Nguyen ly kinh te nong nghiep

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn: Cơ hội từ tái cơ cấu kinh tế

Ngành nông nghiệp đóng vai trò đặc biệt quan trọng đảm bảo an ninh lương thực, là nhân tố quyết định trong xóa đói giảm nghèo. Tạo việc làm và thu nhập cho 70% dân cư, ngành nông nghiệp còn tạo ra thị trường lao động rộng lớn, nhất là lúc công nghiệp gặp khó khăn, doanh nghiệp đình đốn giải thể. Tuy nhiên, đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chưa tương xứng với vai trò, tiềm năng phát triển. Nguồn vốn đầu tư mới chỉ đáp ứng được 55 - 60% yêu cầu,  hiệu quả đầu tư lại không cao. Tái cấu trúc nền kinh tế nói chung cũng như tái cấu trúc đầu tư công lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn được kỳ vọng sẽ tạo ra những chính sách đột phá để huy động tốt hơn sự đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn.

Đầu tư dàn trải

Với 432.788 tỷ đồng, đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong giai đoạn 2006 - 2011 bằng 49,67% tổng vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ. Cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đã tác động tích cực đến phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, góp phần nâng cao đời sống nông dân, cải thiện diện mạo nông thôn. Tuy nhiên, kết quả giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội cho thấy, nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn thiếu so với nhu cầu. Trong khi đó, việc đầu tư dàn trải, kéo dài, hiệu quả đồng vốn chưa cao và cơ cấu đầu tư chưa hợp lý đã dẫn đến việc đầu tư chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển.

Nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, việc phân cấp quyết định đầu tư và cơ chế, tiêu chí phân bổ vốn theo hướng tăng quyền quyết định cho các cấp là phù hợp, nhưng thiếu các biện pháp đồng bộ và tăng cường kiểm tra, kiểm soát đã dẫn tới tình trạng phê duyệt quá nhiều dự án đầu tư mà không tính đến khả năng cân đối về nguồn vốn. Bên cạnh đó, công tác quy hoạch nói chung và quy hoạch nông thôn, quy hoạch chi tiết phục vụ sản xuất chưa được quan tâm đúng mức, cơ chế tiêu chí phân bổ nguồn vốn chưa hợp lý.

Còn có sự chưa hợp lý giữa đầu tư cho cơ sở hạ tầng với đầu tư cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phát triển đào tạo nguồn nhân lực, chế biến bảo quản sau thu hoạch, khoa học - công nghệ và kỹ thuật. Trong 5 năm, đầu tư cho thủy lợi đã chiếm tới 80% tổng vốn thực hiện các dự án do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý. Cơ cấu đầu tư công trực tiếp cho phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp bình quân cả nước đạt 35,48% trên tổng vốn đầu tư. Cá biệt theo báo cáo của các tỉnh, thành, có tỉnh tỷ lệ này dưới 10%. Điều này lý giải tại sao chưa có bước chuyển mạnh trong sản xuất nông nghiệp. Theo đại biểu Nguyễn Quốc Cường (Bắc Giang), chính vì đầu tư khoa học - kỹ thuật chưa tương xứng nên ở nước ta trong sản xuất nông nghiệp tổn thất sau thu hoạch rất lớn. Ở vùng miền núi phía Bắc tổn thất sau thu hoạch với cây ngô đến 35%, cây đỗ tương trên 50% và ở đồng bằng sông Cửu Long tổn thất sau thu hoạch cây lúa 15%. 

Đây là sự lãng phí lớn không những làm tụt năng suất mà làm giảm thu nhập của nông dân. Trong khi đầu tư vào hạ tầng, cụ thể là các công trình thủy lợi, phần lớn nguồn tiền chỉ tập trung vào xây mới các công trình chưa chú trọng đến nâng cấp đồng bộ hóa hệ thống. Chính việc đầu tư còn dàn trải, kéo dài chất lượng một số công trình hạ tầng cơ sở còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của người dân. Bên cạnh đó thiếu vắng những chính sách mang tính đột phá cho sự phát triển như chính sách khoa học - công nghệ thúc đẩy thị trường chế biến nông sản để tăng hiệu quả và tính cạnh tranh. Điều này đã dẫn đến  chỗ sự phát triển nông nghiệp giai đoạn vừa qua mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng chưa thực sự vững chắc, tính cạnh tranh chưa cao. Ngoài ra, chưa có chính sách để thu hút đầu tư mạnh vào nông nghiệp, một số chính sách còn mang tính dàn đều, thiếu thực tế tạo sự chuyển biến về sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Có lẽ bởi vậy nên nguồn vốn ODA, nguồn FDI đầu tư vào nông nghiệp nông thôn còn thấp. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn FDI đầu tư vào nông nghiệp chỉ chiếm 1,63% trên tổng vốn đầu tư và có xu hướng giảm. Vốn ODA đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn chiếm 14,25% trên tổng vốn của toàn giai đoạn 2006 - 2011.

Tái cơ cấu để thu hút đầu tư

Ủy ban thường vụ Quốc hội nêu rõ, để nâng cao hiệu quả quản lý, thực hiện đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn trước hết phải nâng cao chất lượng lập, quản lý và thực hiện quy hoạch, phải có chính sách cân đối, phân bổ vốn theo định hướng khung kế hoạch hoặc kế hoạch 3-5 năm và giao quyền chủ động cho địa phương. Bên cạnh đó, cần một số cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn như chính sách tín dụng và thuế, phát triển thị trường, khoa học - công nghệ, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách đầu tư cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn

Hầu hết các đại biểu Quốc hội đều cho rằng, trong tái cấu trúc đầu tư công lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo hướng tăng luồng vốn cho đầu tư trực tiếp phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, nhất là ưu tiên đầu tư, nâng cao năng lực, hệ thống cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ, nhằm tạo ra những đột phá mới về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Trong chuyển dịch cơ cấu đầu tư cần quan tâm cơ giới hóa, bảo quản, chế biến sau thu hoạch, giảm thất thoát và gia tăng giá trị của sản phẩm. Tiếp tục đầu tư hiện đại hóa hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất lúa gắn với việc xây dựng các cánh đồng mẫu lớn, cây công nghiệp, hạ tầng thủy lợi cho vùng nuôi thủy sản tập trung, nhất là những vùng trọng điểm. Bên cạnh nguồn đầu tư công, cần có giải pháp, cơ chế để tăng vốn ODA và thu hút vốn FDI vào khu vực nông nghiệp, nông thôn.

Hiện nay, xây dựng nông thôn mới đang mở ra cơ hội cho nhiều địa phương quy hoạch, thu hút đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn. Với tính chất và tầm quan trọng của nó, cần ưu tiên tăng nguồn vốn đầu tư cho chương trình này. Đại biểu Nguyễn Văn Sơn (Hà Tĩnh) cho rằng, trong chương trình xây dựng nông thôn mới, chọn sản phẩm chủ lực, mô hình kinh tế và đã phát huy tác dụng và chăm lo cho nông dân. Sau khi chọn sản phẩm chủ lực của địa phương, của vùng, của tỉnh thì cần tập trung đầu tư giống, công nghệ, chế biến, lo đầu ra cho sản phẩm. Từng bước như vậy gắn với công nghiệp, là một yếu tố tạo chủ động dưới cơ sở lồng ghép các nguồn lực. Những chương trình mục tiêu sẽ là động lực rất lớn để phát huy nguồn lực dưới cơ sở như giao thông nông thôn.

Cùng với việc tái cơ cấu nền kinh tế, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn cần tạo được bước chuyển mạnh mẽ trong thu hút nguồn lực đầu tư. Tăng đầu tư và đầu tư có hiệu quả cho nông nghiệp là giải pháp quan trọng thực hiện tái cơ cấu đầu tư công, là tiền đề bảo đảm chuyển đổi thành mô hình tăng trưởng hiệu quả và bền vững

Bích Hồng

Đầu tư công tạo sức bật cho tam nông: Bài cuối: Tìm lời giải đầu tư công cho tam nông

Mặc dù Nhà nước đã chú trọng đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nhưng thực tế mới chỉ đáp ứng được khoảng 55 - 60% yêu cầu, vì vậy chưa phát huy hết tiềm năng trong nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn chưa tương xứng so với tỷ lệ trên 70% dân số Việt Nam gắn với nông nghiệp, nông thôn.

Ưu tiên nguồn lực đầu tư

Ông Lò Văn Muôn, đại biểu Quốc hội tỉnh Điện Biên, cho biết: Trong lĩnh vực hạ tầng, ở Điện Biên có rất ít công trình có giá trị đầu tư lớn, nhất là các công trình giao thông hay nông nghiệp. Điện Biên phấn đấu từ nay đến năm 2015 có 20% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới nhưng nguồn kinh phí có hạn, nên các địa phương rất cần nguồn lực đầu tư công. Trước đây, nhờ có các chương trình như 135, 134... tỉnh đã được đầu tư nhiều công trình trọng điểm. Nhưng đến nay, nhiều công trình do khai thác đã lâu nên đã bắt đầu xuống cấp. Từ năm 2010 đến nay, Nhà nước tiếp tục quan tâm đào tạo cán bộ xã, đầu tư hệ thống giao thông, lưới điện thì đó cũng chủ yếu phục vụ cho nông dân, nông thôn. Về lâu dài, cần bóc tách từng lĩnh vực để xem cái nào hiệu quả, việc gì còn tồn tại phải điều chỉnh.

Hệ thống kênh mương nội đồng xã Thanh Tân, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình được đầu tư lớn nhờ chương trình nông thôn mới.

Không riêng gì ở Điện Biên mà ở hầu hết các địa phương trong cả nước, hạ tầng cơ sở mặc dù đã được tăng cường đầu tư nhưng nhiều khu vực vẫn còn rất khó khăn. Vẫn còn 149 trong tổng số 9.200 xã trong cả nước chưa có đường ô tô đến trung tâm xã, hệ thống đường giao thông nông thôn về cơ bản đã hình thành tuyến nhưng chưa có giá trị cao về phương diện vận tải do mặt đường còn hẹp. Hệ thống thủy lợi ở một số địa phương đầu tư còn thiếu đồng bộ, chưa phát huy được hiệu quả. Đến năm 2011, cả nước vẫn còn 16 xã ở vùng hải đảo, biên giới, vùng cao chưa có điện. Hệ thống cấp nước sạch, nhà tiêu hợp vệ sinh còn thiếu, các công trình đầu mối về thủy lợi chưa đủ điều kiện ứng phó với biến đổi khí hậu, tốc độ đô thị hóa khu vực nông thôn còn chậm. Cơ sở y tế tuyến huyện, xã còn nhiều hạn chế, năng lực đội ngũ y bác sỹ tại các bệnh viện tuyến huyện, xã còn chưa đáp ứng được yêu cầu nên dẫn đến tình trạng quá tải tại các bệnh viện tuyến trung ương. Hệ thống chợ cũng được xây dựng nhiều nhưng bố trí chưa hợp lý, chưa phát huy hiệu quả. Hệ thống trường học, dạy nghề đã được tăng cường đầu tư xây dựng, tuy nhiên quy hoạch còn chưa hợp lý.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu cho rằng: Đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi nguồn lực rất lớn của Nhà nước cũng như toàn xã hội do địa bàn nông nghiệp, nông thôn rộng lớn, địa hình phức tạp, nhiều vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao, sản xuất chưa phát triển, thu nhập của người dân còn thấp, đời sống khó khăn... Trong khi đó, khả năng đầu tư của Nhà nước và toàn xã hội thì có hạn. Mặt khác, sản xuất nông nghiệp chịu rủi ro cao do sự tác động trực tiếp của thời tiết khí hậu, biến động của môi trường, dịch bệnh... việc phòng chống, khắc phục hậu quả là rất khó khăn phức tạp nên khó thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia.

Sớm xây dựng cơ chế tổng thể

Ông Nguyễn Văn Giàu, khẳng định: Về lâu dài, Nhà nước tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Hoàn thiện và phê duyệt quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội, quy hoạch tổng thể về phát triển nông thôn, quy hoạch tổng thể các ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu để các địa phương rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể, quy hoạch ngành, sản phẩm cho phù hợp với chiến lược phát phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 của các vùng lãnh thổ, các tỉnh, thành phố. Đảm bảo công tác quy hoạch thống nhất từ trung ương đến địa phương, giữa quy hoạch tổng thể, quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, lĩnh vực, tránh chồng chéo, kém hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao chất lượng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các quy hoạch ngành, quy hoạch vùng lãnh thổ làm căn cứ để xây dựng các chương trình và kế hoạch đầu tư trung và dài hạn, quản lý và thực hiện đầu tư nhất quán theo quy hoạch. Chú trọng hướng dẫn các địa phương về chuyên môn trong công tác lập quy hoạch, giúp các địa phương điều tra các số liệu cơ bản phục vụ xây dựng các quy hoạch ngành nông nghiệp; hoàn thiện các định mức kinh tế - kỹ thuật về lập quy hoạch cho chặt chẽ và phù hợp.

Đồng thời, cần tiếp tục quan tâm đến các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình mục tiêu, dự án hỗ trợ có mục tiêu khác. Tạo cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn, như: Chính sách tín dụng, phát triển thị trường, thuế, phát triển khoa học công nghệ, công tác đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân. Có chính sách đối với phát triển lâm nghiệp, vùng miền núi, dân tộc thiểu số, phát triển hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Bố trí, phân bổ nguồn vốn đầu tư công hợp lý. Có chính sách cân đối bố trí vốn theo định hướng khung kế hoạch hoặc kế hoạch 3 - 5 năm và giao quyền chủ động cho địa phương phân bổ chi tiết cho từng dự án, công trình cụ thể theo tiêu chí quy định và dưới sự giám sát, kiểm tra của Trung ương. Phân bổ vốn ngân sách nhà nước tập trung, ưu tiên cho các công trình trọng điểm về cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội có tác động lớn đến phát triển các ngành, lĩnh vực, địa phương, đặc biệt là ưu tiên đầu tư cho các lĩnh vực xã hội, các huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao, các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, các xã đông đồng bào dân tộc thiểu số. Công khai hóa quá trình phân bổ vốn thông qua các quy định về nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn đầu tư; xác định các đối tượng hỗ trợ rõ ràng để tăng tính công bằng, minh bạch trong quá trình thực hiện.

Kiên trì triển khai việc xây dựng nông thôn mới, tập trung chỉ đạo cụ thể, liên tục, đồng bộ, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị. Đổi mới, nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý đầu tư công nói chung, đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói riêng. Tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, vai trò chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, các bộ và ủy ban nhân dân các cấp trong đầu tư công.

Bài và ảnh: Nguyễn Viết Tôn

Cập nhật lúc:  09:42 22/08/2011

Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đến năm 2020 được Đại hội Đảng lần thứ XI thông qua, một trong những giải pháp có tính đột phá thực hiện được mục tiêu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 là phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó có nhân lực qua đào tạo nghề và chính sách bảo đảm việc làm cho nông dân.

Việt Nam là một nước đang phát triển và đang hội nhập mạnh mẽ với thế giới. Trong bối cảnh đó, nước ta có những cơ hội để phát triển, đồng thời đang và sẽ gặp không ít khó khăn, thách thức. Trong 3 năm đầu gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam đã vươn ra thị trường thế giới; nhiều sản phẩm đã đứng ở những vị trí cao trong thị phần của thế giới, như lương thực, cà phê, cao su, thủy hải sản… Tuy nhiên, khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam nói chung và các sản phẩm hàng hóa của Việt Nam cũng phải chịu sức ép cạnh tranh rất lớn và lợi thế cạnh tranh là giá nhân công rẻ đã giảm đi đáng kể. Khi tham gia hội nhập kinh tế thế giới, xuất phát điểm phát triển của Việt Nam còn quá thấp. Gần 80% dân số sống ở nông thôn và trên 70% lao động nông nghiệp, nông thôn, trong đó đa phần có kỹ năng nghề rất thấp; sản xuất nông nghiệp vẫn mang nặng tính truyền thống. Trong cơ cấu GDP, nông nghiệp vẫn chiếm 25%, trong khi đó ở các nước phát triển, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP chỉ còn 3%. Điều này cho thấy để bắt kịp trình độ của thế giới, Việt Nam phải nỗ lực rất nhiều để tạo ra sự bứt phá mạnh mẽ, trong đó quan trọng nhất là đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn.

Đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn - kết quả bước đầu

Hiện nay, tổng số lao động đang làm việc trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân là trên 47 triệu người, trong đó lao động đang làm việc trong nông thôn chiếm gần 70%, làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 51%. Để đáp ứng nhu cầu nhân lực của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, cần phải chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu lao động trong nông thôn (mục tiêu đến năm 2020 chỉ còn 30% lao động trong nông nghiệp) và đào tạo nghề có sứ mạng rất lớn, góp phần rất quan trọng vào việc chuyển dịch này. Trong Nghị quyết số 26-NQ-TW ngày 5-8-2008 của Ban chấp hành Trung ương (khóa X) về nông nghiệp, nông dân và nông thôn có đề ra: “Giải quyết việc làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi chương trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; bảo đảm hài hòa giữa các vùng, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Có kế hoạch cụ thể về đào tạo nghề và chính sách bảo đảm việc làm cho nông dân, nhất là ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động từ nông thôn…. Hình thành Chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm hằng năm đào tạo khoảng 1 triệu lao động nông thôn; phấn đấu đến năm 2020 lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội; tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%”(1).

Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, ngày 28-10-2008 Chính phủ đã ra Nghị quyết số 24/2008/NQ- CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ, trong đó có mục tiêu: “Tập trung đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn, chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn tăng lên 2,5 lần so với hiện nay”. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu trong Chương trình hành động của Chính phủ là: “Xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nguồn nhân lực nông thôn. Tập trung xây dựng kế hoạch và giải pháp đào tạo cho bộ phận con em nông dân đủ trình độ, năng lực vào làm việc ở các cơ sở công nghiệp, thủ công nghiệp và dịch vụ và chuyển nghề; bộ phận nông dân còn tiếp tục sản xuất nông nghiệp được đào tạo về kiến thức và kỹ năng để thực hành sản xuất nông nghiệp hiện đại; đồng thời tập trung đào tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ quản lý, cán bộ cơ sở”.

Để cụ thể hóa Chương trình hành động, ngày 27-11-2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956). Trong Quyết định này đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là: “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn, có chính sách bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi lao động nông thôn, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn”. Đề án 1956 đã đề ra mục tiêu tổng quát: “ Bình quân hằng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động nông thôn, trong đó đào tạo, bồi dưỡng 100.000 lượt cán bộ, công chức xã. Nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề, nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập của lao động nông thôn; góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn…”. Đối tượng của Đề án này là lao động nông thôn trong độ tuổi lao động, có trình độ học vấn và sức khỏe phù hợp với nghề cần học. Trong đó ưu tiên đào tạo nghề cho các đối tượng là người thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi, người có công với cách mạng, hộ nghèo, hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người thuộc diện có đất thu hồi…

Đề án đã đề ra đồng bộ các chính sách đối với người học nghề, chính sách đối với người dạy nghề (bao gồm giáo viên, giảng viên trong các cơ sở dạy nghề; cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có tay nghề cao tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh và các trung tâm khuyến nông, lâm, ngư, nông dân sản xuất giỏi tham gia dạy nghề) và chính sách đối với các cơ sở dạy nghề cho lao động nông thôn.

Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã nêu, Đề án đã đề ra đồng bộ 5 nhóm giải pháp, gồm (1) Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, xã hội, của cán bộ, công chức xã và lao động nông thôn về vai trò của đào tạo nghề đối với tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn; (2) Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo nghề; (3) Phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý; (4) Phát triển chương trình, giáo trình, học liệu; (5) Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát đánh giá việc thực hiện Đề án.

Đề án cũng đã đề ra 8 nhóm hoạt động dạy nghề cho lao động nông thôn, bao gồm (1) Tuyên truyển, tư vấn học nghề và việc làm đối với lao động nông thôn; (2) Điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu dạy nghề cho lao động nông thôn; (3) Thí điểm các mô hình dạy nghề cho lao động nông thôn; (4) Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề đối với các cơ sở dạy nghề công lập; (5) Phát triển chương trình, giáo trình, học liệu và xây dựng danh mục thiết bị dạy nghề; (6) Phát triển đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề; (7) Hỗ trợ lao động nông thôn học nghề; (8) Giám sát, đánh giá tình hình thực hiện Đề án.

Đồng thời với Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, ngày 4-6-2010 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 800/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010- 2020”. Theo đó, sẽ có 11 nhóm nội dung phải triển khai thực hiện từ nay đến năm 2020, trong đó có nội dung “đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn, thúc đẩy đưa công nghiệp vào nông thôn, giải quyết việc làm và chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động nông thôn”.

Có thể nói, chưa bao giờ vấn đề đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề cho lao động nông thôn lại được Đảng và Nhà nước quan tâm như hiện nay và đã có những cơ chế, chính sách và các giải pháp đồng bộ để thực hiện. Đến nay đã có gần 80% số tỉnh đã đưa nội dung đào tạo nghề cho lao động nông thôn vào nghị quyết của đại hội đảng bộ tỉnh giai đoạn 2011-2015.

Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là việc làm có tính xã hội và nhân văn sâu sắc, do đó đã nhận được sự đồng thuận rất cao của người dân, của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, các doanh nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng. Tư tưởng bao trùm của các chủ trương, đề án của Đảng và Nhà nước về đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn là góp phần tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại trong nông nghiệp; tạo ra những lao động có kiến thức, có kỹ năng sản xuất hiện đại, có khả năng thích ứng với sự cạnh tranh quốc tế trong sản xuất nông nghiệp.

Một trong những khác biệt của đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Đề án 1956 so với các chương trình, dự án trước đó về dạy nghề cho nông dân, là yêu cầu cao về “đầu ra”. Theo mục tiêu của Đề án 1956, từ nay đến năm 2015, 70% số lao động nông thôn sau khi được đào tạo nghề có việc làm phù hợp với nghề được đào tạo và tỷ lệ này đạt được là 80% vào những năm sau đó. Để đạt được yêu cầu này, ngay sau khi có Quyết định số 1956 QĐ-TTg, tất cả các địa phương trong cả nước đã đồng loạt tổ chức điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu học nghề của lao động nông thôn; nhu cầu sử dụng lao động qua đào tạo nghề của các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; năng lực đào tạo của các cơ sở dạy nghề trên địa bàn. Công tác điều tra được thực hiện từ các thôn, bản, xóm, ấp, tới từng hộ gia đình, trên cơ sở nhu cầu nghề nghiệp thực tiễn của người dân nông thôn. Tính đến nay 63/63 tỉnh, thành phố đã hoàn thành việc điều tra, khảo sát nhu cầu và có 33 tỉnh, thành phố đã tổng hợp số liệu điều tra. Theo thống kê sơ bộ, hiện có khoảng 12% - 15% số lao động nông thôn có nhu cầu được đào tạo nghề với trên 600 nghề khác nhau, trong đó nhóm nghề nông nghiệp chiếm trên 42%. Đây là căn cứ rất quan trọng để các cơ sở dạy nghề trong cả nước tổ chức xây dựng chương trình và mở các khóa dạy nghề phù hợp.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã hướng dẫn các địa phương tổ chức triển khai thực hiện đề án theo 19 nhóm công việc cụ thể. Tuy mới triển khai thực hiện, nhưng các ngành, các địa phương đã có những hoạt động thiết thực, sáng tạo, đã đưa ra nhiều mô hình dạy nghề và hình thức dạy nghề thích hợp. Một số mô hình đã bước đầu triển khai có hiệu quả, như mô hình đào tạo nghề cho lao động ở các vùng chuyên canh, vùng nguyên liệu cho các cây công nghiệp như thuốc lá, chè… (có sự phối hợp giữa địa phương và các doanh nghiệp); mô hình dạy nghề cho lao động trong các làng nghề (sự phối hợp giữa địa phương, các cơ sở dạy nghề và các làng nghề); mô hình dạy nghề ngắn hạn cho người nông dân ở cộng đồng (sự phối hợp giữa địa phương, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các trung tâm khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư)… Hoạt động dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn không chỉ huy động các cơ sở chuyên dạy nghề mà còn thu hút được sự tham gia của các viện nghiên cứu, các trường đại học; sự tham gia giảng dạy của những lao động kỹ thuật từ các doanh nghiệp; những nghệ nhân, người có tay nghề cao trong các làng nghề… Bản thân người nông dân và lao động nông thôn là những đối tượng được thụ hưởng chính sách cũng đã tích cực, ủng hộ chủ trương của Chính phủ, từ việc xác định được nhu cầu học nghề của mình phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đến việc tham gia đầy đủ các khóa đào tạo. Qua thí điểm một số mô hình đào tạo nghề cho lao động vùng chuyên canh ở một số địa phương (như Lạng Sơn, Cao Bằng, Tây Ninh, Gia Lai…) cho thấy, kỹ năng nghề của người nông dân đã được nâng lên, do đó năng suất lao động, chất lượng cây trồng và thu nhập đã tăng lên rõ rệt. Đặc biệt, trong quá trình đào tạo, người nông dân còn được cung cấp những kỹ năng về hội nhập kinh tế, về các tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh thực phẩm của thế giới và Việt Nam; về cách ứng xử với môi trường (công nghệ sạch) và bước đầu còn được trang bị những kiến thức về khởi sự doanh nghiệp. Những kết quả bước đầu này đã tạo động lực để thu hút những lao động nông thôn khác trong thôn, bản, làng, xã tham gia các khoá đào tạo nghề được tổ chức tại địa bàn. Các doanh nghiệp, các cơ sở dạy nghề tham gia dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn, không chỉ thuần túy dạy nghề mà còn tư vấn, hướng dẫn người nông dân cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh, bảo đảm “đầu ra” hoặc là sản phẩm hoặc là tiếp nhận lao động sau khi được học nghề. Tại những địa bàn nghèo, các doanh nghiệp ngoài việc hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề, còn hỗ trợ đầu tư các công trình xã hội, như trường học, xây dựng đường liên thôn, liên bản…, góp phần xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới. Riêng đối với 11 xã thí điểm xây dựng nông thôn mới, mỗi xã tối thiểu đã tổ chức được hai lớp dạy nghề cho nông dân theo các mô hình đặc thù của xã.

Một số vấn đề đặt ra

Để các hoạt động đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn thực sự hiệu quả, tạo được sự đồng thuận cao của người dân, cần tiếp tục thực hiện một số vấn đề sau:

Thứ nhất, phải có sự “vào cuộc” mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị ở địa phương. Nhận thức đúng về đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn là cơ hội để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho địa phương, nâng cao chất lượng, năng suất lao động; góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Thực tế thời gian vừa qua cho thấy, ở địa phương nào có sự quan tâm của cấp uỷ đảng, sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền và sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội… thì ở đó công tác dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn đạt được kết quả mong muốn.

Thứ hai, đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn phải xuất phát từ nhu cầu sử dụng lao động thực sự của các cơ sở sản xuất, kinh doanh- dịch vụ trên địa bàn; từ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương; đồng thời dựa trên nhu cầu thực tế về nghề nghiệp của người dân, chứ không phải là các hoạt động có tính phong trào, nhất thời. Vì vậy, công tác điều tra, khảo sát nhu cầu phải thực hiện thường xuyên; nắm chắc các nhu cầu thực tế (theo từng nghề, nhóm nghề, vị trí công việc…) của người dân ở từng địa phương (xã, huyện) và của doanh nghiệp. Để làm tốt việc này, ngoài việc huy động các cơ quan chuyên môn (lao động, nông nghiệp và phát triển nông thôn, thống kê…) cần kết hợp với công tác tuyên truyền, tư vấn nghề nghiệp, thông tin đến từng người dân về nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp...

Thứ ba, do tính đa dạng vùng miền và tính đặc thù của người nông dân và lao động nông thôn (trình độ học vấn không đồng đều, lao động theo mùa vụ, thói quen canh tác…), nên việc tổ chức các khóa đào tạo phải rất linh hoạt về chương trình đào tạo, hình thức đào tạo, phương thức đào tạo, phương pháp truyền đạt… Chương trình đào tạo phải gắn với học liệu sinh động, đa dạng và thiết thực, phù hợp với trình độ của người học.

Thứ tư, đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn phải gắn với giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động; gắn với xóa đói, giảm nghèo và góp phần bảo đảm an sinh xã hội ở nông thôn; gắn với xây dựng nông thôn mới. Vì vậy, trong quá trình thực hiện, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, nhất là vai trò của chính quyền cấp xã, cấp huyện. Thực tế thời gian qua cho thấy, ở nơi nào có sự phối hợp tốt giữa các đối tác này thì ở đó công tác đào tạo nghề đạt được kết quả rất tích cực (người dân có việc làm, năng suất lao động và thu nhập của người dân được nâng lên, giảm nghèo bền vững…). Đặc biệt, dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn phải gắn kết chặt chẽ với Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 của Chính phủ (theo Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4-6-2010).

Thứ năm, để những người nông dân trở thành những lao động nông nghiệp hiện đại, song song với việc truyền đạt kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cần trang bị cho họ những kiến thức tiêu chuẩn an toàn sản phẩm, về thị trường, kiến thức kinh doanh trong điều kiện hội nhập./.

Đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn(24/12/2010)

Chưa bao giờ vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn lại được Đảng và Nhà nước quan tâm như hiện nay, bởi vì không thể có một nông thôn mới, một nước có nền công nghiệp hiện đại khi hàng triệu lao động nông dân không có tay nghề vững vàng. Chính vì lẽ trên, ngay sau khi Nghị quyết Trung ương 7 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ra đời, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã được triển khai ở nhiều nơi.

Mấy năm gần đây, do tác động của quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh trên một số vùng của đất nước dẫn đến tình trạng mất cân đối về cung, cầu lao động giữa nông thôn và thành thị. Trường hợp xảy ra có tính chất phổ biến: các doanh nghiệp nhất là mới ra đời không tuyển đủ số lao động cần thiết (chủ yếu lao động có tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ) trong khi đó lao động phổ thông không có việc làm lại dư thừa khá nhiều. Mỗi năm có hàng trăm nghìn lao động phổ thông từ các vùng xung quanh các đô thị lớn đổ xô ra thành phố, thị xã tìm việc làm. Các “chợ lao động” tự phát xuất hiện ở một số đường phố ngày càng nhiều.

Sở dĩ có tình trạng như vậy vì nhiều năm liền chúng ta chưa chú ý đào tạo nghề cho nông dân một cách có bài bản, chưa làm tốt vấn đề phân công lao động trong nông nghiệp. Vì vậy, vấn đề cần làm ngay trong quá trình triển khai xây dựng nông thôn mới là tập trung chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp. Cả nước ta hiện nay có gần 16 triệu hộ ở nông thôn, chiếm 69,4% số hộ với gần 38 triệu lao động, chiếm 69% số lao động của cả nước, trong đó lao động làm việc trực tiếp trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản chiếm 57,9% số lao động cả nước. Mục tiêu của chúng ta là đến năm 2020 giảm xuống còn 30% số lao động làm nông nghiệp còn lại phải chuyển sang ngành nghề khác phi nông nghiệp. Gần một phần tư thế kỷ (1986 – 2010) thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta chỉ giảm được 21% (từ 79% năm 1985 còn 51,9% hiện nay). 

Đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa đất nước, vì sự phát triển tiến lên giàu có của nông dân, chúng ra nhất định phải tiến hành đào tạo chuyển nghề cho lao động nông thôn và đào tạo nâng cao trình độ cho nông dân còn tiếp tục làm nông nghiệp. Hàng năm, chúng ta phải tập trung đào tạo chuyển nghề cho lao động nông thôn từ 700 đến 800 nghìn người và 300 nghìn nông dân tiếp tục làm nông nghiệp. Cơ sở, trường lớp đào tạo hiện còn chưa đáp ứng, cái khó nhất là đào tạo lao động phi nông nghiệp có việc làm và thu nhập ổn định cao hơn làm ruộng ở quê.

Lao động sau đào tạo chủ yếu làm việc tại các doanh nghiệp, có thể ở thành phố, thị xã, đô thị nhỏ làm việc trong doanh nghiệp ở nông thôn và đầu tư vào nông nghiệp đang là thách thức lớn. Theo thống kê chưa thật đầy đủ, ở nước ta hiện nay có gần 40 nghìn doanh nghiệp hoạt động ở nông thôn trong đó chỉ có gần 1500 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản chiếm 3,7% số doanh nghiệp hoạt động ở nông thôn. Vốn đầu tư số doanh nghiệp trên có khoảng 32 nghìn tỉ đồng chiếm 6% vốn của doanh nghiệp đầu tư ở nông thôn và chỉ có 0,9% vốn của các doanh nghiệp trong nước. Vì vậy mấy năm gần đây, nhất là năm 2010, Chính phủ đã có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Cần phải coi đây là công việc thường xuyên, lâu dài về việc đào tạo chuyển nghề cho lao động nông thôn gắn đào tạo chuyển nghề với doanh nghiệp.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ 7 về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, tháng 10 – 2008, Chính phủ đã ra nghị quyết ban hành chương trình hành động của Chính phủ, trong đó có mục tiêu: tập trung đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn, chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, giải quyết việc làm nhằm nâng cao thu nhập một bước cho người nông dân.

Nhằm cụ thể hóa chương trình hành động trên, tháng 11 – 2009 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956). Đề án nêu rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước ta là đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng và Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn, có chính sách bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi lao động nông thôn, khuyến khích huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Đây là cơ sở hành lang pháp lý để các hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn phát triển nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn.

Đề án đào tạo nghề cho lao động là đề án có tính xã hội và nhân văn sâu sắc do đó nhận được sự đồng thuận của rất cao các tầng lớp nhân dân. Sau hai năm đề án đã đi vào cuộc sống, tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội, các ngành, các địa phương đã có những hoạt động thiết thực, sáng tạo, tạo ra nhiều mô hình dạy nghề và hình thức dạy nghề thích hợp. Một số mô hình bước đầu triển khai có hiệu quả. Hoạt động dạy nghề cho lao động nông thôn không chỉ huy động các cơ sở chuyên dạy nghề mà còn huy động được “chất xám” của các viện nghiên cứu, các trường đại học, huy động được sự tham gia giảng dạy của những lao động kỹ thuật từ các doanh nghiệp, các nghệ nhân trong các làng nghề. Qua thí điểm một số mô hình đào tạo nghề cho lao động chuyên canh ở một số địa phương vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long hoặc Trung du miền núi như Lạng Sơn, Cao Bằng, Tây Ninh, Gia Lai... cho thấy kỹ năng nghề của nông dân được nâng lên, do đó năng suất lao động, chất lượng cây trồng và thu nhập của người lao động tăng lên rõ rệt. Những kết quả bước đầu này đã tạo động lực để thu hút những lao động nông thôn khác trong thôn bản tham gia các khóa đào tạo nghề được tổ chức tại địa bàn.

Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Trường, Tổng cục trưởng Tổng cục dạy nghề: Để các hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn thật sự đi vào cuộc sống, tạo được sự đồng thuận cao của người dân, cần lưu ý một số vấn đề:

Thứ nhất, đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải xuất phát từ nhu cầu sử dụng lao động thật sự của các doanh nghiệp trên địa bàn; đồng thời dựa trên nhu cầu thực tế về nghề nghiệp của người dân, chứ không phải là các hoạt động có tính phong trào, nhất thời. Vì vậy, cần nắm chắc được các nhu cầu (theo từng nghề, nhóm nghề, vị trí công việc...) của người dân ở từng địa phương (xã, huyện) và của doanh nghiệp, thông qua điều tra khảo sát nhu cầu.

Thứ hai, cần phải có sự “vào cuộc” của cả hệ thống chính ở địa phương. Thực tế thời gian vừa qua cho thấy, ở địa phương nào có sự quan tâm của cấp ủy đảng, sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền và sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội... thì ở địa phương đó, công tác dạy nghề cho lao động nông thôn đạt được kết quả mong muốn.

Thứ ba, do tính đa dạng vùng miền và tính đặc thù của người nông dân và lao động nông thôn (trình độ học vấn không đều, lao động theo mùa vụ, thói quen canh tác...) nên việc tổ chức các khóa đào tạo phải rất linh hoạt về chương trình đào tạo, hình thức đào tạo, phương thức đào tạo, phương pháp truyền đạt...

Thứ tư, đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải gắn với giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, gắn với xóa đói, giảm nghèo và góp phần bảo đảm an sinh xã hội ở nông thôn; gắn với xây dựng nông thôn mới.

Trong quá trình thực hiện, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp. Thực tế thời gian qua cho thấy, ở nơi nào có sự phối hợp tốt giữa các đối tác này thì đào tạo nghề đạt được kết quả rất tích cực, người dân có việc làm, năng suất lao động và thu nhập của người dân được nâng lên, giảm nghèo bền vững./.

Giải pháp Khoa học Công nghệ cho nông nghiệp VN

Giải pháp...

Phát triển nông nghiệp ở nông thôn sẽ đồng nghĩa với việc xây dựng trước hết cho nông dân một kiến thức cao về khoa học công nghệ. Phải ứng dụng những công nghệ trọng điểm của thời đại như công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ nano, công nghệ thủy canh, công nghệ nhà có mái che, công nghệ sau thu hoạch, cơ khí hoá dụng cụ nông nghiệp, ứng dụng quy trình nông nghiệp tốt VietGAP... để sản xuất nông sản có năng suất cao, chất lượng tốt, an toàn vệ sinh và giá thành thấp. Những công nghệ này phải được nghiên cứu, yểm trợ bằng những dự án ít rườm rà về thủ tục giấy tờ, và được trình diễn ở những Trung tâm xuất sắc ở mỗi vùng sinh thái hoặc ở mỗi địa phương, tạo điều kiện để nông dân học tập và cập nhật kiến thức. Trung tâm xuất sắc sẽ là nơi nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ mang tính đột phá, giải quyết được nhiều thách thức của vùng và địa phương mình, giúp phát triển toàn diện các ngành nông nghiệp để cạnh tranh tốt với nông sản nhập khẩu ở thị trường trong nước, đồng thời

làm tiền đề phát triển thị trường xuất khẩu, đưa nông nghiệp Việt Nam tiến vào biển lớn, hội nhập WTO. 

Kiến thức cao về khoa học công nghệ sẽ giúp nông thôn biết quy hoạch đất đai, mạnh dạn khoanh vùng để giữ gìn “bờ xôi ruộng mật”, chỉ xây dựng công trường ở nơi thuận tiện, và sân golf  - cũng quan trọng để phát triển du lịch - phải ở nơi không phải đất nông nghiệp, với con số chừng mực bao nhiêu sân là hợp lý.  

Kiến thức cao về khoa học công nghệ sẽ giúp nông thôn biết ứng dụng các phương pháp sản xuất hữu cơ, IPM, GAP để bảo vệ môi trường, các phương pháp xử lý làm sạch nước, nâng cao chất lượng nước dùng trong nông nghiệp.

Kiến thức cao về khoa học công nghệ cũng sẽ giúp nông thôn biết ứng phó với thiên tai bão lụt, tìm giải pháp thích ứng khi khí hậu biến đổi, và sẽ cho Việt Nam những giống lúa chống lụt (gene Sub1), chống mặn, phương pháp trồng hoa màu trên cát.

Nông sản Việt Nam được sản xuất, dĩ nhiên ở nông thôn, đã và đang kinh qua muôn ngàn trở ngại vì: 1) hạ tầng cơ sở kém nên vận chuyển khó khăn, 2) kỹ thuật sản xuất thô sơ nên chất lượng chưa đạt, 3) tổ chức hành chính rườm rà nên ngăn cản việc sản xuất tập trung với lượng hàng hoá lớn, 4) giá cả vận chuyển đắt nên giá thành nông sản bị đội lên, khó cạnh tranh ở cả hai thị trường trong và ngoài nước, và 5) thủ tục hải quan chưa gọn nhẹ nên việc xuất khẩu mất tính hấp dẫn, không lôi kéo được đầu tư. Đó là chưa nói đến tình hình nông dân bị thương lái và tổ chức tài chính tại địa phương khống chế, mất cơ hội làm giàu, tạo nên hình ảnh không mấy đẹp khi nói đến nghề nông. Đây là những lý do chính ngăn cản sức bật của nông nghiệp Việt Nam, cho nên phải mạnh dạn phá vỡ những tương quan chằng chịt này để lột xác nông thôn, biến nơi này thành một mảnh đất phì nhiêu, sẵn sàng cho hạt giống khoa học công nghệ sinh sôi nảy nở. 

... và Cơ hội

Mặc dù còn có nhiều khó khăn trở ngại, cộng thêm với thiên tai bão lũ, hạn hán, rét đậm rét hại... vậy mà trong năm 2008, Việt Nam đã xuất khẩu được 2,87 tỷ USD gạo, 2 tỷ USD cà phê, 1,6 tỷ USD cao su, 1,5 tỷ USD tôm và 1 tỷ USD cá tra. Tổng cộng các mặt hàng nông lâm ngư nghiệp xuất khẩu trong năm 2008 là 16,24 tỷ USD. Đạt được con số này là một kết quả ngoạn mục. Nhưng thực ra đấy không phải do ta đã thành công trong việc tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, mà do ở thị trường thế giới đang trong thời kỳ thiếu nguồn cung cấp nên đã trả với giá cao hơn. Như vậy rõ ràng cơ hội vẫn còn nhiều do thực phẩm càng lúc càng hiếm và nông sản càng lúc càng trở thành một mặt hàng có giá trị. Nếu nông sản được tăng thêm giá trị (value added) bằng cách chế biến, thì nông sản sẽ có giá trị cao hơn, thu nhập trên một hecta sẽ không thua các mặt hàng công nghiệp.

Với một diện tích đất có thể canh tác không nhiều, chỉ 10-11 triệu ha nhưng lại có một thành phần nông dân trẻ, đông đảo, hùng hậu, Việt Nam phải tính toán để phân bổ hợp lý đất, người và đặt ưu tiên phát triển mặt hàng nông nghiệp nào kinh tế nhất cho thị trường trong và ngoài nước. Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy trong quá trình hiện đại hoá, công nghiệp hoá, thành phần nông dân Nhật đã tụt giảm từ 60% xuống còn khoảng 5-6%. Kết quả là quốc gia này đã gặp muôn vàn khó khăn trong sản xuất vì số nông dân quá ít, phải nhập khẩu đến 60% lương thực cần dùng. Nếu nông thôn Việt Nam quyết tâm lột xác để xây dựng một hệ thống hạ tầng cơ sở tốt, một môi trường sản xuất thông thoáng, và áp dụng một nền khoa học công nghệ cao, thì thành phần nông dân trẻ sẽ trụ lại, xây dựng thành công một đất nước có cả nông nghiệp và công nghiệp hiện đại, vừa bảo đảm tính bền vững về an ninh lương thực vừa bảo đảm “môi trường xanh” cho Việt Nam.  Dioxin, Vedan... là những bài học xương máu, nên đừng bao giờ quên rằng Nông nghiệp ngoài vai trò làm đầy bao tử, làm ấm cơ thể, còn là bầu không khí trong lành cho buồng phổi nữa.

Thách thức nào cũng khó khăn, nhất là đối với tầm cỡ của một quốc gia, của một dân tộc. Nhưng nếu không nhìn thấy và quyết tâm vượt qua, chúng ta sẽ bỏ mất cơ hội. Đã qua rồi thời kỳ hậu chiến. Cũng qua rồi thời kỳ đổi mới. Việt Nam đã đổi mới và đã đi vào biển lớn. Vậy phải nhìn thẳng vào khó khăn để mạnh dạn dứt bỏ những chính sách vốn xây

dựng cho sông, suối nay không còn thích hợp với sóng lớn đại dương. Sự kiện melamine của Trung Quốc, sự kiện cúm lợn ở châu Mỹ... đang tạo thêm cơ hội cho nông nghiệp Việt Nam. Thời cơ ấy sẽ qua đi nếu ta không kịp thời bắt lấy! 

------------------

Ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp

(Mard-3/8/2012): Ngày 3/8, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Đại sứ quán Israel, Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO) đồng tổ chức Diễn đàn đối thoại chính sách về 'Ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp thông qua đối tác công tư', với sự tham dự của hơn 300 đại biểu là lãnh đạo một số địa phương, doanh nghiệp trong và ngoài nước, các tổ chức quốc tế hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.

Mục tiêu của diễn đàn nhằm tham vấn xây dựng các chính sách, khuyến khích và hợp tác đầu tư vào công nghệ cao cho nông nghiệp, nhằm gia tăng hiệu suất và giá trị kinh tế cho các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam . Thông qua diễn đàn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mong muốn khuyến khích các tổ chức kinh tế, xã hội và nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước tham gia nhiều hơn vào quá trình sản xuất nông nghiệp theo hướng áp dụng công nghệ tiên tiến.

Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bùi Bá Bổng, thời gian qua, Việt Nam luôn quan tâm đẩy mạnh việc nghiên cứu chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ để hiện đại hóa nền nông nghiệp nông thôn. Từ thực tế cho thấy, các khu nông nghiệp công nghệ cao chưa đạt được thành công nên không được khuyến khích. Việt Nam chủ trương tập trung vào các doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghệ cao và các vùng ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất nông nghiệp.

Ông Nguyễn Văn Bộ, Viện trưởng Viện Khoa học nông nghiệp nhận định, hiện ở Việt Nam hình thức nông nghiệp công nghệ cao mới mang tính thử nghiệm, mô hình còn chưa phù hợp, chưa hướng được vào thị trường. Theo ông Nguyễn Văn Bộ, Chính phủ cần định hướng thị trường chiến lược cho các doanh nghiệp thông qua ký các cam kết quốc gia; đồng thời có chính sách ưu đãi thích hợp về đất đai, vốn vay, bảo hiểm rủi ro, đào tạo nguồn lực…

Thành công bước đầu của Công ty thực phẩm sữa TH True Milk cũng nhờ vào áp dụng công nghệ cao vào sản xuất. Theo bà Thái Hương, Tổng Giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á, đại diện Tập đoàn TH Group, để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này, Bộ Nông nghiệp cần đề xuất Chính phủ ban hành những chính sách khác biệt để khích lệ các doanh nghiệp; ban hành quy chuẩn kỹ thuật về công nghệ cao trong nông nghiệp đối với sản phẩm hàng hóa…

Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 176/QĐ-TTg về Đề án tổng thể phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao từ nay đến năm 2020; trong đó trọng tâm là các doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Đề án đặt ra mục tiêu trước mắt đến năm 2015, mỗi tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm xây dựng được từ 3 – 5 doanh nghiệp và từ 2 – 3 vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao./. 

Khoa học và công nghệ trong nông nghiệp: Thiếu sức cạnh tranh và động lực phát triển

Kiểm tra sự phát triển của khoai tây giống bằng phương pháp nuôi cấy mô tại Phòng Nuôi cấy mô tế bào

Ngành nông nghiệp nước ta nhiều năm qua luôn duy trì tăng trưởng ở mức 4-5% nhưng các đóng góp cho tăng trưởng chủ yếu là do các yếu tố "đầu vào" như đất đai, nước tưới, lao động, vật tư... Đến nay, hầu hết các nguồn lực này đã tới hạn và đang bị rút ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp. Không còn cách nào khác để ngành nông nghiệp tăng trưởng là phải dựa vào khoa học, công nghệ (KHCN) để có thể phát triển bền vững.

Bộ máy lớn nhưng thiếu động lực

Thời gian qua, KHCN nông nghiệp đã góp phần quyết định để nhiều nông sản của Việt Nam như gạo, chè, cà phê, hạt tiêu, cao su... trở thành các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước. Tuy nhiên, đến nay, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam còn thấp. Phần nhiều nông dân chưa tiếp cận được các loại giống mới, quy trình canh tác tiên tiến. Tiềm năng của KHCN đối với phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn rất lớn nhưng chưa được khai thác và phát huy đầy đủ. Vì vậy, KHCN nông nghiệp Việt Nam còn tụt hậu so với khu vực và thế giới.

Theo TS Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn, nước ta có lực lượng nghiên cứu đáng kể phục vụ KHCN nông nghiệp và xét về quy mô không hề nhỏ. Bộ NN&PTNT hiện quản lý 11 đơn vị sự nghiệp khoa học, các trường ĐH nông nghiệp, thủy lợi... Số cán bộ khuyến nông của cả nước là khoảng 33.000 người. Trong khi đó, số cán bộ trực tiếp làm công tác nghiên cứu, đào tạo tại các viện nghiên cứu là hơn 8.000 người. Kinh phí đầu tư cho nghiên cứu KHCN năm 2010 là gần 670 tỷ đồng, trong đó gần 30% là lương và hoạt động bộ máy. Từ năm 2006-2010, Bộ cũng huy động nguồn vốn ODA lên đến 805 tỷ đồng để xây mới và nâng cấp cơ sở vật chất cho 21 tổ chức KHCN. Mức đầu tư cho KHCN ngành NN&PTNT trung bình mỗi năm tăng 11-12%, cho khuyến nông là 15%.

TS Đặng Kim Sơn cho rằng, so với các nước Châu Á khác, KHCN cho nông nghiệp của nước ta khá tụt hậu và yếu tố cản trở lớn nhất không phải là kinh phí hay cơ sở vật chất mà chính là thiếu động lực cho đội ngũ cán bộ. Cán bộ khoa học, cán bộ khuyến nông không coi mình là chủ nhân của viện nghiên cứu, trạm kỹ thuật, không hăng say nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó, các hoạt động nghiên cứu tại các viện và chuyển giao khoa học tại các trung tâm khuyến nông không coi người sản xuất kinh doanh là khách hàng, KHCN là hàng hóa. "Nguyên nhân chính của việc cán bộ không có động lực là do chính sách và thể chế quản lý khoa học bất hợp lý" - TS Sơn khẳng định.

Giải pháp nào tạo đột phá?

PGS-TS Nguyễn Thị Trâm (ĐH Nông nghiệp Hà Nội) cho rằng, cách quản lý KHCN nông nghiệp đang "có vấn đề" dù gần đây đã có những bước cải tiến, cụ thể là Nhà nước đã ban hành chính sách đấu thầu các đề tài KHCN. Cách làm này chưa giải quyết triệt để gốc rễ những bất cập hiện có. Cụ thể là chúng ta mới chỉ đấu thầu trên văn bản thuyết minh xem tốt hay không chứ không phải là chọn sản phẩm nghiên cứu tốt. "Khi chỉ có một đơn vị duy nhất thực hiện chọn tạo giống thì chỉ chọn được một giống duy nhất, không có nhà chọn giống nào khác cùng làm nên giống mới đó lại được đem so sánh với giống cũ đang sử dụng thì nghiễm nhiên đề tài phải được nghiệm thu tốt. Cách quản lý như trên là thủ tiêu cạnh tranh - động lực cơ bản để phát triển. Hệ quả là nông dân chờ mãi vẫn chưa có giống tốt do các nhà khoa học trong nước tạo ra. Để kinh doanh giống, doanh nghiệp buộc phải đi mua của nước ngoài và Nhà nước phải tốn thêm tiền để tổ chức khảo nghiệm, lập hội đồng công nhận giống cho doanh nghiệp nước ngoài, trợ giá giống cho nông dân. Thực chất đây là trợ giá nguồn "cung" của thị trường nước ngoài để khuyến khích "cầu" trong nước" - TS Trâm khẳng định.

Mặt khác, công tác quản lý nhà nước về KHCN mới chỉ quan tâm đến việc xác định đề tài mà ít chú trọng đến công tác đánh giá hiệu quả, tác dụng của nó trong thực tế sau khi nghiệm thu. Việc đầu tư nghiên cứu khoa học theo vùng kinh tế rất hạn chế. Cụ thể là cả nước có 27 cơ quan nghiên cứu khoa học nông nghiệp nhưng Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 2 cơ sở và một đơn vị là ĐH Cần Thơ vừa nghiên cứu và đào tạo. Trong khi đó, đây là vựa nông sản lớn nhất cả nước, cần phải tập trung lực lượng nghiên cứu mạnh để có thể đẩy mạnh công tác chọn giống, cải tiến quy trình sản xuất...

PGS-TS Nguyễn Thị Trâm cho rằng, đã đến lúc cách làm KHCN nông nghiệp theo hình thức đấu thầu cần chấm dứt nếu không muốn lĩnh vực này tiếp tục khủng hoảng. Do đó, cách làm tốt nhất là phải tìm cách để thu hút doanh nghiệp tham gia vào KHCN nông nghiệp hoặc sáp nhập các viện nghiên cứu với trường ĐH chuyên ngành để tận dụng tối đa khả năng nghiên cứu, đào tạo. 

Cùng với các giải pháp đổi mới về tổ chức bộ máy, cơ chế tài chính, TS Đặng Kim Sơn nhấn mạnh đến việc cần tiến hành định kỳ đánh giá hiệu quả đóng góp cho thực tế của các cơ quan nghiên cứu khoa học thông qua các chỉ tiêu phổ biến và công khai như số bài báo trên tạp chí quốc tế, số tiến bộ kỹ thuật được áp dụng, số bằng sáng chế được đăng ký. Hiệu quả đóng góp vào sản xuất nông nghiệp sẽ là yếu tố để thưởng, phạt các tổ chức KHCN. Có như vậy mới hy vọng thoát khỏi cảnh trì trệ, tụt hậu…

Như vậy, rõ ràng KHCN trong nông nghiệp cần phải được đổi mới toàn diện.

Xuất khẩu nông sản: Nhiều cơ hội khởi sắc vào cuối năm

Thứ Năm, 02/08/2012 | 08:51

Năng suất lúa của một số nước giảm là cơ hội cho gạo Việt Nam gia tăng xuất khẩu.

Tuy giá cả tiêu dùng trong nước, cũng như xuất khẩu các mặt hàng nông sản 7 tháng qua có suy giảm, song nhiều khả năng sẽ hồi phục và khởi sắc trong những tháng tới đây, nhất là đối với mặt hàng gạo.

Trong 7 tháng qua, mặc dù tổng giá trị xuất khẩu (XK) của các mặt hàng nông, lâm, thủy sản nước ta vẫn tăng, song 2 mặt hàng chủ lực là lúa gạo và cao su suy giảm khá mạnh cả về giá trị và khối lượng XK. Trong khi đó, giá nông sản trong nước vẫn tiếp tục giảm...

Giá giảm cả trong và ngoài nước

Đối với thị trường tiêu dùng nội địa, thịt lợn là mặt hàng giảm giá nhiều nhất. Trong 7 tháng qua, tổng sản lượng thịt lợn hơi cả nước sản xuất được đạt 2,6-2,7 triệu tấn (tương đương 1,78-1,85 triệu tấn thịt xẻ). Tuy nhiên, giá thịt lợn hơi trong thời điểm này lại giảm chỉ còn 37.000-42.000 đồng/kg (bằng 50-60% so với cùng thời điểm năm 2011).

Tương tự, giá mía đường hiện tại cũng đã giảm sút khá nhiều. Tính đến giữa tháng 7, lượng đường tồn tại kho các nhà máy và 239.400 tấn, thấp hơn cùng kỳ năm trước 54.000 tấn. Lượng đường các nhà máy bán ra là 74.100 tấn, cao hơn cùng kỳ 10.000 tấn. Song, giá bán đường đường trắng loại I (đã có thuế VAT) tại kho nhà máy chỉ còn phổ biến ở mức 16.200- 16.500 đồng/kg, thấp hơn khá nhiều so với mấy tháng trước đây.

Cũng như giá cả trong nước, giá XK các mặt hàng nông sản năm nay cũng giảm sút khá nhiều. Điển hình như giá gạo XK bình quân trong 7 tháng đầu năm chỉ còn 458 USD/tấn, giảm 6,6%; cà phê đạt 2.100 USD/tấn, giảm 4,4%; đặc biệt là cao su giảm tới 31,3%, chỉ còn 3.001 USD/tấn. Các mặt hàng khác như điều cũng giảm tới 10,4%, còn 6.881 USD/tấn; giá chè giảm nhẹ còn 1.464 USD/tấn.

Theo TS Nguyễn Đỗ Anh Tuấn- Giám đốc Trung tâm Tư vấn chính sách (Viện Chính sách vàChiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn). Trong 7 tháng qua, 2 mặt hàng chủ lực là lúa gạo và cao su đã giảm khá mạnh cả về số lượng và giá. Cụ thể, do ảnh hưởng từ việc Ấn Độ, Bangladesh tung ra quá nhiều gạo giá rẻ đã làm ảnh hưởng đến các thị trường truyền thống của chúng ta như Philippines, Indonesia.

Còn về cao su, chúng ta chủ yếu XK sang Trung Quốc để làm lốp ôtô. Song do khủng hoảng kinh tế thế giới kéo dài đã kéo theo lượng cầu cao su giảm mạnh, khiến giá cả mặt hàng này liên tục giảm sút và tình hình còn có thể kéo dài sang tận năm 2013.

Khởi sắc vào cuối năm

Số liệu thống kê mới nhất của Bộ NNPTNT cho thấy, tính đến hết tháng 7, tổng giá trị XK các mặt hàng nông, lâm, thủy sản nước ta đã đạt 15,9 tỷ USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2011. Sở dĩ giá trị XK vẫn gia tăng, chủ yếu là do lượng XK nhiều mặt hàng nông, lâm, thủy sản 7 tháng tăng cao.

Cụ thể, theo ông Nguyễn Viết Chiến- Giám đốc Trung tâm Tin học- Thống kê (Bộ NNPTNT), lượng gạo XK đạt 4,6 triệu tấn, thu về 2,1 tỷ USD; cà phê xuất 1,2 triệu tấn, đạt giá trị tới 2,5 tỷ USD (vượt cả gạo). Đặc biệt XK hạt điều đã tăng tới trên 36%, đạt 120.000 tấn với giá trị 828 triệu USD.

Xuất khẩu nông sản năm 2012 sẽ đạt 26,5 tỷ USD

Theo dự báo, trong những tháng cuối năm 2012, kinh tế thế giới sẽ chuyển biến tốt hơn từ cuối quý III do sức cầu tiêu thụ của các thị trường sẽ phục hồi. Bộ NNPTN đánh giá đây là tín hiệu tốt cho xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam, dự kiến xuất khẩu cả năm sẽ đạt 26,5 tỷ USD.

Theo nhận định của một số chuyên gia, tuy giá cả tiêu dùng trong nước, cũng như XK các mặt hàng nông sản 7 tháng qua có suy giảm, song nhiều khả năng sẽ hồi phục và khởi sắc trong những tháng tới đây, nhất là đối với mặt hàng gạo.

Một số dự báo gần đây cho thấy, tại Ấn Độ và Bangladesh, sản xuất lúa gạo đang gặp khó khăn do ảnh hưởng của sâu bệnh dẫn đến năng suất giảm. Trong khi đó, khả năng cung gạo của chúng ta vẫn rất tốt, chưa kể gần đây Trung Quốc cũng gia tăng đáng kể việc nhập khẩu gạo từ Việt Nam, chủ yếu là gạo hạt tròn sản xuất ở các tỉnh phía Bắc.

Đối với các mặt hàng nông sản chính khác như cà phê, điều, tiêu… lượng XK nhiều khả năng tiếp tục tăng do nhu cầu nhập khẩu gần đây của thị trường Mỹ tăng cao, kế đến là các thị trường khác như Đức, Trung Quốc… đều đang gia tăng số lượng nhập khẩu trong thời gian gần đây.

Theo Thứ trưởng Bộ NNPTNT Diệp Kỉnh Tần, Bộ NNPTNT đang kiến nghị Thủ tướng Chính phủ sớm ban hành quyết định các chính sách hỗ trợ cấp bách cho sản xuất chăn nuôi, thủy sản và hỗ trợ thị trường. Cùng với đó, Bộ cũng đề nghị Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp tiếp cận được nguồn vốn lãi suất thấp, đảm bảo cho doanh nghiệp vay vốn thu mua tạm trữ nông sản với giá ưu đãi.

Theo Dan Viet

Gỡ khó cho xuất khẩu nông sản (23/2/2012) 

(Cập nhật lúc 16:2 ngày 23/2/2012) 

Khủng hoảng tài chính, chính sách thắt chặt tiền tệ, lãi suất ngân hàng cao, chi phí vật tư đầu vào tăng… đang trở thành rào cản lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. Trước tình hình này, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã cùng các hiệp hội ngành hàng bàn biện pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Các ngành hàng chủ lực đều gặp khó

Gạo là một trong những mặt hàng xuất khẩu được coi là sáng giá nhất trong nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành nông nghiệp, tuy nhiên, ngay từ đầu năm, các doanh nghiệp đã gặp không ít khó khăn. Ông Huỳnh Minh Huệ, Tổng thư ký Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho hay: Tháng 1/2012, các doanh nghiệp chỉ xuất khẩu được 280.000 tấn, giảm tới 42% so với cùng kỳ năm trước. Các hợp đồng đăng ký xuất khẩu gạo tới thời điểm này vẫn còn khoảng 1,25 triệu tấn, tương đương với năm 2011, tuy nhiên đây chủ yếu là hợp đồng từ cuối năm 2011 chuyển sang và thời gian giao hàng kéo dài tới quý III/2012.

Trong khi đó, trên thế giới, khó khăn nhất của thị trường gạo chính là tiến độ xuất khẩu chậm. Điều này đã được dự báo khi các chuyên gia kinh tế nhận định: 2012 là năm khó khăn đối với thị trường gạo vì sản lượng dồi dào trong khi tồn kho tăng liên tục trong 5 năm liên tiếp ở mức kỷ lục, trên 100 triệu tấn.

Không chỉ gặp khó ở thị trường xuất khẩu mà ngay cả trong nước, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản cũng vướng bộn bề gian khó. Trong bản kiến nghị gửi Bộ Nông nghiệp và PTNT, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) đưa ra 7 khó khăn, vướng mắc, trong đó đáng chú ý là chính sách kiểm soát an toàn thực phẩm thủy sản xuất khẩu. Với chính sách này, các doanh nghiệp đang phải gánh một khoản phí kiểm nghiệm lô hàng tăng gấp 1,5-2 lần so với trước trong khi thời gian kiểm nghiệm và thủ tục kiểm soát lại nhiêu khê, kéo dài tới 7- 10 ngày, phát sinh chi phí lưu kho bãi container 40 tấn lên đến 50USD/ngày, chi phí chạy điện container 66USD/ngày. Điều này làm giảm năng lực và lợi thế của xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong khi số các lô hàng bị nước ngoài cảnh báo không giảm...

Tăng sức cạnh tranh

Song song với việc kể khổ, các doanh nghiệp cũng kiến nghị Bộ Nông nghiệp và PTNT xem xét và giải quyết các vướng mắc cho họ. Đối với nhóm hàng lương thực, ông Huệ cho rằng, biện pháp quan trọng nhất là đẩy mạnh xuất khẩu, giải quyết tồn kho để chuẩn bị tạm trữ cho vụ thu hoạch rộ sắp tới. Theo ông Huệ, muốn đẩy mạnh xuất khẩu thì chúng ta phải chấp nhận cạnh tranh về giá, chất lượng và các điều kiện xuất khẩu khác. Song song với phương án trên, để giải quyết khó khăn trong bối cảnh xuất khẩu chậm, VFA đề xuất Chính phủ cho phép mua tạm trữ lúa gạo sau khi thu hoạch vụ đông xuân. Nếu không có kế hoạch vừa đẩy mạnh xuất khẩu, vừa thu mua tạm trữ thì sẽ không tiêu thụ kịp được lúa gạo vào thời kỳ thu hoạch rộ, nhất là vào tháng 3 và 4.

Đối với mặt hàng thủy sản, ông Nguyễn Hoài Nam, Tổng thư ký VASEP kiến nghị, Bộ Nông nghiệp và PTNT chỉ nên lấy mẫu xét nghiệm lô hàng với những thị trường yêu cầu giấy chứng nhận đó, tránh gây phiền hà, tốn kém cho doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh các doanh nghiệp đang phải thắt chặt chi tiêu nhằm tăng sức cạnh tranh.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Diệp Kỉnh Tần cho rằng, mặc dù nhìn trước được khó khăn trong năm 2012 song Bộ vẫn đặt ra mục tiêu kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành phấn đấu đạt 26 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm 2011. Trong đó, các mặt hàng nông sản đạt 14 tỷ USD, thủy sản 6,5 tỷ USD...

Theo ông Tần, để xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tiếp tục tăng trưởng, các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm chi phí sản xuất, tăng cường kiểm soát chất lượng vật tư đầu vào. Bộ sẽ điều chỉnh và ban hành đầy đủ các quy chuẩn về lượng đối với từng loại mặt hàng nông, lâm, thủy sản, tránh để đối tác lợi dụng ép mua hàng với giá thấp. Đặc biệt, cần phải khắc phục ngay việc thiếu nguyên liệu mang tính mùa vụ thường xuyên xảy ra đối với thủy sản thông qua các biện pháp tổ chức lại sản xuất theo hướng chủ động ký kết hợp đồng thu mua hoặc gia công với người nuôi trồng. Chủ động phòng tránh các rào cản kỹ thuật và rào cản thương mại. Các doanh nghiệp xuất khẩu cùng ngành hàng cần hợp tác, thông tin cho nhau về diễn biến cung cầu trên từng thị trường để thống nhất về lượng xuất khẩu và giá bán tại từng thời điểm. Cần hạn chế tình trạng đối tác chia rẽ ép giá, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ở Việt Nam, cũng như ở nhiều nước trên thế giới, nông nghiệp, nông thôn là khu vực rất nhạy cảm và có tầm quan trọng đặc biệt đối với nền kinh tế quốc dân. V́ vậy, chính sách đối với khu vực này, trong đó có chính sách XKNS, luôn được chính phủ nhiều nước, từ các nước ĐPT đến các nước công nghiệp phát triển quan tâm.

Việt Nam đang trong quá tŕnh hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đồng thời tiến hành CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân với đặc trưng quan trọng là một nước có cơ cấu c̣n nặng về nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp Việt Nam trong thời gian qua đă đạt nhiều thành tựu to lớn, đóng góp tích cực cho thời kỳ đầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong thành tích chung đó, phải kể tới đóng góp của chính sách XKNS Việt Nam. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp và XKNS Việt Nam hiện vẫn đang gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Nguyên nhân của t́nh h́nh đó là do bản thân sự yếu kém của sản xuất và XKNS, do những trở ngại từ chính sách của chính phủ nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt là chính sách thương mại không công bằng mà chính phủ nhiều nước phát triển, đứng đầu là Hoa Kỳ, đang áp dụng đối với hàng nông sản của các nước ĐPT, cản trở XKNS của những nước này dưới nhiều h́nh thức. Đồng thời, họ c̣n áp dụng các chính sách can thiệp vào thị trường lương thực thế giới, dùng lương thực như một công cụ để chi phối nhiều quốc gia v́ mục đích chính trị hơn là kinh tế. Hơn nữa, những hạn chế trong chính sách XKNS hiện hành của ta, trong nhiều trường hợp, cũng là nguyên nhân hạn chế sản xuất và XKNS phát triển vững chắc.

Thực tế đó đ̣i hỏi Việt Nam phải có một chính sách XKNS ở thế chủ động, linh hoạt, bảo đảm chuẩn bị tốt các điều kiện cho sản xuất nông nghiệp Việt Nam chủ động hội nhập và phát triển một cách vững chắc trong điều kiện tự do hóa thương mại. Điều đó đặt ra yêu cầu cần có sự nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống và sâu sắc về chính sách XKNS, từ đó, đề ra những giải pháp hoàn thiện chính sách XKNS nhằm đạt mục tiêu chung về phát triển bền vững của đất nước. Do vậy, tác giả lùa chọn đề tài: "Chính sách xuất khẩu nông sản của Việt Nam - Thực trạng và giải pháp " cho luận án tiến sĩ của ḿnh.

2. T́nh h́nh nghiên cứu về đề tài

 Liên quan tới đề tài luận án, đă có nhiều công tŕnh được công bè. Có thể gom các công tŕnh này thành hai nhóm sau :

* Nhóm các công tŕnh về xuất khẩu nông sản của Việt Nam

Theo hướng này, các công tŕnh nghiên cứu của các tác giả Việt Nam có thể chia thành ba hướng tiếp cận sau:

Hướng thứ nhất, các tác giả nghiên cứu thực trạng sản xuất và/ hoặc xuất khẩu một mặt hàng nông sản cụ thể và t́m giải pháp riêng cho đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng đó. Những công tŕnh thuộc loại này khá nhiều. Có thể liệt kê dưới đây một số công tŕnh tiêu biểu như: Trần Hữu Hùng (1999), Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè ở ngành chè Việt Nam trong thời gian tới, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, trường Đại học Ngoại thương Hà Nội; PTS Nguyễn Trung Văn (1998), Lương thực Việt Nam thời đổi mới hướng xuất khẩu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Thái Học (2000), Trăn trở cùng cây điều Việt Nam, Tạp chí Thương mại, tháng 1 + 2; Hữu Hạnh (2001), Bức xúc xuất khẩu gạo, cà phê, Tạp chí Thương mại, số 8, tháng 3; Đặng Kim Hà, Nguyễn Trung Kiên, Trần Công Thắng (5-1999), Bài học kinh doanh lúa gạo Việt Nam năm 1998, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 252; Trần Tè (3-2001), Tiếp thêm nguồn năng lượng cho cà phê Việt Nam, Tạp chí Thương mại, số 8; Hoàng Thúy Bằng, Phan Sĩ Hiếu, Nguyễn Lệ Hoa và các cộng tác viên (1-2004), Nâng cao cạnh tranh của ngành cà phê Robusta Việt Nam, Trung tâm Tin học - Bé NN&PTNT; Nguyễn Ngọc Quế, Trần Đ́nh Thao (5-2004), Báo cáo tổng quan ngành lúa gạo Việt Nam, Trung tâm Tin học - Bé NN&PTNT, Hà Nội.

Hướng thứ haimột số công tŕnh nghiên cứu đối với hàng NSXK nói chung và t́m giải pháp chung cho XKNS hoặc giải pháp cho xuất khẩu từng mặt hàng. Có thể liệt kê một số công tŕnh thuộc loại này như sau: Nguyễn Hữu Khải (2000), Các giải pháp đẩy mạnh và khuyến khích sản xuất và xuất khẩu một số sản phẩm cây công nghiệp chủ yếu của Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội; Hà Thị Ngọc Oanh (2003), Một số giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa trái cây xuất khẩu của đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Viện Nghiên cứu Thương mại, Hà Nội; PTS Nguyễn Đ́nh Long, PTS Nguyễn Tiến Mạnh, Nguyễn Vơ Định (1999), Phát huy lợi thế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội; Lê Văn Thanh (2002), Xuất khẩu hàng nông sản trong chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội; Hoàng Thị Ngọc Loan (2004), Thị trường tiêu thụ hàng nông sản của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AFTA, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

Hướng thứ ba, mét số tác giả tập trung phân tích ở một vài giải pháp chuyên biệt cho sản xuất và XKNS nói chung. Chẳng hạn như các công tŕnh: Vũ Đức Nghiêu (3-2001), Hai yếu tố thúc đẩy tiêu thụ nông sản, Tạp chí Thương mại, số 9, đề cập đến chính sách và giải pháp thị trường và chiến lược sản phẩm nhằm tiêu thụ nông sản; Nguyễn Bảo Toàn (3-2001), Tổ chức sản xuất hợp lư và đầu tư vào chế biến là hai nhân tố chủ yếu, lâu dài, giải quyết đầu ra cho nông sản, Tạp chí Thương mại, số 8,...

Điểm chung trong các công tŕnh thuộc nhóm này là đối tượng nghiên cứu của các công tŕnh là vấn đề sản xuất, XKNS hoặc năng lực cạnh tranh hàng NSXK. Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề lư luận và phân tích thực trạng của những vấn đề nói trên, các tác giả đề xuất các giải pháp tổng hợp và cụ thể (nâng cao chất lượng, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam...). Các giải pháp được đề xuất nói chung đều mang tính nguyên tắc, định hướng chung. Một số giải pháp chính sách cụ thể cũng được đề xuất và trên thực tế, một số đă được Nhà nước áp dụng.

Tuy nhiên, do đối tượng nghiên cứu của các công tŕnh này không phải là chính sách XKNS nên trong chơng mực nhất định, các công tŕnh thuộc cả ba hướng nêu trên c̣n để ngỏ nhiều vấn đề rất cần thiết và cấp bách. Ví dụ, chưa phân tích đầy đủ cơ sở lư luận của chính sách XKNS và tác động của các chính sách đó tới sản xuất và XKNS. Do đó, chưa chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của các chính sách đă và đang áp dụng; chưa có giải pháp hoàn thiện và xác đáng nhằm khắc phục những hạn chế của chính sách và bảo đảm cho sản xuất, XKNS Việt Nam có hiệu quả cao và phát triển vững chắc trong điều kiện tự do hóa thương mại hàng nông sản trong thời kỳ tới. Nhiều giải pháp mới mang tính chung chung, áp dụng cho tất cả các mặt hàng xuất khẩu nói chung.

* Nhóm các công tŕnh liên quan đến chính sách xuất khẩu nông sản

Nhóm này bao gồm hai loại. Loại thứ nhất là các công tŕnh có thể tham khảo trực tiếp cho luận án. Các công tŕnh tiêu biểu thuộc thuộc loại này có thể kể tới như sau:

+ Bé NN&PTNT (2004), Tóm lược chính sách nông nghiệp Việt Nam (1980 - 2000), Dù án thành tựu 20 năm. Công tŕnh này đă có cách tiếp cận hệ thống chính sách: lần lượt đi từ các chính sách đổi mới cơ chế quản lư trong nông nghiệp (Chỉ thị 100, Khoán 10, chính sách hợp tác xă, chính sách kinh tế hộ, kinh tế trang trại, chính sách nông - lâm trường quốc doanh, chính sách dân chủ ở khu vực nông thôn) đến chính sách đất đai, chính sách thị trường, chính sách thương mại, chính sách tín dụng, chính sách khoa học công nghệ và khuyến nông, chính sách lâm nghiệp và các chương tŕnh kinh tế - xă hội. Như vậy, chính sách XKNS chỉ là một trong những chính sách được được đề cập ở công tŕnh này. Do vậy, những phân tích về chính sách XKNS chưa đủ sâu sắc. Hơn nữa, phân tích này mới chỉ dừng ở việc tŕnh bày tóm lược quá tŕnh ban hành chính sách XKNS từ 1980 - 2000 mà chưa phân tích tác động của chính sách XKNS, cũng không có đề xuất giải pháp hoàn thiện cho chính sách, chưa nói tới cơ sở lư luận của chính sách XKNS.

+ PTS Nguyễn Văn Bích, KS Chu Tiến Quang (1996), Chính sách kinh tế và vai tṛ của nó đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong công tŕnh này, các tác giả đă tŕnh bày những vấn đề cơ bản về chính sách kinh tế đối với nông nghiệp, nông thôn, quá tŕnh đổi mới chủ trương chính sách kinh tế đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn từ 1981 đến 1994, đánh giá những tác động của chính sách kinh tế đối với một số lĩnh vực cơ bản như sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, thu nhập, việc làm và đời sống của dân cư nông thôn. Trên cơ sở đó, công tŕnh đă nêu lên những vấn đề đặt ra đối với kinh tế nông thôn và phương hướng hoàn thiện các chính sách và giải pháp lớn. Tuy nhiên, các tác giả mới đề cập đến chính sách tổng hợp tác động trực tiếp và gián tiếp tới người sản xuất nông sản, trong khi đó, nhiều chính sách khác như thuế xuất khẩu, hạn ngạch xuất khẩu, tỷ giá... chưa được đề cập tới. Hơn nữa, thực trạng tác động của các chính sách tới XKNS và giải pháp hoàn thiện chúng cũng chưa được xem xét tới.

+ GS.TS Bùi Xuân Lưu (chủ biên) (2004), Bảo hộ hợp lư nông nghiệp Việt Nam trong quá tŕnh hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội. Đây là công tŕnh có đối tượng nghiên cứu rất gần với luận án. Trong công tŕnh này, các tác giả đă tŕnh bày những nội dung lư luận cơ bản về chính sách bảo hộ nông sản và tự do hóa thương mại hàng nông sản, xu hướng bảo hộ nông nghiệp trên thế giới, thực trạng bảo hộ nông nghiệp Việt Nam và một số giải pháp bảo hộ hợp lư nông nghiệp trong quá tŕnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế. Ở đây, có một số vấn đề liên quan tới chính sách XKNS đă được đề cập tới như chính sách bảo hộ nhằm khuyến khích xuất khẩu, những quy định trong Hiệp định Nông nghiệp của WTO và thực trạng các vấn đề này ở Việt Nam; quá tŕnh ban hành một số chính sách phi thuế quan và tác động của những chính sách này đối với hàng nông sản Việt Nam... Tuy nhiên, hướng nghiên cứu của công tŕnh này thiên về chủ đề bảo hộ cho nông sản Việt Nam và được xét theo góc độ quy định của WTO. Do đó, việc phân tích toàn diện và đánh giá cụ thể tác động của các chính sách đối với XKNS chưa thật sâu sắc, trong đó, tác động của một số chính sách như thuế xuất khẩu, chính sách nghiên cứu khoa học và công nghệ, chính sách khuyến nông,... đối với NSXK chưa được đề cập tới. Những phân tích đánh giá tác động của một số công cụ phi thuế quan tới XKNS cũng mới chỉ dừng ở đánh giá chung, chưa có sự phân tích đánh giá cụ thể về từng chính sách. Công tŕnh này cũng chưa đưa ra những giải pháp hoàn thiện từng công cụ chính sách XKNS.

+ Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Thương mại (1999), Sử dụng đồng bộ các công cụ chủ yếu để điều tiết thị trường một số mặt hàng nhạy cảm những năm trước mắt ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học, mă số 96-78-106. Công tŕnh này đă tŕnh bày khái quát cơ sở lư luận về vấn đề Nhà nước sử dụng các công cụ, điều tiết kinh tế vĩ mô và thị trường các mặt hàng nhạy cảm. Thực trạng sử dụng một số công cụ chính sách như kế hoạch hóa, hạn ngạch xuất khẩu, thuế, giá sàn, hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo, phân bón, thuốc sâu nhập khẩu... cũng được phân tích khá cụ thể. Tuy nhiên, đề tài mới chỉ dừng ở phân tích tác động của các chính sách đó đối với hai mặt hàng nhạy cảm là mía đường và lúa gạo. Hơn nữa, những phân tích tác động chính sách được giới hạn trong khoảng thời gian từ 1990 - 1997 và chủ yếu từ 1995 - 1997. Những giải pháp được đưa ra trong đề tài là giải pháp về cơ chế phối hợp ban hành chính sách giữa Chính phủ và các cơ quan chức năng, bảo đảm có sự ăn khớp, nhịp nhàng giữa các công cụ chính sách. Tuy nhiên, c̣n một số vấn đề mà đề tài chưa đề cập tới hoặc chưa giải quyết. Đó là, chưa đưa ra giải pháp hoàn thiện từng công cụ chính sách để hạn chế những tác động không mong muốn của chúng; các giải pháp đưa ra ở đây nhằm mục đích điều tiết, ổn định thị trường nội địa, do vậy, mục tiêu kích thích xuất khẩu, bảo đảm xuất khẩu gạo vững chắc không phải mục tiêu được ưu tiên; tác động của một số công cụ chính sách khác tới XKNS như chính sách nghiên cứu khoa học, công nghệ, chính sách khuyến nông,... chưa được đề cập tới; giải pháp hoàn thiện các chính sách khác có tác động tới các NSXK nói chung cũng chưa được bàn tới.

+ Vô Giá Nông Lâm Thủy sản - Ban Vật giá Chính phủ (2001), Chính sách giá vật tư, dịch vụ nông nghiệp và giá tiêu thụ một số sản phẩm nông nghiệp chủ yếu ở nước ta trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đề tài cấp bộ. Công tŕnh này chỉ nghiên cứu công cụ giá sàn thu mua nông sản, giá vật tư dịch vụ sản xuất nông sản. Thực trạng tác động của các chính sách này từ năm 1990 - 2001 đă được phân tích một cách khái quát. Trên cơ sở đó, đề tài đă đề xuất một số giải pháp có tính nguyên tắc, định hướng chung về các chính sách này cũng như một số giải pháp chính sách cụ thể. Trong khi đó, đề tài đă bỏ qua nhiều chủ đề quan trọng, chẳng hạn như những giải pháp hạn chế độc quyền cung ứng vật tư nông nghiệp và thu mua nông sản, giải pháp bảo đảm những hỗ trợ của Nhà nước đến tay người sản xuất...

Loại thứ hai là các công tŕnh liên quan gián tiếp tới đề tài luận án. Có rất nhiều công tŕnh thuộc loại này. Sau đây là bốn công tŕnh tiêu biểu. i) Trần Quốc Khánh (8-2003), Chính sách phát triển xuất khẩu - Thực trạng và giải pháp, Luận văn tốt nghiệp Lư luận Chính trị Cao cấp, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; ii) Phạm Đỗ Chí, Trần Nam B́nh, Vũ Quang Việt (2002), Những vấn đề kinh tế Việt Nam- Thử thách của hội nhập, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thời báo Kinh tế Sài G̣n, Trung tâm Kinh tế Châu Á - Thái B́nh Dương; iii) PGS.TS Hoàng Đức Thân (chủ biên) (1999), Chính sách thươngmại trong điều kiện hội nhập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; vi) Phạm Đỗ Chí, Đặng Kim Sơn, Trần Nam B́nh, Nguyễn Tiến Triển (chủ biên) (2003), Làm ǵ cho nông thôn Việt Nam? Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

Những công tŕnh này có đặc điểm chung là có nội dung nghiên cứu chính sách thương mại của Việt Nam, chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, có một số vấn đề chung được áp dụng cho cả thương mại hàng nông sản và có thể tham khảo cho đề tài luận án. Chẳng hạn, quy định về giấy phép xuất khẩu, cơ chế điều hành xuất khẩu của Chính phủ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, trong đó có các doanh nghiệp XKNS. Nhưng những phân tích về chính sách chung này trong các công tŕnh đó thường mới dừng ở cấp độ chung chung, chưa cụ thể, chi tiết.

Một số tác giả nước ngoài cũng có những công tŕnh nghiên cứu về chính sách xuất khẩu, chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Trong đó, đáng chú ư tài liệu: Các đột biến về nhu cầu đối với hàng xuất khẩu, bóp méo nội địa và kết quả hoạt động trong các lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản Việt Nam của tác giả Rod Tyers, Nhóm tư vấn của NHTG về chính sách xuất khẩu của Việt Nam. Các nội dung đáng chú ư trong tài liệu này như triển vọng thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu nông, thủy sản; đánh giá về một số chính sách của Việt Nam đối với lĩnh vực nông, thủy sản như quy định và cơ chế cấp giấy phép, những hỗ trợ trong công tác nghiên cứu - thông tin và tiếp thị đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nông, thủy sản, công tác nghiên cứu và phát triển nông nghiệp và nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn, phân tích tác động của đột biến bên ngoài đối với tỷ lệ trao đổi thương mại của Việt Nam; tác động ngắn hạn của việc cải cách chính sách thương mại của Việt Nam thời kỳ 1997 - 2001; tác động dài hạn của cơ chế chính sách thương mại 2001 của Việt Nam đối với lĩnh vực nông và ngư nghiệp... Tuy nhiên, tài liệu chưa phân tích tác động của từng công cụ chính sách và đưa ra giải pháp hoàn thiện chóng.

Tất cả các công tŕnh đă điểm qua ở trên đều chưa đề cập một cách chi tiết, có hệ thống về chính sách XKNS Việt Nam cũng như tác động của mỗi công cụ chính sách đối với XKNS Việt Nam từ 1989 đến nay. Nói cách khác, các công tŕnh của các tác giả Việt Nam và nước ngoài chưa nghiên cứu một cách toàn diện cả về lư luận và thực tiễn tác động của từng công cụ, biện pháp cũng như tác động tổng thể của chính sách XKNS Việt Nam, để từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện cho từng công cụ chính sách, nhằm nâng cao hiệu quả tác động của mỗi công cụ, hạn chế những tác động không mong đợi của chúng, nhằm bảo đảm cho XKNS phát triển bền vững trong điều kiện tự do hóa thương mại. 16/01/2012 | 10:37

Thu hồi đất nông nghiệp: Nhiều người lợi, trừ nông dân!

(Dân Việt) - Đó là khẳng định của TS Nguyễn Đỗ Anh Tuấn - Giám đốc Trung tâm Tư vấn Chính sách (Viện Chiến lược và Chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn) khi trao đổi với phóng viên NTNN.

>> Vụ cưỡng chế ở Tiên Lãng tạo nên hậu quả xấu

>> Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược

Luật pháp để bảo vệ nông dân còn “mỏng”

Theo Luật Đất đai, khi hết thời hạn giao đất, nếu người sử dụng đất có nhu cầu tiếp tục sử dụng và đã chấp hành đúng pháp luật về đất đai thì được Nhà nước tiếp tục giao đất đó.

Tuy nhiên, qua vụ thu hồi đất ở Tiên Lãng, Hải Phòng cho thấy một thực tế là chính quyền các địa phương hoàn toàn có thể thu hồi đối với khoảng 1,2 triệu “sổ đỏ” sẽ hết hiệu lực từ 2013. Ông bình luận ra sao về khả năng này?

- Câu chuyện chính ở đây là trong luật của mình khá mù mờ. Luật cho phép thu hồi đất vì lợi ích quốc gia, an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế. Vì phát triển kinh tế nên chính quyền nhiều nơi “vin” vào đó để ra quyết định, bất chấp “nhạy cảm” đặc biệt khi các chủ đầu tư cần đất thì họ có mối quan hệ với chính quyền tốt hơn, họ nhìn thấy khả năng sinh lời tốt hơn.

Không những thế, trong luật còn cho phép theo quy hoạch của Nhà nước, địa phương có thể thay đổi thường xuyên tùy vào yêu cầu. Do đó, xảy ra tình trạng “hôm nay tôi không quy hoạch nhưng ngày mai tôi sẽ quy hoạch vì mục tiêu an ninh quốc phòng hay mục đích kinh tế...”, nhiều nơi lợi dụng sự “mù mờ” đó để thu hồi đất của người dân.

Vậy theo ông, liệu có xảy ra khả năng thu hồi đất ào ạt như trường hợp Tiên Lãng?

- Vụ Tiên Lãng tự nhiên thành một vấn đề cả xã hội quan tâm, vì có chuyện xô xát giữa chính quyền và người dân bị thu hồi đất. Từ nay đến năm 2013 có khả năng sẽ tránh được những chuyện khai sai, lợi dụng quy trình, chức sắc để thu đất vô điều kiện của dân. Trong một thời gian ngắn trước mắt sẽ im ắng, nhưng sau đó nó sẽ xảy ra tiếp. Nguyên nhân là do việc thu hồi đất có quá nhiều người được hưởng lợi trừ người nông dân.

Theo ông, những mối lợi đó là gì và những đối tượng nào được hưởng?

- Chính quyền thu hồi với giá rất rẻ, bởi khung giá đất nông nghiệp hiện rẻ như cho không. Những nghiên cứu của Viện chúng tôi cho thấy có sự chênh lệch giá rất lớn. Như ở Bình Dương đất nông nghiệp giá 190.000 đồng/m2 nhưng bên ngoài là 30 triệu đồng, ở Bắc Ninh là 200.000 đồng thì ở ngoài là 35 triệu đồng/m2. Chênh quá lớn khiến cho địa phương thu hồi đất giao cho doanh nghiệp để thu thuế cao hơn. Doanh nghiệp đầu tư thì không mất nhiều tiền để có được mảnh đất đẹp.

Theo ông tại sao những bức xúc của người nông dân lâu nay đã không được giải quyết, để dẫn đến trường hợp bức xúc bị đẩy lên quá mức như ở Tiên Lãng?

- Tôi cho rằng nguyên nhân nằm ở quy trình thu hồi đất không rõ ràng, không công khai và không cho dân tham dự. Người dân có phản hồi gì thì nói sau, còn thông thường thì đóng dấu giao cho cấp huyện đi thu. Nếu nông dân khiếu kiện thì giao cho tòa án hành chính cấp đó xử lý. Câu chuyện chính là quy trình xử lý tranh chấp, ông tỉnh thường xử cho ông tỉnh thắng, ông huyện thường xử cho ông huyện thắng. Ông nông dân chẳng có cơ chế nào để bảo vệ cả. Tính pháp lý để bảo vệ nông dân khi bị thu hồi đất rất “mỏng”.

Đất nông nghiệp chịu nhiều rủi ro!

Thưa ông, có thể hiểu thời hạn cho thuê đất chỉ có ý nghĩa xác định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, hay theo đúng nghĩa đen là quyền thu hồi của Nhà nước?

- Thời hạn đối với nông nghiệp nếu theo các cụ hồi trước thì là “sở hữu toàn dân tiến tới tiên tiến toàn dân”. Nhưng thời hạn sau này là “để nhà nước có quyền sở hữu đất”. Thời hạn này tôi hiểu theo hướng “ví dụ sau 20 năm người dân nông thôn chạy hết vào thành phố thì đất đó phải sử dụng theo hướng khác, Nhà nước có quyền thu lại giao cho người khác”.

Thời hạn này hiểu theo nghĩa “nhà nước có thể có quyền can thiệp”. Đất nông nghiệp “dính” tới chữ thời hạn nên rủi ro nhất. Vụ thu hồi ở Hàng Bài (Hà Nội) là một ví dụ, nhà nước, doanh nghiệp phải mất tiền tỷ, bởi đất đô thị “đố ai lấy được”.

Theo TS Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, tính pháp lý để bảo vệ nông dân khi bị thu hồi đất rất “mỏng”.

Xung quanh thời hạn giao đất 20 năm, hiện có 2 luồng ý kiến. Có ý kiến là thời hạn quá dài, khiến nhiều người sinh sau năm 1993 không có đất, nhưng ý kiến khác lại cho rằng thời hạn này quá ngắn khiến người dân không an tâm để đầu tư vào đất. Quan điểm của ông thế nào?

- Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất nhưng là cả tài sản. Người dân đổ mồ hôi, công sức tạo lập thì phải có chủ. Nếu có chủ thực sự thì phải công nhận quyền cho người ta dài hơn. Nếu không sau 2013 rồi đến 2023 – 2033 sẽ còn xảy ra vài vụ Tiên Lãng. Do đó, theo tôi phải kéo dài ra, ít nhất là 50 năm để có đủ thời gian cho một vòng đầu tư. Hoặc phải cho phép đa sở hữu. Từ thời Hiến pháp 1946, chúng ta đã cho đa sở hữu đất đai, cộng đồng.

Đến nay, cả nước đã có tới 260 KCN, nhưng chỉ 170 trong số đó hoạt động. Việc phát triển quá nóng của các KCN đang ảnh hưởng đến kinh tế nông nghiệp?

- Để phát triển KCN có hiệu quả thì về chiến lược phải tái cơ cấu theo ngành vùng. Địa phương nào có lợi thế so sánh, xác định được thì theo quy hoạch. Phải có hình thức tổ chức, gắn kết như thế nào với xung quanh để chọn KCN. Như các tỉnh ĐBSCL có lợi cho nông nghiệp thì việc gì “nhảy” vào đó làm KCN. Sao không chạy ra đất trống đồi núi trọc? Không nên cho phép tập trung đầu tư KCN vào thành phố lớn, phải để cho những anh nông dân hòa nhập được với đô thị mới. Như thế KCN mới có dân bám chứ không chỉ là đầu cơ đất.

Theo ông, sự lãng phí đất đai cần phải được giải quyết như thế nào?

- Tôi cho rằng, luật hiện hành phải thay đổi để hướng tới đa sở hữu, trưng dụng, trưng mua theo đúng quy trình. Nhiều người đề xuất có tòa án về đất đai thì mới xử lý được chuyện các tỉnh, các huyện đi thu. Mức bồi thường phải tính đủ chi phí cơ hội.

“Luật cho phép thu hồi đất vì lợi ích quốc gia, an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế. Vì phát triển kinh tế nên chính quyền nhiều nơi “vin” vào đó để ra quyết định, bất chấp “nhạy cảm”.

TS Nguyễn Đỗ Anh Tuấn

Việc vẫn giữ "thời hạn cho thuê đất" cùng với quy định về hạn điền dường như đang tạo ra cản trở rất lớn để phát triển kinh tế nông nghiệp? Quan điểm của ông về vấn đề tích tụ ruộng đất?

- Muốn tích tụ ruộng đất thì phải có những cơ chế đổi thửa, hỗ trợ giao dịch đất. Thời gian tới nếu vẫn tiếp tục như thế này thì khó thúc đẩy tích tụ. Đất nông nghiệp ở miền Bắc rất manh mún, một hộ có nhiều mảnh ở các nơi khác nhau.

Trong Nam thì khá hơn nhưng cũng không ăn thua. Nếu tiếp tục như hiện nay Nhà nước không thể nâng cao chuỗi giá trị, gắn kết, áp dụng các tiêu chuẩn. Muốn thúc đẩy tích tụ thì về luật phải chính thức hợp thức hóa việc mua bán đất. Thời gian hạn điền phải nâng lên.

Thời hạn cho thuê 20 năm đang tạo cho chính quyền một quyền lực rất lớn, có thể gọi thẳng đó là quyền định đoạt mảnh đất vốn thực chất thuộc về người dân. Liệu có nên thay đổi chế độ sở hữu đối với đất đai?

- Tôi cho rằng cấp được hưởng lợi nhiều nhất là chính quyền cấp huyện. Do vậy, quy trình xử lý tranh chấp phải rõ, đưa ra tòa án trước khi thu hồi, kèm theo hỗ trợ pháp lý thì mới tạo ra sự minh bạch. Tôi ủng hộ quan điểm phải đa sở hữu đất đai, phải có sở hữu cụ thể.

Xin cảm ơn ông!

 Ở nhà tầng vẫn phải lo ăn > Hà Nội 1 năm sau ngày mở rộng: Những bước chuyển mình đầu tiên Một trong các giải pháp chính là sự ra đời của Quỹ hỗ trợ nông dân bị thu hồi trên 30% diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Nhưng sau gần 8 tháng thành lập, chưa hề có người nông dân nào được nhận tiền hỗ trợ từ quỹ này. Mức hỗ trợ chưa hấp dẫn Quỹ Hỗ trợ ổn định đời sống, học tập, đào tạo nghề và việc làm cho các hộ dân bị thu hồi trên 30% diện tích đất sản xuất nông nghiệp được thành lập từ tháng 12/2008 với một loạt các chính sách nhằm tạo điều kiện để người nông dân ổn định cuộc sống. Lãnh đạo Hà Nội xác định mục đích là hỗ trợ việc học tập, học nghề, trợ cấp khó khăn cho những người nông dân. Theo quy định này, những đối tượng dưới 25 tuổi, có hộ khẩu thường trú tại Hà Nội sẽ được hỗ trợ học văn hóa 1 lần. Những người trong độ tuổi lao động từ 15 - 60 tuổi đối với nam và từ 15 - 55 tuổi đối với nữ, có hộ khẩu Hà Nội sẽ được hỗ trợ học nghề. Mức hỗ trợ chi trả học phí học nghề sẽ tùy theo các cấp trình độ đào tạo nghề nhưng tối đa không quá 6 triệu đồng/thẻ học nghề/khóa học; thời gian hỗ trợ không được vượt quá thời hạn sử dụng của thẻ học nghề là 5 năm. Nhưng sau gần 8 tháng thành lập, đến nay vẫn chưa có hộ nông dân nào tiếp cận được nguồn vốn hỗ trợ này. Một loạt người nông dân ở các xã Mễ Trì (huyện Từ Liêm), An Khánh (huyện Hoài Đức) và 4 xã từ Hòa Bình sáp nhập về Hà Nội... bị thu hồi trên 30% đến 100% diện tích đất sản xuất nông nghiệp nhưng dường như họ lại không quan tâm nhiều đến khoản hỗ trợ này.

Nếu được đào tạo nghề, người dân sẽ có nhiều cơ hội tìm được việc làm. (Ảnh: Chí Cường)

Gia đình anh Hoàng Quốc Vũ (ở xóm Gò Mè, xã Tiến Xuân, Quốc Oai) giờ không còn mảnh đất nào để cày cấy, phải đi làm thuê kiếm tiền nuôi 5 miệng ăn trong nhà. Khi được hỏi về quỹ hỗ trợ của thành phố, anh Vũ cho biết, bản thân anh thì phải đi làm thuê suốt ngày để kiếm tiền nuôi cả nhà, bây giờ đi học nghề thì nhà anh sẽ “chết đói”. Chị Nguyễn Thị Hương (ở An Khánh, Hoài Đức) cũng cho rằng có quá nhiều thủ tục như giấy chứng nhận thu hồi trên 30% diện tích đất sản xuất, phải có một loạt các loại chữ ký xác nhận... trong khi mức hỗ trợ cũng chỉ được vài trăm ngàn đồng một năm. Nhiều hộ nông dân bị thu hồi từ 30% đến 100% diện tích đất sản xuất nông nghiệp ở xã Mễ Trì (huyện Từ Liêm), phường Việt Hưng (quận Long Biên) và các địa bàn khác cũng trong tình cảnh tương tự. Thủ tục nhiều, trong khi mức hỗ trợ chưa thực sự hấp dẫn, nên không nhiều người mặn mà lắm với chính sách hỗ trợ này. Nhiều ý kiến còn cho rằng, với mức hỗ trợ 6 triệu đồng, khó có thể thành một thợ lành nghề được. Tránh “luẩn quẩn” cho dân? Thực tế, một loạt các quy định chặt chẽ như phải bị thu hồi trên 30% diện tích đất sản xuất nông nghiệp; các hộ, cá nhân phải có giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất trước ngày 15/10/1993 hoặc được UBND cấp xã xác nhận là đất sử dụng trước ngày 15/10/1993... đã làm nản lòng không ít người nông dân bị thu hồi đất. Tuy nhiên, việc đặt ra một loạt các quy định chặt chẽ như vậy không phải là không có nguyên do. Bà Đỗ Thị Xuân Phương, Phó Giám đốc Sở LĐ, TB&XH cho hay, mục đích của quỹ để giúp người dân có nguồn thu nhập lâu dài, tránh tình trạng dùng hết tiền để mua sắm như khi được chi trả trực tiếp tiền đền bù và sau đó luẩn quẩn trong tình trạng không nghề nghiệp, tiền hết, đất hết. Hiện có gần 300 hồ sơ đề nghị hỗ trợ nhưng đến nay chưa một hồ sơ nào được duyệt.

Phó Giám đốc Sở LĐ, TB&XH Đỗ Thị Xuân Phương: Tới đây, Hà Nội sẽ tăng cường các phiên giao dịch việc làm giúp người dân có công việc ổn định... (Ảnh: Chí Cường)

Nguyên nhân được ông Nguyễn Thế Hùng, Phó Giám đốc Sở LĐ, TB&XH cho hay, do thiếu các giấy tờ liên quan đến quyết định thu hồi đất để cơ quan chức năng đối chiếu kiểm tra. Trước thực trạng này, Sở LĐ,TB&XH cũng đã đến các quận, huyện để đối chiếu kiểm tra hồ sơ nhưng nhiều địa phương không thể tìm được giấy tờ lưu trữ gốc để đối chiếu. Cũng liên quan đến hỗ trợ người dân, một loạt các đề án, chính sách khác cũng gặp vướng mắc khi đưa vào thực tế, như Quyết định 30 của Chính phủ, doanh nghiệp và người lao động rất khó tiếp cận. Bà Đỗ Thị Xuân Phương cho rằng, chính sách nên mở rộng đối tượng như hỗ trợ lao động bị mất việc năm 2008 chứ không chỉ bó hẹp trong năm 2009. Vì chỉ tính riêng Hà Nội, trong số 367 doanh nghiệp báo cáo thì có tới 25.000 người mất việc và thiếu việc của năm 2008. Trong khi đó, dự kiến năm 2009 chỉ khoảng 9.000 người. Chưa kể, hiện việc tính lãi suất của Ngân hàng Chính sách xã hội hỗ trợ người lao động học nghề, tạo việc làm bằng 0,65%/ tháng là chưa hợp lí vì doanh nghiệp và hộ gia đình sản xuất kinh doanh nếu được vay có sự hỗ trợ 4% của Chính phủ thì chỉ còn 6-7%/năm (tương đương 0,55 - 0,65% tháng). Trong khi đó, nói là ưu đãi học nghề, hỗ trợ doanh nghiệp mà lãi suất vẫn cao hơn mức 0,6% là chưa hợp lí. Liên quan đến tháo gỡ khó khăn cho người nông dân bị thu hồi đất và lao động bị mất việc, bà Phương cho biết, sẽ tăng cường các phiên giao dịch việc làm từ 1 phiên lên 2 phiên/tháng nhằm giúp người nông dân sau khi học nghề tiếp cận dễ hơn với các cơ hội việc làm tại doanh nghiệp. Lã Xưa - Nguyên Đào

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#nnnn