Chuong 1 - nguyenly2 - minhmomo

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

TẬP BÀI GIẢNG CHƯƠNG I VỀ "CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG

ĐẾN LƯỢNG GIÁ TRỊ HÀNG HÓA" VÀ "TIỀN TỆ"

3. Lượng giá trị hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng

hoá

a) Thước đo lượng giá trị hàng hoá

b) Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hoá

Tất cả những yếu tố nào ảnh hưởng đến thời gian lao động xã hội cần thiết đều

ảnh hưởng đến số lượng giá trị của hàng hóa:

• Tính chất của lao động:

- Theo mức độ phức tạp của lao động, có thể chia lao động thành lao động

giản đơn và lao động phức tạp.

 Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động bình

thường nào không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.

 Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện

thành lao động chuyên môn lành nghề nhất định mới có thể tiến hành

được.

- Ảnh hưởng đến giá trị hàng hóa: Trong cùng một thời gian, lao động phức

tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Khi sử dụng lao động phức

tạp sẽ làm cho số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời

gian tăng lên, dẫn đến hao phí lao động trên một đơn vị sản phẩm giảm

xuống. Từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế. Các Mác viết "Lao động

phức tạp chỉ là lao động giản đơn được nâng lên lũy thừa, hay nói đúng hơn,

là lao động giản đơn được nhân lên"1. Rút lời khuyên: phải nâng cao năng

lực, trình độ công nhân để nâng cao hiệu quả kinh tế. (Một người hay lo bằng

một kho người hay làm).

- Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy

thành lao động giản đơn trung bình, và điều đó được thực hiện một cách tự

phát sau lưng những hoạt động sản xuất hàng hóa, hình thành những tỷ lệ

nhất định thể hiện trên thị trường. Ví dụ: quy giờ lao động chuẩn cho giáo

viên: 1 tiết dạy ngoại ngữ = 0.85 tiết chuẩn; 1 tiết dạy kinh tế chính trị = 1

tiết chuẩn; 1 tiết thực hành kỹ thuật= 0.5 tiết chuẩn.

• Năng suất lao động

- Khái niệm: Năng suất lao động2 là năng lực sản xuất của người lao động,

được đo bằng số lượng sản phẩm được sản xuất trong một đơn vị thời gian,

hoặc số lượng thời gian hao phí để sản xuất một đơn vị sản phẩm.

F

- Công thức: P  (Năng suất lao động tính bằng khối lượng sản phẩm)

T

T

hoặc P  (Năng suất lao động tính bằng thời gian sản xuất sản phẩm)

F

Trong đó: F: số sản phẩm.

T: Thời gian lao động, khối lượng lao động.

P: Năng suất lao động.

Ví dụ: 8h16 sản phẩm P = 2sp/h hoặc P = 0.5h/sp.

- Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động:

 Trình độ lành nghề của người lao động.

 Trình độ công nghệ

2 Năng suất lao động 2006 một số nước: 1.Mỹ (63885$), 2.Ailen (55986$), 3.Lúcxămbua (55641), 4.Bỉ

(55235$), 5.Pháp (54609$). Năng suất lao động Việt Nam 2005: 1237$, đứng thứ 20.

Theo Tổng cục Thống kê, năng suất lao động xã hội năm 2006 của Việt Nam là 22,46 triệu đồng/người (trong đó

nông, lâm nghiệp 7,09 triệu, thủy sản 24,59 triệu, công nghiệp 58,25 triệu, xây dựng 26,45 triệu, thương nghiệp

25,29 triệu, khách sạn, nhà hàng 45,78 triệu, vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc 36,15 triệu, văn hóa, y tế, giáo

dục 27,37 triệu, các ngành dịch vụ khác 57,55 triệu).

Năng suất lao động theo giờ 2006: 1.NaUy (37,99$/h), 2. Mỹ(35,63$/h), 3.Pháp (35,13$/h).

 Phương pháp tổ chức, quản lý lao động

 Quy mô và hiệu quả của tư liệu sản xuất

 Các điều kiện tự nhiên...

- Ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa: Trong điều kiện các nhân tố khác

không đổi thì lượng giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.

Năng suất lao động xã hội càng cao thì thời gian lao động xã hội cần thiết

càng ít, lượng lao động kết tinh trong một đơn vị hàng hóa càng nhỏ do đó

giá trị hàng hóa càng bé..

- Năng suất lao động cần phân biệt với khái niệm "cường độ lao động".

 Cường độ lao động là mức độ hao phí lao động trong một đơn vị thời

gian.

 Tăng cường độ lao động là tăng mức hao phí lao động trong một đơn vị

thời gian, nó thể hiện tính khẩn trương của công việc, nó cũng giống

như kéo dài thời gian lao động.

Ví dụ: Thợ mộc lao động với cường độ lao động bình thường, trong một ngày

sản xuất 2 chiếc bàn. Khi cần giao hàng gấp anh ta sản xuất 4 chiếc bàn một

ngày nhưng anh ta mệt nhọc gấp đôi ngày thường. Do vậy, một ngày tăng

cường độ lao động cũng giống như 2 ngày lao động với cường độ bình

thường.

 Cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa

sản xuất ra tăng lên và hao phí sức lao động cũng tăng lên tương ứng, vì

vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn không thay đổi.

Tăng cường độ lao

Tăng năng suất lao động

động

* Chúng đều thuộc "sức sản xuất của lao động"

Giống nhau

* Đều dẫn tới số lượng (hoặc khối lượng) sản phẩm sản xuất ra

trong một đơn vị thời gian tăng lên.

Khác nhau

* Ảnh hưởng

đến lượng

giá trị

* Khả năng

tăng lên

Chỉ làm tăng số lượng

(hoặc khối lượng) hàng

hóa mà không ảnh hưởng

đến giá trị của hàng hóa.

Phụ thuộc nhiều vào thể

chất, tinh thần của người

lao động nên nó có những

giới hạn nhất định.

Vừa làm cho hàng hóa tăng lên về

mặt lượng lại vừa kéo theo sự

giảm giá trị của hàng hóa đó.

Năng suất lao động tăng lên

không ngừng do nó phụ thuộc

nhiều vào yếu tố máy móc kỹ

thuật, một yếu tố có "sức sản

xuất" vô hạn.

III. TIỀN TỆ

1. Lịch sử ra đời và bản chất tiền tệ

a) Sự phát triển của các hình thái giá trị

Trong lịch sử Kinh tế chính trị, tiền tệ đã trở thành đối tượng nghiên cứu

của nhiều nhà kinh tế nhưng Các Mác là người đầu tiên đã nghiên cứu một

cách hệ thống và sâu sắc về nguồn gốc, bản chất của tiền tệ.

Tiền tệ xuất hiện là kết quả tất yếu của quá trình phát triển sản xuất và trao

đổi hàng hóa. Do đó, muốn nghiên cứu tiền tệ thì phải bắt đầu nghiên cứu từ

sản xuất và trao đổi hàng hóa.

Giá trị của hàng hóa chỉ được biểu hiện khi trao đổi với một hàng hóa khác.

Hàng hóa thứ nhất biểu hiện giá trị của nó ở hàng hóa thứ hai, còn hàng hóa

thứ hai đóng vai trò là vật ngang giá, là hình thái ngang giá của các giá trị.

Cùng với quá trình phát triển của trao đổi hàng hóa, hình thái giá trị cũng biến

đổi và phát triển qua bốn hình thái: Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên, hình

thái mở rộng, hình thái chung của giá trị và hình thái tiền tệ.

Số lượng vật ngang giá chung trong các hình thái giá trị

Hình thái chung

Vàng

Hình thái mở rộng

Hình thái giản đơn

Thế giới hàng hóa

• Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị

- Bối cảnh xuất hiện: Cuối Công xã nguyên thủy, lực lượng sản xuất có sự

phát triển nhất định làm xuất hiện những sản phẩm thặng dư, do đó bắt đầu

có trao đổi. Tuy nhiên, do trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp nên sản

phẩm thặng dư chưa nhiều. Lúc này trao đổi hàng hóa ít, chỉ mang tính chất

ngẫu nhiên và là trao đổi trực tiếp.

- Ví dụ: 1m2 vải = 5kg thóc.

Ở đây, giá trị của vải chỉ được biểu hiện đơn nhất ở một hàng hóa khác (thóc),

quan hệ trao đổi đó chỉ có tính chất ngẫu nhiên, trực tiếp hàng lấy hàng, tỷ lệ

trao đổi 1:5 cũng là ngẫu nhiên.

- Đặc điểm:

 Tỷ lệ trao đổi hàng hóa: mang tính ngẫu nhiên.

 Hình thái ngang giá: Thóc - mang tính ngẫu nhiên nhưng đã có thể biểu

hiện được giá trị của hàng hóa. Đây là hình thái phôi thai của tiền tệ. Vì

thế, Các Mác cho rằng, ngay trong hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên

của giá trị đã có mầm mống của tiền tệ.

• Hình thái mở rộng của giá trị

- Bối cảnh xuất hiện: Khi lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội,

năng suất lao động xã hội tăng lên thì sản phẩm thặng dư cũng nhiều hơn, do

đó, trao đổi hàng hóa cũng thường xuyên hơn. Khi đó, một hàng hóa có thể

được trao đổi với nhiều hàng hóa khác.

- Ví dụ: 1m2 vải = 5kg thóc

= 4 cái bàn

= 3 con cừu

- Đặc điểm:

 Tỷ lệ trao đổi hàng hóa: không còn mang tính ngẫu nhiên nữa mà dần

dần do lao động quy định, bởi vì ngay từ đầu người ta đã sản xuất ra

những vật phẩm trên với mục đích là để mang trao đổi.

 Hình thái ngang giá: Tồn tại nhiều hình thái ngang giá, mỗi hình thái là

một hình thái ngang giá đặc thù. Do vậy, giá trị của hàng hóa được biểu

hiện còn chưa thống nhất.

 Hình thức trao đổi vẫn là trực tiếp hàng lấy hàng, do đó khi nhu cầu trao

đổi giữa những người chủ hàng hóa không phù hợp sẽ làm cho trao đổi

không thực hiện được. Chẳng hạn, người có thóc cần đổi lấy vải nhưng

người có vải lại muốn đổi lấy áo nên sự trao đổi giữa người có thóc và

người có vải không diễn ra được.

Những nhược điểm của hình thái mở rộng của giá trị đòi hỏi sự xuất hiện của

vật ngang giá chung, khi đó xuất hiện hình thái thứ ba.

• Hình thái chung của giá trị

- Bối cảnh xuất hiện: Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn một bậc nữa, sản

phẩm thặng dư sẽ nhiều hơn nữa làm cho trao đổi hàng hóa ngày càng phát

triển, dần dần xuất hiện hàng hóa trung gian trong trao đổi. Những hàng hóa

trung gian phải mang tính thông dụng, có ý nghĩa kinh tế đối với một bộ tộc,

một địa phương, một vùng... Khi đã có hàng hóa trung gian, người ta dễ

dàng hơn trong việc trao đổi lấy hàng hóa mà họ cần. Hình thái mở rộng của

giá trị đã phát triển thành hình thái chung của giá trị.

- Ví dụ: 5kg thóc = 1m2 vải

4 cái bàn

3 con cừu

- Đặc điểm:

 Tỷ lệ trao đổi hàng hóa: đã cố định.

 Hình thái ngang giá: hình thái ngang giá chung. Giá trị của hàng hóa

được biểu hiện thống nhất trong một khu vực nhất định. Nhờ vậy, hình

thái này đã khắc phục được nhược điểm của hình thái mở rộng và hình

thái ngẫu nhiên là: người ta có thể dễ dàng thực hiện trao đổi để lấy

hàng hóa mà họ cần).

 Vật ngang giá chung chỉ cố định ở một phạm vi khu vực nhỏ3. Điều

này gây khó khăn cho sự giao thương trao đổi hàng hóa giữa các bộ tộc,

giữa các vùng. Do đó, xuất hiện nhu cầu về một vật ngang giá chung

thống nhất mang hình thái ngang giá chung thống nhất. Không cái gì

khác, chính là lúc tiền tệ ra đời.

• Hình thái tiền

- Bối cảnh xuất hiện: Sự trao đổi hàng hóa, thông thương giữa các vùng, các

quốc gia ngày càng phát triển, điều này đặt ra một yêu cầu: phải có 1 hàng

hóa đóng vai trò làm vật ngang giá chung nhất giữa các khu vực.

- Ví dụ: 1m2 vải

= 0.03 gam vàng

- Đặc điểm:

4 cái bàn

2kg thóc

...

 Tỷ lệ trao đổi hàng hóa: đã cố định

 Hình thái ngang giá: Hình thái tiền tệ. Vật ngang giá được cố định.

Khi tiền tệ xuất hiện, thế giới hàng hóa chia thành hai cực: một cực là những

hàng hóa thông thường đại biểu cho những giá trị sử dụng, một cực khác là

hàng hóa đóng vai trò tiền tệ, đại biểu cho giá trị.

 Vàng, bạc trở thành vật ngang giá chung phổ biến nhất. Vì:

* Chúng có những thuộc tính tự nhiên thỏa mãn các yêu cầu: thuần nhất,

dễ chia nhỏ, dễ vận chuyển, dễ bảo quản, trọng lượng nhỏ, giá trị cao...

* Mặt khác, vàng và bạc cũng là hàng hóa vì chúng có cả giá trị sử dụng

và giá trị. Giá trị sử dụng của vàng, bạc như dùng làm đồ trang sức, làm

các chi tiết sản phẩm công nghiệp... Giá trị của vàng, bạc được đo bằng

lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra chúng bao gồm hao phí

lao động để tìm kiếm, khai thác, chế tác vàng bạc.

 Khi vàng và bạc cùng làm chức năng tiền tệ thì chế độ tiền tệ được gọi

là chế độ song bản vị. Khi chỉ có vàng độc chiếm vai trò tiền tệ thì chế

độ tiền tệ gọi là chế độ bản vị vàng.

 Khi đóng vai trò tiền tệ, vàng và bạc có thêm giá trị sử dụng đặc biệt là

vật ngang giá chung, đo lường giá trị của hàng hóa khác. Đó là chức

năng xã hội của vàng và bạc. Cũng từ đây nảy sinh tệ sùng bái tiền, coi

tiền có quyền lực vạn năng.

b) Bản chất của tiền tệ

Nguồn gốc của tiền: Tiền ra đời trong quá trình phát triển lâu dài của sản

xuất và trao đổi hàng hóa.

Bản chất của tiền: là một hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá

chung, là sự thể hiện chung của giá trị và thể hiện mối quan hệ giữa

những người sản xuất hàng hóa.

2. Chức năng của tiền tệ

a) Thước đo giá trị

- Trong chức năng này, tiền được dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của

hàng hóa. Tiền tệ có thể đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hóa vì bản

thân tiền tệ có giá trị.

- Trạng thái tiền tệ: Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ không

phải là tiền thật, mà chỉ là tiền trong ý niệm, trong tưởng tượng.

- Giá trị hàng hóa được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hóa, hay ngược

lại, giá cả hàng hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá

cả do các nhân tố: giá trị hàng hóa, giá trị tiền tệ, quan hệ cung cầu... quyết

định. Giá cả hàng hóa tỷ lệ thuận với giá trị của chúng và tỷ lệ nghịch với giá

trị tiền tệ. Quan hệ cung cầu làm giá cả lên xuống xung quanh giá trị. Cung

lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị; cung nhỏ hơn cầu thì giá cả lớn hơn

giá trị.

- Đơn vị đo lường tiền tệ: đo giá trị của bản thân tiền tệ. Đơn vị tiền tệ và các

phần chia nhỏ của nó gọi là tiêu chuẩn giá cả. Ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ là

khác nhau. Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường hàng hóa khác; Là tiêu chuẩn

giá cả, tiền tệ đo lường số lượng của bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Sự

thay đổi giá trị của hàng hóa tiền tệ không ảnh hưởng đến "chức năng" tiêu

chuẩn giá cả của nó.

- Khi cả vàng và bạc làm chức năng thước đo giá trị thì phải luôn xác định

quan hệ tỷ lệ giữa vàng và bạc bởi vì giá trị hàng hóa phải được đo bằng một

thước đo thống nhất, không thể có hai thước đo. Thuộc tính tự nhiên của

vàng đáp ứng yêu cầu đối với hàng hóa tiền tệ tốt hơn bạc nên dần dần chỉ

còn vàng là tiền tệ, bạc bị loại ra khỏi vai trò tiền tệ.

b) Phương tiện lưu thông

- Làm chức năng phương tiện lưu thông, tiền tệ là môi giới trong lưu thông

hàng hóa.

 Khi tiền chưa xuất hiện: trao đổi trực tiếp H−H

 Khi tiền xuất hiện: quá trình trao đổi có tiền làm trung gian H−T−H

- Trạng thái tiền tệ: Tiền phải là tiền thật vì khi hàng hóa chuyển từ tay

người bán sang tay người mua thì tiền chuyển từ tay người mua sang tay

người bán.

- Các loại tiền:

 Thực hiện chức năng này, lúc đầu người ta dùng vàng thoi, bạc nén.

Tuy nhiên, điều đó lại tạo nên một số khó khăn: phải chia nhỏ chúng

thành nhiều mảnh nhỏ, phải xác định số lượng, độ nguyên chất... Do

đó, vàng thoi, bạc nén dần dần được thay thế bằng tiền đúc.

 Tiền đúc là khối kim loại đúc có hình thức, trọng lượng và giá trị nhất

định, nó được dùng làm phương tiện lưu thông. Trong quá trình lưu

thông, tiền đúc bị hao mòn dần và mất đi một phần giá trị của nó. Tuy

nhiên, trên thực tế những đồng tiền đã bị hao mòn giá trị vẫn được chấp

nhận làm phương tiện lưu thông với đầy đủ giá trị. Từ đó, giá trị thực

của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Tiền chỉ còn là ký hiệu

của giá trị.

 Tiền giấy là dấu hiệu của tiền tệ buộc phải thừa nhận. Nhà nước phát

hành và quản lý lưu thông tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị

mà chỉ là ký hiệu của giá trị và được công nhận trong phạm vi quốc gia.

- Tác dụng: Thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền làm cho quá

trình mua bán, trao đổi diễn ra dễ dàng thuận lợi nhưng đồng thời nó cũng

làm cho việc mua bán tách rời nhau cả về không gian và thời gian (có thể bán

mà chưa mua, hay mua ở nơi này bán ở nơi kia), do đó nó làm tăng lên khả

năng khủng hoảng kinh tế.

c) Phương tiện thanh toán

- Kinh tế hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định thì tất yếu sẽ nảy

sinh việc mua bán chịu, do đó tiền có chức năng phương tiện thanh toán. Với

chức năng này tiền dùng để chi trả sau khi công việc giao dịch, mua bán đã

hoàn thành. Ví dụ: trả tiền mua hàng chịu, trả nợ, nộp thuế... Trong hình

thức mua bán chịu, trước tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị. Nhưng vì

mua bán chịu nên chỉ đến kỳ hạn phải trả thì tiền mới thực hiện chức năng

phương tiện thanh toán.

- Trạng thái tiền tệ: Tiền thật.

- Tác dụng:

 Sự phát triển của hình thức mua bán chịu một mặt mở ra khả năng trang

trải nợ nần bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau, không dùng tiền

mặt nên giảm được lượng tiền thật cần thiết phát hành trong lưu thông.

 Mặt khác, trong việc mua bán chịu, người mua là con nợ, người bán là

chủ nợ. Khi hệ thống con nợ và chủ nợ phát triển rộng rãi, chỉ cần một

khâu nào đó không được thanh toán sẽ ảnh hưởng đến hàng loạt các

khâu khác và làm sụp đổ hệ thống, tạo ra sự khủng hoảng kinh tế trên

diện rộng.

- Quá trình thực hiện chức năng phương tiện thanh toán sẽ làm xuất hiện một

loại tiền mới - tiền tín dụng dưới các hình thức: giấy bạc ngân hàng, tiền ghi

sổ,tài khoản có thể phát hành séc, tiền điện tử, thẻ thanh toán...Tiền tín dụng

càng phát triển thì chức năng phương tiện thanh toán của tiền càng mở rộng

và hình thức của tiền càng được phát triển hơn.

d) Phương tiện cất trữ

- Tiền là hiện thân của giá trị, đại biểu cho của cải xã hội, nên nó có thể thực

hiện được chức năng phương tiện cất trữ. Lưu ý: Tiền gửi ngân hàng không

phải là tiền cất trữ vì nó vẫn còn nằm trong lưu thông. Chỉ khi nào tiền đứng

ngoài lưu thông mới được coi là tiền cất trữ. Làm chức năng này, tiền rút

khỏi lưu thông và được cất trữ lại để khi cần có thể đem ra mua hàng.

- Trạng thái tiền tệ: tiền đủ giá trị như tiền vàng, bạc và các của cải bằng

vàng, bạc. Lưu ý: Rất ít khi người ta cất trữ tiền giấy chỉ trừ 1 số đồng tiền

của các quốc gia mạnh như USD. Tuy nhiên cất trữ chính vẫn là cất trữ vàng

và bạc.

- Tác dụng: Sự cất trữ tiền làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách

tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa. Nếu sản xuất hàng

hóa giảm sút, hàng hóa ít thì một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông và được

cất trữ. Ngược lại, nếu sản xuất hàng hóa tăng lên tức là hàng hóa nhiều thì

đồng tiền đó quay trở lại lưu thông. Cất trữ tiền không chỉ là cất trữ của

cải mà còn là dự trữ cho lưu thông tiền tệ.

e) Tiền tệ thế giới

- Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới quốc gia và hình thành

quan hệ buôn bán giữa các nước, thì tiền tệ làm chức năng tiền tệ thế giới.

- Thực hiện chức năng này tiền làm nhiệm vụ:

 Phương tiện lưu thông, mua bán hàng hóa;

 Phương tiện thanh toán, dự trữ quốc tế và các hoạt động ngoại thương,

tín dụng, tài chính;

 Di chuyển của cải từ nước này sang nước khác.

- Trạng thái tiền tệ: Làm chức năng tiền tệ thế giới, tiền tệ phải có giá trị thật

sự, phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được công nhận trên phạm vi quốc tế.

Trên thực tế, chỉ có đồng tiền của những nước có nền kinh tế mạnh mới đảm

nhiệm được chức năng tiền tệ thế giới.

- Tác dụng:

 Khi có đồng tiền làm chức năng tiền tệ thế giới xuất hiện thì sẽ nảy sinh

quan hệ giữa đồng tiền các nước khác với nhau và với đồng tiền làm

chức năng tiền tệ quốc tế đó. Việc đổi tiền nước này ra tiền của nước

khác phải được tiến hành thoai tỷ lệ nhất định, phụ thuộc vào sức mua

của các đồng tiền. Tỷ lệ trao đổi giữa các đồng tiền được gọi là tỷ giá

hối đoái, tức là giá cả đồng tiền của quốc gia này được tính bằng đồng

tiền của quốc gia khác.

 Việc chỉ có một hoặc một số ít đồng tiền làm chức năng tiền tệ thế giới

sẽ là điều kiện để các quốc gia có đồng tiền đó thi hành các chính sách

nhằm thu lợi cho nước mình và có thể gây thiệt hại đến nước khác. Do

vậy, rất cần thiết phải ra đời một đồng tiền chung nhằm khắc phục tình

trạng đó.

Tóm lại, tiền tệ có năm chức năng, những chức năng này ra đời cùng với

sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Các chức năng có quan hệ

mật thiết với nhau, thông thường, tiền làm nhiều chức năng cùng một lúc.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#minhmomo