NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN

CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

I.       KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MAC-LÊNIN

1.      Chủ nghĩa Mác - Lênin và ba bộ phận lý luận cấu thành

Chủ nghĩa Mác - Lênin

Chủ nghĩa Mác - Lênin là “hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của C.Mác, Ph.Ăngghen và sự phát triển của V.I.Lênin; là sự kế thừa và phát triển những giá trị lịch sử của tư tưởng nhân loại, trên sơ sở thực tiễn của thời đại; là khoa học về sự nghiệp giải phóng vô sản, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con người; là thế giới quan và phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học.

Ba bộ phận lý luận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác- Lênin

Chủ nghĩa Mác - Lênin bao gồm hệ thống tri thức phong phú về nhiều lĩnh vực nhưng trong đó có ba bộ phận lý luận quan trọng nhất là: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học.

- Triết học Mác - Lênin là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.

- Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận Triết học, kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của PTSX TBCN và sự ra đời, phát triển của PTSX mới - PTSX CSCN.

- CNXH khoa học là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới quan, phương pháp luận Triết học và kinh tế chính trị Mác - Lênin vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ những quy luật khách quan của quá trình cách mạng XHCN - bước chuyển biến lịch sử từ CNTB lên CNXH và tiến tới CNCS, từ vương quốc của tính tất yếu mù quáng sang vương quốc tự do của con người.

=> Mặc dù ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin có đối tượng nghiên cứu cụ thể khác nhau những đều nằm trong một hệ thống lý luận khoa học thống nhất - đó là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.

Ngày nay, có thể có nhiều học thuyết với lý tưởng nhân đạo về giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới là học thuyết khoa học nhất, chắc chắn nhất và chân chính nhất để thực tiện lý tưởng đó.

2.      Khái lược quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin

Quá trình ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin bao gồm hai giai đoạn lớn là giai đoạn hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác (do C.Mác, Ăngghen thực hiện) và giai đoạn bảo vệ,phát triển chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác - Lênin (do Lênin thực hiện).

Những điều, kiện tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác

* Tiền đề kinh tế - xã hội

- Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ PTSX TBCN ở các nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ trên nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp, không chỉ đánh dấu bước chuyển hoá từ nền sản xuất thủ công TBCN sang nền sản xuất đại công nghiệp TBCN mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, trước hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.

- Mâu thuẫn sâu sắc giữa LLSX mang tính xã hội hoá với QHSX mang tính chất tư nhân TBCN đã bộc lộ qua cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1825 và hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân chống lại CNTB. Thể hiện giai cấp vô sản đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội

- Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu khách quan là nó phải được soi sáng  bằng lý luận khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời là sự đáp ứng yêu cầu khách quan đó; đồng thời chính thực tiễn cách mạng đó cũng đã trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khái quát và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác.

* Tiền đề lý luận:

- Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử mà còn là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó trực tiếp là: Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị học cổ điển Anh, Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp

- Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Hêghen và Phoiơbắc đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của con người Mác. Trên cơ sở phê phán tính chất duy tâm thần bí trong triết học Hêghen, C.Mác và P.Ăngghen đã kế thừa phép biện chứng của ông để xây dựng phép biện chứng duy vật. Với Phoiơbắc, C.Mác và P.Ăngghen đánh giá cao vai trò tư tưởng của ông trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, khẳng định giới tự nhiên là tính thứ nhất, tồn tại vĩnh viễn, không phụ thuộc vào ý thức của con người, tạo tiền đề quan trọng cho bước chuyển biến của Mác và Ăngghen từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật - một tiền đề lý luận của quá trình chuyển từ lập trường chủ nghĩa dân chủ - cách mạng sang lập trường CNCS.

- Kinh tế chính trị cổ điển Anh với những đại biểu lớn là A.Smith và Đ. Ricácđô đã góp phần tích cực vào quá trình hình thành quan niệm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác. Từ đó, C. Mác đã giải quyết những bế tắc mà bản thân các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh đã không thể vượt qua để xây dựng lên lý luận về GTTD, luận chứng khoa học về bản chất bóc lột của CNTB và nguồn gốc kinh tế của sự diệt vong tất yếu của CNTB cũng như sự ra đời tất nhiên của CNXH.

- CNXH không tưởng đã có quá trình phát triển lâu dài và đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Kế thừa tinh thần nhân đạo và những quan điểm đúng đắn của các nhà CNXH không tưởng về lịch sử, về đặc trưng của xã hội tương lai đã trở thành một trong những tiền đề lý luận quan trọng cho sự ra đời của lý luận khoa học về CNXH trong chủ nghĩa Mác

* Tiền đề khoa học tự nhiên

Cùng với những điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề lý luận, những thành tựu khoa học tự nhiên cũng vừa là tiền đề vừa là luận cứ và là những minh chứng khẳng định tính đúng đắn về thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác; trước hết phải kể đến phát hiện ra quy luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, thuyết tiến hoá và thuyết tế bào.

=> Như vậy sự ra đời của chủ nghĩa Mác là hiện tượng hợp quy luật; nó vừa là sản phẩm của tình hình kinh tế - xã hội đương thời, của tri thức nhân loại thể hiện trong các lĩnh vực khoa học, vừa là sản phẩm năng lực tư duy và tinh thần nhân văn của những người sáng lập ra nó.

Giai đoạn hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác

Giai đoạn hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác do C.Mác và P.Ăngghen thực hiện diễn ra từ những năm 1842 - 1843 đến sau những năm 1847 - 1848 và sau đó từ 1849 đến 1895 là quá trình phát triển sâu sắc hơn. Trong giai đoạn này, cùng với các hoạt động thực tiễn, C.Mác và P. Ăngghen đã nghiên cứu tư tưởng của nhân loại trên nhiều lĩnh vực từ cổ đại cho đến xã hội đương thời để từng bước củng cố, bổ sung và hoàn thiện quan điểm của mình.

- Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu toàn bộ PTSX TBCN, C.Mác phát hiện ra rằng: việc tách những người sản xuất nhỏ khỏi TLSX bằng bạo lực là khởi điểm của sự xác lập PTSX TBCN.

- Thông qua tác phẩm bộ Tư bản, C. Mác và P.Ăngghen đã trình bày một cách hệ thống các quy luật vận động và phát triển của xã hội, cho thấy sự vận động và phát triển ấy là một quá trình lịch sử tự nhiên thông qua sự tác động biện chứng giữa LLSX và QHSX; giữa CSHT và KTTT. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã làm cho chủ nghĩa duy vật lịch sử không còn là một giả thuyết mà là một nguyên lý đã được chứng minh một cách khoa học.

- Tư tưởng duy vật về lịch sử, về cách mạng vô sản tiếp tục được phát triển trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta (C.Mác 1875). Trong tác phẩm này, những vấn đề về nhà nước chuyên chính vô sản, về TKQĐ lên CNXH, những giai đoạn trong quá trình xây dựng CNCS…đã được đề cập đến với tư cách là cơ sở khoa học cho lý luận cách mạng của giai cấp vô sản trong các hoạt động hướng đến tương lai.

Giai đoạn bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới

* Bối cảnh lịch sử và nhu cầu bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác

- Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, CNTB đã phát triển sang một giai đoạn mới là giai đoạn CNĐQ. Bản chất bóc lột và thống trị của CNTB ngày càng bộc lộ rõ; mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản ngày càng sâu sắc mà điển hình là mâu thuẫn giai cấp giữa vô sản và tư sản. Ở các nước thuộc địa, cuộc đấu tranh chống CNĐQ tạo nên sự thống nhất giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, giữa nhân dân các nước thuộc địa với giai cấp công nhân ở các nước chính quốc mà trung tâm là ở nước Nga.

- Trong giai đoạn này cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp TBCN là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên. Bên cạnh đó, một số nhà khoa học rơi vào tình trạng khủng hoảng thế giới quan, làm cho chủ nghĩa duy tâm lợi dụng gây ảnh hưởng đến nhận thức và hành động của các phong trào cách mạng.

- Đây là thời kỳ chủ nghĩa Mác được truyền bá rộng rãi vào nước Nga. Để bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp tư sản, những trào lưu tư tưởng như chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng ….đã mang danh đổi mới chủ nghĩa Mác để xuyên tạc và phủ nhận nó.

=> Trong bối cảnh như vậy, nhu cầu phải khái quát những thành tựu khoa học tự nhiên để rút ra những kết luận về thế giới quan và phương pháp luận, phải thực hiện cuộc đấu tranh lý luận để chống sự xuyên tạc và phát triển chủ nghĩa Mác đã được thực tiễn ở nước Nga đặt ra.

* Vai trò của V.I.Lênin đối với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới

Quá trình V.I.Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác có thể chia thành ba thời kỳ:

- Những năm 1893 - 1907 là những năm V.I.Lênin tập trung chống phái dân tuý.  Lênin đưa ra nhiều tư tưởng về tầm quan trọng của lý luận, của thực tiễn và mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, đề cập nhiều đến vấn đề đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu tranh tư tưởng và đặc biệt là nhấn mạnh đến quá trình hình thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản.

- Những năm 1907 - 1917 là những năm vật lý học có cuộc khủng hoảng về thế giới quan làm xuất hiện nhiều tư tưởng duy tâm phủ nhận chủ nghĩa Mác. Trước tình hình đó, V.I.Lênin  đã tổng kết toàn bộ thành tựu khoa học tự nhiên, tổng kết những sự kiện lịch sử để viết tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909) không chỉ bảo vệ thành công mà còn phát triển chủ nghĩa Mác lên tầm cao mới.

- Cách mạng tháng 10 Nga năm1917 thành công đã mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn cầu

Với những cống hiến to lớn ở trên cả 3 bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, tên tuổi của V.I.Lênin đã gắn liền với chủ nghĩa này, đánh dấu bước phát triển toàn diện của chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác - Lênin.

Chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn phong trào cách mạng thế giới

- Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời đã ảnh hưởng lớn đến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Năm 1917, cách mạng XHCN của giai cấp vô sản thắng lợi mở ra kỷ nguyên mới cho nhân loại, chứng minh tính hiện thực của chủ nghĩa Mác - Lênin trong lịch sử để hình thành nên cộng đồng các nước XHCN, làm cho CNTB không còn là hệ thống duy nhất trên thế giới.

- Điều đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của GCCN toàn thế giới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa.

II.         ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU VỀ MẶT PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP, NGHIÊN CỨU.

1.      Đối tượng, mục đích của việc học tập, nghiên cứu

         - Đối tượng của môn học là những quan điểm cơ bản, nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong phạm vi ba bộ phận lý luận cấu thành nó.

            + Trong phạm vi lý luận Triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là những nguyên lý cơ bản về thế giới quan và phương pháp luận chung nhất.

            + Trong phạm vi lý luận KTCT của chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là học thuyết giá trị; học thuyết giá trị thặng dư; học thuyết về CNTB độc quyền và CNTB độc quyền nhà nước; khái quát những quy luật kinh tế cơ bản của PTSX TBCN từ khi hình thành cho đến giai đoạn phát triển cao của nó.

            + Trong phạm vi lý luận CNXH khoa học, đó là sứ mệnh lịch sử của GCCN và tiến trình cách mạng XHCN; phản ánh các quy luật kinh tế, chính trị xã hội của quá trình hình thành, phát triển HTKTXH CSCN và những định hướng cho hoạt động của GCCN trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.

         - Mục đích: giúp cho người học

            + Nắm vững những quan điểm khoa học, cách mạng, nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin

            + Hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của ĐCSVN, nền tảng tư tưởng của Đảng

            + Xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhân sinh quan cách mạng, xây dựng niềm tin và lý tưởng cách mạng

            + Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, trong rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, đáp ứng yêu cầu của con người Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng thành công CNXH.

2.      Một số yêu cầu cơ bản về mặt phương pháp học tập, nghiên cứu

Khi học tập, nghiên cứu Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin phải đảm bảo một số yêu cầu sau:

         - Những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin được thể hiện trong những bối cảnh khác nhau nên hình thức thể hiện cũng khác nhau. Vì thế, cần phải hiểu đúng tinh thần, thực chất của chủ nghĩa Mác - Lênin ; tránh bệnh kinh viện, giáo điều trong quá trình học tập, nghiên cứu và vận dụng chúng.

         - Sự hình thành và phát triển những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là một quá trình. Vì thế học tập, nghiên cứu mỗi luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin phải đặt trong mối liên hệ với các luận điểm khác, các bộ phận cấu thành để thấy tính thống nhất, đa dạng và nhất quán của chủ nghĩa Mác - Lênin.

         - Học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin để hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của ĐCSVN, nền tảng tư tưởng của Đảng, gắn vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và của thời đại để thấy được sự vận dụng một cách sáng tạo của Chủ tịch HCM.

         - Học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin để đáp ứng những yêu cầu của con người Việt Nam trong giai đoạn mới.

         - Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là hệ thống khép kín mà đó là hệ thống lý luận không ngừng phát triển trên cơ sở phát triển của thời đại.


PHẦN THỨ HAI

HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN

VỀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

*****

CHƯƠNG IV

HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ

   Học thuyết giá trị (học thuyết giá trị lao động) là xuất phát điểm trong toàn bộ lý luận kinh tế của C.Mác. Trong học thuyết này C.Mác đã nghiên cứu mối quan hệ giữa người với người, có liên quan với vật và biểu hiện dưới hình thái quan hệ giữa vật với vật. Cơ sở kinh tế để xác lập quan hệ giữa người với người, thông qua quan hệ giữa vật với vật ở đây chính là lao động, cái thực thể yếu tố cấu thành giá trị hàng hoá. Đó chính là trọng tâm của học thuyết này. Sự thực thì sản xuất hàng hoá gắn liền với các phạm trù hàng hóa, tiền tệ đã từng có trong CNTB. Nó là những tiền đề điều kiện để CNTB tồn tại và phát triển. Dựa trên nền tảng lý luận giá trị. C.Mác đã xây dựng nên học thuyết giá trị thặng dư - “hòn đá tảng” trong toàn bộ học thuyết kinh tế của C.Mác, vì vậy khi nghiên cứu học thuyết giá trị của C.Mác cũng cần phải hiểu rằng: đó là nghiên cứu về Chủ nghĩa tư bản nhưng mới chỉ ở dạng chung nhất.

 

I.ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI, ĐẶC TRƯNG VÀ ƯU THẾ CỦA SẢN XUẤT HÀNG HOÁ

1. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá

Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế: sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa.

Sản xuất tự cấp tự túc là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra là nhằm thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất.

Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để trao đổi hoặc mua bán trên thị trường.

Sản xuất hàng hóa là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người và chỉ ra đời khi có đầy đủ 2 điều kiện sau đây:

* Phân công lao động xã hội

Phân công lao động là sự phân chia lao động xã hội một cách tự phát thành các ngành, nghề khác nhau.

Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn hóa lao động, do đó dẫn đến chuyên môn hóa sản xuất. Do phân công lao động xã hội nên mỗi người sản xuất một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định. Song cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất nhiều loại sản phẩm khác nhau, vì vậy đòi hỏi họ phải có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, phải trao đổi sản phẩm cho nhau.

Phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hóa. Phân công lao động xã hội càng phát triển thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.

Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện thứ nhất chưa đủ để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại. Muốn sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại phải có điều kiện thứ hai.

* Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất

Sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thủy là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động. Như vậy, quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất đối lập và độc lập với nhau.

Mặt khác, họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng, tức là phải trao đổi, mua bán hàng hóa với nhau. Trong điều kiện ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người kia phải thông qua sự mua bán hàng hóa, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hóa.

Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện trên, nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm của lao động không mang hình thái hàng hóa.

2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá                                    

Sản xuất hàng hóa so với sản xuất tự cung tự cấp có những đặc trưng và ưu thế sau đây:

Sản xuất hàng hóa gắn với phân công lao động xã hội, tạo ra sự chuyên môn hóa, hợp tác hóa sâu sắc, thúc đẩy sản xuất phát triển.

Cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản xuất hàng hóa phải năng động trong sản  xuất kinh doanh, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tiêu thụ nhiều hàng hóa và thu lợi nhuận ngày càng nhiều. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.

Sự phát triển của sản xuất xã hội với tính chất “mở”, các quan hệ hàng hóa tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển. Từ đó tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt trái như phân hóa giàu nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá hoại môi trường sinh thái…

II. HÀNG HOÁ

1. Hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá

a. Khái niệm hàng hoá

Hàng hóa là sản phẩm của lao động, nó có thể thỏa mãn những nhu cầu nhất định nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.

Khi nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, Mác bắt đầu bằng sự phân tích hàng hóa, vì:

Thứ nhất, hàng hóa là hình thái biểu hiện phổ biến nhất của của cải trong xã hội tư bản.

Thứ hai, hàng hóa là hình thái nguyên tố của của cải, là tế bào kinh tế trong đó chứa đựng mọi mầm mống mâu thuẫn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Thứ ba, phân tích hàng hóa là phân tích giá trị - phân tích cái cơ sở của tất cả các phạm trù chính trị kinh tế học của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

b. Hai thuộc tính của hàng hoá

Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, sản xuất hàng hóa có những bản chất khác nhau nhưng hàng hóa thì đều có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.

* Giá trị sử dụng

Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.

Ví dụ: lương thực thực phẩm để ăn, máy móc, nguyên vật liệu để sản xuất…

Giá trị sử dụng hay công dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết định. Với ý nghĩa như vậy, giá trị sử dụng là một phàm trù vĩnh viễn.

Khoa học kỹ thuật càng phát triển người ta càng phát hiện thêm những thuộc tính mới của sản phẩm và lợi dụng chúng tạo ra những giá trị sử dụng mới.

Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng, nó là nội dung vật chất của của cải, không kể hình thức xã hội của của cải đó như thế nào.

* Giá trị hàng hoá

Muốn hiểu giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.

Ví dụ: 1 mét vải  = 10 kg thóc

Vậy, tại sao vải và thóc lại có thể trao đổi được với nhau, hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định?

Khi hai sản phẩm khác nhau (vải và thóc) có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung đó không phải là giá trị sử dụng vì do giá trị sử dụng khác nhau người ta mới tiến hành trao đổi với nhau. Nhưng cái chung đó phải nằm ngay ở trong cả hai hàng hóa. Và nếu gạt bỏ giá trị sử dụng của hàng hóa sang một bên thì giữa chúng chỉ còn một cái chung làm cơ sở cho quan hệ trao đổi. Đó là chúng đều là sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải hay thóc những người sản xuất đều phải hao phí lao động. Chính hao phí lao động ẩn giấu trong hàng hóa làm cho chúng có thể so sánh được với nhau khi trao đổi. Chúng được trao đổi theo một tỷ lệ nhất định, một lượng vải ít hơn đổi lấy một lượng thóc nhiều hơn (1 m vải = 10 kg thóc) nhưng lượng lao động hao phí để sản xuất ra chúng là ngang bằng nhau. Lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa ẩn giấu trong hàng hóa chính là giá trị của hàng hóa.

 Vậy, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa, còn giá trị trao đổi là hình thái biểu hiện của giá trị hàng hóa.

 Hao phí lao động của con người kết tinh trong sản phẩm không phải lúc nào cũng là giá trị. Chỉ trong những xã hội người ta làm ra sản phẩm để trao đổi thì hao phí lao động đó mới mang hình thái giá trị. Do đó, giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn với nền sản xuất hàng hóa.

 Thuộc tính tự nhiên của hàng hóa là giá trị sử dụng, thuộc tính xã hội của hàng hóa là hao phí lao động kết tinh trong nó và là giá trị. Giá trị là biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.

 Bất kỳ một vật nào muốn trở thành hàng hóa đều phải có đủ hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng, nếu thiếu một trong hai thuộc tính đó, sản phẩm không thể là hàng hóa.

c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá

Giữa hai thuộc tính của hàng hóa luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị ra bên ngoài. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau, những người sản xuất ngầm so sánh lao động ẩn giấu trong hàng hóa với nhau. Thực chất của quan hệ trao đổi là người ta trao đổi lượng lao động hao phí của mình chứa đựng trong các hàng hóa. Vì vậy, giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.

Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Sự đối lập và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở chỗ: Đối với người sản xuất hàng hóa, họ tạo ra giá trị sử dụng, nhưng mục đích của họ không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, họ quan tâm đến giá trị sử dụng là để đạt được mục đích giá trị. Ngược lại, đối với người mua, cái mà họ quan tâm là giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng muốn có giá trị sử dụng thì phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Nghĩa là quá trình thực hiện giá trị tách rời quá trình thực hiện giá trị sử dụng: Giá trị được thực hiện trước, sau đó giá trị sử dụng mới được thực hiện.

2. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá

Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị là do lao động của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt. Chính tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa quyết định tính hai của bản thân hàng hóa. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.

a. Lao động cụ thể

Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định, mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương tiện riêng,  phương pháp riêng  và kết quả riêng.

Mỗi loại lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể càng nhiều loại càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau. Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội.

Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì vậy lao động cụ thể cũng là phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền với vật phẩm, nó là điều kiện không thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào.

Cần chú ý rằng hình thức của lao động cụ thể cũng có thể thay đổi.

Lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất tạo ra giá trị sử dụng do nó tạo ra. Giá trị sử dụng của các vật thể hàng hóa bao giờ cũng do hai nhân tố hợp thành: vật chất và lao động.

b. Lao động trừu tượng

Lao động của người sản xuất hàng hóa, nếu coi đó là sự hao phí sức óc, sức thần kinh và sức cơ bắp nói chung của con người, chứ không kể đến hình thức cụ thể của nó thế như thế nào, thì gọi là lao động trừu tượng.

Lao động bao giờ cũng là sự hao phí sức lực nói chung của con người, xét về mặt sinh lý…nhưng không phải mọi lao động nào về mặt sinh lý cũng là lao động trừu tượng. Lao động từu tượng chỉ có trong nền sản xuất hàng hoá, do mục đích sản xuất là để trao đổi. Từ đó làm nảy sinh sự cần thiết phải quy đổi các lao động cụ thể vốn rất khác nhau, không thể so sánh được với nhau thành một thứ lao động đồng chất và có thể so sánh được với nhau, đó là lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá, làm cơ sở so sánh ngang bằng trong trao đổi. Nếu không có sản xuất hàng hoá và trao đổi hàng hoá thì không cần quy các lao động cụ thể về lao động trừu tượng. Vì vậy lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử.

    Nếu lao động cụ thể chỉ là một trong hai nhân tố tạo ra giá trị sử dụng, thì lao động trừu tượng là nhân tố duy nhất tạo ra giá trị của hàng hoá. Giá trị của mọi hàng hoá chỉ là sự kết tinh của lao động trừu tượng.

   Lưu ý: Không phải có hai loại lao động tách biệt nhau, mà thực chất lao động cụ thể và lao động trừu tượng song song tồn tại trong hoạt động của một con người, cùng thời điểm, cùng thời gian.

- Xét lao động cụ thể tức là xét người đó làm ra giá trị sử dụng gì…, lao động như thế nào

- Xét lao động trừu tượng tức là xét người đó tốn bao nhiêu sức lực tức là tốn bao nhiêu thời gian…

   Việc nghiên cứu tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận; nó đem đến lý thuyết lao động sản xuất một cơ sở khoa học thực sự.

   Giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái ngược, khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên đi liền khối lượng giá trị của nó ngày càng giảm xuống. 

   Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá, phản ánh tính chất tư nhântính chất xã hội của sản xuất hàng hoá. Lao động của mỗi người sản xuất là lao động tư nhân và lao động cụ thể của họ biểu hiện thành lao động tư nhân. Nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội, và lao động tư nhân của họ phải trở thành một bộ phận của lao động xã hội, lao động trừu tượng biểu hiện ra là lao động xã hội. Đây là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá…

-         Biểu hiện của mâu thuẫn: Sản phẩm do người sản xuất tạo ra có thể không ăn khớp hoặc không phù hợp nhu cầu xã hội…

-         Hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể cao hơn hoặc thấp hơn hao phí lao động xã hội có thể chấp nhận.

    Và đây là mầm mống chứa đựng khủng hoảng “sản xuất thừa”.

3. Lượng giá trị hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng tới lượng giá trị hàng hoá

Chất giá trị hàng hóa là do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Vậy, lượng giá trị của hàng hóa do lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định.

a. Thước đo lượng giá trị hàng hoá

Lượng lao động hao phí để tạo ra hàng hóa được đo bằng thước đo thời gian như một giờ lao động, một ngày lao động… Do đó, lượng giá trị của hàng hóa cũng do thời gian lao động quyết định.

Trong thực tế, một loại hàng hóa đưa ra thị trường là do rất nhiều người sản xuất, nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề không giống nhau nên thời gian lao động cá biệt là khác nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cá biệt của từng người sản xuất.

Thước đo lượng giá trị của hàng hóa được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện trung bình của xã hội, tức là trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định.

Trong một xã hội có hàng triệu người sản xuất hàng hóa, với thời gian lao động cá biệt hết sức khác nhau, thì thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết trùng với thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất và cung cấp đại bộ phận hàng hóa nào đó trên thị trường.

b. Các nhân tố ảnh hưởng tới lượng giá trị hàng hoá

Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hóa cũng là một đại lượng không cố định.

Lượng giá trị của hàng hóa chịu ảnh hưởng của các nhân tố:

* Năng suất lao động

Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, nó được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.

Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít và ngược lại. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.

Năng suất lao động tùy thuộc vào nhiều nhân tố như trình độ khéo léo của người lao động, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất…

Cần phân biệt tăng năng suất lao động và cường độ lao động:

Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức độ khẩn trương, là sự căng thẳng mệt nhọc của người lao động.

Khi tăng cường độ lao động thì lượng lao động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian cũng tăng lên và lượng sản phẩm được tạo ra cũng tăng theo tương ứng còn lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm thì không đổi.

*  Mức độ phức tạp của lao động

Lượng giá trị của hàng hóa phụ thuộc vào tính chất của lao động, đó là lao động giản đơn và lao động trừu tượng.

Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách giản đơn mà bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được.

Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động lành nghề.

Trong cùng một đơn vị lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân lên gấp bội.

Để cho các hàng hóa do lao động giản đơn tạo ra có thể quan hệ bình đẳng với các hàng hóa do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người ta quy mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình.

Như vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.

c. Cấu thành lượng giá trị hàng hóa

Lượng giá trị hàng hóa bao gồm giá trị cũ, tức là giá trị những tư liệu sản xuất đã sử dụng để sản xuất hàng hóa chuyển vào (c) và giá trị mới, tức là hao phí lao động sống của người sản xuất trong quá trình tạo ra hàng hóa (v + m)

W = c + v + m

III. TIỀN TỆ

1. Lịch sử ra đời của hình thái giá trị và bản chất của tiền tệ

Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị. Về giá trị sử dụng, tức hình thái tự nhiên của hàng hóa, ta có thể nhận biết trực tiếp được bằng giác quan. Nhưng về mặt giá trị, tức hình thái tự nhiên của hàng hóa, nó không có một nguyên tử vật chất nào, nó chỉ biểu hiện ra trong trao đổi, nghĩa là trong mối quan hệ giữa các hàng hóa với nhau. Chính vì thế, thông qua sự nghiên cứu các hình thái biểu hiện của giá trị, qua các giai đoạn phát triển lịch sử, chúng ta sẽ tìm ra nguồn gốc phát sinh tiền tệ, hình thái giá trị nổi bật và tiêu biểu nhất.

a. Sự phát triển của hình thái tiền tệ

* Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên

Đây là hình thái phôi thai của giá trị, xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hóa, khi trao đổi chỉ mang tính chất ngẫu nhiên.

Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc

Ở đây, giá trị của vải được biểu hiện ở thóc. Còn thóc là cái được dùng làm phương tiên để biểu hiện giá trị của vải.

Tuy là hình thái giản đơn, nhưng bản thân nó không giản đơn, lại bao gồm hai hình thái: Hình thái tương đối và hình thái ngang giá. Hàng hóa mà giá trị của nó được biểu hiện ở một hàng hóa khác thì gọi là hình thái tương đối. Còn hàng hóa mà giá trị sử dụng của nó biểu hiện giá trị của hàng hóa khác gọi là hình thái ngang giá. Hình thái ngang giá có ba đặc điểm: Giá trị sử dụng của nó trở thành hình thức biểu hiện giá trị, lao động cụ thể trở thành hình thức biểu hiện lao động trừu tượng, lao động tư nhân trở thành hình thức biểu hiện lao động xã hội. Hình thái tương đối và hình thái ngang giá là hai mặt liên quan, không thể tách rời, đồng thời là hai cực của một phương trình giá trị.

Trong hình thái giản đơn, giá trị của một hàng hóa chỉ được phát hiện ở một hàng hóa nhất định khác với nó, chứ không biểu hiện được ở mọi hàng hóa khác và tỷ lệ trao đổi chưa cố định.

* Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng

Hình thái này xuất hiện sau phân công lao động lần thứ nhất, sự trao đổi hàng hóa phát triển cao hơn, có nhiều mặt hàng hơn đòi hỏi giá trị của một hàng hóa phải được biểu hiện ở nhiều hàng hóa với nó. Khi đó, hình thái giá trị giản đơn chuyển sang hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng.

Ví dụ:

                                                10 kg thóc      hoặc

            1 m vải    =                 2 con gà         hoặc

                                    0,1 chỉ vàng   hoặc

                                                …

Đây là sự mở rộng hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên, hình thái ngang giá đã đươc mở rộng ra ở nhiều hàng hóa khác. Tuy nhiên, vẫn là trao đổi trực tiếp, tỷ lệ trao đổi chưa ổn định.

* Hình thái chung của giá trị

Với sự phát triển cao hơn của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, nhu cầu trao đổi trở nên phức tạp hơn, hình thái chung của giá trị xuất hiện.

Ví dụ:

            10 kg thóc      hoặc

            2 con gà         hoặc                = 1 m vải 

            0,1 chỉ vàng   hoặc               

            …

Ở đây, tất cả các hàng hóa đều biểu hiện giá trị của mình ở cùng một thứ hàng hóa đóng vai trò là vật ngang giá. Tuy nhiên vật ngang giá chung chưa ổn định ở một thứ hàng hóa nào.

* Hình thái tiền tệ

Tình trạng nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa phương vấp phải khó khăn, do đó dẫn đến đòi hỏi khách quan phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất mà tất cả mọi người đều thừa nhận, đó là vàng. Và lúc đó hình thái tiền tệ ra đời.

Ví dụ:

            10 kg thóc      hoặc

            2 con gà         hoặc                = 0,1 chỉ vàng

            1 m vải           hoặc               

            …

Tiền tệ ra đời làm thế giới hàng hóa phân thành hai cực: một bên là các hàng hóa thông thường, một bên là các hàng  hóa đóng vai trò tiền tệ.

Lúc đầu nhiều kim loại đóng vai trò tiền tệ, nhưng về sau được cố định ở kim loại quý: vàng, bạc và cuối cùng là vàng. Sở dĩ vàng đóng vai trò tiền tệ là do những ưu điểm của nó: dễ phân biệt (về màu sắc, độ dẻo, âm thanh khi va chạm); bền vững, dễ chia nhỏ; ổn định về số lượng sẵn có; giá trị nội tại ít bị biến động.

b. Bản chất của tiền tệ

Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hóa làm vật ngang giá chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.

2. Chức năng của tiền tệ

a. Thước đo giá trị

Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hóa. Muốn đo lường giá trị của các hàng hóa, bản thân tiền tệ cũng phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng.

Giá trị hàng hóa được biểu hiện thành tiền gọi là giá cả hàng hóa. Hay nói cách khác, giá cả hàng hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa.

Giá cả hàng hóa chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau: Giá trị hàng hóa, giá trị của tiền, quan hệ cung – cầu về hàng hóa.

Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được đo lường, tức phải có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của kim loại dùng làm tiền tệ và ở mỗi nước đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau.

b. Phương tiện lưu thông

Với chức năng phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hóa. Để làm chức năng lưu thông hàng hóa thì ta phải có tiền mặt. Trao đổi hàng hóa lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng hóa.

Công thức lưu thông hàng hóa là: H – T – H, khi tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hóa đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời gian và không gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng kinh tế.

Lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ là hai mặt của quá trình thống nhất. Lưu thông tiền tệ xuất hiện và dựa trên cơ sở của lưu thông hàng hóa.

Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức càng thoi, bạc nén. Sau này, tiền vàng dần được thay thế bằng tiền giấy. Tiền giấy không có giá trị mà chỉ ký hiệu của tiền vàng, là dấu hiệu của giá trị.

c. Phương tiện cất trữ

Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút ra khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Tiền làm được chức năng này là vì tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là hình thức cất trữ của cải và để làm chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền, vàng, bạc.

d. Phương tiện thanh toán

Tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả lương, trả tiền mua hàng chịu … Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua chịu. Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua bán chịu người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ, đến kỳ thanh toán, một khâu nào đó không thanh toán sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.

e. Tiền tệ thế giới

Khi trao đổi vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình thái ban đầu của nó là tiền vàng. Trong chức năng này, vàng dùng làm phương tiên mua bán hàng, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã hội.

Tóm lại, 5 chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hóa quan hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa.

IV. QUY LUẬT GIÁ TRỊ

Quy luật giá trị là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.

1. Nội dung của quy luật giá trị

Sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.

* Sản xuất phải tiến hành trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết:

Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng họ phải tính toán sao cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.

* Trao đổi phải tiến hành dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết:

Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị.

Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền.

2. Tác động của quy luật giá trị

* Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.

Điều tiết sản xuất tức là điều hòa, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.

Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường, luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hóa thông suốt.

* Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.

Để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ phá sản, người sản xuất phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, tăng năng suất lao động nhằm giảm chi phí sản xuất, thu được nhiều lợi nhuận. Sự canh tranh quyết liệt thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.

* Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người lao động thành kẻ giàu người nghèo.

Quá trình cạnh tranh quyết liệt tất yếu dẫn đến kết quả là những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt sẽ giàu lên một cách nhanh chóng, đồng thời có những người bị thua lỗ trong kinh doanh dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.


Câu hỏi ôn tập

1.      Phân tích điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa và ưu thế của sản xuất hàng hóa.

2.      Hàng hóa là gì? Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa? Vì sao hàng hóa có hai thuộc tính đó? Phân tích mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa.

3.      Lượng giá trị hàng hóa được xác định như thế nào? Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động ảnh hưởng như thế nào tới lượng giá trị hàng hóa?

4.      Phân tích nguồn gốc ra đời và bản chất của tiền tệ. Trình bày các chức năng của tiền tệ.

5.      Phân tích yêu cầu và tác dụng của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa.


Chương V

HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

 

I. SỰ CHUYỂN HOÁ CỦA TIỀN THÀNH TƯ BẢN

1. Công thức chung của tư bản

Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hoá, đồng thời là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột sức lao động của người khác.

Trong lưu thông hàng hóa giản đơn, tiền được coi là tiền thông thường và vận động theo công thức: H – T – H.

Trong lưu thông hàng hoá giản đơn H (hàng) –  T (tiền) – H (hàng), tiền tệ không phải là tư bản, mà chỉ là tiền tệ với đúng nghĩa của nó. Người sản xuất bán hàng hoá của mình lấy tiền tệ để mua một hàng hoá khác phục vụ cho những nhu cầu tiêu dùng nhất định.

Còn tiền được coi là tư bản thì vận động theo công thức: T – H – T.

So sánh công thức lưu thông hàng hóa giản đơn và công thức lưu thông của tư bản, chúng ta thấy có những điểm giống nhau:

-        Cả hai sự vận động đều do hai giai đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành.

-        Đều gồm hai nhân tố vật chất đối diện nhau là hàng và tiền.

-        Gồm hai chủ thể kinh tế là người mua và người bán.

Nhưng đó chỉ là sự giống nhau về hình thức, giữa hai công thức này có sự khác nhau về chất :

Lưu thông hàng hóa giản đơn : H – T – HLưu thông của tư bản : T – H – T

+ Trình tự mua và bán: bán rồi mua                 mua rồi bán

+ Vị trí của H và T:

bắt đầu và kết thúc là hàng,                               bắt đầu và kết thúc là tiền,

+ Tiền đóng vai trò trung gian                           hàng đóng vai trò trung gian.

Mục đích của lưu thông hàng hóa giản đơn là giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu nên các hàng hóa trao đổi phải có giá trị sử dụng khác nhau. Sự vận động sẽ kết thúc ở giai đoạn thứ hai khi mà những người trao đổi có được giá trị sử dụng mà họ cần.

Còn mục đích của lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Trong lưu thông T – H – T người có tiền đưa số tiền của mình vào lưu thông, không phải để thu về số tiền như cũ, mà nhằm thu về một số tiền lớn hơn. Do đó công thức đầy đủ của lưu thông T – H – T là T – H – T + ΔT hay T – H – T’ với T’ = T + ΔT.

Số tiền tăng thêm (ΔT) được gọi là giá trị thặng dư.

Vì mục đích chạy theo giá trị thặng dư, nên cuộc vận động T – H – T’ luôn luôn tái diễn và không có giới hạn.

Tất cả mọi đồng tiền vận động theo công thức T – H – T’ đều biến thành tư bản.

Mác gọi công thức T – H – T’ là công thức chung của tư bản, vì sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiển trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, dù là tư bản thương nghiệp, tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay.

2. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản

Tiền ứng trước, tức là tiền bỏ vào lưu thông, khi quay về tay người chủ của nó, thì có thêm một lượng nhất định. Vậy có phải bản chất của sự lưu thông đã làm cho tiền tăng thêm và do đó hình thành giá trị thặng dư hay không?

Các nhà kinh tế học tư sản đã cố tình chứng minh rằng quá trình lưu thông đẻ ra giá trị thặng dư, hòng che giấu nguồn gốc làm giàu của tư bản.

Thực ra lưu thông không đẻ ra một giá trị mới nào, dù người ta trao đổi giá trị hay không theo giá trị:

-  Nếu người ta trao đổi hàng hoá theo giá trị, thì người có tiền bỏ ra 100 đồng mua hàng, đến khi bán hàng anh ta cũng sẽ thu về được 100 đồng. Người có tiền vẫn nắm trong tay mình một giá trị là 100 đồng, chỉ có hình thái của nó thay đổi từ tiền thành hàng, rồi hàng thành tiền.

-  Nếu sự trao đổi hàng hoá không diễn ra theo giá trị, thì có thể có 3 trường hợp sau đây xẩy ra:

ü      Trường hợp thứ nhất: Giả định rằng người bán có đặc quyền bán hàng hoá cao hơn giá trị 10% chẳng hạn. Giá trị hàng hoá của anh ta là 100 đồng sẽ được bán cao lên 110 đồng và do đó thu được 10 đồng giá trị thặng dư.

Nhưng chẳng lẽ anh ta chỉ bán mà không mua. Đến lượt anh ta là người mua, anh ta sẽ phải mua hàng hoá cao hơn giá trị 10%. Thế là 10% anh ta thu được khi là người bán, sẽ mất đi khi anh ta là người mua. Đặc quyền bán hàng hoá cao hơn giá trị đã không hề mang lại một chút giá trị thặng dư nào.

ü      Trường hợp thứ hai: Giả định người mua có được quyền mua hàng hoá thấp hơn giá trị 10%, để đến khi bán hàng hoá theo giá trị anh ta thu được 10% là giá trị thặng dư. Trong trường hợp này cũng vậy, cái mà anh ta thu được do mua rẻ, sẽ bị mất đi khi anh ta là người bán. Rốt cục giá trị thặng dư vẫn không được đẻ ra từ hành vi mua rẻ.

ü      Trường hợp thứ ba: Giả định có một số người nhờ mánh khoé mà chuyên mua rẻ bán đắt. Nếu khi mua, anh ta mua rẻ được 5 đồng, và cũng bán đắt hơn được 5 đồng. rõ ràng 10 đồng giá trị thặng dư mà anh ta thu được là do trao đổi không ngang giá. Sự thực thì 5 đồng thu được do mua rẻ và 5 đồng anh ta kiếm được do bán đắt cũng chỉ là số tiền anh ta lường gạt của người khác.

Chỉ có điều là sự lường gạt ở đây được thực hiện một cách “đường hoàng”, tưởng như là “thuận mua vừa bán”. Hành vi cướp đoạt “đường hoàng” ấy là nguồn gốc của giá trị thặng dư mà anh ta thu được. Nhưng nếu xét chung cả xã hội, thì cái giá trị thặng dư mà anh ta thu được lại chính là cái mà người khác mất đi, do đó tổng số giá trị hàng hoá trong xã hội không vì hành vi cướp đoạt “đường hoàng” của anh ta mà tăng lên. Giai cấp tư sản không thể làm giàu trên lưng bản thân mình.

-  Mác chỉ ra rằng dù người ta có lật đi lật lại vấn đề đến mấy đi chăng nữa, thì cũng chỉ đến thế thôi. “Lưu thông hay trao đổi hàng hoá không sáng tạo ra giá trị nào cả”.

Mác khẳng định: “Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”. Đó chính là mâu thuẫn công thức chung của tư bản.

3. Hàng hoá sức lao động             

Sự chuyển hóa tiền thành tư bản không thể phát sinh từ bản thân số tiền đó. Vì trong việc mua bán hàng hóa, tiền chỉ là phương tiện lưu thông để thực hiện giá cả hàng hóa, nên trước sau giá trị của nó vẫn không thay đổi. Sự chuyển hóa đó phải xẩy ra ở hàng hóa trong quá trình vận động của tư bản. Nhưng sự chuyển hóa đó không xẩy ra ở giá trị trao đổi của hàng hóa, vì trong trao đổi người ta trao đổi ngang giá, mà chỉ có thể ở giá trị sử dụng của hàng hóa. Do đó, hàng hóa đó không thể là hàng hóa thông thường, nó phải là một thứ hàng hóa đặc biệt, mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị, hơn nữa là một giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Thứ hàng hóa đặc biệt đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường. Sức lao động trở thành hàng hóa là điều kiện tiên quyết để tiền biến thành tư bản.

a.  Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa

”Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”(1).

Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất. Nhưng sức lao động không phải bao giờ cũng là hàng hoá:

-        Sức lao động của người nô lệ không phải là hàng hoá, vì bản thân người nô lệ thuộc sở hữu của chủ nô, anh ta không có quyền bán sức lao động của mình.

-        Người thợ thủ công tự do tuy được tuỳ ý sử dụng sức lao động của mình, nhưng sức lao động của anh ta cũng không là hàng hoá, vì anh ta có tư liệu sản xuất để làm ra sản phẩm nuôi sống mình, chứ không buộc phải bán sức lao động để sống.

Sức lao động trở thành hàng hóa trong những điều kiện lịch sử nhất định, những điều kiện đó là:

1. C.Mác, Tư bản, quyển I, tập I, sđd, tr.233.

-        Thứ nhất, người công nhân phải được tự do về thân thể, có quyền tự do sử dụng sức  lao động của mình như một hàng hoá và chỉ bán hàng hoá đó trong một thời gian nhất định. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thi trường với tư cách là hàng hóa, nếu nó do bản thân người có sức lao động đưa ra bán.

-        Thứ hai, người công nhân phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt. Nếu chỉ có điều kiện người lao động được tư do về thân thể thì chưa đủ điều kiện để biến sức lao động thành hàng hóa, vì nếu người lao động được tự do về thân thể mà lại có tư liệu sản xuất thì họ sẽ sản xuất ra hàng hóa và bán hàng hóa do mình sản xuất ra chứ không bán sức lao động. Vì vậy, muốn biến sức lao động thành hàng hóa, người lao động phải là người không có tư liệu sản xuất, chỉ trong điều kiện đó người lao động mới bán sức lao động của mình, vì họ không còn cách nào để sinh sống.

Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng hóa. Sức lao động trở thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản, tuy nhiên để tiền biến thành tư bản thì lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ phải phát triển đến một mức độ nhất định. Sức lao động trở thành hàng hóa là nhân tố đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát triển sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa.

b. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động

Giống như mọi hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính: Giá trị và giá trị sử dụng.

* Giá trị của hàng hoá sức lao động

Giá trị của hàng hoá sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định. Nhưng sức lao động chỉ tồn tại như năng lực của con người sống, muốn tái sản xuất ra năng lực đó người công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định.

Vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy hay nói cách khác, giá trị hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị những tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất sức lao động.

Là hàng hóa đặc biệt, giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Những nhu cầu này phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở từng thời kỳ, đồng thời còn phụ thuộc vào cả vào điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó và mức độ thỏa mãn những nhu cầu đó phần lướn phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được của mỗi nước.

Tuy giá trị hàng hóa sức lao động bao hàm yếu tố tinh thần và lịch sử, nhưng đối với một nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định thì quy mô những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định, do đó có thể xác định được lượng giá trị hàng hóa sức lao động do những bộ phận sau đây hợp thành:

-  Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống bản thân người công nhân.

-  Phí tổn đào tạo người công nhân.

-  Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái người công nhân.

Để biết được sự biến đổi của giá trị sức lao động trong một thời kỳ nhất định, cần nghiên cứu hai nhân tố tác động đối lập nhau đến sự biến đổi của giá trị sức lao động:

-  Sự tăng nhu cầu trung bình của xã hội về hàng hóa và dịch vụ, về học tập và nâng cao trình độ lành nghề, đã làm tăng giá trị sức lao động.

-  Sự tăng năng suất lao động xã hội sẽ làm giảm giá trị sức lao động.

Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản ngày nay, dưới tác động của khoa học công nghệ, sự khác biệt của công nhân về trình độ lành nghề, sự phức tạp của lao động và mức độ sử dụng năng lực trí óc của họ tăng lên, tất cả những điều đó ảnh hưởng đến giá trị sức lao động và dẫn đến sự khác biệt của giá trị sức lao động theo ngành và theo lĩnh vực của nền kinh tế, nhưng chúng bị che lấp đằng sau đại lượng trung bình của giá trị sức lao động.

* Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của công nhân.

Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động cũng thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân.Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính chất đặc biệt là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Đó là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn công thức chung của tư bản.

II. QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG CNTB

1. Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư

Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, ở đây là giá trị lớn hơn giá trị mà nhà tư bản bỏ ra ban đầu. Nhưng muốn sản xuất giá trị thặng dư thì nhà tư bản phải sản xuất giá trị sử dụng vì giá trị sử dụng là vật mang giá trị và giá trị thặng dư. Vì vậy, quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình. ra giá trị thặng dư.

Quá trình sản xuất trong xí nghiệp tư bản đồng thời là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động và tư liệu sản xuất mà nhà tư bản đã mua, nên nó có các đặc điểm:

-  Nhà tư bản muốn tiến hành sản xuất phải có tiền mua TLSX và SLĐ.

-  Người lao động bán sức lao động chịu sự kiểm soát của  nhà tư bản.

-  Sản phẩm làm ra không thuộc quyền sở hữu của người lao động mà thuộc quyền sở hữu của nhà tư bản.

-  Trong quá trình lao động bằng lao động cụ thể của mình người công nhân sử dụng TLSX tạo ra sản phẩm, mà giá trị của nó bằng tiền lương trả cho công nhân và giá trị thặng dư.

Để hiểu rõ quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chúng ta lấy việc sản xuất sợi của nhà tư bản làm ví dụ:

Giả định để sản xuất 10kg sợi, cần 10kg bông và giá 10kg bông là 10$. Để biến số bông thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6h và hao mòn máy móc là 2$; giá trị sức lao động trong một ngày là 3$ và ngày lao động là 12h; trong một giờ lao động, người công nhân tạo ra lượng giá trị là 0,5$; cuối cùng giả định trong quá trình sản xuất sợi đã hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết.

Với giả định như vậy, nếu nhà tư bản chỉ bắt công nhân lao động trong 6h, thì nhà tư bản ứng ra là 15$ và giá trị sản phẩm mới (10kg sợi) mà nhà tư bản thu được cũng là 15$.

Trong thực tế quá trình lao động không dừng lại ở điểm đó. Nhà tư bản đã trả tiền mua sức lao động trong 12h nên việc sử dụng sức lao động là thuộc quyền của nhà tư bản.

Nếu nhà tư bản bắt công nhân lao động 12h trong ngày như đã thỏa thuận:

Chi phí sản xuất

Giá trị sản phẩm mới (20 kg sợi)

-   Tiền mua bông (20kg):           20$

-   Tiền hao mòn máy móc:           4$

-   Tiền mua sức lao động trong 1 ngày:                                         3$

- Giá trị của bông chuyển vào sợi:               20$

-   Giá trị của máy móc chuyển vào sợi:         4$

-   Giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra trong 12h lao động:                                    6$

Tổng cộng:                                27$

Tổng cộng:                                                   30$

Vậy 27$ ứng trước đã chuyển hóa thành 30$, đã đem lại 3$ giá trị thặng dư. Do đó tiền tệ ứng ra ban đầu đã chuyển hóa thành tư bản.

Từ nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể rút ra các kết luận:

-  Giá trị của sản phẩm được sản xuất ra gồm hai phần: Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của công nhân mà bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm mới gọi là giá trị cũ (trong ví dụ là 24$) và giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất gọi là giá trị mới (trong ví dụ là 6$). Phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.

Vậy, giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động của công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới.

-  Ngày lao động của công nhân bao giờ cũng chia thành hai phần: thời gian lao động cần thiết là phần ngày lao động mà công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang với giá trị sức lao động của mình, lao động trong khoảng thời gian đó gọi là lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư là phần còn lại của ngày lao động, lao động trong khoảng thời gian đó gọi là lao động thặng dư.

-  Sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta nhận thấy mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản được giải quyết: Việc chuyển hóa tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông và đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một loại hàng hóa đặc biệt, đó là hàng hóa sức lao động. Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng hóa đặc biệt đó trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất ra giá trị thặng dư. Cũng nhờ có lưu thông nhà tư bản mới bán được hàng hóa, mới chuyển được giá trị thặng dư kết tinh trong hàng hóa thành tiền tệ. Nhờ có lưu thông làm môi giới, tiền đã chuyển hóa thành tư bản.

-   Việc nghiên cứu giá trị thặng dư được sản xuất ra như thế nào đã vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.

2. Bản chất của tư bản. Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến

a. Bản chất của tư bản

Các nhà kinh tế học tư sản cho rằng mọi công cụ lao động, mọi TLSX đều là tư bản.  Vì TLSX là yếu tố cơ bản của sản xuất trong bất cứ xã hội nào nên nó là một phạm trù vĩnh viễn.

Thực ra, bản thân TLSX không phải là tư bản, TLSX chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà tư bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế độ tư bản bị xóa bỏ thì TLSX không còn là tư bản nữa.

Quan điểm của Mác và Ăng Ghen về tư bản: Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột sức lao động của công nhân làm thuê. Bản chất của tư bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra. Tư bản là một phạm trù lịch sử, tồn tại trong chế độ tư bản.

b. Tư bản bất biến và tư bản khả biến

Dựa vào vai trò khác nhau của các bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, Mác đã phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến.

* Tư bản bất biến:

Xét bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất gồm có:

-  Tư liệu sản xuất được sử dụng toàn bộ trong quá trình sản xuất, nhưng chuyển dần từng phần giá trị vào sản phẩm như máy móc, thiết bị, nhà xưởng…

-  Tư liệu sản xuất chuyển toàn bộ giá trị của nó vào trong một chu kỳ sản xuất như nguyên liệu, nhiên liệu.

Song, giá trị của bất kỳ tư liệu sản xuất nào cũng nhờ có lao động cụ thể của công nhân mà được bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm, nên giá trị đó không thể lớn hơn giá trị tư liệu sản xuất đã bị tiêu dùng để sản xuất ra sản phẩm.

Bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo toàn và chuyển hóa vào sản phẩm, tức là không thay đổi về lượng giá trị của nó, được Mác gọi là tư bản bất biến, và ký hiệu là C.

* Tư bản khả biến:

Xét bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động:

-  Một mặt, giá trị của nó biến thành các tư liệu sinh hoạt của người công nhân và được người công nhân tiêu dùng.

-  Mặt khác, trong quá trình lao động, bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.

Bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi về lượng, được Mác gọi là tư bản khả biến, và ký hiệu là V.

Tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình đó, vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên.

Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa đã giúp Mác xác định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. Phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến, Mác đã vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.

3. Tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư

Sau khi vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, C.Mác nghiên cứu trình độ và quy mô của sự bóc lột, tức là nghiên cứu tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư.

a. Tỷ suất giá trị thặng dư

Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến cần thiết để sản xuất ra giá trị thựng dư đó.

Nếu ký hiệu m’ là tỷ suất giá trị thặng dư, thì m’ được xác định bằng công thức:

m’ =  . 100%

Tỷ suất giá trị thặng dư chỉ rõ trong tổng số giá trị mới do sức lao động tạo ra, thì công nhân được hưởng bao nhiêu, nhà tư bản chiếm đoạt bao nhiêu.

Tỷ suất giá trị thặng dư còn chỉ rõ, trong một ngày lao động, phần lao động thặng dư mà người công nhân làm cho nhà tư bản chiếm bao nhiêu phần trăm so với thời gian lao động tất yếu của mình.Do đó, có thể biểu thị tỷ suất giá trị thặng dư theo công thức khác:

m’ =  .  100%

                                        t: thời gian lao động tất yếu

                                       t’: thời gian lao động thặng dư

Tỷ suất giá trị thặng dư nói lên trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê, nó chưa nói rõ quy mô bóc lột.

b. Khối lượng giá trị thặng dư

Khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô bóc lột của nhà tư bản.

Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến đã được sử dụng.

Nếu ký hiệu M là khối lượng giá trị thặng dư, thì M được xác định với công thức:

                           M = m’ . V

Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư càng tăng, vì trình độ bóc lột sức lao động càng tăng.

4. Hai phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư và giá trị thặng dư siêu ngạch

a. Hai phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư

Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, vì vậy, các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái quát, nhà tư bản dùng hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.

* Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:

Đây là phương pháp chủ yếu trong giai đoạn đầu của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp.

Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư được tạo ra do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động xã hội, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.

Giả sử, lao động 8h trong đó 4h là thời gian lao động tất yếu và 4h là thời gian lao động thặng dư. Tỷ suất giá trị thặng dư là:

m’ =  . 100% = 100%

Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2h trong khi thời gian lao động tất yếu không đổi, do đó tỷ suất giá trị thặng dư là:

m’ =  . 100% = 150%

Như vậy, kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên (trong ví dụ: từ 100% tăng lên 150%).

Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động vì công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài ngày lao động gặp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân.

Tuy nhiên, ngày lao động không thể nhỏ hơn hoặc bằng thời gian lao động tất yếu vì như thế thời gian lao động thặng dư bằng không. Như vậy, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.

Trong phạm vi giới hạn đó, độ dài ngày lao động là một đại lượng không cố định và có nhiều mức độ khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 tiếng đã kéo dài hàng thập kỷ.

 * Sản xuất giá trị thặng dư tương đối:

Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Khi sản xuất tư bản phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã tiến bộ, các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, bóc lột giá trị thặng dư tương đối.

Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư được tạo ra do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ.

Giả sử, lao động 8h trong đó 4h là thời gian lao động tất yếu và 4h là thời gian lao động thặng dư. Tỷ suất giá trị thặng dư là:

m’ =  x 100% = 100%

Giả định ngày lao động không đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3h để lao động để tạo ra một lượng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của mình, do đó thời gian lao động thặng dư là 5h và tỷ suất giá trị thặng dư là:

m’ =  x 100% = 166%

Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%.

Vậy, làm thế nào để rút ngắn thời gian lao động tất yếu? Thời gian lao động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Để rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động, tức phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân. Điều này chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của người công nhân hay tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó.

Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản.

b. Giá trị thặng dư siêu ngạch:

Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giảm giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị cá biệt của hàng hóa, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.

Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị trường của nó.

Xét từng trường hợp, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời. Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản, thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản, là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động.

Giá trị thặng dư siêu ngạch được coi là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động.

Tuy nhiên, giá trị thặng dư  siêu ngạch được tạo ra do tăng năng suất lao động cá biệt, còn giá trị thặng dư tương đối được tạo ra do tăng năng suất lao động xã hội. Sự khác nhau còn thể hiện ở chỗ: Giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được, nó biểu hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp tư bản đối với toàn bộ giai cấp công nhân. Còn giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu được, nó không chỉ biểu hiện quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê, mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản.

5. Sản xuất ra giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản

Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế, quy luật phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Theo Mác, chế tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, bởi:

-  Giá trị thặng dư phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản – quan hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê. Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản.

-  Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất giá trị thặng dư. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như toàn bộ xã hội tư bản.

-  Sản xuất giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn các nhà tư bản sử dụng để đạt được mục đích đó: tăng cường độ bóc lột công nhân làn thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất.

Như vậy, sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản, là cơ sở tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó quyết định các mặt chủ yếu, các quá trình kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa tư bản. Nó là động lực vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nó cũng làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc.

Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu, quản lý và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự thống trị của chủ nghĩa tư bản tư nhân vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi.

Trong điều kiện hiện nay, sản xuất giá trị thặng dư có những đặc điểm mới:

-  Do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên khối lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động. Việc tăng năng suất lao động do áp dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại có đặc điểm là chi phí lao động sống trong một đơn vị sản phẩm giảm nhanh, vì mấy móc hiện đại thay thế được nhiều lao động sống hơn.

-  Cơ cấu lao động xã hội ở các nước phát triển hiện nay có sự biến đổi lớn: lao động trí tuệ và lao động có trình độ kỹ thuật cao ngày càng có vai trò quyết định trong việc sản xuất giá trị thặng dư. Chính nhờ sử dụng lực lượng lao động này mà tỷ suất giá trị và khối lượng thặng dư đã tăng lên rất nhiều.

-  Sự bóc lột của các nước tư bản phát triển trên phạm vi quốc tế ngày càng được mở rộng dưới nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản và hàng hoá, trao đổi không ngang giá… lợi nhuận siêu ngạch mà các nước tư bản phát triển bòn rút từ các nước kém phát triển trong mấy chục năm qua tăng lên gấp nhiều lần. Sự cách biệt giữa những nước giàu và những nước nghèo ngày càng tăng và đang trở thành mâu thuẫn nổi bât trong thời đại ngày nay.

III. TIỀN CÔNG TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN

1. Bản chất kinh tế của tiền công

Ở bề ngoài của đời sống xã hội tư bản, công nhân làm việc cho nhà tư bản một thời gian nhất định, sản xuất ra một lượng hàng hoá hay hoàn thành một số công việc nào đó thì nhà tư bản trả cho một số tiền nhất định gọi là tiền công. Hiện tượng đó làm người ta nhầm tưởng rằng tiền công là giá cả lao động. Sự thật tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động, vì lao động không phải là hàng hoá. Sở dĩ như vậy là vì:

-  Nếu lao động là hàng hoá, thì nó phải có trước, phải được vật hoá trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền đề để lao động vật hoá được là phải có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất, thì họ sẽ bán hàng hoá do mình sản xuất ra, chứ không bán “lao động”.

Việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn đến một trong hai mâu thuẫn sau đây:

Thứ nhất, nếu lao động là hàng hoá và nó được trao đổi ngang giá, thì nhà tư bản không thu được lợi nhuận, điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế của quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản.

Thứ hai, nếu “hàng hoá lao động” được trao đổi không ngang giá để có giá trị thặng dư cho nhà tư bản thì phủ nhận quy luật giá trị.

-  Nếu lao động là hàng hoá, thì hàng hoá đó cũng phải có giá trị. Nhưng lao động là thực thể và là thước đo nội tại của giá trị nhưng bản thân lao động không có giá trị. Vì thế, lao động không phải là hàng hoá, cái mà công nhân bán cho nhà tư bản chính là sức lao động. Do đó tiền công nhà tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức lao động.

Vậy bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động hay giá cả của sức lao động, nhưng biểu hiện ra bề ngoài thành giá cả của lao động.

Hình thức biểu hiện đó đã gây ra sự nhầm lẫn, bởi các lý do:

-        Đặc điểm của hàng hóa sức lao động là không bao giờ tách khỏi người bán, nó chỉ nhận được giá cả khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho người mua, tức là lao động cho nhà tư bản, do đó bề ngoài chỉ thấy nàh tư bản trả giá trị cho lao động.

-        Đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương tiện để có tiền sinh sống, do đó bản thân công nhân cũng tưởng mình bán lao động. Còn đối với nhà tư bản bỏ tiền ra để có lao động nên cũng nghĩ rằng cái họ mua là lao động.

-        Lượng tiền công phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc số lượng sản phẩm sản xuất ra, điều đó làm người ta lầm tưởng số tiền công là giá cả lao động.

Tiền công đã che đậy mọi dấu vết của sự phân chia ngày lao động thành thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư, thành lao động được trả công và lao động không được trả công, do đó tiền công che đậy mất bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.

2. Hai hình thức của tiền công trong chủ nghĩa tư bản

Tiền công có hai hình thức cơ bản là tiền công tính theo thời gian và tiền công tính theo sản phẩm.

* Tiền công tính theo thời gian:

Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công mà số lượng của nó ít hay nhiều tuỳ theo thời gian lao động của công nhân (giờ, ngày, tháng) dài hay ngắn.

Cần phân biệt tiền công giờ, tiền công ngày, tiền công tuần, tiền công tháng. Muốn đánh giá chính xác mức tiền công cao hay thấp không chỉ căn cứ vào tiền công ngày, mà phải căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cường độ lao động. Giá cả một giờ lao động là thước đo chính xác mức tiền công tính theo thời gian.

* Tiền công tính theo sản phẩm:

Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ thuộc vào số lượng sản phẩm hay số lượng những bộ phận của sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra hoặc là số lượng công việc đã hoàn thành.

Mỗi sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định. Đơn giá tiền công được xác định bằng thương số giữa tiền công trung bình của công nhân trong một ngày với số lượng sản phẩm trung bình mà một công nhân sản xuất ra trong một ngày, do đó về thực chất, đơn giá tiền công là tiền công trả cho thời gian cần thiết sản xuất ra một sản phẩm. Vì thế, tiền công tính theo sản phẩm là hình thức chuyển hoá của tiền công tính theo thời gian.

Thực hiện tiền công tính theo sản phẩm, một mặt giúp cho nhà tư bản trong việc quản lý, giám sát quá trình lao động của công nhân; mặt khác, kích thích công nhân lao động tích cực.

3.Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế:

 Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động của mình cho nhà tư bản.

Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ mà công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình.

Tiền công danh nghĩa là giá cả sức lao động, nên nó có thể tăng lên hoặc giảm xuống  tuỳ theo sự biến động của quan hệ cung - cầu về hàng hoá sức lao động trên thị trường.

Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công danh nghĩa không thay đổi, nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên hay giảm xuống, thì tiền công thực tế sẽ giảm xuống hay tăng lên.

Tiền công là giá cả sức lao động, nên sự vận động của nó gắn liền với sự biến đổi của giá trị sức lao động. Lượng giá trị sức lao động chịu tác động của các nhân tố tác động ngược chiều nhau. Nhân tố làm tăng giá trị sức lao động như sự nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động, sự tăng cường độ lao động và sự tăng lên của nhu cầu cùng với sự phát triển của xã hội. Nhân tố làm giảm giá trị sức lao động như sự tăng năng suất lao động làm cho giá cả tư liệu tiêu dùng rẻ đi. Do sự tác động qua lại của hai nhóm nhân tố đó đã dẫn đến quá trình phức tạp của sự biến đổi giá trị sức lao động và dẫn đến sự biến đổi phức tạp của tiền công thực tế.

C.Mác vạch rõ rằng xu hướng chung của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là nâng cao mức tiền công trung bình mà là hạ thấp mức tiền công ấy, vì: Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền công danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi không theo kịp mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ; đồng thời, thất nghiệp là hiện tượng thường xuyên, khiến cung về lao động vượt quá cầu về lao động, điều đó cho phép nhà tư bản mua sức lao động dưới giá trị của nó.

Tuy nhiên, cũng có những nhân tố chống lại sư hạ thấp tiền công, đó là: cuộc đấu tranh của công nhân đòi tăng tiền công; sự tác động của khoa học công nghệ nên nhu cầu về sức lao động có chất lượng cao tăng buộc giai cấp tư sản phải cải tiến tổ chức lao động cũng như kích thích người lao động bằng vật chất. Vì vậy, tác động ngược chiều nói trên làm cho sự hạ thấp tiền công thực tế chỉ diễn ra như một xu hướng.

IV. SỰ CHUYỂN HOÁ CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ THÀNH TƯ BẢN -  TÍCH LUỸ TƯ BẢN

1. Thực chất và động cơ của tích luỹ tư bản

Sản xuất hiểu theo nghĩa rộng là tái sản xuất, là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại và tiếp diễn một cách liên tục không ngừng.

Căn cứ vào quy mô, có thể chia tái sản xuất thành 2 loại: tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.

-  Tái sản xuất giản đơn là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ. Loại hình tái sản xuất này thường gắn với nền sản xuất nhỏ và là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ.

-  Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô lớn hơn trước. Loại hình này thường gắn với nền sản xuất lớn và là đặc trưng của nền sản xuất lớn.

Tái sản xuất mở rộng là hình thái điển hình của chủ nghĩa tư bản. Tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô tư bản lớn hơn trước. Muốn vậy, phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm.

Sự chuyển hoá trở lại của giá trị thặng dư thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản. Như vậy, thực chất của tích luỹ tư bản là sự chuyển hoá một phần giá trị thặng dư thành tư bản, hay là quá trình tư bản hoá giá trị thặng dư.

Nghiên cứu tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa cho phép rút ra những kết luận vạch rõ hơn bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất ta bản chủ nghĩa:

-  Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản.

-  Quá trình tích luỹ đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hoá biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa.

-  Động cơ thúc đẩy tích luỹ và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản – quy luật giá trị thặng dư. Để thực hiện mục đích, các nhà tư bản không ngừng tích luỹ để mở rộng sản xuất. Mặt khác, cạnh tranh buộc các nhà tư bản không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên bằng cách tăng nhanh tư bản tích luỹ.

Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích luỹ tư bản:

Trường hợp khối lượng giá trị thặng dư không đổi thì quy mô tích luỹ tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá tị thặng dư đó thành hai quỹ: quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản.

Trường hợp tỷ lệ phân chia nói trên được xác định, thì quy mô của tích luỹ tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Trong trường hợp này, khối lượng giá trị thặng dư phụ thuộc vào các nhân tố sau đây:

-  Trình độ bóc lột sức lao động bằng những biện pháp: Các nhà tư bản nâng cao trình độ bóc lột bằng cách cắt xén tiền công. Công nhân không chỉ bị nhà tư bản chiếm đoạt lao động thặng dư, mà còn bị chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, tức cắt xén tiền công, để tăng tích lũy tư bản.

Các nhà tư bản còn nâng cao trình độ bóc lột bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư, nhờ đó tăng tích lũy tư bản.Cái lợi ở đây còn thể hiên ở chỗ nhà tư bản không cần ứng thêm tư bản để mua máy móc, thiết bị  mà chỉ cần ứng tư bản để mua thêm nguyên liệu là có thể tăng được khối lượng sản xuất, tận dung được công suất của máy móc, thiết bị nên giảm được hao mòn vô hình và chi phí bảo quản máy móc, thiết bị.

-  Trình độ năng suất lao động xã hội: Năng suất lao động tăng lên thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng giảm xuống. Sự giảm này đen lại hai hệ quả cho tích lũy tư bản: Một là, với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích lũy tăng lên, nhưng tiêu dùng của nhà tư bản không giảm, thậm chí có thể cao hơn trước; Hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích lũy có thể chuyển hóa thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm lướn hơn trước. Như vậy, năng suất lao động tăng lên có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thựng dư thành tư bản mới, nên làm tăng quy mô của tư bản.

-  Sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng: Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham giá toàn bộ vào quá trình sản xuất nhưng chúng chỉ hao mòn dần, do đó giá trị của chúng được chuyển dần từng phần vào sản phẩm. Như vậy, mặc dù đã mất dần giá trị nhưng trong suốt thời gian hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Sự hoạt động này của máy móc được coi là sự phục vụ không công. Máy móc, thiết bị càng hiện đại thì sự chênh lệch  giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn, do đó sự phục vụ không công càng lớn, tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều, nhờ vậy quy mô của tích lũy tư bản càng lớn.

-  Quy mô tư bản ứng trước: Với trình độ bóc lột không thay đổi thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó, quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn, do đó tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích lũy tư bản.

Nghiên cứu bốn nhân tố quyết định quy mô của tích lũy tư bản có thể rút ra nhân xét chung là để tăng quy mô tích lũy tư bản cần khai thác tốt nhất lực lượng lao động xã hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất máy móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.

2. Tích tụ và tập trung sản xuất

Trong quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy mô của tư bản cá biệt tăng lên thông qua quá trình tích tụ và tập trung tư bản.

* Tích tụ tư bản

Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hoá giá trị thặng dư trong một xí nghiệp nào đó, nó là kết quả trực tiếp của tích luỹ tư bản.

Tích luỹ tư bản xét về mặt làm tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt là tích tụ tư bản.

Tích tụ tư bản một mặt là yêu cầu của tái sản xuất mở rộng, của sự ứng dụng tiến bộ kỹ thuật; mặt khác, sự tăng lên của khối lượng giá trị thặng dư trong quá trình phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo khả năng hiện thực cho tích tụ tư bản.

* Tập trung tư bản

Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất của những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản khác lớn hơn.

Cạnh tranh và tín dụng là những đòn bẩy mạnh nhất thúc đẩy tập trung tư bản. Do cạnh tranh mà dẫn đến sự liên kết tự nguyện hay sát nhập các tư bản cá biệt. Tín dụng tư bản chủ nghĩa là phương tiện để tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội vào tay các nhà tư bản.

* So sánh tích luỹ và tập trung tư bản

-  Giống nhau: đều làm tăng quy mô của tư bản cá biệt.

-  Khác nhau:

ü      Nguồn gốc để tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, do đó tích tụ tư bản làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, đồng thời làm tăng quy mô của tư bản xã hội. Còn nguồn của tập trung tư bản là những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội, do đó tập trung tư bản chỉ làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, mà không làm tăng quy mô tư bản xã hội.

ü      Nguồn của tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, xét về mặt đó, nó phản ánh trực tiếp mối quan hệ giữa tư bản và lao động: Nhà tư bản tăng cường bóc lột lao động làm thuê để tăng quy mô tích tụ tư bản. Còn nguồn để tập trung tư bản là những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội do cạnh tranh mà dẫn đến sự liên kết hay sát nhập, xét về mặt đó, tập trung tư bản phản ánh trực tiếp quan hệ cạnh tranh trong nội bộ giai cấp các nhà tư bản, đồng thời nó cũng tác động đến mối quan hệ giữa tư bản và lao động.

Tích tụ và tập trung tư bản có mối quan hệ mật thiết với nhau:

-  Tích tụ tư bản làm tăng thêm quy mô và sức mạnh của tư bản cá biệt, do đó cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, dẫn đến tập trung nhanh hơn.

-  Tập trung tư bản tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường bóc lột giá trị thặng dư, nên đẩy nhanh tích tụ tư bản.

Ảnh hưởng qua lại của tích tụ và tập trung tư bản nói trên làm cho tích luỹ tư bản ngày càng mạnh.

Như vậy, quá trình tích luỹ tư bản gắn với quá trình tích và tập trung tư bản ngày càng tăng, do đó nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành nền sản xuất xã hội hoá cao độ, làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản càng thêm sâu sắc.

3. Cấu tạo hữu cơ của tư bản

Trong quá trình tích luỹ tư bản, tư bản chẳng những tăng lên về quy mô, mà còn không ngừng biến đổi trong cấu tạo của nó. C.Mác phân biệt cấu tạo kỹ thuật, cấu tạo giá trị và cấu tạo hữu cơ của tư bản.

* Cấu tạo kỹ thuật

Tỷ lệ số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động sử dụng những tư liệu sản xuất đó trong quá trình sản xuất gọi là cấu tạo kỹ thuật của tư bản.

Để biểu thị cấu tạo kỹ thuật của tư bản, người ta thường dùng các chỉ tiêu như số năng lượng hoặc số lượng máy móc do một công nhân sử dụng trong sản xuất, ví dụ 100 kw điện/ 1công nhân, 10 máy dệt/1 công nhân.

Cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.

* Cấu tạo giá trị

Tỷ lệ giữa số lượng giá trị của tư bản bất biến và số lượng giá trị của tư bản khả biến cần thiết để tiến hành sản xuất gọi là cấu tạo giá trị của tư bản. Ví dụ: một tư bản mà đại lượng của nó là 12.000$, trong đó giá trị tư liệu sản xuất là 10.000$, giá trị sức lao động là 2.000$ thì cấu tạo giá trị của tư bản đó là 10.000 : 2.000 =  5 : 1.

Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói chung, những thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật của tư bản sẽ dẫn đến những thay đổi trong cấu tạo giá trị. Để biểu thị mối quan hệ đó, Mác dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản.

* Cấu tạo hữu cơ

Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật của tư bản quyết định và phản ánh những sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.

Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày càng tăng, kéo theo sự tăng lên của cấu tạo giá trị của tư bản, nên cấu tạo hữu cơ cũng ngày càng tăng lên. Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản biểu hiện ở chỗ tư bản bất biến tăng tuyệt đối và tương đối, còn tư bản khả biến có thể tăng tuyệt đối, nhưng lại giảm xuống một cách tương đối.

Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên trong quá trình tích luỹ tư bản chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra nạn thất nghiệp trong chủ nghĩa tư bản. Sự giảm xuống một cách tương đối của tư bản khả biến làm cầu về sức lao động giảm một cách tương đối, vì vậy một số công nhân rơi vào tình trạng thất nghiệp. Thực tế của quá trình tích lũy tư bản, có khi quy mô sản xuất mở rộng thu hút thêm công nhân, cũng có khi giảm thải bớt công nhân. Tuy nhiên, sự thu hút và giảm thải đó không khớp với nhau về thời gian, không gian và quy mô nên trên phạm vi toàn xã hội luôn tồn tại một bộ phận công nhân bị thất nghiệp.

IV. QUÁ TRÌNH LƯU THÔNG CỦA TƯ BẢN VÀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

1. Tuần hoàn và chu chuyển tư bản.

Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản xuất và quá trình lưu thông. Lưu thông của tư bản, theo nghĩa rộng, là sự vận động của tư bản, nhờ đó mà tư bản lớn lên và thu được giá trị thặng dư, cũng tức là sự tuần hoàn và chu chuyển của tư bản.

a. Tuần hoàn của tư bản

Tư bản công nghiệp (với nghĩa là các ngành sản xuất vật chất), trong quá trình tuần hoàn đều vận động theo công thức:

Sự vận động này trải qua ba giai đoạn: hai giai đoạn lưu thông và một giai đoạn sản xuất.

-   Giai đoạn thứ nhất – giai đoạn lưu thông:

                       

Giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản tiền tệ.

Chức năng của tư bản: mua các yếu tố của quá trình sản xuất là TLSX và SLĐ. Khi mua hai yếu tố của quá trình sản xuất nhà tư bản phải tính toán sao cho có sự phù hợp với nhau cả về số lượng và chất lượng.

Sau khi mua xong, tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất. Quá trình tuần hoàn của tư bản chuyển sang giai đoạn thứ hai.

-  Giai đoan thứ hai – giai đoạn lưu thông:

Giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất.

Chức năng của tư bản: thực hiện sự kết hợp hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động để sản xuất ra hàng hóa, mà trong giá trị của nó có giá trị thặng dư.

Đây là giai đoạn có ý nghĩa quyết định nhất trong các giai đoạn tuần hoàn của tư bản, vì nó gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.

-  Giai đoạn thứ ba – giai đoạn lưu thông:

H’ – T’

Giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa.

Chức năng của tư bản: thực hiện giá trị khối lượng hàng hóa đã sản xuất ra hay chức năng chuyển hóa tư bản hàng hóa thành tư bản tiền tệ.

Kết thúc giai đoạn ba, tư bản hàng hóa chuyển hóa thành tư bản tiền tệ. Đây là mục đích của nhà tư bản, tư bản quay lại hình thái ban đầu với số lượng lớn hơn.

Vậy, tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản trải qua ba giai đoạn, lần lượt mang ba hình thái khác nhau, thực hiện ba chức năng khác nhau để rồi lại quay trở về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư.

Nghiên cứu sự biến hóa từ tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất rồi tư bản hàng hóa, mà sự vận động của chúng như một chuỗi những biến hóa hình thái của tư bản cho thấy tư bản không phải là vật ở trạng thái tĩnh, mà nó lấy vật làm hình thái tồn tại trong quá trình vận động.

Thực tiễn sản xuất và lưu thông cho thấy không phải lúc nào các giai đoạn và các hình thái tư bản trong quá trình tuần hoàn đều ăn khớp với nhau và không có sự ách tắc, gián đoạn. Mỗi sự ách tắc, gián đoạn ở một giai đoạn nào đó đều gây rối loạn, đình trệ cho sự tuần hoàn của tư bản, do đó ảnh hưởng tới thời gian nằm lại của tư bản ở mỗi giai đoạn và hiệu quả hoạt động của tư bản.

* Điều kiện để tư bản tuần hoàn một cách thuận lợi

-  Các giai đoạn của quá trình tuần hoàn diễn ra liên tục.

-  Các hình thái tư bản cùng tồn tại và được chuyển hóa một cách đều đặn, tức là phải có sự “gối đầu tư bản”.

Trong các loại tư bản, chỉ có tư bản công nghiệp (với nghĩa các ngành sản xuất vật chất) mới có hình thái tuần hoàn đầy đủ gồm ba giai đoạn và mới lần lượt mang và trút bỏ ba hình thái tư bản.

Quá trình vận động của tư bản đồng thời chứa đựng khả năng tách rời của ba hình thái tư bản, làm xuất hiện tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay, hình thành các tập đoàn khác trong giai cấp tư sản: chủ công nghiệp, nhà buôn, chủ ngân hàng… chia nhau giá trị thặng dư.

b. Chu chuyển của tư bản

Sự tuần hoàn của tư bản, nếu xét nó với tư cách là một quá trình định kỳ đổi mới và thường xuyên lặp đi lặp lại, thì gọi là chu chuyển của tư bản.

Thời gian chu chuyển của tư bản là thời gian tính từ khi tư bản được ứng ra dưới một hình thái nhất định cho đến khi thu về cũng dưới hình thái ban đầu, có kèm theo giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển của tư bản cũng chính là thời gian thực hiện một vòng tuần hoàn.

 Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.

* Thời gian sản xuất: là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất.

Thời gian sản xuất bao gồm: thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao dộng và thời gian dự trữ sản xuất.

Thời gian lao động là thời gian người lao động tác động vào đối tượng lao động tạo ra sản phẩm. Đây là thời kỳ hữu ích nhất vì nó tạo ra giá trị hàng hóa.

Thời gian gián đoạn lao động là thời gian đối tượng lao động tồn tại dưới hình thái bán thành phẩm nằm trong lĩnh vực sản xuất, nhưng không chịu tác động trực tiếp của lao động mà chịu tác động của tự nhiên như thời gian để cây lúa tự lớn lên, rượu ủ men, gỗ phơi cho khô… Thời kỳ này có thể xem kẽ với thời kỳ lao động hoặc tách thành một thời kỳ riêng biệt; có thể dài ngắn khác nhau tùy thuộc vào các ngành sản xuất, các sản phẩm chế tạo và phụ thuộc vào công nghệ sản xuất.

Thời gian dự trữ sản xuất là thời gian các yếu tố sản xuất đã được mua về, sẵn sàng tham gia vào quá trình sản xuất nhưng chưa thực sự được sử dụng vào quá trình sản xuất, còn ở dạng dự trữ tạo điều kiện cho sản xuất diễn ra liên tục. Quy mô dự trữ sản xuất phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đặc điểm của các ngành, tình hình thị trường và năng lực tổ chức, quản lý sản xuất…

Cả thời gian gián đoạn và thời gian dự trữ đều không tạo ra giá trị sản phẩm. Sự tồn tại của hai thời hỳ này là không tránh khỏi nhưng nói chung thời gian của chúng càng dài thì hiệu quả hoạt động của tư bản càng thấp. Rút ngắn thời gian này có tác dụng quan trọng để nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản.

* Thời gian lưu thông: là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông.

Trong thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, do đó không sản xuất ra hàng hóa, cũng không sản xuất ra giá trị thặng dư.

Thời gian lưu thông gồm có thời gian mua và thời gian bán hàng hóa.

Thời gian lưu thông hàng hóa dài hay ngắn phụ thuộc vào: thị trường xa hay gần, tình hình thị trường tốt hay xấu, trình độ phát triển của vận tải và giao thông.

Thời gian chu chuyển tư bản càng rút ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị thặng dư được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn.

Các loại tư bản khác nhau hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau thì số vòng chu chuyển không giống nhau. Để so sánh tốc độ vận động của các tư bản khác nhau, người ta tính số vòng chu chuyển của các loại tư bản đó trong một thời gian nhất định.

* Tốc độ chu chuyển của tư bản:

Tốc độ chu chuyển của tư bản là số vòng (lần) chu chuyển của tư bản trong một năm.

Công thức:

n = CH/ ch

n là số vòng (lần) chu chuyển của tư bản.

CH là thời gian trong năm.

ch là thời gian cho một vòng chu chuyển của tư bản.

Tốc độ chu chuyển của tư bản tỷ lệ nghịch với thời gian một vòng chu chuyển của tư bản. Muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của nó.

c. Tư bản cố định và tư bản lưu động

Các bộ phận khác nhau của tư bản sản xuất không chu chuyển giống nhau. Căn cứ vào phương thức chuyển dịch giá trị khác nhau (nhanh hay chậm) của từng bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất, người ta chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động.

* Tư bản cố định:

Tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà xưởng, v.v… tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển hết một lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong thời gian sản xuất.

Đặc điểm của tư bản cố định, về mặt hiện vật, luôn cố định trong quá trình sản xuất. Về mặt giá trị, nó chuyển từng phần vào sản phẩm, phần còn lại vẫn cố định trong tư liệu lao động, phần này không ngừng giảm xuống cho tới khi nó chuyển hết giá trị vào sản phẩm, tức là nó bị hao mòn dần trong quá trình sản xuất. Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình:

-  Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học có thể nhận thấy do quá trình sử dụng và sự tác động của tự nhiên.

-  Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần tuý về mặt giá trị, xảy ra khi xuất hiện các máy móc thiết bị hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc giá trị tương đương, nhưng công suất cao hơn.

Thời gian mà tư bản cố định chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm bao giờ cũng dài hơn một vòng tuần hoàn.

Dưới tác động của khoa học công nghệ hiện đại, tư bản cố định càng có nguy cơ hao mòn vô hình. Bởi vậy, việc thu hồi nhanh giá trị tư bản cố định có ý nghĩa rất quan trọng trong cạnh tranh trên thương trường. Trong điều kiện đó, buộc các nhà tư bản phải khấu hao nhanh tư bản cố định. Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là biện pháp quan trọng để tăng quỹ khấu hao tài sản cố định, làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên tránh được thiệt hại do hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình gây ra.

* Tư bản lưu động:

Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ, sức lao động, v.v… giá trị của nó được hoàn lại toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi một quá trình sản xuất, khi hàng hoá được bán xong.

Đặc điểm của tư bản lưu động là chu chuyển nhanh về mặt giá trị. Nếu tư bản cố định muốn chu chuyển hết giá trị của nó phải mất nhiều năm, thì trái lại tư bản lưu động trong một năm giá trị của nó có thể chu chuyển nhiều lần hay nhiều vòng.

Việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc đọ chu chuyển của tư bản lưu động tăng sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước; mặt khác, do tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm tăng lên.

2. Tái sản xuất và lưu thông của tư bản xã hội

a. Một số khái niệm cơ bản của tái sản xuất tư bản xã hội

* Tổng sản phẩm xã hội

Tổng sản phẩm xã hội là toàn bộ sản phẩm mà xã hội sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm.

Về mặt giá trị, tổng sản phẩm xã hội được cấu thành bởi ba bộ phận:

-  Bộ phận thứ nhất là giá trị bù đắp cho tư bản bất biến (c), hay giá trị những tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong sản xuất, bộ phận này được dùng để bù đắp các tư liệu sản xuất đã hao phí trong chu kỳ sản xuất.

-  Bộ phận thứ hai là giá trị bù đắp cho tư bản khả biến (v), hay giá trị của toàn bộ sức lao động xã hội đã tiêu hao. Khoản giá trị này ngang bằng tổng số tiền công trả cho sức lao động tham gia vào quá trình sản xuất.

-  Phần thứ ba là giá trị sản phẩm thặng dư (m). Khoản giá trị này do lao động thặng dư của xã hội tạo ra.

Giá trị của tư liệu sản xuất đã tiêu hao gọi là “giá trị cũ chuyển dịch”. Giá trị sức lao động và giá trị sản phẩm thặng dư được gọi là bộ phận “giá trị mới”. Như vậy, giá trị tổng sản phẩm xã hội cũng như giá trị của một hàng hóa được phân giải thành: c + v + m.

Về mặt hiện vật, tổng sản phẩm xã hội gồm có tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, sự phân chia này căn cứ vào tác dụng của sản phẩm do hình thức tự nhiên của nó quyết định. Như vậy, mỗi vật phẩm đều hoặc được sử dụng cho sản xuất hoặc được sử dụng cho cá nhân, có những vật phẩm vừa có thể tiêu dùng cho sản xuất vừa có thể tiêu dùng cho cá nhân, nhưng nhất định một vật chỉ có thể dùng vào một trong hai mục đích đó.

* Hai khu vực của nền sản xuất xã hội

Xuất phát từ tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, C.Mác coi hai mặt giá trị và hiện vật của tổng sản phẩm xã hội là hai tiền đề quan trọng để nghiên cứu tái sản xuất xã hội.

Về mặt giá trị, trong tái sản xuất xã hội, tổng sản phẩm xã hội có tư cách tổng hòa hành vi tái sản xuất của các doanh nghiệp cá biệt.

Về mặt hiện vật, tổng sản phẩm xã hội có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Tổng sản phẩn xã hội được C.Mác chia thành: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, do đó nền sản xuất xã hội được chia thành hai khu vực:

Khu vực I: Sản xuất tư liệu sản xuất

Khu vực II: Sản xuất tư liệu tiêu dùng

Trong thực tế, ranh giới giữa khu vực I và khu vực II không phải lúc nào cũng rõ ràng, có thể một số ngành vừa thuộc khu vực I, vừa thuộc khu vực II .

Trong mấy thập niên gần đây, do cuộc cách mạng của khoa học công nghệ đã làm xuất hiện và phát triển nhanh chóng của các ngành sản xuất phi vật chất, dẫn đến sự hình thành 3 khu vực: khu vực I – nông nghiệp, khu vực II – công nghiệp, khu vực III – dịch vụ. Cần thấy rằng, tuy cùng sử dụng một thuật ngữ “khu vực” nhưng nội hàm có khác nhau, một bên là lấy tiêu thức phân chia là mục đích sử dụng sản phẩm, còn một bên lấy tiêu thức là nguồn gốc của sản phẩm hay cơ cấu phân ngành tạo ra sản phẩm. có thể minh họa sự khác nhau và mối quan hệ giữa hai cách phân chia trên bằng sơ đồ:

                         Ba khu vực                               

                       theo cơ cấu ngành

Hai khu vực

tái sản xuất XH

Nông nghiệp

Công nghiệp

Dịch vụ

I.  Tư liệu sản xuất

TLSX

TLSX

Phục vụ sx

II. Tư liệu tiêu dùng

TLTD

TLTD

Phục vụ sh

Như vậy trong điều kiện hiện đại, quy mô và hình thức biểu hiện của mỗi khu vực trong sơ đồ của Mác được mở rộng, trở nên phong phú, đa dạng và ciệc phân chia nên sản xuất xã hội thành hai khu vực vẫn đúng, vẫn là cơ sở để phân tích tái sản xuất tư bản xã hội.

* Tư bản xã hội

Tư bản xã hội là tổng hợp các tư bản cá biệt của xã hội vận động đan xen nhau, liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Tham gia vận động của tư bản xã hội có cả tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp, tư bản ngân hàng…  Nhưng ở đay ngiên cứu trừu tượng về tái sản xuất và lưu thông nên Mác đã khẳng định tư bản công nghiệp vẫn là một thể thống nhất, chưa xét từng loại tư bản cụ thể.

* Những giả định của Mác khi nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội

Nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội là nghiên cứu những điều kiện thực hiện tổng sản phẩm xã hội, tư bản đã tiêu dùng trong sản xuất phải được hoàn trả lại cả về mặt giá trị và hiện vật, tiêu dùng cá nhân của công nhân và nhà tư bản đều được thỏa mãn, tức là quan hệ cân bằng giữa tổng cung và tổng cầu về các bộ phận của tổng sản phẩm tư bản xã hội. Vì vậy, chúng ta lấy tư bản hàng hóa làm căn cứ xuất phát để nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội, vì chỉ có tư bản hàng hóa mới cho phép ta nhìn trên cả hai mặt: giá trị và hình thức vật chất của sản phẩm. Khi nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội, Mác đưa ra 5 giả định sau đây:

-  Toàn bộ nền kinh tế trong nước là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thuần túy, nghĩa là mối quan hệ kinh tế trong xã hội chỉ gồm có mối quan hệ giữa tư bản với công nhân.

-  Hàng hóa luôn được mua và bán theo đúng giá trị, giá cả phù  hợp với giá trị.

-  Cấu tạo hữu cơ tư bản không đổi.

-  Toàn bộ tư bản cố định đều chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm trong một năm.

-  Không xét đến ngoại thương.

Những giả định đó chỉ nhằm mục đích đơn giản hóa việc tính toán, chứ không hề xuyên tạc bản chất của việc nghiên cứu, vì vậy đó là những giả định khoa học.

b. Điều kiện thực hiện trong tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tư bản xã hội

* Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất giản đơn

Trong tái sản xuất giản đơn, toàn bộ giá trị thặng dư được sử dụng hết cho tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản. Vì vậy, để nghiên cứu điều kiện thực hiện tổng sản phẩm xã hội, quan hệ tổng cung và tổng cầu về TLSX và TLTD trong tái sản xuất giản đơn, Mác đưa ra mô hình:

Khu vực I:  4000c + 1000v + 1000m  =  6000   (Tư liệu sản xuất)

Khu vực II: 2000c +   500v +   500m  =  3000   (Tư liệu tiêu dùng)

Tổng sản phẩm xã hội là  9000.

Điều kiện cơ bản để thực hiện tái sản xuất giản đơn tư bản xã hội:

I (v + m) = II c

* Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất mở rộng:

Muốn có tái sản xuất mở rộng phải biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản bất biến phụ thêm (c) và tư bản khả biến phụ thêm (v). Muốn có thêm tư liệu sản xuất thì khu vực I phải cung ứng lượng tư liệu sản xuất nhiều hơn trong tái sản xuất giản đơn, để không những phụ thêm tư liệu sản xuất cho khu vực I mà cho cả khu vực II. Ngược lại, khu vực II cũng phải sản xuất ra lượng tư liệu tiêu dùng nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu tăng thêm của cả hai khu vực.

Mác đưa ra mô hình tái sản xuất mở rộng:

Khu vực I:  4000c + 1000v + 1000m  =  6000   (Tư liệu sản xuất)

Khu vực II: 1500c +   750v +   750m  =  3000   (Tư liệu tiêu dùng)

Điều kiện cơ bản để thực hiện trong tái sản xuất mở rộng tư bản xã hội là:

I (v + m) > II c

c. Sự phát triển của V.I.Lenin đối với lý luận tái sản xuất tư bản xã hội của C.Mác

Lênin đã áp dụng lý luận của Mác về tái sản xuất tư bản xã hội để nghiên cứu sự hình thành thị trường tư bản chủ nghĩa do kết quả trực tiếp của việc phát triển lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Lênin đã chú ý đến sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ tư bản. Trong cả hai khu vực, cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên, nhưng cấu tạo hữu cơ khu vực I tăng nhanh hơn khu vực II. Căn cứ vào thực tế đó, phân tích sự phát triển của tư bản xã hội trong nhiều năm, Mác đã nêu lên một biểu so sánh về sự tăng lên của các bộ phận tư bản khác nhau của tổng sản phẩm xã hội và kết luận:

“Sản xuất tư liệu sản xuất để tạo ra tư liệu sản xuất phát triển nhanh nhất, sau đến sản xuất tư liệu sản xuất để tạo ra tư liệu tiêu dùng; và cuối cùng chậm nhất là sự phát triển của sản xuất tư liệu tiêu dùng”.

3. Khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản

a. Bản chất và nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản

Hình thức đầu tiên và phổ biến trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là khủng hoảng sản xuất “thừa”. Tình trạng thừa hàng hóa không phải so với nhu cầu của xã hội, mà là “thừa” so với sức mua có hạn của quần chúng lao động. Khi khủng hoảng xảy ra hàng hóa không tiêu thụ được, sản xuất bị thu hẹp, nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, công nhân thất nghiệp, thị trường bị rối loạn, hàng hóa bị phá hủy trong khi hàng triệu người lao động lâm vào tình trạng đói khổ.

Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt nguồn từ chính mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản: Mâu thuẫn cao giữa trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Mâu thuẫn này biểu hiện thành các mâu thuẫn sau:

-  Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ và khoa học với tính tự phát vô chính phủ trong toàn xã hội.

-  Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng không có giới hạn của tư bản với sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng hóa.

-  Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp lao động làm thuê.

b. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản

Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa mang tính chu kỳ. Trong giai đoạn tự do canh tranh củ chủ nghĩa tư bản, cứ khoảng 8 đến 12 năm, nền kinh tế tư bản lại trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế. Chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian nên kinh tế tư bản chủ nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau.

Chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản gồm 4 giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh.

Khủng hoảng: là giai đoạn khởi điểm của một chu kỳ kinh tế mới. Hàng hóa ế thừa, sản xuất đình trệ, công nhân thất nghiệp, tư bản mất khả năng thanh toán. Đây là giai đoạn mà các mâu thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội.

Tiêu điều: sản xuất ở trạng thái trì trệ, không còn tiếp tục đi xuống được nữa nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp đình đốn, hàng hóa được đem bán hạ giá, tư bản để rỗi nhiều. Trong giai đoạn này, để thoát khỏi tình trạng bế tắc, các nhà tư bản còn trụ lại được tìm cách hạ thấp tiền lương, tăng cường độ và thời gian lao động của công nhân, đổi mới tư bản cố định.

Phục hồi: là giai đoạn các xí nghiệp được khôi phục và mở rộng sản xuất.

Hưng thịnh: là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất mà chu kỳ trước đã đạt được và lại tạo điều kiện cho một cuộc khủng hoảng kinh tế mới.

Trong chủ nghĩa tư bản hiện nay, khủng hoảng kinh tế vẫn không tránh khỏi, nhưng có sự can thiệp tích cực của nhà nước tư sản vào quá trình kinh tế. Sự can thiệp này mặc dù không triệt tiêu được khủng hoảng và chu kỳ trong nền kinh tế nhưng đã làm cho tác động phá hoại của khủng hoảng bị hạn chế.

V. CÁC HÌNH THÁI TƯ BẢN VÀ CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

Giá trị thặng dư là một phạm trù nói lên mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong đời sống thực tế của xã hội tư bản, giá trị thặng dư chuyển hoá và biểu hiện thành lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận ngân hàng, lợi tức cho vay, địa tô tư bản chủ nghĩa. Trong phần này, chúng ta nghiên cứu  những hình thức biểu hiện cụ thể của giá trị thặng dư đó, đồng thời khẳng định các quy luật vận động của chúng trong điều kiện tự do cạnh tranh của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.

1. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận

a. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa

Muốn tạo ra giá trị hàng hoá, tất yếu phải chi phí một số lao động nhất định, gọi là chi phí lao động bao gồm lao động quá khứ và lao động hiện tại.

Lao động quá khứ (lao động vật hoá) tức là giá trị của tư liệu sản xuất (c)

Lao động hiện tại (lao động sống) tức lao động tạo ra giá trị mới (v+m)

Quan điểm của xã hội: Chi phí lao động đó là chi phí thực tế của xã hội, chi phí này tạo ra giá trị hàng hóa. Ký hiệu hàng hóa là W:

W = c + v + m

Chi phí thực tế = giá trị hàng hóa

Đối với nhà tư bản: Trên thực tế, nhà tư bản chỉ quan tâm đến việc ứng tư bản ra để mua tư liệu sản xuất (c) và sức lao động (v) để xem hao phí hết bao nhiêu tư bản chứ không tính đến hao phí hết bao nhiêu lao động xã hội.

C.Mác gọi chi phí đó là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, ký hiệu: (k)

k = c + v

Vậy chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hóa. Khi xuất hiện chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thì công thức giá trị hàng hóa sẽ chuyển thành:

W = k + m

Như vậy, giữa chi phí thực tế và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự khác nhau cả về chất và về lượng.

-  Về mặt chất:

Chi phí thực tế là chi phí lao động, phản ánh đúng, đầy đủ hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tạo ra giá trị hàng hóa

Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ phản ánh hao phí tư bản của nhà tư bản, nó không tạo ra giá trị hàng hóa.

-  Về mặt lượng:

Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí thực tế:

(c + v) < (c + v + m)

Vì tư bản sản xuất, được chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động nên chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn tư bản ứng trước. Nhưng khi nghiên cứu, Mác thường giả định tư bản cố định hao mòn hết trong một năm, nên tổng tư bản ứng trước và chi phí sản xuất luôn bằng nhau.

Việc hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa che đậy thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Giá trị hàng hóa: W = k + m, trong đó k = c + v, nhìn vào công thức ta thấy dường như k sinh ra m, nguồn gốc của giá trị bị che lấp và dường như toàn bộ chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa sinh ra giá trị thặng dư.

b. Lợi nhuận

Giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn có khoản chênh lệch, cho nên sau khi bán hàng hóa (giả định: giá cả = giá trị), nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản ứng ra, mà còn thu về được một số tiền ngang bằng với m. Số tiền này gọi là lợi nhuận, ký hiệu: p.

Giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức biến tướng là lợi nhuận.

W = c + v + m = k + m

giờ chuyển thành:

          W = k + p

Vậy giữa pm có gì giống và khác nhau?

Giống nhau:

Cả pm đều có chung nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân.

Khác nhau:

-  Phạm trù giá trị thặng dư phản ánh đúng nguồn gốc và bản chất của nó là kết quả của sự chiếm đoạt lao động không công của công nhân.

-  Phạm trù lợi nhuận chảng qua là hình thái thần bí hóa của giá trị thặng dư. Nó phản ánh sai lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa nhà tư bản và lao động làm thuê, vì nó làm người ta nhầm tưởng rằng giá trị thặng dư không phải chỉ do lao động làm thuê tạo ra. Nguyên nhân của hiện tượng đó:

ü      Thứ nhất, sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xóa nhòa sự khác nhau giữa cv, nên việc p sinh ra v được thay thế bằng k, bây giờ p được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước.

ü      Thứ hai, do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế, cho nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hóa cao hơn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và có thể thấp hơn giá trị hàng hóa là đã có lợi nhuận. Đối với nhà tư bản họ cho rằng lợi nhuận là do việc mua bán, do lưu thông tạo ra, do tài kinh doanh của nhà tư bản mà có.

Chính sự không nhất trị về lượng giữa pm nên càng che dấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.

c. Tỷ suất lợi nhuận

Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước, ký hiệu: p’.

p’ =   . 100%

Lợi nhuận là hình thức chuyển hóa của giá trị thặng dư nên tỷ suất lợi nhuận là hình thức chuyển hóa của tỷ suất giá trị thặng dư, vì vậy chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng giữa p’m’ có sự khác nhau về chất và lượng.

Về mặt lượng:  p’ luôn nhỏ hơn m’.

Về mặt chất: m’ phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê, còn p’ không thể phản ánh điều đó, mà chỉ nói lên mức doanh lợi của việc đầu tư tư bản.

Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết tư bản đầu tư vào đâu thì có lợi hơn.

d. Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận

Việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy các nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của nhà tư bản. Tuy nhiên, mức tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà tư bản mà phụ thuộc vào các nhân tố khách quan sau:

Tỷ suất giá trị thặng dư: Tỷ suất giá trị thặng dư càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn và ngược lại.

Ví dụ:

Nếu cơ cấu giá trị hàng hóa là: 800c + 200v + 200m thì m’= 100%, p’= 20%.

Nếu cơ cấu giá trị hàng hóa là: 800c + 200v + 400m thì m’= 200%, p’= 40%.

Do đó, tất cả những thủ đoạn nhằm nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư cũng chính là những thủ đoạn nhằm nâng cao tỷ suất lợi nhuận.

Cấu tạo hữu cơ của tư bản: Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư không đổi, nếu cấu tạo hữu cơ tư bản càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại.

Ví dụ:

Nếu cấu tạo hữu cơ tư bản là: 70c + 20v + 30m thì p’= 30%.

Nếu cấu tạo hữu cơ tư bản là: 80c + 20v + 20m thì p’= 20%.

Tốc độ chu chuyển của tư bản: Tốc độ chu chuyển tư bản càng lớn thì tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm càng tăng lên, do đó tỷ suất lợi nhuận càng tăng.

Ví dụ:

Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản một năm 1 vòng:

80c + 20v + 20m thì p’= 20%

Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản một năm 2 vòng:

80c + 20v + (20 + 20)m thì p’= 40%

Vậy, tỷ suất lợi nhuận tỷ lệ thuận với số vòng chu chuyển của tư bản và tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản.

Tiết kiệm tư bản bất biến: Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư và tư bản khả biến không đổi, nếu tư bản bất biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn.

Vì theo công thức:

p’ =   . 100%

Rõ ràng khi vm không đổi, nếu c càng nhỏ thì p’ càng lớn. Vì vậy, trong thực tế để nâng cao tỷ suất lợi nhuận, các nhà tư bản đã tìm mọi cách để tiết kiệm tư bản bất biến như sử dụng máy móc, nhà xưởng, phương tiện vận tải với hiệu quả cao nhất, kéo dài ngày lao động...

Bốn nhân tố trên đều được nhà tư bản sử dụng, khai thác một cách triệt để, để đạt tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Song với những đặc điểm, điều kiện khác nhau, nên cùng một lượng tư bản như nhau đầu tư vào các ngành sản xuất khác nhau, thì tỷ suất lợi nhuận đật được lại khác nhau. Vì vậy, các nhà tư bản ra sức cạnh tranh kịch liệt với nhau và dẫn đến việc hình thành lợi nhuận bình quân.

2. Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất

a. Cạnh tranh nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường

Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất, kinh doanh hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, để thu lợi nhuận cao nhất.

Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch.

Biện pháp cạnh tranh: Các nhà tư bản thường xuyên cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa để thu lợi nhuận siêu ngạch.

Kết quả của sự cạnh tranh nội bộ là hình thành nên giá trị xã hội (giá trị thị trường) của từng loại hàng hóa.

Các đơn vị sản xuất khác nhau do điều kiện sản xuất khác nhau (về điều kiện sản xuất, tổ chức sản xuất, trình độ tay nghề của công nhân…) nên giá trị cá biệt của hàng hóa là khác nhau, nhưng trên thị trường hàng hóa phải bán theo giá trị xã hội – giá trị thị trường.

Theo Mác thì “Một mặt phải coi giá trị thị trường là giá trị trung bình của những hàng hóa được sản xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó; mặt khác, giá trị thị trường là giá trị cá biệt của những hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện trung bình của khu vực đó và chiếm một khối lượng lớn trong số những sản phẩm của khu vực đó”.

Với nội dung trên, giá trị thị trường có thể hình thành theo 3 trường hợp sau đây:

-        Trường hợp 1: Giá trị thị trường của hàng hóa do giá trị đại bộ phận hàng hóa được sản xuất ra trong điều kiện trung bình quyết định. Đây là trường hợp phổ biến nhất.

-        Trường hợp 2: Giá trị thị trường của hàng hóa do giá trị của đại bộ phận hàng hóa được sản xuất ra trong điều kiện xấu nhất quyết định.

-        Trường hợp 3: Giá trị thị trường của hàng hóa do giá trị của đại bộ phận hàng hóa được sản xuất trong điều kiện tốt quyết định.

b. Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành lợi nhuận bình quân

Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi, tức là nơi nào có tỷ suất lợi nhuận cao hơn.

Biện pháp cạnh tranh: Tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, tức là phân phối tư bản (cv) vào các ngành sản xuất khác nhau.

Kết quả: hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng hóa chuyển thành giá cả sản xuất.

Các ngành sản xuất khác nhau có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật và tổ chức quản lý khác nhau, nên tỷ lợi nhuận khác nhau. Nhà tư bản ở những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sẽ chuyển sang đầu tư vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Sự tự do di chuyển tư bản này chỉ tạm dừng khi tỷ suất lợi nhuận ở tất cả các ngành đều xấp xỉ bằng nhau. Kết quả là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân.

Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tính theo % giữa tổng giá trị thặng dư và tổng số tư bản đã đầu tư vào các ngành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, ký hiệu ().

 =  . 100%

Khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, nếu lượng tư bản ứng ra bằng nhau, dù đầu tư vào ngành nào cũng đều thu được lợi nhuận bằng nhau, gọi là lợi nhuận bình quân.

Lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau của những tư bản bằng nhau, đầu tư vào những ngành khác nhau, bất kể cấu tạo hữu cơ của tư bản như thế nào. Ký hiệu: .

 =  . k

Như vậy, trong giai đoạn cạnh tranh tự do của chủ nghĩa tư bản, giá trị thặng dư biểu hiện thành lợi nhuận bình quân và quy luật giá trị thặng dư cũng biểu hiện thành quy luật lợi nhuận bình quân.

Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân đã che giấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.

3. Sự chuyển hoá giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất

Cùng với sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân thì giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất.

Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân.

Giá cả sản xuất = k +

Điều kiện để giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất: Đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa phát triển; sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất; quan hệ tín dụng phát triển; tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác.

Trong sản xuất hàng hóa giản đơn thì giá cả hàng hóa xoay quanh giá trị hàng hóa. Giờ đây, giá cả hàng hóa sẽ xoay quanh giá cả sản xuất.  Xét về mặt lượng, ở mỗi ngành sản xuất và giá trị hàng hóa có thể không bằng nhau, nhưng đứng trên phạm vi toàn xã hội thì tổng giá cả sản xuất luôn bằng tổng giá trị hàng hóa. Trong mối quan hệ này, giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong giá cả sản xuất; giá trị sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường, và giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất.

Như vậy, trong giai đoạn cạnh tranh tự do của chủ nghĩa tư bản, khi giá trị thặng dư chuyển hóa thành lợi nhuận bình quân thì giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất và quy luật giá trị cũng biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất.

4. Sự phân chia giá trị thặng dư giữa các giai cấp bóc bột trong chủ nghĩa tư bản

a. Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp

* Tư bản thương nghiệp

Trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp được tách rời ra và phục vụ quá trình lưu thông hàng hóa của tư bản công nghiệp.

Công thức vận động của tư bản thương nghiệp là: T – H – T’

Với công thức này, hàng hóa được chuyển hai lần: Từ tay nhà tư bản công nghiệp sang tay nhà tư bản thương nghiệp, rồi từ tay nhà tư bản thương nghiệp sang tay người tiêu dùng. Điều này cho thấy tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông và không bao giờ mang hình thái tư bản sản xuất cả.

Tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp, thực hiện chức năng chuyên môn riêng tách rời khỏi chức năng sản xuất của tư bản sản xuất nên tư bản thương nghiệp vừa phụ thuộc vừa độc lập với tư bản công nghiệp.

Sự ra đời và phát triển của tư bản thương nghiệp đã làm cho lưu thông hàng hóa phát triển, thị trường được mở rộng, hàng hóa lưu thông nhanh chóng, do đó đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản.

* Lợi nhuận thương nghiệp

Lợi nhuận thương nghiệp là một phần của giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất và do nhà tư bản công nghiệp nhượng lại cho nhà tư bản thương nghiệp để nhà tư bản thương nghiệp tiêu thụ hàng hóa cho mình.

Trên thực tế, các nhà tư bản thương nghiệp thu lợi nhuận thương nghiệp từ chênh lệch giữa giá mua và giá bán, nhưng không phải là bán hàng hóa cao hơn giá trị. Nhà tư bản thương nghiệp giúp nhà tư bản công nghiệp thực hiện chức năng lưu thông hàng hóa vì thế nhà tư bản công nghiệp nhượng lại một phần giá trị thặng dư cho nhà tư bản thương nghiệp, sau đó nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hóa đúng giá trị của nó.

Ví dụ: Giả sử nhà tư bản công nghiệp ứng ra 900 usd để sản xuất hàng hóa, được chia thành 720 c + 180 v, nếu m’ = 100% thì giá trị hàng hóa là:

720 c + 180 v + 180 m = 1080 usd

Tỷ suất lợi nhuận công nghiệp là:

P’cn =  .100% = 20%

Nhưng nhà tư bản muốn bán được số hàng hóa trên để thu về 1080 USD như dự tính thì tư bản công nghiệp còn phải chi thêm 1 số tiền để làm chi phí lưu thông (quảng cáo, chuyên chở, bảo quản…), do đó:

P’ cn =   . 100% = 18%

Nay có nhà tư bản thương nghiệp xuất hiện để đảm nhiệm chức năng lưu thông, nghĩa là tư bản thương nghiệp tự ứng tiền ra để làm chi phí lưu thông, do đó tư bản công nghiệp sẽ bán hàng hóa cho tư bản thương nghiệp theo giá bán buôn xí nghiệp (hay giá cả sản xuất công nghiệp) bao gồm: 720 c + 180 v + 900 k x 18% = 1062 usd

Còn nhà tư bản thương nghiệp sẽ bán hàng hóa cho người tiêu dùng đúng giá trị của hàng hóa là 1080 usd:             720 c + 180 v +  162 (Pcn)+18 (Ptn)

Ta thấy:                     P’tn =  . 100% = 18 / 100 x 100% = 18 %

b. Tư bản cho vay và lợi tức

* Tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản

Tư bản cho vay đã xuất hiện từ lâu, sớm hơn cả tư bản công nghiệp, đó là tư bản cho vay nặng lãi. Sở dĩ gọi là tư bản cho vay nặng lãi vì tỷ suất lợi tức thường rất cao, có khi lên tới 100% hoặc cao hơn. Vì vậy tư bản cho vay nặng lãi đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất.

Ở đây không nghiên cứu loại tư bản cho vay đó, mà nghiên cứu tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản.

Trong chủ nghĩa tư bản thì tư bản cho vay vốn là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách ra trong quá trình tuần hoàn của tư bản. Lý do:

-  Khi sản xuất phát triển thì một số người có tư bản nhàn rỗi (tiền khấu hao máy móc thiết bị chưa dùng đến, tiền trả lương cho công nhân nhưng chưa trả…) và họ có nhu cầu cho vay.

-  Đồng thời, có một số người khác tìm được cơ hội đầu tư và rất cần tiền, ví dụ: tiền để mua nguyên nhiên vật liệu mà nhà tư bản chưa có tiền vì chưa bán được hàng hóa, tiền để mở rộng sản xuất...

Từ đó nảy sinh quan hệ cung – cầu về tư bản tiền tệ và hình thành tư bản cho vay.

Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà người chủ sở hữu nó cho người khác sử dụng trong một thời gian nhằm nhận được số tiền lời nhất định. Số tiền lời đó gọi là lợi tức, ký hiệu: z.

Tư bản cho vay có những đặc điểm khác căn bản với tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp: đối với tư bản cho vay thì quyền sử dụng tư bản tách rời quyền sở hữu tư bản; tư bản cho vay là hàng hóa đặc biệt.

Tư bản cho vay vận đông theo công thức: T – T’ làm người ta lầm tưởng tiền đẻ ra tiền, che dấu một cách kín đáo nhất quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa và dẫn đến sự sùng bái tư bản cho vay.

* Lợi tức và tỷ suất lợi tức

Lợi tức

Lợi tức (z) là một phần của lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay căn cứ vào lượng tư bản tiền tệ mà nhà tư bản cho vay đã bỏ ra cho nhà tư bản đi vay sử dụng.

Nguồn gốc của lợi tức cũng chính là từ giá trị thặng dư do công nhân làm thuê sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Vì vậy, có thể khẳng định tư bản cho vay cũng gián tiếp bóc lột công nhân làm thuê thông qua nàh tư bản đi vay.

Vì là một phần của lợi nhuận bình quân nên thông thường giới hạn của lợi tức phải ở trong khoảng:      0 < z <

Tỷ suất lợi tức

Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho vay (thường tính theo tháng, quý, năm…)

z’ =  (z / tổng tư bản cho vay) .  100%

Giới hạn của tỷ suất lợi tức:                0 < z’ < p’

Tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào các nhân tố sau đây:

-  Tỷ suất lợi nhuận bình quân.

-  Tỷ lệ phân chia lợi nhuận bình quân thành lợi tức và lợi nhuận của nhà tư bản hoạt động.

-  Quan hệ cung – cầu về tư bản cho vay.

Trong điều kiên của chủ nghĩa tư bản, tỷ suất lợi tức có xu hướng giảm vì tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm và cung về tư bản cho vay có xu hướng tăng nhanh hơn cầu về tư bản cho vay.

c. Quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa. Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng

* Quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa

Tín dụng tư bản chủ nghĩa là hình thức vận động của tư bản cho vay. Có 2 hình thức tín dụng cơ bản: tín dụng thương nghiệp và tín dụng ngân hàng.

Tín dụng thương nghiệp là hình thức tín dụng giữa các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh, mua bán chịu hàng hóa với nhau.

Việc mua bán chịu hàng hóa giữa các nhà tư bản có nghĩa là nhà tư bản này đã cho nhà tư bản kia vay một giá trị tư bản tương ứng với giá trị chứa đựng trong hàng hóa đó. Bởi vậy, người cho đòi hỏi phải được trả lợi tức. Giá hàng hóa bán chịu bao giờ cũng cao hơn giá hàng hóa trả tiền ngay bởi vì còn bao gồm cả phần lợi tức đó. Tuy nhiên, mục đích chủ yếu của tín dụng thương nghiệp không phải là thu lợi tức mà là để thực hiện giá trị hàng hóa và thúc đẩy lưu thông hàng hóa.

Sự vận động của tư bản thương nghiệp gắn liền với sự vận động của tư bản hàng hóa vì đối tượng của tín dụng thương nghiệp là hàng hóa.

* Tín dụng ngân hàng

Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn thông qua ngân hàng làm môi giới.

Đây là hình thức tín dụng giữa ngân hàng với các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh và các tầng lớp dân cư khác trong xã hội.

Sự vận động của tín dụng ngân hàng gắn liền với sự vận động của tư bản tiền tệ vì đối tượng của tín dụng ngân hàng là tiền tệ.

* Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng

Ngân hàng trong chủ nghĩa tư bản là xí nghiệp kinh doanh tư bản tiền tệ, làm môi giới giữa người đi vay và người cho vay.

Ngân hàng có hai nghiệp vụ: nhận gửi và cho vay. Lợi tức cho vay của ngân hàng về nguyên tắc phải cao hơn lợi tức nhận gửi và lợi tức nhận gửi lớn hơn tỷ lệ lạm phát.

Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi sau khi trừ đi những chi phí về nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng cộng với các thu nhập khác về kinh doanh tư bản tư bản tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng.

Trong điều kiện cạnh tranh, lơi nhuận ngân hàng cũng ngang bằng với lợi nhuận bình quân.

Phân biệt tư bản ngân hàng với ta bản cho vay:

-  Tư bản cho vay là tư bản tiềm thế, tư bản không hoạt động hay tư bản nhàn rỗi. Vì vậy tư bản cho vay không tham gia vào quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Lợi tức chỉ là một phần của lợi nhuận bình quân.

-  Tư bản ngân hàng là tư bản chức năng, tư bản hoạt đông nên tư bản ngân hàng cũng tham gia vào quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Trong tự do cạnh tranh, lợi nhuận ngân hàng ngang bằng với lợi nhuận bình quân.

d. Công ty cổ phần. Tư bản giả và thị trường chứng khoán

Sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và quan hệ tín dụng đã dẫn đến sự hình thành các công ty cổ phần và sự ra đời của thị trường chứng khoán.

* Công ty cổ phần

Công ty cổ phần là một loại hình xí nghiệp lớn mà vốn của nó được hình thành từ sự đóng góp của nhiều người thông qua việc phát hành cổ phiếu.

Cổ phiếu là thứ chứng khoán có giá do công ty cổ phần phát hành ghi nhận quyền sở hữu cổ phần của người mua cổ phiếu (được gọi là cổ đông), đồng thời đảm bảo cho cổ đông có quyền được lĩnh một phần thu nhập của công ty (cổ tức) căn cứ vào giá trị cổ phần và tình hình tài sản kinh doanh của công ty.

Cổ phiếu được mua và bán trên thi trường chứng khoán. Giá cổ phiếu phụ thuộc vào hai nhân tố: mức cổ tức mà cổ phiếu mang lại và tỷ suất lợi tức gửi ngân hàng.

* Tư bản giả

Tư bản giả là tư bản tồn tại dưới hình thức các chứng khoán có giá và mang lại thu nhập cho người sở hữu các chứng khoán đó.

Có 2 loại chứng khoán phổ biến: cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành và trái phiếu.

Đặc điểm của tư bản giả:

-  Có thể mang lại thu nhập cho người sở hữu nó.

-  Có thể mua bán

-  Vì là tư bản giả nên sự tăng hay giảm giá mua bán của nó trên thị trường không cần có sự thay đổi tương ứng của tư bản thật.

* Thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán là nơi mua bán chứng khoán.

Thị trường chứng khoán được phân thành hai cấp:

-  Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán trong lần phát hành đầu tiên.

-  Thị trường thứ cấp là trị trường mua đi bán lại các chứng khoán và thường được thực hiện thông qua sở giao dịch chứng khoán.

Thị trường chứng khoán được xem là “phong vũ biểu” của nền kinh tế, nó phản ứng rất nhạy đối với các thay đổi của nền kinh tế.

 e. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp và địa tô tư bản chủ nghĩa

* Sự hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp

Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành trong nông nghiệp theo 2 con đường chủ yếu:

-  Dần dần chuyển nền nông nghiệp địa chủ phong kiến sang kinh doanh theo phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sử dụng lao động làm thuê.

-  Thông qua cách mạng dân chủ tư sản, xóa bỏ chế độ canh tác ruộng đất theo kiểu phong kiến, phát triển chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp.

Đặc điểm nổi bật của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp là sự tồn tại của 3 giai cấp chủ yếu: địa chủ, nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp làm thuê.

* Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa

Địa tô tư bản chủ nghĩa là phần giá trị thăng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ.

Thực chất, địa tô tư bản chủ nghĩa chính là một hình thức chuyển hóa của giá trị thặng dư siêu ngạch hay lợi nhuận siêu ngạch.

Phân biệt địa tô tư bản chủ nghĩa với địa tô phong kiến:

Giống nhau: đều là sự thực hiện về mặt kinh tế của quyền sở hữu về ruông đất.

Khác nhau:

-  Về mặt chất:

Địa tô phong kiến phản ánh quan hệ sản xuất giữa hai giai cấp: địa chủ và nông dân trong đó địa chủ trực tiếp bóc lột nông dân, còn địa tô tư bản chủ nghĩa phản ánh quan hệ sản xuất giữa 3 giai cấp: địa chủ, nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp và công nhân làm thuê trong đó địa chủ bóc lột gián tiếp công nhân làm thuê thông qua nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp.

-  Về mặt lượng:

Địa tô phong kiến gồm toàn bộ sản phẩm thặng dư do nông dân tạo ra, có khi còn lấn sang phân sản phẩm cần thiết, còn địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần của sản phẩm thặng dư.

* Các hình thức cơ bản của địa tô tư bản chủ nghĩa

Địa tô chênh lệch

Địa tô chênh lệch là phần địa tô thu được ở trên những ruộng đất có lợi thế về điều kiện sản xuất (độ màu mỡ của đất đai tốt hơn, vị trí gần thị trường, gần đường hơn, hoặc ruộng đất được đầu tư để thâm canh). Nó là chênh lệch giá cả sản xuất chung (được quy định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất) và giá cả sản xuất cá biệt.

Thực chất của địa tô chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch, lợi nhuận siêu ngạch này có tính ổn định và lâu dài.

Địa tô chênh lệch (I) là địa tô chênh lệch thu được trên những ruông đất có độ màu mỡ tự nhiên thuộc loại trung bình và tốt, có vị trí gần thị trường hoặc gần đường giao thông.

Địa tô chênh lệch (II) là địa tô chênh lệch do thâm canh mà có.

Địa tô tuyệt đối

Địa tô tuyệt đối là loại địa tô mà tất cả các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp đều phải nộp cho địa chủ, cho dù ruông đất tốt hay xấu.

Nếu trình độ bóc lột như nhau và lượng tư bản ứng ra bằng nhau thì lượng giá trị thặng dư thu được trong nông nghiệp bao giờ cũng cao hơn trong công nghiệp.

Vậy địa tô tuyệt đối là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, được hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp luôn thấp hơn cấu tạo hữu cơ của tư bản trong công nghiệp, nó là số chênh lệch giữa giá trị nông sản phẩm và giá cả sản xuất chung.

* So sánh địa tô tuyệt đối và địa tô chênh lệch

Giống nhau: đều là lợi nhuận siêu ngạch, nguồn gốc của chúng là một bộ phận giá trị thặng dư.

Khác nhau: Độc quyền kinh doanh ruộng đất theo kiểu tư bản chủ nghĩa là nguyên nhân sinh ra địa tô chênh lệch, còn độc quyền tư hữu về ruông đất là nguyên nhân sinh ra địa tô tuyệt đối.

Giá cả ruộng đất

Giá cả ruộng đất là hình thức địa tô tư bản hóa, là giá mua quyền thu địa tô do ruộng đất mang lại theo tỷ suất lợi tức hiện hành.


Câu hỏi ôn tập

1.                  Phân tích điều kiện biến SLĐ thành hàng hóa và hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động. Hàng hóa SLĐ có đặc điểm gì khác với hàng hóa thông thường.

2.                  Giá trị thặng dư được sản xuất như thế nào. Hãy nêu các kết luận rút ra từ sự nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Các bộ phận khác nhau của tư bản có vai trò như thế nào trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư.

3.                  Trình bày hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư. Vì sao nói giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Hãy nêu sự giống nhau và khác nhau giữa giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch.

4.                  Vì sao nói sản xuất giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Hãy nêu nội dung và vai trò của quy luật giá trị thặng dư.

5.                  Tích tụ tư bản là gì, tập trung tư bản tư bản là gì. Phân tích sự giống nhau và khác nhau giữa tích tụ và tập trung tư bản. Tập trung tư bản có vai trò như thế nào trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.

6.                  Trình bày tuần hoàn của tư bản và những điều kiện cần thiết để tuần hoàn của tư bản vận động liên tục. Thông qua định nghĩa chu chuyển của tư bản làm rõ sự giống nhau và khác nhau trong nghiên cứu tuần hoàn và chu chuyển của tư bản.

7.                  Thế nào là tổng sản phẩm xã hội, tư bản xã hội và thực hiện tổng sản phẩm xã hội.

8.                  Trình bày điều kiện tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tư bản xã hội.

9.                  Trình bày sự khác nhau giữa cpsx TBCN với chi phí thực tế và TB ứng trước; giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư; giữa tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá trị thăng dư.

10.             Phân tích quá trình cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường.

11.             Trình bày sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và sự chuyển hóa giá trị hàng hóa thành giá cả sản xuất.

12.             Phân tích bản chất của tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp.

13.             Phân tích đặc điểm của tư bản cho vay và các nhân tố ảnh hưởng đến sự vận động của lợi tức và tỷ suất lợi tức.

14.             Phân tích bản chất và các hình thức của địa tô tư bản chủ nghĩa.


Chương VI

HỌC THUYẾT VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỂN NHÀ NƯỚC

 

I. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN

1. Nguyên nhân chuyển biến của chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh sang tư bản độc quyền

Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C.Mác và Ăngghen đã dự báo rằng: Cạnh tranh tự do sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung sản xuất phát triển đến một mức độ nào đó dẫn đến độc quyền.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ IXX đầu thế kỷ XX do những nguyên nhân chủ yếu:

-  Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp quy mô lớn.

-  Vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như lò luyện kim mới Betsơme, Macstanh, Tômat… đã tạo ra lượng gang thếp với chất lượng cao; phát hiện ra hóa chất mới như axit sunphuaric, thuốc nhuộm…; máy móc mới, phương tiện vận tải mới ra đời. Những thành tựu này một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy sản xuất lớn.

-  Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy… ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất lớn.

-  Cạnh tranh khốc liệt giữa các công ty và tập đoàn tư bản dẫn đến các nhà tư bản cừa và nhỏ bị phá sản, đồng thời các nhà tư bản lớn phát tài với số tư bản tập trung ngày càng lớn.

-  Hậu quả của cuôc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá sản hàng loạt các xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản.

-  Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, sự hình thành các công ty cổ phần, tạo điều kiện cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.

Các nguyên nhân trên đều dẫn đến tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.

2. Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền

a. Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền

Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.

Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao.

Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hóa, các liên minh độc quyền hình thành theo liên kết ngang, về sau phát triển theo liên kết dọc. Liên kết ngang là sự liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành. Liên kết dọc là sự liên kết dây chuyền của các tổ chức độc quyền trong nhiều ngành khác nhau.

Những hình thức độc quyền cơ bản: Cácten, Xanhđica, Tờrớt, Côngxoócxiom. Trong đó:

-  Cáctenlà hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà tư bản ký hiệp nghị thỏa thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn tahnh toán… Các nhà tư bản tham gia cácten vẫn độc lập về sản xuất và thương mại. Cácten là liên minh độc quyền không vững chắc vì khi thành viên thấy ở vào vị trí bất lợi họ sẽ rút khỏi cácten, làm cácten thường tan rã trước kỳ hạn.

-  Xanh đica là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn cácten. Các xí nghiệp tham gia xanhđica vẫn độc lập về sản xuất, chỉ mất độc lập về lưu thông. Mục đích của xanhđica là thống nhất đầu mối mua và bán để mau nguyên liệu giá rẻ, bán hàng với giá cao nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.

-  Tờrớt là hình thức độc quyền cao hơn thống nhất trong cả việc sản xuất, tiêu thụ, tài vụ. Các nhà tư bản tham gia tờrớt trở thành những cổ động thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần.

-  Côngxoócxiom  là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn, có sự tham gia không chỉ của các nhà tư bản lớn mà còn cả các  Xanhđica, Tờrớt và do đó hàng trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm tư bản kếch xù.

b. Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính

Cùng với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong công nghiệp là quá trình tích tụ và tập trung tư bản trong ngân hàng, dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng.

Sự xuất hiện, phát triển của các tổ chức độc quyền trong ngân hàng đã làm thay đổi quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, tạo nên một vai trò mới cho ngân hàng: từ chỗ làm trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội nên có quyền lực vạn năng, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Các tổ chức độc quyền công nghiệp tấn công trở lại và chính sự độc hóa, xâm nhập lẫn nhau giữa công nghiệp và ngân hàng đã tạo ra một loại tư bản mới - tư bản tài chính.

Lênin nói: “Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất với tư bản của những liên minh độc quyền của nhà công nghiệp”.

Bọn đầu sỏ tài chính là một nhóm nhỏ tư bản tài chính độc quyền chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản thông qua chế độ tham dự, tức là việc nắm giữ số cổ phiếu khống chế một công ty lớn. Nhờ chế độ tham dự và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích (công ty mẹ - công ty con – công ty cháu…), bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, các nàh tư bản độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết một lượng tư bản lớn gấp nhiều lầm.

Ngoài ra, bọn đầu sở tài chính còn sử dụng các thủ đoạn mới như thành lập công ty mới, phát hành trái khoán, đầu cơ chứng khoán… để thu được lợi nhuận độc quyền cao.

Thống trị và kinh tế là cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị và các mặt khác. Về chính trị, bọn đầu sỏ tài chính biến nhà nước thành công cụ phục vụ lợi ích của chúng.

c. Xuất khẩu tư bản

Xuất khẩu hàng hóa là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền.

Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.

Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu vì:

-        Một số ít nước phát triển đã tích lũy được khối lượng tư bản lớn và có một số “tư bản thừa” tương đối cần tìm nơi đầu tư có lợi nhuận cao hơn so với đầu tư trong nước.

-        Nhiều nước lạc hậu về kinh tế thiếu tư bản trong khi giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ nên tỷ suất lợi nhuận cao.

Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.

-        Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ ở chính quốc.

-        Đầu tư gián tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hình thức chính phủ, thành phố hay một ngân hàng ở nước ngoài vay tư bản tiền tệ có thu lãi.

Xét về chủ sở hữu tư bản, có thể phân tích xuất khẩu tư bản thành:

-        Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước tư bản độc quyền dùng nguồn vốn từ ngân quỹ của mình để đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản; hoặc viện trợ có hoàn lại hay không hoàn lại, để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị và quân sự.

Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu hạ tầng để tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư của tư bản tư nhân.

Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản thường nhằm duy trì và bảo vệ chế độ chính trị “thân cận” đã bị lung lay ở các nước nhập khẩu tư bản, tăng cường sự phụ thuộc của các nước đó vào các nước đế quốc, thực hiện chủ nghĩa dân tộc mới, tạo điều kiện cho tư nhân xuất khẩu tư bản.

Về quân sự, viện trợ của tư bản nhà nước nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải cho các nước xuất khẩu lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ nước mình…

-        Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản tư nhân thực hiện.

Hình thức này có đặc điểm cơ bản là nó thường được đầu tư vào những ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao, dưới hình thức các hoạt động cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia.

d. Sự phân chia về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền

 Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn đến sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập đoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế.

Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ thị trường trong nước luôn luôn gắn với thị trường nước ngoài. Đặc biệt trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, thị trường nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đế quốc đang cần tìm nguồn nguyên liệu và nơi tiêu thụ, luôn thèm khát lợi nhuận siêu ngạch.

Sự cạnh tranh khốc liệt trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền quốc gia tất yếu dẫn đến xu hướng thỏa hiệp, ký kết các hiệp định để củng cố địa vị độc quyền của chúng trong những lĩnh vực và trong những thị trường nhất định. Từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế dưới dạng cácten, xanhđica, tờrơt quốc tế...

e. Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc

Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc phân chia thế giới về lãnh thổ.

Các cường quốc đế quốc ra sức xâm chiếm thuộc địa để có nguồn nguyên liệu và thị trường thường xuyên, để thực hiện đồng thời các mục đích về kinh tế, chính trị, quân sự.

Sự phân chia lãnh thổ và phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh đòi chia lại thế giới. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914 – 1918 và cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai 1939 – 1945.

Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên hệ chặt chẽ với nhau, nói lên bản chất của chủ nghĩa tư bản về mặt kinh tế là sự thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến, xâm lược.

3. Sự hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền

a. Quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền

Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, độc quyền đối lập với cạnh tranh tự do. Nhưng sự xuất hiện của độc quyền không thủ tiêu được cạnh tranh, trái lại với nó còn làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt và có sức phá hoại to lớn hơn.

Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, không chỉ tồn tại sự cạnh tranh giữa những người sản xuất nhỏ, giữa những nhà tư bản vừa và nhỏ như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh mà còn có thêm các loại cạnh tranh:

-  Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền và các xí nghiệp ngoài độc quyền. Các tổ chức độc quyền tìm mọi cách chèn ép, chi phối, thôn tính các xí nghiệp ngoài độc quyền bằng nhiều biện pháp như: độc chiếm nguyên liệu, nguồn nhân công, phương tiện vận tải...

-  Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau: Loại cạnh tranh này có nhiều hình thức: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong một ngành, kết thúc bằng một sự thỏa hiệp hoặc bằng sự phá sản của một bên; cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền khác ngành có liên quan với nhau về nguyên liệu, kỹ thuật...

-  Cạnh tranh trong nội bộ tổ chức các độc quyền: Những nhà tư bản tham gia các-ten, xanhđica cạnh tranh với nhau để giành thị trường tiêu thụ có lợi hoặc giành tỷ lệ sản xuất cao hơn. Các thành viên của tờ-rớt, công-xooc-xi-om cạnh tranh với nhau để chiếm cổ phiếu khống chế, từ đó chiếm vị trí lãnh đạo và phân chia lợi nhuận có lợi hơn.

b.Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền

Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả độc quyền; giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi bán. Tuy nhiên về thực chất, giá cả độc quyền vẫn không thoát ly và không phủ nhận cơ sở của nó là giá trị, nó là sự chiếm đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư cua người khác. Nếu trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất thì trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc độc quyền, quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền.

Đồng thời với việc thao túng nền kinh tế bằng giá cả độc quyền, các tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận độc quyền. Do đó, quy luật lợi nhuận độc quyền cao là hình thức biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nó phản ánh quan hệ thống trị và bóc lột của tư bản độc quyền trong tất cả các ngành kinh tế của xã hội tư bản và trên toàn thế giới.

Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp độc quyền; một phần lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp không độc quyền; một phần giá trị thặng dư của các nhà tư bản vừa và nhỏ bị mất do thua thiệt trong cuộc cạnh tranh; lao động thặng dư và đôi khi cả một phần lao động tất yếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản và thuộc địa.

II. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

1. Nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

a. Nguyên nhân hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

Tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì tích tụ và tập trung sản xuất càng cao do đó đẻ ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, yêu cầu kế hoạch tập trung từ một trung tâm.

Sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số ngành mà tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh vì đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao thông vận tải, nghiên cứu khoa học cơ bản... đòi hỏi nhà nước phải đứng ra đảm nhiệm.

Sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải có những chính sách để xoa dịu mâu thuẫn đó như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã hội...

Những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị trường đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các nhà nước của các quốc gia tư sản để điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế.

b. Bản chất của chủ nghĩa tư bản nhà nước

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư bản thành một thiết chế và thể chế thống nhất, trong đó nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền và can thiệp vào các quá trình kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho CNTB.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nó là sự thống nhất của ba quá trình: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân với sức mạnh chính trị của nhà nước trong một thể thống nhất và bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.

Ngoài chức năng tiến hành kinh doanh, bóc lột sức lao động của lao động làm thuê như một nhà tư bản thông thường, nhà nước còn có chức năng chính trị và các công cụ trấn áp xã hội như quân đội, cảnh sát, nhà tù...

Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội chứ không phải là một chính sách trong giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản. Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhà nước không chỉ cant hiệp vào nền sản xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà còn có vai trò tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, điều tiết bằng các biện pháp đòn bẩy kinh tế vào các khâu của quá trình tái sản xuất: sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng.

2. Những biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

a. Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và bộ máy nhà nước

Sự liên minh cá nhân của các ngân hàng với công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh các nhân của ngân hàng và công nghiệp với nhà nước.

Sự kết hợp được thực hiện thông qua các hội xí nghiệp mang những tên khác nhau ví dụ: Liên đoàn công nghiệp Italia, tổ chức liên hiệp công nghiệp Đức, Liên đoàn công thương Anh. Các hội xí nghiệp trở thành lực lượng chính trị, kinh tế to lớn là chỗ dựa của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác nhau, đồng thời các quan chức và các nhân viên chính phủ cài vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền và nắm những chức vụ chính yếu. Vai trò của các hội lớn đến mức mà dư luận thế giới gọi chúng là những chính phủ đằng sau chính phủ, một quyền lực thực sự đằng sau quyền lực của chính quyền.

b. Sự hình thành và phát triển của sở hữu nhà nước

Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư bản độc quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó biểu hiện không những ở chỗ sở hữu nhà nước tăng lên mà còn ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân, hai loại sở hữu này đan xen trong quá trình tuần hoàn của tổng tư bản xã hội.

Sở hữu nhà nước bao gồm động sản và bất động sản cần cho hoạt động của bộ máy nhà nước và những xí nghiệp nhà nước trong công nghiệp và trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.

Sở hữu nhà nước được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau như xây dựng xí nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách, quốc hữu hóa các xí nghiệp tư nhân bàng cách mua lại...

Sở hữu nhà nước thực hiện các chức năng quan trọng sau:

-  Mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa., đảm bảo địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.

-  Giải phóng tư bản của tổ chức độc quyền từ ngành ít lãi để đưa vào các ngành có hiệu quả hơn.

-  Sở hữu nhà nước làm chỗ dựa về kinh tế cho nhà nước để điều tiết một số quá trình kinh tế phục vụ lợi ích của tầng lớp tư bản độc quyền.

c. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản

Một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự tham gia của nhà nước tư sản vào việc điều tiết quá trình kinh tế.

Hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản là một tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội theo hướng có lợi cho tầng lớp tư bản độc quyền.

Chính sách kinh tế của nhà nước tư sản là sự thể hiện rõ nhất sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Chúng bao gồm nhiều lĩnh vực như: chính sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát; chính sách tăng trưởng kinh tế, chính sách xã hội, chính sách đối ngoại. Các công cụ chủ yếu mà nhà nước tư sản dùng để điều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách kinh tế là: ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ - tài chính, các doanh nghiệp nhà nước, kế hoạch hóa hay chương trình hóa kinh tế và các công cụ hành chính pháp lý.

III. NHỮNG NÉT MỚI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI

1.Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất

Cách mạng công nghệ thông tin (IT) và công nghệ cao mới như sinh học, vật liệu mới nguồn năng lượng mới, hàng không vũ trụ... phát triển mạnh mẽ tạo bước nhảy vọt mang tính lịch sử to lớn của phát triển khoa học kỹ thuật. Sự tiến bộ và những bước đột phá của KHKT đã mở ra không gian rộng lớn mới cho sự phát triển của sức sản xuất.

Giáo dục được tăng cường và tố chất của người lao động được nâng cao rõ rệt, từ đó đặt nền móng vững chắc cho việc nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh.

Kinh tế phát triển nhanh, năng suất lao động được nâng cao hơn. Thành quả khoa học kỹ thuật nhanh chóng chuyển hóa vào sản xuất, kinh doanh.

2. Nền kinh tế đang có xu hướng chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức

Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất thúc đẩy chủ nghĩa tư bản chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, cách mạng IT hiện nay đang thúc đẩy nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức.

Đối tượng sản xuất và tiêu thụ của kinh tế công nghiệp là kết tinh “nguồn tài nguyên”, còn đối tượng của kinh tế tri thức là kết tinh “tri thức”, tri thức và kỹ thuật trở thành các yếu tố sản xuất quan trọng nhất, vai trò của tri thức và kỹ thuật đã cao hơn các yếu tố như nguồn tài nguyên tự nhiên và vốn, trở thành yếu tố sản xuất quan trọng nhất.

Sáng tạo kỹ thuật và sáng tạo cơ chế đóng vai trò then chốt trong phát triển kinh tế tri thức. Sáng tạo kỹ thuật là độnglực bên trong thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức, và có quan hệ mật thiết với chính sách khoa học kỹ thuật và sáng tạo cơ chế. Sáng tạo cơ là vô cùng quan trọng đối với sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức.

Kết cấu ngành nghề của chủ nghĩa tư bản cũng được điều chỉnh và nâng cấp hơn, chuyển sang dịch vụ hóa và công nghệ cao hóa. ĐIều này thể hiện ở chỗ: trong ba ngành lớn, vị trí của nông nghiệp hạ thấp, vị trí của dịch vụ, đặc biệt là ngành dịch vụ có liên quan đến công nghệ mới được tăng lên.

3. Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp

Quan hệ sở hữu có những thay đổi, biểu hiện nổi bật là sự phân tán quyền nắm cổ phiếu tăng lên. Phân tán hóa quyền khống chế cổ phiếu có lợi cho cải thiện quan hệ giữa chủ xí nghiệp và công nhân. Nhưng trên thực tế, công nhân là cổ đông nhỏ, không thể cùng với nhà tư bản phân chia quyền lực, nên phân tán hóa quyền khống chế cổ phiếu cũng không thể làm thay đổi địa vị làm thuê của người lao động.

Kết cấu giai cấp cũng có những biến đổi lớn, các giai cấp, tầng lớp, đoàn thể xã hội và tập đoàn cùng tồn tại và tác động lẫn nhau. Nổi bật nhất là sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu, chiếm khoảng 40 – 50 % dân số.

Cùng với sự tăng trưởng của sản xuất và sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất, thu nhập bằng tiền lương của người lao động cũng có được mức tăng trưởng khá lớn.

Tất cả những điều này cho thấy, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản chủ nghĩa vẫn tồn tại nhưng nhờ những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản về quan hệ sản xuất, mà bắt nguồn từ quan hệ sở hữu, nên phần nào đã xoa dịu được tính gay gắt của mâu thuẫn này.

4. Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những biến đổi lớn

Thứ nhất, doanh nghiệp cải cách cơ chế quản lý, thiết lập cơ cấu tổ chức hàng ngang và mạng lưới: xóa bỏ hệ thống quản lý tập trung quá lớn quyền lực, đa tầng và theo chiều dọc thay bằng hệ thống quản lý mạng lưới phân quyền, ít tầng và theo chiều ngang.

Thứ hai, doanh nghiệp dùng công nghệ cao để cải cách cơ chế quản lý sản xuất: thiết lập hệ thống sản xuất linh hoạt, hệ thống sản xuất bằng máy tính, chế độ cung cấp thích hợp và cơ chế phát triển theo nhu cầu (tức là khâu sản xuất gần gũi với khách hàng hơn).

Thứ ba, doanh nghiệp thực hiện cải cách quản lý lao động, lấy con người làm gốc, yêu cầu đối với công nhân không chỉ là thể lực mà là phải có kỹ năng và tri thức cao nhằm phát huy tính chủ động và tính sáng tạo từ đó nâng cao năng suất lao động và tăng cường thế cạnh tranh của doanh nghiệp.

Thứ tư, việc thay đổi hình thức tổ chức doanh nghiệp đã làm xuất hiện xu thế hai loại hình lớn hóa và nhỏ hóa cùng hỗ trợ nhau tồn tại. Các doanh nghiệp lớn không ngừng mở rộng ưu thế về quy mô, tăng cường sức mạnh thị trường. Đồng thời, các doanh nghiệp nhỏ linh hoạt hơn, có tinh thần sáng tạo hơn cũng phát triển mạnh mẽ.

5. Điều tiết vĩ mô của nhà nước ngày càng được tăng cường

Thứ nhất, kịp thời điều chỉnh chiến lược tổng thể phát triển kinh tế, nhằm nâng cao sức cạnh tranh tổng thể của quốc gia: Mỹ tập trung phát triển các ngành công nghệ cao mới, việc thiết lập thị trường chung Châu Âu và sự ra đời của đồng tiền chung Châu Âu.

Thứ hai, sự lựa chọn chính sách thực dụng: dung hòa quan niệm giá trị truyền thống và chủ trương chính trị của chủ nghĩa tự do với một số biện pháp của chủ nghĩa bảo thủ mới, đóng vai trò tích cực trong việc xoa dịu những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản hiện nay.

Thứ ba, căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế khác nhau của từng thời kỳ, vận dụng linh hoạt chính sách tài chính và chính sách tiền tệ, kịp thời điều chỉnh mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội khác nhau.

6. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng quan trọng trong hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, là lực lượng chủ yếu thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế

Các công ty xuyên quốc gia (TNC) là các công ty tư bản độc quyền, bành trướng thế lực ra nước ngoài dưới hình thức cài cắm nhanh.

Do có thực lực kinh tế, chính trị hùng mạnh, hệ thống sản xuất, tiêu thụ, dịch vụ, nghiên cứu khoa học, thông tin toàn cầu hóa, các TNC đã có tác động lớn đến các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và thế lực của họ đã thâm nhập các lĩnh vực trên toàn thế giới, thể hiện:

-  Các công ty xuyên quốc gia thúc đẩy toàn cầu hóa sản xuất và nguồn vốn, thúc đẩy mạnh mẽ phân công lao động quốc tế sâu sắc hơn.

-  Truyền bá khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý trên phạm vi toàn cầu, tạo không gian rộng lớn để phát triển lực lượng sản xuất và điều chỉnh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên quy mô quốc tế.

-  Chiếm đoạt thị trường toàn cầu, xuất khẩu vốn và hàng hóa trên quy mô lớn, thu về nhiều ngoại tệ, phát triển thực lực trong nước, tăng cường kiểm soát của tư bản độc quyền trên phạm vi toàn cầu.

-  Tạo cơ hội để các nước đang phát triển thoát khỏi tình trạng lạc hậu nhưng đồng thời đặt ra những thách thức to lớn đối với nền độc lập chính trị, kiểm soát kinh tế và lợi ích căn bản của dân tộc.

-  Ảnh hưởng lớn tới lĩnh vực tài chính, tiền tệ. TNC thao túng nguồn vốn tín dụng quốc tế khổng lồ, hình thành thị trường tiền tệ lớn, là lực lượng chủ yếu thúc đẩy lưu thông vốn trên toàn thế giới, ảnh hưởng trực tiếp đến đến việc ổn định thị trường tiền tệ và cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.

7. Điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nhà nước của các quốc gia tư bản chủ nghĩa ngày càng chú trọng phối hợp chính sách vĩ mô. Các xung đột kinh tế giữa các nước như chiến tranh mậu dịch, chiến tranh tỷ giá hối đoái, chiến tranh lãi suất thường xảy ra thì nhà nước của các quốc gia tư bản chủ nghĩa ngày càng chú trọng phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô.

Vai trò của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế phát huy tác dụng ngày càng nổi bật khi điều tiết quan hệ kinh tế quốc tế và trở thành một trong những chủ thể mới điều tiết quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tăng cường điều tiết và phối hợp quốc tế có vai trò không thể xem nhẹ trong việc xoa dịu mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài các nước tư bản chủ nghĩa, tạo không gian phát triển rộng lớn hơn cho chủ nghĩa tư bản.

IV. VAI TRÒ, HẠN CHẾ VÀ XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA CNTB

1. Vai trò của chủ nghĩa tư bản đối với sự phát triển của nền sản xuất xã hội

Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã giải phóng loài người khỏi “đêm trường trung cổ” của xã hội phong kiến: đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa; chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn.

Phát triển lực lượng sản xuất: cùng với sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ là quá trình giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả khám phá và chinh phục thiên nhiên của con người, đưa nền kinh tế của nhân loại bước sang một thời đại mới: thời đại của kinh tế tri thức.

Thực hiện xã hội hóa sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu: sự phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất tập trung với quy mô hợp lý, chuyên môn hóa sản xuất và hợp tác lao động sâu sắc.

2. Hạn chế của chủ nghĩa tư bản

Quá trình tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản thực chất đó là quá trình tích lũy tiền tệ nhờ vào những biện pháp ăn cướp, tước đoạt đối với những người sản xuất hàng hóa nhỏ và nông dân tự do; nhờ vào hoạt động buôn bán, trao đổi không ngang giá qua đó mà thực hiện sự bóc lột, nô dịch đối với những nước lạc hậu.

Cơ sở sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản là quan hệ bóc lột của các nhà tư bản đối với công nhân làm thuê.

Các cuộc chiến tranh thế giới với mục đích tranh giành thị trường, thuộc địa và khu vực ảnh hưởng đã để lại cho loài người những hậu quả nặng nề.

Chủ nghĩa tư bản phải chịu trách nhiệm chính trong việc tạo ra hố ngăn cách giữa các nước giàu và các nước nghèo.

3. Xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản

Chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển, trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất ngày càng cao thì quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng trở nên chật hẹp so với nội dung vật chất ngày càng lớn lên của nó. Theo sự phân tích của C.Mác và Lênin, đến một chừng mực nhất định, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ bị thủ tiêu và một phương thức sản xuất mới – phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa sẽ ra đời và thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Với những điều chỉnh để thích ứng trước những biến động, mâu thuẫn bên trong và ngoài nước, chủ nghĩa tư bản trước mắt vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển, mặc dù là sự tồn tại này không phải là vĩnh hằng và không phải là vô hạn.

Mặt khác cũng phải nhận thức rằng, tất cả những điều chỉnh đó vẫn không thể thủ tiêu được mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đồng thời lại xuất hiện thêm những mâu thuẫn mới đẩy chủ nghĩa tư bản rơi vào những khó khăn mới về kinh tế, chính trị, xã hội.

C.Mác và Lênin đã nhận định: phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không tự tiêu vong và phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa cũng không tự phát hình thành mà phải được thực hiện thông qua cuộc cách mạng xã hội, trong đó giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội này chính là giai cấp công nhân.


Câu hỏi ôn tập

1.      Trình bày những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền, đặc điểm nào giữ vai trò quyết định nhất, vì sao?

2.       Phan tích mối quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh, sự biểu hiện của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.

3.      Phân tích nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

4.      Trình bày những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

5.      Phân tích những nét mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại.

6.      Trình bày vai trò, hạn chế và xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro