nhancau9

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 9. Mô hình giao thức SNMP và các thành phần cơ bản của giao thức SNMP.

1. Mô hình giao thức SNMP

Hình 9.1. Mô hình giao thức hđ SNMP

            SNMP sử dụng các dịch vụ chuyển tải dữ liệu thông qua các giao thức UDP/IP. Một ứng dụng của Manager phải nhận dạng được Agent cần thông tin với nó. Một ứng dụng của Agent được nhận dạng bởi địa chỉ IP của nó và một cổng UDP. Một ứng dụng Manager đóng gói y/c SNMP trong 1 UDP/IP, UDP/IP chứa mã nhận dạng cổng nguồn, địa chỉ IP đích và mã nhận dạng cổng UDP của nó. Khung UDP sẽ được gửi đi thông qua  thực thể IP tới hệ thống chịu sự q.lý, tại đó khung UDP sẽ được phân phối bởi thực thể UDP tới Agent. Tương tự, các bản tin TRAP phải được các Manager nhận dạng. Các bản tin sử dụng địa chỉ IP và mã nhận dạng cổng UDP của Manager SNMP.

            SNMP sd 3 lệnh cơ bản: Read, Write, Trap và 1 số lệnh tùy biến để qlý t.bị (h 9.1).

·        Lệnh Read: Được SNMP dùng để đọc thông tin từ thiết bị. Các thông tin này được cung cấp qua các biến SNMP lưu trữ trên thiết bị và được thiết bị cập nhật.

·        Lệnh Write: Được SNMP dùng để ghi các thông tin điều khiển lên thiết bị bằng cách thay đổi giá trị các biến SNMP.

·        Lệnh Trap: Dùng để nhận các sự kiện gửi từ  thiết bị đến SNMP. Mỗi khi có một sự kiện xảy ra trên thiết bị một lệnh Trap sẽ được gửi tới NMS. 

            SNMP điều khiển, theo dõi thiết bị bằng cách thay đổi hoặc thu thập thông tin qua các biến giá trị  lưu trên thiết bị. Các Agent cài đặt trên thiết bị  tương tác với những chip điều khiển hỗ trợ SNMP để lấy nội dung hoặc viết lại nội dung. Giao thức SNMP sử  dụng kiểu kết nối vô hướng (connectionless) để  trao đổi thông tin giữa các phần tử và hệ thống quản lí mạng (cụ thể là UDP - User Datagram Protolcol - Giao thức dữ liệu đồ người sử dụng). UDP truyền các gói tin theo các khối riêng biệt. Tuy vậy có thể  tùy ý sử  dụng các giao thức khác để  truyền các gói tin SNMP. Khi gửi các gói tin qua mạng, các phần tử mạng hay hệ  thống quản lí mạng vẫn giữ nguyên định dạng của SNMP.

2. Các thành phần cơ bản của giao thức SNMP

Giao thức quản lý mạng SNMP gồm 3 thành phần cơ bản:

-         Bộ phận quản lý ( Manager)

-         Thiết bị chịu sự quản lý ( Agent)

-         Cơ sở thông tin quản lý ( MIB)

Hình 9.2 Mối quan hệ giữa các thành phần SNMP

·  Bộ phận quản lý ( Manager)

Manager  là 1 chương trình vận hành trên 1 hay nhiều máy tính trạm. tùy thuộc vào cấu hình, mỗi bộ phận quản lý có thể được dùng để quán lý 1 mạng con, hoặc nhiều bộ phận quản lý có thể được dùng để quán lý cùng 1 mạng con hay 1 mạng chung. Tương tác thực sự giữa 1 người sử dụng cuối ( end- user) và bộ phận quản lý được duy trì qua việc sử dụng 1 hay nhiều chương trình ứng dụng mà cùng với bộ phận quản lý, biến mặt bằng phần cứng thành trạm quản lý mạng (NMS). Ngày nay, trong thời kì các chương trình giao diện người sử dụng đồ họa (GUI), hầu hết những chương trình ứng dụng sẽ cho ra giao diện sử dụng con trỏ và chuột để phối hợp hoạt động với bộ phận quản lý tạo ra những bản đồ họa và biểu đồ cung cấp những tổng kết hoạt động của mạng dưới dạng thấy được.

Qua bộ phận quản lý, những yêu cầu được chuyển tới 1 hoặc nhiều thiết bị chịu sự quản lý. Ban đầu, SNMP được phát triển để sử dụng trên mạng TCP/IP và những mạng này tiếp tục làm mạng vận chuyển cho phần lớn các sản phẩm quản lý mạng dựa trên SNMP. Tuy nhiên SNMP cũng có thể được chuyển qua NetWare IPX và nhữn cơ cấu vận chuyển khác.

·  Agent:

Thiết bị chịu sự quản lý (Agent) là 1 nút mạng hỗ trợ giao thức SNMP và thuộc về mạng quản lý. Thiết bị có nhiệm vụ thu thập thông tin quản lý và  lưu trữ để phục vụ cho hệ thống quản lý mạng. Những thiết bị chịu sự quản lý, đôi khi được gọi là những phần tử mạng, có thể là các bộ định tuyến và máy chủ truy nhập( Access Server), switch và bridge, hub, máy tính hay là máy in trong mạng.

      Mỗi thiết bị chịu sự quản lý bao gồm phần mềm hoặc phần sụn (firmware) dưới dạng mã phiên dịch những yêu cầu SNMP và đáp ứng những y/c đó. Phần mềm hoặc phần sụn này được gọi là một Agent. Mặc dù mỗi thiết bị bắt buộc bao gồm 1 Agent chịu quản lý trực tiếp, những thiết bị không tương thích với SNMP cũng có thể quản lý được nếu như chúng hỗ trợ 1 giao thức độc quyền. để thực hiện được điều này phải có Agent ủy nhiệm(proxy agent). Proxy agent này có thể đc coi như một bộ chuyển đổi giao thức vì nó phiên dịch những yêu cầu SNMP thành những giao thức quản lý độc quyền của thiết bị không hoạt động theo giao thức SNMP.

      Mặc dù giao thức SNMP chủ yếu là giao thức đáp ứng thăm dò(poll-respond) với những yêu cầu do bộ phận quản lý tạo ra dẫn đến những đáp ứng trong agent, agent cũng có khả năng đề xướng một “đáp ứng tự nguyện”. Đáp ứng tự nguyện này là điều kiện cảnh báo từ việc giám sát agent với hoạt động đã được định nghĩa trước và đáp ứng này cảnh báo việc agent đã tới ngưỡng định trước. Dưới sự điều khiển SNMP, việc truyền cảnh báo này được gọi là cái bẫy (TRAP).

·  Cơ sở thông tin quản lý- MIB

Mỗi thiết bị chịu sự quản lý có thể có cấu hình, trạng thái và thong tin thống kê định nghĩa chức năng và khả năng vận hành của thiết bị. thông tin này rất đa dạng, có thể bao gồm cả việc thiết lập chuyển mạch phần cứng,những giá trị khác nhau lưu trữ trong các bảng ghi nhớ dữ liệu, bộ hồ sơ hoặc các trường thông tin trong hồ sơ lưu trữ ở các file và những biến hoặc thành phần dữ liệu tương tự. nhìn chung, những thành phần dữ liệu này được gọi là thông tin cơ sở quản lý của thiết bị chịu sự quản lý. Xét riêng, mỗi thành phần dữ liệu biến đổi được coi là 1 đối tượng bị quản lý và bao gồm tên,một hoặc nhiều thuộc tính và 1 tập các hoạt động (operation) thực hiện trên đối tượng đó. Vì vậy MIB định nghĩa loại thông tin có thể khôi phục từ một thiết bị chịu sự quản lý và cách cài đặt thiết bị mà hệ thống quản lý điều khiển

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro