nhac phi 3-15

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi thứ ba

Châu Đồng dốc lòng tạo anh tài

An Nhân dạy con sống trung hiếu

Nhạc Phi gánh hai giỏ đầy ắp củi về nhà nhưng vừa bước vào nhà đã thấy bà An Nhân nghiêm sắc mặt, trách mắng:

- Mẹ bảo con đi đốn củi chứ mẹ có bảo con đi đánh nhau với người ta đâu? Để cho người ta đến nhà mách với mẹ thì xấu hổ cho nhà ta biết bao nhiêu? Con lại đi hái củi khô thế này tất nhiên phải leo trèo, rủi ro trượt chân té ngã chết đi thì biết lấy ai nuôi mẹ trong lúc tuổi già xế bóng này?

Nhạc Phi thấy mẹ giận dữ, vội quì lạy, thưa:

- Con mới lỡ lần đầu tiên, mong mẹ tha thứ cho, con nguyện ngày mai sẽ không hái củi khô nữa.

Bà An Nhân thấy con mình biết hối lỗi rất cảm thương vội bước tới đỡ dậy và an ủi:

- Thôi ngày mai con cũng khỏi phải đi đốn củi nữa, vừa rồi mẹ tìm được vài bộ sách, để ngày mai mẹ bắt đầu dạy con.

Thế rồi qua ngày hôm sau bà An Nhân đem sách ra giảng dạy cho con. Nhạc Phi vốn có tư chất thông minh nên bài nào cũng chỉ đọc qua vài lần là thuộc làu ngay.

Bà An Nhân còn cố dành dụm tiền nong đưa cho Nhạc Phi bảo đi ra chợ mua giấy về tập viết, nhưng Nhạc Phi sợ tốn tiền vội tỏ lời từ chối:

- Thưa mẹ, con đã có giấy mực sẵn sàng để tập viết rồi xin mẹ chớ lo.

Bà mẹ lấy làm lạ không biết con mình tìm đâu ra giấy mực nhưng bà cũng làm thinh để xem sao, thì thấy Nhạc Phi lấy khay đem xuống mé sông xúc cát đem về, đoạn bẻ một nhành dương liễu mang vào thưa với mẹ:

- Thưa mẹ, đây không phải giấy mực để tập viết là gì? Đã khỏi tốn tiền mà lại dùng không bao giờ hết có hơn không?

Bà An Nhân mừng rỡ khen con mình sáng ý, hèn bảo:

- Thế thì hay lắm, mẹ khá khen cho con đấy.

Rồi bà cầm tay con tập viết, chẳng bao lâu Nhạc Phi viết thạo. Từ đó Nhạc Phi cứ ở nhà chăm lo học tập không một giây phút nào xao lãng.

Lại nói đến chuyện con Vương Viên ngoại là Vương Quới mới lên sáu tuổi mà khí lực mạnh mẽ khác thường. Một hôm cậu đi cùng tên gia đinh Vương An ra sau vườn chơi, khi đến chỗ Bá Huê đình chợt thấy trên ghế có một bàn cờ, cậu hỏi Vương An?

- Cái gì đây mà trên mặt mỗi cái đều có mỗi chữ vậy?

Vương An giải thích:

- Đây chính là cờ tướng dùng cho hai người đấu trí với nhau để tiêu khiển, trong cuộc chơi này sẽ có kẻ thắng, người bại, một cuộc chơi cao thượng và vui thú nhất trần đời:

Vương Quới lại hỏi:

- Ăn thua bằng cách nào?

Vương An mỉm cười bảo:

- Việc ăn thua rất đơn giản, nghĩa là hễ bên nào giết được tưởng bên kia là kẻ ấy thắng, ngược lại bên nào bị mất tướng tức là bên ấy thua.

Vương Quới ngẫm nghĩ giây lát rồi bảo:

- Vậy thì có khó chi đâu. Ta với ngươi hãy thử chơi một bàn xem sao.

Vương An gật đầu rồi bắt đầu sắp lại vị trí các.quân cờ, đoạn giao cho Vương Quới cầm quân đỏ còn hắn thì cầm quân đen.

Vương An nói:

- Cậu hãy đi trước đi.

Vương Quới ra vẻ suy nghĩ rồi cười ha hả bảo:

- Nếu ta đi trước thì ngươi phải thua rồi.

Vương An lấy làm lạ:

- Sao tôi lại thua?

Vương Quới bèn cầm ông tướng của mình ăn phắt ông tướng của Vương An đi rồi nói lớn:

- Thế không phải ngươi thua rồi sao?

Vương An cười xoà đáp:

- Đánh cờ gì mà lạ lùng vậy? Thôi để tôi dạy cách đánh cho.

Vương Quới ngắt lời quát:

- Thế ngươi khinh ta không biết đánh cờ sao?

Dứt lời, Vương Quới xách luôn bàn cờ vụt lên đầu Vương An.

Bị cú đánh bất ngờ nên Vương An không kịp đề phòng, cạnh bàn cờ đập vào đầu bể một miếng da, máu tuôn lai láng, Vương An ôm đầu vừa chạy vừa kêu trời, còn Vương Quới vẫn không hết giận, ra sức rượt theo.

Vương An chạy đến hậu đường, Vương Viên ngoại biết chuyện cả giận trỏ vào mặt con, quát mắng:

- Tên súc sinh kia, sao mi còn nhỏ mà tính tình lung hăng đến thế?

Vừa nói, ông ta đánh Vương Quới hai tát tai nẩy lửa, cậu vội vã chạy vào phòng mếu máo nói với mẹ.

- Mẹ ơi, cha đánh con gần chết đây này!

Bà Viện Quân thấy vậy vội bảo gia đinh đem bánh tới cho con ăn rồi dỗ dành lắm Vương Quới mới nín. Kế thấy Vương Viên ngoại hầm hầm sắc giận chạy thẳng vào phòng, bà Viện Quân bênh con vội đứng cản trước cửa phòng, Viên ngoại trợn mắt hét lớn:

- Thằng nghiệt súc ấy chạy đi đâu rồi?

Bà Viên ngoại quá thương xót thằng bé bị đánh nên nắm ngay vạt áo chồng khóc lóc:

- Lâu nay ông than thở không có con trai nối dõi tông đường, may nhờ bà An Nhân khuyên bảo tôi đi tìm vợ bé cho ông mới sinh được một mụn con, thế mà nay ông nỡ lòng nào muốn giết chết con đi sao? Như ông muốn giết nó, xin hãy giết chết tôi trước đã.

Vừa khóc, bà ta vừa liều lĩnh ngã nhào vào mình Vương Viên ngoại. Bọn đày tớ gái phải xúm lại đỡ bà dậy dìu thẳng vàn phòng khuyên giải.

Còn Vương Minh thì không nguôi cơn giận, ông ta hằn học:

- Đúng là con hư tại mẹ, ngày sau nó không ra gì là tại mụ đó thôi.

Dứt lời ông ta hờn dối bỏ ra nhà ngoài trong lòng hậm hực không yên, bỗng thấy tên gia đinh vào báo:

- Dạ có Trương Viên ngoại đến thăm, hiện người còn đứng nhà ngoài.

Vương Minh phất tay ra hiệu bảo:

- Hãy mời tiên sinh vào.

Trương Viên ngoại bước vào thấy nét mặt bạn mình hơi buồn vội hỏi:

- Nếu tôi đoán không lầm thì chắc hiền đệ có việc chi bất bình, nên khí sắc không vui phải không?

Vương Minh gật đầu đáp:

- Trương huynh đoán quả không sai, chỉ vì Vương Quới con của đệ mới tí tuổi đầu mà tính tình hung hăng ngỗ ngược quá, dạy dỗ không được nên mới đem lòng phiền muộn như vậy.

Trương Viên ngoại cũng thở dài nói:

- Ối thôi! chính thằng con tôi là Trương Hiển nó cũng không khác gì. Nhân lúc tôi đang có bệnh phong thấp không thể đi bộ được nên phải sắm con ngựa để tiện việc đi lại. Vậy mà cả ngày nó bắt con ngựa cưỡi chạy khắp nơi, đạp đổ đồ đạc của người ta làm tôi phải bồi thường lại còn bị mất mặt vì thằng con khó bảo. Hôm qua nó lại cho ngựa dẫm phải người, tôi phải chạy tiền cơm tiền thuốc tốn kém mấy lượng bạc mới yên chuyện. Tôi giận quá đánh nó ít roi để răn dạy, chẳng ngờ mẹ nó bệnh con gây chuyện cãi cọ với tôi, thành thử tôi bực mình qua đây chơi cho khuây khỏa.

Câu chuyện vừa đến đây, bỗng bên ngoài có người dáng hấp tấp vừa bước vào vừa thở hôn hển. Thì ra người nảy chính là Thang Văn Trọng, trên mặt hiện lên đầy vẻ giận dữ không biết vì đâu.

Hai nhà Viên ngoại vội chào đón và hỏi:

- Việc chi mà trông sắc mặt hiền đệ có vẻ giận dữ như vậy. Thang Viên ngoại đáp:

- Chẳng giấu chi các tôn huynh, chỉ vì thằng Thang Hoài con tôi nó quá ngỗ nghịch, ngày nào nó cũng đến căn phố của vợ chồng Kim Lão ở trước nhà tôi phá phách. Nhà người ta làm bánh bán nó đã hung hăng lôi hết bánh của người ta ra ăn lại còn hăm dọa đánh đập họ nữa, tôi phải bồi thường và năn nỉ mãi vợ chồng Kim Lão nể mặt mới cho êm chuyện. Ai ngờ đêm hôm qua nó vác đá chất vào cửa. Khi vợ chồng Kim Lão mở cửa ra bị đá đè tý nữa thì toi mạng. Vợ chồng Kim Lão đến khóc lóc với tôi tôi phải đánh nó ít roi để răn dạy và bồi thường cơm thuốc cho người ta. Chàng dè mẹ bênh con giằng co cãi lộn với tôi, hai huynh nghĩ thử có tức không?

Cả hai đều cười xoà đáp:

- Thế thì chúng ta cũng cùng chung một cảnh ngộ cả.

Rồi thuật lại chuyện Vương Quới và Trương Hiển cho Thang Viên ngoại nghe. Ba người thở vắn than dài cảm thấy mình bất lực trong việc dạy dỗ con cái.

Trong lúc đàm đạo bỗng có gia nhân vào báo:

- Có Châu Đồng tiên sinh ở Hiệp Tây đến thăm.

Cả ba mừng rỡ vội chạy ra đón vào rót nước mời uống. Vương Minh hỏi:

- Đã lâu rồi không gặp tiên sinh lòng hằng mong nhớ, nay tiên sinh ở tận Đông Kinh không quản đường xa, cực nhọc đến đây thăm, đệ thật lòng cảm kích vô cùng.

Châu Đồng nói:

- Tôi nay tuổi đã già yếu nên lâu nay vẫn nương náu với Lưu gia tại Phủ thành. Tôi cũng có chút ít ruộng nương tại đây nên đến đây trước là thăm ruộng, sau là thăm các bạn bè rồi phải về gấp.

Vương Minh nói:

- Lâu ngày vắng mặt, nay đại huynh đã đến đây thì hãy ở chơi ít hôm cho thoả tình bằng hữu, vội gì mà về gấp vậy?

Rồi bảo gia đinh làm cơm thết đãi. Ba ông Viên ngoại cùng Châu Đồng chén tạc chén thù, có vẻ rất tương đắc.

Rượu được vài tuần, Vương Minh hỏi Châu Đồng:

- Tiên sinh cách biệt hơn hai mươi năm rồi, chẳng hay gia quyến hiện ở nơi nào?

Châu Đồng đáp:

- Vợ tôi qua đời đã lâu, còn con tôi thì theo người học trò cũ của tôi là Lưu Tuấn Nghĩa đi đánh giặc Phiên cũng chết trận cách đây ít lâu. Về sau, Lưu Tuấn Nghĩa cũng bị bọn gian thần hãm hại nên nay tôi tứ cố vô thân, còn các hiền đệ năm nay con cái thế nào?

Ba ông Viên ngoại nghe hỏi cùng thở dài:

- Ba anh em tôi, mỗi người đều có một đứa con trai nhưng chúng ương ngạnh quá không thể nào dạy dỗ được, thật là một việc đáng buồn.

Rồi ai nấy đều thuật lại việc hư đốn của con mình cho Châu Đồng nghe. Châu Đồng nói:

- Mấy cháu cũng đã lớn tuổi rồi, sao không mời thầy dạy dỗ nó.

- Có chứ, chúng tôi đã đón rất nhiều thầy về dạy chúng nhưng ông nào cũng bỏ đi mất hết, phần vì chúng không chịu học, phần vì chúng xấc xược chẳng coi thầy ra gì.

Châu Đồng bĩu môi:

- Chỉ vì mấy ông thầy ấy chẳng biết cách dạy dỗ nên mới xảy ra tình trạng ấy, tôi không phải khoe tài chứ tôi mà được ở đây dạy chúng nó, xem chúng nó có dám không nghe lời tôi không.

Ba ông Viên ngoại nghe nói mừng rỡ như bắt được

của, nói:

- Nếu vậy xin đại huynh ở lại đây dạy dỗ lũ cháu cho nên người, thì ơn này chúng tôi tạc dạ ghi xương.

Châu Đồng ngẫm nghĩ giây lâu rồi gật đầu, nói:

- Được tôi cũng vì tình anh em, bè bạn nhận lời ở lại đây dạy dỗ chúng nó xem sao.

Cơm nước xong, hai ông Trương, Thang ra về vui mừng vô hạn. Một tên gia đinh chạy đến nói với Vương Quới:

- Hôm nay ông nhà ta có mời một ông thầy đến dạy học đấy, sắp tới chắc các cậu không thể chơi bời hung hăng như trước được đâu.

Vương Quới nghe nói vội chạy đi tìm Thang Hoài và Trương Hiển chúng bàn với nhau, chuẩn bị đoản côn, thước sắt để đánh lão thầy mới.

Hôm sau, ba ông Viên ngoại dắt con đến cho chúng lạy ra mắt thầy. Châu Đồng bảo:

Ba ông hãy về nghỉ đi, để chúng nó cho tôi dạy dỗ.

Ba người từ biệt về rồi, Châu Đồng gọi Vương Quới lên bảo giở sách ra đọc thử.

Vương Quới trợn mắt đáp:

- Khách chưa đọc, lẽ nào chủ nhân lại đọc trước sao?

- Ông ăn nói bất thông như vậy thì làm thầy ai được?

Dứt lời Vương Quới rút cây thước sắt ra nhắm đầu Châu Đồng đánh xuống, nhưng Châu Đồng đã lanh lẹn tránh khỏi, rồi một tay bắt cây thước sắt, một tay nắm lưng Vương Quới vật xuống lấy roi đánh túi bụi.

Vương Quới là con nhà giàu có từ bé chưa từng bị ăn đòn bao giờ, nay bị mấy roi đau quá, đành chịu phép cho Châu Đồng dạy dỗ, còn Thang Hoài và Trương Hiển thấy thế cũng sợ hãi, vội giấu hết binh khí không dám ngỗ nghịch như trước nữa.

Thế là từ đấy ba đứa trẻ vâng phục lời thầy lo học tập không dám xao lãng.

Nhạc Phi nghe Châu Đồng đến dạy học nên thường lẻn đến nấp sau vách tường nghe giảng, lòng cậu hâm mộ vô cùng.

Bữa nọ có tên tá điền Vương Lão đến xin ra mắt Châu Đồng và nói:

- Tôi làm ruộng của tướng công suốt mười năm, nhưng đến nay mới gặp được tướng công. Tuy vậy, năm nào bán lúa, tôi vẫn để dành bạc, nay nghe Tướng công ở đây nên tôi đến xin Tướng công tính giùm cho để tôi hoàn số bạc lại cho Tướng công.

Châu Đồng nói:

- Ngươi quả là một kẻ tâm phúc ít ai bì kịp.

Rồi ông gọi Vương An dọn mâm cỗ thết đãi người tá điền. Châu Đồng lại hỏi Vương Lão:

- Thế mùa màng năm nay ra sao?

Vương Lão thưa:

- Mấy năm trước hoa màu cũng thường, duy có năm nay chẳng biết tại sao lúa trổ hai bông, tôi đoán đó là điểm tốt cho Tướng công đấy.

Châu Đồng gật đầu:

- Người đoán đúng lắm, lúa trổ hai bông thì chắc chắn ta sắp được gặp quí nhân rồi, thôi thế ngày mai ta với ngươi đi xem thử.

Cơm nước xong xuôi Vương Lão nghỉ lại một đêm, sáng ra Châu Đồng gọi ba trò lại, căn dặn:

- Ta đi có việc cần, các trò hãy ở nhà cố gàng làm bài rồi ta về chấm chữa cho.

Ba người học trò vâng dạ, Châu Đồng thay quần áo đi thăm ruộng.

Chờ cho Châu Đồng đi khỏi, Nhạc Phi bước vào trường. Vương Quới trông thấy mừng rỡ nắm tay Phi giới thiệu cùng Trương Hiển và Thang Hoài:

- Đây là anh Nhạc Phi, người mà cha tôi thường ca ngợi cho là thông minh nhất đời đấy. Nay thầy ta đi vắng lại ra đề để lại bảo chúng ta phải cố gắng làm cho xong, chi bằng mượn anh Nhạc Phi làm hộ, hai anh nghĩ sao?

Hai người kia đều gật đầu tán thưởng.

Nhạc Phi tỏ ý khiêm nhường:

- Tôi chỉ sợ làm không trúng ý của thầy.

Ba người cùng bước tới nắm tay Nhạc Phi.

- Chúng tôi đã nghe tiếng anh nhiều rồi, chớ có khiêm nhường, hãy làm hộ cho chúng tôi đi, chúng tôi tin chắc bài anh làm, thầy tôi không thể chê được đâu.

Vương Quới còn sợ Nhạc Phi từ chối bỏ về nên dắt Nhạc Phi vào thư phòng và căn dặn:

- Nếu anh có đói thì đã có món ăn tôi để sẵn trên gác đó.

Nói rồi đóng cửa khoá chặt nhốt Nhạc Phi ở trong rồi cả ba chạy đi chơi mất hút.

Nhạc Phi lục lại xem các văn bài của ba người đã làm lâu nay để xem tâm khí của họ như thế nào, đoạn lục lại xem các thi văn của Châu Đồng.

Xem văn của Châu Đồng, Nhạc Phi thích chí vỗ bàn nói lớn:

- Nhạc Phi này mà được người này chỉ giáo thì lo chi ngày sau chẳng nên danh?

Dứt lời chàng đứng phắt dậy lấy bút đề ngay tám câu thơ trên vách rồi ra về chẳng đợi bọn Vương Quới quay lại.

- Được tiên sinh cho gọi đến thì còn gì hân hạnh cho bằng, chẳng biết tiên sinh có điều gì chỉ giáo?

Châu Đồng thấy Nhạc Phi tướng mạo khôi ngô, tuổi còn nhỏ mà ăn nói lễ phép, cử chỉ đoan trang nên đem lòng thương mến ngay. Ông bảo Vương Quới kéo ghế mời Nhạc Phi ngồi rồi hỏi:

- Bài thơ trên vách kia có phải cậu viết không?

Nhạc Phi sợ hãi đáp:

- Tiểu tử còn thơ dại nên nhất thời cuồng vọng, xin tiên sinh tha tội.

Châu Đồng lại hỏi:

- Cậu đã có biệt hiệu gì chưa?

- Thưa, thuở mới chào đời, có một tiên sinh đến chơi đặt cho danh hiệu là Bàng Cử.

Châu Đồng gật đầu khen:

- Danh hiệu như thế là hay lắm rồi, còn văn học thì được thầy nào dạy cho?

Nhạc Phi thưa:

- Chỉ vì nhà quá nghèo nên mẹ tiểu tử phải mua sách về dạy và lấy cát bỏ vào khay tập viết cho đỡ tốn tiền.

Ngẫm nghĩ hồi lâu, Châu Đồng nói:

- Cậu về thưa với thân mẫu, mời bà đến đây cho ta hầu chuyện nhé.

Nhạc Phi lắc đầu:

- Không thể được, mẹ cháu là góa phụ, đâu có thể đi như thế được?

Châu Đồng nói:

- Cậu nói đúng lắm, chính ta đã lỡ lời rồi?

Rồi cho gọi Vương Quới vào bảo:

- Trò về thưa với thân mẫu là, nay ta muốn mời bà An Nhân đến đây bàn chút việc học hành cho Nhạc Phi, vậy xin mời lịnh đường đến đây cho có bạn với bà.

Vương Quới vội chạy đi mời bà Viện Quân, Châu Đồng lại bảo Nhạc Phi:

- Ta đã cho mời bà Viện Quân đến, vậy cậu có bằng lòng về thưa với lệnh đường đến đây cho ta thưa chuyện không?

Nhạc Phi vâng lời về thưa với mẹ:

- Châu tiên sinh muốn mời mẹ đến thưa chuyện, người cũng có mời bà Viện Quân đến cho mẹ có bạn, chẳng biết mẹ có vui lòng đến đó không?

Bà An Nhân gật đầu đáp:

- Nếu có bà Viện Quân thì mẹ cũng đến đó thử xem Châu tiên sinh dạy việc gì cho biết.

Rồi bà ta lập tức thay quần áo đi cùng Nhạc Phi thẳng đến nơi tiên sinh Châu Đồng dạy học.

Vừa đến nơi, đã thấy bà Viện Quân có mặt, bước ra tiếp đón nồng hậu.

Sau khi mọi người an toạ, Châu Đồng nói với bà An Nhân:

- Hôm nay tôi mời bà đến đây chỉ vì tôi thấy lệnh lang tướng mạo phương phi, tâm trung xán lạn nên đem lòng mến thương muốn đem tài sở học của mình truyền đạt lại cho cháu. Vậy xin bà cho Nhạc Phi làm con nuôi tôi chẳng biết bà có bằng lòng không?

Bà An Nhân nghe nói lắc đầu, sa nước mắt đáp:

- Khi tôi sinh nó ra mới được ba ngày thì bị nạn lụt khủng khiếp, trong lúc lâm nguy, chồng tôi phó thác nó cho tôi nuôi dưỡng, may nhờ có ân công là vợ chồng Vương Viên ngoại ra tay cứu giúp, ơn ấy mẹ con tôi chưa trả được. Hơn nữa tôi chỉ có một chút con nối dòng họ Nhạc nên việc ấy khó vâng lời, xin tiên sinh chở chấp.

Châu Đồng phân trần:

- Lẽ ra tôi không nên hỏi vậy, nhưng trong văn thơ thấy lệnh lang có chí khí lớn, ngày sau ắt nên danh vọng, tiếc thay không có thầy hay dạy dỗ, cung như ngọc kia không được giũa mài cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi. Chẳng phải tôi dám khoe tài, song tôi đã từng dạy hai đứa học trò làm nên danh phận, chỉ vì rủi ro bị kẻ gian thần hãm hại. Nay nhận lời của Vương viên ngoại dạy ba đứa này xét ra chí khí thua kém Nhạc Phi xa. Nếu được bà ưng thuận, tôi chỉ gá tiếng là dưỡng phụ mà thôi, chớ không dám cải danh diệt tính. Còn việc xưng hô cha con là để cho tăng phần thân mật, tôi mới có thể đem hết bình sinh sở học truyền đạt lại cho cháu và sau này tôi có cười hạc quy tiên thì có người chôn cất là đủ rồi, xin bà hãy an tâm.

Bà An Nhân còn suy tính chưa biết nên trả lời bằng cách nào cho phải thì Nhạc Phi đã chạy ra, chắp tay thưa với Châu Đồng:

- Nếu kết tình phụ tử mà không phải thay tên, đổi họ thì con xin ưng thuận, vậy xin gia gia hãy ngồi lại cho con tạ lễ.

Dứt lời, Nhạc Phi quỳ lạy tám lạy.

Nhạc Phi hành động như vậy chẳng phải là không tuân lời mẹ song cũng vì chàng ái mộ tài học của Châu tiên sinh đã lâu, muốn cho người giáo huấn thi thơ, thụ truyền võ nghệ. Ngờ đâu trong tám lạy ấy mà sau này Nhạc Phi làm đến chức Võ Xương Khai Quốc Công, Thái Tử Thiếu Bảo, Tổng Đốc bình lương, thống thuộc văn võ Đô Đốc Đại Nguyên Soái. Nhưng đó là chuyện của mấy chục năm sau. Hãy quay lại chuyện Nhạc Phi quỳ lạy nhận dưỡng phụ.

Lạy xong, Nhạc Phi còn làm lễ lạy vợ chồng Vương Viên ngoại và mẹ chàng nữa. Bà An Nhân nửa buồn nửa vui, nhưng vì con bà đã ưng thuận bà cũng đành phải chấp thuận theo.

Vợ chồng Vương Viên ngoại sai bày tiệc đãi đằng, mời cả Trương Đạt, Thang Văn Trọng đến dự rồi ai về nhà nấy.

Hôm sau Nhạc Phi vào trường học, Châu Đồng cho bốn trò kết nghĩa anh em, ai nấy đều tỏ cho cha mẹ mình hay, các ông bà ấy thảy đều mừng rỡ.

Từ đó Châu Đồng đem hết mười tám môn võ nghệ truyền đạt cho Nhạc Phi, chàng sẵn có khiếu thông minh hơn người nên tiếp thu rất chu đáo.

Ngày tháng thoi đưa, bóng thiều quang thấm thoắt, hạ hết thu sang, Nhạc Phi đã lên mười ba tuổi, mấy anh em cũng đều ở lại thư phòng, sớm tối chăm lo học tập, chẳng bao lâu ai nấy đều võ nghệ tinh thông, văn chương uyên bác.

Một hôm vào tiết tháng ba, khí trời mát mẻ, Châu Đồng gọi Nhạc Phi vào, bảo:

- Hôm nay thầy bận đi thăm một người bạn là ông Chí Minh trưởng lão ở tại Lịch Tuyền, con hãy ở nhà cùng với mấy anh em đừng xao lãng học tập nhé?

Nhạc Phi thưa:

- Đường đi từ đây đến Lịch Tuyền xa xôi lại vắng vẻ, gia gia đi một mình e bất tiện, chi bằng cho chúng con đi với và để thăm tiên sinh luôn thể.

Châu Đồng gật đầu vui lòng, rồi năm thầy trò sắm sửa hành trang lên đường thẳng đến Lịch Tuyền.

Đường đi phải băng qua nhiều khu rừng rậm rạp, cây cối um tùm, chim kêu vượn hú trên cành, càng tăng thêm cảnh vắng vẻ của rừng sâu.

Khi đi qua một hòn núi nhỏ, Châu Đồng trông thấy nơi ấy địa thế rất đẹp, bên đứng lại ngắm nghía hồi lâu rồi hỏi:

- Chẳng biết chỗ này là đất của ai?

Vương Quới thưa:

- Nơi đây là đất của phụ thân con, nếu thầy xem phong cảnh này có hợp ý thì sau này thầy có quy tiên, chúng con sẽ đem thầy đến đây làm nơi an giấc.

Nhạc Phi lườm Vương Quới một cái và nói:

- Gia gia tôi đang sống thế này mà sao anh dám loạn ngôn như vậy?

Châu Đồng khoả tay:

- Không hề chi, người đời ai mà khỏi chết? Nếu sau này thầy có mãn phần rồi, các con đem xác thầy đến chỗ này chôn cất thì thầy mãn nguyện vô cùng.

Đi chẳng bao lâu nữa, gia trang của trưởng lão Chí Minh đã hiện ra trước mặt, tuy không đồ sộ nguy nga lắm song cũng rộng rãi mát mẻ, nấp dưới lùm cây cổ thụ hoa quả tốt tươi trông ngoạn mục lắm.

Châu Đồng gõ cửa, một tiểu đồng từ bên trong chạy ra vái chào, Châu Đồng bảo:

- Phiền cháu vào thưa lại với tiên sinh Chí Minh răng có người ở Hiệp Tây tên là Châu Đồng đến thăm.

Tiểu đồng cúi đầu vâng dạ rồi chạy thẳng vào trong, chỉ trong chốc lát đã thấy trưởng lão Chí Minh chống gậy bước ra tiếp đón niềm nở.

Mọi người vào nhà, trưởng lão mời ngồi đãi trà nước, có hai học trò đứng hầu hai bên.

Trong lúc đàm đạo văn chương, trưởng lão Chí Minh liếc thấy Nhạc Phi tướng mạo khôi ngô, cốt cách phi phàm, ông ta tấm tắc khen thầm rồi ông gọi tiểu đồng đem thức ăn lên thết đãi.

Đêm hôm ấy, thầy trò Châu Đồng nghỉ lại ở gia trang, rạng ngày sau mới từ tạ ra về. Trưởng Lão nằng nặc mời ở lại dùng cơm rồi mới cho đi. Khi tiểu đồng bưng trà lên, Châu Đồng vui miệng hỏi:

- Tôi có nghe người ta đồn rằng ở đây có suối Lịch Tuyền dùng nước suối ấy nấu trà uống ngon lắm phải không?

Trưởng lão đáp:

- Đúng đấy, nước trong suối Lịch Tuyền mà dùng nấu nước trà uống thì ngon tuyệt, nước ấy nếu đem rửa mặt thì mắt mờ sẽ sáng ngay. Lâu nay hễ có khách, tôi vẫn dùng nước ấy nấu nước trà đãi, ngờ đâu gần đây có một con quái không biết từ đâu đến, thường ngày nó hay phun một thứ khói độc làm hôn mê, nên không ai dám bén mảng đến đó nữa.

Châu Đồng chắt lưỡi than:

- Thế thì tại tôi vô duyên nên đến đây gặp trở ngại không được dùng nước Lịch Tuyền.

Nhạc Phi nghe nói nghĩ thầm:

"Quả nước Lịch Tuyền quí giá như vậy thì dù con quái vật ấy có lợi hại đến đâu ta cũng quyết đến đó lấy nước cho kỳ được. Hay là tiên sinh Chí Minh tìm cách nói đùa chăng? Nhất định phen này ta phải đến đó lấy nước đem về để gia gia ta rửa mặt mới được.

Nghĩ đoạn, Nhạc Phi hỏi tiểu đồng thăm dò đường đi đến suối Lịch Tuyền, rồi bưng chén trà lớn đi thẳng ra phía sau am.

Đi quanh co hồi lâu, chàng trông thấy tại cửa núi có một vòi nước phun ra nước trong vắt, phía trên có một tảng đá lớn bên trên có khắc một hàng chữ:

- "Lịch Tuyền kỳ phẩm".

Đây chính là bút tích của ông Tô Đông Pha viết, bên trong vòi nước ấy có một động đá, trong động ló ra một chiếc đầu rắn khổng lồ, đôi mắt rắn sáng chói như hai chiếc đèn pha, miệng rắn há hốc ra để lộ mấy hàm răng gớm ghiếc, nước bọt từ trong miệng rắn nhỏ xuống từng giọt một màu trắng đục.

Nhạc Phi lẩm bẩm:

- Con quái xà này từ đâu đến đây phá rối, để ta giết quách cho thiên hạ nhờ.

Nói đoạn, chàng để chén xuống, nhặt một viên đá lớn nhắm ngay đầu rắn ném một cái thật mạnh. Viên đá trúng ngay chính giữa đỉnh đầu rắn, nhưng không thấy con rắn nao núng gì cả, nó liền phun ra một chất khói lam, đồng thời há miệng thè chiếc lưỡi đỏ loét, quăng mình tới mổ Nhạc Phi, nhưng chàng đã lanh lẹ tránh khỏi, với tay nắm lấy đuôi rắn chàng toan vụt một cái, nhưng lạ thay, Nhạc Phi xem kỹ lại thì trong tay cái đuôi rắn biến đâu mất mà chỉ có một cây thương láng bóng, trên cán có chạm một hàng chữ "Lịch Tuyền Thần Mâu".

Nhạc Phi mừng rỡ khôn xiết, chàng xách chén cầm thương chạy thẳng về am. Kể lại mọi chuyện cho Châu Đồng nghe, ai nấy đều mừng rỡ. Trưởng Lão Chí Minh nói:

- Cây thương "Lịch Tuyền thần mâu" này là vật báu của thần linh nay đã về tay lệnh lang ắt sau này sẽ được đăng đài bái tướng đấy chứ chẳng chơi đâu.

Ngừng giây lát, trưởng lão nói:

- Sẵn đây tôi có cuốn sách binh thư bí truyền trong đó có truyền đầy đủ thương pháp và cách bày binh bố trận nữa, nhưng sách này chỉ người nào có binh khí thần linh mới có thể dùng được, nay lệnh lang đã có duyên như vậy tôi xin trao sách ấy cho, hãy xem trong ấy cố mà luyện tập, bây giờ tôi phải trở về ở tại Ngũ Đài sơn, chắc có lẽ khó mà gặp mặt nhau được. Chí Minh trưởng lão nói, hai mươi năm về sau, học trò tôi là Đạo Duyệt sẽ đến tại Kim Sơn để gặp lệnh lang, mong lang hãy nhớ lời tôi dặn và xin cáo biệt ngay đây.

Châu Đồng nói:

Nói vậy thì tôi làm lỗi với tiên sinh rồi.

Trưởng lão nói:

- Không phải, đó là do nơi tiền định có tội gì đến ngài đâu?

Nói đoạn Chí Minh trưởng lão vào phòng lấy cuốn binh thư giao cho Châu Đồng, rồi Châu Đồng giao cho Nhạc Phi cất giữ. Thầy trò từ biệt xuống núi về nhà.

Sáng hôm sau, Châu Đồng hỏi Thang Hoài:

- Ngươi muốn học môn gì?

Thang Hoài đáp:

- Con thấy Nhạc huynh múa thương tốt lắm, nên con cũng muốn học thương.

Thế là Châu Đồng dạy thương pháp cho Thang Hoài. Còn Trương Hiển lại bảo:

- Thương thì tốt lắm, nhưng con lại muốn sử dụng thứ vũ khí gì đã đâm lại móc lại được nữa cơ. Vũ khí ấy chính là câu liêm thương đây, để ta vẽ kiểu cho con đến thợ rèn đặt làm một cái đem về ta dạy cho.

Vương Quới lại bảo:

- Thưa thày, con chỉ muốn sử dụng cây đại đao thôi vì đại đao chém chết được nhiều mạng hơn.

Châu Đồng biết Vương Quới là kẻ dũng phu nên cười thầm và nói:

- Được nếu con thích đại đao thì thầy sẽ dạy cho.

Từ đó về sau hễ hai ngày học văn thì một ngày luyện võ. ông Châu Đồng trước kia là người làm đến chức Đầu mục, cai quản tám mươi ngàn cấm quân tại Đông Kinh nên võ nghệ cao cường, ông đã từng dạy người học trò xuất chúng tên là Lưu Tuấn Nghĩa, nay lại có Nhạc Phi tuổi còn nhỏ mà có sức mạnh phi thường, ông ta vô cùng hoan hỉ, đem hết mười tám môn võ nghệ truyền đạt cho Nhạc Phi, nếu so sánh với hai người học trò trước kia, Nhạc Phi còn hơn gấp bội.

Một hôm Vương Viên ngoại cùng Châu Tiên sinh đi dạo chơi giải buồn, bỗng có lý trưởng sở tại đến ra mắt và thưa:

- Huyện đường ta sắp có cuộc khảo thi võ nghệ, tôi cũng muốn hiển vinh cho làng xóm nên đã đem tên bốn vị tiểu tướng công đến đăng vào xin ứng thí, vậy nay bổn chức xin tin cho chư vị biết để sắm sửa vào ngày rằm tháng này tựu trường.

Vương Minh cau mày nhìn lý trưởng bảo:

- Ông muốn đem con cháu chúng tôi ra ứng thí, ít ra cũng phải cho chúng tôi biết trước đã chớ, phỏng như chúng nó chưa đủ tư cách ra thí võ với người thì sao?

Châu Đồng xen vào nói:

- Chẳng hề chi đâu, tôi xét ra ông lý đây làm như vậy là tốt bụng và thịnh tình, tuy đồ đệ tôi còn nhỏ tuổi, nhưng trò nào cũng đủ tư cách ra tỷ thí với người cả rồi.

Châu Đồng lại căn dặn ba ông Viên ngoại về sắm sửa cho con mình đi thi võ. Hôm sau về trường, lại gọi các trò đến bảo:

- Các con hãy chuẩn bị áo quần tử tế và mang theo vũ khí sở trường đúng ngày rằm tháng này, đến trường thi võ đấy nhé!

Vương Quới, Thang Hoài, Trương Hiển vâng lời vội trở về nhà ngay, Châu Đồng lại bảo Nhạc Phi về thưa với thân mẫu sắm sửa đồ đạc lên đường.

Nhạc Phi thưa:

- Chắc khoa này con không đi được, xin hẹn lại khoa khác.

Châu Đồng ngạc nhiên:

- Tại sao vậy?

- Thưa gia gia, riêng phận con nghèo nàn rách rưới lấy chi sắm được ngựa và áo quần để đi với người ta? Vì vậy con xin chờ khoá sau thì hơn.

Châu Đồng suy nghĩ giây lâu, gọi Nhạc Phi bảo:

- Thôi con hãy vào phòng lấy chiếc áo Tố Bạch của ta đem về thưa cùng lệnh đường sửa chữa lại cho vừa mà mặc. Con nhớ lấy cả dây Hồng Lan nữa nhé. Còn ngựa thì không lo gì, con cứ việc lấy con ngựa của ta mà dùng.

Nhạc Phi bước vào phòng lãnh áo rồi bước ra lạy tạ trở về nhà thưa lại với mẹ. Bà An Nhân vui mừng khôn xiết.

Hôm sau, Châu Đồng đang ngồi xem sách bỗng nghe phía trước có tiếng động, vội nhìn ra thì thấy Thang Hoài đến. Anh ta xúng xính trong bộ quần áo mới cưỡi con ngựa ô, lưng đeo cung tiễn trông oai vệ lắm. Chàng lạy thầy một lạy và thưa:

- Xin thầy xem con ăn mặc thế này đi ứng thí với người ta có được không?

Châu Đồng gật đầu khen ngợi, rồi Vương Quới và Trương Hiển cũng lần lượt đến làm lễ thầy, người nào cũng nai nịt chỉnh tề, lưng đeo cung tiễn trông ra dáng con nhà võ lắm.

Châu Đồng bảo:

- Ba trò hãy về thưa lại với phụ thân, đến ngày ấy cứ việc tự nhiên đến trường thi, đừng đợi ta làm gì, miễn khi đến tỉnh thành, chúng tạ gặp mặt nhau là đủ rồi.

Ba trò vừa bái tạ ra về thì Nhạc Phi đến, ông Châu Đồng vỗ vai chàng bảo:

- Ngày mai ta sẽ sang dùng cơm bên nhà con rồi cùng đi luôn.

Nhạc Phi lấy làm ái ngại:

- Nhà con nghèo nàn biết lấy chi đãi gia gia cho xứng đáng!

- Con chớ nên ngại việc ấy, chúng ta đã kết tình phụ tử thì có gì dùng nấy mới thân mật chứ.

Nhạc Phi về thưa lại với mẹ, rồi sáng hôm sau, khi cơm nước xong xuôi, Châu Đồng cùng Nhạc Phi dắt nhau xuống tỉnh thành. Nơi đây thiên hạ đông đảo, nhan nhản những phòng trà quán rượu có đủ hạng người, náo nhiệt và vui vẻ vô chừng. Cha con Nhạc Phi ghé vào tiệm uống trà nghỉ mát, còn ba ông Viên ngoại là người giàu có, nên vào ngay tửu lầu gọi những thức ăn cao lương mỹ vị thết đãi bạn bè đồng thời cho người đi tìm Châu Đồng và Nhạc Phi.

Hồi thứ tư

Làng Kỳ Lân, Châu Đồng nhận nghĩa tử

Suối Lịch Tuyền, Nhạc Phi được thần mâu

Nhạc Phi vừa ra khỏi thư phòng thì bọn Vương Quới cũng kịp về nhà.

Châu Đồng bước vào phòng không để ý mọi việc xung quanh, chỉ cúi đầu suy nghĩ:

"Lúa trổ hai bông là một chuyện lạ lùng, chẳng lẽ trong cái thôn bé nhỏ, hẻo lánh thế này lại có quí nhân sao?".

Đang suy nghĩ, bỗng thấy ba cuốn vở để trước mặt Châu Đồng bèn giở ra xem, thì lạ thay, văn bài của ba người học trò mình hôm nay từ lý rất thông, nét chữ lại sắc sảo tiên sinh nghĩ thầm:

"Lẽ nào ba đứa này học hành lại mau tấn tới đến thế Hay là thời vận ta may mắn nên chúng mau giỏi chăng?".

Châu Đồng lại đem những bài cũ của học trò ra so sánh thì thấy các bài cũ chẳng thông suốt tý nào cả nên lại nghĩ:

"Hay là trong khi ta đi vắng, ở nhà chúng nó mượn ai làm cũng nên, nhưng kẻ nào làm đây phải là người tài giỏi, chí khí hơn người, để ta hỏi xem cho biết".

Nghĩ đoạn Châu Đồng gọi Vương Quới hỏi:

- Khi ta đi vắng, có ai đến thư phòng không?

Vương Quới thưa:

- Thưa thầy, con không thấy ai đến đây cả.

Đang lúc ngờ vực. Châu Đồng vụt nhìn lên trên vách thấy bài thơ của Nhạc Phi, vội bước đến xem. Bài thơ viết:

Phục thầy, hạ bút đôi câu

Công hầu, khanh tướng biết đâu mà cười

Tâm trong Tiêu Hán sẵn rồi

Còn chờ cảnh ngộ rạng ngời Đẩu Ngưu

Anh hùng chí cả noi theo

Rồng mây gặp hội, thỏa điều ước mong

Công danh hai chữ chưa xong

Tiếu đàm thiên hạ, bận tâm làm gì.

Thơ tuy chẳng hay lắm song thi pháp đáng khen, lại có khí chất anh hùng, cuối cùng lại đề rõ danh tự Nhạc Phi. Châu Đồng mới biết đây là người mà ông Vương Viên ngoại khen là kẻ thông minh hiếm có trên đời.

Châu Đồng trợn mắt nhìn Vương Quới quát mắng:

- Rõ ràng có Nhạc Phi đến thư phòng viết thơ trên vách đây sao các ngươi lại chối quanh? Hèn chi ba bài văn của chúng bay hôm nay khác xa, đúng là Nhạc Phi làm hộ cho chúng bay rồi. Thôi hãy đi mời hắn đến đây cho ta bảo gấp.

Vương Quới cúi đầu vâng dạ rồi chạy thẳng đến nhà Nhạc Phi bảo:

- Lúc nãy anh đến thư phòng chúng tôi chơi, nhưng không biết anh viết những gì trên vách mà thầy cho đi mời anh. Chắc thế nào thầy tôi cũng đánh anh đấy.

Bà An Nhân nghe nói thì kinh hãi, nhưng khi nghe Vương Quốc nói: "Thầy bảo đi mời" thì lòng mới bớt lo. Bà bảo Nhạc Phi.

- Con có qua thì phải hết sức lễ phép với người nhé!

Nhạc Phi chắp tay:

- Con xin vâng lời mẹ, con quyết không khi nào làm phiền lòng mẹ đâu.

Rồi Nhạc Phi theo chân Vương Quới đến thư phòng ra mắt Châu Đồng. Sau khi xá bốn vái, Nhạc Phi đứng tránh một bên chắp tay thưa:- Được tiên sinh cho gọi đến thì còn gì hân hạnh cho bằng, chẳng biết tiên sinh có điều gì chỉ giáo?

Châu Đồng thấy Nhạc Phi tướng mạo khôi ngô, tuổi còn nhỏ mà ăn nói lễ phép, cử chỉ đoan trang nên đem lòng thương mến ngay. ông bảo Vương Quới kéo ghế mời Nhạc Phi ngồi rồi hỏi:

- Bài thơ trên vách kia có phải cậu viết không?

Nhạc Phi sợ hãi đáp:

- Tiểu tử còn thơ dại nên nhất thời cuồng vọng, xin tiên sinh tha tội.

Châu Đồng lại hỏi:

- Cậu đã có biệt hiệu gì chưa?

- Thưa, thuở mới chào đời, có một tiên sinh đến chơi đặt cho danh hiệu là Bàng Cử.

Châu Đồng gật đầu khen:

- Danh hiệu như thế là hay lắm rồi, còn văn học thì được thầy nào dạy cho?

Nhạc Phi thưa:

- Chỉ vì nhà quá nghèo nên mẹ tiểu tử phải mua sách về dạy và lấy cát bỏ vào khay tập viết cho đỡ tốn tiền.

Ngẫm nghĩ hồi lâu, Châu Đồng nói:

- Cậu về thưa với thân mẫu, mời bà đến đây cho ta hầu chuyện nhé.

Nhạc Phi lắc đầu:

- Không thể được, mẹ cháu là góa phụ, đâu có thể đi như thế được?

Châu Đồng nói:

- Cậu nói đúng lắm, chính ta đã lỡ lời rồi?

Rồi cho gọi Vương Quới vào bảo:

- Trò về thưa với thân mẫu là, nay ta muốn mời bà An Nhân đến đây bàn chút việc học hành cho Nhạc Phi, vậy xin mời lịnh đường đến đây cho có bạn với bà.

Vương Quới vội chạy đi mời bà Viện Quân, Châu Đồng lại bảo Nhạc Phi:

- Ta đã cho mời bà Viện Quân đến, vậy cậu có bằng lòng về thưa với lệnh đường đến đây cho ta thưa chuyện không?

Nhạc Phi vâng lời về thưa với mẹ:

- Châu tiên sinh muốn mời mẹ đến thưa chuyện, người cũng có mời bà Viện Quân đến cho mẹ có bạn, chẳng biết mẹ có vui lòng đến đó không? .

Bà An Nhân gật đầu đáp:

- Nếu có bà Viện Quân thì mẹ cũng đến đó thử xem Châu tiên sinh dạy việc gì cho biết.

Rồi bà ta lập tức thay quần áo đi cùng Nhạc Phi thẳng đến nơi tiên sinh Châu Đồng dạy học.

Vừa đến nơi, đã thấy bà Viện Quân có mặt, bước ra tiếp đón nồng hậu.

Sau khi mọi người an toạ, Châu Đồng nói với bà An Nhân:

- Hôm nay tôi mời bà đến đây chỉ vì tôi thấy lệnh lang tướng mạo phương phi, tâm trung xán lạn nên đem lòng mến thương muốn đem tài sở học của mình truyền đạt lại cho cháu. Vậy xin bà cho Nhạc Phi làm con nuôi tôi chẳng biết bà có bằng lòng không?

Bà An Nhân nghe nói lắc đầu, sa nước mắt đáp:

- Khi tôi sinh nó ra mới được ba ngày thì bị nạn lụt khủng khiếp, trong lúc lâm nguy, chồng tôi phó thác nó cho tôi nuôi dưỡng, may nhờ có ân công là vợ chồng Vương Viên ngoại ra tay cứu giúp, ơn ấy mẹ con tôi chưa trả được. Hơn nữa tôi chỉ có một chút con nối dòng họ Nhạc nên việc ấy khó vâng lời, xin tiên sinh chở chấp.

Châu Đồng phân trần:

- Lẽ ra tôi không nên hỏi vậy, nhưng trong văn thơ thấy lệnh lang có chí khí lớn, ngày sau ắt nên danh vọng, tiếc thay không có thầy hay dạy dỗ, cung như ngọc kia không được giũa mài cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi. Chẳng phải tôi dám khoe tài, song tôi đã từng dạy hai đứa học trò làm nên danh phận, chỉ vì rủi ro bị kẻ gian thần hãm hại. Nay nhận lời của Vương viên ngoại dạy ba đứa này xét ra chí khí thua kém Nhạc Phi xa. Nếu được bà ưng thuận, tôi chỉ gá tiếng là dưỡng phụ mà thôi, chớ không dám cải danh diệt tính. Còn việc xưng hô cha con là để cho tăng phần thân mật, tôi mới có thể đem hết bình sinh sở học truyền đạt lại cho cháu và sau này tôi có cười hạc quy tiên thì có người chôn cất là đủ rồi, xin bà hãy an tâm.

Bà An Nhân còn suy tính chưa biết nên trả lời bằng cách nào cho phải thì Nhạc Phi đã chạy ra, chắp tay thưa với Châu Đồng:

- Nếu kết tình phụ tử mà không phải thay tên, đổi họ thì con xin ưng thuận, vậy xin gia gia hãy ngồi lại cho con tạ lễ.

Dứt lời, Nhạc Phi quỳ lạy tám lạy.

Nhạc Phi hành động như vậy chẳng phải là không tuân lời mẹ song cũng vì chàng ái mộ tài học của Châu tiên sinh đã lâu, muốn cho người giáo huấn thi thơ, thụ truyền võ nghệ. Ngờ đâu trong tám lạy ấy mà sau này Nhạc Phi làm đến chức Võ Xương Khai Quốc Công, Thái Tử Thiếu Bảo, Tổng Đốc bình lương, thống thuộc văn võ Đô Đốc Đại Nguyên Soái. Nhưng đó là chuyện của mấy chục năm sau. Hãy quay lại chuyện Nhạc Phi quỳ lạy nhận dưỡng phụ.

Lạy xong, Nhạc Phi còn làm lễ lạy vợ chồng Vương Viên ngoại và mẹ chàng nữa. Bà An Nhân nửa buồn nửa vui, nhưng vì con bà đã ưng thuận bà cũng đành phải chấp thuận theo.

Vợ chồng Vương Viên ngoại sai bày tiệc đãi đằng, mời cả Trương Đạt, Thang Văn Trọng đến dự rồi ai về nhà nấy.

Hôm sau Nhạc Phi vào trường học, Châu Đồng cho bốn trò kết nghĩa anh em, ai nấy đều tỏ cho cha mẹ mình hay, các ông bà ấy thảy đều mừng rỡ.

Từ đó Châu Đồng đem hết mười tám môn võ nghệ truyền đạt cho Nhạc Phi, chàng sẵn có khiếu thông minh hơn người nên tiếp thu rất chu đáo.

Ngày tháng thoi đưa, bóng thiều quang thấm thoắt, hạ hết thu sang, Nhạc Phi đã lên mười ba tuổi, mấy anh em cũng đều ở lại thư phòng, sớm tối chăm lo học tập, chẳng bao lâu ai nấy đều võ nghệ tinh thông, văn chương uyên bác.

Một hôm vào tiết tháng ba, khí trời mát mẻ, Châu

Đồng gọi Nhạc Phi vào, bảo:

- Hôm nay thầy bận đi thăm một người bạn là ông Chí Minh trưởng lão ở tại Lịch Tuyền, con hãy ở nhà cùng với mấy anh em đừng xao lãng học tập nhé!

Nhạc Phi thưa:

- Đường đi từ đây đến Lịch Tuyền xa xôi lại vắng vẻ, gia gia đi một mình e bất tiện, chi bằng cho chúng con đi với và để thăm tiên sinh luôn thể.

Châu Đồng gật đầu vui lòng, rồi năm thầy trò sắm sửa hành trang lên đường thẳng đến Lịch Tuyền.

Đường đi phải băng qua nhiều khu rừng rậm rạp, cây cối um tùm, chim kêu vượn hú trên cành, càng tăng thêm cảnh vắng vẻ của rừng sâu.

Khi đi qua một hòn núi nhỏ, Châu Đồng trông thấy nơi ấy địa thế rất đẹp, bên đứng lại ngắm nghía hồi lâu rồi hỏi:

- Chẳng biết chỗ này là đất của ai?

Vương Quới thưa:

Nơi đây là đất của phụ thân con, nếu thầy xem phong cảnh này có hợp ý thì sau này thầy có quy tiên, chúng con sẽ đem thầy đến đây làm nơi an giấc.

Nhạc Phi lườm Vương Quới một cái và nói:

- Gia gia tôi đang sống thế này mà sao anh dám loạn ngôn như vậy?

Châu Đồng khoả tay:

- Không hề chi, người đời ai mà khỏi chết? Nếu sau này thầy có mãn phần rồi, các con đem xác thầy đến chỗ này chôn cất thì thầy mãn nguyện vô cùng.

Đi chẳng bao lâu nữa, gia trang của trưởng lão Chí Minh đã hiện ra trước mặt, tuy không đồ sộ nguy nga lắm song cũng rộng rãi mát mẻ, nấp dưới lùm cây cổ thụ hoa quả tốt tươi trông ngoạn mục lắm.

Châu Đồng gõ cửa, một tiểu đồng từ bên trong chạy ra vái chào, Châu Đồng bảo:

- Phiền cháu vào thưa lại với tiên sinh Chí Minh rằng có người ở Hiệp Tây tên là Châu Đồng đến thăm.

Tiểu đồng cúi đầu vâng dạ rồi chạy thẳng vào trong, chỉ trong chốc lát đã thấy trưởng lão Chí Minh chống gậy bước ra tiếp đón niềm nở.

Mọi người vào nhà, trưởng lão mời ngồi đãi trà nước, có hai học trò đứng hầu hai bên.

Trong lúc đàm đạo văn chương, trưởng lão Chí Minh liếc thấy Nhạc Phi tướng mạo khôi ngô, cốt cách phi phàm, ông ta tấm tắc khen thầm rồi ông gọi tiểu đồng đem thức ăn lên thết đãi.

Đêm hôm ấy, thầy trò Châu Đồng nghỉ lại ở gia trang, rạng ngày sau mới từ tạ ra về. Trưởng Lão nằng nặc mời ở lại dùng cơm rồi mới cho đi. Khi tiểu đồng bưng trà lên, Châu Đồng vui miệng hỏi:

- Tôi có nghe người ta đồn rằng ở đây có suối Lịch Tuyền dùng nước suối ấy nấu trà uống ngon lắm phải không?

Trưởng lão đáp:

- Đúng đấy, nước trong suối Lịch Tuyền mà dùng nấu nước trà uống thì ngon tuyệt, nước ấy nếu đem rửa mặt thì mắt mờ sẽ sáng ngay. Lâu nay hễ có khách, tôi vẫn dùng nước ấy nấu nước trà đãi, ngờ đâu gần đây có một con quái không biết từ đâu đến, thường ngày nó hay phun một thứ khói độc làm hôn mê, nên không ai dám bén mảng đến đó nữa.

Châu Đồng chất lưỡi than:

Thế thì tại tôi vô duyên nên đến đây gặp trở ngại

không được dùng nước Lịch Tuyền.

Nhạc Phi nghe nói nghĩ thầm:

"Quả nước Lịch Tuyền quí giá như vậy thì dù con quái vật ấy có lợi hại đến đâu ta cũng quyết đến đó lấy nước cho kỳ được. Hay là tiên sinh Chí Minh tìm cách nói đùa chăng? Nhất định phen này ta phải đến đó lấy nước đem về để gia gia ta rửa mặt mới được.

Nghĩ đoạn, Nhạc Phi hỏi tiểu đồng thăm dò đường đi đến suối Lịch Tuyền, rồi bưng chén trà lớn đi thẳng ra phía sau am.

Đi quanh co hồi lâu, chàng trông thấy tại cửa núi có một vòi nước phun ra nước trong vắt, phía trên có một tảng đá lớn bên trên có khắc một hàng chữ:

- "Lịch Tuyền kỳ phẩm".

Đây chính là bút tích của ông Tô Đông Pha viết, bên trong vòi nước ấy có một động đá, trong động ló ra một chiếc đầu rắn khổng lồ, đôi mắt rắn sáng chói như hai chiếc đèn pha, miệng rắn há hốc ra để lộ mấy hàm răng gớm ghiếc, nước bọt từ trong miệng rắn nhỏ xuống từng giọt một màu trắng đục.

Nhạc Phi lẩm bẩm:

- Con quái xà này từ đâu đến đây phá rối, để ta giết quách cho thiên hạ nhờ.

Nói đoạn, chàng để chén xuống, nhặt một viên đá lớn nhắm ngay đầu rắn ném một cái thật mạnh. Viên đá trúng ngay chính giữa đỉnh đầu rắn, nhưng không thấy con rắn nao núng gì cả, nó liền phun ra một chất khói lam, đồng thời há miệng thè chiếc lưỡi đỏ loét, quăng mình tới mổ Nhạc Phi, nhưng chàng đã lanh lẹ tránh khỏi, với tay nắm lấy đuôi rắn chàng toan vụt một cái, nhưng lạ thay, Nhạc Phi xem kỹ lại thì trong tay cái đuôi rắn biến đâu mất mà chỉ có một cây thương láng bóng, trên cán có chạm một hàng chữ "Lịch Tuyền Thần Mâu".

Nhạc Phi mừng rỡ khôn xiết, chàng xách chén cầm thương chạy thẳng về am. Kể lại mọi chuyện cho Châu Đồng nghe, ai nấy đều mừng rỡ. Trưởng Lão Chí Minh nói:

- Cây thương "Lịch Tuyền thần mâu" này là vật báu của thần linh nay đã về tay lệnh lang ắt sau này sẽ được đăng đài bái tướng đấy chứ chẳng chơi đâu.

Ngừng giây lát, trưởng lão nói:

- Sẵn đây tôi có cuốn sách binh thư bí truyền trong đó có truyền đầy đủ thương pháp và cách bày binh bố trận nữa, nhưng sách này chỉ người nào có binh khí thần linh mới có thể dùng được, nay lệnh lang đã có duyên như vậy tôi xin trao sách ấy cho, hãy xem trong ấy cố mà luyện tập, bây giờ tôi phải trở về ở tại Ngũ Đài sơn, chắc có lẽ khó mà gặp mặt nhau được. Chí Minh trưởng lão nói, hai mươi năm về sau, học trò tôi là Đạo Duyệt sẽ đến tại Kim Sơn để gặp lệnh lang, mong lang hãy nhớ lời tôi dặn và xin cáo biệt ngay đây.

Châu Đồng nói:

- Nói vậy thì tôi làm lỗi với tiên sinh rồi.

Trưởng lão nói:

- Không phải, đó là do nơi tiền định có tội gì đến ngài đâu?

Nói đoạn Chí Minh trưởng lão vào phòng lấy cuốn binh thư giao cho Châu Đồng, rồi Châu Đồng giao cho Nhạc Phi cất giữ. Thầy trò từ biệt xuống núi về nhà.

Sáng hôm sau, Châu Đồng hỏi Thang Hoài:

- Ngươi muốn học môn gì?

Thang Hoài đáp:

- Con thấy Nhạc huynh múa thương tốt lắm, nên con cũng muốn học thương.

Thế là Châu Đồng dạy thương pháp cho Thang Hoài. Còn Trương Hiển lại bảo:

- Thương thì tốt lắm, nhưng con lại muốn sử dụng thứ vũ khí gì đã đâm lại móc lại được nữa cơ.

- Vũ khí ấy chính là câu liêm thương đây, để ta vẽ kiểu cho con đến thợ rèn đặt làm một cái đem về ta dạy cho.

Vương Quới lại bảo:

- Thưa thày, con chỉ muốn sử dụng cây đại đao thôi vì đại đao chém chết được nhiều mạng hơn.

Châu Đồng biết Vương Quới là kẻ dũng phu nên cười thầm và nói:

- Được nếu con thích đại đao thì thầy sẽ dạy cho.

Từ đó về sau hễ hai ngày học văn thì một ngày luyện võ. ông Châu Đồng trước kia là người làm đến chức Đầu mục, cai quản tám mươi ngàn cấm quân tại Đông Kinh nên võ nghệ cao cường, ông đã từng dạy người học trò xuất chúng tên là Lưu Tuấn Nghĩa, nay lại có Nhạc Phi tuổi còn nhỏ mà có sức mạnh phi thường, ông ta vô cùng hoan hỉ, đem hết mười tám môn võ nghệ truyền đạt cho Nhạc Phi, nếu so sánh với hai người học trò trước kia, Nhạc Phi còn hơn gấp bội.

Một hôm Vương Viên ngoại cùng Châu Tiên sinh đi dạo chơi giải buồn, bỗng có lý trưởng sở tại đến ra mắt và thưa:

- Huyện đường ta sắp có cuộc khảo thi võ nghệ, tôi cũng muốn hiển vinh cho làng xóm nên đã đem tên bốn vị tiểu tướng công đến đăng vào xin ứng thí, vậy nay bổn chức xin tin cho chư vị biết để sắm sửa vào ngày rằm tháng này tựu trường.

Vương Minh cau mày nhìn lý trưởng bảo:

- Ông muốn đem con cháu chúng tôi ra ứng thí, ít ra cũng phải cho chúng tôi biết trước đã chớ, phỏng như chúng nó chưa đủ tư cách ra thí võ với người thì sao?

Châu Đồng xen vào nói:

- Chẳng hề chi đâu, tôi xét ra ông lý đây làm như vậy là tốt bụng và thịnh tình, tuy đồ đệ tôi còn nhỏ tuổi, nhưng trò nào cũng đủ tư cách ra tỷ thí với người cả rồi.

Châu Đồng lại căn dặn ba ông Viên ngoại về sắm sửa cho con mình đi thi võ. Hôm sau về trường, lại gọi các trò đến bảo:

- Các con hãy chuẩn bị áo quần tử tế và mang theo vũ khí sở trường đúng ngày rằm tháng này, đến trường thi võ đấy nhé!

Vương Quới, Thang Hoài, Trương Hiển vâng lời vội trở về nhà ngay, Châu Đồng lại bảo Nhạc Phi về thưa với thân mẫu sắm sửa đồ đạc lên đường.

Nhạc Phi thưa:

- Chắc khoa này con không đi được, xin hẹn lại khoa khác.

Châu Đồng ngạc nhiên:

- Tại sao vậy?

- Thưa gia gia, riêng phận con nghèo nàn rách rưới lấy chi sắm được ngựa và áo quần để đi với người ta? Vì vậy con xin chờ khoá sau thì hơn.

Châu Đồng suy nghĩ giây lâu, gọi Nhạc Phi bảo:

- Thôi con hãy vào phòng lấy chiếc áo Tố Bạch của ta đem về thưa cùng lệnh đường sửa chữa lại cho vừa mà mặc. Con nhớ lấy cả dây Hồng Lan nữa nhé. Còn ngựa thì không lo gì, con cứ việc lấy con ngựa của ta mà dùng.

Nhạc Phi bước vào phòng lãnh áo rồi bước ra lạy tạ trở về nhà thưa lại với mẹ. Bà An Nhân vui mừng khôn xiết.

Hôm sau, Châu Đồng đang ngồi xem sách bỗng nghe phía trước có tiếng động, vội nhìn ra thì thấy Thang Hoài đến. Anh ta xúng xính trong bộ quần áo mới cưỡi con ngựa ô, lưng đeo cung tiễn trông oai vệ lắm. Chàng lạy thầy một lạy và thưa:

- Xin thầy xem con ăn mặc thế này đi ứng thí với người ta có được không?

Châu Đồng gật đầu khen ngợi, rồi Vương Quới và Trương Hiển cũng lần lượt đến làm lễ thầy, người nào cũng nai nịt chỉnh tề, lưng đeo cung tiễn trông ra dáng con nhà võ lắm.

Châu Đồng bảo:

- Ba trò hãy về thưa lại với phụ thân, đến ngày ấy cứ việc tự nhiên đến trường thi, đừng đợi ta làm gì, miễn khi đến tỉnh thành, chúng tạ gặp mặt nhau là đủ rồi.

Ba trò vừa bái tạ ra về thì Nhạc Phi đến, ông Châu Đồng vỗ vai chàng bảo:

- Ngày mai ta sẽ sang dùng cơm bên nhà con rồi cùng đi luôn.

Nhạc Phi lấy làm ái ngại:

- Nhà con nghèo nàn biết lấy chi đãi gia gia cho xứng đáng!

- Con chớ nên ngại việc ấy, chúng ta đã kết tình phụ tử thì có gì dùng nấy mới thân mật chứ.

Nhạc Phi về thưa lại với mẹ, rồi sáng hôm sau, khi cơm nước xong xuôi, Châu Đồng cùng Nhạc Phi dắt nhau xuống tỉnh thành. Nơi đây thiên hạ đông đảo, nhan nhản những phòng trà quán rượu có đủ hạng người, náo nhiệt và vui vẻ vô chừng. Cha con Nhạc Phi ghé vào tiệm uống trà nghỉ mát, còn ba ông Viên ngoại là người giàu có, nên vào ngay tửu lầu gọi những thức ăn cao lương mỹ vị thết đãi bạn bè đồng thời cho người đi tìm Châu Đồng và Nhạc Phi.

Hồi thứ năm

Xem Nhạc Phi trổ tài thiện xạ

Phục tài, tri huyện Lý gả con

Ngờ có con ngựa quen buộc ở ngoài quán nước, bọn gia đinh mới tìm được thầy trò ông Châu Đồng khẩn khoản mời ông về chỗ các Viên ngoại, nhưng ông Châu Đồng từ chối và bảo:

- Người về nói với ba trò ta, cơm nước cho xong rồi đến trường thi chờ sẵn, để đến lúc nhập trường cho mặt, khi nghe kêu đến tên Nhạc Phi hãy bảo còn đi sau nhé.

Ba trò hiểu ý riêng của thầy nên cơm nước xong kéo nhau đến trường thi. Từ bốn phương tám hướng, các thí sinh kéo đến rầm rập, ai ai cũng vọng tưởng hai chữ công danh.

Sau ba hồi trống báo hiệu, quân lính đến sắp hàng hai bên giáo đường, gươm giáo cầm trong tay rất nghiêm trang. Phía trước cửa, ông thơ lại tay ôm quyển sổ cao giọng xướng danh. Các võ sinh lần lượt vào trường thi, ai nấy đều cung mã chỉnh tề.

Châu Đồng ngồi uống trà nóng, lắng tai nghe trong trường thi tiếng cung lắp tên, kêu lắc cắc, tiếng tên bay vo vo hồi lâu, bỗng ông buông tiếng cười dài.

Nhạc Phi ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao gia gia lại cười?

Châu Đồng đáp:

- Thế con không nghe gì cả sao? Tiếng cung bắn bôm bốp, tiếng tên bay vo vo mà không nghe tiếng trống chiêng chi cả, chẳng phải buồn cười sao?

Quan huyện gọi đến tên Nhạc Phi đôi ba phen vẫn không thấy ứng tên, ông gọi đến Thang Hoài rồi Vương Quới và Trương Hiển, ba trò dõng dạc bước vào trường thi, còn ba ông Viên ngoại đứng ngoài thấp thỏm nhìn xem con mình liệu có chiếm được bảng vàng hay không?

Quan Huyện Lý Xuân thoáng thấy ba trò này tướng mạo và cử chỉ có khác hơn những võ sinh kia nên ông rất ưng ý.

Sau khi làm lễ xong, quan Huyện hỏi:

- Trong bọn các trò còn tên Nhạc Phi sao không đến?

Thang Hoài chắp tay thưa:

- Nhạc huynh chúng tôi hãy còn đi sau.

Ông ta gật đầu:

- Thế thì bây giờ khảo thí ngươi trước.

Thang Hoài đứng bên tấm bia, chàng cảm thấy thi cử gì mà bia dựng gần quá làm sao đo được tài cán của mình nên vội lên tiếng xin dựng bia xa thêm nữa.

Huyện quan cười gằn bảo:

- Bia dựng xa đến sáu mươi bước, hồi mai đến giờ các võ sinh bắn sai hết, chắc gì trò bắn trúng mà bảo dựng xa thêm nữa?

Thang Hoài vẫn khăng khăng:

- Nhưng sức tiểu sinh bắn có thừa, xin cứ việc dời bia ra xa.

Huyện quan truyền dời ra xa tám chục bước. Trương Hiển đứng ngoài lớn tiếng xen vào:

- Đối với chúng tôi như thế vẫn còn gần lắm.

Huyện quan truyền đem bia xa hàng trăm bước.

Vương Quới lại nói:

- Vẫn còn gần lắm, dời xa nữa cơ.

Quan Huyện Lý Xuân mỉm cười sai quân dời bia ra xa đến hai trăm bước. Bấy giờ ba người mới bắt đầu phi ngựa trương cung trổ tài.

Thang Hoài bắn trước, kế đến là Trương Hiển rồi mới đến Vương Quới, tiếng cung bay vun vút hòa lẫn với tiếng chiêng trống vang dậy. Mọi người đứng chung quanh cất tiếng khen nức nở.

Quan Huyện cũng đứng nhìn không chớp mắt và nghĩ thầm:

- "Không biết ba trò này là đồ đệ của ai mà thiện xạ đến nỗi không bắn sai mũi nào cả".

Ông hỏi bọn Vương Quới:

- Ai dạy các trò cung tiễn ấy?

Vương Quới bước đến thưa:

- Tiên sinh chúng tôi dạy đấy!

- Nhưng tiên sinh trò là ai mới được chứ?

- Dạ tiên sinh tôi là sư phụ.

Thấy Vương Quới trả lời quanh quất, quan Huyện cười ha hả:

- Tuy ngươi võ nghệ cao cường song ăn nói còn thật thà lắm. Ta muốn hỏi sư phụ ngươi tên gì cơ.

Thang Hoài bước tới lễ phép thưa:

- Thầy chúng tôi là người ở Hiệp Tây tên là Châu Đồng.

Quan huyện Lý Xuân gật đầu lia lịa:

- Thế thì thầy là người bạn thân thiết của ta đấy. Đã lâu không gặp mặt, chẳng biết bây giờ người có đi cùng các trò đến đây không?

Thang Hoài thưa:

- Thầy tôi đang ngồi uống trà bên quán gần đây.

Quan huyện Lý Xuân bèn sai người mời Châu Đồng đến. Giây phút sau Châu Đồng và Nhạc Phi đến, quan huyện thân hành ra tận cổng đón rước nồng hậu.

Sau khi đã phân chủ khách an tọa, quan Huyện nói:

- Lâu nay tiên sinh mở trường dạy học trong huyện tôi, sao không đến thăm tôi?

Châu Đồng đáp:

- Chẳng phải tôi coi nhẹ tình bằng hữu đâu, song ở đây người ta thường hay thưa kiện thì bạn thân không nên đến cửa quan, e rằng quốc pháp không được nghiêm minh có phương hại đến tư cách một ông quan, chi bằng đừng đến thì hay hơn.

Quan Huyện gật đầu:

- Tiên sinh quả là người nhìn xa, trông rộng.

Châu Đồng hỏi:

- Chúng ta cách biệt đã lâu, không biết lão đệ hiện nay được mấy cháu?

Quan Huyện đáp:

- Vợ đệ đã qua đời để lại một cháu gái, nưy được mười sáu tuổi. Chẳng hay tẩu tẩu năm nay có mạnh giỏi không, xin nói cho tôi mừng.

Châu Đồng thở dài:

- Vợ tôi qua đời lâu rồi.

- Thế con cái ra sao?

Châu Đồng giơ tay ngoắt Nhạc Phi đến bảo:

- Con hãy làm lễ ra mắt thúc phụ con đi.

Nhạc Phi vâng lời bước ra lễ bái quan Huyện Lý Xuân, ông ta thoáng thấy chàng tướng mạo phi phàm, cốt cách đoan trang, liền hỏi:

- Chẳng hay đại huynh sinh lệnh lang hồi nào mà tôi không hay biết?

Châu Đồng cười đáp:

- Lệnh ái thì lão đệ thân sinh, còn trẻ này là minh linh chi tử, tên hắn là Nhạc Phi, vậy xin lão đệ hãy khảo thí xem trình độ cung tiễn của hắn ra thế nào?

Quan huyện nói:

- Mấy trò kia của đại huynh dạy còn hay giỏi dường ấy, huống chi hắn là con của đại huynh thì cần chi phải khảo hạch?

Châu Đồng tỏ vẻ không bằng lòng:

- Đây là quốc gia lựa chọn anh tài, chẳng nên vị tình, nếu làm như vậy thì làm thế nào cho lòng người khâm phục?

Quan huyện vội truyền dựng bia lên, Nhạc Phi xin dời bia ra xa hơn nữa.

Quan huyện hỏi:

- Chẳng hay sức bắn của lệnh lang được mấy chục bước?

Châu Đồng ngỏ lời:

- Trẻ tuy còn nhỏ song thần lực mạnh mẽ, sức bắn gần ba trăm bước.

Quan huyện phục thầm, nhưng lòng chưa tin, bèn cho quân dời bia ra xa hai trăm tám chục bước. Nhạc Phi bước xuống thềm cưỡi ngựa khai cung. Chàng bắn luôn chín mũi đến trúng đích, tiếng trống đang vang dậy một góc trời, mọi người vỗ ta không ngớt.

Người lính kiểm bia đến chắp ta thưa với quan huyện:

- Tiểu tướng công này bắn hay lắm, chín mũi tên ấy lấy ra, chỉ có một lỗ rách mà thôi.

Quan huyện hỏi Châu Đồng:

- Năm nay lệnh lang được bao nhiêu tuổi và đã kết nghĩa châu trần đâu chưa?

Châu Đồng lắc đầu:

- Năm nay cháu nó mới lên mười sáu nên chưa vội định thân.

Quan huyện nghe nói mừng thầm, vội tỏ lời hơn thiệt:

- Đệ thấy cháu nó nên người nên muốn gả con gái của đệ cho cháu, xin đại huynh nghĩ tình bằng hữu, chớ có từ chối. Vậy ý đại huynh thế nào xin cho đệ biết mà mừng với.

Châu Đồng ra vẻ băn khoăn đáp:

- Nếu lão đệ có lòng đoái tưởng đến con tôi, thì còn gì hân hạnh bằng. Nhưng thiết tưởng kẻ nghèo hèn mà kết duyên với bậc cao sang, e không xứng đáng?

Quan huyện trầm giọng bảo:

- Chúng ta là bạn thâm giao từ thuở bé đến giờ, việc tiền nong, địa vị có nghĩa gì với chúng ta? Đại huynh cần gì phải khiêm nhường. Miễn đại huynh không chê thì sáng mai đây tôi xin viết canh thiếp giao cho đại huynh ngay.

Châu Đồng vội gọi Nhạc Phi, bảo chàng lạy mừng nhạc phụ rồi từ tạ trở ra cùng các viên ngoại trở về nhà.

Rạng ngày hôm sau, quan huyện lo xong việc quan vội viết canh thiếp sai một tên nha lại cưỡi ngựa thẳng đến làng Kỳ Lân trao cho Châu Đồng, thưa rằng:

- Tôi vâng lệnh lão gia đến đây dâng canh thiếp của tiểu thư cho ngài thâu nạp.

Châu Đồng vui mừng tiếp lấy hai tay rồi trao lại cho Nhạc Phi và nói:

- Đây là canh thiếp của Lý Tiểu thư, con hãy cất giữ cho cẩn thận.

Nhạc Phi đem canh thiếp về dâng cho mẹ, bà An Nhân mừng rỡ khôn cùng vội để lên bàn thờ thắp nhang đốt đèn làm lễ ông bà rồi mới lấy canh thiếp giở ra xem. Bà thấy Lý Tiểu thư cũng cùng sinh ra một năm, một tháng, một ngày, một giờ như con mình bà lấy làm lạ, nghĩ thầm:

- "Hay là hai trẻ có lương duyên trong kiếp trước, nên trời cho đi đầu thai một lượt chăng".

Nghĩ vậy, bà xếp canh thiếp cất vào nơi kín đáo.

Trong lúc Nhạc Phi trở về nhà, Châu Đồng lo sắm chút lễ vật gói vào một miếng giấy đỏ trao cho viên nha lại và khiêm nhường bảo:

- Tôn huynh chẳng ngại đường sá xa xôi, lặn lội đến đây lại phải trở về gấp, không kịp cơm nước gì. Vậy xin tôn huynh hãy niệm tình thâu nhận chút lễ mọn này để cho lòng tôi được thỏa nguyện.

Lão nha lại giả vờ từ chối lia lịa, nhưng tay thì đón lấy lễ vật bỏ vào túi từ tạ về ngay.

Hôm sau Châu Đồng sắm sửa lễ vật gọi Nhạc Phi vào bảo:

- Con hãy cùng cha qua bên huyện để tạ ơn nhạc phụ con nhé.

Nhạc Phi tuân lệnh theo Châu Đồng thẳng đến dinh, gửi danh thiếp vào huyện đường. Quan huyện vội vã ra tận ngoài cổng đón cha con Nhạc Phi vào trà nước, đãi đằng trọng thể.

Sau khi Nhạc Phi làm lễ tạ ơn nhạc phục xông xuôi, quan huyện bảo gia đinh dọn tiệc đãi đằng vị thông gia, đồng thời dọn thêm một mâm phía ngoài cửa.

Châu Đồng biết ý, vội khỏa tay nói:

- Cha con tôi đi bộ đến đây chẳng mang theo kẻ tùy tùng, xin lão đệ khỏi lo điều ấy.

Quan huyện Lý Xuân vừa hớp xong ngụm rượu, cất tiếng thân mật:

- Nay hiền tế nó sang viếng thăm, tôi muốn cho hắn vật gì để tỏ tình phụ tử, song không biết cho vật gì cho xứng, sẵn nhà có thừa con ngựa tốt, để tôi cho rể đi đỡ chân.

Châu Đồng cười ha hả:

- Thế còn gì quí hóa cho bằng. Nhạc Phi nó đang thao luyện võ nghệ mà thiếu con ngựa, nay lão đệ cho nó thì quả là làm một việc hợp tình, hợp nghĩa vô cùng.

Hai ông thông gia cùng chén tạc chén thù tưởng không có gì tương đắc cho bằng. Bỗng thấy gia đinh dắt con ngựa đến có thắng yên cương, quả là con tuấn mã hiếm có trên đời.

Châu Đồng trỏ con ngựa bảo Nhạc Phi:

- Ngựa này là của nhạc phụ con tặng đấy, con có thích không?

Lý Xuân thấy Nhạc Phi ra vẻ thờ ơ không đáp, vội hỏi:

- Nếu con không thích con ngựa này, thì con ra ngoài chuồng, tùy con lựa một con vừa ý.

Nhạc Phi cúi đầu tạ ơn rồi cùng gia đinh đi chọn ngựa, nhưng chàng xem qua cả chuồng có hằng mười mấy con mập mạp mà chàng chẳng thích con nào cả.

Chàng trở vào thưa lại:

- Những con ngựa ấy to lớn, mập mạp thật, nhưng chỉ để cho những bậc giàu có nhàn nhã tra yên, gắn lạc cho đẹp để cưỡi đi chơi chứ không phải loại ngựa dùng đến để xông pha nơi tên đạn, dẹp loạn phò nguy, an bang tá quốc, dựng nên nghiệp cả, nên con không chọn được con nào ưng ý.

Lý Xuân lắc đầu, lè lưỡi:

- Nếu tìm hạng ngựa ấy thì e nội xứ ngày khó mà tìm được.

Trong khi ấy bỗng nghe phía bên kia vách có tiếng ngựa hí vang rền, tiếng hí khác với ngựa thường, ai nấy đều ngạc nhiên. Nhạc Phi vội nói:

- Con ngựa ấy mới là ngựa vừa ý con, nhưng không biết ngựa ấy của ai?

Châu Đồng chau mày hỏi:

- Con chưa thấy ngựa, chỉ nghe nó hí sao con biết nó tốt?

Nhạc Phi đáp không cần nghĩ ngợi:

- Thưa gia gia, cứ theo tiếng hí của nó cũng có thể biết được nó đủ sức xông pha ngoài trận mạc.

Lý Xuân cất tiếng khen:

- Quả vậy, hiền tế nghe tiếng ngựa giỏi lắm. Ngựa ấy là của tên gia thuộc Châu Thiên Lộc mua tận bên Bắc Địa, trong vòng một năm nay nó cứ vượt chuồng chạy về với chủ đã năm sáu phen rồi. Con ngựa ấy, ở đây không ai trị nổi nó nên mới nhốt riêng một chuồng bên kia.

Nhạc Phi thưa:

- Vậy xin nhạc phụ cho phép con được xem ngựa, và thử cưỡi nó ra sao?

Quan huyện Lý Xuân gật đầu:

- Ta chỉ sợ hiền tế không trị nổi nó mà mang hại vào thân, chứ nếu hiền tế dùng được thì ta sẵn sàng tặng cho ngay.

Nhạc Phi theo tên giữ ngựa ra chưa đến chuồng, tên giữ ngựa đã quay lại căn dặn:

- Xin tiểu tướng công hãy cẩn thận mới được, vì con ngựa này đã làm hại nhiều người rồi.

Nhạc Phi thản nhiên bước đến, chàng thấy con ngựa này cao lớn và hết sức hung dữ. Nhạc Phi phải tránh né lanh lẹ lắm mới thoát khỏi đôi vó độc hiểm của con vật, rồi trở qua một bước giơ tay nắm chặt lấy chiếc bờm ghì xuống đánh cho một hồi. Quả là "mềm nắn, rắn buông", con ngựa tỏ ra hiền lành, cúi đầu chịu thuần phục.

Hồi thứ sáu

Nhạc Phi báo hiếu cho dưỡng phụ

Thảo khấu Ngưu Cao, kết anh em

Nhạc Phi dắt con ngựa ra ngoài chỗ trống trải ngắm nghía hồi lâu, quả con ngựa không có điểm nào đáng chê bai được cả. Thân nó cao gần một trượng, bốn móng tròn vo, đầu thon mắt ngời lên như thủy tinh, lưng rộng, đuôi thon đẹp đẽ muôn phần, chỉ có bộ lông nó lem luốc không biết là sắc lông gì.

Nhạc Phi gọi tên giữ ngựa đến bảo:

- Ngươi hãy đem con ngựa này xuống ao tắm rửa sạch sẽ cho ta.

Tên giữ ngựa lè lưỡi lắc đầu ra vẻ sợ hãi không dám lại gần. Nhạc Phi biết ý bèn đem hàm thiếc khớp miệng ngựa lại, tên giữ ngựa mới dám dắt đi tắm.

Khi tắm rửa sạch sẽ, Nhạc Phi mới thấy con ngựa ấy sắc kim, chàng mừng rỡ vô cùng, dắt đến tạ ơn nhạc phụ.

Quan huyện Lý Xuân cho đem yên cương thắng vào, ông ngắm đi ngắm lại tấm tắc khen con tuấn mã hiếm có trên đời. Ông Châu Đồng cũng nói:

- Đúng là "vật các hữu chủ", ta mừng cho con được vinh hạnh làm chủ con vậy quí giá ấy.

Sau đó cha con Châu Đồng từ giã quan huyện Lý Xuân ra về. Quan huyện cùng lên ngựa tiễn khách ra khỏi thành mới trở lại.

Trên đường về, Châu Đồng bảo Nhạc Phi:

- Sao con không cho nó chạy nước đại xem thế nào?

Nhạc Phi vâng lời, thúc hai chân vào hông và ra roi, thức thì con ngựa cất bốn vó chạy như bay. Châu Đồng cũng cố thúc ngựa đuổi theo, nhưng không tài nào theo kịp.

Về đến nhà, Nhạc Phi vội vã đem ngựa về trình cho mẹ hay, chàng nói:

- Nhạc phụ con tặng cho con ngựa để gọi là chút tình phụ tử.

Bà An Nhân mừng rỡ và cảm ơn Châu tiên sinh đã có lòng nâng đỡ con mình.

Hôm ấy Châu Đồng về đến nhà, bỗng nghe trong mình bứt rứt khó chịu, đôi mắt hoa lên, trong đầu nhức nối, đứng ngồi không yên. Nhạc Phi hay tin, vội đến hầu hạ suốt ngày đêm không rời nửa bước. Chàng hết sức chạy thuốc thang, nhưng bệnh tình dưỡng phụ mỗi ngày một trầm trọng. Mấy cha con các vị viên ngoại cũng đến góp phần chăm sóc song vẫn không hiệu quả.

Châu Đồng bảo Nhạc Phi đem chiếc rương của mình ra soạn đồ đạc cho ông xem rồi ông sa nước mắt nói:

- Chư viên ngoại ôi, hôm nay tôi đã đến ngày tận số rồi, lẽ ra trước phút lâm chung tôi phải có món gì đáng giá tặng cho Nhạc Phi để gọi là chút tình phụ tử trong giờ phút sinh ly tử biệt này. Song tôi chỉ là kẻ phiêu bạt giang hồ chỉ có vài bộ quần áo để dành làm hậu sự mà thôi.

Ba ông viên ngoại đồng thanh đáp:

- Xin tôn huynh hãy an dưỡng tấm thân, đừng lo nghĩ gì cả. Dầu cho tôn huynh có bề gì, chúng tôi nỡ lòng nào để cho một mình Nhạc Bàng Cử lo liệu hay sao?

Châu Đồng lại quay qua nói với Vương viên ngoại:

- Tôi thấy phía Đông Nam núi Lịch Tuyền có hòn núi nhỏ cao ráo, tôi muốn an giấc tại đó, mà Vương Quới bảo đó là đất của hiền đệ, vậy hiền đệ hãy vui lòng để cho tôi nằm ở đó nhé?

- Được lắm, chúng tôi sẵn sàng vâng theo lời tôn huynh chỉ dạy.

Châu Đồng giơ tay ra hiệu bảo Nhạc Phi lạy tạ rồi điểm một nụ cười trên đôi môi khô héo. Ông ta nấc lên mấy cái rồi trút hơi thở cuối cùng.

Lúc bấy giờ vào đời Tuyên Hòa năm thứ mười một, ngày mười bốn tháng chín. Châu Đồng hưởng thọ được bảy mươi chín tuổi. Nhạc Phi thương tiếc nằm lăn ra khóc sướt mướt, ai nấy đều rơi lụy thương cho con người tài ba lìa bỏ cõi trần.

Ba ông viên ngoại lo tẩm liệu và đón nhà sư đến làm lễ thất trai, thất tuần xong mới đem đến núi Lịch Tuyền mai táng.

Nhạc Phi lo cất nhà mồ và ngày đêm ở đó gìn giữ. Ba ông viên ngoại cũng sai con mình đến đó bầu bạn với Nhạc Phi cho khuây lãng.

Ngày tháng đi nhanh như bóng câu qua cửa, mới đây mà đã đến tháng ba rồi. Trong tiết thanh minh, ba ông viên ngoại mang hương hoa, trà quả đến núi Lịch Tuyền trước là viếng thăm phần mộ, sau khuyên giải Nhạc Phi.

Ba ông viên ngoại nói:

- Nay Bàng Cử còn mẹ già ở nhà không ai nuôi dưỡng, ở đây mãi như vậy sao tiện? Hãy sắm sửa về nhà ngay mới phải.

Nhưng Nhạc Phi vì quá thương Châu Đồng nên không chịu về. Vương Quới nói:

- Cha không nên khuyên giải làm gì vô ích, để chúng con làm một kế, nhất định Nhạc Phi phải về ngay.

Dứt lời, Vương Quới quật ngã cây cột, Trương Hiền xô mái, Thang Hoài bẻ kèo, chỉ trong nháy mắt phá tan căn nhà. Túng thế, Nhạc Phi mới chịu trở về.

Ba ông viên ngoại nói:

- Chúng ta về trước, ba con hãy ở lại cùng về với Bàng Cử cho có bầu có bạn.

Dứt lời cả ba đều tung mình lên ngựa dời khỏi núi Lịch Tuyền. Vương Quới bảo gia đinh mang rượu ra uống cho giải buồn.

Thang Hoài vừa nâng chén vừa nói:

- Lâu nay bác ở nhà trông đợi, hôm nay Nhạc đại huynh trở về chắc là bác mừng lắm đấy.

Trương Hiền nói:

- Thầy ta vội khuất bóng bỏ lại anh em ta văn võ vẫn còn tầm thường lắm nên không dám mộng tưởng đến hai chữ công danh, riêng có Nhạc đại huynh thì chắc chẳng chóng thời chầy cũng chiếm được bảng vàng làm vẻ vang dòng họ.

Nhạc Phi thở dài nói:

- Nay dưỡng phụ ta qua đời rồi, ta còn lòng nào mơ tưởng đến công danh nữa!

Vương Quới nói:

- Đại huynh mà còn vô tâm vọng tưởng như vậy thì anh em tôi đây còn mong tưởng gì đến việc ấy?

Bốn anh em đang trò chuyện, bỗng nghe bên ngoài có tiếng động. Vương Quới lật đật bước ra xem thì thấy một người từ trong đám lau chui ra vẻ mặt lơ láo, chàng vội nhảy đến chộp lấy cánh tay quát hỏi:

- Ngươi là ai? Lén lút trong bụi này để làm gì?

Tên ấy run lẩy bẩy sụp lạy lia lịa, miệng van lạy:

- Xin đại vương tha tội cho.

Nhạc Phi thấy thế vội bước tới quát Vương Quới:

- Hãy buông người ta ra ngay. Dọa làm gì cho người ta sợ hãi đến thế?

Rồi chàng ôn tồn hỏi người ấy:

- Anh em ta nhân dịp thanh minh đi tảo mộ sao ngươi lại gọi là đại vương?

Tên ấy nhìn thẳng vào mặt Nhạc Phi hồi lâu mới nói:

- Thế ra chư vị tướng công là người đi chơi thanh minh sao? Thế mà tôi cứ tưởng...

Bấy giờ người ấy mới hết sợ, vội chui vào bụi rậm gọi đồng bọn bước ra. Cả bọn có đến hai mươi người, kẻ mang gói, người quảy đồ ai nấy đều cúm rúm ra vẻ sợ hãi lắm.

Tất cả đều đồng thanh bảo bọn Nhạc Phi:

- Chư vị tướng công chớ nên chơi lâu chốn này vì phí trước đây là xóm Loạn Thảo Cang có kẻ cướp nguy hiểm. Chỗ ấy trước đây yên ổn lắm, nhưng chẳng hiểu tại sao gần đây lại có ăn cướp chặn đường người qua, kẻ lại. Hiện giờ bọn chúng còn đang chặn một tốp người đi buôn, toan cướp của, chúng tôi thấy thế sợ quá vội lẻn qua đây trốn tránh, lại gặp chư vị ngỡ là đồng bọn với kẻ cướp nên mới sợ hãi đến thế.

Nhạc Phi hỏi:

- Thế các người định đi đâu vậy?

- Thưa chúng tôi là người đi buôn muốn đến Hoàng huyện.

Nhạc Phi bảo:

- Từ đây đến Hoàng huyện đường sá trống trải lắm rồi, các người cứ việc đi đi, không sao đâu.

Bọn khách buôn nghe nói mừng rỡ vội bái biệt lên đường. Nhạc Phi quay lại bảo ba anh em:

- Thôi, chúng ta sửa soạn đi về cho sớm.

Vương Quới thưa:

- Thưa đại huynh, từ bén đến giờ tiểu đệ chưa từng thấy tên ăn cướp ra thế nào cả, sẵn dịp này anh em ta đến đó xem cho biết.

Nhạc Phi nói:

- Quân ăn cướp, hắn cũng là người, nhưng lòng dạ độc ác tàn bạo, không muốn làm ăn lương thiện, chỉ biết ẩn núp chốn núi non rừng rậm để cướp giật của người khác, như vậy có tốt gì mà đi xem cho bẩn mắt?

Vương Quới vẫn năn nỉ:

- Thì đại huynh hãy cho tiểu đệ đi xem một chuyến thử nào!

Trương Hiền cũng muốn đi nên vội xen vào:

- Nếu có đi thì chúng ta bẻ mỗi ngà một nhánh cây để hộ thân, chẳng lẽ bốn anh em ta sợ chúng nó sao?

Thang Hoài cũng muốn đi nên nói khích:

- Chốn ấy dù có thiên binh vạn mã chúng ta cũng chẳng sợ thay, huống hồ một lũ ăn cướp thì việc gì mà chúng phải lo ngại? Hơn nữa chúng ta toàn là những tay hào kiệt mà đã nghe người ta mắc nạn há lại làm ngơ đi sao? "Thấy điều nghĩa không làm sao gọi là anh hùng hảo hán?".

Nhạc Phi đang lúc buồn bực không muốn can dự việc gì cả, song thấy ba người bạn đều cương quyết như vậy, chàng nghĩ thầm:

- "Ba người đã muốn như vậy, nếu ta không chiều lòng, ta sẽ bị khinh là hèn nhát".

Nghĩ đoạn, chàng bảo kẻ tùy tùng mang hành lý về trước, còn mấy anh em mỗi người đi bẻ một nhánh cây vừa cầm tay rồi cùng thẳng đến Loạn Thảo Cang.

Đến nơi, chợt thấy một tên ăn cướp mặt đen như than, thân hình to lớn lạ thường đang ngồi chễm chệ trên con ngựa ô, hai tay cầm song đoản đao. Hắn mặc áo giáp thiết tỏa liên hường, đầu đội thiết khôi, đứng hiên ngang giữa đường chặn một tốp khách buôn độ mười lăm người.

Tên cướp trợn mắt hét lên:

- Hãy gom góp hết tiền bạc nộp cho ta thì mới mong ta tha chết cho.

Bọn khách buôn run lẩy bẩy quỳ mọp hai bên đường năn nỉ:

- Nhờ đại vương bao dung, chúng tôi toàn là kẻ đi làm thuê làm mướn, tay làm hàm nhai, trong túi rỗng không biết lấy chi nạp cho đại vương?

Tên ăn cướp cười to lên như quỉ hú và trầm giọng:

- Nếu các người nhất định không chịu nạp tiền thì chớ trách ta sao ra tay độc ác.

Nhạc Phi thấy thế quay lại khẽ bảo:

- Mấy anh em hãy đứng đây để một mình ta đến đó trước, xem sự thể ra sao đã.

Thang Hoài nói:

- Tôi xem tên ăn cướp kia dữ dằn lắm, mà huynh trưởng không có khí giới trên tay làm sao chống cự lại nó?

Nhạc Phi thản nhiên đáp:

- Ta sẽ dùng lời lẽ thuyết phục hắn, chừng nào không được mới dùng đến võ lực. Lúc ấy các đệ sẽ xông đến tiếp chiến chứ lo gì.

Dứt lời, Nhạc Phi ung dung bước đến trước mặt tên ăn cướp ôn tồn gọi:

- Kìa hảo hán, xin hãy vị tình tôi mà tha cho bọn người khốn khổ kia một lần đi.

Tên cướp quay sang trông thấy Nhạc Phi tướng mạo phương phi, mặt đẹp như hoa, ra dáng một thư sinh, hắn há hốc mồm cười khanh khách:

- Hà hà... Chính bản thân người cũng vậy, hãy trao tiền cho ta gấp, bằng không thì phải chịu chung số phận như bọn người kia.

Nhạc Phi vẫn không chút giận dữ, chàng mỉm cười đáp:

- Tôi biết lắm, tục ngữ có câu: "Ở nước nhờ nước, ở rừng nhờ rừng. Làm nghề chi phải thời nghiệp ấy". Tôi đã đi qua đây tất nhiên phải chuẩn bị nạp tiền rồi, cần gì phải đòi hỏi nữa?

Tên cướp lộ vẻ ngạc nhiên nhìn thẳng vào mặt Nhạc Phi hồi lâu rồi dịu giọng:

- Hay lắm, thế mới đúng là người biết điều chứ.

Nhạc Phi tiếp:

- Chẳng giấu chi, tôi vốn là kẻ buôn bán lớn, đoàn xe chở hàng hóa hãy còn đi sau, đợi một tí nữa xe đến tôi dâng hàng hóa và vàng bạn cho, còn bọn người này toàn là những kẻ khốn nhổ, tiền bạc có bao nhiêu mà hảo hán phải nhọc công đòi hỏi?

Tên cường đạo nghe Nhạc Phi nói êm tai, ngỡ thiệt phất tay ra hiệu cho phép bọn khách buôn đi qua.

Cả bọn mừng rỡ lạy tạ rồi vội vã chạy thẳng một mạch không dám ngoái cổ lại.

Đứng đợi hồi lâu không thấy, tên cướp hỏi Nhạc Phi:

- Xe chở hàng của ngươi đâu, sao lâu đến thế? Ngươi có bao nhiêu tiền trong túi hãy mang trao trước đây đã.

Nhạc Phi cười gằn đáp:

- Theo tôi còn có ba đứa tùy tùng nữa, chẳng biết chúng có bằng lòng trao tiền cho ông không.

Tên cướp xoe tròn đôi mắt hét:

- Ba đứa nào, chúng ở đâu mà không ra đây?

Nhạc Phi đưa tay trỏ Vương Quới, Trương Hiển và Thang Hoài đang đứng ngoài xa, bảo:

- Ba đứa kia kìa, nếu ngươi thắng được chúng, ta sẽ trao hàng hóa tiền bạc cho ngươi, bằng không thì đừng mơ ước hão huyền.

Tên cướp nổi giận xung thiên, hét:

- Nếu có đánh thì đánh với ngươi chứ ta đường đường thế này lại đánh với kẻ tùy tùng ngươi sao? Hừ, ngươi dám cả gan vuốt râu cọp ư? Được, ta sẽ cho ngươi biết tay ta, nhưng ta có thiết đoản trong tay còn nhà ngươi tay không, có thắng cũng chẳng anh hùng gì.

Dứt lời, hắn treo thiết đoản trên lưng ngựa rồi nhảy xuống đất dùng hai tay không nhắm ngay mặt Nhạc Phi đấm một quả thật mạnh quyết hạ ngay đối thủ ngay tại chỗ. Nhưng Nhạc Phi vẫn xem thường, chàng không đưa ta ra đỡ mà chỉ tránh qua một bên khiến tên cướp đánh hụt, quả đấm vụt vào không khí phát lên một tiếng "vù" nghe ghê rợn.

Tên cướp đánh hụt giận quá, hắn xoay mình vận hết thần lực bồi thêm một quả nữa. Nhạc Phi cũng chẳng thèm đỡ gạt, chàng phóng mình né sang bên tả khiến tên cướp mất thăng bằng, thừa dịp chàng đá một ngọn cước, tên cướp văng nhào ra xa.

Anh em Vương Quới đứng đằng xa thấy thế cùng vỗ tay khen ngợi, khiến tên cướp lồm cồm ngồi dậy vừa xấu hổ vừa tức giận, hắn rút gươm giơ lên toan tự vẫn.

Nhạc Phi vội nhảy tới ôm chặt hắn lại, hỏi:

- Hảo hán làm cái gì là vậy?

Tên cướp nói trong tiếng nghẹn:

- Từ xưa tới nay ta chưa bao giờ bị thảm hại đến nước này, ta nhục nhã quá còn sống làm sao được nữa.

Nhạc Phi khuyên nhủ:

- Sao hảo hán lại nóng nảy thế? Chỉ vì ngươi bị mất thăng bằng nên té ngã chứ chúng ta đã giao đấu với nhau đâu? Đừng liều mình như vậy, chết oan mạng lắm.

Tên cướp bị Nhạc Phi nắm chặt cố sức vùng vẫy mà không nhúc nhích nổi, hắn biết đối phương có thần lực phi phàm nên vội hỏi:

- Chẳng biết tôn huynh danh tính là chi, quê quán ở đâu xin cho đệ biết với.

Nhạc Phi vội đáp:

- Ta họ Nhạc tên Phi, hiện ngụ tại làng Kỳ Lân.

- Tôn huynh là người ở làng Kỳ Lân?

- Phải đấy.

- Thế tôn huynh có biết ông Châu Đồng không?

Nhạc Phi ngạc nhiên buông tên cướp ra nhìn thẳng vào mặt hắn đáp:

- Ông ấy chính là dưỡng phụ tôi, nhưng tại sao ngươi biết mà hỏi?

Tên cướp gật đầu mấy cái và nói:

- Hèn chi võ nghệ tôn huynh cao cường cũng phải. Tôi có ngờ đâu tôn huynh lại là con của Châu tiên sinh, sao tôn huynh không nói trước để cho tôi thất lễ như vậy?

Dứt lời, hắn quì xuống lạy Nhạc Phi và xin lỗi. Nhạc Phi vội cúi xuống đỡ dậy rồi cùng nhau ngồi xuống đất chuyện vãn.

Tên cướp nói:

- Chẳng giấu chi tôn huynh, tôi chính là người ở Hiệp Tây tên Ngưu Cao, cha tôi vốn xuất thân nhà võ. Lúc người sắp qua đời có dặn bảo mẹ tôi phải đem con đi tìm ông Châu Đồng thọ giáo thì sau này con mới nên danh phận được. Vì thế mẹ con tôi lìa bỏ quê hương đi tìm cho gặp mặt Châu tiên sinh.

Dọc đường tôi hỏi thăm người ta mới biết tiên sinh hiện ở làng Kỳ Lân thuộc Hoàng huyện nên tôi lần đến đây, bỗng gặp một bọn cướp đón đường. Tôi đánh chết thằng đầu đảng của nó, đoạt lấy khôi giáp và ngựa, còn dư đảng của chúng tôi đuổi đi hết.

Sau đo tôi thấy ở đây địa thế hiểm trở, lại có con đường đi qua tấp nập khách buôn nên thầm nghĩ:

"Nếu như may mắn gặp được Châu tiên sinh mà trong mình không có một xu, biết lấy chi nuôi sống để theo đuổi học hành?"

Nên tôi thừa dịp ở đây đón khách qua đường đoạt chút ít tiền bạc, trước là để nuôi miệng, sau là có dư làm lễ ra mắt thầy. May thay gặp tôn huynh ở đây, xin tôn huynh hãy theo tôi ra mắt mẹ tôi đặng mẹ con tôi cùng theo tôn huynh đến bái kiến tiên sinh cho tiện.

Nhạc Phi nghe qua lấy làm cảm kích, chàng đáp:

- Thế thì hay lắm, song tôi còn mấy người anh em bạn kia, để tôi gọi qua đây giới thiệu cho biết mặt.

Ngưu Cao dẫn anh em Nhạc Phi đến một hang đá gặp mẹ già và kể lại câu chuyện vừa xảy ra cho me. Bà ta mừng rỡ vội bước ra tiếp và mời anh em Nhạc Phi vào động.

Sau khi mời an tọa, bà ta bày tỏ gia cảnh chẳng khác nào lời bày tỏ của Ngưu Cao lúc nãy.

Nhạc Phi nghe nói động lòng gạt lệ, thưa:

- Dưỡng phụ của tôi đã lìa trần từ hôm tháng chín năm ngoái.

Ngưu mẫu nghe nói lấy làm đau xót, bà nước mắt than:

- Tôi vâng lời di chúc của tiên phu tôi, chẳng ngại đường xa muôn dặm tìm cho được tiên sinh; chẳng may đến đây tiên sinh đã qua đời, thật tôi vô phúc quá. Con tôi chắc bị thất giáo, còn mong chi hai chữ công danh.

Nhạc Phi khuyên nhủ:

- Xin lão mẫu bớt cơn phiền muộn, thật ra tài ba của tôi chẳng bằng dưỡng phụ tôi thật, song tôi cũng được người truyền dạy ít nhiều. Vậy nay lão mẫu đã đến đây rồi thì xin hãy về nhà tôi tá túc cho Ngưu đệ tiện bề luyện văn, tập võ với anh em chúng tôi.

Ngưu mẫu nghe nói thì vô cùng sung sướng, đổi buồn làm vui tỏ lời cảm tạ Nhạc Phi rối rít.

Ngưu Cao đỡ mẹ lên ngựa rồi cùng bọn Nhạc Phi trở về Vương gia trang.

Đến nơi Ngưu mẫu làm lễ ra mắt bà An Nhân rồi mời ba ông viên ngoại đến tỏ bày hoàn cảnh của mình. Ai nấy cũng đều cảm kích thương mến con người biết tầm sư học đạo.

Sau đó chư viên ngoại truyền dọn cơm mời mẹ con Ngưu Cao rồi để Ngưu mẫu ở chung với bà An Nhân cho có bạn sớm khuya trò chuyện.

Ngưu mẫu chọn ngày lành tháng tốt cho Ngưu Cao lạy Nhạc Phi kết nghĩa anh em rồi theo Nhạc Phi luyện tập văn chương và võ nghệ.

Một hôm, năm anh em Nhạc Phi đang thao luyện võ trong vườn Vương gia trang, Vương Quới thoáng thấy có kẻ rình xem, chàng bước ra trỏ mặt người ấy quát lớn:

- Ngươi ở đâu? Đến nhà người ta dòm ngó điều chi?

Người ấy giật mình bước vào vòng tay tay thi lễ đáp:

- Tôi là Lý trưởng sở tại đến đây có việc quan, nhưng thấy chư vị đang thao luyện võ nghệ, sợ quấy rầy chư vị nên đứng đây chờ đợi, sẵn xem chơi chớ chẳng phải kẻ gian phi.

Vương Quới lại hỏi:

- Việc quan là việc gì?

- Thưa có văn thư của Tiết Đạt Đô Viện sứ là Lưu đại nhân ở Tương Châu gửi đến.

Nói rồi trịnh trọng đưa tờ văn thư cho Nhạc Phi. Nhạc Phi giở ra đọc rồi mừng rỡ nói với mọi người: Ngài Đô Viện sứ triệu tập các võ sĩ phải tề tựu đến tỉnh để khảo thí. Khi đậu rồi mới đến kinh đô tranh tài giành chức Võ Trạng nguyên.

Hồi thứ bảy

Quan huyện Từ Nhân mơ thấy cọp

Năm trang hảo hán trổ võ công

Ngưu Cao sốt ruột nói với Nhạc Phi:

- Ngày mai Nhạc huynh lên huyện cố nói với Nhạc lệnh đường ghi tên cho ngu đệ được kháo thí!

Hôm sau một mình một ngựa, Nhạc Phi đến ra mắt nhạc phụ và thưa:

- Chúng con sắp đến Tương Châu khảo thí, song trong bọn chúng con có người anh em bạn tên Ngưu Cao ngày trước không đi ứng thí nên không có tên trong danh sách thí sinh, vậy nhờ nhạc phụ ghi thêm tên người ấy vào để anh ấy được đi cùng chúng con luôn thể.

Ông huyện Lý Xuân gật đầu rồi gọi nha lại biên thêm tên Ngưu Cao và nói:

- Như hiền tế có đến Tương Châu ứng thí thì ta sẽ viết cho một phong thư mang đến trình cho người bạn ta tên Từ Nhân, người ấy làm quan thanh liêm chánh trực có tiếng, được ông Đô Viện yêu mến vô cùng. Phòng khi có gặp điều chi trở ngại thì ông ta sẽ giúp đỡ cho.

Nhạc Phi cúi đầu cảm tạ rồi lãnh thư ra về.

Khi về đến sân nhà Vương viên ngoại, chàng mừng rỡ reo lên:

- Tên của Ngưu Cao được ghi vào sổ rồi. Ngày mai chúng ta cùng đi xuống tỉnh ứng thí vui quá!

Mấy anh em đi dọc đường nói nói, cười cười, chỉ có Nhạc Phi sắc mặt buồn bã vì chàng nghĩ thầm:

- Ông bà ta ở huyện Thang Âm, ta phải phiêu bạt mười mấy năm ở xứ người.

Chàng càng nghĩ càng đau lòng, nước mắt nhỏ ròng ròng.

Vừa bước vào thành Tương Châu, Nhạc Phi đã thấy một cửa tiệm phía trước có đề hàng chữ mạ vàng: :Giang Chấn Tử An Ngự Khánh Thương Điếm".

Bọn Nhạc Phi gò cương lại rồi xuống ngựa bước vào.

Chủ tiệm Giang Chấn Tử từ trong chạy ra niềm nở đón mời, bọn gia nhân kẻ xách hộ hành lý, kẻ dắt ngựa, riêng phần ông ta thì dắt năm anh em Nhạc Phi lên lầu dùng cơm.

Nhạc Phi hỏi Chấn Tử:

- Bây giờ là mấy giờ rồi?

- Thưa, bây giờ đã đúng giờ ngọ.

Nhạc Phi suy nghĩ giây lâu rồi lẩm bẩm:

- Thổi để mai đi cũng được.

Chấn Tử tò mò hỏi:

- Chẳng hay chư vị định đi đâu mà có ý gấp vậy?

Nhạc Phi đáp:

- Có thư gửi đến huyện này, do ta mang đến.

Chấn Tử gật đầu:

- Tuy bây giờ đã đúng ngọ, nhưng trong huyện hãy còn làm việc, vì ông huyện này đến làm quan tại đây đã hơn chín năm, có tiếng là thanh liêm chánh trực. Nghe đâu có tin đồn đổi đi chỗ khác, nhưng dân chúng quá thương mến, kêu nài ở lại đấy.

Nhạc Phi lại hỏi:

- Không biết đường từ đây đến huyện gần hay xa?

Chấn Tử đáp:

- Không xa mấy, chư vị đi thẳng chừng trăm bước rồi rẽ qua phía Nam thì trông thấy nha môn ngay.

Nhạc Phi thò tay vào bọc lấy thư rồi cùng bốn anh em đi thẳng đến huyện đường.

Nói qua ông huyện Từ Nhân đêm qua nằm mộng trông thấy một điềm chiêm bao không biết lành dữ thế nào, lấy làm lo ngại bèn gọi các đề lại tới và bảo:

- Đêm hô qua ta thấy một điềm chiêm bao rất lại nên kinh hãi, chẳng hay trong huyện đường nài có ai biết đoán mộng hay không?

Một viên thơ lại tên Bá Hiển bèn lên tiếng thưa:

- Tôi đoán mộng hay lắm, chẳng hay lão gia trông thấy chi vậy?

Quan huyện Từ Nhân nói:

- Vào khoảng canh ba ta thấy năm cọp năm sắc nhảy bổ vào phòng chộp ngay cổ ta, ta thất kinh giật mình thức dậy, mồ hôi toát ra ướt cả áo, chẳng biết điềm ấy lành dữ thế nào?

Bá Hiểu vui vẻ đáp:

- Thế thì xin mừng cho lão gia gặp điềm lành đấy. Xưa Châu Văn Vương cũng chiêm báo thấy gấu xông vào phòng mà có được ông Khương Tử Nha...

Bá Hiểu vừa nói đến đây, quan huyện bỗng đập bàn nạt lớn:

- Ngươi đừng nói bậy! ta là hạng người tầm thường, sao ngươi dám đem so sánh với bậc thánh hiền?

Bà Hiểu sợ hãi làm thinh không dám nói thêm nữa, bỗng có quân canh vào báo:

- Có năm người võ sĩ đến huyện đường xin ra mắt lão gia, để trao thư của quan huyện Lý Xuân gửi đến, hiện họ còn đứng ngoài đợi lệnh.

Quan huyện lập tức truyền quân canh mời vào. Năm người vào làm lễ xong, Nhạc Phi lấy thư trao ra.

Quan huyện Từ Nhân tiếp lấy thư, và thoáng thấy tướng mạo năm võ sĩ ấy vạm vỡ khôi ngô, nghĩ thầm:

- "Ta nằm chiêm bao trông thấy năm cọp, tượng trưng cho năm người này chăng?"

Quan huyện xem thư xong gật đầu:

- Được rồi, các ngươi hãy về nghỉ, để ta bảo Trung Quân Hồng Tiên giúp đỡ các ngươi trong việc này cho.

Bọn Nhạc Phi cúi đầu tạ ơn rồi cùng nhau ra về.

Qua hôm sau, anh em Nhạc Phi đến ra mắt Hồng Trung Quân xin khảo thí. Hồng Tiên quay lại hỏi hai bên tả hữu:

- Những võ sĩ này đã có lễ vật gì chưa?

- Thưa, không thấy ai mang lễ vật gì đến cả.

Nhạc Phi nghe nói vội chắp ta thưa:

- Kẻ võ sinh này lâu nay chưa biết qui củ thế nào nên không mang lễ vật theo, vậy xin ngài để tôi sai gia nhân về sắm sửa mang đến sau.

Hồng Tiên gằn giọng:

- Không được, ta bảo cho ngươi biết, lúc nào ngươi mang lễ vật đến ta sẽ khảo hạch cho, còn bây giờ không có hãy rút lui ngay, đừng xin xỏ uổng công vô ích.

Nhạc Phi tức giận bảo ra ngoài bàn bạc cùng anh em, bỗng thấy ông huyện Từ Nhân đi kiệu đến, mấy anh em Nhạc Phi vội bước xuống ngựa đến hầu.

Ông huyện Từ Nhân hỏi:

- Sao mấy anh em không đến Hồng Trung Quân cho người khảo hạch?

Nhạc Phi thưa lại mọi chuyện, ông huyện Từ Nhân bảo:

- Vậy thì các ngươi hãy theo ta đến ngay quan đầu tỉnh xin ứng thí.

Năm anh em vâng lời theo quan huyện đến viên môn gửi đơn vào xin ra mắt. Giây phút sau có người ra mời quan huyện vào. Quan huyện là lễ xong, quan đầu tỉnh Lưu Đô Viện mời ông ngồi. Ông huyện Từ Nhân thưa:

- Hiện có năm tên võ sinh ở Hoàng Huyện đến xin đại nhân khảo hạch cung mã, chẳng biết đại nhận có bằng lòng thu nhận không?

Ông Lưu Đô Viện nghe nói vội sai Kỳ bài quan ra mời năm người vào ngay. Bọn Nhạc Phi vội bước vào quì lạy. ông Lưu Đô Viện trông thấy tướng mạo năm người khôi ngô tuấn tú trong lòng mừng thầm, lại thấy Hồng Trung Quân bước vào.

Vừa thoáng thấy bọn Nhạc Phi, Hồng Trung Quân liền bẩm với quan đầu tỉnh:

- Năm tên này cung mã hãy còn tầm thường, phải về tập luyện thêm, khoa sau sẽ đến ứng thí. Sao chúng dám đến đây kêu nài với ngài, chẳng lẽ chúng dám khinh thường hạ quan đến thế?

Ông huyện Từ Nhân lớn tiếng nói:

- Đó chỉ là vì năm người này không đem lễ vật đến lo lót nên bị đuổi về chứ gì? Ta thiết tưởng ba năm mới có một kỳ thi, ai mà không vọng tưởng. Xin đại nhân xét lại kẻo tội nghiệp cho kẻ hậu sinh.

Hồng Tiên vẫn nằng nặc bẩm:

- Quả thật năm tên này tôi đã khảo xét rồi, võ nghệ tầm thường trói gà không chặt, sao ông lại dám cáo buộc tôi như vậy? Nếu ông bảo năm tên này võ nghệ cao cường thì thử hỏi chúng có dám tỉ võ cùng tôi không?

Nối đến đây Hồng Tiên nhìn bọn Nhạc Phi ra vẻ hằn học.

Nhạc Phi dõng dạc đáp:

- Nếu thượng quan cho phép thì tôi xin tuân theo vậy.

Ông Lưu Đô Viện thấy thế bèn cho phép hai người tỉ thí bộ chiến.

Hồng Tiên ra vẻ dương dương tự đắc sai quân về lấy binh khí Tam Cổ Thác Thiên Ngại đem đến rồi ông ra thế Ngũ Hổ Cầm Dương đứng hiên ngang giữa đấu trường lớn tiếng bảo Nhạc Phi:

- Ngươi có giỏi thì nhảy vào đây tỉ thí với ta xem nào.

Nhạc Phi chẳng chút sợ hãi, tay cầm Lịch Tuyền Thương mâu áp dụng thế Đơn Phụng Triều Tiên, thân chàng bay xẹt lại như con én liệng rồi nói:

- Xin thượng quan chớ chấp nhé.

Dứt lời chàng tiến sát người Hồng Tiên, lão ta đang cơn tức giận lập tức vận hết thần lực đánh xuống một nhát quyết đập nát thây Nhạc Phi lập tức. Nhưng Nhạc Phi tránh khỏi một cách dễ dàng khiến mọi người đứng xung quanh ai nấy đều khâm phục võ nghệ của chàng.

Hồng Tiên nổi giận sôi gan tránh sang một bên rồi quất ngang một roi, Nhạc Phi tung mình lên không rồi đáp xuống như một chiếc lá rơi. Chàng muốn đánh trả lại một thương nhưng lại nghĩ thầm:

- "Ta tỉ thí với lão để người ta trông thấy trình độ võ thuật của mình chứ ta có thù oán chi với lão mà ra độc thủ".

Nghĩ vậy nên chàng tránh né hồi lâu rồi thối lui ra sau. Hồng Tiên thấy thế mừng rỡ reo lên:

- Thế là ngươi thua rồi.

Vừa reo Hồng Tiên vừa lao mình tới nhằm vào giữa lưng Nhạc Phi giáng xuống một roi định kết liễu đời chàng. Nhạc Phi nổi giận quay lại lấy thương gạt ngang một cái khiến lão ta bị giật lùi nửa bước, chàng thừa thế lấy cán thương đánh vào mình Hồng Tiên một cái rất nhẹ nhàng, nhưng Hồng Tiên mất thăng bằng nên ngã nhào xuống đất, binh khí rời khỏi tay văng ra xa. Quan quân đứng xung quanh đều vỗ tay khen Nhạc Phi võ nghệ cao cường.

Hồng Tiên vừa lồm cồm đứng dậy đã bị ông Lưu Đô Viện chỉ vào mặt, quát mắng:

- Võ nghệ của của ngươi kém cỏi như vậy mà làm quan Trung Quân sao được?

Rồi truyền quân lột áo đuổi khỏi nha môn tức khắc, đồng thời bảo bọn Nhạc Phi lần lượt biểu diễn cung mã cho ông xem.

Bốn anh em Vương Quới, Thang Hoài, Trương Hiển và Ngưu Cao đều biểu diễn cưỡi ngựa bắn cung hết sức điêu luyện, khiến mọi người vỗ tay rầm rộ, ông Đô Viện cũng tấm tắc khen thầm. Đến lượt Nhạc Phi ra biểu diễn thì tài cao xuất chúng khiến ông Đô Viện lòng như nở hoa. Ông bước tới vỗ vai Nhạc Phi bảo:

- Có phải ông là người ở Hoàng huyện không?

- Thưa đại nhân, nguyên tiểu sinh ở huyện Thang Âm làng Vĩnh Hòa xóm Hiếu Đễ. Nhưng khi mẹ tôi mới sinh tôi được ba ngày thì bị nước lụt, cả làng bị thủy tai, nhà cửa trôi hết. Mẹ tôi bồng tôi chui vào một cái chum lớn, nước trôi qua Hoàng huyện, nhờ có ân công tôi là Vương Minh cứu vớt cho mẹ con tôi tá túc từ bấy đến nay, lại nhờ có dưỡng phụ tôi là Châu Đồng truyền dạy văn võ cho năm anh em tôi mới được như ngày hôm nay. Xin quan lớn vui lòng cho giấy để anh em tôi được vào Đông Kinh thi hội. Nếu mai sau có đặng thành danh thì khi trở về quê cũ, ơn nghĩa của quan lớn rất cao dày.

Ông Lưu Đô Viện nghe Nhạc Phi phân tỏ đầu đuôi, lấy làm cảm kích và mừng rỡ vô cùng, bảo:

- Các ngươi được Châu tiên sinh dạy bảo hèn chi võ nghệ rất cao siêu. Lâu nay bổn quan đã từng nghe danh ông Châu Đồng văn võ tài toàn, và triều đình cũng đã cho đến thỉnh cầu đôi ba phen mà ông không chịu ra làm quan. Vậy các ngươi hãy về sửa soạn để ta giới thiệu ra kinh đô lập công danh.

Nói đến đây, ông quay lại bảo quan huyện Từ Nhân:

- Quan huyện hãy về điều tra kỹ quê quán của Nhạc Phi và tìm cho ra cái nền nhà cũ ấy ở đâu, để ta xuất bạc cho hắn xây cất lại nhà cửa, trở về quê cũ. Ta chắc Nhạc Phi sau này sẽ trở nên một danh nhân chớ chẳng không.

Quan huyện Từ Nhân chắp tay từ tạ rồi dẫn bọn Nhạc Phi trở về huyện đường, mở tiệc thết đãi và bảo:

- Ta đã sửa soạn nhà cửa thì cháu phải lo sắp đặt đưa lệnh đường trở về quê nhà.

Nhạc Phi tạ ơn rồi cùng mấy anh em trở về nơi quán trọ tính tiền cơm trả cho chủ tiệm, mới từ giã trở về nhà.

Nhạc Phi thuật lại hết đầu đuôi cho mẹ nghe, bà An Nhân vô cùng mừng rỡ. Mấy anh em cũng về thưa lại cho cha mẹ hay rằng Nhạc Phi được quan trên giúp đỡ cho trở về quê cũ. Mấy ông viên ngoại nghe nói nửa vui nửa buồn. Khi thấy Nhạc Phi đến, ông Vương Minh động lòng, sa nước mắt nói:

- Bàng Cử ôi, khi Châu tiên sinh còn sống thường bảo rằng: Sau này muốn cho bọn trẻ nên danh thì không nên rời xa Bàng Cử, thế mà hôm nay cháu trở về quê cũ, thì làm sao ta rời bỏ cho đành?

Nhạc Phi thưa:

- Chỉ vì Lưu đại nhân ân dày nghĩa trọng nên cháu chẳng dám trái lời. Nay cháu đành phải cách biệt thúc bá cùng chư huynh đệ, thật chẳng đành lòng, nhưng cháu chẳng biết tính làm sao cho vẹn toàn cả.

Ngẫm nghĩ hồi lâu, Trương viên ngoại nói:

- Ta có cách làm cho anh cháu chẳng phải xa cách nhau.

Thang viên ngoại hỏi vội:

- Cách gì vậy?

Trương viên ngoại thong thả nói:

- Chúng mình đây không phải có năm trai bảy gái gì, vậy thì của cải mỗi người nên chia làm hai phần, một phần để lại cho gia nhân ở lại coi sóc ruộng nương, còn bao nhiêu mang đến Thang Âm huyện ở với Bàng Cử. Con mình ngày sau được nên danh phận, chúng mình chẳng được vinh hiển hay sao?

Các ông viên ngoại đồng thanh nói"

- Ý kiến ấy hay lắm, vậy thì chúng ta nên thu xếp đi.

Nhạc Phi thưa:

- Gia sản của chư thúc bá quá lớn lao mà thu xếp như vậy e bất tiện chăng? Vậy xin chư thúc bá hãy suy tính lại.

Các ông viên ngoại đồng thanh đáp:

- Chúng ta đã quyết định như vậy rồi, Bàng Cử chớ lo.

Sáng sớm hôm sau, Nhạc Phi tạ từ mẫu thân xuống Hoàng huyện ra mắt nhạc phụ. Quan huyện Lý Xuân hỏi:

- Hiền tế đến Tương Châu thi cử thế nào?

Nhạc Phi thuật lại đầu đuôi câu chuyện, chàng không quên nói rõ việc Trung Quân đòi hối lộ và cuối cùng chàng được tỉ thí rồi được Lưu công giúp đỡ xây cất nhà cửa để trở về sống ở quê hương. Nhạc Phi đứng dậy chắp tay thưa:

- Mọi việc được may mắn và vinh hiển như hôm nay đều do công ơn của nhạc phụ, nên nay con đến để tạ ơn.

Quan huyện Lý Xuân nói:

- Hiền tế chớ nên nghĩ vậy, đây là nhờ ơn Lưu công nên hiền tế được về quê hương lập lại sự nghiệp của ông bà, ơn ấy rất trọng. Vậy ta muốn gửi lời hiền tế về thưa lại với lệnh đường rõ ý nguyện của ta.

Ngưng một lúc, quan huyện tiếp:

- Ta muốn cho ái nữ ta về cùng lệnh đường cho có mẹ có con và để người dạy dỗ. Bảy ngày nữa là ngày Hoàng đạo, ta muốn đưa nó về quê con rồi làm lễ thành thân. Người ta thường nói "an cư mới lạc nghiệp", ta muốn hiền tế thu xếp ổn thỏa việc nhà trước lúc lên đường tìm lập sự nghiệp công danh.

Hồi thứ tám

Nhạc Phi cưới vợ, về quê cũ

Huynh đệ chờ thời, lập công danh

Nghe quan huyện Lý Xuân nói vậy, Nhạc Phi không khỏi bối rối trong lòng. Chàng thưa:

- Tiểu tế nhà nghèo, mọi thứ chưa sắm sẵn, sợ việc nghênh hôn quá gấp, không kịp ngày; xin nhạc phục cho hoãn lại để con xuống kinh kỳ hội thí rồi trở về nghênh hôn được không ạ?

Ông huyện Lý Xuân nói:

- Ta nay tuổi đã già, không con nối nghiệp, còn hiền tế thì đi xa. Nếu may ra thi đậu làm quan bổ đi nơi khác lại càng trở nên bất tiện hơn nữa. Chi bằng sẵn dịp trở về quê cũ nên nghênh hôn luôn thể là phải. Lòng ta đã định, hiền tế chớ nên từ chối, phải về sắm sửa, đến ngày ấy ta đưa con ta đến.

Nhạc Phi từ tà ra về đến làng Kỳ Lân trông thấy các viên ngoại đang bàn luận chuyện dời qua Thang Âm. Mấy ông vừa thấy Nhạc Phi vào vội hỏi:

- Bàng Cử đã từ tạ nhạc phụ rồi sao?

- Vâng, người hay tin cháu sắp trở về cố hương nên tính đưa tiểu thư cùng về cho tiện.

- Thếthì hay lắm đấy.

Nhạc Phi thở dài:

- Chư vị thúc bá nghĩ xem, nhà cháu thì nghèo, mà việc nghênh hôn gấp rút như vậy làm sao cháu biện liệu chu đáo được.

- Ồ, việc gì chớ việc ấy cháu khỏi lo, chúng ta sẽ mỗi người góp một tay lo liệu chu tất. Cháu hãy về thưa lại với lệnh đường nên dọn đến đây để bố trí tân phòng rộng rãi hơn.

Nhạc Phi tạ ơn ra về thưa lại cho mẹ hay, bà An Nhân lấy làm vừa ý vội sắp sửa dọn sang nhà Vương viên ngoại ngay.

Vương viên ngoại có tiếng là người mau tay, nhanh miệng, nên vội vã thúc gia đinh quét dọn trong ngoài, treo hoành, phủ trướng, treo kèn kết hoa, trang hoàng rực rỡ. Thiếp mời gửi đi khắp nơi, khách xa gần đến chúc mừng chật ních cả trong ngoài, đúng là lễ nghênh hôn của con nhà quyền quí.

Hôm ấy quan huyện Lý Xuân bệ vệ trong chiếc áo rộng thùng thình, theo sau là kẻ khiêng, người xách đưa dâu đến nhà Vương viên ngoại.

Họ nhà tra ra tiếp đón trọng thể, pháo nổ liên hồi, hai cô phù dâu đỡ tiểu thư đi thẳng vào tân phòng cùng Nhạc Phi làm lễ bái tại trời đất và lễ động phòng hoa chúc.

Sau khi chàng rể bái tạ nhạc phụ, chư viên ngoại cùng hai họ vào bàn tiệc.

Rượu được vài tuần, quan huyện Lý Xuân đứng dậy nói:

- Hiền tế hãy còn trẻ tuổi, nếu có việc chi sơ suất mong chư vị vui lòng dạy bảo. Nay sắp về quê, đáng lẽ tôi tiễn nó vài dặm đường mới phải, song công việc nha huyện hiện nay bề bộn bỏ đi chẳng tiện, nên sẵn đây tôi gửi gắm con rễ tôi cho chư viên ngoại và xin cáo từ luôn thể.

Chư viên ngoại biết có giữ lại cũng không được, nên phải đưa tiễn ông trở về huyện đường. Hôm sau Nhạc Phi đi với mấy anh em xuống huyện tạ ơn ngài.

Ông huyện sai bày tiệc thiết đãi, mấy anh em đồng môn ăn uống vui vẻ. Tiệc xong ông ta căn dặn:

- Hiền tế cùng các cháu có xuống kinh thành thi hội, kết quả ra sao sẽ cho ta biết sớm kẻo ở nhà ta trông tin đấy!

Mấy anh em cùng vâng dạ rồi từ tạ ra về.

Về đến làng Kỳ Lân, trông thấy nhà Vương viên ngoại tấp nập kẻ trong người ngoài lo dọn gia tài của ba viên ngoại chất lên xe lừa và xe tay đầy ắp, tính có hơn trăm xe vẫn chưa hết.

Khi sắp đặt đâu đó an bài, năm nhà vừa gái vừa tra hơn trăm người cùng khởi hành một lượt. Xe chở đồ đạc đi trước, người thủng thỉnh đi sau, rầm rộ nhắm Thang Âm thẳng đến. Trong đó có kẻ được về quê, có người lại phải cách xa quê nhà nhưng cuộc chia tay thật là vui vẻ, không đượm một chút u buồn.

Cứ ngày đi, đêm lại tìm chỗ nghỉ ngơi, qua ngày thứ ba, mặt trời đã lặn mà đoàn người vẫn còn lững thững chốn hoang vu, xung quanh không thấy nhà cửa chi hết. Nhạc Phi bèn thúc ngựa đến gọi mấy anh em bảo:

- Chúng ta mải lo việc đi cho mau đến, nên quên lo liệu chốn nghỉ ngơi. Ta còn phải đi đến bốn mươi dặm đường nữa mới có xóm nhà mà xe cộ ta bề bộn như vậy, trời lại sắp tối, không thể nào đến đó kịp. Còn nơi đây hoang dã, chỗ đâu cho mấy bà cùng thúc bá nghỉ lưng? Vậy anh em hãy phân nhau đi tìm kiếm quanh đây xem có chỗ nào tạm trú được qua đêm nay không?

Thang Hoài và Trương Hiển thúc ngựa chạy đi tìm kiếm hồi lâu mới trở lại thưa:

- Nơi đây quả là chống hoang dã, bọn đệ đã đi xa hàng mười dặm vẫn không thấy nhà cửa chi hết, chỉ có phía Tây cách đây ba dặm có một cái miếu sơn thần thổ địa, tuy đã hư hại song vẫn còn một đôi chỗ nghỉ ngơi được. Ngặt nỗi là trống trải lắm và không có chỗ nấu cơm ăn.

Vương Quới nói:

- Chẳng hề chi, ta có đem theo đủ thực phẩm, gạo thóc lại sẵn có chảo nồi, cứ việc đến đó rồi sai người đi kiếm củi về nấu cơm ăn đỡ một đêm cũng được.

Ngưu Cao lại xen vào:

- Hay lắm, hay lắm. Cứ việc đến đó nấu cơm lẹ đi chớ tôi đói bụng lắm rồi.

Nhạc Phi bảo Thang Hoài đi trước dẫn đường, còn chàng lo đốc thúc gia đinh đẩy xe, dắt lừa đến miếu thổ địa.

Đến nơi, chàng bảo đẩy những xe chở đồ đạc sắp hàng hai bên. Các bà An Nhân, Viện Quân cùng Lý tiểu thư và bọn a hoàn xúm xít nhau nghỉ trước điện.

Phía sau điện lại có vài ba căn nhà trống trải, bên trong có mấy chiếc quan tài hư mục rã rời mỗi nơi một mảnh, gần bên đó có dấu vết một căn nhà bếp nhưng bếp lò đã bể nát, cỏ bìm mọc phủ lên gần lấp mất.

Vương Quới và Ngưu Cao bụng đã đói như cào nên đốc thúc gia đinh dọn dẹp sạch sẽ, đứa thì lượm gạch chất làm ông táo, đứa thì xách nước, nổi lửa nấu cơm. Khi cơm dọn thì trời vừa chạng vạng.

Chư viên ngoại cùng gia quyến ngồi vào mâm. Bữa cơm ngoài trời tuy đạm bạc nhưng đầy thân mật và ngon đáo để, ai nấy đều ăn xong cả mà Ngưu Cao vẫn còn ngồi uống rượu tì tì.

Nhạc Phi đến bảo:

- Ngưu đệ không nên uống rượu thái quá vậy. Nơi đây là chốn đồng hoang cỏ dại lại trống trải lạnh lẽo, rủi đêm khuya gió máy thì biết tính sao? Hãy ráng đến Thang Âm yên ổn rồi muốn uống bao nhiêu cũng được.

Ngưu Cao vâng lời không dám uống rượu nữa, chỉ ăn cơm mà thôi.

Sau khi dọn dẹp tươm tất, chư viên ngoại và mấy bà đều an nghỉ hết, Nhạc Phi bèn kêu mấy anh em ra ngoài căn dặn:

- Bây giờ Thang và Trương hiền đệ phải nai nịt sẵn sàng ra phía sau miếu canh phòng, còn Vương hiền đệ canh phòng phía tả, Ngưu hiền đệ phía hữu. Chúng ta chớ nên sơ suất nhé.

Ngưu Cao tỏ vẻ bất bình, càu nhàu:

- Đi miết cả ngày mệt nhọc, trông cho đến chỗ nghỉ ngơi cho khỏe để mai còn đi nữa. Ở đây là chỗ không người trước sau vắng vẻ, đại ca sợ nỗi gì mà bắt chúng tôi canh phòng cho mệt xác? Các hiền huynh cứ đi nghỉ hết đi, có điều gì Ngưu Cao này chịu cho.

Nhạc Phi mỉm cười vỗ vai Ngưu Cao bảo:

- Vẫn biết vậy, nhưng ở đời việc gì cũng nên đề phòng trước là hay hơn. Nghèo khó thì chẳng lo chi chứ vàng bạc của chư viên ngoại hằng mấy xe thế này không lo sao được? Vả lại trên đường đi nếu có điều gì sơ suất, có phải người ta chê cười chúng mình là không đáng mặt anh hùng không? Vì vậy anh em phải nghe lời tôi, canh phòng cho nghiêm ngặt. Riêng tôi giữ phía trước, nếu có thiên binh vạn mã đến ta cũng chẳng nao núng. Tôi mong cho đi đến nơi về đến chốn, bình yên mới an dạ.

Ngưu Cao nói:

- Thôi được rồi, cứ để phía hữu đấy cho đệ canh giữ cho.

Chàng nói vậy sợ mếch lòng Nhạc Phi chứ trong bụng lại thầm nghĩ:

- Trong lúc thái bình như vầy, trộm cướp đâu mà đại huynh khéo lo xa cho vất vả!

Rồi Ngưu Cao dắt ngựa qua phía hữu buộc vào cây cột, đoạn dựa lưng vào vách ngủ ngon lành.

Khi bốn anh em đi rồi, Nhạc Phi đóng cửa và bưng cái lư hương bằng đá chặn lại cho chặt chẽ, tay cầm Lịch Tuyền thương đi rảo ra phía trước.

Đêm hôm ấy là đem hăm ba, không có trăng, bầu trời tối đen như mực, ngửa bàn tay không thấy.

Vừa bước qua đầu canh hai, bỗng nghe có tiếng người lao xao và tiếng ngựa hí rộn ràng, rồi phía trước có tiếng quát to như sấm:

- Hãy bao vậy đừng để cho Nhạc Phi thoát khỏi.

Nhạc Phi nghĩ thầm:

- "Ta có gây thù kết hận với ai đâu, sao có người gọi đích danh ta và quyết tính hãm hại như vậy?".

Chàng trố mắt nhìn xem, đoàn người ngựa mỗi lúc một đến gần, đèn đuốc sáng choang, chàng mới rõ đây là bộ hạ của Hồng Tiên làm quan Trung Quân. Vốn tên này xuất thân là tướng cướp, ông Lưu Thế Quang thấy nó có sức khỏe hơn người lại có đôi chút võ nghệ nên cho làm đến chức Trung Quân. Nhưng tính tham lam hay ăn hối lộ và ghen ghét kẻ hiền tài nên vừa rồi tỉ võ với Nhạc Phi bị cách chức đuổi về, hắn vô cùng căm tức liền thu thập bọn lâu la cũ cùng bới hai con là Hồng Văn, Hồng Võ theo dõi Nhạc Phi để báo thù.

Nhạc Phi nghĩ thầm:

- "Ta nên thủ thế là hơn. Ta cố giữ chặt cửa lớn, còn các phía kia đã có mấy anh em, chắc chúng nó không thể phá được. Đánh một hồi không thắng được thì chúng phải bỏ đi thôi".

Nghĩ đoạn, chàng gò ngựa cầm thương mắt đăm đăm nhìn ra phía trước để đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra.

Phía bên trái Ngưu Cao đang mê man trong giấc ngủ bỗng nhiên nghe tiếng động giật mình thức dậy. Chàng mở choàng mắt nhìn thẳng ra ngoài trông thấy đèn đuốc sáng lòa, vội đưa tay lên dụi mắt, miệng lẩm bẩm:

- "Đại huynh ta quả là người cao kiến, có bọn cướp đến rồi, nhưng chúng nó biết đâu bọn ta đã chuẩn bị đến kinh đô để giựt chức trạng võ đây, chúng bay vuốt râu cọp mà toi mạng đấy. Thôi để ta ra thử sức với bọn này một trận cho chúng biết tay".

Nghĩ đoạn Ngưu Cao tung mình lên lưng ngựa, ta cầm song giản xông ra quát lớn:

- Quân đạo tặc lại dám cả gan đến chốn này? Quả thật chúng bay tới số rồi!

Vừa hét, Ngưu Cao vừa múa cây giản vun vút, xông vào đám đông như đến chỗ không người. Bọn lâu la Hồng Tiên đứa thì vỡ đầu, đứa thì gãy tay chết nằm la liệt, máu chảy lênh láng.

Vương Quới đứng canh giữ phía bên trái trông thấy quân cướp đến, chàng còn đang suy tính. Chợt thấy Ngưu Cao xông ra chém giết vô số nên thầm nghĩ:

- "Ta cũng nên ra tay gấp kẻo để Ngưu Cao nó giết hết thì uổng lắm".

Nghĩ vậy, chàng vung cây Kim bối đao giục ngựa xông ra chém lia chém lịa, đầu quân cướp rụng như sung. Chợt nghe phía sau có tiếng hét lanh lảnh rồi một người cưỡi ngựa ô tay cầm Tam Thất Thiên Ngại xông ra, người này không ai khác chính là Hồng Tiên, một ông quan vừa bị giáng chức, lột áo đuổi về.

Hồng Tiên đối địch với Ngưu Cao, còn hai con hắn Hồng Văn và Hồng Võ thì chống cự với Vương Quới.

Ngưu Cao chỉ vào mặt Hồng Tiên mắng:

- Tên cướp kia, đã được đại huynh ta tha cho một phen rồi, nay còn đến đây nạp mạng nữa sao?

Vừa mắng chàng vừa xáp tới đánh túi bụi, bên kia Vương Quới cũng thét:

- Hôm nay ta để một trong hai đứa bay sống sót thì không phải là anh hùng.

Nhạc Phi đứng bên trong nghe vậy biết ngay các hiền đệ đã xông ra rồi, nên vội xô đổ chiếc lư đá, thúc ngựa xông ra. Thang Hoài và Trương Hiển thì vội vã quay vào miếu phi báo:

- Bọn cướp đã đến ngoài kia, nhưng xin cả nhà hãy yên tâm, chúng không làm gì nổi chúng con đâu.

Dứt lời, cả hai giục ngựa xông ra, một người cầm Câu liêm thương, một người cầm Lang ngân thương đánh bài "tẩu thạch phi sa". Không một tên cướp nào thoát khỏi.

Hồng Võ đang đánh với Vương Quới liếc thấy cha mình không cự nổi Ngưu Cao bèn nhảy qua trợ chiến, để lại một mình Hồng Văn chống cự với Vương Quới nên chỉ qua lại vài hiệp đã bị Vương Quới chém một đao ngã nhào xuống ngựa. Bên kia Ngưu Cao cũng đánh trúng Hồng Võ một giản nát óc.

Hồng Tiên thấy hai đứa con mình đều chết hết trong lòng nóng như lửa đốt, đem hết sức bình sinh ra liều tử chiến với Ngưu Cao. Hai người đang giao chiến thì thấy Nhạc Phi đến hét lớn:

- Tên Hồng Tiên kia, ngươi còn nhớ Nhạc Phi này không?

Hồng Tiên trong lúc bối rối lại thấy có Nhạc Phi đến, trong lòng kinh hãi toan tẩu thoát để bảo toàn tính mạng, chẳng ngờ Trương Hiển vừa đến đâm một giáo ngã nhào xuống ngựa. Thang Hoài bồi thêm một đao nữa, toàn thân lão ta bất động.

Bọn lâu la thấy chủ trại mình chết rồi, liền bỏ chạy tán loạn. Ngưu Cao và Vương Quới đuổi theo mặc sức chém giết. Nhạc Phi thấy thế lớn tiếng gọi:

- Thôi, chư đệ hãy dừng tay. Hãy tha cho bọn chúng, chớ nên chém giết nữa!

Hai người đang hăng máu nên không nghe, cứ đuổi theo chém giết không biết bao nhiêu mà kể. Nhạc Phi phải dùng kế gọi lớn:

- Còn một tốp ăn cướp đến nữa kia kìa, chư hiền đệ hãy trở lại cho mau.

Hai người nghe vậy lật đật quay ngựa trở về. Vừa trông thấy mặt, Nhạc Phi đã trách mắng:

- Sao chưa đệ không chịu nghe lời tôi như vậy? Tội lỗi là ở tên cầm đầu chứ chúng là lâu la đã sợ chạy thì giết làm gì tội nghiệp! Hơn nữa chúng ta giết nhiều như vậy án mạng để lại cho người địa phương này khổ cực biết bao.

Sau đó mấy anh em trở về miếu, trong thấy bọ gia nhân chạy nấp mỗi đứa một nơi, mặt mày dáo dác, còn mấy ông viên ngoại cùng Lý tiểu thư đều tán đởm kinh hồn, toàn thân run lẩy bẩy.

Vừa thấy bọn Nhạc Phi về, ai nấy đều vui mừng xúm lại hỏi:

- Bọn ăn cướp đâu rồi?

- Thưa, chúng đã sợ hãi chạy cả rồi.

Các ông, các bà nghe nói mới hoàn hồn, lẩm bẩm vái tạ Trời Phật đã phù hộ cho tai qua, nạn khỏi.

Nhạc Phi ngước mắt nhìn trời rồi bảo:

- Trời gần sáng rồi mà ta giết người, thây bỏ đầy đường biết tính sao đây? Nếu người ta biết mình giết bọn cướp thì không sao, nhưng dù sao chuyện này đến quan quyền thì khó tránh được sự lôi thôi lắm.

Vương Quới nói:

- Chúng ta cứ việc bỏ đi quách, thân nhân chúng có muốn thưa kiện cũng chả biết ai mà thưa.

Nhạc Phi vẫn lo ngại:

- Xác chết thì nhiều quá, e rằng quan địa phương này tra xét thì nguy tai.

Ngưu Cao nói:

- Chư huynh đừng lo, việc này dễ ợt. Chúng ta cứ việc gom những thây chết ấy vào miếu rồi chất củi đốt hết, thần quỉ tìm cũng chẳng được huống chi là người.

Thang Hoài và Trương Hiển cùng vỗ tay khen:

- Ngưu Cao tính kế ấy hay lắm.

Nhạc Phi phì cười:

- Ngưu đệ khi trước ở tại Loạn Thảo Cang chặn đường giết người rồi đốt thây quen rồi chứ gì?

Mọi người đều cười xòa rồi mấy anh em cùng bọn gia đinh chia ra mạnh ái nấy vác thây chết đem về chất trong miếu.

Sau khi chất củi sẵn sàng, cho một mồi lửa cháy cất lên cao ngất trời rồi mới bỏ đi. Chỉ trong giây lát, nơi đây thành một đống tro tàn không còn trông thấy dấu vết gì cả.

Khi mọi người đến Thang Âm huyện, mấy anh em vào trình báo danh tính cho môn lại biết và xin ra mắt quan huyện.

Môn lại vào bẩm, quan huyện lập tức cho mời vào. Trà nước xong xuôi, Nhạc Phi kể lại việc ông Lý Xuân gả con gái cho mình, và hiện nay chàng trở về quê cũ có cả các ông viên ngoại theo mình.

Ông huyện Từ Nhân nói:

- Thế thì hay lắm, nhưng các vị đây quá bất ngờ, huyện đường không chuẩn bị đủ phòng the, e sẽ thất lễ chăng?

Năm anh em cùng thưa:

- Dạ chẳng dám làm phiền ngài, để mấy anh em tôi cất thêm ít căn nhà nữa để ở cũng xong.

Ông huyện Từ Nhân nói:

- Bây giờ điều cần nhất là phải lo sắp đặt chỗ ở cho mấy viên ngoại nghỉ ngơi.

Nói rồi, ông huyện từ lập tức lên ngựa thẳng đến lành Vĩnh Hòa, xóm Hiếu Đễ. Ông giơ tay chỉ một ngôi nhà mới cất nói với Nhạc Phi:

- Sau khi xét qua bản đồ tôi được biết miếng đất này là của họ Nhạc khi trước, nên có bẩm cùng ông Lưu Đô Viện rõ. Ông ta đã xuất bạc chuộc lại và sai thợ cất nhà, vậy nay hiền khiết hãy dọn về đây mà ở.

Nhạc Phi cảm kích vô cùng, ông huyện Từ còn dặn dò thêm mọi việc rồi mới trở về nhà.

Chỉ trong ngày hôm ấy, Nhạc Phi sai gia đinh dọn đồ đạc đến và mời gia quyến cùng đến đó ở.

Bà An Nhân về đến quê hương rồi, trong lòng xúc động, nước mắt nhỏ ròng ròng nói:

- Xưa kia sự nghiệp giàu có, cửa nhà khang trang, nay về thấy nhà cửa chật hẹp, và chẳng thấy mặt chồng đâu cả thì còn gì đau đớn cho bằng.

Bà Viện Quân khuyên giải mãi bà vẫn không nguôi, Nhạc Phi thưa:

- Xin mẹ bớt cơn phiền muộn, tuy nhà cửa chật hẹp, nhưng con sẽ lo cất thêm rộng lớn, việc ấy chẳng khó gì, xin mẹ an tâm.

Rồi bày tiệc ăn mừng, khánh thành nhà mới.

Ngày hôm sau Nhạc Phi cùng chư huynh đệ đến tạ ơn quan huyện Từ Nhân rồi dắt nhau ra tỉnh thành xin vào bái kiến ông Đô Viện.

Bọn Nhạc Phi quỳ lạy lễ tạ ơn ông Lưu Công, quan huyện Từ Nhân bẩm lại việc mấy anh em Nhạc Phi đã có chỗ ở yên ổn rồi.

Lưu Công nói:

- Mấy anh em không nỡ lìa nhau nên dời đến ở một chỗ, thật là tình bằng hữu quá đậm đà, trên đời này ít kẻ bì kịp. Thôi quan huyện hãy trở về nha môn đi, để bọn hiền khiết ở lại đây, ta còn có việc dặn bảo.

Quan huyện Từ Nhân ra về rồi, Lưu Công cho gọi Nhạc Phi vào đóng cửa lại, hỏi:

- Chừng nào hiền khiết xuống kinh kỳ ứng thí?

Nhạc Phi đáp:

- Thưa, ngày mai này, tiểu sinh sắm sửa khởi hành.

Lưu Công ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói nhỏ:

- Hôm trước ta có gửi thư cho ông Lưu Thú Tông Trạch nhờ ông ta giúp đỡ ngươi trong việc thi cử, nhưng ta sợ ông ta mắc nhiều việc có thể bỏ qua, nên nay ta muốn đưa ngươi một lá thư nữa đem đến trao tận tay ông ta trong ngày ấy mới được.

Nói rồi ông lấy bút mực ra viết thư trao cho Nhạc Phi và nhét vào tay chàng năm mươi lượng bạc, bảo:

- Hiền khiết hãy mang số bạc này làm lộ phí.

Nhạc Phi lãnh bạc và thư, lạy tạ rồi trở về huyện ngay. Quan huyện Từ Nhân nắm tay chàng bảo:

- Ta chẳng có chi tặng cháu, vậy ta hứa trong lúc cháu vắng mặt, ta sẽ giúp đỡ, đùm bọc cho gia quyến cháu. Cháu hãy ra đi chớ lo chi đến việc ở nhà.

Nhạc Phi cùng chư huynh đệ bái tạ ra về thưa cùng các viên ngoại:

- Anh em chúng con đi về kinh thi hội kỳ này không muốn đem kẻ tùy tùng theo làm gì cho phiền phức, nên anh em định cùng đi cho thong thả.

Rồi lo sắm sửa đồ hành lý, sáng sớm hôm sau anh em vào từ biệt các viên ngoại. Nhạc Phi còn dặn dò Lý tiểu thư và lạy mẹ rồi cùng nhau đi thẳng đến Trường An. Ngày đi đêm nghỉ, đi mãi hai ngày sau mới đến nơi.

Nhạc Phi gọi mấy anh em căn dặn:

- Đây là chốn kinh thành, không phải như trong làng xóm mình đâu, nên mọi việc cần phải thận trọng lắm và tránh mọi cử chỉ vô lễ kẻo mang vạ vào thân đấy.

Ngưu Cao cau mày nói:

- Nếu vậy con người ở chốn kinh thành hung dữ, hay ăn thịt người ta lắm sao?

- Không phải vậy đâu. Tôi nói thế có nghĩa là chốn này không thiếu chi hạng vương tôn công tử, nếu ta có cử chỉ lỗ mãng, sinh chuyện lôi thôi thì khó bề giải cứu.

Vương Quới nói:

- Không hề chi đâu, huynh trưởng hay lo xa vậy, chớ anh em mình vào thành rồi chẳng thèm hơn thua với ai hết thì việc gì mà sợ?

Thang Hoài xen vào:

- Nhưng đại huynh đề phòng trước là phải lắm, phàm việc gì chúng mình cũng phải khiêm nhường là hay hơn hết.

Năm người giục ngựa buông cương, kẻ trước người sau, chẳng mấy chốc đã đến trước cửa thành. Bỗng từ phía sau, có người ra sức chạy bộ tiến đến nắm lấy vạt áo Nhạc Phi vừa thở vừa nói:

- Ối, ông Nhạc Phi ôi, ông hại tôi nhiều lắm rồi, chẳng lẽ bây giờ ông lại không ngó ngàng gì đến tôi sao?

Nhạc Phi quay lại nhìn kỹ người này chính là Giang Chấn Tử, chủ tiệm ở tại Tương Châu.

Nhạc Phi hỏi:

- Lý do gì mà ông bảo chúng tôi báo hại mình?

Chấn Tử nói:

- Chẳng giấu chi ông, khi trước tại tỉnh Tương Châu, ông có ghé vào tiệm tôi nghỉ ngơi mấy ngày. Khi ông đi rồi, có Hồng Tiên dẫn một số lâu la đến tiệm tôi tìm ông không thấy, hắn hằn học bảo rằng vì ông mà hắn bị cách chức quan nên mang mối hận thù.

Thế là nó ra lệnh cho lâu la đập phá cửa tiệm tôi tan tành, còn đánh tôi một trận nhừ tử.

Nhạc Phi nói:

- Vậy ông định bắt đền chúng tôi vì chuyện đó hay sao?

Giang Chấn Tử phân trần:

- Sau vụ đó, vợ chồng tôi phải dắt díu nhau lên đây làm ăn. Gặp các ông đây, tôi muốn mời mấy ông vào quán tôi nghỉ ngơi.

Hồi thứ chín

Tông Lưu Thủ khảo hạch võ sinh

Văn võ song toàn, chưa gặp vận

Năm anh em nối gót đến tiệm Giang Chấn Tử chọn một căn phòng rộng rãi nghỉ ngơi.

Nhạc Phi hỏi Chấn Tử:

- Ngươi ở đây có biết dinh ông Tông Trạch Lưu Thú không?

Chấn Tử đáp:

- Ở đây ai mà không biết nha môn ông Tông Lưu Thú!

Rồi giơ tay trở ra bên ngoài, tiếp:

- Cứ việc đi thẳng đường này chừng bốn năm dặm thì tới.

Chàng lại hỏi:

- Chẳng biết giờ này ông ta đã thăng đường chưa?

Chấn Tử ra chiều suy nghĩ rồi đáp:

- Ông ấy phần quán xuyến việc quân, phần thì lo lắng việc dân, không biết chừng giờ này ông vẫn còn tại triều đình lo bàn việc nước chưa về nhà đâu.

Nhạc Phi mở gói hành lý ra lấy phong thư gói lại tử tế, Thang Hoài thấy thế hỏi:

- Đại huynh sắp sửa đi đâu đấy?

- Hiền đệ không biết sao? Lúc ra đi, ông Lưu Đô Viện có gửi một phong thư bảo mang đến trao cho ông Tông Lưu Thú, vừa rồi hỏi thăm người chủ tiệm cho biết rằng ông ta quyền thế lắm, chắc chắn phen này anh em ta có chỗ nương nhờ rồi. Để tôi đi trao thư cho ông ta ngay mới được.

Ngưu Cao nói:

- Vậy thì mấy anh em mình cùng đi với nhai cho vui chớ.

Nhạc Phi lắc đầu:

- Không tiện đâu hiền đệ ạ. Ta nói thiệt, tính hiền đệ lỗ mãng, đến đó rủi hiền đệ sinh sự thì có thể họa lây đến ta.

Ngưu Cao giơ tay cả quyết:

- Không sao đâu, đệ hứa không nói năng gì cả, chỉ đứng trước cửa nha môn đợi đại huynh mà thôi.

Nhưng Nhạc Phi vẫn còn e ngại cứ lắc đầu mãi, không bằng lòng cho Ngưu Cao đi.

Vương Quới nói:

- Nếu Ngưu đệ muốn đi thì đại huynh hãy cho bọn đệ cùng đi cả, sẽ ngăn cản không cho Ngưu đệ sinh chuyện. Hơn nữa đệ có nghe nói dinh ông Tông Lưu Thú chạm trổ khéo lắm, cũng muốn đến đó xem cho biết.

Nhạc Phi gật đầu và căn dặn:

- Cũng được, nhưng có đi thì phải thận trọng lắm mới được. Nếu xảy ra ra chuyện gì lôi thôi thì nguy hiểm lắm đấy.

Năm anh em sửa soạn khăn áo chỉnh tề, gọi Chấn Tử vào bảo:

- Chúng ta đếm nha môn ông Tông Lưu Thú, một lúc rồi về ngay nhé.

Sau khi khóa cửa phòng, năm anh em đi bộ thẳng đến dinh ông Tông Lưu Thú. Quả thật là một dinh thự nguy nga và cổ kính, công trình kiến trúc hết sức to lớn và đẹp mắt.

Bọn Nhạc Phi còn đang tha thẩn trước cửa cổng thì đã thấy một người lính từ trong dinh bước ra. Nhạc Phi nhanh miệng hỏi:

- Thưa, không biết đại lão gia đã thăng đường chưa?

Người lính đáp:

- Quan lớn đã vào triều từ hồi sớm mai đến giờ vẫn chưa thấy về.

Nhạc Phi quay lại nói với anh em:

- Nếu vậy, anh em mình về nghỉ rồi mai sẽ đến.

Bọn Nhạc Phi trở về độ nửa dặm đường bỗng thấy phía trước người ta chạy qua lại xôn xao, hỏi ra mới biết ông Tông Lưu Thú đi chầu về.

Anh em đứng nép bên lề đường thì thấy quân lính khiêng một chiếc kiệu đẹp đẽ, phía trên ngồi chễm chệ một ông quan đại thần, một chiếc lọng che đầu phủ bóng mát, trước sau có quân lính theo hầu trông rất uy nghi.

Bọn Nhạc Phi bèn quay trở lại đi theo sau kiệu.

Về đến dinh, chẳng bao lâu đã nghe vang lên ban hồi trống báo hiệu cho mọi người biết rằng, quan lớn ra thăng đường. Ngoài nha môn quan kỳ bài chạy tới, chạy lui rộn ràng, nào là đem đơn từ giấy tờ cho ngài phê, nào là phát tờ phê cho đương sự.

Quan lớn hí hoáy phê chuẩn hồi lâu, bổng ngước mặt lên bảo quan kỳ bài:

- Hễ thấy có tên võ cử nào ở huyện Thang Âm tên là Nhạc Phi đến xin ra mắt thì phải cho vào lập tức nhé.

Viên kỳ bài chấp tay dạ ran rồi chạy ra ngoài ngong ngóng. Ấy cũng nhờ có thư tiến cử của Lưu Đô Viện nên ông ta mới biết đến cái tên Nhạc Phi, hằng trông con người ấy đến xem thử có phải là nhân tài xuất chúng y như lời trong thư không, đặng ông tiến cử cùng triều đình dùng trong lúc quốc gia hữu sự này, hay là Lưu Đô Viện ăn của hối lội của kẻ giàu tiến cử bừa bãi chăng?

Nhạc Phi đứng ngoài nhìn vào thấy tôn đường nghiêm chỉnh, ông Tông Lưu Thú ngồi trên bàn cao có kẻ tả hữu đứng hầu trông oai phong lẫm liệt, trong lòng chàng hồi hộp vô cùng.

Thang Hoài khẽ nói với Nhạc Phi:

- Vị đại thần đi chầu mới về mà không kịp nghỉ, lại thăng đường ngay, thế thì quả là một vị quan mẫn cán!

Nhạc Phi cũng lấy làm lạ, phụ họa:

- Ừ nhỉ, đi triều kiến thiên tử từ canh năm đến giờ, đáng lẽ phải nghỉ ngơi đôi chút chớ sao lại ra thăng đường vội vậy? Chắc có việc gì gấp lắm thì phải.

Anh em đang bàn luận phiếm, bỗng thấy viên kỳ bài quan cầm giấy tờ từ trong bước ra. Nhạc Phi bàn với mấy người:

- Sẵn dịp ta gặp viên kỳ bày này xin vào dâng thư cho tiện, nhưng ta mặc đồ tang lễ e có thất lễ với người chăng? Thôi để ta đổi áo của Trương hiền đệ nhé.

Nói rồi, Nhạc Phi lập tức cởi áo đổi cho Trương Hiển và căn dặn mấy người:

- Nếu ta vào hầu công việc êm xuôi thì chẳng nói chi, bằng có điều chi bất trắc, các đệ đứng ngoài này chớ nóng nảy, cứ việc làm thinh để một mình ta tùy cơ ứng biến, lo liệu cho xong thì thôi.

Thang Hoài thấy chuyện khó khăn quá, tỏ vẻ chán nản nói với Nhạc Phi:

- Thôi đại huynh ạ, chúng ta cứ lấy tài mà thi cử, đừng trao thư nhờ vả ai tiến cử làm chi. Làm như vậy mai sau dù có công thành danh toại sao khỏi mang tiếng rằng nhờ người ta đỡ đầu mới nên danh phận.

Nhạc Phi đáp:

- Hiền đệ chớ nên chán nản, để ta lo liệu chớ nên cản trở mà hỏng cả đại sự.

Dứt lời, Nhạc Phi đứng im chờ cho viên kỳ bài bước ra, chàng vái một vái và dõng dạc nói:

- Tôi là võ sinh ở Thang Âm huyện tên Nhạc Phi đến xin yết kiến đại lão gia.

Viên kỳ bài niềm nở đáp:

- Vâng, đạo lão gia có lòng trông đợi công tử, xin công tử đứng dậy, tôi vào bẩm báo rồi ra ngay lập tức.

Hắn vội vàng chạy vào phi báo:

- Bẩm lão gia, đã có tên võ sinh ở huyện Thang Âm đến xin yết kiến rồi, hiện còn đứng ngoài cổng chờ lệnh.

- Hãy cho hắn vào ngay.

- Vâng, xin tuân lệnh.

Thấy Nhạc Phi vào, quan Lưu Thú Tông Trạch nhìn chàng từ đầu đến chân rồi tươi cười hỏi:

- Ngươi đến đây hồi nào?

- Bẩm đại quan, tiểu sinh mới đến hôm qua.

Rồi chàng dâng hai tay bức thư của Lưu Đô Viện, ông Tông Lưu Thú vội tiếp lấy bóc ra xem. Rồi chẳng biết nghĩ sao, ông biến đổi sắc mặt, đập bàn quát lớn:

- Kìa Nhạc Phi, ngươi tốn bao nhiêu tiền mới có được bức thư này? Hãy thú thật thì ta tha cho, bằng ngoan cố ta gia hình lập tức.

Mấy anh em Nhạc Phi đứng ngoài trông ngóng, nghe thấy bên trong có tiếng nạt nộ la lối om sòm, ai nấy đều phập phồng lo sợ chẳng biết lành dữ thế nào.

Ngưu Cao nghiến răng kèn kẹt rồi nói lớn:

- Tôi đoán chắc dữ nhiều lành ít, sợi nguy tai đấy. Để tôi xông vào cướp huynh trưởng ra, nếu chúng có rượt theo, mấy anh em ra sức ngăn cản lại nghe không?

Thang Hoài thấy Ngưu Cao nóng nảy, vội nắm tay can:

- Không nên, để xem cớ sự thế nào đã. Làm càn như vậy xảy ra to chuyện đấy chứ chẳng chơi.

Trước thái độ giận dữ của ông Lưu Tông Thú, Nhạc Phi vẫn thản nhiên không có chút gì sợ hãi. Chàng bình tĩnh đáp:

- Bẩm đại quan, cha tôi người gốc ở Thang Âm huyện, xóm Hiễu Đễ. Mẹ tôi sinh tôi ra mới được ba ngày thì bị nước sống Hoàng Hà dâng cao tràn ngập như biển cả. Nạn thủy tai này đã làm nhà cửa của cải trôi hết, cha tôi cũng bị chôn vùi dưới lớp trùng dương. Nhờ mẹ tôi bế ngồi vào trong cái chum nên khỏi chết, nhưng lại bị trôi thẳng đến Hoàng huyện. Nhờ viên ngoại Viên Minh cứu vớt nuôi nấng mẹ con tôi. Khi tôi lên bảy tuổi lại may mắn gặp ông Châu Đồng người ở Hiệp Tây nhận làm con nuôi và truyền dạy nghề văn, nghiệp võ.

Khi tôi đến tỉnh ứng thí, ông Lưu Đô Viện thấy tôi là kẻ hàn sĩ nên đem lòng thương mến hỏi rõ tông tích và giúp tôi xây cất nhà cửa trở về cố hương. Vì thế đến hôm tôi sắp đến kinh kỳ thi hộ có đến biệt ngài để lên đường, ngài lấy năm mươi lượng bạc cho tôi làm lộ phí, lại trao một phong thư dặn mang đến dâng cho đại lão gia, nhờ lão gia giúp đỡ cho điều kiện xuất thân; chứ nghèo khổ như tôi, cơm không đủ ăn, tiền của đâu mà mua thư tiến cử?

Ông Tông Trạch thấy Nhạc Phi nói một hơi không vấp, lời lẽ lại thật thà, chân chất nên ngồi bấm trán nghĩ thầm:

- Đúng rồi, trước đây ta đã từng nghe danh Châu Đồng văn hay xuất chúng, võ nghệ siêu quần, đã mấy phen nhà nước cho người đi triệu thỉnh mà ông không chịu ra làm quan, chỉ vui theo thú giang hồi ẩn dật. Nay tên Nhạc Phi này bảo là con nuôi ông ấy chắc võ nghệ cao cường đấy chớ chẳng phải không đâu.

Tuy nghĩ vậy nhưng ông ta muốn thấy rõ hơn nên bảo Nhạc Phi:

- Thế thì bây giờ ngươi hãy theo ta ra ngoài giáo trường, biểu diễn cung mã xem trình độ võ thuật của ngươi đã đến bực nào cho biết.

Dứt lời quan Lưu Thú đứng dậy bước đi, Nhạc Phi cũng nối gót đi theo đến giáo trường.

Nơi đây có dựng bia sẵn sàng, hai bên quân lính đứng giàn hàng trông nghiêm chỉnh lắm. Ông Tông Trạch ngồi trên khán đài cao, lớn tiếng gọi Nhạc Phi bảo:

- Ngươi hãy đến chỗ treo cung, lựa một cái cho vừa tay bắn thử ta xem nào.

Nhạc Phi cúi đầu vâng dạ rồi bước đến giàn treo cung, lựa đi lựa mãi hết bó cung mà chàng chẳng thấy cây cung nào vừa tay chàng cả nên bước ra thưa:

- Những cây cung này yếu lắm, tiểu sinh sợ bắn chẳng được xa mà có thể gãy cung là khác.

- Thế thì sức ngươi dùng cây cung nặng độ mấy trăm cân?

- Bẩm thượng quan, tiểu sinh thường dùng cây cung nặng trên hai trăm cân và bắn xa lối chừng hai trăm bước.

Ông Lưu Tông Thú nghe Nhạc Phi nói, nửa tin nửa ngờ nên ông bảo:

- Được rồi, nếu vậy để ta cho quân lính về khiêng cây thần cung của ta nặng những ba trăm cân đến đây, thử xem ngươi có gương nổi không?

Nhạc Phi đáp:

- Nếu đại quan nhân cho phép, tiểu sinh cũng xin vô lễ giương thử.

Một lát sau người ta thấy tám tên lính ì ạch khiêng cây thần cung vào giáo trường để trước mặt Nhạc Phi. Rồi tiếp theo là hai tên lính khác khiêng ống tên bước vào.

Nhạc Phi ung dung bước tới cầm cây cung trông rất nhẹ nhàng, chàng lắp tên bắn luôn chín mũi trúng ngay vào hồng tâm, ai nấy đều vỗ tay tán thưởng.

Ông Tông Trạch lấy làm vui lòng, hỏi:

- Ngươi thường dùng món binh khí gì?

Nhạc Phi mạnh dạn đáp:

- Món binh khí nào tiểu sinh cũng sử dụng được cả, song tiểu sinh thường dùng chuyên cây thương.

Tông Trạch nghe nói vội sai quan kỳ bài về khiêng cây Điểm cang thương của ông ra cho Nhạc Phi biểu diễn.

Nhạc Phi vâng lệnh lãnh thương bước xuống thềm múa tung chẳng khác rồng bay phượng lượn. Chàng đánh tiếp ba mươi sáu thế phiên thân và trổ bảy mươi ngón biến hóa khiến người xem lóa mắt kinh hồn.

Quân sĩ trông thấy thương pháp của chàng khen không ngớt. Ông Tông Trạch cũng chăm chú nhìn không chớp mắt, ông không ngờ một thiếu niên trẻ tuổi như chàng mã võ nghệ siêu quần đến thế.

Nhạc Phi biểu diễn đường thương xong, chàng bước ra trông người vẫn khỏe khoắn như thường, không thấy mệt. Chàng đặt nhẹ cây thương vào chỗ cũ rồi bước lên thềm quy đợi lệnh.

Tông Trạch cất tiếng khen võ nghệ của Nhạc Phi thật là đúng bậc anh hùng xuất chúng, nhưng ông còn muốn biết qua mưu lược của chàng nên cất tiếng hỏi:

- Nếu như triều đình trọng dụng ngươi, phong ngươi làm tướng thì cách dụng binh của người thế nào?

Nhạc Phi đáp:

- Việc dùng binh là một vấn đề mưu lược nói sao cho cùng, vậy để tiểu sinh dâng lên đại nhân một bài thi để đại nhân xem có thể suy ra mà nhận xét được trình độ dụng binh của tiểu sinh.

Dứt lời, Nhạc Phi lấy bút viết nhanh tám câu dâng lên. Nguyên văn bài thi như sau:

Lệnh truyền, quân sĩ thi hành

Công minh thưởng phạt, đội hình nghiêm trang

Tướng tài trọng dụng mưu hơn,

Lên cao phòng khốn, xuống thường phòng sâu

Quân đi tề chỉnh trước sau

Sinh linh coi trọng, lọ cầu hư danh

Nguyên nhung, quốc biến, khi cần

Qyuết tâm đem lại thanh bình, du ca.

Xem xong, Tông Trạch bước xuống thềm đỡ Nhạc Phi dậy và nói:

- Ta đã nghĩ lầm hiền khiết nhờ đút lót để có lá thư tiến cử, nay mới rõ hiền khiết văn võ tài toàn.

Rồi sai quan đem ghế đến mời Nhạc Phi ngồi. Nhạc Phi khiêm tốn từ chối:

- Tiểu sinh đâu dám ngồi với đại lão gia.

Tông Trạch nắm tay chàng nói:

- Hiền khiết chớ nên khiêm nhường quá, hãy ngồi lại đây bàn về binh pháp nghe chơi.

Nhạc Phi xin thất lễ rồi khép nép ngồi xuống ghế. Lính hầu đem trà nước đến, Tông Trạch niềm nở mời chàng rồi hỏi:

- Võ nghệ của hiền khiết tưởng ít ai bì kịp, song chẳng biết phép điều binh khiển tướng cùng binh thư đồ trận, hiền khiết có được thông tuệ không?

Nhạc Phi cả quyết:

- Bẩm đại nhân, điều ấy tiểu sinh đã thuộc nằm lòng, song thiết tưởng binh thư đồ trận trong sách vở chẳng qua là phần lý thuyết, chỉ lấy đó làm căn bản mà thôi. Chứ đến lúc thực hành thì không nhất thiết y sách mà phải thiên biến vạn hóa cho phù hợp với thực tế.

Thấy Nhạc Phi không cho binh thư đồ trận là bảo bối nên Tông Trạch có ý không bằng lòng, nên hỏi vặn lại:

- Nói như vậy những binh thư đồ trận của thánh hiền đời xưa để lại chẳng lẽ vô dụng sao?

Nhạc Phi đáp:

- Bẩm đại nhân, theo sự hiểu biết của tiểu sinh thì phép hành binh xưa nay nhất định phải theo qui củ, nghĩa là bày binh bố trận trước rồi mới đánh. Nhưng khi ra trận tiền, nếu nhất nhất như vậy thì không khỏi có điều bất tiện, vì trong chiến trận, đối phương đâu có để cho mình tùy ý lựa chọn chỗ lập trận thế, mà hễ gặp đâu phải giao phong ở đó. Bởi vậy địa hình lúc đó có khi khác xa với lý thuyết. Có chỗ rộng rãi, có chỗ eo hẹp, có chỗ hiểm yếu núi non che chở, có chỗ lại trống trải binh sĩ không thể ẩn thân. Có khi gặp khe sông, có khi vào bụi rậm, nếu giáo điều áp dụng những trần đồ nhất định như trong sách vở chẳng là bất tiện lắm sao? Phương chi chiến thuật ngày nay khác với xưa nhiều, nên phép hành binh phải tùy cơ ứng biến. Mưu sâu, chước lạ phải sẵn sàng, "dĩ hư vị thiệt, dĩ thiệt vị hư", làm cho tướng giặc đoán không nổi hành động của ta mới mong thắng địch. Gặp khi gấp rút như bị địch công kích bất ngờ hay tràn đến bủa vây tứ bề thì lúc ấy thời gian đâu mà lập trận thế? Vậy phép dùng binh cốt phải cần mẫn, lanh trí, lanh mắt, tùy lúc tùy thời mà biến hóa vô lường.

Lúc đầu Tông Trạch nghe không bằng lòng lập luận của Nhạc Phi, nhưng khi nghe chàng trình bày một hồi, quan Lưu Thú gật đầu khen phải và nói:

- Quả là tài thế an bang, đáng mặt rường cột nước nhà. Lưu Tiết Đạt thật có mắt tinh đời, xét người chẳng sai. Nhưng có một điều đáng tiếc là hiền khiết ra ứng thí khoa này rủi ro quá. Phải chi hiền khiết để ba năm nữa sẽ ra, hay ra trước đây ba năm thì phúc cho nhà nước và tốt cho hiền khiết biết bao nhiêu.

Nhạc Phi nghe nói lấy làm ngạc nhiên, chàng chẳng hiểu nguyên do thế nào vội hỏi:

- Đại nhân nói thế nghĩa là gì? Tiểu sinh ngu muội không hiểu gì cả, xin đại nhân vui lòng giải thích cho tiểu sinh rõ.

Tông Trạch nói:

- Điều ấy làm sao hiền khiết hiểu thấu. Nguyên trước đây mấy ngày, có Tiểu Vương Lương Sài Quế đến đây triều kiến thiên tử và tuyên bố với mọi người rằng khoa này người quyết ra tranh chức Võ trạng. Y vốn dòng dỗi Sài Thế Tông nhà Châu là Sài Vinh, bạn thân thiết với đức Thái Tổ thánh triều ta, lâu nay y nhậm chức Phan Vương ở tỉnh Điền Nam thuộc châu Nam Ninh nên triều đình kiêng nể Tiểu vương lắm.

Khoa này, thánh thượng đã xuống chỉ sai bốn vị giáo khảo, một là Thừa tướng Trương Bàng Xương, hai là Binh bộ Đại Đường Vương Đạt, ba là Hữu Quân Đô đốc Trương Tuấn và bốn là lão đây. Sài Quế hay được tuy nhiên ấy vội sắm bốn phần lễ vật rất hậu và viết bốn bức thư mang đến cho các vị giám khảo để chấm cho ông ta đậu chức Võ trạng lần này. Ba vị kia đều thâu nhận lễ vật cả rồi và quyết khoa này để cho Sài Vương giật giải. Riêng một mình ta không chịu nhận lễ vật, nhưng một mình ta thiểu số làm sao thăng nổi ba vị kia.

Nhạc Phi chắp tay thưa:

- Cúi xin đại lão gia đứng ra chủ trương việc này cho tiểu sinh nhờ.

Tông Trạch nói:

- Trong lúc quốc gia hữu sự, muốn chọn người tài để ta tế thế an bang thì lẽ tất nhiên phải lấy lẽ công bằng mà lựa chọn thì mới tìm ra anh tài. Nhưng hiền khiết cũng biết, thần thế của Phan Vương to lớn biết chừng nào, và nhất là ông ta lại chính là dòng dõi Sài Thế Tông nên việc này xem ra khó bề xoay chuyển. Nhưng dù sao ta cũng phải ráng hết sức xem sao.

Ngừng một lát, Tông Trạch tiếp:

- Hôm nay ta muốn lưu hiền khiết ở lại trong dinh để đàm đạo sâu hơn về văn chương, võ nghệ, song còn sợ miệng lưỡi thế gian dễ gieo rắc lời thị phi, vậy thì hiền khiết hãy lui về nghỉ rồi sau sẽ liệu.

Nhạc Phi lạy tạ ơn Tông Lưu Thú rồi lui ra. Anh em đứng ngoài đang ngóng trông, bỗng thấy chàng bước ra, ai nấy mừng rỡ xúm lại hỏi:

- Sao đại huynh ở trong ấy lâu thế? Ồ, sao xem thần sắc có vẻ kém vui, hay là bị ông Tông Lưu Thú quở trách điều chi rồi?

Nhạc Phi lắc đầu:

- Không phải thế đâu các hiền đệ ạ. Ông ta đã khảo hạch cung tiễn và binh pháp tôi, rồi người đem lòng quý mến. Để về nhà trọ tôi sẽ kể lại đầu đuôi cho mà nghe, chỗ này không phải là chỗ nói chuyện.

Anh em cùng nhau về đến nhà trọ thì trời vừa tối sẩm. Người chủ tiệm đã dọn rượu thịt lên mời năm vị võ sinh dùng bữa.

Ai nấy ngồi lại ăn uống vui vẻ lắng nghe Nhạc Phi kể lại đầu đuôi câu chuyện ra mắt ông Tông Lưu Thú. Chàng kể rõ từng ly từng tý, duy chỉ có việc Vương Sài Quế ra tranh chức Võ trạng thì chàng không đề cập đến vì sợ trong mấy anh em có người nóng nảy sinh ra chuyện lôi thôi. Tuy vậy trong lòng chàng không yên, sắc mặt lộ vẻ buồn bã khiến bốn người bạn lấy làm ngạc nhiên, nhưng không rõ nguyên cớ.

Sáng hôm sau, điểm tâm xong, bỗng thấy người chủ tiệm bước lại thưa:

- Lúc nãy quan lớn Tông Lưu Thú có sai người mang rượu thịt qua đây cho chư vị ăn uống và gửi lời rằng, ngài muốn mời chư vị vào dinh để đãi tiệc, song sợ thiên hạ gièm pha, xúc xiểm nên phải gửi gắm như vậy, xin chư vị chớ chấp.

Nhạc Phi nói:

- Vậy thì ngươi làm ơn dọn ra cho anh em ta vui say một bữa cho thỏa thích.

Chủ tiệm Chấn Tử gọi mấy tên tửu bảo vào sắp đặt cỗ bàn rồi đem thức ăn của ông Tông Lưu Thú dọn lên. Ngưu Cao trông thấy bàn tiệc đầy ắp những đồ cao lương mỹ vị, rượu ngon đầy mấy ché, chàng thèm nhỏ nước dãi, chẳng đợi ai mời và cũng chẳng cần mời ai hết, cứ việc bước tới lấy cái bát lớn rót ra uống lấy uống để chẳng biết mấy chục bát mà kể.

Vương Quới thấy vậy vừa cười vừa nói:

- Ồ, Ngưu đệ này uống rượu khan như vậy rủi say mèm thì mất vui rồi! Chi bằng chúng ta phải ra một hiệu lệnh rồi mọi người cùng uống mới vui chớ.

Thang Hoài gật đầu:

- Ý kiến ấy hay lắm, cứ việc ra lệnh đi, chúng tôi sẽ tuân theo mà thi hành.

Vương Quới lại nói:

- Tiệc này là là của Tông Đại Nhân vì mến đại huynh ta mà ban cho chúng ta hưởng chung, vậy nên cử huynh trưởng làm chủ tọa, và Trương ca thì ra lệnh.

Thang Hoài nói:

- Được lắm. Trương ca cứ việc xướng lệnh đi.

Trương Hiển nói:

- Thật tình tôi chẳng biết ra lệnh gì trong tiệc rượu này cho xứng đáng. Tôi chỉ muốn đến phiên người nào thì phải nhắc lại tên một vị anh hùng xưa, mà vị anh hùng ấy phải có tửu lượng cao mới được đấy nhé. Nếu người ấy mà đáng mặt anh hùng thì anh em ta mỗi người uống một chén để chào mừng, bằng không đáng mặt anh hùng thì người xướng danh sẽ bị phạt ba chén.

Anh em đều vỗ tay tán thành. Vương Quới vội rót một chén trao cho Trương Hiển. Trương Hiển tiếp lấy uống cạn chén rượu và nói:

- Chén này là chén của Quan Vân Trường đơn đao phó hội, ấy có phải là anh hùng uống rượu không?

Thang Hoài khen:

- Phải, quả thật là anh hùng. Anh em mình nên kính ngài mỗi người một chén đi.

Ai nấy đều nâng cốc uống cạn một hơi, rồi Trương Hiển lại rót ra một chén trao cho Thang Hoài, nói:

- Bây giờ đến lượt Thang đệ đây. Hãy nhận lấy và cho biết tên vị anh hùng xưa.

Thang Hoài tiếp lấy uống cạn và nói:

- Chén này là chén của Lưu Qui say chém rắn, có phải là vị anh hùng uống rượu không?

Anh em đều cho là phải, mỗi người kính một chén. Bây giờ đến lượt Vương Quới, chàng tự rót một chén bưng giơ cao lên và nói:

- Chén này là chén Hồng Môn hội yến của Sở Bá Vương. Vậy có thể gọi là anh hùng uống rượu được không?

Trương Hiển bắt bẻ:

- Sở Bá Vương anh hùng thật, song trong cuộc hội yến ấy sao chẳng bắt Lưu Cái chém đi, để chỉ về sau vì y mà binh cơ bại hoại, nước nhà ta nát, đến nỗi không còn chỗ dung thân? Ấy là thấp trí, phải phạt ba chén mới được.

Bây giờ đến lượt Ngưu Cao. Chàng chỉ cười xòa nói:

- Tích xưa chuyện cũ đệ đều mù tịt. Song nếu đệ uống một hơi cạn hết hai loại bát lớn mà chẳng nhăn mày nhíu mặt gì cả thì các huynh có gọi là anh hùng uống rượu không?

Anh em cùng cười rộ lên vui vẻ. Ngưu Cao y lời uống một hơi hết sạch hai bát rượu lớn.

Đến phiên Nhạc Phi, chàng vui vẻ nói:

- Chư hiền đệ đã rút chuyện anh hùng uống rượu đời nhà Hán, Ngụy cùng Tam quốc, bây giờ để ta rút chuyện thánh đời nhà Tống nói cho mấy hiền đệ nghe.

Dừng một lát, hớp một ngụm rượu, chàng tiếp:

- Năm Thiệu Hi đời Chân Tông Hoàng Đế có Trương Lạc thết đại yến cho mời hết thảy bá quan cùng anh hùng đến uống rượu. Có con ông Tể tướng Tào Bô là Tào Vĩ cũng đến dự phó yến. Trong lúc mọi người đang ăn uống vui vẻ bỗng thấy Tào vĩ bỏ đi đâu mất, mọi người lấy làm lạ. Chưa kịp hỏi nguyên do thì đã thấy Tào vĩ từ ngoài bước vào, tay xách thủ cấp tướng giặc ném giữa phòng tiệc rồi ngồi lại ăn uống như thường. Như vậy có đang cho là bậc anh hùng không?

Anh em đều khen:

- Đại huynh thuật tích ấy nghe sướng tai lắm.

Ngưu Cao là kẻ dốt nát nên ngồi giữa đám người bàn kinh luận sử chàng chẳng biết chi cả, nên đề nghị:

- Mấy hiền huynh biết tích xưa chuyện lạ, còn tôi thì không biết gì cả. Thôi bây giờ để tôi làm trò "xại mại" giúp cuộc rượu cho tăng phần vui nhộn nhé.

Vương Quới nói:

- Hay lắm. Ngưu đệ cứ việc khởi sự đi.

Rồi anh em cùng đánh tửu, kết cuộc Ngưu Cao cũng thua, bị phạt liên miên, nhưng anh ta đâu có sợ. Bị phạt uống nhiều chừng nào thì anh chàng càng khoái chừng ấy, cười to như sấm nổ.

Anh em ai nấy đều ăn uống vui vẻ, chỉ một mình Nhạc Phi mãi lo lắng chuyện tiểu Lương Vương ra tranh Võ trạng, không biết rồi đây giáo khảo có tư vị làm cho chàng lỡ bước công danh không? Nếu kết quả phũ phàng như vậy thì biết đến ngày nào mới nên danh phận với đời?

Vì nghĩ vậy nên chàng buồn, uống rượu hơi nhiều, đầu óc choáng váng phải bỏ ra trước ghế nằm cho cho mát rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết.

Mấy anh em ở trong này tiếp tục ăn uống và nói:

- Lạ thật! Mọi khi Nhạc đại huynh uống rượu với anh em mình thì hay đàm văn, luận võ với mọi người, cớ sao hôm nay lại ít nói quá vậy? Hay là có việc gì buồn riêng mà không cho anh em ta biết chăng?

Vì vậy, anh em chẳng còn vui, phần thì đã uống nhiều rượu nên dần dần đi nghỉ hết chỉ còn một mình Ngưu Cao ngồi lại tha hồ uống mãi.

Một lát sau Ngưu Cao giật mình ngước mặt lên thấy trong phòng vắng hoe mới biết mọi người đã đi ngủ hết nên nghĩ thầm:

- "Mấy anh em đã đi ngủ hết thì Ngưu Cao này sẽ được tự do phóng túng khỏi bị ai kềm giữ nữa. Ta sẽ đi ra ngoài dạo chơi thong thả cho sướng".

Hàng ngày Ngưu Cao bị anh em kềm chế nên chẳng dám buông tuồng theo tính thô lỗ của mình được, nay chàng đi tự do một mình rất đỗi mừng rỡ. Chàng chạy xuống lầu bảo chủ tiệm Chấn Tử:

- Mấy anh tôi đã quá chén nên ngủ hết, phiền ông đừng làm mọi người kinh động. Tôi đi ra ngoài một lát rồi về ngay đấy nhé.

Chấn Tử tưởng thật nên bước theo chỉ đường:

- Tướng công hãy đi về phía Đông này sẽ gặp đồng không mát mẻ lắm.

Ngưu Cao nghe lời, đi thẳng qua hướng Đông, vừa đến ngã ba, chàng dừng chân ngẫm nghĩ:

- ‘"Bây giờ ta nên đi đường nào để tìm chỗ vui đây".

Đang suy tính, bỗng thấy hai người từ xa đi lại. Một người mình cao chín thước mặc y phục màu trắng, còn người kia hơi thấp hơn một tý, mặc áo màu đỏ, vừa đi vừa chuyện trò.

Khi đến gần, Ngưu Cao nghe thấy người mặc áo đỏ nói:

- Tôi nghe đồn tại chùa Tướng Quốc bên Biện Kinh này vui vẻ lắm.

Người áo trắng đáp:

- Thế thì chúng mình cùng đến đó chơi đi.

Ngưu Cao nghe nói vậy, chàng nghĩ:

- "Đúng rồi, lâu nay ta cũng có nghe tiếng chùa Tướng Quốc ở Đông Kinh này là chốn phồn hoa, nhưng chưa biết đường đi. Sẵn dịp này ta theo họ cho tiện".

Nghĩ đoạn, chàng đi theo hai người ấy, hồi lâu mới đến chùa Tướng Quốc. Nơi đây cửa hàng bày biện san sát, buôn bán chằng thiếu món chi, kẻ qua người lại tấp nập. Cũng có hạng giàu sang vương tôn quần áo lòe loẹt, cũng có hạng nghèo khổ cơ hàn, cũng có người quê mùa cục mịch. Xe cộ qua lại như mắc cửi, thật là một cảnh phồn hoa vui vẻ chưa từng thấy.

Ngưu Cao cứ lần bước theo hai người kia đi hết chỗ này đến chỗ khác, vừa xem vừa thích thú lẩm bẩm: "Vui thế này mà mấy anh em ta cứ giam mình trong nhà trọ, thật là phí quá!". Bỗng trông thấy phía trước người ta đứng chật ních, hai người kia đưa tay gạt thiên hạ mà vào. Mọi người chẳng ai nói gì, nhưng cũng nhường đường cho họ.

Hồi thứ mười

Chùa Tướng Quốc, kể chuyện anh hùng

Chốn giáo trường, Nhạc Phi tranh trạng

Ngưu Cao theo hai người ấy xen vào giữa đám đông thì thấy có một người đứng trên ghế cao nói thao thao bất tuyệt, thì ra người ấy đang kể một tích truyện xưa. Lời kể chuyện hết sức hấp dẫn khiến cho mọi người đứng xung quanh im phăng phắc lắng nghe, vô cùng thích thú.

Người kể truyện ấy thấy hai người kia và Ngưu Cao bước vào thì niềm nở mời:

- Xin ba vị tướng công ngồi tạm đây chơi.

Hai người kia ngồi xuống liền chứ không thèm khiêm nhường gì cả, Ngưu Cao thấy vậy cũng ngồi xuống đó mà nghe.

Người kể chuyện đến tích Kim Thương Đao Mã đời Bắc Tống, rồi đến lúc Thái Tông ngự giá đến Ngũ Đài sơn dâng hương bị Phan Nhân Mỹ dẫn dụ đến xem Tú Linh Bài, nhìn thấy bên U Châu tại Thúc Trang lầu của Tiêu Thái hậu có hào quang ngũ sắc hiện ra.

Thái Tông bèn phán:

- Trẫm muốn đi xem Thúc Trang lầu, chẳng biết có đi được không?

Phan Nhân Mỹ tâu:

- Bệ hạ giàu có bốn biển, muốn đi xem chỗ nào mà không được, sá gì chỗ U Châu mà đi xem không được. Xin cứ hạ chỉ sai Phan Long đến chỗ đó bảo chúng nó dọn đi chỗ khác để cho bệ hạ đến xem thì khó chi.

Khi đó có Khai Tống Kim Đao Lão Lệnh Công là Dương Nghiệp bước ra tâu:

- Xin chớ nên đi. Bệ hạ là vạn thặng chí tôn lại đi vào hang cọp thế sao?

Thái Tông nói:

- Trẫm đánh lấy đất Thái Nguyên người Liêu đã vỡ mật kinh hồn, ai còn dám ho he gì nữa mà ngại?

Phan Nhân Mỹ lại thừa thế tâu:

- Sao Dương Nghiệp dám vô lễ cản trở thánh giá như vậy? Bây giờ phải bắt giam cha con y lại, đợi lúc trở về sẽ mang ra trị tội.

Thái Tông gật đầu khen phải, truyền bắt cha con Dương Lệnh Công giam hết rồi hạ chỉ sai Phan Long đem thánh chỉ qua Tiêu bang. Thiên Khánh Lương lãnh chỉ rồi, bèn sai quân sư Tác Lý Mã Đạt vào nghị kế.

Tác Lý Mã Đạt nóii:

- Chúa công hãy thừa cơ này mà dụng kế tập trung hết quân của bảy mươi hai cù lao về cho đủ trăm vặn rồi mai phục bốn phía, đợi cho Tống Thái Tông đến phủ U Châu, như vậy có lo gì Nam Triều thiên hạ chẳng về tay chúa công?

Lương Vương cả mừng bèn y theo kế ấy mà làm. Sau khi khoản đãi Phan Long, lập tức dời đi chỗ khác để chờ thánh giá ngự đến thì đón vào.

Phan Long trở về phục chỉ, Thái Tông liền dẫn các đại thần dời Ngũ Đài sơn đi qua U Châu. Lương Vương ra nghênh tiếp vào thành. Chưa kịp ngồi bỗng nghe xung quanh la ó vang dậy, binh phục vậy chặt U Châu, mũi kim chen vào cũng không lọt. May nhờ có Bắc Lý Tinh San Vương là Hồ Tất Hiến giấu chiếu chỉ trong mình chạy thẳng ra ngoài nói dối với Thiên Khánh Vương:

- Xin để tôi về kinh sư lấy ngọc tỷ và đem hết đất Trung Nguyên đến dâng cho chúa công.

Nhờ vậy mới lừa ra khỏi vòng vây chạy được thẳng về Hưng Châu triệu thỉnh chín cha con Dương Lệnh Công dẫn binh qua U Châu mới giải vây được. Ấy là "tám cọp phá U Châu, Dương gia làm tướng" là vậy đó.

Người giảng chuyện nói đến đây chấm dứt một câu chuyện. Người áo trắng liền thò tay vào túi lấy ra hai đỉnh bạc trao cho người giảng truyện và bảo:

- Tôi rất cảm ơn tướng công.

Dứt lời, hai người đứng dậy dắt tay nhau ra đi. Ngưu Cao cũng lẽo đẽo đi theo sau lưng, chàng nghĩ thầm:

- Chẳng biết tại sao hai người họ lại cho người giảng truyện nhiều bạc như vậy?

Chính người áo đỏ đi trước cũng thắc mắc quay lại hỏi:

- Sao huynh lại cho tên giảng truyện đến hai đỉnh bạc mà còn gọi là ít? Chắc dù sao người xứ này họ cũng cho mình là "hơi khác người" đấy.

Người áo trắng nói:

- Hiền đệ chẳng nghe hắn nói chuyện tiên tổ của anh chính người đó sao? Tổ tông của anh ngày xưa, trăm vạn Quân Trung chẳng có ai đánh lại, hắn đã biết ca tụng thì mời đĩnh bạc cũng đáng cho, đừng nói chi hai đĩnh.

Người áo đỏ gật đầu lia lịa khen phải.

Bây giờ Ngưu Cao mới hiểu ra, chàng lẩm bẩm:

- "À thì ra người ta tán dương cha ông của hắn nên chi hắn khoái chí quăng bạc ra không tiếc. Nếu như họ đề cập đến tổ tông ta thì ta biết lấy tiền đâu mà cho họ đây?".

Đang suy nghĩ, bỗng nghe người áo trắng vỗ vai người áo đỏ bảo:

- Họ nhóm họp một đám đông nữa kia kìa. Chúng ta đến đó xem chơi.

Rồi hai người lần đến ngay. Ngưu Cao cũng theo sát gót. Thì ra đây cũng là đám giảng truyện như hồi nãy.

Ba người bước vào cũng được mời ngồi tử tế. Người giảng này đang kể truyện Thuyết Đường, nói đến hồi Đường Vương Lý Thế Dân đánh trận Ngũ Long, đại hội tại Gia Tỏa sơn n có viên đại tướng mà thiên hạ gọi là anh hùng thứ bảy họ La tên Thành, vâng lệnh quân sư là Từ Mậu Công, có một mình mà bắt được Lạc Dương Vương là Vương Thế Xung, Sở Châu Nam Dương Vương là Châu Xáng Trương, Châu Bạch Ngư Vương là Cao Đàm Thánh, Minh Châu Hạ Minh vương là Đậu Kiến Đước, Tào Châu Tống Nghĩa Vương là Mạnh Hải Công.

Người giảng truyện vừa nói đến đây, bỗng người áo đỏ đứng dậy vỗ tay khen hay rồi thò vào túi lấy ra bốn đĩnh bạc cho và bảo:

- Tôi là khách đi đường, tiền bạc đem theo chẳng có bao nhiêu, kinh dâng chút đỉnh, xin anh chớ chê ít nhiều.

- Dạ, xin cảm ơn ông, dám đâu chê nhiều ít!

Rồi hai người từ biệt ra đi. Ngưu Cao cũng lúc thúc chạy theo sau. Chàng thầm nghĩ:

- Chắc người giảng truyện này lại ca tụng tổ tông của họ nên hắn mới cho tiền.

Tuy vậy, Ngưu Cao vẫn không biết hai người ấy.

Nguyên người áo trắng ấy họ Dương tên Tái Hưng, là cháu mấy đời của Dương Nghiệp. Còn người áo đỏ kia là cháu mấy đời của của La Thành tên là La Diên Khánh.

Lúc ấy Dương Tái Hưng hỏi La Diên Khánh:

- Sao hiền đệ cho hắn tới bốn đỉnh bạc?

La Diên Khánh đáp:

- Chớ hiền huynh không nghe hắn nêu cao tài năng dũng mãnh của tổ tông đệ sao? Ông tổ của đệ chỉ có một mình mà án ngữ nơi góc núi bắt được năm vị Phan Vương, chứ không phải của huynh tới chín người bảo hộ có một vị hoàng đế mà không tròn nhiệm vụ. Xét ra ông tổ của đệ giỏi hơn tổ tông của huynh nên đệ phải cho nhiều hơn hai đỉnh bạc chớ sao!

Dương Tái Hưng biến sắc mặt giận dữ quát:

- Ngươi dám coi thường tổ tông của ta sao?

La Diên Khánh trâm giọng:

- Chẳng phải tôi dám coi thường, nhưng tôi chỉ nói một sự thật hiển nhiên đó thôi!

Dương Tái Hưng hằn học:

- Được rồi. Nếu ngươi nói vậy, ta với ngươi trở về nhà đội mũ mang giáp, lên ngựa hẳn hoi thẳng ra tiểu giáo trường tỉ thí võ nghệ. Nếu ai hơn thì ở lại tranh chức Võ trạng, còn ai thua thì cút cho rồi chờ khoa sau sẽ đi ứng thí.

La Diên Khánh gật đầu:

- Được lắm! Tôi xin vui lòng lĩnh giáo.

Rồi hai người dắt nhau bỏ đi mất. Ngưu Cao đứng một mình vừa cười vừa nói lẩm bẩm:

- "May quá. Có ta đến đây nghe chúng nói mới biết, chứ nếu không thì khoa Trạng võ này, chắc hai thằng khốn ấy giựt mất của Nhạh đại huynh ta rồi".

Ngưu Cao vội vã chạy thẳng về quán trọ, nhưng thấy mấy anh em còn đang ngủ vùi, chàng nghĩ thầm:

- "Thôi ta cũng chẳng cần gọi mấy anh em dậy làm chi. Để ta đi cướp chức Trạng võ đem về dâng cho đại huynh ta cũng được".

Nghĩ đoạn, chàng rón rén lấy song giản giấu trong mình rồi xuống bảo người chủ tiệm:

- Anh hãy dắt con ngựa tôi ra để tôi đi có việc cần. Nhớ thắng yên lạc đầy đủ nhé.

Giang Chấn Tử vâng lời dắt ngựa ra cho Ngưu Cao. Chàng tung mình nhảy lên lưng ngựa phóng nước đại. Chàng cho ngựa chạy miết nhưng không biết đường nào cả. Chợt thấy hai lão già đang ngồi trước cửa nói chuyện, Ngưu Cao bèn gò cương ngồi chễm chệ trên lưng ngựa lớn tiếng gọi:

- Lão già kia, muốn đến tiểu giáo trường phải đi ngả nào?

Câu hỏi cộc lốc vô lễ ấy khiến hai ông già cảm thấy bực mình, không trả lời chỉ nhìn sững Ngưu Cao. Ngưu Cao cau mày hỏi vặn:

- Sao chẳng nói mau còn chần chừ gì nữa?

Hai lão già càng bực mình hơn nữa, liền giả lơ không đáp nửa lời. Ngưu Cao lại sừng sộ:

- Hai lão già này quả thật là ương ngạnh lạ đời. Ta có việc đi gấp, nêu không ắt không dung mạng đấy.

Một ông già lên tiếng nói:

- Người đâu mà ngang ngược thế kia. May mà mi gặp chúng ta đây già cả chẳng thèm hơn thua làm gì, chứ gặp phải trai tráng thì nãy giờ đã xảy ra đám đánh lộn to chuyện rồi. Thôi, cũng không chấp nhứt làm gì, để ta chỉ đường cho. Từ đây đi thẳng phía Đông, gặp con đường rẽ sang phía Nam vài trăm bước thì đến tiểu giáo trường.

Ngưu Cao nói:

- Chỉ có vậy mà làm như quan trọng lắm. Cái lão già này, nãy giờ không chịu chỉ phắt cho mau còn nói lôi thôi cho mệt. Nếu ta không sợ đại huynh ta thì ta cho một giản chắc đầu lìa khỏi cổ rồi.

Vừa nói, chàng vừa giục ngựa đi thẳng đến giáo trường.

Đến nơi, trông thấy hai người đang đánh nhau rất quyết liệt, Ngưu Cao trỏ vào mặt hai người nạt lớn:

- Chức Trạng võ là của đại huynh ta, sao hai đứa bay dám cả gan đến đây giành giựt? Hãy xem cây giản của ta đây.

Vừa nói, Ngưu Cao vừa nhắm ngay đầu Dương Tái Hưng đánh xuống một giản. Dương Tái Hưng vội tung thương gạt ra rồi bảo La Diên Khánh:

- Chẳng biết thằng khùng này ở đâu mà đến đây hành động lạ đời vậy? Thôi, hai ta dầu sao vẫn là anh em, đừng tỉ võ với nhau nữa, để cùng nhau chọc thằng này một trận cho vui.

La Diên Khánh gật đầu ưng thuận rồi vung thương đâm Ngưu Cao, Ngưu Cao vừa đỡ thì bên kia Dương Tái Hưng đâm lại một thương. Ngưu Cao phải đỡ trên, đỡ dưới, đỡ trước, đỡ sau nhưng vẫn bị hai người đánh đâm lia lịa khiến chàng phát quýnh lên.

Từ ngày Ngưu Cao bước ra khỏi cửa đến nay chưa từng gặp tay hảo hán, hôm nay gặp phải Dương Tái Hưng và La Diên Khánh là hai kẻ anh hùng vô địch, sức mạnh như thần thì làm sao Ngưu Cao đánh lại nổi. May nhờ hai người này chỉ đánh bằng cách chọc ghẹo để làm trò cười chơi chứ nếu thật tình ra tay thì Ngưu Cao ắt khó toàn tính mạng.

Ngưu Cao lính quýnh vùng la lớn:

- Nếu đại huynh không đến kịp thời thì chức Trạng võ chắc bị người khác đoạt mất rồi!

Nghe Ngưu Cao nói, hai người càng tức cười hơn nữa. La Diên Khánh nói:

- Thằng điên này nó gọi đại huynh nào ở đâu, hay là có tay hảo hán nào đây chăng? Vậy thì anh em mình giữ nó ở đây để đợi cái tên đại huynh của hắn đến xem thử thế nào cho biết.

Dứt lời, hai người càng vây chặt Ngưu Cao không cho tẩu thoát.

Bấy giờ tại quán trọ, Nhạc Phi thức giấc dậy trông thấy ba người kia đang ngủ, còn Ngưu Cao thì chẳng biết đi đâu mất, bèn gọi tất cả dậy hỏi, nhưng cả ba người đều ngơ ngác đáp:

- Bọn đệ ngủ có hay biết gì đâu!

Bốn anh em vội vã chạy xuống hỏi người chủ tiệm, Chấn Tử đáp:

- Ngưu tướng công cưỡi ngựa đi rồi.

Nhạc Phi hỏi vội:

- Đi lâu mau rồi?

- Thưa, Ngưu tướng công đi độ hơn một canh giờ rồi.

Nhạc Phi quay lại bảo Vương Quới:

- Vương đệ hãy xem thử binh khí của Ngưu đệ còn đây không?

Vương Quới chạy vào xem xét rồi chạy ra bảo:

- Cặp giản treo trên vách mà bây giờ chẳng thấy đâu cả.

Nhạc Phi biến sắc mặt nói với Giang Chấn Tử:

- Không xong rồi! Xin ông hãy dắt hết mấy con ngựa của anh em tôi ra đây, còn mấy anh em ta phải nai nịt cho sẵn sàng, binh khí cầm tay ra đi gấp. Nếu không có việc gì thì thôi, bằng nó có gây họa thì anh em ta cứu hắn rồi trốn luôn cho tiện.

Sau đó ngựa đã thắng đủ yên cương, ai nấy đều nai nịt chỉnh tề. Nhạc Phi hỏi Giang Chấn Tử:

- Ông thấy Ngưu Cao đi đường nào không?

- Tôi thấy Ngưu tướng công cưỡi ngựa đi qua hướng Đông.

Bốn anh em vội tung mình lên ngựa phóng thẳng về hướng Đông. Đi đến ngã ba bỗng thấy hai ông già đang ngồi nói chuyện trước cửa, Nhạc Phi bèn xuống ngựa bước tới xá một vái và lễ phép hỏi:

- Thưa lão trượng, chẳng hay lão trượng có thấy một người cao lớn, mặt mũi đen đúa cưỡi con ngựa ô đi ngang qua ngả này không?

Lão già không đáp mà hỏi lại:

- Người đen đúa ấy là gì với tướng công?

- Dạ, hắn là em của tiểu sinh.

Ông già ra vẻ ngạc nhiên hỏi:

- Tướng công ra vẻ con nhà tư văn, ăn nói khiêm nhường lễ độ, sao có người em lại lỗ mãng cộc cằn quá vậy?

Rồi lão ta bèn đem việc Ngưu Cao hỏi thăm đường thuật lại đầu đuôi cho Nhạc Phi nghe và nói:

- May mà gặp lão đây chứ như gặp ai thì họ đã chỉ trật đi đường khác rồi. Nghe y nói đi đến giáo trường. Tướng công muốn đi tìm kiếm thì hãy đi thẳng về hướng Đông rồi rẽ sang phía Nam độ vài trăm bước thì trông thấy giáo đường ngay.

Nhạc Phi tạ ơn rồi cùng anh em lên ngựa đi theo con đường do ông lão chỉ dẫn.

Khi đến gần giáo trường, bỗng nghe tiếng Ngưu Cao la lớn:

- Nếu đại huynh không đến kịp thời thì chức Trạng võ chắc sẽ bị chúng đoạt mất.

Nhạc Phi quất ngựa chạy vào thì thấy Ngưu Cao mặt mày thất sắc, miệng chảy nước dãi lòng thòng, tay cầm song giản vừa chống cự với đối phương vừa thở hổn hển.

Bên kia một người áo trắng, cưỡi con ngựa ngựa bạch tay cầm trường thương tướng mạo phương phi, sắc mạnh như thần, còn người áo đỏ cũng chẳng kém phần dũng mãnh. Cả hai bao vây Ngưu Cao vào giữa khiến chàng ngăn đỡ không kịp. Nhạc Phi ra hiệu cho anh em đứng lại, một mình giục ngựa xông vào, kêu lớn:

- Hai người kia hãy dừng tay!

Dương Tái Hưng và La Diên Khánh thấy thế vội bỏ Ngưu Cao quay thương nhắm Nhạc Phi đâm tới một lượt.

Nhạc Phi bèn vung cây Lịch Tuyền thương đánh ập xuống một cái chạm phải hai cây thương đối phương vang lên một tiếng kêu chói tai. Hai mũi thương của Tái Hưng và Diên Khánh không chịu nổi sức mạnh cây thần thương nên chúi xuống đất.

Nhạc Phi thừa thế vội dùng tay bắt đầu thương đối phương, ngón võ này gọi là "bại thương", không thể nào giải nổi.

Cả hai kinh hồn vội lui ra sau ba bước nhìn sững Nhạc Phi từ đầu đến chân rồi nói:

- Khoa thi này giải Trạng võ chắc sẽ về tay người này rồi, hai ta trở về cho xong.

Dứt lời, hai người giục ngưạ chạy dài. Nhạc Phi vội chạy theo gọi lớn:

- Nhị vị hảo hán, hãy dừng lại nói rõ danh tính cho tôi biết với.

Hai người quay lại đáp:

- Hai chúng tôi là Sơn Hậu Dương Tái Hưng và Hồ Quảng La Diên Khánh. Khoa Trạng võ này chúng tôi xin nhường lại cho tiên sinh, hẹn sau này sẽ gặp lại.

Dứt lời cả hai người phi ngựa đi mất. Nhạc Phi cho ngựa quay lại giáo trường, thấy Ngưu Cao còn đang thở hổn hển, vội hỏi:

- Tại sao hiền đệ lại đánh nhau với họ vậy?

Ngưu Cao cau mày:

- Sao đại huynh hỏi lạ vậy? Tiểu đệ đánh với chúng chỉ vì muốn đoạt chức Trạng võ cho đại huynh đấy thôi. Nhưng chẳng ngờ hai tay hảo hán này nó dữ dằn quá độ, đánh không lại. May đại huynh đến kịp thời đánh thắng chúng, vậy thì Trạng võ đã thuộc về tay đại huynh rồi.

Nhạc Phi thấy Ngưu Cao quá ngây thơ bèn cười xòa nói:

- Cảm ơn hiền đệ đã có lòng tốt với ta, song muốn giựt được chức Trạng võ ấy phải tỉ võ với hết thảy thiên hạ anh hùng, nếu không ai địch nổi mới được chớ đâu chỉ có hai ba người giành riêng với nhau?

Ngưu Cao giự nẩy người trố mắt nhìn Nhạc Phi nói:

- Nói vậy tôi ra sức đánh với hai tên ấy suốt nửa ngày mệt muốn đứt hơi chẳng là vô ích sao?

Anh em đều cười rộ rồi cùng nhau trở về quán trọ.

Sáng hôm sau, vừa điểm tâm xong, Thang Hoài, Vương Quới, Trương Hiển cùng nói với Nhạc Phi:

- Lâu nay bọn đệ muốn mua mỗi người một thanh gươm song chưa mua được. Hôm qua thấy hai người ấy đều có gươm mang theo, Ngưu đệ cũng đã có rồi. Vậy đại huynh chịu phiền đi với anh em, mỗi người mua một thanh mang chơi cho oai.

Nhạc Phi gật đầu đáp:

- Các hiền đệ nói cũng phải, song ta chẳng có tiền dư nên lâu nay không đề cập đến.

Vương Quới đáp:

- Không hề chi. Đại huynh chỉ xuất tiền mua một thanh cho đại huynh thôi, còn phần bọn đệ, mỗi người đều có chuẩn bị tiền bạc sẵn rồi.

- Thế thì hay lắm, chúng ta đi nào.

Sau khi đóng cửa phòng và dặn dò chủ tiệm, mấy anh em dắt nhau ra chợ, dọc theo đường lớn vào xem khắp các tiệm bán binh khí. Nhưng toàn là gươm thường, không vừa ý cái nào cả.

Nhạc Phi nói:

- Ở đây gươm xấu quá, hãy đi qua bên đường nhỏ kia xem có thanh nào tốt không?

Rồi dắt mấy anh em cùng rẽ sang cong đường nhỏ vào một tiệm kia, thấy có trưng bày rất nhiều đồ cổ, lại treo trướng liễn viết tên những bậc tiền bối có tên tuổi trong hàng võ nghệ, trên vách treo mười mấy thanh gươm.

Chủ tiệm trông thấy Nhạc Phi bước vào vội đứng dậy niềm nở hỏi:

- Chẳng hay chư vị tướng công muốn mua vật chi?

Nhạc Phi đáp:

- Ở đây có đao tốt hay gươm tốt xin cho coi thử.

- Dạ có chứ.

Vừa nói, chủ tiệm vừa lấy ra một thanh gươm sáng ngời trao cho Nhạc Phi. Chàng tiếp lấy xem kỹ hồi lâu rồi trả lại cho hắn, nói:

- Gươm này dùng không được. Có cây nào khác tốt hơn xin mang ra cho tôi xem thử.

Chủ tiệm lấy thanh khác, chàng cũng lắc đầu không vừa ý. Rồi lấy ra hàng loạt bảy tám cây nữa, mà cây nào cũng bị Nhạc Phi chê cả.

Nhạc Phi nói:

- Như có cây nào thiệt tốt thì đem ra, bằng không thì thôi, đừng đem ra mất công. Nếu không có thì chúng tôi xin cáo biệt vậy.

Người chủ tiệm cau mày nói:

- Mấy thanh đao, kiếm này mà tướng công không vừa ý thanh nào sao? Thế thì đao, kiếm thế nào mới vừa ý tướng công?

Nhạc Phi nói:

- Những đao kiếm này chỉ dùng cho những hàng vương tôn công tử đeo cho oai thôi, chứ anh em tôi mua là để dùng khi ra trận mạc, an bang định quốc. Vì vậy như có thanh nào tốt thì giá cả bao nhiêu tôi cũng chẳng nài.

Ngưu Cao lại xen vào nói:

- Có thang gươm nào tốt cứ việc đem ra đây, đắt rẻ bao nhiêu tôi cũng trả đủ, chớ có ai trả thiếu anh đâu mà anh làm bộ kỳ vậy?

Người chủ tiệm ngắm nhìn kỹ tướng mạo bọn Nhạc Phi rồi nói:

- Chư vị tướng công muốn thứ cho thật tốt thì tôi có một cây, song tôi để tại nhà chứ không ở đây. Tôi sẽ nhờ em tôi đưa chư vị tướng công về nhà tôi xem có được chăng?

Nhạc Phi hỏi:

- Chẳng hay nhà ở gần hay xa?

- Gần lắm, phía trước kia kìa.

- Thế thì hay lắm, chúng ta sẽ đến đó xem thử nào.

Rồi anh em Nhạc Phi kiếu từ chủ tiệm đi them người em, chỉ trong chốc lát đã đến ngay.

Sau khi mời anh em Nhạc Phi ngồi xuống uống nước xong, người ấy nói:

- Trước khi xem gươm báu, xin chư vị cho biết tính danh.

Nhạc Phi giới thiệu:

- Tôi là người ở Trung Châu, huyện Thang Âm, họ Nhạc tên Phi, còn mấy em tôi đây ở Hoàng huyện. Người này tên Thang Hoài, người kia tên Vương Quới, người kia tên Trương Hiển ...

Ngưu Cao xen vào nói tiếp:

- Còng tôi đây chính tên Ngưu Cao, đã có miệng thì tự xưng cũng được, chẳng cần phải nhờ ai giới thiệu.

Nhạc Phi nói với chủ nhà:

- Xin lỗi ông, em tôi tuy tính tình có hơi nóng nảy song tình nghĩa, xin ông chớ chấp.

Người chủ nhà khen ngợi:

- Tôi chưa thấy người nào ăn nói thuần hậu như tướng công, và tôi cũng đã từng nghe danh tướng công nhiều rồi.

Nhạc Phi vừa muốn hỏi lại danh tính của chủ nhà, nhưng chưa kịp hỏi, người ấy đã đứng dậy nói:

- Xin chư vị vui lòng ngồi đây đợi một lát, tôi vào nhà lấy gươm báu ra đây cho chư vị xem.

Dứt lời người ấy bước vào nhà trong. Nhạc Phi ngồi ngước mắt nhìn lên trên vách thấy treo thơ phú nhiều lắm, chàng xem qua hai câu liễn cái rồi bảo với anh em:

- Người này chắc là họ Châu.

Thang Hoài hỏi:

- Sao đại huynh biết?

Nhạc Phi mỉm cười:

- Cứ xem hai câu liễn treo kia thì rõ chứ khó gì đâu.

Anh em trố mắt nhìn mãi hai câu liễn vẫn không thấy chữ Châu đâu cả nên ra vẻ ngơ ngác. Nhạc Phi liền giải thích:

- Liễn kia viết: "Liễu dinh xuân thí mã hổ tương gia đàm binh". Vậy thì quả là thời Đường, Lý Tấn vương tặng Châu Đức Oai rồi, nên ta đoán chắc người này là họ Châu.

Ngưu Cao nói:

- Chẳng biết phải vậy hay không, để ông ta ra đây mình hỏi lại thì rõ.

Nói vừa dứt lời thì thấy chủ tiệm cầm gươm ra để trên ghế nói:

- Chư vị vào đây mà chẳng được ngồi hậu chuyện, thật có lỗi quá. Xin chư vị miễn chấp.

Nhạc Phi hỏi:

- Xin ông vui lòng cho chúng tôi biết danh tính với.

- Dạ tôi họ Châu, tên Tam Húy.

Mấy anh em nghe nói đều khen Nhạc Phi:

- Thiệt đại huynh quả là bậc thần thánh rồi.

Châu Tam Húy xưng tên họ xong liền đứng dậy mời Nhạc Phi xem gươm. Nhạc Phi cũng đứng dậy lễ phép tiếp lấy gươm xem xét hồi lâu rồi trịnh trọng để lên ghế nói:

- Xin ông hãy cất đi.

Châu Tam Húy ngạc nhiên:

- Sao tướng công xem mà không trả giá? Hay là gươm này cũng không vừa ý chăng?

Nhạc Phi đáp:

- Vật quí vô song, dù bao nhiêu tiền bạc cũng không thể sánh nổi, tôi không dám mơ tưởng.

Nói xong xin kiếu từ ngay. Châu Tam Húy liền mời lại hỏi:

- Tướng công biết gì về lai lịch cây gươm này, xin nói cho tôi biết với, sao lại bỏ đi vội vậy?

Nhạc Phi ngồi lại chưa kịp mở miệng, Tam Húy đã tiếp:

- Nguyên trước kia, ông tôi là võ quan trong triều nên mới có thanh gươm này để lại nó đến nay kể đã ba đời rồi, đến đời tôi đây thì theo đuổi nghiệp văn chương nên cây gươm trở thành vô dụng đối với tôi. Ông tôi trước khi chết có dặn lại rằng: "Sau này nếu có người nào biết gốc tích cây gươm này thì chỉ cho không mà thôi, chứ không được bán. Nay tiên sinh biết ngay nó là gươm báu, vậy xin nói cho tôi nghe thử có được không?

Nhạc Phi khiêm nhường đáp:

- Tiên sinh đã bảo thì tôi cũng xin nói những điều tôi biết về lai lịch thanh bảo kiếm này, dầu đúng, dầu sai, xin tiên sinh cũng bỏ quá cho.

Châu Tam Húy nói:

- Tiên sinh cứ chỉ giáo, quả thật tôi vô cùng hồi hộp. Có lẽ hôm nay cây gươm báu đã gặp chủ rồi chăng?

Hồi thứ mười một

Gươm báu trao vào tay tuấn kiệt

Đại thần tuyên thệ dụng nhân tài

Bọn Vương Quới, Thang Hoài, Trương Hiển nhìn Nhạc Phi như muốn nói: Xin Nhạc huynh đừng khiêm nhượng nữa, chúng tôi cũng đang nóng lòng muốn nghe đây!

Biết không thể từ chối được, Nhạc Phi nói:

- Khi trước tôi có nghe tiên sư dạy rằng "Phàm kiếm chi lợi giả, thuỷ đoạn giao long, bộ hoa tây tượng. Hữu long tuyền" Thái A, Bạch Hồng, Tử Điển, Mạc Gia, Cang Tướng, Ngư Trường, Cự Khuyết mỗi cây gươm đều có một nguồn gốc tiểu sử riêng của nó. Riêng cây gươm này hễ rút ra khỏi vỏ thì toát ra một hơi lạnh thấu xương, ấy quả thật là gươm thời Xuân Thu.

Ngừng một lát chàng tiếp:

- Hồi ấy Sở vương muốn thâu tóm các nước chư hầu, lại nghe đến nước Hàn chỗ Thất Lý Sơn có tên thợ rèn Âu Dương chuyên môn đúc gươm, Sở Vương vội sai người đến đòi y về triều phán:

- Trẫm đòi ngươi đến đây để nhờ ngươi rèn cho trẫm một cây gươm.

Thợ rèn Âu Dương tâu:

- Chẳng hay Đại vương muốn thứ gươm gì?

Sở Vương đáp:

- Trẫm muốn một cây Thư, một cây Hùng thật tốt, và hai cây gươm ấy phải biết bay và tự bay đến giết địch thủ theo ý muốn của trẫm, chẳng biết ngươi có thể rèn được không?

Người thợ rèn nghĩ thầm:

- „Sở Vương này bạo ngược lắm, nếu không chịu thì bị giết ngay".

Rồi vội quỳ tâu:

- Gươm ấy, kẻ tiện dân này có thể rèn được, nhưng phải tốn một thời gian lâu lắm e đại vương chờ không được, nghĩa là rèn gươm ấy phải tốn thời gian ba năm mới xong.

Sở Vương nói:

- Thời gian ba năm có lâu chi? Được rồi, ta hẹn cho ngươi ba năm phải làm xong cặp gươm báu này.

Nói rồi, vua truyền lấy gấm nhiễu cùng vàng bạc ban thưởng. Người thợ rèn tạ ơn ra về nói cho vợ hay và để tiền bạc lại cho vợ, lên núi đúc gươm. Sau ba năm hắn đúc được một cặp gươm Thư, Hùng nhưng lại rèn them một cây gươm tầm thường nữa đem về bảo vợ rằng:

- Nay ta đến Sở quốc dâng gươm, nhưng ta tiên đoán rằng Sở Vương được gươm này sẽ giết ta mất.

Vợ hỏi:

- Tại sao vậy?

- Chỉ vì Sở Vương muốn một mình có gươm báu ấy thôi để thâu tóm các nước chư hầu nên sợ ta truyền nghề cho kẻ khác nên phải giết ta. Vì thế ta rèn thêm một cây gươm giả này để thay thế vào cây Hùng gươm kia cho đủ cặp, còn cây Hùng gươm thật ta sẽ chôn giấu tại nhà.

- Để làm gì vậy?

- Vì vua Sở có một cây Thư thôi thiếu cây Hùng thì không thể bay được, vua Sở lại cho ta là dở nên giết ta. Mối thù ấy sau này con ta lớn lên sẽ dùng cây gươm này mà báo oán. Như hiền thê có hay được tin dữ thì đừng than khóc mà mang họa, đợi cho mãn kỳ thai nghén sinh con, nếu con gái thì thôi, bằng con trai thì ráng nuôi nó để nó báo thù cho ta.

Dặn rồi, từ biệt vợ đi qua nước Sở dâng gươm.

Sở Vương thấy tên thợ rèn đến mừng rỡ cho đòi các quan văn võ họp tại giáo trường để thử gươm. Nhưng gươm không bay được, vua bị mất công chờ đợi ngót ba năm, nguồn hy vọng nay biến thành mây khói nên nổi giận truyền quân giết chết tên thợ rèn ngay.

Vợ người thợ rèn nghe tin chồng bị Sở Vương giết cũng không dám khóc than. Thấm thoát đến tuần khai hoa nhuỵ sinh được một trai. Khi đứa nhỏ được bảy tuổi, mẹ nó cho vào trường học. Một hôm nó gây lộn với bạn học, mấy đứa kia mắng:

- Mi là đứa không cha.

Thằng bé tức mình khóc, trở về hỏi mẹ cho biết cha mình đâu? Mẹ bèn kể hết câu chuyện xưa cho con rõ. Đứa bé sục sôi máu hận xin lãnh cây gươm và một mình mang sang nước Sở để rửa hận.

Đi đến Thất Lý San đường sá hiểm trở, đứa bé không biết đường nào đi nữa, nó ngồi khóc mãi, ba ngày sau con mắt chảy máu ròng ròng.

Bỗng có một lão đạo sĩ đi qua thấy thế thương hại hỏi:

- Vì sao cháu khóc đến nỗi chảy máu mắt như vậy?

Nó liền thuật lại câu chuyện sang nước Sở báo thù cho cha mà đến đây không biết đường đi.

Lão đạo sĩ nói:

- Mi còn nhỏ, còn Sở vương thì binh hùng tướng mạnh yểm hộ trước sau, làm sao mi báo thù được? Nhưng ngươi đã có chí như vậy thì ta cũng xin tình nguyện đi báo thù cho ngươi, nhưng muốn đạt được ý nguyện, ta cần dùng một vật của ngươi chẳng biết ngươi có bằng lòng không?

Bằng giọng cương quyết, thằng bé nói:

- Ông có lòng tốt giúp tôi việc này thì dù ông muốn dùng cái đầu của tôi, tôi cũng xin dâng ngay lập tức.

- Đúng đấy, quả thiệt ta muốn dùng cái đầu của ngươi đấy, ngươi có bằng lòng không?

Thằng bé quỳ xuống ngửa cổ ra nói:

- Ông đã không ngại gian lao báo thù cho tôi thì cái đầu này đâu dám tiếc?

Ông đạo sĩ còn lưỡng lự thì thằng bé đã nhanh tay rút gươm tự vẫn. Ông đạo sĩ vội cắt thủ cấp nó và cầm cây Hùng kiếm đi thẳng qua nước Sở.

Đến được cung vua, lão đạo sĩ cười lên ba tiếng ra vẻ khinh mạn rồi khóc lên ba tiếng nghe thảm não. Quân sĩ thấy chuyện lạ kỳ như vậy vào báo vua Sở hay. Vua Sở sai quân ra hỏi, đạo nhân đáp:

- Ta cười là cười cho thế gian không ai biết quý trọng người tài. Chính ta đây là thầy cho thuốc trường sinh bất lão đây.

Quân sĩ vào tâu lại cho Sở Vương hay, Sở Vương cho mời vào, đạo nhân lấy cái đầu thằng nhỏ giơ ra trước mặt Sở vương.

Sở Vương ngạc nhiên hỏi:

- Ấy là cái đầu lâu, sao ngươi gọi là thuốc trường sinh?

Đạo nhân bảo:

- Đây chính là thuốc trường sinh đấy chứ. Xin bệ hạ sai lấy vạc dầu đem tôi nấu cho mà xem. Nấu độ một khắc thì môi nó đỏ, răng nó trắng, chừng hai khắc thì mắt nó đỏ, răng nó trắng, chừng ba khắc thì mắt nó nháy, bốn khắc thì nó kêu lên danh tính nội trào, năm khắc thì cây Diệp Hà trổ ra hoa, đến sáu khắc thì biến thành bụi sen, bảy khắc sen ấy có hột, ăn mỗi hột, sống được một trăm hai chục tuổi.

Sở Vương nửa tin nửa ngờ, sai đem vạc dầu ra, lão đạo nhân thực hiện thì quả nhiên đến bảy khắc có trổ hột sen, cả triều đình văn võ bá quan đều khen ngợi.

Đạo nhân chắp tay mời vua Sở xuống hái hột sen mà lấy thuốc trường sinh.

Sở Vương mừng quá bước xuống chẳng đề phòng, bị đạo nhân rút gươm ra chém một nhát đầu rơi vào vạc dầu. Các quan văn võ thấy vậy liền áp tới bắt tên hành thích, nhưng lão ta tự chặt đầu mình trước. Cái đầu lão ta cũng rớt chung vào vạc dầu ấy. Các quan vớt ra thì ba cái đầu ấy giống hệt như nhau không biết cái nào là của Sở Vương cho nên phải đem chôn hết cả ba cái đầu vào một chỗ. Bởi vậy lời xưa có nói "Sở hữu tam đầu mộ", nghĩa là: Nước Sở có cái mả ba đầu. Còn cây gươm ấy để đến nay tên là Trảm Lư, qua triều Đường thì về tay Tiết Nhân Qúy, chẳng biết sao đến nay lại về tay ông.

Sự tích gươm này theo tôi được biết là như vậy, chẳng biết có đúng không?

Châu Tam Huý nghe qua mừng rỡ bảo:

- Quả thật tinh sinh là người thông kim, bác cổ, quảng văn.

Vừa nói, Tam Huý vừa cầm gươm đứng dậy dâng lên hai tay nói với Nhạc Phi:

- Cây gươm này thất lạc đã lâu đời, nay gặp được người biết, tất nhiên là chủ của nó, vậy xin tiên sinh hãy thâu nhận để ra công giúp nước, thì tôi mãn nguyện vì đã thực hiện lời dặn dò của ông tôi.

Nhạc Phi cũng đứng dậy khiêm nhường từ chối:

- Vật báu của người khác, tôi đâu dám lãnh?

Châu Tam Huý nói:

- Đây chỉ là tiền nhân tôi dạy bảo, tôi đâu dám trái lời.

Nhạc Phi từ chối năm bảy phen rồi mới chịu nhận gươm. Chàng bái tạ Châu Tam Huý rồi xin kiếu từ ra đi mua gươm cho các sư đệ mỗi người một cây.

Khi về đến quán trọ trời đã sẩm tối. Cơm nước xong, Nhạc Phi kêu chủ quán dặn:

- Việc thi cử của chúng tôi ba năm mới có một kỳ, vậy xin người hãy lo cơm nước cho sớm để sáng mai anh em tôi nhập trường cho kịp.

Chủ quán nói:

- Xin chư vị chớ bận tâm, việc ấy tôi hứa sẽ lo chu đáo.

Trống vừa điểm canh tư, chủ quán đã gọi anh em dậy dùng cơm, đoạn sửa soạn thương giáp chỉnh tề cùng nhau thẳng đến giáo trường.

Đến nơi đã thấy võ sinh từ các tỉnh về tề tựu đông đảo. Nhạc Phi nói nhỏ với chư huynh đệ:

Chỗ này đông đúc, ồn ào quá, chúng ta hãy tìm chỗ khác nghỉ, chờ gọi đến tên sẽ nhập trường.

Chợt thấy một người quảy gánh chạy vào gọi:

- Nhạc tướng công đâu?

Vương Quới ứng tiếp đáp:

- Có đây.

Tên quân để gánh xuống nói:

- Thức ăn trong gánh này của Tông Lưu Thú lão gia sai tôi đem đến cho các vị dùng đỡ đói.

Anh em Nhạc Phi đều bái tạ rồi cùng nhau ngồi lại ăn uống.

Trời vừa sáng, đã thấy ba quan chủ khảo: Trương Bang Xương, Vương Đạt và Trương Tuấn đến giáo trường trước, còn ông Tông Trạch chậm bước đến sau. Mấy ông mời nhau ngồi trà nước xong, Trương Bang Xương hỏi Tông Trạch:

- Tông đại nhân, người môn sinh của đại nhân ghi vào bảng rồi chứ?

Tông Trạch nói:

- Môn sinh của tôi là ai đâu?

Trương Bang Xương nói:

- Tên Nhạc Phi ở Thang Âm huyện không phải là môn sinh của đại nhân là gì?

Tông Lưu Thú nghe nói biến sắc mặt, đáp:

- Việc này là quốc gia chọn anh tài để ra gánh vác giang san chứ không phải chúng mình khảo thi riêng, vậy thì trước khi khảo hạch, chúng ta nên lập bàn tuyên thệ để chứng tỏ là công tâm, công đức.

Nói rồi vội sai quân sĩ lập bàn đốt nhanh đèn lên. Tông Lưu Thú quỳ lạy trời đất rồi cất tiếng thề:

- Tôi là Tông Trạch ở Tích Giang, Kim Huê phủ, Nghĩa Điền huyện, được Thiên Tử giao cho nhiệm vụ khảo hạch võ sinh chỉ lấy công tâm mà chọn hiền tài. Như tôi có lòng khi quân ngộ quốc, ăn hối lộ, thì cho tôi thác về nghiệp đao tiễn.

Tông Trạch thề rồi mời Bang Xương cùng thề với mình. Bang Xương nghĩ rằng:

- "Lão này sao lại bày ra chuyện thề nguyền làm chi, nếu mình không thề ắt lão ta nghi kỵ".

Nghĩ đoạn, lão ta quỳ xuống lẩm bẩm:

- "Tôi là Trương Bang Xương ở Hồ Quảng, người Huỳnh Châu, nhờ thánh ân cho làm giám khảo võ sinh, nếu như tôi có khi quân ngộ pháp, ăn của hối lộ thì cho tôi đời này hoá thành con lợn của phiên bang, chiết vì đao kiếm".

Bang Xương thề xong tự nghĩ:

- "Ta đường đường là một quan đại thần thế này thì đời nào có thể làm lợn Phiên bang sao?"

Nghĩ vậy nên lão lấy làm đắc kế cho lời thề của lão, còn Tông Lưu Thú thì cố bày ra việc thề nguyền như vậy để chứng tỏ lòng mình ngay thẳng mà thôi chứ không thèm để ý đến lời thề của Bang Xương lèo lá ra sao.

Khi Bang Xương thề xong, Vương Đạt cũng quỳ xuống nói:

- Tôi là Vương Đạt cùng ở một làng với Bang Xương, lòng tôi có khi quân thì cho tôi hoá ra làm dê mà cùng thác như vậy.

Trương Tuấn thì thề rằng:

- Tôi là Trương Tuấn ở Nam Trực Lệ, người Thuận Châu, nếu tôi có lòng khi quân thì tôi chịu chết nơi miệng muôn người.

Ba lời thề của ba người thật là kỳ quặc, chúng tưởng thề như vâỵ cho qua chuyện, ngờ đâu về sau lời thề ấy ứng nghiệm chẳng sai.

Khi bốn vị chủ khảo tuyên thệ xong liền lên ngồi chỗ cũ. Tông Lưu Thú nghĩ thầm:

- Thế nào bọn này cũng vị tình để cho Sài Vương giật giải Trạng võ chớ chẳng không, chi bằng ta đòi Sài Vương đến khảo hạch trước.

Nghĩ đoạn, sai kỳ bài quan ra đòi võ sinh tên Sài Quế ở Nam Ninh Châu đến ngay. Một lát sau Sài Quế bước vào xá Tông Lưu Thú rồi đứng lại một bên chờ lệnh.

Tông Lưu Thú hỏi:

- Có phải ngươi là Sài Quế không?

- Dạ phải.

- Ngươi đã đến đây chịu khảo thí sao chẳng quỳ? Nếu muốn cướp bảng đề danh thì phải làm theo nghi lễ, bằng cứ hợm mình là một vị Phan vương không chịu khảo hạch thì ta mời ngồi khỏi phải thi cử gì. Ta thiết tưởng người đã tới bực Vương hầu rồi lại nghe lời sàm nịnh tranh giành chức Võ Trạng làm gì? Có ai bỏ địa vị lớn theo đuổi chức vụ nhỏ nhen không? Hơn nữa chốn này là tứ phương anh hùng đủ mặt, chẳng lẽ không có kẻ cao cường, có đâu lại để chức Võ Trạng về tay người được? Chi bằng đừng màng chi việc ấy, danh vọng mình có mất đi đâu. Ngươi nghĩ kỹ xem lời ta nói có phải chăng?

Sài Quế đành ngậm miệng không biết nói gì hơn, vội quỳ xuống ngay.

Vì sao Sài Quế đang đường đường một vị Phan vương lại hạ mình tranh chức Võ Trạng và chịu nhục như vậy. Nguyên vì khi trước, Sài Vương đi về triều chầu Thiên tử, khi đi ngang qua núi Thái Hành có một tên cướp cầm Kim Bối Đao xưng là Kim Mao Đại Vương tên là Vương Thiện, sức địch muôn người, xung quanh hắn có bọn bộ hạ tâm phúc là Mã Bảo, Hà Lục, Hà Nhân, lại còn có tả hữu quân sư là Lưu Võ và Điền Ký.

Toàn là những bọn túc trí đa mưu tụ tập lâu la hơn ngàn vạn tên chiếm cứ núi Thái Hành, cướp phá nhiều nơi, nhưng quan binh không làm gì nổi.

Vương Thiện lại muốn cướp đoạt cả giang sơn của nhà Tống, ngặt vì không người nội ứng. Ngày kia Sài Vương nhập triều, Vương Thiện mời vào trà nước tử tế rồi Quân sư Điền Kỳ nói:

- Buổi Nam Đường suy thoái thì bị Triệu Khuông Dẫn lập mưu soán đoạt thâu tóm thiên hạ. Đến nay Đại Vương bất quá chỉ là một ông Phan Vương còn phải xưng thần quì bái. Nay tôi đây binh nhiều, lương đủ sao Đại vương không về triều thông mưu với kẻ gian thần đoạt cho được chức Võ Trạng nắm binh quyền trong tay làm nội ứng rồi gửi cho tôi một phong thư, tức tốc tôi đem binh giúp cho Đại vương dấy nghiệp. Kế ấy có phải là hay không?

Vương Thiện và quân sư hắn nói vậy là để lừa Sài Quế chớ lẽ nào khi nên việc rồi Vương Thiện lại để cho Sài Quế làm vua sao? Thế mà Sài Quế ngây thơ đem lòng mừng rỡ đáp:

- Lời của các khanh thật là chí lý, để cô gia về triều sẽ tính. Như thành công rồi thì cô gia với các khanh cùng hưởng.

Vương Thiện mừng rỡ bày tiệc thiết đãi rồi đưa Sài Quế xuống núi. Khi về đến kinh thành, Sài Quế bèn hối lộ với các vị chủ khảo. Mấy tên gian thần đều nhận của lót bằng lòng cho Sài Quế đoạt chức Võ Trạng, duy chỉ có một mình Tông Lưu Thú là lòng ngay, dạ thẳng quyết tâm chọn anh tài nên không chịu nhận, ông lại biết rõ mấy vị đại thần kia ăn hối lộ nên ông chỉ mặt Sài Quế nói mấy điều làm cho Sài Quế cứng họng quỳ gối làm thinh.

Trương Bang Xương thấy thế giận lắm, nghĩ thầm:

- "Lão ta chơi cú xỏ như vậy, để ta cũng đòi môn sinh của lão ra mắng cho bõ ghét".

Bang Xương vội sai kỳ bài quan ra đòi Nhạc Phi ở Thang Âm huyện vào. Nhạc Phi bước vào thấy Sài Quế quì trước mặt Tông Lưu Thú, chàng cũng đến quì trước mặt Trương Bang Xương.

Bang Xương hỏi:

- Ngươi là Nhạc Phi phải không?

- Vâng, Nhạc Phi chính tên tôi.

Bang Xương nhìn chàng từ đầu đến chân rồi bĩu môi nói:

- Ta xem hình thù ngươi chẳng phải con nhà võ, mong gì đạt được chức Trạng võ?

Nhạc Phi đáp:

- Tiểu sinh đâu dám mong đoạt chức ấy, và chăng trong hội thi này hàng muôn ngàn cử tử đến đây chịu khảo hạch ai lại chẳng muốn đoạt chức Trạng võ, nhưng có phải ai đi thi cũng đoạt được sao? Vì thế đã là võ cử thì phải tuân theo luật lệ mà ứng thí, chứ tôi đâu dám vọng tưởng?

Trương Bang Xương tưởng kiếm chuyện mắng Nhạc Phi cho đã giận, ngờ đâu chàng trả lời trôi như nước chảy khiến lão ta lúng túng bèn nói:

- Vậy thì bây giờ khảo hạch hai người này trước rồi sau sẽ khảo hạch người kia.

Rồi Bang Xương quay lại hỏi Nhạc Phi:

- Ngươi dùng binh khí gì?

- Dạ tôi dùng cây thương.

- Còn Sài Quế, dùng món binh khí gì?

- Tôi thì dùng đao.

Bang Xương liền bảo Nhạc Phi làm bài thương luận còn Sài Quế thì làm bài đao luận.

Hai người vâng lệnh vội hạ bút ngay giữa giáo trường.

Tài văn học của Sài Quế cũng không phải dở lắm, xong vì bị Tông Trạch nhục mạ nên lửa giận bốc lên tối tăm cả mặt mày, tay chân run rẩy khiến chữ viết không minh bạch, chữ đao không ra chữ đao, chữ lực không ra chữ lực. Cho nên bài thương luận của Nhạc Phi được dâng lên trước còn bài đao luận của Sài Quế phải dâng sau.

Bang Xương xem bài của Sài Quế trước rồi đút vào tay áo mới xem bài của Nhạc Phi sau. Ông ta thấy bài của Nhạc Phi nghĩa lý cao siêu, chữ lại tốt nên nghĩ thầm:

- Người này văn học có kém chi ta, hèn chi lão Tông Trạch yêu chuộng cũng phải.

Tuy nghĩ vậy nhưng ông cũng vẫn nạt lớn:

- Chữ nghĩa của ngươi như vầy mà dám tranh chức Trạng võ?

Dứt lời lại quăng bài xuống đất truyền quân đuổi ra.

Quân sĩ vừa ra tay, Tông Trạch nạt lớn:

- Hãy khoan, còn phải đợi lệnh ta nữa mới được thi hành.

Quân sĩ thấy quan Tông Lưu Thú quát, vội dãn ra chẳng dám trái lệnh.

Rồi Tông Trạch bảo quân sĩ lấy bài của Nhạc Phi đem cho mình xem. Quân sĩ đứng nhìn nhau chẳng ai dám đi lấy vì sợ Trương Thái sư giận. Nhạc Phi thấy vậy vội lấy dâng lên.

Tông Trạch trải bài thi lên bàn xem thì thấy lời lẽ như vàng đá, chữ viết như hạt châu. Tông Trạch nghĩ thầm:

- Ai ngờ kẻ gian thần nó khinh tài mà trọng lợi như vậy!

Liền lấy bài Nhạc Phi cất rồi hỏi Nhạc Phi:

- Tài năng ngươi như vậy mà vọng cầu công danh sao? Vậy ngươi có biết Tô Tần dâng thư vạn chữ và Ôn Đình Huân làm bài Nam Huê phú không?

Sở dĩ Tông Trạch hỏi Nhạc Phi hai câu ấy là vì khi trước Tô Tần đến nước Tần, Thương Ưởng thấy người tài cao thì ghét, lại sợ Tô Tần tài giỏi chiếm đoạt quyền thế của mình nên không dùng Tô Tần mà chỉ dùng Trương Nghị thôi. Còn ông Ôn Đình Huân là người nước Tấn khi vua Tấn mời thừa tướng Hoàn Văn vào ngự chốn hoa viên để xem hoa Nam Huê và truyền làm bài phú cho ngài xem. Hoàn Văn xin đem về nhà làm và sáng hôm sau đem nạp, chỉ vì Hoàn Văn không làm được bài ấy nên đem về mượn người trong nhà là Ôn Đình Huân làm hộ. Khi Ôn Đình Huân làm xong, Hoàn Văn xem qua thất kinh nghĩ thầm:

- Trong đời này lại có người tài giỏi đến thế, nhất định người này trước sau gì cũng được trọng dụng và khi ấy sẽ đoạt mất quyền thế của mình. Vì vậy ông bỏ thuốc độc giết chết ông Huân ngay rồi mang bài phú dâng vua bảo là của mình làm, ấy là những chuyện ghen ghét kẻ hiền tài.

Khi Bang Xương nghe ông Tông Trạch hỏi Nhạc Phi hai câu ấy thì biết rằng Tông Lưu Thú đã mắng khéo mình trong lòng vừa hổ thẹn vừa giận dữ nên đã quyết kiếm chuyện làm khó dễ cho Nhạc Phi.

Hồi thứ mười hai

Tỉ võ, đâm chết Tiểu Lương Vương

Phá võ trường, Nhạc Phi thoát hiểm

Sài Quế tự biết rằng bài đao luận của mình không ra gì nên chỉ đứng đưa mắt cầu cứu Trương Bang Xương.

Quả nhiên, Trương Bang Xương quay qua thách đố Nhạc Phi:

- Thôi được rồi, ta cũng chẳng cần đếm xỉa đến chữ nghĩa của ngươi làm gì nữa. Bây giờ ta hỏi ngươi: Vậy ngươi dám thi võ thuật với Sài Vương không?

Nhạc Phi thưa:

- Lão gia đã dạy tôi đâu dám chẳng vâng?

Tông Lưu Thú thấy thế trong lòng mừng thầm:

- "Nếu tỉ thí cung tiễn thì nhất định Nhạc Phi phải thắng"

Tông Trạch sai quân đem bia dựng ra cách xa chừng một trăm hai chục bước, Sài Vương thấy dựng bia xa quá vội bước đến thưa với Bang Xương:

- Việc cung tiễn thì tôi xin nhường cho Nhạc Phi bắn trước.

Bang Xương quay lại bảo nhỏ kẻ tả hữu:

- Chúng bay hãy lén nới bia ra cho xa đến hai trăm bước cho ta, nếu Nhạc Phi thấy xa không dám bắn thì ta đuổi quách nó ra cho rồi.

Nhưng Nhạc Phi chẳng chút nao núng, chàng vâng lệnh xuống thềm khai cung giữa đám anh hùng. Cung trương như mặt nguyệt, tên bắn tựa sao bay. Chàng bắn luôn chín mũi đều trúng đích hồng tâm, cờ phất, trống đánh vang tai.

Kẻ giữ bia đem lại cho Trương Bang Xương xem và nói:

- Người võ sĩ này bắn giỏi lắm.

Sài Quế nghĩ thầm:

- "Thi cung tiễn thì chắc ta thua hắn rồi, chi bằng xin tỉ võ với hắn, ta sẽ tìm lời dụ dỗ, nếu hắn chịu thì thôi, bằng không thì ta thừa kế giết quách hắn đi cho xong".

Nghĩ vậy Sài Quế lớn tiếng bẩm:

- Nhạc Phi đã bắn trúng rồi, tôi có bắn trúng nữa cũng không biết ai cao ai thấp, vậy tôi xin thí võ với y mới định hơn thua được.

Trương Bang Xương chấp thuận ngay. Sài Quế nắm đao lên ngựa tới chỗ giáo trường kêu Nhạc Phi bảo:

- Ngươi hãy đến lãnh giáo đường đao của ta đây.

Nhạc Phi tuy võ nghệ cao cường nhưng thấy Sài Quế là một vị Phan vương, nếu thẳng tay chiến đấu thì sợ phạm thượng chăng? Trong lòng chàng phân vân vô cùng, nhưng vẫn gượng gạo cầm thương lên ngựa ra vẻ sợ sệt.

Mọi người đứng ngoài xem thấy thái độ của Nhạc Phi như vậy xúm nhau bàn tán:

- "Tên võ sinh mà thí võ với Phan vương thì chắc chắn phải thua rồi"

Ông Tông Trạch thấy Nhạc Phi đến chỗ giáo trường mà sợ sệt như vậy thì giận và trách thầm:

- Thật là vô dụng, uổng công ta săn sóc lắm

Nhạc Phi vừa đến, Sài Vương lại nói nhỏ:

- Nếu ngươi biết điều giả thua chạy, thì cô gia sẽ trọng thưởng, bằng không nhất định tính mạng ngươi khó bảo toàn.

Nhạc Phi nói:

- Vương đã dạy vậy, lẽ ra tôi vâng lời mới phải, nhưng vì hôm nay là ngày khảo hạch, chẳng phải chỉ một mình tôi thôi, xin ngài hãy nhìn kỹ anh hùng tụ hội rất nhiều. Biết bao năm công phu luyện tập chỉ trông cho đến ngày nay để lập công danh cho hiển vinh tông tổ. Vả chăng Ngài đường đường một vị Phan vương phú quí vinh dự, lẽ nào đi tranh chức Trạng võ với cử tử làm chi, có phải là trên đã phụ lòng Thiên tử cầu hiền còn dưới lại khuất lấp anh hùng, thiếu kẻ ra đền nợ nước. Thế thì đúng ra Vương nên nhượng lại cho tôi mới phải, xin Ngài xét lại.

Sài Quế nghe nói nổi giận, mắng:

- Ta đã ôn tồn khuyên dỗ ngươi, đã không bằng lòng thì thôi, ngươi lại còn hàm hồ loạn ngôn thế sao?

Rồi thình lình chém Nhạc Phi một đao, Nhạc Phi vung thương đỡ khỏi. Sài Quế lại bồi thêm một đao nữa. Nhạc Phi cầm thương gạt ngang qua bên hữu.

Sài Quế không giết được, càng căm gan hơn, bèn vận hết thần lực chém luôn sáu bảy đao một lượt, buộc lòng Nhạc Phi phải đưa ngón võ "Đồng Tử Bảo Tâm" ra đón đỡ đủ bốn mặt Đông Tây Nam Bắc nên Sài Quế chém không trúng một đường nào cả.

Sài Quế liền dừng đao quay ngựa lại bước đến thính đường bẩm:

- Nhạc Phi võ nghệ tầm thường quá, làm sao thượng mã giao phong cho được.

Trương Bang Xương phụ hoạ:

- Ta cũng nhận thấy võ nghệ Nhạc Phi chẳng bằng Phan vương. Nhạc Phi cưỡi ngựa chạy theo đến nơi xuống ngựa quỳ sau Sài Quế, Tông Lưu Thú thấy vậy kêu Nhạc Phi nói:

- Võ nghệ ngươi như vậy mà mơ ước công danh sao được?

Nhạc Phi bẩm:

- Bẩm đại lão gia, chẳng phải là võ nghệ tôi chẳng được tinh thông, song chỉ vì tôi với Sài vương có tôn ty chi phận, nên tôi chẳng dám giao đấu thực sự đó thôi.

Tông Trạch bĩu môi đáp:

- Nếu vậy ngươi đừng đến đây chịu khảo thí.

Nhạc Phi lại thưa:

- Ba năm mới gặp hội một kỳ, lẽ nào tôi lại chẳng đi? Nhưng tôi tưởng khảo thí là cầm cung lên ngựa, múa đao thương cho trúng cách mà định liệt ưu, chớ như nay tôi với Phan vương thượng trận giao phong, hễ lưỡng hổ tranh hùng sao cho khỏi một con bị tử thương. Như Phan vương giết tôi chết thì chẳng nói làm chi, bằng tôi sẩy tay giết chết Phan vương thì dễ gì êm xuôi? Tôi tin chắc lúc ấy chẳng những một mình tôi mà cả thân tộc tôi cũng đều bị hại nữa.

Nay xin các vị chủ khảo làm chứng cho chúng tôi, hai bên lập một tờ giao kết sinh tử, hễ ai chết nấy chịu, không bồi thường nhân mạng, thì tôi mới dám giao thủ.

Tông Trạch nghe Nhạc Phi nói một hồi rồi gật đầu nói:

- Nói như thế cũng phải, vì cổ nhân có nói "Tráng sĩ lâm trận không chết cũng bị thương", Sài Quế, ngươi có bằng lòng không?

Sài Quế còn do dự, Bang Xương đã nói tiếp:

- Nhạc Phi quả là người lợi khẩu, ta xem ngươi có tài cán chi mà dám làm điều tuyệt mạng như vậy?

Rồi quay lại bảo Sài Quế:

- Vậy Sài Quế hãy lập tờ giao kết sinh tử đi để cho nó có chết nó cũng thoả mãn và cho các cử tử kia vui lòng hàng phục đồng thời che lấp tiếng thị phi.

Sài Quế không biết tính sao, túng thế phải viết tờ giao kết. Nhạc Phi cũng làm một tờ, có bốn quan đại thần chủ khảo làm chứng và đóng dấu trong mỗi tờ.

Tờ của Sài Vương thì giao cho Nhạc Phi cầm, tờ của Nhạc Phi thì giao cho Sài Vương giữ. Nhưng Sài Vương giao cho Bang Xương cầm giùm, Nhạc Phi thấy vậy cũng trao tờ giao kết trong tay mình cho ông Tông Trạch, Tông Trạch lắc đầu nói:

- Tờ giấy này là bổn mạng ngươi, ngươi phải giữ lấy chớ nên giao cho lão có hại.

Hai người bước xuống dưới thềm, Nhạc Phi nói:

- Tờ của Ngài Phan vương thì Thái sư cầm giùm, còn tờ của tôi thì Tông lão gia không chịu cầm cho tôi, vậy để tôi giao tờ ấy cho bằng hữu của tôi, rồi tôi sẽ trở lại.

Nhạc Phi bước ra chỗ anh em đứng, gọi Thang Hoài bảo:

- Nếu như Tiểu Lương Vương có thua anh thì anh em phải coi chừng chỗ trướng phòng kia kẻo chúng đánh lén ta đấy.

Rồi gọi Trương Hiển đến dặn:

- Như trong trướng phòng có kẻ ra tay thì đệ phải ra sức ngăn cản còn Vương đệ thì phải giữ lấy cửa giáo trường mà chờ ta. Bằng ta bị Sài Quế giết chết thì nhặt xác về chôn, còn như ta bại trận thì phá cửa giáo trường cho ta chạy. Còn việc giấy giao kèo sinh tử này xin đệ giữ cho cẩn thận, nếu làm mất thì tính mạng ta chẳng còn, xin chư đệ hãy nhớ.

Nhạc Phi dặn dò anh em xong, liền trở lại chỗ giáo trường. Thiên hạ cùng các cử tử đứng bao vòng xem rất đông đảo.

Khi Sài Quế lập tờ giao kết sinh tử trao cho Nhạc Phi rồi thì trở lại trướng phòng trong lòng lo lắng chẳng yên.

Đây là chỗ giáo trường chứ chẳng phải trận mạc chi mà lập trướng phòng? Nhưng vì Sài Quế là một vị Phan vương chẳng phải như cử tử tầm thường khác, hơn nữa y đã lo lót với mấy lão gian thần nên muốn lập gì mà chẳng được, vả lại y có ý làm dữ nên phải phòng xa, lập trướng phòng để mai phục kẻ bộ hạ mình, phòng khi bất trắc có chúng nó phò tá.

Khi Sài Quế đến trướng phòng thì tập hợp gia tướng lại bảo:

- Nay cô gia muốn ứng thí để đoạt chức Trạng võ, chẳng ngờ Nhạc Phi nó lập "sinh tử trạng" mà tỉ thí với ta. Như cô gia giết nó được thì chẳng nói làm chi, bằng nó hại cô gia thì các người tính sao?

Gia tướng đồng thanh nói:

- Nhạc Phi có mấy cái đầu mà dám hại Lương Vương? Như nó ỷ sức mạnh thì chúng tôi xông ra bằm xác nó cho rồi. Trong triều đã có Trương Thái sư làm chủ và có mấy ông kia đỡ đầu, chúng mình lo gì.

Phan vương gật đầu tỏ vẻ đắc ý rồi giục ngựa thẳng ra giáo trường, lúc ấy Nhạc Phi cũng vừa đến.

Phan Vương trông thấy Nhạc Phi lúc bấy giờ oai phong lẫm lẫm chứ không phải khiếp sợ như lúc nãy, trong lòng hơi hồi hộp bèn nói với Nhạc Phi:

- Nhạc cử tử hãy theo lời ta hoà đi là hơn, vì khi ta được Trạng võ thì ngươi cũng được Thám hoa hay Bảng Nhãn cũng tốt lắm rồi.

Nhạc Phi đáp:

- Điều ấy tưởng tôi đã nói nhiều với Vương gia lúc nãy rồi. Vả chăng mười năm khổ công rèn luyện mới nên danh học trò, hơn nữa trong hội thi này đâu phải một mình tôi? Nếu làm như vậy có nên danh phận cũng không ai phục đâu.

Sài Vương nghe qua nổi giận vung đao chém liền. Nhạc Phi giơ Lịch Tuyền thương vừa gạt ngang một cái Sài Vương đã bị dội ngược lại rung động cả toàn thân, trong lòng kinh hãi song cũng ráng sức bình sinh lao mình tới chém một đao nữa. Nhạc Phi cũng đưa thương lên đỡ. Sài Vương trông thấy Nhạc Phi chỉ đỡ mà thôi tưởng chàng không dám đâm mình nên vung đao chém lia lịa.

Nhạc Phi nổi giận nói:

- Sài Quế, ta tưởng ngươi là một Vương gia nên ta chẳng nỡ, ngờ đâu ngươi lại không biết điều gì cả. Vậy đừng trách ta sao ra tay độc ác đấy nhé.

Sài Vương nghe Nhạc Phi gọi tên tục mình thì nổi nóng quát mắng:

- Nhạc Phi, ngươi quả là loại cẩu đầu. Sao ngươi dám mạo phạm đến tính danh của ta? Ta quyết phân mi ra muôn mảnh mới hả giận.

Nói rồi nghiến răng vận đủ mười thành công lực nhắm ngay đầu Nhạc Phi chém xuống một đao thật mạnh quyết hạ thủ cho kỳ được, nhưng Nhạc Phi đã gạt ngang một cái khiến Sài Quế quay mấy vòng, thừa thế Nhạc Phi đâm một thương trúng ngay giữa ngực. Sài Quế té nhào xuống ngựa, máu phun ra có vòi, chỉ còn giãy giụa mấy cái rồi im lìm, hồn lìa khỏi xác.

Thiên hạ đứng xem cùng các cử tử đều vỗ tay rầm rộ khen hay. Các quan tuần trường cùng bọn vệ binh trông thấy thế đều biến sắc mặt, vội bảo lính hộ vệ phải coi giữ lấy Nhạc Phi đừng để cho chàng tẩu thoát.

Nhưng Nhạc Phi vẫn thản nhiên như thường, chàng nhảy xuống ngựa cột dây cương vào cán thương rồi đứng đó chờ lệnh.

Tuần trường quan chạy đến phi báo với mấy quan giám khảo:

- Nhạc Phi đã đâm chết Phan vương rồi, xin quý thượng quan định liệu.

Tông Lưu Thú nghe báo vẫn làm thinh, nhưng trong lòng hơi sợ hãi. Còn Trương Bang Xương thì thất kinh hồn vía rụng rời vội sai quân trói Nhạc Phi lại tức tốc.

Tả hữu tuân lệnh chạy ra giáo trường thì thấy bọn thủ hạ của Sài Vương tay cầm gươm giáo đang lăm le muốn xông ra báo thù cho chủ. Thang Hoài vội vàng cầm thương lên ngựa chạy bay ra chận lại.

Ngưu Cao cùng múa song giản chạy đến thét lớn:

- Nhạc Phi đâm Sài Vương chết vẫn còn có chỗ công luận chứ bọn ngươi ỷ sức mạnh thì chúng ta chẳng dung đâu.

Gia tướng thấy tình thế không ổn muốn chạy quật ra phía sau thì có Trương Hiển cầm cây liêm thương cản lại. Bọn chúng bèn giựt phá trướng phòng hư hết phân nửa.

Trương Hiển quát lớn:

- Các ngươi muốn động thủ phải không? Nếu các ngươi muốn làm dữ thì anh em ta sẽ giết không chừa một đứa đấy.

Bọn thủ hạ Sài Quế khiếp nhược không dám ló ra một tên. Kế thấy quân đao phủ dẫn Nhạc Phi đi, chúng đoán chắc là Trương Thái sư sẽ gia hình nên yên tâm không rộn lên như lúc nãy nữa. Còn Ngưu Cao thì trông thấy Nhạc Phi bị quân đao phủ dẫn đi chàng thất kinh hồn vía vội chạy theo.

Đến nơi, Ngưu Cao lại nghe Trương Bang Xương truyền lệnh đem chém Nhạc Phi lấy đầu thị chúng, chàng toan xông vào cản trở. Bỗng nghe Tông Lưu Thú quát:

- Hãy dãn ra hết!

Rồi giơ tay nắm áo Trương Bang Xương gằn giọng:

- Tại sao lại truyền lệnh chém Nhạc Phi hả? Thiết tưởng hai bên đã lập trạng thư giao kết với nhau thì ai chết nấy chịu chứ còn nói năng gì nữa. Chẳng lẽ chúng mình thị chứng đóng dấu vào tờ giấy rồi đem Nhạc Phi ra giết, cử tử coi chúng ta ra gì nữa? Và như vậy chúng ta có thể bị hại nữa là khác. Chi bằng việc đâu còn có đó, để về tâu lại với thánh thượng, chờ lệnh trên định đoạt.

Bang Xương vẫn một thái độ hằn học:

- Không thể như thế được. Nhạc Phi là một kẻ võ sinh dám giết chết một vị Phan Vương? Quả là kẻ vô quân, vô phụ, loạn thần tặc tử, ai ai cũng đều giết được hà tất phải tâu vua làm gì?

Dứt lời lại truyền quân đao phủ đem Nhạc Phi chém cho mau.

Quân đao phủ tuân lệnh áp lại toan ra tay thì Ngưu Cao xông vào hét lớn:

- Hãy nghe ta nói đã. Thử hỏi thiên hạ anh hùng đến đây hôm nay ai mà chẳng vọng tưởng hai chữ công danh? Nay Sài Vương ỷ thế ra tranh chức, rủi bị Nhạc Phi võ nghệ cao cường đâm chết, đáng lẽ ra Nhạc Phi phải được chức Võ Trạng mới phải, sao lại còn bị đem chém, thế thì anh em tôi đây không phục tý nào cả. Chẳng lẽ chốn này là chỗ phỉnh phờ lừa gạt như vậy sao? Chi bằng giết quách bọn quan ôn dịch này cho hết, rồi chúng ta đến hoàng đế mà khiếu nại.

Nói dứt lời, Ngưu Cao vung song giản đánh ngã cây cột cờ để hăm doạ.

Các cử tử đứng bao vây xugn quanh cũng cùng la lên phụ hoạ:

- Trong ba năm mới mở hội một kỳ để tuyển chọn anh tài, Sài Vương ỷ thế, cậy thần ra cướp giựt chức Trạng võ tức là muốn dìm chúng ta xuống đáy biển rồi, chẳng lẽ ta nhịn thua sao?

Rồi mỗi người một tiếng hò nhau vang dội một góc trời. Cây cột cờ kia lại ngã xuống vang lên tiếng động như long trời lở đất, người ta cảm thấy có sức mạnh không gì cản nổi.

Bấy giờ Tông Lưu Thú buông Trương Thái sư ra và nói:

- Thái sư đã nghe các cử tử nói đó không? Thái sư có giỏi thì giết Nhạc Phi đi, tôi cũng không can thêm nữa.

Ba vị giám khảo kia bấy giờ mới xuống nước, mặt ông nào cũng tái mét cắt không còn giọt máu, vội xúm lại năn nỉ Tông Lưu Thú:

- Sự việc đến nước này thì nguy cho chúng tôi lắm, xin Nguyên Nhung lo liệu giùm. Vẫn biết ba anh em tôi với Nguyên Nhung cũng đều lãnh mạng triều đình, song chỉ có lệnh Nguyên Nhung thì cử tử mới chịu phục mà thôi.

Rồi ông lại quay qua dặn quân đao phủ:

- Chúng bay phải chờ lệnh Nguyên soái chứ đừng làm càn mà phạm quốc pháp đấy.

Các cử tử nghe nói có lệnh của Tông Lưu Thú thì im lặng dóng tai nghe, nhưng ông ta vẫn làm như không thèm nói gì hết.

Bang Xương lại bước tới trước mặt Tông Lưu Thú dịu giọng:

- Mặc tình Nguyên Nhung liệu định thế nào chúng tôi cũng theo cả.

Lưu Thú nói:

- Bây giờ nhân tình không phục toan làm loạn lên rồi, dù có viết sớ tâu lên vua cũng không kịp nữa, chỉ bằng thả Nhạc Phi ra cho bọn cử tử hài lòng cái đã rồi chúng mình sẽ toan liệu sau.

Ba người liền gật đầu ưng chịu ngay, vội sai mở trói cho Nhạc Phi.

Nhạc Phi thấy mình được thoát khỏi tai nạn lật đật lấy thương giáp nhảy phóc lên lưng ngựa chạy thoát ra ngoài không kịp nói một tiếng tạ ơn. Ngưu Cao cùng các huynh đệ cũng chạy theo. Vương Quới đứng giữa giáo trường chờ cho anh em chạy hết chàng mới phá cửa giáo trường tẩu thoát.

Chỉ trong chốc lát, giáo trường nhộn nhịp trở nên hoang vắng, các cử tử thì kéo nhau về hết, chỉ còn gia tướng của Sài Quế lo nhặt xác của chủ tướng.

Hồi thứ mười ba

Vương Thiện dấy binh quyết phá Tống

Tông Trạch cáo ốm, chối mệnh vua

Ra khỏi giáo trường, anh em Nhạc Phi phóng ngựa thẳng đến dinh Tông Lưu Thú thì thấy cửa dinh đóng kín, mọi người xuống ngựa vào cổng dinh rồi gọi quân canh nói:

- Xin làm ơn bẩm lại với lão gia rằng, Nhạc Phi này suốt đời đền ơn Ngài chẳng đặng, kiếp sau xin quyết làm thân khuyển mã để đền bồi.

Rồi cùng nhau lên ngựa trở về quán trọ tính tiền trả cho chủ quán và từ biệt trở về quê.

Lại nói chuyện các quan giám khảo trông thấy các cử tử bốn phương giải tán hết rồi, liền bảo bộ hạ của Sài Vương liệm hài cốt cẩn thận rồi vào Triều chầu thiên tử.

Trương Bang Xương dập đầu dưới bệ tâu:

- Muôn tâu bệ hạ, khoa này chốn võ trường có tên học trò của ông Tông Trạch tên Nhạc Phi đã đâm chết Tiểu Lương Vương nên các cử tử đều bỏ về hết. Tình trạng này xảy ra là do ông Tông Trạch đó thôi.

Vua nghe qua vô cùng thương tiếc Tiểu Lương Vương và giận dữ quở mắng Tông Lưu Thú.

- Thế thì tội khanh đáng chết nhưng ta cũng nể tình khanh là một quan đại thần có công với triều đình lâu nay nên trẫm tha chết cho.

Phán rồi truyền quân lột áo mũ Tông Trạch đuổi về làm thường dân. Tông Trạch cũng muốn thanh minh nhưng trống đổ bãi triều, Vua và các quan ra về hết.

Tông Trạch về đến dinh đã thấy quân giữ cửa quỳ thưa:

- Lúc nãy có năm anh em Nhạc Phi đến cửa viên môn quỳ lạy và hứa xin chờ kiếp sau sẽ đền ơn.

Tông Trạch nghe nói cảm động sa nước mắt, bèn vào dinh gói ghém một ít quần áo cùng vàng bạc ra đi một cách vội vã.

Gia đinh không biết Tông Trạch đi đâu vội hỏi:

- Lão gia đi đâu một mình mà gấp lắm vậy?

- Ta đi theo anh em Nhạc Phi.

- Bẩm mấy người ấy đã đi xa rồi, lão gia đi làm gì vô ích.

Tông Trạch đáp:

- Các ngươi đâu rõ lòng ta? Thủa xưa Tiêu Hà trong đêm tối, nhờ bóng trăng mà theo Hàn Tín, đến sau nhờ người ấy mà nhà Hán bền vững được bốn trăm năm, huống chi ngày nay Nhạc Phi tài trí thua gì Hàn Tín, vả lại trong lúc này quốc gia cần gấp người hiền, lẽ nào lại bỏ kẻ có tài sao? Vì vậy ta cần phải theo để căn dặn vài điều.

Tông Trạch đem theo vài tên tuỳ tùng, giục ngựa buông cương quyết theo gót Nhạc Phi.

Khi Nhạc Phi ra khỏi cửa thành, chàng ra roi cho ngựa phi nước đại, miệng thúc anh em chạy cho mau. Ngưu Cao nói:

- Mình đã ra đến đây còn sợ ai nữa mà chạy dữ vậy?

Nhạc Phi nói:

- Vì Ngưu đệ chưa rõ lòng nham hiểm của bọn gian thần, nhất định không khi nào chúng chịu buông tha anh em chúng ta đâu. Chúng ta được may mắn ra đến đây là nhờ có ân sư giúp đỡ. Nếu mình không tẩu thoát cho mau thì chúng sẽ kiếm chuyện khác đuổi theo tróc nã, lúc ấy có ăn năn cũng chẳng kịp.

Anh em nghe nói đều cho là phải rồi giục ngựa theo bén sát Nhạc Phi không dám chậm trễ.

Trong đêm tối, nhờ bóng trăng soi lờ mờ, năm chàng tráng sĩ kẻ trước người sau vừa đi vừa chuyện vãn chỉ trong chốc lát đã vượt được hai mươi dặm đường, bỗng nghe phía sau có tiếng động, Nhạc Phi quay lại xem thì quả nhiêm có bóng người cưỡi ngựa đuổi theo. Nhạc Phi kinh hãi nói:

- Hay là bộ hạ của Sài Quế theo chúng mình chăng?

Vương Quới nói:

- Sợ gì, chúng mình đi chậm lại chờ chúng nó đến, cho chúng toi mạng hết một lượt.

Ngưu Cao tán đồng:

- Phải đấy, chúng ta lại sợ lũ chuột nhắt ấy sao? Chi bằng cùng nhau quay lại Thành đô giết sạch lũ gian thần thâu đoạt Biện Kinh rồi tôn Nhạc đại huynh lên làm hoàng đế, còn lũ mình làm tướng thì sướng biết chừng nào, cần gì phải chịu khảo hạch chức Trạng võ cho mệt xác.

Nhạc Phi trợn mắt quát:

- Nói bậy, ngươi điên rồi sao? Từ nay về sau đừng có loạn ngôn như vậy nữa.

Ngưu Cao hờn dỗi:

- Thôi tôi chẳng thèm nói gì hết, để cho bọn nó đi đến đây rồi ngửa cổ ra cho chúng nó chặt chắc êm lắm!

Thang Hoài nói:

- Ngưu đệ chớ có nói vậy, anh em ta dừng ngựa lại chờ bọn nó đến xem sao. Nếu như chúng dùng lời lẽ ôn tồn thì chúng ta cũng dùng lời mà đối với chúng, bằng chúng hành hung thì chúng ta cho chúng một trận chí mạng chớ sợ gì?

Bỗng thấy một người cưỡi ngựa lướt tới, gọi lớn:

- Nhạc tướng công, hãy đi chậm chậm lại đợi lão gia với.

Nhạc Phi reo lên:

- Đúng là ân sư ta rồi, nhưng người theo ta có việc gì mà hấp tấp dữ vậy?

Tông Trạch vừa đến nơi, năm anh em đều xuống ngựa quỳ bên đường. Tông Trạch vội bước tới đỡ dậy, Nhạc Phi nói:

- Môn sinh nhờ ơn ân sư cứu thoát chết, chưa biết lấy chi báo đáp. Trong khi bất cập chẳng được diện kiến để bái từ, nay ân sư theo đến đây chẳng biết có điều gì dạy bảo?

Tông Trạch nói:

- Cũng vì việc ấy mà bọn Trương Bang Xương dâng sớ lên Thánh thượng cất chức ta rồi.

Bọn Nhạc Phi nghe vậy lấy làm ái ngại, vội lạy mà xin lỗi.

Tông Trạch khoả tay:

- Không can chi đâu. Lâu nay ta cũng muốn từ quan, song sợ triều đình không cho ta nghỉ, nay được như vầy, lão gia càng được an nhàn lắm có sao?

Rồi Tông Trạch quay lại hỏi hai tên tuỳ tùng:

- Chúng bay biết gần đây có chỗ nào nghỉ tạm đỡ một đêm được không?

Gia tướng bẩm:

- Thưa lão gia, đi chừng nửa dặm đường nữa thì đến vườn hoa của quan Giám nghị, vườn ấy rộng rãi mát mẻ có thể nghỉ được.

Tông Lưu Thú cùng Nhạc Phi lên ngựa đi ngay, chỉ trong chốc lát đã đến vườn hoa. Người coi vườn chào hỏi niềm nở và dẫn mọi người vào vườn.

Ngồi nghỉ hồi lâu, Tông Lưu Thú hỏi người coi vườn.

- Chúng ta đã đói bụng lắm rồi, chẳng biết gần đây có chỗ nào bán rượu không?

Người coi vườn đáp:

- Cách đây độ một dặm đường có chợ Chiêu Phong, bán đủ thực phẩm.

Tông Lưu Thú liền sai kẻ tuỳ tùng xuống chợ mua thức ăn, rồi mở lấy một gói vải trao cho Nhạc Phi nói:

- Lão phu chẳng có chi quí gí, chỉ còn một bộ khôi giáp đem theo tặng cho ngươi, hãy nhận lấy mà dùng.

Nhạc Phi chưa có giáp nay được Tông Trạch cho, chàng mừng rỡ tạ ơn rối rít.

Tông Lưu Thú nói:

- Chư vị tướng công chớ thấy công danh chưa đạt được mà buồn lòng, thối chí. Chỉ sợ mình bất tài chứ đừng sợ mình vô dụng. Rồi đây mưu thâm, kế ác của bọn gian thần bại lộ ra rồi, lão phu sẽ ra sức mà tâu với triều đình, thế nào các ngươi cũng được trọng dụng. Bây giờ đây chữ trung chưa thực hiện được hãy trở về phụng dưỡng mẹ cha để làm tròn chữ hiếu. Còn việc văn chương, võ nghệ phải luôn luôn luyện tập chớ có xao lãng.

Bọn Nhạc Phi đồng thanh nói:

- Lão gia đã thương tình chỉ dạy cho mấy lời châu ngọc, chúng tôi nguyện khắc cốt ghi tâm.

Câu chuyện vừa đến đây thì cỗ bàn đã dọn lên, anh em mời Tông Lưu Thú ngồi trước rồi anh em ngồi sau. Kẻ tuỳ tùng hầu hạ rót rượu thiết đãi.

Tông Lưu Thú cùng năm anh em Nhạc Phi ăn uống chuyện vãn, đàm luận việc binh pháp, Vương Quới và Ngưu Cao ngồi cuối bàn, hai người này ăn cơm hồi đầu canh rồi suốt ngày ở tại giáo trường chẳng ăn uống chi cả cho nên trong bụng đói như cào. Bây giờ trông thấy rượu thịt ngon miệng, mặc cho ai nói năng gì thì nói, hai người cứ việc ăn uống như rồng khát thấy nước, cọp đói gặp mồi vậy. Ăn xong hai người không thèm uống trà mà dùng gáo múc nước suối uống cho đã khát.

Bấy giờ tiếng gà trong xóm đã gáy vang, vừng đông ửng hồng hiện lên trăm nghìn hình tượng đẹp mắt. Bọn Nhạc Phi từ tạ Tông Lưu Thú ra đi, còn Tông Lưu Thú cũng trở về dinh.

Trên đường đi, anh em Nhạc Phi nói nói cười cười ai nấy đều cảm mến ông Tông Lưu Thú, họ không biết ngày nào mới đền ơn cho ông ta được.

Đang lúc trò chuyện, đột nhiên Vương Quới thình lình ngã nhào xuống ngựa, mặt mày tái nhợt, cắn răng, bất tỉnh nhân sự. Anh em hoảng hốt lật đật nhảy xuống ngựa bế xốc Vương Quới lên kêu gọi ầm ĩ.

Nhạc Phi cầm tay xoa bóp cho Vương Quới, nước mắt chảy ròng ròng, mếu máo nói:

- Vương đệ ơi! Vương đệ hãy tỉnh lại. Chữ công danh chưa đạt được nên phải trở về, mà về chưa đến nhà đã xảy ra cơ sự như vậy, nếu Vương đệ có bề gì thì ta biết nói thế nào với lệnh tôn đây?

Nhạc Phi than khóc chẳng cùng, anh em ai nấy đều kinh hãi.

Ngưu Cao nói:

- Chư huynh đệ đừng khóc chỉ tổ hoang mang vô ích, để đệ tìm cách cứu chữa xem sao. Theo đệ biết thì hôm qua Vương huynh đói bụng lắm nên hôm nay ăn nhiều quá, lại uống nước lạnh nữa thì bảo sao không mang bệnh?

Vừa nói, Ngưu Cao vừa sờ vào bụng Vương Quới, chàng cào qua cào lại nghe rột rột rồi nói:

- Đúng rồi, bụng Vương ca thế này thì bị thương thực rồi chứ gì nữa.

Ngưu Cao bèn lấy tay xoa tròn một hồi cho nóng rồi đặt trọn bàn tay nhận xuống bụng Vương Quới làm xổ ra nhiều nước tanh hôi. Tức thì Vương Quới tỉnh lại, nhưng vẫn còn ôm bụng rên xiết.

Nhạc Phi nói:

- Bây giờ anh em mình ở đây nghỉ đỡ, còn Thang đệ thì phải đi đến Chiêu Phong trấn tìm mướn một cái quán để đem Vương đệ đến đó thuốc thang.

Thang Hoài vâng lệnh lên ngựa thẳng đến Chiêu Phong trấn tìm vào một chiếc quán khá rộng rãi.

Người chủ quán ra tiếp đón niềm nở, Thang Hoài nói:

- Chúng tôi có năm anh em đều xuống võ trường ứng thí, khi về dọc đường rủi có một người lâm bệnh nên phải tìm chỗ tá túc, thuốc thang.

Người chủ quán vui vẻ đáp:

- Được lắm, không hề gì đâu, các vị cứ việc đem người bệnh đến đây nghỉ và lo chạy thuốc men, quán tôi rộng rãi mát mẻ có đủ điều kiện cho người bệnh tĩnh dưỡng.

Thang Hoài trở lại nói cho anh em hay rồi cùng nhau đến quán nghỉ ngơi và nhờ chủ quán đi đón thầy lang đến chẩn mạch bốc thuốc.

Chẩn mạch xong, ông thầy thuốc bảo:

- Bệnh này thuộc loại ẩm thực thương tỳ lại them ngộ cảm hàn khí, bây giờ phải đầu thang "thập thần" để tiêu trì hàn khí, đồng thời kiện tỳ tiêu thực rồi mới dám phục thuốc "quy tỳ" để bổ dưỡng tỳ trong ba thang. Làm thầy như tôi đã ba đời nối nghiệp kinh nghiệm có dư nên tuy bệnh trọng cũng chỉ vài thang thuốc là khỏi bệnh ngay.

Nhạc Phi nghe nói mừng rỡ trao tiền cho thầy bốc thuốc, anh em đều ở lại quán chăm sóc Vương Quới.

Lại nhắc đến Vương Thiện ở tại núi Thái Hành, sai người xuống kinh kỳ dò la tin tức, nên chỉ hai ngày sau có tin phi báo:

- Nguy tai! Sài Quế đã bị Nhạc Phi đâm chết tại võ trường, triều đình đã cắt chức Tông Trạch.

Vương Thiện vội nhóm họp các tướng sĩ cùng quân sư bàn bạc. Vương Thiện nói:

Nay triều đình trọng dụng kẻ gian thần nên các tướng sĩ đều ngã long. Vì vậy tuy Sài Vương bị giết song Tông Trạch bị cách chức thì triều đình không còn người giỏi nữa. Chúng ta thừa cơ hội này khởi binh vào Biện Kinh đoạt lấy giang sơn nhà Tống các ngươi nghĩ sao?

Quân sư Điền Kỳ nói:

- Nay nhà vua đã làm cho dân tình ta than, bỏ kẻ hiền trọng dụng tôi gian, trong triều văn võ bá quan chẳng hoà nhau, cơ hội này không khởi binh thì còn đợi cơ hội nào nữa?

Vương Thiện bèn sai Mã Bảo làm tiên phong và Hà Lục, Hà Thất làm phó tướng, dẫn ba nghìn tinh binh chia làm ba đạo kéo thẳng xuống Biện Kinh.

Khi binh kéo đến cửa Nam Huân còn cách xa thành chừng năm mươi dặm thì an binh hạ trại.

Tướng giữ thành này hay tin có giặc đến liền đóng kín các cửa thành phòng thủ rồi vào tâu cho Hoàng thượng hay.

Vua Huy Tông lập tức khai triều, nhóm họp đủ mặt văn võ bá quan rồi phán hỏi:

- Nay bọn cường khấu ở Thái Hành sơn kéo quân xuống đây, ai dám đem binh ra trừ khử?

Các quan chỉ nhìn nhau không ai lên tiếng. Vua cả giận nhìn thẳng vào mặt Trương Bang Xương quát mắng:

- Nuôi quân ngàn ngày chỉ nhờ một thuở. Các khanh ăn lộc nước đã lâu, nay giặc đến thành rồi mà chẳng ai biết bày một mưu chước, hay ra tay đẩy lui giặc, thế thì chẳng phải là uổng cơm của triều đình lắm sao?

Bỗng có quan Giám Nghị quỳ xuống tâu:

- Thần là Lý Can muốn tâu cùng thánh thượng điều này: Vương Thiện cso ý cướp ngôi thiên tử đã lâu, tuy hắn có binh hùng tướng mạnh song chẳng dám hành động là vì hắn sợ một mình ông Tông Trạch mà thôi, nay thánh thượng muốn đẩy lui giặc, chỉ còn cách là triệu ông ấy về cầm binh mới có thể xong việc được.

Vua Huy Tông nghe lời hạ chỉ sai Lý Can đến triệu ông Tông Trạch vào triều, lãnh binh diệt giặc.

Lý Can tuân mệnh thẳng đến dinh Tông lão thì thấy chỉ có con là Tông Phương ra nghênh tiếp. Lý Can hỏi:

- Sao không thấy đại nhân ra tiếp chỉ?

Tông Phương đáp:

- Phụ thân tôi lâm bệnh nằm liệt trên giường không thể ra tiếp được, tội đáng chết, xin được rộng lượng.

Lý Can vặn hỏi:

- Tông đại nhân đau hồi nào và đau bệnh gì?

- Thưa, phụ thân tôi lâm bệnh từ lúc võ trường bị phá đến nay.

Lý Can liền đặt thánh chỉ giữa trung đường đi thẳng vào chỗ Tông Trạch nằm thì thấy Tông Trạch ngủ ngáy khò khò.

Lý Can nhìn Tông Phương bảo:

- May mà ta đến đây chứ nếu kẻ khác đến thấy vậy thì ắt mang tội khi quân rồi!

Tông Phương vẫn một mực đáp:

- Thật tình phụ thân tôi mang bệnh chứ không giả dối đâu, xin thượng quan chớ nghi ngờ.

Bỗng Tông Trạch trở mình rồi lẩm bẩm nói:

- "Phải giết hết lũ gian thần kia cho ta!"

Nói rồi lăn qua ngủ nữa. Lý Can xem xét hồi lâu rồi nói với Tông Phương:

- Lệnh tôn đau thật, để lão phu vào triều tâu lại.

Lý Can trở về phục chỉ và tâu:

- Tông Trạch lâm bệnh nên không thể lãnh binh được.

Vua Huy Tông đang trông đợi, bỗng hay tin vậy thì lo sợ vô cùng, vội hỏi:

- Đau bệnh gì? Để ta sai thái y đến chữa chạy.

Lý Can tâu:

- Hạ thần tin chắc thái y không thể nào chữa bệnh cho Tông Trạch được đâu.

- Tại sao vậy?

- Chỉ vì từ ngày Tông Trạch chứng kiến sự việc tại giáo trường trong lòng hoang mang, lại bị tước chức, nên càng căm phẫn sinh bệnh ngày ngày la lối mắng nhiếc bọn gian thần. Vì vậy bệ hạ chỉ cần bắt gian thần hạ ngục thì tự nhiên Tông Trạch hết bệnh chứ không phải thuốc men gì cả.

Vua hỏi:

- Gian thần là ai?

Lý Can chưa kịp tâu thì Bang Xương đã quỳ tâu trước:

- Gian thần chính là Binh Bộ thượng thư Vương Đạt vậy.

Vua y theo lời, liền hạ chỉ bắt Vương Đạt giao cho Hình bộ giam lại.

Vương Đạt và Trương Bang Xương vốn là bạn tâm giao, là phường gian nịnh cả, thế sao Bang Xương lại đổ tội cho Vương Đạt.

Đó chính là xảo kế cảu kẻ gian nịnh. Nếu Bang Xương không nhanh miệng thì tất nhiên Lý Can chỉ đích danh cả thì khó gỡ, chi bằng y tâu đổ tội cho một mình Vương Đạt rồi thủng thẳng y kiếm kế gỡ ra.

Sau khi Lý Can về, Tông Trạch sai người đến triều đình thám thính, mới hay triều đình đã bắt Vương Đạt cầm tù.

Hôm sau Lý Can đến, Tông Trạch mới chịu ra tiếp chỉ.

Lý Can nói:

- Tôi biết ngài vì giận kẻ gian thần mà đau, nên tôi muốn tâu vua diệt trừ cả ba, thế mà Bang Xương đã nhanh miệng tâu trước thành thử chỉ có một mình Vương Đạt bị bắt mà thôi.

Thế rồi hai người vào cung triều kiến, vua phục chức lại cho Tông Trạch để được lãnh binh ra trừ giặc.

Trương Bang Xương thấy vậy quỳ tâu:

- Vương Thiện là quân cướp đường, bọn lâu la ô hợp, Tông đại nhân đây là người binh pháp thần thông, xin bệ hạ phát cho Tông Trạch chừng năm ngàn binh cũng đủ thắng quân giặc rồi.

Vua nghe theo, hạ chỉ phát cho Tông Trạch năm nghìn binh mà thôi. Tông Trạch nói với Lý Can:

- Ông đánh cọp chẳng xong, nên để cho cọp cắn lại tôi.

Lý Can nói:

- Việc đã lỡ rồi, xin Nguyên Nhung cứ việc ra binh, rồi sáng mai tôi sẽ tâu cùng Thánh thượng thêm binh tiếp ứng.

Hai người từ giã về dinh.

Hôm sau, Tông Trạch đến chỗ giáo trường kiểm binh mã có dẫn công tử Tông Phương theo, rồi kéo binh đến Mâu Đà Cang giáp chiến.

Tông Trạch thấy binh giặc đông đến bốn năm vạn, nghĩ thầm:

- Địch thì quân lính hằng hà sa số còn ta chỉ có vỏn vẹn năm nghìn thì đánh sao cho lại?

Rồi ra lệnh cho quân sĩ đi thẳng lên đỉnh Mâu Đà Cang hạ trại.

Công tử Tông Phương lấy làm lạ hỏi:

- Sao phụ thân lại đem binh đóng trên đỉnh núi thế này? Nếu quân giặc đến bao vây thì làm sao giải cứu?

Tông Trạch thở dài đáp:

- Ta há lại không biết thiên thời địa lợi sao? Nhưng chỉ giận gian thần ghen ghét cố hại ta, nên trong tay ta chỉ có năm nghìn người ngựa làm sao phá nổi bốn năm vạn lâu la? Cho nên cha quyết sẽ đơn thân độc mã vào sào huyệt giặc, nếu như không phá nổi chúng thì cha chịu chết để đền nợ nước. Lúc ấy con sẽ đem binh về bảo hộ gia quyến đưa về quê quán, chẳng nên ở chốn kinh thành mà mang hại. Nếu như ta làm cho binh tướng chúng rối loạn, dinh trại chúng hoang mang, thì con hãy đem ngay quân tiếp ứng thừa thế phá tan sào huyệt chúng.

Hồi thứ mười bốn

Nhạc Phi phá giặc đền ân trọng

Thi Toàn ăn cướp gặp bạn hiền

Các tướng sĩ thấy Tông Lưu Thú liều thân như vậy vội chạy theo núi lại bẩm:

- Lão gia chớ nên đi một mình như vậy, thế giặc quá hung hăng lại đông như kiến. Anh em chúng tôi quyết liều chết theo lão gia chứ nhất định không chịu để cho lão gia đi một mình vào chốn miệng hùm, hang rắn.

Tông Trạch nói:

- Không phải ta không thấy giặc mạnh, nhưng có đem các ngươi theo cũng chẳng làm gì, chi bằng một mình ta đi cho khỏi mang hại đến các ngươi.

Quân sĩ nghe nói càng cảm động hơn nữa, nhưng can gián hết lời ông vẫn không nghe cứ việc giục ngựa thẳng đến trại địch lớn tiếng gọi.

- Ta, Tông Lưu Thú đến phá hang ổ chúng bay đây!

Vừa hét vừa xông vào chém địch như chém chuối, như đến chỗ không người, bọn lâu la không tài nào ngăn nổi lật đật chạy vào báo với Vương Thiện:

- Có Tông Trạch đơn thương độc mã xông vào dinh trại hung hăng quá, chúng tôi không cản nổi.

Vương Thiện suy nghĩ:

- Tông Trạch là danh tướng của nhà Tống mà một mình một ngựa vào đây liều chết thì chắc là gian thần mưu hại y rồi, nếu ta mà được người ấy thì lo gì giang sơn nhà Tống chẳng vào tay ta?

Nghĩ vậy nên vội ra lệnh cho binh tướng phải vây bắt cho kỳ được Tông Trạch, nhưng không được gây thương vong. Binh tướng được lệnh ào đến bao vây trùng trùng điệp điệp và gọi Tông Trạch bảo:

- Sao không xuống ngựa quy hàng cho sớm còn đợi chừng nào?

Nhưng Tông Lưu Thú không thèm đếm xỉa gì đến lời kêu gọi, ráng đem hết sức bình sinh ra đánh thốc vào đám giặc chẳng khác Triệu Tử Long vào trận Đương Dương.

Nhưng dù Tông Lưu Thú có tài giỏi đến đâu cũng khó mà thắng nổi số đông kia, nếu như quân địch dùng cung tên bắn loạn vào thì chắc chắn ông cũng khó mà bảo toàn tính mạng. Bởi vì Vương Thiện ra lệnh bắt sống nên quân sĩ chỉ bao vây chờ cho đối phương đuối sức mới ra tay thôi.

Trận này xin tạm gác lại sau sẽ tiếp, bây giờ lại nói đến mấy anh em Nhạc Phi đang ở Chiêu Phong trấn, ngày đêm săn sóc bệnh tình của Vương Quới, bệnh chàng hôm nay đã gần khỏi, Thang Hoài đang nấu nước trà cho Vương Quới uống, đột nhiên cánh cửa mở, người chủ tiệm cùng tên tiểu nhị hớt hải chạy vào nói:

- Nguy tai lắm chư vị tướng công ôi! Nay có đám ăn cướp trên Thái Hành sơn xuống muốn chiếm đoạt kinh thành. Như chúng chiếm được thì chẳng nói chi, bằng chúng bị thua quay trở lại đây sẽ phá làng xóm cướp bóc giết người ghê gớm lắm. Vì vậy bây giờ phải đi dò la tin tức, nếu liệu bề không xong thì phải dọn nhà trốn đi cho sớm kẻo hoạ đến nơi không chạy kịp. Còn mấy ông cũng phải lo thu xếp đi kẻo nguy đấy.

Thang Hoài nói:

- Không hề gì đâu, nếu chúng biết anh em ta ở đây thì dù cho chúng có ba đầu sáu tay cũng không dám bén mảng đến vì chúng đến đây lại phải nạp tiền mãi lộ cho chúng ta thì đến để làm gì?

Nói đến đây Thang Hoài cười ha hả. Người chủ tiệm đang kinh hãi chợt thấy thái độ ngạo mạn của Thang Hoài, hắn đứng nhìn sửng sốt đầy vẻ nghi ngờ rồi nói:

- Việc nguy biến sắp đến nơi sao tướng công lại đùa bỡn như vậy? Tôi nói thiệt đấy, xin tướng công hãy lo liệu gấp kẻo không kịp nữa.

Thang Hoài lại càng tức cười thêm, rồi không thèm đếm xỉa gì đến người chủ tiệm nữa, cứ thản nhiên bưng trà lên cho Vương Quới uống.

Nhạc Phi hỏi:

- Sao Thang đệ pha trà lâu thế?

Thang Hoài đem câu chuyện người chủ quán thuật lại đầu đuôi, Nhạc Phi vội kêu hắn vào hỏi lại:

- Câu chuyện người vừa mới nói ấy có thật không hay là nghe lời đồn huyễn hoặc?

- Quả thật như vậy tướng công ạ, bọn lâu la Thái Hành sơn kéo đến kinh thành đông không biết bao nhiêu mà kể, Triều đình đã sai quan quân đi dẹp rồi.

Nhạc Phi nói:

- Thế thì người làm ơn dọn cơm cho chúng ta ăn sớm đi.

Người chủ quán tưởng chàng thúc cơm ăn để anh em chạy cho mau, nên hắn lật đật đi sửa soạn.

Chủ quán đi rồi, Nhạc Phi nói với anh em:

- Ta đoán chắc triều đình sai người mang quân đi dẹp giặc, ngoài Tông ân sư ra thì không có ai khác đâu.

Thang Hoài hỏi:

- Tại sao đại huynh biết?

Nhạc Phi nói vẻ tự tin:

- Trong triều đều là những kẻ gian thần tham sống, sợ chết chẳng ai dám ra nơi trận mạc. Chỉ có Tông đại nhân là người thật tâm vì nước mà thôi, vậy Ngưu đệ hãy ở lại với Vương đệ cho có bạn để ba anh em ta đi thám thính xem, nếu quả có ân sư ta lãnh binh, bọn ta phải ra sức trợ giúp người.

Thang Hoài và Trương Hiển được đi rất vui mừng, còn Ngưu Cao không được đi, tức mình la lớn:

- Vương huynh đã khỏi rồi, để đệ lại làm gì?

Nhạc Phi đáp:

- Tuy Vương đệ khỏi bệnh rồi nhưng còn yếu chưa thể đi được, chẳng lẽ để Vương đệ ở lại một mình sao? Thôi Ngưu đệ hãy ở lại để ta đi cứu ân sư thì cũng như đệ cứu vậy.

Ngưu Cao vừa muốn phản đối thì Vương Quới liền giơ tay cào cào lưng Ngưu Cao ra hiệu bảo im. Ngưu Cao biết ý, liền dịu giọng bảo:

- Đại huynh không cho đi thì đệ ở lại thôi!

Cơm nước xong ba người nai nịt chỉnh tề, tung mình lên ngựa phóng đi như bay.

Ba người đi rồi, Ngưu Cao hỏi Vương Quới:

- Vương huynh lúc nãy cào lưng đệ là ý chi vậy?

Vương Quới mỉm cười nói:

- Đại huynh đã không muốn cho đệ đi thì dù có nài nỉ lắm cũng vô ích, vậy đệ có biết lý do gì mà ta đau đây không?

Ngưu Cao nói:

- Thì tại huynh ăn nhiều quá nên sinh bệnh chứ gì?

Vương Quới lắc đầu đáp:

- Không phải thế đâu, bởi vì nơi giáo trường ta chưa giết được người nào nên mới sinh bệnh, nay bọn cường đạo Thái Hành sơn xuống đánh phá kinh thành, thì chắc là bọn nó đông lắm cho nên ta cào đệ là có ý để cho ba người họ đi trước, rồi anh em mình lập tức theo sau, giết chúng một trận cho sướng tay thì mọi bệnh tiêu tan mất hết đó là uống thang "thập toàn đại bổ" vậy, chẳng biết đệ nghĩ sao?

Ngưu Cao vỗ tay đắc ý nói:

- Vương huynh nói chí lý, đáng đi lắm.

Rồi hai người dọn dẹp đóng cửa lại bảo với chủ quán:

- Phiền ông ở nhà coi sóc cho tử tế, để anh em ta đi giết hết quân giặc rồi sẽ trở về nhé.

Người chủ quán vâng dạ. Hai người thương giáp chỉnh tề lên ngựa nhắm cửa Nam Huân thẳng tới.

Lại nói, khi ba anh em Nhạc Phi đến Mâu Đà Cang, nhìn lên đỉnh núi cao trông thấy cờ hiệu tung bay phất phới, nhìn kỹ thì quả là cờ hiệu của Tông Trạch, Nhạc Phi ngạc nhiên tự hỏi:

Lạ thật ân sư là người tinh thông binh pháp, sao lại đóng quân trên đỉnh núi như vậy? Quả là hiện tượng bất thường, chúng ta hãy gấp rút lên đó thử xem nào.

Nói rồi ba người giục ngựa chạy lên, Quân canh vào phi báo, Tông công tử lập tức xuống đón lên.

Vừa vào đến trại, Nhạc Phi hỏi Tông Phương:

- Tông đại nhân là người thuần thục binh thư, tinh thông trận pháp, sao lại đóng binh nơi hiểm địa như vậy? Ngộ như quân giặc đến đây vây khốn, triệt đường tiếp tế và chận mạch nước thì biết liệu sao?

Tông Phương buồn bã đáp:

- Chỉ vì gian thần manh tâm hãm hại nên tâu với hoàng thượng phát binh quá ít chẳng đủ dùng, buộc lòng cha tôi cho đóng binh tại đây, rồi một mình một ngựa xông vào dinh trại địch quyết liều chết để đền nợ nước.

Nói đến đây, hai hàng nước mắt Tông Phương chảy xuống ròng ròng, khiến Nhạc Phi cảm động vô cùng, chàng nói:

- Bây giờ công tử hãy sửa soạn đi tiếp ứng, còn anh em tôi phải lập tức xông vào dinh trại địch cứu ngay ân sư ra mới được.

Rồi Nhạc Phi quay lại bảo:

- Thang đệ hãy đánh thẳng vào phía tả, còn Trương đệ thì xông vào phía hữu, riêng ta sẽ đánh vào giữa. Ai gặp ân sư trước thì người đó sẽ lập công đầu.

Thang Hoài nói:

- Binh giặc nhiều quá làm sao giết cho hết?

Nhạc Phi đáp:

- Ta cứ nhằm những đứa đầu đảng mà giết thì tự nhiên hàng ngũ địch tan rã ngay, miễn là làm sao vào được giữa trận, cứu được ân sư là tốt rồi.

Hai người khen phải rồi chia làm ba mặt cùng hét lên một tiếng, xông vào dinh trại địch một lượt.

Thang Hoài vung cây Lãng ngân thương xông vào phía tả chém giết địch như chẻ tre, Trương Hiển vung cây Câu liêm thương nhảy vào phía hữu, gặp người ngựa cũng đều giết sạch, lâu la kinh hồn hoảng vía. Còn Nhạc Phi thì xông vào cửa giữa, cây Lịch Tuyền thương trên tay chàng vung kêu vun vút, đầu giặc rơi như sung rụng. Chàng lớn tiếng hét:

- Có Nhạc Phi đến đây, hãy dãn ra cho ta cứu ân sư ta, bằng không ta sẽ giết không chừa một đứa nào!

Lúc ấy Tông Lưu Thú đang bị vây khốn, ráng hết sức bình sinh chống đỡ, hai tay đã rã rời mà vòng vây ngày một siết chạy. Quân địch gọi lớn:

- Tông Trạch! Đại vương ta bảo, hễ ngươi đầu hàng thì dung cho ngươi khỏi chết. Vậy ngươi hãy xuống ngựa cho mau để bảo toàn tính mạng.

Tông Trạch còn đang phân vân chưa biết nên hành động bằng cách nào, bỗng nghe bên ngoài có tiếng la ó:

- Có Nhạc Phi là người đâm chết Tiểu Lương Vương đang đánh vào trại ta dữ dội quá.

Tông Trạch nghe vậy nghĩ thầm:

- "Nhạc Phi đã về quê rồi lẽ nào lại có mặt nơi đây?"

Còn đang nghi ngại, bỗng nghe tiếng thét vang như sấm nổ, vòng vây đang siết chặt, lại loạn lên rồi một khoảng trống được mở ra. Quả nhiên Nhạc Phi đã lướt tới trước mặt, Tông Trạch cả mừng vừa thở vừa gọi:

- Hiền khiết ôi! Hãy mau đến đây trợ lực, ta đuối sức lắm rồi.

Nhạc Phi nghe gọi vội phóng mình vào, lễ phép đáp:

- Tiểu sinh đến trễ, xin ân sư tha tội.

Nói vừa dứt lời đã thấy Thang Hoài từ phía tả xông tới, rồi Trương Hiển cũng tiếp đến ngay. Nhạc Phi thấy thế kêu lớn:

- Này chư đệ, ân sư ở đây này, chúng ta hãy ráng sức phá dinh địch đưa ân sư ra cho kỳ được nhé.

Tông Trạch mừng rỡ hiệp bốn người cùng một chỗ đánh tháo ra, gặp binh giết binh, gặp tướng chém tướng, đánh theo lối mũi dùi, thế mạnh vô song.

Nhắc lại hai chàng Ngưu Cao và Vương Quới sợ ba người kia đến trước giết hết quân giặc nên quất ngựa chạy như bay. Đến nơi thấy quân giặc đông đảo thì mừng lắm, Vương Quới bảo Ngưu Cao:

- Địch còn nhiều lắm, ta tha hồ mà đánh.

Ngưu Cao quất ngựa lướt tới. Vương Quới cản lại nói:

- Ngưu đệ, hãy khoan đã để cho ta vào trước uống vài "hoàn thuốc bổ" cho nó sảng khoái tinh thần, chớ có vô lễ.

Ngưu Cao nói:

- Vương huynh đau vừa mới khỏi, để đệ vào trước cho.

Vừa nói, Ngưu Cao vừa giục ngựa ô truy tay múa thiết côn, tướng mạo như Nguyên Đan giáng thế. Vương Quới cũgn vung cây đại đao vùng vẫy trên lưng con hồng mã, xem như Quan Công tái sinh!

Hai người áp vào một lượt đánh phá tơi bời, máu thịt văng tứ tung, bọn lâu la hoảng kinh chạy vào báo với Vương Thiện:

- Phía trước dinh có ba người đánh vào rất lợi hại, còn phía sau lại có một người mặt đỏ, một người mặt đen đánh tới rất hung ác, không ai ngăn cản nổi, xin đại vương liệu định.

Vương Thiện nghe báo cả giận câầ đao xông ra. Lâu la thấy thế reo hò:

- Đại Vương đã ra kìa.

Vương Quới mừng rỡ nói:

- Hay lắm, đại huynh ta thường bảo đánh rắn phải đánh dập đầu, đánh giặc phải bắt chủ tướng, hắn ra đây tức nạp mạng cho anh em ta đấy.

Vừa nói, vừa xốc tới vung đao chém Vương Thiện. Ngưu Cao lướt tới kêu lớn:

- Vương huynh hãy nhượng "hoàn thuốc bổ" ấy cho đệ.

Tiếng hét của Ngưu Cao chấn động cả không gian khiến Vương Thiện giật mình bị Vương Quới chém sả một đao từ đầu xuống lưng phân làm hai mảnh.

Vương Quới lập tức nhảy xuống chặt lấy thủ cấp treo sau yên ngựa, đồng thời vứt cây đao của mình, lấy cây đao thật tốt của Vương Thiện rồi nhảy lên lưng ngựa tiếp tục tấn công.

Ngưu Cao thấy thế thèm quá lẩm bẩm:

- "Ta cũng tìm một đứa như vậy giết cho ngon tay".

Vừa nói, vừa vung song giản đánh sâu vào trận địa.

Nhạc Phi thoáng thấy Ngưu Cao hùng hổ đánh vào, nghĩ thầm:

- "Chẳng lẽ nó bỏ Vương Quới ở nhà một mình lén đến đây đánh giặc sao?".

Nhạc Phi vừa muốn lên tiếng hỏi, chợt thấy Vương Quới cũng xông đến bên lưng có đeo lủng lẳng một chiếc thủ cấp và đang vung đao rượt theo tướng Đặng Thành.

Đặng Thành vừa chạy vừa đỡ đao của Vương Quới, bị Nhạc Phi đâm một thương té nhào xuống ngựa chết tươi. Điền Kỳ nổi giận múa kích đánh tới, bị Ngưu Cao đánh cho một giản, cây kích rời khỏi tay văng ra xa lắc; thừa thế Ngưu Cao giáng xuống một giản trúng ngay giữa sọ, óc huyết văng tứ tung, ngã nhào xuống ngựa chết không kịp ngáp.

Quân giặc trông thấy chúa tướng và quân sư đều bị giết chết, liệu khó bề chống cự, không ai bảo ai, ùa nhau bỏ chạy tán loạn.

Lúc ấy Tông Phương cũng vừa đem binh đến thấy quân giặc chạy loạn, chàng ra lệnh áp tới chém giết, quân giặc chết không biết bao nhiêu mà kể, một số bị bắt sống, một số đầu hàng.

Tông Trạch liền sai quân đánh trống thu quân, truyền thu dọn đồ binh khí và tịch thu lương thực của địch quân rất nhiều.

Sau khi thắng trận, Tông Trạch cho bọn giặc bị bắt nhốt giữ riêng ra một chỗ, còn quân mình cho hạ trại nghỉ ngơi. Nhạc Phi bèn vào từ biệt ân sư để trở về Thang Âm huyện.

Tông Trạch nói:

- Hôm nay mấy anh em có công lớn với triều đình sao lại bỏ về như vậy? Để ngày mai lão phu vào tâu với thiên tử xem sao.

Nhạc Phi vâng mệnh ở lại dinh trại đợi chờ.

Hôm sau Tông Trạch dẫn hết binh mã cùng mấy anh em về đồn trú tại Ngọ môn, một mình vào trước Kim giai quỳ tâu:

- Hạ thần là Tông Trạch phụng mệnh lãnh binh dẹp giặc nhưng vì binh quá ít nên bị giặc vây khốn không thể thoát nổi, hạ thần tưởng thế nào cũng bỏ thây giữa trận tiền, may thay nhờ anh em Nhạc Phi xông vào đánh phá, cứu hạ thần ra khỏi trùng vây lại giết được tên đầu đảng Vương Thiện và quân sư của hắn là Đặng Thành và Điền Kỳ, hiện thần có mang thủ cấp chúng về đây trình chúa thượng. Quân giặc đầu hàng ta hơn một vạn tên, lại thu được ngựa voi lương thảo chẳng biết là bao nhiêu, xin thánh thượng cho phát tin mừng.

Vua Huy Tông nghe tâu vui mừng khôn xiết, vội cho phép Tông Trạch bình thân và cho vời năm anh em Nhạc Phi vào điện kiến giá.

Năm người quỳ lạy tung hô, vua Huy Tông quay qua hỏi Trương Bang Xương:

- Năm anh em Nhạc Phi có công lớn như vậy thì đánh phong làm chức gì?

Trương Bang Xương tâu:

- Như luận công phá giặc thì đánh phong làm quan lớn, ngặt vì chúng nó có tội nơi võ trường nên công ấy chỉ có thể chuộc tội mà thôi. Hay nếu có thương tình lắm cũng chỉ có thể cho tên Nhạc Phi cái chức Thừa tin lang là cùng, chờ ngày sau có công mới sẽ thăng thưởng thêm.

Vua Huy Tông gật đầu y theo. Nhạc Phi rất buồn tủi, nhưng vẫn tạ ơn rồi lui ra. Vua lại truyền cho quan Bộ Hộ coi việc thu điểm lương thảo, quan Bộ Binh thì điểm lại tù hàng binh, còn bao nhiêu khí giới đều cho nhập kho.

Đâu đó xong xuôi, các quan lui trào. Tông Trạch ra về trong lòng giận như lửa đốt nghĩ thầm:

- "Quan gian tặc nó ganh ghét người tài như vậy thì làm sao thiên hạ được thái bình?"

Nguyên cái chức Thừa tin lang chỉ cầm đầu có bảy tên quân mà thôi thì bảo ai mà không giận? Nhưng ngặt vì thánh thượng đã nghe đứa gian thần truyền chỉ rồi nên không dám tâu nữa, ông Tông Trạch trở về phủ mang một mối hận vô biên.

Ông ta về đến nơi trông thấy anh em Nhạc Phi đang đứng tại viên môn chờ đợi, Tông Trạch vội xuống ngựa dắt vào đại đường mời ngồi và nói:

- Lão phu cũng muốn tiến cử anh em vào triều đình trọng dụng ngờ đâu lại bị bọn gian thần cản trở, lão phu nhắm lúc này chưa phải là lúc lập công danh, vậy anh em hãy tạm lui về chờ cơ hội khác. Lão cũng muốn lưu anh em ở lại đây chơi ít ngày cho thoả lòng ái mộ, song lão cảm thấy hổ thẹn lắm.

Nhạc Phi thưa:

- Ơn nghĩa của ân sư đối với chúng sinh rất cao dày, ngàn đời không quên được, nagn vâng lời ân sư, chúng sinh xin từ biệt trở về quê quán.

Sau khi dặn dò điều hơn lẽ thiệt, Tông Trạch tiễn anh em Nhạc Phi ra khỏi viên môn rồi mới trở vào.

Bọn Nhạc Phi cho ngựa rảo bước trở về Chiêu Phong trấn sắp xếp hành lý, tính tiền cơm rồi đi thẳng về Thang Âm.

Dọc đường anh em Nhạc Phi chuyện vãn. Nhắc lại việc gian thần ngăn trở khó lập công danh, Ngưu Cao nói:

- Tuy công danh chẳng được song đệ giết bọn chúng một trận sướng tay quá, ước gì bắt bọn gian thần giết một trận như vậy nữa thì khoái biết mấy.

Nhạc Phi lườm Ngưu Cao và nạt:

- Ngưu đệ đừng nói bậy.

Vương Quới xen vào:

- Nếu không có đại huynh chắc lúc ở trong triều anh em tôi nắm đầu thằng Trương Bang Xương kéo xuống cho hắn một thoi cho hắn rồi đời, bất quá mạng đổi mạng chứ gì?

Thang Hoài nói:

- Ngươi đừng nói liều lĩnh như vậy, như việc ở ngoài đường thì chẳng nói chi, chứ ở giữa triều đình mà ỷ mạnh hành động như vậy ắt mang tội khi quân có thể tru di tam tộc nữa là khác chứ đâu có dễ dàng như vậy!

Câu chuyện giữa năm người vừa đến đây thì gặp một toán người vừa chạy vừa nói: "Nguy hiểm lắm mau mau trở lại đi đường khác mới xong!".

Chúng vừa nói vừa chạy bán sống bán chết. Trương Hiển vội nhảy xuống ngựa chạy theo nắm một người đứng lại bảo:

- Ngươi bảo phía trước có chuyện nguy hiểm hãy nói lại cho ta nghe thử nào?

Người ấy đáp:

- Tại chân núi Hồng La phía trước đây có bọn cướp đón đường, chúng ta vừa bị chúng cướp hết hành lý, may mà chạy thoát được mới khỏi chết. Ta thương các người nên bảo cho biết để lánh nạn, sao lại kéo ta lậi làm gì? Hãy thả ta ra mau.

Trương Hiển buông người ấy ra rồi quay lại nói với Nhạc Phi:

- Họ cho biết rằng phía trước đây có bọn cướp.

Ngưu Cao nghe nói cười khanh khách:

- Cha chả là khoái, thế là gặp miếng mồi ngon nữa rồi.

Nhạc Phi quát mắng:

- Ngưu đệ chớ nên tự cao tự đại, phải đề phòng trước mới được. Bây giờ Thang đệ hãy đi trước thám thính xem tình hình thế nào rồi anh em hãy đến sau.

Năm anh em đứng lại sửa lại thương giáp, để chuẩn bị giao chiến. Còn Thang Hoài thì giục ngựa đi trước.

Đến chân núi kia bỗng có một người cưỡi con ngựa hồng sa, tay cầm đại đao xông ra chặn đường Thang Hoài, nạt lớn:

- Tiểu tử, hãy nạp tiền mãi lộ rồi mới được đi qua.

Thang Hoài cười khẩy rồi giơ cây thương lên đáp:

- Ngươi muốn thu tiền mãi lộ thì hãy hỏi người bạn của tay đây mà thu chớ ta không có tiền.

Tên cướp ngạc nhiên hỏi:

- Bạn của ngươi ở đâu?

Thang Hoài cười ha hả rồi chỉ cây Lang Ngân thương trên tay mình bảo:

- Bạn của ta đây này.

Tên cướp cả giận vung đao chém Thang Hoài. Thang Hoài đề thương đón đánh. Thương đâm đao đỡ, kẻ tràn qua người né lại, đánh vùi hơn hai mươi hiệp mà không ai chịu nhường ai, quả là lưỡng hổ tương phùng.

Vài phút sau bốn anh em Nhạc Phi vừa đến, thấy Thang Hoài không thắng nổi đối phương, Trương Hiển múa Câu Liêm thương xốc tới quát lớn:

- Có ta đến đây, hãy mau mau xuống ngựa quy hàng, bằng chống cự chứo trách anh em ta độc ác.

Vừa dứt lời bỗng thấy một người từ trên núi chạy xuống, tay cầm cây Điểm Cang thương xông vào đánh với Trương Hiển.

Vương Quới thấy vậy liền xông vào trợ lực, lại thấy một người mặt vàng như nghệ từ trên núi chạy bổ xuống cầm cây Tam Cổ thái thiên cản Vương Quới lại giao chiến.

Ngưu Cao lòng nóng như lửa đốt vội tung người nhảy vào thì từ trên núi lại phóng xuống một người nữa, người này mặt xanh như chàm tay cầm Lang nha Bổng chặn Ngưu Cao lại. Nhạc Phi thấy vậy nghĩ thầm:

- "Không biết trên núi này có bao nhiêu cường đạo nữa? Bọn cường đạo này xét ra võ thuật cũng khá cao cường, nếu ta không nhảy vào vòng chiến thì e không thắng nổi".

Nghĩ rồi giục ngựa xông tới, chợt nghe trên núi có tiếng lạc ngựa vang lên. Một người đầu đội ngân khôi, mình mang bạch giáp, cỡi con bạch mã cầm cây ngân kích chạy xuống chỉ vào mặt Nhạc Phi nạt lớn:

- Hãy coi chừng có ta đây.

Vừa nói vừa phóng kích nhắm ngay mặt Nhạc Phi đâm tới. Nhạc Phi đưa thương ra đỡ rồi đánh trả. Đánh được bảy tám hiệp người ấy thình lình thoái lui ra ngoài vòng chiến kêu lớn:

- Hãy khoan, ta có chuyện muốn hỏi ngươi.

Nhạc Phi dừng thương lại hỏi:

- Chuyện gì vậy?

- Ta thấy ngươi hơi quen quen hình như có gặp đâu đấy một lần thì phải, nhưng ta nghĩ mãi chẳng ra, vậy ngươi hãy nói rõ danh tính cho ta biết thử nào.

Nhạc Phi đáp:

- Chúng ta từ Thang Âm huyện đi thi tại võ trường không đậu trở về đây, còn chúng bay là quân ăn cướp có can hệ chi mà nhìn nhận là quen?

Người ấy nhìn Nhạc Phi hồi lâu rồi nói:

- Ta nhớ ra rồi, ngươi có phải là Nhạc Phi đã đâm chết Tiểu Lương Vương tại giáo trường đó không?

Nhạc Phi gật đầu đáp:

- Phải đấy, sao ngươi biết?

Người ấy nghe nói vội nhảy xuống ngựa chắp tay thi lễ và nói:

- Tôi có mắt như mù nên không nhìn ra để đến nỗi phải thất lễ với Nhạc huynh thật đáng tội.

Nhạc Phi cũng ngạc nhiên bảo:

- Chẳng hay vì sao hảo hán lại biết rõ tôi như vậy?

Người ấy nói:

- Tôi sẽ phân tỏ sau, thôi để tôi gọi mấy đứa em tôi dừng tay đã kẻo xảy ra chuyện gì thì ân hận. Nói rồi lớn tiếng gọi "Mấy anh em đừng đánh nhau nữa, hãy lại ta bảo đây!".

Hồi thứ mười lăm

Kim Ngột Truật đem quân đánh Tống

Lục Đăng lập kế giữ An Châu

Thấy bốn người đang đánh quyết liệt với mình đều dừng tay, anh em của Nhạc Phi cũng tạm ngưng chiến.

- Chúng em sắp thắng đối thủ, tại sao đại huynh lại không cho chúng em ra tay nữa ? Bốn người hỏi.

Người ấy không trả lời mà chỉ Nhạc Phi nói:

- Người này chính là Nhạc Phi đã đâm chết Tiểu Lương Vương tại giáo trường đó.

Bốn người nghe nói vội xuống ngựa thi lễ với Nhạc Phi. Nhạc Phi cũng gọi bốn người em lại làm lễ ra mắt nhau, rồi hỏi:

- Chẳng hay quý vị hảo hán tên họ là chi?

Người cầm kích lễ phép đáp:

- Tôi họ Thi tên Toàn, người cầm dao là Triệu Vân, người cầm thương là Châu Thanh, người cầm xoa là Lương Hưng, người cầm lang bổng là Khiết Thanh, năm anh em tôi đều kết nghĩa với nhau quyết ra đoạt chức Võ trạng, chẳng dè bị đại huynh đâm chết Lương Vương, làm tan rã võ trường, nên bọn tôi tính trở về nhà, ngặt vì trong túi không còn một xu lấy làm hổ thẹn. Chúng tôi lại nghĩ ở nhà cũng không có vợ con chi, chi bằng đi tìm đại huynh để kết nghĩa anh em mà nương dựa.

Khi đi ngang qua núi này chúng tôi lại gặp một lũ ăn cướp đón đường, tôi giết hết mấy tên đầu đảng, bọn lâu la tung hô anh em tôi làm chức Đại Vương. Chỉ vì túng quá, chúng tôi tạm ở đây ít ngày kiếm ít vàng bạc để khi tìm gặp được đại huynh dùng làm lễ tấn kiến. Ngờ đâu gặp đại huynh lại không biết nên xúc phạm, xin đại huynh miễn chấp.

Nhạc Phi mừng rỡ tỏ thái độ hoan hỉ, Thi Toàn vội mời hết mấy anh em lên núi, dọn bàn hương án kết nghĩa anh em rồi thâu góp đồ hành lý theo Nhạc Phi về Thang Âm huyện cùng ở chung luyện tập văn võ hàng ngày. Anh em khăng khít nhau như ruột thịt.

Bây giờ xin nói về phương Bắc, vua nước Đại Kim là Ô Cốt Đạt có năm người con. Thái từ là Hồ Hàn, bốn hoàng tử là Lạc Hàn, Đáp Võ, Ngột Truật và Trạch Lợi, lại có thừa tướng là Hấp Lý Cường, quân sư là Hấp Mê Xi, Nốt Mê Tây; đại nguyên soái là Khô Kịch Hốt, nhị nguyên soái là Giảo Ma Hốt, tam nguyên soái là Kỳ Ôn Xoa Trực Chơn, tứ nguyên soái là Ô Ly Đố, ngũ nguyên soái là Ngoa Ly Ba. Ô Cốt Đạt cai quản cả lục quốc tam xuyên, đất đai quá rộng mà lại còn vọng tưởng Trung Nguyên, quyết thâu đoạt giang sơn nhà Tống.

Một hôm vua Kim đang ngự triều, bỗng có quan trị điện vào báo:

- Quân sư đã về.

Kim Vương cho triệu vào. Hấp Mê Xi vào triều bái tung hô rồi tâu:

Hạ thần qua Trung Nguyên thăm dò tin tức, được nghe lão Nam Man hoàng đế (chỉ Huy Tông) đã nhường ngôi cho con là Khâm Tông. Vị tiểu hoàng đế này lên ngôi, chỉ ham mê tửu sắc không ngó ngàng đến việc tiều chính cho nên bọn gian thần lộng hành, mưu hại kẻ trung lương. Vì thế hiện nay các ải đều không có tướng tài trấn giữ. Thừa lúc này Thánh thượng tung binh hùng, tướng mạnh qua đó thì chắc chắn chiếm cứ đất Trung Nguyên và lật đổ triều Tống dễ như trở bàn tay.

Ô Cốt Đạt nghe tâu mừng rỡ chọn ngày lành tháng tốt ra chốn giáo trường tuyển lựa một vị Đoạt Tống đại nguyên soái.

Để tuyển chọn một vị nguyên soái có thể thảo phạt cả miền Nam, đoạt cả triều Tống. Kim Vương treo bảng khắp cả trong ngoài kêu gọi kẻ có tài đến giáo trường tỉ võ. Bọn võ sĩ đổ xô đến giáo trường đông không biết bao nhiêu mà kể.

Kim Vương ngự ra giáo trường, ngồi chễm trệ trên đài cao, các quan văn võ triều kiến xong bước ra sắp hàng đứng hai bên trông rất nghiêm chỉnh.

Kim Vương giơ tay chỉ con thiết long để giữa giáo trường phán:

- Con thiết long này của tiên vương ta để lại, nó nặng hơn ngàn cân, hễ ai cử nổi thì được phong chức Xương Bình Vương Tảo Nam đại nguyên soái.

Lệnh vua vừa ban ra mọi người đổ xô vào lần lượt kẻ trước người sau quyết tranh cho kỳ được chức ấy. Nhưng ai nấy đã ráng hết hơi mà con thiết long vẫn không thấy nhúc nhích , chẳng khác nào thằn lằn xô cột đá.

Kim Vương thấy vậy nói:

- Xưa Hạng Võ bạt núi, Tử Tư cử đình. Nay nội nước ta chẳng có người nào cử nổi cái vật ngàn cân này sao?

Đang khi thất vọng bỗng thấy một người bước ra xin được cử. Người này mặt như than lửa, tóc tựa mây đen, mày rậm râu dài, miệng rộng mắt lồi, mình cao một trượng, lưng lớn ba vầng. Chẳng phải ai xa lạ mà chính là hoàng tử thứ tư của Kim Vương tên là Ngột Truật (cũng chính là Xích Tù Long ở thượng giới xuống phàm đầu thai vào vương gia Ô Cốt Đạt để nhiễu hại giang sơn nhà Tống)

Ngột Truật tâu lớn:

- Con có thể cử nổi con thiết long kia.

Kim Vương nghe tâu vùng nạt lớn:

- Quân đao phủ đâu? Hãy bắt nó đem chém đi cho ta.

Đao phủ tả hữu hai bên lập tức vâng lệnh bắt trói Ngột Truật lại.

Kim Vương đang cần tuyển kẻ tài ba mà con mình đứng ra xin cử nổi con thiết long đã không mừng lại còn truyền đem chém đi là tại làm sao? Ấy chì vì Ngột Truật là con vua Phiên mà hằng ngày cứ mơ tưởng bên Trung Nguyên, thậm chí khi vào trong cung cũng mặc y phục của người Trung Nguyên nên Kim Vương ghét cay ghét đắng, đang tức giận vì không thấy ai cử nổi thiết long lại thấy Ngột Truật ló mặt ra làm cho Kim Vương càng giận thêm nên mới truyền chém đi cho khuất mắt.

Quân sư Hấp Mê Xi thấy thế vội quỳ tâu:

- Hôm nay là ngày chọn tướng mà hoàng tử Ngột Truật đã xin được cử, sao chúa thượng không để cho hoàng tử trổ tài lại muốn chém đi là sao? Mong chúa thượng hãy nghĩ lại kẻo oan cho hoàng tử lắm.

Kim Vương dịu giọng nói:

- Quân sư chưa rõ chứ nội trong triều có bao nhiêu võ tướng cùng anh hùng khắp nơi mà không ai cử nổi, huống chi sức lựa của nó bao nhiêu mà dám cả gan đứng ra huênh hoang. Quân láo xược như vậy không chém đi để làm gì?

Hấp Mê Xi lại tâu:

- Phàm dùng người chớ nên xem tướng, chúa thượng cứ để cho hoàng tử cử thử xem. Như quả cử nổi thì phong làm Tảo Nam đại nguyên soái, sai đi chinh phạt Trung Nguyên. Nếu thu phục được nhà Tống thì phúc lớn của chúa thượng, bằng cử không nổi thì sẽ xử trảm cũng chẳng muộn.

Kim Vương gật đầu phán:

- Được rồi, trẫm sẽ vì khanh mà tạm tha cho nó nhưng nếu cử không nổi thì phải chém tức khắc để trị tội cuồng vọng ấy.

Phán rồi truyền quân mở trói cho Ngột Truật, sai đi cử thiết long.

Ngột Truật bước ra tạ ơn rồi ngước mặt lên trời vái thầm:

- "Nếu xét ra tôi không vào được Trung Nguyên và đoạt được giang sơn nhà Tống thì đừng cho tôi cử nổi thiết long và để cho tôi chịu chết chém".

Vái rồi tay phải vén cao, tay trái nắm cẳng con thiết long giơ lên nói lớn:

- Phụ vương, con giơ nổi thiết long đây này.

Kim Vương xem thấy cả mừng, các quan văn võ đều vỗ tay reo lên:

- Đệ tứ hoàng tử quả là thiên thần.

Ngột Truật nâng lên hạ xuống ba bốn lần rồi để con thiết long lại chỗ cũ, bước lên điện đợi lệnh.

Kim Vương liền phong Ngột Truật làm Xương Bình Vương Tảo Nam đại nguyên soái. Sau đó chọn thêm mấy phó nguyên soái để yểm trợ cho Ngột Truật rồi chọn ngày lành tháng tốt phát năm mươi vạn quân, làm lễ tế cờ, rầm rộ kéo xuống Trung Nguyên.

Đoàn quân Ngột Truật kéo đi, cờ xí đỏ rực trời, trống chiêng vang dậy đất. Đi bộ một tháng trời mới đến bờ cõi Trung Nguyên.

Ải thứ nhất của Trung Nguyên là Lộ An Châu, tướng giữ ải này là Lộ An Châu Tiết Đạt Sứ Lục Đăng, tự là Tử Kiến, biệt hiệu là Tiểu Gia Cát, phu nhận là Tạ Thị mới sinh được một con lên ba tuổi, binh sĩ trong thành ước hơn năm ngàn.

Lục Đăng là danh tướng của nhà Tống. Hôm ấy đang ngồi trong công đường bỗng có quân thám tử vào báo:

- Nay Đại Kim Quốc sai hoàng tử thứ tư là Hoàn Nhan Ngột Truật đem năm mươi vạn quân đến xâm phạm Lộ An Châu ta. Chúng còn cách thành chừng trăm dặm.

Lục Đăng nghe báo giật nẩy người lập tức thưởng cho tên thám tử một tấm ngân bài, sai hắn tiếp tục đi thám thính rồi sai quan kỳ bài ra ngoài thành truyền rao cho bá tánh phải lập tức đem hết gia quyến vào thành mà ở, còn nhà cửa thì phá sạch, hứa khi thái bình sẽ xuất tiền cất lại cho.

Lục Đăng tập trung hết các tướng sĩ leo lên bờ thành kiên trì cố thủ. Lại sai mua một ngàn cái chảo lớn và một ngàn cái thùng chứa đầy phân người, đoạn xây lò xung quanh bờ thành để nấu sôi nước phân ấy chờ cho quân địch đến dưới thành thì đổ phân sôi ấy xuống cho quân giặc tuột da mà chết.

Lục Đăng còn sai chặt hơn một nghìn cây tre để làm bẫy phòng khi địch có hãm thành ban đêm sẽ bị mắc bẫy. Ngoài ra Lục Đăng còn đem lưới có buộc vô số mắc câu thả xuống nước để đề phòng quân địch dùng đường thủy xông vào thành.

Sắp đặt đâu đó xong xuôi Lục Đăng thảo một đạo bổn chương, sai người mang về triều đình xin cầu cứu.

Khi người mang bổn chương đi rồi Lục Đăng lại nghĩ thầm:

- "Theo địa thế Lộ An Châu này quả là chỗ yết hầu, nếu viện binh đến trễ để cho thất thủ thì chắc chắn Biện Lương cũng khó giữ nổi".

Lục Đăng suy tới nghĩ lui ngồi đứng chẳng yên, bèn viết hai bức văn thư sai người mang một bức qua trao cho quan tổng binh là Hàn Thế Trung và một bức trao cho thái thú hà giang phủ là Trương Thúc Dạ để yêu cầu hai người này phát binh đến giúp. Rồi Lục Đăng thống lãnh quân đội ngày đêm canh phòng nghiêm ngặt.

Nói về ngột Truật dẫn binh kéo đến cuồn cuộn như sóng trào. Khi còn cách thành Lộ An Châu chừng năm chục dặm, truyền quân an dinh hạ trại.

Lục Đăng đứng trên thành xem thấy quân Phiên trùng trùng điệp điệp cờ xí ngợp trời, gươm giáo sáng lòa, tướng mạo đứa nào đứa nấy mặt mũi dữ dằn trông dễ khiếp. Thật quả là đoàn quân vô cùng lợi hại.

Các tướng đứng trên thành thấy thế cũng lấy làm lo ngại bèn đề nghị với chủ tướng:

- Quân Phiên vừa mới đến chưa kịp đề phòng, ta thừa dịp đánh phủ đầu một trận may ra phá được.

Lục Đăng lắc đầu bảo:

- Không được đâu giờ phút này quân Phiên đang rất mạnh lại rất hiếu chiến, chúng ta cần phải cố thủ chờ viện binh đến sẽ hay.

Tướng sĩ tuân lệnh lo cố thủ thành trì chờ quân cứu viện.

Ngột Truật an dinh hạ trại xong bèn gọi quân sư hỏi:

- Chẳng hay thành Lộ An Châu này do tướng nào trấn thủ?

Hấp Mê Xi đáp:

- Ải này do quan tiết đạt sứ Lục Đăng trấn giữ. Người này có biệt hiệu là tiểu Gia Cát, có tài dụng binh giỏi lắm.

Ngột Truật lại hỏi:

- Người này trung hay nịnh? Quân sư có biết rõ không?

Hấp Mê Xi đáp:

- Người này là tôi trung bậc nhất của nhà Tống.

Suy nghĩ hồi lâu Ngột Truận hỏi:

- Thế thì hay lắm, để ta kéo quân đến hội diện với y một phen xem sao.

Nói rồi kiểm điểm năm ngàn binh mã và dẫn quân ra trận, thổi kèn gióng trống kéo thẳng đến thành.

Lục Đăng xem thấy quân Phiên kéo đến liền dặn dò tướng sĩ gìn giữ thành trì rồi nai nịt chỉnh tề, mang thương lên ngựa phát pháo khai thành, thả cầu xuống dẫn binh ra trước trận xem xét.

Trông thấy Ngột Truật đầu đội kim khôi sáng ngời, trên đỉnh giắt hai chiếc lông trĩ rã ra hai bên, mình mặc áo bào cẩm tú, mang giáp long lân khảm vàng cưỡi con ngựa "Tiết hỏa long cu", tay cầm cây kim tước phủ, đường đường chẳng khác khai sơn lực sĩ.

Vừa trông thấy Lục Đăng, Ngột Truật lớn tiếng hỏi:

- Ngươi có phải là Lục Đăng không?

Lục Đăng đáp:

- Phải đấy, ngươi cũng biết ta sao?

Ngột Truật đứng nhìn sững đối phương, thấy Lục Đăng đầu đội đại hồng kiết đảnh xích hồng khôi, mình mang liên hồng tỏa tử hùng kim giáp, bên trái mang cung bên phải mang tên. Quả là anh hùng khí trượng, cái thế vô song bèn nghĩ thầm:

- "Nhân vật Trung Nguyên này quả là một trang tuấn kiệt ít ai bì".

Nghĩ rồi kêu Lục Đăng ôn tồn nói:

- Lục tướng công, nay ta cử năm mươi vạn quân quyết đánh Trung Nguyên thâu tóm thiên hạ. Lộ An Châu này là chốn tiền đồn của Trung Nguyên. Ta nghe danh tướng công là một tay hảo hán nên phải đến đây để tỏ đôi lời hơn thiệt. Nếu như tướng quân thuận qui hàng thì sẽ được phong vương vị, chẳng biết tướng quân nghĩ sao?

Lục Đăng "hứ" một tiếng rồi gằn giọng:

- Ngươi là kẻ nào mà dám nói với ta lời lẽ láo xược ấy?

Ngột Truật đáp:

- Ta là Đại Kim Quốc Tông Lãnh Điện Tiền, Xương Bình Vương Tảo Nam đại nguyên soái tên là Ngột Truật đây.

Lục Đăng quát lớn:

- Đừng nói bậy, từ xưa đến nay Bắc Nam có ranh giới rõ ràng, ai lo giữ bờ cõi nấy. Chúa ta nhân đức rải khắp xa gần, thấy chúng bay là loài mọi rợ chẳng nỡ ra binh, sao chúng bay không giữ đạo làm tôi lại vô cớ mang binh đến xâm phạm cõi bờ là nghĩa gì vậy?

Ngột Truật cười khẩy đáp:

- Tướng quân nghĩ như vậy là sai rồi. Đất đai, thiên hạ trên thế gian này không phải của riêng một ai cả, hễ ai có đức thì được. Nay hoàng đế nhà Tống vô đạo ghét bỏ người hiền, tin dùng đứa gian nịnh khiến cho trời hờn dân oán. Vì vậy Chúa ta dấy binh để cứu bá tánh trong lúc đảo điên thì quả là làm một điều nhân nghĩa. Tướng quân phải thức thời theo ý trời, thuận lòng dân mới khỏi mất chức lại được phong hầu, bằng chấp né không chịu thì cái thành nhỏ này giữ sao cho được? Nếu ta phá rồi thì vàng đá chẳng phân, lúc ấy ăn năn sao kịp?

Lục Đăng mặt đỏ phừng phừng chỉ vào mặt Ngột Truật nạt lớn:

- Quân mọi rợ kia đừng huênh hoang khoác lác, hãy xem cây thương của ta đây.

Vừa nói vừa vung thương đâm Ngột Truật, Ngột Truật cũng giơ búa ra đỡ , rồi hai người đánh vùi với nhau đến năm sáu hiệp. Lục Đăng ngăn đỡ không nổi, quay ngựa bỏ chạy vào thành gọi quân lính trên thành lấy súng bắn xuống. Ngột Truật không dám rượt theo. Trên thành thả cầu xuống đón Lục Đăng lên thành.

Vào thành Lục Đăng nói với chư tướng:

- Tên Ngột Truật ấy lợi hại thật, các ngươi phải hết lòng gìn giữ, chớ nên thờ ơ mà mang hại.

Ngột Truật vừa thu binh về dinh, Hấp Mê Xi hỏi:

- Lục Đăng thua chạy sao nguyên soái không đuổi theo bắt nó?

Ngột Truật đáp:

- Lục Đăng chạy ắt có mai phục, hơn nữa trên thành súng bắn xuống như mưa thì đuổi theo làm gì?

Quân sư Hấp Mê Xi gật đầu khen là có lý.

Hôm sau Ngột Truật nai nịt chỉnh tề đến bên thành khiêu chiến nhưng trên thành treo miễn chiến bài. Ngột Truật lớn tiếng nhục mạ vua tôi nhà Tống mà cửa thành vẫn đóng kín mít.

Cứ như thế cầm cự suốt nửa tháng trời, Ngột Truật trong lòng nóng như lửa đốt bèn sai Ô Quốc Long, Ô Quốc Hổ đốc thúc quân sĩ đóng nhiều thang rồi giao cho đệ tam nguyên soái là Kỳ Ôn Thiết Mộc Chơn dẫn năm ngàn quân tinh nhuệ đi tiên phong, còn Ngột Truật thì tự lãnh binh đi hậu tập kéo đến bên hào bắc cầu tràn qua, đoạn bắc thang lên vách thành thôi thúc quân sĩ leo lên hãm thành.

Nhưng lạ thay trên thành vẫn lặng im không có một tiếng động. Ngột Truật đoán chắc Lục Đăng đã bỏ thành trốn thoát mất rồi.

Còn đang suy nghĩ bỗng nghe tiếng súng nổ vang, nước phân sôi sùng sục đổ xuống ào ào. Bao nhiêu quân Phiên ngã lăn ra chết sạch, số thang ấy bị kéo hết lên thành.

Ngột Truật thấy thế biến sắc mặt hỏi quân sư Hấp Mê Xi:

- Tại sao quân sĩ ta đang rầm rộ leo lên thành lại ngã nhào xuống chết hết như vậy?

Hấp Mê Xi đáp:

- Lục Đăng nó dùng nước phân nấu sôi đổ xuống. Phương pháp này gọi là lạp chấp thiêm, hễ trúng nhằm một giọt cũng đủ chết.

Ngột Truật nghe nói thất kinh, vội đánh chiêng thu quân trở về dinh trại. Còn Lục Đăng thì sai cắt hết thủ cấp quân Phiên treo xung quanh thành để uy hiếp kẻ địch, đồng thời cho chặt hết thang của địch ra để làm củi đun nước phân.

Ngột Truật về dinh bàn bạc với quân sư:

- Ta hãm thành ban ngày, chúng dùng nước phân đổ, ta tấn công ban đêm xem hắn làm gì nào?

Đêm hôm ấy quân Ngột Truật lại lặng lẽ kéo đi phá thành. Trời tối như mực, đoàn quân bắc cầu vượt qua hào rồi bắc thang leo lên thành như trước. Ngột Truật không thấy trên thành có đèn đuốc chi hết, quân Phiên đẽ leo tuốt vào thành, Ngột Truật mừng lắm bảo quân sư:

- Phen này chắc lấy được Lộ An Châu rồi.

Vừa nói dứt lời, trên thành bỗng có tiếng súng nổ vang, đèn đuốc sáng trưng như ban ngày. Bao nhiêu quân Phiên tràn vào thành đều bị chém đầu quăng xuống thành.

Ngột Truật thấy vậy kinh hãi hỏi quân sư:

- Nó làm cách nào lại giết hết quân ta như vậy?

Hấp Mê Xi ngơ ngác:

- Thiệt tôi cũng không rõ như thế nào cả.

Nguyên trên thành có nhiều tre gài bẫy vụt, lại có đóng lưới cột đầy móc câu thành thử quân Phiên vì trời tối không thấy rõ bị tre gạt hết sa vào lưới nên quân trong thành bắt giết hết.

Ngột Truật nhìn số đầu người lăn lông lốc liền khóc rống lên đau đớn vô cùng, các tướng phải khuyên giải hồi lâu Ngột Truật mới trở về dinh.

Ngồi trong dinh trại, Ngột Truật chống cằm suy nghĩ:

- Chỉ có một cái thành nhỏ này mà đánh phá bốn mươi ngày không được, lại hao binh tổn thương rất nhiều thì biết bao giờ thôn tính được Trung Nguyên?

Ngột Truật buồn rầu khôn xiết, Hấp Mê Xi thấy vậy khuyên Ngột Truật đi săn bắn giải buồn. Ngột Truật nghe lời đem một số quân sĩ vào rừng đuổi hươu nai, bỗng thấy xa xa có một người đang hớt hải chui vào rừng trốn.

Hấp Mê Xi nói với Ngột Truật:

- Trong rừng này có gian tế.

Ngột Truật vội sai quân đi bắt, chỉ mấy phút sau quân đã bắt đến một người. Ngột Truật quát hỏi:

- Ngươi là gian tế ở đâu hãy khai mau, bằng cố tình giấu giếm ta sẽ giết chết.

Người ấy phủ phục xuống van lạy:

- Tôi quả thiệt là một thương nhân hôm qua ra ngoài thành mua hàng hóa, lúc về thấy binh của đại vương đóng tại đây nên sợ hãi đem hàng hóa gửi nơi khác rồi trốn ở ngoại thành. Nay nghe được tin đại vương nghiêm ngặt cấm không cho binh lính động đến của dân một mảy may nên tôi đánh bạo đi lấy hàng hóa về, qua đây sợ hãi trốn tránh mà không kịp nên bị bắt, xin đại vương tha tội.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro