Nguyên nhân và khái niệm an toàn

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trước hết, đó là do chính các thiết bị không bảo đảm an toàn, hoặc do điều kiện làm việc không tốt. Tại những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhỏ thì điều kiện thiết bị công nghệ lạc hậu. Trang, thiết bị an toàn thiếu hoặc không bảo đảm yêu cầu. Đặc biệt, nhiều thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động (ATLĐ) nhưng chưa được kiểm tra, đăng ký sử dụng. Tiếp đó là nhận thức của người sử dụng lao động không quan tâm tới công tác an toàn và bảo hộ lao động. Thực tế, người sử dụng lao động, nhất là doanh nghiệp tư nhân, trong đó có cả một số doanh nghiệp nhà nước, để đảm bảo lợi nhuận mà các chi phí bị giảm tới mức tối đa, và do vậy, công tác BHLĐ bị coi nhẹ. Mặc dù đã được cảnh báo về những nguy cơ gây TNLĐ nhưng người sử dụng lao động vẫn làm ngơ, không thực hiện những giải pháp về ATLĐ, vệ sinh lao động (VSLĐ).   

Bên cạnh đó, cũng phải kể đến nhận thức của chính người lao động (NLĐ) về tầm quan trọng của công tác an toàn chưa cao. Mặc dù biết mức độ nguy hiểm nhưng nhiều người sử dụng các thiết bị vẫn không tuân thủ các tiêu chuẩn về an toàn. Hiện nay, tất cả các thiết bị áp lực, từ các bình gas, bình chứa khí nén cho tới các lò hơi hiện đại trong các nhà máy nhiệt điện đều đã có các tiêu chuẩn an toàn trong tất cả các khâu từ sản xuất, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng… nhưng người sử dụng vẫn vi phạm các tiêu chuẩn an toàn này. Số vụ TNLĐ do NLĐ không chấp hành việc thực hiện các quy định về an toàn và VSLĐ chiếm tới 23,9%, không sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân chiếm 2,5% số vụ TNLĐ.

Một nguyên nhân nữa là do người sử dụng, vận hành thiếu hiểu biết về các thiết bị cũng như các quy định về an toàn đối với các thiết bị. Theo quy định của tổ chức lao động thế giới (ILO) thì người sử dụng có “quyền được biết-right to know” những thông tin liên quan đến hàng hóa mình mua. Thế nhưng, ở Việt Nam thì quyền này ít được các nhà sản xuất cũng như các nhà cung cấp thực hiện. Không những thế, theo chúng tôi, khách hàng Việt Nam thường dễ dãi khi mua hàng, chẳng mấy khi quan tâm, yêu cầu bảo đảm những quyền lợi này. Chúng ta cũng chưa có tập quán kiện các nhà sản xuất và các nhà cung ứng sản phẩm đã sản xuất và cung cấp các sản phẩm không bảo đảm chất lượng. Theo Luật Lao động, quyền được biết của NLĐ cũng được quy định rất rõ. Theo đó, NLĐ được trang bị những cơ sở pháp lý đầy đủ nhất để bảo vệ quyền lợi của mình, trong đó có quyền được làm việc trong điều kiện bảo đảm an toàn và VSLĐ. Nhưng nhiều khi do bị áp lực tìm kiếm việc làm, NLĐ đã không nhận thức và sử dụng hết quyền lợi của mình. Nhiều khi chỉ vì công ăn việc làm mà họ bất chấp chế độ làm việc như: Thời gian làm việc, trang thiết bị BHLĐ. Những NLĐ có trình độ thấp hoặc không có trình độ, nhất là lực lượng lao động tự do - từ các vùng nông thôn về thành phố - đành phải chấp nhận làm bất cứ việc gì, miễn làm sao có công ăn việc làm. Việc huấn luyện, đào tạo về công tác BHLĐ không được thực hiện, hoặc có thực hiện nhưng chưa bảo đảm chất lượng. Phân tích nguyên nhân của các vụ TNLĐ do NLĐ không được huấn luyện về ATLĐ, đặc biệt là số lao động thời vụ không có hợp đồng lao động hoặc hợp đồng ngắn hạn chiếm 2,9% số vụ.

Mặt khác, công tác quản lý nhà nước về ATLĐ còn nhiều bất cập so với quy mô và tốc độ phát triển kinh tế. Lời cảnh báo này của một vị lãnh đạo UBND TP.HCM về năng lực quản lý Nhà nước về AT-VSLĐ-PCCN tại một buổi lễ phát động tuần lễ quốc gia về AT-VSLĐ-PCCN tại TP.HCM trước đây đến nay vẫn còn nguyên giá trị. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro