thúc thật bất ngờ, không một ai có thể tưởng tượng nổi, lại có mối quan hệ nào đó giữa chú Phùng hiền lành, nhân nghĩa với cái đám tình báo gian manh kia. Anh Chương ngồi ngẩn ra, rồi chép miệng bảo bà chị:

- Quái lạ nhỉ, một thằng nhà buôn Tàu lại đến chơi nhà thằng tình báo Mỹ. Khó tin quá!

Chị Hoàng, cố vấn chính trị của ông em, tự khoe cái gì cũng tính được trước, bàng hoàng thật sự:

- Một thằng đút tay trong ống áo lại bồ bịch được với một thằng ghếch cẳng lên bàn, bất ngờ nhỉ? Hoàn toàn bất ngờ!

Quân:

- Cái gì bất ngờ?

Chị Hoàng:

- Chuyện ông Phùng nhà này!

- Có gì mà bất ngờ.

- Mỹ - Tàu hợp tác mày có bị bất ngờ không?

- Cũng không bất ngờ.

Chị Hoàng hỏi mỉa mai:

- Riêng mày được biết trước?

- Nhiều người biết trước, cứ gì tôi.

Anh Chương nheo mắt:

- Mấy ông lãnh đạo Hà Nội có biết trước không?

- Họ không biết trước thì làm sao có ngày Ba mươi tháng Tư?

Anh Chương:

- Chúng tôi cũng được biết trước chút ít, nhưng chúng tôi đã từ chối mọi sự hợp tác.

Quân:

- Ngày 9 tháng 1 năm 1945 Mao Trạch Đông gặp thiếu tá Ray Gromley, Trưởng đoàn quan sát quân sự của Mỹ tại Diên An đề nghị được đến Washington cùng với Chu Ân Lai gặp Roossevelt. Gromley đánh giá Mao chỉ là lãnh tụ một cuộc cách mạng của nông dân thôi, chứ chưa phải là cộng sản chính cống. Tướng Wedemeyer đặc phái viên của Roosevelt tại Trung Hoa liền gạt phắt cái đề nghị quan trọng đó đi, vì viên tướng này đã bị Tưởng mua rồi. Tưởng muốn là lãnh tụ độc tôn không thích có một đối thủ chính trị quá nguy hiểm.

Anh Chương nhìn Quân đầy vẻ nghi ngờ:

- Một chuyện quan trọng như thế tại sao tôi không được biết nhỉ?

Chị Hoàng khinh khỉnh:

- Nó bịa ra đấy, mồm mép nhà báo ai mà tin được!

Quân cười ầm ầm, nhô hẳn người về phía anh Chương, hỏi:

- Ông không thể tin được ở tôi, hả?

Anh Chương trả lời dứt khoát:

- Không, không thể tin, chẳng có bằng chứng nào để tin được cái chuyện. Mít Xoài của anh!

Quân đập tay xuống bàn, cười to hơn:

- Người ta thường chê các chính khách ít đọc, có đúng thật. Tôi nói theo tạp chí Những vấn đề đối ngoại, tạp chí Foreign Affairs, số ra tháng 10 năm 1972.

Anh Chương hỏi lại:

- Bài do ai viết?

- Bài của Barbara Tuchman, nhan đề If Mao had come to Washington (9). Chắc là anh có biết bà Tuchman chứ, tay tổ của nghề báo chúng tôi đấy, chuyên sục mũi vào các đống tài liệu mật của nhiều chính phủ. Chính bà cũng sợ bạn đọc khó tin nên phần chú thích có ghi rõ những chuyện trên đây được trích ra từ các tư liệu số 322 và 324 của phái đoàn Trùng Khánh tại Cục Lưu trữ quốc gia.

Quân ngừng lại một chút, da mặt hơi tái vì mấy ly rượu, giọng nói dịu hẳn không còn cái vẻ bỡn cợt, thách thức nữa:

- Tôi nói các anh chị đừng giận, cái nhà này xưa nay chỉ sống bằng mộng tưởng, bằng giả định. Xưa kia có làm chính trị cũng là thứ chính trị giả định. Kẻ thù, đồng minh, dân chúng cũng đều giả định tuốt. Thắng bại cũng giả định. Các nhà chính trị giả định, như trong quân đội có cái cấp đại úy giả định, đại tá giả định, capitaine fictif, politicien fictif, victoire fictive. Chính khách giả định là chính khách lý tưởng. Được cái danh chính khách, lại không phải chịu mọi sự khốn khó của một chính khách. Còn bây giờ muốn làm chính khách sẽ là chính khách thực thụ, politicien définitif, với mọi sự khốn khó thực thụ. Các anh chị dám có gan làm không? Được thì làm tổng thống, còn thua thì nhất định phải ăn cơm tù cả đời. Theo ý tôi... Thôi, để lát nữa tôi nói, gần sang một năm mới tôi sẽ nói, nói xong sẽ cút thẳng, có chửi cũng không kịp. Còn bây giờ, ta nên nói những chuyện vui vui hơn. Ô hay, chưa có cơm, hả? Chị Bơ ơi! Cho bọn em ăn cơm!

*

Trong bữa ăn tối hôm ấy, từ lúc Bình tới, nói gì làm gì tôi đều liếc mắt sang phía Bình một chút, đón đợi, thăm dò thái độ của hắn. Với những người khác họ có chửi cộng sản hay bênh cộng sản, tôi đều không quan tâm mấy, họ chửi cũng chẳng hại được mình, họ bênh cũng chẳng làm mình sang trọng hơn. Viết được về họ kể ra cũng vui vui, không viết được gì về họ cũng chẳng ai nỡ trách tại sao lại thiếu. Họ đã bị quên rồi. Cái số phận của họ mất dần sự quyến rũ. Người ta chỉ say mê có những người của hôm nay thôi. Do đó mà tôi khổ tôi bực chỉ vì Bình đã nhận xét: "Chú Việt hay nhân nhượng". Sống nhân nhượng, viết cũng nhân nhượng. Chỉ mong giữ được cái thân cho yên, không bị đụng chạm, không bị quấy rầy. Có mặt mà hóa ra không có mặt, có tiếng nói mà hóa ra không có tiếng nói, có sống mà sự đóng góp vào cuộc sống đang biến hóa, đang phát triển quá ít ỏi. Bình uống được rượu, hắn có thể uống cả chai mà quầng mắt chỉ hơi ửng tím một chút. Có lẽ do mấy năm sống ở Mạc Tư Khoa nghiên cứu công tác quản lý của ngành công nghiệp hóa học mà hắn biết uống rượu chăng? Nhưng hắn chỉ uống khi nào thích, còn đã không thích thì một giọt cũng không đụng, cả nửa năm không nhắp một ngụm rượu cũng không sao. Như lúc này ly rượu trước mặt hắn vẫn đầy, bữa nay hắn không thích uống, hắn thản nhiên xúc gắp các món ăn, nghe lơ đãng câu chuyện lẩn thẩn, xa lạ của mọi người, thỉnh thoảng lại nghiêng mặt mỉn cười với tôi như một đồng minh trong cách suy nghĩ và đánh giá. Chưa hẳn cách nghĩ và đánh giá của tôi đã hoàn toàn giống với Bình. Cùng một chí hướng thật nhưng lại cách nhau cả một thế hệ, cách nhau cả về kinh nghiệm và sự từng trải. Mỗi lần gặp nhau hắn thường thử thách tôi bằng cách kể một câu chuyện trong xí nghiệp rồi hỏi tôi nên kết luận như thế nào. Chú cháu tranh luận ỏm tỏi cả buổi, cuối cùng hắn cười xòa: "Mọi việc giải quyết theo cách của chú thì còn lâu mới xây dựng được chủ nghĩa xã hội". Tôi thích sự dàn hòa, sự nhân nhượng lẫn nhau, làm việc trong tinh thần đồng chí, đồng đội. Còn hắn thì tất cả là qui chế, là pháp luật, là trách nhiệm công dân. Cái xã hội chủ nghĩa của tôi nhân đạo hơn, cái chủ nghĩa xã hội của hắn xem chừng khắc nghiệt hơn. Anh Hoàng cũng rất thích thằng cháu Việt cộng. Anh không quan tâm tới xu hướng chính trị của người này hay người kia, mà chỉ xét nét có cái tư cách viên chức nhà nước của họ, bất kỳ thuộc chế độ chính trị nào. Có lần anh nói chuyện với tôi: "Vào bureau (10) của Pháp thằng nào cũng thắt cà-vạt, cổ cồn, mày râu nhẵn nhụi, nước hoa thơm nức, làm việc lịch sự và nghiêm trang lắm, kỳ thực chỉ là cái vỏ ngoài thôi, còn đóng cửa buồng lại chúng nó toàn tán chuyện láo cả, công việc chậm như rùa, cái bệnh quan liêu của Pháp trầm trọng lắm, khó tiến xa được. Thằng Mỹ thì khác hẳn, ngồi thì quay lưng ghế về phía khách, xoạng chân ra hai bên, có khi cao hứng còn đưa cả cẳng lên bàn, nhưng toàn nói chuyện đứng đắn, việc của mình hẳn hoi mà hắn đã nhận làm dẫu có chạy cũng không theo kịp". Tôi hỏi: "Còn cách làm việc của bọn tôi?". Anh trả lời rất đắn đo: "Đừng nghĩ tôi là phản động nhá, bộ máy hành chính của các cậu còn kém lắm". Riêng thằng Bình thì anh có nhận xét khác hẳn: "Nó lịch sự, tinh tế như Pháp, mà lại nhanh chóng, thiết thực như Mỹ" - "Anh làm việc với nó bao giờ mà anh biết?" - "Biết chứ, nhờ nó vài việc là biết ngay cái cách làm của nó". Anh Hoàng yêu Bình như một đồng nghiệp lý tưởng còn tôi quyến luyến Bình như một công dân của xã hội mới. Cuộc đời của anh viên chức dầu tài giỏi là mấy cũng hết sức tẻ nhạt, nếu muốn viết về cái tẻ nhạt có lẽ nên viết về họ. Thế là tôi với Bình lại khác ý kiến nhau rồi. Tôi thích mẫu người sáng tạo, phong trần một chút, mẫu nhân vật văn học. Bình thích loại người chấp hành thật nghiêm chỉnh mọi quy cách, hiểu thật hoàn hảo công việc của mình. Hắn rất yêu ông bác viên chức. Theo hắn, nếu bộ máy hành chính của một thành phố đào tạo được một ngàn người tận tụy với nghề nghiệp như ông Hoàng thì tình hình sẽ đổi khác rất nhiều. Nhà văn chế giễu một người suốt đời làm cái nghề cạo giấy buồn tẻ là rất vô trách nhiệm. Ai cũng muốn là một nhân vật được chú ý thì xã hội không thể tồn tại. Cơ thể con người là một sự phân công hoàn hảo, tạo hóa bao giờ cũng có lý, gọi là ruột thừa vì y học chưa tìm ra cái có ích của khúc thịt đó thôi. Đã là sự sống thì không có thừa, cũng không thể thiếu. Guồng máy quản lý xã hội của ta còn chưa tìm ra công thức thích hợp nhất cho nó, còn nhiều bộ phận thừa, nhiều chi tiết thừa, nên năng lực hành động không nhanh, không mạnh.

Một xã hội viên chức, cứ cho là những viên chức rất mẫu cán, cũng hết sức đáng buồn. Tất cả đều hoạt động trong một quy chế nhất định, đi theo một hàng lối nhất định thì văn học hết đất dụng võ. Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang, bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ với màu đen, đầy dẫy những biến động, những bất ngờ, mới thật là mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ. Bạn đọc thích gì nào? Thích đọc những tác phẩm văn chương tuyệt diệu hay thích cái hạnh phúc có thể tính trước của một xã hội đã ổn định? Vứt cái văn chương của chú đi, đục nước béo nhà văn là không được! Xã hội cần cái bình thường, cái ổn định, cái có thể tính trước, Bình nói thế. Anh Hoàng cũng rất thích một xã hội dân chủ và ổn định, người ta không phải lo cái gì khác ngoài công việc của mình. Vậy mà giữa họ vẫn cứ khác nhau. Ông bác nói với đứa cháu đầy âu yếm:

- Nếu con sống ở trong này hồi xưa, nhất định bác sẽ gửi con sang Pháp học trường ENA (11) hay sang Mỹ học trường Michigan. Những nhà cai trị lỗi lạc đều xuất thân từ hai trường nổi tiếng ấy cả.

Bình giương mắt, hỏi:

- Chế độ tư bản có cho phép cấp dưới cãi lại cấp trên không? Không phải cãi một lần mà nhiều lần.

- Trong chế độ tư bản người được làm sếp bao giờ cũng giỏi hơn nhân viên của họ, bằng cấp cao hơn, từng trải cũng nhiều hơn, cãi làm sao nổi. Nếu một nhân viên có tật hay cãi thì họ sẽ thải ra khỏi sở để tuyển người khác vào thay.

Bình cười:

- Ô, thế thì phiền quá, bác nhỉ? Người có tật hay cãi như cháu đến thất nghiệp mất. Không, cháu không thích cái chế độ tư bản của bác đâu.

Tôi hỏi ý tứ:

- Tức là anh có thích cái mẫu người phóng khoáng, đứng ngoài quy tắc một chút, chứ không hẳn là những viên chức ngoan ngoãn.

Bình hơi đỏ mặt, nhìn tôi trách móc:

- Một cán bộ tận tụy hoàn toàn không giống với mẫu người luôn luôn nhân nhượng, chú ạ.

Tôi cũng hơi nóng mặt, nhưng nín lặng.

Quân cũng đã quay sang góp chuyện:

- Theo ý cậu nên có những viên chức tận tụy nhưng đôi lúc còn phải biết tranh cãi?

Bình trả lời gay gắt:

- Biết nói với chú thế nào! Chú là người của một chế độ, cháu là người của một chế độ, giữa chúng ta có bao nhiêu là cái khác nhau.

Quân đưa mắt nhìn tôi, gương mặt anh sáng lên như thấp thoáng có một nụ cười:

- Đúng vậy thật. Cậu có cách gì nói cho bọn mình hiểu rõ thêm một chút không?

- Có chứ, tháng 12 năm 75, cháu vào Sài Gòn làm việc tại một xí nghiệp sơn. Giám đốc vốn là kỹ sư cơ khí ở Viện thiết kế thuộc Bộ cơ khí luyện kim, một phó giám đốc là trung cấp kỹ thuật cơ khí, và một phó giám đốc nữa làm công tác kinh doanh. Trong bốn người ở Hà Nội vào, chỉ có cháu là biết kỹ thuật làm sơn, nên vừa là trưởng phòng kỹ thuật, vừa làm vật tư, rồi làm kế hoạch kiêm luôn cả tính toán giá thành.

Anh Đại lại giơ tay, hỏi xen:

- Xin lỗi, cho bác hỏi Bình một chút, cái sujet cháu chọn làm luận án tốt nghiệp là gì? Bác cũng là một kỹ sư hóa học, hai bằng, một bằng của trường đại học Wiesbaden và một bằng của trường đại học Toulouse. Nhưng cổ lắm rồi, tốt nghiệp từ nửa thế kỷ trước là quá cổ!

- Thưa bác, đề tài làm luận án tốt nghiệp của cháu là phân tích đồng vị bền của các nguyên tố hóa học bằng phương pháp khối phổ. Cháu xin nói tiếp, làm vật tư của một xí nghiệp mới tiếp nhận trong năm 75 có nghĩa là đem tiền mặt đến gặp các nhà buôn vật tư ở Sài Gòn. Tiền đút vào trong bao bì, vài ba trăm ngàn là thường, tính theo tiền bây giờ đấy. Giá cả chưa có ai định cho hết. Tự cháu đặt ra giá cho xí nghiệp, tự cháu đi mua và tự cháu quyết toán. Nguyên liệu làm sơn có bảy tám thứ, xin lấy một thứ làm ví dụ, như nhựa an-kít chẳng hạn. Giá một kí lô nhựa từ 2đ20 đến 2đ60 là mua được mà mỗi ngày phải dùng từ hai đến ba tấn nhựa an-kít. Trong việc mua bán này có một người đứng ra làm môi giới, anh ta là đại diện cho một nhà máy làm sơn của tư nhân, có nguyên liệu thừa bán cho xí nghiệp của cháu. Chúng cháu thỏa thuận với cái giá 2đ20 một kí lô nhựa, mà mình ước tính ở nhà có thể từ 2đ40 đến 2đ60. Người môi giới còn gợi ý sẽ ghi giá tiền trong hóa đơn là 2đ40, một cách giữ khách hàng mà, cái số thừa hai hào một ký sẽ tùy nơi mình trích ra một khoản nho nhỏ biếu họ làm tiền trà thuốc. Một lần mua là từ mười tấn đến mười lăm tấn. Mỗi cân được lời hai hào, các bác tính đi, chỉ cần gật đầu một cái, có ngay trong tay từ hai đến ba ngàn bạc. Một tháng cháu mua khoảng bảy mươi đến chín mươi tấn, thu chi các khoản rồi, có thể bỏ túi được mười lăm ngàn. Mười lăm ngàn của năm 75, giá vàng có ba đồng một lượng! Một món tiền không nhỏ tí nào, mà lương trưởng phòng kỹ thuật vẻn vẹn có tám mươi đồng bạc. Cháu xin nói thành thật với các bác, cháu vẫn yêu cầu anh kia ghi trong hóa đơn là 2đ20, lại trích một khoản tiền là hai trăm ngàn tặng riêng anh để chi vào các khoản phí tổn. Anh ta hỏi cháu: "Anh không có gì sao? Tôi sẵn sàng ghi vào hóa đơn là 2đ40, có gì là không hợp pháp?". Cháu trả lời: "Chúng ta tính toán có khác nhau. Anh là người làm công cho một xí nghiệp, còn tôi là người chủ của một xí nghiệp".

Nét mặt Quân cứng lại, hoàn toàn không tự nhiên, tôi biết anh đang cố kìm giữ sự xúc động. Anh nói đúng, ngay với một tình báo viên già dặn cũng không thể tự giấu kín với tất cả, trong mọi lúc. Làm sao có thể tự chủ được trước những xúc động rất bất ngờ? Chị Hoàng kêu não nuột:

- Cái họ Trần chẳng có dính dáng gì đến mày mà sao mày giống người họ Trần thế. Dở hơi, một lũ dở hơi, tam tứ đại dở hơi!

Anh Chương bình phẩm:

- Được đấy, rất được đấy! Cái tiếng bao giờ cũng đẹp hơn cái miếng, nhưng rồi có ngày sẽ khổ vì cái tiếng Bình ạ.

Chị Hảo cũng than thở:

- Tôi cũng là người họ Trần, nhưng không đến nỗi ngốc nghếch như anh. Thiếu gì người ăn vụng, miếng ăn của họ còn to gấp trăm lần của anh ấy chứ. Anh sạch nhưng anh nghèo người ta cũng khinh cho.

Bình vẫn cười rất hồn nhiên:

- Năm ngoái, cháu là phó phòng kỹ thuật của Công ty sản xuất công nghệ phẩm, nên được làm ủy viên thường trực của tổ cải tạo tư bản tư doanh thuộc ngành công nghệ phẩm. Có một hộ sản xuất sơn hắc ín ở quận 6, nhỏ thôi, có chừng hai chục người làm. Cơ sở này thuộc diện được giải tỏa, nhưng chưa kịp làm thì người chủ đã tới gặp cháu rồi. Ông ta xin được tiếp tục sản xuất, vì nguyên liệu cũng chẳng còn được bao nhiêu, sau đó sẽ xin đi vùng kinh tế mới, ở đó cũng có nhiều mối bạn hàng. Ông ta nhấn mạnh: "Xin ông giúp cho, chúng tôi không bao giờ dám quên ơn ông". Việc chẳng có gì, nhưng cái thủ tục hành chính của mình nó rềnh ràng chậm chạp nên thường phải kéo dài từ hai tuần đến một tháng, mà họ thì muốn làm cho nhanh, trong một hai ngày. Làm thế nào được! Nhưng chỉ năm ngày sau, trên đường đến sở làm, cháu gặp lại ông chủ làm sơn hắc ín, ông ta đã giơ tay lên, cười toe toét: "Chào anh nhá! Cái việc của tôi thế mà xong rồi!". Tức là ông ta đã được một ông cán bộ nào đó tận tình giúp đỡ rồi.

Chuyện của hôm nay dẫu buồn đến đâu, dẫu bực đến đâu vẫn cứ vui, vì nó là máu thịt của hôm nay, của giờ này, nó tươi rói, nó đỏ hồng. Cả mọi người đều cười, cái cười thật tự nhiên, thật sảng khoái. Chuyện đời mà, có thể này và cũng có cả thế kia, đâu chỉ có một màu duy nhất. Bình cũng vui, anh kể cho vui chứ không có ý định tranh cãi:

- Chưa bao giờ anh tư sản cỡ nhỏ làm giàu lại dễ như bây giờ. Xưa kia còn bị hàng hóa nước ngoài cạnh tranh, nay không có hoặc chỉ có rất ít, cũng không bị bọn tư bản cá mập khống chế, chèn ép, xí nghiệp của họ bị trưng thu rồi, người quản lý cái tài sản ấy là bọn cháu, mà chúng cháu làm ăn còn dở lắm, nên chưa làm ra được nhiều sản phẩm, hoặc có sản phẩm nhưng giá thành lại cao. Năm vừa rồi, một xưởng mỹ phẩm ký hợp đồng với một xí nghiệp cỡ nhỏ làm ve chai, người chủ là Hoa kiều, còn trẻ nhưng khéo lắm, ma quỷ lắm. Nhà nước phải cung cấp cho họ một số hóa chất khan hiếm như sôđa, ASH, tức sôđa không ngấm nước, hay sôđa khan cũng thế. Họ nhận làm vì có lợi, công làm thì chịu lỗ, nhưng lãi cái phần bớt xén định mức vật tư của nhà nước. Khi cháu xét cái định mức vật tư giao cho họ thấy dư nhiều, muốn bớt đi nhưng anh em không bằng lòng, hợp đồng đã ký rồi, nói đi nói lại sao tiện. Vả lại xí nghiệp quốc doanh làm thủy tinh còn đòi định mức cao hơn, mà sản phẩm lại xấu hơn thì sao? Rồi nguyên liệu cũng không còn để đưa cho họ nữa, họ xin được tự xoay sở lấy, cuối cùng mắc nợ tới 20 tấn sôđa khan, mà mỗi kí lô giá ngoài từ hai mươi đến hăm sáu đồng. Xí nghiệp này báo nợ lên Sở, Sở cử người xuống một đoàn kiểm tra xem xét lại thì ông chủ Hoa kiều liền gạt đi, nói là không có nợ, làm gì có nợ? Mà nợ họ thật. Nợ trên dưới hai chục vạn! Một thằng buôn, vốn tính toán chi li từng đồng, bỗng dưng vứt bỏ hai chục vạn như mớ giấy lộn? Kỳ quái chưa? Chắc hẳn cái bên trong phải có rất nhiều trò lắt léo. Khi cháu hỏi đồng chí giám đốc, ông nói rất nhẹ: "Mình nợ thật, nhưng họ lại bảo không có nợ thì mình cũng lờ luôn, càng hay!"... Dễ nghe chưa? Mà chịu đấy! Làm viên chức thời xưa thì chịu, việc của thượng cấp có dính dáng gì đến mình. Nhưng cháu lại sinh vào cái thời này, là một viên chức của nhà nước cách mạng nên cháu sẽ không chịu, mà phải làm cho rõ lẽ. Cháu biết là cháu có thể thua, vì cái ông ấy vừa được Sở khen thưởng, lại được đề bạt làm phó giám đốc một liên hợp xí nghiệp hết sức quan trọng rồi.

Truyện ngắn

Nguyễn Khải

Gặp gỡ cuối năm

- 5 -

Bữa cơm đã gần tàn. Rượu hết, các món nhắm cũng hết, cơm xới ra người ăn người không, riêng anh Đại vẫn xới một bát cơm thật đầy, anh ăn không nhiều, nhưng nhai chậm, nuốt chậm, nên cũng ngượng nghịu vì cả bàn ăn phải chờ mình. Anh đặt đũa nói múm mím:

- Xin lỗi cả nhà nhé. Bữa nay mình ăn ngon miệng quá. Khi nãy nghe các vị nói chuyện về một chú Tàu nào đó, tôi cũng có một chuyện về anh Ba Tàu. Chuyện ly kỳ lắm, có tài văn chương như cậu Việt là viết được một roman phiêu lưu tuyệt hay. Cái năm Pháp nó đưa tôi đi an trí ở Mã Đảo...

Chị Hoàng thét lên:

- Vứt mẹ cái Mã Đảo của anh đi! Bốn chục năm nay vẫn chưa kể hết chuyện Mã Đảo, hả? Bà Bơ ơi! Cho cà phê nhá!

Anh Đại vẫn cười hiền lành:

- Một ngày trong tù dài bằng một năm ngoài tự do. Bảy năm ở tù phải sống thêm cả trăm năm vẫn kể chưa hết chuyện. Các vị chắc đều biết cái eo biển Mozambique chứ? Bên này là Mã Đảo, bên kia là xứ Mozambique. Thời ấy quân Đức đang đánh nhau với quân Anh ở Bắc Phi, tàu buôn, tàu khách đi lại trong Đại Tây Dương bị tàu ngầm Đức đánh chìm vô số. Một buổi sáng chúng tôi nhìn thấy có một chiếc xuồng lờ lững táp vào chân đảo. Trong xuồng chỉ có một người nằm mê man như sắp chết. Một bộ xương người thì đúng hơn, tóc râu che kín mặt, tóc đen râu đen, là người châu á, nhưng đã là người cùng một châu cũng coi như người cùng một nước. Bọn tôi bế anh ta lên, pha sữa cho anh nhắp từng chút một, dần dần cũng tỉnh lại. Thì ra anh ta là người Tàu, nói tiếng Pháp khá lắm, đã từng ở Đông Dương ít năm, rồi sang Pháp, chiến tranh châu Âu bùng nổ, mất sạch cả gia sản lại tìm đường qua châu Phi, ở Côte d'Ivoire, làm ăn khó khăn quá mới theo bè bạn đi Mozambique bằng đường biển, dọc đường bị thủy lôi Đức đánh đắm, có hăm bốn người nhảy được xuống xuồng cấp cứu, lênh đênh trên mặt biển Đại Tây Dương đã non một tháng trời...

Chị Hoàng kêu lên:

- Một tháng trên biển! Họ chịu được đói, được khát, hả?

Anh Quý nhăn mặt:

- Bà này nghe chuyện rõ hay, có hăm bốn người nhảy xuống xuồng chỉ còn một người sống sót tức là đã có hăm ba cái xác vứt xuống biển rồi.

Chị Hoàng vênh mặt, hỏi anh Đại:

- Toi khoe câu chuyện ly kỳ có thể viết tiểu thuyết được mà chỉ có thế thôi à? Già rồi bố ạ, chuyện ông già mỗi ngày mỗi nhạt. Chỉ có đớp thôi!

Tôi nhìn anh Chương cười mỉm, quả nhiên anh Đại đã già thật, thì cái người sống sót ấy có thể là người Tàu mà cũng có thể là người Anh, người Pháp hoặc người Đức, chuyện quốc tịch của người bị nạn có gì là quan hệ. Hoàn toàn giống với cách viết của một nhà văn đã quá già. Mở đầu cuốn sách nghĩ rằng sẽ có chuyện động trời, gấp cuốn sách lại như người bị mắc lỡm, vừa mất tiền lại mất cả cái công hồi hộp chờ đợi sự kết thúc bất ngờ ở chương cuối. Cả mọi người nhìn anh Đại ái ngại cho một tuổi già, kể cả mấy ông già ngót nghét bảy chục cũng cảm thấy như trẻ hẳn lại, thông minh hơn lên vì được xót xa cho một người khác già hơn, đáng thương hơn. Nhưng cái ông già đáng thương hại ấy lại đung đưa con mắt một cách tinh quái, miệng mủm mỉm đầy hóm hỉnh, e hèm, dặng hắng, rồi mới tiếp tục câu chuyện chắc hẳn sẽ rất tức cười vì cái nhạt nhẽo, cái vô duyên của nó.

- Tất nhiên đã có hăm ba người chết, chỉ có một người sống nhưng họ không chết một lúc mà đã chết lần lượt.

Chị Hoàng cười gập người trên bàn, nước mắt chảy giàn cả ra má:

- Thôi, thôi, con xin bố, lú lẫn vừa vừa chứ!

Anh Đại vẫn nói ngớ ngẩn:

- Lần lượt không phải từng người, nói thế nào cho các vị hiểu được nhỉ, mà từng nửa một.

Không ai cười nữa, đưa mắt nhìn nhau, cái gì từng nửa?

- Vâng, chết từng mẻ một, mỗi mẻ là một nửa. Tôi nói rõ hơn nhé. Mẻ đầu chết mười hai người, mẻ sau chết sáu người, rồi chết ba người, ba người sau cùng thì chết lần lượt từng người một. Tất nhiên trong ba người ấy có một người không chết, đó là anh Ba Tàu chúng tôi đã cứu được.

Không phải là một chuyện nhạt nữa rồi, một chuyện đã bắt đầu có cái tầm vóc riêng của nó, cái huyền bí riêng của nó. Mà ông lão biết kể chuyện lắm, chưa lẫn, hoàn toàn chưa có lẫn.

- Vâng, những người chết đầu tiên rất thanh thản vì tấm lòng hỉ xả. Những người chết sau tuy có đau đớn hơn, nhưng vẫn còn là tự nguyện. Duy có ba anh sau cùng thì phải vật lộn,

phải chống chọi với cái chết, nói cho rõ hơn, phải chống lại những mưu mô, những thủ đoạn của người cùng thuyền để giành lấy cái sống, dẫu rằng cái sự sống ấy là hết sức mong manh.

Lại văn chương nữa! Thì ra khi đã có một cốt truyện quan trọng, với những chi tiết tuyệt vời, lời văn tự nó đến, đến thật mềm mại, thật uyển chuyển và trong trẻo như không có tí cố gắng nào.

- Họ không đói mà chỉ khát, cái khát hành hạ con người còn cay độc hơn cái đói, các vị ngồi đây chưa biết đói, cũng chưa biết khát nên khó mà hiểu được. Xin lỗi, có lẽ Việt nó có biết chút ít, lính văn nghệ thì chỉ được biết có chút ít thôi. Tôi cũng biết được chút ít, tù chính trị nhưng Tây còn muốn dùng nên không nỡ để đói hẳn, để khát hẳn như tù cộng sản. Này, mình nói năng lảm nhảm đã ra người lẫn chưa thế, tám chục tuổi, minh mẫn mãi thế nào được. Có lúc lẫn, nhưng không phải lúc nào cũng lẫn, có phải không?

Viết được một câu chuyện hay, chinh phục được lòng người thì người viết lại có cả quyền đôi lúc được giỡn mặt bạn đọc tí chút. Là nhà văn có tài nghĩ cũng sướng thật, viết như đùa, triết lý như đùa, nhân vật như đùa, mà vẫn quyến rũ biết bao.

- Sống nhiều ngày trên biển lại không có một giọt nước dự trữ, tức là cầm chắc cái chết, một cái chết rất khổ, vì xung quanh là nước, nước mênh mông, nước xanh rờn mà không uống được. Cái nghịch cảnh ấy làm người ta khô cháy hơn, cào cấu gan ruột hơn, dễ cuồng điên hơn. Lúc ấy chết được là cách giải thoát sung sướng nhất. Cái chết không đáng sợ bằng cái khát, nên mười hai người đã tình nguyện chịu chết, nghĩa là cho phép mười hai người kia giết mình lấy máu uống thay nước.

Chị Hoàng bưng lấy mặt, rên rỉ:

- Thôi, không nói nữa, ghê quá, câu chuyện của anh ghê quá!

Anh Chương cười nhạt:

- Cái bà này miệng hùm gan sứa thật. Muốn làm loạn mà sợ máu người à?

Chị Hoàng nửa nhăn nửa cười:

- Mình chỉ thích có người khác làm thôi, còn mình thì sợ lắm.

Anh Quý:

- Tiếc rằng bà đã già quá và cũng xấu quá, nên khó có chàng hiệp sĩ nào muốn xả thân vì bà!

Chị Hoàng cầm một chiếc đũa lao về phía ông bạn cố tri:

- Thối! Làm nghề ngoại giao mà ăn nói đến thô tục!

Anh Đại vẫn kể tiếp, câu chữ lung linh, ào ạt như chính anh đã có một lần trải qua. Cái giây phút này giống như cái giây phút của một nhà văn có tài viết được những trang lý thú nhất. Ngòi bút tự lia trên trang giấy với bao ý tưởng, hình tượng lạ lùng, như không còn thuộc về mình, mình đâu có những cái đó, mà thuộc về một thế giới kỳ ảo, phiêu diêu, hiện ra trong phút chốc và cũng sẽ tiêu tan trong phút chốc. Cái phút đó người trong nghề gọi là phút nhập thần, phút nhập đồng, chẳng rõ hình dạng nó ra sao, phải mời mọc nó tới bằng cách nào, nó đến thì được, nó đi thì mất, có khi phải chịu mất mãi mãi. Có người được nó đến thấp thoáng một đôi lần, có người ve vãn một đời chỉ đạt tới một cảm giác gần giống như thế, nhưng không phải thế, là những tác phẩm gần giống với văn chương nhưng chưa hẳn là văn chương, là do người làm, có thể do một người hết sức thông minh và khéo léo làm, chứ chưa phải do cái phần ngoài con người làm, do "thần" làm. Hình như anh Đại sắp xa cách chúng tôi rồi đây. Tết này anh cười đùa với chúng tôi, nhưng Tết sau có khi anh đã dong chơi đùa bỡn tận cái thế giới xa xăm nào. Người đã tám mươi tuổi, bỗng chốc minh mẫn, uyển chuyển, tinh tế trên sự bình thường là đáng ngại lắm, là rất đáng ngại.

- Một số đông cầm dao giết một số đông, cái việc giết ấy đỡ run tay hơn. Còn lại sáu người cầm dao giết sáu người tuy vẫn còn là tự nguyện, cái sự giết ấy đã đòi nhiều nhẫn tâm lắm, nhiều tàn bạo lắm. Đến lúc sáu người phải giết lẫn nhau để cướp lấy cái sống thì ta có thể hình dung họ phải vật lộn, cấu xé nhau man rợ đến mức nào? Nhưng tôi kinh hãi nhất là cái pha sau cùng. Ba người buộc phải loại trừ nhau để chỉ còn một người được quyền sống. Lúc này không thể dùng sức mà phải dùng mẹo, mẹo thật nguy hiểm, thật bất ngờ. Mẹo thật hiểm thì Âu phải thua á, và cả thế giới này phải thua anh Ba Tàu. Anh Ba Tàu chúng tôi đã cứu sống là người đã thắng cuộc, thắng bằng cái lừa lọc, cái lắt léo, cái khó ngờ. Chuyện vẫn chưa kết thúc đâu, còn một hồi cuối lý thú lắm. Trước khi có anh Tàu thì tôi là cái thằng làm ra tiền nhiều nhất trong đám tù. Tôi khỏe, tôi chịu khó, lại biết được võ vẽ đôi tiếng của dân Hovas và Mérinas, nên đi vào các làng bản thật xa mua rượu nấu bằng ngô, đem về bán lại cho các vị ở nhà. Cho ông Truyền, ông Tắc, một vốn mười lời. Đến khi cái anh Tàu kia khỏe mạnh rồi thì chính hắn đi mua rượu về bán, bán rẻ hơn tôi, mà rượu cất cũng ngon hơn, nên tôi phải bỏ nghề. Về sau hắn mở một cửa hàng chạp phô nho nhỏ buôn rượu, cà phê, và lấy một cô vợ người bản xứ, da đen, gốc Mã Lai. Khi tôi mãn hạn tù thì vợ chồng hắn đã có bốn đứa con trai, đứa đầu sáu tuổi, vào trong nhà có bàn thờ Phật bà Quan Âm và đức Thánh Quan, góc nhà có bát hương thờ Thần Tài. Tế bào đầu tiên của một Chợ Lớn - Mã Đảo, bang chủ đầu tiên của một bang, một hội, ông tổ đầu tiên của một dòng họ có thể sinh sôi nảy nở tới chục ngàn người trong khoảng một thế kỷ. Có thể lắm chứ, rất có thể! Ơ hay, tách cà phê của tôi đâu? Quên mất tôi hả, bà Bơ? à, đây, xin lỗi cả nhà nhé, cũng lẫn rồi, không lẫn hoàn toàn nhưng đã có lúc hơi lẫn!

Chúng tôi ngồi nín lặng, câu chuyện vừa huyền hoặc lại vừa thật quá. Một cuốn tiểu thuyết thu ngắn. Trong cái đầu sắp được nghỉ ngơi hoàn toàn kia còn có bao nhiêu câu chuyện kỳ thú về con người, mãi mãi cái mà nhân loại được biết chẳng thấm thía gì với những cái mà triệu triệu con người vô danh mang theo vào lòng đất.

Anh Quý nhồi một mồi thuốc và nói với tôi:

- Hồi trước, ngồi ở đây thấy dân Tàu họ làm ăn, họ sinh sôi nảy nở mà sốt ruột quá. Họ là khách trú, là dân ngụ, nhưng tổng thống, thủ tướng cho đến các bộ trưởng trong chính phủ đều ở trong tay họ. Không một hoạt động nào của xã hội thoát khỏi cái bàn tay điều khiển của người Tàu. Anh ham đánh bạc thì tôi là sếp sòng, anh thích chơi gái thì tôi là chủ điếm, anh là người Việt Nam nên có quyền nhập hành với khối lượng lớn nhưng chính tôi mới là ông trùm các dịch vụ chia nó ra thành nhỏ. Uy danh như Diệm, lúc lâm nguy cũng phải trốn nấp vào nhà một anh Ba Tàu. Tôi là thế đấy, anh làm gì được tôi nào! Vậy mà thằng Kỳ dám làm. Mới nhận chức thủ tướng, nó lôi Tạ Vinh, một thằng đầu cơ gạo, ra bắn chơi giữa Sài Gòn, chiếu đèn pha mà bắn cho dân xem.

Quân mủm mỉm cười:

- Kỳ nó làm cái trò giật gân ấy để lấy le với mấy ông trí thức đó thôi. Nó cũng có chủ của nó, chủ cho làm để kiếm vốn chính trị nó mới dám làm.

Chị Hoàng hỏi:

- Chủ của Kỳ là thằng Mỹ nào thế?

- Mỹ là chủ xa, Tàu mới là chủ gần. Chủ gần của nó là Trần Thành, một tín đồ của ông Mao Trạch Đông. Cũng như chủ của Dương Văn Minh là Dương Duy Nhạc, giám đốc Bank of China (Trung Hoa ngân hàng), chủ của Nguyễn Văn Thiệu là Lý Long Thân, giám đốc hãng Vicasa làm dây kẽm gai quân sự. Trong ba anh, anh nào làm tổng thống, Chợ Lớn đều ủng hộ cả.

Chị Hoàng nói cau có:

- Vứt mẹ nó chuyện thằng Tàu đi. Nó là gì ở cái nhà này mà nói nhiều về nó thế!

Anh Chương được dịp nói chọc:

- Nó là ân nhân của bà chứ còn gì?

Chị Hoàng gắt to:

- Tôi vay chứ không xin. Trả xong nợ là coi như không quen biết.

Quân hỏi:

- Chị trả thế nào được mấy chục lượng vàng?

Chị Hoàng đã dịu giọng:

- Thằng Tuấn sẽ phải trả cho em nó.

Quân tính toán:

- Một lạng khoảng năm trăm đôn. Năm mươi lạng là hai vạn rưỡi đôn. Một viên chức của Liên hợp quốc dầu lương rất cao, nhưng không đi làm, lại hai con, tiêu tốn lắm, không nợ là may còn tiền đâu để trả nợ cho bà.

Chị Hảo cũng tính toán:

- Vàng ở Việt Nam có sáu ngàn, ở ngoại quốc là năm trăm đô la. Tiền đô la bán ở đây một ăn hai mươi, năm trăm là mười ngàn. Một lượng lãi bốn ngàn đồng! Thảo nào nhiều người mấy năm nay làm giàu nhanh thế. Con cháu người ta ở nước ngoài đông nên buôn bán theo kiểu này được. Mà nhàn quá. Một bức điện đánh đi, một bức điện đánh lại thế là đã lãi cả chục ngàn đồng.

Chị Hoàng nghiêng mặt về phía anh Chương hỏi nhỏ:

- Chẳng lẽ thằng cha ấy còn muốn cái gì khác?

Anh Chương chép miệng ra vẻ rất thản nhiên:

- Bà đến mau tin người. Người ta tốt quá thì mình cũng phải tự hỏi: Mình có cái gì để người ta phải tốt đến thế?

Chị Hoàng gắt ầm lên:

- Mình sắp chết ngụp, có người giơ tay ra, có là con khùng mới không nắm lấy. Hãy cứ sống đã rồi sau sẽ hay!

Quân nói đầy bí ẩn:

- Cái hồi sau đã đến rồi. Phải tính nhanh nhanh lên, không thì kẹt.

- Họ muốn gì ở tôi nào? Khi cho vay chú Phùng không ra điều kiện. Bao giờ có thì trả, chỉ thế thôi.

- Cũng có nhiều cách trả, chẳng cứ bằng tiền.

- Mày bảo tao còn vốn liếng gì nữa ngoài đồng tiền?

- Còn hai đứa con trai, vốn của bà đó!

Chị Hoàng nhìn Quân sững sờ, rồi lại đưa mắt nhìn người em, miệng mím lại đanh đá:

- Không, tôi không có quyền gì với hai đứa con của tôi cả, chúng đã trưởng thành rồi.

Quân vẫn nói rất tàn nhẫn:

- Với họ đã vay là phải trả. Họ nhớ lâu và thù dai lắm.

Chị Hoàng không gầm thét nữa, chị trả lời rất lạnh lẽo:

- Họ có thể giết tôi, tôi đâu cần sống lâu hơn. Nhưng chớ có đụng đến các con tôi.

Tuấn, người con trai của chị, năm nay cũng xấp xỉ với tuổi tôi, vì chị lấy chồng rất sớm, năm mười sáu tuổi, mười bảy đã có con đầu lòng. Hiện nay Tuấn là một nhân viên cấp cao của tổ chức Liên hợp quốc, xu hướng chính trị hoàn toàn khác với mẹ và cậu, lấy vợ người Pháp, nhưng không nhập quốc tịch Pháp, biết ân hận, biết xấu hổ vì đã vắng mặt trong những năm tháng đầy gian truân của dân tộc. Người mẹ rất biết chí hướng của đứa con nhưng không chê trách. Chị bảo tôi: "Mình là người của một thời, nó là người của một thời, bắt nó phải giống mình thế nào được". Chị ghét cộng sản, nhưng tôn trọng niềm tin của con, chê bai Việt cộng, nhưng cũng chửi bới tuốt tuột các nhân vật chính trị của chế độ trước, một lũ học đòi, cắn hột cơm không vỡ thì làm gì nổi. Một chế độ lý tưởng chỉ có thể có, nếu "cậu Chương" là tổng thống, còn chị phải là bà cố vấn tối cao, chính chị mới là first lady, đệ nhất phu nhân, chứ không phải cô vợ quê mùa của ông tổng thống em ruột! Cả họ biết chuyện cứ cười lăn, ông bố tôi rất quý cô cháu cũng phải than thở: "Cái thân chị ấy từ sáng đến tối còn chẳng định được, huống hồ đòi định đoạt vận mệnh của toàn quốc!". Nếu chị được tham dự cầm quyền, ngay lập tức chị sẽ bỏ tù tất cả những người chị vốn ghét và mời làm bộ trưởng tất cả những ai đã được chị thương yêu. Sẽ là một chính phủ gồm những chàng trai thật trẻ đẹp, ăn mặc thật lịch sự, nói năng thật duyên dáng và phòng họp của nội các sẽ thơm tho, bóng láng như phòng nhảy. Những buổi rỗi rãi, chẳng có việc gì làm, tôi thường đến thăm chị để ngồi nghe chị chửi cộng sản, chửi tư sản và trình bày cái cương lĩnh chính trị của "nước Cộng hòa thơm phức và bóng láng". Thấy thằng em Việt cộng cứ ngồi nhăn răng ra cười, không giận, cũng chẳng buồn tranh cải, chị tức lắm: "Cả thế giới này chỉ có mấy ông cộng sản nhà mày làm chính trị vất vả, khổ sở đến thế chứ bọn tao trong này làm chính trị vui lắm, làm như tao vừa nói ấy, có điều họ thích nói chữ, mà tao thì diễn nôm thôi". Làm chính trị không cần chú ý đến kẻ thù (những người ghét vặt thì có), không cần dân chúng (chỉ có đám dân chúng mơ hồ trong các diễn văn), không cần đồng minh (chỉ có bạn xoa mạt chược, bạn ăn tiệc và người thân trong gia đình) thì nhất định là rất vui rồi. Trong năm năm qua, mỗi lần gặp tôi, chỉ lại trừng mắt, hỏi: "Làm sao lại thế?". Có giảng giải đến rách mép chị vẫn khăng khăng: "Việc gì phải thế!" Bây giờ thì tự chị phải cắt nghĩa lấy cho bao nhiêu cái làm sao, làm sao: "Làm sao chú Phùng lại thế?", "Nghĩ rằng chú ấy là người quân tử, làm sao lại...?", "Con chị là con chị, làm sao họ dám...?". Chỉ thương một nỗi chị không quen làm, cũng không quen nghĩ, từ bé đến già sống bằng sự nhờ vả, cung Nô là cung tốt nhất trong lá số của chị, chị khoe thế, bây giờ thời thế đổi thay nên lá số cũng đổi thay, tay chân chưa vất vả nhưng cái đầu đã muốn điên lên vì phả nghĩ ngợi xa gần. Bỗng dưng nét mặt chị như giãn ra, sáng lên, đã có niềm tin mới nào chăng?

- Quân này, cố đợi vài giờ nữa, gần tới giao thừa chị sẽ nói rõ với cậu cái ý định sắp tới của chị, hay lắm, thông minh lắm, chị mà bị kẹt hả, không đời nào, chị vẫn còn bảo bối tung ra lúc thật lâm nguy.

*

Bình nói với tôi:

- Chú đã biết chuyện một cán bộ khoa học của ta trốn chạy khỏi Tổ quốc của mình chưa? Chưa hả? Cái thằng ấy là bạn cháu, bạn chí thiết của cháu, nó tên là Dũng. Sau khi tốt nghiệp đại học nó về làm việc ở Viện nghiên cứu silicát, rồi đi nghiên cứu ở Đức, được các thầy khuyến khích làm luận án thi tiến sĩ. Dũng nước cuối năm 76, vào thành phố này làm ở phòng kỹ thuật của Sở công nghiệp. Ba mươi lăm tuổi vẫn sống độc thân, ở nhà tập thể. Người hắn nhìn ngoài thì nhỏ thấp, hiền lành, nhưng cực kỳ thông minh và quyết đoán. Khi ta cải tạo một nhà máy bột giặt, Sở liền đưa Dũng về phụ trách công tác kỹ thuật. Cách làm việc của Dũng cũng hay lắm, trách nhiệm phải rành rọt, của tôi, của anh, của nó cho phân minh, không có cái gọi là tập thể mù mờ hỗn độn, đến lúc hỏng trật không còn truy tìm được trách nhiệm thuộc về ai, thì "tất cả anh em chúng tôi" đều chịu mà. Cái "tinh thần tập thể" ấy chỉ khuyến khích kẻ bất tài, lười biếng, kẻ nhút nhát, và cả những thằng ăn cắp nữa. Giám đốc xí nghiệp vốn là thợ đúc ở Hải Phòng, nhưng thưa với chú, đây là một nhà máy hóa chất ạ. Có lần xí nghiệp bị kẹt ít ngày về cung ứng vật tư, ông giám đốc lập tức gào lên: "Nếu không có, tôi sẽ cho đóng cửa nhà máy"!. Rồi ông ta làm găng hơn, chẳng biết nghe đứa nào xúi giục, lập văn bản gửi lên ủy ban thành phố và Sở Công nghiệp tuyên bố tạm đóng cửa nhà máy thật. Cháu được giám đốc công ty cử xuống điều tra, chuyện bố láo cả, chỉ thiếu có một số vật tư dự trữ, chưa ảnh hưởng tới công việc trước mắt mà dám hạ lệnh cho công nhân nghỉ việc. Do dốt quá, quá dốt, nghe anh em họ kêu đã vội tin ngay là đúng. Lại tập thể! Tập thể phải có cái đầu chứ, anh ăn lương cao để làm một thành viên vô danh trong một tập thể lù mù sao? Ông này phải chuyển đi, xí nghiệp không có giám đốc mà chỉ có hai phó giám đốc, một là thằng Dũng mới được đề bạt và một ông cũng có biết qua nghề rèn dũa gì đó. Dũng chạy lên công ty, hỏi thẳng: "Tại sao các ông không cho tôi làm giám đốc? Hai phó giám đốc! Làm ăn gì mà kỳ thế!". Giám đốc công ty bảo: "Mày sơn đỏ mày đã rồi tao đề bạt cho". Nó nổi khùng lên: "Các anh muốn sơn đỏ tôi lúc nào mà chẳng được. Tôi là con liệt sĩ, từ bé đến lớn do cách mạng nuôi nấng, đào tạo còn chưa đủ tin à?". Có lần, Dũng nói với cháu: "Tao chán mấy cha ở chỗ tao làm việc quá. Họ thiếu sự thẳng thắn, thật thà lại không dám quyết đoán. Mày đừng ngồi trên công ty nữa, xuống xưởng với tao đi, chúng mình sẽ tổ chức lại cách làm việc theo một nề nếp mới". Cháu cũng bảo nó: "Làm việc với mấy ông trên đừng có nổi nóng mà hỏng cả. Rồi mày cũng phải phấn đấu vào Đảng đi, không là đảng viên sao đủ được tin để giao việc". Nó vẫn cười cợt: "Tao làm việc thật tốt, chẳng lẽ cấp trên cứ ngờ tao mãi". Hình như cháu bắt đầu nghĩ ngợi có giống chú chút ít thì phải, nghĩa là, nghĩa là... muốn khuyên nó nên nhân nhượng, nghĩa là đừng quyết đoán quá. Anh công nghiệp phải hạ mình xuống thành anh nông nghiệp, cái trách nhiệm cá nhân phải hòa tan trong cái lãnh đạm của tập thể, cái sắc sảo thì mài cùn đi thành cái mù mờ, cái tiên phong thì tụt lại một chút để khỏi bị xung quanh ganh ghét. Tự biến hóa thành kẻ vô danh, là tôi mà chẳng phải là tôi, công thì được hưởng mà tội lại không phải gánh lấy, tội của mọi người, tội của trên, của dưới, của tất cả, chứ không phải của riêng một ai, nhất là không phải của tôi. Thiệt, nhà nước chịu, cái đại tập thể chịu, chứ cái tiểu tập thể vẫn có thể yên tâm mà ngủ kỹ. Một năm sau Dũng được đề bạt làm giám đốc một xí nghiệp bột giặt, dẫu rằng nó vẫn chưa được sơn đỏ. Tức là trên đã khuyến khích nhân tài, đã phân công hợp lý, và sửa chữa như vậy cũng là nhanh. Cháu chưa kịp mừng cho nó, mừng cho chúng cháu, vì Đảng đã dám tin một người tức là dám tin một thế hệ, thì cái thằng ấy, chính cái thằng Dũng ấy là mắc sai lầm, một sai lầm cũng tầm thường như trăm ngàn người khác. Nó có yêu một cô là nghệ sĩ hát cải lương, hai bên đã hứa hôn và chuẩn bị làm lễ cưới. Lúc này anh chàng đang rất cần tiền. Nó liền ký một số giấy giới thiệu tới xí nghiệp giấy mua giấy quyến và giấy pơ-luya, loại khổ một mét vuông, khoảng năm trăm tờ. Là mua cho nó thôi, và việc mua bán này đã được một người trong ban giám đốc xí nghiệp giấy thỏa thuận. Nào ngờ cái người đã thỏa thuận lại giữ các giấy giới thiệu do Dũng ký, đưa lên trên báo cáo. Dũng tức giận đến phát điên, nó than thở với cháu: "Cái thằng chó đẻ, nó có thỏa thuận mình mới dám làm, ai ngờ chính nó lại ủn mình vào bẫy". Chú Tường, phó giám đốc công ty, là phó tiến sĩ về hóa chất cao phân tử, rất tin bọn trẻ chúng cháu, nên hoàn toàn bị bất ngờ trước sự lừa lọc của Dũng để kiếm ra đồng tiền. Nhưng chú vẫn tha thứ và tin dùng Dũng như trước đây. Chú Tường là một mẫu người rất hay, chú Việt ạ. Con người đó mới là nhân vật chính của văn học, vì cuộc đời của họ dầy lắm mà sự cống hiến của họ cho đến hôm nay vẫn còn rất to lớn và có ý nghĩa quyết định. Năm chục tuổi, nhưng rất trẻ, một người cháu tin rằng sẽ mãi mãi trẻ. Khi biết Dũng ký giấy tùm lum mua giấy cho riêng mình, chú Tường nói với cháu đầy lo lắng: "Người có tài mà hám tiền, hám danh là rất đáng ngại. Anh ta sẽ không nghĩ tới sự cống hiến nữa mà chỉ còn lo có chuyện kinh doanh sinh lợi mà thôi. ở đâu sinh được lợi, anh ta sẽ đặt vốn vào đó". Hai tháng sau, thằng Dũng và cô vợ chưa cưới trốn ra nước ngoài, theo đường dây tổ chức trong Chợ Lớn, nghe nói nó đi không phải mất tiền, nước ngoài họ đang cần mua chất xám, dầu phải tiêu cả vài chục lạng vàng để được một nhà khoa học cũng vẫn còn là quá rẻ.

Một câu chuyện hơi buồn chú nhỉ, người bất tài mà ở cương vị phụ trách thì tất cả sẽ rối tung, người có tài nhưng hám danh hám lợi thì dễ mất cả Cách mạng lẫn Tổ quốc. Nhưng các chú vẫn cứ nên tin ở bọn cháu đi, dẫu có bực, có ghét vẫn cứ phải tin, vừa giao vừa dạy vậy, phải mất công tí chút chứ biết làm sao.

*

Lại tranh luận về Thiền. Diễn giả mê say nhất luôn luôn là anh Chương.

- Nói về Thiền tức không còn là Thiền nữa. Đạo mà nói ra được không còn là đạo nữa. Tinh hoa của Thiền theo tôi là nghệ thuật tập trung tư tưởng ở mức tuyệt đối. Một tờ giấy cầm lỏng lẻo ngón tay không thể đâm thủng được, nhưng mũi kim có thể đâm thủng, vì nó nhỏ hơn nên bén hơn. Tập trung sự suy nghĩ của mình cho thật nhỏ lại, cho cực kỳ nhỏ thì không có sự bí mật nào của tạo hóa không bị khám phá. Vĩ nhân hơn người thường chẳng qua họ biết cách tập trung sức suy nghĩ của họ ở mức cao nhất. Các cụ xưa thường nói: Tâm viên ý mã, cái tâm của con người chạy nhảy như vượn như ngựa, nên tạp ý nhiều, cái tinh túy bị che lấp. Thiền là lọc bùn cho viên kim cương được lòi ra cho Phật tính được hiện ra.

Tôi hỏi:

- Người đã Thiền đầu óc có sáng suốt hơn người chưa biết Thiền không?

- Tất nhiên là tỉnh táo, sáng suốt hơn bọn ta rồi. ở Mỹ, có một người Thiền tới mức nhìn thấu cả nghiệp trước của người khác. Người ta đưa tới cho ông ta coi một cô gái mắc tật nắm chặt bàn tay mặt, thuốc men đã nhiều nhưng không khỏi, bàn tay chỉ mở ra được ít ngày lại từ từ co ngón nắm lại như cũ. Ông ấy bảo ngay bàn tay oan nghiệt kia kiếp trước đã giết nhiều người quá, nay sám hối đi thì có thể lành khỏi. Quả nhiên như thế thật, sau khi mở được bàn tay cô gái liền quy Phật. Bên Mỹ đạo Phật cũng phát triển lắm.

Tôi nói:

- Một thế kỷ nữa nước Mỹ sẽ có thêm vài triệu tín đồ theo đạo Phật vì đức Phật đã giúp họ mở được một bàn tay.

Anh Chương cười xòa:

- Cũng có thể, có thể lắm chứ.

Anh Quý:

- Tôi có biết một triệu phú Mỹ hằng năm sang Nhật giam mình trong Thiền viện một tháng. Trước đây ông ta chỉ là triệu phú, sau khi học Thiền ông trở thành tỷ phú, không khéo bây giờ thành tỷ tỷ phú cũng nên.

Tôi kêu to:

- Đức Phật bất công quá!

Anh Quý:

- Về sau thằng cha có viết sách thú nhận nhờ có Thiền tạo được cho hắn sự cân bằng trong tâm não, nên đầu óc thông minh hẳn lên, các ngón tẩy của đối phương trên thương trường hắn nhìn thấu cả, quyết định các việc không hề sai trật một ly.

Mặc anh Chương thoáng đỏ:

- Thằng Mỹ dẫu có theo Lão, theo Trang vẫn cứ kiếm được ra tiền. Cái đầu óc thực dụng của nó nhìn ra đồng tiền tinh lắm.

Tôi nói với anh Hảo:

- Anh ở cùng với anh Chương mà không học Thiền để di dưỡng tính tình?

Anh Hảo cười nhẹ:

- Tôi vẫn Thiền đấy chứ, nhưng theo cách của tôi, mà cũng chẳng nghĩ rằng đó là Thiền. Không biết Thiền là siêu đẳng lắm. Thế nào là hi ngôn, tự nhiên, ít nói, để cho tự nhiên. Cậu Chương lý luận nhiều quá tôi e rằng khó mà đạt được cái đào của Thiền.

- Tôi không đạt tới cái huyền nhiệm của Thiền thì đã chết rũ xương ngoài kia rồi.

- Tôi không nhằm đạt tới cái gì cả, không nghĩ mình sẽ thu được cái lợi gì cả, kiến tố, bão phác tôi chỉ cốt giữ cái giản dị, cái tự nhiên thôi.

Anh Quý nghe đã có vẻ chăm chú:

- Nhưng theo được cái cách Thiền của anh thì khó quá!

- Không khó, khó quá lại không phải là đạo nữa. Tôi sống như nước, thượng thiện nhược thủy bậc thượng thiện sống như nước. Nước luôn luôn có khuynh hướng nhập vào dòng lớn chảy ra đại dương. Mà tự nhiên, mà thanh thản.

- Xin lỗi, sắp sang năm mới không nên nói đến chuyện chết, nhưng nếu phải chết anh sẽ di ngôn cho con cháu điều gì?

- Tri túc chi túc biết đủ trong cái đủ. Nhưng mà khó, người ta chỉ hiểu được khi đã trong ngoài bảy mươi thôi.

Tôi pha trò:

- Tạo hóa thật khéo, chỉ cho hiểu khi đã gần kề cái chết. Nếu còn trẻ đã hiểu thì cuộc đời mất mọi cái vui, ai nấy đều mực thước, đều siêu thoát thì em phải bỏ nghề.

Anh Quý:

- Thằng Việt là đại ích kỷ. Lúc nào nó cũng chỉ nghĩ có cái nghề của nó.

Tôi vẫn bông đùa:

- Anh mà không ích kỷ? Miễn là cái tài ngoại giao của mình thật là sáng chói là đủ, bất kể cái đích của nó là thiện hay ác.

- Nhưng tôi đã bắt đầu hiểu.

- Em nói có sai đâu. Người ta chỉ hiểu khi đã không thể tham được nữa.

Anh Hảo:

- Việt nó nói đúng. Người ta chỉ hiểu khi đã gạt bỏ được mọi tham vọng cá nhân. Còn vị kỷ là dễ lầm lắm.

Anh ngừng lại một chút rồi nhướng mắt hỏi tôi:

- Việt có tin rằng riêng anh thì đã hiểu từ năm còn rất trẻ không?

Tôi trả lời rất thành thật:

- Vâng, với anh thì em tin.

Anh Hảo tốt nghiệp trường luật ở Paris, về nước được chính chủ bảo hộ bổ nhiệm làm tri huyện, một chức quan cai trị vào loại cà mèng nhất. Ông bố tôi là dân tham biện chuyển sang ngạch quan lại, học vấn và uy danh tất nhiên không thể bằng ông cử nhân luật, nên cụ có vẻ thích thú cái chức vụ mới đó lắm, thì có cà mèng vẫn cứ là quan lớn và vợ quan lớn tức thị là bà lớn và bà lớn có thể kể với họ hàng: "Ông huyện nhà tôi...". Ông huyện nhà tôi thì sang hơn "ông tham, ông phán, ông ký nhà tôi" rồi. Cái năm chú vợ cháu rể gặp nhau tại huyện Kim Động cũng rất thú vị. Anh cháu thì chán nản, treo ấn từ quan để trở về cái ghế luật sư tự do của mình, ông chú thì hí hửng đến nhận huyện mới thay cháu, với hy vọng một hai năm nữa sẽ được quan trên thương mà thăng lên tri phủ, vì huyện Kim Động là huyện to, thường gọi là phủ Kim Động, có thể gọi ông huyện Kim Động là "tri phủ chờ" cũng được. Bốn mươi năm sau, hai chú cháu gặp nhau ở Sài Gòn và tôi là người được chứng kiến. Ông chú nói ngậm ngùi:

- Năm nay anh đã sáu chục chưa?

- Sáu mươi thế nào, sáu nhăm rồi chú ạ, chú hơn cháu mười tuổi, phải không?

- Nhưng anh còn khỏe quá, trẻ quá. Người cách mạng hình như trẻ lâu hơn bọn tôi.

- Biết đủ, hễ biết đủ thì sống thanh thản lắm.

- Anh dám chịu mất hết bây giờ lại được cả. Tôi cố giữ cái được của tôi, hóa ra lại mất hết.

Anh Hảo là người sướng từ trong trứng, bố tôi thì thế nào được. Cái đại gia đình ấy có cả hai vế: tân học thì có một tiến sĩ, một luật sư, cựu học thì có một phó vương và một khâm sai đại thần. Họ sang đến thế mà họ theo cách mạng được, cả ông phó vương lẫn ông khâm sai đại thần. Còn ông tri huyện khăng khăng bảo thủ chế độ cũ, muốn sống chết vì nó, từ chối mọi sự thay đổi. Thượng thư dám nói tục, đùa tục, họ có nói tục cũng không ai dám nghĩ cụ lớn là dân hèn, còn tri huyện, tri phủ lại thích nói chữ, thích mùi vị quan cách. Con cái những gia đình thật phú quý một đôi trường hợp lại thức thời, con gái những gia đình nửa quý nửa tiện có khi lại khó, do cách giáo dục trói buộc từ nhỏ. Những công dân - công tử theo cách mạng nửa đầu rất hăng hái, rất nết na, nghiêm trang như kẻ tân tòng một tôn giáo. Lấy vợ nông dân, ăn cơm giở đầu đũa, gọi nhau là đồng chí, gia đình có gửi vàng tiếp tế cũng không nhận mà còn viết thư mắng mỏ, vì sự săn sóc riêng tư ấy đã làm nhơ nhuốc cái tâm hồn trinh bạch của người chiến sĩ cách mạng. Nhưng cái nửa sau xem ra không được hồn nhiên như cái nửa đầu, có vẻ mệt, có vẻ chán, có vẻ thất vọng vì cái hôm nay không giống mấy những mơ mộng của hôm qua. Thì ra đã cách mạng rồi mà vẫn giữ còn giàu với nghèo, còn sang với hèn, còn sạch với bẩn, chưa có bình đẳng cho tất cả, cũng chưa có công bằng cho tất cả. Nhưng cách mạng là chuyện của lịch sử, của con người, chuyện của trần gian, với bao nỗi nhọc nhằn, cay đắng của trần gian. Chưa bao giờ và sẽ không bao giờ nó là chuyện của thượng giới, của tiên cảnh, ngoại trừ trong cái đầu đầy mộng tưởng của các công tử đi làm cách mạng. Anh Hảo là đại công tử đi làm cách mạng, nhưng thật may, anh vẫn giữ được cái nhìn đắm đuối, nụ cười hồn nhiên từ trẻ đến già. Chẳng phải vì anh từng trải quá mà hiểu được đời, chỉ vì trời đã cho anh cái tính chất phác, giản dị, tự nhiên. Mấy năm đầu đánh Pháp anh làm thứ trưởng một bộ trong chính phủ kháng chiến. Về sau bộ đó không còn, anh xuống làm vụ trưởng. Có thời anh được tin, có thời anh bị ngờ, rồi anh lại được tin. Được tin hay không được tin anh vẫn làm việc hết lòng, vẫn vui cười, và khi được tham dự các cuộc họp anh vẫn nói rất to những điều anh cho là đúng, là phải. Vì anh làm việc ở tòa án nhiều năm, nên anh luôn luôn nhắc nhở mọi người phải chú ý tới vai trò của tòa án, nó là một trong ba cơ quan bảo vệ và phát huy sức mạnh của luật pháp, luật pháp là cơ chế pháp lý của quyền làm chủ tập thể. Có lần tôi nói với anh rằng trong cái hiểu của tôi thì anh công an giống hệt anh bộ đội, là một chiến sĩ cầm súng chiến đấu trên một mặt trận không có chiến tuyến, không rõ kẻ thù, không có ngưng nghỉ và có thể bị đâm từ sau lưng bất cứ lúc nào. Còn anh kiểm sát và tòa án là những viên chức đeo kính trắng ngồi bàn giấy, thuộc lòng các điều luật, nghiệt ngã, chấp nhặt, bắt bẻ. Tôi nói bậy bạ đến thế mà anh không giận, anh vẫn trả lời từ tốn: "Trước mặt chúng tôi không chỉ có kẻ địch mà còn có những người vi phạm pháp luật, là cậu, là tôi, là các con tôi, thậm chí có cả cấp trên của chúng ta nữa. Với kẻ địch chắc chắn anh em ta không thể đầu hàng, nhưng với bạn bè và người thân có khi chúng ta phải buông vũ khí. Đã thấy khó chưa? Rất khó! Có cần phải can đảm không? Rất cần! Với chúng tôi, cái dũng khí của người cách mạng là tất cả". Một ông già đã bảy mươi, xuất thân từ một gia đình đại quý tộc, theo cách mạng đã non bốn chục năm, khi nói tới cái dũng khí của người cách mạng ánh mắt vẫn long lanh, nghe mà cảm động. Anh sống phảng phất như tín đồ Lão Trang, nhưng lại hoạt động mê say và đầy trách nhiệm, đã nghỉ hưu từ dăm năm nay, nhưng vẫn nhận đủ mọi thứ việc theo hợp đồng với cơ quan cũ, vẫn tham dự các hội nghị quốc tế về pháp luật, đầu óc vẫn minh mẫn, trí nhớ không suy giảm, ăn khỏe, ngủ ngon, dáng dấp nhanh nhẹn như còn đang tuổi cường tráng. Anh bảo tôi: "Lão tử sống một trăm sáu chục tuổi, tôi cho là có lý, vì ông già ấy sống khôn lắm. Sống thật thanh thản chẳng những sống được lâu mà làm việc cũng được lâu". Anh Hảo nhận xét về cậu em rất đúng. Anh Chương phải lý lẽ mới Thiền được. Thiền phải là một cái được của anh khi anh đã chịu mất bao nhiêu cái khác. Ông em đọc sách Thiền, tìm thầy học thiền, thích bàn bạc về Thiền, Thiền đối với anh đã là một tôn giáo mới, cần có giáo lý, có thầy giảng, có tín đồ, và cái không khí ủng hộ. Ông anh mỉm cười: "Thiền thuộc về tâm học, kẻ biết không nói, người nói không biết, nó là bất ngôn tri giáo (12)". Ông em muốn đạt tới sự ngộ đạo bằng nghị lực, bằng diễn văn, bằng sự tính toán trước như chương trình tranh cử vào thượng viện. Ông anh lắc đầu hoài nghi: "Thiền chủ trương không tranh, không muốn, đã muốn là có lòng tham thì Thiền làm sao?". Tôi biết cái ý tứ sâu xa của anh Hảo, anh không Thiền, cũng chẳng ham, anh là thế, như trời đất sinh ra, hồn nhiên và chất phác, làm việc cho cách mạng, tranh cãi cho chân lý vẫn là Thiền, ngồi nhà đọc sách, chơi với các cháu cũng là Thiền, mà anh đâu có để ý tới cái Thiền, không phản đối nhưng cũng chẳng có gì để mà tin. Tin làm gì nhiều thế? Tin rằng cuộc đời dẫu thế nào vẫn cứ là tốt đẹp, cách mạng dầu có chuyện gì cũng vẫn là phát triển, tiến bộ. Thế là đủ, đã rất đủ để làm việc, để vui chơi, để an nghỉ. Cuộc tranh luận thế nào là Thiền giữa hai anh em đã kéo dài một năm nay, từ lúc anh Chương ở ngoài Bắc về và định cư tại nhà anh chị Hảo.

Anh Chương nói với anh Hảo:

- Anh có thể chê tôi ngu vì tôi hay ham. Mọi sự khốn nạn của đời tôi là do cái lòng ham. Nhưng cứ xem, tướng quân muốn làm hoàng đế, thứ phi muốn lên chánh cung, nước giàu muốn thêm thuộc địa, đấy, đấy, đã muốn tức là có tham, đã tham là lắm sự khốn nạn lắm. Rút lại tướng quân bị rơi đầu, thứ phi bị thảm tử, nước giàu thành nước nghèo, không được cái gì hết, nhưng không ai rút kinh nghiệm cả, đời sau vẫn theo vết xe đổ của đời trước, người sau cứ theo cái kinh nghiệm thất bại của người xưa, tham cả, do cái tham nó xui khiến cả. Tôi sẽ còn lý luận về Thiền, vì tôi muốn đạt tới chỗ sâu thẳm của nó, tại sao người khác đắc đạo mà tôi lại không thể? Vô lý! Rất có thể tôi lại sẽ thất bại như làm giáo dục thất bại, hợp tác với Mỹ thất bại, liên minh với cộng sản thất bại. Thất bại dài dài, nhưng tôi không tiếc đời đâu, một đời người được tiêu vào những cái muốn của mình làm say mê lắm. Chỉ vì cái muốn của mình không thức thời, nói theo ngôn ngữ hôm nay, là một chướng ngại trong sự vận động chung, nên mình cam chịu thất bại. Nhưng tôi vẫn còn nhiều ham muốn lắm nhé! Luôn luôn ham muốn, chỉ cầu rằng cái ham của tôi không làm tổn hại đến một ai.

Truyện ngắn

Nguyễn Khải

Gặp gỡ cuối năm

- 6 -

Chị Hảo đang thề sống thề chết với cả nhà rằng năm vừa rồi chị túng lắm, sang năm mới có vận mới thế nào, chứ tiêu pha như hiện nay thì chỉ ít tháng nữa phải bán hết nhà cửa, đồ đạc, vợ chồng, bà cháu đến dắt nhau trở ra Hà Nội thôi.

- Hai ông bà già, tám đứa cháu cả nội cả ngoại, mười miệng ăn, một mình tôi xoay sở sao nổi, sắp bị gậy đến nơi chứ sung sướng nỗi gì? Năm mới vào tôi lên mười cân, tháng trước cân lại tụt xuống gần như cũ. Mà ai cũng bảo bà Hảo phải có trong tay vài chục lượng vàng.

Chị Hoàng vênh mặt lên:

- Cô khổ mặc xác cô, nhưng làm sao mà khổ được. Năm cô mới vào thì cô túng, cô khổ, còn bây giờ thì cô sướng nhất họ. Mỗi tháng một thùng đồ từ ngoại quốc gửi về lại còn mở miệng kêu khổ, không sợ người ta chửi cho.

Chị Hảo thở dài đến não ruột:

- Ôi giời đất ơi, một tháng có thùng đồ thì chẳng có, nhưng một năm cũng được nhận giấy báo lãnh vài bốn lượt. Đi lãnh đồ hồi hộp như chờ ngày xổ của vé số ấy. Cũng là một kí lô hàng, người ta thì gửi cho nhau nào là radio cassette, là lụa Pháp, là Campollon, B12, cầm nhẹ tênh tênh nhưng bán ra toàn tiền ngàn cả. Hôm nọ em ra lãnh hàng ở Bưu điện có một bà nhận một gói hàng sao mà bé thế, mà nhẹ thế, đến lúc bà ta tháo dây, mở hộp, hàng tơ Pháp nó bung ra bằng một gian nhà, phải cả trăm mét, họ cuốn gói thế nào mà khéo ơi là khéo, cũng gọi là một kí lô hàng! Đằng này anh em con cháu toàn loại trí thức dở hơi, gửi cho chú thím, anh chị những bông gòn, hộp quẹt, những mì ăn liền, đường vàng, rồi cả slip và bánh mì sấy khô. Mở ra mà xấu hổ, đến người giao hàng họ cũng phì cười.

Anh Đại đã cởi áo ngoài, đầu hơi ngoẹo về một bên vai, mi mắt hơi cụp xuống như ngủ, một cách ngủ chập chờn của người già, bỗng mở choàng mắt nhìn ngơ ngác xung quanh, rồi nhìn cô em miệng múm mím như cười.

- Đừng kêu khổ, khổ hay sướng là do mình cả.

Chị Hảo càng kêu rên:

- Thì tại em cả mà. Một đời vất vả vì chồng vì con làm sao mà nhàn, mà sướng!

Anh Đại lắc lắc đầu, vẻ mặt hiền lành, mềm dịu như Phật sống:

- Không phải, tại cô nghĩ đến đồng tiền nhiều quá. Đồng tiền nó lạ lắm, càng đếm lại càng thiếu. Các cụ đã dạy: chớ có đếm tiền!

Anh Quý:

- Sao bảo sang năm mới, chị có Song Lộc chiếu?

- Thì nghe ông Chương nói thế, chứ đã có gì cầm chắc được.

Chị Hoàng cười khẩy:

- Bói toán con tườu, tính được tương lai đã không đến nỗi khốn nạn!

Anh Quý hỏi thành thật:

- Anh Chương biết được mệnh mình, tại sao năm 75 không đi luôn còn ở lại làm gì cho khổ?

Anh Chương trả lời rất tự nhiên:

- Biết chứ, vì biết được mệnh mình nên tôi mới không đi.

Chị Hoàng bĩu dài môi:

- Đừng có nói phét. Sao không dám bảo thẳng ở lại để chờ ngày làm tổng thống!

Anh Chương:

- Năm ấy, trong lá số tôi, Thiên Khôi nằm cung Sửu lại gặp Tuần gặp Không. Cái đầu mà gặp đao có bằng thép cũng phải rơi. Đi là chết, ở lại chịu đày đọa ít năm thì thoát. Tôi yên tâm ở lại, có bảo là ngu là khùng tôi vẫn ở lại.

Anh Đại gật gù:

- Biết được trước hả? Hay nhỉ. Ông Phan Huy Quát lãnh tụ chống Cộng mà dám ở lại chắc cũng là do cái số?

Anh Chương vẫn nói không cười:

- Cái đại hạn mười năm vừa rồi của tôi xấu lắm. Nửa đầu thì lên cao, nửa sau thì xuống thấp. Toàn hung tinh cả: Thiên Hình, Kình Dương, Lực Sĩ, Thất Sát, bị tù bị trói, bị đánh là lý đương nhiên. Còn đại hạn mười năm tới thì đẹp hơn nhiều, toàn sao lành: Thái Dương, Thái Âm, Tả Hữu, mà lại đắc địa. Nhưng bảo cầm chắc cả mọi việc đều tốt thì cũng khó lắm, còn ăn nhau ở cái đức nữa. Đức năng thắng số. Phật cũng bảo: cái đức có thể đổi được cả nghiệp. Năm ông cụ nhà này tổng đốc Hải Dương, có một tay tri phủ, tuổi chưa đến ba mươi mà làm nghề cai trị tuyệt giỏi, lại tài hoa. Ông cụ bảo hắn đưa lá số cho xem thì lá số đẹp quá, vào loại thượng cách, đã phải khen "thằng này chỉ khoảng bốn mươi tuổi phải làm đến đại thần". Trong dinh có một ông lục sự giỏi nghề tướng số lắm, khi ông cụ đưa lá số kia cho ông coi, thì ông ta than: "Cụ lớn kỳ vọng vào cái bộ xương khô này mà làm gì. Cung phúc đức của ông ta kém quá". Không ai tin hết. Nửa năm sau tay tri phủ bị tai nạn xe hơi chết thật. Đấy, cái đức thắng cái số là như thế. Lại một chuyện vui nữa. Năm tôi đi học tập ngoài kia, có một cựu đại tá, cải tạo đã rất tốt, bỗng dưng chuồn mất. Thằng điên thật, ngay ở trong này cứ luẩn quẩn trên đất liền cũng khó thoát, nữa là ngoài kia. Hai hôm sau hắn bị anh em dân quân bắt được, dẫn về, phải cùm chân xích tay mất nửa tháng. Rồi hắn cũng được tha, cho về cùng một lần với tôi. Đi đường tôi hỏi hắn: "Cậu tính thế nào mà dám liền đến thế?". Hắn nhăn răng cười: "Trong lá số tôi, cung Giải ách có Hóa Khoa. Bao nhiêu lần đã kề cái chết mười mươi mà rồi thoát cả. Nghĩ rằng cứ trốn bừa đi, may thì lọt, mà có bị cung Giải thì lợi hại nhất, gươm có kề cổ vẫn thoát như thường.

Tôi hỏi anh Quý:

- Riêng anh có tin ở tử vi không?

Anh Quý cầm tẩu ở tay, nói tư lự:

- Trước kia tôi cũng không biết có tử vi nữa, mình làm mình chịu vệc gì phải hỏi ai. Cái năm tôi bị mấy ông cách mạng tạm giữ hai tuần, trong bụng đã lo quá, trung úy, đại úy còn đi tù huống hồ anh đại sứ. Khi anh em cán bộ hỏi xu hướng chính trị của tôi, tôi đáp: "Tôi không làm chính trị, tôi chỉ là viên chức của Bộ ngoại giao thôi". Họ nhìn nhau cười, rồi vặn: "Đại sứ khng làm chính trị thì ai làm?" - "Chỉ mấy thằng bự thuộc đảng này phái kia họ làm thôi, còn bọn tôi có ai để tâm đến chính trị, tôi là phản động nay đã hối cải, có khi họ thương là thật mà tha cho. Thật tình mình không để tâm tới chính trị, mà chỉ mài giũa có cái nghề của mình, cái toi cũng không tin, hả? Vậy mà mấy ông cách mạng tin đấy, có tin mới cho mình tự do thế này chứ! Bị giữ đã mươi hôm, nóng ruột quá, ăn khổ, ngủ khổ, tắm khổ cũng được, không sao, nhưng mà lo, lo phải ngồi tù đến mãn đời. Đến ngày thứ mười một, có một thằng cha làm ở tòa án bị giam cùng phòng, lấy giúp mình một lá số. Tính toán một hồi rồi bảo tiểu hạn của ông nhẹ lắm, có quý nhân phò trợ, chỉ nội năm sáu ngày nữa là được tha thôi. Chuyện bố láo! Quý nhân bây giờ đều là ngụy cả, phò trợ cách nào? Mà có được nhận xét đến thì cũng phải dăm ba tháng nữa là nhanh. Đến ngày thứ mười lăm, có một anh cán bộ bước sồng sộc vào phòng giam, hỏi to: "Ông nào là Bùi Quý?". Tôi đứng lên. "Ông mang tư trang theo tôi nhá!". Tôi xếp quần áo gối đầu cho vào cái túi xách tay, chào anh em rồi bước ra cửa, nghĩ bụng phen này là án đã thành, chưa biết bị giam ở Chí Hòa hay lao khám nào khác. Không chừng còn bị đưa ra ngoài Bắc cũng nên. Ông làm ở tòa án bỗng gọi theo: "Ông Quý, còn bát đũa của ông này!". Anh cán bộ bảo: "Khỏi cần!". A, thằng tù không cần mang theo bát đũa thì hoặc đem bắn, hoặc tha về. Bắn chắc chưa phải, hẳn là tha rồi. Tha thật, ở tù đúng mười lăm ngày. Sao lại may mắn đến thế! Về nhà nghĩ cứ sợ mãi cái lão làm ở tòa án. Chẳng hiểu cái thân của ông ta nay ra sao, vẫn còn ở trong tù hay đã được trở về với gia đình?

Quân đã đòi thêm một tách cà phê pha đặc, khen bà Bơ pha quá ngon, nếu mở quán có thể vào loại nổi tiếng, ấy là với những khách hàng cốt đến uống tách cà phê ngon chứ không nhằm cái gì khác.

Chị Hoàng che miệng cười:

- Này, tôi với bà Bơ có thể mở quán cà phê ôm được đấy!

Anh Chương cau mặt:

- Cái bà này ăn nói mỗi ngày một tệ.

- Bây giờ đổi đời rồi bố trẻ ạ. Bà xuống làm con, ông xuống làm thằng. Cho tôi hỏi, hồi ở ngoài kia đã có lúc nào ông bị người ta gọi là thằng chưa?

Quân nói lảng:

- Chỉ có mấy người ngồi đây mà đã có hai nhà trí thức cỡ bự tin ở tướng số rồi. Cái "đảng" này xem chừng mạnh dữ a!

Anh Quý chữa:

- Chưa hoàn toàn tin như ông Chương, nhưng cũng đã bắt đầu có tin.

Quân:

- Anh tính toán những việc sắp tới bằng tử vi hay bằng sự hiểu biết của chính anh?

- Phải là mình chứ, nhưng cũng có trông chờ chút ít vào cái vận may rủi. Mọi người đều thế cả, hay riêng nhà báo thì không thế?

Quân cười khó hiểu:

- Tôi cũng có được một cách đoán vận may rủi, thường là đúng lắm, nếu anh muốn thì lát nữa tôi coi cho.

Anh Quý ngồi nghiêng người, tay cầm tẩu tì nhẹ lên cạnh bàn, mắt hơi nheo lại nhìn anh chàng nhà báo, một cái nhìn thật kiêu kỳ, thật trí thức:

- Anh đoán thế nào được cái vận sắp tới của tôi, không một thuật ngữ nào đoán được cả. Nếu tôi có được một chỗ dựa vững chắc cho một cách nghĩ, tức khắc tôi sẽ biết cách tự khu xử...

Rồi anh nói với anh Hảo:

- Tôi giống anh rất nhiều phương diện chỉ khác nhau anh chọn lựa đúng nên anh thắng, tôi chọn lựa nhằm nên tôi thua. Anh không phải thay đổi một cách nghĩ, còn tôi phải làm lại từ đầu. Hiện nay trong tôi là một khoảng trống đến dễ sợ. Tôi không tự giải đáp được tất cả, tôi chưa tìm ra một lý lẻ nào để sống, sống với các anh, sống cho riêng tôi. Các anh là những người yêu nước vĩ đại nhất, đúng! Các anh dám hy sinh tất cả những gì thuộc về cá nhân cho nền độc lập của Tổ quốc, đúng! Nhưng các anh có biết thương cái số phận khốn khổ của người dân trong này qua nhiều cơn biến loạn không? Trong các diễn văn thì có nhưng còn những biện pháp thực hiện cụ thể? Các anh có rộng lượng, thể tất cho những kẻ đã từng hợp tác với địch không? Chính sách thì nói rõ lắm, nhưng còn trong cách đối xử hằng ngày? Nghe người trên nói tôi tin, nhìn đến người dưới làm lại buồn, lại không tin nữa. Sáng thì tin, tối lại không tin. Tin và không tin, sống không nổi, anh Hảo ạ. Năm 45 và năm 54 rất khác với năm 75. Thời thế khác, nhân tâm khác, có bao nhiêu quan niệm đã đổi khác từ ngày Mỹ sang, không dễ một sớm một chiều đã xóa bỏ được. Các cụ bảo: đa thư thì loạn tâm, càng biết nhiều càng bối rối, nhưng không biết nhiều thì làm sao định được thế nào là thật, thế nào là giả và mình phải lựa chọn cái nào? Phải lựa chọn mỗi ngày và qua mỗi việc. Họ nói thế làm thế là đúng hay sai? Hình như lúc này tôi nghe bên nào nói cũng có điều phải cả. Mà đã phải cả tức là không còn phân biệt chính tà nữa, thái độ hỗn loạn, hành động hỗn loạn, tưởng là làm đúng mà hóa ra lại rất sai. Chưa bao giờ cái anh trí thức, nhất là anh trí thức vừa được cách mạng đem lại tự do, phải vất vả lựa chọn như bây giờ. Đã bảo nhau phải theo cách mạng, ủng hộ triệt để cách mạng, thiếu thốn mấy vẫn chịu được, nhưng cách mạng đâu đã tin. Vào làm cơ quan thì chưa được giao việc đúng với khả năng, nói thật lại cho là nói láo, nói xách động, không nói, lại như người bàng quan, người của chế độ cũ, người thất bại với bao nhiêu mặc cảm. Thái độ hiện nay của một bộ phận trong giới trí thức Sài Gòn là chờ xem, đã chờ xem là vô trách nhiệm rồi, là rất không nên rồi. Nhưng chúng tôi phải làm gì? Hãy trả lời tôi đi! - Anh chợt ngừng lại, đưa mắt nhìn bọn tôi với cái ý giễu cợt, tự giễu anh thì đúng hơn, rồi cười xòa, nói tiếp: - Mà thôi, các anh khỏi phải trả lời. Đòi ở các anh một lời hứa hẹn, một chút ve vuốt rồi mới định được cái thái độ sắp tới nghĩ cũng kỳ, có phải không?

*

Anh Chương tự nhận mình là kẻ thất bại, một đời làm chính trị thất bại, anh Quý cũng thế, song giữa họ lại rất khác nhau. Anh Chương luôn luôn là người của một thể chế chính trị, của một phía, thái độ rõ ràng. Chí nguyện của anh Quý khiêm tốn hơn, anh chỉ mong được là một trí thức - viên chức, là người có tài nhưng cái tài ấy phải được người cầm quyền sử dụng thì mới có cơ hội bộc lộ. Trong số những người Việt Nam học luật ở Paris thì anh Quý là người đầu tiên và cũng là người sau cùng được công nhận là Thư ký hội đồng các luật sư Paris. Học vị như thế nhưng có trở về cái xứ thuộc địa hành nghề, không khéo suốt đời cũng chỉ là anh thầy cãi vô danh và túng kiết. Năm 55, Diệm bắn tin muốn mời anh ra làm việc, ai cũng nghĩ anh sẽ từ chối, nhưng thật bất ngờ, anh lại nhận lời đến là nhanh nhảu. Con người trí thức rất khó chập nhận một ông cựu thượng thư đầu óc thì hủ lậu, dáng vẻ thì quan cách, vốn là người của Pháp, sau là người của Mỹ, chẳng có tư cách gì để đứng đầu một chính phủ tự xem đã thoát ách thực dân. Nhưng con người viên chức lại hết sức hỉ hả, vì đã có một cơ hội để xuất đầu lộ diện. Năm 57, Diệm sang Mỹ thì anh Quý là cố vấn hạng nhất của sứ quán Sài Gòn tại Hoa Kỳ cùng với Trần Văn Chương là đại sứ, còn bà vợ của ông này thay chồng làm quan sát viên tại Đại hội đồng Liên hợp quốc. Anh Quý trông nom việc đón tiếp, nên bà vợ ông đại sứ liền nói nhỏ với ông cố vấn: "Ông Diệm không có vợ, tôi xin đi theo ông Diệm trong suốt chuyến công du, vậy tôi sẽ là first lady nhá?" Anh Quý trả lời: "Ông Diệm không vợ là không vợ, không thấy ai bảo phải thay thế bằng một bà đệ nhất phu nhân, nếu bà đi theo thì cứ đi với danh nghĩa là bà vợ ông đại sứ". Thế là anh viên chức mẫn cán lại muốn trở về con người trí thức tự do rồi! Luật lệ nào, hả? Mẹ vợ ông Ngô Đình Nhu muốn, tức là vợ chồng ông cố vấn muốn, cậy có bằng cao mà dám chọc vào ổ kiến lửa chăng? Năm anh Quý sang Pháp làm việc cùng với Phạm Duy Khiêm cũng vẫn gặp một chuyện rắc rối có quan hệ tới gia đình tổng thống. Bà Nhu có một bà dì là bà Nguyễn Thiều, chồng chết, rất đẹp và cũng rất lẳng đến nói với cháu xin chân thư ký tại tòa soạn đại sứ ở Paris. Ông Khiêm xưa có tằng tịu với bà chị, tức là mẹ Trần Lệ Xuân nên cũng không muốn đưa tay ra hứng lấy cô em góa bụa của người tình cũ. Riêng anh Quý thì giận dữ ra mặt, bà Thiều chưa bao giờ là viên chức của Bộ Ngoại giao, chỉ vì có quan hệ họ hàng với người cầm quyền lớn mà Bộ Ngoại giao phải bổ nhiệm. Một ông đại sứ, một ông sứ thần hạng nhì đồng lòng không nhận người thì Bộ phải chịu, nhưng vợ chồng ông cố vấn nhất định sẽ để tâm. Nhân Khiêm được Vincent Auriol là tổng thống Pháp lúc bấy giờ trao tặng Huân chương Bắc đẩu bội tinh, Diệm liền cách chức đại sứ và gọi về nước với lý do các đại sứ không được qua mặt tổng thống nhận huân chương của chính phủ nước ngoài. Khiêm không về, xin cư trú chính trị tại Pháp, làm nghề dạy học, và lúc rảnh ngồi viết một truyện tình bằng tiếng Pháp, bỏ tiền tự in lấy, nhan đề Nam et Sylvie văn chương lâm ly, thảm thiết đại loại kiểu Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách. Quý cũng bị gọi về vì chuyện này, ngồi chơi xơi nước ở Bộ Ngoại giao, không bị đuổi hẳn nhưng cũng không được giao việc mới. Mất chức đã đành nhưng còn mất luôn cả bè bạn, vì đã là người của gia đình Ngô Trần tức là phải đối mặt với tất cả những ai còn lại. Diệm đổ, rồi Minh đổ, Khánh lên, lại thêm một lần lựa chọn mới. Nguyễn Khánh là người Trà Vinh, dân cậu, xuất thân là học sinh trường quân sự Nước Ngọt của Pháp, ăn chơi đàn hát thì được chứ làm chính trị hồi nào, so với Diệm cái nấc thang xã hội của kẻ cầm quyền còn tụt xuống một bậc xa hơn.

Nhưng khi Nguyễn Khánh mời Bùi Quý phụ giúp Nguyễn Văn Bông là Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh, soạn thảo hiến chương Vũng Tàu, thì anh lại không thể từ chối. Một cơ hội quá đẹp để dương danh với thiên hạ! Nhưng vẫn là một tính toán nhầm lẫn. Bản hiến chương bị dân chúng Sài Gòn đả đảo kịch liệt, đến chính Khánh cũng phải hô theo "Đả đảo hiến chương Vũng Tàu!" và tự tay xét bỏ. Nếu như anh Quý còn lại một vài người bạn nào đó để tâm sự, để than thở thì lần này coi như mất sạch. Không ai có thể tin được một trí thức tự do lại có thể bênh vực một thể chế sặc sụa mùi vị độc tài. Lại thất bại, lần sau còn đau đớn hơn cả lần trước. Khánh đổ, một nhóm quân nhân nổi lên tranh đoạt nhau nắm quyền điều khiển quốc gia. Năm anh Quý còn ở Mỹ, thì các danh tướng của chế độ mới là cấp úy, cấp tá được cử sang Mỹ học về quân sự. Họ còn trẻ lại được Mỹ chọn dùng để lần lượt thay thế các ông đại tá già do các trường quân sự Pháp đào tạo. Hồi ấy, Lê Nguyên Khang là trung úy, Vĩnh Lộc là thiếu tá, Cao Văn Viên là trung tá, Nguyễn Văn Thiệu, trung tá, giám đốc trường võ bị Đà Lạt, còn Nguyễn Chánh Thi mới là đại úy nhậm chức chứ chưa được đại úy thực thụ. Những anh trung tá, thiếu tá, đại úy quèn, tiếng Pháp nói thì được nhưng viết chưa được, tiếng Anh lại chưa thông thì bình đẳng làm sao với nhà ngoại giao xuất thân là tiến sĩ luật. Dăm sáu năm sau, thời thế đổi thay, các sĩ quan học trò năm xưa đã là những ủy viên đầy quyền thế của các hội đồng tướng lĩnh, ủy ban hành pháp, ủy ban lãnh đạo quốc gia, có quyền triệt hồi, cách chức, lưu đày, bỏ tù tất cả những ông đại sứ có bằng cấp cao nhất. Thế sự đã đảo điên đến thế thì còn hy vọng gì được ăn thịt! Ăn rau thôi, ăn rau đến mãn kiếp! Nào ngờ, trong đám võ biền lại có kẻ chợt nhớ tới cái ông tiến sĩ luật và tiến cử ông đi làm đại sứ ở Tây Đức. Thật khó cho anh biết chừng nào, vì vẫn khinh họ thật, vẫn ghét họ thật nhưng miếng mồi họ mời mọc lại thơm ngon quá, ngoảnh mặt không nổi. Nửa đời người ao ước mà chưa được, bỗng dưng cái chức tước thèm muốn rơi đến tận tay, đành chịu tội với thiên hạ vậy, chứ nỡ nào để cái tài của mình mai một với tuổi già. Anh viên chức vừa được mãn nguyện, thì anh trí thức lại muốn bày tỏ nỗi niềm riêng. Anh phàn nàn với người này và người kia về sự có mặt của lính Mỹ tại Việt Nam đã quá lâu và quá nhiều; anh phản đối người bạn đồng minh đã nhân danh tự do để mặc sức xả bom đạn tiêu diệt một dân tộc đang đấu tranh cho tự do; anh tiên đoán chế độ Việt Nam cộng hòa không thể tồn tại lâu dài nếu người cầm quyền cứ mải chạy theo cái chiến xa của Mỹ. Là người đại diện cho một thể chế lại công kích chính cái thể chế mình được ủy quyền, nên lập tức ông đại sứ bị triệu hồi, tra vấn cứu xét ít lâu rồi sang làm đổng lý văn phòng của Bộ ngoại giao, có danh vị nhưng không có quyền hạn, gọi là được trọng cũng chỉ cái bề ngoài. Một năm sau anh Quý đệ đơn xin từ chức, dứt bỏ hẳn giấc mộng quan trường để được sống hoàn toàn với con người trí thức. Nghĩ cho cùng, cái mồi phú quý thế mà độc. Đã ngậm được nó thì chớ có hả miệng ra. Đã há miệng ra thì rất dễ rơi tuột. Anh viên chức có thể một đời ngậm miệng, nhưng anh trí thức đôi lúc đú đởn lại muốn há miệng ra. Đã là người làm thuê thì không thể là bậc trí giả, là người của phú quý thì không thể là người của đạo lý. Trong hai phải chọn lấy một, sống nhập nhằng ở khoảng giữa là khổ lắm, không làm được việc gì cho hẳn hoi mà cũng không nói được câu gì cho xuôi lọt. Thì vừa mới đây khi anh bộc bạch những lời tâm huyết với chế độ mới, lo âu cho nó, băn khoăn về những chính sách phải có của nó, nhưng có ai chịu nghe anh một cách trân trọng đâu. Vì khi nghe con người trí thức trong anh nói không thể không nghĩ tới cái bả phú quý anh đã chịu lụy trong nhiều năm. Anh trí thức có quyền phê bình điều này điều kia, câu đúng câu sai vẫn có thể nghe được. Nhưng cái viên chức đã từng được ưu đãi thì có quyền gì mà hóng hớt? Nó khó là thế! Quân đã nói làm người rất khó, làm người trí thức cho đúng cái nghĩa của nó tất nhiên lại càng khó.

*

Bình nói với tôi:

- Bây giờ chú có đi đâu cũng nghe người ta nói đến giá cả, đến đồng lương và các cách kiếm ra tiền. Cháu xin kể chú nghe một chuyện có liên quan đến đồng tiền, đến sức mạnh quyến rũ của đồng tiền. Cháu có một thằng bạn rất thân, cùng học với nhau ở Liên Xô mấy năm, rồi lại cùng vào nhận công tác tại thành phố này. Năm vừa rôi, tức là năm 79, hắn có mấy tin vui liền: được đề bạt làm phó giám đốc một xí nghiệp hóa chất, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Và một tin không được vui lắm: cô vợ có bầu đứa con thứ hai. Hắn về xí nghiệp được một tháng thì vợ bị sảy. Lương hai vợ chồng khoảng một trăm rưỡi, một con, lại vợ đau, tiêu pha ở cái đất Sài Gòn này, làm sao mà không túng thiếu. Ngoài Hà Nội ít ai giắt tiền tiêu vặt bằng giấy mười đồng, còn trong này ngay tờ năm chục cũng nhàu nát, đen bẩn, có dễ đến cả ngàn vạn bàn tay giành giật, tranh cướp nó trong ngày. Cái mãi lực của một thành phố lớn đến dễ sợ. Có thể gác bỏ việc tiêu sắm những món lớn, nhưng không thể không mua thuốc cho vợ con (vì có những đơn thuốc phải kiếm ngoài mới có), không thể không mua cái ăn hằng ngày, lại cũng không thể nói với bạn bè và người thân rằng chúng tôi đã hết tiền xin quý vị khi khác hãy lại thăm. Một bữa cơm mời khách, khách thân tình đến thăm nhau, chứ không phải khách nhậu nhẹt, cũng phải tiêu khoảng ba bốn chục bạc. Một bữa cơm mời mất đứt một nửa tháng lương. Rồi còn phải đóng góp vào việc vui buồn của thiên hạ, cuộc sống xã hội mà, tránh sao được, vả lại cũng không nên lẩn tránh. Ngã xe không lo đầu gối sưng mà chỉ buồn vì bị rách một miếng quần. Mất cắp một bộ quần áo, một chiếc xe đạp là một tai họa. Cháu xin nói tiếp câu chuyện của thằng bạn. Nó túng quá nên nó phải đi vay. Vay bạn chỉ được dăm mười đồng chẳng giải quyết được gì. Cuối cùng phải vay thằng phụ trách vật tư, nó có tiền nên mỗi lần vay được hai trăm, bốn năm lần vay đã nợ có trên ngàn đồng. Cứ biết là vay chứ kiếm đâu ra tiền mà trả. Gia đình cán bộ chỉ có thể gom tiền bằng cách nuôi heo, nhưng vợ ốm, con nhỏ, nấu cơm ăn còn chẳng xong nói gì tới chuyện nuôi heo. Cứ biết là nợ, còn trả bằng cách nào thì sau sẽ tính. Vì cậu đó không tính được nên cái thằng vật tư buộc phải tính giúp, vì ở Sài Gòn không ai cho vay không cả. Đồng tiền ở đây đẻ nhanh hơn ở Hà Nội, miễn là biết cách luân chuyển. Găm tiền một nơi cả năm là tối k

��

à con ở đây có thói quen trữ vàng với đôla, đó là hàng hóa, chứ không quen trữ tiền mặt như người ngoài kia. Trong kho của xí nghiệp lúc này có ba thùng soude nấu xà bông khoảng năm trăm kí lô, mà lại không nằm ở sổ sách nào, vì khi kiểm kê đã bỏ sót. Thằng vật tư chỉ xin với đồng chí phó giám đốc phụ trách về kỹ thuật và vật tư ký giấy xuất kho cho hắn, chỉ cần thế thôi, và cũng rất hợp thể thức, còn mọi việc sau đó tự hắn sẽ lo liệu lấy. Một chữ ký được chục ngàn, tiền nợ cũ coi như xong, chỗ anh em với nhau em có thì anh dùng có gì mà nợ. Nhưng cái thằng vật tư ăn tham quá chỉ muốn chia đôi cho phó giám đốc, bỏ qua thằng thủ kho. Thằng thủ kho cũng là đứa tinh, biết là có chuyện mờ ám liền ghi hàng xuất ra khỏi kho và báo lên trên. Chỉ trong vòng một tuần cái việc mờ ám nọ hoàn toàn bị vỡ lở. Hiện nay thằng bạn cháu bị đình chỉ công tác, nằm nhà, không khéo còn bị đuổi ra khỏi Đảng. Vừa mới hôm qua, cháu đến thăm vợ chồng nó, giận có ít mà thương rất nhiều. Hai đứa chỉ nhìn nhau rồi khóc. Nó không kêu xin, không oán trách, sẵn sàng chấp nhận cái số phận không may mắn. Nhưng rồi vợ chồng nó sẽ sống ra sao? Cháu tự hỏi vậy, với số lương một trăm rưởi một tháng và món nợ ngót nghét hai ngàn? Nó sẽ tốt lên hay sẽ xấu đi? Cháu sợ rằng nó sẽ xấu đi. Khi đã quẫn thì dễ liều lắm, ai mà tính được trước những hành động tệ hại của một anh liều. Còn một câu chuyện nữa cũng rất thương tâm, nhưng theo một cách khác. ở công ty cháu có một anh trung úy chuyển ngành, làm công tác kỹ thuật tại một xưởng máy. Anh ấy là người Hà Nội, vào Nam chiến đấu từ những năm sáu mươi, có ba bốn huân chương, lấy một cô vợ Sài Gòn, không đẹp nhưng rất hiền, và đã có với nhau một đứa con. Lương chồng khoảng trên tám chục, vợ là nhân viên kế toán một xí nghiệp dệt, lương bốn mươi lăm đồng. Lại một bà mẹ vợ nữa. Một trăm ba chục đồng những bốn miệng ăn. Túng lắm. Nhưng vào nhà không ai biết họ túng. Lúc nào cũng đàng hoàng. Nói chuyện không ai nhắc đến miếng ăn, đến tiền bạc, đến sự túng thiếu, vợ chồng mẹ con bảo nhau thật khéo. Nói thế, chứ túng vẫn là túng, không nhắc đến tiền nhưng hằng ngày vẫn phải tiêu tiền. Cuối cùng, anh bạn cháu phải mượn tiền mua một cái xe máy cũ làm nghề chở khách, ban ngày là cán bộ nhà nước, tối đến và ngày nghỉ là anh lái xe Honda ôm. Rồi lại mua một cái máy lạnh, chữa lại thành máy làm đá, một tháng kiếm thêm khoảng năm, sáu trăm đồng. Lần này thì sống đàng hoàng thật, dư dật thật, chứ không phải giả cách nữa. Mời bạn đến nhậu đã dám mua mực khô, thịt bò, hoặc có giết con gà, con vịt cũng không phải tính toán nhiều lắm. Một tối hai vợ chồng đều bảo cháu đến ăn cơm, chồng đã bảo rồi, vợ còn đạp xe tới nhắn lại. Bữa cơm tối cũng chỉ có một mình cháu là khách mời, và một đứa cháu làm công nhân ở Ba Son. Uống được vài hớp rượu, anh bạn cháu hỏi: "Chú Bình thấy đời sống của vợ chồng tôi dạo này thế nào? Dư dật lắm hả? Đúng là khá quá, phải không?". Nghe câu hỏi đã lạ, ngắm nhìn vẻ mặt gượng gạo của cả gia đình càng lạ hơn. Có tiền, có nhiều tiền mà xem chừng không được vui như trước, ấm cúng như trước, hồn nhiên như trước. Có chuyện gì thế? Cháu nín lặng không trả lời. Chị ấy mách: "Hồi này anh hay uống rượu quá chú à. Trong miệng lúc nào cũng có mùi rượu, tôi buồn quá". Anh chồng nói khiêu khích: "Ô hay, đã làm cái thằng lái xe Honda ôm lại không uống rượu, hả? Cái bệnh nghề nghiệp mà!". Cháu vẫn cúi mặt xuống ăn, ăn cho xong rồi còn chuồn. "Sao bữa nay chú ít nói thế, không nói cũng được, có chuyện gì mà nói, chẳng lẽ tôi lại kể cho chú nghe tôi đã kiếm tiền như thế nào, cò kè từ năm mươi xu tới một đồng như thế nào. Đã kiếm cơm thì còn tư cách gì nữa!". Bà cụ chỉ ăn có lưng bát rồi bồng cháu đứng lên, lấy cớ nó phá quá, các chú không nói chuyện được. Anh bạn cháu đưa mắt nhìn theo, gầm gừ: "Cho nó đi ngủ luôn đi, má ạ. Ai không uống, không ăn thì đứng dậy luôn đi. Tôi sẽ ngồi một mình cả đêm nay". Người vợ nhìn chồng nước mắt rơm rớm, trách nhỏ: "Mình lại say rồi, uống ít thôi, ngày mai còn dậy sớm". Anh chồng nói gay gắt: "Tôi không cần đi làm nữa, nhà nước trả lương có tám chục, tôi chạy xe một tháng sáu trăm, tôi không đi làm nữa, xin nghỉ hưu, để thành một thằng lái Honda ôm hoàn toàn". Nói được thế phải là người còn tốt lắm, anh đâu có hoan hỉ, có thỏa mãn với sự đầy đủ của hôm nay. Xem ra anh vẫn tiếc ngày hôm qua, sự túng thiếu trong sạch của hôm qua. Không một ai dám cãi lại anh, anh nói lảm nhảm một mình, rồi bưng mặt khóc, nghe tiếng khóc mới thảm chứ. Anh chưa say đâu, làm ra vẻ say để có dịp nói tuột nỗi lòng của anh thì đúng hơn. Anh nhìn cháu một lúc lâu, chén rượu vẫn cầm ở tay, rồi bảo: "Nửa năm rồi, tôi chỉ nhận ra có một điều: đồng tiền không thể làm ra hạnh phúc. Nghe xưa quá, cổ quá, chú nhỉ? Đã có hàng triệu người nói như vậy rồi. Có vở kịch nào, cuốn sách nào không có một câu tương tự. Nhưng hồi trẻ, tôi không tin. Chẳng qua mấy anh không có tiền mới nói như vậy, viết như vậy, chứ người nhiều tiền đâu có nghe họ nói gì. Họ cứ nín lặng làm tiền và tiêu tiền. Mà vẫn rất hạnh phúc. Có tiền mua tiên cũng được, phải không chú? ở thời buổi này có nhiều tiền vẫn sướng lắm. Bất cứ cơ quan nào cũng có dăm ba thằng hám tiền ngồi sẵn ở đó rồi, xin gì mà không có tiền lót tay là không xong. Xin nhà, tiền; xin việc làm: tiền; vô bệnh viện: tiền; mua được thuốc hiếm: tiền; kiểm tra bằng lái xe: cũng vẫn tiền. Trong các mối quan hệ giao dịch, đồng tiền mở cửa, rồi giấy tờ mới theo sau. Sức mạnh của đồng tiền ghê gớm đến thế, nhưng tôi vẫn cam đoan với chú: đồng tiền không thể nâng cao phẩm giá con người. Ngược lại là khác, hoàn toàn ngược lại. Tôi nói điều này với tư cách là người đang có tiền, mà đồng tiền vợ chồng tôi kiếm ra cũng lương thiện, cũng chính đáng. Nhưng tôi đi theo cách mạng, dám nhận mọi hy sinh, kể cả cái chết, không phải để cuối cùng có được nhiều tiền. Về Sài Gòn, tôi chịu đói, chịu thiếu cả mấy năm không phải vì tôi hèn không thể kiếm nổi ra tiền. Đồng tiền không thể là lý tưởng của vợ chồng tôi, của gia đình tôi. Tôi muốn một cái gì đẹp hơn, cao hơn thế, tôi muốn thực hiện cái lý tưởng của người cộng sản, tiêu diệt mọi tệ nạn xã hội sinh ra chỉ vì sự hoành hành của đồng tiền. Điều này tôi chỉ dám nói với chú thôi, tôi tin rằng chú hiểu tôi. Còn tâm sự với anh em họ chỉ ừ ào, mọi người đều thế cả sao mình lại muốn sống khác đi, nghĩ khác đi, có khi lại còn cho là tôi gàn, nếu không gàn thì cũng rởm, làm ra vẻ, đã lái xe Honda ôm, đã làm đá bỏ mối bán còn bày đặt băn khoăn, đau đớn vì không được sống như lý tưởng! Gàn! Rởm! Đạo đức giả! Có khi tôi chỉ là như thế thật. Vì tối nay đây, tôi vẫn lại nhảy lên xe đến bến đợi khách bên chợ Xóm Chiếu. Sáng mai trước giờ đi làm, bà xã tôi vẫn đem đá đi bỏ các tiệm quen, và tối về vẫn có thịt để ăn, có rượu để uống. Cuộc sống mà, năm nay còn thắc mắc, năm tới sẽ hết mọi thắc mắc, sẽ an tâm và vui vẻ mà làm tiền, không chừng lại hiểu được ra rằng chỉ mấy thằng nhà báo, nhà văn kiết túng mới đứng ngoài dè bỉu đồng tiền, chứ thật ra có tiền vẫn cứ tốt, càng nhiều tiền càng tốt, nó làm người ta sang trọng hơn, có nhiều bạn bè hơn và tìm ra hạnh phúc cũng dễ hơn!

Truyện ngắn

Nguyễn Khải

Gặp gỡ cuối năm

- 7 -

Nhân Bình nói về sức mạnh của đồng tiền và sự cưỡng lại yếu ớt của mấy người bạn cùng làm việc ở công ty với anh, nên anh Đại lại có dịp góp vào một vài mẫu chuyện vui xung quanh cái việc kiếm ra đồng tiền:

- Đôi lúc mình hay nói: cái thằng cha ấy hết nghề rồi, có nghĩa là nó đã hết đường xoay xở rồi, sắp chết đói tới nơi rồi. Cuối cùng nó vẫn sống nhăn răng, vẫn tìm được ra cách kiếm tiền, vẫn chưa hết nghề. Nếu cậu Việt có thì giờ nên viết một phóng sự về những nghề đang kiếm ra tiền ở cái đất Sài Gòn này, chắc là kỳ lạ lắm. Riêng cái bin-đinh tôi ở, các bà vợ những ông giáo sư, bác sĩ trong mấy năm nay cũng đã tìm ra bao nhiêu nghề phụ để thêm vào đồng lương quá ít của các ông chồng. Hễ mình cần cái gì, tức là đã có người làm cái nghề đó, chỉ cần hỏi là có ngay thôi. Mấy năm tôi bị giam ở Mã Đảo, thì tôi chỉ có mỗi chuyện ấy thôi mà, mắt được nhìn thấy một cái nghề tôi dám tin là độc nhất vô nhị, mình không thể tưởng tượng nổi, chứ chưa nói là thấy cần. Nó không là một nhu cầu mà vẫn có nghề. Hoặc giả con người ta thích được hãi sợ, thích được hồi hộp, thích được xem đồng loại bị hành hạ, mà có những nghề đó chăng? ở Mã Đảo có một con sông rất rộng như Nhị Hà của ta, gọi là sông Betsibôka, mà nhiều cá sấu lắm. Trưa nắng nhìn cá sấu bò lên hai bờ cát cả ngàn vạn con to dài bằng cột đình, cột chùa, há miệng suy tư mà máu muốn đông lại. Có khi các cậu còn bò đi xa hơn, nằm nấp trong các búi cỏ rậm rình bắt bò, bắt chó, bắt người. Nạn cá sấu rình bắt người bên ấy còn ghê gớm hơn cái nạn rắn cắn ở xứ ta nhiều. Vậy nên dân địa phương đã tìm ra một cái nghề hết sức rùng rợn: xỉa răng cá sấu. Bọn tôi gọi người làm nghề đó là fakir, giống như anh fakir bên ấn Độ thổi kèn gọi rắn. Chắc họ cũng học được thuật thôi miên hay sao nên mới dám len vào giữa bầy cá sấu, mò mẫm ngồi cạnh từng con, lấy tay tỉ mẩn sờ rằng sờ lợi nó, rồi rúc cả đầu vào trong mồm cá mà lôi ra từng mảng thịt giắt ở các chân răng. Mất tiền cả đấy các vị ạ. Người xem ngồi trên bờ nhìn xuống, vỗ tay hoan nghênh mà tim muốn nhảy bật ra ngoài. Vì cũng có lần, mà có nhiều lần, các ông fakir chui đầu vào được mà rút ra không được, anh chàng cá sấu bị quấy rầy đã ngậm miệng lại rồi, nó đã ngậm miệng thì có nã đại bác cũng không chịu há miệng ra, cặp chân đen ngẳng của ông làm trò giẫy giẫy giật giật như cặp đùi nghéo bị rắn nuốt, rồi cứ trôi dần vào bụng cá. Mà đâu có kiếm được nhiều tiền, mỗi lần diễn cái trò chết người chỉ được năm mươi xu hay một đồng. Ôi chao! Một cách kiếm tiền vừa man di vừa nhục nhã!

Anh Quý nhận xét khác hẳn:

- Phải là một dân tộc thuần phác mới nghĩ ra được một nghề kiếm tiền hào hùng, mã thượng đến thế. Mình làm không nên mình chịu, không để liên lụy tới ai khác. So với cách kiếm tiền của bọn ta thì họ văn minh hơn nhiều.

Chị Hoàng hỏi:

- Nếu anh phải hy sinh quyền lợi của người khác để có được thật nhiều tiền, anh có chịu không?

Anh Quý:

- Hỏi như thế là đã sỉ nhục mình rồi. Mình ích kỷ thật nhưng không nỡ làm hại đồng loại.

Anh Chương cười nhỏ:

- Ông cộng tác với Diệm tức là có làm hại những người chống Diệm. Ông làm việc với các chính quyền ngụy là có làm hại những người kháng chiến. Đứng về phía này là có làm hại những người ở phía bên kia. Chính trị mà. Mấy chục năm nay ông vẫn làm chính trị đấy chứ.

Anh Quý nhìn chăm chú cái tẩu rỗng đã hết cả thuốc nhồi, nói gượng gạo:

- Cái thằng làm công vô thức rồi vẫn bị lịch sử ghép tội là thế. Đến lúc nghĩ ra thì cũng đã muộn.

Cái nhìn của Quân như đằm thắm hơn:

- Chưa muộn lắm đâu anh ơi, hãy còn nhiều dịp để anh nghĩ lại kia mà.

Anh Đại:

- Tôi vẫn nghĩ cái nghề xỉa răng cá sấu của dân Mã Đảo là cái nghề man rợ nhất, sao họ lại tự coi rẻ cái mạng mình đến thế, năm mươi xu một mạng người!

Anh Quý:

- Thưa với cụ, cái nghề bán rẻ mạng người khác còn man rợ hơn nhiều. ở xứ này đã có hẳn một giai tầng làm giàu bằng sự buôn bán máu người trong chiến tranh.

Chị Hoàng giương mắt nhìn ông nguyên là đại sứ, hỏi mỉa:

- Ông học nghề làm báo hồi nào vậy? Ông tuyên truyền mác-xít bọn tôi đấy, hả?

Anh Quý:

- Ngày còn ở xa tôi chỉ khinh mấy anh cầm quyền là vô học, nhưng có tinh thần quốc gia. Về sau ở gần họ, mới khám phá ra cái nghề chính không phải là chống cộng mà là buôn máu người.

Chị Hoàng trỏ vào mặt tôi:

- Tổng thống ngụy thì vô học, vậy ông Việt cộng này thì có mấy bằng?

Quân cười to:

- Bảo họ vô học thì họ còn cãi được. Hán Vương nhất định là dốt hơn Hàn Tín với Tiêu Hà rồi. Nhưng bảo họ xuất thân là lính Pháp thì họ hết cãi nổi.

Chị Hoàng hỏi nhẽo nhợt:

- Những ai thế? Thiệu và Kỳ phải không?

- Nhiều chứ, ông Minh lớn là người mà bà trọng, ông Đôn là người mà bà yêu, ông Trần Văn Minh nữa đều là dân học ở trường Tông Sơn Tây cả. ông Kỳ học lái máy bay chở khác Marrakech bên Maroc là một trường không quân của Pháp. Ông Thiệu học trường sĩ quan Đà Lạt khóa I vẫn do Pháp dạy. Ông Khánh học ở Nước Ngọt cũng vẫn là Pháp. Còn ai nữa, ông Cao Văn Viên là thuộc hạ của thằng thiếu tá Pháp tiểu khu trưởng tiểu khu Sóc Trăng, khi ông thiếu tá về nước, nghĩ tình thầy trò liền nhượng cô vợ Việt cho ông trung úy trẻ tuổi, là bà Cao Văn Viên đó. Là những sĩ quan của Pháp, về sau là của Mỹ mà có tinh thần Trần Hưng Đạo, Quang Trung nghe ngờ quá, hà?

Anh Chương

- Đã là người cầm quyền thì thế nào cũng có đứa nâng bi, xu phụ, quà cáp. Quà cáp phía dưới là một vạn thì quà cáp ở phía trên có thể là một triệu. Đút lót nhau tí chút cho chạy việc, thời nào chẳng thế. Còn bảo thành phe thành đảng buôn lậu trong chính phủ, trong quân đội, e rằng nói vậy cũng hơi quá vì nội vụ của họ ra sao, bọn tôi đều có được biết qua nhiều nguồn báo cáo.

Vẫn Quân nói:

- Nghị viện các anh biết làm sao được những chuyện kỳ bí của chính phủ. Tôi hỏi anh, thằng Kỳ tranh cử tổng thống bằng tiền của ai? Phải có tiền chứ, tiền của bà chị ruột và của vợ nó. Bà Lý lấy một ông Tàu, mở một hiệu buôn ở Paksé, về sau còn làm nhà thầu cho quân đội Pháp ở tỉnh này nên giàu lắm. Năm 1954, bên ấy làm ăn khó khăn, vợ chồng mới chạy về Sài Gòn. Ông em từ Maroc về, lái máy bay chở hàng, sau là máy bay chiến đấu. Máy bay hư hỏng, lại đưa qua Đài Loan sửa, lúc về ghé lại Hồng Kông, đàn em của Kỳ do bà Lý chỉ huy khuân lên từng bao bì cẩm thạch, đồng hồ, hạt trai nhân tạo, tơ Pháp, cả sâm và thuốc Bắc của lục địa Trung Hoa đưa sang, mua rất rẻ vì không có thuế quan, đem về Sài Gòn hàng lại đang hiếm, vốn có một, lãi cả chục cả trăm lần, làm giàu trong chớp mắt. Còn cô vợ cũng hay lắm, tậu đồn điền mía ở Hawai, mua nhà ở Luân Đôn, ở Paris cho thuê, nhà mẹ vợ giàu, bà Học thì giàu có tiếng. Hồi sau Kỳ làm thủ tướng thì sự làm ăn còn phát đạt hơn nhiều. Tàu của hải quân đem qua Mỹ sửa, khi đi thì chở đồ gốm, sơn mài, ngà voi, da thú, mặt hàng dân tộc mà, khi về thì xà bông, vải, quần áo may sẵn, lời lãi chia nhau, phần sư tử kính dâng lên thủ tướng. Thủ tướng ký lệnh làm quân cảng, lập tức ngân hàng phải chi ra khoảng mươi tỷ bạc, tức là đã có thể lấy đứt một tỷ để chia nhau. Rồi làm sân bay quân sự, bắc cầu quân sự, làm đường phục vụ cho mục đích quân sự, đều có tarif (biểu thuế) hết, cứ mười phần trăm mà tính. Với ông Khiêm, thủ tướng sau này, chỉ nói sơ sơ vài món: thầu vỏ đạn là một, tiền thuế quan là hai và chia lời với bọn đàn em ngồi giữa núi hàng của Mỹ ở Cam Ranh. Ba món đó là bao nhiêu ngàn triệu, hả? Cao Văn Viên làm tiền còn dữ hơn, nhưng lại rất kín đáo. Viên vốn là người chỉ huy phòng 4 của Bộ tổng tham mưu, cơ quan tiếp vận. Về sau đàn em của Viên bay đi các vùng, các quân khu nắm các cơ quan tiếp vận ở đó. Ví như đại tá Cao Văn Châu, không có họ hàng gì với Viên đâu nhá, chỉ huy trưởng tiếp vận vùng Một, giàu đến mức các thành phố lớn đều có nhà ăn chơi riêng của hắn cả. Vợ Ngô Quang Trưởng là người đàn bà đứng đắn, thuộc dòng họ Nguyễn Tường, rút lại cũng phải cúi đầu trước đồng tiền hắn đưa nhử. Trưởng đau lắm nhưng biết làm sao. Châu là đàn em tin cẩn của bà Viên. Vâng, cứ mười phần trăm nộp lên trên đều đều. Nhưng buôn độc địa nhất là thằng Đặng Văn Quang, trùm an ninh mà lại buôn ma túy để đầu độc lính mình và lính đồng minh thì hết nói. Có bốn món buôn lãi nhất ở Đông Nam á là vàng, kim cương, á phiện và rượu thì Quang đều buôn cả. Cho nên nói chuyện với bọn họ về quốc gia, chống cộng, hòa bình, tái thiết, dân tộc là thừa, đâu phải việc của họ, họ biết gì những chuyện đó. Phải nói là chiến tranh sẽ tiếp tục, Mỹ sẽ ở lại đây mãi mãi và các vụ áp phe lớn sẽ mỗi ngày một nhiều hơn, lập tức họ nghe ra ngay, và sự tính taón của họ là những tính toán thiên tài. Thôi, bàn làm gì đến cái tư cách mấy anh tay sai xứ thuộc địa, ngay đến danh tướng Raoul Salan sang Đông Dương để đối đầu với ông Võ Nguyên Giáp, xoay chuyển tình thế, rút lại cũng chỉ là anh buôn lập, buôn á phiện, chở từng chuyến máy bay. Giữa năm 69, Thiệu và Nixon gặp nhau ở đảo Midway để bàn về Việt Nam hóa về kinh tế. Việt Nam làm công nghiệp nhẹ, chế biến hàng nông sản, kỹ nghệ đóng hộp, kỹ nghệ đông lạnh, vân vân... Nhưng, ấy anh ba Tàu và các ông lớn đã nắm tới ba phần tư các nguồn lợi đó rồi. Ông Phạm Kim Ngọc nguyên Bộ trưởng kinh tế chuyển sang làm ngân hàng nông doanh. Ông Nguyễn Tấn Đời và Trung tướng Nguyễn Hữu Có mở Tín nghĩa ngân hàng. Ông Lý Long Thân, thầy của ông Thiệu, sẽ thôi nghề sản xuất dây kẽm gai mà chuyển sang sản xuất dầu ăn và trồng thuốc Virginia trên Ban Mê Thuột. Tất nhiên là không ngon lành thơm tho bằng thời chiến. Chuyển sang thời bình buộc phải có trí thức một chút, phải biết cách quản trị kinh tế một chút. Cho nên con cái họ có đang học ở Harvard khoa chính trị thì chuyển sang khoa business management, quản trị kinh tế, hoặc đưa sang trường đại học Michigan hay học viện kỹ thuật Massachusetts. Chuẩn bị như thế là cũng nhìn xa lắm. Thời nào họ cũng giữ độc quyền về cách kiếm ra đồng tiền mà.

*

Anh Đại nói với Bình:

- Trên đời này có lắm kẻ hám tiền, nhưng cũng có rất nhiều người không lấy tiền làm lẽ sống. Riêng bác, bác tự hào một đời biết coi nhẹ đồng tiền. Nếu tham tiền đã không dám chống Pháp. Chống nó chẳng những cái thân đi tù mà còn mất toi năm trăm mẫu ruộng. Có năm trăm mẫu ruộng ở xứ Bắc Kỳ là rất bảnh, đến thượng thư cũng phải nể, nói gì cái đảm phủ huyện tép riu phía dưới. Năm Pháp đưa bác từ Mã Đảo về Sài Gòn quản thúc, trong túi không còn một đồng một chữ, phải đến các hội từ thiện xin ăn, rồi bạn bè thay nhau nuôi. Cả mấy năm đi dạy học toàn cuốc bộ, có bữa đói quá phải ngồi xỉu xuống một vệ đường. Đói thật sự, đói quắt ruột héo gan, nhưng thà chịu đói chứ không bán mình cho Pháp. Pháp vẫn nhắn tin hàng ngày, làm quốc trưởng chưa được chứ làm bộ trưởng thì có thể lắm vì cũng có một cái danh, cũng có một cái bằng, cũng có mấy năm đi tù vì kháng Pháp, có khi còn được thiên hạ đồn đại, thêm thắt như một nhà đại cách mạng. Pháp chịu, lại đến ông Phạm Công Tắc cho người lại ve vãn. Giáo chủ Tây Ninh chỉ có hai cô con gái gọi là Tây Ninh nhị kiều, quá lứa một chút nhưng còn coi được, lại rất giàu. Cô em mới lấy chồng còn cô chị vẫn treo giá. Ông Tắc có ý nhắm bác để gọi rể, vì ông cũng có lòng mến từ lâu. Một là, bác đã có vợ con rồi, tuy vợ con ngày ấy hãy còn ở ngoài Bắc, hai là ông Tắc đã đầu hàng Pháp, kêu gọi giáo đồ hợp tác với chính phủ bù nhìn. Đành chịu đói thôi cháu ạ, chẳng lẽ đã dám hy sinh tất cả để rồi vì cái đói lại quỳ xuống đầu hàng. Sẽ không đói nữa nhưng mà nhục. Cái đói còn chịu được chứ cái nhục thì không ai chịu nổi. Chết rồi cái nhục vẫn còn bám theo kia. Dân mình là thế đấy, nếu không là tất cả thì cũng phải chín chục phần trăm trọng nghĩa khí, khinh tiền bạc. Nếu là một dân tộc hám lợi thì người lãnh đạo nào buộc được họ tự nguyện quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh? Hôm nay túng thiếu thì tính toái nhau chi li từng xu, từng hào, ngày mai có giặc lại vứt bỏ tất cả, nếu cần thì ném một mồi lửa cho nó cháy bùng lên, rồi xách súng dắt vợ con vào rừng kháng chiến, chắc chắn sẽ là như thế. Tất nhiên vẫn có người ở lại cộng tác với quân địch để làm giàu chuyến nữa, nhưng là số ít thôi mười phần trăm dân số thôi, chỉ là thế thôi, cháu ạ!

Chị Hoàng chợt quay phắt lại, bảo Bình:

- Này, mày thử hỏi ông bác cách mạng của mày vì sao ông ấy không đi kháng chiến? Vì sao lại chịu sống chui sống lủi ở xó Sài Gòn này cả mấy chục năm? Mày thử hỏi xem!

Bình cười mỉm, yên lặng. Anh Đại ngồi ngẩn ra một chút, rồi anh cười hề hề:

- À, à, việc gì phải hỏi, nó biết chứ! Nó biết tất cả nhưng nó vẫn thương tôi, có phải không, Bình?

Bình nói với tôi và với anh Đại:

- Thế hệ chúng cháu có nhiều việc phải làm lắm, nghĩ đến những việc phải làm vừa vui vừa ngại vì nhiều quá, vì mới quá. Rồi còn mò mẫm, còn vấp váp, còn sai sót chán. Thế nào là một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Việt Nam? Thế nào là con người mới? Lý luận thì rất nhiều, nước ngoài họ làm thế này, ta thì nên làm như thế này, nhưng thực tế chẳng giống như nước ngoài mà cũng không giống như ta muốn. Chỉ ngồi thảo luận với nhau cũng đã loại xà ngầu lên, anh nào cũng tự cho cách làm của mình là đúng, là phải, làm một chặp lại thấy ra hình như cũng chưa hẳn là phải. Thoạt mới nhận công tác anh nào cũng ham cải cách lắm, làm vài năm cái chí tiến thủ cứ nhụt dần, khó quá mà phiền phức quá. Bọn cháu còn trẻ dại nên có lắm cái nông nổi, lại vấp phải cái mỏi mệt, cái lãnh đạm của xung quanh, nhìn mặt nhau là gầm ghè, ngờ vực, nói gì đến sự cộng tác chân thành, rút lại họp mãi cãi mãi cũng mệt, cả hai bên đều mệt, chi bằng cứ làm theo cái đã có là đoàn kết nhất, trên yên tâm, anh em cũng yên tâm, mà nhà cải cách cũng được yên thân. Khi đã hết muốn cải cách thì cái chung chẳng có nghĩa lý gì, gạt nó sang một bên để chăm lo cho cái riêng thôi, là cái mình có thể chăm lo được, cải cách được, có kết quả rõ ràng. những năm đánh Mỹ, cháu còn đi học, nghe xung quanh không có ai bàn tán nhiều về đồng tiền, gặp nhau là thăm hỏi về tình hình các mặt trận, rồi an ủi nhau, khuyến khích nhau. Mà vui lắm, đêm ngày như có một ngọn lửa bập bùng đâu đó trong mỗi ý nghĩa của mình, trong mọi hoạt động của mình. Cái riêng của từng người đã hòa tan trong sự nghiệp kháng chiến. Không thể đứng ngoài đã đành mà cũng không một ai muốn đứng ngoài. Bây giờ thì ngược lại. Sự nghiệp chung là công việc của các cấp lãnh đạo, còn mỗi chúng ta hãy chăm lo cái mảnh đất phần trăm của riêng mình. Việc riêng chống lại việc chung, gặm nhấm, giằng xé nó ra làm trăm ngàn mảnh để dễ bề tiêu hóa ào cái bao tử cao su của từng người. Lúc mới tiếp nhận cơ quan thì quạt bàn đủ, quạt trần đủ, bàn ghế cũng đủ. Qua vài lần chuyển qua chuyển lại quạt bàn mất tiêu, quạt trần mất tiêu, rồi đến ghế bàn làm việc cũng dần dần mất tiêu. Cá nhân giàu lên, nhà nước nghèo đi, đến tiền mặt trả lương cho công nhân cũng thiếu. Rồi lại ngẩn ngơ hỏi nhau: tại sao lại vậy? Có thể dân mình quen góp xương góp máu cho Tổ quốc mà chưa quen góp vốn cho nhà nước kinh doanh? Lại có thể góp xương máu thì được nền độc lập, mình hưởng, con cháu muôn đời hưởng, nhưng góp tiền bạc, công sức không khéo léo lại chui tọt vô túi mấy cha tham nhũng? Lại cũng có thể trong chiến tranh anh lính bất kể ngày đêm đều đến gặp được Bộ tư lệnh, còn trong thời bình góp ý kiến với trên như đốt sớ lên thiên đình, chẳng rõ đến tháng nào, năm nào mới được xét tới. Như cháu đã nói, thế hệ con cháu có rất nhiều việc phải làm, nhưng việc khẩn cấp là phải bảo nhau loại bỏ đồng tiền ra mọi tính toán cá nhân. Bị đồng tiền cám dỗ thì mất hết bác ạ, mất lý tưởng, mất niềm tin, mất cả bạn bè, sẽ sống với tâm địa ích kỷ, tàn độc như dưới chế độ tư bản. Có một anh giám đốc một xí nghiệp có hai người con gái hiện ở Hồng Kông gửi về cho bố ba kí lô viên bi đủ để sản xuất một triệu cây viết bic. Nhà nước mua năm xu một viên, một triệu viên được khoảng năm chục ngàn đồng. Nhưng khi ra hải quan lĩnh thì gặp khó khăn. Theo "lệ" là phải có lời nói riêng với mấy người có chức việc ở đó. Anh được năm chục ngàn đồng, thì anh biếu anh em vài ngàn làm tiền trà thuốc là vừa đẹp. Nhưng cái ông giám đốc của cháu lại thiếu ý tứ quá, cứ bình thản đưa giấy báo, rồi bình thản đứng đợi tới lượt lãnh hàng, chẳng có một lời nói bóng gió xa xôi nào. Người ta trả lời chưa tìm thấy hàng, xin mời đồng chí sáng mai lại. Sáng hôm sau đến, lại đứng chờ, coi như không thèm biết những thủ tục nào khác ngoài những thủ tục đã ghi trên giấy báo. Lại chưa tìm ra hàng, xin cảm phiền sáng mai đồng chí lại tới nữa. Đến lần thứ ba thì ông ta phải gắt gỏng rồi, phải dọa dẫm rồi. Tôi là cán bộ cách mạng chứ có phải dân ngụy đâu mà các đồng chí làm khó dễ với tôi. Họ đã phải nói gần nói xa: "Vậy tối nay chúng tôi sẽ lại nhà đồng chí bàn kỹ về chuyện này". Ông giám đốc gạt phắt: "Tôi làm việc ở cơ quan hăm bốn trên hăm bốn giờ, cần nói gì thì cứ nói ở đây!". Họ lại nhũn nhặn mời anh sáng hôm sau tới vậy. Hôm sau đến, hải quan tuyên bố hàng mất, lập biên bản và xin nhận đền. Mất năm chục ngàn, nhận đền vài trăm, thật là lý thú! Đồng chí giám đốc kia liền bỏ mọi việc, lao đầu vào chuyện tố tụng, viết hàng trăm lá đơn khiếu nại gửi khắp các cơ quan từ trung ương tới thành phố, gầm thét, đe dọa, sục tìm tới tận những chỗ có thẩm quyền cao nhất để truy cho ra manh mối. Giả thử xí nghiệp của mình bị lỗ, các cơ quan bạn không chịu thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng, có những kẻ ăn cắp vật liệu của nhà nước, có những đứa lãn công, có những khâu bị phá hoại mà người phụ trách cũng mất ăn mất ngủ, đảo lộn tất cả để tìm cho ra nguyên ủy thì nhà nước mừng vui biết mấy. Riêng cháu, trong chuyện này, cháu có khuyên đồng chí giám đốc nên lấy cái rủi nhỏ làm cái may lớn của đời anh. Vì nếu anh có trong tay năm vạn bạc thì anh sẽ không còn là anh nữa. Năm vạn ấy anh sẽ mua cổ phần trong mươi cái tổ hợp sản xuất nhỏ, đang thời kỳ bung sản xuất mà, hằng tháng thu lãi, năm vạn sẽ đẻ dần thành năm chục vạn. Một ông giám đốc đã có trong tay năm mươi ngàn bạc, tiến tới là năm trăm ngàn bạc, thì còn thời giờ đâu nghĩ đến lỗ lãi của xí nghiệp, nghĩ đến đời sống của công nhân, nghĩ đến những nghị quyết của chi bộ. Tất cả trí tuệ của ông giám đốc đã đầu tư vào phần kinh doanh tư bản chủ nghĩa rồi. Mà cái phần kinh doanh ấy cũng rắc rối lắm, trong giấy tờ là hợp pháp, nhưng cách làm ăn thông thường là bất hợp pháp, phải có trăm mưu nghìn kế đối phó với mọi tình huống thì mới khỏi đổ bể. Rồi cũng phải mua chuộc các cơ quan hữu trách, phải đe dọa những tổ chức muốn cạnh tranh, phải điều hòa sự tăng vốn chia lãi trong nội bộ, phải thuê cán bộ kỹ thuật, thuê luật sư, thuê nhân viên bảo vệ. Là một "liên hợp xí nghiệp" mà riêng mình phải chịu trách nhiệm và quyết định về tất cả, tất cả đều là thù địch, sểnh mắt lỏng tay một chút thì thân đi tù, cơ nghiệp tiêu ma, con cái chết đói. Vâng, nhất định sẽ phải là như thế với sự kinh doanh mờ ám ấy anh sẽ thành một nhà tư bản thực thụ với tâm lý tư bản, thủ đoạn tư bản, và những niềm vui cũng rất tư bản. Là kẻ thù của chủ nghĩa, chống lại lý tưởng cộng sản, nhưng vẫn là đảng viên cộng sản, không chừng còn ở trong cấp ủy cũng nên.

*

Nhìn lên chiếc đồng hồ treo đã mười giờ đêm. Đồng hồ chạy còn tốt nhưng bộ phận đánh chuông gảy đàn đã hỏng từ mấy năm nay, chẳng ai nghĩ phải đưa đi sửa, nếu không hỏng có lẽ cũng đem bán nó đi từ lâu rồi. Nhà này thì cần gì tới sự phân chia của thời gian, một năm trôi qua còn chẳng để ý huống hồ một phút một giờ. Mới mười giờ đêm mà tiếng pháo đã nổ ran ran. Người ta nóng ruột tống khứ mọi thứ xui xẻo của năm qua ra khỏi nhà mình, ra khỏi số phận của mình, hân hoan đón lấy những may mắn của một năm mới. Dầu đã ăn cả sáu, bảy chục cái Tết nhưng mỗi lần nghe tiếng pháo nổ vào lúc sắp giao thừa vẫn cứ bồi hồi, nôn nao, vui một chút, buồn một chút và mong đợi và hy vọng có lẽ cái năm đang tới sẽ vui hơn. Ngay với một người có tài đoán giải tử vi như anh Chương, vẫn cứ mong đợi và hy vọng, vì theo anh nói, là số chỉ bày tỏ được cái khuynh hướng, cái xu thế, chứ không thể biết chắc được cái cụ thể, được một triệu là được, được một đồng cũng là được, mất một trăm là mất, mất nốt cái hy vọng cuối cùng cũng là mất. Lại còn tùy ở phúc đức và nghị lực của mỗi người, phương Tây có câu L'homme propose Dieu dispose, người muốn trời định, nhưng phương Đông lại có câu Nhân định thắng thiên. Nói thế nào cũng là phải cả, anh Chương cười, mặt đỏ bừng, nói tiếp, chẳng biết làm gì để hy vọng thì xem tử vi cho đỡ buồn dẫu sao cũng có được cái niềm hy vọng, vui giả vẫn dễ sống hơn là buồn thật chứ. Còn bàn cho hết nhẽ, vẫn anh Chương nói, từ năm mươi tuổi trở đi, tương lai ra sao cũng đã có thể đoán biết được, ngũ thập tri thiên mệnh, đại khái về chiều thường buồn hơn, ảm đảm hơn là buổi sáng. Khương Tử Nha, Bách Lý Hề về già mới xuất chính làm nên công nghiệp một thuở cũng là chuyện hi hữu, còn người thế gian đã năm chục tuổi là sắp được hưu nghỉ rồi, sống an phận với những cái đã có. Người trẻ háo hức nhìn về tương lai, người già lại thích trầm mặc nghĩ về quá khứ, mình sống như thế đã là phải chưa, có thể thua, thua nhiều lần, nhưng cái thái độ sống không có gì đáng để chê trách. Tôi tự nghĩ, vẫn là anh Chương nói, tôi là kẻ thất bại, làm bộ trưởng thất bại, làm nghị sĩ thất bại, làm người yêu nước cũng thất bại, một trăm một ngàn dự kiến không thực hành được lấy một, nhưng tôi vẫn là một trí thức tự do, không ai mua được tôi, không ai làm chủ được tôi trừ đức Phật. Cậu Việt này, tôi có được đọc một bài báo ngày còn ở ngoài kia, viết rằng bọn chúng tôi là tham mưu của giai cấp tư sản, là người truyền bá chủ nghĩa thực dân mới, là chống cộng, là phản cách mạng, đọc xong tôi chỉ buồn mà không giận. Các anh đâu đã biết nhiều về bọn tôi mà vội lên án. ở trong này đã gọi là trí thức thì không có ai chống cộng, không có ai làm tay sai cho Mỹ, cũng rất ít người chịu làm cái nghề viên chức ăn lương tháng của chính quyền. Có trăm ngàn thứ nghề tự do để họ kiếm sống mà cũng đàng hoàng lại không phải lụy. Họ muốn viết gì thì viết, muốn chống ai thì chống, không một thế lực nào buộc được họ phải làm thế này, không được làm thế kia. Phải như vậy họ mới dám công khai bênh vực cộng sản tại nhiều trường đại học, công khai ca ngợi Cụ Hồ là vĩ nhân của thế kỷ, nhà yêu nước vĩ đại nhất của Việt Nam, công khai chửi Mỹ, riêng tôi mới có thể công kích thằng Thiệu ở nơi này nơi nọ mà không bị đi tù. Nếu bọn tôi đều là lũ bán nước cả, đều là nhân viên ăn lương của Xịa cả thì các cậu thắng làm sao? Chỉ bằng sức mạnh của súng đạn chứ không có nhân tâm thì làm sao mà thắng nổi?

Nhìn đồng hồ đã mười giờ ba mươi phút, chỉ còn một giờ rưỡi nữa là sang một năm mới, chúng tôi đã định sẽ ngồi với nhau, với anh chị Hoàng đến đúng giờ phân chia hai năm mới ra về. Mà như chị Hoàng đã nói trước, gần đến cái giờ ấy, chị sẽ tuyên bố một điều quan trọng, là thái độ dứt khoát nhất của chị đối với tình hình hiện tại. Còn anh Chương thì thế nào? Anh quý thì thế nào? Xem như cả hai cũng đều đang tính toán, cũng đều đang chọn lựa. Nghe câu chuyện của họ, nhìn nét mặt của họ, tôi biết, nếu là đang chọn lựa thì cũng chưa hẳn một bề nào. Rồi còn bọn tôi nữa, mấy anh em đi kháng chiến về, cũng có mặt tối nay theo lời mời của bà chị, để chứng kiến cái gì nhỉ? Để buộc phải bày tỏ thái độ trước một vấn đề nào nhỉ? Từ tối đến giờ ngồi nói với nhau đủ mọi thứ chuyện, tựu trung vẫn là chuyện chính trị, là thái độ chính trị của từng người trước những việc lớn của đất nước. Người thắng cũng có phần lo âu khi nhìn về tương lai, kẻ bại có cái chua chát về sự nhầm lẫn khi lựa chọn ý nguyện buổi đầu. Có thể cái buổi đầu chỉ tính tới cái dễ dãi và vui vẻ, chứ nào ngờ chính trường còn ác liệt hơn cả đấu trường, thân bỏ lại mà cái danh cũng bỏ lại. Nếu như phải nói với hậu thế thì sẽ nói điều gì nhỉ? Rằng chúng tôi muốn nắm lấy chân lý, thoát khỏi mọi sự tranh chấp ích kỷ, vụ lợi của các chủ nghĩa, đảng phái, của các thế lực và cũng đã thất bại! Cuối cùng vẫn chỉ là một phần tử vô nghĩa của một tập đoàn, một thành viên bị động của một xã hội, một ý kiến trong muôn vàn ý kiến không đáng được chú ý, một con số không méo mó khi tính lại những hoạt động vô ích của gần một đời người. Chẳng là cái gì cả, buồn nhỉ, danh nhân, dũng tướng về già cũng buồn, cũng tự than mình chưa làm được cái gì cả. Kennedy chẳng là cái gì cả, Kissinger cũng cẳng là cái gì cả. Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, lừng lẫy tiếng tăm non nửa thế kỷ, rút lại lúc chết đi cũng chẳng là cái gì cả. Họ là những trí thức cả đấy, vừa có trí thức lại có quyền lực, một góc hoàn cầu có lúc đã nằm trong tay họ mà rồi ra cũng có cái gì đâu. Rút lại chỉ còn cái tư cách cá nhân giữa đám bạn bè. Bạn bè rồi cũng thay đổi, ngày nay khác với ngày qua, cuối cùng còn lại cái gì nhỉ? Chỉ còn lại có mình nhìn kỹ vào lòng mình. Là một trí thức tự do, không làm tôi một kẻ nào, không xu phụ một thế lực nào, là bộ phận vô tư nhất của xã hội xáp gần với chân lý hơn cả! Cái chỗ trú nấp cuối cùng ấy của người trí thức xem ra cũng chưa phải đã hoàn toàn yên ổn. Quân bảo thế, theo anh, đã thất bại là thất bại hoàn toàn, từ cái nhìn chung đến cái riêng. Nhìn thế sự ngao ngán mà có nhìn vào lòng mình cũng vẫn ngao ngán. Bởi vì, người trí thức chỉ hành động khi đã xác tín. Đã xác tín thì không thể giữ cho riêng mình một phần tự do cỏn con nào mà dồn tất cả cho sự nghiệp. Sự nghiệp là tự do của anh ta. Vả lại cái nguyện vọng sâu thẳm của người trí thức không phải là đứng ngoài chính trị mà là đứng bên trong chính trị, cầm quyền chính trị. Luôn luôn anh ta là một phần tử của một xu hướng, của một phe phái mà còn là phần tử tiên phong, tích cực nữa kia. Thành hay bại, vinh hay nhục, là do cách chọn, chứ không do có nhảy vào trong hay vẫn đứng ở ngoài. Tu sĩ cũng còn chẳng thể đứng ở ngoài. Vẫn là Quân nói, năm 54 Diệm từ Mỹ về làm thủ tướng có dắt theo mấy anh trí thức học ở Mỹ, đám Bùi Phước Long, Nguyễn Thái, Bùi Công Văn, Võ Văn Hải. Họ sẽ đem những kiến thức của một xã hội cởi mở, cái société ouverte, để cải tạo cái xã hội thuộc địa, phong kiến, khép kín ở Việt Nam. Nhưng cái xã hội thuộc địa và phong kiến ấy đã nuốt chửng họ ngay những ngày đầu. Tất bại là do chọn lầm minh chủ. Ngô Đình Nhu cũng là trí thức chứ gì, cứ chửi nó là thằng archiviste, làm cái nghề lưu trữ văn khố, nhưng nó vẫn là thằng có trí thức nhất trong mấy anh em nhà họ Ngô. Thời ấy có ai dám nghĩ khác, chứ chưa dám nói khác với học thuyết Cần Lao - Nhân Vị của ông cố vấn! Học thuyết đi trước, máy chém theo sau, cách tổ chức xã hội giống hệt quan niệm của các giáo sĩ trí thức thời trung cổ. Nhu chết, học thuyết tiêu ma, thất bại vì một tham vọng điên cuồng. Nhất Diệm, nhì Nhu, thứ ba là bác sĩ Trần Kim Tuyến, ông "thước mốt" theo cách gọi của bọn đàn em ở đây. Ông ta là giám đốc Sở nghiên cứu chính trị thuộc phủ tổng thống, tức là cơ quan an ninh và mật vụ. Cũng trí thức lắm: một bằng cử nhân luật, một bằng tiến sĩ y khoa. Cách sống rất trí thức: giản dị, khiêm nhường, rất quý bạn mà lại hóa ra một thứ hung thần của đệ nhất cộng hòa. Rút cuộc Tuyến bị đuổi, sự nghiệp tan tành, thất bại vì một mưu đồ bẩn thỉu. Giới trí thức Sài Gòn ngày ấy phản đối chính sách độc tài của gia đình họ Ngô, chủ trương bất hợp tác. Tờ nguyệt san Quê hương là cơ quan phát ngôn của bọn họ. Giám đốc bí mật của tờ báo "tiến bộ" ấy là ai? Bác sĩ Trần Kim Tuyến! Luật sư Trần Văn Minh chỉ là người giúp việc công khai của ông ta mà thôi. Chống nó mà rồi lại hợp tác với nó. Tất nhiên là thất bại rồi, vì thơ ngây mà cũng phần nào vì hám lợi.

Lại nói cái thời Mỹ, anh em trí thức chúng ta không ai hợp tác với Mỹ cả, chỉ hợp tác với các tổ chức của tư nhân Mỹ có đặt văn phòng tại Sài Gòn mà thôi. Lớn nhất là cơ quan Văn hóa á châu, Howard Thomas là người đại diện ký hợp đồng. Rồi đến các cơ quan điều nghiên của Ford, ông vua xe hơi, của Rockefeller, vua dầu hỏa, của Carnégie, vua sắt thép. Các cơ quan này có nhiệm vụ tiếp nhận các công trình của những nhà trí thức tự do không muốn làm cho chính phủ hoặc cơ quan chính thức của Mỹ, mà chỉ nghiên cứu một số đề tài do những cơ quan tư nhân này đề xuất. Ví dụ như tình hình báo chí Việt Nam một nửa thế kỷ nay chẳng hạn, một công việc rất tự do, cung cấp tình hình cho một tổ chức văn hóa, chẳng có gì là hại nước hại dân cả, mà tiền nhận cũng khá nhiều, từ năm đến mười ngàn đô la. Còn những nhà trí thức hoạt động trong các đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia, không tư bản, không cộng sản như Đại Việt hoặc Việt Nam quốc dân đảng chẳng hạn, cũng không thể thoát khỏi bàn tay của người Mỹ. Tôi không nói bịa đâu, có chứng cớ hẳn hoi. Nghề của tôi nó đòi hỏi phải rất tò mò mà. Quân nhìn vẻ mặt ngờ vực và hơi khó chịu của anh Chương, anh Quý liền nói luôn thế. Ai nắm Việt Nam quốc dân Đảng? Tưởng Giới Thạch nắm. Ai nắm ông Tưởng? Đó là tướng Wedemeyer, đặc phái viên của Roosevelt bên cạnh chính phủ Trùng Khánh. Còn Đại Việt? Nhật nắm, Nhật đã đẻ ra cái tổ chức chính trị này. Tôi có được quen biết ông Komatsu là một ký giả Nhật nổi tiếng, trong thế chến thứ hai ông ta làm tình báo, là sếp sòng tình báo Nhật trên toàn cõi Đông Dương, hồi ông đến chơi nhà Trần Văn Chương còn vò đầu cô bé kháu khỉnh Trần Lệ Xuân và cho kẹo kia. Ông Komatsu là cha đẻ của Đảng Đại Việt. Nhật thua, bán lại cho Mỹ những nhà yêu nước Việt Nam theo tinh thần Đại Đông á để Mỹ dùng về lâu về dài. Các nhà tri thức Việt Nam tất nhiên là không chịu đánh bạn với quân nhân hoặc quan chức Mỹ đang dính líu tới cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Bạn của họ là các giáo sư, các tiến sĩ, những người trí thức cấp tiến hoặc khuynh tả ở Mỹ. Nhưng các ông trí thức này nếu không phải là nhân viên của CIA, thì cũng là nhân viên của cơ quan USAID là tổ chức chi tiền, yểm trợ, thực hiện mọi viện trợ của Mỹ tại Việt Nam, hoặc là giáo sư trường Đại học Michigan chuyên giúp đỡ các nước đang phát triển củng cố, cải tạo bộ máy hành chính và an ninh tại nước họ. Có một dạo tôi chơi rất thân với con một ông tỷ phú tên là Deso, là thượng sĩ Deso. Cậu ta đăng lính theo nghĩa vụ quân sự, làm việc nửa ngày chơi nửa ngày. Thì cậu ấm đã chịu tòng quân, lại chịu sang Việt Nam cũng đã làm vinh dự cho đội quân viễn chinh của Mỹ lắm rồi. Trời ơi, con người ăn nói học thức và dễ thương làm sao. Tiêu xài như dân cậu Bạc Liêu, chiếc xe Pontiac màu vàng của hắn cả Sài Gòn chỉ có ba chiếc. Cuối cùng mới vỡ lẽ cậu ấm là bí thư cho tướng O' Daniel, con papa mà đã lợi hại đáo để, cậu ấy chơi thân với dân làm báo cốt để moi tin mà. Còn ai trí thức hơn hai nhà báo danh tiếng của Mỹ, mỗi lần qua Việt Nam đều lại ăn cơm đằng nhà tôi, khen bà vợ tôi nấu món ăn khéo quá. Đó là Stewart và Joe Alsop. Các bố ấy đều là cấp sư ở tòa Ngũ Giác Đài. Sau này Stewart, Alsop cộng tác với Thomas Brađen viết cuốn: Nước Mỹ và công tác tình báo, tôi mới được biết cái nghề chính của các sừ. Tôi cũng lại quen thân với một ông bạn nữa, cũng trí thức lắm, lịch sự hơn cả Pháp là Guy Pauker, gốc Hung, nói tiếng Anh theo giọng Hung, học ở Sorbonne, vợ Mỹ, từng ở Indonesia nhiều năm, nghiên cứu cây cỏ vùng nhiệt đới gì đó. Anh này có cái tật khi nói chuyện với phụ nữ cứ giương mắt nhìn trừng trừng, phụ nữ họ rất ghét. ít năm sau mới té ngửa cái ông Pauker bác học ấy là tác giả chính vụ lật đổ Sukarno, đưa tướng Suharto lên cầm quyền, hiện đang làm giám đốc cơ quan điều nghiên quân sự, chính trị, kinh tế ở á châu, gọi tắt là cơ quan nghiên cứu và phát triển, là RANT. Thì ông Vũ Quốc Thúc, nhà kinh tế học lỗi lạc của bọn mình đấy, một trí thức nhất định là tự do rồi, không là tham mưu, là cố vấn cho một đảng phái chính trị nào rồi, nhưng tên tuổi của ông ta lại gắn chặt với những kế hoạch lẫy lừng của Mỹ ở Việt Nam, Vũ Quốc Thúc - Staley, Vũ Quốc Thúc - Lilienthal.

Vâng, chúng ta là những phần tử tiến bộ nhất, có ý thức dân tộc nhất của xã hội, chúng ta không nuốt nổi anh em nhà Ngô và tập đoàn quân phệt Khánh, Kỳ, Thiệu thì chúng ta làm việc với các tổ chức dân chủ của Mỹ, của thế giới tự do, của ông Pauker chẳng hạn, vẫn có tiền xài, mà vẫn đứng ngoài chính trị nhá! Anh Quý làm đại sứ vì nó là cái nghề của anh, chứ anh ấy có ưa gì mấy cha cầm quyền, anh luôn luôn đứng ngoài chính trị, kể ra cũng khó nghe thật, anh Quý nhỉ, mấy ông Việt cộng cũng dễ tính, chứ là tôi thì phải mời anh đi cải tạo ít nhất là vài năm. Còn anh Chương, xin lỗi, anh làm gì còn tự do mà nói rằng vẫn giữ trọn, anh đã bán đi đổi lại không biết bao nhiêu lần, anh mặc cả với người cầm quyền đúng hơn là anh chống họ. Mà họ chịu mua anh cũng cốt để thỉnh thoảng anh chống lại họ chút chút cho vui. Những người trí thức có tư tởng cách mạng thật sự, hành động theo một đường lối chính trị tiến bộ thật sự, họ đâu có giấu giếm cái chỗ đứng của mình, đâu có xấu hổ vì phải chiến đấu trong một đội ngũ, dưới một lá cờ, đằng sau một khẩu hiệu. Như thế chẳng quang minh hơn là cũng có tất cả các thứ đó mà lại chối là không có sao? Anh Chương nói câu này đúng, chúng ta chẳng là cái gì cả. Thế giới mênh mông, sự vận động của nó cũng mênh mông, danh nhân, danh tướng còn chưa là cái gì huống hồ một đơn vị rất vô nghĩa là mình. Mỗi chúng ta - Quân nói - giống như một đơn vị nhỏ nhất của thời gian, là một tíc tắc - tíc tắc. Các triết nhân xưa thường ngắm cái sọ người để suy ngẫm. Mưu bá đồ vương, rút lại cũng chỉ là một cái sọ vô danh mỏng mảnh. Tôi không ngắm sọ người mà thường suy tư trước cái đồng hồ báo thức đặt trên bàn làm việc. Tíc tắc - tíc tắc, hãy nhớ tới cái hữu hạn, cái ngắn ngủi, cái chóng qua của một kiếp người. Hãy mơ mộng trong cái hữu hạn ấy. Với cái vĩnh viễn, cái vô tận, cái trôi đi mãi mãi thì mình có là cái gì, chẳng là cái gì cả, đừng nghĩ phải là cái gì đó mà khổ, nhưng ta vẫn có thể là cái gì đó trong cái khoảnh khắc ta đang sống, là một sức đẩy dẫu là yếu ớt vào cái dòng lưu chuyển chung, tôi vẫn nghĩ như thế, tôi vẫn sống như thế và tự xem là đủ. Quân quay mặt sang phía tôi, ánh mắt anh lấp lánh. Mấy chục năm qua, tự xét mình, tôi thuộc về sức đẩy, chứ không thuộc về vật cản nhưng cũng chỉ như thế thôi, chẳng là cái gì cả trong cái dòng chảy vĩnh viễn của lịch sử!

Truyện ngắn

Nguyễn Khải

Gặp gỡ cuối năm

- 8 -

Đã mười một giờ ba mươi. Còn nửa giờ nữa là giao thừa, là hết hẳn một năm cũ, sang hẳn một năm mới, theo Âm lịch. Chị Hoàng bệ vệ đứng lên, mặt đỏ bừng, kêu nhức đầu quá xin phép mọi ngời vào trong buồng nằm nghỉ một lúc, nếu giao thừa không thấy chị ra thì xin mời tất cả vào buồng chị, chị sẽ tuyên bố một điều rất hệ trọng. Chị nói thêm: "Buồng tôi không khóa, xin mời tất cả vào tự nhiên. Vì tôi không muốn công nhận cái năm sắp tới nên từ lúc này tôi đã thuộc về kỷ niệm của mọi người". Chị Bơ cũng nói sẽ dành cho cả nhà một bất ngờ, nhưng phải đợi đúng giao thừa, cái bất ngờ của tôi cũng thường thôi, chị nói thế, không được đặc sắc như của chị Hoàng đâu. Nhẽ ra chị phải gọi là cô Hoàng, vì chị là chị cả, nhưng bà chị nghèo toàn gọi các cô em, cậu em vừa giàu vừa sang là chị là anh hay là ông là bà. Sống nhờ người ta lại gọi là cô là cậu sao tiện. Anh Đại nửa ngủ, nửa thức, cười mủm mỉm, nói rằng anh chỉ thích được một bữa ăn thêm thật bất ngờ. Anh Chương kêu lên chán nản, có gì là bất ngờ thì trình diễn hết đi, cho nó vui, vui cả năm, còn sống mãi trong cái không khí "sẽ không có gì đến cả" thì buồn quá, buồn muốn chết được. Sau đó chị Bơ rủ chị Hảo xuống nhà dưới để chuẩn bị cái gì đó, có khi chuẩn bị cho sự bất ngờ chị vừa nói cũng nên. Anh Đại vẫn ngồi ngay ngắn một đầu bàn ăn, đầu hơi ngoẹo xuống vai, tiếp tục giấc ngủ chập chờn của người già. Tôi nghe chị Đại nói nhiều đêm anh chỉ ngồi như thế mà ngủ, nằm lại thức nhưng ngồi thì ngủ được, không được một giấc dài thì cũng được nhiều giấc ngắn. Còn lại có mấy người ngồi quây lại, uống một đợt cà phê thứ ba, thứ cà phê bột do Biên Hòa sản xuất, thơm đậm mà không chua như cà phê bột của Pháp. Theo anh Hoàng thì cà phê Ban Mê Thuột thuộc loại ngon nhất thế giới, trồng ít nhưng chọn giống rất kỹ để các ông Tây thuộc địa thưởng thức với nhau. Còn cà phê xứ Ba Tây họ sản xuất theo lối đại công nghiệp, rất nhiều, nhưng phẩm chất kém. Tôi hỏi, có phải dân Đức xài cà phê dữ nhất thế giới không? Mỹ chứ! Dân Mỹ xài tới bốn chục phần trăm cà phê của thế giới, mà nước nó thì không có đến một cây, toàn nhập thôi, trước hết là nhập của Ba Tây. Còn nước mình, tự hào cà phê ngon nhưng lại không nằm trong danh sách những nước sản xuất cà phê của Liên hợp quốc, vì anh có ít quá, ngon mà ít là chết rồi, thế giới họ cần cái vừa phải nhưng mà nhiều, thật nhiều. Vẫn theo anh Hoàng, ở Đông Dương có hai nơi trồng được cà phê tuyệt ngon, ngoài Ban Mê Thuột còn có Attopeu nữa, cũng là của Pháp cả. Anh Hoàng bảo tôi: "Thời buổi này là thời buổi kinh tế cậu ạ. Các nhà chiến lược của hoàn cầu đều là những nhà kinh tế học cả. Cậu muốn viết hay cậu phải giỏi về kinh tế. Chẳng phải vì tôi thích cái cụ thể, cái có thể tính đếm được, đoán giải được mà tôi nói thế đâu. Tổ chức RAND nổi tiếng khắp thế giới về các công trình nghiên cứu chính trị và quân sự trên căn bản kinh tế. Một tổ chức làm thuê nữa cũng rất uy tín với nhiều chính phủ, được gọi là Think Tank, cái túi khôn, do Herman Kahn lập ra, tức là Hudson Institude. Anh muốn lên kế hoạch xây dựng, phát triển trong năm năm hay mười năm về một phương diện nào đó, thuê chuyên gia họ tới điều nghiên một hai năm là có ngay một bản tường trình rất chính xác. Mà rẻ lắm, rẻ hơn tự mình làm lấy nhiều". Tôi nghĩ thầm: Nhỡ họ chơi xỏ mình thì sao? Họ làm tình báo thì sao? Ông này phi chính trị thật, một người làm công hoàn hảo thật. Biết là chúng tôi không tin lắm, anh đứng dậy lục tìm trong hộc tủ một lúc lâu, lôi ra một cuốn sách dày, có ghi ngoài For official use only, chỉ dùng trong công vụ, là biên bản hội nghị Ngân hàng phát triển á châu do Watanabe là chủ tịch họp năm 1970 tại Manila. Anh lật nhanh một số trang đầu, dừng lại trước một dãy cột số, bảo tôi:

- Hội nghị này bàn về ảnh hưởng kinh tế của Mỹ ở Việt Nam và vùng Đông Nam á sau khi cuộc chiến ở Việt Nam kết thúc. Những vấn đề được đưa ra xem xét như sau: cách mạng xanh, công nghiệp hóa, tức là công nghiệp chế biến nông sản, mậu dịch quốc tế, đầu tư tư nhân, cả vấn đề tăng giảm dân số ở khu vực này. Lạ nhất mà hồi đó tôi đâu đã tin, là bọn họ đã tiên đoán trên căn bản kinh tế đến năm 73 dứt khoát phải chấm dứt chiến cuộc tại Việt Nam. Cậu xem những chỉ số viện trợ và chi tiêu của lính Mỹ ở Việt Nam thì rõ. Từ năm 70 đến hết năm 72, Mỹ viện trợ quân sự cho chính quyền Thiệu đều đặn mỗi năm là 2 tỷ đô la. Sang năm 73 còn 1 tỷ rưỡi, năm 75 chỉ có 300 triệu. Chi phí của lính Mỹ và các viên chức người Mỹ tại Việt Nam như tiền mướn nhà, tiền chơi đĩ, may quần áo, thuê người làm v.v... năm 70 là 250 triệu, năm 72 là 150 triệu, năm 73 là 100 triệu, đến năm 75 chỉ còn có 50 triệu. Tức là họ có tính được trước thật. Nói gì thì nói, thằng Mỹ vẫn có đầu óc tính toán thực tế nhất. Tất cả chỉ là trên căn bản kinh tế! Nhưng mấy ông nội ở đây lại quá tồi, nó vừa rút khỏi là anh cũng rã theo luôn. Ai mà tính nổi mấy anh ngụy lại tan nhanh đến thế?

Quân phì cười:

- Vậy mới gọi là tính toán chi li trên một căn bản lầm lẫn. Nên hỏng! Làm con buôn thì ăn, mà làm hiệp sĩ thì hỏng!

Anh Quý nói theo đầy ngụ ý:

- Làm người bình thường thì được, mà làm người hùng thì khó.

Anh Chương cười gượng gạo:

- Đã từ lâu, từ nhiều năm nay tôi không còn ao ước làm người hùng nữa. Tôi không lãng mạn như ông Kennedy đâu, từ nhỏ tới lớn ông ta muốn làm gì đều được nên quá tin vào số mệnh siêu phàm của mình. Còn tôi, chỉ những thất bại là thất bại, đến làm chồng làm cha còn không được thì làm gì cho nên.

Quân nói, như thế vừa tỉnh táo lại vừa thực tế.

Anh Quý hỏi: Vậy còn lá số của anh, sao bảo đại hạn tới rất tốt?

- Hiền lành, hòa dịu, một thập niên êm ả không có sóng gió, nó chỉ sự an phận, hưu nghỉ. Vậy cũng đã là tốt lắm, vì tôi đang mong thế. Có điều, từ nay mình phải sống nhờ vào đồng lương của vợ, của con. Cái nghề của mình ai mà xài nổi, hết thời rồi.

Quân nói ướm:

- Có một nơi đang chiêu nạp những người làm nghề chính trị đối lập, lương trả hậu lắm, ông Phùng của nhà này có biết chỗ liên lạc.

Anh Chương thở dài mỏi mệt:

- Tôi biết chứ, tôi biết vì đã có người nói với tôi cái chuyện đó rồi. Nhưng tôi từ chối. Mình đã chán Mỹ quá đi, nay lại đến xin làm công cho nó, không phải trực tiếp mà là qua một kẻ trung gian thì còn ngán ngẩm nào bằng. Không bàn chuyện đó nữa, bỏ qua! Tôi hy vọng năm tới tôi sẽ được đoàn tụ với gia đình, thằng Tín đã mười bảy tuổi rồi, mẹ nó dạy nó làm sao được, mẹ coi con như còn lên năm lên ba hò hét, cấm đoán, con xem mẹ như một mụ già độc đoán, ích kỷ, chẳng biết gì những thay đổi của thế giới. Năm nó mười sáu tuổi, có lần hỏi chị nó, đã bao giờ chị muốn tự tử chưa? Mẹ nó hét lên chửi nó là thằng ngu, thằng khùng, rất may con chị đã nói với em nó rất khôn ngoan, rằng chị đã nghĩ tới tự sát từ năm mười ba tuổi kia, năm nào cũng muốn tự sát vài lần, tự nhiên lắm mà, ai chẳng thế, rồi cũng chẳng có ai tự sát, vẫn sống hết. Thằng em cười, nói một câu mà chỉ đọc qua thư cũng dựng cả tóc gáy: Nếu em là người duy nhất nghĩ như thế thì em sẽ tự tử thật, còn tất cả đều đã có lúc nghĩ như thế, mà họ còn sống cả, riêng mình lại chết, thật ngốc quá. Nguy hiểm chưa! Các bà mẹ yêu con dại dột đến dễ sợ! Được làm cha và làm chồng là nguyện vọng duy nhất của tôi hiện nay, có lẽ là mãi mãi. Mình làm nhiều chuyện vớ vẩn quá, vô ích quá, từ nay sẽ làm một việc thôi, giống như mọi người, nhưng sẽ là việc có ích nhất. Tính thế đã được chưa, các anh?

Anh Quý nói:

- Chỉ còn ít phút nữa là sang năm mới, tôi có thể nói thật với các anh một chuyện này, phải là tối nay, trong cái không khí thật tự do, thật trí thức của tối nay, mới có thể nói thật được, không phải vì sợ mà vì xấu hổ, có một chuyện cỏn con như thế, cũng phải đắn đo, tính toán mãi. Từ một năm nay, chú Phùng muốn giúp vợ chồng tôi ra nước ngoài, và biết rằng chúng tôi không có tiền, lại già yếu nên chú hứa sẽ lo cho cả, lo ở bên này và lo cả lúc đã sang tới bên kia. Sang bên kia sống bằng tiền cứu trợ dân tị nạn, cộng thêm bạn bè giúp đỡ chút ít thì vẫn sống được. Tại sao chúng tôi muốn đi, tôi bị bệnh thống phong, mỗi ngày mỗi nặng, phải mổ nạo kịp thời, lại phải có thuốc ngừa phòng, bữa nọ ngã nhẹ một cái, chống khuỷu tay đỡ, ngay trong đêm đầu xương đã sưng tấy lên, sưng cả một cánh tay, phải uống nửa trăm viên Ampicillines mới khỏi. Nhà tôi là cử nhân văn chương tốt nghiệp ở Anh hiện đang dạy ở trường Đại học sư phạm nhưng cũng gần tới ngày hưu nghỉ. Cả hai vợ chồng đều muốn đi, nhưng bằng cách nào? Tiền không có, quen biết cũng không, đi chính thức thì không ai bảo lãnh, kẹt. Thì gặp ông Phùng, ông muốn giúp bọn này qua nước ngoài, bằng đường tổ chức riêng trong Chợ Lớn, rất bảo đảm. Lại không mất tiền, không mất gì cả. Chỉ có đi thôi. Tôi nhận liền và hết lòng cảm tạ tấm lòng tốt của họ. Tháng này lại bảo tháng tới, đến tháng tới lại bảo tháng sau, lúc không thuận gió, lúc phải xem lại thuyền, có lúc lại bàn nên đi đường bộ vất vả tí chút nhưng chắc chắn, rút lại cả bốn năm tháng chỉ rập rình chuẩn bị chứ chưa có gì đáng hy vọng hơn. Gần đây, chú Phùng nói thật, đoàn đi còn phải chờ hai nhân vật nữa, nhiều tổ chức nước ngoài mời họ qua, nhưng chính phủ Việt Nam không đồng ý nên phải đi theo đường này, có họ thì cách đưa đón sẽ chu đáo hơn, mình có đi theo cũng đỡ cực. ở tuổi già, cứ đỡ cực là thích rồi, có nhiều người đưa đón là thích rồi, tìm hiểu làm gì thêm cho mệt. Nhưng rồi vẫn chưa thấy đi, còn đợi gì nữa? Thì ra hai ông ấy không muốn đi. Một ông thì say mê những đề tài đang nghiên cứu, mà những công trình ấy phải ở lại Việt Nam mới hoàn thành được, vợ con ông ta đi rồi, ở lại còn một cô con gái, mà cô bé thì cách mạng lắm, nếu ba cô đi, cô cũng dám ở lại một mình. Còn một ông nữa là cựu đảng viên cộng sản, một giáo sư địa chất danh tiếng, bà vợ ham đi nhưng ông chồng lại không thể đi, họ là người của cái sự nghiệp này, còn phải đi đâu nữa? Nhưng cái tổ chức nào đó lại rất muốn hai ông này ra khỏi Việt Nam, một người vì lý do khoa học, còn một người vì lý do chính trị. Chú Phùng muốn tôi, vợ chồng tôi, tới thuyết phục hai nhân vật kia nên đia, chúng tôi quen biết nhau cả mấy chục năm, nếu tôi có thể sẽ thu xếp ổn thỏa. Chú Phùng nghĩ thế, chứ tôi, tôi biết anh trí thức nào cũng vậy, càng có tài càng ích kỷ, họ phải quý cái sự nghiệp của họ trước, rồi bạn bè là sau, đến vợ con cũng là sau. Dụ dỗ thế nào được! Tôi cũng đã ngờ anh chàng Phùng này rồi, nhưng vẫn nghĩ hắn vì đồng tiền mà phải làm thế, chắc món tiền thưởng cũng to lắm, chứ không phải vì cái gì khác. Cách đây một tuần, hai chúng tôi, tôi và chú Phùng ấy mà, lại gặp nhau lần nữa, tại nhà tôi. Kỳ này thì chú ta có dọa dẫm xa xôi một vài chuyện nào đó của tôi trong quá khứ, tôi cũng đã quên rồi nhưng chú ấy lại nhớ, mình tưởng là chuyện nhỏ, chuyện vặt, nhưng nghe họ giảng giải thì lại hình như là to, là nghiêm trọng. ở lại sao được, nhưng mà đi thì phải là cả ba người. Các tổ chức bên ngoài họ muốn vậy. Vả lại, dầu tôi có muốn ở lại cũng đã muộn, tôi đã biết quá nhiều về họ, đã gặp gỡ một vài người trong bọn họ, mà những người này không thích luôn luôn chạm trán tôi tại Sài Gòn. Có nghĩa là tôi phải biến đi, bằng cách nào thì tùy, nhưng là biến khỏi nơi này đi, không nên có mặt lâu ở đây nữa, vì nhỡ ra, nhỡ ra tôi lại trống mồm trống miệng thì sao? Mà họ muốn mình phải biến đi thì thiếu gì cách? Tôi không xem tử vi, không tin lắm ở tử vi, nhưng có lẽ cái tết này đối với tôi là cái tết sau cùng, gặp các anh lần này cũng là lần sau cùng. Chẳng phải nói gở đâu, nhưng sự thật sẽ là như vậy. Anh Quân rất muốn giúp tôi, tôi tin là anh có thể giúp được, nhưng tôi xin được từ chối. Cậu Việt có muốn giúp, tôi cũng từ chối. Tuy tôi là kẻ trốn chạy thật, nhưng chưa đến nỗi vì mưu cái lợi riêng mà nỡ phá phách cái sự nghiệp chung. Thà rằng chịu chết! Tôi đâu có ngán cái chết nếu cái chết của tôi có thể lưu lại một chút âu yếm trong đáy lòng dăm ba người bạn.

*

Tôi ngước nhìn đồng hồ: mười hai giờ kém mười phút. Chị Hoàng đâu nhỉ? Vẫn chưa hết nhức đầu sao? Sắp giao thừa rồi, sắp sang một năm mới rồi mà chịu nằm khàn một mình trong buồn gà? Bà này kể cũng kỳ, nhất định không chịu nhìn nhận một năm mữa sắp tới. Với chị không có cũ mà chẳng có mới, tất cả đều giống nhau, mười năm, một năm, một ngày, một giờ đều như nhau cả, có gì là thay đổi, đốt xong một bánh pháo, cái năm cũ lại ùa vào, khách mừng năm mới ra về, đóng cửa lại vẫn hoàn là một năm cũ với những lo buồn cũ, hy vọng cũ, bực dọc, tức giận rất cũ. Mà lại mệt hơn, tốn tiền hơn, buồn bã hơn. Tống cổ cái năm mới sẽ tới, vẫn cứ đón đợi và hy vọng, vẫn là một cái gì khác với hôm qua, với mọi ngày nên chị chui vào trong buồng ngủ một giấc, tỉnh dậy đã là qua một năm mới rồi, chắc chị nghĩ thế, nên đến lúc này vẫn chưa chịu ló mặt. Vậy chị sẽ tuyên bố cái điều hệ trọng theo chị vào lúc nào? Không lẽ vào sau lúc giao thừa, vào ngày mai, à, nếu thế thì có gì là đặc biệt, là đáng đón đợi, người ta chỉ đón đợi những gì sẽ xảy ra trước và sau cái phút giao thừa. Cái trang trọng của một khoảnh khắc đặc biệt của thời gian óng ánh lên tất cả những gì đặc gần nó, ở trong nó, chịu sự chiếu sáng của nó. Hay là, tôi đưa mắt nhìn anh Chương, hay là... Anh Chương quay nghiêng mặt đốt thuốc Vàm Cỏ, từ năm ra ngoài kia học tập anh quen hút thuốc nặng, ở buồng anh có cả một cái điếu cày và hộp thuốc lào Thống Nhất. Anh chẳng tỏ vẻ gì là nóng ruột vì sự thiếu mặt của bà chị. Anh Hoàng cũng thế. Anh Quý đưa mắt hỏi tôi, hình như anh cũng e ngại có chuyện gì đó không hay lắm, không tốt lành lắm sẽ xảy ra vào đúng giao thừa. Quân nhấm nháp tách cà phê tư lự. Ruột thịt của họ, họ vẫn thản nhiên như không, mình chỉ dính dáng một tí máu mủ việc gì phải hốt hoảng đến thế, tôi nghĩ thầm và đốt thêm một điếu thuốc cho đỡ bồn chồn. Chị Hảo chạy te te từ dưới nhà lên, giọng nói ồn ào: "Bà Hoàng đâu! Bà Hoàng đâu! Chúng tôi đang chuẩn bị một chuyện bất ngờ cho cả nhà, chờ nhé! Chờ một chút nhé! Chị đâu hả anh?". Anh Hoàng trả lời chậm rãi: "Kêu đau đầu, nằm trong nhà". Chị Hảo lại hỏi: "Thôi chết, quên mất, anh còn thuốc ngủ cho em mấy viên, dạo này em ngủ ít quá, một đêm chỉ chợp mắt được một hai tiếng". Anh Hoàng vẫn nói từ tốn: "Tôi không dùng thuốc ngủ bao giờ, hỏi chị ấy". Chị Hảo lại réo: "Chị Hoàng ngủ hay thức? Chị Hoàng! Xin bà mấy viên thuốc ngủ đây!". Rồi chị chạy xồng xộc vào buồng trong, nhưng anh Chương đã gọi giật lại: "Chị Hảo! Bà ấy vừa vào nằm một tí lát bà ấy ra sẽ hỏi". Bình nói thì thầm bên tai tôi: "Khi nãy nom mặt bác gái đỏ rực đến dễ sợ, như đang nghĩ ngợi một chuyện gì rất căng thẳng!". Tôi nín lặng, Bình nói đùa: "Hay là, hay là bà cụ định làm một cú gì đó, hả chú?". Tôi hỏi nhỏ: "Cú gì?" - "Một liều thuốc ngủ trước lúc giao thừa chẳng hạn. Thái độ dứt khoát nhất đối với tình hình hiện nay mà". Thằng Bình là một cán bộ khoa học, nhưng hắn lại nhạy cảm như một nghệ sĩ. Chính tôi cũng vừa chợt nghĩ như Bình đã nghĩ, nhưng hắn nghĩ mau hơn tôi. Chị Hảo lại nói toang toang: "Cái bà Hoàng đến là đoảng, mời anh em đến đón năm mới lại chui vào buồng nằm tới giờ chưa ló mặt ra. Năm mới gì mà buồn thế? Tẻ thế?". Anh Hảo nhăn mặt: "Bà nói nhiều quá, bà chuẩn bị cái gì bất ngờ thì xuống chuẩn bị tiếp đi" - "Xong cả rồi, xong cả rồi, nhưng nhìn mặt các ông tôi lại mất vui. Chán bỏ mẹ! Chị Hoàng ơi!".

Tôi nói nhỏ với anh Hoàng:

- Anh vào xem chị em có đau mệt gì không? Bà ấy uống tí rượu em sợ lên huyết áp.

Anh Hoàng nói chậm rãi:

- Không sao đâu. Ngồi lắm nên mỏi muốn đi nằm thôi. Cho bà ấy ngủ luôn đến sáng mai cũng là tốt.

Tôi lại nói gợi với anh Chương:

- Giao thừa không có bà chủ cũng mất vui anh nhỉ? Anh vào khua chị Hoàng dậy đi, anh! Phải ra tiếp khách chứ! Qua giao thừa tha hồ ngủ, chị đã nói sẽ không tiếp ai trong ngày mai mà.

Bình cũng nói thêm:

- Với lại bác bảo sẽ nói một điều gì đó hay lắm, quan trọng lắm trước lúc sang năm mới mà. Cháu phải nghe rồi mới về ăn Tết được, không thì cứ thắc mắc cả năm.

Anh Hoàng đưa mắt hỏi anh Chương:

- Chị bảo nói cái gì?

Anh Chương lại cau có:

- Ai biết được bà ấy định giở trò gì, cũng lắm trò lắm.

Mười hai giờ kém năm phút. Đột nhiên tiếng pháo nổ ào ào khắp thành phố, nhìn ra sân nhấp nhoáng như có ánh lửa. Rồi nhà bên trái đốt pháo, nhà bên phải đốt pháo, nhà trước cửa đốt một dây pháo rất dài, tiếng nổ dữ dội, gay gắt. Khói bay mờ mờ vào sân như sương, mùi thuốc pháo đã nồng nàn như ướp vào da vào thịt. Không ăn Tết mà được ư? Chối từ một năm mới đã tới mà được ư? Rồi tiếng pháo nổ rầm rầm ngay trong sân, lửa lập lòe hắt sáng lên những tàng cây cối sẫm. Cả mọi người như bừng tỉnh, nhốn nháo, nhà này mà đốt pháo? Nhà này cũng đã phải đón năm mới! Ai đốt thế? Pháo ai mua thế? Mặt người như rạng rỡ, như tươi sáng, như mới ra, trẻ ra. Anh Hảo mở sâm-banh tuyệt khéo, nghề phụ của anh mà, tiếng nổ to, khói vừa bay hết mới rót ra các ly, không mất đi đâu một giọt. Anh Đại hét to: "Xin chúc năm Canh Thân có nhiều tin vui! Xin chúc các cô các chú sang năm mới thật mạnh giỏi, thật may mắn!". Anh đã mặc áo khoác ngoài, cổ thắt nơ, tóc bạc trắng, tay giơ ly rượu đầy tràn, nhìn mọi người âu yếm, thỏa mãn, hể hả. Cả mọi người đều hét theo: "Xin chúc mừng một năm mới!". Rồi chúng tôi nắm tay nhau, chúc cho nhau mọi điều thật tốt đẹp. Là một bất ngờ nhỉ? Chúng tôi có định làm cái cử chỉ trang trọng và mòn cũ này đâu, không ai định cả, mà tất cả đều cùnglàm, tự nguyện, sung sướng và tràn ngập hy vọng. Con người ta cũng buồn cười nhỉ? Cũng hay nhỉ? Bà Bơ mặc áo dài lụa nâu, vấn khăn nhiễu nâu lại đi đôi hài cũ, món quà của bà cô tặng cô cháu tận tụy những năm nào. Theo sau chị là hai cô bé bưng hai mâm bánh chưng, đã bóc lá, với cá kho, với giò lụa, hành muối. Bà Bơ nói: "Cô Hoàng không thích ăn Tết, không cho gói bánh và làm các món ăn ngày Tết, nhưng chị còn tiền (lần đầu tiên chị xưng đúng danh vị của chị với chúng tôi) đủ để sửa soạn một bữa ăn thanh đạm nhưng thật là Tết, thật là bữa ăn của ông bà ngày Tết, mời các cô các chú. Năm mới chị chúc...". Cả mấy anh em chúng tôi đứng ngây ra, nước mắt rưng rưng khom người ồn ào chúc lại bà chị cả một đời hy sinh cho các em, dẫu đi tới góc biển chân trời nào vẫn nhớ tới chị, một bà chị ở Việt Nam, cái quê hương Việt Nam mỗi lần Tết đến, trong khói pháo thơm nồng, ngồi xắn từng miếng bánh chưng xanh mướt, ăn với giò lụa, với hành củ muối nén, nói với nhau nhưng hy vọng tốt đẹp nhất về một năm mới đã đến.

Và đúng vào lúc ồn ào, tưng bừng, ríu rít, vào cái lúc thật là Tết, rất là Tết, và rất là một cái Tết của Việt Nam, thì chị Hoàng từ phòng ngủ bước ra, mặc áo gấm dài thất thể màu xanh sẫm, quần Cẩm Châu đen, lại đi cả hài cườm. Như người từ đầu thế kỷ bước ra, hay nói cho đúng hơn, như từ trong hòm bước ra, một cái hòm gỗ tốt, có sơn thếp, có chạm trổ, theo thời giá khoảng ba ngàn đồng. Chị nhìn mọi người gườm gườm rồi nói to:

- Các người mở sâm-banh mà không đợi tôi hả? Tôi là người thừa của cái nhà này hả? Hay nhỉ? Hay thật đấy?

Anh Chương trố mắt nhìn bà chị:

- Bà này lại còn năm mới hơn cả bọn tôi? Bất ngờ nhỉ! Rất bất ngờ!

Anh Hảo cũng nói theo:

- Nom chị trang trọng như trong một bức ảnh chụp ấy. Chị đã thuộc về cái thế giới của những bức ảnh chụp rồi.

Quân mủm mỉm cười:

- Có treo lên được không nhỉ? Một bức hình cổ kính như thế thì treo lên ở chỗ nào cho hợp?

Thằng Bình cũng cười:

- Đến cái chỗ treo lên cũng không có hả chú? Làm người bình thường vậy. Làm người bình thường vẫn cứ thích hơn là bị treo lên!

Tôi đứng sát lại chị Hoàng, nói nhỏ:

- Chị đã chấp nhận cái hôm nay rồi phải không? Đấy là thái độ dứt khoát nhất của chị trước tình hình hiện tại, có phải không?

Chị Hoàng nhìn tôi buồn bã, vừa buồn bã vừa ngượng nghịu. Chị lại thất bại rồi, dự tính thì ghê gớm, nhưng bắt tay là thất bại. Có một lúc tôi đã thoáng lo sợ rằng chị có thể dám làm một chuyện gì đó. Liều mà! Nhưng chồng và em trai thì không hề lo, họ biết nhau quá, nhát cả, cái anh nhát dẫu có liều vẫn cứ nhát, nhiều lắm là nói thôi, nói cho hả, đâu có gan làm.

Chị Hoàng đi lướt qua mặt tôi, nói với cô em:

- Hình như cô Hảo cần thuốc ngủ, phải không? Tôi xin biếu cô một ống Véronal đây, loại này mạnh lắm, mỗi lần chỉ nên uống nửa viên thôi.

Rồi chị khệnh khạng kéo ghế ngồi vào bàn ăn, ngắm nhìn bà Bơ đang xắn riêng cho mình một miếng bánh thật ngon, nói phụng phịu:

- Có bánh chưang mà không có chè kho à? Cái nhà này làm ăn đến buồn cười, cứ được một cái lại hỏng một cái, có bánh chưng mà lại không có chè kho! Bây giờ tôi có thể ăn một lúc hết nhẵn hai đĩa chè kho!

(1) Bài thiếu quân

(2) Cô hầu

(3) Những kẻ tân tòng (tôn giáo)

(4) Nơi ở của sinh viên nội trú

(5) Huênh hoang

(6) Là người Việt Nam đầu tiên hiểu thấu đáo ngôn ngữ này

(7) Thế giới của chó

(8) Quan thầy

(9) Nếu Mao đến Hoa Thịnh Đốn

(10) Văn phòng

(11) Trường Quốc gia Hành chánh

(12) Dạy bảo không cần đến lời nói

31-1-81

Nguyễn Khải

Bố con

Nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ trắng toàn hơi nước, và nổi lên lất phất những ngọn tre lá toẻ ra hai bên như cái chổi lông gà. Chúng tôi có ba người, pha một bình trà đặc nói chuyện với nhau. Đồng chí Nam, tổ trưởng một tổ sản xuất, và Hòa ở trong tổ máy kéo mới đến đây được một tuần để cày mấy chục mẫu đất chuẩn bị cho vụ gieo ngô mùa thu. Lần đầu tiên tôi quen Hòa vào một buổi sáng tôi xin ngồi nhờ đầu máy kéo. Anh nhìn tôi bằng con mắt rất dài và đen:

-Dầu máy giây vào quần áo khó giặt lắm đồng chí ạ. Không hiểu vì lẽ gì tôi thấy mến anh ngay, và thầm nghĩ mình có thể trở thành bạn thân của anh được. Tôi leo phắt lên quàng tay giữ lấy cái lưng ghế bọc da, hỏi nhỏ:

-Đồng chí tên gì ?

-Hòa.

-Đã đến hai mươi tuổi chưa ? Hòa quay nhìn tôi cười, hàm răng to và thưa, trắng bóng:

-Lính nông trường không còn trẻ lắm đâu, hai mươi ba rồi đấy.

-Cũng còn trẻ chán ! Tiếng máy nổ ầm ì nhưng rất vang khiến hai chúng tôi không thể nói chuyện tiếp được. Từ hôm đó hễ có dịp gặp nhau anh chỉ nhìn tôi cười mỉm, rồi lại bận bịu vào công việc, cho mãi tới tối nay. ...Khói thuốc lá, hơi nóng của nước trà, sức nặng của mưa rơi và cái im lặng của chung quanh dễ khêu gợi những kỷ niệm mà thường ngày bị chìm đắm trong những công việc kế tiếp nhau lướt đến. Nhưng chưa ai biết nên bắt đầu câu chuyện như thế nào, tôi lại hỏi Hòa cái câu thường lệ của những người mới làm quen nhau:

-ông cụ bà cụ sinh ra đồng chí còn cả chứ ? Ai ngờ cái câu tưởng như nhạt nhẽo ấy lại là đầu mối của một câu chuyện.

-Bố mẹ tôi còn cả, nhưng hai bố con tôi mới gặp nhau được có vài năm nay. Và cũng nhân cái không khí thuận lợi của một tối mưa, anh bắt đầu kể. "Một tối thứ bảy vào cuối năm 1955 tôi nhận được thư của u tôi nhờ đứa cháu họ viết báo tin bố tôi đã về, hiện ở bộ đội và đề cả địa chỉ đơn vị của bố tôi. Chỉ một buổi tối mà tôi xem đi xem lại mấy dòng chữ đột ngột ấy có đến vài chục lượt, vừa nghi hoặc, vừa lạ lùng, mênh mang một ý nghĩ mơ hồ hình như bức thư này không phải gửi cho tôi, có lẽ của một người nào khác trùng tên họ. Trong đám sương mù của quá khứ thường hay loé lên những tia chớp trong một lúc chiếu sáng nhiều đoạn hình ảnh thuộc về những kỷ niệm đã qua, song chưa bao giờ tôi thấy có một hình ảnh rõ rệt, đậm nét về người bố. Từ năm lớn lên tôi chỉ biết có một bà mẹ, một chị gái và một anh trai.

Đấy là những người thân nhất, người của gia đình. Bà mẹ tôi thương các con, hy sinh vì các con, nể các con. Bóng dáng một người mẹ tần tảo, chịu đựng, hiền hậu xâm chiếm trái tim chúng tôi từ ngày còn thơ ấu, ảnh hưởng đến cả cách sống của gia đình, mẹ bảo ban các con, anh chị khuyên răn em, trìu mến lẫn nhau, thương xót nhau. Nếu đôi lúc có nghĩ tới một người bố xa lạ nào đó, thì tôi tin ngay rằng bố tôi đã chết từ lâu rồi, từ năm tôi mới đẻ. Nào ngờ bố tôi hãy còn sống, đã trở về tìm đến với gia đình, và ông cụ cũng là một quân nhân (tôi vẫn không sao tin ngay được chuyện đó có thật). Sự xúc động lúc đầu thật mạnh mẽ, đến choáng váng, vừa sung sướng, vừa hãnh diện, nhưng liền sau đó một nỗi buồn mông lung, không duyên cớ cứ chập chờn quanh quất như vừa đánh mất một cái gì, nhưng không thể rõ cái gì đã mất. Cái buồn ấy giống như một sự ganh ghét, một nỗi lo âu, vì tôi chưa quen nghĩ rằng mình phải có một người bố, gia đình mình phải có một người đàn ông đứng đầu. Cái tình cảm bố con hầu như chưa bao giờ nảy mầm ở trong tôi. Bao nhiêu lòng yêu thương tôi đã dồn về người mẹ cả. Hơn nữa bố tôi là người như thế nào đây, tính tình có giống như mẹ tôi hay hoàn toàn khác hẳn. Thêm sự có mặt của bố tôi liệu cái không khí đầm ấm của gia đình có bị nhạt loãng, nguội lạnh đi không. "Đêm hôm ấy tôi trằn trọc vì những lời lẽ sẽ viết trong lá thư gửi bố ngày mai, nhưng trong lòng vẫn thấy lạnh lùng, thờ ơ thế nào ấy. Tôi sẽ viết nhiều về công tác của tôi hiện nay, những thành tích mà tôi đã đạt được cốt để cho bố tôi hình dung ra đứa con trai của mình là một thanh niên cứng rắn, một chiến sĩ trong quân đội (bằng cách nào đó tôi phải để cho bố tôi biết tôi đã là tiểu đội phó). Phải dùng những lời văn thật bóng bẩy, nếu cần sẽ có cả một bài thơ chúc mừng tình cha con sum họp. Nhận được thư hẳn ông cụ sẽ phải ngạc nhiên và tự hào vì có một đứa con giỏi giang, sẽ biết nể những ý kiến sau này của tôi, và trong quan hệ cha con ông cụ sẽ đối đãi bình đẳng hơn." "Sáng hôm sau tôi để anh em đi chơi hết, xin một tờ giấy viết thư và một phong bì thật đẹp. Mới đề được hai chữ " Thưa thầy !", mấy ngón tay cứ run bắn hầu như không phụ thuộc vào sự sai khiến của mình nữa. Bao nhiêu ý nghĩ trong đêm qua phút chốc bị xoá sạch, trước mắt cứ nổi lên mãi hai chữ "Thưa thầy !". Thời kỳ đóng quân ở Thái Bình, tôi đã nhận một ông cụ có con hy sinh trong chiến dịch Điện Biên Phủ làm bố nuôi, tôi đã gọi ông cụ bằng "thầy" rất vui vẻ, hồn nhiên, với ý định làm giảm nỗi đau đớn của một người cha.

Sáng nay cũng viết lại hai chữ quen thuộc ấy, dòng chữ, trang giấy trở nên thiêng liêng, nghiêm trọng. Tôi chỉ viết được hơn mười dòng, câu cú rất lộn xộn, dòng cuối cùng lại là cái câu tôi muốn tránh "Con cảm động quá nên chẳng biết viết gì hơn thầy ạ". "Lá thư được gửi đi với tấm ảnh mới chụp của tôi. Nửa tháng sau tôi nhận được thư của bố từ Hà Tĩnh gửi ra, cũng kèm theo một tấm ảnh. Từ ngày nhận được tin bố, tôi vẫn tưởng tượng ra hình ảnh một ông già rất giống tôi nhưng khắc khổ hơn, từng trải hơn với hõm má sâu, cặp mắt tư lự và nửa đầu bạc trắng. Đến khi cầm bức ảnh tôi hoàn toàn thất vọng vì ông cụ chẳng giống tôi một chút nào, còn quá trẻ, đầu đội mũ, hai má rất đầy, đôi lông mày đen rậm. Nếu so ra thì bà chị cả còn già hơn bố tôi đến vài tuổi. Thế mà người này đã làm bạn với mẹ tôi trên ba chục năm nay, lại là bố của chúng tôi ... Cứ mỗi lần ngắm lại người bố của mình có cặp má rất đầy, đôi lông mày rậm tôi lại thấy bứt rứt, bực dọc. Cuối cùng tôi cất tấm ảnh vào trong ví, không đưa cho một người nào khác xem, tự mình cứ tin rằng người bố chính là cái hình ảnh đã tưởng tượng ban đầu. Tâm trạng của tôi ngày ấy nửa muốn gặp mặt để xem thực hư thế nào, nửa lại muốn kéo dài thời gian xa cách vì lo rằng rồi đây bố con ngồi giáp mặt nhau biết nói với nhau những gì. "Đầu năm 1956 bố tôi báo tin phục viên về làng. Giữa năm ấy anh tôi viết thư kể chuyện đã về phép và gặp bố, mẹ ở nhà đang có mang, anh có giục tôi nên cố gắng về vào dịp cuối năm vì bố ở nhà rất mong. Cuối năm thì tôi được về phép. "Tôi về đến xóm trại thì trời đã xẩm tối. Mấy người gặp tôi chỉ hỏi được về phép bao nhiêu ngày, còn không nói gì đến bố tôi. Tôi cũng nén sự tò mò để khỏi hỏi lại, cố giữ cái phút đầu tiên được gặp bố không bùng ra sớm. Tâm trạng tôi lúc ấy giống như một đứa bé lạc vào nơi hoang vu, vừa muốn hét to lên cho tất cả đều biết sự có mặt của mình để giảm bớt nỗi lo sợ, vừa muốn nín hơi thở, dón dén đi từng bước nhỏ để dò xét sự huyền bí sắp xảy đến. Đấy là lần về phép đầu tiên sau ba năm đi bộ đội." "Bước vào sân ngỡ nhà bỏ hoang, không một ánh đèn, không một tiếng động nhỏ. Lên đến hè, tôi dừng lại khẽ đằng hắng, vẫn không có tiếng ai hỏi lại. Tôi lần theo hàng cột đến mép phản, đặt ba lô xuống, bật diêm châm đèn. Nhìn quanh quẩn thấy đồ đạc vẫn kê như ngày trước, chỗ nằm của mẹ tôi mắc một chiếc màn đôi còn mới, một cái bát điếu để trên cái hòm gian, mấy cái áo đàn ông treo giáp vách buồng.

Trong vầng sáng nhạt mù mờ hơi mông mốc, phảng phất có một cái gì đó hơi xưa cũ, quen thuộc, và cũng có một cái gì khác lạ, lạc lõng." "Hàng xóm thấy tôi về lục tục kéo sang hỏi thăm. Nhà thì hẹp chỉ có hai gian rưỡi, cái nhà cuối cùng tôi cất lên trước khi đi bộ đội (bảy lần trước đều bị địch đốt phá trong các trận càn), nên nhiều người cứ đứng lố nhố ở ngoài hè hỏi vào. Qua câu chuyện tôi mới được biết mẹ tôi đã sinh một đứa em gái, hiện nay vẫn đang ở nhà hộ sinh trên tỉnh. Cách hai mươi năm nay mới sinh nở nên mẹ tôi bị băng huyết và sát dau. Bố tôi ở nhà ba hôm, lại lên tỉnh một hôm, con gái lấy chồng ở tỉnh khác, hai con trai đi bộ đội, ở nhà hai vợ chồng già, một khỏe một ốm nên rất bấn. Người hỏi, người nói, nhưng nhìn nét mặt mọi người tôi thoáng nghĩ có lẽ bà con sang chơi không cốt chỉ để thăm hỏi, mà còn như chờ đợi một cái gì khác. Ngoài thềm hè nhiều tiếng xì xào đan đi đan lại nhưng nghe không rõ. Chợt có tiếng lanh lảnh của đứa con gái ở mé sau nhà tôi vọng ra đồng:

-ông ơi, cậu cháu đã về! Một giọng rất trầm từ trên đê vọng lại:

-Cậu nào?

-Cậu Hòa ấy! "Bố tôi đã về! Tim tôi co hẳn lại, nặng trĩu, mỗi nhịp đập cứ vang lên nghe rõ từng tiếng một, máu dồn lên mặt nóng bừng và đầu óc quay cuồng. Cái phút vừa mong đợi, vừa ngại ngùng từ hơn một năm nay đã đến. Tôi biết xử trí như thế nào đây. Từ phút ấy tôi vẫn nói vẫn cười, nhưng hoàn toàn không hiểu được mình đã nói những gì. Một phút qua, mười phút qua, mười lăm phút trôi qua, không thấy một người nào rẽ đám đông bước vào, tôi đưa mắt nhìn khắp lượt, không thêm một khuôn mặt nào mới. Nhưng không ai hỏi chuyện tôi nữa, tất cả đều im lặng. Tôi chưa hiểu tại sao lại im ắng đến thế, thì ở vòng ngoài cùng có tiếng cười khúc khích, rồi chỉ một loáng ngay cả những người ngồi trước mặt tôi cũng cười. Có lẽ tôi vừa buột nói điều gì lầm lỡ ? Như có linh cảm, tôi quay người lại nhìn vào góc tối cạnh cái hòm gian, một người không quen mặt, mặc cái áo bông bộ đội, đang nhìn tôi chằm chằm. Tôi đứng phắt lên, đi lại hai bước, môi run bắn nhưng cố bật ra mấy tiếng:

-Có phải thầy đấy không ? Người đó không trả lời, vẫn nhìn tôi, còn tôi không đứng nổi trên đôi chân nữa, ngồi ngay xuống mép phản, nước mắt đã trào ra giàn giụa. Bố tôi (đúng người đó là bố tôi) cầm lấy cái bát điếu, đi qua tôi ra góc phản tôi vừa ngồi. Vừa thông điếu, bố tôi hỏi, giọng miền Bắc, nhưng rất nặng:

-Vừa về à?

-Con về nhà được nửa tiếng rồi. Thầy đi đâu về? (Tôi gọi tiếng thầy vẫn ngượng nghịu)

-Tát nước mạ... Anh ăn cơm chưa?

-Con ăn rồi. "Bố tôi bật mảnh đóm vào cạnh bát điếu, rồi đưa đóm châm lửa, nhưng mấy lần đầu đóm cứ trượt ra ngoài vành bóng.

Bố tôi quẳng đóm ra cạnh, rờ rờ lên mặt phản rất nhanh, vơ vội lên hộp thuốc lào, hai tay cứ xoay đi xoay lại cái nắp một cách không tự chủ. Bà con chào hỏi một vài câu rồi kéo về. Tôi mấy lần định nói câu gì đó cho đỡ ngượng, nhưng lưỡi cứ đờ ra như nặn bằng đất sét. Thế là cả hai vẫn ngồi im. Bố tôi cũng không nhìn thẳng vào mặt tôi, cứ nhìn ngang ngang tầm ngực, và như đọng lại nhiều ở cái huy hiệu Điện Biên Phủ tôi đính phía trên nắp túi áo bông. Qua ánh đèn tôi ngắm bố tôi, và giật mình không hiểu vì lẽ gì mà trí tưởng tượng của tôi gần đúng với sự thật đến thế. Thật ra khuôn mặt bố tôi không giống với ảnh chụp mấy. Tóc ngắn sát da đầu, lấp loáng từng mảng trắng, đuôi mắt kéo xuống trông như một mí mòng mọng, lúc nhìn ngang cái màng ngoài rất đục, bắp thịt ở má cũng không tròn căng như trong ảnh mà đã nhẽo, hơi chảy, lớp da ở cổ đã bong ra khỏi thịt, nhăn lại. Mọi nét trên mặt đều mệt mỏi, duá chỉ có đôi vai rất rộng và hai bàn tay to có những ngón hầu như vuông lúc nào cũng động đậy là tỏ ra bố tôi vẫn còn sức gánh vác nhiều công việc, chứ chưa cần phải nghỉ ngơi. "Đêm ấy, hai bố con ngủ với nhau. Ngọn đèn để nhỏ bằng hạt đậu trên cái hòm gian. Khi bố tôi quay mặt về phía tôi nói chuyện, khuôn mặt ấy bỗng dưng trở nên rất thân yêu quen thuộc, như vốn đã ở bên tôi từ ngày bé. Nhưng khi bố tôi nằm ngửa, chỉ thấy nét dồ lên của gò má, sống mũi, tôi lại cảm thấy khác lạ, như mình đang nằm cạnh một người như chưa từng quen biết. Mùi thuốc lào, mùi rượu, mùi dầu xoa, và mùi mồ hôi lâu ngày cứ phảng phất góc này góc nọ. Chốc chốc tôi lại tự hỏi: Mình đã về nhà chưa nhỉ? Mình đã gặp bố chưa nhỉ? Người nằm cạnh là ai vậy? Tiếng bố tôi vẫn thì thầm:

-U anh ở nhà thương đã ba tháng rồi nhưng vẫn còn yếu lắm, mất nhiều máu quá... mà một mình tôi chạy đi chạy về thành thử việc đồng áng phải cậy tổ cả.

-Vụ mùa này nhà thu được bao nhiêu thóc ?

-Nếu có công thì cũng được khá đấy. Năm nay lúa tốt. Nhưng nhà không có người, đến đập cũng phải mượn công nên còn lại chẳng là bao, lại tiền thuốc men, tàu xe... Rồi như sợ mình than vãn nhiều quá ảnh hưởng đến con, bố tôi hỏi lảng sang chuyện khác :

-Anh đi bộ đội đầu năm 1954 à ?

-Trước ở nhà con đã là du kích rồi, đến đầu năm 1954 thì được bổ sung lên mặt trận Điện Biên. Từ năm ấy đến nay con vẫn ở đơn vị.

-Hồi ngoài này đánh Điện Biên thì đại đội chúng tôi lại về hoạt động ở chiến trường Long Châu Hà. "Trong khi trò chuyện với tôi, bố tôi thường hay xưng tôi, chúng tôi, và gọi con bằng anh, từng lời đều có cân nhắc, thận trọng, đối xử với tôi bằng tình đồng chí hơn là tình cha con. Thoạt đầu tôi rất ngượng và thầm nghĩ có lẽ ông cụ còn giữ kẽ, định dò xét thái độ của tôi ra sao đây. Nhưng càng nói bố tôi càng tỏ ra rất tin cậy ở con, nhiều lúc nghẹn ngào bố tôi lại dừng một lúc lâu rồi đưa tay lên dụi mắt, khi tôi nhìn cái gò má nhọn hoắt thấy nhấp nhoáng ướt. Cũng trong đêm ấy lần đầu tiên tôi được biết những câu chuyện trong gia đình thuộc về hai mươi năm trước. "Năm ấy bố tôi trốn con, bỏ vợ (tôi hãy còn nằm trong bụng mẹ) đi Nam chỉ vì cờ bạc nhiều, mang nợ đến vài trăm tiền mặt, sào ruộng cuối cùng đã bán, năm gian nhà gỗ xoan cũng đã dỡ gán cho chủ nợ, cũng tưởng rằng vào trong ấy kiếm ăn dễ dàng, rồi ra cũng có thể chắt chiu, dành dụm được một món trở về quê hương. Nhưng đặt chân đến nơi mới biết ở đâu cũng khó sống, liền rủ một nhóm người cùng tỉnh đang thất nghiệp lập một gánh chèo đi hát ở tỉnh nhỏ và vùng quê. Gánh chèo vỡ, hết kế sinh nhai, cùng đường, bố tôi đành ký giao kèo vào làm phu cho sở cao su Nam Kỳ.

Trong những ngày tủi cực nhất bố tôi được giác ngộ cách mạng, sau khởi nghĩa gia nhập quân đội ngay. Từ bấy đến ngày tập kết, đúng mười năm trời, khi chiến đấu ở chiến trường Đồng Tháp Mười, khi lại về hoạt động ở vùng Vĩnh Trà Bến rồi Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu...". Bố tôi kể tiếp : "- Thầy bỏ nhà ra đi năm ba mươi tuổi, đến nay vừa đúng hai chục năm (từ lúc này bố tôi xưng thầy, và gọi tôi bằng con). Suốt hai mươi năm một nỗi ân hận cứ dằn vặt trong lòng: thầy đã đang tay giết một vợ với ba con. Một mình ra đi lưu lạc nay đây mai đó, hai bàn tay làm đổi lấy miếng cơm, kể ra cũng không sung sướng nỗi gì nhưng thầy nghĩ u con ở nhà còn khổ sở gấp trăm lần: món nợ của thầy còn đó, hai con còn thơ, bụng mang dạ chửa, bố mẹ không còn, họ mạc hai bề xem ra cũng không ai giúp đỡ được, làm sao sống nổi qua những năm đói kém trước cách mạng. Hoặc giả nếu u con có còn sống, thì chắc đã đi bước nữa, các con có lẽ đứa sống, đứa chết hoặc đem cho những nơi có bát ăn làm con nuôi, đứa ở, gia đình tan nát chứ không thể toàn vẹn được. Ngày ở trong ấy, các bà má thấy thầy đã có tuổi mà chưa có vợ con, có lòng thương cứ mai mối giúp. Nhưng thầy đều từ chối, vì nghĩ rằng mình không xứng đáng nhận cái hạnh phúc mới, mình phải chịu lấy hình phạt ở vậy suốt đời để chuộc lại cái tội ngày xưa. Tháng tám năm ngoái thầy được về Hà Nội dự lễ tuyên dương Anh hùng quân đội vì năm ấy thầy được bầu là chiến sĩ thi đua của sư đoàn. Sau đó tranh thủ về phép mấy ngày thăm quê. Trước sau thầy vẫn đinh ninh rằng gia đình chắc chẳng còn ai, nhưng càng tin thế mối hy vọng được sống lại cảnh đoàn tụ ngày trước càng nung nấu và càng lo sợ nếu sự thực đúng như mình đã phỏng đoán. Ngày xưa đây gọi là xã Kiên Trung thuộc tổng Nhữ Xá, nhưng nay lại đổi là thôn Hữu Trung thuộc xã Hồng Quảng, nên khi đến cống Quải lạc đường hỏi thăm không ai biết. Về đến quán Búc thì gặp chị Duật đi chợ về đang ngồi nghỉ. Sau vài ba câu chuyện biết chị người cùng làng, thầy hỏi dò chi cánh bà Tư Bần có còn ai, rồi lại hỏi thêm bà Hoán có còn sống không. Hỏi song cái câu ghê rợn nhất ấy thầy tưởng như mặt mình mất hết máu. Chị ấy đáp : " Bà thím tôi vẫn khoẻ, chú tôi đi Nam Kỳ hơn hai mươi năm nay chẳng có tin tức gì, các con bây giờ đã lớn, cô gái cả đi lấy chồng bên Hưng Yên, còn hai cậu nó đi bộ đội cả". Thầy định kêu lên: " Chúng nó vẫn còn sống cả ư, tôi là bố chúng nó đây!" nhưng cố kìm lại khoác ba lô đi một mạch. Thầy không ngờ nhà ta vẫn ở khu đất cũ. Bước vào sân, thầy nhận ra u con đang ngồi dạm lại cái rá ở đầu hè. Thấy thầy vào u con nhìn lên nhưng không nhận ra.

Sau thầy bước gần lại, bỏ mũ, nói khẽ: "Nhà còn nhớ tôi không?". U con nhìn thầy một lúc rồi mếu máo gọi tên thầy lúc còn ở nhà: "Anh Chẩn hãy còn sống về với vợ với con đấy ư anh!" Cả hai đều đã trên dưới năm chục tuổi, tóc bạc gần nửa, răng rụng vài ba chiếc, những ngày sống còn lại có thể tính năm được mới lại gặp nhau, mới hiểu hết lòng nhau... Thầy cảm ơn u con đã vì thầy mà chịu đựng mọi tủi cực, thiếu thốn nuôi nấng các con, gây dựng cho các con nên người. Đời thầy vất vả đã nhiều, nhưng u con còn vất vả gấp trăm lần, ơn ấy sống để dạ, chết mang đi... "Bố tôi quay vào trong vách hỉ mũi, mãi một lúc lâu mới quay sang phía tôi. "... Thầy cũng cảm ơn chế độ ta, cảm ơn cách mạng đã đào tạo các con khác hẳn với thầy ngày xưa... Thầy cứ nghĩ ngày thầy bỏ đi đến nhà cũng dỡ gán cho chủ nợ, thước đất cuối cùng cũng phải bán, trong nhà không còn có đến một hào bạc. Còn con mới mười bảy, mười tám tuổi đầu, một tay dựng lại tám lần nhà ở. Ngày đi bộ đội còn để lại cho u con hơn trăm thùng thóc ăn dần. Thầy biết uống rượu, biết đánh bài từ năm mười chín tuổi, còn con mới mười tám tuổi đã thành chiến sĩ Điện Biên Phủ. Mỗi đời một khác là thế đấy con ạ. Đời thầy không thể sánh với đời các con được. Thầy cống hiến cho cách mạng chẳng được bao nhiêu nhưng cách mạng đã đem lại cho thầy cái hạnh phúc lớn nhất mà thầy không bao giờ dám ao ước. Cứ mỗi lần nhận được thư của con, của anh con thầy vừa sung sướng, vừa tủi hổ, tự nghĩ mình không xứng đáng là bố của những người con như thế... Thầy yêu thương các con, thầy kính trọng các con, các con cũng hiểu cho lòng thầy..."

"Tôi nằm sát lại bố tôi, một tay tôi quàng qua ngực nắm lấy vai bố. Bố tôi cũng đưa bàn tay chai sạn nắm lấy tay tôi, khẽ nói:

-Thôi, con ngủ đi không mệt, khuya lắm rồi!" "Hôm sau tôi theo bố lên tỉnh thăm mẹ và em gái. Nhân lúc bố tôi ghé vào nhà người quen chơi, tôi lẻn ra phố bán chiếc đồng hồ mới mua năm trước. Còn một hôm nữa thì phải trả phép, tôi tính lại số tiền dành dụm được cả thảy mười lăm vạn đưa cho bố tôi chi dùng thuốc men cho mẹ và lấy lương ăn cho đến chiêm. Bố tôi cầm gói tiền nhìn tôi rồi oà khóc. Tôi cầm lấy tay bố an ủi: "Con đi bộ đội không cần đến tiền. Thầy đừng nên nghĩ ngợi nhỡ ốm ra đấy thì lấy ai săn sóc, chúng con đi vắng cả". "Sáng hôm tôi đi, bố tôi dậy rất sớm, nấu niêu cơm nếp kho ít tôm gói vào cái mo, cẩn thận như một bà mẹ, và dặn tôi:

-Đi đường lúc nào đói thì ăn, thỉnh thoảng viết thư cho thầy u. "Tôi đã bước sang bên kia phía cầu tre đi vòng lên mé đê, vẫn thấy bố tôi đứng vịn vào thân cây vối nhìn theo, một dáng người cao lớn, hơi cúi về phía trước, cái áo bông bộ đội màu xanh nhạt và chiếc quần nâu..." "Từ ngày ấy bóng dáng người bố, đêm tâm sự đầu tiên đã trở thành những hình ảnh khắc sâu nét trong tâm hồn tôi. Bố tôi bảo đời sau bao giờ cũng hơn đời trước, nhưng tôi nghĩ những người già đều có sự khôn ngoan của mình, cái hạnh phúc lớn nhất mà cách mạng đem đến cho gia đình tôi phải qua câu chuyện của bố tôi, tôi mới hiểu hết được. Cách mạng đã thay đổi những con người và những con người ấy đem lại hạnh phúc đến cho nhau".

Hồng Cúm

Nguyễn Khải

Đời khổ

1. Năm 1961, vợ chồng tôi được quân đội cấp cho một căn nhà hăm mốt mét vuông ở khu tập thể Phúc Xá, là một rẻo đất bãi phía ngoài đê sông Hồng. Tôi sinh ra ở Hà Nội, mãi đến năm mười sáu tuổi mới rời Hà Nội đi kháng chiến, trong từng ấy năm chưa bao giờ tôi bén mảng xuống vùng đất bãi của Hà Nội gồm mấy xã Phúc Tân, Phúc Xá, Nghĩa Dũng, An Dương. Đó là vùng đất của dân nghèo, của trộm cướp và những phần tử bất hảo. Nghe các ông bà sống trong phố đồn đại thế nên cũng sợ. Nào ngờ mình cũng sống ở đó những mấy chục năm, đẻ cả loạt con, viết cả loạt sách, thành dân làng Phúc Xá chính cống. Cái năm tôi về Phúc Xá là hai vợ chồng còn rất trẻ, một bà mẹ chưa già lắm và đứa con trai đầu mới lên ba tuổi. Lối vào khu tập thể là con đường đất nhỏ, một bên là hồ, một bên trồng mía, trời mưa rầm phải tụt dép bấm chân mà đi. Những dãy nhà một tầng xây đối nhau, mười hai gian một dãy, như trại lính, là trại vợ lính. Mỗi nhà có hai cửa ra vào, hai cửa sổ, một cái bếp và một nhà tắm chung cho hai hộ, mùi vôi mùi xi măng còn nồng lên. Mỗi dãy nhà đã có vài bốn gia đình dọn đến ở, chồng xách nước giội, vợ gò người lấy chổi rễ cọ nền, vừa làm vừa cười, rồi gọi mời nhau sang uống nước, hút thuốc, hả hê, khoan khoái vì đã có một mái nhà, đã mất rất nhiều tâm sức để có được một gian nhà. Buổi tối đầu tiên về ở nhà mới lại không có điện, các nhà đều thắp đèn dầu, chúng tôi không có đèn vì không nghĩ rằng còn phải thắp đèn, dọn cơm ra đầu hè ăn nhờ ánh đèn của nhà hàng xóm.

Bữa cơm đầu tiên nấu bằng nồi của mình, củi của mình, và dọn ăn bằng mâm, mẹ ngồi giữa, vợ chồng ngồi hai bên, thằng con vác bát chạy ra chạy vô trong gian nhà của nó, đến vui. Chuyện thường thế mà cũng vui được nhỉ? Một gian nhà trống không, túi quần túi áo rỗng tuếch. Mọi thứ còn là trong tính toán, trong dự định, trong hy vọng, mà lại vui! Nhiều năm sau, cái niềm vui xốn xang, mơ hồ của chờ đợi và hy vọng cái thuở tay trắng không thể có nữa. Nó đã ở phía sau. Nó đã thuộc về một thời. Tôi còn nhớ rõ đúng vào cái tối ấy, cái tối ăn cơm không đèn, một gương mặt nhìn không rõ nghé vào song cửa, một giọng nói lanh lảnh hỏi với vào: "Cô chú nào vừa đến lại đi rồi à?" Người hàng xóm có tính tò mò ấy là chị Vách.

2. Chị Vách hơn tôi một con giáp, răng đen và vấn khăn. Chồng chị là thiếu tá ở một học viện chính trị, hơn tôi khoảng mươi mười lăm tuổi. Cấp thiếu tá ngày ấy là to lắm, là ước mơ gần như viển vông của đám thượng úy lau nhau. Tên ông thiếu tá là gì tôi không rõ, mặt ông tôi cũng quên, chỉ nhớ mang máng một người đàn ông có bộ dạng rất đứng đắn, có thể rất tốt bụng, nhưng không làm một việc gì, nói một lời nào để dãy xóm được nhờ. Mỗi lần gặp tôi ở đường, một năm khoảng đôi ba lần, ông đều chào trước, thân thiện và nhạt nhẽo :"Đồng chí khỏe không? Tốt chứ?" Với gia đình ấy vợ chồng tôi chỉ biết có chị Vách, ông thiếu tá chồng chị là ông Vách, các con chị một lũ lôi thôi, lôi thốc là con bà Vách. Chị Vách rất hợp chuyện với vợ chồng tôi, chị là người dưới quê mới theo chồng lên sống ở tỉnh, vợ tôi cũng thế. Chị là một cán bộ xã vùng địch hậu thời đánh Pháp, vợ tôi là du kích, rồi dân công gùi gạo theo bộ đội suốt mấy chiến dịch. Hai chị em mỗi lần được ngồi với nhau là dứt không ra. Chuyện đàn bà không đầu không cuối nhưng chị Vách đã lên tiếng, mình lại chót dại để tai nghe là cứ phải nghe đến cùng. Hết cả đọc, hết cả viết. Vì nó vui lắm, buồn cười lắm, cười đến đau cả ruột, đến não lòng. Tôi nói:

-Có một bà vợ vui tính như chị chắc ông ấy được cười cả ngày. Chị Vách nói:

-Quân tử ẩn hình, tiểu nhân lộ tướng. ông ấy vẫn phê bình tôi nói năng vô chính trị, không được chín chắn như các bà cán bộ ở tỉnh. Người ta có trình độ cao lỡ lấy phải vợ dại cũng là khổ tâm lắm. Thời trước thì họ đuổi mình ra đường rồi. Giàu vì bạn, sang vì vợ, có một bà vợ như tôi ông chồng cũng hóa hèn, chị nói thế. Nên không bao giờ chị dám đi cùng chồng ra ngoài, đến thăm ai chồng đạp xe tới trước, vợ đi bộ tới sau, không xem hát, không xem chiếu bóng, chưa bao giờ tôi thấy họ đi sóng đôi cả. Mà chị đâu có xấu, là một phụ nữ xinh đẹp của một thời, gương mặt tươi tắn, cái miệng với hàm răng đen đều đặn khi nói khi cười duyên dáng lạ lùng. Tôi hỏi, làm thế nào mà ông ấy vớ được chị nhỉ? Là cái duyên may chú ạ, chị nói, người ta là cán bộ trên tỉnh hoạt động cách mạng từ thời bóng tối, mình chỉ là cô du kích ở làng, cách nhau như trời với đất, lấy được là mừng, có với nhau đã hai mặt con nghĩ lại vẫn còn mừng. Chị nói thêm, huống hồ tôi còn là người có tội, phải người chồng có máu ghen thì họ gọt tóc bôi vôi. Chuyện như sau, làng chị thời đánh Pháp là làng tề, hai đầu hai bốt, lính tây ít, lính dõng nhiều, đĩ điếm là gái làng lên ngủ với Tây còn nhiều hơn. Chị phải đi phu nhưng vì có chút ít nhan sắc nên được giữ lại quét dọn trong đồn. Lính dõng ra đùa một câu, vào ghẹo một câu, chúng nó hát: "Mẹ già khắc khoải đêm ngày Anh đi ai cấy ai cầy ruộng hoang Người ta vì nước vì làng Anh đi theo VM, ai mang tội này" Có một anh cai, người xã dưới, bụng dạ tử tế, biết chị là vợ cán bộ, con lại còn nhỏ liền xui chị giả cách ốm rồi cho về. Lại còn cho tiền và một cân thịt bò nữa. Anh ta đẹp trai, có học, lại mới góa vợ nên trong làng cứ xì xầm chắc anh chị đã có tình ý với nhau, mấy đêm ở lại trong đồn, rơm kề lửa lại bảo không bén là khó tin lắm. Người làng thì khó tin, ông chồng về chỉ cười xòa không nói gì. Chị phục nhất là ông chồng không nói gì, chỉ cười, ăn ở với vợ vẫn như xưa, người có trình độ cao cư xử khác dân thường thật, chị nói thế. Riêng tôi là người hàng xóm chỉ thấy thương chị thêm, và lấy làm sợ cái ông chồng của chị, bụng bảo dạ: "Phải tránh xa ông này ra, ở gần có ngày mất mạng!".

3. Chị Vách không biết chữ, đã là cán bộ phụ nữ xã mà không biết chữ, chỉ vạch được một chữ V thay chữ ký thôi. Một mình chị suốt những năm đánh Pháp vừa nuôi hai con, vừa nuôi mẹ chồng, mẹ ốm một mình chị chăm sóc, lúc chết một mình chị chôn cất ma chay. Mà vẫn không dám coi là có công, làm dâu, làm vợ, làm mẹ ắt phải thế, từ thời xửa thời xưa đã vẫn là thế. Chị đẻ hai đứa con gái đầu, ông chồng vắng nhà vì phải đi đánh giặc. Đẻ hai đứa con trai sau, ông chồng cũng vắng mặt nốt vì phải đi công tác. Chị sanh không được thuận vì đã lớn tuổi, lúc sát dau, lúc băng huyết, chỉ có bạn bè tới thăm hỏi giúp đỡ, nằm dăm bảy ngày lại bò dậy ôm con ra viện, vài ngày sau đã giặt giũ cơm nước, da mặt vàng ủng nhưng nụ cười vẫn tươi tắn. Nghe chị nói nhà chị có sáu người nhưng hai mâm. Chồng một mâm, năm mẹ con một mâm riêng. Tiền nong chia đôi, tiêu cho chồng một nửa, năm mẹ con một nửa. Chị bảo, anh ấy phải làm việc trí óc nhiều, lại cao tuổi, lại lắm thứ bệnh không bồi dưỡng là nguá ngay. Còn năm mẹ con chị sao cũng được, nông dân vốn nuôi dễ. Tôi nói: "Bà cứ bày vẽ, ông ấy không là nông dân thì là cái gì, là trí thức hả?" Chị cười rất tươi: "ông ấy học cao lắm chú ạ, một rương vàng không bằng một nang chữ. Một đời chỉ biết đánh giặc với đọc sách thôi". Tôi hỏi: "ông ấy cũng được đi học à?".

Chị có vẻ giận: "Con địa chủ không được đi học thì ai được học. May mà ông bố đã phá tán hết cơ nghiệp, nếu không cũng bị đấu hồi cải cách rồi". Tôi cũng phải phì cười, thì ra lấy con ông địa chủ để được hầu vẫn vinh hạnh hơn là lấy con ông nông dân để được bình đẳng. Chị Vách không biết chữ nên chị làm cấp dưỡng một bếp ăn tập thể của quân đội. Chị đi làm rất sớm và về rất muộn. Khi đi gánh đôi thùng không, khi về một bên là nước vo gạo, một bên là cơm thừa của bếp ăn tập thể. Cơm nước lợn gà, hầu bố và trông các em trong một ngày chị đều phó mặc cho đứa con gái đầu. Một người vác cái cày, bảy người vác muỗng như chị thường nói. Năm tôi về ở Phúc Xá thì đứa con gái lớn của chị đã mười bốn, mười lăm tuổi. Con bé không được xinh, da đen, tay chân lòng khòng, cả ngày không nghe nó nói một câu, cứ lầm lì làm, không làm thì lầm lì đứng một góc giương mắt nhìn xung quanh. Giống tính bố nó y hệt, nhưng nó không được học giống bố nó, biết đọc biết viết thì thôi vì đông em quá. Tôi hỏi chị Vách: "Tại sao chị không cho cháu đi học?".

Chị nói: "Con gái cần gì học nhiều", "ông ấy không bắt nó đi học à?" Lại thêm một dịp để chị khoe chồng: "Về đến nhà là vùi đầu vào đọc sách đọc báo, không hỏi đến vợ con được một câu". Tôi cười to: "ông ấy cũng sướng nhỉ, sướng nhất khu đấy". Chị cũng cười: "Người khôn nhọc lo, người dại ăn no lại nằm. Tôi mới là người sướng chứ chú". Nói đến thế là hết.

Nguyễn Khải

Ước gì tôi được trẻ lại

Chả cứ gì riêng tôi mà mọi người già ở trên đời này đều có lúc ước thầm như thế dầu biết rằng lời ước ấy vừa tham lam vừa vô lý. Mọi niềm vui ở đời chỉ nhằm phục vụ cho người trẻ. Thấy nhiều bạn trẻ mới có tí tuổi đầu đã làm ra vẻ đau khổ, sầu nảo hoặc tự giam mình trong cảnh tuyệt vọng muốn điên cái đầu. Có tuổi trẻ là có tất cả, nó có thể sửa chữa mọi lầm mỗi, hàn gắn mọi vết thương và cho phép làm lại, bắt đầu lại một đôi lần. Giàu có đến thế, quyền lực đến thế không chịu dùng cho hết lại ngồi chờ đợi, than vãn có phải là rất... ngu không?

Dạo đầu một chút để nói về những bạn viết trẻ. Tất nhiên là họ có những điều kiện mà những thế hệ viết văn trước họ không thể có. Điều quan trọng hơn cả là họ được sống một thừi thông thoáng hơn ngày xưa nhiều, dân chủ hơn ngày xưa nhiều. Chỉ riêng một việc quản lý xã hội bằng pháp luật đã bớt đi bao nhiêu trói buộc phi lý, tuỳ tiện làm bản lòng người, bào mòn con người. Con người với những nhu cầu của nó, những ước mơ của nó đã được tôn trọng. Cái môi trường dân chủ tự do và tôn trọng cá nhân là điều kiện trước hết để những tài năng sáng tạo được đua nở. Mới trong khoảng mươi lăm năm nay nhiều tài năng trẻ trong nghệ thuật, trong khoa học kỹ thuật, trong quản lý kinh doanh đã lần lượt xuất hiện, mới lạ, táo bạo là một bằng chứng về sự thành công của sự nghiệp đổi mới. Tuy nhiên...

Tuy nhiên một nghịch lý mới đã xuất hiện, điều kiện làm việc tốt hơn, môi trường sáng tạo thuận lợi hơn nhưng những thành phẩm của sáng tạo văn chương lại vặt vãnh, thiếu tầm cao, không tạo được những ấn tượng đẹp có sức ám ảnh lâu dài. Có thể tầm nhìn, tầm nghĩ của các tác giả còn hạn hẹp quá, ngắn quá, nông nổi và vội vã, thiếu hẳn sự khao khát cái hoàn mỷ trong nghệ thuật. Tính cách nhân vật đa dạng, phong phú, chuyện đời chân thật, nóng bỏng, hơi văn tự nhiên, mềm mại, nhưng đọc xong cứ như bị ngạt, thiếu hẳn một khoảng trời để mơ mộng, để hy vọng, để bay tới. Văn chương thời chiến tranh và sau chiến trang thì mênh mông, lãng mạn, làm náo nức lòng người nhưng nhân vật đơn điệu, chuyện đời bị câu thúc bởi nhiều quan niệm thủ cựu, hẹp hòi, hơi văn khô khan, giáo huấn. Nói nôm na đọc văn thời trước thừa lý tưởng, thừa lòng tin nhưng thiếu sự từng trải, lúc trẻ đọc thấy hay vì mình với nhân vật là một, về già đọc thấy việc đời không giống mấy với văn chương, nó phức tạp hơn nhiều, khó hiểu hơn nhiều. Niềm tin mạnh nhưng thiếu những số phận sóng gió, từng trải để minh chứng cũng không thể viết được một tác phẩm để đời. Chỉ miêu tả những số phận nghiệt ngã mà thiếu hơi nóng bỏng của niềm tin thì văn chương cũng mất đi lý do để tồn tại. Những người cầm bút từ thời chống Pháp rất biết cái thiếu sót của mỗi thời, rất muốn dung hoà với những cái mạnh của mỗi thời để co được một chất liệu hoàn hảo, vững bền dựng đài tưởng niệm một thế kỷ có nhiều bóng tối nhưng cũng tràn ngập ánh sáng, thơ ngây cũng nhiều mà từng tải, trưởng thành lại càng nhanh. Nhưng, hỡi ôi, đã già rồi, sức viết và sức nghĩ đều yếu nói chi đến việc nhào nặn một sự nghiệp đã định hình.

Ước gì tôi được trẻ lại vài chục năm nhỉ? Cao vọng nghệ thuật của tô sẽ cao xa hơn ngày xưa. Tôi đã có thể nhìn ra thế giới để nhận biết, để so sánh những tiêu chuẩn của một tác phẩm nghệ thuật có sức sống lâu bền. Phương pháp sáng tác hiện thực đã không còn là duy nhất, không còn là đủ với những từng trải, những mơ mộng của hôm nay. Nhưng tôi là người hay lo xa nên phải tự hỏi, nếu trong cuộc phiêu lưu mới mình lại không thành công như đã mong đợi thì sao? Những bằng chứng thất bại của người này người kia buộc mình phải ngờ vực điều đó. Phàm đã viết hoặc vẽ có mẫu thật thì hay hoặc dở biết ngay, có tài hoặc bất tài cũng biết ngay. Còn viết ảo, vẽ ảo thì khó biết lắm, có thể là tuyệt hay, tuyệt đẹp, là siêu nghệ thuật mà cũng có thể là một cách đánh lừa mình, đánh lừa thiên hạ. Mình thì thành thật nhưng tài chưa tới nên hoá ra người đi lừa. Cãi nhau quanh chuyện thật còn dễ phân biệt phải trái chứ cãi nhau quanh chuyện ảo thì càng vuất càng rối, càng viết nhiều chữ nghĩa, chữ nghĩa cũng ảo cả. Cái chuyện này phải đợi thời gian và phải đợi cả công chúng. Có những câu thơ:

- Đáy đĩa mùi đi nhịp hải hà - Nhàn đàn rót nguyệt vú đôi thơm" sau nhiều chục năm vẫn còn nhiều người làm thơ khen là những câu thơ hay dẫu rằng cũng không mấy ai hiểu được nó hay như thế nào. Cái hay của văn thơ là mênh mông lắm, rất khó quy vào những tiêu chuẩn cụ thể. Lý sự quá thì hoá ra người nghiệt, nông nổi quá hoá ra người... ngu. Nếu trong hội hoạ, có nhiều danh hoạ đã chia sự nghiệp sáng tạo của mình làm nhiều thời kỳ, thời xanh, thời hồng, vân vân, thì tại sao người viết văn lại không thể có nhiều thời kỳ trong quá trình sáng tạo của mình: thời hiện thực, thời ấn tượng, thời siêu thực hoặc ngược lại. Thoạt đầu ta nhìn cái nhà là một cái nhà. Rồi tới lúc nhìn cái nhà mà như thấu hiểu cả số phận những người ở trong nhà, số phận một góc phố, một đoạn đường, một thời thế. Màu tím của thời gian, màu đỏ của sương mù là những cái ảo phải trải qua sự từng trải nhiều khi cả một đời người mới có. Với tôi, theo cách nghĩ của tôi, khi chưa vươn tới cõi ảo thì tôi đặt hết mình vào cõi thực. Thời này được viết đúng như thực tế đang diễn ra cũng là đủ mãn nguyện với một tài năng ở mức trung bình. Cứ viết đúng như sự vật vốn có, những điều cấm kỵ đã thành văn bản, thành luật lệ, công khai, đoàng hoàng chứ không còn qua sự thì thầm tuỳ tiện của người này hay người kia, tức lá đã được viết trong tự do một cách nhìn, một cách nghĩ của riêng mình, của một lớp người, dẫu chưa là một tác phẩm nghệ thuật như mình mong đợi thì vẫn cứ là những bằng chứng chả kém giá trị một tí nào về một thời đã sống. Chả hơn cao thì với chưa tới, thấp thì không thèm quan tâm, về già rút lại tay trắng, là một kẻ vô danh với những mộng mơ hão huyền, có hối tiếc cũng đã muộn. Vì tuổi trẻ chỉ có chừng ấy năm. Qua tuổi năm mươi mọi sự coi như đã an bài. Chẳng phải số phận gì, chẳng qua chưa biết dùng cái tài của mình cho đúng mà thôi.

Nguyễn Khải

Tự bạch

Cũng như nhiều người viết khác, tôi vào nghề văn bằng một truyện ngắn được đăng trên tạp chí LúA MớI của Chi hội Văn nghệ khu Ba, khoảng cuối năm 1950. Năm sau lại viết một truyện vừa, năm 1955 lại viết một truyện vừa nữa. Cả truyện ngắn lẫn truyện vừa viết trong khoảng thời gian này đều thất bại, không le lói một chút tài năng viết lách nào, như một người không có duyên với văn chương. Không ngờ cuối năm 1956 lại viết được truyện ngắn nằm vạ, năm sau viết được tiểu thuyết xung đột, được bạn bè trong nghề bắt đầu chú ý. Nên tôi coi truyện ngắn nằm vạ là truyện chính thức trình làng, truyện vào nghề của mình. Từ bấy đến nay, trong bốn mươi ba năm, tôi viết được khoảng bảy chục truyện ngắn, nay tuyển lại được non nữa, in làm một tập để bạn đọc tiện theo dõi hành trình sáng tạo của một tác giả.

Trong ba mươi năm làm biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội, tôi được dành hầu hết thời gian cho việc đi và viết, là người viết chuyên nghiệp, không phải làm bất cứ việc nào khác của cơ quan. Nếu phải làm cũng là do bị ép buộc, làm đâu hỏng đấy nên không được anh em tín nhiệm, rút lại vẫn chỉ có một việc làm thông thạo là đi và viết cho tới tận bây giờ. Có những năm tôi vừa viết truyện ngắn cho tạp chí vừa viết tiểu thuyết, lại có những năm chỉ viết tiểu thuyết không viết truyện ngắn và có cả chục năm chỉ viết có truyện ngắn không hề đụng bút đến truyện dài. Đó là tùy sự cảm hứng của từng thời kỳ, tôi không bao giờ tự ép nếu không thấy thích, không thấy cần.

Nhưng tiểu thuyết và truyện vừa, truyện ngắn của tôi không bao giờ bắt đầu từ sự tưởng tượng hoàn toàn, từ sự mộng mơ hoàn toàn. Tôi chỉ có thể đặt bút viết nếu tôi được chạm vào người, vào việc và những cảnh ngộ có thật trong cyộc sống. Tất nhiên không phải nhìn vào đâu, gặp bất cứ ai, nghe bất cứ chuyện gì đều có thể viết thành truyện được cả. Mà chỉ những người, những việc, những cảnh ngộ có dính líu ít nhiều tới tiểu sử của tôi, những kỷ niệm xa gần của tôi hoặc một nguyện vọng, một mơ tưởng đã khao khát từ năm còn trai trẻ. Mỗi lần đi tôi đều ghi chép rất tỉ mỉ như một nhà báo vì tôi có trí nhớ kém. Nhưng đó chỉ là sự bắt đầu, sự gợi ý, cái nháng lửa đầu tiên, còn khi ngòi bút đã lia trên trang giấy thì mọi nhân vật đều là những hóa thân của tôi cả. Tôi chỉ mượn có cái vỏ, cái xác của người này người kia còn cái hồn phải là của chính mình. ở cô Đào (Mùa Lạc), cái Tấm (Đứa con nuôi), Hòa (Bố con) đều có một phần tôi trong đó. Trong truyện ngắn Hai ông già ở đồng tháp mười, phần nào ao ước của tôi là ông già trưởng trạm máy kéo, phần đã có những năm tháng trải qua là ông già thư ký gặp nhiều bất hạnh. Cặp vợ chồng ở chân động từ thức thì tôi chính là anh thương binh mù dẫu rằng chưa bao giờ tôi phải sống trong cảnh ngộ đó. Nhưng cái tính khẳng khái của một người có quá nhiều lòng tự trọng nên phải nhận phần thua thiệt thì chính tôi đã có lúc được nếm trải. Trong LãnG tử, hình ảnh một anh chàng lãng du, thích sống một cuộc đời phiêu lưu, tự do, nhàn tản cũng là tôi nốt, nhưng là cái tôi của ao ước, của mơ mộng bởi cuộc sống hàng ngày của mình quá buồn, quá nhạt. Còn trong ông cháu, có lúc tôi là ông già, có lúc tôi là đứa trẻ, mỗi dòng đều có tâm sự của chính mình.

Nếu một truyện ngắn hoặc một cuốn tiểu thuyết chỉ có chuyện của mình thì mạng sống của nó không thể dài hơn một bài báo. Nó chỉ có thể cho người đọc một số thông tin nào đó, là cái báo chí có thể cung cấp đầy đủ hơn, người đọc biết xong là quên liền chứ không thể tạo được một ám ảnh lâu dài. Mọi truyện ngắn và tiểu thuyết của tôi, nói cho cùng đều là tôi cả hoặc có thể là tôi, nên có những truyện được viết cách đây đã trên dưới bốn chục năm, nay đọc lại vẫn đem lại cho tôi những cảm nghĩ của bây giờ, những xúc động của bây giờ.

Những truyện ngắn in trong tập này xếp theo thứ tự thời gian sáng tác. Những sáng tác lúc trẻ thì tươi hơn nhưng những sáng tác lúc về nhà lại chứa đựng nhiều chiêm nghiệm, nó là một đời người thấm vào từng con chữ.

Người viết có thể viết hay lúc trẻ mà cũng có thể viết hay cả lúc già, miễn là thời nào ra thời ấy, khi trẻ thì văn chớ nên quá già, lúc già đừng nên viết câu văn quá trẻ, phải luôn luôn là chính mình, lúc thơ ngây lúc từng trải, lúc vui lúc buồn, bao giờ cũng tự nhiên, thành thực.

Một tác giả khi tuyển lại những tác phẩm của một đời viết thường nghĩ một cách chủ quan, một cách thơ ngây là những truyện đã chọn đều hay cả, đều xứng đáng giới thiệu với bạn đọc cả. Cho dù người ấy đã rất tỉnh táo cũng khó mà nhận ra những cái dở của văn mình. Thì các cụ đã nói: "văn mình..." Cái thói xấu ấy cũng rất "người", rất mong bạn đọc rộng lượng.

Tháng 12 năm 1998

NGUYỄN KHẢI

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro