Nhân Tướng Học

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

12 CUNG TRONG TƯỚNG HỌC

Về phươngg diện mạng vận từ đời nhà Tống trở đi, các sách tướng có lẻ chịu ảnh hưởng của khoa mạng số nên đã chia khuôn mặt thành 12 cung. Mỗi cung tượng trưng cho một lãnh vực của mạng vận phân phối như sau:

1. CUNG MẠNG:(h9)

Vị trí của nó là khu vực Ấn đường. Ý nghĩa chính của nó là niềm khát vọng tiềm ẩn có thể thựuc hiện đựoc khát vọng đó.

Tuy nhiên trong phép xem tướng, một bộ vị không đủ để quyết đoán, nên phải dựa vào các bộ vị lân cận. Do đó tổng hợp các kiến giải cổ nhân cung Mạng và bộ vị lân cận giúp ta biết được một số yếu tố sau đây:

- Nếu Ấn đường tươi sáng thì kẻ đó có số học vấn, tư chất thông tuệ .

- Phụ hạ với Ấn đường tươi sáng là cặp mắt sáng sủa hắc bạch phân minh thì dễ giàu sang.

- Vẫn với Ấn đường tươi sáng, khu vực trán cũng tốt trong thế phối hợp đắc cách dễ được phú quý song toàn . Ngược lại nếu ấn đường và trán đều thấp, trũng tì kẻ đó khó tránh được cảnh nghèo khổ. Trán vừa có vằn khôgn ra hình dạng nào cả, vừa hẹp lại thêm sợi mày khô vàng là tướng khắc vợ, phải sống xa nơi chôn rau cắt rốn.

2. CUNG QUANG LỘC (h.9/2)

Vị trí của cung Quan lộc nằm ngay ở trung tâm điểm của trán. Bộ vị này có biệt danh là Chính Trung. Ý nghĩa chính của cung Quan lộc là cho phép phỏng đoán địa vị, chức nghiệp của cá nhân trong xã hội .

Thời xưa, trong một xả hội quân chủ trọng chức tước, người ta cho kẻ ra làm quan mới thật sự là kẻ có địa vị trong xã hội, nên được hưởng bỏng lộc. Quan lộc là bổng lộc do địa vị xã hội đem lại. Những kẻ làm quan thời xưa phần đông đều có Chính Trung sáng sủa, đầy đặn và rộng .

Theo quan niệm trên, các sách tướng học cổ điển như Ma Y tưứng pháp, Thủy kinh tập, Thần tướng toàn biên đều nhất loạt cho rằng kẻ có Chính Trung sáng sủa tốt đẹp phối hợp với toàn thể trán rộng rãi, Sơn căn cao rộng thì suốt đời làm quan không bao giờ bị rắc rối, trắc trở đến mức phải "đáo tụng đình "Nếu khu vực Chính Trung khuyết hãm, trán hẹp, nếp nhăn của trán hỗn loạn thì hoạn lộ thường hay bắt trắc. Nếu mắt lại tự nhiên không vì bệnh tật mà có những tia máu lan khắp lòng trắng khiến người ngoài có cảm tưởng kà mắt đỏ thì gần như chắc chắn là kẻ đó không chết thảm thì cũng bị tù đầy vì khoan hoạn

Mấy năn gần đây, chịu ảnh hưởng của Nhật -Bản, Một số tác giả đã tìm cách giải thích ý nghĩa của cung Quan Lộc theo đường lối tâm lý học. Hai nhà tướng học đương thời là Tô Lãng Thiên và Kiến Nông Cư Sĩ căn cứ vào các tiến bộ của ngành cốt tướng học cho rằng phần Chính Trung nẩy nở là dấu hiệu bề ngoài của kẻ có tâm hồn thông minh, cao ngạo, thích có địa vị bằng cách nổ lực chứng minh tài ba của mình cho mọi người thấy. Hạng người đó dễ dàng thành công và thành danh trên đường mưu cầu công danh, nhất là thời xưa ,

Sự tuyển lựa quan lại dựa vào tài năng và đức độ thực sự của chính cá nhân đó như vua Nghiêu chọn ông Thuấn, vua Thuấn chọn ông Vũ vậy .

Phần trung ương của trán không đặc biệt nổi rõ và đẹp nhưng không bị thấp, lõm hoặc tì vết thì cũng có thể xếp vào loại cát tướng. Nếu như cung Quan lộc hẹp ,thấp, có tì vết tự nhiên thì tâm hồn vốn đã không có ý tưởng phấn đấu, ý chí bạc nhược nên khó có thể thành đạt được mộng công danh. Do đó, cổ tướng học đã có lý khi nói rằng Trung Chính khuyết hãm thì Quan lộc chẳng ra gì

3.-CUNG TÀI BẠCH

Toàn thể các bộ vị của Mũi đều được coi như là thuộc cung Tài bạch. Ý nghĩa chung của cung Tài bạch tiền bạc của cải. Theo quan niệm xưa, Mũi tượng trưng cho Thổ Tinh, mà Thổ là đất, nguồn gốc của tài nguyên nên Mũi mới đươc xem là Tài bạch. Tuy vậy, điều này chỉ áp dụng cho nam giới mà thôi. Đối với nữ giới, Mũi là Phu Tinh. xem tướng mũi đàn bà, ngoài một số ý nghĩa khác, người ta còn có thể đoán được của người chồng đương sự nữa .

Ở đây riêng về mặt tài vận, nếu mũi thuộc loại Tiêm -đồng- ty, Huyền- đảm- ty phù hợp thích đáng với Trung chính ngay ngắn. Sáng sủa không khuyết hãm thì có thể đoán là giàu có vĩnh viễn, không bao giờ nghèo khổ. Ngược lại nếu mũi thuộc loại chim ưng, thấp gầy hoặc nhỏ, nhọn, lỗ mũi hếch (ngưỡng-thiên-khổng) thì tài vận khốn quẫn, của cải không bao giờ giữ được.

4.CUNG ĐIỀN TRẠCH :

Việc xác định vị trí của cung Điền trạch hiện nay là có hai thuyết:

a. Thuyết thứ nhất: Các sách tướng cổ như Sử quảng hải, Ma Y tướng pháp, Thần tướng toàn biên, Thủy kính tập và gần đây là tào Trấn Hải, tác giả cuốn Mạng tướng giảng tọa, cho rằng vị trí của

Cung Điền trạch là cặp Mắt . Kẻ mắt mờ, khô và không có nhiều tia máu không mong gì có ruộng vườn hoặc có thừa kế được di sản thì củng phá tán cho kỳ hết, về già tay không. Nếu cặp mắt đen lấy, lồng đen, lồng trắng phân minh ( ví dụ như mắt phượng), lông mày cao dễ có số được hưởng di sản hoặc dễ tậu ruộng vườn. Mắt lớn và lộ dễ khuynh gia bại sản.

b. Thuyết thứ hai: Một số tác giả hiện tại như Tô Lãng Thiên trong sách Nhân tướng học đồ giải và Khuyết Nông Cư Si trong sách quan nhân thuộc loại cho rằng vị trí đích thực của cung Điền trạch là khoảng từ bờ trên cặp mắt tới bia dưới của cặp chân mày. Sự tốt xấu của cung Điền trạch biến thiên đồng chiều với sự tốt xấu của khu vực kể trên. Kẻ có Cung Điền trạch rộng rãi, sáng sủa là có rất nhiều triển vọng được hưởng di sản của tiền nhân.Trái lại, khu vực của Cung Điền trạch hẹp thì kẻ đó nếu có ruộng vườn là chính công lao của đương sự chứ không có mấy triển vọng trở thành điền chủ nhờ phúc ấm hoặc tặng giữ của tha nhân.

Riêng Kiến Nông Cư Sỉ còn viết thêm rằng khu vực cung Điền trạch còn cho ta biết được một phần cá tính con người nữa. Khu vực này cao rộng thì kẻ đó có tư tưởng bảo thủ, không ưa thích các sự thay đổi sâu rộng trong nếp sống hoặc tập quán. Khu vực này hẹp thì trái lại, nghĩa là kẻ đó tính nóng, thích tranh cải, không ưa gò bó trong khuôn sáo cổ truyền. Do đó, đại đa số những kẻ như vậy đều có óc cấp tiến, không nệ cổ.

5. CUNG HUYNH ĐỆ

Vị trí đích thực của cung huynh đệ là cặp lông mày. ý nghĩa chính của cung này là sự tương quan gia vận giữa anh em. Ngoài ra theo các sach cổ như Ma Y, Thủy kính tập v.v... Còn có thể đoán định được số anh em trai nữa.

Lông mày thanh nghĩa là sợi không lớn, không nhỏ khoảng cách đúng tiêu chuẩn (xem phần lông mày) và dài hơn mắt thì anh em hòa thuận. Lông mày đẹp và mịn, tình nghĩa anh em đậm đà và thấm thía, lông mày giống mặt trăng non thì trong số anh em có người nổi tiếng với đời. Ngược lại, nếu lông mày thô, chiều dài quá ngắn là điềm anh em ly tán. Sợi lông mày thô mịn xen kẽ nhau hoặc đuôi lông mày phải và trái cao thấp, dài ngắn khác nhau là kẻ có anh dị nghị. Sợi lông mày ở hai đầu lông mày giao nhau và sắc lại vàng, thưa thớt và ngắn là số có anh em hoặc chính bản thân chết ở xa nhà. sợi lông mày mọc ngược lên và xoắn nhau là số anh em bất hòa.

Riêng về quan điểm cho là căn cứ vào lông mày mà biết được số anh em trai, gái (thuở xưa , theo quan điểm" Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" chỉ có con trai mới đáng kể), sách Ma Y tướng pháp toàn thư có ghi lại rất đầy đủ và phân biệt ra từng loại lông mày nhưng theo kinh nghiệm hiện tại lý thuyết này không xác thật, nên soạn giả không ghi vào đây.

Tướng củng phải nói thêm là xem Tướng lông mày chỉ quan sát riêng cặp lông mày là đủ, cần phải đặt lông mày vào toàn thể các bộ vị của khuôn mặt trong thế hô-ứng liên- hoàn nhưu tác giả Tôn Đăng đã đề cặp (xem phần phụ luận ở đoạn nói riêng về lông mày trong website này)

6. CUNG TỬ TỨC (h.9/3)

Vị trí của cung tử tức là khu vực nằm ngay phía dưới mắt gọi là lệ đường. Cách cấu tạo và màu sắc cho biết một cách khái quát về sự ràng buột giữa đương sự và con cái thấm thiết hay lõng lẻo phần nào hậu vận của con cái triển vọng có con hay tuyệt tự.

Về mặt liên hệ đến mạng vận của con cái, nếu Lệ đường đầy đủ, tươi hồng thì con cái được thừa hưởng phúc lộc tự nhiên, có cơ hội làm vinh hiển tổ tông. Trái lại lệ đường mà sâu hỏm, màu sắc thô sạm là biểu hiện con cái không ra gì, cha cọp sinh con chó. Nếu Lệ đường mà sâu hỏm, khí sắc lại có các vết sẹo hoặc bị tật bẩm sinh là số tuyệt tự hoặc có con thì khi già cũng thành cô đơn.

Một vài tác giả cổ điển còn đi xa hơn nữa là phân biệt lệ đường bên phải ứng với con gái, bên trái ứng với con trai, muốn biết một cách khá chính sát phải xem tướng luôn cả khu vực lệ đường của người vợ nữa.

7.- CUNG NÔ BỘC (h.9/4)

Vị trí đích thực của cung Nô Bộc là khu vực Địa các, nhưng trong thực tế nó bao gồm phần lớn Hạ đình, từ khóe miệng xuống đến tận cằm. Ý nghĩa tổng quát của cung Nô bộc là sự hỗ trợ giữa cá nhân với các người quen biết hoặc giúp việc .

Khu vực Địa các đầy đặn cân xứng là số có nhiều người quen biết có tài năng giúp đỡ, đối với tha nhân, đương số là kẻ có uy lực và có khả năng điều động người khác. Khu vực Địa các lệch hãm, nhỏ, nhọn là kẻ có số hay bị tiểu nhân ghen ghét ,kẻ giúp việt không hết lòng, có giúp người tận tình thì trung cuộc cũng mang lấy sự oán trách. Nếu khu vực Địa các có vết hằn, nứt tự nhiên là số có kẻ giúp việt hay thuộc cấp không ra gì, dễ dàng trở mặt đối với mình .

8.- CUNG THÊ THIẾP (h.9/5)

Cung Thê Thiếp ở về phía hai đuôi mắt, khu vực này có tên riêng là Gian môn Cung Thê Thiếp cho ta biết sơ qua về sự liên hệ vợ chồng, sự hạnh phúc trong vấn đề lứa đôi và tình duyên sớm muộn ....

Gian môn đầy đặn và không bị các vạch ngang dọc làm thành khuyết hãm là kẻ thân thể khang kiện, tình dục mạnh mẽ, cho nên trong đời sống vợ chồng dễ có hạnh phúc vật chất. Nếu bộ vị đó quá nẩy nở, bất kể trai hay gái thì vì tình dục quá mạnh khiến kẻ phối ngẫu trung bình khó có thể thỏa mãn được nhu cầu tình dục. Trái lại khu vực Gian Môn quá thấp hoặc hõm (tương đối so với sự mập hay gầy của toàn thể khuôn mặt)thì kẻ đó có tính dăm dục ngấm ngầm .

9.-CUNG TẬT ÁCH (h.9/6)

Nằm ở khu vực sống mũi (bao gồm Sơn căn, Niên Thượng, Thọ thượng) cung Tật ách cho ta biết khái quát về sự khỏe mạnh hay suy kém của đương sự .

Nếu khu vực Sơn căn cao và hai bộ vị kế tiếp ngay ngắn, nẩy nở và thẳng xuôi đó là biểu hiện của kẻ được trời phú có sức chịu đựng bệnh tật, rất dẻo dai, có thể bị lâm nguy, nhưng không chết vì bạo bệnh. hơn nữa kẻ đó ít bị bệnh tật .

Khu vực sống mũi thấp, lệch, dễ bị bệnh và nếu kiêm thêm cả các vết hằn tự nhiên thì có thể quyết đoán là quanh năm bệnh tật liên miên, khó có thể trường thọ. Nếu tự nhiên khu vực cung Tật ách bị xạm đen thì đó là điềm báo trước bị trọng bệnh. Nếu các bộ vị quan trọng khác như Ấn đường, lông mày, cặp mắt đều ám đen thì có thể chết vì bạo bệnh trong một tương lai gần.

10. CUNG THIÊN DI (h.9/7)

Vị trí của cung Thiên Di ở hai bên phía trên của góc trán ) trong thuật ngữ của nhân tướng học, khu vực này được gọi là dịch mã). Ý nghĩa chính của cung thiên Di là sự di chuyển, giao tiếp với các tha nhân không phải là thân quyên của mình. tuy nói góc trán phía trên

nhưng cả khu vực lân cận cũng đều được coi trọng. Nếu khu vực Dịch mã và kế phía dưới đó là Thiên thương đầy đặn, cân xứng và sáng sủa thì đi xa làm ăn có lợi, được ngoại nhân giúp đỡ. Nếu khu vực Ngư vĩ (đuôi mắt) tươi đẹp thì đến già vẫn có triển vọng ngao du xa nhà một cách hanh thông. Nếu khu vực dịch mã lõm, lệch thì suốt đời đi xa chỉ chuốt lấy thất bại, người ngoài hờ hững. Nếu bộ phận trán và địa các lệch lạc, không cân xứng thì do ở chổ ngay từ căn bản Dịch mã bị mất thăng bằng, nên kẻ đó suốt đời long đong, không yên chổ.

II. CUNG PHÚC ĐỨC:

Hiện nay theo chổ hiểu biết của soạn gỉa thì có hai thuyết trái ngược về cả vị trí lẫn ý nghĩa.

a. Thuyết thứ nhất: Được các sách cổ điển về tướng học như Ma Y thần tướng toàn biên, Thủy kinh tập và gần đây như Nghiên Nông Cư Sĩ trong sách Quan nhân tử vi của cung phúc đức nằm ở hai bên má chạy dài từ thiên thương xuống đén tận cùng của khuôn mặt.

Về ý nghĩa, cung Phúc đức cho phép dự đoán hy vọng về công danh, phú quý (do các bộ vị khác thể hiện) có thể có nhiều xác suất thành tựu trong thực tế hay không . căn cứ vào kinh nghiệm của cổ nhân thì nếu các cung khác tốt mà cung phúc đức xấu thì sự thành tựu thực tế của cá nhân dó bị suy giảm hẳn hoặc mất đi. Ngược lại nếu Cung Phúc đức tốt, các cung kia xấu thì sự xấu đó có thể nguy hại rất nhiều.

Đại khái là cung Phúc đức đầy đặn, cân xứng (trong ý nghĩa là cả hai bên phải , trái không mất quân bình quá rõ rệt), khí sắc tươi tắn thì chủ về phú quý dễ thành. Cằm tròn, trán hẹp, thuở thiếu niên gặp nhiều vất vả, trán rộng tốt mà cằm nhọn hẹp thì về giá lận đận. Nếu các bộ vị chủ về các cung khác không mấy tốt đẹp, nhưng cũng không xấu lắm mà được mày cao, mắt sáng thì vận số bình thường. Trái lại, vẫn trường hợp trên mà chân lông mày ăn lan xuống tận bờ mắt, tai có luân quách đảo ngược vị trí mà không thuộc loại Hỏa hình nhân thì đối với kẻ đó chẳng nên đề cặp đến chuyện phúc đức làm gì vô ích.

b)Thuyết thứ hai: Thuyết này mới được đưa ra trong mấy năm nay do hai nhà tướng học hiện tại là Tô Lãng Thiên và Kiến Nông Cư Sĩ chủ xướng. Theo hai vị trên. vị trí của cung Phúc đức nằm ở phía trên phần cuối của cặp lông mày, giới hạn phía dưới là chân mày, phía trên vào khoảng trên dưới một phần tay. Ý nghĩa chính của nó là cho phép ta đón được sự may rủi có tính cách bất định của tài vận (tùy theo sự thay đổi của cách cấu tạo và khí sắc của khu vực trên, thời gian dự đón có thể lâu hay mau trước khi sự kiện xảy ra (h.9/8)

Bộ phận kể trên có thịt, sắc thái thanh khiết được coi là điểm tốt cho việc mưu cầu tài lộc. Ngược lại, có thể nói kẻ đó ít hy vọng giàu có. Bộ phận chỉ vị trí cung phúc đức bị vằn hoặc sẹo tự nhiên hoặc nốt rùi thì phải giải thích là rủi nhiều hơn may trong khi phối hợp với các cung khác để luận đoán các hung

12. CUNG TƯỚNG MẠO :

Vị trí là toàn bộ khuôn mặt bao gồm tất cả mọi bộ vị, toàn thể các cung phối hợp lại. Về điểm này, Cung tướng mạo cho ta một khái niệm khái quát về những nét trội yếu nhất của một cá nhân và tùy theo điểm trội yếu đó liên quan tới cung nào trong số 11 cung kể trên, ta sẽ biết được chiều hướng chính về mạng vận của kẻ đó sẽ đi về đâu và theo duổi hoạt động nào thì khả dĩ có nhiều triển vọng thành tựu nhất. Trở về các nguyên tắc căn bản của phép xem tướng (coi phần: 10 nguyên tắc căn bản cổ điển của phép xem tướng). Nhưng ở đây xét riêng về mặt các cung chúng ta chỉ cần định sự phối hợp Tam đình, Ngũ nhạc, Ngũ quan có cân xứng không mà thôi.

Riêng về phần Phụ Mẫu, tướng học không xếp chung một cung. Muốn biết về cha mẹ sách Ma Y tướng pháp toàn thư khuyên ta nên quan sát phần Nhật và Nguyệt giác "Hai khu vực này cao nổi, sáng một cách thanh khiết tự nhiên thì cha mẹ trường thọ, khỏe mạnh. Ngược lại cha mẹ thường hay đau yếu (hoặc mất sớm nếu thấp hãm và có ám khí tự nhiên và kéo dài từ lúc sơ sinh ). Nhật giác mà thấp hơn Nguyệt giác thì cha mất trước mẹ. Trường hợp ngược lại thì mẹ mất trước cha. Ngoài hai vị giác ra cần phải quan sát cả vị thế cân xứng của hai lông mày nữa (vẫn theo nguên tắc: lông mày trái chỉ cha, lông mày phải chỉ mẹ) cả hai cùng một chiều hướng ý nghĩa với hai giác. chỉ khi nào hai lông mày và hai khu vực Nhật và Nguyệt giác phù hợp nhau, sự dự đoán mới tạm gọi là chính xác trong phạm vi của cung phụ mẫu. Hơn nữa, việc dự đoán các hung của cha mẹ cũng phải đạt trong phạm vi tổng quát của cung Phúc đức và nhất là cung tướng mạo .

* Nhật giác là góc trán bên trái phía trên, Nguyệt giác là góc trán bên phải. Đôi khi người ta còn gọi Nhật giác là Tả giác . Nguyệt giác là Hữu giác.

NHÂN TƯỚNG HỌC

Tướng tuỳ tâm sinh - Tướng tuỳ tâm diệt, tướng tốt xấu là ở cái tâm con người!

PHẦN THỨ NHẤT

CÁC NÉT TƯỚNG TRONG NHÂN TƯỚNG HỌC

Chương thứ nhất

TỔNG QUÁT VỀ KHUÔN MẶT

Nguyên tắt coi tướng khuôn mặt trước tiên là phải quan sát một cách tổng quát để có ý niệm sơ khởi về sự cân xứng chung về hình thể rồi sau đó mới đi sau vào chi tiết của từng nét tướng khác nhỏ hơn. Thông thường, người ta thường gặp các danh xưng tổng quát sau đây khi đề cập đến tướng khuôn mặt.

Tam Đình

Ngũ Nhạc

Lục Phủ

Tứ Đậu

Ngũ Quan

Quan sát Tam Đình, Ngũ Nhạc, Lục Phủ ta biết được một cách khái quát sự phối trí của khuôn mặt có cân xứng, thích đáng hay không. Tứ Đậu, Ngũ Quan sẽ giúp ta biết rõ từng nét tướng lồng trong khung cảnh chung của khuôn mặt. Sau đó muốn chi tiết hơn nữa ta thêm vào từng nét tướng để phân qua trọng (tất cả các nét được nói trên gọi là bộ vị trọng yếu )

Muốn biết về những biến cố xảy ra cho cuộc đời của một cá nhân liên quan đến nhiều lĩnh vực sinh hoạt : tật bệnh, tài lộc, anh em, vợ con v.v..ta dựa vào một số bộ vị (hoặc riêng rẽ, hoặc liên kết một số bộ vị ) đặc biệt gọi riêng là các cung .

Vì Ngũ Quan có vai trò cực kỳ trọng yếu trong tướng học, nên sau khi khảo sát sơ lược, ta cần đi sau vào từng chi tiết đặc thù, nên phần đó được tách thành 5 chương riêng. Do đó chương này đặc trọng tâm vào việc giới thiêu tổng quát về toàn thể khuôn mặt xuyên qua các tiết mục sau đây:

TAM ĐÌNH

1- VỊ TRÍ CỦA TAM ĐÌNH

Tướng học Á Đông chia khuôn mặt thành 3 phần : Thượng Đình, Trung Đình và Hạ Đình.

Thượng Đình: Từ chân tóc đến khoảng giữ 2 đầu lông mày. Trong các bộ vị của Thượng đình quan trọng nhất là Trán.

Trung Đình : từ khoảng giữa 2 đầu lông mày đến dưới 2 cánh mũi. Các bộ phận quan trọng của Trung Đình là: Mũi, cặp Mắt , Lưỡng Quyền , 2 tai và 2 Lông Mày. Nhưng trong các sách tướng, người ta trú trọng nhiều nhất là bộ phận trung ương là Mũi.

Hạ Đình : Phần còn lại của khuôn mặt tức là phần từ phía dưới 2 cánh mũi đến cằm.

2- Ý NGHĨA CỦA TAM ĐÌNH

Tam Đình có 2 ý nghĩa tổng quát về vận mạng và về khả năng.

a. Về mặt mạng vận:

Theo quan niệm siêu hình của người xưa thì tam đình tượng trưng cho tam tài( 3 thể trọng yếu nhất trong vạn vật) là THIÊN, ĐỊA, NHÂN

Trán thuôc Thiên Đình, tượng trưng cho Trời, trời càng cao, rộng, tươi càng tốt cho nên người ta lấy sự kiện trán cao, rộng và tươi làm quí. Nói chung phần đông kẻ nào có 3 điều kiện này thuộc loại quí tướng, sơ vận suông sẻ .

Bộ vị quan trọng nhất của Trung Đình là Mũi , tượng trưng cho Người. Cơ cấu con người có rộng, dài và cân xứng ,mới tốt, nên mũi cần phải ngay thẳng hoặc tròn trịa, và phải đều đặn cân xứng.

Kẻ hội đủ điều kiện trên được gọi là " hữu nhân giả thọ"có triển vọng sống lâu trung vận gặp nhiều hanh thôgn hơn người thường .

Cuối cùng là phần Hạ Đình tượng trưng cho Đất và bộ vị quan trọng nhất là cằm. Vì đất cần phải đầy đặn, vuông vứt mới tốt nên quan niệm cổ điển đòi hỏi, cằm phải vuông, đầy, chủ về hậu vận sung túc.

Nói chung, trong quan điểm tướng học Á - Đông, Thượng Đình dài mà nẩy nở hoặc vuông mà rộng là triệu chứng quí hiển ; Trung Đình mà ngay thẳng , cao ráo và dáng vẻ thanh tú về trường thọ ; Hạ Đình bằng phẳng đầy đặn không lệch lạc nhất là vuông vứt là điềm báo trước sẽ được hưởng vận số tốt lúc về già.

Nếu Thượng Đình nhọn hẹp hoặc khuyết hãm thì hay bị tai họa , khắc cha mẹ hoặc tính nết ti tiện. Trung Đình mà ngắn hoặc bị lệch, hãm thường là kẻ bất nhân bất nghĩa, kiến thức nông cạn hẹp hòi đồng thời cũng là dấu hiệu hậu vận hao tốn , lênh đênh. Hạ đình dài nhưng hẹp hoặc nhọn hay thiếu bề dày thì điền trạch khiếm khuyết, tuổi già cực khổ .

Nếu Tam Đình cân xứng thì có thể nói tướng mạo của kẻ thượng đẳng. Cho nên tướng thư có nói "Tam đình bình ổn, nhất sinh y thực vô khuy" ngiã là 3 phần của khuôn mặt mà được tương xứng đều hợp, không bị khuyết hãm thì cả đời không phải lo đến cơm áo .

b. Về mặt khả năng:

Một số tướng gia khác, nhất là những người thuộc học phái Nhật Bản không mấy chú trọng đến ý nghĩa vận mạng của Tam Đình mà chỉ căn cứ vào cốt tướng học để tìm khả năng con người. Theo nhận định của họ thì:

- Thượng Đình: biểu dương cho trí lực

- Trung Đình : biểu dương cho khí lực

- Hạ Đình : biểu dương cho hoạt lực

Khi tiền não bộ của con người phát triển, óc làm việc nhiều nên Thượng Đình nẩy nở tạo ra vầng trán rộng và cao.

Khi trung não diệp phát triển rõ rệt và lấn áp các bộ phận khác của não thì Trung Đình nẩy nở rõ rệt nhất: Sự tăng trưởng của trí tuệ nhường chổ quyết định cho sự vận dụng của bắp thịt.

Ngược lại khi não bộ phát triển độc dị thì hạ đình cũng phát triển qua mức và gây ra cảnh Hạ Đình vừa dài vừa rộng lấn lướt các phần kia.

Nếu cả 3 phần đều phát triển cân phân theo thuật ngữ "Tam đình bình ổn " thì con người sẽ quân bình về cả 3 mặt trí lực, động lực và hoạt lực : con người sẽ có nhiều triển vọng thành công về bất cứ lãnh vực gì trong việc mưu sinh hằng ngày. Do đó, cổ tướng học đã rất có lý khi nhận định rằng người có tam đình bình ổn không phải khốn đốn vì cơm ăn áo mặc.

Theo nhà tướng học Tô Lãng Thiên, thượng đình biểu thị vận tiên thiên . Trung đình giúp ta quan sát các trạng thái hoạt động hậu thiên . Còn Hạ đình giúp ta trắc định kết quả khả hữu của các hoạt động của con người( thành hay bại, xấu hay tốt v.v...). Tóm lại :

Thượng đình cho biết những dữ kiện thiên phú của con người như trí thức, nghệ thuật , cảm xúc, tinh thần v.v...Nếu trán cao rộng kẻ đó được hưởng sự may mắn tiên thiên, tức là khỏi phải nhọc công sáng tạo . Nếu trán lũng hoặc lệch, hãm là triệu chứng tiên thiên cho biết thời gian ấu thơ bị khốn quẫn về một hay nhiều lãnh vực nào đó, phần trí lực xúc kém .

Trung đình biểu thị cho sự phấn đấu của con người từ thưở thanh niên , có trí khôn đầy đủ tương đối. Phần đáng lưu ý nhất là mũi và lưỡng quyền. Theo tác giả Tô Lãng Thiên , khu vực mũi và lưỡng quyền, ngoài ý nghĩa tiền của, vật chất còn cho ta biết tài năng tháo vác của con người trong cuộc vật lộn để mưu sinh. Nếu Trung đình đầy đặn, cân xứng, mũi thẳng, chép mũi tròn, 2 cánh mũi có thế thì tuy thiên đình bị lồi lõm sơ vận linh dinh cực khổ nhưng nhờ nổ lực cá nhân bổ cứu mà cuối cùng trung vận có thể phấn chấn lên được.

Tóm lại khu vực Trung đình phát triển tốt đẹp có thể bổ túc cho khiếm khuyết trí tuệ tiên thiên. Nhờ sự quan sát khu vực Trung Đình, ta đoán được phần nhận định đối với việc xoay xở định mạng

Hạ định là kết quả tổng hợp của Thượng đình và Trung đình. Việc quan sát khu vực Hạ đình giúp ta có thể đoán được kết quả của việc vận dụng trí tuệ và nổ lực cá nhân.

Hạ đình bao gồm Thực - thương, Lộc - thương, Pháp - lệnh, Cằm và nhân trung biểu thị sự cố gắng lúc tuổi già. Nói rõ hơn thì Lưỡng - Thương bao hàm sự thu nhập , cằm cho biết ảnh hưởng của sự sinh hoạt xã hội đã ảnh hưởng và tạo thành kết quả nơi cá nhân đó ra sao.

Trong lúc xem tướng phải nhìn toàn bộ khu vực Hạ đình để tìm sự nhất quán . Sự phong mãn phải nhất quán thì mới chắc chắn là phúc tướng . Nếu chỉ có hậu não bộ phát triển mà khu vực hạ đình không tương xứng , thì đó chỉ là ước vọng của vật chất khôgn bao giờ thực hiện được. Ngược lại, hậu não bộ không mấy phát triển mà hạ đình sung mãn thì kết quả thực tiễn do nổ lực cá nhân đem lại vượt quá ranh giới của tiên thiên và chứng tỏ sự thành công của cá nhân đó phần lớn là do nổ lực nhân sự mà có, sự may mắn hoặc giúp đỡ của tha nhân đối với hạn tướng này không đóng vai trò đáng kể.

Nhất quán là từ trên xuống dưới, từ trái qua phải đều vững chắc, không lệch lạc

NGŨ NHẠC

1. VỊ TRÍ CỦA NGŨ NHẠC

Ngũ nhạc là 5 dãy núi lớn trong địa lý học cổ điển Trung - Hoa. Người Tàu có thói quen so sánh mặt người với mặt đất của Trung nguyên nên đã địa lý hóa các bộ vị nổi bật nhất của khuôn mặt thành 5 danh hiệu của 5 dãy núi chính để rồi căn cứ vào hình dág , vị thế liên hoàn của chúng mà đán tương lai, quá khứ của con người .

- Trán tượng trưng cho dãy núi phía nam nên gọi là nam nhạc (tên riêng là Hoành Sơn)

- Cằm tượng trưng cho dãy núi phía bắc nên gọi là Bắc nhạc (tên riêng là Hằng Sơn)

- Quyền trái tượng trưng cho dãy núi phía Đông nên gọi là Đông nhạc (tên riêng là Thái Sơn)

- Quyền phải tượng trưng cho dãy núi phía Tây nên gọi là Tây nhạc ( tên riêng là Hoa Sơn)

- Mũi tượng trưng cho dãy núi chính ở trung ương nên mệnh danh là Trung nhạc (tên riêng là Tung Sơn).

ĐIỀU KIỆN ĐẮC DỤNG CỦA NGŨ NHẠC

Điều kiện tối thiểu của ngũ nhạc là phải có sự TRIỀU CỦNG (đôi khi gọi là TRIỀU QUI) nghĩa là quần tụ theo một thế ỷ dốc liên hoàn , qui về một điểm quan trọng nhất. Theo quan niệm của khoa địa lý phong thủy Á- Đông, sự triều củng khiến cho long mạch (nguyên khí tinh hoa của tạo hóa trong một khu vực nào đó ) có thể phát huy được tất cả uy lực tốt đẹp. Trong Ngũ nhạc , Tung nhạc là chủ yếu, là trung tâm điểm của cả hệ thống nên khí thế của nó phải bao trùm tất cả các nhạc khác . Theo sự qui định của tướng thuật, mũi là trung tâm của khuôn mặt, lại tượng trưng cho phần nhân sự Trong Tam tài nên được gọi là long mạch .

Về phương diện xem tướng, ngũ nhạc tối kỵ ba khuyết điểm sau:

* Quân sơn vô chủ (Bốn núi không có sự triều củng đối với trung ương). Nói khác đi, Tung nhạc bị khuyết, hãm hay quá thấp, quá nhỏ so với các nhạc khác.

* Cô phong vô viện (Ngọn chính giữa qua tốt nổi bật lên một cách trơ trọi không được sự phát triển của các ngọn khác hổ trợ ). Điều này chủ yếu vẫn là mũi. Mũi tốt mà trán, cằm, lưỡng quyền khuyết hãm thì coi là không đáng kể.

* Hữu viện bất tiếp (Có vẻ có sự hổ trợ của các ngọn khác nhưng xét kỹ thì lại không có ). Điều này có nghĩa là một hay nhiều ngọn núi chung quanh bị lệch hay khuyết khiến cho toàn thể liên hoàn hộ ứng của ngũ ngạc bị đổ vỡ.

Phạm vào 3 khuyết điểm nói trên, sách tướng mệnh danh là "long mạch" không có thế, khiến cho "long mạch"không phát huy được . Đôi khi , không những long mạch khong phát huy mà còn có thể trở thành xấu nữa.

3. NHỮNG YẾU TỐ BÙ TRỪ

Phép luận tướng phân tướng người thành 2 loại chính là Nam và Bắc tướng . Nam tướng là tướng người sinh trưởng ở miền nam trung hoa .Tại đây, khí hậu chính là nóng có đặc điểm chính là Hỏa vượng .Nếu Hỏa tinh (trán) hay nói theo từ ngữ ở đây là Nam nhạc là bộ vị chủ yếu hỏa của người phương nam được phát triển hợp tiêu chuẩn thì dẫu các ngon khác có hơi thiếu tiêu chuẩn đôi chút (Miễn là không khuyết hãm ,đặc biệt là Trung nhạc) thì cũng có thể lấy bộ vị chính yếu toàn hảo làm vật hóa giải [24]

Nếu trán của người phương nam không bị thương tổn thì tinh thần và bản thân sự nghiệp hanh thông vượng thịnh. Theo nguyên tắc ngũ hành tương sinh thì Hỏa sinh Thổ (Hỏa chỉ trán, Thổ chỉ mũi) nên nếu Tam nhạc đắc thế thì dù Trung nhạc không hoàn toàn tốt đẹp cũng có thể lướt qua được. Tuy nhiên sự đắc cách của Nam nhạc chỉ phần lớn háo giải các điều bất thường về mạng vận do mũi gây ra mà thôi, nó khôgn hóa giải được tâm địa. Nói khác đi kẻ sinh ở phương nam có trán tốt và mũi xấu vì lệch, thấp thì mạng vận vẫn có thể khá nhưng tâm địa giữ nguyên những khuyết điểm do mũi hoặc các bộ vị khác thuộc Ngũ nhạc gây ra.

Đối với người phương bắc, bộ vị chủ yếu là Địa các mà cằm là chính. Vì bắc phương là chính thổ nên tối kỵ . Thổ tinh (mũi) khuyết hãm. Do đó đối với họ khí mạch của bắc nhạc liên hệ chặc chẽ với khí mạch của Trung nhạc. trung nhạc khuất khúc, nghiêng lệch thì Bắc nhạc có tốt cũng bị thăng giáng thất thường về mạng vận.

Sự tổng hợp tốt nhất trong cổ tướng học thực nghiệm là cách "Thủy, Hỏa thông minh" tức là Bắc phương nhân, ngoài bản vị tốt đẹp toàn hảo, còn được Nam nhạc toàn hảo cộng thêm ngũ quan đoan chính, Nam phương nhân, ngoài Nam nhạc toàn hảo, ngũ quan thanh tú còn được địa các nẩy nở vuông vức và triều củng.

Đông và Tây nhạc (2 quyền) cũng cần phải phối hợp tương xứng với Trung nhạc có thế. Đông và Tây nhạc (đối với đàn ông) cần phải cao nở và mạnh mẽ. Tối kỵ nhỏ, nhọn và lộ xương, lem gốc hoặc cao hơn các bộ vị của Trung nhạc hoặc chỉ được lượng mà hỏng về phẩm.

Tóm lại, ngũ nhạc chỉ đắc thế khi có sự tương phối, triều củng, minh lãng về cả phẩm lẫn lượng, đồng thời Ngũ nhạc còn phải được Tứ đậu (mắt, mũi, tai, miệng) toàn hảo thì mới có thành đại dụng được. trong Ngũ nhạc nếu có một ngọn không hợp cách thì dẫu ngũ quan có tốt cũng khó đại phát.

4. SỰ KHUYẾT HÃM CỦA NGŨ NHẠC:

Ngoài 3 khuyết điểm căn bản kể trên chung cho Ngũ nhạc (quân sơn vô chủ, cô phong vô viện, hữu viện bất tiếp) mỗi Nhạc còn phải có những khuyết điểm sau đây:[25]

* Nam nhạc: Bị coi là khuyết hãm khi mí tóc lởm chởm, tóc mọc quá thấp khiến trán thành thấp, tóc mọc che lấp 2 bên khiến trán thành hẹp, trán có loạn văn như dấu vết bò, xương đầu không đắc cách, xương trán lồi, ấn đường có sát khí, trán có vết hằn một cách bất thường

* Trung nhạc : Bị coi là khuyết hãm khi sơn căn bị gãy, có hằn, mỏng manh ,có nốt ruồi ,sóng mũi bị thương tích thành sẹo, lệch, lồi lên lõm xuống, lỗ mũi bị lộ và hướng lên trên, mũi nhỏ và ngắn, 2 cánh mũi không nổi cao.

Bị coi là khuyết hãm tương đối khi chỉ có mũi rất cao, rất tốt mà bốn bộ phận khác thuộc Ngũ Nhạc quá thường (cô phong vô viện) chủ về nghèo khổ phá tán, thành bại thất thường.

* Đông và Tây Nhạc: Bị coi là hãm khi 2 quyền bị lõm xuống, nhỏ và nhọn, trơ xương, có nhiều vết sẹo hay nốt ruồi tàn nhang rõ rệt, quyền thấp hoặc có diện tích nhỏ mà không có khí thế (không có xương ăn thông sang khu vực tai), lưỡng quyền cao thấp không đều v.v...

* Bắc Nhạc: Bị coi là hãm khí xương quai hàm nhọn, hẹp, cằm lệch, miệng túm, môi dày mỏng không đều, không râu ria, có các nốt ruồi xấu, râu vàng và khô, Nhân trung nông cạn hoặc lệch và mép miệng trề xuống...

Nếu mỗi Nhạc tránh được khuyết điểm cơ hữu kể trên, và nếu cả 5 nhạc triều củng thì goi là ngũ nhạc đắc cách.

TỨ ĐẬU

1. VỊ TRÍ CỦA TỨ ĐẬU:

Đậu là một từ ngữ Trung Hoa chỉ mương nước, chỉ có nước chảy. Tứ Đậu là 4 dòng nước chảy bao gồm: Giang, Hà, Hoài, Tế.Cả 4 chữ trong ngôn ngữ Trung Hoa in đều có nghĩa chung là dòng sông.

Cũng vẫn cái lối mượn thiên nhiên để ví vào con người cho dể hiểu nên người Tàu, trong lãnh vực diện tướng học, đã địa lý hóa 4 bộ phận: Tai, miệng, mắt, mũi thành ra Giang, Hà, Hoài, Tế.

- Mũi có tên riêng là Tế Đậu

- Mắt có tên riêng là Hoài Đậu

- Miệng có tên riêng là Hà Đậu

- Tai có tên riêng là Giang Đậu

Tại sao 4 bộ phận trên được ví như 4 dòng nước? Sách xưa đã giải thích lối hình dung này như sau:

Nước lúc nào cũng chảy về biển. Bộ óc được ví như biển. Bộ óc là nơi tập trung các tiếp thu của tai, mắt, mũi, miệng như biển gôm nước của 4 dòng sông, cho nên bộ óc được gọi là não hải, còn mắt, mũi, tai, miệng được gọi là Tứ đậu

2.ĐIỀU KIỆN TỐI HẢO CỦA TỨ ĐẬU:

Nước muốn lưu thông dễ dàng thì lòng sông phải sâu, mặt sông phải rộng. Do đó, tướng học đòi hỏi Tứ Đậu phải có những điều kiện sau:

Hà Đậu (miệng) phải vuông vức, lăng giác rõ ràng,lớn, rộng. Nếu như miệng quá hẹp, môi quá mỏng, ví như dòng sông nông cạn,nước khó thông và chảy không tới biển cho nên vãn niên phúc thọ hư ảo

Giang Đậu (tai) cần rộng và sâu, nghĩa là lổ tai phải sâu và rộng, hình thể chắc chắn, đầy đặn, chủ về thông minh, gia nghiệp ổn định.

Hoài Đậu ( mắt) cần phải sâu dài, ánh mắt trong sáng, hình thể thon dài, lòng đen, lòng trắng, phân minh, đồng tử linh động, chủ về thông minh, quí hiếm.

Tế Đậu (mũi) thông suốt, tức là lổ mũi phải kín đáo, đầu mũi phải đầy, sống mũi phải thẳng, khôgn cong, không lồi lõm, hai cánh mũi phải đầy, nở và cân xứng thì cuộc đời sung túc, khôgn lo đói rách.

Ở đây có một điểm rất trọng yếu cần phải lưu ý, đó là Nhân trung (phần lõm sau chạy dài phía dưới chõm mũi tới chính giữa môi trên), vì Nhân trung được coi là mạch chính của Tứ đậu. Nếu Tứ đậu đều minh hiền (tốt và rõ ràng) mà Nhân trung hẹp, mờ, khuất, bị vạch ngang làm cho mất hẳn mỹ quan hoặc trên rộgn dưới hẹp, trên sâu dưới nông, đều có tác dụng làm nghẽn tắc Tứ đậu khiến dòng nước không lưu thông dẽ dàng. Cái đẹp của Tứ đậu vì thế bị giảm thiếu. Cho nên người ta đòi hỏi Nhân trung phải sâu, trên vừ phải, dưới rộng và rõ ràng, dài là vì cớ đó.

Lục phủ (6 phủ) là danh hiệu dùng để chỉ 3 cặp xương ở hai bên mặt (h.2).

Hai khu vực xương nổi cao ở hai bên phía trên ở dưới đuôi chân mày chạy lên sát chổ chân tóc gọi là Thiên thương thượng phủ (h.2/1)

Cặp xương lưỡng quyền thuộc khu vực Trung đình gọi là Quyền cốt Trung phủ (h.2/2)

Hai phần 2bên mang tai tiếp giáp với lưỡng quyền và xuống phía dưới gọi Tai cốt hạ phủ, vì khu vực này thuộc về hạ đình (h.2/3 )

Phủ có nghĩa là cái kho chứa đồ vật của cải ,nên dưới nhãn quan tướng học ,Lục Phủ cho ta biết một cách khái quát về tài vận.Sáu bộ phận đó có xương và thịt cân xứng, đầy đặn thì cũng giống như kho chứa tài sản, chỉ sự sung túc. Sách Nhân luân đại thống phú của Trương Hành Giản đã nói ''Nhất Phủ tựu, thập tải phong phú'' có nghĩa là một Phủ đầy đặn thì giàu có no năm. Thực ra đây chỉ là một câu nói có ý nghĩa tượng trưng chứ không nhất thiết là no răm. Nó chỉ có nghĩa là một Phủ mà đầy đặn thì kẻ đó có khả năng phú túc.

Trong phép quan sát Lục Phủ, phải lấy xương làm điểm chủ yếu : xương nẩy nở đúng cách, mạnh mẽ cân xứng là tốt, khuyết hãm là xấu. Kẻ có Lục Phủ hoàn mỹ là kẻ mà khuôn mặt (bên phải lẩn bên trái)tạo thành một thế nhất quán tức là xương thị chắc chắn vừa phải, thịt không lấn lướt xương, xương không quá nhiều đối với thịt, khi sắc sáng sủa tươi mát

Lục Phủ cũng liên quan đến thời gian thụ hưởng. Thiên thương Thượng Phủ sung mãn tươi tắn tượng trưng cho kẻ được hưởng của của cải tiền nhân lưu lại hoặc được cha mẹ anh chị em chu cấp. Trung Phủ hoàn mỹ, điển hình cho mạng vận cá nhân lúc trung niên tự mình sáng tạo thành sự nghiệp gia sản. Hạ Phủ sung mãn tươi tắn là điềm báo trước, lúc già, sinh kế và gia tài phát triển khả quan .

Thượng Phủ ứng với thiếu niên, Trung Phủ ứng với trung niên và Hạ Phủ ứng với vãn niên . vãn

Nếu Lục Phủ khuyết hãm, hắc ám thì phải giải đoán ngược lại .

( Đây là nói trong trường hợp người không gầy không mập, khỏe mạnh tự nhiên. Nếu quá gầy thì lex tất nhiên xương phải nhiêù hơn thịt. nếu quá mập thì thịt nhiều hơn xương. Trường hợp cần phải lưu ý là người mập mà mặt ốm, Lục Phủ trỏ xương ;người ốm mà mập, Lục Phủ trì trệ.Lúc đó phải coi là Lục Phủ liệt cách .)

TỨ ĐẬU

1. VỊ TRÍ CỦA TỨ ĐẬU:

Đậu là một từ ngữ Trung Hoa chỉ mương nước, chỉ có nước chảy. Tứ Đậu là 4 dòng nước chảy bao gồm: Giang, Hà, Hoài, Tế.Cả 4 chữ trong ngôn ngữ Trung Hoa in đều có nghĩa chung là dòng sông.

Cũng vẫn cái lối mượn thiên nhiên để ví vào con người cho dể hiểu nên người Tàu, trong lãnh vực diện tướng học, đã địa lý hóa 4 bộ phận: Tai, miệng, mắt, mũi thành ra Giang, Hà, Hoài, Tế.

- Mũi có tên riêng là Tế Đậu

- Mắt có tên riêng là Hoài Đậu

- Miệng có tên riêng là Hà Đậu

- Tai có tên riêng là Giang Đậu

Tại sao 4 bộ phận trên được ví như 4 dòng nước? Sách xưa đã giải thích lối hình dung này như sau:

Nước lúc nào cũng chảy về biển. Bộ óc được ví như biển. Bộ óc là nơi tập trung các tiếp thu của tai, mắt, mũi, miệng như biển gôm nước của 4 dòng sông, cho nên bộ óc được gọi là não hải, còn mắt, mũi, tai, miệng được gọi là Tứ đậu

2.ĐIỀU KIỆN TỐI HẢO CỦA TỨ ĐẬU:

Nước muốn lưu thông dễ dàng thì lòng sông phải sâu, mặt sông phải rộng. Do đó, tướng học đòi hỏi Tứ Đậu phải có những điều kiện sau:

Hà Đậu (miệng) phải vuông vức, lăng giác rõ ràng,lớn, rộng. Nếu như miệng quá hẹp, môi quá mỏng, ví như dòng sông nông cạn,nước khó thông và chảy không tới biển cho nên vãn niên phúc thọ hư ảo

Giang Đậu (tai) cần rộng và sâu, nghĩa là lổ tai phải sâu và rộng, hình thể chắc chắn, đầy đặn, chủ về thông minh, gia nghiệp ổn định.

Hoài Đậu ( mắt) cần phải sâu dài, ánh mắt trong sáng, hình thể thon dài, lòng đen, lòng trắng, phân minh, đồng tử linh động, chủ về thông minh, quí hiếm.

Tế Đậu (mũi) thông suốt, tức là lổ mũi phải kín đáo, đầu mũi phải đầy, sống mũi phải thẳng, khôgn cong, không lồi lõm, hai cánh mũi phải đầy, nở và cân xứng thì cuộc đời sung túc, khôgn lo đói rách.

Ở đây có một điểm rất trọng yếu cần phải lưu ý, đó là Nhân trung (phần lõm sau chạy dài phía dưới chõm mũi tới chính giữa môi trên), vì Nhân trung được coi là mạch chính của Tứ đậu. Nếu Tứ đậu đều minh hiền (tốt và rõ ràng) mà Nhân trung hẹp, mờ, khuất, bị vạch ngang làm cho mất hẳn mỹ quan hoặc trên rộgn dưới hẹp, trên sâu dưới nông, đều có tác dụng làm nghẽn tắc Tứ đậu khiến dòng nước không lưu thông dẽ dàng. Cái đẹp của Tứ đậu vì thế bị giảm thiếu. Cho nên người ta đòi hỏi Nhân trung phải sâu, trên vừ phải, dưới rộng và rõ ràng, dài là vì cớ đó.

Lục phủ (6 phủ) là danh hiệu dùng để chỉ 3 cặp xương ở hai bên mặt (h.2).

Hai khu vực xương nổi cao ở hai bên phía trên ở dưới đuôi chân mày chạy lên sát chổ chân tóc gọi là Thiên thương thượng phủ (h.2/1)

Cặp xương lưỡng quyền thuộc khu vực Trung đình gọi là Quyền cốt Trung phủ (h.2/2)

Hai phần 2bên mang tai tiếp giáp với lưỡng quyền và xuống phía dưới gọi Tai cốt hạ phủ, vì khu vực này thuộc về hạ đình (h.2/3 )

Phủ có nghĩa là cái kho chứa đồ vật của cải ,nên dưới nhãn quan tướng học ,Lục Phủ cho ta biết một cách khái quát về tài vận.Sáu bộ phận đó có xương và thịt cân xứng, đầy đặn thì cũng giống như kho chứa tài sản, chỉ sự sung túc. Sách Nhân luân đại thống phú của Trương Hành Giản đã nói ''Nhất Phủ tựu, thập tải phong phú'' có nghĩa là một Phủ đầy đặn thì giàu có no năm. Thực ra đây chỉ là một câu nói có ý nghĩa tượng trưng chứ không nhất thiết là no răm. Nó chỉ có nghĩa là một Phủ mà đầy đặn thì kẻ đó có khả năng phú túc.

Trong phép quan sát Lục Phủ, phải lấy xương làm điểm chủ yếu : xương nẩy nở đúng cách, mạnh mẽ cân xứng là tốt, khuyết hãm là xấu. Kẻ có Lục Phủ hoàn mỹ là kẻ mà khuôn mặt (bên phải lẩn bên trái)tạo thành một thế nhất quán tức là xương thị chắc chắn vừa phải, thịt không lấn lướt xương, xương không quá nhiều đối với thịt, khi sắc sáng sủa tươi mát

Lục Phủ cũng liên quan đến thời gian thụ hưởng. Thiên thương Thượng Phủ sung mãn tươi tắn tượng trưng cho kẻ được hưởng của của cải tiền nhân lưu lại hoặc được cha mẹ anh chị em chu cấp. Trung Phủ hoàn mỹ, điển hình cho mạng vận cá nhân lúc trung niên tự mình sáng tạo thành sự nghiệp gia sản. Hạ Phủ sung mãn tươi tắn là điềm báo trước, lúc già, sinh kế và gia tài phát triển khả quan .

Thượng Phủ ứng với thiếu niên, Trung Phủ ứng với trung niên và Hạ Phủ ứng với vãn niên . vãn

Nếu Lục Phủ khuyết hãm, hắc ám thì phải giải đoán ngược lại .

( Đây là nói trong trường hợp người không gầy không mập, khỏe mạnh tự nhiên. Nếu quá gầy thì lex tất nhiên xương phải nhiêù hơn thịt. nếu quá mập thì thịt nhiều hơn xương. Trường hợp cần phải lưu ý là người mập mà mặt ốm, Lục Phủ trỏ xương ;người ốm mà mập, Lục Phủ trì trệ.Lúc đó phải coi là Lục Phủ liệt cách .)

NGŨ QUAN

1.-VỊ TRÍ NGŨ QUAN

Ngũ quan là 5 bộ phận trọng yếu trên khuôn mặt :

- Hai lông mà gọi là Bảo thọ quan

- cặp mắt gọi là Giám sát quan

- Hai tai gọi là Thám thính quan

-Mũi là Thảm biện quan

- Miệng là Xuất nạp quan .

Cổ tướng kinh bàn về Ngũ quan có câu "Trời lấy ngủ tinh để biểu lộ hình thể ; Đất lấy 5 núi để định khu vực ; người thì dựa vào Ngũ quan để định quý, tiện ,bần ,phú " .Sách Nhân luân đại thống phú bàn về Ngũ quan có câu "Nhất quan thánh, thập niên quý hiến". như vậy, đủ rõ trong tướng học, ngũ quan đóng một vai trò hết sức quan trọng. Cũng bởi lý do trên mà sách này dành 5 chương đề để chuyên khảo chi tiết từng Quan một QU

2.- ĐIỀU KIỆN TỐI HẢO CỦA NGŨ QUAN

Đối với phép quan sát Ngũ quan ,tướng học có câu sau đây đủ để tóm tắt những điều kiện tổng quát của kẻ có Ngũ quan toàn hảo:"Ngũ quan cần phải Minh lượng và đoan chíng nói về hìng dạng .

Từ ngữ Minh lượng bao gồm :

-Thanh khiết

- Sáng Sủa

-Có thành khí

-Trang nhã

Còn Đoan chính có nghĩa là :

-Ngay thẳng

-Cân xứng và lớn nhỏ thích nghi

-Hình thể rõ ràng (chỗ nào cần đầy thì đầy,mỏng thì phải mỏng;đen trằng phân biệt v.v...tùy theo Quan đó là Mắt, Tai, Mũi, Miệng hay long Mày).

Đó là hai tổng -tắt căn bản trong phương pháp quan sát Ngũ quan .

NGŨ QUAN

1.-VỊ TRÍ NGŨ QUAN

Ngũ quan là 5 bộ phận trọng yếu trên khuôn mặt :

- Hai lông mà gọi là Bảo thọ quan

- cặp mắt gọi là Giám sát quan

- Hai tai gọi là Thám thính quan

-Mũi là Thảm biện quan

- Miệng là Xuất nạp quan .

Cổ tướng kinh bàn về Ngũ quan có câu "Trời lấy ngủ tinh để biểu lộ hình thể ; Đất lấy 5 núi để định khu vực ; người thì dựa vào Ngũ quan để định quý, tiện ,bần ,phú " .Sách Nhân luân đại thống phú bàn về Ngũ quan có câu "Nhất quan thánh, thập niên quý hiến". như vậy, đủ rõ trong tướng học, ngũ quan đóng một vai trò hết sức quan trọng. Cũng bởi lý do trên mà sách này dành 5 chương đề để chuyên khảo chi tiết từng Quan một QU

2.- ĐIỀU KIỆN TỐI HẢO CỦA NGŨ QUAN

Đối với phép quan sát Ngũ quan ,tướng học có câu sau đây đủ để tóm tắt những điều kiện tổng quát của kẻ có Ngũ quan toàn hảo:"Ngũ quan cần phải Minh lượng và đoan chíng nói về hìng dạng .

Từ ngữ Minh lượng bao gồm :

-Thanh khiết

- Sáng Sủa

-Có thành khí

-Trang nhã

Còn Đoan chính có nghĩa là :

-Ngay thẳng

-Cân xứng và lớn nhỏ thích nghi

-Hình thể rõ ràng (chỗ nào cần đầy thì đầy,mỏng thì phải mỏng;đen trằng phân biệt v.v...tùy theo Quan đó là Mắt, Tai, Mũi, Miệng hay long Mày).

Đó là hai tổng -tắt căn bản trong phương pháp quan sát Ngũ quan .

13 BÔ VỊ QUAN TRỌNG

Trong phép xem tướng khuôn mặt, người ta chia khuôn mặt thành rất nhiều khu vực nhỏ gọi là bộ vị. Thoạt đầu, theo truyền thuyết thì từ đời Đông-Chu (cách đây khoảng 2500 năm ) khuôn mặt được chia thành 13 bộ vị (h.3).

Đến đời nhà Hán thì người ta tế phân các bộ vị trên thành 120 bộ vị nhỏ hơn. Đời Đường và Tống, tổng số bộ vị trên khuôn mặt là 130. Các nhà tướng học khét tiếng như Nhất Hanh Thiền sư đời đường, Ma Y và Trần Đoàn đời Tống đều ghi lại trong sách tướng của mình con số 130. Đời sau phần lớn đều theo số 130 của Ma Y- Đến hai đời Minh, Thanh con số đó tăng lên 140. Nhưng bất kể 120,130 hay 140 đó chẳng qua điều là những tế phân vụn vặt, nhiều khi dư thừa vô ích. Ta chỉ cần biết 13 bộ vị chính yếu là đủ để quan sát khí sắc, mạng vận kiết hung. Dưới đây là 13 bộ vị trê khuôn mặt :

-Khu vực Thượng Đình : Thiên trung, Thiên đình, Tứ không, Trung chính .

-Khu vực Trung Đình : Ấn đường, sơn căn, Niên thượng, Thọ thượng, Chuẩn đầu.

- Khu vực Hạ đình: Nhân trung, thủy tinh (miệng), Thừa tương, Địa các

Ý NGHĨA CỦA TỪNG BỘ VỊ :

1. Thiên trung: Thiên trung (coi phụ họa h.3) được coi là tốt đẹp nếu đầy đặn, sáng sủa. Trong trường hợp đó thiên trung là dấu hiệu cho biết thuở nhỏ vận tốt, cha mẹ song toàn, thân thể khỏe mạnh. Ngược lại Thiên trung thấp, lõm, lệch lạc trông không có gì khả quan chủ về tuổi ấu thơ không được tốt đẹp, hoàn cảnh sinh sống lúc nhỏ khó khăn chật vật, không được song thân nuôi nấng đúng mức, thiếu tình thương. Nếu như Thiên trung có khí sắc hắc ám, ấn tàng mường tượng như mạch máu ngầm, có gân xanh chạy dài tới Ân đường (ở giữa 2 đầu long mày ), thì đó là triệu chứng trong đời khó thoát tai ương đột ngột, sinh kế phần lớn khó thành.

2. Thiên đình: Là phần giữa trán tiếp liền dưới Thiên trung (thông thường Thiên Đình và Thiên trung chiếm 1/2 bề cao của trán. Do đó, cách quan sát và ý nghĩa tương tự như Thiên trung về mặt mạng vận cá nhân,điều hơi khác là Thiên trung chủ về cha. Thiên đình chủ về mẹ. Nếu Thiên đình khí sắc hắc hám một cách trường cửu thêm vào đó là hình thể khuyết hãm sẽ chủ về cảnh cơ khổ thiếu niên phần lớn do mẹ gây ra hoăc không được quý nhân tương trợ, do đàn bà cản trở.

3. Tư không: Về mạng vận cũng đồng nghĩa với Thiên trung và Thiên đình nhưng thường nặng về ý nghĩa bản thân, trong khi hai bộ vị trên liên quan đến ảnh hưởng tới cha mẹ. trong thực tế khó mà tách biệt được vị trí đích thực của ba bộ vị. Nếu Tư không khuyết hãm hoặc khí sắc xấu xuất hiện thường xuyên, chủ về bản thân hay gặp trắc trở trong công việc, không được phụ huynh hay quý nhân giúp đỡ. Ngược lại Tư không sáng sủa, đầy đặn có khí thế mạnh mẽ thì đó là dấu hiệu bản thân khi hành sự được người trên hổ trợ.

4. Trung đình: đầy đặn, sắc hồng lạt hoặc vàng, trông sáng sủa, chủ về thành đạt sáng sủa,vừa thông minh tài trí, vừa mạnh khỏe, ít tật bệnh hiểm nghèo. Nếu thấp, khuyết: chủ về ngu độn, vô tài cán. Nếu chổ này bị vết hằn ,sẹo tự nhiên thì nốt ruồi thì dể đưa đến bị người ghét bỏ, có tính nóng nảy, ngông cuồng

5.Ấn đường: Đó là khoảng giữa hai đầu lông mày là nơi trung gian giữa trán và gốc mũi. Đối với tướng học Á- Đông cổ điển, bộ vị này rất quan trọng về phương diện mạng vận. Nguyên tắc quan sát từ Ấn đường cũng tương tự như bốn bộ vị vừa kể trên , chủ yếu là lấy sự rộng rãi, nẩy nở là tốt về hình thức, tươi tốt ,hồng nhuận là tốt về thực chất. Tốt cả chất lẫn hình chủ về mưu sự dễ thành. Hẹp hoặc khuyết hãm là xấu. Đặc biệt tối kỵ là hai đầu lông mày không được giao tiếp nhau ở ngay trên Ấn đường tạo thành một vệt đen gần như duy nhất chạy dài từ phía bắt phải sang mắt trái. Kẻ có tướng Ấn đường không mong gì có dịp giàu sang, hèn hạ suốt đời nhọc nhằn. Ấn đường có nốt ruồi ở 2 bên phải và trái chủ về tù tội

Một đặc điểm thường thấy ở những người từ tuổi thanh niên trở đi là Ấn đường có vết hằng chạy từ 2 bên đầu long mày lên phía tráng. Sự kiện cũng được sách tướng nghiên cứu tường tận và đưa đến vài nhận xét sau đây:

a. Ngay chính giữa Ấn đường có một vết sâu và thẳng thì gọi là " luyến trâm văn", về mạng vận có ý nghĩa là vợ chồng sung khắc.Về mặt cá tính, đó là kẻ có ý trí mạnh, làm việc có tinh thần trách nhiệm (h.4)

b. Ấn đường có 3 hằn song song (h.5) chủ về phá tán gia sản, khắc vợ, sống xa quê nhà mới mong tạm đủ ăn mặc.

c. Ấn đường có 2 đường giao nhau như hình chữ bát (/\) (h.6) chủ về sự nghiệp ba đào. Nếu các bộ vị khác đều tốt đẹp thì phải đợi ngoài 40 tuổi mới mong thõa nguyện bình sinh. Về mặt cá tính, đó là tướng người ưa tư lự, tập trung tư tưởng dễ dàng và có ý trí mạnh.

d. Ấn đường có loạn văn là điềm bất thường nặng nề nhất (h.7). Đó là dấu cha mẹ sớm khuất bóng, buôn tẩu tứ phương . Nếu các vết hằng loang lổ đó sâu và rõ thì lại càng xấu, chủ về tính nết buông thả, không thể kiềm chế, đến khoảng trên dưới 30 tuổi khó tránh khỏi yếu tử (nếu các bộ vị khá tốt, mục quang có thần thì chỉ bị đau ốm hay tai ương qua loa).

6. Sơn căn: Đó là khoảng sống mũi nằm giữa 2 mắt. Trong quan niệm " Thiên nhân tương trữ" của Á đông,(xem h.3). Sơn căn được coi như nơi giao tiếp giữa trời và người, giữa âm và dương, cho nên sơn căn cần phải cao, thẳng, ngay ngắn thì sự giao tiếp đó mới thành tựu mỹ mãn, đưa đến hậu quả tốt. Nếu lệch, hãm, gẫy v.v...thì không thể khiến con người hấp thụ được khí của trời và trăng sao. Hơn nữa mũi là dấu hiệu quan trọng nhất của sự giàu sang, nếu sơn căn lệch , nhọn hoặc nhỏ thì gốc mũi vốn đã hư sẽ khiến cả phần còn lại của mũi bị tai hại . Nếu sơn căn tốt thì gần như một định lệ: mũi cũng tốt theo và dưa đến tài vận hanh thông.

Điều cần biết ở đây là nếu Sơn căn có màu xám như tàn tro thì đó là dấu hiệu báo trước của tật bệnh. Nếu khí sắc đó lan cả xuống sống mũi và xuống sát phần tiếp giáp với 2 đầu mắt thì bệnh càng nặng và có thể bị chết vì bệnh.

Nốt ruồi ở ngay sơn căn báo hiệu cuộc đời bôn tẩu tha hương. Ngoài ra đó cũng là dấu hiệu tai họa tù ngục, nếu mọc chính giữa khu vực của sơn căn , mọc ở hai bên phải và trái cho biết được kẻ đó trong mình có ác tật.

7. Niên thượng : Đó là phần thân mũi ở ngay dưới Sơn căn và chiếm khoảng 1/4 chiều dài của mũi đo từ khoảng giữa 2 mắt tới chõm mũi. Các bộ vị như Sơn căn, Niên thượng, Thọ thượng sẽ được mô tả rõ ràng ở phần nói về mũi nên ở đây chỉ chú trọng tới phần ý nghĩa căn cứ vào khí sắc và nốt ruồi của Niên thượng mà thôi.

Niên thượng có sắc ám đen như sương mù, chủ về người thân có bệnh .

Niên thượng có nốt ruồi chủ về vận kiếp có số đào hoa nghiã là hoặc do đam mê sắc dục nữ giới mà thành tai tiếng tù tội, hoặc giao du xác thịt với đàn bà mà mắc bệnh .

8. Thọ thượng: Phần sống mũi tận cùng ở tiếp dưới ngay Niên thượng. Nếu phần thọ thượng có xương hoặc sụn nổi cao là dấu hiệu trong đời thế nào cũng có phen thất bại nặng nề . Về nốt ruồi và khí sắc , cách luận giải tương tự như phần nói về Niên Thượng, ý nghĩa cũng vậy. Tuy nhiên, nếu hai bên(phải và trái) của Thọ thượng có sắc hồng lạt hoặc vàng và tất cả đều tươi mịn, dễ coi thì đó là triệu chứng đủ ăn đủ mặc ( với điều kiện là mũi tốt).

9. Chuẩn đầu: Đó là phần chõm mũi, hình dạng tròn như viên đạn của con nít thường chơi. Chuẩn đầu cần phải lớn, tròn trịa và có thịt mới tốt , tối kỵ là trơ xương. Tuy nhiên nếu chỉ tốt về hình dạng mà sắc da ở chuẩn đầu khô mốc, ám đen cũng không thể coi là tốt vì đó là dấu hiệu bệnh hoạn hoặc hao phá về tiền bạc nặng nhẹ tùy từng trường hợp.

Người ta thường nói mũi là nơi quan sát sự giàu nghèo, nhưng thực ra sự giàu ngèo chỉ căn cứ ở phần Thọ thượng xuống đến chuẩn đầu (nhất là chuẩn đầu mà thôi).

Ngoài ra về mặt xem tướng tài vận, nếu chuẩn đầu nhiều thịt, mập mạp nhưng lổ mũi quá rộng, hếch lên trời, nhiều lông, hai cánh mũi qua mỏng và ở cao hơn vị trí của chuẩn đầu thì cũng là tướng hao tài hoặc hữu danh vô thực về tiền bạc.

10. Nhân trung: Đó là cái rãnh sâu nằm ngay chạy từ dạ chuẩn đầu xuống tiếp giáp với môi trên .Ở phần nói về môi, miệng và khu vực Hạ đình sẽ nói tường tận về các dạng thức và ý nghĩa. Ở đây chỉ xin nói sơ qua là điều kiện tất yếu để xem là Nhân trung tốt bao gồm:

- Sâu và rõ ràng, dài và rộng.

- Ngay ngắn chứ không lệch lạc.

- Không có nốt ruồi hay các vạch ngang tự nhiên làm đứt đoạn.

- Trên nhỏ dưới rộng.

11. Thủy tinh: Là một danh xưng chỉ về môi miệng (trong phần nói về ngũ quan, miệng đoợc coi là xuất nạp quan và là một trong 05 đại bộ phận trọng yếu của khuôn mặt, nên sẽ được mô tả đầy đủ trong một chương riêng. Bởi vậy độc giả nên tham chiếu chương nói về miệng để biết rõ hơn).

Ở đây điều kiện tiên quyết của Thủy tinh hợp cách là:

- Môi miệng phải ngay ngắn.

- Hai môi phải dày mỏng tương xứng

- Khóe miệng phải hướng lên

- Bề dày phải vừa phải không nên qua dày quá mỏng

12. Thừa tương: Là khu vực nằm giữa khoảng giữa môi dưới và ở phía tận cùng của khuôn mặt và hơi lõm xuống (h.8), nhưng đây chỉ là hình dạng phổ thông. Ở một số người bộ phận này có thể nhô lên cao hoặc thẳng tấp. Trong những trường hợp như vậy hoặc quá hõm đều là hun tướng, chủ về hay bị tai ương sông nước hay ẩm thực . Nếu khu vực này xám tro hoặc đen thì lại càng dễ quyết đoán.

13. Địa các: Đó là phần tận cùng của khuôn mặt, ta thường gọi chung là cằm. Cằm chủ yếu phải nẩy nở, cân xứng, không lem, không nhọn, không đưa lên cao. Địa các quá ngắn chủ yếu về yểu thọ. Quá nhọn và dài chủ về sống lâu nhưng về già lênh đênh cô độc. Địa các có nốt ruồi hay lằn vạch tự nhiên do da mặt xếp lại thì không được thừa hưởng di sản của tiền nhân để lại, dù rằng có cân xứng và đầy đặn.

TRÁN

1. ĐẠI CƯƠNG:

Trán là phần mặt của thượng đình. Trong lãnh vực cốt tướng học, Trán là phần bạo bọc phía ngoài của tiền não bộ. Vì tiền não bộ được y giới công nhận là chủ về trí tuệ nên giữa sự cấu tạo và phát triển của tiền não bộ và hính dáng của Trán có liên quan mật thiết với nhau. Do đó xét về trí tuệ con người rộng hẹp, sâu, nông không gì bằng xét hình dạng của Trán. Thông thường Trán cao rông, đầy đặn và ngay ngắn là biểu thị của trí tuệ cao thâm vì khái quát lực, thống nhất lực và quan sat lực phát triển mạnh mẽ khiến người ta dễ dàng quyết đoán kịp thưòi và chuẩn xác. Thành công và đắc lợi là ở chổ đó. Trái lại, kẻ đầu óc trì độn hay do dự bất quyết hoặc nhận định thiếu sót thường bỏ phí nhiều cơ may vận tốt. Do đó về mặt mạng vận, tướng học cổ điển gọi trán là Quan lộc cung thật là có ý nghĩa. trán rộng và cao thì đường công danh rạng rỡ, còn hẹp và thấp thì Quan lộc diên tri và trí tuệ bất túc.

Nhưng trán rộng hay cao, hẹp hay thấp là do sự cấu tạo tiên thiên, không do cá nhân quyết định, may mắn thì được trán tốt, tức là bẩm thụ được trí tuệ cao viễn, chẳng may thì ngược lại . Bởi vậy trán còn biểu thị cung Phúc đức của môt cá nhân, Phúc đức rộng hay hẹp , dày hay mỏng có thể do trán thể hiện một phần lớn.

2. CÁC DẠNG THỨC CỦA TRÁN :

Nếu ta gọi AC là chiều dài khuôn mặt và MN là bề ngang rộng nhất của trán thì ta sẽ có một tiêu chuẩn để định trán cao hay thấp và rông hẹp như sâu (h.10)

Nhìn một cáh tổng quát ta phân biệt được trán cao và rộng, trán thấp và trán hẹp, trán lồi và Trán vắt v.v...Trên thực tế các loại trên lại pha trộn với nhau tạo thành muôn vàng hình dáng dị biệt. Trước khi đi sâu vào chi tiết cần phải phân biệt thế nào là dài và rộng.

1. AB = 1/2 BC

tiêu chuẩn

MN = BC

chung bình

2. AB > BC/2

Trán cao

AB < BC/2

Trán thấp

3. MN >BC

Trán rộng

MN

Trán hẹp

Thông thường, bề ngang khuôn mặt bằng chiều dài tính từ khỏng giữa 2 đầu lông mày tới cằm (xem h.10). Qua tiêu chuẩn mẫu đó thì coi là rộng, dưới tiêu chuẩn đó bị coi là hẹp. Về chiều cao của trán, đối với người thanh niên và không sói đầu quá sớm thì bằng một nữa chiều dài từ khoảng giữa 2 đầu lông mày tới cằm. trên mức độ đó là cao, dưới mức độ đó coi là thấp.

1. Trán rộng :

Bề ngang rộng, phẳng, có bề cao trung bình biểu thị đặc tính bị động củ trí tuệ. Người có trán rộng mà thấp là kẻ có trí nhớ dai, khả năng ghi nhận các sự kiện cụ thể rất mạnh, nhưng óc phân đoán không hoàn hảo. Họ chỉ suy luận và phán đoán một cách cụ thể. Óc tưởng tượng của họ chỉ lập lại các hoàn cảnh đã trải qua chứ không kết hợp được để sáng tạo ra những hình ảnh mới . Nói một cách tổng quát, đối với một người có trán trung bình hoặc hơi thiếu bề cao, mà lại rất rộng bề ngang thì có thể

quyết đoán rằng người đó có khả năng phát triển kiến thức về chiều rộng nhưng không đủ khả năng phát tiển về chiều sâu . Nếu phần dưới của trán, giáp ranh với lông mày, lại bằng phẳng và chiếm phần trội yếu thì kẻ đó thiếu hẳn trí tượng cần thiết để có thể tiên liệu được các hậu quả sẽ xảy tới trong tương lai do việc làm hiện tại của mình. Ngược lại nếu phần trên cảu trán quá rộng so với toàn bộ trán thì kẻ đó quá thiên về tưởng tượng, mơ mộng, thiếu thực tế .

2. Trán cao:

Trán chỉ có bề cao mà bề ngang xấp xỉ ở mức trung bình thì đặc điểm của trí tuệ sẽ là sự phát tiển của óc phán đoán, tập trung tư tưởng dễ và có khả năng sáng tạo (óc tưởng tượng khá dồi dào). bề ngang càng thu hẹp ở khu vực qunh mi-cốt đi đôi với sự phát triển quá đáng của phần trên sẽ là dấu hiệu của sự tưởng tượng xa với thực tế, sự lĩnh hội chỉ ở trong lĩnh vực siêu hình hoặc không tưởng.

Nếu Trán được phát triển cả bề ngang lẫn chiều cao thì thường thường là kẻ đó được thiên phú trí tuệ thâm viễn và hoàn hảo: óc quan sát khả năng lĩnh hội và trí tưởng tượng sáng tạo phong phú dễ thích ứng với hoàn cảnh thực tại. Tuy nhiên, các đức tính trên muốn được phát huy và trở thành hữu dụng lại còn phải tùy thuộc phần lớn vào cách cấu tạo chung của khuôn mặt, sự cân xứng của các bộ vị và nhất là đặc tính về phẩm chất của các bộ vị căn bản. Sự rộng hẹp cao thấp chỉ là dấu hiệu về lượng chưa đủ để xác định rõ ràng.

Ngược lại, nếu kẻ mà Trán vừa hẹp, vừa thấp là kẻ trí tuệ bị giối hạn tới mức tối đa. Mọi khả năng quan sát, lĩnh hội và phán đoán đều ở mức dưới trung bình. Các nhận xét của họ hoàn toàn dựa vào các sự quan sát nhãn tiền về các sự vật cụ thể hữu hình. Ngoài 4 trạng thái: cao, thấp, rộng, hẹp, Trán còn có thể có một trong các hình dạng sau đây tùy theo cách phối trí của chân tóc.

3.- Trán vuông

Trán có hình thể vuông vức (h.11) là dấu hiệu bề ngoài của sự trọng thực tiễn. Vuông cạnh mà cao rộng là đặc tính của tinh thần thực tiển và có khả năng thực hiện các quan niệm của mình. Phần lớn các khoa học gia, kinh tế gia, thực nghiệp gia đều có loại Trán kể trên .

Nếu Trán thấp hẹp mà lại có góc cạnh vuông thì trỏ óc trọng thực tiễn hoặc chỉ nhận thức được những điều thực tiễn nãng tiền nhỏ hẹp .

4.- Trán có góc tròn

Hai góc trên của Trán nẩy nở và không có tóc tạo thành hai góc tròn khá rộng khiến phần Trán tiếp giáp với chân tóc trông giống chữ M (h.12)

Loại Trán này nếu cao rộng là đặc tính của khả năng văn học, nghệ thuật thiên bẩm. Đối với các hoạt động vật chất thường nhật loại người có Trán như trwn thường có ý coi rẻ nên không thích ứng với các nghề thực dụng. Ở những người Trán thấp hoặc hẹp, dạng thức trên của Trán trỏ khía cạnh tiêu cực của khả năng thẩm mỹ và nghệ thuật : cảm thấy được cái đẹp nhưng không có khả năng diển đạt hoặc thực hiện

5.- Trán gồ (lồi)

Ta phân biệt ba loại .

a) Gồ phần giữa (h.13)

Trán gồ lên ở phần giữa mà toàn bộ Trán lại thấp (tức là dưới mức trung bình )

hẳn thực tế. Loại người này không bao giờ vạch ra được một kế hoạch khả dĩ thực hành được .

b) Trán gồ và ở hai phần trên dưới (h.14)

Trán hình dạng này biểu thị trí tuệ bất túc trong nhiều trường hợp, khả năng trí tuệ dễ dàng hướng dẫn hành đọng trong lãnh vực thực tiễn quen thuộc, nhưng nếu một nghịch cảnh xảy ra, người đó sẽ không biết phản ứng thích nghi với hoàn cảnh mới và sẻ lúng túng không tiìm được cách giải quyết ổn thỏa tinh thần luôn luôn bị ám ảnh .

Nếu phần lọm ở giữa Trán chỉ vừa phải, phần gồ trên dưới cũng ở mức vừa phải thì sự lúng túng sẽ có thể vượt qua sau một thời gian nghiền ngẫm. Qúa nổi bật, thì sự lúng túng đó đưa đến sự bất quyết, bần thần và có thể là sự ù lì (ỉnirtie)

c)Gồ ở phần dưới (h.15)

Thông thường, nếu Trán ở mức trên trung bình về cả cao lẫn rộng, dấu hiệu này cho biết là kẻ đó có óc thông minh dựa trên dữ kiện do tất cả mọi cơ năng đem lai và dùng làm nền tảng tiến khới cho các hoạt động. Kẻ đó không thích đi sâu vào chi tiết và không trọng khuôn sáo (non conjormisie).

Nếu phần này đi đôi với phần mi-cốt nẩy nở đều và cao vừa phải, chủ về cá tính rất mạnh nhưng kém phần hàm dưỡng: Tính bạo tháo, dám nói dám làm những điều mới lạ độc đáo. Đi đôi với Trán cao rộng và vát về sau, kẻ đó rất tự tin, thích hành động mạo hiểm, nên cổ tướng pháp mệnh danh là "Bất năng tòng tục, dũng cảm, háo vi phi : Không thể sống theo thói thường, có tính dũng cảm, thích làm những gì tự cho là hợp đạo lý khi cần bất tuân luật lệ triều đình".

6. Trán tròn : (h.16)

Cao mà tròn, đầy đặn và điều hòa là kẻ đầu óc thông tuệ. Phụ nữ mà có loại trán này thì đối với vấn đề hôn nhân đòi hỏi một mối tình lý tưởng nên khó được mãn nguyện. Do đó sau khi kết hôn dễ làm cảnh chia ly.

Đàn ông chủ về tự tư, tư lợi quá đáng, khó sống chung với thân tộc cho nên ly hương lập nghiệp mới dễ phát huy được tài năng, toàn diện.

7. Trán lẹm:(h.17 và h.18)

Trán thu hẹp dần cả về bề ngang lẫn bề cao tính từ mi-cốt trở lên. Theo nhận xét các nhà tướng học Nhật Bản hiện nay là Thạch Long tử Thi trong cuốn Quan tướng học đại ý thì chính vì não bộ thiếu phát triển nên xương sọ cũng bị thiếu tăng trưởng mà thành ra hình dạng như trên .

Trán lẹm là dấu hiệu bề ngoài của trí tuệ và tình cảm thô lậu, nên hành động, ngôn ngữ không hơn gì người man dã dù rằng có được giáo hoá cũng bằng vô ích, vì những kiếm khuyết trí tuệ có tính cách tiên thiên nói trên.

Trán thì khi nhìn thẳng thì thấy cân xứng, nhìn nghiên thì thấy hơi lõm là dấu hiệu rõ rệt nhất của sự nổ lực trí tuệ. sự nổ lực đó rất dễ dàng nếu sự sai biệt giữa các phần lồi lõm đó hào hợp thích đáng (h.19) và nếu sự kiện trên phối hợp với trán cao, rộng ta có thể tiên đoán rằng đó là một cá nhân thông minh một cách tế nhị, nhớ lâu những điều cần nhớ, có thứ tự về tư tưởng, óc suy luận và tập trung tư tưởng chính chắn nên phán đoán chuẩn sát hơn người thường.

Về lĩnh vực quan sát, người đó lưu ý đến hình dạng, vị trí cách phối trí và sự cân xứng hơn là về màu sắc của sự vật . Họ có khuynh hướng trừu tự hóa, suy quả cầu nhân, có khả năng tổng quát háo và hệ thống háo việc giải thích sự vật cụ thể cũng như siêu hình.

Ngược lại, Trán chỉ cao rộgn nhưng phẳng lì như mặt bàn chứ không có sự lồi lõm tối hiểu để có thể nhìn thấy từ xa một cách hòa hợp là dấu hiệu của sự hời hợt, thiếu hẳn sự sâu sắc, tư tưởng khó có thể tập trung vào một số trọng điểm cần thiết. Do đó sự phán đoán thường thiên lệch vì thiếu dữ kiện cần thiết.

3.Ý NGHĨA VẬN MỆNH CỦA TRÁN :

Trong đoạn dạng thức cảu trán, chúng ta có suy diễn những ý nghĩa thuộc về tính tình và trí tuệ . Thật ra, trán không phải chỉ có hai ý nghĩa đó mà còn có nhiều ý nghĩa vận mệnh rất phong phú. Vận mệnh con người trên trán đã được khảo sát trong các chương nói về Thiên Đình, nói về các bộ vị ở Thiên đình như Thiên Trung , Thiên đình, trung chính nói về cung Quan Lộc, cung thiên di. Tác giả không nhắc lại ở đây để tránh sự trùnh dụng và rườm rà.

4. CÁC VẰN TRÁN:

Các vằn trán chỉ có tính cách phụ đới và không mấy ý nghĩa về phưưong diện mạng vận khi quá tuổi trung niên.

Nhưng nếu trong tuổi thanh niên mà vằn trán xuất hiện rõ rệt thì đó lại là điềm đáng lưu ý. Do đó những vằn trán nói ở đoạn này chỉ có nghĩa nhiều đối với tuổi thanh xuân mà thôi (các phụ đồ ở hình 20)

Đứng về phương diện quan sát phổ thông, đại đa số ngươì Á-Đông thường có 3 vằn trán và tướng học khi khảo cứu về vằn trán đã dựa vào đa số kể trên. Ba vằn trán tính từ trên xuống dưới là: Thiên văn, Nhân văn, Địa văn với các ý nghĩa tương tự như sau:

- Thiên văn: chủ về tôn trưởng, người trên

- Nhân văn: chủ về bản thân

- Địa văn: chủ về thuộc hạ, những người dưới mình.

Bởi vậy theo tướng học Á-Đông, 3 vằn trán xuất hiện rõ ràng không đứt đoạn tưưong xứng đoạn tương xứng và có chiều hướng đi lên được coi là các tướng vì dung hòa được cả 3 yếu tố: sự nổ lực của bản thân,

sự giúp đỡ của người trên , kẻ dưới (h.20/1). Trường hợp 3 vạch ngang không bình thường lên cũng được xem là cát tướng nhưng thứ bậc kém hơn (h.20/2).

Bất cứ đường nào thuộc về Thiên văn, Nhân văn, Địa văn đều phải dài, rõ, không đứt đoạn và vắt ngang trán mới được xem là hợp cách.Thiên văn rõ ràng tươi đẹp chứng tỏ mạng vận lúc nhỏ thường được tôn trưởng, thương yêu giúp đỡ, ra đời được thượng cấp quí mến. Nhân văn hợp cách trong một khuôn khổ chung hoàn hảo của trán, biểu thị vận mạng, công danh của người đó đều do dự họ khai sáng, không nhờ cậy vào ai. Địa văn rõ ràng và dài hợp cách chủ về kẻ đó được những người dưới tay tận tâm giúp đỡ mà nên sự nghiệp.

Ngươc lại thiên văn không rõ ràng là kẻ không được người trên hổ trợ, Nhân văn không rõ ràng hoặc đứt đoạn là kẻ tính tình cáu kỉnh, hay gây gổ, Địa văn không ra gì thì kẻ đó khó cùng người dưới hợp tác chân thành.

Dưới đây là ý nghĩa và sơ đồ của một số các vằn trán thường có:

* Có đủ cả ba đường nhưng hoặc Thiên văn hay Nhân văn hay Địa văn không song hành (h.20/3 và h.20/4)thì kẻ đó sẽ gặp hoặc người trên hoặc kẻ dưới không giúp ích gì được cho mình, đôi khi còn gây rắc rối nữa.

* Cả ba đường đó rõ, hợp cách nhưng có một đường thẳng từ Ấn đường chạy lên cắt đứt như hình chữ vương (h.20/5) được coi là một dấu hiệu tốt chủ về trí tuệ thông minh khoát đạt, ý trí kiên cường, nhưng đứng về mặt vợ chồng: bất hòa dễ đưa đến đổ vở vì Nhân văn tạo thành với đường thẳng đó một hình chữ thập, tượng trưng cho sự phu thê ly tán.

* Chỉ có đường Nhân văn rất dài, sâu mà không có Thiên và Địa văn: Chủ về huynh đệ bất hòa, ở chung một mái nhà dễ gây xung đột, đối với vợ, kẻ đó cũng thường hay gây gổ. Nếu cả hai vợ chồng đều có loại vằn trán này thật là đại bất hạnh trong cuộc sống lứa đôi (h.20/6).

*Chỉ có Thiên, Địa văn mà không có Nhân văn hay có mà quá mờ lạt, ngắn: chủ về kẻ đó dễ bị những người xung quanh chi phối (20/7)

* Vằn trán như vết rắn bò (xà hành) có thể liền (h.20/8) hoặc đứt đoạn chủ về tuổi ấu thơ bị nhiều nghịch cảnh, không được hóa thuận với tôn trưởng, thân thể suy nhược, tư tưởng bi quan. Đối với đàn bà, chỉ dấu trên càng có ý nghĩa sâu sắc hơn.

*Vằn trán hình hạc (h.20/9) vì trông tương tự như chim hạc đang bay là dấu hiệu của kẻ lãnh đạm với danh lợi vật chất, chỉ thích suy nghĩ, thần kinh suy nhược, kém giao tế. Trong nhãn quan của nữ giới, đàn ông có vằn trán hình hạc là kẻ rất lãnh đạm với thú vui chăn gối .

LÔNG MÀY

I.- TỔNG QUÁT VỀ LÔNG MÀY:

a. Các đặc tính của lông mày:

Về phương diện cáu tạo cơ quan bộ vị, Lông mày được cổ tướng học gọi là Bảo thọ quan.

Đem chiêm tinh thuật ứng dụng vào tướng số, Lông mày phải được mệnh danh là Kế Đô, Long mầy trái được gọi là La Hầu .

Trong phép đoán lưu niên vận hạn dựa vào các bộ vị trên mặt Mày trái được gọi là Thái Hà, mày phải là Phồn Hà

Căn cứ vào cốt cách con người để định thanh trọc (qua việc phân bố một số bộ vị thành nhiều học đường) Long mày được gọi là Ban duẩn học đường.

b. Các đặc thái của long mày:

1.- Long mày đúng cách.

Sợi Long mày có đường kính tương tự như đường kính sợi tóc được coi là đúng cách về hình dạng, khoảng cách của chúng cũng tương đương với khoảng cách giữa các sợi tóc.

2.- Lông mày thưa.

Sợi Lông mày lớn bằng sợi tóc, khoảng cách giữa các sợi Lông mày bằng khoảng cách của các sợi lông chân, tay thì gọi là Lông mày thưa.

3.- Lông mày lạt và mỏng.

Sợi Lông mày nhỏ lại vừa ngắn như các sợi lông măng nhình xa tưởng như không có nên gọi là Lông mày lạt và mỏng.

4.- Lông mầy đặm, thô.

Sợi lông mày to bằng sợi lông mũi thì gọi là sợi Lông mày thô, Thường thường nếu sợi lông mày bằng sợi tóc nhưng khoảng cách giữa những sợi lông mầy bằng nhau hơn là khoảng cách các sợi tóc thì đó gọi là Lông mày đậm. (Trường hợp này tướng pháp gọi là Trọc Trung Hữu Thanh). Cũng có trường hợp khoảng cách giữa các sợi lông mày bằng khoảng cách giữa các sợi tóc nhưng vì sợi thô nên khít lại với nhau cũng gọi là đậm. Trường hợp này mới gọi là Trọc.

II.- CÁC Ý NGHĨA CỦA LÔNG MÀY :

a) Tương quan giữa Lông mày và cá tính.

Lông mày liên quan mật thiết với cặp mắt, giúp cho người ta định rõ được tinh thần con người về mặt trí tuệ. Cho nên coi tướng Lông mày không nên tách rời ra khỏi cặp mắt.

1.- Thông minh tổng quát

Lông mày cong và dài quá mắt, trông bóng bẩy và không rộng. Không hẹp là biểu thị thông minh, mẫn tuệ. Nếu dài vừa phải thì cần phải có nốt ruồi ở giữa chân mày mới đắc cách. .

2.- Thông minh, đa tài và khéo léo

Lông mày thanh tú, dài quá mắt, hướng Lông mày mọc từ đầu mắt hướng về cuối mắt, mọc kín xương chân,không lan lên trên, không rủ xuống phía mắt, biểu thị tâm tính trung hậu, thông minh, nhãn quan rộng rãi.

Nếu mắt mờ và nhỏ: các đức tính trên chỉ có tính cách tiêu cực, chỉ biết thưởng lãm, cảm thông mà không đủ sức làm đến nơi những điều mình nghĩ.

Nếu mắt sáng lớn thì các đức tính trên trở thành tích cực, thực thì được tất cả sở nguyện. Khéo léo chân tay trong tất cả mọi công tác trí óc lẫn tay chân; đuôi Lông mày càng cao thì các đặc thái trên càng rõ.

Vẫn những đặc tính trên nhưng nếu chiều dài của Lông mày ngắn dần thì các đức tính trên cũng bị giới hạn dần lại.

3.- Thông minh hiền hào

Lông mày đẹp rũ xuống phái mắt và hình dạng Lông mày như cánh cung.

4.- Cứng cỏi, ngoan cố, ngu độn

Lông mày có sợi trung bình, đẹp mà mọc ngang là kẻ tínhtình cứng cỏi, hay câu nệ nhưng còn biết thị phi.

Long mày ngắn mà mọc ngược là kẻ tính tình ngoan cố, ưa cãi lý.

Lông mày thưa ngắn (hoặc mịn nhưng xoắn lấy nhau hoặc mọc ngược chiều mà ngắn) mà ánh mắt vô thần là kẻ ngoan cố và ngu độn.

5.- Cô độc, quả giao

Lông mày ngắn không tới đuôi mắt: tính nết ưa cô đôc, không thích giao du thân mật với mọi người. Do đó không có bạn tâm giao.

6.-Hào sáng phóng khoáng

Lông mày mịn đen bóng, mọc che kín hết xương Lông mày mà dài hơn hoặc bằng chiều dài của mắt, đuôi Lông mày cao hơn đầu Lông mày, các sợi Lông mày xuôi theo chiều thuận và phủ lên mi- cốt như hình dạng mái ngói: giữa mi- cốt lông mọc rồi hai bên thấp dần là

biểu thị tâm tình hào sáng, phóng khoáng, không cậu nệ tiểu tiết. Nếu Lông mày thưa, thô hoặc quá to bề ngang thì là kẻ cuồng phong.

7.- Mềm mỏng, nhu thuận

Kẻ tính tình nhu thuận, dễ bị người thuyết phục thì Lông mày vòng cung, đầu và đuôi nhọn, nhỏ so với phần giữa hoặc hơi cong mà đầu chân mày cao, đuôi Lông mày xuống thấp hơn đầu.

8.- Tham lam, dâm dật

Đặc trưng của tham lam, dâm dật làloại Lông mày hoặc mịn và rối như tơ vò hoặc nhỏ bản và cong vút như mày ngàn.

9.- Tàn nhẫn, háo sắt

Lông mày thô, mọc thẳng đứng hoặc mọc hướng lên phía trên là kẻ thần khí cương bạo, tính tình tàn nhẫn, háo sắt, ưa đấu tranh bạo lực, Sách Nhân luân đại thống phú có nói : "Lông mày mọc ngược mà thô là kẻ tính hay đa sát, dữ như lang sói". Nhưng, đặc tính trên chỉ trở thành hành động nếu nó đi đôi với mắt chó sói hoặc mắt óc lồi mà lộ hung quang. Còn không thì đó chỉ là biểu hiện của tính háo sắt tiêu cực.

Người ta thường nói "Mi thanh mục tú" là kẻ tính tình hòa nhã, thông minh. Xem như vậy, Lông mày và mắt là những nơi để phát hiện ra được cá tính của con người. Phối hợp cả hai (Lông mày và mắt) ta có tạm đủ yếu tố để quan sát cá tính con người dưới khía cạnh tinh. Ở đây soạn giả thấy cần phải đúc kết những điều thu thập được của tướng học về tương quan giữa Lông mày và cá tính thành một "biểu nhất lãm" dưới đây để độc giả tiện tham khảo.

_ Lông mày dài, mịn, trông thanh nhã là biểu hiện của sự thông minh và kéo dài chân tay lẫn trong cách cư xử.

_ Khoảng giữa Lông mày có nốt ruồi là kẻ thông minh có tài bắt chước.

_ Lông mày đẹp, cong xuống như trăng non là kẻ thông minh nhưng tiêu cực, tính nết hiền hòa.

_ Xương Lông mày nổi rõ ràng và tính theo chiều dọc thì hai bờ xuôi thấp như mái nhà là kẻ cương nghị.

_ Lông mày phía trên dài hơn phía dưới và mọc lan quá mi cốt về phía trên là kẻ rất hiếu kỳ và cực đoan.

_ Lông mày bóng bẩy, mọc kính mi cốt và xuôi theo chiều từ đầu đến đuôi là kẻ tính tình hào sảng.

_ Lỗ chân Lông mày tương đối nhỏ và khít, Lông mày dài và có chiều thẳng hơn là chiều cong là tướng thông tuệ, hiền hậu, chung thủy.

_ Lông mày cong hoặc đuôi Lông mày là kẻ tâm tính thiện lương nhưng mềm yếu không có dũng khí.

_ Mày thô nhưng có thế hoặc mọc ngược mà xoắn tít ở đầu sợi là kẻ tính tình hung bạo.

_ Xương Lông mày (mi -cốt) mọc quá rõ và hai bờ điều cao bằng phần chính giữa bất kể mày thanh hay trọc, đều là triệu trứng bề ngoài của hung hãm, tàn bạo, gặp việt khó thương hay gây ra đổ vỡ.

_ Lông mày mà đuôi bị khuyết là kẻ hay trí trá, gian hiểm.

_ Lông mày quá thưa thớt và mỏng là kẻ tài trí tầm thường, hay a dua nịnh hót.

_ Lông mày thưa mà đậm, hoặc đuôi Lông mày có nốt ruồi đen là kẻ tham lam ưa trộn cắp hoặc háo dâm.

_ Hai Lông mày có hình dạng hoặc sắc thái không tương xứng là kẻ tính tình cố chấp, quan niệm một chiều.

_ Lông mày đa số xuôi theo chiều bình thường mà lại có một số mọc thẳng đứng hoặc mọc ngược lên hướng trên là kẻ tính tình phản trắc hoặc gặp việc khó thì mất hết khí phách con người.

_ Lông mày ngắn hơn mắt, thương kém về tài giao tế.

_ Đầu Lông mày có một số sợi lông mọc ngược chiều về phía Lông mày đối diện là biểu hiện của cá tính ưa tranh đấu và ưa sát sinh.

_ Lông mày mọc dọc theo chiều ngang và hướng xuống phía mắt biểu thị tính nết cứng rắn, cố chấp, có tà ý.

_ Lông mày đỏa vị trí (chiều Lông mày xuôi theo từ đuôi mắt hướng về đầu mắt) là kẻ kiên cường, không chịu cùng người khàc cộng tác.

_ Lông mày trông thô và hỗn trọc là kẻ đầu óc trì độn.

_ Đàn ông mà có Lông mày đàn bà (nhỏ, hẹp hoặc mảnh quá cức) là kẻ tâm tính không bình thường, hay vong ơn bội nghĩa.

_ Đàn bà mà Lông mày có bbề ngang quá hẹp trông như sợi chỉ. Khi nói năng mà lông mày cũng bất động như lúc im lìm là kẻ bất cần trinhtiết, đâm đãng.

b) Tương quan giữa Lông mày và phú quí, bần tiện

Lông mày cũng như mắt giúp ta biết được quý tiện, cho nên có tên là Ban duẩn học đường. Cũng vì lẽ đó, mà tướng pháp có câu Văn danh tại mi.

1.- Phú quý

Lông mày dài quá mắt là tướng tổng quát về phú quý.

_ Lông mày dài, mọc cao lên về phía trán, cách xa mắt là phúquý vinh đạt.

_ Lông mày đẹp hướng lên phía Thiên thương là tướng có phúc khí: vừa giàu có vừa được mọi người kính nể.

_ Lông mày đen, tươi, mịn, dài bằng hoặc hơn mắt là tướng quý hiển, dễ dàng thành danh hơn người.

_ Lông mày đẹp, sợi nhỏ như sợi tóc là qíy tướng: đó là dấu hiệu cho biết tiến trình tiến triển vô hạn.

_ Lông mày đẹp, đầu Lông mày có nốt ruồi đẹp và đen là kẻ có tướng được hưởng quan lộc cao sang hơn người.

_ Lông mày cong và dài, đẹp và mịn là tướng phú quý, danh tiến vang khắt thiên hạ.

2.- Bần tiện

Đặc tính tổng quát là sợi thô, quá nhỏ, lông mày ngắn.

_ Lông mày quá ngắn, xấu, không tới đuôi mắt là tướng nghèo khổ, có tiền cũng không được hưởng.

_ Khoảng cách giữa bờ mắt và Lông mày không có hoặc quá ít cơ hồ như Lông mày che lấp mắt hẳn mắt là tướng của kẻ luôn luôn khốn quẫn về tiền bạc.

_ Lông mày mà có nhiều gân nổi lên ở phía trên là tướng khốn quẫn không bao giờ kiếm được đủ tiêu.

_ Mày đậm được coi là tốt nhưng quá đậm đến nỗi nhìn không thấy chân Lông mày thì lại là tướng phá tài, dễ bị cùng quẫn.

_ Hai đầu lông mày mọc liền với nhau thành một vệt dài duy nhất từ đuôi mắt phải sang đuôi mắt trái là tướng không bao giờ dư giả tiền bạc.

_ Lông mày mọc ngược mà thô là tướng bần tiện. Nếu có thêm sợi dài thì tính hung dữ,

_ Lông mày ngắn, mọc xoắn tít và lan sát tới bờ mắt khiến người ngoài nhìn vào thấy có vẻ sầu khổ là tướng phá tiền bạc, càng về già càng nghèo khổ.

- Đầu lông mày, trong tuổi thanh niên mà có những vằn nhỏ rõ rệt là tướng nghèo hèn, suốt đời vất vả.

- Hai đầu lông mày có hai vết sâu rõ, thành chữ bát là tướng vất vả, suốt đời không được hưởng thụ nhàn hạ về tiền bạc.

- Lông mày có sợi quá nhỏ và mảnh là tướng vừa nghèo vừa đê tiện.

c. Tương quan giữa Lông mày và gia vận:

1. Gia cảnh tốt và vui vẻ:

Đời sống gia đình lúc nhỏ cũng như lúc lớn ảnh hưởng tới gia đình và thể hiện qua tính cách của Lông mày, ta có thể biết được những nét chính yếu về gia đình vận mạng:

- Sợi Lông mày, chiều dài lông mày vượt quá mắt.

- Sợi lông mày cao dần và thanh tú

- Sợi lông mày đen đậm nhưng đen nhuận, snág sủa, hình dạng tổng quát của lông mày cong xuống như trăng thượng tuần.

- Đó là những dấu hiệu bề ngoài của kẻ có gia đình vận mạng tốt, có hạnh phúc gia đình.

Ngoài ra theo một thuyết khác khá thông dụng nhưng không được chính xác lắm là lông mày có thể cho ta biết được số anh em ruột đại khái như sau:

- Lông mày đậm dài quá mắt thì có khoảng 3 hoặc 4 anh em.

- Lông mày đẹp, đậm đều, nhưng chỉ vừa bằng mắt thì anh em tối đa là 2 người.

- Lông mày bình thường nhưng nếu đặc biệt có một sợi mọc thẳng và đặc biệt dài hơn tất cả các sợi khác thì có 1 hoặc 2 anh em, có hai sợi thì 3 hoặc 4 anh em , ba sợi thì có 4 hoặc 5 anh em .

- Sơi lông mày trông sáng sủa, đen min, không thưa, không khít khao từ đầu đén cuối có khoảng cách đều đặn quân bình kể trên là kẻ có 6, 7 hoặc 8 anh em ruột.

2. Gia cảnh xấu và bất hòa:

Hai đầu lông mày giao nhau thì anh em ruột thường hay xung khắc. Nếu có thêm loại lông mày mọc đứng thẳng thì khổ sở vì anh em , có anh em không bao giờ nhờ cậy được

- Lông mày mọc rủ xuống hoặc hướng lên chứ không theo chiều xuôi bình thường, sơi lông mày lại dài đều đều là dấu hiệu bất hạnh trong đời sống gia đình.

- Lông mày bị đứt đoạn là kẻ không thể chung sống cùng nhà với anh em có số ly hương xuất ngoại mới khá.

- Lông mày trông có vẻ thanh tú nhưng mắt lờ đờ, thần sắc trì trệ là kẻ thường hay lụy vì đàn bàn, hoặc gây liên lụy cho con cái.

- Lông mày có hình chữ bát mà sắc hắc ám là kẻ vô duyên với quyến thuộc, có hình chữ nhất là biểu hiện của kẻ bị vợ coi thường.

- Lông mày bên phải có một số sợi mọc dài và uốn cong là dấu hiệu mà chết trước cha, Bên trái là dấu hiệu cha chết trước mẹ. Cả hai lông mày đều có dấu hiệu trên là điềm cha mẹ đều mất sớm.

- Hai lông mày đều mọc không tương xứng (hoặc một bên cao bên thấp, bên xuôi bên ngược, bên thẳng bên cong, bên đậm bên lợt, bên lớn bên nhỏ, v.v...) là biểu hiện hoặc cha hay mẹ mất sớm, hoặc anh em bất hòa hoặc thân thích thò ơ.

- Lông mày thô, cứng thì tính tình ưa dâm dật nhưng rất hiếm con hoặc không con.

- Lông mày rủ xuống phía dưới mắt mà trong dáng mặt lúc nào cũng có vẻ nhăn nhó sầu muộn là tướng của kẻ khắc với vợ con, gia đình thưuờng gặp cảnh bất hòa.

d. Tương quan giữa lông mày và thọ yếu:

Đối với tưuớng pháp cổ điển lông mày là một dấu hiệu rõ rệt và khả tính nhất để đón vận mạng sống con người dài hay ngắn, vì thế, lông mày được mệnh danh là báo thọ quan.

1. Dấu hiệu trường thọ:

- Các sợi lông mày phía đuôi dài hơn phía đầu.

- Lông mày dài mà có chiều cong xuống.

- Trong tuổi trung niên mà lông mày có điểm vài sợi bạc, trong khi toàn bộ lông mày có dáng tươi nhuận

- Lông mày đa số bình thường, đột nhiên có một số sợi mọc dài hẳn ra ở khoảng giữa. tuy nhiên, dấu hiệu này xuất hiện trước 50 tuổi là dấu hiệu sẽ chết đột ngột vì bệnh nội tạng trong vòng vài ba năm tới kể từ khi phát hiện

2 Dấu hiệu trường thọ và khoẻ mạnh:

-Mày dài, vị trí duôi mi cốt cao dần, sợi long mày đẹp và sáng sủa

- Lông mày cân sứng về sắc thái, dài ngắn, lớn nhỏ, vị trí, hình dạng sợi lông mày mọc điều đặng sáng sủa.

-Mi cốt cao vừa phải, có thế, lông mày đều và phía đuôi có góc nhọn rõ ràng, tươi đẹp.

3 Đấu hiệu non yểu:

-Hai đầu lông này mọc sát vào nhau, trong xa không thể phân biệt được rõ ràng là tướng yểu mệnh tự nhiên.

-Hai bên lông mày bất tương xứng là tướng chết yểu vì bệnh tật.

-Đầu lông mày cao, cuối lông mày thấp và dầu mi-cốt cao hẳn rồi lại trũng và mất hút vào xương trán.

III -CÁC LOẠI LÔNG MÀY ĐIỂN HÌNH

1-Lông mày quỷ (quỷ mi)

Sợi lông mày thô dài, có bề ngang rất rộng. Phía cuối lông mày có một số ăn lan xuống bờ mắt(h21).Người có loại lông mày quỷ là người rất khôn ngoan, gian hiểm, tham bạo, ưa sử dụng thủ đoạn. Trong khi giao thiệp với người thường ra vẽ nhân nghĩa,nhưng thực tâm chỉ nhằm lợi dụng.

H21

2-Mày thưa và rời rạc (Sơ tán my)

Sợi lông mày tương đối ngắn, thưa và khoảng cách giữa các sợi lông không điều đặn. Chiều dài ngắn hơn mắt và hình dạng thô trọc(H22).Về phương diện mạng vận,lông mày thưa biểu hiện tình bạn lạt lẽo bình thường, tiền bạc không giữ được lâu bền mà lại lên xuống theo từng chu kỳ.Hết rồi lại có ,có rồi lại hết, dù hết sức cố gắn cung không thể thay đổi trình tự kể trên.

H22

3-Lông mày đức đoạn(Gián đoạn mi)

Bất kể lông mày nhiều hay ít, dài hay ngắn, nếu có mọt quãng bị ngắt quãng hoặc lông ở một đoạn quá ngắn hay mờ lạtmột cách bất thường đều bị coi là gián đoạn mi(h23).Lông mày gián đoạn có ý nghĩa rất xấu vè mặt mạng vận,kẻ có gián đoạn mi có của cũng không giữ được vì tiền bạc thăng trầm ngoài ý liệu, anh em vô duyên, không nhờ cậy được, tính tình xung khắc hoặc phải xa cách cha mẹ.

H23

4-Mày đuôi én(Giao da mi)

Lông mày to bề ngang, đen và đậm, hình dạng thô và phần đuôi chẻ ra hai nhấnh rõ rệt trông giống như đuôi chim én(h24).. Về mặt mạng vận, từ trung niên trở đi rất xáu, có thể bị tù tội, gia sản tiêu hao, anh em bất hoà và ly tán.

H24

5-Lông mày thưa và lạt(Hoàng bạc mi)

Sợi lông mày nhỏ, màu ngả vàng, khoảng cách thưa và không đều, luôn luôn ngắn hơn mắt.Nếu mắt dài mà gặp loại lông mày này thì ngay từ tuổi trẻ tuy tiền bạc có vào nhiều nhưng ra cũng lắm,không bao giờ dư dật.Nếu mắt hôn ám thì kẻ có lông mày thưa và lạt có số chết ở quê người (h25)

H25

6-Lông mày chổi xể(Tảo trứu mi)

Hình dạng lông mày tương tự như cái chổi quét nhà(h26).Đầu lông mày trong thanh tú, lông mịn, càng về phí đuôi thì càng thưa dần, phía nhọn uốn cong về phía trán.Về mặt mạng vận gia đình,lông mày chổi xể tượng trưng cho sự thiếu tình cốt nhục(cả anh em lẫn con cái).Hậu vận rất xấu vè cả tiền bạc lẫn gia cảnh.

H26

7-Lông mày chữ bát(Bát mi tự)Về loại lông mày này có hai giả thuyết:

a)Đầu lông mày bình thường nhưng cuối lông mày chia thành hai nhánh.Một nhánh hếch lên và chiều hướng của sợi lông mày cũng hướng lên;còn nhánh thứ hai tẽ xuống, chiều lông mày cũng xuôi theo.Tóm lại, hai nhánh có chiều hướng khác nhau:một thuận một nghịch(h27).Lối phân định này được nhiều người công nhận hơn lối thứ hai.Về ý nghĩa,lông mày chữ bát chủ vè vận số long đong nhất là các lãnh vực tình cảm, tiền bạc.

b)Lông mày thuộc loại dài,đầu lông mày cao và thân lông mày thấp dần,đến đuôi lông mày thì xuống thấp gần ngang hàng với đuôi mắt.Cả hai lông mày phải trái và trái hợp với nhau thành hai nhánh trông như hai nhánh chữ bát. Loại lông mày chữ bát thường đầu mịn đuôi thưa,càng thô và càng tản mát thì ý nghĩa lại càng xấu.

H27

8-Lông mày dao cau(Tiêm dao mi)

Lông mày nhỏ, hẹp cả bề dài lẫn bề rộng có hình dạng như loại dao têm trầu thời xưa(h28), lông mày thô và ngắn.Kể có loại lông mày dao cau tâm địa gian hiểm, đầu óc tàn nhẫn, hung bạo, ngay cả đối với anh em ruột thịt cũng không vị tình.Người có loại lông mày dao cau thường chết bất đắc kỳ tử.

H28

9-Lông mày la hán(la hán mi)

Mày đậm mà thô.bề ngang rất rộng và uốn hơi cong như lông mày các tượng La hán trong các đền chùa cổ(h29).Đây là loại lông mày rất xấu,tượng trưng cho sự trì trệ đủ mọi phương diện.Người có cặp lông mày la hán mà được cặp mắt tốt thì vợ trễ, con muộn, tuổi trẻ gian nan vất vả.Nếu lông mày la hán đi với mắt xấu hoặc nhãn thần hôn ám là điềm báo trước chết vì hình thương ở tuổi trung niên.

H29

10-Lông mày rồng(Long mi)

Lông mày đẹp, có dáng bóng bẩy, sợi lông mày dài và hơi thưa,đầu lông mày nhỏ, đuôi lông mày cao, hơi thô và cao hơn đầu(h30).Về mặt mạng vận, lông mày rồng phối hợp đắc cách với các loại mắt tốt là tượng trưng cho sự đông anh em, cha mẹ sống lâu và giàu có hơn người.

H30

11-Lông mày lưỡi kiếm(kiếm mi)

Sợi lông mày mịn, khoảng cách vừa phải, bề ngang hơi nhỏ, bề dài quá mắt.Trông xa loại lông mày này thẳng, đuôi ngược lên trông như lưỡi kiếm(h31).Lông mày này biểu tượng cho tính nết cứng cỏi, học vấn sâu rộng.Về mặt gia đình, mạng vận, mày lưỡi kiếm tượng trưng cho phú quý lúc trung niên trở đi.

H31

12-,Mày lá liễu(Liễu diệp mi)

Lông mày dài, thon ở hai đầu, trông mường tượng như lá cây liễu. Về tính chất của lông mày này, có vẻ hơi thô trọc nhưng nhìn kỹ và lâu lại có vẽ thanh tú đặc biệt(trọc trung đới thanh),(h32).Mày lá liễu biểu tượng tâm tính trung tín nhưng cá tính nhu thuận, dễ bị người thân chi phối hoặc khinh mạn. Nếu gặp được người quỳên quý đỡ đầu mới có thể hiển đạt được.

H32

13-Lông mày sư tử(Sư tử mi)

Lông mày đậm và khá dài, thường thường bằng chiều dài của mắt, sợi lông mày thô, bề ngang khá lớn và hơi cong xuống, tuy nhiên mọc khá xa bờ mắt(h33).Lông mày sử tử hợp với mắt sư tử hoặc cọp tượng trưng cho sự thông minh, hoạt bát, dễ thành đạt nhưng vợ trễ con muộn,vinh hoa phú quý ở buổi vãn niên.

H33

14-Lông mày đầu mịn đuôi thưa(Tiền thanh hậu tán mi)

Vị trí lông mày đầu đuôi bằng nhau, bề ngang thuộc loại hơi lớn, đầu lông mày có sợi nhỏ , hơi khít,mịn, bắt đầu từ phần gấp khúc trở về sau lông mày dài dần dần và khoảng cách thưa dần .Hình dạng lông mày tương tự chữ nhân(h34),trông thoáng qua thì không được tao nhã, nhưng nhìn kỹ dưới nhãn quan tướng học thì lại có vẽ thanh tú(trọc trung hữu thanh).Người có loại lông mày trên, đỗ đạt hoặc nổi tiếng sớm nhưng tiền bạc bình thường, từ trung vận trở đi tấn phát được,Nói chung loại lông mày đầu mịn đuôi thưa chủ về quý mà kém thọ.

34

15-Lông mày ngắn, nhỏ mad đẹp(Đoản xúc tú mi)

Long mày mịn , đều, bề ngang hơi nhỏ và ngắn hơn mắt,dáng vẽ thanh tú, hợp với khuôn mặt, cặp mắt và râu tóc(h35).Đắc cách nói trên thì lông mày đoản xúc nhi tú tượng trưng sự khang kiện về cả vật chất lẫn tinh thần : tính tình trung hậu, trí tuệ sáng suốt, khong hay đau ốm trong buổi vãn niên.

Tóm lại, đoản xúc mi tú thuộc hạng tiểu quý ,tiền tài bình thường nhưng gia đình, vận mạng hoà thuận.

H35

16-Lông mày đẹp vừa phải(Khinh thanh mi)

Đặc tính tôngt quát tương tự như loại đoản xúc tú mi ở trên, nhưng bề ngang lẫn bề dài đều lớn hơn, hơi có chiều cong uốn theo mắt và dài bằng hoặc lớn hơn mắt ,đuôi mày dài và hơi thưa(h36).

Người có loại khinh thanh mi phối hợp đắc cách với râu tóc và mắt là tướng được mọi người vị nể, thông minh, hoạt bát, lại đói xử với kẻ xung quanh có nghĩa.

H36

17-Lông mày sâu róm(Toàn luỹ mi)

Sơi lông mày thô, dầy, khít, phía đầu dựng ngược và ngắn, phía đuôi hoặc ngang hoặc hơi xuôi về phí đuôi mắt.hình dáng thô bạo và to bề ngang( h37).

Kể hợp cách về ngũ quan thì dễ thành đạt về mặt võ nghiệp nhưng tính tình thô lỗ hay gây hiềm khích . Kẻ thường tục thì hoặc hình thê khắc tử hoặc bản thân lưu lạc tuỳ theo ngũ quan bị khuyết hãm hoặc xung khắc nhiều hay ít.

H37

18-Lông mày chữ nhất(Nhất tự mi)

Sợi lông mày mịn, đen, khoảng cách vừa phải , khá to bề ngang, dài bằng hoặc hơn mắt và đầu đuôi bằng nhau, thẳng băng thành hình dạng chữ nhất (-)Hán tự(h.38).Lông mày chữ nhất hợp với các loại mắt dài và có chân quang, biểu hiện cho tâm tình nhân nghĩa, thông tuệ.

Về mặt mạng vận , lông mày chữ nhát đắc cách tượng trưng cho sự phát đạt ngay từ thuở trẻ, gia đình thuận thảo đến bạc đầu, phú quý trường thọ ít khi có kẻ sánh kịp.

H38

19-Lông mày trăng mon(Tân nguyệt mi)

Lông mày có sợi vừa vặn , mịn, mọc xuôi, sắc đen và rõ như nét vẽ, uống cong như hình dáng trăng mồng 2 mồng 3 , dài quá mắt và dáng vẽ thanh tao(h.39).Hợp với mắt hạc hoặc mắt loan, ngũ quan toàn vẹn, tương xứng với cách cục hình hài , mày trăng non biểu tượng cho trí óc thong tuệ, nhu thuận , nổi tiếng vè đường văn học và khoa bảng.

Về mặt mạng vận , gia thế , có thuyết cho rằng kẻ có mày trăng non thì cả anh em cũng điều hiển quý nhưng không có gì làm bằng.

H39

20-Lông mày tằm( Ngoạ tầm mi)

Sợi lông mày hơi thô, cong và to bản trông như dáng con tằm.Néu lông mày đẹp và có vẽ tao nhã (trọc trung hữu thanh) thì đó là biểu hiện của tính nết khon khéo , uyển chuyển, dễ thành đạt, nhưng thiếu tình thân thiết anh em(h.40).

H40

21-Lông mày cọp( Hổ mi).

Lông mày xếch lên, to bản, dài bằng hoặc hơn mắt, sợi lông mày thô, đuôi dài và hơi thưa(h.41)

Lông mày cọp thường được coi là loại mày quý nếu hợp với mắt sư tử hay cọp và chủ về các nghề có tính chất canh tranh(vũ nghiệp, thực nghiệm gia v.v..)Lông mày cọp chỉ nặng về tính cách quý hiển chứ khong đại phú, trường thọ, ngoài ra còn khắc anh em con cái.

H41

22-Mày đậm ngắn (Đại , đoản xúc mi)

Mày rất ngắn , không quá mắt, nhưng dáng vẽ đậm và thanh nhã , sợi nhỏ, đen và mịn.Phía đầu lông mày có một số sợi mọc ngang(h.42).

Về phương diện mạng vận gia đình, lông mày đậm, đẹp và ngắn tượng trưng cho gia cảnh hoà thuận:anh em thân thiết, con ngoan vợ hiền...Tiền bạc khi tụ khi tán.

H42

23-Lông mày thanh tú(Thanh tú mi)

Hình thể hơi cong và dài quá mắt , đầu hơi nhỏ và thấp, đuôi lớn dần và cuối cùng nhọn, cao hơn đầu .Sợi lông mày không lớn không nhỏ, không quá đậm không quá lạt, trông xa như nét tranh vẽ . Tướng pháp gọi loại lông mày này là thanh tu mi vì tục ngữ có câu:" Mi tự thanh sơn".Màu xanh tươi như cây bao phủ núi một màu xanh(h.44).

Phối hợp với loại mắt trong sáng , có thần , lông mày thanh tú biểu hiện cho sự thông minh, trí tuệ cao viễn, đỗ đạt sớm, danh vang thiên hạ về mặt học thuật.

H43

IV ­ KHU VỰC HẠ ĐÌNH

Trong khu vực hạ đình, ngoài miệng là bộ vị quan trọng bậc nhất còn có một số bộ khác cũng đóng một vai trò đáng kể như: pháp lệnh, nhân trung, cằm và mang tai.

a) Pháp lệnh:

Pháp lệnh là hai vết lằn chạy dài từ hai bên cánh mũi xuống phía dưới(h168), hình giống như chữ bát.

Theo nguyên nghĩa thì pháp lệnh có nghĩa là pháp luật và mệnh lệnh. Do đó, nhìn vào pháp lệnh ta có thể quan sát được cá nhân đó có tính trật tự hay không.

Ngoài ý nghĩa về cá tính kể trên việc quan sát pháp lệnh còn cho ta biết:

Sự nghiệp thịnh, suy: pháp lệnh rõ ràng đều đặn cân xứng à biểu hiện của sự nghiệp phát triển, ổn cố. Nếu pháp lệnh không rõ ràng, lệch lạc thì ý nghĩa trên sẽ đảo ngược lại. pháp lệnh về mặt gia vận, còn được coi là đường phân ranh giữa gia đình tính và xã hội tính. Phía trong pháp lệnh, đặc biệt là khu vực nhân trung được coi là trung tâm gia đình, phía ngòai là xã hội. Do đó, kẻ có pháp lệnh hướng ra bên ngoài chủ về đối với gia đình rất có hứng thú, đối với đời sống xã hội cũng có nhiều đam mê, hướng ngoại hơn là hướng nội.

Chính pháp lệnh có nhiều ý nghĩa như vậy nên trong tướng học người ta rất lưu tâm quan

sát và đi đến một sốnhận xét sau đây:

1 ­ pháp lệnh mờ lạt

hình 169 là loại pháp lệnh chủ về suốt đờ sự nghiệp gặp nhiều khốn khó, rất ít khi được việc gì tọai ý. Nếu như ngoài việc pháp lệnh mờ tối mà mắt thuộc loại vô thần thì vừa bất đắc chí vừa yểu thọ.

H169

2- pháp lệnh có nốt ruồi

Đây là dấu hiệu chủ về sự bất hoà hợp với thân quyến khó tránh khỏi phá tan tổ nghiệp hoặc về tính tình thì đó là loại người tự tôn quá đáng nên sinh ra lắm chuyện lôi thôi, cuộc đời sẽ có lúc thất bại chua cay.

H170

3-pháp lệnh chẻ

Loại pháp lệnh này ở cối chẻ thành nhiều ngả hoặc gồm nhiều đoạn nhỏ chấp nối dư thừa lại với nhau là dấu hiệu của người có chí mà không thành đạt, rời bỏ nơi sinh đẻ, bôn tẩu tha phương, suốt đời vất vả. Dù có may mắn được giàu sang một lúc thì cũng chẳng bền vững.(H171)

H171

4-pháp lệnh toả khẩu

Đó là loại pháp lệnh có hai lằn chạy sát với mép miệng. Nếu đuôi pháp lệnh rõ và ăn thông với hai vằn của khoé miệng thì được gọi là đẳng xà nhập khẩu( rắn bò vào miệng) chủ về vệc sẽ bị chết đói vào khoảng 45 tuổi hoặc ít ra cũng bị tai nạn lớn lao. Tuy nhiên, dù kết cuộc có bị đói rách, nhưng loại pháp lệnh này không có nghĩa là người đó không thể phát quý một thời. Thời xưa, tướng quân Chu Á Phu được vua Hán Vũ Đế phong tước giàu sang tột đỉnh một

thời, đến đời vua sau họ Chu bị hạ ngục và cố ý chết đói trong tù. Vừa qua, tại Đài bắc vợ một nhà tỷ phú cũng có loại pháp lệnh này và rốt cuộc chết vì đói nhưng không phải là vì bần hàn mà chỉ vì mắc bệnh yết hầu, không ăn được mà chết.(H172)

H172

Tuy nhiên, nếu người nào có loại pháp lệnh này, chủ về chết vì không được ăn nhưng nếu được các quý tướng khác lấn lướt thì lại vô hại. Vào năm 1911, tại Thượng Hải có 1 nhà đại tài phú tên Lương Sỹ Di cũng có loại pháp lệnh trên nhưng lưỡi ngay ngắn và chính giữa lưỡi có nốt ruồi son (chủ về đại cát tướng ): Kết cuộc là Lương chết vì già trên nhung lụa giàu sang, tận hưởng vinh hoa phú quý lúc Mãn đời. Sở dĩ Lương được như vậy nhờ có nốt ruồi son phá hư tướng chết đói và từ Đằng xà nhập khâu, 2 lằn pháp lệnh tai hại đã hợp với nốt ruồi son thành cách cục phú quý gọi là song long thương châu: 2 con rồng tranh nhau ngọc quý.

Do đó, xấu mà gặp đúng cách phối hợp thì lại trở thành tốt. Đoán tướng pháp lệnh cần hết sức lưu tâm việc này.

H173

1 biến thái khác của loại pháp lệnh kép gồm bộ phận pháp lệnh bên ngoài rất rõ bao quanh 2 đường lằn nỏ chạy từ 2 mép mũi xuống trán 2 lằn nhỏ này có thể rõ hay lờ mờ. Loại này là cuộc đời bất định lúc trung niên. Thánh công không đủ nhưng khi thất bại lại dư thừa. Dữ kiện trên trở thành thục té trong khoảng thời gian trên dưới 50 tuổi. Đến vận hạn thuộc pháp lệnh, người đó khó thoát cảnh đói rah1, đại nạn.(H173)

5 ­ Pháp lệnh thảm tử:

Loại người có pháp lệnh vừa tỏa khẩu vửa có lằm mờ nhỏ nhưng đủ nhìn thấy hình chạy dài từ phía dưới mắt đến tận khóe miệng (h.174) thuộc hạng người chết vì ngộ độc hay bị đầu độc, tự sát vì độc dược. Tóm lại, dó la loại pháp lệnh thảm tử của người chết vì chất độc mà từ trần.

H174

6 ­ Pháp lệnh phú quý

Như hình 175, pháp lệnh này tiêu biểu cho người quý hiển, không giàu thì nổi danh trong thiên hạ, những người nổi danh trong các lình vực giao ùdục, văn nghệ phần lớn đều có pháp lệnh này.

Hình thái thứ hai tương tự trên nhưng chiều dài pháp lệnh dài hơn, đuôi mở rộng hơn (h.176) loại này tượng trưng cho sự phú quý, thọ khảo nhưng có điểm đáng lưu ý là về văn niên khó tránh cô độc. Có loại pháp lệnh này đi tu dễ nổi tiếng và thích hợp nhất.

7 - pháp lệnh thọ khang

Đặc trung pháp lệnh thường thấy ờ người mà suốt đời ít bệnh, sống lâu là 2 lằn của pháp lệnh cân xứng , dài, bao quanh khóe miệng ( nhưng không tiếp giáp khóe miệng, h.177 ) .

Chính vì lẽ thông thường có dạng thức trên thì sống lâu, tướng học gọi là Thọ đới (sợi đai trường tho).

H177

Bình thừơng, người ta ngộ nhận hễ có lằn bao quanh mép là thọ đới , nưng nói chính xác , chỉ có loại pháp lệnh kể trên mới thực sự xứng danh Thọ đới đích thực.

b) Nhân trung

Nhân trung đôi khi gọi là nhân sung, là phần ăn sâu xuống mặt tạo nên 1 rãnh từ chuẩn đầu kéo dài đến giữa môi (môi Trên , h. 178)

Trong tướng đàn bà, Nhân trung là 1 bộ phận quan trong, cho phép quan sát cơ cấu nội thể, thai sản khó dễ, con nhiều hay ít, nhiều gái hay trai.

c) Ý nghĩa tổng quát Nhân trung

trong phép xem tướng , Nhân trung đóng vai trò quan trọng vì nhiều ý nghĩa . Những ý nghĩa đó đã được cuốn tướng pháp cổ điển là thần tướng toàn biên ghi khá rõ, xin dịch nguyên văn :

"Nhân trung với con người cũng giống kinh rạch đối với hình thể đất đai. Nếu kinh rạch nông hẹp thì nước bị ứ đọng. Có thể định được thọ mạng dài, ngắn, căn cứ vào sự dài ngắn của Nhân trung. Có thể dựa vào sự rộng hẹp của Nhân trung để đóan con cái nhiều, ít. Bởi lẽ đó, người ta lấy nhân trung làm thọ mạng cung của con người .

Nhân trung cần dài , chớ không nên co rút lại, nên sâu và rộng , ngay ngắn , chớ không

nghiêng lệch, phía trên vừa phải, dưới rộng dần là tốt.

Nhân trung nhỏ hẹp thì cuộc sống quẫn bách, Nhân trung bằng phẳng thì gặp gian nan ,

vất vả.

Phần trên hẹp, dưới rộng là dấu hiệu nhiều con , phần trên rộng, dưới hẹp chủ về hiếm muộn (ít con ) ; trên dưới đều hẹp mà khúc giữa phình rộng, chủ về con cái khó nuôi . trên dưới đều hẹp và bằng phẳng là tuyệt tự : nhân trung sâu và dài : trường thọ ; nhân trung nông , ngắn, yểu chiết.

1 - Nhân trung dài, ngắn

sự dài này có tính cách hết sức tương đối, chỉ có kinh ngiệm mới khiến ta nhận chân dược sự kiện này.Thường với người loại chính cách thì chiều dài nhân trung bằng 1/3 chiều dài hạ đình được coi là trung bình. Nhân trung dài hơn 1/3 ha đình coi là dài, dưới 1/3 là ngắn (h.179/1 & 179/2)

Về mặt mạng vân Nhân trung dài , sâu , không lệch lạc là tướng sống lâu . ngược lại là tướng yểu. Cũng do ý nghĩa trên, Nhân trung còn được gọi là Thọ đường và tục ngữ Trung Hoa có câu; Nhân trung dài 1 tấc, sống lâu trăm tuổi.

Về mặt cá tính, kẻ Nhân trung ngắn thường được người khác khen ngợi ca tụng mình, thậm chí, chấp nhận việc biến cả những khuyết điểm của mình ra thành ưu điểm. Theo sự nhận xét của nhà tướng học Tô Lăng thiên thì hạng phụ nữ có Nhân trung ngắn rất thích được ca tụng là mĩ nhân đài các, mặc dầu mặt mũi như quỷ dạ xoa, cử chỉ như con lật đật.

Trái lại, kẻ Nhân trung dài và đúng cách có kiến thức độc lập và khách quan mọi hành vi cư xử đều xuất phát tự mình. Nếu gặp người ca tụng hay bị người chê bai đều tự xét 1 cách minh bạch. Đối với loại người này bỗng dưng khen ngợi hay cung kính 1 cách đặc biệt chỉ khiến cho họ hoài nghi ta và sẽ có tác dụng phản kại điều mà ta mong đợi ở họ.

2- Nhân trung rộng, hẹp

Sự rộng hẹp ở đây cũng chỉ có tính cách tương đối và chủ quan. Suy diễn từ nguyên tắc tổng quát được mặc nhiên công nhận cho loại tướng người chính cách thì với tiêu chuẩn trên, hễ chiều rộng bằng 1/3 chiều dài là vừa phải.

Trên hay dưới mức độ kể trên là rộng hay hẹp. 2 hình vẽ 180 và 181 tượng trưng cho Nhân trung hẹp và rộng được căn cứ vào tiêu chuẩn trung bình của loại người chính cách nói ở đoạn trên. Các hình vẽ về sau cũng theo 1 quan niệm đó.

Về ý nghĩa thọ mạng Nhân trung hẹp, chủ về sức khỏe tổng quát ở dưới mức bình thường, Nhân trung có ý nghĩa ngược lại. Về cá tính thì chủ về khoát đạt, hẹp chủ về nhỏ nhen.

3- 3 dạng thức thông thường của Nhân trung

Bất cứ trai hay gái dù ngắn hay rộng hẹp, người ta đều thây Nhân trung có 1 trong 3 dạng thức căn bản sau: a) trên hẹp, dưới rộng H.182)

Mạng vận : đời sống ít gặp phiền não, vui nhiều hơn buồn, may mắn da số so với rủi ro, tai

họa.

Con cái: có khả năng sinh nhiều con và con trai nhiều hơn con gái. Ơû đàn bà có ý nghĩa dễ

sinh sản.

Cá tính:có đảm lượng khoan hoà dễ tha thứ hoăc mau quên các lỗi lầm của người khác

vui tính

b) Trên rộng dưới hẹp(h.183)

Mang vận: Đời sốg gặp nhiều tai ương hơn là may mắn ,càng về già càng khốn đốn

Con cái : ít có khả năng sinh dục,đàn bà thì sinh đẻ khó khăn

Cá tính: hẹp lượng,hay cáu kỉnh(quạu)

c)Trên dưới bằng nhau (h.184 )

Mang vận: Thành bại that thường

Con cái:số con trai,gái xấp xỉ bằng nhau

Cá tính: vui giân bất thường.Nói tóm lại đây là lọai trung dụng của hai loại .Nhân chung

nói ở hai tiểu đoạn trên về tất cả các ý nghĩa của nó

Ngoài ra các điều mô tả trên về mặt hình thức,bất cứ loại Nhân trung nào (dài , ngăn , rộng , hẹp, nở trên ,nở dưới ,cân xứng)điều cóthể hoặc mờ h.185 hoặc rõ, hoặc có vạch ngang cắt đứt h186

*Sự mờ nhạt làm giảm phần lớn các ý nghĩa tốt của Nhân trung ,nhung lại không làm thay

đổi ý nghĩa xấy thành tốt.

* Sự rõ ràng về hình dạng nhấn mạnh thêm ý nghĩa tốt hay xấu của từng loại Nhân trung

* Vạch ngang có thể rõ ràng hay mờ lạt,dài hay ngắn,liên tục hay đứt đoạn với ý nghĩa chung là khắc chế .Đàn bà mà nhân trung trên rộng dưới hẹp lại bị vạch ngang rõ rệt là kẻ tuyệt tự,hoặc hữu sinh vô dướng hư thai ..v.v

VI - CẰM

a)khái quát về cằm

Cằm (thuật ngữ Trung Hoa về tướng gọi là Địa các ) là khuyết tận cùng của khuôn mặt tính từ trán trở xuống(h.187)trang 222 trong trường hợp ta nhìn chính diện.

Nếu ta nhìn nghiêng và chia phần bán diện làm đôi thì phần trước thuộc Cằm, phần sau kề từ phía dưới hai tai trở xuống thuộc về Mang tai (tai cốt ).Thông thường hai phần Địa các và tai cốt liên hệ mật thiết với nhau về cách cấu tạo,nên kết hợp khá chặt chẽ về mặt mang vận và cá tính đối với từng cá nhân một

Về ý nghĩa mang vân tổng quát ,Địa các chủ về hậu vận(tức là khoảng 50 tuổi trở đi) Địa các nảy nỡ ,vuông vức , sắc thái tươi tắn là dấu hiệu càng về già thì số vận càng tốt .Trái lại Cằm thon nhọn thì vãn thiên thường cô đơn bần bách

Về mặt cá tính những tướng học gia thuộc tân phái ,chịu ảnh hưởng của của tướng học Nhật bản cho rằng vì tiểu não bộ và Địa các có liên hệ tương hổ đặt biẹt nên khi nghien cứu về dia các đã đề ra,số ý nghĩa thực chất sau nay:

- ý chí mạnh hay yếu

- Sức chịu đựng cả vật chất lẫn tinh thần .

- Tình dục nhiều hay ít ,manh yếu,........

b) Các dạng thức tổng quát của cằm

Nhìn chính diện(nhìn thẳng phía trước mặt )ta thấy Cằm có 3 dạng chính thức:

- Cằm tròn (h.188)

- Cằm vuông (h.189)

- Cằm nhọn(h.190)

Nhìn nghiên ( trắc diện) ta cũng thấy có 3 dạng thức thông thường:

-Cằm vát (h.191)

-Cằm gồ(h.192)

-Cằm thẳng (h.193)

Loại Cằm tròn và thường có hình dạng thẳng xuôi hoặc đôi khi hơi tháo vát chứ ít khi nào gồ lên.Ngưởc lai , loại Cằm thon nhọn thường vát hoặc gồ chứ ít khi thẳng xuống

a) Các ý nghĩa của Cằm

Hai loại Cằm tròn và vuông thuộc loại Cằm nở và thuộc loại bình thường hợp tiêu chuẩn Tam đình bình đẳng, loại Cằm thon nhọn thuộc loại Cằm lép, sách thường gọi là Hữu thiên vô địa

1.-Về mặt mang vận

-Cằm nay nở câng xứng chủ về hoạc phúc lộc khả quan

- Cằm bạc nhược , nhỏ nhọn chủ về già hoặc cô độc hoặc nghèo khổ, tuỳ theo sự phối hợp tồng quát của toàn thể khuôn mặt.

2.Về mặt cá tính

Cằm nay nở moat cách thích đáng biểu thị tâm tính quân xứng, dung hoà đưởc lý tưởng và thực tế, sử sự thích đáng nhất, kế đó là loại cằm tròn

Nếu quá vuông vức, ý chí quá mạnh dễ trở thành cực đoan,cố chấp ngoan cố hoặc lì lợm . Cá tính của người có cằm quá tròn map thường biểu lộ ra ngoài bằng sự trọng ẩm thực, tình cảm phong phú , dễ bị xúc động. Loại Cằm thon nhọn thường là kẻ có cá tính mẫn nhuệ, thiên về lý tưởng , càng thon nhọn càng xa rời thực tế nên không bao giờ thành công trên đường đời.

2.Về mặt cá tính

Cằm nay nở moat cách thích đáng biểu thị tâm tính quân xứng, dung hoà đưởc lý tưởng và thực tế, sử sự thích đáng nhất, kế đó là loại cằm tròn

Nếu quá vuông vức, ý chí quá mạnh dễ trở thành cực đoan,cố chấp ngoan cố hoặc lì lợm .

Cá tính của người có cằm quá tròn map thường biểu lộ ra ngoài bằng sự trọng ẩm thực, tình cảm phong phú , dễ bị xúc động. Loại Cằm thon nhọn thường là kẻ có cá tính mẫn nhuệ, thiên về lý tưởng , càng thon nhọn càng xa rời thực tế nên không bao giờ thành công trên đường đời.

VII-MANG TAI (h 194 )

a)Khái quát về Mang tai

Mang tai hay tai coat là phần trung gian giửa Cằm và Lưỡng quyền , nhìn nghiên thì thấy rõ hơn . Một sốđông sách tướng cổ điển thường ít đề cập đến phần tai cốt vì hai lẽ:

Những dđiều ghi lại trong cổ thư phần nhiều thiên về mạng vận , ít khi thiên về cá tính mà tai cốt không có vai trò đáng kể trong lĩnh vực này.

Ý nghĩa về cá tính tai cốt được coi là phần tướng về tâm tướng bí truyền . chì lưu lại bằmg lối tâm truyền .Do đó , đối với cổ nhân điều gì đả gọi là tâm truyền thường ít ghi lại trên giấy trắng mực đen , thảng hoặc có ghi thì cũng chỉ ghi lại moat vài yếu quyết giản lược , kẻ ngoài khó long lỉnh hội đầy đủ được các ý nghĩa , mặc dầu vẫn có câu Não hậu kiến tai vô tình hán , nghĩa là kẻ mà đứmg sau phía gáy (ót) còn trông thấy xương Mang tai nghìa là kẻ không có tình nghĩa.

b)Các dạng thức của Mang tai

Mang tai co dạng thức chính yếu:

-Mang tai vuông xuôi

-Mang tai bạnh

-Mang tai hóp

1-Mang tai vuông xuôi

Loại mang tai vuông xuôi h195 có góc hơi vuông ở phía dưới và góc của chiều thẳng của Mang tai gần như dựng thành một đường thẳng đứng chạy từ tai xuống.

Phối hợp với loại Cằm nay nở thích đáng , loại mang tai vuông xuôi tượng trưng cho gia vận hưng vượng lúc tuổi già ,được nhiều người giúp đờ trong mọi công việc .Nói tóm lại nay là loại phúc tướng

2-Loại Mang tai bạnh h196

H196

Đặc điểm của loại mang tai này là phần dưới kể từ chổ tiếp giáp với Lưỡng quyền nay nở một cách đặc biệt khiến cho khuôn mặt phía dưới nở phìm ra trông tương tự như mang của loài rắn đeo kính (cobra) mỗi khi mó định cắn hay mổ vào vật gì trước mặt.

Về mặt Mang vận :phối hợp với Ngũ quan can xứng , loại Mang tai bạnh là kẻ dễ thành công trên đường công danh sự nghiệp nhưng kết quả thường thê thảm ít khi được chết lành.

Về mặt cá tính :nay là một trong vài dấu hiệu đặc thù nhất của kẻ tâm địa độc ác , âm hiểm khôn lường , bình thường làm việc gì cũng nghĩ tơi mình trước hết . Họ có thể giúp ta và chịu thiệt đôi chút , miễn là họ lời nhiều hơn , nhưng đến khi thực sự đụng chạm tới quyền lợi to lớn như danh vọng chức vụ thì họ sẵn sàng bán đứng bạn với bất kỳ giá nào , không hề thương tiếc . Năn nỉ với hạng người đó khi họ đã định loại tar a khỏi vòng tranh chấp là một điều thậm vô ích tục ngữ Trung Hoa có câu ''Kẻ Mang tai bạnh ra không có láng giềng " là để ám chỉ cá tính đặc biệt của loại người trên.

Đời Tam Quốc ,Nguỵ Diên đầu quân dưới trớng Khổng Minh và tỏ ra là một vỉ tướng quân nổi tiếng , tài ba , dũng cảm nhưng vì có tướngNão hậu kiến tai bi Khổng Minh chê làphán cốt. Tuy vậy , đối với vị quân sư nổi đời dời như Gia Cát Lượng thì việc cần cái tài và dũng của Nguỵ Diên lúc d8ó rát cấp thiét và vô hại cho đại cuộc lúc ông còn sống . Để đề phòng hậu hoạn , Khổng Minh đã sắp sẵn dịêu kế mai sau dùng tới .Về sau, khi Khổng Minh từ trần , binh quyền được giao lại cho Khương Duy cùng với cẩm nang diệu kế . Quả đúng như lời tiên đoán của Khổng Minh lúc sinh tiền . Nguỵ Diên trở mặt đánh lại quân Thục, chỉ vì hắn thấy quyền lợi và khát vọng thực sự của mình bị Khổng Tử trao lại cho Khương Duy chứ không trao cho hắn . Rốt cuợc tại trận tiền , Khương Duy theo lời dặn trong cẩm nang của Khổng Minh , đem lời khích bác Nguỵ Diên. Ngụy Diên lên tiếng thách đố "Ai giám giết ta".Đúng lúc hắn đang dương dương tự đắc thì một người tâm phục Khổng Minh mai phục sẵn trong hàng ngũ của hắn đã chém bay đầu kẻ pản thần trước ba quân. Cuộc đời và cá tính của kẻ Mang tai bạnh là như vậy đó.

3-Mang tai hóp h197

H197

Đó là hiện tượng ngược lại với Mang tai bạnh . Như đã nói ở đầu , trong mục dẫn thượng , mang tai đi đôi với Địa các nhỏ nhọn , tạo thành khu vực hạ đình eo hẹp , tượng trưng cho hậu vận cơ đơn. Chẳng những vậy , kẻ có loại mang tai này , khi gặp hiểm nghèo , ít gặp được người ra tay cứu giúp

Về mặt cá tính :tính nết căn bản trội yếu của loại Cằm và Mang kể trên quá thiên về tính toán thiệt hơn , chỉ nghĩ và coi lo8ỉ ích của bản thân là chuân đích , ít khi chịu dung hợp lợi mình với lợi người .

VI - CẰM

a)khái quát về cằm

Cằm (thuật ngữ Trung Hoa về tướng gọi là Địa các ) là khuyết tận cùng của khuôn mặt tính từ trán trở xuống(h.187)trang 222 trong trường hợp ta nhìn chính diện.

Nếu ta nhìn nghiêng và chia phần bán diện làm đôi thì phần trước thuộc Cằm, phần sau kề từ phía dưới hai tai trở xuống thuộc về Mang tai (tai cốt ).Thông thường hai phần Địa các và tai cốt liên hệ mật thiết với nhau về cách cấu tạo,nên kết hợp khá chặt chẽ về mặt mang vận và cá tính đối với từng cá nhân một

Về ý nghĩa mang vân tổng quát ,Địa các chủ về hậu vận(tức là khoảng 50 tuổi trở đi) Địa các nảy nỡ ,vuông vức , sắc thái tươi tắn là dấu hiệu càng về già thì số vận càng tốt .Trái lại Cằm thon nhọn thì vãn thiên thường cô đơn bần bách

Về mặt cá tính những tướng học gia thuộc tân phái ,chịu ảnh hưởng của của tướng học Nhật bản cho rằng vì tiểu não bộ và Địa các có liên hệ tương hổ đặt biẹt nên khi nghien cứu về dia các đã đề ra,số ý nghĩa thực chất sau nay:

- ý chí mạnh hay yếu

- Sức chịu đựng cả vật chất lẫn tinh thần .

- Tình dục nhiều hay ít ,manh yếu,........

b) Các dạng thức tổng quát của cằm

Nhìn chính diện(nhìn thẳng phía trước mặt )ta thấy Cằm có 3 dạng chính thức:

- Cằm tròn (h.188)

- Cằm vuông (h.189)

- Cằm nhọn(h.190)

Nhìn nghiên ( trắc diện) ta cũng thấy có 3 dạng thức thông thường:

-Cằm vát (h.191)

-Cằm gồ(h.192)

-Cằm thẳng (h.193)

Loại Cằm tròn và thường có hình dạng thẳng xuôi hoặc đôi khi hơi tháo vát chứ ít khi nào gồ lên.Ngưởc lai , loại Cằm thon nhọn thường vát hoặc gồ chứ ít khi thẳng xuống

a) Các ý nghĩa của Cằm

Hai loại Cằm tròn và vuông thuộc loại Cằm nở và thuộc loại bình thường hợp tiêu chuẩn Tam đình bình đẳng, loại Cằm thon nhọn thuộc loại Cằm lép, sách thường gọi là Hữu thiên vô địa

1.-Về mặt mang vận

-Cằm nay nở câng xứng chủ về hoạc phúc lộc khả quan

- Cằm bạc nhược , nhỏ nhọn chủ về già hoặc cô độc hoặc nghèo khổ, tuỳ theo sự phối hợp tồng quát của toàn thể khuôn mặt.

2.Về mặt cá tính

Cằm nay nở moat cách thích đáng biểu thị tâm tính quân xứng, dung hoà đưởc lý tưởng và thực tế, sử sự thích đáng nhất, kế đó là loại cằm tròn

Nếu quá vuông vức, ý chí quá mạnh dễ trở thành cực đoan,cố chấp ngoan cố hoặc lì lợm . Cá tính của người có cằm quá tròn map thường biểu lộ ra ngoài bằng sự trọng ẩm thực, tình cảm phong phú , dễ bị xúc động. Loại Cằm thon nhọn thường là kẻ có cá tính mẫn nhuệ, thiên về lý tưởng , càng thon nhọn càng xa rời thực tế nên không bao giờ thành công trên đường đời.

2.Về mặt cá tính

Cằm nay nở moat cách thích đáng biểu thị tâm tính quân xứng, dung hoà đưởc lý tưởng và thực tế, sử sự thích đáng nhất, kế đó là loại cằm tròn

Nếu quá vuông vức, ý chí quá mạnh dễ trở thành cực đoan,cố chấp ngoan cố hoặc lì lợm .

Cá tính của người có cằm quá tròn map thường biểu lộ ra ngoài bằng sự trọng ẩm thực, tình cảm phong phú , dễ bị xúc động. Loại Cằm thon nhọn thường là kẻ có cá tính mẫn nhuệ, thiên về lý tưởng , càng thon nhọn càng xa rời thực tế nên không bao giờ thành công trên đường đời.

VII-MANG TAI (h 194 )

a)Khái quát về Mang tai

Mang tai hay tai coat là phần trung gian giửa Cằm và Lưỡng quyền , nhìn nghiên thì thấy rõ hơn . Một sốđông sách tướng cổ điển thường ít đề cập đến phần tai cốt vì hai lẽ:

Những dđiều ghi lại trong cổ thư phần nhiều thiên về mạng vận , ít khi thiên về cá tính mà tai cốt không có vai trò đáng kể trong lĩnh vực này.

Ý nghĩa về cá tính tai cốt được coi là phần tướng về tâm tướng bí truyền . chì lưu lại bằmg lối tâm truyền .Do đó , đối với cổ nhân điều gì đả gọi là tâm truyền thường ít ghi lại trên giấy trắng mực đen , thảng hoặc có ghi thì cũng chỉ ghi lại moat vài yếu quyết giản lược , kẻ ngoài khó long lỉnh hội đầy đủ được các ý nghĩa , mặc dầu vẫn có câu Não hậu kiến tai vô tình hán , nghĩa là kẻ mà đứmg sau phía gáy (ót) còn trông thấy xương Mang tai nghìa là kẻ không có tình nghĩa.

b)Các dạng thức của Mang tai

Mang tai co dạng thức chính yếu:

-Mang tai vuông xuôi

-Mang tai bạnh

-Mang tai hóp

1-Mang tai vuông xuôi

Loại mang tai vuông xuôi h195 có góc hơi vuông ở phía dưới và góc của chiều thẳng của Mang tai gần như dựng thành một đường thẳng đứng chạy từ tai xuống.

Phối hợp với loại Cằm nay nở thích đáng , loại mang tai vuông xuôi tượng trưng cho gia vận hưng vượng lúc tuổi già ,được nhiều người giúp đờ trong mọi công việc .Nói tóm lại nay là loại phúc tướng

2-Loại Mang tai bạnh h196

H196

Đặc điểm của loại mang tai này là phần dưới kể từ chổ tiếp giáp với Lưỡng quyền nay nở một cách đặc biệt khiến cho khuôn mặt phía dưới nở phìm ra trông tương tự như mang của loài rắn đeo kính (cobra) mỗi khi mó định cắn hay mổ vào vật gì trước mặt.

Về mặt Mang vận :phối hợp với Ngũ quan can xứng , loại Mang tai bạnh là kẻ dễ thành công trên đường công danh sự nghiệp nhưng kết quả thường thê thảm ít khi được chết lành.

Về mặt cá tính :nay là một trong vài dấu hiệu đặc thù nhất của kẻ tâm địa độc ác , âm hiểm khôn lường , bình thường làm việc gì cũng nghĩ tơi mình trước hết . Họ có thể giúp ta và chịu thiệt đôi chút , miễn là họ lời nhiều hơn , nhưng đến khi thực sự đụng chạm tới quyền lợi to lớn như danh vọng chức vụ thì họ sẵn sàng bán đứng bạn với bất kỳ giá nào , không hề thương tiếc . Năn nỉ với hạng người đó khi họ đã định loại tar a khỏi vòng tranh chấp là một điều thậm vô ích tục ngữ Trung Hoa có câu ''Kẻ Mang tai bạnh ra không có láng giềng " là để ám chỉ cá tính đặc biệt của loại người trên.

Đời Tam Quốc ,Nguỵ Diên đầu quân dưới trớng Khổng Minh và tỏ ra là một vỉ tướng quân nổi tiếng , tài ba , dũng cảm nhưng vì có tướngNão hậu kiến tai bi Khổng Minh chê làphán cốt. Tuy vậy , đối với vị quân sư nổi đời dời như Gia Cát Lượng thì việc cần cái tài và dũng của Nguỵ Diên lúc d8ó rát cấp thiét và vô hại cho đại cuộc lúc ông còn sống . Để đề phòng hậu hoạn , Khổng Minh đã sắp sẵn dịêu kế mai sau dùng tới .Về sau, khi Khổng Minh từ trần , binh quyền được giao lại cho Khương Duy cùng với cẩm nang diệu kế . Quả đúng như lời tiên đoán của Khổng Minh lúc sinh tiền . Nguỵ Diên trở mặt đánh lại quân Thục, chỉ vì hắn thấy quyền lợi và khát vọng thực sự của mình bị Khổng Tử trao lại cho Khương Duy chứ không trao cho hắn . Rốt cuợc tại trận tiền , Khương Duy theo lời dặn trong cẩm nang của Khổng Minh , đem lời khích bác Nguỵ Diên. Ngụy Diên lên tiếng thách đố "Ai giám giết ta".Đúng lúc hắn đang dương dương tự đắc thì một người tâm phục Khổng Minh mai phục sẵn trong hàng ngũ của hắn đã chém bay đầu kẻ pản thần trước ba quân. Cuộc đời và cá tính của kẻ Mang tai bạnh là như vậy đó.

3-Mang tai hóp h197

H197

Đó là hiện tượng ngược lại với Mang tai bạnh . Như đã nói ở đầu , trong mục dẫn thượng , mang tai đi đôi với Địa các nhỏ nhọn , tạo thành khu vực hạ đình eo hẹp , tượng trưng cho hậu vận cơ đơn. Chẳng những vậy , kẻ có loại mang tai này , khi gặp hiểm nghèo , ít gặp được người ra tay cứu giúp

Về mặt cá tính :tính nết căn bản trội yếu của loại Cằm và Mang kể trên quá thiên về tính toán thiệt hơn , chỉ nghĩ và coi lo8ỉ ích của bản thân là chuân đích , ít khi chịu dung hợp lợi mình với lợi người .

VÀI GIAI THOẠI LIÊN QUAN ĐẾN KHU VỰC HẠ ĐÌNH

a) Giai thoại về Răng

Đời thanh , Khang Hy Hoàng Đế , tướng mạo cốt cách rất bình thường , ông thường cải trang làm kẻ thứ dân lẻn ra khỏi cung cấm để chính mình thanh sát cảnh sinh hoạt của dân chúng . Một bữa kia , Khng Hy đi ngang qua một căn lều , thấy nhiều người xúm lại để thầy tướng coi vận mạng cho từng người . Hiếu kỳ Khang Hy cũng đứng lại nghe , sau đó ông lại nhờ thầy tướng coi giùm mình . Xem kỹ , thầy tướng không khỏi kinh ngạc , lại không biết nay là đương kim hoàng tử , bèn hỏi:" Các hạ có sợ lời nói thật không ?" Khang Hy đáp :"không, tôi tình cờ đi ngang qua nay, vì tính hiếu kỳ xin tiên sinh cứ nói thật ra , không hề chi"

-Theo sự quan sát của kẻ hèn này thì diện mạo các hạ thuộc loại tiện cách , toàn thân cẩu cốt . Nếu căn cứ vào tướng cách mà bàn thì đó là tướng ăn mày

Khang Hy nghe xong ,không nhịn được cười ha hả ,bèn liệng ném bạc coi tương rồi quay mình toan bỏ đi . Thầy tướng ngẩn người quan sát rồi gọi Khang Hy đứng lại , áy náy nói "Điều kẻ hèn này vừa nói là căn cứ vào tướng cách . Theo tướng bề ngoài thì đó là loại tướng xấu nhất , nhưng nhân lúc các hạ sắp đi , há miệng cười lớn để lộ răng rồng . Cẩu cốt mà sinh được răng rồng là sự cực quí, muôn người mới có một . Có được tướng cách đặc biệt đó thường là kẻ phú quý vô cùng , muốn gì được nay . Xin các hạ cố lên , đừng để phí tướng cách đặc biệt đó"

Khang Hy nghe nói rất phục tài quan sát của thầy tướng, lại cảm động những lời khuyên nhủ chân thành , nên khi về đến cấm cung , nhà vua hạ chỉ thây tướng vào bệ kiến và thưởng cho quan chức , đó là nhờ tâm địa lương thiện của ông thầy tướng

b)Về Nhân trung ngăn lệch , Hạ đình liệt cách

Vào khoảng năm thứ 22 Dân Quốc (tức là khoảng 1933) tại Nam Kinh có rất nhiều viên chức chính phủ sùng bái việc coi tướng , vì có khá đông tướng học gia tài tử xuất sắc , trong số đó có viên Tham sự họ Tiền .Một bữa kia , ông Ngô Triệu Mai , tòng sự tại tối cao Pháp viện ,tổ chức bữa tiệc có cả họ tiền tham dự và gần như suốt buổi tiệc chỉ bàn về tướng . Trong tiệc có một vị thực khách họ Hạ tự nhận là ở Vân Nam vừa mới đến Nam Kinh , yêu cầu Tiền Tham sự coi tướng giùm mình xem vận mạng ra sao . Tiền quan sát họ Hạ hồi lâu rồi hỏi :" Tiên sinh năm nay chưa đến 50 tuổi phải không?" Hạ đáp:"Phải năm nay tôi49". Tiên hỏi :" Năm ngoái vợ tiên sinh tạ thế đúng không ?" Hạ đáp :"Đúng , tiện nội vừa mất năm rồi "

Đoán xong quá khứ , hạ bèn hỏi đến việc tương lai . Tiền nói:"Ông tuy vừa từ Vân Nam lai nay nhưng rồi ông lại trở về Vân Nam ngay. Việc ông dự địng làm đã thành tựu rồi , ông chưa biết sao?"

Hạ thấy Tiền nói quá đúng ý nguyện của mình nên phục lắm, nhưng thật tình chưa rõ kết quả việc đỉnh làm. Nguen do là thời đó , nước Tàu theo chế độ tản quyền , cơ cấu tổ chức tại mỗi tỉnh gần như là một chính phủ . Hạ được bạn bè ở Nam Kinh đề bạt nên được Bộ trưởng

Giáo Dục bổ làm Gím Đốc Học chính tại tỉnh Vân Nam với quyền hành tương tự như Bộ trưởng Giao dục của một tiẻu quốc . Tuy vậy , Hạ vẫn lo rằng nếu chính phủ địa phương cải tổ toàn diện thì rất có thể phe cánh của nhóm người mới ở địa phương không chịu công nhận Hạ làm Giám đốc Học chính. Mà viêvc thay đổi chính phủ địa phương thời đó là rất có thể xảy ra , và

lúc đó tỉnh Vân Nam lại rục rịch sắp cải tổ chính quyền

Nghe Hạ nói ngay tình chưa biết , họ Tiền thông cảm mối lo lắng của Hạ bèn nói :" bất kể chính qytền Vân Nam cải tổ ra sao thì ômg vẫn ở chúc vị trưởng ngành giáo dục tỉnhđó đến ngày mãn phần" Hạ nghe nói trong bụng rất mừng , tự nghĩ nếu như vậy hy vọng là có thể tai chức đến 20 năm

Mấy bữa sau, một thực khách trong bữa tiệc hôm đó đến hỏi Tiền rằng :" Ông nói như vậy đúng không ? Thời buồi này, chính trường nay vầy mai khác , biến đổi luôn luôn làm sao vững được đến già ?"

Sau khi biết chắc người đó không phải là bạn của Hạ , họ Tiền mới nói rõ thêm " Tôi nói như vậy là xét rằng thọ số của Hạ chỉ đến giữa năm 51 tuổi là dứt . Quan vận và thọ mạng tương quan"

Người kia nói :" ủa , thì ra là vậy . Chúng tôi xem Nhâu trung của Hạ thấy ngắn và lệch thì chỉ tưởng là hoạn lộ năm đó là không tốt chứ không đoán đươc là thọ mạng ông ta năm dó chấm dứt . Về điểm này xin ông giảng giải rõcho"

Tiền đáp :" về phần tướng khuôn mặt , Nhân trung là nơi giao tiếp giữa Trung đình và Hạ đình chủ về vận mạng năm 51 tuổi. Hạ tiên sinh có Nhân trung ngắn và lệch thì dĩ nhiên năm đó vận mạng nói chung là không được tốt . Nhưng tại sao lai quả đoán là năm đó ông ta sẽ chết thì cần phải xem thêm hình dạng của môi miệng và thế của Hạ đình. Môi Miệng của Hạ thuộc loại liệt cách , âm thanh rè như tiếng phèn la lại không có âm lượng , cằm vừa ngắn lại vừa thon . Nói tóm lai phần Hạ đình của ông không có điểm nào đáng kể . Xua nay, nếu chỉ có phần Nhân trung xấu mà môi miệng và Hạ đính tốt tjì đến vận hạn của Nhân trung , tức là 51 tuổi chỉ không được êm xuôi mà thôi chứ không nhgĩ đến chết chóc . Đắng này , môi miệng và khu vực Hạ đình đèu quá xấu thì đến vận hạn của Nhân trung khó tránh khỏi tuyệt mạng "

Quả nhiên , Hạ làm Giám đốc Học chính tỉnh Vân Nam được 2 năm, đến năm51 tuổi bị bệnh và mất tại chức.

--------------------------------------------------------

Trước thời Trung Hoa Dân Quốc ít năm , lúc đó Dân Quốc Đảng còn âm thầm hoạt động trong bóng tối , có hai yếu nhân về sau Đều là các nhân vật có tên tuổi trong giới chính Trung Hoa là Lâm Sâm và Tôn Dật Tiên . Cả hai đều được người xem tướng lúc chưa hiển đạt về nhiều phương diện , nhưng ở nay chỉ thuật lại riêng vấn đề tử tức mà thôi.

Hồi đó có bậc trưởng vối họ Cao có biệt tài xem tướng và chính nhờ có họ Cao bí hiểm mà sau này Lâm Sâm rất tin tưởng ở tướng học . Một bữa , họ Cao có đề cập đến vấn đề con cái của Lâm Sâm như sau:" Số anh .........hiếm hoi , nếu như đến 35 tuổi mà vẫn chưa có con thì nên nuôi con nuôi đi , không phải để phụng dưỡng mà để nối dõi tông đường "

Lâm Sâm cho rằng theo chỗ ông ta được biết về tướng thì tướng học chỉ cho biết được sự tốt xấu của vận mạng hay công việc , còn phần con cái là do hai vợ chồng chung sức tạo nên , làm sao nhìn một người mà lại đoán ra được . Bởi vậy ông ta không tin hỏi vặn lại : " Sinh con là việc của hai vợ chồng làm sao chỉ nhìn một trong hai người mà biết được ? Vả lại , đàn ông đến 60, 70 tuổi còn sinh con là sự rất thường , tại sao lại có thiên kiến cho tôi nếu trước 35tuổi chưa có con thì không thể đẻ con được ?"

Như chưa đủ Lâm Sâm còn bồi thêm :" Không sinh con được phần lớn là do đàn bà . Tôi là đàn ông , nếu vợ cả không con thì lấy vợ lẽ , nàng hầu để có con , sao lão bá đơn thuần nói là tôi không con "

Họ Cao thấy Lâm Sâm có vẻ không bằng long vè sự nhận định của mình bèn giải thích " Đã đành việc sinh con đẻ cái là việc chung của hai vợ chồng nhưng cả hai phải không có bệng kín gì mới được . Nếu một trong hai người có bệnh kín thì làm sao có con . Hiện nay tôi thấy anh có khuyết điểm đó nên mới quyết đoán như vậỵ

Họ Cao lại e rằng Lâm Sâm chưa tin mình nên lại tay chỉ vào Nhân trung của mình nói với Lâm :" Đây là khu vực liên hệ với việc sinh con . Nếu sâu vào và rõ như cái rãnh là tướng nhiều con , nếu nông hoặc bằng phẳng là dấu hiệu hiếm hoặc không có con . Nhân trung của anh bằng phẳng như da mặt . Từ 35 tuổi trở về trước là lúc nhười ta có tinh lựu sung mãn mà nếu không có con thì từ đó trở về sau càng khó có con hơn nữa ." Lâm Sâm lấy gương soi quả nhiên thấy Nhân trung của mình bằng phẳng nay nge bậc trưởng bối nói vậy mới nhớ lại bốn ngươi quen thuộc , thảy đều có vợ lâu năm và nhớ lại ai là

kẻ có Nhân trung sâu rõ , ai là người có Nhân trung bằng phẳng . Quả thực hai người nhiều con đều có Nhân trung sâu và rõ còn hai người kia không con thì Nhân trung quá nông cạn , gần như không có vậy

I. _ NHỮNG NÉT TƯỚNG ÂM THANH

Âm thanh trong tướng học cũng như Môi học đóng một vai trò trọng yếu , giúp biết được rất nhiều về con người trên nhiều bình diện . Do đó , cổ tướng học đặc biệt chú trọng đến phần xem tướng âm thanh .

Nhà tướng học tông sư đời Tống là Mã Môi đã nói :" Tướng pháp thường thừa lấy âm thanh làm chủ ". Một nhà tướng học nổi tiếng khác là Đạt Ma thiền sư của Thiếu Lâm Tự . trong phần yếu quyết căn bản để thẩm định sự hoàn hảo hay khuyết điểm tổng quát của con người cũng nói :" Cầu toàn lại thanh âm ". Tuy nhiên , vì phần này có tình cách trừu tượng và rất khó lĩnh hội , nên soạn giả nghĩ rằng tại nay chì nêu ra những điểm khái quát tối cần thiết và dễ nhận tháy nhất . Chúng ta hầu hết đều đã mạc nhiên công nhận là giọng đàn ông hoặc con trai khác với giọng nói đàn bà Sự sai biệt về giọng nói đó , chúng ta chỉ cảm nhận thấy dễ dàng , nhưng miêu tả ra cho rành mạch .

Do đó , điểm khái quát thứ nhất là đàn ông phài có giọng đàn ông và đàn bà phải có âm thanh đàn bà . Những kẻ có âm thanh thuận theo định luật d9ó hầu hết là những kẻ được coi là bình thường về âm điệu tổng quát . Trái lại , đàn ông mà có giọng đàn bà hay đàn bà mà có gong đàn ông thì mạng vận yhường hay bị lận đận về mặt tình cảm .

Đàn ông có giọng đàn bà phần lớn đều khó thành đạt được sự nghiệp . Hạn hữu lắm mới được phú quý trung bình , nhưngvề giá trị đạo lý hoặc quý hiển nói chung chẳng có gì đáng cho người khác khâm phục .

Đàn bà có giọng đàn ông thường khắc chồng , khắc con tình cảm không mấy khi được thư thái .

Ngoài điều kiện tiên quyết đó , còn có điều kiện thứ hai đi kèm là :

*Giọng đàn ông phải mạnh mẽ , rắn rỏi trong sáng

* Giọng đàn bà phải ôn hoà , nhỏ nhẹ nhưng rõ ràng

Nhưng nếu âm thanh đàn ông , tuy mạnh mẽ mà khô khang , lớn mà không có tiếng vang , hoặc giọng lớn mà nhịp nói quá nhanh gần như nuốt tiếng đó thì là tướng xấu . Các điểm khác trên khuôn mặt , hoặc cơ thể mà hoàn hảo thì sự khuyết điểm của âm thanh bị coi là phá tướng . Nặng nhẹ tuỳ theo từng trường hợp , nặng thì sự nghiểp bất thành hoặc chiết yếu , nhẹ thì sóng gió liên miên hoặc tai hạo trong công danh sự nghiệp. Đàn bà mà tiếng nói tuy có nữ thanh , nhưng quá nhỏ và yếu , không trong trẻo , không có âm lượng thì cũng không thể lấy việc nữ nhân có âm thanh nữ làm quý . Đàn bà mà có khuyết điển về phần phẩm chất của âm thanh vừa kể trên khó thoát khỏi cảnh khốn quẩn về một hay nhiều lãnh vực nào đó trong cuộc sống , thậm chí có thể đoán là yểu mạng nữa . Tóm lại , âm thanh dù nam hay nữ phải trong trẻo , có âm lượng đầy đủ , phát tự lồng ngực ( Đan điền) chứ không nên phì phào đầu môi chót lưỡi ( ý nói tiếng không ra âm lượn , hụt hơi ) . Có loại âm thanh thượng thừa kể trên dẩu cho diện mạo không được sáng sủa khôi ngô thì cũng có thể sống cuộc sống an nhàn bình dị .

Ngược lại , mặt mũi khôi ngô tuấn tú , thân hình phì nộn mà tiếng nói bị phá , bị liệt cách ( tham chiến thêm đoạn nói về ứng dụng của Ngủ hành trong âm thanh ở chương 2, phân 1 , quyên'2 ). Đại kháo như tiếng lớn như tàng mát , hoặc thê thàm như tiếng vượn hú , buờn tẻ như tiếng dế hoặc cuồn loạn như tiếng chó sủa trăng , đèu là những điểm bát thường . Nếu tướng mạo đã không ra gì mà còn gạp phải âm thanh này thì phải đoán là mạng vận kẹ đó không bao giờ khá được .

Ngoài sự thanh trọc của âm thanh xét một cách tổng quát , ta còn phải lưu ý mỗi loại người điển hình ( kim , mộc , thuỷ , ,hoả , thổ) cần thích hợp với loại âm thanh tương ứng trước khi xét đến vấn đề âm thanh hùng tránh hay nhu nhược , thanh hay trọc . Phàm hình người nào hợp với âm thanh chính cách của người đó , chưa từng bỉ cản bẩn bách , hạ tiện bao giờ

I. _ NHỮNG NÉT TƯỚNG ÂM THANH

Âm thanh trong tướng học cũng như Môi học đóng một vai trò trọng yếu , giúp biết được rất nhiều về con người trên nhiều bình diện . Do đó , cổ tướng học đặc biệt chú trọng đến phần xem tướng âm thanh .

Nhà tướng học tông sư đời Tống là Mã Môi đã nói :" Tướng pháp thường thừa lấy âm thanh làm chủ ". Một nhà tướng học nổi tiếng khác là Đạt Ma thiền sư của Thiếu Lâm Tự . trong phần yếu quyết căn bản để thẩm định sự hoàn hảo hay khuyết điểm tổng quát của con người cũng nói :" Cầu toàn lại thanh âm ". Tuy nhiên , vì phần này có tình cách trừu tượng và rất khó lĩnh hội , nên soạn giả nghĩ rằng tại nay chì nêu ra những điểm khái quát tối cần thiết và dễ nhận tháy nhất . Chúng ta hầu hết đều đã mạc nhiên công nhận là giọng đàn ông hoặc con trai khác với giọng nói đàn bà Sự sai biệt về giọng nói đó , chúng ta chỉ cảm nhận thấy dễ dàng , nhưng miêu tả ra cho rành mạch .

Do đó , điểm khái quát thứ nhất là đàn ông phài có giọng đàn ông và đàn bà phải có âm thanh đàn bà . Những kẻ có âm thanh thuận theo định luật d9ó hầu hết là những kẻ được coi là bình thường về âm điệu tổng quát . Trái lại , đàn ông mà có giọng đàn bà hay đàn bà mà có gong đàn ông thì mạng vận yhường hay bị lận đận về mặt tình cảm .

Đàn ông có giọng đàn bà phần lớn đều khó thành đạt được sự nghiệp . Hạn hữu lắm mới được phú quý trung bình , nhưngvề giá trị đạo lý hoặc quý hiển nói chung chẳng có gì đáng cho người khác khâm phục .

Đàn bà có giọng đàn ông thường khắc chồng , khắc con tình cảm không mấy khi được thư thái .

Ngoài điều kiện tiên quyết đó , còn có điều kiện thứ hai đi kèm là :

*Giọng đàn ông phải mạnh mẽ , rắn rỏi trong sáng

* Giọng đàn bà phải ôn hoà , nhỏ nhẹ nhưng rõ ràng

Nhưng nếu âm thanh đàn ông , tuy mạnh mẽ mà khô khang , lớn mà không có tiếng vang , hoặc giọng lớn mà nhịp nói quá nhanh gần như nuốt tiếng đó thì là tướng xấu . Các điểm khác trên khuôn mặt , hoặc cơ thể mà hoàn hảo thì sự khuyết điểm của âm thanh bị coi là phá tướng . Nặng nhẹ tuỳ theo từng trường hợp , nặng thì sự nghiểp bất thành hoặc chiết yếu , nhẹ thì sóng gió liên miên hoặc tai hạo trong công danh sự nghiệp. Đàn bà mà tiếng nói tuy có nữ thanh , nhưng quá nhỏ và yếu , không trong trẻo , không có âm lượng thì cũng không thể lấy việc nữ nhân có âm thanh nữ làm quý . Đàn bà mà có khuyết điển về phần phẩm chất của âm thanh vừa kể trên khó thoát khỏi cảnh khốn quẩn về một hay nhiều lãnh vực nào đó trong cuộc sống , thậm chí có thể đoán là yểu mạng nữa . Tóm lại , âm thanh dù nam hay nữ phải trong trẻo , có âm lượng đầy đủ , phát tự lồng ngực ( Đan điền) chứ không nên phì phào đầu môi chót lưỡi ( ý nói tiếng không ra âm lượn , hụt hơi ) . Có loại âm thanh thượng thừa kể trên dẩu cho diện mạo không được sáng sủa khôi ngô thì cũng có thể sống cuộc sống an nhàn bình dị .

Ngược lại , mặt mũi khôi ngô tuấn tú , thân hình phì nộn mà tiếng nói bị phá , bị liệt cách ( tham chiến thêm đoạn nói về ứng dụng của Ngủ hành trong âm thanh ở chương 2, phân 1 , quyên'2 ). Đại kháo như tiếng lớn như tàng mát , hoặc thê thàm như tiếng vượn hú , buờn tẻ như tiếng dế hoặc cuồn loạn như tiếng chó sủa trăng , đèu là những điểm bát thường . Nếu tướng mạo đã không ra gì mà còn gạp phải âm thanh này thì phải đoán là mạng vận kẹ đó không bao giờ khá được .

Ngoài sự thanh trọc của âm thanh xét một cách tổng quát , ta còn phải lưu ý mỗi loại người điển hình ( kim , mộc , thuỷ , ,hoả , thổ) cần thích hợp với loại âm thanh tương ứng trước khi xét đến vấn đề âm thanh hùng tránh hay nhu nhược , thanh hay trọc . Phàm hình người nào hợp với âm thanh chính cách của người đó , chưa từng bỉ cản bẩn bách , hạ tiện bao giờ

VÀI GIAI THOẠI LIÊN QUAN ĐẾN KHU VỰC HẠ ĐÌNH

a) Giai thoại về Răng

Đời thanh , Khang Hy Hoàng Đế , tướng mạo cốt cách rất bình thường , ông thường cải trang làm kẻ thứ dân lẻn ra khỏi cung cấm để chính mình thanh sát cảnh sinh hoạt của dân chúng . Một bữa kia , Khng Hy đi ngang qua một căn lều , thấy nhiều người xúm lại để thầy tướng coi vận mạng cho từng người . Hiếu kỳ Khang Hy cũng đứng lại nghe , sau đó ông lại nhờ thầy tướng coi giùm mình . Xem kỹ , thầy tướng không khỏi kinh ngạc , lại không biết nay là đương kim hoàng tử , bèn hỏi:" Các hạ có sợ lời nói thật không ?" Khang Hy đáp :"không, tôi tình cờ đi ngang qua nay, vì tính hiếu kỳ xin tiên sinh cứ nói thật ra , không hề chi"

-Theo sự quan sát của kẻ hèn này thì diện mạo các hạ thuộc loại tiện cách , toàn thân cẩu cốt . Nếu căn cứ vào tướng cách mà bàn thì đó là tướng ăn mày

Khang Hy nghe xong ,không nhịn được cười ha hả ,bèn liệng ném bạc coi tương rồi quay mình toan bỏ đi . Thầy tướng ngẩn người quan sát rồi gọi Khang Hy đứng lại , áy náy nói "Điều kẻ hèn này vừa nói là căn cứ vào tướng cách . Theo tướng bề ngoài thì đó là loại tướng xấu nhất , nhưng nhân lúc các hạ sắp đi , há miệng cười lớn để lộ răng rồng . Cẩu cốt mà sinh được răng rồng là sự cực quí, muôn người mới có một . Có được tướng cách đặc biệt đó thường là kẻ phú quý vô cùng , muốn gì được nay . Xin các hạ cố lên , đừng để phí tướng cách đặc biệt đó"

Khang Hy nghe nói rất phục tài quan sát của thầy tướng, lại cảm động những lời khuyên nhủ chân thành , nên khi về đến cấm cung , nhà vua hạ chỉ thây tướng vào bệ kiến và thưởng cho quan chức , đó là nhờ tâm địa lương thiện của ông thầy tướng

b)Về Nhân trung ngăn lệch , Hạ đình liệt cách

Vào khoảng năm thứ 22 Dân Quốc (tức là khoảng 1933) tại Nam Kinh có rất nhiều viên chức chính phủ sùng bái việc coi tướng , vì có khá đông tướng học gia tài tử xuất sắc , trong số đó có viên Tham sự họ Tiền .Một bữa kia , ông Ngô Triệu Mai , tòng sự tại tối cao Pháp viện ,tổ chức bữa tiệc có cả họ tiền tham dự và gần như suốt buổi tiệc chỉ bàn về tướng . Trong tiệc có một vị thực khách họ Hạ tự nhận là ở Vân Nam vừa mới đến Nam Kinh , yêu cầu Tiền Tham sự coi tướng giùm mình xem vận mạng ra sao . Tiền quan sát họ Hạ hồi lâu rồi hỏi :" Tiên sinh năm nay chưa đến 50 tuổi phải không?" Hạ đáp:"Phải năm nay tôi49". Tiên hỏi :" Năm ngoái vợ tiên sinh tạ thế đúng không ?" Hạ đáp :"Đúng , tiện nội vừa mất năm rồi "

Đoán xong quá khứ , hạ bèn hỏi đến việc tương lai . Tiền nói:"Ông tuy vừa từ Vân Nam lai nay nhưng rồi ông lại trở về Vân Nam ngay. Việc ông dự địng làm đã thành tựu rồi , ông chưa biết sao?"

Hạ thấy Tiền nói quá đúng ý nguyện của mình nên phục lắm, nhưng thật tình chưa rõ kết quả việc đỉnh làm. Nguen do là thời đó , nước Tàu theo chế độ tản quyền , cơ cấu tổ chức tại mỗi tỉnh gần như là một chính phủ . Hạ được bạn bè ở Nam Kinh đề bạt nên được Bộ trưởng

Giáo Dục bổ làm Gím Đốc Học chính tại tỉnh Vân Nam với quyền hành tương tự như Bộ trưởng Giao dục của một tiẻu quốc . Tuy vậy , Hạ vẫn lo rằng nếu chính phủ địa phương cải tổ toàn diện thì rất có thể phe cánh của nhóm người mới ở địa phương không chịu công nhận Hạ làm Giám đốc Học chính. Mà viêvc thay đổi chính phủ địa phương thời đó là rất có thể xảy ra , và

lúc đó tỉnh Vân Nam lại rục rịch sắp cải tổ chính quyền

Nghe Hạ nói ngay tình chưa biết , họ Tiền thông cảm mối lo lắng của Hạ bèn nói :" bất kể chính qytền Vân Nam cải tổ ra sao thì ômg vẫn ở chúc vị trưởng ngành giáo dục tỉnhđó đến ngày mãn phần" Hạ nghe nói trong bụng rất mừng , tự nghĩ nếu như vậy hy vọng là có thể tai chức đến 20 năm

Mấy bữa sau, một thực khách trong bữa tiệc hôm đó đến hỏi Tiền rằng :" Ông nói như vậy đúng không ? Thời buồi này, chính trường nay vầy mai khác , biến đổi luôn luôn làm sao vững được đến già ?"

Sau khi biết chắc người đó không phải là bạn của Hạ , họ Tiền mới nói rõ thêm " Tôi nói như vậy là xét rằng thọ số của Hạ chỉ đến giữa năm 51 tuổi là dứt . Quan vận và thọ mạng tương quan"

Người kia nói :" ủa , thì ra là vậy . Chúng tôi xem Nhâu trung của Hạ thấy ngắn và lệch thì chỉ tưởng là hoạn lộ năm đó là không tốt chứ không đoán đươc là thọ mạng ông ta năm dó chấm dứt . Về điểm này xin ông giảng giải rõcho"

Tiền đáp :" về phần tướng khuôn mặt , Nhân trung là nơi giao tiếp giữa Trung đình và Hạ đình chủ về vận mạng năm 51 tuổi. Hạ tiên sinh có Nhân trung ngắn và lệch thì dĩ nhiên năm đó vận mạng nói chung là không được tốt . Nhưng tại sao lai quả đoán là năm đó ông ta sẽ chết thì cần phải xem thêm hình dạng của môi miệng và thế của Hạ đình. Môi Miệng của Hạ thuộc loại liệt cách , âm thanh rè như tiếng phèn la lại không có âm lượng , cằm vừa ngắn lại vừa thon . Nói tóm lai phần Hạ đình của ông không có điểm nào đáng kể . Xua nay, nếu chỉ có phần Nhân trung xấu mà môi miệng và Hạ đính tốt tjì đến vận hạn của Nhân trung , tức là 51 tuổi chỉ không được êm xuôi mà thôi chứ không nhgĩ đến chết chóc . Đắng này , môi miệng và khu vực Hạ đình đèu quá xấu thì đến vận hạn của Nhân trung khó tránh khỏi tuyệt mạng "

Quả nhiên , Hạ làm Giám đốc Học chính tỉnh Vân Nam được 2 năm, đến năm51 tuổi bị bệnh và mất tại chức.

--------------------------------------------------------

Trước thời Trung Hoa Dân Quốc ít năm , lúc đó Dân Quốc Đảng còn âm thầm hoạt động trong bóng tối , có hai yếu nhân về sau Đều là các nhân vật có tên tuổi trong giới chính Trung Hoa là Lâm Sâm và Tôn Dật Tiên . Cả hai đều được người xem tướng lúc chưa hiển đạt về nhiều phương diện , nhưng ở nay chỉ thuật lại riêng vấn đề tử tức mà thôi.

Hồi đó có bậc trưởng vối họ Cao có biệt tài xem tướng và chính nhờ có họ Cao bí hiểm mà sau này Lâm Sâm rất tin tưởng ở tướng học . Một bữa , họ Cao có đề cập đến vấn đề con cái của Lâm Sâm như sau:" Số anh .........hiếm hoi , nếu như đến 35 tuổi mà vẫn chưa có con thì nên nuôi con nuôi đi , không phải để phụng dưỡng mà để nối dõi tông đường "

Lâm Sâm cho rằng theo chỗ ông ta được biết về tướng thì tướng học chỉ cho biết được sự tốt xấu của vận mạng hay công việc , còn phần con cái là do hai vợ chồng chung sức tạo nên , làm sao nhìn một người mà lại đoán ra được . Bởi vậy ông ta không tin hỏi vặn lại : " Sinh con là việc của hai vợ chồng làm sao chỉ nhìn một trong hai người mà biết được ? Vả lại , đàn ông đến 60, 70 tuổi còn sinh con là sự rất thường , tại sao lại có thiên kiến cho tôi nếu trước 35tuổi chưa có con thì không thể đẻ con được ?"

Như chưa đủ Lâm Sâm còn bồi thêm :" Không sinh con được phần lớn là do đàn bà . Tôi là đàn ông , nếu vợ cả không con thì lấy vợ lẽ , nàng hầu để có con , sao lão bá đơn thuần nói là tôi không con "

Họ Cao thấy Lâm Sâm có vẻ không bằng long vè sự nhận định của mình bèn giải thích " Đã đành việc sinh con đẻ cái là việc chung của hai vợ chồng nhưng cả hai phải không có bệng kín gì mới được . Nếu một trong hai người có bệnh kín thì làm sao có con . Hiện nay tôi thấy anh có khuyết điểm đó nên mới quyết đoán như vậỵ

Họ Cao lại e rằng Lâm Sâm chưa tin mình nên lại tay chỉ vào Nhân trung của mình nói với Lâm :" Đây là khu vực liên hệ với việc sinh con . Nếu sâu vào và rõ như cái rãnh là tướng nhiều con , nếu nông hoặc bằng phẳng là dấu hiệu hiếm hoặc không có con . Nhân trung của anh bằng phẳng như da mặt . Từ 35 tuổi trở về trước là lúc nhười ta có tinh lựu sung mãn mà nếu không có con thì từ đó trở về sau càng khó có con hơn nữa ." Lâm Sâm lấy gương soi quả nhiên thấy Nhân trung của mình bằng phẳng nay nge bậc trưởng bối nói vậy mới nhớ lại bốn ngươi quen thuộc , thảy đều có vợ lâu năm và nhớ lại ai là

kẻ có Nhân trung sâu rõ , ai là người có Nhân trung bằng phẳng . Quả thực hai người nhiều con đều có Nhân trung sâu và rõ còn hai người kia không con thì Nhân trung quá nông cạn , gần như không có vậy

II. ­ NHỮNG NÉT TƯỚNG TÓC VÀ RÂU

Tóc râu đối với người nhất là người đàn ông , về mặt mang vận lẫn cá tính có vai trò khá quan trọng . Tóc thì trai hay gái đều có , nhưng râu thì gần như là một đặc tính độc đáo thiên phú của nam giới , nói là gần như vì đôi khi củng thấy râu ria ( tuy ít nhưng cũng đù để phân biệt )ở một số nhỏ phụ nữ . Những trường hợp đảo ngược bhư đàn bà có râu ria , đàn ông mặt mày râu ria trơ trụi đều chưa bao giờ đưa đến kết quả tốt đẹp về mặt mạng vận cho kẻ đó

a)Tóc

Bàn về tóc tướng học cổ điển đưa ra tất nhiều thuyết , có thuyết mượn cả kiến thức y học Á Đông nhày xưa để giải thích : nhưng tựu trung tất cả đều giống nhau ở các điểm că bản sau đây:

* Tóc không được quá nhiều , cũng không được quá ít đến độ gần như trơ trụi

* Tóc không được rối loạn , không được cứng như rể tre , mhưng không được mềm nhũn như sợi bún

* Sắc phương xanh đen , tươi bóng không được khô dòn , úa như cỏ đang lúc tàn lụi

Tóm lại , tóc có số lượng vừa phải , không rối loạn nghĩa là sợi này không xoắn chặt vào sợi khác như bean thừng ,có sắc tươi mát bóng bay , tự nhiên mềm mại , là loại tóc thuộc loại thượng thừa , chủ về mạng vận hanh thông có tính cương nhu tính đáng , không thái quá , không bất cập .

Sự thượng thừa về tóc nói trên chỉ có ý nghĩa tốt khi nó phối hợp đầy đủ với râu và lông mày . Cả ba thứ lông đó ( tóc ,râu, lông mày )trên một con người phải tương đồng về cả phẩm lẫn lượng . Lông mày ra sao thì tóc lông cũng vậy , mới có thể xem là phù hợp .

Ngược lại những điểm kể trên đều phải coi là loại phản thường ,phần lớn đều không tốt.Tuy nhiên ,những sự kiện trên chỉ có tình cách đại thể,trong thực tế còn có những uẩn khúc khác,Chẳng hạn sự phù hợp râu tóc của người thổ,hình kim(tham chiếu chương 1,phần II của quyền thứ nhất),túc là loại nhườirắnchắc,nặng nề ,khác với sự phù hợp râu tóc của người hình Hoả(hạng người mặt mũi gân guốc ,mắt lộ ,mày thưa ,râu ít,......).Cho nên ,râu thưa ,tóc ngắn và cứng thường là dấu hiệu bất thường về mặt mạng vận không tốt đẹp về cá tính ,nhưng không phải lúc nào cũng đúng như vậy mà phải để ý tới một số biệt lệ. Dưới đây là một số trường hợp râu tóc bị coi là hung tướng:

* Người khoẻ mạnh ,da thịt tràn đầy nhựa sống mà râu tóc đặc biệt khô dòn và rậm.

* Da dẻ khô khan mà tóc lại cực mean và ít

Những sự tương phản thường nói trên ,nếu nhẹ thì chủ vế long đong vất vả ,nặng thì khó tránh khỏi chết chóc thê thảm . Nói về mặt cá tính ,kẻ mà râu tóc cứng thì khí phách nhỏ hẹp,cố chấp,cứng ma 2khô,mà thô kệch như tro tàn ,chẳng những cá tính ngu độn ,thô lỗ mà còn là dấu hiệu của sự chết non,vận bĩ.Râu tóc không cứng ,khuyết nhũn ,thưa đậm thích đáng với từng thể dạng con người ,sắc đen và bóng bẩy thì dấu nghũ quan có bị xếp vào loại trung bình hoặc dưới ,nhưng thực tế khí chất lại là thượng thừa.Hình tuy bất túc ,nhưng thần khí hữu dư nên vận mạng vẫ có thể tốt đẹp,con cháu nên người. ở trên đã nói ,tóc nhiều hay ít ,nhưng sự nhiều ít đó phải căn cứ vào từng thực trạng ở loài người chính thường.Tuổi trẻ ,tóc nhiều và đen: tuổi càng cao thì tóc ruing dần và biến đổi từ màu đen sang màu trắng.Điểm đáng chú ý ở phép xem tướng tóc là tóc của đang ở tuổi thanh niên (từ 15,16 đến 30) mà ít tóc hoặc hói thì mới coi là phản thường . Ngược lại tuổi khaỏng tam tuần mà hói đầu ruing tóc lại là lẽ tự nhiên , không có gì đáng nói . tương tự như vậy , nếu sau 40 tuổi mà tóc bắt đầu hoa râm hoặc bạc thì coi là thông thường . Ngược lại là điểm không tốt , hoặc về vận mạng hoặc về sức khoẻ . Trong y lý cổ điển phương Đông , nhười ta cho rằng sự tốt sấu của tóc liên quan mật thiết tới mức độ mạnh yếu của thận . Tóc sớm bạc là dấu hiệu bề ngoài của thận xấu

Về việc rụng hay cách mọc của tóc cũng được cổ nhân nghiên cứu . Người ta nghiệm thấy rằng , tóc mọc dựng đứng ở hai bên phải và trái đầu , hoặc sói dần theo vị trí đó là triệu chứng xấu . Kẻ đó hoạt động thường hay lận đận , thành công đó nhưng rồi that bại ngay đó , vinh nhục thất thường . nếu tóc mọc thẳng đứng ở khu vực trung ương của đỉnh đầu hoặc chính giữa phần trên tiếp giáp với chân tóc , hình dạng chỉnh tề lại là điềm tốt chủvề làm việc dễ đạt được ý nguyện

b) Râu

Ở nay tác giả gạt ra ngoài trường hợp quá đặc biệt là đàn bà có râu . Những điều đề cập sau nay là loại râu của nam giới Râu trong thuật ngữ của tướng học bao gồm tất cả mọi thứ lông hoặc dài hơn loại lông măng ( hoặc còn gọi là lông tơ) mọc ở phía trên môi trên , ờ khu vực cằm , ở hai bean xương Mang tai . Tất cả mọi loại râu đó bất kể là mọc ở đâu muốn được coi là tốt thì phải hội đủ hai điều kiện sau nay :

Đặc biệt là râu Cằm và ray ở khu vực giáp môi trên ( ria) phải tương xứng về cả lượng lẫn phẩm chất

Râu ria và lông mày cùng màu sắcvà đểu phải tươi nhuận , cứng mềm thích đáng . Kẻ có râu tóc hội đủ hai điều kiện trên , về cá tính là người có khí phách nam nhi , khoáng đạt cứng cỏi , không dễ khuất phục trước nghịch cảnh hay bạo lực , đến già vẫn còn sinh động , vận mạng khả quan .

Kẻ râu thưa , khô hoặc râu tóc không tương xứng đều là những kẻ về già lận đận . Đàn ông không có râu ( hoặc có nhưng rất ngắn , rất ít và mềm , màu sắc vàng ám thì cũng coi như không có ) thì chẳng những trông mất cả vẻ nam nhi khí phách mà thực chất lại rất giống đàn bà, dù có thông minh thì cũng gian xảo , uỷ mị khó có thể tự lập , nếu có đôi chút thành công thì cái đó do người khác tạo dùm . Bởi vậy tục ngữ Việt Nam có câu :" Đàn ông không râu bất nghì ". Tóm lại, đối với đàn ông tâu tóc và lông mày liên hệ chặc chẽ , nhưng vì tóc chung cho cả đàn bà nên ta chỉ cần lưu ý đến Râu và Lông mày . Vậng mạng của các đấng tâu mày chả có liên quan đến rầu may khá nhiều .Tuy vậy có một điều phân biệt là dẫu ý nghĩa về mạng vận tương đồng , nhưng râu chủ về tuổi già còn lông mày chủ về tuổi trẻ nhiều hơn .

III. ­ NHỮNG NÉT TƯỚNG NỐT RUỒI

a) Bản chất và ý nghĩa

Trong thuật ngữ của tướng học ,danh từ nốt ruồi bao gồm :

Những dấu chấm trên làng da hoặc chìm trong da ( tục bgữ gọi là tàn nhan hay bã chè ) , có hình dáng hơi tròn , hoặc tròn , có thể nó như..

Đầu đinh ghim hoặc lớn bằng đầu nén hương thông thường đang đốt cháy. Loại này người ta mệnh danh là tử chí hay nốt ruồi chết.

Những dấu chấm nổi cao hơn mặt da 1 cách tự nhiên (mụn cóc không được coi là nốt ruồi vì có nguồn gốc bệnh lí lan tràn rộng hay bị thu hẹp nhờ phép trị liệu y khoa thông thường ) ,có thể lớn bằngđ7ầu nén nhang hoặc nhỏ như hạt tấm.Loại nốt ruồi này được gọi là nốt ruồi sống (sinh chí).

Về mặt màu sắc, nốt ruồi bất kể là loại sống hay chết đều có thể có các màu sắc sau nay:

-Màu xám tro

-Màu đen lạt

-Vàng đậm như chất hoàng thổ

-Hồng lạt

-đỏ đậm như màu son tàu

Chỉ có hai màu đen huyền và đỏ đậm như son tàu mới coi là quí ,những màu khác , tạp sắc chủ về hung hiểm , phá hại.

Về vị trí xuất hiện , nói chung thì nốt ruồi nên hiện ở những bộ vị đó ,nhất là phái đẹp nốt ruồi son hoặc mun có hình dạng vừa phải sẽ làm tăng thêm duyên dáng của nụ cười ,ánh mắt .

Xuất hiện ở các bộ tĩnh vị, ví dụ như sống mũi trán làm giảm mĩ quan khuôn mặt.

Về dự đoán sự tốt xấu căn cứ vào vị trí nốt ruồi ,ta can phải nhớ nguyên tắc cơ bản là nốt ruồi nên vừa phải và ở những chỗ khuất kín trên khuôn mặt , hoặc mọc sau lớp quần áo thường có ý nghĩa tốt ,trái lại là xấu.

Sách Tướng lí hoành chân , bàn về nốt ruồi có nói:" Nốt ruồi dối với con người cũng như cỏ cây đối với núi non ,gò đống đối với địa thế của đất đai . Chất đất to61tthi2 sinh ra cây cối tươi tốt , chất đất cằn cỗi thì sinh ra cây cây cỏ héo úa, xấu xa.Người có nội chất tốt thì ra nốt ruồi đẹp cho thế nhân biết được cái đẹp.Người có bản chất xấu thì không sao có nốt ruồi đẹp được.Cũng như gò đống đối với mặt đất ,nốt ruồi nên ẩn tàng mới quí .Gò đống hiện ra ngay giữa đường đi lối lại hay sân vườn gây cản trở , làm mất mĩ quan , nhưng ở nơi rừng núi lại góp phần vào việc làm gia tăng cảnh trí của địa thế .Bởi vậy, nốt ruồi không nên hiện ra TRÊN TRÁN MŨI ( mũi và trán ví như đường cái hoặc sàn vườn ) mà nên hiện ra ở chân mày chân tóc (những nơi này với khuôn mặt ví như thâm sơn hiểm cốc )" Từ những điểm trên ta thấy phép giải đoán sự cát hung của nốt ruồi có thểđược thu gọn vào 3 điểm chính :

Bản chất nốt ruồi( chìm hay nổi)

Màu sắc( tốt xấu )

Vị trí xuất hiện (thích đáng hay trái chỗ)

b) Phương pháp giải đoán

Trong 3 điểm chính trên thì vị trí nốt ruồi đóng vai trò chính , còn cách cấu tạo và màu sắc chỉ có giá trị thứ yếu .

Xuất hiện đúng vị trí thích nghi là nốt ruồi sống ,không lớn không nhỏ ,màu đen hoặc đỏ sậm khá rõ rệt là điềm rất tốt .Sắc bóng và đậm chủ yếu về sự việc nhãn tiền, lạt dần chủ về việc quá khứ ,đậm dần chủ về tương lai.Nếu nốt ruồi chết, hình dạng méo lệch thì khuyết mấy ứng nghiệm dù là màu sắc gì đi nữa .

Xuất hiện không đúng vị trí ngoài ý nghĩa đặc thù do vậy từng vị trí nốt ruồi sống cực xấu, nốt ruồi chết xấu vừa , hình dạng lớn nhỏ cũng ảnh hưởng tới sự xấu : lớn xấu nhiều ,nhỏ xấu ít.Về ,màu sắc thì sắc đen huyền đỏ sậm gíup cho nốt ruồi sống ,không lớn không nhỏ ,mọc sái chỗ ,sửa chữa phần nào tính chất xấu của vị trí và có ý nghĩa là tiền hung hậu kiết .Nếu nốt ruồi sống mà là các màu tạp sắc hoặc không phải là đen huyền hay đỏ sậm thì mới phải giải đoán là cực xấu

Người da trắng mà mặt mày châu thân có nhiều nốt ruồi chết màu đen bóng chủ về thông minh ,nhưng háu sắc, màu vàng khô chủ về ngu đần đê tiện,

Người cao gay mà tuổi thiếu niên mặt và thân hình có nhiều nốt ruồi chết cỡ lớn rải rác , màu sắc hỗn tạp chủ yếu về yểu thọ.

Người map và trẻ ,có các nốt ruồi chết hiện lên trên thân hình ,diện mạo thì yểu ,nhưng ngoại ngũ tuần mặt và tay chân nảy sinh ra .Bất luận màu gì miễn là có sinh khí thì đó là dấu hiệu trường thọ .

Nơi đây là ý nghĩa của nốt ruồi trên 1 số bộ vị quan trọng của khuôn mặt :

* Thiên : chủ về không được thân cận những người quyền quí trai thường khác cha ,con gái thường làm tổn hại chồng

*Thiên đình : chủ yếu không được hưởng hạnh phúc của cha mẹ , đặc biệt là khắc mẹ.

* Tư không : thường nói bao quát cả cha mẹ và có ý nghĩa tương tự như 2 bộ vị trên .đàn bà thường suốt đời khổ vi chồng .Ngoài ra về mặt tai họa ,nếu kẻ đó ,bất luận nam nữ mà nghề nghiệp khiến thường xuyên phải tiếp xúc với các loại hỏa khí như lính cứu hỏa ,hỏa đầu quân ,thợ luyện kim ,v.v... thì trong đời khó thoát khỏi tai nạn về lửa 1 lần .

* ấn đường :Nốt ruồi sống nhưng phá cách chủ về ý chíbạc nhược ,làm việc có đầu không đuôi,đắc cách hoàn toàn chủ về qúi hiển

*Sơn căn: chủ về hình khắc (trai khắc vợ , gái khắc chồng ).Nếu chính giữa sơn căn và tiếp giáp với niên thượng có nốt ruồi sống mà sắc như tàn tro chủ về chết bất đắc kì tử

* Sống mũi (bao gồm cả niên thượng ,thọ thượng ):chủ về nghèo khó ,thân thể bệnh tật .đàn ông dễ bị đàn bà hiếp chế, đàn bà dễ bị chồng làm khổ.

*Chuẩn đầu : chủ về khó tránh khỏi hao tổn tiền bạc và cũng có ý nghĩa nhân vì háo sắc mà tốn của (chung cả nam lẫn nữ ).Riêng đối với đàn bà ,còn có 1 trong nhiều ý nghĩa quan trọng cho biết là số có chồng tính tình độc hại ,nham hiểm.

*Nhân trung :tại đây có nốt ruồi là 1 điểm cực xấu vì đó là nơi cho biết khá chính xác về thọ yểu , con cái (nhất là đàn bà vì ngoài ý nghĩa chung cho cả 2 giới còn có ý nghĩa đặc biệt là tử cung dễ bị bệnh )

*Thực thương và lộc thương:chủ về hệ lụy do ăn uống mà ra (bị bệnh vì ăn uống ,miệng tiếng vì ăn uống v.v...)

*Thừa tương :khó tránh khỏi nhân vì ăn nhậu mà ngộ độc hay chết vì rượu nhất là vào khoảng 54 tuổi

*Miệng ,môi:ham ăn và có ăn luôn luôn

*địa các : chủ về tai họa ,tốn tiền hại của ,do người quen biết gay ra(chẳng hạn đứng bảo lãnh cho ai thuộc về 1 việc liên quan đến tiền bạc ,ruộng vườn v.v...)

*Lê đường : chủ về đàn ông thường hay trai gái ,nếu không lấy thêm vợ bé thì cũng lăng nhăng .đàn bà khó tránh khỏi cảnh tái giá .

*Cung phu thê : chủ về đàn ông thường hay trai gái , nếu không lấy thêm vợ bé thì cũng lăng nhăng .đàn bà khó tránh khỏi cảnh tái giá.

*Lưỡng quyền :quyền của mình bị người khác chiếm đoạt hoặc vì người mà mang lụy đến thân khiến cho quyền uy của mình bị tổn hại

*Tai : ở phía trên ,chủ thể về cá tính con người hiếu hạnh ,ở phía dưới chủ về thông minh.

Những điều kể trên chỉ là những điểm dễ thấy trên khuôn mặt .Ngoài ra nốt ruồi còn có thể mọc (hoặc từ lúc sơ sinh ,hoặc tới 1 thời điểm nào đó trong đời ) bất cứ ở đâu ,trên mặt cũng như trên châu thân (chân tay ,bụng ,rốn ,cổ ,âm hộ ,dương vật v.v...).Do đó liệt kê tất cả với từng danh hiệu bộ vị riêng rẽ sẽ quá room rà ,nên soạn giả tóm tắt những ý nghĩa chính của nốt ruồi trên mỗi bộ vị thành từng sơ đồ ,độc giả chỉ can quan sát kĩ cũng đủ có 1 ý niệm khá rõ rệt về nốt ruồi.

VI ­ GIAI THOẠI VỀ NỐT RUỒI

Đời Thần Tông nhà Minh , tại Quảng châu có một vị Trạng nguyên tên là Đáo Trạch , tình cờ mang họ kép là Trần Từ , hiện nay tại làng Phán Đường vẫn còn đền thờ . Theo truyền thuyết Đáo TRạch vốn họ Trần, từ lúc sing ra trên ngực đã có 7 nốt ruồi son . Gia đình Đáo Trạch rất nghèo , cha Trần Tấn Tài sing sống vè nghề làm ruộng .Lúc Trần Đáo Trạch lên 4tuổi , một hôm theo cha ra đồng thăm ruộng , bị một kẻ bất lương trong họ là Trần Tương lén dẫn đi bán cho một phú hộ trong vùng là Từ Tử Lỗ. Tự Lỗ đời đòi là một cự phú , nhưng đến đời ông ta không may hiếm con trai , có rất nhiều thê thiếp mà chỉ sinh con gái .

Tử Lỗ đang lúc sầu muộn thì thấy Trần Đáo mặt mày dĩnh ngộ , trên ngực lại có 7 nốt ruồi son tục

gọi that tinh tụ hội là tướng cực quý , nên vô cùng mừng rỡ, nhận ngay làm con và đổi họ thành họ Từ . Lớn lên , Đáo Trạch được cha nuôi cưng như trứng mỏng , noun danh sư về nhà dạy học, lại nuôi riêng một tiểu đồng tên là Trần Quang để sớm tối hầu hạ Đáo Trạchcho chu đáo . Nhờ trời phú tính thông minh , năm 20 tuổi đậu cử nhânrồu chuan bị vào Bác Kinh thi đình

Một hôm Đáo Trạch tắm rửa , tiểu đồng Trần Quang được sai kỳ cọ cho thiếu chủ , Trần Quang thấy trên ngực TRần Đáo Trạch có 7 nốt ruồi lấy làm kỳ dị và ghi nhớ mãi .Không Dáo Trạng chuan bị đi thi , trần Quang được dịp nghỉ, về nhà thăm cha mẹ . Một sự tình cờ Trần Quang chính là con Trần Tấn Tài , vì nhà nghèo nên phải đi làm tôi tớ cho người . KHi về đến nhà Trần Quang thuật lại chuện thiếu chủ của mình cho mẹ nghe . Bà mẹ nghe nói nhớ lại đứa con thất lạc từ thuở thơ ấu , bất giác trong long khóc rống lên . Trần Quang hỏi mẹ cớ sự được mẹ cho biết , cách đó 16 năm anh ruột y cũng có 7 nốt ruồi son trên ngựcbỗng nhiên biệt tích , nay nghe chuyện bà ta nhớ đến con mà khóc >Trần Quang nói :"có lẽ thiếu chủ là anh con chăng ? Con nghe người lão bộc nói rằng thiếu chủ không phải là con đẻ của ông chủ Lúc ông chủ mang về nuôi , thiếu chủ đã được 4 tuổi . Bây giờ thiêu chủ vừađứng 20 , như thế rất hợp với thời gian anh con mất tích "

Cha nghe con nói hỏi thêm " thật vậy à mày có biết ai đem bán thiếu chủ họ Từ không?" Trần Quang đáp:" con không rõ nhưng hỏi lão bộc thì có thể biết được . Ngày mai thiếu chủ vào kinh ứng thi ,lão bộc cũng đi theo , đề rồi con hỏi lão ta xem sao" Hôm sau Trần Quang trở về nhà nói cho cha mẹ biết là nhân dịp thầy trò đi xa , hắn làm bộ mời lão bộc ăn uống để tạm biệt và lợi dụng dịp lão bộc say rựu hắn hỏi người lảo bộc về lý lịch của thiếu chủ , lão bộc tiết lộ rằng chính Đáo Trạch là con đẻ Trần Tán Tài và bị Trần Tương dụ đi bán cho họ Từ hồi mới 4 tuổi . Trần Tấn Tài nghe xong đem chuyện thưa lại với

các kỳ lão trong làng , bắt Trần Tương tra khảo thực hư thì tên này thú nhận mọi việc đúng như lão bộc nói.

Nói về Đáo Trạch vào kinh ứng thí liền trúng Tam trường, đến kỳ yết danh được chấm đậu Trạng nguyên và được Minh Thần Tông tuyển làm Phò Mã ban cho cờ biển vinh quy.

Nghe tin con vinh hoa ph1u quý về làng, họ Từ vô cùng mừng rỡ, dựng nhà, rạp, trương cờ xí, bày thành đội ngũ đi đón. Họ Trần cũng tập hợp người trong họ đi đón, nhưng không tiết lộ gì cho phe họ Từ biết việc Trần Tấn Tài đã nhận ra Đáo Trạch là con mình.

Khi tân trạng nguyên về đến Quảng Châu, cả hai họ đều tranh nhau nhận người. Rốt cuộc, việc phải đưa đến ông Tổng đốc tỉnh Quảng-đông để nhờ phân xử.Sau khi biết rõ ngọn ngành, Tổng đốc Quang-đông bèn đề nghị hai họ nên nhận Đáo Trạch làm con chung ; sau này Đáo Trạch và Công Chúa khi sinh con ra thì đứa con đầu lòng mang ten cả hai họ. Gíai pháp này được cả hai họ đồng ý. Thế là từ đó , Đáo trạng mang họ kép là Trần-Từ. Về sau con chau hai họ Trần-Từ điều quý hiển, giàu có nên góp tièn chung xây một ngôi đền thờ nguy nga tráng lệ để kỷ niệm ông tổ chung. Cái quý tướng của 7 nốt rùi son ở trước ngực là như vậy.

III. ­ NHỮNG NÉT TƯỚNG NỐT RUỒI

a) Bản chất và ý nghĩa

Trong thuật ngữ của tướng học ,danh từ nốt ruồi bao gồm :

Những dấu chấm trên làng da hoặc chìm trong da ( tục bgữ gọi là tàn nhan hay bã chè ) , có hình dáng hơi tròn , hoặc tròn , có thể nó như..

Đầu đinh ghim hoặc lớn bằng đầu nén hương thông thường đang đốt cháy. Loại này người ta mệnh danh là tử chí hay nốt ruồi chết.

Những dấu chấm nổi cao hơn mặt da 1 cách tự nhiên (mụn cóc không được coi là nốt ruồi vì có nguồn gốc bệnh lí lan tràn rộng hay bị thu hẹp nhờ phép trị liệu y khoa thông thường ) ,có thể lớn bằngđ7ầu nén nhang hoặc nhỏ như hạt tấm.Loại nốt ruồi này được gọi là nốt ruồi sống (sinh chí).

Về mặt màu sắc, nốt ruồi bất kể là loại sống hay chết đều có thể có các màu sắc sau nay:

-Màu xám tro

-Màu đen lạt

-Vàng đậm như chất hoàng thổ

-Hồng lạt

-đỏ đậm như màu son tàu

Chỉ có hai màu đen huyền và đỏ đậm như son tàu mới coi là quí ,những màu khác , tạp sắc chủ về hung hiểm , phá hại.

Về vị trí xuất hiện , nói chung thì nốt ruồi nên hiện ở những bộ vị đó ,nhất là phái đẹp nốt ruồi son hoặc mun có hình dạng vừa phải sẽ làm tăng thêm duyên dáng của nụ cười ,ánh mắt .

Xuất hiện ở các bộ tĩnh vị, ví dụ như sống mũi trán làm giảm mĩ quan khuôn mặt.

Về dự đoán sự tốt xấu căn cứ vào vị trí nốt ruồi ,ta can phải nhớ nguyên tắc cơ bản là nốt ruồi nên vừa phải và ở những chỗ khuất kín trên khuôn mặt , hoặc mọc sau lớp quần áo thường có ý nghĩa tốt ,trái lại là xấu.

Sách Tướng lí hoành chân , bàn về nốt ruồi có nói:" Nốt ruồi dối với con người cũng như cỏ cây đối với núi non ,gò đống đối với địa thế của đất đai . Chất đất to61tthi2 sinh ra cây cối tươi tốt , chất đất cằn cỗi thì sinh ra cây cây cỏ héo úa, xấu xa.Người có nội chất tốt thì ra nốt ruồi đẹp cho thế nhân biết được cái đẹp.Người có bản chất xấu thì không sao có nốt ruồi đẹp được.Cũng như gò đống đối với mặt đất ,nốt ruồi nên ẩn tàng mới quí .Gò đống hiện ra ngay giữa đường đi lối lại hay sân vườn gây cản trở , làm mất mĩ quan , nhưng ở nơi rừng núi lại góp phần vào việc làm gia tăng cảnh trí của địa thế .Bởi vậy, nốt ruồi không nên hiện ra TRÊN TRÁN MŨI ( mũi và trán ví như đường cái hoặc sàn vườn ) mà nên hiện ra ở chân mày chân tóc (những nơi này với khuôn mặt ví như thâm sơn hiểm cốc )" Từ những điểm trên ta thấy phép giải đoán sự cát hung của nốt ruồi có thểđược thu gọn vào 3 điểm chính :

Bản chất nốt ruồi( chìm hay nổi)

Màu sắc( tốt xấu )

Vị trí xuất hiện (thích đáng hay trái chỗ)

b) Phương pháp giải đoán

Trong 3 điểm chính trên thì vị trí nốt ruồi đóng vai trò chính , còn cách cấu tạo và màu sắc chỉ có giá trị thứ yếu .

Xuất hiện đúng vị trí thích nghi là nốt ruồi sống ,không lớn không nhỏ ,màu đen hoặc đỏ sậm khá rõ rệt là điềm rất tốt .Sắc bóng và đậm chủ yếu về sự việc nhãn tiền, lạt dần chủ về việc quá khứ ,đậm dần chủ về tương lai.Nếu nốt ruồi chết, hình dạng méo lệch thì khuyết mấy ứng nghiệm dù là màu sắc gì đi nữa .

Xuất hiện không đúng vị trí ngoài ý nghĩa đặc thù do vậy từng vị trí nốt ruồi sống cực xấu, nốt ruồi chết xấu vừa , hình dạng lớn nhỏ cũng ảnh hưởng tới sự xấu : lớn xấu nhiều ,nhỏ xấu ít.Về ,màu sắc thì sắc đen huyền đỏ sậm gíup cho nốt ruồi sống ,không lớn không nhỏ ,mọc sái chỗ ,sửa chữa phần nào tính chất xấu của vị trí và có ý nghĩa là tiền hung hậu kiết .Nếu nốt ruồi sống mà là các màu tạp sắc hoặc không phải là đen huyền hay đỏ sậm thì mới phải giải đoán là cực xấu

Người da trắng mà mặt mày châu thân có nhiều nốt ruồi chết màu đen bóng chủ về thông minh ,nhưng háu sắc, màu vàng khô chủ về ngu đần đê tiện,

Người cao gay mà tuổi thiếu niên mặt và thân hình có nhiều nốt ruồi chết cỡ lớn rải rác , màu sắc hỗn tạp chủ yếu về yểu thọ.

Người map và trẻ ,có các nốt ruồi chết hiện lên trên thân hình ,diện mạo thì yểu ,nhưng ngoại ngũ tuần mặt và tay chân nảy sinh ra .Bất luận màu gì miễn là có sinh khí thì đó là dấu hiệu trường thọ .

Nơi đây là ý nghĩa của nốt ruồi trên 1 số bộ vị quan trọng của khuôn mặt :

* Thiên : chủ về không được thân cận những người quyền quí trai thường khác cha ,con gái thường làm tổn hại chồng

*Thiên đình : chủ yếu không được hưởng hạnh phúc của cha mẹ , đặc biệt là khắc mẹ.

* Tư không : thường nói bao quát cả cha mẹ và có ý nghĩa tương tự như 2 bộ vị trên .đàn bà thường suốt đời khổ vi chồng .Ngoài ra về mặt tai họa ,nếu kẻ đó ,bất luận nam nữ mà nghề nghiệp khiến thường xuyên phải tiếp xúc với các loại hỏa khí như lính cứu hỏa ,hỏa đầu quân ,thợ luyện kim ,v.v... thì trong đời khó thoát khỏi tai nạn về lửa 1 lần .

* ấn đường :Nốt ruồi sống nhưng phá cách chủ về ý chíbạc nhược ,làm việc có đầu không đuôi,đắc cách hoàn toàn chủ về qúi hiển

*Sơn căn: chủ về hình khắc (trai khắc vợ , gái khắc chồng ).Nếu chính giữa sơn căn và tiếp giáp với niên thượng có nốt ruồi sống mà sắc như tàn tro chủ về chết bất đắc kì tử

* Sống mũi (bao gồm cả niên thượng ,thọ thượng ):chủ về nghèo khó ,thân thể bệnh tật .đàn ông dễ bị đàn bà hiếp chế, đàn bà dễ bị chồng làm khổ.

*Chuẩn đầu : chủ về khó tránh khỏi hao tổn tiền bạc và cũng có ý nghĩa nhân vì háo sắc mà tốn của (chung cả nam lẫn nữ ).Riêng đối với đàn bà ,còn có 1 trong nhiều ý nghĩa quan trọng cho biết là số có chồng tính tình độc hại ,nham hiểm.

*Nhân trung :tại đây có nốt ruồi là 1 điểm cực xấu vì đó là nơi cho biết khá chính xác về thọ yểu , con cái (nhất là đàn bà vì ngoài ý nghĩa chung cho cả 2 giới còn có ý nghĩa đặc biệt là tử cung dễ bị bệnh )

*Thực thương và lộc thương:chủ về hệ lụy do ăn uống mà ra (bị bệnh vì ăn uống ,miệng tiếng vì ăn uống v.v...)

*Thừa tương :khó tránh khỏi nhân vì ăn nhậu mà ngộ độc hay chết vì rượu nhất là vào khoảng 54 tuổi

*Miệng ,môi:ham ăn và có ăn luôn luôn

*địa các : chủ về tai họa ,tốn tiền hại của ,do người quen biết gay ra(chẳng hạn đứng bảo lãnh cho ai thuộc về 1 việc liên quan đến tiền bạc ,ruộng vườn v.v...)

*Lê đường : chủ về đàn ông thường hay trai gái ,nếu không lấy thêm vợ bé thì cũng lăng nhăng .đàn bà khó tránh khỏi cảnh tái giá .

*Cung phu thê : chủ về đàn ông thường hay trai gái , nếu không lấy thêm vợ bé thì cũng lăng nhăng .đàn bà khó tránh khỏi cảnh tái giá.

*Lưỡng quyền :quyền của mình bị người khác chiếm đoạt hoặc vì người mà mang lụy đến thân khiến cho quyền uy của mình bị tổn hại

*Tai : ở phía trên ,chủ thể về cá tính con người hiếu hạnh ,ở phía dưới chủ về thông minh.

Những điều kể trên chỉ là những điểm dễ thấy trên khuôn mặt .Ngoài ra nốt ruồi còn có thể mọc (hoặc từ lúc sơ sinh ,hoặc tới 1 thời điểm nào đó trong đời ) bất cứ ở đâu ,trên mặt cũng như trên châu thân (chân tay ,bụng ,rốn ,cổ ,âm hộ ,dương vật v.v...).Do đó liệt kê tất cả với từng danh hiệu bộ vị riêng rẽ sẽ quá room rà ,nên soạn giả tóm tắt những ý nghĩa chính của nốt ruồi trên mỗi bộ vị thành từng sơ đồ ,độc giả chỉ can quan sát kĩ cũng đủ có 1 ý niệm khá rõ rệt về nốt ruồi.

VI ­ GIAI THOẠI VỀ NỐT RUỒI

Đời Thần Tông nhà Minh , tại Quảng châu có một vị Trạng nguyên tên là Đáo Trạch , tình cờ mang họ kép là Trần Từ , hiện nay tại làng Phán Đường vẫn còn đền thờ . Theo truyền thuyết Đáo TRạch vốn họ Trần, từ lúc sing ra trên ngực đã có 7 nốt ruồi son . Gia đình Đáo Trạch rất nghèo , cha Trần Tấn Tài sing sống vè nghề làm ruộng .Lúc Trần Đáo Trạch lên 4tuổi , một hôm theo cha ra đồng thăm ruộng , bị một kẻ bất lương trong họ là Trần Tương lén dẫn đi bán cho một phú hộ trong vùng là Từ Tử Lỗ. Tự Lỗ đời đòi là một cự phú , nhưng đến đời ông ta không may hiếm con trai , có rất nhiều thê thiếp mà chỉ sinh con gái .

Tử Lỗ đang lúc sầu muộn thì thấy Trần Đáo mặt mày dĩnh ngộ , trên ngực lại có 7 nốt ruồi son tục

gọi that tinh tụ hội là tướng cực quý , nên vô cùng mừng rỡ, nhận ngay làm con và đổi họ thành họ Từ . Lớn lên , Đáo Trạch được cha nuôi cưng như trứng mỏng , noun danh sư về nhà dạy học, lại nuôi riêng một tiểu đồng tên là Trần Quang để sớm tối hầu hạ Đáo Trạchcho chu đáo . Nhờ trời phú tính thông minh , năm 20 tuổi đậu cử nhânrồu chuan bị vào Bác Kinh thi đình

Một hôm Đáo Trạch tắm rửa , tiểu đồng Trần Quang được sai kỳ cọ cho thiếu chủ , Trần Quang thấy trên ngực TRần Đáo Trạch có 7 nốt ruồi lấy làm kỳ dị và ghi nhớ mãi .Không Dáo Trạng chuan bị đi thi , trần Quang được dịp nghỉ, về nhà thăm cha mẹ . Một sự tình cờ Trần Quang chính là con Trần Tấn Tài , vì nhà nghèo nên phải đi làm tôi tớ cho người . KHi về đến nhà Trần Quang thuật lại chuện thiếu chủ của mình cho mẹ nghe . Bà mẹ nghe nói nhớ lại đứa con thất lạc từ thuở thơ ấu , bất giác trong long khóc rống lên . Trần Quang hỏi mẹ cớ sự được mẹ cho biết , cách đó 16 năm anh ruột y cũng có 7 nốt ruồi son trên ngựcbỗng nhiên biệt tích , nay nghe chuyện bà ta nhớ đến con mà khóc >Trần Quang nói :"có lẽ thiếu chủ là anh con chăng ? Con nghe người lão bộc nói rằng thiếu chủ không phải là con đẻ của ông chủ Lúc ông chủ mang về nuôi , thiếu chủ đã được 4 tuổi . Bây giờ thiêu chủ vừađứng 20 , như thế rất hợp với thời gian anh con mất tích "

Cha nghe con nói hỏi thêm " thật vậy à mày có biết ai đem bán thiếu chủ họ Từ không?" Trần Quang đáp:" con không rõ nhưng hỏi lão bộc thì có thể biết được . Ngày mai thiếu chủ vào kinh ứng thi ,lão bộc cũng đi theo , đề rồi con hỏi lão ta xem sao" Hôm sau Trần Quang trở về nhà nói cho cha mẹ biết là nhân dịp thầy trò đi xa , hắn làm bộ mời lão bộc ăn uống để tạm biệt và lợi dụng dịp lão bộc say rựu hắn hỏi người lảo bộc về lý lịch của thiếu chủ , lão bộc tiết lộ rằng chính Đáo Trạch là con đẻ Trần Tán Tài và bị Trần Tương dụ đi bán cho họ Từ hồi mới 4 tuổi . Trần Tấn Tài nghe xong đem chuyện thưa lại với

các kỳ lão trong làng , bắt Trần Tương tra khảo thực hư thì tên này thú nhận mọi việc đúng như lão bộc nói.

Nói về Đáo Trạch vào kinh ứng thí liền trúng Tam trường, đến kỳ yết danh được chấm đậu Trạng nguyên và được Minh Thần Tông tuyển làm Phò Mã ban cho cờ biển vinh quy.

Nghe tin con vinh hoa ph1u quý về làng, họ Từ vô cùng mừng rỡ, dựng nhà, rạp, trương cờ xí, bày thành đội ngũ đi đón. Họ Trần cũng tập hợp người trong họ đi đón, nhưng không tiết lộ gì cho phe họ Từ biết việc Trần Tấn Tài đã nhận ra Đáo Trạch là con mình.

Khi tân trạng nguyên về đến Quảng Châu, cả hai họ đều tranh nhau nhận người. Rốt cuộc, việc phải đưa đến ông Tổng đốc tỉnh Quảng-đông để nhờ phân xử.Sau khi biết rõ ngọn ngành, Tổng đốc Quang-đông bèn đề nghị hai họ nên nhận Đáo Trạch làm con chung ; sau này Đáo Trạch và Công Chúa khi sinh con ra thì đứa con đầu lòng mang ten cả hai họ. Gíai pháp này được cả hai họ đồng ý. Thế là từ đó , Đáo trạng mang họ kép là Trần-Từ. Về sau con chau hai họ Trần-Từ điều quý hiển, giàu có nên góp tièn chung xây một ngôi đền thờ nguy nga tráng lệ để kỷ niệm ông tổ chung. Cái quý tướng của 7 nốt rùi son ở trước ngực là như vậy.

IV ­NHỮNG NÉT TƯỚNG ĐỘNG TÁC

a) Tướng đi

Đi là 1 loại động tác tích cực tiêu biểu cho dương ,nên tướng đi thượng cách phải là loại tướng đi linh hoạt vững chắc , khoảng cách giữa các bước chân can xứng ,thân hình ngay thẳng .

Ngược lại đi mà co đầu rụt cổ ,thân hình xiêu vẹo ,bước chân như người say rượu v.v... đều là loại tướng hạ cách .

Cũng nhờ qan sát tướng đi người ta có thể biết rõ thêm con người về nhiều khía cạnh ,nên ở đây chúng tôi cố gắng trình bày theo hình thức tóm gọn những ý nghĩa của tướng đi .

1-Về mặt sức khỏe

đi đứng ngay thẳng ,thân mình không gấp khúc nghiêng ngả ,bước chân không loạn c/tỏ là bắp thịt eo lưng mạnh mẽ ,gân xương cứng cáp nên nội tạng ổn cố .Kẻ như thế ,thọ số đương nhiên phải dài hơn người thường . đi mà xiêu vẹo ,thân hình co rút ,bước chân loạng choạng là kẻ no6no65ita5ng suy nhược ,eo long không có sức giữ được thân mình ,gân xương ở chân cẳng yếu kém .Dựa vào đó có thể suy diễn ra được là kẻ đó khó có thể sống lâu.

2-Về mặt cá tính

Bước chân lảo đảo như không có gân cốt là kẻ không có chủ trương rõ ràng ,thiếu đảm lượng.

Bước chân đều đặn ,dáng dấp hiên ngang là kẻ kiến văn rộng rãi ,tư tưởng phóng khoáng cởi mở.

Bước chân nhanh nhẹn tự nhiên là kẻ hoạt lực sung mãn ,làm việc gì cũng mau lẹ nhưng nếu bước chân quá gấp và ngắn thì lại là kẻ có tư tưởng hẹp hòi ,xử sự hay chấp nê tiểu tiết.

3-Về mặt cá tính

-Bước đi vững vàng ,thanh thản tự nhiên như thuyền lớn xuôi theo dòng nước cả thân mình không day trở , không gấp khúc là tướng đại quí hiển .

-Bước đi đủng đỉnh như trâu :nhàn hạ giàu có

-đi chậm vã dáng dấp tương tự như ngang ,vịt : tiểu hoặc trung phú

-Bước chân cao dài nhẹ và thanh thản như hạc : thanh quí

-đi mà rụt đầu ,rụt cổ, leach vai đầu laove62 trước chủ về bần hàn.

-đi vội vàng như ngựa chạy ,cổ vươn thẳng về trước : nghèo hèn

-đi như rắn bò ,sẽ nhảy cô đơn .

b)Tướng đứng

Tướng đứng được coi là 1 biến thái phụ tùng của tướng đi nên không có gi đáng nói nhiều

.Khi đứng thân mình ngay ngắn ổn trọng ,chân cẳng can phân là tướng thượng cách .Ngược lại thân hình lắc lư ,2 chân động nay không ngừng ,chân cao chân thấp v.v...đều là hạ cách.

c)Tướng ngồi

Ngồi là 1 động tác tiêu cực nên thuộc về âm.

Do đó tướng ngồi tốt nhất là ổn cố,không rung gối ,lắc mình tư thế nghiêm trang ,dù là trai hay gái cũng không vượt ra ngoài những điễm chính yếu đó.

Bàn về tướng ngồi ,cổ tướng học cho rằng :Ngồi tuy thuộc âm nhưng nhưng ngoài âm mà trong tính lại dương thì tinh thần phải sung mãn ,hoạt động .Do đó khi ngồi tinh thần hoạt động nhiều hơn thể xác .Bởi vậy tư thế phải ổn trọng ,phải làm chủ được mọi động tác phụ đới ,nghỉa là ngồi không lắc lư thân mình ,không co chân duỗi cẳng .Kẻ ngồi ổn trọng đàng hoàng thì tính nết cũng đàng hoàng trang nghiêm ,dễ hiễn đạt .Kẻ ngồi nhấp nhỏm ,bồn chồn thì cá tính nôn nả hành động hấp tấp,công danh tài lộc không dễ tới tay

Bởi vậy,để diễn đạt ý nghĩatrên,tướng thuật có câu: "Mộc dao diệp lạc, nhân dao phúc bạc",: cây rụng là rụng ,người rung phúc mỏng .Dưới là 1 vài tư thế thường được ghi nhận trong tướng học :

-Ngồi như trái núi :quí hiển

-Ngồi như chó ngồi :phú túc

-Ngồi như kẻ ngủ gục

-Thân mình lệch lạc

-Ngồi rung gối : tán tài

d)Tướng ngủ

Thường nằm dễ đi đến chổ ngủ ,nên ở đây lấy tướng ngủ và các biến tháo của cách nằm

Cách nằm được coi là thượng đẳng là khi nằm ít day trở thân mình ,thần thái an tĩnh tự nhiên như rồng uốn khúc ,như chó nằm nghỉ .

Cũng như tướng đi và tướng ngồi , việc quan sát tướng ngủ của 1 cá nhân giúp ta biết được

1-Sức khỏe

-Ngủ ngửa chân tay thoải mái là kẻ có sức khỏe sung mãn

-Ngủ nghiêng mà vẫn ngũ được dễ dàng là kẻ tì vị khỏe mạnh ,nội tạng ổn cố

-Ngủ mà hơi thở đều hòa không gay ra tiếng động đáng kể là dấu hiệu trường thọ .Hơi thở

rất nhẹ hầu như không có tiếng động là điểm cực quí của tướng ngủ vì đó là dấu hiệu chắc

chắn nhất của sự trường thọ bất kể hình hài bộ vị ra sao .Sách tướng gọi đó là Qui tức :Rùa

thở

-Ngủ mà thở ra nhiều ,hít vào ít là tướng yểu thọ

-Ngủ mà hơi thở khò khè là dấu hiệu của hô hấp kém ,nội tạng không điều hòa nên thọ số

ngắn ngủi

2-Cá tính

-Ngủ hay day trở thân mình : tinh thần dễ thác loạn

-Ngủ nằm nghiêng ,người cong kiếm như tôm :tính nết cẩu thả ,ý chí bạc nhược

-Ngủ nằm sấp ,úp mặt vào gối là kẻ tính nết quá cương ngạnh cố chấp

-Ngủ nằm ngửa thần sắc tự nhiên người không cứng đơ là kẻ tâm hồn cương trực tính nết thông tuệ

-Trung niên ngủ ít ,dễ tỉnh :thông tuệ

_Trung niên ngủ nhiều ,khó tỉnh :ngu độn

-Ngủ hay nói lảm nhảm : TINH THẦN SUY NHƯỢC

3-Về mặt mang vận

-Ngủ nằm sấp ,hai tay chân dang thẳng là kẻ ngu độn , dễ chết thảm

-Ngủ mà thân hình cứng đờ như ma thây : số chết yểu

-Hai tay ôm mặt nằm sấp mà ngủ :thường bị đói rách

-Ngủ mà hay la lối như kẻ cuồng loạn là dấu hiệu chết không được lành

-Ngủ hay mở mắt ,há miệng :chết thảm hoặc chết đường

_Ngủ hay trẹo răng ,nghiến lợi :khắc vợ ,khắc con

-Thanh thiếu niên lúc ngủ chụm miệng lại như kẻ thổi lửa là dấu hiệu chết về hình ngục hoặc đến già chết thảm

-Nằm ngửa ,thần thái tươi tỉnh :quí hiển

-Nằm nghiêng ,mình không đè lên tay ,tay kia đặt lên mình ,dáng dấp tự nhiên ,thư thái là tướng ngủ của người thanh quí ,nhàn hạ

V- GIAI THOẠI VỀ CÁCH NGỦ

Đời Dường , Lý Kiểu tướng người thanh quý nhưng tẻ lạnh ,thân hình lại nhỏ bé , năm anh em đều có tướng cách như vậy và không ai sống qúa 30 tuổi , đến khi Lý kiểu trưởng thành , bà mẹ rất lo lắng bèn mời tướng thuật gia đệ nhất đời Dường là Viên Thiên Cương tới xem tướng cho Kiểu . Thiên Cương xem kỹ , nói với mẹ Kiểu rằng :" Lệnh lang tuy tnh thần thanh tú nhưng khí chất quá tẻ lạnh sợ rằng không thể sống được lâu" Bà mẹ rất buồn nhưng cố nài ông thầy tướng ở lại nhà mình để tìm xem có điểm gì trên tướng cách của Kiểu , khiến Kiểu thoát khỏi vết xe của mấy người anh , uổng phí một đời tài hoa không . Thiên Cương cảm động trước lời khan cầu của bà mẹ , nên bằng long ở lại để quan sát ngôn ngữ , cử chỉ của Kiểu xem sao.

Một hôm , lúc Thiên Cương đi ngủ thì Lý Kiểu vẫn còn thức . Đến canh 3 Thiên Cương tỉnh giấc thì Kiểu đã ngủ nhưng không nghe thấy hơi thở , tựa hồ như khí đã tuỵêt , Thiên Cương mới đầu rất kinh ngạc nhưng quan sát kỷ lưỡng mới phát hiện ra rằng Lý Kiểu ngủ mà hơi thở hầu như thoát ra bằng lỗ tai hơn là lỗ mũi , sch1 tướng gọi là Quy tức nghĩa là rùa thở. Sáng ra , Viên Thiên Cương nói với bà mẹ của Kiểu rằng :" Xét kỹ tướng của lệnh lang nay mới biết rằng có tướng Quy tức tất sẽ đại quý và trường thọ nhưng người hay bị bệnh và không giàu có ". Sau quả nhiên ,dưới thời Võ Tắc Thiên xưng đế ,Lý Kiểu làm quan đến chức tể tướng mà không mấy dư dã.

IV ­NHỮNG NÉT TƯỚNG ĐỘNG TÁC

a) Tướng đi

Đi là 1 loại động tác tích cực tiêu biểu cho dương ,nên tướng đi thượng cách phải là loại tướng đi linh hoạt vững chắc , khoảng cách giữa các bước chân can xứng ,thân hình ngay thẳng .

Ngược lại đi mà co đầu rụt cổ ,thân hình xiêu vẹo ,bước chân như người say rượu v.v... đều là loại tướng hạ cách .

Cũng nhờ qan sát tướng đi người ta có thể biết rõ thêm con người về nhiều khía cạnh ,nên ở đây chúng tôi cố gắng trình bày theo hình thức tóm gọn những ý nghĩa của tướng đi .

1-Về mặt sức khỏe

đi đứng ngay thẳng ,thân mình không gấp khúc nghiêng ngả ,bước chân không loạn c/tỏ là bắp thịt eo lưng mạnh mẽ ,gân xương cứng cáp nên nội tạng ổn cố .Kẻ như thế ,thọ số đương nhiên phải dài hơn người thường . đi mà xiêu vẹo ,thân hình co rút ,bước chân loạng choạng là kẻ no6no65ita5ng suy nhược ,eo long không có sức giữ được thân mình ,gân xương ở chân cẳng yếu kém .Dựa vào đó có thể suy diễn ra được là kẻ đó khó có thể sống lâu.

2-Về mặt cá tính

Bước chân lảo đảo như không có gân cốt là kẻ không có chủ trương rõ ràng ,thiếu đảm lượng.

Bước chân đều đặn ,dáng dấp hiên ngang là kẻ kiến văn rộng rãi ,tư tưởng phóng khoáng cởi mở.

Bước chân nhanh nhẹn tự nhiên là kẻ hoạt lực sung mãn ,làm việc gì cũng mau lẹ nhưng nếu bước chân quá gấp và ngắn thì lại là kẻ có tư tưởng hẹp hòi ,xử sự hay chấp nê tiểu tiết.

3-Về mặt cá tính

-Bước đi vững vàng ,thanh thản tự nhiên như thuyền lớn xuôi theo dòng nước cả thân mình không day trở , không gấp khúc là tướng đại quí hiển .

-Bước đi đủng đỉnh như trâu :nhàn hạ giàu có

-đi chậm vã dáng dấp tương tự như ngang ,vịt : tiểu hoặc trung phú

-Bước chân cao dài nhẹ và thanh thản như hạc : thanh quí

-đi mà rụt đầu ,rụt cổ, leach vai đầu laove62 trước chủ về bần hàn.

-đi vội vàng như ngựa chạy ,cổ vươn thẳng về trước : nghèo hèn

-đi như rắn bò ,sẽ nhảy cô đơn .

b)Tướng đứng

Tướng đứng được coi là 1 biến thái phụ tùng của tướng đi nên không có gi đáng nói nhiều

.Khi đứng thân mình ngay ngắn ổn trọng ,chân cẳng can phân là tướng thượng cách .Ngược lại thân hình lắc lư ,2 chân động nay không ngừng ,chân cao chân thấp v.v...đều là hạ cách.

c)Tướng ngồi

Ngồi là 1 động tác tiêu cực nên thuộc về âm.

Do đó tướng ngồi tốt nhất là ổn cố,không rung gối ,lắc mình tư thế nghiêm trang ,dù là trai hay gái cũng không vượt ra ngoài những điễm chính yếu đó.

Bàn về tướng ngồi ,cổ tướng học cho rằng :Ngồi tuy thuộc âm nhưng nhưng ngoài âm mà trong tính lại dương thì tinh thần phải sung mãn ,hoạt động .Do đó khi ngồi tinh thần hoạt động nhiều hơn thể xác .Bởi vậy tư thế phải ổn trọng ,phải làm chủ được mọi động tác phụ đới ,nghỉa là ngồi không lắc lư thân mình ,không co chân duỗi cẳng .Kẻ ngồi ổn trọng đàng hoàng thì tính nết cũng đàng hoàng trang nghiêm ,dễ hiễn đạt .Kẻ ngồi nhấp nhỏm ,bồn chồn thì cá tính nôn nả hành động hấp tấp,công danh tài lộc không dễ tới tay

Bởi vậy,để diễn đạt ý nghĩatrên,tướng thuật có câu: "Mộc dao diệp lạc, nhân dao phúc bạc",: cây rụng là rụng ,người rung phúc mỏng .Dưới là 1 vài tư thế thường được ghi nhận trong tướng học :

-Ngồi như trái núi :quí hiển

-Ngồi như chó ngồi :phú túc

-Ngồi như kẻ ngủ gục

-Thân mình lệch lạc

-Ngồi rung gối : tán tài

d)Tướng ngủ

Thường nằm dễ đi đến chổ ngủ ,nên ở đây lấy tướng ngủ và các biến tháo của cách nằm

Cách nằm được coi là thượng đẳng là khi nằm ít day trở thân mình ,thần thái an tĩnh tự nhiên như rồng uốn khúc ,như chó nằm nghỉ .

Cũng như tướng đi và tướng ngồi , việc quan sát tướng ngủ của 1 cá nhân giúp ta biết được

1-Sức khỏe

-Ngủ ngửa chân tay thoải mái là kẻ có sức khỏe sung mãn

-Ngủ nghiêng mà vẫn ngũ được dễ dàng là kẻ tì vị khỏe mạnh ,nội tạng ổn cố

-Ngủ mà hơi thở đều hòa không gay ra tiếng động đáng kể là dấu hiệu trường thọ .Hơi thở

rất nhẹ hầu như không có tiếng động là điểm cực quí của tướng ngủ vì đó là dấu hiệu chắc

chắn nhất của sự trường thọ bất kể hình hài bộ vị ra sao .Sách tướng gọi đó là Qui tức :Rùa

thở

-Ngủ mà thở ra nhiều ,hít vào ít là tướng yểu thọ

-Ngủ mà hơi thở khò khè là dấu hiệu của hô hấp kém ,nội tạng không điều hòa nên thọ số

ngắn ngủi

2-Cá tính

-Ngủ hay day trở thân mình : tinh thần dễ thác loạn

-Ngủ nằm nghiêng ,người cong kiếm như tôm :tính nết cẩu thả ,ý chí bạc nhược

-Ngủ nằm sấp ,úp mặt vào gối là kẻ tính nết quá cương ngạnh cố chấp

-Ngủ nằm ngửa thần sắc tự nhiên người không cứng đơ là kẻ tâm hồn cương trực tính nết thông tuệ

-Trung niên ngủ ít ,dễ tỉnh :thông tuệ

_Trung niên ngủ nhiều ,khó tỉnh :ngu độn

-Ngủ hay nói lảm nhảm : TINH THẦN SUY NHƯỢC

3-Về mặt mang vận

-Ngủ nằm sấp ,hai tay chân dang thẳng là kẻ ngu độn , dễ chết thảm

-Ngủ mà thân hình cứng đờ như ma thây : số chết yểu

-Hai tay ôm mặt nằm sấp mà ngủ :thường bị đói rách

-Ngủ mà hay la lối như kẻ cuồng loạn là dấu hiệu chết không được lành

-Ngủ hay mở mắt ,há miệng :chết thảm hoặc chết đường

_Ngủ hay trẹo răng ,nghiến lợi :khắc vợ ,khắc con

-Thanh thiếu niên lúc ngủ chụm miệng lại như kẻ thổi lửa là dấu hiệu chết về hình ngục hoặc đến già chết thảm

-Nằm ngửa ,thần thái tươi tỉnh :quí hiển

-Nằm nghiêng ,mình không đè lên tay ,tay kia đặt lên mình ,dáng dấp tự nhiên ,thư thái là tướng ngủ của người thanh quí ,nhàn hạ

V- GIAI THOẠI VỀ CÁCH NGỦ

Đời Dường , Lý Kiểu tướng người thanh quý nhưng tẻ lạnh ,thân hình lại nhỏ bé , năm anh em đều có tướng cách như vậy và không ai sống qúa 30 tuổi , đến khi Lý kiểu trưởng thành , bà mẹ rất lo lắng bèn mời tướng thuật gia đệ nhất đời Dường là Viên Thiên Cương tới xem tướng cho Kiểu . Thiên Cương xem kỹ , nói với mẹ Kiểu rằng :" Lệnh lang tuy tnh thần thanh tú nhưng khí chất quá tẻ lạnh sợ rằng không thể sống được lâu" Bà mẹ rất buồn nhưng cố nài ông thầy tướng ở lại nhà mình để tìm xem có điểm gì trên tướng cách của Kiểu , khiến Kiểu thoát khỏi vết xe của mấy người anh , uổng phí một đời tài hoa không . Thiên Cương cảm động trước lời khan cầu của bà mẹ , nên bằng long ở lại để quan sát ngôn ngữ , cử chỉ của Kiểu xem sao.

Một hôm , lúc Thiên Cương đi ngủ thì Lý Kiểu vẫn còn thức . Đến canh 3 Thiên Cương tỉnh giấc thì Kiểu đã ngủ nhưng không nghe thấy hơi thở , tựa hồ như khí đã tuỵêt , Thiên Cương mới đầu rất kinh ngạc nhưng quan sát kỷ lưỡng mới phát hiện ra rằng Lý Kiểu ngủ mà hơi thở hầu như thoát ra bằng lỗ tai hơn là lỗ mũi , sch1 tướng gọi là Quy tức nghĩa là rùa thở. Sáng ra , Viên Thiên Cương nói với bà mẹ của Kiểu rằng :" Xét kỹ tướng của lệnh lang nay mới biết rằng có tướng Quy tức tất sẽ đại quý và trường thọ nhưng người hay bị bệnh và không giàu có ". Sau quả nhiên ,dưới thời Võ Tắc Thiên xưng đế ,Lý Kiểu làm quan đến chức tể tướng mà không mấy dư dã.

V­NHỮNG NÉT TƯỚNG TRÊN THÂN MÌNH

a)Cổ

Theo quan điểm của á đông cổ được coi là rường cột của con người nên xét 1 cách tổng quát thì cổ nảy nở,tròm đầy ,cứng mạnh là tướng tốt ,chủ về phú quí.Cổ mảnh dẻ nghiêng lệch chủ về chết yểu.Người mập cổ không nên dài ,người gầy cổ không được ngắn .đi ngược lại với tổng tắc đó,con người sẽ gặp nhiều điều không may

Tuy nhiên ,sự dài ngắn cũng phải tới giới hạn nào đó .Nếu cổ dài như cổ cò,ngắn như cổ heo thì lại bất hợp cách.

Bàn về sự lớn nhỏ của cân xứng cũng vậy.Cổ quá lớn,trông như cái cột,lấn lướt cả thân mình,hoặc quá nhỏ như cổ bầu rượu đều là liệt cách .Một điểm cần lưu ý là dù cổ lớn hay nhỏ ,dài hay ngắn đều không nên lộ hầu vì lộ hầu chủ về gian truân trì trệ

Về thế cổ người ta phân biệt :

-Cổ nhỏ ,dài : con người bần tiện ,nếu lại thêm lệch lạc nữa thì tính nết số mạng không ra gì

-Cổ lớn và mẬp :không nên có tàn nhang và tạp sắc .Nếu có khuyết điểm này thì tính neat bỉ ổi ,tầm thường vận mạng không được hanh thông

-Thế cổ như hướng về phía trước nhưng không được quá lộ liễu ,chủ về tính nết hòa ái phong nhã

-Thế của cổ hướng về sau chủ về cá tính nhu nhược ,số kiếp hay gặp sóng gió bất ngờ

-Cổ tròn dài như cổ hạc :dễ phát nhưng chung cuộc không được an lành .Tuy nhiên nếu ,mập và cả đầu tương xứng như chim yean thì là tướng đại phú quí

b) Lưng

Tướng lưng tốt phải hội đủ các điều kiện sau nay:

-đầy đặn

-Rắn chắc

-Cân xứng

-Nở nang

Có được những biểu hiện trên thì nội tạng ổn cố ,ít tai họa ,được hưởng phúc lộc

Trái lại lưng mỏng ,thế yếu,lưng cong v.v... đều là các loại tướng xấu,nội tạng không ổn định ,tinh thần suy nhược ,chone6n Ngũ quan ,Lục phủ có tốt cũng khó mà phát huy ưu điểm của mình hầu đưa đến thành công trong thực tế

c) Eo lưng

Đó là tiếp giáp với phần dưới bả vai chạy dài theo 2 bên cạnh sườn xuống đến tận mông .Phía trước của eo lưng là bụng liên quan mật thiết với nhau. Sách thần tướng toàn biên đã rất có lí khi nói rằng :"Eo lưng là thành quách của bụng .Mọi sự an nguy của bụng đều dựa vào eo lưng cả"

Bởi vậy trong tướng học á đông eo lưng phải ngay thẳng rộng dày .Kẻ có eo lưng như vậy là kẻ có phúc lộc.Eo lưng hẹp ,lép, mảnh mai là tướng kẻ đa thành đa bại ,thân thể suy nhược Eo lưng rộng rãi bằng phẵng tương ứng với mông là eo lưng thượng cách chủ về thọ Eo lưng cong (hõm xuống ,lồi lên) hẹp lệch không tương xứng với mông là tướng hạ cách ,chủ về tính nết nhu nhược ,khó thành đạt.

Đàn ông tối kị eo lưng thắt đáy lưng ong .đàn bà nếu eo lưng quá nhỏ và bó lại ở phần giữa ,đường tử tức có rất nhiều điểm bất lợi

ViênLiễu Trang đã nói :"đàn bà thân nhẹ ,thắt đáy lưng ong,nhan sắc mĩ miều,lấy làmthiếp thì được chứ chẳng nên lấy làm vợ chính thức vì lẽ kể trên.

d)Bụng

Bụng cần phải tròn đầy và hướng xuống, hình dáng thanh nhã và chắc chắn.Bởi vậy tướng học có câu:"Bụng tròn, mạnh mẽ, hướng xuống là tướng của kẻ phú quý trường thọ."

Đem quan niệm Âm dương áp dụng vào thân thể, bụng được xếp vào loại âm, ngực xếp vào loại dương.Âm phải hướng xuống mới hợp vị thế. Cho nên, thế bụng hướng lên là kẻ ngu đần, da bụng mõng lắm bệnh nội tạng.

đ)Ngược

Bụng và ngựcđược coi là phần chứa đựng thần khí của toàn thân,kho đựng của lục phủ ngũ tạng, ngực ngay thẳng rộng rãi chắc chắn thì thần khí an hoà, phú quý khả kỳ, trí cao tài lớn. Ngực hẹp, lệch lạc thì bụng cũng ảnh hưởng theo, nên thần khí bế tắc, nội tạng nghiên lệch: tâm tình ngu độn thất thường khó có thể trường thọ, mưu cầu công danh cũng khó thành đạt.

Trên khu của ngực có vú. Vú đối với cá tính và vận mạng con người có vai trò khá quan trọng.Dưới nhãn quan tướng học, vú không nên hướng lên, mà núm vú cần ngang hoặc chúc xuống, có màu sắc tươi hồng mới được gọi là cát tướng chủ về khoẻ mạnh, nhiều con và phú quý.Núm vú dài là tướng kẻ bần cùng, không nên mưu cầu công danh, phú quý lam chi vô ích.

Về cách xem tướng ngực, Thần tướng toàn biên có đưa ra phương thức so sánh với các ý nghĩa như sau:

Ngực dài hơn khuôn mặt chút đỉnh,hoặc bằng là tướng người trí cao, lộc hậu.

Ngực ngắn hơn khuôn mặt chủ về trí thô, tài mọn, phúc mõng.

e)Rốn

Rốn cần phải sâu và rộng mới hợp cách;lồi, hẹp là sái cách.

-Rốn sâu, rộng, tương xứng với thân hình chủ về có tài trí và phúc lộc

- Rốn hẹp và nông cạn chủ về ngu đần vất vả.

-Thế rốn hướng lên: đầu óc minh mẫn, hưởng phúc

-Thế rốn hướng xuống: đầu óc tối ám, phước lộc ít.

-Rốn thấp so với toàn thể bụng: khiến thức rộng rãi, nhình xa thấy rộng.

-Rốn cao so với bụng: kiến thức nông cạn, không biết tính trước liệu sau.

g)Hạ bộ

Nhà tướng học khét tiếng đời Minh là Viên Liễu Trang nói rằng:"Đến những nơi như cầu tiêu, nhà tắm ta sẽ phát hiện ra được những hiện tượng kinh người." Như vậy,tướng học không những chỉ chú trọng quan sát những điều dễ phát hiện ở khuôn mặt, tay chân mà còn phải lưu tâm tới cả những nơi bí ẩn của con người vẫn được che đậy kín đáo.Muốn biết hạ bộ ra sao mà không cần khổ công như Liễu Trang ,Nhất Hạnh thì ta có thể theo bí quyết của Trần Đạn Gĩa,tác giả bộ"Tướng lý hoàn nhân"Đàn ông nhìn mũi , đàn bà nhìn miệng,trên sao dưới vậy.

Bàn về những nết tướng hạ bộ, cổ thư đưa ra một số nhận thức sau:

Đại tiện chậm hoặc vuông: quý hiển phi thường

Tiểu tiệnvọt ra thành như hạt châu, hoặc mưa chủ về quý; thẳng và rũ xuống chủ về tiện

Âm hộ(kể cả nam lẫn nữ) nhiều lông thì quý nhưng dâm, không lông thì nghèo và tính nết đê tiện.

VI - NHỮNG NÉT TƯỚNG CHÂN TAY

Đối vớitướng học, tứ chi có một vai trò rất quan trọng trong việc quan sát mạng vận và cá tính con người.Người ta nghiệm thấy những người trì độn hoặc suốt đời khốn khổ dù bộ vị trên mặt không lấy gì quá tệ đều có tứ chi bất quân xứng hay không ngay thẳng.Bởi lẽ đó, tác giả Trần Đạm Gĩa đã nói:"Tứ chi đối với con người cũng như bốn mùa đối với sự phát triển của vạn vật .Bốn mùa mà không điều hoà thì vạn vật khó sinh sôi nẩy nở. Tứ chi không ngay thẳng, cân xứng thì kẻ đó suốt đời khốn khổ."

Dưới nhãn quan tướng học Á đông, diện mạo được coi như thân cây,chân tay ví như cành nhánh. Có cây tốt thân mà xấu cành, có cây lại tốt cành mà xấu thân. Cành và thân đều tốt đã đành là quý, nhưng cành tốt thân xấu hay ngược lại thì cây đó vẫn có thẻ khả dụng. Cho nên , nếu Ngũ quan , Tam Đình, Ngũ nhạc có bị khuyết điểm đôi chút về mặt hình thức mà tứ chi hợp cách(Hợp cách ở đây có nghĩa là tứ chi tương xứng với thân hình; thẳng xuôi, văn tay, văn chân rõ đẹp, hội đủ các điều kiện tất yếu của chân và tay mà tướng học đòi hỏi) vẫn được coi là loại tướng khả dĩ có phú quý.

a)Tay

1- Cánh tay hợp cách

Cánh tay trên(từ vai đến khuỷ tay) gọi là long cốt; cánh tay(từ khuỷ tay đến cổ tay )gọi là Hổ cốt.Hổ cốt bao giờ cũng phải ngắn hơn long cốt mới đúng điều kiện tự nhiên, xương không được lộ.

Cánh tay phải xuôi thẳng như măng tre, tren to dưới nhỏ dần và màu sắc tươi mịn.

Cánh tay (trong tướng thuật cánh tay chỉ tính từ vai đến cổ tay) phải dài hơn thân mình.

*Riêng cánh tay có nhiều ý nghĩa:

Tay thẳng như măng tre : đầu óc thông minh. Ngược lại, đầu óc thiếu sáng suốt, cục xúc thô lỗ.

Tay xuôi và dài gần tới gối: tướng vừa quý vừa hiền. Ngược lại , là kẻ bần tiện

Tay tươi mịn: có số được hưởng phúc thọ. Ngược lại, cực khổ mới có miếng ăn.

Cánh tay tự nhiên mềm mại và nhỏ nhắn : có số thanh quý thô cứng : nghèo hèn

Người nhỏ cánh tay kớn :hao tài

Người lớn cánh tay nhỏ : bần cùng .

2- Lòng bàn tay hợp cách

-Không dày không mỏng,

-Có huyết sắc .

- có chỉ tay chin tươi mịn và rõ không đứt đoạn .

- Bàn tay phải thích hợp với từng loại người ( vd: như người hình Kim thì bàn tay phải vuông , người hình Mộc thì bàn tay phải xuôi và gay )

* Lòng bàn tay vô bệnh mà thường có mồ hôi là kẻ thường hay khổ tâm nhọc trí .

- Lòng bàn tay ngắn mỏng : số hèn

- Lòng bàn tay nổi cao xung quanh , giữa hơi loom xuống :số giàu

- Lòng bàn tay đầy đặn , dàihơn ngón tay : số quí hiển .

- long bàn tay đỏ như hoa son : vinh hoa phú quý , nhưng đỏ như huyết lại là kẻ tàn nhẫn , có tính háo sát .

-Bán tay khô khang cằn cỗi như đất vường hoang : nghèo hèn .

- Đàn bà mà gan tay quá mềm :có tính dâm đãng.

3- Ngón tay hợp cách

-Ngón tay thẳng khôbg cong không lêcj5 .

- Pghía tiếp can với bàn tay lớn rồi thon dần lên đến đầu ngón tay .

-Màu sắc , mềm cứng phải tương xứng với bàn tay .

-Ngón tay trỏ tương đương về chiều dài lẫn hình dạng với ngón tay áp út , chiều dài ngón tay cái tương đương với chiều dài ngón tay áp út .

* Ngón tay có những ý nghỉa chính sau nay :

- Ngón tay nhỏ và xuôi dài :thanh quý ( có tiếng mà không có miếng )

- Ngón tay quá ngắn và không tròn đầu : nhu đần , đê tiện .

- Ngón taymềm ,khoảng cách giữa các ngón tay khít lại : giữ được tiền , biển lận .

- Ngón tay cứng , khoảng cách giửa các ngón tay thưa :phá tán ,khuyết giữ được tiền ưa hoang phí .

- Ngón tay tươi tắn :tâm tính tao nhã .

- Ngón tay dùi đục : tân tính lỗ mảng thô tục

b) Chân

1- Cẳng chân hợp cách ( tính từ chỗ tiếp giáp với thân mình đến mắt cá )

- Tương xứng với thân hình cả về chiều dài lẫn vóc dáng .

-Ngay thẳng vững chắc .

- Xương thịt thích nghi .

- Không được ngắn hơn thân mình nhưng cũng không được dài hơn tay

-Cẳng dưới phải có lông vừa phải , lông chân dài vừa tần hơi thưa và mềm

* Chân có những ý nghĩa đáng lưu ý sau đây :

- Thịt chân rắn chắc vừa phải , chân thằng :tư tưởng cao thượng , tính tình hoà nhã .

-Cẳng chân quá lớn là tướng kẻ làm việc nhọc nhằn , đầu óc trì độn nhưng sống lâu , quá nhỏ là tướng lười biếng , yểu thọ .

- Cẳng chân quá ngắn không bao giờ ở được địa vị cao cả .

-Chân cẳng thô : tính neat lỗ mãng , khó thành công mà lại dễ thât bại , cảm xúc có tính cách theo bản năng hơn là lý trí .

- Đầu gối thích ứng ( nghĩa là bình xung với độ cao của mông ): tính tình dũng cảm nhưng khiêm cung.

- Đầu gối hình tròn : người có chí khí cao , có khả năng làm được nhiều việc lớn .

-Đầu gối lỏng lẻo( khi duỗi thẳng cẳng chân ): con người lao lực hoặc về thể xác hoặc về tinh thần . Ngoài ra còn là dấu hiệu thân thể suy nhược .

-Dầu gối chặt chẽ ( khi duỗi thảng chân đầu gối không thể di động được thì gọi là chặt chẽ ): tính neat cương trực , có khí phách cao xa , thân thể khoẻ mạnh .

-Đầu gối hình tròn như quả núi: tính neat gian xào hay có hành vi hoặc tư tưởng bất chính .

2- Bàn chân hợp cách

- Có dạng vuông , rộng rãi ,rắn rỏi và dầy

-Không quá rộng bề ngang .

- Gót chân rộng và bằng .

- Gan bàn chân hơi vũm .

- Năm ngón chân phải in sát mặt đất

- Gan bán chân chỉ chân rõ và sâu .

* Bàn chân vuông ,dày ,rộng : tướng khoẻ mạnh phú quý , nhưng quá rộng lại là số cực nhọc về sing kế .

-Hẹp thô lỏng , nghèo khổ .

-lòng bàn chân có nốt ruồi hoặc có các chỉ chân rõ ràng :sốphú quý vinh hiển .

-Bàn chân phía dưới bằng phẳng như tấm ván : vừa nghèo hèn vừa ngu độn .

- long bàn chân vũm và các ngón chân cùng ở trên một mặt phẳng : thông minh giàu có .

3 ­ Ngón chân hợp cách

- Các ngón phải khít không được dài quá

- Chiền dài các ngón không được chênh lệch .

- Các ngón chân nên có lằn sâu và rõ chạy dọc theo chiều dài mỗi ngón .

- Ngón chân ngắn :số an nhàn .

- Ngóc nhân dài số hay gặp trace trở hoặc vất vả . Đán ông ngón chân dài xấu hơn đàn bà về mặt mạng vận nhưng tính neat thường là thành thực .

- Năm ngón chân khít nhau : chủ về giàu , ngược lại là dấu hiệu nghèo túng .

-Chiều dào năm ngón chân tương đương : có tài nămg cao khí phách rộng , làm việc có kế hoạch rõ ràng .

-Năm ngón chân lệch laic so le : khí lượng hẹp hòi , làm việc theo bản năng , không biết đường tiến thoái .

Chương hai

LOẠI TƯỚNG BIẾN CÁCH

I-KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT

Tướng mạo, thân hình dộng tác của con người đôi khi vượt ra ngoài các kiến thức tướng học thông thường. Tướng học thông thường lấy con người chính thức là đối tượng nghiên cứu để dự đoán thông minh, đần độn, thọ yểu, giàu nghèo. Sự nghiên cứu đó, phần lớn dựa vào ngụ quan, tam đình,lục phủ có cân xứng, phối hợp hay không.

Nhưng con người không phải lúc nào cũng có dạng chính cường: đôi khi có những người mà thân hình, diện mạo hoặc động tác có những đặc điểm xét theo tiêu chuẩn chính thường về ngũ quan,, tam đình v.v...không đủ để giải thích thỏa đáng. Theo kinh nghiệm của nhiều thế hệ lưu lại, người ta nhận thấy có nhiều người có khuôn mặt, thân hình hay cách đi đứng, nằm ngồi có những nét phảng phất hoặc giống các loại chim hoặc giống các loại thú hơn là giống đồng loại (con người ). Tùy theo giống loại nào thì phú quý, thọ khang , giống loại nào thì bần tiện , yểu chiết mà người ta đi đến việc phân loại tướng cách hạng người đặc thù đó thuộc loại bí cách gọi là cầm thú tương hình.

1-Hình phương: Mắt có hình dạng ,bề dài rõ rệt, chiều ngang thích hợp, lông mày nhỏ, phần hạ đình thấp, mũi cao và cong, tinh thần, cốt khí tươi tỉnh, giọng nói trong trẻo, tính nết hòa ái .

Kẻ hình phụng, nếu cao dong dỏng, không gầy quá, không mập là kẻ hình phụng trì trê. Nhìn hình phụng thông sảng . Nếu thân hình mập tròn là kẻ hình phụng trì trệ. Nhìn nghiêng mà trán rộng cao hơn cằm thì gọi là tướng thiên địa tương ứng thuộc về quý cách. Lông mày và mắt đều nhỏ, thượng đình dài mà hạ đình ngắn thì gọi là tướng tiểu phụng hình nhân, thuộc về trung cách. Lông mày lớn , thân hình dài, mũi cao và thẳng , tinh thần sảng khoái ,lanh lẹ thì gọi là tướng đơn phung. Tướng thư chép rằng;"Lông mày , mắt và đầu dài ngũ nhạc đầy đặn, điều hợp, thân hình nhỏ nhắn, đi lại , hành động, có vẻ thanh tu là kẻ đắc phụng cách, ngôi vị cực sang".

2- Hình hài:thương , khố bị hãm, ngư vĩ cong xuống phía dưới, đuôi mắt hơi cong xuống,

đầu nhiều xương, ít thịt, cổ dài, bước đi nhấc cẳng dưới và khoảng cách dài thân thể mảnh dẻ,,,,,

thượng đình dài, rộng là kẻ hình hạc: tính ôn hòa thích ở nơi tịch mịch, có dang vọng về đường

đạo đức, văn học.

3-Hình chim ưng:đầu vuông, trán tròn, mũi cong vòng như mỏ chim , mắt tròn, viền mắt hơi đỏ, mắt có nhiều tia máu, mioệng nhỏ, tai mỏng, tính nóng nảy. Cổ tướng thư nói rằng: người hình chim ưng , trán rộng, mắt sáng rực, xương má xệ xuống tận hàm , giọng nói trong trẻo, bước chân dài rộng, hùng dũng có khiếu về binh nghiệp nhưng tính háo sát, thích đấu tranh nên ít khi được chết an lành.

4-hình chim yến: Mắt tròn, xương quai hàm nảy nở, môi hồng, miệng nhỏ, mũi ngắn, mắt sâu và đen trắng phân minh, sáng láng, thân hình cao gầy. Người hình yến đa tài, đa nghệ nhưng hay thăng trầm, thành đạt sớm thì lại dễ chết yểu.

5-Hình công: mặt nhỏ, thân hình cao lớn, tính ưa thủ lễ, ưa trang sức, dang vọng.

6_Hình ngỗng: Mắt nhỏ, miệng hơi túm và nhỏ, cổ dài, chân ngắn, bước đi chậm dãi, thượng đình chiếm phần trội yếu nhất trên lông mày, mũi ngắn. Kẻ có tướng ngỗng mà lại có mắt ngỗng đắc cách không lo thiếu ăn, thiếu mặc.

7-Hình Sẻ: thân thể nhỏ bé,ánh mắt lộ vẻ nôn nóng, mặt tròn và sác thái vô sự thường lộ vẻ kinh nghi . Tính nết kết hợp cách tướng chim sẻ thường ham dâm dục, ít khi giàu có lớn, số thường hay vất vả.

8-Hình uyên ương: thân hình trung bình, mặt trắng pha sắc hồng, mắt tròn và đẹp, đi đứng cục mịch, không có uy thế, nói năng tục tĩu và tính rất dâm ô. Hợp với mắt uyên ương, bộ vị đắc cách, người hình dáng kể trên có thể nổi danh với đời.

9-Hình chim tước:thân hình vừa phải, khuôn mặt nhỏ, tai sắc xang pha trắng, di thì nhanh nhẹn mà thân thẳng thắn, nói năng khoan dung khiến người nghe vui tai, ấm dạ. Tính tình người hình chim thước đắc cách ( hợp thước nhãn cộng hình thước) :trung hậu, có tài, vãn vận an khang, phúc lộc gồm đủ.

10-Hình gà: thân thể trung bình, đầu nhỏ, mắt nhỏ, tròng mắt hơi vàng, mặc dầu tham vọng nhiều nhưng lại trọng điều nghĩa khí, không bao giờ thất tín. Kẻ hình gà hậu vận rất tốt.

11-hình vịt: thân hình tròn mập, chân cẳng ngắn, mặt nhỏ và không có gì đặc biệt thanh tú, đi đứng chậm dãi, ì ạch, miệng rộng, hạ đình dài, nảy nở, cuh3 tiền bần hậu phú nhưng thuộc loại phú nhi bất quý

12_hình cò: thân hình thon nhưng dài, mũi nhỏ và dài, phần thân mình ngắn, chân dài. Lưng thẳng tuột, khi đi thường hay lắc lư đầu, hình dạn nói chung thanh khiết nên người hình cò ( đắc cách với mắt cò) là hàn tướng( tướng lạnh nhạt, ưa cô độc) chứ không phải là thanh tướng. Hình cò đắc cách là tướng kẻ ở ẩn hưởng đi tu dễ thành chính quả chứ không thích hợp với đời

sống tập thể.

13-Tướng cọp: đầu lớn, cổ vuông vắn, khỏe vai tròn trịa, lưng đầy đặn, tràn cao, eo rộng , mắt lớn ( hổ nhãn) tròng mắt đen phân minh, miệng lớn và vuông có lăng giáp. Người ta phân biệt nhiều thứ hình cọp tùy theo sắc thái: a)nếu môi như chu sa, mục lực sáng láng nìn người như thôi miên, tinh thần an thái, nói vang như tiếng trống đồng, tính tình khoát đạt thì gọi là lâm trung chi hổ ( hổ ở trong rừng) Kẻ có tướng lâm trung chi hổ thì chức vị cử phẩm thường là dễ phát về võ hơn là về văn.

b)Nếu tinh thần quá mạnh bạo, đi đứng ngang tàn mà ánh mắt lại mờ yếu không được ổn định thì gọi là xuất lâm chi hổ ( cọp ra khỏi rừng). Kẻ có tướng Xuất lâm chi hổ tuy tốt nhưng có nhiều sở đoạn nên quý hiển mà không được hưởng lâu bền, kết cuộc về vận hạn sẽ suy giảm.

c)Vẫn các đặc tính chung mà tinh thần an nhàn, tao nhã, nói năng có thứ tự, mịch lực bình ổn thì gọi là kháo hổ sơn (cọp trên núi) .Kẻ có tướng kháo sơn hổ được hưởng lộc lâu dài đến tận cuối đời.

d)Vẫn các đặc tính hình thể của tướng cọp mà tinh thần bất định, ngồi, đứng hay đi thường ngoảnh mặt, lắc vai thì gọi là khắc sơn chi hổ (cọp không thích hợp với núi rừng) .Kẻ có loại tướng cọp này có thể quý hay tiện nhưng thường thì xấu nhiều tốt ít. Nếu khuôn mặt không sầu muộn mà lúc nào cũng rầu rĩ, không bệnh mà mệt nhọc tựa hồ mắc bệnh thì dầu cho có xứng ý thỏa lòng 1 lúc cũng chỉ được 1 thời gian ngắn, rốt cuộc chết non.

14-Hình rồng:Thân hình từ trung bình đến cao lớn, diện mạo đoan chính, cốt cách thanh tú oai nghiêm mắt sáng và đen trắng phân minh, tai và mũi cao cử chỉ đường bệ, tâm tính cơ trí. Dây là loại tướng người phi thường. Nếu đắc cách long thể, long diện (mắt mũi, lông mày, đầu v.v...đều tương tự như dáng rồng , đi đứng như rồng bay, hổ chạy) là dấu hiệu đế vương. Ngày

xưa Hán Cao Tổ(Lưu bang) Đường Thái Tông (Lý Thế Dân) đều là loạĐường Thái Tông (Lý Thế Dân) đều là loại tướng rồng đắc cách.

15 ­ Hình kì lân :Tác người trung bình, cổ có xương thịt vững chãi, thân hình trông như ưỡn lên , mắt sâu, lông mày đen trông hơi có vẻ thô mà có uy thế ( trọc trung hữu thanh) , trán cao, vuông rộng, giọng nói thanh tao , đi đứng chững chạc , mắt sáng , tai cao . Hình kì lân hội đủ các điều miêu tả ở trên là tướng đại quý.

16 ­ Hình sư tử: Thân hình đôn hậu , chắc chắn, mắt tròn và lớn đen trắng phân minh, có thần quang, nhiều râu, lông mày thô đậm , đầu vuông vức, miệng rộng và vuông ,môi dầy, mũi lớn và gãy, tâm linh cơ xảo và khôn lường, cổ tướng thư nói rằng : Đầu của tướng người sư tử đắc cách phía sau nổi rõ xương tròn , phía trán cũng gồ cao sẽ là kẻ cực phẩm nhân thần , văn võ

song tòan.

17 ­ Hình voi:Phía sau đầu nôỉ rõ, trán cao và nở , Aân đường bằng phẳng, mắt nhỏ, lông mày dài, mũi hếch, môi cong, răng lộ , tai lơn và dầy, không rõ vành, thân hình to lớn ,dềnh dàng, mắt nhìn kém và rất ít ngủ. Kẻ có đắc cách tượng hình, tượng nhãn thì tính tình chậm lụt, hòa bình, không phú thì cũng tiểu quý. Tuy nhiên ,đắc cách về hình dạng chưa đủ, còn phải hợp cách về phẩm chất nữa : đi đứng chậm rãi, chắc chắn, ngồi vững vàng như trái núi, giọng nói trầm hùng.

18 ­ Hình tê giác: Thân hình mập mạp, quân phân, lông mày dài bằn ánh mắt, trán cao rộng, xương phía trên Aán đường nổi rõ cộng thêm với đầu tròn mắt lớn, tai dày.Kẻ đứng cách tê giác về hình dạng nếu phụ thêm các đặc tính nội tương ứng với loại hình này là kẻ có tướng giàu có và an khang đến già.

19 ­ Tướng vượn: Mắt tròn, khuôn mặt nhỏ, lông mày và mắt đều tròn, tay rất dài và lớn so với thân mình tiếng thanh và cao vút, tính ưa sạch sẽ và thích diêm dúa, thích trái cây, miệng nhỏ, mũi nhỏ , hay ca hát , không ưa lễ nghi, dễ phẫn nộ, tâm tính linh xảo, thân hình cao nhỏng, môi mỏng và xương lại rất nảy nở. Kẻ hợp cách vừa kể (đặc biệt là tay dài và chân ngắn, bước

chân nhẹ nhàng) rất dễ nổi danh về đường biện thuyết, hư ngụy.

20 ­ Tướng khỉ :Người trung bình , da trắng (thuộc thiên hình nhân) , đầu , trán nổi cao, lưỡng quyền cao và lộ, Ngũ quan tề chỉnh, mắt tròn, về phần tâm, tính tương tự như tướng vượn. Tướng khỉ đắc cách hợp với mắt khỉ là đại quy cách, phú quý thiên toàn nhưng háo dâm vô kể. Xưa nay, tất cả mọi kẻ đắc cách thực sự hầu tướng đều là kẻ thành đạt. Thời cuối đời Mãn

Thanh ( 1905) tổng đốc Lưỡng quảng là Trương Chi Đồng tự Hiếu đạt là 1 thí dụ điển hình nhất của tướng khỉ đắc cách và thuần túy không pha trộn các hình khác. Ông ta tự nhận mình là con khỉ già ở Cổ tự núi Nga My đầu thai làm người. Đặc điểm của Trương Chi Đồng là rất thích hoa quả, có khi thức trắng hai, ba đêm không ngủ mà tinh thần vẫn tươi tỉnh như thường nhưng không đêm nào lại bỏ qua trong sự chung chạn sắc dục.

21 ­ Tướng rùa: Cổ dài chân ngắn, thân thể mập mạp tròn lẳn, đầu hơi thon nhọn, lông mày đậm, mắt tròn tai cao, Ngũ nhạc tương xứng, lưng nảy nở, rắn chắc và cong lên như thân rùa , hơi thở nhẹ nhàng, ánh mắt ổn định. Tam đình đầy đặn,bình quân. Kẻ có tướng rùa đắc cách toàn bộ là kẻ có phúc phận vừa thọ vừa phú.

22 ­ Tướng trâu :Thân hình khôi ngô ,cao lớn, đầu to cổ lớn, nói năng đi đứng chậm chạp, mắt sáng và đen trắng phân minh. Hợp với tướng trâu (hình thể lẫn nội chất ) là kẻ phúc tướng suốt đời ít bệnh, giàu có hơn người .

23 ­ Tướng chuột : người nhỏ nhắn, thấp lùn, sắc da đỏ hồng, mắt tròn và nhỏ (người đời thường gọi là ti hí Mắt lươnh ).Kẻ đúng cách tướng chuột là kẻ khôn ngoan ranh mãnh, tâm cơ tinh xảo hơn người nên thường kiếm đủ miếng ăn được khó hiểm đạt.

24 ­ Tướng rắn : hình dạng đầu dài, mắt ngắn, Ngũ hẹp không cân xứng, trán bằng, lông mày nhỏ hẹp, mắt mở thao láo, miệng túm, răng nhỏ , thân hình to và thô lỗ, mũi dài nhưng gián đài, Đình quý rất nhỏ, chưa nói đến là đã liếm môi, khi đi lắc lư phần thân dưới như kiểu chữ chi trông mường tượng như rắn đang tườn mình trên mặt đất bằng phẳng. Người hình Tướng rắn hành động mẫn tiệp, hay thù độc khi bị người ta động chạm đến mình, mưu mô, ác hiểm khôn lường. Tuy nhiên, người hình rắn lại thường khôn ngoan , khéo léo và mưu thuận bề ngoài nên trong giới quan lai thường ghi nhận được nhiều người có tướng rắn.

25 ­ Tướng ngựa : mặt rất dài và thành hình tam giác rõ rệt, mắt tròn lớn,miệng rộng, răng lớn trắng và đều đặn lưng rất dài, phản ứng chậm chạp nhưng chắc chắn, có đức độ. Ban đêm thường ít ngủ, đứng ngồi có dáng vẻ uy nghi. Người có Tướng ngựa đắc cách là tướng trung hoặc đại úy tùy theo sự thành tựu của Ngũ quan có hoàn toàn hay không.

26 ­ Tướng dê : đầu vuông, mặt dài, trán thấp, địa các nhỏ và nhọn, miệng túm và rất nhiều râu (râu quai nón), lòng đen ít và lòng trắng ngả màu vàng nhưng trông không được thanh khiết, chân ngắn hơn thân mình, đầu rụt xuống phía trước, lúc đi nhìn xuống đất nhiều hơn là nhìn thẳng về phía trước. Đàn ông mà được Tướng dê, mắt dê thì quan cao, lộc hậu nhưng không được chết lành, đàn bà có tướng dê thì tính tình dâm đãng, trí trá tuy nhiên rất giàu có.

27 ­ Tướng nai : mắt hơi dài, sáng sủa, tròng đen lớn, lòng trắng ngả màu xanh lơ, ánh mắt hiền hòa ngây thơ hoặc lơ đãng, ngồi lâu thường hay cựa quậy không yên tĩnh, tính tình không được ổn định, khi đi rất nhanh, tương tự như người chạy. Người có Tướng nai đắc cách (Tướng người + Tướng mắt đều phối hợp tương xứng ) thường ưa thú vui điền viên hơn là cạnh tranh với

người đời, phúc lộc tự nhiên.

28 ­ Tướng gấu : Tướng người mập mạp, rắn chắc, ngực, bụng bằng nhau và đầy đặn, tròn trịa, mũi hếch, hơi thở gấp, đứng ngồi không yên chỗ. Kẻ có tướng gấu đắc cách, thân hình, mắt mũi, ... dễ thành sang quý nhưng tính nết hung bạo tàn nhẫn.

29 ­ Tướng cá : Tai nhỏ, lông mày thưa thớt và ngắn, mắt trròn, cổ ngắn, miệng như miệng cá, ngủ mà mắt không khép kín. Tướng cá, mắt cá, : Cổ tướng học xếp vào loại bất thường.

30 ­ Tướng heo : người mập cổ lớn và ngắn nên trông xa như không có cổ, miệng túm , tai nhọn, chân dưới ngắn, hình tượng rất kì dị tương tự như heo. Loại tướng heo, mặt heo là tướng ngu đần, bất đắc kì tử. Tuy nhiên người tướng heo thường hay đủ ăn mạc, thuộc loại phú nhi bất quý.

31 - Tướng chó : đầu lớn mà thô, mặt hơi nhọn, tai nhọn và vểnh, tính nóng nảy, háu ăn, thân dài bằng chân, cư xử với người ngay thẳng trung hậu, hay bị tiểu nhân oán ghét. Cổ nhân phân biệt : nằm mà giống chó là tướng thọ , đi mà giống chó là Tướng hà tiện, thân hình giống

VI - NHỮNG NÉT TƯỚNG CHÂN TAY

Đối vớitướng học, tứ chi có một vai trò rất quan trọng trong việc quan sát mạng vận và cá tính con người.Người ta nghiệm thấy những người trì độn hoặc suốt đời khốn khổ dù bộ vị trên mặt không lấy gì quá tệ đều có tứ chi bất quân xứng hay không ngay thẳng.Bởi lẽ đó, tác giả Trần Đạm Gĩa đã nói:"Tứ chi đối với con người cũng như bốn mùa đối với sự phát triển của vạn vật .Bốn mùa mà không điều hoà thì vạn vật khó sinh sôi nẩy nở. Tứ chi không ngay thẳng, cân xứng thì kẻ đó suốt đời khốn khổ."

Dưới nhãn quan tướng học Á đông, diện mạo được coi như thân cây,chân tay ví như cành nhánh. Có cây tốt thân mà xấu cành, có cây lại tốt cành mà xấu thân. Cành và thân đều tốt đã đành là quý, nhưng cành tốt thân xấu hay ngược lại thì cây đó vẫn có thẻ khả dụng. Cho nên , nếu Ngũ quan , Tam Đình, Ngũ nhạc có bị khuyết điểm đôi chút về mặt hình thức mà tứ chi hợp cách(Hợp cách ở đây có nghĩa là tứ chi tương xứng với thân hình; thẳng xuôi, văn tay, văn chân rõ đẹp, hội đủ các điều kiện tất yếu của chân và tay mà tướng học đòi hỏi) vẫn được coi là loại tướng khả dĩ có phú quý.

a)Tay

1- Cánh tay hợp cách

Cánh tay trên(từ vai đến khuỷ tay) gọi là long cốt; cánh tay(từ khuỷ tay đến cổ tay )gọi là Hổ cốt.Hổ cốt bao giờ cũng phải ngắn hơn long cốt mới đúng điều kiện tự nhiên, xương không được lộ.

Cánh tay phải xuôi thẳng như măng tre, tren to dưới nhỏ dần và màu sắc tươi mịn.

Cánh tay (trong tướng thuật cánh tay chỉ tính từ vai đến cổ tay) phải dài hơn thân mình.

*Riêng cánh tay có nhiều ý nghĩa:

Tay thẳng như măng tre : đầu óc thông minh. Ngược lại, đầu óc thiếu sáng suốt, cục xúc thô lỗ.

Tay xuôi và dài gần tới gối: tướng vừa quý vừa hiền. Ngược lại , là kẻ bần tiện

Tay tươi mịn: có số được hưởng phúc thọ. Ngược lại, cực khổ mới có miếng ăn.

Cánh tay tự nhiên mềm mại và nhỏ nhắn : có số thanh quý thô cứng : nghèo hèn

Người nhỏ cánh tay kớn :hao tài

Người lớn cánh tay nhỏ : bần cùng .

2- Lòng bàn tay hợp cách

-Không dày không mỏng,

-Có huyết sắc .

- có chỉ tay chin tươi mịn và rõ không đứt đoạn .

- Bàn tay phải thích hợp với từng loại người ( vd: như người hình Kim thì bàn tay phải vuông , người hình Mộc thì bàn tay phải xuôi và gay )

* Lòng bàn tay vô bệnh mà thường có mồ hôi là kẻ thường hay khổ tâm nhọc trí .

- Lòng bàn tay ngắn mỏng : số hèn

- Lòng bàn tay nổi cao xung quanh , giữa hơi loom xuống :số giàu

- Lòng bàn tay đầy đặn , dàihơn ngón tay : số quí hiển .

- long bàn tay đỏ như hoa son : vinh hoa phú quý , nhưng đỏ như huyết lại là kẻ tàn nhẫn , có tính háo sát .

-Bán tay khô khang cằn cỗi như đất vường hoang : nghèo hèn .

- Đàn bà mà gan tay quá mềm :có tính dâm đãng.

3- Ngón tay hợp cách

-Ngón tay thẳng khôbg cong không lêcj5 .

- Pghía tiếp can với bàn tay lớn rồi thon dần lên đến đầu ngón tay .

-Màu sắc , mềm cứng phải tương xứng với bàn tay .

-Ngón tay trỏ tương đương về chiều dài lẫn hình dạng với ngón tay áp út , chiều dài ngón tay cái tương đương với chiều dài ngón tay áp út .

* Ngón tay có những ý nghỉa chính sau nay :

- Ngón tay nhỏ và xuôi dài :thanh quý ( có tiếng mà không có miếng )

- Ngón tay quá ngắn và không tròn đầu : nhu đần , đê tiện .

- Ngón taymềm ,khoảng cách giữa các ngón tay khít lại : giữ được tiền , biển lận .

- Ngón tay cứng , khoảng cách giửa các ngón tay thưa :phá tán ,khuyết giữ được tiền ưa hoang phí .

- Ngón tay tươi tắn :tâm tính tao nhã .

- Ngón tay dùi đục : tân tính lỗ mảng thô tục

b) Chân

1- Cẳng chân hợp cách ( tính từ chỗ tiếp giáp với thân mình đến mắt cá )

- Tương xứng với thân hình cả về chiều dài lẫn vóc dáng .

-Ngay thẳng vững chắc .

- Xương thịt thích nghi .

- Không được ngắn hơn thân mình nhưng cũng không được dài hơn tay

-Cẳng dưới phải có lông vừa phải , lông chân dài vừa tần hơi thưa và mềm

* Chân có những ý nghĩa đáng lưu ý sau đây :

- Thịt chân rắn chắc vừa phải , chân thằng :tư tưởng cao thượng , tính tình hoà nhã .

-Cẳng chân quá lớn là tướng kẻ làm việc nhọc nhằn , đầu óc trì độn nhưng sống lâu , quá nhỏ là tướng lười biếng , yểu thọ .

- Cẳng chân quá ngắn không bao giờ ở được địa vị cao cả .

-Chân cẳng thô : tính neat lỗ mãng , khó thành công mà lại dễ thât bại , cảm xúc có tính cách theo bản năng hơn là lý trí .

- Đầu gối thích ứng ( nghĩa là bình xung với độ cao của mông ): tính tình dũng cảm nhưng khiêm cung.

- Đầu gối hình tròn : người có chí khí cao , có khả năng làm được nhiều việc lớn .

-Đầu gối lỏng lẻo( khi duỗi thẳng cẳng chân ): con người lao lực hoặc về thể xác hoặc về tinh thần . Ngoài ra còn là dấu hiệu thân thể suy nhược .

-Dầu gối chặt chẽ ( khi duỗi thảng chân đầu gối không thể di động được thì gọi là chặt chẽ ): tính neat cương trực , có khí phách cao xa , thân thể khoẻ mạnh .

-Đầu gối hình tròn như quả núi: tính neat gian xào hay có hành vi hoặc tư tưởng bất chính .

2- Bàn chân hợp cách

- Có dạng vuông , rộng rãi ,rắn rỏi và dầy

-Không quá rộng bề ngang .

- Gót chân rộng và bằng .

- Gan bàn chân hơi vũm .

- Năm ngón chân phải in sát mặt đất

- Gan bán chân chỉ chân rõ và sâu .

* Bàn chân vuông ,dày ,rộng : tướng khoẻ mạnh phú quý , nhưng quá rộng lại là số cực nhọc về sing kế .

-Hẹp thô lỏng , nghèo khổ .

-lòng bàn chân có nốt ruồi hoặc có các chỉ chân rõ ràng :sốphú quý vinh hiển .

-Bàn chân phía dưới bằng phẳng như tấm ván : vừa nghèo hèn vừa ngu độn .

- long bàn chân vũm và các ngón chân cùng ở trên một mặt phẳng : thông minh giàu có .

3 ­ Ngón chân hợp cách

- Các ngón phải khít không được dài quá

- Chiền dài các ngón không được chênh lệch .

- Các ngón chân nên có lằn sâu và rõ chạy dọc theo chiều dài mỗi ngón .

- Ngón chân ngắn :số an nhàn .

- Ngóc nhân dài số hay gặp trace trở hoặc vất vả . Đán ông ngón chân dài xấu hơn đàn bà về mặt mạng vận nhưng tính neat thường là thành thực .

- Năm ngón chân khít nhau : chủ về giàu , ngược lại là dấu hiệu nghèo túng .

-Chiều dào năm ngón chân tương đương : có tài nămg cao khí phách rộng , làm việc có kế hoạch rõ ràng .

-Năm ngón chân lệch laic so le : khí lượng hẹp hòi , làm việc theo bản năng , không biết đường tiến thoái .

V­NHỮNG NÉT TƯỚNG TRÊN THÂN MÌNH

a)Cổ

Theo quan điểm của á đông cổ được coi là rường cột của con người nên xét 1 cách tổng quát thì cổ nảy nở,tròm đầy ,cứng mạnh là tướng tốt ,chủ về phú quí.Cổ mảnh dẻ nghiêng lệch chủ về chết yểu.Người mập cổ không nên dài ,người gầy cổ không được ngắn .đi ngược lại với tổng tắc đó,con người sẽ gặp nhiều điều không may

Tuy nhiên ,sự dài ngắn cũng phải tới giới hạn nào đó .Nếu cổ dài như cổ cò,ngắn như cổ heo thì lại bất hợp cách.

Bàn về sự lớn nhỏ của cân xứng cũng vậy.Cổ quá lớn,trông như cái cột,lấn lướt cả thân mình,hoặc quá nhỏ như cổ bầu rượu đều là liệt cách .Một điểm cần lưu ý là dù cổ lớn hay nhỏ ,dài hay ngắn đều không nên lộ hầu vì lộ hầu chủ về gian truân trì trệ

Về thế cổ người ta phân biệt :

-Cổ nhỏ ,dài : con người bần tiện ,nếu lại thêm lệch lạc nữa thì tính nết số mạng không ra gì

-Cổ lớn và mẬp :không nên có tàn nhang và tạp sắc .Nếu có khuyết điểm này thì tính neat bỉ ổi ,tầm thường vận mạng không được hanh thông

-Thế cổ như hướng về phía trước nhưng không được quá lộ liễu ,chủ về tính nết hòa ái phong nhã

-Thế của cổ hướng về sau chủ về cá tính nhu nhược ,số kiếp hay gặp sóng gió bất ngờ

-Cổ tròn dài như cổ hạc :dễ phát nhưng chung cuộc không được an lành .Tuy nhiên nếu ,mập và cả đầu tương xứng như chim yean thì là tướng đại phú quí

b) Lưng

Tướng lưng tốt phải hội đủ các điều kiện sau nay:

-đầy đặn

-Rắn chắc

-Cân xứng

-Nở nang

Có được những biểu hiện trên thì nội tạng ổn cố ,ít tai họa ,được hưởng phúc lộc

Trái lại lưng mỏng ,thế yếu,lưng cong v.v... đều là các loại tướng xấu,nội tạng không ổn định ,tinh thần suy nhược ,chone6n Ngũ quan ,Lục phủ có tốt cũng khó mà phát huy ưu điểm của mình hầu đưa đến thành công trong thực tế

c) Eo lưng

Đó là tiếp giáp với phần dưới bả vai chạy dài theo 2 bên cạnh sườn xuống đến tận mông .Phía trước của eo lưng là bụng liên quan mật thiết với nhau. Sách thần tướng toàn biên đã rất có lí khi nói rằng :"Eo lưng là thành quách của bụng .Mọi sự an nguy của bụng đều dựa vào eo lưng cả"

Bởi vậy trong tướng học á đông eo lưng phải ngay thẳng rộng dày .Kẻ có eo lưng như vậy là kẻ có phúc lộc.Eo lưng hẹp ,lép, mảnh mai là tướng kẻ đa thành đa bại ,thân thể suy nhược Eo lưng rộng rãi bằng phẵng tương ứng với mông là eo lưng thượng cách chủ về thọ Eo lưng cong (hõm xuống ,lồi lên) hẹp lệch không tương xứng với mông là tướng hạ cách ,chủ về tính nết nhu nhược ,khó thành đạt.

Đàn ông tối kị eo lưng thắt đáy lưng ong .đàn bà nếu eo lưng quá nhỏ và bó lại ở phần giữa ,đường tử tức có rất nhiều điểm bất lợi

ViênLiễu Trang đã nói :"đàn bà thân nhẹ ,thắt đáy lưng ong,nhan sắc mĩ miều,lấy làmthiếp thì được chứ chẳng nên lấy làm vợ chính thức vì lẽ kể trên.

d)Bụng

Bụng cần phải tròn đầy và hướng xuống, hình dáng thanh nhã và chắc chắn.Bởi vậy tướng học có câu:"Bụng tròn, mạnh mẽ, hướng xuống là tướng của kẻ phú quý trường thọ."

Đem quan niệm Âm dương áp dụng vào thân thể, bụng được xếp vào loại âm, ngực xếp vào loại dương.Âm phải hướng xuống mới hợp vị thế. Cho nên, thế bụng hướng lên là kẻ ngu đần, da bụng mõng lắm bệnh nội tạng.

đ)Ngược

Bụng và ngựcđược coi là phần chứa đựng thần khí của toàn thân,kho đựng của lục phủ ngũ tạng, ngực ngay thẳng rộng rãi chắc chắn thì thần khí an hoà, phú quý khả kỳ, trí cao tài lớn. Ngực hẹp, lệch lạc thì bụng cũng ảnh hưởng theo, nên thần khí bế tắc, nội tạng nghiên lệch: tâm tình ngu độn thất thường khó có thể trường thọ, mưu cầu công danh cũng khó thành đạt.

Trên khu của ngực có vú. Vú đối với cá tính và vận mạng con người có vai trò khá quan trọng.Dưới nhãn quan tướng học, vú không nên hướng lên, mà núm vú cần ngang hoặc chúc xuống, có màu sắc tươi hồng mới được gọi là cát tướng chủ về khoẻ mạnh, nhiều con và phú quý.Núm vú dài là tướng kẻ bần cùng, không nên mưu cầu công danh, phú quý lam chi vô ích.

Về cách xem tướng ngực, Thần tướng toàn biên có đưa ra phương thức so sánh với các ý nghĩa như sau:

Ngực dài hơn khuôn mặt chút đỉnh,hoặc bằng là tướng người trí cao, lộc hậu.

Ngực ngắn hơn khuôn mặt chủ về trí thô, tài mọn, phúc mõng.

e)Rốn

Rốn cần phải sâu và rộng mới hợp cách;lồi, hẹp là sái cách.

-Rốn sâu, rộng, tương xứng với thân hình chủ về có tài trí và phúc lộc

- Rốn hẹp và nông cạn chủ về ngu đần vất vả.

-Thế rốn hướng lên: đầu óc minh mẫn, hưởng phúc

-Thế rốn hướng xuống: đầu óc tối ám, phước lộc ít.

-Rốn thấp so với toàn thể bụng: khiến thức rộng rãi, nhình xa thấy rộng.

-Rốn cao so với bụng: kiến thức nông cạn, không biết tính trước liệu sau.

g)Hạ bộ

Nhà tướng học khét tiếng đời Minh là Viên Liễu Trang nói rằng:"Đến những nơi như cầu tiêu, nhà tắm ta sẽ phát hiện ra được những hiện tượng kinh người." Như vậy,tướng học không những chỉ chú trọng quan sát những điều dễ phát hiện ở khuôn mặt, tay chân mà còn phải lưu tâm tới cả những nơi bí ẩn của con người vẫn được che đậy kín đáo.Muốn biết hạ bộ ra sao mà không cần khổ công như Liễu Trang ,Nhất Hạnh thì ta có thể theo bí quyết của Trần Đạn Gĩa,tác giả bộ"Tướng lý hoàn nhân"Đàn ông nhìn mũi , đàn bà nhìn miệng,trên sao dưới vậy.

Bàn về những nết tướng hạ bộ, cổ thư đưa ra một số nhận thức sau:

Đại tiện chậm hoặc vuông: quý hiển phi thường

Tiểu tiệnvọt ra thành như hạt châu, hoặc mưa chủ về quý; thẳng và rũ xuống chủ về tiện

Âm hộ(kể cả nam lẫn nữ) nhiều lông thì quý nhưng dâm, không lông thì nghèo và tính nết đê tiện.

Chương thứ ba

NHƯNG TƯỚNG CÁCH ĐẶC BIỆT

I. I-NGŨ TRƯỜNG

Ngũ trường là dạng xưng của 5 bộ phận:

-đầu dài

-mặt dài

-thân dài

-tay dài

-chân dài

Người có Tướng ngũ trường thường quý hiển nên loại người có Tướng ngũ trường thường được xếp vào loại Tướng quý. Quý ở đây chỉ có nghĩa là tốt, là thượng thưa mà thôi. Nhưng những điều liệt kê ở trên chỉ là phần hình thức , chưa đủ dể quyết đoán, mà có thêm ngũ quan ngay ngắn, cử chỉ hiên ngang, dáng dấp thanh nhã, khí sắc tươi tắn mới thực là quý tướng . Loại tướng này được xếp vào loại phú quý song toàn nhưng phần quý hiển nặng hơn phần phú túc . Trái lại , nếu chỉ được Ngũ trường về hình thức mà thực chất lại kém cỏi : ví dụ xương thịt khô xạm , cằn cỗi , thần thái ủ tủ , trơ xương lộ gân hoặc thịt bệu xương nhỏ đều là tướng hạ tịên .

Trong số Ngũ trường , có thể thiếu một mà vẫn không trở thành tướng xấu ( dĩ nhiên ở đây nói về hình và chất cùng tốt ) là chân ngắn . Nếu như cũng một trường hợp vừa nói mà thay vì chân ngắn , ta thấy ngược lại là tay ngắn hơn chân thì bao nhiêu điểm tốt lại trở thành xấu , vì đấy là tứơng bần hàn , đê tiện . Bởi vậy , tướng thuật có câư : " Cước trường , thủ đoản nhân đa tiện" .

II ­ NGŨ ĐOẢN

Được gọi là Ngũ đoản tướng khi có :

- Đầu ngắn .

- Mặt ngắn .

- Thân ngắn .

- Tay ngắn .

- Chân ngắn .

Về mặt xét đoán cũng vẫn như trên , nếu Ngũ đoạn mà xương thịt cân xứng , thần thái uy nghi , Ấn đường sáng sủa là tướng đại phú . Ngaỳ xưa vương quốc nước Tề là Án Anh người lùn chỉ cao bằng tầm ngực của tên quân hầu đánh ngựa , nhưng lại là lùn kiểu Ngũ đoản nói trên . Gần đây Việt Nam có một tướng có tướng Ngũ đoản đúng cách , đó là Nguyên Tổng Thống đệ nhất Cộng hoà , Ngô Đình Diệm .

Trái lại , nếu Ngũ doản mà thịt bệu , xương thô , tai dơi , mắt chuột , Ngũ nhạc lệch lạc , nửa thân dưới dài , mà nửa thân trên lại ngắn , v.v ... thì khó tránh khỏi cuộc đời quẫn bách , tầm thường . Ngũ đoản đều đặn mà trên dài dưới ngắn mới quý , còn ngược lại thì lưu lạc lênh đênh thành bại bất thường .

3 ­ NGŨ HỢP

* Cốt tú : Răng đều hay không đều không thành vấn đề .Điều cần thiết là răng phải chắc chắn , tươi sáng tựa như ngọc ngà không có vết . Người nào có bộ răng hợp với điều mô tả trên được kể là Cốt tú.

* Nhục tú : Sắc mặt lúc nào cũng hồng hào tươi tĩnh thì gọi là Nhục tú . Chỉ cần hồng hào tươi tĩnh mà thôi . Gầy mập không cần lưu ý .

* Huyết tú : Lông mày thanh nhã , mịn màng và chất của lông mày cũng như sự thưa mỏng của nó tương xứng với tóc và râu được gọi là Huyết tú .

* Khí tú : tiếng nói trong trẻo , có âm lương vang ra xa thì gọi là Khí tú . Đối với phép quan sát thần khí của Á Đông thì âm thanh là đối tượng dễ quan sát nhất về khí . Khí tốt thì âm thanh trong trẻo vang dội . Từ Khí có thể suy ra Thần và Sắc . Bởi vậy Đạt Ma Thiền Sư có nói : Cầu toàn tai thanh . Trong phép xem tướng , người ta đã liệt việc xem tướng âm thanh vào loại tướng pháp thượng thừa cũng bởi lý do trên .

* Chất tú : Mắt sáng , tia long lanh có thần khí thu tàng như tinh tú tự phát ra ánh sáng ban đêm : sáng mà êm dịu thì gọi là Chất tú .

Đời nhà Thanh , Đệ nhất thi nhân Hoàng Công Độ là người có đủ tướng Ngũ tú .Bởi vậy , tâm tính thông tuệ , dung hơp được cả các tinh hoa của thơ văn cổ điển bác học lẫn thơ văn bình dân . Nhà thơ họ Hoàng đã dùng những kỹ thuật bác học cổ điển để sáng tạo ra nhữn bài thơ ý tứ mới mẻ khiến cho việc thưởng thức những cái hay đẹp của văn chương cổ điển càng thêm phong phú . Thơ văn của Hoàng đã tạo thành một phong trào văn hóa có ảnh hưởng sâu rộng trong giới sĩ phu thời đó và phần nào đã có ảnh hưởng đến cuộc vận động Tân văn hoá của nhóm Hồ thích sau này . Sở dĩ Hoàng Công Độ hiển hách một thời cả về công danh lẫn sự nghiệp như vậy đều là do may mắn được trời sinh ra có tướng Ngũ tú .

6 ­ LỤC ĐẠI

Đầu lớn , mặt lớn , tai lớn , mũi lớn , miệng lớn và bụng lớn được gọi là Lục đại . Nếu tất cả đều ngay ngắn , cân xứng thì đó là tướng quý .

Ngược lại , nếu :

- Đầu lớn màtrán không có Nhật , Nguyệt giác (tức là trán gồ)

- Mắt tuy lớn nhưng ánh mắt láo liên hoặc mờ ám .

- Miệng tuy lớn nhưng không rõ luân quách .

- Bụng tuy lớn nhưng hếch lên , thì đó gọi là tướng Lục đại bần yểu .

7 ­ LỤC TIỂU

Trán , mắt , mũi , tai , miệng , bụng đều nhỏ thì gọi là Lục tiểu .

a) Quý tướng :

- Trán nhỏ , nhưng đều đặn vuông vắn .

- Mắt nhỏ nhưng sống mũi thẳng và ngay ngắn .

- Tai nhỏ nhưng đầy và Thuỳ châu rõ ràng , hướng về miệng .

- Bụng nhỏ nhưng xuôi .

Ngoài ra , thân mình phải can xứng với khuôn mặt mới thực sự tốt .

b) Tiên tướng :

Nếu sáu bộ phận trên nhỏ nhưng không hội đủ những điều khiện vừa kể thì bị xếp vào loại tướng tiện (không ra gi ) . Người có tướng lục tiểu khuyết hãm chẳng những trí óc đần độn hoặc lệch lạc mà mạng vận cũng trì tuệ , thọ mạng ngắn ngủi .

Ngoài một số tướng cách đặc thù kể trên , ta còn có thể căn cứ vào sự bất quân xứng giữa các bộ phận căn bản trên con người mà đặt ra vô số tướng cách

hỗn tạp . Ví dụ :

- Tứ tiểu , nhất đại .

- Tam tiểu , nhị đại .

- Ngũ tiểu , nhất đại v.v...

Điểm cần lưu ý trong tướng pháp để giải đoán quý tiện của loại tướng hỗn tạp ( gồm cả đại lẫn tiểu trên lhuôn mặt hay thân hình của một cá nhân) là:

* Dù hình thức và thực chất có hoàn hảo thì sự hỗn tạp trên không bao giờ đưa đến phú quý song toàn hoặc bền vững cả . Những kẻ đó hoặc là phú mà quý , hay ngược lại , hoặc tiền phú hậu bần , hoặc yểu .

* Mức độ xấu của tướng cách hỗn tạp , tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố : bộ vị chủ yếu , khí sắc , tinh thần khí phách v.v...

QUYỂN HẠ

LÝ TƯỚNG VÀ PHÁP TƯỚNG

Quyển thứ nhất trình bày các nét tướng và loại tướng, phần lớn có tính cách phân tích và nặng về khía cạnh tĩnh. Đó là phần tướng học biểu kiến, hình thức và tổng quát, mô tả từng bộ vị và phân loại hình hài của con người dựa trên các ngoại biểu vật thể phần lớn nhận thức được bằng vị giác. Vì thiên về phân tích, quyển 1 không phối trí các bộ vị, các loại tướng một qui tắc chi phối tương quan.

Quyển thứ hai đề cập đến phần lý tướng và tương pháp,nêu những qui tắc tương quan giữa các bộ vị giữa các hình hài, giữa các hình hài và bộ vị với nhau ngõ hầu giúp được giả thấu hiểu ý nghĩa đa phương và biến đổi giữa các nét tướng. Quyển 2 khảo sát tướng học trên phương diện tổng hợp nhìn dưới khía cạnh động ,nên những yếu tố phi vật thể, phần lớn được nhận thức bằng trực giác và tâm linh. Nói khác đi,về mặt biển khảo, quyển đầu chỉ mới giúp người học tìm khai đề(thèse) và phản đề (antithèse) trong khi quyển sau giúp ta đi vào phần hợp đề (synthèse).

Thực vậy, muốn thấu đáo con người phức tạp và đa dạng, chúng ta không thể chú trọng đến cục bộ và chi tiết mà phải nhìn cho được đại thể của nó trong hệ thống tương quan chi phối toàn cục. Việc hiểu biết từng nét tướng chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải điều kiện đủ. Con người thực tế là 1 khối duy nhất do toàn thể những nét tướng chi tiết hợp thành. Sự tốt xấu của khối duy nhất đó không phải là tổng cộng máy móc có tính cách toán học cứng nhắc của các sự tốt xấu lẻ tẻ chắp nối lại, Hơn nữa, con người là một sinh vật có tri giác, vốn động cả hình, chất lẫn tâm hồn . Những nét tướng của con người tuy tĩnh bề ngoài nhưng kì thực lại động bên trong và động trong suốt tiến trình của cuộc đời .

Tướng học Á Đông đã lĩnh hội được nguyên lý căn bản đó.Tướng lý Á Đông nhấn ttương quan giữa các yếu tố, kết hợp hình thức và thực chất , gắn liền nét tĩnh với nét động, phối hình tướng với tâm tướng ,liên kết ngoại diên với nội tâm.

Những thế kỉ thực nghiệm đã giúp nền tướng học Á Đông khám phá được các yếu tố tương quan đó trong nguyên tắc thanh trọc ,trong thần ,sắc ,khí, trong khí phách của con người ,trong nguyên tắc âm dương ngũ hành của vũ trụ. Từ đó nhiều thế kỉ thực nghiệm đã đào sâu thêm tướng lý và khai phá ra tướng pháp, nói khác đi là phương pháp xem tướng càng ngày càng hướng về thực tiễn và đặc biệt càng ngày càng xác định . Người ta dùng tướng để quyết định vận mạng đã đành ,có người dụng tướng để chọn tướng hảo tôi trung .Chỗ dụng của tướng học được nới rộng rất nhiều từ chỗ kiến thức đến chỗ ứng dụng cho con người nói riêng và cho quốc gia xã hội nói chung.

Một học thuật kì thú và bổ ích như thế không phải dễ hội nhập . Để giúp học giả nắm được tinh lý của tướng học , quyển 2 sẽ trình bày trong 6 chương :

Nguyên tắc thanh trọc .

Nguyên lý Âm Dương Ngũ hành và ứng dụng của nó trong tướng học .

Ý niện Thần , Khí ,Sắc và Khí phách.

Phương pháp xem tướng .

Những ứng dụng của tướng học.

Tướng phụ nữ.

Để kết luận ,soạn giả có phụ thêm vào phần cuối sách một vài nhận định về môn học thuật cổ điển này .

CHƯƠNG THỨ NHẤT

NGUYÊN TẮC THANH TRỌC

II. THỬ PHÁT HỌA HAI Ý NIỆM THANH VÀ TRỌC

Trong tướng học Á Đông ,Thanh và Trọc là hai ý niệm vô cùng súc tích và là hai ý niệm căn bản để giải đoán quí tiện cát hung , thành bại , thọ yểu của con người. Thanh Trọc chi phối hết các nét tướng của con người .Có thể nói mọi lãnh vực quan sát của tướng học Á Đông đều hướng về việc tìm tòi phân biệt những điểm Thanh,Trọc rồi dựa vào đó mà luận đoán . Nhưng trước hết Thanh ,Trọc là gì ?

a) Thanh:

Từ ngữ Thanh chỉ tất cả các nét tướng tốt của con người ,từ tướng cơ thể đến tướng tinh thần ,từ nét tướng động tĩnh và cả những nét tướng phối hợp động,tĩnh bao gồm cái tốt về phẩm và về lượng dưới đủ mọi dạng thức .

Nếu nói về sắc da,Thanh có nghĩa là hữu tình ,ưa nhìn,không đậm,không lạt.

Trong trường hợp này việc thẩm định tính chất Thanh nặng về chủ quan và trực giác hơn là khách quan và thị gíac hiểu theo nghĩa thông thường.

Nói về giọng nói, Thanh có nghĩa là trong trẻo,âm lượng vừa phải , không quá lớn đến đinh tai nhức ốc , không chua như dấm, không xoáy vào tai người nghe như kim châm,v.v...nhưng không quá nhỏ như tiếng dế,tiếng ong. Giọng nói thanh tao, hảo cảm, vui tai không phải vì lý luận hữu lý mà vì tính chất ấm áp hay trong trẻo , rõ ràng , không rè, không chát.

Nói về cử chỉ,Thanh có nghĩa là cử chỉ mực thước, quý phái không sỗ sàng, cương nhu thích nghi . Đó là cử chỉ của loại người gọi là hào hoa , phong nhã ,theo đúng nghĩa trong sạch của nó.

Nói về bộ vị hay người bộ vị Thanh kết hợp lại tạo thành một cơ thể hay cơ cấu (structure) cân xứng ,linh động ,có sinh khí về cả phẩm lẫn lượng một cách có thẩm mỹ . Cặp lông mày được gọi là Thanh khi sợi lông mày không lớn hơn sợi tóc ,dài và mọc cách nhau thế nào để kẻ quan sát cách xa đó một hay hai thước nhìn thấy được phần da của chân lông mày ,sắc lông mày đen xanh và mượt .Mũi Thanh là mũi ngay thẳng và cao, không leach ,gián đài và đình úy không quá lớn. Đầu mũi không quá mập . Chẳng hạn mũi tiêm đồng,mũi thông thiên được coi là Thanh ,mũi sư tử, mũi túi mật treo bị coi là trọc.

Nói về thân hình ,loại người hình mộc (loại Giáp Mộc) được coi là Thanh ,người trọng Thổ bị xem là Trọc.

Nói về thần khí ,kẻ mắt lồi,mục quang hung hãn,hoặc lòng đen ,tròng trắng mờ đục thì không Thanh. Trái lại ,ánh mắt sáng ,êm dịu ,tinh anh ,đồng tử trong suốt như pha lê ,long đen tròng trắng rõ ràng ,thuần khiết không mờ đục ,không có tia máu xâm phạm được coi là thần thanh , khí sảng.

Nói về tổng quát,nếu có sự phối trí tương xứng theo một hòa điệu (hramonie) giữa các thành phần trong bộ vị cơ thể thì gọi là Thanh. Thí dụ :phía sau đầu và trước mặt ,phía phải và trái khuôn mặt cân xứng và thích nghi với thân mình được xem là Thanh, trong phép phối hợp ngũ hành của cơ thể,người thuần túy một hình hay bác tạp nhưng không xung khắc được xem là Thanh . Chẳng hạn thân hình nặng nề, chắc nịch,mặt mũi thô kệch nhưng mắt sáng ,mày tươi ,giọng trong trẻo thì phần sau đó gọi là Thanh trong cái trọc của toàn thể thân hình.

Nói về động tĩnh ,nếu có hòa hợp động và tĩnh tức là phần động trội hơn phần tĩnh nhưng không làm mất thế quân bình ,phần phẩm hơn phần lượng, nhưng không vượt ra ngoài tiêu chuẩn đều được gọi là Thanh .Đó là trường hợp những kẻ gầy yếu

- Mặt mày sáng sủa ,thân thể khôi vĩ, nhưng nhìn vào không oai vệ hay khiến người dễ chán.

- Đàn ông quyền thấp,tiếng nói có vẻ nữ nhi.

- Mặt đầy đặn,phối hợp tương xứng với ngũ quan nhưng đấu mũi bị lệch.

- Răng tuy trắng ,đều,khít nhưng không bóng bẩy.

- Miệng tuy rộng nhưng không có lăng giác, mũi không hồng, răng thưa.

- Lông mày tuy đẹp nhưng sợi lông mày mọc thưa, ngang hoặc tráp với phương vị cố hữu.

- Mày tuy cao nhưng sợi thô hắc ám.

- Mặt tuy sáng nhưng lộ chân quang.

- Râu tuy đẹp nhưng không tương xứng với tóc và lông mày.

- Người tuy đúng cách cục nhưng sắc hôn , khí ám.

- Người tuy to lớn , mập mạp trông có vẻ phúc hậu nhưng thịt bệu, da khô, tóc cằn,v.v...

Người có đặc điểm kể trên thì thoáng qua thấy có vẻ thanh nhã nhưng tương hợp coi đó là thanh trung hữu trọc vì trong cái đẹp có lẫn cái xấu .

b) Trọc trung hữu thanh:

Những người có hình dạng cục mịch thô lỗ hay mặt mày méo lệch ,tam đình,ngũ nhạc bất quân xứng nhưng nếu có :

- Mắt sáng mà mục quang ẩn tàng.

- Thiên đình cao rộng,sáng sủa.

- Phía trong vành tai màu hồng tươi nhuận hay tai mọc cao quá lông mày ,sắc bề ngoài trắng hơn da mặt,hay luân quách phân minh.

- Lông mày tươi mịn.mọc cao và không gián đoạn.

- Hoặc người nhỏ yếu,thấp lùn nhưng tiếng nói sang sảng như tiếng chuông ngân hay thanh tao như những hạt ngọc rơi rớt trên mâm bạc.

- Có tướng ngũ tiểu hoặc ngũ lộ nhưng phẩm chất các phần lộ đó đều tốt đẹp.

- Người khẳng khiu nhưng dáng dấp hiên ngang,đi như rồng bay cọp bước,khí phách hoằng đại,v.v..

Suy rộng ra ,khi nhìn moat cá nhân qua nhiều bộ vị ,ta thấy hình dáng màu sắc của chúng thoáng qua thì thô bỉ,nhưng đi sâu vào chi tiết,ngắm lâu lại thấy hữu tình hoặc hảo cảm,quan sát moat cá nhân ta thấy khuôn mặt ,thân hình,tiếng nói,v.v...không gây hảo cảm lúc ban đầu,nhưng tổng hợp tất cả lại hoặc là thấy có sự sinh động đặc thù hoặc cử chỉ động tác linh hoạt,phong nhã ,tính tình quả cảm,trung hậu khiến ta sinh long nể phục về sau đều được gọi là trọc trung hữu thanh.

c) Thẩm định ý nghĩa của tương quan thanh trọc :

Trong quan điểm của tướng học, thanh trung hữu trọc được xem là cái đẹp hời hợt,bất túc,trong cái hay đã tiềm ẩn cái dở, nên thường dùng để chỉ trường hợp tốt đẹp bề ngoài,hậu quả tốt chỉ thoáng qua,còn chung cuộc thì rất xấu. Ngược lại , trọc trung hữu thanh được xem là cái xấu biểu kiến phủ ra ngoài cái đẹp thực chất, nhưng vì vẫn là cái đẹp không được thập toàn hoàn mỹ ,nên khi khởi đầu bị vùi dập,sóng gió.về sau mới có kết quả tốt lành.

Cũng bởi lẽ trên, trong thực tế có những kẻ mặt mũi khôi ngô,hoặc dung mạo xinh đẹpmà công danh sự nghiệp hoặc bản thân bị khốn đốn bởi vì sinh ra có cách thanh trung đới trọc.Có những ngu7òi thoáng qua thấy tướng mạo cực kì bần hàn, xấu xí mất cả thiện cảm mà rốt cuộc trở thành đại quý cực phú là vì hợp cách trọc trung hữu thanh.

Dưới nhãn quan tướng học, Thanh được xem là tốt,là quý,vì thế Thanh đồng nghĩa với quý.Trọc bị xem là xấu nên đồng nghĩa với tiện. Ta phải hiểu là tiện và quý trong các sách tướng chỉ dùng để chỉ hậu quả của Thanh và Trọc mà thôi. Hiểu như vậy, những phá tướng về hình thể lẫn tâm hồn đều bị coi là Trọc , dù là ẩn tàng hay biểu lộ .Những nét tướng tốt dù trong hay ngoài, dễ nhận thấy hay là phải khổ công mất nhiều ngày giờ mới khám phá ra đều được gọi là Thanh.

Thanh thì quý đã đành,nhưng như trên đã nói , con người thường thanh trọc lẫn loan ,nên vấn đề đặt ra ở đây là thanh trung hữu trọc tốt hay trọc trung hữu thanh tốt ?Câu trả lời thông thường là trọc trung hữu thanh tốt hơn là thanh trung hữu trọc .Nhưng cái đó cũng chỉ có ý nghĩa và giá trị tương đối vì nó còn tùy thuộc vào nhiều dữ kiện :

1-Thanh trung hữu trọc : thông thường thì tốt nhưng không được toàn mỹ. Do đó, thanh trung hữu trọc thường không tốt đẹp, hanh thông một cách đều đặn, tiền chậu hung. Điều này không có nghĩa tuyệt đối vì :

- Có những trường hợp thanh trung hữu trọc không có tốt đẹp gì đáng kể, mà lại rất xấu nếu những điểm thanh nhiếu, nhưng là những điểm phụ thuộc hoặc thuộc về lượng, còn trọc tuy ít nhưng là điểm căn bản, cốt yếu hoặc thuộc về phẩm.

Thí dụ : Mũi có chuẩn đầu đình uy và gián đài nảy nở đặc biệt(tức là loại mũi sư tử hay huyền đởm tỵ) chủ về giàu có,nhưng nếu bị leach không tương xứng với khuôn mặt hoặc đi đôi với lưỡng quyền nhỏ hẹp và nhọn thì bao nhiêu cái quý của mũi sư tử hướng huyền đởm tỵ bị tiêu giảm gần hết.

Người Mộc tuy thanh nhã,nhưng đấy chỉ là những nét khái quát, nếu đi sâu vào bộ vị ta thấy miệng rộng, mũi hếch tai thuộc loại tiễn vũ nhĩ, sắc da trắng xanh thì đó là tướng phá cách hay nói cách khác đi, thanh trung đới trọc ,kết quả sẽ không ra gì. Kẻ như thế ,khó sống được quá 40 tuổi, còn nói gì đến công danh sự nghiệp.

Ngũ quan tuy toàn hảo nhưng thần mắt suy nhược ,bước chân ẻo lả như sẽ nhảy hoặc xiêu vẹo như rắn bò ngồi gục đầu xuống như cổ chỉ có sụn không có xương thì đấy là tướng yểu chiết chứ không phải là tướng thông tuệ hiển đạt.

Những trường hợp thanh trung đới trọc như trên có thể liệt kê hầu như vô tận và đều là loại thanh trọc đới trọc,có hậu quả chung cuộc không ra gì.

Ngược lại, có những trường hợp thanh trung hữu trọc không có ảnh hưởng xấu tới cá nhân, nếu điểm trọc chỉ là các khuyết điểm phụ tuy hoặc thuộc về lượng . Ví dụ như:

- Người Giáp Mộc pha Kim ,thân hình dỏng cao,ngũ quan toàn hảo nhưng cằm vuông,miệng vuông , sắc da hơi hồng thì chỉ gặp tai ương hay vận hạn không tốt một thời, cuối cùng vẫn quý hiển

- Mũi tốt nhưng sắc da mũi không dược tươi nhuận thì đến vận hạn về mũi không thểphát huy tất cả hảo vận chứ không đến nỗi tốt biến thành xấu.

- Nốt ruồi tuy mọc trên các bộ vị tĩnh hoặc hơi lộ liễu trên gương mặt tuy thông thường là xấu nhưng nếu nó là nốt ruồi son hay đen huyền thì vô hại,v.v...

2-Tương tự như lý luận trên ,Trọc trung hữu Thanh tuy thông thường là có ý nghĩa tốt về sau nhưng cũng không phải là có ý nghĩa tuyệt đối . Sách tướng tuy có câu "Nhất quý đề cửu tiện, nhất tiện phá cửu quý" that đấy, nhưng đấy không phải là chân lý tuyệt đối . Quý ở đây có nghĩa là thanh là tốt, chứ không có nghĩa là quý hiển . Nói khác đi, trọc trung hữu thanh chỉ có hậu quả tốt khi các điểm trọc đó chỉ phụ thuộc, còn điểm thanh trung hữu trọc phải liên quan đến Thần khí, Khí phách hay phẩm chất nội tạng của các bộ vị mà về mặt biểu kiến bị coi là trọc của con người .

Chẳng hạn :

Tướng ngũ lo bị coi là trọc, nhưng mắt lộ mà ánh mắt có thần và hòa ái, mũi lộ khổng màchuẩn đầu mập mạp,môi vẩu mà răng tươi khít và đều,tai bị đảo ngược luân quách nhưng sắc tươi nhuận và trắng hơn mặt : lộ hầu mà âm thanh trong trẻo, có âm lượng thực ra là tướng trọc trung hữu thanh về phẩm chất . Hơn nữa, dựa vào hai điểm mắt có thần và hòa ái, giọng nói trong trẻo có âm lượng ta suy ra kẻ đó thần thanh khí túc. Nói khác đi, có quý tướng ngầm, ngày sau sẽ thành người hiển đạt và trường thọ .

Trái lại,nếu tướng ngũ trọc,nhưng ánh mắt hôn quyện,giọng trong trẻo nhưng thiếu âm lượng thì dẫu các phẩm chất của tai,mũi,miệng có tốt đến đâu cũng chỉ may mắn phát đạt nhất thời, chung cuộc khốn nạn thê thảm.

Tóm lại,trong tướng học Á Đông nguyên tắc thanh trọc chi phối tất cảmọi lĩnh vực quan sát,từ b65 vị đến toàn thân,từ hình tướng đến tâm tướng.Để kết thúc tiểu đoạn này,xin đơn cử một đoạn trích văn của Phạm Văn Viên tác giả cuốn tướng pháp

nổi danh Thủy kính tập như sau :

"Tướng học bàn về Thanh,Trọc tuy nói đến việc quan sát học đường * ,nhưng kẻ tướng pháp thượng thặng thực ra phải đặt nặng việc quan sát thanh trọc vào việc thẩm định mục thần và khí phách xem nó có phối hợp với bộ vị hay không.

Kẻ sáng mắt,thần khí ẩ tàng,nhìn người thì nhìn chính diện và như xạ vào mặt người đối diện, dám nói dám làm,dũng cảm trước việc khó khăn, hay dung người , không câu chấp những sai lầm nhỏ nhặt là kẻ có thần và khí thanh. Dẫu bộ vị có khuyết hãm.khí sắc hôn ám, thân hình không toàn my thì vẫn là tướng quý vì đó là tướng trọc trung hữu thanh ."

* Học đường là lối mệnh danh một số bộ phận của khuôn mặt như mắt, trán ,tai, miệng, lông mày, Aán đường. Lối mệnh danh này chỉ thấy trong các sách viết về tướng trước tác từ các đời Minh,Thanh trở về trước. Ngày nay, lối mệnh danh này không còn thông dụng vì quá rườm rà.

IV. SỰ ỨNG DỤNG CỦA NGUYÊN TẮC THANH TRỌC TRONG TƯỚNG HỌC

Dưới đây là một vài ứng dụng điển hình của nguyên tắc Thanh Trọc :

a) Phân biệt 4 loại quý tướng (Thanh, Kỳ, quái, Cổ) với 4 loại tiện tướng ( Hàn, Trọc, tục, Lậu)

Về hình thức, bốn loại quý tướng kể trên rất giống với bốn loại tiện tướng. Muốn phân biệt quý tướng ta chỉ còn có cách dựa vào nguyên tắc thanh trung hữu trọc ,trọc trung hữu danh . Đời Hán, nhà tướng học danh tiếng Hứa Phu đã luận về bốn loại tướng quý :Thanh, Kỳ, Quái, Cổ như sau :

"Kẻ xem tướng thường quan sát thân hình khôi vĩ, mặt mày sáng sủa toàn vẹn rồi coi đó là tướng quý, ngược lại đoán là tiện tướng , nhưng không biết rằng 4 loại Thanh, Kỳ , Cổ , Quái rất gần với 4 loại tướng Hàn, Trọc, Tục , Lậu.Tướng pháp thường nói:"Bàn về thanh trung hữu trọc , trọc trung hữu thanh là căn cứ vào thần, khí và các học đường nhưng thực ra là chỉ căn cứ vào mục thần cũng tạm đủ để quán thông mọi sự ."

1-Thanh tướng rất gần Hàn tướng :

Thân hình tao nhã,mặt mày thanh khiết, cử chỉ linh hoạt, dáng dấp dịu dàng, mảnh dẻ trông giống như các dấu hiệu non yểu nhưng thịt tuy trắng mà nhuận,ánh mắt không dao động mà tự co thần khí đó là Thanh tướngù chứ không phải là Hàn

tướng (tướng lạnh lẽo chết non).

Hàn tướng cũng giống như Thanh tướng về cách cục bộ vị nhưng ánh mắt quá lạnh, không linh hoạt hoặc thanh tướng về hình hài mà mục quang bất động và trì trệ, hoặc tai trắng như sương hay hồng như lửa mà khô xạm .

Thanh tướng chủ quý và thọ vì tinh thần sáng suốt, thọ căn ổn cố,Hàn tướng thì thần thiêu phách tán ,thọ mạng ngắn ngủi.

2-Kỳ tướng giống như Trọc tướng :

Mắt lộ mày đậm, khuôn mặt to lớn khác thường , hình dáng thô kệch xấu xí, nhưng mắt tuy lộ mà có thần khí ẩn tàn , mày tuy đậmmà sợi lông mày tươi mịn, phủ kín mi cốt nên mày có tú khí( tức là trọc trung hữu thanh). Kẻ như vậy là ký tướng (tướng lạ) chứ không phải là trọc tướng ( tướng lỗ mãn, trông mất tình cảm) Ngược lại, Trọc tướng cũng giống như Kỳ tướng về hình hài,nhưng mắt lộ mà vô thần hoặc có thần quang mà mục quang hung bạo: mày tuy đậm mà sợi thô xoắn tít,không phải bao phủ hết mạng vận.Kì tướng là tướng phát đạt, nổi tiếng hơn người còn Trọc tướng là hạ tiện, phi bần tắc yểu

3-Cổ tướng giống như Tục tướng :

Các bộ phận chính của khuôn mặt đều lộ, nhưng lộ mà khuôn mặt đầy đặn, da thịt tươi nhuận có sinh khí, răng tuy thưa vàng nhưng vững chắc và bóng , một màu tin khiết, thần khí an tĩnh thì đó là Cổ tướng( tướng người cục mịch quê mùa) chứ không

phải là Tục tướng ( tướng kẻ tầm thường không bao giờ khá được)

4-Quái tướng giống như Lậu tướng :

Hình hài, mặt mũi quái gở, không giống thế nhân, tỷ như mặt đen như lọ chảo, thân hình kệch cỡm, nặng nề, nhưng nếu trong các xấu xí đó mà ánh mắt như mắt lân, mắt phượng, khoan hòa mà có uy răng trắng và đều,chuẩn đầu tròn trịa, nở nang , khí phách quảng đại thì đó là Qúai tướng ( tướng xấu lạ lùng, ít ai có) chứ không phải là Lậu tướng ( tướng dị hợm khiến người nhìn phải ớn lạnh)

Các lọai tướng Kỳ ,Qúai,Cổ tuy là kỳ dị, dị dạng bề ngoài, nhưng bề trong thật là quí nhân, dễ dàng trở thành đại dụng.Họ khác với bọn tiện nhân( Trọc, Tục hoặc Lậu tướng) ở chỗ một đàng thần khí thanh sảng, một đàng thần khí ngưng trệ, thoáng nhìn thì có vẻ thô tục mà thẩm sát kỹ càng thì lại thấy tú khí hiện ra

Một lần nữa ta thấy thần khí và khí phách vẫn là tiêu chuẩn phân biệt nét quí trong nét tiện , nét thanh trong nét trọc

b) Phân biệt phần tiện trong , tướng quý : phần quý trong tướng tiện của đàn bà :

Tướng pháp cổ Trung Hoa thường phân tích tướng đàn bà thành thiện và ác tướng, dựa trên thân hình diện mạo. Thiện tướng được coi là quí ,ác tướng bị xem là tiện .Nhưng đó chỉ là cách nói tổng quát, chưa đầy đủ và không đi sát thực tế. Muốn dược chuẩn xác phải phối hợp cả Thanh lẫn Trọc phương trộn lẫn nhau trong một con người.Nói khác đi phải áp dụng nguyên tắc thanh trung hữu trọc, trọc trung hữu thanh khi đánh giá phẩm tính phụ nữ qua việc quan sát diện mạo ( thiện tướng hay ác tướng)

1) Quý trung hữu tiện

Tướng mạo phụ nữ coi thanh nhã, cao quí mà tính tình đê tiện là bởi vì trong cái thanh có lẫn cái trọc, tuy nhỏ nhưng chủ yếu cho nên thoáng qua thì xếp vào quí cách nhưng nhìn kỹ thì phải xếp vào loại tiện.Sau đây là các đặc thái quí trung hữu tiện:

Ngũ quan đoan chính mà da dẻ thô xạm ­ ngũ quan đoan chính là mắt sáng và lớn , lông mày mịn và đẹp, môi đều đặn, răng tươi khít, tai có luân phách phân minh , mũi thẳng

Bình thường thì đó là quí cách nhưng ngũ quan đoan chính mà da dẻ thô xạm , nóng khô thì đó là thanh trung hữu trọc, hình hài tốt mà thực chất không ra gì

Trán đầy đặn mà khi đi hay ngoái cổ nhìn lại phía sau ­ Trán đầy đặn biễu hiện cho sự đắc cách về trí tuệ nhưng kẻ hay đi ngoái cổ nhìn về phía sau là kẻ đê tiện, dâm đãng ngầm.

Mày dài đẹp, uốn cong, mắt sáng sủa nhưng mép có ria khá rõ, cằm có lông mày khá đậm giống như râu- Mày thanh, mắt đẹp là tướng mỷ nhân nhưng phía dưới cằm và môi trên có lông mănh nổi rõ sắc đen lai nam tính biểu trưng cho sự cứng rắng , thô lộ, kém nhu thuận

ngũ nhạc đôn hậu mà sắc mặt kinh hoàng ­ Ngũ nhạc ( cằm , trán , mũi , lưỡng quyền ) đều ngay thẳng , cao và rỏ, có thế nhưng ánh mắt kinh nghi là hình hữu như mà thần bất túc, tựơng trưng cho sự non yếu, không tự chủ

Đứng ngồi ngay ngắn tề chỉnh mà lại cắn ngón tay ­ Đứng ngồi ngay ngắn tề chỉnh là kẻ khiến người khác phải nể vì không diện kiến nhưng hay cắn ngón tay ( hoặc móng tay ) lại là biểu tượng nội tâm dâm đãng, chỉ trọng điều sắc dục hơn là đạo lý. Nói khác đi, đó là tướng dâm ngầm mà bề ngoài lại có vẻ đạo đức, uy nghi

Thanh âm rõ ràng , trong trẻo, mà thần thái đờ đẫn, hay cười với kẻ đối thoại ­ Thanh âm rõ ràngvà trong trẻo là biểu hiện khí chất đầy đủ , cơ thể khỏe mạnh , nhưng thần say, cười mỉm lại là kẻ dể bị quyến rũ vào con đường trụy lạc vì không đủ óc tự chủ và tính trinh tháo

Mặt mũi thanh tú mà da dẻ quá lạnh, thần thái quá thanh khiết ­ da dẻ quá lạnh thần thái quá thanh thì sự thái quá đó biến thành hàn tướng chứ không phải quí tướng . Do đó , kẻ hàn tướng là kẻ thọ căn mong manh, không trường thọ

2) Tiện trung hữu quí

Đàn bà mà có bộ vị trên mặt như sơn lâm ( hai bên mép tóc ở trán ) bị sẹo hoặc rụng tóc, tóc quá đậm mà thô, mắt thô trọc và giọng nói rõ, mũi quá xẹp và nhỏ , ngừơi Mộc pha Kim ( cao ốm mà da trắng bệch ) mày quá mày lạt, tai nhỏ , trán thấp...bị xếp vào loại tướng không tốt, lấy làm vợ tất đưa đến tai hại, nhưng nếu:

Sơn lâm bị phá khuyết hoặc có sẹo mà mũi và các bộ vị liên hệ đày đặn, hợp cách và liên hoàn.

Tóc đậm , thô mà lông mày dài đẹp. Mi cốt nổi nhưng không thô

Mũi nhỏ, bằng, không có chuẩn đầu đẹp, nhưng ánh mắt ngay thẳng , thần thái an hòa

Môi vẩu, răng lộ nhưng tóc mịn, sắc tươi

Mắt thô trọc , tiếng rè mà cằm vuông vắn, đầy đặn, triều củng về mũi một cách tương xứng

Nguời Mộc Pha Kim mà ít nói, điềm đạm, tính tình lãnh đãm vừa phải.

Hơi ngắn , mày lạt và thưa mà thần sắc an nhiên, không kinh hoàng, không biến sắc khi gặp việc rắc rối

Tai nhỏ , trán thấp nhưng mày đẹp, mắt trong sáng ẩn tàng và chuẩn đầu nhỏ, nở thì đó lại là tiện trung hữu quí , phải phân định là hậu vận sẽ tốt đẹp chứ không thể coi là tiện tướng để quyết đoán là vận mạng sẽ không ra gì

Theo nhà tướng học hiện đại rất nổi tiếng là Ngã Thị Sơn Nhân thì nhận định trên là rất đúng .Do đó, trong cuốn tướng mạng giảng tọa ông đã đặc biệt chú trọng tướng mạo phụ nữ và viết thành một thiên khảo cứu đặc biệt.

IV - MỘT VÀI GIAI THOẠI VỀ THANH , TRỌC

Thuật ngữ tướng học có câu nhất quý đề cửu tiên. Nhất tiên phá cứu quí , nghĩa là một nét tướng đôi khi chóng đỡ được chín nét tướng xấu nhiều khi phá hư chín nét tướng tốt.Câu nói này không phải chú trọng đến số lượng một hay chín vì đó chỉ là lối nói quá đà cho thuận miệng mà chỉ có nghĩa là trong phép xem tướng nhiều khi trên người một cá nhân có nhiều nét tướng xấu. Ngược lại, đôi khi có rất nhiều nét tướng tốt, chỉ cần một phá tướng đủ để làm tiêu tan những cái hay của các nét tướng tốt kể

trên.Để chứng minh lập luận trên xin đơn cử bằng hai câu chuyện dưới đây:

1.- Nhất tiện phá cửu quí

Vào đầu thế kỷ 20 ở Bắc Kinh, tại một đại thanh lâu kỷ việngọi là Bát Đại Hồ Đồng , có một danh kỹ thanh lâu tên l2 Thái Phượng người gốc Tô Châu, có nhan sắc chim sa cá lặn, nổi danh là hoa khôi của Bắc Kinh, chẳng những nhan sắc , vóc dáng mà cả thanh âm lẫn tác phong của nàng cũng rất mực tao nhã không ai sánh kịp. Trông thấy nàng không ai có thể nghĩ rằng một vị hằng nga tái thế , dáng dấp quí phái hiền thục như thế mà lại sa chân vào chốn bùn nhơ.Theo tục lệ ở bên Tàu , các vị vương tôn đại thần đều thường lui tới kỹ viện, thấy hoa khôi vừa ý là xuất tiền mua về làm ái thiếp nên ít khi có một hoa khôi thanh lâu nào lại trầm luân quá một năm mà không được một đại thần nào hay phú ông ra tay tế độ.Trường hợp Thái Phượng thì ngược hẳn, tài sắc và dáng dấp của nàng gần như là xưa nay chưa từng có , thế mà ở kỹ viện bậc nhất thành đô đã gần 5 năm mà không có ai chuộc về làm thiếp. So với các bạn được hoàn lương hửng phúc , Thái Phượng đáng liệt vào hàng vợ bé của các đại thần nhất phẩm,Trước biệt lệ này, các danh sứ tướng học cả nước đều không tìm ra được đáp số.Hầu hết các nhà xem tướng đều thấy nàng thập toàn thập mỹ, thật xứng đáng sánh duyên với các vị đại thần.Mãi về sau ,nhân có vị tướng số họ Vi được coi là đệ nhất Trung Hoa đương thời đến du ngoạn Bắc Kinh, nhóm tướng sư tại đây mới mang chuyện hy hữu này ra thảo luận nhưng không cho biết mặt Thái Phượng và thân phận của nàng

Một bữa nọ , có con của một vĩ đại phú thương ở Thiên tân nghe danh tài sắc cụa Thái Phượng muốn nạp nàng làm thiếp.Vị công tử này tuổi đã ngoài tam thập , đã có hai vợ nhưng đều sanh con gái, ý muốn lấy thêm Thái Phượng để mong có chút con trai nối dõi tông đường .Do đó , bà mẹ của chàng ta đích thân tới Bắc KINH MỜI Thái Phượng tới một đại tửu lầu ăn uống để nhân dịp quan sát và thẩm định tướng mạo nàng dâu tương lai. Trước mặt mẹ chồng tương lai, Thái Phượng ăn mẵc đúng kiểu con nhà khuê các, không phấn son lòe loẹt, nói năng lại càng giữ gìn hơn bao giờ hết.Những kẻ chua từng gặp nàng tại thanh lâu đều không dám ngờ đó là hoa khôi của giới làng chơi.Dể thử tài họ Vi, nhóm đồng nghiệp trên ngồi cách đó vài bàn nói cho họ Vi biết đó là tiểu thư họ Lý và nhờ họ Vi chỉ điểm xem tương lai và vận mạng của Lý tiểu thư ra sao

Trước sự ngạc nhiên và thán phục đến tột độ của họ, vị tướng sư họ Vi , sau khi quan sát kỹ Thái Phượng . nhìn kỹ màu sắc làn môi , nghe tiếng nói đã cho người ta biết rằng: Thái Phượng về mặt ngoại biểu là thập toàn , thập mỹ, nhưng đó chỉ là phần ngoại ngũ hành . Về phần nội ngũ hành qua giọng nói nói và màu sắc làn môi nhân dịp không hóa trang ông đã khám phá ra có sự khuyết hãm.Tổng hợp phép vọng khí quan sát độc đáo của mình,họ Vi đi đến kết luận là Lý tiểu thư có ám tật trong người, khiến nam giới có kinh nghiệm ăn chơi sau một lần chung chăn gối đều hoảng sợ lảng xa .Vì vậy thoáng trông qua là quí tướng vì thuộc về loại nhất tiên phá cửu quí .Người như thế là hồng nhan bạc phận, chỉ đáng làm kỷ nữ lầu xanh mà thôi.Tướng quí của nàng chỉ là giả quí còn tiện lại là chân tiện nên số kiếp ắt không ra gì.

2) Nhất quý đề cửu tiện

Cuối đời Mãn Thanh , niên hiệu Quang Tự, Tổng đốc Qủang Châu là Trương Thụ Thanh, hình dáng thật là tiện tướng.Theo lời mô tảcủa người đương thời còn truyền lại thì họ Trương có lỗ mũi vứa to vừa hếch, miệng lớn như chiếc chậu, tai nhõn như tai chuột.Căn cứ vào tướng người thì không ai có thể nói đấy là vị nhất phẩn triều quan.Thế má họ Trương lại xuất thân tiến sĩ,cuộc đời sóng yên gió lặng, thăng dần đến chức Tổng đốc, gần như một ông vua con.Họ Trương cũng tự biết mình tướng quái dị,không biết quý ở chỗ nào.Bởi vậy,ông ta khổ công tìm tòi, nghiên cứu sách vở, nhờ thầy coi tướng nhưng không ai tìm thấy quí tướng ở đâu cả

Một ngày kia khi miếu Thành Hoàng ở Qủang Châu ( thủ phủ tỉnh Qủang Đông) họ Trương cải dạng thànj dân thường đến quan sát các gian hàng coi tứong thấy có một vị tướng sư tự xưng là tài ba nhất vùng hiệu là Tái Quân Bình , rành nghề coi tướng ,lấy thù lao rất nặng.Mỗi lần coi là một lượng vàng, Trương cho là ông thầy bói này có thể tin được bèn bước vào quán,Vừa thấy Trương,Tái kêu lớn:" Đại Nhân". Trương tưởng thầy tướng đã nhìn ra nét quý tướng của mình nên mừng lắm, lại nghĩ rằng nơi có đông người đàm đạo bất tiện mới gọi phu kiệu rước Tái Quân Bình về dinh Tổng đốc rồi kính cẩn nói" Tôi tự biết mình không có điểm nào khả thủ, phiền tiên sinh chỉ điểm cho nỗi niềm thắc mắc lâu nay"

Thẩm biện quan quan sát nhiều lần từ đầu đến chân vị Tổng đốc quyền uy, sau cùng lắc đầu tạ tội. Trương hỏi: " thế lúc ở trước miếu Thành hoàng , ông kêu ta là đại nhân thì dựa vào đâu?"

Tái đáp: " Cái đó là do quan lớn làm quan lâu ngày nên có khí tướng ung dung bệ vệ của một quan trưởng, tiểu nhân thốt nhiên kêu liền chứ thật quả là không phải do xem tứong mà đoán ra.Cứ như sách vở , thì bề ngoài tướng quan lớn không phải là tướng quý hiển

Trương thấy Tái tính tình thành thật, hậu thưởng rồi tiễn chân ra cửa.Trong lúc sánh vai bước xuống thềm nhà.gia nhân của Trưong có việc khẩn cần phải bẩm trình từ hậu thất chạy ra miệng kêu lớn:" Đại nhân! Đại nhân" .Trương quay đầu lại , chính lúc đó Tái Quân Bình phát hiện ra nét quý tướng của Trương.Tái vội vàng bước ra sảnh đường nói rõ cho Trương biết, nguyên là trong lúc bất ngờ, họ Trương quay đầu lại phía sau, thân mình không chuyển động , chỉ có đầu quay một nửa vòng tròn một

cách dể dàng tự nhiên.Sách tướng gọi đó là Long đầu cách cục rất hiếm có, kẻ nào có được thì quan đến cực phẩm triều đình.

Nghe xong lời giải thích , Trương Thụ Thanh mới vỡ lõ ra rằng mình quí hiển như vậy là do ở tướng Cửu tiên nhất quý mà ra , trong lòngrất khâm phục tài quan sát bén nhạy của Tái Quân Bình ,bèn thưởng thêm rất nhiều tiền bạc và từ đó như cất

được gánh nặng canh cánh bên lòng.

Trong cuộc vận động văn họcTrung Hoa vào khoảng 1917, tại Đại học đường Bắc Kinh có hai nhân vật được mọi người coi xuất sắc nhất và có ảnh hưởng nhất đối với việc phổ biến văn học mới trong giới trẻ là Hồ Thích và Trần Độc Tú . Cả hai đều là giáo sư đại học, nhưng lúc đó Trần Độc Tú nổi tiếng hơn vì đang giữ chức khoa trưởng Văn Khoa

Giữa lúc hai nhân vật trên đang thao túng văn đàng Trung Hoa có hai nhà tướng học khét tiếng là Thái Tứ Gia va øĐiếu Kim Ngao đã xem tướng hai người và đưa ra nhận xét sau đây:

Đứng về mặt nhân tướng học , cả Hồ lẫn Trần đều là loại tướng thượng cách, nhưng chỉ ở mức thượng thừa của thượng cách mà thôi .Cả hai đều thuộc loại người " Quý mà không có thực quyền , danh cao hơn vị". Tuy vậy đi sâu vào các chi tiết thí quý cách của Hồ và Trần có nhiều điểm dị biệt.Họ Hồ thì thuộc loại trọc trung đới thanh còn Trần Độc Tú thì thanh trong đới trọc . Theo thẩm định của hai nhà tướng học trên thì quý cách của Hồ Thích có hậu vận tốt đẹp hơn quý cách của Trần Độc Tú .Hồ Thích cận thị , lông mày hơi đậm , giữa khoảng lông mày và mắt không có gì đặc biệt hơn người nhưng nhình chung là tướng người trung hậu. Trái lại Trần Độc Tú thì mi thanh mục tú , chưa nói thành lời mà khoảng giữa hai lông mày lẫn mắt đã có vẻ như muốn nói thành lời, khiến người nghe dễ sinh thiện cảm. Chẳng những mi thanh mục tú ,Trần Độc Tú còn có dáng dấp thanh nhã , anh tuấn,phong độ tiêu sai, giọng nói có âm điệu trầm bổng rất hấp dẫn người nghe. Người ngoài nhìn qua lông mày cặp mắtcủa họ Trần nhận ra ngay là các bộ vị có hai đặc điểm : cao và thanh tú . Mày cao có hai nghĩa , khoảng cách giữa chân lông mày và mắt xa nhau tức là lông mày không ăn lan xuống bờ mắt. Nghĩa thứ hai là đuôi lông mày cao hơn hai tai . Kẻ có lông mày cao , theo nghĩa thứ nhất là kẻ thông minh , tính tình phóng khoáng , cao theo nghĩa thứ hai thì về mặt mạng vận sẽ có vị cao danh trọng.

Còn thanh tú nghĩa là lông mày màu đen , không tạp loạn , tuy không quá thưa nhưng cũng không quá cao và dày, chỉ với đủ để người ngoài nhìn thấy đước chân sợi lông mày. Người có loại lông mày thanh tú bất luận lông mày dài ngắn là kẻ thông tuệ xử sự phân minh dứt khoát . Thêm vào đó , mắt Trần Độc Tú rất đẹp . Do bởi tướng quý đó , ông ta là một bậc danh tiếng vào bậc nhất trong giới đại học thời đó.

Về " Mi đậm mắt trọc " dưới con mắt phàm tục thì đó là tướng xấu nhưng dưới nhãn quan tướng học thì không hẳn là xấu, nếu như trong caái trọc có cái thanh . Đối với những kẻ mới học nghề coi tướng nhìn thấy được cái trọc trong cái thanh cũng như cái thanh trong cái trọc là những điều rất khó. Chính là dựa vào việc xem tướng Trần Độc Tú thanh trung đới trọc mà cả Điếu Kim Ngao lẫn Thái Tứ Gia đều quyết đoán là hậu vận của Trần Độc Tú sẽ không ra gì.Tuy vậy , phép tìm ra điểm trọc trong sự thanh tú của họ Trần giữa hai nhà tướng học kể trên không giống nhau. Điếu Kim Ngao căn cứ vào hình tướng nhiều hơn, đã tìm thấy trong sự thanh tú của họ Trần bị các điểm trọc sau đây làm vẩn đục :

- Mắt sáng nhưng ánh mắt không định

- Tiếng nói thường hụt hơi ở cuối câu.

- Bước chân đi thiếu vững vàng.

- Gịong cười , tiếng nói không được thuần khiết, trong trẻo, tướng pháp gọi là

Tiếu thanh bất dương .Những điểm kể trên làm quý cách của Trần Độc Tú bị phá vì thanh trung đới trọc và báo trước hậu vận khốn đốn.

Trái lại, Trái Tứ Gia thì căn cứ vào thần khí để xét tính cách thanh trung đới trọc của họ Trần , đại để :

- Lúc trầm ngâm thì lông mày xoắn tít lại như các vòng xícch là dấu hiệu thô về ý.

- Nhan diện không được thuần khiết và có tạp sắc tức là tạp về sắc.

- Tú khí của mắt không tướng học tànglà kẻ tinh hoa phát tiết ra ngoài nên cũng bị coi là một loại thần trọc.

Các điểm trọc trên ẩn tàng trong cái thanh tú đả khiến Trần Độc Tú sẽ bị trầm kha , khốn đốn trong buổi vãn niên.

Những lời luận tường kể trên được đăng trên báo chí . Lúc đó Trần Độc Tú còn là ngôi sao sáng chói trên văn đàng và chính giới Trung Hoa, nên trước những lời đoán tướng , Trần Độc Tú chỉ cười và nói rằng " Những chuyện xảy ra chính tôi còn

chưa biết được làm sao dám tin tướng số?".

Thời gian trôi qua rất mau, mười năm sau , tức là khoảng 1927 , Trần Độc Tú vốn là một nhân vật lãnh đạo cao cấp của Đảng cộng sảnTrung Hoa , vì bất đồng ý kiến với phe Mao Trạch Đông nên bị khai trừ ra khỏi Đảng. Đến khi cuộc chiến Trung Hoa ­ Nhật Bản bùng nổ , Trần phải chạy về trùng khánh. Vì Trần là một yếu nhân của cộng đảng nên tuy bị khai trừ rồi mà vẫn bị phe Tưởng Giới Thạch giam giữ . Sau đó tuy được ân thích, nhưng vẫn không đất dung thân phải ở lại Trùng Khánh và thuộc trong cảnh bệnh tật ngoài túng giữa thời kỳ chiến tranh Trung ­ Nhật đang bộc phát.

Về phần Hồ Thích , hai nhà tướng học trên cho rằng : ngược lại với tướng của Trần Độc Tú tướng của Hồ thuộc loại quý tướng vì thanh trung hữu trọc do hai điểm sau đây :

- Lông mày tuy đậm và áp tới mắt, nhưng mắt của Hồ Thích lại cận thị tức là vô quang sắc, mỗi khi cười nói , mặt mũi tươi tỉnh , tỏa ra vẻ hòa ái , sảng trực.

- Về cách đi đứng , nằm ngồi tướng của Hồ Thích giống hệt loại tướng Hạc.

Quý tướng của Hồ Thích là ở chổ đó. Hai nhà tướng học còn quyết đoán là nếu Hồ rời bỏ học giới đổisang chính giới thì tương lai sẽ còn cao xa hơn nữa. Lúc đó Hồ còn đang làm giáo sư văn học tại viện đại học Bắc Kinh . Khoảng mấy năm trước khi có vụ tranh chấp rồi đi đến xung đột Hoa ­ Nhật , nhân vì Hồ đả kích Uông Tinh Vệ nên sau này phe chính quyền kháng Nhật biết tiếng và từ đó Hồ gần như bỏ nghề giáo sư mà chuyển sang chính giới . Qủa nhiên , trong môi trường mới , Hồ nổi danh còn hơn lúc ở học giới đúng như lời dự đoán của Điếu Kim Ngao và Thái Tứ Gia. Khi Hồ làm Đại sứ Trung Hoa dân quốc tại Mỹ, có người mang chuyện này hỏi lại , Hồ trả lời rằng :" Việc tôi làm đại sứ thật là một điều lạ . Tôi vốn không tin vào vấn vấn đề vận mạng dù rằng lời dự đoán có trúng thì chẳng qua chỉ là ngẫu nhiên. Tuy vậy, tôi phải nhận chân rằng trong trời đất quả thật có những việc mà mình không thể tự chủ hoặc không hề nghĩ tới mà nó vẫn xảy ra".

QUYỂN HẠ

LÝ TƯỚNG VÀ PHÁP TƯỚNG

Quyển thứ nhất trình bày các nét tướng và loại tướng, phần lớn có tính cách phân tích và nặng về khía cạnh tĩnh. Đó là phần tướng học biểu kiến, hình thức và tổng quát, mô tả từng bộ vị và phân loại hình hài của con người dựa trên các ngoại biểu vật thể phần lớn nhận thức được bằng vị giác. Vì thiên về phân tích, quyển 1 không phối trí các bộ vị, các loại tướng một qui tắc chi phối tương quan.

Quyển thứ hai đề cập đến phần lý tướng và tương pháp,nêu những qui tắc tương quan giữa các bộ vị giữa các hình hài, giữa các hình hài và bộ vị với nhau ngõ hầu giúp được giả thấu hiểu ý nghĩa đa phương và biến đổi giữa các nét tướng. Quyển 2 khảo sát tướng học trên phương diện tổng hợp nhìn dưới khía cạnh động ,nên những yếu tố phi vật thể, phần lớn được nhận thức bằng trực giác và tâm linh. Nói khác đi,về mặt biển khảo, quyển đầu chỉ mới giúp người học tìm khai đề(thèse) và phản đề (antithèse) trong khi quyển sau giúp ta đi vào phần hợp đề (synthèse).

Thực vậy, muốn thấu đáo con người phức tạp và đa dạng, chúng ta không thể chú trọng đến cục bộ và chi tiết mà phải nhìn cho được đại thể của nó trong hệ thống tương quan chi phối toàn cục. Việc hiểu biết từng nét tướng chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải điều kiện đủ. Con người thực tế là 1 khối duy nhất do toàn thể những nét tướng chi tiết hợp thành. Sự tốt xấu của khối duy nhất đó không phải là tổng cộng máy móc có tính cách toán học cứng nhắc của các sự tốt xấu lẻ tẻ chắp nối lại, Hơn nữa, con người là một sinh vật có tri giác, vốn động cả hình, chất lẫn tâm hồn . Những nét tướng của con người tuy tĩnh bề ngoài nhưng kì thực lại động bên trong và động trong suốt tiến trình của cuộc đời .

Tướng học Á Đông đã lĩnh hội được nguyên lý căn bản đó.Tướng lý Á Đông nhấn ttương quan giữa các yếu tố, kết hợp hình thức và thực chất , gắn liền nét tĩnh với nét động, phối hình tướng với tâm tướng ,liên kết ngoại diên với nội tâm.

Những thế kỉ thực nghiệm đã giúp nền tướng học Á Đông khám phá được các yếu tố tương quan đó trong nguyên tắc thanh trọc ,trong thần ,sắc ,khí, trong khí phách của con người ,trong nguyên tắc âm dương ngũ hành của vũ trụ. Từ đó nhiều thế kỉ thực nghiệm đã đào sâu thêm tướng lý và khai phá ra tướng pháp, nói khác đi là phương pháp xem tướng càng ngày càng hướng về thực tiễn và đặc biệt càng ngày càng xác định . Người ta dùng tướng để quyết định vận mạng đã đành ,có người dụng tướng để chọn tướng hảo tôi trung .Chỗ dụng của tướng học được nới rộng rất nhiều từ chỗ kiến thức đến chỗ ứng dụng cho con người nói riêng và cho quốc gia xã hội nói chung.

Một học thuật kì thú và bổ ích như thế không phải dễ hội nhập . Để giúp học giả nắm được tinh lý của tướng học , quyển 2 sẽ trình bày trong 6 chương :

Nguyên tắc thanh trọc .

Nguyên lý Âm Dương Ngũ hành và ứng dụng của nó trong tướng học .

Ý niện Thần , Khí ,Sắc và Khí phách.

Phương pháp xem tướng .

Những ứng dụng của tướng học.

Tướng phụ nữ.

Để kết luận ,soạn giả có phụ thêm vào phần cuối sách một vài nhận định về môn học thuật cổ điển này .

CHƯƠNG THỨ NHẤT

NGUYÊN TẮC THANH TRỌC

II. THỬ PHÁT HỌA HAI Ý NIỆM THANH VÀ TRỌC

Trong tướng học Á Đông ,Thanh và Trọc là hai ý niệm vô cùng súc tích và là hai ý niệm căn bản để giải đoán quí tiện cát hung , thành bại , thọ yểu của con người. Thanh Trọc chi phối hết các nét tướng của con người .Có thể nói mọi lãnh vực quan sát của tướng học Á Đông đều hướng về việc tìm tòi phân biệt những điểm Thanh,Trọc rồi dựa vào đó mà luận đoán . Nhưng trước hết Thanh ,Trọc là gì ?

a) Thanh:

Từ ngữ Thanh chỉ tất cả các nét tướng tốt của con người ,từ tướng cơ thể đến tướng tinh thần ,từ nét tướng động tĩnh và cả những nét tướng phối hợp động,tĩnh bao gồm cái tốt về phẩm và về lượng dưới đủ mọi dạng thức .

Nếu nói về sắc da,Thanh có nghĩa là hữu tình ,ưa nhìn,không đậm,không lạt.

Trong trường hợp này việc thẩm định tính chất Thanh nặng về chủ quan và trực giác hơn là khách quan và thị gíac hiểu theo nghĩa thông thường.

Nói về giọng nói, Thanh có nghĩa là trong trẻo,âm lượng vừa phải , không quá lớn đến đinh tai nhức ốc , không chua như dấm, không xoáy vào tai người nghe như kim châm,v.v...nhưng không quá nhỏ như tiếng dế,tiếng ong. Giọng nói thanh tao, hảo cảm, vui tai không phải vì lý luận hữu lý mà vì tính chất ấm áp hay trong trẻo , rõ ràng , không rè, không chát.

Nói về cử chỉ,Thanh có nghĩa là cử chỉ mực thước, quý phái không sỗ sàng, cương nhu thích nghi . Đó là cử chỉ của loại người gọi là hào hoa , phong nhã ,theo đúng nghĩa trong sạch của nó.

Nói về bộ vị hay người bộ vị Thanh kết hợp lại tạo thành một cơ thể hay cơ cấu (structure) cân xứng ,linh động ,có sinh khí về cả phẩm lẫn lượng một cách có thẩm mỹ . Cặp lông mày được gọi là Thanh khi sợi lông mày không lớn hơn sợi tóc ,dài và mọc cách nhau thế nào để kẻ quan sát cách xa đó một hay hai thước nhìn thấy được phần da của chân lông mày ,sắc lông mày đen xanh và mượt .Mũi Thanh là mũi ngay thẳng và cao, không leach ,gián đài và đình úy không quá lớn. Đầu mũi không quá mập . Chẳng hạn mũi tiêm đồng,mũi thông thiên được coi là Thanh ,mũi sư tử, mũi túi mật treo bị coi là trọc.

Nói về thân hình ,loại người hình mộc (loại Giáp Mộc) được coi là Thanh ,người trọng Thổ bị xem là Trọc.

Nói về thần khí ,kẻ mắt lồi,mục quang hung hãn,hoặc lòng đen ,tròng trắng mờ đục thì không Thanh. Trái lại ,ánh mắt sáng ,êm dịu ,tinh anh ,đồng tử trong suốt như pha lê ,long đen tròng trắng rõ ràng ,thuần khiết không mờ đục ,không có tia máu xâm phạm được coi là thần thanh , khí sảng.

Nói về tổng quát,nếu có sự phối trí tương xứng theo một hòa điệu (hramonie) giữa các thành phần trong bộ vị cơ thể thì gọi là Thanh. Thí dụ :phía sau đầu và trước mặt ,phía phải và trái khuôn mặt cân xứng và thích nghi với thân mình được xem là Thanh, trong phép phối hợp ngũ hành của cơ thể,người thuần túy một hình hay bác tạp nhưng không xung khắc được xem là Thanh . Chẳng hạn thân hình nặng nề, chắc nịch,mặt mũi thô kệch nhưng mắt sáng ,mày tươi ,giọng trong trẻo thì phần sau đó gọi là Thanh trong cái trọc của toàn thể thân hình.

Nói về động tĩnh ,nếu có hòa hợp động và tĩnh tức là phần động trội hơn phần tĩnh nhưng không làm mất thế quân bình ,phần phẩm hơn phần lượng, nhưng không vượt ra ngoài tiêu chuẩn đều được gọi là Thanh .Đó là trường hợp những kẻ gầy yếu

- Mặt mày sáng sủa ,thân thể khôi vĩ, nhưng nhìn vào không oai vệ hay khiến người dễ chán.

- Đàn ông quyền thấp,tiếng nói có vẻ nữ nhi.

- Mặt đầy đặn,phối hợp tương xứng với ngũ quan nhưng đấu mũi bị lệch.

- Răng tuy trắng ,đều,khít nhưng không bóng bẩy.

- Miệng tuy rộng nhưng không có lăng giác, mũi không hồng, răng thưa.

- Lông mày tuy đẹp nhưng sợi lông mày mọc thưa, ngang hoặc tráp với phương vị cố hữu.

- Mày tuy cao nhưng sợi thô hắc ám.

- Mặt tuy sáng nhưng lộ chân quang.

- Râu tuy đẹp nhưng không tương xứng với tóc và lông mày.

- Người tuy đúng cách cục nhưng sắc hôn , khí ám.

- Người tuy to lớn , mập mạp trông có vẻ phúc hậu nhưng thịt bệu, da khô, tóc cằn,v.v...

Người có đặc điểm kể trên thì thoáng qua thấy có vẻ thanh nhã nhưng tương hợp coi đó là thanh trung hữu trọc vì trong cái đẹp có lẫn cái xấu .

b) Trọc trung hữu thanh:

Những người có hình dạng cục mịch thô lỗ hay mặt mày méo lệch ,tam đình,ngũ nhạc bất quân xứng nhưng nếu có :

- Mắt sáng mà mục quang ẩn tàng.

- Thiên đình cao rộng,sáng sủa.

- Phía trong vành tai màu hồng tươi nhuận hay tai mọc cao quá lông mày ,sắc bề ngoài trắng hơn da mặt,hay luân quách phân minh.

- Lông mày tươi mịn.mọc cao và không gián đoạn.

- Hoặc người nhỏ yếu,thấp lùn nhưng tiếng nói sang sảng như tiếng chuông ngân hay thanh tao như những hạt ngọc rơi rớt trên mâm bạc.

- Có tướng ngũ tiểu hoặc ngũ lộ nhưng phẩm chất các phần lộ đó đều tốt đẹp.

- Người khẳng khiu nhưng dáng dấp hiên ngang,đi như rồng bay cọp bước,khí phách hoằng đại,v.v..

Suy rộng ra ,khi nhìn moat cá nhân qua nhiều bộ vị ,ta thấy hình dáng màu sắc của chúng thoáng qua thì thô bỉ,nhưng đi sâu vào chi tiết,ngắm lâu lại thấy hữu tình hoặc hảo cảm,quan sát moat cá nhân ta thấy khuôn mặt ,thân hình,tiếng nói,v.v...không gây hảo cảm lúc ban đầu,nhưng tổng hợp tất cả lại hoặc là thấy có sự sinh động đặc thù hoặc cử chỉ động tác linh hoạt,phong nhã ,tính tình quả cảm,trung hậu khiến ta sinh long nể phục về sau đều được gọi là trọc trung hữu thanh.

c) Thẩm định ý nghĩa của tương quan thanh trọc :

Trong quan điểm của tướng học, thanh trung hữu trọc được xem là cái đẹp hời hợt,bất túc,trong cái hay đã tiềm ẩn cái dở, nên thường dùng để chỉ trường hợp tốt đẹp bề ngoài,hậu quả tốt chỉ thoáng qua,còn chung cuộc thì rất xấu. Ngược lại , trọc trung hữu thanh được xem là cái xấu biểu kiến phủ ra ngoài cái đẹp thực chất, nhưng vì vẫn là cái đẹp không được thập toàn hoàn mỹ ,nên khi khởi đầu bị vùi dập,sóng gió.về sau mới có kết quả tốt lành.

Cũng bởi lẽ trên, trong thực tế có những kẻ mặt mũi khôi ngô,hoặc dung mạo xinh đẹpmà công danh sự nghiệp hoặc bản thân bị khốn đốn bởi vì sinh ra có cách thanh trung đới trọc.Có những ngu7òi thoáng qua thấy tướng mạo cực kì bần hàn, xấu xí mất cả thiện cảm mà rốt cuộc trở thành đại quý cực phú là vì hợp cách trọc trung hữu thanh.

Dưới nhãn quan tướng học, Thanh được xem là tốt,là quý,vì thế Thanh đồng nghĩa với quý.Trọc bị xem là xấu nên đồng nghĩa với tiện. Ta phải hiểu là tiện và quý trong các sách tướng chỉ dùng để chỉ hậu quả của Thanh và Trọc mà thôi. Hiểu như vậy, những phá tướng về hình thể lẫn tâm hồn đều bị coi là Trọc , dù là ẩn tàng hay biểu lộ .Những nét tướng tốt dù trong hay ngoài, dễ nhận thấy hay là phải khổ công mất nhiều ngày giờ mới khám phá ra đều được gọi là Thanh.

Thanh thì quý đã đành,nhưng như trên đã nói , con người thường thanh trọc lẫn loan ,nên vấn đề đặt ra ở đây là thanh trung hữu trọc tốt hay trọc trung hữu thanh tốt ?Câu trả lời thông thường là trọc trung hữu thanh tốt hơn là thanh trung hữu trọc .Nhưng cái đó cũng chỉ có ý nghĩa và giá trị tương đối vì nó còn tùy thuộc vào nhiều dữ kiện :

1-Thanh trung hữu trọc : thông thường thì tốt nhưng không được toàn mỹ. Do đó, thanh trung hữu trọc thường không tốt đẹp, hanh thông một cách đều đặn, tiền chậu hung. Điều này không có nghĩa tuyệt đối vì :

- Có những trường hợp thanh trung hữu trọc không có tốt đẹp gì đáng kể, mà lại rất xấu nếu những điểm thanh nhiếu, nhưng là những điểm phụ thuộc hoặc thuộc về lượng, còn trọc tuy ít nhưng là điểm căn bản, cốt yếu hoặc thuộc về phẩm.

Thí dụ : Mũi có chuẩn đầu đình uy và gián đài nảy nở đặc biệt(tức là loại mũi sư tử hay huyền đởm tỵ) chủ về giàu có,nhưng nếu bị leach không tương xứng với khuôn mặt hoặc đi đôi với lưỡng quyền nhỏ hẹp và nhọn thì bao nhiêu cái quý của mũi sư tử hướng huyền đởm tỵ bị tiêu giảm gần hết.

Người Mộc tuy thanh nhã,nhưng đấy chỉ là những nét khái quát, nếu đi sâu vào bộ vị ta thấy miệng rộng, mũi hếch tai thuộc loại tiễn vũ nhĩ, sắc da trắng xanh thì đó là tướng phá cách hay nói cách khác đi, thanh trung đới trọc ,kết quả sẽ không ra gì. Kẻ như thế ,khó sống được quá 40 tuổi, còn nói gì đến công danh sự nghiệp.

Ngũ quan tuy toàn hảo nhưng thần mắt suy nhược ,bước chân ẻo lả như sẽ nhảy hoặc xiêu vẹo như rắn bò ngồi gục đầu xuống như cổ chỉ có sụn không có xương thì đấy là tướng yểu chiết chứ không phải là tướng thông tuệ hiển đạt.

Những trường hợp thanh trung đới trọc như trên có thể liệt kê hầu như vô tận và đều là loại thanh trọc đới trọc,có hậu quả chung cuộc không ra gì.

Ngược lại, có những trường hợp thanh trung hữu trọc không có ảnh hưởng xấu tới cá nhân, nếu điểm trọc chỉ là các khuyết điểm phụ tuy hoặc thuộc về lượng . Ví dụ như:

- Người Giáp Mộc pha Kim ,thân hình dỏng cao,ngũ quan toàn hảo nhưng cằm vuông,miệng vuông , sắc da hơi hồng thì chỉ gặp tai ương hay vận hạn không tốt một thời, cuối cùng vẫn quý hiển

- Mũi tốt nhưng sắc da mũi không dược tươi nhuận thì đến vận hạn về mũi không thểphát huy tất cả hảo vận chứ không đến nỗi tốt biến thành xấu.

- Nốt ruồi tuy mọc trên các bộ vị tĩnh hoặc hơi lộ liễu trên gương mặt tuy thông thường là xấu nhưng nếu nó là nốt ruồi son hay đen huyền thì vô hại,v.v...

2-Tương tự như lý luận trên ,Trọc trung hữu Thanh tuy thông thường là có ý nghĩa tốt về sau nhưng cũng không phải là có ý nghĩa tuyệt đối . Sách tướng tuy có câu "Nhất quý đề cửu tiện, nhất tiện phá cửu quý" that đấy, nhưng đấy không phải là chân lý tuyệt đối . Quý ở đây có nghĩa là thanh là tốt, chứ không có nghĩa là quý hiển . Nói khác đi, trọc trung hữu thanh chỉ có hậu quả tốt khi các điểm trọc đó chỉ phụ thuộc, còn điểm thanh trung hữu trọc phải liên quan đến Thần khí, Khí phách hay phẩm chất nội tạng của các bộ vị mà về mặt biểu kiến bị coi là trọc của con người .

Chẳng hạn :

Tướng ngũ lo bị coi là trọc, nhưng mắt lộ mà ánh mắt có thần và hòa ái, mũi lộ khổng màchuẩn đầu mập mạp,môi vẩu mà răng tươi khít và đều,tai bị đảo ngược luân quách nhưng sắc tươi nhuận và trắng hơn mặt : lộ hầu mà âm thanh trong trẻo, có âm lượng thực ra là tướng trọc trung hữu thanh về phẩm chất . Hơn nữa, dựa vào hai điểm mắt có thần và hòa ái, giọng nói trong trẻo có âm lượng ta suy ra kẻ đó thần thanh khí túc. Nói khác đi, có quý tướng ngầm, ngày sau sẽ thành người hiển đạt và trường thọ .

Trái lại,nếu tướng ngũ trọc,nhưng ánh mắt hôn quyện,giọng trong trẻo nhưng thiếu âm lượng thì dẫu các phẩm chất của tai,mũi,miệng có tốt đến đâu cũng chỉ may mắn phát đạt nhất thời, chung cuộc khốn nạn thê thảm.

Tóm lại,trong tướng học Á Đông nguyên tắc thanh trọc chi phối tất cảmọi lĩnh vực quan sát,từ b65 vị đến toàn thân,từ hình tướng đến tâm tướng.Để kết thúc tiểu đoạn này,xin đơn cử một đoạn trích văn của Phạm Văn Viên tác giả cuốn tướng pháp

nổi danh Thủy kính tập như sau :

"Tướng học bàn về Thanh,Trọc tuy nói đến việc quan sát học đường * ,nhưng kẻ tướng pháp thượng thặng thực ra phải đặt nặng việc quan sát thanh trọc vào việc thẩm định mục thần và khí phách xem nó có phối hợp với bộ vị hay không.

Kẻ sáng mắt,thần khí ẩ tàng,nhìn người thì nhìn chính diện và như xạ vào mặt người đối diện, dám nói dám làm,dũng cảm trước việc khó khăn, hay dung người , không câu chấp những sai lầm nhỏ nhặt là kẻ có thần và khí thanh. Dẫu bộ vị có khuyết hãm.khí sắc hôn ám, thân hình không toàn my thì vẫn là tướng quý vì đó là tướng trọc trung hữu thanh ."

* Học đường là lối mệnh danh một số bộ phận của khuôn mặt như mắt, trán ,tai, miệng, lông mày, Aán đường. Lối mệnh danh này chỉ thấy trong các sách viết về tướng trước tác từ các đời Minh,Thanh trở về trước. Ngày nay, lối mệnh danh này không còn thông dụng vì quá rườm rà.

IV. SỰ ỨNG DỤNG CỦA NGUYÊN TẮC THANH TRỌC TRONG TƯỚNG HỌC

Dưới đây là một vài ứng dụng điển hình của nguyên tắc Thanh Trọc :

a) Phân biệt 4 loại quý tướng (Thanh, Kỳ, quái, Cổ) với 4 loại tiện tướng ( Hàn, Trọc, tục, Lậu)

Về hình thức, bốn loại quý tướng kể trên rất giống với bốn loại tiện tướng. Muốn phân biệt quý tướng ta chỉ còn có cách dựa vào nguyên tắc thanh trung hữu trọc ,trọc trung hữu danh . Đời Hán, nhà tướng học danh tiếng Hứa Phu đã luận về bốn loại tướng quý :Thanh, Kỳ, Quái, Cổ như sau :

"Kẻ xem tướng thường quan sát thân hình khôi vĩ, mặt mày sáng sủa toàn vẹn rồi coi đó là tướng quý, ngược lại đoán là tiện tướng , nhưng không biết rằng 4 loại Thanh, Kỳ , Cổ , Quái rất gần với 4 loại tướng Hàn, Trọc, Tục , Lậu.Tướng pháp thường nói:"Bàn về thanh trung hữu trọc , trọc trung hữu thanh là căn cứ vào thần, khí và các học đường nhưng thực ra là chỉ căn cứ vào mục thần cũng tạm đủ để quán thông mọi sự ."

1-Thanh tướng rất gần Hàn tướng :

Thân hình tao nhã,mặt mày thanh khiết, cử chỉ linh hoạt, dáng dấp dịu dàng, mảnh dẻ trông giống như các dấu hiệu non yểu nhưng thịt tuy trắng mà nhuận,ánh mắt không dao động mà tự co thần khí đó là Thanh tướngù chứ không phải là Hàn

tướng (tướng lạnh lẽo chết non).

Hàn tướng cũng giống như Thanh tướng về cách cục bộ vị nhưng ánh mắt quá lạnh, không linh hoạt hoặc thanh tướng về hình hài mà mục quang bất động và trì trệ, hoặc tai trắng như sương hay hồng như lửa mà khô xạm .

Thanh tướng chủ quý và thọ vì tinh thần sáng suốt, thọ căn ổn cố,Hàn tướng thì thần thiêu phách tán ,thọ mạng ngắn ngủi.

2-Kỳ tướng giống như Trọc tướng :

Mắt lộ mày đậm, khuôn mặt to lớn khác thường , hình dáng thô kệch xấu xí, nhưng mắt tuy lộ mà có thần khí ẩn tàn , mày tuy đậmmà sợi lông mày tươi mịn, phủ kín mi cốt nên mày có tú khí( tức là trọc trung hữu thanh). Kẻ như vậy là ký tướng (tướng lạ) chứ không phải là trọc tướng ( tướng lỗ mãn, trông mất tình cảm) Ngược lại, Trọc tướng cũng giống như Kỳ tướng về hình hài,nhưng mắt lộ mà vô thần hoặc có thần quang mà mục quang hung bạo: mày tuy đậm mà sợi thô xoắn tít,không phải bao phủ hết mạng vận.Kì tướng là tướng phát đạt, nổi tiếng hơn người còn Trọc tướng là hạ tiện, phi bần tắc yểu

3-Cổ tướng giống như Tục tướng :

Các bộ phận chính của khuôn mặt đều lộ, nhưng lộ mà khuôn mặt đầy đặn, da thịt tươi nhuận có sinh khí, răng tuy thưa vàng nhưng vững chắc và bóng , một màu tin khiết, thần khí an tĩnh thì đó là Cổ tướng( tướng người cục mịch quê mùa) chứ không

phải là Tục tướng ( tướng kẻ tầm thường không bao giờ khá được)

4-Quái tướng giống như Lậu tướng :

Hình hài, mặt mũi quái gở, không giống thế nhân, tỷ như mặt đen như lọ chảo, thân hình kệch cỡm, nặng nề, nhưng nếu trong các xấu xí đó mà ánh mắt như mắt lân, mắt phượng, khoan hòa mà có uy răng trắng và đều,chuẩn đầu tròn trịa, nở nang , khí phách quảng đại thì đó là Qúai tướng ( tướng xấu lạ lùng, ít ai có) chứ không phải là Lậu tướng ( tướng dị hợm khiến người nhìn phải ớn lạnh)

Các lọai tướng Kỳ ,Qúai,Cổ tuy là kỳ dị, dị dạng bề ngoài, nhưng bề trong thật là quí nhân, dễ dàng trở thành đại dụng.Họ khác với bọn tiện nhân( Trọc, Tục hoặc Lậu tướng) ở chỗ một đàng thần khí thanh sảng, một đàng thần khí ngưng trệ, thoáng nhìn thì có vẻ thô tục mà thẩm sát kỹ càng thì lại thấy tú khí hiện ra

Một lần nữa ta thấy thần khí và khí phách vẫn là tiêu chuẩn phân biệt nét quí trong nét tiện , nét thanh trong nét trọc

b) Phân biệt phần tiện trong , tướng quý : phần quý trong tướng tiện của đàn bà :

Tướng pháp cổ Trung Hoa thường phân tích tướng đàn bà thành thiện và ác tướng, dựa trên thân hình diện mạo. Thiện tướng được coi là quí ,ác tướng bị xem là tiện .Nhưng đó chỉ là cách nói tổng quát, chưa đầy đủ và không đi sát thực tế. Muốn dược chuẩn xác phải phối hợp cả Thanh lẫn Trọc phương trộn lẫn nhau trong một con người.Nói khác đi phải áp dụng nguyên tắc thanh trung hữu trọc, trọc trung hữu thanh khi đánh giá phẩm tính phụ nữ qua việc quan sát diện mạo ( thiện tướng hay ác tướng)

1) Quý trung hữu tiện

Tướng mạo phụ nữ coi thanh nhã, cao quí mà tính tình đê tiện là bởi vì trong cái thanh có lẫn cái trọc, tuy nhỏ nhưng chủ yếu cho nên thoáng qua thì xếp vào quí cách nhưng nhìn kỹ thì phải xếp vào loại tiện.Sau đây là các đặc thái quí trung hữu tiện:

Ngũ quan đoan chính mà da dẻ thô xạm ­ ngũ quan đoan chính là mắt sáng và lớn , lông mày mịn và đẹp, môi đều đặn, răng tươi khít, tai có luân phách phân minh , mũi thẳng

Bình thường thì đó là quí cách nhưng ngũ quan đoan chính mà da dẻ thô xạm , nóng khô thì đó là thanh trung hữu trọc, hình hài tốt mà thực chất không ra gì

Trán đầy đặn mà khi đi hay ngoái cổ nhìn lại phía sau ­ Trán đầy đặn biễu hiện cho sự đắc cách về trí tuệ nhưng kẻ hay đi ngoái cổ nhìn về phía sau là kẻ đê tiện, dâm đãng ngầm.

Mày dài đẹp, uốn cong, mắt sáng sủa nhưng mép có ria khá rõ, cằm có lông mày khá đậm giống như râu- Mày thanh, mắt đẹp là tướng mỷ nhân nhưng phía dưới cằm và môi trên có lông mănh nổi rõ sắc đen lai nam tính biểu trưng cho sự cứng rắng , thô lộ, kém nhu thuận

ngũ nhạc đôn hậu mà sắc mặt kinh hoàng ­ Ngũ nhạc ( cằm , trán , mũi , lưỡng quyền ) đều ngay thẳng , cao và rỏ, có thế nhưng ánh mắt kinh nghi là hình hữu như mà thần bất túc, tựơng trưng cho sự non yếu, không tự chủ

Đứng ngồi ngay ngắn tề chỉnh mà lại cắn ngón tay ­ Đứng ngồi ngay ngắn tề chỉnh là kẻ khiến người khác phải nể vì không diện kiến nhưng hay cắn ngón tay ( hoặc móng tay ) lại là biểu tượng nội tâm dâm đãng, chỉ trọng điều sắc dục hơn là đạo lý. Nói khác đi, đó là tướng dâm ngầm mà bề ngoài lại có vẻ đạo đức, uy nghi

Thanh âm rõ ràng , trong trẻo, mà thần thái đờ đẫn, hay cười với kẻ đối thoại ­ Thanh âm rõ ràngvà trong trẻo là biểu hiện khí chất đầy đủ , cơ thể khỏe mạnh , nhưng thần say, cười mỉm lại là kẻ dể bị quyến rũ vào con đường trụy lạc vì không đủ óc tự chủ và tính trinh tháo

Mặt mũi thanh tú mà da dẻ quá lạnh, thần thái quá thanh khiết ­ da dẻ quá lạnh thần thái quá thanh thì sự thái quá đó biến thành hàn tướng chứ không phải quí tướng . Do đó , kẻ hàn tướng là kẻ thọ căn mong manh, không trường thọ

2) Tiện trung hữu quí

Đàn bà mà có bộ vị trên mặt như sơn lâm ( hai bên mép tóc ở trán ) bị sẹo hoặc rụng tóc, tóc quá đậm mà thô, mắt thô trọc và giọng nói rõ, mũi quá xẹp và nhỏ , ngừơi Mộc pha Kim ( cao ốm mà da trắng bệch ) mày quá mày lạt, tai nhỏ , trán thấp...bị xếp vào loại tướng không tốt, lấy làm vợ tất đưa đến tai hại, nhưng nếu:

Sơn lâm bị phá khuyết hoặc có sẹo mà mũi và các bộ vị liên hệ đày đặn, hợp cách và liên hoàn.

Tóc đậm , thô mà lông mày dài đẹp. Mi cốt nổi nhưng không thô

Mũi nhỏ, bằng, không có chuẩn đầu đẹp, nhưng ánh mắt ngay thẳng , thần thái an hòa

Môi vẩu, răng lộ nhưng tóc mịn, sắc tươi

Mắt thô trọc , tiếng rè mà cằm vuông vắn, đầy đặn, triều củng về mũi một cách tương xứng

Nguời Mộc Pha Kim mà ít nói, điềm đạm, tính tình lãnh đãm vừa phải.

Hơi ngắn , mày lạt và thưa mà thần sắc an nhiên, không kinh hoàng, không biến sắc khi gặp việc rắc rối

Tai nhỏ , trán thấp nhưng mày đẹp, mắt trong sáng ẩn tàng và chuẩn đầu nhỏ, nở thì đó lại là tiện trung hữu quí , phải phân định là hậu vận sẽ tốt đẹp chứ không thể coi là tiện tướng để quyết đoán là vận mạng sẽ không ra gì

Theo nhà tướng học hiện đại rất nổi tiếng là Ngã Thị Sơn Nhân thì nhận định trên là rất đúng .Do đó, trong cuốn tướng mạng giảng tọa ông đã đặc biệt chú trọng tướng mạo phụ nữ và viết thành một thiên khảo cứu đặc biệt.

IV - MỘT VÀI GIAI THOẠI VỀ THANH , TRỌC

Thuật ngữ tướng học có câu nhất quý đề cửu tiên. Nhất tiên phá cứu quí , nghĩa là một nét tướng đôi khi chóng đỡ được chín nét tướng xấu nhiều khi phá hư chín nét tướng tốt.Câu nói này không phải chú trọng đến số lượng một hay chín vì đó chỉ là lối nói quá đà cho thuận miệng mà chỉ có nghĩa là trong phép xem tướng nhiều khi trên người một cá nhân có nhiều nét tướng xấu. Ngược lại, đôi khi có rất nhiều nét tướng tốt, chỉ cần một phá tướng đủ để làm tiêu tan những cái hay của các nét tướng tốt kể

trên.Để chứng minh lập luận trên xin đơn cử bằng hai câu chuyện dưới đây:

1.- Nhất tiện phá cửu quí

Vào đầu thế kỷ 20 ở Bắc Kinh, tại một đại thanh lâu kỷ việngọi là Bát Đại Hồ Đồng , có một danh kỹ thanh lâu tên l2 Thái Phượng người gốc Tô Châu, có nhan sắc chim sa cá lặn, nổi danh là hoa khôi của Bắc Kinh, chẳng những nhan sắc , vóc dáng mà cả thanh âm lẫn tác phong của nàng cũng rất mực tao nhã không ai sánh kịp. Trông thấy nàng không ai có thể nghĩ rằng một vị hằng nga tái thế , dáng dấp quí phái hiền thục như thế mà lại sa chân vào chốn bùn nhơ.Theo tục lệ ở bên Tàu , các vị vương tôn đại thần đều thường lui tới kỹ viện, thấy hoa khôi vừa ý là xuất tiền mua về làm ái thiếp nên ít khi có một hoa khôi thanh lâu nào lại trầm luân quá một năm mà không được một đại thần nào hay phú ông ra tay tế độ.Trường hợp Thái Phượng thì ngược hẳn, tài sắc và dáng dấp của nàng gần như là xưa nay chưa từng có , thế mà ở kỹ viện bậc nhất thành đô đã gần 5 năm mà không có ai chuộc về làm thiếp. So với các bạn được hoàn lương hửng phúc , Thái Phượng đáng liệt vào hàng vợ bé của các đại thần nhất phẩm,Trước biệt lệ này, các danh sứ tướng học cả nước đều không tìm ra được đáp số.Hầu hết các nhà xem tướng đều thấy nàng thập toàn thập mỹ, thật xứng đáng sánh duyên với các vị đại thần.Mãi về sau ,nhân có vị tướng số họ Vi được coi là đệ nhất Trung Hoa đương thời đến du ngoạn Bắc Kinh, nhóm tướng sư tại đây mới mang chuyện hy hữu này ra thảo luận nhưng không cho biết mặt Thái Phượng và thân phận của nàng

Một bữa nọ , có con của một vĩ đại phú thương ở Thiên tân nghe danh tài sắc cụa Thái Phượng muốn nạp nàng làm thiếp.Vị công tử này tuổi đã ngoài tam thập , đã có hai vợ nhưng đều sanh con gái, ý muốn lấy thêm Thái Phượng để mong có chút con trai nối dõi tông đường .Do đó , bà mẹ của chàng ta đích thân tới Bắc KINH MỜI Thái Phượng tới một đại tửu lầu ăn uống để nhân dịp quan sát và thẩm định tướng mạo nàng dâu tương lai. Trước mặt mẹ chồng tương lai, Thái Phượng ăn mẵc đúng kiểu con nhà khuê các, không phấn son lòe loẹt, nói năng lại càng giữ gìn hơn bao giờ hết.Những kẻ chua từng gặp nàng tại thanh lâu đều không dám ngờ đó là hoa khôi của giới làng chơi.Dể thử tài họ Vi, nhóm đồng nghiệp trên ngồi cách đó vài bàn nói cho họ Vi biết đó là tiểu thư họ Lý và nhờ họ Vi chỉ điểm xem tương lai và vận mạng của Lý tiểu thư ra sao

Trước sự ngạc nhiên và thán phục đến tột độ của họ, vị tướng sư họ Vi , sau khi quan sát kỹ Thái Phượng . nhìn kỹ màu sắc làn môi , nghe tiếng nói đã cho người ta biết rằng: Thái Phượng về mặt ngoại biểu là thập toàn , thập mỹ, nhưng đó chỉ là phần ngoại ngũ hành . Về phần nội ngũ hành qua giọng nói nói và màu sắc làn môi nhân dịp không hóa trang ông đã khám phá ra có sự khuyết hãm.Tổng hợp phép vọng khí quan sát độc đáo của mình,họ Vi đi đến kết luận là Lý tiểu thư có ám tật trong người, khiến nam giới có kinh nghiệm ăn chơi sau một lần chung chăn gối đều hoảng sợ lảng xa .Vì vậy thoáng trông qua là quí tướng vì thuộc về loại nhất tiên phá cửu quí .Người như thế là hồng nhan bạc phận, chỉ đáng làm kỷ nữ lầu xanh mà thôi.Tướng quí của nàng chỉ là giả quí còn tiện lại là chân tiện nên số kiếp ắt không ra gì.

2) Nhất quý đề cửu tiện

Cuối đời Mãn Thanh , niên hiệu Quang Tự, Tổng đốc Qủang Châu là Trương Thụ Thanh, hình dáng thật là tiện tướng.Theo lời mô tảcủa người đương thời còn truyền lại thì họ Trương có lỗ mũi vứa to vừa hếch, miệng lớn như chiếc chậu, tai nhõn như tai chuột.Căn cứ vào tướng người thì không ai có thể nói đấy là vị nhất phẩn triều quan.Thế má họ Trương lại xuất thân tiến sĩ,cuộc đời sóng yên gió lặng, thăng dần đến chức Tổng đốc, gần như một ông vua con.Họ Trương cũng tự biết mình tướng quái dị,không biết quý ở chỗ nào.Bởi vậy,ông ta khổ công tìm tòi, nghiên cứu sách vở, nhờ thầy coi tướng nhưng không ai tìm thấy quí tướng ở đâu cả

Một ngày kia khi miếu Thành Hoàng ở Qủang Châu ( thủ phủ tỉnh Qủang Đông) họ Trương cải dạng thànj dân thường đến quan sát các gian hàng coi tứong thấy có một vị tướng sư tự xưng là tài ba nhất vùng hiệu là Tái Quân Bình , rành nghề coi tướng ,lấy thù lao rất nặng.Mỗi lần coi là một lượng vàng, Trương cho là ông thầy bói này có thể tin được bèn bước vào quán,Vừa thấy Trương,Tái kêu lớn:" Đại Nhân". Trương tưởng thầy tướng đã nhìn ra nét quý tướng của mình nên mừng lắm, lại nghĩ rằng nơi có đông người đàm đạo bất tiện mới gọi phu kiệu rước Tái Quân Bình về dinh Tổng đốc rồi kính cẩn nói" Tôi tự biết mình không có điểm nào khả thủ, phiền tiên sinh chỉ điểm cho nỗi niềm thắc mắc lâu nay"

Thẩm biện quan quan sát nhiều lần từ đầu đến chân vị Tổng đốc quyền uy, sau cùng lắc đầu tạ tội. Trương hỏi: " thế lúc ở trước miếu Thành hoàng , ông kêu ta là đại nhân thì dựa vào đâu?"

Tái đáp: " Cái đó là do quan lớn làm quan lâu ngày nên có khí tướng ung dung bệ vệ của một quan trưởng, tiểu nhân thốt nhiên kêu liền chứ thật quả là không phải do xem tứong mà đoán ra.Cứ như sách vở , thì bề ngoài tướng quan lớn không phải là tướng quý hiển

Trương thấy Tái tính tình thành thật, hậu thưởng rồi tiễn chân ra cửa.Trong lúc sánh vai bước xuống thềm nhà.gia nhân của Trưong có việc khẩn cần phải bẩm trình từ hậu thất chạy ra miệng kêu lớn:" Đại nhân! Đại nhân" .Trương quay đầu lại , chính lúc đó Tái Quân Bình phát hiện ra nét quý tướng của Trương.Tái vội vàng bước ra sảnh đường nói rõ cho Trương biết, nguyên là trong lúc bất ngờ, họ Trương quay đầu lại phía sau, thân mình không chuyển động , chỉ có đầu quay một nửa vòng tròn một

cách dể dàng tự nhiên.Sách tướng gọi đó là Long đầu cách cục rất hiếm có, kẻ nào có được thì quan đến cực phẩm triều đình.

Nghe xong lời giải thích , Trương Thụ Thanh mới vỡ lõ ra rằng mình quí hiển như vậy là do ở tướng Cửu tiên nhất quý mà ra , trong lòngrất khâm phục tài quan sát bén nhạy của Tái Quân Bình ,bèn thưởng thêm rất nhiều tiền bạc và từ đó như cất

được gánh nặng canh cánh bên lòng.

Trong cuộc vận động văn họcTrung Hoa vào khoảng 1917, tại Đại học đường Bắc Kinh có hai nhân vật được mọi người coi xuất sắc nhất và có ảnh hưởng nhất đối với việc phổ biến văn học mới trong giới trẻ là Hồ Thích và Trần Độc Tú . Cả hai đều là giáo sư đại học, nhưng lúc đó Trần Độc Tú nổi tiếng hơn vì đang giữ chức khoa trưởng Văn Khoa

Giữa lúc hai nhân vật trên đang thao túng văn đàng Trung Hoa có hai nhà tướng học khét tiếng là Thái Tứ Gia va øĐiếu Kim Ngao đã xem tướng hai người và đưa ra nhận xét sau đây:

Đứng về mặt nhân tướng học , cả Hồ lẫn Trần đều là loại tướng thượng cách, nhưng chỉ ở mức thượng thừa của thượng cách mà thôi .Cả hai đều thuộc loại người " Quý mà không có thực quyền , danh cao hơn vị". Tuy vậy đi sâu vào các chi tiết thí quý cách của Hồ và Trần có nhiều điểm dị biệt.Họ Hồ thì thuộc loại trọc trung đới thanh còn Trần Độc Tú thì thanh trong đới trọc . Theo thẩm định của hai nhà tướng học trên thì quý cách của Hồ Thích có hậu vận tốt đẹp hơn quý cách của Trần Độc Tú .Hồ Thích cận thị , lông mày hơi đậm , giữa khoảng lông mày và mắt không có gì đặc biệt hơn người nhưng nhình chung là tướng người trung hậu. Trái lại Trần Độc Tú thì mi thanh mục tú , chưa nói thành lời mà khoảng giữa hai lông mày lẫn mắt đã có vẻ như muốn nói thành lời, khiến người nghe dễ sinh thiện cảm. Chẳng những mi thanh mục tú ,Trần Độc Tú còn có dáng dấp thanh nhã , anh tuấn,phong độ tiêu sai, giọng nói có âm điệu trầm bổng rất hấp dẫn người nghe. Người ngoài nhìn qua lông mày cặp mắtcủa họ Trần nhận ra ngay là các bộ vị có hai đặc điểm : cao và thanh tú . Mày cao có hai nghĩa , khoảng cách giữa chân lông mày và mắt xa nhau tức là lông mày không ăn lan xuống bờ mắt. Nghĩa thứ hai là đuôi lông mày cao hơn hai tai . Kẻ có lông mày cao , theo nghĩa thứ nhất là kẻ thông minh , tính tình phóng khoáng , cao theo nghĩa thứ hai thì về mặt mạng vận sẽ có vị cao danh trọng.

Còn thanh tú nghĩa là lông mày màu đen , không tạp loạn , tuy không quá thưa nhưng cũng không quá cao và dày, chỉ với đủ để người ngoài nhìn thấy đước chân sợi lông mày. Người có loại lông mày thanh tú bất luận lông mày dài ngắn là kẻ thông tuệ xử sự phân minh dứt khoát . Thêm vào đó , mắt Trần Độc Tú rất đẹp . Do bởi tướng quý đó , ông ta là một bậc danh tiếng vào bậc nhất trong giới đại học thời đó.

Về " Mi đậm mắt trọc " dưới con mắt phàm tục thì đó là tướng xấu nhưng dưới nhãn quan tướng học thì không hẳn là xấu, nếu như trong caái trọc có cái thanh . Đối với những kẻ mới học nghề coi tướng nhìn thấy được cái trọc trong cái thanh cũng như cái thanh trong cái trọc là những điều rất khó. Chính là dựa vào việc xem tướng Trần Độc Tú thanh trung đới trọc mà cả Điếu Kim Ngao lẫn Thái Tứ Gia đều quyết đoán là hậu vận của Trần Độc Tú sẽ không ra gì.Tuy vậy , phép tìm ra điểm trọc trong sự thanh tú của họ Trần giữa hai nhà tướng học kể trên không giống nhau. Điếu Kim Ngao căn cứ vào hình tướng nhiều hơn, đã tìm thấy trong sự thanh tú của họ Trần bị các điểm trọc sau đây làm vẩn đục :

- Mắt sáng nhưng ánh mắt không định

- Tiếng nói thường hụt hơi ở cuối câu.

- Bước chân đi thiếu vững vàng.

- Gịong cười , tiếng nói không được thuần khiết, trong trẻo, tướng pháp gọi là

Tiếu thanh bất dương .Những điểm kể trên làm quý cách của Trần Độc Tú bị phá vì thanh trung đới trọc và báo trước hậu vận khốn đốn.

Trái lại, Trái Tứ Gia thì căn cứ vào thần khí để xét tính cách thanh trung đới trọc của họ Trần , đại để :

- Lúc trầm ngâm thì lông mày xoắn tít lại như các vòng xícch là dấu hiệu thô về ý.

- Nhan diện không được thuần khiết và có tạp sắc tức là tạp về sắc.

- Tú khí của mắt không tướng học tànglà kẻ tinh hoa phát tiết ra ngoài nên cũng bị coi là một loại thần trọc.

Các điểm trọc trên ẩn tàng trong cái thanh tú đả khiến Trần Độc Tú sẽ bị trầm kha , khốn đốn trong buổi vãn niên.

Những lời luận tường kể trên được đăng trên báo chí . Lúc đó Trần Độc Tú còn là ngôi sao sáng chói trên văn đàng và chính giới Trung Hoa, nên trước những lời đoán tướng , Trần Độc Tú chỉ cười và nói rằng " Những chuyện xảy ra chính tôi còn

chưa biết được làm sao dám tin tướng số?".

Thời gian trôi qua rất mau, mười năm sau , tức là khoảng 1927 , Trần Độc Tú vốn là một nhân vật lãnh đạo cao cấp của Đảng cộng sảnTrung Hoa , vì bất đồng ý kiến với phe Mao Trạch Đông nên bị khai trừ ra khỏi Đảng. Đến khi cuộc chiến Trung Hoa ­ Nhật Bản bùng nổ , Trần phải chạy về trùng khánh. Vì Trần là một yếu nhân của cộng đảng nên tuy bị khai trừ rồi mà vẫn bị phe Tưởng Giới Thạch giam giữ . Sau đó tuy được ân thích, nhưng vẫn không đất dung thân phải ở lại Trùng Khánh và thuộc trong cảnh bệnh tật ngoài túng giữa thời kỳ chiến tranh Trung ­ Nhật đang bộc phát.

Về phần Hồ Thích , hai nhà tướng học trên cho rằng : ngược lại với tướng của Trần Độc Tú tướng của Hồ thuộc loại quý tướng vì thanh trung hữu trọc do hai điểm sau đây :

- Lông mày tuy đậm và áp tới mắt, nhưng mắt của Hồ Thích lại cận thị tức là vô quang sắc, mỗi khi cười nói , mặt mũi tươi tỉnh , tỏa ra vẻ hòa ái , sảng trực.

- Về cách đi đứng , nằm ngồi tướng của Hồ Thích giống hệt loại tướng Hạc.

Quý tướng của Hồ Thích là ở chổ đó. Hai nhà tướng học còn quyết đoán là nếu Hồ rời bỏ học giới đổisang chính giới thì tương lai sẽ còn cao xa hơn nữa. Lúc đó Hồ còn đang làm giáo sư văn học tại viện đại học Bắc Kinh . Khoảng mấy năm trước khi có vụ tranh chấp rồi đi đến xung đột Hoa ­ Nhật , nhân vì Hồ đả kích Uông Tinh Vệ nên sau này phe chính quyền kháng Nhật biết tiếng và từ đó Hồ gần như bỏ nghề giáo sư mà chuyển sang chính giới . Qủa nhiên , trong môi trường mới , Hồ nổi danh còn hơn lúc ở học giới đúng như lời dự đoán của Điếu Kim Ngao và Thái Tứ Gia. Khi Hồ làm Đại sứ Trung Hoa dân quốc tại Mỹ, có người mang chuyện này hỏi lại , Hồ trả lời rằng :" Việc tôi làm đại sứ thật là một điều lạ . Tôi vốn không tin vào vấn vấn đề vận mạng dù rằng lời dự đoán có trúng thì chẳng qua chỉ là ngẫu nhiên. Tuy vậy, tôi phải nhận chân rằng trong trời đất quả thật có những việc mà mình không thể tự chủ hoặc không hề nghĩ tới mà nó vẫn xảy ra".

Chương thứ ba

NHƯNG TƯỚNG CÁCH ĐẶC BIỆT

I. I-NGŨ TRƯỜNG

Ngũ trường là dạng xưng của 5 bộ phận:

-đầu dài

-mặt dài

-thân dài

-tay dài

-chân dài

Người có Tướng ngũ trường thường quý hiển nên loại người có Tướng ngũ trường thường được xếp vào loại Tướng quý. Quý ở đây chỉ có nghĩa là tốt, là thượng thưa mà thôi. Nhưng những điều liệt kê ở trên chỉ là phần hình thức , chưa đủ dể quyết đoán, mà có thêm ngũ quan ngay ngắn, cử chỉ hiên ngang, dáng dấp thanh nhã, khí sắc tươi tắn mới thực là quý tướng . Loại tướng này được xếp vào loại phú quý song toàn nhưng phần quý hiển nặng hơn phần phú túc . Trái lại , nếu chỉ được Ngũ trường về hình thức mà thực chất lại kém cỏi : ví dụ xương thịt khô xạm , cằn cỗi , thần thái ủ tủ , trơ xương lộ gân hoặc thịt bệu xương nhỏ đều là tướng hạ tịên .

Trong số Ngũ trường , có thể thiếu một mà vẫn không trở thành tướng xấu ( dĩ nhiên ở đây nói về hình và chất cùng tốt ) là chân ngắn . Nếu như cũng một trường hợp vừa nói mà thay vì chân ngắn , ta thấy ngược lại là tay ngắn hơn chân thì bao nhiêu điểm tốt lại trở thành xấu , vì đấy là tứơng bần hàn , đê tiện . Bởi vậy , tướng thuật có câư : " Cước trường , thủ đoản nhân đa tiện" .

II ­ NGŨ ĐOẢN

Được gọi là Ngũ đoản tướng khi có :

- Đầu ngắn .

- Mặt ngắn .

- Thân ngắn .

- Tay ngắn .

- Chân ngắn .

Về mặt xét đoán cũng vẫn như trên , nếu Ngũ đoạn mà xương thịt cân xứng , thần thái uy nghi , Ấn đường sáng sủa là tướng đại phú . Ngaỳ xưa vương quốc nước Tề là Án Anh người lùn chỉ cao bằng tầm ngực của tên quân hầu đánh ngựa , nhưng lại là lùn kiểu Ngũ đoản nói trên . Gần đây Việt Nam có một tướng có tướng Ngũ đoản đúng cách , đó là Nguyên Tổng Thống đệ nhất Cộng hoà , Ngô Đình Diệm .

Trái lại , nếu Ngũ doản mà thịt bệu , xương thô , tai dơi , mắt chuột , Ngũ nhạc lệch lạc , nửa thân dưới dài , mà nửa thân trên lại ngắn , v.v ... thì khó tránh khỏi cuộc đời quẫn bách , tầm thường . Ngũ đoản đều đặn mà trên dài dưới ngắn mới quý , còn ngược lại thì lưu lạc lênh đênh thành bại bất thường .

3 ­ NGŨ HỢP

* Cốt tú : Răng đều hay không đều không thành vấn đề .Điều cần thiết là răng phải chắc chắn , tươi sáng tựa như ngọc ngà không có vết . Người nào có bộ răng hợp với điều mô tả trên được kể là Cốt tú.

* Nhục tú : Sắc mặt lúc nào cũng hồng hào tươi tĩnh thì gọi là Nhục tú . Chỉ cần hồng hào tươi tĩnh mà thôi . Gầy mập không cần lưu ý .

* Huyết tú : Lông mày thanh nhã , mịn màng và chất của lông mày cũng như sự thưa mỏng của nó tương xứng với tóc và râu được gọi là Huyết tú .

* Khí tú : tiếng nói trong trẻo , có âm lương vang ra xa thì gọi là Khí tú . Đối với phép quan sát thần khí của Á Đông thì âm thanh là đối tượng dễ quan sát nhất về khí . Khí tốt thì âm thanh trong trẻo vang dội . Từ Khí có thể suy ra Thần và Sắc . Bởi vậy Đạt Ma Thiền Sư có nói : Cầu toàn tai thanh . Trong phép xem tướng , người ta đã liệt việc xem tướng âm thanh vào loại tướng pháp thượng thừa cũng bởi lý do trên .

* Chất tú : Mắt sáng , tia long lanh có thần khí thu tàng như tinh tú tự phát ra ánh sáng ban đêm : sáng mà êm dịu thì gọi là Chất tú .

Đời nhà Thanh , Đệ nhất thi nhân Hoàng Công Độ là người có đủ tướng Ngũ tú .Bởi vậy , tâm tính thông tuệ , dung hơp được cả các tinh hoa của thơ văn cổ điển bác học lẫn thơ văn bình dân . Nhà thơ họ Hoàng đã dùng những kỹ thuật bác học cổ điển để sáng tạo ra nhữn bài thơ ý tứ mới mẻ khiến cho việc thưởng thức những cái hay đẹp của văn chương cổ điển càng thêm phong phú . Thơ văn của Hoàng đã tạo thành một phong trào văn hóa có ảnh hưởng sâu rộng trong giới sĩ phu thời đó và phần nào đã có ảnh hưởng đến cuộc vận động Tân văn hoá của nhóm Hồ thích sau này . Sở dĩ Hoàng Công Độ hiển hách một thời cả về công danh lẫn sự nghiệp như vậy đều là do may mắn được trời sinh ra có tướng Ngũ tú .

6 ­ LỤC ĐẠI

Đầu lớn , mặt lớn , tai lớn , mũi lớn , miệng lớn và bụng lớn được gọi là Lục đại . Nếu tất cả đều ngay ngắn , cân xứng thì đó là tướng quý .

Ngược lại , nếu :

- Đầu lớn màtrán không có Nhật , Nguyệt giác (tức là trán gồ)

- Mắt tuy lớn nhưng ánh mắt láo liên hoặc mờ ám .

- Miệng tuy lớn nhưng không rõ luân quách .

- Bụng tuy lớn nhưng hếch lên , thì đó gọi là tướng Lục đại bần yểu .

7 ­ LỤC TIỂU

Trán , mắt , mũi , tai , miệng , bụng đều nhỏ thì gọi là Lục tiểu .

a) Quý tướng :

- Trán nhỏ , nhưng đều đặn vuông vắn .

- Mắt nhỏ nhưng sống mũi thẳng và ngay ngắn .

- Tai nhỏ nhưng đầy và Thuỳ châu rõ ràng , hướng về miệng .

- Bụng nhỏ nhưng xuôi .

Ngoài ra , thân mình phải can xứng với khuôn mặt mới thực sự tốt .

b) Tiên tướng :

Nếu sáu bộ phận trên nhỏ nhưng không hội đủ những điều khiện vừa kể thì bị xếp vào loại tướng tiện (không ra gi ) . Người có tướng lục tiểu khuyết hãm chẳng những trí óc đần độn hoặc lệch lạc mà mạng vận cũng trì tuệ , thọ mạng ngắn ngủi .

Ngoài một số tướng cách đặc thù kể trên , ta còn có thể căn cứ vào sự bất quân xứng giữa các bộ phận căn bản trên con người mà đặt ra vô số tướng cách

hỗn tạp . Ví dụ :

- Tứ tiểu , nhất đại .

- Tam tiểu , nhị đại .

- Ngũ tiểu , nhất đại v.v...

Điểm cần lưu ý trong tướng pháp để giải đoán quý tiện của loại tướng hỗn tạp ( gồm cả đại lẫn tiểu trên lhuôn mặt hay thân hình của một cá nhân) là:

* Dù hình thức và thực chất có hoàn hảo thì sự hỗn tạp trên không bao giờ đưa đến phú quý song toàn hoặc bền vững cả . Những kẻ đó hoặc là phú mà quý , hay ngược lại , hoặc tiền phú hậu bần , hoặc yểu .

* Mức độ xấu của tướng cách hỗn tạp , tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố : bộ vị chủ yếu , khí sắc , tinh thần khí phách v.v...

CHƯƠNG THỨ HAI

NGUYÊN LÝ ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH TRONG TƯỚNG HỌC

I- ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH TRONG VŨ TRỤ QUAN TRUNG HOA :

a) Lược sử :

Thuyết Aâm Dương Ngũ hành đã được đề cập đến trong một tác phẩm thành văn tối cổ Trung Hoa là kinh Dịch .Tuy vậy.kinh Dịch của Khổng Tử chỉ là sự thâu nhập các kiến thức và quan niệm của người xưa từ thời vua Phục Hy lưu truền đến đời

Khổng Tử.Khổng Tử chỉ góp nhặt và suy diễn thêm cho thành một hệ thống và ghi lại thành văn bản cho hậu thế mà thôi.

Theo truyền thuyết , người nhận thức được các lẽ Aâm Dương biến hóa của trời đất , vạn vật là vua phục Hy (khoảng 44 thế kỉ trước công nguyên), người minh thị đề cập đến cái d5ng củaNgũ hành là vua Hạ Vũ (khỏng 22 thế kỉ trước Tây lịch)

Đến thế kỉ thứ 3 trước Tây lịch,tại nước Tề (nay là tỉnh Sơn Đông) ,có học giả Trâu Diễn , căn cứ vào kinh Dịch , đã phổ biến và hết tinh thần và công dụng của âm Dương,ngũ hành không những vào sự vật thiên nhiên mà còn vào con người nữa . Do đó,người đời sau coi Trâu Diễn như người khai phá ra phái Aâm Dương . Phái này chính là nguồn gốc của phái Lý-Số do các học giả đời Tống sau nay sáng lập.

Đến đời Hán,học giả Dương Hùng (53 trước Tây lịch-20Tây lịch) tham bác kinh Dịch và Đạo đức kinh mở ra ngành Lý-Số học sơ khai qua tác phẩm Thái huyền kinh.

Đến đời Tống sơ (khoảnh thế kỉ 10) ,một nhân vật Đạo gia kiêm Nho gia là Trần Đoàn ,tự là Đồ Nam,hiệu là Hi Di tiên sinh ,tinh thông cả Lý-Số hoc của các nhà đi trước đã tổng hợp các kiến giải về lý Thái cực của vũ trụ, lấy lượng số mà xét sự vậnchuyển của Trời Đất , suy diễn ra hành động của vạn vật mà áp dụng các hiệu quả của lý Thái cực vào Nhân tướng học đến giải đoán tâm tình , vận số của con người , mở đầu cho Lý-Số học và Tướng số học.

Từ đó về sau ,quan niệm Aâm Dương, Ngũ hành được áp dụng rộng rãi vào Nhân tướng học và thành ra một thành tố bất khả phân trong tướng thuật .

b) Nội dung của thuyết Aâm Dương , Ngũ hành :

Theo cổ nhân Trung hoa, lúv đầu vũ trụ chỉ là một khối hỗn độn,không có hình dạng rõ ràng được gọi là thời Hỗn mang. Trong sự Hỗn mang đó, bàng bạc cái lẽ vô hình linh diệu gọi là Thái cực.(Sở dĩ gọi nó là Thái cực vì nó huyền bí và vô tận nên không thể xáx định rõ bản thể của nó ra sao ).

Tuy nhiên, dù không biết được cái chân tính và cái chân chất của cái lẽ Thái cực huyền vi song ta có thể dựa vào sự quan sát về tính cách biến hóa của vạn vật mà suy ra được cái động thể của Thái cực. Căn bản của sự biến hóa được biểu lộ bằng hai trạng thái tương phản là Động và Tĩnh .Động gọi là Dương, tĩnh gọi là Aâm .Dương lên đến cực độ lại biến ra Dương .Hai cái trạng thái tương đối của cái Bản thể nguyên khởi duy nhất (Thái cực) cứ tiếp diễn mãi, điều hợp với nhau, sinh sinh hoá hóa không ngừng mà sinh ra Trời Đất,Người cùng vạn vật. Vì Aâm Dương phối hợp đunđẩy lẫn nhau nên có sự biến chuyển, Sự biến chuyển chính là nền tảng của Dịch .Do đó, trong phần chù giải kinh Dịch, Khổng Tử đã nói : "Aâm nhu Dương cương, Cương nhu tương thôi sinh nhi biến hóa " (nghĩa là Aâm thì mềm,Dương thì cứng, cứng mềm đun đẩy nhau chuyển hóa thành thiên hình vạn trạng ).

Theo cổ nhân, mỗi chu trìh gồm 4 giai đoạn :

a)Nguyên :khởi đầu của sự biến hóa

b)Hanh :sự thông đạt, hội hợp các thành tố.

c)Lợi : sự thỏa đáng các điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng.

d)Trinh : sự thành tựu chung cuộc của một chu trình sinh ra sự vật.

Biến hóa là ngoại biểu của Thái cực mà đạo Dịch căn cứ trên sự biến hóa của vũ trụ và vạn vật. Do đó, kinh Dịch mô tả diễn trình tiến hóa (Dịch) một cách khái quát như sau :

"Dịch hữu Thái cực sunh lưỡng nghi, luỡng nghi sinh tứ tương, tứ tương sinh Bát quái, Bát quái sinh Ngũ hành : đạo Dịch có nguồn gốc là Thái cực , Thái cực sinh ra hai Nghi ( Aâm và Dương) , hai Nghi sinh ra bốn Tương (bốn trạng thái tượng trưng

là bốn mùa :xuân, hạ thu , đông), bốn tượng sinh ra tám Quẻ (Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài) tượng trưng cho Trời , Đầm, Lửa, Sấm, Gió, Núi, Nước, Đất ), tám Quẻ sinh ra năm Hành (năm loại nguyên tố cấu tạo ra vạn vật hữu hình :Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ)

Khởi đầu của sự biến hóa rất đơn giản, rồi từ cái đơn giản đó mà chuyển hóa dần dần thành cái phồn tạp. Vì âm Dương là hai thành tố đầu tiên trong vũ trụ , nên kinh Dịch chọc là biểu tương căn bản và tượng trưng bằng hai cái vạch đơn giản:

a)Vạch liên tục ( _ ) tượng trưng cho Dương .

b)Vạch gián đoạn (- - ) tượng trưng học âm.

Trong phép biến hóa để sinh ra Bát quái, hai vạch tượng trưng cho Aâm Dương lần lượt chồng chất lên nhau theo nền tảng tam tài mà thành ra tám Quẻ căn bản với hình dạng và ý nghĩa tượng trưng sau đây :

1-Kiền tượng trưng cho Trời .

2-Đoài tượng trưng cho Đầm, Ao

3-Ly tương trưng cho Lửa

4-Chấn tượng trưng cho Sấm

5-Tốn tượng trưng cho Gió

6-Cấn tượng trưng cho Núi

7-Khảm tượng trưng cho Nước

8-Khôn tượng trưng cho Đất.

Đó là tám Quẻ nguyên thủy gọi là "Tiên thiên Bát quái" do vua Phục Hy (4477-4363) trước Tây lịch vạch ra để giải thách cái lẻ AâmDương biến hóa của Táhi cực .

Về sau vua Hạ Vũ (2205-2163) trước Tây lịch đặt ra Cửu Trù ( chín phép lớn) phối hợp với Bát quái và tính cái số của Ngũ hành trong việc giải thích lẽ biến hóa của vũ trụ và vạn vật.

Tới đời Tây Chu , vua Văn Vương , trong thời gian bị giam ở ngục Dũ Lý ( khoảng thế kỷ 11 trước Tây lịch ) đã dành thì giờ nhàn rỗi diễn lại các quẻ tiên thiên Bát quái của Phục Hy thành tám quẻ , Bát quái mới gọi là hậu thiên bát quái với các ý nghĩa thiên về nhân sự để dùng vào việc bói toán và suy gẫm việc người . Con Văn Vương là Chu Công Đán về sau có giải thích thêm đôi chút về ý nghĩa và công dụng của quẻ Bát quái, nhưng rất ngắn và mơ hồ , chỉ có các kẻ có thiên tư đặc biệt được tâm truyền mới ánh mắt hiệu được .Tình trạng của Dịch lí từ thượng cổ đến trước khi Khổng Tử ra đời chỉ có như thế mà thôi.

Đến đời Đông Chu , Khổng Tử (511-478 trước Tây lịch ) đem kiến giải của mình bổ sung vào các điều truyền lại của Dịch lý đời Chu, san định lại và viết thành Kinh dịch trong đó bao gồm cả Aâm Dương ,Bát quái và Ngũ hành.

Căn cứ theo ý nghĩa thông thường , cổ nhân gán cho Âm Dương Ngũ Hành các ý nghĩa tượng trưng sau đây :

Dương : tượng trưng cho mặt trời, lửa, ánh sáng ,sinh động, cứng cát,ban ngày, đàn ông....

Âm :tượng trưng cho mặt trăng ,tối tăm, nguội lạnh, bất động, mềm nhão,ban đêm,đàn bà....

Kim: vàng, bạc hiểu rộng ra là tất cạ các chất kim thuộc.

Mộc: cây trong rừng, nói tổng quát ra là mọi thực vật trên mặt đất.

Thủy: nước và nói rộng ra là các chất lỏng.

Hoả: lửa , hơi ấm

Thổ: đất đá , nói chung Thổ bao gồm mọi loại khoáng chất trừ kim loại .

Về phương diện siêu hình Aâm Dương không phải là cái khí vật chất hữu hình thể mà chỉ là cái biểu thị tượng trưng cho hai trạng thái tương đối, mâu thuẫn như nóng lạnh, sáng với tối, cứng với mềm, sinh với diệt, khỏe với yếu...

Về phương diện ý nghĩa siêu hình của ngũ hành , ta củng đi đến kết quả tương tự Kim ,Mộc, Thủy,Hỏa ,Thổ, ngoài tính cách vật chất của nó kể trên có một ý nghĩa tượng trưng cho tính cách tương sinh, tương Khắc trong sự biến hóa của muôn vật diễn

ra hàng ngày trước mắt.

Trong tướng học , người ta rất chú trọng đến Nhũ Hành và thường hiểu Kim, Mộc ,Thũy, Hoả, Thổ theo cả hai ý nghĩa : vật chất lẫn siêu hình qua sự tượng hình chuyển ý của văn tự từ nghĩa hẹp đến nghĩa rộng.

a) ảnh hưởng của thuyết ngũ hành trong nhân sinh quan Trung Hoa :

Từ quan niệm là một lý thuyết triết học thuộc phần Hình nhi thượng từ đời Tống trở đi, Aâm Dương thuộc Ngũ Hành được đem áp dụng vào lãnh vực Hình nhi hạ. Đại đa số học giả Trung Hoa và các dân tộc Á Đông chịu ảnh hưởng văn hóa sâu đậm của Trung Hoa đã dùng lý thuyết Ngũ hành đem giải thích và gán ghép các đặt tính của vật chất được siêu hình hóa của Kim, Mộc ,Thủy, Hỏa , Thổ vào các lãnh vực thường dụng của nhân loại, điển hình là các trường hợp sau đây:

1) Phương hướng , màu sắc, bốn mùa

b)- Mộc tượng trưng cho mùa ,màu xanh, phương đông

Mùa Xuân khí hậu mát mẻ như sương buổi ban mai, biểu hiện khởi đầu của một chu trình biến hóa mới của vạn vật bắt đầu hồi sinh và tăng trưởng.Mặt đất về mùa Xuân ,đâu đâu cũng một màu xanh thắm,Thái dương bắt đầu mọc ở Phương Đông .Tất cả đều bàn bạc ý nghịa cụa Aâm Dương tương thôi với Dương lấn lướt âm một cách tương đối trong cái trung dung của Aâm dương ( Aâm dương tỷ hòa thì vạn vật mới sinh).Do đó , cổ nhân đã lấy Mộc tượng trưng cho Mùa Xuân.màu xanh, Phương Đông.

c)- Hỏa biểu thị mùa Hạ,màu Đỏ, phương Nam

Múa hè nóng nực bức như lửa thiêu ,Dương cương lên đến cùng cực .Hoa lá đặc trưng của mùa này như lựa và phượng vĩ trổ bông màu đỏ ,phương Nam gần như ấm áp quanh năm nên Hỏa tượng trưng cho mùa Hạ ,màu Đỏ và phương Nam vậy.

d)Kim tiêu biểu cho mùa Thu,màu Trắng và phương Tây

Mùa Thu là giai đoạn cho Aâm Dương tương thôi bình hòa khí trời nóng quá,không lạnh lắm nhưngDương cương bắt đầu suy ,âm nhu bắt đầu thịnh .Mặt trời lặn ở phương Đông.Trời mùa Thu thường có mây trắng ngà bao phủ ,nên cổ nhân mới nhân

đó mà chọn Kim tiêu biểu cho mùa thu ,màu trắng và phương Tây .Nói kh1c đi theo Ngũ hành thì mùa Thu ,sắc trắng,phương Tây thuộc Kim.

e)Thủy tiêu biểu cho mùa đông ,màu Đen ,phương Bắc

Hiện tượng độc đáo nhất của mùa Đông là tuyết rơi, gia buốt ,cảnh vật ảm đạm,cửa nẻo đóng kín,tối tăm.Tuyết la 2một trang tháicủa nước , phương Bắc thường hay có tuyết nên với tinh thần tượng hình ,chuyển ý ,cổ nhân Trung Hoa chọn hành Thủy mùa Đông ,màu Đen ,phương Bắc .

f)Thổ tiêu biểu cho Đất,ø màu Vàng ,Trung ương

Người tàu phát tích ở sông Hoàng Hà ,đất đai ở đây màu vàng (hoàng thổ) nên dựa vào sự vật để định tên ,lấy đất tiêu biểu cho chất Thổ và màu vàng tượng trưng cho sắc Thổ .Bởi người Tàu lấy địa phương của họ làm trung tâm quan sát ,tự coi mình là người trung thổ ,danh xưng là Trung quốc nên màu vàng là màu trung ương ,Thổ là Hành chủ bao gồm cả bốn hành còn lại với lý do Địa tải sơn hà, vạn vật (Sông núi muôn loài vạn vật đều do đất chứa đựng ).

2-Năm đức tính căn bản của con người :

a) Nhân ứng với Mộc :

Nhân chủ ở chỗ thanh tĩnh ,ung dung tự tại ,không cạnh tranh ,bao dung và đãi người đồng đẳng .thảo mộc vốn không di động cạnh tranh ,loài tùng bách quanh năm xanh tươi, bất chấp gió sương nóng lạnh ,tượng trưng cho thái độ an tĩnh ,ung dung tự tại .Cây cỏ còn để người che mưa che nắng ,không phân biệt mội ai .Hoa quả trong chốn sơn lâm ai thưởng thức cũng được .Cái đức tự nhiên lưu hành của thảo mộc tương tự như đức Nhân ở nhân loại .do ở ý nghĩa mà Khổng Tử đã nói : " Nhân giả nhao sơn " (bậc nhân giả thích núi ) vì trên núi có thảo mộc tượng trưng cho đức Nhân của tạo vật .

b) Nghĩa ứng với Kim :

Luôn luôn thích ứng với phép tắc thiên nhiên hoặc công lý ,hằng cửu ,không biến chất, cứng cỏi không sờn. Đó là những ý nghĩa bao quát của Nghĩa .Loài Kim thuộc như vàng luôn luôn giữ mãi vẻ sáng cứng rắn ,khuyết biết tiết, dù ở nơi này hay nơi khác ,lúc nào cũng vậy ,phảng phất ý nghĩa của đức Nghĩa nên cổ nhân lấy Kim tượng trưng cho Nghĩa .

c)Lễ ứng với Hỏa :

Lễ gồm chung tất cả những gì soi sáng khuôn phép ,tạo nên tôn trọng duy trì diềng mối ,phát huy chân lí tự nhiên lưu hành ,Tế tự là một hình thức của lễ ,biểu dương sự tôn kính. Một trong những ứng dụng của Hỏa là soi sáng tại nơi Tế tự ,làm hiển lộng cái tôn kính quỷ thần của con người nên cái dụng (về phương ý nghĩa triết học ) của Hỏa và Lễ tương đồng ,nên Lễ ứng với Hỏa.

d) Trí ứng với Thủy :

Kẻ trí không điều gì là không thấu triết ,nước không đâu là không thông qua. Cái được của Trí và Nước có sự tương đồng đại lược nên người xưa đã nói một cách

đầy biểu tượng : "Trí giả nhao Thủy" (Bậc trí giả thích nước) .Do đó, Thủy tượng trưng cho Trí.

e) Tín ứng với Thổ :

Bản chất của Thổ là không bao giờ sai chạy.Thảo mộc dựa vào đất mà sống và đất cứ theo từng mùa nhất định mà thúc đẩy sự sinh diệt của cạy cối theo đúng chu trình chuyển hóa tự nhiên của tạo vật ,không bao giờ sai chạy. Do đó ,so với Tín thì bản chất của Tín và Thổ về ý nghĩa tổng quát có những nét tương đồng .

3-Năm cung bậc trong âm nhạc :

a) Cung ứng với Thổ.

b) Thương ứng với Kim.

c) Giốc ứng với Mộc.

d) Chủy ứng với Hỏa.

e) Vũ ứng với Thủy.

II./ ỨNG DỤNG CỦA ÂM DƯƠNG TRONG TƯỚNG HỌC :

âm Dương trong nhân tướng học không có tính cách cứng nhắc như thế nhân vẫn tưởng mà lại rất tương đối .Ngửa lên gọi là Dương, úp xuống gọi là Aâm ,cứng gọi là Dương ,mềm là Aâm,v.v... Nói cách tổng quát thì Trời có Aâm Dương .Đàn ông được xem là Dương ,đàn bà là Aâm, nhưng chỉ là điều khái lược .Trong mỗi con người lại cũng có phân biệt Aâm và dương nữa.

Toàn thể thân thể đàn ông là âm ,nhưng bộ phận sinh dục lại là Dương nên có tên là dương vật .Toàn thể đàn bà là Dương, nhưng bộ phận sinh dục lai là Aâm nên gọi là âm hộ.

Xương thì coi là Dương ,thịt coi la âm .

Phía mặt bên trái là Dương ,bên phải là Aâm.

Phía trên khuôn mặt (kể từ chính giữa thân mũi ) Dương, phần sau là âm.

Phần thân trước là Dương, thân sau là Aâm.

Trong khu vực thuộc mắt,phần trên là Dương, dưới là Aâm.Mắt trái là

Dương,phải là Aâm.

Nhưng phần lồi lõm của xương khuôn mặt là Dương ,những phần trũng xuống coi là âm.

Dương thì lộ liễu và hướong lên,Aâm tìh ẩn tàng và hướng xuống.Dương cốt ở an hòa,Aâm cốt ngay ngắn,Dương hcủ về cứng rắn,Aâm chủ về mềm mại.Aâm dương mỗi con người cần phải Hòa phải Thuận .Hòa có nghĩa là xương ngay ngắn, không lệch,

không cong, thần khí thanh nhã. Thuận là thịt phải được phân bố điều đặn khắp chân thân.âm Dương chủ hòa chủ về phúc thọ

Nếu như xương lộ mà không ngay ngắn ,thịt chỗ nhiều chỗ ít không hợp lẽ tự nhiên (chẳng hạn bộ phận này thì quá nhiều thịt ,bộ phận kia thì quá cằn cỗi ) thì gọi là âm dương không htuận hòa. Hoặc Aâm thịnh Dương suy (thịt nhiều mà xương,bệu lại yếu và nhỏ ,không cân xứng) hoặc Dương cường Aâm nhược (cốt lộ, thịt ít) đều là các tướng phản lại nguyên tắc âm Dương thuận hòa :chủ về hung hiểm bất tường .

Nói một cách tổng quát ,vô luận nam nữ,trong mỗi con người ,(hình tướng,khí sắc, tính cách, âm thanh ,phần vô hình cũng như phần hữu hình ) đều bị nguyên lí âm dương chi phối.

Đàn ông bản chất vốn Dương nhưng cần có Aâm thích nghi điều hòa .Đàn bà vốn thuộc âm nhưng phải có Dương để phụ giúp. Nếu không thế, đànông chỉ có thể Dương thuần mà không có Aâm chất thì sẽ mất sự khống chế cầb thiết ,đàn bà chỉ có

âm nhu mà không có Dương chất thêm vào thì trở thành quá mềm yếu và không thể tự tiến triển được.

Tuy nhiên ,dù Duơng thuần phải có âm chấtđể điều hòa cho thích nghi nhưng âm không được lấn át phần dương .Nếy Aâm chất thái quá người ta gọi là Dương sai .

âm nhu tuy phải cần Dương cương để tiết giảm phần xấu và phát huy phần tốt nhưng nếu phần Dương lấn át phần âm ( vốn là phần căn bản) thì trường hợp đó mệnh danh là Aâm thác.

Nguyên tắc tổng quát trên áp dụng cho tất cả các bộ vị trọng yếu trong một con người .Nghĩa là các bộ vị không được vi phạm các điều cấm kỵ của nguyên lý âm

Dương thích nghi .Nói khác đi. Không được phạm vào Aâm Thác hoặc Dương Sai .Đi

sâu vào phần chi tiết ta phân biệt:

a) Dương hòa

Tính cách Dương mãnh mẽ nhưng được tiết chế đúng mức cần thiết thì gọi là Dương hoà .Dương hoà bao gồm:

- Đầu tròn, đỉnh đầu bằng phẳng.

- Đầu hơi có góc cạnh, mặt hơi vuông vức,trán có xương tròn nổi lên rất rõ.

- Ngũ nhạc nổi nhưng không quá lộ liễu,Sơn căn nổi khá cao gần ăn thẳng lên Aán đường.

- Lông mày mọc xếch lên cao và có uy lực , lông mày hơi có góc cạnh ( hình thù lông mày gập cong như hình chữ chứ không cong như hình bán nguyệt hoặc thẳng như chữ).

- Sợi lông mày hơi hướng về phía trên.

- Mắt có chiều dài rõ rệt và có tụ thần.

- Sắc diện hoà ái , chẳng cần phải lập uy mà vẫn có vẻ oai nghiêm tự nhiên.

- Nói năng mau chậm thích nghi với từng câu chuyện , tư tưởng khoáng đạt. Lâm sự quyết đoán chuẩn xác, xử trí quang minh. Đi đứng ung dung.

b) âm thuận

Tính cách Aâm rõ ràng nhưng không quá ủy mỉ hèn yếu thì gọi là Aâm thuận .Được coi là Aâm thuận khi:

- Đầu tròn, mặt hơi vuông nhưng vẵn không xoá hẳn được những nét tròn trịa.

- Ngũ nhạc đều có dáng phảng phất hình tròn ( nhưng không nổi bật các nét tròn đó)

- Sơn căn mạnh mẽ có thế .Aán đường bằng phẳng, rộng

- Lông mày hơi cong mà mắt lại hơi dài( không được quá dài )

- Tiếng nói hơi nhỏ nhưng âm thanh rổn rản trong trẻo.

- Nói năng từ tốn, nhưng không chậm, phản ứng hkông nhanh nhưng không quá trễ hoặc lý lợm.

- Sắc diện hòa nhã khiến người ngoài dễ sinh thiện cảm.

- Xử sự ôn hòa.

c) Kháng dương

Tính cách Dương quá mạnh không có sự tiết chế đúng mức thì gọi là Kháng Dương .Các dấu chỉ của Kháng Dương bao gồm:

- Đầu tròn nhưng đỉnh đầu nhọn.

- Mặt có những bộ vị nổi tròn thành từng cục.

- Ngũ nhạc nổi tròn mà đầu có dạng nhọn , nhỏ.

- Lông mày ngắn mà cong hoặc ngắn mà thế của màylại hướng lên.

- Mắt lồi mà tia mắt long lanh.

- Tai nhọn mà dựng đứng.

- Tiếng nói lớn nhưng giọng điệu quê kệch hoặc giọng rè.

- Tính tình nóng nảy thô bạo, xử sự sơ suất, không nghĩ trước, không lo sau khiến người quan sát thoáng qua đã nhận được ngay sự thô lỗ.

d) Cô âm:

Chỉ có những cách Aâm thuần tuý mà không cò Dương Tính để hỗ trợ thì gọi là Cô Aâm. Đặc tính này được phát hiện ra ngoài qua các dấu hiệu sau:

- Toàn thể đầu và khuôn mặt đều là hình vuông, hoặc thiên về hình vuông, hoặc đầu lớn mà khuôn mặt lại quá nhỏ, không tương xứng

- Chính diện thì nhìn thấy bằng phẳng mà trắc diện lại thấy ở phần giữa lõm xuống

- Mắt xấu mà lông mày mọc lan xuống tận bờ mắt hoặc mắt sâu mà xương lông mày thô, hoặc lông mày quá đậm và ngắn

- Râu ria quá rậm rạp không thích nghi với tóc

- Tiếng nói có vẻ như khò khè ở cuống họng, điện nói chậm rãi mà trong đó lại chen kẽ âm thanh chói tai hoặc nhanh mà đứt đoại

- Sắc diện lúc nào cũng có vẻ u uất, xử sự quá tính toán, cân nhắc khiến người ngoài thoáng thấy là đã nhận ra ngay là con người ác hiểm

e) âm thác, Dương sai:

Bản chất căn bản là âm nhưng pha trộn quá nhiều Dương Tính khiến phần Aâm trở thành thứ yếu thứ nhì gọi là Aâm thác. Ngược lại bản chất căn bản là Dương nhưng mà Dương Tính quá yếu khiến chất Aâm lấn rõ rệt gọi là Dương sai. Dưới đây là biểu hiện bề ngoài của hiện tượng trên

- Đầu tròn thuộc Dương, mặt vuông thuộc Aâm, phía trước mặt thuộc Dương, phía sau gáy (ót) thuộc Aâm, cho nên đầu lớn, mặt nhỏ, phía trước lớn và phía sau nhỏ gọi là Dương sai

- Đầu vuông thuộc Aâm, mặt tròn thuộc Dương, nếu như hai phần đó quá sai lệch gọi là Aâm thác

- Phần lồi trên khuôn mặt thuộc Dương, phần lõm trên khuôn mặt thuộc âm. Do đó nếu Đông Tây Nam Bắc Nhạc nảy nở mà Trung Nhạc lõm xuống thì gọi là Dương sai. Tuy nhiên bốn nhạc phụ tuy đều trũng xuống hoặc bị phá hãm chỉ có Trung Nhạc nổi cao một mình thì gọi là Aâm Thác

- Chỉ có xương mà không có thịt, mắt lộ mà không có lông mày người lớn, tiếng nhỏ gọi là Dương Sai. Có quá nhiều thịt mà thiếu xương, lông mày rậm rạp lan xuống bờ mắt, chân tóc mọc thấp. Thiên thương hẹp, nhiều râu ria mà giọng nói khô khan ... đều được mệnh danh là Aâm Thác

- Mặc tuy lớn, nhưng sắc ảm đạm, thân hình tuy có vẻ nam tính mà bước chân lệch lạc ẻo lả như con gái thì gọi là Dương Sai. Thân hình nữ mà cử chỉ mạnh bạo cứng cỏi như Nam Giới thì gọi là Aâm Thác.

Tóm lại vấn đề Aâm Thác Dương Sai rất phức tạp, khó mà lĩnh hội toàn vẹn nếu không có kiến giải sâu rộng, quan sát tinh tế. Chương này chú trọng đặc biệt đến hai nguyên tắc căn bản của Dương Sai, Aâm thác như sau:

1. Đàn ông được coi là thuần Dương mà lẫn lộn cá tính phụ nữ ( bất kể phương diện gì : đi , đứng , ăn , nói ...) khá rõ thì gọi là chính dương sai .

2. Đàn bà được coi là thuần Aâm nếu pha trộn nam tính (dù về phương diện gì cũng vậy) quá lộ liễu thì gọi là Chính Aâm Thác.

Từ 2 nguyên nhân căn bảntrên, ta đi đến 4 hệ luận :

a)Bất kể nam nữ đều lấy đầu ,âm thanh,cốt cách tượng trưng cho Dương chất.Cho nên, không cần biết thân hình lớn hay nhỏ, điểm căn bản là phải lấy cốt cách trầm ổn ,vững chải, tiếng nói trong trẻo, rõ ràng có tiếng vang làm chính. Được như thế là cát tướng .

Tiếng khô khan, âm vận không có hoặc ngắn ngủi thì đầu thân hình lớn hay nhỏ đều không đáng kể gì vì đó là hung tướng ,tượng trưng hco Dương sai.

b)Bất kể nam nữ ,đều lấy khuôn mặt tượng trưng cho Dương,cho nên Ngũ nhạc nổi rõ nhưng không quá lộ liễu và thô bỉ ,râu tóc và lông mày thách nghi tương xứng là dấu hiệu cát tướng. Ngũ nhạc phá hãm ,râu ria lông mày quá đậm là hung tướng vò đó bị gọi la âm thác.

c)Thân hình to lớn khôi ngô mà khí phách nhỏ hẹp ,xử sự thô lỗ, âm hiểm tàn nhẫn, chấp nê tiểu tiết, không biết quyền biến ,đó la Dương không khống chế được âm nên gọi là Dương sai .

d) Người nhỏ mà xử sự xô bồ không có giới hạn khí phách cuồng ngạo chỉ biết tiến mà không biết thoái lui khi cần đó là Aâm không kiềm chế được dương nên gọi là âm thác.

III-ỨNG DỤNG CỦA NGŨ HÀNG TRONG NHÂN TƯỚNG HỌC :

Dựa trên quan niệm triết lýThiên địa ,vạn vật đồng nhất thể(trời đất vạn vật cùng 1 bản thể nguyê n khởi), người Trung Hoa đã đem những lập luận của thuyết Aâm Dương Ngũ hành áp dụng rộng rãi vào lĩnh vực Nhân tướng học.

Người xưa tin rằng khi Aâm Dương phối hợp và chuyển hóa để sinh ra muôn vật thì cái linh khí nhẹ nhàng tinh khiết gọi là linh khanh bay lên để tạo thành trời cao ,phần nặng nề ,ô trọc gọi là trọng trọc lắng xuống dưới tạo thành đất ,vật nào trong lúc hình thành hấp thu được nhiếu thanh khí thì bản tính linh mẫn, hấp thụ được ít thanh mà nhiều trọc thì bản tính ngu độn.

Con người là 2 trong muôn loài của tạo hóa nhưng nhờ có trí óc linh mẫn mà hiểu thấu được sự vận chuyển nhiệm mầu của tạo hóa nên tự cho là vật tối linh trong muôn vật ( nhân vi vạn vật chi linh). Quan niệm trên đã có từ thời thượng cổ, Khổng Tử đã định nghĩa con người trong sách Lễ kí như sau :" Người là kết quả phối hôp Aâm Dương tụ hội quỷ thần ,tụ khí của Ngũ hành mà hình dạng ,phẩm cách : Nhân giả Aán đường chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí dã". Vì là vật tối linh trong muôn loài, bao gồm tất cả khí thiên trong vũ trụ nên con người tự xếp mìnhngang hàng với hai thể lớn lhác của vũ trụ là Trời và Đất để trở thành

Tam tài :Thiên, Địa ,Nhân.

Thấm nhuần triết lý trên,các nhà nhân tướng học từ đời Tống trở về sau ,coi con người là1 tiểu vũ trụvà bằng lối lý luận loại suy,tất cả quan niệm Aâm Dương,Ngũ hành lẫn các quan niệmkhác của đại vũ trụ đều được áp dụng vào tiểu vũ trụ.Do đó,

không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy Bộ vị của con người được gán cho các hình thái hay ý nghĩa của đại vũ trụ.Ngay cả nguyên tắc giải đóan của nhân tướng học cũng chịu ảnh hưởng sâu rộng của tríêt lí Thiên nhân tương dữ ( trời và đất có liên hệ với nhau).

a) Phân loại các màu da theo Ngũ hành:

Như đã nói ở trên ,năm màu ứng với năm Hành ,nhưng khi áp dụng vào nhân tướng học ,các màu đó biến thái rất nhiều và chịu ảnh hưởng của định luật thanh trọc chi phối để thành chính hay phá cách.

1-Sắc da thuộc Mộc (màu Xanh)

a) Chính cách : màu xanh lơ như da trời vào buổi sáng ,l úc ánh Thái dương chưa xuất hiện ,dáng vẻ tươi mịn nhưng không quá bóng bẩy như bôi dầu mỡ .Màu hợp cách như trên gọi là thiên sắc.

b) Phá cách : màu da xanh mét như vết thương bị đánh bằng roi gậy hay da xạm, khô cằn, là màu xanh phá cách ,tục gọi là tà sắc.

2-Sắc da thuộc Hỏa (màu hồng hay tía )

a) Chính cách :màu hồng hào như màu ráng chiều phản ứng mặt trời hay như sắc mặt cua người uống nhiều rượu ,hồng và sắc tươi mát mới gọi là thiên sắc.

b) Phá cách : hồng tươi pha đỏbầm như màu huyết dụ (ví dụ như các vết đỏ của mụn nhọt ) hay thô xạm là phá cách về màu da ( tà sắc ).

3-Sắc da thuộc Kim (màu trắng)

a) Chính cách : màu trắng ngà như màu ngọc trai và sáng sủa,tươi thắm gọi là thiên sắc.

b) Phá cách : trắng muốt như tuyết, bóng như lòng trắng trứng gà hay thô như màu của muối mỏ hoặc lốm đốm như má đàn bà dội phấn không đều, chỗ dày chỗ mỏng là phá cách (tức là tà sắc).

4-Sắc da thuộc Thủy (màu đen)

a) Chính cách : màu đen trong lĩnh vực nhân tướng học không phải màu đen tuyền như nguời Phi châu(nègre) mà là ngăn ngăm đen đều khắp khuôn mặt, nhuận trạch mới coi là thiên sắc.

b) Phá cách : màu đen mà trông có vẻ tối khám như hung khói.ảm đạm như mù lúc trời sắp mưa hay quá đen và thô như da nguời bị phơi nắng lâu ngày đều là tà sắc.

5-Sắc da thuộc Thổ (màu vàng )

a) Chính cách :vàng lạt và tươi như lông gà vịt mới nở

b) Phá cách : vàng sậm như củ nghệ, vàng xạm như lá úa, dáng vẻ khô xạm là các màu vàng thuộc tà sắc . Nói một cách tổng quát ,tà sắc là biểu tượng bất thường, dù la màu gì cũng vậy .Thông thường thì:

Tà sắc trắng chủ về buồn thương, về tình cảm và tang chế.

Tá sắc hồng chủ về lo lắng ,quan tụng.

Tá sắc xanh chủ về bệnh hoạn tổng quát.

Tà sắc đen chủ về chia ly, chết chóc (thường là bất đắc kì tử).

Tà sắc vàng chủ về suy nhược nội tạng.

b) Phân loại giọng nói theo Ngũ hành :

Tuy các âm giai Cung ,Thương, Giốc, Chủy, Vũ bị Ngũ hành hóa để trở thành các âm Thổ ,Kim, Mộc,Hỏa ,Thủy nhưng trong nhân tướong học , chúng chỉ dùng để chỉ các giọng nói tự nhiên hàng ngày nghĩa là chỉ có ý nghịa về âm sắc chứ không phải là

âm giai trong lĩnh vực âm nhạc. Aùp dụng nguyên tắc Thanh, Trọc vào lĩnh vực âm sắc ,người ta cũng phân ra giọng tốt và xấu trong mỗi Hành.

1- Giọng Kim (còn gọi là Thương thanh)

Nói chung, giọng kim êm mà không ướt ,rõ mà không khô ,âm điệu chắc chắn mà lớn ,tiếng vang truyền đi xa. Giọng kim chia

2 loại tùy theo âm lượng thanh trọc :

a)Giọng Kim chính cách : giọng nói sang sảng ,trong trẻo như tiếng khánh, khiến người nghe ý thức được âm lượng chắc chắn, đầy đủ, vững chải ,tiếng dội đi xa.

b) Giọng Kim phá cách : Aâm điệu vẫn có đặc tính hcung của Kim thanh nhưng giọng rè ,tẻ nhạt, không có tiếng vang tương tự tiếng phèn la.

2- Giọng Mộc (còn gọi là Giốc thanh)

a)Chính cách : giọng trong trẻo ,có sinh khí, âm lượng tròn trịa ở xa vẫn nghe đượcrõ ràng, dù người nói chỉ vận dụng âm thanh một cách bình thuờng ,không cần gắng sức .

b) Phá cách : Giọng nói trong nhưng không có tiếng vanh vi 2âm lượng quá ít tương tự như tiếng tre mục bị bẻ gãy ,vừa dứt tiếng thì âm vang cũng tắt theo.

3- Giọng Thủy (còn gọi là Vũ thanh )

Giọng trong và nhẹ ,nhanh mà vẫn nghe được đầy đủ câu nói lâõn dấu giọng .Giọng Thuỷ chia làm hai loại :

a)Hợp cách :giọng có vẻ lành lạnh, tiếng nói nhanh ,không nuốt tiếng, không biến giọng, âm lượng vừa đủ chứ không vang xa như giọng Kim hay Mộc.

b)Phá cách : gịong nói thô thiển, tiếng nói quá nhanh thành thử câu nói bị nuốt tiếng ,âm lượng ít khiến người nghe không nghe đủ hết câu nói

4- Giọng Hỏa (còn gọi là Chủy thanh )

Tiếng khàn khàn như tiếng vịt đực, người sành âm điệu có thể nhận ra âm Hỏa tuy cao vút như bị uất nghẹn trong yết hầu ,làn hơi như bị nén xuống trước khi phát ra thanh tiếng chứ không được suông sẻ như giọng khác .Tùy theo tính cách thanh trọc

của âm lượng , ta phân chia thành 2 loại :

a)Hợp cách : giọng nói cao ,khan và gằn mường tượng như người đang giận dữ mà cố nên giọng mà nói.Tuy âm lượng vẫn đều hòa không vấp váp ,nhưng người rành phép thẩm âm vẫn phân biệt được tính cách nóng nẩy của âm điệu.

b)Phá cách : giọng khàn như người khô cổ sắp bị hết hơi, và gằn mạnh từng tiếng hay nhóm tiếng ,âm lượng không được liên tục va 2không có tiếng vang.

5- Giọng Thổ (còn gọi là Cung thanh )

Giọng Thổ âm thanh lớn, chậm rãi,nặng nề, trầm ngâm,vang khá lâu, tương tự như tiếng đại hồng chung của ácc chùa chiền .Dựa vào tính cách thanh trọc,trường đoản của âm luợng phát ra , ta phân biệt :

a) Hợp cách : tiếng lớn, giọng nặng nề, chậm chạp, trầm và ấm ,âm vang nhất so với giọng Kim,Mộc,Thủy và Hỏa cách xa 3 trượng mà vẫn nghe được rõ ràng khi người nói phát âm một cách tự nhiên.

b) Phá cách : giọng trầm nhưng trì trệ ,không lưu loát, tiếng quát quá nhỏ hoặc âm lượng hỗn tạp :to nhỏ xen kẽ lẫn hau hay có tiếng âm vang Nói chung ,âm điệu giúp chúng phân biệt được 5 giọng của Ngũ thanh ,còn âm

lượng cho phép ta được hợp cách hay phá cách của giọng nói.

c) Phân loại hình tướng theo Ngũ hành :

Xét về phương diện xếp loại các loại hình tướng điển hình từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây , kể từ thủy tổ y học Tây phương là Hippocrate đến Kretschemr... người ta đã đưa ra nhiều lối khác nhau nhưng không có lối xếp lọai nào vừa căn cứ vào các nét đặc thù của thân thể một cách tỷ mỷ vừa phối hợp theo một triết lý siêu hình như lối phân loại Ngũ hành hình tướng theo tướng học Trung Hoa.

1-KHÁI LUẬN VỀ NGŨ HÀNH HÌNH TƯỚNG : Mộc Kim Thủy Hỏa Thổ chính liệt phá

Bàn về các loại hình tướng căn bản của con người , nhà tướng học nổi danh về

đời nhà Tống là Ma Y đã nói: " con người hấp thu linh khí của Aâm Dương trong vũ trụ mà thành hình tướng . Vì bẩm sinh thọ khí của Trời Đất mà có tinh thần nên hình tướng không thể vượt qua khỏi phạm vi của Ngũ Hành . Cho nên trong năm Hành : Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ ( tượng trưng cho nămđặc chất của vũ trụ ) mà có được hình tướng đúng cách cục thực sự của một hành thì dẫu không quý cũng được hưởng phúc lộc.

" Ngũ hành hình tướng tuy chia ra gầy mập, ngắn dài nhưng lại cần phối hợp với ngũ sắc để làm căn bản .Khi bàn về sự thanh trọc của hình hài , tinh thần , vũ khí đều dựa vào các điểm cất yếu sau đây:

- người hình Mộc nói chuung thân hình diện mạo đều cao gầy, mắt và lông mày thanh tú , da xanh

- Người hình Kim nói chung thâân hình diện mạo vuông vức , mặt mày sáng sủa , sắc da trắng.

- Người hình Hỏa nói chuung thân hình diện mạo đều thiên về dưới to trên thon nhọn, sắc da đỏ hồng.

- Người hình Thổ nói chuung thân hình diện mạo đầy đặn , thịt xương rắn chắc.

- Bởi vậy , khi bàn về hình tướng theo Ngũ hành ta cần xem hình tướng kẻ đó thuộc về hành nào để biết có hợp cách cục hay không"

- Hợp ở đây theo quan niiệm của Ma Y là toàn thể thân mình , diện mạo thịt xương , các bộ vị , màu da , giọng nói có hoàn toàn đúng chính cách hay liệt vào phá cách .

- Tướng pháp bàn về n࣓m loại hình tướng Kim , Mộc , Thủy , Hỏa , Thổ , nhưng ta cần phải biết là trong mỗi hành tự nó D9ã bao hàm cái nguyên lý sai biệt phi thường , biết khái quát về mỗi hành chưa đủ vì ngay trong một loại hình tướng cũng có loại này khác bởi lẽ mỗi hành được phân chia thành nhiều thứ bậc khác nhau.

- Bàn về Kim , ta thấy có r&##7845;t nhiều loại Kim, chẳng hạn có lọai kim ròng được luyện trong lò , co loại Kim lẫn lộn với đất cát, lại có kim cặn bã đọng lại ở thành nồi luyện.

- Bàn về hành Mộc , ta th𓏽y nào là loại tùng bách quanh năm xanh tươi , nào là loại gỗ quí , sống hàng ngàn năm , cao hàng trăm trượng, dùng làm cổ trụ , mào là loại kỳ hoa dị thảo để trang trí chốn cung đình , cũng như có loại thảo mọc hoang dã chỉ để làm củi chụm phân bón...

- Bàn về hành Thủy cần phải phân biệt các loại nước suối thanh khiết , từ các cao phong hiển tuấn đổ xuống có loại nước trường giang đại hải , lại có nước đục do đường mương cống rãnh đổ ra.

- Bàn về hàng Hỏa thì th𓉭y có loại lửa mặt trời , không đâu là không chiếu rọi tới , có loại lửa trong lò lớn hừng hực nóng bỏng , có loại lửa lập lờ cũng có loại lửa âm ỉ do đám củi ướt , cỏ mục tạo nên.

- Bàn về hành Thổ cũng vvậy , có loại đất tinh thanh do sơn hà kết tụ lại rắn chắc và phong phú , có loại đất phù sa do đá vụn , cát bùn bồi đắp , có loại đất do cây cối mục nát hòa với tro bùn mà thành , Bởi vậy , Ma Y tổ sư đã nói:" Tướng tuy bàn về Ngũ Hành nghĩa là lấy Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ làm căn bản , nhưng cái lý ảo diệu chính là ở chỗ mỗi hành có những thứ bậc tốt xấu khác nhau , Cho nên có gốc rễ chưa đủ ta cần phải lấy sự thanh tú cua mày mặt , sự ngay ngắn rõ ràng của mũi miệng , sự sáng láng của tinh thần , sự rộng rãi của khí vũ làm cành nhánh , hoa lá thì mới diễn đạt được hết cái tính uyên thâm của Ngũ hành hình tướng.

2-ĐẶC TÍNH CỦA NĂM LOẠI HÌNH TƯỚNG ƠC BẢN :

Căn cứ vào Ngũ hành , tướng học Trung Hoa đã xếp loại con người thành năm hạng điển hình gọi là Kim hình , Thổ hình, và Hoả hình . Mỗi loại trên lại chia thành chính cách , liệt cách và phá cách.

Hình Kim :

Đặc điểm khuôn mặt : các nét chính của khuôn mặt đều gần như ngay thẳng , tạo thành hình vuông hay chữ nhật khá rõ ràng .

Đặc điểm thân hình : vóc dáng trung bình về cả bề ngang lẫn bề cao , xương thịt cân phân , sắc da trắng.

KIM HÌNH CHÍNH CÁCH:

- Thân thể tay chân tròn lẳn , rắn chắc , các bộ vị chính yếu của khuôn mặt như cằm , trán , tai, miệng và đầu... đều có dáng vuông vức ( gọi là Ngũ phương).

- Sắc da trắng ngà , tư&ơi mát.

- Tiếng nói sang sảng, gi𓐥ng cao vừa phải, âm lượng ấm cúng và có tiếng vang.

- Về cá tính , điểm n𓁅i bật ở người Kim , về mặt đạo đức là sự tôn trọng đạo nghỉa ( có thể theo quan niệm riêng của họ). Người Kim rất có thể là kẻ tàn nhẫn, mưu trí nhưng tất cả những xảo thuật cũng như mọi phương tiện khác nhau đều được hướng theo mục tiêu Nghĩa hiểu theo quan niệm riêng của Người hình Kim.

Tóm lại, nói một cách tổng quát , tất cả các bộ vị của người hình đều ở mức trung bình về kích thước và rất ngay ngắn . Nói khác đi , hình thể và khí sắc phải tương xứng , thần khí trong sáng nhưng điều hoà , không quá lạnh lùng.

KIM HÌNH LIỆT CÁCH :

- Đầy đủ đ𓐏c tính tổng quát của hình Kim , nhưng xương thịt bất quân xứng ( hoặc xương nhiều hơn thịt , hoặc thịt nhiều hơn xương).

- Đầy đủ đ𓐏c tính của hình Kim về khuôn mặt nhưng quá cao hoặc quá lùn.

- Gịong Kim rè hoặc sắcc Kim trắng bóng.

- Ngón tay quá dài , quá ngắn ho𓀧c quá lớn, đầu ngón tay lại tròn hoặc nhọn.

- Thần sắc tẻ lạnnh.

- Mày râu tóc da ảm đạm , thiếu sự sáng sủa.

- Không đủ tướng Nggũ phương bại cách.

KIM HÌNH PHÁ CÁCH :

- Có tướng Ngũ phưonng mà Tam đình , Ngũ nhạc bất quân xứng hoặc lệch lạc.

- Có khuôn mặt vuông hoặc ch&ữ nhật mà Ngũ quan thiếu ngay ngắn hoặc thiếu phối hợp.

- Khuôn mặt hình Kim mà các b𓒁 vỉ của khuôn mẵt không có dạng hoặc đường nét vuông vức.

- Mắt không có chân quang , gi𓐥ng thuộc hành khác , thuộc loại xung khắc và phá âm

Khi bị liệt cách nặng hoặc phá bị phá cách thì tướng học gọi đó là trườnh hợp chỉ có Kim hình chứ không có Kim tinh. Do đó , các đặc tính tốt đẹp của hình Kim bị giảm thiểu hoặc không còn áp dụng cho các loại có khuyết điểm đó nữa.

a) Hình Mộc :

Đặc điểm tổng quát của khuôn mặt : nhìn một cách khái quát , đặc tính dễ nhận thấy về khuôn mặt của người Mộc là có dạng trái lê lật ngược ( Gíap Mộc) hoặc hình tam giác nhọn lật ngược (Aát Mộc), màu da hơi xanh. Đặc điểm thân hình : thân thể Người Mộc phát triển bề cao rất rõ , còn bề ngang lại kém phát triển . Do đó , thân mình , tứ chi , cổ đầu , ngón tay đều thon dài. Người Gíap Mộc thì thân thể quá mản mai , lưng gù , tay cong , đi đứng rụt rè ẻo lả.

MỘC HÌNH CHÍNH CÁCH :

- Khuôn mặt có hình dạng tráii lê lật ngược , nét mặt gân guốc khoẻ mạnh , sắc da hơi xanh đen.

- Thân hình , tứ chi , cổ và ngón tay đều thẳng tuột và thon dài ( Tướng Ngũ trường).

- Các bộ vị chính yếu ccủa khuôn mặt như lông mày ,tai, mũi , miệng đều hẹp, dài và thẳng thắn . Đặc điểm nổi bật của người hình Mộc chính cách là mày thanh , mắt sáng , môi hồng , chỉ tay nhỏ và nhiều , khí thế vững vàng lanh lợi.

- Về cá tính , điểm n𓁅i bật nhất của người Mộc chính cách là đức Nhân theo chiều hướng Mộc Nhân Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân .Làm gì, nhận xét ai , người có tính mộc thường tự đặt mình vào tâm trạng và hoàn cảnh kẻ khác . Bởi vậy, kẻ có Mộc tính thường dễ dàng thông cảm với tha nhân , không đòi hỏi ở kẻ khác quá nhiều nhưng chính vì vậy mà thường có tính khinh thế ngạo vật.

MỘC HÌNH LIỆT CÁCH :

Liệt cách là có khá đủ những nét chính của hình Mộc thuần túy nhưng phạm vào các khuyết điểm sau:

- Tai và cánh mũi quá mỏng. - Lông mày quá đậm và thô ho&##7863;c quá lạt mà nhỏ tuy rằng vẫn có chiều dài quá mắt.

- Thân hình và tứ chi quá khẳ;ng khiu mà lại cong quẹo,lưng gù tay hay chân lệch lạc

- Cằm quá dài và nhọn, quai hhàm quá hẹp.

- Giọng nói yếu ớt ,khôông có âm lượng.

- DÁng điệu uỷ mị,, e lệ như con gái ,sắc da xanh mướt.

MỘC HÌNH PHÁ CÁCH :

Đi ngược lại các đặc điểm đặc thù của hình Mộc thì gọi là phá cách .Phá cách bao gồm các đặt điểm sau : - Thân hình lùn mập ,cổ ngắn, tứ chi ngắn,ngón tay thô,chỉ tay mờ và ít.

- Hói đầu hay quá ít tóc và khhông có râu ria.

- Lông mày sợi thô ngắn, hay đậm mà lại mọc úp xuống hay nghịch lên chứ không xếp xuôi theo chiếu từ đầu mắt tới đuôi mắt.

- Mũi ngắn ,trũng xu𓐩ng,chủân đầu nhỏ nhon ,thân mũi trơ xương hay môi dày.

- Nước da vàng vọt .hkô xạm hay có màu tím.

- Râu tóc màu hung hay vàng khè.

- Mắt không có thần quang ,màày không có tú khí.

- Có tướng Ngũ trư&##7901;ng mà Ngũ quan không phối hợp điều hòa.

- Giọng trầm và rè.

Người Mộc chính cách gọi là Giáp Mộc ,Mộc hình liệt cách ahy phá cách thường gọi là Aát Mộc . giáp Mộc chuẩn về trí tuệ quý hiển còn Aát Mộc chủ về non yểu hay lận đận về công danh gia vận.

b) Hình Thủy : (Thũy hình nhân)

Đặc điểm tổng quát về khuôn mặt : Mặt tròn trịa ,ngũ quan đầy đặn,ít xương nhiều thịt, cằm xệ và có 2 nấc,cổ ngắn và mập mạp. Da ngăm đen. Đặc điểm thân hình : Thân mình tròn mập ,nặng nề ,vai tròn, thịt bệu ,dáng dấp đi dấp đứng chậm chạp có vẻ trì trệ.

THỦY HÌNH CHÍNH CÁCH :

Đầu tròn, mặt tròn và lớn hợp đúng tướng Ngũ viên (đầu tròn, mắt tròn,mặt tròn và cằm tròn trịa).Hơn đâu hết ,người Thủy đúng cách thượng thừa phải có "Tứ đậu" hợp cách,Người Thủy đúng cách thượng thừa phải có Tứ đậu hợp cách (tai mũi miệng mắt) Thủy tính nghĩa là : Tai phải tròn ,có Thùy châu rất rõ ,Luân quách phân minh nhưng dẻo dai.

- Mắt phải lớn và hပi lồi ,có thần quang.

- Mũi phải có gián đài ,&đình úy phân minh ,lỗ mũi che kín,chuẩn đầu lớn và tròn.

- Miệng phải rộng , môii phải dày, có Lăng Gíac phân minh và trên dưới cân xứng.

- Thân hình phát triển bề ngaang một cách rõ ràng nhưng dưới trên cân xứng.

- Thân hình phát triển bề ngaang cách rõ ràng nhưng dưới trên phải cân xứng trầm ổn.

- Tay chân ngắn hơn thân mình tròi trịa mập mạp ,xương lẳn, mỡ nhiều ,dáng vẻ có nặng nề nhưng không có vẻ mệt mỏi.

- Sắc da ngăm đen nhტng tươi nhuận.

- Giọng nói trong trẻo ,ti𓀯ng nói lanh lẹnhưng không nuốt và có âm vang.

- Động tác khóang đ𓉋t ,bước chân nhẹ nhàng, khí sắc thanh thản.

- Lông mày ngắn nhưng sợ;i mịn và bóng bẩy.

- Đặc tính trí tuệ tr𓁉i yếu nhất của Thủy hình đúng cách là khôn khéo ,mềm mỏng ,giỏi giao tiếp.

THỦY HÌNH LIỆT CÁCH :

- Đầy đủ các đ;iều kiện về hình thức của hình Thủy nhưng thịt da quá mềm(tục gọi là béo bệu), gân xương quá nhỏ.

- Đầy đủ các đ;iều kiện về hình thức của Thuỷ giữa thanh âm nhưng không phải loại Thủy thanh chính cách.

- Có tướng Ngũ viên nhᅐng Tứ đậu không được sáng sủa đầy đủ hay thuộc loại trọc.

- Có Thủy hình tương ૕ối nhưng hội đủ điều kiện Ngũ viên, chẳng hạn môi quá mỏng ,tai quá nhỏ ,v..v..

THỦY HÌNH PHÁ CÁCH :

- Mặt tròn đầy nhưnng Tư đậu không hợp Thủy cách.

- Hợp Thủy hình thần hôôn sắc ám , cước bộ hoặc nặng nề hoặc rối loạn.

- Tứ đậu tươngg phản về tính chất hoặc hình dạng.

- Có Thủy hình mà không có Th𓔇y sắc hoặc Thủy âm.

- Khuôn mặt thuộc Thủy nhưng Ngũ quan , Tứ đậu lệch lạc hoặc thân hình không đúng Thủy cách, chẳng hạn mặt mập người ốm, thân trên mập thân dưới thon...

c) Hình Thổ: ( thổ hình nhân)

Đặc điểm khuôn mặt : khuôm mặt hoặc bầu dục hình tròn trông tương tự như hình Thủy nhưng các Đặc điểm thân mình :tương tự như Thủy hình nhưng người Thủy mập mỡ , người Thổ mập thịt , vai rộng , mông to, bụng ngực tương đồng , dáng đi mạnh mẻ vững vàng.

THỔ HÌNH CHÍNH CÁCH :Thổ tín Thổ trong

- Vai lưng rộng , thẳng , tròn đầy.

- Chân tay to lớn , chắc ch&##7855;n , tứ chi ngắn hơn thân mình và không lộ gân xương.

- Toàn thân có tướng Ngũ hậu ( đầu cổ lớn và vững , tai lớn , dầy, có thùy châu tròng và Luân quách phân minh , mặt tròn nhiều thịt, trông chắc chắn , chân tay tương xứng với thân mình và chắc chắn , vững chãi)

- Mắt có dạng dài , không sâuu, không lộ.

- Bề rộng lông mày ở m&ức trung bình , bề dài tối thiểu phải bằng chiều dài của mắt.

- Tam Đình Ngũ nhạc ભầy đặn , điều hòa đắc thế.

- Sắc da vàng nhuận.

- Tiếng nói lớn chậm rããi, ấm và ngân vang như đại hồng chung.

- Đặc tính trội yế;u nhất của người Thổ là thủ tín.

- Người Thổ chính cách kkhí sắc không tạp , tinh thần không loạn , cử chỉ đĩnh đạc có tiết độ, lâm sự vẫn giữ được thần thái an tĩnh. Nếu đầy đủ tất cả các đặc thái trên mà hình thể nặng nề , tâm mưunsâu sắc thì gọi là Thổ trọng .Chỉ có Thổ trọng thuần túy mà không có Mộc chất thì rất khó phát đạt.

THỔ HÌNH LIỆT CÁCH :

- Có đủ đặc tính hìình thể của Thổ nhưng ngũ quan có một quan quá nhỏ hoặc không đúng Thổ cách hoàn toàn.

- Đầy đủ Thổ hình mà khí phách hẹp hòi , độ lượng nông cạn , âm hiểm tiểu tiết thì liệt về Thổ tính

- Đầy đủ diệnn mạo Thổ mà thân mình trên to dưới nhỏ mất thế quân bình.

- Đầy đủ diệnn mạo , hợp Thổ cách mà bước chân phiêu hốt như người yếu gân xương.

- Đầy đủ Thổ cách về diện mạo mà tiếng nói quá nhỏ , quá cao.

- Qúa nhiều râu tóc hoặc qua ít râu tóc mặc dầu hoàn toàn hợp Thổ cách , hoặc sắc da thuộc Thổ loại tà sắc.

- Tướng Thổ trọng mà lại thiếu Mộc chất.

THỔ HÌNH PHÁ CÁCH :

- Không phải thanh Thổ ho𓐏c sắc Thổ.

- Các bộ vị căn bả;n như Mũi Tai Miệng không hợp với Thổ cách

- Diện mạo Thổ mà thân mình không phải thuộc Thổ cách.

- Khí ám sắc trệ.

- Không có đủ các đ𓌩c tính Ngũ hậu mà lại còn bị khắc phá bởi các Hành khác.

d) Hình Hỏa : ( hỏa hình nhân)

Đặc diểm khuôn mặt : Khuôn mặt giống như hình tam giác ( đầu thon dài , Thiên đình hẹp nhọn , Hạ đình nảy nở ) , râu tóc ít , các bộ vị quan trọng trên khuôn mặt đều lộ , sắc da hồnh hào.

Đặc điểm thân mình : Thân vóc trung bình , thường thì xương thịt quân phân, vai thon , hông nở , chân tay gân guốc nhưng quắc thước tự nhiên.

HỎA HÌNH CHÍNH CÁCH :

- Tam đình tuy bình đẳng nhưng mỗi Đình đều phảng phất những nét thon nhọn phía trên hoặc dưới.

- Có tướng Ngũ lộ (( lộ mi , lộ nhãn , lộ sỉ , lộ tỵ , lộ nhi ) nhưng lộ mà trọc trung hữu thanh.

- Râu ria tuy ít nhưng mềm m&##7841;i tươi tắn.

- Điệu bộ lanh lẹ , linh hoạt tuy bồn chồn nóng nảy mà vẫn giữ được tiết độ , tháo vát , không tháo thứ.

- Sắc da hồng hào khoẻ mạnh

- Chân tay tuy gân guốc nhưng không cong quẹo.

- Khí sắc không tạp , tinh thhần không loạn , dù có nằm lâu cũng giử dđược tư thế ổn định.

- Phẩm tính đặc thù c𓁗a Hoả hình là giữ được Lễ ( ở đây nghĩa là ự tiết chế được phản ứng dù trong lúc cuồng nộ)

HỎA HÌNH LIỆTCÁCH :

- Diện mạo , thân hình đ;úng Hỏa cách mà sắc và âm thuộc loại tà sắc , tà thanh.

- Không hội đủ tư&##7899;ng Ngũ lộ hoặc có tướng Ngũ lộ mà thuộc loại trọc ( nghĩa là không có thần hoặc tú khí ẩn tàng sau các bộ vị lộ đó).

HỎA HÌNH PHÁ CÁCH :

- Tam đình Ngũ nhạc b𓏽t quân xứng.

- Miệng rộng môi dầy , mày thanh mắt sáng nhưng không lộ và luân quách phân minh lại có Thùy châu , mũi cao và thẳng chứ không lộ.

- Râu tóc nhiều và xanh đen. <

- Người mập mà da l𓉩i trắng hoặc xanh.

- Hoả hình không thuần túy hooặc pha lẫn các hình của các Hành khác xung khắc với Hỏa.

IV-MỘT VÀI QUAN NIỆM CỦA CÁC TƯỚNG HỌC GIA TRUNG HOA VỀ NGŨ

HÀNH HÌNH TƯỚNG :

a) Hình Kim

Người hình Kim dáng dấp đĩnh đạc , diện mạo vuông vắn , ngay thẳng , bộ vị bất phàm , sắc da trắng ngà mà thuần khiết , xương thịt chắc chắn mà không lộ.

Thần dị phú do Trần đoàn chú giải

Người hình Kim có các bộ vị ngay ngắn suông sẻ, Tam đình cân phân và đới vuông.

Phong giám tập

Dấu hiệu đặc biệt của người hình Kim là vuông vắn. Người Kim chân hình chính cục có tướng Ngũ phương ( mặt vuông , trán vuông , cằm vuông , tai vuông , đầu ngón tay và hình dạng bàn tay vuông) khí sắc không tạp , tinh thần không loạn , cử chỉ đoan trang, ngồi lâu mà vẫn giữ được tư thế ổn trọng. Kẻ mà có đủ các điều kiện trên thì tất nhiên sẽ có tính Kim ( nghĩa)

Thành hòa tử

Người Kim chính cách khuôn mặt đới vuông , mày thanh mắt khiết , tầm vóc trung bình , eo lưng tròn đầy nhưng bụng không xệ, môi răng hoà hợp thích đáng, nước da trắng ngà tươi nhuận , khí sắc thanh tú tự nhiên.

Nếu thần khí quá thanh khiết , sắc mặt lạnh lẽo, sắc da trắng bóng như thoa dầu , mũi lớn , mắt lồi là liệt cách , chủ về thọ mạng ngắn ngủi, công danh trắc trở.

Nếu chỉ đúng cách về hình hài mà thần hôn khí trọc , mày thô, tai nhọn , mũi lệch ,ngón tay dài nhọnlà tướng phá cách, chủ về hậu vận không ra gì. Thần tướng toàn biên và Thủy kính tập

b) Hình Mộc

Người Mộc thân hình xuôi thẳng , cao ốm , xương gân vững chắc, sắc da hơi xanh.

Thần dị phú

Hình Mộc thân hình cao ốm , xương gân thẳng tấp , tinh anh tú khí hiện rõ ở lông mày và mắt. Phong giám tập

* Đặc trưng quan trọng nhất của người hình Mộc là thon dài ngay thăng nên người hình Mộc không ngại vấn đề gầy ốm . Người Mộc chính cách phải hội đủ tướng Ngũ trường , khí sắc không tạp , tinh thần không loạn , cử chỉ ôn hòa bình

đạm , bước đi thanh thản .Hội đủ các điều kể trên thì sẽ có tính Mộc ( đặc biệt là đức Nhân)

Thành Hòa Tử

Người Mộc chính cách thì hình hài xuôi thẳng , thon gầy , mắt sáng và có tụ thần , mày râu và tóc thanh nhã , môi hồng , ngón tay thon dài , chỉ tay nhỏ và rõ , eo lưng thon hẹp , da mịn , âm thanh cao và trong trẻo.

Nếu tay chân hoạc thân hình nghiêng lệch , da khô , thịt bệu , hoặc lộ xương , gân tạp loạn là liệt cách.

Xương thô , người mập và lùn , lưng cong , thân hình trường đoản tạp loạn , thần hôn khí trọc là phá cách.

Thủy kính tập và Thần tướng toàn biên

c) Hình Thủy

Người hình Thủy mặt mũi tròn đầy , dáng vẻ nặng nề , vai tròn , bụng xệ , sắc da ngâm đen.

Thần dị phú

Tính cách nổi bật nhất của hình Thủy là mày ngắn và có vẻ thô , mắt lớn và tròn , tai dày và có Thùy châu , mập lớn , luâm quách phân minh , hình dạng tai tròn , thầ n khí thanh thản.Như thế là đúng Thủy cách vậy.

Phong giám tập

Căn bản của hình Thủy là tròn . Người hình Thủy chính cáchphại có đủ tướng Ngũ viên , khí sắc không tạp , tinh thần không loạn . cử chỉ khoáng đạt , bước đi nhẹ nhàng , vững chãi . Có đủ các điều kể trên thì trong Ngũ thường đức tính trội nhất là Trí.

Thành Hòa Tử

Người Thủy đắc cách về hình hài là mập tròn , Tứ đậu ( Tai , Mắt , Mũi , Miệng) đầy đặn tươi sáng, khí sắc không tạp ,tinh thần sáng láng thanh nhàn ,tiếng nói lanh lẹ trong trẻo rõ ràng. Nếy mập mà xương yếu thịt bệu ,thần khí đoản trọc, sắc thái khô cằn, tiếng nói vấp váp hay nuốt tiếng nghẹn hơi là liệt bại cách không chết yểu thì cũng bệnh tật liên miên ,chung thân hao bại.

Thủy kinh tập và thần hướng toàn biên

d) Hình Hỏa :

Nguời hình Hỏa dáng dấp nhậm lẹ ,dù mập hay gầy thì khuôn mặt cũng có các nét gân guốt thon nhọn ,khí chất nóng nảy sắcda hồng hào như người vừa uống rượu.

Thần dị phú

Đã là người thuộc hình Hỏa thì thân thể lẫn khuôn mặt đều trên hẹp ,dưới rộng ,cử chỉ có vẻ tháo cấp bất định ,râu ít tóc thưa, mắt lồi, mũi lộ.

Phong giám tập

Người Hỏa chủ yếu ở chỗ lộ liễu, Người hình Hỏa chính cách có tướng Ngũ lộ (lông mày lộ ,mắt lộ, mũi lộ, răng lộ, tai lộ) khí sắc không tạp, tinh thần không loạn ,nằm ngồi lâu mà vẫn giữ được tư thế ổn định.Dược như thế thì đức tính trội yếu nhất sẽ là Lễ .

Thành Hòa Tử

Người hình Hỏa chính cách thì đầâu dài ,Thượng đình hẹp, nhọn Hạđình to rộng ,sắc da hồng hào tươi nhuận, râu tóc thưa có màu hung đỏ (như loại tóc bị rám nắng lâu ngày ) miệng hơi vẩu ,môi chúm lại giọng nói khàn.

e) Sự phối hợp của Ngũ hành trong tướng học :

Các loại tướng mạo con người mô tả ở trên là các loại điển hình thuần tuý (tướng học mệnh danh là chân hình chính cục , chỉ có tính cách lí tưởng và hiếm có .Vì vậy ,dưới nhãn quang tướng học bất cứ ai đúng mạo, chân hình chính cục ,bất kể

Hành nào ,đều được xếp vào loại tướng quí ( phúc lộc đượchưởng dồi dào hay dễ dàng hơn thường dân.

Trong thực tế, hình mạo con người thường là một sự pha trộn hình nọ với hình kia theo một tỉ lệ rất biến thiêntừ người này sang người khác.Kẻ thì sự pha trộn có tính cách lượng ,kẻ thì pha trộn cả phẩm lẫn lương ( tướng học gọi bằng từ ngữ chuyên môn là Chất hay Tính và Hình .Sự pha trộn đó là tương sinh hoặc là tương khắc .Những trường hợp hàm hỗn đó đều gọi là Kiêm hình hợp cục

Khi xét tướng mạo một người loại Kiêm hình hợp cục thì hình nào có những bộ vị chính hay phẩm chất chính nổi bật sẽ được coi là phần chủ yếu .Kế đó, là các đường nét cúa các hành khác ít quang trọng h7on rồi dựa vào nguyên tắc sinh khắc của Ngũ hành để định tốt xấu.

Thông thường nếu Hành chủ yếu là :

- Thủy thì nên đới Kim kị Hỏa

- Mộc thì nên đới Thủy,kị Thổ

- Hỏa thì nên đới Mộc,kị Kim

- Thổ thì nên đới Hỏa, kị Thủy

- Kim thì nên đới Thổ, kị Mộc

áp dụng nguyên tắc trên, tướng học đi đến việc liệt kê các loại tướng mạo Kiêm hình hợp cục dưới đây :

1-Kim hình hợp cục có hậu quả xấu

a) Kim hình Mộc chất : hình dạng thon lẳng dài, ngay thẳng ,thần khí sáng láng ,thanh kì là những tính chất về phẩm của loại người Giáp Mộc .Sắc da trắng trẻo ,Ngũ quan ngay thẳng, mặt mày vuông vức là hình Kim. Loại người có tướng mạo hỗn hợp kể trên gọi là kim hình Mộc chất.

Kẻ mà tướng mạo thuộc loại kim hình mộc chất thì sơ vận gặp nhiều vất vả ,phải đợi tới khỏang trung niên trở đi thì mới thoát khỏi vận bí để trở thành cách siêu quần bạt tụy.

b) Mộc hình đa Kim : Thân hình cao gấy ,tứ chi mảnh dẻ,thần khí bạc nhược là hình Mộc nhưng thuộc loại Aát Mộc.Sắc da trắng nhưng khí sắc kạnh lẽo quá đáng là các phẩm chất của Kim. Người kiêm cả 2 đặc thái trên gọi là Mộc hình đa Kim (hình mộc nhưng lẫn lộn quá nhiều tính chất của Kim) .Mã Y lí luận rằng loại người Aát Mộc ma 2gặp Kim tương tự như là loại cây tạp mục nát không chịu nổi búa rìu. Do đó kẻ Mộc hình đa Kim suốt đời lận đận khốn khổ cả về tiền tài ,danh vọng ,tật bệnh liên miên.

c) Thủy hình ngộ Thổ : Da thịt mập mạp ,phì nộn, mắt tròn là các đặc trưng của Thủy hình .Sắc da vàng (muốn nói là loại tà sắc), khí sắc trì trệ là đặc tính của Thổ trong . Kẻ có 2 điều vừa kể trên bị gọi là Thủy hình ngộ trong Thổ (hình

Thủy mà gặp các đặc tính trọng yếu nhất của Thổ). Loại tướng mạo này cũng là loại cực xấu ,quanh năm bệnh hoạn, tán tài .

d) Hỏa hình Thủy tính : Đầu nhọn ,mắt lộ, tai lộ. Mũi lộ là tướng mạo của người hình Hỏa thuần túy, khí an tĩnh, sắc da ngăm đen ,thân thể mập mạp (mỡ nhiều hơn thịt) lại là những đặc điểm căn bản của Thủy .Kẻ kiêm hình các đặc điểm trên trong tướng pháp gọi là Hỏa hình Thủy tính (hình thuộc Hỏa àm tính chất thuộc Thủy) Hỏa hình thủy tính chủ yếu về khắc phá vợ con ,tiền của không bao giờ dư giả,

e) Thổ phùng trọng Mộc : (nghĩa đen là hình Thổ pha trộn rất nhiều đặc tính của Mộc) :xương thịt đầy đặn, hình thể chắc chắn là các đặc tính căn bản của Thổ .Tóc nhiều đậm, xen lấn nhau ,râu ria cứng đen là các đặc chất của Mộc nhưng lại là loại Mộc trọc.Kẻ kiêm hình hợp cục theo cách nói trên tướng pháp gọi là Thổ phùng trọng Mộc

Người bị cách cùng Thổ phùng trọng Mộc việc gì cũng không thành tựu trọn vẹn ,gia vận linh đình. Nếu ngoài các bại cách kể tên còn thêm thần hôn khí trệ thì càng tệ hơn nữa khó tránh khỏi chết trước trung niên.

2-Kim hình hợp cục có hậu quả tốt :

a) Kim phùng hậu Thổ : Mặt có những đường nét ngay thẳng,màu da trắng khí sắc là các đặc thái căn bản của Kim.Xương thịt mập mạp nặng,chắc nịch là các yếu tố đặc biệt của Thổ.Sự hàm hỗn hai thành phần nói trên được mệnh danh là Kim phùng hậu Thổ

Kẻ hợp cách Kim phùng hậu Thổ là kẻ suốt đời đủ ăn đủ mặc,vận số hanh thông.

b) Mộc Thủy tương ty: (hai hình Mộc và Thủy bổ túc và giúp đỡ nhau ): hình dạng cao dong dỏng, ngay ngắn mà dáng vẻ hiên ngang mạnh mẽ là Mộc hình .Da ngăm đen ,thần khí an dật hòa ái là đặc cách Mộc Thủy tương ty

Hình Mộc mà lại đặc cách Thủy Mộc tương ty là loại tướng mạo rấtquý ,giàu sang đặc biệt là tài văn học siêu quần bạt tuỵ

c) Thủy đắc Kim sinh ( Thủy được Kim hỗ trợ) :hình dáng mập mạp ,nhiều thịt xương ít ,mặt mũi tròn trịalà tướng Thủy ,sắc da trắng ngà. Khí minh lăng ,thần thái an hòa cao khiết là Kim chất thượng thừa.Kiêm cà hai đặc thái của hai

Hành theo các htrên tướng học gọi là Thủy đắc Kim sinh, chủ về phẩm cách thiện lương, tính thông tuệ hào sảng được hưởng cả danh lẫn lợi.

d) Hỏa cục ngộ Mộc ( Hỏa và Mộc pha trộn đặc cách) :khí sắc hòng hào tươi nhuận là Hỏa chất ,thân hình cao dỏng hiên ngang ,thần khí linh hoạt thanh tú ,là những đặc tính căn bản của Giáp Mộc. Kẻ có đủ 2 đặc tính trên hội hợp

ngay trong người được gọi là kẻ hợp cách Hỏa cục ngộ Mộc :giống như củi đang cháy mà lại thêm củi tốt . Hợp cách kể trên thì thọ an khang, công danh cái thế vinh hiển cực phẩøm.

Nếu là loại người Aát Mộc gặp hỏa chất ,đặc tính tốt đẹp của cách cục kể trên bị giảm thiểu chỉ được giữthọ mạng dài lâu nhưng quý hiển chỉ ở mức bình thường.

Ngược lại, nếu Hỏa hình mà gặp Mộc chất thì thường là xấu nhiều tốt ít .

e) Thổ hình ngộ Hỏa : hình thể nặng nề chắc chắn là đặc tính của Thổ hình ,thần khí sáng sủa hừng hực như toát hết vẻ tinh hoa ra ngoài là Hỏa chất .Kiêm cả hai hình thái nói trên gọi là Thổ hình ngộ Hỏa . Vì Thổ do Hỏa sinh nên đắc

cách Thổ hình ngộ Hỏa (chỉ có hỏa chất mới đúng cách) sẽ làm cho Thổ phát huy được tất cả đặc tính cố hữu tốt đẹp của loại Hành này nên công việc thuận hảo xứng công vừa ý.

V- TỔNG LUẬN PHÉP TƯƠNG HỢP NGŨ HÀNH ÁP DỤNG VÀO NHÂN TƯỚNG HỌC :

Nguyên tắc tương sinh khắc cổ xưa nay chưa được hoàn hảo vì không diễn gỉai hết được những sự uyên áo trong tướng học(Phép đoán tướng mạo và định tướng khắc tương sinh Ngũ hành trong tướng học từ đời ngũ Quý trở về trước bị sách Thủy kính tập liệt vào loại xưa. Từ Mã Y,Trần Đoàn trở về đến đời Minh ,Thanh được sách này coi là hiện đại ) vì chưa biết rằng sự sunh khắc đưa đến hậu quả tốt hay xấu c2on tùy theo sự tương hợp trong từng hệ cấp của từng hành.

Nói chung ta phân ra :

a) Thuận hợp :

Ví dụ : Mộc hợp Hỏa

Thủy hợp Kim

Mộc hợp Thổ

Thuận hợp như trên nếu đúng mức độ thì thường chỉ giàu chứ ít khi quý hiển.

Thảng hoặc có quý hiển thì cũng rất bấp bênh, chỉ trong một thời gian nào đó rồi hết .

b) Nghịch hợp : (thoáng nhìn thấy có vẻ khắc kị nhưng thực tế lại phù hợp và hỗ trợ lẫn nhau )

Ta thường thấy :

Kim nghịch với Hỏa.

Thủy nghịch với Thổ.

Mộc nghịch với Kim

Thổ nghịch với Mộc

Theo lẽ thông thường của phép sinh khắc thì các hình mạo hàm nói trên phải coi là xấu vì các Hành trong con người xung khắc lẫn nhau .Trong thực tế ,có các trường hợp Kim đa Hỏa thiểu : tức là Kim hình đới Hỏa , Thủy đa Thổ thiểu: Thủy hình đới Thổ ,tuy nghịch mà lại hợp ,kết quả tốt đẹp và bền vững hơn lại thuận hợp rất nhiều.

Theo sự hiểu biết nông cạn thông thường thì Kim hình không nên kiêm Hỏa ,nhưng kẻ mà tai mắt ,lông mày ,tứ chi lẫn thân mình đều vuông vức, màu da trắng tuy đúng cách của Kim hình ,nhưng nếu xương thịt quá thanh khiết, thần qúa sáng ,hkí quá lạnh, mà sắc mặt hồng nhuận (tức là đới Hỏa) thì tuy Kim hình Hoả chất nghịch mà lại hợp. Tướng pháp gọi loại nghịch hợp này là Hàn Kim vi Hỏa luyện : vùng lạnh được lửa tôi luyện cho ấm lại ,chủ về thọ khang quý hiển. Ngược lại ,nếy Hỏa đa Kim thiểu ,nghĩa là Kim và Hỏa kiêm hình như kiểu mày thanh mắt sáng, da trắng mà đầu nhỏ nhọn, mũi lộ khổng ,tai luân quách đảo lộn thì lại là nghịch mà xung hkắc chứ không hợp, chủ về tai họa liên miên. ,không mấy hi

vọng sống quá 30 tuổi.

Thủy hình đới Thổ có thể nghịch mà hợp hoặc nghịch mà khắc tuỳ theo từng thứ bậc của Hành. Nếu Thổ thiểu Thủy đa là nghịch hợp, quý hiển tọh khang, nếu thủy thiểuThổ đa thì lại khắc nghịch ,suốt đời bần hàn ,cô độc. Tỳ như có hình Thủy ,thân hình phì mập, đúng cách nhưng nếu thịt da nhão nát, lại còn ở tuổi thanh niên thì lại là điềm yểu thọ. Do đó, loại Thủy hình phát dục quá sớm đó phảicó thể chất (đặc trưng của Thổ chất là rắn chắc ,gân cốt chìm mà vững chải, tai, nũi , miệng đều kiên ngạch) hỗ trợ ,nhưng vì chất Thổ rất ít , lại ẩn tàng nên mẹnh danh là Thủy đa Thổ thiểu .Ngược lại, đúng Thủy hình mà sai lệch Thủy sắc, như sắc da vàng xạm( thuộc về Thổ sắc, chân tay thô trọc thuộc về chất trọc của

Thổ,v.v...) biểu hiện cho sự non yểu quẫn bách.

Bàn về hình Mộc , cần phải phân biệt 2 loại Mộc là Giáp Mộc và át Mộc .Người Giáp Mộc thì hình dạng thon dài, cốt cách ngay thẳng, mi thanh mục tú ,hào khí lẫm liệt. Cho nên tuy thói thường là Mộc kị Kim vì hai Hành khác nhau nhưng nếu Mộc đa kim thiêu chẳng hạn như cằm vuông trán rộng, sắc da trắng xanh , còn thì các bộ vị chính yếu đều là Mộc chính cách thì nghịc mà hợp. Điều d0ó cũng tương tự như cây cổ thụ ngàn năm bị đẽo gọt, chạm trổ mới tăng phần giá trị .Còn đối với người át Mộc ,nếu gặp Kim hình hay Kim chất cũng giống như cây mục cỏ khô bị búa ríu giáng xuống tất nhiên sẽ bị trì trệ ,công danh tọh mạng đều bị ảnh hưởng tai hại.

Bàn về hình Thổ thường vẫn lấy sự pha trộn với hình Mộc làm điều đại kị vì Mộc khắc Thổ ,nhưng cần phải biết rằng nếu hình Thổ thuần cách quá nặng (trọng Thổ) có tướng Ngũ tàng ,khiến chi tinh thần khí chất bị trì trệ, không hiện rõ ở mặt

này được thì truờng hợp đó cần phải có Mộc chất đi kèm (ví dụ như mày thanh mắt sáng, râu tóc tươi nhuận không quá đậm và thô) để Thổ có thể trở thành đại dụng .Cách cục bổ túc nói trên tướng pháp gọi là Mộc chi sớ thông : Mộc dùng làm chất kích thích của Thổ. Loại tướng Thổ tàng (hay Thổ trọng cũng vậy ) mà gặp dược cách cục Mộc chi sớ thông rất hiếm nên tướng thuật có câu :"Thanh tĩnh quý đã đành mà trọc cũng quý khi được tướng Thổ trong hợp cách Mộc chi sớ

thông ".

Đến như hình Hỏa ,phép luận hình định cục khác hẳn với các hình kim,Mộc,Thủy,Thổ .Người Hỏa thì thần khí không nên ẩn tàng ,sắc không nên tĩnh ,tối kị mắt dài và sâu, mũi cao và thẳng, miệng rộng mmà lăng giác phân minh, tai có luân quách bình thường vì đó là điều hkắc tướng của người hình Hỏa.

Bởi vậy ,bàn về người hình Hỏa phải lấy tao mọc cao và luân quách đảo ngược ,mũi lộ khổng, môi đỏ ,Tam đình đới nhọn làm hợp cách. Có đúng như vậy về hình thức mới xếp vào loại quý cách.

Thủy kính tập

f) Tương quan giữa Aâm Dương và Ngũ hành trong tướng học :

Trong phạm vi hình tướng ,sự tương quan giữa Aâm Dương và Ngũ hành là một vấn đề khá quan trọng đáng được lưu ý.

Nói đến thuận Aâm Dương là nói đến vấn đề Dương hòa, Aâm thuận và nghịch âm

Dương là đề cập đếnDương thác Aâm sai. .Cònthuận hay nghịch Ngũ hành phức tạp hơn vì thuận hợp và nghịch hợp (nghịch hợp có thể xấu hay tốt) rất nhiều chi tiết đặc dị trong trường ợhp cá biệt.

Tựu trung trong tương quan âm Dương và Ngũ hành về mặt tướng học ta thấy 4 trường hợp có thể xảy ra :

- thuận cả Aâm Dương lẫn ngũ hành.

- âm Dương nghịch lí nhưng Ngũ hành thuận lí.

- âm Dương thận lí nhưng Ngũ hành nghịch lí

- Nghịch cả âm Dương lẩn Ngũ hành.

1- Thuận âm Dương và Ngũ hành

Về mặt tướng học ,con người có tướng thuận nguyên lí nguyên lí Aâm Dương nghĩa là kẻ có diện mạo cân xứng, da thịt và xương cốt cân phân. Nói một cách chi tiết hơn, kẻ đó hội đủ các điều kiện Dương hòa Aâm thuận. Về mặt Ngũ hành hình tướng, thuận có nghĩa là người thuận "Hành" hội đủ mọi điều kiện tốt của hành đó ,kẻ tạp cách không có sự khắc phá giữa các Hành trên cơ thể. Người thuận càv âm Dương và Ngũ hành được coi là tối thuận về đủ mọi phương diện .

2- âm Dương nghịch lí Ngũ hành thuận lí.

âm Dương nghịch lí là xương thịt ,diện mạo thân thể bất quân xứng .Riêng về điểm này cũng đủ để kết luận về con người như vậy là bất quân bình ,đương nhiên là có hậu quả xấu .Sự thuận lí cúa ngũ hành lúc đó chỉ có tính cách phụ thuộc và không có

giá trị gì đáng kể. Nếu sự thuận lí có tính cách đặc biệt,.còn phần đông cơ cấu ngoại mạo bị Aâm Dương đảo nghịch thì hậu quả phần lớn đều không ra gì .

Trong vài trường hợp đặc biệt tối thuận ,chẳng hạn phần nghịch lí cùa Ngũ hành bù trừ lại .ví dụ như người quá cáo ốm thiếu da thịt ( nghịch lí về Aâm Dương có thể được sự thuận lí của Ngũ hành hóa giải.

3- âm Dương thận lí , Ngũ hành nghịch lí

Nếu âm Dương hòan toàn thuận lí về cả cốt cách xương thịt ,bộ vị tứ chi, thần khí thì sự nghịch lí của Ngụ hành về mặt các nét tướng không đủ dể tiêu tán những hậu quả tốt của Aâm Dương bất kể sự nghịch lí đó nặng nhẹ ra sao .Tuy nhiên, sự nghịch lí của Ngũ hành vẫn làm cho các hiệu quả tốt của Aâm Dương bị sút giảm. Một trường hợp đặc biệt là Ngụ hành nghịch lí biểu kiến (ví như người Giáp Mộc có Kim chất ,nhưng thuộc lạoi nghịch hợp)nhưng về mặt giải đoán sự nghịch lí đó của Ngũ hành chỉ có ảnh hương thoáng qua không đáng kể, kết cục vẫn là đại phát .

4- âm Dương và ngũ hành đều nghịch lí :

Trường hợp này quá xấu ,không có gì đáng đề cập đến vì người bị nghịch cả âm Dương lẫn ngũ hành thì không còn đủ các yếu tố tối thiểu về hình tuớng để nói.

CHƯƠNG THỨ BA

THẦN, KHÍ ,SẮC VÀ KHÍ PHÁCH

ĐẠI CƯƠNG VỀ THẦN KHÍ SẮC :

Thần ,Khí ,Sắc là ba ý niệm đặc biệt của tướng học Á Đông ,rất khó lĩnh hội .

Xưa nay các sách tướng đều nói đến Thần ,Khí ,Sắc đều cho rằng Thần ,Khí ,Sắc tuy phân ra làm ba nhưng thực ra là một. Về cách qua nsát ,người thường nói xem Thần tại mắt ,khí ở nội tạng và phát thành âm thanh còn sắc ở ngoài da. Nhưng đó chỉ là một cách diễn tả khái quát không bao hàm đầy đủ mọi khía cạnh cần thiết .Đi sâu vào chi tiết, Thần ,Khí ,Sắc rất phức tạp, hàm hỗn và tương quan mật thiết .Tách rời Thần ,Khí ,Sắc ra từng phần riêng rẽ chì là một cách mổ xẻ máy móc để tiện trình bày mà thôi. Phần dẫn nhập này tóm tắt một cách khái quát những điểm trọng yếu trước khi cố gắng phân tích chi tiết từng thành tố Thần ,Khí ,Sắc trong tướng học .

Sở dĩ tướng học Á đông xem Thần ,Khí ,Sắc là một vì đó là ba dạng thức khác nhau.,nhìn dưới những khía cạnh khác nahu của dữ kiện duy nhất ,có tính cách siêu vật thể hơn là vật thể của con người .

Theo tướng học, chính dữ kiện đó đã tạo nên tinh hoa ,hoạt lực nội tại và các yếu tố tâm linh của con người. Người Á Đông ,nói đúng ra là người Trung Hoa ,vốn thấm nhuần truyền thuyết âm Dương Ngũ hành, dưới khía cạnh vật là một thứ khí trong khi kết hợp và biến hóa đã tạo ra vạn vật ,trong đó có con người . Nếu nói đến bản thể của khí trong con người là nói đến bản thể của khí âm Dương Ngũ hành trong vũ trụ đã hội nhập vào con người từ lúc thọ thai kết hình và cùng với nhục thể tạo thành một khối duy nhất đó là con người .

Như vậy ,trong con người ta có thể tạm nói khí là một tứh nhựa sống vô hình, nếu thể hiện qua đầu màu đuôi mắt thì gọi là thần hiện ra một nơi cố định trên làn da thành ra màu sắc thì gọi là sắc. Do đó, Thần ,Khí ,Sắc tuy ba nhưng xét về bản chất

thật ra là một và có tính cách bất khả phân trong thực tế. Nói cách cụ thể hơn, Thần

,Khí ,Sắc có thể ví như ba trạng thái khác nhau như thể hơi ,thể lỏng ,thể đặc của

nước :thể hơi là thần, thể lỏng là khí ,thể đa75c là sắc. Thể lỏng là thể thông thường

căn bản của nướa nhưng thể hơi và thể đặc không bao giờ hoàn toàn tách rời ra khỏi

thể lỏng cũng như thần và sắc không bao giờ tách ra khỏi khí.

Trong phần khí, ở khía cạnh cấu tạo (structual) nhìn dưới vị thể tĩnh nghĩa là khi con nguười bất động ,ta có thể quan sát được là khí mạnh hay yếu ,thanh hay trọc ,tốt hay xấu. Vì vậy ,nhiều dưới khía cạnh này, giữa khí và sắc có sự tương quan mật thiết trong tướng học người ta thường gộp chung thành một mà gọi là khí sắc với ngụ ý rằng trong việc quan sát khí thì khí chỉ được nói đến một cách gián tiếp còn sắc mới là trọng điểm .Chính vì thế mà sáchThủy kính tập gọi nó là khí sắc chi khí.

Trong vị thế động của con người, và dưới khía cạnh cơ năng(fone-tionnel), qua các tác động của thân ìhnh ,ta thấy có thể phát hiện những cá tính đặc biệt, những đặc điểm tâm hồn từng cá nhân .Dạng thức này của khí được mệnh danh là khí phách.

Tác gỉa Phạm Văn Viên của cuốn Thủy kính tập là người đầu tiên đặt ra danh từ khí phách để phân biệt với khí và sắc khi ông nói :"khí phách chi khí" và 'khí sắc chi khí " .Trong tác phẩm của ông ,phần màu sắc của da bị xem nhẹ ,còn phần thần lại được chú trọngrất nhiều và xem như là liên kết chặt chẽ với khí . Do đó ,đôi khi ta gọi là khí phách, ta lại gọi chính danh hơn là tinh thần và khí phách, và để ch ogiả tiện ,người ta gọi tắt là thần khí .Chính phần thần khí này mới là phần cao thâm của tướng lí Á Đông, nó giúp phân biệt được quý tiện hiền ngu,dự đoán được thànnh bại của cin nguời trong tương lai cũng như mạng vận dài ngắn ,thô bạo hay thanh khiết .

Từ trước đến ay ,thần khí vì tính cách hư hư thực thực của nó,vừa có bản chất là siêu hình vừa có bả nchất là thực tại ,lại đòi hỏi người qaun sát phải có một nhãn quang và thính giác bén nhạy đã được xếp vào loại học thuật bí truyền. Hơn nữa, cách diễn tả của nguời xưa lại rất hàm hỗn cố ý thần bí hóa và lại không được phổ biến sâu rộng như phần hình tứong ,nên từ đời Đông Hán đến gần đời Tống gần nưh bị thất truyền. Đến hai đời Minh,Thanh ,một vài cuốn sách tướng cổ điển có nhắc đến, nhưng không mô tả.

Mãi đến đời Thanh ,sách Thủy kính tập mới lại đề cập đến ,nhưng vẫn chưa rõ ràng cho lắm .Tuy vậy ,xét qua mớ tài liệu rời rạc tản mát trong kho tàng văn hóa tướng học còn lưu lại đến nay cộng thêm với một đoạn bình chú của tướng tưh ta có thể suy diễn ra được một phần lớn những điều cổ nhân muốn gói ghém qua ý niệm khí phách .Vì vậy ,trong đoạn cuối chương này ,soạn gỉa đặc biệt dành ra một phần lớn để giới thiệu về phần tướng lí này của tướng học Á Đông để độc giả thưỡng lãm.

THẦN

Thử phác hoạ ý niệm "Thần":

"Thần" là một khái niệm căn bản của tướng học Á Đông , nhưng lại là một ý niệm rất khó diễn tả. Một phần vì người xưa học tướng theo lối tâm truyền , lấy trực giác và kinh nghiệm để lĩnh hội dần dần nên không cần và có thể nói là không thể diễn tả đầy đủ , một phần là nếu vài ba cuốn tướng học cổ điễn tả thì lối diễn tả đó vừa mơ hồ vừa huyền bí khiến người đọc bị hoang mang như lạc vào mê hồn trận . Thật sự , bản chất của thần không có gì là hoang đường , cũng không đến nỗi khó lĩnh hội cho lắm.

Đến giúp độc giả hiểu được ý niệm thần trong tướng lý Á Đông , soạn giả cố gắng phác họa lấy ý miệm thần theo một khảo hướng thực tiễn , ngược lại với lối diễn tả huyền bí của sách vở cổ điển bằng cách đưa ra nhiều ví dụ cụ thể trước khi đi vào phần định nghỉa lý thuyết.

Trong đời , hẳn mọi người đều có dịp quan sát lắm cặp mắt có nhãn lực đặc biệt khó quên .Nhãn lực đó khi đầy ác khiến kẻ nhìn phải khiếp sợ , có khi đầy vui tươi khiến kẻ nhìn quyến luyến . Những loại ánh mắt đó gọi là ánh mắt có thần. Ngược lại , cũng có nhiều đôi mắt ảo não , xa xăm , lờ đờ , thiếu sinh lực , hoặc không gây một cảm giác nào cho người quan sát : đó là những ánh mắt thiếu thần.

Có những tư thế đi , đứng , ngồi chũng chạc , ổn trọng tự nhiên, tạo một cảm giác uy nghi khả kính : đó là những tác phong có thần.

Có nhiều giọng nói chanh chua gây tức giận , hoặc hùng hồn làm cho hân hoan phấn khởi , hoặc trong trẻo , êm dịu truyền cảm , khiến người nghe như bị thu hút bàng hoàng : đó là hợp âm thanh có thần .

Một phụ nữ nhan sắc có hấp lực lôi cuốn sự chú mục không ngừng , khiến mọi người phải nhìn , nhìn hoài không chán , hoặc lúc nhìn mà động lòng ham muốn hay tấm tắc khen ngợi : đó là nhan sắc có thần.

Cũng có phụ nữ không mấy xinh đẹp nhưng cách đi , cách đứng , giọng nói , nụ cười đều toát ra vẻ thùy mị , đoan trang khiến con người sinh lòng cảm mến cũng là loại người có thần.

Trong đoàn vũ công dang biểu diễn , có người diễn xuất nổi bật hơn hết khiến cho khán giả thấy được ý nghĩa của điệu vũ qua cử chỉ , vũ công đó có thần trong điệu vu.õ

Những cụ già dù gần đất xa trời , nhưng vẫn còn đầy vẻ quắc thước , nghiêm phong , dũng liệt là những kẻ có thần.

Những trẻ em nhìn vào là thấy ngay tướng thông minh , đĩnh độ cũng là hạng người có thần.

Những ví dụ trên cho thấy thần được biểu lộ không những ở đôi mắt mà còn trên toàn thể khuôn mặt , trong phong thấy , giọng nói , nụ cười , trong thế cử động và cả trong thế bất động của con người nữa . Thần được phát lộ rõ rệt nhất lúc vui , lúc hứng , lúc giận , lúc sợ , lúc ham muốn , lúc cãi co . lúc thuyết phục , lúc đấu võ , lúc đánh kiếm.

Tóm lại , bất cứ lúc nào con người thoát khỏi trang thái bình thường mà toát ra những nét khác biệt kẻ phàm , trong ánh mắt , tướng đi , đứng , nằm , ngồi , cười thì đó vẫn là người có thần. Chính trong trạng thái bình thường ta thấy thần khó được lý hội nhất . Người xem tướng bao giờ cũng gặp phải đối tượng và trang thái này.

Những ví dụ và sự diễn tả trên cho phép ta địng nghĩa thần như sau: Thần là âm hưởng nhận thức được trên các nét tướng con người , là tiếng dội trong tâm hồn người xem tướng của những nét tướng quan sát được , chỉ những nét tướng nào tạo được những cảm giác , cảm tướng , cảm xúc , dư âm trong tâm tư người xem tướng thì mới là những nét tướng có thần . Trái lại , những nét tướng nào không có ý nghĩa , không gây một chấn động nào trong tâm tư , không có gì khác biệt với thiên hạ là những nét tướng thiếu thần. Những nét tướng lộ thần rõ rệt ( như sát khí trong ánh mắt , sự thô bạo của cử chỉ , tiếng nói lớn , giọng cười to ) thì bất cứ người phàm nào cũng quan sát được. Nhưng có những nét tướng không lộ thần một cách rỏ rệt đối với người phàm thì chỉ có nhà tướng thuật thượng thừa mới tra xét được thần khí mà thôi . Như thế, quên chuẩn nhận thức thần là trực giác riêng của thần tướng , Đây hiển nhiên là tiêu chuẩn hết sức chủ quan và cá biệt . Việc khảo sát thần sở dĩ khó là vì lí do , và sự khác nhau giữa các nhà tướng chính cũng vì nguyên nhân trên.

Đề định nghĩa giản dị hơn , thần là tinh thần . Đó là nguồn động lực tiềm ẩn trong con người , kết tinh từ sự ham muốn , từ ý chí , từ nghị lực , từ tình cảm , từ trí tuệ , từ huyết thống , từ văn hóa được phát lộ ra ngoài , ít hay nhiều , mạnh hoặc yếu .

Nó có thể tiềm ẩn hoặc phat lộ , khang kiện hay suy nhược . Xem thần là xem tinh thần , xem nội tâm , xem phần chân tướng bên trong qua những nét phát biểu ra ngoài .Thường khi cái bên ngoài không gói ghém hết cái sinh động và uẩn khúc bên trong .

Vì vậy, thuật xem tướng bao giờ cũng phải cố gắng thấu đáo nội tâm thì mới đạt tiêu chuẩn .Đó là lí do tại sao khảo sát thần phải bằng mắt chưa đủ mà phải dùng đến tâm để tìm hiểu tâm . Cái khó của việc quan sát Thần là ở chỗ đó . Cái vi điệu cũng từ đó mà ra.

II ­ NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THẦN

a) Nguồn gốc của thần dưới nhãn quan tướng học cổ điển Thần ở đâu mà ra? Để giải đáp câu hỏi này , cổ nhân đã đưa ra lập luận sau:

Con người , bẩm thụ tihn hoa của trời đất mà sinh ra . Thần là vật vô hình , là tinh hoa tối cực của con người có trước rồi mới có hình hài . Hình hài sở dỉ có là đến chứa đưng nội thần . Do đó thần bàng bạc trong nội tang con người . Lúc ngủ thì nội thể , lúc thức thì hiện ra ở cặp mắt.

Đối với chúng ta , lập luận trên không đủ nhưng có vài điểm khả dụng . Những điểm khả dụng đó soạn giả sẽ đề cập đến ở những đoạn sau:

b) Vai trò cặp mắt trong việc quan sát Thần Qua những ví dụ đan cử ở đầu phần này , chúng ta thấy thần rất bao la bàng bạc chứ không phải chỉ thu hẹp ở cặp ma71t . Nhưng hẳn chúng ta đều có dịp ngắm những bức học chân dung con người , ta thấy bức họa vẽ linh hoạt hay không phần lớn là ở cặp mắt . Mạnh Tử đã từng nói :"Quan sát người thì quan sát ở cặp mắt , mắt chính đính thì tâm hồn ngay thẳng , mắt tà vay thì tâm tính cũng tà vay" .Tây phương cũng có câu:" Cặp mắt là cửa sổ tâm hồn " . Thần là tinh hoa , là tấm gương phản ánh tâm hồn con người . Thế mà quan sát mắt ( nói đúng ra là quan sát ánh mắt ) ta biết được tâm hồn nên cổ tướng học nói là quan sát ở mắt , tuy chưa đầy đủ nhưng không phải là vô lý .

Vả chăng quan sát mục quang ta biết được nhiều về thần của con người hơn bất kỳ bộ vị hoặc nét tướng khác . Chẳng hạn ta có thể biết ánh mắt mạnh hay yếu , dữ hay hiền hoà , gian xảo hay thuần phúc ... Do dó , ta phải thùa nhận rằng vị trí quan sát thần thuận tiện nhất là cặp mắt con người . Tuy rằng một mình nhãn thần chưa đủ

để tượng định một cách dứt khoát về thần của một cá nhân , nhưng người quan sát sâu sắc có khá nhiều dữ kiện cần thiết để giải đoán về phẩm cách và vận mạng nói chung của con người . VÌ THẾ NGƯỜI XƯA MỚI NÓI:" Xem quí hiển hay hạ tiện thì xem ở mắt" và ở đây ta đặt trong tâm vào việc quan sát mắt để suy luận và tìm hiểu về thần .

c) Phân loại Thần qua mục quang Trong tướng học Á Đông nói đến thần qua cặp mắt thì điểm cần đặc biệt chú ý không phải là hình dạng của mắt mà là tính chất của mục quang . Quan sát mục quang gúp ta phân loại được các loại Thần của con người và định được sự tương quan hợp nhãn thần với công danh sự nghiệp của một cá nhân . Đại để , căn cứ vào mục quan ta phân biệt được :

1 ­ Thần tàng

Đây là nét thượng thừa cách về nhãn thần . Thần tàng có nghĩa lá ánh mắt sáng sủa giữa không rực rỡ tương tự như một hạt ngọc ở trong tư thế an tĩnh phát ra ánh sáng nhưng ánh sáng đó ở cặp mắt có tính cách phảng phất , nhẹ nhàng , thoáng qua như không có nhưng nhìn kỹ , ngắm lâu ta mới phát hiện được . Loại nhãn thần ẩn tàng này rất hiếm nhưng kẻ có loại nhãn thần này lá dấu hiệu chác chắn thành đạt được đại nghiệp , hưởng phú quí lâu dài.

2 ­ thần lộ

Ngược lại với Thần tàng thì gọi là Thần lộ . Lộ ở đây không những tròng mắt lồi ra để lộ cả tròng trắng mà ánh mắt cũng quá lộ liễu tựa như cọp nhìn con mồi chằmchằm , ánh mắt sáng rực tựa bao nhiêu tinh anh của con người đều theo ánh mắt mà tiết ra ngoài . Đó là đều đã được Nguyễn Du tả qua hai câu thơ trong Đoạn Trường

Tân Thanh :

Tinh anh phát tiết ra ngoài Ngàn thu bạch mệnh một đời tài hoa

Dưới nhãn quang tướng học , thần lộ là kẻ tinh hoa phát tiết chủ về gin tham hình khắc , có may được quý hiển thì cũng chỉ được một quảng thời gian ngắn rồi lại lụi tàn . Số thọ cũng không được dài vì tinh hoa lộ thì thần mau kiệt mà thần là căn bản của thọ mạng .

3 ­ Thần tĩnh

Thần tĩnh ở đây có nghĩa là mục quang sáng sủa tự nhiên hiền hòa không nôn nả , giống như mặt nước mùa thu , nhưng thoáng thấy rồi lại không thấy rõ , nhìn thật lâu lại thấy rõ. Nói một cách khác , thần tĩnh chính là lối gọi tinh thần thư thái nhàn hạ thì hiện qua ánh mắt . Người có loại thần tĩnh tâm tính nhân từ không hiểm độc , cuộc đời thanh nhàn , ít sóng gió .Đó là tướng học loại người thanh quí.

4 ­ Thần cấp

Thần cấp là loại ánh mắt phát sáng phát động không ngừng giống như một hỏa diệm sơn phun lửa liên miên .Đó chính là loại mục quang của loại mắt jhỉ , trông thoáng qua là nhận ra ngay tính tình nóng nảy , khích động . Nếu ngôn ngữ , đi đứng , ăn nói đều có dáng vẻ gấp gáp thì kẻ đó sớm phát đạt nhưng cũng mau tàn.

5 ­ Thần uy

Khuôn mặt lúc mở lúc , khi thu nhỏ , mục quang có oai lực tự nhiên khiến người khác nhìn vào cảm thấy kiên nể . Loại nhãn thần này là dấu hiệu của hạng người làm nên sự nghiệp phi thường . Chẳng hạn như cặp mắt của nhà độc tài Đức quốc xã A.Hitler, khi nhìn ai cũng như chế ngự kẻ đó khiến kẻ đối diện chỉ biết cúi đầu khuất

phục.

6 ­ Thần hôn

Đó là loại mục quang mờ mịt , ánh sáng yếu ớt gần như không có , đại khái như mắt heo , mắt cá ( xem phần nói về các loại mắt điển hình trong tướng học ) Loại mắt này tượng trưng cho cá tính ươn hèn suốt đời không làm nên chuyện gì thường chết yểu.

7 ­ Thần hoà

Loại mục quang này phần nào giống như loại thần tĩnh nhưng khác ở chỗ thầ tĩnh chỉ về sự ổn cố thanh thản còn thần hoà là ánh mắt chẳng những hiền dịu thường xuyên mà khuôn mặt sắc thái lúc nào cũng tươi vui lạc quan , dù lúc giận dữ cũngkhông mất vẻ từ ái ,chẳbng hạn cặp mắt của bức tranh ông Thọ của người Trung Hoa hay Phật Di Lặc trong các chùa chiền .Về mặt cá tín . người có ánh mắt xếp vào loại thần hoà tâm tính lúc nào cũng hồn nhiên bất chấp ngoại cảnh , không bao giờ mưu tính hại người .Về mặt mạng vận . ít khi bị lâm vào cảnh nguy hiểm ngặt nghèo , không quý hiển thì cũng không bao giờ đói rách , khốn khổ .

8 ­ Thần kinh ( hay còn gọi là thần khiếp )

Mục quan lúc nào cũng hớt hải lấm lét như đại họa sắp tới dù rằng thực tế không có gì đáng sợ . Đó là tình trạng của ke có tâm hồn bất định , ăn uống , nằm ngồi lúc nào cũng có vẻ bồn chồn , hốt hoảng bất an . Kẻ có mục quang như thế , công danh sự nghiệp hoặc thọ số không được bền lâu , thường nửa đường gãy đổ.

9 ­ Thần túy

Ánh mắt hôn mê , lúc nào cũng như người ngái ngủ ( xem lại Túy nhãn trong chương nói về mắt ).Loại người có mục quang này tâm tính hồ đồ , thiếu sáng suốt , thường dễ bị ngộ độc ( ẩm thực , sắc dục ...) mà chết hoặc tiêu tan danh vọng sự nghiệp.

10 ­ Thần thoát

Ánh mắt thất thần , sắc mặt thẫn thờ . Đó là trường hợp thường thấy ở những người gặp lúcn kinh hoàng tột độ thì mặt thộn ra , chân tay cứng đờ tựa như lúc thấy ma. Nếu chỉ xảy ra trong trường hợp bất thường quá đột ngột thì đó la dấu hiệu của tin thần yếy đuối bạc nhược , không tự chủ được . Nhưng nếu không vì sự kinh hoảng mà bỗng nhiên mục quang thất thần thì lại là dấu hiệu tinh lực khô kiệt báo hiệu thọ số sắp đứt đoạn.

d) Phân biệt vài đặc thái của nhãn thần

Như trên đã nói , trong khi quan sát thần người ta nghĩ ngay đến tinh hoa của con người phát hiện ra trong nhiều lãnh vữc và dưới nhiều hình thái nhưng chủ yếu vẫn là ở cặp mắt . Nói đến mắt ta không nên chú trọng nhiều lắm tới hình thể của nó ( lớn nhỏ , nông sâu , dài ngắn , rộng hẹp ...) ,à phải để ý đến mục quang . Chính mục quang mới gíup ta nhận định va phân biệt được nhãn thần . Mục quang nói chung có thể ở vào một trong hai trường hơp chính.

1 ­ Phù quang

Đây là loại ánh mắt có vẻ sáng nổi , hời hợt , người tinh mắt có thể bằng trực giác nhận ra rằng ánh mắt tuy có vẻ sáng tỏ mà thực ra là không có thần tựa hồ như mặt trăng phản chiếu lại ánh sáng thái dương hoặc như chất lân tinh được sơn phết vào các tấm bảng chỉ đường ban đêm sáng rực khi có ánh đèn xe rọi tới.

2 ­Chân quang :Ngược lại với phù quang là chân quang.Đây là loại sáng thực có sinh khí nên

ánh mắt linh họat nhìn vào là thấy sống động như ánh thái dương vậy.

Trong phép quan sát thần để định quý tiện hiền ngu , chỉ có chân quang mới đáng được lưu ý còn phù quang phải gạt bỏ, vì phù quang là ánh sáng muợn hay quá yếu ớt không đủ để kết luận rằn có thần nênkhông hể dựa vào đó mà biết được hiền ngu quý tiện. Vả lại ,phù quang còn có ý nghĩa là kẻ đò sắp chết trong tương lai rất gần. Kẻ như thế còn gì đáng bàn đến .

Chân quang được chia thành bốn loại tùy theo tính chất đặc tính của mục

quang như sau :

a) Thủ chân ( ánh sáng thực và giữ lại được) :

Tròng mắt như vì sao sáng ,không dao động mà tự phát quang ,, lúc tĩnh thì ngưng tụ, lúc động thì bừng sáng,khiến người ngoài không dám nhìn thẳng vào mắt mình.

b) Người có thủ chân quang tính tình trung thực ,lương hảo danh vang thiên hạ, dù gặp nguy hiểm cũng vẫn vượt qua được.

c) Hàm chân ( ánh sáng thực nhưng ẩn tàng vào mắt) :ánh mắt tự phát quang giống như ánh sáng của viên ngọc quý ,nhìn kĩ mới thấy vẻ sáng ,khiến người ta cảm thấy dễ chịu, tự trong thâm tâm nảy sinh cảm giác hân hoan.

Rộng ra khi ta nhìn thấy cây cỏ suới nước xinh tươi mà thấy ấm lòng vui mắt thì cái vẻ sáng của cảnh vật là tinh hoa của núi sông .Cái đó mệnh danh là hàm quang.

Người có thần mắt thuộc loại hàm chân thì đỗ đạt sớm ,lưu lại tiếng thơm cho đời.

d) Tàng chân : .(sáng thực nhưng lhông lộ liễu) ánh mắt sáng mờ mờ ,mới nhìn thì như không đủ mà nhìn lâu lại có vẻ dư.Kẻ có tàng chân mạng vận vinh hiển ,sự sang cả lưu tới đời sau nhưng phát đạt muộn.

e) Hồi chân ( sáng thực mà như sẵn sàng tuôn ra bình thường rất khó nhìn ,muốn thấy phải mở mắt thật to, lúc đó mới thấy rõ vẻ sáng .loại chân quang này thường xuất hiện trong ánh mắt những người cận thị,.Nó có thể tụ hay có thể tán ,hay lệch,có thể êm đềm nưh ánh trăng rằm ,cũng có thể như ánh sao nhấp nháy,Loại chân này nên có vẻ sáng ngấm ngầm và hơi đen ám thì mới quý.

Cái quý của loại mắt có chân quang này khác hẳn với ba loại trên ,tốt xấu từng trường hợp .Những kẻ kì hình dị tuớng thành đạt đều thuộc loại này.

Tóm lại, có chân quang dù nhiều hay ít là tướng của kẻ mưu sự dễ thành ,cầu công danh sẽ đạt.Đại khái, chỉ rất về mặt Thần Khí mà đoán kẻ có mục quang thuộc loại tàng chân hậu vận phát triển tốt đẹp, sự nghiệp chắc chắn viên mãn nhưng không thoát khỏi cảnh thiếu thời bị sóng gió ,bị vấp váp rất nhiều trong cuộc đời, không được sống thanh thản bình dị như kẻ thuộc loại thủ chân và hàm chân .Phàm người ta dù các bộ vị có bị khuyết hãm ,cốt cách có vài điểm bị xếp vào loại hạ cách mà ánh mắt lúc nào cũng có chân quang bất kể lúc nào thì cũng giống như rồng thiêng lân quý ,tuy ở nơi đầm hẹp rừng tưha coi như đủ để hóa giải những khuyết điểm của hình thể và có thể đạt được phú quý vượt ra ngoài dự liệu thường tình .Đây chính là một trong nhiều bí quyết của tướng học á Đông và thuộc về nguyên lí trọc trung hữ thanh .Sách vở bàn về tướng thuật đầy rẫy các giai đoạn liên quan tới điểm tế nhị này.

f) Những điều kiện tối hảo của nhãn thần

Nói đến nhãn thần ta không cần chú ý tới hìng dạng của mắt mà phải đặc biệt lưu ý đến mục quang .Mục quang được xem là tối hảo khi nó hội đủ 7 điều kiện sau đây :

1- Tàng nhi bất hối :

Nghĩa là nhãn thần phải có vẻ che khuất đi được, nhưng mục quang không được tối ám.Nói một cách khác rộng rãi hôn là mục quang tuy sáng nhưng là một tứh ánh sáng có vẻ hàm xúc, động trong cái tĩnh, tương tự như vẻ sáng của một viên ngọc báu tự nó có thể phát quang nhưng không rực rỡ, lộ liễu phải quan sát thật lâu mới phát hiện được .Còn hối là mắt lờ đờ như mắt ngáy nhủ.

2- An nhi bất ngu :

Mục quang ổn định nhưng không trơ trẽn bất động,Từ ngữ ổn định tự nó đã ngầm chứa tính cáhc sống động nhưng là cái vẻ sống động linh hoạt chứ không phả ial2 giao động "trơ trẽn bất động" có nghĩa là mục quang im lìm (inertie) không biểu lộ được đầy đủ sinh khí cần thiết ,không biến thông được .

Nói cách khác đi ,nhãn thần sung túc thì tự nó có vẻ sáng như một ngọn đèn điện dược thắp bằng dòng nhân điện xoay chiều có thể thu rút lại cường độ trong một giới hạn nào đó. Chẳng hạnnhư khi đàm thoại ,ánh mắt ta tuy không dao động nhưng lúc thích túh và khi cụt hứng độ sáng của mắt phải có nhịp độ chuyển biến thích nghi đủ để diễn tả được cái trạng thái tình cảm nội tâm của ta lúc đó. Trái lại, mục quang của một cá nhân lúc nào cũng cùng một cường độ dù nghe câu chuyện rẻ nhạt hay giật gân mà vẫn không có gì thay đổi thì không có thể coi là an nhi bất ngu được .Lúc đó ,mục quang của kẻ đó phải được gọi là an nhi ngu .

3- Phát nhi bất lộ :

Mục quang được coi là phát khi tia mắt như xạ ánh sánh ra ngoài nhưng mức độ phát quang của nó vừa phải, không quá mạnh mẽ rõ ràng ,chỉ người quan sát thật tinh tuờng mới phát hiện ra được. Nói khác đi ,mục quang như viên ngọc sáng giữa ban ngày, tuy phát quang nhưng ánh sáng rất mờ so với ánh sáng thái dương chứ không phải là một ngọn đuốc để bất cứ ai cũng thấy được dễ dàng.

Từ ngữ lộ có nghĩa là tròng mắt lồi ra như nhìn trừng trừng vào đối tượng quan sát , lộ cả tròng trắng .Đại để lúc mèo rình chuột, cọp chuẩn bị vồ mồi, nhìn chằm chằm vào con mồi thì lúc đó mục quang gọi là lộ.

4- Thanh nhi bất khô:

Điều kiện ày đặt nặng vào việc quan sát cấu tạo của mắt về phương diện phẩm chất. Thanh có nghĩa là lòng đen ,lòng trắng cũng như đồng tử phải trong trẻo nghĩa là ranh giới ba phần đó phải phân biệt rõ ràng ,chất liệu cấu tạo phải thuần khiếtkhông được có các tia máu ,màng mắt xen lẫn vào , một khi có tất cả chất liệu cấu tạo đều thuần khiết thì nhìn vào mắt người ta có cảm giác như nhìn vào một hồ nướv sâu thẳm ,trong trẻo như các tiểu thuyết gia vẫn thường mô tả :mắt trong sáng như nước hồ về mùa thu .Đấy chính là điều tuớng học gọi là thanh vậy. Cònkhô có nghĩa là cằn cõi ,không có vẻ sống động hiện lên ở bề mặt .Mắt htanh mà khô có nghĩa là nhãn thần lạnh lẽo suy nhược ,không được kiên cố. Để dễ hiểu hơn,xin lấy 1 ví dụ cụ thể : thanh nhi bất khô ví như cây tùng ,bách về mùa đông , cốt cách thanh nhã và nhìn vỏ cây cành là vẫn có vẻ xanh tươi biểu hiện một sức s61ng tiềm ẩn bên trong. Gược lại, thanh nhi khô ví như thân cây lau sậy về mùa đông, cành lá trơ trọi, cằn cõi ,nhìn kĩ có htể biết ngay là thân cây hết nhựa ,chỉ còn hình mà mất hết chất.

5- Hòa nhi bất nhược

âm dịu nhưng không mềm yếu. Nói rộng ra mục quang được coi là Hòa nhi bất nhược khi ánh mắt sáng một vẻ êm dịu nhưng không mềm yếu, khả ái chứ không phải khả hiếp khiến nguời khác nhìn thấy có cảm tưởng một niềm vui thích muốn tiếp xúc với ta chứ không dám khinh mạn vì trong sự hóa ái đó ẩn tàng mo65t sức mạnh khiến kẻ đối diện phải nể phục trong lòng.chẳng hạn mắt các tượng Phật trong chùa ,tuy ánh mắt từ bi bác ái nhưng vẫn không nhu nhuợc ủy mị.

6- Nô nhi bất tranh :

Lúc giận không lộ vẻ cạnh tranh ,oán tức thì gọi là nô nhi bất tranh .Tuy nhiên ,trong ý nghĩa của tướng học , ý nghĩa câu trên phong phú hơn nhiều .Nộ phải được coi là chính khí vì khi giận dữ phát xuất ra bởi một lí do thực sực chính đáng nhưng mặt không biến sắc ,chỉ hơi cau mày, ánh mắt nghiêm nghị biểu lộ một tâm hồn ày công hàm duỡng luôn luôn giữ được bình tĩnh .Có đủ các đặc tính kể trên thì mới gọi là nộ.

Còn giận mà mắt đờ ra ,mắt xạm lại ,tia mắt như tóe lửa ,nưh muốn ăn tươi nuốt sống người khác là dấu hiệu bề ngoài của kẻ khôngcó đức tính trầm tĩnh, mất tự chủ gọi là tranh .Chính vì tranh bao gồm những phản ứng có ẩn ý ăn thua đủ ,chỉ biết thỏa mãn tự ái nhất thời không nghĩ đến hậu quả về sau ,nên tranh bị xếp vào loại khí luợng hẹp hòi, biểu thị khí phách nhỏ mọn ,do đó tranh bị coi là tà khí.

7- Cương nhi bất cô:

Nghĩa đen là cứng ,mạnh mà không lẻ loi ,nhưng ý nghĩa chính yếu ở đây chỉ loại mục quang tỏa ra ánh sáng hồn nhiên oai nghi khiến kẻ khác nhìn vào phải vị nể tưởng như sau con người của ta là cả một khối đông đảo sức mạnh vô hình chứ khôngphải chỉ là một cá nâhn đơn chiếc.

III-MỘT VÀI GIAI THOẠI :

Đời Minh, vĩnh lạc hoàng đế thường nghiên cứu tướng học với một nàh tướng học nổi tiếng là Viên Liễu Trang (tác giả bộ sách Liễu Trang tướng pháp hiện còn truyền rộng rãi) . Một hôm, trong lúc đàm đạo về Hình, Tướng con người , nhà vua nêu lên thắc mắc với nhà tướng học họ Liễu như sau :

"Trẫm thấy sách tướng nói rằng :hình hài khuyết lãm thì bần hàn Ngũ quan toàn hảo thì thông minh quý hiển. Thế thì tại sao trong triều có người làm đến thượng thư mà diện mạo lại cực kì xấu ? Lại thấy trên đời không thiếu gì những kẻ Ngũ quan tuyệt mĩ mà lại chết non ,hay mặt mày đẹp đẽ mà ngu độn ,số mạng không ra gì ?"

Liễu Trang đáp :" Người diện mạo xấu xí mà lại quý hiển là vì mục quang có thần :đi vững vàng như thuyền lớn ,không nghiêng ngả ,ngồi ổn trọng như là núi non đó là tướng đi ,đứng, nằm ,ngồi uy nghi có thần .Ngũ quan tuyệt mĩ mà chết non là vì mục quan hôn quyện ,thất thần :mắt mày xinh đẹp nhưng đó chỉ là bề ngoài còn ở trong thì khí trệ, thần hôn làm sao mà thông tuệ được.cho nên, bàn về quý hiển ,chỉ dựa vào hình àhi không đủ, mà còn phải lấy thần ,khí làm gốc."

Nhãn quang (hay mục quang cũng vậy ) con người do trời phu cho không phải muốn là được. Nhãn quang chẳng những biểu lộ ca ù tính mà còn có ảnh hưởng sâu xa tới mạng vận tử sinh của con ngừoi nữa.

Cách đây vài chục năm ,trước khi Nhật chiế mHương Cảng ,Aùo môn, tạo Aùo môn có một người chuyên làm nghề chài lưới là Trần Gia Câu .câu ỷ mình có thyuền buồm loại lớn nên thường ra tậ nđại dương câu cá vài ngày mới trở về ,số thu hoạch không thua gì các tàu đánh cá có động cơ .Trên tàu ,ngoài số ngư phủ có nuôi thêm một con khỉ rất khôn, để sớm hôm bầu bạn ,còn vợ con để lại Áo môn .

Một bữa kia ,vì số ngư phủ lành nghề bỏ đi gầ nhết ,Gia câu phải đi cùng khắp áo môn để mướn thợ mới, tình cờ gặp người quen cũ là Dương Chiếu Thản ,vốn người đồng hương ,bèn cùng nhau rủ vào quán ăn nhậu để phỉ tình tha hương ngộ cố tri .Họ Dương là kẻ vốn nòi thư hương ,lại rành nghề xem tướng ,nên trong lúc đôi bạn đàm đạo ,dương thấy sắc mặt của Gia câu chỗ thì xanh như tàu lá dừa ,chỗ thì xạm như tro tàn ,không nén được kinh di nên mới bảo rằng : " Này bạn ,tôi xem tướng thấy anh diện mạo khí sắc rất xấu ,chỉ khỏang ba tháng đổ lai tôi e rằng anh sẽ gặp tai họa rất xấu .Vậy trong thời gian ày anh không nên liều lĩnh ra khơi ,hãy chịu khó hi sinh bớt chúc lợi tức mướn thợ lưới cá về quản chủ thuyền thì may mới thoát nạn".

Gia Câu nghe xong ,nét mặt nhăn nhó nói :"Gần đây số tuh hoạch quá kém ,số thợ cũ bỏ đi .Baygiờ phần đông là thợ mới ,kinh nghiệm chưa có nếu không có người rành nghề biết hướng cá đi thì tổn thất quá nặng sợ kham không nổi".

Dương Chiếu Thản suy nghĩ hồi lâu ,xem kĩ tướng mạo của bạn rồi nói :" khí sắc của anh thật xấu nhưng may ánh mắt có thủ chân quang tức là thủ thầ nên có hi vọng thoát hiểm".

Câu nghe xong thắc mắc :" Xấu tốt là do khí sắc ,tại sao tướng khí tốt lại có thể cứu vãn được hoạn nạn?"

Dương đáp : " Tướng cách tốt thì số thọ chưa thật sự dứt ,trong thời gian đó nếu chẳng may gặp nạn thì chỉ bị kinh hiểm chứ không đến nỗi tuyệt mạng .tỷ như khí sắc trên mặt ảm đạm nhưng mắt có thầ nquang an tĩnh không bị giao động theo cùng với sắc mặt thì tuy tai họa đột nhiên xảy tới cũng vẫn vượt qua được :

Thấy Gia Câu quyết ý vì sinh k6é mà phải mạo hiểm ra khơi lần ày ,Dương nói tiếp : " Nếu như trong mấy tháng tới anh có gặp nạn mà thoát khỏi về sau đời anh sẽ có dịp phát đạt lớn. Theo tôi tốt hơn hết al2 không nên mạo hiểm ,nhưng nếu anh đã quyết tiếp tục ra khơi lâu ngày thì tôi hi vọng nhờ mắt anh báo hiệu là anh có thủ thần là sẽ hóa dữ ra lành. ".Nói xong đôi bạn chia tay.

Sau đó ,gia câu tụ tập đủ tay thợ quyết chí ra khơi ,và lần này đi rất xa bờ, hi vọng đánh được nhiều cá để gỡ lại các tổn thất trong thời gian trước. Ba tháng sau ngày giã biệt họ Dương, Câu ra khơi vẫn chưa trở lại , Dương cho là Câu đã gởi thân nơi miệng cá mất rồi ,trong lòng vô cùng thương tiếc. Nhưng khỏang bốn tháng, sau khi rời bến , Gia Câu đột nhiên xuất hiện tìm Dương Chiếu Thản cám ơn và ca tụng tướng pháp của Dương thật là vô cùng linh nghiệm.

Thực vậy, sau khi từ biệt bạn ,Gia câu ra khơi ròng rả 3 ngày đêm mới tới một nơi có nhiều cá để bổ lưới. Bất ngờ ,đúng lúc đó có cuồng phong nổi lên mà không có dấu hiệu gì ab1o trước nên mọi người bất phòng .Vì vậy , thuyền bị sóng gió làm bể nát. Gia Câu nhờ nhiều kinh nghiệm và bình tĩnh bám vào được một mảnh thuyền vỡ mà vô tình con khỉ khôn ngoan đã bám chặt vào đó hồi nào không rõ. Cả người lẫn vật bị sóng gió giạt vào một hoang đảo có rất nhiều ngọc trai .Lên đến bờ,

Câu vừa đói vừa mệt lả nên ngất đi ,một lúc tỉnh lại thấy con khỉ thân yêu đã ngồi vào cạnh với vài trái cây hoang dại. Nhờ vậy Gia câu có thực phẩm qua ngày. Từ đó. Câu khám phá ra đảo có ngọc trai nên tích luỹ được rất nhiều nhưng vô phương trở lại quê nhà chỉ còn hi vọng mỏng manh là ngày ngày dắt khỉ lên chỗ cao nấht của đảo nhìn ra khơi mong có thuyền bè qua lại để năn nỉ quá giang.

Một ngày kia, Câu và tên tiểu đồng khác giống đó đã mòn mỏ itrong việc quan sát ,sắp trở về chỗ tạm trú vì trời sắp tối thì bỗng nhiên gió tây bắc thổi mạnh ,một vật đen hiện lên ở chân trời rồi rõ dần trên mặt biển đang dao động ,Câu chú ý nhìn kĩ thì thấy đó là một chiếc thuyền câu có lẽ bĩ gãy mất bánh lái nên trôi nổi theo dòng nước ,lòng rộn ràng hi vọng và cầu ch othuyền giạt vào đảo.Quả nhiên đúng nưh vậy ,một lúc sau thuyền trôi đến gần đảo thì bị mắc cạn trên bãi cát. Gia Câu mừng quýnh, đứng lên chỗ cao lớn tiếng gọi người trong thuyền nghe tiếng thấy làm kì dị bèn rước Câu xuống thyuền .Sau khi đôi bên gạn hỏi, gia Câu mới biết đó là thuỵền đánh cá thuộc hệ thống gư phủ Aùo môn vì ra khơi quá xa bị gió lớn làm gãy bánh lái ,thổi tạt đến hoang đảo nàt ,Câu cũng bày tỏ nguồn gốc mình cho hay. Thế là cả bọn nhận nhau là người cùng xứ ,hợp tác cùng nhau sửa sang lại con thuyền bị hư hỏng rồi trở về áo môn với túi ngọc trai và con khỉ cứu tử.

Về nơi cư trú, Câu ban số ngọc trai tuh hoạch được trên đảo ,một phần nhỏ đền công cho chủ thuyền chở mình về xứ, còn bao nhiêu tậu đất xây nhà ,tao nên cơ nghiệp của một phú ông và bỏ hẳn nghề cũ.

Thời vua Thế Khải xưng đế ở Trung Hoa phản lại lời giao kết cách đây 40 năm nên gây ra cảnh nội chiến ,có một quân nhân cao cấp của chính quyền miền bắc là tứơng Lưu Hồng Tiêu tạo phản với ý định tranh bá đồ vương ,nhưng việc không thành, tài sản tiền bạc tiêu tan ,thân thể thương tích .Sau đó ,Lưu đế ncoi tướng thuật gia Liêu Trụ Thạch cho biết :tướng cách của ông do có thủ thần nên bị tai nạn mà không chết. Nhân vì mắt ông tròng đen nhiều ,lòng tắng ít lại thuần khiết phân minh mục quang sáng mà không lộ liễu, tĩnh thì an toàn khả ái, động tìh sáng rực có uy nên chung cuộc ắt là có phúc lộc rõ ràng. Hiện tại ông nên chuyển sang nông nghiệp bỏ võ thì có cơ đại phát tài.

Lưu Hồng Tiêu nghe lới ,trở về quê cũ ,tậu được vài chục mẫu ruộng trồng mía.Thực hành câu giải đáp uy điền. Quả nhiên vài năm sau đại phát và trở thành cự phú.

KHÍ

1/Thử phác hoạ ý niệm khí:

So với phần Thần ,ý niệm khí trong trong tướng học á Đông cò khó miêu tả hơn nhiều vì nó vừa có tính cách mông lung vừa có tính cách thực tiễn. Chẳng hạn khi quan sát xương cốt của một cá nhân ,ta thấy khí thế ổn trọng, dù người đó mập hay ốm, tạo một cảm giác khang kiện cho nội tạng. Hiện tượng đó được gọi là cốt khí mạnh mẽ .Nhìn vào khuôn mặt có ngũ nhạc triều quy nghĩa là trán, cằm, hia tai và lưỡng quyền phối trí hòa hợp (harmonieux) từ đó giúp ta suy ra cốt cách * của cá nhân đó mạnh hay yếu thì đấy cũng gọi là cốt khí.

Quan sát lông mày ,râu tóc ta thấy ba thứ lông đó đều tươi mát ,thanh nhân tạo ra ấn tượng ,nội tạng tốt ,nhìn Tứ đậu sáng sủa có sinh khí ,da thịt rắn chắc và ấm áp thì tất cả các dấu hiệu được coi là biểu hiện của khí tốt . Ngược lại ,lông mày ,râu tóc

vàng khô như cỏ úa ,Tứ đậu ảm đạm , da thịt lãnh lẽo mềm bệu thì ta biết ngay là khí xấu, điều đó cũng tương tự như người quan sát chất đất ,không cần phân tích chất đất chỉ cần nhìn cây cỏ mọc trên mặt đất là đủ biết đất phì nhiêu hay khô cằn.

Nghe tiếng nói của một cá nhân ta nhận biết được làn hơi của kẻ đó mạnh hay yếu qua âm thanh phát ra :có người nói tiếng rổn rảng mạnh mẽ tựa như muốn rung chuyển cả mái ngói, có kẻ rì rào như tiếng dế kêu và ta cũng thấy rằng tiếng nói to nhỏ mạnh yếu , vang đi xa ahy gần không hẳn tùy thuộc vào người tác lớn hay nhỏ, cao hay thấp mà do những nguyên do nội tạng .Nghuyên do nội tạng đặc thù của từngcon người tạo ra các trang thái âm thanh kể trên được tướng học Á Đông gọi là

nội khí của con người.

Như vậy ,khí trong nhân tướng học là phần thực tại nhưng vô hình ở trong cơ thể con người tượng trưng cho phần hoạt lực (vitaliré) tiềm ẩn có tính cách phẩm nhiều hơn lượng, phát hiện ra ngoài sự mạnh mẽ của xương cốt , sự thanh tú hay thô

trọc của râu, tóc, lông mày ,mắt mũi tai ,miệng, sự mạnh yếu của âm thanh ,sự rắn rỏi ấm áo hay lạnnh lẽo mềm bệu của da thịt.

Nói cách khác cụ thể hơn , khí trong con người có thể ví như nhựa cây nhưng đây là một thứ nhựa vô hình chu lưu bàng bạc khắp cơ thể toả ra hay thu gọn lại, mạnh mẽ hay suy yếu, thanh hay trọc ,tiến triển hay giảm thiểu tùy theo từng thời kì

từng cá nhân.

Vì hiểu vậy, người xưa co i khí là phần bản thể trong các bộ phận trong nội thể con ngườ ,nó vừa có tính cách siêu hình vừa có tính cách vật thể .

Với tính cách siêu hình , khí trong con người là một phần khí của âm Dương Ngũ hành bàng bạc trong vũ trụ hội nhập vào con người ,lúc thọ tinh kết thể ,nương vào con mà hình thành nên tượng, khiến cho ta có thể cảm thấy hay nhận thức được. Chẳng hạn khi Mạnh Tử nói : "Thiên dưỡng nhiên hao chi khí " ( ta cần phải khéo bồi dưỡng cái khí hạo nhiên của mình ),thì khí trong câu nói trên là khí tự nhiên của trời đất thể hiện nơi người ,không mấy liên hệ tới ý nghĩa vật thể mà lại nặng về phần

tiên nhiên siêu hình.

Với tính cách vật thể , khí phần nào được cụ thể hóa bằng hơi của buồng phổi ,tinh khí của con người. Aâm thanh hùng tráng trong trẻo ,khàn đục không llà do buồng phổi lớn hay nhỏ, người lớn các hay nhỏ con ,tính khí mạnh yếu khôngphải do người bề ngoài lớn hay nhỏ thó.Nguyên động lực của các âm thanh tinh khí ,theo người xưa là do khí mà ra. Bởi vậy ,hình thể khôi ngô ,hùng vĩ khỏe mạnh không hẳn là đã chứa đựng khí hùng mạnh .Ngược lại ,dưới nhãn quang tướng học á Đông, thân thể nhỏ bé không bắt buộc coi là khí yếu .

Tóm lại, khí trong nhân tướng học Á Đông là một ý niệm đặc thù dùng để chỉ cái bản thể siêu nhiên vô hình ,ta không thể dùng thị giác để nhận biết trực tiếp ,nhưng có thể nhận thức được sự hiện diện của nó nơi con người qua các tác dụng của nó hay dưới khía cạnh cấu tạo cơ thể như sự cứng cáp đắc thế hay lệch lạc của xương cốt ,sự mạng yếu của âm thanh hay dưới khía cạnh động tác này , khí luôn luôn không thể tách khỏi thần và cho ta biết được sự kiện khang của thân thể, cái cá tính

tâm hồn của con ngưòi nên thường được các tướng học gia mệnh danh là thần khí để phân biệt với hiện tượng khí đi kèm sắc để đoán cát hung, bệnh trạng (được gồm chung thành ỳ ngữ duy nhất là khí sắc). Đó là ý nghĩa của khí khi người ta nói đến sát khí , uất khí , khí phách, khí chất

II- VAI TRÒ CỦA ÂM THANH TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU KHÍ:

Như đã nói ở trên , khí trong con ngừơi biểu lộ ra ngoài dưới nhiều hkía cạnh, trong nhiều dạng thức, nhưng dễ nhận định nhầt và rộng rãi nhất là là dạng thức âm thanh. Nghe âm thanh của một cá nhân phát ra to nhỏ ,rõ ràng hay không rõ ràngg ,trong trẻo hay khàn đục, cao ahy thấp ,có sinh lực hay không ,người có cặp tay minh mẫn thường phân biệt được rất rõ.Những tính chất về phẩm âm thanh nói trên, không tùy thuộc vào lồng ngực lớn hay nhỏ ,người mập hay gầy , cao hay thấp mà do ở cách

cấu tạo nội tại tự nhiên(naturiel) của kẻ đó. Nói khác đi ,Những điễm đó do ở khí chân nguyên của mỗi cá nhân có tìm cách thiên phú ,bẩm sinh, không phải muốn có là được .Bởi nhận định như vậy, nên cổ nhân cho rằng muốn biết khí chân của người nào mạnh hay yếu ,thanh hay trọc ,dài hay ngắn ,ta chỉ cần xét âm là đủ...dưới nhãn quang y lí Đông phương ,khí chân nguyên mới là thọ căn (gốc thọ) của con người chứ không phải là hình hài, bộ vị .Cho nên ,Đạt ma đã nói :" Cầu toàn tại âm thanh" và người xưa nói :" Tướng pháp thượng thừa chủ ở âm thanh, hạ đẳng tướng cấp căn cứ vào hình htể con người " là vậy .

III- PHÂN LOẠI KHÍ :

Ta phân biệt Ba loại Khí :

a) Khí tự nhiên (chân nguyên)

Đó là phần tinh lực vô hình ,một thứ nhựa sống tiềm ẩn của con người có tính cách bẩm sinh. Nói cách khác đi , khí tự nhiên có tính cách tiên nhiên tùy theo lúc bẩm sinh, thanh trọc, cường nhược mà nó có thể mạnh hay yếu thanh trọc theo từng nội tạng của mỗi người.

b) Khí hàm dưỡng (hay tu dưỡng)

Đó là khí tiên thiên đã được gọt giũa sửa chữa theo chiều hướng cải thiện.

Dưới mắt cổ nhân, khí tiên nhiên không bất di bất dịch ,mà lại không thể chuyển biến được một phần nào. Một khi con người ý chí mạnh ý thức được sự kém cỏi tiên nhiên của thể chất thì có thể tu dưỡng để chế ngự bớt sự thô trọc hay ngăn chặn phần thô trọc và phát huy thêm phần thanh khiết, bồi bổ khí lực để ngày thêm tráng kiện.Loại khí đã được cải biến nhờ sức của con người được mệnh danh là khí hàm dưỡng .Chẳng hạn , làn hơi không được mạnh ta có thể tập cho bớt yếu ,tiếng nói quá nhanh và vấp váp ta có thể cố gắng luyện tập để nói thông thả ,gân xương lệch lạc yếu đuối có thể kiên nhẫn huấn luyện để sữa chữa phần nào .Dấu hiệu bên ngoài củ loại khí hàm dưỡng là thần khí an hòa ,tự tin ,nội tâm không bị giao động mạnh vì các biến cố bên ngoài, thanh âm ổ trạng, từ tốn. Về phép đoán tướng ,khí chất hàm dưỡng được xem là chính khí ,người luyện được chính khí là kẻ trượng phu quân tử .

c) Khí sở tập :

Khí chân nguyên tiên nhiên tốt đẹp ,khí đượcbảo trì mà buông thả khiến phần hùng kiện ,cao khiết bị tiêu ma, phần ô trọc xấu xa được dịp tăng trưởng thì gọi là Khí sở tập .Nói khác đi, có giọng nói trong trẻo ban đầu mà không gìn giữ ,trác tán ăn chơi khiến cho giọng khàn nhỏ ,xương cốt mạnh mẽ trở thành cằn cỗi suy nhợc, v.v...đều bị xếp vào loại khí sở tập. Dấu hiệu bề ngoài của khí sở tập là cư xử thô bạo , giọng nói hấp tấp buông thả .Cũng bởi loại Khí này do ngoại cảnh xấu tạo nên làm che mờ bảb chất tốt đẹp nguyên thủy hay không chịu cái tiến phần khuyết điểm của bản chất nguyên thủy cho tốt đẹp hơn ,nên bị xếp vàp loại tà khí ,tượng trưng cho hạng tiểu nhân ,tâm tính hạ tiện.

IV- TƯƠNG QUAN GIỮA KHÍ VÀ SẮC :

Khí là chất nhựa sống chu lưu trong nội tạng và phối hợp khi Aâm Dương của vũ trụ nên mắt nhìn không thấy. Bởi người ta không thể đi thẳng vào nội tạng để tìm hiểu khí mà phải quan sát gián tiếp nó qua các biểu lộ ngoại diện. Nhìn dưới nhãn quang tĩnh mà đặt nặng khía cạnh cấu tạo ta thấy giữa sắc và khí liên quan mật thiết không thể tách rời. Về đặc điểm này hầu hết đều đồng ý ở điểm sau đây:

"Khi ở trong da thịt ,xương tủy chưa biết được điều đó rõ ràng thì gọi là khí

.Khi đã định rõ được vị trí ,xét được trạng thái qua việc quan sát làn da thì gọi là sắc . Sắc và khí như vậy, bất khả phân."

Như thế ,ta thấy rõ ,dưới nhãn quang tướng học, sắc là phần ngoại biểu của khí khi quan sát bằng thị giác .Quan sát bằng thị giác dễ dàng hơn là vậy ,phần khí sắc( hiểu theo nghĩa quan sát khí sắc ) được trước tác rất nhiều và dành cho đại chúng.Thoạt kì thủy ,việc quan sát khí sắc chỉ có ý nghĩa giúp ta biết được kiện khang. Về sau ,từ các đời Tống, Nguyên người ta mới đề cập đền họa phúc ,may rỉu trong việc quan sát sắc.

SẮC

I- Ý NIỆM SẮC TRONG TƯỚNG HỌC Á ĐÔNG

Trong tướng học Á Đông từ ngữ sắc bao gồm nhiều lĩnh vực :

a) Màu da của từng cá nhân

Tướng học Á Đông là kết quả tích lũy thực tế của nhiều thế hệ ,chỉ áp dụng hco các chủng tộc Á Đông có cùng màu da căn bản là vàng ,có cơ thể và tầm vóc tương tự người Trung Hoa và cùng hcịu ảnh hưởng sâu đậm của phong tục và tập quán Trung Hoa như Cao Ly, Nhật bản ,Việt Nam.mà thôi .

Nói chung, ngưới Á Đông tuy là giống da vàng ,trong cái vàng tổng quát đó ,ta vẫn phân biệt được sắc ngăm đen như Trương Phi, sắc hung đỏ như mặt Quan Công ,sắc hơi xanh mét như Đơn hùng Tín trong truyện cổ người Trung hoa.

Về mặt vị trí quan sát. Tuy nói tổng quát là làn da nhưng trong tướng học khi nói đến da mặt ,chỗ sắc dễ thấy nhất còn các phần khác của cơ thể không mấy quan trọng.

b) Màu sắc của từng bộ vị trên khuôn mặt hay thân thể:

Trên cùng một khuôn mặt hay cùng một thân thể của một cá nhân ta thấy có nhiều loại màu đơn thuần khác nhau :

- Màu hòâøng ,màu hơi thâm đen của môi, của các chỉ tay ,vành tai.

- Màu đen hay hung hung của râu tóc ,lông mày.

- Màu trắng của lòng trắng mắt, màu nâu (ta thường gọi là đen) của tròng đen.

- Màu đỏ của các tia máu mắt. V.v...

c) Sự đậm lạt (tonalité) của từng loại màu

Cùng một loại màu, chẳng hạn như da mặt ,làn môi ta thấy có môi hồng lạt ,hồng đậm ,hồng phương trắng :cùng một loại da trắng ,ta thấy có người trắng hồng ,trắng xanh trắng ngà. Tóm lại ,sự đậm lạt của màu cũng là một thành tố của ý niệm sắc trong tướng học không thể bỏ qua được.

d) Phẩm chất của từng loại màu đơn thuần

Cùng một màu hồng của môi, má nhưng ta thấy có người môi khô, môi mọng, có người sắc da hồng nhuận, có người da khô như vỏ cây hết nhựa.

Ngoài màu đơn thuần ,ta còn có những màu phức hôp do các màu đơn thuần hợp thành. Lĩnh vực của chúng ta cũng đồng một khuôn khổ như các lĩnh vực của các đơn sắc.

Sau hết ,trên khuôn mặt của 1 cá nhân, dù màu đơn thuần hay màu phức hợp , chúng có thể biến đổi từ màu này sang màu khác hay về phẩm chất ,về độ đậm lạt ,về thành phần cấu tạo (đối với các màu phức tạp) qua thời gian. Chẳng hạn màu da trắng của một người sau 1 thời gian có thể biến thành hồng hay xanh xám :tóc có thể từ đen mướt đến hung đỏ ,cặp mằt trong xanh và làn môi tươi tắn có thể vì 1 lí do bệnh lí nào đó mà biến thành cặp mắt trắng dã lản môi đen sì.

Tóm lại, khi nói đến sắc trong tướng học là nói đến màu của các loại da, màu các bộ vị ,độ đậm lạt, phẩm chất ,sự phối hợp các màu đơn thuần thành các màu phức hợp, sự biến thiên của các màu con người từ khu vực này sang khu vực khác. Nghiên cứu về sắc tức là nghiên cứu về tất cả mọi trạng thái của các lĩnh vực nói trên, đi từ tổng quát đến chi tiết ,đơn giản đến phức tạp.Đôi khi quan sát bằng tịh giác chưa đủ còn phải vận dụng cả trực giác (intution) bén nhạy thiên phú nữa ,nhất là trong lĩnh vực quan sát phẩm chất và độ đậm lạt của màu sắc ở từng bộ vị trên con người.

II- CÁC LOẠI SẮC TRONG TƯỚNG HỌC:

Nói đến sắc là nói đến màu ,nhưng ở đây nặng về phần màu da trên khuôn mặt Tướng học Á Đông phân ra 7 loại đơn sắc :

- Màu đỏ

- Màu hồng

- Màu tía

- Màu xanh

- Màu trắng

- Màu đen

- Màu vàng

Ba màu Đỏ Hồng Tía dược tướng học ngũ hành hóa thành hỏa sắc là màu chính thức cửa 3 tháng hè ,là màu da căn bản của người loại Hỏa trong phép phân loại Ngũ hành hình tướngø .

Màu xanh thuộc Mộc ,là màu sắc chính của 3 tháng mùa xuân, màu da căn bản của người hình Mộc.

Màu trắng thuộc Kim ,là màu sắc tượng trưng cho ba tháng mùa thu ,là màu da căn bản của người hình kim.

Màu đen thuộc Thủy là màu sắc của mùa đông và là màu chíng của người hình thuỷ.

Sau cùng là vàng ,màu sắc tượng trưng ch oan lành quanh năm, là màu da căn bản của loại người hình Thổ.

a) Ý nghĩa của từng loại màu trên con người:

Theo kinh nghiệm tích luỹ lâu đời của cổ nhân ,người ta thấy bình thường mỗi một màu xuất hiện bất chợt trên các bộ vị của một cá nhân có ý nghĩa riêng biệt như sau :

- Màu Xanh chỉ về lo lắng, kinh hiểm, tật ác ,trở ngại tiểu nhân nhục nhã

- Màu Đỏ chĩ khẩu thiệt thị phi ,quan tụng, tù ngục phá tài ,tật bệnh hung tai.

- Màu Đen chĩ thủy áhc. Hao phá, mất chức chết chóc.

- Màu Trắng chỉ hình khắc thiếu phục tật bệnh.

- Màu Hồng (đôi khi là Tía) chỉ các sự ngẫu nhiên đắc tài, đắc lợi may mắn ngoài ý liệu.

- Màu Vàng chỉ vui vẻ tài lộc thăng tiến ,bình an may mắn.

Tuy vậy, các ý nghĩa trên không phải là định lệ bất di bất dịch, .Trong thực tế ,việc phân định và giải đoán ý nghĩa của sắc vô cùng phức tạp vì mỗi loại sắc có liên hệ chằng hcịt xa gần với nhiều dữ kiện khác. Sách Quy giám đã từng nói "vui buồn

may rủi đều có thể hiện lên khuôn mặt qua khí sắc.Sắc phân ra lớn nhỏ , dài ngắn ,cao thấp, rộng hẹp tùy thời cải biến hoặc xấu hoặc tốt ,hay khô hay nhuận.Khởi nguyên của khí ở ngũ tạng ,sắc bắt nguồn từ khí ,ban ngày hiện ra ơ ngoài. Cái dụng của sắc còn tuỳ theo thi72i gian ,khí hậu. Sắc hiện ra có khi lớn như sợi tóc, nhỏ như sợi lông con tằm ,dài như sợi lông ,ngắn như chiều dài hạttấm. Thế của sắc có tínhthịnh suy. Cho nên cần phải phối hợp thời gian ,khí hậu , Ngũ hành má quan sát. Trong các loại sắc ,sắc đỏ rất khó quan sát cho chính xác. Hay do nội tạng ,hỏa vượng mà mặt đỏ ,hay do đột nhiên cảm cúm mà mặt đỏ ,hay do uất ức mà mặt đỏ .Chỉ đỏ sắc tự nhiên ,thiên bẩm hay vô bệnh tật mà phát sinh ra mới thật là sắc đỏ của tướng học.Về thời gian, ít ra nó phải xuất hiện ở một bộ vị nhất định cả ngày mới có thể lấy làm căn cứ mà đáon tật bệnh cát hung ,quan gia sự vận .

Nói tóm lại, biểu ý nghĩa đậc thù của từng loại sắc chưa đủ để đoán mà còn phải lồng vào ý nghĩa đơn độc của nó vào một khung cảnh tổng quát bao gồm các yếu tố sau đây để tìm ra ý nghĩa kết hợp (résui-tante) của nó :

- Sự lớn rộng hay hẹp của một khu vực xuất hiện sắc.

- Tính cách thanh trọc của sắc

- Hư sắc hay thực sắc.

- Bộ vị xuất hiện.

- Phối hợp hay không với màu da tổng quát căn bản của từng loại người(Ngũ hành hình tướng)

- Phối hợp hay không phối hộp với màu sắc từng mùa

- Rõ ràng hay mờ ảo, thường trực hay bất chợt.

- Đơn thuần hay tạp sắc...

Chẳng hạn ,màu đen tuỳ theo định nghĩa thông dụng là một màu xấu nhưng nếu thấy xuất hiện ở người hình Thuỷ trong ba tháng mùa đông là đặc biệt lại ở Địa cát , với sắc thái tươi bóng lại là một màu tốt ,đặc biệt chủ về khang kiện và phát tài.

Màu đỏ tuy là màu chỉ về thị phi, quan tụng nhưng nếu người hình Kim trong ba tháng hè ,sắc tươi tắn không hỗn tạp mà lại hanh thông.Nếu vẫn ở cá nâhn tr6en mà trong đỏ lại pha lẫn đen thành màu huyết dụ thì lại chủ về hung hiểm khó tránh:pha lẫn màu xanh hay vàng mà vẫn thanh*(nghĩa là màu sắc tươi tốt về hình thái ) sắc thì tùy tai ương vẫn có nưhng mức độ nguy hại giảm thiểu đến tối đa ,rốt cục không có gì đáng ngại, Từ đó, ta co thể áp dụng lối suy luận trên vào các màu khác.

b) Quy tắc tổng quát về cách đoán sắc:

Trong phép đoán sắc ta không cần quá câu nệ vào ý nghĩa riêng rẽ của từng màu mà cần phải để ý đến ú nghĩa kết hợp của nó trong một bối cảnh chung.

Ngoài các yếu tố kể trên ,ta cần phải phân biệt một vài đi63m quan trọng trước khi lưu ý đến ý nghĩa của từng loại sắc .Đó là :

1- Hư sắc và thực sắc :

Hư sắc là trường hợp sắc và khí không tương hợp , chỉ có sắc hiện ra ở ngoài da, mà phía dưới da không có khí .Để hiểu ta có thể ví hư sắc với vết bùn hay một vết màu bất chợt phết lên lớthành ra nhìn vào vết bùn hay một vết màu bất chợt phết lên lớp da lên cây ,thành ra nhìn vào vết đó trên thân cây ,ta không thể biết được chất nhự chu lưu dưới lớp vỏ cây ra sao. Trường hợp này cũng còn gọi là hữu sắc vô khí .

Trái lại ,thực sắc là màu da thực sự của vỏ cây ,nó phản ánh trung thực chất vỏ câychu lưu ỡ trên lớp vỏ cây. Tùy theo chất nhựa sung mãn hay khiếm hụt, màu sắc của vỏ cũng biến chuyển theo.

Trong tướng học chỉ có thuc sắc mới đáng lưu tâm còn hư sắc không đáng kể.

2- Vương sắc trệ sắc ,hoại sắc .

Vương sắc : màu thuộc loại chính cách, sáng sủa phân bố đều khắp các bộ vị quan sát, phù hợp với thời gian tối thuận của nó.

Vương sắc đắc cách phù hợp với từng loại hình tướng là dấu hiệu tốt.

Trệ sắc: màu xuất hiện đúng chỗ ,đúng lúc nhưng phẩm chất xấu hay phân phối không đều đặn (hay lốm đốm ,hay chỗ chậm chỗ nhạt)

Trong tướng học nói đến vương sắc và trệ sắc là người ta chú ý đến màu sắc chính yếu trên khuôn mặt hay các bộ vị chính yếu.

Như danh xưng của nó , trệ sắc chủ về các loại bất tường tiềm ẩn sắp bộc phát.

- Kim trệ : da mặt hiện ra sắc trắng bệch và khô như mặt đất bị mốc là điềm báo trước về sự cùnh khốn ,ngưng trệ của của cải.

- Mộc trệ: Khuôn mặt xanh xao, u ám chủ về bệnh tật ,tai họa.

- Thủy trệ: toàn thể các bộ vị chính trên mặt ,nhất là hai tai ,mờ ảo như khối ám là dấu hiệu tiềm ẩn chủ yếu về quan trung thị phi.

- Hỏa trệ: mặt nổi mào đỏ trông khô héo la điểm hao tổn tiền bạc.

- Thổ trệ: màu da mặt vàng lốm đốm không đều, không sáng như màu nghệ khô, là triệu chứng nội tạng bệnh hoạn, công việc khó thành.

Hoại sắc : xuất hiện trái thời gian ,sai bộ vị hay pha trộn nhiều màu sắc tương khắc.

- TƯƠNG QUAN GIỮA SẮC VÀ CON NGƯỜI

a) Về mặt kiện khang:

1- nguyên tắc quan sát:

Quan sát màu da để biết một cá nhân bị bệnh cần để ý tới hai điều sau đây gọi là ngũ lị và ngũ tuyệt .

b) Ngũ kị :

- kị môi xám mà lưỡi đen

- kị yết hầu nổi màu đen hay đỏ mà ngày thường khỏa mạnh hay khi mới bị bệnh chưa thấy hai màu đó xuất hiện ở yết hầu.

- Kị sắc đen xạm hiện ra ở thiên tương và Địa các.

- Kị khóe miệng có màu vàng nghệ.

- Kị lòng bàn tay bỗng nhiên khô cằn.

Lúc chưa bị bệnh ,gặp một trong các màu trên ở các bộ vị kể trên thì chắc chắn khó tránh bị mắc bệnh,.Nếu đã bị bệnh mà phạm vào 1 hay nhiều điều cấm kị trên thì đó là dấu hiệu bệnh chuyển từ nhẹ sang nặng. Nếu phạm vào cả năm điều trên thì sác xuất càng cao hơn nữa.

D)NGŨ TUYỆT

Trong lúc bị bệnh mà gặp một trong năm tuyệt chứng sau đây thì khó mong lành , sắc càng rõ thì hậu quả càng tai hại. Nếu đồng thời hội đủ cả Ngũ tuyệt thì chắc chắn không tránh khỏi tuyệt mạng vì cả ngũ tạng điều kiệt lực.

-Tâm tuyệt: Hai môi túm cong lại, màu môi đen và khô, chủ về tim kiệt sức, bộ máy tuần hoàn sắp ngưng hoạt động.

-Can tuyệt: Bệnh nhân cứng miệng , há ra được nhưng không ngậm lại được, vành trong ,mắt hiện ra sắc đen là dấu hiệu cho biết gan đã kiệt.

-Tỳ tuyệt: Môi xám xanh mà thu hẹp lại, sắc mặt vàng vọt thê lương là dấu hiệu cho biết khí ở tỳ sắp tuyệt.

-Phế tuyệt: Mụi xạm đen, da mặt khô xạm là dấu hiệu ở phổi đã cạn.

-Thận tuyệt: Hai tai khô, xạm đen đột nhiên bị ù tai hoặc điếc hẳng, mứơu răng đổ máu và răng khô là dấu hiệu khí ở thận đã dức.

2-Các loại bệnh và dấu hiệu bệnh

Dưới đây là phần lược thuật phương pháp quan sát màu sắc một số bộ vị có thể biết dược căn nguyên phát sinh bệnh trạng cùng là dự đoán phần nào được sự chuyển biến của bệnh.

Bệnh ở tim và hệ thống tuần hoàn: Lông mày nhăn nheo, sơn căn nhỏ hẹp, hai mắt cũng như khu vực quanh mắt có khí sắc đen xạm hoặc xanh pha đen.

Bệnh ở gan; Hai tròng mắt có gân vàng pha hồng, khí sắc khô xạm

Bệnh ở khu vực tuỳ vị: Sắc mặt (bao gồm tất cả bộ vị) xanh pha vàng thuộc loại tà sắc, thần khí trì trệ, suy nhược, môi trắng bệch ăn uống kém

Bệnh ở bộ máy hô hấp: Lưỡng quyền xam đen và khô cằn, lúc móng lúc lạnh thất thường.

Bện ở thận: Sắc mặt đen xạm, đặc biệt là hai tai và trán đen hơn lúc bình thường, mục quang hôn ám.

Chứng khật khùng: Mắt lồi, tròng mắt có sắc vàng, phía dưới mắt có sắc trắng như màu đất mốc, đó là dấu hiệu kẻ có bản chất nóng nảy, mất tự chủ như Tôn Thất Thuyết trong lịch sử VIỆTNAM cuối thế kỷ 19.

Chứng thổ huyết: Sơn căn nhỏ, gày và trơ xương, mắt có sắc xanh xạm.

Chứng loạn huyết: Da mặt và tứ chi sắc vàng pha xanh và khô, râu ria đỏ như râu ngô(mà bản chất không phải là loại Hoả hình), tóc rụng nhiều.

Chứng thận suy: Phần lệ đường bị ám đen, sắc mạt ảm đạm, mắt trũng sâu là dấu hiệu của kẻ trong tuổi thanh xuân đã hoang dâm vô độ, nên thận bị suy yếu và hiện ra các khí sắc kẻ trên tại các bộ vị dẫn thượng.

Dấu hiệu bệnh nặng nhưng sẽ thoát khỏi hiểm nghèo : Mặc dầu bệnh trạng ra sao mà nhẵn quang thanh thản, linh hoạt , con ngươi đen lấy, có thần khí , chắc chắn không có gì nguy hiểm đén tính mạng.

Triệu chứng sắp chết: Hai tai, miệng (kể cả khu vực xung quanh) đều xám đen và khô, hai mắt đờ đẫn, nhãng cầu gần như ngưng đọng là dấu hiệu sắp sửa tắt thở.

Dấu hiệu sắp bị bệnh: Sơn căn xám đen, thiên đình có vết xám và lan rộng dần ra xung quanh, chuẩn đầu ám đen và khô.

h)VỀ MẶT MẠNG VẬN

1-Các trạng thái biến thiên của thời vận

Trạng thái thời vận cực thịnh: Trạng thái vận khí cực thịnh khí sắc biểu hiện vận khí cực thịnh gồm có:

-Mạng môn(ấn đường), chuẩn đầu đều hồng.

-Ấn đường sáng sủa.

-Chuẩn đầu hiện rõ màu tía nhạt pha lẫn màu vàng nhạt trông sáng láng.

-Râu ,lông mày tươi đẹp, có thần.

Có một trong các biểu hiện trên là dấu hiệu của thời vận cực thịnh.Làm quan sẽ thăng tiến, đi buôn se thu hoạch tối đa, càng hoạt động càng phát huy hảo sự.

a)Trạng thái thời vận đứng vững lâu dài: Biểu hiện bề ngoài ủa loại vận khí này là:

-Nhãn thần sung túc sáng sủa.

-Hai tai , lưỡng quyền, ấn đường, chuẩn đầu quanh năm tươi nhuận, không bị hôn ám, lòng bàn tay hồng hào mịn màng.

Có những dấu hiệu trên thì tuy diện mạo , bộu vị đôi lúc hôn ám bề ngoài nhưng ẩn hiện sắc sáng vẻ thanh ở trong là vận khí vững vàng thì sự hôn ám của các bộ vị khác trên mặc không đủ gây trở ngại cho tiến trình phát đạt.

Người có loại thời vận trên mưu sự gì cũng được toại nguyện, làm điều gì cũng có lợi.

b)Trạng thái thời vận bắt đầu tụ: Khi vận khí bắt đầu tụ sắc thì đó là dấu hiệu báo trước tài lộc sắp tới, càng hoạt động càng tốt đẹp thêm. ví dụ khi gặp các trạng thái sau:

-Sắc mặt hôn ám, nhưng gián dài, đình uý sáng sủa, có sắc hơi vàng lạt pha lẫn màu tía lạt.

-Mặt mũi trông hôn ám, nhưng nhìn kỹ thì lại có ẩn tàng tươi mịn bề trong, lòng trăng của mắt không có tia máu, râu tóc tươi đẹp, Trong trường hợp này bất kể là màu sắc gì mà kẻ tinh mắt thấy rõ là có khi sắc thì chắc chắn sắc tốt sắp phát hiện, tạo thành trạng thái thời vận toàn thịnh trong tương lai.

c)Trạng thái thời vận sắp biến chuỷên từ xấu ra tốt: Nói cho đúng , đây là loại vận khí giúp ta biến hung thành kiết, gặp dữ hoá lành, tuy gặp cảnh khó khăn nhưng rốt cuộc vẫn lước qua được. Dấu hiệu bề ngoài của trạng thái này là:

-Sắc mặt hôn ám nhưng ánh mắt sáng sủa.

-Sắc mặt xanh đen, nhưng chuẩn đầu có màu vàng lạt tuơi mịn.

-Sắc mặt đỏ nhưng có pha lẫn vàng lạt(hoặc hồng) tươi mịn.

Người có trạng thái thần sắc kể trên thì tuy gặp lúc thất bại nhưng sau đấy ,thất bại trở nên thành công, thất ý trở thành đắc ý.

d)Trạng thái thời vận bắt đầu xấu; Dấu hiệu của trạng thái vận khí bắt đầu xấu là khí sắc trên mặt không sáng sủa đều, hoặc trông sáng không ra sáng, trông hôn ám không ra hẳn hôn ám,hoặc cằm có râu trắng hiện ra, hoặc chuẩn đầu hiện ra hồng đậm thuần tuý không có màu vàng lat đi kèm.

-Thoáng trông mặt mũi rạng rỡ, nhưng nhìn kỹ thấy lác đác có vài chỗ sắc thái tạp loạn, không toàn vẹn.

- Mặt sáng nhưng hai tai và và chuẩn đầu ám đen hoặc không sáng, ánh mắt mờ yếu.

-Mặt trông sáng láng nhưng trắng bệch, không có vẻ chân khí ẩn tàng . Đây là trạng thái được tướng học mệnh danh là hữu sắc vô khí.

Gặp lọi khí sắc trên đột nhiên xuất hiện chỉ nên an phận thủ thường, không nên vọng động, cố cưỡng lại chỉ đi đến thất bại vô ích.

c)Trạng thái thời vận xấu:

-Sắc mặt thoáng trông có vẻ sáng sủa nhưng nhìn kỹ thì thấy khô và hai mắt hôn ám.

-Da mặt đen xạm khô khan.

Khí sắc biến đổi thất thường(hoặc một vài bữa, hoặc năm sáu ngày)không phải vì bệnh trạng mà tự nhiên phát hiện.

Đây là loại trạng thái khí sắc xấu nhất, tuyệt đối không nên mưu sự cầu danh trong giai đoạn có loại khí sắc kể trên xuất hiện

2-Sắc và vạn mạng qua thời gian.

a) KHÍ SẮC VÀ VẬN MẠNG THEO TỪNG MÙA :

Mùa xuân : ba tháng mùa xuân thuộc Mộc ,sắc xanh ,muốn coi vận ạmng của con người (chỉ nói về đàn ông) thì coi xương quyền bên trái.

- Quyền trái mà mùa xuân có sắc xanh thìtrước lo lắng sau vu ivẻ.

- Quyền trái về mùa xuân có sắc đỏ là tương sinh (Mộc sinh Hỏa) chủ về sự trước có tai họa khẫu thiệt sau thành sự đắc ýthỏa lòng

- Quyền trái về mùa xuân có sắc trắng là tương khắc (Kim khắc Mộc) chủ về tụng ngục ,hay tang ma trong vòng ba tháng sẽ thấy ứng nghiệm.

- Mùa xuân mà Quyền trái biến thành sắc vàng khè là điềm tương khắc( Mộc khắc Thổ) tối hung, có thể bản thân bệnh nặng hay chết ,nếu lưu niên vận hạn năm đó ,mùa đó cũng là Quyền trái.

*Ngoài ra trong ba tháng mùa xuân mà thấy :

- Mũi có màu đỏ tươi :thân mình bị tai nạn cây gẫy hay người nhà có thương tích, đổ máu vì cây gẫy.

- Sơn căn có sắc ám đen chỉ anh em gặp tai nạn, hay gia súc thất lạc ,v.v...

- Khí sắc ám đen đen mà lại lan cả lênẤn đường chủ về văn chương trì trệ.

- Khí sắc ám đen cả khu vực ,mắt chạy dài tới cả hai tai là trong nha có tang sự hay chết hụt,.

- Mắt trái sắc sáng xanh :con trai bị tai ách, mắt phải chủ là tai ách của con gái,.

- Mắt trái có sắc pha hồng mà tươi mịn ,chủ về con trai lại có tin vui, vợ có mang chủ sinh con trai, mắt phải có dấu hiệu tương tự chủ về con gái.

- Nếu đàn bà có thai mà cả hai mắt và khu vực dưới mắt đều sắc ám đen, mà lại khộng được sáng sủa thì lại là dấu hiệu thai sản khó khăn, có thể nguy hại đến tính mạng thai nhi lẫn sản phụ.

- Nếu mà trong ba tháng mùa xuân mà môi trên từ sắc thái bình thường chuyển sang sắc trắng rõ rệt là điềm báo trước ề bệnh ruột.

- Nói chung ,nếu mũi (từ chuẩn đầu đến Aán đường ) và trán về ba tháng mùa xuân có sắc sáng do màu vàng pha hồng tạo nên thì trong vòng 27-47 ngày sẽ có tin lành đưa tới (hay là tiền bạc ,nhà cử, con cái, ...)

Mùa hạ : ba tháng mùa hạ thuộc Hỏa ,sắc chính yếu của mùa hạ là màu đỏ( biến thái là màu tía màu hồng ) . Bộ vị được dùng để đoán vận khí xấu tốt trong ba tháng hè lá trán.

- Trán về ba tháng hè mà có màu sắc đỏ rõ ràng là chính cách , chủ về sụ có lôi thôi khẩu thiệt , nhưng sau đó lại trở thành tốt lành . Tướng pháp gọi đó là tỷ hòa ( Hoả gặp hoả)

- Trán về ba tháng hè có sắc xanh pha vàng là tương sinh ( Thổ mộc sinh Hoả) thì trước xấu sau tốt.

- Trán mà ba tháng h2 có sắc đen hoặc trắng là điềm bất lợi , dễ bị bệnh hoạn.

- Sắc tía hiện rỏ rệt trên trán trong khoảng thời gian này là điềm báo trước có nhiều sự bất trắc về quan tụng , đồ vật.

- Hai mắt về mùa hạ cũng như lông mày , Pháp lệnh hôn ám là thân thể bất an.

- Hai cánh mũi có sắc đen pha tía là điềm bệnh tật về khí huyết.

- Sơn căn sắc đen chủ huynh đệ có việc lôi thôi đưa đến tụng đình hoặc đồ vật thất tán.

- Thùy châu ám đen : vật tài hao tổn , vành tai mà đen xanh thì chính bản thân dễ chết vì bệnh tật tai nạn

- Nếu lưỡng huyền sắc đỏ tươi , mịn màng , từ chuẩn đầu đến tận trán có pha sắc vàng pha hồng tươi sáng là điềm báo trước mọi sự thuận lợi . Nếu tất cả các bộ vị trên bị pha xanh xám pha đen xạm là điềm trăm sự thất bại.

- Sống mũi mà đen xám nhưng chuẩn đầu tươi nhuận hồng hào thì đau ốm nhì nhằng . Nếu tất cả đều hôn ám thì khó tránh khỏi chết vì bệnh tật.

Mùa thu: ba tháng mùa thu thuộc Kim, sắc trắng là chính cách . Muốn xem vận khí mùa thu thì lấy quyền bên phải làm chuẩn.

- Quyền phải sắc hòng hoặc đen là chính cách hoặc tương sinh , trước buồn sau vui

- Chuẩn đầu trong ba tháng múa thu mà có sắc đỏ như mào gà chọi là điềm quan lộc hao tổn , tụng ngục lôi thôi.

- Phía dưới hai mắt có màu đỏ là điềm xấu về con cái. Mắt phải con gái , ngược lại là phía con trai .

- Ngư vĩ sắc đen là có tai nạn về sông nức . Sơn căn có sắcđen , mép miệng cũng hắc ám là điềm tật bệnh nội tạng.

- Nếu mũi ( từ đầu đến cuối) hơi có khí sắc vàng mà rõ là công danh , tài lợi tấn phát.

Mùa đông: Ba tháng mùa đông thuộc Thủy , tượng trưng bằng màu đen. Muốn xem vận khí trong khoảng thời gian này phải lấy Địa các làm chủ.

- Ba tháng mùa đông mà cằm có sắc đen thì trước xấu sau tốt . Có sắc xanh thì tương sinh ( Thủy sinh Mộc) kết quả tương tự.

- Cằm có sắc vàng về mùa đông chủ về tụng ngục , sắc trắng chủ chết chóc.

- Lưỡng quyền về mùa đông có sắc đen là biểu hiện tai nạn hoặc tiền bạc hao phá.

- Sơn căn sắc đen pha vàng : bất lợi về khẩu thiệt.

- án đường xanh vàng : c&##7847;u công danh sẽ thất bại , nếu có tía lẫn lộn thì phải coi chừng xe cộ sông nước.

- Dưới hai mắt có màu xanh vàng :trong vòng mười ngày có chuyện lôi thôi, có sắc đỏ là lôi thôi quan tụng , sắc vàng là tin vui.

- Đầu lông mày có sắc đỏ chủ lôi thôi về những chuyện không đâu.

- Trái lại , nếu phía dưới hai mắt có sắc vàng nhuận là điềm lành , làm việc gì cũng đạt sở nguyện.

Tuy nhiên có một điều cần lưu ý là trước khi áp dụng vận khí bốm mùa cần phải xem xét xem người đó thuộc về hình gì trong năm hình rồi áp dụng nguyên lý tương sinh tương khắc vào Ngũ hình trong Ngũ hành để ấn định tầm ảnh hưởng tổng quát tiên khởi rồi mới áp dụng vận khí bốn mùa sau. Đi ngược lại điểm khởi nguyên này , sự đoán định mất hết giá trị , đôi khi còn đưa đến kết quả ngược lại.

b) KHÍ SẮC VÀ MẠNG VẬN HÀNG THÁNG

-

* Tháng giêng ( vị trí chủ yếu ở tại cung Dần, thep Pháp lệnh phải ) , tháng giêng thì diện bộ có sắc xanh trắng hiện rõ từng điểm sáng sủa tinh khiết là sắc tốt , chủ về mạng khí đang lên.

* Tháng hai : trên tháng hai thì trên mặt cần phải hiện rõ sắc hồng tía nếu không thì sắc xanh sáng sủa hiện thành từng mảng mới là sắc tốt , vận khí hanh thông.

Xem khí sắc tháng hai thì phải xem ở cung Mão ( từ đuôi mắt phải đến khoảng giữa hai tai phải : xem hình vẽ 222)

* Tháng ba : bộ vị chủ yếu tại cung Thìn , nói khác đi đó là Thiên thương ( khoảng cuối chân mày phải đến đầu bên tai phải).

Màu vàng phương hồng : đắc cách, trắng hoặc đen rõ ràng là phá cách. Trong ba tháng màu sắc cần phải lạt . Thiên

thương đắc cách là triệu chứng tốt bị ám đen hoặc trắng là tang chế , xanh quá rõ là dấu hiệu báo trước bản thân sẽ gặp tai ách.

* Tháng tư : Khí vận tụ lại ở cung Tỵ ( khu vực từ Thái hà tới Nguyệt giác tức là từ phía trên mày phải tới mép tóc phải)

Màu tốt nất là màu hồng tía sáng sủa : chủ mọi việc tốt đẹp , khí sắc trì trệ lá bất tường.

Các màu khác đều khắc kỵ : màu đen chủ về chết chóc , xanh chủ về hình phạt , vàng chủ về thất tán, trắng chủ về ma chay.

* tháng năm : Khí vận tụ ở cung Ngọ ( khoảng từ Aán đường chạy thẳng lên mí tóc trên trán).

Màu đỏ hoặc hồng tía là khí vận tốt . Các màu khác đều biểu hiện sự thất ý , nhất là màu xanh.

* Tháng sáu : Khí vận tụ ở cung Mùi ( khoảng đầu chân mày trái tới phía trên Nhật giác)

Sắc chính trong tháng này lá cung Mùi phải có màu vàng pha tía . Nếu có sắc xanh xạm hoặc chỉ hơi hồng mà lẫn trắng trộn với nhau thì công việc trì trệ hoặc gặp tai ách.

* Tháng bảy:Khí vận tụ ở cung Thân ( khoảng cuối đuôi mày trái tới Thiên thương)

Sắc chính và tốt là sắc là sắc vàng và trắng . Kỵ pha sắc đỏ hoặc đen xạm . Nếu sắc chính là trắng pha chút màu vàng hoặc tía chụ đại cát.

* Tháng tám :Khí vận tháng tám coi tại cung Dậu ( xem hình vẽ)

Khí sắc chính là ít vàng nhiều tía , không nên có nhiều sắc hồng hoặc đỏ rõ rệt .Trong khoảng tháng tám , chẳng nhửng kỵ sắc hồng và đỏ ở cung Dậu mà còn kỵ ở bất cứ bộ vị nào nữa .

* Tháng chín : Khí vận tháng chín coi tại cung Tuất ( xem hình vẽ) Khí sắc chính là màu vàng hồng kỹ màu đỏ , xanh , đen .

Màu đen trong thời gian này chỉ tai họa . Màu vàng cần hiện ở ngoài , màu hồng thì mới tốt , ngược lại là xấu.

* Tháng mười : Khí vận tháng mười coi tại cung Hợi ( xem hình vẽ)

Màu trắng: chủ tài lộc với điều kiện sáng sủa .

Màu đỏ: tai ách.

Màu vàng : bệnh tật

Màu xamh : không may mắn về công danh sự nghiệp.

Màu sắc tốt là màu sắc đồng dạng với tháng mười . Có

* Tháng Mười một: màu xanh hoặc đen thuần túy sáng sủa là trung bình , mười một : khítối kỵ màu hồng , màu đỏ dù là từng mảng hay từng vận coi tại cung Tý chấm nhỏ cũng vậy.

* Tháng chạp : Khí vận tháng chạp coi tại cung

Sửu ( từ mép miệng phải chạy ngang má và chạy dọc xuống hạ đình)

Màu sắc chính yếu đắc thế của tháng chạp là hai màu xanh , màu vàng . Điều đáng lưu ý nhất là cả hai màu đó phải mờ ám nhưng không được ngưng trệ bởi sự xuất hiện bất chợt của các màu đen hoặc đỏ ở cung sửu.

Tuy nhiên , vì hai cung Tý , Sửu ở sát gần nhau nên ta phải phân rõ màu sắc giao liên của chúng .Tháng chạp thì cung Sửu có thể trắng nhưng cung Tý phải đen mới hợp cách.

Tóm lại , khi dựa vào khí sắc để đoán vận khí tốt xấu , cần phải nhớ các nguyên tắc căn bản sau đây :

a) Theo đúng nguyên lý vạn vật biến chuyển không ngừng , khí sắc mỗi tháng cũng biến chuyển theo từng tiết ( mỗi tháng có hai tiết , mỗi năm có 24 tiết).

- Từ mồng 1 đến 15 mỗi tháng : khí sắc tươi nhuận và rõ rệt.

- Từ 15 đến cuối tháng chỉ cần tươi nhuận nhưng phải mờ dần.

b) Sắc diện mỗi ngày ở một người vô bệnh tật cũng biến chuyển.

Buổi sáng mới thức dậy : khí sắc trong sáng , buổi trưa mạnh mẽ và buổi chiều an tĩnh .

c) Chỉ có loại khí sắc tự nhiên mới cho phép dự đoán vận hạn hàng tháng hay hàng năm mà thoi . Khí sắc hàm dưỡng hay tà khí dùng để khám phá khí phách tinh thần.

d) Khí sắc và vận mạng hàng năm ( Xem hình vẽ trên)

Cũng áp dụng nguyên tắc tương sinh , ta có thể phối hợp cách cấu tạo của bộ vị đó về hình thể với màu sắc của bộ vị đó đến biết được vận khí cá nhân năm đó tốt xấu ra sao.

Sau đây là bảng liệt kê các bộ vị tương ứng với từng năm áp dụng cho đàn ông ( riêng đối với đàn bà các bộ vị bên phải của đàn bà có ý nghĩa của các bộ vị bên trái của nam giới và ngược lại . Các bộ vị trung ương có giá trị chung cho cả nam lẫn nữ)

TUỔI TÊN BỘ VỊ VỊ TRÍ TRÊN KHUÔN MẶT

Tuổi

Tên bộ vị

Vị trí trên khuôn mặt

1,2

Tả Thiên Luân

Phía đầu tai trái

3,4

Thiên thành

Khoảng giữa tai trái

5,6,7

Thiên quách

Phần cuối tai trái

8,9,10

Hữu thiên luân

Đầu tai bên phải

11,12

Nhân luân

Khoảng giữa tai phải

13,14

Địa luân

Phần cuối tai phải

15

Thiên trung

Coi hình vẽ 223

16

Phát tế

Chân tóc trán chính giữa

17

Nhật giác

Mép tóc bên trái

18

Nguyệt giác

Mép tóc bên phải

19

Thiên đình

chính giữa trán

20

Tả phụ giác

Phần góc trán từ chân mày trái chạy thẳng lên

21

Hữu phụ giác

phần góc trán từ cuối chân mày phải đi lên

22

Tư không

Phần giữa trán ở dưới Thiên đình

23,24

Tả hữu biên thành

Hai bên phải trái của chân tóc

25

Chính trung

Phần trán ngay bên ấn đường

26

Khâu lăng

Phần xương đầu phía trên tai trái

27

Phần mô

Phần xương đầu phía trên tai phải

28

án đường

Khoảng giữa hai đầu lông mày

29,30

Tả hữu sơn lâm

Phần xương đầu hai bên sọ

31

Lăng vân

Phần trán phía trên xương lông mày trái

32

Tử khí

Phần trán phía trên xương lông mày bên phải

33

Thái hà

lông mày trái

34

Phồn hà

lông mày phải

35

Thái dương

Đầu mắt trái

36

Thái âm

Đầu mắt phải

37

Trung dương

Khoảng giữa mắt trái

38

Trung âm

Khoảng giữa mắt phải

39

Thiếu dương

Khoảng cuối mắt trái

40

Thiếu âm

Khoảng cuối mắt phải

41

Sơn căn

Phần mũi ở giữa hai mắt

42

Tinh xá

Khoảng dưới mắt trái ăn thông với mũi

43

Quang điện

Khoảng dưới mắt phải ăn thông với mũi

44

Niên thượng

Phần trên sống mũi

45

Thọ thượng

Phần dưới sống mũi

46,47

Tả hữu quyền

Quyền bên trái và quyền bên phải

48

Chuẩn đầu

Chót mũi

49

Gían đài

cánh mũi trái

50

Đình úy

Cánh mũi phải

51

Nhân trung

Vạch sâu ở dưới chuẩn đầu ăn thông với môi trên

52,53

Tả hữu tiên khố

coi hình vẽ 223

54

Thực thương

Phần kế bên trái Tả Thiên phụ

55

Lộc thương Phần bên phải

Tả Thiên phụ

56,57

Tả hữu pháp lệnh

Hai lằn sâu từ hai cánh mũi đi xuống cằm

58,59

Tả hữu phụ nhĩ

Hai phần xương sụn ở mặt che cho hai lỗ tai

60

Thủy tinh

Môi trên

61

Thừa tướng

Môi dưới

62

Tả địa khố

Hai phần bên phải và bên trái

63

Hữu địa khố

của tụng đường(xem hình vẽ)

64

Nga áp

Mép miệng bên trái

65

Ba trì

Mép miệng bên phải

66

Tả quy lai

Phần cuối pháp lệnh trái

67

Hữu quy lai

Phần cuối pháp lệnh mặt

68

Tả quy lại

Phần diện mạo ở hai bên

69

Hữu quy lại

Pháp lệnh ( xem hình vẽ )

70

Tụng đường

Phần lẹm ở ngay dưới môi dưới

71

Địa các

Phần cằm tận cùng của khuôn mặt

72

Tả nô bộc

Phần bên mặt của hai bên địa các

73

Hữu nô bộc

Phần bên mặt của hai bên địa các

74

Tử tai cốt

Phần xương má bên trái

75

Hữu tai cốt

Phần xương má bên phải

Bắt đầu từ tuổi 76 ­100 ,người ta không xem bộ vị ở phần diện tích Khuôn mặt mà lại coi các khu vực chung quanh mặt. Các khu vực này không có danh hiệu riêng như 75 bộ vị kể trên (phần có ghi số là tuổi)-ví dụ :95 năm là 95 tuổi,99 năm là 99 tuổi) .Ở tuổi thượng thọ (từ 70 trở lên) phần hình hài Bộ vị không được coi trọng mà cần phải đặc biệt lưu ý đến thần, khí sắc .Đại để thần mạnh sắc tươi khí hùng là dấu hiệu thọ khang :thần hôn, khí sắc ảm đạm Là dấu hiệu suy nhược báp trước sắp bệnh hoạn hay từ trần tùy theo mức độ nặng nhẹ.

3- Ý nghĩa từng loại sắc trên các bộ vị :

SẮC ĐEN:

- Thiên trung: hắc khí xuất hiện ở bộ vị này chủ về tai họa trên họan lộ ,hay các việc không may xảy ra ở ngoài ý đị nh của mình

- Trung chính : chủ về mưu việc không thành, nội trong 100 ngày sẽ thấy hậu quả không hay. Kẻ theo đuổi họan lộ tối kị lọai khí đen xuất hiện ở Bộ vị này.

- Dịch mã: xuất hiện ở bên trái chủ về bệnh tật ở bên tráitrong nội tạng, bên phải thì tật ở bên phải. Ngoài ra, Bộ vị này còn chủ mọi sự phá bại,tai ương.Nếu sắc đen rõ ràng thuộc loại tà sắc thì cầ nphải đề phòng tai họa sông nước. Tuy vậy, nếu sắc đen nhuận trạch và ở giữa có điểm sáng lan dàn ra xung quanh thì lại là dấu hiệu của hanh thông, nên xuất hành hay khai trương công việc .

- Mi tâm : chủ về sự bất tường liên quan tới gia vận, anh em bằng hữu .Thấy sắc đen hiện ở hai mi tâm, tốt hơn hết là không nên bảo lãnh ,cam kết dùm cho bạn bè thân tộc.

- Thiên thương : chủ về việc đi đường dễ gặp hiểm nghèo ,đồng thời cũng là dấu hiệu chỉ ông bà cha mẹ gặp bệnh tật ,rủi ro (nếu cung phụ mẫu cùng màu sắc)

- Cặp mắt : hiện ra sắc đen đột ngột chủ về tai họa do nữ giới mang lại hay liên quan đến việc giao du với nữ giới .

- Hai tai : (tai trái mệnh danh là Kim tinh, tai phải mệnh danh là Mộc tinh) hiện ra sắc đen xạm như nấm mốc là dấu hiệu gia vận bất tường, hay điềm rắc rối về pháp luật.

- Lưỡng quyền : chỉ rắc rối tr6en hoạn lộ, làm quan có thể bị mất chức hay giảm quỳen bình .Nếu Thiên trung cũng có loại khí sắc này vào loại tà sắc thì trong 40 ngày sẽ thấy ứng nghiệm .Nhược bằng thiên trung sáng sủa ,hồng nhuận thì tai họa giảm thiểu đến mức tối đa.

- Địa khố : chủ về tai họa ,tai tiếng do miệng lưỡi mang lại. Tuy vậy nếu Chuẩn đầu vàng tươi,sáng sủa và sắc đen Địa khố về 2 mùa thu và đông thì không đáng lo ngại.

- Tung đường : chỉ sự bất lợi về thủy lộ ,không nênđi thuền ,tàu thường trong thời gian có sắc thái này hiện ở tụng đường.

- Nhân trung : chủ về rủi ro tai nạn do chính bản thân hay con cái. Nếu đang bị đau ốm mà thấy sắc thái đen hiên ra ở Nhân trung thì cần cẩn trọng trong thời gian chạy chữa.

- Chuẩn đầu : chủ về tai họa sắp tới.Nếu Aán đường không ám,nhãn quan linh hoại sáng sủa thì tai họa không có hậu quả đáng kể. Thấy sắc thái đen xạm hiện lên ở chuẩn đầu cần phải hết sức giữ mình ,không nên vọng động. Cưỡng lại tất nhiên sẽ xảy ra tai ương.

- Ty lương : (Niên thượng và Thọ thượng ):chủ về bản thân hay trong nhà có bệnh .Nếu có đốm đen lâu dài thì biết ngay bản thân có bệnh kinh niên.

- Sơn căn : chủ về thời vận không tốt ,phải đề phòng việc hiếu phục với người thân trong nhà.

- án đường : chủ v&##7873; lo lắng phi thường quan trọng. Nếu ám khí lan rộng suốt bề mặt của trán là điều báo trước tai họa sắp đến.

- Môi miệng : chủ về bệnh tật nan y ,Nếu như nhãn quan xiên xẹo ,hôn ám là loại bệnh phong hay thần kinh chết.Nếu nhãn quan có thần là bệnh nội tạng hay gặp vận bi.

- Phước đường : chủ về lo lắng tang chế:sắc nhẹ thì thời gian ứng nghiệm chậm , sắc thái rõ ràng thời gian xảy ra kế cận.

- Mạng môn: thời vận trì trệ ,công việc trắc trở.

- Pháp lệnh : chủ về thọ căn bị thương tổn hay làm điều ác bị báo ứng

(nếu âm chất cung cũng xạm đen và khô mốc.

- Gian môn :bất lợi do việc giao thiệp với nữ gây ra.Nếu sắc đen chạy từ gian môn ra quyền cốt chủ về thê thiếp bất hảohay nhân vì chuyện vợ con mà mất tín nhiệm.

SẮC ĐỎ :

-ngay giữa trán : (chính ngạchh):khí sắc đỏ hiện ngay trán kể từ sát án đường tới chân tóc chủ về những trở ngại trong bước đường công danh sự nghiệp, hay tai họa do bình khí , hỏa tai mang tới.Nếu sắc khí này hiện rõ rệt và lâu dài thì trong 40 ngày sẽ thấy ừng nghiệm.

- án đường :Nếu có vvết đỏ như da bị phỏng dầu là dấu hiệu tai họa vì miệng lưỡi hay hỏa tai trong còng 100ngày sẽ thấy.

- Sơn căn :có khí sắc đỏ ám chỉ về quan tụng hay tai ương liên quan đến lửa hay là sinh đẻ khó khăn phải giải phẫu, theo từng hoàn cảnh ,nghề nghiệp của mỗi người ,Việc nhanh hay chậm tùy theo sắc thái đậm hay lạt.

- Thiên thương : nhà bị gây go ,miệng tiếng đưa đến quan tụng hay những việc kinh hiểmâû

-Lưỡng quyền : (quy𓎍n cốt) có sắc thái đỏ như màu máu đông là điềm báo trước tai họa. Đậm ,rộng thì phải đề phòng việc chết chóc vì quan tụng ,nhẹ cũng phá tán tiền bạc ,lo lắng khổ cực về tinh thần.

- Nhân trung : rõ và rộng sắc khô thì buồn lo, mờ ảo và hẹp tìh lo lắng ít.

-Thừa tương :có kẻ ttiểu nhân làm phiền ,sinh ra lo lắng ,buồn bực.

- Địa các : chủ về cạnh tranh lời ăn tiếng nói mà sinh ra hao tốn tiền của hay tiền vận trì trệ tuỳ theo sự liên quan tới các bội khác.

- Địa khố : về bệnh trạng xung huyết ,cùng lúc với việc quan tụng cùng nghĩa với khí sắc xuất hiện ở Địa các.

- Chuẩn đầu : là khu vực đại kị ( trừ người Hỏa hình chính cách) đối với các người thuộc hình kim, Mộc, Thuỷ và Thổ, và không ở trong ba tháng mùa hạ. Khí sắc đỏ thuộc tà sắc ở chuẩn đầu xuất hiện đồng thời ở cả lưỡng quyền chủ về nhà tan người mất. Tuy nhiên với điều kiện là lan tràn đều và rõ ở khắp diện tích thuộc Chuẩn đầu và lưỡng quyền mới có hậu quả tai hoạ như trên. Nếu chỉ là tản sắc thì không đáng lo ngại nhiều.

-Mạng môn: chủ về hao tốn của cải hoặc bị người khác làm hại.

Ty lương: Chủ về bệnh tật của máu huýet quá khẩn trương đồng thời cũng là tại hoạ có tính cách do khẩu thiệt mang lại.

-Mi tâm:Chỉ dấu của sự lo buồn và anh em, thân quyến hoặc bạn bè làm liên luỵ đến mình.

Dịch mã: Chủ xuất ngoại thường gặp tai ách về lửa hoặc là cạnh tranh miệng lươĩ.

*SẮC XANH

-Chính trung: Xuất hiện không đúng lúc và đúng với loại hình người là dấu hiệu của người làm quan hay giữ chức vụ bị giáng cấp hay tù tội vì công việc đàng hành xử.

-Nhật, Nguyệt giác:Dáu hiệu của bệnh tật, nặng nhẹ tuỳ theo mức độ của sắc thái xẫm hay lạt.

-Dịch mã:Chủ về những rủi ro , tai nạn trong lúc đi đường hoặc xuất du ra khỏi địa phương của mình.

-ẤN đường: Xanh xạm chủ về các tai ương hao tổn đến xe ngựa. gia súc.

-Mi tâm: Thời vận trì trệ, anh em quyến thuộc gặp tai ách.

-Sơn căn :Hiện sắc xanh ảm đạm cần phải đề phòng bệnh tật, một khi bị đau thì bệnh trang kéo dài. Nếu vốn đã có bệnh thì bệnh đó còn lâu mới hết.

-Gian môn; Chủ về vợ gặp bệnh tật, nếu vợ có thai sắp sinh phải lưu ý đề phòng.

-Lưỡng quyền: Chủ về gia vận không được thuận lợi và có mối lo do việc thưa kiện gây ra tỷ như dùng người giúp việc gặp kẻ bất trung, bảo lãnh nhầm cho kẻ quen mà mình phải gánh chịu lấy hạu quả do kẻ đó gây ra.

-Niên thọ: Chủ về đại bại, tiêu ma sự nghiệp.Nếu gặp sắc xanh rõ rệt hiện ở sống mũi thì không bệnh tật tốn hoa tiền cũng do việc khác gây ra tổn thiệt nên tuyệt đối chớ nên vọng động trong thời gian này.

-Nhân trung:Chủ về beenhj tật báo trước điềm do việc ăn uống cẩu thả hay dâm dục thái quá gây ra.

-Địa khố: Chủ về tai ương hoặc là đi đường thất lợi ,hoặc là gia súc nui trong nhà bị hao hụt.

-Địa các: Cùng ý nghĩa như gặp sắc xanh ở Địa khố nhưng con thêm ý nghĩa là cộng tác với người ngoài sẽ gặp thất lợi.

-Chuẩn đầu; Chủ về đại hoạ liên quan đến tiền bạc và sinh mạng. Nhẹ thì hao tổn tài sản, nặng thì có thể người chết, tan cưa nát nhà.

-Hải giác; Chủ về do tai hoạ ăn uống gây ra, đồng thời cũng là dấu hiệu của việc đi đường thuỷ gặp nhiêu bất trắc.

Nếu thấy hiện lên đồng thời ở cả Hải giác lẫn Địa khố thì phải đặc biệt lưu ý đến viẹc phòng tai hoạ về ẩm thực.Nếu thấy đồng thời sắc xanh xuất hiện ở cả Hải giác lẫn Nhân trung phảib lưu tâm đến rũi ro sông nước trong lúc đi đường.

-Mạng môn; Chủ về thời vận trì trệ không được hanh thông, bệnh tật tốn tiền hại sức, hay gặp lo buồn.

-Lệ đường: Sắc xanh ảm đạm khô khan chủ về hoạt động bị tiểu nhân phá hoại ngầm hoặc đi xa gặp kẻ ngăn cản.Trái lại gặp sắc xanh tươi nhuận, khí sắc toàn diện rõ ràng, nếu có vợ hoặc chính đương sự là phụ nữ thì lại chủ về có tin vui thai sản.Lệ đường bên trái chủ về sinh con trai,bên phải con gái.Tuy nhiên cần phải phối hợp với khí sắc của ấn đường mới thêm phần chính sát.

- Thiên đường : gặp lo lắng buồn phiền bất trác.

- Phước đường : bị tiểu nhân hãm hại trong công việc làm quan cũng như bị đồng nghiệp gièm pha, đi buôn bị bạn bè tranh thương bất chính khiến rắc rối .

SẮC TRẮNG :

- Thiên đình : thiên đình có sắc trắng đục, tối; là chỉ sự ha otổn tiền bạl hay các loại kh&aacut

- TƯƠNG QUAN GIỮA SẮC VÀ CON NGƯỜI

a) Về mặt kiện khang:

1- nguyên tắc quan sát:

Quan sát màu da để biết một cá nhân bị bệnh cần để ý tới hai điều sau đây gọi là ngũ lị và ngũ tuyệt .

b) Ngũ kị :

- kị môi xám mà lưỡi đen

- kị yết hầu nổi màu đen hay đỏ mà ngày thường khỏa mạnh hay khi mới bị bệnh chưa thấy hai màu đó xuất hiện ở yết hầu.

- Kị sắc đen xạm hiện ra ở thiên tương và Địa các.

- Kị khóe miệng có màu vàng nghệ.

- Kị lòng bàn tay bỗng nhiên khô cằn.

Lúc chưa bị bệnh ,gặp một trong các màu trên ở các bộ vị kể trên thì chắc chắn khó tránh bị mắc bệnh,.Nếu đã bị bệnh mà phạm vào 1 hay nhiều điều cấm kị trên thì đó là dấu hiệu bệnh chuyển từ nhẹ sang nặng. Nếu phạm vào cả năm điều trên thì sác xuất càng cao hơn nữa.

D)NGŨ TUYỆT

Trong lúc bị bệnh mà gặp một trong năm tuyệt chứng sau đây thì khó mong lành , sắc càng rõ thì hậu quả càng tai hại. Nếu đồng thời hội đủ cả Ngũ tuyệt thì chắc chắn không tránh khỏi tuyệt mạng vì cả ngũ tạng điều kiệt lực.

-Tâm tuyệt: Hai môi túm cong lại, màu môi đen và khô, chủ về tim kiệt sức, bộ máy tuần hoàn sắp ngưng hoạt động.

-Can tuyệt: Bệnh nhân cứng miệng , há ra được nhưng không ngậm lại được, vành trong ,mắt hiện ra sắc đen là dấu hiệu cho biết gan đã kiệt.

-Tỳ tuyệt: Môi xám xanh mà thu hẹp lại, sắc mặt vàng vọt thê lương là dấu hiệu cho biết khí ở tỳ sắp tuyệt.

-Phế tuyệt: Mụi xạm đen, da mặt khô xạm là dấu hiệu ở phổi đã cạn.

-Thận tuyệt: Hai tai khô, xạm đen đột nhiên bị ù tai hoặc điếc hẳng, mứơu răng đổ máu và răng khô là dấu hiệu khí ở thận đã dức.

2-Các loại bệnh và dấu hiệu bệnh

Dưới đây là phần lược thuật phương pháp quan sát màu sắc một số bộ vị có thể biết dược căn nguyên phát sinh bệnh trạng cùng là dự đoán phần nào được sự chuyển biến của bệnh.

Bệnh ở tim và hệ thống tuần hoàn: Lông mày nhăn nheo, sơn căn nhỏ hẹp, hai mắt cũng như khu vực quanh mắt có khí sắc đen xạm hoặc xanh pha đen.

Bệnh ở gan; Hai tròng mắt có gân vàng pha hồng, khí sắc khô xạm

Bệnh ở khu vực tuỳ vị: Sắc mặt (bao gồm tất cả bộ vị) xanh pha vàng thuộc loại tà sắc, thần khí trì trệ, suy nhược, môi trắng bệch ăn uống kém

Bệnh ở bộ máy hô hấp: Lưỡng quyền xam đen và khô cằn, lúc móng lúc lạnh thất thường.

Bện ở thận: Sắc mặt đen xạm, đặc biệt là hai tai và trán đen hơn lúc bình thường, mục quang hôn ám.

Chứng khật khùng: Mắt lồi, tròng mắt có sắc vàng, phía dưới mắt có sắc trắng như màu đất mốc, đó là dấu hiệu kẻ có bản chất nóng nảy, mất tự chủ như Tôn Thất Thuyết trong lịch sử VIỆTNAM cuối thế kỷ 19.

Chứng thổ huyết: Sơn căn nhỏ, gày và trơ xương, mắt có sắc xanh xạm.

Chứng loạn huyết: Da mặt và tứ chi sắc vàng pha xanh và khô, râu ria đỏ như râu ngô(mà bản chất không phải là loại Hoả hình), tóc rụng nhiều.

Chứng thận suy: Phần lệ đường bị ám đen, sắc mạt ảm đạm, mắt trũng sâu là dấu hiệu của kẻ trong tuổi thanh xuân đã hoang dâm vô độ, nên thận bị suy yếu và hiện ra các khí sắc kẻ trên tại các bộ vị dẫn thượng.

Dấu hiệu bệnh nặng nhưng sẽ thoát khỏi hiểm nghèo : Mặc dầu bệnh trạng ra sao mà nhẵn quang thanh thản, linh hoạt , con ngươi đen lấy, có thần khí , chắc chắn không có gì nguy hiểm đén tính mạng.

Triệu chứng sắp chết: Hai tai, miệng (kể cả khu vực xung quanh) đều xám đen và khô, hai mắt đờ đẫn, nhãng cầu gần như ngưng đọng là dấu hiệu sắp sửa tắt thở.

Dấu hiệu sắp bị bệnh: Sơn căn xám đen, thiên đình có vết xám và lan rộng dần ra xung quanh, chuẩn đầu ám đen và khô.

h)VỀ MẶT MẠNG VẬN

1-Các trạng thái biến thiên của thời vận

Trạng thái thời vận cực thịnh: Trạng thái vận khí cực thịnh khí sắc biểu hiện vận khí cực thịnh gồm có:

-Mạng môn(ấn đường), chuẩn đầu đều hồng.

-Ấn đường sáng sủa.

-Chuẩn đầu hiện rõ màu tía nhạt pha lẫn màu vàng nhạt trông sáng láng.

-Râu ,lông mày tươi đẹp, có thần.

Có một trong các biểu hiện trên là dấu hiệu của thời vận cực thịnh.Làm quan sẽ thăng tiến, đi buôn se thu hoạch tối đa, càng hoạt động càng phát huy hảo sự.

a)Trạng thái thời vận đứng vững lâu dài: Biểu hiện bề ngoài ủa loại vận khí này là:

-Nhãn thần sung túc sáng sủa.

-Hai tai , lưỡng quyền, ấn đường, chuẩn đầu quanh năm tươi nhuận, không bị hôn ám, lòng bàn tay hồng hào mịn màng.

Có những dấu hiệu trên thì tuy diện mạo , bộu vị đôi lúc hôn ám bề ngoài nhưng ẩn hiện sắc sáng vẻ thanh ở trong là vận khí vững vàng thì sự hôn ám của các bộ vị khác trên mặc không đủ gây trở ngại cho tiến trình phát đạt.

Người có loại thời vận trên mưu sự gì cũng được toại nguyện, làm điều gì cũng có lợi.

b)Trạng thái thời vận bắt đầu tụ: Khi vận khí bắt đầu tụ sắc thì đó là dấu hiệu báo trước tài lộc sắp tới, càng hoạt động càng tốt đẹp thêm. ví dụ khi gặp các trạng thái sau:

-Sắc mặt hôn ám, nhưng gián dài, đình uý sáng sủa, có sắc hơi vàng lạt pha lẫn màu tía lạt.

-Mặt mũi trông hôn ám, nhưng nhìn kỹ thì lại có ẩn tàng tươi mịn bề trong, lòng trăng của mắt không có tia máu, râu tóc tươi đẹp, Trong trường hợp này bất kể là màu sắc gì mà kẻ tinh mắt thấy rõ là có khi sắc thì chắc chắn sắc tốt sắp phát hiện, tạo thành trạng thái thời vận toàn thịnh trong tương lai.

c)Trạng thái thời vận sắp biến chuỷên từ xấu ra tốt: Nói cho đúng , đây là loại vận khí giúp ta biến hung thành kiết, gặp dữ hoá lành, tuy gặp cảnh khó khăn nhưng rốt cuộc vẫn lước qua được. Dấu hiệu bề ngoài của trạng thái này là:

-Sắc mặt hôn ám nhưng ánh mắt sáng sủa.

-Sắc mặt xanh đen, nhưng chuẩn đầu có màu vàng lạt tuơi mịn.

-Sắc mặt đỏ nhưng có pha lẫn vàng lạt(hoặc hồng) tươi mịn.

Người có trạng thái thần sắc kể trên thì tuy gặp lúc thất bại nhưng sau đấy ,thất bại trở nên thành công, thất ý trở thành đắc ý.

d)Trạng thái thời vận bắt đầu xấu; Dấu hiệu của trạng thái vận khí bắt đầu xấu là khí sắc trên mặt không sáng sủa đều, hoặc trông sáng không ra sáng, trông hôn ám không ra hẳn hôn ám,hoặc cằm có râu trắng hiện ra, hoặc chuẩn đầu hiện ra hồng đậm thuần tuý không có màu vàng lat đi kèm.

-Thoáng trông mặt mũi rạng rỡ, nhưng nhìn kỹ thấy lác đác có vài chỗ sắc thái tạp loạn, không toàn vẹn.

- Mặt sáng nhưng hai tai và và chuẩn đầu ám đen hoặc không sáng, ánh mắt mờ yếu.

-Mặt trông sáng láng nhưng trắng bệch, không có vẻ chân khí ẩn tàng . Đây là trạng thái được tướng học mệnh danh là hữu sắc vô khí.

Gặp lọi khí sắc trên đột nhiên xuất hiện chỉ nên an phận thủ thường, không nên vọng động, cố cưỡng lại chỉ đi đến thất bại vô ích.

c)Trạng thái thời vận xấu:

-Sắc mặt thoáng trông có vẻ sáng sủa nhưng nhìn kỹ thì thấy khô và hai mắt hôn ám.

-Da mặt đen xạm khô khan.

Khí sắc biến đổi thất thường(hoặc một vài bữa, hoặc năm sáu ngày)không phải vì bệnh trạng mà tự nhiên phát hiện.

Đây là loại trạng thái khí sắc xấu nhất, tuyệt đối không nên mưu sự cầu danh trong giai đoạn có loại khí sắc kể trên xuất hiện

2-Sắc và vạn mạng qua thời gian.

a) KHÍ SẮC VÀ VẬN MẠNG THEO TỪNG MÙA :

Mùa xuân : ba tháng mùa xuân thuộc Mộc ,sắc xanh ,muốn coi vận ạmng của con người (chỉ nói về đàn ông) thì coi xương quyền bên trái.

- Quyền trái mà mùa xuân có sắc xanh thìtrước lo lắng sau vu ivẻ.

- Quyền trái về mùa xuân có sắc đỏ là tương sinh (Mộc sinh Hỏa) chủ về sự trước có tai họa khẫu thiệt sau thành sự đắc ýthỏa lòng

- Quyền trái về mùa xuân có sắc trắng là tương khắc (Kim khắc Mộc) chủ về tụng ngục ,hay tang ma trong vòng ba tháng sẽ thấy ứng nghiệm.

- Mùa xuân mà Quyền trái biến thành sắc vàng khè là điềm tương khắc( Mộc khắc Thổ) tối hung, có thể bản thân bệnh nặng hay chết ,nếu lưu niên vận hạn năm đó ,mùa đó cũng là Quyền trái.

*Ngoài ra trong ba tháng mùa xuân mà thấy :

- Mũi có màu đỏ tươi :thân mình bị tai nạn cây gẫy hay người nhà có thương tích, đổ máu vì cây gẫy.

- Sơn căn có sắc ám đen chỉ anh em gặp tai nạn, hay gia súc thất lạc ,v.v...

- Khí sắc ám đen đen mà lại lan cả lênẤn đường chủ về văn chương trì trệ.

- Khí sắc ám đen cả khu vực ,mắt chạy dài tới cả hai tai là trong nha có tang sự hay chết hụt,.

- Mắt trái sắc sáng xanh :con trai bị tai ách, mắt phải chủ là tai ách của con gái,.

- Mắt trái có sắc pha hồng mà tươi mịn ,chủ về con trai lại có tin vui, vợ có mang chủ sinh con trai, mắt phải có dấu hiệu tương tự chủ về con gái.

- Nếu đàn bà có thai mà cả hai mắt và khu vực dưới mắt đều sắc ám đen, mà lại khộng được sáng sủa thì lại là dấu hiệu thai sản khó khăn, có thể nguy hại đến tính mạng thai nhi lẫn sản phụ.

- Nếu mà trong ba tháng mùa xuân mà môi trên từ sắc thái bình thường chuyển sang sắc trắng rõ rệt là điềm báo trước ề bệnh ruột.

- Nói chung ,nếu mũi (từ chuẩn đầu đến Aán đường ) và trán về ba tháng mùa xuân có sắc sáng do màu vàng pha hồng tạo nên thì trong vòng 27-47 ngày sẽ có tin lành đưa tới (hay là tiền bạc ,nhà cử, con cái, ...)

Mùa hạ : ba tháng mùa hạ thuộc Hỏa ,sắc chính yếu của mùa hạ là màu đỏ( biến thái là màu tía màu hồng ) . Bộ vị được dùng để đoán vận khí xấu tốt trong ba tháng hè lá trán.

- Trán về ba tháng hè mà có màu sắc đỏ rõ ràng là chính cách , chủ về sụ có lôi thôi khẩu thiệt , nhưng sau đó lại trở thành tốt lành . Tướng pháp gọi đó là tỷ hòa ( Hoả gặp hoả)

- Trán về ba tháng hè có sắc xanh pha vàng là tương sinh ( Thổ mộc sinh Hoả) thì trước xấu sau tốt.

- Trán mà ba tháng h2 có sắc đen hoặc trắng là điềm bất lợi , dễ bị bệnh hoạn.

- Sắc tía hiện rỏ rệt trên trán trong khoảng thời gian này là điềm báo trước có nhiều sự bất trắc về quan tụng , đồ vật.

- Hai mắt về mùa hạ cũng như lông mày , Pháp lệnh hôn ám là thân thể bất an.

- Hai cánh mũi có sắc đen pha tía là điềm bệnh tật về khí huyết.

- Sơn căn sắc đen chủ huynh đệ có việc lôi thôi đưa đến tụng đình hoặc đồ vật thất tán.

- Thùy châu ám đen : vật tài hao tổn , vành tai mà đen xanh thì chính bản thân dễ chết vì bệnh tật tai nạn

- Nếu lưỡng huyền sắc đỏ tươi , mịn màng , từ chuẩn đầu đến tận trán có pha sắc vàng pha hồng tươi sáng là điềm báo trước mọi sự thuận lợi . Nếu tất cả các bộ vị trên bị pha xanh xám pha đen xạm là điềm trăm sự thất bại.

- Sống mũi mà đen xám nhưng chuẩn đầu tươi nhuận hồng hào thì đau ốm nhì nhằng . Nếu tất cả đều hôn ám thì khó tránh khỏi chết vì bệnh tật.

Mùa thu: ba tháng mùa thu thuộc Kim, sắc trắng là chính cách . Muốn xem vận khí mùa thu thì lấy quyền bên phải làm chuẩn.

- Quyền phải sắc hòng hoặc đen là chính cách hoặc tương sinh , trước buồn sau vui

- Chuẩn đầu trong ba tháng múa thu mà có sắc đỏ như mào gà chọi là điềm quan lộc hao tổn , tụng ngục lôi thôi.

- Phía dưới hai mắt có màu đỏ là điềm xấu về con cái. Mắt phải con gái , ngược lại là phía con trai .

- Ngư vĩ sắc đen là có tai nạn về sông nức . Sơn căn có sắcđen , mép miệng cũng hắc ám là điềm tật bệnh nội tạng.

- Nếu mũi ( từ đầu đến cuối) hơi có khí sắc vàng mà rõ là công danh , tài lợi tấn phát.

Mùa đông: Ba tháng mùa đông thuộc Thủy , tượng trưng bằng màu đen. Muốn xem vận khí trong khoảng thời gian này phải lấy Địa các làm chủ.

- Ba tháng mùa đông mà cằm có sắc đen thì trước xấu sau tốt . Có sắc xanh thì tương sinh ( Thủy sinh Mộc) kết quả tương tự.

- Cằm có sắc vàng về mùa đông chủ về tụng ngục , sắc trắng chủ chết chóc.

- Lưỡng quyền về mùa đông có sắc đen là biểu hiện tai nạn hoặc tiền bạc hao phá.

- Sơn căn sắc đen pha vàng : bất lợi về khẩu thiệt.

- án đường xanh vàng : c&##7847;u công danh sẽ thất bại , nếu có tía lẫn lộn thì phải coi chừng xe cộ sông nước.

- Dưới hai mắt có màu xanh vàng :trong vòng mười ngày có chuyện lôi thôi, có sắc đỏ là lôi thôi quan tụng , sắc vàng là tin vui.

- Đầu lông mày có sắc đỏ chủ lôi thôi về những chuyện không đâu.

- Trái lại , nếu phía dưới hai mắt có sắc vàng nhuận là điềm lành , làm việc gì cũng đạt sở nguyện.

Tuy nhiên có một điều cần lưu ý là trước khi áp dụng vận khí bốm mùa cần phải xem xét xem người đó thuộc về hình gì trong năm hình rồi áp dụng nguyên lý tương sinh tương khắc vào Ngũ hình trong Ngũ hành để ấn định tầm ảnh hưởng tổng quát tiên khởi rồi mới áp dụng vận khí bốn mùa sau. Đi ngược lại điểm khởi nguyên này , sự đoán định mất hết giá trị , đôi khi còn đưa đến kết quả ngược lại.

b) KHÍ SẮC VÀ MẠNG VẬN HÀNG THÁNG

-

* Tháng giêng ( vị trí chủ yếu ở tại cung Dần, thep Pháp lệnh phải ) , tháng giêng thì diện bộ có sắc xanh trắng hiện rõ từng điểm sáng sủa tinh khiết là sắc tốt , chủ về mạng khí đang lên.

* Tháng hai : trên tháng hai thì trên mặt cần phải hiện rõ sắc hồng tía nếu không thì sắc xanh sáng sủa hiện thành từng mảng mới là sắc tốt , vận khí hanh thông.

Xem khí sắc tháng hai thì phải xem ở cung Mão ( từ đuôi mắt phải đến khoảng giữa hai tai phải : xem hình vẽ 222)

* Tháng ba : bộ vị chủ yếu tại cung Thìn , nói khác đi đó là Thiên thương ( khoảng cuối chân mày phải đến đầu bên tai phải).

Màu vàng phương hồng : đắc cách, trắng hoặc đen rõ ràng là phá cách. Trong ba tháng màu sắc cần phải lạt . Thiên

thương đắc cách là triệu chứng tốt bị ám đen hoặc trắng là tang chế , xanh quá rõ là dấu hiệu báo trước bản thân sẽ gặp tai ách.

* Tháng tư : Khí vận tụ lại ở cung Tỵ ( khu vực từ Thái hà tới Nguyệt giác tức là từ phía trên mày phải tới mép tóc phải)

Màu tốt nất là màu hồng tía sáng sủa : chủ mọi việc tốt đẹp , khí sắc trì trệ lá bất tường.

Các màu khác đều khắc kỵ : màu đen chủ về chết chóc , xanh chủ về hình phạt , vàng chủ về thất tán, trắng chủ về ma chay.

* tháng năm : Khí vận tụ ở cung Ngọ ( khoảng từ Aán đường chạy thẳng lên mí tóc trên trán).

Màu đỏ hoặc hồng tía là khí vận tốt . Các màu khác đều biểu hiện sự thất ý , nhất là màu xanh.

* Tháng sáu : Khí vận tụ ở cung Mùi ( khoảng đầu chân mày trái tới phía trên Nhật giác)

Sắc chính trong tháng này lá cung Mùi phải có màu vàng pha tía . Nếu có sắc xanh xạm hoặc chỉ hơi hồng mà lẫn trắng trộn với nhau thì công việc trì trệ hoặc gặp tai ách.

* Tháng bảy:Khí vận tụ ở cung Thân ( khoảng cuối đuôi mày trái tới Thiên thương)

Sắc chính và tốt là sắc là sắc vàng và trắng . Kỵ pha sắc đỏ hoặc đen xạm . Nếu sắc chính là trắng pha chút màu vàng hoặc tía chụ đại cát.

* Tháng tám :Khí vận tháng tám coi tại cung Dậu ( xem hình vẽ)

Khí sắc chính là ít vàng nhiều tía , không nên có nhiều sắc hồng hoặc đỏ rõ rệt .Trong khoảng tháng tám , chẳng nhửng kỵ sắc hồng và đỏ ở cung Dậu mà còn kỵ ở bất cứ bộ vị nào nữa .

* Tháng chín : Khí vận tháng chín coi tại cung Tuất ( xem hình vẽ) Khí sắc chính là màu vàng hồng kỹ màu đỏ , xanh , đen .

Màu đen trong thời gian này chỉ tai họa . Màu vàng cần hiện ở ngoài , màu hồng thì mới tốt , ngược lại là xấu.

* Tháng mười : Khí vận tháng mười coi tại cung Hợi ( xem hình vẽ)

Màu trắng: chủ tài lộc với điều kiện sáng sủa .

Màu đỏ: tai ách.

Màu vàng : bệnh tật

Màu xamh : không may mắn về công danh sự nghiệp.

Màu sắc tốt là màu sắc đồng dạng với tháng mười . Có

* Tháng Mười một: màu xanh hoặc đen thuần túy sáng sủa là trung bình , mười một : khítối kỵ màu hồng , màu đỏ dù là từng mảng hay từng vận coi tại cung Tý chấm nhỏ cũng vậy.

* Tháng chạp : Khí vận tháng chạp coi tại cung

Sửu ( từ mép miệng phải chạy ngang má và chạy dọc xuống hạ đình)

Màu sắc chính yếu đắc thế của tháng chạp là hai màu xanh , màu vàng . Điều đáng lưu ý nhất là cả hai màu đó phải mờ ám nhưng không được ngưng trệ bởi sự xuất hiện bất chợt của các màu đen hoặc đỏ ở cung sửu.

Tuy nhiên , vì hai cung Tý , Sửu ở sát gần nhau nên ta phải phân rõ màu sắc giao liên của chúng .Tháng chạp thì cung Sửu có thể trắng nhưng cung Tý phải đen mới hợp cách.

Tóm lại , khi dựa vào khí sắc để đoán vận khí tốt xấu , cần phải nhớ các nguyên tắc căn bản sau đây :

a) Theo đúng nguyên lý vạn vật biến chuyển không ngừng , khí sắc mỗi tháng cũng biến chuyển theo từng tiết ( mỗi tháng có hai tiết , mỗi năm có 24 tiết).

- Từ mồng 1 đến 15 mỗi tháng : khí sắc tươi nhuận và rõ rệt.

- Từ 15 đến cuối tháng chỉ cần tươi nhuận nhưng phải mờ dần.

b) Sắc diện mỗi ngày ở một người vô bệnh tật cũng biến chuyển.

Buổi sáng mới thức dậy : khí sắc trong sáng , buổi trưa mạnh mẽ và buổi chiều an tĩnh .

c) Chỉ có loại khí sắc tự nhiên mới cho phép dự đoán vận hạn hàng tháng hay hàng năm mà thoi . Khí sắc hàm dưỡng hay tà khí dùng để khám phá khí phách tinh thần.

d) Khí sắc và vận mạng hàng năm ( Xem hình vẽ trên)

Cũng áp dụng nguyên tắc tương sinh , ta có thể phối hợp cách cấu tạo của bộ vị đó về hình thể với màu sắc của bộ vị đó đến biết được vận khí cá nhân năm đó tốt xấu ra sao.

Sau đây là bảng liệt kê các bộ vị tương ứng với từng năm áp dụng cho đàn ông ( riêng đối với đàn bà các bộ vị bên phải của đàn bà có ý nghĩa của các bộ vị bên trái của nam giới và ngược lại . Các bộ vị trung ương có giá trị chung cho cả nam lẫn nữ)

TUỔI TÊN BỘ VỊ VỊ TRÍ TRÊN KHUÔN MẶT

Tuổi

Tên bộ vị

Vị trí trên khuôn mặt

1,2

Tả Thiên Luân

Phía đầu tai trái

3,4

Thiên thành

Khoảng giữa tai trái

5,6,7

Thiên quách

Phần cuối tai trái

8,9,10

Hữu thiên luân

Đầu tai bên phải

11,12

Nhân luân

Khoảng giữa tai phải

13,14

Địa luân

Phần cuối tai phải

15

Thiên trung

Coi hình vẽ 223

16

Phát tế

Chân tóc trán chính giữa

17

Nhật giác

Mép tóc bên trái

18

Nguyệt giác

Mép tóc bên phải

19

Thiên đình

chính giữa trán

20

Tả phụ giác

Phần góc trán từ chân mày trái chạy thẳng lên

21

Hữu phụ giác

phần góc trán từ cuối chân mày phải đi lên

22

Tư không

Phần giữa trán ở dưới Thiên đình

23,24

Tả hữu biên thành

Hai bên phải trái của chân tóc

25

Chính trung

Phần trán ngay bên ấn đường

26

Khâu lăng

Phần xương đầu phía trên tai trái

27

Phần mô

Phần xương đầu phía trên tai phải

28

án đường

Khoảng giữa hai đầu lông mày

29,30

Tả hữu sơn lâm

Phần xương đầu hai bên sọ

31

Lăng vân

Phần trán phía trên xương lông mày trái

32

Tử khí

Phần trán phía trên xương lông mày bên phải

33

Thái hà

lông mày trái

34

Phồn hà

lông mày phải

35

Thái dương

Đầu mắt trái

36

Thái âm

Đầu mắt phải

37

Trung dương

Khoảng giữa mắt trái

38

Trung âm

Khoảng giữa mắt phải

39

Thiếu dương

Khoảng cuối mắt trái

40

Thiếu âm

Khoảng cuối mắt phải

41

Sơn căn

Phần mũi ở giữa hai mắt

42

Tinh xá

Khoảng dưới mắt trái ăn thông với mũi

43

Quang điện

Khoảng dưới mắt phải ăn thông với mũi

44

Niên thượng

Phần trên sống mũi

45

Thọ thượng

Phần dưới sống mũi

46,47

Tả hữu quyền

Quyền bên trái và quyền bên phải

48

Chuẩn đầu

Chót mũi

49

Gían đài

cánh mũi trái

50

Đình úy

Cánh mũi phải

51

Nhân trung

Vạch sâu ở dưới chuẩn đầu ăn thông với môi trên

52,53

Tả hữu tiên khố

coi hình vẽ 223

54

Thực thương

Phần kế bên trái Tả Thiên phụ

55

Lộc thương Phần bên phải

Tả Thiên phụ

56,57

Tả hữu pháp lệnh

Hai lằn sâu từ hai cánh mũi đi xuống cằm

58,59

Tả hữu phụ nhĩ

Hai phần xương sụn ở mặt che cho hai lỗ tai

60

Thủy tinh

Môi trên

61

Thừa tướng

Môi dưới

62

Tả địa khố

Hai phần bên phải và bên trái

63

Hữu địa khố

của tụng đường(xem hình vẽ)

64

Nga áp

Mép miệng bên trái

65

Ba trì

Mép miệng bên phải

66

Tả quy lai

Phần cuối pháp lệnh trái

67

Hữu quy lai

Phần cuối pháp lệnh mặt

68

Tả quy lại

Phần diện mạo ở hai bên

69

Hữu quy lại

Pháp lệnh ( xem hình vẽ )

70

Tụng đường

Phần lẹm ở ngay dưới môi dưới

71

Địa các

Phần cằm tận cùng của khuôn mặt

72

Tả nô bộc

Phần bên mặt của hai bên địa các

73

Hữu nô bộc

Phần bên mặt của hai bên địa các

74

Tử tai cốt

Phần xương má bên trái

75

Hữu tai cốt

Phần xương má bên phải

Bắt đầu từ tuổi 76 ­100 ,người ta không xem bộ vị ở phần diện tích Khuôn mặt mà lại coi các khu vực chung quanh mặt. Các khu vực này không có danh hiệu riêng như 75 bộ vị kể trên (phần có ghi số là tuổi)-ví dụ :95 năm là 95 tuổi,99 năm là 99 tuổi) .Ở tuổi thượng thọ (từ 70 trở lên) phần hình hài Bộ vị không được coi trọng mà cần phải đặc biệt lưu ý đến thần, khí sắc .Đại để thần mạnh sắc tươi khí hùng là dấu hiệu thọ khang :thần hôn, khí sắc ảm đạm Là dấu hiệu suy nhược báp trước sắp bệnh hoạn hay từ trần tùy theo mức độ nặng nhẹ.

3- Ý nghĩa từng loại sắc trên các bộ vị :

SẮC ĐEN:

- Thiên trung: hắc khí xuất hiện ở bộ vị này chủ về tai họa trên họan lộ ,hay các việc không may xảy ra ở ngoài ý đị nh của mình

- Trung chính : chủ về mưu việc không thành, nội trong 100 ngày sẽ thấy hậu quả không hay. Kẻ theo đuổi họan lộ tối kị lọai khí đen xuất hiện ở Bộ vị này.

- Dịch mã: xuất hiện ở bên trái chủ về bệnh tật ở bên tráitrong nội tạng, bên phải thì tật ở bên phải. Ngoài ra, Bộ vị này còn chủ mọi sự phá bại,tai ương.Nếu sắc đen rõ ràng thuộc loại tà sắc thì cầ nphải đề phòng tai họa sông nước. Tuy vậy, nếu sắc đen nhuận trạch và ở giữa có điểm sáng lan dàn ra xung quanh thì lại là dấu hiệu của hanh thông, nên xuất hành hay khai trương công việc .

- Mi tâm : chủ về sự bất tường liên quan tới gia vận, anh em bằng hữu .Thấy sắc đen hiện ở hai mi tâm, tốt hơn hết là không nên bảo lãnh ,cam kết dùm cho bạn bè thân tộc.

- Thiên thương : chủ về việc đi đường dễ gặp hiểm nghèo ,đồng thời cũng là dấu hiệu chỉ ông bà cha mẹ gặp bệnh tật ,rủi ro (nếu cung phụ mẫu cùng màu sắc)

- Cặp mắt : hiện ra sắc đen đột ngột chủ về tai họa do nữ giới mang lại hay liên quan đến việc giao du với nữ giới .

- Hai tai : (tai trái mệnh danh là Kim tinh, tai phải mệnh danh là Mộc tinh) hiện ra sắc đen xạm như nấm mốc là dấu hiệu gia vận bất tường, hay điềm rắc rối về pháp luật.

- Lưỡng quyền : chỉ rắc rối tr6en hoạn lộ, làm quan có thể bị mất chức hay giảm quỳen bình .Nếu Thiên trung cũng có loại khí sắc này vào loại tà sắc thì trong 40 ngày sẽ thấy ứng nghiệm .Nhược bằng thiên trung sáng sủa ,hồng nhuận thì tai họa giảm thiểu đến mức tối đa.

- Địa khố : chủ về tai họa ,tai tiếng do miệng lưỡi mang lại. Tuy vậy nếu Chuẩn đầu vàng tươi,sáng sủa và sắc đen Địa khố về 2 mùa thu và đông thì không đáng lo ngại.

- Tung đường : chỉ sự bất lợi về thủy lộ ,không nênđi thuền ,tàu thường trong thời gian có sắc thái này hiện ở tụng đường.

- Nhân trung : chủ về rủi ro tai nạn do chính bản thân hay con cái. Nếu đang bị đau ốm mà thấy sắc thái đen hiên ra ở Nhân trung thì cần cẩn trọng trong thời gian chạy chữa.

- Chuẩn đầu : chủ về tai họa sắp tới.Nếu Aán đường không ám,nhãn quan linh hoại sáng sủa thì tai họa không có hậu quả đáng kể. Thấy sắc thái đen xạm hiện lên ở chuẩn đầu cần phải hết sức giữ mình ,không nên vọng động. Cưỡng lại tất nhiên sẽ xảy ra tai ương.

- Ty lương : (Niên thượng và Thọ thượng ):chủ về bản thân hay trong nhà có bệnh .Nếu có đốm đen lâu dài thì biết ngay bản thân có bệnh kinh niên.

- Sơn căn : chủ về thời vận không tốt ,phải đề phòng việc hiếu phục với người thân trong nhà.

- án đường : chủ v&##7873; lo lắng phi thường quan trọng. Nếu ám khí lan rộng suốt bề mặt của trán là điều báo trước tai họa sắp đến.

- Môi miệng : chủ về bệnh tật nan y ,Nếu như nhãn quan xiên xẹo ,hôn ám là loại bệnh phong hay thần kinh chết.Nếu nhãn quan có thần là bệnh nội tạng hay gặp vận bi.

- Phước đường : chủ về lo lắng tang chế:sắc nhẹ thì thời gian ứng nghiệm chậm , sắc thái rõ ràng thời gian xảy ra kế cận.

- Mạng môn: thời vận trì trệ ,công việc trắc trở.

- Pháp lệnh : chủ về thọ căn bị thương tổn hay làm điều ác bị báo ứng

(nếu âm chất cung cũng xạm đen và khô mốc.

- Gian môn :bất lợi do việc giao thiệp với nữ gây ra.Nếu sắc đen chạy từ gian môn ra quyền cốt chủ về thê thiếp bất hảohay nhân vì chuyện vợ con mà mất tín nhiệm.

SẮC ĐỎ :

-ngay giữa trán : (chính ngạchh):khí sắc đỏ hiện ngay trán kể từ sát án đường tới chân tóc chủ về những trở ngại trong bước đường công danh sự nghiệp, hay tai họa do bình khí , hỏa tai mang tới.Nếu sắc khí này hiện rõ rệt và lâu dài thì trong 40 ngày sẽ thấy ừng nghiệm.

- án đường :Nếu có vvết đỏ như da bị phỏng dầu là dấu hiệu tai họa vì miệng lưỡi hay hỏa tai trong còng 100ngày sẽ thấy.

- Sơn căn :có khí sắc đỏ ám chỉ về quan tụng hay tai ương liên quan đến lửa hay là sinh đẻ khó khăn phải giải phẫu, theo từng hoàn cảnh ,nghề nghiệp của mỗi người ,Việc nhanh hay chậm tùy theo sắc thái đậm hay lạt.

- Thiên thương : nhà bị gây go ,miệng tiếng đưa đến quan tụng hay những việc kinh hiểmâû

-Lưỡng quyền : (quy𓎍n cốt) có sắc thái đỏ như màu máu đông là điềm báo trước tai họa. Đậm ,rộng thì phải đề phòng việc chết chóc vì quan tụng ,nhẹ cũng phá tán tiền bạc ,lo lắng khổ cực về tinh thần.

- Nhân trung : rõ và rộng sắc khô thì buồn lo, mờ ảo và hẹp tìh lo lắng ít.

-Thừa tương :có kẻ ttiểu nhân làm phiền ,sinh ra lo lắng ,buồn bực.

- Địa các : chủ về cạnh tranh lời ăn tiếng nói mà sinh ra hao tốn tiền của hay tiền vận trì trệ tuỳ theo sự liên quan tới các bội khác.

- Địa khố : về bệnh trạng xung huyết ,cùng lúc với việc quan tụng cùng nghĩa với khí sắc xuất hiện ở Địa các.

- Chuẩn đầu : là khu vực đại kị ( trừ người Hỏa hình chính cách) đối với các người thuộc hình kim, Mộc, Thuỷ và Thổ, và không ở trong ba tháng mùa hạ. Khí sắc đỏ thuộc tà sắc ở chuẩn đầu xuất hiện đồng thời ở cả lưỡng quyền chủ về nhà tan người mất. Tuy nhiên với điều kiện là lan tràn đều và rõ ở khắp diện tích thuộc Chuẩn đầu và lưỡng quyền mới có hậu quả tai hoạ như trên. Nếu chỉ là tản sắc thì không đáng lo ngại nhiều.

-Mạng môn: chủ về hao tốn của cải hoặc bị người khác làm hại.

Ty lương: Chủ về bệnh tật của máu huýet quá khẩn trương đồng thời cũng là tại hoạ có tính cách do khẩu thiệt mang lại.

-Mi tâm:Chỉ dấu của sự lo buồn và anh em, thân quyến hoặc bạn bè làm liên luỵ đến mình.

Dịch mã: Chủ xuất ngoại thường gặp tai ách về lửa hoặc là cạnh tranh miệng lươĩ.

*SẮC XANH

-Chính trung: Xuất hiện không đúng lúc và đúng với loại hình người là dấu hiệu của người làm quan hay giữ chức vụ bị giáng cấp hay tù tội vì công việc đàng hành xử.

-Nhật, Nguyệt giác:Dáu hiệu của bệnh tật, nặng nhẹ tuỳ theo mức độ của sắc thái xẫm hay lạt.

-Dịch mã:Chủ về những rủi ro , tai nạn trong lúc đi đường hoặc xuất du ra khỏi địa phương của mình.

-ẤN đường: Xanh xạm chủ về các tai ương hao tổn đến xe ngựa. gia súc.

-Mi tâm: Thời vận trì trệ, anh em quyến thuộc gặp tai ách.

-Sơn căn :Hiện sắc xanh ảm đạm cần phải đề phòng bệnh tật, một khi bị đau thì bệnh trang kéo dài. Nếu vốn đã có bệnh thì bệnh đó còn lâu mới hết.

-Gian môn; Chủ về vợ gặp bệnh tật, nếu vợ có thai sắp sinh phải lưu ý đề phòng.

-Lưỡng quyền: Chủ về gia vận không được thuận lợi và có mối lo do việc thưa kiện gây ra tỷ như dùng người giúp việc gặp kẻ bất trung, bảo lãnh nhầm cho kẻ quen mà mình phải gánh chịu lấy hạu quả do kẻ đó gây ra.

-Niên thọ: Chủ về đại bại, tiêu ma sự nghiệp.Nếu gặp sắc xanh rõ rệt hiện ở sống mũi thì không bệnh tật tốn hoa tiền cũng do việc khác gây ra tổn thiệt nên tuyệt đối chớ nên vọng động trong thời gian này.

-Nhân trung:Chủ về beenhj tật báo trước điềm do việc ăn uống cẩu thả hay dâm dục thái quá gây ra.

-Địa khố: Chủ về tai ương hoặc là đi đường thất lợi ,hoặc là gia súc nui trong nhà bị hao hụt.

-Địa các: Cùng ý nghĩa như gặp sắc xanh ở Địa khố nhưng con thêm ý nghĩa là cộng tác với người ngoài sẽ gặp thất lợi.

-Chuẩn đầu; Chủ về đại hoạ liên quan đến tiền bạc và sinh mạng. Nhẹ thì hao tổn tài sản, nặng thì có thể người chết, tan cưa nát nhà.

-Hải giác; Chủ về do tai hoạ ăn uống gây ra, đồng thời cũng là dấu hiệu của việc đi đường thuỷ gặp nhiêu bất trắc.

Nếu thấy hiện lên đồng thời ở cả Hải giác lẫn Địa khố thì phải đặc biệt lưu ý đến viẹc phòng tai hoạ về ẩm thực.Nếu thấy đồng thời sắc xanh xuất hiện ở cả Hải giác lẫn Nhân trung phảib lưu tâm đến rũi ro sông nước trong lúc đi đường.

-Mạng môn; Chủ về thời vận trì trệ không được hanh thông, bệnh tật tốn tiền hại sức, hay gặp lo buồn.

-Lệ đường: Sắc xanh ảm đạm khô khan chủ về hoạt động bị tiểu nhân phá hoại ngầm hoặc đi xa gặp kẻ ngăn cản.Trái lại gặp sắc xanh tươi nhuận, khí sắc toàn diện rõ ràng, nếu có vợ hoặc chính đương sự là phụ nữ thì lại chủ về có tin vui thai sản.Lệ đường bên trái chủ về sinh con trai,bên phải con gái.Tuy nhiên cần phải phối hợp với khí sắc của ấn đường mới thêm phần chính sát.

- Thiên đường : gặp lo lắng buồn phiền bất trác.

- Phước đường : bị tiểu nhân hãm hại trong công việc làm quan cũng như bị đồng nghiệp gièm pha, đi buôn bị bạn bè tranh thương bất chính khiến rắc rối .

SẮC TRẮNG :

- Thiên đình : thiên đình có sắc trắng đục, tối; là chỉ sự ha otổn tiền bạl hay các loại kh&aacut

SẮC

I- Ý NIỆM SẮC TRONG TƯỚNG HỌC Á ĐÔNG

Trong tướng học Á Đông từ ngữ sắc bao gồm nhiều lĩnh vực :

a) Màu da của từng cá nhân

Tướng học Á Đông là kết quả tích lũy thực tế của nhiều thế hệ ,chỉ áp dụng hco các chủng tộc Á Đông có cùng màu da căn bản là vàng ,có cơ thể và tầm vóc tương tự người Trung Hoa và cùng hcịu ảnh hưởng sâu đậm của phong tục và tập quán Trung Hoa như Cao Ly, Nhật bản ,Việt Nam.mà thôi .

Nói chung, ngưới Á Đông tuy là giống da vàng ,trong cái vàng tổng quát đó ,ta vẫn phân biệt được sắc ngăm đen như Trương Phi, sắc hung đỏ như mặt Quan Công ,sắc hơi xanh mét như Đơn hùng Tín trong truyện cổ người Trung hoa.

Về mặt vị trí quan sát. Tuy nói tổng quát là làn da nhưng trong tướng học khi nói đến da mặt ,chỗ sắc dễ thấy nhất còn các phần khác của cơ thể không mấy quan trọng.

b) Màu sắc của từng bộ vị trên khuôn mặt hay thân thể:

Trên cùng một khuôn mặt hay cùng một thân thể của một cá nhân ta thấy có nhiều loại màu đơn thuần khác nhau :

- Màu hòâøng ,màu hơi thâm đen của môi, của các chỉ tay ,vành tai.

- Màu đen hay hung hung của râu tóc ,lông mày.

- Màu trắng của lòng trắng mắt, màu nâu (ta thường gọi là đen) của tròng đen.

- Màu đỏ của các tia máu mắt. V.v...

c) Sự đậm lạt (tonalité) của từng loại màu

Cùng một loại màu, chẳng hạn như da mặt ,làn môi ta thấy có môi hồng lạt ,hồng đậm ,hồng phương trắng :cùng một loại da trắng ,ta thấy có người trắng hồng ,trắng xanh trắng ngà. Tóm lại ,sự đậm lạt của màu cũng là một thành tố của ý niệm sắc trong tướng học không thể bỏ qua được.

d) Phẩm chất của từng loại màu đơn thuần

Cùng một màu hồng của môi, má nhưng ta thấy có người môi khô, môi mọng, có người sắc da hồng nhuận, có người da khô như vỏ cây hết nhựa.

Ngoài màu đơn thuần ,ta còn có những màu phức hôp do các màu đơn thuần hợp thành. Lĩnh vực của chúng ta cũng đồng một khuôn khổ như các lĩnh vực của các đơn sắc.

Sau hết ,trên khuôn mặt của 1 cá nhân, dù màu đơn thuần hay màu phức hợp , chúng có thể biến đổi từ màu này sang màu khác hay về phẩm chất ,về độ đậm lạt ,về thành phần cấu tạo (đối với các màu phức tạp) qua thời gian. Chẳng hạn màu da trắng của một người sau 1 thời gian có thể biến thành hồng hay xanh xám :tóc có thể từ đen mướt đến hung đỏ ,cặp mằt trong xanh và làn môi tươi tắn có thể vì 1 lí do bệnh lí nào đó mà biến thành cặp mắt trắng dã lản môi đen sì.

Tóm lại, khi nói đến sắc trong tướng học là nói đến màu của các loại da, màu các bộ vị ,độ đậm lạt, phẩm chất ,sự phối hợp các màu đơn thuần thành các màu phức hợp, sự biến thiên của các màu con người từ khu vực này sang khu vực khác. Nghiên cứu về sắc tức là nghiên cứu về tất cả mọi trạng thái của các lĩnh vực nói trên, đi từ tổng quát đến chi tiết ,đơn giản đến phức tạp.Đôi khi quan sát bằng tịh giác chưa đủ còn phải vận dụng cả trực giác (intution) bén nhạy thiên phú nữa ,nhất là trong lĩnh vực quan sát phẩm chất và độ đậm lạt của màu sắc ở từng bộ vị trên con người.

II- CÁC LOẠI SẮC TRONG TƯỚNG HỌC:

Nói đến sắc là nói đến màu ,nhưng ở đây nặng về phần màu da trên khuôn mặt Tướng học Á Đông phân ra 7 loại đơn sắc :

- Màu đỏ

- Màu hồng

- Màu tía

- Màu xanh

- Màu trắng

- Màu đen

- Màu vàng

Ba màu Đỏ Hồng Tía dược tướng học ngũ hành hóa thành hỏa sắc là màu chính thức cửa 3 tháng hè ,là màu da căn bản của người loại Hỏa trong phép phân loại Ngũ hành hình tướngø .

Màu xanh thuộc Mộc ,là màu sắc chính của 3 tháng mùa xuân, màu da căn bản của người hình Mộc.

Màu trắng thuộc Kim ,là màu sắc tượng trưng cho ba tháng mùa thu ,là màu da căn bản của người hình kim.

Màu đen thuộc Thủy là màu sắc của mùa đông và là màu chíng của người hình thuỷ.

Sau cùng là vàng ,màu sắc tượng trưng ch oan lành quanh năm, là màu da căn bản của loại người hình Thổ.

a) Ý nghĩa của từng loại màu trên con người:

Theo kinh nghiệm tích luỹ lâu đời của cổ nhân ,người ta thấy bình thường mỗi một màu xuất hiện bất chợt trên các bộ vị của một cá nhân có ý nghĩa riêng biệt như sau :

- Màu Xanh chỉ về lo lắng, kinh hiểm, tật ác ,trở ngại tiểu nhân nhục nhã

- Màu Đỏ chĩ khẩu thiệt thị phi ,quan tụng, tù ngục phá tài ,tật bệnh hung tai.

- Màu Đen chĩ thủy áhc. Hao phá, mất chức chết chóc.

- Màu Trắng chỉ hình khắc thiếu phục tật bệnh.

- Màu Hồng (đôi khi là Tía) chỉ các sự ngẫu nhiên đắc tài, đắc lợi may mắn ngoài ý liệu.

- Màu Vàng chỉ vui vẻ tài lộc thăng tiến ,bình an may mắn.

Tuy vậy, các ý nghĩa trên không phải là định lệ bất di bất dịch, .Trong thực tế ,việc phân định và giải đoán ý nghĩa của sắc vô cùng phức tạp vì mỗi loại sắc có liên hệ chằng hcịt xa gần với nhiều dữ kiện khác. Sách Quy giám đã từng nói "vui buồn

may rủi đều có thể hiện lên khuôn mặt qua khí sắc.Sắc phân ra lớn nhỏ , dài ngắn ,cao thấp, rộng hẹp tùy thời cải biến hoặc xấu hoặc tốt ,hay khô hay nhuận.Khởi nguyên của khí ở ngũ tạng ,sắc bắt nguồn từ khí ,ban ngày hiện ra ơ ngoài. Cái dụng của sắc còn tuỳ theo thi72i gian ,khí hậu. Sắc hiện ra có khi lớn như sợi tóc, nhỏ như sợi lông con tằm ,dài như sợi lông ,ngắn như chiều dài hạttấm. Thế của sắc có tínhthịnh suy. Cho nên cần phải phối hợp thời gian ,khí hậu , Ngũ hành má quan sát. Trong các loại sắc ,sắc đỏ rất khó quan sát cho chính xác. Hay do nội tạng ,hỏa vượng mà mặt đỏ ,hay do đột nhiên cảm cúm mà mặt đỏ ,hay do uất ức mà mặt đỏ .Chỉ đỏ sắc tự nhiên ,thiên bẩm hay vô bệnh tật mà phát sinh ra mới thật là sắc đỏ của tướng học.Về thời gian, ít ra nó phải xuất hiện ở một bộ vị nhất định cả ngày mới có thể lấy làm căn cứ mà đáon tật bệnh cát hung ,quan gia sự vận .

Nói tóm lại, biểu ý nghĩa đậc thù của từng loại sắc chưa đủ để đoán mà còn phải lồng vào ý nghĩa đơn độc của nó vào một khung cảnh tổng quát bao gồm các yếu tố sau đây để tìm ra ý nghĩa kết hợp (résui-tante) của nó :

- Sự lớn rộng hay hẹp của một khu vực xuất hiện sắc.

- Tính cách thanh trọc của sắc

- Hư sắc hay thực sắc.

- Bộ vị xuất hiện.

- Phối hợp hay không với màu da tổng quát căn bản của từng loại người(Ngũ hành hình tướng)

- Phối hợp hay không phối hộp với màu sắc từng mùa

- Rõ ràng hay mờ ảo, thường trực hay bất chợt.

- Đơn thuần hay tạp sắc...

Chẳng hạn ,màu đen tuỳ theo định nghĩa thông dụng là một màu xấu nhưng nếu thấy xuất hiện ở người hình Thuỷ trong ba tháng mùa đông là đặc biệt lại ở Địa cát , với sắc thái tươi bóng lại là một màu tốt ,đặc biệt chủ về khang kiện và phát tài.

Màu đỏ tuy là màu chỉ về thị phi, quan tụng nhưng nếu người hình Kim trong ba tháng hè ,sắc tươi tắn không hỗn tạp mà lại hanh thông.Nếu vẫn ở cá nâhn tr6en mà trong đỏ lại pha lẫn đen thành màu huyết dụ thì lại chủ về hung hiểm khó tránh:pha lẫn màu xanh hay vàng mà vẫn thanh*(nghĩa là màu sắc tươi tốt về hình thái ) sắc thì tùy tai ương vẫn có nưhng mức độ nguy hại giảm thiểu đến tối đa ,rốt cục không có gì đáng ngại, Từ đó, ta co thể áp dụng lối suy luận trên vào các màu khác.

b) Quy tắc tổng quát về cách đoán sắc:

Trong phép đoán sắc ta không cần quá câu nệ vào ý nghĩa riêng rẽ của từng màu mà cần phải để ý đến ú nghĩa kết hợp của nó trong một bối cảnh chung.

Ngoài các yếu tố kể trên ,ta cần phải phân biệt một vài đi63m quan trọng trước khi lưu ý đến ý nghĩa của từng loại sắc .Đó là :

1- Hư sắc và thực sắc :

Hư sắc là trường hợp sắc và khí không tương hợp , chỉ có sắc hiện ra ở ngoài da, mà phía dưới da không có khí .Để hiểu ta có thể ví hư sắc với vết bùn hay một vết màu bất chợt phết lên lớthành ra nhìn vào vết bùn hay một vết màu bất chợt phết lên lớp da lên cây ,thành ra nhìn vào vết đó trên thân cây ,ta không thể biết được chất nhự chu lưu dưới lớp vỏ cây ra sao. Trường hợp này cũng còn gọi là hữu sắc vô khí .

Trái lại ,thực sắc là màu da thực sự của vỏ cây ,nó phản ánh trung thực chất vỏ câychu lưu ỡ trên lớp vỏ cây. Tùy theo chất nhựa sung mãn hay khiếm hụt, màu sắc của vỏ cũng biến chuyển theo.

Trong tướng học chỉ có thuc sắc mới đáng lưu tâm còn hư sắc không đáng kể.

2- Vương sắc trệ sắc ,hoại sắc .

Vương sắc : màu thuộc loại chính cách, sáng sủa phân bố đều khắp các bộ vị quan sát, phù hợp với thời gian tối thuận của nó.

Vương sắc đắc cách phù hợp với từng loại hình tướng là dấu hiệu tốt.

Trệ sắc: màu xuất hiện đúng chỗ ,đúng lúc nhưng phẩm chất xấu hay phân phối không đều đặn (hay lốm đốm ,hay chỗ chậm chỗ nhạt)

Trong tướng học nói đến vương sắc và trệ sắc là người ta chú ý đến màu sắc chính yếu trên khuôn mặt hay các bộ vị chính yếu.

Như danh xưng của nó , trệ sắc chủ về các loại bất tường tiềm ẩn sắp bộc phát.

- Kim trệ : da mặt hiện ra sắc trắng bệch và khô như mặt đất bị mốc là điềm báo trước về sự cùnh khốn ,ngưng trệ của của cải.

- Mộc trệ: Khuôn mặt xanh xao, u ám chủ về bệnh tật ,tai họa.

- Thủy trệ: toàn thể các bộ vị chính trên mặt ,nhất là hai tai ,mờ ảo như khối ám là dấu hiệu tiềm ẩn chủ yếu về quan trung thị phi.

- Hỏa trệ: mặt nổi mào đỏ trông khô héo la điểm hao tổn tiền bạc.

- Thổ trệ: màu da mặt vàng lốm đốm không đều, không sáng như màu nghệ khô, là triệu chứng nội tạng bệnh hoạn, công việc khó thành.

Hoại sắc : xuất hiện trái thời gian ,sai bộ vị hay pha trộn nhiều màu sắc tương khắc.

KHÍ

1/Thử phác hoạ ý niệm khí:

So với phần Thần ,ý niệm khí trong trong tướng học á Đông cò khó miêu tả hơn nhiều vì nó vừa có tính cách mông lung vừa có tính cách thực tiễn. Chẳng hạn khi quan sát xương cốt của một cá nhân ,ta thấy khí thế ổn trọng, dù người đó mập hay ốm, tạo một cảm giác khang kiện cho nội tạng. Hiện tượng đó được gọi là cốt khí mạnh mẽ .Nhìn vào khuôn mặt có ngũ nhạc triều quy nghĩa là trán, cằm, hia tai và lưỡng quyền phối trí hòa hợp (harmonieux) từ đó giúp ta suy ra cốt cách * của cá nhân đó mạnh hay yếu thì đấy cũng gọi là cốt khí.

Quan sát lông mày ,râu tóc ta thấy ba thứ lông đó đều tươi mát ,thanh nhân tạo ra ấn tượng ,nội tạng tốt ,nhìn Tứ đậu sáng sủa có sinh khí ,da thịt rắn chắc và ấm áp thì tất cả các dấu hiệu được coi là biểu hiện của khí tốt . Ngược lại ,lông mày ,râu tóc

vàng khô như cỏ úa ,Tứ đậu ảm đạm , da thịt lãnh lẽo mềm bệu thì ta biết ngay là khí xấu, điều đó cũng tương tự như người quan sát chất đất ,không cần phân tích chất đất chỉ cần nhìn cây cỏ mọc trên mặt đất là đủ biết đất phì nhiêu hay khô cằn.

Nghe tiếng nói của một cá nhân ta nhận biết được làn hơi của kẻ đó mạnh hay yếu qua âm thanh phát ra :có người nói tiếng rổn rảng mạnh mẽ tựa như muốn rung chuyển cả mái ngói, có kẻ rì rào như tiếng dế kêu và ta cũng thấy rằng tiếng nói to nhỏ mạnh yếu , vang đi xa ahy gần không hẳn tùy thuộc vào người tác lớn hay nhỏ, cao hay thấp mà do những nguyên do nội tạng .Nghuyên do nội tạng đặc thù của từngcon người tạo ra các trang thái âm thanh kể trên được tướng học Á Đông gọi là

nội khí của con người.

Như vậy ,khí trong nhân tướng học là phần thực tại nhưng vô hình ở trong cơ thể con người tượng trưng cho phần hoạt lực (vitaliré) tiềm ẩn có tính cách phẩm nhiều hơn lượng, phát hiện ra ngoài sự mạnh mẽ của xương cốt , sự thanh tú hay thô

trọc của râu, tóc, lông mày ,mắt mũi tai ,miệng, sự mạnh yếu của âm thanh ,sự rắn rỏi ấm áo hay lạnnh lẽo mềm bệu của da thịt.

Nói cách khác cụ thể hơn , khí trong con người có thể ví như nhựa cây nhưng đây là một thứ nhựa vô hình chu lưu bàng bạc khắp cơ thể toả ra hay thu gọn lại, mạnh mẽ hay suy yếu, thanh hay trọc ,tiến triển hay giảm thiểu tùy theo từng thời kì

từng cá nhân.

Vì hiểu vậy, người xưa co i khí là phần bản thể trong các bộ phận trong nội thể con ngườ ,nó vừa có tính cách siêu hình vừa có tính cách vật thể .

Với tính cách siêu hình , khí trong con người là một phần khí của âm Dương Ngũ hành bàng bạc trong vũ trụ hội nhập vào con người ,lúc thọ tinh kết thể ,nương vào con mà hình thành nên tượng, khiến cho ta có thể cảm thấy hay nhận thức được. Chẳng hạn khi Mạnh Tử nói : "Thiên dưỡng nhiên hao chi khí " ( ta cần phải khéo bồi dưỡng cái khí hạo nhiên của mình ),thì khí trong câu nói trên là khí tự nhiên của trời đất thể hiện nơi người ,không mấy liên hệ tới ý nghĩa vật thể mà lại nặng về phần

tiên nhiên siêu hình.

Với tính cách vật thể , khí phần nào được cụ thể hóa bằng hơi của buồng phổi ,tinh khí của con người. Aâm thanh hùng tráng trong trẻo ,khàn đục không llà do buồng phổi lớn hay nhỏ, người lớn các hay nhỏ con ,tính khí mạnh yếu khôngphải do người bề ngoài lớn hay nhỏ thó.Nguyên động lực của các âm thanh tinh khí ,theo người xưa là do khí mà ra. Bởi vậy ,hình thể khôi ngô ,hùng vĩ khỏe mạnh không hẳn là đã chứa đựng khí hùng mạnh .Ngược lại ,dưới nhãn quang tướng học á Đông, thân thể nhỏ bé không bắt buộc coi là khí yếu .

Tóm lại, khí trong nhân tướng học Á Đông là một ý niệm đặc thù dùng để chỉ cái bản thể siêu nhiên vô hình ,ta không thể dùng thị giác để nhận biết trực tiếp ,nhưng có thể nhận thức được sự hiện diện của nó nơi con người qua các tác dụng của nó hay dưới khía cạnh cấu tạo cơ thể như sự cứng cáp đắc thế hay lệch lạc của xương cốt ,sự mạng yếu của âm thanh hay dưới khía cạnh động tác này , khí luôn luôn không thể tách khỏi thần và cho ta biết được sự kiện khang của thân thể, cái cá tính

tâm hồn của con ngưòi nên thường được các tướng học gia mệnh danh là thần khí để phân biệt với hiện tượng khí đi kèm sắc để đoán cát hung, bệnh trạng (được gồm chung thành ỳ ngữ duy nhất là khí sắc). Đó là ý nghĩa của khí khi người ta nói đến sát khí , uất khí , khí phách, khí chất

II- VAI TRÒ CỦA ÂM THANH TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU KHÍ:

Như đã nói ở trên , khí trong con ngừơi biểu lộ ra ngoài dưới nhiều hkía cạnh, trong nhiều dạng thức, nhưng dễ nhận định nhầt và rộng rãi nhất là là dạng thức âm thanh. Nghe âm thanh của một cá nhân phát ra to nhỏ ,rõ ràng hay không rõ ràngg ,trong trẻo hay khàn đục, cao ahy thấp ,có sinh lực hay không ,người có cặp tay minh mẫn thường phân biệt được rất rõ.Những tính chất về phẩm âm thanh nói trên, không tùy thuộc vào lồng ngực lớn hay nhỏ ,người mập hay gầy , cao hay thấp mà do ở cách

cấu tạo nội tại tự nhiên(naturiel) của kẻ đó. Nói khác đi ,Những điễm đó do ở khí chân nguyên của mỗi cá nhân có tìm cách thiên phú ,bẩm sinh, không phải muốn có là được .Bởi nhận định như vậy, nên cổ nhân cho rằng muốn biết khí chân của người nào mạnh hay yếu ,thanh hay trọc ,dài hay ngắn ,ta chỉ cần xét âm là đủ...dưới nhãn quang y lí Đông phương ,khí chân nguyên mới là thọ căn (gốc thọ) của con người chứ không phải là hình hài, bộ vị .Cho nên ,Đạt ma đã nói :" Cầu toàn tại âm thanh" và người xưa nói :" Tướng pháp thượng thừa chủ ở âm thanh, hạ đẳng tướng cấp căn cứ vào hình htể con người " là vậy .

III- PHÂN LOẠI KHÍ :

Ta phân biệt Ba loại Khí :

a) Khí tự nhiên (chân nguyên)

Đó là phần tinh lực vô hình ,một thứ nhựa sống tiềm ẩn của con người có tính cách bẩm sinh. Nói cách khác đi , khí tự nhiên có tính cách tiên nhiên tùy theo lúc bẩm sinh, thanh trọc, cường nhược mà nó có thể mạnh hay yếu thanh trọc theo từng nội tạng của mỗi người.

b) Khí hàm dưỡng (hay tu dưỡng)

Đó là khí tiên thiên đã được gọt giũa sửa chữa theo chiều hướng cải thiện.

Dưới mắt cổ nhân, khí tiên nhiên không bất di bất dịch ,mà lại không thể chuyển biến được một phần nào. Một khi con người ý chí mạnh ý thức được sự kém cỏi tiên nhiên của thể chất thì có thể tu dưỡng để chế ngự bớt sự thô trọc hay ngăn chặn phần thô trọc và phát huy thêm phần thanh khiết, bồi bổ khí lực để ngày thêm tráng kiện.Loại khí đã được cải biến nhờ sức của con người được mệnh danh là khí hàm dưỡng .Chẳng hạn , làn hơi không được mạnh ta có thể tập cho bớt yếu ,tiếng nói quá nhanh và vấp váp ta có thể cố gắng luyện tập để nói thông thả ,gân xương lệch lạc yếu đuối có thể kiên nhẫn huấn luyện để sữa chữa phần nào .Dấu hiệu bên ngoài củ loại khí hàm dưỡng là thần khí an hòa ,tự tin ,nội tâm không bị giao động mạnh vì các biến cố bên ngoài, thanh âm ổ trạng, từ tốn. Về phép đoán tướng ,khí chất hàm dưỡng được xem là chính khí ,người luyện được chính khí là kẻ trượng phu quân tử .

c) Khí sở tập :

Khí chân nguyên tiên nhiên tốt đẹp ,khí đượcbảo trì mà buông thả khiến phần hùng kiện ,cao khiết bị tiêu ma, phần ô trọc xấu xa được dịp tăng trưởng thì gọi là Khí sở tập .Nói khác đi, có giọng nói trong trẻo ban đầu mà không gìn giữ ,trác tán ăn chơi khiến cho giọng khàn nhỏ ,xương cốt mạnh mẽ trở thành cằn cỗi suy nhợc, v.v...đều bị xếp vào loại khí sở tập. Dấu hiệu bề ngoài của khí sở tập là cư xử thô bạo , giọng nói hấp tấp buông thả .Cũng bởi loại Khí này do ngoại cảnh xấu tạo nên làm che mờ bảb chất tốt đẹp nguyên thủy hay không chịu cái tiến phần khuyết điểm của bản chất nguyên thủy cho tốt đẹp hơn ,nên bị xếp vàp loại tà khí ,tượng trưng cho hạng tiểu nhân ,tâm tính hạ tiện.

IV- TƯƠNG QUAN GIỮA KHÍ VÀ SẮC :

Khí là chất nhựa sống chu lưu trong nội tạng và phối hợp khi Aâm Dương của vũ trụ nên mắt nhìn không thấy. Bởi người ta không thể đi thẳng vào nội tạng để tìm hiểu khí mà phải quan sát gián tiếp nó qua các biểu lộ ngoại diện. Nhìn dưới nhãn quang tĩnh mà đặt nặng khía cạnh cấu tạo ta thấy giữa sắc và khí liên quan mật thiết không thể tách rời. Về đặc điểm này hầu hết đều đồng ý ở điểm sau đây:

"Khi ở trong da thịt ,xương tủy chưa biết được điều đó rõ ràng thì gọi là khí

.Khi đã định rõ được vị trí ,xét được trạng thái qua việc quan sát làn da thì gọi là sắc . Sắc và khí như vậy, bất khả phân."

Như thế ,ta thấy rõ ,dưới nhãn quang tướng học, sắc là phần ngoại biểu của khí khi quan sát bằng thị giác .Quan sát bằng thị giác dễ dàng hơn là vậy ,phần khí sắc( hiểu theo nghĩa quan sát khí sắc ) được trước tác rất nhiều và dành cho đại chúng.Thoạt kì thủy ,việc quan sát khí sắc chỉ có ý nghĩa giúp ta biết được kiện khang. Về sau ,từ các đời Tống, Nguyên người ta mới đề cập đền họa phúc ,may rỉu trong việc quan sát sắc.

CHƯƠNG THỨ BA

THẦN, KHÍ ,SẮC VÀ KHÍ PHÁCH

ĐẠI CƯƠNG VỀ THẦN KHÍ SẮC :

Thần ,Khí ,Sắc là ba ý niệm đặc biệt của tướng học Á Đông ,rất khó lĩnh hội .

Xưa nay các sách tướng đều nói đến Thần ,Khí ,Sắc đều cho rằng Thần ,Khí ,Sắc tuy phân ra làm ba nhưng thực ra là một. Về cách qua nsát ,người thường nói xem Thần tại mắt ,khí ở nội tạng và phát thành âm thanh còn sắc ở ngoài da. Nhưng đó chỉ là một cách diễn tả khái quát không bao hàm đầy đủ mọi khía cạnh cần thiết .Đi sâu vào chi tiết, Thần ,Khí ,Sắc rất phức tạp, hàm hỗn và tương quan mật thiết .Tách rời Thần ,Khí ,Sắc ra từng phần riêng rẽ chì là một cách mổ xẻ máy móc để tiện trình bày mà thôi. Phần dẫn nhập này tóm tắt một cách khái quát những điểm trọng yếu trước khi cố gắng phân tích chi tiết từng thành tố Thần ,Khí ,Sắc trong tướng học .

Sở dĩ tướng học Á đông xem Thần ,Khí ,Sắc là một vì đó là ba dạng thức khác nhau.,nhìn dưới những khía cạnh khác nahu của dữ kiện duy nhất ,có tính cách siêu vật thể hơn là vật thể của con người .

Theo tướng học, chính dữ kiện đó đã tạo nên tinh hoa ,hoạt lực nội tại và các yếu tố tâm linh của con người. Người Á Đông ,nói đúng ra là người Trung Hoa ,vốn thấm nhuần truyền thuyết âm Dương Ngũ hành, dưới khía cạnh vật là một thứ khí trong khi kết hợp và biến hóa đã tạo ra vạn vật ,trong đó có con người . Nếu nói đến bản thể của khí trong con người là nói đến bản thể của khí âm Dương Ngũ hành trong vũ trụ đã hội nhập vào con người từ lúc thọ thai kết hình và cùng với nhục thể tạo thành một khối duy nhất đó là con người .

Như vậy ,trong con người ta có thể tạm nói khí là một tứh nhựa sống vô hình, nếu thể hiện qua đầu màu đuôi mắt thì gọi là thần hiện ra một nơi cố định trên làn da thành ra màu sắc thì gọi là sắc. Do đó, Thần ,Khí ,Sắc tuy ba nhưng xét về bản chất

thật ra là một và có tính cách bất khả phân trong thực tế. Nói cách cụ thể hơn, Thần

,Khí ,Sắc có thể ví như ba trạng thái khác nhau như thể hơi ,thể lỏng ,thể đặc của

nước :thể hơi là thần, thể lỏng là khí ,thể đa75c là sắc. Thể lỏng là thể thông thường

căn bản của nướa nhưng thể hơi và thể đặc không bao giờ hoàn toàn tách rời ra khỏi

thể lỏng cũng như thần và sắc không bao giờ tách ra khỏi khí.

Trong phần khí, ở khía cạnh cấu tạo (structual) nhìn dưới vị thể tĩnh nghĩa là khi con nguười bất động ,ta có thể quan sát được là khí mạnh hay yếu ,thanh hay trọc ,tốt hay xấu. Vì vậy ,nhiều dưới khía cạnh này, giữa khí và sắc có sự tương quan mật thiết trong tướng học người ta thường gộp chung thành một mà gọi là khí sắc với ngụ ý rằng trong việc quan sát khí thì khí chỉ được nói đến một cách gián tiếp còn sắc mới là trọng điểm .Chính vì thế mà sáchThủy kính tập gọi nó là khí sắc chi khí.

Trong vị thế động của con người, và dưới khía cạnh cơ năng(fone-tionnel), qua các tác động của thân ìhnh ,ta thấy có thể phát hiện những cá tính đặc biệt, những đặc điểm tâm hồn từng cá nhân .Dạng thức này của khí được mệnh danh là khí phách.

Tác gỉa Phạm Văn Viên của cuốn Thủy kính tập là người đầu tiên đặt ra danh từ khí phách để phân biệt với khí và sắc khi ông nói :"khí phách chi khí" và 'khí sắc chi khí " .Trong tác phẩm của ông ,phần màu sắc của da bị xem nhẹ ,còn phần thần lại được chú trọngrất nhiều và xem như là liên kết chặt chẽ với khí . Do đó ,đôi khi ta gọi là khí phách, ta lại gọi chính danh hơn là tinh thần và khí phách, và để ch ogiả tiện ,người ta gọi tắt là thần khí .Chính phần thần khí này mới là phần cao thâm của tướng lí Á Đông, nó giúp phân biệt được quý tiện hiền ngu,dự đoán được thànnh bại của cin nguời trong tương lai cũng như mạng vận dài ngắn ,thô bạo hay thanh khiết .

Từ trước đến ay ,thần khí vì tính cách hư hư thực thực của nó,vừa có bản chất là siêu hình vừa có bả nchất là thực tại ,lại đòi hỏi người qaun sát phải có một nhãn quang và thính giác bén nhạy đã được xếp vào loại học thuật bí truyền. Hơn nữa, cách diễn tả của nguời xưa lại rất hàm hỗn cố ý thần bí hóa và lại không được phổ biến sâu rộng như phần hình tứong ,nên từ đời Đông Hán đến gần đời Tống gần nưh bị thất truyền. Đến hai đời Minh,Thanh ,một vài cuốn sách tướng cổ điển có nhắc đến, nhưng không mô tả.

Mãi đến đời Thanh ,sách Thủy kính tập mới lại đề cập đến ,nhưng vẫn chưa rõ ràng cho lắm .Tuy vậy ,xét qua mớ tài liệu rời rạc tản mát trong kho tàng văn hóa tướng học còn lưu lại đến nay cộng thêm với một đoạn bình chú của tướng tưh ta có thể suy diễn ra được một phần lớn những điều cổ nhân muốn gói ghém qua ý niệm khí phách .Vì vậy ,trong đoạn cuối chương này ,soạn gỉa đặc biệt dành ra một phần lớn để giới thiệu về phần tướng lí này của tướng học Á Đông để độc giả thưỡng lãm.

THẦN

Thử phác hoạ ý niệm "Thần":

"Thần" là một khái niệm căn bản của tướng học Á Đông , nhưng lại là một ý niệm rất khó diễn tả. Một phần vì người xưa học tướng theo lối tâm truyền , lấy trực giác và kinh nghiệm để lĩnh hội dần dần nên không cần và có thể nói là không thể diễn tả đầy đủ , một phần là nếu vài ba cuốn tướng học cổ điễn tả thì lối diễn tả đó vừa mơ hồ vừa huyền bí khiến người đọc bị hoang mang như lạc vào mê hồn trận . Thật sự , bản chất của thần không có gì là hoang đường , cũng không đến nỗi khó lĩnh hội cho lắm.

Đến giúp độc giả hiểu được ý niệm thần trong tướng lý Á Đông , soạn giả cố gắng phác họa lấy ý miệm thần theo một khảo hướng thực tiễn , ngược lại với lối diễn tả huyền bí của sách vở cổ điển bằng cách đưa ra nhiều ví dụ cụ thể trước khi đi vào phần định nghỉa lý thuyết.

Trong đời , hẳn mọi người đều có dịp quan sát lắm cặp mắt có nhãn lực đặc biệt khó quên .Nhãn lực đó khi đầy ác khiến kẻ nhìn phải khiếp sợ , có khi đầy vui tươi khiến kẻ nhìn quyến luyến . Những loại ánh mắt đó gọi là ánh mắt có thần. Ngược lại , cũng có nhiều đôi mắt ảo não , xa xăm , lờ đờ , thiếu sinh lực , hoặc không gây một cảm giác nào cho người quan sát : đó là những ánh mắt thiếu thần.

Có những tư thế đi , đứng , ngồi chũng chạc , ổn trọng tự nhiên, tạo một cảm giác uy nghi khả kính : đó là những tác phong có thần.

Có nhiều giọng nói chanh chua gây tức giận , hoặc hùng hồn làm cho hân hoan phấn khởi , hoặc trong trẻo , êm dịu truyền cảm , khiến người nghe như bị thu hút bàng hoàng : đó là hợp âm thanh có thần .

Một phụ nữ nhan sắc có hấp lực lôi cuốn sự chú mục không ngừng , khiến mọi người phải nhìn , nhìn hoài không chán , hoặc lúc nhìn mà động lòng ham muốn hay tấm tắc khen ngợi : đó là nhan sắc có thần.

Cũng có phụ nữ không mấy xinh đẹp nhưng cách đi , cách đứng , giọng nói , nụ cười đều toát ra vẻ thùy mị , đoan trang khiến con người sinh lòng cảm mến cũng là loại người có thần.

Trong đoàn vũ công dang biểu diễn , có người diễn xuất nổi bật hơn hết khiến cho khán giả thấy được ý nghĩa của điệu vũ qua cử chỉ , vũ công đó có thần trong điệu vu.õ

Những cụ già dù gần đất xa trời , nhưng vẫn còn đầy vẻ quắc thước , nghiêm phong , dũng liệt là những kẻ có thần.

Những trẻ em nhìn vào là thấy ngay tướng thông minh , đĩnh độ cũng là hạng người có thần.

Những ví dụ trên cho thấy thần được biểu lộ không những ở đôi mắt mà còn trên toàn thể khuôn mặt , trong phong thấy , giọng nói , nụ cười , trong thế cử động và cả trong thế bất động của con người nữa . Thần được phát lộ rõ rệt nhất lúc vui , lúc hứng , lúc giận , lúc sợ , lúc ham muốn , lúc cãi co . lúc thuyết phục , lúc đấu võ , lúc đánh kiếm.

Tóm lại , bất cứ lúc nào con người thoát khỏi trang thái bình thường mà toát ra những nét khác biệt kẻ phàm , trong ánh mắt , tướng đi , đứng , nằm , ngồi , cười thì đó vẫn là người có thần. Chính trong trạng thái bình thường ta thấy thần khó được lý hội nhất . Người xem tướng bao giờ cũng gặp phải đối tượng và trang thái này.

Những ví dụ và sự diễn tả trên cho phép ta địng nghĩa thần như sau: Thần là âm hưởng nhận thức được trên các nét tướng con người , là tiếng dội trong tâm hồn người xem tướng của những nét tướng quan sát được , chỉ những nét tướng nào tạo được những cảm giác , cảm tướng , cảm xúc , dư âm trong tâm tư người xem tướng thì mới là những nét tướng có thần . Trái lại , những nét tướng nào không có ý nghĩa , không gây một chấn động nào trong tâm tư , không có gì khác biệt với thiên hạ là những nét tướng thiếu thần. Những nét tướng lộ thần rõ rệt ( như sát khí trong ánh mắt , sự thô bạo của cử chỉ , tiếng nói lớn , giọng cười to ) thì bất cứ người phàm nào cũng quan sát được. Nhưng có những nét tướng không lộ thần một cách rỏ rệt đối với người phàm thì chỉ có nhà tướng thuật thượng thừa mới tra xét được thần khí mà thôi . Như thế, quên chuẩn nhận thức thần là trực giác riêng của thần tướng , Đây hiển nhiên là tiêu chuẩn hết sức chủ quan và cá biệt . Việc khảo sát thần sở dĩ khó là vì lí do , và sự khác nhau giữa các nhà tướng chính cũng vì nguyên nhân trên.

Đề định nghĩa giản dị hơn , thần là tinh thần . Đó là nguồn động lực tiềm ẩn trong con người , kết tinh từ sự ham muốn , từ ý chí , từ nghị lực , từ tình cảm , từ trí tuệ , từ huyết thống , từ văn hóa được phát lộ ra ngoài , ít hay nhiều , mạnh hoặc yếu .

Nó có thể tiềm ẩn hoặc phat lộ , khang kiện hay suy nhược . Xem thần là xem tinh thần , xem nội tâm , xem phần chân tướng bên trong qua những nét phát biểu ra ngoài .Thường khi cái bên ngoài không gói ghém hết cái sinh động và uẩn khúc bên trong .

Vì vậy, thuật xem tướng bao giờ cũng phải cố gắng thấu đáo nội tâm thì mới đạt tiêu chuẩn .Đó là lí do tại sao khảo sát thần phải bằng mắt chưa đủ mà phải dùng đến tâm để tìm hiểu tâm . Cái khó của việc quan sát Thần là ở chỗ đó . Cái vi điệu cũng từ đó mà ra.

II ­ NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THẦN

a) Nguồn gốc của thần dưới nhãn quan tướng học cổ điển Thần ở đâu mà ra? Để giải đáp câu hỏi này , cổ nhân đã đưa ra lập luận sau:

Con người , bẩm thụ tihn hoa của trời đất mà sinh ra . Thần là vật vô hình , là tinh hoa tối cực của con người có trước rồi mới có hình hài . Hình hài sở dỉ có là đến chứa đưng nội thần . Do đó thần bàng bạc trong nội tang con người . Lúc ngủ thì nội thể , lúc thức thì hiện ra ở cặp mắt.

Đối với chúng ta , lập luận trên không đủ nhưng có vài điểm khả dụng . Những điểm khả dụng đó soạn giả sẽ đề cập đến ở những đoạn sau:

b) Vai trò cặp mắt trong việc quan sát Thần Qua những ví dụ đan cử ở đầu phần này , chúng ta thấy thần rất bao la bàng bạc chứ không phải chỉ thu hẹp ở cặp ma71t . Nhưng hẳn chúng ta đều có dịp ngắm những bức học chân dung con người , ta thấy bức họa vẽ linh hoạt hay không phần lớn là ở cặp mắt . Mạnh Tử đã từng nói :"Quan sát người thì quan sát ở cặp mắt , mắt chính đính thì tâm hồn ngay thẳng , mắt tà vay thì tâm tính cũng tà vay" .Tây phương cũng có câu:" Cặp mắt là cửa sổ tâm hồn " . Thần là tinh hoa , là tấm gương phản ánh tâm hồn con người . Thế mà quan sát mắt ( nói đúng ra là quan sát ánh mắt ) ta biết được tâm hồn nên cổ tướng học nói là quan sát ở mắt , tuy chưa đầy đủ nhưng không phải là vô lý .

Vả chăng quan sát mục quang ta biết được nhiều về thần của con người hơn bất kỳ bộ vị hoặc nét tướng khác . Chẳng hạn ta có thể biết ánh mắt mạnh hay yếu , dữ hay hiền hoà , gian xảo hay thuần phúc ... Do dó , ta phải thùa nhận rằng vị trí quan sát thần thuận tiện nhất là cặp mắt con người . Tuy rằng một mình nhãn thần chưa đủ

để tượng định một cách dứt khoát về thần của một cá nhân , nhưng người quan sát sâu sắc có khá nhiều dữ kiện cần thiết để giải đoán về phẩm cách và vận mạng nói chung của con người . VÌ THẾ NGƯỜI XƯA MỚI NÓI:" Xem quí hiển hay hạ tiện thì xem ở mắt" và ở đây ta đặt trong tâm vào việc quan sát mắt để suy luận và tìm hiểu về thần .

c) Phân loại Thần qua mục quang Trong tướng học Á Đông nói đến thần qua cặp mắt thì điểm cần đặc biệt chú ý không phải là hình dạng của mắt mà là tính chất của mục quang . Quan sát mục quang gúp ta phân loại được các loại Thần của con người và định được sự tương quan hợp nhãn thần với công danh sự nghiệp của một cá nhân . Đại để , căn cứ vào mục quan ta phân biệt được :

1 ­ Thần tàng

Đây là nét thượng thừa cách về nhãn thần . Thần tàng có nghĩa lá ánh mắt sáng sủa giữa không rực rỡ tương tự như một hạt ngọc ở trong tư thế an tĩnh phát ra ánh sáng nhưng ánh sáng đó ở cặp mắt có tính cách phảng phất , nhẹ nhàng , thoáng qua như không có nhưng nhìn kỹ , ngắm lâu ta mới phát hiện được . Loại nhãn thần ẩn tàng này rất hiếm nhưng kẻ có loại nhãn thần này lá dấu hiệu chác chắn thành đạt được đại nghiệp , hưởng phú quí lâu dài.

2 ­ thần lộ

Ngược lại với Thần tàng thì gọi là Thần lộ . Lộ ở đây không những tròng mắt lồi ra để lộ cả tròng trắng mà ánh mắt cũng quá lộ liễu tựa như cọp nhìn con mồi chằmchằm , ánh mắt sáng rực tựa bao nhiêu tinh anh của con người đều theo ánh mắt mà tiết ra ngoài . Đó là đều đã được Nguyễn Du tả qua hai câu thơ trong Đoạn Trường

Tân Thanh :

Tinh anh phát tiết ra ngoài Ngàn thu bạch mệnh một đời tài hoa

Dưới nhãn quang tướng học , thần lộ là kẻ tinh hoa phát tiết chủ về gin tham hình khắc , có may được quý hiển thì cũng chỉ được một quảng thời gian ngắn rồi lại lụi tàn . Số thọ cũng không được dài vì tinh hoa lộ thì thần mau kiệt mà thần là căn bản của thọ mạng .

3 ­ Thần tĩnh

Thần tĩnh ở đây có nghĩa là mục quang sáng sủa tự nhiên hiền hòa không nôn nả , giống như mặt nước mùa thu , nhưng thoáng thấy rồi lại không thấy rõ , nhìn thật lâu lại thấy rõ. Nói một cách khác , thần tĩnh chính là lối gọi tinh thần thư thái nhàn hạ thì hiện qua ánh mắt . Người có loại thần tĩnh tâm tính nhân từ không hiểm độc , cuộc đời thanh nhàn , ít sóng gió .Đó là tướng học loại người thanh quí.

4 ­ Thần cấp

Thần cấp là loại ánh mắt phát sáng phát động không ngừng giống như một hỏa diệm sơn phun lửa liên miên .Đó chính là loại mục quang của loại mắt jhỉ , trông thoáng qua là nhận ra ngay tính tình nóng nảy , khích động . Nếu ngôn ngữ , đi đứng , ăn nói đều có dáng vẻ gấp gáp thì kẻ đó sớm phát đạt nhưng cũng mau tàn.

5 ­ Thần uy

Khuôn mặt lúc mở lúc , khi thu nhỏ , mục quang có oai lực tự nhiên khiến người khác nhìn vào cảm thấy kiên nể . Loại nhãn thần này là dấu hiệu của hạng người làm nên sự nghiệp phi thường . Chẳng hạn như cặp mắt của nhà độc tài Đức quốc xã A.Hitler, khi nhìn ai cũng như chế ngự kẻ đó khiến kẻ đối diện chỉ biết cúi đầu khuất

phục.

6 ­ Thần hôn

Đó là loại mục quang mờ mịt , ánh sáng yếu ớt gần như không có , đại khái như mắt heo , mắt cá ( xem phần nói về các loại mắt điển hình trong tướng học ) Loại mắt này tượng trưng cho cá tính ươn hèn suốt đời không làm nên chuyện gì thường chết yểu.

7 ­ Thần hoà

Loại mục quang này phần nào giống như loại thần tĩnh nhưng khác ở chỗ thầ tĩnh chỉ về sự ổn cố thanh thản còn thần hoà là ánh mắt chẳng những hiền dịu thường xuyên mà khuôn mặt sắc thái lúc nào cũng tươi vui lạc quan , dù lúc giận dữ cũngkhông mất vẻ từ ái ,chẳbng hạn cặp mắt của bức tranh ông Thọ của người Trung Hoa hay Phật Di Lặc trong các chùa chiền .Về mặt cá tín . người có ánh mắt xếp vào loại thần hoà tâm tính lúc nào cũng hồn nhiên bất chấp ngoại cảnh , không bao giờ mưu tính hại người .Về mặt mạng vận . ít khi bị lâm vào cảnh nguy hiểm ngặt nghèo , không quý hiển thì cũng không bao giờ đói rách , khốn khổ .

8 ­ Thần kinh ( hay còn gọi là thần khiếp )

Mục quan lúc nào cũng hớt hải lấm lét như đại họa sắp tới dù rằng thực tế không có gì đáng sợ . Đó là tình trạng của ke có tâm hồn bất định , ăn uống , nằm ngồi lúc nào cũng có vẻ bồn chồn , hốt hoảng bất an . Kẻ có mục quang như thế , công danh sự nghiệp hoặc thọ số không được bền lâu , thường nửa đường gãy đổ.

9 ­ Thần túy

Ánh mắt hôn mê , lúc nào cũng như người ngái ngủ ( xem lại Túy nhãn trong chương nói về mắt ).Loại người có mục quang này tâm tính hồ đồ , thiếu sáng suốt , thường dễ bị ngộ độc ( ẩm thực , sắc dục ...) mà chết hoặc tiêu tan danh vọng sự nghiệp.

10 ­ Thần thoát

Ánh mắt thất thần , sắc mặt thẫn thờ . Đó là trường hợp thường thấy ở những người gặp lúcn kinh hoàng tột độ thì mặt thộn ra , chân tay cứng đờ tựa như lúc thấy ma. Nếu chỉ xảy ra trong trường hợp bất thường quá đột ngột thì đó la dấu hiệu của tin thần yếy đuối bạc nhược , không tự chủ được . Nhưng nếu không vì sự kinh hoảng mà bỗng nhiên mục quang thất thần thì lại là dấu hiệu tinh lực khô kiệt báo hiệu thọ số sắp đứt đoạn.

d) Phân biệt vài đặc thái của nhãn thần

Như trên đã nói , trong khi quan sát thần người ta nghĩ ngay đến tinh hoa của con người phát hiện ra trong nhiều lãnh vữc và dưới nhiều hình thái nhưng chủ yếu vẫn là ở cặp mắt . Nói đến mắt ta không nên chú trọng nhiều lắm tới hình thể của nó ( lớn nhỏ , nông sâu , dài ngắn , rộng hẹp ...) ,à phải để ý đến mục quang . Chính mục quang mới gíup ta nhận định va phân biệt được nhãn thần . Mục quang nói chung có thể ở vào một trong hai trường hơp chính.

1 ­ Phù quang

Đây là loại ánh mắt có vẻ sáng nổi , hời hợt , người tinh mắt có thể bằng trực giác nhận ra rằng ánh mắt tuy có vẻ sáng tỏ mà thực ra là không có thần tựa hồ như mặt trăng phản chiếu lại ánh sáng thái dương hoặc như chất lân tinh được sơn phết vào các tấm bảng chỉ đường ban đêm sáng rực khi có ánh đèn xe rọi tới.

2 ­Chân quang :Ngược lại với phù quang là chân quang.Đây là loại sáng thực có sinh khí nên

ánh mắt linh họat nhìn vào là thấy sống động như ánh thái dương vậy.

Trong phép quan sát thần để định quý tiện hiền ngu , chỉ có chân quang mới đáng được lưu ý còn phù quang phải gạt bỏ, vì phù quang là ánh sáng muợn hay quá yếu ớt không đủ để kết luận rằn có thần nênkhông hể dựa vào đó mà biết được hiền ngu quý tiện. Vả lại ,phù quang còn có ý nghĩa là kẻ đò sắp chết trong tương lai rất gần. Kẻ như thế còn gì đáng bàn đến .

Chân quang được chia thành bốn loại tùy theo tính chất đặc tính của mục

quang như sau :

a) Thủ chân ( ánh sáng thực và giữ lại được) :

Tròng mắt như vì sao sáng ,không dao động mà tự phát quang ,, lúc tĩnh thì ngưng tụ, lúc động thì bừng sáng,khiến người ngoài không dám nhìn thẳng vào mắt mình.

b) Người có thủ chân quang tính tình trung thực ,lương hảo danh vang thiên hạ, dù gặp nguy hiểm cũng vẫn vượt qua được.

c) Hàm chân ( ánh sáng thực nhưng ẩn tàng vào mắt) :ánh mắt tự phát quang giống như ánh sáng của viên ngọc quý ,nhìn kĩ mới thấy vẻ sáng ,khiến người ta cảm thấy dễ chịu, tự trong thâm tâm nảy sinh cảm giác hân hoan.

Rộng ra khi ta nhìn thấy cây cỏ suới nước xinh tươi mà thấy ấm lòng vui mắt thì cái vẻ sáng của cảnh vật là tinh hoa của núi sông .Cái đó mệnh danh là hàm quang.

Người có thần mắt thuộc loại hàm chân thì đỗ đạt sớm ,lưu lại tiếng thơm cho đời.

d) Tàng chân : .(sáng thực nhưng lhông lộ liễu) ánh mắt sáng mờ mờ ,mới nhìn thì như không đủ mà nhìn lâu lại có vẻ dư.Kẻ có tàng chân mạng vận vinh hiển ,sự sang cả lưu tới đời sau nhưng phát đạt muộn.

e) Hồi chân ( sáng thực mà như sẵn sàng tuôn ra bình thường rất khó nhìn ,muốn thấy phải mở mắt thật to, lúc đó mới thấy rõ vẻ sáng .loại chân quang này thường xuất hiện trong ánh mắt những người cận thị,.Nó có thể tụ hay có thể tán ,hay lệch,có thể êm đềm nưh ánh trăng rằm ,cũng có thể như ánh sao nhấp nháy,Loại chân này nên có vẻ sáng ngấm ngầm và hơi đen ám thì mới quý.

Cái quý của loại mắt có chân quang này khác hẳn với ba loại trên ,tốt xấu từng trường hợp .Những kẻ kì hình dị tuớng thành đạt đều thuộc loại này.

Tóm lại, có chân quang dù nhiều hay ít là tướng của kẻ mưu sự dễ thành ,cầu công danh sẽ đạt.Đại khái, chỉ rất về mặt Thần Khí mà đoán kẻ có mục quang thuộc loại tàng chân hậu vận phát triển tốt đẹp, sự nghiệp chắc chắn viên mãn nhưng không thoát khỏi cảnh thiếu thời bị sóng gió ,bị vấp váp rất nhiều trong cuộc đời, không được sống thanh thản bình dị như kẻ thuộc loại thủ chân và hàm chân .Phàm người ta dù các bộ vị có bị khuyết hãm ,cốt cách có vài điểm bị xếp vào loại hạ cách mà ánh mắt lúc nào cũng có chân quang bất kể lúc nào thì cũng giống như rồng thiêng lân quý ,tuy ở nơi đầm hẹp rừng tưha coi như đủ để hóa giải những khuyết điểm của hình thể và có thể đạt được phú quý vượt ra ngoài dự liệu thường tình .Đây chính là một trong nhiều bí quyết của tướng học á Đông và thuộc về nguyên lí trọc trung hữ thanh .Sách vở bàn về tướng thuật đầy rẫy các giai đoạn liên quan tới điểm tế nhị này.

f) Những điều kiện tối hảo của nhãn thần

Nói đến nhãn thần ta không cần chú ý tới hìng dạng của mắt mà phải đặc biệt lưu ý đến mục quang .Mục quang được xem là tối hảo khi nó hội đủ 7 điều kiện sau đây :

1- Tàng nhi bất hối :

Nghĩa là nhãn thần phải có vẻ che khuất đi được, nhưng mục quang không được tối ám.Nói một cách khác rộng rãi hôn là mục quang tuy sáng nhưng là một tứh ánh sáng có vẻ hàm xúc, động trong cái tĩnh, tương tự như vẻ sáng của một viên ngọc báu tự nó có thể phát quang nhưng không rực rỡ, lộ liễu phải quan sát thật lâu mới phát hiện được .Còn hối là mắt lờ đờ như mắt ngáy nhủ.

2- An nhi bất ngu :

Mục quang ổn định nhưng không trơ trẽn bất động,Từ ngữ ổn định tự nó đã ngầm chứa tính cáhc sống động nhưng là cái vẻ sống động linh hoạt chứ không phả ial2 giao động "trơ trẽn bất động" có nghĩa là mục quang im lìm (inertie) không biểu lộ được đầy đủ sinh khí cần thiết ,không biến thông được .

Nói cách khác đi ,nhãn thần sung túc thì tự nó có vẻ sáng như một ngọn đèn điện dược thắp bằng dòng nhân điện xoay chiều có thể thu rút lại cường độ trong một giới hạn nào đó. Chẳng hạnnhư khi đàm thoại ,ánh mắt ta tuy không dao động nhưng lúc thích túh và khi cụt hứng độ sáng của mắt phải có nhịp độ chuyển biến thích nghi đủ để diễn tả được cái trạng thái tình cảm nội tâm của ta lúc đó. Trái lại, mục quang của một cá nhân lúc nào cũng cùng một cường độ dù nghe câu chuyện rẻ nhạt hay giật gân mà vẫn không có gì thay đổi thì không có thể coi là an nhi bất ngu được .Lúc đó ,mục quang của kẻ đó phải được gọi là an nhi ngu .

3- Phát nhi bất lộ :

Mục quang được coi là phát khi tia mắt như xạ ánh sánh ra ngoài nhưng mức độ phát quang của nó vừa phải, không quá mạnh mẽ rõ ràng ,chỉ người quan sát thật tinh tuờng mới phát hiện ra được. Nói khác đi ,mục quang như viên ngọc sáng giữa ban ngày, tuy phát quang nhưng ánh sáng rất mờ so với ánh sáng thái dương chứ không phải là một ngọn đuốc để bất cứ ai cũng thấy được dễ dàng.

Từ ngữ lộ có nghĩa là tròng mắt lồi ra như nhìn trừng trừng vào đối tượng quan sát , lộ cả tròng trắng .Đại để lúc mèo rình chuột, cọp chuẩn bị vồ mồi, nhìn chằm chằm vào con mồi thì lúc đó mục quang gọi là lộ.

4- Thanh nhi bất khô:

Điều kiện ày đặt nặng vào việc quan sát cấu tạo của mắt về phương diện phẩm chất. Thanh có nghĩa là lòng đen ,lòng trắng cũng như đồng tử phải trong trẻo nghĩa là ranh giới ba phần đó phải phân biệt rõ ràng ,chất liệu cấu tạo phải thuần khiếtkhông được có các tia máu ,màng mắt xen lẫn vào , một khi có tất cả chất liệu cấu tạo đều thuần khiết thì nhìn vào mắt người ta có cảm giác như nhìn vào một hồ nướv sâu thẳm ,trong trẻo như các tiểu thuyết gia vẫn thường mô tả :mắt trong sáng như nước hồ về mùa thu .Đấy chính là điều tuớng học gọi là thanh vậy. Cònkhô có nghĩa là cằn cõi ,không có vẻ sống động hiện lên ở bề mặt .Mắt htanh mà khô có nghĩa là nhãn thần lạnh lẽo suy nhược ,không được kiên cố. Để dễ hiểu hơn,xin lấy 1 ví dụ cụ thể : thanh nhi bất khô ví như cây tùng ,bách về mùa đông , cốt cách thanh nhã và nhìn vỏ cây cành là vẫn có vẻ xanh tươi biểu hiện một sức s61ng tiềm ẩn bên trong. Gược lại, thanh nhi khô ví như thân cây lau sậy về mùa đông, cành lá trơ trọi, cằn cõi ,nhìn kĩ có htể biết ngay là thân cây hết nhựa ,chỉ còn hình mà mất hết chất.

5- Hòa nhi bất nhược

âm dịu nhưng không mềm yếu. Nói rộng ra mục quang được coi là Hòa nhi bất nhược khi ánh mắt sáng một vẻ êm dịu nhưng không mềm yếu, khả ái chứ không phải khả hiếp khiến nguời khác nhìn thấy có cảm tưởng một niềm vui thích muốn tiếp xúc với ta chứ không dám khinh mạn vì trong sự hóa ái đó ẩn tàng mo65t sức mạnh khiến kẻ đối diện phải nể phục trong lòng.chẳng hạn mắt các tượng Phật trong chùa ,tuy ánh mắt từ bi bác ái nhưng vẫn không nhu nhuợc ủy mị.

6- Nô nhi bất tranh :

Lúc giận không lộ vẻ cạnh tranh ,oán tức thì gọi là nô nhi bất tranh .Tuy nhiên ,trong ý nghĩa của tướng học , ý nghĩa câu trên phong phú hơn nhiều .Nộ phải được coi là chính khí vì khi giận dữ phát xuất ra bởi một lí do thực sực chính đáng nhưng mặt không biến sắc ,chỉ hơi cau mày, ánh mắt nghiêm nghị biểu lộ một tâm hồn ày công hàm duỡng luôn luôn giữ được bình tĩnh .Có đủ các đặc tính kể trên thì mới gọi là nộ.

Còn giận mà mắt đờ ra ,mắt xạm lại ,tia mắt như tóe lửa ,nưh muốn ăn tươi nuốt sống người khác là dấu hiệu bề ngoài của kẻ khôngcó đức tính trầm tĩnh, mất tự chủ gọi là tranh .Chính vì tranh bao gồm những phản ứng có ẩn ý ăn thua đủ ,chỉ biết thỏa mãn tự ái nhất thời không nghĩ đến hậu quả về sau ,nên tranh bị xếp vào loại khí luợng hẹp hòi, biểu thị khí phách nhỏ mọn ,do đó tranh bị coi là tà khí.

7- Cương nhi bất cô:

Nghĩa đen là cứng ,mạnh mà không lẻ loi ,nhưng ý nghĩa chính yếu ở đây chỉ loại mục quang tỏa ra ánh sáng hồn nhiên oai nghi khiến kẻ khác nhìn vào phải vị nể tưởng như sau con người của ta là cả một khối đông đảo sức mạnh vô hình chứ khôngphải chỉ là một cá nâhn đơn chiếc.

III-MỘT VÀI GIAI THOẠI :

Đời Minh, vĩnh lạc hoàng đế thường nghiên cứu tướng học với một nàh tướng học nổi tiếng là Viên Liễu Trang (tác giả bộ sách Liễu Trang tướng pháp hiện còn truyền rộng rãi) . Một hôm, trong lúc đàm đạo về Hình, Tướng con người , nhà vua nêu lên thắc mắc với nhà tướng học họ Liễu như sau :

"Trẫm thấy sách tướng nói rằng :hình hài khuyết lãm thì bần hàn Ngũ quan toàn hảo thì thông minh quý hiển. Thế thì tại sao trong triều có người làm đến thượng thư mà diện mạo lại cực kì xấu ? Lại thấy trên đời không thiếu gì những kẻ Ngũ quan tuyệt mĩ mà lại chết non ,hay mặt mày đẹp đẽ mà ngu độn ,số mạng không ra gì ?"

Liễu Trang đáp :" Người diện mạo xấu xí mà lại quý hiển là vì mục quang có thần :đi vững vàng như thuyền lớn ,không nghiêng ngả ,ngồi ổn trọng như là núi non đó là tướng đi ,đứng, nằm ,ngồi uy nghi có thần .Ngũ quan tuyệt mĩ mà chết non là vì mục quan hôn quyện ,thất thần :mắt mày xinh đẹp nhưng đó chỉ là bề ngoài còn ở trong thì khí trệ, thần hôn làm sao mà thông tuệ được.cho nên, bàn về quý hiển ,chỉ dựa vào hình àhi không đủ, mà còn phải lấy thần ,khí làm gốc."

Nhãn quang (hay mục quang cũng vậy ) con người do trời phu cho không phải muốn là được. Nhãn quang chẳng những biểu lộ ca ù tính mà còn có ảnh hưởng sâu xa tới mạng vận tử sinh của con ngừoi nữa.

Cách đây vài chục năm ,trước khi Nhật chiế mHương Cảng ,Aùo môn, tạo Aùo môn có một người chuyên làm nghề chài lưới là Trần Gia Câu .câu ỷ mình có thyuền buồm loại lớn nên thường ra tậ nđại dương câu cá vài ngày mới trở về ,số thu hoạch không thua gì các tàu đánh cá có động cơ .Trên tàu ,ngoài số ngư phủ có nuôi thêm một con khỉ rất khôn, để sớm hôm bầu bạn ,còn vợ con để lại Áo môn .

Một bữa kia ,vì số ngư phủ lành nghề bỏ đi gầ nhết ,Gia câu phải đi cùng khắp áo môn để mướn thợ mới, tình cờ gặp người quen cũ là Dương Chiếu Thản ,vốn người đồng hương ,bèn cùng nhau rủ vào quán ăn nhậu để phỉ tình tha hương ngộ cố tri .Họ Dương là kẻ vốn nòi thư hương ,lại rành nghề xem tướng ,nên trong lúc đôi bạn đàm đạo ,dương thấy sắc mặt của Gia câu chỗ thì xanh như tàu lá dừa ,chỗ thì xạm như tro tàn ,không nén được kinh di nên mới bảo rằng : " Này bạn ,tôi xem tướng thấy anh diện mạo khí sắc rất xấu ,chỉ khỏang ba tháng đổ lai tôi e rằng anh sẽ gặp tai họa rất xấu .Vậy trong thời gian ày anh không nên liều lĩnh ra khơi ,hãy chịu khó hi sinh bớt chúc lợi tức mướn thợ lưới cá về quản chủ thuyền thì may mới thoát nạn".

Gia Câu nghe xong ,nét mặt nhăn nhó nói :"Gần đây số tuh hoạch quá kém ,số thợ cũ bỏ đi .Baygiờ phần đông là thợ mới ,kinh nghiệm chưa có nếu không có người rành nghề biết hướng cá đi thì tổn thất quá nặng sợ kham không nổi".

Dương Chiếu Thản suy nghĩ hồi lâu ,xem kĩ tướng mạo của bạn rồi nói :" khí sắc của anh thật xấu nhưng may ánh mắt có thủ chân quang tức là thủ thầ nên có hi vọng thoát hiểm".

Câu nghe xong thắc mắc :" Xấu tốt là do khí sắc ,tại sao tướng khí tốt lại có thể cứu vãn được hoạn nạn?"

Dương đáp : " Tướng cách tốt thì số thọ chưa thật sự dứt ,trong thời gian đó nếu chẳng may gặp nạn thì chỉ bị kinh hiểm chứ không đến nỗi tuyệt mạng .tỷ như khí sắc trên mặt ảm đạm nhưng mắt có thầ nquang an tĩnh không bị giao động theo cùng với sắc mặt thì tuy tai họa đột nhiên xảy tới cũng vẫn vượt qua được :

Thấy Gia Câu quyết ý vì sinh k6é mà phải mạo hiểm ra khơi lần ày ,Dương nói tiếp : " Nếu như trong mấy tháng tới anh có gặp nạn mà thoát khỏi về sau đời anh sẽ có dịp phát đạt lớn. Theo tôi tốt hơn hết al2 không nên mạo hiểm ,nhưng nếu anh đã quyết tiếp tục ra khơi lâu ngày thì tôi hi vọng nhờ mắt anh báo hiệu là anh có thủ thần là sẽ hóa dữ ra lành. ".Nói xong đôi bạn chia tay.

Sau đó ,gia câu tụ tập đủ tay thợ quyết chí ra khơi ,và lần này đi rất xa bờ, hi vọng đánh được nhiều cá để gỡ lại các tổn thất trong thời gian trước. Ba tháng sau ngày giã biệt họ Dương, Câu ra khơi vẫn chưa trở lại , Dương cho là Câu đã gởi thân nơi miệng cá mất rồi ,trong lòng vô cùng thương tiếc. Nhưng khỏang bốn tháng, sau khi rời bến , Gia Câu đột nhiên xuất hiện tìm Dương Chiếu Thản cám ơn và ca tụng tướng pháp của Dương thật là vô cùng linh nghiệm.

Thực vậy, sau khi từ biệt bạn ,Gia câu ra khơi ròng rả 3 ngày đêm mới tới một nơi có nhiều cá để bổ lưới. Bất ngờ ,đúng lúc đó có cuồng phong nổi lên mà không có dấu hiệu gì ab1o trước nên mọi người bất phòng .Vì vậy , thuyền bị sóng gió làm bể nát. Gia Câu nhờ nhiều kinh nghiệm và bình tĩnh bám vào được một mảnh thuyền vỡ mà vô tình con khỉ khôn ngoan đã bám chặt vào đó hồi nào không rõ. Cả người lẫn vật bị sóng gió giạt vào một hoang đảo có rất nhiều ngọc trai .Lên đến bờ,

Câu vừa đói vừa mệt lả nên ngất đi ,một lúc tỉnh lại thấy con khỉ thân yêu đã ngồi vào cạnh với vài trái cây hoang dại. Nhờ vậy Gia câu có thực phẩm qua ngày. Từ đó. Câu khám phá ra đảo có ngọc trai nên tích luỹ được rất nhiều nhưng vô phương trở lại quê nhà chỉ còn hi vọng mỏng manh là ngày ngày dắt khỉ lên chỗ cao nấht của đảo nhìn ra khơi mong có thuyền bè qua lại để năn nỉ quá giang.

Một ngày kia, Câu và tên tiểu đồng khác giống đó đã mòn mỏ itrong việc quan sát ,sắp trở về chỗ tạm trú vì trời sắp tối thì bỗng nhiên gió tây bắc thổi mạnh ,một vật đen hiện lên ở chân trời rồi rõ dần trên mặt biển đang dao động ,Câu chú ý nhìn kĩ thì thấy đó là một chiếc thuyền câu có lẽ bĩ gãy mất bánh lái nên trôi nổi theo dòng nước ,lòng rộn ràng hi vọng và cầu ch othuyền giạt vào đảo.Quả nhiên đúng nưh vậy ,một lúc sau thuyền trôi đến gần đảo thì bị mắc cạn trên bãi cát. Gia Câu mừng quýnh, đứng lên chỗ cao lớn tiếng gọi người trong thuyền nghe tiếng thấy làm kì dị bèn rước Câu xuống thyuền .Sau khi đôi bên gạn hỏi, gia Câu mới biết đó là thuỵền đánh cá thuộc hệ thống gư phủ Aùo môn vì ra khơi quá xa bị gió lớn làm gãy bánh lái ,thổi tạt đến hoang đảo nàt ,Câu cũng bày tỏ nguồn gốc mình cho hay. Thế là cả bọn nhận nhau là người cùng xứ ,hợp tác cùng nhau sửa sang lại con thuyền bị hư hỏng rồi trở về áo môn với túi ngọc trai và con khỉ cứu tử.

Về nơi cư trú, Câu ban số ngọc trai tuh hoạch được trên đảo ,một phần nhỏ đền công cho chủ thuyền chở mình về xứ, còn bao nhiêu tậu đất xây nhà ,tao nên cơ nghiệp của một phú ông và bỏ hẳn nghề cũ.

Thời vua Thế Khải xưng đế ở Trung Hoa phản lại lời giao kết cách đây 40 năm nên gây ra cảnh nội chiến ,có một quân nhân cao cấp của chính quyền miền bắc là tứơng Lưu Hồng Tiêu tạo phản với ý định tranh bá đồ vương ,nhưng việc không thành, tài sản tiền bạc tiêu tan ,thân thể thương tích .Sau đó ,Lưu đế ncoi tướng thuật gia Liêu Trụ Thạch cho biết :tướng cách của ông do có thủ thần nên bị tai nạn mà không chết. Nhân vì mắt ông tròng đen nhiều ,lòng tắng ít lại thuần khiết phân minh mục quang sáng mà không lộ liễu, tĩnh thì an toàn khả ái, động tìh sáng rực có uy nên chung cuộc ắt là có phúc lộc rõ ràng. Hiện tại ông nên chuyển sang nông nghiệp bỏ võ thì có cơ đại phát tài.

Lưu Hồng Tiêu nghe lới ,trở về quê cũ ,tậu được vài chục mẫu ruộng trồng mía.Thực hành câu giải đáp uy điền. Quả nhiên vài năm sau đại phát và trở thành cự phú.

IV-MỘT VÀI QUAN NIỆM CỦA CÁC TƯỚNG HỌC GIA TRUNG HOA VỀ NGŨ

HÀNH HÌNH TƯỚNG :

a) Hình Kim

Người hình Kim dáng dấp đĩnh đạc , diện mạo vuông vắn , ngay thẳng , bộ vị bất phàm , sắc da trắng ngà mà thuần khiết , xương thịt chắc chắn mà không lộ.

Thần dị phú do Trần đoàn chú giải

Người hình Kim có các bộ vị ngay ngắn suông sẻ, Tam đình cân phân và đới vuông.

Phong giám tập

Dấu hiệu đặc biệt của người hình Kim là vuông vắn. Người Kim chân hình chính cục có tướng Ngũ phương ( mặt vuông , trán vuông , cằm vuông , tai vuông , đầu ngón tay và hình dạng bàn tay vuông) khí sắc không tạp , tinh thần không loạn , cử chỉ đoan trang, ngồi lâu mà vẫn giữ được tư thế ổn trọng. Kẻ mà có đủ các điều kiện trên thì tất nhiên sẽ có tính Kim ( nghĩa)

Thành hòa tử

Người Kim chính cách khuôn mặt đới vuông , mày thanh mắt khiết , tầm vóc trung bình , eo lưng tròn đầy nhưng bụng không xệ, môi răng hoà hợp thích đáng, nước da trắng ngà tươi nhuận , khí sắc thanh tú tự nhiên.

Nếu thần khí quá thanh khiết , sắc mặt lạnh lẽo, sắc da trắng bóng như thoa dầu , mũi lớn , mắt lồi là liệt cách , chủ về thọ mạng ngắn ngủi, công danh trắc trở.

Nếu chỉ đúng cách về hình hài mà thần hôn khí trọc , mày thô, tai nhọn , mũi lệch ,ngón tay dài nhọnlà tướng phá cách, chủ về hậu vận không ra gì. Thần tướng toàn biên và Thủy kính tập

b) Hình Mộc

Người Mộc thân hình xuôi thẳng , cao ốm , xương gân vững chắc, sắc da hơi xanh.

Thần dị phú

Hình Mộc thân hình cao ốm , xương gân thẳng tấp , tinh anh tú khí hiện rõ ở lông mày và mắt. Phong giám tập

* Đặc trưng quan trọng nhất của người hình Mộc là thon dài ngay thăng nên người hình Mộc không ngại vấn đề gầy ốm . Người Mộc chính cách phải hội đủ tướng Ngũ trường , khí sắc không tạp , tinh thần không loạn , cử chỉ ôn hòa bình

đạm , bước đi thanh thản .Hội đủ các điều kể trên thì sẽ có tính Mộc ( đặc biệt là đức Nhân)

Thành Hòa Tử

Người Mộc chính cách thì hình hài xuôi thẳng , thon gầy , mắt sáng và có tụ thần , mày râu và tóc thanh nhã , môi hồng , ngón tay thon dài , chỉ tay nhỏ và rõ , eo lưng thon hẹp , da mịn , âm thanh cao và trong trẻo.

Nếu tay chân hoạc thân hình nghiêng lệch , da khô , thịt bệu , hoặc lộ xương , gân tạp loạn là liệt cách.

Xương thô , người mập và lùn , lưng cong , thân hình trường đoản tạp loạn , thần hôn khí trọc là phá cách.

Thủy kính tập và Thần tướng toàn biên

c) Hình Thủy

Người hình Thủy mặt mũi tròn đầy , dáng vẻ nặng nề , vai tròn , bụng xệ , sắc da ngâm đen.

Thần dị phú

Tính cách nổi bật nhất của hình Thủy là mày ngắn và có vẻ thô , mắt lớn và tròn , tai dày và có Thùy châu , mập lớn , luâm quách phân minh , hình dạng tai tròn , thầ n khí thanh thản.Như thế là đúng Thủy cách vậy.

Phong giám tập

Căn bản của hình Thủy là tròn . Người hình Thủy chính cáchphại có đủ tướng Ngũ viên , khí sắc không tạp , tinh thần không loạn . cử chỉ khoáng đạt , bước đi nhẹ nhàng , vững chãi . Có đủ các điều kể trên thì trong Ngũ thường đức tính trội nhất là Trí.

Thành Hòa Tử

Người Thủy đắc cách về hình hài là mập tròn , Tứ đậu ( Tai , Mắt , Mũi , Miệng) đầy đặn tươi sáng, khí sắc không tạp ,tinh thần sáng láng thanh nhàn ,tiếng nói lanh lẹ trong trẻo rõ ràng. Nếy mập mà xương yếu thịt bệu ,thần khí đoản trọc, sắc thái khô cằn, tiếng nói vấp váp hay nuốt tiếng nghẹn hơi là liệt bại cách không chết yểu thì cũng bệnh tật liên miên ,chung thân hao bại.

Thủy kinh tập và thần hướng toàn biên

d) Hình Hỏa :

Nguời hình Hỏa dáng dấp nhậm lẹ ,dù mập hay gầy thì khuôn mặt cũng có các nét gân guốt thon nhọn ,khí chất nóng nảy sắcda hồng hào như người vừa uống rượu.

Thần dị phú

Đã là người thuộc hình Hỏa thì thân thể lẫn khuôn mặt đều trên hẹp ,dưới rộng ,cử chỉ có vẻ tháo cấp bất định ,râu ít tóc thưa, mắt lồi, mũi lộ.

Phong giám tập

Người Hỏa chủ yếu ở chỗ lộ liễu, Người hình Hỏa chính cách có tướng Ngũ lộ (lông mày lộ ,mắt lộ, mũi lộ, răng lộ, tai lộ) khí sắc không tạp, tinh thần không loạn ,nằm ngồi lâu mà vẫn giữ được tư thế ổn định.Dược như thế thì đức tính trội yếu nhất sẽ là Lễ .

Thành Hòa Tử

Người hình Hỏa chính cách thì đầâu dài ,Thượng đình hẹp, nhọn Hạđình to rộng ,sắc da hồng hào tươi nhuận, râu tóc thưa có màu hung đỏ (như loại tóc bị rám nắng lâu ngày ) miệng hơi vẩu ,môi chúm lại giọng nói khàn.

e) Sự phối hợp của Ngũ hành trong tướng học :

Các loại tướng mạo con người mô tả ở trên là các loại điển hình thuần tuý (tướng học mệnh danh là chân hình chính cục , chỉ có tính cách lí tưởng và hiếm có .Vì vậy ,dưới nhãn quang tướng học bất cứ ai đúng mạo, chân hình chính cục ,bất kể

Hành nào ,đều được xếp vào loại tướng quí ( phúc lộc đượchưởng dồi dào hay dễ dàng hơn thường dân.

Trong thực tế, hình mạo con người thường là một sự pha trộn hình nọ với hình kia theo một tỉ lệ rất biến thiêntừ người này sang người khác.Kẻ thì sự pha trộn có tính cách lượng ,kẻ thì pha trộn cả phẩm lẫn lương ( tướng học gọi bằng từ ngữ chuyên môn là Chất hay Tính và Hình .Sự pha trộn đó là tương sinh hoặc là tương khắc .Những trường hợp hàm hỗn đó đều gọi là Kiêm hình hợp cục

Khi xét tướng mạo một người loại Kiêm hình hợp cục thì hình nào có những bộ vị chính hay phẩm chất chính nổi bật sẽ được coi là phần chủ yếu .Kế đó, là các đường nét cúa các hành khác ít quang trọng h7on rồi dựa vào nguyên tắc sinh khắc của Ngũ hành để định tốt xấu.

Thông thường nếu Hành chủ yếu là :

- Thủy thì nên đới Kim kị Hỏa

- Mộc thì nên đới Thủy,kị Thổ

- Hỏa thì nên đới Mộc,kị Kim

- Thổ thì nên đới Hỏa, kị Thủy

- Kim thì nên đới Thổ, kị Mộc

áp dụng nguyên tắc trên, tướng học đi đến việc liệt kê các loại tướng mạo Kiêm hình hợp cục dưới đây :

1-Kim hình hợp cục có hậu quả xấu

a) Kim hình Mộc chất : hình dạng thon lẳng dài, ngay thẳng ,thần khí sáng láng ,thanh kì là những tính chất về phẩm của loại người Giáp Mộc .Sắc da trắng trẻo ,Ngũ quan ngay thẳng, mặt mày vuông vức là hình Kim. Loại người có tướng mạo hỗn hợp kể trên gọi là kim hình Mộc chất.

Kẻ mà tướng mạo thuộc loại kim hình mộc chất thì sơ vận gặp nhiều vất vả ,phải đợi tới khỏang trung niên trở đi thì mới thoát khỏi vận bí để trở thành cách siêu quần bạt tụy.

b) Mộc hình đa Kim : Thân hình cao gấy ,tứ chi mảnh dẻ,thần khí bạc nhược là hình Mộc nhưng thuộc loại Aát Mộc.Sắc da trắng nhưng khí sắc kạnh lẽo quá đáng là các phẩm chất của Kim. Người kiêm cả 2 đặc thái trên gọi là Mộc hình đa Kim (hình mộc nhưng lẫn lộn quá nhiều tính chất của Kim) .Mã Y lí luận rằng loại người Aát Mộc ma 2gặp Kim tương tự như là loại cây tạp mục nát không chịu nổi búa rìu. Do đó kẻ Mộc hình đa Kim suốt đời lận đận khốn khổ cả về tiền tài ,danh vọng ,tật bệnh liên miên.

c) Thủy hình ngộ Thổ : Da thịt mập mạp ,phì nộn, mắt tròn là các đặc trưng của Thủy hình .Sắc da vàng (muốn nói là loại tà sắc), khí sắc trì trệ là đặc tính của Thổ trong . Kẻ có 2 điều vừa kể trên bị gọi là Thủy hình ngộ trong Thổ (hình

Thủy mà gặp các đặc tính trọng yếu nhất của Thổ). Loại tướng mạo này cũng là loại cực xấu ,quanh năm bệnh hoạn, tán tài .

d) Hỏa hình Thủy tính : Đầu nhọn ,mắt lộ, tai lộ. Mũi lộ là tướng mạo của người hình Hỏa thuần túy, khí an tĩnh, sắc da ngăm đen ,thân thể mập mạp (mỡ nhiều hơn thịt) lại là những đặc điểm căn bản của Thủy .Kẻ kiêm hình các đặc điểm trên trong tướng pháp gọi là Hỏa hình Thủy tính (hình thuộc Hỏa àm tính chất thuộc Thủy) Hỏa hình thủy tính chủ yếu về khắc phá vợ con ,tiền của không bao giờ dư giả,

e) Thổ phùng trọng Mộc : (nghĩa đen là hình Thổ pha trộn rất nhiều đặc tính của Mộc) :xương thịt đầy đặn, hình thể chắc chắn là các đặc tính căn bản của Thổ .Tóc nhiều đậm, xen lấn nhau ,râu ria cứng đen là các đặc chất của Mộc nhưng lại là loại Mộc trọc.Kẻ kiêm hình hợp cục theo cách nói trên tướng pháp gọi là Thổ phùng trọng Mộc

Người bị cách cùng Thổ phùng trọng Mộc việc gì cũng không thành tựu trọn vẹn ,gia vận linh đình. Nếu ngoài các bại cách kể tên còn thêm thần hôn khí trệ thì càng tệ hơn nữa khó tránh khỏi chết trước trung niên.

2-Kim hình hợp cục có hậu quả tốt :

a) Kim phùng hậu Thổ : Mặt có những đường nét ngay thẳng,màu da trắng khí sắc là các đặc thái căn bản của Kim.Xương thịt mập mạp nặng,chắc nịch là các yếu tố đặc biệt của Thổ.Sự hàm hỗn hai thành phần nói trên được mệnh danh là Kim phùng hậu Thổ

Kẻ hợp cách Kim phùng hậu Thổ là kẻ suốt đời đủ ăn đủ mặc,vận số hanh thông.

b) Mộc Thủy tương ty: (hai hình Mộc và Thủy bổ túc và giúp đỡ nhau ): hình dạng cao dong dỏng, ngay ngắn mà dáng vẻ hiên ngang mạnh mẽ là Mộc hình .Da ngăm đen ,thần khí an dật hòa ái là đặc cách Mộc Thủy tương ty

Hình Mộc mà lại đặc cách Thủy Mộc tương ty là loại tướng mạo rấtquý ,giàu sang đặc biệt là tài văn học siêu quần bạt tuỵ

c) Thủy đắc Kim sinh ( Thủy được Kim hỗ trợ) :hình dáng mập mạp ,nhiều thịt xương ít ,mặt mũi tròn trịalà tướng Thủy ,sắc da trắng ngà. Khí minh lăng ,thần thái an hòa cao khiết là Kim chất thượng thừa.Kiêm cà hai đặc thái của hai

Hành theo các htrên tướng học gọi là Thủy đắc Kim sinh, chủ về phẩm cách thiện lương, tính thông tuệ hào sảng được hưởng cả danh lẫn lợi.

d) Hỏa cục ngộ Mộc ( Hỏa và Mộc pha trộn đặc cách) :khí sắc hòng hào tươi nhuận là Hỏa chất ,thân hình cao dỏng hiên ngang ,thần khí linh hoạt thanh tú ,là những đặc tính căn bản của Giáp Mộc. Kẻ có đủ 2 đặc tính trên hội hợp

ngay trong người được gọi là kẻ hợp cách Hỏa cục ngộ Mộc :giống như củi đang cháy mà lại thêm củi tốt . Hợp cách kể trên thì thọ an khang, công danh cái thế vinh hiển cực phẩøm.

Nếu là loại người Aát Mộc gặp hỏa chất ,đặc tính tốt đẹp của cách cục kể trên bị giảm thiểu chỉ được giữthọ mạng dài lâu nhưng quý hiển chỉ ở mức bình thường.

Ngược lại, nếu Hỏa hình mà gặp Mộc chất thì thường là xấu nhiều tốt ít .

e) Thổ hình ngộ Hỏa : hình thể nặng nề chắc chắn là đặc tính của Thổ hình ,thần khí sáng sủa hừng hực như toát hết vẻ tinh hoa ra ngoài là Hỏa chất .Kiêm cả hai hình thái nói trên gọi là Thổ hình ngộ Hỏa . Vì Thổ do Hỏa sinh nên đắc

cách Thổ hình ngộ Hỏa (chỉ có hỏa chất mới đúng cách) sẽ làm cho Thổ phát huy được tất cả đặc tính cố hữu tốt đẹp của loại Hành này nên công việc thuận hảo xứng công vừa ý.

V- TỔNG LUẬN PHÉP TƯƠNG HỢP NGŨ HÀNH ÁP DỤNG VÀO NHÂN TƯỚNG HỌC :

Nguyên tắc tương sinh khắc cổ xưa nay chưa được hoàn hảo vì không diễn gỉai hết được những sự uyên áo trong tướng học(Phép đoán tướng mạo và định tướng khắc tương sinh Ngũ hành trong tướng học từ đời ngũ Quý trở về trước bị sách Thủy kính tập liệt vào loại xưa. Từ Mã Y,Trần Đoàn trở về đến đời Minh ,Thanh được sách này coi là hiện đại ) vì chưa biết rằng sự sunh khắc đưa đến hậu quả tốt hay xấu c2on tùy theo sự tương hợp trong từng hệ cấp của từng hành.

Nói chung ta phân ra :

a) Thuận hợp :

Ví dụ : Mộc hợp Hỏa

Thủy hợp Kim

Mộc hợp Thổ

Thuận hợp như trên nếu đúng mức độ thì thường chỉ giàu chứ ít khi quý hiển.

Thảng hoặc có quý hiển thì cũng rất bấp bênh, chỉ trong một thời gian nào đó rồi hết .

b) Nghịch hợp : (thoáng nhìn thấy có vẻ khắc kị nhưng thực tế lại phù hợp và hỗ trợ lẫn nhau )

Ta thường thấy :

Kim nghịch với Hỏa.

Thủy nghịch với Thổ.

Mộc nghịch với Kim

Thổ nghịch với Mộc

Theo lẽ thông thường của phép sinh khắc thì các hình mạo hàm nói trên phải coi là xấu vì các Hành trong con người xung khắc lẫn nhau .Trong thực tế ,có các trường hợp Kim đa Hỏa thiểu : tức là Kim hình đới Hỏa , Thủy đa Thổ thiểu: Thủy hình đới Thổ ,tuy nghịch mà lại hợp ,kết quả tốt đẹp và bền vững hơn lại thuận hợp rất nhiều.

Theo sự hiểu biết nông cạn thông thường thì Kim hình không nên kiêm Hỏa ,nhưng kẻ mà tai mắt ,lông mày ,tứ chi lẫn thân mình đều vuông vức, màu da trắng tuy đúng cách của Kim hình ,nhưng nếu xương thịt quá thanh khiết, thần qúa sáng ,hkí quá lạnh, mà sắc mặt hồng nhuận (tức là đới Hỏa) thì tuy Kim hình Hoả chất nghịch mà lại hợp. Tướng pháp gọi loại nghịch hợp này là Hàn Kim vi Hỏa luyện : vùng lạnh được lửa tôi luyện cho ấm lại ,chủ về thọ khang quý hiển. Ngược lại ,nếy Hỏa đa Kim thiểu ,nghĩa là Kim và Hỏa kiêm hình như kiểu mày thanh mắt sáng, da trắng mà đầu nhỏ nhọn, mũi lộ khổng ,tai luân quách đảo lộn thì lại là nghịch mà xung hkắc chứ không hợp, chủ về tai họa liên miên. ,không mấy hi

vọng sống quá 30 tuổi.

Thủy hình đới Thổ có thể nghịch mà hợp hoặc nghịch mà khắc tuỳ theo từng thứ bậc của Hành. Nếu Thổ thiểu Thủy đa là nghịch hợp, quý hiển tọh khang, nếu thủy thiểuThổ đa thì lại khắc nghịch ,suốt đời bần hàn ,cô độc. Tỳ như có hình Thủy ,thân hình phì mập, đúng cách nhưng nếu thịt da nhão nát, lại còn ở tuổi thanh niên thì lại là điềm yểu thọ. Do đó, loại Thủy hình phát dục quá sớm đó phảicó thể chất (đặc trưng của Thổ chất là rắn chắc ,gân cốt chìm mà vững chải, tai, nũi , miệng đều kiên ngạch) hỗ trợ ,nhưng vì chất Thổ rất ít , lại ẩn tàng nên mẹnh danh là Thủy đa Thổ thiểu .Ngược lại, đúng Thủy hình mà sai lệch Thủy sắc, như sắc da vàng xạm( thuộc về Thổ sắc, chân tay thô trọc thuộc về chất trọc của

Thổ,v.v...) biểu hiện cho sự non yểu quẫn bách.

Bàn về hình Mộc , cần phải phân biệt 2 loại Mộc là Giáp Mộc và át Mộc .Người Giáp Mộc thì hình dạng thon dài, cốt cách ngay thẳng, mi thanh mục tú ,hào khí lẫm liệt. Cho nên tuy thói thường là Mộc kị Kim vì hai Hành khác nhau nhưng nếu Mộc đa kim thiêu chẳng hạn như cằm vuông trán rộng, sắc da trắng xanh , còn thì các bộ vị chính yếu đều là Mộc chính cách thì nghịc mà hợp. Điều d0ó cũng tương tự như cây cổ thụ ngàn năm bị đẽo gọt, chạm trổ mới tăng phần giá trị .Còn đối với người át Mộc ,nếu gặp Kim hình hay Kim chất cũng giống như cây mục cỏ khô bị búa ríu giáng xuống tất nhiên sẽ bị trì trệ ,công danh tọh mạng đều bị ảnh hưởng tai hại.

Bàn về hình Thổ thường vẫn lấy sự pha trộn với hình Mộc làm điều đại kị vì Mộc khắc Thổ ,nhưng cần phải biết rằng nếu hình Thổ thuần cách quá nặng (trọng Thổ) có tướng Ngũ tàng ,khiến chi tinh thần khí chất bị trì trệ, không hiện rõ ở mặt

này được thì truờng hợp đó cần phải có Mộc chất đi kèm (ví dụ như mày thanh mắt sáng, râu tóc tươi nhuận không quá đậm và thô) để Thổ có thể trở thành đại dụng .Cách cục bổ túc nói trên tướng pháp gọi là Mộc chi sớ thông : Mộc dùng làm chất kích thích của Thổ. Loại tướng Thổ tàng (hay Thổ trọng cũng vậy ) mà gặp dược cách cục Mộc chi sớ thông rất hiếm nên tướng thuật có câu :"Thanh tĩnh quý đã đành mà trọc cũng quý khi được tướng Thổ trong hợp cách Mộc chi sớ

thông ".

Đến như hình Hỏa ,phép luận hình định cục khác hẳn với các hình kim,Mộc,Thủy,Thổ .Người Hỏa thì thần khí không nên ẩn tàng ,sắc không nên tĩnh ,tối kị mắt dài và sâu, mũi cao và thẳng, miệng rộng mmà lăng giác phân minh, tai có luân quách bình thường vì đó là điều hkắc tướng của người hình Hỏa.

Bởi vậy ,bàn về người hình Hỏa phải lấy tao mọc cao và luân quách đảo ngược ,mũi lộ khổng, môi đỏ ,Tam đình đới nhọn làm hợp cách. Có đúng như vậy về hình thức mới xếp vào loại quý cách.

Thủy kính tập

f) Tương quan giữa Aâm Dương và Ngũ hành trong tướng học :

Trong phạm vi hình tướng ,sự tương quan giữa Aâm Dương và Ngũ hành là một vấn đề khá quan trọng đáng được lưu ý.

Nói đến thuận Aâm Dương là nói đến vấn đề Dương hòa, Aâm thuận và nghịch âm

Dương là đề cập đếnDương thác Aâm sai. .Cònthuận hay nghịch Ngũ hành phức tạp hơn vì thuận hợp và nghịch hợp (nghịch hợp có thể xấu hay tốt) rất nhiều chi tiết đặc dị trong trường ợhp cá biệt.

Tựu trung trong tương quan âm Dương và Ngũ hành về mặt tướng học ta thấy 4 trường hợp có thể xảy ra :

- thuận cả Aâm Dương lẫn ngũ hành.

- âm Dương nghịch lí nhưng Ngũ hành thuận lí.

- âm Dương thận lí nhưng Ngũ hành nghịch lí

- Nghịch cả âm Dương lẩn Ngũ hành.

1- Thuận âm Dương và Ngũ hành

Về mặt tướng học ,con người có tướng thuận nguyên lí nguyên lí Aâm Dương nghĩa là kẻ có diện mạo cân xứng, da thịt và xương cốt cân phân. Nói một cách chi tiết hơn, kẻ đó hội đủ các điều kiện Dương hòa Aâm thuận. Về mặt Ngũ hành hình tướng, thuận có nghĩa là người thuận "Hành" hội đủ mọi điều kiện tốt của hành đó ,kẻ tạp cách không có sự khắc phá giữa các Hành trên cơ thể. Người thuận càv âm Dương và Ngũ hành được coi là tối thuận về đủ mọi phương diện .

2- âm Dương nghịch lí Ngũ hành thuận lí.

âm Dương nghịch lí là xương thịt ,diện mạo thân thể bất quân xứng .Riêng về điểm này cũng đủ để kết luận về con người như vậy là bất quân bình ,đương nhiên là có hậu quả xấu .Sự thuận lí cúa ngũ hành lúc đó chỉ có tính cách phụ thuộc và không có

giá trị gì đáng kể. Nếu sự thuận lí có tính cách đặc biệt,.còn phần đông cơ cấu ngoại mạo bị Aâm Dương đảo nghịch thì hậu quả phần lớn đều không ra gì .

Trong vài trường hợp đặc biệt tối thuận ,chẳng hạn phần nghịch lí cùa Ngũ hành bù trừ lại .ví dụ như người quá cáo ốm thiếu da thịt ( nghịch lí về Aâm Dương có thể được sự thuận lí của Ngũ hành hóa giải.

3- âm Dương thận lí , Ngũ hành nghịch lí

Nếu âm Dương hòan toàn thuận lí về cả cốt cách xương thịt ,bộ vị tứ chi, thần khí thì sự nghịch lí của Ngụ hành về mặt các nét tướng không đủ dể tiêu tán những hậu quả tốt của Aâm Dương bất kể sự nghịch lí đó nặng nhẹ ra sao .Tuy nhiên, sự nghịch lí của Ngũ hành vẫn làm cho các hiệu quả tốt của Aâm Dương bị sút giảm. Một trường hợp đặc biệt là Ngụ hành nghịch lí biểu kiến (ví như người Giáp Mộc có Kim chất ,nhưng thuộc lạoi nghịch hợp)nhưng về mặt giải đoán sự nghịch lí đó của Ngũ hành chỉ có ảnh hương thoáng qua không đáng kể, kết cục vẫn là đại phát .

4- âm Dương và ngũ hành đều nghịch lí :

Trường hợp này quá xấu ,không có gì đáng đề cập đến vì người bị nghịch cả âm Dương lẫn ngũ hành thì không còn đủ các yếu tố tối thiểu về hình tuớng để nói.

III-ỨNG DỤNG CỦA NGŨ HÀNG TRONG NHÂN TƯỚNG HỌC :

Dựa trên quan niệm triết lýThiên địa ,vạn vật đồng nhất thể(trời đất vạn vật cùng 1 bản thể nguyê n khởi), người Trung Hoa đã đem những lập luận của thuyết Aâm Dương Ngũ hành áp dụng rộng rãi vào lĩnh vực Nhân tướng học.

Người xưa tin rằng khi Aâm Dương phối hợp và chuyển hóa để sinh ra muôn vật thì cái linh khí nhẹ nhàng tinh khiết gọi là linh khanh bay lên để tạo thành trời cao ,phần nặng nề ,ô trọc gọi là trọng trọc lắng xuống dưới tạo thành đất ,vật nào trong lúc hình thành hấp thu được nhiếu thanh khí thì bản tính linh mẫn, hấp thụ được ít thanh mà nhiều trọc thì bản tính ngu độn.

Con người là 2 trong muôn loài của tạo hóa nhưng nhờ có trí óc linh mẫn mà hiểu thấu được sự vận chuyển nhiệm mầu của tạo hóa nên tự cho là vật tối linh trong muôn vật ( nhân vi vạn vật chi linh). Quan niệm trên đã có từ thời thượng cổ, Khổng Tử đã định nghĩa con người trong sách Lễ kí như sau :" Người là kết quả phối hôp Aâm Dương tụ hội quỷ thần ,tụ khí của Ngũ hành mà hình dạng ,phẩm cách : Nhân giả Aán đường chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí dã". Vì là vật tối linh trong muôn loài, bao gồm tất cả khí thiên trong vũ trụ nên con người tự xếp mìnhngang hàng với hai thể lớn lhác của vũ trụ là Trời và Đất để trở thành

Tam tài :Thiên, Địa ,Nhân.

Thấm nhuần triết lý trên,các nhà nhân tướng học từ đời Tống trở về sau ,coi con người là1 tiểu vũ trụvà bằng lối lý luận loại suy,tất cả quan niệm Aâm Dương,Ngũ hành lẫn các quan niệmkhác của đại vũ trụ đều được áp dụng vào tiểu vũ trụ.Do đó,

không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy Bộ vị của con người được gán cho các hình thái hay ý nghĩa của đại vũ trụ.Ngay cả nguyên tắc giải đóan của nhân tướng học cũng chịu ảnh hưởng sâu rộng của tríêt lí Thiên nhân tương dữ ( trời và đất có liên hệ với nhau).

a) Phân loại các màu da theo Ngũ hành:

Như đã nói ở trên ,năm màu ứng với năm Hành ,nhưng khi áp dụng vào nhân tướng học ,các màu đó biến thái rất nhiều và chịu ảnh hưởng của định luật thanh trọc chi phối để thành chính hay phá cách.

1-Sắc da thuộc Mộc (màu Xanh)

a) Chính cách : màu xanh lơ như da trời vào buổi sáng ,l úc ánh Thái dương chưa xuất hiện ,dáng vẻ tươi mịn nhưng không quá bóng bẩy như bôi dầu mỡ .Màu hợp cách như trên gọi là thiên sắc.

b) Phá cách : màu da xanh mét như vết thương bị đánh bằng roi gậy hay da xạm, khô cằn, là màu xanh phá cách ,tục gọi là tà sắc.

2-Sắc da thuộc Hỏa (màu hồng hay tía )

a) Chính cách :màu hồng hào như màu ráng chiều phản ứng mặt trời hay như sắc mặt cua người uống nhiều rượu ,hồng và sắc tươi mát mới gọi là thiên sắc.

b) Phá cách : hồng tươi pha đỏbầm như màu huyết dụ (ví dụ như các vết đỏ của mụn nhọt ) hay thô xạm là phá cách về màu da ( tà sắc ).

3-Sắc da thuộc Kim (màu trắng)

a) Chính cách : màu trắng ngà như màu ngọc trai và sáng sủa,tươi thắm gọi là thiên sắc.

b) Phá cách : trắng muốt như tuyết, bóng như lòng trắng trứng gà hay thô như màu của muối mỏ hoặc lốm đốm như má đàn bà dội phấn không đều, chỗ dày chỗ mỏng là phá cách (tức là tà sắc).

4-Sắc da thuộc Thủy (màu đen)

a) Chính cách : màu đen trong lĩnh vực nhân tướng học không phải màu đen tuyền như nguời Phi châu(nègre) mà là ngăn ngăm đen đều khắp khuôn mặt, nhuận trạch mới coi là thiên sắc.

b) Phá cách : màu đen mà trông có vẻ tối khám như hung khói.ảm đạm như mù lúc trời sắp mưa hay quá đen và thô như da nguời bị phơi nắng lâu ngày đều là tà sắc.

5-Sắc da thuộc Thổ (màu vàng )

a) Chính cách :vàng lạt và tươi như lông gà vịt mới nở

b) Phá cách : vàng sậm như củ nghệ, vàng xạm như lá úa, dáng vẻ khô xạm là các màu vàng thuộc tà sắc . Nói một cách tổng quát ,tà sắc là biểu tượng bất thường, dù la màu gì cũng vậy .Thông thường thì:

Tà sắc trắng chủ về buồn thương, về tình cảm và tang chế.

Tá sắc hồng chủ về lo lắng ,quan tụng.

Tá sắc xanh chủ về bệnh hoạn tổng quát.

Tà sắc đen chủ về chia ly, chết chóc (thường là bất đắc kì tử).

Tà sắc vàng chủ về suy nhược nội tạng.

b) Phân loại giọng nói theo Ngũ hành :

Tuy các âm giai Cung ,Thương, Giốc, Chủy, Vũ bị Ngũ hành hóa để trở thành các âm Thổ ,Kim, Mộc,Hỏa ,Thủy nhưng trong nhân tướong học , chúng chỉ dùng để chỉ các giọng nói tự nhiên hàng ngày nghĩa là chỉ có ý nghịa về âm sắc chứ không phải là

âm giai trong lĩnh vực âm nhạc. Aùp dụng nguyên tắc Thanh, Trọc vào lĩnh vực âm sắc ,người ta cũng phân ra giọng tốt và xấu trong mỗi Hành.

1- Giọng Kim (còn gọi là Thương thanh)

Nói chung, giọng kim êm mà không ướt ,rõ mà không khô ,âm điệu chắc chắn mà lớn ,tiếng vang truyền đi xa. Giọng kim chia

2 loại tùy theo âm lượng thanh trọc :

a)Giọng Kim chính cách : giọng nói sang sảng ,trong trẻo như tiếng khánh, khiến người nghe ý thức được âm lượng chắc chắn, đầy đủ, vững chải ,tiếng dội đi xa.

b) Giọng Kim phá cách : Aâm điệu vẫn có đặc tính hcung của Kim thanh nhưng giọng rè ,tẻ nhạt, không có tiếng vang tương tự tiếng phèn la.

2- Giọng Mộc (còn gọi là Giốc thanh)

a)Chính cách : giọng trong trẻo ,có sinh khí, âm lượng tròn trịa ở xa vẫn nghe đượcrõ ràng, dù người nói chỉ vận dụng âm thanh một cách bình thuờng ,không cần gắng sức .

b) Phá cách : Giọng nói trong nhưng không có tiếng vanh vi 2âm lượng quá ít tương tự như tiếng tre mục bị bẻ gãy ,vừa dứt tiếng thì âm vang cũng tắt theo.

3- Giọng Thủy (còn gọi là Vũ thanh )

Giọng trong và nhẹ ,nhanh mà vẫn nghe được đầy đủ câu nói lâõn dấu giọng .Giọng Thuỷ chia làm hai loại :

a)Hợp cách :giọng có vẻ lành lạnh, tiếng nói nhanh ,không nuốt tiếng, không biến giọng, âm lượng vừa đủ chứ không vang xa như giọng Kim hay Mộc.

b)Phá cách : gịong nói thô thiển, tiếng nói quá nhanh thành thử câu nói bị nuốt tiếng ,âm lượng ít khiến người nghe không nghe đủ hết câu nói

4- Giọng Hỏa (còn gọi là Chủy thanh )

Tiếng khàn khàn như tiếng vịt đực, người sành âm điệu có thể nhận ra âm Hỏa tuy cao vút như bị uất nghẹn trong yết hầu ,làn hơi như bị nén xuống trước khi phát ra thanh tiếng chứ không được suông sẻ như giọng khác .Tùy theo tính cách thanh trọc

của âm lượng , ta phân chia thành 2 loại :

a)Hợp cách : giọng nói cao ,khan và gằn mường tượng như người đang giận dữ mà cố nên giọng mà nói.Tuy âm lượng vẫn đều hòa không vấp váp ,nhưng người rành phép thẩm âm vẫn phân biệt được tính cách nóng nẩy của âm điệu.

b)Phá cách : giọng khàn như người khô cổ sắp bị hết hơi, và gằn mạnh từng tiếng hay nhóm tiếng ,âm lượng không được liên tục va 2không có tiếng vang.

5- Giọng Thổ (còn gọi là Cung thanh )

Giọng Thổ âm thanh lớn, chậm rãi,nặng nề, trầm ngâm,vang khá lâu, tương tự như tiếng đại hồng chung của ácc chùa chiền .Dựa vào tính cách thanh trọc,trường đoản của âm luợng phát ra , ta phân biệt :

a) Hợp cách : tiếng lớn, giọng nặng nề, chậm chạp, trầm và ấm ,âm vang nhất so với giọng Kim,Mộc,Thủy và Hỏa cách xa 3 trượng mà vẫn nghe được rõ ràng khi người nói phát âm một cách tự nhiên.

b) Phá cách : giọng trầm nhưng trì trệ ,không lưu loát, tiếng quát quá nhỏ hoặc âm lượng hỗn tạp :to nhỏ xen kẽ lẫn hau hay có tiếng âm vang Nói chung ,âm điệu giúp chúng phân biệt được 5 giọng của Ngũ thanh ,còn âm

lượng cho phép ta được hợp cách hay phá cách của giọng nói.

c) Phân loại hình tướng theo Ngũ hành :

Xét về phương diện xếp loại các loại hình tướng điển hình từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây , kể từ thủy tổ y học Tây phương là Hippocrate đến Kretschemr... người ta đã đưa ra nhiều lối khác nhau nhưng không có lối xếp lọai nào vừa căn cứ vào các nét đặc thù của thân thể một cách tỷ mỷ vừa phối hợp theo một triết lý siêu hình như lối phân loại Ngũ hành hình tướng theo tướng học Trung Hoa.

1-KHÁI LUẬN VỀ NGŨ HÀNH HÌNH TƯỚNG : Mộc Kim Thủy Hỏa Thổ chính liệt phá

Bàn về các loại hình tướng căn bản của con người , nhà tướng học nổi danh về

đời nhà Tống là Ma Y đã nói: " con người hấp thu linh khí của Aâm Dương trong vũ trụ mà thành hình tướng . Vì bẩm sinh thọ khí của Trời Đất mà có tinh thần nên hình tướng không thể vượt qua khỏi phạm vi của Ngũ Hành . Cho nên trong năm Hành : Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ ( tượng trưng cho nămđặc chất của vũ trụ ) mà có được hình tướng đúng cách cục thực sự của một hành thì dẫu không quý cũng được hưởng phúc lộc.

" Ngũ hành hình tướng tuy chia ra gầy mập, ngắn dài nhưng lại cần phối hợp với ngũ sắc để làm căn bản .Khi bàn về sự thanh trọc của hình hài , tinh thần , vũ khí đều dựa vào các điểm cất yếu sau đây:

- người hình Mộc nói chuung thân hình diện mạo đều cao gầy, mắt và lông mày thanh tú , da xanh

- Người hình Kim nói chung thâân hình diện mạo vuông vức , mặt mày sáng sủa , sắc da trắng.

- Người hình Hỏa nói chuung thân hình diện mạo đều thiên về dưới to trên thon nhọn, sắc da đỏ hồng.

- Người hình Thổ nói chuung thân hình diện mạo đầy đặn , thịt xương rắn chắc.

- Bởi vậy , khi bàn về hình tướng theo Ngũ hành ta cần xem hình tướng kẻ đó thuộc về hành nào để biết có hợp cách cục hay không"

- Hợp ở đây theo quan niiệm của Ma Y là toàn thể thân mình , diện mạo thịt xương , các bộ vị , màu da , giọng nói có hoàn toàn đúng chính cách hay liệt vào phá cách .

- Tướng pháp bàn về n࣓m loại hình tướng Kim , Mộc , Thủy , Hỏa , Thổ , nhưng ta cần phải biết là trong mỗi hành tự nó D9ã bao hàm cái nguyên lý sai biệt phi thường , biết khái quát về mỗi hành chưa đủ vì ngay trong một loại hình tướng cũng có loại này khác bởi lẽ mỗi hành được phân chia thành nhiều thứ bậc khác nhau.

- Bàn về Kim , ta thấy có r&##7845;t nhiều loại Kim, chẳng hạn có lọai kim ròng được luyện trong lò , co loại Kim lẫn lộn với đất cát, lại có kim cặn bã đọng lại ở thành nồi luyện.

- Bàn về hành Mộc , ta th𓏽y nào là loại tùng bách quanh năm xanh tươi , nào là loại gỗ quí , sống hàng ngàn năm , cao hàng trăm trượng, dùng làm cổ trụ , mào là loại kỳ hoa dị thảo để trang trí chốn cung đình , cũng như có loại thảo mọc hoang dã chỉ để làm củi chụm phân bón...

- Bàn về hành Thủy cần phải phân biệt các loại nước suối thanh khiết , từ các cao phong hiển tuấn đổ xuống có loại nước trường giang đại hải , lại có nước đục do đường mương cống rãnh đổ ra.

- Bàn về hàng Hỏa thì th𓉭y có loại lửa mặt trời , không đâu là không chiếu rọi tới , có loại lửa trong lò lớn hừng hực nóng bỏng , có loại lửa lập lờ cũng có loại lửa âm ỉ do đám củi ướt , cỏ mục tạo nên.

- Bàn về hành Thổ cũng vvậy , có loại đất tinh thanh do sơn hà kết tụ lại rắn chắc và phong phú , có loại đất phù sa do đá vụn , cát bùn bồi đắp , có loại đất do cây cối mục nát hòa với tro bùn mà thành , Bởi vậy , Ma Y tổ sư đã nói:" Tướng tuy bàn về Ngũ Hành nghĩa là lấy Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ làm căn bản , nhưng cái lý ảo diệu chính là ở chỗ mỗi hành có những thứ bậc tốt xấu khác nhau , Cho nên có gốc rễ chưa đủ ta cần phải lấy sự thanh tú cua mày mặt , sự ngay ngắn rõ ràng của mũi miệng , sự sáng láng của tinh thần , sự rộng rãi của khí vũ làm cành nhánh , hoa lá thì mới diễn đạt được hết cái tính uyên thâm của Ngũ hành hình tướng.

2-ĐẶC TÍNH CỦA NĂM LOẠI HÌNH TƯỚNG ƠC BẢN :

Căn cứ vào Ngũ hành , tướng học Trung Hoa đã xếp loại con người thành năm hạng điển hình gọi là Kim hình , Thổ hình, và Hoả hình . Mỗi loại trên lại chia thành chính cách , liệt cách và phá cách.

Hình Kim :

Đặc điểm khuôn mặt : các nét chính của khuôn mặt đều gần như ngay thẳng , tạo thành hình vuông hay chữ nhật khá rõ ràng .

Đặc điểm thân hình : vóc dáng trung bình về cả bề ngang lẫn bề cao , xương thịt cân phân , sắc da trắng.

KIM HÌNH CHÍNH CÁCH:

- Thân thể tay chân tròn lẳn , rắn chắc , các bộ vị chính yếu của khuôn mặt như cằm , trán , tai, miệng và đầu... đều có dáng vuông vức ( gọi là Ngũ phương).

- Sắc da trắng ngà , tư&ơi mát.

- Tiếng nói sang sảng, gi𓐥ng cao vừa phải, âm lượng ấm cúng và có tiếng vang.

- Về cá tính , điểm n𓁅i bật ở người Kim , về mặt đạo đức là sự tôn trọng đạo nghỉa ( có thể theo quan niệm riêng của họ). Người Kim rất có thể là kẻ tàn nhẫn, mưu trí nhưng tất cả những xảo thuật cũng như mọi phương tiện khác nhau đều được hướng theo mục tiêu Nghĩa hiểu theo quan niệm riêng của Người hình Kim.

Tóm lại, nói một cách tổng quát , tất cả các bộ vị của người hình đều ở mức trung bình về kích thước và rất ngay ngắn . Nói khác đi , hình thể và khí sắc phải tương xứng , thần khí trong sáng nhưng điều hoà , không quá lạnh lùng.

KIM HÌNH LIỆT CÁCH :

- Đầy đủ đ𓐏c tính tổng quát của hình Kim , nhưng xương thịt bất quân xứng ( hoặc xương nhiều hơn thịt , hoặc thịt nhiều hơn xương).

- Đầy đủ đ𓐏c tính của hình Kim về khuôn mặt nhưng quá cao hoặc quá lùn.

- Gịong Kim rè hoặc sắcc Kim trắng bóng.

- Ngón tay quá dài , quá ngắn ho𓀧c quá lớn, đầu ngón tay lại tròn hoặc nhọn.

- Thần sắc tẻ lạnnh.

- Mày râu tóc da ảm đạm , thiếu sự sáng sủa.

- Không đủ tướng Nggũ phương bại cách.

KIM HÌNH PHÁ CÁCH :

- Có tướng Ngũ phưonng mà Tam đình , Ngũ nhạc bất quân xứng hoặc lệch lạc.

- Có khuôn mặt vuông hoặc ch&ữ nhật mà Ngũ quan thiếu ngay ngắn hoặc thiếu phối hợp.

- Khuôn mặt hình Kim mà các b𓒁 vỉ của khuôn mẵt không có dạng hoặc đường nét vuông vức.

- Mắt không có chân quang , gi𓐥ng thuộc hành khác , thuộc loại xung khắc và phá âm

Khi bị liệt cách nặng hoặc phá bị phá cách thì tướng học gọi đó là trườnh hợp chỉ có Kim hình chứ không có Kim tinh. Do đó , các đặc tính tốt đẹp của hình Kim bị giảm thiểu hoặc không còn áp dụng cho các loại có khuyết điểm đó nữa.

a) Hình Mộc :

Đặc điểm tổng quát của khuôn mặt : nhìn một cách khái quát , đặc tính dễ nhận thấy về khuôn mặt của người Mộc là có dạng trái lê lật ngược ( Gíap Mộc) hoặc hình tam giác nhọn lật ngược (Aát Mộc), màu da hơi xanh. Đặc điểm thân hình : thân thể Người Mộc phát triển bề cao rất rõ , còn bề ngang lại kém phát triển . Do đó , thân mình , tứ chi , cổ đầu , ngón tay đều thon dài. Người Gíap Mộc thì thân thể quá mản mai , lưng gù , tay cong , đi đứng rụt rè ẻo lả.

MỘC HÌNH CHÍNH CÁCH :

- Khuôn mặt có hình dạng tráii lê lật ngược , nét mặt gân guốc khoẻ mạnh , sắc da hơi xanh đen.

- Thân hình , tứ chi , cổ và ngón tay đều thẳng tuột và thon dài ( Tướng Ngũ trường).

- Các bộ vị chính yếu ccủa khuôn mặt như lông mày ,tai, mũi , miệng đều hẹp, dài và thẳng thắn . Đặc điểm nổi bật của người hình Mộc chính cách là mày thanh , mắt sáng , môi hồng , chỉ tay nhỏ và nhiều , khí thế vững vàng lanh lợi.

- Về cá tính , điểm n𓁅i bật nhất của người Mộc chính cách là đức Nhân theo chiều hướng Mộc Nhân Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân .Làm gì, nhận xét ai , người có tính mộc thường tự đặt mình vào tâm trạng và hoàn cảnh kẻ khác . Bởi vậy, kẻ có Mộc tính thường dễ dàng thông cảm với tha nhân , không đòi hỏi ở kẻ khác quá nhiều nhưng chính vì vậy mà thường có tính khinh thế ngạo vật.

MỘC HÌNH LIỆT CÁCH :

Liệt cách là có khá đủ những nét chính của hình Mộc thuần túy nhưng phạm vào các khuyết điểm sau:

- Tai và cánh mũi quá mỏng. - Lông mày quá đậm và thô ho&##7863;c quá lạt mà nhỏ tuy rằng vẫn có chiều dài quá mắt.

- Thân hình và tứ chi quá khẳ;ng khiu mà lại cong quẹo,lưng gù tay hay chân lệch lạc

- Cằm quá dài và nhọn, quai hhàm quá hẹp.

- Giọng nói yếu ớt ,khôông có âm lượng.

- DÁng điệu uỷ mị,, e lệ như con gái ,sắc da xanh mướt.

MỘC HÌNH PHÁ CÁCH :

Đi ngược lại các đặc điểm đặc thù của hình Mộc thì gọi là phá cách .Phá cách bao gồm các đặt điểm sau : - Thân hình lùn mập ,cổ ngắn, tứ chi ngắn,ngón tay thô,chỉ tay mờ và ít.

- Hói đầu hay quá ít tóc và khhông có râu ria.

- Lông mày sợi thô ngắn, hay đậm mà lại mọc úp xuống hay nghịch lên chứ không xếp xuôi theo chiếu từ đầu mắt tới đuôi mắt.

- Mũi ngắn ,trũng xu𓐩ng,chủân đầu nhỏ nhon ,thân mũi trơ xương hay môi dày.

- Nước da vàng vọt .hkô xạm hay có màu tím.

- Râu tóc màu hung hay vàng khè.

- Mắt không có thần quang ,màày không có tú khí.

- Có tướng Ngũ trư&##7901;ng mà Ngũ quan không phối hợp điều hòa.

- Giọng trầm và rè.

Người Mộc chính cách gọi là Giáp Mộc ,Mộc hình liệt cách ahy phá cách thường gọi là Aát Mộc . giáp Mộc chuẩn về trí tuệ quý hiển còn Aát Mộc chủ về non yểu hay lận đận về công danh gia vận.

b) Hình Thủy : (Thũy hình nhân)

Đặc điểm tổng quát về khuôn mặt : Mặt tròn trịa ,ngũ quan đầy đặn,ít xương nhiều thịt, cằm xệ và có 2 nấc,cổ ngắn và mập mạp. Da ngăm đen. Đặc điểm thân hình : Thân mình tròn mập ,nặng nề ,vai tròn, thịt bệu ,dáng dấp đi dấp đứng chậm chạp có vẻ trì trệ.

THỦY HÌNH CHÍNH CÁCH :

Đầu tròn, mặt tròn và lớn hợp đúng tướng Ngũ viên (đầu tròn, mắt tròn,mặt tròn và cằm tròn trịa).Hơn đâu hết ,người Thủy đúng cách thượng thừa phải có "Tứ đậu" hợp cách,Người Thủy đúng cách thượng thừa phải có Tứ đậu hợp cách (tai mũi miệng mắt) Thủy tính nghĩa là : Tai phải tròn ,có Thùy châu rất rõ ,Luân quách phân minh nhưng dẻo dai.

- Mắt phải lớn và hပi lồi ,có thần quang.

- Mũi phải có gián đài ,&đình úy phân minh ,lỗ mũi che kín,chuẩn đầu lớn và tròn.

- Miệng phải rộng , môii phải dày, có Lăng Gíac phân minh và trên dưới cân xứng.

- Thân hình phát triển bề ngaang một cách rõ ràng nhưng dưới trên cân xứng.

- Thân hình phát triển bề ngaang cách rõ ràng nhưng dưới trên phải cân xứng trầm ổn.

- Tay chân ngắn hơn thân mình tròi trịa mập mạp ,xương lẳn, mỡ nhiều ,dáng vẻ có nặng nề nhưng không có vẻ mệt mỏi.

- Sắc da ngăm đen nhტng tươi nhuận.

- Giọng nói trong trẻo ,ti𓀯ng nói lanh lẹnhưng không nuốt và có âm vang.

- Động tác khóang đ𓉋t ,bước chân nhẹ nhàng, khí sắc thanh thản.

- Lông mày ngắn nhưng sợ;i mịn và bóng bẩy.

- Đặc tính trí tuệ tr𓁉i yếu nhất của Thủy hình đúng cách là khôn khéo ,mềm mỏng ,giỏi giao tiếp.

THỦY HÌNH LIỆT CÁCH :

- Đầy đủ các đ;iều kiện về hình thức của hình Thủy nhưng thịt da quá mềm(tục gọi là béo bệu), gân xương quá nhỏ.

- Đầy đủ các đ;iều kiện về hình thức của Thuỷ giữa thanh âm nhưng không phải loại Thủy thanh chính cách.

- Có tướng Ngũ viên nhᅐng Tứ đậu không được sáng sủa đầy đủ hay thuộc loại trọc.

- Có Thủy hình tương ૕ối nhưng hội đủ điều kiện Ngũ viên, chẳng hạn môi quá mỏng ,tai quá nhỏ ,v..v..

THỦY HÌNH PHÁ CÁCH :

- Mặt tròn đầy nhưnng Tư đậu không hợp Thủy cách.

- Hợp Thủy hình thần hôôn sắc ám , cước bộ hoặc nặng nề hoặc rối loạn.

- Tứ đậu tươngg phản về tính chất hoặc hình dạng.

- Có Thủy hình mà không có Th𓔇y sắc hoặc Thủy âm.

- Khuôn mặt thuộc Thủy nhưng Ngũ quan , Tứ đậu lệch lạc hoặc thân hình không đúng Thủy cách, chẳng hạn mặt mập người ốm, thân trên mập thân dưới thon...

c) Hình Thổ: ( thổ hình nhân)

Đặc điểm khuôn mặt : khuôm mặt hoặc bầu dục hình tròn trông tương tự như hình Thủy nhưng các Đặc điểm thân mình :tương tự như Thủy hình nhưng người Thủy mập mỡ , người Thổ mập thịt , vai rộng , mông to, bụng ngực tương đồng , dáng đi mạnh mẻ vững vàng.

THỔ HÌNH CHÍNH CÁCH :Thổ tín Thổ trong

- Vai lưng rộng , thẳng , tròn đầy.

- Chân tay to lớn , chắc ch&##7855;n , tứ chi ngắn hơn thân mình và không lộ gân xương.

- Toàn thân có tướng Ngũ hậu ( đầu cổ lớn và vững , tai lớn , dầy, có thùy châu tròng và Luân quách phân minh , mặt tròn nhiều thịt, trông chắc chắn , chân tay tương xứng với thân mình và chắc chắn , vững chãi)

- Mắt có dạng dài , không sâuu, không lộ.

- Bề rộng lông mày ở m&ức trung bình , bề dài tối thiểu phải bằng chiều dài của mắt.

- Tam Đình Ngũ nhạc ભầy đặn , điều hòa đắc thế.

- Sắc da vàng nhuận.

- Tiếng nói lớn chậm rããi, ấm và ngân vang như đại hồng chung.

- Đặc tính trội yế;u nhất của người Thổ là thủ tín.

- Người Thổ chính cách kkhí sắc không tạp , tinh thần không loạn , cử chỉ đĩnh đạc có tiết độ, lâm sự vẫn giữ được thần thái an tĩnh. Nếu đầy đủ tất cả các đặc thái trên mà hình thể nặng nề , tâm mưunsâu sắc thì gọi là Thổ trọng .Chỉ có Thổ trọng thuần túy mà không có Mộc chất thì rất khó phát đạt.

THỔ HÌNH LIỆT CÁCH :

- Có đủ đặc tính hìình thể của Thổ nhưng ngũ quan có một quan quá nhỏ hoặc không đúng Thổ cách hoàn toàn.

- Đầy đủ Thổ hình mà khí phách hẹp hòi , độ lượng nông cạn , âm hiểm tiểu tiết thì liệt về Thổ tính

- Đầy đủ diệnn mạo Thổ mà thân mình trên to dưới nhỏ mất thế quân bình.

- Đầy đủ diệnn mạo , hợp Thổ cách mà bước chân phiêu hốt như người yếu gân xương.

- Đầy đủ Thổ cách về diện mạo mà tiếng nói quá nhỏ , quá cao.

- Qúa nhiều râu tóc hoặc qua ít râu tóc mặc dầu hoàn toàn hợp Thổ cách , hoặc sắc da thuộc Thổ loại tà sắc.

- Tướng Thổ trọng mà lại thiếu Mộc chất.

THỔ HÌNH PHÁ CÁCH :

- Không phải thanh Thổ ho𓐏c sắc Thổ.

- Các bộ vị căn bả;n như Mũi Tai Miệng không hợp với Thổ cách

- Diện mạo Thổ mà thân mình không phải thuộc Thổ cách.

- Khí ám sắc trệ.

- Không có đủ các đ𓌩c tính Ngũ hậu mà lại còn bị khắc phá bởi các Hành khác.

d) Hình Hỏa : ( hỏa hình nhân)

Đặc diểm khuôn mặt : Khuôn mặt giống như hình tam giác ( đầu thon dài , Thiên đình hẹp nhọn , Hạ đình nảy nở ) , râu tóc ít , các bộ vị quan trọng trên khuôn mặt đều lộ , sắc da hồnh hào.

Đặc điểm thân mình : Thân vóc trung bình , thường thì xương thịt quân phân, vai thon , hông nở , chân tay gân guốc nhưng quắc thước tự nhiên.

HỎA HÌNH CHÍNH CÁCH :

- Tam đình tuy bình đẳng nhưng mỗi Đình đều phảng phất những nét thon nhọn phía trên hoặc dưới.

- Có tướng Ngũ lộ (( lộ mi , lộ nhãn , lộ sỉ , lộ tỵ , lộ nhi ) nhưng lộ mà trọc trung hữu thanh.

- Râu ria tuy ít nhưng mềm m&##7841;i tươi tắn.

- Điệu bộ lanh lẹ , linh hoạt tuy bồn chồn nóng nảy mà vẫn giữ được tiết độ , tháo vát , không tháo thứ.

- Sắc da hồng hào khoẻ mạnh

- Chân tay tuy gân guốc nhưng không cong quẹo.

- Khí sắc không tạp , tinh thhần không loạn , dù có nằm lâu cũng giử dđược tư thế ổn định.

- Phẩm tính đặc thù c𓁗a Hoả hình là giữ được Lễ ( ở đây nghĩa là ự tiết chế được phản ứng dù trong lúc cuồng nộ)

HỎA HÌNH LIỆTCÁCH :

- Diện mạo , thân hình đ;úng Hỏa cách mà sắc và âm thuộc loại tà sắc , tà thanh.

- Không hội đủ tư&##7899;ng Ngũ lộ hoặc có tướng Ngũ lộ mà thuộc loại trọc ( nghĩa là không có thần hoặc tú khí ẩn tàng sau các bộ vị lộ đó).

HỎA HÌNH PHÁ CÁCH :

- Tam đình Ngũ nhạc b𓏽t quân xứng.

- Miệng rộng môi dầy , mày thanh mắt sáng nhưng không lộ và luân quách phân minh lại có Thùy châu , mũi cao và thẳng chứ không lộ.

- Râu tóc nhiều và xanh đen. <

- Người mập mà da l𓉩i trắng hoặc xanh.

- Hoả hình không thuần túy hooặc pha lẫn các hình của các Hành khác xung khắc với Hỏa.

CHƯƠNG THỨ HAI

NGUYÊN LÝ ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH TRONG TƯỚNG HỌC

I- ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH TRONG VŨ TRỤ QUAN TRUNG HOA :

a) Lược sử :

Thuyết Aâm Dương Ngũ hành đã được đề cập đến trong một tác phẩm thành văn tối cổ Trung Hoa là kinh Dịch .Tuy vậy.kinh Dịch của Khổng Tử chỉ là sự thâu nhập các kiến thức và quan niệm của người xưa từ thời vua Phục Hy lưu truền đến đời

Khổng Tử.Khổng Tử chỉ góp nhặt và suy diễn thêm cho thành một hệ thống và ghi lại thành văn bản cho hậu thế mà thôi.

Theo truyền thuyết , người nhận thức được các lẽ Aâm Dương biến hóa của trời đất , vạn vật là vua phục Hy (khoảng 44 thế kỉ trước công nguyên), người minh thị đề cập đến cái d5ng củaNgũ hành là vua Hạ Vũ (khỏng 22 thế kỉ trước Tây lịch)

Đến thế kỉ thứ 3 trước Tây lịch,tại nước Tề (nay là tỉnh Sơn Đông) ,có học giả Trâu Diễn , căn cứ vào kinh Dịch , đã phổ biến và hết tinh thần và công dụng của âm Dương,ngũ hành không những vào sự vật thiên nhiên mà còn vào con người nữa . Do đó,người đời sau coi Trâu Diễn như người khai phá ra phái Aâm Dương . Phái này chính là nguồn gốc của phái Lý-Số do các học giả đời Tống sau nay sáng lập.

Đến đời Hán,học giả Dương Hùng (53 trước Tây lịch-20Tây lịch) tham bác kinh Dịch và Đạo đức kinh mở ra ngành Lý-Số học sơ khai qua tác phẩm Thái huyền kinh.

Đến đời Tống sơ (khoảnh thế kỉ 10) ,một nhân vật Đạo gia kiêm Nho gia là Trần Đoàn ,tự là Đồ Nam,hiệu là Hi Di tiên sinh ,tinh thông cả Lý-Số hoc của các nhà đi trước đã tổng hợp các kiến giải về lý Thái cực của vũ trụ, lấy lượng số mà xét sự vậnchuyển của Trời Đất , suy diễn ra hành động của vạn vật mà áp dụng các hiệu quả của lý Thái cực vào Nhân tướng học đến giải đoán tâm tình , vận số của con người , mở đầu cho Lý-Số học và Tướng số học.

Từ đó về sau ,quan niệm Aâm Dương, Ngũ hành được áp dụng rộng rãi vào Nhân tướng học và thành ra một thành tố bất khả phân trong tướng thuật .

b) Nội dung của thuyết Aâm Dương , Ngũ hành :

Theo cổ nhân Trung hoa, lúv đầu vũ trụ chỉ là một khối hỗn độn,không có hình dạng rõ ràng được gọi là thời Hỗn mang. Trong sự Hỗn mang đó, bàng bạc cái lẽ vô hình linh diệu gọi là Thái cực.(Sở dĩ gọi nó là Thái cực vì nó huyền bí và vô tận nên không thể xáx định rõ bản thể của nó ra sao ).

Tuy nhiên, dù không biết được cái chân tính và cái chân chất của cái lẽ Thái cực huyền vi song ta có thể dựa vào sự quan sát về tính cách biến hóa của vạn vật mà suy ra được cái động thể của Thái cực. Căn bản của sự biến hóa được biểu lộ bằng hai trạng thái tương phản là Động và Tĩnh .Động gọi là Dương, tĩnh gọi là Aâm .Dương lên đến cực độ lại biến ra Dương .Hai cái trạng thái tương đối của cái Bản thể nguyên khởi duy nhất (Thái cực) cứ tiếp diễn mãi, điều hợp với nhau, sinh sinh hoá hóa không ngừng mà sinh ra Trời Đất,Người cùng vạn vật. Vì Aâm Dương phối hợp đunđẩy lẫn nhau nên có sự biến chuyển, Sự biến chuyển chính là nền tảng của Dịch .Do đó, trong phần chù giải kinh Dịch, Khổng Tử đã nói : "Aâm nhu Dương cương, Cương nhu tương thôi sinh nhi biến hóa " (nghĩa là Aâm thì mềm,Dương thì cứng, cứng mềm đun đẩy nhau chuyển hóa thành thiên hình vạn trạng ).

Theo cổ nhân, mỗi chu trìh gồm 4 giai đoạn :

a)Nguyên :khởi đầu của sự biến hóa

b)Hanh :sự thông đạt, hội hợp các thành tố.

c)Lợi : sự thỏa đáng các điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng.

d)Trinh : sự thành tựu chung cuộc của một chu trình sinh ra sự vật.

Biến hóa là ngoại biểu của Thái cực mà đạo Dịch căn cứ trên sự biến hóa của vũ trụ và vạn vật. Do đó, kinh Dịch mô tả diễn trình tiến hóa (Dịch) một cách khái quát như sau :

"Dịch hữu Thái cực sunh lưỡng nghi, luỡng nghi sinh tứ tương, tứ tương sinh Bát quái, Bát quái sinh Ngũ hành : đạo Dịch có nguồn gốc là Thái cực , Thái cực sinh ra hai Nghi ( Aâm và Dương) , hai Nghi sinh ra bốn Tương (bốn trạng thái tượng trưng

là bốn mùa :xuân, hạ thu , đông), bốn tượng sinh ra tám Quẻ (Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài) tượng trưng cho Trời , Đầm, Lửa, Sấm, Gió, Núi, Nước, Đất ), tám Quẻ sinh ra năm Hành (năm loại nguyên tố cấu tạo ra vạn vật hữu hình :Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ)

Khởi đầu của sự biến hóa rất đơn giản, rồi từ cái đơn giản đó mà chuyển hóa dần dần thành cái phồn tạp. Vì âm Dương là hai thành tố đầu tiên trong vũ trụ , nên kinh Dịch chọc là biểu tương căn bản và tượng trưng bằng hai cái vạch đơn giản:

a)Vạch liên tục ( _ ) tượng trưng cho Dương .

b)Vạch gián đoạn (- - ) tượng trưng học âm.

Trong phép biến hóa để sinh ra Bát quái, hai vạch tượng trưng cho Aâm Dương lần lượt chồng chất lên nhau theo nền tảng tam tài mà thành ra tám Quẻ căn bản với hình dạng và ý nghĩa tượng trưng sau đây :

1-Kiền tượng trưng cho Trời .

2-Đoài tượng trưng cho Đầm, Ao

3-Ly tương trưng cho Lửa

4-Chấn tượng trưng cho Sấm

5-Tốn tượng trưng cho Gió

6-Cấn tượng trưng cho Núi

7-Khảm tượng trưng cho Nước

8-Khôn tượng trưng cho Đất.

Đó là tám Quẻ nguyên thủy gọi là "Tiên thiên Bát quái" do vua Phục Hy (4477-4363) trước Tây lịch vạch ra để giải thách cái lẻ AâmDương biến hóa của Táhi cực .

Về sau vua Hạ Vũ (2205-2163) trước Tây lịch đặt ra Cửu Trù ( chín phép lớn) phối hợp với Bát quái và tính cái số của Ngũ hành trong việc giải thích lẽ biến hóa của vũ trụ và vạn vật.

Tới đời Tây Chu , vua Văn Vương , trong thời gian bị giam ở ngục Dũ Lý ( khoảng thế kỷ 11 trước Tây lịch ) đã dành thì giờ nhàn rỗi diễn lại các quẻ tiên thiên Bát quái của Phục Hy thành tám quẻ , Bát quái mới gọi là hậu thiên bát quái với các ý nghĩa thiên về nhân sự để dùng vào việc bói toán và suy gẫm việc người . Con Văn Vương là Chu Công Đán về sau có giải thích thêm đôi chút về ý nghĩa và công dụng của quẻ Bát quái, nhưng rất ngắn và mơ hồ , chỉ có các kẻ có thiên tư đặc biệt được tâm truyền mới ánh mắt hiệu được .Tình trạng của Dịch lí từ thượng cổ đến trước khi Khổng Tử ra đời chỉ có như thế mà thôi.

Đến đời Đông Chu , Khổng Tử (511-478 trước Tây lịch ) đem kiến giải của mình bổ sung vào các điều truyền lại của Dịch lý đời Chu, san định lại và viết thành Kinh dịch trong đó bao gồm cả Aâm Dương ,Bát quái và Ngũ hành.

Căn cứ theo ý nghĩa thông thường , cổ nhân gán cho Âm Dương Ngũ Hành các ý nghĩa tượng trưng sau đây :

Dương : tượng trưng cho mặt trời, lửa, ánh sáng ,sinh động, cứng cát,ban ngày, đàn ông....

Âm :tượng trưng cho mặt trăng ,tối tăm, nguội lạnh, bất động, mềm nhão,ban đêm,đàn bà....

Kim: vàng, bạc hiểu rộng ra là tất cạ các chất kim thuộc.

Mộc: cây trong rừng, nói tổng quát ra là mọi thực vật trên mặt đất.

Thủy: nước và nói rộng ra là các chất lỏng.

Hoả: lửa , hơi ấm

Thổ: đất đá , nói chung Thổ bao gồm mọi loại khoáng chất trừ kim loại .

Về phương diện siêu hình Aâm Dương không phải là cái khí vật chất hữu hình thể mà chỉ là cái biểu thị tượng trưng cho hai trạng thái tương đối, mâu thuẫn như nóng lạnh, sáng với tối, cứng với mềm, sinh với diệt, khỏe với yếu...

Về phương diện ý nghĩa siêu hình của ngũ hành , ta củng đi đến kết quả tương tự Kim ,Mộc, Thủy,Hỏa ,Thổ, ngoài tính cách vật chất của nó kể trên có một ý nghĩa tượng trưng cho tính cách tương sinh, tương Khắc trong sự biến hóa của muôn vật diễn

ra hàng ngày trước mắt.

Trong tướng học , người ta rất chú trọng đến Nhũ Hành và thường hiểu Kim, Mộc ,Thũy, Hoả, Thổ theo cả hai ý nghĩa : vật chất lẫn siêu hình qua sự tượng hình chuyển ý của văn tự từ nghĩa hẹp đến nghĩa rộng.

a) ảnh hưởng của thuyết ngũ hành trong nhân sinh quan Trung Hoa :

Từ quan niệm là một lý thuyết triết học thuộc phần Hình nhi thượng từ đời Tống trở đi, Aâm Dương thuộc Ngũ Hành được đem áp dụng vào lãnh vực Hình nhi hạ. Đại đa số học giả Trung Hoa và các dân tộc Á Đông chịu ảnh hưởng văn hóa sâu đậm của Trung Hoa đã dùng lý thuyết Ngũ hành đem giải thích và gán ghép các đặt tính của vật chất được siêu hình hóa của Kim, Mộc ,Thủy, Hỏa , Thổ vào các lãnh vực thường dụng của nhân loại, điển hình là các trường hợp sau đây:

1) Phương hướng , màu sắc, bốn mùa

b)- Mộc tượng trưng cho mùa ,màu xanh, phương đông

Mùa Xuân khí hậu mát mẻ như sương buổi ban mai, biểu hiện khởi đầu của một chu trình biến hóa mới của vạn vật bắt đầu hồi sinh và tăng trưởng.Mặt đất về mùa Xuân ,đâu đâu cũng một màu xanh thắm,Thái dương bắt đầu mọc ở Phương Đông .Tất cả đều bàn bạc ý nghịa cụa Aâm Dương tương thôi với Dương lấn lướt âm một cách tương đối trong cái trung dung của Aâm dương ( Aâm dương tỷ hòa thì vạn vật mới sinh).Do đó , cổ nhân đã lấy Mộc tượng trưng cho Mùa Xuân.màu xanh, Phương Đông.

c)- Hỏa biểu thị mùa Hạ,màu Đỏ, phương Nam

Múa hè nóng nực bức như lửa thiêu ,Dương cương lên đến cùng cực .Hoa lá đặc trưng của mùa này như lựa và phượng vĩ trổ bông màu đỏ ,phương Nam gần như ấm áp quanh năm nên Hỏa tượng trưng cho mùa Hạ ,màu Đỏ và phương Nam vậy.

d)Kim tiêu biểu cho mùa Thu,màu Trắng và phương Tây

Mùa Thu là giai đoạn cho Aâm Dương tương thôi bình hòa khí trời nóng quá,không lạnh lắm nhưngDương cương bắt đầu suy ,âm nhu bắt đầu thịnh .Mặt trời lặn ở phương Đông.Trời mùa Thu thường có mây trắng ngà bao phủ ,nên cổ nhân mới nhân

đó mà chọn Kim tiêu biểu cho mùa thu ,màu trắng và phương Tây .Nói kh1c đi theo Ngũ hành thì mùa Thu ,sắc trắng,phương Tây thuộc Kim.

e)Thủy tiêu biểu cho mùa đông ,màu Đen ,phương Bắc

Hiện tượng độc đáo nhất của mùa Đông là tuyết rơi, gia buốt ,cảnh vật ảm đạm,cửa nẻo đóng kín,tối tăm.Tuyết la 2một trang tháicủa nước , phương Bắc thường hay có tuyết nên với tinh thần tượng hình ,chuyển ý ,cổ nhân Trung Hoa chọn hành Thủy mùa Đông ,màu Đen ,phương Bắc .

f)Thổ tiêu biểu cho Đất,ø màu Vàng ,Trung ương

Người tàu phát tích ở sông Hoàng Hà ,đất đai ở đây màu vàng (hoàng thổ) nên dựa vào sự vật để định tên ,lấy đất tiêu biểu cho chất Thổ và màu vàng tượng trưng cho sắc Thổ .Bởi người Tàu lấy địa phương của họ làm trung tâm quan sát ,tự coi mình là người trung thổ ,danh xưng là Trung quốc nên màu vàng là màu trung ương ,Thổ là Hành chủ bao gồm cả bốn hành còn lại với lý do Địa tải sơn hà, vạn vật (Sông núi muôn loài vạn vật đều do đất chứa đựng ).

2-Năm đức tính căn bản của con người :

a) Nhân ứng với Mộc :

Nhân chủ ở chỗ thanh tĩnh ,ung dung tự tại ,không cạnh tranh ,bao dung và đãi người đồng đẳng .thảo mộc vốn không di động cạnh tranh ,loài tùng bách quanh năm xanh tươi, bất chấp gió sương nóng lạnh ,tượng trưng cho thái độ an tĩnh ,ung dung tự tại .Cây cỏ còn để người che mưa che nắng ,không phân biệt mội ai .Hoa quả trong chốn sơn lâm ai thưởng thức cũng được .Cái đức tự nhiên lưu hành của thảo mộc tương tự như đức Nhân ở nhân loại .do ở ý nghĩa mà Khổng Tử đã nói : " Nhân giả nhao sơn " (bậc nhân giả thích núi ) vì trên núi có thảo mộc tượng trưng cho đức Nhân của tạo vật .

b) Nghĩa ứng với Kim :

Luôn luôn thích ứng với phép tắc thiên nhiên hoặc công lý ,hằng cửu ,không biến chất, cứng cỏi không sờn. Đó là những ý nghĩa bao quát của Nghĩa .Loài Kim thuộc như vàng luôn luôn giữ mãi vẻ sáng cứng rắn ,khuyết biết tiết, dù ở nơi này hay nơi khác ,lúc nào cũng vậy ,phảng phất ý nghĩa của đức Nghĩa nên cổ nhân lấy Kim tượng trưng cho Nghĩa .

c)Lễ ứng với Hỏa :

Lễ gồm chung tất cả những gì soi sáng khuôn phép ,tạo nên tôn trọng duy trì diềng mối ,phát huy chân lí tự nhiên lưu hành ,Tế tự là một hình thức của lễ ,biểu dương sự tôn kính. Một trong những ứng dụng của Hỏa là soi sáng tại nơi Tế tự ,làm hiển lộng cái tôn kính quỷ thần của con người nên cái dụng (về phương ý nghĩa triết học ) của Hỏa và Lễ tương đồng ,nên Lễ ứng với Hỏa.

d) Trí ứng với Thủy :

Kẻ trí không điều gì là không thấu triết ,nước không đâu là không thông qua. Cái được của Trí và Nước có sự tương đồng đại lược nên người xưa đã nói một cách

đầy biểu tượng : "Trí giả nhao Thủy" (Bậc trí giả thích nước) .Do đó, Thủy tượng trưng cho Trí.

e) Tín ứng với Thổ :

Bản chất của Thổ là không bao giờ sai chạy.Thảo mộc dựa vào đất mà sống và đất cứ theo từng mùa nhất định mà thúc đẩy sự sinh diệt của cạy cối theo đúng chu trình chuyển hóa tự nhiên của tạo vật ,không bao giờ sai chạy. Do đó ,so với Tín thì bản chất của Tín và Thổ về ý nghĩa tổng quát có những nét tương đồng .

3-Năm cung bậc trong âm nhạc :

a) Cung ứng với Thổ.

b) Thương ứng với Kim.

c) Giốc ứng với Mộc.

d) Chủy ứng với Hỏa.

e) Vũ ứng với Thủy.

II./ ỨNG DỤNG CỦA ÂM DƯƠNG TRONG TƯỚNG HỌC :

âm Dương trong nhân tướng học không có tính cách cứng nhắc như thế nhân vẫn tưởng mà lại rất tương đối .Ngửa lên gọi là Dương, úp xuống gọi là Aâm ,cứng gọi là Dương ,mềm là Aâm,v.v... Nói cách tổng quát thì Trời có Aâm Dương .Đàn ông được xem là Dương ,đàn bà là Aâm, nhưng chỉ là điều khái lược .Trong mỗi con người lại cũng có phân biệt Aâm và dương nữa.

Toàn thể thân thể đàn ông là âm ,nhưng bộ phận sinh dục lại là Dương nên có tên là dương vật .Toàn thể đàn bà là Dương, nhưng bộ phận sinh dục lai là Aâm nên gọi là âm hộ.

Xương thì coi là Dương ,thịt coi la âm .

Phía mặt bên trái là Dương ,bên phải là Aâm.

Phía trên khuôn mặt (kể từ chính giữa thân mũi ) Dương, phần sau là âm.

Phần thân trước là Dương, thân sau là Aâm.

Trong khu vực thuộc mắt,phần trên là Dương, dưới là Aâm.Mắt trái là

Dương,phải là Aâm.

Nhưng phần lồi lõm của xương khuôn mặt là Dương ,những phần trũng xuống coi là âm.

Dương thì lộ liễu và hướong lên,Aâm tìh ẩn tàng và hướng xuống.Dương cốt ở an hòa,Aâm cốt ngay ngắn,Dương hcủ về cứng rắn,Aâm chủ về mềm mại.Aâm dương mỗi con người cần phải Hòa phải Thuận .Hòa có nghĩa là xương ngay ngắn, không lệch,

không cong, thần khí thanh nhã. Thuận là thịt phải được phân bố điều đặn khắp chân thân.âm Dương chủ hòa chủ về phúc thọ

Nếu như xương lộ mà không ngay ngắn ,thịt chỗ nhiều chỗ ít không hợp lẽ tự nhiên (chẳng hạn bộ phận này thì quá nhiều thịt ,bộ phận kia thì quá cằn cỗi ) thì gọi là âm dương không htuận hòa. Hoặc Aâm thịnh Dương suy (thịt nhiều mà xương,bệu lại yếu và nhỏ ,không cân xứng) hoặc Dương cường Aâm nhược (cốt lộ, thịt ít) đều là các tướng phản lại nguyên tắc âm Dương thuận hòa :chủ về hung hiểm bất tường .

Nói một cách tổng quát ,vô luận nam nữ,trong mỗi con người ,(hình tướng,khí sắc, tính cách, âm thanh ,phần vô hình cũng như phần hữu hình ) đều bị nguyên lí âm dương chi phối.

Đàn ông bản chất vốn Dương nhưng cần có Aâm thích nghi điều hòa .Đàn bà vốn thuộc âm nhưng phải có Dương để phụ giúp. Nếu không thế, đànông chỉ có thể Dương thuần mà không có Aâm chất thì sẽ mất sự khống chế cầb thiết ,đàn bà chỉ có

âm nhu mà không có Dương chất thêm vào thì trở thành quá mềm yếu và không thể tự tiến triển được.

Tuy nhiên ,dù Duơng thuần phải có âm chấtđể điều hòa cho thích nghi nhưng âm không được lấn át phần dương .Nếy Aâm chất thái quá người ta gọi là Dương sai .

âm nhu tuy phải cần Dương cương để tiết giảm phần xấu và phát huy phần tốt nhưng nếu phần Dương lấn át phần âm ( vốn là phần căn bản) thì trường hợp đó mệnh danh là Aâm thác.

Nguyên tắc tổng quát trên áp dụng cho tất cả các bộ vị trọng yếu trong một con người .Nghĩa là các bộ vị không được vi phạm các điều cấm kỵ của nguyên lý âm

Dương thích nghi .Nói khác đi. Không được phạm vào Aâm Thác hoặc Dương Sai .Đi

sâu vào phần chi tiết ta phân biệt:

a) Dương hòa

Tính cách Dương mãnh mẽ nhưng được tiết chế đúng mức cần thiết thì gọi là Dương hoà .Dương hoà bao gồm:

- Đầu tròn, đỉnh đầu bằng phẳng.

- Đầu hơi có góc cạnh, mặt hơi vuông vức,trán có xương tròn nổi lên rất rõ.

- Ngũ nhạc nổi nhưng không quá lộ liễu,Sơn căn nổi khá cao gần ăn thẳng lên Aán đường.

- Lông mày mọc xếch lên cao và có uy lực , lông mày hơi có góc cạnh ( hình thù lông mày gập cong như hình chữ chứ không cong như hình bán nguyệt hoặc thẳng như chữ).

- Sợi lông mày hơi hướng về phía trên.

- Mắt có chiều dài rõ rệt và có tụ thần.

- Sắc diện hoà ái , chẳng cần phải lập uy mà vẫn có vẻ oai nghiêm tự nhiên.

- Nói năng mau chậm thích nghi với từng câu chuyện , tư tưởng khoáng đạt. Lâm sự quyết đoán chuẩn xác, xử trí quang minh. Đi đứng ung dung.

b) âm thuận

Tính cách Aâm rõ ràng nhưng không quá ủy mỉ hèn yếu thì gọi là Aâm thuận .Được coi là Aâm thuận khi:

- Đầu tròn, mặt hơi vuông nhưng vẵn không xoá hẳn được những nét tròn trịa.

- Ngũ nhạc đều có dáng phảng phất hình tròn ( nhưng không nổi bật các nét tròn đó)

- Sơn căn mạnh mẽ có thế .Aán đường bằng phẳng, rộng

- Lông mày hơi cong mà mắt lại hơi dài( không được quá dài )

- Tiếng nói hơi nhỏ nhưng âm thanh rổn rản trong trẻo.

- Nói năng từ tốn, nhưng không chậm, phản ứng hkông nhanh nhưng không quá trễ hoặc lý lợm.

- Sắc diện hòa nhã khiến người ngoài dễ sinh thiện cảm.

- Xử sự ôn hòa.

c) Kháng dương

Tính cách Dương quá mạnh không có sự tiết chế đúng mức thì gọi là Kháng Dương .Các dấu chỉ của Kháng Dương bao gồm:

- Đầu tròn nhưng đỉnh đầu nhọn.

- Mặt có những bộ vị nổi tròn thành từng cục.

- Ngũ nhạc nổi tròn mà đầu có dạng nhọn , nhỏ.

- Lông mày ngắn mà cong hoặc ngắn mà thế của màylại hướng lên.

- Mắt lồi mà tia mắt long lanh.

- Tai nhọn mà dựng đứng.

- Tiếng nói lớn nhưng giọng điệu quê kệch hoặc giọng rè.

- Tính tình nóng nảy thô bạo, xử sự sơ suất, không nghĩ trước, không lo sau khiến người quan sát thoáng qua đã nhận được ngay sự thô lỗ.

d) Cô âm:

Chỉ có những cách Aâm thuần tuý mà không cò Dương Tính để hỗ trợ thì gọi là Cô Aâm. Đặc tính này được phát hiện ra ngoài qua các dấu hiệu sau:

- Toàn thể đầu và khuôn mặt đều là hình vuông, hoặc thiên về hình vuông, hoặc đầu lớn mà khuôn mặt lại quá nhỏ, không tương xứng

- Chính diện thì nhìn thấy bằng phẳng mà trắc diện lại thấy ở phần giữa lõm xuống

- Mắt xấu mà lông mày mọc lan xuống tận bờ mắt hoặc mắt sâu mà xương lông mày thô, hoặc lông mày quá đậm và ngắn

- Râu ria quá rậm rạp không thích nghi với tóc

- Tiếng nói có vẻ như khò khè ở cuống họng, điện nói chậm rãi mà trong đó lại chen kẽ âm thanh chói tai hoặc nhanh mà đứt đoại

- Sắc diện lúc nào cũng có vẻ u uất, xử sự quá tính toán, cân nhắc khiến người ngoài thoáng thấy là đã nhận ra ngay là con người ác hiểm

e) âm thác, Dương sai:

Bản chất căn bản là âm nhưng pha trộn quá nhiều Dương Tính khiến phần Aâm trở thành thứ yếu thứ nhì gọi là Aâm thác. Ngược lại bản chất căn bản là Dương nhưng mà Dương Tính quá yếu khiến chất Aâm lấn rõ rệt gọi là Dương sai. Dưới đây là biểu hiện bề ngoài của hiện tượng trên

- Đầu tròn thuộc Dương, mặt vuông thuộc Aâm, phía trước mặt thuộc Dương, phía sau gáy (ót) thuộc Aâm, cho nên đầu lớn, mặt nhỏ, phía trước lớn và phía sau nhỏ gọi là Dương sai

- Đầu vuông thuộc Aâm, mặt tròn thuộc Dương, nếu như hai phần đó quá sai lệch gọi là Aâm thác

- Phần lồi trên khuôn mặt thuộc Dương, phần lõm trên khuôn mặt thuộc âm. Do đó nếu Đông Tây Nam Bắc Nhạc nảy nở mà Trung Nhạc lõm xuống thì gọi là Dương sai. Tuy nhiên bốn nhạc phụ tuy đều trũng xuống hoặc bị phá hãm chỉ có Trung Nhạc nổi cao một mình thì gọi là Aâm Thác

- Chỉ có xương mà không có thịt, mắt lộ mà không có lông mày người lớn, tiếng nhỏ gọi là Dương Sai. Có quá nhiều thịt mà thiếu xương, lông mày rậm rạp lan xuống bờ mắt, chân tóc mọc thấp. Thiên thương hẹp, nhiều râu ria mà giọng nói khô khan ... đều được mệnh danh là Aâm Thác

- Mặc tuy lớn, nhưng sắc ảm đạm, thân hình tuy có vẻ nam tính mà bước chân lệch lạc ẻo lả như con gái thì gọi là Dương Sai. Thân hình nữ mà cử chỉ mạnh bạo cứng cỏi như Nam Giới thì gọi là Aâm Thác.

Tóm lại vấn đề Aâm Thác Dương Sai rất phức tạp, khó mà lĩnh hội toàn vẹn nếu không có kiến giải sâu rộng, quan sát tinh tế. Chương này chú trọng đặc biệt đến hai nguyên tắc căn bản của Dương Sai, Aâm thác như sau:

1. Đàn ông được coi là thuần Dương mà lẫn lộn cá tính phụ nữ ( bất kể phương diện gì : đi , đứng , ăn , nói ...) khá rõ thì gọi là chính dương sai .

2. Đàn bà được coi là thuần Aâm nếu pha trộn nam tính (dù về phương diện gì cũng vậy) quá lộ liễu thì gọi là Chính Aâm Thác.

Từ 2 nguyên nhân căn bảntrên, ta đi đến 4 hệ luận :

a)Bất kể nam nữ đều lấy đầu ,âm thanh,cốt cách tượng trưng cho Dương chất.Cho nên, không cần biết thân hình lớn hay nhỏ, điểm căn bản là phải lấy cốt cách trầm ổn ,vững chải, tiếng nói trong trẻo, rõ ràng có tiếng vang làm chính. Được như thế là cát tướng .

Tiếng khô khan, âm vận không có hoặc ngắn ngủi thì đầu thân hình lớn hay nhỏ đều không đáng kể gì vì đó là hung tướng ,tượng trưng hco Dương sai.

b)Bất kể nam nữ ,đều lấy khuôn mặt tượng trưng cho Dương,cho nên Ngũ nhạc nổi rõ nhưng không quá lộ liễu và thô bỉ ,râu tóc và lông mày thách nghi tương xứng là dấu hiệu cát tướng. Ngũ nhạc phá hãm ,râu ria lông mày quá đậm là hung tướng vò đó bị gọi la âm thác.

c)Thân hình to lớn khôi ngô mà khí phách nhỏ hẹp ,xử sự thô lỗ, âm hiểm tàn nhẫn, chấp nê tiểu tiết, không biết quyền biến ,đó la Dương không khống chế được âm nên gọi là Dương sai .

d) Người nhỏ mà xử sự xô bồ không có giới hạn khí phách cuồng ngạo chỉ biết tiến mà không biết thoái lui khi cần đó là Aâm không kiềm chế được dương nên gọi là âm thác.

CHƯƠNG 3

PHƯƠNG PHÁP XEM TƯỚNG

I- NHỮNG NGUYÊN TẮC CĂN BẢN TRONG PHƯƠNG PHÁP XEM TƯỚNG

Phương pháp xem tướng của Á Đông có tính cách toàn diện và tổng hợp. Toàn diện ở chổ tất cả các bộ vị trên khuôn mặt, trên thân mình, những nét tướng động tác và tinh thần đều phải được quan sát. Như thế, với ý nghĩa toàn diện, ta phải quan sát từ chân lên đến đỉnh đầu, từ phía chính diện lẫn trắc diện

Về mặt Tổng Hợp, ta chú trọng nhiều ở chỗ phối hợp tất cả các bộ vị: Đi từ chỗ phối hợp các điều quan sát ở các bộ vị tiến tới những bộ phận lớn hơn. Từ những bộ phận kết hợp đó ta đi đến toàn thể con người. Tổng hợp còn có ý nghĩa là phối hợp những điều quan sát rút tỉa phần hình tướng về phẩm lẫn lượng với phần tâm tướng. Chỉ sau khi cân ưu và khuyết điểm của cả hai phần tâm tướng và hình tướng người ta mới có thể đưa ra phần nhận định có tính cách đúc kết tức thời (immédiat) về một cá nhân. Phép xem tướng Á Đông đề ra một số định tắc giản ước có tính cách hướng dẫn. Người xem tướng muốn việc quan sát được coi là đầy đủ phải hướng việc quan sát của mình vào mười trọng điểm. Trong các sách tướng ngày xưa, người ta thường mệnh danh đó là thập quan gồm các điểm trọng yếu sau đây:

- Sự uy nghi: Nói một cách tổng quát, uy nghi là những gì con người một cá nhân tỏa ra ngoài, khiến cho người khác nhận thức được và tạo ở người khác một ấn tượng kiêng nể, không dám đem lòng khinh mạn. Thường thường sự uy nghi đường bệ này phần lớn do ánh mắt tạo ra nhưng không chỉ có ánh mắt mà ở toàn thể cốt cách, cử chỉ hay nói một cách rộng rãi là tác phong của một cá nhân

- Tính cách hậu trọng và hòa cái: Tính cách hậu trọng bao gồm cả hai lĩnh vực vật thể lẫn tinh thần và có nghĩa là thân hình vững vàng, tinh thần ổn cố gây cho người ngoài một sự tin cẩn, một cảm tưởng có thể nói là an tâm nơi mình. Ví dụ như một người lúc nào cũng giữ được tác phong ung dung thư thái trước bất cứ hoàn cảnh nào, sắc mặt lúc nào cũng điềm đạm không hốt hoảng, hoang mang là kẻ được tướng học xem là tướng hậu trọng

Còn hòa ái là sắc diện, cử chỉ, thái độ ngôn ngữ của ta khiến người khác được thoải mái, thích tiếp cận nhưng không dám khinh lờn hoặc vì cưỡng ép mà tới

- Thẩm định sự thanh trọc: Sự thanh trọc nói ở đây có nghĩa là Thanh hay Trọc phải đúng mức, vì Thanh đi quá đà sẽ trở thành hàn. Trọc đi quá đà sẽ trở thành thô và chỉ khi nào có hàn và thô mới coi là xấu

Nếu trong một cá nhân có cả thanh lẫn trọc, ta phải tìm xem đó là cách Thanh trung hữu hay cách Trọc trung hữu thanh. Đến đây ta lại trở về các chi tiết đã trình bày ở chương nói về Thanh Trọc

- Quan sát cách cấu tạo xương đầu và trán: Đầu, dưới nhãn quang tướng học Trung Hoa, được xem là nơi cao quý nhất của thân tướng học ít khi nói đến đầu mà lại nói đến trán. Hơn nữa phần đầu được nói đến phần nhiều lại có tính cách hoang đường chỉ có một phần nhỏ đáng lưu ý. Đại khái, muốn được coi là cát tướng thì xương não hậu phải nổi tròn, xương hai bên phía tai phải nảy nở một cách cân xứng. Ngoài ra chiều cao và khối lượng của đầu phải tương xứng với toàn thân, không được quá lớn cũng không được quá nhỏ. Thái quá hay bất cập đều là hung tướng, dù Tam Đình có bình đẳng, Ngủ nhạc có triều quý đi nữa, thì những sự bình đẳng, triều quý đó cũng chỉ là những cái tốt chi tiết trong một cái xấu tổng quát, chỉ được ngọn mà mất hẳn gốc

Về trán, phần này được phân tích khá đầy đủ ở chương đầu, quyển I, bạn đọc chỉ cần xem lại phần đó là đủ. Điểm cần nói ở đây là Trán cũng phải theo một quy tắc trung dung như trên, nghĩ là phải tương xứng thích nghi với đầu. Quá rộng hay quá

thấp hẹp, đều không đưa đến hậu quả tốt đẹp thật sự vì cao quá thường lao tâm tổn thọ, quá thấp hẹp thì ngu độn vất vả

- Quan sát ngũ nhạc và tam đình: Tam Đình và Ngũ Nhạc tuy danh xưng khác nhau nhưng thật chất lại là một. Tam đình đứng về phương diện phân chia tổng quát khuôn mặt một cách võ đoán, còn Ngũ Nhạc là đứng về phương diện phối trí các khu vực xương nổi cao trên khuôn mặt. Tất cả những ý nghĩ chính yếu của Tam Đình, Ngũ Nhạc đã được nói khá đầy đủ ở quyển I, những điểm cần phải bổ túc về kỹ thuật sẽ được trình bày ở mục III, khi chúng ta đề cập đến kỹ thuật xem tướng theo thời gian ở những trang sau. Ở đây bạn đọc chỉ cần nhớ lại một vài điểm yếu sau đây mà thôi:

- Chiều dài lý tưởng là ba Đình phải xấp xỉ bằng nhau và không có Đình nào được lệch lạc

- Ngũ nhạc cần phải triều củng, nghĩa là Mũi phải ở ngay chính giữa đường phân chia khuôn mặt theo chiều dọc, không được lệch sang trái, sống mũi phải ngay thẳng và không được sát với mặt phẳng của mặt. Chuẩn đầu phải cao hơn tất cả các phần khác của lông mày, xương Lưỡng quyền phải vuông vức đầy đặn không được lệch. Những điểm chính yếu sau trên về Tam Đình, Ngũ Nhạc chính là tướng thư gọi là bình đẳng và triều quy. Thông thường về mặt mạng vận của kẻ suốt đời bình an, đủ ăn, đủ mặt, ít gặp ba đào khủng khiếp

- Quan sát hình dạng, phẩm chất của Ngũ Quan và Lục Phủ: Trong chương đầu quyển I và những chương kế tiếp, soạn giả đã giới thiệu đầy đủ về các bộ vị trên, nên

ở dây chỉ cần lưu ý một vài điểm kỹ thuật liên quan đến thầm định chuyên biệt mà thôi

- 1. Quan sát lục phủ muốn cho chính xác phải nhìn nghiên chứ không nên nhìn thẳng phía trước vì các phần này thuộc về phần chính diện. Do đó, việc quan sát chính diện chỉ có tính cách phụ đới nhằm bổ túc cho lối nhìn trắc diện. Trái lại, trong phép quan sát ngũ quan (trừ cặp tai không đáng kể ), trắc diện chỉ có tính cách bổ túc, chính diện quan sát mới đóng vai trò quan trọng

- 2. Tuy người ta nói rằng lục phủ cần phải nảy nở, ngũ quan thì phải toàn mỹ, kỵ lộ nhưng những điều đó chỉ có giá trị tương đối không hoàn toàn chính xác trong mọi trường hợp, ví dụ như:

- Về mắt, chỉ có người Mộc, người Kim, người Thổ mới kỵ lộ nhãn, còn người Hỏa thì lại không kỵ miễn là đừng lộ thần là được

- Về Tai, Người Mộc không kỵ tại Mộc, Tai Viễn Vũ nhĩ cho người Hỏa thì tai phản nhỉ, tai Hỏa càng lộ bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu

- Về Mũi, người Mộc không kỵ các loại Mũi gầy miền là không được thấp gãy, người Hỏa không hề kỵ Mũi lộ không

- Về Miệng, người loại Miệng cực kỳ quý đối với người Thổ, Kim, Thủy do vậy người Hỏa lại thành xấu. Trái lại, người hình Hỏa không hề kỵ lộ xỉ, lộ hầu

- Về Lông Mày, người Hỏa, người Thủy, không cần phải mi trường quá mục, lộ và đoản mi đối với người Hỏa lại là hợp cách

- Quan sát các bộ vị trên thân mình: bụng, ngực, lưng, eo, vú rốn ...

- Quan sát các nét tướng tứ chi: Tất cả những nét tướng của cả hai trọng điểm kể trên đã được trình bày đầy đủ trong quyển I, nên ở đây miễn nhắc lại. Độc giả chỉ cần tham chiếu những đoạn liên quan hai trọng điểm trên là có đủ yếu tố để phán đoán

những đặc điểm về cá tính và vận mạng của một cá nhân qua những nét tướng về thân hình và tứ chi

- Quan sát âm thanh và tâm hồn: âm thanh trong tướng học đóng một vai trò quan trọng trong việc đoán thọ yểu, hiền ngu, quý tiện.

Nguồn gốc nguyên thủy của âm thanh là khí. Aâm thanh hùng mạnh, ổn cố có nghĩa là khí cũng ổn cố. Thế mà khí, theo nhãn quang tướng học của tướng lý Á Đông là gốc rẽ của sự thọ yểu, nên âm thanh sung mãn thì con người đó có rất nhiều triển vọng sống lâu, âm thanh suy nhược, trì trệ thì hy vọng trường thọ rất mong manh

Ngoài vấn đề thọ yểu, người rành thẩm âm có nhờ âm lượng và âm điệu mà đoán được phú quý bần hàn của một cá nhân nữa

Đại khái tiếng nói vang dội và to lớn như tiếng sấm, trầm và ngân vang như tiếng chuông chùa, thanh cao như tiếng khánh ngọc vui vẻ tự nhiên như tiếng ngọc reo trên mâm bạc đều là loại âm thanh cực quý chủ về thông minh, quý hiển. Nói tóm lại, tiếng nói đầm ấm trong trẻo, âm lượng phong phú là dấu hiệu phú quý bất kể mặt mũi xấu xí, bộ vị khuyết hâm hoặc thân mình nhỏ bé.

Tóm lại, thân hình lớn mà tiếng nhỏ hoặc tiếng lớn mà không có âm lượng, giọng rè như phèng la, khô khan chói tai đều là dấu hiệu của kẻ tâm tính hạ tiện, ngu độn, khó mong thành đạt

Còn bàn về tâm hồn, ở đây ta chỉ muốn nói đến tâm tính hiểm độc hay thiện lương, hẹp lượng hay bác ái do các cử chỉ, thái độ bộc lộ ra ngoài. Tâm tướng được gọi là cái gốc của hình tướng, tâm biến cải thì hình (hiểu theo nghĩa rộng là những gì cótính cách vật thể nơi con người ) cũng biến đổi theo. Tướng hình cốt để qua hình mà xét đến tâm nên người xưa đặc biệt quý trọng phần tâm tướng. Vì vậy, Ma Y mới nói: "Vì quan huỳnh mạo, tâm tướng tâm điền ": (Chưa cần quan sát hình hài, mặt mũi hãy quan sát tâm tính trước đã ). Dưới nhãn quan tướng học Á Đông, tinh thần khí phách và âm thanh là phần tướng nội tại thuộc về lĩnh vực tâm tướng

- Quan sát thân hình để xem cá nhân đó thuộc loại hình gì: Trọng diểm này bao gồm những loại hình tướng căn bản thường hay biến cách. Chính thường thì phép phânloại theo Ngũ hành hình tướng được coi là căn bản: biến cách thì xem cá nhân đó thuộc hình dáng cầm hay thú điển hình

II. CÁC TƯỚNG PHÁI

Cũng như trong bất cứ học thuật nào khác, các tướng học gia cũng đưa ra nhiều quam điểm khác nhau về loại tướng, về phép xem tướng. Tựu trung căn cứ theo tiêu chuẩn hình tướng và tâm tướng về những điểm trọng yếu, ta thấy có hai học phái khác nhau. Về những điểm lý thuyết hầu hết đều công nhận phương pháp xem tướng không đi ra ngoài mười trọng điểm quan sát được nêu ở mục A kể trên nhưng thứ tự ưu tiên từng trọng điểm dưới nhãn quang của từng học phái lại biến đổi tuỳ theo người xem tướng đứng về mặt cá nhân để phân tích cá nhân hay đứng trên cương vị của xã hội để lượng định khả năng cá nhân đó hầu phục vụ cho xã hội

a) Tướng phái trọng hình thức:

Người được xem như đại diện cho tướng phái này là Lã Thuần Dương một đạo sĩ nổi tiếng đời Đường. Đứng trên cương vị cá nhân để xem tướng cho một cá nhân, những điều khám phá ở một cá nhân phần lớn là qua những nét tướng vật thể nhằm phục vụ cho chính lợi ích của cá nhân người được xem tướng. Trong thiên biên khảo nhan đề Tướng pháp nhập môn. Lã Thuần Dương đã liệt kê các tiêu chuẩn về phương pháp xem tướng theo một thứ tự sau:

1. Đầu tiên phải quan sát hình tướng tổng quát để biết cá nhân đó thuộc loại gì trong ngũ hành hình tướng với tất cả những phối hợp về phẩm cũng như lượng của từng loại (thuần cách hay tạp cách, có hội đủ những điều kiện tất yếu của thuần cách hay không ). Nếu là tạp cách thì sự phối hợp chủ yếu bị khắc chế hay thuận hảo ...

2. Bước kế tiếp là quan sát sự cấu tạo của cốt cách, xem tướng của toàn thân có thuận lợi với nguyên lý âm dương ứng dụng trong tướng học không. Sau đó là phần định thần, khí để biết tranh trọc

3. Bước thứ ba là quan sát khuôn mặt như Tam Đình, Ngũ Nhạc, Lục Phủ, Tứ Đậu

4. Bước thứ tư là quan sát ngôn ngữ, cử động tức quan sát con người qua những nét tướng, âm thanh và cách thức đi, đứng, nằm, ngồi ....

Tất cả những bước trên giúp cho người quan sát có 1 ý niệm bao quát về tướng cách của một cá nhân, giúp ta giải đoán được một

5. Cuối cùng để biết chi tiết về may rủi hàng năm, ta phải quan sát phần khí sắc của bộ vị

Cũng như đại đa số các tướng thuật gia cổ điển khác, Lã Thuần Dương tin rằng Tâm năng sinh Tướng (với nghĩa tướng đặc biệt ở đây là hình tướng). Hình tướng tuy được coi trọng là phần căn bản để từ đó suy ra tâm hồn, thông minh , đần độn quý tiện thọ yểu nhưng hình tướng theo tâm mà biến chuyển có thể từ tốt ra xấu, từ xấu ra tốt nên Lã Thuần Dương không câu nệ người ta vào các điều chỉ dẫn đại cương của ông mà phải nghĩ rằng hình tướng của một của một cá nhân nay vậy mai khác. Cho nên ta có thể nói rằng hình tướng của Lã Thuần Dương là hình tướng sinh soạn giả biến thiên theo thời gian và tâm linh, muốn theo sát sự biến chuyển của phần hình tướng không thể bỏ qua phần tâm tướng

b) Tướng phái Tinh thần khí phách

Khởi nguyên của tướng phái này có lẽ có từ lâu đời. Ngay từ thời nhà Chu cách đây khoảng hơn 2500 năm, Tư Mã Thiên đã chép là quan đại phu nước Tấn. Cô Bố Tử Khanh có biệt tài xem tướng chỉ nhìn khí phách con người là đủ đoán được công

danh, sự nghiệp sau này của cá nhân đó. Tiếc rằng Cô Bố Tử Khanh không để lại một dấu vết gì về phép xem tướng độc đáo kể trên cả

Đến đời Thanh, tác giả Phạm Văn Viên đã nêu lên quan niệm Khí Phách và cho đấy mới là phần căn bản của Tướng học, hình hài bộ vị không quan trọng nhưng thủy chung ông vẫn còn đứng trên cương vị cá nhân để xem tướng cá nhân. Vào đời Thanh trung hưng, Tăng Quốc Phiên là người đứng đầu trên cương vị xã hội không lấy tinh thần và khí phách làm trọng điểm trong việc xem tướng để lựa người có khả năng phục vụ quốc gia. Trong việc xem tướng, Tăng Quốc Phiên đã gạt hẳn những điều huyễn hoặc nhuộm màu triết lý siêu hình của tướng học cổ điển, ông không để ý đến hình hài bộ vị. Do đó, ta có thể coi Phạm Văn Viên và Tăng Quốc Phiên là các đại diện sáng giá nhất của tướng phái tinh thần ­ khí phách trong tướng học Á Đông hiên nay Trong phần nói đến Khí Phách, soạn giả đã có dịp nhắc đến Phạm Văn Viên và đã thử triển khai ý niệm Khí Phách của tướng học từ cuốn Thủy kinh tập cho đến các tác phẩm trọng yếu của tướng phái Tinh Thần ­ Khí Phách theo quan điểm của Tăng Quốc Phiên nhưngý nghĩa gói ghém trong các trọng điểm đó. Phép xem tướng của Tăng Quốc Phiên có thể thu gọn vào sáu trọng điểm sau đây:

1. Muốn biết một cá nhân thuộc loại chính hay tà thì quan sát Mắt và Mũi

Lòng dạ ngay thẳng hay thiên lệch phần lớn được bộc lộ ra ánh mắt. Điều này phù hợp với những kinh nghiệm của nhân loại từ Đông sang Tây. Tục ngữ Pháp có câu : "Con mắt là tấm gương của tâm hồn". Phương ngôn Trung Hoa cũng có câu nói tương tự: "Xem người ta thì xem ngay cặp mắt". Như vậy căn cứ vào ánh mắt ta có thể biết được một cách khá chính xác tâm tính của một cá nhân, miễn là ta phải có tài quan sát và óc phán xét nhạy chính xác và vô tư

Ngoài ra, ngay nay cũng như ngày xưa, ai củng công nhận con ngưòi cơ thể chính thường thì thông thường tâm tính củng ở mức chính thường ít khi có những thái quá bất cập. Thế mà Mũi là bộ phận trung ương của khuôn mặt nếu không ngay ngắn cân xứng thì đựơng nhiên lệch lạc, đưa đến sự thiên lệch của tâm hồn. Kinh nghiệm ngàn xưa cho thấy, chưa từng có kẻ nào ngũ quan lệch lạc mà tâm tính ngay thẳng bao giờ

Dó đó muốn biết cá nhân tâm tính ra sao, ta chỉ cần quan sát nhãn quang và cấu tạo của Mũi là có tạm đủ dữ kiện để phán đoán ít khi sai lầm

2. Muốn biết tâm sự của kẻ đối thoại thực hay là hư thì quan sát cử chỉ, động tác (đặc biệt là động tác của môi, miệng )

Thông thường kẻ không quen nói dối khi phải dối trá thì môi miệng lúng túng, lập cập không được được tự nhiên như lúc bình thường. Đó thường một hiện tượng bên ngoài phản ánh nội tâm không được yên ổn. Do đó, người quan sát có cặp mắt sắc bén chỉ cần quan sát động tác của làn môi, khoé miệng cũng có thể đoán được phần lớn thực hư của nội dung câu chuyện

Suy rộng ra, trừ một vài trường hợp quá đặc biệt của những kẻ có bản lĩnh và đã được huấn luyện thuần thục làm chủ được động tác và tình cảm không kể, một kẻ bịa đặt ra câu chuyện trái ngược lại thật sự bao giờ cũng để lộ nhiều sơ hở trong lúc thuật chuyện qua ngôn ngữ, cữ chỉ không được tự nhiên. Chuyện càng quan trọng, càng liên quan đến quyền lợi sinh tử hay sinh mạng của đương sự bao nhiêu thì sự mất tự nhiên càng dễ lộ ra bấy nhiêu

3. Muốn biết công danh sự nghiệp tương lại thành bại như thế nào thì nên xem tinh thần, khí phách Khí phách hiên nganh là dấu hiệu bên ngoài của người có thực tài thực lực. Họ tự tin là với khả năng, tài trí của họ. Họ đủ sức tự tồn, tự lập nên không cần luồn cúi kẻ khác. Càng có dị tài thì thừơng hay có dị tật cũng như tướng ngựa có câu châm ngôn : "Ngựa hay thường cóchứng". Tinh thần là nguồn động lực thúc đẩy nuôi dưỡng ý chí con người. Yù chí mạnh mẽ thì có thể suy ra tinh thần mạnh mẽ và ngược lại. Người có khí phách hiên ngang, tinh thần cương nghị và nhẫn nại điềm đạm thì sẽ hội đủ điều kiện chủ quan tất yếu thi thố được chí nguyện bình sinh của mình, từ việc nhỏ đến việc lớn. Do đó, họ có rất nhiều triển vọng thành đạt trong bất cứ công việc gì đang làm hay sẽ làm. Những kẻ có tinh thần khí phách như vậy nếu có đủ điều kiện khách quan tối thiểu sẽ chắc chắn thành công trên bước đường mưu cầu công danh sự nghiệp. Sách Nhân luân đại thống nhất của Trương Hành Giản đời Minh đã dựa trên lập luận này khi viết: "Thành bại tại ư quyết đoán chjí trung". Chính vì cho rằng tinh thần khí phách là các yếu tố căn bản của phép xem tướng đoán người nên tướng học đã có câu châm ngôn : "Có khí phách thì tạo ra được côngdanh sự nghiệp". Câu nói đó hàm ý có khí phách hiên ngang hoang dại, tinh thần vững mạnh thì sẽ thành công

4. Xem xét cách xử trí công việc không gì bằng quan sát ngôn ngữ

Ngôn ngữ có công dụng là biểu lộ nội tâm của mình cho người khác hiểu. Càng có chức vụ thì muốn cho công việc mà mình được giao phó sứ mạng điều khiển đôn đốc được hoàn hảo thì người đó càng phải sử dụng ngôn ngữ cho minh bạch để diễn tả được đúng đắn và đầy đủ ý muốn cho thuộc cấp hiểu thấu. Ngôn ngữ thiếu thứ tự, mạch lạc, chứng tỏ ý tưởng lộn xộn, tâm tính thiếu minh bạch quyết đoán thì làm sao thực thi đúng mức

Nói tóm lại muốn xem xét một kẻ nào đó có biết cách xử trí công việc hay nói cho dễ hiểu là liệu xem công việc có thành tựu được không chỉ cần nghe ngôn ngữ của kẻ đó: trình bày công tác định làm có rõ ràng, đầy đủ hay hồ đồ, hứng khởi hay uể oải, cương quyết hay do dự, khái quát hay tỉ mỉ ... Chỉ căn cứ vào đấy, người rành quan sát tâm lý và tinh thần khí phách có thể đoán trước được là công việc sẽ thành hay hỏng

5. Muốn biết cuộc đời có thường hay bị chìm nổi hay không thì xem chân cẳng

Chân cẳng có liên hệ mật thiết tới khí lực: khí lực sung mãn thì chân cẳng vững vàng, tinh thần ổn cố. Sự chìm nổi cuộc đời có nghĩa là công việc thường hay vấp váp thất bại là vì tinh thần hốt hoảng, đầu óc không tỉnh táo, không vững tâm bền chí, không biết quyết đoán. Tất cả những dữ kiện này b ắt nguồn từ khí lực bất túc

Qua ý nghĩa của các sách vở, khí lực là căn nguyên của tinh thần khí phách. Trong đoạn luận về Thần hữu dư của Ma Y đã nói: "Đi vững vàng thanh thản như nước chảy, đứng chắc chắn như ngọn núi sừng sững giữa đồng là một trong các dấu hiệu chỉ về thần khí sung mãn". Kẻ thần khí sung mãn thì lâm sự cương nghị, lúc nào cũng

bình tĩnh sáng suốtt, không biến đổi tiết tháo. Như vậy trong việc mưu tìm công danh, đại sự ít khi lâm vào cảnh thất bại

6. Muốn biết thọ yểu nên xem móng tay

Người trường thọ tất nhiên huyết dịch sung mãn: sự tương quan giữa sự sung mãn của huyết dịch với hình thể và máu sắc của móng tay là rất mật thiết. Ơû đây ta chỉ đứng về phương diện màu sắc của móng tay mà xét

Đại khái, móng tay có những vết nhỏ chứng tỏ rằng huyết dịch bất túc. Màu xanh xám hoặc đen là dấu hiệu khí huyết suy nhược trầm trọng, các vệt bất thường hoặc hồng lẫn lộn là biểu hiện bề ngoài của của khí huyết bất túc. Toàn thể cả móng tay

đều xanh xám là khí sắc bề ngoài của huyết dịch thiếu thốn trầm trọng. Sắc càng xấu thì dấu hiệu suy nhược càng rõ. Do dđã người như thế không thể sống lâu

Ngược lại móng tay hồng nhuận đều khắp một cách tự nhiên là dấu hiệu chắc chắn của khí lực tiềm tàng sung mãn, huyết dịch tốt đương nhiên trường thọ

Nói một cách khác đây là quan điểm độc đáo về tướng học của Tăng Quốc Phiên và công dụng của phép đoán khí sức được dùng một cách khoa học trong lảnh vực tương quan giữa khí sắc và con người ở một lĩnh vực mà tướng học cổ điển chưa đề cập đầy đủ. Mọi ý nghĩa thần bí về vận mạng qua khí sắc của người xưa đều bị gạt bỏ. Quan điểm này của Tăng rất phù hợp với kiến thức y học hiện đại và vô tình giữa nhận định của khoa Thủ tướng (chiromancie) của Tây Phương hiện nay và nhận xét tăng cách hơn một thế kỷ giống như một cách kỳ lạ, gần như phóng tác nhau vậy

CHƯƠNG 3

PHƯƠNG PHÁP XEM TƯỚNG

I- NHỮNG NGUYÊN TẮC CĂN BẢN TRONG PHƯƠNG PHÁP XEM TƯỚNG

Phương pháp xem tướng của Á Đông có tính cách toàn diện và tổng hợp. Toàn diện ở chổ tất cả các bộ vị trên khuôn mặt, trên thân mình, những nét tướng động tác và tinh thần đều phải được quan sát. Như thế, với ý nghĩa toàn diện, ta phải quan sát từ chân lên đến đỉnh đầu, từ phía chính diện lẫn trắc diện

Về mặt Tổng Hợp, ta chú trọng nhiều ở chỗ phối hợp tất cả các bộ vị: Đi từ chỗ phối hợp các điều quan sát ở các bộ vị tiến tới những bộ phận lớn hơn. Từ những bộ phận kết hợp đó ta đi đến toàn thể con người. Tổng hợp còn có ý nghĩa là phối hợp những điều quan sát rút tỉa phần hình tướng về phẩm lẫn lượng với phần tâm tướng. Chỉ sau khi cân ưu và khuyết điểm của cả hai phần tâm tướng và hình tướng người ta mới có thể đưa ra phần nhận định có tính cách đúc kết tức thời (immédiat) về một cá nhân. Phép xem tướng Á Đông đề ra một số định tắc giản ước có tính cách hướng dẫn. Người xem tướng muốn việc quan sát được coi là đầy đủ phải hướng việc quan sát của mình vào mười trọng điểm. Trong các sách tướng ngày xưa, người ta thường mệnh danh đó là thập quan gồm các điểm trọng yếu sau đây:

- Sự uy nghi: Nói một cách tổng quát, uy nghi là những gì con người một cá nhân tỏa ra ngoài, khiến cho người khác nhận thức được và tạo ở người khác một ấn tượng kiêng nể, không dám đem lòng khinh mạn. Thường thường sự uy nghi đường bệ này phần lớn do ánh mắt tạo ra nhưng không chỉ có ánh mắt mà ở toàn thể cốt cách, cử chỉ hay nói một cách rộng rãi là tác phong của một cá nhân

- Tính cách hậu trọng và hòa cái: Tính cách hậu trọng bao gồm cả hai lĩnh vực vật thể lẫn tinh thần và có nghĩa là thân hình vững vàng, tinh thần ổn cố gây cho người ngoài một sự tin cẩn, một cảm tưởng có thể nói là an tâm nơi mình. Ví dụ như một người lúc nào cũng giữ được tác phong ung dung thư thái trước bất cứ hoàn cảnh nào, sắc mặt lúc nào cũng điềm đạm không hốt hoảng, hoang mang là kẻ được tướng học xem là tướng hậu trọng

Còn hòa ái là sắc diện, cử chỉ, thái độ ngôn ngữ của ta khiến người khác được thoải mái, thích tiếp cận nhưng không dám khinh lờn hoặc vì cưỡng ép mà tới

- Thẩm định sự thanh trọc: Sự thanh trọc nói ở đây có nghĩa là Thanh hay Trọc phải đúng mức, vì Thanh đi quá đà sẽ trở thành hàn. Trọc đi quá đà sẽ trở thành thô và chỉ khi nào có hàn và thô mới coi là xấu

Nếu trong một cá nhân có cả thanh lẫn trọc, ta phải tìm xem đó là cách Thanh trung hữu hay cách Trọc trung hữu thanh. Đến đây ta lại trở về các chi tiết đã trình bày ở chương nói về Thanh Trọc

- Quan sát cách cấu tạo xương đầu và trán: Đầu, dưới nhãn quang tướng học Trung Hoa, được xem là nơi cao quý nhất của thân tướng học ít khi nói đến đầu mà lại nói đến trán. Hơn nữa phần đầu được nói đến phần nhiều lại có tính cách hoang đường chỉ có một phần nhỏ đáng lưu ý. Đại khái, muốn được coi là cát tướng thì xương não hậu phải nổi tròn, xương hai bên phía tai phải nảy nở một cách cân xứng. Ngoài ra chiều cao và khối lượng của đầu phải tương xứng với toàn thân, không được quá lớn cũng không được quá nhỏ. Thái quá hay bất cập đều là hung tướng, dù Tam Đình có bình đẳng, Ngủ nhạc có triều quý đi nữa, thì những sự bình đẳng, triều quý đó cũng chỉ là những cái tốt chi tiết trong một cái xấu tổng quát, chỉ được ngọn mà mất hẳn gốc

Về trán, phần này được phân tích khá đầy đủ ở chương đầu, quyển I, bạn đọc chỉ cần xem lại phần đó là đủ. Điểm cần nói ở đây là Trán cũng phải theo một quy tắc trung dung như trên, nghĩ là phải tương xứng thích nghi với đầu. Quá rộng hay quá

thấp hẹp, đều không đưa đến hậu quả tốt đẹp thật sự vì cao quá thường lao tâm tổn thọ, quá thấp hẹp thì ngu độn vất vả

- Quan sát ngũ nhạc và tam đình: Tam Đình và Ngũ Nhạc tuy danh xưng khác nhau nhưng thật chất lại là một. Tam đình đứng về phương diện phân chia tổng quát khuôn mặt một cách võ đoán, còn Ngũ Nhạc là đứng về phương diện phối trí các khu vực xương nổi cao trên khuôn mặt. Tất cả những ý nghĩ chính yếu của Tam Đình, Ngũ Nhạc đã được nói khá đầy đủ ở quyển I, những điểm cần phải bổ túc về kỹ thuật sẽ được trình bày ở mục III, khi chúng ta đề cập đến kỹ thuật xem tướng theo thời gian ở những trang sau. Ở đây bạn đọc chỉ cần nhớ lại một vài điểm yếu sau đây mà thôi:

- Chiều dài lý tưởng là ba Đình phải xấp xỉ bằng nhau và không có Đình nào được lệch lạc

- Ngũ nhạc cần phải triều củng, nghĩa là Mũi phải ở ngay chính giữa đường phân chia khuôn mặt theo chiều dọc, không được lệch sang trái, sống mũi phải ngay thẳng và không được sát với mặt phẳng của mặt. Chuẩn đầu phải cao hơn tất cả các phần khác của lông mày, xương Lưỡng quyền phải vuông vức đầy đặn không được lệch. Những điểm chính yếu sau trên về Tam Đình, Ngũ Nhạc chính là tướng thư gọi là bình đẳng và triều quy. Thông thường về mặt mạng vận của kẻ suốt đời bình an, đủ ăn, đủ mặt, ít gặp ba đào khủng khiếp

- Quan sát hình dạng, phẩm chất của Ngũ Quan và Lục Phủ: Trong chương đầu quyển I và những chương kế tiếp, soạn giả đã giới thiệu đầy đủ về các bộ vị trên, nên

ở dây chỉ cần lưu ý một vài điểm kỹ thuật liên quan đến thầm định chuyên biệt mà thôi

- 1. Quan sát lục phủ muốn cho chính xác phải nhìn nghiên chứ không nên nhìn thẳng phía trước vì các phần này thuộc về phần chính diện. Do đó, việc quan sát chính diện chỉ có tính cách phụ đới nhằm bổ túc cho lối nhìn trắc diện. Trái lại, trong phép quan sát ngũ quan (trừ cặp tai không đáng kể ), trắc diện chỉ có tính cách bổ túc, chính diện quan sát mới đóng vai trò quan trọng

- 2. Tuy người ta nói rằng lục phủ cần phải nảy nở, ngũ quan thì phải toàn mỹ, kỵ lộ nhưng những điều đó chỉ có giá trị tương đối không hoàn toàn chính xác trong mọi trường hợp, ví dụ như:

- Về mắt, chỉ có người Mộc, người Kim, người Thổ mới kỵ lộ nhãn, còn người Hỏa thì lại không kỵ miễn là đừng lộ thần là được

- Về Tai, Người Mộc không kỵ tại Mộc, Tai Viễn Vũ nhĩ cho người Hỏa thì tai phản nhỉ, tai Hỏa càng lộ bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu

- Về Mũi, người Mộc không kỵ các loại Mũi gầy miền là không được thấp gãy, người Hỏa không hề kỵ Mũi lộ không

- Về Miệng, người loại Miệng cực kỳ quý đối với người Thổ, Kim, Thủy do vậy người Hỏa lại thành xấu. Trái lại, người hình Hỏa không hề kỵ lộ xỉ, lộ hầu

- Về Lông Mày, người Hỏa, người Thủy, không cần phải mi trường quá mục, lộ và đoản mi đối với người Hỏa lại là hợp cách

- Quan sát các bộ vị trên thân mình: bụng, ngực, lưng, eo, vú rốn ...

- Quan sát các nét tướng tứ chi: Tất cả những nét tướng của cả hai trọng điểm kể trên đã được trình bày đầy đủ trong quyển I, nên ở đây miễn nhắc lại. Độc giả chỉ cần tham chiếu những đoạn liên quan hai trọng điểm trên là có đủ yếu tố để phán đoán

những đặc điểm về cá tính và vận mạng của một cá nhân qua những nét tướng về thân hình và tứ chi

- Quan sát âm thanh và tâm hồn: âm thanh trong tướng học đóng một vai trò quan trọng trong việc đoán thọ yểu, hiền ngu, quý tiện.

Nguồn gốc nguyên thủy của âm thanh là khí. Aâm thanh hùng mạnh, ổn cố có nghĩa là khí cũng ổn cố. Thế mà khí, theo nhãn quang tướng học của tướng lý Á Đông là gốc rẽ của sự thọ yểu, nên âm thanh sung mãn thì con người đó có rất nhiều triển vọng sống lâu, âm thanh suy nhược, trì trệ thì hy vọng trường thọ rất mong manh

Ngoài vấn đề thọ yểu, người rành thẩm âm có nhờ âm lượng và âm điệu mà đoán được phú quý bần hàn của một cá nhân nữa

Đại khái tiếng nói vang dội và to lớn như tiếng sấm, trầm và ngân vang như tiếng chuông chùa, thanh cao như tiếng khánh ngọc vui vẻ tự nhiên như tiếng ngọc reo trên mâm bạc đều là loại âm thanh cực quý chủ về thông minh, quý hiển. Nói tóm lại, tiếng nói đầm ấm trong trẻo, âm lượng phong phú là dấu hiệu phú quý bất kể mặt mũi xấu xí, bộ vị khuyết hâm hoặc thân mình nhỏ bé.

Tóm lại, thân hình lớn mà tiếng nhỏ hoặc tiếng lớn mà không có âm lượng, giọng rè như phèng la, khô khan chói tai đều là dấu hiệu của kẻ tâm tính hạ tiện, ngu độn, khó mong thành đạt

Còn bàn về tâm hồn, ở đây ta chỉ muốn nói đến tâm tính hiểm độc hay thiện lương, hẹp lượng hay bác ái do các cử chỉ, thái độ bộc lộ ra ngoài. Tâm tướng được gọi là cái gốc của hình tướng, tâm biến cải thì hình (hiểu theo nghĩa rộng là những gì cótính cách vật thể nơi con người ) cũng biến đổi theo. Tướng hình cốt để qua hình mà xét đến tâm nên người xưa đặc biệt quý trọng phần tâm tướng. Vì vậy, Ma Y mới nói: "Vì quan huỳnh mạo, tâm tướng tâm điền ": (Chưa cần quan sát hình hài, mặt mũi hãy quan sát tâm tính trước đã ). Dưới nhãn quan tướng học Á Đông, tinh thần khí phách và âm thanh là phần tướng nội tại thuộc về lĩnh vực tâm tướng

- Quan sát thân hình để xem cá nhân đó thuộc loại hình gì: Trọng diểm này bao gồm những loại hình tướng căn bản thường hay biến cách. Chính thường thì phép phânloại theo Ngũ hành hình tướng được coi là căn bản: biến cách thì xem cá nhân đó thuộc hình dáng cầm hay thú điển hình

II. CÁC TƯỚNG PHÁI

Cũng như trong bất cứ học thuật nào khác, các tướng học gia cũng đưa ra nhiều quam điểm khác nhau về loại tướng, về phép xem tướng. Tựu trung căn cứ theo tiêu chuẩn hình tướng và tâm tướng về những điểm trọng yếu, ta thấy có hai học phái khác nhau. Về những điểm lý thuyết hầu hết đều công nhận phương pháp xem tướng không đi ra ngoài mười trọng điểm quan sát được nêu ở mục A kể trên nhưng thứ tự ưu tiên từng trọng điểm dưới nhãn quang của từng học phái lại biến đổi tuỳ theo người xem tướng đứng về mặt cá nhân để phân tích cá nhân hay đứng trên cương vị của xã hội để lượng định khả năng cá nhân đó hầu phục vụ cho xã hội

a) Tướng phái trọng hình thức:

Người được xem như đại diện cho tướng phái này là Lã Thuần Dương một đạo sĩ nổi tiếng đời Đường. Đứng trên cương vị cá nhân để xem tướng cho một cá nhân, những điều khám phá ở một cá nhân phần lớn là qua những nét tướng vật thể nhằm phục vụ cho chính lợi ích của cá nhân người được xem tướng. Trong thiên biên khảo nhan đề Tướng pháp nhập môn. Lã Thuần Dương đã liệt kê các tiêu chuẩn về phương pháp xem tướng theo một thứ tự sau:

1. Đầu tiên phải quan sát hình tướng tổng quát để biết cá nhân đó thuộc loại gì trong ngũ hành hình tướng với tất cả những phối hợp về phẩm cũng như lượng của từng loại (thuần cách hay tạp cách, có hội đủ những điều kiện tất yếu của thuần cách hay không ). Nếu là tạp cách thì sự phối hợp chủ yếu bị khắc chế hay thuận hảo ...

2. Bước kế tiếp là quan sát sự cấu tạo của cốt cách, xem tướng của toàn thân có thuận lợi với nguyên lý âm dương ứng dụng trong tướng học không. Sau đó là phần định thần, khí để biết tranh trọc

3. Bước thứ ba là quan sát khuôn mặt như Tam Đình, Ngũ Nhạc, Lục Phủ, Tứ Đậu

4. Bước thứ tư là quan sát ngôn ngữ, cử động tức quan sát con người qua những nét tướng, âm thanh và cách thức đi, đứng, nằm, ngồi ....

Tất cả những bước trên giúp cho người quan sát có 1 ý niệm bao quát về tướng cách của một cá nhân, giúp ta giải đoán được một

5. Cuối cùng để biết chi tiết về may rủi hàng năm, ta phải quan sát phần khí sắc của bộ vị

Cũng như đại đa số các tướng thuật gia cổ điển khác, Lã Thuần Dương tin rằng Tâm năng sinh Tướng (với nghĩa tướng đặc biệt ở đây là hình tướng). Hình tướng tuy được coi trọng là phần căn bản để từ đó suy ra tâm hồn, thông minh , đần độn quý tiện thọ yểu nhưng hình tướng theo tâm mà biến chuyển có thể từ tốt ra xấu, từ xấu ra tốt nên Lã Thuần Dương không câu nệ người ta vào các điều chỉ dẫn đại cương của ông mà phải nghĩ rằng hình tướng của một của một cá nhân nay vậy mai khác. Cho nên ta có thể nói rằng hình tướng của Lã Thuần Dương là hình tướng sinh soạn giả biến thiên theo thời gian và tâm linh, muốn theo sát sự biến chuyển của phần hình tướng không thể bỏ qua phần tâm tướng

b) Tướng phái Tinh thần khí phách

Khởi nguyên của tướng phái này có lẽ có từ lâu đời. Ngay từ thời nhà Chu cách đây khoảng hơn 2500 năm, Tư Mã Thiên đã chép là quan đại phu nước Tấn. Cô Bố Tử Khanh có biệt tài xem tướng chỉ nhìn khí phách con người là đủ đoán được công

danh, sự nghiệp sau này của cá nhân đó. Tiếc rằng Cô Bố Tử Khanh không để lại một dấu vết gì về phép xem tướng độc đáo kể trên cả

Đến đời Thanh, tác giả Phạm Văn Viên đã nêu lên quan niệm Khí Phách và cho đấy mới là phần căn bản của Tướng học, hình hài bộ vị không quan trọng nhưng thủy chung ông vẫn còn đứng trên cương vị cá nhân để xem tướng cá nhân. Vào đời Thanh trung hưng, Tăng Quốc Phiên là người đứng đầu trên cương vị xã hội không lấy tinh thần và khí phách làm trọng điểm trong việc xem tướng để lựa người có khả năng phục vụ quốc gia. Trong việc xem tướng, Tăng Quốc Phiên đã gạt hẳn những điều huyễn hoặc nhuộm màu triết lý siêu hình của tướng học cổ điển, ông không để ý đến hình hài bộ vị. Do đó, ta có thể coi Phạm Văn Viên và Tăng Quốc Phiên là các đại diện sáng giá nhất của tướng phái tinh thần ­ khí phách trong tướng học Á Đông hiên nay Trong phần nói đến Khí Phách, soạn giả đã có dịp nhắc đến Phạm Văn Viên và đã thử triển khai ý niệm Khí Phách của tướng học từ cuốn Thủy kinh tập cho đến các tác phẩm trọng yếu của tướng phái Tinh Thần ­ Khí Phách theo quan điểm của Tăng Quốc Phiên nhưngý nghĩa gói ghém trong các trọng điểm đó. Phép xem tướng của Tăng Quốc Phiên có thể thu gọn vào sáu trọng điểm sau đây:

1. Muốn biết một cá nhân thuộc loại chính hay tà thì quan sát Mắt và Mũi

Lòng dạ ngay thẳng hay thiên lệch phần lớn được bộc lộ ra ánh mắt. Điều này phù hợp với những kinh nghiệm của nhân loại từ Đông sang Tây. Tục ngữ Pháp có câu : "Con mắt là tấm gương của tâm hồn". Phương ngôn Trung Hoa cũng có câu nói tương tự: "Xem người ta thì xem ngay cặp mắt". Như vậy căn cứ vào ánh mắt ta có thể biết được một cách khá chính xác tâm tính của một cá nhân, miễn là ta phải có tài quan sát và óc phán xét nhạy chính xác và vô tư

Ngoài ra, ngay nay cũng như ngày xưa, ai củng công nhận con ngưòi cơ thể chính thường thì thông thường tâm tính củng ở mức chính thường ít khi có những thái quá bất cập. Thế mà Mũi là bộ phận trung ương của khuôn mặt nếu không ngay ngắn cân xứng thì đựơng nhiên lệch lạc, đưa đến sự thiên lệch của tâm hồn. Kinh nghiệm ngàn xưa cho thấy, chưa từng có kẻ nào ngũ quan lệch lạc mà tâm tính ngay thẳng bao giờ

Dó đó muốn biết cá nhân tâm tính ra sao, ta chỉ cần quan sát nhãn quang và cấu tạo của Mũi là có tạm đủ dữ kiện để phán đoán ít khi sai lầm

2. Muốn biết tâm sự của kẻ đối thoại thực hay là hư thì quan sát cử chỉ, động tác (đặc biệt là động tác của môi, miệng )

Thông thường kẻ không quen nói dối khi phải dối trá thì môi miệng lúng túng, lập cập không được được tự nhiên như lúc bình thường. Đó thường một hiện tượng bên ngoài phản ánh nội tâm không được yên ổn. Do đó, người quan sát có cặp mắt sắc bén chỉ cần quan sát động tác của làn môi, khoé miệng cũng có thể đoán được phần lớn thực hư của nội dung câu chuyện

Suy rộng ra, trừ một vài trường hợp quá đặc biệt của những kẻ có bản lĩnh và đã được huấn luyện thuần thục làm chủ được động tác và tình cảm không kể, một kẻ bịa đặt ra câu chuyện trái ngược lại thật sự bao giờ cũng để lộ nhiều sơ hở trong lúc thuật chuyện qua ngôn ngữ, cữ chỉ không được tự nhiên. Chuyện càng quan trọng, càng liên quan đến quyền lợi sinh tử hay sinh mạng của đương sự bao nhiêu thì sự mất tự nhiên càng dễ lộ ra bấy nhiêu

3. Muốn biết công danh sự nghiệp tương lại thành bại như thế nào thì nên xem tinh thần, khí phách Khí phách hiên nganh là dấu hiệu bên ngoài của người có thực tài thực lực. Họ tự tin là với khả năng, tài trí của họ. Họ đủ sức tự tồn, tự lập nên không cần luồn cúi kẻ khác. Càng có dị tài thì thừơng hay có dị tật cũng như tướng ngựa có câu châm ngôn : "Ngựa hay thường cóchứng". Tinh thần là nguồn động lực thúc đẩy nuôi dưỡng ý chí con người. Yù chí mạnh mẽ thì có thể suy ra tinh thần mạnh mẽ và ngược lại. Người có khí phách hiên ngang, tinh thần cương nghị và nhẫn nại điềm đạm thì sẽ hội đủ điều kiện chủ quan tất yếu thi thố được chí nguyện bình sinh của mình, từ việc nhỏ đến việc lớn. Do đó, họ có rất nhiều triển vọng thành đạt trong bất cứ công việc gì đang làm hay sẽ làm. Những kẻ có tinh thần khí phách như vậy nếu có đủ điều kiện khách quan tối thiểu sẽ chắc chắn thành công trên bước đường mưu cầu công danh sự nghiệp. Sách Nhân luân đại thống nhất của Trương Hành Giản đời Minh đã dựa trên lập luận này khi viết: "Thành bại tại ư quyết đoán chjí trung". Chính vì cho rằng tinh thần khí phách là các yếu tố căn bản của phép xem tướng đoán người nên tướng học đã có câu châm ngôn : "Có khí phách thì tạo ra được côngdanh sự nghiệp". Câu nói đó hàm ý có khí phách hiên ngang hoang dại, tinh thần vững mạnh thì sẽ thành công

4. Xem xét cách xử trí công việc không gì bằng quan sát ngôn ngữ

Ngôn ngữ có công dụng là biểu lộ nội tâm của mình cho người khác hiểu. Càng có chức vụ thì muốn cho công việc mà mình được giao phó sứ mạng điều khiển đôn đốc được hoàn hảo thì người đó càng phải sử dụng ngôn ngữ cho minh bạch để diễn tả được đúng đắn và đầy đủ ý muốn cho thuộc cấp hiểu thấu. Ngôn ngữ thiếu thứ tự, mạch lạc, chứng tỏ ý tưởng lộn xộn, tâm tính thiếu minh bạch quyết đoán thì làm sao thực thi đúng mức

Nói tóm lại muốn xem xét một kẻ nào đó có biết cách xử trí công việc hay nói cho dễ hiểu là liệu xem công việc có thành tựu được không chỉ cần nghe ngôn ngữ của kẻ đó: trình bày công tác định làm có rõ ràng, đầy đủ hay hồ đồ, hứng khởi hay uể oải, cương quyết hay do dự, khái quát hay tỉ mỉ ... Chỉ căn cứ vào đấy, người rành quan sát tâm lý và tinh thần khí phách có thể đoán trước được là công việc sẽ thành hay hỏng

5. Muốn biết cuộc đời có thường hay bị chìm nổi hay không thì xem chân cẳng

Chân cẳng có liên hệ mật thiết tới khí lực: khí lực sung mãn thì chân cẳng vững vàng, tinh thần ổn cố. Sự chìm nổi cuộc đời có nghĩa là công việc thường hay vấp váp thất bại là vì tinh thần hốt hoảng, đầu óc không tỉnh táo, không vững tâm bền chí, không biết quyết đoán. Tất cả những dữ kiện này b ắt nguồn từ khí lực bất túc

Qua ý nghĩa của các sách vở, khí lực là căn nguyên của tinh thần khí phách. Trong đoạn luận về Thần hữu dư của Ma Y đã nói: "Đi vững vàng thanh thản như nước chảy, đứng chắc chắn như ngọn núi sừng sững giữa đồng là một trong các dấu hiệu chỉ về thần khí sung mãn". Kẻ thần khí sung mãn thì lâm sự cương nghị, lúc nào cũng

bình tĩnh sáng suốtt, không biến đổi tiết tháo. Như vậy trong việc mưu tìm công danh, đại sự ít khi lâm vào cảnh thất bại

6. Muốn biết thọ yểu nên xem móng tay

Người trường thọ tất nhiên huyết dịch sung mãn: sự tương quan giữa sự sung mãn của huyết dịch với hình thể và máu sắc của móng tay là rất mật thiết. Ơû đây ta chỉ đứng về phương diện màu sắc của móng tay mà xét

Đại khái, móng tay có những vết nhỏ chứng tỏ rằng huyết dịch bất túc. Màu xanh xám hoặc đen là dấu hiệu khí huyết suy nhược trầm trọng, các vệt bất thường hoặc hồng lẫn lộn là biểu hiện bề ngoài của của khí huyết bất túc. Toàn thể cả móng tay

đều xanh xám là khí sắc bề ngoài của huyết dịch thiếu thốn trầm trọng. Sắc càng xấu thì dấu hiệu suy nhược càng rõ. Do dđã người như thế không thể sống lâu

Ngược lại móng tay hồng nhuận đều khắp một cách tự nhiên là dấu hiệu chắc chắn của khí lực tiềm tàng sung mãn, huyết dịch tốt đương nhiên trường thọ

Nói một cách khác đây là quan điểm độc đáo về tướng học của Tăng Quốc Phiên và công dụng của phép đoán khí sức được dùng một cách khoa học trong lảnh vực tương quan giữa khí sắc và con người ở một lĩnh vực mà tướng học cổ điển chưa đề cập đầy đủ. Mọi ý nghĩa thần bí về vận mạng qua khí sắc của người xưa đều bị gạt bỏ. Quan điểm này của Tăng rất phù hợp với kiến thức y học hiện đại và vô tình giữa nhận định của khoa Thủ tướng (chiromancie) của Tây Phương hiện nay và nhận xét tăng cách hơn một thế kỷ giống như một cách kỳ lạ, gần như phóng tác nhau vậy

V ­ NHỮNG GIAI THOẠI XEM TƯỚNG

XEM TƯỚNG ĐỂ TÌM NGƯỜI HÀO KIỆT CHƯA GAèP THỜI

Cuối đời tấn, có người nước Hàn là Trương Lương thuộc dòng dõi cự tộc, năm đời kế tiếp nhau làm tướng nước Hàn. Thuở nhỉ Trương Lương căm giận Tần Thủy Hoàng bạn ngược lại thâm thù kẻ đã diệt nước Hàn của mình nên chu du thiên hạ, bỏ tiền mướn võ sĩ hành thích vua Tần. Việc không thành, Trương Lương phải bỏ xứ.

Trốn đi lang bạt giang hồ. Trong bước đường lưu lạc, Lương gặp một vị dị nhân truyền dạy binh thư thao lược. Nhờ đó mà Trương Lương mở rộng kiến thức, biết rõ đại thế thiên hạ, thấy chưa có thời cơ đành ẩn nhẫn không còn vọng động như lúc còn nhỏ tuổi trước kia.

Tần Thủy Hoàng mất, con là Nhị Thế nối ngôii cực kỳ hoang dâm tàn ác, dân chúng khốn khổ đến tận cùng. Bởi vậy anh hùng thảo dã trong thiên hạ nổi lên chống đối như ong vỡ tổ. Nổi tiếng và có thế lực trong đám người khởi nghĩa lúc đó là Sở Bá Vương Hạng Vũ và bái Công Lưu Bang.

Hạng Vũ là người có sức mạnh vô địch, quân lực hùng hậu nhưng tính tình hung hãn, hữu dũng vô mưu, còn Lưu Bang thế lực binh bị yếu hơn nhưng khôn ngoan nhẫn nại, biết mượn sức mạnh Hạng Vũ làm sức mạnh của mình, lại hay thi ơn chuốc nghĩa nên kẻ tức thời ai cũng biết là kẻ thay nhà Tần làm vua thiên hạ là Lưu Bang chứ không phải Hạng Vũ.

Tuy vậy, lúc ban đầu vì Hạng Vũ thế mạnh nên Lưu Bang đành tạm khuất phục nhường cho Hạng Vũ xưng vương và chịu nhún mình làm chúa đất Thục.

Hạng Vũ từ ngày đăng quang chỉ ham hưởng thụ mù quáng với lợi danh vừa đạt được, khôngbiết dùng kẻ đại tài bất chấp mọi lời khuyến dục có tính chất chiến lược của quân sư Phạm Tăng. Hơn nữa Vũ tính tình bạo ngược chẳng kém gì tần Thủy

Hoàng nên trong lúc nóng giận đã nhẫn tâm giết vua nước Hàn là nước chhư hầu vừa mới được tái lập. Do đó, Trương Lương vừa thù nhà vừa nợ nước càng muốn lật đổ kẻ đã lấy bạo ngược thay thế bạo ngược. Lương lại có dịp xem tướng Lưu Bang và những cận thần tín cẩn thấy họ đều có tài lạ, chí lớn. Vì thế, Lương quyết tâm theo phò Lưu

Bang để mượn tay Lưu Bang gíup mình đạt thành sở nguyện bình sinh là diệt Hạng Vũ.

Nói về Lưu bang từ khi bị Hạng Vũ cướp công và phong làm chúa đất Thục là nơi thâm sơn cùng cốc, Lưu Bang đã uất hận định phản kháng thì Trương Lương đã vạch rõ thế thành bại của thiên hạ lúc đó để Lưu Bang phải ẩn nhẫn chờ thời, Lương còn khuyến dụ Lưu Bang nên khôn khéo biến các khuyết điểm của Hạng Vũ thành ra ưu điểm của mình và tự nguyện sẽ gíup Lưu Bang diệt Hạng Vũ bằng cách ly gián Hạng Vũ với các chư hầu, tìm trong thiên hạ một nhân vật có tài thao lược và chí dũng xuất chúng để đủ sức chế ngự binh lực của Hạng Vũ.

Trong khi lưu lại trong dinh Hạ Bá ( Bá là thúc phụ Chu Hạnh Vũ lúc đó làm thượng thư lệnh chuyên về các chiếu biểu tâu trình trần tình của Hàn Tín. Đọc xong tờ biểu này, Trương Lương toát mồ hôi lạnh khi thấy Hàn Tín đã vạch rõ cho Sở Bá

Vương biết tất cả những nguy hiểm đang cờ đợi mình nếu không tìm cách tiêu diệt Bái Công. Sau cùng Hàn Tín đề ra kế hoạch dự phòng mà nếu được thi hành thì chắc chắn là Bái Công sẽ chết già ở nơi đất Thục không mong gì lật ngược thế cờ.

Lúc dâng biểu, Hàn Tín chỉ là một viên quan có chức vị rất tầm thường. Tuy có tài nguyên nhung từng được Phạm Tăng biết đến và chính Phạm Tăng đã khuyên Hạng Vũ phải biết cách khai thác tài năng tiềm ẩn đó, nhưng Hạng Vũ kiến thức nông cạn

không có mắt xanh sau biết bậc đại tài.Sở dĩ Hạng Vũ không dùng Hàn Tín một phần vì tự bản thân Hạng Vũ không phải là kẻ biết dùng người, một phần nữa vì Vũ biết rằng trước kia Hàn Tín từng lồn chôn kẻ bán thịt ở chợ Hoài ­ âm. Dưới mắt kẻ phàm tục, hành vi đó là một cử chỉ điếm nhục nhân cách biểu hiện cho hạng tham sinh quý tử tầm thường. Nhưng dưới cặp mắt xanh của cao nhân như Trương Lương thì lại khác hẳn, Lương cho rằng kẻ đã có đại tài chịu đựng

III. KỸ THUẬT XEM TƯỚNG THEO TIÊU CHUẨN THỜI GIAN

a) Quan sát vận mệnh hàng năm

Danh từ vận mệnh ở đây bao gồm mọi sự may mắn hoặc rủi ro về công danh sự nghiệp, gia đạo tiền bạc sức khỏe của cá nhân cũng như của một số người thân thuộc của họ như cha mẹ, vợ con, anh em ruột.

Thông dụng nhất là phương pháp lưu niên được ghi lại trong các sách Ma y tướng pháp, Thần tướng toàn biên, Tướng lý hoành chân

Theo phương pháp này, ta chia khuôn mặt thành từng khu vực nhất định, mỗi khu vực Triệu Giãn Tử cho từng năm tuổi. Muốn biết vận mạng mỗi năm của một cá nhân ra sao ta chỉ cần căn cứ vào cách cấu tạo của mỗi bộ vị, khí sắc của chúng. (Trong đoạn nói về phép xem khí sắc hằng năm ở chương 3, quyển II, soạn giả đã ghi rõ họ tên của từng khu vực với danh xưng riêng biệt và ứng với năm tuổi nhất định cùng sơ đồ hướng dẫn đính kèm. Độc giả chỉ cần tham khảo lại phần đó là đủ tài liệu giải đoán ). Tuy nhiên cần phải lưu ý là xem bộ vị khác nữa. Dưới đây là bảng tương quan giữa bộ vị cần quan sát và bộ vị tương ứng phối hợp với nó

- Tai bên trái: (Những năm từ 1 đến 7 tuổi) phối hợp với khu vực Thiên thương. Tai bên phải (Những năm từ 8 đến 14 tuổi) phối hợp với khu vực địa phố. Muốn biết rõ vận hạn căn bản của hai tai ta phải quan sát cặn kẻ khu vực sơn căn

- Đỉnh trán (chủ về 15 tuổi) cần phối hợp với đỉnh đầu: Thiên Trung (16 tuổi) quan sát cần phối hợp với tai phải. Trọng điểm quan sát phối hợp của cả đỉnh trán và Thiên trung là Trung chính

- Nhật giác (chủ về năm 17 tuổi ). Nguyệt giác (năm 18 tuổi), cần phải phối hợp với hai mắt và hai tai. Đặc biệt đi sâu vào chi tiết của từng năm thì Nhật giác phải có sự hỗ trợ của cặp mắt hơn là cặp tai, còn Nguyệt giác thì ngược lại với Nhật giác

- Thiên đỉnh(19 tuổi) phối hợp với vị thế chân mày, phải không được xung khắc với Nhật giác và chuẩn đầu làm trọng điểm để đoán kết quả chung cuộc của năm 19 tuổi

- Tả hữu phu giác: (còn gọi là phụ cốt), chủ về 2 tuổi 20 và 21 phải phối hợp với thiên thương và sống mũi

- Tư không (22 tuổi) phải phối hợp tương xứng với tai trái, Sơn căng và đặc biệt là Nhân Trung

- Bộ vị của hai tuổi 23 và 24 phối hợp đặc biệt với nhãn thần, còn cốt khí của các bộ vị gần hai vị trí của biên thanh đóng vai trò phụ trợ

- Trung chính (25 tuổi) lấy hai chân mày và Sơn căng làm bộ vị hỗ ứng

- Các bộ vị của hai tuổi 26, 27 phối hợp với thế của cặp mắt, hai tai nhất là tai phải và giữa trán

- ẤN đường (28 tuổi) phối hợp với mũi và miệng

- Lăng vân, khí (31, 32 tuổi) phối hợp với mắt và tai đặc biệt là lấy khí thế của sống mũi làm căn bản

- Phồn hà, Thái hà (33, 34 tuổi), phối hợp với trán và lông mày

- Thài dương (giữa mắt trái) phối hợp với tai phải, cũng như các làm việc lân cận của mắt như lông mày, xương phía trên tai. Luận về Thái âm (giữa mắt phải) cũng vậy. Cả hai lấy phần xương hai bên phía trên làm trọng điểm để định vận hạn của

chính các năm đó

- Trung dương: phối hợp chặt chẽ với chân mày trái. Trung âm phối hợp chặt chẽ với khí thế của mũi. Tuy nhiên, cả hai đều phải phối hợp liên hoàn với tất cả các bộ vị vừa kể và lấy Lưỡng quyền làm trọng điểm để định vận hạn

- Thiếu dương phối hợp với miệng, thiếu âm phối hợp với hai tai, tất cả lấy Ngư vĩ làm trọng điểm thẩm định tối hậu

- Sơn căn phối hợp chính với xương gáy (ót), phối hợp phụ với Địa các là lấy mắt trái làm điểm suy luận chính cho vận hạn ứng với năm tuổi tượng trưng cho Sơn căn

- Tịnh xá phối hợp chính với trán, Quang diện phối hợp chính với cặp chân mày, cả hai lấy Ấn đường để tìm kết quả chung cuộc

- Niên thượng đặt nặng phần phối hợp với mắt phải. Thọ thương đặt nặng phần phối hợp với tai phải. Cả hai lấy khí thế của mi cốt làm căn bản suy đoán vận hạn chính

- Lưỡng quyền lấy khí thế mi cốt làm trọng điểm phối hợp. Lấy phần xương sọ phía sau đầu đối xứng với lưỡng quyền làm căn bản suy đoán chính

- Chuẩn đầu phối hợp với cặp mắt và Lưỡng quyền. Nếu Quyền hãm thì Chuẩn đầu tối kỵ nhỏ nhọn mà cao, lấy miệng làm tiêu chuẩn suy đoán vận hạn

- Gián dài, Đình uý lấy hai tai và cặp mắt làm đối tượng phối hợp với miệng làm tiêu chuẩn suy đoán vận hạn trong năm đó

- Nhân trung phối hợp với trán và cặp tai. Tất cả đều sáng. Bằng không một mình nhân trung tốt các bộ vị trên không ra gì thì không thể nói là năm 51 tuổi tốt được

- Tả hữu, Tiên khố phối hợp chặt chẽ với cặp chân mày và lấy Ấn đướng làm cơ sở kết luận

- Thực hương cần ứng với tai phải. Lộc thương cần thích nghi phối hợp với chân mày trái. Nốt ruồi , cả hai lấy pháp lệnh làm chuẩn về sự suy đoán vận hạn chính

- Pháp lệnh cả hai phần của Pháp Lệnh phối hợp với khí thế của miệng, mũi lấy Ấn Đường để làm cơ sở suy đoán vận hạn chính nhưng đi sâu vào chi tiết thì pháp lệnh bên trái đặt nặng vào sự liên hệ với mũi còn pháp lệnh bên phải liên quan mật thiết

với miệng hơn

- Tả hữu, hổ nhỉ cần phối hợp thích ứng với hai tai và hai mắt

- Miệng phối hợp với trán, mũi và lấy Thuỳ châi để định vận hạn về miệng

- Thừa tương lấy sự phối hợp đắc thế với khí thế của chân mày và các phần trên của cặp tai làm chủ yếu

- Địa các phối hợp chặt chẽ với khi thế của miệng, mũi và lấy mục quang làm tiêu chuẩn để luận đoán sự cát hung của năm tuổi ứng với địa các

b) Quan sát theo chu kỳ 9 năm

Với phương pháp này ta chọn 9 bộ vị căn bản là cặp chân mày. Cặp mắt, cặp tai mũi miệng và trán làm nền tảng quan sát. Mỗi bộ vị căn bản này chủ về vận hạn của một số năm gồm năm bản vị và những năm sau đó cách quãng một thời gian 8 năm. Nói khác đi, đó là những năm tuổi tiếp theo cấp số cộng sai là 9

Chân mày bên trái: chủ về vận hạn của năm 1 tuổi và những năm có số cộng sai là 1+9, 10+9,19+9,18+9,31+9,40+9. Nói khác đi những tuổi 1, 10, 19, 28, 37, 46, 55 thì xem chân mày bên trái. Hình thể cấu tạo phẩm chất và màu sắc của năm đó sẽ

cho biết vận hạn vào những năm tuổi đó ra sao

- Tíêp tục áp dụng cách tính này cho các bộ vị khác ta có

- Mũi: chủ về năm lên 2 tuổi và những năm 11, 20, 29, 38, 47, 56 tuổi

- Miệng: chủ về năm lên 3 tuổi và những năm 12, 21, 30, 39, 48, 57 tuổi

- Tai bên trái: chủ về năm lên 4 và những năm 13, 22, 31, 40, 49, 58 tuổi

- Mắt bên trái: chủ về năm lên 5 và những năm 14, 23, 32, 41, 50, 59 tuổi

- Trán: chủ về vận hạn của năm lên 6 và những năm 15, 24, 33, 42, 51, 60 tuổi

- Chân mày phải: chủ về vận hạn của năm lên 7 và những năm 16, 25, 34, 43, 52, 61 tuổi

- Mắt phải: chủ về vận hạn của năm lên 8 và những năm 16, 25, 34, 43, 52, 61 tuổi

- tai bên phải: chủ về vận hạn của năm lên 7 và những năm 16, 25, 34, 43, 52, 61 tuổi

c) Quan sát có tính cách khái quát chung thân

Việc quan sát vận hạn con người một cách khái quát về toàn bộ một đời người gồm sơ vận, trung vận và vãn vận, có khá nhiều phương pháp nhưng tựu trung chỉ có hai phương pháp sau đây là thông dụng nhất

1. Phương pháp căn cứ vào Tam đình

Trong phương pháp này, tuy nói là Tam đình nhưng thật sự chỉ căn cứ vào trán, mũi và toàn thể cằm (không tế phân thành những bộ vị nhỏ như trong phép đoán lưu niên hàng năm) và gia đình và nếp sống trung bình của một cá nhân là 60 tuổi. Hết 60 tuổi thì lại trở về khởi nguyên một chu trình mới. Bây giờ xin đi vào nội dung của phương pháp này:

- Trán: chủ về 20 năm đầu của cuộc đời 60 tuổi nên cũng còn gọi là sơ vận. Trán tốt, cách cấu tạo có khí thế, hình thể trán rộng rãi, không khuyết hãm là dấu hiệu của sơ vận tốt đẹp

- mũi: chủ về 20 năm kế tiếp tức là từ lúc 21 tuổi đến 40 tuổi. Hình dạng khí thế của mũi sẽ giúp ta biết được trung vận của một cá nhân

- Cằm: chủ về vận hạn tức là từ năm 41 tuổi đến năm 60 tuổi. Cằ, nảy nở cân xứng, có khí thế vững vàng là dấu hiệu vận hạn tốt đẹp. Trái lại cằm dài nhọn lệch hãm hoặc không có khí thế là điềm báo trước cảnh về già khốn khổ lênh đênh

Đọc đến đây chắc độc giả sẽ thắc mắc là phần Trung đỉnh còn cặp mắt là bộ vị trọng yếu, phần Hạ đình còn có miệng là phần rất quan trọng tại sao lại bỏ qua? Thực ra mắt và miệng tuy là các bộ vị tối quan hệ nhưng phải bỏ qua do chúng ta ở đây chỉ đứng về phương diện cốt tướng học, lấy phần có xương làm đối tượng quan sát chính theo quan điểm chung của tướng học mà điển hình là của Ma Y. Trong Thần di phú Ma Y đã nói rõ: "Cốt cách vi nhất thế vinh khô" (Cốt cách định được vận mạng của đời 1 con người, phú quý bần tiện đều phần lớn thể hiện qua cốt cách). Tuy nhiên nói vậy không có nghĩa là bỏ qua ý nghĩa của mắt, miệng. Màu sắc và hình dáng miệng giúp ta biết được tước lộc tổng quát của con người. Thần khí của mắt không phải chỉ ảnh hưởng ở trung vận mà còn suốt cuộc đời con người, liên quan đến phúc họa chung thân. Cho nên mắt toàn hảo về hình thể cả về cách cấu tạo lẫn thần khí thì đầu Tam đình có bị khuyết hãm phần nào cũng không mấy tồn hại. Ngược lại nếu Tam đình hoàn hảo về hình thể mà mục quang vô thần hay ảm đạm thì không thể quyết đoán tướng kẻ thành đạt hoặc hậu vận khả quan được

2.- Phương pháp căn cứ vào mũi và hai tai:

Phương pháp này cũng giả địng rằng kiếp người trung bình là 60 năm. Tai trái chủ về sơ vận và tai phải chủ về 20 năm còn lại của cuộc đời ( nếu xem tướng đàn bà thì đổi lại thứ tự của hai tai, còn mũi thì không thay đổi. Trong trường hợp này đàn bà lấy tai phải chủ về sơ vận, tai trái chủ về vãn vận ). Hết chu kỳ 60 năm ta lại trở về phần khởi nguyên của chu trình thứ 2. Nghĩa là 61 tuổi đến 80 tuổi thì căn cứ vào tai trái mà giải đoán.

Tựu trung tai tố, mũi tốt thì vận tốt: tai xấu mũi hỏng thì ngược lại. Sự xấu tốt của tai, mũi đã được trình bày rất chi tiết ở các chương thuộc quyển I nên ở đây thiết tưởng không cần nhắc lại. Nếu cá nhân có cả hai tai thì có thể đoán một cách tổng

quát là cuộc đời kẻ đó phúc thọ dồi dào, ít bị thất bại chua cay trên đường công danh sự nghiệp. Tuy nhiên, cũng như ở phương pháp thứ nhất ( Căn cứ vào Tam Đình ) ta cần phải chú ý đến thần, khí và cả tâm tướng nữa. Nếu thần, khí và tâm tính khắc bạc thì chớ vội võ đoán bất kể là hai tai và mũi xấu tốt thế nào.

Ba kỹ thuật trên có nhiều điểm dị biệt vì mỗi kỹ thuật dựa trên 1 giả thuyết và đều có phần sở trường, sở đoản . Kỹ thuật quan sát vận hạn hàng năm có ưu điểm là đi sâu vào chi tiết, nhưng quá chi tiết nên thiếu mất phần đại thể. Kỹ thuật thứ 2 dựa trên ức thuyết là vận số biế chuyển theo một chu trình thông thường là 9 năm, nhưng xét kỹ vẫn là chi tiết hơn là đại thể. Loại kỹ thuật thứ 3 lại chỉ chuyên về đại thể mà không thể đi vào chi tiết. Cả ba đều căn cứ vào một số kết quả thực tế thu thập được qua một thời gian là do những người khác nhau tạo dựng. Như vậy sự dị biệt và đôi khi mâu thuẫn giữa các quan điểm về kỹ thuật xem tướng tất nhiên phải có. Vã chăng xưa nay vấn đề Định mệnh vẫn là một vấn đề triết học còn đang được tranh luận. Phương pháp xem tướng để biết được một thời điểm hầu tì hiểu vận mạng con người trong thời điểm đó tốt xấu ra sao được căn cứ vào thuyết Định mệnh nên nó chỉ là một giả thuyết chứ không phải là định luật vạn vật chính xác nư 2 với 2 là 4. Bởi vậy, về kết quả nó có thể đúng với người này mà không đúng với người kia, đúng trong thời gian này chưa hẳn đã đúng trong thời gian khác. Về căn nguyên, nó có thể phủ nhận hay được công nhận bất cứ nguyên tắt có tính giả định nào trong khoa học nhân văn này.

Theo thiển ý, tìm hiểu tương lai là tìm cách thích ứng để dự phòng bất trắc, dù là sự tìm hiểu đã được căn cứ vào một số giả thuyết vẫn hay hơn là cứ phó mặt cho sự may rủi để rồi nước tới chân không kịp nhảy. Tuy nhiên chúng ta cũng lhông nên vì vậy mà tin tưởng quá đáng đến chỗ lấy giả thuyết làm chân lý. Nếu chúng ta đồng ý như vậy thì phần kỹ thuật xem tướng căn cứ vào thời gian này không phải là hoàn toàn vô ích.

Cũng bởi lẽ các kỹ thuật xem tướng chỉ là các phương pháp đặt nền tảng trên ácc giả thuyết đã được thực nghiệm hỗ trợ, nhưng vì đấy chỉ là những kết quả hữu hạn cho nên ta không nên quá thiên về một kỹ thuật nào đó, vì mỗi kỹ thuật chỉ bao quát một số lĩnh vực chứ không bao trùm hết tất cả mọi lĩnh vực liên quan đế con người. Điều hợp lý hơn hết là ta nên dùng cả 3 phương pháp để bổ túc lẫn nhau hầu phong phú hóa các dữ kiện thu thập được trong việc tìm hiểu tương lai vận mạng con người.

CHƯƠNG 06

TƯỚNG PHỤ NỮ

1-NHẬN ĐỊNH TỔNG QUÁT

Hầu hết các tướng cổ điển chỉ lưu tâm đến các nét tướng và loại tướng đàn ông, còn các nét tướng đàn bà hầu như không được chú trọng, thảng hoặc có đề cập đến thì cũng chỉ trong một phạm vi hạn hẹp. Sở dĩ như vậy là vì trong xã hội cổ truyền nông nghiệp, đàn bà chỉ lo việc gia đình, mọi công việc ngoài đời đều do đàn ông đảm nhiệm, nên nói đến tướng là ta nghĩ ngay đến tướng đàn ông để dự đoán xem tương

lai của họ trong đời sống xã hội sẽ thành công hay thất bại, phú quý hay bần tiện; kế đó, nếu đi sâu vào mạng vận đàn ông hơn thì ta sẽ xét đến đường gia đạo của kẻ đó xem vấn đề vợ con ra sao mà thôi. Xem tướng đàn bà trong các điều kiện văn hoá và xã hội kể trên chỉ nên coi là phần tướng về gia đạo của đàn ông. Như vậy ta không thể coi đó là xem tướng đàn bà một cách thực sự, mà đó chỉ là quan sát đàn bà để

giúp cho đàn ông nắm vững gia đạo mà thôi.

Gần đây, môt số tác giả về tướng học Á Đông, nhất là Nhật Bản, đã phát triển khảo sát hướng tướng đàn bà, nhưng xét kỹ bản chất cũng như mục đích tối hậu của nó, ta thấy quan niệm "nam ngoại nữ nội" vẫn còn là tư tưởng chỉ đạo trong việc nghiên cứu. Cuống sách này, với tham vọng đúc kết những kiến thức tướng học rải rác từ trước đến nay, dĩ nhiên không thể nào đi quá xa ra ngoài quỹ đạo tư tưởng cổ

điển về tướng đàn bà, hoặc nói đến, nhưng quá thiên lệch, soạn giả đã căn cứ vào các tài liệu cận đại và đương thời của các đặc khảo về tướng đàn bà biên soạn thành một chương đặc biệt mệnh danh là Tướng phụ nữ để quý vị đọc giả rộng đường tham khảo.

Cái đẹp của thế tục và cái đẹp của tướng học trong tướng đàn bà

Giữa cái đẹp của thế tục và cái đẹp của tướng học về tướng mạo phụ nữ ta có một phần tương đồng, nhưng một phần khác lại hoàn toàn tương phản. Dưới con mắt người thường, xưa cũng như nay, ta thường thấy kẻ đã được gọi là mỹ nhân thì da thịt mềm mại, vẻ mặt thiên kiều bá mỹ, tỷ như ánh mắt trong trẻo lóng lánh như mặt nước hồ thu, da trắng như trứng gà bóc, má ửng hồng phơn phớt như trái đào đang chín. Nhưng dưới mắt tướng học, đàn bà có tướng cách như trên là tướng dâm tiện, phần lớn

là những ca nhi, kỹ nữ, dâm phụ trong lịch sử đều có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành; đàn ông kết duyên với họ thì chỉ có hứng khởi nhất thời mà đa số thì nhơ danh hoặc ngậm hờn muôn thuở. Bao Tự, Đắt Kỷ, Tây Thi, Dương Quý Phi, Chiêu Quân là những trường hợp điển hình cho loại đàn bà đẹp dưới con mắt thế tục mà hậu quả đem lại cho những chủ nhân các bông hoa biết nói đó ra sao thiết tưởng không ai không rõ. Cái đẹp thế tục của những người đó dưới mắt tướng học lại là những cái xấu cho chính họ lẫn người đàn ông thân cận với họ.

Ngược lại, những người nguyên phối, vợ lớn của các danh nhân lương thần, giúp chồng thành đạt hoặc mang lại hanh thông cho chồng con đều không mấy người có diện mạo, thân hình mỹ miều, nhiều khi còn dưới mức trung bình là khác. Nhưng dưới con mắt tướng học, những người đó là những phụ nữ cát tướng: tướng cách của họ tốt với ý nghĩa là phúc lộc dồi dào, vượng phu, ích tử. Dưới con mắt thế tục, là xú phụ, nhưng dưới nhãn quang tướng học, họ lại là lương thê, hiền mẫu, đáng trọng đáng kính. Điều này giải thích tại sao tục ngữ Trung Hoa có câu: "Lấy vợ là lấy cái đức, cón lấy nàng hầu vợ lẽ thì lấy cái sắc", hoặc như Việt Nam ta vẫn nói: "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người". Bởi vậy, trong sách tướng, nói về tướng đàn bà, người ta phân biệt Sắc tướng mỹ tức là đẹp hời hợt với Tướng

cách mỹ là cái đẹp thực tiềm tàng, chỉ có con mắt tinh đời mới thấy.

Trong thực tế, thanh niên mới vào đời, phần nhiều chưa đủ tiền tài, danh vọng. Chỉ sau khi thành lập gia thất, đến tuổi trung niên, phát đạt mới sinh ra liễu ngõ hoa tường, ăn chơi trác táng. Họ thường lân la tới hý trường, kỹ viện tìm hoa cì những nơi này thường có nhiều loại phụ nữ sắc tướng mỹ. Đàn ông lấy vợ lẽ, nàng hầu phần lớn vì sắc chớ không vì tài đức. Đàn bà có sắc tướng mỹ thường xuất thân làm kỹ nữ, lấy chồng thường chỉ làm vợ lẽ, nàng hầu. Do đó, sắc tướng mỹ chỉ là tiện cách chứ không phải là quý cách. Người xưa, quá chú trọng đến phần tướng cách mỹ mà lại rất nghiêm khắc đối với loại sắc tướng mỹ. Điển hình cho thái độ trên là Viên Liễu Trang trong cuốn Liễu Trang tướng pháp đã liệt kê tới 72 tướng cách ty tiện của đàn bà với chủ trương rằng phạm vào một số là dâm tướng (xem phần phụ luận về tướng ở cuối chương này).

II - NHỮNG TƯỚNG CÁCH PHỤ NỮ

Theo quan niệm "nam ngoại nữ nội", dưới nhãn quang tướng học Á Đông, những nét tưong đối tốt đối với đàn ông không bắt buộc phải là tốt với đàn bà. Chẳng hạn:

- Đàn ông mà trán cao, rộng, sáng sủa, đầy đặn là biểu hiện của trí tuệ sâu sắc, kiến thức rộng rãi, dễ thành đạt lúc thanh niên. Ở đàn bà, kẻ có tướng trán như vậy lại là kẻ long đong về đường gia thất.

- Đàn ông có lưỡng quyền cao rộng và nảy nở là tướng có thực quyền, quả cảm, ưa phấn đấu. Ở đàn bà, quyền cao và nảy nở là kẻ có khí khái trượng phu, có khuynh hướng ăn hiếp chồng và khắc chồng.

- Đàn ông có tiếng nói cao và vang xa hoặc trầm hùng, ngân lâu như tiếng chuông là tướng âm thanh thượng cách, chủ về thông minh tháo vát, hoặc công danh đầy hứa hẹn. Ngược lại, đàn bà mà có âm thanh kể trên lại là tướng âm thanh khắc phu, dâm loạn, phá bại hoặc trùng hôn.

Trong phép xem tướng diện mạo nữ giới, ngũ quan cần phải để ý đã đành, nhưng ba bộ phận mà người xem tướng đặc biệt phả chú trọng là Mắt, Mủi, Môi và Miệng. Mắt cho ta biết được trạng thái qua tinh thần của nữ giới, Mũi chủ về chồng, Môi và Miệng liên quan mật thiết đến con cái.

Nói một cách tổng quát, đàn bà có mũi ngay ngắn, dài và đầy đặn, sắc da tươi mát và không có tỳ vết được xem là tướng vượng phu.

Miệng không lớn, không nhỏ, hai môi dầy mỏng tương xứng, lưỡng quyền bắng phẳng không quá cao, không nổi, toàn thể da mặt hồng nhuận, không có nốt ruồi, tàn nhang hay bã chè làm mất vẻ mỹ quan là tướng ích tử.

Lục phủ (hiểu theo nghĩa rộng là toàn thể xương khuôn mặt) chủ về tiền tài, sinh kế mà người chồng có thể hưởng thụ khi lập gia đình với người phụ nữ đó*.

Chú thích: *Nói như vậy không có nghĩa là người chồng sẽ được hưởng của hồi môn mà chỉhàm ý rằng nhờ sống chung với người vợ đó mà công việc làm ăn của người chồng sẽ vượng thịnh về mặt tiền bạc. Nếu khuôn mặt phụ nữ đầy đặn phúc hậu, xem tướng cân phân (trong trường hợp nếu là người gầy thì dĩ nhiên mặt không thể bầu bĩnh. Lúc đó chỉ cần xương lưỡng quyền không lộ cao, mặt mũi không hốc hác) là tướng vượng tài.

Dưới nhãn quang tướng học nam giới, người đàn bà có đủ cả Tam vương là người vợ lý tưởng trong đời sống gia đình. Nói khác đi, đó là loại cát tướng của phụ nữ.

Ngược lại, mũi lệch cong queo hoặc trơ xương, lỗ mũi hếch hoặc quá ngắn là tướng lấy chồng khiến phu quân tổn thương, khắc hãm hoặc ly hôn. Vì vậy, tướng thuật có câu: "Mũi đàn bà là phu tinh". Miệng quá lớn và mỏng, môi xám hoặc trắng bệch, lưỡng quyền cao nhọn: vừa khắc chồng lại vừa lận đận về đường tử tức. Khu vực quanh mắt thâm đen, sâu hõm là tướng không con.

Đàn bà tối kỵ tướng cách cô thần nghĩa là mắt tròn và trắng dã, mũi hếch, môi vẩu là lộ cả chân răng, tai khuyết hãm, trán lẹm hoặc lồi, hoặc có loạn văn, đầu quá lớn, mũi sư tử, mũi sống kiếm mà lưỡng quyền cao rộng, mắt lồi, lông mày dựng đứng, thân hình quá ngắn mà mặt lại quá dài, pháp lệnh quá dài và sâu lúc còn trẻ, tiếng nói như phèng la bể v.v... Người có tướng cách cô thần vừa khắc chồng, vừa tổn

con, về già cô đơn, khốn khổ.

Về phong thái, có loại phụ nữ vừa mới thoáng nhìn đã khiến ta sinh lòng tà vạy là loại dâm tướng, vì mọi cử động, hành vi, ngôn ngữ, đầu, mặt, đuôi mắt đều khơi động xuân tình. Lại có loại phụ nữ thaóng thấy sinh dạ nể vì, do ở ánh mắt nghiêm, tinh thần nghiêm túc, đó là tướng tôn quý. lại có tướng người vừa thấy mặt đã nảy sinh lòng coi rẻ là loại tiện tướng. Còn loại người thoáng qua có cảm giác kinh sợ là tướng hình khắc.

Một số người khảo cứu về sự tương quan hợp hình tướng và đời sống nội tâm phụ nữ, sau khi quan sát và phỏng vấn một số phụ nữ thành gia thất đã phân chia phụ nữ thành ba loại điển hình chính yếu sau đây:

*Loại hướng nội:

Loại có tâm hồn hướng nội, phần lớn có dáng người thấp, cổ ngắn, đầu khá lớn,miệng rộng, môi dầy. Cá tính trội yếu của họ là trầm mặc, không ưa gây gổ, lạc quan,dễ dàng thông cảm, thích ăn uống, tham lợi ích nho nhỏ, tâm địa thẳng thắn, khôngthích thủ đoạn.

Trong đời sống gia đình, họ là hiền thê, lương mẫu, thai kỳ đều đặn, chínhthường, dễ sinh sản và lắm con, nấu nướng khéo, không ưa nhõng nhẽo, chung thủyvới chồng.

* Loại hướng ngoại:

Phần lớn có dáng người cao và thon, vai xuôi, mông nhỏ, tứ chi dài, mũi cao,môi mỏng, cằm hơi lộ, cổ nhỏ và dài, da dẻ hơi khô và mỏng. Cá tính của họ dễ vui,dễ buồn, thích hoạt động nhưng mau chán.Về mặt sinh lý, họ dễ bị bệnh phụ khoa, tính lãnh cảm. Trong đời sống giađình, họ không ưa nấu nướng, kém tháo vát, dễ cáu kỉnh.

* Loại trung tính:

Loại này là trung gian giữa hai loại trên nên thân hình có thể cao hơn và khámập, có thể hơi thấp và gầy, môi miệng không quá dầy, không quá mỏng. Các bộphận khác cũng ở mức trung dung. Họ có thể là kết tinh phần tốt hay phần xấu củahai cá tính hoặc nội hay hoặc ngoại tùy theo sự tốt xấu của tửng bộ vị* . Quan sát loạitướng trung tính này rất khó, cần phải có kinh nghiệm và nhãn quan gbén nhạy mới đạt được mức độ tương đối chính xác.

Tuy nhiên, các điểm nêu trên chỉ có tính cách khái lượn. Việc xem tướng trongthực tế không quá đơn giản như vậy. Muốn có một ý niệm rõ ràng, chúng ta cần phảiđào sâu vấn đề hơn nữa, xuyên qua việc khảo sát một số lĩnh vực bao gồm nhiềutrọng đề dưới đây:

* Muốn hiểu rõ hơn về điều này, xin xem lại chương I Quyển II nóivề nguyên tắc thanh trọc.

a) Lãnh vực cá tính:

1 – Tướng người ham mê nhục dục:

Tính dục thì ai cũng có, nhưng người quá trọng nhục dục thường ít ra cũng cómột vài nét tướng đặc biệt:

- Đàn bà trời phú sắc da mặt trắng hơi pha màu hồng lạt gọi là đào hoa sắchoặc mặt trắng mà có nhiều tàn nhang đều chủ về háo dâm.

- Lông mày nhỏ hẹp, uốn cong dài quá mắt, mắt lớn và sáng.

- Phía dưới mắt (Lệ đường) có lằn xếp hay gân màu xanh xám hoặc hồng chạy về phía đuôi mắt (Ngư vĩ) là tướng đàn bà thường có khuynh hướng ân ái vụng trộm.

- Mắt đào hoa thấy người đàn ông xa lạ, ưa nhìn, tường hay cười tình, liếc xéo.

- Phía dưới mắt có nốt ruồi đen nổi rõ hoặc mắt không khóc mà vẫn ứot và nhìn cặp mắt không rõ cười hay khóc: tiện dâm.

- Mỗi khi trò chuyện thường hay có thói quen lè lưỡi liếm mép hoắc nhắm mắt lại rồi mới phát âm là kẻ có khuynh hướng gian dâm.

- Miệng lớn và khoé miệng đi xuống, lưng ong.

- Ngồi hai bàn chân bắt chéo, hai bàn tay đan nhau và bó lấy gối hoặc hay rung gối là tướng đàn bà trong đời ít ra cũng vài ba bận thông dâm.

- Eo lệch, rốn quá sâu, lòng trắng pha hồng, tiếng nói liến thoắng, hầu hết là những người dễ bị quyến rũ vào đường sắc dục.

- Bước đi uốn éo như rắn, nhún nhảy như chim sẻ và thường ngoảnh lại là tướng háo dâm.

- Nhân trung gẫy khúc, quanh mép miệng sắc da xanh xám một cách tự nhiên không vì bệnh tật.

- Mặt ngâm đen, đầu tóc rậm, ánh mắt ướt và sắc, da bóng bẩy.

- Có thói quen lấy đầu lưỡi khoa động nước răng, hoặc chân răng đen xám, không cười mà thường lộ chân răng.

- Trường hợp phụ nữ hút thuốc lá, kẻ có thói quen thở khói rất mạnh là kẻ háo dâm.

Những nét tướng cho thấy rằng có thể căn cứ vào nhiều bộ vị, nhiều lãnh vực sinh hoạt để biết khái quát về cá tính tiềm ẩn của một cá nhân về mặt tình dục. Hơn nữa, mọi nét tướng thể hiện dục của nữ giới, dù đứng trên bình diện sinh lý hay đạo lý, không có chung cùng một giá trị: có những nét tướng khả chấp, có những nét tướng bất khả chấp.Dục tính không phải đương nhiên là xấu xa như các nhà Nho cổ hủ vẫn thường lên án, mà xấu hoặc tốt còn tùy người, tùy trường hợp. Đặc diểm này cần phải được quan tâm đặc biệt để có thể nhận định đúng đắn cá tính của người phụ nữ, đồng thời có thể chế ngự hay hướng dẫn họ tùy theo sở nguyện của mình.

Ngoài ra, người phụ nữ cầm phụ nữ có tính trăng hoa, chưa hẳn họ đã có dịp thực hiện cá tính đó. Muốn biết người phụ nữ đã có cơ hội thực hiện được tính trăng hoa của họ hay không, cần phải lưu ý các khu vực sau:

a) Nhân trung có tia đỏ: Phía trên nhân trung là mũi, phía dưới là miệng; mũi và miệng có hình dạng tương tự như bộ phận sinh dục của nam và nữ giới. Tướng học căn cứ vào đó để phát hiện ra rằng phần lớn phụ nữ chìm đắm trong hoan lạc nhụcdục đều có một đường vạch ngang màu đỏ hoặc hồng (tùy theo truy hoan nhiều hay ít) nhỏ như sợi tơ nhện, phải tinh mắt lắm mới thấy. Nếu như ta thấy dấu hiệu đó xuất hiện thì có thể biết là người phụ nữ đó quả là đã có gì rồi.

b) Mắt tam bạch: Bình thường nếu người đàn bà đó không có loại mắt này nhưng vì đắm say nhục dục nên có thể sau một thời gian ngắn, khu vực xung quanh lòng đen bị thu hẹp dần nhường lại chỗ cho lòng trắng khiến lòng đen đều bị lòng trắng bao bọc, biến thành một loại tam bạch nhãn tạm thời. Còn như nếu bình thường vẫn là hạ tam bạch nhãn, thì nếu có thông gian ta sẽ thấy Nhân trung có vạch hồng hoặc đỏ như trên vừa nói.

c) Khu vực Lệ đường: Bình thường không có màu sắc xanh đen nhưng nếu giao hoan đầy lạc thú, tinh dịch tiết ra quá nhiều thì thường biến sang màu xanh đen.

d) Khu vực Sơn căn và Ngư vĩ: Đột nhiên có màu xám đen ở hia bên hoặc rõ rệt hơn lúc bình thường.

Tất cả các dấu hiệu về màu sắc ở bộ vị nói trên là các bằng chứng cụ thể của kẻ lặn hụp trong tình dục. Những đàn ông chưa từng ân ái với tình nhân, những đấng phu quân xa nhà một thời gian dài khi gặp mặt tình nhân hoặc vợ nhà chưa mây mưa mà đã thấy có hầu hết các dấu hiệu dẫn thượng thì quả là đáng ngại, cần phải lưu tâm theo dõi hành tung của người nữ đó hầu tránh những hậu quả tai hại có thể xảy ra.

2- Tướng người trinh thục.

Trong nền luân lý Á Đông cổ điển, người ta đặc biệt quý trọng cá tính trinh tiết thuần thục của phụ nữ, coi đó là một đức tính tối cần thiết của hôn nhân, là một hãnh diện của người chồng. Muốn coi tướng đàn bà con gái để xem đức tính trên của họ cao thấp tới mức độ nào, điểm tối trọng yếu là cặp mắt vì mắt là cửa sổ của tâm hồn. Cặp mắt đối xứng qua Sơn căn, muc quang ôn hoà thanh tĩnh, không liếc xéo là một đảm bảo đáng kể. Tuy nhiên, như vậy vẫn chưa được đầy đủ. Những người đàn bà lấy chồng giữ vững được ái tình thủy chung như nhất, ngoài cặp mắt kể trên thường có tướng kết hợp một số đặc điểm sau:

- Trán tròn nhưng không cao, không lồi.

- Lông mày đẹp và phối hợp với cặp mắt, tạo ra một phong thái khiến mọi người phải kính nể.

- Môi hồng, răng đều và trắng.

- Mũi ngay ngắn, không trơ xương, không quá cao.

- Đi, đứng, ngồi chững chạc, đoan trang.

- Tính nết ôn hoà nhưng không nhu nhược, ít nói, ít cười.

3- Tướng người hung tợn.

Đại để đàn bà tính nết hung tợn, mạnh bạo thường phạm vào nhất cài ba dấu hiệu sau đây:

- Miệng thô, môi lộ xỉ.

- Giọng nói khô khan, tóc cằn cỗi và ít.

- Quyền cao và lộ, hầu lộ, tiếng nói rè như tiếng phèng la bể.

- Mũi gầy và lộ khổng, mắt có hung quang.

- Mặt đen, lông mày thô, thân hình kệch cỡm.

- Mắt nhỏ, miệng túm, giọng đàn ông, chân tay lông mao rậm như đàn ông.

- Thân dài, giọng đớt, tay chân thô, ngón tay mập và qúa ngắn.

- Mắt lộ tứ bạch mà mục quang lại lộ liễu.

4 ­ Tướng người không thích ràng buộc trong gia đình:

Những phụ nữ thích tự do phóng khoáng không có năng khiếu của người nội trợ cổ điển Á Đông là những kẻ có nét tướng sau:

- Lông mày đậm và khá lớn, mọc xa nhau và không có giữa lông mày với mắt khá rộng, miệng rộng, da mỏng.

- Mắt tròn, lớn, mục quang thuộc loại cương nhi cô, tính thích cạnh tranh, đua đòi, ưa được người ngoài xu phụng, đi lanh lẹ và cao.

- Khéo ăn nói, giao thiệp rộng và thích tự quyết định thân mình, coi rẻ tiền bạc, không thích săn sóc con cái, bếp.

5 ­ Tướng người cần kiệm.

Tóc đen mướt, lông mày hình dạng vừa phải, màu xanh đen, lòng đen lòng trắng phân minh và mục quang mạnh mẻ nhưng ẩn tàng thức khuya không mệt mỏi, dậy sớm mà thần sắc thư thái, nói năng chậm rãi, từ tốn, không mấy khi than thở oán hận, không cạnh tranh hơn thua với người về công việc v.v... là những đặc điểm của tướng người giúp việc có năng suất cao, người vợ đảm đang, tháo vát.

6 ­ Tướng người biếng nhác

Những kẻ biếng nhác hoặc vô tài bất tướng trong mọi hoạt động (đặc biệt là trong việc tề gia) đều thuộc cái tướng cách sau:

- Tóc nhiều, thô lộ, mày thô và giao nhau.

- Mắt tròn, nhỏ, đen trắng không rõ ràng, mục quang hôn ám, hoặc trắng nhiều đen ít.

- Mắt lớn hơi lồi, đen trắng phân minh nhưng mục quang lúc nào cũng ngơ ngác, khiếp hãi như mắt nai, mắt hươu.

- Mắt lúc nào cũng như kẻ ngái ngủ.

- Ham ăn, ham ngủ, thích rong chơi.

b) Lãnh vực vận mạng

1- Tướng người cao quý

Đại để tướng người cao quý toàn thân toát ra vẻ quý phái, sang cả.

Những người như vậy diện mạo không hẳn là xinh đẹp, đôi khi còn dưới mức trung bình, nhưng hầu hết đều có một số nét tướng sau đây:

- Mục quang sáng sủa, chính đính và mạnh mẽ, khiến người đối diện phải kính nể.

- Vành tai đầy đặn và hơi hồng, trái tai trắng hơn da mặt.

- Mũi thẳng và phối hợp thích nghi với Lưỡng quyền tạo thành một khối có thế vững vàng, mang tai xuôi thẳng.

- Lông mày thanh nhã, có thần khí.

- Trán tròn, không thấp, kh ông cao, tóc đen mịn, thanh nhã, cổ dài.

- Xương và thịt của mặt cân xứng, môi hồng, răng trắng và đều.

- Tiếng nói trong và ấm, giọng điệu thong thả nghiêm trang.

- Ngón tay thon và thẳng, chỉ tay mịn và rõ.

2 ­ Tướng người phú túc.

Đàn bà có số no đủ thường có: Khuôn mặt đầy đặn và hồng nhuận nhưng phải không được thành đào hoa sắc hoặc có tàn nhang, mày thanh, mục quang sáng một cách hiền hoà, tai dầy và cứng, mũi thẳng và dầy (Gián đài, Đình uý rõ và cân xứng, đầy đặn). Nhân trung dài, Địa các tròn đầy và vững, mang tai nảy nở nhưng không bạnh ra phía sau, môi hơi dầy và có sắc hồng tự nhiên, lòng bàn tay hồng hào và dầy, bụng tròn, lưng nở, tướng đi chậm rãi, thân thể có mùi thơm tự nhiên.

3 ­ Tướng người khốn khổ.

Tướng đàn bà khốn khổ, nghèo đói hoặc long đong được biểu hiện qua những nét tướng sau đây:

- Trán hẹp và thấp, tóc thô và vàng, mắt sâu, mày đậm: long đong về sinh kế, hiếm con.

- Bụng quá xẹp, eo quá nhỏ, lưng quá hẹp: suốt đời không có lộc.

- Mũi hẹp, nhỏ, lệch, ngắn. Chuẩn đầu không thịt.

- Môi quá dầy, miệng quá rộng mà tay ngắn, ngón tay mập ngắn vá thô.

- Tiếng nói nhỏ và khàn, mặt lúc nào cũng có sắc thái sầu thảm.

- Mặt lúc nào cũng như ngửa lên trời, dáng dấp và giọng nói có vẻ đàn ông.

- Sơn căn thấp gãy, Lệ đường khô hãm, tròng mắt vàng lạt có gân máu.

4 ­ Tướng người nhiều con.

Những bộ vị quan trọng để quan sát về đường tử tức của phụ nữ là Lệ đường (còn gọi là Ngoa tàm), Nhân trung, Vú, Mông, kế đó là hai mắt và hai tai.

Thông thường trừ một vài loại mắt tối kỵ như mắt tam tứ bạch, mắt dê, mắt heo, mắt đào hoa không kể; còn phần đông nên có lòng đen lòng trắng rõ ràng, mí mắt dài, mục quang sáng sủa, phía dưới hai mắt đầy đặn không có tỳ vết thiên nhiên như nốt ruồi, tàn nhang, gân máu; Nhân trung sâu và thẳng, trên nhỏ dưới rộng, chỉ tay rõ và tươi; vú lớn và núm vú xạm, không được wúa nhỏ và lệch lạc; miệng đều

dặn, môi có nhiều vằn; mông tương xứng với thân người.

Riêng về tai, một vài tác phẩm cổ điển ghi rằng: tai giúp ta biết được đứa con đầu lòng sẽ là trai hay gái. Theo thuyết này, nếu tai phía trái của người mẹ mà dày hơn tai phía phải thì con đầu lòng sẽ là trai, tai phía mặt dày hơn thì con đầu lòng là gái.

5 ­ Tướng người hiếm hoi hoặc không con.

Ngược lại với tướng đàn bà nhiều con và sinh đẻ dễ dàng nói trên là tướng phụ nữ hiếm hoi hoặc không con. Các dấu hiệu này thể hiện ở nhiều phía của cơ thể:

Tại diện mạo ta thấy có: tóc thô vàng và khô; mày ngắn, hẹp, thưa và mỏng, hầu như không có hoặc thô ngắn, trán quá cao; mắt sâu hãm và khu vực Lệ đường khuyết hãm cả về phẩm lẫn lượng; mắt mông lung, hỗn tạp; có Quyền mà không có mang tai thích nghi; mũi hoặc quá gãy, thấp, hoặc quá cao, nhọn và có gân hay vết hằn tự nhiên; môi vểnh và xanh xám hoặc trắng bệch, hoặc môi trên bao phủ môi dưới; nhân trung hẹp và bằng phẳng, da mặt không có huyết sắc, mặt nhỏ nhọn, tai quá nhỏ.

Tại thân hình, vú gãy, đầu vú hướng xuống, núm vú thụt sâu vào thịt, da mỏng mà xương quá ít, thịt khô hoặc thịt nhiều mà xương quá nhỏ.

Nếu chỉ có vài ba khuyết điểm nhỏ liên quan tới mắt, môi, tai v.v... thì đó là tướng hiếm hoi, nhưng khả dĩ còn cơ duyên tử tức. Nếu cả đầu, mặt lẫn thân hình đều có khuyết điểm trầm trọng như Lệ đường, vú Nhân trung, trán bị phá thì rất ít hy vọng về đường con cái.

6 ­ Tướng đàn bà hình khắc chồng.

Danh xưng hình khắc ở đây có nghĩa rất rộng rãi. Nhẹ thì hàm ý rằng khi lấy chồng, vợ chồng sẽ xung đột, gia đạo sóng gió, ít khi có hạnh phúc, nặng thì biểu lộ sự hung hiểm xảy đến cho người chồng, công danh sự nghiệp, sức khoẻ hoặc sinh mạng, vợ chồng chia ly hay đứt đoạn. Ngoài ra, khi luận đoán về hình khắc của đàn bà đối với chồng, ta còn cần phải đặc biệt chú ý đến chính bản thân người chồng nữa. Nếu toàn thể bộ vị của người chồng tốt đẹp, nhất là Mạng cung Thê thiếp không khuyết hãm thì sự tai hại của hình khắc giảm thiểu rất nhiều. Trái lại, bản thân người chồng (cả hình tướng lẫn tâm tướng) đều dưới mức trung bình thì sự tác dụng của hình khắc do người vợ đem lại sẽ rất lớn và có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lãnh vực sinh hoạt của đấng phu quân. Xin đọc giả lưu ý điểm này trước khi xét đoán về tướng hình khắc chồng của phụ nữ.

Đại để các dấu hiệu sau đây đều bị tướng học liệt kê vào tướng đàn bà khắc chồng:

- Phía dưới hai mắt vô bệnh tật mà có khí sắc xanh xám.

- Mắt lớn, lồi (nhỏ và dài mà lồi thì đỡ tai hại hơn), lông mày thưa vàng và ngắn.

- Mày thô, mắt có sát khí.

- Hai mép miệng và hai pháp lệnh đều có nốt ruồi.

- Phần sống mũi (Niên thượng, Thọ thượng) nổi gân máu.

- Trán cao, hai phần Nhật, Nguyệt giác nổi cao và hướng lên.

- Tiếng nói như nam giới hoặc oang oang như sấm động hoặc âm thanh sắc cao như xói vào tai người nghe.

- Trán vuông, mày lớn, cao và đậm.

- Xương Lưỡng quyền vừa thô vừa lộ.

- Trán lồi, cổ ngắn, hoặc trán cao mặt hãm.

- Mũi hếch thấp, mắt thuộc loạc tam tứ bạch, hoặc hình tam giác mà lộ hung quang. Có đủ tất cả là tướng đại hình khắc và yểu.

- Sắc da mặt thô xạm như màu đất chết.

- Mặt chè bè về chiều ngang (phần Trung đình) mà lại sát thanh nghĩa là tiếng nói lanh lảnh như tiếng kim khí va chạm nhau khiến người nghe cảm tháy ớn lạnh xương sống.

- Trán hẹp, nhọn, tai thấp hoặc trán nhỏ, hẹp và lông mày giao nhau.

- Trán có tật bẩm sinh (vết sẹo, vằn trán thuộc loại loạn văn rất rõ lúc còn niên thiếu).

- Mũi hếch, tai khuyết hãm, mày thô và mắt có tia máu ăn lan từ tròn trắng xuyên qua tròng đen đến đồng tử, thuật ngữ tướng học gọi là Xích mạch xâm đồng.

- Sơn căn có nốt ruồi và dưới mắt có nhiều vết nhăn (đây nói phụ nữ ở trung niên trái lại).

- Xương Lưỡng quyền nổi cao và nhọn như chỏm núi.

- Tóc có phù quang (trơ trẽn không có sinh khí), da trắng và khô mốc.

- Mặt dài quá, cộng với miệng lớn (thành ngữ nói là miệng ngoác tới tận mang tai như miệng cá sấu).

- Ấn đường có một lằn sâu chạy thẳng lên trán, thuật ngữ tướng học gọi là Luyến trâm văn.

- Lông mày thưa và mường tượng như co rút lại (nghĩa là đầu và chân lông mày lớn ngang nhau trái với lẽ thường là đầu lông mày thon dần còn chân lông mày lớn).

- Cốt cách thô lỗ, tóc cứng như rễ tre.

- Xương che lỗ tai (mạng môn cốt) nổi cao.

Đi xa hơn nữa, Nghiễn Nông cư sĩ trong bộ Quan nhân ư vi cho rằng có một số tướng cách của phụ nữ giúp ta biết được bụng dạ của người đó đối với chồng hiền thục hay hung dữ, thậm chí có thể vì lý do nào đó manh tâm ám hại chống. Theo tác giả trên, phàm đàn bà lông mày mọc ngược chiều tự nhiên, mắt hình tam giác hoặc lộ tam tứ bạch, hoặc phía dưới mũi có hằn giống như móc câu, sắc mặt xanh xám (tục gọi là mặt gà mái), Lệ đường ảm đạm, Sơn căn có sợi máu rất nhỏ chạy thẳng đến giữa trán, Chuẩn đầu có màu đỏ, Ngư vĩ xanh xám, nốt ruồi (sống càng xấu hơn chết) ở mang tai đối với chồng dễ nổi máu hung tính và là các dấu hiệu khắc phu nặng nề., kết duyên với họ không có hạnh phúc thực sự. Nếu kẻ đó còn có thêm nhiều tia đỏ ở lòng trắng mắt, sống mũi có khí sắc xanh chạy luôn Ấn đường thì tâm tính tàn nhẫn. Những người có tướng cách như vậy chẳng những sẵn sàng đoạn nghĩa phu thê khi bất

hoà mà còn có thể đi đến chỗ mưu hại hạ độc thủ với chồng khi bị cơn giận làm mất lý trí.

7 ­ Tướng đàn bà vượng phu ích tử.

Đặc điểm của tướng đàn bà vượng phu về mặt mạng vận là khi lập gia đình dù chỉ về nhiều lãnh vực đặc biệt là sự nghiệp và tiền bạc. Đại để những phụ nữ như vậy thường có nhiều nét tướng thuộc các loại sau đây:

Nói một cách tổng quát thân hình diện mạo đôn hậu, đẹp một cách oai vệ, cử chỉ ngôn ngữ thư thái ôn hoà; khuôn mặt cân phân về cả Tam đình, Ngũ nhạc và Tứ đậu. Nếu di sâu vào từng chi tiết ta thấy:

- Mắt hơi tròn, nhãn cầu lớn, sáng sủc, mũi ngay ngắn, khi cười miệng tươi.

- Ấn đường rộng rãi, không xung phá, diện mạo tươi tỉnh.

- Mũi thuộc loại Huyền đảm tỵ đúng cách, màu da khuôn mặt tươi nhuận, đặc biệt là Chuẩn đầu và Tỵ lương sáng sủa, phối hợp với mày thanh mắt đẹp.

- Lòng bàn chân hoặc trong thân thể (rốn hoặc khu vực trên dưới rốn một chút, phần ngực dưới hai vú, hai bên háng) có nốt ruồi đen huyền hoặc son.

- Bất kể gầy mập mà lòng bàn tay mập, nếu lòng bàn tay có thịt quá đầy thì đa dâm thì có thể ngoại tình mặc dầu vẫn vượng phu, màu sắc hồng nhuận, ấm áp, ngón tay thon dài, thẳng, khít nhau, chỉ tay rõ và đẹp. Thường thường tướng đàn bà vượng phu đi đôi với ích tử, vì người đem lại thịnh vượng cho chồng đa số đem lại lợi ích cho con cái. Trong một số ý nghĩa chuyên biệt hơn, ích tử còn có ý nghĩa là sinh con trai quý hiển, làm rạng rỡ gia môn, lo tròn đạo hiếu và giữ vững được dòng giống (không phân biệt vợ lớn, vợ bé). Về điểm này, các sách tướng hầu như đều đồng ý về một số dấu hiệu sau:

- Ngũ quan phối hợp đúng cách, đặc biệt là sắc mặt trắng ngà, mắt phượng môi hồng.

- Rốn hoặc khu vực dưới rốn đôi chút có nốt ruồi sống màu son tàu.

- Xung quanh khu vực bụng có thịt nổi rõ như một vành đai. Người đàn bà có hai đặc điểm về tướng cách cuối cùng như trên dường như chắc chắn sẽ sinh quý tử bất kể diện mạo xấu đẹp ra sao vì đó là hai nét tướng ngầm có khả năng chế ngự tất cả các phá tướng khác (dĩ nhiên là trong trường hợp như vậ ông chồng phải có khả năng truyền giống thì quý tướng trên mới phát huy được kết quả thực tiễn).

Tựu trung, nếu quý đọc giả theo dõi phần tướng cách phụ nữ (cá tính lẫn vận mạng) muốn biết khái quát tướng phụ nữ tốt xấu ra sao mà không muốn phải nhớ quá nhiều chi tiết nhưng cũng không quá giản

lược thì quý vị chỉ vần nhớ kỹ hai bảng yếu quyết dưới đây về cát tướng và hung tướng phụ nữ:

a) Cát tướng:

Đại để phụ nữ có một số những điểm chính yếu dưới đây được xem tướng tốt. Sách tướng gọi đó là Cửu thiện (đôi khi còn gọi là cửu mỹ tướng).

- Đầu tròn, trán phẳng phiu tròn trịa: chủ về gia đình có hạnh phúc.

- Xương lẳn, da nhuận: chủ về đường con cái viên mãn nên người.

- Môi hồng và cân xứng, răng trắng và đều: chủ về sinh kế dễ dàng, con cái dễ dạy và sinh con không mấy khi gặp tai ách.

- Mắt dài và đẹp phối hợp với lông mày thanh tú: chủ về trường thọ, kiện khang, lẫn quý hiển.

- Ngón tay thon, lòng bàn tay khá dầy và ấm, chỉ tay mịn và rõ: chủ về vượng phu và có tài lộc.

- Âm thanh trong trẻo, đầm ấm, có hoà khí: chủ về bản thân tôn quý, dễ nổi tiếng.

- Răng đều, cười tươi và không lộ chân răng: chủ về vượng phu ích tử.

- Đi đứng chậm rãi, vững vàng, nhưng không có vẻ nặng nề, nằm ngồi đoan trang: chủ về phúc hậu..

- Da dẻ trắng trẻo tươi nhuận (nhất là da tay chân và da mặt): chủ về phẩm hạnh hiền thục và cũng là dấu hiệu thọ khang.

Không cần phải có đủ Cửu thiên, chỉ cần có quá nửa chín điều kiện kể trên đúng cách, các điều không đi ngược lại với thực chất, đủ được xem là cát tướng, thân cận hay kết hôn với những phụ nữ như vậy không bao giờ đưa đến đổ vỡ.

b) Hung tướng.

Tướng xấu của phụ nữ rất nhiều, nhưng xấu nhất phải kể đến tám điều cấm kỵ (Bát kỵ) sau:

- Kỵ có giọng đàn ông: Phạm vào điều cấm kỵ thường thường khắc chồng, khắc con mà chính bản thân cũng thường rước lấy tai hoạ bất ngờ, cuộc đời nghèo khổ, cô đơn.

- Kỵ có râu: thực ra nói như vậy không phải là giống hệt râu đàn ông mà chỉ muốn nói là quanh miệng có lông măng thô đậm mường tượng như có râu. Kẻ như vậy, tính tình quật cường, thích chế ngự chồng, nhục dục mạnh mẽ hơn người cho nên đời sống vợ chồng dễ đi đến đổ vỡ.

- Kỵ đi uốn mông, lắc mình như rắn bò: đàn bà đẹp, thân mình nảy nở mà có dáng đi như vậy đối với nam giới rất khêu gợi nhưng nội tâm hay thái độ bất thường về luyến ái, trọng nhục dục.

- Kỵ đi nhún nhảy như chim sẻ nhảy, vẻ mặt (...) là dấu hiệu của kẻ nội tạng thiếu ổn cố, cá tính nóng nảy, cố chấp một cách ấu trĩ. Một khi gặp cảnh khó khăn không biết giải quyết thích đáng, vận mạng thường không ra gì.

- Kỵ đào hoa diện: loại đàn bà như vậy thường tâm tính hẹp hòi, nội tạng hư nhược, khó trường thọ. Nếu thêm mày cong, mắt lớn và sáng sủa là kẻ háo dâm, không trọng trinh tiết.

- Kỵ bụng thon gãy, mông cao: đại để đàn bà có tướng mường tượng như con bọ ngựa. Đó là tướng đàn bà thường trầm luân trong bể khổ.

- Kỵ lộ hầu, cười lộ chân răng: lộ hầu là một đặc trưng của nam giới, lộ chân răng là dấu hiệu con người có vận mạng rủi nhiều hơn may. Đàn bà có tướng đàn ông, lại vừa lộ xỉ hay gặp hung hiểm bất ngờ, không bao giờ được an lạc.

- Kỵ Quyền nổi cao và chè bè hết khuôn mặt: về mặt cá tính, đó là loại người ngang bướng, lỗ mãng, dữ tợn. Về mặt mạng vận, đó là khắc chồng, hại con, không bao giờ có hạnh phúc gia đạo lúc già.

CHƯƠNG 06

TƯỚNG PHỤ NỮ

1-NHẬN ĐỊNH TỔNG QUÁT

Hầu hết các tướng cổ điển chỉ lưu tâm đến các nét tướng và loại tướng đàn ông, còn các nét tướng đàn bà hầu như không được chú trọng, thảng hoặc có đề cập đến thì cũng chỉ trong một phạm vi hạn hẹp. Sở dĩ như vậy là vì trong xã hội cổ truyền nông nghiệp, đàn bà chỉ lo việc gia đình, mọi công việc ngoài đời đều do đàn ông đảm nhiệm, nên nói đến tướng là ta nghĩ ngay đến tướng đàn ông để dự đoán xem tương

lai của họ trong đời sống xã hội sẽ thành công hay thất bại, phú quý hay bần tiện; kế đó, nếu đi sâu vào mạng vận đàn ông hơn thì ta sẽ xét đến đường gia đạo của kẻ đó xem vấn đề vợ con ra sao mà thôi. Xem tướng đàn bà trong các điều kiện văn hoá và xã hội kể trên chỉ nên coi là phần tướng về gia đạo của đàn ông. Như vậy ta không thể coi đó là xem tướng đàn bà một cách thực sự, mà đó chỉ là quan sát đàn bà để

giúp cho đàn ông nắm vững gia đạo mà thôi.

Gần đây, môt số tác giả về tướng học Á Đông, nhất là Nhật Bản, đã phát triển khảo sát hướng tướng đàn bà, nhưng xét kỹ bản chất cũng như mục đích tối hậu của nó, ta thấy quan niệm "nam ngoại nữ nội" vẫn còn là tư tưởng chỉ đạo trong việc nghiên cứu. Cuống sách này, với tham vọng đúc kết những kiến thức tướng học rải rác từ trước đến nay, dĩ nhiên không thể nào đi quá xa ra ngoài quỹ đạo tư tưởng cổ

điển về tướng đàn bà, hoặc nói đến, nhưng quá thiên lệch, soạn giả đã căn cứ vào các tài liệu cận đại và đương thời của các đặc khảo về tướng đàn bà biên soạn thành một chương đặc biệt mệnh danh là Tướng phụ nữ để quý vị đọc giả rộng đường tham khảo.

Cái đẹp của thế tục và cái đẹp của tướng học trong tướng đàn bà

Giữa cái đẹp của thế tục và cái đẹp của tướng học về tướng mạo phụ nữ ta có một phần tương đồng, nhưng một phần khác lại hoàn toàn tương phản. Dưới con mắt người thường, xưa cũng như nay, ta thường thấy kẻ đã được gọi là mỹ nhân thì da thịt mềm mại, vẻ mặt thiên kiều bá mỹ, tỷ như ánh mắt trong trẻo lóng lánh như mặt nước hồ thu, da trắng như trứng gà bóc, má ửng hồng phơn phớt như trái đào đang chín. Nhưng dưới mắt tướng học, đàn bà có tướng cách như trên là tướng dâm tiện, phần lớn

là những ca nhi, kỹ nữ, dâm phụ trong lịch sử đều có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành; đàn ông kết duyên với họ thì chỉ có hứng khởi nhất thời mà đa số thì nhơ danh hoặc ngậm hờn muôn thuở. Bao Tự, Đắt Kỷ, Tây Thi, Dương Quý Phi, Chiêu Quân là những trường hợp điển hình cho loại đàn bà đẹp dưới con mắt thế tục mà hậu quả đem lại cho những chủ nhân các bông hoa biết nói đó ra sao thiết tưởng không ai không rõ. Cái đẹp thế tục của những người đó dưới mắt tướng học lại là những cái xấu cho chính họ lẫn người đàn ông thân cận với họ.

Ngược lại, những người nguyên phối, vợ lớn của các danh nhân lương thần, giúp chồng thành đạt hoặc mang lại hanh thông cho chồng con đều không mấy người có diện mạo, thân hình mỹ miều, nhiều khi còn dưới mức trung bình là khác. Nhưng dưới con mắt tướng học, những người đó là những phụ nữ cát tướng: tướng cách của họ tốt với ý nghĩa là phúc lộc dồi dào, vượng phu, ích tử. Dưới con mắt thế tục, là xú phụ, nhưng dưới nhãn quang tướng học, họ lại là lương thê, hiền mẫu, đáng trọng đáng kính. Điều này giải thích tại sao tục ngữ Trung Hoa có câu: "Lấy vợ là lấy cái đức, cón lấy nàng hầu vợ lẽ thì lấy cái sắc", hoặc như Việt Nam ta vẫn nói: "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người". Bởi vậy, trong sách tướng, nói về tướng đàn bà, người ta phân biệt Sắc tướng mỹ tức là đẹp hời hợt với Tướng

cách mỹ là cái đẹp thực tiềm tàng, chỉ có con mắt tinh đời mới thấy.

Trong thực tế, thanh niên mới vào đời, phần nhiều chưa đủ tiền tài, danh vọng. Chỉ sau khi thành lập gia thất, đến tuổi trung niên, phát đạt mới sinh ra liễu ngõ hoa tường, ăn chơi trác táng. Họ thường lân la tới hý trường, kỹ viện tìm hoa cì những nơi này thường có nhiều loại phụ nữ sắc tướng mỹ. Đàn ông lấy vợ lẽ, nàng hầu phần lớn vì sắc chớ không vì tài đức. Đàn bà có sắc tướng mỹ thường xuất thân làm kỹ nữ, lấy chồng thường chỉ làm vợ lẽ, nàng hầu. Do đó, sắc tướng mỹ chỉ là tiện cách chứ không phải là quý cách. Người xưa, quá chú trọng đến phần tướng cách mỹ mà lại rất nghiêm khắc đối với loại sắc tướng mỹ. Điển hình cho thái độ trên là Viên Liễu Trang trong cuốn Liễu Trang tướng pháp đã liệt kê tới 72 tướng cách ty tiện của đàn bà với chủ trương rằng phạm vào một số là dâm tướng (xem phần phụ luận về tướng ở cuối chương này).

II - NHỮNG TƯỚNG CÁCH PHỤ NỮ

Theo quan niệm "nam ngoại nữ nội", dưới nhãn quang tướng học Á Đông, những nét tưong đối tốt đối với đàn ông không bắt buộc phải là tốt với đàn bà. Chẳng hạn:

- Đàn ông mà trán cao, rộng, sáng sủa, đầy đặn là biểu hiện của trí tuệ sâu sắc, kiến thức rộng rãi, dễ thành đạt lúc thanh niên. Ở đàn bà, kẻ có tướng trán như vậy lại là kẻ long đong về đường gia thất.

- Đàn ông có lưỡng quyền cao rộng và nảy nở là tướng có thực quyền, quả cảm, ưa phấn đấu. Ở đàn bà, quyền cao và nảy nở là kẻ có khí khái trượng phu, có khuynh hướng ăn hiếp chồng và khắc chồng.

- Đàn ông có tiếng nói cao và vang xa hoặc trầm hùng, ngân lâu như tiếng chuông là tướng âm thanh thượng cách, chủ về thông minh tháo vát, hoặc công danh đầy hứa hẹn. Ngược lại, đàn bà mà có âm thanh kể trên lại là tướng âm thanh khắc phu, dâm loạn, phá bại hoặc trùng hôn.

Trong phép xem tướng diện mạo nữ giới, ngũ quan cần phải để ý đã đành, nhưng ba bộ phận mà người xem tướng đặc biệt phả chú trọng là Mắt, Mủi, Môi và Miệng. Mắt cho ta biết được trạng thái qua tinh thần của nữ giới, Mũi chủ về chồng, Môi và Miệng liên quan mật thiết đến con cái.

Nói một cách tổng quát, đàn bà có mũi ngay ngắn, dài và đầy đặn, sắc da tươi mát và không có tỳ vết được xem là tướng vượng phu.

Miệng không lớn, không nhỏ, hai môi dầy mỏng tương xứng, lưỡng quyền bắng phẳng không quá cao, không nổi, toàn thể da mặt hồng nhuận, không có nốt ruồi, tàn nhang hay bã chè làm mất vẻ mỹ quan là tướng ích tử.

Lục phủ (hiểu theo nghĩa rộng là toàn thể xương khuôn mặt) chủ về tiền tài, sinh kế mà người chồng có thể hưởng thụ khi lập gia đình với người phụ nữ đó*.

Chú thích: *Nói như vậy không có nghĩa là người chồng sẽ được hưởng của hồi môn mà chỉhàm ý rằng nhờ sống chung với người vợ đó mà công việc làm ăn của người chồng sẽ vượng thịnh về mặt tiền bạc. Nếu khuôn mặt phụ nữ đầy đặn phúc hậu, xem tướng cân phân (trong trường hợp nếu là người gầy thì dĩ nhiên mặt không thể bầu bĩnh. Lúc đó chỉ cần xương lưỡng quyền không lộ cao, mặt mũi không hốc hác) là tướng vượng tài.

Dưới nhãn quang tướng học nam giới, người đàn bà có đủ cả Tam vương là người vợ lý tưởng trong đời sống gia đình. Nói khác đi, đó là loại cát tướng của phụ nữ.

Ngược lại, mũi lệch cong queo hoặc trơ xương, lỗ mũi hếch hoặc quá ngắn là tướng lấy chồng khiến phu quân tổn thương, khắc hãm hoặc ly hôn. Vì vậy, tướng thuật có câu: "Mũi đàn bà là phu tinh". Miệng quá lớn và mỏng, môi xám hoặc trắng bệch, lưỡng quyền cao nhọn: vừa khắc chồng lại vừa lận đận về đường tử tức. Khu vực quanh mắt thâm đen, sâu hõm là tướng không con.

Đàn bà tối kỵ tướng cách cô thần nghĩa là mắt tròn và trắng dã, mũi hếch, môi vẩu là lộ cả chân răng, tai khuyết hãm, trán lẹm hoặc lồi, hoặc có loạn văn, đầu quá lớn, mũi sư tử, mũi sống kiếm mà lưỡng quyền cao rộng, mắt lồi, lông mày dựng đứng, thân hình quá ngắn mà mặt lại quá dài, pháp lệnh quá dài và sâu lúc còn trẻ, tiếng nói như phèng la bể v.v... Người có tướng cách cô thần vừa khắc chồng, vừa tổn

con, về già cô đơn, khốn khổ.

Về phong thái, có loại phụ nữ vừa mới thoáng nhìn đã khiến ta sinh lòng tà vạy là loại dâm tướng, vì mọi cử động, hành vi, ngôn ngữ, đầu, mặt, đuôi mắt đều khơi động xuân tình. Lại có loại phụ nữ thaóng thấy sinh dạ nể vì, do ở ánh mắt nghiêm, tinh thần nghiêm túc, đó là tướng tôn quý. lại có tướng người vừa thấy mặt đã nảy sinh lòng coi rẻ là loại tiện tướng. Còn loại người thoáng qua có cảm giác kinh sợ là tướng hình khắc.

Một số người khảo cứu về sự tương quan hợp hình tướng và đời sống nội tâm phụ nữ, sau khi quan sát và phỏng vấn một số phụ nữ thành gia thất đã phân chia phụ nữ thành ba loại điển hình chính yếu sau đây:

*Loại hướng nội:

Loại có tâm hồn hướng nội, phần lớn có dáng người thấp, cổ ngắn, đầu khá lớn,miệng rộng, môi dầy. Cá tính trội yếu của họ là trầm mặc, không ưa gây gổ, lạc quan,dễ dàng thông cảm, thích ăn uống, tham lợi ích nho nhỏ, tâm địa thẳng thắn, khôngthích thủ đoạn.

Trong đời sống gia đình, họ là hiền thê, lương mẫu, thai kỳ đều đặn, chínhthường, dễ sinh sản và lắm con, nấu nướng khéo, không ưa nhõng nhẽo, chung thủyvới chồng.

* Loại hướng ngoại:

Phần lớn có dáng người cao và thon, vai xuôi, mông nhỏ, tứ chi dài, mũi cao,môi mỏng, cằm hơi lộ, cổ nhỏ và dài, da dẻ hơi khô và mỏng. Cá tính của họ dễ vui,dễ buồn, thích hoạt động nhưng mau chán.Về mặt sinh lý, họ dễ bị bệnh phụ khoa, tính lãnh cảm. Trong đời sống giađình, họ không ưa nấu nướng, kém tháo vát, dễ cáu kỉnh.

* Loại trung tính:

Loại này là trung gian giữa hai loại trên nên thân hình có thể cao hơn và khámập, có thể hơi thấp và gầy, môi miệng không quá dầy, không quá mỏng. Các bộphận khác cũng ở mức trung dung. Họ có thể là kết tinh phần tốt hay phần xấu củahai cá tính hoặc nội hay hoặc ngoại tùy theo sự tốt xấu của tửng bộ vị* . Quan sát loạitướng trung tính này rất khó, cần phải có kinh nghiệm và nhãn quan gbén nhạy mới đạt được mức độ tương đối chính xác.

Tuy nhiên, các điểm nêu trên chỉ có tính cách khái lượn. Việc xem tướng trongthực tế không quá đơn giản như vậy. Muốn có một ý niệm rõ ràng, chúng ta cần phảiđào sâu vấn đề hơn nữa, xuyên qua việc khảo sát một số lĩnh vực bao gồm nhiềutrọng đề dưới đây:

* Muốn hiểu rõ hơn về điều này, xin xem lại chương I Quyển II nóivề nguyên tắc thanh trọc.

a) Lãnh vực cá tính:

1 – Tướng người ham mê nhục dục:

Tính dục thì ai cũng có, nhưng người quá trọng nhục dục thường ít ra cũng cómột vài nét tướng đặc biệt:

- Đàn bà trời phú sắc da mặt trắng hơi pha màu hồng lạt gọi là đào hoa sắchoặc mặt trắng mà có nhiều tàn nhang đều chủ về háo dâm.

- Lông mày nhỏ hẹp, uốn cong dài quá mắt, mắt lớn và sáng.

- Phía dưới mắt (Lệ đường) có lằn xếp hay gân màu xanh xám hoặc hồng chạy về phía đuôi mắt (Ngư vĩ) là tướng đàn bà thường có khuynh hướng ân ái vụng trộm.

- Mắt đào hoa thấy người đàn ông xa lạ, ưa nhìn, tường hay cười tình, liếc xéo.

- Phía dưới mắt có nốt ruồi đen nổi rõ hoặc mắt không khóc mà vẫn ứot và nhìn cặp mắt không rõ cười hay khóc: tiện dâm.

- Mỗi khi trò chuyện thường hay có thói quen lè lưỡi liếm mép hoắc nhắm mắt lại rồi mới phát âm là kẻ có khuynh hướng gian dâm.

- Miệng lớn và khoé miệng đi xuống, lưng ong.

- Ngồi hai bàn chân bắt chéo, hai bàn tay đan nhau và bó lấy gối hoặc hay rung gối là tướng đàn bà trong đời ít ra cũng vài ba bận thông dâm.

- Eo lệch, rốn quá sâu, lòng trắng pha hồng, tiếng nói liến thoắng, hầu hết là những người dễ bị quyến rũ vào đường sắc dục.

- Bước đi uốn éo như rắn, nhún nhảy như chim sẻ và thường ngoảnh lại là tướng háo dâm.

- Nhân trung gẫy khúc, quanh mép miệng sắc da xanh xám một cách tự nhiên không vì bệnh tật.

- Mặt ngâm đen, đầu tóc rậm, ánh mắt ướt và sắc, da bóng bẩy.

- Có thói quen lấy đầu lưỡi khoa động nước răng, hoặc chân răng đen xám, không cười mà thường lộ chân răng.

- Trường hợp phụ nữ hút thuốc lá, kẻ có thói quen thở khói rất mạnh là kẻ háo dâm.

Những nét tướng cho thấy rằng có thể căn cứ vào nhiều bộ vị, nhiều lãnh vực sinh hoạt để biết khái quát về cá tính tiềm ẩn của một cá nhân về mặt tình dục. Hơn nữa, mọi nét tướng thể hiện dục của nữ giới, dù đứng trên bình diện sinh lý hay đạo lý, không có chung cùng một giá trị: có những nét tướng khả chấp, có những nét tướng bất khả chấp.Dục tính không phải đương nhiên là xấu xa như các nhà Nho cổ hủ vẫn thường lên án, mà xấu hoặc tốt còn tùy người, tùy trường hợp. Đặc diểm này cần phải được quan tâm đặc biệt để có thể nhận định đúng đắn cá tính của người phụ nữ, đồng thời có thể chế ngự hay hướng dẫn họ tùy theo sở nguyện của mình.

Ngoài ra, người phụ nữ cầm phụ nữ có tính trăng hoa, chưa hẳn họ đã có dịp thực hiện cá tính đó. Muốn biết người phụ nữ đã có cơ hội thực hiện được tính trăng hoa của họ hay không, cần phải lưu ý các khu vực sau:

a) Nhân trung có tia đỏ: Phía trên nhân trung là mũi, phía dưới là miệng; mũi và miệng có hình dạng tương tự như bộ phận sinh dục của nam và nữ giới. Tướng học căn cứ vào đó để phát hiện ra rằng phần lớn phụ nữ chìm đắm trong hoan lạc nhụcdục đều có một đường vạch ngang màu đỏ hoặc hồng (tùy theo truy hoan nhiều hay ít) nhỏ như sợi tơ nhện, phải tinh mắt lắm mới thấy. Nếu như ta thấy dấu hiệu đó xuất hiện thì có thể biết là người phụ nữ đó quả là đã có gì rồi.

b) Mắt tam bạch: Bình thường nếu người đàn bà đó không có loại mắt này nhưng vì đắm say nhục dục nên có thể sau một thời gian ngắn, khu vực xung quanh lòng đen bị thu hẹp dần nhường lại chỗ cho lòng trắng khiến lòng đen đều bị lòng trắng bao bọc, biến thành một loại tam bạch nhãn tạm thời. Còn như nếu bình thường vẫn là hạ tam bạch nhãn, thì nếu có thông gian ta sẽ thấy Nhân trung có vạch hồng hoặc đỏ như trên vừa nói.

c) Khu vực Lệ đường: Bình thường không có màu sắc xanh đen nhưng nếu giao hoan đầy lạc thú, tinh dịch tiết ra quá nhiều thì thường biến sang màu xanh đen.

d) Khu vực Sơn căn và Ngư vĩ: Đột nhiên có màu xám đen ở hia bên hoặc rõ rệt hơn lúc bình thường.

Tất cả các dấu hiệu về màu sắc ở bộ vị nói trên là các bằng chứng cụ thể của kẻ lặn hụp trong tình dục. Những đàn ông chưa từng ân ái với tình nhân, những đấng phu quân xa nhà một thời gian dài khi gặp mặt tình nhân hoặc vợ nhà chưa mây mưa mà đã thấy có hầu hết các dấu hiệu dẫn thượng thì quả là đáng ngại, cần phải lưu tâm theo dõi hành tung của người nữ đó hầu tránh những hậu quả tai hại có thể xảy ra.

2- Tướng người trinh thục.

Trong nền luân lý Á Đông cổ điển, người ta đặc biệt quý trọng cá tính trinh tiết thuần thục của phụ nữ, coi đó là một đức tính tối cần thiết của hôn nhân, là một hãnh diện của người chồng. Muốn coi tướng đàn bà con gái để xem đức tính trên của họ cao thấp tới mức độ nào, điểm tối trọng yếu là cặp mắt vì mắt là cửa sổ của tâm hồn. Cặp mắt đối xứng qua Sơn căn, muc quang ôn hoà thanh tĩnh, không liếc xéo là một đảm bảo đáng kể. Tuy nhiên, như vậy vẫn chưa được đầy đủ. Những người đàn bà lấy chồng giữ vững được ái tình thủy chung như nhất, ngoài cặp mắt kể trên thường có tướng kết hợp một số đặc điểm sau:

- Trán tròn nhưng không cao, không lồi.

- Lông mày đẹp và phối hợp với cặp mắt, tạo ra một phong thái khiến mọi người phải kính nể.

- Môi hồng, răng đều và trắng.

- Mũi ngay ngắn, không trơ xương, không quá cao.

- Đi, đứng, ngồi chững chạc, đoan trang.

- Tính nết ôn hoà nhưng không nhu nhược, ít nói, ít cười.

3- Tướng người hung tợn.

Đại để đàn bà tính nết hung tợn, mạnh bạo thường phạm vào nhất cài ba dấu hiệu sau đây:

- Miệng thô, môi lộ xỉ.

- Giọng nói khô khan, tóc cằn cỗi và ít.

- Quyền cao và lộ, hầu lộ, tiếng nói rè như tiếng phèng la bể.

- Mũi gầy và lộ khổng, mắt có hung quang.

- Mặt đen, lông mày thô, thân hình kệch cỡm.

- Mắt nhỏ, miệng túm, giọng đàn ông, chân tay lông mao rậm như đàn ông.

- Thân dài, giọng đớt, tay chân thô, ngón tay mập và qúa ngắn.

- Mắt lộ tứ bạch mà mục quang lại lộ liễu.

4 ­ Tướng người không thích ràng buộc trong gia đình:

Những phụ nữ thích tự do phóng khoáng không có năng khiếu của người nội trợ cổ điển Á Đông là những kẻ có nét tướng sau:

- Lông mày đậm và khá lớn, mọc xa nhau và không có giữa lông mày với mắt khá rộng, miệng rộng, da mỏng.

- Mắt tròn, lớn, mục quang thuộc loại cương nhi cô, tính thích cạnh tranh, đua đòi, ưa được người ngoài xu phụng, đi lanh lẹ và cao.

- Khéo ăn nói, giao thiệp rộng và thích tự quyết định thân mình, coi rẻ tiền bạc, không thích săn sóc con cái, bếp.

5 ­ Tướng người cần kiệm.

Tóc đen mướt, lông mày hình dạng vừa phải, màu xanh đen, lòng đen lòng trắng phân minh và mục quang mạnh mẻ nhưng ẩn tàng thức khuya không mệt mỏi, dậy sớm mà thần sắc thư thái, nói năng chậm rãi, từ tốn, không mấy khi than thở oán hận, không cạnh tranh hơn thua với người về công việc v.v... là những đặc điểm của tướng người giúp việc có năng suất cao, người vợ đảm đang, tháo vát.

6 ­ Tướng người biếng nhác

Những kẻ biếng nhác hoặc vô tài bất tướng trong mọi hoạt động (đặc biệt là trong việc tề gia) đều thuộc cái tướng cách sau:

- Tóc nhiều, thô lộ, mày thô và giao nhau.

- Mắt tròn, nhỏ, đen trắng không rõ ràng, mục quang hôn ám, hoặc trắng nhiều đen ít.

- Mắt lớn hơi lồi, đen trắng phân minh nhưng mục quang lúc nào cũng ngơ ngác, khiếp hãi như mắt nai, mắt hươu.

- Mắt lúc nào cũng như kẻ ngái ngủ.

- Ham ăn, ham ngủ, thích rong chơi.

b) Lãnh vực vận mạng

1- Tướng người cao quý

Đại để tướng người cao quý toàn thân toát ra vẻ quý phái, sang cả.

Những người như vậy diện mạo không hẳn là xinh đẹp, đôi khi còn dưới mức trung bình, nhưng hầu hết đều có một số nét tướng sau đây:

- Mục quang sáng sủa, chính đính và mạnh mẽ, khiến người đối diện phải kính nể.

- Vành tai đầy đặn và hơi hồng, trái tai trắng hơn da mặt.

- Mũi thẳng và phối hợp thích nghi với Lưỡng quyền tạo thành một khối có thế vững vàng, mang tai xuôi thẳng.

- Lông mày thanh nhã, có thần khí.

- Trán tròn, không thấp, kh ông cao, tóc đen mịn, thanh nhã, cổ dài.

- Xương và thịt của mặt cân xứng, môi hồng, răng trắng và đều.

- Tiếng nói trong và ấm, giọng điệu thong thả nghiêm trang.

- Ngón tay thon và thẳng, chỉ tay mịn và rõ.

2 ­ Tướng người phú túc.

Đàn bà có số no đủ thường có: Khuôn mặt đầy đặn và hồng nhuận nhưng phải không được thành đào hoa sắc hoặc có tàn nhang, mày thanh, mục quang sáng một cách hiền hoà, tai dầy và cứng, mũi thẳng và dầy (Gián đài, Đình uý rõ và cân xứng, đầy đặn). Nhân trung dài, Địa các tròn đầy và vững, mang tai nảy nở nhưng không bạnh ra phía sau, môi hơi dầy và có sắc hồng tự nhiên, lòng bàn tay hồng hào và dầy, bụng tròn, lưng nở, tướng đi chậm rãi, thân thể có mùi thơm tự nhiên.

3 ­ Tướng người khốn khổ.

Tướng đàn bà khốn khổ, nghèo đói hoặc long đong được biểu hiện qua những nét tướng sau đây:

- Trán hẹp và thấp, tóc thô và vàng, mắt sâu, mày đậm: long đong về sinh kế, hiếm con.

- Bụng quá xẹp, eo quá nhỏ, lưng quá hẹp: suốt đời không có lộc.

- Mũi hẹp, nhỏ, lệch, ngắn. Chuẩn đầu không thịt.

- Môi quá dầy, miệng quá rộng mà tay ngắn, ngón tay mập ngắn vá thô.

- Tiếng nói nhỏ và khàn, mặt lúc nào cũng có sắc thái sầu thảm.

- Mặt lúc nào cũng như ngửa lên trời, dáng dấp và giọng nói có vẻ đàn ông.

- Sơn căn thấp gãy, Lệ đường khô hãm, tròng mắt vàng lạt có gân máu.

4 ­ Tướng người nhiều con.

Những bộ vị quan trọng để quan sát về đường tử tức của phụ nữ là Lệ đường (còn gọi là Ngoa tàm), Nhân trung, Vú, Mông, kế đó là hai mắt và hai tai.

Thông thường trừ một vài loại mắt tối kỵ như mắt tam tứ bạch, mắt dê, mắt heo, mắt đào hoa không kể; còn phần đông nên có lòng đen lòng trắng rõ ràng, mí mắt dài, mục quang sáng sủa, phía dưới hai mắt đầy đặn không có tỳ vết thiên nhiên như nốt ruồi, tàn nhang, gân máu; Nhân trung sâu và thẳng, trên nhỏ dưới rộng, chỉ tay rõ và tươi; vú lớn và núm vú xạm, không được wúa nhỏ và lệch lạc; miệng đều

dặn, môi có nhiều vằn; mông tương xứng với thân người.

Riêng về tai, một vài tác phẩm cổ điển ghi rằng: tai giúp ta biết được đứa con đầu lòng sẽ là trai hay gái. Theo thuyết này, nếu tai phía trái của người mẹ mà dày hơn tai phía phải thì con đầu lòng sẽ là trai, tai phía mặt dày hơn thì con đầu lòng là gái.

5 ­ Tướng người hiếm hoi hoặc không con.

Ngược lại với tướng đàn bà nhiều con và sinh đẻ dễ dàng nói trên là tướng phụ nữ hiếm hoi hoặc không con. Các dấu hiệu này thể hiện ở nhiều phía của cơ thể:

Tại diện mạo ta thấy có: tóc thô vàng và khô; mày ngắn, hẹp, thưa và mỏng, hầu như không có hoặc thô ngắn, trán quá cao; mắt sâu hãm và khu vực Lệ đường khuyết hãm cả về phẩm lẫn lượng; mắt mông lung, hỗn tạp; có Quyền mà không có mang tai thích nghi; mũi hoặc quá gãy, thấp, hoặc quá cao, nhọn và có gân hay vết hằn tự nhiên; môi vểnh và xanh xám hoặc trắng bệch, hoặc môi trên bao phủ môi dưới; nhân trung hẹp và bằng phẳng, da mặt không có huyết sắc, mặt nhỏ nhọn, tai quá nhỏ.

Tại thân hình, vú gãy, đầu vú hướng xuống, núm vú thụt sâu vào thịt, da mỏng mà xương quá ít, thịt khô hoặc thịt nhiều mà xương quá nhỏ.

Nếu chỉ có vài ba khuyết điểm nhỏ liên quan tới mắt, môi, tai v.v... thì đó là tướng hiếm hoi, nhưng khả dĩ còn cơ duyên tử tức. Nếu cả đầu, mặt lẫn thân hình đều có khuyết điểm trầm trọng như Lệ đường, vú Nhân trung, trán bị phá thì rất ít hy vọng về đường con cái.

6 ­ Tướng đàn bà hình khắc chồng.

Danh xưng hình khắc ở đây có nghĩa rất rộng rãi. Nhẹ thì hàm ý rằng khi lấy chồng, vợ chồng sẽ xung đột, gia đạo sóng gió, ít khi có hạnh phúc, nặng thì biểu lộ sự hung hiểm xảy đến cho người chồng, công danh sự nghiệp, sức khoẻ hoặc sinh mạng, vợ chồng chia ly hay đứt đoạn. Ngoài ra, khi luận đoán về hình khắc của đàn bà đối với chồng, ta còn cần phải đặc biệt chú ý đến chính bản thân người chồng nữa. Nếu toàn thể bộ vị của người chồng tốt đẹp, nhất là Mạng cung Thê thiếp không khuyết hãm thì sự tai hại của hình khắc giảm thiểu rất nhiều. Trái lại, bản thân người chồng (cả hình tướng lẫn tâm tướng) đều dưới mức trung bình thì sự tác dụng của hình khắc do người vợ đem lại sẽ rất lớn và có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lãnh vực sinh hoạt của đấng phu quân. Xin đọc giả lưu ý điểm này trước khi xét đoán về tướng hình khắc chồng của phụ nữ.

Đại để các dấu hiệu sau đây đều bị tướng học liệt kê vào tướng đàn bà khắc chồng:

- Phía dưới hai mắt vô bệnh tật mà có khí sắc xanh xám.

- Mắt lớn, lồi (nhỏ và dài mà lồi thì đỡ tai hại hơn), lông mày thưa vàng và ngắn.

- Mày thô, mắt có sát khí.

- Hai mép miệng và hai pháp lệnh đều có nốt ruồi.

- Phần sống mũi (Niên thượng, Thọ thượng) nổi gân máu.

- Trán cao, hai phần Nhật, Nguyệt giác nổi cao và hướng lên.

- Tiếng nói như nam giới hoặc oang oang như sấm động hoặc âm thanh sắc cao như xói vào tai người nghe.

- Trán vuông, mày lớn, cao và đậm.

- Xương Lưỡng quyền vừa thô vừa lộ.

- Trán lồi, cổ ngắn, hoặc trán cao mặt hãm.

- Mũi hếch thấp, mắt thuộc loạc tam tứ bạch, hoặc hình tam giác mà lộ hung quang. Có đủ tất cả là tướng đại hình khắc và yểu.

- Sắc da mặt thô xạm như màu đất chết.

- Mặt chè bè về chiều ngang (phần Trung đình) mà lại sát thanh nghĩa là tiếng nói lanh lảnh như tiếng kim khí va chạm nhau khiến người nghe cảm tháy ớn lạnh xương sống.

- Trán hẹp, nhọn, tai thấp hoặc trán nhỏ, hẹp và lông mày giao nhau.

- Trán có tật bẩm sinh (vết sẹo, vằn trán thuộc loại loạn văn rất rõ lúc còn niên thiếu).

- Mũi hếch, tai khuyết hãm, mày thô và mắt có tia máu ăn lan từ tròn trắng xuyên qua tròng đen đến đồng tử, thuật ngữ tướng học gọi là Xích mạch xâm đồng.

- Sơn căn có nốt ruồi và dưới mắt có nhiều vết nhăn (đây nói phụ nữ ở trung niên trái lại).

- Xương Lưỡng quyền nổi cao và nhọn như chỏm núi.

- Tóc có phù quang (trơ trẽn không có sinh khí), da trắng và khô mốc.

- Mặt dài quá, cộng với miệng lớn (thành ngữ nói là miệng ngoác tới tận mang tai như miệng cá sấu).

- Ấn đường có một lằn sâu chạy thẳng lên trán, thuật ngữ tướng học gọi là Luyến trâm văn.

- Lông mày thưa và mường tượng như co rút lại (nghĩa là đầu và chân lông mày lớn ngang nhau trái với lẽ thường là đầu lông mày thon dần còn chân lông mày lớn).

- Cốt cách thô lỗ, tóc cứng như rễ tre.

- Xương che lỗ tai (mạng môn cốt) nổi cao.

Đi xa hơn nữa, Nghiễn Nông cư sĩ trong bộ Quan nhân ư vi cho rằng có một số tướng cách của phụ nữ giúp ta biết được bụng dạ của người đó đối với chồng hiền thục hay hung dữ, thậm chí có thể vì lý do nào đó manh tâm ám hại chống. Theo tác giả trên, phàm đàn bà lông mày mọc ngược chiều tự nhiên, mắt hình tam giác hoặc lộ tam tứ bạch, hoặc phía dưới mũi có hằn giống như móc câu, sắc mặt xanh xám (tục gọi là mặt gà mái), Lệ đường ảm đạm, Sơn căn có sợi máu rất nhỏ chạy thẳng đến giữa trán, Chuẩn đầu có màu đỏ, Ngư vĩ xanh xám, nốt ruồi (sống càng xấu hơn chết) ở mang tai đối với chồng dễ nổi máu hung tính và là các dấu hiệu khắc phu nặng nề., kết duyên với họ không có hạnh phúc thực sự. Nếu kẻ đó còn có thêm nhiều tia đỏ ở lòng trắng mắt, sống mũi có khí sắc xanh chạy luôn Ấn đường thì tâm tính tàn nhẫn. Những người có tướng cách như vậy chẳng những sẵn sàng đoạn nghĩa phu thê khi bất

hoà mà còn có thể đi đến chỗ mưu hại hạ độc thủ với chồng khi bị cơn giận làm mất lý trí.

7 ­ Tướng đàn bà vượng phu ích tử.

Đặc điểm của tướng đàn bà vượng phu về mặt mạng vận là khi lập gia đình dù chỉ về nhiều lãnh vực đặc biệt là sự nghiệp và tiền bạc. Đại để những phụ nữ như vậy thường có nhiều nét tướng thuộc các loại sau đây:

Nói một cách tổng quát thân hình diện mạo đôn hậu, đẹp một cách oai vệ, cử chỉ ngôn ngữ thư thái ôn hoà; khuôn mặt cân phân về cả Tam đình, Ngũ nhạc và Tứ đậu. Nếu di sâu vào từng chi tiết ta thấy:

- Mắt hơi tròn, nhãn cầu lớn, sáng sủc, mũi ngay ngắn, khi cười miệng tươi.

- Ấn đường rộng rãi, không xung phá, diện mạo tươi tỉnh.

- Mũi thuộc loại Huyền đảm tỵ đúng cách, màu da khuôn mặt tươi nhuận, đặc biệt là Chuẩn đầu và Tỵ lương sáng sủa, phối hợp với mày thanh mắt đẹp.

- Lòng bàn chân hoặc trong thân thể (rốn hoặc khu vực trên dưới rốn một chút, phần ngực dưới hai vú, hai bên háng) có nốt ruồi đen huyền hoặc son.

- Bất kể gầy mập mà lòng bàn tay mập, nếu lòng bàn tay có thịt quá đầy thì đa dâm thì có thể ngoại tình mặc dầu vẫn vượng phu, màu sắc hồng nhuận, ấm áp, ngón tay thon dài, thẳng, khít nhau, chỉ tay rõ và đẹp. Thường thường tướng đàn bà vượng phu đi đôi với ích tử, vì người đem lại thịnh vượng cho chồng đa số đem lại lợi ích cho con cái. Trong một số ý nghĩa chuyên biệt hơn, ích tử còn có ý nghĩa là sinh con trai quý hiển, làm rạng rỡ gia môn, lo tròn đạo hiếu và giữ vững được dòng giống (không phân biệt vợ lớn, vợ bé). Về điểm này, các sách tướng hầu như đều đồng ý về một số dấu hiệu sau:

- Ngũ quan phối hợp đúng cách, đặc biệt là sắc mặt trắng ngà, mắt phượng môi hồng.

- Rốn hoặc khu vực dưới rốn đôi chút có nốt ruồi sống màu son tàu.

- Xung quanh khu vực bụng có thịt nổi rõ như một vành đai. Người đàn bà có hai đặc điểm về tướng cách cuối cùng như trên dường như chắc chắn sẽ sinh quý tử bất kể diện mạo xấu đẹp ra sao vì đó là hai nét tướng ngầm có khả năng chế ngự tất cả các phá tướng khác (dĩ nhiên là trong trường hợp như vậ ông chồng phải có khả năng truyền giống thì quý tướng trên mới phát huy được kết quả thực tiễn).

Tựu trung, nếu quý đọc giả theo dõi phần tướng cách phụ nữ (cá tính lẫn vận mạng) muốn biết khái quát tướng phụ nữ tốt xấu ra sao mà không muốn phải nhớ quá nhiều chi tiết nhưng cũng không quá giản

lược thì quý vị chỉ vần nhớ kỹ hai bảng yếu quyết dưới đây về cát tướng và hung tướng phụ nữ:

a) Cát tướng:

Đại để phụ nữ có một số những điểm chính yếu dưới đây được xem tướng tốt. Sách tướng gọi đó là Cửu thiện (đôi khi còn gọi là cửu mỹ tướng).

- Đầu tròn, trán phẳng phiu tròn trịa: chủ về gia đình có hạnh phúc.

- Xương lẳn, da nhuận: chủ về đường con cái viên mãn nên người.

- Môi hồng và cân xứng, răng trắng và đều: chủ về sinh kế dễ dàng, con cái dễ dạy và sinh con không mấy khi gặp tai ách.

- Mắt dài và đẹp phối hợp với lông mày thanh tú: chủ về trường thọ, kiện khang, lẫn quý hiển.

- Ngón tay thon, lòng bàn tay khá dầy và ấm, chỉ tay mịn và rõ: chủ về vượng phu và có tài lộc.

- Âm thanh trong trẻo, đầm ấm, có hoà khí: chủ về bản thân tôn quý, dễ nổi tiếng.

- Răng đều, cười tươi và không lộ chân răng: chủ về vượng phu ích tử.

- Đi đứng chậm rãi, vững vàng, nhưng không có vẻ nặng nề, nằm ngồi đoan trang: chủ về phúc hậu..

- Da dẻ trắng trẻo tươi nhuận (nhất là da tay chân và da mặt): chủ về phẩm hạnh hiền thục và cũng là dấu hiệu thọ khang.

Không cần phải có đủ Cửu thiên, chỉ cần có quá nửa chín điều kiện kể trên đúng cách, các điều không đi ngược lại với thực chất, đủ được xem là cát tướng, thân cận hay kết hôn với những phụ nữ như vậy không bao giờ đưa đến đổ vỡ.

b) Hung tướng.

Tướng xấu của phụ nữ rất nhiều, nhưng xấu nhất phải kể đến tám điều cấm kỵ (Bát kỵ) sau:

- Kỵ có giọng đàn ông: Phạm vào điều cấm kỵ thường thường khắc chồng, khắc con mà chính bản thân cũng thường rước lấy tai hoạ bất ngờ, cuộc đời nghèo khổ, cô đơn.

- Kỵ có râu: thực ra nói như vậy không phải là giống hệt râu đàn ông mà chỉ muốn nói là quanh miệng có lông măng thô đậm mường tượng như có râu. Kẻ như vậy, tính tình quật cường, thích chế ngự chồng, nhục dục mạnh mẽ hơn người cho nên đời sống vợ chồng dễ đi đến đổ vỡ.

- Kỵ đi uốn mông, lắc mình như rắn bò: đàn bà đẹp, thân mình nảy nở mà có dáng đi như vậy đối với nam giới rất khêu gợi nhưng nội tâm hay thái độ bất thường về luyến ái, trọng nhục dục.

- Kỵ đi nhún nhảy như chim sẻ nhảy, vẻ mặt (...) là dấu hiệu của kẻ nội tạng thiếu ổn cố, cá tính nóng nảy, cố chấp một cách ấu trĩ. Một khi gặp cảnh khó khăn không biết giải quyết thích đáng, vận mạng thường không ra gì.

- Kỵ đào hoa diện: loại đàn bà như vậy thường tâm tính hẹp hòi, nội tạng hư nhược, khó trường thọ. Nếu thêm mày cong, mắt lớn và sáng sủa là kẻ háo dâm, không trọng trinh tiết.

- Kỵ bụng thon gãy, mông cao: đại để đàn bà có tướng mường tượng như con bọ ngựa. Đó là tướng đàn bà thường trầm luân trong bể khổ.

- Kỵ lộ hầu, cười lộ chân răng: lộ hầu là một đặc trưng của nam giới, lộ chân răng là dấu hiệu con người có vận mạng rủi nhiều hơn may. Đàn bà có tướng đàn ông, lại vừa lộ xỉ hay gặp hung hiểm bất ngờ, không bao giờ được an lạc.

- Kỵ Quyền nổi cao và chè bè hết khuôn mặt: về mặt cá tính, đó là loại người ngang bướng, lỗ mãng, dữ tợn. Về mặt mạng vận, đó là khắc chồng, hại con, không bao giờ có hạnh phúc gia đạo lúc già.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#bluesky