nhan vat lich su

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Lê Uy Mục đã có một thú vui tình dục rất man rợ. Đêm nào, ông cũng gọi các phi tần, cung nhân vào uống rượu say sưa, hành lạc vô độ, rồi thích... là giết luôn.

Lê Uy Mục: Sau "ân ái"... giết luôn cung nhân

Lê Uy Mục (1505-1509) có tên húy Lê Tuấn, là vị vua thứ 8 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ngay từ khi lên ngôi, ông đã nổi tiếng ham rượu chè, gái đẹp và giết người; triều chính bỏ bê cho bọn hoạn quan và bên họ ngoại khuynh đảo, lộng hành... Hậu quả là một số người trong tôn thất và triều thần đã làm loạn, bắt và bức tử nhà vua (năm 1509).

Sử sách chép: Vẫn chưa hả dạ vì xét rằng, Uy Mục không những là kẻ bạo ngược, làm hại đất nước, mà còn là kẻ thù không đội trời chung, đã giết hại cả cha mẹ, anh chị em mình, nên Giản Tu Công Oanh không thể để Hoàng đế Uy Mục chết an lành. Ông ra lệnh đem xác Lê Uy Mục đặt vào miệng súng, bắn tan hài cốt; chỉ lấy một ít tro tàn đem chôn ở làng Phù Chẩn; đồng thời giáng làm Mẫn Lệ Công.

Ảnh minh họa.

Cũng theo sử sách, tuy mới 20 tuổi, Lê Uy Mục đã có một thú vui tình dục rất man rợ. Đêm nào, ông cũng gọi các phi tần, cung nhân vào uống rượu say sưa, hành lạc vô độ. Khi say, vua giết luôn cả cung nhân vừa được mình ôm ấp. Ai cũng kinh sợ, nhưng vì uy quyền tối thượng của vua, nên không dám chống đối, hay tìm cách trốn tránh.

Vua Mạc: Loạn dâm

Mạc Mậu Hợp (1562 - 1592) - vị vua lâu nhất trong số các vua Mạc thời hưng thịnh, tại vị 30 năm, lại chính là người khiến cơ nghiệp nhà Mạc suy vong, mà một phần nguyên nhân chính là do... thói hoang dâm hiếu sắc.

Theo sử sách, Mạc Mậu Hợp là con trưởng của hoàng đế Mạc Tuyên Tông. Do vua cha bị bệnh đậu mùa mất sớm, Mạc Mậu Hợp mới lên 2 tuổi đã được Khiêm vương Mạc Kính Điển là phụ chính đưa lên ngôi tháng 1 năm 1562. Lúc này, triều chính vẫn do hai ông chú là Mạc Kính Điển và Mạc Đôn Nhượng phụ tá.

Mậu Hợp sống xa hoa, kiêu ngạo, hay nghe xiểm nịnh, thường ít lắng nghe lời bàn luận, khuyên can của các bậc lương thần và đặc biệt, rất hoang dâm hiếu sắc. Để thỏa mãn dục vọng, vua không ngần ngại "mưu giết bề tôi, đoạt mỹ nhân", cụ thể định giết một danh tướng trong triều để cướp vợ khiến cho một bộ phận binh lực nhà Mạc đã theo viên tướng này về quy phục vua Lê, làm cho thế lực của Mạc Mậu Hợp ngày càng suy yếu.

Sách Lê triều thông sử viết: "Sự việc này xảy ra vào cuối năm Nhâm Thìn (1592). Vợ viên trấn thủ Nam đạo Sơn quận công Bùi Văn Khuê là Nguyễn Thị Niên, tức con gái Nguyễn Quyện. Chị gái của Thị Niên là hoàng hậu của Mậu Hợp vì thế Thị Niên thường được ra vào trong cung. Mậu Hợp thấy Thị Niên, đem lòng yêu mến bèn ngầm tính kế giết Văn Khuê để cướp vợ y".

Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho biết rõ hơn: "Chúa Mạc là Mậu Hợp ngày ngày say đắm tửu sắc. Nguyễn thị là con gái của Nguyễn Quyện và là vợ Bùi Văn Khuê, nhân có em gái là vợ của Mạc Mậu Hợp, nên thường ra vào trong cấm cung. Mậu Hợp ưng ý Nguyễn thị vì nàng có nhan sắc, nên muốn giết Văn Khuê để chiếm lấy nàng. Văn Khuê biết chuyện... đã đầu hàng Trịnh Tùng...".

Vua Mậu Hợp đã bị Trịnh Tùng treo sống 3 ngày, rồi chém đầu tại bãi cát Bồ Đề, sau đó đem đóng đinh vào 2 con mắt, bêu ra ngoài chợ 5 ngày.

Tương tự, Mạc Kính Chỉ - con của hoàng thân Mạc Kính Điển và là cháu nội của vua Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) cũng gây nên chuyện động trời vì ham sắc dục. Sách Đại Việt thông sử viết: "Mạc Kính Chỉ là con cả của Kính Điển, mới đầu được phong là Hùng Lễ Vương, vì tư thông với người thiếp của cha nên bị giáng xuống làm thứ dân, sau đó lại khôi phục, phong là Đường An Vương".

Tương tự, sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, vụ việc loạn luân giữa Mạc Kính chỉ với vợ của cha xảy ra vào đầu năm Giáp Tý (1564), nhưng có một số điểm khác: "Bấy giờ, con trưởng của Kính Điển là Đoan Hùng Vương Kính Chỉ ngầm tư thông với vợ lẽ Kính Điển, việc phát giác phải giáng làm thứ dân; lấy con thứ là Kính Phu làm Đường An Vương, giao cho binh quyền. Đến khi Kính Điển chết, họ Mạc lại cho Kính Chỉ làm Hùng Lễ Công, nhưng không cho binh quyền".

Chúa Trịnh Giang: Ăn chơi dâm loạn không chừng mực

Trịnh Giang (1729-1740) là con cả Trịnh Cương. Sử sách chép rằng, nếu các chúa từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Cáng đều là những vị tài ba, đã hoàn thành việc đánh dẹp và cai trị phía Bắc Việt Nam, giữ cho xã hội Đại Việt ổn định trong gần 2 thế kỷ, thì việc lên nắm quyền hành của Trịnh Giang lại là điềm xấu, bắt đầu thời đại suy tàn của họ Trịnh.

Sách Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ cho hay: Trịnh Giang là kẻ dâm loạn, từng tư thông với bà Kỳ Viên phi Đặng Thị (người xã Trà Đổng, huyện Tiên Du, nay thuộc Bắc Ninh), vốn là vợ lẽ của chúa Trịnh Cương (cha Trịnh Giang). Chuyện này bị bà Vũ Thái phi (mẹ của Trịnh Giang) phát giác. Bà ép Kỳ Viên phi Đặng Thị phải tự tử.

Một hôm, chẳng hiểu vì sao Trịnh Giang bị sét đánh gần chết, nhân đó mà mắc bệnh kinh quý, hễ nghe có sấm sét là kinh hồn bạt vía. Bọn hoạn quan liền nói với Trịnh Giang rằng, duyên do chẳng qua vì dâm dục thái quá nên bị ác báo, muốn chữa, chỉ có cách... đào hầm làm nhà ở dưới đất. Trịnh Giang bèn dựng cung Thưởng Trì để ở, không dám đi ra ngoài như trước nữa.

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì viết: "Từ ngày làm việc bạo nghịch là giết vua (chỉ việc Trịnh Giang phế truất rồi giết chết vua Lê Đế Duy Phường), Trịnh Giang càng ngày càng tiếm quyền, ăn chơi dâm loạn không còn chừng mực gì nữa, cho nên về sau mới mắc bệnh kinh quý, sợ sấm sợ sét lắm. Bọn hoạn quan là Hoàng Công Phụ đánh lừa, đào đất làm cung Thưởng Trì cho Trịnh Giang ở. Từ đấy, Chúa không còn dám bước chân ra ngoài..".

Vĩnh Khang - ĐV

--------------------------------------------------------------------------------

hải Định là vị vua đời thứ 12 của vương triều Nguyễn, có rất nhiều lời đồn đại về chuyện ông mắc căn bệnh bất lực, không thích gần đàn bà chỉ thích đàn ông, khiến cho chốn hậu cung có biết bao tiếng thở dài buồn bã. Còn đối với thiên hạ, đứng trên địa vị là hoàng đế một nước, trong mắt ông vua này chuyện hôn nhân được nhìn nhận ra sao?

Nỗi muộn phiền ở chốn hậu cung

Vua Khải Định sinh Nhâm Ngọ (1882), tên thật là Nguyễn Phúc Bửu Đảo (còn có tên khác là Nguyễn Phúc Tuấn), con trưởng của vua Đồng Khánh và bà Tiên cung Dương Thị Thục (sau được truy phong là Hựu Thiên Thuần hoàng hậu). Khi chưa lên ngôi, ông được phong tước Phụng Hóa Công nên người đương thời gọi là ông hoàng Phụng Hóa.

Cũng như bao người khác, khi đến tuổi lập gia thất, Bửu Đảo lấy vợ và người con gái được lựa chọn xuất thân trong gia đình quyền thế, như vậy mới tương xứng với địa vị của một ông hoàng, đó là tiểu thư họ Trương, con Trương Như Cương, quan đại thần có quyền thế và giàu có bậc nhất lúc bấy giờ.

Vua Khải Định phê các bản tấu

Cuộc hôn nhân này không mấy hạnh phúc vì Bửu Đảo chỉ ham đánh bạc mà lạnh lùng chăn gối nơi buồng the vì thế không lâu, sau bà phủ thiếp họ Trương quyết định dứt áo ra đi, xuất gia tu hành tại một ngôi chùa ở độn Sầm, làng Thanh Thuỷ, huyện Hương Thuỷ (cách kinh thành Huế chừng 3km về phía Nam), lấy pháp hiệu là Đạm Thanh, biệt hiệu là Tuyết Nhan.

Bị vợ bỏ, ông hoàng Bửu Đảo phải dựa vào sự chăm sóc của những người hầu trong phủ. Có một người hầu gái trẻ trung, xinh đẹp là Hoàng Thị Cúc đã mang thai và nhất quyết cái thai đó là giọt máu của ông hoàng Bửu Đảo cho dù thân mẫu của ngài dùng mọi cách để tìm ra sự thực ai là "tác giả" của nó.

Khi cô Cúc sinh một người con trai bụ bẫm, kháu khỉnh, Bửu Đảo công nhận đó là con của mình, mặc cho những lời đồn đại xì xào ở khắp trong triều ngoài xứ. Ông đặt tên con là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy; đây cũng là người con duy nhất của Bửu Đảo, kể cả khi ông lên ngôi vua lấy niên hiệu là Khải Định và có thêm nhiều bà vợ khác.

Theo một số tư liệu, vua Khải Định có tất cả 12 bà vợ nhưng chỉ có hai người được cưới hỏi theo đúng lễ nghi, đó là bà họ Trương, ông lấy từ trước khi chưa lên làm vua và bà Hồ Thị Chỉ được làm lễ cưới sau ngày Bửu Đảo đăng quang ngôi vua.

Bà Hồ Thị Chỉ, là con gái áp út của quan thượng thư bộ Học Hồ Đắc Trung trước đã chuẩn bị được đưa vào cung làm phi của vua Duy Tân nhưng vị vua có tinh thần chống Pháp này sợ đại sự cứu nước của mình không thành sẽ làm liên lụy đến gia đình bà, vì thế việc hôn lễ, nhập cung mới bị dừng lại.

Khi làm vua, Khải Định đã trực tiếp gặp thượng thư Hồ Đắc Trung ngỏ ý muốn kết hôn với con gái ông là tiểu thư Hồ Thị Chỉ. Không phải Khải Định yêu thương hay có ý định kiếm tìm một người vợ thực sự theo đúng nghĩa mà ông vua nổi tiếng "nịnh Tây" này chỉ muốn có người ở bên trong các cuộc tiếp xúc với quan chức Pháp.

Trong cuốn hồi ký được in thành sách có tiêu đề là "Đường thiền sen nở"của sư bà Diệu Không (tục danh là Hồ Thị Hạn, em gái bà Hồ Thị Chỉ) đã kể rằng, khi đến gặp cha mình, Khải Định nói: "Tôi cần một người vợ nói tiếng Pháp giỏi để làm các việc cơ mật, mà người đó là con gái thầy.

Trước đây, tôi đã có người vợ, con cụ Trương Như Cương nhưng bà ấy đã xin về ba năm nay rồi. Tôi sẽ cưới con thầy làm hoàng phi vợ chính. Thật ra, tôi cũng đã có một người hầu và một con mới 4 tuổi, nó sẽ là con của bà hoàng phi".

Bà Ân phi Hồ Thị Chỉ

Mặc dù không muốn nhưng ý vua khó cưỡng, Hồ Thị Chỉ đành phải hy sinh tình cảm riêng tư để gia đình yên ổn. Lễ nạp phi được tiến hành đúng theo nghi lễ truyền thống hoàng gia, Khải Định tôn trọng lời hứa trước đây đã sắc phong Hồ Thị Chỉ làm đệ nhất Ân phi và rất sủng ái.

Trong những lễ tiếp tân ngoại giao, những buổi yến tiệc khoản đãi quan chức người Pháp và người nước ngoài khác, bà Ân phi thường xuất hiện bên vua Khải Định với vẻ ngoài xinh đẹp, thông thái vừa có kiến thức phương Đông lại am hiểu văn hóa, nếp sống phương Tây, được rất nhiều các vị khách nước ngoài khen ngợi.

Ngoài hai người vợ chính thức nói trên và bà Hoàng Thị Cúc, người đã sinh cho vua hoàng tử Vĩnh Thụy (sau này là hoàng đế Bảo Đại), vốn tính "chê" phụ nữ nhưng Khải Định vẫn phải nạp vào nội cung một số mỹ nữ dù ông rất ngại việc chăn gối. Thậm chí, nhiều quan chức trong triều biết Khải Định bất lực, thế nhưng vẫn muốn "tiến" con gái để được làm Quốc trượng (bố vợ vua), mong hưởng nhiều quyền lợi, thăng quan tiến chức.

Khó có thể chối từ, vua Khải Định đành nhận nhưng bực tức, thường nói với các quan rằng: "Nội cung của trẫm là một cái chùa (ý nói không có chuyện ái ân tình dục), ai muốn vào tu thì cứ vào!". Quả thật, trong gần 10 năm làm vua, Khải Định không hề ăn nằm với người vợ nào, ông chỉ thích viên thị vệ Nguyễn Đắc Vọng. Ban đêm, vua ôm ông Vọng mà ngủ; và cũng nhờ sự khéo léo trong việc phục vụ hầu cận này mà ông Vọng được thăng chức nhanh lên Ngũ đẳng Thị vệ.

Còn trong sinh hoạt đời thường, Khải Định mê xem hát tuồng nhưng không thích cho phụ nữ biểu diễn mà sai những vũ công nam thoa phấn, đánh má hồng và tô môi son đỏ; thậm chí, cho họ mặc áo quần màu lòe loẹt, đóng giả gái múa hát cho vua xem...

Ca dao có câu: "Một ngày dựa mạn thuyền rồng/Cũng bằng muôn kiếp ở trong thuyền chài", cứ tưởng trở thành vợ vua là được sống trong tột đỉnh vinh quang, hạnh phúc nhưng với các phi tần của Khải Định, họ vẫn có những nỗi muộn phiền, buồn chán khó nói nên lời.

Tuy nhiên, có bà phi không nén được nỗi lòng đã gửi gắm tâm sự qua mấy vần thơ não nề như những lời "Cung oán ngâm khúc" chốn thâm cung thời Khải Định:

Hạt mưa đã lọt vào đài các,

Những mừng thầm cá nước duyên may

Càng lâu càng lắm mới hay

Cho cam công kẻ nhúng tay thùng chàm

Ai ngờ bỗng mỗi năm một nhạt

Nguồn ái ân chẳng tát mà vơi

Suy đi đâu biết cơ trời

Bỗng không mà hóa ra người vị vong.

Cảnh phi tần bị bỏ rơi, ruồng rẫy ở triều đại nào cũng có, nhưng giống như cuộc sống muôn vàn màu sắc, các phi tần cũng mỗi người một hoàn cảnh khác nhau. Riêng phi tần của vua Khải Định đều có nỗi đau khổ chung, không phải vì kém nhan sắc, vì phải tranh giành nhau để được nhận sủng ái hay vì vua có quá nhiều mỹ nữ nên không để ý tới mình, mà bởi vì Khải Định chỉ ưa... đàn ông mà thôi .

Bù đắp những thiệt thòi khi không có "bể ái nguồn ân"

Sau khi lên ngôi, mặc dù người vợ đầu tiên là bà họ Trương đã bỏ đi nhưng nghĩ đến ân tình cũ, vua Khải Định vẫn dành danh hiệu cao nhất trong bậc phi tần thời Nguyễn cho bà, sắc phong làm Đệ nhất Giai phi.

Với những người vợ còn lại, có lẽ muốn bù đắp cho họ sự thiếu hụt về tình cảm vợ chồng, sự ái ân nồng thắm mà mình không mang lại được nên Khải Định bù đắp bằng việc gia ân tước hiệu cho các bà. Tháng 2 năm Đinh Tị (1917), Khải Định ban dụ tấn phong cho các phi tần theo thứ bậc khác nhau, trong đó có đoạn viết:

"Từ ngày xưa, các bậc đế vương không ai là không chăm lo vun vén nơi căn bản trước tiên. Trẫm từ khi chưa lên ngôi đã được Lưỡng cung giáng chỉ dụ khuyên nên sớm quyết định việc này cho được yên bề, ngờ đâu vì nội chính rối ren nên đàn cầm chưa ngân thành điệu.

Từ ngày tức chính tới nay vẫn tâm niệm làm tròn chữ hiếu nên luôn nghĩ trước lo chấn chỉnh phong hóa tôn xã, rồi sau mới đến chuyện trong cung. Vì nghĩ rằng thứ bậc cung phi đảm đương trợ giúp cho vương hóa, nếu không là người am tường thì khó lái huy xa (loại xe dùng cho hoàng phi).

Vì thế, ngôi chính nội đình vẫn còn để trống, là có ý đợi người vậy. Nhưng xét thấy mấy người thiếp từ khi trẫm còn chưa lên ngôi vẫn hầu phụng trẫm đã nhiều năm, đáng nên thương đến mà vinh danh. Trong đó, có Hoàng Thị Cúc, nguyên là người được từ chỉ của hoàng thái phi tuyển vào hầu hạ ở dinh hoàng tử, rất được lòng bề trên, lại sớm ứng điềm mộng lành mà sinh con trai, truyền tấn phong làm Tam giai Huệ tần, Trần Đăng Thị Thông làm Thất giai Qúy nhân, Ngô Thị Trang làm Cửu giai Tài nhân, đều được hưởng ân sủng".

Riêng với bà Hồ Thị Chỉ, là người vợ được vua Khải Định coi trọng nhất, vị trí đứng đầu nội cung đã được phong cho bà. Tháng 8 năm Đinh Tị (1917) vua phong bà làm Nhất giai Ân phi. Bài dụ phong có viết: "Nay xét ngôi phi nắm giữ việc nội chính, từ lâu vẫn còn để khuyết, chưa tìm được người thì biết trao ai?

Vị trí này để trống là để đợi tìm được người hiền biết làm vui lòng bề trên, đồng thời chu toàn tứ đức, tránh cho trẫm khỏi phải áy náy mà để tâm vào việc nội trị bên trong, thì sẽ tấn phong cho cấp bậc cao quý. Nay kính nhận được từ dụ của Lưỡng cung nói rằng, nhà vua đã vất vả vào việc cơ vụ thì nội chính không thể thiếu người phụ tá để trông nom, sai khiến nội thuộc, nên chọn một người cung phi thay mặt trông nom hầu hạ già này, đỡ cho nhà vua khỏi phải bận tâm lo nghĩ.

Nghe nói, quan Cơ mật đại thần, Hiệp tá đại học sĩ, lãnh Học bộ Thượng thư, kiêm Lễ bộ sự vụ, Khánh Mỹ tử Hồ Đắc Trung có người con gái thứ ba là Hồ Thị Chỉ rất có dung nhan đức hạnh, nên tuyển sung vào nội cung tấn thăng làm hàng phi để nghiêm phép tắc trong cung và giữ thể thống... Lại kính vâng theo ý chỉ, rộng lượng gia ân, truyền chuẩn tấn phong cho thị ấy làm Nhất giai Ân phi để thị sớm được đội ơn vinh sủng, mãi mãi giữ thuần phụ đạo".

--------------------------------------------------------------------------------

Gửi bởi: Scorpion -- Thời gian: 2/3/2012 8:53:52 PM

Cùng với việc gia phong tước hiệu, Khải Định còn có những đánh giá, nhận xét tốt đẹp về những ưu điểm của mỗi người vợ. Điều này khác hẳn với sự khắt khe của nhiều vị vua đối với phi tần của mình, như trường hợp Đồng Khánh (cha Khải Định) là một thí dụ điển hình.

Tháng 12 năm Mậu Ngọ (1918), Khải Định tấn phong cho Tam giai Huệ tần Hoàng Thị Cúc, người đã sinh ra hoàng tử Vĩnh Thụy lên làm Nhị giai Huệ phi vì "Tam giai Huệ tần thể lòng hiếu thảo của trẫm mà hầu hạ Lưỡng cung, làm hài lòng bề trên, thật là hiền thảo, chăm chỉ đáng khen".

Một người vợ khác là Phạm Thị Hoài được làm Ngũ giai Diễm tần vì "vừa được chọn đưa vào đại nội mà đã nhanh chóng biết phép tắc trong cung, xem ra cũng thông minh, sáng dạ". Một năm sau, trong buổi thiết triều, Khải Định nói với các quan bộ Lễ rằng:

"Vũ Thị Dung là ái nữ của quan đại thần, trẫm xem tư cách tính tình rất nền nếp gia giáo, đáng được ban ân mệnh cho có cấp bậc để thị càng thêm tận tâm hầu phụng Lưỡng cung. Truyền tấn phong làm Tứ giai Du tần".

Mùa xuân, tháng giêng năm Nhâm Tuất (1922) vua Khải Định tấn phong Ngũ giai Diễm tần Phạm Thị Hoài làm Tam giai Diễm tần, Nguyễn Thị Đình Liên làm Ngũ giai Diễm tần và dụ rằng: "Ngũ giai Diễm tần Phạm Thị Hoài gần đây hầu hạ rất được lòng Lưỡng cung, trẫm lấy làm khen ngợi, bữa rồi vâng theo từ chỉ rằng nên thăng cho thị làm Tam giai Diễm tần. Khâm thử.

Ngoài ra, quan Thượng thư, sung Cơ mật viện tham tá Nguyễn Đình Hòe cũng vừa đem cháu gái là Nguyễn Thị Đình Liên dâng tiến vào nội đình. Trẫm nghĩ rằng, viên quan ấy vốn là cựu thần của tiên đế, nay đang làm việc rất cần mẫn. Vậy truyền tấn phong Nguyễn Thị Đình Liên làm Ngũ giai Diễm tần để thị được đội ơn cao dày".

Vua Khải Định với chuyện hôn nhân của thần dân

Các quy tắc, nghi thức hôn nhân thời Nguyễn về cơ bản vẫn theo truyền thống từ xa xưa, cũng như tuân theo quy chế được ban ra từ thời Lê. Khi lên ngôi, nhận thấy tình hình xã hội có những thay đổi nên vua Gia Long đã cho điều chỉnh một số nghi thức cho phù hợp, như vào năm Giáp Tý (1804) định lại lệ cheo: "Về tiền cheo thì nhà giàu phải nạp một quan năm tiền, nhà trung thì nộp sáu tiền, nhà nghèo nạp ba tiền.

Nếu lấy người làng khác thì nộp gấp đôi"; hoặc cùng năm đó có một đạo dụ quy định các lễ vật trong giá thú phải tương đương với tư lực của gia đình. Nhà gái không thể bắt buộc nhà trai túng thiếu phải ký văn tự nợ hay cầm cố ruộng đất. Tiền cheo cũng không thể thu quá luật. Nếu người con gái chửa hoang, người ấy phải nộp 30 quan tiền và cha hay anh người ấy chỉ nộp 3 quan tiền.

Trong bộ luật Gia Long (Hoàng Việt luật lệ) cũng có nhiều điều khoản có nội dung liên quan đến hôn nhân, giá thú như điều 94 quy định việc hôn thú trong trường hợp xa nhà: "Nếu một người ty ấu là quan chức hay buôn bán làm ăn xa nhà, đã tự ý làm giá thú mà trong khi ấy, ở nhà ông bà, cha mẹ, hay chú bác, cô ruột, anh chị không biết, lại làm hôn nhân khác trong khi người ấy vắng mặt thì hôn nhân nào làm trước sẽ có giá trị".

Hay như trường hợp giá thú khi chỉ còn bà con xa, tại điều 109 trù liệu một trường hợp trong đó người nam đóng vai trò tích cực, tỏ rõ sự ưng thuận của mình. Khi người chủ hôn không là bậc tôn trưởng như cha mẹ, ông bà, chú bác, anh chị hay ông bà ngoại, nếu giá thú do chính hai bên nam nữ quyết định, những người này sẽ bị coi là chính phạm và người chủ hôn chỉ là tòng phạm tội được giảm một bậc.

Việc hôn nhân, cưới hỏi thời vua Khải Định ở ngôi vẫn tuân theo các quy tắc từ đời Gia Long hoàng đế. Ở lĩnh vực này, người xưa thường dùng chữ "Quan thư" là tên một bài thơ trong Kinh Thi để chỉ tình yêu nam nữ, vì thế, trong một bài dụ năm Đinh Tị (1917), Khải Định đã viết: "Quan thư là điểm khởi đầu của vương đạo; cung tường chính là nơi phong hóa bắt nguồn".

Như vậy ông cũng thừa nhận rằng tình yêu nam nữ, vợ chồng chính là gốc của xã hội; về chuyện hôn nhân theo vua Khải Định chỉ cần tuân theo nghi thức truyền thống là giữ được nền nếp phong tục tốt đẹp ngàn đời, tuy nhiên, ông cho rằng, có một điểm cần phải thay đổi mạnh mẽ đó là bài trừ tệ hoang phí, phù phiếm trong hôn lễ và cần cổ vũ tinh thần tiết kiệm.

Tháng 9 năm Kỷ Mùi (1919) vua ban dụ rằng: "Trị nước, dạy dân vốn phải nương tùy theo phong tục, thi hành chính sự cần trừ tệ để cải cách... Nước ta vốn là nước văn hiến nhưng trong phong tục còn ưa chuộng nhiều cái phù phiếm xa xỉ, như trong các nghi lễ quan hôn, tang chế thường làm cỗ bày tiệc linh đình thết đãi các thân bằng cố hữu tới chúc mừng hay phúng viếng để tỏ ra long trọng, hoành tráng.

Đối với người giàu có, điều đó không khỏi là sự hoang phí vô bổ, còn với hạng nghèo hèn ắt phải khổ vì vay nợ trả lãi... Tiếng là nước văn hiến nhưng rốt cuộc vẫn làm ăn sa sút yếu kém, chính là vì vậy. Trẫm nghĩ nước ta đất đai cằn cỗi, nhân dân nghèo đói, tài nguyên thì ngày thêm cạn kiệt.

Trong thời buổi văn minh ngày nay dân trí phải dần dần mở mang ra... Vậy, truyền từ nay trong dân gian, phàm những dịp lễ quan hôn, tang chế,..., tùy theo gia cảnh giàu nghèo đều phải thực hành tiết kiệm, việc qua lại mừng chúc, phúng viếng châm chước làm cốt sao cho hợp lễ thì thôi".

Tranh vẽ một đám cưới truyền thống

Trong một buổi thiết triều năm đó, Khải Định lại nhắc nhở các quan ở bộ Lễ về vấn đề tiết kiệm trong hôn nhân cũng như trong các nghi thức lễ Tết khác và lệnh rằng: "Bộ Lễ cần phải định rõ thành điều lệ đối với các lễ nghi này, cái nào phải bỏ, cái nào thì cho tiếp tục duy trì, cốt sao cho giản dị tiết kiệm rồi thông báo cho dân biết mà tuân hành".

Đến tháng 12, bộ Lễ theo ý chỉ của vua đã định từng khoản về các nghi thức, đối với hôn lễ quy định như sau: "Hạn trong 3 tháng (trừ khi có duyên cớ riêng) thì được cử hành sính lễ. Nhà giàu thì được dùng hoa tai và vòng tay bằng vàng, mỗi thứ một đôi, trầu cau và rượu mỗi thứ một mâm, nến hoa chúc một đôi.

Nhà trung bình thì hoa tai bằng vàng một đôi, trầu cau và rượu một mâm, nến hoa chúc một đôi. Nhà nghèo thì cho dùng trầu cau, rượu một mâm (trừ những nhà nghèo khó quá tự ý mua sắm thì không kể). Còn chuyện bày cỗ khoản đãi thì tùy theo nhà giàu hay nhà nghèo làm sao cho phù hợp nhưng không được xa hoa, lãng phí quá đáng. Còn các khoản khác thì tuân theo quy định đời Gia Long".

Sau khi xem xét bản đệ trình của bộ Lễ, Khải Định đã phê chuẩn rằng: "Những quy định về quan hôn, tang chế do bộ Lễ đề xuất cũng đã khá hợp lý, truyền thông tri rộng rãi thi hành, nhưng trong dân gian các phong tục, lề thói hủ lậu vẫn còn nhiều, triều đình tiến hành cải cách không phải chỉ đưa ra quy định chỉnh đốn một lần là đủ mà phải duy trì làm dần dần từng bước một. Sau này nếu còn nghĩ định thêm điều khoản nào khác mà hợp lý thì sẽ giáng dụ riêng để thi hành".

Theo vua Khải Định, việc chấn chỉnh lại các nghi thức nói chung và hôn lễ nói riêng là "để giữ gìn luân lý cho mai sau".

Võ Nguyên Giáp (sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911)[1] là một nhà chỉ huy quân sự và nhà hoạt động chính trị Việt Nam. Là đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông chỉ huy chính trong chiến tranh Đông Dương (1946-1954) và chiến tranh Việt Nam (1960-1975). Ông tham gia vào nhiều chiến dịch quan trọng như Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, Trận Điện Biên Phủ (1954), Chiến dịch Tết Mậu Thân (1968), Chiến dịch năm 1972, Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ông là nhà chỉ huy quân sự nổi bật nhất bên cạnh Hồ Chí Minh trong suốt cuộc chiến và lãnh đạo nhiều chiến dịch lớn cho đến khi chiến tranh kết thúc.

Ông từng là một giáo viên dạy sử, nhà báo và từng giữ các chức vụ: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.

I. Thời niên thiếu

Võ Nguyên Giáp sinh ở làng An Xá[2], xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho, con của ông Võ Quang Nghiêm (Võ Nguyên Thân).[3] Võ Quang Nghiêm là một nho sinh thi cử bất thành về làm hương sư và thầy thuốc Đông y, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, ông bị Pháp bắt, đưa về giam ở Huế và mất trong tù.

Năm 1925, Võ Nguyên Giáp rời trường Tiểu học Đồng Hới ở quê nhà Quảng Bình để vào Huế ôn thi vào trường Quốc học Huế (ông đỗ thứ hai sau Nguyễn Thúc Hào). Hai năm sau, ông bị đuổi học cùng với Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều), Phan Bôi sau khi tổ chức một cuộc bãi khóa. Ông về quê và được Nguyễn Chí Diểu giới thiệu tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng, một đảng theo chủ nghĩa dân tộc nhưng có màu sắc cộng sản thành lập năm 1924 ở miền Trung Việt Nam. Nguyễn Chí Diểu cũng giới thiệu Võ Nguyên Giáp vào làm việc ở Huế, tại nhà xuất bản Quan hải tùng thư do Đào Duy Anh sáng lập và ở báo Tiếng dân của Huỳnh Thúc Kháng. Tại đây, Võ Nguyên Giáp bắt đầu học nghề làm báo, chuẩn bị cho giai đoạn hoạt động báo chí trong thời Mặt trận Bình dân Pháp.

II. Thời thanh niên

Đầu tháng 10 năm 1930, trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, Võ Nguyên Giáp bị bắt và bị giam ở Nhà lao Thừa phủ (Huế), cùng với người yêu là Nguyễn Thị Quang Thái, em trai là Võ Thuần Nho và các giáo sư Đặng Thai Mai, Lê Viết Lượng,...

Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế Đỏ của Pháp, Võ Nguyên Giáp được trả tự do nhưng lại bị Công sứ Pháp tại Huế ngăn cấm không cho ở lại Huế. Ông ra Hà Nội, học trường Albert Sarraut và đỗ. Ông nhận bằng cử nhân luật năm 1937 (Licence en Droit). Do bận rộn hoạt động cách mạng, vào năm 1938, ông bỏ dở học chương trình năm thứ tư về Kinh tế Chính trị và không lấy bằng Luật sư.[4]

Từ 1936 đến 1939, Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, là sáng lập viên của mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Ông tham gia thành lập và làm báo tiếng Pháp Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), Le Travail (Lao động), biên tập các báo Tin tức, Dân chúng.

Tháng 5 năm 1939, Võ Nguyên Giáp nhận dạy môn lịch sử tại Trường Tư thục Thăng Long, Hà Nội do Hoàng Minh Giám làm giám đốc nhà trường.[5]

III. Bắt đầu sự nghiệp quân sự

Ngày 3 tháng 5 năm 1940, Võ Nguyên Giáp với bí danh là Dương Hoài Nam cùng Phạm Văn Đồng lên Cao Bằng rồi vượt biên sang Trung Quốc để gặp Hồ Chí Minh. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương trong năm này và bắt đầu các hoạt động của mình trong Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, một tổ chức chống phát-xít và đấu tranh cho độc lập của Việt Nam. Ông tham gia xây dựng cơ sở cách mạng, mở lớp huấn luyện quân sự cho Việt Minh ở Cao Bằng.

Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo hướng dẫn của Hồ Chí Minh, ông thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại chiến khu Trần Hưng Đạo với 34 người, được trang bị 2 súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng máy. Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Ngày 25 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp đã chỉ huy đội quân này lập chiến công đầu tiên là tập kích diệt gọn hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần.

Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Võ Nguyên Giáp trở thành uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó là ủy viên Thường vụ Trung ương, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc.

Sau Cách mạng Tháng Tám, Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Phó Bộ trưởng (nay gọi là Thứ trưởng) Bộ Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời (từ ngày 28 tháng 8 đến hết năm 1945) và là Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ.

Trong Chính phủ Liên hiệp, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (cho đến tháng 7 năm 1947 và từ tháng 7 năm 1948 trở đi).

Cũng trong năm 1946, ông kết hôn với bà Đặng Bích Hà (con gái giáo sư Đặng Thai Mai).

IV. Kháng chiến chống Pháp

Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chiến tranh Đông Dương chính thức bùng nổ. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản, ông bắt đầu chỉ đạo cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống lại sự trở lại của người Pháp (1945-1954) trên cương vị Tổng chỉ huy và Tổng Chính ủy, từ năm 1949 đổi tên gọi là Tổng tư lệnh quân đội kiêm Bí thư Tổng Quân uỷ.

1. Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam

Không được đào tạo tại bất kỳ trường quân sự nào trước đó, không phải trải qua các cấp bậc quân hàm trong quân đội, Võ Nguyên Giáp thụ phong quân hàm Đại tướng vào ngày 28 tháng 5 năm 1948 theo sắc lệnh 110/SL ký ngày 20 tháng 1 năm 1948, Ông trở thành Đại tướng đầu tiên của Quân Đội Quốc gia Việt Nam khi 37 tuổi. Sau này, trả lời phóng viên nước ngoài về tiêu chí phong tướng, Hồ Chí Minh đã nói: "người nào đánh thắng đại tá thì phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng thì phong thiếu tướng, đánh thắng trung tướng thì phong trung tướng, đánh thắng đại tướng thì phong đại tướng"[6]. Cùng đợt thụ phong có Nguyễn Bình được phong Trung tướng; Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng. Tháng 8 năm 1948, ông là ủy viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao vừa mới được thành lập.

Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh

Từ tháng 8 năm 1945 Võ Nguyên Giáp là một trong 5 ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và trở thành ủy viên Bộ Chính trị (thay thế Ban Thường vụ Trung ương) Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1951.

Như các danh tướng Việt Nam trong lịch sử, Võ Nguyên Giáp chú trọng nghệ thuật lấy ít địch nhiều, lấy yếu chế mạnh, lấy thô sơ thắng hiện đại. Tư tưởng quân sự nổi tiếng của ông có tên gọi là Chiến tranh Nhân dân kế thừa quan điểm quân sự Hồ Chí Minh, tinh hoa nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, tri thức quân sự thế giới, lý luận quân sự Mác-Lênin và được đúc rút từ kinh nghiệm cá nhân được liên tục cập nhật trong nhiều cuộc chiến tranh mà nổi bật là chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.

Trong 9 năm trường kỳ đánh Pháp, Võ Nguyên Giáp đã có những sáng kiến quan trọng để phát huy sức mạnh quân sự và đã trở thành những kinh nghiệm quý báu như: "Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung". Với chuyên gia quân sự Trung Quốc sang giúp huấn luyện quân đội, ông chỉ đạo chiến sĩ học tập, tiếp thu, nghiên cứu kỹ phương pháp của nước bạn, đồng thời nhắc nhở cán bộ, sĩ quan phải ghi nhớ việc tiết kiệm sinh mạng bộ đội do Việt Nam là nước nhỏ không thể nuôi nhiều quân.

Năm 1954, Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh và Đảng Lao động tin tưởng trao cho toàn quyền chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi ra trận, Hồ Chí Minh đã dặn dò: "Cho chú toàn quyền chỉ huy. Trận này chỉ được thắng không được thua vì thua là hết vốn". Ông tự tin lên kế hoạch và chỉ huy 4 trong 6 sư đoàn bộ binh khi đó của Quân đội Nhân dân Việt Nam là 308, 304, 312, 316 và Đại đoàn sơn pháo 351 tấn công Điện Biên Phủ, đánh bại đội quân nhà nghề được trang bị hiện đại của Liên hiệp Pháp. Chiến thắng này đã đặt dấu chấm hết cho quyền lực của người Pháp tại Đông Dương sau 83 năm và đã đưa Võ Nguyên Giáp đi vào lịch sử thế giới như là một danh nhân quân sự Việt Nam, một người hùng của Thế giới thứ ba, nơi có những người dân bị nô dịch đã xem Võ Nguyên Giáp là thần tượng để hạ quyết tâm lật đổ chế độ thực dân xây dựng nền độc lập của riêng mình.

2. Các chiến dịch

Các chiến dịch ông đã tham gia với tư cách là Tư lệnh chiến dịch - Bí thư Đảng ủy trong kháng chiến chống Pháp cùng với Thiếu tướng Hoàng Văn Thái làm tham mưu trưởng chiến dịch:

Chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947)

Chiến dịch Biên giới (tháng 9 - 10, năm 1950)

Chiến dịch Trung Du (tháng 12 năm 1950)

Chiến dịch Đông Bắc (năm 1951)

Chiến dịch Đồng Bằng (tháng 5 năm 1951)

Chiến dịch Hòa Bình (tháng 12 năm 1951)

Chiến dịch Tây Bắc (tháng 9 năm 1952)

Chiến dịch Thượng Lào (tháng 4 năm 1953)

Chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 3 - 5 năm 1954)

Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ mang đậm việc tạo thế, tổ chức hậu cần, thay đổi chiến thuật. Sau chiến dịch này, Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết, đặt dấu chấm hết cho sự có mặt của người Pháp ở Việt Nam sau hơn 80 năm.

Tướng Giáp báo cáo kế hoạch tấn công Điện Biên Phủ

V. Kháng chiến chống Mỹ

Từ năm 1954 đến năm 1976, Võ Nguyên Giáp tiếp tục giữ cương vị Ủy viên Bộ Chính trị - Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông còn là Phó Thủ tướng Chính phủ, sau là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (từ năm 1955 đến năm 1991).

Từ tháng 3 năm 1960, Võ Nguyên Giáp làm việc dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị và nhà lãnh đạo mới là Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam, một nhà cách mạng theo đường lối cứng rắn đã trải qua những nhà tù khắc nghiệt nhất, tận mắt chứng kiến tình cảnh của những cán bộ Việt Minh ở miền nam sau Hiệp định Geneve trong Phong trào Tố cộng - Diệt cộng do Ngô Đình Diệm phát động và nguyện đem sức mạnh to lớn của Đảng Lao động để xóa bỏ chế độ Việt Nam Cộng hòa, giành độc lập thống nhất cho đất nước Việt Nam dù phải đối mặt với Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ.

Dù có thói quen viết hồi ức, Võ Nguyên Giáp vẫn chưa xuất bản cuốn nào về giai đoạn 1954-1971. Đây là thời kỳ Lê Duẩn từ vị trí lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam tiến đến điều hành Bộ Chính trị. Một mặt, nhà lãnh đạo này xem trọng Võ Nguyên Giáp, mặt khác, vẫn giữ ấn tượng về việc lãnh đạo Việt Minh đồng ý rút ra bắc theo Hiệp định Geneve với Pháp, để Hoa Kỳ có điều kiện thế chân Pháp chia đôi đất nước. Theo các sử gia phươgn Tây, suốt cuộc chiến tranh đánh Mỹ, Võ Nguyên Giáp và Lê Duẩn luôn đấu tranh khi âm thầm, khi quyết liệt trước các quyết định quân sự. Trong đó, dường như Võ Nguyên Giáp thuộc phái ôn hòa trong khi Lê Duẩn thuộc phái cấp tiến [cần dẫn nguồn]. Họ chia sự hợp tác giữa 2 nhân vật quyết định chiến tranh ở cấp cao nhất này thành 3 giai đoạn:

Từ năm 1954 đến năm 1964, thời gian Lê Duẩn mới ra miền Bắc nắm quyền chính trị và Võ Nguyên Giáp với tư cách người chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ, cả hai nhất trí hầu hết các điểm về đường lối quân sự;

Từ năm 1965 đến năm 1972, thời gian Lê Duẩn nắm toàn quyền chính trị và ý kiến Võ Nguyên Giáp thường bị xem là chưa đủ cứng rắn; [cần dẫn nguồn]

Từ năm 1972 đến năm 1975, sau những tổn thất to lớn của Mậu Thân 1968 và Chiến dịch Trị Thiên 1972, Lê Duẩn trao toàn quyền chỉ huy quân sự cho Võ Nguyên Giáp. [cần dẫn nguồn]

Tuy nhiên nghiên cứu các tài liệu của Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc từ chối cho rằng vai trò của Tướng Giáp bị làm cho lu mờ bởi những thành viên Bộ Chính trị trong giai đoạn cuộc chiến tranh chống Mỹ, cũng như cho rằng không có một sự phân chia ê-kíp trong nội bộ Bộ Chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc bấy giờ, mà theo đó Tướng Giáp được cho là thuộc phái "chủ hoà". [7]

Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng viết: "Với tôi, những năm công tác trong Bộ Chính trị, Anh (tức Lê Duẩn) đã thường xuyên trao đổi ý kiến, thường là nhanh chóng đi đến nhất trí trong những vấn đề lớn; khi có ý kiến khác nhau thì tranh luận thẳng thắn, những điều chưa nhất trí thì chờ thực tiễn kiểm nghiệm. Lúc mới ra Bắc, Anh thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc... Từ sau Đại hội III và Đại hội IV, tôi đã ba lần đề nghị Anh là Tổng Bí thư kiêm luôn Bí thư Quân ủy Trung ương, nhưng Anh nói với tôi: "Anh (tướng Giáp) là Tổng chỉ huy lâu năm nên tiếp tục làm Bí thư Quân ủy Trung ương, như vậy có lợi cho lãnh đạo"[8].

Đại sự ký hoạt động của Võ Nguyên Giáp đối với cuộc chiến tranh tại miền nam Việt Nam như sau:

1. Từ 1954 đến 1964

Từ năm 1954 đến năm 1956, Võ Nguyên Giáp chủ trương đấu tranh hòa bình, yêu cầu Việt Nam Cộng hòa thực hiện Hiệp định Geneve vì một Việt Nam thống nhất, không chia rẽ về tình cảm và chính trị. Tuy nhiên, Ngô Đình Diệm đã thẳng thừng bác bỏ yêu sách này bằng Phong Trào Tố cộng Diệt cộng.

Từ năm 1957 đến năm 1958, Đảng Lao động đã có những cuộc họp bàn về cách mạng Miền Nam nhưng chủ trương, biện pháp đấu tranh vẫn chưa thay đổi, phong trào cách mạng tiếp tục bị đàn áp và tổn thất nặng nề.

Tháng 1-1959, khi hy vọng thi hành Hiệp định Genve không còn, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị (mở rộng) lần thứ 15, Võ Nguyên Giáp giúp Bộ Chính trị và những người cộng sản miền nam do Lê Duẩn đứng đầu ban hành Nghị quyết 15 Bộ Chính trị, khẳng định việc giải phóng miền nam bằng đấu tranh vũ trang, cho phép những cán bộ kháng chiến còn lại ở miền nam tổ chức hoạt động vũ trang.

Năm 1959, được Bộ Chính trị đồng ý, Võ Nguyên Giáp đã quyết định thành lập Đoàn 559 mở đường mòn dọc dãy Trường Sơn để tiếp ứng phong trào cách mạng miền nam Việt Nam. Nhờ việc mở đường Trường Sơn, phong trào cách mạng và hoạt động du kích miền Nam phát triển rất mạnh. Sau 4 năm, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã thành lập được một số đơn vị cấp trung đoàn.

Năm 1964, được Bộ Chính trị đồng ý, Võ Nguyên Giáp đã bí mật cử Nguyễn Chí Thanh, Lê Trọng Tấn vào chiến trường Đông Nam Bộ chỉ huy quân giải phóng miền Nam đánh lớn tại Bàu Bàng, Dầu Tiếng, Đồng Xoài... tạo chuyển biến chiến trường và thành lập các Sư đoàn 1, 2, 3, 5, 7, 9 nổi tiếng. Trong đó, Sư đoàn 1 trấn thủ Tây Nguyên, Sư đoàn 2 trấn thủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Sư đoàn 3 Sao Vàng trấn thủ Bình Định, trung đoàn 10 trấn thủ Phú Yên, trung đoàn 20 trấn thủ Khánh Hòa, Sư đoàn 5 trấn thủ khu vực Sài Gòn - Gia Định, Sư đoàn 7 cơ động chiến đấu khắp Quân khu 7 gồm Lâm Đồng, Ninh Thuận, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Thuận, Bình Phước và Sư đoàn 9 di chuyển chiến đấu khắp Tây Ninh và Quân khu 9.

2. Từ 1965 đến 1972

Năm 1965, chia lửa với Nam Bộ, Hoàng Minh Thảo, người học trò của Võ Nguyên Giáp ở trường Thăng Long được cử vào Mặt trận Tây Nguyên làm Phó Tư lệnh rồi Tư lệnh Mặt trận B3 thay Chu Huy Mân chuyển sang chỉ huy Mặt trận duyên hải Nam Trung Bộ đến khi chiến tranh kết thúc.

Hình vẽ Võ Nguyên Giáp trên bìa tạp chí Time, ngày 15 tháng 5 năm 1972

Năm 1968, Bộ Chính trị và Bộ Thống soái Tối cao tại Hà Nội phát động cuộc Tổng Tấn công và Nổi dậy Tết Mậu Thân. Dù thiệt hại về nhân mạng to lớn, nhưng chiến dịch đã gây tiếng vang lớn, đánh bại Hoa Kỳ về mặt chiến lược và giành được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân phản đối chiến tranh tại Mỹ và trên toàn thế giới, buộc Hoa Kỳ phải ngừng ném bom miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán và dần rút quân khỏi Việt Nam. Đây là bước ngoặt của cuộc chiến tranh nhưng còn quá ít thông tin xoay quanh Võ Nguyên Giáp vào thời điểm này, chỉ biết ông cũng tham gia lập kế hoạch, song khi cuộc tổng tiến công diễn ra thì ông đang ở nước ngoài trị bệnh.

3. Từ 1972 đến 1975

Cuốn hồi ức mang tên "Tổng Hành dinh trong Mùa xuân Đại thắng" do Võ Nguyên Giáp xuất bản lần đầu năm 2001 đã thuật lại những hoạt động của ông vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ từ năm 1972 đến năm 1975.

Năm 1972, sau đại thắng tại Chiến dịch Đường 9 Nam Lào, với kho vũ khí khá hùng hậu, Võ Nguyên Giáp chủ trương khuếch trương chiến quả bằng một kế hoạch quân sự ở Tây Nguyên, nơi có khả năng triển khai lực lượng lớn, đánh lớn, gây những khó khăn lớn hơn cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Kế hoạch này đã bị nhà lãnh đạo Lê Duẩn và Quân ủy trung ương bác bỏ do Tổng Cục tình báo 2 nhận được thông tin là Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã sớm biết và đã đón lõng tại Tây Nguyên. Đồng thời do ở gần nên mặt trận Trị-Thiên cũng dễ bổ sung đạn dược, quân số hơn, lại có 2 mục tiêu cực kỳ quan trọng là Huế và Đà Nẵng.

Một phương án mới được đưa ra. Quân Giải phóng sẽ chia quân mở 3 chiến dịch tại Trị-Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Sau 2 tháng, trước những thắng lợi lớn trong Chiến dịch Trị Thiên và quân Giải phóng đã áp sát Huế, các lực lượng bổ sung được tiếp tục đưa vào đây, còn mặt trận Tây Nguyên thì buộc phải ngừng tiến công do hết dự trữ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề xuất vòng qua phía tây Huế, chia lực lượng và hỏa lực đánh vào Vùng Chiến thuật I. Tuy nhiên các đơn vị công binh mở đường do thiếu phương tiện nên thực hiện quá chậm, không kịp phục vụ mục tiêu chiến dịch (con đường này sau đó đã phát huy tác dụng vào chiến dịch mùa xuân năm 1975).[9], 6 sư đoàn tham gia chiến dịch Trị Thiên gồm 312, 308, 324, 325, 320, 341 đã hành quân đánh trực diện từ phía bắc xuống Vùng Chiến thuật I, nơi có Quân đoàn I và lực lượng tổng trù bị của Quân lực Việt Nam Cộng hòa gồm các Lữ đoàn Biệt động quân, Sư đoàn Dù số 1 và Sư đoàn Thủy quân Lục chiến số 1, được không quân và Hải quân Mỹ chi viện tối đa.

Trên địa hình nhỏ hẹp dài, bên núi, bên biển dẫn đến Vùng Chiến thuật 1, 6 sư đoàn tiến công trong tình cảnh liên tục bị bom rải thảm B-52, pháo kích từ chiến hạm Mỹ, pháo kích từ Vùng Chiến thuật 1. Quân Giải phóng bị chặn lại, chỉ chiếm được nửa phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Theo thông tin gần đây cho biết, trong suốt 9 tháng chiến dịch, Sư đoàn 308 thương vong 70% quân số; Sư đoàn 312 đã bổ sung quân 13 đợt, mỗi đợt 500 người; Sư đoàn 320 thương vong 80% quân số. Các sư đoàn còn lại tham chiến đều mất ít nhất nửa số quân. Tổng thương vong lên tới hơn 30 ngàn người (trong đó gần 14.000 hy sinh). Trung đoàn 48 thuộc Sư đoàn 320 với lời nguyền "Trung đoàn 48 còn, Thành cổ Quảng Trị còn" đã rút khỏi chiến địa khi chỉ còn gần 80 chiến sĩ. Câu thơ "Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/Dưới sông còn đó bạn tôi nằm ..." đã đi vào lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước như tiếng khóc thương đồng đội, chiến sĩ da diết, bi thương nhất. Chiến dịch cũng khiến Hà Nội tiêu tốn hơn 300.000 viên đạn pháo, gần 4/5 lượng đạn pháo trong kho, dẫn đến tình trạng thiếu đạn, chỉ còn 100.000 viên cuối năm 1974.

Cuối năm 1972, Võ Nguyên Giáp đã bố trí lực lượng đánh trả cuộc tập kích đường không của Không lực Mỹ suốt 12 ngày đêm. Thất bại trong chiến dịch này buộc Mỹ phải chấp nhận ký Hiệp định Paris với những điều khoản nhân nhượng mà chính họ trước đó đã từ chối.

Năm 1975, Võ Nguyên Giáp đã tán thành đề xuất của Trung tướng Hoàng Minh Thảo chọn địa bàn Nam Tây Nguyên làm hướng tấn công chiến lược, xin ý kiến Bộ Chính trị và cử Đại tướng Văn Tiến Dũng vào Nam chỉ đạo đánh đòn "điểm huyệt" vào hệ thống phòng ngự của Việt Nam Cộng hòa tại Buôn Mê Thuột. Chính ông nhân đà thắng trận Buôn Ma Thuột, trực tiếp ra lệnh Trung tướng Lê Trọng Tấn gấp rút giải phóng Đà Nẵng trong 3 ngày. Chính ông đề xuất và ra quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh mà trong đó Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Trần Văn Trà làm Phó Tư lệnh, chỉ huy 5 cánh quân với sức mạnh của 20 sư đoàn đồng loạt tiến vào giải phóng Sài Gòn. Mệnh lệnh nổi tiếng nhất của ông chỉ đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh là "Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng".

30 tháng 4 năm 1975 đến nay

Trong một thời gian ngắn từ tháng 7 năm 1960 đến tháng 1 năm 1963 ông kiêm thêm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước..

Năm 1980, ông thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhưng vẫn tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị (đến năm 1982) và Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học - Kỹ thuật. Người thay thế ông ở Bộ Quốc phòng là Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, một trong những cộng sự lâu năm nhất của ông.

Năm 1983 ông được Hội đồng Bộ trưởng phân công kiêm thêm vai trò Chủ tịch Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch khi Ủy ban này được thành lập (cùng với một số Bộ trưởng các Bộ và Tổ chức khác làm phó).[10]

Năm 1991, ông thôi chức ủy viên Trung ương, Phó Thủ tướng, nghỉ hưu ở tuổi 80.

Thời gian gần đây tuy tuổi cao, sức yếu, nhưng ông vẫn quan tâm và đưa ra một số lời bình luận trên mặt báo về tình hình đất nước như có bài báo yêu cầu kiểm định và báo cáo Đại hội Đảng Cộng sản X về Vụ PMU18[11], hay cuộc gặp gỡ và khuyến khích doanh nhân làm xuất khâu nông sản.[12]

Vào ngày 1 tháng 11 năm 2007 ông gửi thư trong đó bày tỏ sự phản đối chủ trương xây dựng Nhà Quốc hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu[13]. Ông cũng có bài viết thực trạng và kiến nghị 6 vấn đề "cơ bản và cấp bách" nhằm triển khai có kết quả công cuộc đổi mới nền giáo dục và đào tạo của Việt Nam hiện nay.[14]

Vào đầu năm 2009, Võ Nguyên Giáp có nhiều góp ý về các sự kiện lớn của đất nước. Tiêu biểu là việc góp ý về Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên, không dưới 3 lần, ông đã viết thư yêu cầu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dừng dự án này[15], vì lý do an ninh quốc gia và vấn đề môi trường.

Ngày 25 tháng 8 năm 2010, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã mừng đại thọ 100 tuổi. Đến thời điểm này, ông là chính khách Việt Nam sống lâu nhất (cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng mất năm 2000, thọ 94 tuổi).

VI. Các giải thưởng và danh hiệu

1. Huân chương

Huân chương Sao Vàng (1992)

2 Huân chương Hồ Chí Minh

2 Huân chương Quân công hạng nhất

Huân chương Chiến thắng hạng nhất.

2. Huy hiệu

Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng,[16]

VII. Đánh giá

" Tướng Giáp hoàn toàn tận tụy với nhân dân và đất nước "

Ông Giáp đã xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam từ 34 người vào tháng 12 năm 1944 thành một đội quân với hơn một triệu người năm 1975. Ông đã chỉ huy quân đội tốt trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Tên tuổi ông gắn liền với chiến thắng Điện Biên Phủ, với nỗi hổ thẹn của Quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam, với học thuyết "Chiến tranh Nhân dân", với toàn bộ cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.

Với hơn 50 năm tham gia hoạt động chính trị, trong đó có 30 năm là Tổng tư lệnh Quân đội, ông có uy tín lớn trong Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Quân đội Nhân dân Việt Nam. Thông tin chính thống gần đây cho biết: "Tất cả các ý kiến của anh Văn đều được Bộ Chính trị tiếp thu và tán thành trong suốt thời kỳ chiến tranh". Thượng tướng Trần Văn Trà đã từng gọi Đại tướng Võ Nguyễn Giáp là "tư lệnh của tư lệnh, chính uỷ của chính uỷ". Thượng tướng Giáo sư Hoàng Minh Thảo khi được hỏi về trình độ đánh trận của các tướng lĩnh Việt Nam đã trả lời:

" Tất nhiên đầu tiên là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Thứ hai là tướng Lê Trọng Tấn. Thứ ba là tướng Hoàng Văn Thái và thứ tư là tướng Nguyễn Hữu An. "

- Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo[17]

Với quân đội, ông thực sự là tấm gương sáng cho các thế hệ tướng lĩnh về đạo đức, sự chuẩn mực, tài cầm quân, nghệ thuật chiến đấu, chiến thắng. Ông là hình ảnh rực sáng, là tượng đài sừng sững trong lòng cán bộ, chiến sĩ, những người đào hào trong chiến dịch Điện Biên Phủ, những người đã xẻ dọc Trường Sơn, đào địa đạo Củ Chi đánh Mỹ. Nếu dân gian có câu: "Người lính dũng cảm trong tay người tướng giỏi" thì khi có ông là Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, những người lính của đạo quân này vốn xuất thân từ nông dân đã trở thành những chiến sĩ kiên cường nhất, bất khuất nhất và bách chiến bách thắng. Nhiều tờ báo của Đảng, của Quân đội, cũng như của công chúng và các kênh truyền hình trong nhiều năm nay đã luôn nhắc đến ông như là một thiên tài quân sự kiệt xuất của người Việt.

" Võ Nguyên Giáp là một trong 21 vị danh tướng của thế giới trong 25 thế kỷ qua, từ thời Alexandre Đại đế đến Hannibal rồi đến thời cận hiện đại với Kutuzov, Jukov..., những người đã có chiến công tạo nên bước ngoặt của nghệ thuật chiến tranh. "

- Ducan Townson, sách Những vị tướng lừng danh[18]

" Từ năm 1944-1975, cuộc đời của Võ Nguyên Giáp gắn liền với chiến đấu và chiến thắng, khiến ông trở thành một trong những thống soái lớn của mọi thời đại. Với 30 năm làm tổng tư lệnh và gần 50 năm tham gia chính sự ở cấp cao nhất, ông tỏ ra là người có phẩm chất phi thường trong mọi lĩnh vực của chiến tranh. Khó có vị tướng nào có thể so sánh với ông trong việc kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính qui. Sự kết hợp đó xưa nay chưa từng có. "

- Tướng Peter Mac Donald, nhà nghiên cứu khoa học lịch sử quân sự người Anh[18]

" Tài thao lược của tướng Giáp về chiến lược, chiến thuật và hậu cần được kết hợp nhuần nhuyễn với chính trị và ngoại giao... Sức mạnh hơn hẳn về kinh tế, tính ưu việt về công nghệ cùng với sức mạnh áp đảo về quân sự và hỏa lực khổng lồ của các quốc gia phương Tây đã phải khuất phục trước tài thao lược của một vị tướng từng một thời là thầy giáo dạy sử. "

- Bách khoa toàn thư quân sự Bộ Quốc phòng Mỹ (xuất bản năm 1993)[18]

" Trong suốt thời gian đó [quá trình chỉ huy quân đội của vị tổng tư lệnh], ông không chỉ trở thành một huyền thoại mà có lẽ còn trở thành một thiên tài quân sự lớn nhất của thế kỷ 20 và một trong những thiên tài quân sự lớn nhất của tất cả các thời đại... Ông Giáp là vị tướng duy nhất trong lịch sử hiện đại tiến hành chiến đấu chống kẻ thù từ thế vô cùng yếu, thiếu trang bị, thiếu nguồn tài chính, dù mới đầu trong tay chưa có quân, vậy mà vẫn liên tiếp đánh bại tàn quân của đế quốc Nhật Bản, quân đội Pháp (một đế chế thực dân số 2) và quân đội Mỹ (một trong hai siêu cường thế giới)... Ông Giáp là chuyên gia hiện hữu vĩ đại nhất về chiến tranh nhân dân... là một vị tướng hậu cần vĩ đại của mọi thời đại. "

- Nhà sử học quân sự Mỹ Cecil Curay, trong tác phẩm "Chiến thắng bằng mọi giá - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thiên tài của Việt Nam"[18]

Trong thời gian gần đây, tại các lễ hội, mít tinh, giải thi đấu thể thao lớn nhỏ trong nhà, ngoài trời, nhiều nam nữ thanh niên đã mang ảnh chân dung của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra vẫy cổ động. Điều này cho thấy, ông không chỉ là thần tượng của thế hệ kháng chiến chống giặc ngoại xâm trước đây mà còn là hình ảnh lẫm liệt trong lòng giới trẻ, thanh niên, trí thức ngày hôm nay. Thế hệ trẻ nhìn nhận lịch sử và ngưỡng mộ ông một cách tự nguyện và chân thành nhất.

Danh tiếng của ông không chỉ bó hẹp ở Việt Nam mà bạn bè năm châu bốn biển khi nhắc đến tên Võ Nguyên Giáp đều bày tỏ sự ngưỡng mộ sâu sắc, các dân tộc châu Phi và Mỹ La-tinh tin rằng chiến thắng Điện Biên Phủ do ông chỉ huy là khởi nguồn cho nền độc lập hôm nay của họ.

Nếu như tiêu chí chọn tướng của Hồ Chủ tịch là "Đánh thắng Đại tướng được phong Đại tướng" thì suốt cuộc đời mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã lần lượt đọ sức và đánh thắng 10 đại tướng của Pháp và Mỹ (4 Pháp và 6 Mỹ), chưa kể đến nhiều viên đại tướng của chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Các tướng lĩnh Mỹ khi nhắc đến ông vẫn thường gọi ông là "Đại tướng 5 sao", William Westmoreland gọi ông là "Tướng huyền thoại" (Legendary Giap)... Trong Bách Khoa Toàn Thư của Mỹ và của nhiều nước, tên và hình ảnh của ông được ghi lại như là một trong những vĩ nhân quân sự hiển hách nhất.

Kỷ niệm 60 năm ngày phát hành số đầu tiên, Thời báo châu Á (Time Asia) đã ra số đặc biệt giới thiệu các "Anh hùng châu Á", gồm các nhân vật làm thay đổi cục diện châu lục trong những thập kỷ gần đây. Những nhân vật được giới thiệu gồm Mahatma Gandhi, Jawaharlal Nehru, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thiền sư Thích Nhất Hạnh,...[19]

Trong một cuốn sách được xuất bản tại Anh năm 2008 mang tựa đề Great Military Leaders and Their Campaigns (Những nhà lãnh đạo quân sự lớn và những chiến dịch của họ). Một cuốn sách bề thế, dày hơn 300 trang khổ lớn, với hơn 500 tấm ảnh màu minh hoạ của Nhà xuất bản Thames&Hudson dành để giới thiệu 59 nhân vật danh tiếng nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh của thế giới trong 2500 năm qua, xếp theo tình tự thời gian từ cổ đến kim. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được lựa chọn là nhân vật thứ 59, liền kề với Đô đốc Nimitz của Hoa Kỳ, người chỉ huy mặt trận Thái Bình Dương trong Đại chiến II, và cũng là người duy nhất trong 59 nhân vật hiện vẫn còn sống.[20]

1. Đánh giá của tùy viên quân sự các nước

Ngày 5 tháng 5 năm 2009, nhân kỷ niệm 55 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Đại tướng Giáp đã tiếp 26 tùy viên quân sự của các nước Lào, Nga, Cuba, CHDCND Triều Tiên, Hoa Kỳ,... tại Việt Nam. Các tùy viên quân sự bày tỏ vinh dự vì được gặp mặt Đại tướng, nhà quân sự tài ba. Họ cũng rất ấn tượng đối với những tác phẩm về chiến thuật quân sự của Đại tướng. Họ xin chữ ký của Đại tướng vào những cuốn sách do Đại tướng viết, và tặng Đại tướng biểu tượng của Đoàn tùy viên quân sự nước ngoài tại Việt Nam.[21]

VIII. Vấn đề sức khỏe hiện nay

Ngày 25 tháng 8 năm 2010, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã mừng đại thọ bước sang tuổi 100. Sức khỏe của ông có yếu hơn trước cũng là điều dễ hiểu. Mới đây nhất, ngày 22 tháng 5 năm 2011, Truyền hình quốc gia Việt Nam đã phát sóng chương trình thời sự với hình ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang thực hiện việc bỏ phiếu thực hiện quyền công dân của mình trong cuộc bầu cử Quốc hội và HDND các cấp, xóa đi những đồn đoán về sức khỏe của ông trên những phương tiện thông tin không chính thống[22]. Trong dịp Ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7/2011 vừa qua, Truyền hình Quân đội nhân dân cũng đã phát sóng hình ảnh Trung tướng Lê Hữu Đức - Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đến thăm hỏi một số tướng lĩnh cao cấp đang năm điều trị tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, trong đó có Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Qua theo dõi trong hình ảnh thì sức khỏe Đại tướng đã tốt lên nhiều. [23]

IX. Các tác phẩm chính

Vấn đề dân cày (đồng tác giả với Trường Chinh), 1938;

Đội quân giải phóng, 1947;

Từ nhân dân mà ra, 1964;

Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử, 1964;

Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng, 1970;

Những năm tháng không thể nào quên, 1972;

Vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân, 1972;

Những chặng đường lịch sử (gồm 2 tác phẩm đã in trước đó là Từ nhân dân mà ra và Những năm tháng không thể nào quên), 1977;

Chiến đấu trong vòng vây, 1995;

Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, 1979;

Đường tới Điện Biên Phủ;

Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử;

Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng, 2000.

X. Gia đình riêng

Võ Nguyên Giáp kết hôn lần đầu với bà Nguyễn Thị Quang Thái năm 1934 và có với nhau một người con gái là Võ Hồng Anh (1941-2009), một tiến sĩ khoa học ngành Toán-lý đã từng đoạt giải thưởng Kovalevskaia năm 1988.

Năm 1946, ông tái hôn với giáo sư Đặng Bích Hà, con gái của giáo sư Đặng Thai Mai. Ông bà có 4 người con, 2 gái và 2 trai

Võ Hòa Bình (1951-), con gái.

Võ Hạnh Phúc (10 tháng 8 năm 1952-), con gái, vợ đầu tiên của Trương Gia Bình nay đã li hôn. Hiện là Ủy viên Hội đồng quản trị Tập đoàn HIPT.

Võ Điện Biên (1954-), con trai. Hiện là Giám đốc Công ty CP Đông Sơn.

Võ Hồng Nam (1956-), con trai. Hiện là Giám đốc Công ty CP Máy tính Truyền thông Hồng Nam.

XI. Câu nói nổi tiếng " Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó.[24] "

" Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng phút, từng giờ; xốc tới mặt trận; giải phóng miền Nam; thống nhất đất nước! "

-Mệnh lệnh nổi tiếng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong Chiến dịch Hồ Chí Minh[25][26]

Chú thích

Lý Công Uẩn (974 - 1028)

Tóm tắt: Lý Thái Tổ (chữ Hán: 李太祖; tên húy là Lý Công Uẩn 李公蘊; 974 - 1028) là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Hậu Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời năm 1028. Dưới triều nhà Tiền Lê, ông làm quan đến chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, là một chức quan võ chỉ huy quân đội bảo vệ kinh đô Hoa Lư bấy giờ. Ông được lực lượng của Đào Cam Mộc và sư Vạn Hạnh tôn làm vua sau khi vua Lê Long Đĩnh qua đời.

More Sharing ServicesGửi cho bạn bè | Share on facebookShare on twitterShare on emailShare on print

--------------------------------------------------------------------------------

Gửi bởi: Scorpion -- Thời gian: 7/8/2011 5:05:06 PM

Lý Thái Tổ (chữ Hán: 李太祖; tên húy là Lý Công Uẩn 李公蘊; 974 - 1028) là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Hậu Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời năm 1028. Dưới triều nhà Tiền Lê, ông làm quan đến chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, là một chức quan võ chỉ huy quân đội bảo vệ kinh đô Hoa Lư bấy giờ. Ông được lực lượng của Đào Cam Mộc và sư Vạn Hạnh tôn làm vua sau khi vua Lê Long Đĩnh qua đời. Dưới triều ông, triều đình trung ương được củng cố,[1] các thế lực phiến quân bị đánh dẹp, kinh đô được dời từ Hoa Lư về thành Đại La vào tháng 7 năm Thuận Thiên thứ hai (1010), và thành này được đổi tên thành Thăng Long.

I. Thân thế

Lý Công Uẩn sinh ngày 12 tháng Hai năm Giáp Tuất[2] (tức 8 tháng 3 năm 974), là người ở hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay ở xã Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh có đền thờ) .[3] Mẹ là người họ Phạm. Khi lên 3 tuổi, mẹ ông đem ông cho sư Khánh Văn, trụ trì chùa Cổ Pháp làm con nuôi và đi tu từ đó. Đến 7 tuổi, ông được cha nuôi gửi cho một người bạn là thiền sư nổi tiếng là Vạn Hạnh dạy dỗ.

Lớn lên, với sự bảo hộ của sư Vạn Hạnh, ông vào kinh đô Hoa Lư làm quan nhà Tiền Lê, thăng đến chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ông là người khoan thứ nhân từ, có lượng đế vương. Các sử gia ghi chép không thống nhất về nguồn gốc và thân thế của ông[4][5][6]. Ông đã được sư Vạn Hạnh ở chùa Lục Tổ khen như sau:

" Đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ.

"

-Sư Vạn Hạnh[2]

Tượng Lý Thái Tổ ở Hà Nội

II. Thời Tiền Lê

Lý Công Uẩn lớn lên thời Lê Đại Hành, ông theo giúp hoàng tử Lê Long Việt.

Năm 1005, Lê Đại Hành mất, các con tranh giành ngôi vua. Năm 1006, Lê Long Việt giành được ngôi báu, trở thành vua Lê Trung Tông. Nhưng chỉ được 3 ngày Trung Tông bị em là Lê Long Đĩnh giết hại giành ngôi. Lúc đó các quan đều sợ hãi bỏ chạy, chỉ có Lý Công Uẩn đến ôm xác Trung Tông khóc.

Lê Long Đĩnh không những không trị tội mà khen Lý Công Uẩn là người trung nghĩa, tiếp tục trọng dụng ông vào chức cho làm Tứ sương quân phó chỉ huy sứ, rồi sau đó thăng đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ.

III. Lên ngôi

Năm 1009, khi vua Lê Long Đĩnh qua đời, ông 35 tuổi. Lực lượng của quan Chi nội là Đào Cam Mộc cùng với sư Vạn Hạnh đã tôn ông lên ngôi hoàng đế. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép Lê Long Đĩnh mất ở trong cung, Đại Việt sử lược cũng chỉ chép Đến năm thứ 2 niên hiệu Cảnh Trị (năm Kỷ Dậu- 1009- ND). Ngọa Triều Mất, con nối ngôi thì còn nhỏ.[7] Tuy vậy, Đại Việt sử ký tiền biên trang 185 lại khẳng định Lý Công Uẩn giết Lê Long Đĩnh để đoạt ngôi và truy đặt thụy hiệu xấu (Ngọa Triều):

" Lý Thái Tổ rất căm phẫn trước tội ác giết anh cướp ngôi của Khai Minh Vương, nhân lúc Khai Minh Vương bệnh tật, sai người vào đầu độc giết đi rồi giấu kín việc đó, nên sử không được chép.

"

-Đại Việt sử ký tiền biên

Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư cũng chép thái độ của Lý Công Uẩn sau khi nghe Vạn Hạnh khuyên giành lấy ngai vàng:

" Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, bảo người anh em đem Vạn Hạnh giấu ở Tiêu Sơn. Song từ đấy cũng lấy thế tự phụ, mới nảy lòng ngấp nghé ngôi vua

"

-Đại Việt Sử ký Toàn thư[8].

Đại Việt sử lược có ghi chép: [7]

Trong làng vua có cây bông gạo bị sét đánh, để dấu vết thành bài văn, trong đó có những câu:

Phiên âm:

Thụ căn yểu yểu

Mộc biểu thanh thanh

Hòa đao mộc lạc

Thập bát tử thành...

Tạm dịch:

Gốc rễ thăm thẳm

Vỏ cây xanh xanh

Lúa dao cây rụng

Mười tám hạt thành...

Theo phép chiết tự chữ Hán, mấy câu này ẩn ý nhà Lê sẽ mất (cây rụng) và nhà Lý (thập (十) + bát (八) + tử (子) thành chữ lý (李)) sẽ nổi lên. Sư Vạn Hạnh bèn nói với Lý Công Uẩn rằng: "Gần đây tôi thấy bài sấm văn lạ, biết nhà Lê đương mất mà nhà Lý đương lên. Họ Lý lại không có ai khoan hòa, nhơn hậu và trung thứ như ông, nên rất được lòng dân. Nay tuổi của tôi đã hơn 70 rồi, chỉ sợ không kịp thấy sự thịnh trị mà lấy làm giận". Lý Công Uẩn sợ lời nói tiết lộ ra nên bảo Vạn Hạnh vào ẩn ở Ba Sơn".

Còn Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, Chính biên, Quyển I thì nêu ra lời phê về sấm truyền họ Lý sẽ làm vua:

" Bờ cõi Bắc Nam tuy có khác, nhưng vận hội vẫn như nhau: nhà Lê thì có chuyện khoác áo long cổn, nhà Lý thì lời sấm truyền ghi trên thân cây, sao mà giống chuyện với bên Tống thế! Hay là người làm sử thấy thế, gò ép gán gẩm vào với nhau để cho thần dị câu chuyện, chứ trời kia có ý làm ra như thế đâu?

"

-Khâm định Việt sử Thông giám cương mục[9].

Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế tháng 11, ngày Quý Sửu, năm Kỷ Dậu[10] (tức 21 tháng 11 năm 1009), đặt niên hiệu là Thuận Thiên (nghĩa là "theo ý trời"). Ông phong cha là Hiển Khánh Vương, mẹ là Minh Đức Thái hậu, chú là Vũ Đạo Vương, anh ruột là Vũ Uy Vương, em ruột là Dực Thánh Vương. Ông lập sáu vương hậu, con trưởng ông là Lý Phật Mã được phong Khai Thiên Vương, lập làm Thái tử. Các con trai khác của ông cũng được phong vương. Đồng thời, con gái lớn của ông là An Quốc công chúa Lý Thiềm Hoa được gả cho Đào Cam Mộc, Đào Cam Mộc cũng được phong Nghĩa Tín Hầu. [7] Một người con gái khác là Lĩnh Nam công chúa là Lý Bảo Hòa cho động chủ Giáp Thừa Quý.

IV. Trị vì

1. Dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long

Lý Thái Tổ thấy đất Hoa Lư, cố đô của Đại Cồ Việt chật hẹp không có thể mở mang ra làm chỗ đô hội được, bèn định dời đô về thành Đại La (hay La Thành), ngày nay là Hà Nội. Quyết định rời bỏ hẳn một kinh đô từ vùng núi non hiểm trở ra vùng đồng bằng có thể cho thấy bản lĩnh và tầm nhìn của vị hoàng đế khai sáng ra triều Lý và thủ đô Hà Nội của Việt Nam. Trong Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu), Lý Thái Tổ khẳng định làm thế không phải theo ý riêng như các cựu triều Đinh và Tiền Lê, mà để mưu việc lớn, thấy thuận tiện thì thay đổi[11]. Cũng trong Chiếu dời đô, ông còn viết Thăng Long là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.

Cố đô Hoa Lư, nơi núi non hiểm trở

Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận: [2]

Bề tôi đều nói: "Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo". Vua cả mừng.

Tháng 7 năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) thì khởi sự dời đô. Khi ra đến La Thành, ông lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng bay lên trời nên đổi tên Đại La thành sang Thăng Long thành, và cải Hoa Lư làm Trường An phủ và Cổ Pháp làm Thiên Đức phủ.

2. Tôn giáo

Triều Lý bấy giờ sùng đạo Phật, nên những người đi tu, lấy tiền kho ra để xây chùa, đúc chuông được nhà vua trọng đãi. Tháng 6 năm Thuận Thiên thứ 9 (Mậu Ngọ 1018),[7] Lý Thái Tổ sai quan là Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc sang nhà Tống (Trung Quốc) thỉnh kinh Tam Tạng đem về để vào kho Đại Hưng. [12]

3. Chính trị

Lúc bấy giờ nhà Tống của Trung Quốc bận nhiều việc nên không sinh sự lôi thôi gì với Đại Cồ Việt. Bởi vậy khi Lý Thái Tổ lên ngôi, sai sứ sang cầu phong, hoàng đế nhà Tống cho làm Giao Chỉ quận vương, sau lại gia phong làm Nam Bình vương vào năm 1017 (thời Tống Chân Tông). Các vương quốc láng giềng như Chiêm Thành và Chân Lạp đều sang triều cống, cho nên việc bang giao thời bấy giờ được yên trị. Năm Thuận Thiên thứ 11 (Canh Thân 1020), ông lệnh cho con đem quân đi đánh Chiêm Thành, và giành chiến thắng. [7]

Vua Thái Tổ lưu tâm về việc sửa sang trong nước: đổi phép cũ của nhà Tiền Lê; chia nước ra làm 24 lộ, gọi Hoan Châu và Ái Châu là trại. Năm 1013, lại định ra 6 hạng thuế là: thuế ruộng, đầm, ao; thuế đất trồng dâu và bãi phù sa; thuế sản vật ở núi; thuế mắm muối đi quan Ải quan; thuế sừng tê giác, ngà voi và hương ở trên mạn núi xuống; thuế tre gỗ hoa quả. Ông cho những bậc công chúa coi việc trưng thu các thứ thuế ấy.

Lý Thái Tổ còn thực hiện chính sách "thân dân". Dưới triều ông, có nhiều lần nhân dân được xá thuế, chẳng hạn như tô thuế được xá 3 năm vào năm 1016. Đến năm 1017, tô ruộng cũng được xá. [1]

4. Đánh dẹp

Ở trong nước cũng có đôi ba nơi nổi lên làm loạn, như ở Diễn Châu (thuộc Nghệ An) và ở mạn thượng du hay có sự phản nghịch, nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp mới yên được. Thời bấy giờ các hoàng tử đều phong tước vương và phải cầm quân ra chiến trường, bởi vậy ai cũng giỏi nghề dùng binh.

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tháng Hai năm Tân Hợi (1011), tức là năm Thuận Thiên thứ hai, vua Lý Thái Tổ mang sáu quân đi phạt quân Cử Long ở Ái Châu. Quân Cử Long thất bại, bộ lạc bị đốt và người cầm đầu bị bắt và giải về.

Tháng 10 năm Thuận Thiên thứ 4 (Quý Sửu 1013), vua Thái Tổ thân chinh đánh quân Man ở châu Vị Long, quân ông giành chiến thắng.

Có lần ông đem quân đi đánh Diễn Châu. Khi ông về tới Vũng Biện, theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trời đất tối sầm, gió sấm dữ dội. Thấy vậy, ông đốt hương và khấn trời:

"Tôi là người ít đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo sợ như sắp sa xuống vực sâu, không dám cậy binh uy mà đi đánh dẹp càn bậy. Chỉ vì người Diễn Châu không theo giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng dân, tội ác chồng chất, đến nay không thể dung tha không đánh. Còn như trong khi đánh nhau, hoặc giết oan kẻ trung hiếu, hoặc hại lầm kẻ hiền lương, đến nỗi hoàng thiên nổi giận phải tỏ cho biết lỗi lầm, dẫu gặp tổn hại cũng không dám oán trách. Đến như sáu quân thì tội lỗi có thể dung thứ, xin lòng trời soi xét".

Sau khi ông khấn, gió sấm không còn dữ dội nữa và trở nên yên lặng. [2]

Năm Thuận Thiên thứ 5 (Giáp Dần 1014), được lệnh của Lý Thái Tổ, Dực Thánh Vương đánh dẹp quân Man. Theo Đại Việt Sử Lược, ở Lộ Kim Hoa, quân của Dự Thánh Vương đánh bại tướng Man là Đỗ Trương Huệ, chém vạn đầu giặc, bắt được quân sĩ và ngựa nhiều vô số. Ly Châu dâng con Kỳ Lân. Đổi phủ Ứng Thiên làm Nam Kinh. Chân Lạp sang cống. [7]

Năm Thuận Thiên thứ 13 (Nhâm Tuất 1022), ông ra lệnh cho Dực Thánh Vương đánh dẹp Đại Nguyên Lịch.

Năm Thuận Thiên thứ 15 (Giáp Tý 1024), Thái tử được lệnh ra quân đánh châu Phong Luân, còn Khai Quốc Vương thì đánh Châu Đô Kim. Thành Thăng Long được xây.

Năm Thuận Thiên thứ 18 (Mậu Thìn 1028), Thái tử lại được lệnh đánh châu Thất Nguyên, Đông Chinh Vương cũng đi đánh Châu Văn. [7]

V. Qua đời

Theo Đại Việt sử lược, năm Mậu Thìn 1028 (tức năm Thuận Thiên thứ 19), sức khỏe nhà vua không được tốt. Ông qua đời ở điện Long An[7] vào tháng 3, ngày Mậu Tuất (tức ngày 31 tháng 3 năm 1028). Ông ở ngôi 19 năm, hưởng thọ 55 tuổi. Ông được táng ở Thọ Lăng, Thiên Đức phủ, miếu hiệu là Thái Tổ, thụy hiệu là Thần Vũ Hoàng đế, tôn hiệu là Phụng Thiên Chí Lý Ứng Vận Tự Tại Thánh Minh Long Hiện Duệ Văn Anh Vũ Sùng Nhân Quảng Hiếu Thiên Hạ Thái Bình Khâm Minh Quảng Trạch Chương Minh Vạn Bang Hiển Ứng Phù Cảm Uy Chấn Phiên Man Duệ Mưu Thần Trợ Thánh Trị Tắc Thiên Đạo Chính Hoàng Đế.

Khi Lý Thái Tổ vừa qua đời, việc tế táng lại chưa hoàn tất, thì ba hoàng tử Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương và Đông Chinh Vương cùng quân sĩ vây hãm thành, nhằm mục đích cướp ngôi Thái Tử.[12] Được sự giúp đỡ của Lê Phụng Hiểu, [13] Thái tử Lý Phật Mã lên nối ngôi, tức là vua Lý Thái Tông - vị vua thứ hai của nhà Lý.

VI. Gia quyến

Cha: không rõ (được truy tôn là Hiển Khánh vương)

Mẹ: Phạm thị (được truy tôn là Minh Đức thái hậu)

Anh em trai:

Vũ Uy vương (anh, không rõ tên)

Dực Thánh vương (em, không rõ tên)

Vợ: 9 hoàng hậu, trong đó có một số người được sử ghi danh hiệu hoặc họ:

Tá Quốc

Lập Nguyên

Lập Giáo

Lê Thị (không rõ danh hiệu, mẹ của thái tử Phật Mã) [14]

Con trai:

Lý Phật Mã (1000-1054)

Đông Chinh vương Lý Lực

Vũ Đức vương (không rõ tên, ? - 1028)

Khai Quốc vương Lý Bồ

Con gái: 13 người, chỉ có 1 người được sử ghi danh hiệu:

An Quốc công chúa (gả cho Đào Cam Mộc)

VII. Nhận định

Các sử gia phong kiến Việt Nam theo quan điểm Nho giáo có chê trách ông ở mặt quá sùng tín vào đạo Phật, chê trách cơ cấu tổ chức của triều đình ông không phù hợp với quan niệm của họ.

Sử gia Lê Văn Hưu phê bình trong Đại Việt sử ký:

" Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể. Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là làm việc phúc chăng? Bậc vua sáng nghiệp, tự mình cần kiệm, còn lo cho con cháu xa xỉ lười biếng, thế mà Thái Tổ để phép lại như thế, chả trách đời sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ Phật, lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước, có kẻ hủy thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích, dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đấy?

"

-sách này không còn, dẫn lại theo Đại Việt sử ký toàn thư.[2]

Cũng trong Đại Việt Sử ký, Lê Văn Hưu so sánh:

" Có người hỏi: Lê Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Thưa rằng: Kể về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ hơn. Nhưng về mặt tỏ rõ ân uy, lòng người suy tôn, hưởng nước lâu dài, để phúc cho con cháu thì Lê Đại Hành không bằng Lý Thái Tổ lo tính lâu dài hơn. Thế thì Lý Thái Tổ hơn ư? Đáp: Hơn thì không biết, chỉ thấy đức của họ Lý dày hơn họ Lê, vì thế nên nói theo họ Lý.

"

-sách này không còn, dẫn lại theo Đại Việt Sử ký Toàn thư,[8]

Sử thần Ngô Sĩ Liên soạn bộ Đại Việt Sử ký Toàn thư bình rằng:

" Lý Thái Tổ dấy lên, trời mở điềm lành hiện ra ở vết cây sét đánh. Có đức tất có ngôi, bởi lòng người theo về, lại vừa sau lúc Ngọa Triều hoang dâm bạo ngược mà vua thì vốn có tiếng khoan nhân, trời thường tìm chủ cho dân, dân theo về người có đức, nếu bỏ vua thì còn biết theo ai! Xem việc vua nhận mệnh sâu sắc lặng lẽ, dời đô yên nước, lòng nhân thương dân, lòng thành cảm trời, cùng là đánh dẹp phản loạn, Nam Bắc thông hiếu, thiên hạ bình yên, truyền ngôi lâu đời, có thể thấy là có mưu lược của bậc đế vương. Duy có việc ham thích đạo Phật, đạo Lão là chỗ kém.

"

-Đại Việt Sử Ký Toàn Thư[2].

Khâm định Việt sử Thông giám cương mục chính biên quyển thứ 2 nhận định:

" Nhà Lý được nước, cũng không phải chính nghĩa cho lắm, nhưng đương buổi Lê Ngoạ Triều, lòng người lìa tan, sinh dân vô chủ, không về với Công Uẩn còn biết theo ai?

"

-Khâm định Việt sử Thông giám cương mục [9].

VIII. Vinh danh

Lý Thái Tổ và các vị vua nhà Hậu Lý được thờ ở đền Đô tỉnh Bắc Ninh. Hiện nay, có một ngôi đền thờ riêng ông được xây dựng từ vốn các công trình 1000 năm Thăng Long do Hà Nội kết hợp với Ninh Bình là Đền Vua Lý Thái Tổ đặt tại trung tâm khu di tích Cố đô Hoa Lư.

Nhiều địa phương lấy tên ông đặt cho một số đường phố: phố Lý Thái Tổ ở Hà Nội, phố Lý Công Uẩn ở Hải Dương... Tại Hà Nội và Bắc Ninh đều có dựng tượng đài ông.

Tiến tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, Ban Chỉ đạo quốc gia kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội và nhiều đơn vị đã lên kế hoạch làm phim về Lý Công Uẩn với quy mô lớn như các bộ phim Chiếu dời đô, Đường tới thành Thăng Long, người con của rồng,...

Tài liệu tham khảo

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục Chính Biên Quyển thứ I

ĐVSKTT quyển II - Kỷ Nhà Lý

Việt Nam Sử Lược, Chương IV: Nhà Lý (1010 - 1225), tác giả Lệ thần Trần Trọng Kim

Đại Việt Sử ký Toàn thư, Kỷ nhà Lý

Đại Việt sử lược, quyển nhị: vua Thái Tổ

Chú thích

^ a b Vua Lý Thái Tổ

^ a b c d e f Đại Việt sử ký toàn thư, Bản Kỷ Toàn Thư, Quyển 2, Kỷ nhà Lý, Mục Thái Tổ Hoàng đế.

^ Châu là đơn vị hành chính thời Lý như cấp huyện hiện nay. Châu Cổ Pháp tương ứng với vùng Từ Sơn, Tiên Du bây giờ. Hương Diên Uẩn không rõ là nơi nào trong châu Cổ Pháp.

^ Hiện các nhà sử học vẫn còn chưa có kết luận cuối cùng về làng nào trong số các làng thuộc hương Cổ Pháp là quê hương của Lý Công Uẩn. Nhà sử học Nguyễn Quang Ngọc có trích dẫn các nghiên cứu của nhà sử học Trần Quốc Vượng cho rằng quê cha của Lý Công Uẩn là làng Dương Lôi. Ngày nay ở đây vẫn còn đền thờ 8 vị vua nhà Lý. Làng có 8 giáp, mỗi giáp thờ 1 vị vua nhà Lý. Trần Quốc Vượng cũng xác định rằng mộ của Hiển Khánh Vương, cha của Lý Công Uẩn, nằm tại khu Rừng Miễu, làng Dương Lôi. Còn quê mẹ Lý Công Uẩn, cũng theo Nguyễn Quang Ngọc trích dẫn bia Lý gia linh thạch tại chùa Tiêu, là xã Hoa Lâm, Đông Ngàn, phủ Từ Sơn xưa (nay thuộc xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội). Khu Thọ Lăng (là nơi chôn cất các vua nhà Lý) xưa là nơi cả 3 làng Đình Bảng, Dương Lôi, và Đại Đình được giao chăm sóc, mới chỉ thuộc về địa phận của làng Đình Bảng khoảng 100 năm nay. (Nguyễn Quang Ngọc, Góp phần nhận diện lại quê hương Nhà Lý, tham luận tại hội thảo "Những phát hiện khảo cổ học mới ở Đông Anh (Hà Nội) và vấn đề quê hương nhà Lý", Hà Nội, 27 tháng 12 năm 2008.)

^ Đại Việt Sử ký Toàn thư, Bản kỷ, quyển II, Kỷ nhà Lý, Thái Tổ hoàng đế, trang 240 chép: "Thái Tổ hoàng đế, họ Lý, tên húy là Công Uẩn, người châu Cổ Pháp Bắc Giang, mẹ họ Phạm, đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với người thần giao hợp rồi có chửa, sinh vua ngày 12 tháng Hai năm Giáp Tuất (974), niên hiệu Thái Bình năm thứ 5 thời Đinh. Lớn lên làm quan nhà Lê, thăng đến chức Điện tiền chỉ huy sứ. Khi Ngọa Triều băng, tự lập làm vua... là người khoan thứ nhân từ, tinh tế hòa nhã có lượng đế vương. Song chưa làm sáng chính học, lại ưa thích dị đoan, bị lụy vì chuyện đó."

^ Đại Việt sử ký tiền biên, bản kỷ, quyển II, trang 192 chép: "Theo bài Tiêu Sơn tự ký thì Thái hậu cảm thụ tinh con khỉ bạch mà sinh ra vua ở chùa này, sư Vạn Hạnh đưa về nuôi. Theo ngoại truyện thì: mẹ vua năm 20 tuổi, do nghèo túng lam lũ không có chồng, nương tựa vào vị sa môn già ở chùa Ứng Thiên cho làm việc nấu bếp, đêm đêm dậy đồ xôi. Một hôm bà ngủ quên, lửa tắt, sa môn vô tình chạm phải, giật mình tỉnh dậy thấy lòng xáo trộn rồi có thai, bị sa môn đuổi đi, bà vào chùa khác, đủ tháng thì sinh ra vua... Vua lúc bé thông minh, vẻ người tuấn tú khác thường, khi 7 tuổi Khánh Văn gửi nhờ sư Vạn Hạnh ở chùa Lục Tổ dạy cho học".

^ a b c d e f g h Đại Việt sử lược: Quyển nhị: Vua Thái Tổ

^ a b Đại Việt Sử ký Toàn thư, Bản kỷ, Kỷ nhà Lê, Đại Hành hoàng đế

^ a b Khâm Định Việt sử Thông giám Cương mục, Chính biên, quyển II

^ Đại Việt sử ký toàn thư, Bản Kỷ Toàn Thư, Quyển 1, Kỷ nhà Lê, Mục Ngọa Triều Hoàng đế.

^ Chiếu dời đô có đoạn: Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời, theo nản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993.

^ a b Việt Nam Sử Lược, Chương IV: Nhà Lý (1010 - 1225)

^ Theo Việt Nam Sử Lược, Bấy giờ các quan là bọn Lý nhân Nghĩa xin Thái-tử cho đem quân ra thành quyết được thua một trận. Khi quân của Thái-tử và quân các vương đối trận, thì quan Võ-vệ tướng-quân là Lê phụng Hiểu rút gươm ra chỉ vào Võ-đức-vương mà bảo rằng : "Các người dòm-ngó ngôi cao, khinh-dể tự-quân, trên quên ơn Tiên-đế, dưới trái nghĩa tôi con, vậy Phụng Hiểu xin dâng nhát gươm này!" Nói xong chạy xông vào chém Võ-đức-vương ở trận tiền. Quân các vương trông thấy sợ-hãi bỏ chạy cả. Dực-thánh-vương và Đông-chinh-vương cũng phải chạy trốn.

^ Sử không xác định bà có phải chính là một trong 3 người có danh hiệu Tá Quốc, Lập Nguyên và Lập Giáo hay không

Trần Lệ Xuân (1924- 24/04/2011), cũng thường được biết đến là bà Ngô Đình Nhu, là một gương mặt then chốt trong Chính quyền Ngô Đình Diệm của Việt Nam Cộng hòa cho đến khi anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị lật đổ và ám sát năm 1963.

I. Đệ nhất Phu nhân của Việt Nam Cộng hòa

Trần Lệ Xuân sinh tại Huế [1] cũng có tài liệu nói sinh tại Hà Nội.[1] Mẹ là bà Thân Thị Nam Trân, là cháu ngoại của vua Đồng Khánh và em họ của vua Bảo Đại,[2] cha của bà là luật sư Trần Văn Chương. Lúc nhỏ, bà học trường Albert Sarraut ở Hà Nội, tốt nghiệp tú tài Pháp. Năm 1943 bà kết hôn với Ngô Đình Nhu và cải đạo sang Công giáo, từ bỏ đạo Phật. Bà là dân biểu, chủ tịch Hội Phụ nữ Liên đới, thường được gọi là "Bà Cố vấn". Do tổng thống Ngô Đình Diệm không có vợ nên bà được coi là Đệ nhất Phu nhân (First Lady) của Việt Nam Cộng hòa từ năm 1955 đến năm 1963.

Trần Lệ Xuân cùng chồng và hai con tại gia đình - Tháng 6 năm 1962

Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, dư luận cho rằng Trần Lệ Xuân là người lộng quyền. Việc tổng thống Ngô Đình Diệm để cho bà cũng như Ngô Đình Thục, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Luyện và người em út Ngô Đình Cẩn tham gia vào chính sự tạo nên hình ảnh gia đình trị độc đoán kiểu phong kiến.

Trong sự kiện Phật Đản năm 1963, ngày 3 tháng 8 năm 1963, trong cuộc nói chuyện với phụ nữ bán quân sự, Trần Lệ Xuân lên tiếng rằng "hoạt động của Phật giáo là một hình thức phản bội xấu xa..."[cần dẫn nguồn]. Về sự tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức, bà nhiều lần công khai phát biểu "Vỗ tay hoan nghênh các vụ tự thiêu, nếu ai có thiếu xăng dầu thì tôi sẽ cho" và gọi vụ tự thiêu là "nướng sư" (nguyên văn: I would clap hands at seeing another monk barbecue show).[3] Trả lời phỏng vấn của ký giả báo New York Times, Trần Lệ Xuân nói: "Tôi còn thách mấy ông sư thêm mười lần nữa. Phương pháp giải quyết vấn đề Phật giáo là phớt tỉnh, không cần biết tới"[cần dẫn nguồn]. Các hành động, phát biểu thiếu cân nhắc và quá khích của bà góp phần đổ thêm dầu vào lửa dẫn đến cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963, chấm dứt nền Đệ nhất Cộng hòa.

Trần Lệ Xuân cùng con gái Ngô Đình Lệ Thủy - Paris năm 1963

Trần Lệ Xuân cũng là người khởi xướng kiểu áo dài cổ thuyền, khoét sâu (mà dân chúng vẫn gọi nôm na là "áo dài Trần Lệ Xuân") tạo ra một làn sóng thời trang áo dài hở cổ mới mà những người cổ học lên tiếng phê phán. Loại áo dài vẫn thịnh hành đến ngày hôm nay.

Bà còn cho xây dựng tượng Hai Bà Trưng, bị nhiều người cho rằng bà cố tình cho tạc tượng với gương mặt của Trưng Trắc giống với bà và Trưng Nhị giống với con gái của bà là Lệ Thuỷ. Ba năm sau ngày bà phải rời nước lưu vong, tượng đài này bị đập bỏ. Ngày nay, những cánh rừng do bà khởi xướng trồng trên đường từ Sài Gòn đến rừng Cát Tiên vẫn được nhân dân gọi là rừng Trần Lệ Xuân.

II. Sống lưu vong

Trong tháng 10 năm 1963, Trần Lệ Xuân cùng con gái Ngô Đình Lệ Thủy đi Hoa Kỳ và Roma với dự định sẽ vạch trần âm mưu lật đổ của Tổng thống Kennedy và CIA trước công chúng Mỹ.

Ngày 1 tháng 11 năm 1963 Trần Lệ Xuân và con gái đang trú ngụ tại khách sạn sang trọng Wilshire Hotel ở Beverly Hill, California thì cuộc đảo chính xảy ra, chồng và anh chồng bà bị giết.

Ngày 15 tháng 11 năm 1963, Trần Lệ Xuân và Lệ Thủy rời khỏi Los Angeles để đi Roma sinh sống sau khi phát biểu: "Tôi không thể cư ngụ ở Mỹ, vì lý do đơn giản chính phủ của họ đã đâm sau lưng tôi."

Ngày 16 tháng 10 năm 1971, tờ New York Times đưa tin bà bị đánh cướp số nữ trang trị giá trên 32 ngàn đôla tại Roma.

Ngày 9 tháng 5 năm 1975 khi trả lời phỏng vấn đài truyền hình NBC Trần Lệ Xuân đã tố cáo chính quyền Kennedy can thiệp vào Nam Việt Nam là "nhằm tạo thanh thế và sự ủng hộ cho Đảng Dân chủ Hoa Kỳ".

Ngày 2 tháng 11 năm 1986, Trần Lệ Xuân tố cáo Mỹ chơi xấu với gia đình bà trong việc bắt giữ Trần Văn Khiêm (em trai bà) về tội giết cha mẹ là ông bà Trần Văn Chương tại nhà riêng ở Washington, D.C. hồi tháng 7 cùng năm.[4]

Những năm đầu thập niên 1990, Trần Lệ Xuân sống tại vùng Riviera Pháp và thường chỉ trả lời phỏng vấn một lần duy nhất để lấy tiền và vé máy bay khứ hồi cho con gái út qua thăm ông bà ngoại ở Mỹ.[cần dẫn nguồn]

Trước khi qua đời, Trần Lệ Xuân đang sống một mình, viết hồi ký tại một trong 2 căn hộ thuộc quyền sở hữu của bà (căn thứ hai cho thuê) trên tầng 11 của một tòa nhà cao tầng gần tháp Eiffel tại Quận 15, thủ đô Paris (Pháp) và cắt đứt mọi quan hệ với các nhân vật chính trị. Hai căn hộ này theo bà là của một nữ bá tước tỷ phú người Ý là Capici tặng mặc dù hai người chưa từng gặp nhau.[cần dẫn nguồn]

Bà qua đời lúc 2 giờ sáng ngày 24 tháng 4 năm 2011 tại một bệnh viện ở Rome,Ý, thọ 87 tuổi.[5][6]

III. Gia đình

- Cha: Luật sư Trần Văn Chương, đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ

- Chồng: Ngô Đình Nhu, Cố vấn của Tổng thống

Các con:

- Ngô Đình Trác, tốt nghiệp kỹ sư canh nông, 55 tuổi (2007), lấy vợ người Ý, có 4 con (3 trai, 1 gái)

- Ngô Đình Quỳnh, tốt nghiệp ESSEC (Trường Kinh tế và Thương mại Pháp), hiện làm cho một công ty Mỹ tại Bruxelles, Bỉ

- Ngô Đình Lệ Thủy, trưởng nữ, mất vì tai nạn giao thông tại Paris năm 1968

- Ngô Đình Lệ Quyên, tiến sĩ Luật Đại học Roma, không nhập quốc tịch Ý tuy có chồng người Ý. Con trai 7 tuổi (2007) mang họ mẹ trên giấy tờ là: Ngô Đình Sơn.

IV. Câu nói nổi tiếng

Whoever has the Americans as allies does not need enemies ("Ai đã có Hoa Kỳ là đồng minh thì chẳng cần phải có kẻ thù")[7

Ngô Quyền (898 - 944) là một vị tướng và sau này là vua Việt Nam, là người sáng lập ra nhà Ngô. Năm 938 ông cầm quân đánh tan quân xâm lược Nam Hán tại sông Bạch Đằng, kết thúc 1.000 năm Bắc thuộc của Việt Nam.

I. Tiểu sử

Ngô Quyền (chữ Hán: 吳權) sinh năm 898, mất năm 944 quê ở Đường Lâm, (Sơn Tây, Hà Nội ngày nay). Ông là con trai của quan mục Đường Lâm là Ngô Mân, sau trở thành bộ tướng và con rể của Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân Dương Đình Nghệ (931 - 937), được giao cai quản Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay).

II. Bối cảnh lịch sử

Từ năm 907 ở Trung Hoa, nhà Đường mất, lần lượt nổi lên là các nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm tất cả là 52 năm, gọi là đời Ngũ Quí hay là Ngũ đại.

Năm 911, Lưu Cung làm Nam Bình Vương do nhà Hậu Lương phong cho, kiêm chức Tiết độ sứ Quảng Châu và Tĩnh Hải, có ý để lấy lại Giao Châu. Được ít lâu nhân có việc bất bình với nhà Hậu Lương, Lưu Cung tự xưng đế, quốc hiệu là Đại Việt. Đến năm Đinh Sửu (917) cải quốc hiệu là Nam Hán.

Năm Quí Mùi (923)[1] Lưu Cung sai tướng là Lý Khắc Chính đem quân sang đánh bắt được Khúc Thừa Mỹ (khi đó chấp nhận làm Tiết độ sứ của nhà Hậu Lương tại Giao Châu mà không thần phục nhà Nam Hán), rồi sai Lý Tiến sang làm thứ sử cùng với Lý Khắc Chính giữ Giao Châu.

Năm Tân Mão (931) Dương Đình Nghệ là tướng của Khúc Hạo ngày trước (cha của Khúc Thừa Mỹ) nổi lên, mộ quân đánh đuổi bọn Lý Khắc Chính và Lý Tiến đi, rồi tự xưng làm Tiết độ sứ. Được gần 7 năm, Dương Đình Nghệ bị nha tướng là Kiều Công Tiễn giết hại để cướp quyền.

III. Sự nghiệp

Trong thời gian cai quản Ái Châu, ông đã đem lại yên vui cho đất Ái Châu, tỏ rõ là người có tài đức.

Năm 938, ông tập hợp lực lượng hào kiệt trong nước tiến ra bắc, hạ thành Đại La, tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Sau đó, ông chỉ huy trận Bạch Đằng nổi tiếng, đánh bại quân Nam Hán do Hoằng Thao (có sách viết là Hoằng Tháo) chỉ huy, giết chết Hoằng Thao.

Mùa xuân năm 939, ông xưng là Ngô Vương (tức là Tiền Ngô Vương), đóng đô ở Cổ Loa (thuộc thành phố Hà Nội ngày nay). Tuy chỉ xưng Vương nhưng ông có thể coi là người có công lớn trong việc giành được độc lập cho đất nước sau nghìn năm Bắc thuộc.

Năm 944, ông qua đời, thọ 47 tuổi. Sử sách gọi ông là Tiền Ngô Vương. Sách Thiền Uyển Tập Anh gọi ông là Ngô Thuận Đế, có lẽ chỉ là cách tôn lên vì đương thời ông chưa từng xưng đế.

IV. Trận Bạch Đằng lịch sử

Năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn sát hại. Ngô Quyền kéo quân ra thành Đại La nhằm tiêu diệt Công Tiễn. Do lo sợ bị tiêu diệt, Kiều Công Tiễn đã cầu cứu nước Nam Hán. Vua Nam Hán lúc bấy giờ là Lưu Cung cho con trai là Vạn Vương Lưu Hoằng Tháo kéo quân theo đường thủy sang giúp (thực chất là nhân cơ hội chiếm lấy Giao Châu một lần nữa). Do đó, sau khi giết được Kiều Công Tiễn, Ngô Quyền chuẩn bị lực lượng để đối phó với sự xâm lăng của quân Nam Hán bằng cách bố trí một trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng, con đường mà Lưu Hoằng Tháo dùng để tiến vào Giao Châu.

Về thời gian của trận Bạch Đằng, sử sách đều chép không thống nhất: Đại Việt sử kí toàn thư chép là tháng 10 (âm lịch), Đại Việt sử lược chép là tháng 12 (âm lịch), còn Khâm định Việt sử Thông giám cương mục lại chép là tháng 9 (âm lịch).

Đại Việt sử kí toàn thư còn ghi lại được lời nói của Ngô Quyền về kế hoạch kháng chiến bằng cách đóng cọc dưới lòng sông :

Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo tướng tá rằng :

- Hoằng Tháo là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại được tin Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi; quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt tất phá được. Song họ có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa thể biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt nhọn đầu mà bịt sắt, thuyền của họ nhân khi nước triều lên, tiền vào bên trọng hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hơn kế ấy cả.''

Vào một ngày cuối đông năm 938, trên sông Bạch Đằng, cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán đã diễn ra ác liệt và kết thúc rất nhanh gọn. Đoàn binh thuyền cồng kềnh của Lưu Hoằng Tháo vừa tiến vào cửa sông Bạch Đằng đã bị một nhóm nhỏ thuyền quân Ngô ra nhử, vừa đánh vừa rút. Quân Hán hăng hái đuổi theo, vượt qua hàng cọc ngầm mà không hay biết. Đợi đến khi thủy triều xuống, Ngô Quyền mới hạ lệnh cho quân sĩ đổ ra đánh, quân sĩ đều "liều chết mà đánh" (Đại Việt sử kí toàn thư) rất dữ dội. Quân Nam Hán không kịp chỉnh đốn đội hình, lại gặp lúc nước triều rút mạnh, thuyền lớn bị va vào cọc, vỡ tan tành. Quân Hán chết đuối rất nhiều, số còn lại hầu hết đều bị quân Ngô đánh bắt. Hoằng Tháo cũng bị bắt và giết. Vua Nam Hán đang cầm quân tiếp ứng đóng ở biên giới mà không kịp trở tay đối phó. Ông ta kinh hoàng khủng khiếp, đành "thương khóc thu nhặt quân còn lại mà rút lui" (Đại Việt sử ký toàn thư). Về nước, vua Hán cho rằng tên mình là Cung số xấu, đổi lại thành Yểm. Từ đó nhà Nam Hán bỏ hẳn mộng xâm lược Giao Châu.

Ý nghĩa lịch sử

Chiến thắng Bạch Đằng có thể coi là trận chung kết toàn thắng của dân tộc Việt trên con đường đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hóa, đấu tranh giành lại độc lập dân tộc. Phải đặt trong bối cảnh Bắc thuộc kéo dài sau 1117 năm (179 TCN - 938) mới thấy hết ý nghĩa lịch sử vĩ đại của nó.

Hơn thế nữa, trong hơn 1000 năm Bắc thuộc đó, kẻ thù của dân tộc Việt là một đế chế lớn mạnh bậc nhất ở phương Đông với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán đang lúc phát triển cao độ, nhất là dưới thời Hán, Đường. Tiếp tục công cuộc bành trướng của Tần Thủy Hoàng, nhà Hán đã chinh phục Bắc Triều Tiên chiếm đất đai các bộ lạc dụ mục phía Bắc, mở rộng lãnh thổ về phía Trung Á, xâm lược các nước Hạ Lang, Điền ở Tây Nam. Đầu thế kỷ thứ 7, nhà Tùy bành trướng mạnh về phía Đông, chinh phục Triều Tiên, Lưu Cầu, Đài Loan, Giao Châu, Lâm Ấp, Tây Đồ Quốc..., nhà Đường mở rộng bành trướng về mọi phía, lập thành một đế chế bao la như Đường Thái Tông đã từng tuyên bố: "Ta đã chinh phục được hơn 200 vương quốc, dẹp yên bốn bề, bọn Di Man ở cõi xa cũng lần lượt về quy phục" (theo Đường thư).

Từ đầu Công nguyên, dân số của đế chế Hán đã lên đến 57 triệu người. Thời gian đó, dân số của Việt Nam chỉ độ một triệu. Sau khi chiếm được Việt Nam, mưu đồ của nhà Hán không phải chỉ dừng lại ở chỗ thủ tiêu chủ quyền quốc gia, bóc lột nhân dân, vơ vét của cải, mà còn tiến tới đồng hóa vĩnh viễn dân tộc Việt, sát nhập đất đai vào Trung Quốc. Chính sách đồng hóa là một đặc trưng nổi bật của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, đã được thực hiện từ thời Hán và đẩy mạnh tới nhà Đường. Trong toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam, đây là một trong những thời kỳ vận mạng dân tộc trải qua một thử thách cực kỳ hiểm nghèo.

Ngô Quyền - người anh hùng của chiến thắng Bạch Đằng năm 938 - xứng đáng với danh hiệu là "vị tổ trung hưng" của dân tộc như Phan Bội Châu lần đầu tiên đã nêu lên trong Việt Nam quốc sử khảo.

Sau chiến thắng Bạch Đằng, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng đất nước trên quy mô lớn. Đó là kỷ nguyên của văn minh Đại Việt, của văn hóa Thăng Long, kỷ nguyên phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh, một kỷ nguyên rực rỡ của các nhà Lý, Trần, Lê. Nhà sử học Ngô Thì Sĩ đã đánh giá: "Trận thắng trên sông Bạch Đằng là cơ sở cho việc khôi phục quốc thống. Những chiến công đời Đinh, Lê, Lý, Trần sau này còn nhờ vào uy danh lẫm liệt ấy để lại. Trận Bạch Đằng vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lẫy lừng ở một thời bấy giờ mà thôi đâu" (Việt sử tiêu án).

V. Mấy bà Dương hậu?

Từ trước tới nay, theo thông tin từ chính sử thì Ngô Quyền có người vợ là bà Dương hậu là con gái Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ, em gái (hoặc chị) của Dương Bình vương Tam Kha.

Cuốn Lịch sử Việt Nam, tập 1 của Nhà xuất bản Đại học và giáo dục chuyên nghiệp năm 1991 còn đề cập tới Càn Lương phu nhân, một "người vợ khác" cũng mang họ Dương của Ngô Quyền, quê ở dòng sông Đáy, qua mấy câu trong Thiên Nam ngữ lục:

Như ai đã hẹn ai đâu

Qua miền Thượng Phúc, tới cầu Ba Trăng

Như vậy là Ngô Quyền được kết luận có hai bà vợ cùng mang họ Dương. Qua thần tích đền An Nhân huyện Chương Mỹ (Hà Tây), bà họ Dương thứ hai quê ở sông Đáy có tên là Dương Phương Lan.

Cuốn Phả hệ họ Ngô Việt Nam do Ban liên lạc họ Ngô Việt Nam soạn cũng căn cứ vào những nguồn tài liệu này khẳng định về thân thế hai bà vợ Ngô vương:

Bà Dương Như Ngọc là con gái Dương Đình Nghệ, thân thế của bà xưa nay đã được khẳng định trong sử sách. Theo GS. sử học Lê Văn Lan giải thích trong cuốn Hỏi đáp về lịch sử Việt Nam thì tên Như Ngọc thực ra cũng chỉ là tên do giới "kiếm hiệp" đặt ra vào thế kỷ 20 để phân biệt bà Dương hậu này với bà Dương hậu khác - được đặt tên văn nghệ là Dương Vân Nga.

Bà Dương Phương Lan, người con gái bên dòng sông Đáy, gặp Ngô Quyền ở cầu Ba Trăng. Sách Phả hệ họ Ngô Việt Nam còn phỏng đoán hai người con nhỏ của Ngô Quyền là Nam Hưng, Càn Hưng (chính sử có chép tên hai người này) có thể do bà Phương Lan sinh ra.

Tuy nhiên, giả thuyết tồn tại "hai bà hoàng hậu cùng mang họ Dương" của Ngô Quyền không vững chắc, nếu cũng căn cứ đoạn sau của sách Thiên Nam ngữ lục. Đoạn sau cho thấy hai bà họ Dương này thực ra là một người.

Theo Thiên Nam ngữ lục:

Sau đoạn mô tả Ngô Quyền và bà họ Dương gặp nhau ở cầu Ba Trăng, tuyệt nhiên Thiên Nam ngữ lục không hề nhắc tới người phụ nữ nào khác của Ngô Quyền. Nhưng Thiên Nam ngữ lục lại chỉ để cho nàng Phương Lan nói với Ngô Quyền rằng "cha nàng họ Dương" mà không nói rõ người đó chính là ông Dương Đình Nghệ. Do đó người đọc vẫn có thể nghi hoặc: có thể ông họ Dương này không phải là Đình Nghệ.

Đến câu 3340 - 3342, khi Ngô Quyền sắp mất, tin dùng Dương Tam Kha vào việc triều chính:

Việc chuyên bày đặt mặc dầu Tam Kha

Với Dương hậu cùng một cha

Ngoài dinh tướng tá, trong nhà anh em

Mấy câu này cho thấy Dương hậu là em Tam Kha, nhưng vẫn có thể khiến người đọc nghi hoặc: có thể đến đây tác giả Thiên Nam ngữ lục mới nhắc tới bà Dương hậu thứ hai ngoài bà Phương Lan, tức bà Như Ngọc con Dương Đình Nghệ.

Nhưng tới câu 3349 - 3352, đoạn Ngô Quyền lâm chung thì không còn phải bàn cãi:

Thôi bèn hồn phách phất phơ

Cầm tay Dương hậu u ơ dặn rằng:

"Thương vì thuở gặp Ba Trăng

Chi phiền cho bỏ đạo hằng nuôi nhau..."

Qua 4 câu này thì chắc chắn bà Dương hậu được vua Ngô cầm tay này là bà Phương Lan, vì đây là người "gặp Ba Trăng". Và bà lại là người em của Tam Kha (qua ba câu phía trên). Như vậy bà Phương Lan và bà Như Ngọc phải là một người, chứ không thể là hai người. Cả chính sử (Đại Việt Sử ký Toàn thư, Việt sử thông giám cương mục...) lẫn Thiên Nam ngữ lục đều chỉ nói tới duy nhất một bà Dương hậu của Ngô Quyền chứ không hề nói có người phụ nữ họ Dương nào khác trong đời ông[2].

Hệ lụy của giả thuyết hai bà Dương

Do nổi lên thông tin về việc có tới hai bà hoàng hậu họ Dương của Ngô Quyền, một số tài liệu sách vở gần đây tỏ ra lúng túng trong vấn đề xử lý việc "đứng chung" giữa hai bà này trong cung đình triều Ngô, như: hai bà hòa thuận với nhau không? Trong 4 người con trai của Ngô vương (Xương Ngập, Xương Văn, Nam Hưng, Càn Hưng), ai thuộc về từng bà? Sau này, khi Ngô vương đã mất, còn một dấu hỏi nữa đặt ra là: tại sao cả hai bà thái hậu cùng vốn là nữ tướng "vũ dũng" như vậy mà để cho Dương Tam Kha "hoành hành"? Bà Như Ngọc với Tam Kha là người nhà, nể anh đã đành, còn bà Phương Lan vì sao vẫn không có thái độ cứng rắn?

Khi đã xác định được rằng hai bà họ Dương chỉ là một người, mọi vấn đề trên hoàn toàn có thể được lý giải.

Vậy câu chuyện giữa Ngô Quyền và bà họ Dương có thể được diễn giải như sau: Sau khi cha mất, Ngô Quyền rời quê nhà Đường Lâm vào Ái châu theo Dương Đình Nghệ, giữa đường lại gặp chính con gái ông là nàng Dương thị, em gái Dương Tam Kha, tại cầu Ba Trăng. Hai người quen nhau và yêu nhau từ đó, sau được Dương Đình Nghệ chấp thuận cho lấy nhau. Việc bà Dương vợ Ngô Quyền được lập đền thờ ở vùng sông Đáy, nơi không phải quê hương bà không có gì là bất bình thường.

Sự khác nhau giữa những cái tên Phương Lan và Như Ngọc chỉ là sản phẩm "chế tác" của đời sau (trong đó có một cái tên được đặt tận thế kỷ 20), như trường hợp "tam sao thất bản" giữa những cái tên "Dương Ngọc Vân" và "Dương Vân Nga" của bà hoàng hậu hai triều Đinh, Lê sau này mà thôi. Giáo sư sử học Lê Văn Lan, trong cuốn Lịch sử Việt Nam - hỏi và đáp (2004) đã chỉ rõ rằng: "tên các nhân vật lịch sử trong thần phả tại các đền thờ phần nhiều do các nhà nho soạn vào khoảng từ thế kỷ 17 trở đi và nhiều khả năng cũng chỉ là sản phẩm của sự chế tác từ các nhà nho này mà thôi, nhất là tên các nhân vật nữ".

Như vậy, việc tìm hiểu nguồn gốc những cái tên của các nhân vật lịch sử, xem tên đó được đặt trong hoàn cảnh nào và thời gian đặt, do ai đặt là điều cần thiết khi nghiên cứu lịch sử.

VI. Gia quyến

Ngoài Dương hậu, giai thoại dân gian ghi nhận Tiền Ngô vương còn có một người vợ họ Đỗ, ở Dục Tú, Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội). Bà họ Đỗ không có con cái.

Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, con cả Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập, trước khi sinh ra Ngô Xương Xí đã sinh ra Ngô Xương Tỷ (Khuông Việt đại sư) năm 933. Đây là người cháu lớn nhất của Ngô Vương. Từ khoảng cách năm sinh giữa Ngô Quyền (898) và cháu nội Xương Tỷ cùng việc Xương Ngập có dự trận Bạch Đằng năm 938, có thể suy đoán Xương Ngập sinh khoảng năm 915, trước khi Ngô Quyền gặp Dương hậu - con Dương Đình Nghệ. Do đó Xương Ngập là con một người vợ cả của Ngô Quyền, có thể đã mất sớm và không được sử sách nhắc tới.

Sử sách ghi Tiền Ngô vương còn có 2 người con trai nữa là Ngô Nam Hưng và Ngô Càn Hưng. Phả hệ họ Ngô Việt Nam chỉ nhắc tới con cháu của Xương Ngập và Xương Văn mà không nhắc tới con cháu của Nam Hưng và Càn Hưng. Những căn cứ trên cho thấy: Tiền Ngô Vương có 3 người vợ và 4 người con trai. Xương Ngập là con một người vợ đầu (chưa rõ tên tuổi) mất sớm; Xương Văn, Nam Hưng, Càn Hưng đều là con Dương hậu; bà Đỗ thị không có con.

VII. Nhận định

Các nhà sử học Việt Nam thời phong kiến như Lê Văn Hưu (tác giả cuốn Đại Việt sử ký), Phan Phu Tiên (tác giả cuốn Đại Việt sử ký tục biên), Ngô Sĩ Liên đánh giá rất cao công trạng của Ngô Quyền. Trong Đại Việt sử ký toàn thư bản Ngoại kỷ, quyển 5 của Ngô Sĩ Liên đã chép lại lời bình của Lê Văn Hưu về ông như sau:

Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân[3] của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đế, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được.

Loạn "Ngũ Đại Thập Quốc" ở phương bắc kéo dài hơn nửa thế kỷ là cơ hội lớn cho Việt Nam thoát khỏi tay phong kiến Trung Hoa. Trung Quốc chia năm xẻ bảy, không đủ sức mạnh duy trì chiến tranh thường trực, tổng lực với phương nam. Trước Ngô Quyền, dù các chính quyền họ Khúc, họ Dương đã xây dựng nền tự chủ nhưng trên danh nghĩa, chức Tiết độ sứ vẫn bao hàm nghĩa là một phiên trấn của "thiên triều" phương bắc, dù không thuộc về Nam Hán liền kề nhưng vẫn "nằm trong tay" của "Ngũ Quý" ở Trung nguyên (nhà Hậu Lương 907-923, nhà Hậu Đường 923-936, nhà Hậu Tấn từ 936).

Thất bại lần thứ hai ở Việt Nam khiến Nam Hán phải bỏ hẳn ý định xâm chiếm, khẳng định sức mạnh của "Tĩnh Hải quân" không sút kém so với các chư hầu trong "Thập quốc" lúc đó. Sau trận Bạch Đằng, Ngô Quyền tự mình xưng vương hiệu, thành lập hẳn một triều đại, có triều đình, quan chức, chính thức xác lập nền độc lập của Việt Nam. Đây là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam mà sau này các nhà sử học vẫn gọi ông là "ông tổ phục hưng" cho nền độc lập tự chủ.

Điều kiện khách quan chưa cho phép ông xưng đế và đặt quốc hiệu như hơn 20 năm sau Đinh Tiên Hoàng làm. Chỉ xưng vương cũng là một cách làm khôn khéo, "biết mình biết người" của Ngô Quyền; giống như trước đây Khúc Hạo đã không xưng vương để giữ yên bờ cõi vừa vuột khỏi tay người Bắc, Ngô Quyền không xưng đế khi chưa đủ "thế" và "lực". Kinh nghiệm của những người đi trước và những tấm gương tày liếp của các triều đại phương Bắc thay đổi xoành xoạch lúc đó, sớm dựng chiều đổ khiến ông có sự thận trọng cần thiết. Trong hơn 10 nhà cai trị Việt Nam thế kỷ 10, ông cùng Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành là những người được nhắc tới nhiều nhất.

Tóm tắt: Ngày 1/1/1882, cách nay gần 130 năm, là ngày chính quyền thực dân Pháp đã buộc người Việt ở Nam kỳ "phải dùng chữ quốc ngữ". Nội dung quan trọng này nằm trong nghị định ra ngày 6/4/1878 "về việc dùng tiếng An Nam bằng mẫu tự Latin" do thống đốc Nam kỳ Lafont ký.

More Sharing ServicesGửi cho bạn bè | Share on facebookShare on twitterShare on emailShare on print

--------------------------------------------------------------------------------

Gửi bởi: Scorpion -- Thời gian: 12/25/2011 6:19:08 PM

130 năm thăng trầm chữ Việt

Kỳ 1: Hai thế kỷ và một quyết định

Ngày 1/1/1882, cách nay gần 130 năm, là ngày chính quyền thực dân Pháp đã buộc người Việt ở Nam kỳ "phải dùng chữ quốc ngữ". Nội dung quan trọng này nằm trong nghị định ra ngày 6/4/1878 "về việc dùng tiếng An Nam bằng mẫu tự Latin" do thống đốc Nam kỳ Lafont ký.

Nghị định trên ra đời sau 20 năm Pháp xâm chiếm nước ta và sau thế kỷ ra đời và phát triển của chữ Việt.

Trang đầu quyển Từ điển Việt - Bồ - La của Alexandre de Rhodes

Vì sao người Pháp ra nghị định 6/4/1878?

Điều này được nói rõ trong nội dung nghị định. Nguyên văn như sau:

"Xét rằng chữ viết của tiếng An Nam bằng mẫu tự Latin ngày nay đã khá phổ thông trong các tỉnh Nam kỳ, là thứ chữ dễ học hơn chữ Nho và tiện lợi nhiều so với chữ Nho trong việc làm cho những giao dịch giữa các quan cai trị với dân bản xứ được trực tiếp hơn. Xét rằng việc dùng hợp pháp thứ chữ đó chỉ làm cho dân chúng dễ đồng hóa với chính quyền ta, và vì thế thật là một đường lối chính trị tốt nếu bắt buộc dùng nó trong các giao dịch chính thức. Tuy nhiên, xét rằng một cải cách quan trọng như thế không thể thực hiện được ngay tức khắc, và để thực hiện nó cần có sự cộng tác của những tầng lớp lãnh đạo trong dân chúng. Chiếu đề nghị của quyền giám đốc nội vụ, sau khi hội đồng tư vấn đã được hội ý kiến, nay ra nghị định:

Điều 1: kể từ ngày 1/1/1882 tất cả những văn kiện chính thức, nghị định, quyết định, sắc lệnh, phán quyết, chỉ thị...sẽ được viết, ký và công bố bằng chữ mẫu tự Latin.

Điều 2: kể từ ngày trên, không một tuyển dụng nào được thi hành, không một thăng trật nào được cho phép, trong ngạch phủ, huyện, tổng đối với bất cứ ai không ở trong tình trạng viết được chữ quốc ngữ. (Nguyễn Văn Trung - Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc)

Đến đầu năm 1881, thống đốc Nam kỳ lúc đó là Le Myre de Vilers đã ký quyết định "nhắc lại" việc dùng chữ quốc ngữ trong hệ thống hành chính. "Vì lời nghị ngày mồng 6 tháng 4/1878, từ ngày mồng 1 janvier 1882, về các tờ giấy làm việc quan buộc phải viết ra bằng quốc âm chữ Langsa; Xét vì lời nghị nầy phải thi hành lần lần, vì trong lúc người ta biết chữ quốc âm Langsa đủ dùng trong các tổng" (Gia Định Báo ngày 21/2/1881).

Và ngày 24/10/1881 cũng trên tờ Gia Định Báo phần tạp vụ, văn phòng Nha nội vụ đã đăng thông báo "nhắc lại". "Ông directeur de l'interieur (giám đốc Nha nội vụ, người đương thời gọi là quan lại bộ thượng thơ), làm lời rao cho ai nấy đặng hay, lời nghị ngày mồng 6 avril 1878, buộc từ ngày mồng 1 janvier 1882 trong những giấy lá việc quan mà viết theo tiếng An Nam đều phải dùng chữ Langsa mà thôi".

Và ngày 30/1/1882, thống đốc Nam kỳ Le Myre de Vilers ra nghị định nhắc lại lần cuối cùng: "kể từ ngày hôm nay, việc chỉ dùng những mẫu tự Pháp trở thành bắt buộc trên toàn cõi Nam kỳ thuộc Pháp, trong những giấy tờ chính thức viết bằng tiếng An Nam". (Nguyễn Văn Trung - Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc).

Có thể nói, kể từ ngày 1/1/1882, người Việt bắt đầu chính thức sử dụng thứ chữ viết từng được gọi là "chữ quốc ngữ, quốc ngữ hay tiếng An Nam dùng chữ Langsa", thứ chữ viết hôm nay người Việt dù sống ở đâu, trên đất nước VN hay nơi nào đó trên thế giới đều xem là văn tự chính thống của người Việt.

Để có được điều đó, chữ Việt đã trải qua nhiều thăng trầm.

Ngược dòng chữ Việt

Chúng ta đều biết chữ Việt do những giáo sĩ phương Tây tới Việt Nam truyền đạo sáng tạo vào thế kỷ 17. Và người được vinh danh nhiều nhất chính là giáo sĩ Alexandre de Rhodes.

Ngoài bức tượng nhỏ của ông dựng trong khuôn viên 161 Lý Chính Thắng (quận 3), ông còn có tên đường ở ngay trung tâm TP.HCM. Thực tế có phải Alexandre de Rhodes là người duy nhất sáng tạo chữ Việt? Không hoàn toàn như vậy.

Sáng tạo ra chữ Việt là công trình của nhiều người với mục đích ban đầu chỉ để truyền đạo. Theo Giáo sĩ Đắc Lộ và tác phẩm quốc ngữ đầu tiên của Nguyễn Khắc Xuyên, chữ Việt manh nha xuất hiện từ năm 1625-1626 trong một bức thư của giáo sĩ F. Buzomi, người Ý. Năm 1627, giáo sĩ Baldinotti đã xuất bản một bản Điều trần về xứ Đàng Ngoài có ghi một vài chữ quốc ngữ. Năm 1631, trong quyển Điều trần về xứ Đàng Trong của giáo sĩ Cristoforo Borri, người Ý, đã xuất hiện nhiều câu quốc ngữ như scin (xin), ciàm (chẳng), gnoo (nhỏ), chiam (chăng), tlom (trong), bua (vua)...

Tuy nhiên, công lớn lại thuộc về các giáo sĩ Bồ Đào Nha. Giáo sĩ được đương thời coi là "thầy tiếng Việt" là Francesco de Pina. Hai "học trò" của Pina được thừa nhận có công lớn là giáo sĩ Gaspar d'Amaral và Antonio Barbosa. Hai giáo sĩ này là người đầu tiên viết từ điển Việt - Bồ và Bồ - Việt. Hai ông sau khi rời Hội An, định cư ở Macau gần 10 năm. Không may Gaspar d'Amaral tử nạn trên biển Macau vào tháng 2/1646 khi trên đường đến VN. Antonio Barbosa cũng mất một năm sau đó.

Trước khi mất họ để lại trong nhà thờ San Pauli ở Macau những quyển từ điển Việt - Bồ - Latin mà họ đã sáng tạo. Và giáo sĩ Alexandre de Rhodes là người mang từ điển đó về châu Âu (Phạm Văn Hường - Đi tìm nguồn gốc chữ quốc ngữ).

Đến năm 1651, quyển Từ điển Việt - Bồ - La ra đời dưới cái tên tác giả Alexandre de Rhodes. Và đây là cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên xuất hiện trên thế giới và ông Đắc Lộ (tên tiếng Việt của Alexandre de Rhodes) được công nhận là người có công trong việc sáng tạo chữ Việt.

Những sáng tạo của các giáo sĩ phương Tây không thể không có sự góp phần của người bản xứ. Nhiều tài liệu đã nhắc tới "những người thầy không tên" của các giáo sĩ. Theo xơ Jean Berchmans Minh Nguyệt trong tập san MISS của Vatican, giáo sĩ Đắc Lộ đã học tiếng Việt với "một người thầy trạc 10-12 tuổi", người sau này trở thành thầy giảng đạo giúp việc cho các giáo sĩ.

Giáo sĩ Đắc Lộ đã nói về "thầy" của mình: "Chỉ trong vòng ba tuần lễ, chú bé đã dạy tôi học biết tất cả các cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách thức phát âm của từng chữ".

Những tài liệu khác cũng cho biết "thầy" của các giáo sĩ Amaral và Barbosa có tới 14 người. Những cái tên như Trâm, Văn Triều, Sang, Văn Tang, Cai, Văn Nhất... xuất hiện trong một tài liệu của Dòng Tên mang tên "Chung quanh mô thức rửa tội bằng thổ ngữ An Nam" (Huỳnh Ái Tông - Nguồn gốc chữ quốc ngữ).

Chữ Việt thời kỳ đầu khác xa với chữ Việt hôm nay, thậm chí hôm qua. Những từ "oũ" (ông), "kẻ hằii" (kẻ hầu), "bên đoũ đa" (bên Đống Đa)... vẫn còn nhiều âm hưởng nước ngoài đối với người Việt. Tới khi xuất hiện trong Từ điển Việt - Bồ - La năm 1651 cũng còn những khoảng cách xa với chữ Việt mà chúng ta đang dùng: "bao nheo" (bao nhiêu), "tôi blả bấy nheo" (tôi trả bấy nhiêu), "muấn" (muốn), "đức chúa Blời" (đức Chúa Trời), "iêo" (yêu), "khoăn đã nao" (khoan đã nào), "nếo" (nếu)...

Không chỉ có Từ điển Việt - Bồ - La, giáo sĩ Đắc Lộ còn được ghi nhận là có công đầu trong việc sáng tạo chữ Việt từ quyển Phép giảng tám ngày (1651) và phần "tiểu lược về tiếng An Nam hay tiếng Bắc kỳ" còn gọi là cuốn văn phạm VN đầu tiên (in chung với cuốn từ điển). Nếu Phép giảng tám ngày là cuốn sách chuyên về đạo đầu tiên của quốc ngữ thì cuốn văn phạm là sự sáng tạo không còn nghi ngờ gì nữa và là của riêng ông.

"Tất cả tinh thần của tiếng nói là ở các dấu lên xuống" - giáo sĩ Đắc Lộ nhận xét. Có thể chính nhờ cuốn văn phạm này mà các giáo sĩ, người học chữ Việt đời sau cảm thấy dễ dàng hơn.

Giáo sĩ Alexandre de Rhodes sinh năm 1591 (một số sử liệu khác ghi năm 1593) tại Avignon, miền Nam nước Pháp. Ông gia nhập Tập viện Dòng Tên tại Roma. Sau sáu năm giảng đạo tại Goa và Macau, đầu năm 1625 ông cùng bốn linh mục Dòng Tên và một tín hữu Nhật Bản cập bến Hội An, bắt đầu học tiếng Việt và chọn tên Việt là Đắc Lộ. Năm 1645 ông bị trục xuất khỏi VN. Năm 1651, cho xuất bản quyển Từ điển Việt - Bồ - La. Ông mất tại Iran năm 1659.

Scorpion(st) - Tuổi trẻ

--------------------------------------------------------------------------------

Gửi bởi: Scorpion -- Thời gian: 12/26/2011 8:09:21 AM

130 năm thăng trầm chữ Việt

Kỳ 2: Ai học chữ Việt đầu tiên?

Hiện có rất ít tài liệu chứng minh ai là người đầu tiên theo học chữ Việt sau Đắc Lộ.

Những người Việt trong nhà thờ

Theo Đỗ Quang Chính ghi nhận trong văn khố Dòng Tên ở Roma có "một bức thư của thầy Igesco Văn Tín gửi cho linh mục Marini, viết ngày 12/9/1659" và "một tập lược sử nước Annam và một lá thư viết ngày 25/10/1659 của thầy Bento Thiện gửi linh mục Marini" hoàn toàn bằng chữ Việt (tập Lịch sử nước Annam).

Những chữ Việt trong các tài liệu này tuy khác xa với chữ viết hôm nay nhưng tiếng Việt thời này đã thành một hệ thống đủ để thông tin và ghi chép. Thầy Văn Tín viết "ơn Thài xưa dạy dõ tôy nhèu đàng cho nên thàn mà ráp cậi thày cho nen chãng hai bai giờ vứang thày tôy càng buồn hơn nữa mà ướoc au cho được thai mạt Thài như con tlon mẹ vè cho được bú bại..." (ơn thầy xưa dạy dỗ tôi nhiều đàng cho nên thánh mà ráp cậy thầy cho nên chẳng hay bây giờ vắng thầy tôi càng buồn hơn nữa mà ước ao cho được thấy mặt thầy như con trông mẹ về cho được bú vậy).

Giáo sĩ Bá Đa Lộc

Thứ hai là bức thư của thầy giảng Biển Đức Thiện (Bento Thiện) viết tại Đàng Ngoài (ở Thăng Long) ngày 25/10/1659 cũng gửi cho linh mục G.F.de Marini cùng một thời gian với thư của thầy Văn Tín nên chữ viết tương tự. Đáng chú ý là tập Lịch sử Annam bằng tiếng Việt.

Chỉ dài có 12 trang chữ nhỏ li ti khổ 19x28 (trang cuối khổ 12x6 và chỉ có chín dòng chữ) nhưng chứa đựng khá nhiều thông tin về lịch sử nước Việt ở các lĩnh vực chính trị, xã hội, thi cử, hành chính từ thời Lạc Long Quân cho đến thời Trịnh Nguyễn. Có thể coi đây là bản sơ thảo về lịch sử Việt Nam đầu tiên viết bằng chữ Việt sau khi quyển từ điển tiếng Việt đầu tiên ra đời năm 1651.

Còn Thanh Lãng trong Biểu nhất lãm văn học cận đại phát hiện Filiphé Bỉnh (1759-1832), một linh mục Dòng Tên người Việt, là người viết chữ Việt, hơn 100 năm sau đó. Filiphé Bỉnh có thể rời Việt Nam năm 1794 và cư ngụ tại Bồ Đào Nha 30 năm. Thanh Lãng chưa tìm thấy tiểu sử của Filiphé Bỉnh nhưng tìm thấy khá nhiều tài liệu bằng chữ Việt của ông lưu trữ tại Lisbon, Bồ Đào Nha.

Tới thành Macao thơ có lẽ là bài thơ bằng tiếng Việt đầu tiên do Filiphé Bỉnh sáng tác vào ngày 4 tháng chạp năm 1794. "Tôi đang gưỡi gắp (gửi gắm) chốn Ma cao. Hai chữ thanh nhàn xiết kễ bao. Hôm sớm phần hồn dầu mặc sức. Tháng ngày việc chác chẳng tơ hào. Xây dần (xoay vần) ám tiết hằng no ấm. Đáp đổi tứ mùa khỏi khát khao. Gần chợ gần soũ (sông) gần núi bể. Trăm mùi khôn chút vẻ tanh tao".

Vào thế kỷ 18 mà chữ nghĩa của Filiphé Bỉnh đã tiến gần với chữ Việt ngày nay cho thấy sự phát triển của chữ Việt khá mạnh mẽ trong suốt 100 năm trước đó.

Sau Filiphé Bỉnh là những ai đã học chữ Việt? Ít nhất chúng ta biết được một người, đó là linh mục Phillipe Phan Văn Minh, người đã góp sức cùng giáo sĩ Taberd viết cuốn Tư vị Taberd tại Ấn Độ và cũng là người mang cuốn sách này về Việt Nam. Linh mục Phan Văn Minh (1815-1853) đồng hương với Trương Vĩnh Ký ở Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, huyện Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long (nay là Bến Tre).

Linh mục đã góp phần viết Khái luận về tiểu từ và đại từ (Tractatus de variis particulus et pronominibus), Cách đếm (Nomina numeralia, 10 trang), Thực vật chí Đàng Trong (Hortus Floridus Cocincinœ), Lược bày niêm luật làm văn làm thơ (Compendium versificationis anamiticœ)... Ông còn để lại một số tác phẩm bằng quốc ngữ như Nước trời ca, Phi năng thi tập...

Sau linh mục Phan Văn Minh là ai nữa? Chưa biết. Nhưng chúng ta biết chắc rằng chữ Việt đã được gieo, nảy mầm và lớn lên trong lòng người Việt.

Theo bước Đắc Lộ

Hơn 100 năm sau, giám mục D'Adran tức giáo sĩ người Pháp Pierre Pigneaux de Béhaine còn được gọi là Bá Đa Lộc hay đức Cha cả (sinh năm 1741 tại Pháp, mất năm 1799 tại Sài Gòn), người từng giúp Nguyễn Ánh chống lại Tây Sơn, là người phương Tây học chữ Việt tiếp theo mà chúng ta biết.

Ông đã biên soạn bộ tự vị Việt - La tại Sài Gòn từ tháng 9/1772 đến tháng 6/1773, với sự giúp đỡ của một số giáo sĩ người Việt và Pháp. Phần chính văn 662 trang là từ điển song ngữ, tiếng Việt được ghi theo hai lối viết (Nôm và quốc ngữ) xếp theo vần a, b, c, được giải nghĩa bằng tiếng Latin.

Điểm đáng lưu ý là chữ quốc ngữ trong bộ tự vị này gần như hoàn toàn giống với chữ quốc ngữ hôm nay, các phụ âm đôi như bl, ml... của tiếng Việt thế kỷ 17 đã biến mất hẳn. "Điều thú vị là tuy biên soạn cách đây hơn 200 năm nhưng khi lật lại cuốn từ điển này, chúng ta không chỉ thấy được diện mạo của tiếng Việt thế kỷ 18, không chỉ phần nào hiểu được bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội, chính trị nước ta vào thời kỳ đó mà còn thấy được từ ngữ cơ bản trong tiếng Việt hiện đại" (Võ Thị Minh Hà - tạp chí Ngôn Ngữ và Đời Sống số 7/2006).

"Cái mới của tự vị Bá Đa Lộc là loại hẳn cách viết của Đắc Lộ và không còn thấy những nhóm phụ âm đầu mnhầm, mlầm. Nhóm bl như trong blái cũng không còn. Nhóm tl chỉ còn một từ tla. Sách có "lầm" mà không có "nhầm", có "lanh" mà không có "nhanh", có "lời" mà không có "nhời". Có "nhơn" mà không có "nhân"; có "ơn" mà không có "ân"; nhưng vừa có "mần" vừa có "làm"...(Mien Ngoc - sachxưa.net).

Sau Bá Đa Lộc, "học trò chữ Việt" là giáo sĩ Taberd. Ông này đã soạn bộ Nam Việt dương hiệp tự vị, thường được gọi là Tự điển Taberd, in năm 1838 tại Ấn Độ. Từ điển Taberd gồm ba phần. Phần mở đầu có 46 trang văn phạm, nghiên cứu âm vị tiếng Việt, mô tả tiếng Việt, nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, mô tả cấu trúc lời nói, câu văn tiếng Việt và chỉ dẫn cách làm thơ.

Phần thứ hai: chính văn gồm 620 trang, mỗi trang hai cột, thu thập 4.959 mục tự theo vần a, b, c, mỗi mục xếp theo trật tự Nôm - quốc ngữ và dịch nghĩa bằng tiếng Latin, tiếp theo là dẫn ra các từ ghép có chứa từ mục tự (từ đơn) nêu trên, ví dụ: mục tự "dương" được dẫn ra các từ ghép như: "thới dương, khí dương, dương gian, dương thế...".

Phần ba: có 39 trang phụ lục về tên gọi các loại cây cỏ, hoa trái miền Nam và công dụng của nó trong y thuật và 135 trang phụ lục ghi các từ Hán Việt thông dụng. "Một lần nữa người làm từ điển muốn điển chế hóa tiếng nói và chữ viết Việt Nam (ở phía Nam, ở Sài Gòn).

Mọi từ tiếng Việt trong từ điển đều ghi bằng hai thứ chữ Nôm và quốc ngữ, được phân bố theo thứ tự a, b, c và được dịch nghĩa tương đương sang tiếng Latin... Chữ Nôm của Taberd cũng như của De Béhaine vẫn được phân bố lệ thuộc theo âm quốc ngữ chứ không được phân bố theo số nét và các bộ chữ Hán" (Trần Văn Giàu, Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt - Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh tập II, NXB Thành Phố Hồ Chí Minh 1988).

Nét đặc biệt của Tự vị Taberd là "dạy làm thơ, hò vè, phú..." điều mà hầu như chưa có từ điển nào làm.

Thế nhưng suốt 200 năm, kể từ 1651-1861, do chính quyền cấm đạo, do giới trí thức nho học bỏ qua hoặc không để ý tới, do bị nghi kỵ thứ "chữ của người nước ngoài", chữ Việt vẫn chìm trong "bí mật" và chỉ phát triển quanh quẩn trong các nhà thờ, các xứ đạo Thiên Chúa giáo.

Trong thời gian này, chữ Việt dần hoàn thiện. Những học trò chữ Việt sau đó như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký đã góp phần làm cho chữ Việt hoàn chỉnh một bước nữa. Và đến khi chữ Việt được xuất hiện công khai trên tờ Gia Định báo năm 1865 thì đã tiến gần sát với chữ Việt ngày nay.

(Theo Tuổi trẻ)

Scorpion(st)

--------------------------------------------------------------------------------

Gửi bởi: Scorpion -- Thời gian: 12/27/2011 9:44:32 AM

130 năm thăng trầm chữ Việt

Kỳ 3: Cưỡng bách và phản kháng

Khi thực dân Pháp đánh vào Sài Gòn và chiếm ba tỉnh miền Đông thì chữ Việt bước ra khỏi cánh cửa nhà thờ.

Một tờ khai sinh năm 1938 ở miền Bắc có đến bốn dạng chữ:

chữ Nôm, chữ quốc ngữ, dấu triện bằng tiếng Pháp và vài chữ Hán - Ảnh: Wikipedia

Thế nhưng đâu là nguyên nhân chính? Bởi đã là người chiến thắng, Pháp có nhiều hơn một trong việc lựa chọn ngôn ngữ để cai trị, ngoài chữ nho. Trong đó tiếng Pháp cũng là một lựa chọn.

Thế nhưng người Pháp đã chọn chữ quốc ngữ.

Vì sao người Pháp chọn quốc ngữ?

Đây là phần "tối" nhất trong nhiều nghiên cứu về quốc ngữ trong văn học sử của nước ta. Có không nhiều nghiên cứu nêu rõ nguyên nhân, lý do thực dân Pháp "quyết liệt" ép người Nam kỳ học quốc ngữ thay vì tiếng Pháp. Chúng tôi tìm thấy trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Trung vấn đề này.

"Ở đây cần để ý một điều là trước khi người Pháp xâm chiếm nước ta, các nhà truyền giáo thuộc nhiều quốc tịch châu Âu đã theo đường lối "tôn trọng thích nghi văn hóa, phong tục những nước bị truyền giáo (nhất là các nhà truyền giáo thuộc Dòng Tên)". Chính trong tinh thần đó mà họ sáng chế ra chữ quốc ngữ. Đến thời Pháp xâm lược, các nhà truyền giáo Dòng Tên phải nhường chỗ cho Hội thừa sai Paris và những người này đều là người Pháp, theo một đường lối truyền giáo cứng rắn chủ trương xóa bỏ, tiêu diệt tất cả những gì là phong tục, văn hóa, tư tưởng của các nước bị truyền giáo không hợp với giáo lý Thiên Chúa. Hơn nữa, họ còn đồng hóa quyền lợi nước Pháp với quyền lợi của đạo nên họ đã tích cực góp phần vào việc thiết lập chế độ thực dân". (Nguyễn Văn Trung - Chữ, văn quốc ngữ thời đầu Pháp thuộc).

Với tinh thần đó, các giáo sĩ đã thúc ép chính quyền Pháp chọn chữ quốc ngữ thay vì chữ Pháp.

Không chỉ thúc ép đội quân viễn chinh Pháp trong việc bắt buộc triều đình nhà Nguyễn chấp nhận điều khoản mà cả triều đình lẫn giới sĩ phu lúc bấy giờ không chịu chấp nhận là "tự do truyền đạo", mà các thừa sai còn thúc ép Pháp phải buộc người Việt "sử dụng chữ quốc ngữ".

Theo Nguyễn Văn Trung, Lanessan đã ghi: "Tôi còn giữ trong tay một thư của giám mục Puginier, trong đó ngài trình bày mục đích việc phiên âm bằng chữ Latin một cách thật rõ rệt. Ngài nói khi thay thế chữ nho bằng chữ quốc ngữ, Hội thừa sai nhằm mục đích cô lập các giáo hữu. Những người này sẽ không còn có thể đọc được những tác phẩm dễ đọc nhất của Trung Hoa và sẽ không thể thư từ gì được với bất cứ một sĩ phu Tàu hay ta nào".

Đó là nhận định của người Việt và giới giáo sĩ. Còn quan điểm của chính quyền Pháp? Có không nhiều tài liệu để thẩm tra vấn đề này. Có lẽ thông tư ngày 10-4-1878 của giám đốc Nha nội vụ Béliard thể hiện rõ nhất quan điểm của Pháp: "Chúng ta sẽ rất lợi cả về mặt chính trị lẫn thực tế, nếu làm tiêu tan dần dần chữ nho mà việc dùng thứ chữ đó chỉ có thể có một ảnh hưởng tai hại đối với công trình đồng hóa mà chính phủ đang dồn mọi nỗ lực thực hiện".

Tháng 9-1864, đô đốc Lagrandière đã báo cáo: "Tôi có mọi lý do để hi vọng, nếu việc theo học các trường của chúng ta tiếp tục, chúng ta sẽ có ít nhất, trong chưa đầy một năm, một nghìn thanh niên An Nam biết đọc và biết viết ngôn ngữ của họ bằng mẫu tự Latin; nhờ đó chúng ta sẽ tống một cú đánh chết người vào chế độ quan lại, và chúng ta sẽ tự mình gỡ bỏ được lớp văn thân là các kẻ luôn luôn có khuynh hướng gây xáo trộn" (Milton E Osborne - Giáo dục và chữ quốc ngữ - sự phát triển một trật tự mới 1859-1905 do Ngô Bắc dịch).

Chính vì vậy, ngay sau khi Hòa ước Nhâm Tuất ký chưa ráo mực, khi ba tỉnh miền Tây còn nằm trong tầm ngắm và đang lăm le đánh chiếm thì Pháp đã cho ra đời tờ báo tiếng Việt ở Sài Gòn. Đó là tờ Gia Định báo. Tờ báo này do E. Potteaux, thông ngôn tiếng Việt hạng nhất của đô đốc, làm "tổng tài" (tổng biên tập).

Sự phản kháng

Song việc "quốc ngữ hóa" Nam kỳ diễn ra không hoàn toàn thuận buồm xuôi gió. Phía những người theo Pháp và những người được coi là giàu có không phải ai cũng dễ dàng cho con em đi học chữ quốc ngữ.

Có thể do những lời đồn thổi về việc "người Công giáo không thờ cúng ông bà" xuất phát từ chuyện Đông cung Cảnh, học trò của Bá Đa Lộc, sau khi từ Pháp về theo đạo Công giáo và "từ chối đến tông miếu" (thực lục nhà Nguyễn) nên nhiều người Nam kỳ sợ con cháu mất gốc mà trốn tránh việc đi học chữ quốc ngữ, còn vì đó là chữ của đạo Công giáo, những người đi theo Pháp ngay khi Pháp tới Nam kỳ.

Chưa kể người có liêm sỉ thì khó thể chấp nhận bất cứ điều gì của quân cướp nước đề ra ngay trong lúc nhục mất nước còn nóng hôi hổi!

Do vậy, việc đi học rất ư là hành chính. Thực dân ra lệnh tận làng xã "bắt trẻ con đi học chữ quốc ngữ như bắt lính". Còn hương chức hội tề thì "khuyến dụ, cưỡng ép trẻ con đi học" để được thăng thưởng. Rất nhiều người đã mướn hoặc bắt đầy tớ trong nhà đi học thay con em mình. Câu ca dao chống việc học chữ quốc ngữ phổ biến khá rộng ở miền Nam có thể xuất phát từ thời bấy giờ: Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ. Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu. Anh về đi học chữ nhu. Chín trăng em đợi mười thu em chờ. Phải học chữ nhu (chữ nho) thì em mới chờ còn không thì sẽ...

Eliacin Luro, thanh tra bản xứ vụ trong chính quyền Pháp mới đặt ở Nam kỳ, tác giả giáo trình về hành chính Việt Nam dùng cho trường các viên chức tập sự Pháp, đã thừa nhận trong bài giáo dục số 38 về Giáo dục quốc dân viết năm 1873: "Rồi chúng ta bắt mỗi làng phải gửi một số học sinh quy định đến trường...

Hậu quả là các làng mộ học sinh cho các trường quốc ngữ của chúng ta kiểu như họ mộ lính, bằng cách trả tiền cho gia đình của học sinh và công cuộc bắt buộc giáo dục của chúng ta tính như một thứ thuế đánh thêm vào dân" (Nguyễn Phú Phong - tranh luận về việc áp dụng chữ quốc ngữ). Gia Định báo số ra ngày 8-3-1874 ghi "các ông ấy cũng biết nhà trường lập ra đây để cho các học trò Annam học thì có nhiều điều ngăn trở kể chẳng xiết".

Phía các sĩ phu, sự chống đối diễn ra dữ dội hơn. Năm 1885, một số thân hào nhân sĩ đã gửi thư thỉnh nguyện đến Hội đồng quản hạt Nam kỳ "đề nghị bãi bỏ chữ quốc ngữ". "...Theo thiển ý chúng tôi, hiện nay chỉ có hai thứ tiếng có thể được ở Nam kỳ, tiếng Pháp mà chúng tôi muốn học và tiếng Annam nôm na mà chúng tôi đều biết viết bằng chữ Nôm... Quý vị hãy đoán xem chúng tôi lúng túng thế nào mỗi khi chúng tôi nhận được những lệnh viết bằng thứ chữ (quốc ngữ) trên, chúng tôi phải chạy kiếm hàng chục người thông ngôn mà chúng tôi phải trả tiền, để rồi rốt cục họ đã làm chúng tôi hiểu hoàn toàn ngược lại với những gì người ta muốn truyền lệnh cho chúng tôi".

Nổi bật trong thời kỳ này là nhà thơ Phan Văn Trị với cuộc bút chiến giữa ông và Tôn Thọ Tường, một trí thức Hán học đi theo thực dân Pháp. Cuộc bút chiến diễn ra khá gay gắt của hai phe trở thành giai thoại trong làng văn ở Nam kỳ.

Với Phan Văn Trị và các đồng chí của ông như Huỳnh Mẫn Đạt, Lê Quang Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa...việc theo Pháp của người trí thức là không thể chấp nhận được.

(Theo Tuổi trẻ)

Scorpion(st)

--------------------------------------------------------------------------------

Gửi bởi: Scorpion -- Thời gian: 12/27/2011 9:56:31 AM

130 năm thăng trầm chữ Việt

Kỳ 4: Bước ra khỏi giáo hội

Chính quyền Pháp đã chuẩn bị đến 20 năm (1862-1882) trước khi thực hiện nghị định cưỡng bách dùng quốc ngữ. Ngoài việc cho phổ biến chữ Việt bằng báo chí, họ đã cho mở các trường học dạy tiếng Việt và tiếng Pháp, từ đó hình thành một nền giáo dục Việt - Pháp ở nước ta.

Học sinh nam ở một trường trung học thời Pháp - Ảnh tư liệu

D' Adran và trường học giáo hội

"Ngày 17-2-1859, ngay khi đổ bộ lên Sài Gòn, đô đốc R. de Genouilly đã thấy có mặt tại đây một chủng viện và một trường học gọi là Trường D'Adran do hội truyền giáo nước ngoài thiết lập. Học sinh trường này học đọc và học viết chữ quốc ngữ. Họ cũng được học tiếng Latin, đôi khi vài chữ tiếng Pháp" (Nguyễn Phú Phong - Chữ quốc ngữ bành trướng từ Nam ra Bắc). Trong "Khảo luận về nền học chính tại Nam kỳ" đọc tại buổi họp của Hội nghiên cứu Đông Dương ngày 23-10-1899 của E. Roucoules, nguyên hiệu trưởng Trường Chasseloup Laubat (Lại Như Bằng dịch), cũng xác định D'Adran là trường học dành "cho dân bản xứ theo đạo Gia Tô học đọc và viết tiếng nói Annam bằng chữ mẫu tự Latin".

Như vậy, D'Adran là trường học đầu tiên dạy chữ Việt ở Sài Gòn cũng như Việt Nam. Để có người làm thông ngôn trong giai đoạn đầu tiên, ngay trong năm 1861 sau khi chiếm Sài Gòn, Bonard đã quyết định "tài trợ" một phần chi phí và sau đó "nâng cấp trường (D'Adran) thành một trường cao đẳng với tên đầy đủ là Collège Annamite-Français de Monseigneur l'Évêque d'Adran" (ngày 8-5-1862) với nhiệm vụ dạy chữ Việt cho "các thông ngôn gốc Âu xuất thân từ quân đội hay hải quân" và nhiệm vụ này Trường D'Adran làm đến năm 1871 mới chấm dứt. Chương trình học đơn giản và kéo dài chín tháng. Các học viên phải trải qua một kỳ thi, nếu không đậu thì bị trả về quân ngũ. Ngày 1-2-1866, đô đốc Lagrandière quyết định "thành lập một trường Pháp tại Sài Gòn, giao cho các tu sĩ điều hành, được tổ chức ngay trong Trường D'Adran" (Khảo luận về nền học chính Nam kỳ - E. Roucoules).

Không rõ cái tên D'Adran tồn tại cho tới năm nào, nhưng trên nền trường này sau đó mọc lên hai ngôi trường trung học khá nổi tiếng ở Sài Gòn, đó là Trường Võ Trường Toản và Trường Trưng Vương.

Ngày 18-7-1864, đô đốc Lagrandière quyết định "mở ra tại các trung tâm tỉnh lỵ chính, các trường tiểu học dùng chữ mẫu Âu Tây và giao cho các thông ngôn, thư ký đảm nhiệm dạy học hai giờ mỗi ngày". Quyết định này cũng quy định những người dạy "được lãnh lương phụ trội thêm một franc một ngày dạy" và học sinh thì "được thưởng thêm một franc nếu biết đọc biết viết" và "nửa franc nếu chỉ biết đọc". Quyết định cũng "miễn phí tiền học, sách vở dụng cụ thông thường do nhà nước cấp". Cũng trong năm này, Trường La Saint Enfent (trong khuôn viên tu viện Saint Paul) được xác định là trường nữ duy nhất. Trường sau này trở thành Trường nữ Saint Paul nằm trên đường Tôn Đức Thắng.

Trong năm 1864, với sự tài trợ của Pháp, giáo hội đã mở hàng loạt trường học ở các tỉnh quan trọng như Mỹ Tho, Chợ Lớn, Vĩnh Long. Và sau đó ở Cần Giuộc, Cần Thơ, Sóc Trăng, Gò Công, Tân An, Rạch Giá, Ích Thạnh (Thủ Đức), Long Hưng (địa phương thuộc Bến Tre), Mỹ Thuận, cù lao Mây (cù lao ở khoảng giữa Cần Thơ và Kế Sách), Bò Hút (nay là Thốt Nốt, TP Cần Thơ)... Tháng 9-1864, đô đốc Lagrandière báo cáo đã có "20 trường học được mở và có 300 học sinh đã biết đọc biết viết" chữ quốc ngữ. Còn "vào tháng 3-1869, đô đốc Ohier báo cáo có 104 trường tại thuộc địa, được theo học bởi 3.200 học trò. Sáu trong các trường này, chủ yếu những trường tại Sài Gòn, được dạy bằng tiếng Pháp cũng như quốc ngữ. Sau đó trong cùng năm này, sĩ số theo học các trường tổ chức bởi chính quyền Pháp được báo cáo là 4.481 học trò tại 120 trường". (Milton E Osborne - Giáo dục và chữ quốc ngữ 1859-1905 - Ngô Bắc dịch).

Trở thành thứ chữ của người Việt

Năm 1868, đô đốc Lagrandière ký nghị định thành lập một trường trung học tỉnh, ngoại trú, đặt dưới sự kiểm tra của Nha nội vụ. Đây là trường đầu tiên không liên can tới giáo hội.

Đến cuối năm 1870, chính quyền địa phương không muốn lệ thuộc vào giáo hội nữa, muốn tự tuyển chọn và đào tạo giáo viên hệ thống giáo dục phi tôn giáo được triển khai. Ngày 10-7-1871, Dupré ra ba quyết định quan trọng. Đó là thành lập trường sư phạm thuộc địa, một trường tiểu học và thành lập một ủy ban có nhiệm vụ soạn chương trình học và sách cho giáo viên. Đồng thời nâng lương cho các giáo viên cùng nhiều biện pháp tài chính đối với học sinh. Trường tiểu học có quy định "hiệu trưởng và ba giáo sư phải có bằng cấp đại học hay chức vụ thông ngôn". "Hạn tuổi để thâu nhận vào trường là 16 tuổi tối thiểu, 25 tuổi tối đa. 60 học sinh của trường theo quy chế nội trú và hoàn toàn được chính quyền thuộc địa chu cấp nuôi dưỡng ăn mặc. Chùa Barbet được giao cho trường làm cơ sở, mỗi thí sinh được nhận vào trường lãnh 25 franc làm chi phí nhập trường" (Roucoules - Nền học chánh Nam kỳ). Cũng theo Roucoules, "chùa Barbet được giao cho trường làm cơ sở" chính là đất của chùa Khải Tường. Có lẽ vì vậy mà trường được gọi là Trường Khải Tường.

Gia Định báo ngày 15-12-1874 có đăng danh sách 84 học sinh của Trường Khải Tường tốt nghiệp và được bổ làm thông ngôn các nơi. Khải Tường là tên một ngôi chùa nằm ven thành Gia Định. Đây là nơi ngày xưa Nguyễn Ánh từng đóng quân và vua Minh Mạng sau này được sinh ra tại đây. Sau khi lên ngôi, Minh Mạng đã ban cho chùa tên "Quốc Ân Khải Tường". Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng khuôn viên chùa ngày nay là Bảo tàng Chứng tích chiến tranh, số 28 Võ Văn Tần. Theo chúng tôi, khuôn viên chùa ngày xưa có lẽ phải lớn hơn nhiều. Và Trường Khải Tường có thể đặt ở một góc của chùa, nền của trường này từ năm 1874-1877 đã xây dựng thành ngôi trường đầu tiên của Sài Gòn: Trường Lê Quý Đôn hiện nay.

Cuối năm 1874, các trường chữ nho bị bãi bỏ biến thành các trường dạy chữ quốc ngữ và gom về các trung tâm tỉnh lỵ lớn là Sài Gòn, Chợ Lớn, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Sóc Trăng và Bến Tre. Nhân viên của các trường này gồm một hiệu trưởng người Pháp biết nói tiếng Việt và các giáo viên bản xứ biết nói tiếng Pháp.

Năm 1879, thống đốc Nam kỳ Lafont quyết định thành lập nền học chánh Pháp - Việt với ba cấp học là sơ đẳng, tiểu học và cao đẳng tiểu học. Ở cấp thứ nhất, học sinh sau ba năm chỉ cần nghe, viết được vài câu đơn giản, đọc một trang sách sơ đẳng và biết bốn phép tính. Cấp thứ hai chủ yếu là tiếng Pháp và số học, hình học. Cấp thứ ba nới rộng chương trình tiếng Pháp, khái niệm các môn vật lý, toán, khoa học tự nhiên...

Như vậy, đến năm 1879, thực dân Pháp căn bản đã hoàn thành "đại chúng hóa" việc giáo dục toàn Nam kỳ và chữ quốc ngữ căn bản đã trở thành thứ chữ "được học và phải học" của bất cứ ai muốn đi học. Nói một cách khác, với nền học chính bằng tiếng Việt viết theo mẫu tự Latinh, chữ Việt đã lấn át gần như hoàn toàn chữ nho. Và thế hệ thanh niên cắp sách đến trường kể từ năm 1862 trở đi ở Nam kỳ, chữ Việt đã trở thành thứ chữ của người Việt, chứ không còn là chữ của đạo Thiên Chúa nữa.

Ở miền Bắc, việc mở mang trường học đi chậm hơn gần 10 năm. Đến tháng 4-1886, cả miền Bắc chỉ có ba trường Pháp. Nhưng qua năm 1887 đã có một trường thông ngôn, chín trường tiểu học nam, bốn trường tiểu học nữ, một trường tư dạy vẽ và 117 trường tư dạy chữ quốc ngữ.

(Theo Tuổi trẻ)

Scorpion(st)

--------------------------------------------------------------------------------

Gửi bởi: Scorpion -- Thời gian: 12/27/2011 10:00:48 AM

130 năm thăng trầm chữ Việt

Kỳ 5:Báo chí tiên phong

Khác với nhiều nước phương Tây, nền văn học chữ Việt nước ta, đặc biệt là ở Nam kỳ, được nhiều nhà nghiên cứu khẳng định "xuất phát từ báo chí".

Bìa cuốn Nam Việt lược sử của Nguyễn Văn Mai in năm 1919 - Ảnh tư liệu

Nói một cách khác, các sáng tác văn học bao gồm thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện dịch, ký, tuồng... đã được báo chí đăng tải, kích thích và nâng cánh trước. Những tác phẩm văn học đầu tiên ở nước ta thời kỳ đầu thường xuất hiện trên mặt báo trước khi in thành sách.

Những tác phẩm đầu tiên

Ngay từ thuở đầu tiên của báo chí, chúng ta đã thấy xuất hiện những tác phẩm, dịch phẩm đăng báo. Những bài thơ, những truyện dịch, những bài ghi chép... đã xuất hiện trên Gia Định Báo từ cuối thế kỷ 19.

Nói cách nào đó, bài viết Chuyện về Tổng binh Luận, Chuyện về người Mọi của Trương Vĩnh Ký (Gia Định Báo 15-8-1865) là bước đầu tiên của văn học chữ Việt. Cho tới tập ký Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi 1876, có thể gọi là tác phẩm văn học rồi. Ất Hợi là năm 1875, song có lẽ tác giả đi và về đã sang năm 1876 nên ông gọi như vậy. Tập thơ Mắc cúm từ (1888) trong lời tựa ông Trương Vĩnh Ký ghi là "cái từ này là của ông Hai Đức ở Chợ Lớn là người có học vấn giỏi, thấy vậy đặt ra ít trương chơi".

Không biết có phải Hai Đức là Võ Thành Đức, tác giả bài thơ Khuyên đừng cờ bạc đăng trên Gia Định Báo ngày 19-10-1897 không? Dù của ai đi nữa thì đây cũng là tập thơ chữ Việt thuộc lớp đầu tiên trong văn học chữ Việt ở Nam kỳ và cuốn này hoàn toàn không được các nhà nghiên cứu đề cập. Rồi Thơ mẹ dạy con (Huỳnh Tịnh Của 1888), Chuyện đời xưa (Trương Vĩnh Ký 1867), Chuyện giải buồn (Huỳnh Tịnh Của - 1880 và 1885), Chuyện khôi hài (Trương Vĩnh Ký 1882)... xứng đáng có chỗ đứng trang trọng trong làng văn học nước nhà.

Và khi xuất hiện quyển tiểu thuyết mỏng Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản vào năm 1887 ở Sài Gòn thì văn học chữ Việt được đóng dấu mốc chính thức hình thành. Có thể nói đây là quyển tiểu thuyết bằng chữ Việt đầu tiên của Việt Nam. Nguyễn Trọng Quản (1865-1911), người Bà Rịa, học trò và là rể của ông Trương Vĩnh Ký. Ông là một trong ba người Việt đầu tiên ở Nam kỳ được du học tại Alger, nhà giáo rồi giám đốc trường sơ học khoảng năm 1890-1900. Ngoài Thầy Lazaro Phiền, ông còn viết Truyện bốn anh Chà Và cùng chuyện tầm phào chẳng nên đọc, Kim vọng phu truyện (Nguyễn Q.Thắng - Văn học miền Nam).

Cùng thời với hai ông Trương và Huỳnh là Trương Minh Ký (1855-1900) cũng là một cây bút tiền phong đáng ghi nhận. Là một nhà báo kiêm thầy giáo, ông viết khá nhiều và khá đều, tuy tác phẩm in thành sách để lại không nhiều, phần lớn bị thất lạc. Ít nhất từ năm 1882, chúng tôi thấy ông viết khá đều trên Gia Định Báo, mỗi tuần một bài văn xuôi hoặc văn vần, viết có, dịch có.

Ông cũng là một trong những người đầu tiên viết và cổ động việc học chữ quốc ngữ. Thầy Ký (Trương Vĩnh Ký) dạy học, có làm sách mẹo dạy tiếng Langsa, có làm ra chữ quốc ngữ để người ta dễ học, những người ký lục giỏi cùng siêng năng sẽ lo mà học chữ quốc ngữ vì có hai mươi bốn chữ mà viết đặng muôn ngàn chuyện, chữ chi mắc rẻ cũng viết đặng, không phải như chữ ta, học già đời mà còn có những chữ lạ viết không ra, ở đây có Phủ Tường đã học đặng chữ quốc ngữ, viết đặng, đọc đặng. Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học một đôi tháng thì thuộc hết. (Gia Định Báo, ngày 15-4-1867)

Nở rộ đầu thế kỷ

Cho tới đầu thế kỷ 20 khi báo chí nở rộ thì xuất hiện nhiều nhà văn, nhiều tác phẩm hơn.

"Đây là giai đoạn của "thơ, tuồng, truyện, tích". Để phục vụ số thân chủ đông đảo (gồm giới tiểu điền chủ, hương chức hội tề ở làng hoặc công chức dư khả năng tài chánh), các nhà in tung hàng loạt ấn phẩm" (Sơn Nam - Cá tính của miền Nam). Nói thơ, kể truyện theo tuồng, theo tích là điều mà nhiều người ưa thích, kể cả người không biết chữ cũng nghe, hiểu được. Người nói thơ theo giọng Lục Vân Tiên, một kiểu đọc thơ đặc biệt của miền Nam mà người miền khác ít biết. Độc giả muốn nghe điệu nói thơ này xin vô Google tìm bài ca cổ Ông lão chèo đò do Út Trà Ôn hát. "Vì thơ dài mấy trăm câu nên người nói thơ và người nghe cần có tiện nghi tối thiểu hoặc nằm võng, hoặc ngồi trên bộ ván, hoặc ngồi dựa cột. Ai muốn phong lưu thì giăng võng" (Sơn Nam).

Từ năm 1905-1909 danh sách thơ xuất bản khá nhiều như Bạch Viên - Tôn Các, Chiêu Quân cống Hồ, Dương Ngọc, Đào Trinh - Luông Sanh, Lâm Sanh - Xuân Nương, Lang Châu, Lý Công, Mụ Đội, Nam Kỳ, Nữ trung báo oán, Phạm Công - Cúc Hoa, Thạch Sanh - Lý Thông, Thoại Khanh - Châu Tuấn, Trần Minh khố chuối, Cha mẹ dạy con... Tới năm 1919 đã thấy Gò Công phong cảnh vịnh, Thơ Sáu Nhỏ, Văn Thánh Gẫm tử đạo, Hoàng Trừu, Thơ Vân Tiên ghiền, Thơ Năm Tỵ... Chưa kể người ta còn thấy thơ Thầy Thông Chánh (tác phẩm này bị cấm in nhưng vẫn phổ biến rộng), Thơ cậu Hai Miêng...

Về truyện dịch thì ngay từ số đầu tiên của Nông Cổ Mín Đàm (1901) đã đăng Tam quốc chí bằng chữ quốc ngữ. Đông Châu liệt quốc, Tái sanh duyên ra mắt từ năm 1906 do các dịch giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn An Khương, Nguyễn Công Kiều, Trần Đình Nghi, Nguyễn Kỳ Sắt. Bộ Đại Minh hồng võ và Anh hùng náo tam môn giai do Trần Phong Sắc dịch in năm 1907. Nhạc Phi, Thuyết Đường, Phong kiếm xuân thu do Trần Công Hiển dịch in năm 1910...

Tính đến năm 1925 thì Nam kỳ đã có cả một kho tác phẩm bằng văn vần lẫn văn xuôi. Hãy khoan bàn đến chữ nghĩa như thế nào, có nhiều sai sót về văn phạm, lỗi chính tả hay không, nội dung hay hoặc dở mà chỉ bàn đến số lượng thôi thì văn học Nam kỳ đã đi xa trước khi miền Bắc và miền Trung có báo chữ Việt.

Sau Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, theo Nguyễn Văn Trung thì đã thấy các tác phẩm "truyện ta ảnh hưởng truyện Tàu và tiểu thuyết Tây phương" sau: Chồn cáo tự sự (Michel Tình 1910), Kim thời dị sử (Biến Ngủ Nhi 1917), Mảnh trăng thu, Cậu Tám Lọ (Bửu Đình 1929), Lương Hoa truyện (Nguyễn Khánh Phương 1907), Phan Yên ngoại sử (Trương Duy Toản 1910), Truyện ông Gioan (Ngô Kim Thạch 1916), Ai làm được (1912), Cay đắng mùi đời (1922), Ngọn cỏ gió đùa (1926) của Hồ Biểu Chánh...

Đặc điểm của tiểu thuyết Nam kỳ thời kỳ này, dù là văn vần hay văn xuôi, dù viết theo kiểu Tàu hay Tây đều mang nội dung đạo lý truyền thống dựa trên Nho học, cái thiện thắng cái ác, cái hay đẹp sẽ thắng cái xấu và không phân biệt văn chương bác học hay văn chương bình dân. Thời ấy ai cũng đọc, cũng nghe được vì dễ hiểu, dễ cảm, không trúc trắc, cao xa, không trau chuốt.

Không chỉ có vậy, từ nửa cuối thế kỷ 19 ở Nam kỳ đã xuất hiện các loại sách "căn bản" như từ điển, sử ký...Quyển từ điển Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của in và phát hành trong hai năm 1895 và 1896 là quyển từ điển tiếng Việt do người Việt viết đầu tiên của nước ta, đến nay vẫn còn hữu dụng. Bụt sử lược biên của Trần Chánh Chiếu in năm 1913, Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca của Nguyễn Liên Phong in năm 1909, Nam Việt lược sử của Nguyễn Văn Mai in năm 1919, Văn chương thi phú An Nam của linh mục Hồ Ngọc Cẩn in năm 1919... Chỉ có điều đáng buồn là dù đi trước văn học cả nước khá lâu nhưng văn học miền Nam bị "thất lạc" khá nhiều, bị lãng quên khá lâu ngay cả trong văn học sử nước nhà.

(Theo Tuổi trẻ)

Scorpion(st)

--------------------------------------------------------------------------------

Gửi bởi: Scorpion -- Thời gian: 12/27/2011 10:06:56 AM

130 năm thăng trầm chữ Việt

Kỳ 6: Ngọn lửa Đông Kinh nghĩa thục

Để khơi gợi lòng yêu nước, đồng thời mở mang dân trí, kêu gọi mọi người đều được đi học, đều biết chữ, giới sĩ phu VN đã cho ra đời Đông Kinh nghĩa thục.

Lương Văn Can - Ảnh tư liệu

Đây cũng là một trong những chủ đích của phong trào Duy Tân mà Nguyễn Lộ Trạch và Phan Chu Trinh trước đó đã nhắm tới, nên có thể coi Đông Kinh nghĩa thục là một phần của phong trào Duy Tân vậy.

Mở trường khai trí cho dân

Ðông Kinh nghĩa thục là tên một trường học miễn phí, sau trở thành tên một phong trào. "Trường nghĩa thục đứng đầu dạy dỗ, khắp ba mươi sáu phố Hà thành, gái trai nô nức học hành. Giáo sư tám lớp học sinh non ngàn". Và "Trước hết phải học ngay quốc ngữ, Khỏi đôi đường tiếng, chữ khác nhau. Chữ ta, ta đã thuộc làu. Nói ra nên tiếng,viết câu nên bài. Sẵn cơ sở để khai tâm trí". Các câu ca này xác định hoạt động của Ðông Kinh nghĩa thục và tiêu chí của phong trào.

Theo Nguyễn Hiến Lê, Ðông Kinh nghĩa thục thành lập năm 1906 theo gợi ý của Phan Chu Trinh tại nhà riêng của Lương Văn Can ở phố Hàng Ðào (Hà Nội). Lương Văn Can làm thục trưởng, Nguyễn Quyền làm giám học. Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn chịu trách nhiệm xin giấy phép. Mục đích của Ðông Kinh nghĩa thục là "mở trường khai trí cho dân", "dạy học không lấy tiền". "Trường sẽ dạy cả Việt văn, Hán văn, Pháp văn", "bỏ lối học từ chương khoa cử mà chú trọng vào thường thức và thực nghiệp", "thầy dạy không lấy tiền công".

Trong khi chờ giấy phép, hai lớp học một nam, một nữ với sáu, bảy chục học sinh được thành lập tại nhà số 4 Hàng Ðào, Hà Nội. Sau vài tháng xin phép, tháng 5-1907 trường mới có giấy phép và số lớp cũng tăng lên độ "20 lớp với khoảng hơn 500 học sinh" (theo Nguyễn Thìn Xuân trong bài 100 năm Ðông Kinh nghĩa thục thì trường thành lập vào tháng 3-1907). Chương trình tiểu học dạy những người mới biết chữ quốc ngữ, trung học và đại học dạy những người đã thông chữ Hán hoặc muốn học chữ Pháp. Các môn học có sử ký, địa lý nước nhà, toán, vẽ, một chút khoa học.

Ðể có sách mà dạy, trường thành lập một ban tu thư để soạn sách do Phạm Tư Trực, Dương Bá Trạc, Lương Trúc Ðàm, Phương Sơn (phần soạn sách) và Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Ðôn Phục, ông cử làng Ðông Tác, Hoàng Tích Phụng (phần dịch sách). Soạn và dịch xong lại giao cho một ban khắc in và in ra hàng trăm bản để phát cho học sinh và đồng chí các nơi.

Các loại sách được dịch chủ yếu là "tân thư" như Ðại đồng thư của Khang Hữu Vi, nhất là bộ sách Ẩm Băng Thất tùng thư của Lương Khải Siêu, Mậu Tuất chính biến ký, còn có một số sách có tính cách là những tập vịnh sử, ký sự về tình hình hiện đại của Nhật Bản như Nhật Bản duy tân tam thập niên sử (bản dịch chữ Hán của La Hiếu Cao).

Nhiều tập sách nêu những tấm gương chiến đấu của các chí sĩ, các nhà hoạt động chính trị, hoạt động cách mạng của toàn thế giới cũng được các nhà nho đón đọc một cách say sưa. Có tập như Cận thế chi quái kiệt, đề cập đủ loại anh hùng, đều là những người anh hùng có công đổi mới đất nước của họ, dù đó là vua chúa hay tổng thống, giám quốc: Vua Bỉ Ðắc (Pierre le Giand) ở Nga, Hoa Thịnh Ðốn (Washington) ở Mỹ, Nã Phá Luân (Napoléon) ở Pháp, Tỉ Sĩ Mạch (Bismarck) ở Ðức...

Bộ phận soạn, viết rất nhiều các bài thơ cổ động, dùng vần điệu lục bát, nhắc nhở quần chúng về từng nhiệm vụ duy tân cụ thể. Họ có sáng kiến tìm những đầu đề hấp dẫn, khêu gợi, rất hợp với tâm lý quần chúng. Bài thơ ngắn này là Kêu hồn nước, bài ca trù gọn nhẹ kia là để hú hồn thanh niên. Ðây là bản Cáo hủ lậu văn, kia là bản Giác thế tân thanh, rồi đến những bài Khuyên học quốc ngữ, học chuyên môn, học công nghệ, học buôn bán. Kia là những bài khuyên đoàn kết, khuyên hợp quần. Tất cả những gì cần thiết cho sự đổi mới, Ðông Kinh nghĩa thục đều đề cập một cách gọn gàng, thiết thực (Chương Thâu - Phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20). Những bài Gọi lính tập, Tiếng gọi thanh niên thức tỉnh trước thời cuộc, hùng hồn mà súc tích.

Bài ca khuyến học quốc ngữ - Ảnh tư liệu

"Làm lòng dân náo động"

Bên cạnh việc đẩy mạnh học chữ quốc ngữ, Ðông Kinh nghĩa thục thường tổ chức sinh hoạt, học tập tuyên truyền về lịch sử nước nhà, về địa lý, toán học, cách trí, vệ sinh... Ðặc biệt ban cổ động, tuyên truyền của trường lại hô hào mọi người dân Việt Nam phải có lòng yêu nước, nhớ đến cội nguồn con Rồng cháu Tiên, phải biết đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lấy nhau, đào tạo những con người có ích cho đất nước, dùng hàng nội hóa, bài trừ mọi hủ tục mê tín dị đoan. Ngoài việc chống tư tưởng lạc hậu, Ðông Kinh nghĩa thục còn mạnh dạn kêu gọi noi gương Nhật Bản và nền văn minh Âu Tây. Ðể truyền bá tư tưởng học thuật mới, Ðông Kinh nghĩa thục rất chú trọng tới việc học chữ quốc ngữ và làm cho chữ quốc ngữ được phát triển, dần dần thay thế chữ Nho, chữ Nôm khó học (Nguyễn Thìn Xuân - 100 năm Ðông Kinh nghĩa thục), "chê cái tục để búi tóc củ hành, móng tay lá lan, liên tưởng tới những hủ tục khác như nhuộm răng, chọn ngày tốt để tắm..." (Nguyễn Hiến Lê - Ðông Kinh nghĩa thục)

Đông Kinh nghĩa thục còn tổ chức diễn thuyết thường xuyên ở Hà Nội và các vùng xung quanh. Các buổi diễn thuyết chủ yếu là kêu gọi lòng yêu nước, đả phá hủ tục, cổ động học chữ quốc ngữ... và lời kêu gọi được hưởng ứng chính là "cắt bỏ búi tóc" lan mạnh ở Hà thành.

Thấy hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục sau hơn một năm mỗi ngày mỗi hăng, ảnh hưởng lớn dần, chính quyền thực dân cho mở Trường Tân Quy để cạnh tranh. Trường này do Nguyễn Tái Tích, anh ruột nhà thơ Tản Đà, làm hiệu trưởng, khai giảng ngày 11-11-1907 nhưng chỉ có 50 sinh viên đăng ký học (Chương Thâu). Không cạnh tranh được, chính quyền thực dân liền đàn áp. Tháng chạp năm Đinh Mùi 1908, giấy phép của Đông Kinh nghĩa thục bị thu hồi với cái cớ "có thể làm lòng dân náo động" và nhân có nhiều cuộc nổi dậy ở nhiều nơi trong nước, thực dân bắt hầu hết những người liên quan và có quan hệ với Đông Kinh nghĩa thục đày ra Côn Đảo.

Ở miền Nam, những người đầu tiên tiếp xúc và hưởng ứng Đông Kinh nghĩa thục là Nguyễn An Khương (Khang), Nguyễn An Cư và Trần Chánh Chiếu. Các ông biết phong trào qua những bài ca yêu nước và tiếp xúc với những liên lạc viên của phong trào Đông Du từ Nhật, Thái Lan và Trung Quốc đi về trong nước. Còn Trần Chánh Chiếu biết phong trào qua con trai là Trần Văn Tuyết, từng học ở Hương Cảng (Hong Kong), mang những bản hiệu triệu bằng Hán văn của Phan Bội Châu về nước. Nhờ đó mà những bài ca ái quốc của Đông Kinh nghĩa thục được truyền bá và thu hút một số thanh niên như Trương Duy Toản, Nguyễn Háo Vĩnh, Đỗ Văn Y... Những người này sau tham gia phong trào Đông Du và được đưa qua Nhật học tập. Những vị bị đày ra Côn Đảo khoảng năm 1910 thì bị đưa đi an trí các nơi, chủ yếu là ở miền Nam. Dương Bá Trạc, Lương Văn Can bị an trí ở Nam Vang (Campuchia), Lê Đại ở Long Xuyên, Võ Hoành ở Sa Đéc...

Tuy tồn tại không lâu, hơn một năm, nhưng ảnh hưởng của Đông Kinh nghĩa thục khá lớn. Tác động của phong trào đã kích thích nhiều hoạt động khác về sau trong việc chấn hưng đất nước, đặc biệt là chấn hưng quốc ngữ.

(Theo Tuổi trẻ)

Scorpion(st)

--------------------------------------------------------------------------------

Gửi bởi: Scorpion -- Thời gian: 12/27/2011 10:12:19 AM

130 năm thăng trầm chữ Việt

Kỳ cuối: Quốc ngữ của một nước độc lập

Có thể coi truyền bá quốc ngữ là một phong trào nối tiếp Đông Kinh nghĩa thục nhưng rộng hơn và do Đảng Cộng sản chỉ đạo.

Trong "Hồi ký" về thời kỳ "Mặt trận Dân chủ Đông Dương", Trần Huy Liệu viết: "Theo quyết nghị của Đảng, để tiến tới một tổ chức chống nạn thất học, chúng tôi, một số đồng chí đã họp với một số nhân sĩ để bàn về việc này. Buổi họp ở nhà anh Phan Thanh, trong đó có các anh Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp và tôi cùng mấy nhân sĩ là Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Tố... Hội nghị đi tới việc xin phép thành lập một hội".

Ngày thành lập Hội Truyền bá quốc ngữ năm 1938 tại sân vận động CSA Hà Nội: nhà thơ Hằng Phương đang đọc diễn văn. Trên hàng ghế gần diễn giả từ trái sang phải là các ông: Phan Thanh, Nguyễn Văn Tố, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Văn Huyên... - Ảnh tư liệu của Nguyễn Huy Thắng

Ra đời và lan rộng

Hội Truyền bá quốc ngữ ra đời ngày 25-5-1938 tại hội quán thể thao An Nam (CSA) trên phố Khúc Hạo, Hà Nội, do Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng, Bùi Kỷ - phó hội trưởng, Phan Thanh - thư ký, Quản Xuân Nam - phó thư ký, Đặng Thai Mai - thủ quỹ, Võ Nguyên Giáp - phó thủ quỹ. Cố vấn: Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Văn Huyên, Lê Thước.

Tại buổi thành lập, ngoài đông đảo quần chúng còn có Hoàng Xuân Hãn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Huyên, Phan Thanh, Hằng Phương (vợ nhà văn Vũ Ngọc Phan)... Mục đích của hội là "Dạy cho đồng bào Việt Nam biết đọc, biết viết tiếng của mình để dễ đọc được những điều thường thức cần dùng cho sự sinh hoạt hằng ngày. Cốt cho mọi người viết chữ quốc ngữ giống nhau".

Với chương trình là mở lớp học gồm bậc sơ đẳng dạy vỡ lòng cho học viên đọc, viết chữ quốc ngữ và làm được hai phép tính cộng, trừ. Bậc cao đẳng luyện cho học viên đọc, viết thông chữ quốc ngữ và dạy thêm ít điều thường thức và bốn phép tính.

Để việc truyền bá chữ quốc ngữ nhanh chóng, hội yêu cầu những người đã được hội dạy cho biết chữ phải cố gắng dạy lại cho một số người thất học khác xung quanh mình. Hội tổ chức các cuộc diễn thuyết nhằm giảng dạy, phổ biến những điều thường thức cho đồng bào. Xuất bản sách nhằm bổ khuyết việc học ở lớp, hội chủ trương biên soạn và xuất bản loại sách thường thức phổ thông về sử ký, địa lý, vệ sinh, khoa học... phổ biến rộng rãi trong nhân dân.

Giáo sư Hoàng Xuân Hãn lúc ấy đang giảng dạy tại Trường Bưởi, đã được hội mời làm cố vấn tham gia ban tu thư. Ông chính là người soạn quyển sách học vần nổi tiếng cho hội. Những câu "I tờ hai móc cả hai. I ngắn có chấm, tờ dài có ngang. O tròn như quả trứng gà. Ô thời đội mũ, ơ là thêm râu" và "huyền ngang, sắc dọc, nặng tròn; hỏi lom khom đứng, ngã buồn... nằm ngang" (Hoàng Xuân Hãn - Nhớ lại Hội Truyền bá quốc ngữ nhân kỷ niệm 50 năm, đăng trên báo Đoàn Kết năm 1988) cho tới nay vẫn còn có người thuộc. Những câu học vần đơn giản, dễ nhớ này chỉ nghe qua đôi lần là thuộc.

Quyển học vần này cũng được tiếp tục sử dụng trong phong trào Bình dân học vụ năm 1945. Sách được hội in và phát không cho giáo viên. "Để có tiền in sách, mua giấy bút cho giáo viên và người học, ban tài chính rải khắp Hà Nội, lạc quyên những người hằng sản hằng tâm, hoặc tiền, hoặc đồ vật. Nhiều thanh niên thanh nữ tình nguyện dạy những lớp tối cho trẻ em nghèo, những lao động nam nữ thất học". (Hoàng Xuân Hãn)

Hoạt động của hội thời kỳ đầu cũng bị thực dân theo dõi song được nhân dân ủng hộ nên phát triển lan dần từ thành thị tới nông thôn. Ngày 5-1-1939, thành lập hội ở Huế, tới năm 1943, cả Trung kỳ có hội. Và ngày 5-11-1944, Nam kỳ mới có hội do Nguyễn Văn Vĩ làm trưởng ban.

"Chữ Việt còn thì nước ta còn"

"Hội Truyền bá quốc ngữ là một trường đào tạo, giáo dục thanh niên ngoài xã hội. Một mặt nó luyện cho thanh niên những đức tính cần thiết trong cuộc sống (tinh thần đoàn thể, óc tổ chức, kỷ luật, kiên quyết hi sanh...). Mặt khác, nó giúp thanh niên tránh được những cuộc vui chơi không lành mạnh (cờ bạc, trai gái, rượu chè...).

Bên cạnh đó, cũng giúp các thanh niên trí thức có dịp tiếp xúc, đi sâu, tìm hiểu cuộc sống cơ cực của quần chúng công nông lao động. Thu hút thanh niên vào một số hoạt động xã hội do Đảng lãnh đạo". (Hà Thị Sương - Hội Truyền bá quốc ngữ)

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, chính phủ lâm thời đảm trách công việc của Hội Truyền bá quốc ngữ với tên Bình dân học vụ với các chủ trương mục tiêu không khác trước. Ngay sau khi cách mạng thành công, Chính phủ lâm thời Dân chủ cộng hòa đã có sắc lệnh số 20 ngày 8-9-1945 do Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Võ Nguyên Giáp ký: "Trong khi đợi lập được nên tiểu học cưỡng bách, việc học chữ quốc ngữ từ năm nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người (khoản 1). Hạn trong một năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên tám tuổi phải biết đọc và biết viết chữ quốc ngữ. Quá hạn đó, một người dân Việt Nam nào trên tám tuổi mà không biết đọc và biết viết chữ quốc ngữ sẽ bị phạt tiền (khoản 2).

Không chỉ vậy, tháng 10-1945, đích thân Bác Hồ đưa ra Lời kêu gọi chống nạn thất học có đoạn "Số người Việt Nam thất học so với số người trong nước là 95%, nghĩa là hầu hết người Việt Nam mù chữ. Như thế thì tiến bộ làm sao được?... Chính phủ đã lập một Nha Bình dân học vụ để trông nom việc học của nhân dân... Mọi người Việt Nam... phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc biết viết chữ quốc ngữ. Những người đã biết chữ hãy dạy cho người chưa biết chữ, hãy góp sức vào Bình dân học vụ" (Hồ Chí Minh - NXB Sự Thật 8-1975).

Điều này cho thấy Đảng Cộng sản VN đã quan tâm nhiều đến dân trí ngay từ lúc cách mạng chưa thành công và tiếp tục đẩy mạnh khuyến học sau khi cách mạng đã thành công.

Đến nay, đã 130 năm đi qua tính từ ngày 1-1-1882, chữ quốc ngữ trải qua bao sóng gió để trở thành thứ chữ của người Việt Nam. Dù bạn sống ở đâu trên địa cầu thì chữ quốc ngữ, chữ Việt vẫn là phần không thể thiếu trong đời sống.

Và nói như Nguyễn Văn Vĩnh đã nói "chữ Việt còn thì nước ta còn".

Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, một hội viên của Hội Truyền bá quốc ngữ khi còn là thư ký của Sở Thuế Hà Nội, đã ghi lại:

"10-9-1938: Chiều hôm qua, 6 giờ rưỡi, Đoan và tôi đến hội Trí Tri để chứng kiến ngày mở học đầu tiên của Hội Truyền bá quốc ngữ mà chúng tôi là hoạt động hội viên. Trong các lớp học, đã chen chúc bao nhiêu người "dốt" mà vì nghèo đói không thể học được: trẻ con, người nhớn, đàn bà, kẻ áo cộc, người áo the, người áo trắng, cu li, vú em, con đòi, thợ thuyền, tấp nập vào học. Tôi cảm động khi thấy những người nhớn ấy chưa biết chữ quốc ngữ, và cái việc dìu dắt họ, mở mắt cho họ, khai thông óc cho họ, ôi nó mới đẹp đẽ làm sao! Các hội viên trong ban dạy học đi lại tấp nập, vẻ sốt sắng hiện trên nét mặt. Trong các buồng học lờ mờ ánh sáng, "học trò" ngồi, chờ và mong mỏi.

Kế chúng tôi sang chỗ dạy học. Tôi cầm tay cho học trò viết, ôi những bàn tay ghẻ lở và bẩn, và ướt át. Tôi cảm động nhất khi viết cho một con bé trông kháu khỉnh, mà hỏi nó nó không giả nhời. Chị em nó bảo rằng nó câm và nó câm thật".

Nguyễn Huy Thắng - Thêm một số tư liệu về phong trào truyền bá quốc ngữ

Đức hạnh và tài năng của Hoàng Thái hậu Từ Dũ

Trong lịch sử các triều vua thời Nguyễn, Hoàng Thái hậu Từ Dũ là vị Hoàng Thái hậu duy nhất chứng kiến sự hưng thịnh và suy tàn của triều Nguyễn qua 8 đời vua. Bà là Hoàng Thái hậu được nhân dân yêu mến nhất bởi sự khiêm tốn, giản dị và lòng yêu dân vô hạn của một bậc mẫu nghi thiên hạ. Khi bà mất, nhân dân kinh thành Huế đã làm một bài thơ dài 700 câu, ca ngợi tấm lòng nhân đức của bà. Bài thơ đó vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay.

Hoàng quý phi được vua Thiệu Trị sủng ái nhất

Hoàng Thái hậu Từ Dũ là con gái đầu lòng của Quốc công Phạm Đăng Hưng, một danh thần dưới thời vua Gia Long, cùng với Thượng thư Lê Văn Duyệt là một trong hai người được Gia Long hết lòng tin dùng. Khi vua Gia Long băng hà đã phụng thảo di chiếu giao cho Quốc công Phạm Đăng Hưng và Thượng thư Lê Văn Duyệt tôn phò vua mới.

Theo gia phả họ Phạm Đăng, thì Hoàng Thái hậu Từ Dũ tên thật là Phạm Thị Hằng, tự Nguyệt. Bà sinh ngày 19 tháng 5 năm Canh Ngọ, tức ngày 20/6/1810 tại Giồng Sơn Quy (gò Rùa), xứ Gò Công, huyện Tân Hòa, phủ Gia Định (nay thuộc Tiền Giang). Tương truyền rằng, bà Phạm Thị Vị (thân sinh ra Từ Dũ Thái hậu) đã hạ sinh con gái vào một đêm trăng sáng nhất trong năm của xứ Gò Công, vì thế, Quốc Công Phạm Đăng Hưng đã đặt tên con gái là Phạm Thị Hằng và thường gọi là Nguyệt.

Từ nhỏ, ái nữ Phạm Thị Hằng của Quốc Công Phạm Đăng Hưng đã tỏ ra thông tuệ hơn người. Phạm Thị Hằng được cha cho đọc sách Thánh hiền, được mẹ dạy Tam Tòng, Tứ Đức ngay từ thuở thiếu thời nên đã sớm thông làu kinh sử, am hiểu cả chính trị và văn thơ, lại rất mực hiền lành, đoan chính, cư xử dịu dàng, ăn nói nhỏ nhẹ.

Sau này, Phạm Thị Hằng theo cha mẹ ra sinh sống ở kinh thành Huế. Danh tiếng về cô con gái vừa thông tuệ, vừa đoan chính, đức hạnh của quan Đại thần Phạm Đăng Hưng đã đến tai Thuận Thiên Hoàng Thái hậu (là quý phi của vua Gia Long và là mẫu hậu của vua Minh Mạng). Khi Phạm Thị Hằng 14 tuổi, Thuận Thiên Hoàng Thái Hậu đã cho người đi tìm hiểu thực hư những lời đồn về trưởng nữ quan Đại thần Phạm Đăng Hưng, thấy người báo về nói lời đồn không hề bịa đặt, Thuận Thiên Hoàng Thái Hậu đã gọi Phạm Thị Hằng vào cung để hầu hạ cho hoàng tử Nguyễn Phúc Miên Tông, trưởng nam của vua Minh Mạng và bà Hồ Thị Hoa.

Hoàng tử Nguyễn Phúc Miên Tông (tức vua Thiệu Trị sau này) sinh ngày 16/6/1807 tại nhà ông ngoại là Hồ Văn Bôi ở ấp Xuân Lộc bên bờ sông đào Đông Ba. Khi sinh, hoàng tử Miên Tông được 13 ngày thì bà Hồ Thị Hoa bị hậu sản qua đời. Bà nội của hoàng tử Miên Tông là Thuận Thiên Hoàng Thái hậu vì thương xót đứa cháu ruột mới chào đời đã mồ côi nên đã đem vào cung trực tiếp nuôi dưỡng.

Tương truyền là sau ngày bà Hồ Thị Hoa mất, hoàng tử Miên Tông khóc ròng 1 tháng trời không nghỉ. Cả Thuận Thiên Hoàng hậu và vua Minh Mạng đều nói rằng: "Trẻ con mới sinh ra mà đã biết thương khóc mẹ, sau này thế nào cũng giữ trọn đạo hiếu".

Thuận Thiên Hoàng Thái hậu nuôi dưỡng Hoàng tử Miên Tông từ lúc lọt lòng nên rất yêu quý cháu nội. Khi Hoàng tử Miên Tông đến tuổi dựng vợ gả chồng, bà đã nhìn khắp các gia đình quý tộc trong kinh thành để chọn cho hoàng tử Miên Tông một người vợ tài đức và rốt cuộc đã chọn Phạm Thị Hằng - ái nữ của quan đại thần Phạm Đăng Hưng.

Quả nhiên sau này đã chứng tỏ rằng sự lựa chọn của bà Thuận Thiên Hoàng Thái hậu là sự lựa chọn không thể sáng suốt hơn. Cũng phải nói thêm rằng, chính vì sự ảnh hưởng của Thuận Thiên Hoàng Thái hậu mà vua Minh Mạng mới quyết định truyền ngôi cho hoàng tử Miên Tông, vì trước đó vua Minh Mạng có ý định truyền ngôi cho một hoàng tử khác là con trai bà Hiền phi Ngô Thị Chính - vị cung phi được nhà vua sủng ái nhất.

Bà Phạm Thị Hằng vào cung năm 14 tuổi và trở thành vợ của hoàng tử Miên Tông. Năm 1841, khi hoàng tử Miên Tông lên ngôi, lấy hiệu là Thiệu Trị, bà Phạm Thị Hằng trở thành cung tần và đặc biệt được vua Thiệu Trị yêu mến. Vua Thiệu Trị giao cho bà làm Thượng Nghi, coi sóc Lục Thượng, tức là 6 công việc hầu hạ vua trong cung: Thượng quan (mão), Thượng y (áo), Thượng thự (ăn), Thượng mộc (tắm), Thượng tịch (chiếu), Thượng thư (sách). Đây là một vinh dự lớn với một cung tần, vì phải được vua sủng ái và tin cậy lắm mới được giao công việc quan trọng này.

Vua Thiệu trị trị vì từ năm 1841 đến 1847 thì băng hà. Trong 7 năm đó, vua Thiệu Trị đã dần phong cho bà Phạm Thị Hằng là Thần phi, Giai phi rồi Đệ nhất Giai phi, tức phi tần có vị trí quan trọng nhất trong hậu cung (triều Nguyễn có tục không lập hoàng hậu).

Đệ nhất Giai phi Phạm Thị Hằng thừa hưởng một nền giáo dục hoàn hảo của cha mẹ là quan Đại thần Phạm Đăng Hưng và phu nhân Phạm Thị Vị, nên khi vào cung, những phẩm chất của bà ngày càng được tỏa sáng. Giữa các cung tần, mỹ nữ trong cung, bà là người dịu dàng, đức hạnh, thông minh và hiểu biết hơn cả.

Không chỉ gần gũi với bà Phạm Thị Hằng nhất, vua Thiệu Trị còn đặc biệt tin tưởng vào sự nhạy bén chính trị của bà. Bà là người vợ duy nhất được Thiệu Trị tin tưởng cùng bàn bạc chuyện chính trị, chuyện quan quân. Khi thiết triều ở điện Khâm Văn, nghe các quan văn võ trong triều bàn chuyện chính sự, vua Thiệu Trị thường cho bà Phạm Thị Hằng ngồi sau rèm che để nghe các quan tâu việc và nghe vua phán.

Sau mỗi buổi thiết triều, bao giờ vua cũng có ý hỏi bà Phạm Thị Hằng về từng việc mà vua đã giải quyết trong ngày. Có những việc ý vua Thiệu Trị muốn một đằng, nhưng sau khi nghe lời khuyên của bà Phạm Thị Hằng, vua thấy phải lập tức thay đổi quyết định. Những năm cuối đời, khi vua Thiệu Trị đau yếu, mọi việc trong triều đều do chính bà Phạm Thị Hằng một tay đảm trách.

Ủy thác việc cai trị cả một đất nước cho một người phụ nữ, đó không phải là chuyện thường gặp trong các triều đại phong kiến, nhưng quãng thời gian ngắn trước khi băng hà, vua Thiệu Trị đã rất an tâm khi có bà Phạm Thị Hằng thay vua lo việc nước.

Vua Thiệu Trị có 31 người vợ và 64 người con (trong đó 29 hoàng nữ, 35 hoàng tử). Đệ nhất Giai phi Phạm Thị Hằng sinh cho vua 3 người con (người con út là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm - tức vua Tự Đức sau này). Đệ nhất Giai phi Phạm Thị Hằng luôn là người được vua yêu thương, sủng ái nhất trong tất cả các bà vợ chốn hậu cung.

Hậu cung của vua Thiệu trị có 31 người vợ và còn nhiều cung tần mỹ nữ khác. Có những người cả năm không có được vinh hạnh hầu hạ vua, cũng chẳng được vua hạ giá tới thăm, nhưng riêng đệ nhất Giai phi Phạm Thị Hằng thì được vua Thiệu Trị đối xử theo một cung cách hoàn toàn khác. Trừ những lúc quá bận còn thì hầu như ngày nào, vua Thiệu Trị cũng cho gọi đệ nhất Giai phi Phạm Thị Hằng lên trò chuyện.

Có hôm tâm trạng vui vẻ, thoải mái, vua Thiệu Trị còn đích thân đến cung của đệ nhất Giai phi Phạm Thị Hằng, cùng làm thơ, đàm đạo chuyện thơ văn và bàn về những điều Cổ nhân từng dạy.

Sở dĩ vua Thiệu Trị sủng ái bà Phạm Thị Hằng như thế là bởi dù với vua hay với các cung tần, mĩ nữ trong cung và cả kẻ hầu người hạ ở dưới, bà Phạm Thị Hằng đều cư xử không chê vào đâu được, khiến tất cả mọi người đều yêu mến. Có những đêm vua Thiệu Trị rảnh việc, ngồi đọc sách đến nửa đêm chưa ngủ, bà Phạm Thị Hằng vẫn thức hầu Thượng thư, không hề tỏ ra mệt mỏi.

Mỗi lần được vua ân huệ ban thưởng, bà đều chia đều cho các cung phi trong cung, chứ không giữ làm của riêng. Cung phi nào phạm lỗi bị vua phạt, bà hết lời bào chữa thay họ. Bà thông minh nên dù đọc sách hay đọc văn thơ đều chỉ cần đọc một lần là nhớ, không phải mở sách ra thêm lần nữa. Có lần vua Thiệu Trị đem sử sách ra đọc, bà ngồi hầu Thượng thư và góp ý với vua:

"Làm người ắt phải học, nhiên hậu biết được điều thiện, điều ác. Điều thiện nên phát huy, điều ác nên tránh để không sa vào chỗ tà. Như sách xưa có câu: Nhân bất học bất tri đạo (người chẳng học chẳng biết đạo lý)". Một lần, vua đọc một đoạn sách dạy: "Kim nhân tam giang kỳ khẩu bối minh: Cổ chi thận ngôn chi dã (tức là: Người bằng vàng niêm miệng 3 lớp. Ở sau lưng chạm chữ: đó là người cẩn thận lời nói". Bà góp ý thêm: "Một lời nói ra phải cẩn trọng, một lời phát ra, người ta nhờ phước mà người ta thọ hại.

Những điều ân oán, thành bại đều do từ cái miệng mà ra. Cho nên sách xưa có nói ngọc có tỳ vết còn mài được, lời nói có tỳ vết không biết làm sao cho hết". Vua Thiệu Trị nghe xong vô cùng tâm đắc và càng yêu mến Đệ nhất Giai phi Phạm Thị Hằng.

Scorpion(st)

--------------------------------------------------------------------------------

Gửi bởi: Scorpion -- Thời gian: 12/30/2011 7:59:35 AM

Nhân cách của Từ Dũ Thái hậu: Năm 1847, vua Thiệu Trị băng hà, truyền ngôi cho Nguyễn Phúc Hồng Nhậm - con trai bà Phạm Thị Hằng. Hoàng tử Hồng Nhậm lên ngôi, lấy hiệu là Tự Đức. Vua Tự Đức đã phong cho mẹ là Từ Dũ Thái Hoàng Thái hậu.

Sở dĩ vua Thiệu Trị quyết định truyền ngôi cho Tự Đức cũng vì sự sủng ái của vua với Đệ nhất giai phi Phạm Thị Hằng . Vua Thiệu Trị tin rằng một người đức hạnh, đoan chính, thông làu kinh sử, trọn vẹn đạo lý hẳn sẽ dạy con có những phẩm chất đó, nên Thiệu Trị đã truyền ngôi cho hoàng tử Hồng Nhậm chứ không truyền ngôi cho các hoàng tử khác, dù hoàng tử Hồng Nhậm không phải trưởng nam.

Từ lúc vào cung làm vợ hoàng tử Miên Tông rồi sau này trở thành hoàng quý phi của vua Thiệu Trị hay lúc là Từ Dũ Thái hậu, bà Từ Dũ vẫn luôn là người sống giản dị, khiêm tốn, kính trên nhường dưới. Được vua sủng ái, cuộc sống đầy đủ, nhưng Từ Dũ Thái hậu sống rất giản dị. Nếu có điều gì khiến bà bất bình nhất thì chính là sự xa hoa, tiêu xài phung phí.

Bà vẫn thường dạy các cung phi trong hậu cung: "Tất cả những gì chúng ta được hưởng đều là mồ hôi của dân. Nếu lãng phí đã không ích gì mà lại đáng tiếc, sao bằng lưu lại để triều đình dùng cho việc nước". Nói là làm, tất cả những gấm vóc, châu ngọc, lụa là được ban tặng, bà đều giao nộp vào kho, tuyệt nhiên không dùng đến. Bà chỉ có vài bộ xiêm y để thay đi thay lại. Có lần vua Tự Đức đến thăm, thấy xiêm áo mẹ mặc vải đã sờn, liền ngỏ ý may cho bà áo mới, nhưng bà kiên quyết chối từ.

Hoàng Thái hậu Từ Dũ tiết kiệm đến nỗi chính các cung nữ hầu cận bà cũng phải kinh ngạc. Bà quan niệm hạt gạo là hạt ngọc trời ban nên không bao giờ được phép lãng phí. Có lần thấy cung nữ ở cung Gia Thọ đổ cơm nguội xuống dưới rãnh nước, bà bắt nhặt lên, đem rửa thật sạch rồi đem hấp lại và đích thân ăn chỗ cơm đó.

Thời vua Thiệu Trị còn sống, có lần vào cung thăm bà, vua thấy bà dùng chiếc quạt nan tre đã sờn rách, chiếc bát ăn cơm bà dùng cũng có vết rạn, vua bèn sai người đổi cái khác nhưng Giai phi Phạm Thị Hằng không cho. Bà nói: "Đổi cái mới để lâu nó cũng cũ đi, vậy thì cứ để lại cái cũ".

Ngay cả những cây nến trong hậu cung cháy hết, còn lại mẩu thừa, cung nữ thường vứt đi, Từ Dũ Thái hậu cũng bắt gom lại để dành, dồn vào nấu thành cây nến khác. Bà thường nói với các cung nữ: "Ta tự thấy không làm gì có ích cho nước nhà, sao lại cậy thế là mẹ vua để ăn tiêu xa xỉ. Một sợi tơ, một hạt hạo đều là máu mỡ của dân, tuyệt không được coi thường mà hoang phí?".

Là người yêu nước thương dân, có năm mùa màng thất bát, nhân dân đói kém, Từ Dũ Thái hậu đã đứng ra xin vua miễn thuế cho dân. Nhân dân biết ơn đã làm một bài vè dài 700 câu để ca ngợi tấm lòng nhân đức của Từ Dũ Thái hậu.

Sinh thời, làm việc gì, tiêu đồng tiền gì dù là nhỏ nhất, Từ Dũ Thái hậu cũng nghĩ đến dân. Dịp lễ mừng thọ bà, bà thường lấy lý do nhân dân còn nghèo, thiên tai mất mùa, đói ăn mà từ chối lời đề nghị tổ chức mừng thọ của vua. Khi mới lên ngôi, Tự Đức liền nghĩ ngay đến việc phong cho bà làm Hoàng Thái hậu, nhưng bà từ chối và nói:

"Tăng thêm hư danh cho đẹp đẽ trong tình cảnh đất nước như bây giờ (lúc bấy giờ thực dân Pháp đang lăm le gây chiến tranh cướp nước ta), thì cũng bằng làm tăng cái thất đức mà thôi". Mãi sau này, khi được vua hết lời van xin, bà mới đồng ý nhận tấn phong trong dịp bà tròn 60 tuổi, nhưng bà kiên quyết không cho tổ chức lễ lạt tốn kém.

Cái nhân đức của Từ Dũ Thái hậu thể hiện qua từng việc nhỏ khiến lòng dân nể phục, ca ngợi bà là bậc mẫu nghi thiên hạ, là Hoàng Thái hậu có tấm lòng yêu thương dân vĩ đại nhất trong tất cả các Hoàng Thái hậu triều Nguyễn.

Chuyện bà Từ Dũ dạy con làm vua

Khi đã lên làm vua, Tự Đức vẫn thường xuyên bị Từ Dũ Thái hậu phạt mỗi khi mắc lỗi. Là bậc mẫu nghi thiên hạ, muốn gì được nấy, nhưng bà không vì thế mà nâng đỡ dòng họ mình. Có lần có người họ Phạm quê bà từ Gia Định ra gặp vua Tự Đức xin chức tước, được vua Tự Đức hỏi ý kiến, bà đáp:

"Người trong họ ta không có công lao thì không được ban tước lộc. Nếu có ai làm điều sai thì càng phải nghiêm trị theo phép nước để răn đe người đời". Có lần, vua Tự Đức mải đi săn mà về muộn ngày giỗ kị, Từ Dũ Thái hậu rất giận. Biết tội, Tự Đức vừa về đã vào cung, quỳ xuống trước mặt Từ Dũ Thái hậu, hai tay cung kính dâng cái roi mây sẵn sàng xin chịu đánh. Từ Dũ Thái hậu vì niệm tình vua mới tha không chịu tội lần đó.

Có lần, một viên quan trong triều là Phạm Phú Thứ thấy vua mải mê đàn hát mà quên việc triều chính đã làm sớ khuyên can vua. Tự Đức đọc xong vô cùng giận dữ liền giáng viên quan này xuống làm lính canh. Từ Dũ Thái hậu biết được, bèn cho vời vua đến: "Ông Phạm dâng sớ trách cái tính lười biếng của con, thì ông ấy được lời gì?".

Tự Đức nói: "Không được lời gì, nhưng bề tôi sao dám trách vua nặng nề như thế". Từ Dũ Thái hậu lại nói: "Khi thương người ta mới giận. Mà giận thì hay quá lời. Ông ấy là trung thần mới dám nói ra những lời thật như thế". Vua Tự Đức nghe ra bèn phục hồi chức Hàn lâm viện điển tích cho Phạm Phú Thứ. Càng sau này, Phạm Phú Thứ càng là đại thần của vua, được vua đặc biệt tin dùng.

Tối tối, bà Từ Dũ thường cùng ngồi đọc sách với vua Tự Đức và giảng giải cho vua Tự Đức những điều mà sách Thánh hiền dạy. Bà cũng thường kể lại chuyện trị nước của bậc Tiên đế, để vua Tự Đức lấy đó làm bài học trị nước. Sau mỗi đoạn đọc, Từ Dũ Thái hậu thường phân tích các sự kiện, các nhân vật để rút ra bài học, qua đó gợi cho vua Tự Đức cách xử lý và điều hành việc nước.

Từ Dũ Thái hậu rất quan tâm đến tình hình quốc gia. Tuy ở cung Gia Thọ cả đời chẳng đi ra ngoài, nhưng việc triều chính có biến động, có sự vụ gì, bà đều hay biết. Bà thường nhận xét những ưu điểm và nhược điểm của từng viên quan. Chính vì thế, vua Tự Đức rất tôn kính mẹ. Tất cả những câu Từ Dũ Thái hậu ban cho vua, hay những điều Từ Dũ Thái hậu dạy bảo, vua Tự Đức đều ghi vào một quyển sổ gọi là "Từ Huấn Lục".

Vua Tự Đức rất mê săn bắn. Có lần vua đi săn về, mang mấy con chim vào cung Gia Thọ biếu Từ Dũ Thái hậu. Thấy vậy, Đức Từ Dũ không nói không rằng, bà chọn những con bị thương chưa chết đem đắp thuốc nuôi cho lành rồi thả ra. Bà nhắc vua: "Vật cũng như con người. Bắn chết con trống thì con mái lẻ bầy thương nhớ. Bắn chết chim non thì chim mẹ thảm buồn. Từ nay con không nên sát sinh". Lời Từ Dũ Thái hậu dạy không bao giờ sai, nên Tự Đức càng tôn kính mẹ, cứ cách ngày lại vào vấn an và hầu chuyện bà.

Có lần Từ Dũ Thái hậu nghe rằng, vua Tự Đức không bao giờ biết cười khi thiết triều. Ngay cả khi có đội nhã nhạc hay đôi kịch diễn cho vua xem, có những tiết mục hài khiến ai cũng phải cười chảy nước mắt, vua cũng không cười. Từ Dũ Thái hậu nghe thế bèn gọi một tay Hề Mồi trong cung, vốn rất giỏi chọc cười đến ra lệnh: "Mi phải mần răng để hoàng đế cười được một lần thì ta trọng thưởng. Làm không được việc, ta phạt một trăm trượng".

Nghe lời Từ Dũ Thái hậu, đêm hôm đó, khi Tự Đức đang đi đi lại lại trong sân ngự, Hề Mồi rón rén đến sau lưng Tự Đức và "quát": "E hèm! Mi cho tau xin chút lửa hút điếu thuốc". Lần đầu tiên có kẻ dám thất kính với mình, thấy sự lạ, Tự Đức cười chảy nước mắt, nhưng cười xong thì tóm cổ Hề Mồi và gọi quân lính đến chém tên Hề Mồi vì tội khi quân phạm thượng. Khi biết đó là lệnh của Từ Dũ Thái hậu, vua Tự Đức liền vào hỏi mẹ thì Từ Dũ Thái hậu đáp:

"Con là vua của một nước. Đối với quần thần, con làm họ khiếp sợ thì làm sao dám đề đạt nguyện vọng. Vậy con mần răng mà gần gũi, chỉ bảo được xã tắc".

Từ Dũ Thái hậu đã chứng kiến những ngày hưng thịnh rồi đến suy tàn của triều đại nhà Nguyễn. Bà đã sống đến 93 tuổi, với 80 năm trong cung vua, trải qua 8 đời vua Nguyễn. Tuy vậy, ngay cả khi triều Nguyễn hưng thịnh hay suy vong, bà vẫn là bậc mẫu nghi thiên hạ, là Hoàng Thái hậu triều Nguyễn được nhân dân yêu mến nhất.

Khi mất, bà được thờ cạnh vua Thiệu Trị. Để tỏ lòng biết ơn bà, người ta đã lấy tên bà đặt cho Bệnh viện Phụ sản lớn nhất ở thành phố Hồ Chí Minh: Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro