Chương 12. DUY HÀNH VI LUẬN

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 12. DUY HÀNH VI LUẬN

NHẬP MÔN LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC

BỐI CẢNH CỦA HÀNH VI LUẬN

Trong lịch sử, hầu như không có cá nhân nào một mình tạo ra một phát triển lớn trong tâm lý học. Nói thế không có nghĩa riêng từng cá nhân không quan trọng, nhưng tầm quan trọng của họ chính là ở chỗ họ có khả năng đạt đến một đỉnh cao hay tổng hợp các công trình có trước họ hơn là sáng tạo một ý tưởng hoàn toàn độc đáo. Sự sáng lập trường phái hành vi là một ví dụ rõ ràng về điều này. Mặc dù người ta thường coi John B.Watson là nhà sáng lập trường phái hành vi, chúng ta sẽ thấy rất nhiều tư tưởng của ông còn rất mông lung khiến chúng ta không thể hiểu sáng lập theo nghĩa một sự sáng tạo cho bằng một sự mở rộng các tư tưởng đã có sẵn. Tâm lý học khách quan (nhấn mạnh việc chỉ nghiên cứu những gì có thể đo lường trực tiếp) đã rất phát triển ở Nga trước khi duy hành vi luận ra đời, và một số nhà tâm lý học chức năng đã từng có những phát biểu rất gần với những phát biểu của Watson sau này.

Như ta đã thấy ở các chương trước, trường phái cơ cấu dựa nặng vào nội quan như phương tiện để nghiên cứu nội dung và các quá trình của tinh thần; trường phái chức năng chấp nhận cả nội quan lẫn việc nghiên cứu trực tiếp hành vi. Trong khi nhà cơ cấu luận thì tìm kiếm một thứ khoa học thuần túy mà không quan tâm tới các ứng dụng thực hành, nhà tâm lý học chức năng lại quan tâm tới các ứng dụng thực hành hơn là khoa học thuần túy. Một số nhà tâm lý học chức năng rất muốn tìm xem chúng ta có thể học được bao nhiêu về con người mà không dùng nội quan, và họ bắt đầu chuyển hướng sang một lập trường mà sau này được gọi là hành vi luận.

Bên cạnh khuynh hướng nghiên cứu khách quan hành vi trong tâm lý học, thành công của việc nghiên cứu trên loài vật cũng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của tâm lý học hành vi. Thành công của các nhà nghiên cứu như Thorndike đã tạo ra một sự căng thẳng giữa họ với những nhà tâm lý học hàng đầu vốn nhấn mạnh rằng tâm lý học phải tập trung vào các dữ liệu nội quan. Sự căng thẳng này giữa các nhà nghiên cứu về loài vật và các nhà nội quan đã tạo ra bầu khí từ đó thuyết hành vi mang những nét đặc trưng cách mạng.

Như ta sẽ thấy, John B. Watson là một trong số nhà nghiên cứu về loài vật như thế. Tuy nhiên, trước khi trình bày giải pháp do Watson đề nghị cho vấn đề, chúng ta phải duyệt lại công trình của các nhà nghiên cứu Nga, nó đi trước và rất giống với tinh thần thuyết hành vi của Watson.


TÂM LÝ HỌC KHÁCH QUAN NGA
JOHN B. WATSON VÀ TRƯỜNG PHÁI HÀNH VI LUẬN
WILLIAM MCDOUGALL: MỘT KIỂU KHÁC CỦA THUYẾT HÀNH VI LUẬN
TỪ VỰNG

Created by AM Word2CHM

TÂM LÝ HỌC KHÁCH QUAN NGA

NHẬP MÔN LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC à Chương 12. DUY HÀNH VI LUẬN

Ivan M. Sechenov

Nhà sáng lập tâm lý học khách quan Nga, Ivan M. Sechenov (1829-1905) bắt đầu học ngành thiết kế máy nhưng sau đó chuyển sang sinh lý học. Ông từng học với Johannes, Muller, Emil Dubois- Reymond, và Hermann von Helmholtz ở Berlin. Sechenov tìm cách giải thích mọi hiện tượng trên cơ sở thuyết liên tưởng và duy vật luận - chứng tỏ ảnh hưởng của thực chứng luận của các nhà sinh lý học Berlin. Sechenov không cho rằng các tư tưởng tạo ra hành vi. Ngược lại, ông nhấn mạnh rằng chính các kích thích bên ngoài tạo ra hành vi.

Sechenov không phủ nhận ý thức hay tầm quan trọng của nó, nhưng ông nhấn mạnh rằng không có gì bí nhiệm về ý thức và ông tìm cách cắt nghĩa nó dựa theo các quá trình sinh lý được kích thích bởi các sự kiện bên ngoài. Theo Sechenov, cả hành vi bên ngoài lẫn bên trong (các quá trình tâm lý) đều được kích thích bởi các sự kiện bên ngoài. Hơn nữa, cả hai đều phát sinh từ các quá trình sinh lý trong não.

Tầm quan trọng của sự trì hoãn

Khái niệm quan trọng nhất được Sechenov đưa vào trong cuốn Phản xạ của Não (1863) là khái niệm về sự trì hoãn. Chính khám phá của Sechenov về các cơ chế trì hoãn trong não đã dẫn ông đến kết luận rằng tâm lý học phải được nghiên cứu dựa trên sinh lý học. Năm 1845, Eduard Weber (em trai của Ernst Weber) khám phá thấy rằng nếu ông kích thích dây thần kinh phế vị (thần kinh quan trọng nối liền não với các cơ quan nội tạng khác nhau) của một con ếch, nó làm cho tim của con ếch đập chậm hơn. Đây là quan sát đầu tiên rằng sự gia tăng hoạt động (kích thích) của một phần của hệ cơ thần kinh tạo ra sự giảm hoạt động ở một phần khác trong hệ này. Weber thấy rằng việc kích thích dây thần kinh phế vị trì hoãn nhịp đập của tim. Weber cũng nhận thấy các phản xạ ở cột sống ở các con vật có vỏ não còn nguyên vẹn thì chậm hơn ở các con vật có vỏ não bị lấy đi. Weber nghĩ rằng một chức năng của vỏ não có thể là trì hoãn hành vi phản xạ.

Những quan sát và trực giác của Weber ít được ai để ý đến, ngoại trừ Sechenov. Sechenov nghĩ chúng có thể cắt nghĩa lý do tại sao chúng ta thường có sự kiểm soát tự ý đối với những gì bình thường là một hành vi phản xạ. Ví dụ chúng ta có thể chặn bỏ hay hoãn lại một cơn ho hay hắt hơi. Sechenov cũng coi sự ức chế như một giải thích cho cử động nhịp nhàng, có phối hợp mà không cần dựa vào các khái niệm siêu hình học và chủ quan như tinh thần hay linh hồn. Nói khác đi, ông có thể cắt nghĩa cái thường gọi là hành vi ý muốn và mục đích mà vẫn mang tính khách quan.

Trong cuốn Phản Xạ, Sechenov tìm cách cắt nghĩa mọi hành vi dựa theo sự kích thích hay ức chế các phản xạ. Tuy nhiên cần lưu ý rằng Sechenov dùng từ phản xạ để chỉ rằng mọi cử động của cơ đều được tạo ra bởi một nguyên nhân đi trước nó. Như thế ông bác bỏ ý tưởng về hành vi tự phát hay không bị kích thích.

Tâm lý học phải được nghiên cứu bằng các phương pháp của sinh lý học

Sechenov mạnh mẽ tin rằng phương pháp truyền thống để hiểu các hiện tượng tâm lý bằng cách sử dụng nội quan đã không mang lại kết quả nào. Theo Sechenov, phương pháp giá trị duy nhất để nghiên cứu tâm lý học là các phương pháp khách quan của sinh lý học.

Mặc dù Sechenov không bao giờ được sự ủng hộ của chính phủ của nước ông hay của các đồng nghiệp khi ông còn sống, nhưng ông đã ảnh hưởng đến thế hệ các nhà sinh lý thần kinh của thế hệ sau ông. Sau ông, người ta tập trung nghiên cứu sự trì hoãn, và người ta chấp nhận rộng rãi rằng cách tốt nhất để nghiên cứu các hiện tượng tâm lý học là dùng các phương pháp khách quan của sinh lý học, và chung chung người ta tin rằng hành vi có thể hiểu tốt nhất như là phản xạ.

Ivan Petrovitch Pavlov

Ivan Petrovitch Pavlov (1829-1905) sinh ngày 27 tháng 9 tại thành phố Ryazan, cách Moscow khoảng 250 kilômét. Năm 9 tuổi, Pavlov bị bệnh nặng phải hoãn vào trường trung học mất hai năm. Năm 1870, lúc ông 21 tuổi, ông ghi danh học tại Học Viện Quân Y ở St. Petersburg, tại đây ông học về khoa học tự nhiên. Năm ông đến Petersburg cũng là năm Sechenov rời bỏ đó. Lần đầu tiên Pavlov học sinh lý học dưới sự hướng dẫn của Ilya Cyon, người kế nhiệm đầu tiên của Sechenov. Ông đậu bằng tốt nghiệp khoa học tự nhiên năm 1879 rồi ở lại Học viện để theo chương trình tốt nghiệp y khoa. Là một sinh viên đầy ấn tượng, ông được chỉ định làm giám đốc một phòng thí nghiệm nhỏ, tại đây ông đã giúp một số sinh viên đậu bằng tiến sĩ trước cả khi chính ông đậu bằng tiến sĩ năm 1883. Năm 1890 Pavlov được bổ nhiệm chức giáo sư sinh lý học tại Học Viện Quân Y ở St. Petersburg. Năm ấy ông 41 tuổi, và ông ở lại làm việc tại đây phần lớn thời gian còn lại của sự nghiệp ông.

Sechenov từng gợi ý rằng tâm lý học phải được nghiên cứu bằng việc sử dụng các ý niệm và kỹ thuật của sinh lý học. Pavlov hoàn toàn đồng ý với Sechenov nhưng còn đi một bước xa hơn. Khác với Sechenov, Pavlov chứng minh bằng thực tế và chi tiết việc nghiên cứu này có thể thực hiện thế nào. Cũng khác với Sechenov, Pavlov rất được cả chính quyền lẫn đồng nghiệp kính trọng. Năm 1921, Lênin ban tặng ông nhiều ưu đãi và tuyên dương ông là Anh hùng Cách mạng. Tuy nhiên tất cả những điều này đến với Pavlov khá muộn trong đời ông. Trước khi phát triển mối quan tâm đến tâm lý học, ông đã qua nhiều năm nghiên cứu về hệ tiêu hóa.

Nghiên cứu về tiêu hóa

Trong 10 năm đầu ở St Petersburg, Pavlov theo đuổi đến các mối quan tâm của ông về hệ tiêu hóa. Thời ấy phần lớn những gì người ta biết về hệ tiêu hóa đều nhờ các nghiên cứu về loài vật được mổ xẻ để xem được các cơ quan cần nghiên cứu. Thường các con vật thí nghiệm đều đã chết khi người ta nghiên cứu các cơ quan của chúng. Nhận thấy rằng nghiên cứu trên các con vật đã chết thì không thể biết gì về hoạt động tiêu hóa bình thường của chúng, Pavlov tìm một cách thí nghiệm hiệu quả hơn. Ông biết được một người từng bị bắn trọng thương ở dạ dày và đã được chữa khỏi. Nhưng việc điều trị nạn nhân này đã để một lỗ hở lớn trên cơ thể người ấy qua đó có thể quan sát các cơ quan nội tạng của anh ta. Người bệnh cho phép bác sĩ của anh ta quan sát các quá trình nội tạng, kể cả hệ tiêu hóa. Mặc dù ca đặc biệt này thiếu sự kiểm soát khoa học, nó đã cho Pavlov những thông tin ông cần để hoàn bị kỹ thuật nghiên cứu của ông về tiêu hóa. Bằng cách sử dụng phương tiện giải phẫu khử trùng tốt nhất thời bấy giờ và tài giải phẫu xuất sắc của ông, Pavlov mở một gastric fistula - một lỗ rò dạ dày - dẫn từ các cơ quan tiêu hóa của con chó ra bên ngoài cơ thể nó. Thủ thuật này cho phép con chó hoàn toàn hồi phục sau chấn thương của cuộc giải phẫu trước khi người ta nghiên cứu các quy trình tiêu hóa. Pavlov đã thực hiện hàng trăm cuộc thí nghiệm để xác định xem lượng dịch tiêu hóa tiết ra qua lỗ rò thay đổi thế nào dựa theo các loại kích thích khác nhau vào hệ tiêu hóa, và công trình nghiên cứu tiên phong của ông đã giúp ông đoạt Giải Nobel năm 1904.

Khám phá phản xạ có điều kiện

Trong công trình về tiêu hóa của ông, Pavlov khám phá ra phản xạ có điều kiện. Trong khi nghiên cứu lượng dịch tiêu hóa tiết ra khi phản ứng với các chất như bột thịt, Pavlov nhận thấy các sự vật hay sự kiện liên kết với bột thịt cũng gây ra sự tiết dịch vị - ví dụ, chỉ cần nhìn thấy người làm thí nghiệm hay nghe bước chân của người ấy đến gần. Pavlov gọi các phản ứng loại này là "có điều kiện" vì nó lệ thuộc một cái gì khác - ví dụ: bột thịt.

Pavlov nhận thấy các phản xạ có điều kiện có thể được giải thích bằng các nguyên tắc tương cận và thường xuyên của luật liên tưởng. Ông cũng nhận thấy việc nghiên cứu các phản xạ có điều kiện sẽ đi vào lãnh địa của tâm lý học. Giống như Sechenov trước ông, Pavlov không coi trọng tâm lý học bao nhiêu vì nó sử dụng nội quan. Ông ngần ngại nghiên cứu các phản xạ có điều kiện vì tính chất có vẻ chủ quan của nó. Nhưng sau khi nghiên cứu công trình của Sechenov, ông kết luận rằng các phản xạ có điều kiện, giống như các phản xạ tự nhiên, có thể được cắt nghĩa dựa theo tính dẫn truyền thần kinh và sinh lý học của não. Ở tuổi 50, Pavlov bắt đầu nghiên cứu về phản xạ có điều kiện, và công trình nghiên cứu của ông đã tiếp tục trong 30 năm.

Phản xạ có điều kiện và vô điều hiện

Theo Pavlov, các sinh vật phản ứng với môi trường dựa theo các phản xạ vô điều kiện và có điều kiện. Một phản xạ vô điều kiện là một phản xạ tự nhiên và được khơi dậy bởi một kích thích vô điều kiện (ở đây viết tắt là US, từ unconditioned stimulus) Ví dụ, đưa bột thức ăn vào miệng một con chó đói sẽ làm tăng lượng nước bọt của nó. Bột thức ăn là kích thích vô điều kiện, và sự chảy nước bọt tăng lên là phản ứng vô điều kiện (viết tắt là UR, từ unconditioned response). Tương quan giữa kích thích và phản ứng vô điều kiện này được quyết định bởi cơ chế sinh học của sinh vật. Một phản xạ vô điều kiện được phát sinh từ kinh nghiệm theo luật tương cận và luật thường xuyên. Trước thí nghiệm của Pavlov, các kích thích như sự nhìn thấy bột thức ăn, nhìn thấy người cho ăn, và nghe bước chân của người cho ăn đều mang tính trung lập về sinh vật học theo nghĩa là những điều này không tự động khơi dậy một phản ứng đặc biệt nào của con chó. Pavlov gọi một kích thích trung lập sinh vật học là một kích thích có điều kiện (CS, conditioned stimulus). Vì tính tương cận của nó với một kích thích vô điều kiện (ở đây là thức ăn), kích thích trung lập trước kia bây giờ phát triển thành khả năng khơi dậy một phần phản ứng vô điều kiện (ở đây là chảy nước bọt). Khi một kích thích trước kia là trung lập (nghĩa là kích thích có điều kiện) khơi dậy một phần phản ứng vô điều kiện, phản ứng này được gọi là phản ứng có điều kiện (CR, conditioned response). Như thế, việc con chó chảy nước miếng trước tiếng chân của người cho nó ăn là một phản ứng có điều kiện.

Xuyên qua quy trình điều kiện hóa này, kích thích tác động vào hành vi của một sinh vật từ từ tăng lên từ một số ít kích thích tới vô số các kích thích khác nay đã trở thành liên kết với các kích thích vô điều kiện nhờ luật tương cận.

Sự kích động và ức chế

Pavlov cho thấy ảnh hưởng của Sechenov khi ông tin rằng mọi hoạt động của hệ thần kinh trung ương có thể mang các tính chất hoặc như là sự kích động hay là sự ức chế. Giống như Sechenov, Pavlov tin rằng mọi hành vi đều là phản xạ, nghĩa là nó được gây ra bởi sự kích thích trước đó. Nếu không được biến đổi bởi sự ức chế, các kích thích vô điều kiện và có điều kiện sẽ khơi dậy các phản xạ vô điều kiện và có điều kiện tương ứng. Tuy nhiên, nhờ kinh nghiệm, các sinh vật học được cách ức chế hành vi phản xạ. Điểm quan trọng ở đây là chúng ta luôn luôn kinh nghiệm một sự đa dạng các kích thích, một số kích thích có khuynh hướng gây ra hành vi và một số ức chế hành vi. Hai quy trình cơ bản này luôn luôn hiện diện, sự tương tác giữa chúng với nhau sẽ quyết định chúng ta có hành vi thế nào vào một lúc nhất định.

Thái độ của Pavlov đối với tâm lý học

Như ta dã thấy, Pavlov đã từng không coi trọng tâm lý học. Lý do không phải vì tâm lý học học về ý thức, mà vì nó sử dụng nội quan để nghiên cứu về ý thức. Ông phát biểu lập trường của mình như sau:

Sẽ là ngu ngốc nếu phủ nhận thế giới chủ quan. Hiển nhiên nó tồn tại. Chính dựa trên nó mà chúng ta hành động, hoà mình với người khác, và điều khiển cả cuộc đời chúng ta. Trước kia tôi có đi hơi xa một chút khi bác bỏ tâm lý học. Tất nhiên nó có quyền được tồn tại, vì thế giới chủ quan của chúng ta là một thực tại dứt khoát cho chúng ta. Vì vậy, điều quan trọng không phải là phủ nhận thế giới chủ quan, mà là nghiên cứu nó bằng các phương pháp dựa trên khoa học.

Pavlov và thuyết liên tưởng

Pavlov tin rằng ông đã khám phá ra cơ chế sinh lý để cắt nghĩa thuyết liên tưởng mà các nhà triết học và tâm lý học đã tranh luận suốt nhiễu thế kỷ. Ông tin rằng bằng cách cho thấy các cơ sở sinh lý học của liên tưởng, ông đã đặt thuyết liên tưởng trên một nền móng khách quan và nay có thể kết thúc các suy tư về việc các ý tưởng được liên kết với nhau thế nào. Theo Pavlov, các mối liên kết tạm thời được hình thành bởi các phản xạ có điều kiện chính là các liên tưởng mà các nhà triết học và tâm lý học từ trước đến nay tập trung vào:

Có cơ sở nào để phân biệt giữa cái mà nhà sinh lý học gọi là sự liên kết tạm thời và cái nhà tâm lý học gọi là sự liên tưởng không? Chúng hoàn toàn chỉ là một; chúng hoà vào nhau và hấp thu lẫn nhau. Chính các nhà tâm lý học có vẻ cũng nhìn nhận điều này, vì họ (ít là một số) từng phát biểu rằng các thí nghiệm với phản xạ có điều kiện cung cấp một cơ sở vững chắc cho tâm lý học liên tưởng, nghĩa là kiểu tâm lý học coi liên tưởng như là cơ sở của hoạt động tâm lý.

Vladimir M. Bechterev

Vladimir M. Bechterev (1857-1927) sinh ngày 20 tháng 1, và năm 16 tuổi đã vào Học Viện Quân Y ở St. Petersburg, nơi Sechenov đã từng theo học và Pavlov đang theo học. Ông tốt nghiệp năm 1878 (trước Pavlov một năm) nhưng ở lại học khoa bệnh lý tâm thần cho tới khi đậu tiến sĩ năm 1881, năm ấy ông mới 24 tuổi. Sau đó ông sang học với Wundt ở Leipzig, DuBois- Reymond ở Berlin, và Charcot ở Paris. Năm 1885 ông trở về Nga dạy tại Đại học Kazan và lập ở đây phòng thí nghiệm tâm lý học thực nghiệm đầu tiên ở Nga. Năm 1904 ông xuất bản một cảo luận quan trọng nhan đề "Tâm Lý Học Khách Quan" sau này trở thành một bộ sách ba cuốn với tên là Tâm Lý Học Khách Quan, xuất bản từ 1907 đến 1912. Giống như Sechenov và Pavlov, Bechterev ủng hộ một tâm lý học hoàn toàn khách quan, nhưng khác với họ, ông tập trung hầu như hoàn toàn vào tương quan giữa kích thích môi trường với hành vi.

Khi Bechterev mất năm 1927, tổng cộng ông đã viết cả thảy 600 bài báo và sách về các đề tài đa dạng thuộc sinh vật học, tâm lý học, và triết học.

Phản xạ học

Vào cuối đời, Bechterev đã tóm lược quan điểm của ông về tâm lý học trong Nguyên Tắc Tổng Quát về Phản Xạ của Con Người: Nhập Môn Nghiên Cứu Khách Quan về Tính Cách, xuất bản lần đầu năm 1917 và đạt đến lần tái bản thứ 4 năm 1928. Bechterev hiểu phản xạ học như là một nghiên cứu hoàn toàn khách quan về hành vi con người nhằm tìm hiểu tương quan giữa các ảnh hưởng môi trường và hành vi con người. Ông có lập trường cho rằng nếu có cái gọi là hoạt động tâm linh, thì nó phải biểu hiện bằng hành vi bên ngoài; vì vậy, có thể bỏ qua "lãnh vực tinh thần" bằng cách nghiên cứu về hành vi. Phản xạ học của ông nghiên cứu sự tương quan giữa hành vi (ví dụ: nét mặt, cử chỉ, và lời nói) với các điều kiện vật lý, sinh vật, và nhất là xã hội.

Nhiều ý tưởng của Bechterev cũng có trong thuyết hành vi của Mỹ vào khoảng cùng thời kỳ này. Cần lưu ý rằng Bechterev đã viết về tâm lý học khách quan ngay từ năm 1885. Năm 1928 Bechterev biết về khuynh hướng tâm lý học khách quan tại Mỹ và ông tuyên bố mình là người khởi xướng khuynh hướng này.

Bechterev chống Pavlov

Ai khám phá ra phản xạ có điều kiện? Không phải Bechterev cũng không phải Pavlov. Bechterev dành nhiều thời giờ chứng minh rằng các phản xạ như thế đã được biết đến từ lâu: "Các sự tiết dịch tâm lý này vốn đã thu hút sự chú ý ngay từ thế kỷ 18 rồi. Ngay từ hồi đó người ta đã biết rằng khi cho ngựa ăn lúa mạch, nó tiết ra nước bọt trước khi lúa mạch vào miệng nó."

Cả Bechterev lẫn Pavlov đều nghiên cứu các phản xạ có điều kiện đồng thời với nhau. Cái mà Pavlov gọi là phản xạ có điều kiện, Bechterev gọi là phản xạ liên tưởng. Bechterev biết rất rõ công trình nghiên cứu của Pavlov và ông nghĩ rằng công trình này có nhiều nhược điểm. Thật vậy, mỗi lần Bechterev nhắc đến Pavlov trong cuốn sách của ông viết năm 1928, ông đều có điều gì tiêu cực để nói về công trình của Pavlov. Bechterev phê bình "phương pháp nước bọt" của Pavlov về các lý do sau:

1. Cần có một hoạt động để thu gom dịch vị trong dạ dày.

2. Phương pháp của Pavlov không dễ áp dụng nơi con người.

3. Việc sử dụng acid để kích thích một phản ứng vô điều kiện gây ra các phản ứng trong con vật làm ảnh hưởng xấu đến thí nghiệm.

4. Nếu thức ăn được dùng làm một kích thích vô điều kiện, sau cùng sẽ trở thành quá quen với nó và kích thích sẽ không còn tác dụng để tạo phản ứng theo cách mong muốn nữa.

5. Phản xạ tiết dịch là một phần tương đối ít quan trọng trong hành vi của một sinh vật.

6. Phản xạ tiết dịch không đáng tin cậy và vì vậy khó đo lường chính xác.

Thay vì nghiên cứu sự tiết dịch vị, Bechterev nghiên cứu phản xạ vận động. Ông nêu các lý do để chọn việc nghiên cứu phản xạ vận động như sau:

May mắn thay, trong mọi động vật, đặc biệt con người, hoạt động tiết dịch vị đóng một vai trò nhỏ hơn rất nhiều so với các hoạt động vận động; vì lý do này và những lý do khác nữa, thay vì chọn phương pháp nước bọt, chúng tôi thích chọn phương pháp nghiên cứu các phản xạ vận động-liên tưởng của các chi và hệ thống hô hấp hơn - và đây là phương pháp được triển khai trong phòng thí nghiệm của tôi.

Kết quả là việc Bechterev tập trung vào hành vi bên ngoài của các sinh vật lại thích hợp với thuyết hành vi Mỹ hơn là nghiên cứu của Pavlov về sự tiết dịch vị. Nhưng Pavlov là người mà Watson đã phát hiện ra, và vì vậy tên tuổi Pavlov được giới tâm lý học Mỹ biết đến rất rộng rãi. Nhưng một sự ngẫu nhiên kỳ lạ của lịch sử là tên của Bechterev chứ không phải của Pavlov thường được lấy để đặt tên cho những người trong gia đình. Trên thực tế, như chúng ta sẽ thấy, khi áp dụng phương pháp kích thích có điều kiện, Watson đã theo sát Bechterev hơn là theo Pavlov.

Created by AM Word2CHM

JOHN B. WATSON VÀ TRƯỜNG PHÁI HÀNH VI LUẬN

NHẬP MÔN LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC à Chương 12. DUY HÀNH VI LUẬN

Tiểu Sử

John Broadus Watson (1878-1958) sinh ngày 9 tháng 1 tại Greenville, Nam Carolina. Tôn giáo là đề tài chính trong tuổi thơ ấu của Watson, vì mẹ ông là một phụ nữ cực kỳ sùng đạo. Ngược lại, cha ông là một con người lúc nào cũng say xỉn, chửi thề, và dại gái. Sự xung khắc vợ chồng này cuối cùng đã khiến cha của Watson bỏ vợ con năm 1891, lúc Watson mới 13 tuổi. Watson rất gắn bó với cha, nên sự ra đi này đã làm ông bị xáo trộn sâu xa. Ngay tức khắc ông trở thành một đứa trẻ quậy phá; ông bị bắt hai lần, một lần vì đánh lộn và một lần vì bắn súng ngay giữa thành phố.

Những năm còn đi học

Tuy có tiền sử quậy phá và lười học, Watson đã tìm cách để được nhận vào Đại học Furman năm ông 15 tuổi. Mặc dù không biết tại sao Watson lại được nhận vào trường, Cohen (1979) suy đoán lý do có thể là do tài ăn nói có tính thuyết phục của Watson. Suốt cả đời Watson chứng tỏ có biệt tài đạt được điều mình muốn. Ở trường Furman, giáo sư có ảnh hưởng lớn nhất đối với Watson là Gordon B. Moore, dạy ông môn triết học và tâm lý học.

Tại Furman, Watson học giỏi nhưng không xuất sắc. Lẽ ra ông đã có thể tốt nghiệp năm 1898, nhưng một sự cố bất thường đã khiến ông phải chậm mất một năm. Giáo sư ông ưa thích, G. B. Moore đã cảnh cáo sinh viên nào nộp bài thi lộn ngược sẽ không được nhận. Trong lúc đãng trí, Watson đã nộp bài thi lộn ngược, và ông bị đánh trượt.

Nhưng sự cố lại trở nên có ích cho Watson, vì trong năm lưu ban ở Furman, ông đậu được bằng thạc sĩ (năm 21 tuổi).

Sau khi tốt nghiệp, Watson dạy tại một trường ở Greenville chỉ có một phòng học, với mức lương 25 đô la mỗi tháng. Khi mẹ ông qua đời, ông quyết định tiếp tục học ở ngoài khu vực thành phố Greenville, và ông nộp đơn vào học cả Đại học Princeton và Chicngo. Khi biết Đại học Princeton đòi phải biết tiếng Hy Lạp và La Tinh, ông quyết định đi học ở Đại học Chicago. Thế là tháng 9 năm 1900, Watson bỏ Greenville để đến Chicago.

Tại Chicago, Watson học về các nhà duy nghiệm Anh với giáo sư A. W. Moore. Watson đặc biệt thích Hume vì Hume dạy rằng không có gì là cố định hay linh thiêng. Watson học triết với John Dewey nhưng thú nhận chẳng hiểu gì cả. Các giáo sư trong phân khoa có ảnh hưởng lớn nhất đối với Watson là nhà tâm lý học chức năng James Angell và nhà sinh lý học cực đoan JacquesLoeb.

Loeb (1859-1924) nổi tiếng với công trình về kích thích hướng động (tropism) của sinh vật, khi ông chứng minh rằng hành vi của các sinh vật đơn sơ có thể được cắt nghĩa như là được tự động kích hoạt bởi các kích thích. Cũng như thực vật hướng về mặt trời bởi vì chúng được cấu tạo như thế, thì các động vật cũng phản ứng một cách nhất định với các kích thích nhất định, vì cơ cấu sinh vật học của chúng. Theo Loeb, không có hoạt động tinh thần nào dính líu tới hành vi hướng kích thích như thế; vấn đề đơn giản chỉ là do sự kích thích và cơ cấu của sinh vật. Quan điểm này được Loeb áp dụng cho các loài thực vật, côn trùng, và động vật, Watson sau này cũng sẽ áp dụng cho con người.

Tuy Watson đã bắt đầu nghĩ đến thuyết hành vi ngay từ năm 1902, ông không muốn thổ lộ điều này với người bảo trợ và bạn thân của ông là giáo sư Angell vì ông biết Angell tin rằng tâm lý học phải bao gồm việc nghiên cứu về ý thức. Cuối cùng ông cũng đã cho Angell biết ý tưởng của mình vào năm 1904, Angell bác bỏ ý tưởng ấy và khuyên ông nên tiếp tục nghiên cứu về loài vật. Thế là Watson đã phải hoãn lại đề tài này trong 4 năm.

Mặc dù bị suy nhược thần kinh năm 1902, ông đã cố gắng trình luận án tiến sĩ của ông năm 1903. Luận án của ông nhan đề "Dạy loài vật: Phát triển tâm lý nơi Chuột Bạch," cho thấy Watson vào thời kỳ này vẫn còn một chút lối suy nghĩ dựa theo ý thức. Luận đề của ông được chấp nhận, và Watson đậu bằng tiến sĩ năm 25 tuổi, là người trẻ tuổi nhất nhận bằng tiến sĩ tại Đại học Chicago. Donaldson cho ông vay 350 đô la để xuất bản luận án, và ông phải mất 20 năm mới trả xong khoản nợ này.

Chuyển sang Johns Hopkins

Đến năm 1907, Watson đã nổi tiếng trên cả nước về tâm lý học loài vật, và ông được mời giảng dạy tại Johns Hopkins. Thực lòng ông không muốn rời Chicago, nhưng khoản lương 3000 đô la/ năm khiến ông không thể từ chối. Ông đến Baltimore năm 1908. Tại Johns Hopkins, tâm lý học là một phần của phân khoa Triết học, Tâm lý học, và giáo dục, và James Mark Baldwin là trưởng khoa. Baldwin cũng là chủ biên của Tạp chí Tâm lý học, một trong các tạp chí tâm lý học hàng đầu. Trong số các nhiệm vụ của Watson, ông phải dạy tâm lý học về người, và ông vẫn dùng giáo trình của Titchener.

Tháng 12 năm 1909, một sự kiện quan trọng xảy ra trong đời Watson: Baldwin bị bắt trong một nhà chứa, và bị buộc từ chức ngay. Watson trở thành chủ biên tờ Tạp chí Tâm lý học, và ông đã lợi dụng tạp chí này để phổ biến các quan điểm của ông về duy hành vi luận. Lần đầu tiên ông chính thức công bố các quan điểm của ông về thuyết hành vi năm 1908 tại một cuộc mạn đàm ở Đại học Yale. Ông bị chỉ trích kịch liệt và phải giữ thái độ im lặng. Lúc đó, Watson chưa đủ tự tin để tự mình "tuyên chiến" với tâm lý học truyền thống.

Tuy nhiên dần dần ông lấy lại can đảm, và năm 1913 ông quyết định thử một chuyến nữa. Nhân dịp ông được mời diễn thuyết tại Đại học Columbia ở New York, ông lợi dụng cơ hội này để phát biểu công khai quan điểm của ông về tâm lý học. Ông mở đầu bài thuyết trình "Tâm lý học dưới cái nhìn của một nhà tâm lý học hành vi" bằng lời phát biểu sau đây, nay đã trở thành nổi tiếng:

Tâm lý học dưới cái nhìn của nhà tâm lý học hành vi là một ngành khoa học tự nhiên thuần túy thực nghiệm và khách quan. Mục tiêu lý thuyết của nó là tiên đoán và kiểm soát hành vi. Nội quan không phải là phương pháp cơ bản của nó, và giá trị khoa học của các dữ kiện của nó cũng không lệ thuộc việc chúng có thể được giải thích dựa theo ý thức. Nhà tâm lý học hành vi, trong các cố gắng đạt tới một cơ cấu thống nhất về phản ứng động vật, không nhìn nhận có sự khác biệt giữa người và loài vật Hành vi của con người, với tất cả sự tinh tế và phức tạp của nó, chỉ là một phần trong toàn thể chương trình nghiên cứu của nhà tâm lý học hành vi.

Được xuất bản năm 1913 trong Tạp chí Tâm lý học do chính Watson chủ biên, bài thuyết trình này thường được coi là bản văn thiết lập chính thức trường phái hành vi.

Có lẽ vì các ý tưởng của Watson quá cực đoan, chúng không được sự hưởng ứng ngay lập tức. Nhưng chúng được chấp nhận dần dần và một cách chắc chắn qua thời gian. Ngoài ra, năm 1914 Watson được bầu làm chủ tịch Hội Triết học và Tâm lý học Miền Nam. Cùng năm, ông được bầu làm chủ tịch thứ 24 của Hội Tâm Lý Học Mỹ (APA) ở tuổi 36 và chỉ 11 năm sau khi đậu tiến sĩ tại Đại học Chicago.

Tâm lý học Khách quan của Watson

Khi Watson phát hiện ra tâm lý học khách quan của Nga, ông thấy nó củng cố lập trường của ông, nhưng ông đã đi đến lập trường của ông độc lập với người Nga. Trong phát biểu của ông năm 1913, ông không nhắc đến tâm lý học của Nga, và ông nói rất ít về hành vi con người. Sau cùng, trong bài diễn từ nhậm chức chủ tịch APA năm 1915, Watson gợi ý rằng công trình của Pavlov về phản xạ có điều kiện có thể được dùng để cắt nghĩa hành vi của người cũng như của loài vật. Nhưng Watson không bao giờ chấp nhận hoàn toàn hay sử dụng các khái niệm của Pavlov trong tác phẩm của ông. Như ta sẽ thấy, ông có các khái niệm riêng của ông về các thuật ngữ kích thích và phản ứng và về quy trình học tập.

Mục tiêu của tâm lý học

Trong tác phẩm chính của ông (1919), Watson triển khai đầy đủ tâm lý học kích thích-phản ứng. Trong bài phát biểu năm 1913, ông đã phát biểu mục tiêu của tâm lý học là sự tiên đoán và kiểm soát hành vi, và năm 1919 ông giải thích thêm như sau:

Mục tiêu của tâm lý học là tìm cách xác nhận về các dữ kiện và luật mà khi có kích thích, tâm lý học có thể tiên đoán phản ứng sẽ là gì; hay ngược lại, khi có phản ứng, nó có thể xác định bản chất của kích thích là gì.

Tuy nhiên, Watson không dùng thuật ngữ kích thích hay phản ứng theo nghĩa hẹp như các tác giả Nga. Theo ông, kích thích có thể là một tình huống tổng quát của môi trường hay một điều kiện bên trong nào đó của sinh vật. Phản ứng là bất cứ cái gì mà sinh vật làm, và nó bao gồm rất nhiều thứ.

Các loại hành vi và chúng được nghiên cứu thế nào

Theo Watson, có bốn loại hành vi: hành vi tập thành minh (bên ngoài) như nói, viết, và chơi bóng; hành vi tập thành mặc nhiên (bên trong) như sự tăng nhịp đập tim gây nên khi nhìn thấy máy khoan của nha sĩ; hành vi tự động minh nhiên như bắt chộp, nháy mắt, và hắt hơi; và hành vi tự động mặc nhiên như sự tiết dịch và các biến đổi về tuần hoàn. Theo Watson, mọi việc người ta làm, kể cả suy nghĩ, đều thuộc về một trong bốn loại hành vi này.

Để nghiên cứu về hành vi, Watson đề nghị bốn phương pháp: quan sát, tự nhiên hay được kiểm soát thực nghiệm; phản xạ có điều kiện, như Pavlov và Bechterev đã đề nghị; thử nghiệm, theo nghĩa là lấy các mẫu hành vi chứ không phải bằng cách đo khả năng hay tính cách; và báo cáo bằng lời, mà Watson coi như là mọi loại hành vi minh nhiên khác.

Ngôn ngữ và tư duy

Khía cạnh gây tranh cãi nhất của lý thuyết Watson liên quan đến ngôn ngữ và tư duy. Để nhất quán với quan điểm hành vi của mình, Watson phải giản lược ngôn ngữ và tư duy vào một dạng nào đó của hành vi mà thôi: "Nói là làm - nghĩa là, hành động. Nói ra bên ngoài (ngôn ngữ) hay nói với chính mình (tư duy) chi là một loại hành vi khách quan cũng giống như chơi bóng mà thôi."

Vì vậy theo Watson, lời nói không biểu thị vấn đề đặc biệt nào; nó chỉ đơn giản là một hành vi bên ngoài. Watson giải quyết vấn đề tư duy bằng cách cho rằng tư duy là loại ngôn ngữ mặc nhiên hay không lời. Vì lời nói bên ngoài được tạo ra chủ yếu bởi cử động của lưỡi và thanh quản, nên Watson cho rằng các cử động tinh vi hơn của lưỡi và thanh quản đi kèm theo tư tưởng.

Cố gắng của Watson nhằm giản lược tư tưởng vào ngôn ngữ không lời đã khơi dậy sự chống đối mãnh liệt, mà tiêu biểu là phản ứng của Woodworth:

Tôi có thể dùng vài lời để nói cho bạn lý do tại sao tôi không chấp nhận sự đồng hóa tư tưởng = lời nói. Một lý do là tôi thường gặp khó khăn trong việc tìm lời để diễn tả một ý nghĩa mà tôi chắc chắn có "trong đầu". Lắm khi tôi bị bí, dù cho tìm một lời rất quen thuộc. Một lý do khác là bạn chắc chắn không thể đồng hóa ngược lại rằng lời nói = tư tưởng. Bạn có thể đọc thuộc lòng một đoạn văn quen thuộc mà không để ý gì đến nghĩa của nó, trong khi bạn nghĩ đến một cái gì đó hoàn toàn khác. Sau cùng, suy nghĩ chắc chắn có vẻ giống như nhìn thấy hơn là hành động. Nó có ví như hệ tại việc xem thấy vấn đề, quan sát các mối tương quan. Thói quen ngôn ngữ của Watson để thay thế cho hành động hiện thực không cho thấy làm thế nào suy nghĩ có thể đưa bạn vượt qua các thói quen trước kia của bạn...

Vấn đề xác định bản chất của tư tưởng và tương quan của nó với hành vi là vấn đề đã có từ khi bắt đầu có tâm lý học và ngày nay vẫn còn là một vấn đề như thế. Watson đã không giải quyết được vấn đề cũng như chưa có ai đã giải quyết được nó.

Vai trò của bản năng đối với hành vi

Thái độ của Watson về bản năng đã thay đổi một cách triệt để với thời gian. Năm 1914 bản năng đóng vai trò quan trọng trong lý thuyết của ông. Đến năm 1919 Watson có lập trường cho rằng bản năng tồn tại nơi trẻ sơ sinh nhưng các thói quen học được đã mau chóng thay thế chúng. Nhưng năm 1925 ông hoàn toàn bác bỏ ý tưởng về bản năng nơi con người, ông cho rằng có một ít phản xạ đơn giản như hắt hơi, khóc, bài tiết, bò, bú, và thở, nhưng không có các mẫu hành vi bẩm sinh phức tạp mà người ta gọi là bản năng.

Theo Watson, kinh nghiệm chứ không phải sự di truyền làm cho người ta là người như thế nào. Hãy thay đổi kinh nghiệm, bạn sẽ thay đổi tính cách. Như thế rốt cuộc lập trường của Watson trở thành chủ nghĩa môi trường cực đoan. Tuy nhiên, Watson cũng chịu chấp nhận những sự khác biệt bẩm sinh về cơ cấu ảnh hưởng đến tính cách của con người.

Cảm xúc

Watson tin rằng cùng với cơ cấu và các phản xạ cơ bản, con người có các cảm xúc di truyền như sợ, giận, và yêu. Nơi trẻ sơ sinh, sợ được kích thích bởi tiếng động mạnh và thiếu nâng đỡ (ví dụ: té ngã), giận, bởi trẻ bị hạn chế cử động, và yêu bởi việc vuốt hay vỗ về trẻ. Nhờ học tập, các cảm xúc này được khơi dậy bởi các kích thích khác với các kích thích từng tác động vào chúng lúc ban đầu. Hơn nữa, mọi cảm xúc nơi người lớn như ghét, kiêu ngạo, ghen tị, và xấu hổ đều bắt nguồn từ giận, sợ, và yêu.

Watson tin rằng mỗi cảm xúc cơ bản đều có một mẫu đặc trưng các phản ứng nội tạng hay của các tuyến được khơi dậy bởi một kích thích tương ứng. Và mỗi cảm xúc cơ bản cũng có một mẫu phản ứng bề ngoài gắn liền với nó. Theo Watson, ba khía cạnh quan trọng của cảm xúc là các kích thích khơi dậy cảm xúc, các phản ứng bên trong, và các phản ứng bên ngoài. Tình cảm và cảm giác không quan trọng.

Ảnh hưởng của Watson

Mặc dù, như Samelson (1981) đã cho thấy, phải nhiều năm thuyết hành vi của Watson mới được chấp nhận rộng rãi, nhưng cuối cùng nó đã đạt được chính điều ấy. Quan điểm của Watson về tâm lý học sẽ có hai hậu quả lâu dài. Thứ nhất, ông đã thay đổi mục tiêu chính của tâm lý học từ việc mô tả và giải thích các tình trạng của ý thức sang việc tiên đoán và kiểm soát hành vi. Thứ hai, ông làm cho hành vi bên ngoài trở thành nội dung hầu như duy nhất của tâm lý học. Về hai vấn đề này, ảnh hưởng của Watson đã lan rộng đến nỗi ngày nay đa số nhà tâm lý học có thể được coi là các nhà tâm lý học hành vi.

Tuy nhiên, các nhà tâm lý học hành vi cũng có nhiều kiểu khác nhau. Các nhà tâm lý học giống như Watson phủ nhận sự hiện hữu của các sự kiện tinh thần, hoặc cho rằng nếu các sự kiện ấy hiện hữu, chúng có thể không cần phải xét đến, các nhà tâm lý học loại này được gọi là các nhà tâm lý học hành vi cực đoan. Nhưng sau Watson, ít có nhà tâm lý học nào theo một lập trường cực đoan như vậy. Ngược lại, nhiều nhà tâm lý học mặc dù đồng ý rằng nội dung cơ bản của tâm lý học phải là hành vi bề ngoài, họ không phủ nhận tầm quan trọng của các sự kiện ý thức hay sinh lý không quan sát được trong các phân tích của họ về hành vi. Theo họ, hành vi được dùng như chỉ dẫn về các sự kiện ý thức hay sinh lý mà họ nghĩ là đang xảy ra trong sinh vật. Các nhà tâm lý học loại này tiêu biểu cho trường phái hành vi phương pháp luận.

Tuy chắc chắn Watson sẽ rất vui khi thấy ông đã có ảnh hưởng to lớn thế nào đối với tâm lý học ngày nay, nhưng ông chắc cũng thất vọng khi thấy ông đã không thành công trong cố gắng gạt bỏ khái niệm ý thức ra khỏi tâm lý học. Hơn bao giờ hết, càng ngày càng có nhiều nhà tâm lý học nghiên cứu về chính các quy trình nhận thức mà Watson gạt bỏ, coi thường, hay phủ nhận.

Created by AM Word2CHM

WILLIAM MCDOUGALL: MỘT KIỂU KHÁC CỦA THUYẾT HÀNH VI LUẬN

NHẬP MÔN LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC à Chương 12. DUY HÀNH VI LUẬN

Wiiliam McDougall (1871- 1938) sinh tại Lancashire, nước Anh; nơi đó cha ông có một xưởng hóa chất. Theo học tại các trường tư thục ở Anh và Đức, McDougall vào Đại học Manchester khi mới 15 tuổi. Bốn năm sau, ông bắt đầu học y khoa tại Cambridge và sau cùng đậu bằng y khoa ở Bệnh viện Thánh Thomas ở Luân Đôn năm 1897, lúc 26 tuổi. Sau một chuyến du lịch sang Viễn Đông, McDougall đến Đại học Gottingen ở Đức để học tâm lý học với giáo sư nổi tiếng Georg Elias Muller (1850-1934). Tuy nhiên, chính việc đọc tác phẩm của William James đã kích thích niềm say mê tâm lý học nơi McDougall, và ông mãi mãi coi mình là một môn sinh của James. Sau khi từ Đức trở về, ông nhận một chức giảng dạy tại University College ở Luân Đôn và dạy về tâm lý học thực nghiệm. Năm 1904 ông chuyển đến Đại học Oxford và ở lại đây cho đến Thế Chiến I.

Năm 1920 McDougall nhận lời mời đến Harvard để nhận chức vụ đã từng được William James và Hugo Munsterberg nắm giữ trước kia. McDougall ở lại Harvard cho đến khi ông từ chức năm 1926. Năm sau ông đến Duke University tại Bắc Carolina, và ở lại đây cho tới khi ông qua đời năm 1938. Sinh thời, McDougall đã viết 24 sách và hơn 160 bài báo.

Định nghĩa Tâm lý học

Mặc dù McDougall dành rất nhiều thời giờ tranh cãi với Watson, ông thuộc số những người đầu tiên định nghĩa lại tâm lý học như là khoa học về hành vi:

Có thể định nghĩa tốt nhất và đầy đủ nhất về tâm lý học như là khoa học thực tế về hành vi của các sinh vật... Thông thường, tâm lý học được định nghĩa là khoa học về tinh thần, hay khoa học về các quy trình tinh thần hay tâm lý, hay về ý thức, hay về kinh nghiệm cá nhân. Các định nghĩa này mơ hồ, và không đủ bao quát nếu không được triển khai thêm... Định nghĩa tâm lý học như là khoa học về kinh nghiệm hay ý thức là gạt bỏ việc nghiên cứu các yếu tố vô thức, trong khi định nghĩa được phát biểu trên kia bao gồm tất cả các yếu tố này trong phạm vi tâm lý học mà không loại bỏ phần nào của kinh nghiệm hay ý thức, vì mọi kinh nghiệm đều ảnh hưởng tới hành vi.

McDougall triển khai thêm quan niệm của ông về tâm lý học: Các nhà tâm lý học không được tiếp tục bằng lòng với việc mô tả khô khan và hẹp hòi khoa học của họ như là khoa học về ý thức, mà phải bạo dạn mô tả tâm lý học như là khoa học thực tế về tinh thần trong mọi khía cạnh và cách hoạt động của nó, hay như tôi muốn nói, như là khoa học thực tế về hành vi. Tâm lý học không được coi việc mô tả nội quan về dòng ý thức như là nhiệm vụ duy nhất của nó, mà chỉ là một phần mở đầu công việc của nó mà thôi. Sự mô tả nội quan này không thể tạo thành khoa học, hay ít ra không bao giờ có thể đạt đến bình diện của một khoa học giải thích; và tự nó không bao giờ có thể có giá trị lớn nào đối với các khoa học xã hội. Cơ sở mà tất cả các khoa học này đòi hỏi là một khoa tâm lý học so sánh và sinh lý dựa chủ yếu trên các phương pháp khách quan, sự quan sát hành vi của con người và loài vật trong mọi điều kiện có thể của chúng về sức khỏe và bệnh tật... May thay quan niệm rộng rãi này về tâm lý học đang bắt đầu trổi vượt.

Như vậy vào cùng thời gian Watson đưa ra phát biểu công khai đầu tiên về thuyết hành vi của ông, McDougall cũng đặt câu hỏi về giá trị của nội quan và kêu gọi việc nghiên cứu khách quan về hành vi của cả con người lẫn loài vật. Tuy nhiên, không giống Watson, McDougall không phủ nhận tầm quan trọng của các sự kiện tinh thần. Mcdougall nghĩ rằng người ta có thể nghiên cứu các sự kiện ấy một cách khách quan bằng việc quan sát các ảnh hưởng của chúng đối với hành vi. Theo sự phân biệt ở trên giữa thuyết hành vi cực đoan và thuyết hành vi phương pháp luận, McDougall thuộc số những nhà tâm lý học theo thuyết hành vi phương pháp luận.

Hành vi hữu đích

Loại hành vi mà McDougall nghiên cứu rất khác với loại hành vi phản xạ mà các tác giả Nga và Watson nghiên cứu. McDougall (1923) nghiên cứu loại hành vi hữu đích, nó khác với hành vi phản xạ về các phương diện sau:

1. Hành vi hữu đích là hành vi tự phát. Nghĩa là, khác với hành vi phản xạ, nó không cần phải được khơi động bởi một kích thích đã biết trước.

2. Khi không còn kích thích môi trường, nó vẫn còn tồn tại một thời gian khá lâu.

3. Nó thay đổi. Mặc dù mục tiêu hành vi hữu đích vẫn không thay đổi, hành vi dùng để đạt mục tiêu ấy có thể thay đổi. Nếu gặp một trở ngại, nó sẽ chọn một con đường khác để đạt mục tiêu.

4. Hành vi hữu đích kết thúc khi mục tiêu đạt được.

5. Hành vi hữu đích trở nên hiệu quả hơn nhờ thực hành. Nghĩa là, các khía cạnh vô ích của hành vi dần dần bị loại bỏ. Hành vi thử - và - sai là hành vi hữu đích, không phải hành vi phản xạ.

Tầm quan trọng của bản năng

Như ta đã thấy, McDougall không tin rằng hành vi hữu đích được kích thích bởi môi trường. Ngược lại, nó được kích thích bởi năng lực của bản năng. Tâm điểm lý thuyết của McDougall là niềm tin vào bản năng.

Theo McDougall, mọi sinh vật, kể cả con người, được sinh ra với một số bản năng; các bản năng này cung cấp động cơ hành động theo mộ cách nào đó. Mỗi bản năng có ba thành phần:

1. Tri giác. Khi một bản năng hoạt động, người ta sẽ để ý tới các kích thích liên quan tới sự thỏa mãn bản năng ấy. Ví dụ, một người đói sẽ chú ý tới các sự kiện liên quan đến lương thực trong môi trường.

2. Hành vi. Khi một bản năng hoạt động, người ta thường sẽ làm những gì dẫn đến sự thỏa mãn bản năng ấy. Nghĩa là người ta sẽ có các hành vi nhắm tới mục tiêu hay mục đích cho tới khi đạt được sự thỏa mãn.

3. Cảm xúc. Khi một bản năng hoạt động, người ta có một cảm xúc thích hợp để phản ứng các sự kiện môi trường liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn bản năng. Ví dụ: khi đói, người ta sẽ phản ứng với lương thực hay các sự kiện liên quan đến lương thực (ví dụ: mùi của thức ăn) với các cảm xúc tích cực (ví dụ: cảm giác sung sướng) và các sự kiện cản trở sự thỏa mãn (ví dụ: không có tiền) với các cảm xúc tiêu cực (ví dụ: buồn).

Theo McDougall, hành vi con người phải được cắt nghĩa dựa trên bản năng và các cảm xúc gắn liền với nó. Lý thuyết của ông dựa trên chủ nghĩa khoái lạc bởi vì ông cho rằng trong hành vi của cả con người lẫn loài vật đều phản ánh một cố gắng thỏa mãn các nhu cầu bẩm sinh. Theo nghĩa này, học thuyết của McDougall rất giống học thuyết của Freud mà McDougall đã có một phản ứng thuận lợi. Ông đồng ý với quan niệm của Freud rằng đa số hành vi con người, bất luận nó phức tạp đến đâu, cơ bản đều do bản năng thúc đẩy.

Cuộc đấu tranh của Duy hành vi luận

Tới đây, chúng ta thấy hai trong số các nhà tâm lý học nổi tiếng nhất nói lên các lập trường đối chọi nhau. Một bên, McDougall nói rằng các bản năng là động cơ thúc đẩy hành vi của con người và loại vật. Ngược lại, Watson nói rằng bản năng không tồn tại trên bình diện con người, và tâm lý học phải loại bỏ thuật ngữ bản năng. Một khác biệt lớn nữa giữa Watson và McDougall là quan điểm của họ về quy trình học tập. Như ta đã thấy, Watson bác bỏ tầm quan trọng của việc củng cố, ông nói việc học tập có thể được giải thích dưa trên các nguyên tắc tương cận, thường xuyên và thời gian đã xảy ra gần hay xa. Theo McDougall, các thói quen suy nghĩ và hành động phục vụ cho các bản năng; nghĩa là chúng được hình thành vì chúng thỏa mãn một bản năng nào đó.

Đã đến lúc cần có cuộc tranh luận giữa McDougall và Watson. Và quả thực họ đã tranh luận. Ngày 5 tháng 2, 1924, họ đối chất nhau trước Câu Lạc Bộ Tâm Lý Học ở Washington, và có hơn 300 người tham dự. Năm 1929 Watson và McDougall đã xuất bản các trình tự diễn tiến của cuộc tranh luận dưới nhan đề Cuộc Đấu Tranh của Học Thuyết về Hành Vi.

Kết quả là sau cuộc tranh luận này, cả lập trường của Watson lẫn của McDougall đều không lập trường nào còn nguyên vẹn. Tuy nhiên, ngày nay các sinh viên tâm lý học thường biết về Watson nhiều hơn là về McDougall. Tình trạng này trong tương lai sẽ ra sao, chỉ thời gian mới có thể trả lời được.

CÁC CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Nêu một trường hợp cho thấy rằng trước khi có các định nghĩa của Watson, tâm lý học tại Mỹ còn "ở trên mây" nhiều hơn.

2. Tóm tắt tập luận của Sechenov rằng các tư tưởng không thể tạo ra hành vi.

3. Ý nghĩa khái niệm ức chế trong giải thích của Sechenov về hành vi là gì?

4. Pavlov đã khám phá ra phản xạ có điều kiện trong các hoàn cảnh nào, và tại sao lúc đầu ông đã không muốn nghiên cứu nó?

5. Tóm tắt khoa phản xạ học của Bechterev. Tại sao Bechterev tin mình là nhà tâm lý học hành vi đầu tiên?

6. Phương pháp nghiên cứu phản xạ có điều kiện của Bechterev khác với của Pavlov như thế nào? Theo Bechterev, phương pháp của ông có ưu điểm hơn của Pavlov về phương diện nào?

7. Mô tả các kinh nghiệm quan trọng dẫn Watson đến thuyết hành vi.

8. Theo Watson, mục tiêu của tâm lý học là gì? Nó khác với mục tiêu truyền thống của tâm lý học như thế nào?

9. Tóm tắt lối cắt nghĩa của Watson về tư duy.

10. Lập trường lúc đầu của Watson về vai trò bản năng trong hành vi con người là gì?

11. Lập trường sau cùng của Watson về vấn đề tinh thần-thân xác là gì?

12. Phân biệt giữa thuyết hành vi cực đoan và thuyết hành vi phương pháp luận.

13. Tóm tắt kiểu tâm lý học của McDougall. Tại sao phương pháp tâm lý học của ông có thể được coi là theo thuyết hành vi?

14. Theo McDougall, đâu là các tính chất của hành vi hữu đích?

15. Theo McDougall, ba nhân tố của bản năng là gì?

16. Nếu cuộc tranh luận giữa Watson và McDougall diễn ra hôm nay, bạn ngả về phe nào? Tại sao?

Created by AM Word2CHM

TỪ VỰNG

NHẬP MÔN LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC à Chương 12. DUY HÀNH VI LUẬN

Association reflex - Phản xạ phối hợp: Thuật ngữ Bechterev dùng để mô tả cái mà Pavlov gọi là một phản xạ có điều kiện.

Behaviorism - Duy Hành vi luận: Trường phái tâm lý học do Watson sáng lập, nhấn mạnh rằng nội dung của tâm lý học là hành vi và mục tiêu của tâm lý học là việc tiên đoán và kiểm soát hành vi.

Conditioned reflex - Phản xạ có điều kiện: Phản xạ tập thành, do học được.

Conditioned response (CR) - Phản ứng có điều kiện: Một phản ứng được khơi dậy bởi một kích thích có điều kiện.

Conditioned stimulus (CS) - Kích thích có điều kiện: Một kích thích lúc đầu là trung lập nhưng qua kinh nghiệm, nó khơi dậy một phản ứng nào đó.

Inhibition - ức chế: Sự giảm bớt hay ngưng một hoạt động, được tạo ra bởi một kích thích. Việc Sechenov khám phá các cơ chế ức chế trong não đã khiến ông tin rằng mọi hành vi con người đều có thể giải thích dựa trên sinh lý học về não.

Methodological behaviorism - Thuyết hành vi phương pháp luận: Kiểu thuyết hành vi chấp nhận quan niệm rằng hành vi bên ngoài phải là nội dung của tâm lý học nhưng cũng sẵn sàng chấp nhận các nguyên nhân bên trong của hành vi, như các tình trạng tinh thần và sinh lý học khác nhau.

Radical behaviorism - Thuyết hành vi cực đoan: Kiểu thuyết hành vi cho rằng mọi nguyên nhân của hành vi đều ở bên ngoài sinh vật và vì vậy phải loại bỏ các cắt nghĩa về hành vi dựa trên các sự kiện ý thức hay sinh lý học.

Tropism - Kích thích hướng động: Phản ứng tự động hướng về các kích thích mà Loeb tìm thấy nơi thực vật và động vật.

Unconditioned reflex - Phản xạ vô điều kiện: Phản xạ tự nhiên, không do tập thành.

Unconditioned response (UR) - Phản ứng vô điều kiện: Phản ứng bẩm sinh được khơi dậy do một kích thích vô điều kiện tự nhiên gắn liền với nó.

Uneonditioned stimulus (US) - Kích thích vô điều kiện: Kích thích làm phát sinh một phản ứng vô điều kiện.

Created by AM Word2CHM

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro