NHA LY.AGO

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

NHÀ LÝ

Nhà Lý (1009 - 1225) là một trong số ít những triều đại phong kiến thịnh trị của lịch sử phong kiến dân tộc... Nhà Lý xác lập được quyền hành lâu dài, xây dựng đất nước phát triển về kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội, đã lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống Tống (1076). Nhà Lý cũng là vương triều đặt nền móng cho kinh đô Thăng Long mà ngày nay là thủ đô Hà Nội chúng ta... Với những thành tựu về nhiều mặt như vậy là do nhà Lý đã có những chính sách, biện pháp phù hợp với thực tiễn, cân bằng lợi ích dân tộc, lợi ích hoàng tộc và lợi ích nhân dân. Để có được những thành tựu, người có công đóng góp không nhỏ chính là Thái Tổ - Lý Công Uẩn. Ông đã thực hiện cuộc cải cách vương triều và đất nước. Định hướng phát triển cho nhà Lý suốt hơn hai thế kỉ.

BỐI CẢNH

Kể từ năm 905 với sự kiện Khúc Thừa Dụ từ xưng tiết độ sứ được coi là mốc mở đầu cho thời kì độc lập tự chủ của nước ta, chấm dứt thời đại Bắc thuộc kéo dài hơn 1000 năm. Kế tiếp dòng họ Khúc nắm quyền cai trị đất nước là Dương, Ngô, Đinh, tiền Lê. Tuy nhiên, các triều đại này đều ngắn ngủi. Những người khai mở ra triều đại là những thủ lĩnh quân sự. Nội bộ giai cấp cầm quyền có sự xung đột thoán đoạt ngôi lẫn nhau. Khi Ngô Quyền chết, em là Dương Tam Kha cướp ngôi, từ đó dẫn đến tình trang cát cứ phân quyền mà sử gọi là loạn 12 sứ quân. Đinh Bồ Lĩnh có công dẹp loạn 12 sứ quân và tự lập ra vương triều Đinh, đinh đô ở Hoa Lư (Ninh Bình). Vua Đinh lập thái tử là Hạng Lại mà không lập con Đinh Liễn vốn vào sinh ra tử cùng vua. Đinh Liễn có ý làm phản. Kết cục, vua Đinh và Đinh Liễn lại bị đầu độc chết. Triều đinh rối ren, giặc Tống đe doạ. Lúc đó, Lê Hoàn làm thập đạo tướng quân được thái hậu Dương Vân Nga và triều đình ửng hộ lên ngôi, lãnh đạo quân đội và nhân dân kháng chiến chống Tống lần thứ nhất thành công. Lê Hoàn chết, con là Lê Long Việt nối ngôi có được 3 ngày thì bị em trai là Lê Long Đĩnh giết chết, cướp ngôi. Lê Long Đĩnh tức Lê Ngoạ Triều, bị sử cũ coi là tên vua hoang dẫm vô độ,lấy việc giết người là thú vui, bõ bễ triều chính đất nước đang đứng trước nguy cơ khủng hoảng. Đó là biểu hiện của đất nước còn chưa được ổn định về nhiều mặt khi mới hồi sinh. Khi vua chết, triều thần lập Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên làm vua. Từ đây trách nhiệm của Lý Công Uẩn là chấm dứt được những khủng hoảng chính trị xã hội trước đây và đưa đất nước phát triển.

Một đặc điểm chung của tất cả các triều đại từ Khúc đến tiền Lê là những người sáng lập ra triều đại đều là những thủ lĩnh quân sự. Người xưa có câu: "thời chiến trọng võ, thời bình trọng văn" Đó là đặc điểm của một thời kì đầy biến động.

Kinh đô đất nước nằm ở Hoa Lư. Đó là vùng đất trũng, mỗi năm lại phải đối mặt với những trận lũ lụt. Đất hẹp mà dân cư thì đang đông lên. Nhất là những nhu cầu về giao thông, buôn bán quanh kinh thành bị hạn chế.

Như vây, với bối cảnh lịch sử trong và ngoài nước như vậy, đặt ra cho vua Lý Công Uẩn mới lên ngôi là làm sao để chấm dứt tình trạng khủng hoảng chính trị kéo dài qua mấy thời đại trước đó. Đồng thời đinh hướng cho một sự phát triển ổn định, bền vững của triều đình và đất nước, phát triển kinh tế, nâng cao sức mạnh dân tộc trước mối đe doạ của giặc phương Bắc.

NHỮNG CHÍNH SÁCH

1. Việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La.

Sau khi lên ngôi, năm 1010 vua Lý Thái Tổ đưa ra một quyết định vô cùng quan trọng là dời đô từ kinh đô Hoa Lư về thành Ðại La (Hà Nội) và đổi tên là thành Thăng Long.

Trong thời đại dựng nước trước Bắc thuộc, Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu (Phú Thọ), An Dương Vương xây dựng đô thành ở Cổ Loa (Hà Nội). Sau hơn nghìn năm Bắc thuộc, chính quyền tự chủ họ Khúc, họ Dương đặt trị sở tại thành Ðại La, Ngô Quyền xưng vương đóng đô ở thành Cổ Loa "tỏ ý tiếp nối quốc thống xưa của An Dương Vương". Ðinh Tiên Hoàng sau khi dẹp yên Mười hai sứ quân, xây dựng đô thành mới ở Hoa Lư (Ninh Bình). Trong bối cảnh thế kỷ X, đó là một quyết định đúng đắn và cần thiết của vua Ðinh khi chính quyền trung ương đang phải đối phó với sức tiềm ẩn của các thế lực cát cứ trong nước và mưu đồ xâm lược của nước ngoài. Trong 42 năm (968-1009), kinh đô Hoa Lư đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó, tạo điều kiện cho triều Ðinh (968-980) và Tiền Lê (980-1009) củng cố chính quyền trung ương, bảo vệ nền độc lập dân tộc, đánh bại cuộc xâm lược lần thứ nhất của quân Tống (980-981) và giữ vững nền thống nhất quốc gia.

Trước yêu cầu xây dựng đất nước trên qui mô lớn, đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế, mở mang văn hoá, rõ ràng Hoa Lư với địa thế núi non hiểm trở không còn phù hợp. Mùa xuân năm 1010, vua Lý Thái Tổ về thăm châu Cổ Pháp và mùa thu năm đó, quyết định đời đô. Trong Chiếu dời đô do nhà vua tự viết để hỏi ý kiến quần thần, đã nói rõ việc dời đô là việc lớn không thể "theo ý riêng tự tiện chuyển dời", mà phải "tính kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo chí dân". Nhà vua chọn thành Ðại La với đủ các tiêu chí thủ đô của một quốc gia thống nhất và thịnh đạt "ở giữa khu vực trời đất, có thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa Nam, Bắc, Ðông, Tây, tiện hình thế sông núi trước sau", là "thắng địa" "muôn vật rất phồn thịnh mà phong phú", "là chỗ hội tụ của bốn phương, là nơi thượng đô của kinh sư muôn đời".

Vùng Hà Nội đã bắt đầu cuộc sống con người từ hậu kỳ đá cũ cách ngày nay khoảng 2 vạn năm, được khai phá trong thời đại đồng thau cách ngày nay khoảng 4 nghìn năm và đã trở thành một trung tâm chính trị với đô thành Cổ Loa đời An Dương Vương vào thế kỷ III TCN. Trong thời Bắc thuộc, Lý Nam Ðế là người đầu tiên nhận ra vị thế của đất trung tâm Hà Nội khi đóng đô ở Vạn Xuân, dựng chùa Khai Quốc (sau dời về vị trí chùa Trấn Quốc hiện nay), đắp thành ở cửa sông Tô Lịch để đánh quân xâm lược Lương. Thời thuộc Tuỳ, năm 607 trị sở của chính quyền đô hộ dời về Tống Bình trên đất Hà Nội. Thành Tống Bình rồi thành Ðại La là thủ phủ của chính quyền đô hộ Tuỳ, Ðường trong khoảng 3 thế kỷ. Qua những lần xây đắp, tu sửa của những viên quan đô hộ từ Khâu Hòa đời Tùy đến Trương Bá Nghi, Triệu Xương, Bùi Thái, Trương Chu, Vũ Hồn, đặc biệt là Cao Biền đời Ðường, thành Ðại La có qui mô khá lớn như La Thành do Cao Biền đắp chu vi tính ra hơn 6 km, ngoài đắp đê dài hơn 7 km, dựng hơn 5,000 gian nhà (15). Phủ thành đó cũng là đối tượng tiến công của nhiều cuộc khởi nghĩa dân tộc và có lần đã trở thành thủ phủ của chính quyền độc lập trong thời gian ngắn của Phùng Hưng, Dương Thanh. Thành Ðại La là một thành lũy lớn, một đô thị tập trung cư dân khá đông, một trung tâm kinh tế phát triển.

Về mặt địa lý tự nhiên, thành Ðại La ở vào vị trí trung tâm của đất nước thời bấy giờ, một đầu mối giao thông thủy bộ thuận tiện. Thành nằm ở phía nam sông Nhị giữ vai trò như một con hào tự nhiên ngăn chặn sự tiến công từ phương bắc xuống và qua sông Nhị (sông Hồng), sông Ðuống có thể toả đi khắp hệ thống sông ngòi vùng châu thổ, lên miền núi rừng phía bắc, phía tây bắc, qua Tạc Khẩu và đường ven biển vào miền trung. Các sông Tô Lịch, Kim Ngưu nối với hồ Tây, sông Nhị và hệ thống ao hồ tạo thành một mảng lưới giao thông đường thuỷ đi lại khắp vùng. Thành Ðại La lại có núi Tản Viên, Tam Ðảo án ngự tạo thành thế đất đế vương theo quan điểm phong thuỷ.

Vị trí, điều kiện tự nhiên và tiến trình lịch sử đã tạo dựng những những tiền đề cho Ðại La-Thăng Long đóng vai trò kinh đô của đất nước thời kỳ phục hưng dân tộc. Nhưng vấn đề có ý nghĩa quyết định là nhận thức ra những tiền đề đó cũng như xác định được yêu cầu và khả năng tạo ra sức mạnh của đất nước để xây dựng và bảo vệ đô thành trên một địa bàn trọng yếu nhưng rất trống trải về địa hình như thế. Cống hiến lớn lao của vua Lý Thái Tổ là nhận thức được điều đó, tự tin ở sức mạnh của đất nước và đi đến một quyết đoán lịch sử. Những ý tưởng và suy tính của nhà vua được trình bày ngắn gọn trong văn kiện lịch sử Chiếu dời đô, phản ánh một tư duy chiến lược bao quát, một tầm nhìn xa trông rộng, trong đó chắc hẳn có sự đóng góp của thiền sư-cố vấn chính trị Vạn Hạnh. Vua Lý Thái Tổ là người sáng lập kinh thành Thăng Long. Nhưng điều có ý nghĩa cơ bản là Lý Thái Tổ và các vua Lý kế nhiệm đã dày công kiến lập để Thăng Long xứng đáng với vị trí và vai trò kinh đô của nước Ðại Việt trên con đường phục hưng dân tộc, và dĩ nhiên công việc xây dựng đô thành phải gắn liền với công việc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Ngay trong mùa thu năm 1010, nhà Lý đã khẩn trương xây dựng một số cung điện làm nơi ở và làm việc của vua, triều đình và hoàng gia, mà trung tâm là điện Càn Nguyên, nơi thiết triều của nhà vua, hai bên có điện Tập Hiền và Giảng Võ, phía sau là điện Long An, Long Thuỵ làm nơi vua nghỉ. Ðến cuối năm 1010, 8 điện 3 cung đã hoàn thành. Những năm sau, một số cung điện và chùa tháp được xây dựng thêm. Một vòng thành bao quanh các cung điện cũng được xây đắp trong năm đầu, gọi là Long Thành hay Phượng Thành. Thành đắp bằng đất, phía ngoài có hào, mở 4 cửa: Tường Phù ở phía đông, Quảng Phúc ở phía tây, Ðại Hưng ở phía nam, Diệu Ðức ở phía bắc. Căn cứ vào sử liệu và di tích còn lại, có thể xác định cửa Tường Phù mở ra phía Chợ Ðông và khu phố buôn bán tấp nập của phường Giang Khẩu và đền Bạch Mã. Cửa Quảng Phúc mở ra phía chùa Diên Hữu (chùa Một Cột) và chợ Tây Nhai (chợ Ngọc Hà). Cửa Ðại Hưng ở khoảng gẩn Cửa Nam hiện nay. Cửa Diệu Ðức nhìn ra trước sông Tô Lịch, khoảng đường Phan Ðình Phùng hiện nay. Trong Long Thành có một khu vực được đặc biệt bảo vệ gọi là Cấm Thành là nơi ở và nghỉ ngơi của vua và hoàng gia.

Thành Thăng Long từ trung tâm chính trị của nhà nước quân chủ đã sớm phát triển thành một trung tâm kinh tế, văn hoá, một đô thị phát đạt nhất của nước Ðại Việt.

Về mặt kinh tế, chợ-bến giũ vai trò rất quan trọng hoạt động công thương nghiệp của Thăng Long. Trên sông Nhị, sông Tô Lịch có nhiều bến thuyền, quan trọng và sầm uất nhất là bến Giang Khẩu (khoảng Hàng Buồm) và bến Triều Ðông (hay Ðông Bộ Ðầu, khoảng dốc Hoè Nhai). Trên bến và tại các cửa Hoàng Thành và thành Ðại La có các chợ, đông vui nhất là chợ Cửa Ðông (Hàng Buồm-đền Bạch Mã), chợ Cửa Tây (hay Tây Nhai, chợ Ngọc Hà). Khu vực buôn bán tập trung nhất của kinh thành là phía đông Hoàng Thành cho đến bờ sông Nhị, nơi có nhiều chợ bến và phố xá với những hoạt động buôn bán nhộn nhịp.

Về phương diện văn hoá, Thăng Long trở thành trung tâm hội tụ và đào tạo nhân tài của cả nước. Ðây là đế đô của vương triều Lý với nhiều Hoàng đế tài ba như Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông; nhiều tướng soái kiệt xuất mà tiêu biểu là thái uý Lý Thường Kiệt, nhiều gương mặt quý tộc, quan lại sáng giá như thái hậu Ỷ Lan, thái sư Lý Ðạo Thành, hoàng tử Hoằng Chân, Chiêu Văn... Ðây cũng là nơi có trường Quốc Tử Giám và nơi mở những khoa thi tuyển chọn nhân tài, đào tạo đội ngũ trí thức với những tên tuổi như Lê Văn Thịnh, Mạc Hiển Tích, Bùi Quốc Khái...Ðồng thời đây cũng là một trung tâm Phật giáo với tên tuổi nhiều cao tăng như Vạn Hạnh, Viên Thông, Minh Không, Thông Biện... Thăng Long không những tập trung những cung điện của triều đình, mà còn có nhiều chùa tháp nổi tiếng, tiêu biểu là chùa Diên Hữu (chùa Một Cột), chùa Sùng Khánh Báo Thiên (chùa Báo Thiên). Trong 4 công trình nghệ thuật được coi là "An Nam tứ đại khí" của thời Lý, Trần, thì 2 công trình mang niên đại Lý trên đất Thăng Long là chuông Qui Ðiền (năm 1080 tại chùa Diên Hữu) và tháp Báo Thiên (năm 1057 tại chùa Báo Thiên). Trong những thập kỷ gần đây, khảo cổ chọc tìm thấy trong lòng đất Hà Nội nhiều di tích và di vật đời Lý, trong đó có những gạch ngói, đồ gốm sứ đạt trình độ kỹ thuật và thẩm mỹ cao.

Sau hai thế kỷ xây dựng, Thăng Long đời Lý đã trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của nước Ðại Việt, một đô thị phồn vinh. Trong thời gian thịnh đạt của vương triều, nhà Lý đã bảo vệ vững chắc kinh đô, cuộc xâm lăng của quân Tống bị chặn đứng và đánh bại trên phòng tuyên Như Nguyệt, tạo nên một thời kỳ ổn định và thanh bình cho công cuộc kiến lập kinh thành. Thăng Long là trung tâm qui tụ, kết tinh tài năng, trí tuệ dân tộc, tạo nên phong cách và truyền thống văn hoá Thăng Long để từ đây toả chiếu ảnh hưởng ra cả nước.

2. Những cải cách về chính trị

Để hạn chế những hiện tượng thoán đoạt ngôi vua hay hiện tượng đất nước chia cắt, Lý Thái Tổ đã sử dụng một số biện pháp nhằm thiết chặt quyền lực của nhà vua từ trung ương đến địa phương. Cụ thể

Lý Thái Tổ và các vị vua tiếp theo đã không ngừng gia tăng quyền lực dòng họ Lý tạo thành một hoàng tộc lớn, nắm mọi quyền hành chủ chốt của quốc gia. Với biện pháp tăng cường quý tộc hoá và quan liêu hoá dòng họ. Lý Thái Tổ phong vương cho con, cho anh trai, ban chức tước quan trọng cho những người tín nghĩa. Như vậy, ông đã tạo cho mình một đội ngũ thân cận, có dủ mọi quyền hành để trị nước. Biện pháp này đã có hiệu quả ngay khi xảy ra loạn tam vương. Một lần nữa, ngay sau khi vua sáng lập vương triều mất, đã xảy ra loạn trong nội bộ triều đình mà trước đó triều Ngô, Đinh, tiền Lê đã mắc phải. Nhưng đến nhà Lý, hiện tượng này không lặp lại bởi quyền hành của nhà vua đã được nâng cao, vua kế vị là thái tử Lý Phật Mã đã được vua cha Lý Thái Tổ lựa chọn kĩ càng. Lý Thái Tổ cho thái tử dựng cung Long Đức ở ngoài thành có ý cho thái tử biết mọi chuyện của dân để hiểu dân hơn. Sau loạn tam vương, vua Lý đã đề ra tục thề ở đền Đồng Cổ. Đây có lẽ là một trong những biện pháp cố kết sức mạnh vương triều trong 216 năm tồn tại của mình mà công lớn đầu tiên là Lý Thái Tổ.

Về bộ máy hành chính các cấp, Lý Thái Tổ đổi 10 đạo thời Đinh - Tiền Lê thành các lộ và phủ. Dưới phủ là huyện, dưới huỵên là hương. Đây là công cuộc cải tổ hành chính có quy mô rộng lớn, góp phần quan trọng vào công cuộc quản lý toàn diện đất nước, tạo nên sức mạnh cho Nhà nước Đại Việt được tập trung hơn. Tuy nhiên, những chính sách cải tổ đó của Lý Thái Tổ còn có những hạn chế, bởi chưa có sự thống nhất về cách gọi Lộ và phủ, làm cho các cấp quản lý không phân biệt được

Vua thực hiện chính sách ràng buộc lỏng lẻo đối với các dân tộc ít người ở vùng biên giới, vùng xa trung tâm. Vua sai các vương đi trấn, trị các vùng biên cương xa. Chính sách đó nhằm gắn kết cộng đồng các dân tộc với nhau tạo nên sức mạnh tập trung cho quốc gia.

Về ngoại giao, Lý Thái Tổ chủ trương kết mối giao hoả với nhà Tống. Vua đã cho sứ giả sang cầu phong vua Tống. Theo Đại Việt sử kí toàn thư chép, vua Tống hai lần phong tước cho Lý Thái Tổ: lần thứ nhất là Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, lần thứ hai là Nam Bình Vương.

Đối với Champa và Chân Lạp, Lý Thái Tổ đã để cho các nước đó đến triều cống nhằm giữ mối hoà hảo về đối ngoại.

Về kinh tế, viết về Lý Thái Tổ, cuốn Đại Việt sử ký toàn thư cho biết vua đã hai lần đại xá tô cho dân. Biện pháp này nhằm khoan thứ sức dân, kích thích sản xuất. Đây được coi là biện pháp tiến bộ và mang tính trọng nông của nhà Lý.

3. Đánh giá

Cuộc cải cách của Lý Thái Tổ là cuộc cải cách mang tính tất yếu, thuận theo yêu cầu của lịch sử. Đó là sự thay đổi trước nguy cơ khủng hoảng các vương triều của nước ta. Tuy nhiên, những chính sách và biện pháp cải cách đưa ra của Lý Thái Tổ có thành công hay không lại là một vấn đề cần xem xét. Để đánh giá mức độ thành công của một cuộc cải cách thì chúng ta cần so sánh giữa yêu cầu mục đích trước khi cải cách và kết quả sau cải cách. Ở đây, Lý Thái Tổ đứng trước yêu cầu là ổn định đất nước về chính trị, phát triển kinh tế, thực hiện ngoại giao tốt đẹp. Khi so sánh với kết quả đạt được thì phần lớn ông đã thực hiện thành công. Trong những quyết sách thành công nhất của Lý Thái Tổ là việc dời kinh đô về Đại La - Thăng Long. Để từ đó đến nay, Thăng Long - Hà Nội đã trải qua gần 1000 năm nhưng chưa lúc nào nó mất vai trò là thủ đô đất nước hay thủ phủ của một vùng miền. Nó chưa bao giờ mất đi cảnh người đi lại tấp nập, mua bán ngược xuôi. Thực sự đây là chốn tụ hội của bốn phương muôn đời.

Cuộc cải cách của Lý Thái Tổ không chỉ dừng lại ở thời gian ông sống, sau khi mất đi, các vị vua tiếp theo đã kế tục vua cha tiếp tục công cuộc cải cách về: luật pháp, quân đội, kinh tế... nhằm xây dựng vương triều và quốc gia hùng mạnh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#nha