nhật mộ biên thảo

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

0.solitude

Đang có bão.

Cơn bão âm ỉ ngoài biển xa mấy hôm rày sắp đổ vào đất liền. Trời đất âm u xám ngoét một màu, gió vần vũ, mây cuồn cuộn, lá khô bay rào rào trên đường đất. Đã vào chiều, lại giữa tiết thu, trời tối sập xuống, nắng lay lắt như chỉ còn một khoảnh khắc là tắt hẳn. Con đường trong núi đã vắng càng hoang vu hơn. Vùng này nhiều thú hoang, bình thường người qua lại phải tụ họp thành nhóm thật đông mới dám đi, khi trời giông bão, đá núi có thể trượt xuống hay lũ có thể tràn lên bất cứ lúc nào, lại càng không ai nghĩ tới việc đi qua.

Nhưng hiện thời, trên đường lại có một gã thanh niên lật khật đi đến. Tóc túm lại cẩu thả sau gáy, kiếm đeo vẹo xọ sau lưng, quạt dúi cẩu thả vào thắt lưng chung với bầu rượu, dù bộ quần áo hắn mặc bằng loại vải đắt tiền, ai cũng có thể nhìn ngay ra tư thái hoang đàng của kẻ đang tới. Đầu cúi xuống, bước chân hơi lảo đảo, hắn có vẻ như còn say rượu chưa tỉnh. Thi thoảng hắn lại lấy nắm tay đập nhè nhẹ vào thái dương.

"Lão quái này cho ta uống cái gì vậy chứ?" Cuối cùng nhịn không được, hắn lẩm bẩm ra miệng. Miệng khô lưỡi đắng, nhưng hắn không dám uống thêm rượu. Dù có buông tuồng đến đâu, hắn vẫn còn quý mạng sống của mình để gấp gấp đến trạm dừng chân phía trước, không thể ở lại giữa rừng làm mồi cho hổ đói.

À không, cũng có thể không có hổ đói, lúc này. Hắn nhếch môi trong cái cười nhàn nhạt. Thứ ở trong rừng lúc này có thể còn nguy hiểm hơn cả hổ.

Hắn cau mày lắc đầu, cố kéo đôi chân nặng chịch của mình nhanh bước. Trời đã chạng vạng, hắn rút thanh kiếm sau lưng ra cầm trên tay. Nghĩ một lúc, hắn cao giọng hát:

"Nhàn viễn mộng 

Nam quốc chính thanh thu 

Thiên lý giang sơn hàn sắc mộ 

Lư hoa thâm xứ bạc cô châu 

Địch tại nguyệt minh lâu."[1]

Đừng lấy làm lạ, và nhất là đừng nghĩ hắn có tâm hồn thi thơ đến mức ấy. Hắn, Mạc Kinh Vũ, có sở trường lớn nhất là đánh bạc và đánh nhau. Tất nhiên, đánh bạc sẽ dẫn đến đánh nhau, và để sống được thì hắn phải thạo cả hai. Hắn cũng chẳng buồn miệng mà hát khi đang khát cháy cổ như thế này.

Hắn chỉ đang muốn báo cho thứ không phải thú hoang đang ẩn nấp trong rừng. Báo về sự xuất hiện của hắn, và làm ra vẻ hắn không hề liên quan đến chuyện quỷ quái đang xảy ra này.

Phải, có một chuyện quỷ quái nào đó đang xảy ra trên vùng đất quái quỷ này. Cùng với cơn bão đang ập đến. Khi hắn vừa bước chân vào địa phận Quảng Nam.

Đó là chuyện buổi sáng này, khi hắn dừng lại nghỉ chân ở một quán rượu trước ngôi làng nhỏ. Vừa buộc ngựa vào cửa, một tên thanh niên to lớn lừng lững đã dừng lại ngay sau hắn. Gã nhìn hắn như thể hắn là một con nợ bỏ trốn - Và quả thật, hắn đã ngẩn người một lúc để cố nhớ xem mình có thiếu nợ gã không.

"Cờ hiệu?" Gã cao to chợt nói, giọng trầm đục thoát qua đôi môi hầu như không động. Hắn ngẩn người.

"Cái gì?" Hắn ra bộ ngây ngốc hỏi. Gã thanh niên nhìn hắn từ đầu đến chân thêm một lượt nữa.

"Ngươi từ đâu tới?" Cuối cùng, gã lắc đầu.

Hắn trỏ tay về phía núi, rồi lại trỏ xuống dưới chân. "Từ đó đến đây." Hắn đã thấy khó chịu. Và đơn giản là hắn chẳng việc gì phải khai báo với gã lạ mặt này.

"Nhãi con, về nhà với mẹ đi, đừng chạy lung tung." Gã cau mày, ánh mắt mang mấy phần tức giận. Nhưng hắn vừa mở miệng định nói, gã đã quay lưng đi mất.

Hắn cũng chẳng thèm để tâm. Bộ dạng gã ấy như thể đã nhận nhầm hắn với ai đó. Và theo lề thói của bọn giang hồ nhãi nhép, gã phải mắng vài câu để xả giận. Nhưng hắn không phải bọn giang hồ nhãi nhép để cãi cọ những chuyện không đâu.

Hắn chỉ cần được đánh bạc và uống rượu, vậy thì sao phải gây sự khi có rượu ngay trước mắt?

Vài kẻ trong quán rượu ngước lên khi hắn bước vào. Gã thanh niên vừa nói chuyện với hắn đứng cạnh cửa lắc đầu, những cái đầu lại cúi xuống. Chủ quán chạy đến khi hắn ngồi xuống cái bàn trong góc, nhìn hắn từ đầu đến chân với cái nhìn giống hệt gã thanh niên nọ.

"Cậu từ đâu tới?" Ông chủ quán rượu gầy gò có một vết sẹo dài chạy dọc bên má trái hỏi. Hắn chớp mắt. Chủ quán cần phải hỏi khách từ đâu tới, hắn lần đầu tiên gặp.

Không để hắn trả lời, chủ quán cúi xuống thì thầm: "Nếu cậu không liên quan đến những chuyện này, lánh đi là hơn."

"Cho ba vò rượu, ba cân thịt." Hắn ngả người ra sau, nhắm mắt làu bàu. Cả nửa ngày trên lưng ngựa đã làm hắn đau lưng. Trời có sập xuống lúc này, hắn cũng phải uống rượu cái đã.

Chỉ chốc lát, rượu thịt đã bày trước mặt. Ăn no uống say, hắn dựa lưng vào tường, khoanh tay thiu thiu ngủ. Trong cơn bão sắp đến, khí trời lại se lạnh, như thể vỗ về cơn buồn ngủ của hắn.

Cho đến khi tiếng động đánh thức hắn dậy.

Một tiếng nổ lớn như thể bộc pháo nổ ngay bên cạnh quán rượu. Mặt đất rung lên. Khi hắn định thần nhìn lại, một bức tường đắp lá của quán rượu đã sập, bày ra cảnh tượng bên ngoài con đường làng. Một nửa vạt tre đã bị thổi bay. Đất cát đang lả tả rơi, cuốn thốc vào quán, cuồn cuộn theo cơn gió lốc. Có tiếng rú của ai đó, như thể một người phụ nữ.

"Chúng... chúng giết anh ta rồi!" Tiếng phụ nữ thất thanh. Những kẻ đang còn há hốc miệng nhìn vụ nổ trong quán như thể giật mình, gần như đồng loạt đứng dậy. Soạt một tiếng, gươm giáo được họ rút ra, cầm lăm lăm trên tay. Gã thanh niên cao lớn là kẻ đi khỏi quán trước tiên, kéo theo tất cả khách trong quán theo chân gã. Trong một lúc, chỉ còn hắn và ông chủ quán với bức tường sập.

"Chuyện gì vậy?" Hắn đứng dậy phủi đất cát trên áo, quay sang hỏi chủ quán. Ông ta nhún vai, như thể đã quen với sự kiện tường nhà bị thổi bay mất.

"Cậu đúng là không biết gì." Ông ta nheo mắt nhìn hắn, rồi lắc đầu. "Cậu tốt nhất đêm nay vào làng tìm chỗ mà ngủ, đừng đi đâu cả."

"Đất này ở đâu cũng chôn bộc phá thế à?" Hắn vẫn trình bộ dạng ngây ngốc mà hỏi. Đầu hắn vẫn còn nhức. Hắn nhớ mình đã ngủ hẳn đi mất. Hắn đã uống bao nhiêu loại rượu trên đời nhưng chưa từng say như thế. Lão già này bán thứ rượu gì vậy?

"Các bang phái đang đánh nhau, tôi chỉ biết có vậy." Ông chủ quán trả lời, quay nhìn hắn với vẻ ngạc nhiên hiện lên trong mắt. Hắn đưa tay kiểm tra lại mặt mình. Vụ nổ vừa rồi không lấy mất cái gì trên mặt hắn chứ?

Hắn nhếch môi. Vừa hay, hắn vốn rất thích náo nhiệt.

"Cám ơn lão." Hắn cầm lấy hành lý, móc ra một mảnh bạc thảy cho chủ quán. Không nghe tiếng ông ta gọi với theo, hắn nhảy lên ngựa, thủng thẳng chạy đến rặng tre bị phạt mất phân nửa.

Đám người vừa nãy đã biến mất không một vết tích, chỉ để lại bên rặng tre một thân người - đúng hơn, nửa thân người bầy nhầy máu và một con ngựa đang hấp hối. Nhìn thoáng qua, hắn nhận ra đó là kẻ mà gã thanh niên đã đợi. Màu áo của kẻ đã chết giống hệt áo hắn. Cả sắc ngựa cũng giông giống.

Gió thổi qua làm cành tre lung lay nhè nhẹ, khói và đất cát tan bớt. Bắt gặp một tia sáng trong lùm tre, hắn liền với tay bắt lấy. Một chiếc thẻ bài còn nguyên tua đỏ, một mặt khắc hình kỳ lân, mặt kia khắc chữ Hải theo lối triện.

"Có nên giữ cái này không?" Hắn nói với con ngựa bên cạnh. Kinh nghiệm cho hắn biết, giữ những vật đáng nghi trong người sẽ đem lại rắc rối vô ích.

Nhưng cuối cùng, hắn nhún vai, nhét miếng thẻ bài vào thắt lưng.

Hắn vốn ưa thích náo nhiệt.

Đó là chuyện hồi sáng này, còn bây giờ thì hắn đã hối hận. Hắn chỉ ưa thích sự náo nhiệt của người sống, không phải của người chết.

Vào địa phận Quảng Nam phải đi một quãng rừng dài mới đến Hội An. Theo dự định, hắn sẽ đi chừng hai ngày, cùng một đêm nghỉ chân ở trạm dừng. Nhưng hiện giờ thì hắn đang kẹt giữa rừng, trước mặt là cơn bão đang đổ đến, sau lưng là một đống xác chết mà hắn biết là khôn ngoan thì đừng quay đầu lại.

Mà ngay cả ngựa cũng đã mất, hắn chỉ có thể cuốc bộ giữa rừng, với cái đầu quay mòng mòng, đau dội từng cơn. Mấy vò rượu buổi sáng không có vẻ tan bớt, chỉ càng ngày càng mạnh, xộc lên cả cổ họng hắn. Xung quanh, rừng núi im lìm, chỉ vọng vang tiếng gió.

Từ lúc rời khỏi xác chết bên rặng tre, trên đường đi, hắn chỉ gặp toàn người chết. Người còn sống khi gặp hắn, cũng đã chết.

Cả gã thanh niên đã nói chuyện với hắn buổi sáng cùng nhóm người của gã. Chúng là những xác chết đầu tiên hắn gặp, đầu đoạn đường rừng.

Không có hỗn chiến. Chỉ có những mũi tên ghim dày trên đường. Dày đến mức hắn nghĩ rằng phải cả đội quân mới có thể bắn được.

Chính xác, là phải cả đội quân mới có thể bắn được.

Hàng trăm mũi tên đã được đồng loạt bắn ra từ phía trước con đường, ghim vào đoàn người đang đi tới. Và hàng trăm mũi khác được bắn từ phía sau. Có những ngọn giáo phóng vào triệt hạ đến người cuối cùng. Những dấu giày lạ cho thấy kẻ hạ thủ đã cẩn thận kiểm tra từng thi thể một để chắc rằng không có ai còn sống sót. Cũng không ai có thể sống sót với độc được tẩm lên đầu tên.

Những mũi tên chuốt thẳng một phần đuôi, đầu tẩm độc - xuất phát từ một loại nỏ của xứ sở này. Trong rừng rậm, đám người phục kích đã nấp sẵn để đợi con mồi, và đồng loạt ra tay. Nỏ là loại vũ khí thích hợp cho rừng rậm và phục kích. Kẻ ra tay dường như đã tính toán cẩn thận. Từ bộc phá chôn trước làng cho đến đoàn quân dùng nỏ phục trong rừng. Hắn nghĩ thầm.

Nhưng ngay sau đó, hắn đổi ý. Khi nhìn thấy đoàn quân dùng nỏ bị giết chết.

Đúng là người của xứ sở này. Nhiều người trong đám quân chừng vài chục ấy còn mang trang phục sặc sỡ của dân miền núi hay tấm khăn lớn quá khổ mà nam giới xứ này thường đội trên đầu. Hắn hiểu tại sao lại có số tên nhiều như thế khi nhìn thấy hệ thống nỏ mà chúng mang theo. Những chiếc hộp lớn chứa vài chục mũi tên và cơ quan để bắn ra cùng lúc. Nhưng những chiếc hộp đã cạn tên, có thể do cuộc phục kích vừa rồi, và đã không cứu được chủ nhân chúng.

Lần này, kẻ tấn công ra tay trực tiếp. Những dấu giày xéo nát đất trên đường. Những vết dao trên thi thể kẻ bị giết. Tất cả có cùng một vết chém qua cổ, sâu, dứt khoát và mảnh. Như thể cùng một cách thức, một loại vũ khí, một người.

Hắn ngồi xuống nhìn những dấu chân hỗn loạn. Chính xác, kẻ tấn công chỉ là một người. Dấu giày khác hẳn với giày của đội quân dùng nỏ.

Khoan đã, giày? Hắn cau mày nhìn về phía các thi thể. Theo hắn biết, người xứ sở này không có thói quen đi giày...

Quan sát một lúc, hắn nhàn nhạt cười.

"Đi nào, Tiểu Mã!" Hắn nhảy lên ngựa, phóng về trước. Theo như hắn dự tính, kẻ ra tay hẳn vẫn còn lẩn khuất trong rừng.

Chỉ một mình, gã có thể hạ sát chừng ấy người, hẳn là một cao thủ. Mà hắn thì rất ưa thích cao thủ.

Chỉ có điều, hắn không thích cao thủ bị treo lên cây.

Kẻ có đế giày giống như dấu giày hắn nhận ra đã bị treo ngược lên cây, lơ lửng giữa con đường, mắt mở trừng trừng nhìn hắn. Dây nhợ giăng chằng chịt quanh gã như thể một cái mạng nhện. Hai sợi dây được cột kiểu thòng lọng đã quấn siết lấy cổ gã, hẳn là nguyên nhân đưa gã đến cái chết.

Như một con côn trùng mắc vào lưới nhện, gã cao thủ này đã vướng vào hệ thống dây giăng giữa hai cây cổ thụ cao hàng chục trượng bên đường và bị treo giữa trời.

Võ công đã không giúp được gã. Kẻ bày ra trận thế này thậm chí đã bôi độc lên dây. Dù không giết người, thứ độc này sẽ khiến toàn thân ngứa ran, càng vùng vẫy sẽ càng khiến dây siết chặt.

Hắn nhận ra thứ độc này, cũng như nhận ra những dấu giày.

Hắn đứng một lúc quan sát hệ thống bẫy dây, thầm lấy làm kính sợ. Một hệ thống bẫy tinh xảo đến ngạc nhiên. Gã cao thủ có lẽ đã dùng đao chặt đứt một sợi dây, khiến cả hệ thống chuyển động. Hắn vẫn còn nhìn thấy những sợi dây bị chặt đứt, nhưng kẻ bị vây có lẽ không đủ nhanh nhẹn để phản ứng khi đã trúng độc ngứa trên dây.

Hắn nhún vai định bỏ đi. Nhưng nghĩ lại, hắn rút kiếm trở về, chặt đứt mối nối giăng giữa hai cây cổ thụ, cẩn thận tránh xa các đầu dây. Cái bẫy hạ xuống, hất thi thể gã cao thủ xuống đất. Hắn dùng kiếm hất gã trở lại bên đường, vẫn quấn kín trong đống dây nhợ.

Hắn chỉ không ngờ, kẻ giăng bẫy vẫn còn cái bẫy thứ hai.

Hành động của hắn đã khiến cái bẫy thứ hai khởi động. Trong một khắc, hắn thấy như cả ngọn núi đè ập xuống. Đất dưới chân hắn rùng rùng chuyển động, nứt toác ra để lộ một cái hố sâu ngòm bên dưới. Hắn vội vã chống kiếm vào tảng đá đang rơi xuống, lựa thế chao người, nắm lấy đoạn dây vẫn còn lay lắt buộc vào cây cổ thụ, phóng lên cây. Nhưng con ngựa không phản ứng được như hắn. Nó rơi xuống hố trong lòng đất, hí lên thảm thiết.

"Xin lỗi, tao không cứu được mày." Hắn cau mày nghe tiếng con ngựa lịm tắt khi một tảng đá lớn rơi đè lên. Đá trên đỉnh núi vẫn không ngừng lăn xuống. Có vẻ như mối nối giữa hai cây cổ thụ này liên kết với cơ quan trên đỉnh núi, nơi đã chuẩn bị hàng khối đá - và khối bộc phá dưới đất. Khối bộc phá không đủ để giết người, nhưng đủ để phá lớp đất mỏng đã được đào phía dưới tạo thành hố sâu. Và lúc này, hắn có thể thấy dưới đáy hố lởm chởm chông nhọn hoắt. Kẻ rơi vào chỉ thịt nát xương tan.

Hắn may mắn đã đứng gần gốc cây khi đẩy cái xác vào bên đường. Và càng may mắn hơn khi hắn là Mạc Kinh Vũ - có sở trường là đánh bạc và đánh nhau. Hắn có giác quan cực kỳ thính nhạy để nghe được tiếng lắc bầu cua xúc xắc - và phản ứng cực kỳ nhanh nhạy để đối phó với bất kỳ kẻ thua bạc đánh lén hay bất thần điên tiết giở trò nào.

"Ta là mèo có chín cái mạng." Hắn lẩm bẩm khi rắc thuốc vào bàn tay đã nắm sợi dây bắt đầu râm ran ngứa. Để đề phòng cái bẫy thứ ba, hắn chuyền trên cây mà đi một quãng dài. Cho đến khi bắt gặp đám thi thể thứ tư.

Những cái xác này có vẻ đã chết lâu hơn đám người hắn gặp trước. Mùi hôi đã bắt đầu bốc lên, chiêu dụ đám ruồi nhặng bu về. Cùng với vị rượu buổi sáng, mùi hôi này làm hắn lảo đảo. Hắn buộc phải tuột xuống cành cây, gần như nôn thốc ra.

Gốc cây mà hắn tựa vào còn nguyên dấu đạn bắn. Giống như những xác chết.

Chừng chục người thân đeo đao lớn, đầu quấn khăn xanh nằm úp lên nhau như được kéo lại bên đường sau khi chết. Hắn nhặt lên một chiếc thẻ bài rơi gần đó. Tuy hơi khác dạng với thẻ bài trong người hắn, trên hai mặt vẫn là hình kỳ lân và chữ Hải.

Hắn lại phảng phất cười.

Chú thích:

[1] Bài từ Vọng Giang Nam kỳ 2 của Lý Dục.

Mộng xa vời 

Nam quốc tiết thu trong 

Thiên lý giang sơn lạnh sắc chiều 

Hoa lau mé nước bạc màu thuyền cô lẻ 

Tiếng địch vang trên lầu sáng ánh trăng

Hồi 1: Đêm mưa

Những kẻ quen Mạc Kinh Vũ đều biết rằng không thể tin tưởng nụ cười của hắn.

Là một con bạc thành thục thì phải biết cách khống chế tình cảm biểu hiện ra bên ngoài. Thắng không mừng, bại không loạn, bị dồn vào thế bí mà không đổi sắc. Nụ cười, do đó, trở thành một loại vũ khí của hắn.

Như lúc này, thật tình thì trong lòng hắn đã hơi lạnh đi vì sợ.

Dù vẫn chưa biết chuyện gì đang xảy ra, hắn đã biết được một điều: Những kẻ ẩn nấp trong rừng sẽ không để bất cứ kẻ nào thoát ra khỏi quãng đường này. Không kẻ nào có thể còn sống để thoát ra.

Không thủ đoạn gì mà kẻ ấy không dám dùng. Và những kẻ ra tay luôn luôn bảo đảm rằng không còn kẻ nào sống sót.

Gió vẫn rào rào thổi cùng cát và lá khô trong không gian mù mịt sương cùng bóng tối. Rời khỏi đám xác chết đã bốc mùi, hắn đi ngược chiều gió tiến lên trước. Linh tính, mà cũng là tính toán, cho hắn biết rằng con đường trở về chỗ cũ còn nguy hiểm gấp bội phần. Những kẻ canh giữ hẳn vẫn còn lẩn khuất trong rừng. Và hắn sẽ không ngạc nhiên nếu như gặp một đám xác chết nữa còn mang súng.

Quả là hắn đã gặp một đám xác chết mang súng. Tư thế của những kẻ bị giết giống hệt như đám người đội khăn xanh kia. Kẻ ra tay đã kiểm tra từng người, rồi hất chúng lại thành đống bên đường. Lần này, vũ khí lại là đao kiếm. Và qua những vết thương, hắn xác định được rằng chỉ có hai người ra tay.

Hai người ấy, như thể một cặp vợ chồng tuổi trung niên, đã bị ghim vào cây.

Xung quanh là một chiến trường bừa bộn. Cây cối trăm năm to cả người ôm ngã gục, những tảng đá lớn bằng cả căn nhà vung vãi. Nhưng thứ làm hắn động tâm hơn hết là những mũi tên đã bắn vào ngực cặp vợ chồng kia, ghim họ gắn chặt lên cây. Mũi tên to bằng bắp đùi người, hẳn đã được bắn đi với một lực cực mạnh, bằng chiếc nỏ cực lớn. Cũng như những tảng đá hẳn đã được bắn bằng máy bắn đá khổng lồ, phải vài chục người mới có thể điều khiển được. Kẻ có khả năng chế tạo và sử dụng những thứ này, hắn biết rằng không có bao nhiêu người.

Nhưng hắn không có thời gian dừng lại xem xét. Linh cảm báo cho hắn phải rời khỏi nơi ấy ngay lập tức. Quả thật, khi hắn vừa đi được chừng nửa dặm đường, mặt đất một lần nữa lại rung chuyển trong tiếng nổ đinh tai. Chiến trường nơi ấy đã được xóa sạch.

Không ngoái lại, hắn chỉ gấp gấp bước về phía trước.

Dù gì, hắn vẫn quý mạng sống của mình hơn hết thảy. Đến dịch trạm[1], hắn còn có cơ may sống sót. Dù không sợ người, hắn cũng phải biết sợ những súng đạn, máy bắn đá, phá sơn nỗ lẫn bộc phá chĩa ra từ mọi hướng trong rừng. Và ai biết, khi trận bão tràn đến, đá có lăn xuống hay nước có dâng lên dìm hắn chìm nghỉm hay không.

Thôi được, hắn thừa nhận đã toát mồ hôi vì sợ khi thấy dàn vũ khí mà kẻ lẩn khuất trong rừng sử dụng. Dù có giỏi đánh nhau, hắn chỉ có thể đánh với người chứ không thể đánh với máy.

Bóng chiều ngày càng u ám. Gió ngày càng mạnh. Không khí đặc mùi đất và cỏ nhộn nhạo trong lồng ngực vốn đã đầy vị rượu của hắn. Hắn lắc đầu, cố lấy lại trấn tĩnh rồi lại ngửa cổ lào khào hát.

"Nhàn viễn mộng 

Nam quốc chính thanh thu 

Thiên lý giang sơn hàn sắc mộ 

Lư hoa thâm xứ bạc cô châu 

Địch tại nguyệt minh lâu."

Hát đến lần thứ ba, hắn chợt nghe tiếng xe ngựa chạy tới đằng sau. Có vẻ như rượu và gió lốc trong núi đã làm giác quan hắn kém bén nhạy đi hẳn. Chiếc xe đã lại gần, hắn mới nhận biết. Xe ngựa dừng lại bên cạnh hắn, thùng xe che khuất kẻ mã phu, hắn chỉ nghe tiếng nói trong xe vọng ra.

"Huynh đài, lên xe không?" Tiếng một cô gái, có vẻ như còn rất trẻ. Thanh âm trong vắt, mềm như nước suối rừng, nghe như bao giờ cũng thoáng một nét cười.

Như người chết đuối vớ được cọc, hắn chẳng nghĩ ngợi gì liền gật đầu.

"Cám ơn." Hắn nói, vòng đến trước để nhảy lên xe. Tên mã phu đội mũ rơm, mặc áo tơi sùm sụp chỉ hơi ngoảnh đầu nhìn khi hắn ngồi vào thùng xe. Chiếc áo tơi gã mặc vẫn còn ướt, vài giọt nước vẫn đang nhỏ xuống.

Trong xe chỉ có hai người. Cô gái đã lên tiếng mời hắn ngồi cuối xe, khuất trong bóng tối. Ngồi sát cửa xe là một ông lão mặc áo cà sa vàng theo lối nhà sư nhưng không cạo đầu, tóc ngắn đâm tua tủa qua chiếc nón rơm đội cẩu thả. Thấy hắn, ông lão cau đôi mày rậm, quay về phía cô gái mà lắc đầu.

"Tên tửu quỷ này đầy mùi rượu." Ông ta nói, nắm lấy cổ áo hắn như thể chỉ chờ lệnh để ném hắn xuống xe. Hắn cau mày.

"Ta chỉ uống chút rượu hồi trưa, không biết là thứ quái quỷ gì mà còn lâu đến thế." Hắn thừa nhận mình cũng hao hao một tên tửu quỷ, nhưng không phải lúc này. Hắn không bao giờ thừa nhận lỗi không phải của hắn.

"Coi bộ ngươi đã uống phải Lạc Lạc thang rồi." Cô gái nghe như đang cười. "Uống bao nhiêu thế?"

"Ba vò." Hắn không biết Lạc Lạc thang là cái gì, nhưng vẫn trả lời. Cái cau mày của lão già càng sâu hơn. Kẻ ngồi trong bóng tối nhẹ lắc đầu.

"Ngươi còn bảo mình không phải tửu quỷ? Người bình thường uống một vò Lạc Lạc thang là đã ngủ hai ngày." Cô gái nói, trong khi hắn vẫn ngây ngốc nhìn.

"Thôi, cho hắn ngồi nhờ một quãng." Cô gái nói, và bàn tay nắm cổ áo hắn lỏng ra. Hắn thở phào, tự mình ngồi xuống đối diện với lão già. Như hiểu ý, tên mã phu cho xe chạy.

"Lạc Lạc thang là gì?" Cuối cùng, hắn nhịn không được tò mò mà hỏi.

"Ngươi biết rượu cần chứ? Loại rượu được chưng cất từ lá cây, thuốc bắc và ngũ cốc ấy." Cô gái trả lời hắn đều đều, giọng vẫn ôn nhu như nước. "Có một số người trong vùng này lấy công thức ấy, bào chế thêm một loại thuốc để cho vào rượu thông thường, gọi là Lạc Lạc thang. Loại ấy có mùi vị rất giống rượu cần, nhưng không cần ủ công phu như thế, cũng không quý giá như rượu thật. Uống quá nhiều thì có hại cho đầu óc lẫn ngũ tạng."

"Nói cách khác là làm đồ giả. Hừ, đồ gian thương." Hắn lầm bầm. Hắn đã minh bạch tại sao lão già chủ quán lại trố mắt nhìn hắn vẫn còn tỉnh táo sau khi uống cả ba vò rượu. Có tiếng cười khẽ, rồi một hoàn thuốc rơi vào vạt áo hắn.

"Thuốc giã rượu đấy, uống đi."

Lão già nhìn hắn bỏ viên thuốc vào miệng, cau mày.

"Tên ngốc này cho gì ăn nấy, có ngày uống cả nước đái ngựa." Lão lầm bầm. Tiếng cười trong trẻo của cô gái càng rõ hơn.

"Kẻ ngốc thì không thể làm người xấu." Cô gái cười. Hắn lắc đầu. Cơn đau đã dịu đi, làm đầu óc thanh tỉnh lại. Câu nói của cô gái làm hắn âm thầm giật mình.

"Các vị từ đâu đến, định đi đâu?" Hắn mỉm cười hỏi. Chiếc xe này chạy tới từ sau lưng hắn, chẳng phải đã đi qua đám xác chết mà hắn đã thấy - chưa kể đến khu đất đã bị phá sập?

"Trên núi xuống, định đến Hội An." Giọng cô gái trả lời hắn vẫn bình thản. Ngón tay cô chỉ mông lung về phía cửa xe. "Chúng tôi vừa rời khỏi đường núi thì gặp anh."

À, hắn thốt khe khẽ trong cổ. Ngoài hệ thống đường chính, người sống trong núi vẫn có lối đi riêng của họ, hắn biết điều ấy. Định thần nhìn lại, cô gái quả đang mặc áo trắng, váy xòe đỏ dài ngang gối, trang phục của người Thượng mà hắn từng nhìn thấy tại Hội An. Trong việc buôn bán phát đạt tại bến cảng Hội An tấp nập, người Thượng không những thành thạo tiếng Kinh mà một số nói được cả tiếng Tàu, đó không phải là chuyện lạ.

"Các vị dừng chân ở dịch trạm trước chứ?" Nghĩ một lúc, hắn nói, nhớ lại lời lão chủ quán buổi sáng. Lão đã khuyên hắn nghỉ lại làng một đêm. Như vậy, qua đêm nay, những việc kỳ quái này có lẽ sẽ chấm dứt.

Im lặng một thoáng trong xe. Cô gái có vẻ như đã liếc nhìn hắn, rồi cười khẽ.

"Ngươi sợ à?" Cô hỏi, khúc khích cười, nói tiếp khi hắn còn đang ngơ ngác. "Chuyện đánh nhau của bọn chúng, không có gì phải sợ."

"Bọn chúng?" Hắn hỏi lại. Cơn say đã dần tan, và hắn lại bắt đầu tò mò. Tuy đã sơ bộ nắm được cục diện trận chiến trong rừng, hắn vẫn muốn biết chuyện gì đang xảy ra trên vùng đất này.

"Thanh Hải bang và Hồng Thiên hội." Cô gái nói với cái 'hừ' khẽ. "Hai bang phái này đang đánh nhau, rồi bang chủ Thanh Hải bang bị thủ hạ cấu kết với Hồng Thiên hội làm phản, giết chết. Thuộc hạ của Thanh Hải bang đang rối lên chạy khắp nơi."

"Hai bang phái này là... cái gì vậy?" Hắn vẫn làm ra vẻ ngây ngốc. Lão già trước mặt hắn đã nhắm mắt như ngủ, nhưng đôi mày nhíu lại. Cô gái nhìn hắn từ trong bóng tối một lúc, rồi vỗ tay quay sang lão già, nói như reo lên.

"Ta đã bảo hắn là người Đông Phố rồi mà, giờ ông tin chưa?" Tiếng cười trong như chuông ngân, như của một bé gái, như thể vừa thắng một cuộc cá cược nhỏ. Họ hẳn vừa cá cược về thân phận hắn.

Nhưng hắn chỉ nhàn nhạt cười.

"Sao cô biết ta là người Đông Phố?" Hắn cười mà hỏi. Ngón tay cô gái mân mê lọn tóc bên thái dương khi cô nghiêng đầu.

"Nếu không ai lại hát bài ca vong quốc ấy?" Câu trả lời nửa đùa nửa thật. Hắn im lặng.

Hắn đã hát một bài từ của Lý Dục. Lý Dục, hay còn gọi là Nam Đường Hậu chủ, vua của nước Nam Đường. Nam Đường bị nhà Tống diệt, Lý Dục bị đưa về phương Bắc, ngày ngày rửa mặt bằng nước mắt trước khi bị Tống Thái tổ cho uống thuốc độc chết. Loạt bài Vọng Giang Nam của Lý Dục là lòng nhớ quê hương tha thiết của ông vua tài hoa này.

Ngày còn nhỏ, hắn vẫn thường nghe cha, rồi anh trai, thi thoảng là cả Dương tướng quân, hát bài này, rồi khi nãy thuận miệng mà hát. Vong quốc ca, giờ thì hắn giật mình nhận ra.

Gần mười năm trước, khi quân của hoàng đế Khang Hy bình định Giang Nam, tiêu diệt triều đình Ngô Tam Quế cùng các phiên nổi dậy, Tổng binh thủy lục Long Môn tại Quảng Đông là Dương Ngạn Địch cùng phó tướng Hoàng Trấn, Tổng binh trấn Cao Lôi Liêm là Trần Thượng Xuyên bỏ nước mà đi, đến cảng Đà Nẵng nương nhờ chúa Nguyễn. Chúa Hiền liền liên hệ với Thái hậu Ngọc Vạn của Chân Lạp, nhờ triều đình Chân Lạp cho bọn họ đến sinh sống ở những vùng đất còn hoang vu. Vùng ấy, người Nam Hà thường gọi là Đông Phố.

Vọng Giang Nam, chỉ một bài ca, thân phận của hắn đã lộ.

Nhưng hắn chỉ nhún vai, nhàn nhạt cười.

"Vậy Thanh Hải với Hồng Thiên là gì?" Hắn trở lại với câu hỏi. Cô gái vừa hắng giọng định trả lời, chiếc xe đột nhiên dừng lại.

"Có xác chết." Lão già mặc áo cà sa nhìn bên vai tên mã phu, bình thản nói. Hắn quay đầu nhìn ra ngoài xe. Trời đã tối hẳn, mưa đã lất phất rơi, chỉ loáng thoáng thấy từng vệt nước trong màn đêm. Hắn lấy làm lạ sao tên mã phu có thể đánh xe trong bóng tối này. Hẳn là nhờ vào những con ngựa quen đường. Chăm chú nhìn một lúc, hắn nhận ra hình dáng kỳ quái của một thân người dính vào vách đá. Một sợi dây thòng xuống từ trên đỉnh núi đã treo lơ lửng thân hình gã giữa trời.

"Ai vậy?" Cô gái hỏi, không động đậy, giọng nói cũng bình thản y như lão hòa thượng để tóc.

"Thượng Quan Đình." Nheo mắt nhìn một lúc, lão trả lời. Hắn thầm lấy làm ngạc nhiên rằng lão có thể nhìn được trong bóng tối này. "Trên bụng gã có vết thương. Ba vết rạch. Kim câu của Hoắc Mai Đoạn."

"Gã không tự treo cổ đấy chứ?" Có tiếng cười khúc khích bên cạnh hắn. Từ lúc nào không rõ, cô gái ngồi trong xe đã ngoài người ra. Mùi hương thơm thơm như thể một loài hoa phả vào mũi hắn khi cô chồm đến, bàn tay nhỏ vỗ lên vai tên mã phu. "Đưa gã xuống."

Không lên tiếng, hầu như không động đậy, chỉ nghe "soạt" một tiếng cùng một tia sáng bạc ánh lên giữa bóng tối, dây thừng treo xác chết đứt lìa, để cái xác rơi xuống. Thanh âm xương thịt gãy vỡ lạnh người.

"Nhất định phải đi xem sao?" Lão già hỏi khi cô gái nhảy xuống xe. Tên mã phu cũng lặng lẽ trượt xuống theo, cầm ô che cho cô ta.

"Thượng Quan Đình làm việc cẩn mật, người ngoài khó mà nắm hết hắn được." Cô gái lơ đãng trả lời trước khi bước đi. Chẳng mấy chốc, bóng hai người đã khuất sau lùm cây rậm.

"Các người là ai?" Không nhịn được, hắn hỏi. Không thèm để ý đến hắn, lão già đưa mắt nhìn quanh khu rừng rồi đến con đường trước mặt. Thanh âm của mưa và lá cây xào xạc tràn bóng tối.

Chỉ một lúc sau, hai người kia đã quay lại. Trên tay cô gái giờ có thêm một chiếc đèn nhỏ bằng quả lựu. Cô ta đưa tay vẫy lão già.

"Biết ngay mà, gã vẫn còn nhét cái này trong tai." Vừa nói, cô vừa ôm đèn nhảy lên xe. Thân người gã mã phu vừa chạm thành xe, chiếc xe ngựa đã chuyển động. Thân thủ của họ nhanh đến mức hắn vẫn chưa kịp nhìn thấy thứ trong tay cô gái. Cô ta đã lại nhét nó vào thắt lưng.

"Nhìn cái gì?" Nhận thấy ánh mắt chăm chú của hắn, cô gái ngẩng lên, nhíu mày. Trong ánh sáng của chiếc đèn nhỏ, diện mạo của cô ta làm hắn thoáng giật mình.

Mắt như nước hồ thu, chuyển chuyển phong tình. Môi như hoa nở, đạm đạm nét cười. Tươi như đóa mẫu đơn buổi sớm. Thanh tú như tuyết liên trong sương. Phiêu dật như liễu trên hồ. Khóe mắt đầu mày như bao giờ cũng vấn vương tiếu ý. Khi khóc lúc cười tình tứ phong lưu xao lòng. Tuổi chỉ chừng mười bảy, nõn nà như sương đọng trên gò má, trong trẻo như khí trời sau cơn mưa.

Một gương mặt chẳng có vẻ gì giống người Thượng. Dù trong ánh đèn, hắn vẫn nhận ra da cô ta rất trắng, mịn như sữa đông. Người sống trên đỉnh núi cao đầy nắng không thể có làn da như thế.

"Cô đẹp thật." Cuối cùng, hắn cười. Thiếu nữ vẫn nhíu mày nhìn hắn. Rồi bất chợt, cô ta bật cười. Nhoài người qua chiếc đèn, thiếu nữ gác tay lên vai hắn.

"Người Đông Phố thẳng thắn như vậy?" Cô gái hạ giọng thì thầm. Mùi hoa phả vào khứu giác hắn lâng lâng.

"Không hẳn." Hắn lắc đầu. Cánh tay mềm mại của thiếu nữ vẫn tựa lên vai hắn, nhẹ bỗng như thân thể không xương. Nụ cười trên đôi môi đỏ như có thể câu hồn đoạt phách.

"Không sợ ta giết ngươi?" Thiếu nữ vẫn mỉm cười. Hắn nhớ đến tiếng cười khúc khích của cô ta khi nhìn thấy xác chết, và nghĩ đến loài yêu tinh núi trong truyền thuyết. Sắc đẹp này chỉ có ở loài yêu tinh.

"Chết dưới hoa mẫu đơn, làm quỷ cũng phong lưu." Hắn dùng giọng bỡn cợt y như thiếu nữ, lối nói học lóm được của bọn phong lưu chốn yên hoa.

"Ngươi bị ngốc à?" Thiếu nữ bĩu môi, thả tay khỏi vai hắn.

Lão già từ nãy đến giờ quan sát hoạt cảnh này chỉ bật ra một tiếng cười ngắn. Quay sang cô gái, lão nhàn nhạt nói:

"Sắp đến nơi canh gác của Hồng Thiên hội rồi."

Cô gái gật đầu. Đầu con đường chợt sáng lên. Dịch trạm sáng ánh đuốc, huyên náo như thể có rất nhiều người. Một toán người đầu quấn khăn đỏ đứng trước trạm, chắn lối đường đi.

"Đêm nay không ai được đi qua. Mời quý vị vào trạm nghỉ ngơi." Một người trung niên có vẻ như cầm đầu toán này nói khi chặn chiếc xe ngựa lại. Không nói không rằng, cô gái với tay ra sau, cầm lấy một chiếc thẻ bài ném cho tên mã phu. Gã giơ nó trước mặt tên nhóm trưởng toán người. Trong ánh đuốc, hắn thấy trên thẻ bài là hình một đám mây khắc nổi.

Gã trung niên thoáng biến sắc, nhưng vẫn lắc đầu.

"Lệnh đã đưa là không cho ai đi qua con đường này, ngay cả anh em trong hội. Đại nhân, xin mời vào dịch trạm nghỉ ngơi, ngày mai đi tiếp."

"Chết tiệt!" Hắn nghe tiếng cô gái lầm bầm. Cô ta nghiêng người nhìn qua cửa sổ xe quan sát kẻ đang nói. Rồi bất chợt cười.

"Mai Điềm tiêu chủ, chuyến vận chuyển hàng của ngài đến Triều Châu tốt chứ?" Giọng cô gái trầm xuống, mất đi sắc trong trẻo của thiếu nữ, nghe như giọng một người trưởng thành. Thoáng giật mình, người được gọi là Mai Điềm nhìn về phía cửa sổ xe. Ngón tay quấn lọn tóc mai bên vai, thiếu nữ điềm đạm nói tiếp. "Chỉ còn ba ngày nữa đến hẹn, mong chúng ta ở nơi khác nói chuyện được nhiều hơn."

Gã trung niên mặt không đổi sắc, nhưng trán đã lấm tấm mồ hôi. Đứng yên một lúc, gã vẫy tay, ra hiệu cho tùy tùng mở lối. Có những ánh mắt thắc mắc, nhưng không ai dám chống lại lệnh chủ nhân.

"Ngươi xuống không?" Thiếu nữ đưa mắt về phía hắn. "Ngươi chẳng phải muốn xuống đây?"

"Tôi chỉ định nghỉ chân để đến Hội An, nhưng các vị đã cùng đường thì cho tôi đi nhờ vậy." Hắn mỉm cười. "Ngựa của tôi mất rồi, phải loay hoay tìm ngựa ở chốn hoang vu này thật là bất đắc dĩ."

"Vậy thì đi." Thiếu nữ lắc đầu khi chiếc xe lọc cọc chạy vào bóng tối. Sắc diện cô chập chờn trong ánh lửa, không rõ buồn vui.

***

Bão đã vào. Mưa tầm tã. Sấm sét như rạch nát bầu trời đỏ rực. Gió đập vào thành xe làm những tấm gỗ rung lên dưới lưng hắn. Chiếc xe vẫn phóng trên con đường vắng, không giảm tốc độ. Ngoài khơi xa, họ có thể nghe thấy tiếng sóng ầm ào. Phá Trường Giang hẳn đang gào thét đập vào vách đá. Biển hẳn đang hung hăng nhồi sóng tràn bờ.

Từ con đường trong núi, họ đã chạy ra đoạn đường đi dọc bờ biển. Ăn xong mấy miếng lương khô, cô gái lại đang tựa lưng vào thành xe, lấy cành liễu đập xuống sàn mà lẩm bẩm hát. Ngọn đèn đã được tắt đi, để bóng tối tràn ngập trong khoang. Mùi hoa từ cô gái càng nồng nàn.

"Lão Tứ, ra thế cho Sa đi." Cô gái im lặng được một lát lại chợt lên tiếng. Lão già có vẻ như thiu thiu ngủ uể oải vươn vai đứng dậy, vỗ vai tên mã phu, đón lấy áo tơi và nón của gã. Tên mã phu cao lớn chuồi người vào khoang xe chật, nhẹ nhàng ngồi xuống. Mọi cử động của gã đều nhẹ đến như một làn khí cũng không động.

Trong bóng tối mơ hồ như có sự chuyển động. Khi hắn nghe tiếng thiếu nữ lần nữa, thanh âm lại như phát ra từ bên cạnh - hoặc trong lòng - tên mã phu.

"Ngươi không lạnh chứ hả?" Giọng thiếu nữ ôn nhu, gần như dịu dàng. Chớp lóe trên bầu trời. Hắn loáng thoáng như thấy bàn tay trắng nhỏ chạm vào má tên mã phu.

Bóng tối chập chờn những thân ảnh bất động.

"Hát cho ta nghe đi." Giọng nói vẫn ôn nhu như dòng nước chảy trong bóng tối, giữa tiếng mưa ầm ào, sấm chớp vang động, và bóng tối bao la như biển cả.

Im lặng chênh chao. Rồi giọng một thanh niên trầm ấm khe khẽ hát, bằng tiếng Quảng Đông.

"Tiêu thanh yết, 

Tần Nga mộng đoạn Tần lâu nguyệt. 

Tần lâu nguyệt, 

Niên niên liễu sắc, 

Bá Lăng thương biệt, 

Lạc Du Nguyên thượng thanh thu tiết, 

Hàm Dương cổ đạo âm trần tuyệt. 

Âm trần tuyệt, 

Tây phong tàn chiếu, 

Hán gia lăng khuyết."

Chiếc chuông đồng treo trên đỉnh khoang xe kêu lanh canh. Gió thổi vào khoang, hương hoa chợt lạnh hơi mưa.

Xe ngựa đột ngột đứng lại. Hai con ngựa như bị ghìm đột ngột, đưa hai chân trước lên hí vang. Người trong xe nghiêng ngả va vào nhau.

"Có sơn tặc." Lão già không quay lại, lạnh lùng nói. Cô gái 'hừ' khẽ.

"Thời tiết này mà cũng đi cướp sao?" Hắn lầm bầm. Lão già phì cười.

"Đoạn đường này mọi thương nhân đều phải đi qua để đến Hội An, do đó trộm cướp không lúc nào thiếu. Trời mưa thì người ta cũng vẫn phải ăn chứ." Lão già ghìm cương cho ngựa thong thả đi, như thể vẫn còn chờ lệnh. Hắn uể oải ngáp.

"Thế thì vứt cho chúng vài đồng, chúng lùi lại ngay." Hắn đề nghị, nhưng cô gái khịt mũi như thể bất bình.

"Giết hết chúng đi." Thiếu nữ lạnh lẽo buông lời. Lão già gật đầu, cho xe chầm chậm đi. Trong ánh chớp, giờ thì hắn có thể nhận thấy những bóng áo tơi lẩn trong rừng cây. Chớp soi sáng những thanh đao thanh kiếm mà chúng giơ ra. Vài kẻ đã đứng chắn trên đường.

"Các anh em, vất vả quá nhỉ." Cô gái chợt khúc khích cười, nói to át tiếng mưa. Hắn thầm than nhẹ. Tiếng nói của thiếu nữ với bọn sơn tặc như mật với ruồi. Trong tiếng mưa gào thét, hắn vẫn cảm thấy sự lao xao lan truyền. Thêm nhiều tên nữa đi lại phía chiếc xe ngựa.

Xoạch một tiếng nhỏ, ngọn đèn hạt lựu lại được thắp lên. Thiếu nữ đang ngồi cạnh tên mã phu, dõi mắt nhìn ra cửa xe. Tên mã phu có vẻ còn rất trẻ, tóc đen hai bên má buông xuống vai đã che hầu hết diện mục của gã.

Trong ánh đèn, dung nhan thiếu nữ càng ngời sáng. Những tên sơn tặc bên ngoài hẳn cũng nhận ra. Thanh âm lao xao đã chuyển thành tiếng ồn ào.

"Đủ rồi đấy." Tên mã phu chợt mở miệng, như có vẻ không bằng lòng. Thiếu nữ bĩu môi, rồi thổi tắt ngọn đèn.

Trong khoảnh khắc bóng tối tràn đến, hắn chỉ nghe một tiếng "viu" nho nhỏ. Những hạt mưa bắn lên giữa khoảng không. Chiếc áo tơi khoác trên vai lão già không động, chỉ thấy bàn tay lão quét một vòng tròn. Những bóng người đầu tiên đang bước đến chiếc xe bật ngửa ra sau. Có tiếng hét tắt lịm trong tiếng sấm.

Chớp soi tỏ những cột máu bắn ra từ cổ những kẻ đang ngã xuống. Chớp soi tỏ lưỡi dao nhỏ trong tay lão già.

Lặng đi một thoáng, những tên sơn tặc dứt khỏi cơn ngơ ngác, giận dữ nghiến răng lao đến. Lưỡi dao trên tay lão già nhoang nhoáng bay trong bóng tối, lia chính xác vào những cái cần cổ. Hết lớp này đến lớp khác tràn đến đều ngã gục. Những kẻ còn lại nhìn nhau, vài bước chân đã định thoái lui.

"Giết hết bọn chúng." Giọng thiếu nữ bình thản. Có tiếng thở dài khe khẽ, trước khi chiếc bóng xám của tên mã phu vút khỏi khoang xe. Lưỡi đao lóe lên trong chớp sáng, đầu những kẻ đang chạy trốn rơi lông lốc trên nền rừng. Máu phụt có vòi trên những thân hình vẫn còn lảo đảo đứng.

Dao bay đến găm vào lưng những kẻ đã chạy được một quãng. Những tiếng kêu thét át cả thanh âm của mưa.

"Có cần độc ác như thế không?" Hắn không đừng được mà quay sang cô gái. Chỉ lệnh của cô ta mới có thể khiến cuộc tàn sát này dừng lại.

"Để chúng giết ta thì mới không độc ác?" Cô gái cười khẽ.

"Tha được kẻ nào thì tha. Chúng chỉ là những kẻ cùng đường túng thế phải đi làm đạo tặc. Chúng vẫn còn có cha mẹ vợ con..." Hắn nói, nhưng cô gái ngắt lời hắn.

"Chúng cùng đường thì chúng được cướp của người khác? Để mỗi kẻ trong chúng được sống thì ít nhất ba người khác phải chết - Đâu ra thứ đạo lý ấy? Ta chỉ cần người sống, không cần người chết."

"Loại người hại kẻ khác để mình được sống đâu chỉ có bọn sơn tặc." Hắn nhàn nhạt cười. Cô gái nhìn hắn, nụ cười không đổi trên môi.

"Vậy chúng giết người để sống, thì hãy đợi đến lúc bị người giết. Thế là công bằng, hả? Chúng giết những người yếu hơn chúng, thì ta mạnh hơn chúng, ta giết chúng có gì sai?"

Hắn im lặng. Thứ đạo lý này hắn không thể phản bác, mà cũng không cần phản bác. Cuộc giết chóc đã kết thúc khi tên mã phu quay về xe, im lặng rũ nước trên áo. Lão già thu con dao vào tay áo, tiếp tục giục ngựa chạy.

Thiếu nữ lấy ra chiếc khăn lớn lau tóc cho tên mã phu. Gã đẩy tay cô ra, tự mình cầm lấy khăn. Chiếc xe ngựa vẫn lắc lư trong mưa. Hắn mím môi, dõi mắt vào con đường mờ mịt nước trước mặt.

Hương hoa vẫn hòa với hơi mưa trong khoang xe chật, như một loài hoa nở trong bóng tối.

Chú thích:

[1] Dịch trạm: Trạm dừng chân trên đường. Ngày xưa, rừng còn nhiều, thành thị làng mạc thường xen giữa rừng, đi trên đường ở những vùng hoang vu rất nguy hiểm. Tại những con đường huyết mạch lớn thường được cho xây những dịch trạm cách quãng nhau để khách đi đường dừng chân hay nghỉ đêm. Dịch trạm này được xây lũy cao, ngoài cắm chông để tránh thú dữ.

Hồi 2: Pháo hoa

Giết người mà không có sát khí, gã chính là loại người như vậy.

Đạm nhiên bình lặng, vô khí vô thanh, bao quanh gã bao giờ cũng là cảm giác lãnh lãnh thanh thanh, gần như ôn nhu, gần như hiền hòa. Ngay cả khi vừa giết người trở về, một làn khí của gã cũng không đổi.

Loại người này, gần như không phải con người.

Giờ đây, gã đang khoanh tay dựa vào thành xe, đầu hơi cúi xuống, không rõ thức hay ngủ. Đôi lần ánh chớp lóe lên chỉ soi tỏ đôi gò má bết vài sợi tóc ướt. Thiếu nữ cũng không tiếp tục ỷ ôi. Gối đầu lên đùi tên mã phu, cô ngủ, hay nhắm mắt như ngủ.

Mưa ngày càng lớn, trắng xóa cả khoảng không trước cửa xe. Hắn đưa mắt nhìn lão già đánh ngựa đang cầm bầu rượu ngửa cổ uống. Những con ngựa vẫn miệt mài chạy với một tốc độ mà hắn tin rằng, khi đến được Hội An, cả hai con ngựa đều sẽ lăn ra chết.

Với tốc độ này, và bất chấp đi trong đêm mưa gió như thế này, hẳn nhiên bọn họ muốn đến Hội An trước khi trời sáng.

Hắn đã không tiếp tục hỏi về chuyện đang xảy ra, sau khi chứng kiến hành động đáng ngờ của họ. Hắn như cá đã mắc vào bẫy, biết càng nhiều, lún càng sâu thì càng khó thoát ra. Dù tò mò, hắn biết giới hạn để dừng lại. Mọi chuyện đều có thời gian để tìm hiểu. Còn bây giờ, điều hắn cần là đến được Hội An, thoát ra khỏi con đường đầy xác chết kia. Chỉ bọn họ mới có thể đưa hắn thoát khỏi đây.

Lạ lùng, như thể bọn họ, hay cô gái này, muốn cứu hắn.

Trong bóng tối, hắn lẳng lặng cười.

Nụ cười đối với hắn như một thói quen, như có người quen thở dài hay vuốt tóc. Đôi khi hắn còn không nhận biết mình đang cười.

Hắn nghĩ đến lão Cửu. A, Cửu ca ca hẳn đối phó với trường hợp này tốt hơn hắn. Hẳn lão Cửu phải biết những bang, những hội này là gì, không như hắn chỉ biết đánh bạc và uống rượu. Hẳn lão Cửu phải biết chuyện gì đang xảy ra nơi đây, nếu không lão đã không cho người cấp tốc gọi hắn quay về khi biết hắn đến nơi này. Nhưng như mọi khi, mỗi lần hắn không nghe lời lão Cửu thì chỉ chuốc lấy rắc rối cho bản thân. Chỉ mong, lần này sẽ không làm phiền đến lão Cửu. Ca ca sẽ lột da hắn, lần này.

Bây giờ, thứ hắn liên quan đến không phải là những chủ nợ tép riu mỗi ngày đập cửa hay những con nợ lăm lăm chực giết hắn, mà là một thế lực lớn. Thế lực đã chứng tỏ sức mạnh của nó trong khu rừng kia.

Ngay cả với nhóm người này, hắn vẫn chưa thể nói rằng đã thoát. Thiếu nữ xinh đẹp, tiểu tinh linh, tiểu yêu quái giết người không chớp mắt, vui giận bất thường này thật lòng muốn cứu hắn? Hai tùy tùng bên cạnh cô ta, một lãnh tức vô thanh, một cứng rắn vô tình, đều là tuyệt đại cao thủ. Một hành động sai lầm, dù vô tâm, sẽ phải trả giá đắt.

Nghĩ đến thủ đoạn của kẻ lẩn khuất trong rừng, hắn khẽ rùng mình.

Một tia chớp nữa lại lóe lên, lần này đặc biệt chói sáng. Cả vùng trời chói sáng. Trong khoảnh khắc, mắt hắn bắt gặp ánh mắt của tên mã phu. Gã đang nhìn hắn.

Sấm nổ, như thể cả ngọn núi sập xuống.

Rồi lại mưa bão. Gió thốc vào khoang xe, ngày càng lạnh.

"Thanh Hải và Hồng Thiên là gì vậy?" Một lúc sau, hắn chậm chạp nói, giọng uể oải. Như thể một người không ngủ được tìm chuyện tán ngẫu.

"Là hai bang hội đóng ở Hội An." Thiếu nữ lên tiếng, cũng bằng giọng uể oải gần giống như hắn. "Từ khi tiên chúa mở rộng buôn bán ở Hội An, thương buôn ngày càng nhiều, rồi việc chia chác, kết hợp, sáp nhập, tranh chấp... cũng từ đó mà phức tạp. Những thương buôn lớn dần chia thành hai hội đoàn chính là Thanh Hải và Hồng Thiên. Tiếng là hội thương buôn, nhưng cũng bao gồm cả các tiêu cục, vệ cục cùng các nhóm giang hồ. Tiếng là hai bang phái giang hồ, nhưng cũng không lấy không khí làm thức ăn được, thực ra là để bảo hộ việc buôn bán. Thế là dùng vũ lực tạo thành ảnh hưởng mà tranh giành nhau."

À, hắn gật đầu, ra ý hiểu. Đây cũng là việc thường có ở Giang Nam - đúng hơn, là tình trạng của Giang Nam. Các thương buôn cự phú ngày càng tích lũy nhiều tiền tài, trở thành quyền khuynh quan dân, tự chiêu mộ người lập thành bang hội, nghiễm nhiên biến thành Mạnh Thường Quân, Tín Lăng Quân chia lấy một mảnh đất trong thiên hạ. Ngay cả các nhóm buôn muối lậu cũng thành các bang hội lớn, chiếm lĩnh hầu hết mặt biển lẫn hải đảo. Nhà Minh suy tàn, mỗi người mỗi kẻ lại càng vô phép vô thiên, từ hoạn quan Ngụy Trung Hiền đặt mình ngang với Khổng, Lão bắt mọi người thờ phụng đến các quan lại, địa chủ, thương buôn bằng tiền tài và quyền lực mà chiếm đất xưng hầu. Ngay cả bây giờ, các nhóm phản Thanh phục Minh còn hoạt động trên đất Giang Nam chẳng phải cũng sống nhờ vào buôn muối lậu và cướp biển?

Tình trạng ấy xảy ra ở mảnh đất mới được gần trăm năm này, cũng chẳng có gì lạ.

Xưa nay quyền lực và sức mạnh thật ra cũng không sai khác lắm. Kẻ nắm được sức mạnh sẽ có được quyền lực. Ngày xưa, còn phải dựa vào đất đai mà sống, đất đai lại nằm trong tay vua chúa tùy ý phân phong, người người mới truy cầu con đường làm quan làm tướng để mưu phú quý. Hiện tại, việc buôn bán ngày càng phát đạt, đã nảy sinh ra loại quyền lực mới: Đồng tiền. Kẻ có tiền trong tay, gì mà không mua được? "Có tiền mua tiên cũng được", hắn sẽ chẳng nghi ngờ rằng câu tục ngữ ấy nảy sinh từ vùng đất này. Thế chẳng phải là đem tất cả đạo đức lễ giáo xưa nay vứt xuống hồ?

Đạo đức lễ giáo thật ra chỉ là thứ làm ra vẻ của những kẻ quý tộc còn phải dựa vào lễ giáo để duy trì địa vị, còn kẻ bình dân thì chỉ cầu được ăn và được sống. Trên mảnh đất quanh năm nắng nóng, khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn này, không sống được nhờ đất thì chỉ có thể dựa vào buôn bán. Đồng tiền, nghiễm nhiên là một loại quyền lực. Thậm chí, hơn cả quyền lực.

Cô gái hơi trở người, dụi mắt, càng dấn sâu thêm vào trong lòng gã mã phu. Hắn nhìn mà không khỏi phảng phất tiếu ý. Thiếu nữ phương Nam, đặc biệt là người Thượng, vốn không hề để tâm đến lễ tiết quy củ - Nhưng cô gái này có vẻ gì là người Thượng? Quý tộc? Càng không giống.

Đôi lúc phảng phất như nữ hài, đôi lúc lại như tiểu yêu tinh. Tựu chung, hoàn toàn không có phong vị thành thục của nữ tử. Như trái cây xanh, nhìn thì ngon nhưng cắn vào sẽ ê răng.

Hắn nhìn tên mã phu, cười mà như không cười.

Xe bớt dằn xóc, có vẻ như đã vào đường lớn. Xa xa, hắn có thể thấy đường nét mờ của thành lũy lẫn những chòi canh. Xe đang đi qua một cây cầu, nước réo ồ ồ dưới bóng tối.

"Vào thành rồi, tiểu thư." Lão già đang đánh xe nói. Thiếu nữ chống tay ngồi dậy, dụi mắt. Ánh sáng mờ tỏa trong khoang xe khi cô bật đèn. Lùi lại về phía sau xe, thiếu nữ lấy trong hộp ra một chiếc gương nhỏ bằng bàn tay trong veo như nước, chải lại tóc.

Hắn nhè nhẹ nhướng mày, tuy không lấy làm ngạc nhiên. Gương thủy tinh, món hàng quý giá mà các thương nhân Tây dương bán rất hạn chế vì khó chuyên chở, phải vài trăm lạng vàng mới mua được. Và những trang sức vòng vàng đai ngọc mà cô gái đang rút ra đeo, chỉ nhìn qua đã biết là hàng cực phẩm. Trang phục chỉ như các cô gái vùng Thượng đơn thuần, trang sức lại xa hoa mỹ lệ lóa mắt, tựu không nhìn ra được cô ta đang muốn làm gì.

Khi thiếu nữ đeo lên trán một vòng bạc nhỏ gắn thạch anh tím, xe ngựa cũng đã đi qua cổng lũy. Những khu nhà cửa thấp xây theo kiểu Nhật Bản im lìm hai bên đường, ánh đèn lồng treo trước cửa mù mịt trong mưa. Vài khu nhà cao vẫn còn huyên náo, hiển nhiên là các tửu quán mở thâu đêm. Mùi hoa, mùi phấn quện trong hơi mưa, như thể thành thị này nơi nơi đều làm bằng hoa.

Hội An, sau trăm năm phát triển, đang bừng nở rực rỡ trong những ngày tháng ấy. Dù đã mất đi một lượng lớn thương nhân Nhật Bản do lệnh bế quan tỏa cảng của Mạc Phủ - thế lực vừa lên cầm quyền ở Đông Doanh, các tàu buôn người Đường, Ấn Độ, Tây Dương, Mã Lai, Nam Dương... không lúc nào vắng bóng. Trong cảng luôn có vài trăm chiếc thuyền thường trực neo đậu. Trên bến, thương buôn nhiều hơn dân thường, họ xây nhiều tòa nhà khang trang, thậm chí cả những trang viên tráng lệ. Từ khi nhà Thanh chiếm cứ dần dần đất Hoa Hạ, vài chục năm nay, nhiều người không muốn theo tập tục Mãn Thanh mà lưu trú hẳn ở Nam Hà. Nhóm Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên là một đợt di dân cao điểm đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của người Hán tộc, còn dòng người âm thầm đổ về Hội An đã từ rất lâu.

Số người Hán này phần lớn đều trẻ trung hoặc không mang theo gia quyến. Con cái kết quả từ cuộc hôn nhân của họ với phụ nữ Việt cũng chỉ lấy người Hán tộc hoặc lai Hán tộc đồng hương, tạo thành một cộng đồng tách rời, khép kín. Nhưng việc kinh doanh phục vụ số người này không vì thế mà kém phát triển. Đã quá nửa đêm, hẳn chỉ vài giờ nữa là đến bình minh, các khu son phấn treo đèn lồng đỏ vẫn sáng trưng. Khung cảnh không khác gì những Tô Châu, Hàng Châu của Giang Nam ngày hưng thịnh.

Lụa là gấm vóc, ngọc sáng châu hương, muôn hồng nghìn tía, Hội An những năm tháng này là như vậy. So với trong trí nhớ của hắn vài năm trước, còn có vẻ đã phát triển hơn.

Nhưng trong thị thành này bây giờ, hắn lại cảm thấy có bầu không khí kỳ lạ đang lửng lơ, tràn ngập. Những thanh lâu đèn vẫn sáng, nhưng không thấy khách đến cũng chẳng có tiếng sênh ca. Những khu phố vắng bóng người khi nửa đêm đã đành, nhưng cả quan binh túc trực cũng không hề thấy bóng dáng. Có tiếng lao xao lan trong không khí, cùng với tiếng mưa rơi. Qua khỏi đoạn tường lũy, hắn có thể nhận ra ánh lửa sáng cả một góc phía Tây thị thành.

"Dừng lại." Thiếu nữ chợt lên tiếng khi xe đi qua cửa một trang viện lớn. Tay vẫn cầm chiếc gương nhỏ, tay kia cầm đèn, cô nhoài người ra cửa xe, gần như chồm hắn ra ngoài mưa. Chiếu đèn vào chiếc gương hất chêch chếch lên trời, thiếu nữ điều chỉnh cho ánh sáng hắt về phía ánh lửa và tiếng lao xao. Trong bóng tối, chiếc gương tạo thành một luồng sáng trắng bạc cắt ngang qua bầu trời đen thẫm.

Thiếu nữ nghiêng gương, làm luồng sáng chớp tắt bốn lần.

"Chúng ta đi bộ đến." Cất gương vào thắt lưng, thiếu nữ nói mà không nhìn ai. Rồi như sực nhớ ra hắn, cô quay lại, hất đầu. "Ngốc tử, đợi gì mà không xuống?"

"Lúc này à?" Hắn lại ngây ngốc hỏi. "Bây giờ là nửa đêm."

Thiếu nữ đảo mắt.

"Ngươi bảo muốn đến Hội An thì chúng ta đưa ngươi đến, còn việc ngươi ở đâu thì sao ta quản được? Nằm ở hàng hiên một đêm cũng không chết."

"Nói nhiều làm gì." Lão già cất tiếng, vừa nói vừa nắm lấy cổ áo hắn, vứt hắn xuống đất như lẳng một con mèo. Hắn lảo đảo một chút trên nền đất ướt mưa. Không nói không rằng, thiếu nữ quay đi. Tên mã phu mặc lại áo tơi và nón lá, bung ô che cho cô gái, lão già đi sau họ.

Đứng yên một khắc, hắn chạy theo họ.

"Ngươi muốn gì?" Lão già nghe tiếng chân, quay lại hung hăng trừng mắt.

"Đường có phải của lão đâu mà cấm ta đi." Hắn cũng trừng mắt. Lão già này tựu chung với hắn đầy ác cảm vô nguyên cớ, hay bản tính lão đã khó chịu như vậy?

"Ồn ào quá, kệ hắn." Cô gái nhàn nhạt nói, không quay lại. Lại dùng giọng nói trầm trầm của một nữ nhân thành thục.

"Kịch vui thì nên có nhiều người xem." Cô nói thêm, một lúc sau. Hắn toét miệng cười, gật gật đầu.

"Đúng thế, đúng thế." Trên đời này, Mạc Kinh Vũ hắn thích nhất là náo nhiệt. 'Kịch vui' mà thiếu nữ nói, ắt hẳn càng náo nhiệt.

"Ngươi cẩn thận cái mạng mình." Lão già cau mày. Hắn không thèm liếc mắt đến lão.

"Yên tâm, nếu có việc gì thì ta chạy trước." Hắn từ khi cha sinh mẹ đẻ cũng chưa từng thừa nhận mình là cái gì quân tử với chả anh hùng, những lời này nói ra như hít thở không khí. Mà hắn cũng chỉ thích đi xem náo nhiệt chứ không phải loại người thích chõ vào việc của người khác.

Người ngoài nhìn vào mà nói, bản tính hắn với thằng ngốc giống nhau.

"Ngươi có biết chuyện gì ở phía đó?" Thiếu nữ nói sau một tiếng cười ngắn. Không đợi hắn trả lời, cô nói tiếp như giảng giải. "Sau khi bang chủ bị giết, Đại đương gia Thanh Hải bang Trần Long ra mặt định chiếm lấy chức vị. Tuy một số người nghi ngờ cái chết của bang chủ liên quan đến Trần Long, không ai có chứng cứ. Bang chủ mất, người đứng thứ hai lên thay, đó là chuyện bình thường.

"Chỉ là, có khói thì có người nghi ngờ hỏa hoạn. Vả lại, ngắm nghé chức bang chủ không phải chỉ có Trần Long. Thanh Hải bang mấy ngày nay phân tán đánh lẫn nhau. Trần Long dựa vào lực lượng của Hồng Thiên hội phong tỏa con đường đến Hội An, độc chiếm phân đà của bang, định sau bốn chín ngày tang lễ cho bang chủ sẽ nhậm chức. Hôm nay là đêm thứ bốn mươi tám."

"Những xác chết kia... là do đánh lẫn nhau?" Hắn lơ đãng nói. Thiếu nữ lắc đầu, không trả lời.

Hắn nhè nhẹ cười. Nhìn sao cũng không phải là đánh lẫn nhau mà chết.

"Bang chủ Thanh Hải bang vì sao chết?" Hắn không giấu sự tò mò. Dù sao tới nơi xem kịch hay thì phải hiểu nội dung vở kịch. Thiếu nữ dường như cũng có ý ấy khi giảng giải cho hắn.

"Quang Minh hội ám sát. Đó là nhóm sát thủ trong vùng, làm việc chỉ vì tiền. Người ta có thể giết người mà không cần tự mình ra tay. Do đó, không ai nắm rõ được kẻ đứng sau. Hơn nữa, thi thể của bang chủ cũng thập thần kinh dị. Bị chặt ra làm tám khúc, lại được phát hiện sau cả nửa tuần trăng, không ai nhận ra được."

"Vậy sao lại biết là Quang Minh hội làm?" Quang Minh? Một nhóm sát thủ lấy cái tên này không phải là quá quái đản sao? Phi thường quái đản.

"Giao dịch trong giang hồ mà nói, làm sao giấu được?" Cô gái cười khẽ. "Mà đường đường là bang chủ, dễ giết như thế sao? Quang Minh hội đã mất cả bốn năm thuộc hạ trước đây, đương nhiên là người ta sẽ nhận biết."

Vừa đi vừa nói chuyện, họ đã đến gần tiếng lao xao và ánh lửa kia. Từ xa đã thấy bóng người thấp thoáng. Theo linh tính, hắn quay nhìn. Một luồng sáng trắng nhỏ cũng đang chiếu về phía này. Luồng sáng nhỏ và mảnh như sợi chỉ. Trong đêm mưa, nếu không nhìn kỹ sẽ khó có thể thấy được.

Một toán người lại gần họ. Thiếu nữ lấy ra chiếc thẻ bài hình đám mây, trầm giọng.

"Thiếu chủ Bình Khang đường đến chúc mừng lễ nhậm chức của Trần bang chủ. Chậm trễ đến, lại vào lúc nửa đêm, xin quấy quả."

Trưởng nhóm người cầm lấy chiếc thẻ bài, quan sát một lúc rồi cúi người đưa tay sang bên.

"Mời quý vị." Gã nói, bảo thuộc hạ nhường đường. Thiếu nữ ngẩng cao đầu mà vào. Tên mã phu đi bên cạnh, lão già tiếp bước. Hắn lút cút chạy theo sau.

Qua khỏi quãng đường, họ còn phải đi một đoạn đường dài nữa mới đến một trang viện lớn, đèn thắp sáng trưng, người mặc áo tơi hay che ô qua lại nhộn nhịp như thể không phải là nửa đêm. Một thanh niên trẻ, mình mặc áo tang đứng trước cửa, hơi cúi mình khi thấy thẻ bài của thiếu nữ.

"Xin chia buồn cùng gia phụ." Thiếu nữ cũng nghiêng mình đáp lễ. Thanh niên chớp mắt. Người này có vẻ còn rất trẻ, chỉ ngoài đôi mươi. Nét mặt thanh tú, có điểm yếu nhược, khi cười khóe miệng cong lên, càng có vẻ mềm mại không giống với con trai của một bang chủ.

"Hoắc Phương, con trai Hoắc bang chủ." Thiếu nữ nói khi đã vào nhà trong. Một số gia nhân còn mang tang phục chạy qua chạy lại. Dưới hàng hiên của gia viên đã kê một dãy bàn ghế, một số bàn đã có người ngồi.

"Lễ nhậm chức này không phải quá khoa trương?" Hắn đưa ra một nhận xét. Khách đến yến tiệc từ tận hôm trước, như thể là hỷ sự, không phải là sự kiện quan trọng của một bang phái.

"Vì bị chặn đường, số người này phải đến sớm. Vả lại, không chỉ người của Thanh Hải bang mà Hồng Thiên hội cũng tham gia, việc khó có được."

"Không phải nói hai nhóm này là thù địch sao? Hóa giải nhanh như vậy?"

"Ngươi nghĩ chúng đánh nhau vì cái gì?" Thiếu nữ đưa mắt nhìn hắn như chế nhạo. "Tranh chấp, đến tột cùng là vì cái gì? Tân bang chủ của Thanh Hải chịu nhượng cho Hồng Thiên một số quyền lợi, Hồng Thiên dĩ nhiên ôn hòa mà người trong Thanh Hải cũng nhẹ gánh lo vào lúc này. Đánh nhau thì dễ, chia sẻ mới khó. Chỉ bọn tham vọng quá cao hay trung thành ngốc nghếch mới cố phản kháng, cố bám lấy cựu thù đại hận. Trong mấy ngày nay, e rằng các thủ lĩnh của hai nhóm đã ký kết được vài hợp đồng làm ăn với nhau rồi."

"Phải à. Có đạo lý." Hắn khoanh tay gật gù. Cái gì là nghĩa khí giang hồ, hắc đạo bạch đạo, tranh chấp truyền đời - thật là ném cho bẹp dưới chân.

Bây giờ khăn xanh khăn đỏ cũng đối ẩm nói cười với nhau, hầu như quên phứt bang chủ mới bị giết chưa được bốn chín ngày, có thể do bàn tay phía bên kia.

Trong nhà chính vẳng ra tiếng đàn hát lẫn những bóng hình uyển chuyển ca vũ. Yến tiệc có vẻ như đã kéo dài nhiều ngày.

Trên trời, pháo hoa nở rộ.

Đột nhiên, sau một tiếng 'viu' nho nhỏ, tiếng nổ tràn ngập bầu trời, át cả tiếng mưa. Pháo hoa đủ màu đủ dạng nổ bung, trùm lên thành thị bên dưới. Phía chân trời phảng phất sắc xám như bình minh sắp tới.

Người trong thị thành như bừng tỉnh trước tiếng pháo hoa báo hiệu bình minh.

Tiếng sênh ca dừng lại khi nhiều người chạy ra ngoài, ngẩng nhìn lên trời. Dưới hàng hiên, sau lùm hoa ngọc lan đang ra hoa thơm ngát, thiếu nữ cùng những tùy tùng khoanh tay nhìn pháo hoa. Hết đợt này đến đợt khác, như thể bắn mừng ngày Tết lớn.

"Xong việc rồi." Thiếu nữ phảng phất cười.

Vẫn giọng nói ôn nhu như nước, mềm mại như sương, không hiểu sao hắn chợt thấy lạnh người.

Chầm chậm, bình minh hắt lên sắc xanh mờ, lan đến từ phía chân trời, trong mưa vẫn không ngừng rơi. Những hạt mưa sáng lấp lánh trên nền trời trắng xám. Sương và mưa trắng xám, lơ lửng phủ lên thị thành hoa lệ. [1]

Chú thích:

[1] Theo các thư tịch và ghi chép cũ, Hội An vốn lớn hơn di tích còn lại. Cuộc nổi loạn của Tây Sơn đã phá hủy phần phồn thịnh nhất của Hội An, phần còn lại vốn bị bỏ hoang sau khi thương nhân rút khỏi, rồi không được tu sửa lớn nên còn tồn tại đến bây giờ.

Hồi 3: Tế phẩm

Mưa đang rơi cùng bụi pháo hoa. Pháo hoa nổ trong mưa, ánh sáng nhanh chóng tắt lịm, bị cuốn theo những giọt nước lạnh.

Nhưng trong khoảnh khắc, cùng với mưa, ánh sáng trở thành vô cùng rực rỡ. Chói lọi mà mềm mại nhu hòa, phản chiếu qua thiên thiên vạn vạn giọt nước trượt dài xuống trần, phản chiếu qua không gian đẫm nước mênh mông tạo ra muôn vàn biến ảo. Muôn vàn màu sắc lấp lánh nở bung rồi sa xuống thế gian.

Thế giới như vậy mà trở thành rực rỡ.

Thế giới như vậy mà u buồn.

Pháo hoa nổ trong mưa, ngay cả bụi cũng không còn, bị cuốn đi, trong mưa.

Trong gió của bình minh phảng phất đang đến, trong khoảng lặng im của con người trước vẻ đẹp vừa có đã lụi tàn, ông ta dường như nghe thấy một thanh âm khác, rất khác. Tiếng lao xao khe khẽ, như từ mặt đất vọng lên.

Trần Long, Đại đương gia, kẻ sắp trở thành bang chủ của Thanh Hải bang, chỉ ngẩng đầu nhìn trời, như cố tìm kiếm dấu vết nào còn lại của bụi pháo hoa.

Ông ta làm ra vẻ như không nghe thấy cả bước chân đang đến từ phía sau. Khu đất hoang tràn đầy gió trong cơn bão xa. Trong khoảnh khắc, ông ta nhắm mắt, nghe tiếng gió ù ù trong tai.

"Trần đại nhân thật có tình nghĩa với gia phụ." Ông ta nghe tiếng nói từ người đang bước tới. Tiếng nói trẻ trung, mềm mại, có phần quá nhu hòa.

Một thân bạch y làm tang phục, đầu quấn khăn trắng, chiếc ô cầm trên tay cũng trắng, khuôn mặt thanh tú với khóe miệng cong, thiếu chủ Thanh Hải bang nhìn tấm lưng rộng của kẻ trước mặt, rồi đưa mắt qua bia mộ trước nấm mộ đá mà cỏ xung quanh còn chưa kịp mọc.

"Ông có từng nghe không, Trần đại nhân? Rằng trong vòng bốn chín ngày, linh hồn của người chết vẫn còn ở lại trần gian?

"Hôm nay mới là ngày thứ bốn mươi tám."

"Không, đó là tính theo thời gian ước lượng sau khi phát hiện ra xác chết của Hoắc bang chủ." Trần Long lại ngẩng nhìn trời, vẫn không quay lại. "Có thể sai lệch một, hai ngày."

"Vậy Trần đại nhân cho là ngày nào?" Giọng Hoắc Phương nghe như đang cười.

"Ta không biết. Có kẻ đã thuê mướn sát thủ của Quang Minh hội, nhưng ta biết sát thủ của hội này dù giết người cũng không ra tay tàn độc như thế." Trần Long chậm rãi nói. "Tại sao phải chặt bang chủ thành tám khúc? Theo như ta thấy, là để cất giấu dễ dàng ở nơi mà không ai ngờ được. Thi thể đã bị ướp để làm sai lệch thời gian xảy ra cái chết. Vì thế kẻ thủ ác mới phải làm chậm trễ thời gian phát hiện thi thể, cốt để quá trình phân hóa chậm lại ấy phù hợp với thông thường."

Gió vẫn lồng lộng thổi, đem mưa bay ướt đẫm bóng tối nhòa nhạt.

Trần Long chậm chạp xoay người, mặt đối mặt với cậu thanh niên áo trắng.

"Trước đây gia tộc ta làm nghề buôn bán hải sản và các loại phẩm vật. Thủ thuật ướp xác mà ngay cả bọn lang băm khám nghiệm cũng không nhận ra, ta có thể nhận ra. Thủ thuật ướp bí truyền trong vùng đất này ta cũng biết đôi chút." Ông ta nhoẻn cười. "Hoắc bang chủ đã chết trước hạn khám nghiệm ít nhất năm ngày, khi 'ông ấy' vẫn còn làm việc trong Hoắc gia, khi những mệnh lệnh, phê duyệt của 'ông ấy' vẫn còn được truyền đi."

"Trong những ngày ấy, Hoắc gia sao lại không biết rằng ông ấy đã biến mất?" Vẫn giọng nói chậm rãi, dường như điềm nhiên, Trần Long nhìn cậu thanh niên, hơi nghiêng đầu. "Dù rằng phu nhân của Hoắc bang chủ đã mất, chẳng phải là ông ấy mỗi ngày đều gọi cậu con trai vào để dạy dỗ cách làm việc sao?"

"Ông cho rằng ta giết cha mình?" Hoắc Phương nhàn nhạt hỏi. Trong mắt anh ta phảng phất tia tiếu ý. "Phải, ta biết rằng cha ta biến mất, nhưng không báo ra ngoài, vẫn thay ông ấy phê duyệt công việc. Lúc ấy ta không biết ông ấy đã chết, chỉ cho rằng ông ấy đang còn bận một việc quan trọng đột xuất."

"Việc gì vậy, Hoắc thiếu chủ?" Trần Long cau mày. Hoắc Phương đổi tay cầm ô, vuốt lại lọn tóc bay vướng vào mắt.

"Theo dõi ông." Nụ cười vẫn nhàn nhạt trên môi cậu thanh niên. "Những ngày ấy, ông đã ra ngoài."

"Vì vậy thiếu chủ cho xử lý lại xác chết để trùng với thời gian ta trở về? Đổ mọi nghi vấn cho ta?"

"À phải. Ta thấy ông trở về nhưng không thấy cha ta, liền đi tìm. Ông có biết ta đã tìm thấy ông ấy ở đâu? Trong khu đất hoang ngoài một kỹ viện. Có vẻ như ông ấy đã 'thượng phong' mà chết, kỹ viện lại quá sợ hãi mà đem chôn giấu ông ấy. Người cha tội nghiệp của ta vì cái tiếng 'thanh bạch' của một bang chủ mà trốn ra ngoài một mình, ra nông nỗi ấy."

"Mọi việc có vẻ đơn giản hơn ta nghĩ." Trần Long bật cười. Hoắc Phương cũng cười theo.

"Nhưng đám sát thủ của Quang Minh hội ấy là do Trần đại nhân thuê tới. Ta và cha có đầy đủ chứng cứ."

Mắt Trần Long nheo lại, quan sát cậu thanh niên trước mặt.

"Vậy sao thiếu chủ không vạch mặt ta, sau khi khổ cực hủy hoại cả xác tiên phụ như thế? Hay là..."

"Ta cần quan sát, phải." Hoắc Phương nhè nhẹ gật đầu. "Ông chỉ là việc phụ. Chính yếu là đám thuộc hạ của ông, và những kẻ có thể là thuộc hạ của ông."

"Thiếu chủ chờ chúng ta đánh nhau đến sức cùng lực kiệt?" Môi Trần Long khẽ nhếch trong khi đôi mắt tối lại. "Nhưng cậu đừng quên, thuộc hạ của cậu, những kẻ phản đối ta, cũng chết."

"Những kẻ phản đối ông có thể không phải là thuộc hạ của ta." Hoắc Phương chợt bật ra một tiếng cười khẽ. "Thật là... ông nghĩ những ngày vừa qua, những kẻ muốn trở về Hội An là để phù trợ cho Hoắc gia ta?"

"Vậy cậu nghĩ ta không biết âm mưu của cậu? Ta biết, ngay sau khi phát hiện ra cái xác được xử lý kia." Trần Long chậm chạp hạ ô, mặc cho mưa đang xối xuống. Sau lưng ông ta, bầu trời bình minh bàng bạc xanh đang dần lan tỏa. Cỏ rào rào trong mưa. Tiếng chuông từ một ngôi chùa gần đó đang điểm từng tiếng trầm.

"Nên ta đã nhanh chóng bắt tay với Hồng Thiên hội." Mũi ô xanh chạm vào đầu cỏ, nước không ngừng trượt xuống. "Dù cậu có muốn vạch mặt - à không, vu vạ cho ta - bây giờ, cũng không đủ lực lượng để đánh bại ta. Tất cả lực lượng của Hoắc gia không đủ để đánh bại ta và Hồng Thiên hội."

"Cũng như vậy, ông không thể đánh bại ta và Hồng Thiên hội, ngay cả khi lực lượng của Hoắc gia không trở về." Hoắc Phương nhè nhẹ lắc đầu, khóe môi càng cong lên. Ngón tay anh ta nhịp lên cán ô. "Trần đại nhân, ông có thể đưa mồi nhử sự liên kết của Hồng Thiên hội thì ta cũng có thể. Ba mươi ngày qua, ông nghĩ ta làm gì?"

"Ngươi..." Khuôn mặt Trần Long thoáng thất sắc. Người thanh niên nhướng một bên mày.

"Ngay khi biết ông ngầm mua chuộc Quang Minh hội, cha ta đã có phản ứng. Thỏ khôn phải có ba hang, ông có biết? Không có kẻ thù vĩnh viễn, chúng ta ngoài mặt đối đầu nhưng cũng để cho mình đường lui.

"Những ngày vừa qua, nhóm các ông và Hồng Thiên hội trừ giúp ta kẻ phản loạn, cũng hao tổn khá nhiều rồi, có phải?"

Trần Long không nói, trừng trừng nhìn cậu thanh niên nho nhã, tà áo trắng phiêu diêu trong ánh bình minh trắng bạc.

Rồi ông ta chớp mắt, như vừa chợt nhận ra được điều gì.

"Như vậy, những người chết..." Trần Long chỉ về phía Hoắc Phương. Anh ta chầm chậm gật đầu.

"Bọ ngựa bắt ve sầu, chim sẻ bắt bọ ngựa." Hoắc Phương mỉm cười trước ánh mắt người đàn ông trước mặt. "À, phải nói chứ, trong một tháng vừa rồi các người đánh giết nhau ở Quảng Nam thật là thê thảm. Bây giờ, thậm chí lực lượng của ta ở Quảng Nam trở về cũng có thể đè bẹp cả Hồng Thiên hội lẫn ông.

"Chà, thỏa thuận nhường cho Hồng Thiên hội cái gì chứ? Rồi chúng phải biết điều dâng lại hai tay cho ta. Với Thanh Hải bang mà nói, cách ấy chẳng phải tốt hơn hẳn điều khoản của ông? Hồng Thiên hội thật là bọn tham lam, quá tham lam thì chỉ tự hại mình."

Mưa vẫn rơi, ướt đẫm kẻ không che ô bên dưới. Trần Long trầm mặc ngẩng đầu nhìn trời. Thốt nhiên, ông ta cười khẽ.

"Hoắc bang chủ chỉ có thể tự giết mình chứ không ai giết được ông ta, đáng lẽ ta phải nhận ra. Thiếu chủ, pháo hoa là do ai bắn vậy?"

"Là ai cũng không quan trọng." Hoắc Phương nói, nhưng Trần Long đã ngắt lời mà không nhìn anh ta.

"Cậu có biết lý do ta nhất định phải giết bang chủ? Vì những mối liên hệ của cha cậu với những người như thế, đến lượt cậu cũng vậy."

"Còn không nguy hiểm bằng những mối liên hệ của ông." Hoắc Phương cau mày. "Ông có biết rằng nó sẽ đưa bọn ta đến đâu?"

"Thì sao? Chẳng lẽ chúng ta chỉ cần kiếm tiền cho đầy túi, tửu trì nhục lâm cho thỏa thích một đời?" Trần Long nghiến răng, nhưng Hoắc Phương đưa tay ra hiệu cho ông ta dừng lại.

"Ta không cần biết ông muốn gì với cuộc đời ông, cũng như kẻ khác muốn làm gì với cuộc đời họ. Ta là bang chủ, ta ở đây để làm hết chức phận của mình, trong đó có việc bảo toàn cho người của ta.

"Tại sao ông không thành lập bang hội của riêng mình, tập trung những kẻ cùng chí hướng, mà phải nhất quyết chiếm lấy Thanh Hải bang?" Nụ cười phảng phất trên khuôn mặt người thanh niên. "Vì đây là bang hội lớn nhất, có phải? Nhưng đừng kéo những người không liên quan vào việc của mình."

"Việc nào của ta, tên Hán gian?" Ánh mắt Trần Long lóe lên tia phẫn nộ. Ông ta chầm chậm lại gần Hoắc Phương, chân đạp lên cỏ ướt. Gương mặt ướt mưa lạnh của ông ta sắt lại, làm đường nét cứng như tạc bằng đá. "Có một chuyện ngươi nên nghĩ tới: Ta có thể giết ngươi, ngay tại đây. Và dù có Hồng Thiên hay bất cứ ai đứng sau ngươi cũng không quan trọng. Không ai phù trợ hay kiếm lợi được từ một kẻ đã chết."[1]

Lời còn chưa dứt, kiếm đã tuốt khỏi vỏ. Cỏ trên đồng ngả rạp thành một lối cuốn thẳng đến nơi người thanh niên áo trắng đang đứng.

Anh ta vẫn đứng yên.

Chỉ khi thanh kiếm đã chĩa thẳng vào ngực, Hoắc Phương mới nghiêng người né tránh, thân hình lại ngả về phía kẻ đang lao tới. Vẫn không buông cán ô, cánh tay kia của anh ta vươn đến, chụp vào cổ áo Trần Long.

Động tác của Hoắc Phương rất nhanh, nhưng lại nhẹ như gió. Chỉ trong khoảnh khắc, Trần Long thấy mình bị hất tung lên cao, mất đà loạng choạng suýt ngã đập xuống cỏ. Chống thanh kiếm xuống đất làm đà nhảy bật lên, ông ta lùi lại phía sau mấy bước. Gió quét qua khuôn mặt đã nóng bừng của ông ta.

Đến lúc ấy, Hoắc Phương mới chậm rãi rút ra thanh kiếm bên hông, chúc mũi kiếm xuống cỏ như chờ đợi. Tà áo anh ta vẫn không bén một giọt mưa.

"Võ thuật Đông Doanh?" Mắt Trần Long như tóe lửa. "Ngươi không biết xấu hổ đi học thứ ấy?"

"Thôi nào, Trần đại nhân." Hoắc Phương nói như thở ra. "Ông đâu cần cố chấp đến thế. Cha ta luôn nói, đó là điểm yếu nhất của ông. Tự cao và thù ghét vô lối che mờ lý trí của con người."

"Cha con các người giống nhau, đều là bọn tham lợi mờ mắt." Trần Long cười gằn. Hoắc Phương đưa mắt nhìn theo chiều dài của thanh kiếm đang cầm trên tay, mỉm cười.

"Còn kẻ chà đạp lên anh em, phản bội lại lòng tin, bất cần nghĩa khí vì mục đích của riêng mình, vì thứ lý tưởng quái quỷ nào đó thì là cao quý ư, Trần thúc thúc?

"Kẻ vì mục đích của riêng mình mà bất chấp cuộc sống của người khác, vì nguyện vọng của riêng mình mà chà đạp nguyện vọng của người khác, thế thì là hy sinh cao thượng sao, Trần thúc thúc?"

Thinh lặng tràn ngập cánh đồng đầy gió. Trần Long ngực khẽ chấn động. "Trần thúc thúc", cậu ta lại gọi như khi còn bé.

Mũi kiếm của người thanh niên vẫn chúc xuống cỏ. Những ngọn cỏ cao quét qua lưỡi thép bạc.

"Thật lòng, ta không muốn giết ông." Hoắc Phương nói, rất nhỏ, như chỉ thì thầm với chính mình.

Trong chớp mắt, ánh chớp lóe trên bầu trời trắng xám.

Lấp lánh, như mưa đan phủ che trần thế. Phảng phất, như gió thổi qua đồng cỏ. Thoáng qua như sự thinh lặng giữa tia chớp và tiếng sấm. Trần Long cảm thấy đầu mũi kiếm lướt đến, cắt ngang qua sự sống và cái chết.

***

Khi ấy, bọn họ đang uống rượu.

Chọn một chiếc bàn dưới hàng hiên, nơi gần hồ nước nhỏ dẫn vào hoa viên nội phủ nhìn ra khoảng sân rộng của trang viện, thiếu nữ kéo theo bọn họ ngồi xuống 'ăn sáng'.

"Bánh hoa mai, miến măng mộc, cua hấp." Cầm lấy thực đơn, cô gái nói với tên hầu vừa chạy tới mà không nhìn ai. "Phải rồi, mùa này cua nhiều gạch, là lúc ăn ngon nhất. Đã thế thì đem cả rượu hoa cúc ra để uống chung."

"Đó là món cho bữa trưa." Tên hầu ngập ngừng. Thiếu nữ phác tay.

"Ta thích ăn." Cô nói như ngăn lại mọi phản đối, và nói khẽ khi tên hầu chạy đi. "Ai biết có ăn được bữa trưa không mà để dành?"

Và họ đã ăn bữa trưa vào lúc tờ mờ sáng. Nắng lên, trong sân càng lúc càng đông người. Trang phục người Thượng như thiếu nữ cũng không hiếm, người Việt lại càng đông. Họ tụ tập thành từng nhóm, vừa ăn sáng vừa trò chuyện.

Ba người bên cạnh hắn chỉ lẳng lặng ăn. Thi thoảng, ánh mắt lão hòa thượng để tóc lại đảo ra phía cửa lớn. Thiếu nữ cắm cúi vào món cua hấp. Tên mã phu im lặng ăn uống. Đã bỏ nón, khuôn mặt gã được soi tỏ trong ánh nắng. Rõ ràng là một thanh niên trẻ, chỉ trạc tuổi hắn. Bị tóc phủ xuống hai bên má, tràn qua trán, chẳng thể xác định rõ hình thái lẫn tâm trạng của khuôn mặt gã ngoài đôi môi bao giờ cũng mím chặt - tất nhiên, trừ lúc ăn.

Hắn, đương nhiên là tì tì uống rượu.

Khi thiếu nữ đã ăn đến con cua thứ ba được bóc vỏ, đập càng cẩn thận - và hắn đã uống đến vò rượu hoa cúc thứ tư, thiếu chủ Hoắc Phương của Hoắc gia bước vào sân.

Anh ta lẳng lặng đi qua những tên canh cửa, những chiếc bàn đầy chật người. Tà áo trắng không vương một giọt nước trong mưa vẫn không ngừng trút xuống, một tay cầm ô, tay kia cầm một bọc vải. Máu từ bọc vải nhỏ ròng ròng theo bước chân anh ta.

Nhiều ánh mắt nhìn theo anh ta.

Thiếu nữ chăm chú bẻ cái càng cua trong tay, không ngẩng lên.

Cứ như thế, Hoắc Phương bước vào nhà trong. Một lúc, chợt thấy những gia nhân, tì nữ hét lên, chạy ra khỏi cửa. Ngàn ánh mắt đổ về gian nhà lớn khi Hoắc Phương xuất hiện, hai tay nâng một chiếc đĩa lớn, kính cẩn đặt lên bàn thờ tế lễ bốn chín ngày cho Hoắc bang chủ quá cố.

Thứ trên chiếc đĩa ấy làm hầu như mọi kẻ trong sân kinh hồn động phách: Thủ cấp của Đại đương gia Trần Long, người đã chuẩn bị lên làm bang chủ.

Lạy ba lạy, cắm nhang vào lư hương trên bàn thờ, Hoắc Phương quay sang những khuôn mặt kinh ngạc ngoài sân, mỉm cười.

"Quý vị không phải sợ. Ta chỉ bắt kẻ đã làm hại tiên phụ phải đền tội."

Giọng nói của anh ta vẫn nhẹ nhàng, có thể là quá êm ái. Trong ánh nắng, làn da người thanh niên thoáng xanh, làm anh ta trông có vẻ bệnh hoạn. Đứng một mình trên hàng hiên gian nhà chính, tang phục càng làm nổi rõ vẻ yếu nhược.

Mưa bao lấy sự lặng yên. Những gia nhân và thị nữ nhốn nháo cũng đã sợ sệt nép vào một góc, giương mắt nhìn vị thiếu chủ của Hoắc gia. Một sự chấn động nhè nhẹ lan đi giữa những kẻ đang có mặt.

Hoắc gia đã lên tiếng, sau sự im lặng kéo dài trước cái chết của người đứng đầu gia tộc. Sau cái chết của Hoắc bang chủ, người con trai duy nhất đã có vẻ như đồng tình với mọi sắp xếp của Trần Long. Mỗi ngày, con đường đến Quảng Nam tràn ngập xác chết. Thế lực Hoắc gia đã suy yếu, người người thì thầm. Nhưng có vẻ không phải như vậy. Nếu không, Hoắc thiếu chủ đã không ngang nhiên chặt đầu Trần Long.

Có tiếng rục rịch khe khẽ khi vài kẻ định đứng dậy. Nhưng những bàn tay nhanh chóng nắm họ lại.

Những kẻ sành sỏi biết Hoắc gia có thể đứng đầu Thanh Hải bang vì điều gì. Không chỉ vì quy mô làm ăn lớn mà Hoắc bang chủ đã thiết lập sau khi thừa hưởng lại từ tổ tiên. Thậm chí, cũng không phải lực lượng của họ dàn khắp Nam Hà.

Nghe nói rằng Hoắc bang chủ có thể đập tan mọi âm mưu chống lại ông ta. Nghe nói, vì những âm mưu này không bao giờ trở thành hành động. Hoắc gia luôn đi trước một bước, khống chế cục diện, giành lấy lợi thế.

Ngoài cửa trang viện chợt xôn xao tiếng người. Một toán người đi qua cánh cửa mở rộng, đến trước chính viện. Tất cả bọn họ đều quấn khăn đỏ quanh đầu. Đi trước bọn họ là một người đàn ông trung niên mặt vuông chữ điền, để râu con kiến, sau lưng đeo một cái câu liêm ba mũi.

Hoắc Mai Đoạn, thuộc hạ của Hồng Thiên hội, kẻ đứng thứ hai của Hồng Thiên hội.

"Hồng Thiên hội đến tưởng niệm Hoắc bang chủ, xin kính chào thiếu chủ." Đến trước mặt Hoắc Phương, Hoắc Mai Đoạn ôm quyền chào. Hoắc Phương chắp tay đáp lễ.

"Cảm tạ thịnh tình của Hoắc Nhị đương gia. À, không." Nụ cười phảng phất trên môi người thanh niên. "Là Hoắc Hội trưởng của Hồng Thiên hội mới phải."

Im lặng vẫn phủ trùm lên khoảng sân ngập trong mưa trắng. Ở góc hàng hiên, một tiếng 'rắc' khe khẽ chợt vang lên.

Thiếu nữ lấy cái búa bằng bạc nhỏ đập vào càng cua. Từ đầu đến cuối, cô không hề ngẩng mắt lên.

Chú thích:

[1] Định nghĩa Hán gian của triều đình Trung Hoa xưa là dành cho những người tham gia sâu sắc, tham mưu, giúp đỡ cho chính quyền của một nước khác, trong bất kỳ hình thức nào - mà không liên hệ đến lợi ích của Trung Hoa. Như Trịnh Quốc Anh, dù là người Triều Châu, vẫn không được nhà Thanh chấp nhận địa vị đất nước Xiêm La, đến năm 1781 mới thừa nhận Taksin là chủ nhân Xiêm La chứ không phải quốc vương, dẫn đến cuộc đảo chính - mà dư luận cho rằng liên quan đến quan hệ với Thanh triều.

Hồi 4: Mỹ tuyệt nhân gian

Bên ngoài trang viện, thị thành Hội An thức dậy với cái tin Hội trưởng của Hồng Thiên hội đã đột ngột mất đêm qua, sau một thời gian lâm bệnh. Người trong hội đều biết, bấy lâu nay, quyền hành của hội đã nằm trong tay Hoắc Mai Đoạn, kẻ thân tín của Hội trưởng. Với cái chết này, ông ta lên thay thế chức hội trưởng là điều không cần phải bàn cãi.

Bây giờ, trong trang viện của Thanh Hải bang, những hạt mưa đang tung bay như bụi. Kiếm quang lấp loáng tựa ngàn đóa hoa nắng đang bung nở. Cắt qua khoảng cách giữa những hạt mưa, nương theo gió, phấp phới bay phiêu diêu như cỏ. Như có như không, như sương như mưa, gió thoảng mây phun, khí tức bức người.

Đường kiếm đẹp đến thế, chỉ có kiếm pháp của Hoắc gia.

Trước đường kiếm của bạch y công tử, đối thủ của y đã lùi lại. Nhưng Hoắc Phương không có vẻ nôn nóng kết thúc cuộc đấu.

Tuy y từ nhỏ thể chất yếu đuối, khí lực sinh lực đều không đủ, quyền thuật phải lấy môn võ nhu chế cương của Đông Doanh để hỗ trợ, kiếm pháp Hoắc gia lại vô cùng hợp với bản thân y. Trong vẻ lộng lẫy lại ẩn tàng tử lộ, trong cái hoa mỹ lại chứa đầy sát khí, một khi đã tung ra, Hoắc gia kiếm sẽ đẩy đối thủ vào cái chết. Từ xưa đến nay, chỉ có Hoắc Phương khống chế được nó, ý thức sát nhân độc địa trong kiếm pháp này.

Có thể vì thể chất yếu đuối của y, cũng có thể y là một kẻ kỳ tài - cả về tâm cơ và kiếm thuật.

Hay nói đúng hơn, chỉ những kẻ tâm cơ mới có thể làm chủ được Hoắc gia kiếm. Đường kiếm đẹp như ma quỷ, đẹp ma mị, đẹp chết chóc. Như mưa tung bay, như ngàn đóa hoa bung nở, như mây bay gió thoảng, mỗi đường đều là sát chiêu. Làm chủ được vẻ đẹp ấy, chỉ có thứ đầu óc lý trí lạnh lùng nhất.

Trong một khắc yếu lòng, y đã không muốn rút kiếm đối đầu với Trần Long, chính vì như vậy. Đối thủ càng mạnh, khả năng khống chế của y với đường kiếm càng kém. Không như kẻ đang thách đấu với y hiện tại.

Sau một hồi lặng đi trước những sự việc đang xảy ra, có những kẻ đã bước khỏi đám đông, lên tiếng thách thức quyền thừa kế của Hoắc Phương với chức vị bang chủ Thanh Hải bang. Dù phần lớn khách mời trong trang viện hiện tại là trưởng bối của các nhà chủ yếu tìm mối lợi trong việc kinh doanh, một phần khác là bọn hảo hán giang hồ. Và tất nhiên, để làm chủ bọn họ thì phải có bản lĩnh hơn họ.

Dù trang viện đã được bao vây bởi lực lượng của Hoắc gia và Hồng Thiên hội, có nhiều kẻ muốn phản đối vị thiếu chủ vẻ ngoài yếu nhược này bằng cách đường đường chính chính thách đấu. Sự sợ hãi ban đầu trước những xoay chuyển, biến đổi lẫn sự ngấm ngầm phô trương quyền lực của hai bang hội đã qua đi.

Tất cả chỉ vì tiếng đập cua!

Trong sự thinh lặng tràn ngập trang viện lúc ấy, tiếng của chiếc búa bạc đập vào vỏ cua vọng rất rõ, làm một số kẻ giật mình. Hoắc Phương đưa mắt về phía góc sân, kéo theo một loạt ánh mắt khác.

Thiếu nữ chớp mắt nhìn lên, bối rối mỉm cười.

Nắng sớm trong bạc phản chiếu màu mưa soi sáng dung nhan hoa nhường nguyệt thẹn. Thiếu nữ cười, muôn màu thất sắc. Đã uống mấy chén rượu, gò má thiếu nữ hây hây hồng, đôi mắt càng long lanh, phong tình lả lướt. Họ đã đến đây vào ban đêm, không mấy ai để ý. Giờ đây, toàn trang viện như bị một cơn gió thổi qua, không sợ mà giật mình.

Cơn bối rối trước thế thời xoay chuyển tan dần. Và nhiều kẻ, ban đầu đã định ngồi yên vì ngại thế lực của hai đại bang hội, giờ đây cảm thấy không thể tỏ ra khiếp nhược trước mặt thiếu nữ. Với nam nhân còn có thể tính toán thiệt hơn, rút lui và cúi đầu trước sự chứng kiến của mỹ nhân thì còn tồi tệ hơn cả chết.

Và những kẻ thấy sự tình biến đổi muốn thử vận may cũng vì thế mà tăng.

Cái gọi là nhất tiếu khuynh thành, vẻ đẹp đảo điên thiên hạ, khiến bọn đàn ông như say như ngốc lao vào chém giết nhau, chẳng qua chỉ là như vậy. Trang viên của Thanh Hải bang lại được dịp biến thành nơi thiếu chủ Hoắc gia hoành đao chinh nhân, dùng kiếm đoạt vị.

Giờ đây thiếu nữ vừa ăn bánh uống rượu vừa theo dõi trận chiến, nụ cười vương vất trên đôi môi đỏ thắm. Mạc Kinh Vũ liếc nhìn vẻ thích thú không che giấu của cô nàng, thầm tự hỏi cái đập ấy có chút nào vô tình hay không?

Cô gái này là loại người vốn chỉ sợ thiên hạ không loạn.

Trong sân chợt nghe "canh" một tiếng. Thanh đao trên tay đối thủ của Hoắc Phương rơi xuống đất, thiếu chủ của Hoắc gia đã chĩa kiếm vào yết hầu kẻ thách đấu, mỉm cười.

"Làm phiền đại gia chỉ dạy." Y cười. Cái cười trên khuôn mặt nhợt nhạt bao giờ cũng có vẻ thiếu khí sắc. Nhưng sắc mặt đối thủ của y càng tái hơn.

Kẻ bên ngoài chỉ thấy gã đánh rơi đao, nhưng kỳ thực, khi tránh đường đao, mũi kiếm của Hoắc Phương đã lướt qua cổ tay gã trước khi phóng qua cánh tay, vai rồi đến cổ. Đây là một đường kiếm cực kỳ âm hiểm. Nếu Hoắc Phương dùng lực mạnh hơn, đối thủ của y nếu không bị chặt tay thì cũng đã bị xẻ thành hai mảnh trước khi bay đầu. Tuy không hiểu hết đường kiếm, gã cũng nhận ra khí kiếm như tạo thành một đường rạch chạy suốt thân thể, để lại một vết xước mờ trên cổ tay.

"Đa tạ thiếu chủ nương tay." Đứng yên như phỗng một lúc, gã mới lấy lại tiếng nói. Lùi ngược về phía hàng hiên, gã thậm chí không cúi nhặt lại cây đao. Thở dài một tiếng, Hoắc Phương ra hiệu cho người hầu chạy theo đưa cho gã.

Y đưa mắt về phía những kẻ còn lại đang tụ tập ở hàng hiên bên kia. Vẫn chưa có kẻ nào tiến về phía trước.

Y đã đánh bại kẻ thứ ba. Và y đã chọn đấu với đối thủ từ kẻ mạnh nhất trở xuống. Những người chứng kiến phải hiểu điều đó có ý nghĩa gì.

Hiện tại, nước mưa đang ngấm vào y, lành lạnh. Y cố ngăn một cái rùng mình. Y sinh thiếu tháng, mẹ y vì sinh khó mà mất, lúc ấy các đại phu chỉ sợ y không sống được. Và y cứ như thế lớn lên, sinh lực yếu ớt, khí lực không đủ. Bây giờ y chỉ mong cuộc chiến này nhanh chóng kết thúc.

Từ sau lưng y lại có một người bước đến.

"Lần đầu tiên ta thấy một kiếm pháp tinh mỹ đến thế. Ta thử sức một chút được không, Hoắc thiếu chủ?" Hoắc Mai Đoạn cười mà hỏi, câu liêm đã rút ra cầm trên tay.

Thoáng kinh ngạc trong đôi mắt Hoắc Phương được che giấu bằng nụ cười nhàn nhạt trước khi y gật đầu. Tiếng xôn xao trong các hàng hiên vọng vào tai y.

"Thế này chẳng phải là dựa thời chiếm lợi thế sao?" Có kẻ cao giọng như phẫn nộ. "Sao thiếu chủ phải đấu với hắn? Đây chỉ là việc của Thanh Hải bang!"

"Đây gọi là nhờ người thì sẽ bị phiền." Thiếu nữ cười khẽ, nhâm khi que kẹo quế bên khóe môi. Mắt cô ta khẽ nheo lại. Gần giống như ánh mắt của Hoắc Phương.

Trong lòng y cũng đang rủa thầm. Gã Hoắc Mai Đoạn này cho rằng mình có công giúp đỡ y, lại muốn lấn thêm một bước. Nếu thắng, gã sẽ hạ bệ được danh tiếng của Thanh Hải bang ngay từ khi chưa bắt đầu, thậm chí, lợi dụng sơ sẩy của y để chiếm chức bang chủ hay giết cả y. Mọi kẻ trên giang hồ đều biết những người đụng độ với Hoắc Mai Đoạn đều phải chết - không phải vì võ công âm tuyệt như Hoắc gia kiếm, mà vì cách ra tay tàn nhẫn của gã.

Nhưng lúc này, đứng ở địa vị đại diện cho Thanh Hải bang, trước tranh chấp truyền đời của hai bang hội, y không thể chối từ.

Tuy vậy, sự bối rối trong lòng y nằm ở ý nghĩa khác. Hoắc Phương xưa nay chỉ sợ kiếm của y giết người chứ chưa bao giờ sợ kẻ khác giết y. Đối đầu với Hoắc Mai Đoạn, nếu y nương tay thì sẽ không đủ sức, mà dùng toàn lực thì sẽ dẫn đến giết người. Thể lực y không đủ để đối phó với sức mạnh của đối phương, chỉ có thể dùng sự tinh tuyệt của kiếm pháp lẫn tốc độ của bản thân. Nhưng giết Hoắc Mai Đoạn - Hội trưởng mới của Hồng Thiên hội? Y chưa chuẩn bị để đối phó với xáo trộn sẽ diễn ra, trong tình cảnh mà lực lượng chủ lực của Hoắc gia vẫn còn nằm ở ngoài Quảng Nam.

"Cho ta đĩa bánh khác!" Giọng thiếu nữ trong trẻo chợt vang lên, vọng rõ ràng trong những tiếng nói rì rầm mà ai nấy đều cố hạ giọng. Thiếu nữ ngồi trong góc sân đứng dậy, vẫy một tên gia nhân còn há hốc mồm đứng gần đó.

"Hết cua rồi à? Thế còn tôm hấp không, cho ta một đĩa." Tiếng nói trong như chuông ngân thản nhiên chẳng hề chú ý đến những ánh mắt xung quanh. "Nhớ làm muối tiêu chanh ớt cho cay vào."

"Tiểu nha đầu..." Có tiếng lầm bầm khe khẽ, nhưng không ai nỡ mắng một cô bé đẹp đến thế. Cô bĩu môi, ngồi lại xuống ghế, vẫy tay với hai kẻ đang đứng trong sân.

"Tiếp tục, tiếp tục đi." Nụ cười còn sáng hơn cả nắng, trong trẻo hơn cả mưa.

Hoắc Phương lắc đầu, khe khẽ thở ra. Y cúi đầu chào Hoắc Mai Đoạn, giấu nụ cười phảng phất trên môi.

Mũi kiếm của y vẫn chúc xuống đất. Cả khi tiếng lanh canh trầm đục của những chiếc móc trên câu liêm đã vang lên.

Hoắc Mai Đoạn xông về phía y, thân hình hộ pháp lại lướt như bay. Chiếc câu liêm trên tay gã rung động, ba cạnh quay tròn. Thông thường, gã dùng mũi câu liêm này móc lấy vũ khí của đối phương, hất nó ra khỏi tay họ. Phía cuối câu liêm lại là một quả cầu nhỏ mang theo mũi dao lủng lẳng, đồng thời đâm thẳng về phía đối thủ. Thủ pháp dùng câu liêm của gã thiên biến vạn hóa, mạnh mẽ quyết tuyệt, khí tức áp đảo đối phương ngay từ khi vừa cất tay.

Y vẫn cúi đầu, gần như trầm ngâm.

Nắng phản chiếu trên mặt thép mũi câu liêm lấp loáng trên mặt y, trên lớp vải bố của tang phục trắng. Gió thổi qua mặt sân đổi chiều, đưa mưa đan vào nhau.

Những giọt mưa đang chuẩn bị đáp xuống mặt đất bắn ngược trở lại, vỡ tan dưới nắng. Lưỡi kiếm hất lên một vòng cung duyên dáng. Áo trắng phấp phới. Thân ảnh như bạch hạc bay qua sương khói Giang Nam. Kiếm quang như ánh trăng tan trên mặt nước. Trong một khoảnh khắc, một sát na, Hoắc Mai Đoạn thấy mình lóa mắt.

Trong một sát na, cổ tay đổi hướng, thanh kiếm xoay chiều, cắt qua cổ gã.

Máu bắn trong bụi mưa vẫn còn tung bay. Bạch y công tử lùi lại, kiếm thu sau lưng. Thân người đổ ập xuống, giãy giụa trong máu đã đọng thành hồ. Trên cao, mặt trời nhợt nhạt sau nhiều lớp mây xám soi trên vũng máu thành một điểm trắng bạc.

Ngay cả đám thuộc hạ của Hồng Thiên hội cũng không phản ứng. Tất cả đang ngây người trước cảnh tượng đã diễn ra.

Ánh mắt kẻ bị giết vẫn mở trừng trừng. Ánh kiếm quang như ngàn bông hoa nắng vẫn lấp lánh trong đáy mắt gã. Như vậy mà mỹ lệ, như vậy mà kinh diễm. Kiếm pháp Hoắc gia vốn đã nổi danh từ lâu, nhưng chưa ai có thể sử dụng nó được đến mức như thế.

Chỉ trong một buổi sáng, qua một chiêu kiếm, Hoắc Phương đã trở thành bang chủ, không, bá chủ của vùng đất trên ba con sông.

Y thu kiếm, chậm chạp đưa mắt nhìn qua đám thủ hạ mà Hoắc Mai Đoạn đã dẫn theo. Chúng ngây người nhìn y. Trước khi y kịp lên tiếng, một người quấn khăn đỏ từ trong hàng hiên đã đi ra, cúi đầu trước y.

"Hoắc bang chủ quả là võ công vô địch, trí lực hơn người. Anh em Hồng Thiên hội vô cùng kính phục. Việc đấu võ không tránh khỏi sơ suất mà thương tổn lẫn nhau, là Hội trưởng của chúng tôi thách đấu mà ra, mong việc này không làm tổn hại tình cảm của đôi bên."

"Không, là tôi rất lấy làm tiếc." Y nhợt nhạt cười. Triệu Thành, kẻ dưới trướng cố Hội trưởng vừa mất, y nhận ra. Hẳn nhiên, con cáo già này nhìn ra cục diện xoay chuyển không có lợi, không muốn tổn thất nhân mạng mà đồng thời giữ được quan hệ tốt với y.

Hoắc Mai Đoạn, kẻ vừa nhậm chức Hội trưởng Hồng Thiên hội, đã chết. Tất cả đã nằm trong tay y, lúc này. Y đưa mắt nhìn quanh. Những thủ lĩnh của Hồng Thiên hội đã tụ tập trong trang viên này.

Ngoài cửa lại vang tiếng vó ngựa. Một đoàn nhân mã dừng lại trước cửa. Người dẫn đầu nhảy xuống ngựa, đi vào sân, vòng tay cúi đầu trước y.

"Thuộc hạ đã đưa người của chúng ta trở về, xin đợi lệnh."

Tất cả đã nằm trong tay y. Y nhìn quanh những khuôn mặt chứa muôn vàn trạng thái, mập mờ trong mưa. Mưa rả rích kéo dài trong cơn bão xa.

"Sắp xếp cho họ nghỉ ngơi." Y lơ đãng nói với tên hộ vệ.

Rồi y cười lớn, cao giọng nói với toàn thể người trong sân. Giọng nói vẫn mềm mại, hầu như quá ôn nhu.

"Mời quý vị an tọa, chúng ta mở tiệc thôi."

***

Khi y trở về phòng, bóng tối đã buông. Đèn đã thắp sáng mọi nơi trong trang viện khi mọi người sắp xếp thu dọn buổi tiệc lúc sáng. Bây giờ, y đã là bang chủ của Thanh Hải bang.

Đặt tay lên cánh cửa, y chợt dừng lại. Có người trong phòng.

"Là ta." Giọng nữ vọng ra. Y thở phào, mở cửa bước vào rồi nhanh chóng đóng lại.

Thiếu nữ mặc áo trắng váy đỏ ngồi vắt vẻo trên bàn kê giữa phòng nhìn y, hơi bĩu môi.

"Đâu cần phải cẩn thận như vậy." Cô nói. Y chỉ im lặng đến gần, đẩy vai cô.

"Ta đã nói bao nhiêu lần là bàn của ta không phải ghế ngồi."

Thiếu nữ cười hì hì, tuột xuống. Y ngồi xuống chiếc ghế sau bàn, húng hắng ho.

"Lại bệnh nữa rồi à?" Thiếu nữ chống tay lên bàn, nhìn y mà hỏi. Y gật nhẹ đầu.

"Chỉ là ho thường thôi."

"Ngươi bao giờ cũng giống như con vịt ốm." Thiếu nữ buông một câu không chút thương xót, đoạn đưa tay. "Tiền của ta đâu?"

Ném về phía cô một ánh mắt, y mở khóa ngăn tủ dưới bàn, lấy ra mấy tấm ngân phiếu. Thiếu nữ cầm lấy, đếm một lúc rồi lắc đầu.

"Còn những vụ trước đâu?" Cô hỏi trổng. Y nhướn một bên mày.

"Không giết người mà vẫn tính tiền?"

"Quang Minh hội không làm gì không công. Vả lại, giết người chỉ cần một phát là xong, giả vờ giả vịt mới mất công. Ta không tăng thêm tiền thì thôi chứ." Thiếu nữ đưa bàn tay trắng ngần về phía y, ngón tay ngoắc nhẹ. Y thở ra, móc một xấp ngân phiếu ném lên bàn.

"Cứ việc đếm bao nhiêu lấy bấy nhiêu." Y nói, ngả người ra sau, nhắm mắt lại. Y đã thấy mệt mỏi. Y nghe ngón tay thiếu nữ nhịp lên bàn, nhưng không mở mắt.

"Thôi, ta để tiền cho ngươi mua yến sào mà ăn. Đổi lại, ngươi cho ta cái này nhé?" Y nghe thiếu nữ nói, liền mở mắt. Cô nàng đang đi đi lại lại trước dãy đàn cổ mà cha y sưu tập được.

"Đừng chơi trò gian lận. Giá mỗi cái, có làm mười vụ như thế này mới mua được." Y cười khẽ. Đàn này là thượng cổ trân bảo, cha y sưu tầm suốt cả đời. Có trả ngàn lượng hoàng kim, ông cũng không bán.

"Ngươi chắc chắn còn phải nhờ vả ta nhiều, coi như trả trước đi." Thiếu nữ thản nhiên nói. Y đảo mắt, lắc đầu.

"Chọn lấy một cái trong đó đi." Y nói. Dù sao cha y cũng đã mất. Những thứ này nói cho cùng không còn quá quan trọng nữa.

Thiếu nữ cười tươi như hoa. Đảo qua đảo lại trước dãy đàn một lúc nữa, cô vừa nhìn vừa lẩm bẩm.

"Xem nào, Trọng Ni thức thì nghiêm túc cứng nhắc quá. Linh Kỳ thức thì lại rắc rối quá. Linh Quan thức thì mộc mạc quá. Thần Nông thức hơi thô kệch. Liên Châu thức hẳn phù hợp cho nữ hơn. Phượng Thế thức mềm mại quá, không phù hợp với anh ấy. Ừm, Sư Khoáng thức được này. Thanh thoát mà cứng cỏi, phóng khoáng mà thanh nhã.[1]"

"Đó là Nhất trì xuân thủy cầm, tên khác là Vạn cổ di âm cầm, được làm từ đời Đường." Y ngả người vào lưng ghế, nhìn thiếu nữ mà nói. "Tiểu yêu, chọn được cây đàn đắt nhất của ta rồi đấy."

"Đàn quý đâu phải ở giá tiền." Thiếu nữ cười, không khách khí leo lên bàn gỡ cây đàn xuống. Mặt sau cây đàn khắc mấy câu thơ:

"Như thính vạn hác tùng 

Khách tâm tẩy lưu thuỷ 

Dư hưởng nhập sương chung 

Bất giác bích sơn mộ 

Thu vân ám kỷ trùng."[2]

Cô gật gật đầu, đặt đàn xuống bàn, chỉnh lại bảy dây đàn rồi gảy thử. Âm thanh trong trẻo như nước chảy gió reo.

"Không ngờ bàn tay đầy mùi cua cũng biết gảy cổ cầm." Y chợt cười. "Yên tâm đi, cha ta giữ đàn rất kỹ. Mỗi tháng ông ấy đều đem đàn xuống lau, chỉnh lại dây."

"Ta không có hứng thú đốt lư hương trừ muỗi để chơi đàn không có nghĩa là ta không biết gảy." Thiếu nữ 'hừ' nhẹ, đóng đàn vào lại trong hộp. Y nhìn theo cử chỉ của cô, nhún vai.

"Đem đàn cho anh ta à?" Kẻ ấy yêu cầm như mạng, với cha y thật ra không khác là mấy. Ngày còn sống, cha y cùng kẻ hậu bối ấy lại rất tương đắc.

Thiếu nữ gật gật đầu, không trả lời. Đeo đàn vào sau lưng, cô quay nhìn y, tay khoanh lại, thái độ bất chợt nghiêm túc.

"Ngươi biết sau này phải làm gì rồi chứ?" Ngón tay cô gái búng nhẹ, chỉ vào y. "Hồng Thiên hội đang rối loạn, thừa cơ mà lấy."

"Với người của các người trong Hồng Thiên hội, e rằng ta muốn từ chối chức Hội trưởng còn không được." Y nhàn nhạt cười. Cô gái bĩu môi, đi đến trước bàn, bàn tay nhỏ vỗ vỗ vào mặt y.

"Tươi tỉnh lên. Thái độ này là để trả ơn ta suốt đêm chạy đến đem cờ lệnh xử lý Hồng Thiên hội cho ngươi đấy à?"

"Chúng ta hợp tác, ơn nghĩa gì?" Y cười thành tiếng. Thiếu nữ cũng chẳng giận, chỉ cười theo.

"Ngươi nói thế với ta thì được, thử nói trước mặt anh ấy, xem anh ấy có bẻ cái cổ mềm mại này của ngươi hay không?" Cô hất cằm. Không nhìn đến mắt y tối đi, cô quay lưng bước ra cửa. Nhẹ như mèo, cánh cửa đóng lại, bóng cô gái dần khuất không một tiếng động.

Y ho húng hắng. Thổi tắt đèn, y cũng rời khỏi phòng. Cơn mưa đã ngớt, chỉ còn lác đác hạt rơi. Gió lạnh thổi, đem hương hoa tràn ngập không gian. Những chiếc đèn lồng treo suốt hành lang lay động. Bất chợt, y nhìn về phía đầu tường bên kia. Chỉ có bóng hoa lung lay khe khẽ.

Chú thích:

[1] Cầm này là cổ cầm, không phải đàn tranh, là loại đàn có từ thời thượng cổ của Trung Quốc. Trọng Ni thức, Sư Khoáng thức... là các dạng hình thái của cổ cầm. Người gảy cổ cầm phải rất thành tâm, tắm rửa, đốt hương, mặc áo rộng... trước khi đánh đàn.

[2] Bài thơ Thính Thục tăng Tuấn đàn cầm của Lý Bạch. Dịch nghĩa:

Như nghe tiếng tùng reo qua vạn dòng suối 

Nước rửa sạch cõi lòng người 

Dư âm hòa chung với sương 

Không nhận ra chiều đã buông xuống núi biếc 

Tối mờ mây thu bốn phía trập trùng.

Hồi 5: Bữa tối

Dù có kẻ nào chết đi, nhịp điệu cuộc sống chung cũng chẳng vì thế mà thay đổi lắm.

Dù ban ngày đã xảy ra sự việc kinh thiên động địa khi hai bang hội lớn nhất biến động cực độ, Hội An ban đêm vẫn nhộn nhịp, thậm chí như đã lấy lại nhịp điệu trước khi xung đột của hai bang hội xảy ra. Dù kẻ nào nắm quyền, mâu thuẫn cũng đã được giải tỏa, để bầu không khí yên bình trở về.

Như bầu trời sau cơn bão dù vẫn còn vương vất mây mờ nhưng trăng đã bắt đầu ló dạng.

Hội An vừa vào đêm sáng rực ánh đèn lồng. Đèn treo trước cửa những ngôi nhà, hàng quán, đèn treo trên đường, đèn từ những chiếc thuyền phản chiếu trên sông... Ánh lửa đỏ làm sự huyên náo của đêm càng thêm rạo rực. Khác với sự ồn ào của buổi sáng, những tiếng động trong đêm thấm đẫm ánh lửa cũng trở nên huyền ảo và ấm áp. Gió thổi qua, trong hơi nước lạnh còn mang theo hương trầm tỏa ra từ một ngôi nhà nào đó. Hương cúc mùa thu cùng các loài hoa đêm nhiệt đới cũng dìu dịu tỏa khắp không gian.

Mùa thu, khi gió mùa bắt đầu thổi về từ phương Bắc, những vụ mùa ở phương Nam bắt đầu vào thu hoạch, những dòng nước đem các luồng cá trôi về dưới rặng đá, những chuyến tàu từ Giang Nam, Hải Nam cũng xuôi về phương Nam. Khu nhà trọ bên bến cảng đông chật thương buôn đến mua hàng, ở lại đến gần hết mùa gió. Những chiếc tàu Tây dương cũng nghỉ lại bến cảng, chuẩn bị cho chuyến đi dài qua Mãn Lạc Gia, vượt Ấn Độ Dương để quay lại Đại Tây Dương.

Màn đêm Hội An, do đó, không chút nào tĩnh lặng.

Dù đã qua Trung thu, những dãy đèn lồng vẫn rực rỡ, tiếng ca hát vẫn rộn ràng. Qua một ngày mưa dầm, người trong thành lại đổ ra đường để tận hưởng không khí trong lành. Những gánh hàng rong thơm nức. Những chiếu bạc nhỏ được trải ra dưới bóng liễu. Những người hát rong ngồi nép bên đường tìm kiếm vận may. Và cửa quán hàng không lúc nào ngớt người. Những khu tửu quán thanh lâu không chỉ để phục vụ cho nhu cầu giải trí mà còn là nơi các thương buôn gặp gỡ, thương thảo, ký kết hợp đồng làm ăn. Với một thị thành buôn bán, các khu nhà này còn quan trọng hơn phủ quan.

Nhưng hắn không hiểu cô gái này có lý do gì để xăm xăm đi thẳng đến dãy nhà ấy.

Sau khi rời khỏi trang viện của Thanh Hải bang, thiếu nữ đưa cây đàn cho lão sư già bảo đem về nơi ở. Nhìn hắn suốt một lượt từ đầu đến chân, cô chợt hỏi: Có muốn đi chơi với ta?

Tất nhiên, hắn gật đầu.

Nhưng hắn chưa bao giờ nghĩ có cô gái dẫn mình đến thẳng thanh lâu.

Không nhìn lại hai người thanh niên phía sau, thiếu nữ đường hoàng hất tấm màn che ngoài bước vào một ngôi nhà lịch sự nép sau bụi trúc tao nhã. Thấy cô, những hầu gái trong gian nhà trước giật mình. Một người đàn bà đứng tuổi có vẻ như chủ nhà ngồi trên phản kê góc phòng cau mày nói mà không buồn đứng dậy.

"Cô bé, đi nhầm chỗ rồi. Chỗ này không dành cho phụ nữ. Nếu muốn bán thân thì vòng cửa sau mà liên hệ với Cao lão bản."

"Hai người này không phải là nam nhân?" Thiếu nữ chỉ tay ra sau về phía hai người thanh niên không còn cách nào khác phải theo vào. "Có cần họ cởi quần áo ra kiểm tra? Nơi này không phục vụ nữ chứ không cấm nam đem theo nữ."

Cô đem chúng ta vào đây thì có, hắn nhủ thầm. Lão bà liếc mắt qua bộ dạng lôi thôi của hắn rồi đến mái tóc bù xù của gã mã phu tên Sa. Nhận ra thái độ bà ta, thiếu nữ cười, móc trong túi đeo ra một thỏi vàng ném lên phản.

Chỉ một lát sau, họ đã được dẫn lên lầu, nơi tiệc rượu được bày sẵn trên bàn.

"Hành xử ở đây rất đơn giản, chỉ cần có tiền là được." Thiếu nữ vừa nói vừa ngồi xuống ghế kê mấp mé hành lang nhìn xuống con đường đông đúc. "Bất kể anh là ai, muốn giết người phóng hỏa đều có thể."

"Nhưng vào đây làm gì?" Hắn cũng ngồi xuống ghế. Dù sao cũng là một nam nhân, đây chẳng phải lần đầu tiên hắn bước vào chốn yên hoa này.

"Ăn tối." Thiếu nữ nói, rồi giải thích trước cặp mắt trợn tròn của hắn. "Rượu ngon món ngon, không gian yên tĩnh độc lập, phục vụ chu đáo, vừa không phải đinh tai nhức óc với tiếng động ở chỗ quán xá xô bồ, vừa được nghe đàn nghe hát, rượu rót tận ly thức ăn gắp tận miệng - Tất cả những thứ này chỉ phục vụ cho đàn ông không phải hoang đường quá sao?"

Miệng hắn há ra rồi ngậm lại. Hắn đưa mắt nhìn tên Sa kia như cầu cứu, chỉ thấy khuôn mặt lạnh như đá. Gã như có vẻ đã quá quen với tính cách này của chủ nhân.

Nhưng hắn cũng chỉ ngạc nhiên trong khoảnh khắc. Khắc tiếp theo, hắn ha hả cười, vỗ vai thiếu nữ.

"Phải, phải rồi! Nhà ta vẫn mời ca kỹ về giúp vui, nhưng không mời ca kỹ về nhà được thì ta đến chỗ họ." Hắn gật đầu. Thiếu nữ dừng tay kéo rèm trúc lên cao, liếc nhìn hắn.

"Ở Đông Phố cũng phong lưu khoái hoạt được như vậy rồi sao?" Thiếu nữ buông dây rèm trúc, cầm lấy bình rượu rót ra ly cho ba người. Một lần nữa, hắn gật đầu.

"Ở Trấn Biên thì nhiều người ở đã lâu, Trần Thắng Tài tướng quân tập trung ở Cù lao Phố, thuận lợi lắm. Ta ở Rạch Năn với Dương tướng quân, mấy năm nay tướng quân cho người khai ruộng mở đất, lập chợ buôn bán với người Chân Lạp, Đại Thành, Nam Dương cũng ổn định rồi."

"Ồ..." Thiếu nữ nghiêng đầu, có vẻ như trầm ngâm. "Ngươi tên họ là gì?"

"Ta họ Mạc, tên chữ là Tử Hiên." Hắn thường không dùng tên thật của mình ở ngoài.

"Họ Mạc? Mạc Cửu là gì của ngươi?" Thiếu nữ mỉm cười. Hắn im lặng một lúc rồi nhún vai.

"Chủ nhân của ta." Điều đó cũng không sai. Lão Cửu là chủ nhà, tất nhiên quản lý cả hắn.

"Cô nương biết cả Mạc lão gia?" Hắn ra vẻ tò mò mà hỏi. Thiếu nữ yêu kiều mỉm cười.

"Một thương nhân rất nổi tiếng ở Quảng Đông chống lại Thanh triều, đưa cả gia đình và bốn trăm thuộc hạ trên hai mươi thuyền đi về phương Nam, hiện thời là cánh tay phải của Dương tướng quân mở mang việc buôn bán ở Rạch Năn. Người như thế, ở đây ai mà không từng nghe tiếng? Hiện thời có rất nhiều người muốn liên hệ với Mạc lão gia để mở rộng kinh doanh ở Đông Phố."

Lão Cửu quả thật rất nổi tiếng. Ngay cả quốc vương Đại Thành cũng đã từng lên tiếng mời ca ca sang chơi. Trên đất Đông Phố còn đầy xáo trộn, không được quản lý chặt chẽ lại mọc lên hai trung tâm buôn bán phát triển - Chỉ cần nghĩ đến hàng vạn vạn loại gỗ quý, thú hiếm trong rừng, sản vật trong đất, địa thế thông thương với Nam Dương, Hạ Châu, Đại Thành... lão Cửu của hắn, kẻ nắm thương nghiệp vùng trung tâm Thủy Chân Lạp, đương nhiên trở thành một nhân vật quan trọng.

Và còn hơn thế. Chân Lạp, sau những tranh chấp và chiến tranh, đã suy sụp không thể gượng dậy nổi. Sau một cuộc tranh chấp, chúa Nguyễn đã đưa Đại vương Chân Lạp về đóng đô ở Vũng Long, để Nhị vương ở Sài Côn, nghiễm nhiên phân chia đất nước này thành hai vùng đất. Để hai toán người Minh trong đất Chân Lạp, một ở biên giới Trấn Biên, nơi binh triều Nguyễn đóng quân, một ở trung tâm Thủy Chân Lạp, e rằng mục đích của chúa Nguyễn không chỉ là cho họ một nơi ở.

Đó là điều Hoàng phó tướng từng nói với lão Cửu mà một lần hắn nghe được. Với họ, chúa Nguyễn hiển nhiên có ơn. Họ Trịnh đã từ chối đoàn thuyền rời khỏi Quảng Đông, không quốc gia nào trong vùng ảnh hưởng của Đại Thanh dám chứa chấp toán người chống đối vương triều hiện tại. Họ Nguyễn đã lo cho họ nơi ở, cung cấp tài vật, công cụ cho họ bắt đầu cuộc sống mới. Mang ơn người thì e rằng sẽ có lúc phải trả.

Họ Nguyễn, dưới sự lãnh đạo của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần, đã trở thành một vương triều đầy tham vọng. Vị chúa, khi mới lên ngôi, đã ngang nhiên khước từ cống nộp cho vua Lê - nói rằng đó chỉ là sự bày vẽ của Trịnh. Hết lần này đến lần khác, quân Trịnh bị đánh bại, bị chiếm cả Nghệ An. Thậm chí, mượn cớ trả thù cho vua Lê bị chúa Trịnh sát hại, chúa Hiền đã từng có lần muốn tiến quân lên phương Bắc. Dù ý định không thành, quân Trịnh trước thành lũy vững chắc Trấn Ninh đã phải nản lòng. Cuộc chiến kéo dài bốn mươi lăm năm của hai dòng họ đã kết thúc. Hòa bình đã đến với vùng đất Trấn Ninh hàng chục năm dài.

Và khi biên giới phía Bắc yên ổn, quân Nguyễn tiến về phương Nam. Bắt đầu bằng vương triều Chiêm Thành còn đóng ở biên giới Phú Yên. Vua Bà Tấm muốn lấy lại Phú Yên, chúa Hiền liền đưa quân đến đập tan cả vương triều còn sót lại của Chiêm Thành, lập hai dinh Thái Khang, Diên Khánh chiếm giữ mạn Đông đất Panduranga.

Ý định của chúa Nguyễn không đơn giản. Hoàng phó tướng nói, và tin rằng không chỉ có một mình ông ấy nhận ra.

Chân Lạp đã như cá mắc vào lưới, khôn bề vùng vẫy. Ngày xưa, họ đã kết giao với chúa Nguyễn để chống lại Đại Thành. Bây giờ, họ bị tách đôi. Đại vương Nặc Thu ở Vũng Long thân Đại Thành, cảnh giác thủ thế với Nguyễn. Nhị vương Nặc Nộn ở Sài Côn phải nhờ thế lực Nam Hà mà giữ ngôi vị của mình - với sự hỗ trợ của một công nữ nhà Nguyễn, Thái hậu Ngọc Vạn.

Thái hậu Ngọc Vạn, nguồn cơn sự khủng hoảng của Chân Lạp. Cuộc hôn nhân tưởng đâu là sự kết hợp tốt đẹp của hai vương triều đã tạo nên những xoay chuyển không lường được. Chỉ bốn năm sau khi lấy mỹ nữ Nam Hà, quốc vương Chân Lạp qua đời, dẫn đến cuộc tranh giành ngôi vị của người em trai và con trai. Thái hậu Ngọc Vạn đã đánh bại các thế lực trong triều đình Chân Lạp, đưa người con trai mới bốn tuổi của mình lên ngôi. Mười mấy năm sau, người con này bị giết chết, triều đình một lần nữa rơi vào khủng hoảng. Với nỗ lực thoát khỏi bàn tay họ Nguyễn, vị vua mới đã kết hôn với con gái của một vương triều xa xôi. Vị vua mới chuộng đạo Hồi của người vợ, tạo nên bất mãn trong người bản xứ. Những hoàng thân khác được Thái hậu Ngọc Vạn khuyến khích liền bắt tay với triều Nguyễn làm phản lật đổ nhà vua. Sau đó, triều Nguyễn nghiễm nhiên có mặt trong mọi công việc của Chân Lạp - đại diện là Thái hậu Ngọc Vạn.

Mười năm trước, khi đến Đông Phố, hắn đã cùng toán người di cư đến cảm tạ Nhị vương và Thái hậu. Người phụ nữ đã qua tuổi thất thập cổ lai hy nhưng vẫn cứng cỏi như một cây liễu cổ, như đúc bằng vàng khối. Kẻ thực sự giữ quyền điều khiển Chân Lạp, bây giờ.

Chân Lạp, Đông Phố, trong những xáo trộn và giành giật hiện tại, trở thành mục tiêu của rất nhiều, rất nhiều kẻ.

Mà bọn hắn đương nhiên trở thành trung tâm của sự chú ý ấy. Quốc vương Đại Thành muốn kết giao với lão Cửu, e rằng không chỉ vì "mến tài".

Đó có phải là lý do mà cô gái này cứu hắn, cho hắn đi theo? Nhìn những ngón tay trắng như ngọc sắp từng đôi đũa ra bàn, trong lòng hắn gờn gợn bất an. Ngay từ đầu, cô ta đã nhận ra hắn là người Đông Phố.

Nhưng cô gái này đã chú ý đến lão Cửu. Mạc Kinh Vũ hắn tốt xấu gì cũng không phải là loại bỏ anh em chạy trốn. Hắn không thể để lão Cửu phải đối đầu với tiểu... à không, hồ ly ngàn năm đội lốt tiểu yêu tinh này trong tư thế không biết tí gì như bọn người hồi sáng.

"Cô có muốn liên hệ với Mạc lão gia? Ta có thể giúp." Hắn cười mà nói. Thiếu nữ ngẩng đầu nhìn hắn, nheo mắt.

"Ngươi là người thân của Mạc lão gia?" Thiếu nữ cười mà hỏi. Trong một khắc, hắn ngẩn người. Cô gái vỗ vai hắn.

"Nghĩ xem, nếu ngươi là thuộc hạ của Mạc lão gia, thì ngươi đến đây làm gì? Có việc gì cho thứ tửu quỷ ngốc nghếch lôi thôi lếch thếch nhà ngươi? Mà ngươi lại mặc quần áo đắt tiền, mà ngươi lại mang họ Mạc - chỉ có những thân tín tâm phúc nhất mới được mang họ chủ nhân - Mạc lão gia nhờ được gì ở tên tửu quỷ nhà ngươi? Thế thì ngươi chỉ có thể là người trong nhà..."

"Một khả năng nữa là con của gia nhân trong nhà." Hắn ngắt lời cô gái, gãi đầu. "Lão gia gia ta làm việc cho nhà họ Mạc, danh vị cũng không tệ. Ài, ta có việc gì để đến đây đâu chứ. Ta chỉ đến tìm một vị bằng hữu."

"Ai vậy? Ta có thể tìm giúp ngươi." Nụ cười vẫn tươi như hoa nở, làm hắn âm thầm nổi gai ốc.

"Sao cô lại tốt với ta vậy?" Hắn hơi né người ra xa. Sự cảnh giác này cũng có lý à. Tự dưng mời lên xe, cho hắn đi theo, đãi hắn ăn uống, người bình thường nào cũng phải lấy làm thắc mắc.

"Vì hôm nay ta vui." Thiếu nữ cười khúc khích, bàn tay chợt đặt lên má hắn. "Mà vì ngươi trông cũng vui mắt."

Đám ca kỹ mở cửa vào đã cứu hắn không bị bật ra khỏi ghế. Dù đã ở vùng đất Chân Lạp lâu đến thế, quen với cả những phụ nữ quanh năm chỉ quấn một cái sarong, hở cả nửa người, hắn cũng chưa từng nghĩ mình bị phụ nữ tấn công. Không phải sờ soạng đàn ông là tập tục bình thường ở đây chứ, hắn len lén liếc nhìn thiếu nữ đang liệt kê bài hát cho đám ca kỹ mà tự hỏi.

Đám ca kỹ ngồi vào góc phòng, bắt đầu hát. Thiếu nữ chống tay nhìn họ, làm như quên bẵng chuyện vừa nói.

"Sao đàn ông các người có thể hôn lên lớp phấn son dày cộp đó được nhỉ?" Ngay khi hắn vừa mở miệng, thiếu nữ chợt nói, vẫn hướng mắt về phía những ca kỹ. Hắn vội vàng nâng ly lên uống để nuốt cơn ho khan trong cổ.

Như nhận ra cử chỉ của hắn, cô gái gõ đũa vào chén, cười. "Ăn thôi."

Lạ lùng là, bữa ăn trôi qua trong thinh lặng.

Không hiểu sao, hắn cảm thấy bầu không khí có phần nặng nề trùm xuống căn phòng, ngay cả trong tiếng nhạc rộn ràng của các ca kỹ. Thiếu nữ thỉnh thoảng lại cau mày, tên Sa vẫn im lặng như đá tảng. Còn hắn đã hoàn toàn ngậm miệng sau một lần nhắc lại chuyện nhà họ Mạc và được thiếu nữ buông một câu lạnh nhạt:

"Bỏ đi, người như ngươi nói thì ai thèm nghe mà đòi làm liên lạc."

Không phải cứ là sự thật thì không làm tổn thương.

Khi họ đã ăn gần xong bữa, cửa phòng lại mở. Một cô hầu nhỏ vào báo có người muốn gặp họ. Triệu Thành đứng trước cửa, mỉm cười gật đầu chào.

"Triệu lão gia cũng có nhã hứng đến đây?" Thiếu nữ nói mà không đứng lên. Triệu Thành ngồi xuống ghế mà một ca kỹ đem tới, nhẹ lắc đầu.

"Ta biết cô nương ở đây nên đến tìm."

"Ồ, nghe nói họ Triệu quản lý hầu hết các kỹ viện ở đây, quả không sai." Thiếu nữ cười. "Không hiểu Triệu lão gia có việc gì cần gặp tiểu nữ?"

"Buổi sáng này, ngay khi nhìn thấy cô nương, ta đã đem lòng hâm mộ." Triệu Thành cười khe khẽ, chiếc quạt trắng phe phẩy trong tay. "Nên ta đã hỏi thăm tung tích cô nương. Nhóm canh cửa bảo rằng, cô nương đã vào trang viện bằng thẻ bài của Bình Khang đường.

"Bình Khang đường mà chúng ta gọi, là một nhóm người Thượng ở biên giới Chiêm quốc." Triệu Thành chậm rãi nói, mắt nheo lại. "Nhưng ta chưa từng nghe nói rằng tộc trưởng của họ lại có một đứa con gái."

"Mai Điềm tiêu chủ của ta trở về tổng đà cũng xác nhận, rằng có một cô gái đêm trước đã đi qua trạm canh gác ngoài Hội An. Cô ta còn đem chuyến vận chuyển hàng đến Triều Châu của Mai Điềm tiêu cục ra để đe dọa ông ấy."

"Ta đang nghĩ, ngoài chúng ta ra, chỉ còn một loại người nữa biết chuyến hàng này."

Triệu Thành chợt ngừng nói. Thiếu nữ vẫn thản nhiên uống hết rượu trong ly, rót một ly khác, nhàn nhạt cười.

"Thứ nhất, Triệu lão gia, Tộc chủ của Bình Khang đường cử người đến đây không nhất quyết phải là con gái ông ấy. Thứ hai, ông xác định được cô gái đã gặp Mai Điềm tiêu chủ là tiểu nữ? Đem tất cả những danh phận ấy cho tiểu nữ mà không xác minh, e rằng có phải là quá gấp gáp?"

"Phải, quá gấp gáp. Nhưng ta e rằng nếu không hỏi cô nương sớm, người bị giết sẽ là ta." Chiếc quạt trên tay Triệu Thành gấp lại. Lão nghiêng người về phía trước, đảo mắt qua hai thanh niên ngồi bên cô gái, hạ giọng gần như thì thầm. "Vì kẻ còn lại có thể biết chuyến hàng đến Triều Châu ấy - chỉ có Tàu Ty cục[1]."

Bàn tay rót rượu của thiếu nữ ngừng lại. Rồi cô lại cười.

"Tàu Ty cục? Đó chẳng phải là nơi chỉ dành cho người Minh Hương?" Cô nói, nhưng ánh mắt Triệu Thành càng tối hơn.

"Tàu Ty cục là nơi thu thuế của Hội An mà người Minh Hương làm chủ. Nhưng thuế được nộp cho ai, cô nương? Ta biết người trong Tàu Ty cục không tùy tiện bán thông tin ra ngoài." Lão vẫn thì thầm. Ngả người về sau, Triệu Thành thở ra. Trên trán lão, mồ hôi lấp lánh trong ánh lửa.

"Sau khi suy nghĩ, ta đã minh bạch tại sao Hồng Thiên hội gặp phải kiếp nạn này."

"Tại sao, Triệu lão gia?" Thiếu nữ chớp mắt mỉm cười, ngọt ngào hỏi. Bộ dạng như một cô gái nhỏ đầy thắc mắc.

Triệu Thành như hóa đá, như đã để lạc mất giọng mình một hồi lâu rồi mới ho khẽ.

"Dù sao đi nữa, đó cũng là việc của cố Hội trưởng và một số anh em không hiểu chuyện, không phải tất cả chúng tôi." Lão nói như đặt cược vào quân bài cuối cùng trên bàn. Bàn tay nắm chiếc quạt nổi rõ gân xanh.

Thiếu nữ nhè nhẹ mỉm cười. Cô thở ra, đẩy một ly rượu đến trước mặt Triệu Thành.

"Tuy tiểu nữ không hiểu Triệu lão gia đang nói gì, nhưng tin rằng Triệu lão gia không nói dối."

Triệu Thành trân trối nhìn thiếu nữ, bàn tay dần dà thả lỏng. Chậm chạp, lão cầm ly rượu lên uống cạn. Thiếu nữ vẫy tay cho bọn ca kỹ ngừng ca hát, đoạn đứng dậy.

"Đêm đã khuya, tiểu nữ xin cáo từ Triệu lão gia." Lời chưa dứt, cô gái đã rời khỏi bàn. Triệu Thành vội vã đứng dậy tiễn họ ra tận cửa. Mất đi sự bệ vệ ban sáng, bộ dạng lão như có điều gì cập rập.

Đường phố đã vắng hơn, những gánh hàng rong đã dẹp dần, để lại một không gian rộng tràn gió từ sông thổi lên lành lạnh. Thiếu nữ im lặng đi, ngẩng đầu nhìn bầu trời mây mù.

"Ta nên về thôi." Sa chợt lên tiếng, giọng nói trầm nhưng lạnh lẽo vô khí không âm điệu. "Triệu Thành đã nghi ngờ, e rằng không chỉ có mình lão."

"Kẻ nào muốn chết không toàn thây, toàn gia bị diệt gà chó không tha mà đụng đến Tàu Ty cục?" Thiếu nữ bật cười. Cô nhẹ lắc đầu. "Lúc sáng ta đã nghĩ lão Triệu là con cáo già, quả không sai. Lão đã nhanh chân chạy đến trước tiên."

"E rằng có bọn không sợ cả Tàu Ty cục." Sa vẫn đều đều nói. Thiếu nữ đưa mắt nhìn gã, rồi nhún vai.

"Được rồi, ta về thôi." Lại giọng nói ôn nhu, gần như là dịu dàng khi cô gái mỉm cười, mắt sáng lấp lánh.

"Ta..." Mạc Kinh Vũ lên tiếng khi hai người kia dường như chẳng để ý đến sự có mặt của hắn. Nhưng hắn vừa mở miệng, thiếu nữ quay nhìn hắn, nụ cười chợt biến thành băng lãnh.

"Ngươi tưởng mình thoát được sao?" Cô gái khúc khích cười.

Chú thích:

[1] Tàu Ty cục: Cục thu thuế của người Tàu ở Hội An. Tại các thương cảng, chúa Nguyễn lấy các thương nhân có danh thế, ảnh hưởng cao nhất trong vùng làm nhiệm vụ thu thuế. Ở Hội An, Tàu Ty cục là tập hợp nhóm người Minh Hương giữ nhiệm vụ quản lý và thu tất cả thuế cảng, thuế thuyền buôn, thuế hàng hóa, thuế cửa hàng... Do đó, địa vị lẫn ảnh hưởng của nhóm người này bao trùm toàn vùng. (Cũng như thương nhân bây giờ nghe đến thuế vụ về là "thất sắc" ngay ấy mà).

Ở A voyage to Conchinchina, J.Barrow cũng đã nhắc đến chức quan thu thuế này ở cảng Đà Nẵng - họ làm việc với từng giao dịch được thực hiện trong chợ, nơi địa bàn mình quản lý. Nói cách khác, mọi giao dịch đều phải được họ cho phép thông qua.

Hồi 6: Trò chơi

Hắn đang bị săn đuổi.

Ngay khi vừa ra khỏi con đường chính trong phố, hắn đã nghe tiếng bước chân đằng sau. Với giác quan của một kẻ quanh năm bị rình rập đòi nợ hay lấy mạng, hắn dễ dàng nhận ra những kẻ ấy đang muốn gì.

Và công phu mà Mạc Kinh Vũ hắn giỏi nhất là chạy trốn.

Nhưng hầu như mọi con đường đã bị phong tỏa. Ngay khi vừa cắt đuôi kẻ theo dõi đầu tiên, hắn đã "đánh hơi" thấy đầu con hẻm mà hắn rẽ vào có người. Phóng lên một mái nhà thấp, đón đợi hắn dưới đường là toán gia nhân của một nhà nào đó - với gậy gộc và dây thừng. Nhảy qua mái nhà bên kia, một mũi tên xé gió bay sát rạt tay áo hắn.

Hắn chạy bán sống bán chết ra bờ sông. Một kẻ nhảy ra cản đường bị hắn hất văng sang bên. Kẻ ấy hét lên một câu nguyền rủa tục tĩu, nhưng hắn cũng chẳng đôi co. Chỉ cần đứng lại, hắn sẽ trở thành mồi ngon cho một đàn kiến từ mọi nẻo đường về xâu xé. Và đánh nhau với đàn kiến ấy? Sẽ bị đốt sưng người.

Khi bị kiến hay ong đốt - hãy nhảy xuống sông. Đó là lý do hắn cắm đầu chạy về phía dòng nước tối lúc này.

"Tiểu yêu tinh, ta mà lại không hiểu cô đang bày trò gì sao?" Vừa chạy hắn vừa lẩm bẩm.

Đây là chuyện thiếu nữ đã đe dọa hắn. Mọi người đều đã thấy ngươi đi với chúng ta, cô nói. Ngươi đừng hòng chạy thoát.

Thế ta phải theo cô cả đời à? Hắn khoanh tay cau mày. Thiếu nữ nghiêng đầu, gật gù.

Nếu giỏi thì ngươi cứ rời đi, chết đừng trách ta. Là ngươi đòi đi theo chúng ta đấy chứ.

Hừ, đừng tưởng hắn là đồ ngốc khi không hiểu tiểu yêu tinh này muốn đuổi hắn. Và hắn càng không phải đồ ngốc để không hiểu cô ta đang định làm gì.

Cái gì mà "ăn tối thịnh soạn"? Họ Triệu quản lý tất cả các thanh lâu, và cô ta đã chọn lão ngay từ đầu. Ở trong thanh lâu của lão, cô ta vừa tạo cơ hội cho lão tiếp cận, vừa dùng tay lão gạt tất cả những kẻ muốn quấy rầy xung quanh ra xa.

Và một khi đã thương thuyết xong với lão Triệu cũng là lúc trò chơi bắt đầu.

Tiểu yêu tinh ấy cố tình khích hắn ở lại làm mồi cho toán người này. Và hắn sẵn sàng tham gia trò chơi của cô ta.

Đó cũng là một trò vui nho nhỏ của hắn trong các sòng bạc. Khoác lên bộ dạng ngây ngốc ngờ nghệch để những kẻ rắp tâm lợi dụng lôi kéo hắn vào trò chơi của họ. Hoặc là, trò chơi của hắn. Những trò bài bạc không dành cho chỉ hai người. Và trong đám đông, kẻ ít gây chú ý hơn sẽ có cơ hội lớn hơn.

Lại một mũi tên xé gió rít ngang qua tai hắn. Đằng sau có giọng nói thốt lên đầy bực bội: "Đừng giết hắn!"

Hắn mỉm cười.

Dòng sông đã hiện ra trước mặt hắn, sau những dãy phố. Ở đây xa bến cảng, bên bờ chỉ có vài chiếc thuyền không mui nhỏ chìm trong bóng tối, hầu như không có sự hiện diện của con người. Rặng cây dày bao bọc bờ sông trong cõi âm u rậm rạp đen đặc, khi phóng vào dưới những tàng cây, trước mặt hắn là bóng tối giơ tay không thấy ngón.

Nhưng trước khi hắn kịp chìm vào bóng tối, một mũi tên đã bắn tới, ghim vạt áo hắn vào gốc cây bên cạnh.

Chỉ trong khoảnh khắc ngừng chân, hắn đã bị bao vây.

Một toán người ập đến ép hắn vào gốc cây. Hắn thở dài, rút mũi tên khỏi vạt áo, ngẩng đầu nhìn kẻ trước mặt. Một hán tử trung niên cao to lừng lững, râu mọc lún phún hai bên mép. Trong đám đông có vài kẻ cạo đầu. Và đứng khuất sau họ là hai người mang cung giờ mới lững thững đi đến.

"Các hạ là ai, sao lại đuổi theo ta?" Hắn cười hỏi, đưa lại mũi tên cho gã cầm đầu. Gã chớp mắt, không nhấc tay nhận.

"Chủ nhân ta có chuyện cần nói với các vị." Gã trung niên trả lời. Hắn nhướng mày.

"Các vị?" Tất nhiên, hắn hiểu gã đang nói đến ai.

"Những người đi cùng các hạ đâu rồi?" Gã đưa mắt nhìn quanh. Ngu ngốc, hắn rủa thầm. Đã chạy với tốc độ như thế, với chừng ấy người bám đuôi như vậy, còn ai bên cạnh hắn thì đã lộ mất rồi.

"Các vị là hải tặc?" Hắn đột nhiên hỏi, chỉ tay về phía hai người mang cung tên. Cả hai còn để tóc, da sạm nắng, quần áo lẫn cử chỉ có vẻ giống nhau như hai anh em. Nghe câu hỏi của hắn, cả hai cùng cau mày, chân do dự như vừa muốn bước lên, vừa muốn lùi lại.

"Cung tên của hai vị là cung dùng trên biển." Hắn cười. "Các vị cũng là người đi biển. Bắn cung trên thuyền không giống như trên đất. Độ chính xác của tên phụ thuộc vào sự ổn định của thân người, trong khi thuyền lắc lư rất mạnh. Do đó, chân phải xoãi rộng hơn, vai và lưng phải căng hơn. Sức gió và không gian trên biển cũng khác, làm cho cách điều chỉnh cung phải thay đổi. Bắn được như vậy, các vị hẳn phải rất thành thạo. Mà các vị còn để tóc, hẳn không phải ở Thanh triều[1]. Kẻ giỏi cung kiếm trên biển, lại không phải quân triều đình, thì chỉ là hải tặc."

"Ngươi quan sát tốt đấy." Tên hán tử trung niên nhè nhẹ nhướn mày. Hắn khoanh tay, bật cười thành tiếng.

"Không, ta xạo đấy. Cung nào chả là cung, làm gì có cung trên bờ với cung dưới nước. Khi các người bắn, ta còn đang cắm đầu chạy, làm sao nhìn ra đằng sau?" Hắn vừa nói vừa cười, chỉ tay ra sau lưng toán người. "Ta chỉ định nói chuyện phiếm trước khi họ đến."

'Họ' là một nhóm người khác mặc trang phục theo kiểu gia nhân của một phủ đệ. Thấy đám đông bên rặng cây, họ hét lên thông báo cho nhau, chạy đến.

Những kẻ đang bao vây hắn vội vàng rút gươm đao nghênh chiến, chỉ để lại hai tên cầm cung canh giữ hắn. Nhưng hắn cũng chẳng có ý định bỏ chạy.

Quan sát trận chiến được một lúc, hắn vỗ vai tên có vẻ nhỏ tuổi hơn, hạ giọng thì thầm.

"Làm hải tặc có đủ sống không, lão bản?" Hắn cười, và nói tiếp trước vẻ mặt kinh ngạc của gã kia. "Trang phục của hải tặc bình thường lôi thôi lếch thếch, sao bằng được với lão bản? Nhìn là ta nhận ra ngay thôi."

"Tiểu tử, ngươi là ai?" Qua khoảnh khắc kinh ngạc, tên canh giữ hắn cau mày. Cả anh gã cũng liếc nhìn về phía hắn.

"Ta là chủ sòng bạc. Ta có cái mũi rất thính để đánh hơi người." Hắn toe toét cười. Có thể nhận thấy rõ ràng là kẻ kia không tin hắn.

Tiếng đao kiếm chạm vào nhau vang dội khiến họ nhìn ra. Lại thêm một nhóm nữa chạy đến tham gia vào trận chiến. Ba toán người loạn đả với nhau bên bờ biển.

"Thật là tàn độc." Hắn lẩm bẩm. Y hệt như quang cảnh hắn đã thấy ở con đường đến Hội An. Qua những dấu giày, hắn nhận ra có một lực lượng thứ ba, thậm chí thứ tư, đã tham gia trận chiến. Những kẻ này kiểm tra xác chết, thu dọn tàn cuộc, thậm chí tham gia đánh lén, tiêu diệt những kẻ lợi hại nhất của phía bên kia. Theo những dấu vết để lại, hắn cho rằng những kẻ ấy không thuộc về cả hai bên tham chiến. Dần dà, những nghi ngờ của hắn đã được xác minh.

Tạo cơ hội đẩy các bên loạn đả dường như là trò chơi quen thuộc của kẻ ấy.

"Ờ..." Tên canh gác bần thần buột miệng khi nhìn những thân ảnh lẫn lộn trong bóng tối, lo lắng ra mặt. Hắn cười, bá vai gã.

"Muốn thắng trận thì nên chém tướng trước, quân binh sẽ rối loạn mà lui. Ngươi sao không cho thủ lĩnh bên kia một mũi tên?"

Gã có vẻ giật mình, hơi liếm môi. Anh gã phản ứng nhanh hơn, đã lầm lỳ lắp tên, giương cung nhắm. Trong bóng tối, những bóng người đánh loạn rối vào nhau thành một khối khó mà nhìn ra, huống hồ là phân biệt.

"Các người la lên 'Hắn chạy rồi!', bọn họ sẽ ngay lập tức ngừng lại." Phía sau hai tên cung thủ, hắn cười mà nhắc. Ẩn vào bóng tối của rặng cây, hẳn không kẻ nào ngay lập tức phát hiện ra có hai mũi tên đang hướng về phía mình. Hai anh em này như có đồng thuận với nhau mà không cần nói, mỗi mũi tên đã chỉ về một phía.

Gã em lại liếm môi. Hít vào một hơi, gã quát bằng giọng sang sảng vang động cả bờ sông:

"Hắn chạy mất rồi!"

Như bị sét đánh, những kẻ đang lao vào nhau đứng khựng lại. Hai mũi tên vút khỏi cung, găm vào hai kẻ có vẻ là thủ lĩnh của các nhóm vừa đến.

Không kịp nhìn xem tên cắm vào đâu, hắn tung người chạy mất.

Quả thật là cách bắn tên trên biển - Vai lưng căng lên, tấn trụ như hằn xuống đất. Và chăm chú quan sát khối hỗn loạn đó cùng sự căng thẳng khi tên rời khỏi cung, chẳng tên nào có thể phản ứng đủ nhanh để chụp lại hắn.

Có tiếng gió rít lên khi một mũi tên đuổi theo hắn. Nhưng hắn chỉ cần xoay người lại, lấy tay không chụp lấy. Đúng là người trên biển, hắn cười thầm. Trong xứ sở rừng rậm lá dày dây leo chằng chịt này, người bản xứ dùng nỏ chứ không phải cung. Những mũi tên được bắn từ cung không đủ sức len qua rừng dày.

"Này, lão gia gia đã cứu các ngươi đấy, các ngươi trả ơn ta thế à?" Hắn chống tay quát ngược lại trước khi ba chân bốn cẳng chạy đi. Lần này, không còn mũi tên nào đuổi theo hắn.

Men theo rặng cây, hắn chạy ngược về cảng, nơi dòng nước dẫn ra cửa biển.

Đúng y như hắn nghĩ, đã có người đợi hắn ở đó.

Ngồi một mình trên bậc đá của kè xây dọc bờ cảng, thiếu nữ áo trắng váy đỏ nhướng mắt nhìn hắn.

"Ngươi chưa chết à?" Cô nàng hỏi, trên tay ôm một con thỏ trắng. Nó đang cọ mũi vào cằm thiếu nữ.

"Cô có một mình sao?" Hắn vừa đi tới vừa nhìn quanh. Tên tùy tùng lặng im như đá của cô nàng không còn thấy bóng dáng.

"Y đi bảo hộ cho ngươi." Thiếu nữ thản nhiên trả lời. Hắn cười nhẹ.

"Y đi xử lý đám người chạy theo ta thì có." Kể ra, đó cũng là một cách 'bảo hộ' cho hắn, tuy chẳng phải theo cách tốt lành như lời cô ta. "Nhưng y để cô một mình?"

"Nếu như có kẻ nào đến gần được ta..." Thiếu nữ lơ đãng cười, vuốt tay lên mình con thỏ trắng. Kiểu nói và cách nói lại khiến hắn gai gai người.

"Ngươi cũng không cần phải cắm cổ chạy. Bọn họ chỉ định mời ngươi về nói chuyện thôi." Thiếu nữ chợt cười. Hắn cũng cười theo y hệt.

"Phải. Nhưng với kẻ không biết gì như ta thì e rằng bọn họ không có chuyện gì để nói, liền đem ta vứt xuống hố xí." Đùa à, đem hắn về tra hỏi mà không được gì, hắn cũng chẳng quan hệ dây mơ rễ má gì với những người này, bọn chúng chắc chắn sẽ phân thây hắn cho bõ tức.

Thiếu nữ hơi ngẩng đầu lên, ngọt ngào cười. "Vậy ngươi có biết thân biết phận đi theo ta chưa?"

"Sao cô muốn giúp ta?" Hắn hỏi, một lần nữa. Tiểu yêu tinh này không phải có lòng tốt đến thế chứ?

Thiếu nữ nhìn hắn. Gió từ sông thốc lên, thổi những lọn tóc tràn qua má cô, chiếc váy đỏ bay phiêu phiêu, dập dờn như cánh hoa. Ánh sáng nhạt mờ của đèn trên cảng và trên những chiếc thuyền viền lấy dáng hình làm cô trông càng có vẻ nhỏ bé hơn. Thiếu nữ không nói gì, chỉ nhìn hắn.

"Thanh kiếm sau lưng ngươi để làm gì vậy?" Cô chợt hỏi. "Sao lúc nãy ngươi không rút ra? Chỉ cần chúng quay lưng lại, cho mỗi tên một kiếm là xong."

"Ta không muốn gây thù chuốc oán." Hắn nhún vai. Nếu không nhờ bản tính không thích gây sự, giờ này hắn đã chết rồi. Kẻ săn lùng hắn, gây sự với hắn không biết bao nhiêu mà kể, nếu việc gì cũng đụng đến đao kiếm thì chỉ nội ló mặt ra đường, hắn cũng đã bị cừu nhân đè bẹp. Đi lại trong đời còn lâu dài, việc gì phải gây thù chuốc oán đẩy cả người lẫn ta vào tuyệt lộ?

Hắn cũng chẳng hỏi tại sao thiếu nữ lại biết tình hình lúc nãy. Hắn chưa bao giờ nghĩ rằng cô ta lại buông tha cho con mồi dễ dàng đến thế. Hắn là mồi nhử cho các con mồi khác của cô ta.

Lúc này, tiếng ồn ào trong phố, từ đầu bên kia bờ sông cũng đã vọng đến. Thiếu nữ ra hiệu cho hắn đến gần, ngồi xuống kè đá bên cạnh. Trong các con đường khuất sau nhiều căn nhà, họ thấy thấp thoáng những bóng đèn lồng, cả những bóng người đuổi theo nhau.

Không cần suy nghĩ nhiều cũng biết chuyện gì đang xảy ra. Sau khi ba nhóm săn đuổi hắn đụng độ bên bờ sông và hai tên thủ lĩnh bị trúng tên, xung đột ngày càng lan rộng, bây giờ không phải vì hắn mà chính tại phẫn nộ đã ngùn ngụt bốc cao.

Mọi cuộc chiến trên đời đều là như vậy. Gây thù rồi sẽ chuốc oán, gây thương tổn rồi sẽ nhận được oán hận. Kẻ bị tổn thương đòi trả hận. Kẻ đã dấn thân vào thì không thể rút ra. Đến một lúc nào đó, chẳng kẻ nào còn nhớ lý do mình gây chiến. Liên miên không dứt, xoay vòng cho đến khi tận diệt. Lửa đã bốc cháy chỉ có thể tắt khi đã thiêu rụi tất cả những gì nằm trong tầm với của nó.

Mà kẻ bên cạnh hắn chính là một người biết sử dụng tâm tính ấy của con người đến mức cao nhất.

Khích hắn bỏ đi, trở thành mồi nhử cho những đám đông đang rình rập quanh phố, để chúng xuất hiện. Và ở đằng sau, kẻ tùy tùng của cô ta lại đang theo dõi. Theo dõi, như cô ta đang quan sát cuộc loạn đả trong thành ở bờ sông này, như cô ta đã quan sát cuộc thanh toán lẫn nhau tại sân trang viện Thanh Hải bang. Tùy thời quạt gió vào bão, đổ dầu vào lửa.

Nhất cử nhất động đều mang mục đích. Và ngay cả sự xuất hiện của cô ta ở đây, bây giờ, hẳn cũng không phải là vô tình.

Đúng như hắn nghĩ, từ bóng tối sau những kiện hàng, nhà nghỉ bên cảng, một bóng người xuất hiện. Đậm người, mang vẻ cố tình bệ vệ thường trực, dù đã cẩn thận đội nón, che mặt, danh tính của kẻ đang bước tới rất quen thuộc với họ.

"Thế nào?" Thiếu nữ chỉ liếc mắt mỉm cười. Kẻ vừa đến ho khẽ trước khi lên tiếng.

"Ta có một điều kiện." Giọng nói của Triệu Thành không thay đổi, lão chỉ muốn né tránh ánh mắt của người ngoài. Nhưng không đợi lão nói hết, thiếu nữ đã bật cười.

"Ông còn có thể ra điều kiện?" Cô nhướng mày, búng ngón tay măng về phía phố thị đang ngày càng ồn ào. Nhiều ngọn đèn mới lại được thắp lên trong những ngôi nhà khi vài người liều mạng mở cửa sổ nhìn ra. "Ông có tin rằng chỉ trong đêm nay, bọn họ sẽ chết hết?"

"Ta tin." Giọng nói lầm bầm như đang luồn qua kẽ răng. "Nhưng điều kiện này có lợi cho cả hai chúng ta."

"Trở thành Hội trưởng? Không được." Thiếu nữ nói sau một lúc im lặng. "Bất cứ kẻ nào cũng không được."

"Hồng Thiên hội sẽ bị..." Triệu Thành buông từng lời như để ý nghĩa của chúng thấm vào tâm can đang lạnh dần. Thiếu nữ mỉm cười với con thỏ trong tay.

"Ta không thích giết người, nhưng ta càng không thích phiền phức." Lời thiếu nữ như gió trở lạnh trên mặt sông đêm. "Yên tâm, ông theo ta chỉ có lợi chứ không có hại."

"Bây giờ," Một lúc sau không thấy Triệu Thành phản ứng, cho rằng lão đã đồng ý, thiếu nữ uể oải chỉ tay về phía ánh lửa trong thành. "Ông biết phải làm gì chứ?"

Triệu Thành chậm chạp gật đầu thay cho câu trả lời. Bóng lão biến mất trong màn đêm.

"Lão đi giết cả anh em?" Hắn nghi hoặc hỏi. Không khó để hiểu mệnh lệnh của cô gái là gì.

Thiếu nữ chỉ cười mà không đáp, ngón tay nhỏ vuốt ve cái tai dài trắng muốt của con thỏ.

Gió đêm thổi ngày càng lạnh. Mưa lại sắp đến khi mây dồn về từ cuối dòng sông. Bầu trời trở thành một màu đồng đỏ rựng.

"Đối với bất cứ chuyện gì cũng phải đuổi tận giết tuyệt như vậy?" Hắn lại hỏi. Tuy những kẻ kia chẳng liên quan gì đến hắn, thấy bọn họ có tương lai như đám xác người trên đường đến đây, hắn vẫn thấy không đành lòng.

"Đó là bọn họ đuổi tận giết tuyệt nhau, ta không quản được." Thiếu nữ thậm chí không ngẩng lên. Rồi bất chợt mỉm cười. "Ngươi biết chuyện Hạng Vũ học võ công chứ? Ngày còn nhỏ, Hạng Vũ rất lười biếng luyện tập. Hỏi tại sao, ông ta trả lời: Võ công thì chỉ có thể địch được vài người, ông ta cần học thứ gì có thể địch lại muôn người kia.

"Rồi cuối cùng, chính ông ta phải ngẩng đầu lên than: Đây là trời giết ta. Ha, dù có địch lại được muôn người, cũng không thể nào địch lại trời.

"Cái gì là trận pháp thiên biến vạn hóa, cái gì là võ công vô địch thiên hạ? Cái gì là tài cầm quân xuất trận, cái gì là anh hùng vũ dũng? Cuối cùng tất cả đều trôi theo dòng nước.

"Vì ông ta hỏi sai rồi. Ông ta không cần học cách địch lại muôn người - Mà cần học cách làm chủ muôn người. Ông ta chỉ nghĩ cách diệt người, nếu trời không diệt ông ta thì người cũng sẽ diệt.

"Những kẻ nắm chặt thanh kiếm trong tay lại thường tự giết mình."

Gió vẫn thổi trong đêm âm u. Gió thổi đến ngan ngát hương hoa trong sương lạnh. Thiếu nữ cười dịu dàng, như vậy mà khả ái, như vậy mà yêu kiều. Trong đêm áo trắng như tuyết, phảng phất như có một màn sương bao quanh.

Lời nói cũng như vậy mà lạnh lùng, như vậy mà dửng dưng.

"Cô chẳng muốn diệt người, nhưng cũng chẳng muốn làm chủ người." Hắn thở ra, một lúc sau. "Cô chỉ muốn chơi đùa với họ."

Thiếu nữ liếc nhìn hắn. Cái nhìn dài và sâu đến mức hắn thấy nhột nhạt, như thể mình bị nhìn xuyên qua.

"Đến giờ ngươi mới biết à?" Thiếu nữ bật cười, cười giòn giã. Tiếng cười trong như ngọc vang trên dòng sông lạnh, giữa tiếng gươm đao hò hét vẫn không ngừng vọng tới từ cuộc chém giết trong thành.

Chú thích:

[1] Người Minh Hương để tóc còn người Hoa đi lại ở đại lục cạo đầu theo kiểu nhà Thanh.

Hồi 7: Sương khói

Lão xăm xăm đi, lòng bàn tay ướt mồ hôi lạnh.

Đã sống chừng này năm tháng, phong ba bão táp nào cũng đã từng gặp qua, lão đủ bình tĩnh để suy tính trong hoàn cảnh hiện tại, tuy không tránh khỏi nỗi sợ đến lạnh người.

Bây giờ, nếu lão không ra tay, những kẻ khác sẽ không buông tha cho lão. Ngay khi nhận được tin con nhãi ranh ấy đến thanh lâu của lão, lão đã biết mình lọt bẫy. Cái bẫy mà mọi người mọi kẻ sẵn sàng sập vào trong tình cảnh bối rối hiện tại. Như những kẻ đang lao vào cuộc hỗn chiến, bây giờ.

Và lão đã ném mình vào tay kẻ thù để tìm cơ hội sống sót.

Vấn đề không phải là lão sẽ đứng về phía ai hay sẽ giết ai. Ồ, những đạo lý về lòng trung thành và nghĩa cả, chúng chỉ dành cho những kẻ phục tùng - và để những kẻ chủ nhân lợi dụng. Ngay trong giới giang hồ này, nơi có những kẻ dựa vào đao kiếm mà lập thân, vẫn tồn tại thứ gọi là bè phái và danh dự, là oán hận và chiến tranh. Nhiều kẻ, rất nhiều kẻ, trong hoàn cảnh đó mà lập thân dương danh, mà trở thành anh hào một thưở. Nhưng rốt cuộc, tất cả chỉ là tranh đoạt dựa trên tính toán của những kẻ đứng sau, đứng trên. Như mọi sự vẫn thế, như muôn đời vẫn thế. Như con người tồn tại như thế.

Cứ đi tới, cứ oán hận lẫn yêu thương, cứ ngông cuồng lẫn mê muội, cứ tranh đoạt lẫn bị tranh đoạt, cứ hăng hái lẫn thất vọng, cứ sống trong vòng xoáy, không bao giờ thoát ra khỏi nó.

Mỗi kẻ chỉ là một con cờ. Vĩnh viễn không hiểu những gì ở ngoài cuộc đời mình.

Lão cũng đã từng như vậy. Và vì thế, lão đã không còn ảo tưởng. Vì sự sống cũng được, vì cái gia đình mà lão có trách nhiệm bảo bọc cũng thế - những điều mà chẳng ai có thể cho lão được. Con người sống trên đời này luôn phải tuân phục theo một thế lực lớn lao hơn, bất kể là ai. Và như thế, lão sẽ quy phục kẻ nào mạnh hơn.

Và như thế, lão luôn nắm bắt cơ hội để trở thành kẻ mạnh hơn.

Hồng Thiên hội đang rơi vào khủng hoảng, không chỉ ngày hôm nay. Mọi chuyện đã bắt đầu từ nhiều tháng trước, khi cố Hội trưởng đột nhiên ngã bệnh, giao lại mọi quyền hành cho Hoắc Mai Đoạn.

À, Hoắc Mai Đoạn, Triệu Thành cười thầm trong cơn gió đêm. Lão biết tại sao gã lại mang họ Hoắc - kỹ viện là một nơi tuyệt hảo để khai thác thông tin, những điều chỉ có thể moi ra từ miệng những kẻ đã mất hết sự tỉnh táo. Hoắc Mai Đoạn, dù có là kẻ mà cố Hội trưởng đã nhặt về nuôi nấng, đào tạo khi còn bé bằng nắm tay, bằng ngọn cỏ trên đồng, vẫn là một kẻ mang dòng máu của họ Hoắc. Trong những xáo trộn tại đại lục ngày xưa, gã đã thất lạc. Và họ Hoắc đã tìm lại được gã. Đó là khởi đầu của một âm mưu lâu dài.

Trần Long liên kết với cố Hội trưởng. Hoắc Phương câu kết với Hoắc Mai Đoạn, âm thầm soán đoạt quyền lực trong hội. Ở sau bọn họ, lão chỉ âm thầm quan sát, âm thầm xem kẻ nào sẽ chiến thắng.

Lão chỉ không ngờ, kẻ đứng sau tất cả không chỉ là Hoắc gia.

Hoắc Mai Đoạn, vì một phút không kiềm được tham vọng, đã bị chính tay kẻ họ hàng liên thủ với mình giết chết. Hồng Thiên hội, với sự chia cắt và rối loạn hiện tại, đã trở thành quần long vô chủ. Những tranh chấp và bất mãn âm thầm được dịp phát tác, được dịp bùng nổ. Cố Hội trưởng đã chết, Hoắc Mai Đoạn cũng đã chết, bây giờ là lúc xác định kẻ nào đủ mạnh để chiếm được ngôi vị đang bỏ trống.

Tất nhiên, tất cả điều này được che giấu và mang danh nghĩa của lòng thù hận lẫn sự trung thành, của những tranh chấp lẫn bất mãn bao lâu nay.

Những xác chết được dựng dậy làm biểu tượng. Sự độc ác được biện giải bằng chính nghĩa.

Nụ cười phảng phất thoáng qua môi Triệu Thành, mỏng như màn sương trong đêm. Lão cũng đang nghĩ về chuyện mình sẽ phải sử dụng danh nghĩa nào. Một điều gì, bất cứ điều gì, có thể giúp lão chiếm lấy lợi thế trong cuộc hỗn chiến này.

Với Triệu Thành, mọi chuyện không đơn giản chỉ là tuân phục, nghe lời và thực thi việc tàn sát trong bóng tối. Với bất cứ chuyện gì, lão cũng nghĩ cách để chiếm được lợi nhiều hơn. Và suy sụp lẫn rối loạn lại không phải là cơ hội để kiếm chác?

Hồng Thiên hội đã suy sụp, đã chắc chắn phải sụp đổ, đã chắc chắn sẽ bị hủy diệt. Âu cũng là kết quả cho những kẻ không nhận biết được thế giới mà mình đang sống. Nhưng không điều gì có thể tan vào không khí. Hồng Thiên hội sẽ diệt vong, nhưng tất cả những tài lực, nhân lực của nó vẫn còn đó. Lão nghĩ mình đoán được chuyện gì sẽ xảy ra. Hồng Thiên hội suy yếu sẽ là cơ hội cho Thanh Hải bang vươn lên chiếm ngôi vị độc tôn. Hoắc Phương, với cách hành động "thỏ khôn phải có ba hang" của Hoắc lão gia truyền dạy, chắc chắn không chỉ có Hoắc Mai Đoạn nằm trong Hồng Thiên hội. Không chỉ chiếm lấy địa vị của một Hồng Thiên hội đã chết, chắc chắn, kẻ khôn ngoan sẽ biết tận dụng những gì còn lại của nó. Tất cả.

Trong cơ hội ấy, tất nhiên, Triệu Thành lão sẽ không đứng ngoài.

Lão biết tại sao con bé ấy lại chọn lão. Triệu Thành là kẻ luôn đứng ngoài các tranh chấp, ngay cả trong chính lòng bang hội của mình. Ngay cả trong giờ khắc này, lão vẫn đứng ngoài những cuộc thanh toán nhau kia. Những thuộc hạ Triệu gia đã được phái đi, nhưng lão vẫn chưa phát lệnh hành động.

Lão vẫn nhìn những ánh lửa, ánh gươm đao phát sáng trong đêm, mồ hôi vẫn tuôn trong bàn tay giữa cơn gió ngày càng lạnh.

Kia là thuộc hạ của Đinh gia, Thương gia, Chu gia, An gia..., lão thầm nhẩm tính. Những gia tộc nắm quyền trong Hồng Thiên hội đã ra mặt kình chống nhau. Lực lượng của Hồng Thiên hội đã suy yếu sau khi can thiệp vào chuyện của Thanh Hải bang, giờ đây sẽ còn thảm hại hơn nữa. Rồi tên nhãi Hoắc Phương kia sẽ chẳng khó khăn gì để thu tóm tất cả, bắt tất cả phải khuất phục, thậm chí cướp lấy tất cả, hất bọn họ ra khỏi Hội An. Thu tóm được quyền lợi thì tốt hơn là phải chia sẻ. Những kẻ trong Thanh Hải bang kia cũng không phải ăn không khí để sống còn.

Nếu đã thế thì lão phải hành động trước y, ngay đêm nay. Ngày mai đã là quá trễ.

Thư khẩn cấp cho các trưởng gia tộc đã được gửi đi. Trong tình trạng hiện tại, không thể bứng những kẻ đầy nghi hoặc ấy ra khỏi căn cứ vững chắc của mình. Thế nên Triệu Thành đang phải tới từng nhà một.

Đinh gia đón tiếp lão cảnh giác nhưng không thù địch. Chuyện con bé đến thanh lâu của lão đã truyền khắp nơi. Tuy vậy, quan hệ của Triệu gia và Đinh gia trước nay vẫn tốt. Đinh lão gia ra đón lão vẫn còn có thể mệt mỏi cười.

"Tàu Ty cục?" Nghe chuyện lão kể, Đinh lão gia cau mày thất sắc. "Tàu Ty cục liên quan đến việc này?"

"Không, Triệu mỗ không cho là thế." Lão chầm chậm lắc đầu. "Tàu Ty cục không tham gia vào việc tranh chấp của bất cứ ai. Chỉ có kẻ nào đó đứng sau Tàu Ty cục."

"Triệu lão gia nói..." Đinh lão nói, rồi chợt im lặng.

"Nhưng ngay cả bọn họ thì cũng có lý do gì?" Trưởng tộc họ Đinh lắc đầu, một lúc sau. "Bọn người Minh Hương..."

"Có thể liên quan đến Thanh triều." Lão hạ giọng thì thầm. "Nhớ chứ, tàu Đại Thành đi sứ qua vùng này bị nạn được cứu, rồi đến Thanh triều báo với vua Thanh, muốn Thanh triều kết giao với 'triều đình Quảng Nam' này."

"Nhưng Thanh triều đã từ chối..."

"Nếu triều đình Kim Long không có ý kết giao, đoàn sứ giả Đại Thành có thể tùy tiện bày vẽ sao?" Lão thở ra. "Mà Thanh triều không bằng lòng, chẳng phải vì đám người Minh Hương trong đất này sao? Trăng sáng còn bị gọi là Minh triều[1], huống hồ là cả một đám người làm phản.

Họ không tiện ra mặt nên nhân lúc tranh chấp mượn đao kẻ khác giết chúng ta." Triệu Thành tiếp tục nói khi không thấy người đối diện lên tiếng. "Đinh lão gia không tin cũng được, chỉ sợ đến lúc đao kề cổ thì hối đã muộn."

"Nhưng ta cũng không liên quan đến việc của cố Hội trưởng." Đinh lão mím môi. Khuôn mặt xương xẩu càng góc cạnh, nổi rõ những sợi gân xanh bên thái dương.

"Thuộc hạ của Đinh gia đang đánh nhau ngoài kia phải không?" Triệu Thành thở ra. Đinh lão làm một cử chỉ như giật mình.

"Ta sẽ cho gọi bọn chúng về." Ông lão nói, ngón tay bấu chặt mép bàn thả ra, toan đứng dậy. Triệu Thành khẽ gật đầu.

"Lúc này cứ đóng cửa an phận là hơn, ai nói gì cứ nghe nấy. Bảo toàn lực lượng, rừng sẵn đó thì lo gì không có củi đốt?"

Nếu để tất cả lọt vào tay Hoắc gia thì thà rằng lão bảo toàn được gì hay nấy. Trong thương trường cũng như cuộc sống, ơn nghĩa cũng là một loại khế ước, một loại tài sản hay sức mạnh. Không cho Hoắc gia một cơ hội để diệt trừ cũng là một cách để bảo toàn sự sống. Và khi đận khốn khó này qua đi, Triệu Thành lão nghiễm nhiên giữ trong tay món nợ của toàn bộ bọn họ. Bọn họ vốn đã sống qua muôn vàn con sóng, nhất quyết hiểu rõ sự thịnh suy của thời cuộc. Ngay cả với Hồng Thiên hội, cái chết không phải là vĩnh viễn.

Đối đầu với bất cứ thế lực nào, chỉ cần còn sống là đã còn cơ hội.

Rời khỏi Đinh gia trang, bên tai lão vẫn còn dư âm những lời cảm tạ của Đinh lão chủ. Triệu Thành mỉm cười, một mình.

Đặt chân lên xe ngựa, mắt lão bất chợt bắt gặp một thân ảnh đứng bên đường, chênh chếch cửa Đinh gia. Y cũng đang nhìn lão.

Nam tử áo xám đứng im phăng phắc ở đó tự bao giờ.

Gió thổi mạnh trong cơn mưa sắp đến làm những lọn tóc lòa xòa của y bay hất ra sau để lộ khuôn mặt thanh tú, mỗi đường nét như khắc bằng ngọc, thần thái trong mắt như nước sâu, lãnh đạm mà ôn hòa, bình lặng mà trong sáng, toàn thân y tỏa ra thứ cảm thái lãnh tĩnh vô tức như ánh trăng.

Y giống như ánh trăng, tràn ngập mà không người cảm thấy.

Lão chấn động đến mức suýt vấp chân trên bậc xe ngã xuống đất. Khi lão bám lấy cửa xe định thần lại, tên thanh niên áo xám đã quay lưng bỏ đi.

Lão nhận ra đó là kẻ đã ở bên tiểu yêu nữ kia. Trong khoảnh khắc, miệng lão khô đắng.

Y không vội vã, chỉ chầm chậm bước về phía trước. Như thể chờ đợi lão đi theo. Đó là con đường đến Thương gia...

Một cơn lạnh buốt chợt xối dọc xuống lưng lão khi nhận thức bùng nổ trong đầu. Lão vội quay vào Đinh gia, đập cửa gọi mở. Không ai trả lời lão, chỉ có cánh cửa tự động mở ra, phơi bày cảnh tượng bên trong.

Tên canh cửa ngoài đã chết. Tên giữ khóa đã chết. Tên bảo vệ nhà trong đã chết. Tên gia nhân hộ vệ đã chết. Xác chết trải dài trên con đường từ trang viện ra ngoài. Mỗi kẻ có một vết chém ngay cổ, chết không kịp kêu một tiếng.

Và lão không nghi ngờ cảnh tượng này còn có ở trong trang viện. Trải thẳng một đường đến nơi Đinh lão gia đang ngồi - hoặc nằm.

Trong khoảnh khắc, lão như hóa đá.

Triệu Thành chầm chậm đóng kín cánh cửa lại. Lão hít vào một hơi dài, cố gắng bình ổn nhịp tim đập tán loạn trong lồng ngực. Bàn tay lão lại ướt mồ hôi.

Khi lão quay người nhìn lại, thanh niên áo xám vẫn đứng ở đầu đường bên kia, như thể chờ đợi lão.

Và lão bước đến. Trong gió ngày càng lạnh, bầu trời phủ một lớp mây đỏ, bóng tối u ám chập chờn quấn lấy từng bước đi.

"Thân thủ tuyệt lắm." Khi đến gần y, lão cố gắng nở nụ cười. Đó là một câu khen tặng thật lòng. Y có vẻ như đã bước ngay sau lưng lão, hạ sát tất cả người trên con đường lão đi qua mà lão không hề hay biết. Cùng thời gian với từng bước chân của lão. Như thể lão đã giết tất cả những người này.

Lão nghiến răng để nuốt lại một câu nguyền rủa. Như thể lão đã đến đây để giết Đinh gia!

"Ông chỉ nên làm việc gì được bảo." Tên thanh niên nhàn nhạt liếc mắt qua lão. Tóc đã lại xõa xuống mặt y, lão chỉ cảm thấy cái nhìn lãnh đạm lướt qua mình.

"Đinh lão gia là bạn của ta." Lão cố phân bua. Y ngẩng lên nhìn trời như không nghe những gì lão nói. Trăng đã lên cao, phảng phất sau những đám mây cuồn cuộn luân chuyển.

"Thôi được." Lão nghiến răng nói, một lúc sau. Ánh nhìn của y như bảo 'Đã khuya rồi', và đã đến lúc lão phải hành động. Không còn con đường nào khác cho lão, lúc này.

Lão quay người đi về phía chiếc xe ngựa, ném cho tên liên lạc một cái cờ lệnh cuốn tròn. Khi hắn chạy đi, lão cũng lên xe, giục mã phu cho ngựa chạy. Lão phải rời khỏi hiện trường này càng sớm càng tốt.

Trong Đinh gia vọng lên tiếng kêu thét hãi hùng. Tên thanh niên áo xám vẫn đứng yên thêm một lúc nữa rồi mới chầm chậm bước vào bóng tối. Bước chân y không một thanh âm.

***

Nhưng đến sáng trời vẫn chưa mưa, chỉ có gió giật và sương ngày càng kết dày trên mặt sông. Khi ánh bình minh xanh mờ soi đến từ phía chân trời, thiếu nữ dụi mắt ngáp dài. Sự ồn ào trong phố đã tắt dần, lặng im đang tràn tới cùng với tiếng chim kêu lác đác đó đây. Trên vài mái nhà đã có khói bốc lên. Vài nhà đã mở cửa, tiếng chổi quét đường loạt roạt. Tiếng chuông vang văng vẳng từ cả bốn góc phố, cả từ mái một nhà thờ xây theo kiểu nửa Tây nửa ta.

"Lúc trước người Tây ở đây đầu tiên." Nhìn theo ánh mắt hắn, thiếu nữ nhún vai, uể oải nói như thể chưa dứt cơn buồn ngủ. "Khi đến Cựu dinh[2], chúa cho người Tây và một số cha xứ đến đây ở, rồi dần dà người Tàu, người Nhật tới. Sau chuyện Ô Lan liên kết với chúa Trịnh định cung cấp tàu bè vũ khí cho Đàng Ngoài, quan hệ của ta với Ô Lan mới xấu đi."

À, hắn gật đầu. Lần trước đến đây, hắn đã không chú ý đến góc kiến trúc là lạ ấy bên bến cảng. Thiếu nữ vươn vai đứng dậy, leo lên kè đá đi đi lại lại. Sương từng đợt thổi vào làm thân ảnh cô trở nên nhòa nhạt. Tiếng những vòng xuyến đeo trên tay chân cô rung lên, nghe như có nhịp điệu.

Đúng là có nhịp điệu, hắn định thần nghe kỹ. Thiếu nữ chợt vươn một cánh tay lên cao, những ngón tay mềm mại xòe ra rồi khép lại như cánh hoa. Bàn tay uyển chuyển vẽ theo đường bay của một áng mây vô hình trên bầu trời. Tiếng vòng xuyến vang càng rõ, trong như nước ngân, thánh thót như tiếng mưa.

Gió vẫn phần phật thổi, làm dáng hình thiếu nữ như bông hoa rơi phảng phất trong sa mù. Tay kia chắp sau lưng, chỉ có một cánh tay cử động, thân hình hầu như bất động, cô như đang trôi đi cùng sương. Như một bông hoa lênh đênh trên biển trắng, rơi xuống, rơi xuống một khoảng không vô tận cuồn cuộn sóng, vô tận sương, tiếng bạc chạm mưa rơi như thể là mãi mãi.

Đó là điệu múa kỳ lạ nhất mà hắn từng được thấy. Không cần cử chỉ, không cần điệu bộ, hồn nhiên như thể chỉ phất tay có thể tạo thành đất, chuyển mình có thể biến thành trăng, bất tri bất giác mà hóa hình thành khói.

"Cô phàm viễn ảnh bích không tận." Hắn buột miệng. Bàn tay thiếu nữ dừng lại, cô xoay người nhìn hắn.

"Ngươi cũng biết cơ à?" Thiếu nữ cười hỏi, chầm chậm đi về phía hắn. Cô ngồi xuống, gác tay lên vai hắn, mắt sáng ngời. Hắn ho khẽ.

"Cô biết bài chòi chứ? Ờ, cũng có nhiều loại bài như vậy, người chơi bắt bài còn nhà cái hô bài. Thường thì họ sẽ hô một câu thơ hay một điển tích nào đó ứng với ký hiệu có trên quân bài. Đó là câu thơ về con thuyền." Tuy rằng lão Cửu cũng hay ngâm nga thơ ca vơ vẩn, nhất là những bài thơ Giang Nam, hắn có nên nói rằng mình thuộc thơ chỉ để đánh bạc?

Thiếu nữ nheo mắt. Thần thái trong khoảnh khắc tối lại.

"Ngươi có muốn bơi ra mấy con thuyền đó chơi không?" Cô gái ngọt ngào cười. Hắn tự động né người ra sau khỏi tầm tay cô. Tiểu yêu tinh này thật là vui giận bất thường, chớp mắt vừa cười vừa đòi giết người được rồi.

Sự xuất hiện của gã thanh niên tên Sa đã cứu hắn khỏi bị hất xuống sông. Y lặng thinh đi về phía họ, chỉ đứng trước mặt thiếu nữ mà không lên tiếng. Cô gái đứng dậy khỏi kè đá, vươn vai.

"Chúng ta đi thôi." Cô nói mà không quay nhìn. Hắn biết thân biết phận đứng dậy đi theo. Nắng đã lên sáng rõ, sương mù tan bớt. Bến cảng đã có nhiều người đi lại. Họ đi qua những con thuyền đậu san sát bên nhau bập bềnh trên dòng nước rồi xuống một chiếc thuyền nhỏ không mui. Sa cởi dây cột, cầm lấy mái chèo tự đẩy thuyền ra xa.

"Không ở trong phố sao?" Hắn nghi hoặc hỏi. Thiếu nữ đã ngả lưng ra mạn thuyền, vừa dụi mắt vừa chỉ tay sang bên.

"Ở cuối sông. Đi đường thủy an toàn hơn." Giọng cô tỏ rõ vẻ mệt mỏi. Hắn cũng ngồi xuống thuyền, khoanh tay nhìn cô.

"Quên không hỏi, cô tên gì thế?" Dù sao cũng còn phải ở với nhau lâu dài, không thể nào cứ gọi là 'tiểu yêu tinh' được.

Thiếu nữ liếc nhìn hắn. Cái cười tinh quái lại đến trên đôi môi đỏ.

"Như Yên." Cô cười khi miệng hắn hơi há ra. Hóa ra đó là lý do cô ta đòi hất hắn xuống sông? [3]

Chú thích:

[1] Trăng sáng còn bị cho là Minh triều: Chỉ vụ án "văn tự ngục" mà một người làm thơ có câu "Trăng sáng vằng vặc" đã bị quy là nhớ Minh triều (Minh nguyệt quang huy).

[2] Cựu dinh: tên gọi Quảng Trị.

[3] Câu thơ trong Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lý Bạch, dịch nghĩa: "Bóng buồm cô độc xa xôi đã khuất vào khoảng không xanh biếc".

Câu này liền với câu trên là "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu" - Hoa khói tháng ba buông xuống Dương Châu. Bài thơ này cũng coi như tả cảnh dòng sông sương mù. Cho nên một người nghĩ đến sương khói, một người "giải thích" đó là... cái thuyền trên quân bài.

Hồi 8: Cầm tiêu khúc

Khi họ đến trang viện nằm ở ngoại đô Hội An, mưa cũng đã lác đác đổ xuống. Trang viện nhỏ trông có vẻ hoàn toàn bình thường nằm giữa vườn trúc rì rào tiếng gió reo thậm chí không có cả người canh cửa. Thiếu nữ mở cửa ngoài rồi cứ thế bước vào. Khi họ đã bước chân lên bậc thềm ngoài hiên nhà chính, cửa nhà mới bật mở. Một cô gái tuổi ngoài đôi mươi, tóc vấn cao, mặc áo theo kiểu người Nhật Bản với đai lưng rộng thắt thành một chiếc nơ lớn sau lưng, chân đi đôi guốc mỏng đứng ở cạnh cửa, hơi cúi người.

"Tiểu thư đã về." Cô gái vừa nói vừa mỉm cười. Cô có nét thanh tú nhẹ nhõm đặc trưng của người Đông Doanh, cả giọng nói cũng thanh và nhẹ. Thiếu nữ tên Như Yên gật gật đầu, tay che miệng mà ngáp.

"Ta buồn ngủ." Nàng ta vừa nói vừa hất tay về phía hai người đằng sau, nói mà không nhìn ai. "Chị lo cho họ giúp ta. Ta đi ngủ."

Lời chưa dứt, bóng lưng của thiếu nữ đã khuất sau cánh cửa trong. Cô gái ăn mặc theo lối Nhật Bản nhìn qua Sa rồi ánh mắt dừng lại ở hắn.

"Tiểu thư lại nhặt về à?" Cô gái quay sang Sa mà hỏi, không nhìn đến ánh mắt hắn. Nhặt?

Sa chỉ nhún vai rất nhẹ. Cô gái nhẹ nhàng cười, hơi nghiêng mình.

"Tôi là Xuân Tử." Cô gái nói với hắn. "Mời anh nghỉ lại đây một lúc, tôi sẽ chuẩn bị cơm và nước tắm, sửa soạn phòng ở cùng quần áo."

Miệng nói, tay cô đã hướng hắn đến chiếc phản kê giữa phòng, để hắn ngồi xuống. Không kịp cho hắn mở miệng, cô gái đã quay đi, lên tiếng gọi người.

Họ coi hắn là... là con gì nhặt được trên đường hay sao?

Tên Sa cũng im lặng quay bước qua cửa hông nhưng hắn đã đứng dậy đi theo. Ra vẻ như không để ý đến hắn, Sa thong thả đi trên con đường khuất dưới vòm dây leo dẫn ra khoảng sân sau. Mưa vẫn lất phất rơi, dù đã mạnh hơn. Đi khỏi phạm vi rặng trúc, họ bước vào một khu vườn trồng toàn hoa cúc. Đủ màu đủ dạng, muôn hồng nghìn tía, ngàn vạn bông cúc vào mùa đang rực rỡ khoe sắc dưới bầu trời u ám. Khi chân hắn đặt lên bậc hiên một tòa nhà nhỏ cạnh hồ nước, mưa ào ạt đổ xuống.

"Lão Đại, định làm vẻ không nhận ra ta đến bao giờ?" Hắn đột nhiên lên tiếng. Sa đã dừng chân dưới hàng hiên, quay lưng nhìn hồ nước mờ mịt trong mưa.

Một lúc sau vẫn không thấy y lên tiếng, Mạc Kinh Vũ hắn thở ra, cất giọng thảm não.

"Này, ta vất vả vượt qua ngàn dặm đến đây, suýt nữa mất mạng với mấy cái bẫy của bọn ngươi trên đường, chịu khuất để tiểu yêu tinh kia sàm sỡ bắt nạt lợi dụng, tất cả chỉ vì ngươi. Thế mà bây giờ ngươi đến mặt ta cũng không chịu nhìn, thế là nghĩa làm sao? Ta chịu trăm cay ngàn đắng, ăn gió nằm sương mà ngươi vô tình bạc nghĩa thế sao? Ngươi bỏ ta, ta đã không trách ngươi, ngươi cứ nhất định bạc đãi ta sao?"

"Đừng nói cái giọng ấy." Sa quay lại trừng mắt nhìn hắn. Quả là tên quỷ đòi nợ. Ai không biết cứ tưởng y phụ bạc hắn rồi bỏ trốn. "Ngươi đến đây làm gì?"

"Ta nhớ ngươi." Hắn toe toét cười. Trong khoảnh khắc, Sa có vẻ như muốn nắm cổ hắn vứt xuống hồ. Y hừ khẽ, quay người định bỏ đi. Hắn vội vã nắm tay áo y lại.

"Rốt cuộc thì ngươi đang làm cái gì mà lục thân bất nhận vậy hả?" Thần thái hắn chợt trở nên nghiêm túc. Rốt cuộc, những gì hắn nói với tiểu yêu tinh kia là thật. Hắn đến đây để tìm y, kẻ được gọi là Sa này.

Trong xe ngựa lúc ấy, hắn chỉ muốn lánh mọi chuyện phiền phức. Nhưng ngay khi vừa nhận ra y, tất cả ý định của hắn thay đổi. Hắn cố sống cố chết bám theo đám người này, tất nhiên không phải chỉ vì tính khí ham vui đơn thuần.

Sa lành lạnh liếc nhìn hắn, sau cùng mở miệng.

"Ngươi là lục thân nào của ta?" Mỗi lần nhìn thấy tên tửu quỷ lông bông này, y đều không thể đừng mà thấy vừa buồn cười vừa bực mình.

"Ta đã từng cứu mạng ngươi, đừng quên chứ." Tên tửu quỷ lại cười. Y hất tay hắn đang nắm tay áo mình.

"Là ta cứu mạng ngươi." Mỗi lần gặp hắn, không ít thì nhiều đều có đôi co. Từ ngày xưa đã vậy. Ngay từ khi y và hắn còn bé như hai nắm tay. Nghe nói từ khi còn chưa biết đi, bọn y đã đánh nhau.

Nhưng trên đời nếu có kẻ nào còn thân hơn cả lục thân với cả hắn lẫn y, thì chỉ là kẻ kia. Hắn đã cứu y, y đã cứu hắn. Cả hai đã cùng nhau lớn lên, cùng nhau phiêu bạt, từ những ngày chiến tranh ở Giang Nam đến sông ngòi rừng thẳm đất Chân Lạp. Thời niên thiếu của bọn y là những ngày phiêu bạt, là lửa đỏ và nước sâu, là rừng thẳm và biển cả. Những điều đã khiến sự gắn bó của bọn y còn chặt chẽ hơn cả sinh mạng.

Cho đến khi y ra đi. Y lặng lẽ biến mất khỏi đất Đông Phố.

"Ngươi đến đây làm gì?" Y gác thanh đao vào bên cửa, ngồi xuống chiếc ghế gần đó. Hắn cũng tự động lấy ghế ngồi xuống.

"Ta muốn biết ngươi đang làm gì." Hắn nói và nhìn quanh. Mưa đang mù mịt buông xuống khu vườn trồng đầy hoa cúc được bao quanh bởi bức tường trúc. "Tiểu yêu tinh đó là ai vậy?"

"Ngươi cứ quay về đánh bạc uống rượu, không cần biết nhiều làm gì." Sa lành lạnh nói. Hắn nhướng mày cười.

"Ta biết nhiều hơn các người nghĩ." Hắn nói, nhưng bất chợt im lặng. Có tiếng chân đang đi về căn nhà, cô gái tên Xuân Tử tất tả cầm ô chạy đến bằng những bước chân ngắn trong bộ kimono bó chặt. Nhìn thấy hắn, cô vừa cười vừa cau mày.

"Hóa ra anh ở đây, thế mà tôi cứ tưởng anh đi mất rồi. Cơm và nước tắm đã chuẩn bị sẵn, mời anh về phòng." Cô liến thoắng nói mà không để hắn mở miệng. Sa không nhìn hắn, vào nhà đóng cửa lại. Hắn đành phải theo cái kéo tay của Xuân Tử trở ra.

Đi loanh quanh qua vài bức tường trúc nữa, Xuân Tử thả hắn lại trong căn nhà giữa vườn mai. Mùa này mai không có hoa, chỉ có lá xanh dày. Căn nhà có cùng một lối kiến trúc như căn của Sa, chỉ khác trong phòng treo đầy tranh vẽ hoa mai. Trên bàn giữa phòng, một bữa cơm nho nhỏ đã được chuẩn bị, còn đang bốc khói. Một thùng nước cũng đã được đặt ở góc phòng cùng bộ quần áo vắt trên bình phong. Mọi thứ tinh tươm trong khoảng thời gian ngắn như thế khiến hắn lấy làm lạ.

"Chị... hay có khách lắm nhỉ?" Đúng ra hắn định hỏi rằng có phải tiểu yêu tinh kia thường xuyên đem người về đây như hắn? Phong thái của Xuân Tử lẫn câu hỏi của chị ta khiến hắn nghĩ rằng đây là chuyện rất quen thuộc với nơi này.

"Phải, tiểu thư hay đưa người về." Xuân Tử xác nhận sự nghi hoặc của hắn.

"Những người đó... đâu rồi?" Tiểu yêu tinh kia hành sự vừa độc địa vừa bí ẩn, người cô ta đưa về đây là ai chứ?

"Họ ăn xong rồi đi." Xuân Tử vẫn tươi cười. "Nếu ai không muốn đi thì ở lại."

"Nghe như môn khách." Hắn ra vẻ lơ đãng nói. Tiểu yêu tinh này tuy tính khí thất thường nhưng không phải không có khí khái, chuyện cô nàng đứng ra tập hợp môn khách là có thể. Tập hợp những nhân sĩ hào kiệt thất cơ trong thiên hạ chẳng phải là cách gây dựng thế lực của các bậc vương giả xưa nay, từ Mạnh Thường Quân, Tín Lăng Quân đến Lã Bất Vy chẳng phải đều nhờ môn khách nuôi trong nhà mà làm nên nghiệp lớn? Ngoài Sa ra, lão già mặc áo nhà sư để tóc kia cũng là một cao thủ đáng kể, và nhất định không phải chỉ có hai người bọn họ[1].

Xuân Tử chỉ cười, không xác nhận cũng không phủ nhận. Dặn dò hắn thêm mấy câu, cô đi ra ngoài, bộ dạng bao giờ cũng có vẻ tất tả, hẳn là còn nhiều việc khác cần trông lo.

Hắn thẩn thơ ăn uống rồi tắm rửa thay quần áo, cũng chẳng vội đi tìm Sa lần nữa. Hẳn y cũng không muốn gây chú ý bây giờ. Y đã bày tỏ rõ ràng không muốn hắn liên quan đến chuyện mà y đang làm, hắn cũng khó tìm cách truy hỏi. Hắn biết rõ tên Sa ấy có thể im lặng một vạn năm nếu có điều khiến y ngậm miệng.

Ngay cả lý do y rời khỏi Đông Phố, hắn cũng chưa từng biết. Mới rồi qua liên lạc của y với người nhà, hắn biết y đang ở Hội An nên tìm đến, không ngờ lại gặp y trong hoàn cảnh này. Xem ra, nếu không thể hỏi thẳng y, hắn chỉ có thể tìm hiểu về nơi mà y đang trú ngụ. Nơi - mà có vẻ như - là trung tâm của mọi chuyện xảy ra tại đây.

Vả lại, còn nhiều chuyện khác mà hắn cần phải nói với người bạn từ thưở nhỏ này...

Mưa vẫn rơi như trút, hắt cả vào nơi y đang ngồi. Sa thở dài, đứng dậy đóng cửa sổ. Bên ngoài, một thân ảnh lại lọt vào tầm mắt y. Thiếu nữ áo trắng chầm chậm đi tới, mở cửa vào phòng mà không cần gõ. Vứt cái ô vào góc nhà, nàng ta nằm xuống giường y, kéo chăn lên đắp rồi nhắm mắt như ngủ. Y vẫn đứng cạnh cửa sổ đóng khép, khoanh tay nhìn mà không có biểu cảm gì.

"Tắt đèn đi." Lăn qua lăn lại một lúc, Như Yên lầm bầm. Tuy đang vào buổi sáng nhưng tối trời, y vẫn thắp đèn trong phòng. Khi y nghiêng người đến thổi tắt ngọn đèn đầu giường, thiếu nữ đưa tay giữ tay áo y lại.

"Ở đây với ta." Vẫn giọng nói lầm thầm trong bóng tối, nửa thức nửa ngủ. Y lại thở ra, ngồi xuống bên thiếu nữ, dựa lưng vào bức tường đầu giường. Thiếu nữ trở mình, nắm chặt tay y bằng cả hai tay.

Trong vô thức, y thầm than nhẹ.

Cô gái này cứ nhất định nắm chặt lấy y, nhất định không buông...

***

Khi nàng tỉnh dậy, trời đã tối. Có vẻ như mấy ngày liền thức trắng đã khiến nàng ngủ đến mê man. Trong phòng vẫn tối, chỉ nghe tiếng dế gáy ran bên ngoài.

Sa vẫn ngồi ở đầu giường, gục đầu thiu thiu ngủ. Chỉ có ở nơi đây, y mới có thể yên tâm ngủ say.

Như Yên buông tay y, nhè nhẹ rời khỏi giường. Nàng mở cửa ra ngoài mà không một lần nhìn lại.

Ngẩng đầu nhìn trời, sao đã sáng. Cơn mưa đã tạnh, không biết từ lúc nào, để lại những cơn gió âm ẩm lành lạnh. Những bức tường trúc rì rào không đổi, như không bao giờ kết thúc. Không khí thanh lãnh tĩnh lặng, thậm chí ánh sáng của những chiếc đèn dưới hàng hiên cũng đã bị chặn lại sau các bức tường trúc.

Bất chợt, tiếng tiêu nổi lên. Ban đầu chỉ là thanh âm vi vu hòa cùng với gió, sau cất cao dần, bay vút chạm đến trời cao lộng. Trong trẻo hiền hòa, thanh âm như dòng ngân hà trải ngang trời, lấp lánh muôn vàn tinh tú.

Như Yên rạng rỡ cười, quay mình chạy đến phía tiếng tiêu. Con đường trúc ngoằn ngoèo đi về một khu vườn trồng toàn hoa mân côi đủ sắc. Hoa trải trên đất, leo lên giàn, quấn lấy các cột chống, thả xuống trên mái nhà xanh rêu... Nơi nơi tràn ngập hoa đủ màu, trong bóng đêm vẫn không giấu được vẻ rực rỡ, lại được đèn khắp vườn soi rọi những giọt mưa chưa tan lóng lánh. Hương hoa nồng ngát cùng ánh lửa.

Ngồi dưới hàng hiên ngôi nhà giữa vườn là một nam tử tuổi ngoài ba mươi, mày rậm mắt sáng. Dù chỉ mặc một bộ quần áo đơn giản, khí chất quý phái vương giả vẫn không cách nào che giấu được, dáng ngồi ánh mắt đều toát ra vẻ ôn hòa ấm áp. Y đang chăm chú thổi tiêu, đôi mắt lơ đãng, hàng hiên sáng ánh đèn lại càng làm y có vẻ tách biệt với thế giới bên ngoài.

Nghe tiếng chân đến, y ngẩng đầu, bỏ tiêu xuống, nheo mắt khi nhìn thấy Như Yên chạy tới.

"Trang phục gì thế này?" Ngay khi thiếu nữ vừa đặt chân lên hàng hiên, y cất tiếng. Giọng nói bình ổn ấm áp như thể một người không bao giờ cao giọng với bất kỳ ai.

Thiếu nữ cười.

"Có việc phải mặc. Mà trang phục này dễ chịu hơn đồ của ta nhiều, không lớp này lớp khác, thoáng mát dễ cử động. Có một bộ chỉ như miếng vải quấn từ vai trở xuống nữa cơ, nhưng chưa có dịp mặc."

"Em lớn rồi, cũng phải bớt buông tuồng đi." Nam tử cau mày, tuy phiền trách nhưng giọng nói vẫn không giấu vẻ yêu chiều. Như Yên chỉ nhún vai, ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh y.

"Cho hỏi Nhị công tử đến đây làm gì thế?" Không phải để nói chuyện về cách ăn mặc của nàng chứ?

"Ta đến đòi vài thứ." Nụ cười phảng phất thoáng qua môi y. Như Yên nhướng mày cười khẽ.

"Xưa nay Quang Minh hội chỉ đòi người chứ không bị người đòi." Nàng hất cằm. Nét cười trong mắt nam tử càng rõ.

"Trả cho ta mấy cái phá sơn nỗ và xuyên lâm nỏ." Y chậm chạp nói. "Những thứ ấy không phải để đem đi nghịch lung tung."

"Em làm việc, không phải đi nghịch." Thiếu nữ bĩu môi. Nam tử nhè nhẹ lắc đầu. Y toan nói điều gì nhưng cuối cùng im lặng. Đổi lại, Như Yên chồm người qua ghế, tay chống cằm nhìn y.

"Lần này Hồng Thiên hội thế là xong rồi. Sát nhập nó với Thanh Hải bang, ta cũng phải tìm một cái tên gì đó chứ?" Nàng bình thản nói như thể một chuyện tán ngẫu. Y liếc nhìn nàng, sự cảnh giác thoáng qua trong mắt.

"Tên gì?" Y hỏi mà dường như đoán được câu trả lời.

"Bích Hải Thanh Thiên." Nụ cười của thiếu nữ mở rộng.

"Cứ đem Hoắc Phương dìm xuống biển rồi đặt cái tên ấy cho bang của nó. Ta chỉ e nó nghe đến cái tên ấy đã lên cơn đau tim." Y cố kềm lại một cái đảo mắt. Thế mà y tưởng cái tên Quang Minh hội đã là hết mức rồi.

"Chỉ cần anh cho phép, em sẽ đem con vịt ốm họ Hoắc ấy đi trấn nước, hay làm y lên cơn đau tim mà chết." Như Yên cười. Nàng biết người này sẽ không bao giờ để bất cứ điều gì xảy ra với Hoắc gia. Ngay cả thủ đoạn với thi hài Hoắc cố bang chủ cũng phải giấu y. Nói đến thủ đoạn quyết tuyệt, y không bao giờ làm được.

Như bây giờ, y thậm chí im lặng ra vẻ không bằng lòng với câu đùa của nàng.

"Này, Hoắc Phương có quà cho anh đấy." Nàng chạm vào tay y, dịu giọng. Buổi sáng, nàng đã dặn người để đàn vào căn nhà trong Mân Côi viện này để đưa y đến. Chiếc đàn đã được đặt trên bàn trong phòng. Nàng lấy nó đặt vào lòng y, thấy mắt y sáng lên khi mở nắp đàn.

"Vạn cổ di âm cầm." Y thì thầm, vuốt tay lên những sợi dây đàn. Y đã từng ngắm nó hàng giờ trong phòng của Hoắc lão gia.

Nhìn ánh mắt say mê của y, Như Yên lẳng lặng cười. Trong mắt nàng lần đầu tiên xuất hiện một tia biểu cảm ấm áp. Bề ngoài nàng trông tình tứ phong lưu, hay nói hay cười, kỳ thực nét cười cợt bao giờ cũng mang mấy phần chế nhạo. Bây giờ nụ cười từ đáy lòng mà ra như xuân phong thổi qua hoa đào, tươi thắm mỹ lệ, trong trẻo ấm áp. Đêm cũng vì thế mà thêm mấy phần tươi sáng.

"Gảy thử không?" Như Yên cười mà hỏi, thuận tay lấy chiếc tiêu mà y vừa bỏ xuống. Y nhè nhẹ gật đầu, cẩn trọng đặt đàn lên bàn, từng cử chỉ nâng niu như ngọc quý.

"Điệu nào đây?" Thiếu nữ hỏi, rồi cũng tự trả lời. "Theo bài thơ sau đàn, khúc Cao sơn lưu thủy[2] có lẽ là thích hợp nhất."

"Được." Y vẫn dùng giọng điệu bình ổn mà trả lời, mọi sự chú ý đã bị hút về phía cây đàn. Như Yên cười, đưa tiêu lên môi.

Tiếng tiêu cất lên, như gió luồn giữa những khe núi. Tiếng đàn theo sau, như mây thênh thang bay trên các mỏm cây. Bình ổn thong dong, mênh mang cao vợi, vi vút bay giữa thinh không, sải cánh giữa đại ngàn. Tiếng réo rắt như lá reo trận trận, tiếng trong vắt như hạc bay qua. Rồi đột nhiên tiếng đàn trầm xuống, nhịp điệu càng lúc càng nhanh, lưu chuyển liên hồi như nước trôi giữa đá núi. Tiếng tiêu lửng lơ chìm xuống như lá trôi theo dòng, miên miên không dứt, quấn quýt triền miên. Suối chảy nước reo, trong trẻo sâu xa, cuồn cuộn tràn đầy, âm âm vang vọng. Trôi theo dòng chảy, khi mềm mại nhu hòa, khi mạnh mẽ cô thiết, mong manh phiêu diêu, sâu trong không thấy đáy.

Tiếng đàn chậm lại, thánh thót từng giọt vang. Tiếng tiêu ngừng dần, quẩn quanh than khẽ. Một là mưa rơi giữa rừng, một là mây bay trên núi, mênh mang mà tan, hòa vào thinh không tĩnh lặng.

Y thở dài. Khúc nhạc này không hiểu sao vẫn làm y cảm thấy đau lòng.

Hoa ngoài vườn vẫn ngát hương. Sao trời vẫn sáng. Gió vẫn từng đợt thổi. Lá trúc vẫn rì rào. Thế giới như vậy mà yên tĩnh.

Một khúc đàn mà như vừa trải qua một kiếp.

Thiếu nữ đặt lại cây tiêu vào lòng y, y mới giật mình trấn tĩnh. Như Yên cười với y.

"Tài gảy đàn của anh càng lúc càng lên tay. Em suýt nữa đã theo không kịp." Nàng nói. Y nhìn nụ cười của thiếu nữ, lòng chợt ngẩn ngơ.

"Trên đời này chỉ có Tử Kỳ hiểu Bá Nha đến thế." Y than nhẹ. Khúc Cao sơn lưu thủy này chỉ dành cho kẻ tri âm, trải lòng với núi, trầm ngâm với nước. Gặp nhau nơi cao hoang, kết thành nơi viễn mộng, bình thủy tương phùng, hoan ngạo một kiếp, phù hoa bay bổng, ưu tư trầm luân, vô tư giữa đời mà đến, bình thản giữa nhân gian mà tàn. Bão bùng mưa gió, tịch mịch quan hoài, tất cả thả trôi theo dòng nước sâu.

Đoàn tụ như mây, phiêu dạt như gió, trầm luân theo dòng nước, tan vào khơi xa.

Hóa ra trên đời này chỉ có thiếu nữ, tiểu tinh linh âm độc bên cạnh hiểu được tiếng đàn của y. Y không biết nên vui hay nên buồn.

Thiếu nữ vỗ vỗ vai y, lại ngồi xuống, hướng mắt lên trời. Nàng đã nghĩ đến điều khác.

"Chuyện của Thanh Hải bang đã tạm ổn, nhưng e rằng đối phó với Hồng Thiên hội không dễ dàng đến thế." Như Yên đan hai tay vào nhau, quan sát áng mây mỏng trên nền trời trong. "Bây giờ ta có thể kiềm chế được bọn thủ lĩnh của chúng ở Hội An, nhưng chân rết của chúng khắp nơi, dễ tan dễ tụ, lại có thể hợp thành đoàn sau này. Đối phó với chúng, không thể nào cứ dùng phương cách tận diệt được."

"Ta cũng đã nghĩ đến." Y chầm chậm gật đầu, cất đàn vào lại trong hộp. "Nếu không thể đánh được thì dùng cách chiêu dụ."

"Nghĩa là... như Quang Minh hội?" Như Yên nhướn mày, hỏi mà như khẳng định. Nam tử phảng phất cười.

"Đám người ấy, nói cho cùng thì muốn gì chứ?" Lại một câu hỏi không cần trả lời. Y sửa lại dây đeo đàn, khoác nó lên vai rồi đứng dậy. "Thu xếp trả đồ đạc lại cho ta, rồi nghỉ ngơi mấy ngày. Ta xem xét tình thế ra sao thì sẽ báo sau."

"Cáo từ." Như Yên uể oải phác tay, không đứng dậy. "Đã đến đây mà không ghé Hoắc gia sao?"

Y ngẩn ra một lúc trước câu hỏi đột ngột, rồi lắc đầu.

"Ta đến đó bây giờ sẽ rắc rối lắm." Y không quay lại để thấy nụ cười trên môi thiếu nữ.

Phải khua chiêng gióng trống báo hay sao mà ngại? Rốt cuộc chỉ là không thể tới được nữa. Nàng nghĩ thầm, chợt cảm thấy mệt mỏi.

"Cáo từ, cáo từ." Nàng vẫy tay. Bóng y đã khuất sau tường trúc. Nàng ngả người ra sau, dõi mắt vào khoảng không.

Hoa vẫn ngát hương. Bầu trời vẫn cao xa vời vợi. Sao ngày càng sáng tỏ. Thế giới như vậy mà diễm lệ.

Thế giới như vậy mà lặng im.

Chú thích:

[1] Các danh sĩ quý tộc giàu có như Mạnh Thường Quân, Tín Lăng Quân, Bình Nguyên Quân, Lã Bất Vi... thường bỏ tiền của nuôi người trong nhà, gọi là môn khách. Những người này được xem xét tài nghệ để nếu có việc thì dùng đến hay tiến cử cho vua chúa.

[2] Cao sơn lưu thủy là cổ nhạc khúc gắn liền với giai thoại Bá Nha - Tử Kỳ của Trung Hoa. Cao sơn có 4 đoạn, Lưu thủy có 8 đoạn.

Hồi 9: Sòng bạc

Càng về khuya, Tụ Phương viện càng ngát hương.

Thương Trúc trang này được chia thành nhiều khu vực nhỏ: Mai Lâm viện, Cúc Đình viện, Mân Côi viện, Hải Đường viện... Tụ Phương viện, đúng như cái tên của nó, trồng toàn những loài hoa có hương thơm, từ nhài, dạ lý, sưa cho đến lan, huệ. Vào đêm, hương hoa trong những bức tường trúc tỏa nồng nàn, muôn hương đượm đượm hòa vào nhau, thấm đẫm từng hơi thở.

Có những đêm mà hoa nở nhiều đến mức phải đưa người đến tỉa bớt đi để không khí thoáng đãng hơn. Nhưng người ở trong căn viện này thì đã quá quen với mùi hoa có lẽ là vượt mức chịu đựng với người khác ấy.

Trong phòng, Như Yên tháo trang sức, đặt từng cái vào hộp trang điểm. Ngẫm nghĩ một lát, nàng cầm lên con dao ngắn bên cạnh đeo vào thắt lưng, đi về sau viện.

Sau viện, nấp dưới một miệng giếng lớn là cánh cửa dẫn tới căn hầm ngục trong lòng đất.

Giờ đây, sau những chấn song lớn, ánh lửa chập chờn soi rõ những thân ảnh đứng ngồi chen chúc. Trong hầm ngục đông chật người.

Thấy người vừa bước xuống, cô gái ngồi gần cửa ngục ngoảnh ra. Xuân Tử, trên tay cô cầm cây bút vẫn còn ướt mực.

"Kiểm kê xong chưa?" Như Yên hỏi khi đưa mắt nhìn qua các gian tù. Từ trong bóng tối, một dáng hình cao lớn bước ra, cúi đầu trước thiếu nữ. Gã có làn da đen bóng, trong ánh lửa càng sậm lại như mun. Mắt lộ, môi dày, những đường nét của gã đặc trưng cho người sống trong rừng của xứ sở phương Nam.

Nhưng Xuân Tử là người lên tiếng trả lời.

"Cơ bản đã gần xong." Cô đưa cán bút gãi nhẹ lên thái dương. "Chẳng là có vài kẻ nói thứ tiếng hơi lạ, chắc là giọng vùng Hải Nam, chưa hỏi chúng được. Tiêu lão lão lại có việc ra ngoài chưa trở về."

Như Yên gật đầu, ngồi xuống bàn kê cạnh cửa, cầm xấp giấy lên nhìn lướt qua. Nàng khẽ cau mày.

"Có cả Oa khấu?" Nàng hỏi mà không ngẩng lên. Xuân Tử không thể đừng mà đảo mắt nhẹ.

Oa khấu, giặc lùn, là cách người xứ này gọi đám hải tặc Nhật Bản, bắt nguồn từ cách gọi của người Tàu mà ra. Tuy biết đó là một thói quen, kẻ mang dòng máu Đông Doanh vẫn không khỏi cảm thấy phật lòng.

"Có hai thuyền, từ Đông Hải, Đài Loan đến." Cô khoanh tay trả lời. Đài Loan, lãnh thổ mới chinh phục của Thanh triều, luôn luôn là một sào huyệt cho hải tặc. Bọn hải tặc này di chuyển luôn, thật ra nói đến nơi xuất phát của chúng cũng không có ý nghĩa lắm.

"Câu kết với cả Oa khấu..." Như Yên nhè nhẹ lắc đầu. Xuân Tử bật cười khẽ.

"Tiểu thư biết Trịnh Chi Long chứ?" Cô bỏ cây bút đang cầm xuống nghiên mực, sửa lại tay áo vẽ hình những đám mây xanh. Vải óng ánh trong lửa sáng, rõ ràng là một loại lụa quý.

"Nghe nói ông ta là một mỹ nam tử." Như Yên cười. "Nên quyến rũ được cả phụ nữ Đông Doanh."

"Phải, vợ ông ta là người Đông Doanh." Xuân Tử đảo mắt. "Và con trai ông ta, Trịnh Thành Công, là người đã kết hợp với hải tặc Nhật Bản đánh đuổi Ô Lan giành lấy đảo Đài Loan.

"Trịnh Chi Long là một quan triều xuất thân hải tặc." Cô chầm chậm nói sau một khoảnh khắc im lặng. "Ông ta là một thương nhân, trong quá trình lưu lạc khắp nơi lại kết giao với hải tặc, trở thành hải tặc. Tuy đã về quy hàng triều đình, có vẻ mối quan hệ của ông ta với hải tặc chưa thể đoạn tuyệt. Trịnh Thành Công kết hợp với hải tặc quấy nhiễu duyên hải Thanh triều bấy nhiêu năm, sự có mặt của hải tặc Nhật Bản ở đây cũng đâu có gì là lạ.

"Vùng Nam Hải này trước đây là địa phận của hải tặc Đồ Bà, nhưng từ khi chúng ta đánh lui Chiêm Thành, Tây dương chiếm cứ vài hòn đảo ngoài khơi, thương buôn người Minh lớn mạnh, hải tặc Đồ Bà phải lui dần về phương Nam, lại để bọn hải tặc Hoa Nam cùng Nhật Bản tràn đến."

"Mà nhiều kẻ trong đất này lại đang mời chúng vào." Như Yên nhếch môi. "Chúng có chịu khai mình làm việc cho ai?"

"Có khi chúng cũng không biết." Xuân Tử thở ra. "Tiểu thư biết cơ cấu của bọn hải tặc mà. Chừng vài chục kẻ một thuyền, đứng đầu thuyền là lão bản. Chừng chục thuyền thành một đội, kẻ đứng đầu cũng chỉ liên hệ nhận lệnh của người liên lạc. Nói đến chỉ huy là đầu lĩnh, nhưng quản lý tất cả công việc, phân chia tiền tài lại là thủ quỹ, đi liên hệ công việc, ngoại giao, phát lệnh lại là kẻ khác nữa. Đám lâu la ở dưới chẳng qua là bọn chỉ đâu đánh đấy, hỏi chúng cũng chẳng có ích lợi gì. Ngoài lão bản ra, chúng có còn biết đến ai? Ngoài đánh trận rồi nhận tiền ra, chúng có còn biết gì?

"Mà mấy năm nay duyên hải Đại Thanh xung động, dân cư bị chuyển vào trong bờ, các tổ chức phục Minh nổi dậy như ong càng khiến cho hải tặc lớn mạnh. Ba năm trước, Trịnh Thành Công qua đời, Thanh triều tấn công chiếm đảo Đài Loan, trấn giữ ở đó. Tàn quân họ Trịnh lẫn hải tặc mất căn cứ tản ra cả vùng biển. Chúng tuy phân tán khắp nơi nhưng tinh thần tương trợ cao, cho nhau mượn quân, kết hợp với nhau làm loạn đều có thể. Muốn truy lùng nguồn gốc của chúng thì quả là bất khả thi.

"Vả lại triều đình Nhật Bản cũng bỏ mặc bọn chúng rồi." Xuân Tử lắc đầu thở dài. "Mạc Phủ muốn kiềm chế các daimyo miền Tây Nam mà ra lệnh cấm xuất ngoại, cấm cả đóng thuyền lớn, chỉ có Tàu Đen chính thức vào được Nhật Bản. Việc mua bán với Nhật Bản bây giờ, người Tây dương hay kẻ bên ngoài chỉ có thể dựa vào bọn hải tặc buôn lậu, các daimyo miền Tây không phục Mạc Phủ lại dung dưỡng cho chúng càng khiến chúng phát triển lớn mạnh, tổ chức cũng căn cơ chặt chẽ hơn nhiều."

"Nói tóm lại, vô kế khả thi đối đầu với chúng, ngoài việc thấy chúng ở đâu là diệt? Hoặc là..." Mắt Như Yên nheo lại. Đặt xấp giấy xuống bàn, nàng quay nhìn những gian tù. Xuân Tử lấy tay che miệng khẽ cười.

"Hoặc là tìm một Trịnh Chi Long." Cô trầm tĩnh nói. Thái độ cô bao giờ cũng mực thước nhẹ nhàng, một vẻ đoan trang tự nhiên đến mức như không phải do rèn luyện.

"Thứ ta sợ không phải là chúng quấy nhiễu ta. Việc đối đầu với chúng đã có bảo tiêu và tuần duyên đội. Chúng cũng không dám đánh phá vào địa phận ta như với Đại Thanh nếu không có lực lượng trên bờ tiếp ứng. Nói cho cùng, phải có đến mười Trịnh Chi Long, nhà Minh lẫn nhà Thanh mới hy vọng ổn định được vùng biển." Như Yên nhún vai, nhàn nhạt nói. Nàng đứng dậy, nhìn gã cao lớn đứng cạnh Xuân Tử.

"Anh Tượng, chúng thế nào rồi?" Nàng hất cằm về phía những tù nhân. Tượng nhìn theo ánh mắt nàng.

"Từ khi cho uống thuốc, chúng không phản kháng nữa." Giọng gã nằng nặng, hơi kéo dài ở cuối câu. "Công tử nói, ngày mai đưa các đầu lĩnh của chúng đến chỗ công tử."

"Tốt, ta khỏi phải quản." Trong khoảnh khắc, Như Yên cau mày, nhưng rồi nàng nhún vai. Nàng không thích việc tra hỏi tù nhân, mà việc của nàng cũng chỉ là bắt chúng về. "Diêu với Ngừ đâu?"

"Bọn họ sáng qua vừa về, giờ hẳn còn đang ngủ." Xuân Tử trả lời thay cho Tượng. "Cả Mun và Đàn, Quế cũng ngủ vùi. Tháng rồi họ cực nhọc nhiều."

"Bao giờ họ tỉnh thì báo đến chỗ công tử nhận thưởng." Như Yên phác tay, đã quay đi về phía cửa hầm. Nàng lại thấy buồn ngủ. Tháng vừa qua quả thật là cực nhọc. Và cả quãng thời gian kéo dài trước đó.

Giá mà được ngủ cả tháng, vừa dụi mắt, nàng vừa nghĩ thầm.

***

Hắn bị đánh thức dậy với cái gõ đau điếng trên trán. Tiểu yêu tinh cầm đôi đũa chẳng nương tay gõ vào trán hắn.

"Dậy, mặt trời mọc cao bằng cây sào rồi kìa." Giọng nói trong trẻo như nước nhưng mang đầy vẻ châm chọc. "Hay thật, mới đến đây đêm qua mà đã uống say bí tỉ."

"Là các người mời ta..." Hắn lồm cồm ngồi dậy, tung chăn sang bên, tay xoa xoa trán. Nói cho cùng không phải lỗi của hắn khi cứ uống hết vò rượu nào thì Xuân Tử lại tiếp thêm vò khác chứ?

"Ai bảo ngươi không biết dừng lại?" Tiểu yêu tinh trừng mắt nhìn hắn. A, người dễ thương như vậy, trừng mắt vẫn thấy đáng yêu.

Mà đã bỏ bộ váy áo rực rỡ của người miền núi, hôm nay nàng ta lại mặc bộ tử sam cổ cao, tay áo hẹp, không có thắt lưng, hai vạt thả dài qua gối cùng quần lụa rộng. Trang phục này giông giống lối ăn mặc của các văn nhân nho sĩ nhưng thêu hoa dệt phụng, lụa mềm sa mỏng, tha thướt thanh nhã mà không nhu nhược, giản đơn mà quý phái nền nã, vừa có phong thái yểu điệu của thanh nữ vừa có khí độ phong lưu tiêu sái của văn nhân.

"Mới dậy mà đã ngây ngốc gì?" Tiểu yêu tinh làm một cử chỉ như muốn gõ đầu hắn lần nữa. Hắn vội né người ra sau, nhảy khỏi giường, cười hì hì.

"Cô thường mặc loại trang phục bán nam bán nữ này à?" Hắn hỏi, và ngay lập tức chuẩn bị tránh cú đánh thứ hai.

"Bán nam bán nữ? Trang phục mới của chúng ta đấy." Tiểu yêu tinh đảo mắt khinh khi tuy không động tay. "Ở kinh thành, loại phục trang này rất phổ biến."

"Ngươi biết chuyện Triệu Ung chứ?" Cô nàng mỉm cười khi thấy thái độ của hắn. "Ông ấy là vua nước Triệu. Thời Chiến quốc ấy rất lắm lễ nghi, trang phục vừa nhiều lớp vừa thùng thình, đặc biệt là tay áo rất rộng. Tay áo rộng cũng là một loại lễ nghi của người Hán, có phải? Khổng Tử mỗi khi vào chầu còn dang hai tay ra như chim, coi đó là cung kính mực thước. Trong khi đó thì người Hồ ăn mặc gọn nhẹ, cưỡi ngựa bắn cung dễ dàng thuận tiện. Triệu Ung liền đề ra cải cách cho trang phục nước Triệu, tay áo hẹp lại, thân áo bớt rộng đi. Ông ấy nói: 'Vì lợi ích của đất nước, bất tất phải theo phép xưa.'

"Trang phục là để mặc hàng ngày, ngoài công dụng che thân còn phải phù hợp để người ta làm việc. Người Hán các ngươi ngoài tục lệ quái gở bắt phụ nữ bó chân còn bày ra loại nữ trang che từ cổ xuống gót chân, mấy lớp bít bùng, tay áo đủ may thêm cái thân áo khác. Người Nhật Bản thì thít chặt phần chân trang phục lại, cốt để phụ nữ khó di chuyển, coi đó là mực thước lễ độ, dần dà trang phục bó dần, cứng như gỗ. Ngay cả người Miên người Xiêm kia, phục trang cũng vừa bó vừa dài. Ngươi thử nghĩ, mặc những thứ như thế, nội việc đứng ngồi đi lại cũng đã khó, còn làm được gì?

"Xứ này ngày xưa cũng có loại phục trang riêng cho nữ. Nhưng áo thì lơ phơ lất phất mấy tà mấy lớp, người ta thà cởi ra mặc mỗi cái yếm còn hơn. Xiêm váy vừa rộng vừa dài, không thích hợp để làm việc mà mỗi khi quấn lên quấn xuống lại chẳng hợp mắt, gặp gai thì vướng gặp cỏ thì vương, xuống nước thì càng tệ. Thay váy bằng quần, thay áo nhiều lớp bằng một lớp, tay áo hẹp, cài khuy bên phải để gió khỏi lật, vừa giải phóng cho người vừa thực tế với việc, lại hợp với khí hậu, thuần phong. Một kiểu dáng mà phù hợp với vạn người, biến thành vạn loại, cho mọi hoàn cảnh, chẳng phải là có ích cho muôn đời hay sao?"[1]

Hắn chỉ biết gật đầu. Trên đường đến đây, thi thoảng hắn cũng đã thấy những phụ nữ ăn mặc như nam giới, tuy chỉ nghĩ đó là vì họ cần làm việc. Trang phục của nam giới hẳn nhiên thuận tiện hơn nhiều.

Tóc đen vấn cao cài hờ hững một cây trâm ngọc, lọn buông lơi viền lấy khuôn mặt trong trắng càng làm nổi bật chiếc cổ thon, đôi vai mảnh, vóc dáng mình hạc xương mai. Nhìn quả nhiên có một ý vị riêng.

Tiểu yêu tinh không để ý đến hắn, chỉ nhàn nhạt liếc mắt ra cửa. "Ngươi dậy rồi thì rửa mặt chải đầu. Ta có chuyện muốn nói."

"Sa nói với ta rằng ngươi kể với hắn, trên đời này ngươi chỉ biết có mỗi chuyện đánh bạc." Như Yên nói ngay khi hắn vừa ngồi xuống ghế, đưa tay với lấy cái bánh bao trên bàn. Nghe câu nói, miếng bánh bao vừa cắn nghẹn lại trong cổ hắn.

Lão Đại nhà ngươi bán đứng bạn bè nhanh đến thế, hắn lầm bầm rủa thầm trong lòng. Thấy phản ứng của hắn, khóe miệng thiếu nữ khẽ nhếch.

"Nói như vậy, ngươi đánh bạc giỏi chứ?" Nàng ta hỏi, tay phe phẩy chiếc quạt hình bầu dục vẽ hoa mẫu đơn năm sắc. Tư thái đã trở lại thành một thục nữ khoan thai nhã nhặn. Như thể con người theo lớp áo mà thay đổi.

Hắn không biết trả lời ra sao, chỉ gật đầu. Kẻ chỉ biết đánh bạc mà còn sống yên ổn đến giờ này, hẳn nhiên kỹ thuật không tệ.

Như Yên cười, đưa cho hắn cái bánh khác, cử chỉ như đang dỗ ngọt trẻ con.

"Tốt, ăn xong thì chuẩn bị theo ta ra ngoài." Nàng ta nói. Ngồm ngoàm cái bánh trong miệng, hắn chỉ trợn mắt nhìn lên. Đây là ý gì?

"Chúng ta đến phố cảng." Chiếc quạt trên tay thiếu nữ mềm mại lay động. "Đi đánh bạc."

Và như vậy, không cho hắn cơ hội để hỏi hay thậm chí phản đối hoặc đồng tình, tiểu yêu tinh một lần nữa lại lôi hắn lên xe ngựa đi về nội thành. Lần này đánh xe cho bọn hắn là một gã trung niên cao gầy, để râu cá trê hai bên mép. Ở trong xe, Sa vẫn khoanh tay cúi đầu, ra vẻ như không hề để ý đến ánh mắt oán trách mà hắn thỉnh thoảng ném về phía y.

"Ở trong thành vậy là bình yên rồi?" Hắn cất tiếng hỏi. Mới hôm qua thiếu nữ phải đưa hắn về bằng đường thủy để tránh phiền phức, hôm nay bọn hắn đã đường đường chính chính đi vào Hội An?

"Thật ra chúng chỉ nghi ngờ ta chứ có chứng cứ gì đâu." Thiếu nữ cười tươi như hoa xuân. "Khi có một kẻ nhận lãnh tất cả những việc đó, tất nhiên là ta vô can."

"Vậy ta đi được rồi?" Hắn cười. Chiếc quạt trên tay thiếu nữ hơi dừng lại.

"Đây là việc phát tài cho ngươi, chẳng mất gì đâu mà sợ." Nụ cười vẫn ngọt ngào, nhưng tin lời tiểu yêu tinh này thì chẳng còn đến cả xác.

Tuy vậy, hắn cứ ngồi yên.

Bên cảng là dãy phố dành cho thủy thủ và nhân công. Không giống với vẻ hoa lệ của khu phố buôn bán hay tư gia các thương nhân, khu nhà này luôn luôn chìm trong trạng thái lộn xộn xô bồ. Không chỉ các thủy thủ ghé bến vài ngày, nhân công trên cảng cũng là người nơi khác đến ăn xổi ở thì, vẻ tạm bợ của các dãy nhà trọ có thể thấy rất rõ. Các hàng quán cũng ồn ào tràn ứ cả vị đạo lẫn thanh âm. Thịt được đem ra nướng ngay tại lề đường, bàn ghế tràn ra ngoài lòng đường, mảnh vò vỡ lăn lóc khắp nơi cùng với rác chưa được dọn. Dù ngay giữa sáng gần trưa, các cặp thanh niên nam nữ vẫn thản nhiên bá vai nhau đi lại. Đủ loại thanh âm trộn vào nhau ầm ĩ như thác. Đủ loại trang phục, dáng hình, màu sắc như thể người của cả thế giới đổ về.

Đã đến trưa, thời khắc nghỉ ngơi của người trên cảng. Khu phố vì thế mà càng thêm huyên náo.

Khi họ đi qua, nhiều ánh mắt đồng loạt nhìn về thiếu nữ cùng những tiếng chòng ghẹo đuổi theo sau. Làm ra vẻ không để ý đến, Như Yên đưa bọn hắn đi thẳng tới sòng bạc nằm ngay giữa khu phố. Hắn để ý, sau khi họ bước vào, sòng bạc còn đông đúc thêm vài phần.

"Chơi gì trước đây?" Như Yên nhìn quanh căn nhà rộng được phân ra thành từng khu vực nhỏ đánh dấu bằng những cái bàn lớn. Sau bàn, nhà cái vẫn không ngừng bận rộn trong tiếng tranh cãi hò hét xôn xao của đám thanh niên tụ tập xung quanh. Sát tường được kê một dãy ghế dài, góc phòng là những thủ quỹ hay nhân viên giao dịch của sòng. Cuối phòng có một cầu thang nhỏ dẫn lên lầu trên. Trong phòng nồng đậm mùi mồ hôi dù hương xông được đặt khắp nơi. Tiếng ồn ào như xuyên vào đầu óc người, cứ từng đợt từng đợt bùng lên với mỗi lần ăn bạc.

Đủ hình thức bài bạc được tổ chức ở đây, từ xúc xắc, tổ tôm đến tứ sắc, tam cúc. Theo lối thông thường của các sòng bạc, gian nhà dưới dành cho giới bình dân. Đủ loại người tập hợp trong căn phòng, từ các phu phen, thủy thủ nghỉ trưa đến vài ông chủ nhỏ kiếm trò giải trí lẫn những con bạc mắt trũng sâu thường trực trong sòng, từ những thanh niên thô hào hét "tam, tứ, tiểu, đại" đến những lão gia ngồi vuốt râu trước bình trà với quân bài trên tay. Trong góc có cả những bàn cờ lạ giờ này vắng người ngồi.

"Chơi đổ xúc xắc trước." Thiếu nữ cũng tự hỏi rồi tự quyết định. Gã đàn ông gầy ốm mà hắn vừa biết tên là Tiêu cùng Sa đến bàn đổ xúc xắc gần đó vạch người cho thiếu nữ chen vào, nhưng nàng chỉ đứng ngoài, ném túi tiền cho hắn.

Biết ý, hắn lặng lẽ đến bên bàn bạc. Đi ngang qua Sa, hắn thậm chí còn thấy y phảng phất cười.

Chỉ uống cạn chén trà, hắn đã kiếm được gấp ba lần số tiền trong túi.

Mạc Kinh Vũ hắn, sở trường lớn nhất là đánh bạc vốn không phải nói suông. Huống hồ tiền trong túi không phải của hắn, hắn cứ việc dốc hết mà đặt lên bàn, chẳng mấy chốc mà đã gom hết sự chú ý của con bạc trong phòng. Người đặt càng nhiều, tiền ăn càng cao. Qua năm lượt đổ, tên nhà cái lắc xúc xắc đã trợn mắt nhìn hắn.

Cửa Đại hay cửa Tiểu, hắn cứ thế mà đọc con số trong bát, không một lần sai trật.

Con bạc trong phòng dồn lại bàn hắn đang đứng, gần như ép hắn vào thân bàn, hò hét đặt cược theo hắn. Ngay cả những kẻ bị Như Yên hấp dẫn theo vào giờ cũng chuyển sự chú ý đến bàn bạc vung vãi tiền. Gương mặt tên nhà cái đỏ dần. Đến khi bạc trước mặt hắn dồn lại thành một khối lớn, lão Tiêu đến vỗ vai hắn, đưa hắn thoát ra khỏi đám người hỗn độn.

Như Yên cùng Sa đang ngồi bên bàn tại dãy ghế kê sát tường. Thấy hắn, thiếu nữ đưa mắt nhìn quanh, ánh mắt rớt lại sau lưng hắn trước khi một cái đập cực kỳ quen thuộc đáp lên vai kẻ đang ôm bạc.

"Người anh em, không chơi nữa à?" Không cần quay lại, hắn cũng biết đó là ai. Có thể ôm bạc dễ dàng ra khỏi sòng, trên đời này khó có mấy người.

"Trò chơi này thật là chán quá." Như Yên lên tiếng thay cho hắn. Nàng ta đã bước đến bên hắn, mỉm cười với hán tử cao lớn mặc quần áo như nhân viên của sòng bạc. Sóng mắt chuyển chuyển lướt qua gã mang mấy phần ngây thơ nũng nịu. "Ta bảo hắn tìm trò gì chơi cho vui. Trò xúc xắc này quá cũ kỹ buồn chán rồi, thắng cũng có gì vui đâu."

Bộ dạng thật chẳng khác gì một cô tiểu thư ra khỏi khuê môn gây sự. Bày ra dáng vẻ thỏ non chỉ đợi người đưa vào bẫy. Trang sức hoa lệ, bộ dạng thướt tha, nhìn qua cũng đã thấy là một món hời. Hắn âm thầm lấy làm thương tiếc gã hán tử bên cạnh đang trong khoảnh khắc ngơ ngẩn đã không tìm ra được lời nào để nói.

"Ở đây có trò chơi mới." Gã nói sau một cái nuốt khan. "Chúng tôi mới nhập về loại bài của Tây dương, tiểu thư có muốn xem qua?"

"Bài của Tây dương? Ngươi có biết chơi không?" Như Yên liếc nhìn hắn. Không để hắn kịp trả lời, gã nhân viên đã hăng hái phác tay.

"Nếu chưa biết chơi thì học từ từ. Bài Tây rất đơn giản, tiểu thư hẳn sẽ thích ngay thôi."

Không nhìn lại, hắn vẫn có thể tưởng tượng thấy đôi mắt ngời ngời của gã qua nụ cười sáng rực của thiếu nữ. Hắn tặc lưỡi than thầm, gật gật đầu.

"Chơi thì chơi."

Chú thích: 

[1] Theo người ngoài nhìn trang phục của Nam Hà mà nói, nam hay nữ cũng không khác gì nhau, ngoại trừ mái tóc. Thời kỳ này chưa đổi trang phục, dân cư từ Quy Ninh trở ra đều vừa từ Bắc Hà vào nên vẫn mặc theo lối cũ. Áo dài thời kỳ này có lẽ đã xuất hiện nhưng chỉ phổ biến ở vùng Quảng Bình, Thuận Hóa.

Vạt áo cài về phía bên phải là đặc trưng của áo dân du mục hay các sắc dân dùng cung kiếm như người phương Bắc (của Trung Hoa). Trước đây người phương Nam vạt áo đắp qua bên trái. Theo Luận ngữ, Khổng Tử từng nói rằng Quản Trọng nước Tề đã đem cách cài áo từ phương Bắc về. Khi vạt áo đắp qua bên phải, cử động của tay phải dễ dàng hơn trong các hoạt động mạnh mà không sợ trang phục bị xô lệch hay vướng víu, cưỡi ngựa bắn cung không sợ gió lật, thuận tiện đeo công cụ hay túi, vũ khí lên vai, lưng, ủ ấm bàn tay thuận trong tiết trời lạnh, lấy đồ đạc (người xưa có thói quen nhét đồ trong áo)... Đây là loại trang phục thích nghi với môi trường hoạt động cao, cũng như cải cách "thu hẹp tay áo" của Thiệu Ung.

Ngay cả áo phương Tây cũng có đặc tính này, nam cài áo bên phải, nữ cài bên trái, với ý rằng nam giới cần đi ngựa đánh gươm hơn là nữ. Còn ở Nhật Bản, áo đắp vạt bên trái dành cho người chết - không hoạt động nữa là chết rồi.

Hồi 10: Vô Âm

Bài Tây có năm mươi hai lá, bốn ký hiệu và được đánh số từ một đến chín, đương nhiên là đơn giản hơn tổ tôm có một trăm hai mươi lá, ba hàng hay tứ sắc bốn màu, một trăm mười hai lá. Cách chơi cũng dễ hiểu, chỉ cần tính số lấy thịt đè người, chẳng cần thành quân thành đội, đánh chắn hay ù bài. Ngoài những chữ số la-tinh trên lá bài ra, tất cả chẳng có gì đáng kể.

Thiếu nữ sau một hồi săm soi cũng đã bỏ bộ bài xuống, trên tay chỉ cầm mấy quân bài vẽ hình người hai đầu lộn ngược, cười mà nói với lão Tiêu.

"Chúng ta bắt đầu chơi đi."

'Chúng ta' ở đây tất nhiên là hắn và lão Tiêu, cùng với một gã Tây dương râu ria xồm xoàm, trên người bốc lên mùi là lạ và một kẻ được giới thiệu là Trình lão bản. Lấy lý do để tránh mùi tên Tây dương, Như Yên cùng Sa rút về cuối phòng, ngồi gần sát cửa sổ. Phòng chơi bài nằm ở tầng trên của tòa nhà, được cách ly khỏi các khu vực khác, hương trầm ghế êm, hẳn chỉ dành cho các khách quan trọng.

Lão Tiêu chỉ ngồi vào cho đủ tay chơi. Chỉ qua mấy vòng, số tiền Như Yên đưa lão đã bị rút sạch.

Số tiền ấy, tất nhiên là đến trước mặt hắn.

Bài Tây dương có thể xa lạ với ai chứ hắn đã từng cầm nó vào năm mới bốn tuổi, hắn đã từng đánh bài thâu đêm suốt sáng với những tên thủy thủ Tây dương khi mới tám, chín tuổi. Nói không phải giỡn chơi, chính mấy lá bài đen đỏ này đã bắt đầu cho quá trình lăn lê ở các sòng bạc của hắn.

Mà tiểu yêu tinh kia, khi cầm lấy bộ bài săm soi, đã xóa hết các vết đánh dấu ở sau lá bài. Một việc mà với hắn thậm chí không cần thiết, thủ đoạn nho nhỏ ấy của các chủ sòng tất nhiên chỉ dành cho những kẻ tay mơ. Ngay cả tên Tây dương kia cũng là một kẻ tay mơ, mồ hôi gã bắt đầu đổ ra trên gương mặt đỏ như tôm luộc.

Kẻ thực sự có thể tính là tay chơi chỉ là Trình lão bản đang ngồi đối diện với hắn bên kia bàn. Lão ngồi ngả ra sau, một tay cầm bài, một tay nhè nhẹ gõ ống điếu xuống tay ghế, nụ cười muôn thưở không đổi trên môi. Nụ cười chỉ có ở những kẻ đã quen thuộc với sự khống chế cảm xúc trên các sàn bạc.

Qua vài vòng, kẻ có thể lấy được tiền của hắn chỉ là lão. Những chiếc thẻ tròn thay cho ngân lượng vung vãi trên bàn đã gom thành hai đống lớn đặt ở hai đầu bàn. Lão Tiêu đưa mắt nhìn sang Như Yên như cầu cứu. Nàng phe phẩy quạt đứng dậy đến bên lão, nghiêng người nhìn sang bộ bài lão đang cầm.

"Tiêu lão, để ta chơi thử xem." Giọng nói trong trẻo ngọt ngào vẫn như của một cô bé đầy tò mò. Trình lão bản uể oải cười độ lượng, phá lệ cho thiếu nữ vào thay lão già. Bài của Tiêu lão, không cần nói cũng biết là không tốt, đã vậy còn bị lão đánh lung tung không có biện pháp gì, chỉ còn lại những quân hầu như vô dụng. Có là thánh nhân mới khả dĩ thắng được bằng số bài này.

Thiếu nữ, dù có là hồ ly tinh ngàn năm thì cũng không phải thánh nhân, tất nhiên không thể chuyển bại thành thắng. Nàng ta càng đánh càng tán loạn lung tung, mơ mơ hồ hồ như thể một người không hề nắm được luật chơi. Chẳng mấy chốc, cả ván bài đã bị nàng ta xáo tung.

Đến cả Trình lão bản cũng đánh rơi mất vẻ điềm tĩnh, đôi mắt lão nhìn thiếu nữ qua những con bài đã rực lửa nóng giận như tiếc không đuổi được nàng ta đi.

Dù không phải thánh nhân, hồ ly ngàn năm vẫn là hồ ly ngàn năm. Trong thế trận hỗn loạn bát nháo ấy, hắn thấy lợi thế hoàn toàn được đẩy về phía mình. Những đường đánh hóc hiểm bị chặn, những thế bài khó bị quấy nhiễu. Thiếu nữ đã mất đến túi tiền thứ hai, nhưng cũng chẳng vì thế mà nụ cười kém tươi đi một sắc.

Số thẻ tiền trên bàn đang lần lượt trôi về phía hắn. Nét mặt Trình lão lão cũng càng lúc càng xấu xí đi vài phần.

Lão hận không thể đuổi khách, càng không thể từ chối khách vì lý do... chơi dở. Khách chơi dở luôn là nguồn sống của các sòng bạc. Nhưng không phải loại khách này.

Chiếc ống điếu đập nhẹ xuống cạnh bàn, tên hầu nhỏ châm trà nước đứng phía sau hiểu ý, vội vã len ra ngoài. Một lát sau, nó đưa về một người đàn ông trung niên phương phi cao lớn. Dù chưa già, vẻ phong trần in trên hai vết hằn quanh mép, trên trán cho thấy ông ta đã từng trải nhiều. Không bước vào, ông ta chỉ đứng khoanh tay ngoài cửa nhìn ván bài đang đến hồi kết thúc.

Khi ván bài kết thúc, tiền trên bàn đã hoàn toàn lọt vào tay hắn. Nhưng thiếu nữ không để ý đến điều đó, nàng ta nhìn ra ngoài cửa, uể oải buông những quân bài còn lại xuống khi người đàn ông bước vào. Trình lão lão vội cúi đầu.

"Mặc lão gia..." Lão nói như thông báo cho người trong phòng. Mặc lão gia, tên thật là Mặc Huyền, chủ nhân của sòng bạc này cùng vài nhóm bảo tiêu trên cảng. Giới làm ăn trên cảng tập hợp toàn những tay giang hồ tứ chiếng, mặc nhiên Mặc lão gia cũng không phải nổi tiếng về học thuật hay hiền lương. Đôi mắt thâm trầm nhìn lướt qua những người trong phòng, dừng lại ở thiếu nữ.

"Thú vị thật, hiếm hoi ta mới có khách như tiểu thư đây." Mặc Huyền chợt cười, ngồi xuống ghế mà gã Tây dương đã đứng dậy nhường cho. Đối diện với Như Yên, ông ta nheo mắt nhìn nàng. "Xin hỏi, nàng là tiểu thư nhà nào?"

"Này," Như Yên mỉm cười, hơi nghiêng người về phía trước, nheo mắt. "Nếu lão gia trốn nhà đi chơi, ông có khai báo mình từ đâu tới không?"

"Trốn nhà đi chơi?" Mặc Huyền nhướng mày, nhìn lại lần nữa ba người đi theo thiếu nữ. "Tiểu thư phải mang theo a hoàn hầu hạ chứ không đem theo cao thủ."

"Loại tiểu thư chỉ đem theo a hoàn thì không dám trốn nhà đi chơi." Như Yên bật cười. "Nhưng lão gia sao lại phải bận tâm về chuyện ấy? Chẳng lẽ sòng bạc này mở chỉ để khách thua, không cho khách thắng?"

Mặc Huyền nheo mắt nhìn thiếu nữ mà không lên tiếng. Đôi mắt hẹp dài sâu trong không thấy đáy.

"Thôi nào," Ông ta cười, một lúc sau. "Tiểu thư đến đây để làm gì?"

Mặc lão gia của các bảo tiêu trên cảng, nói cho cùng, trên đời này dạng người nào mà chưa gặp qua? Nữ nhân từ các phong trần nữ tử đến tiểu thư danh môn, tú nữ khuê phòng, hào sĩ anh thư cũng nhìn qua không ít, lẽ nào lại không nhận ra tư thái của cô gái này? Nàng ta nhất định không phải là một nhân vật bình thường.

"Để đánh bạc." Như Yên vẫn thản nhiên cười. "Từ các thân hào nhân sĩ đến lục lâm thảo khấu đều giải trí bằng bài bạc, sao ta lại không? Chẳng qua là một trò tiêu khiển nho nhỏ của tiểu nữ, không dám bận lòng Mặc lão gia quan tâm."

"Vậy Mặc mỗ xin hầu bài cùng các vị." Mặc Huyền cười, nụ cười mở rộng trên khuôn mặt góc cạnh có làn da nâu như gỗ. Trình lão đã gom lại những quân bài trên bài, nhưng Như Yên uể oải phác tay.

"Ta thua hết tiền rồi, để hôm sau vậy." Nàng nói nhưng không đứng dậy. Mặc Huyền nheo mắt.

"Ta có thể cho tiểu thư mượn tiền." Dưới nhà là các nhân viên thủ quỹ luôn ở trạng thái sẵn sàng hướng dẫn các con bạc cầm cố vay mượn. Dáng bộ của cô gái này đương nhiên không phải là kẻ chỉ có một, hai túi tiền. Vả lại, tiền của cô ta đã lọt vào tay kẻ 'tùy tùng' kia, hết tiền chỉ là lý do thoái thác.

"Ta có gì để thế chấp đâu chứ? Ngoại trừ..." Như Yên ngắt lời. Chiếc quạt chạm nhẹ lên môi nàng. "Được, đem ta đi thế chấp, được không?"

"Nhìn ta đáng bao nhiêu tiền?" Thiếu nữ hồn nhiên cười trước ánh mắt của các nam tử trong phòng. Ngay cả Mặc Huyền cũng không giấu được vẻ kinh ngạc. Những phụ nữ tình nguyện hoặc bị đem đi thế chấp cho bài bạc không phải là chuyện hiếm, nhưng cô gái như hoa như ngọc này cư nhiên đem mình ra đặt cược?

"Tiểu thư là thiên kim, không thể đặt giá được." Trình lão nhợt nhạt cười, coi lời nói của cô gái này chỉ là trò đùa. Nàng ta liếc nhìn lão, mỉm cười sau chiếc quạt.

"Nếu không thể đặt giá thì tìm vật tương tự. Nghe nói Tư Tư cô nương ở đây là bậc tuyệt sắc, không hiểu tiểu nữ có sánh được không?"

"Muốn lấy Tư Tư?" Mặc Huyền chậm rãi nói qua đôi môi hầu như không mở ra. Thiếu nữ nghiêng đầu.

"Tiểu nữ xưa nay không bao giờ rút lời. Nếu thắng, Mặc lão gia có thêm được một mỹ nhân, nếu thua thì Tư Tư chẳng qua cũng chỉ là một nữ tử trong Tây Phong lầu, ván bài này Mặc lão gia có muốn đánh hay không?"

"Được." Mặc Huyền thở ra sau một lúc cau mày trầm ngâm. Tiếng nói như hòn đá ngàn cân rơi vào không khí đã nén chặt trong phòng.

Thiếu nữ nhè nhẹ cười, đứng dậy đặt tay lên vai hắn.

"Để tránh những rắc rối không cần thiết, ván bài này chỉ có hai người thôi vậy. Nhờ kẻ hèn này đứng ra so tài với Mặc lão gia giúp tiểu nữ."

Thiếu nữ lại gần, hương hoa thoảng tới, lời nói nhã nhặn trong như suối trên ngàn, ánh mắt nhìn qua hắn đầy vẻ mong chờ tin tưởng. Hắn đã nói, tin lời tiểu yêu tinh này thì đến xác cũng chẳng còn.

Cô nàng rõ ràng đang muốn đẩy hắn vào chỗ chết.

Đến Tây Phong lầu gọi Tư Tư, Mặc Huyền quay sang nói với tên hầu nhỏ rồi ngồi vào chỗ lão Trình để lại, gọi lão phát bài. Thiếu nữ đã ngồi xuống cạnh Sa và lão Tiêu. Hắn như thỏ bị hai bên kẹp bẫy, chỉ có thể thở dài mà đón lấy các quân bài.

Mặc Huyền phong thái ung dung, thần thái nhàn nhã nhượng hắn mấy phần thận trọng. Xét về kỹ thuật, ông ta không bằng Trình lão bản, kinh nghiệm với loại bài này cũng không bằng các thủy thủ Tây dương, nhưng bình ổn chắc chắn, quyết đoán mau lẹ, ngay trong cách đánh đã có mấy phần uy dọa người.

Càng đánh, hắn càng nhận ra ván bài này không chỉ như vậy mà đơn giản.

Mặc Huyền không có ý kết thúc sớm, cũng không cố công tìm cách hạ gục hắn. Ông ta như đang thăm dò đối phương, như thể đang chờ đợi ở hắn một điều gì.

Ý định ấy được xác nhận khi ông ta chọn cách đánh "bộ tam khúc".

"Bộ tam khúc" là cách đấu "lấy ngựa hạ đẳng đấu với ngựa thượng đẳng, lấy trung đẳng đấu hạ đẳng, lấy thượng đẳng đấu trung đẳng", bức đối thủ phải đưa ra lực lượng mạnh nhất, xé lẻ bài của đối thủ, chặn trước các ý định tấn công. Những kẻ tay mơ rất dễ dàng rơi vào bẫy này.

Nhưng hắn không phải kẻ tay mơ. Nhượng phần thắng đầu tiên cho Mặc lão gia, hắn bảo toàn được số bài của mình, rồi lấy thượng đẳng đấu trung đẳng, giải phóng hạ đẳng, triển khai trung đẳng thành hàng, bức chết thượng đẳng của đối thủ. Khi hắn buông quân bài cuối cùng xuống, trên tay Mặc Huyền vẫn là con bài lớn nhất mà ông ta không thể tìm được cách để hiển dụng.

Ông ta nheo mắt nhìn hắn, vẫn vẻ trầm ngâm như trước, không nói gì, chỉ vẫy tay ra hiệu cho người phía sau. Cánh cửa mở ra, đưa một thanh y nữ tử vào.

Không phải nhan sắc khuynh quốc khuynh thành nhưng vẫn là một mỹ nhân, không có phong vận yêu kiều mỹ lệ như tiểu yêu tinh, cô gái này mang một loại khí chất nhàn nhạt lãnh đạm tự nhiên, cử chỉ u nhã, tinh thần tĩnh tại, cả giọng nói khi cúi chào cũng thanh thanh bình lặng. Có vẻ như một cô gái không tranh với đời, nhìn tịnh không giống nữ tử hong trần.

Khi cô gái tên Tư Tư này ngước khuôn mặt thanh tao nhìn về phía họ, trên thần thái Như Yên lại thoáng hiện lên một tia chán ghét. Nhưng nàng ta che giấu nó rất nhanh, chỉ thản nhiên cười.

"Theo như thỏa thuận trước của chúng ta, Tư Tư cô nương đã thuộc về tiểu nữ đây có phải?" Thiếu nữ nói với Mặc Huyền vẫn ngồi yên chỗ cũ. Tư Tư nhướng mày, nhìn nàng ta rồi nhìn sang Mặc lão gia. Ông ta nhè nhẹ gật đầu.

"Phải. Cô nương có thể dẫn Tư Tư đi. Việc giấy tờ của Tư Tư, các vị xin mời xuống dưới nhà bàn bạc." Mặc Huyền nói, đứng dậy đưa tay ra ý mời. Thiếu nữ nghiêng người đáp lễ. Khi đi ngang qua Mặc lão gia, nàng ta thầm thì nói khẽ, chỉ thấy ông ta gật đầu rồi quay bước.

Một đám đông đã đợi họ ở dưới nhà, từ nhân viên trong sòng bạc đến khách chơi và kẻ tò mò. Có vẻ như một đồn mười, mười đồn trăm, ván bài trên lầu với cô nương của Tây Phong lầu được đem ra đặt cược đã loan truyền khắp nơi. Để lão Tiêu ở lại lo lấy giấy chuộc thân cho Tư Tư, hắn và Sa đã phải vất vả vẹt đám người bao quanh để đưa hai cô gái ra khỏi sòng bạc đến chiếc xe ngựa đợi sẵn bên ngoài. Không đợi lão Tiêu, Sa cầm cương giục ngựa chạy đi.

Cô gái tên Tư Tư vẫn có vẻ ngơ ngác. Cô đã được gọi từ Tây Phong lầu đến đây, không ngờ là để bàn giao cho chủ nhân mới.

Không để ý đến cô, Như Yên chỉ vỗ vai hắn mà cười.

"Khá lắm, ngươi không ngờ cũng có bản lĩnh." Cô nàng nói khiến hắn nhướng mày.

"Chỉ e nếu ta mà thua thì sòng bạc này đã bị sát gia diệt môn trước khi có phúc phận đón cô nương." Khi nghe tiểu yêu tinh đem mình đặt cược, hắn lo cho cô nàng thì ít mà kẻ phải đối đầu với cô nàng thì nhiều.

"Ngươi cho rằng ta hành sự bừa bãi không giữ lời thế à?" Như Yên có vẻ như phật ý, nàng ta bĩu môi. "Nếu ngươi sắp thua, ta chỉ cần giết ngươi, bài không kết được thì sao nói thắng hay thua?"

"Ta biết ta đánh giá thấp tiểu thư." Không biết nói gì, hắn chỉ có thể cười. Tiểu yêu tinh này đã thực sự dồn hắn vào chỗ chết mà.

"Các vị đây là..." Tư Tư rụt rè lên tiếng, nhìn qua hai người bọn hắn. Vẫn không bỏ bàn tay trên vai hắn xuống, Như Yên chỉ quay sang cười.

"Ta là chủ nhân Thương Trúc trang." Nàng ta nói, thấy cái cau mày của Tư Tư càng rõ hơn.

"Tiểu thư là... Như Yên cô nương?" Như Yên tiểu thư của Thương Trúc trang nghe nói là danh môn thiên kim, một nữ tử phong nhã đã mở Ngưng Yên đình để xướng họa huyền cầm thi thư với các văn nhân danh sĩ, sao lại chạy tới tận đây, và... có bộ dạng này?

Như Yên ho khẽ, giấu nụ cười sau chiếc quạt. Ở chốn thị phi, Tư Tư cô nương hẳn nhiên biết nhiều chuyện.

"Ta cần một người coi sóc Ngưng Yên đình, Xuân Tử của ta đã bận rộn không thể quản được nhiều việc nữa." Thiếu nữ nhún vai, khôi phục tướng mạo ưu nhã thong dong pha chút hờ hững. Vẻ nghi hoặc vẫn còn trên gương mặt Tư Tư, nhưng cô không hỏi nữa.

Tây Phong lầu vốn không phải là chốn ca hát phong lưu bình thường. Dù là đầu lĩnh của các nhóm nhân công thủy thủ trên cảng, Mặc Huyền vẫn cần một nơi để tiếp những vị khách danh phận cao hơn. Tây Phong lầu vừa là tửu quán vừa là sòng bạc cao cấp chỉ dành cho các danh gia quý tộc, cô nương ở nơi ấy không buôn hương bán phấn mà đóng vai trò hướng dẫn, giải trí cho khách, phát bài hô lệnh trong vai trò nhà cái, rất có sức hấp dẫn lại không thô tục xô bồ. Mà Tư Tư mặc nhiên lại là một trong những cô nương hàng đầu của Tây Phong lầu. Cô cũng mặc nhiên quen với việc người trong giới quý tộc danh gia thường có những sở thích quái gở không ai giải thích nổi. Dù có là thiên kim tiểu thư phong nhã nổi tiếng cũng không ngoại lệ. Đem cô nương đệ nhất của Tây Phong lầu về trang trí, Ngưng Yên đình lại có thêm vài phần danh tiếng.

Lý giải như thế, Tư Tư cũng bớt căng thẳng. Cô thở ra, ngồi tựa vào thành xe. Nhất cử nhất động đều không qua khỏi mắt Như Yên. Nàng ta cười vu vơ, nhìn ra hoàng hôn đang đổ xuống sau bóng lưng của Sa ngoài cửa xe.

Xe đang đi vào con đường vắng dẫn ra ngoại đô về Thương Trúc trang. Bóng cây là đà ngả xuống mặt đường đất đá ven bờ sông. Chiếc xe ngựa càng đi càng chậm, rồi cuối cùng dừng hẳn ở nơi không một bóng người.

Sa quay đầu nhìn về phía bên kia rặng cây. Trong tiếng gió lao xao, hắn cũng đã nghe thấy thanh âm nhẹ như thể chân người đang đến. Rất nhiều người đang đến.

"Chuyện gì vậy?" Thấy xe dừng lâu, Tư Tư cất tiếng hỏi. Vừa lúc ấy, kẻ đến từ bên kia rặng cây bước khỏi bóng hoàng hôn đã che khuất một nửa con đường. Nhác thấy gã, Tư Tư không khỏi giật mình.

"Nhận ra gã chứ?" Như Yên cười khi thấy khuôn mặt cô gái biến sắc. Nàng ta vẫy quạt, nói bằng giọng chẳng rõ thái độ. "Bắt sống."

Đó rõ ràng là lệnh cho Sa, và nhắm tới duy nhất một kẻ trong đám người vừa tới. Chừng chục người đã chặn đường trước xe ngựa, tất cả đưa mắt nhìn vào trong xe như đang tìm kiếm một người. Không nói không rằng, Sa rút thanh đao, chầm chậm xuống xe đi về phía đám người.

"Chúng ta chỉ cần Tư Tư cô nương, không cần gây sự với các người." Kẻ cầm đầu toán người, một thanh niên có vẻ mặt mang nét hoang dại bẩm sinh được vết sẹo kéo dài bên gò má thêm cho vài phần hung tợn nói. Thanh đao trên tay gã lóe lên nắng chiều nhức mắt.

"Phiền phức." Như Yên nhắm mắt ngả lưng vào thành xe. Lời thiếu nữ chưa dứt, thanh đao trên tay Sa đã loang một đường sáng rực rỡ, tan biến vào khoảng không như tiếng gió trước khi kẻ đang đứng trước y bắn ngược ra sau.

Đao pháp của y vô thanh vô ảnh, chỉ như gió thoảng qua mặt sông, nắng hắt trên chiếc lá, lặng im mà lay động, mà lưu chuyển. Kẻ đối mặt với y thậm chí không biết phản ứng như thế nào. Lưỡi đao khua, cổ người bị cắt đứt rơi xuống trên đất, máu tưới ướt đẫm bóng chiều vàng.

Kẻ đứng đầu nhóm người gầm lên một tiếng, rút đao nghênh chiến. Gã tuy tuổi chưa lớn nhưng cũng là kẻ có bản lĩnh. Chỉ nghe thép chạm vào nhau rợn người, gã lùi về phía sau vài bước. Chiếc bóng xám của Sa trong nắng hoàng hôn lấp lánh hắt lên từ mặt sông cuồn cuộn chảy như phiêu linh đi cùng gió.

"Vô Âm đao?" Gã thanh niên cau mày nhìn Sa, hổ khẩu tay gã vẫn còn rúng động. Vô Âm Tuyệt Tình đao, tương phùng bất hối, kiến bất khả vong, kẻ đã từng gặp sẽ không quên.

Đó là thứ truyền thuyết một thưở trên đất Giang Nam.

Sa chỉ nhìn gã, trong lòng y có đôi chút tán thưởng. Kẻ đỡ được đao của y không có mấy người. Không hổ danh là đầu lĩnh của cả một đội hải tặc.

"Nếu muốn gặp Tư Tư cô nương, theo chúng ta về." Y nhàn nhạt nói. Như Yên bảo phải bắt sống gã, bất kể bằng cách nào. Kẻ này là một gã si tình. Khua chiêng gióng trống đón Tư Tư đi vội vã, bức gã phải ra mặt đuổi theo.

Gã thanh niên nheo mắt, bước chân hơi lùi lại. Gã cũng đã nhận ra ý định của đám người này và đâm chần chừ. Dùng Tư Tư câu dẫn gã, bọn người này muốn gì? Kẻ biết gã ở đây không có mấy người, biết gã theo đuổi Tư Tư lại càng ít. Trừ phi... trừ phi chính Tư Tư câu kết với đám người kia.

Nghĩ vậy, gã triệt để lùi lại, định bỏ đi. Tư Tư không có gì nguy hiểm, gã có thể xem xét tình thế sau.

Ý nghĩ chưa dứt, chỉ nghe tiếng gió reo trận trận, thân ảnh màu xám nhuộm nắng chiều lay động, thanh đao đã kề vào cổ gã.

"Đi theo chúng ta." Giọng Sa trầm ổn ngay bên cạnh gã. Trong khoảnh khắc gã đưa mắt về phía chiếc xe tính toán, y đã ra tay. Nếu muốn, y đã có thể lấy mạng gã ngay tức khắc. Tương kiến bất hối, hoan tẫn thán đoạn, thủy nguyệt kính hoa, mộng yết thanh tuyệt. Thiên thính tịch vô âm, thương thương hà xứ tầm[1]. Vô Âm đao đoạn tình đoạn mệnh.

Đối mặt với đao pháp trong truyền thuyết, gã biết mình khôn bề chống cự. Thở dài một tiếng, gã lấy ngón tay đẩy đầu thanh đao ra xa cổ, lấy tư thế của một đại đầu lĩnh mà chống tay cười.

"Việc đâu còn có đó, người anh em."

Chú thích: 

[1] Thiên thính tịch vô âm, thương thương hà xứ tầm: Bài thơ Thiên thính ngâm của Triệu Ung. Dịch nghĩa: Nghe tiếng trời lặng yên không thanh âm, màu xanh xanh biết tìm đến nơi nào.

Hồi 11: Dương xuân bạch tuyết

Chuyện đâu còn có đó, bọn hắn hiểu câu nói ấy ngay tức thời.

Tiếng 'vút' nho nhỏ báo hiệu cho một mũi phi tiêu phóng tới, ghim ngoài cửa sổ xe ngựa đã đóng kín. Một bóng người vút qua trước cửa xe, thò tay vào. Chỉ nghe 'Păng' một tiếng, gã dội ngược ra. Một mũi tên nho nhỏ cắm vào vai gã được bắn ra từ trong tay áo Như Yên. Hắn thấy thấp thoáng ánh kim khí trên cổ tay nàng ta.

Nhưng vẫn còn nhiều kẻ nữa đang lao tới chiếc xe. Sa vẫn đứng yên gần như bất động, kề đao vào cổ gã đầu lĩnh, chỉ đưa mắt nhìn lại.

Hắn rủa thầm trong lòng. Lão Đại nhà ngươi bức ta quá đáng. Đường đường là nam nhi, hắn không thể khoanh tay nhìn kẻ khác đụng chạm đến hai cô gái, mặc kệ họ có khả năng tự bảo vệ hay không. Tiểu yêu tinh này gây loạn khắp nơi, nếu lọt vào tay kẻ thù thì hậu quả không biết đâu mà lường.

Hắn tặc lưỡi đi xuống xe, nhìn quanh đám người đang bao vây chiếc xe ngựa. Tám hán tử với đủ loại vũ khí cầm trên tay, đầu bịt một loại khăn xám. Tên đầu lĩnh đang bị Sa khống chế khoanh tay nhìn bọn chúng với vẻ hài lòng ra mặt. Hẳn nhiên chúng đang định vây Ngụy cứu Triệu giải thoát cho thủ lĩnh.

"Chuyện không liên quan đến ta, ta chỉ không đành lòng để mất mỹ nhân thôi." Hắn chớp mắt, cười mà nói. Trên đời này hắn vốn ghét gây thù chuốc oán, lại càng không thích bị lôi vào chuyện của tiểu yêu tinh kia. Nhưng khí độ làm người đôi lúc rất mâu thuẫn nhau, phải làm những chuyện mà mình ghét vậy.

Trước bộ dạng hắn, tám tên khăn xám hầu như không còn kiên nhẫn. Thậm chí không xưng tên giới thiệu họ, chúng đồng loạt lao lên như muốn hất hắn sang bên để tiếp cận với người trong xe.

"Tám người đánh một, không có khí khái." Hắn lắc đầu nói, bất đắc dĩ rút thanh kiếm sau lưng ra.

Kiếm trắng như tuyết, gió mưa liên khởi, hoa lộng ngợp trời, mây tán mù non.

Đường kiếm đan rối như gió lộng tuyết bay, như tiếng ca ngạo vang giữa trời, xuất kỳ bất ý, tự tại tùy tâm, không để người có phương hướng đỡ gạt, không biết đâu là chân mục giả ý. Tám gã hán tử bối rối loạng choạng lui về phía sau, ngay cả đường tấn công cũng luống cuống theo.

"Lịch dương hà dị sơn âm thì. Bạch tuyết phi hoa loạn nhân mục."[1] Trong xe, tiếng tiểu yêu tinh vọng ra. "Đường kiếm này đáng gọi là Dương xuân bạch tuyết[2] chứ?"

"Hồ thiên bát nguyệt tức phi tuyết, Hốt như nhất dạ xuân phong lai, Thiên thụ vạn thụ lê hoa khai, Tán nhập châu liêm thấp la mạc[3]. Hoặc là, Xuân tuyết mãn không lai, Xúc xứ tự hoa khai."[4] Tiếng Tư Tư chầm chậm nói như tán thưởng.

Nữ nhân các người tự bao giờ thân thiết như thế? Hắn đưa mắt về phía chiếc xe, vừa tức vừa buồn cười. Hắn bây giờ lại bày trò cho tiểu yêu tinh thưởng ngoạn. Đúng là kẻ gây tai họa cho thiên hạ còn mình ngồi ở sau vỗ tay.

Tự dưng thấy chán, hắn chống kiếm xuống đất, phẩy phẩy tay.

"Các ngươi đánh không lại ta đâu, đi đi. Lão bản này các ngươi không giải cứu được thì thôi. Nếu gã có mệnh hệ gì thì luyện kiếm thêm vài năm nữa mà báo thù, lao vào đây chết vô ích để làm gì?"

Mà nữ nhân gã lao mình đến cướp lại cũng chẳng quan tâm đến gã hơn mấy đường kiếm. Một người chết cũng là uổng phí, cả đám người mất mạng để làm gì? Dù nam tử vốn định sẵn là phần nhiều chết vì những chuyện không đâu, chết trong khi các nữ nhân ngâm thơ thì quá là không đáng.

Không đợi đối thủ đồng ý hay không đồng ý, hắn ôm kiếm leo lên xe, ngồi ngay cửa xe mà ngẩng đầu nhìn trời. Dù không để hai tiểu yêu nữ trong xe bị bắt, hắn cũng chẳng việc gì phải đánh với họ.

Những kẻ xung quanh hắn nhìn nhau, như thể cũng không biết phản ứng thế nào.

"Hay chúng ta giải hòa đi." Giọng tiểu yêu tinh trong xe vọng ra nghe như cười. Tiếng chân đến bên hắn, rồi Như Yên bước khỏi xe, mỉm cười với những kẻ lăm lăm gươm giáo xung quanh. "Ta mời Lâm huynh lên xe. Các vị huynh đệ mời theo đến Thương Trúc trang, ta xin mở tiệc thiết đãi."

Cô gái nhỏ phong thái ung dung, cử chỉ tao nhã, cất tiếng cười trong trẻo xao lòng. Như Yên tiểu thư của Thương Trúc trang nổi danh hào sảng phong nhã. Việc vừa rồi những kẻ mới đến lại tự thấy mình là kẻ gây sự có lỗi. Còn kẻ bị Sa kề đao vào cổ đã bị điểm huyệt tự bao giờ, thốt không ra tiếng, chỉ có thể thuận theo y mà vào trong xe ngựa. Nhìn thấy Tư Tư, trong mắt gã thoáng một tia thương yêu cùng oán trách, còn cô gái chỉ ngoảnh ra ngoài cửa xe, tuyệt không biểu cảm.

Khi chiếc xe chạy đi, ngựa của tám người kia cũng nối đuôi chạy theo.

"Các người muốn gì?" Gã thanh niên bị bắt nói khi vừa được giải huyệt câm. Như Yên liếc mắt qua gã cười nhạt.

"Các hạ đuổi theo chúng ta tuốt đao đòi người, đừng làm ra vẻ như bị oan uổng thế."

Hắn ở một bên nhè nhẹ thở ra. Tiểu yêu tinh này thật có biệt tài đổi trắng thay đen, làm bộ làm tịch. Đúng là con mèo vờn chuột còn tỏ dáng ngây thơ, cầm dao giết người mà còn vô tội.

Gã thanh niên đúng y như rằng đã nổi nóng.

"Các người đem Tư Tư ra dẫn dụ ta..."

"Ta có bảo ngươi đuổi theo ta? Thậm chí Tư Tư cô nương có bảo ngươi đuổi theo chúng ta? Thậm chí ngươi hỏi Tư Tư cô nương xem chúng ta mời cô ấy về vì chuyện gì? Ta có bảo ngươi rút đao rút kiếm dọa người? Ta có bảo ngươi đòi chém đòi giết? Tất cả đều là do ngươi tự mình làm, hống hách tác nghiệt, tự mình gây họa rồi còn bảo rằng ta dẫn dụ ngươi?"

Người xứ này có một câu thành ngữ 'Há miệng mắc quai' có thể áp dụng được trong trường hợp gã thanh niên này. Miệng gã há ra, nhưng chỉ mấp máy đớp đớp vài cái như cá mắc cạn chứ tịnh không thốt được ra lời.

"Thế chứ tại sao ngươi đòi bắt ta?" Mất một lúc sau gã mới sực nhớ ra việc chính - vẫn còn bị cầm giữ nơi này.

"Mèo thấy chuột lại không bắt sao?" Thiếu nữ yêu kiều cười. "Thấy ngươi tự mình nạp mạng, ta lại từ chối sao? Đừng trách người trách trời, chỉ trách ngươi quá ngốc."

Trong mắt gã đã nổi lên một đoàn lửa cháy, nhưng gã chỉ có thể trợn mắt nhìn thiếu nữ, hận không thể ăn tươi nuốt sống được nàng ta. Như Yên khinh mạn nhìn gã, những ngón tay nghịch ngợm chiếc tua quạt đính bích ngọc. Khi nói, giọng nàng ta kéo dài như uể oải.

"Lâm Phi lão đầu, thủ cấp được treo thưởng vạn lạng bạc. Tám tên Bát Hôi Ngư, mỗi người ngàn lạng. Lâm huynh đệ bảo ta nên làm gì đây?" Nàng liếc nhìn gã thanh niên, ý cười phảng phất dưới hàng mi dài. "Tiền thì ta không cần, người thì ta chẳng thiết, thả ngươi thì chỉ gây loạn cho thiên hạ. Đem ngươi đi bón cây, ít ra còn có đôi chút tác dụng."

Lời nói chẳng khác gì so sánh gã với phân chuồng, Lâm Phi phẫn nộ tới cực điểm. Gã đường đường là một đại lão đầu, không ngờ ngày hôm nay lại lọt vào tay tiểu yêu nữ này, để nàng ta tùy ý khinh mạn.

Như Yên chợt cười, nàng ta ngồi xuống trước Lâm Phi, mặt đối mặt với gã, nở nụ cười ngọt ngào nhất của mình.

"Nhưng ta đã nể mặt vị huynh đệ đây mời các ngươi về Thương Trúc trang thì sẽ tiếp đãi đàng hoàng. Tư Tư cô nương từ nay sẽ quản Ngưng Yên đình của ta, là người tự do không còn phụ thuộc vào Tây Phong lầu. Ài, việc này có thể sẽ rất tốt đẹp đấy, phải không?"

Xem đến đây là đủ, hắn lắc đầu mà cười, ngoảnh ra cửa. Quả nhiên là hồ ly ngàn năm, khả năng ứng phó thu phục người khó mà lường được. Muôn hình vạn trạng, đều có thể xuất ra mị người. Lúc này nàng ta lại mang dáng vẻ của một thiên kim tiểu thư tùy ý ngông ngạo, muốn chết muốn sống đều tự mình mà quyết. Lúc rắn lúc mềm, lúc buông lúc chặt, lúc nhử lúc tha. Cao cao tại thượng, cưỡng từ đoạt lý mà đưa đẩy. Đẩy kẻ bị bắt lọt vào thế phải hàm ơn nàng ta. Mơ mơ hồ hồ để nàng ta sắp xếp. Mơ mơ hồ hồ đến chết không tỉnh, cả đời không hiểu.

Loại người như thế, làm cho người ta có mấy phần sợ hãi.

Hắn liếc nhìn Sa vẫn chăm chú nhìn về con đường phía trước, tuyệt như không để ý đến chuyện đang diễn ra trong xe. Không thể đừng, hắn tự hỏi y đã biết điều gì - thậm chí, y có lọt vào cái bẫy dịu dàng nào của thiếu nữ này? Sa mà hắn biết, cô tịch lãnh ngạo, tâm cao hơn trời ý nghĩ sâu hơn biển, dò không thấy nắm không được, chẳng bao giờ biết y đang nghĩ gì. Ít ra, là đối với hắn.

Kẻ vốn chỉ biết cười như hắn cũng có lúc ngẩng đầu nhìn trời mà thở dài.

***

Bát Hôi Ngư tất nhiên không phải tên là Bát Hôi Ngư, mà là Nam Hải Bát Thanh Ngư. Đem đám người này về, Xuân Tử lại có thêm một phen bận rộn. Lâm Phi đã chịu ở yên trong gian phòng cấp cho, Bát Thanh Ngư lại không an phận đòi ở ngay bên cạnh. Cuối cùng, một nhóm thợ mộc được gọi tới để dựng một khu nhà nho nhỏ nằm ngoài Dạ Môn viên.

Thu xếp xong cho bọn họ, trời cũng đã sập tối.

Sa lặng lẽ đi về Cúc Đình viện, hắn bám theo sát gót. Vừa khuất ánh mắt người, hắn đi nhanh về phía trước, rút kiếm mà chỉ vào Sa.

"Chúng ta quyết đấu!" Hắn nói khi Sa vẫn lành lạnh nhìn hắn, thậm chí không thèm nhướng mày nháy mắt. "Kẻ nào thua thì phải làm theo ý người thắng."

Đây là trò chơi của bọn hắn khi còn nhỏ để luyện kiếm. Và hắn nhất định không cho tên Sa này một cơ hội để thoái thác.

"Nếu ngươi không đánh thì ta cứ đánh. Theo tiểu yêu tinh kia nói, kẻ nào mạnh hơn thì làm chủ." Ngang ngược bất chấp, không chỉ mình tiểu yêu tinh kia làm được.

Sa dừng bước, ánh mắt quét qua hắn từ đầu đến chân. Vừa nói, hắn vừa bước tới, tư thế đã có mấy phần sẵn sàng tấn công. Một bên mép y từ từ nhếch lên, thanh đao cũng vì thế mà rung động.

Dưới ánh trăng nhạt sao mờ, đao quang kiếm ảnh vút trên mặt nước, bay dưới bóng trúc, một là gió trên ngàn, một là tuyết giữa không. Tuyết theo gió mà động, gió theo tuyết mà hiện. Chỉ nghe tiếng trúc rì rào, chỉ thấy mặt nước sóng sánh trong khoảng trời không một ngọn gió.

Vạn vật đều có khắc tinh, kể cả Vô Âm đao như ma như quỷ. Vô Âm chỉ có thể cảm, không có thể thấy, mà hắn lại là một kẻ vốn chỉ sống nhờ vào linh cảm cùng xúc giác. Huống hồ đã quen thuộc với đao pháp này từ ngày còn nhỏ, kiếm pháp của hắn tám chín phần là để khống chế nó. Tuyết theo gió mà bay, gió theo tuyết mà hiện, uyển chuyển đan cài, ngợp trời ngạo thế. Bóng kiếm trắng như xuân tuyết tháng ba, mang theo ánh dương quang nhạt mờ, nương theo đao mà bay lượn. Trận trận hàn phong, tuyết như hoa lê đáp lên ngàn nhánh gầy. Vô Âm vô ảnh, chỉ thấy nơi nơi hoa tuyết nở.

Kiếm đao không chạm, chỉ có tiếng gió vi vu. Trên mặt người không sát khí, chỉ có nụ cười phảng phất. Từ bao giờ không rõ, đao bị cuốn theo nhịp kiếm. Nhịp điệu ngày càng nhanh càng rối như trận trận tuyết bay. Kiếm khí càng ngày càng nặng khi khí đông se sắt.

Bỗng nhiên đao chuyển hướng. Uốn mình như cánh chim đột ngột rẽ ngoặt, chầm chậm tản mát như mây, khí như núi trụ trời, lực như trong ngàn dặm biển. Đường đao chậm hẳn lại, nhưng mỗi chiêu đều nặng như Ngũ chỉ Như Lai. Lấy tĩnh chế động, lấy lực đạo để chế ngự sự uyển chuyển, lấy sức mạnh để triệt tiêu tốc độ đối phương.

Đường kiếm trầm xuống, quét dưới đao mà tránh. Tiếng kim khí cạ xát rợn người. Kiếm vẽ những khối nhấp nhô, ánh dương quang quét trên mặt tuyết. Nghe tiếng 'tinh tinh' không ngừng vang động như ngàn giọt tuyết rơi. Những dòng tuyết tan len giữa đất, phảng phất giữa trời, hóa hình trong nắng thành cầu vồng muôn sắc.

Đao bỗng vút lên xé gió, tràn đến như luồng tức khí đổ ập từ đỉnh núi, như khí trời chuyển, như ngày mất mùa tàn, như nguyệt tận sao rơi, mặt trời trôi vào tiêu tán. Khí tức bức người, đường đao hạ bất lưu nhân. Thê lương tịch mịch, biến chuyển vô cùng, tất cả chuyển về Không, đao không sát khí, chỉ có tử khí phủ trùm lên người đối diện.

Hắn biến sắc. Trong khoảnh khắc, hắn chỉ có thể phản ứng theo bản năng mà nhảy lùi về sau. Kiếm lưu chuyển như dòng nước chảy giữa rừng, phất phơ như ngàn muôn tán lá, tạo thành tấm khiên che đỡ cho hắn. Chỉ nghe 'Đinh' một tiếng, cổ tay hắn đau buốt.

Sa cũng dừng tay, không tiếp tục tấn công. Y chỉ đứng lặng yên nhìn hắn, gió thổi mái tóc hất lên để lộ khuôn mặt tuấn tú, đôi mắt vẫn như muôn thưở ôn hòa.

Nhìn không ra y là kẻ vừa tung đòn sát thủ nọ. Lực đạo nặng ngàn cân như Ngũ chỉ Như Lai, âm u như mệnh trời, phán quyết án tử không thể tránh.

"Ngươi..." Hắn nói, nhưng Sa đã lắc đầu.

"Ngươi nghĩ ta không kiểm soát được đao pháp của mình à?" Khóe miệng y khẽ nhếch như cười. Y cắm đao xuống đất, chầm chậm giơ tay. Lòng bàn tay y đầy máu.

"Ta không thích chiêu pháp này." Y thở ra. Nhìn kỹ, bàn tay y đang run. Hẳn nó cũng đang tê buốt không kém gì tay hắn.

Hắn thở ra, ngồi bệt xuống cỏ. Sa đã dẫn hắn ra khu đất trống cạnh Thương Trúc trang này để không làm động người xung quanh. Đánh nhau cả canh giờ, hắn đã thấy thấm mệt.

"Lần này bất phân thắng bại." Hắn vẫn còn cố vớt vát. Lần này tuy hắn phải lùi lại nhưng thương thế cả hai là như nhau. Sa liếc mắt nhìn hắn, thậm chí không buồn lên tiếng. Cũng ngồi xuống cỏ, y lấy trong áo ra một mảnh vải quấn bàn tay chảy máu lại.

"Ta giúp ngươi." Hắn bắt lấy mảnh vải, nắm bàn tay y mà cẩn thận băng bó. Đây là chuyện hắn thường xuyên phải làm trước kia. Vô Âm đao dựa vào khí công mà tạo thành lực đạo, lấy khí của bản thân khống chế khí xung quanh, kẻ luyện nó dễ dàng gây ra tổn thương cho chính mình khi cố gắng quá sức.

Sa không có một cái nhăn mặt. Y bị thương đã thành quen.

"Chiêu thức cuối cùng là gì thế?" Cuối cùng, y mở miệng. Vẫn không ngẩng lên, hắn nhún vai, lơ đãng nói.

"Ta cũng chẳng rõ. Một lần bị lạc trong rừng, đêm tối mịt mùng, ta múa bậy để tránh con thú nào vồ ra bất chợt. Mỗi khi nguy cấp ta lại vô thức dùng nó."

"Nghĩa là lúc ấy ngươi rất sợ." Sa nghe phảng phất như cười. Hắn buông bàn tay y đã băng bó xong, gật gật đầu.

"Ta không phải thứ không phải người không phải ma như ngươi, tất nhiên là ta biết sợ. Vô Âm đao kiến bất khả vong, ta không muốn 'bất hối' vì chết không kịp hối." Mấy năm không gặp, y đã rèn luyện đến mức độ này, quả tình cũng làm hắn thấy sợ.

Thiên thính tịch vô âm, đao pháp ẩn tàng trong nó một lực lượng cao diệu vô cùng đáng sợ. Ngũ chỉ Như Lai như núi đè Tôn Hành Giả, vô pháp thoát ra khỏi bàn tay Phật, vô phương trốn tránh khỏi ý trời.

Nhưng chiêu thức cuối y phóng ra mới khiến hắn lạnh cả người vì sợ. Tuyệt vọng khôn cùng như đã chôn sâu dưới ba tấc đất, như một sự hủy diệt đương nhiên và vĩnh viễn phủ trùm lên người, trong tâm bật lên thanh âm như tiếng chim vọng về cuối buổi hoàng hôn sau rừng tối. Vô Âm đao nhưng tâm rúng động. Kẻ bình thường gặp phải đao pháp ấy chỉ có thể trừng trừng mắt mà thấy mình bị nghiền nát dưới bánh xe luân hồi vạn pháp, dưới một ý chỉ vọng từ thiên không.

Hắn không hỏi y về chiêu thức ấy. Như đã luôn không hỏi tại sao y lại chọn đao pháp này. Kẻ ấy đã truyền thụ đao pháp cho cả hắn lẫn y, nhưng hắn chưa bao giờ yêu thích nó để học cho đàng hoàng, và tất cả những kiến thức ít ỏi ấy rồi cũng trôi theo dòng nước, chẳng còn lại chút gì. Kiếm là tâm, lão Cửu từng nói, và hắn mặc nhiên cho rằng mình không thích hợp với tất cả những gì cần khổ luyện và nghiêm khắc.

Nhưng sau này, hắn cảm thấy đao pháp ấy còn có điểm gì sâu xa hơn cả sự khắc khổ đơn thuần. Thiên thính tịch vô âm, trời xanh không tiếng động, một điều gì đó khiến hắn âm thầm sợ hãi.

Như kẻ luyện đao pháp ấy, hắn mãi mãi vẫn không thể hiểu.

"Ngươi đang làm gì?" Hắn hỏi lần nữa, và đáp lời hắn chỉ là sự lặng yên. Bọn hắn đã nằm xuống cỏ, đao kiếm vứt một bên. Trên cao, muôn vàn vì tinh tú đang tỏa sáng, trải trên nền trời mênh mông. Muôn vàn ánh sáng nhấp nháy không dứt, tưởng như chỉ đưa tay là chạm tới được.

"Ở Đông Phố có chuyện gì?" Sa đột nhiên lên tiếng. "Ngươi tới đây tìm ta làm gì?"

"Ta..." Hắn nói, bất chợt lại không biết nói sao. Đông Phố có chuyện gì? Không và có. Tất cả như những con sóng ngầm không ngừng chuyển động nhưng không rõ hình hài, không thể nắm bắt. Hắn chỉ mơ hồ cảm thấy nó, và một kẻ sống nhờ vào linh cảm như hắn rất tin vào linh cảm của mình. Tuy vậy, không thể giải thích cho kẻ khác điều đó.

Hắn tới đây tìm Sa như thể tìm một lời giải cho những xao động này. Như thể sự biến mất của y là khởi nguồn cho tất cả. Nhưng y tuyệt nhiên không có ý định giải thích cho hắn. Tất cả những gì hắn định nói ra chỉ là một khối hỗn loạn không rõ hình hài.

"Ta nhớ ngươi." Cuối cùng, hắn cười. "Lão Cửu cũng nhớ ngươi, Tuyết Nhi cũng nhớ ngươi. Lão Cửu ngứa mắt vì thấy ta suốt ngày gây chuyện ở sòng bạc nên đá ta ra khỏi cửa, bảo ta tìm việc gì có ích hơn mà làm."

"Hiểu, ngươi cãi nhau với ca ca nên giận dỗi chạy tới đây." Sa rõ ràng đang cười. Đao pháp vô âm nhưng người không vô tâm.

Hắn hiểu, vừa rồi y đã làm bị thương chính mình để khống chế đao pháp không làm hại đến hắn. Đường đao quá mạnh lại bị kiềm giữ quá chặt nên lực phản hồi đánh vào chính y. Kẻ này quá cao ngạo để không bao giờ chịu thua, nhưng cũng không bao giờ làm hại bằng hữu thân thuộc, những kẻ mà y coi trọng.

"Ngươi nói gì với tiểu yêu tinh về ta vậy?" Hắn vẫn còn nhớ câu nói sáng này. Lý do mà hắn đã bị đẩy vào chỗ chết cho công việc của tiểu yêu tinh kia.

"Ta bảo ngươi là một tên vô dụng vô năng, nhưng ta tính sai. Ngay cả tiếng gà tiếng chó còn dùng được[5], tài đánh bạc thì vẫn có chỗ sử dụng." Chỉ trách tiểu yêu tinh kia quá tinh quái, chẳng có gì không nghĩ ra.

"Chỉ có người chết mới không có chỗ sử dụng. À không, tiểu yêu tinh thì sử dụng được cả người chết." Hắn thở ra. "Lão Đại, có vẻ ta và ngươi còn phải ở với nhau lâu dài."

"Ngươi..." Y nói, nhưng bất chợt im lặng. Ngươi đừng can hệ vào những chuyện này, y muốn nói, nhưng nghĩ lại thì không cần thiết. Hắn đã bị cuốn vào, và theo tính khí của hắn, khó mà dứt bỏ khi chưa tìm hiểu ngọn ngành. Càng khuyên hắn lại càng phản tác dụng.

Y chỉ có thể cẩn thận trông chừng hắn. Đó là cách duy nhất y có thể làm để bảo vệ hắn.

Chú thích:

[1] Lịch dương hà dị sơn âm thì. Bạch tuyết phi hoa loạn nhân mục: Trích trong bài Đối tuyết tuý hậu tặng Vương Lịch Dương của Lý Bạch. Dịch nghĩa: Mặt trời trôi làm bóng núi thay đổi luôn luôn. Bông tuyết trắng bay làm loạn mắt người.

[2] Dương xuân bạch tuyết là khúc cổ nhạc mô tả cảnh xuân đến tuyết bay. Nhạc khúc rộn ràng tươi tắn như ngàn bông hoa tuyết, như giọt tuyết tan trên cành cây.

[3] Hồ thiên bát nguyệt tức phi tuyết, Hốt như nhất dạ xuân phong lai, Thiên thụ vạn thụ lê hoa khai, Tán nhập châu liêm thấp la mạc: Trích trong bài Bạch tuyết ca tống Vũ Phán quan quy kinh của Sầm Tham. Dịch nghĩa: Trời Hồ tháng tám tràn tuyết bay, Bỗng như một đêm gió xuân đến, Hoa lê nở trên ngàn cây vạn cây, Tán loạn bay vào mành ngọc làm ướt màn lụa.

[4] Xuân tuyết mãn không lai, Xúc xứ tự hoa khai: Trích trong bài Xuân tuyết của Đông Phương Cầu. Dịch nghĩa: Tuyết xuân bay ngợp khoảng không, Chạm vào nơi nào đều như hoa nở nơi ấy.

[5] Tiếng gà tiếng chó còn có thể dùng: Mạnh Thường Quân nuôi môn khách trong nhà chia làm 3 hạng: thượng đẳng, trung đẳng, hạ đẳng. Mạnh Thường Quân đi sứ sang Tần, bị vua Tần giam lỏng, liền cùng các môn khách ban đêm bỏ trốn khỏi Tần. Trên đường đi qua các trạm kiểm soát, các môn khách hạ đẳng đã giả tiếng chó sủa gà gáy ra vẻ như trời sáng cho người mở cổng thành trước khi quan binh đuổi đến.

Hồi 12: Hoa độc

Y trở lại Cúc Đình viện khi trời vừa tảng sáng. Nắng sớm tháng mười nhạt mờ chỉ mới lay lắt hắt đến từ phía chân trời, không xuyên qua nổi lớp lớp tường trúc quanh co chia cắt trang viện thành nhiều phần nhỏ. Rất nhiều phần nhỏ hầu như không liên hệ với nhau, nằm khuất sau tầng tầng trúc xanh.

Cơn sa mù của đêm qua vẫn chưa tan hết, để lại những vạt khói vấn vương trên mặt hồ. Lớp sen trên hồ đã tàn, chỉ để lại những cụm lá nửa vàng nửa xanh xen lẫn vài cụm hoa súng. Căn nhà khuất trong khói trắng, mái nhà xanh rêu qua những cơn mưa dài lấp lánh vài tia nắng bình minh chiếu qua sương đọng. Tiếng lá trúc rì rào muôn thưở cùng muôn vạn sắc hoa cũng không xóa đi được vẻ tịch mịch nơi đây.

Thương Trúc trang, thật ra là một nơi vô cùng tịch mịch.

Vừa đẩy cửa vào, y đã bắt gặp chiếc bóng trắng ngồi giữa phòng. Như Yên chỉ nhìn lên khi thấy y vào, thậm chí cằm cũng không động. Trong mắt nàng như có một làn sương, nhìn không rõ, nắm không được thứ cảm xúc nằm trong đó.

Y đến gần nàng, lặng lẽ nắm tay áo nàng kéo lên, chăm chú nhìn cánh tay trắng muốt. Đoạn y thở ra, buông tay.

"Ta cùng Tử Hiên ra ngoài luyện kiếm. Ta thấy kiếm pháp của hắn nên có chút hứng thú." Y nói. Như Yên vẫn không động đậy. Mắt nàng nhìn vào khoảng không, có vẻ như không nghe cả lời nói của y.

"Uống rượu à?" Y đã nghe được mùi rượu trong không khí, vốn đã bị hương hoa từ thiếu nữ át đi. Tụ Phương viện quanh năm ngạt ngào mùi hoa, kẻ ở trong ấy bao giờ cũng như thấm đẫm hương.

Như Yên chầm chậm gật đầu, cử chỉ như thể rất nặng nề.

"Nói chuyện với Bát Hôi Ngư..." Nàng buông từng lời. Đêm qua thiết đãi đám người vừa tới, hẳn nhiên phải uống cùng họ.

"Đi nghỉ đi." Y thở ra, với tay xốc thiếu nữ lên. Cô bé này không ngủ được ở Tụ Phương viện lại chạy tới đây. Không thấy y, nàng ta hẳn đã ngồi đợi cả đêm. Tình trạng say rượu cùng với sự buồn ngủ làm y nghi ngờ sự tỉnh táo của nàng ta lúc này. Khi chạy tới đây, nàng ta chẳng mấy khi tỉnh táo.

"Ưm..." Như Yên dụi mắt đứng dậy, ngả vào lòng y. Chỉ mặc phong phanh một cái áo ngủ kiểu Nhật thắt đai lỏng lẻo, hơi ấm của thiếu nữ qua lớp lụa mỏng hầu như phủ toàn bộ lên y. Nàng ta vắt tay qua cổ y, mơ mơ màng màng cười.

"Ngươi toàn là mùi cỏ." Thiếu nữ cười khúc khích, vùi mặt vào cổ y. Cả đêm ngủ trên cỏ, tất nhiên chỉ có mùi cỏ. "Sao không dẫn ta đi theo chứ?"

Y không trả lời câu hỏi mơ mơ màng màng ấy, chỉ ôm Như Yên đặt xuống giường. Nàng ta cứ nắm lấy y không chịu buông, vòng tay càng lúc càng siết chặt quanh cổ y.

"Sao không đưa ta theo?" Giọng nói chợt trở nên rõ ràng thanh tỉnh bên tai y. "Sao không cho ta theo?"

Câu nói sắt lại với cái đau dội bên cổ y. Thiếu nữ cắn, hàm răng ngập vào da thịt y không hề có chút thương tiếc. Y nghiến răng, vẫn giữ lấy cô gái để nàng ta không lăn xuống đất.

Như Yên cười khẽ, đặt tay vuốt lên vết cắn trên vai y, sương mù trở lại trong đôi mắt.

"Ngươi đã nói sẽ đưa ta theo, đưa ta thoát khỏi đây. Ngươi đã nói lúc nào cũng ở bên ta. Ngươi nói dối. Ta ghét ngươi. Ngươi nói dối. Ngươi nói dối ta." Đầu thiếu nữ lại gục lên vai y. Hương hoa quện với mùi rượu say say thành một hỗn hợp khiến y cũng phải cảm thấy đầu óc mơ màng. Nắm tay thiếu nữ đập vào ngực y, nhẹ nhưng chắc chắn. Như thể nàng ta thực sự muốn đánh y. Một lúc sau, mi mắt nàng trĩu xuống khi hơi thở bình ổn dần.

"Cả đời không tha thứ cho ta hay sao?" Y thầm nói khi đặt thiếu nữ lên giường. Câu nói như chỉ dành cho chính y.

Nhưng bàn tay nắm áo y càng siết chặt. Vẫn không mở mắt, Như Yên kéo y xuống.

Đôi môi như cánh hoa đặt lên môi y. Hương rượu ngọt phả vào cổ họng y. Cánh tay mềm mại của thiếu nữ quấn siết lấy y. Như cướp đoạt của y toàn bộ hơi thở.

Trong khoảnh khắc, thậm chí y cũng không kịp phản ứng.

"Ta ghét ngươi." Thiếu nữ đẩy y ra cũng nhanh như khi ôm lấy. Nàng ta trở mình trên giường, cau mày nhăn mặt như thể kinh tởm, bàn tay đập loạn vào đống chăn. "Ngươi nói dối ta. Ngươi lừa ta. Chỉ chạm vào ngươi là ta thấy buồn nôn."

Rất nhợt nhạt, y cười. Trong ánh sáng mờ của bình minh, làn da y xanh nhợt.

Thiếu nữ qua một hồi vùng vẫy cũng đã chịu nằm yên. Y kéo chăn lên đắp cho nàng ta, xốc lại cổ áo đã trượt xuống vai. Vô thức, ngón tay y nấn ná trên làn da mịn như lụa nơi cổ nàng. Y khẽ cau mày.

Cô gái này lại mơ màng mặc áo ngủ mà đi qua trang viện. Dù Tụ Phương viện gần sát với Cúc Đình viện, mang quần áo mong manh đi qua một trang viện đông đúc là quá nguy hiểm. Tiểu yêu tinh này sao mãi chẳng biết tự lo cho mình như thế?

Như thế, sao y có thể rời xa nàng ta?

Tiểu yêu tinh, y lại gọi nàng như Tiểu Vũ. Tiểu hồ ly tu luyện ngàn năm, hắn ta giải thích. Mê hoặc nhân tâm, gây loạn thiên hạ, lừa người dối trời. Trên trời dưới đất, tác oai tác quái, mỹ sắc mê tâm. Hắn nói như muốn cảnh cáo y.

Y cũng có thể bị bộ dạng này mê hoặc?

Bộ dạng này có thể cũng chỉ là một bộ mặt của nàng ta bày ra trước y?

Vĩnh viễn không bao giờ tha thứ cho y? Để y vĩnh viễn không thể rời xa nàng ta?

Có tiếng gõ cửa nhè nhẹ, Xuân Tử nghiêng người nhìn vào.

"Người của Tây Phong lầu gửi thiếp đến, bảo rằng trưa nay sẽ tới." Cô nói với y sau khi đưa mắt nhìn qua cô gái đang ngủ trên giường. Y đưa tay đón lấy tờ thiếp, rồi lắc đầu.

"Bảo họ tối nay đến." Tình trạng này, trưa nay khó mà tỉnh nổi.

"A..." Xuân Tử đón tờ thiếp trên tay y, chỉ gật đầu. Như Yên là chủ nhân quản mọi việc ở đây, mà y lại là kẻ duy nhất quản được nàng ta.

"Chị Xuân Tử..." Y chợt lên tiếng khi cô đã quay đi. "Tiểu thư đêm qua uống bao nhiêu?"

"Uống rượu?" Xuân Tử nhíu mày. "Chỉ hai ba chén trong bữa ăn thôi." Tiểu thư có bao giờ uống say trước mặt người ngoài?

Y hơi ngẩn ra, rồi vẫy tay cho Xuân Tử đi. Ngồi xuống bên giường, y đưa mắt nhìn nắng sớm đang bừng sáng trên mặt hồ ngoài cửa sổ rồi đến khuôn mặt thiếu nữ thiêm thiếp ngủ. Trầm ngâm, y lật tay áo nàng ta, miết lên cổ tay nhỏ mịn màng. Nhịp mạch đập nhè nhẹ dưới ngón tay y. Như cảm nhận được sự tiếp xúc, đôi mày Như Yên cau lại khi một thanh âm khe khẽ thoát khỏi môi nàng. Bất giác khiến y phải cúi đầu, tay rút lại như phải bỏng.

Tiếng trúc vẫn rì rầm, rì rào. Lớp lớp tường trúc, quanh co bao bọc. Hàng hàng lối rẽ, khuất lấp trong cây. Y thấy mình lạc trong tiếng của muôn muôn vạn vạn chiếc lá. Hoa nở hoa tàn, mùa đến mùa phai, chỉ có trúc quanh năm xanh ngắt. Cảnh sắc sau tường trúc biến thiên, người đến người đi giữa những lối trúc. Quanh năm chỉ có tiếng lá reo không đổi.

Thương Trúc trang thật sự là một nơi tịch mịch.

Nằm ngay cạnh thành thị và bến cảng, đón người đến người đi không ngớt, nhưng trang viện này bị chia vụn thành từng phần nhỏ biệt lập, ngăn cách bởi những lối đi quanh co sau các hàng trúc cao ngất luôn tạo ra cảm giác hoang vắng. Lá trúc rì rào gần gần xa xa làm rối loạn thính giác người. Thậm chí, khi đi trên con đường trúc này, hắn luôn có cảm giác mình phải căng thẳng dõi lên sau trước với từng ngã rẽ.

Nếu không, hắn đã giật bắn mình khi đụng đầu đám người ấy.

Đứng ngay trước Mai Lâm viện, sau khúc ngoặt rẽ vào cửa, Bát Thanh Ngư kẻ đứng người ngồi mài vũ khí roèn roẹt, thẩn thơ ca hát, hái hoa bắt bướm, múa võ dương oai, đếm mây chòi rễ cây. Trong một khắc, hắn tự hỏi có phải rằng đám người này đã được chuyển đến ở chỗ hắn hay không.

Vừa định tháo lui, một kẻ trong đám nhận ra hắn, liền nhảy xổ tới.

"Tiểu Hiên!" Nụ cười bừng sáng trên mặt gã còn hơn cả thái dương vừa mọc. Trên tay gã còn nguyên thanh đao vừa hua loạn ban nãy giờ đang vung vẩy ngay trên đầu hắn. "Chúng ta đợi ngươi cả đêm."

"Có chuyện gì?" Hẳn là người ở đây đã cho đám người này biết tên hắn. Nhưng đợi hắn?

"Chúng ta cảm ơn ngươi cứu mạng." Bàn tay vỗ bộp lên vai hắn. Hắn còn ngơ ngác hơn gấp bội. "Không phải ngươi khuyên chúng ta không đánh, sao chúng ta còn có thể đứng ở đây?"

"A... Không có gì." Hắn nhún vai, dần dần hiểu ra sự việc. Nhưng đó là cứu mạng? Chỉ e rằng đưa bọn họ đến đây còn nguy hiểm hơn cả chết.

"Như Yên cô nương thiết đãi chúng ta rất chu đáo, còn bảo nếu chúng ta muốn, sẽ giới thiệu cho vào thủy quân triều đình. Thủy quân triều đình, là chúng ta sẽ thành tướng thành quan cơ đấy!" Kẻ đang nói chuyện với hắn vẫn hồ hởi khi lôi hắn về phía những anh em gã. Những bàn tay đập bồm bộp lên vai, lên lưng hắn như đã thân quen với nhau từ thưở nào.

"Thủy quân? Các vị không phải là..." Hồng Hoa hội hay Bạch Liên giáo, Thiên Địa hội cái gì đó? Thanh triều treo thưởng thủ cấp Lâm Phi một vạn lạng, mỗi người ở đây một ngàn lạng - đâu phải là "tiêu chuẩn" của bọn cướp vặt thông thường.

"Thật ra... Chúng ta cũng già rồi, còn tung hoành được bao nhiêu năm nữa, cứ lênh đênh trên biển không phải là cách." Một kẻ trong bọn gãi đầu. "Mà lão đại của chúng ta cũng muốn ổn định cưới vợ sinh con. Nghĩ xem, trên biển thì chỉ cướp được đàn bà con gái chứ sao cướp được vợ? Đời cha làm cướp, đời con cũng chỉ làm cướp, cứ nói rằng gom góp đủ tiền sẽ lên bờ, nhưng đến bao giờ là đủ, ai cho mà sống đàng hoàng? Dù không phải vì công danh thì cũng nên ổn định. Chúng ta sống sao cũng được, trên biển cũng tự do mà trên bờ cũng khoái hoạt, nhưng cũng nên nghĩ cho lão đại."

"Tư Tư cô nương làm sao có thể chịu được cuộc sống trên thuyền?" Một kẻ khác nôn nóng xen vào như giải thích. "Cô gái như hoa như ngọc, làm sao nhét vào giữa đám đàn ông bẩn thỉu thô lỗ? Lão đại có nhà cửa dinh thự rồi đón cô ấy về, vẫn có thể tung hoành ngang dọc trên biển mà không phải cướp của ai, chẳng phải chạy trốn ai, thằng nào đánh mình thì bắn nó banh xác, làm quan chẳng tốt hơn làm cướp sao?"

"Thủy quân với hải tặc nói cho cùng có khác gì nhau đâu. Chỉ là hải tặc đánh nhau với thủy quân, còn thủy quân đánh nhau với hải tặc. Hải tặc không đánh nhau thì không có cái ăn, thủy quân ít ra không chết đói mà còn có bổng lộc."

"Ai không biết chứ, triều đình Nam Hà chiêu tập hải tặc vào trong thủy quân, chỉ sợ thiếu chứ không sợ thừa. Kỹ thuật hàng hải của hải tặc là nhất, không phải đào tạo." Một kẻ nữa xen vào.

Cứ thế, tám tên Bát Thanh Ngư mỗi người một câu 'phân tích' lợi hại của việc làm hải tặc và quân đội. Hắn nghe đến khi ù tai, gật đầu đến khi hoa mắt rồi vội xua tay, lấy lý do đau bụng mà chạy vào Mai Lâm viện. Bên ngoài, tám tên 'cựu' hải tặc vẫn đang say sưa nói, bây giờ là về việc mua nhà cưới vợ sinh con. Chuyện mà hẳn chúng đã bàn luận suốt từ đêm qua tới giờ.

Là kết quả tiểu yêu tinh làm ra đây. Hắn thở ra sau khi đóng cánh cửa lại. Đánh vào điểm yếu nhất của Lâm Phi là tình cảm của gã với Tư Tư cô nương, từ đó thao túng tư tưởng của cả đám thuộc hạ, để chúng ảnh hưởng lẫn nhau, thuyết phục lẫn nhau. Nhưng tướng quân?

Triều đình Nam Hà thực sự thu nhận đám người này?

Có những người Minh Hương đã được thu nhận vào làm việc trong Tàu Ty cục. Có những người Minh Hương được thu xếp làm quản lý ở Đông Phố. Nhưng thực sự thu nhận họ? Cho họ vào triều đình? Bất chấp áp lực từ phía Đại Thanh?

Nói thế nào cũng không thể tin được. Nếu có thể thu nhận bọn họ, triều đình Nam Hà đã không cho họ đến Đông Phố. Dù có là liên minh, Chân Lạp là Chân Lạp, Nam Hà là Nam Hà. Triều đình Nam Hà không chịu trách nhiệm về đám người Minh Hương, đám người đã phản lại triều đình Đại Thanh.

Dù có thu nhận, triều đình Nam Hà vẫn không bao giờ cho họ một danh phận. Bọn họ chỉ là đám lính đánh thuê được trả lương cho triều đình. Thay vì làm việc cho lão bản và đầu lĩnh, lần này họ làm việc cho quan. Đánh nhau mà không cần biết lý do. Nhận tiền mà không cần biết nguồn gốc. Sống mà không có tương lai. Chết mà thậm chí không có một cỗ quan tài. Cuộc sống của hải tặc như đám rêu trôi trên biển. Lấy nguồn sống từ trong nước và trở thành mồi cho cá nước.

Những kẻ không gốc rễ đã bị ném vào biển cả.

Mà hắn đã thấy cách tiểu yêu tinh kia đối xử với những tên cướp đường - như thể chúng không đáng để sống trên đời. Cho bọn họ một cơ hội? Thứ lòng tốt đó tuyệt nhiên không có.

Tiểu yêu tinh này rốt cuộc đang muốn chơi trò gì?

***

Buổi chiều tối, khi đèn chưa được thắp, Xuân Tử tới đưa hắn đến một ngôi đình bên bờ sông, cách Thương Trúc trang một quãng đường ngắn. Từ bên đình nhìn lại có thể thấy thị thành Hội An với các dãy đèn mờ nhạt trên những mái lầu cao bên bến cảng. Những chiếc thuyền nhỏ tan chợ trôi trên sông im lìm như chiếc lá. Hoàng hôn đang tắt, đường chân trời tím biếc một màu cùng những áng mây hồng còn phớt lại. Trong khoảng sân quanh đình, những cô hầu gái đang thắp lên các dây đèn kết thành hình chữ Hồi nối tiếp nhau. Hai dãy bàn đã được đặt đối diện nhau cùng lớp lớp chén đĩa sứ chuẩn bị cho một buổi tiệc. Như Yên đang đứng quay lưng về cửa đình nhìn ra khoảng sông bên cạnh, ngoảnh đầu lại khi nghe tiếng Xuân Tử.

"Tối nay Mặc lão gia của Tây Phong lầu sẽ đến đây." Nàng ta nói, ra hiệu cho hắn lại gần. "Ông ấy bảo muốn gặp ngươi."

"Gặp ta?" Không phải muốn hắn vào sòng bạc làm việc cho ông ta chứ?

"Ông ấy bảo thấy hứng thú với ngươi." Như Yên cười. "Mà cũng có thể muốn tìm hiểu ta. Người thạo đánh bài Tây dương, nói cho cùng cũng không có bao nhiêu.

"Nếu nói ngươi là người Đông Phố thì sẽ rắc rối đấy." Như đoán được ý nghĩ của hắn, thiếu nữ nheo mắt. Nhưng nàng ta cũng không giải thích cho hắn, chỉ ngoảnh đầu nhìn ra sông. "Cứ bảo ngươi từ Giang Nam tới, ông ta muốn nghĩ sao thì tùy."

Hắn im lặng. Ngay nơi này cũng đầy xáo động, không chỉ tại Đông Phố. Hắn hiểu lời nói của tiểu yêu tinh như lời cảnh cáo. Mặc Huyền đã để tâm đến hắn, và với một kẻ có tầm ảnh hưởng tới khắp nơi như ông ta thì hắn nên biết cẩn thận.

Chiếc quạt trên tay Như Yên lay động, một hương hoa nhẹ phả vào khứu giác hắn. Không giống mùi hương thường thấy từ nàng ta, hương thơm này pha lẫn với mùi nước và cỏ, đăng đắng và tươi mát. Gió đang nổi, đem hương hoa từ khu vườn thổi vào đình.

"Hoa trúc đào." Thiếu nữ nói khi thấy hắn nhìn quanh, cố xác định phương hướng của mùi thơm. Chiếc quạt chỉ về những khóm cây cao hơn đầu người, trong bóng chiều chỉ thấy những chiếc cành mảnh mang đầy lá thon nhọn như ngọn liễu cứng cáp vươn lên trời. Một nụ cười phảng phất trên môi nàng ta. "Hoa rất thơm, nhiều màu rất đẹp. Những lúc cây ra hoa, từng chùm hoa đủ màu trĩu cả cành, lung lay trong gió rất vui mắt. Nhưng cũng là loài cây độc bậc nhất. Cả cành, lá, hoa, nụ, rễ đều đầy chất độc. Chỉ cần một cái đuôi lá cũng đủ để giết người. Thậm chí, hoa rụng xuống nước, nước nơi ấy cũng trở thành thuốc độc. Chỉ cần khói từ cây trúc đào đốt lên cũng gây choáng váng."

"Ở bên bến nước có thủy tiên, thi thoảng ta cũng hay đem củ của nó vào bày tiệc rượu thưởng hoa. Chất độc trong nó tuy nhẹ nhưng đủ làm mắt hoa đầu váng. Mùa này đỗ quyên không nở nhưng lá của nó có thể khiến tim ngừng đập, cơ bắp mất hết sức lực và hôn mê. Gốc sung đằng kia có nhựa khiến da người ngứa và sưng phồng lên. Cụm hồng môn đằng này có thể khiến miệng sưng, mất cả giọng. Loài lan này chỉ cần chạm vào là đã gây ngứa rát, nếu ăn phải thì tử vong tức khắc. Cây dây leo dễ thương trên mái nhà đây có hoa gây chết người. Trong bãi cỏ này có loại cà độc dược mang quả có thể mài ra chế thành độc. Cây cổ thụ đằng kia có nhựa gây lở loét cơ thể, chỉ cần dính một chút vào da, vết mưng mủ sẽ lan đi khắp người, thậm chí lây sang cả những ai tiếp xúc. Loài bìm bìm tía trong bụi dưới này mang hạt có thể khiến hỏng não, rối loạn tâm thần. Loài thụy hương họ trầm này toàn bộ đều độc, có thể giết người ngay tức khắc. Cây trầu bà trồng ngay cột nhà này có lá đủ độc để giết được người. Cây tầm gửi lúc lỉu đằng kia toàn thân là độc."

"Nơi này đáng lẽ phải gọi là Ngưng Độc đình." Hắn nói khi Như Yên đã ngừng lời, đôi mày nhíu lại như cố gắng nhìn xem còn loại cây nào chưa kể tới. Hắn có một nỗi nghi hoặc rất lớn rằng ngay cả gỗ làm ra căn nhà này cũng là từ một loài cây độc. Nghe câu nói của hắn, thiếu nữ bật cười.

"Chừng nào ngươi không gây chuyện với chúng thì chúng còn cho ngươi hương thơm, cho ngươi vẻ đẹp, bóng mát. Vả lại còn tùy ngươi có biết sử dụng chúng hay không. Bất cứ loài sinh vật nào cũng có độc để tự bảo vệ mình. Ngươi có biết nhân hạt táo, lê, đào đều rất độc, chỉ cần nhấm vào là đã chết? Ngươi có biết có loại khoai củ bình thường ăn rất ngon, nhưng khi đã nảy mầm thì thành một loại cực độc? Thậm chí, loại quả hay củ thì rất ngon ngọt, nhưng hoa thì lại độc vô cùng? Thậm chí có những thứ đậu hay củ quả mà ngươi nhất định phải nấu sôi chứ không thể ăn sống nếu không muốn đi gặp Diêm Vương. Có loài cá mà ngươi không thể ăn mật của chúng. Có loài thú mà ngươi phải biết triệt mùi thì mới có thể ăn được. Mật rắn là thuốc tiên nhưng nọc rắn thì là độc dược. Độc dược có thể giết người nhưng cũng có thể cứu người. Hoa thủy tiên nở từ củ độc, giáp trúc đào cũng nhờ vào độc mà có thể giữ sắc khoe hương, quả ngọt thì nhân đắng mới có thể giữ giống nòi. Chỉ biết sợ hãi xa lánh không phải ngốc lắm sao?"

Nhưng chuyện này thì liên quan gì đến việc mang một đám cây độc về trồng ở nơi tiếp đãi khách khứa? Hắn nuốt câu hỏi xuống cổ, thay vào một câu nói khác.

"Phải, hoa đẹp thường độc, nhưng hoa thường cũng chỉ bảo vệ mình. Loại trúc đào này không những thế mà còn gây ô nhiễm cả nguồn nước xung quanh, chẳng phải đáng sợ sao? Chẳng phải cô nương từng nói, muốn một được sống mà ba phải chết thì rất đáng ghét?"

"Ta ghét?" Thiếu nữ nghiêng đầu rồi lắc nhẹ, ra vẻ như không hiểu. "Ta ghét chúng à? Chúng làm gì ta mà ta phải ghét chúng?"

"Những cái cây này nếu gây nguy hiểm thì ta phải chặt đi, nhưng nếu không có việc gì thì chúng làm hại ai? Mà chúng không làm hại ai thì có gì đáng ghét?"

"Chỉ là cỏ dại vướng chân thì ném đi, còn nếu là hoa đẹp thì đem về thuần dưỡng." Hắn nhè nhẹ thở ra, cuối cùng đã minh bạch. Lối suy nghĩ này, nói cho cùng không phải là quá khó hiểu.

Như Yên liếc nhìn hắn. Bóng tối của đêm đã phảng phất dưới hàng mi dài.

"Ngươi thương tiếc cỏ dại thì có biết thương tiếc những sinh vật vô tội ăn phải chúng? Hoa đẹp trồng trong vườn có thể ngắm, cũng có thể dùng, nhưng cỏ dại mọc lan tràn thì ai kiềm chế được? Ta không thể nào đem tất cả thành hoa, chỉ có thể tách chúng ra khỏi cỏ dại. Dĩ độc trị độc thì phải có một loại độc bị diệt trừ. Độc vẫn là độc. Người vẫn là người. Đã dụng độc thì ai mà chẳng theo mục đích của riêng mình? Là hoa hay là cỏ cũng nhờ vào mệnh số. Hoa hồng lọt vào vườn rau thì cũng thành cỏ dại phải ném đi."

"Kẻ làm vườn chỉ thấy cỏ dại, chỉ việc trừ khử tất cả những gì không phải rau mà không nhìn ra hoa hồng thì chẳng phải là quá đáng tiếc sao?"

"Vậy thì hoa hồng chỉ có thể trách mình không làm cho người ta bận tâm. Mà như vậy, dù có đứng giữa một vườn hoa, cũng chỉ đứng yên mà chết rục không ai để tâm, sống hay chết có khác gì nhau?"

"Nhưng nếu là vì kẻ làm vườn chỉ cần rau chứ không cần hoa, có đẹp đến bao nhiêu cũng là vô ích?"

"Thì hoa hồng tồn tại trên đời đã là vô ích. Nhưng thế còn tốt hơn bị đem trồng làm hàng rào, lấy gai ngăn mõm thú, đuổi gia cầm ra khỏi vườn rau. Chết có gì đáng sợ?"

"Vậy kẻ làm vườn có bao giờ biết mình đã vứt bỏ hoa hồng hay không?" Hắn không thể đừng mà nhè nhẹ cười. Ánh mắt thiếu nữ cũng chẳng bớt đi một phần lãnh ngạo.

"Trên đời ai chẳng có đôi chuyện đáng tiếc? Nhưng ở một thời khắc nào đó, chỉ cần rau chứ không cần hoa nhất định không phải là lỗi của hắn. Nếu để hoa lấn át rau, hút hết chất bổ, lan tràn hết đất trồng thì đó mới là lỗi của hắn."

Hồi 13: Ký ức

Việc trồng một đám cây độc ngoài vườn đình, cuối cùng hắn đã hiểu lý do tại sao.

Mặc Huyền tất nhiên không chỉ đến một mình. Đi theo ông ta là một đoàn hộ tống chắc hẳn là những tay giang hồ ở bến cảng. Rượu vào lời ra, một nhóm người đã say không tránh khỏi vọng động. Mà đã 'động' thì không thể nào tránh khỏi va chạm vào những sung độc, tầm gửi, dây leo, bụi hoa, cổ thụ lẫn cây đặt trang trí góc phòng. Chẳng mấy chốc, qua vài trường hợp nhẹ thì bị sưng tấy da thịt, nặng thì phải chuyển về trang viện cứu chữa, cả đám người say rượu lỗ mãng cũng đã phải ngồi yên.

Âu cũng là một cách phòng thân ở nơi thiếu nữ yếu đuối tiếp đãi người lạ.

'Thiếu nữ yếu đuối' này không cần một cái giở tay nhấc chân, thậm chí không buồn liếc mắt ra đám người bên ngoài, đạm nhiên mà cười nói. Mặc Huyền lão gia cũng không hổ là thủ lĩnh của giới thủy thủ nhân công, mặt không đổi sắc trước những bát nháo ngoài vườn. Bên trong đình vẫn dìu dặt tiếng đàn. Tư Tư mình mặc áo lụa xanh, tóc vấn thành hình hồng hạc, ôm đàn gảy một khúc Lưu ba. Cô nương đệ nhất của Tây Phong lầu quả là không phải hạng hương phấn tầm thường, trong sự thanh thoát tràn ngập trang nhã phi phàm, trong ánh mắt lãnh đạm lại chứa vài phần yêu mị, từng dáng ngồi dáng đứng đều thu hút ánh mắt người nhìn. Trong ánh đèn, làn da trong suốt như bạch ngọc tỏa sáng, mắt phượng mày ngài đen như mực vẽ lại thêm vài phần huyền hoặc.

"Mặc lão gia cũng đã thấy tiếc rồi ạ?" Như Yên cười khi thấy ánh mắt Mặc Huyền chuyển động theo cô gái áo xanh. Mặc Huyền lắc đầu mà cười.

"Mỹ nhân thì ai cũng thích, nhưng cô nương đã đem cả bản thân ra uy hiếp ta, làm sao ta có thể tiếc một cô gái nho nhỏ mà giữ lại?"

"Uy hiếp? Tiểu nữ nào dám uy hiếp Mặc lão gia." Như Yên cười xán lạn. Ngón tay cầm ly rượu bích ngọc càng thêm sắc trắng. "Tiểu nữ tuổi nhỏ hiếu thắng ham chơi làm những việc ngông cuồng chứ không hề có ý khiêu khích Mặc lão gia."

"Hay cho câu 'hiếu thắng ham chơi'," Đôi mắt như mực vẽ của Mặc Huyền cũng chẳng lấy lời của thiếu nữ làm xao động. "Vì thế mà cô nương tới cả trang viên của Thanh Hải bang xem gió tanh mưa máu. Nghĩ ra, có chuyện gì mà cô nương không dám làm?"

"Mặc lão gia lại chê cười tiểu nữ." Nụ cười sau ly rượu không cố tình mà có mấy phần câu nhiếp nhân tâm. "Nhưng tiểu nữ ở đây ngày tháng hiu quạnh, muốn đi tìm những nơi náo nhiệt xem ngoạn thế thái nhân tình, tưởng cũng chẳng phải là tội lỗi xấu xa. Huống hồ việc ở Thanh Hải bang, có ai ngờ ngày nhậm chức lại là buổi đại khai sát giới?"

"Chỉ là xem ngoạn nhân tình?" Tiếng cười chậm thoát khỏi môi Mặc Huyền. "Vậy mà bấy lâu ta nghe rằng Thương Trúc trang ẩn tàng hào kiệt, mỗi người ở đây đều là kỳ nhân, đến cả những tay hung hăng nhất cũng bảo nhau không đụng đến người của Thương Trúc trang."

"Tiểu nữ ngày thường thích kết giao bè bạn, đi đường thấy người đói thì cho ăn, khát thì cho uống, đường xa thì mời lên xe đi cùng, tiếc gì một ly rượu, càng không tiếc dải mũ áo gấm đối đãi người. Thương Trúc trang đất rộng người ít, có thêm khách thì có thêm vài phần náo nhiệt, vốn không chê ai mà cũng không bỏ ai. Chắc hẳn vì thế mà có được chút tiếng tăm rộng rãi, nào phải tiểu nữ muốn dương oai ở chốn thị phi, lại càng không dám lộng ngôn gọi người của mình là hào kiệt kỳ nhân để nhận chê cười."

Cử chỉ vẫn như muôn thưở thanh nhã, toát lên vài phần quý khí vương giả mà không kiêu ngạo, cao quý mà không xa cách, phóng khoáng mà không suồng sã, tự nhiên mà khiến người đối diện phải kính trọng. Lời nói ra, cư nhiên cũng là đáng tin.

Mặc Huyền âm trầm cười. Ngoảnh sang hắn vẫn ngồi im lặng ở dãy bàn đối diện, ông ta nheo mắt.

"Vậy vị huynh đệ đây là..."

"Tại hạ đi đường xa mất ngựa, Như Yên tiểu thư thấy tại hạ nên mời lên xe." Hắn nói mà không liếc qua tiểu yêu tinh. Đây là chuyện thực, bất chấp mục đích gì sau nó.

"Các hạ hẳn được mời ở lại Thương Trúc trang, rồi Như Yên cô nương đưa đến giải trí ở sòng bạc?" Mặc Huyền nói tiếp lời hắn. Hắn gật đầu. Mặc lão gia thông minh hơn người. Nhưng như người xưa nói, thông minh thường bị thông minh hại.

"Các hạ có vẻ rất thông thạo bài Tây dương." Quả nhiên Mặc Huyền nói. Hắn trả lời mà không có lấy một cái chớp mắt.

"Gia phụ của tại hạ làm trong sở giao dịch với người Tây dương ở Quảng Đông. Chức vụ nhỏ thôi, nhưng các thủy thủ Tây dương vẫn qua lại nhà luôn mà tại hạ vẫn thường đến chỗ làm của gia phụ chơi với họ." Đây chẳng phải là không có một phần sự thật. Hắn có thể đọc vanh vách cơ cấu ban bệ kiểm soát cảng biển ở Quảng Đông, ngay cả bây giờ. Lão Cửu vẫn thường liên lạc với các thương nhân Quảng Đông để bán các vật phẩm tại Đông Phố, họ vẫn thường qua lại chỗ hắn.

"Các hạ vẫn để tóc." Mặc Huyền chợt cười. "Chẳng lẽ không sợ 'Để tóc thì rơi đầu, để đầu thì cạo tóc'[1], hay luật ấy chưa đến Quảng Đông?"

"Sau khi gia phụ mất, tại hạ đã đến đây tránh xung đột, không có dịp quay lại cố hương, quả tình cũng không quan tâm đến điều luật mới." Hắn vẫn ôn tồn trả lời. Nói dối như hoa trôi nước chảy âu cũng là một sở trường của hắn, mà những việc này hắn đã trả lời người khác chán chê, không đợi đến lượt Mặc Huyền hỏi.

Ông ta cũng không cạo tóc, hắn âm thầm nghĩ. Là không có dịp trở lại Hoa Hạ, hay là...

"Các hạ còn rất trẻ..." Ông ta chợt thở ra sau một hồi quan sát hắn. Đặt ly rượu xuống bàn, ông ta tự rót cho mình một ly khác, trong nhãn thần chợt có đôi phần phiền muộn. "Nhưng hẳn các hạ biết chuyện ngày xưa. Ngô Tam Quế họp ba phiên phản Thanh tại Giang Nam, con trai của Trịnh Thành Công đưa quân từ Đài Loan về hội. Ba quân tiến vào Nam Kinh, yết kiến miếu tổ tông Minh triều, khí thế tưởng nghiêng trời lệch đất, anh hùng hào kiệt thiên hạ hội họp về. Từ những nhân sĩ võ lâm đến anh hào danh sĩ muốn đứng ra giúp đời phụ quốc, còn muốn vì dòng máu Hán mà dốc sức, tất cả đã tụ về Nam Kinh, như lớp lớp hoa gấm, hàng hàng nhung y, là tinh hoa của cả Hoa Hạ. Vậy mà tam phiên chia rẽ, kẻ đầu lĩnh bị mua chuộc, đem bán đứng cả anh em đồng bạn, tự tay tiêu diệt cả lớp lớp binh nhung. Máu nhuộm đỏ Giang Nam, tiếng khóc tràn Nam Hải. Người chết vô số, kẻ còn sống cũng phải bỏ nước mà đi."

"Tình cảnh ấy có phải thật thê lương?" Mặc Huyền nói khi sau một hồi lâu mà hắn không lên tiếng. "Để tóc thì rơi đầu, ai ngờ Hoa Hạ ngàn năm lại bị người khinh nhờn đến thế."

"Nói thật lòng, tại hạ không quan tâm." Hắn miễn cưỡng mở miệng khi Mặc Huyền đã im lặng đến lần thứ hai, mắt nhìn chòng chọc vào hắn. Tiếng đàn của Tư Tư lỡ mất một nhịp trong khi đôi mắt Mặc Huyền nheo lại. Trời không gió, nhưng hàn khí như thổi qua phòng.

"Tám trăm năm trước có Minh triều sao? Tám trăm năm trước có Đại Minh sao?" Hắn đặt lại vò rượu cạn xuống bàn, thản nhiên nói trước đôi mắt ngày càng lạnh của Mặc Huyền. "Thậm chí, một ngàn năm trước, Giang Nam là của người Hán sao? Hai ngàn năm trước, Hán tộc chỉ là một nhóm người ở cạnh sông Hoàng Hà. Hai ngàn năm trước, người Giang Nam xăm mình, mặc áo trái, nói tiếng của riêng mình, có quốc gia của riêng mình. Triều đại thay đổi, quốc gia thay đổi, thậm chí phong tục thay đổi, kẻ này thống trị kẻ kia thay đổi, thế thì đã làm sao?

"Cái gì là phản Thanh phục Minh? Cái gì là vì Hán đuổi Mãn? Cuối cùng, tất cả những gì đám người ấy làm là đòi chia ba thiên hạ với triều đình Mãn Thanh, là đem mạng đám người ngu dại tin lời các vị ấy ra làm vật trao đổi, làm thứ hy sinh cho các vị ấy. Khi đạt được mục đích, các vị ấy vứt bỏ tất cả cái gì gọi là 'đồng bào', 'lý tưởng' ngay tức khắc. Cuộc chiến Nam Kinh đúng là một trò hề!"

Có lẽ hắn đã uống say, mà có lẽ Mặc Huyền cũng đã uống say. Nghe ầm vang một tiếng kinh thiên động địa khi chiếc bàn trước mặt ông ta bị hất văng, mảnh sứ vỡ bắn đầy phòng. Các gia nhân thất thanh kêu, Tư Tư vội ôm đàn đứng dậy. Như Yên vẫn ngồi sau bàn, lắc đầu thở dài mà không lên tiếng.

Hắn cũng ngồi yên, giương mắt nhìn Mặc Huyền đã đứng dậy. Cái bóng đen to lớn của ông ta như muốn phủ lấp lên hắn. Vẫn giữ được sự tỉnh táo cuối cùng, ông ta chỉ đứng yên mà nhìn hắn bằng đôi mắt rừng rực lửa giận.

"Ngươi dám nói như thế? Trước bao nhiêu người đã chết?" Từng lời một được chậm chạp nặng nề thốt ra qua kẽ răng nghiến chặt.

Hắn nâng một vò rượu khác lên uống cạn, bỗng nhiên cũng cảm thấy bực. Con người này, nói cái gì là thủ lĩnh của đám nhân công trên cảng, cho cùng cũng là một kẻ cố chấp muốn mọi kẻ phải theo ý mình.

"Phải, bao nhiêu người chết." Hắn chầm chậm nói, vứt vò rượu xuống chân bàn, giọng lành lạnh vô cảm xúc. "Nhất là từ cái năm ấy, Thanh triều vì để ngăn quân đánh vào biên hải mà đốt tất cả nhà cửa, làng mạc, thành thị trong vòng ba mươi dặm bờ biển. Bao nhiêu người chết, ông biết không? Bao nhiêu người chết cháy, bao nhiêu người chết đói, bao nhiêu người chết lạnh? Anh hùng lắm, cao quý lắm, hào hoa lắm, vì nước quên mình, liều thân phục quốc - Nhưng các người chết vì cái gì vậy? Vì một tên Ngô Tam Quế ba lần phản quốc? Vì tam phiên bán rẻ các ngươi lấy chức phong? Vì cái triều Minh mà thậm chí thái giám cũng lên làm thánh nhân sánh ngang Khổng, Lão? Các người điên rồi."

Chỉ nghe "Keng" một tiếng, thanh đao bên người Mặc Huyền đã rút ra. Nhưng Sa phản ứng nhanh hơn ông ta. Chỉ thấy chiếc bóng xám từ ngoài cửa lướt vào, bàn tay cầm đao của Mặc Huyền đã bị nắm lại.

"Mặc lão gia, xin nể mặt tiểu thư mà đừng gây sự ở đây." Sa trầm tĩnh nói, đưa lưng chắn về phía hắn. Ngoài cửa đình đã có một đám đông tụ họp. Dù không dám vọng động, đám đàn em mà Mặc Huyền dẫn theo cũng đã sẵn sàng đao kiếm lăm lăm trên tay. Tư Tư buông đàn, vội vàng đi về phía Mặc Huyền, cúi đầu mà nhẹ giọng.

"Mặc lão gia, hắn ta uống say nói bậy. Lời của kẻ vô tri non nớt, mong lão gia đừng chấp." Vừa nói, bàn tay nhỏ vừa đặt lên cánh tay Mặc Huyền run khẽ. Giọng nói thanh thanh mang mấy phần run sợ động lòng người như mưa rơi xuống không khí nóng rực trong phòng. Tư Tư mím môi, khuôn mặt thanh tú u uẩn như sắp khóc. "Mặc lão gia, ngài đừng nên vì một tên tiểu tử không ra gì mà chấp nhất, làm tổn hại đến Ngưng Yên đình mà cũng là làm hại đến... Tư Tư."

Lệ mỹ nhân luôn luôn có tác dụng. Mặc Huyền trấn tĩnh lại vài phần, đưa mắt nhìn qua hắn vẫn ngồi bên bàn mà giương mắt nhìn lên, bộ dạng không khác gì một tên ngốc say rượu. Danh phận ông ta cũng khó lòng đôi co với một tên ngốc tử, nghĩ vậy mà cơn giận cũng tiêu thất gần hết.

"Xin lỗi tiểu thư vì sự lỗ mãng của ta." Quay lại phía Như Yên, ông ta hơi cúi mình. "Sự tổn thất của Ngưng Yên đình, ta xin đền bồi. Nay đêm đã khuya, ta xin cáo từ."

"Xin cáo từ Mặc lão gia." Vẫn ngồi sau bàn, Như Yên cúi người đáp lễ, để Sa và Tư Tư tiễn Mặc Huyền ra cửa. Ông ta bỏ đi mà không nhìn lại hắn một lần. Đám người đi theo cũng lục tục tiếp bước.

Ngay khi bóng đoàn người vừa khuất khỏi cửa đình, Như Yên phá lên cười.

Ngồi sau bàn, tiểu yêu tinh quăng cả cây quạt trên tay mà cười ngặt nghẽo. Vừa cười, nàng ta vừa đứng lên đến chỗ hắn, lấy chân đá hắn mà nói trong tiếng cười.

"Tên tiểu tử nhà ngươi..." Câu nói không kết thúc khi thiếu nữ lại ôm bụng cười. Hắn đưa cặp mắt vô tội nhìn lên, không khỏi có mấy phần kinh ngạc. Tiểu yêu tinh này sẽ không đòi phân thây hắn vì làm hỏng việc của nàng ta? Hắn đã chọc cho Mặc Huyền tức đến quặp cả râu.

"Mặc kệ lão." Như Yên nói khi dứt cơn cười. Nàng ta ngồi xuống bên cạnh hắn, lau đi vài giọt lệ vương trong mắt vì cười. "Lão tối nay nói nhiều quá, sáng mai lại thấy sợ mà cho người đi cầu hòa với ta còn không kịp, ai hơi sức đâu mà đôi co tính toán với tên ngốc tử nhà ngươi."

"Chuyện đó vui lắm à?" Không phải vì nắm được thóp của Mặc Huyền mà tiểu yêu tinh này vui đến thế chứ?

"Ha, có thấy bộ dạng của lão không?" Tiểu yêu tinh lại khúc khích cười. Bàn tay nàng ta đập lên vai hắn. "Ngươi thật là có bản lãnh. Độ ngốc của ngươi thật có hạng."

Đây có được tính là câu khen? Không để hắn có thời gian tự hỏi, thiếu nữ đã vòng tay qua hắn với lấy vò rượu trên bàn, rót rượu ra hai chiếc ly.

"Trên đời ta ít khi trọng ai, nhưng giờ ta kính ngươi một ly." Vừa nói, tiểu yêu tinh vừa nâng ly. Khuôn mặt vừa qua cơn cười đỏ hồng, đôi mắt long lanh, tình tứ mà khoáng hoạt, như tỏa sức nóng sang cả người đối diện. Thần thái xán lạn này so với khi ưu nhã mỹ lệ còn quyến rũ hơn gấp mười.

Đã thế tiểu yêu tinh chẳng biết nặng nhẹ kia lại ngả người về phía hắn, đưa ly rượu lên tận miệng hắn. Hương hoa tỏa ra từ tay áo nàng ta còn có sức say hơn cả rượu.

"Kính ta cái gì?" Hắn hỏi trong khi mượn cớ lùi lại. Tiểu hồ ly tu luyện ngàn năm này không nghi ngờ không được.

"Làm một tên ngốc như ngươi thật đáng nể." Thiếu nữ bí bí ẩn ẩn cười, đẩy ly rượu vào miệng hắn.

Sa quay về đình viện khi tiểu yêu tinh đang ép hắn uống đến ly rượu thứ ba, Tư Tư đi bên cạnh y. Thấy trạng thái của hai người, chỉ có Tư Tư thoáng vẻ ngạc nhiên.

"Mặc lão gia về rồi." Tư Tư thông báo với một cái nhún vai nhè nhẹ, rồi vẫy tay gọi bọn gia nhân vào quét đám mảnh vỡ vung vãi trong đình. Như Yên cười, kéo tay hắn đứng dậy.

"Ta về Thương Trúc trang uống rượu." Nàng ta nói mà không để hắn có ý kiến. Đi qua Sa, nàng ta với tay còn lại chụp lấy y. "Đi uống rượu với ta. Đừng để lão già kia làm mất vui."

Vừa kéo vừa đẩy, thiếu nữ mang hai tên thanh niên qua đoạn đường ngắn về Thương Trúc trang. Trăng đã sắp tròn, tỏa ánh nhạt trên bầu trời vương mây mù. Vào những tháng cuối năm, vùng đất này liên miên mưa không ngớt. Trong hơi đất và sương lạnh thổi từ phía dòng sông đã nghe hơi mưa âm ẩm. Đêm về khuya, chỉ còn đôi chút ánh đèn hắt lại. Thuyền trên sông cũng đã vắng, chỉ nghe tiếng côn trùng, ếch nhái kêu vang. Tiếng lá trúc rì rào từ trang viện vẳng lại nghe như trong thinh không vang tới.

Cúc Đình viện hoa mãn khai, hương phảng phất, sa mù lãng đãng trên hồ, gió lộng giữa tường trúc. Bầu trời mây đỏ cuồn cuộn lưu chuyển như lớp sóng trên mặt biển.

Ngôi nhà nhỏ đã có vài lọ hoa cúc lại được thiếu nữ cắm hoa khắp nơi. Giường ngủ rắc hương. Chuông gió bằng sứ trắng. Màn lụa tua đào. Chặn giấy chạm hoa. Giấy hoa tiên ngũ sắc. Sáo trúc tiêu tương. Đến cả chiếc tua đao kết hình hoa mai đỏ. Tất cả đều có dấu ấn nữ nhân.

Hương hoa nồng đượm trong phòng không giống mùi hoa ở ngoài vườn.

Dù có để tâm, hắn vẫn nhìn mãi không ra quan hệ của hai người kia là gì. Tiểu yêu tinh uống say lại tựa vào lòng Sa mà ngủ. Đã thay một chiếc áo đơn ngắn màu ngà đồng sắc với quần lụa, tóc buông xõa cột hờ hững một mảnh khăn mỏng, nàng ta trông đơn thuần đến gần như mỏng manh.

"Đây là nơi ở của ai vậy?" Hắn hỏi khi Sa đã ôm thiếu nữ lên giường ngủ, một việc có vẻ như quá quen thuộc với họ. Nhận ra ý hắn, Sa liếc mắt.

"Đã thế này từ sáu năm trước..." Y nói như giải thích, cầm lấy bình rượu trên bàn trước mặt hắn. Nhưng y tịnh không nói gì thêm.

"Không khác gì đứa bé mười tuổi." Hắn chỉ đưa ra một nhận xét. Nhìn thì như bừa bãi, phóng túng buông tuồng, nhưng nghĩ lại thì chỉ là không biết nặng nhẹ, ngây ngây thơ thơ. Biết mị lực của mình với người khác nhưng không biết kiềm chế nó, lại càng không biết kiềm chế mình. Thích vui vẻ hoạt náo mà vô tâm. Thích vui thích cười tùy tâm tùy ý. Lý trí của hồ ly tinh nhưng tinh thần lại như trẻ con.

"Ai mà chẳng có khía cạnh như vậy, ngươi cũng thế." Sa phảng phất cười. Như thể y muốn lái câu chuyện về hướng khác.

Hắn im lặng.

Những bình rượu lại được nâng lên đặt xuống.

Mưa rơi. Lá trúc rào rào.

"Bao nhiêu năm rồi, ngươi vẫn không quên." Tiếng Sa đều đều. Rượu càng uống càng thanh tỉnh. "Rốt cuộc ngươi đã có thể kể chuyện gì đã xảy ra?"

Rượu sóng sánh trong ly. Mặt hồ sóng sánh dưới cơn mưa trong bóng tối. Bóng tối sóng sánh cùng ánh đèn mờ.

Hắn nhợt nhạt cười.

"Không phải vì ngươi cứu ta lúc ấy mà cứ nhắc lại mãi thế." Hắn nhún vai. "Ngươi còn muốn biết gì nữa chứ?"

"Lúc ta không có ở đó." Giọng Sa vẫn rõ ràng. Như không thứ rượu nào có thể làm say được y.

Hơi rượu càng nồng trong mưa. Hương hoa lưu cữu trong phòng ngọt ngào như một giấc mơ xưa cũ.

"Ờ, lúc đó..." Hắn mơ màng nói, tay day day trán. Không phải tiểu yêu tinh bỏ cả Lạc Lạc thang vào trong rượu chứ? "Trận chiến quỷ quái đó... Chúng ta vớt được một đứa bé trên bè trôi ngoài biển. Ta đưa nó về. Nó bị câm, không thể nói được. Lúc đó đang đánh nhau to, các người không ai cho ta đưa nó lên bờ, ta liền trốn đi với nó. Ta muốn đưa nó về nhà.

Nó chỉ biết gật với lắc, nhưng ta cũng mò ra được quê nó ở đâu. Đến nơi thì xóm làng đã bị đốt cả rồi, dân chúng vùng ấy bị chuyển đi. Thất thểu dắt nhau mà đi. Nhà không còn, ruộng đất không có, không biết làm gì để sinh nhai, phải ghé vào ở tạm với dân trong đất liền. Mà thời buổi chiến tranh khó khăn, ai có dư dả mà chia sẻ, đất đai làm gì có sẵn mà cho đám dân ngoài biển ở? Thế là đánh nhau, thế là xua đuổi, đánh đập, cướp đoạt. Người trong đất thì đánh đuổi người bên ngoài. Người bên ngoài đói quá thì họp đảng họp đoàn cướp giật được gì hay nấy. Khắp nơi người ta đánh nhau. Khắp nơi đầy xác chết.

Đi mãi, đi mãi, bằng chuyện thần kỳ nào đó, ta cũng tìm được gia đình đứa bé. Ngươi... ngươi không hình dung được thần sắc của họ khi thấy ta đưa nó lại đâu. Họ có một cái chòi trong rừng. Đêm đó, khi ta ngủ lại, họ nói với ta... Chính họ đã vứt nó xuống biển. Họ không nuôi được nó. Họ không thể đem nó theo. Họ không biết làm cách nào nuôi được nó.

Rồi họ bàn với nhau... Họ biết ta là người trên thuyền tới. Họ bàn nhau bắt ta giao cho quan phủ, biết đâu ta lại là thân nhân của ai đó quan trọng. Để chắc chắn hơn, họ... giết đứa bé, giết nó đi rồi đổ tội cho ta. Chắc chắn ta sẽ là tội nhân, mà họ sẽ được lãnh thưởng.

Họ đâm chết nó ngay trước mặt ta. Họ cầm tay ta mà đâm nó. Họ nắm đến gãy cả tay ta. Ta tháo chạy được. Khi đám người ấy đuổi theo ta, ngươi tới."

"Ngươi đã cản không cho chúng ta giết chúng." Giọng Sa vẫn lành lạnh. Len vào đầu óc hắn như tiếng mưa rơi.

"Vì họ không đáng chết. Không đáng, thật mà." Hắn cười với bóng tối trong bầu rượu. Bóng tối không ngừng chênh chao. Từ từ bao phủ đầu óc hắn trong tiếng mưa rơi.

Tiếng mưa rơi, như biển vĩnh viễn ầm ào.

Chú thích: 

[1] "Lưu đầu bất lưu phát, lưu phát bất lưu đầu" là đạo luật của nhà Thanh đã khiến miền Hoa Nam phẫn nộ, khởi nguồn cho loạn tam phiên của Ngô Tam Quế.

Hồi 14: Món nợ

Bạch y nam tử đi giữa rừng trúc. Tang phục vải bố không làm giảm đi phong thái phiêu dật, bước chân nhẹ bỗng như lướt trên lớp lá khô rải rác. Đã qua thu, lá rụng ngày càng nhiều tuy khí trời không thay đổi. Trên khuôn mặt bao giờ cũng như thoáng nét cười đang ngước lên những tán lá xanh, đôi mắt y lơ đãng, một vẻ lơ đãng như bầu trời xanh trong không một gợn mây.

Y đi không có một tiếng động, vì vậy kẻ vừa phóng ra từ bụi trúc cũng phải giật mình khi thấy y. Gã đàn ông ăn mặc lôi thôi, quấn một chiếc khăn xám trên mái tóc bù xù như rễ tre khựng lại, rồi nhanh như cắt chạy tới nắm vạt áo y.

"Công tử, cho ta vài đồng lẻ được không?" Gã nhe hàm răng vàng cáu bẩn mà cười với y. Chẳng có lấy một cái chớp mắt, y đưa tay vào trong áo, lấy ra một miếng bạc đưa cho gã.

Nhưng rồi y nhận thấy ngay đó là một hành động sai lầm. Tiếng chân rầm rập phát ra từ đám người xô đến ở bên kia rặng trúc mang theo một luồng thanh âm ồn ào đổ ập tới. Bảy gã nam tử to lớn có cùng bộ dạng lôi thôi như gã đầu tiên chạy lại. Nhìn ánh mắt của chúng, y có cảm giác mình đang là thịt cá nằm trên thớt trước hổ đói.

"Lão Tứ, lấy được tiền mà không chia à?" Một tên trong bọn ngoảnh sang kẻ đang đứng gần y. Gã lắc đầu nguầy nguậy.

"Không được, số tiền này ta mới đủ để trả nợ..."

"Vậy, công tử..." Bảy cái đầu cùng lúc quay sang y. Y khe khẽ thở dài dù nụ cười miên viễn vẫn không đổi sắc. Tiểu yêu kia lại thu nhận đám người nào vậy chứ?

Y lắc đầu, đưa tay lấy túi tiền trong áo, y cũng chẳng có ý định làm hỗn loạn ở đây. Tuy vậy, ngón tay y vừa chạm vào lớp vải, một tiếng quát sang sảng đã vọng đến từ bên kia đường.

"Không được làm loạn!" Một nam tử cao lớn hoang dại vừa quát vừa sầm sầm đi lại phía đám người. Gương mặt đã có một vết sẹo dài của gã càng méo mó trong cơn giận. Tám tên quấn khăn xám kia không ai bảo ai mà nhất loạt lùi lại, mặt mũi biến sắc.

"Ta đã bảo không được giở thói ăn cướp bắt nạt người ở đây!" Kẻ có vết sẹo kia vẫn vừa quát vừa dậm chân tới. "Người ta đã cho các ngươi ăn no uống say, các ngươi còn cần tiền để làm gì hả?"

"Để... để... Lão đại, chúng ta mắc nợ thì phải trả, thiên kinh địa nghĩa mà..." Kẻ đứng gần gã mặt sẹo nhất bị gã túm lấy cổ áo vừa lắp bắp vừa cười cầu tài. Gã nheo mắt.

"Mắc nợ?" Gã hỏi lại. Rồi chớp mắt như nhận ra, gã ném văng tên đàn em sang bên, nhằm hướng bụi trúc mà xông tới. "Để ta nói chuyện với hắn."

"Lão đại, đừng, đừng mà..." Tám tên kia hoảng hốt chạy theo gã, vừa muốn ngăn gã vừa không dám chạm vào chọc giận gã thêm. Chẳng mấy chốc, bóng cả bọn biến mất sau tường trúc, chỉ có tiếng lao xao còn vang lại.

Y nhún vai, chỉnh lại cái bọc trên vai, tiếp tục đi. Loang quanh qua vài ngã rẽ, y bước vào một khoảng sân. Trong bốn phía tường trúc, hàng hiên che nắng ngập dưới bóng xanh của loài hoa leo bao quanh một ngôi nhà nhỏ. Giữa trời nắng, mùi hoa nồng gắt xộc thẳng vào khứu giác người vừa tới, bất giác khiến y phát ho.

Gian nhà chính mở ra sau một chiếc cầu đá bắc qua dòng suối nhỏ lấp dưới cỏ kết thành dây giăng mắc. Ngay cả cỏ ở đây cũng là loại cỏ thơm thượng hạng. Trong dòng suối, đá đủ màu phản chiếu ánh nắng lấp lánh càng thêm vui mắt. Hoa phất phơ vương xuống từ trên cành cây, phủ từ mái nhà tới mặt đất, được kết thành nhiều hình thù khác nhau, rậm rạp um tùm mà thanh nhã, phủ cả khu nhà trong cái bóng xanh mờ.

Gian nhà chào đón y bằng hương trà tỏa ra trong tách sứ trắng. Như Yên vừa uể oải rót trà ra ly vừa liếc mắt về phía y ra vẻ rất không bằng lòng.

"Ngươi nếu không có việc gì quan trọng mà đánh thức ta thì đừng trách ta biến ngươi thành con vịt xiên." Nàng ta rõ ràng đang cáu gắt. Tóc buộc cẩu thả thành hai bím buông xuống vai, chân đi đôi guốc khác màu, chẳng cần có thêm cái dụi mắt để thấy nàng ta vừa tỉnh dậy.

Y cười nhẹ. Lối chào hỏi này, y nghe mãi đã thành quen. Cũng chẳng cần chào, y ngồi xuống ghế bên, cẩn trọng đặt gói vải lên bàn, nâng ly trà lên uống một ngụm.

"Tử Mi hoa." Y nói, gạt chiếc nắp trên ly trà. Tử Mi hoa, loài hoa trong núi sâu được hái rồi phơi khô để làm nên loại trà này. Ngàn ngày kết nụ, ngàn ngày nụ ngậm sương để rồi nở ra trong một đêm duy nhất trăng tròn gió thanh, loài hoa màu tím biếc mọc thành chùm cong cong như lông mày thiếu nữ chỉ có trên vách đá cao ngàn trượng.

"Người ta bảo bỏ gói trà vào hoa sen cho hấp thụ hương sen một đêm, nhưng ta thấy mùi vị không hợp." Như Yên gật đầu lơ đãng. Nàng chuyển ánh nhìn sang chiếc gói mà y đem tới. Không đợi cho phép, thiếu nữ ôm lấy gói mà mở.

Lớp vải được tháo ra, bên trong còn có hai ba lớp hộp giấy, đệm thêm giấy lụa. Đặt cẩn trọng bên trong là một chiếc tráp tròn trắng nhuận như bạch ngọc mà trong suốt, trên thân đắp những mảng nổi hình hoa đủ sắc long lanh, sắc sảo hơn ngọc, lộng lẫy hơn kim cương, tinh nhuận sáng tươi hơn sứ, từng đường từng nét vẽ, nét chạm đều tinh xảo phi phàm.

"Ngọc lưu ly, dược ngọc, hay còn gọi là thủy tinh, chế tác theo lối Tây phương nhưng được làm ở Đại Thanh." Y cười trước cặp mắt ngỡ ngàng của thiếu nữ. "Sản phẩm thử nghiệm trong triều đình. Tuy chúng ta cũng có kỹ thuật chế tác thủy tinh vài ngàn năm, nhưng kỹ thuật thô sơ, không bằng Tây phương. Từ thời Minh, sản phẩm thủy tinh đã rất được ưa chuộng, phát triển nhất là ở vùng Quảng Đông và Sơn Đông. Hoàng đế Khang Hy muốn thử nghiệm chế tạo riêng thủy tinh khí cho cung đình, đang cho người nghiên cứu kỹ thuật, học hỏi các giáo sĩ phương Tây để xây dựng Thanh cung thủy tinh hán[1]. Đây là một trong những sản phẩm đầu tiên. Có phải là rất tinh mỹ?"

"Đáng giá ngàn vàng." Như Yên chậm rãi mỉm cười, đặt chiếc tráp lại lên bàn mà nhìn kẻ ngồi trước mặt. "Đâu phải ngươi nổi hứng đem nó đến đây tặng cho ta."

"Ai bảo tặng cho ngươi?" Nam nhân cũng chẳng khách khí cười. "Ta đã bảo, đây là sản phẩm của Thủy tinh hán trong Tử Cấm thành. Đây là vật chỉ dùng cho hoàng gia."

"Ai bảo ta không phải là hoàng gia?" Thiếu nữ bĩu môi, thần thái lại có vẻ nghiêm trang ngay lập tức sau đó. "Chuyến tàu từ Triều Châu đã trở lại?"

"Ta nghe nói Lâm Phi ở đây, thì đừng làm ra bộ hỏi ta." Khóe miệng y chầm chậm nhếch lên. Gương mặt trắng xanh vẫn như có vẻ mệt mỏi. "Không những trở lại, chúng còn đem theo nhiều kẻ khác. Ba ngày nữa chúng sẽ cập bến Đà Nẵng. Ta đến đây để hỏi mượn người của Thương Trúc trang. Thanh Hải bang vừa rồi tuy lực lượng Hoắc gia không tổn hại nhưng nguyên khí suy yếu, Hồng Thiên hội càng không đáng nhắc tới. Ngươi gây chuyện thì bây giờ ngươi đi giải quyết."

"Đồ gian thương nhà ngươi quyết đẩy hết trách nhiệm cho ta?" Như Yên đảo mắt. "Đáng tiếc, ngươi tới trễ. Bình, Dư, Diêu, Ngư, Tiều đã bị công tử điều đi làm việc khác. Nga, Lan, Thương cũng đã đến kinh thành lo công việc..."

"Ta không cần những tay sai vặt lẻ tẻ, người như thế ta vơ tay là có." Y ngắt lời thiếu nữ. "Ta cần những kẻ như Sa kìa, nếu như ngươi giao hắn cho ta."

"Không bao giờ..." Thiếu nữ nhướng mày. Nhưng câu nói chưa dứt, một luồng cuồng phong đã thổi thẳng vào phòng. Từ sau rặng trúc, một bóng người xuyên qua hàng hiên tránh nắng mà lao đến. Nối tiếp sau gã là một đoàn bảy tám người khác. Tiếng huyên náo vang động cả khu vườn quanh năm yên tĩnh.

"Lão đại, ta đã bảo không phải ta gây sự..."

"Tiền này là của ta, không phải lấy của ai..."

"Ta biết lỗi rồi, đừng lấy tiền của ta... Á a a!"

Câu nói cuối kết thúc với tiếng hét chói tai khi một thân người bắn tung qua dòng suối mà bay đến chỗ hai người đang ngồi. Thiếu nữ cùng Hoắc Phương vội vàng đứng dậy, gã va vào chân bàn, hất tung mọi thứ trên bàn. Chiếc tráp thủy tinh bay lên không, quay tròn mà đáp xuống ngạch cửa.

Hai thân người cùng lúc lướt tới, một xanh một trắng.

Hai thanh kiếm cùng lúc rút ra.

Mũi kiếm chạm nhau trên không, dưới thân chiếc tráp đang rơi. Cái tráp bị hất trở lại. Hai kẻ cầm kiếm cùng lùi một bước.

Vừa vào cửa, thấy cái tráp lóng lánh như ngọc đang rơi xuống, Mạc Kinh Vũ không kịp suy nghĩ liền rút kiếm với lấy. Bên trong, Hoắc Phương cùng lúc ra tay.

Rồi trong lúc cả hai cùng thu kiếm, cái tráp lại rơi.

Hai thanh kiếm lại xuất thủ cùng một thời khắc.

Chỉ nghe tiếng "đinh đinh" không dứt, kiếm quang bay đầy phòng, trong một lúc mà cả hai đã giao triền hơn chục chiêu. Cái tráp thủy tinh bay từ đầu này qua đầu kia căn phòng. Kiếm quang một như điệp vũ, một như tuyết hoa, bất chợt làm những kẻ trong Tụ Phương viện lóa mắt mà ngẩn người nhìn.

"Cái quái gì thế này?" Hắn vừa múa kiếm vừa nói, mắt vẫn dõi theo cái tráp mà không nhìn đến kẻ đang giao đấu. "Đếm đến ba, ta rút kiếm, ngươi thu nó về đi."

"Được." Hoắc Phương gật đầu. "Một, hai... b..."

Tiếng "ba" chưa dứt, Mạc Kinh Vũ hắn té sấp.

Chỉ nghe đau nhói ở mắt cá chân như bị vật gì bắn vào, chân hắn trong một sát na tê dại không đỡ nổi thân người, hất hắn lăn xuống đất. Cái tráp đang ở đầu mũi kiếm của hắn trượt theo.

Vật phẩm long lanh như ngọc đáng giá ngàn vàng vỡ tan một tiếng kinh thiên động địa.

"Chuyện gì xảy ra thế này?" Tiếng tiểu yêu tinh vang lên sau hắn, phá đi khoảng im lặng kinh người tràn đến sau tiếng vỡ. Tám tên Bát Thanh Ngư đang há hốc miệng đứng ở cửa phòng bất giác lùi lại, rồi vướng phải Lâm Phi chắn bên ngoài mà đứng yên tại chỗ.

"Chúng lập sòng đánh bạc." Lâm Phi chầm chậm lên tiếng bằng giọng nói nằng nặng. Mắt gã nheo lại nhìn tên thanh niên đang lồm cồm bò dậy trên sàn. "Ta không cho phép, muốn thu lại tiền của chúng, chúng liền bỏ chạy, không biết đường nên xông vào đây."

"À..." Như Yên gật gật đầu. Nàng liếc nhìn Hoắc Phương đã thu kiếm lại bên người, rồi chỉ tay sang đám mảnh vỡ. "Các ngươi biết đó là gì không? Ngọc lưu ly tinh phẩm đặc chế dành riêng cho hoàng cung, ngàn lượng hoàng kim không mua được."

"Ngươi định đền thế nào đây?" Ngón tay tiểu yêu tinh đập lên vai hắn. Hắn chớp mắt, cười cầu hòa.

"Không phải lỗi của ta, ta chỉ định với lấy nó." Ngàn lượng hoàng kim, bây giờ hắn có đánh bạc xuyên suốt cả Hội An chưa chắc đã kiếm ra. Huống hồ các sòng bạc của Mặc Huyền đã cạch mặt hắn. Mà quả là hắn không hề đụng đến cái tráp. Là Lâm Phi đuổi theo đám đàn em, còn hắn chỉ đi theo xem chúng rượt đuổi nhau, thuận tay mà định 'giúp đỡ'. Hắn tịnh không hề có lỗi, có phải?

"Ngươi biết không, người xứ này có một câu," Tiểu yêu tinh nghiêng xuống gần hắn, cười đến quyến rũ mê người. "Nắm thằng có tóc chứ không ai nắm thằng trọc đầu."

"Hoắc Phương," Thiên niên hồ ly đứng thẳng lên gọi với qua phòng trong khi hắn vẫn còn đang há hốc miệng. "Ta tìm được kẻ đi làm việc với ngươi đây rồi!"

***

Và như thế, hắn được đưa đến Đà Nẵng. Với món nợ ngàn lượng hoàng kim, hắn đã được giao cho Hoắc Phương toàn quyền sai phái.

Nếu ngươi không ra tay, Hoắc bang chủ đã đỡ được cái tráp. Tiểu yêu tinh mồm năm miệng mười không cho hắn cơ hội cãi lý. Mà nếu ngươi không càn rỡ lập sòng đánh bạc với tám tên Bát Hôi Ngư kia, việc này đã không xảy ra. Trăm lỗi ngàn lỗi cũng là của ngươi, do ngươi mà ra, tất nhiên ngươi phải chịu trách nhiệm.

Còn hắn thì tràn ngập một nghi ngờ to lớn rằng thứ bắn vào chân hắn là do tiểu yêu tinh làm ra. Cô nàng đã đứng ngay sau lưng hắn lúc ấy, và kinh nghiệm ngàn năm truyền đạt lại là: đừng bao giờ mất cảnh giác với hồ ly. Chỉ một sát na lơi lỏng, hắn đã lọt bẫy vạn kiếp bất phục.

Nếu còn điều gì tệ hơn, thì là tám tên Bát Hôi Ngư nằng nặc đòi đi theo hắn. Bọn chúng bảo, cảm thấy có trách nhiệm về món nợ hắn phải mang.

Còn hắn thì thề rằng chúng chỉ đi theo để len lén lấy lại số của cải mà hắn đã vét được của chúng qua mấy ván bài. Chúng không cần nhỏ mọn như thế đối đãi hắn chứ?

Hồ ly gian ác, đám người nhỏ nhen, đến Sa cũng không giúp đỡ hắn. Khi nghe chuyện, dù y im lặng, hắn thấy rõ thái độ trong mắt y hiển hiện một câu: Đáng đời ngươi đi gây họa. Cái gọi là giang hồ hiểm ác, lòng người khó lường, lần đầu tiên hắn thấm thía đến vậy. Thật là khiến hắn phiền não đến chết đi được. Nhất là mỗi đêm ôm túi tiền mà không được ngủ, chốc chốc không phải đập muỗi cũng phải giơ chân đạp người. Dù không phải kẻ tham tiền, thấy thái độ ấy hắn cũng đâm bực mà quyết giữ rịt không trả.

Lão Cửu nói, trăm sai ngàn sai cũng là do thói mê bài bạc của hắn mà ra, giờ hắn thật tình thấm thía.

Lọt vào tay Hoắc Phương này, kẻ tâm cơ gian xảo so với hồ ly tinh kia chỉ có ngang ngửa chứ không có kém, hắn chẳng biết mình bị đẩy vào chuyện gì. Y bí bí ẩn ẩn không nói gì suốt quãng đường, chỉ đưa hắn đến nhà trọ bên cảng rồi bỏ đi phân phối người. Thấm thoắt, hai ngày đã trôi qua.

Đêm thứ ba, y trở lại, đưa hắn cùng Bát Hôi Ngư theo cùng đến một hẻm núi nhìn ra cảng. Bến cảng Đà Nẵng lúc ấy chỉ là chốn đậu thuyền bè lớn trước khi đến Hội An. Ven bờ hoang vắng, chỉ có vài cụm nhà trọ và thành lũy nơi quan quân ở, làng mạc rời rạc, ánh lửa không hắt qua nổi rừng dày. Đêm trăng sáng, bóng núi trượt xuống mặt biển đen ánh bạc. Gió biển thổi rào rạt khiến đàn muỗi rừng cũng tản đi. Hoắc Phương dừng chân trên mỏm đá nhìn xuống biển.

Đứng gần y, hắn có thể thấy vai y run nhẹ. Gió biển ngày càng lạnh.

Không ai bảo ai, tất cả cùng quay về phía tiếng động phát ra từ trong bóng tối của biển cả. Dù rất nhẹ, rất êm, thanh âm ấy vẫn khiến những kẻ quen thuộc với biển nhanh chóng nhận ra: Tiếng mái chèo từ một đoàn thuyền nhỏ đang nương theo bóng tối của hàng dương bờ biển tới.

Hoắc Phương lặng lẽ đi xuống bờ cát mà đoàn thuyền đang hướng đến. Trong bóng rừng núi trập trùng, hắn như thấy hàng trăm cái bóng chuyển động theo. Sự chuyển động của con người rất dễ dàng nhận thấy trong hơi rừng gió núi hoang vu.

Bọn hắn dừng lại khi hàng trăm tiếng cung bật vang trong bóng đêm. Từ các cụm rừng, đá núi, cồn cát, hàng trăm mũi tên xé gió bắn về phía những chiếc thuyền vừa tấp vào bờ. Những kẻ trên thuyền như cũng chuẩn bị trước. Các tấm ván gỗ bật lên che tên, rồi loạt tên bắn lại đáp trả. Người trên bờ dùng đến tên lửa đối phó. Những chiếc thuyền chẳng mấy chốc đã bốc cháy rừng rực. Người trên thuyền nhảy lên bờ cát. Đám phục binh trên bờ nương theo tên bắn cũng giáp trận. Tiếng hò hét vang động bờ biển vắng.

Hoắc Phương vẫn đứng yên. Mắt y nheo lại quan sát cảnh hỗn chiến như thể đang chờ đợi.

Một lúc sau, từ lòng biển, nấp vào bóng những chiếc thuyền đang cháy, một chiếc thuyền nhẹ trôi xuôi men theo bờ đi về phía bọn hắn.

Như con hổ rình mồi, Hoắc Phương chầm chậm bước trong bóng tối của rừng cây. Trong tình thế này, y vẫn có vẻ ung dung.

Dáng y đứng trước đám người bị mai phục cũng chẳng có gì là đáng sợ. Tay chắp sau lưng, y như muôn đời an tĩnh.

Theo lệ, những tên tùy tùng bắn tên lửa đốt thuyền. Những kẻ trên thuyền tràn ra đối địch theo hướng tên bay. Một nhóm khác vẫn ở gần thuyền, nửa như muốn rời đi nửa muốn ở lại xem xét tình thế.

"Ngươi đi bắt chủ tử của chúng về đây. Bắt sống." Hoắc Phương quay lại hắn, chỉ tay về phía đám người ấy. Y cũng đã rút kiếm, từ tốn bước lại hướng ánh lửa. Hắn nhún vai đi theo.

Thấy hai người đi qua đám hỗn chiến bước tới, đám người rút đao nghênh trận. Một số trong bọn dùng đao cong, thứ vũ khí của người vùng núi phương Nam. Trong bóng tối và ánh lửa bập bùng, hắn mơ hồ thấy khăn đội hay một loại hoa văn rất quen mắt.

Bóng Hoắc Phương như hồ điệp tung mình trong lửa. Kiếm quang tiết lộ, loang loáng bóng trăng, chập chờn xuân mộng. Tinh mỹ mà u ám, lãnh diễm âm độc, lăng lệ mà ma mị, phảng phất như sa mù, chói sáng như nắng đêm, ánh kiếm thu hút tất cả ánh mắt người nhìn.

Y tiến đến trước, để hắn thừa cơ vòng sang phía sau.

Khi tất cả sự chú ý đã bị hướng về phía Hoắc Phương, hắn chỉ cần hai ba cái tung người đã tiếp cận được với toán người bên bờ biển. Chiếc thuyền cháy đang trôi ra xa, hắt lại nơi này chút ánh lửa đỏ nhạt mờ loãng bóng trăng. Một nhóm chừng chục người đang tụ quanh một kẻ trùm kín trong chiếc khăn lớn màu trắng buông từ đầu đến chân. Tất cả đang nhìn như bị thôi miên về đường kiếm của Hoắc Phương. Những tên Bát Hôi Ngư cũng đã giáp chiến, tạo thành một đoàn hỗn loạn phụ họa.

Mãi đến khi chiếc bóng của hắn đã lan đến chân, có kẻ trong toán người mới giật mình nhìn sang.

"A!" Kẻ đó thất thanh kêu. Trong một thoáng, hắn ngẩn người.

Giọng nói của một phụ nữ, còn rất trẻ.

Chính kẻ đứng giữa toán người nhận ra sự xuất hiện của hắn đầu tiên. Cô ta quay phắt người lại, chiếc khăn trùm vì cử chỉ ấy mà bay tung trong gió biển.

Toàn thân mặc đồ trắng của người Hồi, chuỗi ngọc lung linh trên trán, dung nhan như trăng đêm rằm, diễm tuyệt mà trong trẻo. Vì ngạc nhiên mà đôi mắt mở lớn, càng như hai hồ nước trong dõi thẳng vào người đối diện. Toàn thân trùm kín trong lớp vải rộng thùng thình nhưng không làm mất đi vẻ phiêu dật thiên tiên, nhìn không giống như kẻ có thể được sinh ra tại trần thế. Đứng dưới ánh trăng, toàn thân cô gái tựa bích ngọc tự tỏa ra ánh sáng.

Những kẻ xung quanh cô ta vội vàng rút vũ khí chĩa về phía hắn. Đây có lẽ là 'chủ tử' mà Hoắc Phương muốn hắn bắt về.

Cô gái này đáng giá cái tráp mà tiểu yêu tinh gán nợ lên hắn?

Chú thích: 

[1] Thuật chế tạo thủy tinh của người Trung Quốc đạt đến độ tinh xảo hiếm có, mà việc dùng thủy tinh trang trí thời Thanh rất phát triển. Triều Nguyễn thường đặt hàng các xưởng ở Quảng Châu làm những bức tranh thơ thủy tinh còn lưu giữ đến giờ. Năm 1696, vua Khang Hy cho xây Thanh cung thủy tinh hán do những giáo sĩ Tây dương chỉ đạo, tập trung thợ giỏi khắp các vùng về để chế tạo thủy tinh dùng riêng trong hoàng cung.

Hồi 15: Hoàng thảo ngũ tinh

Mỹ nhân thì mỹ nhân, nợ thì vẫn cứ phải trả.

Đám người giật mình nhìn lại tuy đã rút vũ khí ra nhưng vẫn không nhanh bằng hắn. Chỉ một cái xoay mình, hắn đã lách đến cạnh cô gái, chụp lấy tay cô ta. Chỉ cần thêm một động tác nữa, hắn đã có thể nắm cô gái này chạy đi.

Nhưng Hoắc Phương yêu cầu cao thủ, vốn không phải là để cho công việc dễ dàng.

Nhưng hắn đã có một khoảnh khắc, hay tư tưởng, quá lơi lỏng khinh địch.

Chỉ nhờ vào cảm giác, thứ cảm giác được tôi rèn trong khói lửa Giang Nam và rừng núi Đông Phố, hắn mới có thể tránh được tai kiếp. Ngay khi ánh thép lướt ngang qua cổ, hắn đã buông tay cô gái mà nhảy lùi lại.

Sát khí lướt ngang qua mặt hắn sáng loáng như thủy ngân. Từ loan đao trên tay cô gái tựa thiên tiên vô hại kia.

Nàng ta đứng dưới bóng trăng, áo choàng cùng mũ trùm tung bay trong gió biển. Bàn tay trắng như ngọc cầm song loan đao. Hai lưỡi đao hình trăng khuyết phát sáng như thủy ngân. Đôi mắt đẹp đã mang một cái nhìn sắc không kém gì thứ vũ khí trên tay.

"Hoàng Thảo Ngũ Tinh." Cô gái chợt nói, giọng cố tình đè nén trầm xuống trong tiếng sóng. Đám người xung quanh lập tức chuyển động. Bốn người mặc áo trắng gần giống như cô gái tản ra quanh hắn, ánh loan đao ngời sáng trong trăng.

"Hoàng thảo ngũ tinh?" Hắn hỏi, nhìn quanh năm người, kể cả cô gái, đã bao vây hắn. Một nụ cười phảng phất trên môi hắn. "Các người đến từ Vân Nam?"

Hoàng thảo ngũ tinh là tên một loài hoa lan trên rừng núi Vân Nam. Loài hoa lan trắng như tuyết mang viền đủ sắc, hắn đồng tình là có mấy phần giống cô gái trước mặt.

Đôi mắt nàng ta càng nheo lại, đôi mày nhíu khẽ. Dù đứng giữa đám người, hắn vẫn chưa rút kiếm, bộ dạng có vẻ ngơ ngơ ngẩn ngẩn như không hề biết gì. Tuy vậy, bộ dạng và câu hỏi chẳng tương đồng với nhau. Kẻ đã mai phục họ rồi cho tên thanh niên này đến hẳn cũng không sai phái một tên ngốc.

Tay áo cô gái phất lên. Bốn bóng áo trắng đồng loạt xông tới.

Hắn vẫn không rút kiếm, chỉ nhảy nhót né tránh. Hoàng Thảo Ngũ Tinh, chỉ cần nghe tên và nhìn thế đứng của năm người này, hắn đã nhận ra ý đồ của trận pháp. Ngũ tinh gồm năm sao Thái Bạch, Tuế Tinh, Thần Tinh, Huỳnh Tinh, Trấn Tinh tượng trưng cho Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ của Ngũ hành, tương ứng với năm phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung tâm. Trận được xếp thành hình hoa lan, chuyển động tương ứng với quy luật vận hành của các ngôi sao.

Ngũ tinh vận động trong vòng Hoàng Đạo, đi qua hai mươi tám cung sao.

Mà hắn, đương nhiên là mặt trời. Đứng ở giữa, tiếp nhận lấy sự tấn công của các ngôi sao vòng quanh. Ngũ tinh theo phương vị đối với mặt trời mà di chuyển, biến thành các chòm sao phụ thuộc mọc và lặn tùy theo mùa. Biến đổi liên tục, bốn phương chắn lối, ánh loan đao loang loáng bay như ngàn vầng trăng khuyết, dễ dàng làm kẻ bị bao vây lóa mắt.

Theo phương vị của mặt trời, hắn di chuyển theo độ xích vĩ tính qua độ xích kinh mà né tránh[i]. Đã từng sống trên biển, di chuyển trong rừng núi phương Nam, tính tọa độ của các chòm sao là việc hắn phải làm mỗi ngày. Không phân tâm vào việc tấn công, hắn chỉ chuyên tâm tính toán phương vị của đối thủ.

Cô gái đứng ở phương vị của Trấn Tinh, hành Thổ, xa mặt trời nhất mà cũng ít di chuyển nhất. Trong trận thế hoa lan này, bốn ngôi sao thuộc Ngũ hành chuyển động trong phạm vi hẹp xung quanh đối thủ, để khoảng trống cho Trấn Tinh giữ trận. Thần Tinh áp sát, Thái Bạch theo đuổi, Huỳnh Tinh tấn công, Tuế Tinh bao vây, Trấn Tinh bọc hậu. Muốn chạm tới cô ta, hắn phải đi qua lớp lớp đao bạc.

Hắn di chuyển theo vòng tròn ứng với năm vòng quay của ngũ tinh tránh các thanh đao lao tới, dần dần xâm nhập Thổ hành độ trong tú Nữ, vòng qua cang Giác.

Đến cung Mão, hắn rút kiếm. Hụp người tránh đường đao của Thần Tinh, hắn chuồi đến đá phạt ngang chân Thái Bạch, chống kiếm mà tung người đến phía cô gái. Trấn Tinh lúc này đã di chuyển ra đỉnh ngoài của cánh hoa lan, cách xa đám người còn lại.

Thấy kẻ lao đến, cô gái phạt một đường đao vào giữa thân hắn. Lưỡi đao bên tay phải bị kiếm chặn lại, đao tay trái đã vung tới. Ánh đao như nước, hai vầng bán nguyệt tương đối nhau mà móc vào kiếm hắn, vặn xoáy hòng hất kiếm khỏi tay hắn.

Hắn xoay cổ tay nương theo sức đao, kiếm xoay tròn, chợt đâm thẳng vào người trước mặt. Cô gái thất kinh lùi lại.

Sau lưng hắn, tiếng gió rít lên khi hai mũi phi tiêu bắn đến. Hắn phóng người tới trước, hai mũi phi tiêu cứ thế mà bay thẳng đến cô gái. Nàng ta hươ hai tay đao gạt chúng sang bên. Từ trên cao, hắn theo thế rơi xuống điểm ngay huyệt đạo trên vai nàng ta.

Hai thanh loan đao rơi xuống đất. Không nhìn lại, hắn nắm cánh tay cô gái mà kéo thẳng vào đám người đang hỗn chiến. Thấy hắn, đám người dạt ra. Hoắc Phương cùng Bát Thanh Ngư tụ lại sau lưng hắn, đánh dạt bọc hậu. Khi bọn hắn vừa tách ra đủ khoảng cách, từ trong núi, tên lại bắn ra như mưa, đan kín cả khoảng bờ biển.

"Ngươi..." Hắn liếc nhìn Hoắc Phương, tiếng nói vừa thốt ra đã ngừng lại. Tên bắn như mưa. Quyết triệt hạ đến kẻ cuối cùng. Y đã bày đến ba bốn lớp phục kích. Quyết không để kẻ nào chạy thoát.

Y không nhìn hắn, cũng chẳng nhìn cảnh tàn sát trên bờ biển, chỉ chú mục vào cô gái trong tay hắn. Đôi mắt to của cô ta càng mở lớn, trừng trừng nhìn tên vẫn bay như vãi trấu vào các thân người đã ngã xuống quằn quại.

"Đi thôi." Hoắc Phương nhàn nhạt nói. Lời y vừa cất lên, vài thân ảnh đã xuất hiện trong rừng tối, đi về phía bọn hắn. Tên đầu lĩnh mang khăn xanh xốc cô gái khỏi tay hắn, đem vào chiếc cũi để sẵn trên con đường mòn ẩn dưới bóng cây dày.

Tên ngừng bắn khi Hoắc Phương húng hắng ho. Y nhận lấy áo khoác từ tay kẻ tùy tùng, đi về phía những con ngựa chờ sẵn trên đường mà không nhìn ai. Đám tùy tùng lần lượt xuất hiện từ bóng tối cũng lẳng lặng mà làm việc. Một toán đi lại phía bờ biển, gươm đao cầm sẵn trong tay để giải quyết kẻ nào còn sống sót. Một toán khác nâng cũi chất lên xe móc vào sau ngựa. Tiếng ồn ào vọng vang trên bờ biển dài đã dần yên lặng, chỉ còn tiếng gió rít qua những ngọn núi. Trên mỏm cây rừng, ánh lửa hắt lên rực đỏ.

Ở phía bên này, sau khi kiểm tra xong các xác chết, đám tùy tùng dồn chúng lại, hất những tấm ván cùng thân cây lên trên, ném đuốc vào. Trong gió, ngọn lửa chập chờn cuộn mình vài lần trước khi bốc rừng rực.

"Các người... các người..." Tiếng nói chợt phát ra từ trong cũi. Cô gái đã tự giải khai được huyệt đạo, giờ đây đang trân trối nhìn đám cháy trên bãi cát mà nói như lạc cả giọng. "Đồ độc ác... Độc ác..."

"Đã nhát gan như vậy thì đến đây làm gì?" Hoắc Phương không quay lại, chỉ nói qua vai một câu nhẹ tênh trước khi ra roi cho ngựa chạy. Đám đông tiếp bước sau y.

Mặc dù không thích, hắn cũng phải thừa nhận rằng mình đồng tình với y khi nhìn cô gái bị bắt. Cô hoàn toàn thất thần, ánh mắt đầy ngập sợ hãi, thân thể run rẩy. Như một con thú nhỏ lọt bẫy. Như một người chưa từng chứng kiến thế nào là khói lửa trên thế gian.

Hắn đã nhận ra điều này ngay khi giao đấu. Cô gái này cầm đao nhưng chưa từng giết người. Nếu không, ngay lần đầu lao đến, hắn đã không thể tránh được dễ dàng như thế. Đường đao ngập ngừng, có chiêu thức, có sát khí nhưng không có quyết tâm, càng không có ý thức giết người. Giết người không phải là chuyện dễ dàng, kể cả khi cầm đao kiếm để tự vệ. Ngay khi lưỡi đao lướt tới cổ hắn, nàng ta đã ngập ngừng, để lại một sát na cho hắn thoát thân.

Một cô gái như thế, vượt ngàn dặm đến đây để làm gì?

Vân Nam, vùng đất nhiều sắc dân phức tạp nhất, nơi mà Thanh triều bình định mãi vẫn không được. Nơi mà Quế vương, vị vua cuối cùng còn tranh đấu cho Minh triều, đã bị Ngô Tam Quế dồn đuổi đến rồi tiêu diệt, cũng là nơi Ngô Tam Quế tự xưng là Chu đế trấn giữ sau này. Vân Nam, vùng đất tiếp xúc với phương Bắc của An Nam, những sắc dân pha trộn giữa hai đất nước không thể phân biệt được. Nhưng vượt biển đến Nam Hà này, nàng ta có mục đích gì? Nàng ta thuộc về nhóm người nào trong những thế lực đã và đang ở Vân Nam?

Nghe câu nói của Hoắc Phương, bàn tay cô gái đang nắm vào song cũi run lên, nhưng nàng ta bình ổn dần, chỉ có nước mắt lăn dài trên gò má. Dáng bộ cô gái đáng thương đến mức khiến hắn cảm thấy tội nghiệp.

"Này, ăn đi mà bình tĩnh lại." Hắn giục ngựa đi tới bên cũi, lấy trong áo ra mấy viên đường đã thuận tay nhét vào buổi chiều, đưa qua cũi cho cô gái. Nàng ta như giật mình nhìn sang, nhận ra hắn, đôi mắt đang đầy lệ sáng rực cơn giận.

"Ngươi..." Cô gái chỉ tay vào mặt hắn, rồi lại như không biết tìm ra lời nào để nói. Cả hắn và nàng ta đều không biết nhau, có muốn nguyền rủa cũng khó.

"Nếu muốn, cứ gọi ta là Tử Hiên. Cô tên gì thế?" Hắn cười. Giơ tay mãi cũng mỏi, hắn ném mấy viên đường vào vạt áo cô gái. Mắt nàng ta nheo lại nhìn hắn tràn đầy nghi hoặc.

"Đừng giả bộ mèo khóc chuột." Nàng ta nghiến răng nói. "Không biết tên ta mà ngươi đi bắt ta sao?"

"Ta không biết thật mà." Hắn chớp mắt. "Ta mắc nợ nên phải đi làm việc cho người ta thôi."

"Cái gì?" Bây giờ đến lượt cô gái ngơ ngác trước bộ dạng của hắn. "Ngươi làm... làm những việc này vì nợ?"

Hắn thở ra. Cái cô bé ngây ngô chẳng biết trời cao đất rộng này nói như thể hắn phạm tội tày trời.

"Thế cô làm việc này vì cái gì? Tự dưng cô tới đây à? Tự dưng cô khoác rắc rối lên mình à? Chẳng phải vì cô mắc nợ ai đó, cái gì đó, ơn sinh thành dưỡng dục hay cất nhắc, bảo ban, nghĩa tình gì đó? Cô trả nợ của cô, ta trả nợ của ta." Cô bé đang run như cầy sấy này, đánh chết hắn cũng không tin là tự mình quyết đến đây, lại càng không thể nắm được việc mà mình đang làm. Người chẳng hiểu chuyện nhân gian khói lửa, chưa từng chứng kiến tranh chấp giang hồ, xa lạ với thủ đoạn tàn nhẫn, thậm chí sát thương người khác còn không làm được, có gì là tự quyết được, thậm chí có ý thức mình đang làm gì?

"Ngươi nợ cái gì?" Vẫn là sự ngây ngô, lần này nghiêng về phía tò mò.

"Ta đánh vỡ một cái tráp." Nàng ta tưởng hắn nợ thiên kinh địa nghĩa sinh mạng kiếp sống hay sao? Nếu nói đó là vì tiểu yêu tinh gài hắn vào bẫy, không biết còn gây kinh ngạc đến mức nào. Người ta đâu cần lý do to tát để làm bất cứ chuyện gì. Cái gì cũng phóng đại lên mới thật là ngây ngô. Hắn và nàng ta không thù không oán, nhưng cũng chẳng có lý do để không bắt nàng. Việc này có thể quan trọng với nàng ta, nhưng không hề quan trọng với hắn, giản đơn là vậy.

Cô gái dường như không tìm được lời nào để nói, chỉ trố mắt nhìn hắn. Nước mắt đã khô trên khuôn mặt diễm lệ, vai cũng đã không còn run. Hắn nhìn về phía trước, bóng Hoắc Phương cùng tang phục trắng sáng rõ trong đêm trăng.

Hắn không hỏi đến lần thứ hai tên cô gái cũng như nàng ta là ai, hẳn nàng ta sẽ không trả lời. Nhưng sự việc đang dần dần rõ trong đầu óc hắn. Những gì mà người ở đất này đang làm, và cả thế lực mà họ đang chống lại, từ ngoài biển.

Vân Nam, địa phương ấy sáng rõ trong tâm trí hắn, là câu trả lời.

Đoàn người ngựa đang đi chợt dừng lại. Tiếng chim xao xác trên những ngọn cây trước khi một bóng người xuất hiện bên đường. Đã xuống ngựa, gã đứng trong bóng cây mà chờ đợi. Thân hình cao lớn, làn da đen càng sẫm lại trong bóng tối, gã đứng gần khuất hẳn giữa đêm.

"Hắc Hổ." Hoắc Phương chầm chậm buông từng chữ khi ngựa y từ từ tiến về phía gã. Trong giọng y thoáng vẻ ngạc nhiên. "Sao anh lại ở đây?"

Hoắc Phương chuyển giọng nói tiếng Kinh, không cần nhìn rõ trang phục của kẻ đang đứng trong bóng tối cũng có thể nhận ra xuất thân của gã. Khi nói, giọng gã trầm đục, thanh âm gần giống như người ở cực Bắc Nam Hà.

"Hoắc thiếu gia, công tử nghe nói cậu ở gần đây nên muốn nhờ một việc nhỏ." Gã được gọi là Hắc Hổ này gật đầu chào. Ánh kim khí từ giáp tay của gã sáng lên trong bóng tối.

"Việc gì?" Hoắc Phương gật đầu. Giọng y lộ ra vẻ quan tâm hiếm có, khác với thái độ nhàn nhạt thường ngày.

"Nhờ thiếu gia đi mua lưới của dân chài trong vùng." Hắc Hổ nói đều đều, mặc cho sự quái dị trong ý nghĩa câu nói. "Càng nhiều càng hay, càng sớm càng tốt."

"Ngay đêm nay ta sẽ cho người đi." Hoắc Phương nói mà không chớp mắt. "Công tử ở đâu?"

"Trong núi." Hắc Hổ phác tay về phía Nam. Gã nhìn qua đoàn người đi theo Hoắc Phương, nhảy lên ngựa. "Công tử cũng bảo ta đi hỏi chuyện tù binh của Hoắc thiếu gia một chút."

Hoắc Phương mờ nhạt cười. Hắc Hổ đi song song cùng y, hai cái bóng một đen một trắng dẫn đầu đoàn người. Ánh đuốc chập chờn trong gió núi.

Hắn lại cảm thấy cô gái đang run lên bên cạnh.

"Cô biết họ là ai không?" Hắn cất tiếng. 'Công tử', cái danh xưng này thi thoảng hắn vẫn nghe thấy ở Thương Trúc trang. Tất nhiên, một thiếu nữ như tiểu yêu tinh thì có tinh quái đến mức nào cũng không thể có được sản nghiệp lẫn thế lực như thế. Hắn vẫn thường cho rằng kẻ này có liên hệ với các thương gia ở Hội An, nhưng sự xuất hiện của Hắc Hổ làm cho ý nghĩ ấy thay đổi.

"Ta không biết." Lần này đến phiên hắn ngạc nhiên. Cô gái đã thu mình vào một góc cũi, vòng tay ôm lấy gối. "Họ chỉ bảo ta đến đây... làm một số chuyện, ta không biết rằng ở đây cũng... cũng săn đuổi ta."

"Không phải săn, chỉ là đuổi thôi." Hắn phảng phất cười. "Họ không làm hại cô đâu, chừng nào cô còn không đem rắc rối đến."

"Kẻ đó ác như vậy..." Rõ ràng cô gái không tin lời hắn. Nàng ta nhìn bóng lưng Hoắc Phương, đôi mày thanh tú cau lại. Một cái nhấc tay giết sạch đoàn thuyền, kẻ nào không cần thì không để sống sót, hủy thi diệt tích. Tàn khốc thủ đoạn, với kẻ chưa từng bước khỏi cửa bao bọc như nàng ta, quả thật là máu lạnh. Lọt vào tay y, nếu trở thành vật y cảm thấy không cần, số phận sẽ chỉ như đám thi thể đã thành tro ngoài bãi biển.

"Ờ..." Hắn ậm ừ. Kẻ đã quen sống trong gió tanh mưa máu, những việc quá sức đối với người thường đều trở nên bình thường. Nhưng cô gái này biết sợ y cũng tốt. Trong cái vỏ ốm yếu nhu nhược kia, chẳng biết y có thể dùng đến thủ đoạn nào. Từ ngày nhìn thấy y ở sân viện Thanh Hải bang, nhẫn nhịn ngấm ngầm bày mưu tính kế rồi chỉ cần một cái lật tay đã thu tóm đại cuộc; rồi đến đêm nay nhìn y bày trận phục kích, ra tay quyết tuyệt, hành động cũng như kiếm pháp nhu hòa mà âm độc, hắn biết tốt nhất là không nên trở thành kẻ đối đầu với y. Y cũng là một loại người như tiểu yêu tinh kia, có thể ra tay vào những lúc, bằng những thủ đoạn người khác không lường được. Nhưng ở tiểu yêu tinh kia hắn còn thấy có tình cảm, cảm xúc, thậm chí là đôi chút ngây thơ - với kẻ luôn mang một nụ cười lãnh lãnh thanh thanh này, hắn chẳng bao giờ nắm được y thực sự nghĩ gì, muốn gì.

Rời khỏi rừng, đoàn người ngựa đi về khu nhà trọ bên cảng. Bình minh đã đến, ửng đỏ phía chân trời bên kia bờ biển. Bến cảng Đà Nẵng, hay có tên khác là cửa biển Đại Chiêm, chỉ có bóng tàu bè neo đậu, từ bờ cát nhìn lên không có một bóng nhà dân. Đội thủy quân của triều đình Nam Hà thường trực nơi đây, thuyền có khi lên đến cả ngàn. Khu nhà trọ ngay sau lưng doanh trại quân binh cũng nằm trong tầm giám sát nghiêm ngặt. Chọn nơi đây để ở, Hoắc Phương đã tận dụng ảnh hưởng của quân đội triều đình hạn chế sự quấy rối đến từ những kẻ bên ngoài.

Đoàn người đã có một đêm không ngủ tản dần đi các phòng, trừ một toán đưa cô gái về căn phòng biệt lập nằm sâu trong khu nhà trọ. Căn phòng thường chỉ dành cho khách quan trọng đặc biệt đôi lần ghé lại bến cảng như quan chức hay đại gia danh môn ở vị trí gần như biệt lập với phần còn lại.

Chiếc xích nhỏ ngay lập tức được tròng vào tay cô gái. Hoắc Phương vẫy tay cho các thuộc hạ lui ra, chỉ để lại y và Hắc Hổ cùng nàng ta trong phòng. Căn phòng được trang trí theo lối phòng ngủ bình thường, có thêm một gian tiếp khách bên ngoài ngăn cách với giường bằng tấm bình phong, để bộ bàn ghế nho nhỏ. Hoắc Phương ra hiệu cho cô gái ngồi xuống đó, y lấy một chiếc ghế khác ngồi gần cửa, Hắc Hổ khoanh tay đứng sau y.

"Chúng ta có chuyện cần hỏi cô." Không rào trước đón sau, thậm chí không hỏi danh tính kẻ đối diện cho có lệ, Hoắc Phương nói, giọng y vẫn như trước ôn nhu, gần như hiền hòa. "Kẻ đi cùng cô định đưa cô đến đâu?"

Cô gái chỉ ngước nhìn lên, mím môi không trả lời. Qua một đêm sợ hãi, bây giờ nàng ta đã bình tĩnh lại. Bây giờ, nàng ta lại đang suy xét có nên trả lời câu hỏi của y hay không.

"Cô có biết cái gì gọi là Cẩm Thạch bàn?" Hắc Hổ chợt mở miệng.

Đôi vai cô gái run nhẹ. Tuy không nói, đôi mắt ngỡ ngàng đã phản bội nàng ta. Hoắc Phương liếc nhìn Hắc Hổ. Gã gật đầu.

"Do lai bích lạc ngân hà bạn, Khả yếu kim phong ngọc lộ thì." Hắc Hổ chậm rãi đọc. Sắc mặt cô gái ngày càng trắng. Bàn tay đã nắm chặt của cô càng run. "Cô có biết không?"

Cô gái cau mày. Cắn môi, nàng ta hất cằm, cố tỏ ra cứng cỏi.

"Các người đã biết cả thì hỏi ta làm gì?"

Hoắc Phương bật cười. Y vội đưa tay lên che miệng như ho khẽ.

Trên khuôn mặt đen cháy của Hắc Hổ cũng phảng phất ánh cười. Gã vỗ vai Hoắc Phương, mở cửa bước ra ngoài. Hoắc Phương cũng đứng dậy. Đã ra khỏi cửa, y nhìn lại cô gái vẫn ngồi ngơ ngác giữa phòng, khóe miệng từ từ cong lên.

"Kẻ nào đã hướng dẫn cô thành như thế này, đáng đốt cháy mười đời." Không đừng được, y mở miệng. Cánh cửa đóng sập lại trước khi cô gái trong phòng kịp có phản ứng.

Hắc Hổ đã đi ra khoảng sân giếng trời giữa nhà trọ. Nghe Hoắc Phương bước sau lưng, gã quay lại, nheo mày trầm mặc quan sát y một lúc rồi mới lên tiếng.

"Hoắc thiếu gia không bận việc gì chứ?" Gã thận trọng hỏi.

"Nếu công tử có việc cần, tại hạ bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng." Hiểu ý, Hoắc Phương nói. Một nụ cười thoáng qua những đường nét cứng cáp như được đẽo gọt của Hắc Hổ. Nhìn kỹ trong ánh sáng ngày, gã tuổi đã quá tam tuần, trong phong thái vững chãi có sự thành thục mà uyển chuyển như một mãnh thú sống trong bóng tối. Từ gã toát ra một loại bá khí lẫn anh khí bức người mà thuần thực tự nhiên, như bẩm sinh đã có. Làn da đen cháy nhưng khí độ ôn hòa, gã không tạo ra cảm giác đáng sợ, ngược lại làm cho người đối diện bất giác mà tin cậy.

"Công tử đang ở trong núi." Gã vẫn chậm rãi nói. Hoắc Phương gật đầu, nhớ đến lời Như Yên đã nói mấy hôm trước về những người bị điều đi. Qua thái độ của Hắc Hổ, hẳn đó là một việc quan trọng.

"Nếu có thể, nhờ Hoắc thiếu gia giúp cho. Lần này, công tử muốn san phẳng Cẩm Thạch bàn."

Chú thích: 

[1] Độ xích vĩ: Vĩ độ sao tính theo Vòng Xích đạo trời, lấy Xích đạo trời làm vĩ tuyến gốc. Độ xích kinh: Kinh độ sao lấy Kinh tuyến đỉnh đầu làm gốc. Đây là cách định vị trục tung và hoành của sao trong thiên văn học cổ Trung Quốc, và cách tính này được áp dụng cả trong thiên văn học hiện đại.

Hồi 16: Cẩm Thạch bàn

"Khủng thị tiên gia hảo biệt ly 

Cố giao thiều đệ tác giai kỳ 

Do lai bích lạc ngân hà bạn 

Khả yếu kim phong ngọc lộ thì 

Thanh lậu tiệm di tương vọng cửu 

Vi vân vị tiếp quá lai trì 

Khởi năng vô ý thù ô thước 

Duy dữ tri thù khất xảo ti."[1]

Núi nằm trên cát. Cát lan vào sóng. Biển lục núi thanh. Đá núi trập trùng. Núi nhấp nhô trên bình nguyên dường như kéo đến tận chân trời. Biển trải dài tít tắp như đi vào vô tận.

Nam tử mặc áo màu thiên thanh gõ tiêu vào lan can mà ngâm khẽ. Lan can đã tróc lở vài phần, lộ ra màu đá bạc bên trong. Chân tường rêu lan, kéo xanh cả bậc thang xuống chân núi đã khuất lấp trong cây. Rừng thâm u che khuất tất cả những sự sống nằm trong nó. Chỉ có gió thổi trên khoảng không bao la. Ở độ cao này, thậm chí thanh âm của biển cũng không còn nghe được.

Bầu trời bao la vốn là lặng thinh.

Ngôi chùa nhỏ nằm dưới tầng tầng bóng cây, trên lớp lớp đá núi, lẫn trong sương mù, càng thêm quạnh quẽ. Đá ngói hoang rêu, tượng đài sương phủ, mái vòm cong không đỡ nổi thời gian, cột gỗ tròn không qua được luân hồi. Nhìn lên là bầu trời, nhìn xuống là vực sâu muôn trượng.

Ảo tưởng hồng trần trôi qua như mây, tưởng cao vợi nhưng giờ lại lững lờ dưới tầm mắt.

"Lời ca của thí chủ có rất nhiều lo phiền." Nhà sư trụ trì bước đến sau lưng nam tử tự bao giờ, trầm mặc lên tiếng. Vẫn không quay lại, y chỉ ngẩng đầu nhìn trời mà cười.

"Ta đến đây cũng chỉ vì lo phiền, hành động cũng chỉ vì lo phiền, tồn tại cũng chỉ vì phiền não, thế tục nhân gian không tránh thoát, nào phải như đại sư một am chùa nhỏ giữa thinh không, sống làm bạn với cỏ cây, tiêu diêu tự tại?"

"Thế nhân chẳng phải lại cho rằng làm bạn với cỏ cây là phiền não? Tráng chí không thành, tài năng không có nơi hiệu dụng, muốn đem một kiếp phù sinh khuynh đảo thiên hạ, đó là nghiệp quả trong chính lòng người, không phải do phận số."

"Si tâm vọng tưởng là cách con người tồn tại xưa nay. Nếu không, đại sư nào phải đến tận nơi hoang sơn này xa lánh hồng trần. Nếu tâm thanh tịnh, chốn nào chẳng phải là Niết Bàn?"

"Ta dù không mê luyến, nhưng cũng không tránh khỏi người mê luyến. Ta dù không sân si, cũng không tránh khỏi chán ghét kẻ sân si. Hồng trần thiên hạ, mỗi ngày thoảng qua như mây dưới chân núi, nhìn ngắm thế tục âu cũng là một thiên tính của nhà tu hành."

Nam tử áo xanh bật lên tiếng cười. Y quay lại, nheo mắt nhìn nhà sư, thần thái ấm áp ôn hòa lại có thêm mấy phần thân thiết.

"Nhân sinh như mộng. Một giấc mộng nhìn ngắm một giấc mộng, đại sư thấy gì?" Nụ cười trên môi y mở rộng. "Chi bằng ở trong mộng mà tỉnh thức một kiếp, mở mắt mà mơ, nhắm mắt mà tỉnh, trầm luân cùng nhân thế, giác ngộ dưới bồ đề."

"Thí chủ sinh ra vốn là kẻ có thể đổi thay thiên hạ, nắm trong tay mệnh trời của ngàn năm. Ngạo thiên lập địa, âu cũng là một cách tu hành. Phật tại tâm đầu, Phật tại muôn phương, chỉ cần người biết rằng có Phật thì trầm luân cũng không phải là khổ ải."

"Đổi thay thiên hạ?" Nam tử lại khẽ cười. Y nhìn ra ngoài hàng hiên vương vấn mây đến những mỏm núi trập trùng. "Ngạo thiên lập địa hay vô phương thoát khỏi bàn tay Phật? Ngũ Hành sơn hay Ngũ Chỉ sơn?"

"Núi không tên, vạn vật không tên, cái tên có gì là quan trọng?" Nhà sư vẫn trầm lặng cười. "Từ khi vật có tên mới sinh ra phiền não. Mà người vì cái tên mới trở thành bận rộn. Bàn tay người năm ngón, giơ ra không nắm được, cũng vô pháp thoát khỏi tầm tay chính mình."

"Bàn tay nắm thiên hạ nhưng không nắm được mình. Bàn tay đã giơ ra thì không thể rút lại. Không nắm được người, càng không nắm được lòng. Nắm được thiên hạ, nhưng không nắm được gió mưa. Ảo vọng tồn sinh, nghĩ mà phiền muộn." Nam tử để thoát một cái thở khẽ khỏi đôi môi. Rồi y lại cười. "Ta cho rằng Phật quả là có điều phiền muộn."

Không đợi nhà sư trả lời, y đi vào trong gian chùa nhỏ, tự rót cho mình một ly trà. Trên bàn, giấy bút vẫn còn vương vãi. Gió nổi, cuốn một tờ giấy bốc lên, y kịp thời nắm lại. Trên giấy, nét chữ cứng cỏi ghi hai câu thơ "Do lai bích lạc ngân hà bạn, Khả yếu kim phong ngọc lộ thì" mực đậmnhư đêm.

Nhận ra ánh mắt của nhà sư lướt qua tờ giấy, y mỉm cười. Đặt nó lại trên bàn, y thoải mái ngồi xuống sàn. Gian chùa nhỏ, mái thấp, bàn cũng thấp, khách ngồi trên chiếc chiếu cói mà thưởng trà đọc kinh.

"Thói thường của nhân gian, có phải thật là đáng chán?" Y vừa cười vừa nói, gió đang thổi lộng dải mũ y quấn quanh cổ. Tư thái ưu nhã, ôn nhu mà vững vàng, từng cử chỉ đều toát lên quý khí, tự bản thân y đã lộ ra một phần xuất thân. Ngay cả trong gian nhà nhỏ sơ sài này, y cũng làm cảnh sắc sáng thêm mấy phần, tựa như ánh dương quang điềm đạm hắt qua mây mù buổi sớm.

Nhà sư mơ hồ cười. Ông đến bên bàn đối diện với y, ngồi xuống mà ngoảnh đầu nhìn ra cửa. Núi vẫn nhấp nhô trên bình nguyên trải rộng.

"Do lai bích lạc ngân hà bạn, Khả yếu kim phong ngọc lộ thì." Nhà sư chậm rãi đọc, nhấn nhá từng chữ bằng giọng hơi kéo dài. "Đến áng mây xanh bên dải Ngân Hà, cần có ngọc lộ của gió thu. Bích Lạc là dải mây nằm ở phương Đông, ứng với Mộc. Sông Ngân Hà trải từ Bắc đến Nam. Kim phong, gió mùa thu, cũng là Kim. Thật hay sao, dưới chân Kim Sơn lại có dòng Lộ Cảnh Giang."

"Đại sư quả là thiên tư mẫn tiệp." Nam tử không thể đừng mà tán thưởng. "Lấy Mộc Sơn làm mốc, dải Nam Bắc phân chia thành hai vùng, lại cần thêm Lộ Cảnh Giang dưới chân Kim Sơn dẫn đường. Thứ ta tìm, chính là nằm ở Hỏa Sơn.[2]"

"Thí chủ muốn đến Cẩm Thạch bàn?" Nhà sư hỏi mà không nhìn người bên kia bàn. "Hỏa Sơn chia hai hòn Âm Dương, đường đi hiểm dốc, chỉ nối với nhau bằng một đường đá. Kẻ bên trong dễ thủ mà người bên ngoài khó lòng hướng vào."

"Từ khi chúa Tiên bị bức đến đây, vùng đất này chỉ toàn sỏi đá. Vài ngàn người cùng chúng dân sở tại phá đá mà đi, lấp núi mà làm ruộng. Không thể trông cậy ở trời đất, chúng ta chỉ có thể dựa vào chính mình. Hội An là nguồn sống của Nam Hà ta. Đem vật phẩm đi bán, đổi về lúa gạo, nuôi dân mà lập nước. Vùng đất đói nghèo này, nếu không có một nơi như thế, không thể tồn tại được.

"Dưới chân Dương Hỏa Sơn là bến thuyền nối liền Hội An và Đà Nẵng, huyết mạch Quảng Nam mà cũng là đường sống của Nam Hà, quyết không thể để bất cứ ai quấy phá." Nam tử vẫn đều đều nói, nhìn xuống ly trà trên bàn. "Nghiệp quả nào, dù có phải chặt đứt ngón tay Phật, ta cũng sẵn sàng gánh chịu."

Nhà sư định nói, nhưng lại lặng im. Từng lời từng chữ y nói ra đều là thật. Con người này, vốn sinh ra để xoay chuyển thiên hạ.

Hoặc là, sắp đặt thiên hạ. Có quyết tâm nhưng lại quá nhiều tình cảm. Có khí phách nhưng lại quá mềm lòng. Tài năng khuynh thiên nhưng lại quá nhiều nghi hoặc. Kẻ như vậy, khó mà tồn tại trên trần thế. Xoay chuyển thiên hạ là việc cần nhiều hơn thế.

Con người này, vĩnh viễn vướng mắc giữa Thiên và Địa. Tâm y vĩnh viễn là một áng mây lơ lửng giữa trời.

Sự thật trong lời y, cũng chỉ là một nửa lửng lơ.

***

Ngũ Hành sơn nằm giữa Đà Nẵng và Hội An. Khi từ Hội An đến Đà Nẵng, bọn hắn đã đi bằng đường biển, lần này trở về, một nửa được tách ra đi đường Trường Giang qua Ngũ Hành sơn. Vì để tránh Bát Hôi Ngư, hắn đã xin đi đường sông này, được Hoắc Phương đồng ý.

Trên bình nguyên rộng lớn, năm ngọn núi nằm chơ vơ giữa trời có vẻ lạc loài kỳ lạ. Từ bến sông nhìn lên, ba chữ "Dương Hỏa Sơn" đỏ chói khắc trên vách đá có thể nhìn thấy từ xa cả dặm.

"Ai có thể khắc dòng chữ như thế?" Hắn tò mò ngửa đầu nhìn mà hỏi. Vách đá phẳng lỳ, ba chữ Hán tự to đến mức không thể chỉ dùng công cụ bình thường mà khắc được.

"Kỹ thuật của người Chân Lạp." Sau lưng hắn, Hoắc Phương nói mà không nhìn lên. Y đang mải dõi mắt về phía những hòn núi khác. Hắn cũng chỉ âm thầm gật đầu. Chân Lạp, Vạn Tượng núi cao vực sâu, kỹ thuật leo núi và tạo tác đá của họ hắn cũng đã từng chứng kiến.

"Ta nghỉ lại ở đây." Hoắc Phương nói với kẻ tùy tùng bên cạnh. Hắn nhìn y, thoáng ngạc nhiên. Bây giờ mới buổi trưa, nếu đi nhanh, bọn họ có thể trở về Hội An ngay trong ngày. Nhưng những việc làm bí ẩn mờ ám của y đã bắt đầu từ khi Hắc Hổ đến, hắn chỉ là kẻ ngoài cuộc đi nhờ cũng không tiện hỏi nhiều.

Giữa trưa, cái chợ nhỏ bên sông đang dần tan. Những ghe thuyền chất nặng sản vật địa phương đã được đem bán sáng ngày bắt đầu thu dọn nhổ neo sau khi nghỉ trưa. Trong các hàng quán mái lá nhà tranh, bàn ghế tràn cả ra ngoài, nhiều người ngồi trên đất mà ăn uống. Người dân xứ này ăn mặc lẫn lộn trang phục của cả Chiêm lẫn Kinh, một số lớn đàn ông chỉ quấn khố, da đen nhẻm vì nắng gió. Ngoài xa, từ bến sông kéo đến chân núi, hắn để ý nhận ra nhiều cọc gỗ lớn, những vòng kim loại lấp lánh sáng trong nắng quấn dưới chân. Những cọc gỗ này rải khắp xung quanh phạm vi bến sông và chợ.

"Ở đây có cướp sao?" Đứng trên bến, hắn tự hỏi một mình. Cọc gỗ và dây thép gai, đó là phương cách của người nơi này chống lại sự đột nhập từ đường thủy. Nhìn hệ thống dây thép này, hẳn nhiên bến sông mỗi đêm lại bị phong tỏa. Không phải là lực lượng địch quân bên ngoài tấn công, chỉ có thể là đề phòng trộm cướp. Mà dây thép này lại là loại đối phó toán trộm cướp lớn, không phải chỉ vài tên cướp vặt.

"Có đấy." Nghe câu hỏi của hắn, một lão phu đang ngồi rít thuốc trên gốc cây cụt bên cạnh trả lời. Ông ta có vẻ như một thương nhân đến đây lấy hàng đang nghỉ lại. Lão phu chỉ tay lên núi. "Ở Cẩm Thạch bàn."

"Cẩm Thạch bàn?" Hắn ngửa cổ lên nhìn theo hướng tay ông lão, chỉ thấy rừng núi trùng điệp, cây cao vài trượng quấn quýt vào nhau.

"Thánh địa của người Chiêm Thành." Ông lão phả ra một hơi thuốc, uể oải nói trong nắng trưa gay gắt đến lóa mắt. "Thổ Sơn đằng kia là nơi đồn trú của binh lính Chiêm quốc, còn có rất nhiều mẫu điêu khắc trên đá. Còn trên Hỏa Sơn này là đền tháp cúng tế của họ. Người Chiêm quốc thờ lửa. Từ đây đến cửa biển Đại Chiêm là nơi trú đóng của quân đội Chiêm Thành, trước khi xuất quân họ đều làm lễ cúng tế tại đây.

"Chiêm Thành diệt nhưng đền đài vẫn còn, từ bao giờ không biết lại có một toán người đến ở. Hỏa Sơn có rất nhiều đá quý, đền đài trên ấy đều làm từ cẩm thạch nên gọi là Cẩm Thạch bàn. Bến sông này người qua lại như mắc cửi, đám người trên núi thỉnh thoảng vẫn xuống cướp phá. Quan quân có đóng ở đây cũng không thể làm gì được. Hỏa Sơn chia đôi, nối với nhau bằng một con đường hẹp, dễ thủ khó công. Năm ngọn núi lại liên kết với nhau, khắp nơi đầy hang động, bọn cướp chỉ cần lẩn vào thì không ai tìm được chúng, cũng không thể truy đuổi được trong phạm vi lớn thế này. Năm trước, quân triều cũng có một lần tấn công lên định phá hủy Cẩm Thạch bàn, nhưng qua được đường núi thì vướng phải trận địa đá của bọn cướp, thiệt mất hơn nửa."

"Ai ở trên ấy?" Hắn bắt đầu thấy tò mò. Năm ngọn núi trên bình nguyên rộng này, ở giữa thì có sông lớn, bên cạnh thì có biển sâu, quả là một địa thế tuyệt hảo để chiếm cứ.

"Không rõ. Nghe nói chúng tự xưng là một giáo phái nào đó, nên triều đình cũng phải nể nang mấy phần. Chiếm được đất thì cũng phải nể mặt người, đâu thể phá cả thánh địa của người ta. Mà trên năm ngọn núi này kỳ nhân không ít, người tu tập cũng nhiều, ném chuột sợ vỡ lọ quý. Bọn cướp thoắt ẩn thoắt hiện, đâu có chứng cứ nào để mà đòi diệt họ. Thế là mấy năm nay chỉ có thể rào bến sông này lại, kể cũng có nhiều bất tiện."

Chẳng lẽ Hoắc Phương muốn ở lại vì lý do này? Một ý nghĩ lóe lên trong tâm trí hắn. Nhưng dù y có là bang chủ Thanh Hải bang, số người đưa theo tới đây cũng không đủ để đánh trận, huống hồ là tấn công lên nơi mà quân đội Nam Hà cũng đã phải lui bước.

Hắn dõi mắt về thuyền tìm cái bóng to cao của Hắc Hổ. Gã đang ngồi trên sàn thuyền kết lưới. Số lưới Hoắc Phương cấp tốc cho người tìm mua đã được chất đầy thuyền đưa đến đây, huy động người kết lại với nhau thành tấm lớn. Hôm trước tình cờ nhìn vào, hắn còn ngửi thấy mùi diêm tiêu.

Hẳn nhiên, Hoắc Phương không đến nơi này để nghỉ ngơi đơn thuần.

Hắn được câu trả lời ngay đêm ấy. Sau bữa tối chóng váng, toàn đội thuyền tắt đèn đi ngủ. Khu nhà bên bến sông cũng nhanh chóng yên ắng khi những toán quân canh phòng đi giăng dây thép bao quanh khắp vùng. Lửa trên những chòi canh được đốt lên. Trên những vách núi, hắn mơ hồ thấy ánh lửa hắt lại, hẳn là từ một vài ngôi nhà trên ấy. Những ánh lửa lập lòe dường như cũng biến thành màu xanh.

Chỉ có một số ít thuyền bè nghỉ lại qua đêm, do đó, đội thuyền mà Hoắc Phương đưa tới làm bến sông trở nên đông đúc hơn hẳn bình thường. Trên danh nghĩa, y chỉ là một thương nhân, và quả là buổi sáng, thuộc hạ của y đã lên bờ buôn bán, hỏi thăm nguồn hàng như bất cứ một đoàn thương buôn nào. Y nói với chủ quán trọ rằng thuyền gặp chuyện trên biển nên đến trễ, phải ở lại đợi chủ hàng.

Tất cả điều đó, đều khiến kẻ trên núi phải chú ý.

Phòng khách của quán trọ chỉ thắp một ngọn đèn nhỏ bằng hạt đậu. Bạch y công tử khoanh tay ngồi trong góc, đầu cúi xuống như đang ngủ. Ngoài cửa, hai tên canh gác cũng ngồi tựa lưng vào tường, thi thoảng lại liếc nhìn nhau.

Bên ngoài, rừng núi thì thầm. Tiếng côn trùng rền rĩ. Tiếng lá reo trận trận. Tiếng nước chảy rì rầm.

Tiếng chân người đi trên đường đất nhẹ như lá rơi. Khi cánh cửa nhà trọ đã bị đẩy bật ra, hai tên canh cửa mới giật mình cầm lấy vũ khí. Nhưng trước khi nhìn rõ bóng người, đầu chúng đã bị chặt rơi.

Toán người bịt mặt tràn vào phòng trọ nhỏ khi công tử áo trắng vẫn không ngẩng đầu. Nhìn thấy y, gã cầm đầu toán người cau mày. Ra hiệu một nhóm ra sau khu nhà, gã cho một kẻ chậm rãi đến trước mặt y, đao vung lên trong tay, dự định kề vào cổ y trước khi y kịp tỉnh dậy.

Bạch y công tử thở một hơi dài khi chiếc bóng tròn của gã chạm đến chân y.

"Ngươi biết không, ta vốn ghét phải giết đám đầu trộm đuôi cướp." Giọng y nhỏ nhẹ, nhỏ nhẹ như thì thầm.

Lời chưa dứt, ánh kiếm đã loang.

Cánh tay cầm đao của gã đang đến gần y rơi xuống đất, cách bàn chân y trong gang tấc.

Y thu kiếm vào vỏ, nhanh đến mức không ai nhìn thấy cánh tay y cử động trong bóng tối.

Tên bị chém đứt cánh tay dội ngược về sau, mắt mở trừng trừng nhìn phần thân thể bị cắt rời, thậm chí chưa kịp nhận thấy đau đớn để kêu thét. Hoắc Phương không nhìn gã, y đưa mắt về kẻ có vẻ là chỉ huy của toán người. Nhóm người ấy vẫn đứng tại chỗ, một phần như sững ra trước hành động quá đột ngột của y.

"Do lai bích lạc ngân hà bạn, Khả yếu kim phong ngọc lộ thì." Hoắc Phương chậm rãi đọc. Kẻ cầm đầu chớp mắt. Đôi môi có khóe cong của y nhếch khẽ. "Không phải các người đang chờ ta?"

"Chủ tử của các người đâu?" Kẻ cầm đầu nói sau một lúc im lặng. Cả hai ra vẻ như không nghe thấy tiếng nức nở của gã cụt tay đã chạy về phía đồng bọn.

"Chủ tử không đến để dấn thân vào nguy hiểm." Hoắc Phương mờ nhạt cười. "Khi các ngươi không ra đón như đã hứa, các ngươi bảo chúng ta phải nghĩ sao?"

"Chúng ta đang bị bao vây." Gã kia nóng nảy phác tay. "Mấy hôm nay có nhiều kẻ muốn xâm nhập Cẩm Thạch bàn, chúng ta phải tập trung cảnh giác."

"Nhưng vẫn có thời gian đi cướp." Hoắc Phương nhẹ nhàng nói, đưa mắt về phía cửa ra khu nhà trọ phía sau. Người của y đang đem đám đã định bao vây họ trở lại, với đao kề cổ mỗi tên. Gã kia chỉ cười khẽ, không trả lời.

"Chủ tử rất thất vọng về thái độ của các ngươi. Người muốn hỏi, các ngươi có muốn liên kết nữa không? Vân Nam nhiều việc, chủ tử không rảnh để chơi đùa với các ngươi." Giọng Hoắc Phương chợt sắt lại. Y vốn có giọng nói rất mềm mại, khi trở nên nghiêm trọng, nó lại nghe như tiếng kim khí lành lạnh rợn người.

"Những gì chúng ta nói là thật, chỉ là những ngày này chúng ta không thể rời khỏi đây. Đi loanh quanh trong vùng thì có thể, nhưng ra khỏi núi thì sẽ bị bao vây ngay." Tên kia vội vàng nói. "Ta không rành việc của bề trên, nhưng ta vừa nghe được họ đã phái người đi liên lạc với các vị."

"Bề trên?" Hoắc Phương nhè nhẹ nhướn một bên mày. Giọng y nửa chế giễu nửa giận dữ. "Để ta đi gặp bọn họ hỏi cho ra lẽ."

Một lần nữa, tên kia im lặng. Gã chỉ là một đội trưởng thuộc tốt nhỏ, vốn không có quyền quyết định những việc lớn trong giáo. Kẻ này đòi đi gặp bề trên, vào Cẩm Thạch bàn, mà với kiếm pháp vừa rồi, y không phải là kẻ tầm thường. Những ngày này quá nhiều xáo động, một hành động sai lầm có thể dẫn đến hậu quả khôn lường.

"Các hạ có gì cho ta làm bằng?" Cuối cùng, gã hỏi. Hoắc Phương chầm chậm đưa tay vào áo, lấy ra một mảnh ngọc khắc hình hoa lan. Phía sau lưng mảnh ngọc là hình một ngọn lửa đỏ, phản chiếu qua thân ngọc trở thành như đang chuyển động.

Hình ảnh này, gã đã từng thấy trên lễ vật đưa tới Cẩm Thạch bàn trước đây.

Gã thở một hơi dài, đưa tay lên ngực, cúi mình.

"Xin mời các vị lên núi." Gã nói. Và những thanh đao kề cổ đám người xâm nhập từ từ hạ xuống khi Hoắc Phương chầm chậm đứng dậy. Y đã thay tang phục bằng bộ áo trắng gài nút trên bả vai.

Gã trưởng nhóm sau một lúc nhíu mày lại vội vã thêm vào. "Xin các hạ chỉ đưa một vài người theo. Cẩm Thạch bàn nhỏ hẹp, thật không muốn thất lễ khi không thể tiếp đón tất cả các vị."

Hoắc Phương mỉm cười. Y đưa mắt về phía nhóm người của mình. Một vài kẻ tách khỏi đoàn, bước về phía y.

Đang đứng khoanh tay quan sát trong góc phòng, Mạc Kinh Vũ hắn cũng vội nhảy ra theo.

Dù gì, trên đời này hắn vẫn thích nhất là náo nhiệt.

Chú thích:

[1] Bài thơ Tân Mùi thất tịch của Lý Thương Ẩn. Dịch nghĩa:

Hẳn tiên giới thích nhất là biệt ly, 

Nên cách xa mới làm nên thời đẹp. 

Vì đến Bích Lạc mới chạm tới bờ sông Ngân Hà, 

Phải có gió thu giọt ngọc mới tới. 

Giọt thanh chầm chậm rơi trong đợi chờ tương vọng, 

Mây tán chưa tiếp qua trễ tràng. 

Há có thể vô ý quên đền ơn ô thước, 

Chỉ biết đến tri thù mải miết giăng tơ.

[2] Địa thế Ngũ Hành sơn: Nhánh sông Trường Giang là Lộ Cảnh Giang (còn gọi là sông Cổ Cò) chảy từ Kim Sơn đến bên Hỏa Sơn (ứng với "Cần thêm ngọc lộ của kim phong"). Qua thời gian, dòng sông này đã bị lấp. Ngày xưa ở Dương Hỏa Sơn có một ngã ba sông, là nơi trung chuyển nội địa của Hội An và Đà Nẵng.

Hồi 17: Âm mưu

Đường lên Hỏa Sơn đá cao dốc đứng, có nhiều vách đá cao cả trượng hoàn toàn phẳng lỳ, trơn nhẵn, chỉ có cây lá mọc thành từng cụm chen vào giữa các kẽ đá. Con đường duy nhất lên đỉnh núi dành cho các viên tế tự ngày xưa đã bị cỏ cây phủ lấp, đá tảng ngăn chặn. Kẻ dẫn đường cho bọn hắn thỉnh thoảng lại phải phát hiệu cho người trên núi bỏ dây xuống để leo lên.

Theo hắn nghĩ, kẻ này đã đưa bọn hắn đi đường vòng, cốt để không lộ ra con đường lên núi dễ dàng hơn. Cách thức phòng ngừa thường thấy với ngoại nhân này không lấy gì làm lạ.

Bắt đầu lên núi từ nửa đêm, đến sáng bọn hắn mới đến được đỉnh.

Đỉnh núi tương đối rộng, bằng phẳng như đã được san lấp bởi bàn tay người. Choán gần hết diện tích đỉnh núi là một tấm đá cẩm thạch phẳng lỳ, làm nền cho các điện đài chạy dài thành dãy. Vẫn là kiến trúc của người Chiêm Thành cổ, nhưng có đá màu nguyệt thạch trang trí, không giống màu cát vàng mà hắn thường thấy ở các đền đài ven bờ biển. Từng hình vẽ nét hoa chạm khắc trên cột, trên cửa đều tinh xảo phi phàm. Những mái nhà cong như mây vẽ trên nền trời. Những đóa hoa sen khắc trên các bục đá trên sân điện như chứa tinh khí của đất. Điện đài chia làm nhiều tầng cao ngất, từ dưới nhìn lên không thấy đỉnh của điện chính. Cột mái chạm vàng, cây cối sum suê, hoa tươi đua nở.

Nhìn qua, tưởng như thời gian chưa từng chạm đến nơi đây.

Nơi đây, chính là thánh địa của đất nước Chiêm Thành thời kỳ rực rỡ nhất.

Nơi đây, những hoàng đế Chiêm Thành đã từng đến cầu đảo trước mỗi lần xuất trận. Cung vàng điện ngọc, tưởng chừng đâu vẫn nghe được hào khí ngàn năm.

Kẻ dẫn đường để bọn hắn ở lại sân điện rồi cầm miếng ngọc của Hoắc Phương vào báo tin. Một lúc sau, gã trở lại, cung kính mời bọn hắn vào chính điện.

Trên những bậc thang lên chính điện nhìn xuống, hắn nhận ra nhiều mái nhà nằm dưới sườn núi phía sau điện, hẳn là của đám người đang chiếm giữ vùng này.

Núi thâm u, điện đài yên lặng. Không tiếng chuông hay khánh, mõ của các chùa chiền Phật giáo hay nhà thờ Gia-tô thường có, khu điện đài đá im lìm. Những kẻ canh giữ xung quanh điện cũng dường như bất động. Cánh cửa đá nặng nề mở vào một căn phòng âm u tối. Ngoài trời nắng đã lên chói gắt nhưng trong căn phòng đá này nhiệt độ bao giờ cũng mát lạnh.

Căn phòng trống trải. Chính giữa phòng là một bệ thờ. Không có tượng hay hình thiêng tôn giáo như thường thấy, đặt trang trọng trên bệ chỉ là một cây xanh nho nhỏ.

"Đó là gì vậy?" Một người trong bọn không nén được tò mò mà lên tiếng khi kẻ dẫn đường đã lui ra sau báo cáo, để bọn hắn lại trong phòng.

"Cây kraik." Hoắc Phương điềm đạm nói. Y khoanh tay, nhìn lên những mẫu điêu khắc trên mái vòm. Bốn ngọn đèn nhỏ được thắp trong các góc phòng, chỉ đủ để hắt bóng sáng mờ nhạt lại gian nhà giữa. Nhìn lên, mái vòm cong như một vùng bóng tối hun hút sâu.

"Cây lim thần." Hoắc Phương chậm chạp giải thích trước ánh mắt thắc mắc của người kia. "Cây thiêng trong truyền thuyết của người Chiêm Thành, biểu tượng cho sức mạnh và linh hồn của họ."

"Đúng vậy, loài cây này đã chìm nổi cùng lịch sử đất nước." Một giọng nói phát ra từ phía sau phòng tiếp lời Hoắc Phương. Một thân ảnh đứng khuất trong bóng tối từ từ tiến lại phía đám người vừa tới, vài mảnh vàng trên áo lấp lánh khi cử động. Giọng nói không già không trẻ, phát âm tiếng Tàu hơi cứng nhưng rõ nghĩa. "Nên công chúa Đại Việt đã làm mọi cách đốn ngã cho bằng được nó, khởi đầu cho thảm cảnh của dân tộc ta."

Người ấy đã đi vào vùng sáng. Nửa khuôn mặt được ánh lửa chiếu sáng mang màu da như đồng hun, những nếp nhăn xếp lớp như vân trên thân cây cổ thụ. Một vẻ ngoài già hơn hẳn giọng nói của ông ta. Giọng nói không to không nhỏ nhưng vang rõ ràng đến từng ngóc ngách, từng tâm người trong phòng, như thể ông ta nói ngay bên cạnh họ.

"Công chúa Đại Việt được gả đến đây đổi lấy hai châu Ô, Lý. Nhưng thế vẫn chưa đủ, nàng ta giả bệnh, đem bánh tráng rải xuống giường rồi lăn qua lăn lại, làm như tiếng xương vỡ, quyết ép cho được đức vua Chế Mân phải chặt cây thần." Ông ta vẫn vừa đi lại vừa nói, đều đều. "Cây thần đã khóc, cây thần cố chống cự lại toán quân đến đốn, cây thần đã nhỏ cả huyết lệ khóc than rền rĩ. Nhưng với sự si cuồng của nhà vua, cây thần đã phải gục ngã trong bể máu. Bể máu của muôn vạn con dân Chiêm Thành quốc.

"Nhưng cây thần vẫn luôn phù hộ Chiêm quốc, mặc cho những gì đã phải gánh chịu. Gỗ của cây thần được đem đi đóng thuyền - Chiếc thuyền đã đưa vua Chế Bồng Nga vượt biển khơi phá hủy kinh đô Đại Việt. Chiếc thuyền bách chiến bách thắng của nhà vua đạp lên những con sóng của biển khơi, đốt sạch Thăng Long. Chỉ là nhà vua quá kiêu hãnh, quá tự cao về những chiến công mà không chịu nghe lời kraik. Khi biết quân địch đóng cọc ở cửa sông, cây thần đã cho thuyền dừng lại. Nhà vua thấy thế lại đâm giận dữ, rút kiếm chặt đứt đoạn đầu thuyền, nơi linh thiêng nhất của cây thần. Đó là cái chết của kraik. Cái chết của vua Chế Bồng Nga. Cái chết của đất nước Chiêm Thành.

"Kraik đã chết, đã chết rồi. Những gì chúng ta còn lại là mầm non yếu ớt đây." Bàn tay như thân gỗ của ông già chỉ về phía cây thiêng trên bệ thờ. "Linh hồn của chúng ta, sức mạnh của chúng ta vẫn còn sống thì Chiêm quốc không diệt vong.[1]"

Ánh lửa đã soi sáng toàn thân ông lão vừa tới. Ông ta ăn mặc như các tăng lữ Hồi giáo với khăn xếp đội đầu, toàn thân áo trắng như tuyết viền chỉ đỏ. Ánh mắt ông ta quét qua đám người đang đứng giữa phòng, dừng lại ở Hoắc Phương. Trong bọn, chỉ có y mặc như một người Hồi[2] thực sự.

"Thờ cây thần?" Nhận thấy ánh mắt của ông lão, Hoắc Phương vẫn khoanh tay đứng yên, một bên mày y hơi nhướng lên. "Ta cho rằng đạo giáo của chúng ta vẫn cấm thờ ngẫu tượng."

"Đạo giáo của chúng ta cấm thờ thần linh khác, không cấm có thêm một tình cảm thiêng liêng khác." Ông lão chậm chạp mỉm cười. "Vả lại, như chúng ta đã kể với các vị trước đây, con đường chúng ta đi có đôi chút khác biệt.

Trước khi đạo của chúng ta đến đây, vùng đất này đã nằm trong sự thống trị của tôn giáo từ Ấn Độ. Chúng ta, những người Chiêm, xung đột với nhau liên tục. Nhà vua xung đột với các tăng lữ, các tăng lữ xung đột với nhau, người dân xung đột với người dân, người dân xung đột với nhà vua, quý tộc... Cứ như thế, như đất nước Chân Lạp vài chục năm trước - khi nhà vua trẻ muốn cải đạo đã làm chúng dân giận dữ, khiến cho quân Nguyễn có cớ xâm nhập lật đổ ngôi vua - chúng ta cũng tranh chấp và suy yếu y như thế. Cũng y như thế, chúng ta mất nước. Lần này, ta không muốn tiếp tục xung đột. Phật giáo hay Bà-la-môn hay Hồi giáo, chúng dân Chiêm Thành là một."

"Nghe thì thật là hay, nhưng bây giờ chúng ta chỉ thấy một nhóm người rút vào trong núi, thậm chí không dám ló mặt ra ngoài." Hoắc Phương thở ra khi y nhún vai. Nụ cười trên khuôn mặt y vẫn hòa nhã mặc cho sự chế nhạo trong câu nói. Y tuổi còn trẻ nhưng tư thái ẩn tàng một sự cô ngạo khiến kẻ khác không thể khinh nhờn. Giọng nói của y nhẹ bỗng, như thể một người trên cao nói xuống. "Mà xin hỏi, chẳng hay tại hạ đang được tiếp chuyện với vị lão sư nào?"

"Ở đây không gọi là lão sư, mà là thầy." Ông lão cũng chẳng tỏ vẻ phật lòng trước sự kiêu ngạo của tên thanh niên trước mặt. Ông ta hơi nghiêng đầu như một cái chào. "Ta là thầy Mum của chùa này."

"Chào thầy." Hoắc Phương gật đầu đáp lễ, tư thế cũng chẳng hạ mình thêm chút nào. Y mỉm cười. "Tại hạ muốn gặp thầy Cả của chùa, chẳng hay có được chăng?"

"Thầy Cả đang cầu nguyện." Ông lão tự xưng là thầy Mum kia nói. "Tuy chúng giáo trong vùng đã bỏ thói quen cầu nguyện, thầy Cả vẫn giữ phép xưa."

"Vậy chúng tại hạ xin đợi thầy." Hoắc Phương liếc mắt ra ngoài cửa mà nói. Y như mặc nhiên cho rằng không có chuyện gì để nói với viên chức sắc thứ hai của nơi này.

Thầy Mum chỉ lặng lẽ gật đầu, vỗ tay ra hiệu cho một vài người khác đến đưa bọn người vừa tới ra sau điện nghỉ ngơi. Ông ta cũng rút lui ngay sau đó.

Ngồi trong hàng hiên lát đá, dưới tán cây dày, Hoắc Phương cũng chỉ lặng lẽ uống trà. Loại trà thượng phẩm của phương Bắc, hẳn là lấy được từ những chuyến hàng qua sông.

Bên ngoài hiên trông ra khoảng trời dưới núi. Ngũ Hành sơn cảnh đẹp như tranh. Gió lồng lộng thổi. Nghe tiếng lao xao từ vách núi sau điện, hẳn có rất nhiều người sống nơi đây. Nhìn xuống chỉ thấy rừng nối tiếp rừng, đá nối tiếp đá, như một thế giới lạc giữa trời.

Khi lên nơi này, bọn hắn phải nhờ đến sự tiếp sức của kẻ trên núi. Hẳn nhiên, người bên dưới khó có thể tự lực trèo lên, huống hồ là dùng một đội quân tấn công.

Hoắc Phương mặt không một biểu cảm, điềm nhiên mà ăn uống. Những kẻ xung quanh y không thể đừng mà thỉnh thoảng đưa mắt nhìn nhau.

Chợt từ phía bên kia núi, tiếng tiêu vẳng đến. Ban đầu rất nhỏ, rồi ngày càng cao lên theo gió. Tiếng tiêu trong vắt như phượng hót suối reo, thong thả điềm nhiên lan trong gió núi. Tưởng xa tít ngàn mây, tưởng gần ngay trước mắt.

Người thổi tiêu hẳn nhiên phải đứng rất xa, nhưng tiếng tiêu lại rất gần. Thanh âm như từ trời cao vọng xuống. Theo nắng chiếu qua tán lá, lấp lánh ánh dương quang.

"Kẻ ấy vẫn ở đây." Tiếng nói chợt vang lên từ đầu bên kia hàng hiên. Một người đàn ông đang tiến về phía họ. Vẫn phục trang của chức sắc Hồi giáo trắng tinh, làn da ngăm ngăm như đồng, ông ta trẻ hơn người vừa tiếp họ. Nhìn ông ta, hoặc nghe chất giọng ông ta nói, hắn chợt có ý nghĩ rằng ông ta không phải người ở vùng này.

Bước chân nhẹ bỗng, ông ta đến tận đầu hành lang mà không ai trong bọn hắn nhận ra. Dưới chiếc mũ đội đầu, mắt người đàn ông sáng như hai ngọn lửa lạnh. Khi nói, những đường nét trên khuôn mặt ông ta không cử động, như thể đã đông cứng, đã được tạo thành và không thể thay đổi. Dù nói dù cười, không có trạng thái nào được biểu hiện trên khuôn mặt ông ta, như thể cả khuôn mặt là một lớp mặt nạ. Thứ duy nhất có sự sống trên đó chỉ là đôi mắt tỏa ra ánh nhìn sáng rực mà lạnh lùng.

"Hắn ta vẫn chưa chịu đi." Vẫn nhìn ra ngoài xa, người đàn ông vừa tới nói.

"Ai vậy?" Khóe miệng Hoắc Phương hơi cong lên. Y đã lấy lại thái độ ngạo nghễ, khoanh tay nhìn người đàn ông mà hỏi.

"Kẻ đang bao vây nơi này." Ông ta nhún vai, bước lại gần bọn hắn, ngồi xuống sàn cạnh bữa trà đã dọn. "Mỗi lần hắn thổi tiêu là khi bọn hắn bắt được một người trong chúng ta."

"Ồ?" Hoắc Phương nhướn mày. Nhưng người đàn ông đã lắc đầu.

"Tất cả bọn họ đều tử vì đạo, không có gì phải lo." Ông ta nói, đưa tay lấy một chiếc bánh trong đĩa. "Việc nơi này bị bao vây là chuyện thường xuyên xảy ra, chỉ cần đợi bọn chúng nản lòng rút lui là ổn."

"Hóa ra người nơi này sống như chuột thế à?" Hoắc Phương cười khẽ. Mắt người đàn ông lóe lên tia giận dữ, nhưng rồi ông ta cũng chỉ nhếch môi cười. Nụ cười trên khuôn mặt trơ trơ trở thành thập phần quái dị, khiến người nhìn thấy phải âm thầm nổi gai ốc.

"Ở Vân Nam, các vị chẳng phải cũng bị quân triều dồn vào núi, trốn chui trốn nhủi?" Ông ta hừ khẽ. "Để làm được đại sự, cần phải biết bảo toàn lực lượng."

"Tại hạ chưa thấy một khả năng làm đại sự nào." Giọng Hoắc Phương vẫn nửa như giễu cợt, nửa như uể oải. Y ngả người nằm xuống sàn đá, chống đầu lên tay mà nheo mắt nhìn nắng, ra vẻ chẳng hề quan tâm đến người trước mặt. "Vượt qua ngàn dặm đến đây, chỉ thấy một cái đền cũ trên đá, thật muôn phần thất vọng."

Hắn phải thừa nhận một điều, lúc này y rất có tư chất của tiểu yêu tinh kia.

"Không ai tập trung lực lượng một chỗ để người khác dễ dàng đánh bẫy tất cả, chàng trai." Người đàn ông kia nheo mắt nhìn y. Bề ngoài yếu đuối mà thái độ lại kiêu ngạo xốc nổi, y tạo ra ấn tượng về một chú ngựa non háu đá vốn chẳng hiểu gì về nhân tình thế thái, tuy cao ngạo nhưng trẻ con, tưởng như chỉ cần nắm là gãy. Ông ta âm thầm thở ra. Nhóm Hồi giáo ở Vân Nam nghe nói rất nghi ngờ về kết quả kết hợp với nơi này, hẳn nhiên chỉ phái tới những tên sứ giả trẻ tuổi nông nổi. Tuy vậy, khả năng thuyết phục được những kẻ nông nổi lại cao hơn so với những tay cáo già.

"Các hạ có thấy địa thế nơi này?" Ông ta tiếp tục nói khi mi mắt Hoắc Phương chớp nhẹ. "Nơi này nằm giữa cửa Đại Chiêm và Hội An, tựa như chắn giữa huyết mạch thông thương của toàn Quảng Nam. Từ nơi này, muốn phóng mũi tấn công đi bất cứ nơi nào đều có thể. Phía Nam thì thu tóm Hội An, phía Bắc thì diệt thủy quân Nam Hà ở Đà Nẵng. Quảng Nam này hiện nay là nguồn sống của toàn Nam Hà. Nếu chỉ nhờ vào chút ít lúa gạo, các chúa Nguyễn lấy đâu ra gươm đao súng ống mà đánh nhau với Trịnh, thôn tính Chiêm Thành? Chẳng phải người bên ngoài nhắc đến Nam Hà chỉ biết tới 'Quảng Nam quốc'? Giữ được Quảng Nam, phía Nam Quy Ninh đến Phú Yên là đất tiếp giáp với Panduranga, xem như nằm trong tay ta; phía Bắc Thuận Hóa, Quảng Bình co cụm sau đèo Hải Vân, xem như không còn đáng kể. Mà đã bị chặt đứt nguồn sống ở Quảng Nam, triều đình Nam Hà chỉ là ngọn đèn trước gió, kinh tế khủng hoảng thì sống làm sao?"

"Nói thì hay, nhưng nếu Quảng Nam dễ chiếm như thế, e rằng không đợi đến một nhóm người lẩn trong núi thế này." Hoắc Phương khinh khinh mạn mạn nhếch môi, vẫn không nhìn lại.

"Người ở đây có câu: Một cây làm chẳng nên non. Các hạ biết ta đã liên lạc được với những ai?" Người đàn ông gằn giọng. "Một người thì không thể làm nên đại cuộc, mà phải hợp sức của nhiều người. Chúng ta chỉ là một nhóm người trên núi, nhưng chúng ta là đại diện cho tinh thần của vạn người Chiêm Thành vẫn còn ước mong phục quốc sống khắp nơi trên đất này. Vả lại, mấy năm nay ta chiếm giữ nơi đây, không phải chỉ để cướp thuyền bè qua lại. Các hạ biết ta đã gặp những người nào?

"Đài Loan tan vỡ dưới sức tấn công của Thanh triều, bọn họ đi đâu?" Người đàn ông nghiêng người về phía Hoắc Phương. Y đã quay đầu nhìn lại ông ta, lần đầu tiên sự chú ý ánh lên trong mắt. "Khắp nơi trên bờ biển này trở thành bến đỗ của tàu thuyền lạ. Đoàn người Minh Hương kia đến trú ngụ tại Đông Phố lại không trở thành sức hút? Vả lại, có người Hán nào thực lòng cam tâm bị kẻ xa lạ bắt gọt tóc, mặc kỳ bào? Minh quốc và Chiêm Thành quốc, chẳng phải là có cùng một số phận? Ngày xa xưa kia, chẳng phải Chiêm Thành đã từng hợp lực cùng nhà Minh tấn công Đại Việt?"

"Vì vậy, ông cho người tới Vân Nam?" Hoắc Phương chậm chạp buông từng chữ. "Ông muốn dựa vào lực lượng người Hán ở Quảng Nam chiếm lấy mảnh đất này, rồi cùng vương tộc tại Panduranga chiếm lại đất đai, làm bàn đạp tấn công lên người Kinh? Đài Loan đã mất, ông định biến vùng biển này thành nơi tụ họp mới của quân phục Minh?"

"Nơi này cách xa Đại Thanh, Thanh triều không thể vươn tới khi còn một Đại Việt chắn ở giữa. Thanh triều không giỏi thủy chiến, rất ngại đánh trận trên biển. Đến tận khi Trịnh Thành Công chết, Đài Loan rối loạn, chúng mới dám ra chiếm đảo - cùng với lực lượng của Ô Lan." Người đàn ông mỉm cười, âm thầm thích thú trước vẻ mặt của Hoắc Phương. "Chúng ta hợp tác. Chiêm Thành lấy lại đất nước, người Minh có được một cơ sở để mưu đồ phục quốc lâu dài. Với đạo giáo của chúng ta mà nói, đây chẳng phải là cơ hội phát triển khắp vùng biển Đông? Với người Vân Nam mà nói, đây chẳng phải là cơ hội giành được độc lập?"

"Vậy ông đã liên hệ được với những ai?" Hoắc Phương nheo mắt, trở lại thái độ cợt nhạo. "Tại hạ chưa từng nghe thấy rằng người Hán tại Hội An có động tĩnh gì."

"Có những chuyện không như ý." Người đàn ông thở ra, ngồi thẳng lên. "Bọn họ đánh nhau, rồi lực lượng sứt mẻ. Nhưng ta tin rằng với làn sóng di cư của người Minh hiện tại, họ sẽ thay đổi. Nên ta mới liên hệ với Vân Nam, mong rằng các vị sẽ giúp ta. Người theo Ấn giáo ở Tàu thì ít, nhưng người Hồi rất nhiều. Phía Nam có Vân Nam, Nam Cương, phía Bắc có Mông Cổ, phần tiếp giáp với Nga La Tư. Quân đội Thanh đang đánh nhau với Nga La Tư, Mông Cổ đang đòi độc lập, người Hồi khắp nơi đang vùng dậy. Lực lượng phục Minh tản mát khắp nơi vì không có kẻ hiệu triệu, tin rằng lúc này chỉ cần một tiếng gọi, sẽ tập hợp được không kém gì tại Nam Kinh năm nào."

"Cắt đứt yết hầu của Quảng Nam, phá tan thủy quân của Nam Hà, kết hợp với Panduranga lập lại Chiêm quốc, liên kết lực lượng phục Minh đánh lên Đại Việt, kết hợp cùng người Hồi quấy phá khắp Thanh triều. Quả là một ý tưởng không tồi." Hoắc Phương âm trầm cười. Y ngồi thẳng người dậy, nghiêng đầu nhìn người đàn ông đã nói chuyện với mình. "Nếu tại hạ không lầm, ông là thầy Cả ở đây?"

"Đúng vậy." Người đàn ông gật đầu. "Xin cho hỏi quý tính các hạ?"

"Tại hạ họ Chu, tên Cảnh." Hoắc Phương cười thành tiếng, mềm mại cầm ly trà đưa lên trước mặt. "Rất vui được gặp thầy. Mong rằng từ nay còn được thầy chỉ bảo nhiều."

Chú thích:

[1] Hai câu chuyện về cây kraik nằm trong kho tàng cổ tích của Chăm.

[2] Cư dân Chiêm Thành chia làm 2 bộ phận tôn giáo: Bà-la-môn và Hồi giáo. Người Chăm theo Bà-la-môn gọi là Chăm Bà-la-môn, người Chăm theo Hồi giáo gọi là Chăm Bà-ni. Hồi giáo đã truyền vào Chiêm Thành khoảng thế kỷ thứ 9-12 qua con đường giao thương với người Ả rập, Java. Sự phát triển của Hồi giáo trong xã hội Chiêm Thành đã gây ra khá nhiều xung đột với tôn giáo Ấn Độ bản xứ. Qua các câu chuyện truyền thuyết, có lẽ Hồi giáo đã thắng thế vào giai đoạn cuối của đất nước Chiêm Thành. Xung đột tôn giáo này được cho là một nguyên nhân khiến Chiêm Thành suy yếu, dẫn đến diệt vong.

Đạo Hồi của Chiêm Thành được bản địa hóa khá nhiều. Nơi thờ tự không gọi là đền mà là chùa. Các chức sắc trong chùa cao nhất là thầy Cả, sau đó là thầy Mum, dưới nữa là thầy Chang. Chùa thờ linh vật là cây thần trong tín ngưỡng Chiêm. Và người Chiêm vẫn theo chế độ mẫu hệ.

Hiện nay, theo một số nguồn tin, người Hồi giáo ở Việt Nam có khoảng chừng 30-50 ngàn người, kể cả người Chăm Bà-ni và người Chăm Islam (có nguồn gốc Java) cùng người mới theo đạo.

Hồi 18: Ma vương

Trước đây Hoắc Phương lừa được Trần Long lẫn cả bang hội của chính mình, vốn không chỉ nhờ vào vài màn kịch đơn thuần.

Vốn y không diễn, mà y sống đúng y như vai diễn.

Với những kẻ có chút khôn ngoan lịch duyệt giang hồ, hẳn nhiên họ phải yêu cầu thêm chứng cứ và manh mối của những gì kẻ tự xưng là thầy Cả đã kể. Nhưng trong vai một tên sứ giả nông nổi kiêu căng, Hoắc Phương tuyệt nhiên không hỏi đến, không bận lòng điều tra tìm hiểu. Ngược lại, y một người xướng một người họa với thầy Cả của chùa, đến cuối buổi thì không chỉ hai người mà cả đám người nghe xung quanh cũng đã tưởng họ sắp tiến quân vào Tử Cấm thành Bắc Kinh đến nơi.

Sau bữa ăn trưa, Hoắc Phương xin đi nghỉ, và quả thật y đã ngủ thẳng đến chiều tối.

Sự việc tiếp diễn đến ngày thứ năm thì hắn đã buộc phải thắc mắc mục đích của y khi lên núi. Không ăn và ngủ - mượn cớ mệt mỏi khi đã đi một quãng đường dài đến nơi này - thì y lại ngồi bàn chuyện trên trời dưới biển với thầy Cả. Hóa ra y biết khá nhiều về Hồi giáo, đọc được cả kinh của đạo này. Thầy Cả muốn tạo ấn tượng với y, đem tất cả lịch sử trên dưới năm trăm năm của đạo Hồi đất Chiêm Thành ra kể, câu chuyện kéo dài lê thê từ sáng đến tối. Hoắc Phương vừa nằm vừa ăn vừa thỉnh thoảng phụ họa bằng đôi ba câu chuyện tương tự ở vùng Nam Cương mà trời biết là có thật hay không.

Trước đây hắn đã cho rằng tiểu yêu tinh là hồ ly, nhưng nhìn biểu hiện của Hoắc Phương hiện tại, hắn nhận ra rằng y mới đích xác là đại hồ ly.

Thái độ của y, cuối cùng đã làm cả thầy Cả, thầy Mum lẫn các thành viên từ trên đến dưới trong khu đền đài này, bực mình không biết đâu mà kể.

Rốt cuộc, đám sứ giả từ Vân Nam được mời đến đây để bàn chuyện kết liên, ít thì đưa người tới giúp đỡ, nhiều thì tài trợ tạo thành tổng đà bang hội giáo phái giúp đỡ lẫn nhau - Chứ tuyệt nhiên không phải để một tên nhãi ranh coi nơi này như một chỗ nghỉ mát, tỉnh thì ăn uống tán ngẫu, chán thì lui về ngủ, không thì cũng ngắm trời ngắm đất ra chiều tương đắc. Ban đầu y viện cớ thể chất yếu đuối thì còn có thể chấp nhận, nhìn y quả thật như chỉ cần ra gió là ngã. Nhưng đã đến ngày thứ năm, khi tiếng tiêu vẫn thỉnh thoảng cất lên từ bốn phía núi, khi đôi lúc có tiếng nổ vọng lên từ đây đó, khi người nơi vách đá không thể giấu được nét căng thẳng - thì sự thản nhiên nhàn nhã của y quả là chọc vào mắt người khác. Y làm như mọi sự không liên quan đến mình, thậm chí đôi khi còn lộ ra vẻ thích thú như đang quan sát xem đám người này có thể chống đỡ được đến đâu.

Cuối cùng, thầy Cả đã phải ngưng lại tất cả những câu chuyện lịch sử dài lê thê, kéo y ra khoảng đất sau điện, nơi dẫn đến một tòa nhà đá nhỏ, quanh năm đóng kín cửa. Cũng giống như điện thờ chính, gian nhà bên trong trống rỗng, chỉ có một bệ thờ. Trên bệ thờ đặt một chiếc hộp gỗ dài.

Không nói không rằng, thầy Cả đến trước bệ thờ quỳ xuống làm lễ rồi cung kính mở hộp gỗ. Trong căn phòng tối, thứ trong hộp phát ra ánh sáng xanh lập lòe.

Lưỡi kim khí phát sáng trong bóng tối như nguyệt quang trên sông lạnh, như ngọc bích trên biển khơi.

Thầy Cả cầm lên một thanh đao lớn, toàn thân phát ra ánh xanh dìu dịu lạnh như nước. Trên thân đao hiện rõ những đường khắc tương tự như các hình vẽ trên đá của đền. Chuôi đao hơi cong, cuối chuôi có hình như đầu một con vật nửa rồng nửa rắn, nạm ngọc lấp lánh. Toàn cây đao tỏa ra làn sát khí bức người, khiến người nhìn vô thức mà toàn thân phát lạnh.

"Thanh long đao của vua Chế Bồng Nga." Thầy Cả nhỏ nhẹ nói, thích thú quan sát sự kinh ngạc trên gương mặt Hoắc Phương. "Cây đao thần trong truyền thuyết đã cùng đức vua bách chiến bách thắng, kẻ thù chỉ giết được ngài bằng đạn bắn từ xa. Sau cái chết của nhà vua, thanh đao đã thất lạc. Vài trăm năm sau, khi chúng tôi lên đỉnh núi này, lại phát hiện ra thánh đao trong một giếng cổ."

"Sao các vị biết đây là đao của vua Chế Bồng Nga?" Hoắc Phương mỉm cười, tuy mắt vẫn không rời khỏi cây đao. Y như đã bị hút hồn vào thứ sát khí tỏa sáng trên nó.

"Trên thân đao là câu chuyện thần Po Inư Nưgar sáng tạo ra đất nước, viết bằng chữ akhar thrah." Thầy Cả đều đều nói. "Ngài là bà Chúa Xứ, sinh thể sống duy nhất khi vũ trụ còn sơ khai, đã tạo ra thần cha Ppo Yang Amư sáng tạo muôn thú và viết sử, Ppo Alwah dùng châu thân hóa thành thánh đường dạy giáo lý cho chúng dân Bà-ni, Ppo Debita Swơr hóa mâm thờ để coi sóc cho chúng dân Bà-la-môn. Đây là câu chuyện cổ xưa nhất trên toàn cõi này để nhắc nhở rằng chúng dân Chiêm Thành vĩnh viễn là một, từ một mẹ sinh ra. Thánh vật này là lời nhắn gửi của thần mẹ Ppo Inư Nưgar đến cho con cháu rằng khi đoàn kết một lòng, sức mạnh của người Chiêm Thành sẽ thắng được bất cứ thế lực nào. Đó là sức mạnh của đất mẹ. Sức mạnh hủy diệt bất cứ kẻ thù nào của người Chiêm Thành.

"Đức vua Chế Bồng Nga đã cầm thanh đao này, đi trên con thuyền bằng gỗ lim thần chinh phục Thăng Long. Vì những kẻ đánh lén và phản bội, nhà vua bị giết. Nhưng dù đầu đã bị chặt rời khỏi cổ, nhà vua vẫn chưa chết. Thân xác ngài trôi về quê hương, định trước sẽ lại tái sinh. Nhưng đám trẻ chăn trâu ở bờ biển không hiểu ngài, lên tiếng chế nhạo, phá hủy linh hồn còn sót lại của ngài, làm ngài gục ngã. Nơi ngài ngã xuống - là bờ biển Panduranga.[1]"

"Thanh đao đã trở về với Chiêm Thành quốc, khi vận mệnh đất nước đang đến hồi tuyệt vọng ở Panduranga." Thầy Cả nghiêm trang nói khi Hoắc Phương vẫn im lặng. "Nhà vua Bà Tranh đang cố kháng cự ở vùng đất Panduranga. Người Chiêm Thành với hàng ngàn năm lịch sử, với những lần chống giặc Việt và Tàu, đánh bại Mông Cổ ở phương Bắc, đẩy lui Chân Lạp, Chà Và ở phương Nam - Chúng ta không bao giờ chịu cúi đầu khuất phục. Mỗi khi vận nước nguy cấp, thanh long đao này sẽ trở lại, sẽ đòi lấy máu của kẻ thù Chiêm quốc. Linh hồn của nhà vua Chế Bồng Nga vẫn còn ở Panduranga, chừng nào chúng dân Chiêm quốc còn tin tưởng thì ngài vẫn còn sống. Nơi ấy sẽ bảo hộ cho chúng dân Chiêm quốc, đời đời."

"Thanh đao này có sức mạnh gì?" Hoắc Phương hỏi, một lúc sau. Giọng y mất đi sự lơ đãng thường ngày, có vẻ thực sự quan tâm vào câu chuyện thầy Cả đang kể. Thậm chí y không thử đưa tay chạm vào cây đao, chỉ đứng nhìn.

"Bách chiến bách thắng." Nụ cười kỳ quái lại đến trên khuôn mặt trơ cứng của thầy Cả. "Một đao vung lên, lấy vạn mạng người. Thần đao sống bằng máu và linh hồn của kẻ thù. Mỗi lần long đao xuất hiện, thiên hạ biến loạn, máu chảy thành sông, thây chất thành non. Ta để thần đao trên đỉnh núi này là để khí thiêng của năm ngọn núi thánh áp chế sát khí. Kẻ nắm thần đao trong tay có thể trở thành bá vương mà cũng là ma vương."

"Bá vương hay ma vương, cũng đáng để người sống trong thời đại này thèm khát." Hoắc Phương mờ nhạt cười. "Mà với con dân Chiêm quốc, vật này còn có sức kêu gọi hơn muôn vạn lời."

Thầy Cả không đáp lời y. Ông ta quay lại cất thanh đao vào hộp gỗ, kính cẩn cúi lạy lần nữa rồi mới dẫn Hoắc Phương ra ngoài.

Y trầm ngâm đi, tay khoanh lại trước ngực, đầu hơi cúi xuống. Thầy Cả cũng im lặng không nói. Cả hai xuống những bậc đá, đi về phía rìa đỉnh núi, nơi nhìn xuống vực sâu. Chiều đang buông ánh hồng đỏ ối, gió lồng lộng thổi.

"Có một chuyện tại hạ phải nói thật với thầy Cả." Hoắc Phương lên tiếng, một lúc sau. "Tổng đà tại Vân Nam vốn không hề có ý liên kết với Đại Chiêm. Nơi này quá xa xôi, lại cách trở hẳn một đường biển. Bắc Hà được Đại Thanh ra sức lấy lòng đã không dung chấp những người kháng Thanh, việc đến Đại Chiêm càng khó khăn hơn. Tại hạ đi lần này, chỉ là đưa chủ tử đến trú lánh tạm thời tránh sự càn quét của Thanh triều."

"Ta cũng cho là thế." Thầy Cả nhẹ nhàng nói. Thái độ của Hoắc Phương mấy ngày nay, không cần nói thì ai cũng hiểu y chẳng có ý định nghiêm túc nào.

"Nhưng quả thật lời thầy nói rất có ý nghĩa." Hoắc Phương ngẩng nhìn trời, đôi mắt vốn xa xôi của y tối lại theo ánh nắng. "Quảng Nam là địa phận quan trọng nhất của Nam Hà, đất đai nơi này lại đang đầy xáo trộn, dù không định dùng đến nơi này làm căn cứ, cũng nên theo lời thiên sứ mà giúp đỡ anh em đồng đạo. Vả lại, Nam Hà xáo trộn, Bắc Hà có thể nhân cơ hội mà giải quyết tranh chấp xưa nay, trả mối thù thua trận mất đất, Vân Nam lại có thể lấn thêm một vùng, lại đỡ một áp lực.

"Vấn đề cơ bản là thực lực cùng tiếng tăm nơi đây." Hoắc Phương nhè nhẹ thở ra. "Dù nơi này có được gọi là thánh địa của Chiêm quốc, cũng đã cách mấy trăm năm rồi. Người Chiêm quốc hiện nay chỉ biết đến thành Đồ Bàn, đến vương tộc ở Panduranga. Long đao dù quý mà vẫn bị phong ấn trên đỉnh núi, trong hầm tối, thì có nghĩa gì? Thậm chí, người Chiêm Thành đã mấy ai biết đến nơi này, biết ở đây gồm có những ai?"

"Chúng ta đang trong lúc tập hợp lực lượng, không thể đánh động quá nhiều. Quảng Nam quan trọng với triều Nguyễn như thế, nếu biết chúng ta ở đây, chúng dù có phải phá sập cả Ngũ Hành sơn cũng sẽ diệt cho bằng được." Thầy Cả nhẹ lắc đầu. "Vì thế ta mới phải cho người xuống cướp bóc, dù có một phần là vì nhu cầu bản thân. Mấy năm nay từ khi Đài Loan thất trận, ta đã lao tâm kết liên xây dựng lực lượng, lôi kéo người Hán ở Hội An. Nào ngờ, vì những tranh chấp bè phái, bọn họ đánh giết nhau mà suy bại."

"Tại hạ nghe nói năm trước quân triều đã định đánh lên đây, thì không hẳn chúng không biết trên đây gồm những ai." Hoắc Phương mơ hồ cười. "Thầy Cả có vẻ còn không quen thuộc lắm với những thủ đoạn bình định của binh tướng triều đình. Tại hạ cho rằng, nếu không phải vì biết trên đây gồm những ai, chúng đã phá sập cả Ngũ Hành sơn chứ không cam lòng rào bến sông quan trọng nhất Quảng Nam lại. Năm nào, khi bình định Giang Nam, một thành nọ chống cự với quân Mãn được tám mươi ngày. Khi hạ thành, quân Mãn bắt đầu tàn sát dân chúng trong vòng suốt ba ngày: Gần mười vạn người trong thành, tám vạn người ngoài thành bị giết.

"Để dập tắt các cuộc kháng cự, giữ vững sự thống trị của mình, bất cứ kẻ nào cũng sẽ hành động như thế." Nụ cười của Hoắc Phương càng rõ trước ánh mắt của người bên cạnh. "Nếu các vị không có lý do khiến cho bọn chúng chùn tay, e rằng chúng đã đốt sạch nơi này, biến các vị thành Giới Tử Thôi[2] rồi. Khi tại hạ đến đây, chỉ nghe nói về bọn cướp trên Cẩm Thạch bàn chứ không hề nghe thấy nghĩa sĩ trên Cẩm Thạch bàn. Coi bộ, chúng đã lộng giả thành chân, đem thứ tiếng tăm không hay kia mà áp chặt lên các vị. Không thể giết người thì chúng giết tên. Tên mất, người sống còn có ý nghĩa gì? Chỉ e rằng, một ngày kia thầy Cả dương đao lập oai, lên tiếng gọi người, chúng dân chỉ biết đến thầy là một tên sơn tặc đang thừa cơ gây loạn, kết liên với ngoại nhân mà hại dân hại nước.

"Mà tại hạ trở về Vân Nam bây giờ cũng khó lòng ăn nói lắm thay." Hoắc Phương thở dài, buông một câu cuối cùng. Y cau mày lắc đầu ra chiều khó xử.

Đôi mày thầy Cả cũng cau theo. Những gì Hoắc Phương nói quả là có một phần sự thật. Trầm ngâm một lát, ông ta tặc lưỡi.

"Nếu như chúng biết chúng ta là ai mà vẫn chỉ đứng dưới núi vờn đuổi thì cũng chẳng phải là kỳ lạ sao?"

"Vì chúng không muốn sự việc phát lộ ra ngoài." Hoắc Phương ra chiều suy nghĩ nói. "Vùng này người Chiêm rất nhiều, các thánh địa Chiêm quốc nằm khắp vùng, từ cửa Đại Chiêm cho đến Mỹ Sơn, Nguyễn quân không hề đụng tới chẳng phải là vì sợ phản ứng của chúng dân? Ngày nay các vị ở trên thánh địa mà thờ thần, chúng lại đi đàn áp thì chẳng phải khiến cho người người phẫn nộ? Tấn công nhanh chóng lên không được, chúng chỉ đành gây áp lực khiến các vị ngã lòng, hy vọng tìm một cơ hội diệt trừ. Thủ đoạn này, Thanh triều vẫn làm ở Vân Nam. Tấn công không được thì chiêu hàng, chiêu hàng không được thì thực hiện cách 'Rút củi dưới đáy nồi'[3], hòng triệt tiêu lực lượng, ép kẻ chống đối vào suy yếu mà bại vong. Chúng cứ lởn vởn ở đây, ra tay bất ngờ, mỗi lần bắt được người lại thổi tiêu làm hiệu, chẳng phải là đang muốn làm lung lạc tinh thần giáo chúng? Thầy Cả đức cao vọng trọng, quanh năm ở trong chính điện, e rằng không hiểu được cảm giác của những thành viên phải lao mình đi lại trong núi, đương đầu với hiểm nguy. Về lâu về dài, e rằng không hề có lợi. Bên ngoài thì không tổn hao nhưng e rằng bên trong đang tan rã dần dần."

Y cứ chậm rãi mà nói, từng lời từng lời đều như từ trong tâm phát ra, mỗi lời đều như đang vạch đường mà đi, đưa ánh sáng rọi đến chỗ tối, bất chợt làm kẻ bên cạnh phải ngẩn người. Mấy ngày nay tán hươu tán vượn với nhau, cái lối từ chuyện này vắt sang chuyện khác của y đã thành quen thuộc với người kia, bây giờ lại trở nên có lý.

Gió đang lạnh dần khi bóng chiều buông tràn về đỉnh núi, phủ cả hai trong bóng sương mờ.

"Không thể để như thế được." Thầy Cả nói, một lúc sau. Sự tức giận lóe lên trong đôi mắt như thể chọc thủng được cả màn sương. Hoắc Phương gật gật đầu, nhưng không lên tiếng.

Sự khôn ngoan của y, chính là đưa kẻ khác vào bẫy chứ không lấy tay đẩy.

Trong thinh không, tiếng tiêu một lần nữa lại vọng qua sương. Trong như tiếng hạc bay qua, nhưng ẩn chứa muôn tầng chết chóc.

"Ta phải giết hắn." Thầy Cả nghiến răng nói. Hoắc Phương giật mình, vội xua tay.

"Thầy Cả bình tĩnh lại. Kẻ ấy hẳn thân phận không nhỏ, thuộc hạ không ít, mới có thể làm mưa làm gió ở đây. Thầy muốn đối phó với hắn chẳng phải là quá nguy hiểm sao?"

"Làm mưa làm gió? Hắn chỉ bắt được vài tên ngớ ngẩn đi lạc mà thôi." Ông kia hừ khẽ, bị giọng điệu của Hoắc Phương làm cho nóng nảy thêm. Y nói như mặc nhiên thương hại nhóm người này. "Ta chỉ là không muốn gây sự đánh động người mới không cho phép kẻ nào đối đầu với hắn. Nếu lực lượng của ta mà thật sự tung ra, cả một đội quân triều Nam Hà cũng chưa chắc ứng phó nổi."

"Thật vậy?" Hoắc Phương nhướn mày, giọng đầy nghi ngờ. Y liếc nhìn lại phía những mái nhà lúp xúp bên vách đá. Nhất cử nhất động của y không qua mắt được người bên cạnh.

"Vậy để ta chứng minh cho các hạ xem." Ông ta nhếch môi. Nụ cười thêm mấy phần thâm trầm trong đôi mắt càng trở nên kỳ quặc, bất giác làm y nghĩ tới những ngọn lửa xanh của rừng già. "Nếu chúng đã biết ta là ai, thì ta không việc gì phải nể mặt chúng. Lén lút chiếm đỉnh núi này cũng là chiếm, mà đường đường chính chính cũng là chiếm, ta sao lại phải chịu tiếng sơn tặc không ra gì?"

"Đừng nên quá kích động..." Hoắc Phương ra vẻ cố ngăn lại. Nhưng rồi y im lặng trước đôi lửa xanh dõi vào mình. Sát khí giống hệt như thanh long đao trong căn phòng tối kia.

"Các hạ cứ nghỉ ngơi." Giọng thầy Cả vẫn nhẹ nhàng, tuy trầm xuống trong sương lạnh giờ đã mang đầy bóng tối. "Ta sẽ cho các hạ đầu của kẻ thổi tiêu kia làm lễ vật đưa đến tổng đà Vân Nam."

***

Trên núi có một giếng nước, nghe nói là được dẫn vào từ một ngọn suối. Nhưng giờ thì hắn cho rằng đỉnh núi này vốn có một đường liên thông thẳng xuống một phần nào đó của thân núi mà cái giếng này chỉ là một bộ phận trong đó.

Nếu không, những người này sẽ không thể "đột nhiên" xuất hiện trên đỉnh núi.

Năm ngọn núi liên kết với nhau, lão bá bên bờ sông nói, hắn cũng không rõ điều này có thật không, nhưng hẳn nhiên số người đang tụ tập ở đỉnh núi này không phải sống ở đây. Chỉ trong một buổi chiều, từ khi tiếng trống trong điện thờ chính vang vọng khắp núi, từng người một lần lượt xuất hiện. Giờ đây một toán chừng hơn hai chục người mặc áo trắng, kẻ quấn khăn kẻ không, đã đứng trong sân trước chính điện, xếp hàng song song với những bục đá đắp hình đài sen chạy dài bên sân. Lửa được thắp sáng trên tầng điện chính, trống thỉnh thoảng lại tiếp một hồi.

Khi thầy Cả xuất hiện trước cửa chính điện trên cao, hai tay nâng một chiếc hộp gỗ dài, hắn nghe như có sự rùng mình lan truyền đi trong gió. Dưới tầng núi thấp nhất, đang quỳ trên sân cẩm thạch, nhiều người bậc dưới không giấu được cái giật mình. Những tiếng thì thầm bằng ngôn ngữ Chiêm Thành mà hắn không thể hiểu được lẫn vào trong gió núi.

Thầy Cả cũng đang nói bằng tiếng Chiêm, hẳn nhiên chỉ với các thành viên thuộc cấp bên dưới. Cạnh hắn, Hoắc Phương khoanh tay nhìn, ánh lửa chập chờn trong mắt y như phản chiếu qua một tấm gương.

Không tiện hỏi giữa nơi đông đúc này, hắn chỉ có thể đứng im, cố gắng phán đoán. Trên đường đến đây, hắn cũng đã từng gặp những lễ hội của người Chiêm quốc. Cảnh tượng hiện tại có nhiều phần giống như một lễ hội, nhưng sự căng thẳng trên từng khuôn mặt người chẳng hề có gì giống với sự vui mừng. Thậm chí, hắn nhận ra có vài cặp mắt đầy ngập sợ hãi hướng về cái hộp gỗ đã được đặt trang trọng trước ngọn lửa.

"Cái gì trong hộp vậy?" Không nén được tò mò, hắn hỏi. Hẳn câu hỏi này là được phép. Hoắc Phương cũng không tỏ thái độ phật lòng. Giống như hầu hết những kẻ trong sân, ánh mắt y dõi theo nhất cử nhất động của thầy Cả, rồi lại trở về với chiếc hộp dài.

Đôi mày y cau lại. Không hiểu sao, nhìn khuôn mặt không cảm xúc này, hắn lại có cảm giác rằng, dưới tận đáy lòng, y cũng đang sợ hãi.

Câu trả lời của y rất nhẹ, như khói tan biến đi trong gió núi.

"Ma vương."

Chú thích:

[1] Thanh long đao (bat) của vua Chế Bồng Nga nằm trong truyền thuyết của người dân Chiêm Thành. Tương truyền nhà vua lấy được một thanh đao bách chiến bách thắng, là nguyên do của những chiến thắng của ông.

Khởi nguồn cho Tây Sơn, tương truyền Nguyễn Nhạc cũng bắt được một cây đao, rồi cho rằng mình có 'chân mệnh thiên tử'. Cây đao này có nhiều điểm rất trùng hợp với đao của Chế Bồng Nga trong truyền thuyết.

[2] Giới Tử Thôi: Thuộc hạ của Tấn Văn vương. Khi Tấn Văn vương còn là công tử đã bị người tranh giành ngôi vị đuổi khói đất nước, Giới Tử Thôi đi theo phò tá. Khi Tấn Văn vương lấy được ngôi, Giới Tử Thôi không ra lãnh công mà đem mẹ vào núi ở ẩn. Tấn Văn vương đi tìm Giới Tử Thôi không thấy liền cho lính đốt rừng, ép Thôi phải ra, nhưng hai mẹ con thà ở lại chết cháy trong rừng. Người dân tưởng niệm Giới Tử Thôi mà đặt ra Tết Hàn thực.

[3] "Rút củi dưới đáy nồi":Phủ để trừu tân. Một trong 36 kế của binh pháp Tôn Tử, nghĩa là triệt hạ dần dần nguồn lực cung cấp cho kẻ địch.

Hồi 19: Trước cơn mưa

Gió cuồn cuộn nổi khi mây kéo về ngày càng nhiều, đỏ thắm bầu trời. Tiếng gió rít ù ù không át nổi những thanh âm trong khu rừng hiện tại. Trống thỉnh thoảng lại vang trên đỉnh núi cao, từng hồi dập dồn. Lẩn giữa những thân cây, tiếng tiêu vi vút nổi, réo rắt như làn suối.

Nghe tiếng tiêu, đoàn người đang đi chợt dừng chân. Họ quay nhìn nhau, rồi đổi hướng.

Tiếng tiêu này có vẻ vang ngay bên cạnh họ, rất gần.

Quả vậy, chỉ qua một quãng rừng, họ đã nhìn thấy kẻ thổi tiêu giữa khoảng rừng trống. Rừng đã bị vạt một mảng, chỉ còn lại những gốc cây lớn cùng đá tảng. Xung quanh đoạn rừng trống, những ngọn đuốc được thắp sáng gắn xung quanh, soi tỏ kẻ đang ngồi trên tảng đá lớn nhất.

Thiếu nữ áo đỏ hạ ngọc tiêu trên môi xuống, mỉm cười với những kẻ vừa tới. Trời không mưa, nhưng nàng ta đang cầm một cái ô trắng đã bung trên đầu. Trong ánh lửa, mày mi như vẽ, từ xa nhìn lại vẫn có thể nhận thấy phong vận uyển chuyển yêu kiều.

Khi thiếu nữ cất tiếng, giọng nói cũng trong trẻo mềm mại, thánh thót động lòng người.

"Đừng đến gần đây." Nàng ta vừa nói vừa chỉ lên trên. Theo hướng ngón tay nàng, những người mới tới ngẩng lên, không hẹn mà đồng loạt giật mình.

Một người đang bị treo lơ lửng giữa trời, tay chân cổ bị quấn vào nhiều sợi dây, rồi được giữ lại trong thinh không bằng một sợi dây buộc ngang người. Kẻ ấy vẫn còn sống, đôi mắt mở lớn nhìn trừng trừng về phía những người vừa tới.

"Đừng đến đây. Nếu các ngươi bước tới, hắn sẽ chết." Thiếu nữ cười, đôi chân đong đưa trên khoảng không. Nàng ta nghiêng đầu, hơi liếc mắt nhìn lên kẻ bị treo, môi thoáng mỉm cười.

"Chiều nay bắt được hắn, hắn cứ nhất quyết đòi tự sát, làm ta bắt buộc phải treo hắn lên đó vậy." Giọng nói thản nhiên như một bé gái đang kể về chuyện hái hoa bắt bướm.

"Ngươi là kẻ thổi tiêu?" Trong đám người, một kẻ lên tiếng. Thiếu nữ nhướn mày trước sự phẫn nộ nén trong giọng nói kia.

"Là ta." Nàng mỉm cười, đôi chân vẫn đong đưa, tư thái nhàn nhã. Như để chứng minh, nàng ta nâng tiêu lên thổi, đúng tiếng tiêu đã từng vọng suốt các ngọn núi trong những ngày này, tuy thiếu một phần khí lực để vang đến tận tâm người.

Những kẻ mới đến nhìn nhau. Xung quanh thiếu nữ không một bóng người. Và cảnh tượng đồng bạn bị treo cùng tiếng tiêu nàng ta vừa thổi đã đánh mạnh vào sự căm giận kìm nén bấy lâu nay. Trong bọn có kẻ không nhẫn nại được mà chậm chạp bước tới. Thiếu nữ cũng không ngăn cản, thậm chí không đứng dậy.

Trên cao, mắt kẻ bị treo ngày càng lớn dần trong nỗi kinh sợ tràn đến với từng bước chân của toán người. Gã hớp mấy ngụm không khí, trong cổ họng chỉ vang lên tiếng lào khào.

Gã thử. Rồi thử lại lần nữa.

"Đừng!" Cuối cùng gã cũng phát ra được thành tiếng. Cùng với tiếng "Pặc" nho nhỏ trong bụi cây.

Sợi dây buộc ngang người gã bung ra. Đá bốn phương lăn xuống, kéo theo đầu những sợi dây quấn quanh gã.

Tiếng hét vọng vang trong thinh không bị nhấn chìm trong màn mưa máu khi tấm thân gã bị xé toạc thành năm mảnh. Máu bắn tung trong không trung, rơi xuống cả đám người bên dưới. Trong thoáng chốc, máu đã nhuộm đỏ chiếc ô của cô gái, biến nó thành màu đỏ thắm y như sắc áo nàng ta.

Máu rơi trong ánh lửa, dưới bầu trời cuồn cuộn mây đồng, nhuộm đỏ khoảng rừng.

"Ta đã bảo đừng đến." Thiếu nữ thở ra, nhún vai nói. Máu cùng những mảnh thân xác không ngừng rơi xuống quanh nàng ta. "Lúc bị bắt, hắn ta cứ đòi một sống hai chết, uống cả thứ thuốc quái quỷ gì của bọn ngươi để hóa câm, không nói được. Thế thì ta mới bảo, nếu hắn quyết chết vì đám anh em này thì hãy xem chúng có quan tâm gì đến hắn không. Nếu đã định chết thì không nên làm kẻ ngu đần mà chết. Các ngươi thật đã mở mắt cho hắn rồi. Dù có xuống hoàng tuyền hay lên thiên đàng bây giờ, hắn cũng thỏa lòng vậy."

"Ngươi..." Một kẻ căm giận hét, thanh kiếm run rẩy trong tay gã. Thiếu nữ đứng lên, chậm chạp hạ ô, khinh khinh mạn mạn liếc nhìn đám người trước khi quay lưng.

"Muốn sống thì đừng tiến lên." Nàng ta chỉ buông một câu duy nhất, lưng đã hướng về phía toán người lăm lăm khí giới trong tay.

Không ai dám tiếp tục đi về phía trước.

"Muốn sống thì đi đi." Thiếu nữ đập đập cây tiêu lên vai, uể oải nói. Vẫn không ai phản ứng.

Cảnh giết người và hệ thống bẫy dây kia, quả là làm kinh tâm động phách bất cứ ai. Không kẻ nào dám tiến lên, nhưng cũng không thể bỏ chạy.

Thiếu nữ thở ra.

"Ta đang nghĩ có nên đem các ngươi treo quanh rừng như gã này không." Nàng ta ngẩng nhìn trời, câu nói như có vẻ đắn đo rất thật tình. "Ài, nếu như chỉ cần một người mà dẫn dụ được cả đám người vào chỗ chết như thế này, cũng đáng làm lắm chứ."

Thiếu nữ cười khúc khích. Tiếng cười trong như ngọc chạm chuông ngân. Giữa cảnh tượng đầu rơi máu chảy, rừng hoang lửa đỏ này càng thêm quái gở. Bất giác đám người cùng phải lui một bước.

Thiếu nữ quay nhìn. Toán người vội vàng lùi lại. Chậm chạp, khi đã vào vùng tối của rừng, tất cả lặng lẽ quay đầu nhanh bước.

"Phiền phức." Thiếu nữ thở một hơi dài. Nàng ngẩng nhìn lên mỏm núi giờ đã hắt sáng ánh lửa vào đêm. Tiếng trống vẫn từng hồi vọng xuống. Trên cao, mây vẫn cuồn cuộn bay qua, chân trời đỏ rực. Trong gió, rừng núi rùng rùng thanh âm lan tỏa, tưởng như có hàng vạn vạn sinh vật đang chuyển động.

"Tiểu thư làm mất con rối rồi, lỡ có thêm kẻ nào đến thì sao đây?" Bên cạnh tảng đá chợt vang lên tiếng nói. Ngồi khuất trong bóng tối ở vách đá bên kia, bóng hình nhỏ như một tiểu hài tử đứng dậy, nhảy lên tảng đá mà ngửa cổ nhìn những mối dây còn vướng lại, thấm đẫm máu thịt. "Hay ta cứ treo tất cả chúng lên? 'Kế không thành'[1] này dùng mà hồi hộp chết người."

"Một đám xác chết biết giấu đi đâu?" Như Yên phác tay. "Công tử đã bảo chỉ xử lý những kẻ cầm đầu, không cho đụng đến những người bên dưới. Ngươi cứ bài bố sao cho đá lở cây đổ khủng khiếp vào, ta sẽ biết đối phó."

"Buồn chán chết được." Tiểu hài tử kia bĩu môi. Ánh lửa soi sáng một thằng bé chiều cao như chỉ chừng chưa đầy mười tuổi nhưng khuôn mặt già dặn, hầu như không còn nét bầu bĩnh đáng yêu của trẻ con mà đầy vẻ tinh linh cổ quái. Nó nhảy xuống tảng đá, cầm lấy cuộn dây để sẵn mà đi về phía bên kia trảng rừng.

"Ngươi chỉ biết bài bố mấy trò dây nhợ này nên mới để ngươi ở đây, ca cẩm gì?" Như Yên đảo mắt. "Nếu muốn vui vẻ thì cứ gia nhập đoàn của công tử, chỉ sợ lúc đánh nhau ngươi chạy trốn còn không kịp."

"Làm như tiểu thư muốn ở đây..." Thằng bé nói, nhưng chỉ dám lầm bầm. Công tử lấy Sa đi lại không cho tiểu thư theo, nàng đã không bằng lòng. Giờ ở đây canh giữ con đường này chỉ có hai người bọn họ, nó cũng không muốn trở thành nơi để tiểu thư trút giận.

Cánh tay gầy nhỏ thoăn thoắt quấn dây, đấu mối, cột, thắt. Một lúc sau, thằng bé vung tay, ném mỗi đầu sợi dây quấn vào các thân cây cổ thụ hai bên. Hệ thống dây buông chùng xuống che phủ khoảng đất trông như một cái lưới nhện.

Như Yên đưa tiêu lên thổi khe khẽ khi đứa trẻ đang ràng chặt những đầu dây ở bên kia khoảng rừng. Tiếng tiêu được cố ý nén lại để chỉ vang vừa đủ xa, cuốn hút sự chú ý của những kẻ đã bước vào trong vùng canh gác của thằng bé.

Nhiệm vụ của họ là không để kẻ nào bước vào nơi được canh giữ, lúc này.

Thổ Sơn nằm trải dài trên bờ sông Ba Chà, lô nhô đá cùng đất đỏ. Núi có hai tầng, vách đá dựng đứng, cây cối rất ít, chỉ có một lớp cỏ mỏng bao phủ. Trên vách đá, bóng tối mờ phủ lên những bức phù điêu cùng tượng đài vẫn còn trơ cùng tuế nguyệt. Dưới trời mây, ngọn núi như được phủ lên một màu đỏ thẫm. Những đường nét khắc hằn trên đá cũng như đang mập mờ nhảy múa.

Nơi đây, ngày xa xưa chính là nơi đồn trú cuả quân đội Chiêm Thành.

Giờ đây, trong bóng tối tràn ngập, người ta lại nghe những thanh âm khe khẽ vọng lên từ trong lòng đá. Trên vách đá nhìn xuống dòng sông, một viên sỏi nhỏ chợt lăn xuống. Lớp cỏ trên vách đá rung động, mở ra để lộ một vết nứt sâu. Từ vết nứt, một thân người thận trọng lách ra. Nhìn xung quanh một lát, người ấy ngoắc tay ra hiệu cho những người sau.

Lần lượt, một đoàn chừng mười mấy người ra khỏi vách núi. Họ im lặng đi về phía ngọn núi đang đỏ rực ánh lửa. Trống đang thúc giục họ, từng hồi.

Bỗng nhiên tiếng đàn vang lên từ bên dòng sông, trên đỉnh núi thứ hai. Tiếng đàn lúc xa lúc gần, lúc ở bên Tây lúc ở bên Đông, không đủ lớn để vang xa nhưng mềm mại rót vào tai người trong núi như gió thốc xuống từ trời cao. Đoàn người vừa ra khỏi vách đá đứng khựng lại.

Vách đá đã bị chắn lối. Một bóng người đang đứng trước vách, sờ tay vào vạt cỏ ngụy trang mà nghiêng đầu nhìn vào ra chiều tán thưởng.

"Không uổng là nơi đồn trú của cả một đội quân, ta vẫn nghĩ là hẳn họ phải có một nơi để trú lánh lúc trời giông bão. Chỉ là không ngờ lại khó tìm đến thế."

Ngọn đuốc trên tay kẻ vừa nói soi tỏ một người ăn mặc theo lối thư sinh, áo vạt dài chấm gối, đầu buộc khăn xanh thẫm, chân mang hài vải, chỉ thanh kiếm đeo trên lưng là có vẻ lạc loài. Nhưng lúc này gã không rút kiếm, chỉ quay nhìn đoàn người vừa đi ra mà cười.

"Tạm phiền các vị trở lại hang núi, đêm nay xin đừng ra ngoài." Gã thư sinh mềm mại đưa tay như mời. Tiếng đàn trên núi, dưới sông vẫn dặt dìu, thanh âm tựa như ma quỷ.

Đoàn người qua cơn kinh ngạc đã lấy lại bình tĩnh. Một kẻ tuốt đao cầm tay, gằn giọng mà hỏi:

"Ngươi là ai?" Dù đã tám chín phần nắm được xuất thân của kẻ trước hang đá, vẫn cần được xác định danh tính kẻ thù.

"Ta là Kỳ." Người thư sinh vẫn nhã nhặn trả lời. "Còn các anh em đây lần lượt là Thanh, U, Nhã, Ly, Tráng, Lu, Trường."

Gã vừa nói vừa chỉ ra xung quanh. Từ bao giờ không rõ, bảy thân ảnh khác đã đứng quanh đoàn người. Tất cả cùng một lối ăn mặc như tên thư sinh trước hang đá. Trên tay một kẻ còn ôm đàn, chính hắn đã gảy nên tiếng đàn ma quái nọ. Tiếng đàn vẫn đang vang, như gần như xa, như từ trên đỉnh núi như từ dòng sông vọng.

"Bát tuyệt?" Một kẻ trong đoàn người thì thầm. Bát tuyệt là tám kẻ được đặt tên theo các cung bậc thanh âm của cổ cầm. Những kẻ này đã bao vây núi mấy ngày nay, không ai trong vùng không biết. Bây giờ tám kẻ cùng tập trung ở đây, không khỏi làm người bị bao vây lạnh xương sống.

"Mời." Nụ cười hòa nhã không đổi trên mặt Kỳ khi gã đưa tay. Những kẻ còn lại trong Bát tuyệt từ từ tiến lại như những bóng ma ẩn hiện trong sương mù. Đất sét đỏ dưới những bước chân không in dấu.

Vô thanh vô tức, đoàn người vừa ra khỏi hang bị ép lùi trở lại bên Kỳ. Gã phất tay, thảng như một luồng cuồng phong thổi thốc lên, ném đám người vào cửa hang. Họ vội vội vàng vàng luồn vào hang chạy trốn. Nghe tiếng lách cách sau khi bóng kẻ cuối cùng vừa khuất như cửa hang bên trong đang bị lấp lại.

"Càng tốt, chúng ta đỡ phải canh gác." Một kẻ trong bọn cười. Gã có nét mặt thanh tú, dường như là trong trẻo, xứng với cái tên Thanh trong bộ Bát tuyệt. Đứng bên gã, U âm trầm hạ đàn, nhìn lên đỉnh núi xa. Im lặng, U đưa đàn về phía Tráng.

Tám kẻ lại trầm mặc tách xa, mỗi người đi về một hướng. Lần này tiếng đàn vút cao khúc Quảng lăng vang khắp hai tầng núi, tranh âm với tiếng trống không ngừng vọng xuống trên cao.

Kim Sơn bên dòng Lộ Cảnh Giang im lìm, rì rào gió núi. Ngồi trên bến sông, lão hòa thượng để tóc ngẩng đầu nhìn ngọn núi đang phát hỏa. Xung quanh lão, trong bóng tối, những bóng người vẫn lặng lẽ lại qua. Trên đất lăn lóc những thanh tre đã được chặt, chuốt nhọn một đầu. Những tấm tre đan đã hoàn thành đang được đem đi, đóng chắn đầu bên kia dòng sông. Trong bóng cây cũng mơ hồ thấy bóng những rào tre đã được dựng sẵn. Từ trên đỉnh nhìn xuống có thể thấy một dãy chông tre đã bao quanh chân núi, cảnh tượng có thể khiến người phát lạnh.

Lão hòa thượng lại cúi xuống, chăm chú chuốt mảnh tre trong tay. Quanh chỗ ngồi của lão, tre được chặt nhỏ thành từng thanh dài chừng một cánh tay, thân chừng chiếc đũa, chuốt nhọn một đầu. Đến lúc thấy được kha khá, lão nắm từng vốc bỏ vào trong một chiếc hộp nhỏ và dài. Bên cạnh lão có chừng chục người cũng đang vót tre. Thi thoảng lại có vài người đến ôm những chiếc hộp đi.

Bên cạnh những người vót tre có chiếc đèn nhỏ, nhưng lão hòa thượng để tóc vẫn chỉ làm việc trong bóng tối. Bàn tay lão cầm con dao nhanh thoăn thoắt đến quỷ dị.

Thủy Sơn là ngọn núi cao nhất trong nhóm Ngũ Hành, đỉnh núi chia thành ba tầng như ngọn Tam Thai lúc này đã khuất trong sương mù. Sương tràn xuống từ những vách đá dựng đứng như một dòng suối trắng. Rừng núi vặn mình trong gió. Ngôi chùa nhỏ lọt thỏm giữa một vùng sương, cách ba bước không thấy mặt người. Dù đã đóng cửa, sương vẫn lọt vào các khe hở tràn vào phòng, làm ánh đèn càng thêm chập chờn mờ tỏ.

"Nước sôi rồi." Nhà sư nhấc ấm lên, dập tắt bếp lửa rồi đến cạnh bàn châm trà. Nam tử áo thiên thanh vẫn đang chăm chú đọc sách, không ngẩng lên.

"Canh mấy rồi?" Như được tiếng nước rót vào bình trà đánh động, y chợt hỏi. Nhà sư phảng phất cười.

"Canh hai." Ông nói như thở ra. Đêm còn rất dài...

Ồ, nam tử khẽ cau mày, đặt cuốn sách đang đọc dở dang xuống bàn, đứng dậy mở cửa ra ngoài hàng hiên. Sương mù lập tức quấn lấy y. Nhìn quanh chỉ thấy mập mờ sương trắng.

Y đưa tiêu lên môi, thổi một khúc ngắn. Tiếng tiêu xuyên qua màn sương, vọng đến từng kẽ đá.

Từ ngọn Trung Thai, một tiếng chiêng đáp lại. Y khe khẽ gật đầu, nhìn lại về đỉnh núi sáng ánh lửa.

"Lửa lại cháy trên Hỏa Sơn." Y nói mà không quay nhìn người trong phòng. "Đại sư có biết đền đài trên đỉnh núi ấy thờ ai?"

"Thực tại chỉ là Một nhưng các bậc trí giả gọi Ngài bằng nhiều tên khác nhau."[2] Nhà sư nghe như cười mà trả lời. "Nếu như hỏi đến vị thần hữu ngã nào được người Chiêm Thành thờ phụng hàng đầu, thì là Shiva."

"Phải, ngay cả các nhà vua Chiêm Thành cũng đồng hóa mình vào hình ảnh của Shiva. Hủy diệt rồi sẽ tái sinh. Sống nghĩa là đang chết. Có phải tất cả các đạo giáo đều có điểm rất tương đồng? Thực tại, chỉ là Một.

"Nhưng hiện nay vương tộc ở Panduranga lại đang theo đạo giáo từ phương Tây." Tựa vai vào cửa, y vừa cười vừa nói. "Tìm kiếm sự an ủi từ Thiên đường và Thượng đế, chẳng phải là một biểu hiện của sự yếu đuối? Tuyệt vọng và yếu đuối?

"Trần gian này quả thật là đáng buồn đến thế?" Y hỏi mà không nhắm vào ai, ánh mắt vẫn dõi theo vệt lửa đỏ mập mờ trong sương mù.

Shiva nhảy múa, lửa cháy bùng qua đồng cỏ. Mắt thần nhắm, thế giới tràn bóng đêm đen. Shita đem xác thân trả cho đấng sinh thành, tái sinh trên đỉnh núi tuyết, hẹn kiếp sau tái ngộ, ánh lửa chớp sáng thế gian.[3] Thần mặt trời Surya ngồi trên xe lửa bảy ngựa kéo, đuổi theo nữ thần Samjna, vì nàng mà cắt bỏ ánh sáng của chính mình. Ánh sáng của Surya ngự trị trên chĩa ba của thần hủy diệt Shiva, thần chiến tranh Skanda. Thần chết Yama đi dưới ánh sáng của thần lửa Agni, gom những cánh hoa rơi, chôn vào hư không.

Shiva nhảy múa, ngày tàn đêm tận. Brahma sinh từ Vishnu, Shiva sinh từ lửa. Ngọn lửa liếm sạch mây trời, chiếu sáng mặt đất, làm kinh hãi Brahma lẫn Vishnu. Vishnu lặn sâu xuống đất, Brahma bay lên chín tầng trời, không tìm đâu được nguồn gốc lửa. Shiva xuất hiện giữa cột lửa thần. Shiva như hoa sen nở giữa lửa thần. Lửa giăng ngang trời, không biết đâu là nơi khởi đầu, đâu là nơi kết thúc.

Thái dương Surya làm chủ cõi trời. Gió Vayu làm chủ cõi không trung. Lửa Agni làm chủ cõi đất. Vayu đi cùng Agni, cho Agni sự sống. Yama đi dưới ánh sáng của Agni, gom những cánh hoa rơi, chôn vào hư không.[4]

Ta như kẻ mất hồn lang bạt 

Cúng thánh đường, lên tháp lạy Yang 

Đất nước ta xứ Pandarang 

Người đi lưu lạc quê hương rã rời.

Xứ Debare loạn lạc lan tràn 

Đôi ta sầu muộn, quê hương tan tành.[5]

Lửa cháy bùng trên ngọn Hỏa Sơn.

Lửa sáng bùng trong tiếng trống, điệu kèn. Nhưng những kẻ đứng trên sân lặng yên. Những kẻ đứng dưới bậc thềm lặng yên. Những bóng trắng bất động trong ánh lửa đỏ như một đoàn người hành lễ tế thần.

Ngay cả đám người đứng bên ngoài cũng bị cảnh tượng này làm cho yên lặng.

Tất cả ánh mắt dõi về phía chiếc hộp trước đài lửa. Chiếc hộp vẫn chưa được mở ra. Hiện tại, thầy Cả chỉ chắp tay trước ngực, đứng trầm mặc hồi lâu nhìn chăm chăm vào ngọn lửa.

Như thể ông cũng không biết có nên mở nó ra hay không.

Buổi chiều, khi nghe những lời khích tướng của tên 'sứ giả Vân Nam' kia, ông đã thật sự muốn khởi quân nên cho đánh trống tập hợp. Nhưng đã có những người không tới. Đã có những bục sen thiếu người đứng. Và bây giờ thì đối mặt với thanh thần đao trong truyền thuyết, ông lại cảm thấy lưỡng lự.

Chỉ một cái nhấc tay, hộp sẽ mở ra.

Chỉ một cái nhấc tay, một trận tai kiếp mới sẽ mở màn.

Thanh đao thần có thể chỉ là truyền thuyết, nhưng thứ sức mạnh vô hình của nó - chính là sức sôi cuốn không thể cưỡng lại. Sức lôi cuốn mọi người mọi kẻ. Mọi người, tất cả mọi người.

Không chỉ là vương tộc tại Panduranga. Không chỉ là đức vua Bà Tranh cùng quân đội của ngài. Không chỉ là quân đội của quý tộc Chiêm Thành quốc. Đất nước này đã bị xé nát bởi những tranh chấp về đạo giáo và niềm tin, về vai vế và tham vọng. Dù là ai, dù có là đức vua Po Rome[6] anh minh tài trí, cũng không thể kiềm giữ được đà rơi của đất nước vào tăm tối. Dù có là quân chi viện của Mã Lai, Nam Đảo, cũng không thể chống giữ được với tham vọng của những kẻ mang họ Nguyễn.

Quân đội, với sự chi viện của hai vị hoàng thân Mã Lai, đã bị quân Nguyễn đẩy lui khỏi Phú Yên.

Vì vậy ông mới đi tìm sự giúp đỡ của những kẻ đồng giáo phương Bắc. Khi những kẻ chi viện phương Nam đã thất bại, niềm hy vọng của ông đang đặt vào tổ chức Hồi giáo lớn mạnh của phương Bắc - cùng với những kẻ Hán tộc lưu vong. Hai thế lực ấy, nếu có thể kết liên họ lại, Chiêm Thành quốc còn có hy vọng.

Và vũ khí tối thượng đang nằm đây. Thứ để kết liên tất cả con dân Chiêm Thành quốc, không kể đạo giáo, chủng tộc hay tầng lớp. Tất cả, tất cả sẽ bị đẩy vào cuộc chiến.

Bây giờ có phải là lúc?

'Tên sứ giả Vân Nam' cần một chứng cứ để đem về cho tổng đà. Người nơi đây cần phải gột sạch tiếng tăm bọn cướp cạn. Trong những áp lực và nỗi sợ này, tất cả cần có một điều để tin tưởng. Những kẻ dưới núi đang từ từ giết chết họ, đúng như thế. Giết đi niềm tin, sự sống và cả tinh thần của họ. Trên thế giới lạc loài giữa trời này, con người vẫn chưa thể trở thành thiên thần.

Nhưng bây giờ có phải là lúc phát ra mệnh lệnh tối thượng?

Thầy Cả khe khẽ thở ra. Ông chậm chạp quay mình nhìn xuống những kẻ đang xếp hàng trên sân, rồi đến đám đông đang tụ họp dưới bậc thềm. Đây là lực lượng ông đã tập hợp được trong bấy nhiêu năm, trong đó có cả những người ông đưa từ Panduranga tới.

"Đêm nay, ta tập hợp mọi người tới đây," Ông từ tốn nói bằng giọng đều đều. "Để nhờ mọi người giải vây cho đỉnh núi này.

"Hẳn mọi người đã biết, chùa bị bao vây bấy lâu nay. Chịu đựng mãi cũng không phải là cách, ta muốn dạy cho bọn ở dưới núi một bài học, đồng thời giải vây cho chùa. Chúng ta không cần đánh lớn, cũng không cần phải gây chuyện với tất cả mọi người ở đây. Nhưng chúng ta cần phải cho chúng biết không dễ gì gây chuyện với chúng ta.

"Ta không cần càn quét cả năm ngọn núi thánh. Nhưng ta cần đầu của kẻ thổi tiêu kia - Đem tế vong hồn anh em và đồng bào của chúng ta!"

Chú thích:

[1] Không thành kế: Kế bỏ thành trống, hay là kế mà Khổng Minh đã dùng khi trong thành không còn một tên quân, chỉ nhờ vào miệng lưỡi và sự bình tĩnh mà khiến tướng giặc nghi ngờ lui quân chứ không dám đánh vào.

[2] "Thực tại chỉ là Một nhưng các bậc trí giả gọi Ngài bằng nhiều tên khác nhau": Kinh Veda.

[3] Shiva có 2 đời vợ nhưng thực tế chỉ là 1 người. Vợ đầu của Shiva là Shita, con gái của thần Trí tuệ. Bị cha đuổi khỏi nhà vì lấy Shiva, Shita lên đỉnh núi tuyết trút hồn trả thân xác lại cho cha, tái sinh thành Parvati.

[4] Truyền thuyết kể rằng thần Brahma sinh ra từ rốn thần Vishnu. Một hôm thần Brahma ngủ trên hoa sen, thần Vishnu gọi Brahma là con, bảo rằng mình sinh ra Brahma. Brahma không thừa nhận, 2 vị thần này cãi nhau xem ai mới là đấng sáng thế. Trong lúc đó, bất chợt có một cột lửa bùng lên. Vishnu liền lặn xuống đất, Brahma bay lên trời để tìm nguồn gốc cột lửa nhưng không được. Cột lửa không có khởi đầu cũng như kết thúc. Khi 2 vị thần đang ngơ ngác, Shiva hiện lên trong cột lửa, bảo rằng cả 3 thần đều là đấng sáng thế.

[5] Bài thơ làm theo thể ariya là thơ lục bát của Chăm. Được dịch bởi Insarasa.

[6] Vua Po Rome: Cai trị Chiêm Thành đến năm 1651. Trong thời gian này Chiêm Thành đã có liên kết chặt chẽ với Mã Lai và những quốc gia Hồi giáo phương Nam để chống lại những cuộc tấn công của người Việt.

Hồi 20: Trong mưa

Tiếng đàn của Bát tuyệt tại Thổ Sơn. Tiếng tiêu của kẻ đầu lĩnh trên đỉnh Thủy Sơn.

Như lời thách thức gửi trả lại cho tiếng trống từ Hỏa Sơn.

Những kẻ trên núi cũng đáp lại lời thách thức ấy.

Thổ Sơn thoai thoải trải dài bên dòng sông lạnh. Trên khoảng trống tại đỉnh núi, tám người thư sinh đứng khoanh tay yên lặng trong gió nổi. Từ tay Tráng, khúc Quảng lăng tản vẫn vang vọng át cả gió núi.

Nhưng không vì thế mà họ không nghe tiếng người bước tới.

Tám người mặc áo trắng lặng lẽ đến nơi mà Bát tuyệt đã đợi. Nhìn thấy họ, Kỳ mỉm cười.

"Xin cho hỏi cao danh quý tính các vị." Giọng gã vẫn như muôn thưở ôn tồn. Tiếng đàn trên tay Tráng dừng lại, gã chuyển đàn cho Nhã đứng cạnh. Nhã chỉ chỉnh lại dây đàn, không gảy.

"Hộ Thần Bát Phương Thiên[1]." Một người trong những kẻ vừa đến trả lời, cũng bằng giọng ôn tồn gần giống như Kỳ.

Kỳ nhướn mày, gã chạm tay vào cằm, trầm ngâm nhìn đối thủ, chậm chạp nói như suy nghĩ.

"Phương Đông, thần Sấm sét Indra. Phương Đông Nam, thần Lửa Agni. Phương Nam, Tử thần Yama. Phương Tây, thần Nước Varuna. Phương Tây Nam, thần La sát Nairrta. Phương Tây Bắc, thần Gió Vayu. Phương Bắc, thần Tài lộc Kuvera. Phương Đông Bắc, đấng Tự Tại Is'ana." Giọng Kỳ êm ái, gần giống như đang đọc sách. Rồi gã chợt cười. "Đúng như ta nghĩ, trên đỉnh núi không phải là một tổ chức tôn giáo."

"Cũng đúng như thầy Cả nghĩ, những kẻ dưới này biết chúng ta là ai." Kẻ mang danh hiệu Varuna đáp lời, vẫn chất giọng gần giống như Kỳ.

Kỳ gật đầu nhè nhẹ, quay sang Trường đứng gần đó, rồi lướt mắt nhìn những anh em trước khi quay lại với tám người Hộ Thần.

"Vậy chúng ta tám người địch tám người. Như thế này đi, ta phân cặp đấu." Kỳ nhún vai, thản nhiên nói. "Ta cứ mặc nhiên cho rằng tên là người vậy. Tráng đấu với Sấm sét Indra. U đấu với La sát Nairrta. Nhã đấu với Gió Vayu. Ly đấu với Tử thần Yama. Trường đấu với Tài lộc Kuvera. Lu đấu với Lửa Agni. Thanh đấu với Nước Varuma. Còn Kỳ tôi đây xin tiếp đấng Tự Tại Is'ana. Thế được chứ?"

"Ngươi rất thông minh." Kẻ mang tên Nairrta chợt cười. "Ngươi sắp xếp như thế để tránh trận pháp của chúng ta?"

"Trận pháp thì các vị có, chúng ta cũng có." Kỳ hòa nhã cười. "Nhưng trận pháp của chúng ta chỉ e rằng sẽ gây náo loạn, mà trận pháp nổi tiếng Bát Phương trận của các vị cũng không yên ắng hiền hòa gì. Nếu chúng ta đem trận thi thố bây giờ, chẳng phải sẽ là một trận đại chiến vang động cả năm ngọn núi, ảnh hưởng tới tất cả những người vô can xung quanh? Chúng ta chẳng phải là cừu thù huyết hận gì, chẳng qua là kẻ nào thờ chủ nấy, trận so tài này kẻ nào thua thì mất mạng cho kẻ thắng, tưởng cũng là công bằng. Các vị đòi một trận lấy cả tám cái thủ cấp của chúng ta không phải là quá khó khăn?"

Bát Phương Hộ Thần trong lòng khẽ chấn động. Bát Phương trận là trận pháp chính của Hộ Thần, nhưng đã không được khai triển với kẻ bên ngoài trong suốt gần năm mươi năm qua, có nhiều người còn cho rằng trận pháp đã thất truyền sau lần thua của quân Chiêm Thành tại Thành Hồ, nơi Bát Phương Hộ Thần trước đã tử trận. Kẻ trước mặt biết đến Bát Phương trận, lại biết rằng họ vẫn còn luyện tập trận pháp này, như thể đã luôn ở ngay bên cạnh họ.

Có gián điệp trên đỉnh Hỏa Sơn, không hẹn mà tám Hộ Thần cùng đồng loạt nghĩ.

Nhưng đã đến đây thì không thể cứ thế mà quay lại. Bát tuyệt này đứng ở Thổ Sơn chờ đợi họ, cũng không phải là để họ cứ thế quay về.

"Các vị nghĩ sao?" Kỳ mỉm cười mà nhắc. Bây giờ không phải là lúc để nghĩ ngợi, chỉ có thể chọn một trong hai con đường.

"Đơn đả độc đấu." Vayu nói sau khi nhìn bảy người đồng bạn. Kỳ gật gật đầu.

"Vậy ta theo chiều quay mà đấu vậy. Chúng ta đang đứng ở phương Nam, vậy lấy phía Nam làm mốc. Đầu tiên là Yama đấu với Ly, rồi Nairrta với U, Varuna với Thanh, Vayu với Nhã, Kuvera với Trường, Kỳ tôi với Is'ana, Indra với Tráng, Agni với Lu."

Gã nói vẫn đều đều thanh thản như thể đang phân công việc nhà. Bát tuyệt theo lời gã lui về phía đầu núi bên kia, để một khoảng đất trống rộng ở giữa. Ly tách khỏi đoàn, tiến về trước. Phía bên kia, một người áo trắng cũng bước ra.

Yama một tay cầm chùy, một tay quấn vòng dây thừng lớn cột thành thòng lọng. Thân hình phương phi tuy không cao. Mắt to, hầu lộ.

Ly cao mà gầy, vẻ mặt bao giờ cũng thoáng nét sầu não. Trong bộ áo thư sinh, y trông càng mảnh mai hơn. Ngoài thanh kiếm trên lưng, tay trái y còn cầm một cái nỏ nhỏ đã lắp sẵn tên. Nỏ lẫn tên chỉ dài bằng gang tay, hộp tên được đeo ở thắt lưng chứ không mang trên lưng như lệ thường, nhìn xa giống như ống quyển đựng bài vở của các anh học trò.

Cả hai cùng cúi mình, tay Yama chắp trước ngực theo kiểu chào truyền thống, tuy không ai cười.

Hai kẻ ra tay, nhanh như ánh chớp.

Vừa hạ cánh tay xuống, chiếc thòng lọng trên tay Yama đã phóng ra. Kiếm trên tay Ly xuất thủ, hất văng sợi dây trở lại. Thòng lọng của Yama vốn kết từ mây trăm tuổi, lại được phủ ngoài bằng chất nhựa cây bí truyền, đao kiếm chém không đứt. Gặp kiếm của Ly, sợi dây chỉ bắn đi một đoạn, rồi như một con rắn biết tự mình hành động, vòng ngược trở lại quấn lấy đối thủ.

Thòng lọng của thần Yama để bắt các linh hồn, đã tung ra chỉ có thể hồi về khi đã bắt được nạn nhân. Vẫy vùng trong không trung như một con mãng xà thiên biến vạn hóa. Ly tiến đến đâu, sợi dây bay theo đến đấy. Chạy không thoát, chém không được. Sợi dây cuốn thành vòng xoắn ốc, quyết vây Ly vào giữa.

Ly giơ nỏ. Hai mũi tên liên tiếp phóng ra, quấn lấy nhau theo hình tam giác, lôi đầu thòng lọng cắm chặt vào tầng đất sét đỏ.

Tên bắn đi, Ly không nhìn lại, chỉ thuận đà vọt đến trước Yama, không cho đối thủ có thời gian giật sợi dây trở về. Kiếm trên tay y cắt một vầng đạo quang xanh biếc.

Yama vung chùy. Tiếng kim khí va chạm nhau vang động.

Ly dội ngược trở lại trước sức mạnh hung mãnh của Yama. Tay trái y lại vung lên. Yama vội vàng đưa chùy đỡ.

Nhưng tên không bắn tới. Mũi kiếm của Ly hất ngược từ dưới lên, kề vào cổ Yama.

"Trong nỏ không còn tên." Ly nhẹ nhàng nói. Vừa rồi hai mũi tên bắn đi, y còn chưa kịp nạp lại.

Mắt Yama lóe lên tia lửa giận, nhưng gã chỉ có thể đứng yên trước mũi kiếm đã kề vào cổ. Theo lời Kỳ, mỗi trận quyết đấu được trả bằng tính mạng. Tên phương Bắc này sử dụng cả cách thức thi đấu gian trá hẳn nhiên vì không muốn chết.

"Tính mạng ngươi là của ta." Ly nói, hạ kiếm. Không để Yama kịp phản ứng, y đã lui về phía Bát tuyệt.

Nhìn sợi dây bị ghim trên đất, Kỳ nhè nhẹ cười.

"Hoành hành nhất thế, Phật Tổ thôn khí, Tiễn dĩ ly huyền, Hư không trụy địa[2]. Ly, ngươi nên đàn một khúc Ly huyền cho chúng ta." Điệu bộ gã vẫn nhàn nhã thản nhiên như đang bàn chuyện bên bàn trà. Ly gật đầu, đón lấy cây đàn. Điệu Ly huyền bi thiết từ những ngón tay y rả rích vang.

Nhóm người bên kia vốn không thông hiểu tiếng Hán, càng không hiểu được bài kệ Kỳ đã đọc, chỉ nghe gã giục Ly đánh đàn. Cuộc quyết đấu này, với thái độ của Bát tuyệt, đã trở thành nửa như một trò chơi, nửa như một cuộc thi tài ngoạn cảnh. Thật khiến đối phương của họ nửa như tức giận, nửa như nhẹ nhõm, nửa lại như muốn căm hận.

Ly vẫn đang đàn, U đứng khoanh tay chưa bước ra như đợi cho xong bản nhạc. Bên kia, Yama im lặng lui về, Nairrta vẫn chưa tiện bước tới.

Nhất thời, tất cả mọi kẻ trên Thổ Sơn yên ắng, chỉ nghe bản Ly huyền réo rắt vang. Gió đang nổi. Mây cuồn cuộn trôi.

Cung đã rời dây, bắn vào thinh không. Đi vào hư không.

Cung đã rời dây, vô phương quay đầu.

Cung đã rời dây, vô pháp thoát khỏi số mệnh.

Nước rời khỏi mây. Khí rời khỏi phổi. Thanh âm rời khỏi cổ. Người rời khỏi cõi hư vô. Đều là hư không đón lại. Chớp mắt, thời gian như tên bay.

Chớp mắt, chỉ là mũi tên bắn vào vô tận.

Muôn hồng ngàn tía, muôn tiếng ngàn âm. Hào hùng muôn trượng, thâm tình vạn loại. Nước trôi xóa nhòa, đá khắc màu phai.

Hùng binh ngàn năm, tiếng chân đã im lối. Chỉ còn đá núi khóc dưới bầu trời.

Trăng sáng không qua nổi mây mù. Rừng vạn cây, nước vạn lý chìm trong cơn mưa.

Người không nghỉ, trăng không mộng.

Cơn mưa rải rác tuôn, chưa qua được lớp lá rừng dày. Thủy Sơn cao vợi chìm trong mây. Hương hoa đêm đăng đắng phảng phất hòa cùng hơi đất. Tiếng chân người nhẹ nhàng đạp trên cỏ mềm đá cứng lẫn vào thanh âm của rừng đêm. Trong mưa, những loài ếch nhái càng kêu rền rĩ. Muôn muôn vạn vạn tầng lá cùng vặn mình rì rào. Gió quét xuống từ trên đỉnh núi, đập vào đá những tiếng hú ngắn dài. Rừng nguyên sơ còn mang nguyên nét hoang dại hung tàn lộ mình trong bão gió cùng đêm tối.

Sự hiện diện của con người lọt thỏm, biến mất vào trong rừng đêm.

Bảy người mặc áo trắng đi khỏi hang đá giữa thân núi ở ngọn Trung Thai, theo đường đá nối giữa hai đỉnh núi mà lên Thượng Thai. Đá ở đây không cao nhưng dốc, từng bậc đá xếp lên nhau như vẩy cá, nhiều bậc đá chỉ đủ vừa đặt chân.

Nên có kẻ trong đám người không thể không giật mình khi thấy người đứng trên vách đá.

Áo xám trở thành sắc trắng trong bóng tối. Tóc buông dài tung bay trong gió, để lộ khuôn mặt tai tái cũng trở thành sắc trắng bạch. Đao ôm trong tay, nhìn xuống những kẻ đang ở lưng chừng núi như một thiên thần từ trời cao.

Hoặc là, tử thần.

Toán người cũng rất nhanh trấn tĩnh. Mỗi người phóng lên hay hạ xuống, chọn lấy những chỗ đặt chân thoải mái cho mình, vũ khí rút ra cầm trên tay.

Y vẫn lặng im, chỉ ôm đao đứng nhìn toán người. Khuôn mặt đẹp như tranh vẽ vẫn không có một tia xúc cảm. Đôi mắt trong như ánh trăng trên mặt hồ lạnh. Những giọt mưa nhỏ đọng trên làn da y như nước trên một khối băng đá.

Nhìn đôi mắt ấy, những kẻ dưới núi hiểu được lời nói mà y không thốt ra: Lui về, hoặc phải đạp qua xác y để tiến lên.

Những người đến đây vốn không phải để lui về.

"Ngươi là ai?" Một người trong nhóm cất tiếng. Ngoại trừ Bát tuyệt đã ra mặt mấy ngày nay để truy đuổi người trong núi, danh tính kẻ thổi tiêu và những người của y hoàn toàn còn là một bí mật.

"Ngươi là ai?" Y chậm chạp mở miệng hỏi lại, không trả lời. Dù nói ra, chưa chắc bọn họ đã biết được y là ai. Y chỉ là một kẻ vô danh, cái tên đã bị xóa sạch bằng một chữ Sa duy nhất. Một hạt cát trong muôn vạn hạt cát, vốn dĩ cũng không phải là tên.

"Thất Tinh Tú[3]?" Y lại hỏi khi không nhận được câu trả lời, nhìn bảy người dưới vách núi. Cả bảy khuôn mặt cùng biểu lộ một sự ngạc nhiên đến dường như chấn động.

So với Hộ Thần Bát Phương Thiên, Thất Tinh Tú ít được biết tới hơn hẳn. Chỉ những quan chức cùng vương tộc mới biết sự hiện diện của nhóm hộ vệ này. Bát Hộ Thần lo công việc bên ngoài, Thất Tinh Tú phụ giúp công việc trong đền và triều đình. Sự có mặt của họ nơi đây, e rằng chỉ vài người trong triều được biết. Nếu không phải việc quan trọng ám sát kẻ trên đỉnh núi, thầy Cả đã không dùng tới họ.

"Ngươi biết chúng ta?" Sự ngạc nhiên không nén được mà bật ra. Khuôn mặt kẻ đứng trên cao vẫn không đổi sắc.

"Có bảy người." Y nói, như một sự đương nhiên. Tinh Tú Graha gồm thần Mặt trời Surya, Mặt trăng Chandra, Hỏa Tinh Mangala, Thủy Tinh Budha, Mộc Tinh Brhaspati, Kim Tinh Sukra, Thổ Tinh Shani vốn được thờ chung cùng với Hộ Thần Bát Phương.

Mặt trời Surya cầm đao tròn, Mặt trăng Chandra dùng ám khí và giáo ngắn hình hoa sen, Hỏa Tinh Mangala cầm giáo và đinh ba, Thủy Tinh Budha cầm đại đao và gậy tày, Mộc Tinh Brhaspati cầm gậy và chuỗi hạt, Kim Tinh Sukra cầm côn, đeo chuỗi hạt, Thổ Tinh Shani cầm kiếm, đeo cung cùng dao giắt trên lưng. Tất cả giống y như hình vẽ trên các bức vách điện thờ.

Bảy người nhìn nhau. Kẻ ở trên cao vẫn đứng yên.

Sự yên lặng của y khiến đối thủ phải cảm thấy khó xử. Tấn công y lấy đường đi lên bằng cả bảy người thì không hay, đi qua y thì hẳn nhiên là không được. Vách núi cheo leo, rời khỏi nơi an toàn có thể bị đánh lén bất cứ lúc nào. Trơ mắt nhìn nhau cả đêm thì lại càng không thể.

Cuối cùng, Hỏa Tinh Mangala không thể kiềm được nóng nảy mà gầm lên.

"Người anh em, muốn sống thì tránh ra!" Gã nói, nhưng vẫn đứng yên. Sa thậm chí không đưa mắt về phía gã. Mưa ngày càng lớn dần. Đá trên vách núi trơn tuột.

Mặt trăng Chandra âm thầm móc tay vào thắt lưng. Phi tiêu hình trăng khuyết lóe như tia chớp bay về phía Sa.

Thân ảnh xám trắng xoay trên không trung khi y vọt lên cao tránh thoát mũi phi tiêu đã găm vào đá. Nhẹ nhàng, y đáp xuống, mũi chân đậu lên đuôi phi tiêu đã ngập một nửa trong vách núi.

Y đứng trên mũi phi tiêu, nhẹ nhàng như một cánh hồ điệp. Vẫn chỉ khoanh tay nhìn xuống đám người bên dưới, không nói một lời.

Mũi phi tiêu vừa rồi của Chandra chỉ để dọa y tránh khỏi đường lên núi. Nhưng trước thân thủ này, gã biết đã gặp đối thủ khó chơi. Trong tay gã, năm phi tiêu hình trăng khuyết cùng phóng ra, nhằm năm bộ vị của Sa mà lao tới.

Một lần nữa, y vọt lên không. Ngay lập tức, một loạt phi tiêu hình hoa sen đuổi theo y. Tinh Tú đã đồng loạt ra tay.

Y xoay người trên không, ánh đao như mây quấn. Chỉ nghe "đinh đinh" mấy tiếng, tất cả phi tiêu rơi xuống. Y lại nhẹ nhàng đáp về chỗ đứng cũ.

Không có lấy một cái cau mày nhăn mặt, thân thể như sương lam khói trắng, phảng phất như không phải con người.

Tóc đen dài bay trong gió, vạt áo lất phất, ánh đao như trăng lạnh, với những kẻ từ dưới nhìn lên, đó không phải là hình ảnh của con người.

"Navagraha." Sau một lúc ngẩn người vì kinh ngạc, Thổ Tinh chợt lên tiếng. Xung quanh gã, những người khác gật đầu, thu vũ khí về.

Navagraha - Cửu Tinh Tú, là một mê thuật của Tinh Tú Graha. Trên địa thế này khó mà triển khai trận pháp, với thân thủ mà kẻ kia vừa biểu hiện, khó mà đơn đả độc đấu cùng y. Tinh Tú Graha là hộ vệ của triều đình cùng các đền thờ, ngoài võ thuật còn tinh thạo cả ma thuật. Navagraha, nhiếp tâm mê hồn pháp, là giải pháp đúng đắn nhất lúc này.

Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tinh cùng rút ra một chiếc kèn saranai. Mặt trời cùng mặt trăng di chuyển về hai bên. Trên tay Mặt trời Surya là một chiếc gương đồng, Mặt trăng Chandra cầm gương bạc. Mặt trăng Chandra đưa chiếc bình lên môi, dùng nó như một chiếc kèn thổi. Tiếng kèn trầm trầm vang trong đêm. Theo sau là tiếng năm chiếc saranai. Hai chiếc gương giơ cao, ánh lập lòe phản chiếu.

Phảng phất trong bóng tối, bảy sắc màu không ngừng chuyển động, ngày càng rõ dần như một chiếc cầu vồng đang đổ ập xuống. Mỗi chiếc saranai thổi một điệu khác nhau, không hề theo nhịp. Tiếng kèn không lớn, nhưng như có một ma lực khiến người nghe phải mụ mị đầu óc.

Vốn dĩ các Graha đại diện cho tính chất của con người. Surya là Linh hồn, Chandra là Lý trí, Mangala là Năng lực, Budha là Giao tiếp, Brhaspati là Ngôn ngữ, Shukra là Sức mạnh, Shani là Hiểu biết. Kẻ sáng tạo ma pháp Navagraha dùng bảy graha để tạo ra thêm hai graha ảo là Bắc Cực Rahu và Nam Cực Ketu.

Ánh sáng tỏa. Con rắn nuốt trọn mặt trăng lẫn mặt trời. Thế giới tràn bóng đêm. Mohini cắt rơi đầu rắn. Đầu trở thành Rahu, thân trở thành Ketu. Rahu làm mặt trời, mặt trăng mất dạng. Ketu là bóng tối của vũ trụ mênh mông.

Đi qua Rahu là mất mát.

Đi đến Ketu là hư vô.

Tinh Tú tạo thành Nhất thể. Nhất thể lọt giữa hai miền bóng tối. Thanh âm là muôn. Tình cảm là vạn. Tình này kiếp này. Hỉ nộ ai lạc. Tham sân si. Rơi vào bóng tối.

Ánh cầu vồng bảy sắc đến trên thế giới. Nhất thể bay lạc giữa trời. Nhân thế mê loạn trong muôn vàn tiếng lao xao. Đến tận cùng cực quang là bóng tối.

Con người lạc trong cõi mê. Tình là hỗn loạn. Trí là lầm lạc. Năng lực là tuyệt lộ. Càng nắm càng rơi. Càng tìm càng mất. Càng đi càng dấn xa vào chốn u minh.

Tiếng kèn saranai thê thiết. Năm âm điệu làm hỗn loạn óc người. Ánh sáng trong gương thay đổi, mê loạn tầm mắt. Khơi dậy những cõi sâu kín nhất của con người. Đánh vào những điểm mềm yếu nhất của lòng người. Người lọt trong ma pháp này sẽ tâm mê trí loạn, khí huyết nghịch đảo, nhẹ thì hôn mê, nặng thì đứt mạch máu mà vong mệnh.

Nhưng, kẻ đứng trên vách đá kia vốn không phải con người.

Y vẫn đứng như dựa vào ngọn núi, dưới mây trời và cơn mưa. Đôi mắt bình lặng. Thân thể bất động.

Tai y đã sớm không còn nghe thấy. Tâm y đã sớm đóng khép. Y đã sớm lọt vào cõi Vô Âm.

Thiên thính tịch vô âm. Bầu trời xa vợi đã không còn nghe thấy thanh âm trần thế.

Chậm rãi, y nâng đao. Chớp sáng lóe trên bầu trời, mang theo tiếng sấm rung chuyển mặt đất. Cùng với thanh đao của y cắm ngập vào đá.

Vách núi rung chuyển dữ dội. Từ nơi y đứng, một vết nứt chạy dài, xé toạc mặt đất. Thất Tinh vội vàng ngưng tiếng kèn, tấn trụ lấy nơi đứng mỏng manh. Đá trên đỉnh núi không ngừng trút xuống. Trong mưa, đất hóa bùn nhão, bất cứ lúc nào cũng có thể hất người lăn xuống vách đá.

"Muốn sống thì đi đi." Sa ngẩng đầu, buông một câu duy nhất. Thanh đao trên tay y đã chĩa vào đám người bên dưới.

Tiếng kèn vọng từ vách đá bên Trung Thai cũng vang đến tận nơi vách Hạ Thai, duy chỉ còn những thanh âm mơ hồ như khói. Chớp tỏa, chiếu sáng mặt đất, chiếu sáng cả hai thân người đang lặng lẽ đi dưới cơn mưa. Cả kẻ đang đứng dựa vào một vách đá, khuất trong bóng tối.

Hắc Hổ toàn thân trang phục đen, làn da đen thẫm, đứng khuất hẳn vào bóng tối.

"Hai vị xin cho biết quý tính đại danh." Nhìn thấy hai kẻ đang tới, y ngẩng lên cười. Hai tay y vẫn khoanh trước ngực.

"Ganesa và Skanda." Hai kẻ vừa tới cũng rất nhanh lấy lại bình tĩnh, thản nhiên trả lời. Hắc Hổ nhè nhẹ nhướn một bên mày.

"Thần Chiến tranh Skanda, thần Hạnh phúc Ganesa? Hai người con trai của Shiva?" Y hỏi như cười.

Chú thích:

[1] Hộ Thần Bát Phương Thiên: Dikpalakas. Tám vị thần canh giữ tám phương trời của đạo Bà-la-môn.

[2] Hoành hành nhất thế, Phật Tổ thôn khí, Tiễn dĩ ly huyền, Hư không trụy địa: Bài kệ của thiền sư Nhất Sơn Nhất Ninh (Issan Ichinei). Dịch nghĩa: Hoành hành một kiếp, Phật Tổ thu lại hơi khí, Tên rời khỏi dây, Hư không rơi về đất.

[3] Tinh Tú: Graha. Graha đầy đủ có 9 tinh tú, nhưng người ta tùy theo mục đích có thể thờ theo lối 5, 7, 9.

Hồi 21: Người xưa

Ganesa thấp tròn, đường nét thô vụng, tay chân ngắn. Skanda cao lớn đẹp đẽ, rắn chắc như đúc bằng vàng khối.

Ganesa dùng phủ việt[1], Skanda dùng trường giáo. Một cương mãnh quyết liệt, một mềm mại khéo léo. Một bao vây, một dồn ép. Một dùng khí lực như đá núi ngàn cân, hung ác bạo phát. Một dùng kỹ thuật như gió luồn mây phủ, đánh đến những nơi hiểm yếu nhất.

Xà mâu như mây cuốn triều dâng, cũng không vì thế mà lui nhượng.

Hắc Hổ một thân trang phục đen, xà mâu nặng trăm cân bằng đồng đen bóng loang loáng trong bóng tối, như một luồng cuồng phong đánh dạt bất cứ trở lực nào. Y đường đường chính chính đối đầu với Nhị Thần mà mặt không đổi sắc, khí thế so ra còn thêm vài phần áp đảo.

Đường mâu của y không phải như võ thuật trong nhân sĩ giang hồ bình thường, mà là của một vị tướng bạt ngàn quân lính dưới chân ngựa. Chớp sáng gió giật, uyển chuyển mà không thiếu phần cường bạo. Ánh đồng phủ kín thân người, mũi xà mâu như rắn bay sà xuống chớp lấy đối thủ. Ngàn tên không chạm, muôn giáo gãy tan, vó câu cuốn lốc tung sải giữa dặm sa trường. Tiếng gầm của chúa sơn lâm làm lặng im muông thú. Kình lực của Ganesa, sự khéo léo của Skanda vẫn không thể nào chạm tới được y.

Nhưng Nhị Thần vốn đứng cao hơn cả Bát Phương Hộ Thần lẫn Thất Tinh Tú, lại càng không phải là đối thủ dễ dàng đánh bại.

Ngọn giáo của Skanda dần dần đan móc lấy xà mâu trên tay Hắc Hổ, theo từng chiêu thức của y. Ngọn giáo làm theo kiểu cách của thanh Vel trong truyền thuyết trên tay thần Skanda, có vẻ mảnh mai mềm mại mà dẻo dai vô ngần. Loáng thoáng trong bóng tối, ngọn giáo như quấn vào thân xà mâu, hữu khí vô lực mà kiềm hãm kình lực ngàn cân của thanh mâu. Phía sau, Ganesa tròn trịa mà nhanh nhẹn vô song, đường phủ việt càng lúc càng nhanh, sắc bén như có thể cắt qua khí trời, chỉ nghe tiếng không thấy hình. Xà mâu bạt gió mà tiến, phủ việt cắt trời mà vây. Đường mâu càng đánh càng chậm hẳn lại.

Ngọn giáo đột ngột móc lên, dựa vào sức mâu mà giật lại. Mâu ngừng, phủ việt bên cạnh chém tới, Hắc Hổ buộc phải hụp người xuống tránh, cầm ngang ngọn mâu bằng cả hai tay, xoay nó quanh mình tạm thời đánh dạt hai đối thủ ra.

Tuy vậy, y không tránh khỏi một vết thương trên vai. Nếu phản ứng chậm một sát na, có lẽ đầu y đã rời khỏi cổ.

"Quả là Song tuyệt." Y không thể đừng mà thầm than nhẹ. Nghe lời y, Ganesa mỉm cười, trong khi khuôn mặt hoàn hảo vô khuyết của Skanda vẫn lầm lì. Không nói không rằng, ngọn giáo lại lao tới, lần này mang mãnh lực tựa sóng triều lãnh liệt xé gió. Bọn họ quyết sớm hạ được Hắc Hổ mà lên ngọn Thủy Sơn kia.

Hắc Hổ vung mâu sau lưng, nụ cười thường trực đã tiêu thất. Xà mâu chạm lướt qua thân giáo, nghe tiếng kim khí cạ xát rợn người. Bất chợt, xà mâu đổi hướng, đánh thẳng vào nơi gần tay cầm của Skanda. Lực đánh càng hăng, phản lực càng mạnh, Skanda nghe hổ khẩu tay rung động, vội vàng thu chiêu.

Thanh mâu xoay tròn, quạt ngang ra sau lưng Hắc Hổ, đánh thẳng vào Ganesa, va mạnh vào mặt phủ việt, hốt nhiên khiến Ganesa phải lùi một bước.

Xà mâu uyển chuyển như giao long, phảng phất tựa mây xám, dần dần lộ ra sát khí có thể thôn hạ cả đất trời. Thanh mâu của Hắc Hổ vốn có lưỡi dài hơn bình thường, thân dao cũng to hơn, gần giống như một thanh long đao ngoại trừ những đường uốn khúc tựa thân rắn. Nhoang nhoáng trong bóng tối được mưa phủ nhòa, ánh kim khí trên lưỡi mâu tỏa như ngàn tia chớp lập lòe qua mây đan trên mặt đất.

Đường mâu không nhanh nhưng khí tức áp trọng, giáo không thể theo kịp, mỗi lần tiếp cận lại bị đánh bật ra. Thân thủ Hắc Hổ không ngừng chuyển động, không cho Ganesa cơ hội áp sát. Trước kia y không muốn để lộ thực chiêu nên chỉ đánh cầm chừng, giờ đây chiêu thức thuần thục đánh ra mới khiến đối phương phải kinh ngạc.

"Võ công Triều Văn?" Ganesa chợt bật lên tiếng nói. Khuôn mặt tròn trịa phúc hậu của gã thoáng qua vẻ kinh ngạc, tức giận lẫn sợ hãi. Bên kia, Skanda cũng đã ngừng tay.

Y cũng đã nhận ra thân pháp này.

Tại Phú Yên năm ấy, ngựa ô áo đỏ tung mình giữa cát và đá núi, sải giữa rừng già, bạt ngàn binh tướng. Giáo kiếm gãy vụn, thân người ngã rạp. Chiến thần của sa trường.

Tại lũy Trấn Ninh năm ấy, đứng trên vọng đài, trước súng nổ từng hồi, quân dâng từng đợt. Lũy đá tan tành, người vẫn đứng yên, mặt không đổi sắc.

Tại thành Đồ Bàn năm ấy, trên bành voi, vung kiếm chỉ về thành. Súng nổ đá lăn. Thành trì vỡ vụn.

Tại Quảng Nam năm ấy, đạp lên sóng dữ, chinh phục biển cả. Thân ảnh phiêu linh như hải âu trước đầu thuyền. Sóng vỗ cát nhòa. Máu hòa nước xanh.

Kẻ đã trở thành truyền thuyết trong người Chiêm Thành. Trong ác mộng và máu đỏ của người Chiêm Thành. Gia tộc mà cái tên đã trở thành dấu ấn không phai trong tâm trí mọi người mọi kẻ. Triều Văn, kẻ thừa kế của gia tộc này, kẻ đã đi theo chúa Nguyễn từ Thăng Long về Thuận Hóa. Gia tộc đã bảo vệ họ Nguyễn, sát cánh cùng họ Nguyễn trong mọi cuộc chinh tru.

"Vậy thì, kẻ ở trên kia..." Skanda qua cơn kinh ngạc, âm thầm thốt. Mắt Ganesa đã mở to.

"Người mà không ai chạm đến được." Hắc Hổ chậm rãi nói.

Ngọn Thượng Thai mờ trong mây. Bước chân người đi lên bậc đá nhẹ bẫng như lá rơi. Sư phụ trụ trì mở cửa, nhác thấy bóng người trong sương liền cất tiếng hỏi lớn.

"Xin hỏi, thí chủ là ai?" Giọng nhà sư già vẫn bình tĩnh, dù tám chín phần đã đoán được mục đích của người vừa tới. Đi trong đêm mưa gió này vào rừng, lại không mang theo đèn, hành tung không phải của một người bình thường.

Người ấy bước khỏi màn sương, áo trắng như mang theo hơi sương lạnh. Một mỹ phụ tuổi chỉ ngoài ba mươi, tư thái điềm đạm, nhãn thần trong sáng, mắt to đen láy. Tuy toàn thân áo trắng, nàng không bịt khăn, mái tóc vấn gọn ghẽ sau đầu. Đến dưới mái hiên, mỹ phụ bỏ ô xuống, nghiêng mình trước nhà sư.

"Đêm mưa lạnh giá, xin hỏi có thể ở nhờ mái nhà chùa một đêm?" Giọng nói của nàng ôn nhu, mang theo mấy phần mỏi mệt. Nhà sư nhìn vào trong nhà, rồi thở dài.

"Xin mời thí chủ." Ông nói, đưa tay. Mỹ phụ mỉm cười như cám ơn.

Bên bàn trong gian nhà nhỏ, nam tử áo xanh vẫn nhìn xuống trang sách, không ngẩng lên khi người phụ nữ bước vào. Thấy y, nàng ngẩn người. Nhà sư bước sau nàng, đến bên bàn sắp ra thêm một chén trà.

"Thí chủ uống ly trà cho ấm người." Ông ôn tồn nói. Trà bốc hơi khói đắng, quện lấy sương từ ngoài cửa thổi vào. Thiếu phụ sau một lúc trầm tư cũng chậm chạp ngồi xuống bên kia bàn, đón lấy ly trà.

Thiếu phụ cúi đầu uống trà. Nam tử chăm chú đọc sách.

"Còn định đọc sách tới khi nào?" Một lúc sau, thiếu phụ chợt hỏi. Giọng nàng mất đi vẻ ôn hòa, thậm chí thoáng một nét giận dữ. Nam tử liếc nhìn nàng, nụ cười chậm chạp đến trên môi y.

"Chỉ sợ khi ta mở miệng, không thể ngồi cùng nàng được nữa." Y nói, đặt cuốn sách xuống, nhấc ấm trà rót vào chiếc ly đã cạn. Y làm ra vẻ như không thấy ngón tay người thiếu phụ run lên bên kia bàn.

"Ngươi biết ta ở đây." Câu hỏi mà như khẳng định. Thậm chí, nàng muốn hỏi, vì thế mà y tới đây?

Nam tử chỉ mỉm cười, không trả lời.

"Bao nhiêu năm rồi." Y nói, vẫn nhẹ nhàng như không nhận thấy sự thù địch lẫn cảnh giác của người trước mặt. "Nàng vẫn nhất quyết không tha thứ cho ta?"

"Tha thứ cho kẻ thù?" Thiếu phụ 'hừ' khẽ. Nam nhân nhướng mày.

"Ta sao lại là kẻ thù của nàng? Vì dòng dõi của ta? Vì máu huyết của ta? Nhưng nàng đừng quên, dòng máu của nàng có một phần là người Việt." Y nói, cái cau mày của thiếu phụ càng rõ.

"Không được nhắc tới!" Nàng gằn giọng. Nam tử ra vẻ như không hề nghe thấy, thậm chí nụ cười càng mở rộng hơn.

"Không những là người Việt, mà còn là vương tộc của chúng ta. Tính ra, ta thậm chí còn phải cúi đầu trước nàng, gọi nàng một tiếng quận chúa..."

"Không được nhắc tới!" Bàn tay thiếu phụ đập xuống bàn. Những chiếc ly nảy lên. Ở góc phòng bên kia, nhà sư đã tọa thiền, ra vẻ không nghe thấy tiếng ồn ã bên này.

Mắt thiếu phụ tràn đầy tia lửa giận.

"Phải, tự hào lắm, các người tự hào lắm, đúng không?" Nàng buông từng lời, một lúc sau. "Vua của các người đánh chúng ta, bắt giết gần mười vạn người, máu nhuộm đỏ thành Đồ Bàn - nhưng thế còn chưa đủ. Các người bắt được công chúa Chiêm Thành, đem vào hậu cung hầu hạ vua các người. Tổ phụ ta nhân dịp nhà Lê rối loạn mà trốn về được, đem theo bào thai nghiệt chủng của vua các người[2]. Bây giờ ngươi còn dám nhắc lại với ta?"

"Đã hơn hai trăm năm rồi, chuyện không hề liên can tới chúng ta, sao nàng lại trút giận vào ta?" Nam tử bình thản nói. "Ta chỉ nhắc cho nàng rằng, trong nàng còn có dòng máu của chúng ta, không cần phải quá cố chấp vì những điều như thân tộc hay huyết thống. Nếu nàng bảo rằng phải có trách nhiệm với dòng máu vương tộc Chiêm Thành, chẳng phải là nàng cũng có trách nhiệm với cả con dân của Đại Việt sao?"

"Các người nào phải dân Đại Việt." Thiếu phụ cười khẽ. "Các người đã quay lưng với triều đình lẫn gốc gác ấy. Nếu ta tính theo thân phận Lê triều, các người còn là kẻ ta phải tiêu diệt thêm mấy bậc. Bây giờ, các người là kẻ thù của chúng ta. Ngươi có thể nói rằng mình không phải là kẻ thù của chúng ta?"

"Phải, chúng ta là kẻ thù. Dù bây giờ chưa phải thì sau này sẽ là thế." Nam tử gật đầu, nói sau một lúc trầm ngâm. "Nên nếu nàng không muốn chúng ta là kẻ thù, đêm nay nàng nên giết ta. Kẻ chết rồi sẽ không thể trở thành kẻ thù của nàng được nữa."

"Hoặc là, ngươi giết ta." Khóe miệng thiếu phụ khẽ nhếch. Nàng đứng dậy, quay người hướng ra sân. "Tốt nhất nên hành động ngay bây giờ."

Nam tử muốn nói, nhưng rồi chỉ nhún vai im lặng. Y đứng lên theo thiếu phụ ra sân chùa. Sương cùng mưa vẫn mù mịt bao phủ khoảng đất trống. Nhìn thấy thiếu phụ đã rút vũ khí là một thanh nhuyễn kiếm quấn quanh người ra, y chỉ cười.

"Thật ra, ta muốn hỏi." Y chầm chậm nói. "Nàng hận ta vì ta là ta, hay là vì ta biết bản thân nàng?"

"Ngươi có thể bảo rằng mình không có mục đích gì khi tiếp cận ta?" Thiếu phụ hỏi sau một lúc im lặng.

"Không. Năm đó ta đến vùng đất ấy, vốn để tìm nàng. Hậu duệ của vua Lê Nhân Tông và công chúa Xahinơ của Chiêm Thành, ta chính là cần một người như nàng." Y nhìn thẳng vào mắt thiếu phụ mà nói. "Sau khi vua Lê Nhân Tông bắt vua Bí Cái, hoàng tử Pô Brah chạy thoát. Chiêm Thành hỗn loạn, quần thần tôn Pô Brah lên ngôi, hoàng tử yêu cầu phải đưa được người bác là công chúa Xahinơ trở về. Có công chúa chủ trì lễ tôn vương, Chiêm quốc mới có vua. Người con ấy, được đặt tên là Lê An. Ta biết tất cả những điều đó trước khi gặp nàng."

"Có tiếng nói của ta trong triều đình Chiêm Thành, ngươi xem như khống chế được một nửa Chiêm quốc. Có ta trong triều Nguyễn, các người coi như loại bỏ được tiếng tăm 'phản Lê', thậm chí có thể dựa vào ta mà tiến lên phía Bắc." Thiếu phụ nhếch môi cười, nhưng giọng nói phẫn uất không có chút gì giống như đang cười. Đôi mày nàng dần dần xếch ngược khi thanh kiếm bạc được nâng lên, chĩa thẳng vào mặt nam tử. Y vẫn đứng yên, không có động thái nào dù là rút vũ khí hay phòng thủ.

"Phải." Một lần nữa, y gật đầu. "Nhưng thế thì có gì sai?"

Thiếu phụ mím môi, quát một tiếng khe khẽ khi lao về phía y. Thanh kiếm trên tay nàng quét một đường chói rực trong sương. Nhuyễn kiếm mềm mại lay động như lụa, thêm kiếm pháp của nàng càng uyển chuyển tựa ngọn cỏ trong gió. Tơ liễu tung bay, khói sương man mác. Chiêu thức tưởng chừng yếu ớt vô lực nhưng mũi kiếm nhằm vào những nơi hiểm yếu nhất, tụ khí mà điểm, dựa thế mà cắt. Lúc thẳng lúc cong, lúc cứng lúc mềm, thanh kiếm biến thiên thành muôn hình vạn trạng, không để đối thủ biết phương chống đỡ.

Y không chống, cũng không đỡ. Trước sự tấn công của thiếu phụ, y chỉ lùi lại. Dù nàng có tiến đến đâu, mũi kiếm luôn cách mặt y một gang tay, không xa không gần. Vừa lùi, y vừa giữ giọng từ tốn mà nói như rù rì.

"Rốt cuộc thì mục đích của ta có gì sai, Lê Anh? Làm hòa với triều đình Chiêm Thành, chống lại những kẻ muốn tiêu diệt ta từ phương Bắc, thế thì có gì sai? Chẳng lẽ ta phải quyết đánh quyết giết nhau, để kẻ khác tiêu diệt mình thì mới là đúng, mới là nên làm?"

"Đừng giả nhân giả nghĩa!" Không chạm vào được y, thiếu phụ được gọi là Lê Anh càng trở nên nóng nảy. "Kẻ nào đã đuổi chúng ta từ thành Đồ Bàn đến Phú Yên, rồi đến tận Panduranga? Kẻ nào đã tiêu diệt chúng ta, hết lần này đến lần khác? Vua Po Rome đã muốn làm hòa với các người, nhận công nương Ngọc Khoa của các người về làm vợ, kết quả là các người dựa vào cô ta làm gián điệp, tiêu diệt Đồ Bàn. Ta không ngu ngốc đến mức tin các người!"

"Năm đó..." Y thở ra, chân vẫn không ngừng thoái bộ. "Thôi được, chúng ta đánh nhau. Nhưng nếu chúng ta không đánh, Chiêm quốc sẽ để yên cho chúng ta sao, Anh?"

"Khi chúng ta đến Thuận Hóa, chính nhà vua Chiêm quốc đã tiến đánh chúng ta trước." Y nói sau một lúc thấy Lê Anh không trả lời. "Quảng Nam là đất vua Lê Thánh Tông đã lấy được. Thuận Hóa là đất nhà Trần đã đổi về được. Quảng Bình đến Nghệ An là đất nhà Lý lấn được. Chiêm quốc có quên những điều đó không? Chiêm quốc có muốn lấy lại đất đai không? Chiêm quốc có để yên cho chúng ta không? Chúng ta đánh nhau bao nhiêu năm rồi? Hàng ngàn năm. Bây giờ chúng ta ở đây, phía Bắc thì quân Trịnh ép xuống, phía Nam thì Chiêm quốc đòi tiêu diệt. Nàng bảo ta phải làm gì?

"Ta không thể bảo đảm rằng không có chiến tranh xảy ra lần nữa, chỉ là cố tìm một phương cách nào đó để yên ổn tạm thời. Nàng bảo đó là sai sao?

"Hay là nàng, chính nàng, cũng giống như bọn họ - Đòi đuổi tận giết tuyệt, một sống hai chết cùng chúng ta cho bằng được?"

"Im giọng điệu thuyết khách này đi!" Lê Anh nghiến răng nói, tay kiếm càng lúc càng nhanh. Nàng gia tăng cước bộ theo hình vòng cung, thu hẹp tầm di chuyển của đối thủ. Thanh kiếm đã tiến đến trước y thêm nửa gang tay. "Phải, chúng ta một sống hai chết. Các người biết điều đó, nên bất cứ lúc nào có thể, các người đuổi tận giết tuyệt chúng ta. Bây giờ chúng ta không còn gì, chỉ còn một dải đất đầy cát ở Panduranga, các người cũng muốn chiếm. Các người bắt vua, cô lập triều đình, phân tán dân chúng, thậm chí bắt cả người Kinh đất địch vào ở trong những vùng chiếm được, chẳng phải là tạo đà lập thế lựa thời tiêu diệt chúng ta?

"Sống cùng nhau? Các người nói hay thật! Thế thì sao các người không cúi đầu thần phục nhà vua Chiêm quốc mà bắt Chiêm quốc tuân phục các người?"

"Kẻ nào mạnh làm vua, vốn chẳng liên quan gì đến người này hay người nọ." Y nhún vai.

Lê Anh gần như lao người tới. Thanh kiếm đâm thẳng vào mặt nam tử. Y vội né tránh. Cánh tay áo phất lên, ngọc tiêu xuất thủ. Thanh nhuyễn kiếm bị một luồng kình lực cuốn hất về trước, Lê Anh lảo đảo suýt ngã.

Y phất tay áo về sau, ngọc tiêu lại được nhét vào thắt lưng. Điệu bộ vẫn thong dong.

Bao nhiêu năm rồi mà võ công nàng vẫn không khá hơn. Y nhếch môi, nghĩ khi nhìn Lê Anh lấy lại thăng bằng. So với những Bát Phương Hộ Thần, Thất Tinh Tú hay Nhị Thần, võ công của Lê Anh vốn không địch nổi cái phất tay của họ. Nhưng nàng tính tình nóng nảy hiếu thắng, lại mang danh phận cao quý để có thể tùy tiện làm theo ý mình nên mới xách kiếm đến 'ám sát' y. Biết rõ điều đó, y để người cản đường các hộ pháp, cho nàng mặc tình lên núi. Không có các hộ pháp, thật tình nàng muốn chạm vào tay áo y còn không được.

Lê Anh cắn môi. Sự giận dữ như được đổ thêm dầu vào lửa càng cháy bừng trong mắt nàng. Nàng rủa thầm trong lòng. Khi nhìn thấy nam tử này, nàng biết rằng mình không thể giết được y, nhưng cũng không muốn để y coi thường khi chính y đã thách thức nàng giết mình. Nào ngờ y lại được dịp khiêu khích khinh thường nàng hơn. Hẳn y đang thầm cười nhạo nàng. Con người này, bao nhiêu năm rồi vẫn thủ đoạn khinh mạn kiêu căng như thế.

Bao nhiêu năm rồi, ý nghĩ khiến nàng chợt ngẩn người. Mười năm, hay hai mươi năm? Là y không thay đổi, nàng không thay đổi, hay là thời gian trôi qua quá nhanh?

Không, y đã thay đổi. Lê Anh mím môi nhìn nam tử trước mặt. Ngày xưa y không dễ dàng thừa nhận tất cả với nàng như thế. Ngày xưa, y làm mọi cách năn nỉ giữ nàng lại, ngoại trừ nói thật. Ngoại trừ nói những điều mà y vừa nói.

Trong mắt y giờ đây đã có một niềm tĩnh tại đến cô lạnh, đến xa xôi. Ngay cả khi nhìn nàng. Nàng ở trước mắt y, nhưng y không có ở trước nàng. Y đứng đó, như một hình ảnh ở trong gương, trong bóng nước. Trước mắt mà xa vạn dặm.

Nói những điều này với nàng, như thể chúng đã không còn quan trọng nữa.

"Ngươi cố tình bẫy ta đến đây làm gì?" Lê Anh hạ kiếm, lấy lại sự bình tĩnh mà hỏi. Tất nhiên, không thấy Thất Tinh Tú lẫn Nhị Thần, lại thêm sự điềm tĩnh của y khi thấy nàng, hẳn là mọi điều đã được y sắp đặt. Và hẳn là không phải để ôn lại chuyện xưa, nói đến những điều không còn có thể quay lại bao giờ.

Con người mà nàng biết, không phải kẻ như vậy.

"Vẫn như ngày xưa, khi ta đi tìm nàng." Y mỉm cười, bất chấp ánh mắt Lê Anh tối lại. "Và cũng vì ta muốn nàng tránh được một tai kiếp."

"Tai kiếp?" Lê Anh hỏi lại. Câu hỏi chưa dứt, nàng đã thấy câu trả lời.

Từ ánh lửa xuyên thấu qua màn sương. Ánh lửa rừng rực chiếu qua màn sương. Không chỉ là ánh lửa lễ đơn thuần. Lửa cao có ngọn, bốc cao như một ngọn đuốc. Từ xa vẫn nghe thanh âm náo loạn vang lại.

Hỏa Sơn đang bốc cháy. Cẩm Thạch bàn đang bốc cháy.

Chú thích:

[1] Phủ: Búa. Việt: Rìu. Phủ việt là vũ khí 1 bên là lưỡi rìu, một bên là đầu búa.

[2] Năm 1446, vua Lê Nhân Tông đánh thành Đồ Bàn, bắt vua Bí Cái và các hoàng thân quốc thích về Thăng Long, trong đó có công chúa Xahinơ. Công chúa Xahinơ bị đưa vào hậu cung, rồi được người Chiêm Thành cứu về khi vua Lê Nhân Tông không có trong triều. Tương truyền, khi nhìn thấy công chúa mang thai, nhiều người Chiêm đã tỏ thái độ xót thương, công chúa đã nói một câu: "Bik Drei Brah Urang" nghĩa là bị của mình, chứa gạo người khác, ý bà muốn nói "Dạ của mình, chứa con của ngoại tộc". Người con này tên gọi Lê An, người Chăm gọi là Pô Ban Amư, có đền thờ ở Xã Chợ Lầu, Bắc Bình, Bình Thuận.

Hồi 22: Đám cháy

Lửa giăng bốn phía Cẩm Thạch bàn.

Sau một loạt tiếng nổ kinh động bốn phương, ngọn lửa trên đỉnh chính điện bắn ra xung quanh như pháo hoa. Lửa chạm vào đâu, rừng rực thiêu cháy nơi ấy.

Lửa cháy trong mưa đã là chuyện lạ. Lửa lan trên nước, theo nước mà cháy ngày càng rộng, là chuyện càng bất thường.

Nhưng không ai có thời gian để tìm nguyên nhân của sự bất thường ấy khi lửa chỉ trong chốc lát đã phừng phừng nuốt trọn khu đền đài rộng. Những khu nhà đá cẩm thạch trắng chìm trong lửa đỏ, dưới mưa vẫn không ngừng tuôn. Sấm nổ, chớp ngoằn ngoèo rẽ xuống rạch nát bầu trời. Thanh âm càng làm người trên khu điện đài kinh tâm động phách. Có người đã hóa thành hoảng loạn.

Rất nhiều người hoảng loạn. Họ chạy tứ tung khắp bốn phía ra rìa núi tránh lưỡi lửa bốc cao, tỏa hơi nóng hầm hập. Cảnh tượng ở rìa núi càng khiến họ kinh hoàng thêm: Bốn phía núi đã bị vụ nổ vừa rồi vạt sạch, không còn một cọng cây ngọn cỏ. Kẻ ra tay đã dùng thuốc nổ dọn sạch khoảng rừng cây xung quanh mỏm núi để đám cháy không lan xuống, đồng thời cho những kẻ trên đỉnh vô phương chạy thoát. Cẩm Thạch bàn đã bị cô lập hoàn toàn, giữa trời cao.

Tiếng kêu khóc vang động trong mưa cùng sấm sét.

"Yêu nghiệt... Yêu nghiệt..." Một thầy Chang gần như đã phát cuồng, mắt mở trừng trừng nhìn lửa cháy loang trên mặt nước mà lẩm bẩm trong cổ họng. Lửa cháy từ trung tâm đền đài đang theo nước trôi xuống những tầng đền thấp mà tỏa. Từ những vũng nước, lưỡi lửa liếm lên cao, dần dần bắt vào các dụng cụ gỗ, rầm cột, cây cối mà nuốt chửng cả các bức tường đá. Lửa như một con quái vật được nước tiếp sức mà cuồn cuộn bốc tràn.

"Bình tĩnh! Mọi người bình tĩnh!" Thầy Cả hét, nhưng hầu như không còn ai nghe lời ông. Ngay cả những chức sắc trong chùa cũng đã biến sắc. Họ đưa mắt nhìn tuyệt vọng về phía chiếc giếng giờ đã ngập dưới lửa. Lửa bao vây bốn phía giếng, chặn con đường mật đạo cuối cùng cho người trên núi thoát thân.

Bình tĩnh? Đối mặt với cái chết, ai còn có thể bình tĩnh? Nhất là trong cảnh tàn khốc ma quái này?

Cảnh tượng người kêu quỷ khóc thê lương khiến thầy Cả cũng phải ngây người. Lửa theo nước vẫn không ngừng tràn xuống, đẩy đám người đã chạy khỏi điện đến rìa núi. Vách núi đã bị vạt một mảng, chỉ còn đá dốc đứng, không còn đường xuống. Người đứng trên vách đá nhìn xuống bóng tối sâu hoắm bên dưới mà kinh tâm.

"Thầy... thầy Cả..." Thầy Mum bên cạnh quay sang người đàn ông bao giờ cũng mang vẻ mặt cứng cỏi đến chai lỳ, nhận thấy ánh hoang mang trong đôi mắt ông. Quai hàm thầy Cả cứng lại khi ông quay người nhìn con đường về giếng nước đã ngập trong lửa. Đường xuống đã bị chặn, đây là lối thoát duy nhất của họ lúc này.

"Theo ta!" Ông hét lớn, cố để át tiếng mưa và tiếng ồn ào xung quanh. Vài người quay lại, kéo thêm nhiều người khác. Tất cả hướng mắt về phía ông. Hy vọng ánh lên trong mắt họ.

Thầy Cả cởi áo đã đẫm nước mưa che lên đầu, lao vào đám lửa. Thân thủ nhanh nhẹn nhẹ nhàng lướt đi trong lửa như một mũi tên. Đến bờ giếng, ông quay lại. Khi vượt qua lửa lần thứ hai trở về chỗ đám người, chiếc áo ướt của ông cũng đã bốc cháy bừng bừng.

"Nếu nhanh chân, có thể qua được." Thầy Cả nói khi hất chiếc áo xuống. "Cần nhanh lên, trước khi lửa lan rộng ra nữa."

"Nhưng không phải lửa này bắt vào nước?" Một người rụt rè hỏi.

"Có kẻ đã cho thứ gì vào nước - trên đất." Thầy Cả nheo mắt nhìn ngọn lửa đang rừng rực cháy. "Lửa bốc lên từ đất, không phải từ nước. Có thể là dầu hay nhựa cây. Gặp nước, nó tan ra, rồi bắt lửa."

Người xung quanh nhìn theo ánh mắt của thầy Cả, rồi gật đầu. Nhiều người đã cởi áo ngoài. Nhưng một số người khác vẫn đứng yên.

"Phải chạy rất nhanh mới qua được..." Thầy Mum già rụt rè nói. Võ công của thầy Cả là nhất ở đây, vượt qua lửa không vấn đề gì, nhưng còn một số lớn người khác?

"Ai không chạy được thì ta sẽ cõng. Nhanh lên, trước khi lửa lan rộng hơn!" Thầy Cả phác tay, nôn nóng kêu gọi. Vài người đã liều mạng chạy qua lửa, một số lớn khác vẫn chỉ đứng nhìn trân trối.

Không nói không rằng, thầy Cả cởi lấy tấm áo thứ hai trong mình, xốc thầy Mum già lên lưng, phủ áo lên cả hai người. Ông đạp chân đi, nhắm mắt xuyên qua lửa, thả thầy Mum xuống miệng giếng. Thân thủ nhanh nhẹn, hành động táo bạo, nhưng khoảng đi về cũng vừa đủ để đốt đến chiếc áo thứ hai của ông.

"Cởi áo ra!" Ông nhắc người xung quanh. Qua lúc kinh hoảng, họ lập cập làm theo. Bây giờ, số người xô đến bên thầy Cả nhiều đến mức gần như đẩy ông vào biên đám lửa. Ai cũng hiểu, lửa càng lan rộng, càng khó vượt qua, phải nhanh chóng chớp lấy cơ hội sống còn.

"Ưu tiên người già trẻ em. Nếu không có trẻ em thì người nào có gia đình vợ con, cha mẹ già phải nuôi." Một giọng nói trẻ trung chợt vang bên cạnh đám người. Tiếng Quảng Đông xa lạ với hầu hết người nơi đây, chỉ có thầy Cả quay lại.

"Một mình thầy sao được, ta giúp thầy." Hắn vừa nói vừa đi xuyên qua đám đông, thuận tay lấy tấm áo ướt trên tay một người tuổi đã cao. Nhìn hắn, ông ta kéo giật tấm áo lại. Hắn trừng mắt. "Ta không đem ông đi nướng đâu mà sợ. Ông già thế này thì sao thịt còn ăn được nữa?"

Nhận ra người trong đoàn 'sứ giả Vân Nam', thầy Cả có vẻ giật mình. Nhưng rồi ông gật đầu.

"Nhờ các hạ giúp cho." Trong lúc nguy cấp này, không có thời gian để suy tính nhiều.

Hắn lôi ông già vẫn còn vùng vẫy lên lưng, kéo tấm áo ướt lên phủ đầu, chạy vào đám lửa. Lửa nóng như thể thiêu đốt hết khí trong phổi hắn. Hắn trong lòng âm thầm thở dài. Sự đi tìm náo nhiệt nào của hắn dạo này chẳng vui vẻ chút nào. Mấy ngày liền không được uống rượu ăn thịt thì chớ, giờ lại gặp việc này. Kẻ dưới núi ra tay cũng quá độc ác, một trận hỏa hoạn định quét sạch nơi này, không chừa lại một người. Bọn Hoắc Phương đã kéo nhau đi về phía bên kia núi, hẳn nhiên là có cách trốn thoát. Chỉ có hắn bây giờ ở đây đa sự, âu cũng là cái tính đánh chết không bỏ được.

Thả ông già xuống giếng, khi hắn quay về thì lửa đã bắt cháy sém vài sợi tóc. Lửa được nước mưa không ngừng tuôn xuống hỗ trợ, đã lan nhanh đến mức không thể tưởng được. Cả khu đền đài đã ngập trong màu lửa đỏ. Cột khói bốc cao chạm trời. Đám người đã bị dồn ép ra sát rìa đá. Lửa chiếu sáng sự sợ hãi đến gần như điên loạn trong mắt họ.

"Không vào được nữa!" Hắn vội vàng kéo tay thầy Cả khi ông định một lần nữa đưa người xông vào lửa. Nếu chỉ đi một mình lúc này, ông có thể thoát, nhưng mang theo một người nữa thì vô kế khả thi, chưa kể đến con đường ông phải quay lại. Lửa đã đốt cháy râu tóc ông, để lại trên mặt lớp muội than hòa nước mưa loang lổ, chỉ nhìn rõ được đôi mắt.

Đôi mắt bình thường sáng lạnh bây giờ tràn ngập nỗi thương tâm hòa cùng tuyệt vọng.

Điệu hổ ly sơn. Một ý nghĩ lóe lên trong tâm trí thầy Cả. Tập trung mọi người nơi đây, điều những cao thủ rời khỏi núi, cắt đứt những nguồn tiếp viện có thể đến - Và rồi một trận phóng hỏa tiêu diệt.

Nhưng tại sao hắn vẫn còn nơi đây, ánh mắt nghi hoặc của ông rơi lại trên tên thanh niên đang cố gắng trấn an những người vẫn còn đang cố lao vào lửa. Và những kẻ kia, chúng ở đâu?

Ánh mắt ông rơi vào con đường đến chính điện ngập tràn lửa đỏ. Ở đó, ông vẫn còn để lại một vật...

Tiếng ồn ào một lần nữa lớn lên cắt đứt ý nghĩ, hướng tầm mắt ông trở lại đám người. Giờ họ lại đang quay nhìn xuống vách đá, khu vực bên cạnh đường dẫn ra đỉnh núi đôi bên kia. Trong bóng tối mịt mù mưa, ông thấy loáng thoáng những đốm lửa nhỏ, hẳn là của những chiếc đèn được che lại.

Có vật gì chuyển động trong bóng tối, giữa khoảng không dưới vách đá. Sáng lên mờ nhạt như những sợi mưa, trải khắp khoảng trống dưới vách.

Một tấm lưới vô cùng lớn đã được giăng dưới vách đá. Chắn khoảng không dưới núi. Như sẵn sàng chờ đợi họ nhảy xuống.

Ông biết kẻ nào đã giăng chiếc lưới ấy.

Nhảy vào lưới, cũng là nhảy vào tầm khống chế của y. Cũng có nghĩa là lọt vào bàn tay y.

Cái gọi là thiên la địa võng, nghĩa là thế này.

"Nhảy xuống đi!" Ông kiên quyết ra lệnh. Không cần tiếng nói của ông, có nhiều kẻ hoảng loạn đã nhảy. Lưới vốn kết từ lưới đánh cá đại dương, lại được đệm nhiều lớp, quấn chặt vào núi, đỡ được không ít người. Số người lọt vào lưới nhanh chóng được kéo sang bên.

Thật là một cuộc vây bắt nhàn nhã. Ông nhếch mép nghĩ thầm, trước khi phất tay quay đi. Nhặt lên một tấm áo ướt bị vứt bỏ dưới đất, ông lao vào chính điện, nơi ngọn lửa khởi phát.

Lạ lùng thay, xung quanh đài lửa lại không bị cháy. Lửa đã bắn ra xung quanh nhưng không chạm đến chân đài.

Đứng trước đài lửa hiện giờ là Hoắc Phương cùng những thuộc hạ của y. Trong tay một người trong bọn là chiếc hộp gỗ dài.

"Ta biết người Hán có một câu tục ngữ hay một kế mưu gọi là 'Sấn hỏa đả kiếp'[1], hiện giờ mới thấy tận mắt." Ném chiếc áo cháy trên người xuống, thầy Cả trầm trầm nói. Trên người ông đã có thêm vài vết bỏng, nhưng ông không để tâm, chỉ thấy cơn giận nóng bừng trong người. "Ta chỉ muốn hỏi, là các hạ đốt lửa hay các hạ dùng lửa?"

Hoắc Phương rất nhanh bình tĩnh khi thấy thầy Cả. Y phác tay về sau, ra hiệu cho thuộc hạ chạy đi. Kẻ đổ nhựa lên đất để dẫn hỏa thực ra đã để lại một khoảng đường quanh co từ ngoài vào chính điện, cứ đi theo chỉ dẫn sẽ thoát được lửa dễ dàng. Vì cẩn thận, y đã đợi lúc ngọn lửa bốc cao mới trở vào, không ngờ vẫn bị bắt gặp.

"Lửa, không phải ta đốt." Hoắc Phương mỉm cười khi rút kiếm cầm trên tay. "Dùng lửa, ta cũng không dùng. Ta chẳng qua là có mặt trên đây, thầy có hiểu ý ta?"

"Ngươi cố tình xúi bảo ta phân phó người đi đối phó kẻ dưới núi?" Sắc mặt thầy Cả ngày càng thâm trầm đáng sợ. Bước chân ông ta chầm chậm tiến đến trước Hoắc Phương. Kẻ đang ôm chiếc hộp dài vẫn lần chần chưa chịu chạy đi.

"Ta xúi bảo thầy? Bao giờ?" Nụ cười trên môi Hoắc Phương càng rõ. Khuỷu tay y thúc ra sau, giục tên thuộc hạ mau chạy.

Gã mím môi mấy lần rồi ôm chiếc hộp gỗ quay người đi. Gầm lên một tiếng giận dữ, thầy Cả phóng tới. Nhưng con đường đã bị kiếm của Hoắc Phương ngăn chặn. Kiếm y xuất thủ, quét ngang qua cổ ông ta. Thầy Cả xoay người lui về sau. Hoắc Phương đứng chính giữa lối đi, kiếm sáng bạc trên tay, nụ cười vẫn phảng phất. Mắt y lướt từ đầu xuống chân đối thủ. Đưa người qua lửa mấy bận, nội lực của ông ta hẳn đã tổn hao không ít, trên người hiện tại lại có nhiều vết thương do lửa gây ra. Điểm yếu của y là thể lực và nội lực, bây giờ có cơ hội thắng thế.

Thấy bóng kẻ đang cầm thần đao khuất trong lửa, thầy Cả một lần nữa lao tới. Trảo lực như kình phong quét qua Hoắc Phương, bất chấp thanh kiếm trên tay y.

Kiếm cắt qua cánh tay người lao tới, để lại một vết sâu, rồi chém sả từ vai xuống.

Chỉ nghe tiếng kim loại rền vang. Tay Hoắc Phương tê buốt. Phản lực làm y gần như đánh rơi cả kiếm. Y vội vàng nhảy lùi lại, tay áo quét vào đám lửa vẫn đang tiến tới gần bên.

Áo giáp. Y nhận ra ngay ánh kim khí lóe lên trong vết cắt của lớp vải áo. Hóa ra đó là lý do ông ta không cởi áo trong cùng ra ngay khi lao qua lửa.

Kiếm pháp không có nơi hiệu dụng, y biết mình đã ở vào thế hạ phong. Chút ít quyền thuật Đông Doanh không thể giúp y thắng được kẻ mình mang kim giáp, thân chứa nội lực ngàn cân này.

Y lùi dần, lùi dần về phía đài lửa. Đây là lối ra thoát khỏi lửa của chính điện. Lửa đang dần bốc cao, nếu chậm trễ, chính y cũng phải chết trong lửa.

Nhưng ưu thế của Hoắc Phương trước những đối thủ, chưa bao giờ là sức mạnh.

Nhanh như làn gió phất, kiếm trong tay y phạt ngang thân đài gỗ. Lửa hất tung xuống khoảng giữa y và thầy Cả. Kiếm y quét xuống mặt đất, phát ra thanh âm cạ xát vào đá rợn người, hất nước từ dưới đất lên. Nước mang theo chất dẫn hỏa bắt lửa, trong thoáng chốc đã phừng cháy thành một bức màn lửa che phủ y, bắn vào đối thủ.

Trong sát na ấy, y tung người chạy thoát. Không quên vạch kiếm xuống đất phía sau, kéo lửa che khoảng đường được bỏ trống.

Sau lưng y, tiếng rống giận của thầy Cả vang khắp các điện đài chìm dưới lửa. Thân ảnh vàng chói như đồng xuyên qua lửa mà xông tới. Râu tóc cháy trụi, vải áo thủng lỗ chỗ, ông ta lại đang lấy một cây sắt dài mà múa ra xung quanh, gạt những tàn lửa, tạo khoảng không chắn lửa. Gậy múa như cuồng phong, xô dạt lửa nóng, bao bọc lấy thân người. Thoáng thấy bóng Hoắc Phương sau đám lửa, chiếc gậy sắt đỏ lửa lao tới, trọng khí nặng ngàn cân xô đến như núi lở, quyết đập y một phát chết tươi.

Thanh kiếm trắng như tuyết chợt lao ngang qua đường gậy, cắt ngang thân chiếc gậy sắt, hất bắn một nửa bay lên trời. Tên thanh niên vừa nãy đứng chắn trước Hoắc Phương, lưng quay về phía y. Kiếm trên tay hắn còn mang mùi khói.

"Ngươi..." Thầy Cả nhíu mày. Quả nhiên hắn đi cùng tên gián điệp kia. Nhưng với cử chỉ vừa rồi của hắn, ông ta không biết phải nghĩ sao.

"Làm ơn đừng giết nhau." Hắn nói. Hắn mà trơ mắt để Hoắc Phương bị giết, tiểu yêu tinh sẽ phân thây hắn. Dù không quan tâm đến phản ứng của tiểu yêu tinh, hắn cũng còn phải quan tâm đến Sa.

"Trả cho ta..." Thầy Cả cau mày. Nhưng tiếng nói chưa dứt, mặt đất đã ầm vang, rung chuyển dữ dội.

Điện đài chính của Cẩm Thạch bàn đổ sập. Đá lăn tứ phía, mang theo lửa bắn tung khắp trời. Đám người đứng dưới chân đài không còn cách nào khác là phải bỏ chạy. Hoắc Phương kéo tay hắn tránh một tảng đá văng xuống, chạy về phía lưới được giăng dưới vách núi. Đằng sau bọn hắn, cái bóng cháy xém của thầy Cả vẫn bám theo sát gót.

Rìa núi trống khi người trên Cẩm Thạch bàn đã nhảy xuống hết. Hoắc Phương tung người nhảy vào khoảng không. Hắn vừa định chạy theo, một bàn tay đã lao đến, nắm lấy chân hắn. Hắn ngã sấp trên mỏm núi, lơ lửng treo một nửa thân người nơi vách đá.

Thầy Cả đã lao đến tóm được hắn. Hắn than thầm. Trong trường hợp này, hắn đúng là 'thằng trọc đầu' cơ mà.

"Một là buông để ta xuống, hai là kéo để ta lên nói chuyện. Ta biết có người bị treo ngược mà chết đấy." Hắn cáu kỉnh nói sau một lúc không thấy kẻ nắm chân hắn có động tĩnh.

Thầy Cả cũng đã hết hơi sức, đang nằm thở ồ ồ. Lôi hắn trở lại đỉnh núi đang phừng phừng cháy, ông ta chỉ trừng mắt nhìn hắn, tạm thời chưa phát được ra tiếng. Bàn tay vẫn nắm chặt chân hắn như cái gọng sắt không buông.

"Thế này," Hắn khoanh chân ngồi xếp bằng trước mặt ông ta, ra vẻ nghiêm túc mà nói. "Tại hạ chỉ là người đi nhờ tên vịt trắng ốm kia, nghe thấy hắn định lên đỉnh núi này làm việc nên ham vui mà đi theo, không liên quan gì đến nợ nần âm mưu của các vị. Nếu muốn tính toán với tên vịt ốm ấy, ông cứ giữ mạng mà tìm hắn, không cần phải chết trên đây. Tại hạ vô can, càng không phải chết trên đây."

"Đi nhờ?" Thầy Cả nheo mắt nhìn hắn, giọng nói vẫn còn đứt quãng. Hắn cũng đưa mắt nhìn lại mình. Từ đầu đến chân, hắn có gì giống kẻ làm đại sự, âm mưu này nọ?

"Thế sao ngươi lại giúp hắn?" Thầy Cả nói qua kẽ răng, nhìn hắn nhún vai.

"Thấy người sắp chết thì giúp, tập quán của tại hạ là thế. Ca ca chuyên mắng tại hạ đi gây họa khắp nơi, có vẻ là đúng thật." Hắn thở ra, phiền não mà nói. Kể ra, ngoại trừ những vụ rắc rối nho nhỏ ở các sòng bạc, hắn cũng không tệ đến mức ấy. Nhưng từ ngày gặp tiểu yêu tinh kia, tai họa cứ nhằm đầu hắn mà lao tới, cũng không cần phải quá trùng hợp như vậy chứ?

Thầy Cả nhìn hắn một lúc nữa, bàn tay từ từ thả ra. Hắn nhìn xuống chiếc lưới vẫn giăng ở vách núi như thể đang chờ đợi mình, rồi nhìn lại người đàn ông vẫn đang nằm ngửa thở dốc. Trên người ông ta đầy vết phỏng, cùng với vẻ trơ khấc sắt đá này càng thêm quái dị.

"Ông không xuống à?" Hắn hỏi. Thầy Cả cười khẽ.

"Ta thà chết chứ không lọt vào tay chúng, lại càng không nhờ chúng cứu." Ông ta gằn giọng. Khu đất vẫn rung chuyển nhè nhẹ khi đất đá không ngừng đổ xuống.

"Thù oán gì thì sống mới nói được, chết rồi thì có ai biết mà tính toán?" Hắn lại nhún vai. Nhưng trong thâm tâm, hắn cũng biết, một người như thầy Cả này, nếu lọt vào tay địch nhân, có thể toàn mạng thì cũng bị câu thúc suốt đời. Như vậy, sống quả là khổ hơn cả chết.

Mà hắn cũng chẳng có lý do gì để muốn ông ta phải chết. Vừa rồi nhìn ông ta lo lắng cho thuộc hạ mà xông pha vào lửa nóng, bất chấp bản thân, hắn quả tình kính trọng.

"Ngươi còn không xuống?" Thầy Cả đưa mắt nhìn hắn vẫn ngồi bên cạnh, có vẻ ngạc nhiên. "Chẳng lẽ ngươi muốn chết ở đây cùng ta?"

"Không." Hắn đột nhiên cười. "Chúng ta sẽ cùng sống."

Chú thích: 

[1] Sấn hỏa đả kiếp: Theo lửa hành động. Một trong 36 kế. Theo tiếng Việt nôm na là "Thừa nước đục thả câu".

Hồi 23: Oan gia

Gió cuồn cuộn nổi khi mây kéo về ngày càng nhiều, đỏ thắm bầu trời. Tiếng gió rít ù ù không át nổi những thanh âm trong khu rừng hiện tại. Trống thỉnh thoảng lại vang trên đỉnh núi cao, từng hồi dập dồn. Lẩn giữa những thân cây, tiếng tiêu vi vút nổi, réo rắt như làn suối.

Nghe tiếng tiêu, đoàn người đang đi chợt dừng chân. Họ quay nhìn nhau, rồi đổi hướng.

Tiếng tiêu này có vẻ vang ngay bên cạnh họ, rất gần.

Quả vậy, chỉ qua một quãng rừng, họ đã nhìn thấy kẻ thổi tiêu giữa khoảng rừng trống. Rừng đã bị vạt một mảng, chỉ còn lại những gốc cây lớn cùng đá tảng. Xung quanh đoạn rừng trống, những ngọn đuốc được thắp sáng gắn xung quanh, soi tỏ kẻ đang ngồi trên tảng đá lớn nhất.

Thiếu nữ áo đỏ hạ ngọc tiêu trên môi xuống, mỉm cười với những kẻ vừa tới. Trời không mưa, nhưng nàng ta đang cầm một cái ô trắng đã bung trên đầu. Trong ánh lửa, mày mi như vẽ, từ xa nhìn lại vẫn có thể nhận thấy phong vận uyển chuyển yêu kiều.

Khi thiếu nữ cất tiếng, giọng nói cũng trong trẻo mềm mại, thánh thót động lòng người.

"Đừng đến gần đây." Nàng ta vừa nói vừa chỉ lên trên. Theo hướng ngón tay nàng, những người mới tới ngẩng lên, không hẹn mà đồng loạt giật mình.

Một người đang bị treo lơ lửng giữa trời, tay chân cổ bị quấn vào nhiều sợi dây, rồi được giữ lại trong thinh không bằng một sợi dây buộc ngang người. Kẻ ấy vẫn còn sống, đôi mắt mở lớn nhìn trừng trừng về phía những người vừa tới.

"Đừng đến đây. Nếu các ngươi bước tới, hắn sẽ chết." Thiếu nữ cười, đôi chân đong đưa trên khoảng không. Nàng ta nghiêng đầu, hơi liếc mắt nhìn lên kẻ bị treo, môi thoáng mỉm cười.

"Chiều nay bắt được hắn, hắn cứ nhất quyết đòi tự sát, làm ta bắt buộc phải treo hắn lên đó vậy." Giọng nói thản nhiên như một bé gái đang kể về chuyện hái hoa bắt bướm.

"Ngươi là kẻ thổi tiêu?" Trong đám người, một kẻ lên tiếng. Thiếu nữ nhướn mày trước sự phẫn nộ nén trong giọng nói kia.

"Là ta." Nàng mỉm cười, đôi chân vẫn đong đưa, tư thái nhàn nhã. Như để chứng minh, nàng ta nâng tiêu lên thổi, đúng tiếng tiêu đã từng vọng suốt các ngọn núi trong những ngày này, tuy thiếu một phần khí lực để vang đến tận tâm người.

Những kẻ mới đến nhìn nhau. Xung quanh thiếu nữ không một bóng người. Và cảnh tượng đồng bạn bị treo cùng tiếng tiêu nàng ta vừa thổi đã đánh mạnh vào sự căm giận kìm nén bấy lâu nay. Trong bọn có kẻ không nhẫn nại được mà chậm chạp bước tới. Thiếu nữ cũng không ngăn cản, thậm chí không đứng dậy.

Trên cao, mắt kẻ bị treo ngày càng lớn dần trong nỗi kinh sợ tràn đến với từng bước chân của toán người. Gã hớp mấy ngụm không khí, trong cổ họng chỉ vang lên tiếng lào khào.

Gã thử. Rồi thử lại lần nữa.

"Đừng!" Cuối cùng gã cũng phát ra được thành tiếng. Cùng với tiếng "Pặc" nho nhỏ trong bụi cây.

Sợi dây buộc ngang người gã bung ra. Đá bốn phương lăn xuống, kéo theo đầu những sợi dây quấn quanh gã.

Tiếng hét vọng vang trong thinh không bị nhấn chìm trong màn mưa máu khi tấm thân gã bị xé toạc thành năm mảnh. Máu bắn tung trong không trung, rơi xuống cả đám người bên dưới. Trong thoáng chốc, máu đã nhuộm đỏ chiếc ô của cô gái, biến nó thành màu đỏ thắm y như sắc áo nàng ta.

Máu rơi trong ánh lửa, dưới bầu trời cuồn cuộn mây đồng, nhuộm đỏ khoảng rừng.

"Ta đã bảo đừng đến." Thiếu nữ thở ra, nhún vai nói. Máu cùng những mảnh thân xác không ngừng rơi xuống quanh nàng ta. "Lúc bị bắt, hắn ta cứ đòi một sống hai chết, uống cả thứ thuốc quái quỷ gì của bọn ngươi để hóa câm, không nói được. Thế thì ta mới bảo, nếu hắn quyết chết vì đám anh em này thì hãy xem chúng có quan tâm gì đến hắn không. Nếu đã định chết thì không nên làm kẻ ngu đần mà chết. Các ngươi thật đã mở mắt cho hắn rồi. Dù có xuống hoàng tuyền hay lên thiên đàng bây giờ, hắn cũng thỏa lòng vậy."

"Ngươi..." Một kẻ căm giận hét, thanh kiếm run rẩy trong tay gã. Thiếu nữ đứng lên, chậm chạp hạ ô, khinh khinh mạn mạn liếc nhìn đám người trước khi quay lưng.

"Muốn sống thì đừng tiến lên." Nàng ta chỉ buông một câu duy nhất, lưng đã hướng về phía toán người lăm lăm khí giới trong tay.

Không ai dám tiếp tục đi về phía trước.

"Muốn sống thì đi đi." Thiếu nữ đập đập cây tiêu lên vai, uể oải nói. Vẫn không ai phản ứng.

Cảnh giết người và hệ thống bẫy dây kia, quả là làm kinh tâm động phách bất cứ ai. Không kẻ nào dám tiến lên, nhưng cũng không thể bỏ chạy.

Thiếu nữ thở ra.

"Ta đang nghĩ có nên đem các ngươi treo quanh rừng như gã này không." Nàng ta ngẩng nhìn trời, câu nói như có vẻ đắn đo rất thật tình. "Ài, nếu như chỉ cần một người mà dẫn dụ được cả đám người vào chỗ chết như thế này, cũng đáng làm lắm chứ."

Thiếu nữ cười khúc khích. Tiếng cười trong như ngọc chạm chuông ngân. Giữa cảnh tượng đầu rơi máu chảy, rừng hoang lửa đỏ này càng thêm quái gở. Bất giác đám người cùng phải lui một bước.

Thiếu nữ quay nhìn. Toán người vội vàng lùi lại. Chậm chạp, khi đã vào vùng tối của rừng, tất cả lặng lẽ quay đầu nhanh bước.

"Phiền phức." Thiếu nữ thở một hơi dài. Nàng ngẩng nhìn lên mỏm núi giờ đã hắt sáng ánh lửa vào đêm. Tiếng trống vẫn từng hồi vọng xuống. Trên cao, mây vẫn cuồn cuộn bay qua, chân trời đỏ rực. Trong gió, rừng núi rùng rùng thanh âm lan tỏa, tưởng như có hàng vạn vạn sinh vật đang chuyển động.

"Tiểu thư làm mất con rối rồi, lỡ có thêm kẻ nào đến thì sao đây?" Bên cạnh tảng đá chợt vang lên tiếng nói. Ngồi khuất trong bóng tối ở vách đá bên kia, bóng hình nhỏ như một tiểu hài tử đứng dậy, nhảy lên tảng đá mà ngửa cổ nhìn những mối dây còn vướng lại, thấm đẫm máu thịt. "Hay ta cứ treo tất cả chúng lên? 'Kế không thành'[1] này dùng mà hồi hộp chết người."

"Một đám xác chết biết giấu đi đâu?" Như Yên phác tay. "Công tử đã bảo chỉ xử lý những kẻ cầm đầu, không cho đụng đến những người bên dưới. Ngươi cứ bài bố sao cho đá lở cây đổ khủng khiếp vào, ta sẽ biết đối phó."

"Buồn chán chết được." Tiểu hài tử kia bĩu môi. Ánh lửa soi sáng một thằng bé chiều cao như chỉ chừng chưa đầy mười tuổi nhưng khuôn mặt già dặn, hầu như không còn nét bầu bĩnh đáng yêu của trẻ con mà đầy vẻ tinh linh cổ quái. Nó nhảy xuống tảng đá, cầm lấy cuộn dây để sẵn mà đi về phía bên kia trảng rừng.

"Ngươi chỉ biết bài bố mấy trò dây nhợ này nên mới để ngươi ở đây, ca cẩm gì?" Như Yên đảo mắt. "Nếu muốn vui vẻ thì cứ gia nhập đoàn của công tử, chỉ sợ lúc đánh nhau ngươi chạy trốn còn không kịp."

"Làm như tiểu thư muốn ở đây..." Thằng bé nói, nhưng chỉ dám lầm bầm. Công tử lấy Sa đi lại không cho tiểu thư theo, nàng đã không bằng lòng. Giờ ở đây canh giữ con đường này chỉ có hai người bọn họ, nó cũng không muốn trở thành nơi để tiểu thư trút giận.

Cánh tay gầy nhỏ thoăn thoắt quấn dây, đấu mối, cột, thắt. Một lúc sau, thằng bé vung tay, ném mỗi đầu sợi dây quấn vào các thân cây cổ thụ hai bên. Hệ thống dây buông chùng xuống che phủ khoảng đất trông như một cái lưới nhện.

Như Yên đưa tiêu lên thổi khe khẽ khi đứa trẻ đang ràng chặt những đầu dây ở bên kia khoảng rừng. Tiếng tiêu được cố ý nén lại để chỉ vang vừa đủ xa, cuốn hút sự chú ý của những kẻ đã bước vào trong vùng canh gác của thằng bé.

Nhiệm vụ của họ là không để kẻ nào bước vào nơi được canh giữ, lúc này.

Thổ Sơn nằm trải dài trên bờ sông Ba Chà, lô nhô đá cùng đất đỏ. Núi có hai tầng, vách đá dựng đứng, cây cối rất ít, chỉ có một lớp cỏ mỏng bao phủ. Trên vách đá, bóng tối mờ phủ lên những bức phù điêu cùng tượng đài vẫn còn trơ cùng tuế nguyệt. Dưới trời mây, ngọn núi như được phủ lên một màu đỏ thẫm. Những đường nét khắc hằn trên đá cũng như đang mập mờ nhảy múa.

Nơi đây, ngày xa xưa chính là nơi đồn trú cuả quân đội Chiêm Thành.

Giờ đây, trong bóng tối tràn ngập, người ta lại nghe những thanh âm khe khẽ vọng lên từ trong lòng đá. Trên vách đá nhìn xuống dòng sông, một viên sỏi nhỏ chợt lăn xuống. Lớp cỏ trên vách đá rung động, mở ra để lộ một vết nứt sâu. Từ vết nứt, một thân người thận trọng lách ra. Nhìn xung quanh một lát, người ấy ngoắc tay ra hiệu cho những người sau.

Lần lượt, một đoàn chừng mười mấy người ra khỏi vách núi. Họ im lặng đi về phía ngọn núi đang đỏ rực ánh lửa. Trống đang thúc giục họ, từng hồi.

Bỗng nhiên tiếng đàn vang lên từ bên dòng sông, trên đỉnh núi thứ hai. Tiếng đàn lúc xa lúc gần, lúc ở bên Tây lúc ở bên Đông, không đủ lớn để vang xa nhưng mềm mại rót vào tai người trong núi như gió thốc xuống từ trời cao. Đoàn người vừa ra khỏi vách đá đứng khựng lại.

Vách đá đã bị chắn lối. Một bóng người đang đứng trước vách, sờ tay vào vạt cỏ ngụy trang mà nghiêng đầu nhìn vào ra chiều tán thưởng.

"Không uổng là nơi đồn trú của cả một đội quân, ta vẫn nghĩ là hẳn họ phải có một nơi để trú lánh lúc trời giông bão. Chỉ là không ngờ lại khó tìm đến thế."

Ngọn đuốc trên tay kẻ vừa nói soi tỏ một người ăn mặc theo lối thư sinh, áo vạt dài chấm gối, đầu buộc khăn xanh thẫm, chân mang hài vải, chỉ thanh kiếm đeo trên lưng là có vẻ lạc loài. Nhưng lúc này gã không rút kiếm, chỉ quay nhìn đoàn người vừa đi ra mà cười.

"Tạm phiền các vị trở lại hang núi, đêm nay xin đừng ra ngoài." Gã thư sinh mềm mại đưa tay như mời. Tiếng đàn trên núi, dưới sông vẫn dặt dìu, thanh âm tựa như ma quỷ.

Đoàn người qua cơn kinh ngạc đã lấy lại bình tĩnh. Một kẻ tuốt đao cầm tay, gằn giọng mà hỏi:

"Ngươi là ai?" Dù đã tám chín phần nắm được xuất thân của kẻ trước hang đá, vẫn cần được xác định danh tính kẻ thù.

"Ta là Kỳ." Người thư sinh vẫn nhã nhặn trả lời. "Còn các anh em đây lần lượt là Thanh, U, Nhã, Ly, Tráng, Lu, Trường."

Gã vừa nói vừa chỉ ra xung quanh. Từ bao giờ không rõ, bảy thân ảnh khác đã đứng quanh đoàn người. Tất cả cùng một lối ăn mặc như tên thư sinh trước hang đá. Trên tay một kẻ còn ôm đàn, chính hắn đã gảy nên tiếng đàn ma quái nọ. Tiếng đàn vẫn đang vang, như gần như xa, như từ trên đỉnh núi như từ dòng sông vọng.

"Bát tuyệt?" Một kẻ trong đoàn người thì thầm. Bát tuyệt là tám kẻ được đặt tên theo các cung bậc thanh âm của cổ cầm. Những kẻ này đã bao vây núi mấy ngày nay, không ai trong vùng không biết. Bây giờ tám kẻ cùng tập trung ở đây, không khỏi làm người bị bao vây lạnh xương sống.

"Mời." Nụ cười hòa nhã không đổi trên mặt Kỳ khi gã đưa tay. Những kẻ còn lại trong Bát tuyệt từ từ tiến lại như những bóng ma ẩn hiện trong sương mù. Đất sét đỏ dưới những bước chân không in dấu.

Vô thanh vô tức, đoàn người vừa ra khỏi hang bị ép lùi trở lại bên Kỳ. Gã phất tay, thảng như một luồng cuồng phong thổi thốc lên, ném đám người vào cửa hang. Họ vội vội vàng vàng luồn vào hang chạy trốn. Nghe tiếng lách cách sau khi bóng kẻ cuối cùng vừa khuất như cửa hang bên trong đang bị lấp lại.

"Càng tốt, chúng ta đỡ phải canh gác." Một kẻ trong bọn cười. Gã có nét mặt thanh tú, dường như là trong trẻo, xứng với cái tên Thanh trong bộ Bát tuyệt. Đứng bên gã, U âm trầm hạ đàn, nhìn lên đỉnh núi xa. Im lặng, U đưa đàn về phía Tráng.

Tám kẻ lại trầm mặc tách xa, mỗi người đi về một hướng. Lần này tiếng đàn vút cao khúc Quảng lăng vang khắp hai tầng núi, tranh âm với tiếng trống không ngừng vọng xuống trên cao.

Kim Sơn bên dòng Lộ Cảnh Giang im lìm, rì rào gió núi. Ngồi trên bến sông, lão hòa thượng để tóc ngẩng đầu nhìn ngọn núi đang phát hỏa. Xung quanh lão, trong bóng tối, những bóng người vẫn lặng lẽ lại qua. Trên đất lăn lóc những thanh tre đã được chặt, chuốt nhọn một đầu. Những tấm tre đan đã hoàn thành đang được đem đi, đóng chắn đầu bên kia dòng sông. Trong bóng cây cũng mơ hồ thấy bóng những rào tre đã được dựng sẵn. Từ trên đỉnh nhìn xuống có thể thấy một dãy chông tre đã bao quanh chân núi, cảnh tượng có thể khiến người phát lạnh.

Lão hòa thượng lại cúi xuống, chăm chú chuốt mảnh tre trong tay. Quanh chỗ ngồi của lão, tre được chặt nhỏ thành từng thanh dài chừng một cánh tay, thân chừng chiếc đũa, chuốt nhọn một đầu. Đến lúc thấy được kha khá, lão nắm từng vốc bỏ vào trong một chiếc hộp nhỏ và dài. Bên cạnh lão có chừng chục người cũng đang vót tre. Thi thoảng lại có vài người đến ôm những chiếc hộp đi.

Bên cạnh những người vót tre có chiếc đèn nhỏ, nhưng lão hòa thượng để tóc vẫn chỉ làm việc trong bóng tối. Bàn tay lão cầm con dao nhanh thoăn thoắt đến quỷ dị.

Thủy Sơn là ngọn núi cao nhất trong nhóm Ngũ Hành, đỉnh núi chia thành ba tầng như ngọn Tam Thai lúc này đã khuất trong sương mù. Sương tràn xuống từ những vách đá dựng đứng như một dòng suối trắng. Rừng núi vặn mình trong gió. Ngôi chùa nhỏ lọt thỏm giữa một vùng sương, cách ba bước không thấy mặt người. Dù đã đóng cửa, sương vẫn lọt vào các khe hở tràn vào phòng, làm ánh đèn càng thêm chập chờn mờ tỏ.

"Nước sôi rồi." Nhà sư nhấc ấm lên, dập tắt bếp lửa rồi đến cạnh bàn châm trà. Nam tử áo thiên thanh vẫn đang chăm chú đọc sách, không ngẩng lên.

"Canh mấy rồi?" Như được tiếng nước rót vào bình trà đánh động, y chợt hỏi. Nhà sư phảng phất cười.

"Canh hai." Ông nói như thở ra. Đêm còn rất dài...

Ồ, nam tử khẽ cau mày, đặt cuốn sách đang đọc dở dang xuống bàn, đứng dậy mở cửa ra ngoài hàng hiên. Sương mù lập tức quấn lấy y. Nhìn quanh chỉ thấy mập mờ sương trắng.

Y đưa tiêu lên môi, thổi một khúc ngắn. Tiếng tiêu xuyên qua màn sương, vọng đến từng kẽ đá.

Từ ngọn Trung Thai, một tiếng chiêng đáp lại. Y khe khẽ gật đầu, nhìn lại về đỉnh núi sáng ánh lửa.

"Lửa lại cháy trên Hỏa Sơn." Y nói mà không quay nhìn người trong phòng. "Đại sư có biết đền đài trên đỉnh núi ấy thờ ai?"

"Thực tại chỉ là Một nhưng các bậc trí giả gọi Ngài bằng nhiều tên khác nhau."[2] Nhà sư nghe như cười mà trả lời. "Nếu như hỏi đến vị thần hữu ngã nào được người Chiêm Thành thờ phụng hàng đầu, thì là Shiva."

"Phải, ngay cả các nhà vua Chiêm Thành cũng đồng hóa mình vào hình ảnh của Shiva. Hủy diệt rồi sẽ tái sinh. Sống nghĩa là đang chết. Có phải tất cả các đạo giáo đều có điểm rất tương đồng? Thực tại, chỉ là Một.

"Nhưng hiện nay vương tộc ở Panduranga lại đang theo đạo giáo từ phương Tây." Tựa vai vào cửa, y vừa cười vừa nói. "Tìm kiếm sự an ủi từ Thiên đường và Thượng đế, chẳng phải là một biểu hiện của sự yếu đuối? Tuyệt vọng và yếu đuối?

"Trần gian này quả thật là đáng buồn đến thế?" Y hỏi mà không nhắm vào ai, ánh mắt vẫn dõi theo vệt lửa đỏ mập mờ trong sương mù.

Shiva nhảy múa, lửa cháy bùng qua đồng cỏ. Mắt thần nhắm, thế giới tràn bóng đêm đen. Shita đem xác thân trả cho đấng sinh thành, tái sinh trên đỉnh núi tuyết, hẹn kiếp sau tái ngộ, ánh lửa chớp sáng thế gian.[3] Thần mặt trời Surya ngồi trên xe lửa bảy ngựa kéo, đuổi theo nữ thần Samjna, vì nàng mà cắt bỏ ánh sáng của chính mình. Ánh sáng của Surya ngự trị trên chĩa ba của thần hủy diệt Shiva, thần chiến tranh Skanda. Thần chết Yama đi dưới ánh sáng của thần lửa Agni, gom những cánh hoa rơi, chôn vào hư không.

Shiva nhảy múa, ngày tàn đêm tận. Brahma sinh từ Vishnu, Shiva sinh từ lửa. Ngọn lửa liếm sạch mây trời, chiếu sáng mặt đất, làm kinh hãi Brahma lẫn Vishnu. Vishnu lặn sâu xuống đất, Brahma bay lên chín tầng trời, không tìm đâu được nguồn gốc lửa. Shiva xuất hiện giữa cột lửa thần. Shiva như hoa sen nở giữa lửa thần. Lửa giăng ngang trời, không biết đâu là nơi khởi đầu, đâu là nơi kết thúc.

Thái dương Surya làm chủ cõi trời. Gió Vayu làm chủ cõi không trung. Lửa Agni làm chủ cõi đất. Vayu đi cùng Agni, cho Agni sự sống. Yama đi dưới ánh sáng của Agni, gom những cánh hoa rơi, chôn vào hư không.[4]

Ta như kẻ mất hồn lang bạt 

Cúng thánh đường, lên tháp lạy Yang 

Đất nước ta xứ Pandarang 

Người đi lưu lạc quê hương rã rời.

Xứ Debare loạn lạc lan tràn 

Đôi ta sầu muộn, quê hương tan tành.[5]

Lửa cháy bùng trên ngọn Hỏa Sơn.

Lửa sáng bùng trong tiếng trống, điệu kèn. Nhưng những kẻ đứng trên sân lặng yên. Những kẻ đứng dưới bậc thềm lặng yên. Những bóng trắng bất động trong ánh lửa đỏ như một đoàn người hành lễ tế thần.

Ngay cả đám người đứng bên ngoài cũng bị cảnh tượng này làm cho yên lặng.

Tất cả ánh mắt dõi về phía chiếc hộp trước đài lửa. Chiếc hộp vẫn chưa được mở ra. Hiện tại, thầy Cả chỉ chắp tay trước ngực, đứng trầm mặc hồi lâu nhìn chăm chăm vào ngọn lửa.

Như thể ông cũng không biết có nên mở nó ra hay không.

Buổi chiều, khi nghe những lời khích tướng của tên 'sứ giả Vân Nam' kia, ông đã thật sự muốn khởi quân nên cho đánh trống tập hợp. Nhưng đã có những người không tới. Đã có những bục sen thiếu người đứng. Và bây giờ thì đối mặt với thanh thần đao trong truyền thuyết, ông lại cảm thấy lưỡng lự.

Chỉ một cái nhấc tay, hộp sẽ mở ra.

Chỉ một cái nhấc tay, một trận tai kiếp mới sẽ mở màn.

Thanh đao thần có thể chỉ là truyền thuyết, nhưng thứ sức mạnh vô hình của nó - chính là sức sôi cuốn không thể cưỡng lại. Sức lôi cuốn mọi người mọi kẻ. Mọi người, tất cả mọi người.

Không chỉ là vương tộc tại Panduranga. Không chỉ là đức vua Bà Tranh cùng quân đội của ngài. Không chỉ là quân đội của quý tộc Chiêm Thành quốc. Đất nước này đã bị xé nát bởi những tranh chấp về đạo giáo và niềm tin, về vai vế và tham vọng. Dù là ai, dù có là đức vua Po Rome[6] anh minh tài trí, cũng không thể kiềm giữ được đà rơi của đất nước vào tăm tối. Dù có là quân chi viện của Mã Lai, Nam Đảo, cũng không thể chống giữ được với tham vọng của những kẻ mang họ Nguyễn.

Quân đội, với sự chi viện của hai vị hoàng thân Mã Lai, đã bị quân Nguyễn đẩy lui khỏi Phú Yên.

Vì vậy ông mới đi tìm sự giúp đỡ của những kẻ đồng giáo phương Bắc. Khi những kẻ chi viện phương Nam đã thất bại, niềm hy vọng của ông đang đặt vào tổ chức Hồi giáo lớn mạnh của phương Bắc - cùng với những kẻ Hán tộc lưu vong. Hai thế lực ấy, nếu có thể kết liên họ lại, Chiêm Thành quốc còn có hy vọng.

Và vũ khí tối thượng đang nằm đây. Thứ để kết liên tất cả con dân Chiêm Thành quốc, không kể đạo giáo, chủng tộc hay tầng lớp. Tất cả, tất cả sẽ bị đẩy vào cuộc chiến.

Bây giờ có phải là lúc?

'Tên sứ giả Vân Nam' cần một chứng cứ để đem về cho tổng đà. Người nơi đây cần phải gột sạch tiếng tăm bọn cướp cạn. Trong những áp lực và nỗi sợ này, tất cả cần có một điều để tin tưởng. Những kẻ dưới núi đang từ từ giết chết họ, đúng như thế. Giết đi niềm tin, sự sống và cả tinh thần của họ. Trên thế giới lạc loài giữa trời này, con người vẫn chưa thể trở thành thiên thần.

Nhưng bây giờ có phải là lúc phát ra mệnh lệnh tối thượng?

Thầy Cả khe khẽ thở ra. Ông chậm chạp quay mình nhìn xuống những kẻ đang xếp hàng trên sân, rồi đến đám đông đang tụ họp dưới bậc thềm. Đây là lực lượng ông đã tập hợp được trong bấy nhiêu năm, trong đó có cả những người ông đưa từ Panduranga tới.

"Đêm nay, ta tập hợp mọi người tới đây," Ông từ tốn nói bằng giọng đều đều. "Để nhờ mọi người giải vây cho đỉnh núi này.

"Hẳn mọi người đã biết, chùa bị bao vây bấy lâu nay. Chịu đựng mãi cũng không phải là cách, ta muốn dạy cho bọn ở dưới núi một bài học, đồng thời giải vây cho chùa. Chúng ta không cần đánh lớn, cũng không cần phải gây chuyện với tất cả mọi người ở đây. Nhưng chúng ta cần phải cho chúng biết không dễ gì gây chuyện với chúng ta.

"Ta không cần càn quét cả năm ngọn núi thánh. Nhưng ta cần đầu của kẻ thổi tiêu kia - Đem tế vong hồn anh em và đồng bào của chúng ta!"

Chú thích:

[1] Không thành kế: Kế bỏ thành trống, hay là kế mà Khổng Minh đã dùng khi trong thành không còn một tên quân, chỉ nhờ vào miệng lưỡi và sự bình tĩnh mà khiến tướng giặc nghi ngờ lui quân chứ không dám đánh vào.

[2] "Thực tại chỉ là Một nhưng các bậc trí giả gọi Ngài bằng nhiều tên khác nhau": Kinh Veda.

[3] Shiva có 2 đời vợ nhưng thực tế chỉ là 1 người. Vợ đầu của Shiva là Shita, con gái của thần Trí tuệ. Bị cha đuổi khỏi nhà vì lấy Shiva, Shita lên đỉnh núi tuyết trút hồn trả thân xác lại cho cha, tái sinh thành Parvati.

[4] Truyền thuyết kể rằng thần Brahma sinh ra từ rốn thần Vishnu. Một hôm thần Brahma ngủ trên hoa sen, thần Vishnu gọi Brahma là con, bảo rằng mình sinh ra Brahma. Brahma không thừa nhận, 2 vị thần này cãi nhau xem ai mới là đấng sáng thế. Trong lúc đó, bất chợt có một cột lửa bùng lên. Vishnu liền lặn xuống đất, Brahma bay lên trời để tìm nguồn gốc cột lửa nhưng không được. Cột lửa không có khởi đầu cũng như kết thúc. Khi 2 vị thần đang ngơ ngác, Shiva hiện lên trong cột lửa, bảo rằng cả 3 thần đều là đấng sáng thế.

[5] Bài thơ làm theo thể ariya là thơ lục bát của Chăm. Được dịch bởi Insarasa.

[6] Vua Po Rome: Cai trị Chiêm Thành đến năm 1651. Trong thời gian này Chiêm Thành đã có liên kết chặt chẽ với Mã Lai và những quốc gia Hồi giáo phương Nam để chống lại những cuộc tấn công của người Việt.

Hồi 23: Oan gia

Đài cao sập, đá lăn tứ phía, lại chắn được lửa trước miệng giếng. Một tảng đá to rơi bên giếng dập tắt lửa, tạo thành một khoảng trống khá lớn. Đá lăn đất lở vung vãi tứ tung quanh giếng, con đường ra giếng sập xuống, nước lẫn lửa tạm thời chưa thể bốc cao.

Chớp ngay thời cơ ấy, bọn hắn nhảy vào giếng.

Trong giếng có nước, nhưng ngay trên mực nước ấy là một cửa hang nhỏ hẹp đủ cho người chui qua. Len khỏi cửa hang, hắn bước vào một đường hầm lớn lởm chởm đá. Ngọn núi vẫn không ngừng rung chuyển khi công trình trên đỉnh sụp đổ, hai người bọn hắn gấp gấp mà chạy. Đường hầm tối dẫn vào một hang động có vẻ lớn, nghe như có tiếng nước chảy, rồi rẽ qua một hướng khác dốc xuống. Mò mẫm trong bóng tối, hắn theo bước chân của thầy Cả mà đi. Hang vòng vèo qua nhiều ngã rẽ, hẳn dẫn đi rất xa. Khi hắn đến cửa hang bên kia, trời đã tờ mờ sáng. Phía trên cũng không còn là đỉnh Hỏa Sơn, chỉ nghe tiếng chim chóc hót vang lừng.

"Khoan đã." Hắn níu tay thầy Cả đang định trèo lên cửa hang. "Nếu họ đã biết chặn cửa hang bên kia, thì cửa hang bên này cũng sẽ có người."

Đúng hơn, hắn định nói: Trên Cẩm Thạch bàn có gian tế, lối đi này khó lòng giữ bí mật. Những người thoát qua đây, e rằng đã bị cầm giữ. Nhưng hắn không muốn làm tâm trạng của thầy Cả căng thẳng thêm.

"Để tôi lên trước." Hắn vừa nói vừa rút chiếc thẻ bài hình kỳ lân khắc chữ Hải trong người ra. Chiếc thẻ bài này hắn đã lấy được ngay khi vừa bước chân vào địa phận Quảng Nam, hắn đã cẩn thận mang theo khi đi cùng Hoắc Phương, không ngờ lại có lúc hữu dụng. "Khi tôi đánh lạc hướng người ở trên, thầy Cả chạy đi."

Không đợi thầy Cả gật đầu, hắn đã nhún chân phóng vọt lên mặt đất. Bình minh đang tỏa sáng khắp nơi, mưa đã tạnh. Theo những lùm cây thưa thớt này, hắn đang đứng ở Mộc Sơn. Từ bên này nhìn lại, Hỏa Sơn vẫn còn nghi ngút khói.

Quả đúng như hắn nghĩ, chân hắn vừa chạm đất, những mũi giáo đã hiện lên từ sau các lùm cây thấp. Nỏ đã lên tên hướng nhắm vào hắn. Đội mai phục quả thật là đông.

"Khoan, ta là người nhà." Hắn vội nói, giơ chiếc thẻ bài ra trước. Hoắc Phương đi làm việc cho những người này, thẻ bài bang hội của y hẳn phải có chút giá trị. "Ta là người của Hoắc bang chủ."

Giọng nói Quảng Đông và chiếc thẻ bài hẳn đã thuyết phục được những kẻ bao vây. Những ngọn giáo hơi hạ xuống khi kẻ cầm đầu tiến lại. Hắn hơi cứng người nhận ra lão hòa thượng để tóc. Hình như tiểu yêu tinh gọi lão là Tứ.

"Là ngươi?" Bộ dạng cau có của lão vẫn không thay đổi. Hắn nhe răng cười trừ, hạ chiếc thẻ bài xuống. Giờ thì hắn thậm chí không cần chứng minh thân phận của mình nữa.

"Ta bị kẹt trên núi, phải đi qua đường này..." Hắn thanh minh. Nhưng lão Tứ chẳng đợi hắn nói hết, nắm ngay lấy tay hắn lôi đi.

"Tên phiền phức nhà ngươi làm Hoắc bang chủ ngóng cả đêm ở Hỏa Sơn, còn định sai người leo lên đỉnh núi tìm." Lão trông có vẻ như muốn lấy cây gậy đang cầm trên tay mà đập vào gáy hắn. "Ta đã bảo cái mạng tên tửu quỷ nhà ngươi trời đánh cũng không chết mà."

Hoắc Phương đi tìm hắn? Tên hồ ly gian manh ấy cũng không đến nỗi quá tệ. Hắn gật đầu, giả lả cười nói mấy câu, kéo đám người phục kích ra xa khỏi miệng hang. Thuận tay, hắn ném cái thẻ bài của Thanh Hải bang trở lại. Để thoát ra khỏi vùng này, hẳn thầy Cả còn phải dùng đến nó.

Đợi đám người đi khuất, thân ảnh màu đồng xám tả tơi trồi khỏi miệng hang, nhặt lấy miếng thẻ bài. Trong chớp mắt, ông ta đã phóng vào rừng.

Những câu đám người nói, thầy Cả cũng nghe được, và bây giờ ông ta đâm chần chừ. Kẻ trộm thần đao vẫn còn ở đây, có nên trở lại tìm y? Nhưng ông không biết thân phận thực sự của y, cũng không biết y ở đâu. Với hình dạng bây giờ, không thể trà trộn vào bất cứ nơi nào. Thần đao là thánh vật không thể mất, hay là tạm thời vẫn ở lại trong núi nghe ngóng tình hình?

Mải suy nghĩ, thầy Cả không để ý đến nơi bước chân mình đặt đến. Chỉ nghe một tiếng "Phựt" nho nhỏ, một sợi dây bật lên từ trong cỏ, quấn lấy cổ chân ông, lôi ngược lên không.

"Bắt được rồi! Bắt được rồi!" Giọng trẻ con giòn giã vang lên dưới gốc cây mà thầy Cả đang bị treo lơ lửng. Một thằng bé nhảy ra từ sau tảng đá lớn, ngửa cổ nhìn lên nạn nhân của mình mà ha hả cười. "Từ đêm qua tới giờ mới treo được một người."

"Bé con, ta không phải thú rừng." Thầy Cả cau mày nói, vẫn cho là thằng bé này đặt bẫy thú bắt nhầm.

"Ta không bắt thú, ta bắt người." Đứa trẻ bĩu môi, tay chống vào hông. "Ta được lệnh bắt tất cả những kẻ đi vào rừng này."

Thầy Cả nhíu mày.

"À ra vậy." Ông nhẹ nhàng nói.

Vẫn đong đưa trong không trung, thân người ông chợt hất lên, bàn tay nắm vào sợi dây treo chân, giật mạnh. Sợi dây đứt lìa. Ông lộn người đáp xuống trên đất nhẹ như một chiếc lá.

Bàn tay chộp vào cổ đứa trẻ nhanh đến mức nó vẫn chưa kịp trở tay hay quay đầu bỏ chạy.

"Ngươi là người của bọn chúng?" Đôi mắt lóe lên ánh xanh sáng lạnh trên khuôn mặt gỗ đá đầy vết thương đen kịt muội than có thể dọa nạt bất cứ ai. Thằng bé trong tay ông ta thậm chí không dám vùng vẫy, chỉ đưa mắt trợn trừng đầy kinh khiếp mà nhìn. Miệng nó hớp hớp nhưng tuyệt không ra tiếng.

"Lão già đầu rồi còn đi bắt nạt trẻ con thế à?" Giọng con gái vọng lên sau tảng đá trước khi thiếu nữ áo đỏ bước ra. Nàng ta vừa ngáp vừa đưa mắt liếc thằng bé đã bị túm cổ giơ lên không, sợ đến mức chân tay ngay đơ. "Ta đã bảo đừng đi gây họa mà cứ nhất quyết phải treo được người lên cây mới hả dạ."

Câu nói như đánh động thằng bé. Nó bắt đầu đập tay đập chân, cố quay đầu về phía thiếu nữ mà lào khào. "Cứu... Tiểu thư, cứu..."

"Không cần phải giết nó vì cái bẫy nhỏ xíu chứ?" Như Yên quay sang thầy Cả mà cười nói. Nàng thản nhiên đi đến trước mặt ông ta, đập nhẹ vào bàn tay đang nắm cổ thằng bé.

"Các ngươi làm việc cho ai?" Thầy Cả nhíu mày, trong một lúc cũng hơi chùng lòng. Một thiếu nữ với một thằng bé, ai lại sử dụng những kẻ như vậy?

"Nó thích chơi trò bộ đầu giang hồ này nọ nên nói nhảm, trẻ con đấy mà." Như Yên nhún vai. "Vừa rồi trong núi ồn ào làm nó kích động, bày trò bắt người, lão chấp với nó làm gì?"

Bàn tay thầy Cả nắm cổ thằng bé buông lỏng. Chân chạm xuống đất, đứa trẻ húng hắng ho. Nhưng những ngón tay vẫn chưa rời khỏi cổ nó.

"Sao các người ở trong đây?" Nếu ông không nhầm, kẻ địch đã phong tỏa khu vực trong núi. Hai đứa trẻ tự nhiên vào đây là chuyện càng bất thường. Mắt ông chợt đưa về phía tảng đá mà chúng vừa xuất hiện. Sau tảng đá, một khoảng rừng trống hiện ra. Những vết máu vương vãi trên đất còn rõ rành rành trong ánh sáng ban ngày.

Vừa thấy ánh mắt di chuyển, Như Yên đã ra tay.

Từ cổ tay nàng, hai viên sắt tròn nhỏ bằng hạt đậu bắn ra, nhằm ngay mắt thầy Cả. Với những cao thủ có thuật hộ thân, những viên sắt này hoàn toàn không đáng ngại. Nhưng ở khoảng cách quá gần, lại không để tâm, viên đạn sắt bắn thẳng vào mắt trái ông ta. Thầy Cả rú lên, quay đầu theo bản năng, tránh được viên đạn sắt thứ hai. Nó quẹt vào đuôi mắt phải ông, chỉ cách đường tơ kẽ tóc với nhãn cầu.

Tay phải bắn đạn, tay trái Như Yên đã rút dao đâm thẳng vào bụng kẻ trước mặt. Thủ đoạn của nàng quyết tuyệt tàn độc, ba chiêu liên tiếp đòi lấy mạng người.

Nhưng chỉ nghe "Canh" một tiếng, dao chạm vào sắt, chấn động mà rơi. Như Yên lùi lại, vừa kịp tránh thoát bàn tay thầy Cả chụp tới. Qua khoảnh khắc kinh ngạc trước đòn tấn công bất ngờ, cơn đau dội tới từ một bên mắt chảy máu đầm đìa xuyên thấu tới tận xương làm ông ta gần như phát điên. Gầm lên một tiếng, ông ta lao tới thiếu nữ đã vội vàng quay đầu chạy.

Tay Như Yên hất vai thằng bé sang bên trong khi nàng chạy về hướng khác. Thằng bé biết ý, cũng vội vã cắm đầu lao đi, vừa chạy vừa kêu inh ỏi: "Cứu mạng! Cứu mạng!"

Không nhìn tới thằng bé, thầy Cả chỉ nghiến răng lao theo bóng áo đỏ chạy vào sau khoảng rừng thưa. Vừa bước vào sau một cây cổ thụ, đá tảng lẫn cây cối đã theo nhau sầm sầm đổ xuống. Ông ta vội lùi lại, rồi lấy đà phóng qua, thuận tay gạt bay một thân cây nhỏ. Với người bình thường, cái bẫy này có thể nguy hiểm, nhưng với một cao thủ đang phát điên vì giận, loại bẫy này chỉ càng chọc tức ông ta hơn. Ông vừa đấm vừa đạp hất bay cả đá lẫn cây ra xa hàng thước.

Đâu ra lão quái vật này vậy chứ? Như Yên vừa chạy vừa than thầm. Qua một đêm canh gác mệt mỏi, nàng vừa chợp mắt ngủ thì thằng bé đã gây tai họa. Không nói nàng từ nhỏ đến lớn chỉ chuyên chú vào thi thư cầm kỳ, võ học chỉ được dạy vài chiêu phòng thân, với sức lực của lão quái vật này, e rằng núi cũng phải lở.

Nghe luồng kình phong áp sát tới phía sau, Như Yên quay người lại. Từ tay trái nàng, hai mũi tên nhỏ bắn ra chênh chếch nhau, cản đường kẻ đang lao tới. Đã cảnh giác sẵn, thầy Cả chỉ dừng lại một nhịp, hơi chao mình là tránh được. Nhân lúc ấy, Như Yên đột ngột đổi hướng.

Vốn thầy Cả đã bị bắn mù một mắt, lúc này vẫn chưa quen giữ thăng bằng, tầm nhìn lại bị khuất hẳn một bên so với khi còn lành lặn. Như Yên bắn tên về bên phải, đồng thời lao về bên phải, ngay trước một cây cổ thụ lớn. Thầy Cả mất đà đâm sầm vào thân cây, lao xuyên qua cả đám rễ cây dày đặc to bằng cả nắm tay đã buông xuống đất. Vướng vào đám rễ cây, ông gần như ngã xuống nền rừng.

"Yêu nữ..." Ông lầm bầm nguyền rủa, đã hoàn toàn mất trí vì giận. Cái bóng đỏ một lần nữa biến mất trong rừng dày.

"Cứu mạng!" Như Yên như sực nhớ mà hét lên. Dù có chạy nhanh đến mức nào, nàng cũng không thoát được lão quái vật này. Lão lại đang lao theo nàng sầm sập như giẫm nát cả rừng già.

"Sa, cứu..." Tiếng hét của nàng tắc lại trong cổ khi chân nàng bước hụt vào khoảng không, cùng lúc với luồng kình phong thổi tới sau lưng.

Trước khi lọt vào bóng tối, nàng còn thấy một cái bóng xanh.

Một bàn tay chụp lấy cánh tay nàng, nhưng nàng vẫn không ngừng rơi xuống.

Chỉ là, gió không lạnh. Gió rất ấm. Một thân người che phủ lấy nàng trong làn gió thốc lên rít ù ù bên tai.

Kẻ ấy che đỡ cho nàng khi cả hai ngã lăn xuống vách hang.

"Nặng chết người đi." Giọng nói cực kỳ quen thuộc rên lên bên tai nàng. Giọng nói cũng ngay lập tức chợt đổi thành cáu gắt. "Sao lại đi đuổi theo cô gái này làm gì?"

"Con yêu tinh ấy bắn mù mắt ta." Giọng lão già trả lời, như thể trên đầu họ. Như Yên mở mắt nhìn lên, chỉ thấy bóng tối hòa cùng ánh sáng mập mờ. Chớp mắt lần nữa, nàng nhận ra bốn phía đá dày tối om, chỉ lọt vào một luồng ánh sáng lớn từ trên xuống. Như thể một hang động.

Kẻ đang ôm nàng thở dài, lầm bầm. "Cô lại đi gây họa, tiểu yêu tinh."

"Đây là người... thân của tôi, ông nể mặt tôi mà tha cho cô ấy một lần." Hắn vẫn nằm yên, ngửa mặt lên khoảng trống trên động mà nói với thầy Cả. Sực nhớ ra câu chuyện đã nói trước đây, hắn vội vàng thêm vào. "Cô ấy đi cùng, ở ngoài chờ tôi, tuổi trẻ không biết chuyện mạo phạm đến ông."

Hơi thở của thầy Cả dần dịu lại. Nể mặt, tất nhiên ông hiểu hắn ta đang nói gì. Hắn cứu ông một mạng, ông trả cho hắn một con mắt, coi như không ai nợ ai.

Vả lại đứa trẻ cùng con bé đã gây inh ỏi khắp rừng. Hắn đã tới thì kẻ khác cũng sẽ tới, ông nên nhanh chóng rời đi.

"Người anh em, sau này gặp lại." Ông gật đầu, nói trước khi quay người bỏ đi.

"Ngươi gọi ai là tiểu yêu tinh?" Vừa nghe thấy tiếng chân bên trên đi khuất, Như Yên chống tay ngồi dậy. Nàng chỉ liếc hắn một cái trước khi quay đầu nhìn quanh. Hang động này khá lớn, còn có cả các lối dẫn đi đâu không rõ, thạch nhũ từng cột sáng bóng. Trên đỉnh động có một lỗ hổng để ánh sáng rọi vào. Nàng hẳn đã hụt chân lọt xuống đây. Đỉnh động cao hơn hẳn nàng nghĩ.

"Ngươi không sao chứ?" Vừa nhìn thấy chiều cao của đỉnh động, Như Yên kinh ngạc quay sang hắn cũng đang chống tay ngồi dậy.

"Ê ẩm." Công phu tập luyện của hắn cũng không đến nỗi uổng phí, huống hồ đất nơi này là đất sét ẩm, tựa như đỡ lưng cho hắn. Vừa rồi hắn lựa thế nhảy xuống, nếu không phải đỡ người cũng chưa chắc đã ngã. Nhưng tiểu yêu tinh này quả là sao chiếu mạng của hắn, vừa mới thấy mặt đã có chuyện.

"Sao cô lại ở đây?" Hắn nắn nắn vai mà hỏi. Sau khi dụ đám người kia rời khỏi hang, hắn cũng mượn cớ quành trở lại xem xét hành tung của thầy Cả. Nghe tiếng đứa trẻ kêu cứu, hắn vội chạy tới, may sao vừa cứu kịp tiểu yêu tinh. Kẻ gây tai họa này không biết làm cách nào đã bắn mù mắt được một đệ nhất cao thủ.

Mà tiểu yêu tinh chẳng biết nặng nhẹ qua cơn sợ hãi đã ngay lập tức cười hì hì.

"Ta nhớ ngươi." Cô nàng đập tay lên vai hắn.

Bây giờ thì hắn biết cảm giác của Sa mỗi lần nghe câu nói tương tự từ miệng hắn: Toàn thân nổi da gà.

"Sa đâu rồi?" Hai người này như hình với bóng, sao lại chỉ có một mình tiểu yêu tinh ở đây?

"Y ở trên núi." Tiểu yêu tinh nhún vai, khuôn mặt lộ rõ vẻ bất mãn sâu sắc. Hắn gật gật đầu. Ra đó là lý do cô gái này ở đây. 'Công tử' của họ ra quân, Sa cũng không tránh được.

"Y làm gì trên đó?" Sa đang làm gì cho toán người này? Việc quan trọng gì mà cả tiểu yêu tinh cũng không đi theo?

Tiểu yêu tinh im lặng. Nhìn lại, cô nàng đang quan sát hắn, môi phảng phất cười.

"Y không nói gì với ngươi à?" Như Yên chợt hỏi. Trong một lúc, hắn ngẩn người.

"Y với ta có quan hệ gì mà nói?" Hắn làm ra vẻ tỉnh khô mà trả lời. Nét cười của Như Yên càng rõ hơn. Nàng nghiêng người về phía hắn, nheo mắt.

"Ngươi nghĩ ta ở bên cạnh y bao lâu nay lại chẳng biết gì sao? Y đối với ngươi - không phải quan hệ bình thường." Ngón tay tiểu yêu tinh dứ dứ trước mũi hắn. "Thái độ của y đối với ngươi - khác. Y nhìn ngươi - khác. Từ khi gặp ngươi, y cũng khác. Ngươi với y quen biết từ trước rồi, phải không?"

Hắn im lặng. Đúng hơn, hắn không tìm được lời nào để nói.

Tiểu yêu tinh này có nhiều khi làm hắn sợ thật lòng.

"Sao không đi hỏi y?" Rõ ràng cô nàng biết mà làm như không biết. Ngay cả Sa cũng chưa chắc đã nhận ra. Nếu bị động, hẳn y đã đánh hắn ngất xỉu mà quăng lên thuyền trở về Đông Phố, không để hắn chạy lung tung ở đây thêm một ngày nào nữa.

"Sao ta phải hỏi?" Tiểu yêu tinh nhún vai, ngửa mặt nhìn lên quầng sáng trên đỉnh động. "Dù ngươi có là cha mẹ anh em gì của Sa, y cứ ở bên ta là được."

"Cô không biết y có cha mẹ anh em thế nào sao?" Hắn hỏi, sau một lúc. Cái 'biết' và 'không biết' của cô gái này, với khả năng giả vờ giả trang của nàng ta, thật khó mà phân định. Những lúc như thế này, hắn có cảm giác mình vốn không hề biết thế nào là bộ mặt thật của nàng ta.

Như Yên quay nhìn hắn, tươi cười.

"Trong hang mà ngươi có hứng thú nói chuyện này?" Ngón tay cô nàng chỉ lên trên. "Có nhảy lên được không?"

Rõ ràng đang đánh trống lảng. Gương mặt xinh đẹp này rốt cuộc làm bằng cái gì mà có thể biến thiên nhanh như vậy?

"Cho ta hai cái cánh, ta bay lên được." Hắn khoanh tay trả lời. Tuy vậy, hắn cũng đứng dậy, nhún chân thử nhảy lên mấy lần. Hang cao quá tầm nhảy của hắn, xung quanh lại trơn trượt, không có chỗ nào để giữ tay tựa chân.

"Ta không có cánh, nhưng ta có đá." Như Yên chợt nói sau một lúc đảo mắt nhìn quanh. "Ngươi khuân những tảng đá này chất lên nhau mà kê chân nhảy lên."

Tiểu yêu tinh thật thông minh. Hắn trong lòng không khỏi khen thầm, gật đầu đi khuân đá quanh hang lại. Tiểu yêu tinh vẫn chỉ ngồi một chỗ nhìn hắn làm việc. Sự yên lặng của cô nàng khiến hắn cũng phải lấy làm lạ. Quay lại, ánh mắt hắn rơi vào ngón tay nàng ta đang ấn ấn lên mắt cá chân.

"Chân sao vậy?" Hắn nghiêng người cúi xuống mà hỏi. Tiểu yêu tinh như giật mình nhìn lên.

"Trật rồi." Mồ hôi đang vã ra trên trán nàng, dù nàng vẫn gượng gạo cười. Hẳn vừa rồi vấp ngã xuống mép đá làm trật chân. Hắn sờ vào, thấy mắt cá đã sưng lên bằng quả trứng gà.

"Phải nắn lại." Hắn nhìn lên, nói mà như hỏi. Như Yên cắn môi gật đầu. Hắn là người luyện võ, chuyện nắn chỉnh khớp xương hẳn nhiên phải biết đôi chút.

Hắn xoa nhè nhẹ quanh chỗ trật để máu huyết lưu thông, ngón tay miết lên đầu xương nhô ra, đột ngột ấn mạnh. Nghe 'cụp' một tiếng, khớp xương trở về chỗ cũ. Như Yên không thể ngăn được mà kêu khẽ.

"Đau không?" Thấy đôi vai run rẩy, hắn cũng phải động lòng thương. Tiểu yêu tinh nhìn hắn, nước mắt ứa ra lăn trên đôi má tái xanh, hẳn đau đến lạnh người đi rồi.

"Tất nhiên là đau." Nàng quẹt nước mắt, ấm ức trả lời. Những lúc không làm hắn sợ, tiểu yêu tinh này thực ra rất đáng yêu. Không la không khóc, ngoan ngoãn chịu đựng, kể cũng hơn Tuyết Nhi nhõng nhẽo phiền nhiễu của hắn. Nó mà bị thương, hắn phải dỗ cả nửa ngày.

"Sau này bớt gây sự đi." Hắn lấy giọng cha anh mà nói trong lúc xé áo buộc chân lại cho Như Yên. Lời này hắn nói ra có vẻ không hợp lắm, nhưng dù gì hắn cũng là đàn ông tự lo được cho mình, một cô bé yếu ớt mà suốt ngày chạy ra ngoài gây sự thị phi quá là không hay. Sa làm sao cứ phải chạy theo sau lo lắng cho tiểu yêu tinh này? Lo được một lúc chứ có thể lo được cả đời sao?

Khoan, cả đời? Hắn nhìn Như Yên, nàng đang nhìn lên đỉnh hang trấn tĩnh lại sau cơn đau, như không nghe thấy câu nói của hắn. Cái dáng vẻ này có gì đó rất khác so với khi nàng ta ở cạnh Sa. Vẫn nửa trẻ con nửa người lớn, nhưng không dựa vào ai, chẳng nhìn đến ai. Có đau cũng cắn răng chịu một mình, hoàn toàn không giống với cô bé chốc chốc cứ nắm tay Sa mà kéo.

Hồ ly ngàn năm này thật ra đang nghĩ cái gì vậy? Bộ mặt nào của nàng ta mới là thật?

Buộc xong vết thương, hắn thở ra, quay về với công việc khuân đá. Tiểu yêu tinh đã thế này, cột đá phải cao hơn gấp đôi để hắn mang nàng ta nhảy ra ngoài.

Dường như nhận ra ý nghĩ của hắn, Như Yên chợt lên tiếng từ phía bên kia hang.

"Ngươi cứ sắp đá đủ nhảy ra khỏi hang là được, rồi kiếm người lại đây bỏ thang kéo ta lên."

"Ở dưới này một mình không sợ à?" Hắn nhướng mày. Tiểu yêu tinh mỉm cười.

"Quế vừa rồi chạy đi, hẳn là báo động khắp nơi rồi. Ngươi lên chắc thấy người ngay. Đừng làm họ lo lắng."

Lại dùng giọng dỗ ngọt trẻ con mà nói với hắn. Lại còn cười tươi như hoa rắp tâm dụ dỗ hắn nghe lời. Vừa mới mếu máo khóc xong đã bày ra bộ dạng hồ ly được rồi. Ở đây cô nàng mới là người vừa bị thương vừa không tự bảo vệ được mình. Đây là hang động giữa rừng, khu vực này không biết còn kẻ nào ẩn nấp. Bỏ một cô gái lại, chỉ sợ quay lưng là đã mất tích.

"Ngồi yên đi, ta tự biết sắp xếp." Hắn quay đi, cau mày nói, làm như không nhận thấy vẻ giận của người ngồi trong góc. Hồ ly tưởng hắn sợ cô nàng à?

Hồi 24: Hiệp ước

Nhảy khỏi động, hắn chặt rễ cây kết lại thành dây, thòng xuống cho Như Yên cột quanh người mà đưa nàng lên. Như vậy, tiểu yêu tinh cũng không còn lý do để hậm hực với hắn.

Nhưng nàng ta lại có chuyện khác để hù dọa hắn. Trên lưng hắn, khi đang được cõng về, tiểu yêu tinh nghiêng vào tai hắn mà ngọt ngào hỏi:

"Lão quái vật ấy là ai vậy?"

Trong một khắc, lưng hắn cứng lại. Tiểu yêu tinh này chờ ra khỏi động mới hỏi, hẳn là đề phòng trước nguy cơ hắn giết người diệt khẩu. Mấy lời trao đổi của hắn và thầy Cả hẳn nhiên không lọt khỏi tai nàng.

"Ta với ông ấy từ trên núi xuống." Hắn quyết định nói thật. Dù sao cũng không thể che giấu được khi sắp tới tiểu yêu tinh sẽ được cho biết hắn đã rời khỏi núi bằng cách nào. Chẳng khó khăn gì để nàng ta nhận ra tại sao lại xuất hiện một người đàn ông cháy đen nơi ấy. Với những câu bọn hắn đã nói, khôn bề chống chế rằng hắn không quen biết ông ta. Nếu không muốn sự việc đổ bể trước một đám người chắc chắn là muốn phân thây hắn ngay tại chỗ, thà rằng ngoan ngoãn thú nhận với tiểu yêu tinh. Nàng ta tuy quái quyệt nhưng không phải không biết nói lý lẽ.

"Từ khi nghe đến ngươi lăng xăng lên núi, ta biết thế nào cũng vậy." Tiểu yêu tinh nói sau một lúc im lặng, thậm chí nàng ta còn cười khẽ. "Ngươi cứ chạy vào những chỗ không liên quan đến mình, làm xáo tung lên."

"Không giận à?" Trước thái độ tỉnh bơ này, hắn cũng hơi ngạc nhiên. Bị dọa một trận, trật cả chân, biết hắn là nguyên nhân gây chuyện mà không cau mày nhăn mặt trách một tiếng sao?

"Ngay cả ta mà ngươi còn cứu, thì cái dạng nào ngươi mới không nhúng mũi vào?" Tiểu yêu tinh bình thản nói như một chuyện hiển nhiên nhất trên đời. "Vả lại chuyện này không liên quan đến ngươi, tất nhiên ngươi chẳng có lý do gì để gây thù chuốc oán với ai. Lão quái vật làm ta trật chân, ta lấy của lão một con mắt, coi như ta có lợi hơn rồi. Ngươi cứu ta một mạng, ta không làm lộ chuyện của ngươi, thế là không ai nợ ai."

Lý lẽ này thậm chí còn quá tầm tưởng của hắn. Lạnh tanh như một đổi một, sòng phẳng hệt như buôn bán hàng hóa. Nữ nhân này không phải ở nơi phố chợ lâu rồi cũng lây chất gian thương, mọi việc đều lấy bàn tính ra gảy chứ?

"Ngươi cứu ông ta cũng tốt." Tiểu yêu tinh thở ra, vô tình làm tai hắn nhột nhạt. "Ta đã bảo rồi, đúng không, làm oán sẽ phải trả oán. Lão đối với ngươi cũng tốt đấy chứ."

"Không phải các người muốn giết họ?" Không phải những người này là địch nhân quyết hạ nhau cho bằng được?

"Nếu lúc nào cũng muốn diệt người thì sẽ bị người diệt." Tiểu yêu tinh nghe như cười bên tai hắn. "Ta nói cho cùng cũng đâu thích gì việc giết hại người. Những chuyện hành sự bừa bãi, ta không làm, cũng không cần làm."

Những câu nói này không biết tin được mấy phần, hắn vừa bước vừa nghĩ thầm. Ra khỏi mép rừng, hắn thấy dòng sông trải dài phía xa. Bên cạnh bờ sông, từ khoảng cách này nhìn lại, một đám người khá đông đang đứng lố nhố, như thể vây một đám người khác vào giữa. Thuyền lớn trương buồm đã vào bến, cảnh tượng đông đúc khác hẳn mọi ngày. Nhìn tuyệt như không giống họp chợ bình thường.

"Lùa gà vào chuồng." Tiểu yêu tinh khúc khích cười. "Đám người trên núi bị dồn xuống."

Hắn cũng đã thấy lớp lớp tên nỏ, súng đạn hướng vào đám người ở giữa. Số người tập trung bên bờ sông lớn hơn hẳn hắn nghĩ, như thể cả một đạo quân.

"Không chỉ có tên nỏ thôi đâu." Tiểu yêu tinh đưa tay chỉ về đằng trước, tựa hẳn vào lưng hắn. "Ở dưới đất có bẫy sập, chỉ cần hô một tiếng, đá trên lăn xuống, đất dưới cắm chông đâm lên. Hai đầu dòng sông đã làm rào, cắm chông, có là cá diếc cũng không bơi qua được. Đám người này nghe nói là Hộ Thần, Tinh Tú gì đó, hôm qua bị lừa đi đánh nhau. Thấy lửa, hẳn chúng nhanh chóng rút lui định quay về. Chỉ cần khôn khéo dồn chúng lại, thế là xong."

"Đáng sợ thật." Hắn gật đầu khen rất thật lòng. Chỉ một đêm đã bắt trọn hang ổ kẻ địch, hạn chế thương vong đến mức thấp nhất. Hiện thời, cục diện hẳn đã hoàn toàn lọt vào tay kẻ bên này. Nhưng họ sẽ làm gì với toán người kia?

"Thuyền này là để chở họ." Như đoán được suy nghĩ của hắn, tiểu yêu tinh tiếp tục hoa tay trước mắt hắn. "Chở đi đâu thì tùy vào kết quả thương lượng."

"Thương lượng?" Hắn hơi quay đầu lại. Tiểu yêu tinh thần bí cười.

"Tất nhiên là sau khi đánh trận thì phải đi thương lượng. Ngươi nghĩ đánh nhau chỉ để coi ai mạnh hơn ai, đánh cho bên kia một trận thôi sao? Kết quả trận chiến là kết quả của bàn đàm phán. Tôn Tử binh pháp chẳng nói: 'Phàm phép dụng binh, làm nước địch khuất phục trọn vẹn là thượng sách, đánh nó là kém hơn' hay sao? Đánh một trận rồi chém tất, quẳng xác xuống sông thì nhanh, nhưng hậu quả khôn lường. Làm kẻ địch phải chịu khuất phục, lại được tiếng tốt. Phép trị nước cũng vậy, người cầm quyền phải biết tiến thoái. Dân chúng đòi mười, chỉ cần cho họ năm, sáu thì đã được người biết ơn, cứng quá sẽ gãy. Địch ở trong tay, chỉ cần thi ân một phần là đã nhận được muôn vạn."

"Nói tóm lại là đang cầm giữ đám người này làm con tin để bắt chẹt người đứng đầu của họ." Hắn gật đầu. Tiểu yêu tinh gõ vào thái dương hắn.

"Nói chuyện với ngươi chán chết đi được." Kể cũng không cần nói trắng ra như thế chứ? Bao nhiêu lý thuyết rơi vào đầu hắn như nước đổ lá khoai, để lại chỉ toàn là cát.

Nắng đã lên lưng chừng núi, sáng rõ khoảng đất và dòng sông. Vừa đi vừa nói, rốt cuộc bọn hắn cũng đã tới được chỗ đám người. Không như tiểu yêu tinh nói, không ai có biểu hiện cuống quýt muốn đi tìm nàng ta. 'Chắc thằng bé lạc luôn trong rừng rồi', tiểu yêu tinh lẩm bẩm, vừa có vẻ lo lắng vừa như buồn cười.

Chỉ có Sa bước về phía hắn, có vẻ kinh ngạc khi nhìn thấy Như Yên.

"Tên ngốc này lọt qua hầm núi trở về được, còn kéo theo sau một lão quái vật, báo hại ta bị thương." Tiểu yêu tinh chẳng để phí một khắc nào mách tội hắn. Vừa nói, nàng ta đã với tay về Sa. Y liếc nhìn hắn trong khi tiếp lấy cô gái trên vai hắn.

"Hai người không sao là được rồi." Y nhàn nhạt nói khi ôm lấy Như Yên, quay lưng đi về phía lều trại dưới chân núi. Cả hai ngay lập tức ra vẻ hắn không hề hiện diện trên đời. Hắn cũng nhún vai quay về phía đám đông, kiễng chân muốn nhìn thấy những Hộ Thần lẫn Tinh Tú kia một cái. Chỉ thấy tầng tầng giáo mác, gần như che cả những kẻ bên trong, nhìn gần càng thấy khí thế ghê người. Trên triền Hỏa Sơn, người đứng người ngồi lố nhố dưới những lùm cây, hẳn là vừa được đưa trên núi xuống.

"Đêm qua không sao chứ?" Như Yên hỏi khi Sa cởi băng cột tạm ở chân nàng để xoa thuốc. Y lắc đầu. Đêm vừa rồi, sau một lúc trừng mắt nhìn nhau, cột lửa cùng vụ nổ ở Hỏa Sơn đã cắt đứt trận chiến. Thất Tinh Tú vội vã rút lui, y chỉ cầm chừng đi theo để dồn họ về quãng sông này. Thấy tính mạng người trên Cẩm Thạch bàn đã lọt vào tay quân đội, Thất Tinh Tú cùng Bát Phương Hộ Thần cũng không quyết liệt chống cự, từ khi mảnh giấy từ trên Thủy Sơn chuyển xuống, họ đã ngồi yên trong vòng vây.

Chỉ là, y không ngờ, cô bé hoàn toàn ở ngoài vòng chiến trận này lại bị thương cho được.

"Không phải lỗi tại ta." Đoán được ý y, Như Yên vội thanh minh. "Tên ngốc kia từ trên núi thoát ra, lại có cả một lão quái vật cũng theo đường đó mà chạy, đâm vào bọn ta. Quế nghịch ngợm treo lão lên rồi nói năng bất cẩn, làm lão đòi giết chúng ta, may mà ta chạy được. Chỉ xui là bị lọt vào một cái hang, lúc ngã xuống thì bị trật chân.

"Nhưng ta chạy thoát được lão quái vật, không phải là rất giỏi sao?" Nàng cười mà thêm vào, một lúc sau. Nụ cười chợt hóa thành cái nhăn mặt khi tay Sa xoa lên vết thương.

"Ráng chịu một chút." Y cúi đầu nói khi tay vẫn ấn nhẹ. Thuốc cần phải xoa đều cho thấm vào da. Vết trật dù đã được xử lý vẫn tụ máu bầm tím, mỗi cái chạm vào đều đau đến lặng người.

"Kêu khóc lên thì đỡ hơn." Y vẫn dùng giọng vô thanh vô cảm mà nói. Không nhìn lên, nhưng y nhận thấy được toàn thân cô gái đang run khẽ. Nàng ta cắn môi, hoàn toàn không để bật ra một tiếng rên.

"Cho ta ôm ngươi một cái." Như Yên cười. Không đợi y trả lời, nàng đã vòng tay quanh cổ y. Mùi mưa và rừng vẫn còn trên y, qua một đêm phong vũ.

Y, lặng yên như rừng. Chỉ nghe tiếng gió mải miết thổi trên những tầng cây.

Y, lặng yên như mưa. Chỉ nghe thanh âm của vô cùng đổ xuống.

Vòng tay nàng vốn không cản được mưa, cũng chẳng ôm được núi rừng.

Y không đẩy nàng ra, chỉ lặng im. Bàn tay y vẫn không ngừng xoa thuốc lên vết thương của nàng. Trong lều trại chỉ có hai người, vả lại những ai nhìn thấy họ cũng phải tự khắc xem như không thấy. Từ bao nhiêu năm trước, cả hai đã như vậy.

Bao nhiêu năm trước, như thể nàng ta không chịu lớn lên.

Cứ vĩnh viễn là đứa bé ôm lấy y. Giữa biển cát. Giữa bầu trời và cát. Cát khắp nơi, bay rào rào trong gió. Cát bay vào mắt đến cay xè. Cát bay vào miệng đến khô khốc. Cát lấp dần tất cả các giác quan. Nhìn xung quanh, chỉ thấy cát trận trận hàng hàng di chuyển như sóng biển, như mây trời, như sương khói và bão tố.

Cát vàng trời xanh nắng trắng. Khung cảnh cứ như kéo dài mãi đến vô tận. Cát nối tiếp cát, gò nối tiếp gò, theo gió mà biến chuyển, mà thay đổi. Chớp mắt, như đã sống cả trăm năm.

Thế giới, giống như cảnh tượng trong sa mạc cát, biến đổi. Chớp mắt, đã trăm năm. Bao nhiêu biển lấp núi mòn, ảo tưởng lung linh huyền hoặc, sự sống cùng cái chết. Rồi sẽ chỉ còn là cát.

Rồi từ ấy đã không còn ngày tháng. Chỉ có đôi tay ôm lấy y nhất quyết không buông.

Chỉ có hai đứa trẻ giữa thế giới liên tục biến hình. Và ngay cả thế giới, thế giới cũng không còn quan trọng nữa.

Bình sa vạn lý tuyệt nhân yên.[1]

Hoặc đó đã từng là giấc mơ của nàng. Giấc mơ lặp đi lặp lại qua bao ngày tháng.

Một giấc mơ, một vòng tay, một cơn gió, còn được đến bao lâu?

Những gì đã qua sẽ không quay về. Tất cả những gì có thể còn lại, héo tàn thành cát bay trong gió. Tất cả những gì mất đi, tan như ảo ảnh ẩn hiện trên sa mạc. Vĩnh viễn, để lại chỉ là khoảng không giữa bầu trời và mặt đất.

Nhìn lên là bầu trời, nhìn xuống là vực sâu vạn trượng.

Bóng áo trắng như cô hạc đậu trên mỏm núi cheo leo. Gió thổi qua khuôn mặt có phần mỏi mệt qua một đêm không ngủ của người thiếu phụ. Nàng ngẩng đầu nhìn trời, rồi nhìn xuống khoảng đất bên cạnh dòng sông. Ở khoảng cách này, nàng vẫn có thể thấy được đội quân đã đến để bao vây đám người. Và cả những chiếc thuyền.

Chỉ cần nàng đồng ý, ta sẽ đưa họ lên thuyền, chở về tận Panduranga. Y nói, với nụ cười thân ái quen thuộc. Tất nhiên, y cần gặp nàng, không phải là để ôn lại chuyện xa xưa.

Nàng mới chính là kẻ điều khiển được tất cả bọn họ. Y nói khi đặt tờ giấy xuống trước nàng. Bây giờ, tính mạng của bọn họ nằm trong tay nàng.

Bất chợt, mọi thứ đã đổi chiều. Bây giờ y mới là kẻ nắm giữ toàn cuộc, nàng chỉ là kẻ làm theo lời y. Dù có định hy sinh cả toán người trên núi, y vẫn còn cầm giữ được nàng để ra điều kiện với triều đình ở Panduranga, như thế còn tồi tệ hơn gấp bội phần.

Thở dài, Lê Anh quay trở lại ngôi chùa. Nam tử áo xanh vẫn ngồi bên bàn. Bản hiệp ước cùng bút đã mài sẵn mực, màu để điểm chỉ và đóng dấu được cẩn thận đặt bên cạnh.

"Có một điều ngươi nên biết," Nàng trầm tĩnh nói khi ngồi xuống, từ tốn nhấc lên cây bút. "Bản hiệp ước này chỉ có hiệu lực khi ta còn sống, hay khi ngươi còn sống."

"Ta đã bảo, nếu không muốn trở thành kẻ thù, tốt nhất là nàng nên giết ta." Y mỉm cười. Nụ cười muôn thưở hòa nhã. Lê Anh không nhìn lên, mặt không đổi sắc. Qua một đêm giận dữ tranh cãi, giờ tình cảm của nàng đã cạn kiệt. Bây giờ là lúc để tính toán và trao đổi, không phải là để nói đến những cảm xúc.

"Ta, công chúa của Panduranga, đồng thuận với ngươi trong hiệp ước này." Nàng nói, khô khốc, khi lấy ngọc tỷ trong người đóng vào tờ giấy.

Y vẫn chỉ nhìn nàng khi tất cả mọi công việc đã xong. Nàng thở ra, đứng dậy đi khỏi ngôi chùa. Khi bước xuống bậc đá, nàng nghe tiếng chân đi sau mình.

"Không cần tiễn." Nàng nói mà không quay đầu lại. Không cần những câu nói dư thừa, ngay cả hạch hỏi y về chuyện thu xếp cho đám người bên dưới. Y là kẻ giữ lời hứa.

"Chúng ta chẳng lẽ làm bạn cũng không thể?" Y chầm chậm nói, vẫn không đứng lại. Trên những tán cây, chim chóc ríu rít kêu. Dòng suối róc rách chảy. Mưa đêm và sương trắng trong lành. Cảnh sắc vẫn như thế hiền hòa, mặc cho tâm người bão nổi.

"Ngươi biết không, ta không hận ngươi vì những chuyện đã xảy ra." Nàng nói, một lúc sau, mắt vẫn nhìn về phía trước. "Mà là vì những chuyện không xảy ra. Ta hiểu tất cả những gì ngươi nói, cũng như hoàn cảnh của ngươi. Ta bây giờ không phải là con bé chấp nhất ngày xưa.

"Nhưng ngươi biết có những chuyện không thể làm được mà vẫn cứ làm. Với thân phận của ngươi, vốn dĩ không thể tiếp cận ta. Cha ngươi đã từng giết cả ái cơ của mình chỉ vì nàng ta là người đất địch, ngươi khả dĩ có thể dung ta? Ngươi vốn không thể giữ ta lại, ta cũng không thể ở cạnh ngươi. Ngươi càng cố giữ, ta lại càng hận ngươi."

Nam tử chớp mắt, đứng lại trên bậc thềm đá. Lê Anh đã bước tới bậc thềm cuối cùng. Con đường lởm chởm đá dẫn xuống núi khuấp lấp trong cây.

"Shita vì Shiva mà trút hồn trả xác cho đấng sinh thành. Shiva vì mất đi Shita mà quay lưng lại với cả thế giới." Y chợt cười. "Nhưng đáng tiếc, nàng không phải là Shita, ta cũng không phải là Shiva[2]."

Vai Lê Anh run khẽ. Nàng chợt đưa mắt về phía ngọn Hỏa Sơn mà khói vẫn còn bốc cao.

"Thần Shiva của chúng ta vốn đã quay lưng lại với thế giới, không thể tái sinh thêm nữa. Chúng ta rơi vào bóng tối, thì Shita cũng vĩnh viễn không thể quay về."

Lời vừa dứt, thân ảnh trắng đã vút vào khoảng núi, khuất sau tầng tầng rừng cây.

Nam tử vẫn đứng trên đoạn thang đá, ánh mắt hẫng vào thinh không. Y không nghe được tiếng người bước tới phía sau, hoặc là bước chân ấy quá nhẹ.

Bước chân của Hoắc Phương vốn như lướt đi trên mặt đất. Chỉ có tiếng ho của y là đánh động đến người.

"Tiểu Hoắc," Nam tử áo xanh quay lại, ánh mắt ngay lập tức trở về vẻ thân tình ấm áp. "Lâu không gặp."

"Lâu không gặp, công tử." Hoắc Phương đáp lại bằng nụ cười tương tự. Y đã trở lại mặc tang phục, kiểu cách ấy hòa với thần thái y mang mấy phần xa cách không chủ ý. Y khoanh tay không lên tiếng, như thể đợi người bên kia mở lời.

"Xin lỗi, ta không có ý làm phiền đến đệ, Hắc Hổ lôi kéo đệ vào việc này thật không phải." Nam tử đi lên bậc đá, mắt vẫn không rời Hoắc Phương như thể thăm dò thái độ của y.

"Việc này cũng liên quan đến chuyện tại Hội An, tại hạ đi chuyến này không phải là vô ích." Hoắc Phương giữ thái độ khiêm cung mà nói. Nam tử phảng phất cười.

"Ngay cả vật gì đó trên đỉnh núi cũng liên quan đến việc ở Hội An?" Nam tử dừng lại bên cạnh Hoắc Phương trên sân chùa. Cây sứ trắng lặng lẽ làm rơi một bông hoa xuống mặt đất, không đánh động được khoảng im lìm giữa họ.

"Tại hạ không biết công tử đang nói đến vật nào?" Hoắc Phương nhướng mày, mặt không biểu cảm, thậm chí còn thoáng vẻ ngạc nhiên.

Nam tử nheo mắt nhìn y một lúc rồi quay đi.

"Việc đệ đem đàn tặng ta, chẳng qua chỉ là con bé nói ra vậy thôi để ta đừng trách nó bắt chẹt đệ." Nam tử vừa nói vừa cười. Tịnh không thể nhìn ra cảm xúc của y sau nụ cười vẫn muôn thưở ôn hòa. Hoắc Phương chớp mắt.

"Đàn có thể tặng, thậm chí, tính mạng tại hạ, công tử cũng có thể lấy." Hoắc Phương vẫn khoanh tay, nhẹ nhàng nói. "Nhưng công tử là người nắm thiên hạ, Tiểu Hoắc này chẳng qua chỉ là một kẻ làm chủ vài người. Công tử có thiên hạ phải mang, Hoắc Phương có trách nhiệm phải giữ. Thiên hạ của công tử có thể dung người của tại hạ, chúng ta còn đi chung đường, nhược bằng không thể thì mỗi người làm việc của mình, vốn là đã vậy. Những gì Hoắc Phương có thể tặng, e rằng công tử không thể nhận. Những gì Hoắc Phương có thể cần, e rằng công tử không thể cho."

"Nên phải đề phòng trước với ta?" Nam tử vẫn không thay đổi sắc mặt, y chỉ phác tay. "Thôi, với đệ thì ta tin sẽ không làm việc hồ đồ. Nhưng cẩn thận, Tiểu Hoắc, mật thơm thì nhiều ruồi, vật báu thì nhiều kẻ thèm khát. Tử đạo có thể nhầm lẫn thành sinh đạo. Đa đoan quá thì sẽ có lúc làm hại mình. Ta chỉ nhắc đệ như vậy. Vừa rồi cám ơn đệ đã giúp ta, ta sẽ đền đáp xứng đáng cho tất cả mọi người."

Nam tử vừa nói vừa đi vào gian chùa. Hoắc Phương đứng một lúc dưới tán hoa trắng rồi cũng lặng lẽ xuống núi. Chiếc bóng trắng của y đi đúng vào phương hướng mà Lê Anh đã qua.

"Đêm hôm trước nghe rằng người của Thanh Hải bang đã đem vật gì đó ra khỏi chùa. Vì thế y đánh nhau với chủ trì chùa mà xuống cuối cùng." Từ sau gian chùa, Hắc Hổ bước ra, nhìn theo bóng lưng Hoắc Phương mà nói. "Nếu bây giờ ta lên đỉnh núi tìm mà không thấy, chắc chắn là y đã mang theo."

"Làm lại con đường lên đỉnh rồi đào bới trong đống gạch vụn, ta e rằng mất cả năm." Nam tử áo xanh lắc đầu. "Với tính cách của Hoắc Phương, chắc chắn nó đã chẳng bỏ qua cơ hội. Nhưng với Hoắc Phương thì ta không phải lo lắng nhiều."

"Y giữ thanh đao ấy làm gì?" Hắc Hổ nhíu mày trong khi nam tử cười khẽ.

"Thỏ khôn phải có ba hang. Ngươi nghĩ Hoắc Phương muốn gây thù kết oán với Chiêm Thành lẫn những kẻ khác liên hệ với họ sao? Lần này vì việc của ta mà cũng là vì kẻ đến từ Vân Nam, nó đã phải ra mặt. Nhưng nó phải để cho mình đường lui, thậm chí là kết giao với Chiêm Thành. Kho muối và đồng cá ở Panduranga cũng đáng kể đấy chứ. Nó cũng chẳng tin ta, việc gì mà phải giao thanh đao ấy lại cho ta? Giữ lại thì lúc cần thậm chí nó còn trao đổi được với ta."

"Y chơi trò liên kết tay ba?" Cái cau mày của Hắc Hổ càng sâu. Nam tử áo xanh liếc nhìn gã, nhãn thần có đôi phần chế giễu.

"Ngươi nghĩ nó có thể trung thành hoàn toàn với ta? Nó là bang chủ Thanh Hải bang, thủ lĩnh của người Hán tại Hội An, nó có trách nhiệm với người của mình trước khi có trách nhiệm với bất cứ ai. Vì thế, ta mới bảo ngươi thật hồ đồ khi nhờ nó. Dù có thế nào, cũng không bao giờ được cho phép nó can hệ quá sâu vào việc của chúng ta. Lần này mất thanh đao coi như là bài học."

Lời nói dửng dưng chẳng mang chút nào phiền trách, thậm chí còn có phần thú vị ý nhị, khiến Hắc Hổ cúi mặt gật đầu. Nam tử đi lại phía bàn giấy, nơi bản hiệp ước đã được cất vào trong hộp gỗ. Y mở hộp, lấy ra tờ giấy lụa dày, nhìn dấu ấn đỏ chói in dưới cùng với một dấu ngón tay nho nhỏ.

"Tân sầu cựu hận bát nan bình[3]." Y khe khẽ thở ra. Ngoài vườn, bóng hoa trắng tiếp tục rụng rơi trong gió.

Chú thích:

[1] Bình sa vạn lý tuyệt nhân yên: Trích Thích trung tác của Sầm Tham. Dịch nghĩa: Cát trải vạn lý tuyệt không một sợi khói của người. Câu thơ này có cả 2 cái tên Sa và Yên.

[2] Sau khi Shita trút hồn trả thân xác cho cha, chết trên núi tuyết, Shiva đã đóng cửa quay lưng lại với thế giới, không màng bất cứ thứ gì. Tương truyền, lúc ấy thế giới hôn ám loạn lạc vô biên. Các thần phải đi tìm Parvati là kiếp sau của Shita đưa về.

[3] Tân sầu cựu hận bát nan bình: Trích Thu dạ của Nguyễn Phi Khanh. Dịch nghĩa: Sầu mới hận cũ khó dẹp bằng.

Hồi 25: Gian kế

Khi họ trở về Hội An, năm mới đã sắp đến. Khắp nơi trong phố thị đã treo đèn kết hoa, dán giấy đỏ. Trên đường, bọn trẻ thi thoảng lại lôi những viên pháo nhỏ ra đốt, tiếng đì đùng khắp nơi. Trên những ghe thuyền đậu bên dòng sông đã rải rác sắc hoa được đem về bán. Những gánh hàng rong đã có thêm cả hàng phong bao, pháo dây, giấy đỏ, vật trang trí trong nhà... Các khu phố hàng quán càng rực rỡ hơn với những dây đèn hoa cùng chậu cảnh tươi thắm. Trên khu nhà dành cho người Tây dương, những lá cờ đuôi nheo nho nhỏ đủ màu sắc được chăng mừng năm mới của họ vẫn còn bay phất phơ trong gió. Mùi hương ngòn ngọt của mứt kẹo vương vấn khắp các dãy phố. Tiếng loẻng xoẻng của các gánh hát, đoàn múa lân tập trung về thị thành trong những ngày này càng làm phố thị ồn ào rộn rã hơn.

Dù chân chưa khỏi, tiểu yêu tinh cũng không thoát khỏi sự cám dỗ của cảnh sắc này mà mấy lần cho xe dừng lại trên đường, lúc thì mua kẹo mứt, lúc lại xem vải vóc, có khi chỉ ngẩn người nhìn đoàn múa lân đang biểu diễn trên bờ sông. Đến khi hàng hóa mua về đã chất gần hết sàn xe, Sa bắt buộc phải mở miệng nhắc:

"Ở nhà Xuân Tử hẳn đã chuẩn bị cả rồi."

"Ta cần mở tiệc." Như Yên xua tay. Hắn không đừng được mà nhướn mày. Mở tiệc gì với đống đồ ngọt này, trừ phi tiệc cho trẻ con? Nhưng đưa trẻ con vào Thương Trúc trang hay Ngưng Yên đình thì quả là tội ác.

Như cảm thấy được ánh mắt hắn, tiểu yêu tinh liếc mắt, trước khi cái cười đầy dự cảm xấu lại đến trên gương mặt nàng ta.

"Tất nhiên là có rượu." Giọng nói ngọt ngào làm hắn gai gai người. "Ngươi đi vác về cho ta."

Lời vừa dứt, xe đã lại dừng trước một tửu quán. Tiểu yêu tinh chỉ ra xe, hất cằm. Sa đứng lên đi ra, hắn cũng phải bước theo. 'Sa, để tên ngốc vác.' Tiếng tiểu yêu tinh vẫn còn vang theo sau bọn hắn.

Hắn đã bảo, tin lời tiểu yêu tinh thì đến xác cũng chẳng còn. Cô nàng nói cái gì mà không tính toán với hắn? Mỗi lần chân lên cơn đau hay khó di chuyển là nàng ta trừng mắt nhìn hắn, mắng mèo quèo chó, mặc nhiên coi hắn là tội nhân gây chuyện. Trời càng lúc càng nóng, khô bức đến rang người, tính tiểu yêu tinh càng thêm khó chịu. Dù không đánh không mắng hắn, nàng ta phải tỏ ra hơn thua với hắn từng chuyện mới nghe.

Mà cũng có thể nàng ta đang 'mượn việc công trả thù riêng', hắn thở dài khi đưa mắt nhìn qua người đi bên cạnh. Hắn nghi ngờ rằng tiểu yêu tinh thực ra thù địch với tất cả những ai có liên hệ đến Sa 'của nàng ta'. Mượn cớ ném hắn đến Đà Nẵng trước đây, gây chuyện với hắn bây giờ, cũng chỉ là dịp nàng ta phát tiết cho bõ ghét. Nhìn nàng ta bám chặt lấy Sa một bước không buông, hắn không thể đừng mà nghĩ đến chuyện hồ ly ngàn năm tìm kế cách ly cô lập người để ăn thịt trong truyền thuyết. Trong hoàn cảnh này, rõ ràng hắn là kẻ ngáng đường của nàng ta. Hắn lại đang kẹt giữa thái độ thù địch của tiểu yêu tinh và sự cảnh giác của Sa. Không thể nói cho y rằng nàng ta đã biết quan hệ của họ, càng không thể lén lén lút lút trao đổi thậm thụt làm hòa với tiểu yêu tinh. Đùa chứ, Sa mà hiểu lầm rằng hắn có ý định bất chính nào với cô bé mà y bảo vệ như ấp gà con này, hắn còn chết sớm hơn là chịu đựng mấy cái lườm nguýt của tiểu yêu tinh.

Những ngày mà thiên hạ rộn rực vui mừng, hắn sao lại phải phiền não kẹt giữa hai con người này chứ?

Tửu quán lớn đông chật người. Sau quầy, chưởng quỹ liên tục đón tiếp người đến rồi đi, tay bút như múa trên những tờ giấy đặt hàng được chuyển đến từ một dãy dài người đang đứng đợi. Nhác thấy Sa, ông ta quay hẳn người lại, cúi đầu.

"Thương Trúc trang đến lấy rượu." Y nhàn nhạt nói, đưa ra một tờ giấy nhỏ. Chưởng quỹ vội gọi người đến đưa bọn hắn sang bàn đợi. Hẳn nhiên trang viện này là khách quan trọng của tửu quán.

"Nữ Nhi Hồng, một trăm vò. Cúc Hoa tửu, năm mươi vò. Thanh Xuân Túy, năm mươi vò. Mai Ngâm tửu, ba mươi vò. Thanh Trúc Khê, năm mươi vò. Hồng Hoa Khúc, năm mươi vò." Hắn cúi xuống đọc tờ giấy mua hàng mà chưởng quỹ chuyển lại, không khỏi ngẩng đầu nhìn lên Sa. "Mua rượu về để tắm à?"

Thương Trúc trang thường chưa tới ba mươi người, kể cả các gia nhân hầu gái. Chỉ có mấy ngày tết mà mua đến hơn hai trăm vò rượu, dù có là mười tên tửu quỷ như hắn cũng bị nhấn chết chìm.

"Đem đi tặng." Sa lấy tờ giấy trên tay hắn, chỉ liếc mắt nhìn qua rồi cất vào áo. Y đột nhiên thoáng cười. "Quả thật là ngươi không học được gì ở lão Cửu cả."

Miệng hắn há ra rồi ngậm lại. Bây giờ thì hắn nhớ đến hàng hóa vải vóc lẫn rượu trà bánh trái đầy ngập nhà mỗi lần tết đến lễ về cùng bản danh sách dài dằng dặc mà lão Cửu thường phải cắm cúi tính toán. Làm gia chủ không chỉ đơn giản là coi sóc cửa nhà, làm chủ một trang viện hay thương quán lại càng phải quán xuyến nhiều việc. Nhưng tất nhiên, hắn chưa bao giờ chú ý đến những công việc như thế.

"Trang viện vốn nhiều việc, những ngày này không đi lại được nên đâm cáu bẳn, ngươi cũng đừng chấp." Sa chầm chậm nói sau một lúc trầm ngâm.

Hẳn nhiên, y cũng nhận ra thái độ của tiểu yêu tinh với hắn. Không biết nói sao, hắn chỉ có thể cười.

"Nhưng bảo ta vác là vác cái gì?" Tâm tư tiểu yêu tinh ấy không đơn giản như vậy, hắn cho rằng mình cũng đã hiểu rõ. Nhưng nàng ta không đến nỗi bắt hắn vác cả hai trăm vò rượu về chứ?

"Rượu cất riêng." Sa vừa nói vừa chỉ về phía sau hắn. Một tên hầu nhỏ chạy ra, vác hai vò rượu không lớn lắm màu đỏ, còn lấm tấm đất như vừa mới được đào lên.

"Hồng Trần Túy, rượu cất năm mươi năm. Thương Trúc trang hợp đồng đặt rượu ở đây liên tục mười năm để mỗi năm có hai vò." Sa giải thích, rồi nói ngay trước ánh mắt sáng rỡ của hắn. "Ngươi mà chạm vào, đừng trách bị đem đi ngâm rượu."

"Rượu không uống chứ để làm gì?" Hắn tiếp lấy hai vò rượu từ tên hầu nhỏ, đặt xuống đất, chờ chưởng quỹ chuyển hết rượu ra xe. Như nhận ra được điều gì, hắn đột nhiên nhướng mày. "Đừng nói mỗi năm hai người bọn ngươi giữ hết hai vò rượu uống một mình?"

Sa im lặng quay đi. Tất nhiên là vậy. Tiểu yêu tinh đích thân đi lấy rượu, chắc chắn chỉ vì hai vò rượu này. Rượu quý của nàng ta, hẳn chỉ cho người nàng ta thích.

"Nếu biết thế này, ta đã đến đây sớm hơn." Hắn thở ra mà lắc đầu. Lão Đại được uống rượu sao lại không chia cho hắn? Năm nay nhất quyết phải đòi y chia cho không phải một vò thì cũng nửa vò.

Sa cũng mặc kệ hắn suy tư, đi kiểm kê số rượu rồi dẫn hắn trở ra xe. Trong lúc chờ bên ngoài, Như Yên đã kịp mua vài túi đồ trang trí. Thêm hai vò rượu, trong xe đã chật đến ngộp thở. Hắn phải ra ngoài ngồi cạnh tên mã phu. Một chốc, cái nón rơm chợt bay từ trong xe đậu lên đầu hắn. Tiểu yêu tinh cười rất ra vẻ 'Nếu biết ngoan thì ta tốt với ngươi'.

Nữ nhân này vui giận bất thường, có vẻ là bị áp lực đâm cáu gắt thật. Nếu khéo ra, tết này có thể hắn còn được nàng ta chia rượu cho...

Hắn còn đang mơ màng về hai vò rượu, xe đã trở lại Thương Trúc trang. Sa đỡ Như Yên xuống xe, nàng chống nạng mà đi. Vừa vào cửa, ba người bọn hắn đã nghe âm thanh chan chát như kim loại chạm nhau vang lại từ sau bụi trúc phía Tây.

"Ai đánh nhau?..." Hắn chưa kịp hỏi hết câu, hai bóng người từ sau bụi trúc đã phóng ra. Xuân Tử và cô gái áo trắng hắn đã bắt về từ Đà Nẵng.

Cô gái một tay dao phay một tay dao bầu, Xuân Tử cầm song đoản kiếm mảnh như lá lúa của người Đông Doanh. Hai người rõ ràng giao chiến đã lâu, mồ hôi ướt cả lưng áo. Thậm chí có vẻ như không nhận ra ba người đang đứng trước cửa trang viện, hai cô gái chỉ chăm chú chau mày chiết chiêu. Đao pháp của cô gái có vẻ đã tiến bộ hơn khi giao đấu với hắn ở bờ biển, linh hoạt uyển chuyển mà dứt khoát. Xuân Tử cũng không hề kém, thậm chí còn mấy phần nhường nhịn, song kiếm chỉ thủ chứ không công. Võ thuật Đông Doanh nhanh nhẹn dứt khoát của song đoản kiếm đấu với tà áo trắng bay bổng của tiểu mỹ nhân như hoa bay qua cành trúc.

Nhưng với thứ vũ khí chắc hẳn là nhặt được từ trong bếp ra, mỹ nhân áo trắng rõ ràng dần dần bị Xuân Tử lấn lướt. Chợt nghe 'canh canh' hai tiếng, dao bị song đoản kiếm đánh rơi xuống đất. Cô gái áo trắng vội nhảy lùi về bụi trúc. Đến lúc ấy cô mới như chợt thấy ba người kia.

"Hai người tập dợt để đi mãi võ à?" Tiểu yêu tinh thản nhiên nói. "Thế thì phải báo trước cho ta dựng rạp chứ."

"Tiểu thư." Xuân Tử giật mình quay lại, vội cúi người. Nhưng cô không thu kiếm về, vẫn đưa mắt cảnh giác nhìn cô gái áo trắng đứng ngẩn người ở bụi trúc.

"Võ công không tệ đâu, đi mãi võ hẳn kiếm được khối tiền." Như Yên vẫn nửa đùa nửa thật cười. "Ngoài kia rất đông vui, hay ta đem Thương Trúc trang ra mãi võ nhỉ? Hẳn là kiếm đủ ăn cả năm."

"Cô gái này cứ chực trốn đi." Xuân Tử liếc về phía cô gái, thở ra. Như Yên nhìn theo ánh mắt cô, vẫn mỉm cười.

"Trốn đi? Sao vậy?" Nàng nói như thật tình ngạc nhiên. Cô gái áo trắng cau mày, thẳng người đứng lên.

"Các người bắt ta giam ở đây còn hỏi tại sao?" Cô gái sau lúc giao đấu có vẻ còn thấm mệt, ngữ khí dù tức giận nhưng không đủ hơi sức để cất cao. Như Yên nghiêng đầu nhìn bộ dạng nàng ta.

"Nhưng trốn đi để làm gì? Cô nương quen biết ai ở ngoài à? Cô nương có thể đi đâu được? Cẩm Thạch bàn đã bị hủy, cô nương đến đây vốn chẳng còn tác dụng gì. Với một người như cô nương mà nói, rời khỏi đây, không lọt vào rừng bị voi hay hổ báo xé xác thì cũng bị lừa vào thanh lâu. Hay cô nương thích thế hơn?"

Giọng điệu tiểu yêu tinh không che giấu sự chế nhạo rõ rành rành. Đôi mày cô gái áo trắng xếch lên. Nhưng chẳng để ý đến nàng ta, Như Yên tập tễnh đi từng bước về gian nhà chính. Xuân Tử lại kéo tay cô gái về phía sau bụi trúc, lần này nàng ta miễn cưỡng đi theo.

"Cô ấy?" Hắn cất tiếng hỏi sau lúc ngạc nhiên. Cô gái này sao lại ở đây?

"Để ở Thanh Hải bang không tiện, vả lại tên vịt ốm Hoắc Phương cũng không muốn bạc đãi cô ta nên gửi ở đây nhờ ta chăm sóc hộ." Như Yên nhún vai. "Từ ngày đầu tiên đến đây đã thế, chốc chốc lại tìm cách trốn đi."

Hẳn nàng ta đã được chuyển thẳng từ Đà Nẵng về Thương Trúc trang, hắn thầm nhẩm tính thời gian mà nghĩ. Hoắc Phương không trở về Hội An nên không thu xếp được, còn tiểu yêu tinh cùng Sa mấy ngày sau mới đến Ngũ Hành sơn.

"Sau này định làm gì với cô ấy?" Hắn hỏi khi ba người đã vào trong gian nhà chính. Như Yên ngồi xuống phản, với lấy cây quạt phẩy mạnh, trả lời mà không nhìn ai.

"Cẩm Thạch bàn mất rồi thì cô ta còn đi đâu được nữa? Hoắc Phương định giữ cô ta lại để 'bàn chuyện' với người ở Vân Nam. Tên vịt ốm ấy tham vọng muốn chạm tới cả Vân Nam." Ngữ điệu có mấy phần thận trọng, nhưng không phải vì hắn.

"Cô ta chịu sao?" Hắn cũng ngồi xuống phản. Cô gái đã cực kỳ kích động bên bờ biển, lẽ nào chịu hợp tác với một người như Hoắc Phương? Như Yên liếc nhìn hắn, mơ hồ cười.

"Rắc rối là ở đó, nên Hoắc Phương mới nhờ đến ta. Vả lại..." Nàng chợt im lặng, hơi nhíu mày. Tiểu yêu tinh buông quạt xuống, nghiêng hẳn về phía hắn mà bá vai hắn thì thầm. "Ngươi có thích cô ta không?"

"Cái gì?" Phản ứng của hắn như bị gõ một cái vào đầu. Tiểu yêu tinh cười hì hì.

"Lúc mới đến đây cô ta đã từng nói về tên ngốc nào đó bắt cô ta mà lại đi khuyên nhủ an ủi tù nhân, coi bộ ấn tượng với ngươi rất tốt..." Giọng Như Yên vẫn nhỏ như muỗi kêu, không muốn cả Sa ở đằng kia phòng nghe thấy.

"Mỹ nam kế?" Hắn liếc nhìn cô nàng, tiện tay hất bàn tay trên vai xuống. Tiểu yêu tinh độc địa này, cả một cô gái bơ vơ khờ khạo cũng không từ.

"Đừng làm như ta hại cô ấy." Tiểu yêu tinh bĩu môi. "Có gì xấu chứ? Nếu cứ phản kháng thế này thì có lợi gì cho cô ấy đâu. Đằng nào việc xảy ra cũng xảy ra rồi, cô ta trẻ con quá nên mới phản ứng dữ dội đến thế, coi chúng ta như bọn quỷ mọc nanh không bằng. Ngươi biết chuyện giải quyết nhau trên giang hồ là như thế nào, đâu thể dùng tí lý lẽ trẻ con để phân định được. Tà cũng thế mà chính cũng vậy, đều tắm máu nhau cả. Với cô gái ngốc chẳng biết trời biết đất, biết người biết ta này, chạy ra ngoài được thì cũng chỉ vào rừng làm mồi cho thú dữ hay bị lừa vào thanh lâu thôi. Mà ở đây, cứ phản kháng mãi thì mệt cho cả cô ta lẫn ta. Chưa kể đến Hoắc Phương trở lại, tên vịt ốm ấy thủ đoạn tàn nhẫn thế nào thì ngươi cũng thấy. Làm hại cả đôi bên có gì tốt chứ? Chi bằng ngươi dựa vào cảm tình đã có sẵn, khuyên cô ta mấy câu. Cả đôi bên cùng có lợi, không tốt hơn sao?

"Mà cô ấy cũng đẹp, phải không?" Tiểu yêu tinh tiếp tục nói khi hắn còn đang trợn mắt há miệng nhìn cô nàng. "Trai lớn lấy vợ gái lớn gả chồng, thiên kinh địa nghĩa. Người như ngươi vừa nhiễu sự vừa vô dụng, sợ không ai chịu lấy ngoài cô khờ ấy đâu. Mà người như cô ta cũng trong sáng trẻ con quá, chỉ sợ lọt vào tay kẻ vũ phu thì khổ, gả cho người tốt bụng rộng rãi như ngươi là tốt nhất. Một cặp xứng đôi đến thế, tiên đồng ngọc nữ, ngọc thụ lâm phong, một cặp tiên tử nơi hạ giới, sợ trên trời cũng không tìm được. Ngươi ở Đông Phố, cô ấy từ Vân Nam, muôn dặm gặp nhau, nhất kiến chung tình. Ngươi từ Giang Nam mà đi, cô ấy từ Giang Nam mà đến, tuy hai mà một. Bọn ngươi gặp nhau là duyên tiền định..."

"Khoan!" Hắn đã vô thức dịch ra xa cô nàng từ lúc nào, tai bắt đầu lùng bùng. Cái gì mà 'duyên tiền định' với cả 'thiên kinh địa nghĩa', tiểu yêu tinh này định dọa chết hắn hay sao? Miệng lưỡi hồ ly đúng là trăm đường lắt léo, hai kẻ gặp nhau được một lần đã bị cô nàng biến thành duyên phận từ kiếp trước. Càng nghe mồ hôi hắn càng đổ ròng ròng.

Mà ở góc phòng bên kia, Sa hẳn đang âm thầm cười trộm. Khóe miệng y không đừng được mà nhếch lên. Y chẳng có ý định ngăn tiểu yêu tinh, chỉ như đang thích thú nhìn hắn bị cho vào tròng.

Đã thế thì đừng trách ta ác, hắn nghiến răng nhìn Sa rồi nghiêng vào tai tiểu yêu tinh mà giở giọng sầu não.

"Nhưng ở đây đâu phải chỉ có ta là nam nhân. Ta dù có đẹp đẽ thế nào cũng nhếch nhác lôi thôi, tính tình lại không được lòng nữ nhân. Cô vừa rồi cũng thấy đó, cô ấy có liếc mắt nhìn ta cái nào nữa đâu. Cô ấy nhìn Sa kìa. Luận về tài mạo y đều hơn ta. Những thứ như ngàn dặm gặp nhau, duyên tiền định gì gì ấy chẳng phải đều đúng cả sao?

"Vả lại, mẫu con gái y thích là như thế đó." Hắn hạ giọng hết mức mà thì thào. Thật ra điểm này không phải không đúng. Làm bạn bao nhiêu năm, hắn biết lão Đại thích những cô nương trong sáng dịu dàng. Y tính tình thanh đạm, hẳn nhiên ưa thích những vẻ thanh tú điềm nhã, lánh xa chốn ồn ào. Cô gái như bạch lan nơi u cốc ấy đứng với y xứng khớp như trời sinh một đôi.

"Ngươi..." Tiểu yêu tinh trừng mắt nhìn hắn. Hắn vội vã đứng dậy vọt ra ngoài. Dù rất muốn nhìn xem chuyện gì sẽ xảy ra, hắn chẳng dại gì đứng lại thêm một khắc. Một câu này sẽ khiến tiểu yêu tinh mất ăn mất ngủ, bõ những ngày nàng ta hành hạ hắn. Vì Sa mà nàng ta đâm ghét hắn? Nhìn lại xem nàng ta có gì giống con gái? Nhìn ngược nhìn xuôi vẫn như hồ ly ngàn năm, có đẹp cũng chỉ để câu dẫn người, hành sự độc địa, vui giận bất thường, ai đứng gần cũng phải sợ. Chưa kể đến trò lừa người dối trời, miệng lưỡi lắt léo định cho hắn vào bẫy lần thứ hai, đừng hòng. Nhân duyên do nàng ta làm bà mai chắc sẽ bị ám cả ba kiếp.

Thuận đường mà về Mai Lâm viện, đến cửa viện hắn lại đứng ngẩn người nhìn vào. Ngày thường nơi đây chỉ xanh um màu lá, rậm rạp um tùm như một đám rừng. Nhưng hiện giờ, lá mai đã được lặt bớt, cành trổ nụ xanh nõn, đỏ hồng, hoa nở từng cụm đủ màu trắng, vàng, hồng. Bớt đi tầng lá dày, dáng mai thanh thoát kiêu sa cùng những gò đá sơn thủy trắng xám được đặt rải rác giữa vườn tăng thêm mấy phần thanh nhã. Trúc thanh mai đạm, hoa như muôn cánh hồ điệp mềm mại kết trên cành. Ngôi nhà gỗ đơn lẻ giữa vườn mai, sau con đường đất nhỏ dẫn vào, nằm dưới tầng tầng mai dày càng thêm vẻ phong tiêu.

Mai ở đây có rất nhiều giống kỳ hoa. Mai vàng vốn rất nhiều ở đất phương Nam có đến chục loại, từ cánh đơn cánh kép đến hoa lẻ hoa chùm, tứ quý. Hồng mai cùng bạch mai cũng có mặt, tuy hoa hơi úa đi trong nắng nhưng phong thái của cành nhánh vẫn thanh cao phong nhã. Người trồng vườn mai này hẳn cũng có ý định lập những cuộc uống rượu thưởng mai, để những khoảng đất trống khá rộng dưới tán mai, cỏ xanh mềm tựa lưng vào đá. Đến ngày hoa nở hết, hẳn nơi này sẽ biến thành một vầng mây ngũ sắc của vạn vạn cánh hồ điệp phấp phới bay.

Mải ngước nhìn lên những cành hoa, đã bước lên hàng hiên rồi mà hắn còn ngoái đầu lại. Vì thế, hắn không nhận ra có người ở trong nhà. Thấy cửa mở, người ngồi bên bàn ngẩng lên, bật tiếng kêu "A" khe khẽ.

Tiếng kêu này quen thuộc đến mức trong một sát na, hắn đâm lạnh gáy.

Cô gái áo trắng như tuyết, cốt cách như mai ngạc nhiên tròn mắt nhìn hắn đứng ở cửa. Trong lúc hắn cũng ngơ ngác nhìn lại. Cô gái này ở nơi đây?

Chẳng lẽ tiểu yêu tinh định thực hiện gian kế của mình thật?

Hồi 26: Đấu trí

"Tử Hiên?" Là cô gái mở lời trước tiên. Mất một lúc để hắn nhớ ra đó là tên mình.

"Cô... sao lại ở đây?" Hắn đưa mắt nhìn quanh phòng, thấy đồ đạc của mình đã được các gia nhân đem từ xe vào để trong góc. Vậy đây vẫn là phòng của hắn. Tiểu yêu tinh không vô pháp vô thiên đến mức bắt cô nam quả nữ ở cùng chứ?

"Đây là phòng của huynh ạ?" Thấy ánh mắt kinh dị của hắn, cô gái vội vàng đứng dậy. "Xin lỗi, ta không biết. Ngày thường ta vẫn tới đây, không thấy ai ở."

"Không sao." Hắn thở ra, lấy lại bình tĩnh. Hóa ra chỉ là ghé qua. "Nếu thích ngắm mai thì cứ ghé."

Hắn quên mất rằng đây không phải nhà của hắn. Nhưng cô gái cũng không để ý, chỉ gật đầu mỉm cười. Nụ cười nàng ta gượng gạo làm hắn nhớ tới cuộc giao chiến vừa nãy. Nàng ta lánh tới đây ngồi một mình trong phòng trống hẳn không phải chỉ để ngắm mai.

Đôi mắt nàng ta vẫn còn đo đỏ trong khi gò má tái xanh, gầy hơn so với lần đầu gặp hắn. Bị bắt giữ rồi giam ở đây, hẳn không phải là chuyện tốt đẹp, chưa kể đến ấn tượng hãi hùng từ cuộc vây bắt trên bờ biển.

"Nếu muốn thì cứ ngồi chơi một chút." Hắn động lòng khi nhìn thấy vẻ co ro của cô gái bên bàn. Cô vẫn cúi đầu đứng, đi cũng dở ở không xong. Hắn phải ngồi xuống bàn, theo kiểu của chủ nhà mà sắp trà rót ra mời. "Uống trà với ta được chứ?"

Cô gái liếc mắt nhìn hắn rồi chầm chậm ngồi xuống. Từng cử chỉ đều thận trọng như thể xung quanh không phải là gai độc thì cũng là thủy tinh. Thương Trúc trang này ngoại trừ tiểu yêu tinh ra thì toàn những kẻ quái kiệt, những lần trốn đi trước của nàng ta hẳn đã phải khổ cực nhiều. Bây giờ nàng ta nhìn hắn cũng có vẻ sợ sệt.

"Cô tên gì?" Hắn cố mỉm một nụ cười thân ái nhất mà hỏi. Chủ tử từ Vân Nam tới, sao lại có thể là một cô bé rụt rè như thế này?

"Ta họ Chu, tên Hiểu Lam." Cô gái chậm chạp trả lời hắn. Nàng liếc lên hắn rất nhanh. "Huynh làm việc cho người ở đây?"

"Không, ta... nói chung là ở nhờ vậy thôi." Hắn nhún vai, có một khoảnh khắc ngập ngừng. Đầu tiên là tiểu yêu tinh lôi hắn theo để tránh truy sát, giữ hắn lại để đi đánh bạc, rồi sau đó hắn cứ ở lỳ tại đây trước khi bị hồ ly gian manh một cước đá văng đến Đà Nẵng. Bây giờ nghĩ lại, quả thật tiểu yêu tinh vô duyên vô cớ dung chấp hắn cũng đã vô cùng đáng ngờ.

"Huynh làm vỡ cái tráp gì đó của họ?" Hiểu Lam chớp mắt, nhìn hắn thoáng vẻ tội nghiệp. Hẳn nàng ta còn tưởng hắn bị bắt ở lại để trả cho hết nợ. Hắn cũng không muốn thanh minh. Ở địa vị người cùng cảnh ngộ dễ nói chuyện hơn.

Nói chung lý lẽ của tiểu yêu tinh, ngoài sự gian tà quá mức khó ưa ra, đều đúng. Khi nhìn cô gái tiều tụy sợ sệt này, hắn cũng cảm thấy phải khuyên nàng ta mấy câu. Thân gái dặm trường, một mình nơi đất lạ, lại lọt vào tay đám người u u minh minh, bị hồ ly gian ngoan đem cả hổ báo thanh lâu ra dọa, tiến cũng dở mà thoái chẳng xong, thật rất đáng thương. Không biết Hoắc Phương cần gì ở nàng ta, nhưng ít nhất cũng nên để nàng yên tâm một chút.

"Đây là Thương Trúc trang, chủ nhân là Như Yên cô nương. Cô ấy có thói quen kết giao bạn bè nên thường giữ người ở lại, không phải kẻ hung hiểm gì đâu." Những lời này có vẻ hơi trái lương tâm hắn, nhưng tiểu yêu tinh không hành sự bừa bãi, ngày thường đối với người rất ôn hòa, dẫu chỉ trừ hắn ra. "Hoắc Phương là bạn của Như Yên cô nương, ta làm vỡ đồ của y nên phải đi trả nợ. Nhưng nếu làm Như Yên cô nương thích, có việc gì cô ấy sẽ đứng ra làm chủ cho. Hoắc Phương còn phải nể cô ấy vài phần."

Hắn cũng đã lờ mờ đoán ra tại sao tiểu yêu tinh lại muốn nhờ hắn lấy cảm tình của Hiểu Lam. Tiên hạ thủ vi cường, nhân lúc Hoắc Phương chưa trở về mà gây ảnh hưởng lên cô gái này, kẻ sẽ liên quan đến tất cả hành động liên kết của Hoắc Phương với Vân Nam. Nắm giữ tình cảm của Hiểu Lam để dò xét đường đi nước bước của Hoắc Phương. Hay ít nhất, gây dựng liên hệ tốt đẹp với 'đường dây từ Vân Nam'. Nàng ta không tiện ra mặt tranh chấp với kẻ 'đồng minh' hiện tại của Hoắc gia nên định dùng phương thức tiếp cận khác. Hắn dù sao cũng là bạn của Sa, chẳng chạy đâu thoát được bàn tay nàng ta.

Nhưng ở địa vị Hiểu Lam, hắn nhận thấy đây là một điều có lợi. Dựa vào thế lực của Như Yên, Hiểu Lam mới khả dĩ thoát được tầm khống chế của Hoắc Phương. Qua việc ở Cẩm Thạch bàn, hắn đã nhận ra quan hệ của Hoắc gia với trang viện nhỏ nằm ngoài Hội An này. Đường dây liên kết khống chế Quảng Nam. Và hắn biết quan hệ của những kẻ như thế luôn luôn không nằm ngoài khía cạnh "lợi ích" lẫn "dè chừng". Một sáng một tối, công khai và bí mật, kẻ muốn khống chế những ngõ ngách tối tăm nhất lẫn kẻ muốn bảo đảm quyền lợi thế lực của mình vừa dựa vào nhau vừa dè chừng nhau. Quảng Nam là một địa điểm đầy phức tạp và biến động, những thế lực khống chế nó có thể thay đổi bất cứ lúc nào, cũng như con người có thể bất cứ lúc nào thay đổi. Mấy lời của thầy Cả trên Cẩm Thạch bàn đã vạch ra toàn bộ điểm yếu chết người của địa điểm quan trọng nhất với toàn Nam Hà mà triều đình để cho người ngoại quốc cai quản. Giữ Hoắc gia ở Hội An, bằng mọi cách hỗ trợ họ để kiểm soát thế lực này, nhưng luôn phải khống chế ngay cả kẻ tưởng đã ở trong tay mình. Ngay cả việc liên quan đến chốn Vân Nam xa xôi, có thể Hoắc Phương chỉ nhắm đến việc kinh doanh và an ninh, nhưng Như Yên không thể không để mắt đến trông chừng.

Hẳn Hoắc Phương cũng phải nhận ra điều đó, nhất là khi y buộc phải đưa Hiểu Lam đến cho Như Yên. Càng tỏ ra thân thiết với Như Yên, Hiểu Lam càng khiến Hoắc Phương phải thận trọng mà không đưa ra những yêu sách ám muội hay bức bách quá mức.

Dù chưa biết tổ chức tại Vân Nam này đang làm gì, nhưng sự chú ý của Như Yên đến cô gái này không phải chỉ như nàng ta tỏ ra bên ngoài.

Trong thế trận này, nghiêng về phía nào cũng là nguy hiểm. Tất cả mọi người mọi kẻ đều đang cố giữ thăng bằng cho bản thân, giữa những lằn ranh. Một ván bài lớn vốn không được đánh chỉ bởi một vài người.

Những điều đó, hắn không thể nói được với Hiểu Lam, cũng không mong nàng hiểu được. Hắn chỉ có thể dùng một lối diễn đạt dễ hiểu nhất mơ mơ hồ hồ mà khuyên nàng. Coi như so với một Hoắc Phương độc ác thủ đoạn thì tiểu yêu tinh là thánh sống hào hiệp trượng nghĩa cứu giúp người khốn khó. Chuyện nói dối lương tâm, không phải bây giờ hắn mới làm, cũng không phải chỉ một lần.

Trong một sòng bạc, kẻ biết che giấu tâm tư mình có cơ may thắng cao hơn hết.

Đôi mắt trong veo của Hiểu Lam nhìn hắn, rồi nàng chầm chậm gật đầu, hơi nhíu mày như suy nghĩ. Hắn quyết định tiến thêm một bước.

"Cứ yên ổn ở đây, rồi lựa lúc xin Như Yên cô nương cho ở lại, không phải đến Thanh Hải bang nữa." Tiểu yêu tinh dù sao cũng thuộc về kẻ quản lý Nam Hà, không nửa tối nửa sáng như Hoắc Phương. Dựa vào nàng ta còn tốt hơn là bị Hoắc Phương lôi vào vô vàn những mưu tính của y. "Nhưng cứ nghe Hoắc Phương nói xem, cũng đừng làm Như Yên cô nương khó xử. Cô ấy tính tình hơi có điểm... bốc đồng, nếu ghét ai thì sẽ không thèm để ý đến người ấy."

Bề ngoài ngọt nhạt mà bên trong chỉ kiếm cách hại người, cái sự ghét của tiểu yêu tinh đáng sợ như vậy mới phải. Nhưng Hiểu Lam nghe mấy lời của hắn cũng có vẻ xuôi xuôi, đôi vai bớt căng thẳng mà buông lỏng. Nói thật ra, chỉ nhìn Như Yên, bất kể nàng ta có khinh bạc đến đâu, cũng không thể lường được những gì nàng ta có thể làm, có thể nghĩ trong cái đầu xinh đẹp ấy.

"Như Yên cô nương là ai?" Hiểu Lam chợt hỏi, sự tò mò của nàng trở lại. Hắn ho khẽ trước đôi mắt mở lớn dõi thẳng vào mình.

"Tiểu thư của một vị danh sĩ." Nói đúng ra là cả họ nàng ta, hắn cũng không biết. Nhưng hắn cho rằng mình đã đoán được xuất thân của nàng ta, kẻ được giao phó cho trang viện nằm ngoài Hội An này. Đây là một câu trả lời đúng cho tất cả các trường hợp.

Hiểu Lam lại chìm vào im lặng. Hắn nhìn ra cửa, thấy nắng đã gần đứng bóng, sắp đến giờ ăn trưa. Thường ngày hắn vẫn lại nhà chính ăn cơm, thỉnh thoảng Như Yên cùng Sa cũng đến ăn với họ. Nhưng quay lại nhà chính bây giờ không khác gì chui đầu vào rọ. Nếu chỉ có một mình, hắn có thể lẻn đến nhà bếp lấy đồ ăn, có cô gái này ngồi đây, không thể làm vậy được.

Còn mải suy nghĩ, hắn đã nghe tiếng chân đi tới bên ngoài. Sa, hắn nhận ra khí tức của y trước khi thò đầu nhìn qua cửa. Y đến trên hàng hiên, thoáng vẻ ngạc nhiên khi thấy Hiểu Lam.

"Ngươi đến đây làm gì?" Hắn nhe răng cười. Ngày thường Sa không bao giờ đặt chân đến chỗ hắn để tránh bị nghi ngờ. Bây giờ y đường hoàng tới, ngoài chuyện hỏi tội hắn thì còn có việc gì?

"Ngươi nói gì với Như Yên?" Không để tâm đến cô gái ngồi bên trong, Sa hỏi mà không hạ giọng. Hắn nhìn lướt qua thanh đao y vẫn đem theo rồi đến gương mặt lành lạnh hẳn đang che giấu cơn giận không để đâu cho hết. Nhưng cãi nhau mà cũng nhanh vậy sao?

"Tiểu yêu tinh ấy làm gì ngươi?" Nhìn ngược nhìn xuôi cũng đâu thấy có dấu tích nào.

"Bỏ về Tụ Phương viện, đóng cửa." Nghe cách trả lời này, hẳn là nàng ta đến nhìn y cũng không nhìn.

Hắn bắt đầu thấy nguy hiểm. Nữ nhân còn đánh còn mắng là còn dỗ được, chứ đã quay lưng bỏ đi thì hết cách. Mấy lời ấy với tiểu yêu tinh thực sự là đả kích mạnh? Lần này hắn quả thật đã gây tai họa lớn đến vậy rồi sao?

"Để ta đi giải thích." Hắn vỗ vai Sa như an ủi. "Nhưng giờ thì ta đi ăn đã."

Hắn ngoái đầu lại gọi Hiểu Lam, đi qua mà coi như không thấy vẻ mặt của Sa. Để tiểu yêu tinh giận vài canh giờ nữa cũng chẳng có vấn đề gì lớn, trong khi hắn phải no bụng đã rồi mới tỉnh táo ứng phó nổi với nàng ta. Nữ nhân ấy lúc bình thường đã độc ác, đến lúc giận lên thì càng nguy hiểm không biết đường nào mà kể.

Nhưng hắn còn chưa biết tính khí thất thường của cô nàng. Sa chỉ nói rằng tiểu yêu tinh bỏ đi chứ không nói nàng ta không quay lại. Giữa bữa ăn, Như Yên khập khiễng từ cửa sau bước tới ngồi ở đầu bàn. Xuân Tử vội xới cơm cho nàng ta, nhưng tiểu yêu tinh chỉ chống đũa ngồi nhìn, ánh mắt hết đảo qua hắn và Sa rồi lại rơi xuống Hiểu Lam.

"Chu cô nương không ăn thịt?" Tiểu yêu tinh chợt cười hỏi. Lại giọng điệu ngọt ngào báo hiệu điều dữ hơn lành.

Trên bàn có một đĩa thịt heo. Hiểu Lam là người đạo Hồi, kiêng ăn thứ thịt này. Tiểu yêu tinh rõ ràng làm ra vẻ không biết.

"Đạo của tôi không ăn thịt." Hiểu Lam nhỏ nhẹ trả lời, ngữ điệu hạ thấp. Nàng có vẻ rất muốn lấy lòng 'Như Yên cô nương' này theo lời khuyên của hắn.

"Không ăn thịt không uống rượu, đến tóc cũng không được để lộ, sao lại phải phiền phức như vậy?" Như Yên nhướng mày, vẻ ngây thơ tò mò đến mức ai quanh bàn cũng biết là đang giả vờ. "Sống như thế thì còn gì vui thú?"

"Mỗi nơi có một quy chuẩn." Hiểu Lam nói sau một lúc im lặng, có vẻ hơi phật lòng trước dạng hỏi han này. Khóe miệng Như Yên khẽ nhếch.

"Nhưng quy chuẩn do ai đặt ra? Nó thật ra có giá trị gì chứ?" Tiểu yêu tinh nhẩn nha nói, tay mân mê đôi đũa ngà như đang chỉ bàn chuyện phiếm. "Ngay cả người Hán tộc cho mình là văn minh lịch sự cái gì đó, đặt ra bao nhiêu tiêu chuẩn cho nữ nhân. Rốt cuộc, nhìn lại xem nữ nhân Hán tộc tuân thủ được bao nhiêu? Những kẻ gọi là mẫu nghi thiên hạ như Lữ hậu cũng nhân tình dan díu, đến Võ hậu có cả một hậu cung nam sủng, những công chúa như Thái Bình, Cao Dương công khai ngoại tình. Đời Hán cho đến đời Minh, có bao nhiêu công chúa chịu khép mình vào thân góa bụa, hay cả Hán Quang Vũ cũng công khai đi khuyên thần tử bỏ vợ lấy người chị góa chồng? Ngay cả một người được gọi là nữ trung hào kiệt như Phùng Thái hậu của Bắc Ngụy kia, tình nhân phải đến hàng chục, quan trong triều cũng là nam sủng trong trướng, giết cả con chồng vì tình nhân. Nữ tắc là dành cho ai chứ đâu phải cho cung quyến hoàng tộc. Kẻ nắm quyền càng cao càng cố ép người dưới vào khuôn phép, trong khi bản thân mình thì khôn bề kiềm chế. Rõ là trò dối mình dối người."

Như Yên đều đều mà nói, cây đũa vẫn chầm chậm xoay giữa những ngón tay. Sắc mặt Hiểu Lam càng lúc càng trắng, cuối cùng nhịn không được mà buột miệng:

"Nghe nói chúa Nam Hà phản vua tự mình lập quốc, lấy chiến tranh giành đất nước, lấy sức mạnh làm sự nghiệp. Cái lý thuyết kẻ mạnh làm chủ, ngang ngược bá đạo quả là chiếm ưu thế." Hiểu Lam nhợt nhạt cười, nhãn thần xuất ra mấy phần cao ngạo. Như Yên nheo mắt nhìn nàng ta, cũng nở nụ cười tương tự.

"Ngày xưa Minh Thái Tổ chỉ là một kẻ áo vải, được nhận làm thuộc hạ của một nhóm người, rồi giết chủ thành chủ. Phò tá vua Tống, dựa sức Nguyên triều tiêu diệt các đồng minh đồng bạn ngày trước, rồi phế vua tự mình lên ngôi lập nên Minh triều. Tư Mã Thiên chê cười Hán Cao Tổ, hẳn còn chưa đến mức là kẻ khí vua phản bạn, vô tình vô nghĩa. Loạn lạc mới biết lòng người, kẻ muốn dựa vào chút thanh danh của người trước mà lấn lướt kẻ hiện tại, dần dần chiếm ngôi đoạt vị, đời nào cũng có. Việc chấn chỉnh Bắc Hà chưa xong, họ Mạc chưa diệt, họ Trịnh đã ra tay giết người đoạt vị, nếu không bỏ đi thì lại hóa thành Văn Chủng, Hàn Tín hay sao? Huống hồ, có chúng ta ở đây, họ Trịnh còn chưa dám chuyên quyền. Năm nào chúa Trịnh giết vua Lê, chúa ta còn vì nhà Lê mà đòi lại công bằng. Nếu không có chúng ta, e rằng đất nước này đã là của vua Trịnh."

"Đã có vua còn có chúa, chia năm xẻ bảy, thiên hạ loạn lạc, chẳng rõ có gì là tốt?" Hiểu Lam vẫn cười. Nàng ta chưa ăn xong nhưng đã đặt đôi đũa xuống bàn. Xung quanh không ai dám lên tiếng, chỉ ra vẻ cắm cúi ăn.

"Ai bảo rằng chia năm xẻ bảy sẽ khiến thiên hạ loạn lạc?" Như Yên nhếch môi. "Lão Tử đã nói, nước nhỏ dân ít, đó là gốc của an thái. Nước lớn cũng do nhiều phần nhỏ hợp lại mà nên. Nước càng lớn thì càng phức tạp, hệ thống càng cồng kềnh, càng khó xử lý. Người Hán các người mấy ngàn năm nay cứ cho rằng thống nhất là an bình, thật vậy chăng? Tần đến Hán, Đường đến Tống, rồi Minh triều, hết là Hán-Sở đến Tam gia Ngụy-Thục-Ngô, đến Ngũ Hồ, Nam Bắc triều, rồi Mãn Châu hiện tại. Cứ hợp rồi tan. Hợp không phải là nguyên nhân thái bình, phân không phải là nguyên do chiến tranh. Ngược lại, càng hợp nhất thì Hán tộc càng suy yếu, càng phân tán mạnh hơn. Hán sau thời tập trung bá quyền của Hán Vũ Đế suy yếu thảm hại, Tấn sau khi thống nhất ba nước bị Ngũ Hồ đập tan, Tống sau khi ổn định bốn phương thì sống lay lắt như ngọn đèn trước gió, kẻ nào cũng có thể bắt nạt, Minh triều càng muốn tập trung quyền lực vào triều đình Bắc Kinh thì càng loạn khắp bốn phía, tự giết mình trước khi người Mãn Châu vào. Mỗi lần 'nhất thống' là mỗi lần máu chảy thành sông, thây chất thành núi. Mà được bao nhiêu năm, hay tiếp theo đó chỉ là giết chóc loạn lạc kéo dài dập tắt các cuộc chống đối, để rồi bùng phát ra, phân tán thêm lần nữa? Cái gọi là nhất thống thiên hạ đem lại thái bình rõ là trò lừa đảo của bọn cuồng vọng. Cái gọi là thiên hạ chẳng lẽ là mấy mẩu đất? An bình hay tranh chiếm, đó là do người chứ không phải do đất. Lấy nguyên nhân làm kết quả, không chịu nhìn vào thực tế, chỉ vẽ binh trên giấy, tự an ủi mình, đó là thói ngụy biện của bọn nhân sĩ lừa mình dối người. Hợp nhất sẽ đem lại an bình? Cả mấy ngàn năm nay, ta chưa thấy kẻ nào làm được."

"Vậy các người chống mệnh vua không chịu thụ phong, tự mình lập quốc, đem quân đi đánh người thì có lợi cho ai?" Hiểu Lam cau mày. Vẻ bất mãn trên gương mặt nàng càng lúc càng rõ, trong khi Như Yên vẫn nhẩn nha vừa nói vừa nhìn xung quanh.

"Có lợi cho chúng ta." Như Yên thản nhiên nói. "Trên đời này đâu phải lúc nào cũng vì đại nghĩa mà làm. Mấy ngàn người đạp đá mà đi, băng rừng vượt núi về sau dải Hoành Sơn, vốn chẳng phải vì vinh hoa, chẳng qua là tìm đường sống cho mình. Còn mấy lần quay về Bắc Hà giúp vua đuổi Mạc, nào ngờ chỉ càng nhận được nghi kỵ chất chồng. Kẻ đã muốn tiếm ngôi thì sao để trung can sống sót. Làm trung thần chẳng xong, làm phản thần không nỡ, không muốn một lần nữa thấy quê hương can qua, mới phải lánh ra biên ải hoang vu tự làm tự sống. Đất này tranh chiếm liên miên, chẳng ai thèm nhặt mới đến lượt chúng ta. Chim Việt ngựa Hồ thì cầu mong gì đến ai thương xót?"

"Cái nhánh mọc trên cây rồi to lớn dần, cuối cùng làm gãy cả cây." Hiểu Lam chợt cười. Như Yên liếc nhìn nàng ta, nheo mắt.

"Hưng, bách tính khổ. Vong, bách tính khổ.[1]" Tiểu yêu tinh chợt trở về ngữ điệu ngọt như đường. "Phải chịu khổ vì những lý do vô lý như thế, có đáng không?"

Nụ cười trên môi Hiểu Lam đột nhiên tiêu thất. Nàng nhìn Như Yên một lát rồi lặng lẽ đứng lên, quay người bỏ đi.

Cả bàn ăn vẫn lặng im như tờ, chỉ nghe chén đũa khua chạm.

Như Yên đặt đôi đũa xuống cạnh chén cơm chưa hề đụng đến, cũng đứng dậy mà không nhìn ai. Lúc tập tễnh đi ngang qua hắn, cô nàng nghiêng người xuống bên tai hắn mà thì thầm:

"Ngươi có còn nghĩ là cô ta dịu dàng không biết gì nữa không?"

Hắn còn kịp bắt gặp nụ cười cực kỳ, cực kỳ gian trá của hồ ly tinh trước khi nàng ta phất tay đi mất.

Chú thích: 

[1] Hưng, bách tính khổ. Vong, bách tính khổ: Trích Sơn pha dương - Đồng Quan hoài cổ của Trương Dưỡng Hạo.

Hồi 27: Hồng Trần Túy

Dù thế nào, ngày xuân cũng tới.

Dù thế nào, chân của tiểu hồ ly cũng khỏi, với sự nhẹ nhõm của tất cả người trong trang viện.

Viện cớ lo lắng cho chân nàng, Sa khuyên được Như Yên ở yên trong Tụ Phương viện - cùng sự bảo đảm của hắn sẽ làm bạn với Hiểu Lam, những bữa ăn trong gian nhà chính đã bình an. Gần ngày tết, công việc bộn bề, tiểu yêu tinh cũng không rảnh để ý đến hắn, ngoại trừ người trong viện bị sai phái đi làm việc đến hụt hơi. Bát Hôi Ngư vừa làm người khuân vác đồ đạc vừa lái thuyền đưa đón khách. Hắn vừa phải coi sóc việc chỉnh trang sân các viện vừa phải đi đưa quà phụ cho Sa. Y vốn trầm lặng, hoàn toàn không phù hợp với những công việc giao tế bên ngoài. Với loại công việc mới này, hắn phát hiện ra năng khiếu thương buôn được truyền lại cũng chưa hoàn toàn chết hẳn trong bản thân. Được một ít thời gian rảnh, hắn lại phải thù tiếp Hiểu Lam để vẽ sơ đồ trận mới cho nàng ta.

Đúng như tiểu yêu tinh phát hiện ra, Hiểu Lam không phải đơn giản là một cô nương rụt rè không hiểu sự. Dù có ngây thơ như một tiểu cô nương chưa hề bước khỏi cửa, nàng ta rất thông minh, thậm chí thoáng vẻ cao ngạo. Ở Vân Nam, địa vị của Hiểu Lam nhất định không thấp và sự thông minh của nàng hẳn rất được tán thưởng. Trận pháp Hoàng Thảo Ngũ Tinh do chính Hiểu Lam sáng tạo thành, và việc hắn dễ dàng phá giải nó làm nàng ta vẫn âm thầm để bụng.

Những trận pháp có điểm chung là dựa vào một quy luật. Hắn nói khi Hiểu Lam ướm hỏi về cách thức phá trận. Quy luật vận động của trận tạo nên sự nguy hiểm, nhưng cũng đồng thời là điểm yếu. Chỉ cần kẻ lọt vào trận nắm được quy luật, hẳn nhiên dễ dàng phá được. Dù có là Ngũ hành Bát quái hay thiên văn dịch số, nếu kẻ bày trận cứ làm theo quy luật thì hẳn phải có kẻ phá được trận.

Tất nhiên nếu không có quy luật thì ngay cả kẻ trong trận cũng rối loạn. Nhưng làm theo quy luật là một, còn phải biết sử dụng sự vận động của quy luật ấy. Trận pháp Ngũ hành Bát quái thật ra là dạng dễ giải nhất, vì sự vận động của các yếu tố điều kiện cũng đã mang tính quy luật, nếu không là một cao thủ Dịch lý thì chỉ cần nhớ được cơ bản cũng không đến nỗi bỏ mình. Trận pháp thiên văn này vừa dựa vào Bát quái Ngũ hành vừa là điều kiện của tự nhiên, nên khai thác những quy luật vận động bất thường của các sao. Sao mùa xuân thì dựa vào mặt trăng phía Đông, mùa hạ thì sao mọc và lặn cùng mặt trời. Vả lại còn phải để ý đến phương vị của Bắc Đẩu tinh, chuôi sao hướng về phía nào để lập bảng Ngũ hành. Mỗi sao khi có chuyển biến bất thường, phản, thoái hay thủ, phạm[1], các sao kia sẽ vận động ra sao? Có thể lấy một sự kiện đặc biệt của thiên văn trong sử sách hay lạc đồ để xác lập cung sao, tạo thành sự biến thiên của trận. Cứ như vũ trụ vĩnh viễn, trận pháp biến đổi liên tục nhưng vẫn trong thiên đạo, như vậy thì ai phá giải được?

Mấy lời ba hoa ấy đã làm hắn cực kỳ hối hận sau này, khi Hiểu Lam quyết dồn sức vẽ một trận pháp Hoàng Thảo Ngũ Tinh mới, chốc chốc lại đến tìm hắn. Ngay cả có vào nửa đêm, nàng bất chợt nghĩ ra một ý tưởng, liền đến Mai Lâm viện kéo hắn dậy bàn đến sáng mới thôi. Ngũ tinh chỉ có năm ngôi sao, nhưng mỗi năm có đến ba trăm sáu mươi ngày. Hắn còn khuyên nàng dựa vào các sự kiện đặc biệt mà lập lạc đồ, trong cả ngàn năm có biết bao nhiêu bản ghi chép. Mỗi lần phương vị một sao thay đổi lại phải tính toán tất cả các ngôi sao khác. Mà hắn thì buổi sáng phải đi làm việc khắp thành Hội An, mỗi sáng mở mắt dậy hắn đã không đừng được mà chỉ ngôi sao Mai trên trời nguyền rủa tơi bời.

Cho nên, hắn phá lệ mừng không biết đâu cho hết khi tết cuối cùng cũng tới, chân của Như Yên cuối cùng cũng khỏi. Chuỗi ngày làm việc khổ sai của hắn đã kết thúc, tiểu yêu tinh đi lại khắp nhà, định lấy Mai Lâm viện làm nơi mở tiệc xuân, cho người bày biện khiến Hiểu Lam không thể cứ đem bản lạc đồ tinh tú bám dính lấy hắn.

Ngày xuân, cuối cùng cũng đến.

Mai Lâm viện hoa nở như mây, tầng tầng lớp lớp đua chen hương sắc. Oanh ca bướm lượn, tươi sáng rực rỡ trong nắng phương Nam.

Ngoài cửa trúc, dưới cành nêu xanh vừa được dựng vào đêm Trừ tịch, pháo nổ đón chào ngày mới.

Trên bãi cỏ nép dưới tán hoa, những chiếc chiếu dày được trải, một chốc mà cánh hoa đã rắc đầy. Hương phấn bay theo gió.

Ngày mùng một tết, không có khách viếng thăm theo phong tục chỉ thân thuộc chúc mừng nhau, cả Thương Trúc trang dậy trễ sau một đêm làm lễ dựng nêu đón tết. Bát Hôi Ngư theo lệnh của Như Yên đi châm một loạt dây pháo đã buộc sẵn trước các viện. Pháo nổ inh tai đánh thức tất cả mọi người. Mai Lâm viện được 'ưu ái' đến ba dây pháo, nổ liên tiếp đến gần nửa canh giờ, màu xác pháo đỏ tung khắp nơi. Các gia nhân làm việc trong bếp cũng mặc áo đỏ lăng xăng dọn tiệc lên những chiếc chiếu. Tiệc mở từ sáng đến chiều. Nghe nói buổi tối còn có cả một đoàn hát đến biểu diễn trên hàng hiên của viện.

Hầu như toàn bộ người của Thương Trúc trang đã đổ về Mai Lâm viện, ngay cả những kẻ vốn không ở thường xuyên, chỉ ghé về trong mấy ngày này như lão Tứ, bé Quế và một số kẻ mà hắn không biết tên. Cả các gia nhân a hoàn cũng được ngồi cùng chủ nhân ăn uống không phân biệt. Như Yên sau khi cầm ly rượu đi một vòng nhận chúc tết đã ngồi xuống bên cạnh Sa và hắn. Toàn thân nàng mặc áo đỏ, tóc buộc hai bên trông xinh xắn như hình đứa bé gái trên các phong bao. Tất cả người trong trang đã bị nàng ít nhất là quấn một cái khăn đỏ vào cổ, kể cả Hiểu Lam. Sa đã len lén rút cái khăn ra, nhét xuống chiếu. Như Yên cũng không để ý. Nàng giống hệt như thằng bé Quế, chỉ mải nói cười.

"Ta không biết là trang viện này đông như vậy." Hắn khe khẽ nói với Sa khi Như Yên đã lại chạy đi. Người đến bất chợt làm Mai Lâm viện như chật chội hẳn đi. Phải có đến vài chục người nơi đây mà hắn chưa từng thấy mặt, hay lờ mờ không nhớ rõ.

"Chỉ có mấy ngày này họ ở đây." Sa trả lời hắn, vẫn nhìn theo bóng áo đỏ của Như Yên. Nàng ta đang cầm cây nhang châm một viên pháo nhỏ mà Quế vừa nhặt về bên cạnh một đám đàn ông trung niên uống rượu ồn ã. Nàng có vẻ vui một cách bất thường.

"Như trẻ con." Hắn nói một câu lửng lơ. Thích náo nhiệt đông vui, lại càng thích bày trò chơi. "Nhưng sao không về nhà?"

Sa liếc nhìn hắn, không mở miệng. Tất nhiên, hắn không hỏi về y. Cái cô bé yêu thích nhiệt náo này, ngày tết thân thuộc mà lại ở đây với một đám người nửa thuộc hạ nửa khách lạ. Từ khi hắn đến đây, ngoại trừ một 'công tử' nào đó, chưa từng nghe thấy kẻ nào có liên hệ thân thiết với nàng ta. Những ngày tết này cũng chỉ có quà từ các trang viện gia tộc khác trong Hội An chuyển đến, tịnh không một bóng người hỏi han.

Nghĩ đến những chuyến xe ngựa hẳn đang ngang dọc thị thành thăm hỏi nhau, trang viện này chẳng phải là cô độc như hòn đảo giữa khơi?

Pháo rộ mấy ngày, xác đỏ tung khắp trời.

Hoa thắm mấy ngày, rơi trong nắng biếc.

Người tụ mấy ngày, tiệc nào lại không tàn?

Mai Lâm viện ngập trong sắc hoa, rực rỡ màu xuân. Tiếng cười cùng đàn sáo huyên náo xuyên đêm. Qua ngày đầu năm, khách đến chúc tết ngày càng đông, vẫn ghé lại viện ngắm hoa luôn. Bọn hắn lại bận rộn đưa đón phù tiếp, nói nói cười cười. Chớp mắt, mấy ngày bận rộn trôi qua như bay.

Ở thị thành này chủ yếu là người buôn bán. Năm nay, mùng năm là ngày mở cửa hàng, mùng bốn người người đã rút lui về với công việc thường nhật. Khách trong trang viện cũng đã cáo từ ra đi. Ban đêm, chỉ còn bọn hắn nằm trên cỏ mà ngửa mặt nhìn tán mai vẫn còn nở rộ. Đoàn hát đã rút, chiếu đã được dọn đi, người đã đi nghỉ sau mấy ngày mệt mỏi, trang viện đã trở về vẻ im lìm như vốn có, chỉ nghe tiếng trúc rì rào.

"Thật là yên tĩnh." Hắn buột miệng nói. Đúng hơn, hắn phải nói là: Hắn vốn không biết nơi này lại yên tĩnh đến thế.

Yên tĩnh, đến mức như nghe được cái bóng của âm thanh.

Sa vẫn không trả lời hắn. Sau bụi trúc, Như Yên cùng Xuân Tử và mấy cô hầu đem đồ ăn và rượu đến. Hắn vội vàng ngồi dậy khi thấy hai vò rượu màu đỏ. Mấy ngày tết, Thương Trúc trang lại hạn chế uống rượu, làm hắn bứt rứt không yên.

"Gọi cả Hiểu Lam rồi, nhưng nàng ta bảo giới luật không cho uống rượu." Như Yên nhún vai nói khi sắp mấy cái chén lên khoảng cỏ, liếc nhìn hắn. "Ngươi làm sao để nàng ta thay đổi tính tình buồn chán ấy đi chứ."

Ta làm gì được, hắn định cãi nhưng lại thôi. Cứ mặc nhiên để Như Yên coi hắn thân thiết với Hiểu Lam, nàng ta sẽ không quấy rầy bọn hắn, cũng không vùng vằng với Sa. Nữ nhân, dù có là hồ ly, cũng thật là phiền. Hiểu Lam lần này không chịu tới, hẳn cũng là vì muốn tránh mặt Như Yên. Dù hai người bề ngoài đã hòa thuận với nhau, Hiểu Lam vẫn giữ kẽ. Chưa kể đến có thể Hiểu Lam đã giận hắn mê mải mấy ngày tết mà không tính toán lạc đồ cho nàng.

Nhưng có rượu trước mặt, trời có sập xuống hắn cũng mặc kệ.

"Hồng Trần Túy với bánh Tử Mạch." Tiểu yêu tinh cười. Rượu không uống bằng ly mà bằng chén. Vò rượu mở ra, hương thơm như hoa mai mà lại đằm như nước trong ống tre. Rượu rót ra trong vắt như nước suối.

Rượu uống không cay, không nồng, không vị.

Bánh không ngọt, không thơm, không hương.

"Mỗi năm ta đều gọi người nào muốn uống rượu thì ở lại, vậy mà không ai ở cả. Năm nay tóm được tên ngốc nhà ngươi." Như Yên cười, nâng chén rượu nhạt như nước lã lên uống cạn.

"Đây là loại rượu gì thế?" Rượu cất năm mươi năm, phải lấy hợp đồng mười năm đặt rượu ra mới có, lại là thứ nhạt nhẽo đến mức có cho cũng không ai thèm thế này?

"Loại người phàm tục chỉ biết chút hương chút hoa, gọi tí cay tí đắng là tìm quên chuốc khổ gì ấy thì biết gì." Như Yên bĩu môi, tay vẫn liên tục rót rượu cho ba người xung quanh. Xuân Tử chỉ uống cầm chừng, chốc chốc lại đưa mắt nhìn ra ngoài cửa. "Loại rượu vừa cay vừa nóng chỉ để uống cho vui. Mỹ tửu hương nồng vị say để thưởng thức. Còn muốn say, thì chỉ có loại rượu này.

"Hồng Trần Túy, Tử Mạch thanh." Tiểu yêu tinh nghiêng đầu, nhặt cái bánh màu tim tím lên mà vừa nhìn vừa cười. "Tử mạch hồng trần phất diện lai, Vô nhân bất đạo khán hoa hồi[2]. Những thứ này để ngửi thì hay, nhìn thì đẹp, nhưng thật ra rất vô vị. Cái thứ tưởng là vô vị, nhưng lại làm cho người ta say túy lúy.

"Cất rượu thành mùi thành vị thì dễ, chỉ cần đong đếm lượng nước, lượng gạo, thuốc, trái cây, ngũ cốc... bất kể cái gì nghĩ cho vào được. Dù nó không thành mỹ tửu cao lâu thì cũng là thứ cay cay đủ say đủ nồng. Chỉ có rượu cất thật lâu, lọc thật kỹ, đong thật tinh, rồi ủ thật đằm, không vướng hơi người, không bị lan hơi đất, mới có thể lắng lại, bỏ mọi vị phù phiếm, giữ lại cái thực hương. Tỉnh mà say lúc nào không rõ. Say mà mộng lại rõ hơn đời. Mộng Nam Kha, thân hồ điệp, chỉ trong cơn say mới hiểu. Rượu chỉ uống để ngủ thì sao lại gọi là Vong tình? Càng không nói đến loại phàm phu tục tử gọi cái loại rượu uống đau đầu muốn chết là đi tìm quên."

"Nói như vậy, loại rượu này uống cũng say?" Hắn chớp mắt, buông chén rượu xuống. Tiểu yêu tinh cười tươi như hoa nở.

"Mạnh hơn cả Lạc Lạc thang." Cô nàng nói lơ mơ trước khi gục vào lòng Sa.

"Ngươi không uống nữa thì hơn." Sa nhìn hắn, trầm mặc nói. Xuân Tử lắc đầu, đứng dậy thu dọn. Cô vốn chỉ nhấp môi chứ không uống giọt rượu nào. Đến hắn cũng đã thấy khung cảnh xung quanh mập mờ qua có năm chén rượu.

"Tên chết yểu nào làm ra loại rượu này thế?" Hắn lắc đầu cố trấn tĩnh lại. Rốt cuộc hắn hiểu tại sao rượu này phải ủ năm mươi năm, chắc chắn kẻ làm ra nó đã chết yểu không kịp uống cho hết.

"Sư phụ." Sa cúi đầu nhìn cô gái trong lòng mà trả lời, giọng nhẹ như mất trong tiếng gió.

Cơn lạnh chạy dọc sống lưng gần như làm hắn tỉnh cả người.

"Ngươi nói đúng, sư phụ đã uống loại rượu này đến chết." Sa tiếp tục nói trước vẻ mặt của hắn. Mắt y vẫn dõi theo những đường nét thanh tú trên gương mặt bình yên của cô gái trong lòng. "Quán rượu vốn do một người quen của sư phụ dựng nên, rượu cũng do người ấy cất năm mươi năm trước. Khi ta đến, sư phụ đang làm việc trong quán. Một đêm, sư phụ trộm lấy cả mười vò rượu uống một lúc, vĩnh viễn không tỉnh."

"Tại sao?" Hắn hỏi, giọng chợt như thì thào. Sa không ngẩng lên.

"Đi vào mộng Nam Kha, có lẽ vui hơn đời thật." Y không cần nói thêm, hắn cũng đã hiểu.

Ngựa Hồ hí gió Bắc. Chim Việt đậu cành Nam.[3]

Giang Nam lửa đỏ nước sâu. Giang Nam xác người trôi dạt theo sóng nước. Khói bạc màu sông cũ. Triều cuốn cánh bèo cô. Tranh đấu cả một đời. Ước vọng cả một đời. Một giấc mộng không.

Rồi những giấc mộng cũng đã bị vùi lấp. Trong sa mạc thời gian. Rồi những giấc mơ cũng qua đi. Rồi ngay cả một giấc mơ cũng không còn ở lại.

Vô Âm tuyệt tình. Tuyết Hoa đoạn ý. Vẫn không thoát được hồng trần.

"Ngươi chôn cất sư phụ?" Vô thức, hắn đưa phần rượu còn lại lên miệng uống. Rượu nhạt, chỉ nghe hương hoa mai như đưa đến từ một giấc mộng xưa.

"Người bảo muốn hỏa táng." Sa nhẹ nhàng nói. "Theo phong tục ở đây, có lẽ là bình thường."

Hắn ngẩn người.

"Chúng ta thật ra có biết gì về sư phụ đâu chứ." Cuối cùng, hắn buột miệng than khẽ.

Người đàn ông mà bọn hắn gọi là sư phụ, từ bao nhiêu năm trước đột nhiên xuất hiện trong đoàn quân, rồi cũng đột nhiên ra đi khi vừa rời khỏi biển cả. Hắn còn cho rằng không bao giờ gặp lại người ấy. Nhận được tin bây giờ, hắn có cảm giác mơ mơ hồ hồ như thể nói về một người không có thật. Chỉ có thanh kiếm trong tay hắn, thanh đao trên tay Sa là dấu ấn cho sự tồn tại của một con người.

Sự tồn tại của một con người, bị xóa sạch như cát biển.

"Ngươi đừng uống nữa." Sa lại nhắc. Hắn nhợt nhạt cười.

"Mỗi năm ngươi đều một mình uống rượu này, sao lại không cho ta uống?" Thương Trúc trang đặt rượu, tất nhiên là có phần của y. Y lại là kẻ không bao giờ uống say trước mặt người khác. Hoặc là, vốn không có thứ rượu nào làm y say. Đã uống thứ rượu này, sẽ không thể say được nữa.

Sa cũng không nói, để mặc cho hắn uống. Đến chén rượu thứ ba, đột nhiên Như Yên đang gối lên y trở mình, tay với lên cao, ngón tay lảy lảy như gảy đàn. Nàng lẩm nhẩm nói, giọng gần như hoàn toàn tỉnh táo.

"Y cẩu phù vân biến thái đa, 

Du du đô phó mộng Nam Kha. 

Sương dung tẩy hạ hà phương trán, 

Phong sắc lai xuân mai dĩ hoa. 

Tây nguyệt trầm không nan phục ảnh, 

Đông lưu phó hải khởi hồi ba. 

Quân khán Vương, Tạ lâu tiền yến, 

Kim nhập tầm thường bách tính gia."[4]

"Quân khán Vương, Tạ lâu tiền yến..." Như Yên mơ hồ cười. Trở mình lần nữa, tay nàng rơi xuống, lại chìm vào giấc ngủ.

"Ta đưa cô ấy về. Ngươi đừng uống chết ở đây." Sa ôm Như Yên đứng dậy, không quên ngoái lại dặn dò hắn. Ra đến cửa, y còn liếc mắt lại cho Xuân Tử vừa vào. Cô vội vã đến lấy đi vò rượu trước mặt hắn.

Nhưng nửa vò rượu đã làm hắn say thật. Đầu không nhức, thân thể không bải hoải, cổ họng không tràn ứ như muốn nôn thốc ra, chỉ thấy lòng chìm xuống càng lúc càng sâu. Ngửa mặt nhìn lên, hoa nở trăng non, cánh rơi trong gió. Sắc xuân rực rỡ, đêm vắng lặng yên. Sắc màu hòa lẫn vào nhau, lung linh như phản chiếu trên dòng nước. Rồi thay nhau chảy trôi. Rồi thay nhau biến đổi.

Rồi còn lại, chỉ là dòng nước. Ngửa mặt nhìn lên, chỉ thấy bầu trời. Bảy sắc luân hồi, là nắng, cũng là mưa.

Sự vật trong bảy sắc, tan thành hư không.

Mùa xuân hương sắc, xác pháo đỏ lối đi giữa hai hàng trúc xanh, hoa rực sau những bức tường. Cô gái trong lòng y khe khẽ thở, hơi thơm như hoa mai. Nàng nhắm mắt, nhưng y biết nàng hoàn toàn chưa ngủ.

Vì lý do ấy mà y vội vã đưa nàng về. Cô gái này, trong tình trạng mơ màng, có thể gây ra bất cứ điều gì.

Ví dụ như, ôm lấy y.

Ví dụ như, vùi mặt vào cổ y. Làn da nóng rực tựa vào y trong vòng tay không hề có chút ngây thơ.

Ví dụ như, thì thầm vào tai y những gì nàng ta không bao giờ nói khi tỉnh thức.

"Ta ghét ngươi. Ta căm ghét ngươi."

Chú thích:

[1] Phản, thoái, thủ, phạm: Các cách vận hành của sao trong thiên văn học cổ.

[2] Trích Huyền Đô quán đào hoa của Lưu Vũ Tích. Dịch nghĩa: Đường trần bụi hồng táp vào mặt. Không ai không đến để ngắm hoa xong rồi về.

Tử mạch: Con đường dẫn đến kinh thành, màu tím được coi là màu cây trồng, dương liễu hai bên. Từ này thường được dùng để chỉ con đường hoạn lộ danh lợi hay đường đời phiền não, đi đôi với hồng trần. Bánh Tử Mạch ở đây là chơi chữ, một chữ mạch là bờ ruộng (lối đi), còn một chữ mạch là chỉ gạo làm bánh.

[3] Ngựa Hồ hí gió Bắc, chim Việt đậu cành Nam: Từ câu chuyện ngựa Hồ dù được bắt về Trung Nguyên vẫn ngẩng đầu hí khi có gió Bắc thổi, chim Việt vẫn chọn cành phía Nam mà đậu, nói lên lòng thương nhớ quê hương của người xa xứ. Ngựa Hồ, chim Việt dùng để chỉ những người phải rời xa quê hương.

[4] Thế thái hư huyễn của Tuệ Trung thượng sĩ. Dịch nghĩa:

"Y cẩu phù vân lắm đổi thay, 

Mơ màng phó trọn giấc Nam Kha. 

Sương tràn tẩy mùa hạ phương nào tận, 

Sắc gió đã đưa xuân đến trên hoa mai. 

Trăng trầm về Tây khó còn bóng trở lại, 

Biển chảy về Đông có thể còn quay về? 

Người hãy nhìn cánh én trước lầu Vương, Tạ 

Giờ đã bay vào nhà bách tính tầm thường."

Vương, Tạ là hai gia tộc hiển hách đời Tấn. Tấn triều suy, hai họ diệt vong. Lưu Vũ Tích viết trong Ô Y hạng: "Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến, Phi nhập tầm thường bách tính gia." Cánh én trước lầu Vương, Tạ thường được dùng để chỉ thân thuộc của danh môn vương hầu đã suy vong.

Hồi 28: Suy tính

Hắn thức dậy vào nửa đêm.

Khí trời thanh tĩnh lạ thường, ngay cả tiếng côn trùng rỉ rả cũng trở nên xa xôi như vọng qua một không gian xa lắc. Bầu trời không mây, cao vời vợi, muôn vạn ngôi sao tỏa sáng, kết thành dải ngân hà vắt ngang. Hương mai cùng mùi trúc trong trẻo tràn đầy không gian khoảng viện.

Trong một lúc, hắn ngồi trên cỏ mà thừ người. Cơn say vẫn chưa tan hết, để lại trong tâm trí hắn chút mông lung, như thể có những điều mà hắn không thể nhớ được. Trong giấc mơ thoáng qua và những sắc màu không ngừng lưu chuyển, hắn như đã thấy, đã chạm vào một ai, hay một điều gì mà hắn đã quên lãng. Cảm giác ấy làm cho cơn nôn nao trong lồng ngực hắn ngày càng rõ dần. Cảnh sắc vẫn như được lọc qua một làn nước, khiến hắn cảm thấy mình bị đẩy đến bờ của thế giới, trở nên xa lạ vô cùng.

Vô thức, hắn bắt đầu vận khí để chế trụ cơn chênh chao. Hiện tại có lẽ là giờ Sửu, chân khí tập trung ở Túc quyết âm Can kinh, di chuyển về Thủ thái âm Phế kinh. Hắn vận công đến Thủ thiếu dương Tam Tiêu kinh, Túc dương minh Vị kinh, dồn về huyệt Nhâm, Đốc. Khai thông nhâm đốc nhị mạch, chân khí bắt đầu lưu truyền khắp cơ thể. Khi khí lực tập trung vào huyệt Bách Hội, Dũng Tuyền, Lao Cung, thân thể hắn bắt đầu nhẹ dần. Nhưng một cơn đau nhói qua Ấn Đường làm hắn phải vội vã thu khí trở về Trung Đan điền, phân tán lại qua Thủ dương minh Đại Trường kinh, Thủ quyết âm Bao Tâm kinh, bình ổn dần dần nhịp thở.

Không thể vận khí kiểu này được, hắn than thầm. Thứ rượu mà sư phụ hắn làm ra, qua một cơn say như thể phong bế tất cả các kinh mạch trong cơ thể, đang bắt đầu phát tác làm nhộn nhạo khí mạch. Sa không cho hắn uống nhiều hẳn vì lý do này. Võ công Vô Âm của y chí tĩnh chí âm, khả dĩ có thể ngồi yên chế trụ được sự đảo lộn kinh mạch này, chứ hắn thì bất khả. Thứ rượu này với người không tập võ công có thể vô hại, chứ có thể giết ngay kẻ tập võ mà không kịp khống chế chân khí. Đã uống cả nửa vò rượu, cứ ngồi yên vận khí, kinh mạch của hắn sẽ vỡ tung mà chết không chừng.

Hắn vội vã cầm lấy thanh kiếm, vô thức mà xuất ra chiêu thức Hiểu Oanh Triêu Vân[1]. Kiếm bạt qua hoa như mây tán gió rơi, cuốn hàng hàng cánh hoa bay thốc vào trời. Một khúc Dương xuân, xuân đã hết. Tiếng oanh yến mỗi sớm đã ngừng, mây trôi qua. Kiếm động chầm chậm, ánh tản mạn nương theo chiều bay của cánh hoa mà lên cao dần. Hoa kết thành một dải mây trắng lửng lơ trên không trung. Bất chợt, kiếm xòa rộng, chỉ nghe tiếng không thấy hình, lấp loáng phá tan cụm mây hoa thành muôn vàn mảnh nhỏ. Kiếm biến chiêu thành Trường Giang Tinh Hà[2], lãnh lãnh đảo đảo muôn vàn sắc tựa sóng triều, điệp điệp trùng trùng tựa tuyết vương trên ngàn tùng bách.

Vừa múa kiếm hắn vừa vận khí qua Thủ thái dương Tiểu Trường kinh, tập trung dồn đến huyệt Đại Chùy để đưa tới Túc thiếu dương Đảm kinh. Từ Khí Hải, khí được đẩy đến Thiên Liêu, rồi Nhu Du, trở lại Bản Thần. Đường kiếm càng nhanh, vòng lưu chuyển của khí mạch càng gấp. Dần dà, kiếm biến chiêu, chỉ nương theo những vụn hoa bay tới mà điểm. Đứng dưới tán hoa, giữa cơn lốc cánh hoa vụn, nhưng không một mảnh nào rơi lên hắn.

Vô Âm chí tĩnh, Tuyết Hoa chí động. Ngày xưa vì hắn linh cơ hoạt nháo không thể ngồi yên mà bao nhiêu lý thuyết đao pháp Vô Âm rơi vào tay hắn đều đổ sông đổ biển. Một lần tóm được hắn ở sàn thuyền đánh bài cùng các thủy thủ, sư phụ quyết định cho hắn học Tuyết Hoa kiếm thay vì Vô Âm đao. Tâm cơ ngươi linh mẫn, tư tưởng khoáng đạt, có thể tiếp thu được, sư phụ hắn từng nói. Tuyết là nước biến thành, rồi trở về với nước, có thể tạo nên muôn hình vạn trạng, không thể nắm, cũng không có thể dạng nhất định. Kiếm pháp có chiêu thức nhưng không có cách dụng, người học thứ kiếm pháp này có thể tùy tiện biến chiêu. Bắt buộc phải biến chiêu. Tuyết tĩnh là đã trở thành băng, kết thành khối, mặc cho người đời nhào nặn dẫm đạp. Bông tuyết bay giữa trời, tự do tự tại, phủ lấp mọi vật. Tuyết Hoa kiếm mà cứng nhắc bất động thì trở thành thứ vô dụng không bảo vệ được mình mà cũng chẳng chống được ai. Cách luyện công của Tuyết Hoa cũng không như võ công thông thường ngồi yên vận khí mà học cách hít thở vận công trong từng cử động, khi thức cũng như khi ngủ, khi xuất chiêu cũng là khi luyện công tập khí. Cho nên, người dùng Tuyết Hoa kiếm có thể càng đánh càng mạnh, không bao giờ cạn sức.

Lúc này, cũng như khi lạc trong rừng ngày trước, kiếm chiêu từ tay hắn cứ tùy tiện xuất ra, theo hoa bay gió nổi mà luân chuyển. Kiếm động nhưng tâm tĩnh. Tĩnh cực sinh động. Kinh mạch đả thông, chân khí vận hành. Rượu xóa tan đi tạp niệm, tinh thần trấn định dần. Kiếm chiêu lưu loát, càng lúc càng nhanh, đến như có thể tỏa sáng. Tĩnh động tương kiêm, hắn thấy thân thể ngày càng nhẹ dần, như có thể bay lên được. Khí tức lưu chuyển nhanh đến từng bộ vị, mỗi cái giơ tay cất chân đều có thể mang lực gấp mười lúc trước.

Hắn dồn khí vào mạch Dương Kiều, tập trung đến huyệt Bộc Tham, nhún chân nhảy lên cành mai. Chân vừa chạm, khí trở về Đại Trường kinh, huyệt Kiên Ngung. Thân thể hắn trở nên nhẹ bỗng, cành mai không động, một bông hoa cũng không rơi.

Hắn thả người rơi trở lại trên cỏ, thấy thân thể đã bình ổn tuy vẫn nóng bừng bừng. Thứ rượu chết toi, hắn lầm bầm nguyền rủa. Đã nhạt như nước lã lại phải tướp mồ hôi luyện công suýt chết, ngoài tên Sa không phải người kia ra thì ai muốn chứ?

Hóa ra đây là lý do võ công y tiến nhanh đến thế, hắn nhìn bầu trời đã ưng ửng sáng mà nghĩ thầm. Vô Âm chí tĩnh, Hồng Trần Túy loại bỏ tạp niệm, kích thích kinh mạch nội khí, hẳn phải dùng tĩnh chế động, âm hàn khắc chế nhiệt hỏa. Vô Âm lấy tĩnh làm gốc, cần nhiệt để khơi nguồn, bao quát lấy nội hàm, khống chế năng lượng bản thân lẫn xung quanh. Âm trầm lực trọng, bạo phát bạo tác. Tuy cách thức không giống nhau nhưng Vô Âm cùng Tuyết Hoa đều từ một gốc mà ra, hình thức tu tập cũng tương tự. Người làm ra thứ rượu này chính là một hình thức tập luyện dành riêng cho sư phụ.

Nghĩ đến đấy, hắn tự dưng đâm ra tò mò, liền ngồi dậy vận công. Tuy không học được Vô Âm đạo nâng cao, những bài nhập môn của nó hắn vẫn còn nhớ. Đưa khí về đan điền, theo thế Trích Tinh Hoán Đẩu, áp huyệt Lao Cung vào huyệt Mệnh Môn, dẫn khí từ huyệt Bách Hội về Đốc mạch, chuyển về thế Thanh Long Bạt Phong, điều khí về Phong Phủ. Khí nóng đang bừng bừng trong người hắn nguội dần, như có một làn gió mát thổi qua. Nhưng đến khi đưa khí về Kỳ Môn, thân thể hắn bỗng phát lạnh, phải vội vã thu khí.

Thật lạ lùng, hắn nhíu mày khi co duỗi các ngón tay. Tuyết Hoa cũng dựa vào nền tảng nội công băng hàn nhưng nhu hòa, sao lại có thể không hòa hợp được với Vô Âm? Sư phụ bằng cách nào luyện được cả hai môn khí công tâm pháp này?

Có thể vì không hòa hợp được nên sư phụ mới cho bọn hắn mỗi người luyện một môn. Nhưng chả lẽ sư phụ lại đi dạy một thứ mình chưa từng luyện?

Nghĩ ra, khi dạy cho hắn, sư phụ chỉ đọc khẩu quyết và biểu diễn kiếm pháp, chỉ dẫn luyện khí công, chứ hắn chưa bao giờ thấy người sử dụng Tuyết Hoa kiếm thực trận. Chẳng lẽ thứ hắn học vốn là võ công của người khác? Sư phụ vì không dạy được hắn nên đem một thứ người nghĩ có lẽ là phù hợp hơn cho hắn học?

Vô Âm vốn là một đao pháp nổi tiếng khắp vùng Giang Nam, còn Tuyết Hoa kiếm pháp của hắn nói ra cũng không ai biết. Thứ võ công không biết nguồn gốc này, cũng chỉ e có mình hắn dám học. Cái gì mà Hiểu Oanh Triêu Vân, Trường Giang Tinh Hà, Hàn Nguyệt Thiên Nhai[3], Tùy Phong Đới Vũ[4], Thạch Liệt Quan San[5]... có gì giống như người luyện võ nghiêm túc? Càng không giống với tính tình sư phụ mà hắn biết. Thế này thì hắn cũng đặt tên cho chiêu thức của mình là Thảo Cung Sơn Thiền[6] cho có đôi có cặp.

Thảo Cung Sơn Thiền, Thảo Cung Sơn Thiền, khi hắn còn đang vẩn vơ nghĩ đến cái tên ấy thì trời đã sáng. Có tiếng loạt xoạt sau bụi trúc trước khi Hiểu Lam xuất hiện. Nàng ngạc nhiên nhìn hắn nằm trên cỏ.

"Chu cô nương?" Hắn ngồi dậy, nhìn thấy ngay bản lạc đồ tinh tú trên tay cô gái. Nàng ta nhất định không để hắn được nghỉ một ngày nào sao?

"Huynh ngủ ở ngoài vườn?" Hiểu Lam đưa mắt nhìn qua thanh kiếm lẫn đám cánh hoa tứ tung trong vườn, rồi lập tức đổi ngay sắc mặt. "Cả đêm qua ta đã nghĩ ra một phương vận động mới, huynh xem có sai chỗ nào không?"

Châu chấu lẫn ve sầu trong tâm trí hắn biến mất ngay lập tức với ánh sáng lấp lánh trêu gan của ngôi sao Mai trên trời. Hắn ngồi trên đất nhìn bản lạc đồ Hiểu Lam xòe ra rồi đến gương mặt thiên tiên của cô gái.

"Sao phải gấp như vậy?" Hắn nghi ngờ hỏi. Ngày đêm không nghỉ, sáng mặt trời chưa tỏ đã đến đây. Không phải cô gái này định dùng trận pháp mới để trốn khỏi đây chứ?

"Ta làm gì đều muốn xong sớm." Hiểu Lam gượng gạo cười. Cô gái này vốn không biết nói dối. Có gì mờ ám trong ý nghĩ sẽ lộ ra ngoài ngay.

"Những thứ thế này là việc cả đời, muốn sớm cũng không được." Hắn phác tay nói. "Có nhiều người nghiên cứu cả đời, đọc đi đọc lại, bỏ bớt những chỗ rườm rà, thêm vào các điểm yếu hại, tu bổ nhiều kiến giải nữa mới tạo thành trận pháp được người người sử dụng. Dù Chu cô nương có là thần đồng, thiên tài thì cũng không thể gấp được."

"Nhưng ta có ở đây mãi đâu, sau này không nhờ huynh được nữa." Hiểu Lam cắn môi. Hắn nhìn nàng ta càng nghi ngờ hơn.

"Kiến thức thiên văn của ta chỉ là thói quen, làm sao so được với các học giả thực sự?" Hắn nhún vai. Môi Hiểu Lam càng mím lại. Nàng thu tờ lạc đồ về, nhưng chỉ đứng yên. Hắn đứng lên nhặt thanh kiếm trên đất, nhìn lại khu vườn vung vãi cánh hoa. Phiền to, tiểu yêu tinh mà thấy cảnh này sẽ buộc tội hắn phá vườn, bắt hắn làm việc trả nợ cả đời. Nghĩ vậy hắn vội vội vàng vàng lấy chổi quét cánh hoa. Khi xong việc, trời cũng đã sáng hẳn. Nhìn lại, Hiểu Lam vẫn đứng tại chỗ cũ, đầu hơi cúi xuống.

"Chu cô nương?" Hắn thận trọng gọi. Hiểu Lam đưa mắt về phía hắn. Hắn nghĩ đến Tuyết Nhi lúc giận dỗi hay bất bình một việc gì, nó cũng có ánh nhìn y như vậy.

"Để ta rửa mặt ăn sáng xong rồi sẽ tính cho Chu cô nương." Hắn đấu dịu. Cô gái này có vẻ được nuông chiều hơn cả tiểu yêu tinh, nếu muốn gì phải có ngay lập tức.

"Đêm qua uống rượu vui lắm phải không?" Hiểu Lam chợt hỏi, vẫn cúi đầu nhìn thảm cỏ đã bị người đi lại làm lụi vài mảng. Hắn chớp mắt. Không để hắn kịp trả lời, Hiểu Lam đã quay lưng đi.

Bóng Hiểu Lam vừa khuất, sau bụi trúc đã vang lên tiếng cười khúc khích. Không cần quay lại, hắn đã biết chủ nhân của tiếng cười ấy. Tiểu yêu tinh thần thanh khí sảng trong bộ quần áo nhẹ mặc nhà đến đập tay lên vai hắn, cười rạng rỡ hơn cả thái dương.

"Mới sáng sớm mà đã có người ghen rồi." Như Yên vừa nói vừa cười. Nàng chợt bĩu môi. "Nhưng cô ta vô lý quá đi. Muốn uống rượu thì tới mà uống. Ngứa mắt thấy ta bá vai bá cổ ngươi thì tới mà ôm. Đứng xa xa tức giận làm gì?"

"Đừng nói vớ vẩn." Hắn gạt tay tiểu yêu tinh xuống, đưa mắt nhìn qua đôi guốc hai màu của cô nàng. Hẳn nàng ta đi dạo buổi sáng ngang qua đây. Tiểu yêu tinh ăn nói không có phép tắc, âu cũng là thói quen thẳng thắn của nữ nhân nơi này. Nhưng với một tiểu thư Thanh Chân giáo như Hiểu Lam, một lời nói ra là cả danh tiết, không thể tùy tiện. Với những gia tộc khắc nghiệt, các tiểu thư cương liệt sẵn sàng dùng cái chết để chứng tỏ sự trong sạch. Hắn dù ngày thường phóng túng, cũng không lạm ngôn hại người.

Tiểu yêu tinh đảo mắt, không coi lời nói của hắn vào đâu. Nàng nhìn lên tán hoa mai, bất chợt cau mày.

"Hoa sao thế này?" Như Yên đi tới tán hoa, ngửa mặt nhìn. So với hôm qua, hoa đã rụng mất phân nửa, nhìn lên thấy cả trời xanh. Những cái cuống hoa còn xanh ngắt trơ trên cây. "Ngươi..."

Xuân Tử đã cứu hắn khi vội vã chạy vào. Mai Lâm viện sáng này có vẻ được ưa thích kỳ lạ. Trên tay cô là một phong thư hàn kín. Như Yên nhận phong thư, bóc ngay tại chỗ. Đọc xong, nàng chỉ im lặng nhìn tờ giấy, không có một tia biểu cảm.

"Người đó vẫn chờ ở ngoài, bảo đi cùng chúng ta luôn." Xuân Tử thận trọng cất lời, dõi theo từng cử chỉ của Như Yên. Nàng chầm chậm gật đầu, thở ra, buông lá thư xuống rồi quay lưng đi ra cửa viện.

"Gọi Sa tới Tụ Phương viện." Giọng nói lạnh lùng đến mức hắn nghe như của một người khác.

Khi y tới, tiếng đàn đã vang.

Tiếng đàn rải rác đứt đoạn, như thể người đàn chỉ thuận tay mà gảy. Âm điệu lúc trầm lúc bổng, lúc nộ lúc sầu. Những Thanh bình điệu, Hán cung thu nguyệt, Hồ khúc... cứ thế lẫn lộn vào nhau.

Như Yên ngồi bên cửa, chỉ đặt một tay lên đàn, mắt nhìn mông lung ra thảm thực vật xanh ngắt bên ngoài. Trên khung cửa, chiếc chuông gió bằng sứ trắng kêu lanh canh khe khẽ. Nàng vẫn chưa chải tóc. Mái tóc đen dài được hất về một bên vai, đổ xuống ngực. Trong ánh sáng xanh lục đổ vào từ cửa sổ, khuôn mặt nàng trông có vẻ hơi tai tái.

Nghe tiếng người, Như Yên chỉ im lặng đưa lại bức thư mà không nhìn y.

"Đưa cả Chu Hiểu Lam theo." Nàng nói, đều đều, mắt vẫn nhìn ra ngoài cửa, thân hình bất động ngoại trừ bàn tay vẫn lướt trên thân đàn theo quán tính. "Hoắc Phương hẳn cũng sắp trở về rồi, để nàng ta ở đây mà không có kẻ canh chừng không được. Nếu vậy thì cho cả Tử Hiên, Bát Thanh Ngư và Lâm Phi theo. Cho toàn trang chuẩn bị, sáng mai lên đường."

"Có cần thêm vật gì nữa?" Sa trầm lặng nói, một lúc sau. Như Yên hơi cau mày, rồi lắc đầu.

"Nhân sâm của ta cũng là do công tử đưa tới. Người nào cần thì công tử đã lấy rồi. Chúng ta tới lần này chẳng qua là để đủ mặt, hẳn cũng không ai để ý."

"Thật là phiền." Nàng nói, sau một khoảng thời gian, mơ hồ cười. "Nếu ông ấy chết vào lúc này, sẽ phiền phức lắm. Nhưng ông ấy cũng già rồi. Đáng lẽ ta ở đây thì hơn, nhưng không về không được. Đến sớm thì may ra có thể về sớm. Không biết ông ấy có chết sớm cho không."

Sa vẫn im lặng trước giọng nói đột nhiên chuyển thành chế nhạo. Như Yên thở dài, vẫy tay cho y lui. Khi y ra đến cửa, nàng đột nhiên nói với theo:

"Gọi Tử Hiên đến cho ta dặn dò mấy câu."

Khi vừa đặt chân vào cửa, hắn đã cảm thấy bầu không khí kỳ lạ. Trong suốt thời gian ở đây, hắn chỉ duy nhất một lần đến Tụ Phương viện - kết quả là bị lừa vào bẫy. Thư phòng của tiểu yêu tinh thoáng đãng tuy nồng hương hoa. Nàng ta vẫn ngồi gảy đàn vu vơ bên cửa. Hắn đã lên tiếng, nàng vẫn không quay lại.

"Sa đâu?" Như Yên nói khi quay nhìn ra sau lưng hắn. Hắn nhún vai.

"Y bỏ đi lo việc ngay rồi." Ngươi chuẩn bị ngày mai đến Kim Long cùng chúng ta, y chỉ nói có mỗi một câu như thế khi đưa hắn đến đây. Kim Long, thủ phủ của Nam Hà?

Như Yên nhè nhẹ gật đầu. Nàng chăm chú nhìn hắn ngồi xuống một chiếc ghế đặt chênh chếch với mình. Cái nhìn khiến hắn có cảm giác nhột nhạt như nàng đang muốn thấy một bí mật nào ở hắn.

"Sa liên lạc với ai ở Đông Phố?" Như Yên chợt hỏi. Câu hỏi làm hắn ngẩn người mất một lúc.

"Gia đình y." Hắn cũng trả lời. Cô gái này đã biết được gì về thân thế của Sa?

"Trong thời gian này, ngươi có thể cắt đứt mọi nguồn liên lạc của y về Đông Phố?" Như Yên tiếp tục nhìn hắn bằng ánh mắt soi mói. "Nếu ngươi muốn tốt cho y thì hãy làm theo lời ta."

"Tại sao?" Hắn cau mày. Thực tình thì hắn không biết Sa liên lạc với Đông Phố bằng cách nào. Nhưng gọi hắn đến đây để đột ngột đưa ra đề nghị này, thực ra có chuyện gì?

"Thư gửi tới báo: Chúa đang bệnh nặng." Như Yên chỉ tay về bức thư nằm trên bàn. Nàng không rời mắt khỏi hắn. "Tình hình phải rất nguy cấp, họ mới gọi đến ta. Ngươi hiểu chứ?"

"Thật là..." Như Yên cắn môi, lần đầu tiên lộ ra vẻ bối rối. "Ông ấy đã cai trị bốn mươi năm rồi. Bốn mươi năm, đột nhiên lại thế này. Họ Nguyễn tới Thuận Hóa chỉ vừa được bốn đời. Ngoài Tiên chúa và con trai nhậm chức Trấn thủ ra, đời nào cũng có tranh chấp. Chúa Thượng lên ngôi, em trai chúa là Nguyễn Phúc Anh liền liên kết với Trịnh, chiếm Quảng Nam, đắp lũy Cu Đê, sắp thủy quân thủ ở Đà Nẵng. Chúa Hiền hiện tại lên ngôi, lại có chú là Nguyễn Phúc Trung câu kết với Trịnh mưu phản.

"Đông cung của chúa hiện tại lại là con vợ lẽ, chỉ do chúa trọng tài mến đức mà lập làm kế vị. Chúa có người con thứ tư tên là Nguyễn Phúc Thuần[7], từng lãnh thủy bộ chư quân đánh dẹp Trịnh ở Trấn Ninh, danh tiếng rất lớn, chỉ không may là chết sớm. Nhưng danh thế lớn thì cả những thân thuộc cũng được lây. Tứ công tử này có bốn người con trai."

"Sợ lần này lại tiếp tục tranh ngôi đoạt vị." Hắn nhìn vào mắt Như Yên mà nói, dần dần hiểu ra sự việc.

Chúa Hiền đã có bốn mươi năm trị vì Nam Hà. Phía Bắc đánh lui Trịnh giành lấy Cựu dinh, tiến sát đến Nghệ An. Phía Nam đẩy lùi Chiêm Thành ra khỏi ranh giới Phú Yên, truất quyền của vua Bà Tranh. Phía cực Nam hỗ trợ Chân Lạp chống Đại Thành xâm lăng rồi dần dần thu tóm quyền lực của một nửa Chân Lạp. Cục diện hiện tại, tuy nói rằng đã ổn định hơn so với thời chúa Tiên, chúa Sãi, nhưng thật ra lại đầy chông chênh. Trước đây Nam Hà chỉ tập trung vào giải quyết mâu thuẫn với Trịnh, vừa hòa hoãn vừa đối phó với Chiêm Thành. Ngày nay Chiêm Thành ở Panduranga vẫn không ngừng chống đối, quân Trịnh dù có hiệp ước đình chiến vẫn chực chờ ngoài biên ải, chỉ cần có động là xông vào. Để lấn đất đến Phú Yên, chúa cho những cư dân, tù binh bắt được ở Nghệ An vào sống tại Quy Ninh, năm mươi hộ thành một xã, cư nhiên tạo ra một khu dân cư vừa xa lạ vừa bất mãn với triều đình. Tại Đông Phố, nhóm người Việt vừa di cư đến Trấn Biên sống lẫn lộn cùng nhóm Minh Hương, không ai quản được. Ngay tại Quảng Nam này, người Chiêm người Việt, Hán, Nhật Bản, Thượng, Tây dương sống lẫn lộn, mỗi nhóm lại lập thành một tổ chức riêng.

Nam Hà bị chia vụn thành từng khúc nhỏ. Chỉ cần một cơn sóng, khối liên kết lỏng lẻo chỉ được cai quản bởi một nhóm người tại Kim Long này sẽ tan tành.

Đông Phố, với Chân Lạp nằm giữa Chiêm Thành và Đại Thành quốc, vừa đủ xa cách vừa đủ tiềm năng phản kháng, như cái gai chọc vào hông Nam Hà. Quảng Nam đã dần được khống chế sau gần trăm năm, Quy Ninh Phú Yên còn non trẻ, tại mạn Nam này, Chiêm Thành cùng Chân Lạp là đáng lo hơn hết. Tại Thủy Chân Lạp còn Nặc Nộn chống giữ, nhưng lực lượng yếu ớt. Ngay khi vừa nghe chuyện, Như Yên đã gọi hắn đến để hỏi về Đông Phố, hẳn nhiên là vì đề phòng nhóm người Minh Hương này.

Kẻ lãnh đạo Nam Hà, trên mảnh đất xa lạ đối với ngay cả bản thân, không tin được ngay cả các thân thuộc, lẽ dĩ nhiên sẽ đề phòng bất cứ ai. Như kẻ lạc vào rừng tối, sẽ vì sự sống của bản thân mà trở nên mạnh mẽ đến cuồng dại.

Cô gái này, ngay cả với kẻ bên cạnh mình, cũng chưa bao giờ tin tưởng.

"Y nhất định sẽ báo tin này về ngay Đông Phố. Ta đã cho Xuân Tử canh chừng bây giờ." Như Yên đều đều nói, khuôn mặt lẫn đôi mắt lạnh băng. "Nhưng nếu ngươi muốn tốt cho y thì ngăn tin chuyển lại. Trước khi chúng ta phát tin đến để cho người kiểm soát được tình hình Đông Phố, không kẻ nào ở đó được biết."Nếu ngươi muốn tốt cho hắn lẫn Đông Phố thì

Chú thích:

[1] Hiểu Oanh Triêu Vân: "Nhất khúc Dương xuân, xuân dĩ mộ. Hiểu oanh thanh đoạn, triêu vân khứ." Trích Điệp luyến hoa kỳ 1 của Án Kỷ Đạo.

[2] Trường Giang Tinh Hà: "Nguyệt ánh trường giang thu thủy. Phân minh lãnh tẩm tinh hà. Thiển sa đinh thượng bạch vân đa. Tuyết tán kỷ tùng lô địch." Trích Tây giang nguyệt kỳ 1 của Âu Dương Quýnh.

[3] Hàn Nguyệt Thiên Nhai: "Phiêu bạt thiên nhai. Hàn nguyệt bi già." Trích Thái tang tử kỳ 2 - Tái thượng vịnh tuyết hoa củaNạp Lan Tính Đức.

[4] Tùy Phong Đới Vũ: "Bắc tuyết phạm Trường Sa, Hồ vân lãnh vạn gia. Tùy phong thả nhàn điệp, Đới vũ bất thành hoa." Trích Đối tuyết kỳ 2 của Đỗ Phủ.

[5] Thạch Liệt Quan San: "Nhất dạ đông phong xuy thạch liệt, Bán tùy phi tuyết độ quan san." Trích Mai hoa kỳ 1 của Tô Thức.

[6] Thảo Cung Sơn Thiền: "Thảo gian cung hưởng lâm thu cấp, Sơn lý thiền thanh bạc mộ bi". Trích Tảo thu sơn trung tác của Vương Duy.Dịch nghĩa (của chiêu thức này):Châu chấu trong cỏ, ve sầu trong núi.

[7] Tứ công tử Nguyễn Phúc Thuần trùng tên với vị chúa thứ chín sau này.

Hồi 29: Bằng hữu

Bến cảng Hội An nước trong, mùa này gió Bắc chuẩn bị đổi hướng lại đang mạnh lên, vần vũ trên khoảng không. Những đám lá rụng, xác pháo còn vương vãi bị cuốn thành nhiều cơn lốc nho nhỏ xoáy trên đất. Bên kè gỗ, những chiếc thuyền lớn nhỏ đậu san sát kéo dài cả dặm bờ sông, nhìn ra chỉ thấy những cột buồm nối tiếp nhau. Trên bến, người đi lại nhộn nhịp bên các kiện hàng chất cao ngất. Dãy nhà gỗ làm nơi nghỉ chân nối liền sát với dãy nhà lớn bên cảng không lúc nào vắng người tụ tập từng nhóm lớn nhỏ. Mới qua mấy ngày lễ tết, những mảnh giấy lụa đỏ vẫn còn phất phơ dọc hai bên đường. Người làm ăn gửi cho nhau những phong bao đỏ, tặng thưởng cho các nhân công.

Trong tay y, cũng là một phong bao đỏ.

Nhưng y chỉ đứng lặng yên bên kè gỗ mà nhìn khung cảnh trong bến cảng cùng thị thành trải sau nó. Thị thành mang dáng dấp của Dương Châu, Hàng Châu, Tô Châu những năm tháng thơ trẻ còn lại nhạt nhòa trong ký ức y, tuy không có hàng hàng liễu rủ khói bay, cũng không có những kiều nữ búp tay trắng như sen hái hoa bên dòng nước. Mùa xuân ở thị thành này không có tuyết rơi mưa tỏa, chỉ có nắng tràn ngập đến lóa mắt. Con người nơi đây không có vẻ hoặc căng thẳng hoặc cảnh giác thường trực như tại Giang Nam những năm tháng ấy, chỉ là những thị dân thỏa mãn và nhẹ nhõm, chỉ là những người bản xứ đơn thuần mộc mạc. Chiến tranh đã lui khỏi nơi đây, khỏi Quảng Nam, được hơn năm mươi năm, kể từ ngày quân Nguyễn đẩy Chiêm Thành ra khỏi biên giới Phú Yên.

Cái lý lẽ rất đơn thuần và giản dị: Nếu họ còn tồn tại, ta không thể tồn tại. Và trên mảnh đất xa lạ này, họ Nguyễn cùng những kẻ đi theo đã làm mọi cách để sống còn. Chỉ kẻ mạnh mới có thể tồn tại, và không ai ngờ được, ba ngàn người Kinh bị đẩy khỏi Thăng Long vào cuộc lưu đày biệt xứ đã tạo thành quốc gia này, khống chế cả mạn Nam biển Đông. Rồi họ sẽ không ngừng lại.

Ở xứ sở phương Nam nắng và mưa cùng gay gắt này, cuộc tồn sinh cũng dữ dội quyết liệt như thế, cũng tàn khốc và mạnh mẽ như thế. Một thứ dã tính nào đó gần giống như người phương Bắc, những bộ tộc sống trên lưng ngựa, giữa hoang mạc của phương Bắc. Những chiến binh đã hết lần này đến lần khác chinh phục Hán tộc, bắt Hán tộc phải quy hàng. Hết lần này đến lần khác.

Hoang mạc phương Bắc. Sa mạc và rừng thẳm phương Nam. Những nơi mà chỉ một cơn gió lốc hay một trận bão lũ đã có thể phá tan tất cả.

Những nơi mà sự hủy hoại được coi như đương nhiên và tất nhiên. Thậm chí, thờ phụng nó, sự hủy hoại.

Không còn nữa, những giấc mơ. Những giấc mơ đã bị vùi chôn trong mưa bụi Giang Nam, đã bị đốt cháy và bỏ rơi trong biển cả. Những giấc mơ đã bị dẫm nát tại thành Thăng Long, giữa những loạn lạc và chán chường. Những giấc mơ đã tan tác tại thành Đồ Bàn, trong tiếng than khóc ngàn năm vang mãi. Những giấc mơ đã trôi theo dòng nước phù sa, mất tích trong rừng thẳm Chân Lạp. Chỉ còn lại nơi đây, trụi trần và trơ khấc, những con người làm mọi cách để sống còn.

Làm thế nào để sống? Trong những tháng năm này, dưới nắng phương Nam rực như lửa đỏ, khi ngắm nhìn dòng nước cùng đất trôi theo dòng nước, giữa những tranh chiếm và loạn lạc triền miên của con người, cùng nỗi buồn ngày càng đầy ứ lên trong tâm khảm đến mức như muốn nôn nao, chênh chao và hoang mang. Trên mảnh đất xa lạ này, giữa những thứ ngôn ngữ không quen tai, khó lòng để nhớ, nơi khí hậu như muốn đốt cháy cả tâm khảm lẫn thân thể, trong máu vẫn quẩn quanh bám hơi vào những cơn mộng, khi bàn tay vẫn không ngừng giết chóc. Khi vẫn phải bước đi, tìm một lý lẽ, một phương cách nào để có thể sống còn, không phải chỉ cho bản thân mình.

Nơi này, những con người vẫn bận rộn và tất bật như thế, vẫn toan tính và suy nghĩ, không ai biết tới rằng, chỉ cần một cơn gió, một sự xoay chiều của lịch sử, họ sẽ bị cuốn phăng đi. Tất cả rồi sẽ trở về thành cát bụi.

Hoặc là, lịch sử vẫn cứ xoay chiều, vẫn nhảy múa nhịp điệu cuồng dại vô tri của nó trong lửa đỏ, chỉ có con người vẫn cứ như thế, vẫn cứ tiếp tục cuộc sống vô tri bất giác của mình. Dù có những gì sẽ bị hủy hoại, liên tiếp bị hủy hoại. Không ai để tâm đến những kẻ đã bị hất ra lề thời gian, những kẻ đã bị lịch sử đào thải và bỏ mặc trong biển cả mênh mông.

Làm sao để sống? Những cọng rêu lênh đênh đã bị bứng rễ khỏi đất, hất vào đại dương?

Nắng vẫn rực trên dòng nước và con người. Dù là một bán đảo xanh tươi có đầy đủ nước ngọt và cây cối, thị thành này vẫn mang mùi của cát. Sáu năm trước, khi đến nơi đây, y đã nghĩ đến một đồng cát trải dài. Những khu vực của người Chiêm Thành chỉ có màu gạch đỏ, trống hoang buồn bã ẩn mình trong núi. Những khu vực của người dân nằm rải rác trên các đồng lúa rộng vàng đi trong nắng. Những khu làng chài nằm ngoài bờ biển. Phá Tam Giang nổi tiếng với những cơn sóng dữ, triều cường. Rừng núi Quảng Nam, Quy Ninh nổi danh với các loài dã thú và vực sâu hang thẳm. Thị thành Hội An, một khu vực có vẻ lạc loài lạc giữa rừng, giữa những dòng nước, vẫn mang mùi khô khốc của những cơn gió Tây thổi đến từ Vạn Tượng, qua vô vàn hoang mạc. Mùi của những gì đã tàn phai, của những đền đài Chiêm Thành đỏ màu đất hoang phế, của những con người phiêu bạt, có thể ngay trên chính quê hương mình. Tiếng kèn saranai thê thiết vẫn vọng qua các triền núi trong những đêm trăng. Hơi nước giếng Chiêm Thành lành lạnh. Dòng nước vẫn trôi đi, đổ về biển cả.

Sáu năm, từ khi còn là một thiếu niên, y đã cảm nhận được thứ cảm giác kỳ lạ trên đô thành được dựng xây trên những mảnh vỡ này.

Sáu năm, đi qua những sa mạc và rừng hoang, cất trong lòng những mảnh vỡ cuối cùng của một giấc mơ, y đến đô thành này.

Sáu năm, trong những cơn say của Hồng Trần Túy, ngắm nhìn sắc xuân trôi qua, thấy cơn hoang mang ngày càng rõ dần, đến gần như là ám ảnh.

Làm sao để sống? Như kẻ đứng giữa sa mạc cát kéo dài đến tận chân trời, giữa những ảo ảnh không ngừng chớp tắt được gọi tên là hy vọng. Không biết nơi nào mới thật sự là bến bờ, là sự sống.

Bàn tay nhỏ ngày ấy đã nắm lấy tay y, đẩy y dấn sâu vào cát. Sáu năm, y chỉ là một hạt cát. Đã có lúc y tưởng mình có thể đứng lại, nhưng đó chỉ là một giấc mơ. Bàn tay ấy không thể nắm giữ y.

Sáu năm, y vứt bỏ thân phận, dứt bỏ cả danh tính và tâm nguyện, để rồi đạt được gì? Cát vẫn cứ phải bay đi, không thể tái sinh, không thể biến đổi. Chỉ có thể tan vỡ ra thành bụi.

Bàn tay ấy, hóa ra cũng chỉ là một ảo ảnh trên sa mạc, giữa lưng chừng bầu trời và mặt đất.

Giữa những cơn mơ, y thấy mình đã lạc lối trong hiện thực.

Bóng áo xám cô quạnh giữa sắc màu đậm nhạt của bến cảng phương Nam. Hắn tìm ra y rất dễ dàng chỉ qua một cái đảo mắt. Trong bóng râm dưới gốc cây già, y chỉ đứng nhìn người qua lại. Đi làm việc cho trang viện, mái tóc y đã vuốt lại gọn ghẽ hơn, làm thu hút không ít ánh nhìn của các cô gái đi ngang. Sự lạnh lùng của y lại toát ra một thứ hấp lực kỳ lạ, đó có lẽ là lý do tiểu yêu tinh bắt y phải để tóc che phủ bớt diện mạo quá thu hút người.

Cô gái này, có vẻ như, sẽ làm mọi cách để giữ y lại.

Nếu muốn tốt cho y thì làm theo lời ta. Như Yên nói mà không giấu được sự bối rối, hay là, hỗn loạn. Ngươi nghĩ kẻ ở bên cạnh ta mà ta lại không biết gì về y sao? Hơn hết, kẻ ở trên ta lại không biết gì về y sao?

Có chuyện gì ở Đông Phố? Hắn chầm chậm hỏi, chầm chậm đạt đến mục đích của mình. Đó là lý do hắn đến đây. Câu trả lời cho những biến động lan đến Đông Phố, chỉ có thể được trả lời bởi nguồn gốc gây ra nó.

Làm như ta biết. Như Yên cau mày. Như mọi khi, hắn chẳng biết lúc nào nàng ta nói thật hay nói dối. Nhưng tình hình hiện giờ rất hỗn loạn. Sa, nói chung là... đã bị theo dõi lâu rồi. Nếu y có động thái nào bất thường bây giờ, đến ta cũng không thể cứu y.

Ta không cần biết ngươi về phe ai hay muốn làm gì. Nhưng ngươi là bạn của Sa thì tìm cách mà cứu y. Bốn mươi năm rồi mới xảy ra sự biến, trong tình hình này, người ta sẵn sàng ra tay để trừ khử bất cứ ai. Bằng cách nào cũng được, ngươi tìm cách để Sa đừng liên hệ với ai nữa. Nếu có chuyện, đến ta cũng không cứu được y đâu.

Đó không phải là lời yêu cầu, mà là khẩn cầu. Như Yên khẩn cầu hắn. Những gì mà nàng không thể nói với Sa.

Rõ ràng, nàng biết, và vẫn tỏ ra không biết. Vẫn giữ lấy Sa bên mình, trong những nghi ngờ và dò xét. Vẫn bằng mọi cách nắm lấy y trong vòng vây êm ái mà chính y có lẽ cũng không nhận biết.

Đến lượt hắn cũng có thể lọt vào một vòng vây nào khác của nàng ta?

Sự chân thành của lo lắng và sợ hãi trong đôi mắt ấy cũng có thể là giả dối? Cũng chỉ là một cái mặt nạ trong muôn vàn bộ mặt mà người nơi đây mang vào? Giữa những khuôn mặt nói cười này, giữa những lối đi vòng quanh của các con đường trúc, hắn luôn có cảm giác không thể tin tưởng ngay cả vào giác quan mình.

Hắn đến bến cảng tìm Sa, nhưng cũng không biết phải nói gì, làm gì với y. Ngăn y lại, bằng cách nào? Không ngăn y lại, lý do nào? Y không nói gì với hắn, hắn không biết y đang làm gì. Việc của Như Yên, hắn không quan tâm, như luôn luôn không quan tâm. Đây là mảnh đất xa lạ với hắn, những con người và tranh chấp xa lạ với hắn, hắn không hề liên quan, càng không bận tâm phân định.

Điều duy nhất hắn quan tâm trên mảnh đất này, là kẻ đứng ở kia. Kẻ đã cùng lớn lên với hắn, đã đi tìm khắp các nẻo đường Giang Nam để cứu được hắn.

"Lão Đại." Hắn cất tiếng gọi khi đã bước đến gần y. Sa như giật mình nhìn sang, nheo mắt khi nhìn thấy hắn.

"Sao ngươi đến đây?" Y liếc mắt ra phía sau hắn, không thấy người. Hắn nhún vai, leo lên kè mà ngồi.

"Tránh bản lạc đồ của Hiểu Lam. Nàng ta định làm ta nổ tung óc mà chết." Hắn cười nói. "Vậy mà tiểu yêu tinh kia định bắt ta coi chừng nàng ta."

"Vì thế mà gọi ngươi?" Sa quan sát hắn bằng cái nhìn có đôi phần giống Như Yên lúc nãy. Hắn thở ra.

"Hồ ly gian manh ấy, ngươi cũng biết mà. Lấy ta làm lý do để dụ Hiểu Lam theo, lại bắt ta canh chừng, làm bạn với nàng ta. Nếu không đi theo thì cứ việc ở lại mà nói chuyện với Hoắc Phương. Hai đầu đều bị tiểu yêu tinh bịt kín, Hiểu Lam làm sao được?" Khả năng bịa chuyện không chớp mắt của hắn không phải chỉ được vận dụng lúc này. Hắn nhìn quanh, nheo mắt trong nắng. "Ngươi ra đây làm gì?"

"Xem chuẩn bị thuyền." Y chỉ tay về phía một chiếc thuyền buôn đậu gần khu nhà thu thuế của cảng. Ngày mai bọn hắn sẽ đi bằng đường biển đến Kim Long. Xuân Tử đã thu xếp gấp một chiếc thuyền. Đường bộ nguy hiểm và lâu hơn, cô nói.

Chiếc thuyền mà Sa chỉ đang được cọ rửa, thay buồm và dây. Một người đứng trên sàn quay lại hét lên gì đó mà ở hướng này bọn hắn không nghe rõ.

"Vì vậy mà cho Lâm Phi và Bát Hôi Ngư theo?" Hắn lơ đãng nói. Chín người ấy dù gì cũng là hải tặc thông thạo thủy tính. Nhưng đường trở về Kim Long có gì khiến tiểu yêu tinh phải đề phòng như vậy?

Như thường lệ, Sa không trả lời hắn. Lão Đại nhà ngươi, hắn rủa thầm trong lòng. Ta ở chỗ sống chỗ chết không rõ, ngươi thì cứ việc im lặng. Bảo ta cứu ngươi ngăn ngươi bằng cách nào?

"Ngươi có tình cảm gì với Hiểu Lam?" Sa chợt hỏi. Hắn ngẩn người mất một khắc.

"Ta chưa muốn chết vì tính sao." Hắn lại nhún vai. Hiểu Lam là cô gái tốt, cũng rất đẹp, nhưng hắn luôn muốn tránh rắc rối ở những nữ nhân như nàng ta. Một mình hắn đã gây ra bao nhiêu chuyện, gánh vác bản thân còn vất vả, làm sao liên can được với tổ chức nào đó ở Vân Nam của Hiểu Lam? Những nữ nhân có danh phận rắc rối như Hiểu Lam, hắn đã tự vạch sẵn khoảng cách ngay từ đầu, nhất quyết không liên hệ quá sâu sắc với họ. Vả lại, hai người bọn hắn chỉ nói chuyện tinh tú, tính toán thiên văn Ngũ hành là nhiều.

Sa chầm chậm gật đầu, y có vẻ trầm tư.

"Nếu không thì ngươi đừng dính dáng vào tốt hơn." Y thận trọng nói, vẫn quan sát hắn. "Việc đằng sau cô ta, ngươi muốn can hệ cũng không được."

"Không sợ tiểu yêu tinh mắng ngươi?" Hắn chợt cười. Như Yên muốn hắn thân thiết để thao túng Hiểu Lam. Nàng ta vốn chỉ cần biết mục đích của mình, người khác ra sao mặc kệ. Nói với hắn những lời này, Sa lại chẳng phải đang trái với ý muốn của Như Yên?

"Không phải không có ngươi thì không làm được." Y trả lời hắn bằng giọng tương tự. Như Yên quá cẩn thận nên mới dùng đến đủ mọi phương cách có thể, chứ thật ra Hiểu Lam là một cô nương ngây thơ dễ uốn dễ bẻ. Chỉ cần gây một ít áp lực tâm lý lên nàng ta, cùng vài lời khuyên nhủ ngọt nhạt, liên hệ với kẻ coi sóc nàng ta, Hiểu Lam sẽ dễ dàng ngả về phía họ. Thỏ khôn phải có ba hang, đó là điều mà mọi người mọi kẻ đều hiểu rõ. Chút ít phản kháng trẻ con của một cô gái trẻ con không có ý nghĩa gì.

Để hắn gắn bó quá sâu sắc với Hiểu Lam, chỉ e sẽ không rút ra được nữa. Con người hắn có thể vì chút tình cảm mà sẵn sàng chuyện gì cũng có thể làm, chuyện đứa bé ngày xưa cũng vậy. Sự chống đối tại Vân Nam có thể không bao giờ kết thúc, cũng như các nhóm phản Thanh của người Hán sẽ chẳng bao giờ mất đi. Một kẻ đơn thuần như hắn vốn không thích hợp với những chuyện tranh chấp. Lại càng không nên làm hắn tổn thương.

Y đã biết điều này khi nghe chuyện hắn cứu người tại Cẩm Thạch bàn. Dù Như Yên không nói, y cho rằng tám chín phần lão thầy Cả kia do chính hắn đưa ra ngoài. Việc ở Cẩm Thạch bàn là ngoài liệu định của y. Vốn cho rằng hắn đến Đà Nẵng theo Hoắc Phương để không liên can đến chuyện tại Ngũ Hành sơn, với người như Hoắc Phương cũng không lo lộ việc; không ngờ Hắc Hổ lại đến kéo Hoắc Phương về, rồi hắn ham vui mà đòi lên núi. Vốn không định để hắn dấn sâu vào việc mà y đang làm, rốt cuộc thì hắn cũng tìm ra được kẻ cầm đầu đứng sau Thương Trúc trang là ai. Lần này Như Yên đích thân yêu cầu đưa hắn đến Kim Long, hắn lại càng có thể biết được nhiều hơn.

Nhưng rốt cuộc thì mọi chuyện có ảnh hưởng gì? Bây giờ y nhìn lên trời mà nghĩ thầm. Hắn biết được việc mà y đang làm, nhóm người mà y đang phục vụ, thì có ảnh hưởng gì? Thậm chí, hắn biết mục đích thật sự của y khi đến đây, thì đã sao? Với những biến động đang xảy ra này, sớm muộn hắn cũng sẽ biết. Rồi y cũng sớm muộn sẽ trở về với thân phận thật của mình. Mọi chuyện phải xảy ra rồi sẽ xảy ra.

Điều duy nhất y có thể làm là để hắn không bị tổn thương. Để hắn không làm những gì mà y làm. Trong những tranh chấp này, trong cái thế giới hỗn độn và toan tính này, kẻ có trái tim quá thiện lương như hắn, không thể gánh vác những gì mà y gánh vác. Hắn cứ việc đi bên bờ của thế giới, nhìn ngắm nó như thể một trò chơi.

Bọn y đã đi qua thời niên thiếu trong lửa đỏ, trong những giấc mơ cháy lụi và cuộc đời đã sớm phai tàn. Làm sao để sống? Trong thế giới khắc nghiệt này, khi vẫn mãi lênh đênh trên mặt biển như cánh bèo trôi dạt. Trong những cơn sóng không ngừng xô tới. Trong những tranh đoạt nơi miền đất lạ. Y đến đây, dấn thân đi theo những ảo ảnh trên sa mạc, hy vọng có thể tìm được lối cho sự sống.

"Đừng bao giờ thân cận với Hiểu Lam." Y nói, một lúc sau. Những món nợ về tình cảm có thể là khó gánh vác nhất trên cõi đời.

Hắn chỉ nhìn y. Nụ cười vẫn vương vất trên môi. Hắn ngoảnh đầu nhìn ra sông đến chiếc thuyền rồi tuột xuống kè gỗ, vươn vai.

"Chúa của Nam Hà mất, lần này không biết sẽ xảy ra chuyện gì." Hắn nói, khoanh tay nhìn y. "Nhưng ta e rằng không có xáo động nhiều. Từ Quảng Bình đến Quảng Nam qua bốn mươi năm đã yên ổn. Từ Quy Ninh đến Phú Yên, người Việt mới đến sống lẫn lộn với người Chiêm, cả hai đều suy nhược yếu ớt, bên nào cũng chưa thể có động tĩnh, càng không có lực lượng làm phản. Bốn mươi năm nay, chúa Hiền đã thiết lập hệ thống cai quản chặt chẽ trong vùng, lại được lòng người. Dù chúa mất đi, chưa ai có thể xách động phản kháng nếu không muốn mang tiếng vô đạo. Từ Đông Phố đến đây, ta không thấy biến đổi lớn trong dân chúng. Họ hàng nhà Nguyễn, ngoại trừ con của cố Thế tử chưa được tập phong, hai đứa cháu con của Tứ công tử đều còn nhỏ dại, khó có khả năng làm phản.

"Quân đội của nhà Nguyễn tuy không đông nhưng rất mạnh. Ta nghe nói năm nào, hai vạn quân Nguyễn đã chống được mười lăm vạn quân Trịnh tại Trấn Ninh. Tuy hai tướng Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật đã chết, tầng lớp tướng lãnh tiếp theo cũng không tệ. Hoằng Ân hầu là Phó tướng Tả thủy dinh, nắm giữ binh quyền của thủy quân, cũng là lực lượng chính của quân Nam Hà. Danh thế, tiếng tăm, lực lượng đều có đủ - ngoại trừ chính trong nhà có chuyện, không ai có thể lật đổ họ Nguyễn trên đất này."

"Ngươi quan tâm đến chuyện này?" Sa nhướng mày, vẻ thật sự ngạc nhiên. Hắn nhún vai.

"Nặc Nộn với Nặc Thu kình chống nhau, tại Đông Phố ai cũng biết. Nặc Nộn dựa vào nhà Nguyễn giữ Đông Phố, hẳn nhiên ai cũng phải để ý ít nhiều. Cả một vùng đất như thế này không được chống giữ chỉ bởi một ông chúa. Dù ông ấy có ra sao, điều ta cần quan tâm là lực lượng hiện tại. Nam Hà còn vững, Đông Phố còn yên."

Mà những kẻ muốn dựa vào rối loạn gây chuyện chỉ là tự đưa đầu vào rọ. Hắn nghĩ Sa cũng hiểu ẩn ý ấy của hắn. Đông Phố xa xôi, bất cứ nguồn tin gây hiểu lầm nào cũng dễ dàng tạo nên xáo trộn. Y phải thận trọng với từng liên hệ của mình, nhất là trong thời điểm nhạy cảm này. Không cẩn thận xem xét tình hình, y sẽ gây ra hỗn loạn vô ích.

Sa chầm chậm gật đầu. Kẻ trên sàn tàu lại một lần nữa lên tiếng gọi, y liền bước tới. Hắn nhìn theo y, nửa bình tâm nửa nóng lòng.

Y hẳn biết suy tính điều gì nên làm và không nên làm.

Nhưng Sa mà hắn quen, lại chẳng bao giờ biết suy tính cho bản thân mình.

Hồi 30: Đế vương

Hắn đã hiểu thế nào là tính tình cẩn thận quá đáng của Như Yên, khi chuyến đi đến Kim Long hoàn toàn bình an suôn sẻ. Dù chậm trễ hơn dự tính vì sự tăng cường canh phòng của quân binh Nam Hà, đặc biệt là thủy quân đóng dày đặc ngoài Kim Long, thuyền bọn hắn đã cập bến sông Hương. Nhưng trái với suy nghĩ của hắn, Như Yên không ngay lập tức vào phủ điện chúa Nguyễn tại Kim Long, nàng dẫn bọn hắn đi về nguồn sông hướng Tây, nghỉ lại ở một ngôi làng nhỏ.

Xung quanh làng là rừng trúc kéo dài hàng dặm, lẫn vào rừng cây, có điểm nào đó rất giống với Thương Trúc trang. Châu Hóa mùa này vẫn còn lạnh, mưa dầm dề đem hơi hàn thấm vào tận xương tủy người. Trúc dưới cơn mưa xám vẫn rì rầm khe khẽ, những giọt nước trong vắt trôi theo muôn muôn vạn vạn chiếc lá tí tách nhỏ xuống, mất dấu vào thanh âm kéo dài không đổi. Ngôi nhà bọn hắn cư ngụ ở đầu làng, chỉ hơi lớn hơn các nhà bình dân, chia làm ba gian chính và một dãy nhà sau cho gia nhân. Như Yên cùng Hiểu Lam ở một gian, hai gian còn lại chia cho đám đàn ông. Ba gian nhà chỉ cách nhau một khoảng sân trống có nuôi vài con gà mỗi sáng lại được thả ra kêu quang quác. Bên cạnh cửa ra vào còn một đống rơm nhỏ của mùa trước tồn đọng đã gần mục vì mưa dầm.

Khung cảnh giống như một nhà điền viên khiến hắn không khỏi lấy làm lạ lúc vừa mới đặt chân đến. Ngay cả các gia nhân cũng có vẻ là nông dân hơn là thuộc hạ của một gia tộc. Hắn nghĩ, nếu đây không phải là mùa nước lên, nông nhàn thì họ cũng đã mỗi sáng vác cày ra đồng chứ không ở đây phục vụ bọn hắn.

Tất nhiên, không chỉ có một mình hắn thấy lạ. Bát Hôi Ngư, bằng thứ tiếng bản xứ bập bẹ, đã theo cách nào đó mà lôi một trong những gia nhân trong nhà ra hỏi. Hắn, với tư cách là kẻ duy nhất trong nhóm biết tiếng Kinh, đã được chúng gọi vào. Gian nhà chỉ qua mấy ngày Bát Hôi Ngư cư ngụ đã trở nên bề bộn không khác gì khoang thuyền của các hải tặc thường ở. Thằng bé bọn chúng quây lấy chỉ trạc tuổi Như Yên, đang ngồi trên phản ngắm nghía con dao cùn bọn hải tặc đưa làm quà quyến dụ. Nó trông như thật sự thích thú với món vũ khí không biết nguồn gốc từ đâu này.

"Đây là đâu thế?" Hắn được Bát Hôi Ngư đẩy xuống phản ngồi cạnh thằng bé. Nó trả lời hắn mà thậm chí không rời mắt khỏi con dao.

"Làng Phú Xuân." Cái tên làng cũng xa lạ với hắn y như ngôi nhà này. Thằng bé liếc nhìn hắn, thoáng vẻ ngạc nhiên khi thấy hắn nói được ngôn ngữ của nó. Rồi nó đột nhiên cười. "Các vị muốn biết thân thế của Như Yên cô nương chứ gì?"

"Cô ấy không nói, phải không? Người ở đây cũng sẽ không ai chịu mở miệng đâu." Thằng bé đặt tay lên môi, ra vẻ bí ẩn. Nhưng nó cũng đồng thời có vẻ sốt ruột được phát lộ ra một 'bí mật'. "Vì thân thế của cô ấy vốn rất là..."

"Cô ấy sinh ra trong nhà này." Thằng bé nói sau một lúc nhíu mày như lựa chọn từ ngữ. "Lúc ấy căn nhà này còn tệ hơn bây giờ, chỉ có một gian nhỏ với sân. Hồi bé, tôi vẫn còn nhớ là trần nhà hay bị dột, mỗi mùa đông lại phải nhét rơm vào các lỗ hổng để tránh gió lùa. Cô ấy sinh ra thì mẹ đã mất, phải uống sữa của mẹ tôi. Dứt sữa rồi mà không có đủ gạo để nấu nước cháo, nhiều bữa la khóc om sòm."

"Sao cơ?" Hắn không đừng được mà buột miệng. Bát Hôi Ngư bên cạnh ngạc nhiên nhìn vẻ chấn động của hắn, kéo tay áo hắn đòi kể. Nhưng hắn chỉ nhìn thằng bé. Nó vừa mân mê con dao vừa nhẩn nha nói.

"Vương tộc danh môn mà sa sút thì phượng hoàng cũng để cho gà bắt nạt." Thằng bé lắc đầu, nói như nhắc lại câu mà nó thường nghe. "Ai bảo cô ấy là hậu nhân của kẻ phản loạn. Dù chúa nhân từ không xét hỏi, cũng không bắt tội, nhà từ ấy nhận bao nhiêu khinh rẻ nghi ngờ. Trên thì không được chúa đoái hoài sử dụng, dưới thì bị chì chiết oán trách. Cha cô ấy vì điều tiếng của người đời mà đổ đốn, tứ đổ tường cái gì cũng lâm vào, cuối cùng bán nhà bán cửa còn mỗi khoảng đất này, rồi chết sớm bỏ vợ bỏ con. Năm năm trước, chúa tìm được cô ấy liền nhận làm con nuôi, vận hội mới thay đổi."

Hơn ba mươi năm trước, ngôi vị của vị chúa trẻ Nguyễn Phúc Tần đã gặp thử thách. Chú của chúa là Chưởng dinh Nguyễn Phúc Trung định làm phản, câu kết cùng một số lớn quan lại trong triều. Hơn năm năm lên ngôi, vị chúa trẻ đã đụng chạm đến không ít người, từ vị lão tướng trấn giữ Trấn Ninh đến dòng họ tứ trụ đại thần. Nguyễn Phúc Trung thân giữ binh quyền, một lời kêu gọi ngấm ngầm thu hút không ít kẻ.

Sự việc sớm bị phát hiện, Nguyễn Phúc Trung bị giam rồi chết trong lao. Có người bắt được bản danh sách kẻ làm phản dâng lên, chúa không xem, cho đốt rụi. Vì hành động ấy, tiếng tăm vị chúa trẻ bắt đầu được củng cố, những kẻ nghi ngờ oán thán cũng cảm phục mà hết lòng phù trợ, mâu thuẫn trong triều đã được ổn định. Nhưng dòng dõi của người em trai chúa Nguyễn Phúc Lan này cũng vì thế mà tuột dốc khi người người xa lánh, kẻ vì muốn tránh điều tiếng phản loạn, kẻ vì khinh khi oán giận. Cha của Như Yên, không rõ là người con thứ mấy của Nguyễn Phúc Trung, phá tán chút tài sản ít ỏi mình được thừa kế rồi chết, để lại đứa con gái vừa mới mở mắt.

"Lúc trước bên cạnh cô ấy có một lão sư già, hình như đã đi theo nhà này từ lâu lắm rồi. Chính ông lão dạy cô ấy viết chữ đánh đàn, ông cháu rau cháo nuôi nhau." Thằng bé tiếp tục kể, giọng chẳng buồn chẳng vui, như thể nói về một chuyện tự nhiên nhất đời. "Sáu bảy năm trước, cô ấy ra bến cảng mua bán cái gì đó, bị người ta bắt đi. Năm đó cô ấy mới có mười, mười một tuổi, nhưng xinh xắn hơn đám con gái bình thường nhiều, các người nhìn cô ấy bây giờ cũng biết mà. Lão sư tuổi già sức yếu không cứu được, bị đánh chết bên bến sông.

"Chúng ta cũng tưởng cô ấy thế là mất tích luôn rồi. Nhưng bẵng đi một thời gian, cái gã thanh niên kia đem cô ấy về, lần này lại có cả thân thuộc nhà chúa đi theo. Hình như họ gặp họa lại hóa phúc, chúa thấy hoàn cảnh cô ấy liền thương tình nhận làm con nuôi. Rồi cô ấy xây lại căn nhà này cho chúng ta, bản thân thì đi đến Hội An sống ở nơi đẹp đẽ hơn."

Anh đừng lộ ra là tôi nói, Như Yên cô nương sẽ quẳng tôi vào chuồng gà đấy. Thằng bé vội nói thêm, một lúc sau. Hắn chỉ có thể gật đầu. Không còn chuyện gì để nói, thằng bé cầm con dao phóng ra ngoài cửa. Hắn biến báo kể vắn tắt cho Bát Hôi Ngư rằng Như Yên là con cháu nhà ai, rồi cũng vội vã bỏ đi.

Giống như hắn đã xâm phạm vào một bí mật cực kỳ riêng tư, thứ bí mật mà hắn đã hiểu tại sao Sa không hề hé răng nói ra. Y không biết phải nói thế nào. Hắn cũng không rõ phải đối mặt với Như Yên thế nào khi đã biết.

Thoắt khóc thoắt cười, cũng chỉ là cách mua lòng người thành quen. Gian ngoan âm độc, không rõ đã chất chứa bao nhiêu thương tổn. Với sự hờ hững của người đời chẳng bận lòng, với bao nhiêu tàn nhẫn xung quanh chẳng để ý, bản thân bị tổn hại cũng coi như là trao đổi. Dửng dưng chấp nhận, dửng dưng cợt nhạo.

Trúc reo trận trận, gió nổi miên miên. Tâm người đã lạc.

Mùa nước trắng đồng, mây xám phủ non, sương giăng lấp núi. Cánh mai vàng run khẽ trong mưa. Tiếng thông vi vu thê thiết vang qua gió.

Giọt nước rơi vào cổ áo, bất chợt rùng mình. Sân điện đá lạnh để cho gió thổi.

Như Yên dựa vai vào cột gỗ ở hàng hiên, chán chường nhìn cánh cửa đắp nổi hình một cái đầu hổ. Họ gọi nàng đến đây không phải để phơi sương cho đến lúc cóng cả chân chứ? Chiếc áo khoác lót một lớp lông dày không cản được gió lạnh từng trận táp vào mặt, tê cứng cả mũi. Nàng đã lâu không về phương Bắc, với thứ hàn khí ẩm ướt đặc biệt của vùng đất này càng không thích. Nàng tuy thể chất không đến nỗi yếu đuối, những mùa đông trước vẫn phải một hai lần ngã bệnh.

"Nếu không ai ra, ta về." Nàng kéo vạt áo choàng vào sát người, không khách khí nói lớn tiếng ngay trước cửa. Hai tên lính canh đứng bất động chẳng khác hai con sư tử đá cũng chẳng liếc mắt lại. Như Yên không nói không rằng quay người bước xuống sân.

"Cha đột nhiên yếu đi cần uống thuốc nên không đón kịp, cũng không cần phải nóng nảy như vậy?" Thanh âm trầm ấm vọng lên sau cánh cửa nửa đóng nửa mở. Nam tử vẫn trong sắc áo thiên thanh điềm nhã mỉm cười với thiếu nữ dưới sân. Nàng nhướng mày.

"Chỉ e đến lượt em bệnh thì không có diễm phúc được hàng hàng người kéo tới thăm viếng thế này." Nàng nhún vai, không che giấu sự cợt nhạo tuy vẫn quay trở về cửa, Sa vẫn im lặng đi theo. Nam tử khẽ nhíu mày, nhưng bỏ qua coi như không nghe thấy.

"Cha vừa ngủ, không tiện quấy rầy, em đi đến Đông lâu nghỉ ngơi một chút." Nam tử nói. Như Yên ngừng xoa hai bàn tay vào nhau, nhìn lên.

"Đông lâu? Anh quả thật muốn em đóng băng thành đá?" Đông lâu nhìn ra sông, vừa cao vừa trống, vốn dành để ngắm trăng thưởng trà, không mấy ai leo lên vào thời tiết lạnh căm này.

"Bây giờ ở đó có treo rèm đốt lò." Nam tử cười khẽ. "Ở đó vắng vẻ, ta muốn bàn vài chuyện."

"Khởi binh tạo phản hay giết người đoạt ngôi?" Như Yên hỏi ngay khi vừa ngồi xuống cạnh chiếc bàn thấp trong lầu, chân nàng thu về dưới lớp chăn dày được ủ ấm bằng lò gốm. "À, quên mất, thân là Đông cung Hoằng Ân hầu, không cần dùng thủ đoạn như vậy, trừ phi có người trên giường bệnh đổi ý. Không phải là vậy thật chứ?"

Nam tử vẫn chỉ giữ nụ cười nửa kiên nhẫn nửa độ lượng. Thậm chí, y còn hùa theo nàng.

"Nếu thật thì sao?" Y đón khay trà của thị đồng đưa tới, từ tốn rót ra hai chiếc tách. Như Yên đón ly trà từ tay y, thản nhiên nhún vai.

"Cần giết người nào thì cứ nói với em." Lật đổ cả thiên địa vì con người này, nếu làm được thì nàng cũng làm.

Tiếng là con gái nuôi của người bệnh trong kia, kỳ thực mối liên hệ của nàng với gia đình này chỉ ở con người trước mặt. Chính y là kẻ nắm lấy tay nàng sáu năm về trước trên bến cảng. Chính y là kẻ đầu tiên dùng nhãn thần thân thiết xót xa mà nhìn nàng. Không thương hại, không khinh rẻ, cũng không phải là tình chủ tớ của lão bộc trung thành, đó là người đầu tiên cho nàng cảm giác thế nào là tình thân. Trong khối người mà nàng gọi là gia đình này, chỉ y là kẻ duy nhất thật sự có liên hệ với nàng, không chỉ bằng thứ mơ hồ gọi là huyết thống.

Trả lại một khắc thâm tình, có thể đổi cả cuộc đời.

"Không phải giết người, mà là cứu người." Nụ cười của nam tử hơi tiêu tán. Y nghiêng người về trước, nhìn Như Yên khẩn cầu. "Ca vũ của em giỏi nhất ở đây, chỉ có thể nhờ em."

Rừng xanh hóa bạc. Trời rộng hóa mù. Sông sâu lấp loáng nắng. Cành mai trước cửa đã kết quả xanh non. Đám cúc sau hiên đã rợp lá, hoa không còn hương. Mưa rỉ rả rơi, âm âm gió núi. Xác pháo hồng trôi theo làn nước, khói đã tan vào trời.

Mái gỗ âm u, chân tường rêu phủ, màn bám bụi mờ, vải rệu mục dưới tay. Cảnh còn, người mất. Cảnh tàn, người tàn. Bàn tay chằng chịt nếp nhăn, xanh màu gân nổi. Làn da khô kiệt như cánh đồng mùa hạn. Đôi tay run rẩy không giữ nổi cuộc đời đang trôi qua.

Sắc xuân tươi thắm đã sương mù. Rừng vạn cây, nước vạn lý chìm trong mưa.

Nói rằng cả giang sơn họa đồ, cả tiền tài quyền quý đều chỉ là ảo mộng nhân sinh, vậy trên đời có gì là thực?

Tình không là vĩnh cửu, tình hợp rồi tan. Tâm người không nắm được, tâm người đa đoan khôn kể.

Kẻ sinh ra trên đời, giây phút đầu tiên đã là ly biệt. Kẻ đã sống trên đời, phải gánh chịu biệt ly. Người đi qua người, người đi qua đời, vô phương giữ lại. Cuộc đời trôi qua, những chuyện thương tâm cứ thế chất chồng, vô phương chống chọi. Những gì tưởng chừng là vĩnh cửu như giang sơn cũng chỉ một sớm đã hóa sương mù. Những gì tưởng có thể đem cả cuộc đời để bảo vệ bỗng chốc hóa thành bọt nước. Những gì cả cuộc đời theo đuổi có thể chớp mắt hóa thành khói tan.

Nhân sinh, giang sơn, quyền thế, thâm tình, tất cả đều có thể biến mất theo một cơn gió.

Rốt cuộc, thứ gì trên đời còn ở lại?

Chút hồi ức ngỡ có thể giữ trong tim, một sớm mai cũng theo tấm thân tàn trở về cát bụi.

Sa trường khói bay cát cháy. Vạn vạn hào hùng, giờ đã thành bãi hoang cỏ gục đầu bên lũy đá. Giang sơn muôn vẻ, chẳng giữ được một người.

Bóng áo đỏ đi qua hàng trúc xanh. Tà áo phấp phới trong sương như cánh hoa rơi lạc. Thái dương mấp mé đầu non, tà dương sắp đổ. Tiếng ca lan trong gió.

"Hồng tô thủ, 

Hoàng đằng tửu, 

Mãn thành xuân sắc cung tường liễu. 

Đông phong ác, 

Hoan tình bạc, 

Nhất hoài sầu tự, 

Kỷ niên ly tác."

Tay trắng nõn nâng rượu sóng ánh dương tựa chiều loang. Xuân sắc theo gió thổi về đô thành, mơn mởn xanh bên tường đá. Gió thổi xuân bay đi. Gió cuốn tình tiêu tán. Chỉ còn lòng ôm nỗi sầu miên man. Không biết đã bao nhiêu lần xuân về, bao nhiêu năm xa cách.

Áo đỏ lộng gió, gió lồng ánh tà dương. Bóng người ẩn hiện trong sương, bước chân như lướt đi không chạm đất. Bàn tay với lá trúc, tan trong bóng chiều.

"Xuân như cựu, 

Nhân không sấu, 

Lệ ngân hồng ấp giao tiêu thấu."

Mộng đoạn hương tiêu tứ thập niên. Xương ngọc đã thành bùn dưới suối, bóng hoa vẫn phảng phất bên cầu. Sông núi còn đây, mộng đã tan. Mộng đã tan, từ bao nhiêu năm về trước, bốn mươi năm, hay trăm năm? Một lần giã biệt đã là vĩnh cửu.

Người con gái đi qua hàng trúc xanh, không ngoảnh đầu nhìn lại. Vai gầy tan khuất trong mưa. Hồng tiêu hương đoạn. Nhu tình chỉ buộc được người trong sớm tối. Chỉ còn lại sa trường hàng hàng cát cháy sóng bồi. Chỉ còn lại núi sông cho người trăm năm tạc bia ghi dạ. Người đi, đi mất. Kẻ ở, tâm tàn.

Bốn mươi năm, bao cuộc chiến chinh, đổi thay dâu bể, kẻ mất người còn. Bốn mươi năm, trăng treo đầu non, bóng kiếm lạnh trên vách. Bốn mươi năm, bình Bắc chinh Nam. Bốn mươi năm, lập nên cơ đồ cho vạn thế.

Dung kẻ phụ bạc, phụ kẻ yêu thương. Đốt danh sách loạn thần, giết ái cơ ân ái.

Tâm dung thiên hạ, lại không giữ được một người.

Đa tình, chính là vô tình. Thâm tình, chính là vô tình. Hữu tình, chính là vô tình.

Ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ còn mảnh đất lạnh hơi mưa.

Mưa tiễn hoàng hôn, hoa tan tác.[1] Ảo ảnh điêu linh, chỉ còn nhân sinh tại thế.

Đôi tay run rẩy khô khốc như cánh đồng mùa hạn. Hơi sắp tàn tựa tiếng quốc sớm mai. Bốn mươi năm như tên bay, trăm năm như chớp mắt. Bàn tay đưa ra, không nắm cầm, không níu giữ. Không giữ được đời, càng không giữ được tình.

"Tiên kết nhân tâm thuận, Hậu thu đức hóa chiêu. Chi diệp kham tồi lạc, Căn bản dã nan dao.[2]" Thanh âm yếu ớt nhưng minh mẫn vang trong căn phòng tối. "Con biết bài thơ ấy vì sao mà có? Khi ta lên ngôi, trận chiến với Trịnh vẫn còn căng thẳng, trong nhà lại bất đồng. Vân Long hầu[3] và gia tộc Triều Văn hầu có chuyện xung đột, dẫn đến chuyện Nguyễn Hữu Dật phải bị giam vào nhà lao. Quân Trịnh xâm lấn dinh Bố Chính cướp bóc, ta định dụng binh, liền đem chuyện mộng thấy thần nhân ban cho bài thơ này. Bài thơ có chữ Thuận và chữ Chiêu, chính là ứng vào Thuận Nghĩa hầu Nguyễn Hữu Tiến và Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật, khiến họ dốc tâm đoàn kết một lòng mà theo ta.

"Chúng ta đến đất này, vốn chỉ là một đoàn binh mất chủ mất quê hương, không phục cường quyền mà bỏ đi, rồi lớn mạnh. Những kẻ khờ dại cuồng vọng nhìn vào ngôi cao đế vương tưởng rằng chỉ cần chút ít sức lực, chút ít chinh chiến mà có được, mà giữ được - Thật là ý nghĩ của bọn thiển trí. Giang sơn không phải là chuyện của một người. Chúng ta không có danh nghĩa để kêu gọi người, càng không có danh thế để bắt người quy phục, chỉ là dựa vào ân đức của chúa Tiên ngày trước để phúc lại. Chính trong triều ta, những gia tộc nắm giữ binh quyền thế lực ngang ngửa chúa, những hoàng thân quốc thích nắm quyền bính không hề thiếu. Không có danh nghĩa, khó phục người, loạn cũng vì thế mà có. Anh em nhà thường dân vì chút danh lợi có thể phản nhau, huống hồ là dòng dõi vương đế. Vừa có danh vị, người trong họ đã mưu phản không ít. Đất đai xáo trộn, lòng người chưa an, chinh chiến khổ nhọc, tất cả đều là gốc loạn.

"Ta lên ngôi bốn mươi năm, thì đã ba mươi năm đánh Trịnh ở Trấn Ninh. Có lần Trịnh đưa cả vua Lê cùng mấy chục vạn binh đến quyết diệt ta cho được. Mấy lần ta định tiến quân lên phương Bắc diệt Trịnh trừ hậu hoạn mà không thành[4]. Nhưng cuối cùng, chiến sự cũng đã yên, bốn mươi lăm năm tranh chiến đã hết. Nay Hải Dương, Cao Bằng sau nhà Mạc mất, Đại Thanh biến động sẽ liên tục không yên, họ Trịnh khó lòng phân quân làm khó ta được nữa. Hiệp ước đình chiến do hoàng đế Khang Hy làm chủ, chúng không thể đơn phương phá vỡ. Mối lo phương Bắc đã yên.

"Tại phương Nam, khi ta vừa lên ngôi, vua Bà Tấm của Chiêm Thành đã định lấy lại Phú Yên. Ta đánh tan được, còn lấn thêm đất đến sông Phan Rang, đặt phủ Thái Khang, Diên Ninh, đẩy Chiêm Thành về phía Tây. Có thêm hai phủ ấy, việc kiểm soát Chiêm Thành dễ dàng hơn. Hoàng cô Ngọc Vạn ở Chân Lạp cũng có thể giúp đỡ chúng ta. Có con đường Chiêm Thành, ta đã có thể vươn tới Chân Lạp.

"Mảnh đất này, chúng ta tự xưng là chủ nhưng thật ra lại là kẻ lạ. Ta đưa dân từ dinh Bố Chính vào Quy Ninh, cốt để dùng người giữ đất. Ta bình sinh ra vào gian hiểm để giữ nhà giữ nước. Con nối ngôi phải sửa thêm nhân chính cho giữ yên bờ cõi. Các quan văn, võ đều do ta cất dùng, phải đem lòng tin cùng mưu mọi việc, đừng để bọn tiểu nhân lẻn vào.

"Chiến tranh không phải là việc khó, thời thế đổi thay, giang sơn còn mất. Nhưng cành lá có khi rơi gãy, cái gốc là vững bền. Chúng ta sinh ra trong dòng dõi này, gánh vác trách nhiệm giữ gìn cho kẻ dưới mà từ đó tạo lập giang sơn. Nhà của ta cũng là nước của ta. Giữ nước mà giữ nhà. Tự tạo đất nước cho mình mà sống còn trong cõi thế. Sông núi đất đai, ta dùng cả đời mà định, cũng chỉ mong cho các con nhẹ gánh sau này. Con cái trong gia đình ta, nam nhân thì chinh chiến triền miên, ta có sáu đứa con trai đã chết mất ba, nữ nhân thì được gả bán đi làm con tin nơi đất khách, ba người con gái của chúa Sãi cả đời không thấy thân nhân. Đất loạn, nhà tan tác. Ta chỉ hối hận không trừ bỏ được gốc họa phương Bắc cho các con.

"Bốn mươi năm nay, đất đai cuối cùng đã định, các mầm mống họa tai đã bị khống chế. Trên đất này, người Việt cũng đã đông, Nam Hà đã mạnh, triều chính đã an. Thiên, địa, nhân do chính con người tạo lập. Trước không có Nam Hà, nay đã có. Trước ta không chốn dung thân, nay đã có.

"Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân. Họ Nguyễn này còn có thể sống sót, tất cả phụ thuộc vào chúng ta. Ta không truyền cho con ngôi chúa, mà là cho con đất đai này, giang sơn này, gia tộc này."

Người tóc xanh nhìn kẻ tóc bạc. Bàn tay cứng cáp chầm chậm nắm lấy bàn tay khô.

Ngoài khung cửa, tiếng ca vang trong mưa cùng sương tỏa, như sóng triều ngàn năm dâng trên mặt đất.

"Sơn minh tuy tại, 

Cẩm thư nan thác."[5]

Trăng mọc non đông, thành màu lam bạc. Cựu mộng như yên, đến trăng nước cũng phù du, đâu phải là điều lạ.

Chú thích:

[1]Vũ tống hoàng hôn hoa dị lạc: Trích Thoa đầu phượng của Đường Uyển. 

[2] Tiên kết nhân tâm thuận, Hậu thu đức hóa chiêu. Chi diệp kham tồi lạc, Căn bản dã nan dao: Trước đoàn kết lòng người hòa thuận, Sau thi hành đức hóa rõ ràng. Cành lá nọ có khi rơi gãy, Cõi gốc kia cũng khó đổi thay."

[3] Vân Long hầu: Nguyễn Phúc Tráng.

[4] Năm 1682, Cao Bằng, Hải Dương có loạn, Trịnh Tạc phải đích thân đi dẹp. Chúa Hiền định đánh lên Bắc Hà nhưng lại thôi.

[5] Bài từ Thoa đầu phượng của Lục Du. Dịch nghĩa (đoạn chưa dịch): Xuân vẫn như xưa, người đã hao gầy. Khăn hồng đẫm lệ hoen./ Núi thề tuy còn đó, Thư gấm khó trao người.

Lục Du và Đường Uyển vốn là vợ chồng. Mẹ Lục Du không thích Đường Uyển, bắt ông phải bỏ vợ. Đường Uyển đi lấy người khác. Mười năm sau, gặp lại ở vườn Thẩm, Lục Du làm bài Thoa đầu phượng cho người cũ. Đường Uyển đau lòng về bệnh mất. Lục Du bốn mươi năm sau, mỗi năm vẫn về thăm vườn Thẩm, khi sắp chết vẫn nhờ con cháu đưa ra nơi đề thơ cũ. Ông làm nhiều bài thơ Thẩm viên nhớ người, trong đó có câu "Mộng đoạn hương tiêu tứ thập niên".

Hồi 31: Hoàng thân

Bóng áo đỏ lẫn vào sương mập mờ bóng tối của chiều tà. Hàng rào tre trúc vẫn miên man reo trong gió. Mùa này mặt trời xuống chậm, hoàng hôn kéo bóng lê thê đầu núi. Người thiếu nữ kéo cao cổ áo lông, nhìn chăm chắm vào dòng sông bạc. Nàng không quay lại kể cả khi nghe tiếng chân bước đằng sau.

"Dòng sông ở phía này rất hẹp." Nàng nói với người sau lưng. "Khi đóng ở đây, có phải là nhằm tránh thủy quân đánh vào?"

"Phải." Nam tử áo xanh, Đông cung Hoằng Ân hầu nhè nhẹ gật đầu, nhìn theo ánh mắt thiếu nữ đến dòng sông ánh bóng nắng màu lam bạc. "Khi chúng ta đến đây, Chiêm Thành vẫn còn tại Quy Ninh, thi thoảng lại tiến lên Quảng Nam. Dựng thủ phủ ở bờ Bắc, quay lại phía mặt Nam, chính là để phòng thủ Chiêm Thành cùng người Thượng.

"Nhưng việc Chiêm Thành giờ đã yên, ta nghĩ cũng nên thay đổi." Hoằng Ân hầu khoanh tay, ngón tay này chầm chậm nhịp vào khuỷu tay kia. "Mối lo thật sự của ta giờ nằm ở phương Bắc. Ta đã xem xét đất vùng Phú Xuân cao ráo, xa các mỏm núi, dễ chống lại các đợt tấn công từ đường bộ vào. Phía trước còn có núi Ngự Bình làm tiền án. Tuy phía Tây có nước xói, có thể xây đài trấn được. Từ khi chúng ta đến Quảng Bình, thủ phủ lui từ Cựu dinh về Kim Long vẫn có xu hướng tạm bợ. Nay việc phương Bắc đã yên, quốc gia đã thành hình, cũng cần một kinh đô cho ra dáng để các phiên thuộc còn nhìn vào."

"Chống lại các cuộc tấn công trong đất?" Như Yên nhè nhẹ nhướn mày. "Thủy quân là điểm mạnh của Nam Hà, điểm yếu của Bắc Hà. Phú Xuân nằm ở phía Tây, dựa lưng vào vùng núi dẫn sang Vạn Tượng, sông dẫn về hai phương lại cong ngoặt mất một khúc, đường vào khó đường thoát dễ. Chỉ e rằng đây là để phòng người trong đất."

"Không có xáo trộn chứ?" Như Yên nói tiếp sau một lúc người kia vẫn im lặng. "Đành rằng thủy quân đã bảo vệ Kim Long, nếu việc lớn xảy ra, dân chúng xáo trộn thì có thể để cho người ta lợi dụng. Anh dù sao cũng không phải là dòng chính. Ta hướng tất cả sự chú ý về phía hai đứa trẻ của Tứ công tử, nhưng Thế tử vừa mất được hai năm, những đứa con trai đã trưởng thành kia mới đáng lo."

"Ta có thể kiểm soát được." Hoằng Ân hầu Nguyễn Phúc Thái thận trọng trả lời. "Gia tộc Triều Văn hầu là thân tín của ta, thế thì triều chính đã ổn."

"Em cũng đừng vọng động." Y nói nhanh. Cô gái vui giận bất thường này không biết sẽ dùng phương pháp nào nếu như phát hiện ra những kẻ bất lợi với y.

Chánh phu nhân của chúa Hiền có hai người con trai là Nguyễn Phúc Diễn và Nguyễn Phúc Thuần. Nguyễn Phúc Thuần tài năng khuynh thiên nhưng không may mất sớm. Hai năm trước, Nguyễn Phúc Diễn vốn đã được lập làm Thế tử cũng qua đời trước cha mình. Dòng chính của chúa hiện thời chỉ còn lại các đứa cháu, con của hai vị công tử này. Xét theo thế bậc nối ngôi, đáng lẽ con trai của Thế tử Nguyễn Phúc Diễn phải được chọn, nhưng chúa Hiền đã chọn Nhị công tử Hoằng Ân hầu Nguyễn Phúc Thái làm kế vị. Hoằng Ân hầu quảng giao quảng ân được lòng người, việc lựa chọn này cũng không gặp phản đối quá lớn. Nhưng việc làm trái thứ bậc vẫn là trái thứ bậc, hiện thời không xáo trộn không có nghĩa sau này không có. Huống hồ con trai của Nguyễn Phúc Diễn đều đã đến tuổi trưởng thành, giữ đến chức Chưởng cơ.

Với người bên ngoài, họ vẫn hướng sự chú ý đến con trai của vị Tứ công tử tài hoa bạc mệnh kia, với sự cố tình hướng dẫn của người trong triều.

Chọn Hoằng Ân hầu, chúa Hiền đã lựa chọn thế lực lớn nhất hiện tại, với hy vọng ít gây xáo trộn để không lặp lại sự việc của Nguyễn Phúc Anh, Nguyễn Phúc Trung năm nào.

Nhưng kẻ ở trong triều chính đều rõ, vương vị là thứ hấp dẫn đến bậc nào. Đường đường là dòng chính mà bị tước bỏ quyền lợi, sẽ bất mãn đến bậc nào. Hậu nhân của Nguyễn Phúc Diễn hay Nguyễn Phúc Thuần đều đáng lo như nhau. Hướng sự chú ý đến người con nhỏ của Nguyễn Phúc Thuần chính là để phân chia lực lượng ủng hộ với dòng dõi Nguyễn Phúc Diễn.

"Quốc hiếu ba năm, trong thời gian ấy không được có bất cứ sơ sót nào, anh làm được không?" Như Yên chợt cười, nửa như chế giễu. "Ba năm hình như là quá dài. Thời gian anh làm Thế tử lại quá ngắn, e rằng vẫn chưa thu phục được hết người."

Hơn một năm trước, Hoằng Ân hầu mới chính thức được lập làm Thế tử kế vị. Từ sau thời gian ấy, nàng tiếp quản Thương Trúc trang cùng công việc tại Hội An vốn là của y. Y vốn là kẻ không có ý niệm về vương vị, cũng chưa từng nghĩ sẽ được lập làm chúa. Sinh ra là con của Nhị phu nhân, lại ôn hòa lễ độ, trong hầu hết thời gian, y gần như chìm khuất sau hào quang của người em trai Nguyễn Phúc Thuần hay danh thế của Đại công tử Nguyễn Phúc Diễn. Hai người ấy lần lượt mất, chúa Hiền lại đưa ngôi Thế tử về tay y, thật y vẫn có đôi phần bất ngờ. Từ Đà Nẵng, y trở về Kim Long túc trực bên cạnh cha mình. Những mối liên hệ trước đây cũng vì thế mà bị cắt đứt. Triều đình cần những mối quan hệ ám muội để quản lý những ngóc ngách tối tăm không thể chạm tới, nhưng một vị chúa thì phải giữ danh tiếng trong sạch. Người con rơi của họ Nguyễn như nàng lại thay vào vị trí của y.

Mới hơn một năm, những biến chuyển trong triều khó mà an định hết. Dù có gia tộc Triều Văn hầu giúp đỡ y, lòng trung thành với chúa Hiền có thể đi vào những phương hướng không ngờ, khi dòng chính của ngài ta đã bị tước quyền thừa kế[1].

"Tất cả nhờ vào mọi người vậy." Y vẫn mỉm cười, nhã nhặn nói. Tuyệt không nhìn ra cảm xúc trên khuôn mặt ôn nhu hòa nhã. Y chạm nhẹ vào vai nàng. "Vất vả cho em rồi, về nghỉ đi. Ta phải vào cho cha uống thuốc."

Khi y đã quay đi, Như Yên vẫn đưa mắt nhìn theo. Nắng chiều cuối cùng đã tắt, để rừng núi ngập chìm trong bóng xanh mờ. Mưa đã lại mạnh lên. Nước từ trên mái nhà róc rách chảy. Nàng vẫn khoanh tay đứng. Một lúc sau, bóng dáng cao cao mặc chiếc áo xám đã trở thành sắc trắng trong bóng tối xuất hiện đầu bức tường trúc. Ánh sáng của ngọn đèn chênh chao theo từng bước chân y. Nàng bước vào bóng tròn của chiếc ô trắng, cùng y đi ra cửa.

Hàng hiên tối, những bóng đèn vàng hắt từ bên dãy nhà chính khuất sau các bóng cây. Tiếng xôn xao như thuộc về một thế giới hoàn toàn xa lạ. Phủ chúa tại Kim Long không lớn lắm, khi các công tử công nương đến lúc trưởng thành đều ra ngoài lập phủ đệ riêng. Ngoại trừ một dãy nhà lớn để hội họp quân tình và xa xa là nhà thờ cũng chỉ mới có ba gian, khu nhà chính lọt thỏm sau bức tường tre trúc vừa dùng làm cảnh vừa để làm rào. Bên bến sông, ánh lửa đỏ vàng ướt át nhòe nhoẹt mưa. Trên chiếc thuyền đợi họ, người chèo co ro sau chiếc áo tơi lù xù, không ngừng xoa tay vào nhau.

Vào trong thuyền, Như Yên chỉ dựa lưng vào thành khoang mà nhắm mắt. Trong ánh sáng mờ tỏ từ chiếc đèn hạt đậu, những hạt nước nhỏ lấm tấm trên vai, trên tóc nàng vẫn chưa tan. Môi nàng tái, mất đi sắc tươi nhuận bình thường.

"Lạnh chết đi." Nàng cau mày mà buột miệng. Dầm sương lẫn mưa mù cả nửa buổi chiều, giờ hàn khí đã thấm vào đến xương.

Nghe tiếng loạt soạt khẽ, rồi mùi rượu ngòn ngọt chợt phả. Như Yên mở mắt, thấy một bình rượu nhỏ đã được đặt trước mặt. Sa vẫn cúi đầu lấy ra một bình rượu khác từ hộp gỗ góc khoang. Ở ngoài chiều nay, có lẽ y đã đi mua rượu.

Như Yên cười tươi như hoa, cầm bình rượu nhỏ lên uống cạn. Uống đến bình rượu thứ ba, nàng vẫn đưa tay đòi thêm, Sa lắc đầu.

"Ta lạnh." Như Yên bĩu môi. Không đợi y phản ứng, nàng bước tới chiếc hộp gỗ, tự tay lấy bình rượu khác. Mắt nàng chợt bắt gặp một bông hải đường[2] đỏ tươi nằm trong hộp. Hoa có nhụy lớn màu vàng, cánh dày tròn xếp lên nhau đều đặn còn ướt nước, hẳn là vừa được hái.

"Ngươi hái à?" Như Yên cầm bông hải đường lên, quay lại phía Sa mà cười. Y chầm chậm gật đầu. Như Yên bất chợt cau mày. "Sao không đưa cho ta, hay ngươi định đem cho ai?"

Phản ứng này có lẽ là ngoài liệu định của y, khiến y chỉ biết lắc đầu. Như Yên cười, đưa đóa hoa về trước.

"Ngươi gài lên tóc cho ta." Nàng vừa nói vừa ngả người tới. Thuyền lắc nhẹ. Những sợi tóc trên trán nàng gần như chạm vào cằm y. Hương thiếu nữ thơm như hoa. Ngón tay y cầm lấy bông hoa chạm vào đầu ngón tay nàng lành lạnh. Mái tóc nàng cũng lạnh, những sợi tóc cọ vào bàn tay y mềm như tơ.

"Tay ngươi lạnh quá." Như Yên bất chợt nói, quay đầu. Bàn tay y đang để trên tóc trượt qua má nàng. Hơi thở lướt qua như cái chạm khẽ của đôi môi nhỏ. Y vội vàng rút tay về. Như Yên nhướng mày nhìn y, cười nhẹ. Nàng lại lấy ra một bình rượu, chầm chậm uống.

Còn hận ý là còn nhiệt tâm. Đã có sở ái, tất có truy cầu. Không truy cầu yêu cũng như hận, dửng dưng nhìn dòng nước trôi qua. Rồi tháng ngày cũng chẳng đổi thay được nữa.

Thuyền bất chợt lắc mạnh cùng với một tiếng va chạm lớn. Người chèo kêu khe khẽ. Như Yên vội vàng kéo màn trúc nhìn ra. Đầu thuyền của họ đã đâm vào một chiếc thuyền khác. Chiếc thuyền kia không treo đèn, trong bóng tối khó lòng nhận thấy. Triều đang dâng cùng mưa lớn, nước chảy mạnh, chiếc thuyền kia hẳn đã lao ngang qua đường đi của họ.

"Tên khốn nào thế?" Tiếng người chợt vọng từ trong chiếc thuyền tối trước khi người bên kia hung hăng vạch màn lao ra. Ánh kim loại lóe lên trong mưa.

"Sa." Tiếng của Như Yên chưa dứt, chiếc bóng xám đã vút về phía đầu thuyền. Thanh đao trên tay y vừa kịp cản lại kiếm của kẻ thuyền bên lướt ngang đến cổ người chèo. Kẻ ấy bị hất lui lại một bước, thanh kiếm chợt vòng về phía trước, móc từ dưới lên điểm vào vai Sa. Chiêu thức nhanh đến mức y cũng phải nhảy ngược ra sau né tránh.

Thanh kiếm cong cong, dài hơn bình thường, lấp loáng sắc như nước, tỏa sáng cả trong bóng tối, chĩa về trước. Không nói không rằng, người bên kia nhảy lên thuyền. Kiếm trong tay gã sả xuống Sa như quyết chặt y làm đôi. Biết gặp phải đối thủ lợi hại, Sa cũng không nương tay, đao trên tay y phạt ngang. Nghe "Roảng" một tiếng, thanh kiếm kia bị chém gãy, hất văng lên trời.

"Tiếc quá!" Tiếng Như Yên trong khoang thuyền vang lên trong khi kẻ kia nhảy lùi về sau. Nàng đã cầm đèn mang ô bước ra sàn thuyền, nheo mắt nhìn kẻ gây sự. "Kiếm của Nhật Bản chúng ta mất bao nhiêu tiền mới mua về được, không phải để đem đi gây sự giết người vô cớ."

Cầm trên tay thanh kiếm gãy, kẻ kia quắc mắt nhìn lại thiếu nữ áo đỏ. Ánh sáng từ ngọn đèn tù mù đầu thuyền soi sáng một gã thanh niên chỉ trạc tuổi Sa, mi thanh mục tú. Nếu không bị cơn giận cùng sự bối rối làm các đường nét trở nên méo mó, gã hẳn là một thiếu niên đẹp đẽ. Nhìn rõ diện mục gã, Như Yên chợt cau mày. Nàng thu đèn vào trong áo khoác, hất đầu với Sa.

"Nhấn chìm thuyền, hất kẻ này xuống sông." Tiếng nói rõ ràng, pha chút bực dọc. Không hỏi, thậm chí không quay đầu lại, Sa cúi mình nhặt sợi dây ràng với mỏ neo cuốn ở đầu chiếc thuyền ngáng đường, vung tay quật mạnh. Cái mỏ neo đập vào thân thuyền, ở nơi chìm dưới mực nước. Chiếc thuyền vang lên tiếng gãy vỡ răng rắc khi vết nứt lan từ dưới lên, tách đôi thân thuyền. Không để kẻ kia kịp phản ứng, Sa nắm cổ áo gã, chỉ một cái quạt tay đã ném gã xuống dòng nước tối.

Chiếc thuyền đang nửa nổi nửa chìm theo dòng nước mà cuốn phăng đi. Theo lệnh Như Yên, người lái vội vã chèo khỏi nơi mà gã thanh niên bị ném xuống vẫn không ngừng quát tháo. Cũng may cho gã, thuyền của họ đi gần bờ, có thể bình an bơi vào.

"Ai vậy?" Sa nhẹ nhàng nói khi hai người đã lại rút vào trong khoang thuyền. Như Yên lấy tay áo lau nước mưa trên mặt y.

Hẳn nhiên, mệnh lệnh của nàng hiếm khi vì những tức bực bình thường.

"Nguyễn Phúc Huệ, con trai của cố Thế tử." Như Yên mơ hồ cười. Nàng nhún vai trước vẻ mặt của Sa. "Gã chẳng làm gì ta được đâu. Bây giờ gã có vào phủ chúa kêu oan cũng chẳng ai tiếp. Chánh phu nhân của chúa, bà nội của gã, đã mất hai năm trước rồi.

"Gã không vào phủ thì ta vào. Đem thanh kiếm này đi." Như Yên cười, đưa tay lên, trong tay áo nàng là lưỡi kiếm đã bị chặt gãy bay đến dưới chân. "Hình bộ Lại bộ Tả quân Nội điện gì thì ta cũng phải làm cho ra lẽ. Được giữ kiếm Nhật Bản trong vùng đất này cũng đâu có bao nhiêu người."

Dù Hoằng Ân hầu đã nói như thế, nàng đâu có thể dễ dàng bỏ qua một cái gai ngay trước mắt. Chưởng cơ Nguyễn Phúc Huệ nửa đêm chặn thuyền gây sự, vô cớ rút kiếm đòi chém người, thử hỏi người ta sẽ nghĩ sao trong hoàn cảnh này?

"Gã sẽ không bỏ qua." Sa thận trọng nói. Y hiểu tính khí của các hoàng thân quốc thích ngông cuồng như thế này. Bị một cô gái dìm thuyền ném xuống sông, gã có bơi được vào bờ thì cũng phải lùng tìm cho được kẻ đã hạ nhục mình.

"Đêm nay chúng ta thức vậy." Như Yên vẫn thản nhiên cười. Sự việc càng lớn càng hay.

Thuyền ngược dòng triều lên, chầm chậm trôi. Vừa cập bến đầu làng Phú Xuân, họ đã thấy vô số ánh đèn hắt lại từ đầu nguồn trên rất nhiều chiếc thuyền đang tới. Muốn sống thì đến nhà đầu làng gọi người ra đây, Như Yên nói với người lái thuyền đã run lẩy bẩy. Một tay cầm ô, một tay cầm bình rượu hoa cúc, nàng đứng trên bờ cỏ lau mà đợi. Sa đứng cạnh nàng, vẫn im lìm như đá tảng.

Thuyền dù sao vẫn chậm hơn đường bộ. Khi bóng thuyền đã rõ trong tầm mắt, Bát Hôi Ngư, Lâm Phi, Mạc Kinh Vũ lẫn Hiểu Lam đã ra bến. Tên lái thuyền hẳn đã bị sợ hãi làm cho quẫn trí nói năng không rành mạch. Trên tay Hiểu Lam còn cầm cả một hộp cứu thương thường có trong các hộ dân.

"Cơ hội cho các người chứng tỏ tài năng đây." Như Yên phất tay nói với chín tên cựu hải tặc. "Những kẻ kia đang muốn tấn công ta."

"Ai vậy?" Hắn nhướng mày hỏi. Trên đất kinh thành này lại đi tấn công con gái nuôi của chúa, tưởng không có bao nhiêu người.

"Không cần ngươi ra tay. Hai người lui." Như Yên trừng mắt. Câu hỏi của hắn quả là làm phiền nàng. Nhưng Bát Thanh Ngư cùng Lâm Phi đã nghe được về thân thế của Như Yên, không dám coi thường lời nàng, cũng nôn nóng muốn lấy lòng cô con gái nuôi của chúa này, đã lao về phía rặng tre.

Vũ khí của hải tặc sử dụng trên thuyền là các thanh đao gắn vào thân tre dài, hay các côn gậy dài gấp ba bốn lần bình thường. Không giống như giáp chiến trên bộ, các chiếc thuyền khi di chuyển thường có khoảng cách nhất định, dùng vũ khí dài để hạ địch khi còn ở khoảng xa. Các loại vũ khí tầm xa cũng vì thế mà phát triển. Như quân đội Nam Hà được đặc biệt chú trọng huấn luyện về cung nỏ và súng. Nhưng trong cuộc truy bắt khẩn cấp này, quân trên thuyền hẳn chỉ là quân bộ.

"Hạn chế thương vong." Như Yên vội nói khi nhìn thấy những cành tre đã được đem ra. Quân này cũng là của triều đình. Nếu lạm sát họ, người gặp rắc rối sẽ là nàng.

Nhưng Bát Hôi Ngư coi như đó chỉ là lòng nhân từ của 'công nữ', một tay tre một tay đao đã sẵn sàng xông trận. Như Yên liếc mắt nhìn lại hắn cùng Hiểu Lam vẫn đứng gần đó, hắng giọng.

"Hai người về đi." Hắn là kẻ chuyên môn gây phiền phức, Hiểu Lam thì lại không hiểu chuyện, gặp việc này không biết sẽ phản ứng thế nào. Để Hiểu Lam quay về ở nhà một mình thì không ổn, hắn tốt nhất nên đi theo.

"Sao để mọi người bị nguy hiểm được?" Hiểu Lam vội cãi, nhìn theo những chiếc thuyền đến ngày càng gần. Số quân này hẳn phải đến hàng chục người, dù có Bát Hôi Ngư, Lâm Phi cùng Sa ở đây, nhìn thôi cũng đã thấy chênh lệch. Vừa rồi nghe Như Yên nói không được lạm sát, cảm tình của Hiểu Lam ngây thơ này với cô tiểu thư xa lạ kia tăng thêm mấy phần.

"Chu cô nương sao giúp được?" Như Yên cười. Hiểu Lam liếc mắt trở lại.

"Thế Như Yên cô nương ở đây làm gì?" Nàng ít ra còn biết võ công. Như Yên ngoài mấy món vũ khí phòng thân ra hoàn toàn là một cô gái trói gà không chặt.

"Ta đứng ngoài, nếu có việc gì sẽ giúp." Hắn vội vã lên tiếng ngăn hai cô gái. Tiểu yêu tinh này quả nhiên lại ra ngoài gây chuyện. Việc này chẳng rõ tốt xấu, tốt nhất không nên liên can. Tình hình triều Nguyễn rối rắm, nàng ta đang xách động khởi binh tạo phản không biết chừng. Dù gì cũng là cháu Nguyễn Phúc Trung, làm sao với vị chúa hiện tại có cảm tình cho được?

Họ còn đang nói, đoàn thuyền gỗ nhẹ đã đến đầu rặng đất. Quả nhiên là quân bộ, Như Yên nheo mắt nhìn mà nghĩ. Thuyền độc bản này được dùng để bộ quân tuần tra ven sông, đi lại trong vùng.

Bát Thanh Ngư nhảy lên những chiếc thuyền của dân đậu trong bến, hai người một thuyền chèo ra. Đến khoảng cách vừa đủ gần, một tên trên thuyền khua gậy tre đánh vào đoàn người bên kia, một tên mang dao nhảy xuống nước. Một lúc, tiếng í ới đã vọng trên đoàn thuyền. Đáy thuyền bị đục thủng, dần dần chìm xuống, có những chiếc bị xuyên đến vỡ bục cả dây ràng. Đám lính trên thuyền chìm vội vã nhảy sang những thuyền còn an ổn cho đến khi chúng lại lần lượt chao đảo. Thuyền của Bát Thanh Ngư cứ thế áp sát, siết chặt vòng vây quanh đoàn thuyền càng tiến đến càng rơi rụng chỉ còn hai ba chiếc. Những chiếc gậy tre trên tay chúng lại như con rắn cuộn mình trong bóng tối, thu phát tùy ý, uyển chuyển mà dũng mãnh gạt hết kẻ này đến kẻ kia trên thuyền địch xuống nước. Võ công của Bát Thanh Ngư trên bờ chỉ tầm tầm bậc trung, nhưng trên sông biển chúng lại linh hoạt lạ thường. Chỉ có bốn chiếc thuyền nhưng tiến lui đều đặn, vây chặt bốn phương, trận pháp của gậy tre còn lợi hại hơn cả đao thương, đan nhau nhịp nhàng như tạo ra một tấm lưới vô hình bao vây kẻ địch.

Kẻ cầm chèo trên hai chiếc thuyền bảo vệ bên ngoài của thuyền lớn hơn ở giữa cuối cùng đã bị gạt bay xuống nước. Bát Thanh Ngư vẫn chỉ vây chặt thuyền lớn, không đục thủng. Dù Như Yên không ra lệnh, kinh nghiệm làm hải tặc bao lâu nay cho chúng biết nên cầm giữ chủ nhân của kẻ đối địch. Như Yên gọi chúng ra, không cho tàn sát bừa bãi, hẳn cũng không phải để chỉ đánh toán người này một trận.

Những tên đi đục thuyền đã êm thắm leo lên thuyền trở lại. Lâm Phi vẫn đứng trên thuyền cạnh bờ như đợi lệnh của Như Yên. Nàng cũng đã bước đến mép nước. Nhưng nàng không nhìn trận chiến của Bát Thanh Ngư. Mắt nàng dõi vào bóng tối bên kia dòng sông. Trong bóng sáng của những ngọn lửa chớp tắt, nước đang đổi dòng, sóng gợn lăn tăn từ bờ kia tiến lại.

"Gọi họ về!" Như Yên bất chợt thất sắc nói lớn. Cùng lúc với bóng đen lướt đến từ trong dòng sông tối.

Chú thích:

[1] Lề luật kế vị của các chúa Nguyễn là "ưu tiên dòng chính". Dòng chính ở đây là con của vợ cả. Khi vợ cả có con trai, đứa con ấy dù là thứ mấy trong nhà vẫn được ưu tiên hơn. Nếu con trai của vợ cả chết thì quyền ưu tiên này lại đến lượt cháu của người vợ cả. Vợ cả không có con trai, cháu trai thì mới đến lượt con của vợ lẽ.

Như đã thấy, phong tục này gây ra rất nhiều vụ tranh chấp "chú-cháu" sau này như Phúc Tần - Phúc Trung, Phúc Thái, Phúc Chu với dòng dõi Phúc Diễn, rồi cả Phúc Thuần - Phúc Dương, Minh Mạng - Mỹ Đường...

[2] Hoa hải đường mà ở Huế hay gọi có lẽ nên gọi chính xác là trà mi. Đại Nam nhất thống chí viết: "Theo Quần phương phả thì hải đường có bốn loại, là chiêm cánh, tây phủ, thuỳ lục và mộc qua, ngoài ra lại có hoa vàng loại hoa thơm, nhưng đều là cành mềm, hoa nhỏ, hoặc sắc vàng, hoặc đỏ lợt, hoặc như yên chi, chỉ có mấy sắc ấy thôi. Hải đường phương nam thì cây cao, lá to vừa dài vừa nhọn, hoặc sắc đỏ tươi, ruột có nhị, cánh to mà dày, lúc nở đẹp hơn hoa phù dung, nên tục gọi là 'sen cạn'; so với hoa hải đường ở đất Thục thì đẹp hơn nhiều, tựa hồ phương Bắc không có giống hoa hải đường này, cho nên những lời trước thuật có khác. Còn như nói rằng 'hoa đẹp lá tươi, mềm mại như xử nữ, hây say như Dương Phi say, yểu điệu như Tây Tử' thực chưa hình dung hết được vẻ đẹp của hoa ấy. Năm Minh Mệnh thứ 17 khắc hình tượng vào Nghị đỉnh."

Hồi 32: Phản công

Bóng đen hiện hình rõ dần khi lọt vào vùng sáng. Cánh buồm trương căng trong gió, cao lừng lững, đầu thuyền vẽ hình long phụng, chiếc tàu chiến của Nam Hà lướt nhanh gấp đôi gấp ba thuyền bình thường. Lâm Phi cho hai ngón tay vào miệng, huýt một tiếng lanh lảnh. Bát Thanh Ngư vội vã lấy cành tre làm chèo đưa thuyền trở vào bờ. Nhưng chúng vẫn không nhanh bằng chiếc thuyền kia. Vừa vào tầm bắn, từ sàn thuyền, tên đã rào rào trút xuống bốn chiếc thuyền nhỏ đang chạy trốn. Bát Thanh Ngư vội nhảy xuống nước, lặn một hơi vào bờ.

Chiếc thuyền chiến vẫn không ngừng lại. Để chiếc thuyền bị bao vây ở lại giữa dòng sông để vớt người, nó nhanh chóng cập vào bờ nơi bọn họ đang đứng. Bát Thanh Ngư vừa lóp ngóp lên bờ liền vội vàng chạy đến rặng tre, định đốn hạ thêm vài cây khác làm vũ khí.

"Khoan!" Như Yên vội hét. Nàng đã nhìn thấy cờ hiệu dinh quan thống suất trên thuyền, vội vã bước ra trước bờ đất, cất giọng rành mạch nói với chiếc thuyền vừa cập bờ. "Tứ nữ Ngọc Phương xin hỏi đang xảy ra chuyện gì?"

Trong một lúc, người trên bờ cũng hơi ngẩn ra. Tất nhiên, Như Yên không phải là tên thật của nàng. Người trên thuyền ngoảnh đầu nhìn nhau, những chiếc cung nỏ đã lên dây hơi hạ xuống. Đám lính trên thuyền vẹt ra nhường đường cho một ông lão tóc bạc trắng bước tới lan can nhìn xuống Như Yên.

"Ngọc Phương công nữ? Người đáng lẽ phải hỏi đang xảy ra chuyện gì là ta." Ông lão 'hừ' nhẹ, đứng thẳng mà nhìn qua chóp mũi. Rõ ràng ông ta không coi cô công nữ này vào đâu. "Thuyền của phu nhân ta đi thăm chúa trở về lại bị tấn công, công nữ định tạo phản à?"

"Thuyền của phu nhân?" Như Yên chớp mắt, nhìn ra chiếc thuyền lớn vẫn đậu giữa sông. Tiếng lao xao từ đoàn lính bị hất xuống nước vẫn còn vọng lại. "Vân Long hầu gia, tiểu nữ hiểu lầm."

"Hiểu lầm?" Ông lão được gọi là Vân Long hầu nhướng mày, phì ra một tiếng khinh miệt. "Hiểu lầm mà đã định giết tất cả chúng ta? Nếu ta không sực nhớ ra rằng thời điểm này quá nguy hiểm mà đi theo hộ tống gia đình ta về, có lẽ giờ này họ đã làm mồi cho cá. Chúa còn chưa nhắm mắt, có kẻ đã định làm phản giết cả nhà lão nạp."

"Không phải như vậy, hầu gia." Như Yên vẫn nửa mềm mỏng nửa van cầu nói. "Tiểu nữ cũng vừa đi thăm chúa thượng về, trên đường bị một chiếc thuyền chặn đường định giết người. Dù chạy thoát được, tiểu nữ thấy loạt thuyền đi theo mình, tưởng đâu là bọn sát nhân kia nên mới nhờ thuộc hạ giúp đuổi chúng đi, nào ngờ là thuyền của hầu gia."

"Chặn đường giết người?" Vân Long hầu cau mày. "Trên đất này mà kẻ nào dám vô pháp vô thiên như vậy?"

"Tiểu nữ cũng không rõ, chỉ có thanh kiếm của gã bị chặt đứt ở đây." Như Yên vội đưa lưỡi kiếm nàng đã nhặt được ra. Không thể nói nàng đã nhận được Nguyễn Phúc Huệ lại ra lệnh ném gã xuống sông, chỉ có thể nhờ thanh kiếm này vạch mặt gã. Kiếm của Nhật Bản mỗi thanh đều có dấu ấn riêng, kiếm sư trong Lệnh sử đồ gia[1] rất dễ dàng nhận biết lai lịch và chủ nhân của thanh kiếm ấy.

Một tên lính trên thuyền đi xuống nhận lấy mảnh kiếm trên tay Như Yên, đưa về cho Vân Long hầu. Ông ta cầm thanh kiếm lên ngắm nghía một lúc, rồi lắc đầu.

"Đây không phải là kiếm của Nhật Bản, chỉ là thanh kiếm nhái." Đã chinh chiến bao lâu nay, với các loại vũ khí, Vân Long hầu cũng có hiểu biết không kém gì các kiếm sư. "Kiếm Nhật Bản cứng rắn sắc bén nhất thế giới vì kỹ thuật rèn kiếm đặc biệt của họ. Lưỡi kiếm của họ có ba lớp. Lõi bên trong là sắt thô với thép lá, vỏ bao là sắt non và thép lá. Vỏ lưỡi kiếm được cắt đôi, sau đó ghép lại với nhau, tạo thành đường vân. Mỗi thanh kiếm đều có loại vân khác nhau. Ở lưỡi kiếm còn có các hạt thép phát sáng. Thanh kiếm này chẳng những không có hạt phát sáng mà ngay cả vỏ bao cũng không được rèn khớp với lõi, nhìn ở đường cắt này có thể thấy ngay. Nếu là kiếm Nhật Bản thật, ta cho rằng công nữ không thể làm gãy nó dễ dàng như thế."

"Có còn bằng chứng nào khác để ta truy lùng kẻ càn rỡ ấy cho công nữ?" Vân Long hầu chợt hỏi, mắt nheo lại. "Vùng này bây giờ được tăng cường canh gác, không người lạ nào có thể lọt qua. Không phải gã đã biến mất vào không khí chứ?"

Giọng điệu giờ đã chuyển về sự nghi ngờ. Rõ ràng ông ta đang cho rằng Như Yên bịa chuyện. Nàng cúi đầu thở dài.

"Kẻ đã trốn mất rồi thì còn làm gì được nữa. May ra còn chiếc thuyền mà tiểu nữ đánh đắm trôi theo dòng, có ai ở cuối nguồn bắt được chăng."

"Đánh đắm cả thuyền tấn công?" Vân Long hầu bật cười. Ông ta nhìn lại toán người đằng sau cô gái. Dù tranh tối tranh sáng, không khó khăn để nhìn ra y phục, kiểu cách khác lạ của họ với người bản xứ. "Ta nghe nói công nữ ở Hội An, không ngờ cũng tập hợp được những tay anh tài. Vừa rồi đánh đắm cả đoàn thuyền, ta nhìn giống y như kỹ thuật của bọn Tề Ngôi Đông Hải."

"Bọn họ chỉ là thị vệ quen việc của tiểu nữ." Như Yên đã đánh hơi thấy sự nguy hiểm. "Những gì có lợi thì không thể không học hỏi, kỹ năng thủy tính của bọn họ cũng như thế mà thôi."

"Có một đoàn thị vệ lợi hại như thế, công nữ thật không tầm thường." Vân Long hầu vẫn giữ nụ cười cứng nhắc. Ông ta phất tay. "Ta tạm tin công nữ lần này. Ta sẽ đưa lại thanh kiếm cho kiếm sư xem họ có phát hiện ra lai lịch của nó không, nhưng ngày mai ta cũng sẽ phải vào báo cáo với chúa công chuyện đã xảy ra."

"Tạ ơn hầu gia rộng lượng. Ngày mai tiểu nữ xin đến vấn an và xin lỗi phu nhân cùng các công tử đã bị kinh động." Như Yên cúi mình. Không để ý đến nàng, Vân Long hầu quay người vào trong, chiếc thuyền chiến nhổ neo tiếp tục hành trình.

Như Yên cắn môi nhìn theo đoàn thuyền khuất dần vào bóng tối. Nàng thậm chí không nhận ra gió ngày càng lạnh dần cho đến khi Sa đến đặt tay lên vai nàng.

"Ta về thôi." Y nhẹ nhàng nói. Như Yên gật đầu. Bát Hôi Ngư dầm nước lạnh đã vội vã về trước thay áo. Năm người còn lại chầm chậm đi dưới những tán trúc. Mưa đã tạnh, nhưng gió đêm se sắt đến buốt cả hơi thở.

"Có chuyện gì vậy?" Hiểu Lam không ngăn được tò mò mà cất tiếng hỏi. Như Yên bật cười khẽ.

"Ta bị lừa." Nàng cắn môi, trông có vẻ thực sự tức giận. "Ta say mất rồi. Lẽ nào lại có kẻ tự dưng chắn thuyền, tự dưng giết người, rồi lại tự dưng mang theo một thanh kiếm Đông Doanh dễ nhận ra đến thế."

"Dù ta không ném gã xuống nước, có đoàn thuyền của gia đình Vân Long hầu đi phía sau, gã cũng sẽ làm cách nào đó để ta đánh lạc sang họ thôi." Sa trầm mặc nói. "Lần này ta không phải hỗn chiến mờ mắt, chủ động được không làm thương tổn ai, âu cũng là may mắn."

"Gia đình lão Vân Long hầu ấy ra sao thì mặc kệ lão chứ." Như Yên có vẻ không nhận thấy ý an ủi của Sa, nàng cáu giận vặc lại. "Ít ra đánh lầm thì còn có chứng cớ, bây giờ lão lại đang nghi ngờ ta cố tình gây chuyện. Ôi, lão già ấy ngươi không biết đâu, Chiêu Vũ hầu còn bị lão cho vào tù đấy."

Thống suất Cựu dinh Nguyễn Phúc Tráng là kẻ vốn không thể đụng vào. Chúa Hiền lên ngôi, gọi Triều Văn hầu ở Trấn Ninh về, thay Tráng đến. Từ đó giữa gia tộc Triều Văn hầu và Vân Long hầu đã có hiềm khích. Một lần Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật phòng thủ dinh Bố Chính cho lính may mũ áo của quân Bắc Hà, gửi thư cho chúa Trịnh giả làm nội ứng để hòng làm rối loạn quân Trịnh, Vân Long hầu Nguyễn Phúc Tráng biết tin liền báo cho chúa, nói rằng Hữu Dật định làm phản, trở về Bắc. Nguyễn Hữu Dật bị bắt vào ngục, chỉ nhờ làm tập Hoa vân cáo thị dâng lên mà chúa xá tội cho.

Ngày nay Hoằng Ân hầu thân thiết với gia tộc Triều Văn, bốn người con trai của Nguyễn Hữu Dật đều giữ chức lớn nhỏ trong triều, Vân Long hầu hẳn nhìn không thuận mắt. Lần này nàng lại gây ra chuyện với gia đình ông ta, chẳng khác gì đem rắc rối đến cho vị Thế tử còn chưa kịp lên ngôi kia. Vào báo cáo với chúa công, đó hẳn nhiên là một câu đe dọa.

Mà nàng lại có thân phận thế nào? Cháu gái của kẻ phản thần. Bí mật tập hợp lực lượng, đe dọa an nguy của hoàng thất, sự chú ý của Vân Long hầu đến các tùy tùng của nàng chỉ mang ý nghĩa như thế.

"Ôi!" Nàng đưa nắm tay gõ vào trán trong cơn giận dữ thất vọng cực độ. Kinh thành vốn là chốn thế nào? Hoằng Ân hầu đã dặn nàng không gây sự. Chỉ vài ngày nữa là y có thể êm thắm lên ngôi, sao nàng lại gây ra sự tình này? "Nguyễn Phúc Huệ, ta sẽ phân thây ngươi. Ta sẽ ném ngươi vào chuồng heo, cho heo ăn thịt ngươi, cho ngươi sống không được chết không xong. Ngươi dám lừa ta."

Những người xung quanh Như Yên đưa mắt nhìn nhau. Hồ ly tinh mà cũng có lúc bị cho vào bẫy?

"Cô tưởng người xung quanh ai cũng ngốc đấy mà." Hắn khoanh tay buông một câu. Cô nàng này suốt ngày đi lừa người, cớ gì mà giận đến phát điên khi bị kẻ khác lừa? Ngông nghênh quá hẳn nhiên có lúc tự hại mình. Trán nàng ta nơi bị gõ vào đã đỏ ửng lên.

Như Yên quắc mắt nhìn hắn. Hắn chẳng thèm liếc mắt lại nàng ta.

"Đã biết ai là kẻ chủ mưu thì đi mà tìm cách giải quyết, ngồi tức để làm gì?" Hắn thản nhiên nói. Rõ ràng là tiểu yêu tinh này lần đầu mắc lừa, tức đến nỗi che mờ cả lý trí. Chưa đến lúc cuối cùng, không thể nói là không thể lật ngược tình thế.

"Đi bắt kẻ tên là Nguyễn Phúc Huệ kia về?" Lâm Phi đề nghị. Như Yên bật ra tiếng cười ngắn.

"Gã chịu nhận sao? Dù sao cũng là dòng chính của chúa, Hoằng Ân hầu cũng phải nể mặt. Ta không đụng đến gã được."

"Tiếc là ta đã đưa thanh kiếm gãy cho Vân Long hầu, nếu không hẳn cũng theo chất liệu rèn mà tìm được nơi làm." Hiểu Lam nói, nhưng Như Yên vẫn lắc đầu.

"Năng lực của Lệnh sử đồ gia, gã hẳn còn rõ hơn cả ta. Gã đặt một thanh kiếm ở Nam Dương, Đại Thanh hay Đại Thành, Hạ Châu thì ta không có cách nào tìm được. Gã hẳn đã lường trước cả rồi. Bây giờ chúng ta có hành động ám muội nào thì sẽ lọt ngay vào bẫy của gã, càng tệ thêm. Thậm chí..."

Như Yên chợt ngừng lời. Nàng nhíu mày, rồi đột nhiên cười khúc khích.

"Nhưng gã tưởng ta là ai chứ? Tứ công nữ[2] dễ để cho người ta bắt nạt thế sao?"

Vào lúc nửa đêm, phủ đệ của quan Trấn thủ dinh Phú Xuân bất chợt lại có khách đến đánh trống ngoài cửa. Tứ công nữ cùng mấy kẻ thuộc hạ đường hoàng đi vào nha môn, nhận cái cúi mình kính cẩn của viên quan.

"Chúng ta bị cướp." Không đợi quan Trấn thủ hỏi, Như Yên nói ngay khi ông ta vừa thẳng lưng lên. "Lúc trời vừa tối, ta đi qua quãng sông trong địa phận này, bất chợt lại có kẻ chặn đường định hại người."

"Công nương có bị tổn hại không ạ?" Quan Trấn thủ thất sắc. Mắt ông ta nhìn vào nhà trong vừa ngạc nhiên vừa lo lắng. "Trong buổi tối nay đã có hai người báo như thế rồi."

Nhìn theo ánh mắt viên quan, Như Yên thấy một thanh niên đang ngồi bên bàn dành cho quan thẩm án trong phòng nha môn. Gã mỉm cười với nàng. Đã thay bộ quần áo khác, vẻ hung hăng cũng mất tăm tích, Nguyễn Phúc Huệ trông ôn nhu nho nhã hệt như một thư sinh.

"Chưởng cơ cũng ở đây?" Như Yên cười hỏi. Thế nào mà gã lại chẳng chạy đến đây làm ầm lên rằng bị tấn công. Cùng với chuyện Vân Long hầu bắt gặp nàng tấn công thuyền của gia đình ông ta, bao nhiêu tội lỗi nghi ngờ chẳng phải được đẩy hết cho nàng? Trước phủ chúa, dù có mười cái miệng nàng cũng không thể chống chế được.

"Chiều tối nay Chưởng cơ lúc đi du thuyền cũng bị thuyền lạ tấn công, hất ngài xuống nước." Quan Trấn thủ nói. Nhưng Như Yên không để ý đến ông ta, nàng bước vào nha môn. Nguyễn Phúc Huệ vẫn ngồi yên, bàn tay cầm ly trà cũng không động, chỉ khẽ gật đầu.

"Tứ công nữ." Gã nói như chào. Như Yên nhướng mày.

"Xét theo vai vế, ngài Chưởng cơ đáng lẽ nên gọi ta một tiếng cô cô." Không phải nàng chú trọng tiểu tiết, chẳng qua chỉ đang muốn nắn gân tên thanh niên dám cho nàng vào tròng này.

"Mấy năm không gặp, cô cô thật là đẹp." Quả nhiên gã vẫn mang nụ cười lịch sự mà trả lời nàng. Trong ánh đèn sáng, gã quả thật là tuấn tú, tuy trong đôi mắt có mấy phần phóng đãng kiêu ngạo. "Hèn gì cháu vẫn nghe người trong vùng nói với nhau: Năm xưa Chưởng dinh Phúc Trung thông gian với mỹ nhân nổi danh Đàng Trong Tống Thị, không biết có để rơi rớt lại nghiệt chủng nào không?"

Lời nói khinh khi nhưng giọng điệu vẫn rất nhẹ nhàng, nghe như có âm điệu ngân nga. Tống Thị là con dâu của một người trong họ, chồng mất sớm phải đến nương tựa nhà chúa rồi được chúa Nguyễn Phúc Lan cất nhắc. Chúa Thượng mất, Tống Thị dan díu với Nguyễn Phúc Trung, cho người báo tin ra Bắc định liên kết cùng chúa Trịnh làm phản. Mỹ nhân khuynh đảo cả hai đời chúa này có một kỹ thuật tạo hương gọi là vòng Vạn hoa kết bằng nhiều loại hoa tươi. Mùi hương vòng hoa có thể khiến đàn ông như say như ngây, bị hút vào thì không thể cưỡng ra. Chúa đặt tên cho nàng là Ngọc Phương, giờ gã đang đem cái tên ấy ra chế giễu.

"Giọng của Chưởng cơ nghe cũng thật hay." Như Yên vẫn thản nhiên cười. "Nghe nói năm xưa bà của ngài đi hái dâu mà hát: 'Tai nghe chúa ngự thuyền rồng. Thiếp thương phận thiếp má hồng nắng mưa.' Chỉ có mấy câu hát đã được đưa vào cung, quả là chất giọng động tâm lạc phách người."

"Công nữ, thuyền bọn cướp thế nào?" Viên quan Trấn thủ vội xen vào cắt ngang qua những lời móc mỉa của hai hoàng thân quốc thích ở trong nha môn. Nửa đêm lần lượt đến cáo giác đã làm cho người ta kinh hãi, giờ lại lôi cả họ hàng ra dằn mặt nhau, nếu kẻ nào để lọt một lời này ra ngoài cũng đủ bay đầu.

"Ta để lạc mất nó." Như Yên thở ra. "Nhưng sau này ta đem thuộc hạ về quãng sông ấy tìm lại được chiếc thuyền của nó mà ta đánh đắm."

"Ta là Tứ công nữ, có cây kim rớt xuống sông ta cũng phải tìm được. Thuộc hạ của ta có mấy người rất giỏi thủy tính." Nàng ngừng lại một khắc rồi mỉm cười nói, như trả lời cho ánh mắt nghi hoặc từ góc phòng. "Họ nhìn đường chảy, tốc độ chảy của nước, xem xét các luồng nước, hướng gió rồi khoanh vùng tìm kiếm. Vất vả cả một đêm, cuối cùng chúng ta đã tìm ra, kéo về đây, để ở bến trước nha môn rồi. Cảm phiền quan Trấn thủ xem xét lấy lại công bằng cho ta.

"Mấy ngày nay, vùng Kim Long Phú Xuân bị phong tỏa, vốn không có thuyền lạ nào vào được, huống hồ là vào lúc chiều tối, chợ đã tan, người đã vãn. Thuyền này chắc chắn là của người trong vùng, chỉ cần nhìn cách đóng, loại gỗ được dùng thì có thể xác định nó từ xưởng thợ, đoàn thợ nào ra. Chưa nói đến những vật dụng có thể còn trong thuyền." Như Yên chầm chậm nói, nụ cười ngời sáng với viên quan Trấn thủ cũng đã tươi tỉnh mặt mày, gật đầu nhè nhẹ. Nàng từ tốn đưa tay lên, lấy trong tay áo ra một mảnh ngọc xanh còn nguyên dây đeo. "Ta bắt được vật này trong thuyền, nhưng còn điểm khả nghi, xin để ta đi trình chúa trước rồi gửi lại cho quan Trấn thủ điều tra."

Tiếng ghế góc phòng xê dịch khe khẽ. Như Yên nói với viên quan thêm vài câu nữa rồi dẫn ông ta ra ngoài bến chỉ cho chiếc thuyền ướt đã được kéo lên bãi. Xong việc, nàng cáo từ ông ta mà thậm chí không liếc về phía người ngồi trong góc.

Gã vẫn cúi đầu nhìn ly trà đã lạnh.

Mưa lại mạnh lên rồi ngớt, cứ thế rỉ rả cho đến khi trời sáng. Chút ánh sáng mờ nhạt không hắt qua nổi chân trời mờ mịt mây. Toán lính canh phòng ngoài bãi đất đã ngả vào nhau nửa thức nửa ngủ. Quãng thời gian gần sáng này là lúc con người kiệt lực, chìm vào giấc ngủ say nhất.

Hiển nhiên, kẻ che mặt kia vì thế mà tới.

Bằng những bước chân nhẹ như mèo, gã lướt qua đám lính canh trong chòi, hất một túm bột trăng trắng lên họ. Không kịp phản ứng, đám người ngã lên nhau mà ngủ. Một tay lăm lăm thanh kiếm cong dài, gã thận trọng bước tới phía chiếc thuyền có một lỗ thủng lớn trên thân đang nằm chơ vơ trên đất trống.

"Trời lạnh có tí lửa sưởi cũng tốt." Tiếng nói chợt vang lên trong khoang thuyền khi gã bước tới gần. Một tên thanh niên ló đầu ra khỏi lớp chăn dày, cười với gã. "Nhưng ta chưa muốn chết cháy."

Lời chưa dứt, gã chưa kịp giật mình, thanh kiếm trắng như tuyết đã phóng ra. Hắn không có ý định đả thương người, chiêu thức này chỉ để hù dọa. Gã đảo người tránh kịp. Thanh kiếm dài móc vòng từ sau lưng gã đâm về trước.

Thanh kiếm vốn đã dài gấp rưỡi kiếm thường, chiêu thức lại kỳ dị khiến hắn cũng phải bắn ngược người trở lại. Võ công gì thế này? Hắn không khỏi tự hỏi khi đánh nhử với gã thêm mấy chiêu. Vừa như võ công Hoa Nam vừa có những chiêu chặt, lia giống hệt như võ Đông Doanh, lại biến chuyển kỳ ảo, như thể tùy tiện mà xuất ra. Nhưng không như Tuyết Hoa kiếm nhu hòa hoa mỹ, kiếm pháp này vừa dựa vào sức mạnh của kiếm vừa dứt khoát tinh chuẩn. Những ngày ở Giang Nam, hắn tưởng mình đã chứng kiến tất cả võ công có trong khu vực khi người từ mọi vùng đất, quốc gia đều đổ về tham chiến, không ngờ lại còn có thứ võ công này.

Nhưng kiếm pháp lợi hại có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào người sử dụng. Đối thủ của hắn thấp tròn, tay hơi ngắn so với kiếm, tốc độ cũng không đủ linh hoạt. Chỉ qua chục chiêu, gã đã bị lấn lướt dần. Tuy vậy, gã vẫn không có ý muốn rời đi. Vừa kịp quay mặt lại phía chiếc thuyền, gã không đừng được mà liếc nhìn nó. Bọn hắn đã di chuyển ra xa hẳn chiếc thuyền trên bãi.

"Muốn phá nó? Không phải đợi." Thấy ánh mắt gã, hắn đột nhiên cười. Lời vừa dứt, tiếng nổ đã vang vọng toàn bến. Chiếc thuyền nổ tung, bốc cháy rừng rực.

"Biến không thành có."[3] Hắn vẫn cười mà nói. Gọi người ra làm rộn cả quãng sông là thật, nhưng Bát Hôi Ngư cũng không phải là thần thánh để tìm được chiếc thuyền chìm trong đêm tối mịt mù này. Đem một chiếc thuyền có hình dáng tương tự ra đập vỡ rồi bỏ xuống sông, cho người vớt lên, đến phủ quan Trấn thủ báo cáo ầm ĩ - Chính là đợi người tới hủy chứng cứ.

Gã kia chớp mắt, cũng như vừa chợt hiểu ra. Thanh kiếm vội đánh nhanh như gió rít, định kiếm đường chạy thoát. Nhận ra ý định của gã, hắn cũng sử chiêu Tùy Phong Đới Vũ bao bọc bốn phía, dồn ép đối thủ không cho chạy thoát. Nếu bắt được gã, việc truy hỏi sẽ dễ dàng hơn nhiều. Vật chứng không bằng nhân chứng.

Quân lính từ trong phủ quan lẫn người dân xung quanh nghe tiếng nổ cũng đã chạy ra. Dùng một lượng thuốc nổ lớn như vậy để hủy thuyền cũng chỉ để tiếng vang đánh động mọi người mọi kẻ, cho hàng trăm hàng ngàn người đến chứng kiến màn "hủy thi diệt tích".

Thấy người đông, gã bịt mặt càng đánh càng luống cuống. Kiếm chiêu trên tay gã rối loạn. Liếc mắt vào trong bờ, thấy người chứng kiến đã đến đủ, có cả viên quan còn mặc nguyên áo ngủ, hắn quyết định kết thúc trò chơi. Bạch Tuyết Hồi Phiêu[4] sử xuất, kiếm xoáy tròn, gần như đâm thẳng vào bàn tay cầm kiếm của đối thủ.

Trong sát na mũi kiếm hắn chạm vào bàn tay gã, tiếng 'viu' nhỏ như muỗi kêu vang trong gió. Hắn vội vàng tung người về phía sau, đúng lúc tránh được hai mũi kim lấp lánh vàng từ xa bay vút tới.

Đuôi mắt hắn còn kịp thấy một bóng áo lam vút qua bụi cây dày.

Gã bịt mặt giao đấu với hắn như sực tỉnh, phóng liền năm mũi kim tiêu nhỏ như sợi tóc ra. Trong lúc hắn lắc mình tránh, gã vội vàng bỏ chạy. Lính tráng cùng dân chúng trên bờ vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra, chỉ đứng nhìn. Hắn có hét lên bảo đuổi bắt cũng không kịp với cước bộ của gã.

Ít ra thì việc muốn làm cũng đã làm được. Hắn nhún vai, lấy cái khăn lót tay cẩn thận mà rút những cái kim châm trên đất lên. Kim ngắn chỉ bằng đốt tay, một đầu có đài nho nhỏ, hình tròn đầu phẳng, nếu ném xuống đất sẽ cắm ngược lên, giông giống kiểu đinh rải của bọn nhẫn giả[5] Đông Doanh.

Người trên vùng đất này quả thật là kỳ dị. Hắn thở ra, quấn những mũi kim vào khăn. Dù sao thì kẻ sử dụng loại kim này làm ám khí cũng đâu có bao nhiêu người.

Chú thích:

[1] Lệnh sử đồ gia: Một ty trông coi việc thu, cấp phát đồng, sắt, ngà voi, khí giới; sửa sang công đường, nhà cửa...

[2] Chúa Hiền có 3 người con gái ruột.

[3] Vô trung sinh hữu: Biến không thành có.

[4] Bạch Tuyết Hồi Phiêu: "Sầu như hồi phiêu loạn bạch tuyết". Trích Cửu biệt ly của Lý Bạch.

[5] Nhẫn giả: Ninja.

Hồi 33: Khiêu chiến

Khu sơn trang nhỏ nằm dưới núi, cửa khuất sau một hàng đào phỉ[1] hoa trắng như tuyết, cành mềm buông lơi rung nhè nhẹ trong gió. Qua một đêm mưa, những cánh hoa rơi trên cỏ ướt lấp lánh nước đọng. Trời đã xanh. Trong những tiếng chim hót ríu rít đã nghe thấy tiếng đỗ quyên.

Bên cạnh bụi đồ mi đã điểm xuyết hoa trắng, thiếu nữ mặc màu áo xanh như bầu trời, trên tóc cài một đóa hoa hải đường đỏ, đã đứng đợi từ sớm cùng người tùy tùng áo xám muôn thưở. Thấy người đàn ông tóc bạc phơ, mình mặc kim giáp nhẹ cùng vài kẻ tùy sai mở cửa trang viện bước ra, nàng ta cúi mình, cất giọng trong trong rành rẽ:

"Tứ nữ Ngọc Phương xin đến vấn an Vân Long hầu."

Vân Long hầu Nguyễn Phúc Tráng có vẻ hơi giật mình khi thấy nàng. Hơi ngẩng đầu lên, mỉm cười dịu dàng, Như Yên nói mà chỉ nhìn vào cổ áo ông ta.

"Đêm qua tiểu nữ đắc tội với phu nhân cùng hầu gia, trong lòng sợ hãi không yên, đến sớm thế này mong hầu gia thông cảm. Mong hầu gia cho phép tiểu nữ được xin tội với phu nhân, mặc cho người trách mắng thế nào tiểu nữ cũng cam lòng."

"Không cần, phu nhân ta đang nghỉ." Vân Long hầu hắng giọng. Ông ta cũng không nhìn thẳng vào cô gái trước mặt.

"Vậy tiểu nữ có thể vào trang chờ đợi?" Như Yên vẫn giữ nụ cười trên môi. Trong lòng nàng cười thầm. Rốt cuộc đêm qua trong cơn say chếnh choáng, nàng cũng không tính lầm. Hướng đi về Tây Nam Phú Xuân này chỉ có nàng cùng vài viên quan bản xứ ở, nên nàng mặc nhiên cho rằng đoàn thuyền kia là đuổi theo nàng. Vân Long hầu có phủ đệ ở cạnh phủ chúa, trong lúc họ tộc quốc gia rối việc này gia đình ông ta có chuyện gì mà đến sơn trang trong núi dạo chơi?

"À... không cần, ta sẽ báo lại với phu nhân lòng thành của công nữ." Bao lâu chinh chiến, làm việc trong quan trường cũng đủ để Vân Long hầu che giấu tất cả sự bối rối của mình. Như Yên liếc mắt nhìn lên. Nếu không có việc gì mờ ám, đêm qua ông ta sẽ để yên cho nàng mà không lập tức lôi cả bọn đến phủ chúa để tống vào ngục một đêm?

"Hầu gia, tiểu nữ muốn thưa với ngài một chuyện, có được chăng?" Như Yên đứng thẳng người, nhìn vào mắt ông lão mà nói. Không đợi ông trả lời, nàng nhoẻn cười. "Hầu gia đang vội đến Kim Long, ta nói chuyện trên đường vậy."

Trong nắng sớm, nụ cười của thiếu nữ dễ làm lóa mắt người. Vân Long hầu nửa chừng khó xử, nửa chừng muốn Như Yên rời khỏi nơi này, liền đồng ý. Vào trong khoang thuyền, nàng ngồi xuống bên chiếc bàn nhỏ. Sa cũng được lệnh ở ngoài, trong khoang chỉ có nàng và Vân Long hầu. Chậm rãi, nàng lấy trong người ra chiếc khăn nhỏ quấn vài mũi đinh có mũ tròn.

"Đêm qua tiểu nữ không đành lòng bị oan uổng nên đem người dốc sức lại quãng sông kia mò tìm, trời thương cho vớt được chiếc thuyền đã tấn công tiểu nữ. Tiểu nữ đem chiếc thuyền ấy đến nha môn Phú Xuân, định nhờ quan Trấn thủ điều tra. Không ngờ, sáng nay có kẻ đến đốt thuyền hủy chứng cớ. Thuộc hạ của tiểu nữ thấy động, nhảy ra giao chiến với kẻ ấy thì bị bắn bằng những mũi ám khí này." Như Yên từ tốn kể, đặt chiếc khăn xuống bàn. "Hầu gia bách chiến bách thắng, với các loại vũ khí rất am tường, có thể cho tiểu nữ biết đây là loại vũ khí thế nào?"

Cái cau mày của Vân Long hầu càng sâu theo mỗi lời kể của thiếu nữ. Ông cầm chiếc khăn nhấc mũi ám khí lên, trong mắt như chợt ánh thảng thốt.

"Tiểu nữ tuổi nhỏ, kiến thức thô lậu, khi sinh ra thì người Nhật Bản không còn trên đất ta. Nhưng thuộc hạ của tiểu nữ bảo, ám khí này giống như loại nhẫn giả của bọn họ hay dùng. Tiểu nữ vẫn lấy làm lạ, người Nhật Bản sang ta chủ yếu là thương nhân, thi thoảng là vài quý tộc của họ đi dạo chơi, cớ gì lại có cả nhẫn giả?" Nhận thấy sự biến chuyển cực nhỏ trong thái độ Vân Long hầu, Như Yên nói tiếp. "Năm xưa chúa Sãi gả công nữ Ngọc Hoa cho một phú gia Nhật Bản, không rõ ảnh hưởng của họ với chúng ta thế nào?"

Vân Long hầu nhìn nàng qua đuôi mắt. Chậm rãi, nàng đang tiến tới mục tiêu của mình. Khi còn liên hệ được với Nhật Bản, một số võ sĩ lang bạt hay chính quy của họ đã được các chúa đưa vào huấn luyện cho quân đội. Đã qua một thời gian, ảnh hưởng của họ trên đất này đã dần mất, nhưng võ công vẫn còn được truyền dạy trong quân triều. Qua lời tường thuật của Tử Hiên về kiếm pháp của kẻ tấn công và món vũ khí này, nàng đã biết gã đến từ đâu. Hẳn nhiên, Vân Long hầu cũng phải nhận ra.

"Đêm qua, tiểu nữ lỗ mãng, thật lấy làm xấu hổ. Nhưng cả đêm nghĩ đi nghĩ lại, tiểu nữ vẫn không thể hiểu tại sao sự tình lại trùng hợp như thế. Có kẻ tấn công tiểu nữ, rồi đoàn thuyền của hầu gia đi ngay sau đó, làm tiểu nữ giận quá mất khôn." Như Yên bối rối cười. Nàng chớp mắt. "Hầu gia xin cho tiểu nữ tò mò, đêm qua có ai sắp xếp thuyền cho hầu gia?"

"Không. Là tình cờ." Vân Long hầu chầm chậm lắc đầu. Mặt Như Yên vẫn không đổi sắc. Tất nhiên là một người như Vân Long hầu chẳng có việc gì để nói cho nàng. Nhưng hẳn ông ta đã hiểu ý nàng. Kẻ đứng sau dàn dựng tấn kịch này, chỉ là một.

"Nếu sự việc đã diễn tiến như vậy, công nữ cần phải cẩn thận." Vân Long hầu chợt nói, nheo mắt nhìn nàng. "Nếu có kẻ cố tình gây sự, công nữ phải tỉnh táo, đừng tiếp tục gây ra sự việc như tối qua."

"Tiểu nữ muôn phần biết lỗi." Như Yên lại cúi đầu. Nói lời này, Vân Long hầu đã tin nàng. Nàng nhẹ nhàng tiến thêm một bước. "Tiểu nữ trẻ người non dạ, hành động nóng nảy, chỉ chút nữa đã gây ra đại họa. Hầu gia là bậc trưởng bối, gánh vác non sông, an định gia tộc. Chúa đang bệnh nặng, việc lớn nhỏ chỉ nhờ hầu gia sắp xếp cho êm đẹp đôi bề."

"Ta biết phải làm gì." Ông lão tóc bạc cất chiếc khăn gói mấy mũi ám khí vào áo, trầm ngâm nói.

Trước hết, phải đến gặp Hoằng Ân hầu.

Nguyễn Phúc Thái chỉ cúi đầu nhìn những mũi ám khí được đặt trên bàn, không lên tiếng. Một lúc, Vân Long hầu nhỏ nhẹ cất lời.

"Hoằng Ân hầu định thế nào?" Đại cuộc không thể được định chỉ bởi một bên. Quyết định không thuộc về ông, mà là các bên tham gia. "Bây giờ là lúc rối loạn, lòng người phân tán. Ngay cả có điều tra ra chân tướng, xử phạt kẻ gây rối, cũng mang điều tiếng trong nhà sát phạt nhau. Thật giả khó phân, người mang định kiến mà xét, dù là sự thật thì ta chỉ có một miệng khó cãi. Nếu không điều tra, e rằng kẻ ấy càng càn rỡ, gây chuyện nhiều hơn."

"Không điều tra." Hoằng Ân hầu lắc đầu, kiên quyết nói. Phản ứng làm Vân Long hầu cũng phải ngạc nhiên.

"Kẻ ấy đang nhắm vào ngài." Ông cau mày. Trước là nhắm vào một công nữ nho nhỏ được Hoằng Ân hầu bảo bọc, sau là định kích động mâu thuẫn trong triều. Lần này là một công nữ nho nhỏ, sự việc được giải quyết êm đẹp, lần sau nếu va chạm đến các võ quan, các đại thần công cao chức trọng, mang mấy phần kiêu hãnh công lao, khiến họ xông vào sát phạt nhau, cục diện không biết đâu mà lường.

"Chúa... Cha ta đang bệnh nặng, chẳng được bao nhiêu ngày nữa. Ta không muốn ông nhìn thấy con cháu trong nhà xung đột." Điều tra hẳn nhiên sẽ có nghi ngờ, rồi dò xét, rồi ám muội, như vòng nước lan rộng khó bề kiểm soát. "Người vất vả cả đời, lúc sắp nằm xuống lại thấy cảnh này thì làm sao nhắm mắt?"

Căn phòng trống yên lặng. Chỉ nghe tiếng gió rì rào vọng lại từ núi xa. Tiếng hát trong veo vẫn khe khẽ vọng về.

Dùng tiếng hát tạo thành ảo mộng níu lấy ngày tàn. Người thiếp ngủ trong mộng, người tỉnh thức trong mộng, khoảnh khắc như trăm năm.

"Ta sẽ sắp xếp." Một lúc sau, Vân Long hầu thở dài. Ông là trưởng bối, là kẻ lớn nhất trong gia tộc này hiện tại, những việc này hẳn nhiên ông phải phụ trách. Ngừng lại một thoáng, cuối cùng ông quyết định nói ra. "Hoằng Ân hầu, có kẻ người Man tên là Long Uất đến tìm ta."

"Long Uất?" Hoằng Ân hầu chớp mắt. Cái tên này y chưa từng nghe thấy.

"Vùng đất giáp ranh Quảng Bình của ta đang có loạn người Man. Một Man trưởng vùng Man là Nam Nội Ổi Nô ở Vạn Tượng mất, anh em Long Uất là con ông ta đi đưa tang, ở nhà thì chồng của người cô chiếm đất, đuổi họ đi. Bốn anh em này chạy đến Mường Vang, cùng các dân man đi theo đánh đuổi Tù trưởng chiếm lấy đất, tự lập làm chủ. Sau khi cầu đảo thần linh, một người trong bọn được quẻ tốt làm chủ đất. Ba người còn lại liền phân nhau đi các nơi, hiện nay đang đánh chiếm vùng biên giới với ta. Long Uất muốn nhờ ta giúp sức cho anh em họ. Vùng này gần sát địa phận dân ta, trước nay vẫn phải cho quân phòng người Man sang quấy phá. Nếu có thể thiết lập quan hệ tốt đẹp với các Man trưởng của họ, gánh lo sẽ đỡ đi muôn phần.[2]

"Anh em Long Uất là bọn hùng trưởng, tài cao chí lược, tin rằng có thể khống chế được cả vùng đất ấy nay mai. Thi ân nhỏ được nghĩa lớn, người Man trọng tín trọng nghĩa, ta giúp đỡ họ lúc khốn khó nước mất thân vong, họ sẽ không bao giờ quên ơn."

Hoằng Ân hầu nhè nhẹ gật đầu. Từ Cựu dinh trở về, Vân Long hầu quả nhiên là đưa theo người. Đêm qua ông ta đích thân đưa về đến sơn trang cuối nguồn sông phải là một nhân vật quan trọng. Y đang chờ xem thái độ của Vân Long hầu, vị lão thần này quả không làm y thất vọng.

"Như vậy, chuyện của vùng Man..." Y chậm rãi nói, đã hiểu ý của Vân Long hầu.

"Anh em con nhà cố Thế tử, ngoại trừ trưởng tử phải ở lại làm nghĩa vụ của cháu đích tôn, các Chưởng cơ nên đưa quân đến vùng Man giúp người." Ông lão mơ hồ cười. "Có chính dòng tộc chúng ta cầm quân, thể nào người Man chẳng hoảng vía quy hàng. Lần này là cho Long Uất mượn oai, cũng không cần phải điều binh nhiều làm gì, cứ lẳng lặng mà đi."

Không cho binh tốt, lại điều đến phương Tây, không để lại trong thành để trừ hậu hoạn.

Lệnh này cũng chỉ Vân Long hầu có thể đưa.

Khi Vân Long hầu rời khỏi dãy nhà phía Nam, Như Yên quay đầu nhìn lại người sau cửa sổ. Từ trên lầu cao, chỉ thấp thấp thoáng chiếc bóng xanh. Tiếng đàn dưới tay nàng nhẹ dần trước khi tắt hẳn. Như Yên cúi đầu dụi mắt. Vất vả từ hôm qua đến bây giờ đã làm nàng kiệt sức. Bông hoa đỏ trên tóc nàng rơi xuống đàn, Như Yên vội nhặt lên. Những cánh hoa dày đã mềm, nhụy đã hơi ngả sắc.

"Tàn rồi." Nàng nói, hơi ngẩn người nhìn bông hoa. Cả một ngày đêm phơi mưa gió theo nàng, bông hoa đã bị ngắt khỏi cành này dĩ nhiên không thể chống chọi nổi.

"Sa," Nàng quay nhìn bóng người vẫn im lìm đằng sau, nở nụ cười. "Sau này ngươi đừng hái hoa nữa nhé."

"Hôm qua ta hơi nóng, cũng đừng giận ta." Nàng nói sau một lúc người kia vẫn không lên tiếng. "Ta biết là ta xấu tính, ngươi cũng đừng để bụng, được không?"

"Ta quên rồi." Sa cắt ngang lời Như Yên, y phảng phất như cười. Cô bé này mỗi lần gây chuyện lại trở giọng năn nỉ. Ở bên cạnh mà y chẳng bao giờ ngăn được nàng ta.

Như Yên mỉm cười, đóng đàn lại rồi đi xuống lầu, bông hoa vẫn nằm trong tay nàng. Đi ngang qua một bụi tường vi, Sa với tay hái lấy một cành gài lên tóc Như Yên, tại chỗ cũ của bông hoa.

"Hoa nở được mấy ngày, thích thì làm đi." Y nói khi Như Yên quay đầu lại. Một cành tường vi mang mấy bông hoa nho nhỏ màu phấn hồng, xinh xắn duyên dáng, hợp với màu áo nàng mặc hôm nay hơn.

Như Yên chạm tay lên cành hoa, nhìn y mà lắc đầu cười.

"Ngươi biết cành hoa này chúng ta gọi là gì không? Là hoa tầm xuân. Có câu thơ rằng 'Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc'..."

Nàng bất chợt ngừng lời. Câu thơ sau là 'Em đi lấy chồng anh tiếc lắm thay', có lẽ không thích hợp để đọc ra.

"Tầm xuân?" Sa nhìn bức tường hoa mà nói, không nhận ra khoảng ngập ngừng của Như Yên. Y biết nó còn có tên thích hồng, sơn táo, vu phật kiến tiếu... Cái tên 'tầm xuân' hẳn chỉ của người xứ này. "Hẳn là từ 'Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân. Xuân tại chi đầu dĩ thập phân.'[3]"

"Người đặt tên hoa cũng biết thi từ?" Như Yên bật cười. Nắng xuân trong vắt như được lọc qua một làn nước phủ lên nàng quang hoa nhạt mờ. Cánh hoa cọ nhẹ trên má nàng mướt mát như hoa. Bất chợt nàng lại cau mày. "Tìm xuân chẳng thấy xuân, đến khi ngộ đạo thì e rằng hoa mùa cũ đã về đất cả rồi."

"Không cần biết hoa tên gì, ngươi hái cho ta là được." Như Yên vội nói tiếp, dường như nhận ra mình lỡ lời. Nàng ôm lấy cánh tay y. Cả hai vẫn chầm chậm đi ra cửa. Con đường hẹp quanh co sau những bức tường lá dày, vòm xanh kết trên đầu vẫn thi thoảng thả rơi một giọt nước xuống họ. "Nói đến tên hoa lá, ở đầu ngõ này có một cây tên là cây Phùng quân, lại có cả quả Sơn tân lang, Thanh châu tử, Ưu đàm tử, quả Hương duyên. Hoa có hoa Sầu đâu, Nam mẫu đơn, Nghênh xuân. Thậm chí cây thuốc lá còn được gọi là Tương tư thảo. Loại cây ấy, chúng ta cấm mãi mà không ngăn được." [4]

Tiếng cười thiếu nữ trong như nắng vang giữa con đường xanh. Cô gái này thoắt vui thoắt buồn, thoắt nhiên mọi bực bội đêm qua như đã tiêu tán hết.

Như là, mọi tình cảm rơi vào nàng đều rất nhanh tiêu tán. Ở cạnh một người như thế này, y luôn cảm thấy bất an. Nửa muốn thương nàng, nửa ngại ngần, lại nửa dò xét, nửa nghi hoặc. Cô bé này lớn lên bên cạnh y, nhưng y ngày càng cảm thấy không nắm được nàng ta.

Có tiếng chân đi đến phía sau bọn họ, Sa quay đầu nhìn về khúc ngoặt mà họ đã rẽ qua. Người thanh niên mặc áo lam chầm chậm bước đến gần họ, hơi mỉm cười với Như Yên.

"Cô cô." Y gật đầu nhẹ như chào. Như Yên nhướng mày. Hẳn Nguyễn Phúc Huệ được gọi vào để báo kết quả cuộc gặp gỡ ban nãy, nhưng gã chẳng có vẻ gì lo lắng. Thậm chí, có thể là do ánh nắng, mắt gã sáng như sao.

"Cháu được Vân Long hầu gọi vào." Đoán được ý nàng, gã khẽ gật đầu. "Nhân tiện gặp cô cô ở đây, cháu nghĩ nên xin lỗi cô cô. Hình như chúng ta đang hiểu lầm nhau một chuyện gì đó?"

"Hiểu lầm?" Như Yên mỉm cười hỏi lại. Kẻ này đã ngay lập tức lấy lại thăng bằng.

"Đêm qua cháu ngủ quên trên thuyền không bỏ neo, thế là thuyền trôi ra sông lúc nào không biết. Đến lúc thuyền của cô cô va chạm vào thuyền cháu, cháu cứ nghĩ thuyền vẫn còn ở trên bãi, có kẻ nào gây sự. Tính cháu tuổi trẻ nóng nảy, hành sự lỗ mãng, mới rút kiếm ra định 'tiên hạ thủ vi cường' đánh bại kẻ tấn công, đâu có ngờ sự việc lại ra nông nỗi ấy. Đến khi nhìn thấy cô cô ở nha môn thì mới dần dà vỡ lẽ.

"Nhưng chúng ta hình như đã hiểu lầm sâu đậm." Gã thở ra, chiếc quạt trắng gấp gọn trong tay cạ nhẹ vào tóc mai nơi thái dương. "Cô cô cho người mò tìm chiếc thuyền lại đến ngay quãng sông trước phủ đệ cháu, làm rộn tất cả người trong vùng, cháu thì bị quan Trấn thủ giữ nghỉ lại trong nha môn, nào biết việc bên ngoài. Những tên thuộc hạ của cháu nghe phong phanh sự việc không ra đầu ra đũa, lại càn rỡ đến định đốt thuyền, thật chẳng ra sao."

"Nói chung, tất cả chỉ là hiểu lầm?" Nụ cười của Như Yên vẫn tươi tắn. Nàng khoanh tay, chầm chậm gật đầu. "Chúng ta vô tình đụng vào nhau, rồi cũng vì quá cảnh giác mà mỗi người lại phản ứng làm việc bé xé ra to?"

"Đúng vậy. Nhưng xét cho cùng là do lỗi của cháu lỗ mãng hành động không suy nghĩ trước mới xảy ra cớ sự. Cháu xin tạ lỗi ở đây, mong cô cô tha thứ." Nguyễn Phúc Huệ vòng tay, cúi thấp mình xá một cái dài.

"Nếu vậy thì coi như không có gì, chúng ta làm hòa." Như Yên thở ra, chạm tay vào cánh tay gã đỡ lên. "Lần này coi như kinh nghiệm cho cả hai chúng ta, không hành động lỗ mãng nữa."

"Cháu xin vâng lời cô cô dạy." Nguyễn Phúc Huệ cười sáng rực như hoa xuân. Nói thêm một vài câu, gã cáo từ bọn họ trở về con đường đến chính điện.

"Có ma mới tin lời gã." Như Yên bĩu môi nói ngay khi bóng Nguyễn Phúc Huệ vừa khuất. "Nhưng gã nói như thế này, mọi tội lỗi bị phủi sạch, chẳng ai bắt bẻ gì được, quá lắm trách phạt vài câu."

"Đừng gây chuyện với gã." Sa nói, liếc nhìn Như Yên. Nàng ta tốt nhất không nên tiếp tục gây sự trong thời điểm nước sôi lửa bỏng này. Lần này may mắn dụ được một tên thuộc hạ ngu ngốc nào đó của Nguyễn Phúc Huệ ra, nếu không kẻ đang bị xét hỏi đã là nàng.

"Nếu không diệt gã thì còn rắc rối lâu dài." Như Yên nói, nhưng nàng không còn nóng nảy, chỉ như trầm ngâm. "Một cái nhấc tay đã định thao túng toàn cục diện, nhưng vẫn để mình vô can vô sự, kẻ này không đáng sợ sao? Dù có vớt được thuyền, tra được lai lịch thì vẫn cần thời gian, sự tình lúc đó đã rối loạn như mớ bòng bong. Ta mà không cô lập gã ở nhà quan Trấn thủ, phao tin cho thuộc hạ gã nóng lòng thì chắc chắn gã đã không ra tay, mà ta cũng chết chắc rồi."

Bát Thanh Ngư canh gác bên ngoài nhà Trấn thủ đã xác định Nguyễn Phúc Huệ không hề bước ra ngoài, sinh hoạt cử chỉ hoàn toàn điềm nhiên. Chỉ đến khi nghe tiếng nổ ngoài bãi, gã mới đi ra cùng quan lính, mất hút trong đám đông.

Mục tiêu của gã, hẳn nhiên không phải là nàng.

Lần này chỉ là rút kinh nghiệm. Với một kẻ tài trí giảo hoạt đến mức ấy, nàng nên hiểu đó là câu khiêu chiến.

Chú thích:

[1] Đại Nam nhất thống chí ghi: "Hoa đào: Có mấy loại là vân đào, phỉ đào, mùa xuân nở hoa, có cây sắc hoa đỏ tươi, có cây sắc hoa trắng như tuyết, rườm rà đáng yêu."

[2] Anh em Long Uất cùng con sau này đã chiếm lấy cả 9 châu là Mường Vang, Tầm Bồn, Tá Bang, Na Bôn (xưa gọi là Cha Bôn), Ba Lan, Xương Thịnh, Thượng Kế, Mường Bổng, Làng Thìn. Đại Nam nhất thống chí ghi, 9 châu này trước đây đều là cống man (bộ phận độc lập làm nhiệm vụ triều cống), đến năm Minh Mạng thứ 8 sáp nhập vào thành huyện Thành Hóa, thuộc đạo Cam Lộ.

Phần đất này là nơi tranh chấp thường xuyên với Xiêm La, nhất là sau cuộc chiến năm 1835. Theo các giấy tờ, đến thời Thành Thái, quân Xiêm khi Pháp đánh Bắc Kỳ đã thừa cơ lấn đến Trấn Ninh, sông Cẩm, phủ Quảng Ninh (Quảng Bình), phủ Cam Lộ (Quảng Trị), phủ Trấn Biên và Trấn Nam (Thanh Hóa). Qua nhiều cuộc thương lượng, tranh chấp, đến thời Pháp thuộc, vùng này được chia làm huyện Hướng Hóa.

Sau năm 1945 thì vùng này đã được "đem cho" Lào. Hiện nay các phần đất này đều thuộc Lào.

[3] Tầm xuân: Trích bài Ngộ đạo thi. Nguyên văn:

"Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân, 

Mang hài đạp biến lũng đầu vân. 

Quy lai tiếu niễm mai hoa khứu, 

Xuân tại chi đầu dĩ thập phân."

Dịch nghĩa:

Tận ngày tìm xuân chẳng thấy xuân, 

Mang hài đạp khắp lũng đầu mây. 

Trở về nhón lấy bông mai ngửi, 

Xuân tại đầu cành đã thập phần.

Ý này được Mãn Giác thiền sư trích lại thành "Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận. Tiền đình tạc dạ nhất chi mai."

[4] Quả phùng quân: Tục gọi là quả bần quân.

Quả Sơn tân lang: Cau rừng.

Quả Thanh châu tử: Chùm ruột.

Ưu đàm tử: Quả sung.

Quả hương duyên: Thanh yên.

Sầu đâu, Nam mẫu đơn, Nghênh xuân: Hoa xoan, hoa trang, hoa tân di.

Theo Đại Nam nhất thống chí, cây thuốc lá được đưa từ Lào về Việt Nam khoảng những năm 1660. Đến khoảng năm 1665, triều đình ra lệnh cấm dân chúng buôn bán, trồng, hút loại cây này nhưng... vô tác dụng. Lệnh phải bãi bỏ. (Cho nên thuốc ấy còn gọi là thuốc Lào.)

Hồi 34: Tình kiếm

Khi hai người Như Yên về lại làng Phú Xuân, trời đã sang trưa. Đón nàng chỉ là Lâm Phi cùng Bát Hôi Ngư đang đánh bài ầm ĩ trong sân nắng.

"Tử Hiên đâu?" Như Yên đưa mắt nhìn quanh. Tên ma bài ấy lại không có ở đây làm nàng thấy lạ. Mấy ngày nay rảnh rỗi trong nhà, không rõ hắn đã vơ vét được bao nhiêu tiền bạc của người quanh đây. Không phải đến lúc trời nắng hắn liền ôm tiền đi chơi chứ?

"Có người quen đến tìm, hắn đi với ông ta rồi." Lâm Phi nói mà không ngẩng lên. Như Yên nhíu mày. Nàng liếc nhìn Sa một cái rất nhanh, nhận ra sự ngạc nhiên thoáng qua đôi mắt y.

"Người quen?" Từ Đông Phố đến đây, hắn có người quen gì?

"Một ông sư. Hình như ông ta ở đây, người trong vùng chào hỏi ông ta là cái gì đó." Một tên Bát Hôi Ngư nói vọng lên. Nhác thấy thằng bé vẫn len lén đứng nhìn chiếu bạc cạnh đó, Như Yên ngoắc nó lại.

"Có mấy ông sư người Tàu trong vùng." Thằng bé xác nhận khi được Như Yên hỏi. "Có một ông vừa đến từ Đông Phố là Huyền Khê hòa thượng ở chùa Pháp Vân. Ông ấy nghe nói không những tinh thông Phật pháp mà võ công rất lợi hại. Có lần đệ tử trong chùa muốn thử tài thầy nên lừa lúc đang ăn cơm, lấy chùy phang dứ qua, hòa thượng lấy đũa gạt chùy văng ra xa chục thước."

"Huyền Khê hòa thượng?" Như Yên nhíu mày. Mấy năm rồi nàng không về đây, hẳn nhiên không biết người vừa đến này. Nhưng nàng nhún vai, phác tay. "Kệ hắn, muốn đi tu cạo đầu thì đi, đừng đi gây sự là được. Hiểu Lam đâu?"

"Đi theo Tiểu Hiên." Lâm Phi vừa nói vừa cười. Nàng ta viện cớ ở trong nhà mãi cũng buồn, bắt hắn đưa đi theo.

Như Yên đảo mắt.

"Ta đi ngủ." Việc gì cũng phải đợi hai người kia về mới dò hỏi được.

Quy sơn trông ra biển, cao lấp tầng mây. Trên đỉnh núi, những phế tích Chiêm Thành cũ vẫn còn những tháp đài đổ nát. Từ trên núi nhìn về phương Bắc trong ngày trời trong này có thể thấy ngọn tháp cao trăm thước mờ khói nắng. Nhìn vào trong đất, những đường viền nhấp nhô của thành cũ Hóa châu, thành Phật Thệ nơi nhà vua Chiêm Thành từng ở, những tháp đền cũ nát vẫn ẩn hiện giữa rừng già, men theo dòng sông.

"Có chuyện gì mà đưa ta đến đây?" Hắn lên tiếng hỏi người đi trước. Áo cà sa nâu, đội mũ vải, tay cầm một chiếc trượng dài thanh mảnh, người được gọi là Huyền Khê hòa thượng này leo lên đỉnh núi cao trăm trượng mà không có một giọt mồ hôi, chân vẫn phóng như bay. Hắn thi thoảng phải đi chậm lại đỡ Hiểu Lam, một lúc sau mới đặt chân được tới đỉnh núi. Hiểu Lam vẫn còn thở dốc sau họ.

"Giác Linh?" Hắn gọi một lần nữa khi thấy người kia vẫn không lên tiếng. Ông ta chỉ cắm cúi dùng trượng lẫn mũi chân dò xét đám bụi trên nền đất trước tháp cổ. Hắn đi theo ông ta, dừng lại trước một tấm bia đá cũ mòn. Trên bia khắc những dòng chữ mà hắn không thể đọc được.

"Văn bia của Chiêm Thành, nhưng người Chiêm hiện nay cũng không biết đọc." Huyền Khê hòa thượng chậm rãi ngước lên những dòng chữ kỳ lạ mà nói. Ông trông chỉ vừa qua tứ tuần, đường nét khuôn mặt cứng cỏi với gò má hơi cao, môi mím chặt. Mắt sáng như sao, ấn đường rộng cho thấy một tinh thần khoáng đạt.

"Thì sao?" Hắn đã bắt đầu thấy mất kiên nhẫn. Sau chuyến phục kích ở ngoài bến, gặp tiểu yêu tinh để đưa lại cho nàng ta mấy mũi ám khí xong, hắn cùng Bát Hôi Ngư định trở về thì ông hòa thượng này chắn đường. Hẳn ông đã phát hiện ra hắn khi đi theo đám người đến xem vụ nổ. Huyền Khê hòa thượng, tên hiệu Giác Linh, đồ đệ đời thứ hai mươi lăm của sơn phái Lâm Tế, trước đây vốn là một hiệp khách nổi danh vùng Quảng Đông. Sau một vụ báo cừu kinh tâm động phách, ông ta xuất gia làm hòa thượng, rồi tham gia đoàn người phục Minh. Việc không thành, ông cũng đi theo họ đến Đông Phố. Sau mấy tháng, ở yên không được, nhà sư liền đi vân du. Kể ra, nhiều người đã đến Đông Phố biến mất theo phương thức ấy, sư phụ hắn và Sa cũng vậy. Do đó, hắn chẳng lấy làm ngạc nhiên cho lắm khi thấy Giác Linh hòa thượng ở đây.

Nhưng hắn đi theo Huyền Khê hòa thượng này vì một lời ông ta đã nói: Mấy năm trước, ông đã gặp sư phụ của hắn. Cả hai đều là những cao thủ một thời, đam mê võ nghệ, thất chí lưu lạc nơi đất khách này, bao nhiêu tuyệt học cả đời chẳng có gì đáng giấu diếm liền đem thi thố chỉ bảo hết cho nhau. Với Tuyết Hoa kiếm, sư phụ có để lại cho hắn vài lời nhắn gửi.

Thế nhưng tất cả những việc ông hòa thượng này làm là đưa bọn hắn đến tận chân núi Quy sơn, vất vả lọt qua hàng rào canh phòng của quân triều nơi cửa biển dẫn vào Phú Xuân, rồi leo lên núi, vừa đi vừa ăn. Đỉnh núi hoàn toàn trống trải, chỉ có một cái đền nát, cảnh tượng tự dưng làm hắn nhớ tới đỉnh núi Hỏa Sơn mà bất chợt rùng mình cảnh giác.

"Ngươi vẫn không đọc được tấm bia này?" Hòa thượng chợt hỏi. Hắn nhìn lại lần nữa những dòng chữ loằng ngoằng.

"Xin lỗi, ta không phải lão yêu quái sống tám trăm năm." Trong lời hắn đã có mấy phần bực bội. Thậm chí có sống tám trăm năm, hắn chưa chắc đã đọc được. Mấy năm ở Đông Phố, hắn vất vả học hai thứ tiếng Chân Lạp và Kinh để khỏi chết giữa đường. Hắn hẳn nhiên không phải là học giả cùng thư gia để nghiên cứu chữ viết cổ.

"Vì ngươi vẫn mê huyễn, cho rằng chỉ có thứ trước mắt là thật. Không Ngộ được, vẫn Vô minh. Thế giới này không phải là duy nhất, những gì thấy trước mắt không phải là thật. Chỉ tin theo những gì thấy được là chấp mê bất ngộ, bất tri kiến. Lời nói không phải là thật, hình ảnh trước mắt cũng không phải là thật, đạo vượt qua mọi ngôn ngữ. Con người cứ cho tất cả những gì trước mắt đều là thật cả, chẳng qua là đang tự dối mình dối người."

"Khoan, ta chưa có ý định xuất gia." Hắn vội vàng cắt ngang qua lời nói của Huyền Khê , đã tự thức tránh xa ông ta mấy bước. Có thể nào sư phụ hối hận đã truyền kiếm pháp tuyệt học cho một tên gây rối như hắn rồi bảo Giác Linh thu hắn làm đồ đệ, tuyệt đường cờ bạc rượu chè của hắn? Tính tình Giác Linh cứng rắn lại có mấy phần gàn dở, không rõ ngày còn làm hiệp khách tay đao tay kiếm danh trấn giang hồ ra sao, chứ khi còn ở trong quân tại Giang Nam đã mấy lần định dụ hắn đi tu vì 'ngươi có duyên phận', 'số ngươi là số khổ, nếu nhanh chóng xuất gia theo Bát chính đạo ngăn chặn Ngũ uẩn thì mới thoát được trầm luân'. Báo hại hắn thấy ông ta là sợ còn hơn cọp, chỉ lo đi tránh cho mau.

"Ngươi biết tại sao ta bảo số ngươi sẽ khổ?" Huyền Khê hòa thượng thở ra, hướng mắt về phía hắn. "Những kẻ Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức đều quá mạnh thì càng có xu hướng xác lập một bản ngã độc lập, thế giới trong mắt họ càng trở nên xa lạ, càng tách rời khỏi cái Thật. Ngươi giác quan quá nhạy bén, cảm giác quá dễ rung động, nhận biết quá nhanh, tâm lý quá mạnh mẽ, ý thức quá quật cường. Ngươi tiếp nhận tất cả những gì thế giới bên ngoài tác động vào nhiều hơn bất cứ ai, nhanh hơn bất cứ ai, nhưng lại không học được cách bài trừ tạp niệm, nhận chân sự vật, thế nên trở thành hỗn loạn bất trị bất minh. Thứ võ công Tuyết Hoa kiếm của ngươi cùng với môn nội công chí động của nó, nói rằng thích hợp cho những kẻ linh cơ, nhưng thực sự về lâu về dài sẽ đẩy ngươi vào tử lộ."

Những câu nói cuối cùng của Giác Linh làm hắn im lặng hoàn toàn.

"Ngươi biết Tuyết Hoa kiếm thực ra xuất phát từ đâu?" Huyền Khê nói sau một lúc trầm ngâm nhìn phá Hà Trung đổ ra biển, xanh hút hắt trong mây bạc. "Thời Xuân Thu, Ngô Việt tương tranh, Việt vương Câu Tiễn sau khi bị bắt được thả về nước quyết tâm báo thù. Quan Đại phu là Phạm Lãi liền tiến cử cho nhà vua một người xử nữ ở Nam Lâm. Nàng ta sống trong rừng, không học ai mà kiếm kích địch được trăm người, từng lấy gậy trúc tỉ thí với Bạch viên sơn thần. Dạy được hơn một năm, nàng cáo từ đi mất, không ai tìm được tung tích. Người ta gọi nàng là thần kiếm.

"Hiểu Oanh Triêu Vân, Trường Giang Tinh Hà, Bạch Tuyết Hồi Phiêu... tiếng là dùng thi thơ mà đặt tên, nhưng đều là cảnh sông núi gió mây. Tiếng là cảnh giang sơn thủy tú, nhưng trong lòng lại chất đầy tâm tư hỉ nộ ai lạc, có được mấy dòng tự tại? Nếu cái này tồn tại thì cái kia hình thành. Cái này phát sinh thì cái kia phát sinh. Cái này không tồn tại thì cái kia không hình thành. Cái này diệt thì cái kia diệt. Ngũ uẩn sinh ra cùng con người, vốn không thể chia lìa, bản thân cũng không tự sinh Khổ. Chỉ là Vô minh sinh Hành, Hành sinh Thức, Thức sinh Danh sắc, Danh sắc sinh Lục căn, Lục căn gặp Xúc sinh ra Thụ, Thụ sinh Ái, Ái sinh Thủ, Thủ dẫn đến Hữu, Hữu đến Sinh, Sinh sinh lão tử, ưu sầu, hoạn nạn, bất hạnh, tuyệt vọng. Người hay trách trời ghét kẻ tài tình, nhưng kẻ tài tình vốn đã mang sẵn trong mình nghiệp chướng rồi vậy.

"Tuyết Hoa kiếm hay là Nam Lâm xử nữ kiếm, vốn từ Không mà nảy sinh. Cô gái sống trong rừng vô tạp vô niệm, chỉ theo các biến thể của thiên nhiên mà tạo thành chiêu thức, mượn sức của thiên nhiên mà vận hành. Kiếm pháp này vốn nằm trong tay một tâm hồn không vướng bụi trần, không phiền lụy tình ái trong thiên hạ, không bị lục dục thao túng. Kẻ sống trong rừng, tâm thức giác quan mạnh mẽ hơn người nhưng tâm cơ chỉ như thú rừng hồn nhiên vô ưu. Đem kiếm pháp vào cho người trong cõi trần, không mấy ai học được thành toàn, kẻ tầm thường chẳng qua chỉ là vài chiêu thức; kẻ linh mẫn như ngươi thì tiếp được thể chất nhưng lạc mất Tâm.

"Kiếm pháp này về sau lại mang vị ưu tư phiền não, như xử nữ đã ra khỏi rừng già, như người đã bước khỏi cõi vô lo. Đem cái tình ấy vào trong cảnh, vẽ nên một thế giới đẹp đẽ nhưng u sầu, đầy những phai tàn thống khổ. Kẻ bình thường tiếp được chiêu thức múa may thì không nói, kẻ đã lĩnh hội được cái tình ấy như ngươi, e rằng càng ngày Ngũ uẩn càng bị mở rộng, tâm can càng bị phá nát. Nói rằng Tuyết Hoa đoạn ý, nhưng Duyên khởi đến khi Duyên diệt là thất vọng toàn thể dẫn đến hủy hoại chính mình. Chỉ như thế mới có thể đoạn ý khỏi vòng cơ duyên.

"Cô gái núi Nam Lâm đã biến mất, chính vì không thể sống trong vòng luân hồi của cõi thế."

"Nói tóm lại, luyện Tuyết Hoa kiếm thì sẽ tạo ra tâm ma, lâu ngày sẽ có hại." Hắn chậm chạp nói sau một lúc Huyền Khê đã ngừng lời. Rồi hắn vội vàng tiếp. "Ta nói trước, ta không xuất gia."

"Người như ngươi có xuất gia cũng chẳng giúp ích gì được." Giác Linh nói trong lúc ném về hắn một cái nhìn sắc lẻm. "Cho nên ta phải dẫn ngươi lên đây chỉ dạy cách tĩnh tâm. Coi như hoàn thành chút tâm nguyện của sư phụ ngươi."

"Được, được." Hắn gật đầu lia lịa.

"Điều kiện duy nhất là, ngươi phải đọc được chữ trên tấm bia này." Huyền Khê hòa thượng chỉ lên tấm bia mà ông ta vẫn đang đứng trước đó. Hắn nhìn lại một lần nữa, chỉ thấy hoa mắt vì những ký tự lạ.

"Ông có bảng ký tự của nó không?" Hắn cười cầu tài với Giác Linh. Ông ta lắc đầu.

"Ta cũng không đọc được."

Câu trả lời làm hắn suýt lăn xuống núi. Trong lúc hắn còn cấm khẩu không thốt ra lời, Huyền Khê cười khẽ.

"Ngộ đạo là việc liên quan nhiều đến cơ duyên, không phải cứ vắt óc vắt sức ra mà làm được. Kẻ theo đạo thì lắm, nhưng giác ngộ được bao nhiêu người? Lần này là vì chính ngươi, không ngộ thì cũng chẳng sao, nhưng việc sau này ta không dám chắc; nếu ngộ ra, võ công của ngươi sẽ đạt đến thập toàn thập mỹ, con người cũng trở nên sảng khoái hơn. Ngày xưa ta cố chấp u mê mới một hai bắt ngươi xuất gia, chứ Phật tại tâm, ngươi vốn tự do khoái hoạt, nếu đạt được ngộ tính nữa thì chẳng phải là thần tiên nơi hạ giới?"

"Thôi được rồi." Hắn một lần nữa cắt ngang lời Giác Linh. Cứ nhắc đến 'thần tiên nơi hạ giới' là hắn lại nhớ đến tiểu yêu tinh giảo hoạt chuyên dùng lời lẽ lừa dụ người kia. Hắn đang có một cảm giác là Giác Linh đang lừa hắn. Đọc một tấm bia mà thậm chí ông ta còn không đọc được? "Thế đại sư có phương pháp nào để đọc được những thứ thế này, xin chỉ dạy cho."

"Cơ duyên." Lần này do được chuẩn bị trước, hắn đủ bình tĩnh để đứng đợi Huyền Khê nói tiếp. "Ngươi lắng nghe tiếng đá, tiếng cỏ cây, tiếng bầu trời. Tất cả bọn chúng đều kể chuyện. Rồi tấm bia cũng sẽ kể cho ngươi câu chuyện của nó."

Đấy gọi là bị ma ám. Hắn nuốt lời nói ấy xuống cổ, nhìn quanh quất đỉnh núi. Đền đài tuy bề ngoài đã đổ nát nhưng tường mái còn vững. Đằng sau đền còn có một gian nhà nhỏ bằng gỗ có hàng rào lẫn sân, giống như cho người ở.

"Ta ở đó." Nhận thấy ánh mắt hắn, Huyền Khê nói. "Mỗi năm ta lên đây để tịnh tâm vài ngày hay vài tháng."

Trong lòng hắn thầm than khổ. Nhà đã có, bia đã dựng, thậm chí người cũng đã sống sung túc béo tốt mà lên lên xuống xuống núi, hắn còn có lý do nào để thoái thác đây?

"Ngươi nếu có thời gian rảnh thì lên đây mà ngẫm nghĩ." Nhận ra ý nghĩ của hắn, Giác Linh khinh thị liếc mắt. "Cuộc đời là của ngươi, ta không quản được. Nếu ngươi chỉ muốn đánh bạc uống rượu cho xong đời thì thôi, nhưng nếu có việc nghĩ không thông, nên lên đây mà nghỉ. Tối nay ngươi ở đây uống trà với ta một đêm, ta còn nhiều chuyện phải nói."

"Nhưng mà, Chu cô nương..." Hắn quay nhìn về phía cô gái vẫn đứng im lặng sau họ, đang có vẻ thích thú ngắm cảnh xung quanh. Nghe tiếng hắn, Hiểu Lam quay lại, tươi cười.

"Ở đây có sư phụ, ta ở lại hẳn không sao." Không phải là cô nam quả nữ thì sợ gì? Vả lại nàng ta ở đây là bị bọn họ giam lỏng, hắn không thể để cho nàng muốn đi đâu thì đi.

Chặt vài đọt măng đem xào nấu là đã có bữa. Hiểu Lam cùng Huyền Khê hòa thượng ăn chay đã quen, hắn năm thì mười họa cũng phải ăn thế này nên chẳng phàn nàn. Xong bữa cơm lúc trời vừa sập tối, không có rượu, Huyền Khê đem bình trà lớn ra trải chiếu ngồi trước sân với hắn. Hiểu Lam hiểu ý đã đi ra trước núi ngắm cảnh cho bọn hắn nói chuyện riêng. Trà này là loại người bản xứ hay dùng. Lá được hái rồi giã nhỏ phơi âm can, bỏ vào nồi nấu cùng nước sôi. Trà có vị đắng thanh nhè nhẹ. Qua mấy ngày mưa, tiếng côn trùng kêu vang át cả gió núi cùng tiếng thông reo.

"Đại sư định ở hẳn đây?" Hắn hỏi khi được đưa cho ly trà bằng gốm, thô mộc y như đồ đạc trong nhà. Huyền Khê từ nhỏ đã thích chu du, vào chùa tu cũng không bỏ được, giờ lại chịu ở yên một nơi.

"Lên Bắc không được nữa, xuống Nam không yên nữa, sang Đông không xong, đến Tây không ổn, thì chỉ có thể ở đây." Huyền Khê cười khẽ. "Thật ra thì ta cũng già rồi. Thời trẻ cứ mê đất trời rộng lớn, tráng chí hùng tâm tưởng thiên hạ ở trong tay mình. Đến lúc ngộ ra được một chữ Vô thì lửa lòng cũng đã tắt. Thân xác thế tục ở đâu chẳng như nhau, đi đến đâu cũng chỉ là một. Ta cũng định trở lại Đông Phố gửi lời nhắn của sư phụ lại cho ngươi, nhưng gặp tên đồng môn của ngươi rồi thì nghĩ cũng không cần gấp. Tính cách bọn trẻ như ngươi háo thắng háo cường, làm sao ngộ được huyền tâm."

"Ông đã gặp lão Đại?" Hắn ngạc nhiên hỏi lại. Huyền Khê hòa thượng đã gặp Sa. Chẳng lẽ cả Vô Âm đao của y cũng có vấn đề?

"Lúc sư phụ ngươi vừa qua đời, ta có đến đó định uống thêm với ông ấy vài ly, tình cờ gặp nó." Giác Linh không hiểu sao trông có vẻ giận. "Sư phụ ngươi đã gàn dở, tên đại đồ đệ cũng gàn dở không kém. Lão gàn bảo hỏa táng thì nó đem hỏa táng. Lão gàn để mấy vò rượu trong tửu quán thì len lén mà trộm ra, nó lại đi bàn chuyện mua mua bán bán với mấy tên gian thương thừa cơ bắt chẹt người. Lão gàn thu nhận hai tên đồ đệ, một đứa thì vô lại, một đứa thì cứng nhắc như khúc gỗ."

Hắn ho khẽ. Giác Linh có vẻ như tiếc mấy vò Hồng Trần Túy mà đi giận lây lão Đại. Y chắc cũng vì thế mà để tửu quán giữ luôn cả rượu, không cho ai thò tay tới.

"Ngay cả khi ta nói về cái võ công Vô Âm đao của nó, nó cũng chẳng thèm nghe." Giác Linh chợt đổi giọng. Sự giận dữ vẫn còn, nhưng pha thêm cả lo lắng. "Lão sư phụ gàn của các ngươi cả đời tự phụ tự cao, một mình gom lấy đệ nhất võ công trong thiên hạ mà không nhận biết rõ nguồn cơn của nó. Võ công có thể dạy được, nhưng tâm không được rèn luyện đúng thì hỏng cả. Vô Âm đao của nó, tác hại còn lớn hơn cả Tuyết Hoa kiếm của ngươi.

"Vô Âm đao dựa vào Không tính, cho rằng thể tính toàn thế là Không, là 'cái tĩnh lặng của thiên hình vạn trạng'. Nhưng đao pháp này từ lâu lưu truyền trong giang hồ, bị gió tanh mưa máu làm cho tiêm nhiễm, bị biến thiên theo cái lối suy nghĩ thiển cận của con người. Con đường diệt Khổ phải đi qua Bát chính đạo, không phải là bằng cách tiêu diệt Ngũ uẩn. Diệt Ngũ uẩn, con người làm sao thành con người? Diệt Khổ không phải là tiêu hủy tất cả các nguyên nhân gây Khổ, con người làm sao thoát khỏi được sinh, lão, bệnh, tử, làm sao sống mà không ly biệt, không gặp chuyện thương tâm đau lòng? Diệt Khổ chỉ là cách con người tu hành để nhận chân thế giới, biết thế nào là nhân sinh thế tục, ái không si, mất không oán, từ đó mà sống với tâm hồn trong sạch bình yên, giác ngộ chính quả. Từ tiếp xúc với thế giới sinh ra ái, ái sinh ra tham sân si, muốn chiếm hữu, có rồi thì sẽ mất, đó là chuyện muôn đời. Con người cầu vĩnh cửu, nhưng làm gì có vĩnh cửu. Kết vòng Duyên là hủy hoại. Phật nói: 'Hoại diệt là bản chất của chư hành, hãy cố gắng hết lòng' là khuyên người hãy sống ngay cả trong hoại diệt bằng cách nhận thức nó.

"Những kẻ tầm thường nôn nóng tu đạo hay xem nhẹ tính nhận thức, đặt nặng bề ngoài, mê tín mê tâm lại không hiểu điều này. Thanh tâm rồi mới diệt dục, chứ không phải diệt nhân dục. Đem những khổ luyện khắc nghiệt áp chặt lên con người không nói làm gì, nhưng cuồng vọng đến mức muốn trừ sạch cả thất tình lục dục, đốt cho tâm thành một cõi tro tàn, đem tất cả năng lượng ấy đổi thành sức mạnh diệt thế. Không có thất tình lục dục thì đã là thánh rồi, còn là người sao được?

"Sư phụ của ngươi nói, sau này qua nhiều khổ công tìm kiếm, ông ấy cho rằng đã tìm được căn bản của Vô Âm đao. Đạo pháp ấy đặt nặng thanh tâm, rèn luyện trí lực, trong khi những kẻ hậu nhân lại chú trọng vào những trò bế khí tuyệt tâm. Võ công cũng như đạo, đâu phải kẻ nào cũng hiểu, cũng học được, muốn tựu thành trong một sớm một chiều càng phải trả giá đắt. Mang danh là đao pháp chấn Giang Nam, càng lọt vào vòng thiển trí của người đời. Mọi người mọi kẻ có nó trong tay lại điên cuồng ra sức sửa chữa, cho là để nó thêm lợi hại. Lưu truyền đến hậu nhân, đã trở thành một võ công chỉ để giết người. Vô Âm tuyệt tình, mà người đời hiểu tình quá bó hẹp. Chữ tuyệt tình đã trở thành ác mộng."

"Lão Đại nói gì?" Càng nghe, sống lưng hắn càng lạnh. Y đã gặp sư phụ khi còn sống, hẳn nhiên đã biết những gì Giác Linh đang kể.

"Ngươi nghĩ nó có nói gì không?" Giác Linh cau mày nhìn hắn, hắn lắc đầu. Tính cách của y, hẳn nhiên là nghĩ gì cũng không nói ra. "Lúc đó bên cạnh nó còn có một con bé con tai quái vô cùng, ta chẳng hiểu đã đắc tội gì với nó mà con bé ấy chỉ nghĩ cách gây sự với ta."

"Ta bảo với nó, từ bỏ Vô Âm đao đi." Huyền Khê nói khi thấy hắn bật cười. Nụ cười trên môi hắn mất hẳn. Từ bỏ Vô Âm đao, nghĩa là phế bỏ võ công?

"Nó không thích hợp." Huyền Khê chầm chậm lắc đầu trước ánh mắt của hắn. "Vô Âm đao dù sao cũng chỉ dành cho những kẻ có sẵn ngộ tính, giác ngộ được Không tính. Nó thông minh, có tài thì cũng luyện được, nhưng như bóng nước ép chặt quá sẽ đến lúc vỡ tung. Một kẻ như nó, nặng gánh trên vai, tâm tư quá nhiều mà cũng đa đoan quá nhiều, không bao giờ là kẻ vô tâm vô ngã được. Nó luyện được tới thành quả bây giờ hẳn cũng là do mấy vò rượu của sư phụ ngươi để lại trợ lực cho, chứ bản thân nó không thể tự mình trừ bỏ tạp niệm, trừ bỏ ái hận. Thà là những kẻ si cuồng danh vọng đã đành một lẽ, tâm nó quá nhiều tình. Muốn tuyệt tình thì phải đốt cả bản thân thành tro bụi hay sao?"

Chú thích:

Ngũ uẩn: Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức. 

Bát chính đạo: Chính kiến, chính tư duy, chính nghiệp, chính ngữ, chính mệnh, chính tinh tiến, chính niệm, chính định.

Duyên khởi: Còn gọi là Nhân duyên sinh, Thập nhị nhân duyên. Nêu ra rằng mọi hiện tượng tâm lí và vật lí tạo nên đời sống đều nằm trong một mối liên hệ với nhau, chúng là nguyên nhân của một yếu tố này và là kết quả của một yếu tố khác, làm thành một vòng với mười hai yếu tố. Các yếu tố này làm loài hữu tình cứ mãi vướng mắc trong Luân hồi.

Khổ đế: Một phần trong Tứ diệu đế, nêu ra chân lí về sự Khổ: Chân lí thứ nhất cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não, không trọn vẹn. Các phần tiếp theo là Tập khổ đế, Diệt khổ đế, Đạo đế nêu ra nguyên nhân của sự Khổ, cách diệt Khổ và rồi là con đường đến với đạo.

Lâm Tế tông: Một trong Ngũ gia Thất tông được thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền sáng lập vào đời Đường. Ngũ gia Thất tông là 5 nhà 7 tông của Thiền tông Trung Quốc. Lâm Tế cùng Tào Động là hai tông phái ảnh hưởng mạnh mẽ đến Phật giáo Nhật Bản. Thiền tông là tông phái Phật giáo Đại thừa của Trung Quốc, chỉ quan tâm đến kinh nghiệm chứng ngộ, đả phá mạnh nhất mọi nghi thức tôn giáo và mọi lí luận về giáo pháp. Thiền tông chỉ khuyên hành giả Toạ thiền để kiến tính, được coi là con đường ngắn nhất, đồng thời cũng là con đường khó nhất. Thiền tông tổng hợp hai học thuyết nền tảng của Ấn Độ là Trung quán (Mọi sự vật đều dựa vào nhau mà thành theo thuyết Duyên khởi, nên không tồn tại độc lập, không có tự ngã. Muốn đạt được tới chân lý tuyệt đối phải vượt qua chân lý tương đối) và Duy thức (Mọi hiện tượng đều là cảm nhận của Thức, không có gì độc lập, và do đó không có thật).

Hồi 35: Thuyết đạo

Hắn mở mắt dậy khi một giọt nước lạnh rơi đúng vào giữa hai hàng mi. Hiểu Lam đứng cạnh hắn, cúi xuống mà bối rối cười.

"Xin lỗi, ta chỉ định đem nước cùng thức ăn sáng đến cho huynh."

Thức ăn sáng là mấy mẩu lương khô ngày hôm qua Huyền Khê hòa thượng đã cho bọn hắn ăn trưa. Hiểu Lam đã cẩn thận đặt chúng lên một cái đĩa sạch, nấu một ấm trà mới. Hắn nhìn vào trong nhà, không thấy bóng Huyền Khê đâu.

"Ông ấy bảo phải về trước coi việc của mấy người đồ đệ, huynh có việc gì thì cứ đến chùa tìm ông ấy." Thấy ánh mắt hắn, Hiểu Lam nói. Hắn gật đầu, uể oải ngồi dậy, hậm hực nhìn lên tấm bia đá đằng trước.

Đêm qua sau khi nói chuyện với Huyền Khê, hắn đã chịu ra trước bia đá tọa thiền theo cách ông ta chỉ. Nhưng chưa xong hết phần sổ tức quán[1], hắn đã ngủ gật. Gió hiu hiu thổi, cây cối rì rào, tiếng côn trùng thao thiết, bóng tối âm u bao phủ toàn ngọn núi, những thông tin vừa mới nghe được - Tất cả đều làm tâm hắn rối loạn. Đếm đi đếm lại, đếm đến lần thứ chừng một trăm, mi mắt hắn tự động khép lại, không biết từ lúc nào đã ngã xuống ngủ thẳng đến sáng. Trời đã sáng bạch, chim hót ríu rít vang động núi rừng, mây trắng xóa, biển xanh lục như ngọc.

Cái gì mà tọa thiền với chẳng giác ngộ? Sư phụ nhất định đang mượn tay Huyền Khê chỉnh trị hắn. Bấy lâu nay, tọa thiền dù để tĩnh tâm hay luyện công với hắn mà nói chỉ là hoạt động ru ngủ, nếu không kết quả tập luyện võ công ngày trước của hắn chẳng tệ hại đến thế. Đã dạy Tuyết Hoa kiếm còn bắt hắn ngồi tọa thiền thì quả là đùa bỡn hắn mà.

"Hòa thượng nói rằng tu tập là việc lâu dài, không thể gấp được, chỉ cần huynh sau này nhớ chú tâm thi thoảng rèn luyện." Hiểu Lam nhắn lại mấy lời của Huyền Khê, giơ một mẩu giấy ra. "Ta đã cẩn thận ghi lại chữ trên tấm bia cho huynh."

"Đa tạ Chu cô nương." Hắn không khỏi cảm kích mà gật đầu cười, tuy cho rằng vì một lý do nào đó chỉ người tu hành mới hiểu, ông ta nhất quyết bảo hắn phải lên đây. Nhưng Hiểu Lam hẳn phải dụng không ít tâm sức 'vẽ' lại những dòng chữ không ai hiểu được này. Hắn cầm lấy tờ giấy, cẩn thật nhét vào trong áo. Vừa ăn mấy miếng lương khô nhạt để lấy sức xuống núi, hắn vừa nhìn biển trải dài hút tầm mắt dưới xa. Không rõ vì ngủ một đêm ngoài trời sương hay vì những gì Huyền Khê đã nói, hắn cảm thấy có chút mông lung, như thể một phần tâm trí nào đó vừa bị lạc mất.

Hẳn nhiên, hắn đã không tin lời Huyền Khê dễ dàng. Sau khi nói những phương pháp cơ bản để tọa thiền, nhìn thấy bộ dáng nghi ngờ của hắn, ông ta đã thở dài đứng dậy, nhặt lấy một cành cây gãy nằm trên đất, chỉ vào hắn mà nói:

"Để ta dạy cho ngươi Tuyết Hoa kiếm thật sự là thế nào. Rút kiếm ra."

Trên đời, hắn chưa từng thấy kiếm pháp nào kỳ dị như thế.

Vẫn là Tuyết Hoa kiếm, nhưng không như sư phụ hắn thi triển. Với sư phụ, hắn còn thấy chiêu thức, đường kiếm. Giờ đây cành cây trong tay Huyền Khê vẽ trước mắt hắn những hình ảnh liên tục xao động, hòa trộn, biến chuyển tựa những ảo cảnh lung linh trên dòng nước. Cành cây dễ dàng hóa giải tất cả mọi chiêu thức tấn công của hắn, dùng chính những chiêu thức hắn đã thuộc nằm lòng để tấn công lại, nhưng hắn không biết phải đỡ gạt vào đâu, phản công bằng cách nào. Như thể chạm tay vào dòng nước, mọi thứ liền liên tục chuyển đổi. Tựa như đưa tay nắm lấy tuyết rơi, chỉ chạm vào hư không.

"Tâm như nước, niệm như sóng." Vừa đấu với hắn, Huyền Khê vừa nói. Giọng ung dung như đang chắp tay đứng yên. "Chỉ cần một ngọn gió thổi qua, chỉ cần một chút ngoại cảnh bên ngoài tác động vào, niệm cứ thế mà sinh, đợt này tiếp đợt trước. Sự vật soi vào tâm cũng vì thế mà biến đổi. Sự thật mà ngươi tưởng mình đang thấy chỉ là do niệm tạo thành. Nhìn vào giữa hai đợt sóng niệm để nhận ra cái chân tướng. Kiếm chiêu do niệm thao túng thì hỗn loạn, kiếm chiêu do tâm điều khiển thì cao minh. Lấy lòng thanh tịnh mà soi thiên hạ, làm chủ được mình mới làm chủ được người, mới điều khiển được kiếm."

"Tuyết Hoa kiếm này chủ vận công khi đang động, thực chất cũng là một hình thức Thiền. Thiền không chỉ là tĩnh tọa. Du giang hải, thiệp sơn xuyên, Tầm sư phỏng đạo vi tham thiền. Tự tòng nhận đắc Tào Khê lộ, Liễu tri sinh tử bất tương can. Hành diệc thiền, tọa diệc thiền, Ngữ mặc động tịnh thể an nhiên. Túng ngộ phong đao thường thản thản, Giả nhiêu độc dược giã nhàn nhàn[2]. Kẻ tầm thường nghĩ rằng chỉ cần học cách vận công đưa vào đời sống là thành toàn, nhưng tâm loạn thì nội công chỉ làm rối thêm âm dương, phá hoại thần trí. Vận công như đốt lửa, phải biết cách điều hòa. Ngươi trước giờ chỉ gặp những đối thủ tầm thường, dựa vào kinh nghiệm trong chiến trận mà vừa đấu vừa tìm cách thủ thắng, chưa từng biết thế nào là bị dồn ép. Bây giờ ngươi có thấy tâm can rối loạn rồi không?"

Huyền Khê vừa dứt lời, tim hắn đã chợt nhói. Dù rất nhẹ, cơn đau râm ran lan dần đến đầu ngón tay cầm kiếm của hắn. Trong một sát na, hắn thấy rõ ràng khí mạch như thể giật lên.

"Thôi!" Hắn vội vàng nói, hạ kiếm. Nếu tiếp tục đấu, không biết sự xáo trộn kinh mạch này sẽ dẫn đến đâu.

"Tâm không an." Ông ta buông một câu duy nhất.

Bây giờ hắn ngồi trước tấm bia đá mà vừa nghĩ vừa hậm hực. Nếu tâm hắn không an, tất cả đều do đường gậy như có thuật thôi miên, như thể ma quỷ hiện hình kia làm ra. 'Dĩ tâm truyền tâm'[3] cái gì mà xáo động nháo nhào tâm thức hắn như thế? Đến mức hắn sau đó phải ra tận đây ngồi thiền, rốt cuộc chưa xong phần sơ nhập đã ngủ mất. Bây giờ tâm trí hắn vẫn như đi lạc ở đâu đâu.

Chẳng lẽ hắn cứ thế này mà xuống núi?

"Huynh đêm qua chưa học được gì phải không?" Thấy hắn ngẩn người ngồi nhìn tấm bia đá, chân mày như dính sát vào nhau, Hiểu Lam ở bên cạnh nhẹ nhàng lên tiếng. "Thế thì huynh cứ ở đây mà luyện tập. Ta đã nhờ Huyền Khê đại sư khi xuống núi thì cho người về báo với Như Yên cô nương một tiếng, để cô ấy cho người lại đây đón chúng ta."

Hắn quay nhìn cô gái, nửa phần như ngạc nhiên. Thấy ánh mắt hắn, Hiểu Lam đỏ mặt cười.

"Dù sao cũng là do ta đòi theo quấy quả huynh, không nên làm phiền huynh mới phải. Vả lại, hòa thượng đi mất rồi, không có ông ấy thì chúng ta không thể đi qua hàng rào canh phòng dễ dàng được, chi bằng gọi người lại đây đón."

Nữ nhân đều suy tính rất thấu đáo, hắn gật đầu mà quay lại với miếng lương khô. Cô gái này qua mấy tháng sống nơi lạ đất lạ người cũng đã đoán hiểu ý người, tùy việc mà xử. Ở nơi đây, nàng trông có vẻ tươi tỉnh thoải mái, như thể đang sống trong nhà. Nghĩ đến đấy, hắn lấy làm lạ.

"Chu cô nương làm cách nào để trấn định tâm thần?" Hắn ra vẻ lơ đãng hỏi. Tâm can hắn vì lý do gì không rõ đang náo loạn bất yên. Thiền đã tỏ ra vô dụng với hắn. Hắn không phải là người theo đạo, với những thuyết lý của Huyền Khê chỉ nghe lọt tai này qua tai kia, chỉ cầu tìm được một cách nào đó để chấm dứt tình trạng hiện tại.

"Ta cầu kinh và nghĩ tới thánh Allah." Hiểu Lam cười nói. Nàng có vẻ sốt sắng được giúp đỡ hắn. "Dù có bất cứ chuyện gì xảy ra, ta chỉ cần nghĩ đây là việc do thánh Allah sắp đặt, sẽ không phải sợ hãi hay lo lắng nữa. Thánh Allah sắp xếp mọi điều trên đời này, do đó ta không cần phải mất công phiền não. Ta khác, ngươi khác, đó là do ý của thánh Allah. Người này đánh người kia, đó là do huyền cơ của Allah tạo thành để chỉ rõ mỗi phận người trong cõi thế. Ta cứ sống theo cách mà ta thấy đúng, làm theo những gì ta thấy cần, trong những gì thánh Allah chỉ dạy. Gửi toàn bộ lòng tin cho thánh, dâng hiến toàn bộ sự sống cùng cái chết cho Allah. Sống không có gì đáng nuối tiếc, chết không có gì đáng sợ, chỉ cần cố gắng hết sức mình. Đã không cố gắng làm mọi cách giành giật, đến tử vong còn không làm cho lo lắng sờn lòng, thì tâm can chắc chắn sẽ yên ổn."

Không giành giật, không sợ hãi, tâm can yên ổn, hắn nhẩm đi nhẩm lại những từ ngữ ấy trong lòng. Điểm này không phải là hắn không làm được. Xưa nay hắn bài bạc chỉ để vui chơi, càng không có ý tranh giành giết chóc ai. Bên cạnh hắn, Hiểu Lam vẫn nói, giọng êm mềm như tơ.

"Lúc mới đến đây, thấy các bạn bị giết, ta cũng đau lòng lắm. Thấy kẻ kia ác như vậy, ta cũng rất sợ. Nhưng dần dà bình tâm lại, chuyên chú vào những gì được dạy, tập trung sống đúng theo những gì Allah bảo, ta không thấy sợ nữa. Các bạn của ta cả đời làm theo chỉ dẫn của Allah, chết vì đạo sẽ được lên Thiên đường. Ta ở đây là do thánh chỉ của Người, hẳn Người muốn ta nhận lãnh một sứ mệnh nào đó, chỉ dẫn cho ta những điều mà ta còn chưa biết. Dù ở đâu, dù có gặp hoàn cảnh nào, chỉ cần ta sống đúng với lòng mình, không đổ lỗi cho người cũng chẳng đổ lỗi cho cảnh, thế thì Allah vẫn còn ở cạnh ta, Người không bao giờ bỏ rơi ta. Thế thì ta còn có gì phải sợ?"

Sống đúng với lòng mình? Cái cau mày của hắn sâu thêm. Đây hẳn không phải là nguyên nhân. Hắn xưa nay không làm chuyện gì không muốn làm, cũng chẳng thèm sửa đổi mình theo ý người khác.

Chiêu thức của Huyền Khê đêm qua có điều gì khiến hắn rối loạn tâm can đến thế? Vô thức, hắn thở một cái thật dài.

Thấy vẻ phiền não của hắn, Hiểu Lam cắn môi. Cuối cùng, nàng rụt rè hỏi:

"Ta có thánh Allah, huynh có không?"

Câu hỏi làm hắn ngẩn người một khắc. Hiểu Lam hẳn đang hỏi hắn có theo đạo nào không. Xứ sở này thần thánh tuy nhiều nhưng chẳng có gì hấp dẫn hắn. Nếu theo một đạo giáo nào đó, hẳn hắn đã không rượu chè cờ bạc thế này.

Có thể cảm giác ngày hôm qua chỉ là một ảo giác? Hắn đã bị khí tức của Huyền Khê ép đến tức thở? Nghĩ vậy, hắn liền nhặt kiếm lên, ra khoảng sân trước đền cổ múa vài chiêu.

Vẫn những chiêu thức cũ mà hắn đã múa thành quen, tự động nhấc tay nhấc chân mà phát, nhưng hiện thời hắn chỉ cảm thấy chúng xa lạ như thể một dòng ý nghĩ đang chảy chầm chậm vào tâm trí hắn. Kiếm pháp xuất, chân khí cũng theo đó mà lưu chuyển. Kinh mạch hắn râm ran như kiến bò.

'Tin tưởng', hắn thầm nhẩm lại lời Hiểu Lam mà tiếp tục luyện. 'Nhìn vào giữa các đợt niệm', lời Huyền Khê nhắc bên tai hắn. Hắn thả lỏng toàn thân, chỉ theo thói quen mà xuất kiếm, chiêu này chưa kết chiêu khác đã tiếp nối, hoàn toàn tự phát không theo thứ tự. Nhưng càng đánh, đường kiếm của hắn càng chậm dần, như có gì níu trì nó lại. Càng cố tập trung trí lực, thanh tẩy đầu óc, hắn càng thấy hoang mang.

Nắng ngày càng lên cao, chim yến bay từng đàn về từ bên kia rặng đất. Rừng núi cuối mùa xuân, khi các loài côn trùng chưa kịp trút hết lớp vỏ cứng mùa đông hay ra khỏi lớp kén, vẫn còn tịch mịch. Trong nhà chỉ nghe tiếng dao chặt lách cách khi Hiểu Lam đem những đọt măng vừa hái dưới sườn núi lên làm cơm trưa. Hắn chống kiếm đứng trong bóng tháp đổ mà nhìn khung cảnh xung quanh.

Rừng phương Nam xanh thăm thẳm, dưới tán lá dù trong ngày nắng vẫn thoáng vẻ âm u. Lớp lá non vừa mọc trong mùa xuân pha lẫn với những chiếc lá già của loài cây xanh quanh năm làm thành những mảng sắc màu đậm nhạt liên tục lay động trong gió. Trảng cỏ trải dài từ chân tháp đến bên bờ núi đã cao, màu xanh mơn mởn dập dờn. Dòng sông chảy dưới chân núi như một dải thủy ngân bạc, cửa biển mở rộng dẫn ra như cắt đôi qua bờ cát trắng phau. Xa xa, tháp cổ Chiêm Thành cao hàng trăm trượng vẫn mịt mù trong khói nắng. Nhìn về phía mặt trời, biển vẫn ngút ngát màu lục ngọc, như ôm lấy mảnh đất này vào trong vòng vây mềm mại của nó.

Một bên là rừng nối tiếp rừng, núi nối tiếp núi. Một bên là biển cả đến dường như là vô tận.

Gió trận trận thổi qua, trong một lúc lại làm hắn có cảm giác mình sắp bị thổi bay đi.

Thổi đi đâu? Phương Bắc đã tuyệt đường trở lại, phương Nam chống chếnh để quay về. Việc nhân gian như khói sương, tóc chưa bạc mà lòng đã mỏi. Mênh mông thương hải hóa tang điền. Tháp cổ lẫn vào cỏ núi, bơ vơ trên cát, đối mặt hỏi trời cao.

Hiểu Lam lên tiếng gọi hắn khi đến bữa trưa. Thấy hắn ngồi im lặng ở một góc đền, nàng còn tưởng hắn đang tập tọa thiền. Xế trưa, người đến đón Hiểu Lam mới lên núi. Lâm Phi đi cùng với hai ba kẻ mà hắn không biết mặt.

"Như Yên cô nương bảo ngươi muốn ở đây thì ở, nhưng nhớ đường mà quay về." Lâm Phi vừa nói vừa đưa cho hắn một cái bọc nhỏ. "Cô ấy bảo đưa đồ đạc cho ngươi với hộp pháo này, khi nào muốn xuống núi thì đốt lên để đưa người đến đón."

Hiểu Lam còn cố nán lại dặn dò hắn thêm vài câu nữa về cách rửa măng, pha trà rồi mới an lòng xuống núi. Buổi chiều hôm đó, không có nàng ta, hắn yên tâm đi bắt một con gà rừng về nướng. Trà cũng là loại cây mọc sẵn trên núi, hắn chỉ việc hái một rổ lá về, định mai đem phơi khô. Tháp cổ có sẵn giếng nước trong vắt, trong núi cũng có suối lớn. Ăn no nê rồi thì hắn định đi tắm, liền mở bọc áo mà Lâm Phi gửi lại. Một bức thư đặt gọn ghẽ trên những chiếc áo, ghi mấy chữ "Nhắn tên ngốc".

"Huyền Khê đại sư bảo với ta, nhất định đồ ngốc nhà ngươi sẽ không trở về sớm. Ngươi muốn cạo đầu xuất gia thì ta cũng mặc kệ, nhưng hãy nhớ những gì ta đã nói với ngươi. Ta dẫn ngươi đến đây không phải để đi chơi.

Vừa rồi ngươi giúp ta, ta cho rằng cũng nên giúp ngươi một tay trong cái trò ngộ đạo nào đó, may ra ngươi về sớm hơn. Ngươi cũng biết, trên đời này kẻ thông minh tài trí hơn ngươi nhiều vô số kể. Thôi thì ta kể vài chiêu thức của họ cho ngươi được rõ.

Thứ nhất, vịt con mở mắt. Vịt con khi mới mổ vỏ trứng ra sẽ nhận con gì nó thấy trước mặt đầu tiên làm mẹ. Con người cũng vậy, khi đầu óc còn như tờ giấy trắng, sẽ lấy ấn tượng đầu tiên làm kinh nghiệm suốt đời. Ông bà ta đã nói 'Dạy con từ thưở còn thơ' chính ý như vậy. Con vịt không biết 'mẹ' là gì thì làm sao biết phân biệt thế nào là 'mẹ'? Đứa trẻ con không biết nghi ngờ thì biết thế nào là đúng sai? Đây là thời cơ để nhồi nhét vào đầu chúng những ơn nghĩa, những đạo lý cao cả. Một đứa trẻ thì có thể nó còn không nghe lời, mười đứa trẻ thì nó còn nghi ngờ, nhưng một ngàn đứa trẻ lớn lên cùng nhau, nghĩ y như nhau - Thì khi ngươi nói với chúng điều ngược lại, bất chấp thật hay không thật, chúng cũng sẽ đá ngươi ra ngoài.

Thứ hai, đi tìm rồng. Rồng thì không có thật, nhưng người có thể vẽ ra rồng. Cho cái con ấy thật nhiều đặc tính kỳ bí tốt đẹp cao quý, rồi chỉ vào đó, bảo rằng làm theo thế thì mới là hay. Tốt hơn nữa là phát động đi tìm rồng. Thế là người người đi tìm rồng, nhà nhà đi tìm rồng. Vì con ấy không có thật, không ai biết những gì ngươi nói là đúng hay sai, hay phản đối được ngươi. Rồng thì không có thật, nhưng những thứ tương tự như rồng thì nhiều. Thế là từ rắn đến giun đất đều được tung hô. Người tìm không được rồng, nhưng bắt được từ rắn đến giun đất - Thế thì lại đi tranh cãi nhau xem con nào giống rồng hơn.

Thứ ba, lùa vịt thành bầy. Ở trong nhà đóng kín, ngươi có thấy cảnh bên ngoài không? Nếu ta nói bên ngoài là sa mạc, ngươi có biết để phản bác không? Tương tự như vậy, ngươi không biết thế nào là loài gấu trắng, loài hươu có cổ dài, loài sư tử... ngươi chỉ biết nó qua mô tả của người khác. Ấn tượng ngươi có là do người khác nói cho. Ta bảo sư tử sẽ ăn thịt ngươi, ngươi có dám lại gần nó không? Ta bảo cây giáp trúc đào độc chết người, ngươi có dám ăn thử nó không? Tổng hợp tất cả mọi thứ lại, những chỗ nào mà ta không muốn ngươi tới, những việc gì ta không muốn ngươi làm, ta chỉ cần cho ngươi những khái niệm tương tự, ngươi tự nhiên sẽ tránh xa. Thậm chí, ta bảo ngươi rằng dưa hấu độc, ai bảo ngươi nếm thử thì ngươi sẽ cho rằng kẻ đó làm hại mình.

Thứ tư, đẻ trứng vào tổ chim cu. Có một loài chim luôn đẻ trứng của mình vào tổ của loài chim khác nhờ ấp hộ nuôi hộ. Len lén nhân lúc chim mẹ đi khỏi mà để quả trứng vào. Chim mẹ không phân biệt được trứng nào là của mình, chim con nào là của mình. Trứng cùng một ổ, dù có khác biệt thì cứ coi như là trời sinh. Ác một nỗi, con chim con này to gấp đôi chim mẹ, ăn hết cả đồ ăn của các con khác. Giả sử chúng ở cùng một tổ, con nào lớn làm chủ, thì nó đương nhiên là chiếm hết cả tổ. Chim con lạ lớn lên, đuổi cả chim mẹ chim con kia đi.

Cuối cùng, phòng trường hợp ngươi chưa biết, môn phái Thiền tông của lão hòa thượng này chủ trương: 'Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ'[4]. Lần sau nếu gặp lại, ngươi cứ đá lão lăn xuống núi, không cần nghe lão lảm nhảm làm gì."

Hắn bật cười khi đọc những dòng cuối cùng. 'Con bé con tai quái' hẳn đã nhận ra người quen cũ, xúi hắn gây sự. Quả là không ai rõ những trò lừa gạt hơn nàng ta. Nàng ta nhắn hắn về, không gì khác ngoài canh chừng Sa.

Nhưng nếu chính bản thân mình mà hắn còn không giúp được, làm sao giúp y? Gánh nặng khôn bỏ. Tình cảm vốn là món nợ lớn nhất đời người.

Sa cũng đang là gánh nặng của hắn?

Ngồi nơi bậc cửa ngôi nhà nhỏ, hắn ngẩng mặt nhìn lên vầng trăng non nhợt nhạt cuối trời mà ngẩn người. Rốt cuộc, trong hắn có một gút mắc nào mà chính hắn cũng không nhận ra? 'Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ', 'vịt con mở mắt' với lại 'đi tìm rồng', tiểu yêu tinh đang muốn nói gì với hắn?

Hay là, chính bản thân mà hắn tưởng là mình này, vốn cũng đã không là thật?

Kiếm pháp ấy, những gì tưởng ở trong tay hắn, cũng không phải là thật?

Cẩn thận, hắn nâng kiếm, sử chiêu lại lần nữa. Hành diệc thiền, tọa diệc thiền, hắn tập trung đếm từng hơi thở của mình, để mặc cho kiếm vi hoạt. Đếm từ một đến mười, hắn đếm vòng lại lần nữa. Đến vòng thứ hai mươi, hắn bắt đầu đếm thuận không còn vấp váp. Phương pháp này thích hợp với hắn hơn tọa thiền. Tâm hắn tĩnh lặng dần. Tiếng xôn xao của núi rừng cũng dần dần mờ nhạt, bị đẩy ra xa khỏi tâm trí. Tri giác hắn dần dần khép lại.

Như lần uống Hồng Trần Túy kia, kiếm trong tay hắn không chủ ý mà hoạt động. Hắn không còn chú ý đến chiêu kiếm. Kiếm thể đồng nhất. Đây là tiếng chim hót mây bay, đây là sóng triều xô vào bãi sậy, đây là tiếng mưa rơi trên lá, đây là đá nép trong chiều. Muôn vàn cảnh trí lướt qua tâm hắn đang lắng lại như mặt hồ nước. Tất cả tiếng động rơi vào không còn vang vọng. Mọi xao động đều nhanh chóng lướt qua.

Phóng tứ đại, mạc bả tróc. Tịch diệt tính trung tùy ẩm trác.

Bất cầu chân, bất đoạn vọng. Liễu tri nhị pháp không vô tướng.

Nhật khả lãnh, nguyệt khả nhiệt.

Ngũ ấm phù vân không khứ lai. Tam độc thủy bào hư xuất một. [5]

Cảnh sắc trên hồ liên tục đổi thay. Mặt hồ lúc tĩnh tại, lúc xao động, con nước chuyển chuyển đổi dời.

Bóng tuyết hoa phảng phất. Thiên sơn chìm trong sương. Nhật nguyệt trôi qua mây xám.

Chớp mắt, ngày tàn. Chớp mắt, đêm qua. Vô số, vô số kết thành tuyết hoa bay theo gió, loáng thoáng trước mắt. Điệp điệp trùng trùng.

Mặt hồ lăn tăn nước, lắng mình nhìn tháng năm.

Hắn buông rơi thanh kiếm khi thấy mình kiệt lực. Cơn chống chếnh đã mất, để lại chút cồn cào. Mặt trăng đã lên cao quá đầu hắn. Trong một sát na, thanh âm núi rừng vọng lại trong tai hắn như một dòng thác tự dưng đổ ập đến.

Trong sát na trước khi buông kiếm, hắn tưởng như đã cảm thấy một điều gì đó, cái gì đó nằm sâu trong lòng nước. Nước vẫn động, và hắn đang tự hỏi mình có tưởng tượng ra nó hay không?

Chú thích:

[1] Sổ tức quán: Phương pháp hít thở điều tâm để bắt đầu tọa thiền. Hít hơi nhẹ nhàng rồi bắt đầu đếm từ một đến mười, xong thì vòng lại một.

[2] Trích Chứng đạo ca của Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác, còn gọi là Tối thượng thừa Phật tính ca. Dịch nghĩa: Dạo sông biển, thăm núi ngòi, Tìm thầy học đạo tham thiền. Từ khi nhận rõ lộ Tào Khê, Đã biết sinh tử không tương can. Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, Nói im động tịnh thể an nhiên. Bỗng gặp gươm đao đều bình thản, Ví phải độc dược vẫn nhàn nhã.

[3] Dĩ tâm truyền tâm: Dùng tâm truyền đạt cho tâm. Đây là phương pháp tu hành của Thiền tông "Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật. Dĩ tâm truyền tâm, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền".

[4] "Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, dửng dưng với bờ sinh tử, đạt đại tự tại, chu du trong lục đạo, tứ sinh": Trích Vô môn quan, một tập công án của Thiền sư Vô Môn Huệ Khai của Thiền tông. Ý nói Phật của người là do chính người tạo ra, chứ không phải là Phật thật, phải trừ bỏ các lý tưởng được xây đắp, vượt qua ý niệm của những kẻ khai nguồn gieo vào lòng để tìm được chân nhân.

[5] Buông tứ đại, đừng nắm bắt. Tịch diệt tính mình tùy ẩm tác.

Không cầu cái chân, không dứt vọng tưởng. Đã hay nhị pháp không vô tướng.

Mặt trời có thể lạnh. Mặt trăng có thể nóng.

Ngũ uẩn là mây ảo hư đến lại qua. Tam độc là nước huyễn hoặc chảy đi mất.

Nhị pháp: Thiền định và giải thoát.

Tứ đại: Bốn thành tố tạo thành vũ trụ là gió, lửa, đất, nước. Trong thân thể con người, xương là đất, hơi thở là gió, máu- mồ hôi là nước, hơi ấm là lửa.

Tam độc: Ba điều hại là tham, sân, si.  

Hồi 36: Chân nghĩa 

Mặt trời mọc rồi lại lặn. Mặt trăng lên khỏi núi rồi lại chìm xuống biển khơi. Thấm thoắt, hắn đã ở trên núi được hơn mười ngày. 

Mỗi ngày, hắn chỉ ngủ rồi đi tìm bắt thú rừng, hái trái cây trong núi làm bữa, thời gian còn lại tập trung luyện kiếm. Cảm giác nặng nề kiệt lực mất dần, thanh kiếm ngày càng nhẹ, đã gần như trở lại bình thường. Nhưng khả năng tập trung của hắn vẫn không có tiến triển, ngược lại, càng ngày quy trình sổ tức quán càng dài, hắn hầu như hoàn toàn thanh tỉnh suốt thời gian tập luyện. 

Ngoại trừ đôi lúc trời trở gió lớn, trong núi hoàn toàn yên tĩnh. Đã gần hết mùa xuân, khí hậu ấm dần lên. Đêm hôm ấy, cơn mưa rào cuối mùa bất chợt trút xuống làm hắn không thể ra ngoài luyện kiếm. Hắn ở trong căn nhà gỗ tự đun cho mình ấm trà, nghịch ngợm vài thứ giấy viết mà Huyền Khê để lại, cuối cùng lại lôi tờ văn tự mà Hiểu Lam đã 'vẽ' ra săm soi một lần nữa. Ngoài những đường nét như kiến bò, hắn tịnh không hề có chút khái niệm nào với thứ ngôn ngữ này. 

Nghĩ cũng lạ, cũng là người mà sinh ở nơi khác nhau, ngôn ngữ cũng khác nhau. Hắn chọc chọc ngón tay vào tờ giấy mà nhủ thầm. Thậm chí chữ trên tờ giấy này người Chiêm Thành hiện tại cũng không đọc được. Tiếng nói thì có lẽ còn giống đôi chút, nhưng chữ viết thì đã đổi rồi. 

Chữ viết do người tạo ra để biểu thị ý nghĩ. Nhưng ý nghĩ không trường tồn, không hiện diện, thì chữ viết cũng thế. 

Không trường tồn, không hiện diện? Hắn chợt ngừng lại, nhíu mày. Chữ viết để biểu đạt ý nghĩ, nhưng chữ viết có chính xác không? Chữ này để biểu thị cho ý này, nhưng có thật là như vậy? Con người suy tư bằng ngôn ngữ, nhưng nếu ngôn ngữ không chính xác thì suy nghĩ của con người có đúng không? Mỗi nhóm người có thứ ngôn ngữ khác nhau, hẳn nhiên họ suy nghĩ bằng ngôn ngữ khác, nhưng rốt cuộc là ý nghĩ của họ giống nhau hay khác nhau? 

Suy nghĩ là thứ được tạo thành bằng ngôn ngữ, ngôn ngữ là thứ được tạo thành từ con người. Là 'vịt con mở mắt' hay 'đẻ trứng vào tổ chim cu', hay thậm chí, 'lùa vịt thành bầy', 'đi tìm rồng'? Là những sai lạc có bản chất truyền đời ngay trong tiềm thức? Thứ mà ta tưởng là ta, hóa ra cũng đã chất chứa một chuỗi những kế thừa, ảnh hưởng của kẻ khác? Con người đã không phải là con người, ngay khi vừa biết suy nghĩ? 

Những kẻ càng tưởng mình tự do tự tại, càng tỏ ra độc lập, hóa ra lại càng là kẻ trói buộc chính mình? Đối sai càng sai, càng đi càng xa? 

Hắn ngẩn người ngồi nhìn tờ giấy khi luồng suy nghĩ như ánh chớp lóe ngang qua tâm trí hắn. Tiếng mưa bên ngoài vẫn không ngớt khi gió sầm sập đổ về, muôn muôn vạn vạn cây rừng quật lá rào rào. 

Vô Âm, Vô Âm... Âm vọng lại chính là thứ mà con người đặt tên cho sự vật mắt thấy tai nghe xúc giác chạm vào. Âm vọng lại, chính là thứ mà con người tạo thành trong tâm. Âm vọng lại, chính là hư huyễn. 

Đoạn ý, chính là rời bỏ huyễn tưởng. 

Không kiềm được nôn nóng, hắn cầm kiếm bước ra màn mưa. Lần này, hắn thanh tỉnh mà múa kiếm, không để tâm đến việc đếm từng hơi thở. Mắt hắn dõi theo những đường kiếm loang loáng lướt qua. Như mưa, như sao, như sương, như gió, như ánh nắng trên biển khơi, như mây tản mát trên bầu trời. Không tên, không tuổi, không có nơi đến, chẳng có nơi đi, những hình ảnh lướt qua hắn, đọng lại trong đáy mắt. 

Đất, là xương thịt, là nơi hắn đang đứng. 

Nước, là máu huyết, là thứ đang trút xuống từ thinh không. 

Lửa, là hơi ấm, là mặt trời và cả trăng sao, là bóng tối và ánh sáng. 

Gió, là hơi thở, là thứ đang chuyển động quanh hắn, từ bốn phương. 

Tứ đại tạo thành thế giới. Kiếm sắc vẽ cảnh phù sinh. 

Tịnh ngũ nhãn, đắc ngũ lực. Duy chứng nãi tri nan khả đắc. 

Kính ly khán hình kiến bất nan. Thủy trung tróc nguyệt tranh niên đắc. 

Liễu liễu kiến vô nhất vật, Diệc vô nhân diệc vô Phật.[1] 

Núi cao lẫn trong mây mù. Gió cuộn mưa rào rào rung chuyển. Khoảng không giữa bầu trời và mặt đất nghe muôn vàn bão nổi. Mây trôi qua, nước trôi qua, gió cũng trôi qua. Núi còn đây, biển còn đây, thăm thẳm dặm dài, hun hút hang sâu, tưởng như đi vào vô tận. 

Kiếm bay giữa trời, lấy chớp mắt vẽ phù du, lấy thoáng qua làm vô tận. Đón lấy mưa qua đời, hứng lấy gió bể khơi, lấp loáng ánh dương, hợp cùng trời đất. Không tuổi không tên, vô dạng vô hình, vô tướng vô thanh, chuyển chuyển đổi dời, theo nước mà chảy, theo gió mà bay, lửa làm tinh thần, đất làm điểm tựa. Sinh sinh diệt diệt, luân hồi không dứt. Hồng trần vạn trượng, bụi bay mù khơi. Tình ca muôn lời, hát cùng sóng biển. Không cầu sinh, không cầu diệt, ngày mai đã tàn, ngày qua đã dứt. Hoa tuyết vẫn bay, nở rộ giữa trời. Rồi ngay cả thanh âm cũng đã im tiếng. Rồi ngay cả đá rơi cũng không còn vọng. 

Đường kiếm rối như gió lộng tuyết bay, nhưng giờ đây hắn đã nhìn rõ những đường đi của một điều thăm thẳm nằm sâu trong chúng. Tuyết Hoa kiếm chủ về biến chiêu, liên tục chuyển chuyển thay đổi. Bớt đi những rối loạn, lược bỏ các tính toán, kiếm chiêu xuất ra, tuần tự mà đột ngột, biến đổi nhanh chóng mà không rối loạn, mềm mại mà chuẩn xác, nhu hòa mà tinh tường. Như thể kiếm tự có mắt, chiêu thức tự có đường. Như ngày tàn đến đêm thâu, như ngọn cỏ cong mình khi gió thổi. 

Sấm nổ rạch ngang trời. Lóe trên kiếm ánh hào quang lóa mắt. Kiếm phóng ngang đất. Vạch trên cỏ đường cắt hằn sâu bóng đêm. 

Hắn ngẩn người nhìn đường kiếm vừa sử xuất. Đây là một chiêu thức của Vô Âm đao. Chiêu thức tuần tự xuất ra, như thể là một phần của hắn. Hắn đã từng được học, nhìn cũng đã quen chiêu thức này, nhưng khi nãy là thuận tay đánh ra hay là trong sát na giật mình vì tiếng sấm, chiêu thức tự đến? 

Hay quả thật, như hắn từng nghĩ, Tuyết Hoa cùng Vô Âm đều từ một gốc mà ra? 

*** 

Hắn chưa kịp xuống núi đã có người lên tìm. Sáng hôm sau, mưa vừa tạnh, ánh mặt trời vừa hửng, Lâm Phi đã đứng sừng sững trước cửa, lấy cây gậy tre chọc vào hắn đang nằm trên đất. 

"Dậy, xuống núi với ta. Như Yên cô nương gọi ngươi về." Gã nói khi thấy hắn lờ đờ mở mắt. Tối qua luyện kiếm đến nửa đêm, hắn vẫn còn mơ mơ màng màng. "Chúa Nam Hà mất rồi." 

Câu nói cuối lập tức làm hắn tỉnh hẳn, vội vàng vơ lấy đồ đạc đi cùng Lâm Phi. Chúa Hiền hấp hối đêm qua, tất cả các tông thất được gọi vào phủ. Trước khi đi, Như Yên gọi Lâm Phi bảo đưa hắn về. 

"Giờ thì hẳn ông ấy qua đời rồi." Lâm Phi vừa đi vừa lẩm bẩm. "Như Yên cô nương bảo, nếu bây giờ ngươi không về thì mấy hôm sau đừng hòng đi qua nơi canh gác mà vào được." 

"Ngay bây giờ cũng khó rồi." Hắn nói, nhìn xuống bến sông dưới chân núi. 

Không chỉ có quân canh gác, bến thuyền tràn người dân mọi độ tuổi tập trung về. Vài hương án đã được lập, tiếng khóc hờ vang động. Cả phiên chợ sớm cũng đã bị bãi. Với sự xáo trộn này, quân lính đã được tập trung đông hơn gấp đôi. Bọn hắn phải đứng xếp hàng ngoài cửa gác mất cả canh giờ, ngay cả thẻ bài Như Yên đưa cho Lâm Phi cũng bị đưa đi thẩm tra thêm cả nửa canh giờ nữa. Khi bọn hắn vào được khu vực Phú Xuân, nắng đã lên cao. Đâu đâu cũng một cảnh khóc hờ như ngoài cửa biển. [2] 

"Dân nơi này giống như người trong một nhà." Lâm Phi nhún vai nói. Nhận xét của gã làm hắn phải thoáng ngạc nhiên. Thấy ánh mắt hắn, gã mỉm cười. "Là họ tự nguyện đi theo ông ấy. Như Yên cô nương nói cái gì đó - nước nhỏ dân ít - chẳng phải là một nhóm người đồng lòng thương yêu nhau? Ta với Bát Thanh Ngư đôi khi còn cự cãi, nhưng sống chết có nhau. Hội cùng với các nhóm hải tặc khác, thế nào mà chẳng có xung đột, lúc vì tiền, lúc vì gái, lúc thì chỉ vì nhìn mặt nhau khó ưa. Không có xung đột lớn thì xung đột nhỏ, lúc bằng mặt mà không bằng lòng, không ra mặt tranh nhau thì cũng ngấm ngầm bất mãn - sao phải khổ như vậy? Một nhóm người nho nhỏ, một miếng đất nho nhỏ, sống cùng nhau chẳng phải vui sao? Mà nhóm người nhỏ thì việc cũng nhỏ, tiền cũng nhỏ, lực cũng nhỏ, việc gì cũng giải quyết được ngay tức khắc. Giả sử như có hôn quân, chỉ cần họp cả nhóm lại, hất béng hắn xuống là xong. Bày ra những đất này nước nọ, việc gì cũng nhiêu khê, phân chia tứ tung, quan này chức kia đến nhức cả đầu, chẳng hiểu có lợi cho ai? Mà đến khi có việc lật đổ vương này vua nọ thì cả đám bị lôi vào, làm như đó là việc của mình. Nam Hà này không xung đột với Bắc Hà nữa thì yên yên ổn ổn lập thành một quốc gia vua tôi hủ hỉ với nhau, cần gì phải ngó đến cái triều đình tệ hại kia?" 

"E rằng không được 'yên yên ổn ổn' thế đâu." Hắn cười trước lời lẽ của Lâm Phi, nhưng cũng không giải thích câu nói của mình. Nam Hà này được lập sau khi đánh lui Chiêm Thành, chiếm đất đai suốt từ Thuận Hóa, Quảng Nam đến Phú Yên. Và theo thói thường của những kẻ quá mạnh, hẳn là họ chẳng bao giờ chịu ngồi yên. 

Càng lớn mạnh càng phân tán. Càng cường đại càng bất ổn. Càng bành trướng càng có nhiều kẻ thù. 

Bây giờ, không chỉ là Chiêm Thành đã suy yếu nhưng vẫn không chịu khuất phục ở Panduranga, không chỉ là Trịnh tuy rối việc ở biên cương phương Bắc nhưng vẫn dòm ngó động tĩnh ở phương Nam, Nam Hà đã chính thức tham gia vào việc của Chân Lạp, gây hấn với Đại Thành, làm phật lòng Ô Lan. Ngay cả trong những con dân người Việt này, 'vết vá' dân cư ở Quy Ninh vẫn bất ổn. Lũy Trấn Ninh, đèo Hải Vân đã cho vùng Thuận Hóa này một trăm năm yên bình. Cuộc thanh toán triều đình vua Bà Tấm đã để Phú Yên, Quy Ninh có được bốn mươi năm không chiến trận. Chiến tranh càng bị đẩy đi xa, biên ải Nam Hà càng mở rộng. Mỗi nơi một loại người, một phong tục, đã có quan trên lại có lý trưởng, quan thu thuế ở dưới. Mọi nơi mọi việc đều có tính chất tạm bợ, như một đụn cát nằm giữa bốn phương biển sóng. 

Vẻ bình yên trên bề mặt đô thành này, cũng ẩn giấu vô số sóng ngầm. 

Phủ chúa đã phát tang. Hai hàng người cúi đầu đứng từ sân vào trong sảnh chính, trong khi ở sau viện người người nhốn nháo chuẩn bị. Các cờ phướn trắng dựng đầy khoảng sân, những nhà sư được gọi đến làm lễ đang đứng chờ được phân công ngoài hiên, các cô hầu gái cầm những bộ tang phục trắng đi phân phát, lo chuẩn bị trà nước. Bên trong viện, các quan trấn thủ, canh phòng vùng kinh kỳ đang bàn luận công việc. Nhà trong, nữ nhân tông thất đã được tập trung đầy đủ. Vài người khóc, những người khác trò chuyện khe khẽ với vẻ buồn rầu, vài khuôn mặt lo lắng hơn là đau buồn. 

Như Yên đi khỏi đám đông ấy mà không ai nhận ra. Vòng qua hàng hiên đang huyên náo, nàng đi về phía đình thủy tạ nằm giữa bụi trúc khuất ở góc sân. Sa đang ngồi trong đình, thấy nàng đến liền đứng dậy. 

"Chưa về được." Như Yên lắc đầu khi thấy cử chỉ của y. Nàng kéo y ngồi xuống cạnh mình, ngả lưng vào cột đình mà dụi mắt. Đêm qua chúa hấp hối rồi băng, phủ chúa nhốn nháo đến tận bây giờ, có thể là nhiều ngày nữa. "Vừa rồi tự dưng gây chuyện thực là không hay, giờ không thể len lén trốn về." 

"Ở đây thì hơn." Sa chỉ nhẹ nhàng nói. Tuy không gắn bó sâu sắc, vị chúa này cũng đã nhận Như Yên làm con nuôi, cho nàng danh phận. Với tính cách Như Yên, nếu hoàn toàn không có tình cảm gì, nàng cũng không ròng rã ngày ngày đến đánh đàn ca hát bên ngoài như thế. 

"Ta ghét nghe cái tên Ngọc Phương." Như Yên vẫn tỏ vẻ bất mãn. "Đó có phải tên ta đâu." 

"Cái tên chỉ để gọi thôi." Sa vẫn bình ổn an ủi. Như Yên mở mắt nhìn y, như thể sương mù thoáng qua trong mắt. 

"Ngươi có thể bỏ hẳn cái tên của mình được không?" Nàng nói, rồi rất nhanh chóng mỉm cười. "Ai gặp ngươi rồi cũng hỏi ta, sao lại lấy cái tên xấu xí như thế đặt cho ngươi." 

Ngón tay nàng vuốt những sợi tóc lòa xòa của y sang bên, nhẹ nhàng dắt vào sau tai cho y. Nàng nghiêng đầu nhìn y, gần như là âu yếm. 

"Người vùng này có phong tục đặt tên xấu cho trẻ con để ma quỷ không bắt chúng đi. Ngươi dù có xấu xí như thế nào thì cũng là Sa của ta. Ta chỉ cần gọi cái tên ấy, ngươi sẽ làm theo ý ta, phải không?" 

Lần này, y không lên tiếng. 

"Ngươi có ghét cái tên ấy không?" Như Yên vẫn vừa nói vừa cười. Bàn tay nàng ấm nóng đặt lên má y. "Nếu như gọi bằng cái tên khác, ngươi có còn nghe lời ta nữa không?" 

"Tiểu thư, ở đây đông người." Y cầm tay nàng kéo xuống, liếc mắt rất nhanh ra lối đi ở cửa đình. Như Yên cau mày. Nàng ngả hẳn tới, vòng tay ôm lấy cổ y. 

"Ai nhìn thấy thì ta khoét mắt. Ai nghe trộm thì ta xẻo tai. Ai mách lẻo thì ta cắt lưỡi." Tiểu yêu tinh cười khúc khích bên tai y. "Ngươi ở đây lâu như vậy rồi mà vẫn chấp nhặt thế sao? Mùa xuân rồi, hay ta đưa ngươi đến xem lễ kết tình của người Thượng? Hình như gần đây cũng có." 

Dù rất nhẹ, y rõ ràng đã rùng mình. Khóe môi Như Yên càng cong lên. Nàng ghé sát lại, hơi thở nhột nhạt thổi vào tai y. 

"Lần này chúng ta về bằng đường bộ, sẽ phải đi qua vùng của họ đấy. Ta ở đây, ngươi về trước chuẩn bị xe và ngựa, nếu được thì chọn đội tùy tùng chừng mươi người. Nếu không có gì bất ngờ thì năm, sáu ngày sau chúng ta lên đường. 

"Hoằng Ân hầu vừa đưa thư của Hoắc Phương cho ta. Ta phải về gấp." Như Yên nói tiếp khi nhận ra sự ngạc nhiên của y. "Đi đường thủy không được rồi, phải vòng qua núi mà về vậy. Vả lại, những kẻ ấy đang chờ chúng ta trên biển." 

Sa nhè nhẹ gật đầu. Như Yên buông tay ngồi thẳng lên, trở lại vẻ lờ đờ buồn ngủ. 

"Nhưng giờ thì ta trốn ở đây ngủ đã. Ngươi về trước đi." Nàng vừa nói vừa nằm hẳn xuống lan can đá của đình thủy tạ. Sa đứng lên, chần chừ một thoáng, y cởi áo ngoài đắp cho nàng. Vừa đổi tang phục, dù thời tiết đã ấm hơn, đá vẫn còn lạnh. 

"Đi mua đồ cúng Thanh minh cho ta nữa." Như Yên dặn với theo y, vẫn nhắm mắt. Hương đèn có thể lấy ở đây, nhưng nàng không thích. 

Y không trả lời, hoặc nàng đã ngủ thiếp đi không nghe thấy. Khi nàng dậy, một bọc đồ đã được đặt dưới chân, đầu cũng đã được đặt lên chiếc gối mây nho nhỏ. Trời đã về chiều. Tiếng kinh cầu ê a vang khắp khu phủ đệ rộng. Tiếng khóc hờ ồn ã khiến nàng khẽ cau mày. Đầu nàng vẫn còn vướng vất nhưng nhức. Day day trán, nàng vẫn nằm mà ngẩng đầu nhìn những áng mây đang đổi sang màu xanh nhợt khi trời dần thẫm lại. Đàn chim bay qua. Con sẻ nâu nhảy trên đầu ngọn trúc. 

Tháng ba, nàng thầm nhủ. Tháng ba trời tối chậm, hẳn vẫn còn kịp. 

Rời khỏi khu trích đình, nàng đi về phía sau phủ, đến hiên phía Tây rồi vòng qua cửa sau, qua mấy người hộ vệ mà ra. Qua một quãng đường ngắn, nàng đi về phía bờ sông. Chiều đang xuống, âm u sương mù. Tiếng kinh cầu đã khuất, chỉ nghe văng vẳng lại. Tin báo quốc tang làm người dân trong vùng bỏ việc, giờ này ven sông đã vắng tanh không có bóng một chiếc thuyền. Những bụi cây là đà rủ xuống làm âm u cả quãng sông. 

Như Yên chọn một bờ đất chắc chắn quang đãng để ngồi, cẩn thận vặt bớt cỏ xung quanh rồi mới đặt chiếc khay đồng chứa mấy mảnh hương cùng vài xấp giấy tiền xuống. Gió nổi, nàng phải đánh vài lần lửa mới lên. Nàng đốt nhang cắm ở bờ sông. Sa đã đặt cho nàng cả một vòng hoa nhài trắng. Nàng thả nó vào dòng sông. 

"Ông Ba à, Thanh minh năm nay cúng trễ, đừng giận ta." Như Yên cười mà nói. Cạnh nàng, đám lửa trong khay đồng vẫn không ngừng bốc cao. Khói làm nàng cay mắt. "Nhưng ông cũng chẳng linh gì cả. Năm nào ta cũng bảo ông hiện hồn về báo xác ông dạt vào đâu cho ta xây mộ. Chứ mỗi ngày Thanh minh thế này ta lại phải đến bờ sông cúng, dù trăm sông đổ ra biển thì chỗ nào cũng như nhau, thế cũng không hay gì, phải không? Ông có một nấm mộ, lúc nào ta vui thì đến kể cho ông nghe, lúc nào ta buồn thì đến bắt ông an ủi, chứ chẳng lẽ ta múc một gáo nước mà nói chuyện được sao? 

"Như những ngày này, người ta đi tảo mộ người thân, có ai đốt cho ông một nén nhang, chia cho ông oản xôi không? Làm cô hồn thì buồn lắm. Đi đi lại lại mà không ai để ý, không ai nhớ, không ai thương, có tên mà không ai gọi, phải giành nhau đồ ăn các thứ. Làm cô hồn có gì tốt chứ, sao không chịu về với ta? 

"Hay ông mắc vào đám rong đám cỏ nào kẹt dưới sông luôn rồi? Nếu thế thì cứ báo với ta, ta sẽ đưa người vớt ông lên. Làm ma chết đuối lạnh lắm. Ta bây giờ có thuộc hạ đàng hoàng rồi, không giống ngày xưa phải bày trò lừa người ta dưới nước có túi vàng, báo hại một thằng bé suýt chết khiến ông phải đi dập đầu năn nỉ cha mẹ nó nữa đâu. Lần đó ông phải đem bán đi kỷ vật của bà mua thuốc cho nó, ta chuộc lại được rồi này. Về đây rồi ta đưa lại cho ông. Ta sẽ cho ông rượu, xôi, gà, thịt heo, thịt bò gì cũng có. 

"Nha, lần này nhớ hiện về báo cho ta." 

Lửa trong khay đồng đã tàn. Như Yên thả tro xuống dòng nước, quỳ trên đất mà dập đầu lạy. Những mảnh tro tàn chấp chới bay là đà trên cỏ như những con bướm đen nho nhỏ. Vầng mây hồng cuối trời hắt lên dòng nước chút ánh đỏ loáng thoáng. Làm xong lễ, Như Yên thu dọn đồ cúng, bỏ lại ở gốc cây. Nàng ngồi bó gối nhìn dòng nước chảy giữa hai bờ im vắng đến lạ lùng. Tiếng khóc vẫn từ xa xôi vọng tới, như từ bốn phương dội lại. Bất giác làm nàng thấy đau đầu. 

Gục trán tựa vào gối, kéo chiếc áo khoác rộng thùng thình sát vào mình, nàng còn nghe thoang thoảng mùi hoa tùng. Mùi hương làm tâm trí nàng dịu lại. 

"Về với ta đi." Vẫn nhắm mắt, nàng thì thầm. "Làm cô hồn buồn lắm." 

Chú thích:  

[1] Trích Chứng đạo ca, dịch nghĩa: 

Thanh tịnh ngũ nhãn, có được ngũ lực. Có chứng mới hay khó lượng trước. 

Trong gương ngắm ảnh không khó thấy. Trong nước mò trăng không nắm được. 

Suốt suốt thấy không một vật, Không có người cũng không có Phật. 

Ngũ nhãn: Nhục nhãn, Thiên nhãn, Huệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn.  

Ngũ lực: Tín lực, Tinh tiến lực, Niệm lực, Định lực, Huệ lực.  

[2] Đại Nam thực lục tiền biên ghi: "Bấy giờ thần dân ở trong triều ngoài nội nghe tin có quốc tang, dù ở nơi núi sâu hang cùng, dù là kẻ già con trẻ, không ai là không quay chạy kêu gào; người chài cá thì bỏ thuyền, người chặt củi thì bỏ búa, người đi cày quên bờ, người đi chăn thì buông trâu. Tiếng bi thương vang khắp gần xa." Sự rối loạn này là lý do đến tháng 6, chúa Nghĩa phải ra luật định chế độ tang phục, chỉ cho người dân để tang chúa đến rằm tháng bảy.  

Hồi 37: Trăng sáng 

Sa về đến làng Phú Xuân cùng với hai chiếc xe và chừng hai mươi con ngựa. Mặc kệ ánh mắt dò hỏi của mọi người, y đem tất cả gửi ở một nhà lớn trong làng. Thấy hắn, y cũng chỉ nhàn nhạt liếc mắt. 

"Ngươi đã về." Y nói, đi ngang qua hắn. Biết tính y, hắn cũng chỉ nhún vai. Lựa lúc đã vãn người, hắn theo dấu vết y đến bên dòng sông. Sa ngồi trên một chiếc thuyền lớn, ra vẻ như đang xem xét dây chão cùng thành khoang. 

"Định làm gì vậy?" Hắn nhảy xuống thuyền, cất tiếng hỏi. Sa trả lời mà không ngẩng đầu lên. 

"Về Hội An, có việc cần gấp." Y chỉ nói như thế, hắn gật đầu, biết rằng y sẽ không giải thích gì thêm. Và hắn đến tìm y không phải vì việc này. 

"Ngươi đã gặp Huyền Khê?" Hắn chưa kịp mở miệng, Sa đã lên tiếng. Y để sợi chão xuống sàn thuyền, quay đầu nhìn hắn, gần như mỉm cười. "Ông ta nói với ngươi là Tuyết Hoa kiếm của ngươi hỏng về tâm." 

Đó không phải là một câu hỏi. Hắn lại gật đầu. 

"Sao rồi?" Nụ cười bí ẩn vẫn không mất trên môi Sa. Hắn nhún vai. 

"Nhờ tiểu yêu tinh, ta cũng tìm ra cách đuổi lão hòa thượng ấy đi." Hắn nói, rồi bất chợt chớp mắt như thể nhận ra một điều gì. "Tiểu yêu tinh sao lại rõ về việc này như vậy?" 

"Công tử của Thương Trúc trang có một tâm giao là thiền sư Lâm Tế tông.[1]" Sa cười, lắc đầu trước ánh mắt hắn. "Tạ Nguyên Thiều, không phải Huyền Khê. Ông ta đến đây lâu rồi, trước ở phủ Quy Ninh, sau về chùa Vĩnh Ân gần đây." 

"Vậy... về Vô Âm đao...?" Hắn quyết định hỏi thẳng. Nếu Như Yên đã rõ về Thiền tông đến mức ấy, hẳn Sa cũng không đến nỗi không hiểu những gì Huyền Khê nói. 

"Ngươi tin ông ta?" Câu hỏi của y làm hắn ngẩn ra. Sa buông tay ngồi xuống sàn thuyền, dựa lưng vào thành khoang mà nhìn hắn, phảng phất như chế giễu. "Có nhớ lý do tại sao ngày xưa ngươi sợ ông ta như vậy? Huyền Khê rất giỏi đi dọa người." 

"Thiên thính tịch vô âm. Thương thương hà xứ tầm. Đó là thơ của một nhà Lý học." Y thở ra trước vẻ mặt hắn. "Vả lại, nguyên bản của nó đúng là Thiền học, nhưng cũng không phải Thiền học. 

"Hơn một ngàn năm trước, sư tổ Bồ Đề Lạt Ma đến nước ta truyền dạy giáo lý Phật học. Trước đó, do không liên hệ được với Ấn Độ, các giáo lý luyện thể chất không được chú trọng, chỉ quan tâm đến luyện tâm định thần. Tổ sư Bồ Đề thấy thế liền đem khí công tâm pháp Ấn Độ dạy cho các hòa thượng để rèn luyện thể chất. 

"Trong thời gian này, Đạo giáo ra đời bằng cách kết hợp với Lão giáo và các giáo lý Phật giáo. Khí công được truyền dạy rộng rãi trong các Đạo gia. Bốn trăm năm trước, Thái Cực quyền ra đời ở núi Võ Đang, là một môn nội đan khí công, không thể nói là không có ảnh hưởng của kinh thư Phật giáo. 

"Rồi đến Lục tổ Huệ Năng, giáo lý Phật giáo một lần nữa hòa trộn với Đạo giáo sinh ra Thiền tông. Luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư - Đó chẳng phải là cách tu luyện của Thiền tông lẫn Đạo gia? 

"Vấn đề là, như vậy, ta cũng không biết Vô Âm đao thuộc về trường phái nào." Sa phác tay trước gương mặt ngày càng ngơ ngác của hắn. "Với một ông hòa thượng Thiền tông, phương pháp này có vẻ nghịch lý, nhưng nó có thể đã phổ biến hàng ngàn năm nay. Ai có thể nói giáo pháp của mình là chân lý? Phật giáo còn có Đại thừa, Tiểu thừa, còn có giáo lý nơi này khác với nơi kia. Người này nói với ngươi rằng các pháp tạo thành một vòng Duyên khởi, người kia cho rằng ngay cả các pháp vốn đã không tồn tại. Ngươi có thể nghe, nhưng không thể theo tất cả. Có nhiều cách để đi đến một mục đích. Ngươi hẳn cũng đâu có tọa thiền nổi theo lời Huyền Khê?" 

Một lần nữa, hắn chỉ có thể gật đầu. Sa gảy nhẹ ngón tay vào lưỡi đao của y, ngoảnh đầu nhìn ra dòng sông. 

"Sư phụ nói với ta, căn bản thì hiện tượng, nguyên nhân chung tuy diễn đạt khác nhau nhưng ai cũng hiểu, mỗi người lại đề ra đủ loại phương pháp để đạt đến mục đích. Chỉ cần ta hiểu rõ bản thân mình, Phật là ta mà người cũng là ta, sai lầm hay đúng đắn là do bản thân ta quyết định, không ai chỉ thay được. Lành dữ tốt xấu đều là một phần của một vấn đề. Nhất nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy. Nhất thiết thủy nguyệt nhất nguyệt nhiếp[2]. Phải tự mình đi đến tận cùng rồi mới rõ. Ngồi dưới bồ đề cũng thành Phật mà trầm luân trong bể khổ cũng thành Phật." 

"Sư phụ vì sao mà mất?" Hắn nhìn thẳng vào Sa mà hỏi. Tin tức y nói với hắn trước đây quá mơ hồ. 

"Người làm rượu đã mất." Y vẫn nhìn ra sông, nơi bóng tối đang lan dần đến chỗ hai người. "Cả đời tưởng đã tuyệt tình lẫn đoạn ý, rốt cuộc vẫn thương tâm. Sư phụ đến đây tìm cách quay trở lại Giang Nam, nhưng không đi nữa." 

Cả đời tưởng chỉ vì giang sơn dốc sức, hóa ra lại vì một người mà đau lòng. Vì thế y không tin những gì Huyền Khê nói. Hủy hoại tâm can, đốt thành tro bụi, những từ ngữ tưởng chừng đáng sợ nhưng lại không thể hình dung ra, cảm nhận được. Có những điều đáng phải trả giá, và có những điều chỉ thời gian mới có thể trả lời. Không ai có thể cho rằng mình hiểu được vấn đề của người khác. 

Hắn nhìn y, đôi mắt dưới mái tóc lòa xòa đã tràn bóng tối. Nhất thời, hắn không biết phải nói gì. Những điều hắn nghĩ, y đều đã nghĩ qua. Những gì mà bây giờ hắn mới hiểu, y đã trải qua, đã nghiền ngẫm cả. Sáu năm, trong lúc hắn còn mê mải ở Đông Phố, y đã vượt qua xa hắn, không chỉ về võ công. Bây giờ, trước y, hắn thấy mình chỉ là một đứa trẻ ngờ nghệch. 

"Chúng ta đấu thử đi!" Hắn đứng dậy, đề nghị. Đêm qua, hắn đã vô thức xuất ra một chiêu Vô Âm đao. Hắn muốn chứng nghiệm lại một lần nữa cảm giác của mình. 

Sa nhìn hắn bước lên bờ, im lặng đứng dậy đi theo. Hai người đến một khoảng đất trống nằm sau hàng tre trúc. Những cây cổ thụ mà hắn không biết tên thả rễ lẫn cành lá lòng thòng là đà trên đất. Mùa xuân, những bông hoa đủ màu nở khắp nơi đang dần khép cánh trong bóng chiều. Hơi mù đang được thổi lên từ lòng sông, phảng phất ráng đỏ. 

Đao vô ảnh, chỉ có sát khí lạnh toát. Kiếm vô thanh, chỉ có bóng loang loáng bay qua. 

Hắn không đánh gấp, Sa cũng xuất chiêu đầy thận trọng. Như ngọn cỏ trong gió, hoa tuyết trong lốc xoáy, kiếm nương theo đao mà thiên chuyển, mà biến đổi. Chiêu thức đã được quên tên gọi, chỉ được xuất ra từ trong tâm khảm. Bóng nước phản chiếu hình hài, sóng nổi theo từng va chạm. 

Sa đột nhiên lùi về sau. Y hạ đao, chỉ trầm mặc nhìn hắn. Một lúc, y chợt lắc đầu. 

"Ta không đánh với ngươi." Y nói khi mũi đao vẫn hạ xuống gần chạm mặt cỏ. Một tấc không lay, một ly không động. 

"Tại sao?" Hắn cau mày. Hắn đã nhận ra, lần trước y chỉ đánh cầm chừng với hắn. Lần ấy, chiêu thức cuối cùng y xuất ra mới có thể thực sự là Vô Âm đao. 

Sa vẫn cúi đầu đứng yên. Trong bộ áo xám, toàn thân y như đã hóa đá. 

"Luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư." Y chợt đều đều cất tiếng. Giọng lạnh băng như từ nơi xa xôi nào vọng lại. "Lấy ý làm thần, lấy khí thúc lực, lấy quan phát khí, lấy hư định tâm. Tương phùng bất hối. Nhất chiêu tất sát." 

Lời vừa dứt, tay áo y phất lên. 

Đao vô ảnh vô hình vô thanh. Hắn chỉ thấy gió thổi tạt vào một bên má, lạnh buốt như băng. Thậm chí hắn không kịp có một phản ứng dù chỉ là giật mình. 

Mảng cỏ dưới chân hắn đã bị vạt một khoảng hình vòng cung, đất hằn lên một đường rãnh sâu cả ngón tay. Mặt hắn ran rát như bị một ngọn lửa quét qua. 

"Thiền tịnh không chỉ là của riêng Phật giáo." Sa vẫn đứng tại chỗ, hầu như không rời khỏi lấy một bước. Y nói trước vẻ mặt đờ ra vì kinh ngạc của hắn. "Các Đạo gia của chúng ta đã thiền tịnh cả vài ngàn năm nay. Vô cực sinh Thái cực, Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái. Các kinh mạch trong cơ thể được đặt tên theo Tứ tượng, vận hành theo Bát quái. Con người là vũ trụ, gốc là Vô vi. Có thể tái lập cả thiên địa. Ngươi chỉ mới thấy, chưa hiểu được. Hiểu được, chưa chắc đã là hiểu." 

Hắn vẫn cúi đầu nhìn vết đất hằn dưới chân, nhớ đến chiêu thức đêm qua. Tự mình xuất ra, hắn không thể biết được độ nhanh chậm hay nặng nhẹ của nó. Tiếng sấm nổ đã đánh thức điều gì trong tâm tưởng mà hắn không thể nắm bắt lại bây giờ. 

Nhưng cuối cùng hắn chỉ thở dài, tra kiếm về lại sau lưng, bước đến bên Sa mà vỗ vai y. 

"Ta thú thật là chẳng hiểu ngươi nói gì." Hắn cười với Sa. "Nhưng nếu sư phụ lẫn Huyền Khê đều cảm thấy có vấn đề với đao pháp này, ngươi nên cẩn thận. 

"Ta lo cho ngươi." Hắn nhìn vào mắt y, thành khẩn nói. "Cho nên nếu có chuyện gì, ngươi nên nói cho ta một tiếng. Một người gánh thì nặng, hai người thì đỡ hơn. Ta dù khờ khạo lại hay gây chuyện, ít nhất cũng uống rượu với ngươi được. Ta dù kém cỏi cũng có cái đầu này, biết đâu giúp được cho ngươi." 

"...Ừ." Y nhẹ gật đầu sau một lúc im lặng. Trong đôi mắt sâu thẳm của y, hắn chỉ thấy một vùng nước lặng phản chiếu bầu trời sẫm tối. 

Khi bóng tối trở nên đặc sánh, vầng trăng đã qua rằm thiếu khuyết tỏa sáng trên bầu trời, tiếng cầu kinh trong phủ chúa vãn dần. Người đã ra về hoặc đi nghỉ gần hết, chỉ còn những thành viên trong gia tộc chực trông áo quan, những hàng quân vẫn đứng lặng yên bên ngoài cổng điện. Vài nhà sư vẫn còn gõ mõ, khe khẽ tụng kinh trước nhà quàn. 

"Cha, đi nghỉ đi." Đứa trẻ chừng mười hai, mười ba tuổi lay nhẹ vai người đàn ông đang day trán. Toàn thân y mặc áo tang trắng. "Cha cả mấy ngày nay lo việc, nên ngủ một chút, ở đây có con rồi." 

Hoằng Ân hầu Nguyễn Phúc Thái nhìn sang người con trai cả, nhẹ mỉm cười. Không để y kịp nói, đứa trẻ đã đặt tay lên môi. 

"Cha phải ngủ thì mới tỉnh táo lo công việc được. Việc quỳ trước linh cữu là để cho con. Cha làm việc lớn, con làm việc phụ cho cha." Vừa nói, cậu ta vừa kéo tay y lên. Y gật đầu, vuốt tóc đứa con trai đã nhanh nhảu quỳ xuống chỗ y vừa để lại. Nhẹ nhàng, y bước qua những người lặng lẽ cúi đầu rất thấp khi y đi qua. 

Giờ đây, y đã là Tiết chế thủy bộ chư dinh kiêm Tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự Thái phó Hoằng quốc công. Vị chúa mới của Nam Hà. Vị trí mà cha ông y đã từng giữ. Ngay cả đứa con trai cũng đã tỏ ý nhận biết vị trí mới này của y, những gì mà y lẫn nó phải thành hoàn. 

Bóng trăng vằng vặc trên mái hiên vắng, đổ bóng tối xuống nửa thân trên của y. Y cúi đầu nhìn theo từng bước chân mình được soi rõ trong ánh sáng lạnh từ trời cao. Trăng lạnh như nước. Đêm cuối xuân loáng thoáng gió, cuốn từng cụm sa mù phảng phất như mây giăng xuống từ bầu trời. 

Từ Đông lâu, tiếng đàn khe khẽ vang. Y nhíu mày, bước đến khu lầu cao đã chìm trong bóng tối, chỉ có lập lòe ánh đỏ trên tầng cao nhất như của một người canh đêm đốt lên. Tiếng đàn không ngưng kể cả khi tiếng chân vọng trên các bậc thang im lìm trong đêm vắng. 

Ngồi bên đàn, Như Yên nhướn mày khi thấy y xuất hiện ở cửa lầu. Chỉ thắp một chiếc đèn nhỏ, nàng ngồi bên bàn đánh đàn một mình, không có cả một a hoàn hay tên hầu trà nước. Ánh đèn đỏ quạch soi tỏ một nửa khuôn mặt nàng, nửa còn lại trắng tái trong ánh trăng. Tang phục trắng, tóc không cài trang sức để xõa xuống vai, chỉ được buộc hờ bằng một mảnh vải trắng, trong một thoáng, y nghĩ đến một loài tinh linh chỉ xuất hiện trong bóng tối. 

"Em làm phiền anh à?" Không ngưng tay đàn, chỉ gảy chậm lại, chuyển sang một giai điệu khác, Như Yên hỏi y với nụ cười nhè nhẹ. "Xin lỗi, khu này vắng người, em vốn nghĩ rằng không có ai đến." 

"Cây đàn này?" Y nheo mắt trong bóng tối, nhìn xuống những ngón tay trắng như bằng sứ của thiếu nữ. Nàng gật đầu. 

"Vạn cổ di âm cầm. Em lấy trong phòng anh. Ở quanh đây chẳng có cây đàn nào ra hồn một chút, em cũng chẳng rảnh rỗi đi tìm." 

Y cười thành tiếng, có lẽ là lần đầu tiên trong cả vài tháng qua. Nghe tiếng cười, Như Yên ngừng tay đàn. Mắt nàng nhìn sang cây tiêu vẫn giắt bên lưng y. 

"Tấu với em một khúc chứ?" Nàng nói, rồi như thường lệ, vừa hỏi cũng vừa quyết định. "Thần huyền khúc." 

Y hơi giật mình nhìn Như Yên. Nàng đã bắt đầu gảy. Tiếng đàn trầm như tỉ tê, như tiếng ve sầu cất nghẹn dưới lòng đất cứng. Trong đêm âm u còn phảng phất mùi nhang khói trên áo y vương lại, tiếng đàn ai oán này như có vài phần quỷ dị. 

Y nâng tiêu lên môi. Tiếng tiêu không cao, không thấp, chỉ nhẹ nhàng phảng phất quện với tiếng đàn. Mong manh như tiếng nước nhỏ sau cơn mưa, dịu dàng như mây quấn bên sườn núi. Tiếng đàn càng thê thiết ai oán, tiếng tiêu càng ôn nhu. 

Tiếng đàn đột ngột cất cao, tuy vẫn chậm rãi nhưng càng lúc càng rối loạn. Không than mà sầu, không khóc mà đau, không buồn thương mà lòng cô quạnh. Vội như vó ngựa trên đường tối, xa như khói bốc cuối chân trời. Đất trời tịch mịch, quỷ núi khóc than ngày đã cũ. Mênh mông muôn dặm, bụi cuốn sương mù vội bay. Lặng lặng như đá rơi, êm êm như lá trút, bình thản ngày tàn, an nhiên đêm tận. Tiếng tiêu cao vút lên trăng, quan hoài lạnh lẽo, mơ hồ thương cảm. Trong sáng mà u uất, trải rộng mà phù du, thăm thẳm mà xa vời. Đường đi muôn dặm, chân trời sau lưng, bóng núi trước mắt. Vết cũ còn đây người đã vắng. Lệ chưa khô, tình đã phai. Nước trôi trôi cả khúc Ly tao. Cỏ xuân mọc chôn vùi thành quách cũ. 

Tiếng đàn đứt đoạn, từng thanh âm rời rạc kéo dài. Tiếng tiêu vẫn ôn nhu vọng khe khẽ. Tuyệt u, tuyệt ly mà cũng tuyệt trường. Ngàn năm gió đập vào vách đá, lá hoa mùa cũ đã phai tàn. Trăm năm người đi trên dặm thẳm, tình xưa đã khuất phía Tây phương. Đêm thăm thẳm, trăng vằng vặc, mộng phiêu diêu tựa khói. 

Tựa khói tan, tiếng đàn đã ngưng lúc nào không rõ. Y hạ tiêu, nhìn thiếu nữ đang cúi đầu. Một nửa trăng soi thanh bạch lạnh lùng. Nửa lửa tỏ u uất trầm mặc. Làn mi chớp, đôi mắt trong trẻo nhìn lên y trước khi nàng đưa tay. 

"Cho em mượn cây tiêu của anh." Nụ cười nửa tinh quái, nửa ngây thơ lại đến trên môi nàng. "Anh cứ ở đây mà ngủ, em thổi tiêu cho." 

"Nếu anh không ở điện quàn thì chỉ là trốn đi ngủ thôi." Thiếu nữ cười khúc khích. "Nếu về phòng bây giờ, anh sẽ phải gặp nào mẹ, nào phu nhân, phiền phức lắm. Em sáng nay cũng trốn đi ngủ một lúc, sẽ không mách lẻo đâu. Trên phản có gối đấy." 

Ngần ngừ một lúc, y gật đầu, đưa tiêu cho thiếu nữ rồi đi lại phía phản góc phòng, chầm chậm nằm xuống. Nghe rõ tiếng xương cốt giãn ra sau hàng giờ mệt mỏi. 

Như Yên nâng tiêu lên thổi khi y đã nhắm mắt. Không còn sự bạo liệt của tiếng đàn vừa nãy, tiếng tiêu của nàng trầm ổn, gần như dịu dàng. 

"Này, Như Yên." Y chợt cất tiếng nói sau một lúc nghe tiếng tiêu. "Em về lần này, tuyệt phải cẩn thận." 

"Người đáng lẽ phải cẩn thận là anh." Như Yên cười khi hạ tiêu xuống. Nàng ngồi khoanh chân nhìn ra hành lang sáng trắng ánh trăng. "Anh không còn ai tin cậy được nữa nên mới phải dùng đến em còn gì." 

"Tin cậy?" Y trầm mặc hỏi, thậm chí không biết rằng mình đã nói. Y có nhiều thuộc hạ, nhưng họ là thuộc hạ, là kẻ đứng trong ánh sáng, không phải là người có thể vào bóng tối. Y có nhiều thân nhân, nhưng đó lại là những kẻ y càng không tin được. Anh em, con cháu, tất cả, khi đã ở vị trí này, đều không thể tin cậy. 

"Nếu em tạo phản, anh có giết em không?" Như Yên vẫn vừa nói vừa cười, bình thản như nói về một điều hẳn nhiên duy nhất. Y thậm chí cũng không thở dài. 

Một năm trước, khi được đặt vào con đường này, y đã từ bỏ không phải chỉ một vài điều, cắt đứt với không phải chỉ một vài kẻ. Thậm chí, y nghĩ mình đã làm quen với ý nghĩ về cái chết. Là định mệnh hay vì điều gì khác không rõ, ba trong bốn người con lớn của chúa lần lượt qua đời trong chỉ có vài năm. Một năm trước, y đã bước vào một con đường chỉ có tiến thẳng lên phía trước. Trên con đường ấy, y chỉ có thể tiến một mình. 

"Cẩn thận trông chừng những người bên cạnh em." Y chậm chạp nói. Như Yên không quay lại nhìn y, cũng chẳng tỏ ra đã nghe thấy. Nàng chỉ dõi mắt vào khung cảnh màu xám được trăng phủ lên vài đường viền bàng bạc bên ngoài. Sương lấp lánh, mù lấp lánh như cát bay. 

Anh nghĩ họ sẽ làm gì, nàng muốn hỏi, nhưng nghĩ ra cũng không cần thiết. Điều ấy đã luôn được nhắc đi nhắc lại giữa hai người. Thủy Chân Lạp do Nặc Nộn thống trị, họ Nguyễn kiểm soát. Từ khi kết giao với Chân Lạp bảy mươi năm trước, có được Trấn Biên, từ khi can thiệp vào chuyện của Chân Lạp, cắt đôi đất nước này vào mười lăm năm trước, con đường hầu như đã mở ra trước mắt. Đất đai phương Nam, đi qua Quảng Nam, Phú Yên vực sâu hang độc, đi qua Panduranga cát cháy, là một mảnh đất phì nhiêu xanh tốt. Trong lúa gạo được các thương nhân Tàu mua đến cho vùng này, đã có một phần do Trấn Biên, Đông Phố cung cấp. Mảnh đất đói nghèo này không thể tự lực một mình mà sống còn. Quyền lực của các thương nhân trên vùng đất này ngang với sự quan trọng của họ. Muốn làm chủ số phận mình, phải lớn mạnh. Nhưng làm điều đó như thế nào? 

Gửi hai nhóm người Minh Hương đến Đông Phố, cấy vào vùng đất hoang vu đơn thuần này những mầm mống lạ. Nặc Thu đã ra mặt liên kết với Đại Thành kình chống Nặc Nộn, nhưng lại ra sức lôi kéo nhóm người Minh Hương. Nặc Nộn cũng không tin tưởng nhóm người này, luôn để mắt trông chừng. Họ sẽ ngả về đâu, trong cuộc tranh chấp giữa hai vị vương Chân Lạp? Trong gần mười năm qua, họ phát triển quá nhanh, quá mạnh. Chân Lạp vốn bị buộc phải chấp nhận họ liệu có chịu để yên? Vùng đất được khai phá trở thành món mồi ngon để muôn kẻ thèm khát. Mà kẻ nắm nó trong tay cũng không thể ngồi yên. Rạch Năn, nơi tiếp giáp với Vũng Long, thành trì của Nặc Thu, đã xảy ra những cuộc xung đột lẻ tẻ đầu tiên. 

Đó là những gì y đã nói. Vì không thể tin tưởng sự chấp nhận của quốc vương Chân Lạp lẫn mục đích của chúng ta, kẻ ấy mới đến đây. Đông Phố không bình yên. Chỉ cần một động thái nhỏ, sự kiểm soát của chúng ta lên vùng đất ấy sẽ mất. Và Đài Loan, hòn đảo Đài Loan hoang vu trở thành vùng đất nuôi sống cuộc chiến hàng chục năm của Trịnh Thành Công, sẽ trở thành khuôn mẫu cho mọi kẻ. Chúng ta nơi này, anh em Long Uất ở Vạn Tượng, cả Đại Thanh kia, đều lập quốc từ tay trắng. Bọn họ, không tin tưởng bất cứ ai, tất nhiên không nghĩ rằng chỉ cần nhờ cậy vào vài lời của chúng ta là có thể sống còn. 

"Chúng ta giúp bọn họ đi." Như Yên chợt nói. "Nếu biết trước phải làm như thế, thì bây giờ anh đã nắm quyền rồi, chúng ta làm đi." 

Trong góc tối, y không lên tiếng. Có vẻ như trong thời gian nàng suy nghĩ, y đã ngủ. 

Chú thích:  

[1] Thời gian này là thời điểm cực thịnh của Thiền tông phương Nam (còn gọi là Thiền tông Huệ Năng). Lâm Tế tông được truyền vào miền Quảng Bình - Thuận Hóa với Thiền sư Nguyên Thiều ở chùa Quốc Ân và Huyền Khê ở chùa Pháp Vân. Thiền sư Thạch Liêm được Nguyên Thiều mời về truyền tông Tào Động ở chùa Hà Trung. Ở Hà Tiên, ngôi 'quốc tự' của vùng này là chùa Hải Tràng do chính các thành viên họ Mạc xây dựng cũng là chùa Thiền tông. Trịnh Hoài Đức viết trong Gia Định thành thông chí rằng đó là phong hóa của thời kỳ này.  

[2] Nhất nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy. Nhất thiết thủy nguyệt nhất nguyệt nhiếp: Trích Chứng đạo ca. Dịch nghĩa: Một vầng trăng hiện trên tất cả các dòng nước. Một bóng trăng đáy nước là một vầng trăng thu lại.

Hồi 38: Bùa ngãi 

Thiên hạ đệ nhất hùng quan.[1] 

Núi Ngãi Lãnh[2] nằm trong dãy Bạch Mã chắn ngang cả dải đất phía Nam. Phương Đông chắn sóng biển xanh, mây phủ mờ đỉnh núi. Một bên là núi cao hiểm dốc, một bên là vực sâu thăm thẳm. Bên con đường nhỏ cỏ mọc lún phún, bùn rầy vó ngựa, thi thoảng lại có các miếu thờ hoặc bằng gỗ hoặc bằng đá nhỏ. Đang tiết Thanh minh, nhiều người đi qua hẳn đã để tâm thắp hương, các chân nhang mới còn đỏ màu phẩm lẫn vào các chân nhang đã mục. Mặt trời lên cao, nhưng dưới các tán cây rậm vẫn ẩm thấp lành lạnh. Đoàn người gươm giáo tuốt sẵn trên tay, không ngớt đưa mắt về phía các bụi cây. Quãng đèo này đường đi hiểm trở, vừa cao vừa hoang vu, thú dữ nhiều vô số mà trộm cướp cũng lẩn lút khắp nơi. Như Yên chọn con đường đi vòng qua núi để tránh đèo nhưng con đường này lởm chởm đá, hai bên vách núi dựng đứng như lúc nào cũng có thể đổ ập xuống. Vừa thúc ngựa phóng nước đại, bọn hắn vừa phải căng tất cả các giác quan để canh chừng lẫn sẵn sàng phản ứng với tất cả những hung hiểm phía trước. 

Không chỉ vì phải đi nhanh để qua đèo trước khi trời sập tối, từ khi khởi hành, bọn họ đã gấp gáp như vậy. Ở những khu vực không hoang vắng lắm, thậm chí Như Yên còn cho vượt qua các trạm dừng chân, đến khi bắt buộc thì hạ trại trên đường. Vòng qua đường núi mà đi gian nan gấp mấy lần tàu thuyền, quãng núi này không thể dùng xe mà buộc phải cưỡi ngựa, nhiều lần phải xuống cuốc bộ, người duy nhất trong nhóm không biết võ công lại là nàng ta, hắn buộc phải tự hỏi điều gì khiến nàng ta lại nhất quyết chọn cách này? Thông minh như tiểu yêu tinh, không thể nào không nghĩ ra cách vượt qua hàng rào quân phòng vệ rời khỏi Phú Xuân. Biển cả mênh mông, không ai có thể chặn đường kẻ khác. Nếu muốn bí mật vào Đà Nẵng, Hội An, nàng ta hoàn toàn có thể tấp thuyền vào bất cứ nơi nào trên bờ biển. 

Trừ phi, cả bờ biển đã bị theo dõi. Nhưng kẻ nào có thể làm được điều đó? Trên vùng đất này, hắn biết chỉ có hai người: Một ở Kim Long, một ở Hội An. Triều đình họ Nguyễn và kẻ nắm giữ quyền lực ngầm của Quảng Nam: Hoắc Phương. Lần này, chẳng lẽ kẻ mà Như Yên muốn đối đầu là Hoắc Phương? 

Sa không nói năng gì, cả Lâm Phi, Bát Hôi Ngư lẫn Hiểu Lam cũng không hỏi được gì ở đám người hộ tống nhất loạt đều im lặng như bị thóc. Với con đường núi ngày càng gian hiểm, hắn thấy mình càng ngày càng bị đưa vào một cái bẫy lớn. Từ khi trở lại từ phủ chúa, Như Yên chỉ nói với hắn một câu duy nhất: "Ngươi bảo vệ cho Hiểu Lam." Có hai cô gái trong đoàn, tất nhiên trách nhiệm còn lại thuộc về hắn. Dạo này Hiểu Lam đi đường vất vả cũng không còn tâm sức để nghĩ đến bản lạc đồ của nàng ta, làm hắn nhẹ nhõm hơn nhiều. Vả lại, có thể vì sắp phải trở về Hội An gặp Hoắc Phương, Hiểu Lam có vẻ trầm ngâm buồn bực. Trên đường đi, chỉ có tiểu yêu tinh láo nháo nói nói cười cười. Lúc này, nàng ta đang vung vẩy một cành cây mềm, tay kia rung một vòng lục lạc nhỏ mà hát bài ca của đám trẻ phương Nam, thứ tiếng địa phương mà hắn tuyệt không nghe ra một chữ. 

"Có ngửi thấy mùi gì không?" Như Yên chợt kéo tấm khăn dày che mặt mà hỏi. Đôi mắt thấp thoáng dưới vành mũ rộng lấp lánh như cười. "Hoa ngãi[3]. Mùa này hoa nở trôi ra biển, cá ăn hoa ấy hóa rồng." 

Không ai trả lời nàng ta. Đang mùa xuân, hoa nở khắp nơi, buông xuống thành cụm thành rào trên sườn núi, ngay cả các kẽ đá cũng tràn đầy hoa dại nở. Nhưng lúc này mọi người chỉ chú tâm nhìn đá trước mặt, dưới chân, trên đầu. Dường như bất mãn vì thái độ ấy, tiểu yêu tinh kéo lại khăn quấn suốt từ mắt xuống ngực, không ngừng liến thoắng. 

"Đường đi này là đã đỡ hơn lên đèo rồi. Ta thật cũng muốn lên đó một lần. Năm xưa vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành ngang qua đèo, để lại một lời đề 'Thiên hạ đệ nhất hùng quan'. Cả ngàn năm Chiêm Việt đánh nhau không qua nổi đèo này, có hai châu Ô, Rí thì cũng đành chịu chết không vượt được, dù có đánh vào Đồ Bàn cũng phải rút lui. Trịnh Kiểm nói: 'Đèo Hải Vân bền vững như chiếc khóa vàng của non sông, chỗ yết hầu của miền Thuận Quảng'. Khóa thì khóa, mấy trăm năm chỉ nghĩ đến việc khóa lại mà thủ yên trong nhà, chỉ có chúng ta là mở được cái khóa này. Núi thì phải cao, sông thì phải sâu, biển thì phải rộng, thế mới gọi là giang sơn. Ai cứ ở yên mãi trong mấy cánh đồng chiêm trũng được?" 

"Núi cao sông sâu biển rộng ấy thì lại là đi lấy của người khác." Một tiếng nói bỗng vang trên đầu bọn hắn. Giọng nói phụ nữ trong ngân qua các vách núi, tiếng vọng hòa lẫn với tiếng ngựa hí khi bất ngờ bị giật dây cương kiềm lại. 

Nhìn quanh không một bóng người, tiếng vọng âm vang qua vách đá rồi mất hẳn. 

Như Yên nhún vai. 

"Đi thôi, muốn giả ma giả quỷ gì thì cứ việc." Khuôn mặt nàng ta đã bị che khuất sau tấm khăn cùng chiếc nón rộng, tịnh không nhìn ra một thái độ nào. Bọn hắn nhìn nhau, thận trọng thúc ngựa tiếp tục hành trình. 

Tuy vậy, đến buổi chiều tối vẫn không có chuyện xảy ra. Theo làn khói bốc lên, đoàn người đi đến một ngôi làng người Thượng nằm trong núi. Ngang qua dòng suối lớn xanh rì bóng cây, bọn hắn nghe thấy tiếng cười nói. Bên kia rặng cây dày, những tấm lưng trần thấp thoáng. Nhiều cô gái quay nhìn về tiếng vó ngựa, nhưng chẳng hề có ý sợ hãi, thậm chí chẳng buồn che chắn thân thể. Ở trong vùng đã lâu, hắn và tùy tùng của Như Yên đã quen với cảnh tượng này, chỉ có Lâm Phi cùng Bát Hôi Ngư trân trối nhìn như muốn rơi tròng mắt ra ngoài. 

"Tử Hiên," Tiểu yêu tinh ngọt ngào lên tiếng gọi. Nàng ta chỉ tay về phía đám phụ nữ đang tắm bên dòng suối. "Ngươi đi hỏi bọn họ xem trưởng làng ở đâu để chúng ta đến hỏi nhờ một chỗ nghỉ." 

"Ngươi biết tiếng Kinh." Tiểu yêu tinh không cho hắn kịp mở miệng. Sau chiếc khăn, có thể hình dung ra nụ cười ranh mãnh của nàng ta. "Mà ngươi trông cũng sáng sủa dễ coi, đi hỏi chuyện dễ có cảm tình hơn. Miễn đừng hóa thành Trư Bát Giới nhảy xuống tắm cùng là được." 

Ném về phía nàng ta một cái nhìn, hắn xuống ngựa đi về phía dòng suối. Nàng ta đừng tưởng chọc ghẹo gì được hắn. Hắn ở vùng đất này đâu phải mới một hai ngày. 

"Cẩn thận đừng để họ bắt mất." Tiếng tiểu yêu tinh đuổi theo hắn, cùng tiếng huýt sáo của Bát Thanh Ngư. 

Đám phụ nữ cười rúc rích với nhau khi hắn đến gần. Dừng lại bên kia bụi cây, hắn hơi cúi đầu hỏi đi hỏi lại ba bốn lần mới có người trả lời, bằng thứ tiếng Kinh bập bõm. Hắn nghe tiếng được tiếng mất trong khi những cô gái không ngừng cười nói, nhưng cũng đủ hiểu được rằng trưởng làng đang ở trong ngôi nhà to nhất. 

Trong làng đang có lễ hội mừng xuân. Những lễ này kéo dài cả chục ngày, hôm nay là ngày cuối. Trên đám cỏ vạt phẳng trước làng đã được thu dọn đi những cồng chiêng, sàn nghi lễ, để lại khoảng sân rộng có một đám củi lớn chuẩn bị được đốt lên. Trưởng làng đón tiếp bọn họ với nụ cười mở rộng, liên tục gật đầu tuy tiếng Kinh cũng chỉ nói được lõm bõm. Ngôi nhà lớn trong làng được ông dành cho bọn họ sử dụng. Ăn uống tắm giặt xong, cả gia đình trưởng làng lại đến mời bọn họ đi dự lễ. Tất nhiên, tiểu yêu tinh ham vui không thể không kéo tất cả bọn hắn ra ngoài. 

Một con heo rừng lớn đang được nướng trên lửa. Hiểu Lam nhìn nó bằng cặp mắt đầy cảnh giác. Xung quanh đống lửa lớn rừng rực cháy giữa sân, các thanh niên trong làng, có cả những thanh niên làng khác - qua trang phục lạ của họ - đang nhảy múa ca hát. Những cái cồng chiêng nhỏ cầm tay được đem ra đệm. Tiếng kèn lá cao vút véo von. Những cô gái hát một giai điệu rộn rã bằng thứ tiếng lạ trong nhạc đệm và tiếng hò reo của các chàng trai. Bọn hắn được trưởng làng dẫn tới một khoảng đất đóng sạp gỗ cạnh đám đông. Trên sạp là những chum rượu cần lớn nhỏ được cho cần hút vào sẵn. Con heo nướng chín được xẻ thịt cho vào những mảnh lá to, còn nguyên mỡ cháy ròng ròng thơm phức đặt trước mặt bọn hắn. 

Hắn vừa ngồi xuống, một cô bé chừng mười lăm tuổi đã chạy lại, thận trọng đặt vào tay hắn một quả tròn tròn bằng vải xanh nhỏ bằng nửa bàn tay. Quả được nhồi bằng thứ hạt gì đó bên trong, ngoài được may thêu rất tinh xảo, còn có cả một cuống lá xanh dài. Cô bé đưa cho hắn xong liền cười mà chạy đi, không quên liếc lại phía hắn một lần nữa. 

"Ngươi biết đó là gì không?" Bên cạnh hắn, tiểu yêu tinh nghiêng người sang, vừa cười vừa thì thầm. Không hiểu sao nàng ta vẫn khư khư giữ tấm khăn quấn đến ngang mắt. "Đang là lễ hội mùa xuân của bọn họ. Ta nghe nói, mùa lễ này cũng là lễ thành niên của con gái trong làng. Truyện cổ tích kể, từ rất xa xưa, có một chàng trai nghèo không có đồ sính lễ liền lấy quả bần tung lên trời, một nàng tiên bắt được liền bay xuống hạ giới. Hai người kết duyên với nhau." 

"Thì sao?" Trong lúc Như Yên nói, hắn đã nhận được thêm ba bốn quả xanh xanh tương tự từ những cô gái khác. Bây giờ họ đứng cạnh nhau bên kia đám lửa, cùng dõi mắt về phía hắn. 

"Ngươi bị ngốc à? Sau lễ thành niên tất nhiên là tuyển chồng." Tiểu yêu tinh bĩu môi. Nàng ta trông như sắp cười phá lên. "Lễ hội mùa xuân là để trai gái gặp nhau. Họ đâu có phiền phức xem mắt hỏi vợ như dưới xuôi. Làng này con gái được phép chọn rể. Thấy kẻ nào vừa mắt, họ cho hắn thứ quả này, xem như ngỏ lời. Ban đêm, tên con trai ấy liền đến nhà cô ta, khoét vách mà vào. Ở với nhau một đêm, thấy thích thì tiếp tục nghi thức chuẩn bị gả cho nhau, nếu không thì đường ai nấy đi. 

"Ngươi không được từ chối." Lần này tiểu yêu tinh cười thành tiếng khi một quả nữa được đặt vào tay hắn. Cô gái quay đi không cho hắn cơ hội phản ứng. "Ngươi cũng phải cho con gái nhà người ta chút thể diện. Đêm nay - xem nào - bảy quả, ta nghi rằng sáng mai ngươi không còn mạng để đi nữa." 

Lời vừa dứt, tiểu yêu tinh bật cười ngặt nghẽo. Nàng ta ôm bụng ngả xuống sập mà cười trước vẻ hãi hùng của hắn trong khi Bát Hôi Ngư đồng loạt thèm thuồng nhìn đám quả vải xanh trong lòng hắn. Hiểu Lam cau mày cúi đầu trong khi Sa ngẩng mặt nhìn trời không trăng không sao. 

"Cho ta một quả đi Tử Hiên." Một tên Bát Hôi Ngư lên tiếng. Như Yên vội xua tay. 

"Không được phép đem cho đàn ông khác. Tâm ý của con gái, sao tùy tiện trao đổi được." Hồ ly cố tình bảo hắn đến hỏi đường chính vì lý do này. Nàng ta là loại người chỉ sợ thiên hạ không loạn. 

"Vậy ta cho cô." Hắn ném đống quả về phía tiểu yêu tinh. Không được cho đàn ông chứ không phải không cho phụ nữ. 

Nụ cười của tiểu yêu tinh đột nhiên tiêu thất. Nàng ta trợn mắt nhìn hắn. Cùng lúc, tiếng hét nho nhỏ bên kia đám lửa vọng lại khi ông trưởng làng lao về phía họ, cầm tay hắn mà lắc. 

"Chúc mừng. Chúc mừng." Tiếng Kinh bập bõm chỉ cho phép ông ta nói hai chữ. Tiếng vỗ tay dậm chân vang khắp nơi làm hắn nhận ra mình có thể vừa gây họa lớn. 

"Đồ ngốc!" Như Yên rít bên tai hắn khi đám đông xô lại. Hắn dùng bộ mặt vô tội nhất nhìn sang nàng ta. 

"Nếu ngươi có người trong lòng rồi thì mới tặng tất cả quả này cho người đó." Tiểu yêu tinh tỏ vẻ cực kỳ bối rối . "Không lấy lại được. Ta cũng không ném trả vào mặt ngươi được." 

"Ta nhầm. Ta đưa nhầm người." Hắn vội vàng quay sang đám đông hớn hở kia mà xua tay. Thà ở với bảy cô gái xa lạ hay bất cứ ai còn hơn là tiểu yêu tinh. Nhưng trong đám người này chẳng ai có vẻ nghe hiểu được hắn. Những cô gái trẻ xô lại phía Như Yên kéo tay nàng. Tấm khăn che mặt tuột xuống. Dung nhan diễm lệ của thiếu nữ làm đám đông càng kích động hơn. Như Yên kéo giật tay lại, mím môi, liếc mắt sang Sa cũng có vẻ như không biết phải làm gì. Tay kia của nàng đã luồn vào trong vạt áo, nơi cất giấu một thanh chủy thủ. 

Nếu nàng ra tay, Sa bắt buộc phải ra mặt cứu nàng. Đám người hồn nhiên này sẽ chết tức khắc. Hắn nhận ra động thái của Như Yên, vội vàng kéo tay nàng ra thẳng đám đông. 

"Đừng giết họ." Hắn cúi xuống tai Như Yên mà thì thầm, trong khi vẫn giữ chặt tay nàng ta không cho động cựa. Tư thế này lại giống như một cặp tình tự, làm tiếng huýt sáo nổi lên khắp đám đông. Mơ mơ hồ hồ, hai người bị đẩy ra gần đám lửa, nhận một màn ca hát chúc mừng, rồi ông trưởng làng vui vẻ hăng hái cẩn thận đưa bọn hắn đến tận một ngôi nhà sàn nhỏ. Đẩy hai người vào, bọn họ còn ca hát ngoài cửa một lúc nữa mới đi. 

Đến lúc ấy, hắn mới dám thả tay Như Yên. Nàng ta xoa cổ tay bị nắm đến đỏ lên, quắc mắt nhìn hắn. 

"Không giết họ được, ta giết ngươi." Mặt tiểu yêu tinh đã đỏ bừng vì giận. Hắn liếc mắt qua nàng ta. 

"Muốn đánh muốn giết thì tùy." Hắn thở ra, ngồi xuống sàn nhà gỗ. Căn phòng rất nhỏ, chỉ vừa đủ nằm duỗi chân. Trong phòng có mùi thảo mộc thơm là lạ. Chăn chiếu của người Thượng tuy không mềm mượt nhưng mát rượi. "Đây chẳng phải đầu đuôi đều do cô gây ra?" 

"Ta? Ta bảo ngươi đi quyến rũ bọn họ bao giờ?" Tiểu yêu tinh chống tay hất hàm hỏi lại. "Ngươi hành xử không ra gì lại đi đổ lỗi cho ta? Cứ như Sa kia kìa, che mặt lại, đi đứng nghiêm túc, cử chỉ đứng đắn thì ai thèm nhìn đến ngươi? Ngươi tự gây chuyện thì thôi, sao kéo ta vào?" 

"Ta..." Hắn ngậm miệng không thốt ra lời. Quả tình tóc tai của Sa từ khi đến đây đã bù xù hơn gấp đôi, chỉ là hắn không để ý. Trong bọn, Bát Hôi Ngư cùng các tùy tùng thô lỗ quê kệch, Sa thành hình dạng nửa người nửa ma, hắn mặc nhiên lại trở thành kẻ đỏm dáng duy nhất. Không đứng đắn? Cười với bọn họ mấy cái thì là không đứng đắn? 

"Thôi, ở đây chẳng ai biết đâu mà sợ. Ai cũng biết cô ghét ta thế nào, ra giải thích là xong." Cuối cùng, hắn đấu dịu. Ở yên trong đây đến khi đám đông giải tán rồi ra ngoài, chẳng mất gì. 

Như Yên lườm hắn một cái, lại góc phòng đối diện mà ngồi xuống. Bên ngoài vẫn rộn rã tiếng ca múa, ánh lửa lập lòe hắt vào căn phòng tối thành từng vạch. Thấy cồm cộm trong áo, hắn thò tay vào, lấy ra một quả vải xanh. Hẳn nó đã lọt vào áo hắn khi ném qua ném lại. Từ thứ qủa này cũng có mùi thơm đăng đắng như hoa ngãi trong núi. 

"Đừng ngửi." Như Yên chợt lên tiếng khi thấy hắn đưa quả xanh lên gần mặt. "Hoa ngãi có một loại gọi là Hồng Y hoặc Bạch Y, dùng củ hay hoa của nó làm thành bùa Mê Tâm. Ngươi giữ nó rồi sẽ luôn mơ thấy người tặng, gặp rồi cả đời không quên được." 

Hắn vội vàng bỏ quả xanh xuống, hất nó ra giữa phòng. Như Yên vẫn hầm hừ liếc mắt nhìn hắn rồi nhẹ nhàng bò ra cửa, ghé mắt trông qua kẽ hở. Đám đông đang tan dần khi từng nhóm trai gái đã dắt tay nhau đi. Nhóm của nàng vẫn ngồi gần đó. Bát Hôi Ngư đang sán đến tán tỉnh vài cô gái cạnh các chum rượu rỗng. Sa đứng tựa ngay trước cửa căn nhà trong khi Hiểu Lam cúi đầu ngồi nhìn bàn chân. Nàng đẩy nhẹ tay vào cửa, than thầm. Cửa đã bị khóa ngoài. 

"Tên ngốc nhà ngươi!" Không nén được giận, tiểu yêu tinh thuận tay cầm cái gối gần đó ném thẳng vào hắn. Lần này biết thân biết phận, hắn ngồi yên, không tránh né. Nghe tiếng động trong nhà, bên ngoài lại có tiếng cười rúc rích. Mặt tiểu yêu tinh càng lúc càng đỏ. 

"Đợi vãn người rồi phá cửa ra." Hắn nhìn lên trần nhà mà nói như an ủi. Tiểu yêu tinh đi đi lại lại trước mặt hắn, hương thơm từ nàng ta phả ra còn nồng nàn hơn hoa. Đến chừng thấm mệt, nàng ta cúi nhặt thứ quả xanh, chơi trò banh đũa trong một góc phòng. 

Khi bên ngoài đã vắng, nàng ta cùng hắn thiu thiu ngủ mất. Mấy ngày liền đi đường vất vả, lại uống thêm chút rượu, căn phòng yên lặng như ru ngủ cả hai người. 

Hắn được đánh thức bằng linh cảm hơn là nghe thấy một thanh âm rõ rệt. Tóc trên gáy hắn dựng đứng lên trong sự yên lặng tràn bóng tối giơ tay không thấy ngón. Mơ hồ, hắn nghe - đúng hơn, cảm thấy - tiếng động rất nhẹ ngay dưới sàn. Nhà của người Thượng xây cao, chống lên bốn cột gỗ lớn, bên dưới hoặc để trống hoặc thành nơi nuôi gia súc gia cầm. Thứ đang chuyển động dưới sàn không phải gió. 

Trả lời cho suy nghĩ của hắn - ngay lập tức - là một ngọn giáo đâm xuyên sàn thọc lên, ngay cạnh bàn chân hắn. 

Hắn vội lăn mình đến cạnh Như Yên, kéo tay nàng lên. Nghe tiếng lọc xọc đuổi theo sau lưng hắn khi những mũi giáo liên tiếp đâm theo tiếng động. Ôm lấy Như Yên, hắn nhảy lên cao. Chân vắt vào xà nhà, một tay với lấy xà ngang, một tay giữ cô gái vừa tỉnh ngủ còn kinh ngạc, hắn treo mình lơ lửng trên trần. Bên dưới, tiếng kim loại đâm qua gỗ vẫn không ngừng vọng lên, như thể sàn nhà đã bị đâm nát. 

"Ôm ta cho chặt." Hắn thì thầm với Như Yên. Nàng ta có vẻ đã hiểu chuyện đang xảy ra, chỉ gật đầu vòng tay ôm lấy cổ hắn. Hắn buông tay ôm Như Yên, tuốt lấy thanh kiếm sau lưng. Nếu đâm nát cả sàn nhà mà không thấy trúng người, chẳng mấy chốc kẻ thích khách sẽ nhảy lên trần. Trong bóng tối này, hắn không thể xác định được có bao nhiêu mũi giáo trên sàn để tránh. Vẫn chống tay tựa chân vào xà nhà, hắn chuyền ngang căn phòng, đến bên cánh cửa đã bị khóa. 

"Cẩn thận." Như Yên chợt nói. Nàng đưa cánh tay vẫn vòng ra sau cổ hắn về phía cánh cửa. Từ trong cổ tay nàng, một mũi tên nhỏ bắn ra, xuyên qua kẽ hở nhỏ nơi khe cửa. Bên ngoài lập tức vang lên tiếng động loạt xoạt. Chớp ngay thời cơ ấy, hắn vung kiếm xẻ dọc khe cửa, cắt đôi khóa xích. Cánh cửa bật tung ra cùng lúc với một bóng người trăng trắng phóng vụt đi. 

Bên ngoài, lửa đã tàn từ lúc nào. Xung quanh không một bóng người. Như Yên thất sắc, vội vàng chạy về căn nhà mà trưởng làng đã dành cho cả nhóm. Trong nhà chỉ có Lâm Phi cùng vài tên tùy tùng đang ngủ say như chết. Thấy bọn hắn trở về, thậm chí Lâm Phi còn tỏ vẻ kinh ngạc. 

"Sa đâu?" Như Yên gấp gáp hỏi, không cho gã kịp mở miệng. Lâm Phi nhìn nàng rồi lại liếc sang hắn bằng cái nhìn là lạ. 

"Hai người vào trong đó rồi không ra. Chu cô nương bảo chờ cho đến khi người vãn rồi thì hai người sẽ ra nhưng đợi mãi không thấy." Gã ngắc ngứ nói, tay hua trước mắt. "Chu cô nương giận bỏ đi. Còn ta thì về ngủ. Sa... chắc là..." 

Gã nhìn sang Như Yên lần nữa, tự động ngồi dịch ra sau trước khi nói tiếp. 

"Lúc ta đi, y vẫn đứng ở đó. Nhưng mà... có người tặng thứ quả xanh xanh kia cho y." 

"Ai?" Giọng Như Yên lạnh băng khiến hắn đứng bên cũng phải nổi da gà. Vết sẹo của Lâm Phi hơi sạm lại. 

"Một cô gái. Sa không đưa tay nhận, nhưng cô ta cứ đưa đến sát mặt y, nhét cả vào áo y rồi mới chịu đi. Ta không biết cô ta có trở lại sau khi ta đi không." 

"Không phải." Hắn chợt lên tiếng, lắc đầu. "Dù trời có sập xuống, Sa cũng không bỏ đi." 

Chưa bẻ cổ được hắn, y nhất định không chịu rời khỏi chỗ. Y không phá cửa xông vào đã là lạ, sao có thể bỏ đi với một cô gái? Như Yên cắn môi, liếc mắt nhìn quanh căn phòng. 

"Hiểu Lam chưa về?" Nàng chợt hỏi. "Thôi, không cần đi tìm nữa. Ngươi có nghe tiếng sáo hay nhạc khí nào trong lúc đó?" 

Lâm Phi ngẩn ra, cau mày một lúc. Rồi gã gật đầu. 

"Có tiếng sáo trong rừng. Nhưng thế thì có gì lạ?" 

"Hiểu Lam có chạm vào thứ này không?" Như Yên lấy từ trong áo ra trái vải màu xanh. Một lần nữa, Lâm Phi gật đầu. 

"Tử Hiên bị lôi đi, trên sạp rơi lại mấy trái, Chu cô nương có nhặt lên xem." 

"Trong trái này là..." Hắn ngồi xuống cạnh Như Yên, nhìn chằm chằm thứ trên bàn tay nàng, dường như đã hiểu ra. Như Yên mím môi. 

"Hoa ngãi trong núi luyện thành bùa Mê Tâm. Nặng hơn nữa là Mê Tâm chú. Tác dụng chỉ có mấy canh giờ thôi, nhưng chắc chắn chúng bắt được họ rồi." 

Chú thích:  

[1] Thiên hạ đệ nhất hùng quan: Vua Lê Thánh Tông khi đi đánh Chiêm Thành đi ngang qua đèo Hải Vân đã tặng ngọn đèo này. Sau này vua Minh Mạng cho làm cửa quan trên đèo, cửa nhìn xuống Quảng Nam có khắc câu này. 

[2] Ngãi Lãnh: Tên khác của đèo Hải Vân. Tương truyền vì trên núi có nhiều hoa ngãi nên có tên ấy. 

[3] Ngãi vốn là tên chỉ nhiều loại thảo mộc khác nhau. Bùa ngãi là các loại thảo mộc được trồng và tinh chế bằng các phương pháp đặc biệt. Có câu nói: Người Nam giỏi về bùa ngãi; người Trung giỏi về thư phù, đối ếm; người Bắc giỏi về độc trùng. Các loại bùa ngãi này có ảnh hưởng của Mật tông Cao Miên và Ai Lao.  

Hồi 39: Diệt độc 

Bình minh hửng sáng với ánh sáng mờ nhạt soi tỏ sương giăng khắp núi đồi. Dãy núi nhấp nhô chìm trong sương lảng bảng. Tiếng chim vẫn còn lác đác thưa thớt trong sự lặng yên giữa khoảng giao thời sáng tối. Trong sự yên ắng ấy, tiếng sáo trước làng càng vọng rõ. Người thổi cứ chốc chốc lại ngừng, không thành âm điệu gì. 

"Khó dùng quá đi." Như Yên lại hạ cây sáo làm bằng ống nứa có hai lỗ bấm xuống. Đêm qua, nàng cho tùy tùng đi đến nhà trưởng làng hỏi một dụng cụ là 'Areeng'[1]. Từ khi nhận được đến giờ, nàng chỉ chăm chú học cách sử dụng nó. 

"Cô định dụ rắn à?" Cuối cùng, hắn nhịn không được mà hỏi. Không phải người bị trúng Mê Tâm chú gì đó sẽ hóa thành như rắn bị thôi miên theo tiếng sáo chứ? 

"Không, ta định đi chơi." Như Yên lắc đầu. Ngón tay nàng điểm điểm hai lỗ bấm trên cây sáo areeng. "Mùa hội xuân chưa hết, phải biết thổi sáo mới hẹn hò được." 

"Hẹn hò?" Ngụm nước đang uống suýt nữa trào lên mũi hắn. Như Yên ngẩng đầu nhìn hắn, ngoắc tay ra hiệu cho hắn lại gần. 

"Ngươi biết vừa rồi chúng nhắm vào ai không?" Như Yên ngả người về phía hắn, hạ giọng. "Là ngươi. Cái quả ấy đáng lẽ dành cho ngươi. Nhưng tên ngốc nhà ngươi gây chuyện, hất hết đám quả ấy về phía ta rồi bị lôi đi, chúng mới nhắm đến Sa. Hiểu Lam vô tình mà bị ngươi liên lụy." 

"Tất nhiên, tên ngốc nhà ngươi thì có tích sự gì!" Tiểu yêu tinh xua tay lắc đầu. "Nhưng nếu muốn tấn công ta, phải qua được hàng hộ vệ. Lâm Phi, Bát Hôi Ngư, các tùy tùng kia thì chẳng nói làm gì. Chúng thấy gái đã sáng mắt lên đi cả rồi. Còn ngươi với Sa. Sa ở bên cạnh ta, tất nhiên có bảy chứ bảy mươi quả, y cũng chẳng dám nhận. Ngươi hồ đồ ngốc nghếch, dù có bị thứ mê ngãi ấy khiến dụ thì cũng chẳng ai nghi ngờ, cứ cho là ngươi đi chơi vậy thôi. Rồi sai khiến ngươi đi hại Sa hay ta đều được. Võ công ngươi không tệ, để hai người đánh lẫn nhau thì ta trơ lại một mình. Tính toán ấy bị sự ngốc nghếch của ngươi phá hỏng. Ta bị lôi đi với ngươi, Sa đứng ngoài canh gác mới trở thành mục tiêu của chúng." 

"Nhưng sao lại không thấy động tĩnh gì?" Chúng hoàn toàn có thể dùng Sa quay lại giết cả bọn hắn, không cần phải lén lén lút lút tấn công. 

"Ta cho rằng, bùa ngãi này tác động rất ít lên Sa." Như Yên cau mày trầm tư. "Trước đây ta cũng đã từng thấy y bế kinh mạch chống lại các loại mê dược. Khả năng khống chế thần kinh của y rất mạnh. Dù có là bùa chú mạnh nhất, cũng chỉ sai khiến được y phần nào thôi, không thể thao túng y hoàn toàn." 

"Chúng bắt Sa đi để làm giảm sự phòng hộ cho cô." Hắn gật đầu, đã hiểu ra. "Nên cô định đem mình làm mồi nhử bọn chúng?" 

"Không cần phiền phức như vậy. Muốn hại ta thì trước sau chúng cũng ra mặt thôi." Như Yên cười, ngón tay vuốt nhẹ dọc thân cây sáo. "Nhưng chúng định làm thần long thấy đầu không thấy đuôi thì ta sẽ phải tóm được đuôi con rồng này." 

"Ta bảo gì ngươi làm nấy, không được gây loạn nữa." Tiểu yêu tinh chợt trừng mắt nhìn hắn. Thái độ nàng ta nguy hiểm đến mức hắn chỉ biết gật đầu. 

Đợi Bát Thanh Ngư trở về, Như Yên lại cho mọi người tiếp tục lên đường. Sa và Hiểu Lam đi đường khác, nàng giải thích vắn tắt cho những thắc mắc, chỉ chuyên chú tập thổi sáo trên đường đi. Đến khi trời sập tối, bọn hắn lại tới một ngôi làng khác. Ở đây, lễ hội mùa xuân vẫn chưa qua. Trên con đường trước làng, những thanh niên nam nữ áo quần sặc sỡ đã tụ họp. Tiếng sáo véo von đuổi theo nhau lẩn khuất giữa rừng. 

Như Yên cởi mũ, tháo khăn khe mặt, thả ngựa đi chầm chậm, nâng sáo lên môi thổi. Tiếng sáo đục hơn sáo trúc của người Kinh, âm cũng đơn giản hơn nhưng cao vút véo von. Tiếng sáo làm nhiều người quay đầu lại nhìn. Trong bóng chiều đỏ rực phảng phất hơi sương lam của núi, thiếu nữ xuất hiện trên lưng ngựa trắng, những lọn tóc lòa xòa bay qua má, khăn hồng hờ hững trên vai lồng gió. Mày thanh môi đỏ, sóng mắt lưu ba, diễm lệ phong lưu tột bậc. Dứt điệu nhạc, nàng chớp mắt mỉm cười. Nụ cười không nhắm vào ai mà bất cứ ai nhìn thấy cũng phải âm thầm run rẩy. 

Khi bọn hắn dừng ngựa trước nhà trưởng làng, một đám đông đã tụ họp theo sau, không ngừng chỉ trỏ về phía cô gái lạ. 

Trưởng làng này là một ông lão già như cây cổ thụ trăm năm, rất rành rẽ tiếng Kinh, thậm chí có vẻ đã quen Như Yên từ trước. Thấy nàng, ông lão chỉ cười, đưa tay mời vào trong nhà. Hai người nói chuyện riêng trong căn nhà sàn cao một lúc rồi Như Yên bước ra, gật đầu chỉ cho bọn hắn về phía nhà lớn ngay phía sau nhà trưởng làng. Trong lúc mọi người tháo dỡ đồ đạc chuyển vào nhà, nàng lại biến mất. 

Khi trời đã tối, Như Yên trở lại, có vẻ vừa tắm gội xong, tóc thả một bên vai, hương hoa còn thoang thoảng. Nàng cầm theo một cái ống trúc, tới giữa phòng lấy trong hành lý ra một cái tách hạt mít mà rót nước trong ống vào, đưa cho bọn hắn. 

"Mỗi người uống một ly." Như Yên nói, đưa cho Lâm Phi trước tiên, rồi chuyền cho cả bọn. Nước có vị khét đăng đắng như thể mùi gạo rang. "Âm Dương thủy[2], để phòng Mê Tâm ngãi. Nhưng người làm loại ngãi này biến thiên khó lường, nếu thấy ai trong nhóm hành xử kỳ lạ thì cho uống ngay nước này rồi đưa đến cho trưởng làng. Ông ấy là thầy pháp nổi tiếng trong vùng." 

"Mê Tâm ngãi này thực ra là một loại dầu thơm được tinh chế từ thảo mộc." Như Yên giải thích trước vẻ mặt hoang mang của người xung quanh. "Cẩn thận với tất cả những gì đưa đến gần mặt, kể cả đồ ăn thức uống. Ngay cả tay cũng đừng đưa lên gần mũi." 

"Thế mùi này là gì?" Hắn hạ giọng hỏi khi hai người đã đi ra ngoài, về phía đám đông đang tụ tập ngoài căn nhà lớn đầu làng. Lửa sáng rực khoảng sân rộng. Vừa hỏi, hắn vừa chỉ vào Như Yên. Mùi hoa phảng phất không giống hương thường lệ của nàng, vị ngòn ngọt đăng đắng này làm hắn nhớ tới hương hoa trong núi. 

"Mê Tâm ngãi là một dạng dầu thơm." Tiểu yêu tinh thản nhiên trả lời. "Kẻ kia dùng được, ta lại không dùng được sao?" 

Vì thế mà nàng ta cho bọn hắn uống Âm Dương thủy 'trước'. Bây giờ hắn lại phải tự hỏi nàng đang muốn làm gì. Không cần đến thứ mê dược này, chỉ sự xuất hiện của Như Yên cũng đã làm người náo động. Không buồn vấn tóc lên, cứ để mái tóc dài óng ả trượt trên vai, mày không vẽ mà xanh, môi không tô mà thắm, áo mỏng lả lướt dưới tấm khăn rộng vắt choàng qua vai, nàng chậm rãi đi qua đám đông, ngồi xuống cạnh trưởng làng. Ông đang nói với đám đông bằng thứ tiếng của họ. Tất cả ánh mắt dồn về phía Như Yên khi nhiều người ra dấu chào đón, nàng cũng cúi người đáp lễ. 

Lễ hội mùa xuân lại tiếp diễn với những nhóm thanh niên múa hát bên đám lửa rừng rực cháy. Xung quanh khu đất, trong rừng tràn bóng tối, tiếng sáo, tiếng khèn lẩn khuất thì thầm. 

Dù đã dặn dò bọn hắn như thế, Như Yên chẳng mấy chốc đã nhập cuộc với đám đông. Nàng đi lại phía chum rượu để cạnh đám lửa, với cần mà uống, cầm dao xẻo miếng thịt trâu mà ăn. Nữ tử này ngày thường phong thái đã có mấy phần phóng túng, lúc này lại càng bạo dạn chẳng khác các cô gái sơn cước. Trưởng làng ghé tai nàng nói điều gì đó, nàng gật đầu cười, vừa phất tay vừa đi về phía khoảng sân gần đó đã được phát trống cỏ. Trưởng làng nói lớn với các chàng trai trong đội cồng chiêng bên kia. Một người chạy ra, đưa cho Như Yên một chiếc trống mặt nhỏ bằng bàn tay. Nàng giơ trống lên cao, gõ một tiếng lớn. Tiếng chiêng âm vang tiếp theo nàng khi một loạt cồng đánh khẽ đệm cho loạt khèn véo von cất tiếng. Tiếng hát trong lanh lảnh của một cô gái cất cao. 

Chiếc khăn trên vai Như Yên cuốn tung khi nàng hất hai tay lên cao, bắt đầu múa. Không phải điệu múa của vùng sơn cước, rõ ràng là sự uyển chuyển dịu dàng của các điệu múa người Kinh nhưng theo nhịp điệu dồn dập của núi rừng. Thân mềm như lụa, tay mềm như mây, tóc xõa tung lượn theo khăn mỏng, phiêu linh như khói giữa rừng, mây trên đỉnh núi, kiều diễm tựa hoa trong mưa gió, trăng vít đầu cành. Vừa múa nàng vừa gõ chiếc trống nhỏ trên tay như thể chính nàng mới là kẻ điều khiển dàn nhạc. Khăn hồng lửa đỏ, hoa nồng rượu say má thiếu nữ. Trống giục rộn rã, tay trắng tựa ngọc tỏa hoa quang. Dịu dàng như thiếu nữ hái sen, phiêu dật tựa tiên nữ dâng hoa nơi điện ngọc, ngoảnh đầu phảng phất anh khí nữ tướng xuất quân, phất tay thoang thoảng ánh lưu tinh ngang biển rộng. [3] 

Hồ ly tinh thi triển mị lực thật đáng sợ. Hắn đứng gần đó khoanh tay nhìn mọi người như bị nàng ta hút hồn mà lắc đầu. Đát Kỷ, Văn Khương năm xưa chắc cũng chỉ như thế, nhưng ở đây có ai cho nàng ta quyến rũ chứ? 

Đát Kỷ, Văn Khương? Hắn chợt ngừng lại, nhíu mày. Khuynh quốc khuynh thành, sắc đẹp mê tâm để khuynh đảo cả quốc gia. Nàng ta đang muốn điều khiển cái làng nho nhỏ này? 

Điệu múa chấm dứt bằng một loạt tiếng cồng chiêng rộn rã. Như Yên dịu dàng cúi người chào bốn phía, trở lại chỗ ngồi trước hắn. Trưởng làng đi theo nàng. Như Yên gật đầu với ông. Trưởng làng liền quay về phía đám thanh niên, nói một tràng dài. Trong ánh lửa, nhiều khuôn mặt sáng lên. Lời trưởng làng vừa dứt, bọn họ đã xô nhau bỏ đi. 

"Chuyện gì vậy?" Không nén được tò mò, hắn nghiêng người về phía Như Yên mà hỏi. Vừa uống nước vừa quạt bớt mồ hôi sau điệu múa vừa rồi, tiểu yêu tinh nhè nhẹ cười. 

"Ta bảo sẽ ở lại làng thêm một ngày nữa. Ai muốn làm bạn với ta đêm mai thì đi tìm cho ta một vật." Tiểu yêu tinh cười khúc khích. "Cả khoảng rừng quanh đây sẽ bị xáo tung lên." 

"Bọn họ có ở quanh đây?" Hắn tạm thời gạt qua bên câu hỏi nàng ta sẽ làm gì với người tìm được thứ nàng muốn. Sao nàng ta có thể xác định kẻ thù của mình ở gần đây - Vả lại, là có thể tìm ra? 

"Ngươi nhớ kẻ đã lên tiếng trong núi chứ?" Như Yên liếc mắt về phía hắn. "Lúc ấy ngươi biết tại sao ta chẳng thèm để ý đến ả? Địa hình đèo núi như thế, chúng ta đi trên đường đã vất vả, kẻ này lại lẩn khuất trong núi mà theo dõi ta, ngươi nghĩ chúng có bao nhiêu người? Rồi việc xảy ra làm ta xác định được chắc chắn chúng có rất ít người. Đã dùng thủ đoạn lược bớt chúng ta mà lại không dám cử nhiều người đến thanh toán ta một thể, chỉ có kẻ lén lén lút lút đâm giáo vào sàn nhà? Nếu có nhiều người cùng đâm hay cùng bắn tên lúc ấy, ta với ngươi khó lòng mà thoát. 

"Mà đã ít người, giờ lại thêm hai tù nhân, ngươi nghĩ chúng sẽ làm sao đây? Không, chúng không giết người đâu, vì họ còn có giá trị với chúng ta. Đem bọn họ đi theo, chúng khó lòng mà bám theo ta sát gót được, tầm di chuyển bị thu hẹp, khó lòng theo dõi ta nếu ở quá xa. Không muốn mất dấu ta thì chúng phải ở gần đây." 

"Nhưng chúng không trốn mất sao?" Bên cạnh, Lâm Phi chợt xen vào. Như Yên bật cười. 

"Mục tiêu của chúng là ta kia mà." 

Đêm vẫn rộn rực trôi qua với tiếng ca hát bên đám lửa và sự huyên náo trong rừng tối. Những cặp thanh niên lặng lẽ cầm tay nhau biến mất vào màn đêm. Như Yên cho các tùy tùng đi nghỉ, chỉ giữ hắn lại. Trưởng làng cũng đã cáo từ về nhà, xung quanh họ chỉ còn vài người vẫn cố nán. Cuối cùng, Như Yên chậm rãi đứng lên, nhưng thay vì đi về căn nhà trọ, nàng vòng ra phía bờ suối. Đêm không trăng, chỉ có bó đuốc nhỏ trên tay nàng soi tỏ con đường gập ghềnh đá. Dòng suối tối đen trong bóng tối chỉ gợn chút ánh bạc dưới bóng đom đóm xanh lập lòe trong cỏ, vọng tiếng rì rầm. Cách bờ suối một khoảng chừng mười bước chân, Như Yên chợt buông bỏ cây đuốc, dập tắt nó dưới bàn chân. 

"Có chuyện gì...?" Hắn hỏi khi bóng tối đột ngột tràn đến dưới tán rừng rậm. Trong không trung chỉ nhấp nháy vài đốm sáng xanh. Bàn tay Như Yên nắm lấy tay áo hắn kéo đi. 

Hắn đột nhiên thấy mình bị đẩy vào một gốc cây lớn, cùng lúc với thân thể mềm mại ngã hẳn vào lòng. Hương thơm bất chợt bao phủ gần như làm ngạt mũi hắn. 

"Ta bảo gì ngươi làm nấy." Tiếng tiểu yêu tinh thì thào bên tai hắn nhỏ như tiếng muỗi kêu, cùng lúc với tiếng một con ếch giật mình nhảy xuống dòng suối. Giọng nàng ta hoàn toàn tỉnh táo. 

"Cô bị chuốc bùa à?" Hắn hỏi mà không cần hạ giọng. Ở đây, hắn đang đóng vai 'nạn nhân', có phải? 

Tóc cọ vào má hắn nhột nhạt khi Như Yên ngả đầu vào cổ hắn. Bàn tay nàng ta viết lên sau gáy hắn một chữ 'Phải' trong khi bàn tay kia ôm chặt lấy eo lưng hắn. Nàng ta cười khúc khích, không biết có mấy phần giả vờ, mấy phần vì vui vẻ với sự giả vờ của mình. 

Đầu óc hắn căng như sợi dây đàn. Một phần vì sự tiếp xúc thân thể này, hắn rốt cuộc cũng không phải hòa thượng hay thái giám. Một phần vì cảnh giác dõi vào rừng sâu dò xét động tĩnh. Kẻ quái ác nào lại nghĩ ra trò chuốc thuốc tiểu yêu tinh, vì mục đích gì? Không thể ra mặt đối đầu nên tìm cách ly gián hắn và nàng ta? Như Yên không phải dạng con gái bốc đồng đến mức ấy. Dù có chuyện gì xảy ra, nàng ta vẫn có thể bình tĩnh giải quyết xong việc rồi muốn phân thây xẻ thịt hắn gì thì làm. 'Bắt gian'? Ở đây ai là người có tư cách đi ngăn? 

Tiếng sáo vẫn lẩn khuất trong bóng tối, như xa như gần, một âm điệu gần như lặp đi lặp lại nhưng bí ẩn lạ lùng. Hắn không xác định được khoảng cách của người thổi sáo. Hơi thở của Như Yên ngày càng gấp, nóng rực bên tai hắn. Ngón tay nàng lại đang viết lên cổ hắn mấy chữ 'Chú ý nghe'. Mồ hôi hắn bắt đầu đổ trong gió đêm lạnh ngắt. Hắn buộc phải dụng tâm đếm hơi thở theo cách hành giả tọa thiền, tuy biết rõ mình hoàn toàn không có thiên tư để trở thành Đường Tam Tạng. 

May cho hắn, tiếng động cuối cùng cũng đến. Tiếng loạt xoạt trong cỏ, nhẹ và êm đến mức gần như mất hẳn trong thanh âm của đêm. Hắn ôm ngang lưng Như Yên, nhảy lên một cành cây là đà sát đất. Qua vai nàng, hắn dõi mắt nhìn vào bóng tối. Khoảng rừng vẫn đen đặc, chỉ có những con đom đóm bay dạt ra từ trong cỏ báo hiệu một sự xâm nhập lạ. 

Bàn tay Như Yên chợt hất ngược ra sau. Mũi tên từ tay nàng phóng ra bay vào đám cỏ cao đến gối. Ngay lập tức, thứ nằm trong cỏ rít lên, ngóc đầu dậy. Ánh lân quang trên da con vật làm hắn nhận ra đó là một con rắn cực lớn, hoặc một con trăn cỡ trung bình. 

Con vật bò sát phản ứng nhanh hơn suy nghĩ của hắn. Nó lao đến nhanh như ánh chớp, hắn chỉ kịp chao người ôm Như Yên lăn ra sau. Tay phải nàng lại hất lên ngay khi quay đầu về con rắn hung hãn vẫn đang lao tới cùng tiếng rít lạnh người. Viên đạn sắt nho nhỏ trở thành vô hình trong bóng đêm. Trong sát na con rắn khựng lại, hắn vừa kịp rút kiếm, đâm về phía chiếc răng nhọn trắng nhởn phát sáng. Thanh kiếm xuyên qua đầu rắn, cắt nó thành hai khúc. 

"Thứ độc vật này!" Như Yên thì thầm nói khi mảnh thân con rắn khổng lồ vẫn còn giãy dụa nát đám cỏ. Nàng vẫn còn thở dốc. Nắm tay nàng kéo lên, hắn nhận ra bàn tay nhỏ ướt mồ hôi. 

"Rắn, rồi còn thứ gì nữa đây?" Hắn vẫn không buông tay Như Yên, cảnh giác nhìn quanh. Kẻ ấy muốn Như Yên đưa hắn ra đây, cốt để dùng các phương pháp ma quái ám hại bọn hắn? 

Như Yên không trả lời, lấy trong áo ra một cái ống trúc nhỏ bằng ngón tay, đưa lên miệng thổi. Kèn không phát ra âm thanh rõ rệt, chỉ nghe tiếng lao xao trong thinh không, rồi một bóng đen bay xuống đáp trên tay nàng. Con quạ toàn thân đen tuyền, chỉ có chút ánh sáng trong đôi mắt tròn cho thấy vị trí của nó. Như Yên đưa con quạ về phía xác rắn, rồi vung tay. Con quạ bay lên, nghe tiếng xao xác lan trong đám cây rừng. 

"Quạ chuyên mò theo xác chết nên khứu giác cực kỳ nhạy." Như Yên giải thích với hắn. "Không cần đuổi theo, kẻ ấy chắc chắn ở gần đây thôi." 

Lời vừa dứt, tiếng quạ kêu the thé đã inh ỏi ở góc rừng gần đó. Như Yên đẩy vai hắn, đưa cái kèn nhỏ lên miệng thổi. Ngần ngừ một thoáng, hắn xốc nàng lên tay, chạy về phía quạ kêu. Dù gì cũng không thể để một cô gái ở lại một mình giữa rừng. 

"Đồ ngốc, không cần phải thế." Như Yên vừa nói vừa cười. Hắn nghe tiếng vun vút vọng ra khi lửa đột nhiên sáng lòa tại nơi hắn định chạy đến. Cùng lúc, một bóng người phóng vút qua ngay trước mặt họ. Hắn buông Như Yên, tuốt kiếm nhảy lên chắn đường kẻ ấy. 

Thấy hắn đột nhiên phóng ra, kẻ đang tháo chạy nhảy lùi lại. Thanh kiếm của hắn vừa kịp lia qua đuôi chiếc khăn của y. Chiếc khăn tuột ra bay phấp phới trên không khi kẻ ấy đáp xuống mặt đất. 

Đằng sau, một đám người mang cung nỏ và giáo săn, cầm đuốc chạy ra. Ánh lửa soi sáng kẻ đứng giữa khoảng rừng thưa. Cô gái mình mặc áo dài màu vàng nhạt, trên vai vắt một chiếc khăn nhỏ, tóc đã xõa một nửa xuống lưng. Làn da không trắng như phụ nữ phương Bắc, nhưng mắt hạnh đào đen nhánh, môi đỏ như son, từng đường nét sắc sảo hoàn mỹ như một bức tượng mỹ nhân Ấn Độ, cô gái còn rất trẻ này như thần nữ trong truyền thuyết. Nhan sắc bất chợt làm những kẻ truy đuổi phải ngây người. 

Trong lúc họ còn trừng mắt nhìn nhau, một mũi tên nho nhỏ đã bay vút về phía cô gái. Cô ta giật mình né tránh, nhưng bên vai vẫn bị một vết trầy dài. Như Yên bước ra từ trong bóng tối của rừng, mỉm cười với kẻ vừa bị nàng vây bắt. 

"Bất ngờ thật, nữ nhân Chiêm Thành." Nàng vừa nói vừa đưa mắt nhìn cô gái áo vàng từ đầu đến chân. "Nhưng lại sử dụng huyền thuật Cao Miên. Các người đánh nhau hàng ngàn năm, giờ lại thân thiết như thế rồi à?" 

Cô gái hừ khẽ, không trả lời. Đôi mắt đen nhánh nhìn quanh như tìm một sơ hở để thoát thân. Thấy động thái ấy, Như Yên phác tay. 

"Muốn chạy cứ chạy. Nhưng mũi tên vừa rồi có chứa độc trùng. Trùng độc ngấm vào máu rồi thì sẽ chạy khắp thân thể, không thuốc nào cứu nổi." Nàng mỉm cười, hơi nghiêng đầu. "Vả lại, chất độc này vào cơ thể sẽ tự động tạo ra mùi hương đặc trưng, có chạy đến chân trời góc biển thì ta cũng tìm được." 

"Ta trao đổi." Không vòng vo, Như Yên khoanh tay. "Trả người cho ta, ta sẽ cho ngươi sống." 

Cô gái vẫn không trả lời. Nàng ta đưa mắt nhìn lên trời. Như Yên không bị thái độ ấy làm nhụt chí, nàng vẫn ngọt ngào cười. 

"Đừng mất công thi triển huyền thuật pháp thuật gì nữa, không có tác dụng đâu. Có kẻ dùng ngãi thì phải có kẻ diệt. Cái gì trên đời cũng có khắc chế. Trong làng này có cây Diệt độc ngãi. Rượu làng này có pha rượu diệt ngãi độc. Mấy thứ bùa của ngươi giờ chỉ có tác dụng với thú rừng thôi. 

"Ngươi tự phụ mình thông minh, nhưng lại chẳng chịu biết một chuyện: Trên đời này chẳng phải chỉ có ngươi với ta." Như Yên chắp tay sau lưng, đi về phía cô gái kia. "Ta không biết dùng bùa ngãi, nhưng ta biết dùng người." 

"Ta chết chung với bọn chúng, một mạng đổi hai mạng." Cô gái chợt bật lên tiếng nói, ném về phía Như Yên cái nhìn căm ghét. Diệt độc ngãi, chỉ cần nghe đến cái tên ấy, nàng ta biết đã vào thế hạ phong. Diệt độc ngãi là loại cây cực kỳ qúy hiếm ở tận núi rừng phương Tây của Miến Điện, các thầy pháp phải đến tận nơi tìm về. Loài cây này trái màu tím sẫm nở ra từ trong cành, đầu trái có hoa màu đỏ. Hoa và trái đem phơi khô rồi ngâm mật ong, hong lửa trước khi ngâm rượu. Loại rượu này có thể tiêu trừ mọi độc chất của ngãi. Đến đây khi trời đã tối, nàng ta cũng không biết trong làng thực sự có loại cây này không, nhưng Như Yên đứng kia hoàn toàn không bị tác động của thứ ngãi dùng trên nàng là minh chứng. 

Như Yên nhún vai. 

"Ngươi định chờ ta nói gì đây? Cho ngươi sống không được chết không xong? Thảy ngươi vào quân kỹ? À không, kẻ luyện bùa ngãi trên người đều có chất kịch độc, ta không dại dột như vậy. Nhưng ngươi không nghe ta vừa nói gì? 

"Đám quạ bao vây ngươi giờ đã đi tìm thứ mùi tương tự mà chúng thấy ở ngươi. Ngươi có biết ta nhờ người ở đây đi tìm cái gì? Một vật mà đám quạ thích vây lấy. Ngươi nên biết, những kẻ luyện độc như ngươi luôn có một thứ mùi đặc trưng. Thứ ngãi Mê Tâm mà ngươi sử dụng, càng có mùi đặc trưng." Như Yên lấy trong tay ra thứ quả xanh nho nhỏ. "Quả này ngươi định đưa cho tên ngốc bên kia, nhưng hắn bỏ lại, cuối cùng ta tìm lại được. Dù không lùa người đi tìm, ta cũng có cách phát hiện ra chỗ ngươi giấu họ. Nhưng 'đả thảo kinh xà', đánh vào cỏ cho rắn chạy ra vẫn tốt hơn chứ." 

"Không phải vì 'tốt hơn'." Cô gái áo vàng chợt nhếch mép. Khuôn mặt sắc sảo đẹp như tượng của cô ta lại mang mấy phần băng giá tàn nhẫn. "Ngươi phải bắt được ta, vì ngươi biết có tìm ra được chỗ ta giấu chúng thì cũng không giải thoát được chúng. Đám người lần theo dấu đàn quạ kia, có lẽ đã chết cả rồi." 

Chú thích:  

[1] Areeng: Một loại sáo của dân tộc ít người trên vùng Trường Sơn.  

[2] Âm Dương thủy: Gồm 2 thứ nước là nước mưa (Dương) và nước giếng (Âm) nấu với đậu. 

[3] Đào Duy Từ là người tạo tiền đề cải tạo lại toàn bộ hệ thống ca múa nhạc cho Đàng Trong. Ông xuất thân con nhà hát xướng nên rất rành rẽ âm nhạc. Đại nam liệt truyện tiền biên và Việt cầm sử thoại viết: "Duy Từ có công ngoài đánh chúa Trịnh, trong mở đất Chiêm Thành, làm cho dân giàu nước thịnh. Về nghệ thuật, ông sửa lại các lối hát và các điệu múa cổ; đặt ra điệu múa Song quang, điệu múa Nữ tướng xuất quân, điệu múa Tam quốc - Tây du dùng khi quốc gia đại lễ. Trong nhà ông lúc nào cũng nuôi một bọn ca vũ để múa hát".  

Hồi 40: Cứu thoát 

"Vậy sao?" Như Yên nghe nói chỉ cười. Nàng đưa tay bứt một chiếc lá gần đó, gấp đôi lại mà đưa lên môi thổi. Tiếng nhạc vừa qua đoạn dạo đầu, cô gái áo vàng đã ôm vết thương trên bả vai, đau đớn đến mức kêu lên. 

"Độc trùng lan ra, ngươi còn khổ sở hơn gấp nhiều lần." Như Yên hạ chiếc kèn lá xuống, hất tóc sang bên. "Xem ngươi có thể chịu đựng được đến bao lâu." 

"Bọn phương Bắc độc ác các người..." Cô gái áo vàng đã tứa mồ hôi lấm tấm trên trán, cố trấn tĩnh lại sau cơn đau. Như Yên cười nhạt. 

"Làm như ngươi không đến để giết ta. Vừa rồi ngươi định dùng cách gì hại ta? Ta chưa chặt tay chân, chưa móc mắt ngươi đã là nhân nhượng rồi." Gò má Như Yên đỏ bừng, nàng có vẻ phẫn nộ thật sự. Trong chớp mắt dáng bộ ung dung đã trở thành như muốn ăn thịt người. Nữ nhân tìm cách gia hại nữ nhân quả là hiểm độc. Hắn lúc này lại vô cùng đồng tình với sự hung hăng của tiểu yêu tinh. Tính mạng của hắn cũng đã ngàn cân treo sợi tóc chứ nào phải giỡn chơi. 

"Cái loại đã lăn lóc khắp nơi như ngươi..." Cô gái kia nói, lại chợt im lặng như thể biết mình lỡ lời. Đôi mắt Như Yên lạnh buốt, nàng đưa cái kèn lá lên môi. 

Lần này, tiếng kèn không dừng lại. Cả khi cô gái đã vật vã trên đất, bấu xé quần áo mà gào thét. Rõ ràng, độc trùng đang lan rộng, từ tay, vai, đã đến ngực, cổ, rồi bụng. Bàn tay cô gái kia cào vào đất đến tứa máu, nước mắt trào ra ướt đẫm má. Đến khi nàng ta không còn sức để gào thét, chỉ trợn trừng mắt mà há hốc miệng bật ra những tiếng kêu khô khốc, Như Yên vẫn không dừng tiếng kèn. 

"Thôi, ta còn tìm Sa nữa." Hắn bất nhẫn, buộc phải kéo tay Như Yên xuống. Nàng lầm lì buông kèn, rút dao trong thắt lưng đi đến bên cô gái đang nằm sóng soài dưới đất. 

"Tai, mũi, mắt, lưỡi, ngươi muốn mất cái gì trước?" Ánh lưỡi dao sáng lóa trên mặt cô gái đã đau đớn đến thất thần. Mũi dao đưa nhè nhẹ trên vầng trán mịn. "Mở miệng ra lần nữa, ta sẽ hóa ngươi thành Thích phu nhân, cho ngươi biết thế nào là lăn lóc khắp nơi trước khi bị thảy vào chuồng heo sống cho hết kiếp[1]." 

Máu đã chảy thành giọt trên đầu mũi dao. Hắn một lần nữa phải kéo Như Yên về. Nàng đứng lên, vẫy tay với nhóm người vẫn đứng phía sau. 

"Đem ả phù thủy này ném xuống nước để triệt tiêu quyền phép của ả." Người trong núi sống đơn thuần lại mê tín, ghét nhất chính là những kẻ làm ma qủy hại người. Nghe Như Yên nói giống như trưởng làng đã dặn dò, họ đồng loạt nghe lời, đem ra một chiếc chiếu lớn quấn ngang cô gái lạ, ném xuống suối. Cô gái không còn sức để vùng vẫy, đến khi được lôi lên cũng chỉ nhắm mắt nằm thở dốc. Như Yên tiếp tục cho gọi người cởi quần áo cô ta, thay bằng áo của dân trong vùng. 

"Đây là cái gì?" Lâm Phi tò mò hỏi trước những cái bình lớn nhỏ, cái xanh cái đỏ, cái lớn nhất chỉ bằng ngón tay cái, cái nhỏ như ống sậy mà Như Yên lôi ra từ trong áo cô gái kia. Chiếc áo sau khi được cởi đã đem đến chỗ nàng, cùng với cả giày dép, trâm cài, đồ trang sức, áo quần lót trong. Nàng chẳng nương tay lấy búa gõ nát tất cả đồ trang sức, dặn dò người kiểm soát móc họng cô gái kia ra xem còn giấu gì trong răng lưỡi, cắt sạch móng tay móng chân. 

"Đồ phù thủy." Như Yên lầm lì trả lời. Nàng có vẻ như vẫn còn tức giận. Bên ngoài lại có tiếng người gọi. Trưởng làng đã tới bên cầu thang gỗ. Đêm nay, cả làng như không ngủ. 

"Người đi tìm đã về." Ông lão trưởng làng già nói khi vừa bước lên nhà. Đôi mắt ông nửa giận dữ nửa nghiêm trọng. "Ba người theo dấu đàn quạ đã chết trước một dòng thác. Quạ cứ bay trên đó không đi, nhưng không tìm được dấu vết nào." 

"Rất lấy làm tiếc. Đã quấy quả làng đến mức này, mọi bồi thường ta xin chịu trách nhiệm." Như Yên thở dài. "Liệu có cách nào bắt ả phù thủy kia cung khai?" 

"Bất cứ pháp sư nào cũng có biện pháp phòng hộ. Ả được nuôi lớn bằng Diệt ngãi độc, vạn độc bất xâm. Vừa rồi dùng độc trùng của người phương Bắc, vốn là thứ mạnh nhất, chống lại muôn độc." Ông trưởng làng nói. Bên cạnh, hắn khe khẽ nhướng mày. Người Thượng rành rẽ tiếng Kinh đã đành, có thể nói trơn tru cả thành ngữ tiếng Hán, quả không có mấy người. Ngữ điệu của ông ta không giống kiểu người Thượng nói tiếng Kinh bình thường, vốn chêm rất nhiều từ đệm. 

Như Yên nhíu mày như suy nghĩ. Một lát, nàng nhìn ra màn đêm đang dần tàn trên rừng. Cuối mùa xuân, nắng rất nhanh lên cao. Lúc này, màu xanh lam nhợt nhạt đã loang vào bóng tối. 

"Vậy ta đến khu thác ấy thử. Dẫn cả ả phù thủy kia theo." Nàng nói, đứng lên tìm chiếc khăn choàng. Trưởng làng nhìn nàng cau mày, nhưng cuối cùng chỉ im lặng. 

Những người dẫn đường cho họ dừng lại bên kia dốc đá nhìn ra thác. Thác cao vài chục thước tung bọt trắng xóa xuống cái hồ lớn nằm trong núi, nước cuồn cuộn chảy theo dòng suối về làng. Hai bên thác, đá cao dựng đứng trơn nhẵn xám màu nước. Trên đỉnh thác, quả nhiên có một đàn quạ đang bay quấn lấy nhau kêu inh ỏi. 

"Ba người chết ở kia." Trưởng làng chỉ đầu gậy về phía mép hồ, nơi dòng thác đang đổ xuống. Có vẻ như họ đã định tìm cách nhìn vào hoặc trèo lên thác. 

"Thả ả ra." Như Yên quay đầu nói với những người đang giữ cô gái. Cô ta bị đẩy về trước, gần như tuột xuống dốc đá về phía hồ nước. Như Yên khoanh tay hất đầu. 

"Muốn vào ổ thì vào đi." Nàng vừa cười vừa nói. Cô gái ném về phía nàng cái nhìn cuối cùng, lắc mình phóng lên vách đá. Chân tay thoăn thoắt bám, tựa, gạt vào đá, chẳng mấy chốc thân ảnh mảnh mai đã biến mất trong dòng thác. 

"Thả ả vào sao?" Lâm Phi không giấu được ngạc nhiên mà chồm tới hỏi. "Vào trong được, ả lại bài binh bố trận ngăn chúng ta..." 

"Kệ ả." Như Yên lơ đãng nói, dõi mắt nhìn theo những con quạ bay trên cao. "Ai bảo vào thác chỉ có thể bằng đường cổng ngang? Ta cứ đào từ trên xuống, xem có viên đá nào rơi trúng đầu ả không?" 

"Nhưng còn con tin?" Hắn cau mày. Thả cô ta vào, cô ta lại chẳng làm hại con tin, quyết một mạng đổi hai mạng? 

Đáp lại lời hắn, Như Yên chỉ đưa kèn lá lên miệng thổi. Vừa thổi, nàng vừa ra hiệu cho nhóm người phía sau. Một lát, cuốc xẻng lẫn trâu bò trong làng đã được đưa lên đầu dòng thác. Để tránh dòng nước, họ quyết định đào xiên vào. Tiếng đào bới khuấy động cả góc rừng buổi bình minh. Như Yên cứ chốc chốc lại ngừng thổi kèn, như thể muốn cô gái trong kia nếm đủ mùi vị đau đớn chết đi sống lại. 

Bên ngoài, nắng lên rực rỡ, ồn ào vang động. Bên trong, họ có thể thấy hang động rung khẽ theo từng nhịp cuốc. 

"Đứa... con gái... độc ác..." Cô gái nằm trên sàn động đá ẩm lạnh hơi nước thở dốc, thều thào nói giữa lúc tiếng kèn ngưng thổi. "Ngươi... vì sao... lại theo nó?" 

Ánh mắt vừa đau đớn vừa phẫn nộ hướng về phía người thanh niên áo xám ngồi trong góc động xa xa. Y chỉ nhắm mắt, im lặng như một bức tượng đá. Cạnh y, Hiểu Lam cuộn tròn nằm ngủ mê man. 

"Các người hy vọng ở họ Nguyễn?" Cô gái chống tay ngồi dậy, giọng đứt quãng nhưng lạnh lùng. Bị tra tấn suốt từ đêm qua đến giờ, nàng ta đã dần làm quen với những cơn đau này. "Các người hy vọng gì? Bọn chúng sẽ bảo đảm cho các người sống được? 

"Ngọc Vạn công nữ đang bệnh nặng." Cô gái hạ giọng thì thầm. "Mất đi bà ta, ngươi nghĩ ảnh hưởng của triều Nguyễn lên Thủy Chân Lạp còn bao nhiêu? Đại vương Nặc Thu là chính vương của Chân Lạp, năm xưa vì tranh không được với quân Nguyễn mà phải để Nặc Nộn ở Sài Côn. Các ngươi theo họ Nguyễn, đến khi Đại vương chiếm được lòng người, giành lại đất nước, các ngươi sẽ bị giết không còn một mạng. 

"Hay ngươi cho rằng họ Nguyễn sẽ chiếm được cả Thủy Chân Lạp? Nhưng chúng sẽ tiếp tục chứa chấp các ngươi? Nếu có thể thì năm xưa chúng đã không ném các ngươi đến Đông Phố, chuyển gánh nặng cho Chân Lạp. Cứ cho là giờ chúng tiếp nhận ngươi, nhưng đừng quên, giữa Nam Hà và Đông Phố là Chiêm Thành. Đông Phố xa cách, thực sự chỉ có bọn ngươi chống đỡ, sống chết tự lo lấy. Đại vương Nặc Thu có Đại Thành hỗ trợ, liên kết với Chiêm Thành ta, các ngươi vĩnh viễn là bọn ngoại quốc kẻ ném qua người đá lại. Chỗ dựa bất ổn như thế, có đáng không?" 

"Chẳng bằng..." Tiếng kèn lại vang, cắt đứt câu nói của cô gái. Nàng ta ngã vật xuống nền đá lạnh, vẫn dùng đôi mắt nửa khẩn cầu nửa u oán nhìn Sa. "...Theo chúng ta..." 

Y vẫn im lặng. Đầu y vẫn hơi cúi xuống, nhưng đôi mắt y chậm chạp mở ra. Đôi mắt hoàn toàn thanh tỉnh. 

Y đứng dậy, bước đến gần cô gái đang quằn quại. Ngón tay y điểm lên huyệt Kiên Ngung của nàng ta, cắt đứt cảm giác đau. Tay kia của y lần vào trong áo, lấy ra một hoàn thuốc nho nhỏ nhét vào miệng cô gái. 

"Hóa độc tửu hoàn của Miêu Cương[2]." Y nói với cô gái đang ngạc nhiên nhìn lên. Trùng độc người phương Bắc sử dụng rất gần với cách dụng độc của Miêu Cương, loại hóa độc tửu này có thể trừ giải. "Cần có hai viên. Đưa thuốc giải cho cô gái kia, ta cho cô viên còn lại." 

"Ngươi tỉnh?" Cô gái vừa chống tay ngồi lên vừa thận trọng nhìn y. Để đưa bọn họ đến đây, nàng ta phải lấy thêm hai con ngựa, không thể đuổi theo sát bọn Như Yên. Trên đường đi, y hoàn toàn cúi đầu im lặng, giống hệt như một người bị mê dược khống chế, dù không ngất đi như Hiểu Lam. 

Y chỉ nhìn nàng ta, không trả lời, bàn tay đưa ra trước. Cô gái lắc đầu. 

"Thuốc của ta đã bị con bé yêu tinh kia lấy đi cả rồi." Nàng ta vội nói thêm như thanh minh. "Là lọ thuốc màu xanh vân trắng, có nút đỏ." 

Y hạ tay xuống, quay lưng đi. Ngồi lại chỗ cũ, y ngửa mặt nhìn lên trần hang. Có một nhát cuốc khá sâu, làm đất trên hang rùng rùng đổ xuống. Thanh niên trong làng đến đào đã nửa buổi sáng, hẳn đã đến gần hang. 

"Nếu họ vào, cô cũng không sống nổi." Y chợt nói. Đêm qua đến đây, nàng ta đem hai nhánh cây ngãi độc cắm ở hai bên dòng suối, kẻ nào đến gần ngửi phải hơi độc sẽ chết tức khắc. Ba thanh niên trong làng chết gần hồ, người làng hẳn đang vô cùng phẫn nộ. Đường ra bên ngoài đã bị chắn, đường hầm họ đào sắp vào, nàng ta lại mất hết độc ngãi cất trong mình. Để bọn y ở đây, nàng ta vẫn có ý cảnh giác nên đem tất cả thuốc giấu trong người. Như Yên đem nàng ta ném xuống nước, lại kiểm tra lấy sạch mọi tư trang, giờ chỉ còn đôi đoản đao trong gói hành lý kia có thể giúp cho nàng ta. 

"Ta lấy ả làm con tin." Cô gái nhìn sang Hiểu Lam vẫn thiêm thiếp ngủ. Y nhìn lên, chẳng đồng tình cũng chẳng phản đối. 

"Càng chọc giận Như Yên, hậu quả càng thê thảm." Hiểu Lam là một con tin quan trọng mà Như Yên cần, nhưng cũng không đến mức nàng không thể hy sinh. Còn Tiểu Vũ ngoài kia, nhất định hắn không để yên cho người muốn gia hại Hiểu Lam trước mặt hắn. Hai kẻ ấy, một thì gian ngoan độc địa, một thì bốc đồng quái gở, cả hai cùng nhắm đến một mục tiêu thì càng tệ cho cô gái này. 

"Chẳng lẽ ta ở đây chịu chết?" Cô gái cau mày, đã lộ rõ vẻ sốt ruột. Y nhìn sang dòng nước trắng xóa ngoài cửa một lúc, rồi chậm chạp buông từng lời. 

"Họ đào được, cô cũng đào được." 

"Đào?" Cô gái nhíu trán, nhìn xuống nền đá cứng, rồi thành hang đá dày. Người trên kia có cuốc xẻng, có cả súc vật trợ lực, còn nàng ta chỉ có hai thanh đoản đao. Nàng ta nhìn ra ngoài, rồi lại đưa mắt về phía Sa, như vừa chợt nhận ra điều gì. "Ngươi giúp ta?" 

Y không trả lời, chỉ nhắm mắt tựa vào thành hang. 

"Thông rồi!" Một tiếng hét vọng xuống từ trên đỉnh hang khi một thanh gỗ lớn đâm xuyên qua đá, hất cả đất cát lẫn đá rơi tung tóe. Thanh gỗ được chậm chạp rút lên khi tiếng kèn của Như Yên ngày càng gấp. Một người thận trọng trượt xuống hang. 

"Lão Đại!" Hắn lên tiếng gọi ngay khi vừa thấy hai người kẻ nằm người ngồi bên kia hang đá. Nhìn quanh, không có một bóng người. Hắn đến bên Sa, lay vai y, nhét hoàn thuốc mà trưởng làng cho vào miệng y, rồi đến Hiểu Lam. 

Lát sau, Sa chậm chạp mở mắt. Hiểu Lam chỉ rên khẽ trong giấc ngủ. 

"Ngươi đến rồi." Thấy hắn, y chỉ gật đầu. Chống tay đứng dậy, y nhìn lên vết thủng trên tường. Tiếng Như Yên hỏi vọng xuống. Hắn vừa quay lại đáp trả vừa xốc Hiểu Lam lên vai. Nhìn thấy bọn họ lên khỏi hang, Như Yên vội chạy lại. Nhưng nàng nhíu mày. 

"Ả phù thủy kia đâu?" Nàng quay nhìn hắn mà hỏi. Hắn nhún vai. 

"Trong hang không có ai, chỉ có hai người ngất xỉu này thôi." 

Như Yên cắn môi nhè nhẹ. Cô gái kia không thể tự nhiên mất đi, có phải? Nàng ta không có thuật độn thổ hay xuyên tường, nếu không đã chẳng bị bắt. Nhưng giờ thì nàng có thể cho ai xuống kiểm tra? Tử Hiên vốn chẳng phải là thuộc hạ của nàng. Bát Hôi Ngư, Lâm Phi lẫn những người khác đã bị tà thuật của cô gái kia làm cho sợ hãi, vừa rồi chẳng tên nào chịu xuống hang. Người trong làng thấy ba nạn nhân trước càng lo lắng hơn. Nàng không biết võ công, nếu gặp địch nhân thì chỉ là thí mạng. 

"Ngươi không sao thì tốt rồi." Cuối cùng, nàng nắm tay Sa, cười nói. 

Ngón tay nàng, chạm vào mạch đập trên cổ tay y. 

Trưởng làng xác định được thuốc trong chiếc bình xanh vân trắng là thuốc giải. Tuy vậy, Hiểu Lam phải mất nửa ngày mới lơ mơ tỉnh dậy, nửa ngày nữa để nàng hồi phục tinh thần. Cô gái có vẻ như đã quen với vất vả lẫn nguy hiểm, rất nhanh bình tĩnh. Nàng vốn đã ngủ thiếp hầu hết thời gian, thậm chí đến mặt kẻ bắt giữ còn không nhận ra được. Như Yên ở lại trong làng một ngày, dùng nửa ngày còn lại ấy để ngủ bù cho hai đêm thức trắng. Nàng nằm trong góc phòng, quay mặt vào tường ngủ say, cấm không cho ai tới gần. Đến tối, khi đám lửa ngoài làng lại được đốt lên cho ngày hội xuân chưa qua, nàng trở dậy, lại tắm giặt sửa soạn đi dự lễ. Trong làng mất ba thanh niên, đêm hội cũng vì thế mà trầm xuống phần nào. Như Yên mấy lần cúi mình xin lỗi người trong làng, xin bồi thường hai mươi con trâu cho họ vì kết quả của lời thách đố đêm trước. Nàng rút lui khỏi đám hội ra về trước, lại tiếp tục leo lên nhà sàn ngủ. Đến nửa đêm, hắn thấy có người kéo tay mình. Như Yên ra hiệu cho hắn im lặng, rồi dẫn hắn ra phía bờ suối. 

"Có việc gì vậy?" Hắn hỏi, đi cách nàng một quãng, vẫn còn bị ám ảnh bởi hành động đêm trước. Có Sa ở đây, hắn lại lén lén lút lút đi với tiểu yêu tinh vào nửa đêm, có phải là rất đáng ngờ? 

Như Yên không trả lời. Nàng ngồi xuống một tảng đá lớn bên suối, cúi đầu nhìn nước chảy. Trong đêm đầu tháng không trăng, chỉ nghe tiếng rì rầm trong bóng tối. Rừng núi ngai ngái mùi cỏ, mùi rêu, âm ẩm mùi sương. Tiếng một loài chim vọng trong đêm mịt mù. 

"Sáng nay Sa thật sự bất tỉnh?" Như Yên chợt lên tiếng khi hắn đã thấy hết kiên nhẫn. Câu hỏi làm cơn buồn ngủ vẫn còn vương vất trong đầu óc hắn mất hẳn. Trong một lúc, hắn không biết phải trả lời nàng ra sao. 

Sự thật? Sự thật là khi chạm vào Sa, mạch đập của y rất bình thường, không rối loạn như Hiểu Lam. Mạch đập không giống như người đang trúng độc bất tỉnh. Nhưng đó cũng có thể là công lao tu luyện của y để ức chế chất độc, không cho nó thao túng bản thân. 

Nói với Như Yên nhận biết ấy, rồi có ý nghĩa gì? Nàng nghi ngờ, luôn luôn nghi ngờ, bây giờ hẳn càng nghi ngờ. Cô gái kia đã biến mất, trong khi nàng chưa dò hỏi được gì từ cô ta. Hoặc là có, nàng vốn biết điều gì đó về cô ta, nên nàng càng nghi ngờ hơn. 

Hắn tin Sa, nhưng hắn biết y luôn có những suy tính không bao giờ muốn cho hắn rõ. Địa vị của hắn và y vốn khác nhau, cuộc đời của bọn hắn cũng khác. Hắn tin Sa, nhưng hắn biết rõ, vì chính những toan tính và sự kiêu hãnh của mình, y có thể mắc sai lầm. Như sai lầm trước kia ở Giang Nam, khiến hắn phải đi cứu y về. Hắn luôn luôn là kẻ đứng sau y, giải quyết những sai lầm mà y có thể phạm phải, trong tất cả trận chiến của bọn hắn. Hắn đứng sau y, vốn không cần biết y làm gì, đi đâu, chỉ cần bảo toàn cho y, hóa giải sai lầm của y. Luôn luôn đã là vậy. 

Hắn có thể tin được Như Yên? Cô gái độc địa này có thể ra tay tàn nhẫn đến mức nào, hắn đã thấy. Hắn đã thầm lấy làm nhẹ nhõm cho cô gái kia khi cô ta thoát khỏi tay Như Yên. Toan tính nào mà nàng ta cùng kẻ đứng sau mình dành cho Sa, cho bọn hắn? Tình cảm nào mà nàng ta dành cho Sa - trong cuộc sống đầy toan tính của nàng ta, với khuôn mặt biến thiên muôn dạng mà nàng ta trưng ra với mọi kẻ trên đời? 

Ngay cả bây giờ, nàng ta hỏi hắn, không phải là đi tìm một câu trả lời. Nàng không cần câu trả lời của kẻ khác. 

"Mạch đập của y bình thường." Cuối cùng, hắn quyết định đánh lá bài nước đôi. Đó là sự thật, bất chấp những gì có thể đằng sau nó. 

Như Yên vẫn cúi đầu nhìn dòng nước tối. 

Tóc nàng xõa trên bờ vai gầy, vẫn còn rối. Khuôn mặt trắng tái khuất nửa trong màn đêm. Bàn tay nhỏ với những ngón dài đan vào nhau trên gối. Nàng im lặng. 

Nàng im lặng như đã vĩnh viễn ngồi nơi ấy từ muôn vạn năm trước đến muôn vạn năm sau. Nàng im lặng như thể sẽ chống lại sự phù du của đời người bằng vĩnh cửu. Nàng im lặng, như một tạo vật được sương đêm kết thành, rồi sẽ biến mất trong bóng tối. Nàng im lặng, như đã thuộc về một thế giới mà không ai có thể chạm đến được. 

Rồi dòng nước vẫn cứ chảy trôi. Rồi nàng vẫn cứ ngồi đó. Biến mất trong lặng im. 

"Thôi, ta về đi." Cuối cùng, Như Yên thở ra, đứng dậy kéo lại chiếc khăn lên vai. Chầm chậm, hai người quay về trên con đường lởm chởm đá. Giờ hắn mới để ý rằng Như Yên đi chân đất. Nàng vẫn nhìn về mái nhà đầu làng, như đang suy nghĩ chuyện đâu đâu. 

"Sa, y..." Hắn ngập ngừng. Đây có phải là điều nên nói ra? "Y không thể cứ mãi thế này." 

Sa một thân tuyệt học, tài mạo hơn người, vốn không thể khuất thân làm một kẻ tùy tùng cho nàng ta mãi. Y ở đây vốn có mục đích của riêng mình. Và dù kết quả là thế nào, y cũng phải rời đi. Cô gái này không còn là cô bé mà y từng cứu năm xưa. Nàng đã lớn lên, rồi phải có cuộc sống của mình. Cô gái này, dù là một kẻ lạc loài, vẫn đi con đường khác với y, với bọn họ. Chỉ là đơn giản ở bên nhau, cũng đã không thể lâu dài. Những tình cảm khác, càng không thể nghĩ tới. 

Tin hay không tin, cuối cùng chỉ là một loại lợi khí trong cuộc cờ này. Trong một ván bài lớn, mỗi kẻ vốn chỉ nắm rõ những gì trong bàn tay mình, chờ đợi động thái của đối thủ. Nơi này, những quân bài giấu mặt, những đối thủ chưa lộ diện, những loại thủ đoạn sẵn sàng được tung ra mọi lúc - mà chỉ một sơ sẩy cũng đủ đẩy người vào tuyệt lộ. Mỗi kẻ đến nơi này tìm một cơ hội cho bản thân - với nguy cơ mất tất cả trong tay. 

Tin hay không tin, rốt cuộc cũng chẳng có ý nghĩa gì. 

"Ta biết." Như Yên nhè nhẹ cười. Nàng chẳng có lấy một cái chớp mắt. 

Ngồi xuống trên thang lên nhà, Như Yên với tay lấy cây sáo areeng vẫn để bên chái, thổi khe khẽ. Thanh âm đùng đục chợt vang như tiếng cú kêu trong đêm. Nàng tự cười một mình. Đêm đã khuya, không còn tiếng sáo trả lời cho nàng. 

"Ngươi đi ngủ đi, mai lên đường sớm." Nàng nói với hắn vẫn còn đứng tần ngần ngoài cửa, không quay đầu lại. "Buổi sáng ta ngủ nhiều quá, giờ lại mất ngủ." 

Những lời này có vẻ rất thực tình. Nàng ta vốn từ lâu đã coi việc xung quanh như đương nhiên phải thế. Không oán thán, cũng chẳng giận dữ, chẳng buồn phiền. 

Hắn nhắm mắt, nghe tiếng sáo lan đi trong đêm rừng âm u gió. Thốt nhiên nghĩ tới những ngày sương giăng trên các ngọn núi, tựa khói tan vào trời. Nhìn lên là bầu trời, nhìn xuống là vực sâu vạn trượng. 

Sông dài thác đổ bóng hoa trôi. 

Chú thích:  

[1] Thích phu nhân: Thiếp của Lưu Bang, Lữ Trĩ rất ghét vị phu nhân này. Khi Lưu Bang chết, Lữ hậu cho móc mắt, cắt tai, lưỡi, chặt tay chân Thích phu nhân bỏ vào thùng gỗ đặt trong chuồng heo, gọi là Trư-nhân (người lợn). 

[2] Hóa độc tửu: Tương truyền là rượu giải độc của một dân tộc Miêu Cương làm ra để giải tất cả các thứ độc. 

Hồi 41: Hoắc gia 

Trang viện của Thanh Hải bang nằm ở phía Đông Bắc Hội An, khu đất rộng với bốn bức tường cao bao quanh hơi xa cách với phần nhộn nhịp còn lại của thành thị. Trong đêm, tiếng mõ báo canh đi qua rồi mất hút, không vang đến được phần trong của tòa nhà. 

Chỉ có ánh trăng non đầu tháng vằng vặc sắc trắng lạnh len vào các khung cửa, đổ đầy các hàng hiên, soi bóng những nhánh cây cùng hòn giả sơn, các dòng suối nhỏ. Hoắc cố bang chủ là một người phong nhã và phóng khoáng, trang viên nơi trú ngụ của ông mang phong cách xây dựng nửa Nhật Bản nửa cung triều. Nơi đây cách xa Bắc Kinh, chẳng tội gì phải tránh cách xây dựng của Tử Cấm thành. Nghệ thuật nhà vườn Nhật Bản lấy đá làm khung xương ngăn cách các khu vực, lại có nước bao quanh, cỏ xanh rêu bạc. Các loài kỳ hoa dị thảo được mang về từ khắp bốn phương sắp đặt tinh tế trong vườn để quanh năm đều có hoa nở. Cuối mùa xuân, trong ánh trăng bạc, cành mai trắng vẫn đang nở hoa cạnh thủy đình, thả những chiếc cánh mỏng tang xuống mặt nước. Bên những tảng đá gồ ghề nhấp nhô, hàng liễu xanh rì rủ bóng trong đêm lặng gió. Chủ nhân cũ của khu vườn này đã tận tay chọn từng khối đá theo đúng chuẩn sấu, thậm, lậu, thấu[1]. Từng con cá trong hồ cũng được ông thả vào trong mỗi dịp phóng sinh. Chúng đang quẫy chiếc đuôi dài dưới lớp lá sen, làm sóng nước lan từng đợt, từng đợt lấp lánh trăng. Trăng mạ bạc lớp ngói lưu ly xanh biếc, hàng lan can đá trắng, những con đường rải sỏi ẩn hiện dưới cây. Từng giọt nước nhỏ xuống từ chiếc gàu tre trên giếng cũng lấp lóa ánh trăng bạc. 

Mỗi một chi tiết, kể cả mùi hương của cỏ, của hoa trong khu vườn này đều tinh mỹ đến phi thường. 

Hiện tại, người chủ cũ đã mất đi, người chủ mới của khu trang viên đang ngồi một mình trong trích đình. Áo tang trắng, làn da xanh nhợt nhạt trở thành trắng tái trong ánh trăng, đôi mắt xa xôi nhìn về phía những gợn sóng liên tục hiện lên rồi biến mất trên mặt hồ tối đen, y nhấp từng ngụm trà trong chiếc ly bạch ngọc. Trà được đem về từ Tân Cương, mang vị đắng thơm nồng nơi đầu lưỡi, thoang thoảng mùi tuyết lạnh. Nước pha là sương đọng trên hoa mai, hương thanh thanh. Trăng đang tạo thành một vầng bạc khuyết trong ly, soi vào đôi mắt y chút ánh mờ. Một bộ đàn Nhã nhạc đang đặt trước mặt y, những sợi dây đàn trông như làm bằng băng tuyết. 

Y đang đợi. 

Nhưng kẻ mà y không chờ đợi lại đang ở ngoài kia. Y nghe tiếng chim trong những chiếc lồng phía Đông vườn có chút xao xác. Y quen thuộc với từng ngóc ngách thanh âm trong khu vườn này đến mức có thể nhận biết ngay từng kẻ xâm nhập vào địa phận. Kẻ ấy, dù có cao cường đến đâu, cũng không thể hóa thành vô hình. Hoắc cố bang chủ, khi còn sinh tiền, đã tạo ra khu vườn này, mà mỗi ngóc ngách của nó đều chứa hàng ngàn đôi mắt dò xét canh chừng. 

Kẻ ấy vẫn nhất quyết bám theo y. Từ sau vụ việc ở Cẩm Thạch bàn. 

Y biết lão ta đang chờ đợi điều gì. Lão ta, kẻ duy nhất thoát khỏi Cẩm Thạch bàn. Ngay từ khi còn ở Đà Nẵng, nghe đến chuyện có một lão già dùng thẻ bài bang hội thoát ra khỏi hàng rào cảnh vệ, y đã biết rằng có ngày lão sẽ tới tận đây tìm y. Kẻ có chút đầu óc nào cũng phải tự hỏi tại sao một bang hội lại tham gia vào sự việc này, và tìm ra y không khó. Y cố tình trì hoãn về Hội An chính vì chưa đến lúc để đối đầu với lão ta. Đơn giản, chỉ là chưa đến lúc. 

Bây giờ, y lại đang chờ lão tới, như một tên thợ săn chờ con mồi lọt bẫy, như một kẻ thích thú ngắm nhìn cảnh vật đổi thay dưới tầng mây không ngừng biến chuyển. Sự xuất hiện của lão, tuy không phải là điều y chuẩn bị, nhưng đáng để ngóng chờ. 

Bên hiên phía Tây vang tiếng chân đi lại. Gia nhân trong trang viện đang dẫn một đoàn người tới. Những kẻ lạ mặt mặc quần áo giống như người Hán bình thường, có người cạo đầu người không. Người Hồi tại Vân Nam vẫn theo phong tục bản địa, không có vẻ ngoại lai như Hồi tộc ở Tân Cương. Thấy y ngồi ở trích đình đợi, bọn họ có vẻ hơi phật lòng. Đây không phải là lề lối tiếp đãi khách qúy. 

Y đứng dậy, mỉm cười, cung kính vái chào. Phân chủ khách mời ngồi trong khu đình rộng, y tận tay mời trà cho từng người, ôn tồn nói: 

"Nghe tin qúy vị đến vào đêm khuya, không thể đến quán xá mừng, tệ xá lại đang thu dọn bề bộn. Trang viên này trước đây là nơi đắc ý của tiên phụ, nghĩ các vị là người quen cũ, hẳn cũng muốn tưởng nhớ người." 

"Không dám." Một người đàn ông vừa quá tuổi trung niên hừ lạnh. Ông ta cao to, cơ bắp cuồn cuộn rắn chắc màu đồng hun, đứng cạnh Hoắc Phương có vẻ tương phản gắt gao. Ông ta nhìn y, đôi mắt vừa giận dữ vừa căm ghét. "Hoắc cố bang chủ không có thói giết cố nhân rồi lại đường hoàng tới đặt điều kiện như thế. Nhận làm người quen cũ, e rằng không gánh nổi." 

"Đó là chuyện hiểu lầm." Hoắc Phương vẫn giữ nụ cười trên môi, từ tốn ngồi xuống bên kia bàn. Khóe môi y khẽ cong. "Tại hạ chỉ vì nghe rằng có người muốn kết hợp với đối thủ nội ứng ngoại hợp mà đoạt quyền Hoắc gia ở Hội An, không nghĩ rằng đó lại là cố nhân của tiên phụ. Tiên phụ tại hạ cả đời thi ân hiệp nghĩa, không phụ ai mà cũng không bỏ rơi ai, cớ sao nắm đất còn chưa mọc cỏ lại có kẻ lá mặt lá trái định gia hại hài nhi của người?" 

"Chúng ta nghe rằng Hoắc cố bang chủ mất, người lên thay là Đại đương gia, không phải thiếu chủ." Người đàn ông cao gầy bên kia vội nói. "Đại cuộc rối loạn, ai cũng không muốn mình bị thiệt thòi. Chúng ta cũng không ngờ rằng kẻ đợi bên bờ biển lại là Hoắc thiếu gia, đến mức cả đội thuyền bị diệt không còn một mạng." 

"Tại hạ trong lúc nóng nảy làm việc có điểm lỗ mãng. Tại đây xin tạ lỗi cùng các vị, mong việc hiểu lầm đã qua, có thể làm lại từ đầu." Hoắc Phương cười, nhẹ cúi đầu. Thái độ y ôn hòa mà lãnh đạm, nói ra những lời nhún nhường, y lại có vẻ cao ngạo, trong ánh trăng lạnh tự dưng có phần xa cách khiến kẻ đối diện phải dè chừng. 

Một tay giết sạch đoàn thuyền từ Vân Nam. Nửa năm này, từ khi nắm quyền, trong thành Hội An thu tóm quyền lực của Hồng Thiên hội, tại cảng Đà Nẵng điều phối hoạt động của các tàu thuyền vượt đại dương, ở Giang Nam tham gia vào việc buôn bán hạn chế với người Nhật Bản, liên kết với những tổ chức bảo tiêu để đánh dạt hải tặc. Người thanh niên có vẻ yếu nhược ôn nhu, gần như là mỏng manh trong áo tang trắng này, trái ngược hoàn toàn với những tiếng tăm đáng sợ ấy. Và như vậy, càng làm kẻ khác phải cảnh giác. 

Y vỗ tay nhè nhẹ. Những gia nhân đưa lên đồ ăn khuya và rượu Nữ Nhi Hồng Thiệu Hưng. Năm cô ca nữ thướt tha đến bên đình ôm đàn gảy. Dàn nhạc theo lối hát của qúy tộc phương Bắc gồm dao cầm, cửu huyền, thất huyền, đàn tranh và trúc sinh[ii]. Các cô gái chỉ khe khẽ đàn chứ không hát. Y nâng tay áo rót rượu. Cử chỉ thanh nhã, như mọi chi tiết trong trang viên này, đều tinh xảo đến từng ly. 

"Chủ tử của chúng ta..." Rượu được vài tuần, một người trong nhóm không thể kiên nhẫn thêm, bật lên tiếng hỏi. Hoắc Phương hướng mắt về phía anh ta, nhướng mày. 

"Cô ấy vẫn khỏe, đang ở một nơi tịnh dưỡng rất tốt. Các vị đến quá đột ngột, ta chưa kịp thông báo cho cô ấy." Y đan hai bàn tay vào nhau, hơi liếc về phía vầng trăng đầu ngọn cây bên vườn. "Vả lại cũng không cần gấp. Các vị gấp gáp đến đây, chẳng phải là đánh động kẻ xung quanh quá hay sao? Cô ấy được đưa đến để tránh cuộc truy quét ở Vân Nam, bây giờ lại thành các vị đưa người tới chỗ ở của cô ấy?" 

"Chúng ta không ngốc đến mức ấy." Người đứng đầu nhóm cau mày. Trên đường đến đây, họ đã cố tình đi lòng vòng các bến cảng, đổi thuyền luôn. Kẻ theo dõi khó mà theo kịp. 

"Nhưng còn người trong các vị?" Hoắc Phương chợt cười. Y phất tay, một mảnh giấy nhỏ chợt nằm giữa những ngón tay dài. "Các vị vừa đặt chân vào Đà Nẵng, chúng ta đã bắt được bức thư này." 

Đôi mắt y nhìn một lượt qua những người trân trối nhìn lại y, trong khoảnh khắc như cứng đờ cả người. Mảnh giấy nhỏ vẫn kẹp trong tay y, trên vương một vết nâu nâu như máu, nước ố loang màu vàng nhạt. 

"Chủ tử của các vị hẳn không phải là đi trốn tránh quân càn quét Vân Nam." Khóe miệng Hoắc Phương nhếch khẽ. Mắt y vẫn chầm chậm đảo qua đám người. Bàn tay chầm chậm thả xuống bàn, ngón tay khẽ động như chuẩn bị lật tờ giấy ra. 

Trong sát na, ánh kim loại lóe lên trăng. 

Gã trung niên to lớn ngồi ở cạnh bàn tay rút đao, tay phóng ra những thanh dao nhỏ vào đám 'chúng bạn'. Người đàn ông gầy gò ngồi cạnh gã không kịp phản ứng, hứng trọn một lưỡi đao hất lên từ bụng, rạch toạc xương sườn. Những người ngồi quanh bàn như có chuẩn bị sẵn, chớp mắt đã phóng lên hoặc hụp người xuống tránh. Chiếc bàn bị hất tung lên làm lá chắn. Chén ngọc đĩa vàng rơi vỡ loảng xoảng. 

Các ca nữ ngừng đàn đứng dậy, rút vũ khí giấu trong đàn, nhảy đến bên Hoắc Phương. Y đã lùi về một góc, ra hiệu cho họ không động thủ. 

Y không cần động thủ, chỉ quan sát đám hỗn chiến trong đình. 

Gã cao lớn vốn chỉ định đánh dứ cướp đường bỏ chạy, nhưng người đàn ông bị gã hạ thủ đã nắm chặt lấy đao, cản gã chạy đi. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, năm người kia đã bao vây gã. Bảy kẻ này võ công tương đương nhau, gã cao lớn không chống nổi năm người còn lại, chỉ chốc lát đã bị tước vũ khí. Đao trong tay gã vừa rơi, một kẻ mặc áo đen trong nhóm đâm thẳng đao vào bụng gã. 

"Ngươi... phản... ta?" Gã cao lớn trân trối nhìn kẻ vừa ra tay hạ thủ, thều thào. Mọi ánh mắt lập tức hướng về kẻ đang cầm lưỡi đao đâm lút bụng tên cựu đồng bạn kia. Không nói không rằng, bốn người còn lại lập tức quây lấy gã. 

Hoắc Phương khoanh tay ngồi xuống lan can đình viện. Tờ giấy kẹp giữa ngón tay y vô thanh vô tức rơi xuống nước. 

Gã áo đen đánh liều mạng sống của mình trở nên hung hăng vô kể. Bàn tay trái gã chợt vung lên, ném một nắm bột vào kẻ đang tấn công. Người ấy bật ra sau, ôm mặt quằn quại, mắt mũi chảy máu. Trong lúc tình hình rối loạn, gã tranh thủ đánh lén chém được một người khác vào vai. Chớp thời cơ, gã phóng ra khỏi đình, đạp lên lan can cầu đá bắc qua hồ mà nhảy đến bên hàng liễu, định nhảy lên tường ra khỏi trang viên. Hai người kia lập tức đuổi theo, phóng ám khí về phía kẻ đang chạy trốn. Một mũi phi tiêu găm vào vai gã, làm gã vấp ngã vào một viên đá trong vườn. Hai kẻ kia tóm được gáy, nhấc bổng gã lên. 

"Ngươi là gian tế của..." Câu hỏi chưa dứt, tiếng lanh canh đã phát ra từ phía bụi hoa mai côi cao hơn đầu người. Một con dao phóng đến, găm thẳng vào ngực kẻ đang bị bắt giữ. Hai người kia nhảy bật ra tránh ám khí, thả rơi gã áo đen xuống đất. Chuôi dao chạm đất cắm ngập vào ngực gã, lưỡi dao đâm sang cả phía bên kia. 

Một người ăn mặc như kẻ làm vườn phóng ra từ bụi hoa, vừa dợm chân đã bị hai người kia đồng loạt phóng ám khí chắn đường. Cuộc chiến lại tiếp tục, lần này tỏ ra ngang tài ngang sức khi kẻ vừa xuất hiện có võ công cao hơn cả. Nghe tiếng náo động, đám gia nhân cùng phủ vệ chạy vào, Hoắc Phương chỉ phất tay cho họ đứng yên. 

Mắt y nhìn về phía tường Đông, nơi treo những lồng chim qúy. 

Tiếng chim chợt lóe chóe xao xác, đập cánh vào thành lồng náo động. Một thân ảnh phóng qua giếng nước, làm chiếc gàu rơi xuống lòng giếng sâu. Hai mũi tên phóng vun vút đuổi theo ông ta. 

"Thầy Cả, ta gặp lại." Hoắc Phương nhẹ nhàng cất tiếng. Y đã bước lên cầu đá ra khỏi thủy đình. Người kia tránh thoát hai mũi tên, chân vừa chạm xuống mặt đất đã vội vã quay đầu về phía y. Phía sau ông ta, đội cung thủ của Hoắc gia lại sẵn sàng nhắm bắn. Hoắc Phương vẫy tay cho họ lui ra. 

Người tự xưng là thầy Cả của Cẩm Thạch bàn trừng trừng nhìn y bằng con mắt duy nhất còn lại. Mắt kia của ông ta đã bị che bằng một miếng băng đen. Ông mặc trang phục của người Chiêm Thành bình thường với áo dài aw tah, quấn khăn cùng thắt lưng rộng sặc sỡ. Ông trông vừa có vẻ tức giận vừa cân nhắc, lại cũng vừa bối rối. Trên khuôn mặt còn đầy những vết sẹo bỏng vừa lành, khó mà nhận biết cảm xúc thật sự. 

Nghe câu chào của Hoắc Phương, một âm thanh lục khục khe khẽ thoát ra từ cổ họng ông. Dường như là một cái cười nhạt, hoặc một tiếng hầm hừ. Hoắc Phương đứng trên cầu, hơi nghiêng đầu. 

"Hay ta nên chào là Oc-nha That, Hữu trà viên[3] của Chiêm Thành?" Giọng y không cao, vẫn mềm mại ôn nhu, phảng phất như cười. "Đêm khuya đến thăm ta, chẳng hay Hữu trà viên có ý gì muốn đàm đạo? Gặp lúc nhà cửa đang bề bộn, thật là thất lễ." 

"Trả cho ta thanh đao!" Không kiên nhẫn với những lời dông dài của Hoắc Phương, Oc-nha That gằn giọng. Đôi mắt duy nhất của ông ta sáng quắc trong cái nhìn căm ghét cực hạn. 

Khi trốn ra khỏi khu vực vây bắt của quan quân tại Ngũ Hành sơn, ông ta đã vào nương náu trong một gia đình người Chiêm Thành sống gần đó, nghe ngóng tình hình. Toàn bộ người trên Cẩm Thạch bàn bị chuyển về Panduranga, ông ta vẫn còn nấn ná ở lại. Đợi vết thương lành, ông đi tìm kẻ đã trộm thanh đao, bắt đầu bằng chiếc thẻ bài có trong tay. Thẻ bài không phải của quân triều hay dùng trong triều đình, mà là của một bang hội trong Quảng Nam. Kẻ đã lừa ông là một người Tàu, cùng với chiếc thẻ bài này, chẳng khó khăn để lần ra manh mối. Nhưng Hoắc Phương đi khỏi Hội An để làm việc nay ở Đà Nẵng, mai ở Quảng Châu, gần đây mới trở về. Ông phục kích ở đây mấy ngày nhằm mục đích nhìn mặt kẻ được gọi là bang chủ này. Đến đêm nay, ông mới xác định được quả thật chính y là kẻ đã trộm mất thần đao trấn quốc. 

Đã thế, y làm ra vẻ chẳng phải cả hai đã một mất một còn trên đỉnh Cẩm Thạch bàn, chỉ thản nhiên cười. 

"Ta có lòng giữ hộ bảo vật cho thầy Cả, lại phải dùng thái độ ấy đối với ta? Thầy nghĩ xem, nếu lúc ấy ôm theo thanh đao, thầy có thể yên lành mà trốn ra khỏi nơi ấy sao? Cơ duyên để thầy cùng đao đều an toàn, chẳng phải nên cám ơn ta một tiếng?" 

"Trả đao cho ta!" Thầy Cả gằn giọng, cơn giận đã không để đâu cho hết. Hoắc Phương nhún vai. 

"Nếu muốn thì đến đây mà lấy." Y vẫn quyết định vờn con mồi. Thầy Cả, Oc-nha That này, người đường đường là Hữu trà viên của Chiêm Thành, tuyệt nhiên không chỉ có một mình. 

Tiếng gầm nhẹ thoát ra trên môi người đàn ông lớn tuổi trước khi ông ta lao tới, nhảy qua mặt hồ không rộng lắm đến cầu đá. Hoắc Phương rút kiếm, không lùi lại mà đâm thẳng về phía Oc-nha That. Lưỡi kiếm của y rung nhẹ, phát ra tiếng đinh đinh khe khẽ. Ánh trăng lóe trên lưỡi kiếm phản chiếu lại như một dải Ngân Hà chói sáng cả mắt đối phương. 

Oc-nha That vận lực lên tay, dùng chỉ lực búng vào lưỡi kiếm. Kiếm đột ngột đổi hướng, vẽ một đường vòng cung dưới cằm ông ta, đâm vào thái dương bên kia. Động thái đột ngột ấy nhanh đến mức Oc-nha That thốt nhiên phải lùi lại. Thanh kiếm kia đuổi theo lại chợt chém sả xuống đùi, gần với đầu gối. Xuất kỳ bất ý, chiêu thức hiểm độc lại nhằm vào những nơi yếu hại không được bảo vệ, trong chốc lát làm ông ta bối rối. 

Kiếm pháp Hoắc gia tinh mỹ hiểm độc, vì hiểm độc mà tinh mỹ, vì tinh mỹ mà hiểm độc. Trong thoáng qua mà lóa mắt, trong chớp mắt mà mạng vong. Kiếm pháp này có một sự chính xác cực cao, tính toán đến từng cái đưa mắt nhíu mày, từng sát na rung động của đối phương mà có khi chính kẻ đối đầu vẫn còn chưa nhận ra. Đối đầu với một người toàn thân giáp sắt như Oc-nha That, Hoắc Phương biết kiếm pháp mình đã bị hóa giải một phần lớn khi đối phương không còn hoa mắt phân tâm với những bộ vị bị tấn công. Những ngày rời khỏi Cẩm Thạch bàn, y đã nghiền ngẫm cách khắc chế yếu điểm này. Đến Quảng Châu, y tới thương khu buôn bán với Đông Doanh, tình cờ thụ giáo được kiếm pháp của một võ sĩ Đông Doanh. Kiếm thuật Đông Doanh nhất chiêu tất sát, tấn công vào những điểm không thể hộ vệ như đầu, mặt, cằm, bàn tay, hông... Kết hợp với kiếm pháp Hoắc gia, y lược bớt đi những điểm rườm rà, gia tăng thêm chiêu thức tấn công thân dưới. Thứ kiếm thuật này trở nên lợi hại mà cũng độc địa hơn gấp mấy lần. 

Nhưng Oc-nha That không phải là một người lần đầu lâm trận. Sức lực của ông ta vốn cao hơn Hoắc Phương cả trăm lần. Lấy tấn trụ đạp lên mặt cầu đá đến rung cả thành cầu, hai bàn tay Oc-nha That hóa hình Hổ trảo lao vào kiếm của Hoắc Phương. Đến gần thanh kiếm, hai bàn tay bỗng chợt hóa chiêu Ấn Tối Thượng Bồ Đề[4] áp chặt lấy kiếm. Kiếm như bị dính chặt vào giữa hai bàn tay, khôn bề rút ra. 

Hoắc Phương xoay cổ tay. Từ trong chuôi kiếm, y rút ra một thanh đoản kiếm, đâm thẳng về trước. Oc-nha That giật mình vội buông kiếm nhảy lùi về sau. Hoắc Phương hất thanh đoản kiếm về tay trái, tay phải cầm lại kiếm. Nhưng y cũng không tiếp tục tấn công, chỉ đứng nhìn người đàn ông Chiêm Thành bên kia cầu. Máu đang chảy xuống từ điểm chính giữa hai mày ông ta mà kiếm đã điểm vào. Nếu y đâm lệch một chút về bên phải, hẳn đã hủy cả con mắt còn lại của ông ta. 

Kiếm pháp Hoắc gia trọng nhất là sự chính xác. Y không phải không cố tình đâm lệch. Đoản kiếm từ bên trái đã đột ngột hất lên, chỉ để lại một vệt giữa mày Oc-nha That. 

Ông ta cũng đã thấy điều đó, ánh sáng lóa mắt đột ngột đổi hướng. Trong một lúc không biết phải nghĩ gì, ông ta chỉ đứng nhìn người thanh niên bạch y phiêu diêu trên cầu đá. Trăng lạnh như nước hắt lên y những vệt bóng mờ. Y đang nhíu mày nhìn về phía đám hỗn chiến của ba người bên kia vườn. Kẻ xâm nhập đang chiếm ưu thế, đã chém được vào ngực một người tấn công. 

"Lên!" Hoắc Phương hất cằm nói với những ca nữ vẫn đang đứng trong đình. Năm bóng người thướt tha phóng qua hồ nước, bao vây ba kẻ kia. Năm thanh kiếm đâm vào như cánh hoa mai, dưới trăng toả sáng lóa mắt. Kẻ xâm nhập không kịp kêu một tiếng, thân thể gã đã bị chém thành năm phần. 

"Đó là người thuộc Bái Nhật giáo[5] đã ước hẹn với thầy ở Vân Nam." Hoắc Phương rời mắt khỏi hai người đang lảo đảo đứng sau cuộc chiến, được năm cô gái nâng đỡ. Y nhìn Oc-nha That, mỉm cười. "Họ vừa thanh toán môn hộ. Giờ thì chúng ta có thể nói chuyện với nhau được rồi." 

Chú thích:  

[1] Thái thú Mễ Nguyên Chương đã cùng Tô Đông Pha đặt ra những nguyên tắc đầu tiên cho việc lựa chọn đá cảnh. Theo các ông thì đá đẹp phải có đủ bốn tiêu chuẩn là Sấu, Thẩm, Lậu, Thấu. 

Sấu: gầy, gầy guộc nhưng phải rắn rỏi 

Thẩm: gân sớ, nhăn nheo biểu hiện tính cỗ lão, tang hải thương điền. 

Lậu: lồi lõm, hang hốc biểu hiện sự thâm u. 

Thấu: có hang lỗ thủng xuyên qua biểu thị sự triệt thông ( thông suốt).  

[2] Theo Vũ trung tùy bút, Hát cửa quyền bao gồm các nhạc cụ: 

Trúc sinh (tục gọi đàn khô) - để cầm nhịp. 

Đàn cầm - căng dây thép dài giống như đàn sắt. 

Đàn chín dây (tục gọi đàn cửu huyền). 

Đàn bảy dây (tục gọi đàn thất huyền). 

Đàn tranh 15 dây. 

Hát cửa quyền là ca trù được đưa vào hát ở cung đình. Thời Lê, nhạc trong cung được chia làm hai ban: Nhã nhạc và Đồng văn. Nhã nhạc là nhạc không lời, Đồng văn là nhạc có người hát. Cả hai ban này đều theo cách chơi của nhạc Trung Hoa. Sau này nhà Lê suy, Đồng văn dần được thay thế bởi ca trù (mà người thường gọi là tục nhạc). Ca trù được đưa vào hát trong cung gọi là Hát cửa quyền. Theo Vũ trung tùy bút, Hát cửa quyền tiếng "uyển chuyển, dịu dàng, thanh nhã hơn hát chốn giáo phường". Dàn nhạc cung đình gồm 4 loại đàn dây và 1 phách.  

Hát giáo phường gồm các loại nhạc cụ: 

Trường cùng (cái phách dài) - làm bằng tre già, hình dẹp giống chiếc đòn gánh, dài độ ba bốn thước ta (70 - 90cm); Trường cùng do một ả đào già gõ để giữ nhịp cho cả dàn nhạc. 

Trúc địch (tục gọi sáo ngang). 

Yêu cổ (tục gọi trống cơm). 

Địch quản (tục gọi quyển thủy - tiêu). 

Đới cầm (tục gọi đàn đáy - 16 phím) - kép buộc dây điều đeo đàn gảy. 

Phách (tục gọi sinh) - ả đào đánh. 

Phách quán tiền (tục gọi sinh tiền) ả đào đánh. 

Đan diện cổ - thường được ả đào dùng như một âm sắc tín hiệu khai màn cuộc hát và đệm cho múa. 

Đến cuối thế kỷ 17 - đầu thế kỷ 18, đàn nguyệt mới gia nhập vào ca trù. (Chú thích thêm: Đàn nguyệt có mặt ở VN khoảng thế kỷ 11, Phạm Đình Hổ chỉ viết " đời gần đây mới chuộng đàn nguyệt", chứ không phải đàn nguyệt lúc này mới có.) 

[3] Trong triều đình Chiêm Thành, dưới vua là Hữu trà viên và Tả trà viên, đóng vai trò như tả hữu Tể tướng.  

[4] Ấn: Dấu hiệu được dùng trong cả Phật giáo lẫn Ấn Độ giáo. 

[5] Bái Nhật giáo: Cách người Nam Hà gọi Hồi giáo, vì những người theo đạo này hướng về thánh địa Mecca cúi lạy, giống như lạy mặt trời. 

Hồi 42: Chia tay 

Khi đám người Như Yên về đến Thương Trúc trang, Hoắc Phương đã ngồi trong gian nhà chính chờ đợi. Y đang trò chuyện với Xuân Tử, chỉ nhướn mày khi thấy Như Yên bước vào cửa. Nàng thấy y cũng chỉ cười nhạt. 

"Con vịt ốm nhà ngươi đã lạch bạch chạy sang đây rồi." Nàng vừa nói vừa ngồi xuống ghế, tự rót nước cho mình. Hội An đã trở lại những ngày nắng nóng, thời tiết so với bên kia núi như thuộc về hai thế giới khác. Những người còn lại hoặc tự biết việc lui về nơi ở trong trang, hoặc ngồi lại trong phòng. Hiểu Lam hơi giật mình khi thấy Hoắc Phương, nhưng không bỏ đi mà mím môi đứng cạnh cửa. Hoắc Phương không nhìn qua nàng ta, chỉ cười với Như Yên. 

"Có người đã lẩn vào đường núi mà đi lại làm ầm ĩ lên, xua người chạy khắp nơi. Tin tức có một tiểu mỹ nhân khuynh thành truyền từ làng này qua làng khác." Y cười khẽ. Xuân Tử đứng dậy sắp xếp cho người mới về, liếc mắt rất nhanh qua Như Yên. Nàng thở ra, ngả lưng vào thành ghế mà khoanh tay nhìn Hoắc Phương. 

"Ta đói." Nàng chợt nói. Đã vào giữa trưa, từ sáng vào địa phận Quảng Nam, bọn nàng đã chưa ăn gì. "Nghe nói ngươi vừa hoàn tất Khán Triều lâu, dẫn bọn ta đi ăn đi." 

"Ta e rằng sẽ phải đợi lâu đấy." Hoắc Phương cười thành tiếng. Nhưng y chỉ gật đầu đứng lên. Như Yên gọi người trong trang chuẩn bị thuyền. Tắm rửa thay đồ đi đường xong, nàng kéo cả ba người hắn, Sa và Hiểu Lam theo Hoắc Phương ra thuyền. Thuyền đi ngược dòng sông hướng về phía nguồn, quá trưa mới ra khỏi đất liền hướng về một cụm đảo nhỏ. May mà trên thuyền đã chuẩn bị đồ ăn nhẹ cho bọn hắn dùng tạm. Trong suốt thời gian ấy, Hiểu Lam thỉnh thoảng lại liếc nhìn Hoắc Phương. Y vẫn tỏ vẻ không để tâm đến nàng ta, chỉ ngồi ở đầu thuyền chuyện trò khe khẽ với Như Yên. Duy nhất một lần Như Yên nhìn rất nhanh về phía Hiểu Lam. 

Khán Triều lâu được đặt tên như thế vì nó nằm trên một đồi cao ở Cù lao Chàm, một cụm đảo nằm không xa đất liền lắm. Mùa này thuyền bè nằm nghỉ ngơi trong bến để lau chùi sửa chữa khá nhiều, kéo theo một loạt nhân công lấy bờ biển đảo làm nơi trú ngụ thành một làng nho nhỏ bên cạnh các làng chài. Chim yến đang mùa kết tổ trên đảo, họ vẫn bắt gặp từng nhóm nhỏ người đi lấy yến sào đeo gùi sau lưng, giắt dao để chặt tre làm giàn. Khán Triều lâu nằm trên một khu vực không có đường lớn đi vào, chỉ có con đường đất nhỏ nằm lẩn trong cây, từ bãi cát vàng, họ phải lên ngựa đi một quãng nữa mới đến nơi. Khu nhà vườn không lớn lắm nhưng thanh nhã, cửa còn nguyên mùi sơn mới, đá dưới thềm cũng chưa có rêu. Trong lâu, những gian nhà được xây theo lối chữ Hồi quây lấy một tiểu lầu cao hẳn lên nằm giữa hồ nước. Người phục vụ có vẻ là người làng trên đảo, nước da đen nhẻm đầy mùi gió mặn ra đón họ, cung kính cúi chào Hoắc Phương. 

"Trương Trào nói: Lên lầu ngắm núi, đầu thành ngắm trăng, trước đèn ngắm hoa, trong thuyền ngắm ráng, dưới trăng ngắm mỹ nhân. Nay ta ra đảo ngắm triều." Hoắc Phương cười nói khi dẫn họ ra tiểu lâu nằm giữa hồ nước. Xung quanh, tiếng đàn hát dặt dìu vang, nghe như có cả những nhạc khúc Tây dương hay Ấn Độ. Khu lầu này hẳn được sử dụng như một nơi giải trí cho các thương nhân ghé thuyền lại trên đảo hoặc muốn đi du ngoạn khỏi Hội An. Các gian nhà xung quanh thấp thoáng bóng người, cả các tầng lầu cũng đã kín. Bọn họ leo lên lầu cao nhất, nơi nhìn ra chỉ thấy một màu nước xanh ngăn ngắt dưới chân. Dải đất liền cách đảo chừng chục dặm như một vệt xanh xa mờ phía chân trời. 

"Ở đây vừa có lầu vừa có trăng, vừa nhìn được ráng mà cũng vừa ngắm được hoa. Chỉ có mỹ nhân thỉnh thoảng mới xuất hiện." Hoắc Phương đi quanh gian lầu, thuận tay cầm cành lan trong bình mà vừa cười vừa đưa cho Hiểu Lam. Nàng giật mình nhận lấy, vừa chạm vào đã có vẻ muốn bỏ xuống. Bên cạnh, Như Yên cầm quạt đập nhẹ vào gáy y. 

"Đừng có giở trò tán tỉnh của công tử phong lưu ra đây." Nàng vừa nói vừa hớt lấy cành lan trên tay Hiểu Lam trước khi nó rơi xuống đất, đỡ cho cả hai một màn bối rối. "Ngươi ngắm ta là được rồi." 

"Nhìn ngươi nhiều quá, ban đêm ta sẽ gặp ác mộng." Hoắc Phương phì cười. Hai người quen nhau từ khi còn nhỏ tuổi, đã sớm gấu ó như vậy. Y vẫy tay cho gia nhân đi chuẩn bị tiệc thiết khách, mời họ ngồi quanh chiếc bàn gỗ mun đen nhánh cẩn xà cừ. Một lúc sau, bữa ăn đã được đưa lên, gồm toàn những hải sản được bắt lên trong làng chài quanh vùng. Giữa bàn là một cành san hô nhỏ màu đỏ sắp đặt rất tinh tế. Có vẻ đã đói ngấu, Như Yên chỉ chăm chú ăn. Nàng không lên tiếng, quanh bàn cũng chỉ có tiếng chén đũa lách cách. Hiểu Lam ăn uống cầm chừng, có nhiều món lạ nàng không hề đụng đũa. Đóng vai trò chủ nhà, Hoắc Phương thỉnh thoảng lại tiếp thêm món cho người trong bàn, Hiểu Lam thận trọng hất chúng sang một bên chén. 

Ăn no uống đủ, đến khi gia nhân thu dọn chén dĩa trên bàn đi, sắp trà rượu lên, Như Yên mới ngẩng đầu nhìn bọn họ, cười tươi như hoa. 

"Chúng ta giới thiệu với nhau chưa nhỉ? Vị này là Hoắc bang chủ của Thanh Hải bang, tên gọi là Phương. Ta thường gọi là vịt ốm." Nàng thêm vào câu cuối sau một khắc cân nhắc, thản nhiên làm ra vẻ không nhận ra thái độ của người xung quanh. Ngón tay nàng chỉ về từng người trong nhóm. "Sa thì quen quá rồi. Tên ngốc này là Tử Hiên, vừa rồi đã đi với Hoắc bang chủ gây họa ở Cẩm Thạch bàn, cũng coi như quen biết. Cô nương xinh đẹp này là Chu Hiểu Lam. Lần trước ồn ào rối loạn, hẳn hai người chưa nhìn rõ mặt nhau. Lúc này thanh thiên bạch nhật, cũng nên nhận nhau chứ nhỉ? 

"Vị Hoắc bang chủ này, nói cho công bằng, được người ngoài coi là thiếu niên tài năng anh tuấn. Nhưng y thật ra ho hen ốm yếu, ra gió là bệnh, dầm mưa là ngã. Đã vậy tính tình lại gian xảo tham lam, ngày trước chỉ vì ta lấy của y một hộp mạch nha, y không từ thủ đoạn nào ban đêm trèo tường vào phòng ta lấy lại, may mà ta đã dự liệu sớm ăn sạch trước đó... Ôi chao, sao ngươi đá ta?" Tiểu yêu tinh ngưng màn tự biên tự diễn, quắc mắt nhìn Hoắc Phương. Y đã co chân đá nàng dưới gầm bàn, vẻ cười ôn nhu nhũn nhặn trên mặt bớt đi mấy phần. 

"Tiểu yêu, ta phải nhắc cho ngươi bao nhiêu lần rằng đó không phải hộp 'mạch nha' mà là thuốc quý ta mua về làm quà sinh nhật cho phụ thân, giữa đường bị ngươi lấy mất?" Y nhẹ nhàng cười, không tỏ ra vẻ giận. Như Yên được thể bĩu môi. 

"Dù gì đi nữa, ngươi ban đêm trèo vào phòng ở của nữ nhi thật là mất tư cách. Cô nương phải cẩn thận." Tiểu yêu tinh hoa tay nhìn về phía Hiểu Lam. "Nếu không làm vừa lòng y, ban đêm y trèo tường vào phòng cô nương thì ta cũng không cản nổi đâu." 

Mặt Hiểu Lam đỏ ửng. Hai người kia một xướng một họa, huyên thuyên nói nói cười cười với nhau, giờ lại lấy nàng ra đùa bỡn. Vốn nghĩ về gặp Hoắc Phương sẽ pải đối đầu với những mưu tính điều kiện của y, chẳng ngờ y đến nàng cũng không nhìn qua mấy lần, Hiểu Lam nhất thời không biết ứng phó ra sao. Đùa giỡn một lúc, Hoắc Phương gọi người chuẩn bị xe cho họ đi chơi quanh đảo, đưa ba người kia xuống, chỉ còn y với Như Yên trên lầu. 

"Bọn họ cũng ở đây?" Như Yên chợt hỏi khi bóng ba người kia vừa khuất cùng tiếng chân xuống lầu. Nàng bỏ ly trà xuống, chăm chú nhìn Hoắc Phương. Mặt trời đã hạ về Tây, ngang với cửa sổ lầu, ánh sáng gay gắt xiên qua những tấm rèm trúc thành vệt trong phòng. 

"Chưa thống nhất được." Hoắc Phương lắc đầu. "Bọn họ đang rối loạn nội bộ, tráo trở khó lường, sớm đầu tối đánh, không giao ước tin tưởng được. Vả lại, Bái Nhật giáo đang thịnh ở Chiêm Thành, triều đình ấy quyết thu kết mọi nguồn giúp đỡ có thể trong vùng." 

"Đã thế thì ngươi càng phải tham gia vào cùng chúng." Như Yên cau mày. "Dù có ngươi hay không, sớm muộn gì chúng cũng tìm cách bắt tay với nhau. Kinh thư của Bái Nhật giáo chẳng phải đã nói rằng đồng đạo phải giúp đỡ cho nhau? Năm xưa Chiêm Thành tìm sự giúp đỡ của Mã Lai, Chà Và, Nam Dương cũng đã chống cự được với ta không ít. Bây giờ Đại Thanh rối loạn, họ lại chẳng tìm cách bành trướng xuống phía Nam?" 

"Nói đến phía Nam, ta lại nhớ đến nhóm người Minh Hương kia." Hoắc Phương cười khẽ, nhặt lấy cành lan trên bàn cắm vào bình trở lại. "Chiêm Thành theo Bái Nhật giáo, vua Chân Lạp trước kia cũng từng nuôi ý định theo Bái Nhật giáo, có phải là trùng hợp ngẫu nhiên không? Người Minh Hương ở Chân Lạp, nói rằng bỏ nước mà đi, có thật lòng đã quên chuyện cũ đất xưa? Nay Chiêm Thành có ý liên kết với người Tàu, e rằng không phải chỉ nhắm vào tổ chức Bái Nhật giáo. Chu Hiểu Lam kia, thân phận không đơn giản." 

"Ngươi đừng làm bộ đánh đố ta, Hữu trà viên Chiêm Thành nói với ngươi cái gì?" Như Yên ngắt lời Hoắc Phương, khoanh tay nhìn thẳng vào y. Một bên mày của y lại hơi nhướn lên. Nghe tin Như Yên theo đường núi quay về, y biết nàng không tin tưởng mình nên đã không báo. Không ngờ nàng ta đã cho người theo dõi y ngay tại Hoắc gia. 

"Lão bị ta bắn mù một mắt, ta lại không biết đề phòng lão sao?" Thấy ánh mắt y, Như Yên mỉm cười. "Ta lần này vòng đường núi về chỉ vì Hiểu Lam. Kẻ đuổi theo nàng ta bám sát gót đoàn người đi đón, ta chẳng biết ngươi có ứng phó nổi không, hay một lời nói lỡ ra lại khiến chúng dò được tung tích chúng ta, chưa bước chân vào được Hội An đã vong mạng. Nhưng Hữu trà viên có việc gì ở Hoắc gia mà đến uống trà với ngươi? Lão chưa bẻ cổ tên vịt ốm nhà ngươi sao?" 

Nàng ta vốn không biết chuyện về thanh thần đao. Kẻ tận mắt nhìn thấy thanh đao trên núi vốn chỉ có y và thầy Cả. Kẻ biết được tường tận chuyện thanh đao lọt vào tay y chỉ có ông ta và tên thanh niên gọi Tử Hiên kia, nhưng hắn lại không biết y đã trộm cái gì. 

"Tất nhiên ông ta đến báo cừu." Y cười khẽ. "Nhưng ta đem một mối lợi ra khuyến dụ thì vẫn xong." 

"Không, không phải là đánh chiếm Quảng Nam." Hoắc Phương lắc đầu trước ánh mắt Như Yên. "Ta có những điều kiện khác. Ngươi chỉ cần biết là - Mục đích của Chiêm Thành lần này, rất không đơn giản. 

"Hữu trà viên đích thân đến Đà Nẵng, ngụ tại Cẩm Thạch bàn, không hẳn chỉ vì những gì ông ấy nói với ta lúc đó. Ngươi nghĩ xem, nếu chúng ta không tấn công lên, bọn họ có chịu ra mặt hay không? Và, họ còn định ở đó đến bao lâu?" Hoắc Phương chầm chậm nói. "Đêm trước ông ta đến Hoắc gia, ngoài chuyện thương thảo ra, ta chưa tìm hiểu được gì. Ông ta cũng chưa nói gì với đám người từ Vân Nam đến, hình như vẫn chưa tin bọn họ. Chỉ có điều, ta phát hiện ra, đi cùng với ông ta có một người Chân Lạp." 

Đêm ấy, y thách đấu với Oc-nha That để kẻ đi cùng với ông ta lộ mặt. Ý định không thành, nhưng y đã mời được Oc-nha That vào nhà đàm đạo, khiến ông ta cảnh giác mà gọi kẻ cùng đi canh gác ở bên ngoài. Những ca nữ của y, qua vài thủ thuật, đã tiếp cận được kẻ ấy, phát hiện ra gốc gác của gã. 

"Chân Lạp - Chiêm Thành, bây giờ lại có cả người Tàu, thú vị thật." Y ngả người vắt tay ra sau ghế, nhìn Như Yên mà mỉm cười. "Chu Hiểu Lam kia, giữ lại được thì phải quản được, không thì phải ném xuống biển mà trừ hậu hoạn." 

Y nói hết sức điềm nhiên, Như Yên cũng không có lấy một cái nhíu mày. Nàng không cần hỏi tại sao y lại khuyên điều này. Tổ chức tại Vân Nam kia cũng đang xào xáo, chia năm xẻ bảy, phần thắng chưa biết lọt về tay ai. Để Chu Hiểu Lam sống, y thao túng được kẻ ủng hộ nàng ta. Diệt trừ Chu Hiểu Lam, y có thể giúp đỡ bên chống đối giành quyền lực. Ở bất cứ trường hợp nào, y vẫn có thể chiếm lợi thế về mình. 

Lần này, y để sự lựa chọn cho nàng. 

"Đã là người thì đều ba lòng hai dạ, nếu thấy không giữ được thì đừng liều." Hoắc Phương nhẹ nhàng nói. Nắng chiều chiếu vào mắt y trong suốt như ngọc. Y nói như đoán ra được điều Như Yên đang nghĩ. "Thả Chu Hiểu Lam vào bọn họ, nếu cô ta giúp mình thì tốt, nếu nửa đường quay lưng, hậu quả sẽ không biết đâu mà lường." 

"Nếu ta để Chu Hiểu Lam cho ngươi thì thế nào?" Như Yên chợt hỏi. Nàng đứng lên, tới bên Hoắc Phương mà cúi xuống y. "Tên gian thương nhà ngươi điều gì có lợi thì làm, có phải?" 

"Vừa rồi còn không cho ta chạm đến cô ta, giờ lại giao cho ta?" Hoắc Phương nghiêng đầu cười. Như Yên bĩu môi, đập tay vào vai y. 

"Nhà ngươi chỉ cần biết hộp mạch nha chứ còn biết đến cái gì?" 

Nếu nói là vô tình, thì y không phải kẻ vô tình. Y cũng chẳng phải kẻ tráo trở vô nghĩa. Y hoàn toàn đứng ngoài những khía cạnh hay định nghĩa ấy. Y, chẳng qua, chỉ là một kẻ vô tâm. 

Biển xanh ngắt dưới nắng chói chang. Trên bờ cát, người người vẫn lại qua bận rộn với công việc của mình. Nơi đây chỉ có vài ngàn cư dân sinh sống thường xuyên, số lưu dân qua lại đôi khi còn đông hơn người bản địa. Đang mùa xuân, chim yến bay về kết tổ trên những rặng đá cao. Người đi lấy tổ yến cheo leo trên vách đá dốc đứng như bị gió biển thổi bay đi, thân hình gầy gò càng đen nhẻm dưới nắng. Từ thuyền nhìn lên, vóc người trên rặng đá nhỏ như một cánh yến đậu trên cao. 

Thuyền đang đi sát bờ đá của đảo. Như Yên vẫn ở trong khoang cùng Hiểu Lam, để hắn cùng Sa ngồi đầu thuyền. Hoắc Phương không đi cùng bọn hắn. Y ở lại Khán Triều lâu, bảo rằng để sắp xếp chỗ nghỉ ngơi cho cả nhóm sau khi Như Yên nói sẽ ở lại đảo đêm nay. 

Lúc này, đẩy hai tên thanh niên ra ngoài, nàng đang rù rì trò chuyện với Hiểu Lam. Với Như Yên, Hiểu Lam vẫn giữ thái độ nửa canh chừng nửa giữ kẽ, vừa có vẻ xa cách vừa như ngờ vực. Hai người không hợp tính nhau, ở bên nhau đã lâu nhưng vẫn không sao thân thiết được. 

Cho nên, Như Yên dùng giọng bàn luận công việc mà nói chuyện với nàng ta. 

"Nếu đến Hoắc gia ở thì thế nào?" Nàng hỏi, chăm chú nhìn Hiểu Lam, thấy rõ cái giật mình của cô gái trước mặt. Khoang thuyền không rộng, hai người ngồi gần như sát nhau. "Người đến đón cô đã ở trong Hoắc gia, hẳn là cô cũng muốn gặp họ?" 

"Phải, nhưng..." Hiểu Lam ngập ngừng. "Tôi phải đến Hoắc gia ở sao? Không thể ở Thương Trúc trang được nữa?" 

"Không tiện. Hoắc Phương chỉ nhờ ta trông nom cô, ta không thể giữ Chu cô nương lại." Như Yên lắc đầu, nói tiếp trước khi Hiểu Lam kịp lên tiếng. "Vả lại, Thương Trúc trang không thể bảo đảm an toàn cho cô được nữa. Người của Chu cô nương đến đón, những kẻ truy đuổi cô cũng theo sát rồi. Hoắc gia phòng vệ nghiêm ngặt, có thể bảo vệ Chu cô nương chu đáo hơn. Hoắc Phương lúc thường thì tính tình cũng không đến nỗi, không phải sợ y như thế." 

Hiểu Lam cắn môi. Đúng là vừa rồi nhìn Hoắc Phương cười đùa với Như Yên, chỉ thấy y như một thanh niên văn nhã bình thường. Nhưng rời khỏi Thương Trúc trang? 

"Chúng ta thỉnh thoảng sẽ tới thăm Chu cô nương." Như Yên mỉm cười, nói như trấn an. Nàng nhìn ra bóng nắng không ngừng lấp lánh trên mặt biển lăn tăn sóng. Sóng đập vào vách đá, làm bọt cồn lên không ngớt. Chiều đang buông xuống rất nhanh. Chẳng mấy chốc, sắc lam đã loang trên bờ biển. Phía Tây, thái dương trầm mình sau đường viền xanh của dải đất dài, hắt lại ráng đỏ rực lên nền trời mênh mông. Khi thuyền cập bến thì mặt trăng đã lên, nhợt nhạt trong sắc xanh của bầu trời. Đảo đêm yên lặng, chỉ có tiếng sóng không ngừng xô bờ. 

Chân vừa đặt lên bờ cát, Hiểu Lam đã cắm cúi đi trước mà không nhìn đến ai. Như Yên đến đập tay lên vai hắn. 

"Đi theo cô ấy đi." Nàng thì thầm, rồi giải thích trước vẻ ngạc nhiên của hắn. "Ta bảo từ nay nàng ta sẽ đến ở tại Hoắc gia." 

"Hoắc gia?" Hắn nhìn Như Yên, nhíu mày. Chẳng phải nàng muốn canh chừng Hoắc Phương nên mới giữ Hiểu Lam lại? Nay nàng giao hẳn Hiểu Lam cho Hoắc Phương? 

"Đều trong Hội An cả, có phải xa xôi gì đâu." Như Yên nhún vai. Trong khoảnh khắc ấy, nụ cười mờ nhạt thoáng qua môi nàng, đôi mắt hơi tối lại. Hắn nhìn Như Yên một lần nữa, rồi bước nhanh theo Hiểu Lam. Đằng sau, Như Yên kéo tay Sa, đứng lại trên bờ cát, ra vẻ như đang ngắm hoàng hôn. 

"Chu cô nương." Hắn lên tiếng gọi khi Hiểu Lam đã đi xa hẳn đoàn người. Nàng vẫn bước nhanh, không quay lại. Gọi đến lần thứ ba vẫn không có tác dụng, hắn buộc phải cầm lấy tay áo nàng. Hiểu Lam đã chịu đứng lại, nhưng vẫn cúi đầu. 

"Chu cô nương..." Hắn ngập ngừng. Không hẳn hắn không biết phải nói gì, chỉ là không biết có nên nói ra. Có những ranh giới mà một khi bước qua sẽ phá hỏng toàn bộ thế cuộc. 

Như Yên, tiểu yêu tinh ấy, rốt cuộc vẫn đang chơi ván bài của mình. Đẩy Hiểu Lam đến Hoắc gia, nhưng đồng thời muốn nắm Hiểu Lam lại bằng tình cảm. Nàng ta coi Hiểu Lam, coi hắn như một quân bài để tùy nghi sử dụng. Sử dụng mà không cần biết đến tổn thương của kẻ khác. Hắn đi theo Hiểu Lam chỉ vì sự đau lòng trong khoảnh khắc nhận ra điều ấy, không phải vì muốn nắm giữ nàng lại. Hắn không muốn trở thành một con cờ của kẻ khác. Hiểu Lam cũng không thể vì hắn mà quyết định sai ván bài của mình. 

Hiểu Lam thở ra sau một lúc thấy hắn vẫn đứng yên. Nàng ngẩng đầu nhìn bầu trời đã tối sẫm, vì sao Hôm nhấp nháy phía mặt trăng đang lên. 

"Ở Vân Nam, ta trú ngụ trên một ngọn núi." Nàng chợt nói, giọng nhẹ nhàng xa xôi. "Họ gọi ta là thánh nữ, là chủ tử, là... công chúa. Và họ để ta trên một ngọn núi. Ngày lại ngày, ta nhìn mặt trời mọc rồi lặn. Đêm lại đêm, ta nhìn ngắm các vì sao. Ta vốn chỉ biết đến trăng sao và hoa trên núi, thật ra chỉ là vậy thôi. Rồi ta làm một trận pháp, cũng chỉ có hoa và sao. Trận pháp ấy, ngay lần đầu thi triển, đã bị huynh phá giải. 

"Bọn họ đối với ta rất tốt. Ta cũng rất nghe lời bọn họ. Sống theo những gì thánh Allah chỉ dạy, ngoan ngoãn vâng lời, làm nghĩa vụ của mình, cuộc sống ấy đâu có gì là xấu, phải không? Mỗi người đều có một món nợ, như huynh đã nói, chúng ta đâu có thể nào chỉ biết tới bản thân mình. Khi họ vui, ta cũng rất vui. Khi họ buồn, ta buồn theo. Khi họ chết, ta rất đau lòng. Ta biết, mình chỉ là một con bé ngốc nghếch vô dụng, họ chỉ gì ta làm theo ấy, vốn chẳng biết bên ngoài là thế nào. 

"Ta... ta chỉ nghĩ là... mỗi lần nhìn thấy bầu trời sao thế này, ta lại nghĩ ra được điều gì đó cho trận pháp của ta. Theo những gì huynh chỉ, nhìn mọi thứ linh hoạt hơn." 

Hiểu Lam nhè nhẹ cười. Hắn chợt nhận ra vẫn nắm tay áo nàng, liền vội vàng buông ra. Hiểu Lam lại nắm lấy tay hắn, cử chỉ đột ngột khiến hắn giật mình. Mắt nàng đỏ, khuôn mặt dưới ánh trăng giống như lần đầu tiên gặp hắn, vẻ thanh khiết như tự tỏa ra ánh sáng. Trong đôi mắt trong trẻo ấy lại chứa một mối nhu tình vô hạn mà cũng đau buồn khôn xiết, bất giác làm hắn phải cúi đầu. 

Hắn đã cố tình không nhận ra, khi cô gái này mượn cớ vẽ lạc đồ chạy theo hắn khắp các ngõ ngách. Khi cô gái này đòi đi theo hắn khắp nơi. Khi cô gái này hờn giận với tất cả những cô gái muốn đến bên hắn. Cô bé con ngốc nghếch rụt rè này chỉ biết có những cách như thế. Ngay cả bây giờ, nắm lấy tay hắn, nàng vẫn đứng ngẩn ra, như thể không biết phải nói gì, làm gì. Hoắc gia cách Thương Trúc trang chỉ một quãng đường, nhưng một khi đã buông tay, một khi đã không còn thấy bóng dáng, một khi đã không thể đi theo, liệu hắn sẽ biến mất hay không? Nàng vốn không biết gì về hắn, kẻ ở lại trang viện này chỉ vì một món nợ mơ hồ nào đó. Nàng vốn không biết có thể chờ đợi gì ở hắn, kẻ có cuộc sống cách xa nàng ngàn vạn dặm, như thể thuộc về thế giới khác. 

"Ta sẽ đến thăm muội mà." Cuối cùng, hắn chỉ có thể cười. Hắn không biết đó có phải là một lời hứa hay không. Bàn tay Hiểu Lam dần dần thả lỏng. 

Hít sâu vào một hơi, nàng buông tay hắn, chầm chậm bước về phía Khán Triều lâu sáng ánh đèn trên đỉnh đồi cao. Đầu ngẩng cao, nàng đón gió biển thổi tạt vào mặt, trên môi nghe vị mằn mặn. 

Đó là cuộc sống của nàng. Ngay từ khi sinh ra cho đến khi nhắm mắt. Nàng chỉ có thể kiên cường mà tiếp tục. Những gì hắn có thể cho nàng, chỉ là vài viên đường nho nhỏ. Chỉ là bầu trời sao không có ngày tận diệt. 

Những điều ngốc nghếch khờ dại ấy, khi nhớ lại, nhiều năm tháng sau này, vẫn mang vị của những viên đường ngọt ngào nơi đầu lưỡi và đăng đắng trong ký ức. 

Hồi 43: Ám sát 

Chén chè hạt sen mát lạnh, nước vẫn còn đọng lấm tấm trên thân sứ trắng. Trong chén, hạt sen trắng ngần vẫn còn nguyên hạt được lấy kim móc ra rất khéo chiếc nhân đắng, nửa nổi nửa chìm trong nước nấu đục mờ. Vài lát gừng thái mỏng như thể trong suốt thả trên chén cùng mấy mảnh đường nho nhỏ. Trong làn gió biển vẫn không ngừng thổi giữa ngày đầu hạ nóng khô, một thìa chè ngậm vào miệng như thấm vào lưỡi, lan đi khắp châu thân. Vị đường ngọt nhưng không gắt, nước nấu vẫn còn hương đăng đắng của một loại dược thảo, hương sen xông lên khứu giác thanh thanh như đài hoa vừa qua một cơn mưa. Như Yên lấy cả những đài sen đã kết hạt vừa mới hái lên mà bẻ ra, bóc vỏ những cái hạt xanh non cho vào miệng, ăn chung với chén chè. 

Sau những bữa hải sản mặn mòi mùi biển, chén chè được đưa lên cho bữa cuối ngày này như một thứ làm dịu tất cả các giác quan, chuẩn bị cho người vào giấc ngủ. Tiếng nhạc trong các gian nhà quanh lâu đã yên ắng dần. Vở tuồng được diễn trong gian nhà chính đã tan. Các gia nhân đang đi tắt bớt đèn trong khu vực. Ánh đèn tối dần, trăng sao càng sáng. 

Trong thinh không, dường như có tiếng sáo vi vu. Một âm điệu đơn giản, không ra bài bản nào, giống như không phải do người thổi. 

"Sáo diều." Như Yên ngẩng nhìn trời, nói khi bỏ thêm một hạt sen sống trắng ngà vào miệng. "Đáng lẽ năm nay ta được xem lễ hội thả diều, nhưng tin quốc tang phát ra rồi, hẳn không tổ chức được." 

Nàng nói như một người hoàn toàn ngoài cuộc, thậm chí còn có ý tiếc rẻ vì đã bỏ lỡ mất một ngày lễ. Ở chiếc bàn bên kia, Hiểu Lam vẫn còn nhìn chén chè sen, tò mò. 

"Ở đây không có băng tuyết, sao có thể làm chè lạnh được vậy?" Nàng dùng chiếc thìa gỗ điểm nhẹ lên những mảnh đường, làm chúng tan ra. Ở Vân Nam, thi thoảng ngày tuyết rơi, nàng vẫn thường làm những món ăn bỏ vài mảng băng bên trên cùng với đường. 

"Lấy muối hột bọc kín bình lại, rồi chôn xuống cát, chừng nửa giờ sau nước đã lạnh." Như Yên lơ đãng nói, nàng như thể vẫn chú tâm nghe tiếng sáo gần gần xa xa. "Ngày thật nóng thì ta vẫn làm thế, nhưng Xuân Tử bảo thế không tốt, làm đảo lộn âm dương, từ nóng sang lạnh quá đột ngột dễ sinh bệnh." 

Nhắc tới Xuân Tử như nhắc tới Thương Trúc trang. Trang viện xinh xắn với những hàng trúc quanh co, với tiếng rì rầm không dứt và cảnh sắc đổi thay muôn vẻ sau những bức rào ngăn cách. Bất giác, Hiểu Lam ngẩn người. Trong căn phòng trên lầu cao dành cho hai cô gái, ánh sáng leo lét từ chiếc đèn cứ chực tắt trong gió không ngừng thổi vào. Như Yên để cho tất cả các cánh cửa mở rộng, bản thân nàng đang ngồi vắt vẻo trên lan can. Hết chén chè, nàng đang tách hạt sen trong chiếc lăng còn tươi xanh ra ăn sống. Hai người thanh niên đã được Hoắc Phương đưa đi từ sau bữa tối. 

Nhận ra khoảng hoang mang của Hiểu Lam, Như Yên cười khẽ. 

"Thật ra mọi thứ đều trong tầm tay Chu cô nương, cô nương có muốn hay không mà thôi." Nàng nhâm nhi đầu hạt sen còn chiếc nhụy đắng mà nhẩn nha nói. "Cô nương nghĩ cho người khác, nhưng người ta có ai nghĩ cho cô nương?" 

"Như Yên cô nương có ý gì?" Hiểu Lam cau mày. Như Yên đứng lên khỏi lan can, tay vẫn cầm đài sen đã bị lóc hết hạt, ngẩng đầu nhìn trời. Trăng vằng vặc sáng, soi xuống mặt biển thành những vệt sóng kéo đến chân trời. 

"Tên ngốc Tử Hiên kia từng bảo, hắn ghét nhất là những kẻ chỉ biết đến những thứ vớ vẩn." Sau lưng, nàng nghe thấy tiếng Hiểu Lam cử động khe khẽ. Ném cành sen vào trong góc, Như Yên rút ra một cành khác, vừa tỉ mẩn bóc vỏ vừa nói mà làm như không nhận ra thái độ của Hiểu Lam. "Chu cô nương, cô nương đã từng biết thế nào là cuộc sống của người bình thường chưa? Hẳn người như cô nhìn họ sẽ nói những câu rất dễ dàng như: Họ thật là thanh thản, cuộc sống không bon chen, không độc ác, thật đáng mơ ước. Nhưng cô biết không, ví dụ như những người sống ở chân đèo Hải Vân ấy. Đèo ấy rất khó đi, ngựa xe đều không thể qua được, chỉ dùng kiệu dùng võng mà cáng. Mỗi lần quan chức đi qua, đều là lính đến làng dưới núi bắt người khiêng võng. Người trong làng hễ thấy bóng gậy võng là bỏ đi trốn, nhưng lính vào làng lấy đi cả nồi niêu để gõ dọa thú rừng. Mỗi lần có quan đi qua, trong làng lại chẳng khác gì có tang, người bị bắt kêu khóc, người dưới núi thấp thỏm. Ừ, nhưng mà rồi, quan thì vẫn phải đi qua đèo, đèo thì vẫn cứ dốc đứng như thế, đời nào kiếp nào, nếu không có đường qua đèo thì vẫn phải như vậy thôi. Các người đánh nhau, nhưng các người có xây được con đường nào chưa?" 

"Những chuyện đó không thể đem so với nhau." Hiểu Lam khe khẽ cau mày. Như Yên đứng dựa vào cột chống ngoài lan can, đưa mắt nhìn xuống bờ biển, cười khẽ. 

"Phải rồi. Nhưng Chu cô nương, nhìn xuống dưới đi kìa." 

Hun hút trong bóng tối của biển, dưới những tàng cây, có những sự chuyển động rất mơ hồ. Nhìn thật kỹ, dõi mắt vào bóng tối mới có thể nhận ra sự dịch chuyển của những chiếc bóng thoắt ẩn thoắt hiện. Hiểu Lam đi ra đứng cạnh Như Yên, thoáng thất sắc. Như Yên đẩy nàng ta vào trong nhà, đóng cửa lại, chỉ hé một khe nhỏ để nhìn ra. Dưới chân họ, dưới sàn gạch dày, như thể đang có kẻ di chuyển. Như Yên đưa cho Hiểu Lam một đôi loan đao giống như đao trước đây của nàng ta, hạ giọng. 

"Tự bảo vệ mình trước." Lời vừa dứt, tiếng động đã vang khắp bốn phía. 

Tiếng cung tên vun vút bắn ra từ khắp bốn phía Khán Triều lâu, từ những cửa sổ để ngỏ của các gian nhà xây bao bọc lấy tiểu lầu. Những mũi tên xé gió bắn vào bóng đêm của rừng rậm bao quanh. Nghe tiếng kêu thét của kẻ bất ngờ bị trúng tên âm vang, bị cắt ngang rồi tắt lịm. 

"Kẻ đuổi theo Chu cô nương đông thật." Như Yên nhún vai nói. Nàng kéo tay Hiểu Lam giữ lại. "Ở yên trong phòng này. Hoắc Phương tự lo được." 

Tên vịt ốm quả là không giữ được bí mật, trong lòng nàng lại rủa thầm. Kẻ đã muốn bắt Hiểu Lam hẳn không phải chỉ cài người vào tổ chức tại Vân Nam. Nhất cử nhất động của Hoắc Phương hẳn đã nằm trong tầm ngắm từ lâu. Vì thế mà nàng yêu cầu y ngay lập tức đưa họ đến hòn đảo này, cách rời với phần thành thị đông đúc nhộn nhịp cũng như Hoắc gia có thể đầy gián điệp. Cũng có thể đã nhận ra điều đó nên y chủ động yêu cầu nàng giữ họ ở lại, định một lần lật mặt những kẻ nằm vùng. Lúc này, khách vừa ngớt, hệ thống phòng thủ trong Khán Triều lâu đã ngay lập tức khép chặt mọi lối vào. 

Cung tên bắn một đợt rồi ngớt khi không còn tiếng di chuyển trong rừng. Những kẻ đột nhập nếu còn sống sót hẳn đã lẩn mình nấp sau những thân cây cùng đá núi. Tiếng sáo diều vẫn vi vu trên bầu trời. Gió thổi mạnh, nâng chiếc diều khổng lồ hình trái xoan kết bằng tám mảnh hình cánh buồm lên trên đám cây rừng. Từ thân diều, một đốm lửa nhỏ chợt bùng lên. Nghe tiếng nổ giữa thinh không khi chiếc bọc kết theo diều rơi xuống, phát nổ giữa trời, hất tung đám muội than cùng vài viên đá nhỏ và một loại phấn bột trắng xuống rừng. Nghe tiếng hét khe khẽ trong đám cây. Những bóng đen trong rừng vừa cử động, một loạt tên lại được bắn ra. Những kẻ còn đang ẩn nấp lùi dần về bìa rừng. 

Ở bờ đá phía Đông, lửa chợt bùng lên cùng tiếng nổ lớn, sáng rực cả vực đá cao hút. Những chiếc thuyền nhỏ được neo đậu lẩn lút nơi ấy bốc cháy rừng rực. Trên vực, nhóm người đi đốt thuyền ném thêm những bó đuốc cuối cùng xuống, rồi nhanh chóng lẩn vào đêm. 

Cuộc chiến bên ngoài vẫn vừa cầm chừng vừa đứt đoạn với sự cảnh giác cẩn trọng của cả hai bên giấu mặt. Những cung thủ của Hoắc gia vẫn giấu mình sau các khung cửa tối, chỉ phản ứng với tiếng động trong bóng đêm. Những kẻ trong rừng vẫn cố hết sức để giữ im lặng, kể cả những chiếc bóng lợi dụng đêm tối trườn mình dưới đất nhằm tiếp cận khu nhà trên đồi. Những kẻ vừa đốt thuyền đã lẩn đi lại phân tán khắp chân núi, ánh đao kiếm lập lòe sáng trong ánh trăng. 

Những cảnh tượng ấy, đều có thể quan sát được từ lầu cao. 

Khu lầu bỗng rung chuyển khi tiếng nổ lớn trong lòng hồ làm nước bắn thẳng lên thành cột. Một toán người xông lên từ trong hồ. Khi xây dựng Khán Triều lâu, Hoắc Phương đã cho làm một đường địa đạo ra khỏi khu nhà mà cửa vào ngay trong hồ nước. Giờ đây, những kẻ đột nhập lại theo đường ấy xông vào. Nước trong hồ vẫn đầy, mặc cho cái hố mở toác dưới đáy. Đao kiếm sáng ngời trên tay, những tên thích khách mặc đồ dạ hành đáp lên cầu đá dẫn ra tiểu lầu, nhảy lên các bậc cửa mà vào từ mọi phía. Tiểu lầu xây theo hình bát giác, tám cửa tám cạnh, có hành lang bao quanh dẫn lên cầu thang nhỏ. Những bóng đen vừa đặt chân lên hành lang, tám cửa trong của lầu bật mở khi ám khí cùng cung tên vun vút phóng ra. Đã chuẩn bị từ trước, toán người đột nhập hoặc lăn mình hoặc nhảy lên cao, vung gươm đao tránh né. Trong khoảnh khắc cuộc tấn công dừng lại, những người trong lầu đã bao bọc mọi nẻo đường dẫn lên cầu thang. Năm nàng ca nữ mi mục như họa, môi son má phấn, mỗi người một sắc áo khác nhau đứng giữa gian nhà chính sáng ánh đèn, phất tay chỉ huy đám thuộc hạ xông vào kẻ địch. Cuộc chiến diễn ra ngay trên hành lang hẹp, thi thoảng một xác người lại rơi xuống hồ, nhuộm đỏ mặt nước luênh loáng trăng. 

Trong lúc cả hai bên hỗn chiến, những bóng đen khác, vô thanh vô tức trườn lên từ lòng hồ. Họ vung tay, những sợi dây mang đầu móc câu phóng đến móc vào lan can lầu trên. Chỉ một cái nhún người nhẹ nhàng, chừng gần hai mươi người đã nhảy lên lầu. Tiểu lâu có năm tầng, ngoại trừ tầng trên cùng leo lét ánh đèn, các tầng khác đều chìm trong bóng tối. 

Người thanh niên bạch y xuất hiện dưới trăng, như thể toàn thân phản chiếu ánh mờ. 

"Các vị đến tệ xá thăm hỏi thì có phải nên đi bằng cửa chính?" Y cười nói. Đứng trên cầu thang dẫn lên lầu trên, kiếm đã tuốt trên tay, y như từ bóng trăng hiện ra. Lời vừa dứt, từ trong phòng, những mũi tên nhỏ đã xé gió vút ra. Nhưng những kẻ vừa đến chỉ cần hất tay đã chém gãy tên. Người trong phòng không xông ra, đám người vừa tới cũng chỉ đưa mắt nhìn lên người thanh niên mặc tang phục trắng như cân nhắc. Y nheo mắt nhìn xuống bọn họ, hơi nghiêng đầu. 

"Mười tám người. Thập bát tử sĩ?" Tiếng nói nhẹ nhàng, nhưng lấy hơi truyền đi rất xa. Trên lầu, hai cô gái nghe thanh âm rõ mồn một trong tiếng chém giết vang đến. Mặt Hiểu Lam biến sắc. Không nói không rằng, không cho Như Yên kịp nắm lại, nàng tông cửa chạy thẳng xuống nơi đang giao tranh. 

Hoắc Phương vừa dứt câu hỏi, mười tám người bên dưới đã đồng loạt xông lên cầu thang nơi y đang đứng. Y đạp chân phóng lên tầng trên, trong khi thuộc hạ Hoắc gia bên trong phòng nhất loạt đạp cửa tràn ra trợ lực. Thập bát tử sĩ mỗi người cầm một loại binh khí khác nhau trong thập bát ban võ nghệ, sử dụng đến độ lão luyện thuần thục. Dưới trướng Hoắc Phương là Thập nhị hồng chung vốn là những cao thủ y tập hợp được sau vụ biến Thanh Hải bang, nhưng thời gian chưa đủ để rèn luyện phối hợp cùng nhau, đối phó với nhóm sát thủ của tổ chức làm chủ cả vùng Vân Nam chẳng mấy chốc đã lộ vẻ yếu thế. Tuy vậy, hành lang chật hẹp, công thủ đều khó khăn, nhóm cầm binh khí dài trong Thập bát tử sĩ càng lúng túng hơn để khai triển võ công. 

"Lên!" Nhận thấy địa hình bất lợi, một người trong nhóm tử sĩ tay cầm chùy vừa đánh vừa quay đầu lại nói. Chiếc chùy lớn bằng đồng phạt ngang, đập vào hành lang đá trắng. Thích khách cầm thương lựa thế đạp vào chùy, phóng lên cầu thang nơi Hoắc Phương đang đứng. Người lao đi như một mũi tên, mũi thương bạc vun vút lao về trước. Khí thế lãnh liệt như xé toạc cả tiểu lâu. 

Hoắc Phương đứng yên, kiếm thu vào sau cánh tay. Mũi thương sượt qua vai y, đâm vào cầu thang tóe ra tia lửa xanh biếc. Bàn tay không cầm kiếm của y móc ra sau lưng kẻ tấn công, nắm lấy cổ áo gã trong khi chân y phạt ngang, không để cho gã tiếp đất. Đang trên đà lao tới, thích khách cầm thương chới với, người bị lộn đi một vòng bay qua cầu thang, chỉ có cán thương của gã còn móc níu lại. 

Thanh kiếm trong tay Hoắc Phương loang qua trăng. Thân hình đang vắt vẻo trên cầu thang bị cắt làm hai nửa, bay xuống hồ nước bên dưới. 

"Bát ca!" Tiếng phụ nữ thất thanh kêu ở trên thang. Hiểu Lam mắt mở trừng trừng nhìn thi thể đẫm máu rơi xuống dòng nước đỏ lửa. Nàng từ trên lầu chạy xuống, vừa kịp nhìn thấy Hoắc Phương ra tay. Nhiều kẻ đang hỗn chiến trên cầu thang nhìn lên, nhận ra nàng. 

"Hiểu Lam, chúng ta đến đón ngài, bị chúng ngăn cản!" Kẻ cầm đầu nhóm người nhanh trí nói lớn. Đánh dạt nhóm hộ vệ của Hoắc Phương sang bên, nhiều kẻ đã lao lên cầu thang hẹp. Cầu thang chỉ đủ cho một người đi, Hoắc Phương đứng trên bậc đá mà chĩa kiếm xuống dưới. Trong lòng y thoáng gợn bất an. Tiểu yêu sao lại để cô gái kia xuống đây? Nàng ta đánh lén đằng sau, y khó lòng phòng nổi. Tiếng chân xuống lầu ngày càng rõ, trong khi y không thể rời mắt khỏi nhất cử nhất động của đám thích khách đang định xông lên. 

Hô một tiếng nho nhỏ, chiếc hoàn bằng kim loại bay vút về phía y. Vội vã né sang một bên, Hoắc Phương vẫn nghe gió thổi lạnh buốt trước ngực. Lưỡi hoàn cắt qua áo y, rạch trên da một vết dài trước khi vòng trở lại phía chủ nhân. Chớp lấy thời cơ, một mũi kích cùng thanh đao lao về phía y, quyết chặn mọi đường thoát. Hoắc Phương bám tay vào bậc thang trên, nhún chân nhảy hẳn lên lầu. Dưới chân y, tiếng đao kích chạm vào nhau lạnh buốt. Bám vào lan can ngoài của thang, từ những ngón tay Hoắc Phương, một loạt phi tiêu hình sao phóng xuống hai kẻ bên dưới, nhằm ngay mặt họ. Vội vàng né tránh, hai người này lui xuống cầu thang mấy bước. 

"Diệt!" Hoắc Phương chợt quát. Tay áo trắng của y phất lên trước khi y nhảy qua can lan lên hẳn lầu trên. Những thuộc hạ còn đang kịch đấu trong hành lang nghe hiệu lệnh vội vàng đánh dạt đối thủ ra, nhảy vào trong phòng, đóng sập cánh cửa lại. Nghe tiếng vi vu từ những gian nhà xung quanh như một đàn ong lớn trước khi tên rào rào lao tới. Một đội quân cầm súng dàn hàng ngang trước tiểu lâu, chĩa lên mà bắn. Từ hành lang lầu trên, những mũi giáo ngắn nhỏ đâm xuống như săn mồi trong bẫy sập. Bị bức phải dựa vào trong né tránh, Thập bát tử sĩ hứng trọn những gươm giáo đâm từ trong cửa ra. Hai ba người chạy lên cầu thang bị Hoắc Phương lia kiếm xuống đâm chết. 

Kiếm y vừa đặt lên cổ kẻ cuối cùng còn sống sót, trên cổ chợt nghe lành lạnh. 

"Không được giết Nhị ca." Hiểu Lam đã nhảy qua hai tầng lầu đáp xuống cạnh Hoắc Phương, lưỡi đao kề vào cổ y. Giọng nàng run, không che giấu được cơn kích động tột độ. 

Tiếng tên đạn chợt ngừng hẳn, chỉ còn nghe tiếng rên rỉ của vài kẻ còn sống đang lăn lộn trên hành lang. Hoắc Phương đưa mắt cho thuộc hạ lui xuống. Y nhè nhẹ cười. 

"Chu cô nương," Y nói, giọng mềm mại, gần như là cảm thông, mũi kiếm y đặt trên cổ kẻ kia hơi hạ xuống. "Xin lỗi." 

Lời vừa dứt, tay phải y phạt ngang, chém đầu tên thích khách cuối cùng; trong tay trái y, ánh thép lóe sáng, nhằm thẳng cô gái sau lưng đâm tới. Thanh kiếm vừa chém đầu kẻ kia lướt vòng ra sau, nhắm ngay cổ Hiểu Lam đã đờ người vì sợ. Hai thanh kiếm trong tay y đồng loạt xuất thủ, chỉ cách nhau chừng một sát na. Có tránh được lưỡi kiếm vu hồi, Hiểu Lam vẫn lãnh đủ thanh đoản kiếm âm độc đâm lên. Võ công lẫn kinh nghiệm chinh chiến của nàng không bằng đối thủ, chỉ có thể trơ mắt chịu chết. 

Nếu không có lưỡi kiếm gạt ngang đường tấn công của Hoắc Phương. 

Khi mũi kiếm đã lướt đến cổ Hiểu Lam, chiếc bóng xanh lao từ tầng trên xuống, thanh kiếm trắng đâm thẳng xuống vai Hoắc Phương, chặn đứng lưỡi kiếm bạc. Tay hắn túm lấy cổ áo Hiểu Lam, gần như nhấc bổng nàng lên mà ném ra sau, kịp thời tránh thoát thanh đoản kiếm đâm ngược vào bụng. Vì cú ném ấy, thân hình hắn mất đà trong khoảng không, rơi ngược ra ngoài. Tay hắn với lên chụp kịp bậc lan can, treo mình lơ lửng giữa tiểu lâu cao hàng chục trượng. 

"Ta cho người bắn thì ngươi thành con nhím ngay." Hoắc Phương rất nhanh lấy lại bình tĩnh, cúi xuống nhìn hắn mà cười nói. Không để cho hắn kịp phản ứng, y quay lưng, thanh kiếm lấp loáng bóng trăng nhằm thẳng hướng Hiểu Lam đã văng ra sau hành lang mà đâm tới. 

Không ai kịp kêu một tiếng. Đôi mắt Hiểu Lam vẫn còn mở trừng trừng nhìn kiếm quang tuyệt mỹ lóe lên trong đáy mắt. Bên tai nàng vang tiếng đâm ngọt như xuyên thấu qua cả đá. Tiếng da thịt bị đâm xuyên qua, tiếng kêu tắc trong cổ họng. 

Thanh kiếm đâm vào cửa ngay phía sau nàng. Tiếng kêu trầm đục của một người đàn ông bị đâm trúng sau cánh cửa. 

Hoắc Phương hất tay gạt Hiểu Lam sang bên, đá vào cửa. Cánh cửa bật tung cùng một người đàn ông lảo đảo ôm ngực qụy xuống. Lưỡi dao trên tay ông ta rơi trên đất vang một tiếng khô khan. Kẻ này mặc trang phục của người phục vụ trong lâu. 

"Lão Thất..." Hiểu Lam bật thốt bằng giọng khàn khàn. Hoắc Phương liếc mắt nhìn nàng, rồi nhìn lại kẻ đã bị y đâm sau cửa, trên môi nở nụ cười nhàn nhạt. 

"À, người quen." Y gật đầu mà nói. Dưới lầu, đội cung thủ và súng của y đã dọn dẹp sạch đám thích khách, giờ đang chạy lên tiếp ứng. Y lạnh nhạt phác tay về phía họ. "Thu dọn đi." 

"Các người theo ta." Hoắc Phương đưa mắt về phía hắn đã leo lên cầu thang đến đỡ Hiểu Lam dậy. Cô gái run rẩy trong tay hắn, dường như giật mình với câu nói của y. Hắn vừa định đỡ nàng bỏ đi mặc kệ Hoắc Phương thì tay áo bị giật nhẹ. Như Yên hất cằm ra dấu đi theo y. Nàng đến giờ mới xuống tầng lầu này, Sa theo sát bên. Hoắc Phương vốn thu xếp cho hai người bọn hắn ở ngay dưới tầng lầu của hai cô gái. Sa chỉ quan tâm đến an nguy của Như Yên nên thấy động đã lên lầu, trong khi hắn không quan tâm đến chuyện tranh chấp này, chỉ đứng yên mà nhìn. Thấy Hiểu Lam bị nguy hiểm, hắn mới nhảy thẳng từ trên lầu xuống, đỡ cho nàng một sát chiêu lấy mạng. 

Tung ra đòn ấy, Hoắc Phương đã quyết lấy mạng cô gái này. 

Nhưng Như Yên nhất quyết kéo bọn hắn theo nàng ta. Ta bảo đảm, nàng trầm giọng nói với hắn. Dù không tin tiểu yêu tinh, hắn vẫn muốn làm ra lẽ một lần cho Hiểu Lam. Đi theo Như Yên, bọn hắn trở về căn phòng đã ăn trưa buổi sáng. Hoắc Phương đang đi quanh phòng thắp nến. Vừa qua một trận kịch chiến nhưng bạch y không vấy một vệt máu, thái độ y trở lại ung dung thản nhiên dường như là lãnh đạm. 

Ngay cả khi quay lại với kẻ bị trói trong góc phòng, nụ cười của y vẫn thanh lãnh. 

"Đây là người quen của Chu cô nương?" Y vừa hỏi vừa ngồi xuống ghế. Bộ trà được gia nhân đem ra để trên bàn, y cẩn thận rót ra từng chiếc ly nhỏ, đậy lại. Hiểu Lam vẫn dựa vào hắn đứng ở cạnh cửa. Nàng bậm môi không trả lời. 

"Nhà ngươi làm việc thật quá tệ." Như Yên ngồi xuống bàn trà cạnh Hoắc Phương, liếc mắt lườm y. "Kẻ như thế này mà ngươi cũng nhận?" 

"Không phải ta." Hoắc Phương thở ra. "Lão đã ở trong Hoắc gia cả một năm, từ khi cha ta còn sống. Hẳn Trần Long đưa lão vào." 

"Chu cô nương gọi người này là lão Thất, có phải?" Y nhàn nhạt nhìn qua Hiểu Lam, khóe miệng khẽ nhếch. "Còn ta gọi lão là Nghiêm Lư, phó tổng quản của Khán Triều lâu này. Cũng là người mở con đường địa đạo cho toán người vào ám sát Chu cô nương. 

"Nhị ca, Bát ca gì đó, cho đến Thập Bát ca của Chu cô nương, cũng đến đây để giết cô." Giọng Hoắc Phương lạnh băng, dường như không hề nhận thấy gương mặt cắt không còn giọt máu của cô gái. "Nếu không tin, cứ hỏi lão Thất này của cô. Vừa rồi nếu ta không ra tay, lão đã từ sau cửa mà đâm chết cô nương rồi." 

Hiểu Lam càng run rẩy, nhưng nàng đứng thẳng dậy, rời khỏi tay hắn, chậm chạp đến bên người đàn ông bị trói trong góc. Vết thương của ông ta đã được băng lại sơ sài, máu tươi vẫn không ngừng tràn ra. 

"Lão Thất, thật không?" Hiểu Lam qùy xuống đối diện với người đàn ông, khẽ khàng hỏi. Đối diện với cặp mắt cô gái, ông ta chỉ cúi đầu. Môi Hiểu Lam khẽ run. "Vì sao vậy? Lam nhi làm gì sai sao? Lam nhi làm gì sai mà mọi người muốn giết ta? Lão Thất, sao các ca ca phải đi giết ta? Lam nhi không ngoan sao?" 

"Không... không phải." Người đàn ông vẫn cúi đầu, tiếng nói khô khốc trong miệng. "Chúng ta... chúng ta... không muốn đánh nhau." 

"Triều đình treo thưởng cho mạng Chu cô nương." Hoắc Phương vừa uống trà vừa nói. Giọng y thoáng vẻ giễu cợt. "Kẻ nạp mạng Chu cô nương sẽ được thăng quan nhận thưởng, được cất nhắc làm người cai quản khu tự trị." 

"Không. Chúng ta... chỉ là..." Dường như bị những lời nói của Hoắc Phương khiêu khích, người đàn ông cất đầu mím môi nhìn về phía y, gằn giọng. "Chúng ta không muốn đánh nhau. Có ích lợi gì chứ? Quế vương đã bị diệt gần hai mươi năm trước rồi! Đánh nhau vì một bóng ma thì có ích lợi gì? Chúng ta chỉ muốn được giảm thuế, giảm tô, muốn được sống bình yên một chút. Quế vương, Chu đế, cứ đánh nhau đến bao giờ?" 

"Chẳng qua chỉ là các người nuôi cô gái này như một con gà để đưa lên bàn mổ." Như Yên vừa dùng chiếc thìa nhỏ khuấy trà vừa nhẩn nha nói. "Chu cô nương, ta đã bảo rồi. Kẻ nuôi gà nuôi ngựa cũng là kẻ ăn thịt gà cưỡi ngựa. Đạo cao nghĩa cả là con dao mổ, cái roi da đấy thôi. Sống vì niềm tin? Nói nghe thì hay, chẳng qua chỉ là một bọn tự biên tự diễn tự tung hô nhau làm trò cười cho thiên hạ." 

"Thôi đi!" Hắn lừ mắt qua tiểu yêu tinh, bước lại phía Hiểu Lam. Nàng ta đã hoàn toàn im lặng. Im lặng, hoàn toàn. 

Hồi 44: Vụ nổ 

"Vì an nguy của Chu cô nương, mời ngồi." Hoắc Phương lên tiếng khi hắn đỡ Hiểu Lam đứng dậy. Y vỗ tay cho thuộc hạ vào đem lão Nghiêm Lư kia đi. Hiểu Lam đứng yên một lúc, rồi tự động đi đến ngồi đối diện với Hoắc Phương bên kia bàn. Khuôn mặt nàng tái xanh, trơ trơ như bằng đá. Ánh sáng trong đôi mắt nàng đã mất hẳn. 

"An nguy?" Hắn lên tiếng thay cho Hiểu Lam. Kẻ vừa mới ra sát chiêu lấy mạng Hiểu Lam lại đang nói đến chuyện an nguy của nàng? 

"Tình thế bắt buộc." Khóe môi Hoắc Phương nhếch khẽ. "Nếu lúc ấy ta thả gã đi, gã lại chẳng một đao lấy mạng Chu cô nương, biết đâu thừa dịp sát hại ta luôn thể? Nếu ta đã giết gã, liệu có thể sống được dưới tay Chu cô nương? Mà ngay cả nếu ta không ra tay, thuộc hạ của ta lại chịu đứng yên? Lúc ấy, Chu cô nương vạn tiễn xuyên tâm không nói làm gì, chỉ e rằng kẻ sau cửa kia cũng thừa dịp sát hại cô tâng công với cả hai bên mà chẳng ai hay biết. Lần này Chu cô nương tự đem cái chết khoác vào mình rồi vậy." 

Ánh mắt Hoắc Phương nhìn Hiểu Lam có chút giễu cợt như thể đang hỏi: Đã kề đao vào cổ, cô có thể tha cho ta? Nhất chiêu tất sát, đó là cách duy nhất trong tình thế ấy. Đi sai một bước, rước lấy tử họa vào thân. 

Môi Hiểu Lam không còn run. Nàng trầm tĩnh đối diện với đôi mắt lãnh đạm xa xôi của y. Y nhún vai. 

"Ta không muốn Chu cô nương chết, nhưng ta càng không muốn chết. Chu cô nương, hẳn cô nương đã hiểu rõ, người trên đời này chỉ có thể quan tâm đến mình trước tiên." 

Ngay cả những người tưởng như thân thuộc còn trở mặt khi cần, hy sinh nàng để đạt được mục đích, huống hồ là một kẻ không quen không biết nàng như y. Hiểu Lam nhắm mắt, khe khẽ gật đầu. Trong chốc lát, tâm tư nàng đã nguội lạnh. Hoắc Phương ngả lưng ra sau ghế, chắp hai bàn tay vào nhau đặt trên bàn, cân nhắc nhìn Hiểu Lam. 

"Những người đến đón Chu cô nương hiện thời đang ở Hoắc gia." Y chầm chậm nói, nhận thấy Hiểu Lam không có phản ứng, chỉ đưa mắt nhìn y. "Ta cho rằng tốt nhất Chu cô nương nên ở lại đây, những người ấy ta sẽ tùy thời xem xét cho họ đến gặp Chu cô nương. Những việc còn lại, Chu cô nương tự mình quyết định." 

Yên lặng một lát, Hiểu Lam gật đầu. 

Nàng vẫn cứ giữ im lặng như thế cho đến khi về phòng. Những thi thể ngoài hành lang đã nhanh chóng được dọn đi, chỉ để lại những vệt máu đang được lau chùi kỹ lưỡng. Ngoại trừ những vết đâm trên cửa gỗ, Khán Triều lâu không hư hại nhiều, ngày mai lại có thể mở cửa tiếp khách. Lối vào địa đạo dưới hồ nước đã được lấp lại, thả một cụm bèo lên trên để che lấp. Chỉ trong rừng sâu thỉnh thoảng lại vang lên tiếng gươm đao, như thể nhóm truy lùng vẫn còn đi vây bắt thích khách chạy trốn. Khu đảo này, ngoài một nhóm quân triều rất nhỏ đóng ở bãi cát, hầu như không có người cai quản. Đối với xung đột của các nhóm giang hồ, người xung quanh càng làm như mắt mù tai điếc, cẩn thận đóng cửa ở trong nhà, cho đội phòng vệ của làng đi canh phòng cẩn mật hơn. 

Hiểu Lam không nhìn đến ai, sau khi nghe Hoắc Phương dặn dò những việc cảnh giác hàng ngày, đã im lặng về phòng trên cùng của tiểu lâu, đặt mình xuống giường quay mặt vào tường. Như Yên đẩy hắn ra khỏi phòng. 

"Cô ấy còn bị kích động, nên có thời gian suy nghĩ đã." Như Yên nói khi kéo hắn xuống lầu, trước vẻ mặt hắn. "Ngươi thì giúp gì được chứ? An ủi kiểu gì cũng vô ích, chỉ làm hại cô ấy thêm thôi." 

"Làm hại?" Hắn cau mày hừ khẽ. Tiểu yêu tinh này lại nghĩ hắn không biết dụng ý của nàng ta? Kích động Hiểu Lam, biến cô gái ngây thơ ấy thành kẻ nghi ngờ và căm thù mọi thứ, biến tình cảm thân thiết từng có thành oán hận. Dựa vào đó để thao túng hành động của Hiểu Lam. Kẻ mù quáng vì tình cảm là kẻ dễ bị điều khiển nhất. 

"Muốn oán muốn hận hay muốn gì gì là tự nàng ấy, ai làm gì được." Nhận ra thái độ của hắn, Như Yên nhướng mày hất cằm. "Phật có nói, tự thân người sinh ra nghiệt, không phải vì hoàn cảnh. Kẻ đổ lỗi cho hoàn cảnh chỉ là kẻ đang tìm cách chống chế cho mình. Đường dài mới biết ngựa hay, sống lâu mới biết người tốt xấu. Chưa gì mà ngươi đã hằm hè đổ hết tội cho ta là lý nào? Việc này thì liên quan gì đến ta?" 

"Ngươi nghĩ mình làm gì được cho cô ấy chứ?" Thấy khuôn mặt hắn giãn dần, Như Yên nhún vai quay đi. Chân nàng đi giày vải trên cầu thang đá như vô thanh. "Bảo là người xấu nên mới hại nàng ta? - Ngươi tưởng nàng ta là trẻ con đấy à? Bảo là không sao cả, đừng đau đừng buồn, có ngươi đây rồi? - Xin lỗi, tên ngốc nhà ngươi nhìn lại mình đi, ngươi lo lắng được cho nàng ta hay sao? Có bỏ trốn đến chân trời góc bể được thì đi, dù ta cũng chẳng biết chân trời góc bể là ở chỗ nào. Chưa kể nàng ta có chịu đi với ngươi hay không. Tin tưởng lẫn hy vọng hão huyền thì giúp ích gì được cho ai chứ?" 

"Nói nhiều qúa, tiểu yêu tinh." Hắn lầm bầm. Như Yên quắc mắt nhìn hắn, nhưng nàng ta chỉ nhún vai bỏ đi xuống lầu, nơi Sa đang đứng đợi. Hắn nhìn theo chiếc bóng nhỏ của nàng ta, bất chợt như hẫng buồn. 

Nàng ta vốn còn nhỏ tuổi hơn cả Hiểu Lam. Từ bao giờ không biết, với những sự thâm độc lạnh lùng của cô gái này, hắn không còn thấy sợ thấy bực, chỉ thoáng buồn. Có những điều đã vĩnh viễn mất đi, không còn có thể lấy lại. 

Căn bản là, dù có tin vào bất cứ điều gì, thế giới xung quanh cũng chẳng vì thế mà thay đổi. Rốt cuộc, những kẻ quá tin chắc vào điều mình ôm ấp lại gây tổn thương cho chính bản thân mình lẫn xung quanh. Hiểu Lam cũng đến lúc phải đối diện với điều đó, tự mình nhìn thẳng vào nó. Chỉ như thế, nàng mới có thể tồn tại được trong cuộc đời mà số phận đã ấn định sẵn cho mình. Chỉ như thế, mới có thể chấp nhận thế giới với mọi điều vốn có của nó mà không tự làm tổn thương chính mình. 

Rồi có thể, như cô bé áo tím kia, dửng dưng với cả đau thương. 

Khi Như Yên bước vào căn hầm ngục, thanh sắt đang được nung đỏ trên lửa. Những kẻ còn sống sót sau cuộc tập kích được đưa vào đây tra khảo. Căn hầm nằm dưới nền Khán Triều lâu, có lối thông ra hẻm núi. Lúc này, nàng nghe thấy mùi cháy khét trong không khí. Lão Thất, Nghiêm Lư, đang bị trói trên chiếc bàn gỗ, trên má lão đã mang một vết bỏng. Ngồi khuất trong bóng tối, Hoắc Phương ngoắc tay ra hiệu cho nàng bước lại. 

"Lão đã chịu khai?" Như Yên hỏi khi ngồi xuống cạnh Hoắc Phương. Y ném cho nàng bản khai được cai ngục viết. Nét chữ thảo viết vội rất khó đọc trong bóng tối lờ mờ. 

"Hay thật!" Như Yên bật cười khi đọc xong bản cung. "Nên chúng mới hành động khoa trương thế này." 

"Theo kế hoạch, chúng phải phóng hỏa một đêm san bằng Khán Triều lâu." Cạnh nàng, Hoắc Phương nhè nhẹ cười. Ám sát Hiểu Lam đã đành một lẽ, nhưng huy động lực lượng lớn đến vậy tấn công vào một tiểu lâu, hẳn nhiên là phải có dụng ý khác. Những kế hoạch nhất tiễn hạ song điêu, mượn đao giết người này, y không phải đã quá rành rẽ? Khán Triều lâu một đêm bị san bằng cùng tất cả người trong đó, lại do xung đột từ tít tận Vân Nam xa xôi, chẳng phải là một chuyện quá ư dễ dàng? 

"Có việc cho ngươi làm đây." Hoắc Phương lấy lại bản khai trên tay Như Yên, mỉm cười. "Cho ta mượn Quang Minh hội của ngươi." 

"Trả đũa?" Như Yên mơ hồ cười. Tổ chức sát thủ mang cái tên kỳ dị này chỉ là một cơn bốc đồng của nàng khi tìm cách tham gia chính thức vào việc trong giang hồ thế sự, vốn bao gồm chính thuộc hạ trong Thương Trúc trang. Nhưng chẳng bao lâu mà danh tiếng tổ chức đã lan nhanh hơn nàng nghĩ. Người trong thiên hạ muốn giết chóc nhau qủa thật là nhiều. Nắm trong tay tổ chức sát thủ, nàng lại nắm được cả những âm mưu ân oán trong thế giới này, dưới những vỏ bọc muôn màu muôn vẻ. Nàng đặt tên nó là Quang Minh hội, âu giết người lấy tiền chẳng phải là một dạng quang minh chính đại? 

"Ta nhỏ mọn như thế bao giờ?" Hoắc Phương cười khẽ. "Ta chỉ e rằng, cái đầu con rồng này không chỉ nằm ở đây đâu." 

"Nghe nói, trên đường về đây, ngươi bị người ta theo ám sát?" Hoắc Phương nói sau cái phất tay ra hiệu cai ngục cởi trói cho Nghiêm Lư, dẫn lão vào nhà lao. Một người khác ra sau mở cánh cửa dày. Y đưa Như Yên qua cánh cửa ấy ra một căn phòng nhỏ sau lưng nhà ngục. Căn phòng kín bưng chỉ được thắp một ngọn đèn nhỏ mang hàn khí thấu vào tận tim người. 

Như Yên không trả lời, chỉ khoanh tay nhìn y chờ tiếp tục. Hoắc Phương thở ra. 

"Ở Phú Xuân, có ai biết ngươi đi khỏi mà cho người bám theo ngươi? Vả lại, giết ngươi thì có ích lợi gì?" Y đóng cánh cửa lại sau lưng, đến bàn khêu cho đèn cháy sáng hơn. "Ngươi chỉ là một công nương nho nhỏ, trên danh nghĩa chỉ là người được chút ân huệ của nhà chúa, chẳng có chút ảnh hưởng hay quyền lực nào. Công việc tại đây chỉ là ngươi gánh đỡ cho công tử trong lúc tìm không được người. Kẻ nào biết được những điều này?" 

"Là nhà ngươi." Như Yên mỉm cười, nheo mắt nhìn Hoắc Phương. "Nếu nói đến kẻ duy nhất biết được tất cả điều này, thì chỉ có ngươi." 

"Nói thật đi, lúc này ngươi không có nhân tình ở đâu chứ hả?" Nàng nghiêng người xuống bên đèn mà nhìn Hoắc Phương. Lúc này y mang một biểu hiện kỳ dị như nửa ngạc nhiên, nửa buồn cười. "Nếu không phải ngươi bán đứng ta, thì chỉ có ngươi bẻm mép nói cho ả nhân tình nào. Ngươi không nhỏ mọn đến nỗi quyết diệt ta cho được vì thù chuyện hộp mạch nha ngày xưa chứ?" 

"Ta nói chuyện nghiêm túc, tiểu yêu." Hoắc Phương cố kiềm một cái đảo mắt, tuy không phải không hiểu tiểu yêu tinh này. Nửa đùa nửa thật, nàng ta đang tìm cách nắn gân y. "Chẳng lẽ bị người ta đuổi theo ám sát mà ngươi không tìm được manh mối nào sao?" 

"Không." Như Yên nhún vai, ngồi xuống chiếc ghế duy nhất trong phòng. Nàng chẳng việc gì phải nói cho Hoắc Phương những gì nàng biết. "Ta gấp rút trở về đây, đâu có rảnh để đuổi theo ả. Nếu ả là nhân tình của ngươi, trước sau ta cũng gặp thôi." 

"Ta nói nghiêm túc." Hoắc Phương lần này không đừng được mà lắc đầu. Trong trò chơi ỡm ờ nắn gân người, y không phải là đối thủ của Như Yên. "Trong việc với Hồng Thiên hội lần trước, ngươi đừng bảo không nhớ mình đã làm gì." 

"Ờ, vậy đấy." Y nghiêng người xuống bàn, cười với tiểu yêu tinh. "Kẻ biết chuyện ngươi đang làm ở Hội An này đâu phải chỉ có mình ta. Kẻ muốn giết ngươi bây giờ, e rằng nhiều không kể xiết." 

*** 

Ngay ngày hôm sau, Như Yên đã quyết định trở về Hội An, để Hiểu Lam ở lại Khán Triều lâu. Qua một đêm, Hiểu Lam hầu như đã lấy lại bình tĩnh, ra ngoài lầu tiễn bọn hắn. Để tránh khách đến lâu, Như Yên đã cho chuẩn bị thuyền đi sớm. Mặt trời vừa hửng, nắng còn xanh lam. Gió biển thổi lồng lộng mang tiếng lá hòa sóng rì rào. Trên mặt cát, những con giống như cua nho nhỏ đang chạy ngang qua các lỗ cát đào nhỏ bằng ngón tay. Triều đang hạ, để lại vết nước loang trên cát vàng. Những chiếc lưới vó của ngư dân giăng trên bờ triều ban đêm giờ đang phơi mình trước biển, bên trong dính đầy tôm cá mắc lưới theo triều. Từ ngôi chùa cổ trong làng, chuông sớm đang đổ hồi. 

Hiểu Lam đi cạnh hắn, mắt mông lung nhìn ra biển. Chiều qua, tại bãi cát này, nàng đã nói với hắn những lời chia tay. Chỉ vài giờ trôi qua mà như đã thuộc về kiếp sống khác. Những lời ấy không cần nhắc lại. Khoảng cách đã được thiết lập, rồi trở nên diệu vợi. 

Như Yên dừng chân cạnh chiếc thuyền, đưa mắt nhìn lại Hiểu Lam. Nàng mỉm cười, đưa cho cô gái áo trắng một bó nhang trầm. 

"Bọn họ được chôn ở bờ đá phía Đông. Người ở đây có câu 'Nghĩa tử là nghĩa tận', cô nương có thể đến đó thắp cho cố nhân nén nhang." Giọng Như Yên trầm tĩnh, nhưng lại không hề để lộ một cảm xúc nào dù là xót thương hay cảm thông. Nàng quay đi ngay khi bó nhang vừa đặt vào tay Hiểu Lam. Cầm bó nhang, Hiểu Lam ngẩn ngơ đứng nhìn theo bóng Như Yên đã lên thuyền, Sa theo sau nàng ta. Hắn vẫn cứ đứng cạnh Hiểu Lam, không biết phải nói điều gì với nàng. 

Hiểu Lam đã chọn lựa ở lại. Nàng luôn là người quyết đoán hơn cái vẻ ngoài thanh khiết đến mong manh. Cuộc đời của nàng, hắn không có phần trong đó. Hắn không biết gì về nàng ngoại trừ những thông tin chắp vá, và cho đến tận giờ này vẫn không có ý định tham gia vào. Vân Nam, Quế vương, Chu đế, những cái tên ấy đã để lại trong ký ức hắn những vết sẹo vô hình. Nhưng nàng đã quyết định tiếp tục, quyết định ở lại cạnh Hoắc Phương. 

Dù có thế nào, mọi sự vẫn tiếp tục, thế giới này vẫn cứ là như thế. Một mình hắn, một mình nàng, không thể ngăn cản hay thay đổi bất cứ gì. 

Chỉ có biển, từ bốn phương cuồn cuộn. 

Đàn chim yến đã xao xác trên những mỏm đá xám bạc. Hiểu Lam chầm chậm cầm lấy tay hắn, mỉm cười. 

"Bảo trọng." Khuôn mặt nàng, qua một đêm không ngủ, đã mang màu tái nhợt. Chỉ có đôi mắt giờ đây đã mang vẻ an tĩnh như mặt hồ sau bão nổi. Hắn thấy trong đó bầu trời tan tác mây mù. 

"Bảo trọng." Hắn chỉ có thể nói điều ấy với nàng. Bàn tay Hiểu Lam buông ra rất nhanh. 

Không đợi thuyền nhổ neo, nàng đã quay lưng đi về phía đồi cao. Năm cô ca nữ trong Hoắc gia đã đứng đợi nàng. Hoắc Phương đã cho họ từ nay phù tá Hiểu Lam. 

Biển cuồn cuộn sóng. Triều xuống mấp mé bờ đá, để lại vệt nước cùng dấu hàu lỗ chỗ trên những chiếc cọc đóng ngăn dòng chảy. 

"Ta muốn đá ngươi xuống biển." Như Yên nói ngay khi thuyền vừa khởi hành. Mắt nàng nhìn theo bóng Hiểu Lam trên con đường dẫn khỏi bãi cát rồi lại liếc nhìn hắn đầy giận dữ. Vẻ mặt ngơ ngác của hắn càng khiến nàng giận hơn. "Đêm qua còn định xông vào phòng, bây giờ ngươi lại không nói được một câu nào sao?" 

"Cô đã nói hết rồi." Hắn khoanh tay ngồi xuống thuyền, trong lòng chợt thấy buồn bực. Tiểu yêu tinh này không biết nên nói là quá thông minh hay quá gian xảo. Hóa ra hắn vẫn đánh giá thấp nàng ta. Nàng ta không cần Hiểu Lam trở mặt thù hận đồng bạn, ngược lại, đi trước một bước, khéo léo khơi gợi lại tình thân xưa cũ, khiến Hiểu Lam bình tâm. Không biết điều đó có lợi gì cho kế hoạch, đã nhận ra rằng cái nhìn của Hiểu Lam với 'Như Yên tiểu thư' này đã khác trước - điều mà hắn khuyên nhủ bao nhiêu cũng không được. Lúc này Hiểu Lam vốn không cần những lời khuyên nhủ an ủi vô nghĩa, mà là một sự hướng dẫn cho tâm trạng rối bời của nàng. Nàng cần một sự bình tâm để đánh giá lại toàn bộ đại cuộc mà không một thứ tình cảm nào có thể giúp phân định. Chỉ một bó nhang, Như Yên đã làm được. 

"Chỉ cần ngươi nói 'Theo ta đi', nàng ấy nhất định sẽ đi cùng ngươi." Như Yên vẫn mơ hồ cười, liếc mắt về phía mặt biển xanh biếc bập bềnh sóng. Rồi nàng nhún vai, như tự nói với mình. "Nhưng ngươi không cần nàng ấy đến thế." 

"Ta thật tình muốn đá ngươi xuống biển." Tiểu yêu tinh kết luận một câu trước khi nằm ngả xuống khoang thuyền, gối lên lòng Sa đang ngồi bên cạnh, nhắm mắt như ngủ. Sa liếc mắt qua vẻ ngơ ngác của hắn rồi lại nhìn ra ngoài, ánh mắt rơi đúng vào nơi mà Như Yên vừa nhìn. 

Sương mù vốn lơ lửng trên tầng cao cách đầu người một khoảng đang tan dần trên mặt sóng. Thái dương lên đỏ ửng trên bầu trời quang mây. Những ngày cuối xuân đầu hạ luôn là lúc oi bức nhất trên mảnh đất phương Nam này khi hàng tháng ròng rã không một giọt mưa rơi. Gió Tây cũng sắp thổi, mang cái nóng ran rát từ bên kia rặng núi, qua vô vàn hoang mạc đến. Như Yên vẫn nhắm mắt như ngủ. Đêm qua nàng đi cùng Hoắc Phương đến gần sáng mới trở về. Sa khoanh tay cúi đầu trong khi hắn nhìn ra dòng nước chảy, thấy bờ đất ngày càng tới gần. Những chiếc thuyền của ngư dân hẳn cũng sắp chuẩn bị ra khơi. 

"Ngươi nghe thấy gì không?" Sa chợt lên tiếng. Hắn giật mình quay lại khi nghe thấy thanh âm kỳ lạ dưới khoang thuyền. Không nói không rằng, Sa cầm đao đâm xuống nền khoang. Như Yên bị cử động của y làm bật trở dậy. Nàng liếc mắt qua tên cầm lái đang điều khiển thuyền vẫn quay lưng lại, không nói không rằng lật tay, bắn một mũi tên về phía gã. Không quay đầu, gã phóng qua lan can thuyền nhảy xuống biển. 

Chiếc thuyền đột ngột lắc mạnh. Mũi neo để trên đầu thuyền rơi đánh ầm xuống nước khi thuyền chợt nghiêng hẳn về một phía. 

"Hất khoang che xuống!" Như Yên chợt quát lớn. Hắn móc chân đá tấm màn bằng tre ở đầu khoang xuống, vừa kịp nghe tiếng tên bay về phía thuyền từ đám tàu đánh cá gần bờ. Tấm màn tre mỏng mảnh nhưng không mũi tên nào xuyên vào được, chỉ rung động liên hồi dưới làn tên. Trong lúc đó, thuyền vẫn không ngừng nghiêng đi, hẳn do bị đục ở đầu mũi, cùng với tiếng động lạ ngày càng lớn trong khoang. Thanh đao của Sa khoét một lỗ rộng trên sàn, làm mùi diêm tiêu xộc thẳng lên trên. 

Thuốc nổ! Hắn vừa kịp nghĩ đến hai chữ ấy, ánh lửa chói lòa đã hắt lên từ lỗ hổng. 

Tiếng nổ đinh tai vang trên mặt biển khi chiếc thuyền nhỏ nổ tung như pháo hoa, mảnh gỗ đỏ rực bắn ra bốn phía. Trong chớp mắt, con thuyền hóa thành một bó lửa rừng rực cháy trên nước vẫn còn loang đỏ bóng bình minh. 

Trên lầu cao, người thanh niên vận bạch y trầm ngâm nhìn đốm lửa đỏ trong lòng biển. Từ nơi này nhìn ra có thể thấy rất rõ vụ nổ. Sau lưng, y nghe tiếng thở khẽ, liền mỉm cười. 

"Theo đúng lời giao ước, ta đã giết con bé ấy." Y điềm nhiên nói, không quay lại. Người đàn ông mặc trang phục Hán tộc nhưng làn da đen cháy, một bên mắt bị một mảnh băng bít kín tới bên y, nhìn ra đốm lửa nhỏ đang chìm vào mặt biển. 

"Ngươi nói ra tay là ra tay. Với đồng minh còn như vậy, thật khiến người khác phải ghê tởm." Oc-nha That lắc đầu, giọng nói lạnh băng. Hoắc Phương bật cười. 

"Đồng minh là những kẻ có thể giúp cho ta. Khi cần thì lợi dụng nhau, khi không cần thì bị lợi dụng, có gì là lạ? Ngày thường chúng ta giết nhau mà sống, sao chẳng nghe thầy Cả nói lời thương xót?" Y nhún vai, quay lưng lại với cảnh tượng ngoài lầu, nheo mắt nhìn người đàn ông Chiêm Thành. "Vả lại, đây là kế hoạch của thầy, hẳn không phải chỉ vì trả thù một mắt bị bắn hỏng. Thầy không tin ta, ta chỉ có cách này chứng minh cho thầy rõ." 

"Ngươi nghĩ vì hành động này mà ta tin ngươi?" Ánh mắt Oc-nha That kiên quyết lộ ra vẻ ghê tởm. Nụ cười của Hoắc Phương chẳng tỏ vẻ gì phật lòng. 

"Tin - là tin rằng kẻ này có thể sử dụng được. Thầy hẳn chẳng phải ở cái tuổi tin được rằng những kẻ ngoại tộc ngoại bang có thể đổ máu cho mình. Ngay cả những đồng đạo Bái Nhật giáo phương Nam cũng đã bỏ rơi Chiêm Thành. Niềm tin đáng giá cái gì, Hữu trà viên? Nay ông giúp cho ta, ta giúp cho ông. Chẳng qua chỉ là một công nương nho nhỏ chẳng có địa vị gì của Nguyễn triều, thật ra chẳng mất gì cho ta. Hồng Thiên hội đã bị diệt, mọi việc đã nằm trong tay ta, ta chẳng cần kẻ nào đứng sau điều khiển. Cô ta tưởng có thể thao túng được ta? Kẻ nào đến Hội An này thay vị trí của cô ta đều phải cầu lụy ta, không có chuyện ngược lại." 

"Ngươi cũng vì muốn dứt bỏ sự khống chế của chúng?" Oc-nha That nhìn Hoắc Phương như đánh giá, đã có mấy phần thích thú. Với kinh nghiệm trước đây tại Cẩm Thạch bàn, ông ta biết rằng khó lòng tin được tên thanh niên trở mặt như trở bàn tay này. Nhưng có được y làm đồng minh thì lại là một sức mạnh vô kể. Y là một loại 'Ma vương', có thể dùng giết người, nhưng cũng có thể mang họa sát thân vào mình. 

"Một phần là lý do riêng của ta, nhưng phần nhiều vì thầy Cả." Nụ cười trơn chuội của y vốn chẳng có gì khả dĩ tin tưởng. "Thầy muốn ta giết cô ta thì ta làm theo." 

Nợ của quỷ thì phải lấy mạng sống ra trả. Oc-nha That hẳn nhiên hiểu ý nghĩa ấy. Nhưng lần này, dù có phải đánh đổi cả linh hồn, ông cũng sẽ làm. Tên thanh niên xảo trá này chẳng qua chỉ muốn trục lợi ở cả hai phía, ông chẳng việc gì phải từ chối. Vụ 'tai nạn' này xảy ra sau khi nhóm người Vân Nam tấn công vào Khán Triều lâu, tất nhiên mọi nghi hoặc sẽ bị đổ dồn vào chúng. Chẳng ai có thể nghi ngờ Hoắc Phương, khi y không hề có lý do gì để phải ra tay. 

Cái lý do ấy, chỉ có Oc-nha That này là rõ hơn ai hết. 

Ngày mùa hạ sau cái chết của chúa Nguyễn, bốn mươi năm bình yên của Nam Hà đã chấm dứt. 

Hồi 45: Tiểu thiếu gia 

Tháng tư năm Đinh Mão, Hoằng Ân hầu Nguyễn Phúc Thái lên ngôi, được gọi là chúa Nghĩa. 

Tháng năm, nhà quan xá của Tướng thần lại ty tại kinh đô phát hỏa. Tám trăm nhà trong vùng cháy rụi. 

Chỉ trong một đêm, nửa kinh thành Kim Long đã ra tro. 

Cái nóng khô oi ả của mùa hạn và gió Tây thổi về từng đợt chỉ làm lửa bốc cao hơn, khôn bề kiềm chế. Từ Tướng thần lại ty, lửa lan sang khu nhà của quan lại gần đó, rồi cả khu dân cư xung quanh, đến sát mép ruộng đồng và đường cái. Người giẫm đạp lên nhau mà chạy. Chỉ đến khi không còn gì để đốt trong đống tro tàn, lửa mới dần dà lụi tắt. Cả vài dặm kinh đô đã hóa thành bụi cát. Nắng chiếu xuống mảnh đất xám ngoét, những đốm lửa vẫn còn ngún khói càng nóng giãy. Mùi khói, mùi cháy khét của cả sinh vật lẫn thực vật theo gió mà thổi tạt khắp nơi, đem theo tro than rắc lên tất cả những gì còn lại, bỗng chốc hóa kinh kỳ đô hội một thời thành địa ngục giữa dương gian. 

Lửa đã ngừng khi không còn gì để tiếp tục phá hủy. Những con người đen cháy muội than thất thần dò tìm theo lối đường cũ trở về lục bới trong đống tro tàn. Tiếng kêu khóc vọng khắp các con đường ngập dưới than. Quân lính, cũng cùng một vẻ thất thần đau đớn ấy, tản khắp nơi canh phòng, phụ giúp đào bới, dọn dẹp đám cháy. Các quan có nhà trong khu vực bị cháy đã được khẩn trương sơ tán, tập trung về trong phủ chúa và đồng liêu. Đám cháy được phát hiện sớm, dù không dập tắt được nhưng thiệt hại về người không quá lớn. Tuy vậy, nét sợ hãi không thể nào che giấu được trên khuôn mặt mọi người mọi kẻ trong kinh thành. 

Bốn chín ngày sau tang lễ của chúa Hiền chưa qua, một nửa kinh thành đã bị thiêu rụi. 

Bốn mươi năm yên bình của Nam Hà, đã đứng trước nguy cơ tan vỡ. 

Ý nghĩ ấy hiện diện trong mọi người mọi kẻ, hằn rõ dấu ấn lên mọi người mọi kẻ. Thậm chí, không cần nhìn đến họ, chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái đã như nghe thấy tiếng nói ấy rì rầm bên mình, xung quanh mình. Theo gió, tiếng khóc từ vùng đất bên kia kinh kỳ vọng đến. Tướng thần lại ty nằm xa phủ chúa, đám cháy không lan tới, nhưng từ đây nhìn ra đã có thể thấy vùng đất bị san thành bình địa đen cháy. Những bóng người thất thểu lại qua trong bãi hoang ấy dưới nắng càng thêm bội phần thê lương. 

Khuôn mặt của vị lão tướng còn trong kinh kỳ cũng không khỏi hoang mang. Vị chúa nhìn ông ta, trong đôi mắt trầm tĩnh có tia nhìn lạnh buốt, trong tư thái ôn hòa có cảm thức nguy hiểm như chỉ chực bùng nổ bất cứ lúc nào. 

"Kẻ nào canh phòng Tướng thần lại ty?" Vị chúa hỏi, thanh âm ôn tồn mà lạnh lẽo. Lửa phát từ Tướng thần lại ty, không phải là một vụ hỏa hoạn do bất cẩn bình thường. Lại càng không phải là một vụ cháy vô tình xảy ra. Không ai tin điều đó. 

"Toàn bộ người canh đêm của Tướng thần lại ty đã chết trong vụ hỏa hoạn." Trấn thủ Cựu dinh Vân Long hầu Nguyễn Phúc Tráng chầm chậm nói. Ngay sau khi lửa vừa tắt, khu vực Tướng thần lại ty còn ngún khói đã được đào lên. Các thi thể bị đốt trong lửa cháy hàng vài ngày đã không còn hình dạng, chỉ là mấy mẩu xương vụn. Lần theo danh sách lính canh đêm, họ không tìm được bất cứ ai, chỉ có thể cho rằng tất cả đã chết. Trong một nửa khu thành bị cháy ra tro này, lùng tìm người thật là vô kế khả thi. Ngay cả người cai quản khu quan xá cũng đã chết trong lửa, không thể tìm được một đầu mối nào. 

Vả lại, vị chúa vừa cho thay đổi quan chức trông coi Tướng thần lại ty, để Nội thư tả Nguyễn Viết Trí và Lữ Hữu Ninh sung vào ty này. Hai vị quan vừa đến còn chưa thu xếp xong chỗ ở thì đã xảy ra vụ cháy, hoàn toàn chưa nắm được tình hình nào trong ty cục để báo cáo. 

Với kinh nghiệm hàng chục năm trong quan trường, Vân Long hầu hiểu rõ, trừ phi có một việc thần kỳ xảy ra, vụ cháy này tuyệt không thể tìm ra thủ phạm. Mọi việc đều được sắp xếp quá hoàn hảo cả thiên thời, địa lợi, nhân hòa để không ai có thể lần tìm ra một đầu dây mối nhợ. Nhà quan xá của Tướng thần lại ty đã ra tro, cùng với tất cả thư tịch tài liệu cất trữ trong đó. 

"Tăng cường quân lính đi giúp dân dọn dẹp, xây lại nhà cửa." Vị chúa chợt lên tiếng sau một lúc trầm ngâm. Ngài ta vốn biết có những việc không thể bức ép mà làm được, nôn nóng lúc này là vô ích. "Đang trong thời gian quốc tang, nhưng linh động được gì thì làm, không nên chấp nhất. Yên ủi dân chúng." 

Vân Long hầu chỉ cúi đầu tuân mệnh. Ông ta cũng hiểu câu nói cuối có ý nghĩa gì. Kinh kỳ phát hỏa, cái tin này lan ra sẽ làm xáo trộn dân chúng đến đâu. Triều đình làm to chuyện lúc này thì lại càng khiến người sợ hãi. Đang trong thời gian quốc tang, có thể dựa vào lý do ấy để điều hòa dập tắt bớt dư luận. 

Nhưng sóng dưới làn nước, đã cuồn cuộn dâng trào. 

"Kỳ," Bóng Vân Long hầu vừa khuất, vị chúa quay đầu gọi. Trong những thư đồng đứng sau lưng ngài ta, một thư sinh bước ra, khoanh tay như đợi mệnh. "Đã có tin gì ở Hội An?" 

"Thưa ngài, Thanh và Nhã đã đến nơi, đang còn hỏi chuyện người ở Thương Trúc trang." Kỳ cúi đầu kính cẩn trả lời. "Họ vừa đặt chân đến, tạm thời còn chưa điều tra được gì." 

Vị chúa gật đầu. Sau khi tin tức của Như Yên đưa về, ngài ta đã cho Bát tuyệt đi thám thính. Thanh và Nhã đến Hội An trong khi những người còn lại phân bổ đi các nơi, chỉ giữ lại Kỳ bên mình. Lúc này xảy ra vụ hỏa hoạn, ngài ta lại đang phân vân không biết có nên gọi họ về. Bát tuyệt là thiếp thân thị vệ trong phủ chúa, dễ dàng hành động hơn các quan sai vừa nặng gánh cồng kềnh vừa có thể đang âm thầm móc ngoặc với nhau kia. 

"Con nghĩ nên để họ ở lại Hội An là hơn." Một giọng nói trẻ con thanh thanh chợt vọng lên từ cửa sau. Cậu bé mười ba tuổi, vừa đến tuổi để tóc, cúi mình bên cửa. Mi thanh mục tú, trong ánh sáng ngày lại phảng phất một khí độ tiêu diêu đặc biệt, dù đeo gươm bên hông, cầm giáo trong tay, cậu ta vẫn trông nho nhã khiêm cung như một thư đồng hơn là một tiểu Thế tử. 

Nguyễn Phúc Chu, người con trai cả của chúa Nghĩa, hiển nhiên là Thế tử kế ngôi, cho đến thời điểm này. 

"Phụ vương, con muốn đến Hội An." Cậu bé nói ngay sau khi làm lễ chào hỏi với vị chúa cha mình. Vừa đứng lên, cậu ta vừa hạ giọng nói, không ngừng liếc ra sau, nơi những hầu cận và thị vệ còn đứng. Biết ý, Nguyễn Phúc Thái dẫn người con trai ra xa tầm nghe của mọi người, đến bên hồ nước trong phủ. Mùa này hoa sen đang rộ, tầng tầng lớp lớp hoa chen kín mặt nước. 

"Con muốn đến Hội An, hoặc Quy Ninh." Khi nghĩ đã an toàn, Nguyễn Phúc Chu tiếp tục nói. Chúa Nguyễn Phúc Thái nhè nhẹ nhướng mày. 

"Tại sao?" Đứa con này không giống bọn trẻ bình thường, ngài đã quen coi trọng lời nó nói. Mười ba tuổi, đó là tuổi trưởng thành của bọn trẻ trong hoàng thất, đã bắt đầu ra ở phủ đệ riêng, nhận lĩnh chức quan tùy theo khả năng. Ngài là một vị chúa, đứa trẻ này càng phải được tôi rèn. 

"Tướng thần lại ty phát hỏa, phụ vương đã nghĩ ra lý do tại sao?" Nguyễn Phúc Chu lại hạ giọng, dù xung quanh họ không có một bóng người. "Tướng thần lại ty làm công việc trông coi thuế khóa, quân lương. Đốt ty cục này, kẻ phóng hỏa muốn gì? 

"Thuế và quân lương." Mắt Nguyễn Phúc Chu nhìn thẳng vào cha mình không chớp. "Ngay sau khi phụ vương cử người mới đến trông coi ty cục đã xảy ra hỏa hoạn. Có những thứ mà người ta không muốn phụ vương chạm đến. Bốn mươi năm dưới thời tiên chúa, hệ thống quan lại đã thành nếp thành nhóm, trong khi đất đai con người liên tục xáo trộn. Những nơi xáo trộn lớn nhất chính là Hội An và Quy Ninh - Một nơi là nguồn sống của Nam Hà ta, một nơi là đất mới khai khẩn của chúng ta. Nhà cháy thì cũng đã cháy rồi, chúng ta lần này coi như bỏ qua chuyện cũ mà làm lại từ đầu. Nhưng những kẻ càn rỡ thì phải được tiêu diệt từ trong trứng nước. Lần này đốt kinh kỳ, ai biết lần sau chúng có dám đốt cả phủ chúa hay không. 

"Thanh và Nhã đến Hội An, nhưng cũng như Ngọc Phương cô cô, không có danh phận khó phục người, khi có chuyện thì chỉ một mình đối phó. Lúc bình thường còn có thể qua, nhưng vào trong cuộc rối rắm lại hóa thành đơn thân yếu nhược, địch trong tối ta ngoài sáng khó lòng cai quản. Kẻ đã dám đốt kinh kỳ, hẳn là có một bí mật trọng đại nào không thể để lộ, ngoài sự to gan lớn mật còn phải có chỗ dựa vững chắc. Ta không nắm được âm mưu của chúng, e rằng không thể đối phó kịp." 

Trong lúc đứa trẻ nói, vị chúa chỉ trầm lặng nhìn cậu ta. Tất cả những chuyện này, ngài ta đã từng nghĩ qua, chỉ là chưa từng nghĩ đến sẽ sử dụng chính đứa con mình. 

Cạnh hồ sen giữa phủ chúa, gió vẫn thổi đến mùi cháy khét. Tám trăm gia đình đã tiêu tan. Hàng trăm người đã bỏ thân trong lửa. Mùa hạ nực nồng mùi tro than, mùi chết chóc, âm âm tiếng khóc hờ. Thân xác vị chúa cũ chưa kịp lạnh trong lăng mộ, một nửa kinh kỳ của ngài đã hoá thành cát bụi. 

"Con chờ ta một thời gian." Cuối cùng, Nguyễn Phúc Thái mỉm cười, xoa đầu đứa trẻ. "Giúp ta ổn định việc ở đây. Sau vụ cháy này, ta còn rất nhiều việc phải làm." 

"Kinh kỳ cháy rồi thì phải xây lại, nhưng người ở đây đã cơ hàn vất vả, không thể bắt họ xây cả cung phủ cho ta lúc này. Trước đây con hẳn biết ta thích Phú Xuân? Gần trăm năm trước, khi vừa mới đến Quảng Bình nhậm chức, chúa Tiên đã đến Phú Xuân xem xét. Chùa Thiên Mụ được người xây lên, đó là một mạch đất đế vương. Phú Xuân dựa lưng vào hai mạch núi Nam Bắc, phía Tây được phòng đỡ khỏi dân Man, là một khu đất dễ thủ khó công, là nơi có thể nương tựa được. Nam Hà ta từ chúa Tiên khai khẩn, chúa Sãi lập quốc đến cha ông ta xây dựng, chân móng đã vững, đã đến lúc nên có một kinh đô chính thức cho mình." 

"Chúng ta chuyển kinh kỳ?" Nguyễn Phúc Chu chớp mắt. Vị chúa gật đầu, vỗ vai cậu bé. 

"Phú Xuân sẽ là kinh đô của Nam Hà." Ngài ta chỉ nói như vậy, với đứa trẻ. Vẫn còn rất nhiều việc phải làm. 

Nam Hà. Nam Hà khởi nguồn từ vùng đất Quảng Bình nghèo khó đầy tranh chấp. Nam Hà khởi nguồn từ ngày chúa Tiên Nguyễn Hoàng đi qua dãy Hoành Sơn vào trấn thủ Quảng Bình, đánh lui dần họ Mạc ở Hóa châu, Quảng Nam. Chúa Sãi đánh bật Chiêm Thành khỏi Quảng Nam, Quy Ninh, xây nên lũy Trấn Ninh phòng thủ phương Bắc. Một đất nước mới đã được lập nên, và Phú Xuân sẽ là kinh đô của nó. Một đất nước và một kinh đô. Một đất nước thực sự, hoàn toàn. 

Tháng sáu năm Đinh Mão, định chế tang phục mới được đưa ra cho toàn dân. Ngoài tông thất phải để tang ba năm theo lệ thường, quan quân cho đến dân chúng chỉ để tang đến ngày lễ Trung nguyên. Nam Hà bắt đầu vào lại guồng quay, triệt bỏ mọi xáo trộn. Những công trình ở thượng nguồn sông Hương được động thổ xây dựng. 

Tháng bảy, ngày đầu mùa thu, chúa Nghĩa cho chuyển kinh đô về Phú Xuân, lấy phủ cũ làm nơi thờ tiên chúa. 

Lệnh tuyển quân được ban. Mỗi gia đình phải cho triều đình một quân đinh, được cấp lương tiền trang phục. Quân binh Nam Hà lên đến bốn vạn người, đông nhất từ thưở lập quốc. 

Khi những đoàn người ngựa vận chuyển đồ đạc gia thất về kinh đô mới, khi những đoàn binh thao diễn bên sông Hương nón lông áo thao trắng rợp như cỏ, đoàn người của cậu bé Nguyễn Phúc Chu đã đặt chân lên bến cảng Hội An. 

Mùa thu vừa chớm đến, nắng còn chưa dịu đi một mảy may, ngày vẫn dài khi mặt trời trượt bóng xế sau rặng núi. Gió Nam vẫn chưa đổi hướng, rần rật thổi làm sóng không ngừng cuộn lên từ cuối chân trời. Tết Trung nguyên sắp đến, mùa màng cũng đã thu hoạch xong, những hàng bán vàng mã rải rác khắp thị thành. Chùa chiền đã giăng đèn kết hoa chuẩn bị cho đêm lễ. Trên đường đến Thương Trúc trang, thi thoảng họ vẫn nghe thấy tiếng tụng kinh văng vẳng từ các ngôi nhà nhỏ. 

Chỉ có Thương Trúc trang vẫn im lìm như muôn thưở. Lá trúc bắt đầu rơi trên những lối đường đất nhỏ vàng nắng. Xuân Tử ra đón đoàn người vào cửa, thoáng vẻ ngạc nhiên khi thấy Nguyễn Phúc Chu. Dù đã được báo trước, đã lâu không gặp, cậu bé này không giống như những gì cô hình dung. Toàn thân trường bào màu ngà viền lục, mái tóc mới vừa chấm vai buộc gọn lên đỉnh đầu, mang hài da rắn, bên vai lại khoác kiếm cong ngắn, đôi mắt trầm tĩnh như nước thu, vẻ mặt khi cười khi giận đều phảng phất khí độ tôn nghiêm khiến người ta cảm thấy dường như xa cách, cậu thiếu niên dù hình dáng trông vẫn như một đứa trẻ nhỏ cũng đã mang mấy phần qúy khí. 

"Thiếu công tử." Xuân Tử cúi đầu chào theo lối của người Nhật Bản. Nguyễn Phúc Chu dắt ngựa trao cho gia nhân, quay đầu lại cười. 

"Không cần đa lễ. Từ nay mọi người gọi ta là Thiên Túng." 

"Thiên... Túng?" Xuân Tử ngẩng lên, hơi nhướng mày. Cái tên này... không phải là quá lạ lùng? Nhưng cô không dám hỏi lại, cậu bé Phúc Chu, hay còn gọi là Thiên Túng thiếu gia, đã bước vào nhà trong. Đi theo cậu ta là U và Trường. Cho người đưa U, Trường đến Mai Lâm viện nghỉ ngơi, Xuân Tử đích thân dẫn Thiên Túng đến Mân Côi viện, nơi cha cậu ta vẫn ở trước đây. Ngang qua một khu vườn hoa nở ngát hương, Thiên Túng chợt dừng lại, bước vào. Đi qua hàng hiên che nắng là một dòng suối nhỏ. Lá xanh um phủ lên mái, lên tường, mùi hoa nồng trong không khí. Khu nhà nhỏ trông vẫn có vẻ gọn gàng, dù khóa đóng sét như đã lâu không có người ở. 

"Đây là Tụ Phương viện?" Thiên Túng vừa ngẩng đầu quan sát vừa hỏi. "Đẹp thật, nhưng mùi hoa nồng quá." 

"Thiếu gia biết Tụ Phương viện?" Xuân Tử hỏi, hơi lấy làm lạ lùng. Dù công tử khi còn làm việc ở Đà Nẵng vẫn thường ghé lại đây, Thương Trúc trang này trên danh nghĩa vẫn do Như Yên làm chủ, người trong họ không ai đặt chân đến. 

"Lúc trước cha ta có khi mang quần áo đầy mùi hoa như thế này về, bị mẹ Cả hỏi luôn." Thiên Túng bật cười, lắc đầu rời khỏi viện. Cậu ta đã gặp Như Yên vài lần, nhưng không có cơ hội thân thiết. Khi lại gần người cô họ xa ấy, cậu vẫn thường ngửi thấy mùi hoa lạ, hóa ra là hoa trong khu vườn này. 

Nhắc tới Như Yên, cậu lại nhớ đến lý do mà cậu tới đây. 

"Từ sau việc xảy ra với Như Yên tiểu thư, ở đây thế nào?" Thiên Túng ướm hỏi. Tuy mọi việc đã được báo cáo lại trước khi đến, cậu vẫn muốn được nghe đích thân người tại đây kể. Xuân Tử là quản gia của Thương Trúc trang, nhưng trên thực tế lại là người cai quản toàn bộ hệ thống ngầm này. 

"Có vài người nghe tin Như Yên cô nương bị nạn, đau lòng bỏ đi. Họ vốn do Như Yên cô nương đưa về, cảm kích mà ở lại." Xuân Tử chầm chậm nói. "Trong thành Hội An vẫn không có việc gì lớn. Hoắc bang chủ vẫn đang quản lý mọi việc rất tốt." 

"Quản lý... cả Tàu Ty cục?" Nghe đến Hoắc Phương, Thiên Túng mơ hồ cười. Trong những tháng này, khi kinh kỳ rối loạn sau vụ cháy, rồi chuyển kinh đô, tập trung quân, thay thế quan lại, hầu như không còn ai để tâm đến chuyện tại Hội An. Một khi Hồng Thiên hội đã bị diệt, trên đất này chỉ còn Thanh Hải bang của Hoắc gia làm chủ, danh thế ngày càng lớn mạnh. Tàu Ty cục, vốn là một tổ chức độc lập, nghe đâu cũng đã bị Hoắc Phương mua chuộc, ra ra vào vào Hoắc gia. 

Bằng những hợp đồng kinh tế, giao thiệp với các tù trưởng, trưởng làng bản vùng cao, liên kết với các xóm làng trong đất. Bằng những món lợi béo bở, thao túng quan lại. Bằng thế lực ngày càng lan rộng, thu hút những thế lực ngầm. Bằng cách nào không rõ, giao kết được với cả người Chiêm Thành lấy bãi biển làm nơi trú ngụ, vươn xuống mảnh đất phương Nam thu mua lúa gạo sản vật. Quyền lực lẫn sản nghiệp của Hoắc gia đã phình ra nhanh chóng, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi. Tất cả những điều đó, đều không được Tàu Ty cục báo cáo. 

Thanh và Nhã ở nơi đây nhưng đã bị Hoắc gia lấn lướt hoàn toàn, chỉ có thể làm theo lời Hoắc Phương, thi thoảng đi giúp đỡ y chống cự những 'đối thủ'. Mơ mơ hồ hồ, có thể họ còn không rõ đối thủ ấy là kẻ thế nào. Khi mà mọi nguồn tin vào ra Hội An đã bị Hoắc Phương thao túng. 

Xuân Tử không trả lời. Tiếng chuông chùa từ xa xôi vọng đến trong bóng hoàng hôn, đều đặn đổ từng hồi. Thiên Túng trầm ngâm bước về Mân Côi viện. Đến trước cửa viện, bất chợt cậu ta quay nhìn Xuân Tử, mỉm cười. 

"Sắp đến lễ Trung nguyên[1] rồi, ta cũng nên cúng lễ trăm ngày cho ông nội. Ở trong vùng, chùa nào là lớn nhất?" Cậu bé hỏi, nhưng đôi mắt sáng lại lấp lánh một ý nghĩ hoàn toàn khác. "Hoắc gia cũng phải đi cúng lễ chứ?" 

"Rằm tháng bảy là ngày Diêm Vương mở cửa ngục cho các âm hồn, xá tội vong nhân. Ta thật muốn xem khu phố người Tàu này cúng lễ thế nào." Nụ cười của cậu bé hoàn toàn mang vẻ ngây thơ. "Mà ngày âm hồn về lại dương gian, không biết ta có gặp được người quen không?" 

Chú thích:  

[1] Trung nguyên: Rằm tháng bảy, cũng là ngày lễ Vu Lan, lễ cô hồn. Cùng với Thượng nguyên (rằm tháng giêng), Hạ nguyên (rằm tháng mười), hợp thành Tam nguyên trong năm.  

Hồi 46: Trung nguyên 

Những ngày lễ tại Hội An, không riêng gì Tam nguyên, đều là những lễ hội náo nhiệt, mặc sức tỏa hương khoe sắc, tiền như đất vàng như bùn đốt cháy trong một đêm. Đối với các thương nhân, lễ hội cũng là một dịp làm ăn. Những thương nhân nhỏ trông chờ vào lễ hội như một thời điểm cao trào để buôn bán. Những đại gia phú khả địch quốc lại nhân dịp này khoa trương thế lực, giao kết và nhìn ngắm thời cơ. 

Hiện tại, không gia tộc nào trong thành thị này lớn bằng Hoắc gia. Ngày lễ Vu Lan đầu tiên sau tang lễ của Hoắc cố bang chủ, Hoắc gia càng bày lễ lớn hơn cho người con trai tỏ lòng hiếu thuận. Suốt một dặm quanh trang viện, đèn lồng đỏ giăng mắc trên bốn hàng dây dài ra đến tận bờ sông. Gần bờ là một tiểu lâu nhỏ vừa được dựng để ngắm đèn, có cả những chiếc thuyền nhỏ kết đầy hoa đăng. Năm nay đến lượt Hoắc gia dựng đài hoa đăng giữa sông, từ tháng trước đã thấy nhân công làm lồng đèn mang tre nứa giấy màu đến trang viện. Giữa sông hiện tại có một cái gò cao nổi lên, dưới kết bè tre, trên được phủ lớp vải dày. Để tránh những cơn mưa rào bất chợt, đài hoa đăng phải đến đêm Vu Lan mới được kéo ra. Với cư dân trong thành thị nhộn nhịp này, đoán đài hoa đăng mỗi năm cũng là một thú vui nho nhỏ. Năm nay, với sự khuếch trương thế lực của Hoắc gia, người ta lại càng háo hức đoán xem đài hoa đăng sẽ làm theo kiểu loại gì. 

Không đợi đến ngày lễ Trung nguyên, Hoắc gia đã làm rộn cả thành thị này khi mỗi tối, loạt đèn lồng lại được thắp, nghe đâu đến hết tháng Vu Lan. Những dây nhang vòng dưới mái hiên trang viện cháy suốt ngày đêm, kể cả dưới những cơn mưa tầm tã. Mùi nhang trầm bay suốt cả mấy khu phố. Lối đi đến ngôi chùa lớn nhất thành đã được gia nhân Hoắc gia dọn quang, mắc đèn kết hoa, dựng cả chòi nghỉ cho người đi lễ. Thi thoảng có người nhìn qua được cánh cửa đóng kín vào sân trang viện, thấy đài hương đã được đặt trịnh trọng giữa sân. Cả một giàn trúc cũng đã được đem về trồng cạnh cửa nhà, trên treo những mảnh giấy nhỏ viết đôi chữ cầu phúc. Rượu và bánh trái ngon nhất đã được đem về chất trong kho từ lâu. Hoắc gia đang có tang không thể mời khách, nhưng Hoắc bang chủ đã đặt tiệc rượu ở tửu lâu lớn nhất thành. 

Tỏ lòng hiếu thuận đã vậy, để tỏ lòng với ngày lễ cúng vong hồn, Hoắc gia còn mở các địa điểm phát chẩn nhỏ quanh Hội An, mở những quán cơm bán không lấy tiền trong tháng. Kết quả là buổi chiều tối trước đêm lễ, một đám ăn mày rất đông đã tụ tập đến trước Hoắc gia chờ hưởng lễ cúng cô hồn. Ngoài bàn cúng được đem ra phân phát, hai gia nhân trong nhà ôm theo một rổ tiền đồng vãi vào đám đông, làm vô số trẻ con chạy theo. 

Đêm lễ, vì vậy mà càng thập phần náo nhiệt. 

Bầu trời nằng nặng, nhưng không có mưa. Sau đoàn rước lễ của ngôi chùa lớn nhất vùng là đến lượt người đổ ra đường ngắm hoa đăng. Những chiếc đèn nhỏ được thả xuống sông để dẫn đường cho các cô hồn kết thành một vòng tròn lớn quanh đài hoa đăng. Đài đã được dựng nhưng chủ nhân của Hoắc gia chưa xuất hiện, chỉ có dàn nhạc đã tấu khúc trong tiểu lâu bên sông. Đại lễ trong chùa vẫn chưa kết thúc, Hoắc bang chủ vẫn đang cầm đèn đứng cạnh phương trượng chăm chú nghe kinh đọc kệ. Bên kia chùa, dưới hàng hiên, những thị vệ của Hoắc gia đứng im lìm. Tan buổi lễ, Hoắc Phương còn nán lại bàn với sư trụ trì chùa về lễ cầu siêu cho thân phụ y một lúc nữa rồi mới rời đi. Dưới con đường rực ánh hoa đăng, hai hàng thị vệ hộ tống y làm người xung quanh tự động dạt ra nhường đường, khí thế không thua gì các quan viên quốc thích. 

"Thế này sao ta tới gặp y được chứ?" Thiên Túng khoanh tay dựa người vào một gốc liễu gần đó mà cau mày, mắt nhìn theo bóng Hoắc Phương đã bước vào tiểu lâu bên sông. 

"Thiếu gia chỉ cần báo, y sẽ tự động chạy tới chào ngài ngay thôi." Bên cạnh cậu bé, Thanh cười mà nói. Thiên Túng liếc nhìn khuôn mặt trong trẻo tới mức gần như ngây thơ của gã, lắc đầu. 

"Nếu vậy thì ngươi thất bại, ta có thể hiểu được." Họ đến đây là để dò xét tình hình tại Hội An, có phải? Ra mặt nói chuyện với Hoắc Phương chẳng khác nào đọc kinh trước mặt Phật, chẳng có tác dụng gì. Ngược lại, với tâm cơ của một kẻ như Hoắc Phương, Thanh vốn đơn giản vô tư, càng dễ bị y thao túng điều khiển. 

Thiên Túng đứng thẳng người lên, phác tay gọi Thanh và Nhã, đi theo con đường sáng rực đến tiểu lâu của Hoắc gia. Khu vực này chỉ dành cho người trong nhà, nhưng xung quanh đã không thiếu hàng quán kê bàn dựng ghế hưởng chung lời ca tiếng hát trong lầu. Dàn nhạc dưới lầu được mở cho mọi kẻ trên đường thưởng thức. Hoắc gia không có phụ nữ, trên lầu chỉ có Hoắc Phương cùng vài thân nhân ngồi uống rượu với các ca nhi. Lầu buông rèm kín, chỉ thấy thấp thoáng bóng người. 

"Thật là khoa trương." Nhã nhận xét khi theo cùng Thiên Túng ngồi xuống một chiếc bàn kê cạnh bờ sông. Sinh trưởng trong kinh kỳ, đi theo công tử đã lâu, gã vẫn phải nhận ra sự khoa trương quá mức của chủ nhân Hoắc gia hiện tại. Trang hoàng hơn một nửa Hội An, cúng tiền cho chùa, thả tiền giấy đến gần như ngập nghĩa trang ngoài đồng, đốt một lượng vàng mã lớn, giờ lại dựng lầu phục vụ dân chúng trong thành. Vô hình chung, khu lầu này đã trở thành tâm điểm của đêm lễ hội Trung nguyên. Càng gần đến giờ mở đài hoa đăng, người càng kéo về nườm nượp. 

"Y sợ người ta không biết hay sao?" Thiên Túng mơ hồ cười. Hội quán gần đó đang mở một hội trưng bày đèn, cậu ta liền bỏ Thanh và Nhã ở lại, chỉ hai ba bước chân đã chạy tới hội quán. Trong hội quán, đèn muôn màu muôn dạng được bày dọc hiên, cái là phụng nghi đình, cái là song long tranh châu, cái là lý ngư hóa long, mỹ nhân chi đồ... Không gian ngát hương trầm, bóng đèn kéo quân chuyển động trên tường chầm chậm. 

"Công tử, mua đèn viết chữ không?" Người trông coi dãy đèn nhìn thấy cậu thiếu niên có vẻ con nhà quyền quý liền cười chào. Những chiếc đèn ở đây có một số được đem bán cho người đề vịnh, một số để đem thả xuống sông. Thiên Túng còn nhỏ tuổi, cha mẹ đầy đủ, nào có để tâm đến những chiếc đèn rồng phượng chúc phúc, chỉ mải mê quan sát dãy đèn vẽ hình mới mẻ tân kỳ. Bút pháp một số màu mè tầm thường, một số lại có ý vị đặc biệt bất ngờ, so với đèn đưa vào trong cung phủ lại thú vị hơn. Mải mê nhìn ngắm một lúc, cậu bé chọn lấy một chiếc đèn mỹ nhân. Trên nền giấy vải trắng muốt, mỹ nhân được vẽ quay lưng lại, chiếc tiêu cầm trong tay nửa như ngập ngừng. Ngoài hiên trăng lấp sau mây, trong song tóc xanh biếng chải. Khi ánh sáng trong đèn lay động, như thế có bóng chim bay lướt qua trời, tựa bóng mây lảng bảng trôi. 

Mỉm cười, cậu bé nâng tay áo, mài mực trên chiếc bàn gần đó mà đề lên đèn mấy câu thơ: 

"Khứ niên Chức Nữ nhập song minh, 

Khước bị trùng vân tựu địa sinh. 

Chế cẩm vị hoàn li tại trục, 

Xuyên trâm tài bãi tuyến phiêu doanh. 

Không hoài ngũ dạ Quỳnh lâu địch, 

Khởi vọng song xuy Ngọc điện sinh. 

Nhất phiến mê ly nghi thử tế, 

Uyên ương tú chẩm mộng nan thành."[1] 

Viết xong liền đem đến trước hội quán, cẩn cẩn trọng trọng treo lên. Một lúc, chợt thấy tấm rèm che trên lầu cao lay động. Một ca nhi môi son má phấn vén rèm, nhoài người ra cửa vẫy xuống dưới. 

"Cậu bé, lên đây!" Giọng ca nữ vốn ngọt ngào, nhưng so với chất giọng Phú Xuân êm ái thì vẫn khó nghe. Thiên Túng thấy ả tự dưng gọi mình là 'cậu bé' thì càng bất mãn, quay đi không thèm nhìn tới. Nghe tiếng cười khúc khích nho nhỏ trong lầu, tiếng trong trẻo mà êm ái, cậu lại ngẩng lên. Lần này không có ả ca nữ, tấm rèm chỉ hất lên rất nhẹ, để lộ một nửa gương mặt cô gái chống tay nhìn xuống. 

"Công tử, xin mời." Giọng nói trong mềm như nước suối. Dù chỉ lộ ra rất hẹp, đôi mắt trong ánh lửa sáng long lanh tựa nước thu. Nghĩ một lát, Thiên Túng nhún vai cầm đèn vào trong lầu. Một nha hoàn đã được sai xuống đón chờ cậu ở cầu thang. Cầu thang được ngăn cách với gian trên bằng rèm lụa. Hương đốt trong lầu không phải loại hương trầm trong thành mà thoảng như mùi hoa. Người trong lầu không đàn hát, chỉ ngồi đồng loạt đưa mắt về phía cậu bé vén màn bước vào. Hoắc Phương ngồi bên kia lầu, nơi nhìn ra đài hoa đăng, hai ca nhi dường như mới chỉ mười ba, mười bốn tuổi cầm bình rượu đứng sau lưng y. Một toán thanh niên nam nữ khác kẻ đứng người ngồi trong phòng không kê bàn ghế mà chỉ trải chiếu dày. Ánh đèn mờ tỏ trong làn khói mỏng, bốn phía là rèm điều buông phủ. Liếc mắt nhìn qua, không thể nhận ra cô gái đã gọi cậu ở đâu trong đám người này. 

"Không hoài ngũ dạ quỳnh lâu địch, Khởi vọng song xuy ngọc điện sinh." Hoắc Phương lại là kẻ đầu tiên lên tiếng. Y không đứng dậy, chỉ mỉm cười nhìn Thiên Túng, ra hiệu cho cậu bé lại gần, ngồi xuống chiếc ghế đối diện. Bàn tay trắng tái của y chạm vào chiếc đèn cậu bé đem tới, trong khi y nghiêng đầu quan sát. "Vọng Thước Kiều ức Tần Nga. Hựu khủng quỳnh lâu ngọc vũ, Cao xứ bất thắng hàn.[2]" 

"Uyên ương tú chẩm mộng nan thành. Một cậu bé thế này mà viết những câu như vậy, thực là phong lưu." Ả ca nữ đã gọi Thiên Túng lên lầu yểu điệu đi tới phụ họa theo lời Hoắc Phương. Y lừ mắt cho ả đi xuống. Thiên Túng thỉnh thoảng lại liếc mắt về phía đám người bên kia phòng, như thể vẫn mong có thể thấy được cô gái kia. Các ca nữ trong phòng dù không phải dạng hương phấn tục tằn, cũng có đôi chút phong nhã, nhưng không thể dùng chữ 'quốc sắc thiên hương' để miêu tả. Vài nhóm thanh niên khác lại đang vén rèm nhìn ra ngoài, quay lưng lại với cậu. Từ trên lầu nhìn xuống có thể bao quát cả một khúc sông dài, ra đến tận bến cảng mà thuyền bè đậu trong bến cũng lung linh đủ sắc. 

Như nhận ra ý của cậu bé, Hoắc Phương mỉm cười, ngoái đầu lại gọi. 

"Đã thích đèn mà gọi công tử lên đây thưởng rượu, sao không ra mặt?" Giọng y phảng phất như có ý trêu đùa. Tiếng cười trong trẻo vọng lên bên kia phòng, khi một nữ tử vén tấm rèm đỏ quay đầu lại. 

Thiên Túng suýt giật mình khi nhìn thấy dung mạo cô gái. Nhưng cậu bé rất nhanh trấn định, ánh mắt kinh ngạc chuyển sang ngỡ ngàng. Cô gái mặc áo lụa đỏ thêu hoa mẫu đơn trắng, lót viền màu bạch ngọc, như hòa lẫn vào không gian rèm điều lửa đỏ trong phòng. Mỉm cười với Thiên Túng, nàng ta nhấc riềm váy đi về phía cậu, đón lấy chiếc đèn trong tay Hoắc Phương. 

"Tiểu công tử này tướng mạo có phần khí khái hiên ngang, mà sao thơ từ lại nhu tình tựa thủy." Cô gái vừa nói vừa cười. Đèn mỹ nhân soi lên ngọc diện, trong hơi sáp như tỏa hương. "Chỉ e là - Thiên dự đa tình, Bất dự trường tương thủ[3]. Những kẻ đa tình lại thường phải thở than cho chính mình. Nam nhi chí tại giang sơn tâm tại nhân, tiếc luyến thêm bóng hồng nhi nữ, e rằng chỉ có thể than 'đa tình đa cảm nhưng đa bệnh'." 

Giọng điệu mềm mại mượt mà, nhưng rõ ràng có mấy phần trêu chọc. Môi đỏ tựa son nhếch nhẹ trong khi mắt lúng liếng như cười. Thiên Túng thấy mặt nóng lên, nhất thời không biết nói sao. Hoắc Phương nhấc tay lấy lại chiếc đèn cô gái đang cầm, liếc mắt ra hiệu rồi quay sang cậu bé, mỉm cười. 

"Tại hạ ở trên lầu thấy bài thơ hay mà nảy sinh ý muốn kết giao." Dù lớn hơn Thiên Túng, y vẫn xưng hô như kẻ ngang hàng. Cô gái kia nảy ý tai quái muốn đem cậu bé lên trêu đùa, y lại phải phụ trách dàn hòa. Y rót rượu ra ly, mời cậu bé. "Xin cho hỏi qúy tính công tử." 

"Mọi người gọi ta là Thiên Túng." Cậu bé trả lời, vẫn liếc mắt về phía cô gái đứng cạnh Hoắc Phương. Chiếc quạt tròn che ngang mặt, nàng ta hẳn đang âm thầm cười trộm. 

"Thiên Túng?" Như mọi người, Hoắc Phương cũng phải lấy làm lạ với cái tên hiệu này. Nhưng y đột nhiên bật cười. "Vậy thì dù 'Thiên dự đa tình', cũng phải trừ công tử đây ra rồi." 

Câu nói ấy rõ ràng nhắm tới nữ tử áo đỏ. Nàng ta đảo mắt, ngồi xuống chiếc ghế còn lại, điềm nhiên với tay lấy ly rượu trước mặt Thiên Túng mà đưa lên môi. 

"Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, Nhất trạo giang sơn tận địa duy[4]. Thơ nghe thì hay, nhưng hóa ra lại là của một kẻ thi rớt, làm vua không xong mà làm giặc cũng không được. Thường những kẻ tự cao tự phụ đều cùng một loại như nhau, cứ tưởng chống trời lệch đất được, hóa ra đều làm thứ hại dân hại nước cả." Tay ngọc nâng chén rượu bạch ngọc, màu Trúc Diệp Thanh trong mờ như lụa. Mắt nàng ta nhìn ra đài hoa đăng vẫn chìm trong bóng tối. "Phàm đã làm việc lớn mà huênh hoang khoác lác, chỉ ngóng đến 'Mãn thành tận đái hoàng kim giáp'[5], thì chết dúi dụi trong Lang Hổ cốc là chuyện bình thường. Hoàng Sào đã vậy, đến cái kẻ 'Cảm tiếu Hoàng Sào bất trượng phu' càng thảm hại hơn." 

"Ta không có ý đó." Dù trời mát lạnh, sau gáy Thiên Túng đã đổ mồ hôi. Tống Giang với lại Hoàng Sào[6], nghĩ sao mà bảo cậu ta liên hệ với hai người ấy? 

Nhưng nữ tử áo đỏ không nhìn đến cậu. Nàng ta nhìn Hoắc Phương qua chén rượu. Y đang rót rượu, đầu hơi cúi xuống, nụ cười thanh thanh lành lạnh vẫn ở trên môi. 

"Nghe đâu Hoàng Sào là một tên buôn muối, thi hỏng không làm quan được thì đi làm giặc. Quả là chẳng thấy chí khí quân vương, an nguy thiên hạ ở đâu, chỉ thấy 'Ngã hoa khai thời bách hoa sát', ba hoa khoác lác rằng mình làm vua thì muôn hoa cũng phải nghe lời. Cuối cùng chỉ có Chu Toàn Trung, Hậu Lương Thái tổ kia là kẻ hưởng lợi. Ngày xưa Lã Bất Vi buôn vua chẳng qua chỉ là tráo đổi một người hầu thiếp. Ngày nay có những kẻ buôn được cả thiên hạ." Chiếc quạt tròn vẫn phe phẩy nhè nhẹ trên tay thiếu nữ. Nàng chợt nghiêng người về phía Thiên Túng, hạ giọng mà ngọt ngào cười. "Cho nên, công tử ạ, cung kiếm hay mái chèo chẳng giúp cậu 'túng thiên' được đâu." 

"Nói như vậy thì hạ thấp anh hùng trong thiên hạ quá." Hoắc Phương chợt cười. Thiếu nữ áo đỏ chống khuỷu tay lên bàn, nheo mắt nhìn y. 

"Chuyện lại chẳng phải như vậy? Hạng Võ đánh Trường An nhưng vua Hán lại là Lưu Bang; kẻ tạo nên nhà Đường là Tần vương chứ chẳng phải cả vua lẫn thái tử; Triệu Khuông Dẫn thống nhất Tống để Triệu Quang Nghĩa lên ngôi; Minh Thái Tổ núp bóng vua Tống mà thành sự nghiệp. Đến cả những kẻ như Hoàng Sào, chẳng qua cũng chỉ là con dê béo cho đồng bạn đổi chác, đưa Chu Toàn Trung thay thế nhà Đường; Tống Giang lấy Lương Sơn của Tiều Cái. Người ta bảo thời loạn kẻ mạnh làm vua là thấy mây mà chẳng thấy trăng. Làm một đám si ngốc cũng tưởng rằng chỉ cần đem chút sức lực danh vọng gì gì ấy ra là có thể tranh được với đời." 

"Vì những kẻ ấy không biết làm vua, cớ sao lại đi trách người khác?" Hoắc Phương đặt chén rượu khác xuống trước mặt Thiên Túng, nhẹ nhàng nói. Y mỉm cười khi thấy ánh mắt của cậu bé. 

"Chiến quốc, Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, cho đến các đất nước khác, kẻ làm vua phải như thế nào?" Y nhẩn nha nói trước vẻ tò mò của Thiên Túng. "Địch lại trăm người, bách chiến bách thắng? - Sai. Tài năng khuynh thiên, đĩnh thiên lập địa? - Sai. Thu phục vạn người, thừa cơ lập thế? - Sai. Nhân nghĩa chu toàn, thuộc hạ như thủ túc? - Sai. Thậm chí, lòng lo cho trăm họ, xót thương bách tính cũng không giúp được kẻ làm vua nốt. Ngược lại, kẻ càng nhân hậu, càng không thể làm vua. Đức tính ấy có thể hay ở một viên quan nho nhỏ, trong một địa phương nho nhỏ, chứ không hề có lợi cho vua chúa. 

"Dù rằng, có đức tính ấy thì nói dễ nghe hơn." Y nhún vai, một lúc sau. "Vì rằng, nói thương thiên hạ, nhưng là thiên hạ nào? Chúng dân không giống nhau, ngay cả người tại nơi này nơi kia đã không giống nhau, lo được kẻ này nhưng làm sao chu toàn được cho kẻ khác? Trọng nông thì phải ức thương, khuyến khích thương gia thì phải điều chỉnh giá tiền buôn bán của nông dân, nghiêng về phía nào cũng có thể gãy đổ cả. Nếu nói lo cho dân nghèo, thì đáng tiếc, người giàu mới nắm quyền lực thực sự trong địa phương, hậu quả khôn lường. Bảo vệ kẻ yếu, thì cũng đâu thể đi giết tất cả kẻ mạnh. Bảo rằng vì lòng nhân cho thiên hạ mà áp chế kẻ lũng đoạn, thì coi chừng, đến lúc nội loạn nổ ra, kẻ lầm than là bá tánh chứ không ai khác. Ngay cả trọng thị một vùng đất, đến lúc các vùng khác nổi loạn đòi tách rời thì cũng chỉ có thể trách mình." 

"Nói cách khác, nên coi chừng những tên như Chu Toàn Trung phía sau mình." Thiếu nữ áo đỏ nói hớt lời Hoắc Phương. Y chỉ có thể cười trừ, ngoảnh đầu nhìn ra dòng sông. Những chiếc thuyền nhỏ đã bơi ra đài hoa đăng, chuẩn bị đốt đèn. 

Chu Toàn Trung, Thái tổ của Hậu Lương, người đã theo Hoàng Sào đánh vào Trường An của Đại Đường, rồi cũng chính mình phản lại về với quân Đường. Lập công lớn đánh dẹp Hoàng Sào, Chu Toàn Trung được phong Tiết độ sứ. Đến khi vua Đường Hi Tông mất, lật đổ Đường Ai Đế, lên ngôi vua lập nên triều Hậu Lương, bắt đầu cho thời Ngũ Đại Thập Quốc loạn lạc. 

Khi Thiên Túng còn đang nghĩ đến câu chuyện ấy, Hoắc Phương đứng lên, cầm đèn châm lửa cây pháo bông nhỏ gác gần đó. Hoa lửa bắn ra từ cửa lầu như báo hiệu cho người xung quanh. Đồng loạt, tiếng trống nổi lên, pháo hoa tung thành cột quanh tiểu lầu. 

Hồi trống đột ngột tắt hẳn khi đàn sáo nhẹ nhàng tiếp nối. Ở bè giữa sông, lửa cũng đã đột ngột sáng khi pháo hoa cháy rực cả mặt nước xung quanh. Với một tiếng hô từ thuyền, tấm vải che đài đột ngột được hất tung xuống. Từ giữa tâm đài, ánh lửa ngày càng lan rộng, chiếu sáng chiếc đèn lồng cực lớn ở trung tâm. Các gia nhân cũng đang châm lên hàng đèn nhỏ xung quanh. 

Đại cảnh của đài hoa đăng lần lượt hiện rõ hình một con chim lớn không rõ giống loài đang uốn cái cổ dài ngắm nước biếc. Xung quanh con chim là lớp lớp đèn nối tiếp nhau, là hoa là mây là cỏ. Đài hoa đăng lớn, đèn được làm rất tinh xảo đẹp đẽ, nhưng với ý nghĩ chờ đợi một vật phẩm hoành tráng từ Hoắc gia, người trong vùng có đôi chút thất vọng. Họ vẫn nghĩ Hoắc Phương lần này ít ra sẽ chọn một loài trong tứ quý uy nghiêm đáng sợ để thị uy, không phải là thứ mỏng mảnh này. 

"Đẹp thật." Thiên Túng lại chồm người ra cửa sổ quan sát đài hoa đăng mà tấm tắc. Tuy làm bằng tre và vải, con chim kết bằng ánh sáng này lại tinh mỹ tuyệt luân. Dáng vẻ mảnh mai yêu kiều soi vào dòng nước tối rải rác đèn hoa sen đỏ sống động linh lung. Đôi cánh khép chặt quanh người bằng vải trắng tinh như thể muốn bay lên theo từng cơn gió. Đôi mắt con chim được vẽ bằng mực đen nhánh lại kết thêm thủy tinh long lanh trong bóng tối, tỏa ra hoa quang muôn màu. Xung quanh con chim, đèn kéo quân được kết thành dải, xoay tròn đều đặn, biến màu liên tục. Không hề có ý phô trương khi không để thậm chí một dòng chữ chúc phúc trên đài, chiếc đèn như một tác phẩm mỹ thuật thật sự. 

Nghe lời khen của cậu bé, thiếu nữ áo đỏ chỉ khoanh tay nhướng mày, trong khi Hoắc Phương nhè nhẹ cười. 

"Công tử có hiểu ý nghĩa đài hoa đăng ấy không?" Y hỏi, vẫn còn đứng bên cửa sổ. Tiếng náo nhiệt ngớt dần khi người ngắm đèn tản đi. Nghe y hỏi, Thiên Túng nghiêng đầu quan sát một lần nữa. 

"Con chim này là loài gì vậy? Nó nghiêng xuống nước, một bên cánh hơi giương ra, mỏ cũng hơi mở ra, không phải là đi kiếm ăn đấy chứ? Nhưng còn cái dải gì ở sau nó... A..." 

Cậu bé đột ngột im lặng. Đèn kéo quân vừa xoay hết một vòng, trong khoảnh khắc, đã ráp thành một hình tượng. Cậu chưa nhận rõ được hình tượng ấy, nhưng đã bị nó làm cho giật mình. 

"Người ở đây có câu nói, hẳn công tử biết." Hoắc Phương thấy biểu hiện của cậu bé, một bên môi y khẽ nhếch. "Trai cò đánh nhau, ngư ông đắc lợi." 

Chú thích:  

[1] Bài thơ này chúa Nguyễn Phúc Chu viết trên tường trai phòng của một người phi họ Nguyễn sau khi bà mất. Dịch nghĩa: 

Năm ngoái sao Chức Nữ còn tỏa sáng vào song cửa, 

Nay đã bị mây trùng lấp che phủ. 

Dệt gấm chưa xong, tơ còn tại trục, 

Xâu kim vừa bỏ, chỉ còn phất phơ. 

|Năm canh dài nhớ tiếng địch ở lầu quỳnh, 

Tưởng đến lúc song tấu sênh tại điện ngọc. 

Một lòng mê mẩn ngờ như lúc ấy, 

Gối thêu uyên ương, giấc mộng khó thành. 

[2] Hựu khủng quỳnh lâu ngọc vũ, Cao xứ bất thắng hàn: Trích Thuỷ điệu ca đầu - Trung thu của Tô Thức. Dịch nghĩa: Lại sợ lầu quỳnh điện ngọc, Nơi cao không khỏi lạnh lùng. 

[3] Thiên dự đa tình, Bất dự trường tương thủ: Trích Điểm giáng thần của Án Kỷ Đạo. Dịch nghĩa: Trời cho đa tình, Nhưng không cho bên nhau dài lâu. 

[4] Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, Nhất trạo giang sơn tận địa duy: Câu thơ của Hoàng Sào. Dịch nghĩa: Nửa vai cung kiếm băng khắp trời, Một mái chèo đi hết giang sơn.  

[5] Mãn thành tận đái hoàng kim giáp: Trích bài Cúc hoa của Hoàng Sào. 

[6] Cảm tiếu Hoàng Sào bất trượng phu: Thơ của Tống Giang. 

Hoàng Sào xuất thân là một người buôn muối đời Đường. Thi không đậu, ông ta tập hợp dân chúng nổi loạn, từng kéo 60 vạn quân vào Trường An. Cuối cùng bị anh em làm phản, quân đội rệu rã mà chạy đi chết ở Lang Hổ cốc.  

Hồi 47: Bên bờ sông 

"Cò đâu mà cò, đó là con vịt." Lời Hoắc Phương vừa dứt, giọng nói trong trẻo đã vang lên phía sau hai người. Cô gái áo đỏ vẫn khoanh tay nhìn ra dòng sông nơi hàng trăm chiếc đèn thắp sáng rực, rồi lại liếc về phía Hoắc Phương mà bĩu môi. "Ta đã làm cái đèn đàng hoàng, ngươi cứ nhất định sửa cái mỏ nó cho nhọn ra, cuối cùng chẳng ai biết là con gì." 

"Không biết là con gì còn tốt hơn tại sao lại có một-thứ-như-thế ở đó." Hoắc Phương nhấn từng chữ, khóe mắt lộ tinh quang hiếm thấy. "Ban đầu ngươi bảo với ta là gì?" 

"Ai bảo ngươi tin?" Thiếu nữ thản nhiên nhún vai. Như thể chuyện nàng nói dối người khác còn bình thường hơn nói thật. "À mà ta đã nói gì? Một vật tốt đẹp tượng trưng cho thanh thế Hoắc gia. Vịt thì giống ngươi quá rồi. Mà vịt thì có gì không tốt? Vịt to hơn gà, lại ăn thức ăn có sẵn ngoài đồng, không phải thóc gạo gì cho tốn công, dễ nuôi dễ chăm, lông vịt còn đi nhồi gối nhồi đệm được. Ngoài chuyện chúng nó hơi to mồm ra, vịt là thứ gia cầm tốt nhất còn gì. Ngoài ra còn có giống vịt trời gọi văn vẻ là thiên nga duyên dáng vô cùng, người ta chả ngưỡng mộ còn gì. Vịt cổ xanh thì ăn rất ngon..." 

"Thôi." Hoắc Phương lên tiếng cắt ngang bài thuyết giảng về vịt của thiếu nữ. Y cúi đầu thở ra, có vẻ như đã thất bại hoàn toàn. Bên cạnh y, Thiên Túng há miệng mà nhìn từ người này qua người khác, mặc nhiên vẫn chưa tin được rằng cái đèn xinh đẹp ngoài kia lại có xuất xứ như vậy. 

Thiếu nữ cười tươi như hoa, đích thân rót rượu mời Thiên Túng vài ly nữa rồi cho người tiễn cậu bé xuống lầu. Khi đã rời khỏi lầu, không hề nhìn về phía Thanh và Nhã vẫn ngồi bên sông, cậu bé ôm đèn đi thẳng ra đám đông, về đường lớn. Được một quãng khá xa phía bên kia thị thành, cậu mới đứng lại dưới một gốc đa chờ đợi. Thanh và Nhã vốn đã biết Thiên Túng đi ra khỏi lầu, nhưng thấy biểu hiện của cậu thì cũng chỉ yên lặng mà đi lòng vòng theo. 

"Có chuyện gì vậy, thiếu gia?" Nhã hỏi ngay khi vừa đến cạnh Thiên Túng. Cậu bé vẫn đứng dựa vào gốc cây, xoay xoay chiếc đèn trong tay, cúi đầu nhìn ngọn lửa trong đèn. 

"Chuyện ta đến đây được giữ bí mật chứ?" Thiên Túng chợt hỏi. Thanh và Nhã nhìn nhau. Thế tử đến Thương Trúc trang hẳn nhiên là việc ngoài thị vệ trong cung nội ra, không ai hay biết, ngay cả các phi tần của chúa. 

"Chu Toàn Trung... Lang Hổ động... Tống Giang với Hoàng Sào..." Không để ý đến hai người kia, Thiên Túng cau mày lẩm bẩm. "Tống Giang đề thơ về Hoàng Sào ở đâu?" 

"Lầu Tầm Dương." Dù không hiểu lý do Thiên Túng hỏi câu này, Thanh vẫn trả lời. Cậu bé hơi nghiêng đầu, mắt nhìn ra dòng sông. 

"Tầm Dương..." Cậu nhắc lại, môi chợt nở một nụ cười. "Tốt, ta về thôi." 

Không để hai người tùy sai hỏi lại, cậu bé đã quay lưng đi về nơi họ để xe ngựa. Chiếc đèn mỹ nhân đung đưa trước cậu. Nụ cười vẫn phảng phất trên môi cậu dù đôi mày hơi nhíu lại. 

Ba hôm sau, Thiên Túng rời khỏi Thương Trúc trang, một mình một ngựa rảo về hạ lưu dòng sông. Đi mãi đến giữa trưa, cậu tới một ngôi làng nhỏ nằm gần cửa biển. Thuyền đánh cá đã ra khơi chưa về, trong làng chỉ có vài đứa trẻ cùng ông bà già. Nhìn nhác qua một lúc, Thiên Túng tới ngôi nhà có vẻ khang trang nhất làng nằm sau bụi cây xanh rì. Gỗ của ngôi nhà vẫn còn mới, hàng dây leo chưa bám được lên hết cửa. Ngoài cửa nhà không có một bóng người, Thiên Túng cứ thế đẩy cửa dắt ngựa vào. 

Cậu bé vừa mới đặt chân lên thềm nhà, trên đầu chợt lạnh. Nhảy bật ra sau, Thiên Túng tránh được một trái dừa rơi thẳng từ trên cây xuống. Cây dừa phe phẩy lá vô tội uể oải trong nắng trưa gay gắt trong khi trái dừa to bằng đầu người đánh một tiếng động rợn người trên sàn gỗ. 

"Có ai nói với cháu rằng vào nhà thì phải gọi cửa không?" Giọng nói thanh thanh chợt vang lên trong phòng khi thiếu nữ áo đỏ đêm trước đẩy cánh cửa gian nhà chính ra. Không còn bộ dáng diễm lệ đêm Trung nguyên, hiện tại nàng chỉ mặc bộ quần áo đơn giản gần như của dân thường, trên đầu quấn khăn, để tóc bím thành hai dải vắt trước ngực. Nàng ta có vẻ thích thú nhìn thấy Thiên Túng hơi tái mặt đứng ngoài thềm, một bước cũng không động. 

"Thằng bé Quế dạo này làm biếng rồi, nếu không cháu đã bị treo lên cây dừa, xé đôi xác ra không chừng." Thiếu nữ thản nhiên nói, chỉ tay ra hiệu cho cậu bé bước theo lối định trước. 

"Cháu vẫn nghĩ như Thương Trúc trang..." Thiên Túng nói như thanh minh khi bước đến bên cô gái. Nàng ta nhún vai. 

"Thương Trúc trang nhiều người, còn ở đây chỉ có vài kẻ ham chơi. Đấy, cháu xem, giờ ở đây chỉ có một mình ta, chúng chạy đi chơi hết rồi." Thiếu nữ thở ra, dẫn cậu bé đi qua lối vào sâu hút ra gian nhà trong, qua một khoảng sân nhỏ có giếng đá lớn. Mùi hoa lập tức phả đầy giác quan cậu bé trong nắng trưa. Mở cửa một thư phòng nhỏ, thiếu nữ cho cậu ngồi xuống bên chiếc bàn thấp để đọc sách, chỉ trải chiếu ngồi chứ không kê ghế. Một bình trà vẫn còn âm ấm để trên bàn. 

"Cô cô..." Thiên Túng mở lời khi thiếu nữ súc ly rót trà cho cậu. Nàng lắc đầu. 

"Cứ gọi ta là Như Yên tiểu thư. Không nên để người ngoài biết thân phận của cháu." Nàng nói, đặt ly trà xuống trước mặt Thiên Túng. Cậu bé chầm chậm gật đầu. 

Đêm Trung nguyên, hẳn nhiên nàng nhận ra cậu nên mới gọi lên lầu. Khi nhìn thấy người cô đang được coi như là mất tích này, cậu đã giật mình. Ba tháng trước, tin báo về kinh thành rằng Như Yên tiểu thư đã mất tích cùng đoàn tùy tùng sau một vụ tai nạn trên biển. Cha cậu đã cho nhiều người đi tìm kiếm, không ngờ rằng nàng ta vẫn bình an ở ngay tại Hội An, nói nói cười cười với Hoắc Phương. 

"Có chuyện gì đang xảy ra vậy, cô... tiểu thư?" Thiên Túng chậm rãi nói. Có việc gì trọng đại mà Như Yên phải giả chết, không dám ra mặt. 

Như Yên không trả lời, chỉ nheo mắt nhìn cậu. Cái nhìn lại khiến Thiên Túng hơi đỏ mặt. 

"Sao cháu tìm được đến đây?" Nàng cười hỏi. Thiên Túng nhè nhẹ nhún vai. 

"Tiểu thư kể chuyện Tống Giang với Hoàng Sào, chẳng phải là để chỉ đường? Tống Giang đề thơ trên lầu Tầm Dương. Sông Tầm Dương còn có tên khác là Bồn - chẳng phải cũng là sông Thu Bồn này? Tống Giang - đồng nghĩa chẳng phải là nơi giao nhau của các con sông? Vậy thì cháu đi tìm về hạ lưu sông Thu Bồn, nơi giao nhau với sông Quảng Huế. Chu Toàn Trung - chẳng phải là 'ở trung tâm chỗ màu đỏ'? Vậy thì đi đến tìm nơi mạch sông Chu Bái giao với sông Thu Bồn, đến ngay được chỗ này." 

"Phải." Như Yên bật cười. "Nhưng cháu còn để sót một điểm: Ta nhắc đến Hoàng Sào, cháu đáng lẽ nên tìm cả dòng Túy Loan nữa.[1]" 

"Có việc gì?" Thiên Túng cau mày nhắc lại câu hỏi. Không nhận cậu, trước mặt Hoắc Phương còn phải bày vẽ lòng vòng để chỉ đường đến đây, thái độ cũng cho thấy Như Yên với Hoắc Phương có điểm bất đồng. 

Như Yên cúi đầu nhặt cây bút rơi xuống sàn, để lại trên giá. Ngón tay nàng nhịp lên mặt bàn gỗ đen bóng. 

"Đi cùng cháu có bao nhiêu người? Đội kỵ binh ở đâu?" Nàng chợt hỏi. Thiên Túng không thể đừng mà âm thầm giật mình. 

Phủ đệ của chúa Nghĩa có hai đội kỵ binh cực kỳ tinh nhuệ gồm bốn trăm người, làm công việc của Ngự lâm quân do vị chúa trực tiếp điều khiển. Để vị Thế tử nhỏ tuổi đến đây, một phần đội kỵ binh cũng được chúa sắp đặt đi theo, ở lại cảng Đà Nẵng. Dù có biết đội kỵ binh ấy ở đâu hay không, Như Yên hẳn nhiên biết cậu bé này không thể đến đây chỉ với đôi người tùy tùng. 

Thấy đôi mắt đầy cảnh giác của Thiên Túng, Như Yên nhè nhẹ cười. 

"Vụ cháy vừa rồi, thiệt hại thật là lớn." Nàng vừa vuốt tóc vừa chậm rãi nói. "Nhưng cháu định tìm gì ở đây?" 

"Vụ cháy vừa rồi thiệt hại thật là lớn, nhưng tiểu thư ẩn núp ở đây làm gì?" Thiên Túng cau mày, không chịu thua. Trong lòng cậu tràn ngập nghi ngờ. Thanh thế của Hoắc Phương ở Hội An hiện tại lại không có sự giúp đỡ của Như Yên? Ngay sau khi nàng 'mất tích', vụ hỏa hoạn đã xảy ra. Bây giờ nghĩ lại, mọi việc có sự trùng hợp đến không thể không nhận ra. Mà người cô cô này là ai? Con cháu của một kẻ phản loạn, Thiên Túng không thể không nghĩ tới điều ấy, lúc này. Cha cậu tin người em nuôi này đến mức giao cả công việc tại đây cho nàng ta, một điều mà cậu không hiểu tại sao. 

Như Yên ngả người nhìn ra cái sân nhỏ lát đá xám. Khuất giữa bốn bức tường, nắng không chiếu rọi vào sân, chỉ nghe hương hoa nồng trong khí trời oi ả. 

"Khổng Minh bày kế chia ba thiên hạ cho Lưu Bị như thế nào?" Nàng mỉm cười, nhẩn nha nói. Thiên Túng đưa mắt nhìn theo từng biểu hiện của nàng, mím môi. 

"Lúc ấy Lưu Bị đang thua trận liên tục, một miếng đất cắm dùi còn không có. Khổng Minh liền hiến kế giao kết với Đông Ngô - lúc ấy đang là mục tiêu mới của họ Tào." Dù vậy, cậu bé vẫn đều đều trả lời. "Hợp lực với Đông Ngô chống Tào, rồi lấy Kinh Châu của Đông Ngô. Tào Tháo bại trận Xích Bích, thủy quân bị diệt, không còn sức vươn tới Đông Ngô; còn Đông Ngô không thể lấy lại Kinh Châu. Từ đó, thiên hạ chia ba." 

"Lúc ấy Tào Tháo đánh đuổi được Lưu Bị, an định miền Trung Bắc, tưởng chỉ cần vươn tới được Đông Ngô là đã cơ bản thống nhất được giang sơn nhà Hán." Đuôi tóc vẫn chậm chạp quay giữa những ngón tay Như Yên. "Xét về lực lượng, họ Tào mạnh nhất. Đông Ngô đất Nam, thanh sơn thủy tú, chuộng văn hơn võ, vốn không có tham vọng tranh bá, thật ra là kẻ đứng ngoài tranh chấp tại Trung Nguyên. Lưu Bị mang danh là tông thất nhà Hán, tham vọng rất cao. Đánh Đông Ngô, họ Tào lại khiến các kẻ thù câu kết với nhau cùng chống lại kẻ mạnh hơn. Thất bại tại Đông Ngô, họ Tào khiến đại cuộc lâm vào bế tắc. Lúc ấy, nếu cháu là Tào Tháo, cháu sẽ làm gì?" 

"Giao kết với Đông Ngô, bày kế để Đông Ngô giao nộp Lưu Bị? À không," Thiên Túng lắc đầu. "Cách ấy hẳn ai cũng nghĩ ra được, kẻ như Khổng Minh lại chẳng hoa ngôn xảo ngữ lật tẩy ý định của ta? Đông Ngô nghiêng về phía Lưu chẳng phải vì bị Tào bức ép? Lưu Bị lấy được Kinh Châu chẳng phải cũng gián tiếp do Tào gây ra? Ta có thể mượn cớ đánh Lưu mà đến Đông Ngô? Nhưng Lưu là tông thất nhà Hán, Tào mang danh loạn thần, danh thế không thuận cho ta. Tào vốn cũng chưa đánh vào Ngô, chỉ vây ở Xích Bích mà đã bị hai kẻ kia lập kế tấn công, tiên hạ thủ vi cường." 

"Họ Lưu khởi loạn vì cái gì? Tôn Quyền muốn cái gì? Họ nghĩ về Tào ra sao?" Như Yên cười khẽ. "Đúng, tiên hạ thủ vi cường. Dù Tào không đánh Đông Ngô, Ngô cũng sẽ không để Tào yên ổn. Cá lớn nuốt cá bé, kẻ mạnh thôn tính kẻ yếu, đó là điều ai cũng rõ. Dù Tào có xuất quân hay không, một loại trận 'Xích Bích' cũng sẽ xảy ra. Kẻ đã lớn mạnh, dù có là Đổng Trác, Lữ Bố, Viên Thiệu hay Tào Tháo, đều sẽ có kẻ muốn tiêu diệt. Đã có hai kẻ đánh nhau, sẽ có kẻ thứ ba trục lợi. Cây cao sẽ hứng gió lùa. Cuối cùng ba nước Ngụy - Thục - Ngô đều tiêu bại, để họ Tư Mã lập thành nhà Tấn." 

"Đánh hay không đánh, không phải là vấn đề chính." Thiên Túng chậm rãi gật đầu, mắt cậu bé tối lại. "Phản khách vi chủ, hiệp thiên tử dữ lệnh chư hầu, phong cho Lưu Bị đất Kinh Châu, lui một bước tiến ba bước. Như sau trận Xích Bích họ Tào đã làm, trả đất phong, xây đài Đổng Tước, án binh bất động, ổn định Trung nguyên, củng cố thế lực. Phương Bắc vững, Lưu Bị cùng Tôn Quyền ở phương Nam không có bề tiến lên, chỉ có thể quay sang thôn tính lẫn nhau. Dùng thế lực ủng hộ thiên tử mà giúp đỡ cho Lưu Bị, Tôn Quyền ắt sẽ phải đề phòng. Phong đất cho Lưu Bị, Lưu Chương ắt sẽ có phản ứng. Nhà Tấn sau này cũng được xây dựng trên cơ nghiệp họ Tào. Nếu không thua trận Xích Bích, Tào Tháo hoàn toàn đã có thể dựa thời cơ tiêu diệt cả hai sớm hơn. Nếu không nôn nóng thủ tiêu Hán đế, đã có thể lợi dụng được Lưu Bị sớm hơn, không đến mức sau khi mất Hán Trung thì Tôn-Lưu mới xung đột." 

"Chỗ mạnh của ta là chỗ mạnh của địch, chỗ yếu của ta là chỗ yếu của địch." Như Yên nghiêng người về phía cậu bé mà cười. "Tào càng mạnh, thế lực chống Tào càng mạnh. Tào yếu đi, kẻ thù của Tào lại quay sang đánh nhau. Tiếng càng lớn, đập phải càng mạnh, quá mức thì sẽ thủng trống gãy dùi." 

"Như vậy, cô cô..." Thiên Túng chớp mắt, buột miệng gọi. Như Yên lại chống tay nhìn ra sân. Nắng tháng bảy chao chát trên bầu trời xanh. Gió thổi mạnh, đưa mây kéo về ngày càng nhiều. Vẫn còn đang trong mùa mưa, trời có thể đột ngột chuyển gió bất cứ lúc nào. 

"Tháng sau chuẩn bị theo ta đến Túy Loan, cháu sẽ minh bạch." Nàng cười nói, đứng dậy. "Còn trưa nay ở lại ăn cơm với ta. Cháu chắc cũng đói rồi phải không?" 

Câu nói chưa hết, nàng đã đi đến cửa. Ở cái bếp mé nhà, một làn khói mỏng bốc lên. Nghe tiếng Như Yên nói chuyện với một người phụ nữ. Căn nhà vẫn yên lặng đến mức Thiên Túng cảm thấy nghi hoặc. 

Có vẻ như cậu còn quá ít kinh nghiệm đối phó với người nơi đây. Ngay cả người cô này cũng có những chuyện không muốn cho cậu hay, giờ đây lại khiến cậu nghi ngờ. Quan chức ở Quảng Nam không có xáo trộn, ngoại trừ Chưởng dinh trấn thủ đã được thăng cấp Trấn phủ, nắm toàn quyền tại nơi này. Với cơ cấu quan lại như thế, ảnh hưởng của Như Yên lên họ là bao nhiêu? Sự phô trương của Hoắc Phương như thể y mới là chủ nhân thật sự của vùng đất cùng những gì y nói ra, điều gì là thật là giả? Như Yên hỏi đến vụ cháy, phải chăng thật sự kẻ phóng hỏa có liên quan đến nơi đây? 

Và căn nhà này là gì? Một Thương Trúc trang mới? Nghe lời Như Yên nói, có vẻ những thuộc hạ cũ của nàng không đơn giản là 'bỏ đi'. Vùng đất này nằm giữa Hội An và Đà Nẵng, tránh được tai mắt của nhiều người. Nàng hỏi ngay đến đội kỵ binh của cậu, chẳng phải là có ý cảnh giác? 

Nhưng là một người hoàn toàn mới mẻ đơn độc, cậu chỉ có thể dựa vào người cô họ xa này. Không phải là các quan viên, cũng không phải là Hoắc Phương cùng các thế lực ngầm trong thị thành kia. Cậu có thói quen đánh từ trung tâm bàn cờ. Cô gái này, kẻ đã từng ở Thương Trúc trang, hiển nhiên là trung tâm của tất cả đầu dây mối nhợ. 

Khi Thiên Túng cáo từ, trời đã ngả về chiều, Như Yên thu dọn đồ đạc trong nhà rồi đi ra bờ biển. Nắng đang tắt dần, không gian xanh lam nhàn nhạt như được phủ một làn khói mỏng. Từng nhóm người nho nhỏ, phần lớn là trẻ con và thanh niên, vẫn đang nhóm họp bên bờ cát bắt sâm đất. Nơi đây dòng sông ăn ra cửa biển, dòng nước mặn ngọt trộn lẫn, là nơi lưu trú lý tưởng cho loài trùn biển này. 

Nàng rất nhanh chóng xác định được màu áo xam xám trên bãi cát. Sa ngồi cạnh đám lửa nhỏ, lơ đãng dõi mắt nhìn ra biển. Một cánh tay thanh mảnh chợt ôm ngang cổ y khi cô gái sà xuống, gần như ôm chầm lấy y. 

"Ngươi về rồi." Như Yên cười. Nàng nhìn ngọn lửa, rồi lại đưa mắt nhìn quanh. "Tên ngốc đâu?" 

Sa chỉ tay ra bờ cát bên cạnh, bàn tay kia nhè nhẹ gỡ tay Như Yên xuống. Nàng ta vẫn chẳng để tâm đến chuyện bờ biển đang có vô số người. Nhìn theo ngón tay y, nàng cuối cùng cũng đã thấy màu áo xanh xanh lấp ló sau đụn cát. 

"Này!" Tiếng nói vang lên sau lưng làm hắn gần như giật mình. Con sâm đất hắn đang canh chụp nghe động liền chui xuống cát. Loài vật này vốn cực kỳ nhanh nhẹn trong việc lủi trốn kẻ truy bắt. Hắn vội lao theo, gần như ngã sấp xuống bờ biển mới tóm được cái đuôi con trùn. 

Tiểu yêu tinh kia chẳng thèm để tâm đến chuyện nàng ta suýt làm hắn chụp hụt con mồi, ánh mắt ngay lập tức đã đáp lên cái đuôi trắng nhẫy vẫy điên cuồng trong tay hắn, cười tươi như hoa. 

"A, bắt được rồi kìa!" Lời chưa dứt, nàng ta đã nhảy đến, lôi con trùn biển lên hẳn khỏi cát. Sâm đất có hình dạng như một con giun khổng lồ màu trắng dài cả hai thước, to bằng hai ngón tay, khiến hắn lần đầu nhìn thấy cũng phải giật mình. Nhưng tiểu yêu tinh tỉnh bơ cuộn con trùn đang vùng vẫy lại, thuận tay rút luôn thanh kiếm trên lưng hắn cắt phăng đầu con sâm đất. Khi hắn ngồi dậy, nàng ta đã quay lại cạnh Sa, đang vừa chặt con sâm đất ra nhiều khúc vừa đem nướng trên lửa. 

"Các ngươi đi ăn mà không gọi ta." Đưa trả kiếm cho hắn, Như Yên lật một miếng sâm đất lại. Nghe mùi thơm ngào ngạt đã bốc lên. Sâm đất là một loại đặc sản của vùng này, ăn ngon chẳng kém gì cá mực. Đám người đổ xô ra bờ cát hiện tại cũng là để săn lùng nó. 

"Chúng ta đi về đây chỉ định ngồi nghỉ." Sa giải thích, nhìn về phía hắn. Là hắn nảy ra ý định đi bắt sâm đất. Thói lông bông này tuyệt nhiên không phải tính cách của y. Nhưng Như Yên có vẻ như thích thú với bữa ăn giữa trời, trong lúc chờ sâm đất chín, đích thân nàng cũng đi ra bờ cát săn trùn biển. 

"Không có thuổng thì sao đào được?" Hắn buộc phải đi theo nàng, nói như giải thích. "Vừa rồi là ta thấy dấu nó bò nên lần theo." 

"Không có thuổng thì có tay." Như Yên nhún vai nói. Tất nhiên, không phải tay của nàng. "Ngươi đào cát, ta bắt." 

Biện pháp ấy không ngờ lại có tác dụng. Tay hắn không thể lớn bằng cuốc thuổng để xới trọn con sâm đất lên, nhưng Như Yên lại nhanh nhẹn lạ thường, chụp chính xác từng con sâm một trước khi chúng kịp đào thoát. Họ đã bắt được thêm hai con sâm nữa. Đến con thứ ba, chân Như Yên bước hụt vào một hố cát rỗng nằm dưới mặt nước, làm nàng chới với ngã đập xuống nền cát. 

"Có sao không?" Hắn hỏi khi đỡ nàng lên. Mặt tiểu yêu tinh dính đầy cát, nhưng tay nàng đã cầm chắc con trùn biển to dị thường, có lẽ là con trùn to nhất trên bãi lúc này. 

"Tham ăn." Hắn vừa nói vừa thuận tay phủi cát trên mặt Như Yên. Sực nhớ ra, hắn vội vàng bỏ tay xuống. Như Yên vẫn chẳng để tâm, nàng cầm con trùn biển về đám lửa, hỉ hả cầm kiếm của hắn mà chặt nó ra thành bốn khúc. Những miếng trước đã chín, bọn họ ngồi quanh lửa mà chậm rãi vừa ăn vừa ngắm hoàng hôn. 

"Coi chừng cảm lạnh." Sa nói, nhìn chiếc áo Như Yên đã ướt mất phân nửa khi nàng ngã xuống. Vẫn gặm ngang con sâm đất, Như Yên chỉ phác tay. Nàng sinh trưởng nơi thôn dã, không dễ vì vài cơn gió mà bệnh được. 

"Đâu có bằng lúc ướt lướt thướt trồi từ lòng biển lên." Hắn nói như trấn an Sa, nhưng đổi lại chỉ là một cái liếc lạnh ngắt, vội chăm chú trở lại vào miếng sâm đang nướng. 

Sa tuyệt nhiên không đụng đến thứ trùn biển có bề ngoài gớm ghiếc này. Cũng như dù ở ở làng chài này cả hơn ba tháng, y vẫn không thể ăn cá mực sống. Vì thói ham chơi của hắn, y đã phải ngồi canh, giờ lại lôi cả Như Yên lấm lem ra ăn uống ở bờ biển. Cát vẫn dính đầy tóc và mặt nàng. 

"Ở đó sao rồi?" Như Yên chợt hỏi khi vừa nuốt xong miếng sâm. Hắn nhìn Sa. Hẳn nhiên, nàng ta đang hỏi đến việc mà bọn hắn vừa được giao đi làm trở về. 

"Vẫn như bình thường." Y đều đều trả lời, không che giấu ý chán nản. Từ khi đến đây, Như Yên chỉ thỉnh thoảng sai y đi thám thính động tĩnh ở bờ sông Tuý Loan. Bình thường bọn hắn chỉ ra ra vào vào căn nhà, bày trò chơi với người trong làng. Một lần phát hiện ra hắn đánh bạc với bọn trẻ, Như Yên liền sai hắn đi cùng Sa. Công việc thám thính này phải nói là thứ nhàm chán nhất trên đời khi tất cả việc phải làm là tìm một chỗ kín lẩn vào, dõi mắt nhìn ra suốt cả ngày. 

Như Yên cười như thông cảm, chạm vào tay y. 

"Thôi nào, chúng ta có tiếp viện rồi." Nàng ngọt ngào nói, không cần hạ giọng. Bờ biển rộng, không có ai trong tầm nghe. Trong ánh lửa, mắt nàng sáng lên kỳ dị. "Dù là Hoắc Phương hay bất cứ ai, cũng không cần phải sợ nữa." 

Chú thích:  

[1] Hoàng Sào còn có thể dịch ra là cái tổ vàng, Túy Loan là con chim loan say. Nên ý là đã nhắc đến tổ thì phải đi tìm con chim.  

Hồi 48: Nụ hôn 

Đêm, gió trở lạnh dần. Dòng sông dẫn ra cửa biển hứng tràn gió. Ngôi nhà vốn xây đầu hướng gió, cách làng một quãng để tránh mùi cá mắm, lại nghe rào rào như thể một cơn mưa. 

Đúng là trời đang mưa. Chầm chậm, những hạt nước nhỏ rơi xuống, rồi dần trở nên ào ạt. Tiếng mưa gió hòa lẫn vào tiếng dòng nước đổ ra cửa biển, nghe như có dòng chảy từ thinh không vang tới. 

Tiếng động của mưa bất ngờ đánh thức hắn. Lăn qua trở lại một lúc không ngủ được, thấy cổ khát khô, hắn quyết định ra phòng ngoài uống chút nước. Gian nhà ngoài ngăn cách với dãy nhà trong bằng một lối đi hẹp giữa hai bức tường, bên trái là nơi ở của Như Yên, bên phải là chỗ ở của hắn và Sa. Ánh sáng lập lòe hắt ra khỏi lối vào gian nhà trái làm hắn lấy làm lạ, liền ghé mắt trông vào. Thư phòng vẫn mở cửa. Tiếng cửa gỗ đập liên hồi trong gió nổi. Lá rụng trong sân bay tán loạn vào phòng. Nếu không có ánh đèn sáng, hắn còn cho rằng Như Yên quên đóng cửa. 

Nhưng cũng có thể nàng ta ngủ quên. Nghĩ vậy, hắn liền nhẹ nhàng bước tới, định khép cánh cửa lại, không để gió lùa vào phòng. 

Như Yên quả thật đang ở trong phòng, nửa nằm nửa ngồi bên chiếc bàn đọc sách, đầu gối vào cánh tay khoanh lại. Một bình rượu đang được đặt cạnh nàng. Nghe tiếng động, nàng giật mình ngẩng lên, chiếc ly bạch ngọc rơi xuống bàn, lăn tròn đến bên chân hắn. 

"Xin lỗi." Hắn cũng phải giật mình, vội nhặt chiếc ly lên. Ly bạch ngọc chuyên dùng để uống rượu này được đem từ tận Thương Trúc trang tới, nếu vỡ thì hắn không biết lấy gì mà đền. 

"Ừm." Như Yên chỉ dụi mắt nhận lấy ly rượu. Nàng có vẻ đã say. Cô bé này hóa ra lại có thói nửa đêm mò đi uống rượu một mình. Vậy mà ngày thường nàng ta vẫn cấm hắn uống. 

"Uống với ta một ly." Vừa lấy ly rượu, nàng ta vừa kéo hắn ngồi xuống bên cạnh, rót rượu ra ly nhét vào tay hắn. Đúng là người say tính tình cũng đổi khác, rộng rãi hơn hẳn. Hắn chẳng khách khí ngửa cổ uống cạn. Trúc Diệp Thanh thơm gắt mùi lá, ngọt nồng đầu lưỡi, cay đến tê cả cổ họng, nóng rực trong lồng ngực. Không dịu dàng mê đắm như Nữ Nhi Hồng, không qúy phái tao nhã như Quế Ngâm Tửu, thứ rượu này chỉ một ly đã như muốn đốt cháy tâm can. Rượu trôi đi, hơi cay còn nóng buốt trong cổ. 

Thấy ánh mắt hắn, Như Yên mỉm cười đẩy bình rượu đã vơi một nửa về phía hắn. Nàng không uống, chỉ chống tay nhìn ra cửa sổ. Gió vẫn đưa lá rụng cùng hương hoa tạt từng đợt vào phòng. Ánh mắt Như Yên như bị phủ một lớp sương mù, lại long lanh kỳ lạ. Má nàng đỏ, tóc rối tung trên vai, cổ áo xộc xệch. Dáng vẻ này khiến hắn không dám nhìn lâu, uống xong chén rượu thứ ba đã thừa cơ muốn đứng dậy. 

"Ngươi không uống?" Thấy hắn đặt chén rượu xuống, Như Yên nhướng mày. Rồi nàng lại gật đầu. "Cũng được, ngủ sớm mai dậy sớm đi làm việc." 

"Ta đã bảo mai có việc." Nghe câu nói của Như Yên, hắn vội quay lại nói. Nàng nhìn hắn, chợt mỉm cười. 

"Đi thăm Hiểu Lam? À, ta quên mất. Thỉnh thoảng ngươi lại theo tàu ra đảo thăm nàng ấy." Tiểu yêu tinh cười khúc khích trong khi hắn chỉ biết nhìn nàng. Hóa ra nàng ta theo dõi cả hắn. Nhưng với Như Yên, chuyện này có vẻ rất thú vị. Nàng vỗ vai hắn mà cười. "Các ngươi tiến triển đến đâu rồi?" 

"Tiến triển cái gì?" Hắn hất tay Như Yên xuống, tránh ánh mắt khỏi cánh tay trắng ngần mà tay áo đã trượt lên qúa khuỷu. "Hiểu Lam đang lập trận pháp, cần ta bàn luận thêm thôi." 

Như Yên nhíu mày. 

"Không biết ngươi có bị ngốc thật không." Bàn tay nàng ta lại không yên phận, nhéo má hắn một cái. "Rốt cuộc thì ngươi quá ngốc hay là ngươi quá tốt vậy? Ngươi không đành lòng bỏ nàng ta, nhưng cũng không muốn tiến triển? Nếu đã không yêu thì phải vất vả thế làm gì?" 

"Yêu mới tốt được à?" Hắn buộc phải nắm lấy cánh tay tiểu yêu tinh để ngăn nàng ta làm loạn. Nghe câu trả lời của hắn, Như Yên bật cười. 

"Nói thật đi, ngươi sợ nàng ta phải không?" Mắt Như Yên nheo lại. Hắn không rõ lúc này nàng say hay tỉnh. Những lời nói cùng ý thức thì rõ ràng tỉnh táo, nhưng biểu hiện lại hoàn toàn khác. "Một cô gái đẹp như thế, tốt như thế, đáng yêu như thế, ngươi lại chẳng hề động tâm, không có một ý niệm nào? Trừ phi ngươi có vấn đề, chứ loại người bình thường nào mà không rung động. Ngươi không có..." 

"Không có." Hắn vội vã trả lời, dợm đứng dậy. Thà để nàng ta uống say rồi ngủ còn hơn đi vặn vẹo hắn những chuyện này. 

Nhưng Như Yên đã nắm chặt lấy cổ áo hắn, trong khi nàng ta ngả gần nửa người vào lòng hắn, giữ hắn ở lại. Hơi rượu thơm nồng phả vào mặt hắn khi tiểu yêu tinh khúc khích cười. 

"Ngươi sợ cái gì chứ? Chẳng lẽ ngươi sợ ta?" Khuôn mặt nàng gần kề sát hắn, đến mức có thể nghe được hơi thở thơm như lan lẫn trong mùi rượu. 

"Tất nhiên ta sợ cô." Hắn nói, trong lúc tìm cách gỡ tay Như Yên xuống. Cô gái này lúc tỉnh táo đã nguy hiểm, lúc say còn đáng sợ hơn gấp mười. 

"Sợ ta?" Như Yên nhíu mày. Nàng chớp mắt, bàn tay chợt buông lỏng. Nàng cúi đầu, im lặng. Hắn đã nhè nhẹ lui về phía sau, nàng vẫn không nhận ra, chỉ nhìn chăm chăm xuống sàn nhà. 

"Phải thôi, ngươi sợ ta." Lời nói nhẹ như gió thoảng. Một giọt nước nhỏ vô thanh vô tức rơi xuống sàn. Như Yên vội vã lau mắt, quay đầu về phía bình rượu vẫn để trên bàn. Bằng cử chỉ loạng choạng của người say, nàng rót rượu ra ly, chầm chậm uống. Ánh lửa soi sáng một bên khuôn mặt nàng đẫm ướt. 

"Ta... ta không có ý đó..." Nhìn thấy tình cảnh này, hắn lắp bắp nói, dù vẫn không hiểu mình đã mắc tội gì. Như Yên không ngẩng đầu lên, chỉ chầm chậm uống hết ly rượu này đến ly rượu khác. Đứng ở cửa, hắn đi cũng không đành, liền ngồi xuống lay vai nàng. "Ý ta là, lúc cô bức ép người khác thì tất nhiên ai cũng sợ, nhưng không phải lúc nào cũng thế." 

Thật ra hắn cũng không hiểu lời nói đối với người say thì có tác dụng gì. Nhưng Như Yên gạt nước mắt, gật đầu đưa ly rượu cho hắn. Hắn uống cạn. Khi bỏ ly xuống, Như Yên đang nhìn hắn, nụ cười phảng phất trên môi. 

"Tửu lượng của ngươi tốt thật." Lời nói của nàng đã trở về vẻ bình tĩnh. "Ngươi thường uống rượu lắm, phải không? Từ bao giờ thế?" 

"Chẳng nhớ." Hắn trả lời, sau một lúc. "Ta sinh ra trong chiến tranh, lớn lên gần quân đội, họ uống thì ta cũng uống, chắc lúc nhỏ cũng từng lấy rượu thay sữa rồi." 

"Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi. Dục ẩm tì bà mã thượng thôi. Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu. Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.[1]" Như Yên gật đầu, chầm chậm đọc. "Ngươi lúc nào cũng cười, nhưng như chim sợ cành cong, bất cứ khi nào cũng chực bay đi mất." 

Nàng lại cúi xuống rót rượu khi hắn chỉ có thể im lặng. Rượu xanh sóng sánh trong ly bạch ngọc, toả sáng như ngọc. Một giọt nước mắt lại chầm chậm lăn xuống má nàng. Vô thức, hắn đưa tay gạt nó đi. 

Cô gái này rốt cuộc nghĩ cái gì? Lúc chiều tối còn cười nói tươi tỉnh tranh ăn với hắn bên bờ sông, đến đêm lại chui vào phòng rót rượu vừa uống vừa khóc. Mà lời nói của nàng ta thì có gì giống người say? Nàng ta chỉ hỏi về hắn, tuyệt nhiên không để lộ chút gì về bản thân, đó đâu phải là ý thức của người say. 

Bàn tay hắn vẫn đặt trên má nàng khi hắn ngẩn người mà nghĩ. Như Yên cầm tay hắn đặt xuống, hắn mới nhận ra, vội rút tay về. Nàng nhìn qua hắn rồi loạng choạng đứng dậy đi về phía chiếc phản góc phòng, phất tay. 

"Ngươi cầm bình rượu về mà uống." Vẫn lời nói điềm tĩnh, mặc cho những bước chân xiêu vẹo. Vấp phải góc chiếu, nàng ngã xuống sàn. Hắn lại buộc phải đến nâng nàng dậy, đỡ lên phản. Như Yên ngả đầu vào ngực hắn, êm mềm như tơ. Khi được đặt xuống phản, nàng đã nhắm mắt như ngủ. Hắn kéo chăn đắp cho nàng, đi đến bàn định tắt bớt đèn, thu dọn đồ đạc. Mưa vẫn tầm tã bên ngoài, gió lạnh tạt vào cửa sổ mới làm hắn nhận ra toàn thân đã nóng bừng, không biết có mấy phần do rượu. 

'Sa, ngươi thật là đáng thương.' Hắn nhún vai tự nhủ. Chăm lo cho cô gái này cùng thói tật xấu của nàng ta, y vẫn còn giữ được vẻ bình tĩnh muôn thưở như vậy thật khiến hắn khâm phục. Rượu vẫn còn trong ly, hắn nhấc lên uống cạn. Mùi Trúc Diệp Thanh lẫn với hương thơm ngòn ngọt như hoa. 

Lúc nhấc bình rượu lên, ánh mắt hắn bắt gặp một mảnh giấy nhỏ nằm trong kẹt bàn, góc giấy như bị cháy. Hắn tò mò moi nó lên. Tờ giấy rộng bằng hai ngón tay đã cháy mất phân nửa, chỉ còn mấy chữ: "khó lòng qua khỏi. Sứ giả sắp đến." 

Có vẻ Như Yên đã đốt tờ giấy này nhưng vì say mà không để ý gió thổi tạt nó khỏi đèn, mắc lại ở đây. Mảnh giấy nhỏ, hơi bị uốn cong, hẳn là mật thư được gửi tới cho nàng. Nghe lời lẽ bức thư, một người nào đó có lẽ đang nguy kịch. 

Hắn khe khẽ cau mày, đọc lại lần nữa. Thư được viết bằng chữ Hán, không phải chữ Nôm mà người Kinh thường dùng. Là thói quen của người viết chăng? 

Nghe tiếng Như Yên cựa mình trong giường. Hắn vội thổi tắt đèn, nhét tờ giấy vào áo. Nhìn lại, chiếc chăn đã tuột phân nửa xuống đất, hắn phải đến kéo lên. Nghe động, Như Yên mở mắt, mơ hồ cười khi thấy cái bóng mờ trong phòng tối. 

"Sa." Nàng cầm lấy tay hắn, chặt đến nỗi hắn không thể vùng ra. Không để hắn kịp phản ứng, nàng đã ôm lấy hắn, cử chỉ vẫn giống như thường ngày đối với Sa. Nàng thì thầm trên ngực áo hắn. "Ngươi đến rồi, ngươi không bỏ rơi ta nữa. Ngươi bảo sẽ dẫn ta đi, đem ta đi. Ngươi không nói dối, phải không? Ưm... ngươi luôn luôn nói dối ta. Ngươi lúc nào cũng nói dối ta. Ta căm ghét ngươi." 

Lời nói vừa định thoát ra cổ họng hắn chợt tắc lại. Cử chỉ với lời nói này có gì giống nhau? Lúc này đầu óc Như Yên có vẻ thực sự đã không còn tỉnh táo. Nếu... biết đâu, nàng ta sẽ nói ra điều gì quan trọng? 

"Ngươi biết không, vua nước Âu Lạc có một người con gái là Mỵ Châu. Vua nước Nam Việt có người con trai là Trọng Thủy." Khi hắn vẫn im lặng, Như Yên nói một mình. "Vua Nam Việt muốn thôn tính Âu Lạc liền gả Trọng Thủy cho Mỵ Châu, ở trong Cổ Loa thành. Trọng Thủy đem tất cả bí mật của Âu Lạc về cho vua cha. Nam Việt khởi binh, Cổ Loa bị hạ. Vua Âu Lạc chém đầu Mỵ Châu, Trọng Thủy cũng nhảy xuống giếng tự sát." 

"Nước Nam Việt ấy, vốn là quê hương của ngươi." Như Yên bật cười. Tay nàng đập nhè nhẹ lên vai hắn. "Cho nên ngươi lúc nào cũng nói dối. Ngươi không thương ta." 

"Có, có mà." Hắn buột miệng lắp bắp, nói trước khi nhận ra mình đang nói gì. Trong lòng hắn thực sự thấy bất bình cho Sa. Dù mục đích của y là gì, ai cũng phải nhận thấy y quan tâm đến Như Yên thực sự, lo lắng cho từng hành vi cử chỉ của nàng. Tính cách y chỉ âm trầm lãnh đạm, không thích biểu hiện ra mặt, tuyệt nhiên không phải y vô tình. Sự hết lòng của y đối với nàng, ngay cả với người thân cũng khó có được. 

"Là vì ngươi có lỗi với ta." Như Yên cau mày lắc đầu. Nàng đã say đến mức không thể nghe được tiếng của hắn, hiện tại chỉ nói như người mộng du. "Ta đã cầu xin ngươi, nhưng ngươi không cứu ta. Ngươi để mặc ta cho bọn chúng. Ngươi để mặc chúng hành hạ ta. Nếu ta không phải mang họ Nguyễn, ngươi có chịu cứu ta không? Ngươi cũng sẽ bỏ mặc ta. Ngươi cũng sẽ ném ta đi. Ngươi cũng sẽ bỏ ta. Nếu ta chỉ là con bé bình thường vô dụng, ngươi sẽ bỏ ta ngay lập tức." 

Chớp lóe sáng vào phòng khi bầu trời ầm ì mưa bão. Từng lời Như Yên nghe như tiếng sấm nổ trong tai hắn. Nàng run rẩy trong lòng hắn. Hắn lại thấy ngực áo đã ướt đẫm. 

"Ta ở đây..." Hắn buột miệng lần thứ hai, trước khi sực nhớ mình không phải là kẻ nàng đang nói tới. Như Yên mơ hồ cười. Vẫn vòng tay ôm chặt lấy hắn, nàng chầm chậm ngẩng đầu. Trong bóng tối, hắn chỉ thấy mờ mờ đường viền của khuôn mặt trắng tái, đôi mắt long lanh đẫm ướt. Và làn hơi, làn hơi mằn mặn thoảng vị biển cả. 

Nàng hôn hắn. 

Khoảnh khắc làn môi ấm mềm chạm vào môi hắn, đầu óc hắn thành một cõi rỗng không. Chiếc lưỡi nhỏ rụt rè chạm vào vành môi, hắn giật mình mở miệng đáp ứng. Hơi rượu vẫn còn cay nồng trong lồng ngực, trong hơi thở. Hương hoa cùng bóng tối che phủ các giác quan. Vị nước mắt làm hắn như mụ mị. Nàng vừa hôn hắn vừa rơi nước mắt. Hắn như uống cạn tất cả nước mắt của nàng. 

Từ lúc nào, vô thức đã trở thành sự thật. Vòng tay hắn ôm choàng lấy nàng, ngón tay lùa vào những lọn tóc mềm như tơ, cảm nhận thấy hơi ấm nóng rực sau lớp áo mỏng, trên làn da mịn màng như lụa. Ghì chặt cô gái bé nhỏ này vào lòng, nghe hơi thở nàng thấu qua từng mạch máu. 

Thương tâm, như một lưỡi dao, đâm thấu qua hơi thở. 

Đừng khóc, đó là tất cả những gì hắn muốn nói, nhưng biết rằng vô ích. Hắn không phải là người nàng cần. Cơn phẫn nộ vì một điều không hiểu rõ âm thầm bừng cháy trong lòng hắn. Từ lúc nào mà chính hắn cũng không nhận ra, hắn đã ôm lấy nàng. Nước mắt nàng khát cháy cổ họng hắn. Đôi môi nàng thiêu cháy tâm can hắn. Bàn tay, đôi môi, chiếc mũi nhỏ, làn mi mềm, càng uống càng khát. Nàng đã không còn khóc, chỉ thả mình trong vòng tay hắn. 

Bằng sự dịu dàng mà hắn nghĩ mình không bao giờ có, bằng những nỗi đau mà hắn đã lãng quên, bằng ký ức và những cơn mơ, là nắng và mưa của cùng một mùa hạ, hắn hôn nàng. Môi chạm môi, quấn quýt. Tay đan tay, siết chặt. Hơi thở ngạt như khói. Hơi thở đắng như đêm. 

Ngoài trời, vẫn mưa. 

Hắn đột nhiên ngừng lại, nhận ra mình đã đẩy Như Yên xuống phản. Tay hắn đã đặt lên thắt lưng áo nàng. Nhận thức ấy khiến hắn giật mình. Như bị sét đánh, hắn vội vàng lùi về sau. Tay Như Yên một lần nữa giữ chặt hắn lại. 

"Ngươi đi?" Giọng nàng vẫn còn lẫn với tiếng thở, trong đêm tối nghe như thoáng não nùng. Không để hắn kịp nói, nàng cười khẽ. "Ta nói rồi, ngươi lúc nào cũng chực bay đi mất." 

Hắn giật mình. Nhưng tay Như Yên đã buông xuống. Nàng nhắm mắt, hơi thở một lúc sau đã đều đặn như đang ngủ. Hắn kéo chăn cho nàng, vội vàng đứng dậy ra ngoài. Mưa táp những giọt li ti vào mặt hắn, lạnh buốt như kim châm. Môi hắn vẫn còn nóng bỏng. Vẫn còn như cảm thấy hương vị nụ hôn ấy nơi đầu lưỡi. Vội bước về gian phòng chính, hắn nghe tiếng mưa như đuổi theo mình. Gian nhà vẫn vắng vẻ im lìm, không còn một tia sáng. Ấm nước mà hắn để trên bàn định uống vẫn còn nguyên chỗ cũ. Như thể hắn chưa từng rời khỏi đây. 

Hắn ngồi xuống cạnh chiếc bàn giữa cơn phòng tối trống hoang, nghe gió mưa từng đợt từng đợt đập vào mái ngói, sàn đá, lung lay cửa gỗ, thổi lá rào rào. Nghe trong lòng hỗn loạn như biển không ngừng trào động, cuồn cuộn từ phía xa xăm đổ lại. 

*** 

"Tử Hiên," Đây chắc đã là lần thứ mười trong một canh giờ, Hiểu Lam lại phải gọi tên hắn. Nàng khẽ giật tờ giấy lại. "Huynh tính sai nữa rồi." 

Hắn chớp mắt, nhận ra đã tính nhầm phương vị của Hỏa tinh sang quỹ đạo của Kim tinh. Hiện thời sao Mộc và sao Hỏa đã đụng đầu nhau trên không. Cùng với những lần tính sai trước, bản lạc đồ mà Hiểu Lam vẽ đã bị hắn sửa thành một mớ rối bòng bong. Hiện tại, Hiểu Lam chỉ còn cách lấy tờ giấy lại, lo lắng nhìn hắn. 

"Huynh không sao chứ? Có chuyện gì vậy?" Đôi mắt trong trẻo của nàng dõi vào mắt hắn, bất giác khiến hắn phải quay đầu tránh. 

"Ta cũng không biết." Hắn thở dài, buông cây bút xuống. Thật sự, hắn cũng không biết đã xảy ra chuyện gì. 

Ban đầu chỉ là vài ly rượu, mấy câu nói vu vơ. Thôi được, hắn công nhận tiểu yêu tinh đẹp, nhưng ngay từ ngày đầu tiên hắn đã chỉ nhìn nàng như một... tiểu yêu tinh. Đêm mưa, rượu nồng, cùng thứ qủy quái gì đó đã lọt vào đầu óc hắn khiến hắn mất đi lý trí. Chỉ cần một bước nữa, hắn đã lọt vào vực thẳm vạn kiếp bất phục. Tất cả chỉ có thể là lỗi của hắn. Cô gái say mềm ấy chưa chắc đã nhận ra mình đang làm gì. Mang danh nghĩa của Sa để lợi dụng nàng ta, từ bao giờ hắn đã trở nên tồi tệ khốn kiếp như thế? Nghĩ đi nghĩ lại, trên đường đến đây có lúc hắn đã muốn đâm đầu xuống biển. Nếu không hắn cũng chẳng biết đối mặt với hai người kia ra sao. Trời vừa tảng sáng, hắn đã vội chạy đến bến cảng đợi thuyền ra đảo. Trong Khán Triều lâu, Hiểu Lam vẫn như lệ thường đón hắn rồi bày bản lạc đồ ra tính. Nàng đang tập trận cho năm cô ca nữ tùy tùng. Võ công của nàng không bằng họ, năng khiếu võ học cũng không cao bằng khả năng tính toán, tốt nhất là đứng ngoài chỉ huy. Mấy tháng vừa rồi, sau khi người liên lạc từ Vân Nam đến trở về báo tin, Hiểu Lam vẫn ở lại trên đảo. Trên danh nghĩa, nàng liên kết với Hoắc Phương, sự thật đã trở thành con tin của hai tổ chức. Nhưng nàng đã ổn định dần. Dạo này Hoắc Phương vắng mặt luôn, không đến đảo, nàng càng tỏ ra thoải mái. 

Nhưng lúc này Hiểu Lam nhìn hắn với vẻ vừa bối rối vừa ngờ vực. Hắn đến đảo sớm hơn hẳn lệ thường, tâm trí như để ở đâu đâu. Hắn vốn tinh minh phóng khoáng, chẳng để bụng chuyện gì, chẳng gì không thông suốt được. Nói rằng không có việc đã khó tin, bảo rằng thậm chí hắn còn không biết đã xảy ra chuyện gì, chẳng bằng nói không muốn cho nàng biết. Hoặc có chuyện mà hắn không thể nói với nàng. 

Tất nhiên, chuyện này có sai Thiên Lôi đánh chết, hắn cũng không hé răng ra được với ai. 

Cho nên lần đầu tiên trong đời, hắn biết ơn Hoắc Phương kỳ lạ. Sự xuất hiện của y đã chấm dứt ánh mắt dò xét của Hiểu Lam dõi vào hắn. Đứng ở lối ra vào gian tiểu lầu, y mỉm cười với hai người đang ngồi giữa phòng. 

"Chu cô nương, Tử Hiên." Y gọi hắn theo thói quen của Như Yên chứ không dùng họ theo lối thường. Sau lưng y, năm cô gái lưng đeo đàn, mặc áo năm sắc đã tập hợp. Hắn vội đứng dậy. Hoắc Phương vẫy tay ra hiệu cho hắn ở lại. "Ta ghé qua xem công việc, tiện thể thăm hỏi Chu cô nương. Có vẻ như mọi chuyện vẫn ổn." 

"Vâng, mọi chuyện vẫn ổn." Hiểu Lam lịch sự trả lời, nhẹ nhàng đứng dậy. Nàng đối với Hoắc Phương như mọi người bình thường, tao nhã và xa cách. Y gật đầu, quay sang năm cô gái mà cười. 

"Nghe nói họ được tập một trận pháp mới. Ta từng thấy sự lợi hại của trận pháp do Chu cô nương sáng tạo, vẫn lấy làm ngưỡng mộ. Liệu họ có thể biểu diễn cho ta xem một chốc?" 

Hiểu Lam liếc nhìn sang hắn. Rõ ràng Hoắc Phương đang muốn xem khả năng của nàng. Năm cô gái kia vốn là người của y, không thể từ chối được. Nhưng ai là người cho họ thực tập trận? 

"Để ta." Hắn nhận ra ý nàng, liền nhún vai. Hắn cũng là người tạo ra một nửa sơ đồ trận này, hẳn chẳng có gì nguy hiểm. 

Hoắc Phương gật đầu, đưa bọn hắn đến khoảng sân trống sau lầu. Năm cô gái rút kiếm trong đàn, rất nhanh lập thành trận pháp hình hoa lan quây hắn vào giữa. Không muốn tỏ sự thất thố, hắn cũng rút kiếm cầm trên tay. Nghe tiếng Hiểu Lam đứng ngoài hô khe khẽ: 

"Bắc Đẩu chỉ Dậu." Tức thời trận pháp chuyển động thành hình sao trong tiết Thu phân, biến chuyển dần về Lập đông. Năm thanh kiếm vun vút như sao quây lấy hắn vào giữa. Theo phương vị của mặt trời, hắn chỉ lùi ngược lại né tránh. 

"Thủy nghịch Kim doanh!" Hiểu Lam bật thốt. Từ bên trái hắn, Thần Tinh chợt vòng ngược trở lại, trong khi Thái Bạch phóng vụt đến. Nhảy lùi về sau, hắn chạm ngay vào Trấn Tinh, vội rút kiếm hất văng nàng ta đi. 

"Hỏa phản Thổ nhập!" Thấy Trấn Tinh bị nguy hiểm, Hiểu Lam vội ra lệnh. Huỳnh Tinh liền lui về vị trí cũ, cùng Thái Bạch vây lấy hắn. Hắn xoay kiếm quanh mình hộ thân, bước rút về cung Dần. Kiếm pháp của năm cô gái dù không bằng hắn nhưng phối hợp nhịp nhàng, lại tiến thoái bất ngờ, quả đã lợi hại hơn gấp mười. 

Huỳnh Tinh di chuyển ngang qua trước mắt hắn, tà áo đỏ phấp phới như hoa bay. Trong khoảnh khắc, hắn ngẩn người. Chỉ chậm một bước, Thần Tinh đã đuổi kịp hắn. Thanh kiếm trong tay nàng ta phóng ra trong lúc hắn vẫn còn nhìn theo tà áo đỏ. 

"Ngừng lại!" Tiếng Hiểu Lam hét lên khi cảm giác đau nhói dội trên vai trái hắn. Nghe 'Roảng' một tiếng rền rĩ khi chiếc bóng trắng của Hoắc Phương phóng vào giữa trận, hất văng thanh kiếm trên tay Thần Tinh. Dù vậy, thanh kiếm đã đâm vào vai hắn, sâu đến cả đốt ngón tay. Nếu Hoắc Phương không ra tay, tay trái hắn có lẽ đã bị chặt đứt lìa. 

"Tập trận thì đừng ra tay hung ác." Hoắc Phương cau mày nói với cô gái lãnh vị trí Thần Tinh. Y quay sang hắn, nhàn nhạt liếc mắt. "Ngươi vẫn thường đứng ngẩn ra giữa trận như thế?" 

Chú thích:  

[1] Bài Lương Châu từ của Vương Hán. Dịch nghĩa: Rượu bồ đào rót vào ly dạ quang. Tiếng đàn tỳ bà trên lưng ngựa như giục uống thêm. Say nằm giữa sa trường cũng xin người đừng cười. Từ xưa đến nay, chinh chiến có mấy ai có thể trở về.  

Hồi 49: Độc kế 

Vết thương khiến hắn tránh được câu hỏi của Hoắc Phương khi Hiểu Lam cuống quýt gọi người đến băng bó cho hắn. Rồi mượn cớ muốn nghỉ ngơi, hắn được ở lại một mình trong căn phòng trên lầu cao. Đến giữa chiều, Hoắc Phương mở cửa vào phòng, thông báo rằng y đã sắp xếp thuyền cho hắn, không phải đi nhờ thuyền lấy tổ yến nữa. 

"Ngươi trông vẫn vậy." Hoắc Phương nói sau một lúc quan sát hắn. "Cứ như người ốm tương tư." 

"Tương tư?" Thậm chí hắn chẳng giật mình. Vị Hoắc bang chủ tâm lạnh như tiền này tuyệt nhiên không khiến hắn tin rằng có khả năng hiểu thế nào là 'tương tư'. Tiểu yêu tinh ở chung nhà với hắn, chẳng qua hắn gây họa rồi rối lòng chứ hẳn chẳng phải thương nhớ gì. 

Nhìn vẻ mặt hắn, Hoắc Phương hẳn nhiên cũng nhận ra lời y chẳng có chút sức thuyết phục nào. Y liền mỉm cười. 

"Thời thiếu niên, ta cũng đã từng tương tư một người." Y vừa cười vừa nói, gật đầu trước ánh mắt hắn. "Người quen của chúng ta đấy." 

Như Yên? Lần này thì hắn ngạc nhiên thực sự, chỉ có thể tròn mắt há miệng nhìn Hoắc Phương. Y cười thành tiếng. 

"Chuyện lâu rồi. Cũng vì hộp 'mạch nha' mà ta đặt mua, nhờ Thương Trúc trang chuyển giúp. Tiểu yêu tham ăn ấy thấy đồ ngọt liền biển thủ, ta mới phải tới tận nơi đòi lại. À... cô bé xinh như tranh đứng sau hàng trúc, ai mà không rung động chứ? Nhưng sau này thì thôi rồi." 

"Tại sao?" Hắn nhướng mày, tịnh không hiểu được ý nghĩa của chữ 'thôi rồi' nhẹ bỗng kia. Hoắc Phương nhún vai. 

"Tiểu yêu ấy... nói sao nhỉ? Kỳ quặc? Hay quái gở? Ngày xưa công tử của Thương Trúc trang không cho nàng ta học võ cũng chỉ vì sợ nàng ta làm loạn, hại người hại mình. Cứ như chuyện hộp 'mạch nha' của ta. Lúc ấy nàng ta đã biết rằng đó không phải mạch nha, nhưng vẫn cứ ăn bằng sạch, may mà đó chỉ là thuốc bổ, không có tác hại gì nhiều. Dạng người ấy, bao giờ cũng ngấm ngầm ý muốn phá bung bét tất cả lên mới thỏa lòng. Càng cản càng cấm càng không có được, nàng ta càng muốn một gậy đập tan tành. Dạo này nàng ta khá hơn nhiều, lớn rồi nên cũng nhu hòa bớt đi. Nhưng giang sơn dễ đổi bản tính khó dời, chuyện lúc bé thì ta cũng đủ hãi. Việc gì cũng nên để mắt canh chừng nàng ta một chút, không thể tin tưởng hoàn toàn được đâu." 

Như chuyện nàng ta biến cái đèn hoa đăng của Hoắc gia thành một con vịt chỉ để thỏa ý nghịch ngợm. Khi biết chuyện, y cũng chỉ có thể tự trách mình. 

"Không có được thì đập tan tành?" Hắn nhắc lại, âm thầm lạnh sống lưng. Tiểu hồ ly biến thiên muôn mặt, mỹ sắc mê tâm, chính hắn đã cảnh cáo Sa những điều ấy. Bây giờ chính hắn lại đã mềm lòng trước nàng ta? Lần này chỉ là một vết thương, nếu sự tình tiếp tục, hắn không tưởng tượng được hậu quả sẽ ra sao. 

Hoắc Phương đưa mắt về phía hắn với cái nhìn đầy ý nghĩa. 

"Nữ nhân nào khiến ngươi rối loạn đến nông nỗi suýt mất mạng thế này, đều không nên giữ." Y bình lặng nói. Từ sau khi hắn cứu y một mạng ở Cẩm Thạch bàn, y đối với hắn có điểm ưu ái hơn những tùy tùng khác của Như Yên. "Không lấy được thì đừng giữ. Bản thân dù sao cũng là quan trọng nhất." 

Hắn chỉ im lặng gật đầu. Dù hiểu ý câu nói của y theo nghĩa hoàn toàn khác. 

Hắn trở về làng chài khi trời đã sập tối. Hết ngày nước ròng không còn săn sâm đất được, bờ sông dẫn ra cửa biển vắng tanh. Trăng vừa qua rằm vằng vặc chiếu sáng trên bãi đất ướt, từng hạt đất như phát sáng lấp lánh. Trong đất liền lại vừa có mưa, nước loang láng trên từng ngọn cây cọng cỏ. Gió lành lạnh thổi. Đã qua giờ cơm tối, trong những căn nhà, ánh đèn được vặn nhỏ, đây đó có tiếng thì thầm khe khẽ. Trước ngôi nhà của bọn hắn, thằng bé Quế đang bày trò chơi với bọn trẻ trong làng. Nó thậm chí không ngẩng lên khi hắn đi qua. 

Như Yên ngồi ngay trong phòng chính, đang cúi đầu viết trên bàn. Nghe tiếng đẩy cửa, nàng ngẩng lên, mỉm cười khi thấy hắn. 

"Ngươi về rồi." Nàng nói, vẫy tay khi hắn vẫn còn đứng yên trên bậc cửa. "Lại đây ta nhờ một chút." 

Nụ cười của nàng vẫn vô tư lự. Có vẻ sau cơn say, cô gái này đã quên sạch mọi chuyện xảy ra. Hắn thận trọng bước tới gần nàng, dừng lại cách chừng hai bước chân. 

"Lại gần đây." Như Yên nhướng mày, đẩy tờ giấy nàng đang viết ra trước. "Ngươi tính được thiên văn thì chắc tính được bát tự tử bình, xem cho ta một chút." 

Bát tự tử bình? Hắn cũng nhướng mày khi nhận lấy tờ giấy. Nữ nhân này rảnh rỗi quá nên định mở chiếu coi bói hay sao? Ngày tháng năm sinh này có vẻ không phải là sinh nhật của nàng cũng như bất cứ ai trong bọn hắn. Điền nốt sơ đồ vị trí các sao vào ô mục, hắn trả tờ giấy lại cho Như Yên. Nàng cười, tự tay rót trà cho hắn. Bàn tay đưa tách trà trước mắt hắn, tay áo lại phả ra hương thơm nhè nhẹ. 

"Sa biết tính cái này đấy." Hắn nói khi quay đầu đi, định uống xong rồi trở về phòng. Nữ nhân này chỉ ngồi cười đã khiến tâm hắn bứt rứt không yên. 

"Y đi vắng rồi." Như Yên lắc đầu. Hắn không khỏi ngạc nhiên nhìn nàng. Có việc gì mà y đi cả đêm không về? 

Nhưng Như Yên chẳng có vẻ gì muốn nói cho hắn biết, nàng chỉ vẫy tay cho hắn về phòng. Hắn vẫn ngồi yên chỗ cũ. 

"Sao thế?" Thấy hắn không có động tĩnh, Như Yên rời mắt khỏi tờ giấy nhìn lên. Hắn thở ra một hơi dài. 

"Đêm qua cô uống say." Hắn quyết định nói ra, dù hơi ngắc ngứ. Trong ánh đèn cũng nhận ra mặt Như Yên hơi tái đi. "Cô nhận nhầm ta là Sa." 

"May lần này không xảy ra chuyện gì quá trớn. Cũng coi như lỗi của ta vào thư phòng cô ban đêm. Nhưng ở đây nhiều người, cô nên biết cẩn thận là hơn. Nam nữ thụ thụ bất thân, vốn là đề phòng cho nữ nhân." Hắn đều đều nói khi Như Yên vẫn im lặng, trừng trừng nhìn hắn. Hắn nuốt khan trong cổ. "Thôi được, ta nhận lỗi. Cô muốn đánh muốn giết thì cứ việc." 

Trong tâm hắn thở một hơi gần như nhẹ nhõm. Cuối cùng cũng nói ra được, coi như chuyện trao đổi thẳng thắn không mờ ám tối muội. Dù tiểu yêu tinh có ý định gì hay không, hắn cũng nên cho nàng ta biết giới hạn. Nam nữ hữu biệt, cứ cười cười nói nói trước mặt Sa không phải chuyện hay ho, nhất là khi sự tình biến thành thế này. Hắn tuyệt không thích thú với những mối quan hệ... rắc rối. Chuyện đã không có kết quả thì tốt nhất không nên bắt đầu. 

Chuyện tình cảm của hai người bọn họ, hắn không có vị trí nào trong đó, và quyết không can thiệp vào. Lần này nói cho nàng ta biết giữ khoảng cách mà tránh xa hắn, cũng là một chuyện tốt. Thậm chí nàng ta không nhìn đến mặt hắn nữa âu cũng là nhẹ nhõm cho cả ba. Hắn chẳng là gì trong lòng nàng ta, ngay từ đầu cho đến cuối, vậy thì không nên dây dưa phức tạp. 

"Ngươi... ta đã làm gì?" Như Yên nói sau một lúc im lặng. Má nàng đỏ rựng, đôi mắt đầy vẻ bối rối. Nàng quả tình không nhớ chút gì chuyện đêm trước. 

"Hôn." Hắn chỉ buông ra một chữ, thấy màu đỏ đã lan ra đến tai Như Yên. Nàng đứng dậy, chỉ tay vào hắn, lắp bắp không nói nên lời. Nàng hất tay, quay lưng bỏ về phòng, quên cả tờ giấy trên bàn. Ra đến cửa, nàng chợt quay lại, ánh mắt cháy bùng như lửa. 

"Ta cấm ngươi để lộ cho Sa biết!" Nàng quắc mắt mà gằn giọng. Chớp mắt, cái bóng nhỏ đã biến mất sau lối vào nhà. 

Còn lại một mình, hắn ngửa cổ nhìn lên trần nhà tối sẫm. 

Thế ra tiểu yêu tinh thực sự không có ý đồ ám muội. Nhưng lần này có thể hắn lại gây tổn thương cho nàng ta? Tiếng đổ vỡ phát ra từ phòng của Như Yên. Có vẻ nàng đã vấp vào đâu đó. Hắn ngoái đầu gọi Quế ngoài cửa vào xem Như Yên. Một lúc sau thằng bé chạy ra, kéo áo hắn mà ghé tai thì thầm. 

"Anh làm tiểu thư giận lắm. Cô ấy đang lầm bầm sẽ giết anh bằng được." 

Sau lưng hắn nổi lên một trận ác hàn. Hắn lại tưởng nàng ta là ai? Tiểu yêu tinh định giết người diệt khẩu, cũng không phải là không có khả năng. 

*** 

Quả nhiên, yên lặng được một đêm, sáng hôm sau đích thân Như Yên đã đến gõ cửa phòng hắn. 

"Ngươi theo ta ra ngoài." Nàng nói khi vừa thấy mặt hắn, khuôn mặt lạnh băng. "Sa vẫn chưa về." 

Lời vừa dứt, cánh cửa đã đóng sập vào mặt hắn, ra hiệu cho hắn thay quần áo đi theo nàng. Vết thương trên vai vẫn chưa buộc lại, hắn cũng vội vàng thay đổi mà đi ra cùng Như Yên. Nàng đuổi hắn ra ngồi ngoài với mã phu, im lặng suốt quãng đường. Xe đi dọc bờ sông về phía Tây, đến khu thành cổ Simhapura của người Chiêm Thành cũ. Vẫn còn khá nhiều làng Chiêm ở đây, xen lẫn với làng mạc của người Kinh. Xã Trà Kiệu ra đời sau khi vua Lê Thánh Tông đánh thành Đồ Bàn, là xã rộng lớn nhất của Quảng Nam, cư dân sống trong vùng như một ngôi làng khổng lồ. Vừa qua mùa thu hoạch, những đống rơm vàng còn nguyên mùi cỏ chất cao ngất hai bên đường đi. Lúa đang được rải phơi trên những khoảng sân rộng. Cánh đồng chỉ còn những rễ rạ ngắn phơi mình trong nắng. 

Trời nắng nóng, nhưng không khí băng lãnh vẫn bám chặt lấy lưng hắn. Ngay cả tên mã phu cũng nhận thấy, chỉ ngậm miệng mà làm theo chỉ dẫn của Như Yên. Đến giữa trưa bọn hắn mới tới nơi định sẵn là một ngôi làng trong vùng. Như Yên vẫn thỉnh thoảng đến đây liên hệ với ông trưởng tộc. Đất mới vừa lập được hơn hai trăm năm, dân di cư trong vùng tôn xưng mười ba tộc họ lớn của nhóm người khai khẩn làm chủ. Các chi tộc họ vẫn thường phân công cúng lễ tại nhà thờ lớn vào mỗi dịp xuân, hạ, đông. Xã Trà Kiệu rộng lớn hàng ngàn dặm, dân cư đông đúc lại có liên hệ phức tạp, hẳn nhiên là nơi triều đình phải để tâm. Đất mới, dân sống thành làng xóm, người nắm giữ quyền lực ảnh hưởng thực sự trong vùng là các trưởng làng trưởng họ. Vừa qua mùa thu hoạch, Như Yên thường đến thăm hỏi chuyện mua bán thuế khóa qua ông trưởng làng đang giữ chức vụ trông coi cả vùng. Mọi ngày Sa vẫn đi theo nàng, lúc này thì nàng để hắn đứng ngoài cửa, một mình vào trò chuyện với ông lão râu tóc bạc trắng. Qúa bữa trưa, nàng dẫn hắn cùng mã phu ra cao lâu cạnh dòng sông ăn uống. Thủy chung từ đầu đến cuối nàng không nhìn qua hắn lấy một lần. Đến lúc ăn cơm, nàng cũng ngồi riêng một bàn, quay lưng lại. 

"Có chuyện gì vậy?" Gã mã phu nghiêng người về phía hắn mà hạ giọng hỏi. Gã vốn là người quen của Như Yên, thường xuyên đánh ngựa cho nàng nếu có việc, vẫn quen thấy hắn cùng Như Yên hoạt nháo trên đường. Thái độ này, không cần nói cũng biết là có chuyện xảy ra. 

Hắn không trả lời, chỉ cắm cúi ăn. Bên bàn kia, Như Yên hừ nhẹ, buông đũa xuống, nói mà không quay đầu lại. 

"Chiều nay ta về theo đường thủy. Chú Mã cứ đánh ngựa về trước." 

Ném hắn xuống sông xóa sạch dấu vết? Hắn không thể đừng mà nảy ra ý nghĩ ấy trong đầu. Cất công đi đến nơi xa xôi thế này, lại vòng về bằng đường khác. Chiều tối rừng vắng sông lạnh, ai biết đấy là đâu. 

Nhưng hắn cũng không lên tiếng, tiếp tục đi theo Như Yên đến những nơi khác. Nàng càng đi càng dấn sâu vào những khu vực hẻo lánh, đến thăm cả một bà lão trong chùa - mà bản tử vi đêm hôm trước chính là xem cho bà ta. Vì nó, hắn lại phải múa bút tính thêm cho nửa chục người nữa, dằng dai cho đến lúc chiều tối. Mã phu thả bọn hắn ở lại một bến sông rồi giục ngựa đi về. 

Như Yên vẫy một chiếc thuyền buôn ngang qua để đi nhờ. Thuyền vừa từ trong núi ra chở trầm hương và một số loại gỗ thơm đến chừng nửa khoang. Bọn hắn ngồi trong nửa khoang còn lại. Khoanh tay một lát, Như Yên cuối cùng cũng liếc mắt sang hắn, chậm rãi mở miệng. 

"Ngươi bảo ta muốn đánh muốn giết ngươi đều được?" 

Đến lúc rồi. Hắn thở ra mà gật đầu. 

Như Yên mơ hồ cười. Nàng ngoảnh đầu nhìn ra cửa khoang. 

"Ta không cần đánh giết ngươi, nhưng ngươi làm cho ta một việc." Giọng nàng có sự tính toán rõ rệt. "Lát nữa, nếu có chuyện xảy ra, nhớ làm theo lời ta." 

Lời còn chưa dứt, chuyện đã xảy ra. 

Chiếc thuyền chợt rung động mạnh khi tiếng kim loại va chạm nhau loảng xoảng vang ngoài đầu thuyền. Như Yên vẫy tay không cho hắn đi ra, ra hiệu hắn lui cửa sau khoang mà lẩn về phía đuôi thuyền chất đống gỗ được ràng chặt vào nhau, gió thổi tạt toàn mùi mạt cưa. Từ sau đống gỗ nhìn lại, thấy hai ba chiếc thuyền nhỏ đã chặn đầu thuyền buôn, chừng hai chục kẻ ăn mặc rách rưới, mặt bịt khăn kín đang giao đấu với hộ vệ của thuyền. 

"Thuyền chở trầm hương hay bị cướp ở đây." Như Yên bình thản nói. Nàng nheo mắt nhìn đám hỗn chiến trong thứ ánh sáng nhập nhoạng của đèn treo đầu thuyền. 

Trầm hương là thứ sản vật vô cùng đắt giá trong rừng núi vùng đất này, hẳn nhiên cũng là thứ mà người người tranh đoạt. Triều đình có lúc ra lệnh kiểm soát buôn bán trầm hương ra nước ngoài, nhưng không hạn chế được nạn buôn lậu. Tàu buôn trầm hương cũng có hệ thống thủ vệ lão luyện để chống lại bọn cướp hay tranh giành với nhau. Bọn cướp tuy đông nhưng vẫn đánh ngang ngửa với thủ vệ trên thuyền. Như Yên kéo hắn lùi hẳn ra sau, lựa lúc thuyền tấp vào gần bờ mà nhảy lên rừng. Nhưng nàng không có ý định bỏ chạy, chỉ nấp trong lùm cây mà chăm chú quan sát trận chiến trên thuyền. 

Trong núi có tiếng vang khe khẽ, rồi thêm chừng chục thuyền nhỏ nữa từ đầu nguồn xô đến. Một kẻ có dáng vẻ thủ lĩnh, mặt không bịt khăn, râu ria xồm xoàm trên khuôn mặt chữ điền đen nhẻm ra hiệu cho bọn đàn em nhảy lên thuyền. Thấy gã, Như Yên giật tay áo hắn. 

"Bắt gã về cho ta. Bắt sống." Nàng nói thản nhiên như yêu cầu người ta hái hoa về cho nàng. Nhưng lời đã hứa, hắn chỉ có thể y theo. Để Như Yên ở lại, hắn băng rừng về phía chiếc thuyền thủ lĩnh bên kia. Bọn cướp đối với hắn thật không phải vấn đề gì lớn. Bọn thảo khấu trộm cướp lẻ tẻ thường dựa vào số đông hiếp đáp người, võ công không cao. Bắt tên thủ lĩnh, coi như là trừ họa. 

Lựa thế đạp lên phiến đá nghiêng ra dòng sông, chỉ một cú nhảy, hắn đã phóng lên đầu thuyền của thủ lĩnh bọn hải tặc. Gã giật mình lùi lại khi thanh kiếm của hắn không biết từ đâu phóng tới. Nhưng thân thủ gã nhanh dị thường, chớp mắt đã thoát ra khỏi tầm tấn công của hắn, đáp lên đuôi thuyền nhỏ. Thân hình gã kềnh càng mà chân đạp lên thuyền không một tiếng động, mực nước dưới thân thuyền cũng chỉ hơi chao đi. 

"Võ công Thiếu Lâm?" Hắn nhíu mày, nhận ra ngay được thân thủ quen thuộc. Tuyệt không phải là thân thủ của bọn giặc cỏ. Một tay gã cầm đao ngắn, thắt lưng lại đeo song hổ vĩ côn. 

Nghe lời nói của hắn, gã thủ lĩnh thảo khấu cười gằn. Qua khắc kinh ngạc ban đầu, gã múa đao xông tới. Chiêu thức có vẻ cường ngạnh hung mãnh mà xuất thủ nhanh nhạy nhẹ nhàng kỳ lạ. Chỉ thấy ánh đèn nhoáng qua, thanh đao như chớp sáng đã bổ xuống đầu hắn, lực đạo chẻ đôi cả núi. Hắn nghiêng người tránh, quyền từ dưới hông gã đã xuất ra theo thế Hoa Vinh xạ tiễn, buộc hắn tung người nhảy hẳn lên thành thuyền. 

Chiếc thuyền vừa chao nghiêng, tấn trụ của gã râu rậm đã đạp xuống, giữ thuyền ở mấp mé mực nước - mà như hất hắn bay ngược trở lại. Mũi chân búng vào thớ gỗ, hắn theo thế Tịch Dương Hàn Khánh[1] nhẹ nhàng phóng lên không, thanh kiếm bung ra trước như màn hoa tuyết. Biết đã gặp đối thủ lợi hại, hắn không còn dám khinh suất, dốc toàn lực đánh trả. 

Thân thủ gã râu rậm cương mãnh, theo thế Ngũ Hình quyền liên tục biến chuyển tấn trụ trên chiếc thuyền chòng chành. Hắn thì lại nhẹ như lá trong cơn gió, theo thế tấn công của gã mà di động. Thoáng chốc, cả hai đã đánh hơn chục chiêu. Như Yên bảo hắn bắt sống gã, hắn cũng không tung sát chiêu lấy mạng, chỉ chờn vờn lựa thế. Thuyền chênh chao, hắn phải vận khí trụ tấn lấy thăng bằng, mỗi cử động phía bên trái đều làm vết thương trên vai nhói lên. Hắn rõ ràng thấy miếng vải buộc sơ sài lúc sáng đang dần tuột xuống nhưng không dám phân tâm, chỉ chuyên chú khuấy đảo kẻ địch. 

Thân pháp gã nhanh nhẹn không thua gì hắn, thật ra không hề thua kém đệ nhất cao thủ. Sau một lúc giao đấu, thấy không chiếm được thế thượng phong, gã liền rút cả song hổ vĩ côn bên thắt lưng ra, múa vun vút bên tay trái nhằm triệt đường tiến thoái của hắn. Song hổ vĩ côn gồm hai chiếc gậy ngắn nối với nhau bằng sợi dây mềm, cực kỳ linh hoạt như một con rắn sống mà lực đạo kinh người. Hắn vừa lách qua tránh thoát, thanh côn đã đập vào bể nát thành thuyền, đập gãy cả cột đèn. Chiếc đèn rơi xuống sông, bùng lên một lần cuối rồi tắt ngấm. 

Trong tiếng xèo xèo của bấc đèn cháy, hắn nghe tiếng gió rít lên, vội vàng hụp người xuống, gần như lăn ra sàn thuyền, vừa lúc tránh được ngọn giáo ngắn phóng tới. Bọn cướp có vẻ đã chiếm thế thượng phong với đám lái buôn, thấy lão Đại bị nguy hiểm nên ra tay tương trợ. Hắn vừa cúi xuống, thanh côn đã đuổi theo đập vào vai. Cú đập không mạnh nhưng đau dội vào não hắn. Hắn bạt kiếm phóng ngược lên, chém đứt đôi thanh côn, nhằm ấn đường gã râu rậm đâm tới. Gã vội lùi về sau, chừa lại một sát na cho hắn lảo đảo đứng dậy. 

Không nói không rằng, hắn trở kiếm đâm xuống lòng thuyền, khoét thủng một lỗ lớn. Lưỡi kiếm hất lên, nước cùng mảnh gỗ, dăm vụn rào rào nhắm gã râu rậm lao đến. Chớp ngay lấy thời cơ, hắn sử chiêu Bích Hải Lạc Nhạn nhằm năm tử huyệt gã điểm tới. Múa côn vun vút gạt kiếm của hắn, gã lại mất đà tấn trụ khi nước tràn ồng ộc vào thuyền, vội nhảy lên bờ. Hắn chỉ chờ có thế liền bám theo sát gót. Không để cho gã kịp định thần, chiêu Trụy Vũ Lưu Thủy[2] đã như chiếc lồng chụp xuống từ trên cao, luồn lấy thanh đao trên tay gã, chỉ một cái hất nhẹ đã làm nó bắn ngược lên không. 

Nhưng những mũi giáo vẫn không buông tha hắn. Năm chiếc giáo ngắn nhắm hướng hắn mà phóng đến, hắn nhún chân nhảy qua đầu gã râu rậm, bức gã quay lưng lại dòng sông. 

Ánh lửa chợt bùng lên trên sông. Chiếc đèn treo đầu thuyền buôn đã rơi xuống trong cơn hỗn chiến, giờ đang cháy phừng phừng trên sàn thuyền. Đám thảo khấu phân phối một nửa nhảy ra sau vận chuyển trầm hương về thuyền, một nửa xông về phía hắn. Trong lòng hắn thoáng hoang mang. Thuyền buôn cũng đã cháy, nếu bắt được gã đầu lĩnh này cũng không thể bình an đem gã thoát khỏi vòng vây bọn đàn em. Huống hồ còn có Như Yên đi cùng. 

Trong sát na hắn đưa mắt về ngọn lửa trên sông, gã râu rậm đã trả đòn. Nửa thanh côn còn lại trong tay gã phạt ngang trong khi đầu ngón tay vươn ra theo thế cầm nã thủ, chụp trúng vào vai trái hắn. Thế đòn này trông nhẹ nhàng vô hại, thật ra chỉ một cái lật tay đã có thể bóp nát xương. Hắn vặn người tránh được, đầu vai đã đau đến mờ cả mắt. Gã râu rậm đã ngay lập tức lấy lại thế trận, múa Phá Sơn quyền không cho hắn lấy hơi. 

Quyền thuật Thiếu Lâm phương Nam phổ biến nhất là chiến thuật Tầm Kiều - Phá Mã, đo lường khoảng cách của bản thân và đối thủ, triệt tiêu bộ tấn của đối phương, ngăn chặn thế tấn công của kẻ địch ngay từ khi khởi đầu. Hắn bức gã râu rậm lên bờ để phá thế Tầm Kiều trong khoảng cách chật hẹp của chiếc thuyền, chỉ lơi lỏng đã bị gã đảo thế ngược trở lại. Đòn nối tiếp đòn như vũ bão, không cho hắn có thời gian tấn công. Đã thấy ánh lửa chói mắt ở bờ sông ngày càng gần. 

Nếu không nhanh chóng giải quyết gã sẽ gặp rắc rối lớn. Nghĩ vậy, bất chấp tay trái đã đau gần tê bại, hắn vừa sử kiếm vừa vươn ngón tay điểm ra, trúng vào dưới cánh tay gã râu rậm. Phản lực hất văng tay hắn đi, nhưng cũng đủ cho tay gã ngừng lại, nửa thân trên sơ sẩy. Hắn nhắm ngay vai gã đâm tới. 

Kiếm cùng hắn bị hất văng ra sau. Hai bàn tay gã xòe như hình cánh quạt, che đỡ lấy thân người. Ở nơi mũi kiếm hắn đâm vào, chỉ có một giọt máu nhỏ ri rỉ. 

Thiết Chưởng công, môn ngạnh công biến thân thể thành thép. Nhảy lùi xa khỏi gã cùng toán cướp vừa tới trợ lực gần mười thước, hắn thầm than nhẹ. 

Vô thức, hắn đưa mắt về phía lùm cây mà Như Yên đang ẩn náu. Thấp thoáng thấy chiếc bóng mảnh mai lẫn trong cây dày. Nàng đã lặng lẽ tiến sát về phía trận giao đấu, hiện tại đang khoanh tay nhìn hắn. Bụi cây rậm che tất cả ánh nhìn từ phía dòng sông ngược lên, nhưng tại vị trí này hắn lại thấy rõ ràng khuôn mặt nàng từ trong rừng tối. Ánh lửa chói sáng từ chiếc thuyền đang cháy trên dòng nước soi tỏ một nửa khuôn mặt nàng - cùng khóe môi nhếch nhẹ. 

Nàng nhìn hắn, phảng phất cười. 

Chú thích:  

[1] Tịch Dương Hàn Khánh: Tịch dương y cựu lũy, Hàn khánh mãn không lâm. Trích Thu nhật đăng Ngô Công đài thượng tự viễn diểu của Lưu Trường Khanh.  

[2] Trụy Vũ Lưu Thủy: "Trụy vũ dĩ từ vân, Lưu thủy nan quy phố". Trích Sinh tra tử của Án Kỷ Đạo. 

Hồi 50: Nộ khí  

Đến khi ấy, hắn mới biết rằng mình đã quên mất thế nào là đau lòng. 

Ngươi như chim sợ cành cong, bất cứ khi nào cũng chực bay đi mất. 

Lời người đã nói, cũng chẳng còn nhớ chút gì. Rượu vẫn còn hơi cay trong cổ, đã ngoảnh mặt quay lưng. Môi hồng đêm trước, giờ mỉm cười nhìn hắn lâm vào tử địa. 

Sinh ra trong khói lửa, lớn lên trong tranh đoạt, mắt nhìn thấy mạng người như cỏ, hắn vốn đã quên mất rằng có thể vì một người mà đau lòng. Rượu bồ đào như máu đỏ, cơn say tràn lấp ngày tháng, lãng quên và ra đi không phải là chuyện hiếm hoi, lòng người bạc ác không phải là điều lạ. Rời khỏi quê hương, rời xa mẹ già, mất đi tất cả những gì mà con người có thể nắm giữ, đã coi được mất như gió thoảng. Cứ bay đi, có nhớ nhung nhưng không thương tâm, có cảm thương nhưng không quyến luyến, ái tình cũng như nước trôi. 

Hà cớ gì, vì một người trở mặt mà đau lòng? 

Cô gái ấy, ngay từ ngày đầu tiên đã chỉ lợi dụng hắn, vẫn đang lợi dụng hắn cho đến tận bây giờ. Giả trá âm độc, lừa người dối trời, trở mặt như trở bàn tay, chẳng có gì nàng ta không dám làm. Độc ác gian ngoan, tột độ vô tình của nàng, đâu phải hôm nay hắn mới biết. 

Thậm chí theo nàng ta đến đây, chẳng phải hắn đã biết rằng nàng sẽ ra tay? 

Hắn nghe âm ẩm bên vai trái, hẳn vết thương đã toác miệng. Rời mắt khỏi Như Yên, hắn nhìn về phía đám thảo khấu đã tập hợp sau lưng thủ lĩnh. Ánh lửa soi sáng những cặp mắt như dã thú nhưng chẳng có vẻ phẫn nộ hay quyết liệt, một vài kẻ thậm chí có vẻ tò mò nhìn hắn. Hắn lao đầu vào đánh nhau với chúng, rốt cuộc vì cái gì? 

Lòng bỗng lạnh ngắt như tro tàn, hắn phất tay, tra kiếm vào vỏ. 

"Các ngươi muốn lấy gì thì lấy, ta đi." Hắn nói, chầm chậm bước ngang trước mặt bọn cướp. Không kẻ nào tiến tới, ngay cả tên đầu lĩnh. Chúng đã thấy võ công của hắn, và biết rằng không nên liều mạng. Dù cả bọn xông tới, vẫn có kẻ phải hy sinh. Gã thủ lĩnh biết vừa rồi hắn không đánh hết sức, liệu có nên tiếp tục lưỡng bại câu thương? Nếu không cần thiết, hẳn nhiên không kiếm thêm việc để làm. 

Vẫn quay mặt về phía bọn cướp, hắn đến phía lùm cây kéo Như Yên về phía dòng sông. Hẳn bọn cướp cũng chẳng phản đối khi hắn lấy một chiếc bè nhỏ ọp ẹp của chúng. Loại bè bằng thân chuối này chỉ cần vài nhát dao là có thể kết thành. 

"Dừng lại!" Giọng ồm ồm của gã đầu lĩnh chợt vọng sau lưng hắn, ngay khi chân hắn vừa chạm đến bờ đất của sông. "Đàn bà thì để lại." 

Tiếng rì rầm đã lan ra trong toán cướp, ngay cả đám đang vận chuyển trầm hương trên thuyền cháy cũng trố mắt nhìn về phía hắn. Lúc kéo Như Yên đi, hắn đã cẩn thận giấu mặt nàng vào vai hắn, nhưng vẫn không tránh thoát cặp mắt đói khát của toán người sống lâu trong rừng này. 

"Ai muốn chết thì chạm vào cô ấy." Hắn đứng lại trên bờ đất, nói mà không quay đầu. Lòng cầu trời cho Như Yên biết tình thế lúc này mà không giở trò khiêu khích. Dù muốn giết hắn, nàng hẳn cũng không muốn lọt vào tay đám người này. 

Nhưng tiếng rì rầm ngày càng lan rộng, đã mang vẻ phấn khích tột độ. Gã đầu lĩnh sau câu nói bị hắn đáp trả đầy khinh mạn cũng đã nóng mặt. Gã phất tay, gươm giáo đồng loạt được tuốt ra, chĩa vào lưng hắn khi vòng vây dần siết chặt. Ngay cả những chiếc thuyền ngoài sông cũng đã quay hướng vào bờ. 

"Che mặt lại." Hắn nói với Như Yên khi buông cánh tay vẫn che khuôn mặt nàng ra. Quay người trở lại, hắn chầm chậm tuốt kiếm. 

Kiếm vừa rút khỏi vỏ, đã phóng xuyên qua ánh lửa. 

Kiếm quang như băng tuyết, tỏa sáng rợn người. Thân ảnh như lốc xoáy, thấy bóng không hình. Nộ kiếm bạt phong, gươm giáo gãy rạp. Kiếm bay tựa chớp lòa, đan kín thiên không. Đám người đứng gần hắn nhất văng ra bốn phía, máu dội xuống cỏ khi những phần thân thể vẫn còn rơi rớt. 

Kiếm, vốn là để lấy mạng người. 

Bảo kiếm, là thứ vũ khí uống máu vạn người. 

Người người trân quý, muôn kẻ tranh đoạt, vốn chỉ vì như vậy. Sinh thành để hủy hoại, sinh tồn để huỷ hoại. Lưỡi kiếm sắc vì lướt qua máu đỏ. Tay kiếm vững vì tâm không động trước sinh linh. 

Không nói một lời, hắn chĩa kiếm về phía gã đầu lĩnh. Không phí một khắc, hắn đạp gió lao đến. Tấn trụ của gã trên đất liền như núi đá, trảo tung ra theo thế Hổ quyền vươn đến định chụp lấy hắn. Thanh kiếm kêu đinh đinh hai tiếng, vút lên không rồi bất chợt nhằm giữa gáy gã đâm ngập xuống. Kiếm mềm như lụa, phảng phất như gió, bao quanh lấy thân thể gã, đột nhiên lia thẳng vào yết hầu. Gã hoảng hốt lùi về sau, nhận lãnh nhát chém sả vào bả vai. Lực đạo mạnh đến mức gã gần như sụm chân xuống đất. 

Máu từ vai gã bắn thẳng vào mặt hắn. Từ bốn phía, giáo mác chợt bắn vun vút về phía hắn. Không nhìn đến gã râu rậm, hắn đạp chân lên vai gã, lấy đà phóng lên cao. Bóng xanh như lạc nhạn nhằm ngay đám cướp vừa phóng giáo bổ xuống. Toán người không kịp kêu một tiếng, hàng loạt đầu đã lìa khỏi cổ, lăn lông lốc trên nền rừng. Đám người còn lại hãi hùng bỏ chạy, những chiếc thuyền trên sông đã lặng lẽ chèo đi mất từ lúc nào. Bên sông chỉ còn Như Yên đứng nhìn về phía trận chiến, một bước cũng không động. Hắn cúi xuống điểm huyệt tên đầu lĩnh đã nằm dưới đất, kéo đến ném trước mặt nàng. 

"Người của cô đây." Hắn nói cùng tiếng thân thể kềnh càng rơi phịch xuống đất. Như Yên chỉ trừng trừng nhìn hắn, đôi mắt mở lớn trong khi làn da tái đi. Biểu hiện này làm hắn nhớ đến Hiểu Lam ở bờ biển hôm nào. 

"Ta nên rời khỏi đây." Hắn vẫn đều đều nói, đưa mắt nhìn quanh. May mắn, vẫn còn khá nhiều thuyền ở cạnh bờ. Hắn tìm một chiếc thuyền chắc chắn, ném gã đầu lĩnh lên rồi bảo Như Yên canh giữ, bản thân chống thuyền chèo đi. 

Rời khỏi đám cháy của chiếc thuyền buôn, bọn hắn lọt vào vùng tối dày đặc dưới những lùm cây trước khi thuyền ra đến dòng sông lớn. Trăng sáng vằng vặc trong tiếng côn trùng kêu ran từ bốn phương đổ lại. Những đợt sóng bàng bạc loang ra, trải rộng, liên tục vỗ vào mạn thuyền, dưới mái chèo. 

"Vết thương của ngươi..." Cuối cùng, Như Yên mở miệng. Nàng đứng dậy đến bên hắn, kéo tay hắn. "Để ta xem vết thương cái đã." 

Yên lặng một chốc, hắn buông chèo ngồi xuống. Như Yên kéo vai áo hắn xuống, cẩn thận lấy khăn lau đi vết máu đã loang đỏ cả bả vai. Nàng lấy bình thuốc nhỏ trong người rắc lên vết thương, chầm chậm lau lại lần nữa. Máu vẫn còn chưa khô, không ngừng trào ra từ vết thương rách toác. Tấm khăn thấm ướt, nàng kéo áo xé vạt đắp lên. 

"Ngươi không cần giận như vậy." Cắn môi một lúc, Như Yên thì thầm. Có vẻ hắn thực sự đã làm nàng sợ. 

"Ta không giận." Hắn lắc đầu, vẫn nhìn theo những đợt sóng trăng lăn tăn không dứt, loang vào bóng tối. "Thật ra... ta ở trên chiến trường, chính là như vậy." 

Rượu đỏ như máu, máu đỏ như rượu. Cô gái này, khi đọc những vần thơ ấy, có thực sự hiểu được chăng? Gần mười năm, hắn nghĩ mình đã quên cảm giác ấy. Nhưng cũng như hắn tưởng mình đã quên thế nào là đau lòng, rốt cuộc chỉ là ảo giác. 

Như Yên lặng lẽ buộc lại vết thương trên vai hắn. Nghĩ một lúc, nàng nhúng tay xuống sông, dùng tay áo lau máu trên mặt hắn. Hắn rùng mình khi bàn tay nho nhỏ chạm vào má, cùng giọt nước lạnh lăn xuống cổ. 

"Đẹp trai lại rồi." Như Yên cười khi đã lau sạch vết máu, ngón tay nàng vuốt lại những sợi tóc lòa xòa trước mặt hắn. Nàng vỗ vỗ vai không bị thương của hắn. "Ngươi không nhíu mày nữa sẽ dễ thương hơn nhiều." 

"Chuyện vừa rồi coi như ta sai. Ta giận quá định để chúng đập ngươi một trận cho bõ ghét." Ngồi xuống cạnh hắn, Như Yên nói như một chuyện bình thường nhất đời. "Ta không biết ngươi bị thương. Ai đâm ngươi vậy?" 

"Tập trận lỡ tay." Hắn thở ra. Cô gái này sao có thể nói đánh nói giết người khác dễ dàng như vậy? Quả thật như Hoắc Phương nói, nàng ta có điểm rất không bình thường. 

Như Yên nhìn hắn, đột nhiên bật cười. 

"Gây họa rồi loạng choạng tay chân phải không?" Nàng hỏi, rồi cũng gật gù tự trả lời. "Đúng là nên để Hiểu Lam đâm tên ngốc nhà ngươi một cái." 

"Không liên quan đến Hiểu Lam." Hắn vội nói. Để tiểu yêu tinh nghĩ lung tung, không hiểu nàng ta sẽ biến câu chuyện thành thể loại gì. Như Yên liếc mắt lườm hắn. 

"Nếu không phải Hiểu Lam thì còn ai khác nữa?" Nàng nhướng mày. "Tên hoa tâm nhà ngươi đêm trước hôn ta, sáng hôm sau chạy đi hẹn hò, tối về tỉnh bơ bảo ta quên chuyện cũ đi, đừng bảo là vì còn ai đứng xếp hàng ngoài cửa nữa." 

"Ta nói thế bao giờ?" Hắn thật tình dở khóc dở cười trước lối tường thuật suy diễn của tiểu yêu tinh. Ngón tay nàng ta điểm vào mũi hắn. 

"Cần ta nhắc lại? Ngươi bảo ta nhận lầm người, phải cẩn thận gì gì đó, trong khi chính ngươi là tên sắc lang ban đêm xông vào phòng ta, còn dám nói cái gì 'Ta ở đây'..." 

Như Yên ngưng bặt, tự nhận ra mình lỡ lời. Nhưng lời nàng ta nói ra như sét đánh ngang tai hắn. Mặt Như Yên đỏ cho tới cổ, nàng đột nhiên đập tay xuống sàn thuyền mà cao giọng. 

"Tên vô phúc nhà ngươi nhắc lại làm ta nhớ ra, càng nhớ càng tức, càng tức càng muốn bẻ cổ ngươi. Ngươi coi ta là cái gì? Ăn vụng xong thì chùi mép? Khinh bạc xong thì coi như không có chuyện gì? An ủi ta chỉ là để ngươi lợi dụng? Gây lỗi rồi cứ đâm đầu đi trả là coi như hết chuyện? Đã thế thì ta đạp ngươi xuống mười tám tầng địa ngục cho chừa tật nói láo. Muốn xin lỗi thì xuống Diêm Vương mà xin, ai cần?" 

"Không xin lỗi thì ta phải làm gì bây giờ?" Lưng hắn đã đổ mồ hôi lạnh. Hóa ra nàng ta giận hắn vì mấy lời nói, càng xin lỗi thì càng giận. Nữ nhân à nữ nhân, lối suy nghĩ này hắn có mười đời cũng không hiểu. 

Như Yên mím môi không trả lời, ngẩng đầu nhìn trời. Một lúc, nàng thở ra. 

"Thôi, quên đi. Ta rất nhiều tính xấu, lúc say thường hành xử không ra gì, cũng không phải lỗi tại ngươi. Lần sau nếu thấy ta như vậy thì cứ làm như Sa thường làm, đừng đôi co gì mà lấy chăn quấn lại cho ngủ một giấc là xong." 

Còn có lần sau? Hắn nuốt câu hỏi xuống cổ. Mà với Sa thì nàng ta cũng hành xử y như vậy? Đêm đó là nàng ta nhận lầm hắn với Sa, có phải? 

"Y kiềm chế tốt hơn ngươi." Nhận ra ý hắn, Như Yên hung hăng liếc mắt. "Y lúc nào cũng im như thóc, chỉ chực ném ta vào giường rồi chuồn, đâu có lắm mồm như ngươi. Mà cũng là..." 

Như Yên chợt đỏ mặt không nói tiếp, vội vã quay đầu nhìn trăng. Hắn cúi đầu nhìn mũi chân một lúc rồi cười khẽ. 

"Với ta, Sa rất quan trọng." Hắn dùng giọng trầm ổn nhất mà nói. Trong lòng chợt thấy hoang hoang buồn. "Sa là huynh đệ của ta. Ngay cả mạng ta cũng là do y cứu. Nếu y muốn lấy mạng ta, ta cũng hai tay dâng lên. Cho nên, ta chỉ muốn nói là... Sa rất tốt, không phải như vẻ ngoài đâu." 

"Ta không cần ngươi nhắc." Như Yên nhàn nhạt nói, vẫn không nhìn hắn. Vẫn là thái độ nàng thường tỏ ra khi nhắc đến Sa. Chuyện giữa hai người bọn họ, hắn không thể liên can vào. Mỗi khi hai người họ ở cạnh nhau, hắn đơn giản là không hề hiện diện. 

Hắn chống tay đứng dậy với lấy mái chèo, Như Yên liền nắm tay áo hắn giữ lại. 

"Chờ chút." Nàng vừa nói vừa lấy trong áo ra một thanh pháo hoa ngắn cùng đá đánh lửa. Châm thanh pháo hoa, nàng ném nó lên cao. Pháo hoa nổ, bắn tung trên nền trời. 

"Ta cũng không muốn ở một mình trong rừng." Như Yên vừa cười vừa nói. "Nếu ngươi làm ta nguôi giận, ta cũng gọi người đến cứu ngươi." 

"Xem gã chết chưa." Hắn nhìn về phía kẻ đang nằm chất đống ở cuối thuyền. Đã biết tính cô gái này vui giận bất thường, hắn cũng chẳng lấy làm lạ nữa. Như Yên bĩu môi nhún vai. 

"Bị thương như thế thì chưa chết được. Cho gã chảy máu hết hơi hết sức đi thì vận chuyển dễ hơn." Nhìn ánh mắt tiểu yêu tinh, có cảm giác nếu gần hơn chút nữa, nàng ta đã giơ chân đá bồi gã thêm vài cái. Hắn khe khẽ thở ra. 

Thôi, coi như gặp phải nàng ta là chuyện không may của hắn đi vậy. 

*** 

Phía sau ngôi nhà, gần với gian chứa củi là một căn phòng đắp đất rất hẹp, thường xuyên đóng kín. Hiện tại, căn phòng lại có người. Tay chân gã đã bị kháp chặt vào những gông cùm chôn sâu trong tường, trong đất, để gã ngồi dựa vào tường, chỉ có đầu có thể tự do quay qua lại. Gã đã tỉnh, hiện thời đang nhìn trừng trừng lên trần nhà chằng chịt mạng nhện tối mờ. Phòng không có cửa sổ, chỉ có vài cái lỗ thoát khí nằm sát dưới nền. Ánh sáng chói lòa hắt vào làm gã nhận ra đây là buổi sáng ngày. 

Tiếng khóa lách cách bên ngoài trước khi cánh cửa mở rộng. Thằng bé vừa đưa cơm đêm trước đẩy cửa vào, theo sau nó là hai người một nam một nữ. Người nam tóc dài buông phủ cả mặt, lưng đeo đao. Cô gái áo hồng nhỏ nhắn có khuôn miệng kiêu kỳ nhếch nhẹ. Nàng ta không tránh ánh mắt gã phóng vào mình, cười tươi như hoa đào tháng ba. 

"À, ngươi tỉnh rồi." Gã nghe giọng nói này có vẻ quen quen, như thể giọng đã nghe trên thuyền đưa gã về đây. Cô gái gật đầu, lấy ghế ngồi ngoài cửa chứ không bước vào phòng. Tên thanh niên kia đứng khoanh tay sau nàng ta. 

"Người đã tỉnh, vết thương cũng đã chữa." Ánh mắt cô gái nhìn từ chân lên đến đầu gã, săm soi chẳng chút ngượng ngùng. "Hôm đó đáng lẽ ta nên đá ngươi thêm vài cái, tên khỉ núi như ngươi làm sao chết được." 

"A..." Gã thở hắt ra khi vết thương trên vai râm ran buốt. Gã đã nhận ra giọng nói này. "Hóa ra ngươi là con bé chàng chàng thiếp thiếp với thằng nhóc đó trên thuyền." 

"Ngươi..." Như Yên trừng mắt nhìn gã. Tên ngốc không đánh trúng đầu hay tai gã, sao gã lại có thể thốt ra những lời điên khùng này? Môi gã nhếch sau hàng râu rậm, khi ánh mắt như của loài báo nhìn nàng từ đầu xuống chân. 

"Quả là tiểu mỹ nhân, chẳng trách thằng nhóc nổi điên khi nghe đến ta đòi lấy ngươi." Gã dùng giọng nồng đậm mùi dâm ô mà ê a nhại lại. "Các ngươi lén lén lút lút làm cái gì 'Ăn vụng xong rồi chùi mép', 'ném vào giường'..." 

"Quế, cho tên điên này câm miệng!" Như Yên nghiến răng nói. Thằng bé bên nàng chỉ đợi lệnh mà vung tay. Mấy quả trứng thối bay tới đập vào mặt gã râu rậm, lập tức bốc mùi làm gã nôn ruột, hơi thở tắc lại trong cổ họng mà không biết quay đầu đi đâu tránh né. 

"Lần sau ta lấy phân chuồng nhét vào mũi ngươi." Như Yên chầm chậm mỉm cười khi thấy gã thở phì phì, phun trứng thối chảy vào miệng ra tứ phía. "Đường đường là Quảng Phú lão đại, chết vì phân chuồng thật là hay ho." 

"Ngươi là ai?" Ngửa mặt lên để trứng thối không chảy xuống mắt miệng, gã tên Quảng Phú này trừng mắt nhìn thiếu nữ ngoài cửa. Chiếc quạt uể oải vẫy trong tay nàng ta. Gã không ngạc nhiên khi thấy nàng ta biết tên mình. Nhóm cướp của Quảng Phú này đã hoành hành bên bờ sông cả nửa năm nay, người trong vùng đều biết rõ. Không phải là quan binh đi vây bắt thảo khấu, cài một thằng nhóc vào thuyền buôn để hắn nhân lúc gã không đề phòng ra tay giết cả nửa toán người, bắt gã về đây. Lúc này nói chuyện với gã lại là một con bé miệng còn hôi sữa, đám người này muốn gì? 

"Người sắp hợp tác với ngươi." Như Yên vẫn cười, nhìn vẻ ngạc nhiên thoáng qua mắt gã. "Ta biết, dùng cách này mời ngươi về không phải là hay ho. Nhưng ngươi lẩn lút trong rừng, ta chẳng biết đâu mà tìm, tìm được thì cũng chẳng biết có nói chuyện được không, hay lại như đêm trước thấy ta là đám người của ngươi nổi thói sài lang lên rồi. Ta dù gì cũng là một nữ lưu chân yếu tay mềm, phải bảo toàn an nguy của mình trước, mới phải dùng đến hạ sách này." 

Lời nói mềm mại dịu dàng nhưng tư thái rõ ràng ngạo nghễ, mục hạ vô nhân, cao cao tại thượng nói xuống một tên giặc cỏ. Nàng ta không định 'hợp tác', chẳng qua chỉ bắt gã về đây uy hiếp để sai phái gã tùy mục đích. 

"Việc gì?" Tuy vậy, Quảng Phú vẫn hỏi. Còn mạng là còn cơ hội. Việc ác trên đời này, có gì mà gã chưa làm qua? Nhìn nàng ta nho nhã hiền lành nhưng lời nói hành động lang độc, việc muốn sai phái một tên cướp như gã chẳng qua cũng chỉ là thứ nàng ta không ra mặt mà làm được. Đốt nhà sát nhân cướp bóc giết chóc, chung quy cũng chỉ là như thế, là những việc gã đã làm hàng ngày. 

"Đi cướp." Quả nhiên Như Yên gật đầu nói. "Ngươi trở về kéo đám đàn em đi cướp cho ta một toán người. Việc xong rồi ta sẽ trọng thưởng." 

"Được." Gã chẳng chớp mắt, nói ngay. Hạng người quyền qúy chẳng qua cũng là như vậy, cướp bóc lẫn nhau, âu chỉ là dùng bàn tay kẻ khác. Dùng đến một tên cướp có tiếng hung ác như gã, sau một cuộc vây bắt trời không biết qủy không hay, quả là phủi sạch mọi dấu vết. 

"Ngươi không hỏi là ai?" Như Yên nhướng mày, chợt bật cười. Gã vẫn nhìn lên trần nhà mà khinh mạn trả lời nàng. 

"Gặp kẻ yếu thì giết, không may gặp kẻ mạnh thì chết, đó là chuyện thường ngày của chúng ta. Cướp cũng đâu được chọn mục tiêu." Lẩn lút trong rừng, thấy thuyền hàng đi qua thì ào xuống đánh giết, lỡ đụng đầu quan binh hay cao thủ - mà hai loại ấy cũng chẳng giăng cờ thông báo bao giờ - thì rút chạy. Lúc no đủ dư dả thì xuống trấn tìm kỹ nữ khoái hoạt một phen, lúc đói thì chặt măng cầm hơi. Lúc chém giết sướng tay, lúc bị người truy sát phải nhảy cả xuống hố bùn. Loại cuộc sống như thế, chẳng phải là cực kỳ đơn giản? 

Như Yên gật gật đầu đứng dậy. 

"Vậy coi như đã thỏa thuận xong." Nàng nói, nửa thờ ơ nửa chán ghét. "Ngươi ở tạm đây một thời gian dưỡng thương, để ta thu xếp xong công việc rồi sẽ bàn luận chi tiết sau." 

Nàng vừa nói vừa vẫy tay cho Quế đến khóa cửa. Cho Quảng Phú lão đại một chậu nước rửa mặt, nàng ngoái lại dặn thằng bé. Cứ đổ từ trên xuống là xong, gã nghe thằng bé lẩm bẩm một mình trước khi xung quanh lại yên tĩnh hoàn toàn. Gã thả bàn tay nắm chặt trong cùm, ngồi yên trên đất. Khắp người gã vẫn còn bải hoải, râm ran như bị kim châm, vô phương vận khí lực, có vẻ đã bị dược liệu khống chế. Nhưng tính mạng gã vẫn còn an toàn, thế là đã đủ. 

"Dùng gã?" Khi đã đi vào hiên nhà, Sa chợt hỏi. Bắt một tên cướp về để đi cướp, y vẫn chưa biết mục tiêu mà cô gái này nhắm đến. Sau một thời gian yên lặng, nàng ta lại bắt đầu những hành động mờ ám. Mấy hôm trước, nàng sai phái y đi theo dõi một cậu bé đến trú ngụ tại Thương Trúc trang, trong lúc bản thân dẫn Tiểu Vũ đi bắt người. Vì cớ gì mà hắn làm theo lời nàng, y thật không hiểu được. 

"Ngươi bảo Thiên Túng đã đến bờ sông Túy Loan?" Như Yên không trả lời y, chỉ trầm ngâm hỏi lại. Sa gật đầu thay cho câu trả lời. Cậu bé ấy dẫn theo hai tùy tùng lặng lẽ đi dọc dòng sông, còn mang theo diều thả chơi, chẳng mấy ai để ý. Thậm chí mượn cớ nhặt con diều đứt dây, cậu ta còn leo vào khu vực mà bọn họ canh chừng bấy lâu nay. 

Như Yên liếc nhìn y. Dù đã lâu không gặp Thiên Túng, y hẳn phải nghĩ ra thân phận của cậu bé mới đến Thương Trúc trang này. Để y theo sát Thiên Túng cũng là nhờ tay y bảo vệ cậu ta. Nhưng cậu bé ấy tinh linh khôn khéo, cũng không phải nhờ đến y ra mặt. 

"Tử Hiên sao lại bị thương?" Sa chợt hỏi. Vết thương trên vai rõ ràng là kiếm chém phải. Hắn nói tập trận lỡ tay, nhưng ai có thể chém được hắn? 

"Sao ta biết được hắn chọc ghẹo ai?" Như Yên nhún vai. Má nàng lại chợt đỏ. Dù chỉ trong chớp mắt, y cũng nhận ra trong ánh sáng ngày rạng rõ màu hồng phấn lan đến tai. 

Trong chớp mắt, Như Yên đã lấy lại bình tĩnh. Nàng nhìn lên y, mím môi. 

"Ngươi cũng không tin mấy lời tên điên kia nói chứ?" Biểu cảm đã biến thành nửa thẹn nửa giận. "Cà cuống chết đến đít còn cay, gã muốn chọc tức ta đấy mà." 

"Ta biết." Y nhàn nhạt trả lời. Mái tóc đã che phủ đôi mắt thanh lãnh của y, cùng sát na xao động thoáng qua. 

Từ bao giờ nàng lại phải đi thanh minh việc mình làm với y? 

Hồi 51: Vào cuộc 

Rằm Trung thu. 

Phương Nam trời mưa. 

Cơn mưa đã rải rác từ chiều tối đang mạnh lên. Khu phố của người Tàu thắp đèn sáng trưng nhưng hầu như không có người đi trên đường, chỉ có tiếng ồn ào trong những ngôi nhà cửa mở rộng. Trong các hội quán, tiếng chiêng trống vang lừng khi những đoàn múa rồng lân vẫn còn biểu diễn trong nhà rộng. Những nhóm trẻ con đuổi nhau dưới hàng hiên, tiếng cười đùa trong như chuông ngân. 

Ngôi chùa nhỏ cũng được thắp đèn sáng theo tục mỗi ngày rằm, nghi ngút khói hương. Bên ngoài bức tường đá, những tiếng động lắng dần, vọng lại qua màn mưa như âm vang của muôn vàn sóng nước. 

Muôn vàn sóng nước chảy trôi, hòa quện dưới cơn mưa không ngớt. 

Căn phòng nhỏ chỉ thắp ngọn đèn bằng hạt đậu, ngọn lửa leo lét trong gió, chợt sáng chợt tối. Tiếng bấc đèn cháy khô khốc như hơi thở của người nằm trong giường. Ánh sáng soi hai chiếc bóng một ngồi một nằm lên bức tường gỗ nâu tối. Hai khuôn mặt già nua bị che lấp dưới tầng tầng nếp nhăn thời gian hằn khắc nhìn nhau. 

Nhìn nhau, qua tầng tầng thời gian. 

"Đại sư, tụng cho ta một bài kinh." Tiếng nói trầm như hơi thở, yếu ớt như hơi thở chợt vọng. Nhà sư ngồi bên giường nhè nhẹ gật đầu, quay lại ngồi trước bàn thờ Phật nho nhỏ trong phòng, lần tràng hạt rì rầm đọc. 

Mọi khi, tiếng cầu kinh này vẫn khiến cho bà nhẹ nhõm. Như thể từng hạt, từng hạt mưa đang rơi xuống mái ngói, chạm vào rêu phong. Như thể tiếng mưa rơi âm vang đồng vọng khắp bốn phương, nước bay như sương bụi trắng xóa đất trời. Như thể bà đã biến thành một hạt cát giữa vũ trụ vô cùng - Và như thế, như thể cuộc đời bà, theo mưa, cũng được cuốn trôi và xóa sạch. Tất cả tan biến, trở thành hư ảo, hư ảo như làn mưa. 

Nhưng giờ thì bà không còn nghe thấy tiếng kinh cầu. Như màn mưa, tất cả đã bị đẩy ra xa, ra xa tít tắp. Bên ngoài cuộc đời bà. Bên ngoài sự hiện diện này. Bên ngoài sự sống đang leo lét cháy như bấc đèn trong gió. 

Ngay cả hư ảo cũng là không thật. Bây giờ thì bà nghĩ. 

Căn phòng trống vắng, ngôi chùa vắng lặng, như đã luôn như thế từ khi bà về đây. Người ta vẫn thường tới tìm bà. Lúc thì là Trần tướng quân báo tin về cho phương Bắc, lúc thì là Nhị vương cần nhờ vả chuyện trong vùng, đối kháng với Đại Thành, lúc thì là người đột nhiên sực nhớ ra sự hiện diện của bà... Nhưng hiện thời thì không còn ai. Không còn ai, khi ngay cả người con gái còn lại của bà cũng đã mất. 

Sau khi đứa con trai của bà chết đi, có lẽ là hơn năm mươi năm về trước. 

Năm mươi năm, hay bảy mươi năm, một mình bà đã chống chọi? Mười sáu tuổi, lên thuyền vượt qua đèo Hải Vân, vượt qua trùng trùng núi rừng đến phương Nam, phương Nam cách xa đất Quảng bằng cả một quốc gia, để kết hôn với nhà vua Chey Chetta II của Chân Lạp. Cuộc hôn nhân củng cố sự kết giao của chúa Nguyễn để chống lại Chiêm Thành, bao vây và cô lập Chiêm Thành. Cuộc hôn nhân ngắn ngủi chỉ tồn tại được tám năm, để lại cho bà hai người con. Và từ đó là cuộc chống chọi triền miên của nàng công nữ Nam Hà giữa triều đình Chân Lạp. Đứa con trai vừa đến tuổi trưởng thành ra khỏi tu viện lại vì một cô gái mà bị chính chú mình là Préa Outey giết chết. Người con thứ hai của nhà vua Chey Chetta II lên ngôi, tiếp tục chết một cách bí ẩn để Préa Outey đưa con mình làm chủ ngai vàng. Nặc Ông Chân, người con trai thứ ba của Chey Chetta II, dựa vào người Chiêm Thành và Mã Lai giành lại ngôi vua, bắt đầu giao kết với Chiêm Thành, theo Bái Nhật giáo. 

Và bà đã bắt tay với hậu nhân của kẻ hại chết con mình, So và Ang Tan, con trai của Préa Outey, để liên hệ với chúa Nam Hà. Ba ngàn quân Nam Hà tiến đánh Mỗi Xuy, bắt nhà vua Nặc Ông Chân về giam ở Quảng Bình. So lên ngôi, mười một năm sau lại bị cháu giết chết, rồi ông vua mới này cũng lại bị người của Nặc Ông Chân sát hại. Con trai của So là Nặc Ông Đài thành vua Chân Lạp, đắp lũy ở Mỗi Xuy, cầu cứu Đại Thành để chống lại quân Nguyễn. Hai cánh quân Nguyễn ập vào Chân Lạp, vua Nặc Ông Đài bỏ chạy, chết trong rừng. Em trai vua là Nặc Thu ra hàng, nhường Sài Côn làm nơi đóng đô của Nặc Nộn - cháu Ang Tan. 

Sáu mươi năm, ngai vàng đổi chủ hơn chục lần, hàng trăm cuộc binh biến, chiến chinh lớn nhỏ. Bây giờ, bà ở đây, ngôi chùa dưới chân núi vắng, nơi ánh trăng cũng không chiếu rọi, chỉ tràn ngập tiếng mưa miên miên không dứt trong màn đêm. 

Sáu mươi năm, một kiếp hồng nhan. Khói biếc sông xanh, đốt cháy giữa hồng trần. 

Nước non ngàn dặm ra đi. Một lần quay đầu, đã ly xa vĩnh viễn. Hương sắc tàn phai, cũng chẳng thể khóc cho mình. Dấn thân vào gió tanh mưa máu, ngoảnh đầu nhìn lại không một bóng cố nhân. 

Chiếc bóng soi trên tường. Tiếng kinh cầu lẫn vào trong đất. Điệp trùng ngày tháng, mất giữa hư vô. 

"Ngày lập thu vừa rồi, ta thấy mây trắng chắn ngang trời." Bà chợt lên tiếng, tiếng nói nhỏ gần như thì thầm, như chỉ tự nói với mình. "Coi chừng có binh biến." 

Nặc Nộn, hậu nhân của kẻ giết con trai bà, đã nhờ thế lực của bà, của những người Việt trong vùng mà nắm giữ được một nửa Chân Lạp. Đất nước Chân Lạp hùng mạnh một thời giờ đây trở thành mục tiêu của vô số kẻ. Thế lực Đại Thành đang lên ở phương Tây muốn tiến về vùng biển Đông. Chiêm Thành muốn củng cố lực lượng như đã từng kết giao với nhà vua Nặc Ông Chân. Và họ Nguyễn, sự xuất hiện của họ Nguyễn ở Nam Hà đã khuấy động toàn cục diện vùng đất nhìn ra biển Đông. Để đối chọi với Đại Thành, Chân Lạp kết giao cùng chúa Nguyễn. Để chống cự họ Nguyễn, Chân Lạp bắt tay với Chiêm Thành, Mã Lai - và bây giờ là hướng về phía Đại Thành. Cả phương Nam đã cùng chống lại Nam Hà. Bà ở đây, đất Thủy Chân Lạp này, như một cái cây bám rễ vào đất, chống chọi lại mọi xoáy lở. Bà không còn, chẳng cần nghĩ nhiều cũng biết cục diện sẽ ra sao. 

Chân Lạp, Chiêm quốc, Đại Thành, thậm chí cả Vạn Tượng, Mã Lai, những quốc gia ngoài biển đảo. Nặc Thu là một người thông minh - một ông vua rất thông minh. Khi người anh trai hoảng hốt trốn đi trước lực lượng quân đội Nam Hà để rồi bị giết trong rừng, ông vua này đã ở lại, đã đứng ra thương thảo với kẻ tấn công, bảo toàn lực lượng để chờ ngày chống trả. Mười lăm năm, để Nặc Nộn ở Sài Côn, Nặc Thu vẫn ngấm ngầm xây dựng thế lực bằng những mối liên hệ. Họ Nguyễn càng phát triển càng kéo thêm về mình nhiều kẻ địch, và Nặc Thu chỉ cần gom họ lại. Thậm chí - nghe đâu - trong thành lũy Vũng Long có cả những người Ai Lao, người đến từ những vùng đất Man mà họ Nguyễn lấn sang. 

Và Nam Hà đang trong lúc xáo động sau cái chết của vị chúa đã trị vì bốn mươi năm. Vụ hỏa hoạn biến một nửa Kim Long thành tro bụi. Vị chúa mới chuyển kinh kỳ về Phú Xuân, chính thức thiết lập một kinh kỳ mới cho đất nước này. Nhưng cũng không ngăn được cái nhìn dõi vào từ bốn phương. Sóng ngầm đang dâng, từ bốn phương. 

Binh biến là chuyện sớm hay muộn. Sớm hay muộn. Vùng đất Chân Lạp này chỉ mới yên ổn được gần mười lăm năm. Không vị vua nào có thể để đất nước mình bị xẻ đôi. 

"Đại sư," Lấy hết chút sức lực gần cạn kiệt, bà gọi. "Gọi con bé Luật cho ta." 

Nhà sư quay đầu nhìn lại, hơi nhíu mày. Nhưng bà cũng gật đầu mở cửa ra ngoài. Một lúc sau, nhà sư trở lại, dẫn theo một cô gái trẻ. Toàn thân áo vàng, làn da ngăm ngăm nhưng khuôn mặt đẹp như tượng khắc, cô gái nhìn bà lão đang nằm trên giường, hơi giật mình. Nhưng rất nhanh, mọi cảm xúc lại được che giấu sau khuôn mặt lành lạnh như tượng. 

"Con lại đây." Bà quay đầu gọi, chỉ thấy miệng mấp máy chứ không nghe được lời. Nhưng cô gái tên Luật này hiểu ý, đi vượt qua nhà sư đến qùy bên giường. 

Bà nhìn cô, cô gái đẹp vượt qua mọi quy chuẩn của người phương Bắc. Không mắt phượng mày ngài, không da tuyết vóc sương. Đôi mắt to như quả hạnh với hàng mi dài, mang cái nhìn như muốn xuyên thấu qua người đối diện. Đôi môi đầy đặn mà thanh nhã. Trang phục của người Chân Lạp ôm sát lấy những đường cong khiêu khích. Thần thái vừa băng giá vừa quyến rũ chết người. Đẹp như nữ thần Po Nưgar. Hoặc là, Sri Lakshmi - nữ thần của lương thực, vương quyền, kiến thức, quyền lực vạn năng, sức mạnh, khao khát thần thánh, vương quốc, may mắn, sự no đủ và sắc đẹp. 

Có quá nhiều, đôi khi cũng không phải là một điều tốt. Nhất là với một cô 'hầu gái'. 

"Con đi theo ta cũng lâu rồi." Bà chầm chậm nói. Luật vẫn cúi đầu, không ngẩng lên. 'Đã lâu', từ gần mười lăm năm trước, bà đã nhặt lấy nàng trong đám trẻ bị chiến tranh loạn lạc xua đuổi tứ tán. "Ta sắp gần đất xa trời, muốn nhờ con một việc." 

Luật hơi ngẩng đầu nhìn người phụ nữ trên giường. Nàng mới trở về ngôi chùa này sau một thời gian ra ở riêng. Sau tuổi trưởng thành, các tì nữ của Thái hậu được cho ra ngoài. Vào ẩn tu trong ngôi chùa ở núi Chứa Chan này, bà không đem theo người hầu cận. Nghe tin Thái hậu bệnh nặng, chỉ có Luật trở về chăm sóc túc trực. 

Ánh mắt bà rơi vào vết chu sa trên trán nàng. Sau một thời gian, khi Luật trở lại, nàng đã có thêm vết chu sa trên trán - nơi mà tình cờ chạm vào, bà nhận ra đó là một vết sẹo. Vết sẹo rất nhỏ, như thể là đầu của một mũi dao. 

"Ta nhờ con... chăm sóc cho Nặc Nộn." Bà nói trước ánh mắt chờ đợi của cô gái. Thoáng xao động hiện lên trong đôi mắt nàng. Với yêu cầu này, Thái hậu đã gửi gắm nàng cho Nặc Nộn. 

Nhưng sau một cái chớp mắt, nàng cúi đầu. 

"Vâng." Luật chỉ nói như thế. Và bà gật đầu, nhắm mắt. 

Ngoài trời vẫn mưa. Mưa phương Nam ào ạt. Mưa rừng như bão lốc. Bà nghe tiếng chân của nhà sư đi đến, vỗ vai Luật. Nàng ta đứng dậy, chậm chạp tới bên kia phòng. Bà biết, họ đang đợi. 

Vốn chẳng còn gì để bà có thể nhắn gửi. Không có, không còn ai để bà nhắn gửi bất cứ điều gì. Thanh xuân đã qua đi, đã chấm dứt từ cái ngày bà đi trên biển khơi về đến nơi này. Suốt đời, suốt một cuộc đời, bà đã sống trong một giấc mơ lặp đi lặp lại về vùng đất đầy nắng và gió cát. Suốt đời, bà chỉ sống để nghe một âm vọng từ vùng đất ấy. Vọng âm, từ một giấc mơ. 

Không còn ai nữa, chỉ có những chiếc bóng trên tường. Không còn gì để nhớ. Sự đợi chờ lặng lẽ. Tiếng mưa lặng lẽ. Những ảo ảnh lặng lẽ chập chờn trong bóng tối. 

Bà nghe mùi thơm dìu dịu theo gió phả đến, tượng như hương hoa sứ trắng của một sớm tinh sương, hay hương sen trong chiều nằng nặng gió. Hẳn là hương xức mà Luật dùng. Cô gái ấy, vẫn còn rất trẻ. 

Nghĩ về nàng, bà có một cảm giác gần như âu yếm. 

Đó không phải chỉ vì bà đã nuôi nàng lớn lên. Trong cung điện của vương, các tì nữ được đào tạo từ bốn năm tuổi là chuyện bình thường, và không hề có cảm xúc của những kẻ chăm lo lẫn nhau trưởng thành. Và bà biết, Luật đối với bà không chỉ đơn giản là lòng trung thành - càng không phải là tình cảm. Cô gái ấy, nữ thần của mười quyền năng tối thượng mà người người tranh đoạt, là một kẻ không hề có tình cảm. 

Và như thế, bà nghĩ về nàng với cảm giác gần như âu yếm. Khi bà thậm chí đã không còn khả năng xót thương mình. 

Luật, Chiêm Dao Luật, người phụng sự đức vương Chân Lạp và mang dòng máu Chiêm Thành. Bà cho rằng mình biết những gì nàng sẽ làm, và bà chờ đợi - không, bà không còn thời gian để chờ đợi, bà chỉ nghĩ, với nỗi buồn không biết từ đâu ập đến - Chân Lạp sẽ tồn tại hoặc bị hủy hoại trong tay nàng. Nàng là một cô gái xinh đẹp biết bao. 

Sáu mươi năm trước, cuộc cờ này đã bắt đầu, và sẽ tiếp tục đến sáu mươi năm sau, hay lâu dài hơn nữa. Giờ đây bà giao cho nàng những con bài còn lại. Nặc Ông Thu, Nặc Ông Nộn, Chiêm Thành, Đại Thành, Vạn Tượng, cả nhóm người Tàu ở Đông Phố. Đặt nàng vào giữa bọn họ. Cuộc chiến mà bà đã đấu trong suốt sáu mươi năm. 

Vì một giấc mơ nơi phương Bắc xa tít tắp. Đi qua sa mạc, biển khơi, núi cao và vực sâu. 

Bà vẫn mơ về nơi ấy, nhưng từ lâu đã không còn chờ đợi nữa. Không còn gì để bà trở lại. 

Ngôi sao phương Bắc đã tàn, ánh sáng còn chấp chới ngàn năm. 

*** 

Qua ngày Trung thu mưa dầm, mấy hôm sau trời vẫn cứ u ám mát lạnh. Bên chái nhà có một cây hoa trắng nở ban đêm. Những bông hoa trắng nhỏ li ti như sao nở lẫn vào tầng tầng lá xanh dày. Như Yên cho kê một bộ bàn ghế đá bên dưới giàn hoa, xung quanh còn để thêm vài chậu quỳnh, trồng thêm vài cụm hoa quế. Đêm cũng như ngày, khu vườn bên trái nhà này đã biến thành một góc Tụ Phương viện của nàng, lúc nào cũng nồng mùi hoa. 

Đêm, trời không mưa mà vẫn nằng nặng hơi nước. Vùng đất này quanh năm khô nóng, đến lúc mưa tụ họp về lại sầm sập như bão lũ. Trên sàn đá, hoa trắng rụng đan với sỏi trắng. Mái ngói ướt đã bắt đầu xanh rêu. Trong không khí âm ẩm, mùi hoa nồng trở thành gần như dịu ngọt, lại vướng vất say say. Chiếc chuông gió treo trước hiên nhà không ngừng lanh canh. Trăng thi thoảng mới hé sắc trắng sáng qua mây xám phủ dày đặc bầu trời, làm bóng hoa lúc ẩn lúc hiện. 

Vì vậy, mất một lúc hắn mới nhận ra Như Yên đang ngồi dưới giàn hoa. 

Nàng không thắp đèn, chỉ ngồi cúi đầu bên chiếc ly như đang nghĩ điều gì. Ly bạch ngọc trắng, bình rượu màu đất bạc có dán hoa văn hình lá trúc. Vừa nhìn thấy những vật dụng ấy, hắn ngay lập tức nhè nhẹ quay lưng. Nhưng ánh trăng hắt bóng hắn lại trên nền đất, làm sự xuất hiện của hắn không thể che giấu được. 

"Tử Hiên," Như Yên gọi, vội nói tiếp trong lúc hắn không ngừng chân 'bỏ chạy'. "Ta chưa uống rượu." 

Hắn liếc nhìn bình rượu vẫn chưa mở nắp, rồi gương mặt tai tái trong bóng tối của Như Yên. Nàng ngoắc tay, hắn chậm chạp quay lại. 

"Ta nói chuyện công việc." Như Yên nói có vẻ bực dọc khi hắn vẫn đứng ngoài giàn hoa. "Ngồi đi!" 

"Công việc?" Hắn hỏi khi ngồi xuống chiếc ghế đá phía đối diện Như Yên. Nàng cắn môi một lúc rồi nhè nhẹ thở ra. 

"Ta nghe nói Mạc lão gia có liên hệ với Đại Thành?" Không vòng vo, nàng hỏi thẳng. 

"Chuyện công việc làm ăn." Hắn vội vã nói. Ở đây hắn đang đóng vai là gia nhân của lão Cửu, có phải? Đại Thành với Nam Hà gằm ghè canh chừng nhau y hệt như hai vị vương Nặc Thu và Nặc Nộn. Ở Rạch Năn, vùng đất giữa Sài Côn và Vũng Long, nơi người Việt chưa đặt chân đến được, bọn hắn phải giao thiệp với cả hai phía. 

Như Yên vẫn chỉ nhìn hắn. Hẳn nhiên, nàng ta hỏi hắn - một tên 'gia nhân' giỏi chơi hơn làm, gần như vô tích sự này - không phải là để thăm dò chuyện công việc. Nàng muốn nghe ngóng những gì bên ngoài đó, đằng sau những hoạt động chính thống mà mọi kẻ đều nhìn thấy, những gì chỉ có trong bốn bức tường trang viện, ngay cả loại tin tức mơ hồ nhất. Thậm chí - có thể - nàng chẳng hỏi hắn điều gì, chỉ là xác minh việc mình đang nghĩ. 

"Mạc lão gia từng đến Đại Thành?" Nàng ta chậm rãi hỏi, trong khi tay mở nắp bình rượu, rót vào ly đẩy đến trước mặt hắn. Định dùng rượu chuốc say hắn khảo cung? 

"Đến rồi, ta cũng được đi theo." Hắn cười mà trả lời, chú tâm dùng bộ dạng ngây ngô nhất của mình. "Kinh đô của Đại Thành rất là đẹp, mái nhà toàn được nạm bằng vàng. Rượu thì cất từ dừa, loại dừa cùi mỏng như nước ấy. Trái cây rất ngọt. Phụ nữ có một phần da còn trắng hơn cả người phương Bắc. Nhưng thức ăn của họ cay xé cả lưỡi. Các sòng bạc của họ được mở công khai, có nhiều loại bài mà ta chưa thấy bao giờ, chắc là từ Ấn Độ truyền qua..." 

"Thôi được rồi." Như Yên lên tiếng cắt ngang lời hắn. Trong thoáng chốc, nàng có vẻ hối hận vì đã hỏi chuyện hắn. Nhưng nàng vẫn chưa vội bỏ cuộc. "Nghe nói phong tục Chân Lạp với Đại Thành cũng từa tựa nhau. Ngươi nói không biết vài thứ ở Đại Thành, chẳng lẽ chưa từng đặt chân đến phần nội địa của Lục Chân Lạp?" 

Nàng vẫn dùng dáng bộ nửa ung dung nửa hờ hững mà hỏi. Một câu hỏi khôn khéo à, hắn nghĩ thầm trong khi cũng dùng bộ dạng tương tự mà nâng ly rượu lên uống cạn. Phần nội địa của Lục Chân Lạp chẳng phải là nằm trong tay Nặc Thu - kẻ liên minh với nhà vua Đại Thành? Bảo rằng chưa từng đặt chân vào sẽ lộ tẩy ngay là nói dối - Làm ăn với người Chân Lạp mà lại chưa từng đặt chân vào đất Lục Chân Lạp? Nhưng một thương nhân Minh Hương mà được nhà vua Chân Lạp cho phép buôn bán trong đất mình - chắc chắn phải có sự tin tưởng hay chỗ dựa chắc chắn nào. 

"Chân Lạp đất rộng người ít, sống phân tán rải rác, cư dân còn nhiều phong tục man di, ta cũng chẳng biết hết được. Thậm chí trong những làng mà người dân ngoài đảo đến sinh sống, họ còn ăn cả thịt người. Người lạ đi qua vùng ấy có khi bị tóm cổ lôi vào xẻ thịt như chơi. Có lần ta cũng gặp trường hợp như thế - Dù có vẻ chúng là bọn hải tặc Nam Đảo." Hắn tiếp tục dùng lối ba hoa mà vòng vo chuyển trọng tâm câu chuyện. "Nói rằng Thủy Chân Lạp với Lục Chân Lạp gì đó, chẳng qua mới chỉ chia cách có hơn mười năm nay, càng vào sâu càng chẳng có gì khác biệt. Còn Đại Thành tuy trước đây là thuộc địa của Chân Lạp nhưng phong tục nghiêng về phương Tây nhiều hơn. Có thứ gì giống nhau nhất thì chắc là thói quen ăn côn trùng. Cô đã từng biết dế rán hay bò cạp rán bao giờ chưa? Thậm chí có một món gọi là 'sâu ống tre' - Người ta đục ống tre bỏ con sâu vào, nuôi nó bằng nước dừa với sâm qúy các loại, đến lúc nó to mập rồi thì bổ ống tre ra đem con sâu đi làm món..." 

"Thôi." Như Yên lần thứ hai lên tiếng. Trên khuôn mặt nàng hiện rõ câu hỏi quen thuộc 'Ngươi có bị ngốc thật không?' đầy ngờ vực. "Ngươi đến được đâu trong đất Chân Lạp rồi?" 

"Ta cũng chẳng nhớ." Hắn nhún vai. "Đất đai tên tuổi được đặt theo tiếng Chân Lạp rất là khó nhớ, ta đặt tên theo ý thích là Đất Có Hổ, Sông Cá Mắm, Rừng Tràm, nói ra chắc cô cũng không biết đâu." 

Như Yên lấy lại ly bạch ngọc trước mặt hắn, tự rót tự uống cạn. Hắn chống tay nhìn nàng. 

"Cô muốn đến Chân Lạp chơi à?" Cô gái này tự dưng hỏi đến việc ở Chân Lạp và lão Cửu, hẳn cũng không phải ngẫu nhiên. 

Như Yên nhàn nhạt nhìn hắn. Không biết có phải do ánh trăng đã khuất sau mây mù, nhãn thần nàng có chút u ám. 

"Vết thương của ngươi khỏi chưa?" Nàng chợt hỏi, khẽ cau mày. "Ngươi cố tình tránh ta cả tháng nay phải không?" 

"Ở bờ Nam có bãi hến với sò, ta đi ăn chực." Hắn vẫn cười mà nói. Cả tháng nay cứ hửng sáng là hắn bỏ đi khỏi nhà đến sập tối mới về, hẳn không thoát khỏi cặp mắt nàng ta. Như Yên nhè nhẹ nhướng mày. 

"Hến với sò? Ở đâu thế, ta đi ăn với." Nàng ngọt ngào cười trong khi chân tóc hắn dựng đứng. Tiểu yêu tinh tham ăn này có khi cả ngày ngồi ở bãi sai hắn làm nô dịch đem đồ ăn về cho nàng ta. 

"Nếu muốn ăn thì ta đem về. Cô cũng đâu có rảnh mà đi làm những việc này." Như Yên dạo này cứ thỉnh thoảng lại biến mất cùng Sa, có khi đi đến vài ngày. Sa thì vẫn cứ im như thóc, Như Yên thì bí bí ẩn ẩn, hắn tiếp tục đóng vai một kẻ vô công rồi nghề suốt ngày chơi với bọn trẻ con. 

Như Yên nheo mắt, định nói gì nhưng lại thôi. Nàng thở ra, chầm chậm buông bàn tay xuống bàn. Một tờ giấy nhỏ bằng hai ngón tay nằm dưới những ngón tay nàng. 

"Ngươi tin ta không?" Nàng nhìn thẳng vào hắn mà hỏi. Trong một lúc, câu hỏi làm hắn ngẩn người. 

Như Yên nghĩ một lúc, rồi nhẹ lắc đầu. 

"Ta còn không tin ta thì sao ngươi tin ta được." Nàng lại tự gật đầu với bản thân. "Thôi được, chúng ta thẳng thắn với nhau một lần đi, Mạc Kinh Vũ." 

Hồi 52: Đánh bạc 

"Mạc Kinh Vũ, thiếu công tử của Mạc gia, quả nhiên danh tiếng lẫy lừng - là một phá gia chi tử lấy quán làm nhà, lấy bài bạc làm nghề." Như Yên nhè nhẹ cười. Bàn tay cầm giấy vẫn đặt trên bàn khi tay kia của nàng cầm bình rượu rót vào ly. "Lúc đầu ta lấy làm lạ, chẳng biết ngươi giả ngốc hay trên đời quả có một tên quái dị đến như thế này. Nhưng theo những gì người xung quanh ngươi nói thì có vẻ ngươi đúng là thế thật. Thiên văn địa lý, dịch số thơ từ để ngươi đi đánh bạc. Võ công đệ nhất để ngươi đi săn thú về uống rượu với đi trốn nợ." 

Nàng ta vừa nói vừa săm soi nhìn hắn, như thể mong chờ một phản ứng nào. Hắn đáp lại bằng một nụ cười tương tự. 

"Sao cô nghĩ ta là Mạc thiếu công tử?" Hắn cũng đâu làm gì đến mức có cả bản truy nã mô tả nhân dạng để nàng ta nhận diện. Hắn thi thoảng cũng rời khỏi Đông Phố đi đến đâu thì có trời biết hắn biết, việc biến mất của hắn chẳng phải là hiếm hoi, ngược lại còn khiến các chủ sòng bạc nhẹ lòng. Cô nàng này muốn bắt nọn hắn, cũng không dễ đến thế. 

Như Yên nhún vai, ra vẻ như không thèm chấp với hắn. 

"Mặc kệ ngươi là Mạc Tử Hiên hay Mạc Kinh Vũ, kẻ phá gia chi tử vô tích sự thì khác gì nhau?" Nàng thản nhiên nói, tay đẩy ly rượu về phía hắn. "Nhưng ta đã bảo sẽ nói chuyện thẳng thắn với ngươi, nếu ngươi không muốn thẳng thắn với ta thì cũng được thôi." 

"Công nương Ngọc Vạn đã qua đời." Nàng nói sau một lúc thấy hắn vẫn không lên tiếng. Ngón tay nàng lùa vào tóc. "Chuyện này trước sau gì mọi người cũng biết, bà ấy đã ẩn tu, bệnh nặng khá lâu rồi. Chẳng qua chỉ là... không đúng lúc chút nào. 

"Nói thật một chuyện: Nếu ở Chân Lạp có biến bây giờ, Nam Hà cũng không thể xuất quân can thiệp." Như Yên chậm rãi nói, nàng hơi nghiêng đầu tựa vào cánh tay chống lên bàn. "Kim Long cháy, việc điều tra còn chưa xong, người này đổ cho người kia, nghi ngờ lẫn nhau, chẳng thể toàn tâm giao quân cho bất cứ ai. Tư liệu thuế má cháy sạch, phải làm lại từ đầu là chuyện, mà quan lại cũng âm thầm móc ngoặc với nhau. Chúa vừa ra lệnh tuyển quân, nói là để đối phó với phương Bắc nhưng thật ra là để phòng vệ cho bản thân. Công nương Ngọc Vạn mất rồi, hậu duệ của người cũng không còn, ta mất danh nghĩa can thiệp vào Chân Lạp." 

"Tình thế ấy, hẳn ngươi cũng phải nhận thấy." Như Yên mỉm cười với hắn. "Mọi người mọi kẻ phải nhận thấy. Như vậy, ngươi nghĩ sẽ ra sao đây?" 

Hắn vẫn im lặng. Nghe gió thổi trên tán hoa khi mưa lác đác rơi. Mưa rất nhỏ, chỉ như sương rơi, từng hạt từng hạt lấm tấm trên nền đất, không lọt qua được tán lá dày. Chỉ có tiếng rì rào như từ thinh không vẳng đến. 

"Ta muốn nói chuyện với ngươi, không phải Sa, vì ngươi không giống y." Tiếng Như Yên trầm thấp, có phần gần như mệt mỏi. "Ngươi không giống y, ngươi sẽ không lựa chọn như y." 

"Dù sao lúc này Nặc Thu cũng sẽ không vội tấn công." Hắn mở miệng. "Từ hơn sáu mươi năm trước, công nữ Ngọc Vạn đến Chân Lạp, người Việt đã được bà xin cho trú ngụ tại Bà Rịa trở vào, lập đồn canh, đồn thuế, trở thành tiền đồn của Nam Hà. Lũy Mỗi Xuy của vua Nặc Ông Chân bị hạ cũng vì lực lượng này. Mấy năm nay Nặc Nộn ở Sài Côn, dựa và thế lực Nam Hà giữ ngôi, người Việt đã lấn dần vào nội địa Chân Lạp. Nếu Nặc Thu đơn độc khởi binh bây giờ cũng chưa có gì chắc chắn. Ngay cả Chiêm Thành muốn trợ lực thì cũng đã bị vướng đội quân Nam Hà ở hai dinh tại phía Đông Panduranga." 

"Quân lực của ta tại Đông Phố chính là do tướng quân Trần Thượng Xuyên góp sức chỉ huy." Như Yên ngắt lời hắn, nàng gật đầu. "Cù lao Phố hiện tại là tiền đồn của ta. Nhưng ngươi có biết quân đội Nam Hà đánh thắng Chân Lạp vì sao?" 

"Nội loạn." Hắn nhìn thẳng vào mắt Như Yên mà trả lời. Giao kết với Chân Lạp để đưa người của mình vào quân đội - mang danh nghĩa đào tạo quân sự cho đất nước này. Dù người con trai mất sớm, công nữ Ngọc Vạn vẫn còn đủ thế lực để giao kết với hai anh em So và Ang Tan đưa quân Nguyễn vào giết vua Nặc Ông Chân. Nhà vua Nặc Ông Chân, người thân Chiêm Thành và Mã Lai, cùng các quốc gia biển đảo khác trong vùng - là mối đe dọa với Nam Hà. Tranh chấp ngai vàng, tranh chấp tôn giáo, tranh chấp quan lại, tất cả đã trở thành sự sụp đổ đầu tiên của Chân Lạp. Rồi tất cả đã không ngừng lại, khi tất cả các thế lực này tiếp tục trừ khử nhau đến người cuối cùng, tiếp tục lôi theo mình các thế lực bên ngoài khác biến Chân Lạp thành một bãi chiến trường. 

Như Yên vẫn chỉ nhìn hắn qua làn mi dài, như thể đang chờ đợi. Hắn nghĩ mình biết nàng chờ đợi điều gì. 

Đúng vậy, Nặc Thu sẽ không vội vã tấn công. Hơn sáu mươi năm, số người Việt đến Trấn Biên sinh sống đã như cái rễ cắm sâu vào đất. Còn có cả lực lượng người Minh Hương - quân đội Minh Hương, lực lượng quân sự tinh nhuệ của Đại Minh - trấn giữ ngay ngoài cửa Sài Côn, ngay giữa Vũng Long và Sài Côn. Ông vua này đã chờ đợi được mười lăm năm, vậy thì ông ta sẽ chẳng hành động khinh suất. Nhưng có một thứ có thể đánh gục bất cứ đội quân hùng mạnh, xé nát bất cứ đế quốc cường thịnh nào: Nội loạn. 

Như Yên hỏi đến lão Cửu cùng mối quan hệ với Đại Thành, cũng chỉ vì thế. 

Nhưng hắn có thể nói với nàng điều gì? Về câu chuyện của Hoàng phó tướng cùng Dương tướng quân? Về những gì nhà vua Đại Thành đã nói với lão Cửu? Không chỉ đất Nam Hà này, người Minh sau lần thất trận với Mãn Thanh đã tứ tán khắp nơi, một trong số đó là Đại Thành. Đất nước Đại Thành non trẻ cũng đang gom góp mở rộng lực lượng. Nam Hà có thể cho họ điều gì? Họ có vai trò gì trong cuộc tranh chấp tại Chân Lạp? Đây không phải, không còn là vấn đề tình cảm - mà là sinh mạng và sống còn. Phải, Sa không giống hắn, vì y không thể hành xử theo cảm tính. Trong tay y là sinh mạng của hàng ngàn người đã đi theo bọn y rời khỏi Quảng Đông, phó thác cả cuộc đời cho y. Y đã không thể giữ cho họ một quê hương, giờ đây phải giữ cho họ ít nhất là cuộc sống. 

Theo Nam Hà, và có thể bị nghiến nát trong cuộc tranh chấp. Khi Như Yên đã nói thẳng, Nam Hà sẽ không thể can thiệp vào Chân Lạp bây giờ. Nghiêng về phía Đại vương Chân Lạp, hẳn sẽ bị xẻ đôi. Trần Thượng Xuyên đã trở thành quản lý tại Cù lao Phố, trung thành tuyệt đối với họ Nguyễn. Dương Ngạn Địch tướng quân hàm ơn chúa Nguyễn không bao giờ có ý định bội phản. Nhưng tất cả không phải chỉ như vậy. Gần mười năm, hai nhóm người Minh Hương đã phát triển lớn mạnh hơn con số ba ngàn gấp mấy lần. Những tướng sĩ lấy vợ sinh con, lập gia đình tại đất mới. Người Tàu đến ngày càng nhiều, từ những người Minh bỏ nước đi đến những người vẫn còn sinh sống tại Thanh. Vị chúa mà họ mang ơn đã mất, đất Chân Lạp chưa bao giờ là của Nam Hà, không phải là chuyện của Nam Hà. Nam Hà chỉ nắm giữ vùng đất này như một hàng rào bao vây Chiêm Thành, như một chư hầu để triều cống. Như vậy, bất cứ biến động nào ở Chân Lạp cũng có ý nghĩa gì với Nam Hà? Sự sống chết của họ có ý nghĩa gì với Nam Hà? 

Hắn biết những gì Sa nghĩ, những gì y tính toán, và sẽ tính toán. 

Hắn chỉ không biết, y đang tìm kiếm gì trên vùng đất này. 

Ngay cả Như Yên, tiểu hồ ly này, cũng đã biết phòng vệ y, và sẽ không bao giờ để y có thể trở thành một 'Trọng Thuỷ'. 

Hắn nhìn nàng, bây giờ, dưới bóng hoa. Mưa vẫn phảng phất bay trong ánh sáng hắt đến từ hiên nhà. Nàng họ Nguyễn, nhưng đồng thời cũng là một người con không được thừa nhận của họ Nguyễn. Nàng muốn gì? Bây giờ thì hắn tự hỏi. Rồi lại tự cho rằng mình không cần phải hỏi điều ấy nữa. 

"Cô cũng như ta làm được cái gì?" Hắn phảng phất cười. Nụ cười khi hắn không biết nên dùng biểu cảm nào hợp lý hơn. 

Như Yên chớp mắt, khẽ cau mày. Cô cũng như ta, làm được cái gì? Nàng không phải là nam nhi nắm trong tay quyền khuynh thiên hạ - Mà thậm chí, vị chúa kia cũng chẳng được quyền làm theo ý mình. Nàng đã từng cầu xin, nhưng chỉ được đáp lại bằng sự im lặng. Nàng cũng không biết nơi phương Nam xa xôi kia đang xảy ra điều gì, điều gì nằm trong tâm mọi người mọi kẻ. Cho rằng mình có thể hiểu biết tất cả mọi chuyện là ngông cuồng - Cửa quan ải Đại Minh sụp đổ chỉ vì tiếng hát của Trần Viên Viên, cũng như một đội quân thất trận chỉ vì ngựa vấp vào dây cỏ. 

Tuy vậy, hắn hỏi nàng điều này không phải là để chọc giận hay khiêu khích nàng, càng không phải để chối bỏ. Nàng làm được gì? Nàng muốn làm gì? Nàng hỏi hắn có thể tin nàng - nhưng nàng lại không cho hắn một lý do. 

Trước đến nay, hắn cho rằng mình hiểu được động cơ của mọi kẻ, trong bất cứ việc gì. Nhưng Như Yên vẫn luôn làm hắn nghi hoặc. Nàng tham gia vào loại công việc này như thể một trò chơi. Nàng kiêu hãnh, ham chơi, thích vui đùa, ưa náo nhiệt, và chẳng coi trọng điều gì. Giới luật đặt ra chỉ để nàng tùy tiện phá phách, những gì người đời tin tưởng thì nàng chê bai bài xích, những gì người người lao theo chỉ để nàng tùy nghi lợi dụng. Nàng cười khanh khách bên bến sông đêm ấy, phô diễn nhan sắc cùng tài hoa như thể nhảy múa trên những trái tim người. Nói là nàng vì họ Nguyễn, nhưng thực chất nàng cũng chẳng có mối liên hệ nào với họ. Nói là nàng quan tâm Sa, nhưng nàng vẫn luôn nghi ngờ - thậm chí, trong một cõi sâu thẳm nào đó, căm ghét y. 

Nàng không tin bản thân mình, vì cũng có lúc, trong trò chơi này, nàng cảm thấy mình lạc lối. 

Thắng hay thua không phải điều quan trọng. Thế nào là thắng? Thế nào là thua? 

Cũng như hắn lao đầu vào các sòng bạc đốt ngày tiêu tháng. Thế nào là được? Thế nào là mất? 

Như Yên nhìn xuống ly rượu vẫn để trước mặt hắn, chợt cười. 

"Rượu này không phải Trúc Diệp Thanh mà là Hoàng Hoa Tửu, ngươi uống mà không nhận ra?" Nàng vẫn nhìn mặt rượu sánh ánh vàng khó mà nhận thấy trong bóng tối. "Hoa cúc nở hai mùa xuân và thu. Hoa hái vào tháng chín thì phải cất với nước mưa mùa hạ năm trước. Hoa hái vào tháng giêng thì cất với nước mưa từ thu năm trước. Hoặc nước hoặc hoa, phải có vị của mùa thu, phải trải qua đông lạnh. Vào tiết Trùng Cửu, lên núi thưởng hoa cúc phải đem theo Hoàng Hoa Tửu, uống trong chén sứ trắng. Cúc không hợp với xa hoa, chỉ ngồi trên cỏ, ngửi mùi hoa thơm, ngắm trời xanh là đã đủ rồi. Nắng thu chiếu vào rượu vàng, hắt lại màu sứ trắng, long lanh như sương móc trên hoa." 

"Ngày xưa ta có một lão bộc già, vốn là nho sĩ." Ngừng một lát, nàng nói tiếp, khuôn mặt lẫn giọng nói vẫn không đổi sắc. "Tính tình kiêu ngạo gàn dở ngấm vào trong máu, có khi cơm không có mà ăn lại đi dạy ta ăn nụ hoa. Nhiều lúc trời mưa bụng đói liền đem đàn ra ca hát. Có bao nhiêu tiền thì cũng cứ một nửa đi mua rượu. Ta chẳng được dạy nữ công gì, chắc ông ấy cũng chẳng biết mà dạy ta, chỉ có hai ông cháu ôm bầu rượu đi phá làng phá xóm. Ta vừa đến tuổi để tóc, ông ấy bán cả cái áo lành lặn cuối cùng đi mua trâm cài cho ta. Ông ấy bảo, có đói thế nào thì cũng chỉ nhét đầy bụng là xong, quan trọng sống thì phải biết khoái hoạt đã. Cứ nai lưng ra làm, sáng không thấy mặt trời, tối không biết mặt trăng - Năm tháng qua đi, lúc ngẩng đầu lên thì đã sắp hết đời, rốt cuộc chẳng biết hoa đẹp ra sao nắng trong thế nào, cũng chẳng biết đời mình là cái gì. Thích gì thì làm, chẳng tội gì mà theo ý người khác. Họ không theo ý ta thì ta sao phải theo ý họ?" 

Như Yên bật cười một mình. Thấy hắn vẫn không đụng đến ly rượu, nàng với tay cầm lấy mà nhấc lên chậm chạp uống. Nàng có vẻ chẳng bận tâm đến chuyện hắn đã biết thân thế của mình, vẫn vừa cười vừa thẩn thơ nói như kể chuyện. 

"Ừ, thật ra có nhiều lúc ta nghĩ, nếu ông của ta làm đảo chính thành công thì sẽ ra sao? Ai bảo ông ấy sẽ không thể làm được những gì chúa Hiền đã làm, thậm chí họ Trịnh hay dân chúng Bố Chính sẽ nhẹ nhõm hơn nhiều vì đỡ được hai mươi năm tiếp tục chiến tranh. Lúc ấy Tống thị lại chẳng được tung hô xưng tụng thành một đức thánh mẫu, quốc mẫu nào đó như Trần Thị Dung hay Dương Vân Nga? Tài năng của người đàn bà ấy đâu có nhỏ, lá gan cũng lớn hơn người, biết đâu đã lật đổ cả vua Lê đi rồi. Nghĩ như vậy, chẳng phải mọi sự đều hoá ra đáng cười quá ư? 

"Ngay cả bây giờ, nếu ta làm hỏng sự, Nặc Thu giành lại Thủy Chân Lạp, chúng dân Chân Lạp lại chẳng thoát khỏi một trận tai kiếp? Dù có hy sinh các ngươi, thì cũng đáng là gì? Nhìn người Chiêm Thành hiện tại mà xem, sống trên đất mình như là kẻ đi ở nhờ, nếu có vụ nổi loạn chống đối nào thì khốn khổ trăm bề. Chuyện này với ngươi thì có nghĩa gì, với ta thì có nghĩa gì? Nghĩ như vậy, chẳng phải đáng cười quá ư? 

"Ừ, mà nếu ta bán mạng cho họ Nguyễn, hy sinh các ngươi, hy sinh cả Sa của ta, thì ta được cái gì? Công nương Ngọc Vạn cả đời lao khổ, rốt cuộc chết một mình trong chùa lạnh, có ai nhỏ được một giọt nước mắt thương xót? Đến ta thì lại càng không cần nghĩ tới, có chết rục ở đâu cũng không ai biết." 

"Ngươi có biết lần đầu tiên khi vào sòng bạc, ta nghĩ gì?" Đặt ly rượu không xuống bàn, Như Yên với tay nhặt lấy bông hoa rơi trên tóc, xoay tròn nó giữa những ngón tay. "Thật là nhiều người, và thật là nhiều trò. Có rất nhiều bàn bạc, rất nhiều trò chơi. Mỗi trò lại có một thứ ký hiệu, một loại định nghĩa, một luật chơi, phương pháp chơi riêng - Dành để người ta đấu với nhau. Rồi cũng có đủ loại thủ đoạn, toan tính, kèn cựa, ám muội được tung ra. Chỉ là, trong mỗi bàn đều có một nhà cái. Nhà cái ra luật, nhà cái làm luật, nhà cái cầm chịch, nhà cái gom tiền và phân phối. Tất cả nhà con đều 'chống' nhà cái, nhưng có một điều: Người thắng - nếu có - trong các nhà con chỉ có một, và nhà cái chỉ phải trả cho hắn số tiền cược quy định, còn thì nhà cái gom được tiền của tất cả kẻ thua. 

"Ngươi chìm ngập trong cái thứ như thế, với một kẻ vừa lơ lửng vừa ngơ ngẩn như ngươi, chẳng phải quái lạ quá ư?" 

Nàng nói và nhìn hắn, ánh nhìn nửa thách thức nửa chế nhạo. Nàng ta giỏi nhất trong việc khiêu khích kẻ khác. Hắn không tin nàng, nhưng hắn đặt cược vào cái gì để tin nàng? 

"Từ nhỏ tính ta đã vậy. Người ta vì chút sở thích, lợi ích của bản thân mà tình nguyện đem thân đánh cược với nhà cái, đâu phải là chuyện lạ. Nếu không thì các sòng bạc cũng đâu có phát đạt đến thế." Hắn cười nói, hoàn toàn thản nhiên. "Nhưng muốn làm nhà cái thì phải có vốn để chi trả, có tiếng để tin tưởng, có trí để chống giữ. Muốn ăn được của người thì cũng phải trả cho người. Không ai đến một nơi chủ sòng không chịu trả tiền cho con bạc bao giờ. Nếu chủ sòng bị con bạc đánh hạ đến cho phá sản thì e rằng không thể sống yên ổn được, họa sát thân là còn may." 

Như Yên cười khẽ. Nàng vén tay áo rót rượu ra ly, thả bông hoa nhỏ xíu đang cầm trên tay vào, lại đẩy đến trước mặt hắn. Rượu quả có mùi hoa cúc, dìu dịu thanh thanh. Nhưng rượu lạnh, ly ngọc lạnh, mùi hoa nồng nàn dưới cơn mưa giữa mùa thu lành lạnh làm hương cúc phai nhạt đi nhiều. Mùi thơm trên ly như thoảng hương từ một ký ức xưa cũ, mỏng tang như gió thổi dưới trời xanh. 

"Ngươi có muốn đánh bạc với ta không?" Như Yên lên tiếng khi hắn uống hết ly rượu, đặt xuống bàn. Trong mắt nàng, dù dưới bóng tối, vẫn lấp lánh ánh sáng là lạ. Hắn nhướng mày, tự nhắc mình cảnh giác trước biểu hiện thích thú không bình thường này. 

"Đánh bạc cái gì?" Ngay cả chuyện họ đang nói cũng có thể đem ra đánh bạc, hèn gì tiểu yêu tinh lại hứng chí đến thế. Với nàng ta, rốt cuộc thì có thứ gì đáng được gọi là nghiêm túc? 

"Dùng Sa để cược." Như Yên vẫn cười. "Đánh bạc xem y lựa chọn thế nào. Nếu y chọn ta, ta sẽ dốc toàn lực phù trợ các ngươi. Nếu y chọn kẻ địch của ta, ngươi phải dốc toàn lực bảo vệ y. Nếu một trong hai chúng ta không làm được, phải giao tính mạng lại cho kẻ kia." 

"Chỉ như vậy?" Hắn thật lòng hơi bất ngờ. Đây gọi là đặt cược? Mọi điều kiện của nàng ta đều chỉ để bảo hộ cho Sa. 

"Ta chưa nói, nếu y phản bội ta, dù đến cùng trời cuối đất, ta sẽ giết chết y." Như Yên nghiêng người về phía hắn, ánh sáng lấp lánh lành lạnh trong mắt nàng rõ ràng nhận thấy được. "Khi ta đã giết được y, ngươi đã thất bại thì cũng phải giao mạng cho ta." 

Hắn ngẩn người nhìn cô gái trước mặt, đầu óc rơi vào hỗn loạn. Đây là ý gì? 

Như Yên khoanh tay ngồi thẳng lên, nheo mắt nhìn hắn như chờ đợi. Nàng đã nói rằng sẽ thẳng thắn với hắn, hóa ra đây là điều nàng nhắm tới. Một ván bài, được cả hoặc mất tất cả. 

"Được." Hắn gật đầu. Thật ra, cả nàng và hắn đều không được lựa chọn. 

Như Yên phảng phất cười. Nàng rót thêm một ly rượu, tự mình uống cạn rồi đứng dậy. Mưa vẫn đang rơi, đã biến khoảng sân trước nhà thành một vùng lấp lánh ánh nước. Không nói thêm một lời, nàng quay lưng bước về phía khu nhà của mình vẫn chưa thắp đèn. Nước bám trên tóc nàng từng hạt nhỏ li ti. 

"Ta chưa nói điều kiện của mình." Hắn chợt lên tiếng. Như Yên đứng lại giữa sân, quay đầu nhìn hắn mà nhíu mày. 

"À..." Nàng gật đầu, ra ý hiểu. 'Ta sẽ phù trợ cho các người', nhưng hắn lại chẳng mấy quan tâm đến điều ấy. 

"Dù việc có thế nào, chúng ta cũng không trở thành kẻ thù." Hắn nhìn một nửa khuôn mặt khuất trong bóng tối của Như Yên, dưới bóng mưa vẫn không ngừng bay qua. Nàng trong những lúc thế này luôn tạo ra cảm giác như có thể tan biến. 

Nụ cười của nàng, như vị ngọt của Hoàng Hoa Tửu, tan biến vào một cõi mơ hồ. 

Không nói một lời, nàng quay lưng. 

Hồi 53: Cuộc trà 

Khoảng đường vào vườn đã bị mưa phủ lên một lớp nước. Dưới ánh trăng, làn nước hắt lại sắc xanh trong veo, chiếu lên những phiến lá như được rắc một lớp bụi bạc. Dưới bước chân Thiên Túng, những làn nước không ngừng xao động, khiến cả quang cảnh xung quanh, trong thứ ánh sáng của đêm, trở nên chuyển chuyển chênh chao. 

Người gia nhân đứng trước thủy đình cúi người đón cậu bé cùng các tùy tùng, dẫn họ lên chiếc cầu đá bắc qua hồ. Trong đình có mấy người nha hoàn, nhưng trên bàn đá trống không, thậm chí chẳng có một bình trà. Người gia nhân đưa bọn họ vào rồi cúi đầu xin phép lui ra. 

Mùa thu, hoa cúc thoảng hương trong làn không khí mát lạnh mùi nước từ dưới hồ bốc lên. Sen đã gần tàn hết, nhưng hương lăng sau cơn mưa càng thanh tao. Liễu vẫn xanh cạnh hồ trong khi một vài loài cây lá đã hơi úa màu, dù không hề nhuốm vẻ tàn úa như cây phương Bắc. Sau một mùa mưa, rêu trên những phiến đá đã xanh, giờ đây đang ngả dần sang sắc bạc, in bóng vào nước tối phảng phất như trầm ngâm. 

Thiên Túng vừa ngồi xuống, phía bên kia vườn đã có hai bóng người đi lại. Một nam một nữ đều mặc áo trắng, người nữ dung mạo thanh tú như tuyết liên trong khi người nam sắc diện xanh xao nhợt nhạt. Thấy Thiên Túng trong thủy đình, nam tử hơi nhướng một bên mày, rồi lại phảng phất cười. 

"Công tử đột nhiên đêm khuya tới tệ xá, chậm trễ nghênh đón thật xin lỗi." Vừa bước khỏi cầu đá, Hoắc Phương đã lên tiếng, hơi cúi mình. Thiên Túng không đứng dậy, chỉ dùng một thái độ khách sáo như vậy mà cười với y. 

"Chúng ta đều là người quen cũ, không cần khách khí đa lễ." Cậu bé nghiêng người mỉm cười. Hoắc Phương gật đầu, đi tới phía đối diện ngồi xuống, cô gái áo trắng ngồi giữa y và Thiên Túng, thi thoảng lại đưa mắt về phía Thiên Túng có vẻ tò mò. 

"Đây là Chu cô nương." Hoắc Phương đưa tay giới thiệu cô gái với cậu bé. "Còn đây là công tử ta đã từng nhắc tới." 

Hiểu Lam cười chào cậu bé. Nàng vừa từ Khán Triều lâu trở về Hội An được vài ngày, vẫn ẩn náu trong trang viên của Hoắc gia. Đêm nay đột nhiên ngoài cửa báo có 'công tử' đến, Hoắc Phương liền gọi nàng đi theo y. Công tử của Nam Hà quả nhiên chỉ là một cậu bé, tuy tướng mạo đường hoàng tuấn tú nhưng không tránh khỏi cảm giác non nớt. 

Khi mọi thủ tục xã giao đã xong, Hoắc Phương ra hiệu cho gia nhân đưa lên một hộp trà. Cầm hộp trà đặt xuống bàn, y quay nhìn Thiên Túng mà cười hỏi: 

"Chẳng hay công tử muốn uống trà như thế nào?" 

Nghe câu hỏi, Thiên Túng hơi nhướng mày. Hoắc Phương vẫn thanh lãnh mỉm cười. 

"Trà - thế nào gọi là ngon, thế nào gọi là dở? Loại trà thượng hạng thường phải là cây mọc trên núi cao ngàn trượng, hoang mạc tuyết phủ quanh năm, phía Đông tốt hơn phía Tây. Lại phải hái búp non vừa trổ sau tiết Thanh minh, mùa xuân vừa tới, tuyết vừa tan. Người hái phải là các xử nữ, chỉ ngắt cuống đầu búp chứ tuyệt không chạm tới lá để tránh ám hơi người. Cây trà sinh trưởng trong gió tuyết sức chống chọi vô song, tích lũy linh khí đất trời ủ sau một mùa băng giá bung nở thành búp lá, tịnh không chút vấy bẩn. Đem lá ấy sao lên sao cho lá vừa đủ khô, lớp nước ngoài tan đi mà tất cả tinh túy còn lại. Pha với nước cũng phải thật trong thật sạch. Lửa pha trà cũng phải dùng than hoa để không có khói. Nước phải vừa đủ độ nóng để không 'cháy' trà. Tất cả những điều đó - là để nếm được vị tinh khiết nhất của tạo hóa. Từng chiếc lá trà đều chứa trong mình vũ trụ vô biên. 

"Mỗi nơi đều có phép thưởng trà khác nhau. Ở Cao Ly, trà là 'Giản'. Mọi điều đều rất đơn giản, phóng khoáng, chén trà dành cho mọi người mọi kẻ. Dùng phương thức tối giản để chạm tới tự nhiên, thưởng thức tự nhiên hồn nhiên nhất có thể. 

"Ở Đông Doanh, trà là 'Đạo'. Dùng trà để chạm tới đạo. Chiêm nghiệm trà như chiêm nghiệm đất trời, chạm tới cõi sâu xa nhất của tâm linh. Đặt mình vào không gian của đạo, tuân theo những nghi thức nghiêm chuẩn của đạo. Tâm an, đó là Hòa. Cúi mình xuống để nhìn ra trời đất rộng, đó là Kính. Tiết giản những xa hoa, lược bỏ những phù phiếm, đó là Thanh. Lòng lắng như mặt nước, buồn vui được mất đều không còn quan trọng, đó là Tịnh. Chén trà trong tay, đó là cả một tự nhiên bao la như lòng người. 

"Ở đất Việt này, trà là 'Hòa'. Người xứ này rất thích thêm hương vị khác vào trà, từ hoa sen, hoa nhài đến hoa sói, hoa ngâu... Thậm chí sở thích còn có vẻ pha tạp khi dùng nhiều loại cây lá hoa vốn không phải trà đi làm trà. Có cả gạo rang nấu thành nước gọi là trà gạo. Dùng trà thưởng hoa, dùng trà thưởng nguyệt, dùng trà để hội họp thiết đãi... Vị đắng của trà làm thanh thúy hơn mùi hoa, trà như một thức dẫn để thưởng thức thêm nhiều hương vị khác, dùng cái tinh túy của trà để tận hưởng tự nhiên muôn màu muôn vẻ. 

"Với người Hán, trà chính là 'Mỹ'. Mọi điều liên quan đến trà đều phải tỉ mỉ tinh mỹ phi thường. Trà màu phải đẹp, hương phải thơm, ngay cả dạng lá cũng phải đều đặn đẹp mắt không nói làm gì. Bộ bình trà, ly trà tất tất đều phải là một tuyệt phẩm từ nước men cho đến hình họa. Thưởng một ly trà, là nhìn bằng mắt, là nếm bằng lưỡi, là ngửi mùi hương, là tai nghe từng tiếng nước chảy lá rơi, là tay chạm vào sứ nóng. Là toàn tâm toàn ý đặt vào ly trà, tạo nên sự đẹp đẽ hoàn mỹ nhất có thể. 

"Trà, nếu đánh giá bằng độ ngọt hay đắng, là thậm tệ không biết thưởng trà. Ngay cả kẻ muốn học đòi chữ sĩ bày ra những thói màu mè, cố ý làm ra vẻ phức tạp trịnh trọng dọa người mà không biết tận hưởng, không biết thế nào là tinh túy của trà, cũng là loại mua sách về đặt trên giá, đem đàn về treo trên tường. Bình minh khác với hoàng hôn, một bình trà pha ngoài hàng hiên buổi sáng có thể cũng như một chén trà châm trong trà thất. Ngược lại, dùng bộ bình trà đáng giá ngàn lượng hoàng kim, trà là tế phẩm cho vua mà lấy nước đầu giếng để châm cũng là một mẻ trà vứt đi. Trà ngon thất đẹp, cung kính lễ nghĩa mà đem cho kẻ chỉ biết nếm thấy vị đắng của trà hay uống ừng ực như đồ chết khát, cũng là phí của. 

"Như vậy, công tử muốn dùng trà thế nào?" Hoắc Phương nhìn Thiên Túng, ngón tay nhịp trên nắp hộp trà rất nhẹ. Y bình bình thản thản chầm chậm kể về trà, trong mắt chỉ tràn ngập ánh trăng. "Trà để thưởng thức, trà để tịnh tâm, trà để giao kết hay trà để uống?" 

"Trà để tịnh tâm, trà để giao kết, trà để thưởng thức, trà để uống thì mỗi loại cần có gì?" Thiên Túng cười hỏi. Hoắc Phương hơi nghiêng đầu. 

"Trà để tịnh tâm vốn chỉ là pha cho bản thân mình, để ổn định hỗn loạn trong tâm hiện tại, như nước xối vào đám lửa cháy - Có thể dập lửa mà cũng có thể làm lửa cháy to hơn. Pha trà này, cần nhất là điềm đạm, lấy tĩnh để chế động, qua sự tự chủ của hành vi mà điều hòa dần dần tâm trí. Trà để giao kết cần là chân tình và hiểu biết. Pha một bình trà cho nhiều người cùng uống cần nghĩ tới tất cả mọi người để không ai vì một bình trà mà mất vui, lại càng không thể để người khác vì một bình trà mà coi rẻ chủ nhân. Trà để thưởng thức cần sự thập toàn thập mỹ, nhưng thực chất không dành cho nhiều người. Kẻ cùng uống chỉ có thể là tri kỷ hoặc tri âm, như đàn Bá Nha chỉ gảy được cho Tử Kỳ. Nếu truy cầu cái đẹp toàn bích, cũng không thể dành cho mọi người mọi kẻ - Thử hỏi một người Man xem họ biết thế nào là sắc xanh của sứ, thế nào là vẻ đẹp của long phụng? Trà để uống thì chỉ cần thanh mát giải nhiệt - như ấm trà xanh bỏ lá vào bắc lên bếp - bớt mùi bớt vị, cần lượng không cần chất, nhưng lại là thứ đơn giản phổ biến nhất, mọi người đều cần." 

Thiên Túng nhè nhẹ gật đầu. Ánh mắt cậu nhìn xuống hộp trà nằm dưới những ngón tay dài trắng tái rồi lại đến cặp mắt thanh lãnh của Hoắc Phương. 

Y đang hỏi, cậu muốn gì? 

Chuyến thăm viếng vào nửa đêm này không phải là bất ngờ. Mấy hôm trước cậu đã cho người đưa thiếp báo rằng sẽ đến. Hoắc Phương nhìn thấy cậu cũng không lộ ra vẻ bất ngờ. Y biết rằng công tử của Nam Hà là một cậu bé mười ba tuổi - Và những cậu bé mười ba tuổi thì khác gì nhau? 

Cậu đến đây hai tháng trước, âm thầm trú ngụ tại Thương Trúc trang, thậm chí một lần tìm cách tiếp cận y mà không hề để lộ thân phận của mình, cậu muốn gì? 

Trà đã sẵn trong hộp, pha như thế nào? Uống như thế nào? 

Thiên Túng nhè nhẹ mỉm cười. 

"Trang viên của Hoắc gia quả nhiên danh bất hư truyền, là một góc bồng lai tiên cảnh." Cậu bé quay đầu nhìn quanh. Nước long lanh trên cỏ ướt, vẫn không ngừng nhỏ xuống từ những cành cây mềm mại. Tiếng nước trong chiếc guồng bên giếng thong thả rơi. Gió Tây đã thổi về, không khí có mùi đăng đắng trộn lẫn với hương hoa, được làm đằm lại bởi lá sen trong hồ. "Ta vẫn nghe rằng ngày xưa cha ta thường tới đây ngoạn cảnh, liền nghĩ muốn đến uống với Hoắc bang chủ một ly trà. Hy vọng vẫn có thể tìm lại được vị trà ngày xưa cha ta thường nhắc nhớ." 

"À ra vậy." Hoắc Phương gật đầu cười. Y ngoảnh lại nói với người hầu cận. "Đổi cho ta hộp trà Tước Thiệt[i], đem bộ đồ trà Chu Đậu[ii] ra đây." 

"Cha của công tử thường ngồi đàm luận trà đạo với tiên phụ của ta." Quay về phía Thiên Túng, Hoắc Phương hơi nheo mắt. "Tước Thiệt là danh trà của Cựu dinh, trồng nơi nắng nhiều gió lớn, hứng nắng mặt trời hít khí núi rừng cát biển mà sinh trưởng. Gốm sứ Chu Đậu nằm ven sông Thái Bình, là loại đất sét của Bắc Hà tạo thành, xuất qua phố Hiến mà đến nơi đây. Trà của xứ này đắng đậm mà chát. Đồ gia của xứ này không tinh tế hoàn mỹ như của Đại Thanh. Nhưng uống trà ở dưới trời nắng nóng xứ Quảng không có gì thích hợp bằng, đó cũng là một loại toàn mỹ." 

"À phải, cha ta cũng thường nói, trà nơi xứ nắng nóng này thật có vị khác thường." Thiên Túng nhoẻn cười. Cậu ta có nụ cười gần như ngây thơ. 

Những gia nhân đem ra bộ uống trà màu trắng vẽ hoa văn xanh lam, thay vì ấm đất Thiệu Hưng thì là ấm gốm men rạn. Tất cả được đặt trên khay gỗ được đẽo từ nguyên tấm gỗ lớn, còn những dải vân như nước cuộn. Một bếp lửa nhỏ được đặt ở góc đình, gia nhân đổ nước từ một chiếc bình nhỏ đậy kín vào siêu đồng. Khi nước sủi tăm, những bong bóng nhỏ không ngừng vỡ trong siêu, khói vừa kịp thoát ra khỏi miệng ấm, họ tắt lửa, nhấc siêu đặt gần bàn. Hoắc Phương lấy nước trong siêu tráng ấm, mở hộp bằng sứ bỏ ít trà vào ấm. Nước đợt đầu được y gạn cạn. Khi nước đợt hai được rót ra chén tống, hương hoa sen đã thoang thoảng khắp gian đình. [iii] 

"Mời công tử." Hoắc Phương mỉm cười khi cầm chén tống chuyên đều ra các chén quân. Thiên Túng cúi đầu nhận lấy. Hương sen càng nồng đậm trong mùi trà đắng gắt. Hương xông vào mũi như phả khắp thân thể, làm đầu óc gần như nhẹ bỗng. 

"Đây là dùng nước mưa năm ngoái." Hoắc Phương nói, y vẫn chưa vội uống chén trà trên tay. "Nhiều người chuộng nước sông suối có vị ngọt, tại hạ cho rằng trà này đã đủ đắng, hương đã đủ nồng, không nên dùng nước phá vị." 

"Nói như vậy, Hoắc bang chủ không có khẩu vị giống như người nơi đây." Thiên Túng cười khi đặt chén trà xuống bàn. "Chúng ta thường có thêm bánh kẹo, thuốc nước bên cạnh khi uống trà." 

"Tất nhiên tại hạ không phải người Việt." Khóe miệng Hoắc Phương nhè nhẹ nhếch. "Và tại hạ vẫn luôn cho rằng, đa cảm không hẳn là chuyện xấu, nhưng quá chú tâm đến cảm xúc và theo đuổi những cảm giác vụn vặt, quá bị lôi cuốn bởi những tiểu tiết, đó không phải tính cách của người làm việc lớn. Qúa dựa vào cảm giác rồi sẽ dễ dàng bị lừa gạt." 

"Không đâu, chúng ta ngụp lặn trong những lớp hương phù phiếm để nếm được cái Chân, điều đó lại càng khó làm." Thiên Túng thoải mái cười. "Và người làm được còn ít hơn cả người nắm được thế nào là Mỹ, thế nào là Đạo." 

"Chân là gì, Giả là gì? Đã không biết thế nào là Chân thì sao biết được Giả? Cái này là Giả thì cũng đâu có nghĩa đối nghịch là Chân. Chân chân giả giả, có khi chỉ là cách dối mình." Hoắc Phương nhẹ lắc đầu. "Mà chân thì sao, giả thì sao? Chỉ cần người tin thì đã thành chân, chân có thật cách mấy cũng thành giả. Không muốn tin thì dù là chân cũng có ý nghĩa gì? Rốt cuộc cũng chỉ là một loại cảm giác. Đạo, là con đường giữa cõi hỗn mang. Mỹ, là khát vọng. Chân, vốn đã là một loại ảo tưởng mất rồi." 

"Vì khao khát muốn có quá nhiều, nên mới phải đặt tiêu chuẩn để không rơi vào hố bẫy hay tầm thường. Nhưng đáng tiếc, cái Mỹ này lại là một tiêu chuẩn tự mình đặt ra cho mình. Hóa ra cũng lại là một dạng ảo tưởng khác." Thiên Túng gật đầu nói khi uống cạn chén trà. Một bên mắt Hoắc Phương nheo lại. 

Thiên Túng là một cậu bé. Tất nhiên, cậu ta còn hiếu thắng. 

Là muốn ăn thua, hay là còn không thể tin tưởng và tràn đầy nghi ngờ? 

Mối quan hệ này, vốn đặt gần như hoàn toàn trên nền móng của sự tin tưởng. Nếu không, ai có thể toàn tâm toàn ý cho một tổ chức như Thanh Hải bang này tồn tại và lớn mạnh ở đây? Nếu không, tại sao cha y, rồi y phải dốc lòng dốc sức cho họ? Đúng, bọn y là thương nhân sống vì lợi nhuận, nhưng bọn y tồn tại được vì còn một chữ Tín. Không có một chữ duy nhất ấy, sẽ bị đào thải hoàn toàn. 

Cậu công tử này âm thầm đến đây, âm thầm theo dõi y, cậu ta vốn không tin y. Lòng tin trong những mối quan hệ này vốn không thể xây đắp, chỉ có thể xác lập. 

Cậu ta còn quá nhỏ để có thể hiểu được điều ấy, phải chăng? 

"Công tử đến đây đã lâu, hẳn vì có việc tại vùng này?" Trà được vài tuần, Hoắc Phương quyết định lên tiếng hỏi. Thiên Túng rời mắt khỏi mặt nước trà xanh ánh trăng, gật đầu với nụ cười trong trẻo của cậu ta. 

"Nghe tin của Như Yên cô nương, ta muốn đến xem sự tình sao lại đến mức ấy. Cùng với sự tình tại Kim Long, ta cho rằng phía Nam đang biến động lại thiếu người nên tình nguyện tới đây." Lời lẽ cậu bé rất chân thành. "Tướng thần lại ty đột nhiên lại phát hỏa, ắt phải có nguyên cớ." 

"Nếu không có nguyên cớ, chỉ là một tai nạn thì sao, công tử?" Nụ cười của Hoắc Phương cũng có đôi phần trong trẻo, thanh lãnh mềm mại như nước. "Vả lại, công tử đã nghĩ ra cách nào để ổn định biến loạn?" 

Thiên Túng chớp mắt. Ổn định biến loạn, y nói, không phải là truy tìm thủ phạm. Nhận ra câu hỏi trong mắt cậu bé, Hoắc Phương nhún vai rất nhẹ. 

"Tại hạ nghe nói, lúc sắp lâm chung, tiên chúa có nhắn gửi lại cho gia phụ công tử rằng: Quan lại văn võ đều do ta cất nhắc, con phải tin dùng họ mới được. Lời nói khi sắp mất là những lời thật tâm nhất, quan trọng nhất mà con người muốn để lại. Tất cả những gì tiên chúa nhắc cho chúa công là 'tin tưởng'. 

"Nghĩ lại ngày ấy, khi chúa Thượng mất đi, tiên chúa nhường ngôi cho Nguyễn Phúc Trung mấy lần không được mới đảm nhận ngai vị này. Rồi quan lại xích mích, chuyện đồn đại người này người kia muốn bỏ về Bắc Hà là không hề hiếm. Để xoa dịu dư luận, chúa thậm chí phải bức tử một ái cơ người Nghệ An của mình. Đỉnh điểm của xung đột, Nguyễn Phúc Trung mưu phản, may nhờ một gia nhân của hắn báo lại, chúa mới có thể an toàn. 

"Nhưng đến ngày chúa mất đi, trong những quan lại ấy, có người lại xin học cách của Chu công nạp sách ngày trước[iv], xin viết tên mình cầu thần cho chết thay chúa. Công tử có hiểu vì sao?" 

"Chúa không truy xét loạn đảng, đốt danh sách không nhìn." Thiên Túng trầm mặc trả lời. Hoắc Phương gật đầu, rồi lại lắc đầu. 

"Họ không làm phản chúa, vì họ vốn không đặt lòng trung với chúa. Chúa là ai? Chỉ là một ngôi vị cao hơn người. Nếu chúa không tin họ, thì cớ gì có thể trách họ phụ mình?" 

Thiên Túng mím môi im lặng. Hoắc Phương phác tay cho gia nhân đến châm thêm nước cho bình trà. Hương sen một lần nữa lại tràn ngập khu đình lạnh hơi sương. 

"Chỉ khi tin các quan lại, chúa mới có thể xử tội họ." Ngón tay Hoắc Phương đan vào nhau, khi y nói gần như tĩnh lặng. "Quan lại là ai? Là những người được cất nhắc làm việc mà chúa cần, lương bổng của họ do nhà nước cấp phát, không phải là những người bị bắt buộc phải làm cho chúa như lính thú, dân phu. Đất nước này là gì? Từng phần, từng phần một của nó do họ Nguyễn - cũng như người Kinh - tới chiếm đóng, bắt dân nộp thuế cho mình, lôi kéo dân vào đất nước mình. Từ những cư dân tại Nghệ An, Thanh Hóa cho đến dân Man, dân Chiêm còn ở lại, và tất nhiên, người Tàu chúng ta. Không ai có nghĩa vụ phải trung thành với chính quyền của đất nước này, thật sự là như vậy. Thật sự là, dưới quan còn có lại, ngoài hệ thống quan chính thức thì mỗi vùng, mỗi làng có thêm chức lại thu thuế, trưởng làng trông coi việc riêng, và chính họ mới có quyền lực thực sự với người trong vùng họ cai quản. 'Phép vua thua lệ làng', vùng này có một câu nói như thế, có phải? Chúng dân chỉ biết ông lý trưởng làng họ - với người Chiêm thì là bà trưởng làng, trưởng tộc của họ[v], quá lắm là ông quan huyện, chứ biết thế nào là chúa, là vua? 

"Cho nên, một đất nước phát triển hay lụn bại, vương triều thành công hay thất bại là do hệ thống quan lại của nó. Ở một vài làng, một hai vùng hỏng thì còn có thể chấp nhận để sửa chữa, nhưng quan lại toàn quốc hỏng cả thì có phép lạ mới giữ được. Lòng tin mất, nước suy là chuyện trước mắt. Dân không tin quan, quan không tin không phục chúa, tất cả chỉ lo dối gạt lẫn nhau, thế thì còn mong gì đến cùng chung lòng chung sức? 

"Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung - Đó là vị quan vì lòng tin của chúa mà sẵn sàng chết để chứng minh. Chúa tín thì mới có tôi trung. Lòng tin của người đứng đầu là thứ quan trọng nhất." 

Thiên Túng vẫn im lặng. Hoắc Phương ngẫm nghĩ một lát rồi bất chợt bật cười khẽ. 

"Đó là điều ngày xưa cha công tử nói với ta. Ngay cả Như Yên cô cô của công tử, ta bảo đã gài sẵn thuốc nổ vào thuyền cũng sẵn sàng đi lên đó." 

Tất nhiên y đã bảo đảm rằng sẽ có biện pháp giữ an toàn cho họ. Nhưng cũng như y với Như Yên, chẳng ai trong bọn họ nghĩ rằng lời nói của đối phương có chút gì đáng tin. 

Thiên Túng chớp mắt. Vậy Hoắc Phương đoán được cậu đã gặp Như Yên. Như thế, hẳn y cũng phải nghĩ ra mục đích cậu ta tới đây. Từ nãy đến giờ y chỉ vờn cậu như một trò thử thách nho nhỏ. 

Và cậu đã thua, một nước. 

Trước nay cậu vẫn tự phụ mình thông minh, nhưng trước y, cậu nhận ra mình mới chỉ là một đứa trẻ. 

Tin? Làm cách nào để tin một con cáo già như y? Và làm cách nào y có thể tin một đứa trẻ? 

Cậu biết mình đã thua ngay bước đầu tiên. Y sẽ làm theo những gì cậu yêu cầu, vì quan hệ với cha cậu, với Như Yên, nhưng không phải vì cậu. Chỉ là hai kẻ giao kết với nhau bằng lợi ích - và không ngừng tìm cách dối gạt nhau. 

Và hủy diệt nhau, khi cần thiết. 

Chú thích:  

[1] Trà Tước Thiệt: Một loại trà ở Quảng Trị được Nguyễn Trãi nhắc đến trong Dư địa chí. Lá trà có dạng cong như lưỡi chim sẻ. 

[2] Chu Đậu: Làng nghề gốm sứ gần phố Hiến. Và cùng với phố Hiến cũng như các trung tâm thương mại Bắc Hà, đã bị Tây Sơn phá hủy hoàn toàn vào thế kỷ 18.  

[3] Cách pha trà ở đây là pha theo lối VN, rót ra chén tống (là chén lớn bằng cái bát) rồi châm trà ra chén quân (chén bằng hột mít). Cách này có khác biệt nhất định với cách pha trà TQ.  

[4] Chu công nạp sách: Chỉ chuyện Vũ vương nhà Chu sắp mất, gọi Chu công vào dặn dò gia phó con là Thành vương. Chu công làm sách xin nộp mình chết thay khấn ở nhà Thái miếu.  

[5] Người Chăm theo chế độ mẫu hệ. Trong mỗi làng, mỗi tộc có trưởng họ là phụ nữ.  

Hồi 54: Bát Phương trận 

Ngôi đình bên sông tràn bóng tối, chỉ có một ngọn đèn thắp leo lét trong gian nhà có cánh cửa nửa khép nửa mở. Cô gái áo lục ngồi cúi đầu bên chiếc bàn thấp, trong tay mân mê một tờ giấy nhỏ. Gió thoảng vào phòng đem theo hơi đất và mùi mưa nồng đậm. Sau một thời gian ngừng lặng, mưa đã lại ầm ào rơi. Bụi nước giăng kín khoảng không luênh ánh đèn từ bên kia thị thành hắt lại. Tiếng dòng sông khe khẽ vang dưới những bậc đá từ đình đi xuống. Bốn phía âm vang tiếng mưa. 

Y đã xuất hiện trong phòng từ lúc nào, nàng con gái không hay biết. 

Giũ vạt áo trắng xám khỏi những hạt mưa thưa thớt hắt vào, y đến ngồi trước mặt nàng, bên kia bàn. Cô gái giật mình đến mức suýt kêu lên. Nhận ra y, nàng thở ra, cau mày. 

"Làm tôi sợ chết đi được." Nàng nói như phiền trách nhẹ nhàng, uyển chuyển ngồi thẳng người dậy. Mắt y chăm chú nhìn theo tờ giấy nằm giữa những ngón tay nàng. 

"Tin vừa chuyển tới. Thái hậu Ngọc Vạn mất rồi." Nhận ra ánh mắt y, cô gái áo lục nói, xòe tờ giấy trong tay ra. Y chậm rãi cầm lấy mảnh giấy. Cô gái rút trâm trên đầu khêu đèn cháy rạng hơn. Ánh sáng soi tỏ khuôn mặt thanh tú có mấy phần tĩnh tại của nàng ta. Đôi mắt có đuôi dài như mực vẽ trong bóng tối. 

Trong Ngưng Yên đình này, nàng là Tư Tư cô nương. 

Năm trước, nàng vẫn còn ở Tây Phong lầu, là một trong những cô nương đệ nhất. Vì muốn lôi kéo Lâm Phi và đám đàn em của gã, Như Yên đã tìm cách lấy nàng về Ngưng Yên đình. 

Phong trần nữ tử, mỹ lệ tài tình, không tranh với đời, nàng từ khi trông coi Ngưng Yên đình này vẫn chỉ là cái bóng mờ trong một góc Thương Trúc trang quá nhiều dị nhân. 

Nên dù Xuân Tử có để mắt trông chừng y, cũng khó có thể nhận ra rằng tất cả các mối liên hệ của y với 'bên ngoài' đều thông qua nàng ta. 

"Sứ giả sắp đến?" Đọc xong tờ giấy, y nhíu mày. Tư Tư nhẹ gật đầu. 

"Chúa Nam Hà mất, các chư hầu hẳn nhiên phải cử người đến dâng hương. Vả lại Thái hậu cũng vừa mới qua đời, phải gấp gấp cử người đến báo. Nhưng nghe nói rằng Chính vương Nặc Thu cũng muốn đưa sứ giả đến điếu tang. Chẳng lẽ lại cử cả hai đoàn sứ giả đi nên vẫn còn đang hỏi ý nhau." 

Y trầm mặc nhìn tờ giấy, không lên tiếng. 

Nặc Thu cũng muốn cử sứ giả đến? Hay là, Nặc Thu cùng Nặc Nộn đều muốn cử người của mình tới. Nặc Thu cần thăm dò tình hình tại triều đình Nam Hà. Nặc Nộn muốn được sự bảo đảm của Nam Hà sau khi Thái hậu Ngọc Vạn mất. Và sau đó? 

"Lâm Phi đang ở Quy Ninh." Tư Tư chợt lên tiếng. Nàng chăm chú nhìn y như muốn thấy một phản ứng nào. "Gã được lệnh giữ bí mật, nhưng cứ gửi thư cho tôi. Người gửi nói, thư đến từ Quy Ninh." 

Quy Ninh? Y lặp lại những từ ngữ ấy trong lòng, nhưng vẫn không lên tiếng, sắc diện vẫn không hề đổi khác. Y biết dạo này, từ khi từ Phú Xuân trở về, Lâm Phi cùng đàn em của gã đã chính thức nhận sự sai phái của Như Yên để đi làm việc cho nàng ta. Bí mật đến Quy Ninh, hẳn mục đích của nàng dành cho bọn họ không gì khác là đi chiêu tập, thăm dò đám hải tặc trong vùng. 

Quy Ninh, cảng biển lớn thứ hai của Nam Hà, nơi đã từng là kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành, giờ đây đã trở nên hỗn loạn khi cư dân liên tục xáo trộn. Người Tàu đến vùng này đã lâu, từ khi nó còn là cảng biển thịnh vượng của vương quốc Chiêm Thành, giờ đây lại càng nhiều. Với tình trạng không được kiểm soát của vùng biển này, các thành phần bất hảo cũng kéo tới kiếm nơi ẩn náu. Nhưng việc ấy đã có người trong triều đình lo toan, Như Yên cần tìm gì ở nơi đó? 

Nàng cần gì ở đám đầu trộm đuôi cướp này? Trước là Lâm Phi cùng Bát Thanh Ngư, gần đây là Quảng Phú. Lâm Phi được đưa đến Quy Ninh, trong khi Quảng Phú được lưu giữ lại ở một nơi bí mật. 

Y luôn ở bên cạnh nàng, nhưng nàng chẳng bao giờ giải thích việc mình làm cho y. Y chỉ có những miếng ghép rời rạc, và cho đến lúc này y vẫn chưa tìm được mối dây khả dĩ có thể nối chúng lại. Vả lại gần đây Như Yên càng lúc càng tỏ ra xa cách với y. Không phải là thái độ biểu hiện ra bên ngoài - Y chỉ cảm thấy điều đó. Nàng không còn là cô bé con cứ nhất nhất bám chặt lấy y như trước. 

Y biết rằng Như Yên nghi ngờ y, biết rất rõ. Nhưng thái độ này của nàng lại khiến y nghi hoặc nhận biết của mình. 

"Dương tướng quân hỏi, khi nào thì ngài về?" Không nhận được câu trả lời của y, Tư Tư lại nói. Ngón tay nàng vò nhẹ lọn tóc buông bên vai. "Tướng quân bảo, Đông Phố xáo trộn nhiều, ngài về gấp thì hơn. Dù sao... ngài ở đây cũng đâu quá cần thiết." 

Những việc cần làm, y đã làm. Sáu năm ở nơi này, theo bước chân của Thương Trúc trang, y đã tự mình thiết lập được những mối quan hệ. Tại Tây Phong lầu, Tư Tư có thể cho y mọi thứ y cần. Mặc Huyền là thủ lĩnh của bến cảng, và Tây Phong lầu trở thành nơi đón ngọn gió từ bốn phương thổi tới. Ngay cả toán người đến từ Vân Nam, sau khi rời khỏi Hoắc gia cũng được đón tới Tây Phong lầu thiết đãi. 

Tin tức của Hữu Trà viên Chiêm Thành đến Hội An mà Như Yên biết, cũng từ Tây Phong lầu báo ra. 

Tư Tư nghiêng người bên đèn nhìn khuôn mặt lành lạnh như được tạc bằng đá của y. Hẳn nhiên thôi, y không trả lời nàng. Y vốn không bao giờ bàn việc với nàng, chỉ ra lệnh và nhận lấy những gì nàng đem tới. Nhất là việc liên quan đến cô gái ấy. 

Như Yên, cái tên mà khi nghe, Tư Tư vẫn liên tưởng đến một nữ tử mong manh như khói. Nhưng lần đầu tiên gặp cô gái ấy trong sòng bạc rồi xe ngựa, trước mắt nàng chỉ là một thiếu nữ nửa trẻ con nửa người lớn tai quái đến điều. Và nàng ta cũng lại là một kẻ chơi khác, trong cuộc chơi này. Đối thủ, địch thủ, kẻ thù... có thể là tất cả. 

Nhìn qua bao nhiêu dạng người, Tư Tư hẳn nhiên nhận ra cô bé con ấy là kẻ thế nào. Dùng nàng để dẫn dụ Lâm Phi. Dùng Lâm Phi thuyết phục Bát Thanh Ngư. Và ai biết, có phải nàng ta mượn cớ đem Tư Tư này ra khỏi Tây Phong lầu hay không - Khi nàng ta ngay lập tức kết giao với Mặc Huyền? Kẻ có muôn vàn bộ mặt, y nghĩ mình có thể hiểu được nàng ta? Tư Tư không bao giờ nghĩ như thế. 

Chơi với lửa, có ngày sẽ bị bỏng tay. 

"Nói với Dương tướng quân, ta ở đây để không ai nghi ngờ." Cuối cùng, y chỉ buông một câu. 

Nếu bây giờ y rời khỏi, hẳn nhiên Như Yên sẽ cho rằng Đông Phố có chuyện. Nàng biết y là ai, và y biết rằng nàng biết điều đó. Âu cũng là một trò lật bài nho nhỏ. Để lộ một quân bài, trong những quân đang nằm trên tay khi trao đổi lẫn nhau. 

Nhưng nếu có việc thực sự xảy ra, cách chơi này còn có thể tiếp tục đến bao lâu? 

Tư Tư khe khẽ thở ra, gật đầu. Không thấy nàng nói thêm điều gì, y đứng dậy. Tư Tư lặng lẽ theo chân y ra đến tận cửa. 

"Dương tướng quân nói..." Khi y vừa đặt chân lên bậc cửa, Tư Tư chợt nói. Nàng mím môi, có vẻ không quả quyết lắm, nhưng rồi vẫn tiếp tục. "Không phải Dương tướng quân, mà là Tư Tư nghe được từ người nhắn tin. Hắn ta uống mấy ly rượu rồi nói. Hoàng phó tướng dạo này hay có tranh cãi với Dương tướng quân về vấn đề gì đó. Chính vương Chân Lạp rồi nhà vua Đại Thành thường hay mời Hoàng phó tướng cùng với những trọng yếu nhân của Rạch Năn sang chơi. Có lần mọi người nghe được Dương tướng quân trách mắng Hoàng phó tướng là 'dụng tâm khôn cùng', 'vô ơn bạc nghĩa'. Hoàng phó tướng cũng đỏ mặt tía tai ra vẻ giận lắm. Cho nên, Dương tướng quân gọi ngài mau về gấp." 

Trong một lúc, y ngẩn người đứng trước cửa. 

Rồi với một cái gật đầu rất nhẹ, bóng y biến mất vào màn đêm. 

Tư Tư chậm chạp quay trở về bên bàn. Nàng lại dùng trâm khêu đèn, thả mẩu giấy vào lửa. Ngọn lửa bất chợt chói sáng, chập chờn bóng mưa in lên vách đình gỗ. Trong đêm, mùi thơm hăng hắc của hoa trúc đào càng nồng, lẫn với hơi đất ẩm trở thành dư hương quẩn quanh trong lồng ngực. 

Đuôi mắt dài như nét mực cùng làn mi khép hờ, người con gái trong Ngưng Yên đình lại chìm vào lặng im. 

Mưa càng lúc càng lớn, ướt đẫm mặt đất. Năm nay mưa quả thật là nhiều, y nghĩ khi nghe tiếng mưa không ngừng đập lên chiếc ô trên tay. Đặc biệt ở xứ Quảng Nam này. Ở đây đã như vậy, tại phương Nam hẳn nước đã ngập trắng. 

Tiếng mưa làm y nhận ra sự di chuyển của con người chậm mất một khắc. 

Trên con đường dẫn ra khỏi thị thành, khá xa Thương Trúc trang và Ngưng Yên đình, sau những bóng cây dày tràn ngập bóng tối, y nghe tiếng chân người - đúng hơn, sự di chuyển của con người. Bóng cây lay động không ngừng dưới mưa, những thân người cũng lặng yên chuyển động, y nhận ra chúng bằng cảm giác hơn là thính giác. 

Trong một khoảnh khắc, y nghĩ đến chuyện tránh sang bên. Y không có ý định tìm thêm rắc rối, và càng không muốn để ai nhận ra mình đã đến khu vực này. Kẻ ẩn nấp trong rừng - không phải một người - là những cao thủ đáng kể để có thể giấu mình như thế. 

Nhưng trong khoảnh khắc ấy, kẻ trong rừng đã tấn công. 

Từ trong bóng tối, ánh lấp lánh như nước bắn tới phía y. Những cây kim nhỏ như sợi chỉ tịnh không thể phân biệt được với mưa. Không thể nhảy tránh, y xoay chiếc ô quanh người. Chiếc ô mỏng mảnh, nhưng sức quay cực nhanh đã hất bắn những cây kim ám khí ra xung quanh. 

Vừa quay ô, y vừa phóng tới nơi kẻ phục kích ẩn náu giữa lùm cây dày. Nghe 'soạt' một tiếng nhỏ, lưỡi đao trên tay y phạt ngang qua mưa, cắt phăng một nửa lùm cây hất lên trời. Kẻ ẩn sau lùm cây thất kinh nhảy lùi ra sau. Đồng bọn của gã ngay lập tức trợ lực. Từ bốn phía, phi đao nhắm y lao đến. Đạp vào gốc cây vừa bị đao chặt gãy, y phóng lên cao. Chiếc ô đã mở sẵn trong tay y chĩa xuống dưới, xoay như bông vụ. Chạm vào thành ô, phi đao bắn ngược trở lại ra xung quanh. Nghe cây cối rung động ào ào khi người nấp trong đó nhảy tránh đao. 

Nhưng đúng như y nghĩ, những kẻ bao vây y là cao thủ. Chân y còn chưa chạm đến đất, bóng đen từ bốn phía đã ập vào, phải đến cả chục người. Trong chớp mắt, y đã bị bao vây giữa vòng tròn. Tám người mặt bịt kín đứng phía trong, bên ngoài là bốn người xen kẽ. 

Chỉ thấy ánh sáng nhoáng lên, phi đao lại lao về phía y. Chuôi đao được lồng vào một sợi xích nhỏ và dài. Thứ vũ khí tương tự như lão Tứ của Thương Trúc trang thường dùng. Tám lưỡi dao như rắn múa đan kín khoảng không, tấn công vào mọi bộ vị trên người kẻ đứng giữa vòng. Hung hiểm như muốn chặt y ra hàng trăm mảnh. 

Lưỡi đao của y như mây quấn khi thân ảnh trắng xám không ngừng dịch chuyển. Mũi chân đạp vào sống thanh phi đao quét xuống dưới chân, y nghiêng người gần như song song với mặt đất, lia đao qua. Bốn sợi dây xích quấn vào thanh đao y. Bốn người kia giật ngược dây trở lại, y mượn sức lao tới như một mũi tên. Bốn người lập tức buông dây tản sang bên. Y vẫn theo đà phóng đến. Chớp mắt, ánh đao như chớp lóa cắt ngang bóng tối. Một kẻ trong nhóm bốn người đứng ngoài rú lên. Gã nhảy tránh, nhưng tay trái đã bị cắt rời. 

Y đứng ngoài vòng vây của mười hai kẻ kia, thanh đao sáng lóa chúc mũi xuống đất. 

"Các người là ai?" Y lên tiếng khi những kẻ địch vẫn còn xáo động, chưa kịp xếp lại đội hình cho đợt tấn công tiếp theo. Nghe tiếng nói của y, một số kẻ chợt dừng hẳn lại - một động thái tỏ vẻ ngạc nhiên tột độ. 

Y đã nói bằng tiếng Quảng Đông. 

"Ngươi là ai?" Một kẻ trong nhóm bốn người đứng ngoài vòng tròn lên tiếng. Gã nói tiếng Kinh, rồi vội nói thêm một lần nữa bằng tiếng Quảng. Y cũng phải nhè nhẹ nhướng mày. 

Những kẻ này, có vẻ như đã tấn công lầm người. 

"Cần giết ai?" Y nói, như âm thầm chế nhạo. Nhưng y cũng không muốn giao chiến với đám người này, bây giờ. 

Những kẻ kia, tất nhiên, không trả lời y. 

Y cũng không cần được trả lời, khi tiếng xe ngựa vang trên con đường ngoài nơi bọn y đang giao đấu. Chiếc xe đi chậm. Chiếc đèn thông khí treo đầu xe tỏa ánh sáng vàng nhạt xuyên qua những tán cây rậm, đung đưa liên tục khi xe ngày càng tới gần. 

Bọn người kia nhìn nhau. Chúng ở đây để phục kích người hẳn đang đi trên chiếc xe ngựa kia, nhưng cơ hội tấn công bất ngờ đã mất. Và hẳn người lái xe đã nghe tiếng kim loại va chạm trong rừng nhưng vẫn cứ đi tới. Có nên tiếp tục xông ra hay không? 

Một người trong bọn gật đầu. Mười hai người, kể cả kẻ đã bị chặt đứt cánh tay trái, bỏ qua y đang đứng đó, xông về phía ánh sáng đỏ ngoài đường lộ. 

Từ trong xe, một mũi tên xé gió bay về đám người tấn công. Rồi một loạt tên khác bay ra như được bắn cùng một lúc - từ một loại nỏ đặc biệt của xứ này. 

Đám người dừng lại. Chiếc xe dừng lại. 

Một thư đồng trẻ tuổi vén màn che ngoài cửa xe nhìn ra. Khuôn mặt với làn da mịn màng nhẵn nhụi, đôi mắt trong trẻo, gã có vẻ gần như ngây thơ. Thấy đám người tấn công, gã nhoẻn miệng cười. 

"Mười hai người." Gã nói, với kẻ đằng sau. Phía sau gã, lại một thư đồng nữa dùng kiếm kéo hất màn lên. Kẻ này khá điển trai, khuôn mặt thanh tú, mang một loại khí chất điềm đạm nhàn nhạt thường trực. 

Thấy hai thư đồng, đám người tấn công đưa mắt nhìn nhau. Hẳn đây đúng là người họ muốn tìm. Thanh và Nhã, hai người trong Bát tuyệt. Hộ vệ của chúa Nam Hà. 

Kẻ đứng đầu đoàn người búng ngón tay. Mười hai người lập tức xông lên, định lập vòng tròn bao vây chiếc xe vào giữa. 

Nhưng chân kẻ này vừa nhấc, kiếm của kẻ kia cũng đã tuốt ra. 

Hai bóng áo đen phóng vút vào giữa đám người, thân thủ trong bóng tối như mũi tên bay không thấy bóng. Hai thanh kiếm sáng lóa bóng mưa múa vun vút qua những thân người. Một lãnh liệt, một dịu dàng, đốn ngã thân người như cỏ. 

Thanh, trong trẻo hồn hậu, kiếm pháp của gã cũng trong. Trong như nước. Lạnh như nước. Nhất nhất đều là lấy mạng người. 

Nhã, nhu hòa thanh thoát, mềm mại đẹp đẽ. Không màu mè hoa lá. Không rườm rà rối loạn. Đường kiếm thanh lịch, giết người cũng thanh thoát như một khúc đàn. 

Thanh và Nhã là hai cao thủ về kiếm thuật trong Bát tuyệt, chỉ dùng kiếm chứ không có vũ khí hỗ trợ. Khí thế mãnh liệt của hai người như đẩy bật cả toán tấn công trở ra sau. 

Dường như đã dự liệu trước tình huống này, đám người tách làm hai, để tám kẻ ở lại đối phó với Thanh và Nhã, bốn tên còn lại tiếp tục phóng về phía chiếc xe. Tên mã phu hoảng hốt nhảy xuống xe, lăn mình vào rừng cây trốn. Từ tay một kẻ, phi đao phóng tới. Ba kẻ khác cùng ra tay tiếp theo. Những mũi phi đao lao về tấm màn mỏng che đầu xe, tỏa ánh lạnh buốt như lưu tinh. 

Tấm màn lay động. Chợt căng ra như có vật đè xuống phía dưới. Phi đao phóng vào tấm màn căng văng ngược ra, như đụng vào một tấm kim loại. 

Một mũi phi đao khác cắm vào vách xe, vang lên tiếng kim loại va đập. 

Chiếc xe trông có vẻ hoàn toàn bình thường này được bọc thép giữa hai lớp gỗ. Vải che cửa xe chính là một loại lụa cực kỳ qúy hiếm, được dệt theo một kỹ thuật tinh tế đến mức giữa những sợi tơ không có một kẽ hở, đan nhau mấy lớp, đao kiếm chém không đứt. 

Chỉ có những con ngựa hoảng sợ lồng lên khi tên mã phu đã đi mất là ngoài dự liệu. Kẻ trong xe buộc phải với tay lấy chiếc roi quăng ngoài cửa xe, quất khe khẽ mà quát "Yên nào!" 

Giọng nói của người cực Bắc Nam Hà, vẫn còn thanh thanh như trẻ con. Bàn tay trắng trẻo mềm mại như chỉ dùng để gảy đàn. Cậu bé trong xe vén rèm nhìn ra kẻ tấn công, khuôn mặt lại lộ vẻ thích thú nho nhỏ. 

"Ai sai các người tới đây?" Cậu chớp mắt. Chiếc roi mềm vẫn vung vẩy trên tay. Từ đằng xa nhìn lại, y hiểu ra tại sao chúng lại lầm lẫn y với cậu bé. Áo nguyệt bạch trong đêm có sắc độ cũng gần như trắng. Và có lẽ, chúng không biết tuổi của người mình định tấn công. 

Thấy cậu bé, một người trong bọn giật mình rõ rệt. Chân gã còn có ý như muốn lùi lại. 

Nhưng những kẻ còn lại không nghĩ như gã. 

Phi đao không thành công, chúng rút đao bên người, đồng loạt xông về trước. Gã chần chừ kia chậm mất một bước, cũng vội lao theo. 

Vì chậm mất một bước, gã tránh được họa sát thân. 

Chiếc roi trên tay cậu bé vừa hạ xuống, ánh bạc đã loáng qua mưa. Từ tay cậu ta, con dao cong hình lưỡi liềm vẽ thành một hình cung rộng, lia chính xác vào yết hầu của ba người tấn công. Thủ pháp giống hệt cách dùng phi đao của đám người kia, nhưng nhanh như chớp giật, như quỷ thần. Ngồi trong xe, cậu ta ước lượng khoảng cách và chiều cao của từng người, để chỉ một lần ra tay đã lấy mạng. Lưỡi dao mỏng như lá lúa cắt ngang qua yết hầu mà kẻ tấn công vẫn còn xông tới thêm vài bước, máu mới phọt thành vòi. Ba kẻ tấn công ôm cổ gã xuống mặt đất ướt mưa, cổ họng đã bị cắt đứt chỉ còn tiếng lào khào như ống vỡ. Tên còn lại hốt hoảng lùi chân, tay chạm lên cổ, nơi lưỡi dao lướt qua để lại vết cắt mờ. 

Cậu bé thu dây, con dao lại trở ngược về tay cậu. Cuối chuôi dao có một vòng sắt nhỏ, được buộc với một sợi dây mảnh - sợi dây mà cậu ta vẫn thường dùng để thả diều. Trong đêm tối, tịnh không nhìn ra sợi dây ấy.[1] 

Không nhìn đến kẻ còn đứng như tượng, gần như hoảng kinh, cậu bé đưa mắt về phía Thanh và Nhã. Tám kẻ kia võ công không bằng hai người hộ vệ nhưng trận pháp thuần thục, cũng đã cầm chân được họ. 

"Thanh, ba bước bên trái. Nhã, một bước về trước, bên phải." Cậu bé chợt lên tiếng. Bát Phương trận dựa vào tám phía của Hộ Thần Bát Phương Thiên mà vận hành. Kẻ lập trận này đã lại dùng nguyên lý Ngũ hành pha với một ít có vẻ là hành đồ của Mật tông để sửa lại trận pháp. Nhưng dù dựa vào Bát Phương trận, trận đồ này chỉ có vỏ ngoài, không đạt đến tinh túy của Bát Phương, như thể chỉ được bắt chước mà tạo ra. 

Nghe tiếng cậu bé, hai người hộ vệ lập tức y lời. Hai bên rìa trận lập tức rối loạn. Thanh và Nhã xuyên ngay vào điểm sơ hở để phá trận. Tám người nhất thời bối rối, chỉ lo che đỡ cho nhau mà lùi dần. 

"Không cần truy sát." Cậu bé thản nhiên nói. Liếc mắt lại nhìn thấy ba kẻ tấn công hấp hối trên mặt đất, tám người kia lập tức thu trận, quay lưng bỏ chạy. Kẻ đang đứng ngẩn gần chiếc xe cũng vội vã chạy theo. Cậu bé phất tay cho hai người hộ vệ trở lại. 

"Tên mã phu chạy rồi. Ta chưa kịp trả tiền cho hắn." Cậu bé thở ra trước khi quay trở vào xe. Thanh biết ý, liền ngồi vào chỗ của mã phu, ra roi cho xe tiếp tục chạy. Mưa tiếp tục rơi xuống mặt đường ướt - mà nếu không có ba xác chết nằm trên đường, không ai biết có một trận kịch chiến vừa xảy ra. 

Y cũng quay đi, tiếp tục con đường trở về. Chiếc ô vẫn xòe rộng trên đầu y, thành ô chỉ bị vài vết rách nhỏ. Dù đã ướt vì cuộc giao đấu, y vẫn không thích bị mưa tiếp tục xối xuống người. 

Thiên Túng trọ ở Thương Trúc trang, hẳn nhiên phải trở về ngang qua đây. Nhưng kẻ nào muốn giết cậu ta? Không, không phải cậu ta, khi chúng cũng không biết chính xác kẻ địch của mình chỉ mới mười ba tuổi. 

Có lẽ, chúng chỉ muốn trừ khử 'kẻ vừa tới Thương Trúc trang'. Dù Thiên Túng có kín tiếng thế nào, cũng không qua khỏi tai mắt khắp Hội An. 

Nhưng tại sao cậu ta lại dễ dàng để kẻ tấn công rời đi? Một cậu bé mười mấy tuổi, đó là thứ định danh cậu ta dễ dàng hơn bất cứ ai. Công tử, Thế tử của Nam Hà, chính là một cậu bé mười ba tuổi. 

Hay là, 'thời điểm' đã tới? 

"Công tử, trận pháp ấy..." Trong xe, Nhã ngập ngừng ướm lời. Thiên Túng vẫn chăm chú quấn sợi dây mảnh quanh những ngón tay. Mấy hôm trước, Quế vừa bày cho cậu cách chơi dây của nó. Hai đứa trẻ cùng tuổi rất dễ thân thiết, Quế lại tinh linh cổ quái rất hợp với ý thích của cậu. Cậu thích những người thông minh, mà Quế, theo cách nào đó, chính là một loại thiên tài. 

"Bát Phương trận." Không ngẩng lên, Thiên Túng trả lời. Nhã ngạc nhiên nhìn cậu. Bát Phương trận thì gã cũng đã học qua, nhưng trận pháp này có nhiều điểm không giống. Ở trong trận, càng khó cho gã nhận ra đây chính là trận Bát Phương. 

"Chỉ là trò múa máy bắt chước thôi, sửa đổi linh tinh cả." Nhận ra sự ngạc nhiên của Nhã, Thiên Túng lắc đầu. Cậu chợt cười khẽ. "Nhưng ai có khả năng dù chỉ là 'bắt chước' như thế chứ?" 

Nhã im lặng. Hẳn nhiên, đó là lý do Thiên Túng để cho đám người tấn công chạy đi. 

Đó là một lời thách thức, không, một câu hỏi. 

Tiếp tục hay không tiếp tục, cậu ta hỏi. Và thách thức kẻ trả lời.  

Chú thích:  

[1] Loại vũ khí dao ngắn được nối với dây dài rất phổ biến ở vài vùng phương Nam. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức cho biết, vũ khí chính của quân Đông Sơn là dao nối dây, có thể dùng được để ra trận. 

Hồi 55: Quy Ninh 

Qua tiết Trùng Cửu, lại có bão. 

Trời xám xịt một màu khi gió không ngừng ào ạt thổi rung cả mái nhà. Cây cối ngã rào rào, cành lá chất chồng trên đường ướt. Từ những gò đống cao, đá cùng đất không ngừng trượt xuống. Mưa tạo thành những vũng lầy trên đường đánh bẫy kẻ lại qua. Nước lên từ đầu nguồn ào ạt dâng. Trời đất trắng xóa một màu mưa. Mưa tấp vào mặt người đến như không thể mở mắt ra nổi. 

Thế mà Như Yên lại nhất quyết ra khỏi nhà vào lúc này. Đường trơn trượt, xe không đi được, nàng cho gọi sắp xếp mấy con ngựa, dắt theo cả ngựa để thay đổi giữa đường. Ngăn cản không xong, Sa và hắn lại phải đi theo nàng ta. 

"Không chờ được?" Hắn hỏi một lần cuối khi khoác áo tơi, đội nón vào. Bão dù sao cũng chỉ vài ngày sẽ tan. 

Như Yên thậm chí không dùng ánh mắt 'Ngươi lắm lời quá' để liếc nhìn hắn. Nàng đội chiếc nón rộng lên đầu, với tay lấy roi quất ngựa mà bước ra sân. 

"Đầy người ở bên ngoài, ngươi không thấy sao?" Nàng nói, thanh âm tiếng được tiếng mất trong màn mưa bão. 

Đó là người bắt buộc phải đi làm việc, hắn lắc đầu không tranh cãi tiếp với tiểu yêu tinh. Mưa bão, nước dâng đe dọa những cánh đồng đang đến lúc thu hoạch mùa thu, nông dân bất chấp mưa bão phơi trần ra khuân đất tu bổ con đê mỏng mảnh. Ở ven biển, người dân chài cũng lo chống giữ mái nhà, trông chừng nước lên sóng dữ. Trong những khu đậu thuyền lúp xúp bóng người coi cảng lại qua coi sóc thuyền bè. Trên đường, một vài toán lính cũng đã được cử đi cứu hộ. Ven bờ biển xám xịt màu bão cũng lác đác bóng người ngóng thuyền về trễ. Đội cứu hộ thuyền tụ tập gần đó. Bão càng lớn, người sống trong vùng càng chộn rộn. Tuy chẳng liên quan gì đến việc của Như Yên. 

Bùn lầy trơn trợt dưới vó ngựa. Bọn họ cũng không dám thúc ngựa chạy nhanh. Cũng may Như Yên chọn đường lớn để đi. Con đường chạy dài ven bờ biển, vòng qua Hội An rồi đến biên giới Quảng Nam. Theo hướng này, có lẽ nàng định rời khỏi Quảng Nam. Mưa to bão lớn, bọn hắn không lo gặp phải thú dữ trên đường, cứ chạy thẳng một mạch từ sáng cho đến chập tối, qua một lần thay ngựa, thì tới một ngôi làng nhỏ có lẽ đã nằm trong địa phận Quảng Ngãi. Thấy bọn hắn, nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên. Bọn họ cũng ướt từ đầu đến chân, có vẻ vừa đi đắp đê về. Cơn bão vẫn lồng lộn trên bầu trời, chưa ập vào nhưng đã gây ra nhiều thiệt hại. Vài nhà trong làng đã bị sập. Ở vùng trũng, nước lên mấp mé sàn nhà đã nhà được xây cao trên bốn chiếc cột vững. Ông trưởng làng không có vẻ thích thú cho lắm với bạc mà Như Yên đưa ra cho một chỗ ở nhờ. Gương mặt phờ phạc gần giống như dân làng, ông ta trông mệt mỏi đến mức chẳng còn nghĩ gì được nữa. 

"Bây giờ ai cũng bận cả." Ông lão trả lời khi Như Yên ướm lời hỏi mượn một ngôi nhà. "Cuối làng có một ngôi đình trống, cô nương có thể vào trọ ở đó." 

Vừa đặt chân đến cuối làng, bọn hắn đã hiểu ngay tại sao chỉ có ngôi đình này còn trống. Tuy còn vững chãi, trần nhà còn chưa bị dột nhiều, ngôi đình có vẻ hoang vu kỳ lạ, tỏa ra một thứ hàn khí rởn tóc gáy. Trên bậc thang lên đình, trên bậc cửa, rêu đóng dày như thể đã lâu không có người đặt chân tới. Nằm dựa lưng vào thành lũy ngăn làng với khu rừng phía sau, cách làng một quãng sân, gió bão vi vút thổi bốn phía qua đình, bóng cây lay động như nhảy múa càng tăng thêm vẻ rùng rợn. 

Nhưng Như Yên cứ dắt ngựa bước tới. Buộc ngựa dưới mái hiên đình, nàng châm lửa cho cây đuốc trên tay. Cây phủ bốn phía đình, lan cả vào cửa chính lẫn cửa sổ, suýt nữa làm hắn vấp vào con chó đá cạnh cửa. Nhưng trong đình trống hoang, không có cả một bệ hay bàn thờ, càng không có đến một bức tượng. Nơi nơi nhện giăng bụi bám. Trên sàn lăn lóc mấy cục đá cùng vài viên đen đen mà hắn không nhận ra được xuất xứ trong bóng tối. 

"Gom củi đốt lửa đi!" Như Yên nói sau một lúc quan sát đình. Nàng mặc nhiên cho rằng đây là nơi có thể ở được. 

Nhưng đã biết để không tranh cãi vô ích với tiểu yêu tinh, hắn cùng Sa cũng ra ngoài nhặt cây khô về nhóm một đống lửa giữa gian đình trống. Trong lúc chờ đợi hai người, Như Yên mở bọc vải đem theo, lấy ra vài miếng lương khô. Khi nãy đi ngang qua làng, nhân lúc gà bay chó chạy, nàng cũng 'tiện thể' bắt lấy hai con gà. Hắn cho rằng đây là tính khí thường nhật của tiểu yêu tinh, có lẽ là từ ngày còn nhỏ, nàng thích gì lấy nấy chẳng hề có ý thức nào. 

Lửa đượm, con gà cũng chín rất nhanh. Đã qua một ngày mệt mỏi, bọn hắn ăn xong rồi chỉ muốn ngả lưng nằm ngủ. Sàn đất lạnh, bọn hắn phải trải áo tơi xuống đất, ngả lưng nằm lên mặt trong của áo. Như Yên nằm ở bên kia đám lửa, quay mặt vào vách đình. 

Đến nửa đêm, bên ngoài lại vang tiếng chân bước. Một đoàn khác chừng năm, sáu người dắt theo mấy con ngựa lẫn lừa đến trước đình. Nghe tiếng lao xao của thứ ngôn ngữ không quen trước khi người dẫn đầu bọn họ cởi áo tơi bước vào. Một người phụ nữ trung niên ăn mặc theo lối của người Chiêm Thành. Theo sau bà là hai ba phụ nữ khác, già có trẻ có, tất cả đều mặc trang phục đại lễ của Chiêm Thành. Họ vừa đến cửa, mùi xạ hương thơm ngát đã thoảng khắp phòng. 

Thấy hắn và Sa ngồi dậy, người phụ nữ chớp mắt cười, nói bằng tiếng Kinh khá rõ. 

"Chúng tôi đi lễ ngang qua đây, có thể ngồi chung được chứ?" Trang phục của bà in nhiều hoa văn hơn hẳn, thể hiện vai vế không nhỏ so với người xung quanh. Đang mùa lễ Katê, hẳn họ đến đền tháp tại Quy Ninh dự hội. Trong lúc Sa vẫn im lặng, hắn gật đầu. 

"Mời các vị." Với những người sử dụng ngôn ngữ không quen thuộc, hắn biết rằng nên nói càng ngắn gọn càng tốt. Người phụ nữ Chiêm Thành gật đầu cười, gọi toán người ở sau theo vào. Gian đình rộng bỗng chốc chật chội. Như Yên vẫn nằm yên, không hề có động thái tỉnh dậy. Hắn buộc phải giơ tay lay nàng. 

"Dậy một chút..." Vừa chạm vào vai nàng, hắn đã giật mình. Da nàng nóng như lửa. 

Thấy sắc mặt hắn, Sa vội đứng lên đến cạnh Như Yên, nâng nàng lên. Như Yên mơ màng mở mắt, cau mày. 

"Có chuyện gì vậy?" Nàng chống tay định ngồi thẳng lên trong tay Sa. Bàn tay y đặt lên trán nàng. Khuôn mặt nàng đỏ, không giấu được cơn sốt nóng rực. 

"Cô bé bệnh rồi." Người phụ nữ Chiêm Thành nghiêng người qua đám lửa quan sát Như Yên, đôi mắt lộ vẻ quan tâm chân thành. Bà lại gần kéo tay nàng bắt mạch. "Lao lực quá độ." 

"Ta không sao." Như Yên cau mày, giật tay khỏi bàn tay người phụ nữ. Nàng đưa mắt quan sát toán người vừa vào đang sắp xếp chỗ trú trong một góc đình, nhẹ gật đầu. "Các người cứ nghỉ đi." 

"Cô bé phải uống thuốc." Người phụ nữ lắc đầu, lần tay vào trong áo lấy ra một hoàn thuốc nhỏ màu trắng ngà, thơm nức như hoa. Như Yên nhướng mày nhìn bà ta, không đưa tay nhận. 

"Cám ơn, ta có thuốc rồi." Nàng vừa nói vừa đẩy Sa sang bên, lại tìm cách nằm xuống. Người phụ nữ nhìn chiếc áo tơi dưới lưng nàng, cái cau mày càng sâu thêm. 

"Không thể nằm như thế được, lạnh lưng. Ta còn mấy tấm khăn, trải ra cho cô bé nằm đắp tạm." Vừa nói, bà vừa vẫy tay cho cô gái đằng sau. Như Yên mở mắt, ném về phía bà cái nhìn bực bội. 

"Ta đã bảo không cần." Nàng gạt tay cô gái cầm chiếc khăn lớn đi đến bên cạnh. Không đừng được, hắn nắm lấy cánh tay nàng. 

"Cô muốn chết chôn ở đây thì cứ việc cãi nhau." Hắn ném Như Yên về phía Sa, ra hiệu cho y đỡ nàng lên, bản thân trải khăn trên nền đất. Như Yên vừa được đặt xuống, một tấm khăn khác đã trùm kín quanh người nàng. Không để nàng có cơ vùng vẫy, hắn lấy hoàn thuốc trong tay người phụ nữ, bóp miệng nàng nhét vào. 

"Ngươi..." Như Yên trừng mắt nhìn hắn, định phun hoàn thuốc ra nhưng vô vọng. "Đồ ngốc nhà ngươi, người ta cho gì uống nấy hay sao?" 

"Cô bé còn trẻ mà đa nghi thái quá." Người phụ nữ lắc đầu, quay trở lại với toán người. Như Yên quắc mắt nhìn bà ta, ngón tay móc vào họng như muốn ói hoàn thuốc trở ra. Một lần nữa, Sa buộc phải giữ chặt lấy nàng. 

"Cô biết lo cho mình một chút đi rồi hãy hung hăng." Hắn đảo mắt. Tiểu yêu tinh này vẫn còn sức để vùng vằng quả thật là lạ. Ngày thường nàng ta lo toan tính toán mọi việc chu toàn, đối với bản thân thì lại... thế này. Nếu không phát hiện ra, nàng ta cứ định nằm so gan với cơn sốt đến chết thật sao chứ? 

"Ta có chết cũng không cần ngươi chôn." Như Yên lầm bầm, nhưng không còn có vẻ giận dữ. Nàng nhắm mắt, hơi thở nặng nhọc, một lúc sau đã lại chìm vào giấc ngủ, mặc cho đám người vừa tới vẫn ồn ào xung quanh. 

"Sao bây giờ đây?" Hắn hỏi Sa vẫn ngồi tựa vào cột đình ôm Như Yên. Nàng hẳn phát bệnh vì băng qua trận bão lạnh này, hiện đang cần hơi ấm. Nhưng nàng đưa bọn hắn đến giữa đường mà không nói mục đích, hiện thời cũng không biết phải xử trí ra sao. Không thể cứ để Như Yên vượt bão trong tình trạng này, dù là tiến lên hay quay về. Chỉ có thể ở lại trong làng, giữa cơn bão. 

"Nàng ta muốn đến Quy Ninh..." Sa trầm ngâm trả lời, cúi đầu nhìn khuôn mặt đỏ hồng của Như Yên gối vào lòng y. Quy Ninh, Lâm Phi đang ở đó, y nghĩ thầm. Việc bí mật nào mà nàng đang giao cho gã ta, hẳn đang đến lúc nghiêm trọng. Nếu không Như Yên đã không bất chấp bão lớn mà đi. 

"Tử Hiên..." Như Yên chớp mắt, mấp máy môi gọi. Nàng nửa thức nửa ngủ, hẳn đã nghe mấy lời bọn hắn nói. Bàn tay nàng với ra sau, nhét một mẩu giấy lấy từ trong áo vào tay hắn. "Ngươi đến nơi này, tìm người ở đó cho ta." 

"Ta?" Hắn kềm lại câu hỏi không thoát ra khỏi cổ họng, ngẩn người nhìn Như Yên rồi lại Sa. Ánh mắt y rơi vào mảnh giấy trên tay hắn. Mấy ngón tay Như Yên vẫn đặt trong tay hắn, khi nàng một lần nữa rơi vào giấc ngủ nặng nề. 

"Ngươi đi đi. Ta phải ở đây trông Như Yên." Sa gật đầu, một lúc sau. Hắn thu lại tờ giấy, nhét vào áo mà không đọc. Trong lòng hắn thoáng gợn lên một thứ cảm giác nửa như phiền muộn, nửa như bực bội. 

Bóng tối thoáng qua mắt Sa đã hiện rất rõ trong ánh lửa. 

Nhờ hắn, không phải y, có thể vì Như Yên không muốn rời xa y. Nhưng từ bao giờ nàng lại là người đặt tình cảm lên trên lý trí như thế? Nhờ hắn, không phải y, trong thứ công việc mà đến tận giờ này nàng vẫn không hề hé răng. 

Thậm chí nàng không hỏi ý hắn xem có muốn làm việc này hay không? Tại sao hắn phải làm việc cho nàng ta? Mỗi lần liên quan đến công việc của nàng, hắn đều lâm vào tình trạng thảm hại thảm thương. Thà ở đây cho nàng đánh mắng còn hơn... Hắn lại đang nghĩ cái gì vậy chứ? 

Xung quanh nhiều người, bọn hắn cũng không tiện nói chuyện. Sa chỉ ôm Như Yên mà nhìn lửa không ngừng nhảy múa trong làn gió thoát qua cánh cửa thổi vào. Khu đình lạnh hơi mưa giờ đã đông đúc lại mang mùi khói hơi ngột ngạt. Hương của những người phụ nữ Chiêm Thành dùng thơm như mùi gỗ quế. Người phụ nữ trung niên thỉnh thoảng lại tạt qua chỗ Như Yên thăm bệnh. Theo lời kể, bà là trưởng một Palei gần đây, định đến Thạch Thành cúng lễ. 

"Đình đền ở Quy Ninh đã hoang vắng rồi, muốn cúng lễ thì phải đến gần Panduranga thôi." Người phụ nữ cười, mắt phảng phất buồn. Thạch Thành nằm ở Tây Nam Phú Yên, vẫn còn tập trung khá nhiều người Chiêm. Quản lý toàn vùng là một nữ chúa có họ hàng với nhà vua Bà Tranh. 

Hắn liếc nhìn Sa cùng Như Yên, không lên tiếng. 

Vất vả đến sáng, cơn sốt của Như Yên cũng đã hạ. Bão vẫn quần đảo ngoài biển khơi, mưa xám đất trời. Quấn quanh người một tấm chăn dày mua được trong làng, nàng vẫy tay gọi hắn lại gần. 

"Đến đó, tìm gặp Lâm Phi." Như Yên hạ giọng nói, cố để người xung quanh không nghe thấy. Nàng nhìn theo người phụ nữ Chiêm Thành rồi quay sang hắn. "Ngươi đi theo bà ta?" 

Hắn gật đầu. Trên khuôn mặt xanh xao của Như Yên thoáng nét lo lắng. 

"Ngươi tin là bà ta đi dự lễ?" Nàng nhướng mày. Hắn lắc đầu. 

Đã qua ngày làm lễ ở đền đến ngày hội Katê tại các làng và gia đình, người phụ nữ này băng rừng vượt bão đến Thạch Thành quả thật là lạ lùng. Vả lại hắn nhận ra trong đám người đi theo bà ta có cả một vài người Hồi giáo. Trong tình trạng kình chống tôn giáo giữa hai nhóm người Chiêm Thành, những người Hồi giáo đến dự lễ Katê càng quái lạ hơn. 

Như Yên chăm chú nhìn hắn. Nàng chợt mỉm cười. 

"Thôi được rồi, ngươi đi đi." Nàng nói, lần tay vào trong áo lấy ra một chiếc túi vải nhỏ vòng qua đeo vào cổ hắn. "Nếu có việc gì nguy hiểm thì mở túi này ra. Chừng nào ta khỏe sẽ đến ngay." 

Hắn gật đầu. Thấy người phụ nữ đã bước ra ngoài, hắn vội vã đứng dậy đi theo. Sa đã dắt ngựa đến đợi hắn dưới tán cây ruối. Trao dây cương cho hắn, y chỉ buông một câu khe khẽ. 

"Cẩn thận." Việc mà Như Yên muốn làm, chẳng bao giờ là an toàn. 

Mưa vẫn tấp vào mặt hắn lạnh như đá. Khoảng đường phía trước mờ mịt sương lẫn mưa, cách chừng một thước không thấy người bên cạnh. Hai bên đường, qua một ngày đêm bão gió, đá đổ lổn nhổn cùng cây gãy khắp nơi, nhiều đoạn phải xuống ngựa đi bộ qua. Mưa càng lớn, đường càng khó đi, mất thêm hai ngày nữa bọn hắn mới đến được thành Đồ Bàn, Quy Ninh. Lúc ấy cơn bão ngoài khơi cũng đã sắp tàn. 

Thành Đồ Bàn hiện tại đã được quan quân triều Nguyễn trưng dụng làm nơi đóng quân. Trong thành, quan trấn thủ cùng các chức sắc cai quản vùng ở trong những cung đài cũ cùng đồn lính Quy Ninh. Cư dân người Việt vừa được chuyển từ Nghệ An tới lập làng xã quanh vùng, cạnh các đền đài Chiêm Thành cũ còn nguyên màu gạch đỏ. Gần đến mùa thu hoạch, các đồng lúa còn chống cự được cơn nước dâng đòng đòng vàng ươm. Ở đây hầu như không có các dinh thự khang trang, chỉ có những căn nhà rơm hàng nối tiếp hàng của cư dân vừa mới định cư. 

Đến gần cảng Thị Nại, nhà cửa phố xá dần dần sầm uất. Các khu phố dành cho nhà buôn và khách trọ nằm dọc hai bên đường, xen lẫn với các khoảng chợ tấp nập sớm chiều buôn bán sản vật trong vùng như gỗ, trầu, gốm... Phía sau khu phố buôn bán là một làng gốm lớn, bên cạnh có cả những khu rèn sắt đúc đồng. Quang cảnh nơi đây không có vẻ phồn hoa như tại Hội An, chỉ dày đặc người vận chuyển buôn bán. Bên cảng, những con tàu lớn nhỏ dành cho hành trình đại dương đã xếp buồm nằm san sát nhau. Trên dòng sông dẫn ra cảng biển, các con thuyền nhỏ chở hàng hóa từ trong núi xuống nối đuôi nhau nằm ven bờ. Hắn nhận ra sự đông đúc của người Tàu trong vùng đất này - một sự đông đúc khá lạ lùng, không như tại Hội An chỉ hầu như là các thương nhân quần áo là lượt, người Tàu nơi đây có đủ mọi thành phần, kể cả những phu điền có vẻ nghèo cùng không kém người bản xứ. 

Trọ lại trong một khu nhà cùng với nhóm người Chiêm Thành, theo chỉ dẫn trong tờ giấy của Như Yên, hắn đến bến cảng thuê một chiếc thuyền nhỏ. Đi ven bờ biển đến một dãy núi đá lớn ở phương Nam, hắn bỏ thuyền lên bờ. Nơi này vách đá cheo leo dựng đứng, rừng cây xanh rậm rì, trùng trùng cao ngất chất lên nhau. Men theo dòng nước chảy quanh vách núi, hắn tìm được một cái vịnh nhỏ có thể đậu được chừng vài chục chiếc thuyền. Trong vịnh đông chật thuyền. Trên vách đá dựng đứng xanh bóng cây, dường như có những bóng người di chuyển. Phóng mắt lên trên đỉnh núi có thể thấy mái của một vài ngôi nhà. 

Đỉnh núi ấy ngăn cách hẳn với con đường từ ngoài vào bằng dòng sông đủ lớn để khó bơi qua. Và hắn không dại gì tìm cách thử bơi qua khi chắc chắn các đài canh được bố trí khắp nơi để hắn trở thành bia tập bắn cho một tên lâu la buồn chán nào. 

Như thói thường của các đồn trại kiểu này, phía cuối đường, nấp trong rừng cây là một ngôi nhà canh nho nhỏ, bốn phía trống như một quán rượu. Trong nhà có kê vài cái bàn ghế ọp ẹp với vài kẻ đứng ngồi. Tất cả đều cởi trần, người mặc quần ngắn kẻ đóng khố, tất cả dường như chẳng bị ảnh hưởng bởi cái lạnh hàn khắc nghiệt của mưa rừng trong núi mùa bão này. 

Như những kẻ đã quen sống trong rừng dựa vào giác quan, chúng phát hiện ra hắn nhanh hơn bình thường. Nghe tiếng chân đạp lên cành cây gãy, mấy cái đầu quay phắt lại cùng một lúc, dao bên thắt lưng được rút ra. 

"Ta đến tìm người." Hắn nói bằng tiếng Quảng Đông, không quan tâm đến chuyện những kẻ kia có hiểu hay không. Ngôn ngữ, lúc này, là thứ định danh hắn dễ dàng nhất. "Ta đến tìm Lâm Phi lão đầu." 

Hắn không buồn nói lại bằng tiếng Kinh. Chúng phải tìm một kẻ khả dĩ để phiên dịch, tất nhiên. Trong lúc đó, hắn đường hoàng bỏ nón, ngồi xuống ghế trong ngôi nhà nhỏ, đưa mắt quan sát xung quanh. Khu nhà trên núi dựa lưng vào một vách núi cao hơn, nhọn hoắt, dựng đứng - chỉ có thể đi đến đó bằng cách dùng thuyền bơi vượt qua sông. Từ ngôi nhà canh này có một lối đi xuống bờ sông lấm bùn, cỏ được vạt một mảng. Một chiếc thuyền con được buộc vào chiếc cọc cạnh dòng sông. Tên canh gác trong nhà gọi với xuống kẻ trên thuyền. Chiếc màn che khoang thuyền lay động, rồi một cô gái mặc áo đen bước ra, mở ô che trên đầu, chầm chậm bước đến nhà canh. 

Cô ta ăn mặc theo kiểu phụ nữ Nam Hà, lối trang phục gần giống như nam giới, chỉ khác búi tóc sau đầu. Bên tóc cài một bông hoa đỏ, thoáng nhìn thấy ngay vẻ nổi bật chói mắt. Nhưng dung mạo bình thường, nước da của người sống trong núi tai tái, bông hoa ấy có vẻ là thứ điểm trang duy nhất của cô ta. 

"Ai đây?" Cô gái thảy chiếc ô ngoài cửa mà không buồn khép lại, đưa mắt nhìn hắn từ đầu đến chân. Giọng Quảng trôi chảy, tuy mang chút trọng âm khá khó nghe. 

"Ta đến tìm Lâm Phi." Không đứng dậy, hắn cười nói. Đây là một sào huyệt sơn tặc, cô gái rất khó đoán tuổi này lại hành xử ngông nghênh như một bà chị cả, hẳn không phải danh phận bình thường. 

Nghe câu nói của hắn, cô ta nhướng đôi mày vẽ rất sắc, giọng nói chẳng chút mềm mại hơn. 

"Có việc gì?" 

Bây giờ thì đến lượt hắn nhướng mày. 

"Báo với Lâm Phi, có Tử Hiên đến tìm." Hắn ngả người về phía sau, khoanh tay trả lời. Dù sao đi nữa, ở đây cô ta làm người trông coi liên lạc chứ không có quyền can thiệp vào chuyện riêng của người khác. 

Cô gái nheo mắt. Quay đầu lại gọi một tên đứng gần đó đi gọi Lâm Phi, cô ta ngồi xuống trước mặt hắn, bên kia bàn. Như có hiệu trước, mấy tên khác lặng lẽ đưa rượu và chén lại. Cô ta cầm vò rượu rót đầy hai cái chén lớn đặt trước mặt hắn. 

"Anh quan hệ thế nào với Lâm Phi?" Cô gái chợt hỏi. Hắn nhún vai. 

"Từng cứu mạng gã." Điều này không phải không có lý. Nếu hắn cứ đánh giết Bát Thanh Ngư cho bằng được, Lâm Phi hẳn sẽ liều mạng với Sa. 

Nhưng câu nói ngay lập tức khiến cô gái nhìn hắn với ánh mắt khác. Nhoẻn miệng cười, bờ vai bớt căng thẳng, cô ta chống tay lên bàn mà nghiêng về phía hắn, đẩy cả hai chén rượu ra trước. Hắn chỉ nhấp môi chứ không uống. Những nơi như thế này chứa đầy sự cổ quái, ai biết có quán bánh bao thịt người nào dưới núi hay không. 

"Anh đã từng cứu Lâm Phi?" Cô gái hỏi lại khi thấy hắn đặt chén rượu còn đầy nguyên xuống bàn. Cô ta cắn môi, đột nhiên có vẻ do dự. Hắn nhìn lên, thấy đôi mắt lo lắng dõi vào mình. Cô gái này dung mạo bình thường, lúc thường nhật còn ra vẻ ngông nghênh càng chẳng giống nữ nhân, duy đôi mắt lúc này lại có một cảm giác dịu dàng khó tả. 

"Vậy thì anh cứu gã lần nữa đi." Cô gái hạ giọng thì thầm. Mưa to, cây rừng nghiêng mình rào rạt, lời cô ta hắn nghe tiếng được tiếng mất. "Anh giúp gã đi, nếu không gã chết mất." 

Hồi 56: Vijaya 

Quy Ninh, kinh đô Vijaya của Chiêm Thành hơn năm mươi năm về trước, nơi tiếp nhận dòng người di cư lớn của hơn hai mươi năm về trước, đang trong thời kỳ hỗn loạn tột độ. 

Người Chiêm Thành một phần đã đi theo nhà vua và vương tộc chuyển về Panduranga, nhưng phần lớn dân cư vẫn còn ở lại trong vùng. Mùa lễ Katê, vẫn nghe tiếng kèn trống, tiếng ca hát trong các Palei nằm đơn lẻ cách quãng trong các khu đất cổ. Các đền tháp trong vùng vẫn làm lễ mở tháp, rước lễ và tắm tượng thần. Xen lẫn vào quang cảnh ấy là những khu đất của người Việt với cánh đồng lúa mới khai phá lẫn với rừng cùng sông nước, là những khu nhà ở mà người Tàu dựng đã lâu. Đơn lẻ có cả những người Thượng từ đất của tiểu quốc Thủy Xá đi xuống. Trong vùng, voi được dùng để vận chuyển hàng hóa như một thứ gia súc khổng lồ. Mọi nơi mọi chỗ vẫn còn mang đậm nét dấu ấn của vương quốc Chiêm Thành. Đền đài gạch đỏ nằm khắp nơi. Thành Đồ Bàn - Vijaya - đỏ màu đất gạch, tuy đã bị thời gian cùng chiến trận ăn mòn một phần nhưng vẫn thấp thoáng mái nhọn của đình lầu trong thành. Nằm dọc theo sông Côn là một hệ thống kiến trúc đình đền lớn trải dài ra đến Thị Nại - Sri Boney. Dòng sông lớn cùng những chi lưu của nó đóng vai trò trung chuyển hàng hóa từ núi về miền xuôi, tập trung tại cảng Thị Nại. Cùng với sự chiếm lĩnh của người Việt khi đầu mối thương nghiệp chuyển dần về Hội An, Thị Nại chỉ còn là nơi thu mua hàng hóa tập trung của vùng Quy Ninh cùng đất Thượng lân cận. 

Chiêm Thành là một mandala[1] bao gồm nhiều vương quốc nhỏ, người phụ nữ Chiêm Thành đi cùng hắn đã kể trên đường tới nơi này. Các tiểu vương quốc của Chiêm Thành được xây dựng trên cơ sở gắn liền với một cảng biển làm nơi tập trung thương nghiệp. Vijaya có cảng Sri Boney, Amaràvatì - tức Quảng Nam bây giờ - có cửa biển Đại Chiêm, Ulik - châu Ô, Lý - có cửa Tư Dung... Ngoài ra còn rất nhiều tiểu quốc khác như Vvyar, Jriy, Traik... Mỗi nơi mỗi vùng đều có lãnh chúa riêng, kinh tế, quân đội, chính trị riêng. Ngay cả khi đã bị người Việt xâm lấn, tình trạng này vẫn không thay đổi, các vùng vẫn giữ sự độc lập với nhau. Cả vùng Quảng Nam hiện tại chẳng qua cũng chỉ là lặp lại y hệt cơ cấu của tiểu quốc Amaràvatì trước kia khi tập trung tất cả nguồn sinh lực vào cửa Đại Chiêm. Vùng Quy Ninh này, trên thực tế cũng là một thành phần tách rời. Mấy năm nay, người Tàu từ Hội An, rồi người Việt di cư đến định làm cho vùng này dần nhập vào với phần phía Bắc, nhưng ta chỉ e rằng đến cả người Việt trong vùng này rồi cũng sẽ tách riêng ra theo đúng cái lệ thường thôi. 

Mà người Chiêm Thành - vốn là cư dân của những tiểu vương quốc, dù tiểu vương quốc diệt vong, hoàng gia vương triều vẫn còn thì có nghĩa là Chiêm Thành vẫn tồn tại. Người Việt chỉ diệt được các tiểu quốc, không thể nào tiêu diệt được linh hồn của Chiêm Thành, tại Panduranga. 

Vì thấy hắn là người Tàu, người phụ nữ Chiêm Thành có vẻ cởi mở mà trò chuyện không nề hà. Có lẽ bà đã bị cảnh tượng trên đường làm cho xúc động sâu sắc. Từ Quảng Nam đến Quy Ninh, họ vẫn gặp những nhóm người mừng ngày lễ Katê nhuộm xám một màu mưa. 

Thành Phật Thệ - Đồ Bàn này là nơi chịu nhiều tổn hại nhất trong các cuộc đánh chiếm của người Việt. Người phụ nữ cảm thán nói với bầu trời nằng nặng mây. Tướng Việt là Lý Thường Kiệt đánh Vijaya, bắt vua Chế Củ. Văn bia ở Đại Sơn Thần ghi: "Kẻ thù đã vào vương quốc Champa, tự xưng là những kẻ cầm quyền; đã cướp đi tài sản của hoàng gia và của cải của chư thần; đã phá hủy đền thờ, tu viện, nơi an cư, làng mạc và các tự viện khác cùng với ngựa, voi, trâu bò và mùa màng; đã hủy diệt mọi thứ trong các tỉnh thành của vương quốc Champa; đã cướp đoạt những ngôi đền thờ thần Srisanabhadresvara và tất cả những phẩm vật mà các vị vua trước kia đã phụng hiến cho thần Srisanabhadresvara; đã vơ vét tất cả của cải của thần và cướp đi những nhân sự tùy thuộc ngôi đền, các vũ nữ, nhạc công... những người phục dịch cùng với tài sản trù phú của Srisanabhadresvara..." Vijaya luôn luôn là nơi phải gánh chịu các cuộc tấn công xâm lược của người An Nam. Hơn hai trăm năm trước, vua nhà Lê đánh Chiêm Thành, tắm máu Vijaya bằng sáu vạn mạng người. Quân Việt vào cướp bóc giết chóc hãm hiếp không ghê tay. Đền tháp ở Vijaya nhiều hơn bất cứ đâu, chính là để thờ phụng linh hồn các tiền nhân, các tử sĩ, người Chiêm Thành đã chết trong chiến trận. 

Với người Chiêm Thành, đất đai là thiêng liêng, không thể sang nhượng hay chối bỏ. Cha ông ở đâu thì mình phải ở đấy, không được tự mình rời bỏ đi nơi khác. Rời bỏ quê cha đất tổ là từ bỏ dòng tộc, Kut, Kur, và từ bỏ thần linh. Cho nên người Chiêm Thành vẫn cứ ở lại đất quê hương, dù phải chịu bao nhiêu đau đớn. Nhà Nguyễn hiện tại cho người đến vùng này, ý định không phải là xua đuổi thì cũng là đồng hóa, quyết diệt đi linh hồn Chiêm cho được. 

Như cách Hán tộc đã làm ở phương Nam, hắn lơ đãng nói, trong lúc nghĩ đến điều khác hẳn. Hán tộc và phương Nam - Hoa Hạ và Giang Nam, Hán triều và Nam Việt. Bao nhiêu cuộc chiến đã xảy ra giữa cư dân Nam Việt và nhà Hán. Cho đến khi Nam Đường mất, phương Nam vẫn có phần độc lập với phương Bắc. Bao nhiêu cuộc chiến, mà chỉ cần một kẻ châm ngòi, nhắc nhớ lại lịch sử vương quốc xa xưa, phương Nam sẽ lại một lần nữa đòi độc lập. Bao nhiêu cuộc rung chuyển triều đại, thay vua đổi chúa đều bắt nguồn từ biến động tại đất phương Nam. Cứ như thế, kéo dài hàng ngàn năm. Hàng ngàn năm, và tiếp tục không biết đến bao giờ kết thúc. 

Thống nhất? Nói cứ như một trò đùa. 

Ở đất Quy Ninh này, nơi oán khí chất chồng cao như núi, cao hơn núi, cư dân người Việt lại là tù binh chiến tranh từ Nghệ An. Bị đẩy đến nơi đây để san rừng bạt núi mà sống trong điều kiện xa lạ khắc nghiệt, họ lại đã kết hợp rất nhanh với người Chiêm Thành bản xứ. Cũng như "Quảng Nam quốc" kia, thậm chí còn hơn thế, những mối liên hệ tại nơi này được xác lập bằng quan hệ dòng tộc và địa phương. 

Ngay cả những người Tàu. Những người Tàu với thói liên kết theo họ tộc của mình. Sau cuộc chiến của quân Nguyễn và Chiêm Thành, những người Tàu lại là kẻ nhanh nhạy nhất đến nơi đây. Vijaya, trung tâm của vương quốc Chiêm Thành cũ, trung tâm của một hệ thống kết liên miền ngược lẫn miền xuôi, từ Quảng Bình cho đến Panduranga, là một địa thế đặc biệt để có thể - làm được mọi điều. Mọi điều, nếu như biết cách. 

Đó là chuyện Lâm Phi nói với hắn. Gã dành cả buổi chỉ để giải thích các mối quan hệ đầu dây mối nhợ trong vùng. Để một tên trong Bát Thanh Ngư đến ngôi nhà canh đón hắn lên núi, gã ngồi chờ hắn trong dãy nhà riêng của các đầu lĩnh. Dãy nhà này xây cao hẳn lên gần đỉnh núi, có vẻ khang trang hơn nhà dành cho thuộc hạ bên dưới, giường trải da hổ, mấy thứ đèn đuốc trang trí nho nhỏ quý giá nhưng không đồng bộ, có vẻ như được lấy từ các chuyến cướp bóc. Lâm Phi, trái ngược với thái độ của cô gái bên sông, không có vẻ bồn chồn. Mời hắn một vò rượu, nghe đến lý do Như Yên không tới được, gã bắt đầu đều đều nói dông dài về đủ chuyện trong vùng. 

"Cảng Thị Nại là nơi tập trung hàng hóa buôn bán trong vùng." Lâm Phi nhắc lại lời người phụ nữ Chiêm Thành kia, kèm theo một cái gật đầu. "Sông Côn là sông chính lớn nhất vùng, chảy từ miền Thượng xuống cho đến Thị Nại. Tất cả sản vật trong vùng được vận chuyển theo lối này. Người sống trong vùng phải dựa vào dòng sông này để tính chuyện làm ăn buôn bán, mà người nắm được quyền quản lý ở cửa Thị Nại cũng như là thao túng được cả đất Quy Ninh, kể cả người Thượng của Thủy Xá. 

"Nắm quyền tại Thị Nại bây giờ là Linh lão đầu. Không biết rõ họ của lão, chỉ biết lão là kẻ đứng sau tất cả các việc giao thương buôn bán ở đây, cả hai phái hắc bạch đều nghe lời. Cũng không mấy ai biết mặt lão, chẳng biết lão ở đâu. Lão là người sống trong vùng này lâu rồi, nghe đâu cha ông đã định cư ở đây từ cả trăm năm trước, nền móng cơ sở vững chắc, trong tay lại nắm nhiều mối quan hệ. Ngay cả người Việt đến sống nơi đây, một số cũng là do lão cất nhắc, nhiều vùng cũng là do lão góp sức giúp đỡ." 

"Người Việt, để làm gì?" Hắn buột miệng hỏi. Lâm Phi chú tâm nhắc đến mối quan hệ cũa lão Linh nào đó và người Việt, hẳn không phải là dư thừa. 

"Nuôi gà làm thịt chứ làm gì." Lâm Phi nhìn hắn với ánh mắt hơi hơi thương hại. "Người Việt bị ồ ạt di cư đến, tất nhiên sẽ chiếm dần lấy ảnh hưởng trong vùng. Linh lão đầu biết thế nên ra tay sớm, thu nhận những đàn em người Việt, sắp xếp cho họ chỗ làm ăn - Đó là gầy dựng quan hệ. Sau này những người này lớn mạnh, lão lại chẳng thu được ít nhiều uy tín lợi nhuận? Triều Nguyễn đưa dân đến, nói năm mươi người thành một xã, chẳng qua chỉ là trên hộ tịch, còn thì mấy chục năm qua, người ta kết hôn thành gia đình với nhau, với người Chiêm Thành... đủ cả. Nghe nói ở đây không giống như phương Bắc, họ tộc làng xóm túm tụm lại một nơi. Vả lại người Chiêm thờ mẫu hệ, họ ngoại quan trọng hơn họ nội, liên hệ chồng chéo lên nhau. Liên kết được với một người coi như chạm đến cả ngàn người khác. Linh lão đầu vì thế mà thế lực ngày càng lớn, hầu như bất khả xâm phạm. Gần như là một lãnh chúa trong vùng rồi." 

À... Hắn im lặng gật đầu. Khác với thương nhân tại Hội An, Quảng Nam chỉ quan hệ được với các trưởng làng bản, người tên Linh lão đầu này đã trở thành một phần của cư dân mới tại Quy Ninh. Hắn đã lờ mờ đoán ra được lý do Như Yên quan tâm đến vùng đất này, hẳn chẳng gì khác ngoài thương nhân tên Linh đầy bí ẩn mà Lâm Phi đang nói tới. 

Gã thở ra, vò mái tóc rối được buộc chiếc khăn cáu bẩn, vết sẹo trên mặt như đen đi thêm. 

"Mà nếu chỉ có thế thì không nói làm gì, ai cấm lão làm ăn kiếm lợi đâu. Nhưng Linh lão đầu này thế lực càng lớn thì càng không chịu ngồi yên. Ngươi biết toán cướp này ở đây làm gì không?" Gã nghiêng người về phía hắn, hạ giọng hết mức mà nói. Một động thái có vẻ cảnh giác quá mức khi Bát Thanh Ngư đã được cài cắm đi canh gác xung quanh. "Là người của lão tập hợp để tấn công những kẻ không theo ý lão." 

"Lão định vươn đến Hội An?" Hắn phảng phất cười. Theo lối nói dông dài của Lâm Phi, chẳng biết bao giờ gã mới nói đến phần cốt lõi, hắn đành phải trực tiếp hỏi. 

"Tất nhiên." Lâm Phi nhún vai. "Hội An là nơi hái ra tiền. 'Quảng Nam quốc', người ngoài biết đến Nam Hà chỉ là như thế còn gì. Tiền thì lão không thiếu, nhưng Hội An thì đáng mơ ước đấy chứ. Hoắc bang chủ ở Hội An làm ăn với nơi này cũng phải kiêng dè lão mấy phần. Mà thương buôn ở Hội An trực tiếp làm ăn với đầu mối nước ngoài, kiếm lời gấp bộn so với buôn bán sỉ từ nguồn ra như thế này. Lúc bình thường họ đã trả giá gắt gao, khi có việc thì bắt đầu giở thói ép giá người, chẳng ai ở đây ưa họ - thói thường của việc buôn lái ấy mà. Dân chúng cũng chẳng ưa đám người ép giá kiếm lời trên công sức họ. Nghe đến chuyện Linh lão đầu muốn vươn tới Hội An, lại chẳng có người mừng?" 

"Mà Hoắc bang chủ ở địa vị như thế thì kẻ thù cũng đâu có ít." Thấy hắn chỉ im lặng nhìn xuống vò rượu, Lâm Phi tiếp tục nói. Hắn gật đầu. 

Dư đảng của Hồng Thiên hội, của các thành phần phản bội trong Thanh Hải bang, của tổ chức tại Vân Nam, của các đoàn hải tặc đụng độ trên biển, của các đầu mối làm ăn xung đột... thậm chí, cả những quan chức không vừa mắt y. Kẻ muốn lật đổ Hoắc Phương, nói cho cùng, hẳn là nhiều không kể xiết. Ngay cả Như Yên, một khi đã lộ mặt, cũng phải biến mất khỏi Hội An. Tuy nàng chỉ giải thích mơ mơ hồ hồ về vụ nổ mà nàng cùng Hoắc Phương sắp đặt trên biển, lúc này hắn nhận ra nàng đang phải đối mặt với kẻ thù như thế nào. Và ý định của nàng. 

Thế lực của Hoắc Phương càng lớn, kẻ thù của y càng quyết tâm chống cự, quyết tâm lật đổ y. Y trở thành tấm chắn che trước Như Yên để nàng âm thầm hành động. Đưa Hoắc Phương làm mục tiêu, nàng đang tìm cách khiến kẻ thù của y ra mặt. 

Những mối liên hệ giăng mắc khắp Hội An, Quy Ninh - và có thể là tận Phú Xuân phương Bắc kia. 

"Nhưng ở đây có việc gì?" Hắn hỏi, một lúc sau. Lâm Phi chưa nói lý do mà hắn - thay Như Yên - phải cấp tốc tới nơi đây. Lâm Phi không có vẻ của kẻ bị đe dọa đến tính mạng như lời cô gái dưới núi nói. 

Gã lại vò rối mái tóc đã sớm bù xù. Đôi mày sâu róm nhíu lại. 

"Linh lão đầu muốn gặp ta." Gã thở dài, rồi nhanh chóng giải thích. "Lão tuyển người có tài, thấy ta cũng vừa mắt nên nhắm đến. Nhưng trước đó thì ta phải thành công làm cho lão một chuyện. Còn hai ngày nữa là đến hạn." 

"Việc gì?" Hắn nhè nhẹ nhướn mày. Loại 'đề mục' mà bọn cướp đặt cho nhau làm điều kiện dung nạp, hắn cũng đã nghe qua. Nhưng hắn không chờ đợi đến đây để giúp Lâm Phi giết người cướp của. 

Mà gã, dường như cũng đã nhận ra ánh mắt hắn, móng tay gãi ra tiếng sồn sột khi nụ cười nhăn nhó đến trên khuôn mặt. 

"Đi cướp. Cướp của đoàn sứ giả Chân Lạp." 

*** 

Lâm Phi chắc chắn sẽ chết. Đó là ý nghĩ bật lên trong đầu hắn ngay lúc ấy. 

Nếu không hành động, gã sẽ bị Linh lão đầu kia xử tội. Nếu hành động, sống sót được với các chiến binh Chân Lạp hộ tống thì cũng sẽ bị quan binh Nam Hà truy đuổi đến đốt trụi cả núi không chừng. Thành công hay không, gã cũng cầm chắc cái chết, nếu không thì cũng cả đời không ngẩng được đầu lên. Gã đi làm công việc này để hy vọng tìm được chút công danh mà sống yên yên ổn ổn với ý trung nhân, tuyệt nhiên không phải để lâm vào tuyệt lộ bị người người truy đuổi. 

Nhưng gã có vẻ chưa nhận ra nguy cơ của mình, vẫn nhăn nhở cười. 

"Nếu ta không muốn làm thì thôi, không được cử tới bên lão Linh thì chờ dịp khác." Gã nói đơn giản đến mức hắn phải thở ra. 

"Lão bảo ngươi đi cướp đoàn sứ giả Chân Lạp. Sứ giả Chân Lạp. Như vậy thì còn có thể để ngươi muốn đi đâu thì đi sao?" Hắn lắc đầu. Nếu Lâm Phi thành công, gã ít ra còn có thể ở cạnh lão làm một tùy tùng trung thành. Bằng không, gã nhất định phải im miệng vĩnh viễn. Linh lão đầu phải có một âm mưu đáng sợ để toan đụng đến đoàn sứ giả ngoại quốc này. Mọi tội tình lão có thể đẩy cho toán cướp tại Quy Ninh chứ tuyệt nhiên không đương đầu khiêu chiến với cả Nam Hà lẫn Chân Lạp. 

Nhưng là âm mưu gì? Khi xuống núi trở về nơi ở trọ trong cảng Thị Nại, hắn vẫn còn miên man nghĩ. 

Âm mưu gì để một thương nhân tại Quy Ninh đi tấn công đoàn sứ giả Chân Lạp? Đoàn sứ giả này hẳn được cử tới điếu tang chúa Hiền và báo tin Thái hậu Ngọc Vạn đã mất, không phải là đoàn sứ giả triều cống mang theo tiền muôn bạc vạn, vật phẩm quý hiếm. Dù là người của Nặc Nộn hay Nặc Thu, người sứ này cũng chỉ mang theo ý định tìm hiểu tình hình của Nam Hà trong lúc chuyển đổi. Hay đó chính là mục tiêu của Linh lão đầu? Cho thấy tình hình Nam Hà xáo trộn hỗn loạn, để các vị vương Chân Lạp đánh nhau? Nhưng cướp thì thời nào cũng có, không thể lấy một toán cướp đi đánh giá cả vùng đất. 

Hoặc là, kẻ này không muốn đoàn sứ giả Chân Lạp đến Phú Xuân - lúc này. Cướp đoàn người là một kế hoãn binh. Lâm Phi thành công hay không, nhóm người này cũng phải dừng lại. 

Nhưng có việc gì đoàn người này đang nắm giữ mà không thể đưa tới Phú Xuân? 

Linh lão đầu này rốt cuộc là kẻ thế nào? Trước là Hội An, sau là Chân Lạp, những nơi mà lão muốn vươn tay tới quả không nhỏ. Ở nơi sáng là kẻ đỡ đầu các thương nhân, quản lý cảng Thị Nại, ở nơi tối lại đi dung dưỡng đám cướp biển làm tay sai, ngấm ngầm xây dựng lực lượng. Tham vọng của lão, e rằng không chỉ là các thị trường buôn bán. 

Trở về cảng Thị Nại, theo chỉ dẫn của Như Yên, hắn đi vòng qua một làng nhỏ làm gốm gần đó, tìm đến một nhà nuôi gia cầm. Đưa vật ước của Như Yên ra, hắn được người trong nhà cho một đôi chim bồ câu để chuyển thư về cho Như Yên. Dù nàng không ở Hội An bây giờ, người nhà hẳn sẽ cấp tốc đem thư cho nàng. 

Về nhà trọ thu gom đồ dùng, hắn từ giã đoàn người Chiêm Thành, mua thêm một con ngựa nữa, vượt mưa đi về Phú Yên. 

Mưa to gió lớn hoành hành suốt dải bờ biển, đoàn thuyền của sứ giả Chân Lạp hẳn phải tấp vào bờ tránh bão. Theo lộ trình của họ mà Lâm Phi đưa, hẳn họ đang trú ở đâu đó gần biên giới Quy Ninh - Phú Yên. Hắn phải cấp tốc đến nơi trước khi họ lại ra khơi, không thể chờ đợi toán người Chiêm Thành kia. 

Mưa bão vừa tạnh rồi lại mạnh lên, hắn đi liền ngày đêm không nghỉ men theo bờ biển, qua một ngày đã phát hiện ra chiếc thuyền Chân Lạp nằm bên bãi cát. Có một làng Chiêm Thành gần đó. Qua gần hết địa phận Quy Ninh, người Chiêm Thành sống đông đúc hơn hẳn người Việt. Nơi đây gần Panduranga, vương quốc cổ xưa của người Chiêm Thành, những đền đài nằm rải rác khắp nơi. Hơn mười lăm năm trước, vua Bà Tấm đã tấn công lên Phú Yên, vùng đất này trở thành phòng tuyến của quân Nguyễn với đất Chiêm Thành, thành lũy đóng kéo dài đến hai dinh nằm ngoài Panduranga. Bên cạnh làng Chiêm Thành này là một dinh lũy của quân Việt. Nhìn lên ngọn đồi phía xa thấy cả một dinh thự kiểu Chiêm Thành khá lớn, có vẻ như của một quý tộc Chiêm. 

Người dân trong làng đang đổ ra sân sau cơn bão. Mưa vẫn còn rơi, nhưng trời đã sáng hơn. Thấy hắn dắt ngựa bước tới, vài người nhìn lại có vẻ tò mò. Họ không rành tiếng Kinh lẫn Quảng, trong khi hắn không biết tiếng Chiêm Thành. Không hỏi được gì, hắn đành phải vòng lại trước dinh lũy của quân Nguyễn gần đó. Hai người lính đội nón lá mặc áo tơi đứng trước cửa chỉ khẽ gật đầu khi nghe hắn chào. Với vẻ mệt mỏi uể oải thấy rõ, họ cho biết đoàn người Chân Lạp đã được người trên ngọn đồi mời lên ở. Đó là một nữ chúa trong vùng, tên là Nol Rak. Đoàn người này ở đây từ khi bão lên, đã được năm ngày. 

Hắn rút bình rượu sau lưng, tươi cười mời hai người lính. Thấy rượu, vẻ uể oải lập tức biến mất. Ngồi xuống trong chòi canh, vừa rót rượu ra chén hắn vừa hỏi chuyện hai người lính. Đồn canh được lập ở đây được chừng năm năm, chính là để canh chừng nữ chúa trên kia cùng những thuộc hạ của nàng ta. Đó là một cô gái đẹp, những người lính nói khi môi kề chén rượu. Nhưng chỉ là nghe nói, vì không ai nhìn rõ khuôn mặt nàng ta. Khi ra ngoài, nữ chúa che mặt bằng tấm khăn to dày, như phong tục của Bái Nhật giáo tuy nàng ta không theo đạo giáo này. Ngoại trừ những hành động do nàng đích thân chỉ huy, tất cả mọi điều khác chỉ là 'nghe đồn'. 

Nàng ta là con gái của một nữ chúa khác đã bị giết mười bảy năm trước, cùng với cuộc nổi dậy của vua Bà Tấm đánh Phú Yên. Nữ chúa đã phù trợ nhà vua, và bị giết chết. Người con gái này lên thay, và thái độ lẫn hành động tỏ ra đều không hề che giấu sự oán ghét cùng cực với người phương Bắc. Đóng quân nơi đây, nhưng người trong đồn không dám đi lẻ ra ngoài ban đêm. Thức ăn thức uống cũng phải do người trong quân đưa tới tiếp tế. Không những một con cá khô cũng không cho, nữ chúa sẵn sàng giương cung bắn bất cứ kẻ nào chạm tay đến tài sản của người dân dưới chân đồi. Đó là luật lệ của nơi này, thậm chí chỉ huy của đồn cũng không thể phản bác. 

Hay như việc nàng ta mời đoàn sứ giả Chân Lạp vào dinh trú bão. Dù đoàn người ấy rõ ràng là khách của Nam Hà, trưởng đồn cũng không thể tranh cãi với nữ chúa này. Đoàn người ở trong dinh năm ngày không hề ló mặt ra ngoài, cả các thủy thủ trên thuyền cũng đã được mời vào trong. Tiếng nhạc vẫn vang trên đồi xuống trong mưa bão. Người trong vùng thì thầm với nhau, nữ chúa đem vũ nữ vàng bạc thiết đãi khách, còn có ý định lưu họ càng lâu càng tốt. 

Càng lâu càng tốt? Hắn nhíu mày. Cũng như Linh lão đầu kia, nữ chúa này đối với đoàn sứ giả Chân Lạp có thịnh tình đặc biệt lạ lùng. 

"Kẻ nào trong đoàn sứ giả thật tốt phúc." Hắn cười nói. Một người lính thở ra. 

"Nghe nói là quan cao của Chân Lạp. Oc-nha gì gì đó." 

Ồ, hắn nhướng mày, thốt khẽ trong cổ. Để vò rượu lại cho hai người lính, hắn đứng lên với lấy cương ngựa. Thấy động thái của hắn, hai người kia tỏ vẻ ngạc nhiên. 

"Đi đâu vậy?" Theo hướng này, rõ ràng hắn định đi lên đồi. 

"Tìm vị Oc-nha kia." Hắn mỉm cười. Không để họ hỏi nhiều, hắn quay lưng. 

Lá cờ hiệu trên thuyền kia mang màu xanh. Nếu hắn không lầm, đó là Oc-nha Lịch-da-thi-na. 

Hắn là thiếu công tử của Mạc gia, hẳn nhiên có hiểu biết với các vị quan của Chân Lạp. 

Chú thích:  

[1] Mandala: Thuật ngữ mandala (circles of kings) được các nhà nghiên cứu dùng để diễn tả một hệ thống chính trị kinh tế đã được phát hiện tại hầu hết các quốc gia cổ ở Đông Nam Á. Mandala là vương quốc bao gồm nhiều tiểu vương quốc hoặc lãnh chúa. Trong mỗi tiểu quốc của mandala có một vị tiểu vương thường được thần linh hóa và tự xưng là lãnh đạo của các thủ lĩnh khác, mà trên lý thuyết, đó là những thuộc hạ và chư hầu của họ. Mỗi tiểu vương trong mandala là người duy nhất có đặc quyền được nhận cống phẩm mang đến bởi các sứ thần và là người có uy quyền tối cao lãnh đạo quân đội. Cũng luôn luôn có khả năng xảy ra những tình trạng là một vài vị thủ lĩnh trong mandala có quyền từ chối vai trò chư hầu của họ và cố xây dựng cho riêng họ một hệ thống chư hầu mỗi khi họ có cơ hội nổi dậy. Để ngăn ngừa tình trạng này, tiểu vương trong mandala ứng xử với các chư hầu bằng cách không can thiệp vào nội bộ của những thủ lĩnh địa phương để giữ một khoảng cách tương đối với thủ phủ, và tạo những mối quan hệ hôn nhân hoặc mời họ tham gia vào ứng thí đại biểu của hoàng gia, v.v. (Wolters 1999: 27-40; Nakamura 1999: 60).  

Hồi 57: Nữ chúa 

Đang mùa lễ Katê, hội được tổ chức trong các gia đình Nga Wôm kéo dài cả tháng. Tiếng đàn hát trong khu dinh thự lớn trên đồi càng đến gần càng rõ. Khu nhà được xây theo kiểu cách của một ngôi làng Palei của người Chiêm, cửa mở về hướng Nam, được bao quanh bởi bức tường cao xây bằng gạch đỏ. Những người canh cửa hiểu được tiếng Kinh, nghe thấy hắn nói đến tìm những sứ giả Chân Lạp liền vội đi bẩm báo rồi một lúc sau mời hắn vào. Con đường chính trong khu nhà rất rộng, có thể dành cho voi đi lại dễ dàng. Những khu nhà nhỏ hơn nằm dọc hai bên đường. Cuối đường là dãy nhà lớn, kiến trúc từa tựa như kiểu cách của hoàng gia Chân Lạp với mái vòm cong nhọn, nền nhà xây cao. Sang của người Chiêm có năm căn được bố trí khác nhau, người dẫn đường không đưa hắn đến sang Twai dành để tiếp khách mà đi thẳng sang gian nhà Yơ hướng đông dành để tụ họp gia đình. Một đám đông đang ngồi trong nhà, quây tròn quanh một người đàn bà đã lớn tuổi, có lẽ là một chức sắc cao xét theo hoa văn trên áo. Thấy hắn, một vài người tò mò nhìn ra. Nhưng người phụ nữ kia vẫn đều đều nói, bằng tiếng Chiêm Thành mà hắn không hiểu được một chữ. Không thấy dấu hiệu của người Chân Lạp trong đám người này. 

Nói thêm vài câu nữa, người phụ nữ già ngồi giữa nhà mới ngẩng đầu nhìn lên. Hắn chắp tay trước trán chào theo phong tục Chiêm Thành dành cho người lớn tuổi. Bà ta gật đầu, mỉm cười chắp tay trước ngực chào lại. Một cô gái trẻ được gọi tới ngồi cạnh bà, cất giọng bằng tiếng Kinh nói với hắn: 

"Anh đến hồi nào?" Đây là một loại câu chào của họ, không phải là câu hỏi. Cô gái liếc nhìn người phụ nữ già, rồi nói rất nhanh. "Mùa lễ Katê, rất hoan nghênh anh đến mừng hội cùng gia đình." 

Người phụ nữ vẫy tay, ra hiệu cho hắn ngồi xuống. Không tiện hỏi nhiều, hắn y lời bà ta. Rời mắt khỏi hắn, bà ta lại quay sang đám đông đang chờ đợi, tiếp tục nói câu chuyện dang dở. Người hầu trong nhà đem rượu và bánh ra tiếp đãi hắn. 

Tiếng Chiêm Thành xa lạ líu lo như chim hót, chuyến đi dài cả vài ngày đêm không nghỉ, rượu và chiếu mềm, mùi xạ hương thoang thoảng trong phòng, tất cả làm mắt hắn díp lại rất nhanh. Ngồi trong một góc phòng, hắn dựa lưng vào tường ngủ mất. Khi mở mắt dậy, nắng chiều đỏ ối đã chiếu vào phòng. 

Trong phòng không còn ai, ngay cả một người hầu. Tất cả trà nước bánh trái cũng đã được dọn đi. Tiếng đàn ca vẫn văng vẳng, nhưng vọng lại từ xa tít. Mưa đã tạnh. Hắn ngồi dậy, vẫn thấy đầu óc hơi chuếnh choáng. 

Vì vậy, mất một lúc hắn mới nhận ra trong phòng còn có người. 

Ngồi chênh chếch trước hắn, tấm khăn sặc sỡ kéo từ trên đầu che ngang mặt, kéo dài xuống quá ngực chỉ để lộ chút ít đôi mắt, nàng ta như lẫn hẳn vào bức tường được treo màn vải dệt hoa văn đủ sắc đằng sau. Nắng đỏ chiếu sáng một nửa khuôn mặt nàng ta, con mắt và lông mày đậm nét. Bàn tay lật ngửa, đầu ngón tay chạm nhau trên gối khoanh tròn là chút ít da thịt còn để lộ ra của cô gái. Thấy hắn đã tỉnh, nàng ta cũng không chớp mắt, ánh mắt không rời khỏi hắn. Quan sát hắn như thể đang nhìn hoàng hôn. 

Nữ chúa của xứ sở này, hắn nhận ra ngay với cái giật mình khe khẽ sau lưng. 

"Chào." Hắn bối rối nói khi chắp tay chào, không biết nên dùng lễ nghi nào cho phải. Ở đây nàng ta cũng là một dạng vua chúa, nhưng không phải vua của hắn. Vả lại, dù chỉ lộ ra đôi mắt, nàng ta rõ ràng còn rất trẻ, khó dùng lễ đối với người lớn tuổi. 

"Chào." Nữ chúa hơi nghiêng mình đáp lễ. Giọng nói nàng ta trầm thấp theo kiểu âm vực chung của người xứ này. "Nghe tin anh đến mà không tiếp đãi ngay được, thật thất lễ." 

Tiếng Kinh rất sõi. Thái độ khiêm cung nhã nhặn. Không hề giống như ấn tượng mà những người lính dưới đồi đã gieo vào hắn. 

"Không dám làm phiền nữ chúa." Hắn cười nói, trong bụng lại thầm tự hỏi không biết nàng ta đã ngồi đây nhìn hắn ngủ bao lâu. 

"Gọi ta là Xapatan." Cô gái chợt nói, lắc đầu. "Anh là người Đông Phố?" 

"Phải." Hắn gật đầu. "Tôi đi ngang qua đây, thấy thuyền của Oc-nha nên ghé vào định thăm hỏi ông ấy." 

Cô gái im lặng, nghiêng đầu quan sát hắn. 

Hắn cho rằng mình biết nàng ta đang nghĩ gì. Người Đông Phố, người Minh Hương được chúa Nguyễn xin cho vào ở đất Chân Lạp. Người thân với Nam Hà. Nàng ta đã đưa đoàn sứ giả này đến đây, tách rời khỏi nhóm người Nam Hà dưới kia, nay lại có thể để cho hắn dễ dàng tiếp cận Oc-nha Lịch-da-thi-na? 

"Anh là Mạc Tử Hiên?" Cô gái nói, sau một lúc. Cái tên này hắn đã nói người canh cửa báo lại với Oc-nha Lịch-da-thi-na. Ông ta biết cái tên này của hắn. "Oc-nha hiện đang ở trong làng dưới đồi, có gia đình mời ông ấy đến dự hội. Làm phiền anh đợi một lát." 

"Vâng." Hắn dễ dãi mỉm cười, ra vẻ của một kẻ nhàn tản đi thăm người quen. Nếu hai người lính kia nói đúng, nữ chúa này còn lưu giữ đoàn sứ giả rất lâu, hắn cũng chẳng việc gì phải vội. 

Xapatan gật đầu đứng dậy, đi ra ngoài phòng. Biết ý, hắn cũng đứng lên đi theo. Dưới bậc thềm nhà, hoa nở như trải thảm khắp khoảng sân rộng. Nhà người Chiêm Thành tuyệt không trồng cây lớn, chỉ có những bụi hoa nhỏ. Hoa nở khắp nơi, hòa cùng mùi trầm hương tỏa ngát trong chiều. Hơi mưa vẫn còn phảng phất, phả vào làn hương này chút vị ngòn ngọt. 

Cô gái dừng lại giữa sân rải cát vàng, ngẩng đầu nhìn trời. Những đàn chim bay qua trong bóng chiều đập cánh xao xác. Bầu trời vẫn còn những cụm mây xám gợn ánh đỏ vàng như sóng cuộn. Khu đất này cao vượt hẳn lên trong dinh. Từ vị trí này nhìn xuống, qua mép bức tường bao bọc có thể thấy rõ làng palei bên dưới. Quả là đang có một đám đông múa hát trước một ngôi nhà lớn. Tiếng ca hát mà hắn đã nghe khi vừa tỉnh hẳn từ nơi đây. 

"Đi cùng với Oc-nha có vài người Minh Hương." Xapatan lại đột ngột cất tiếng khi hắn vẫn còn đang đưa mắt tìm Oc-nha Lịch-da-thi-na trong đám người. Sau tấm khăn, có vẻ như nàng nhún vai rất nhẹ. "Nghe nói công nữ Ngọc Vạn mất rồi, phải không?" 

Đúng là chuyện này rồi sẽ lan nhanh khắp nơi, hắn nghĩ với cái gật đầu, không lên tiếng. Xapatan đưa mắt nhìn hắn, rồi lại quay đi. 

"Anh có thấy gì không?" Bàn tay cô gái chỉ về hướng Tây Nam. Nhìn theo phía tay nàng ta, hắn thấy một đỉnh tháp đỏ nổi lên giữa rừng già. "Đó là nơi Bia-Ut đã chết. Bà ta tự sát." 

"Bia-Ut Yuôn tên thật là Ngọc Khoa." Giọng cô gái đều đều, thoáng nét lạnh lùng. "Vua Po Romê lên ngôi, trong thì củng cố kinh tế, xây dựng quân đội, ngoài thì giao thiệp với các quốc gia lân bang. Chúa Nguyễn thấy vậy liền gả con gái của mình cho nhà vua. Bà ta làm gián điệp mật báo việc trong nước cho quân Nguyễn. Chúng liền tấn công, nhà vua bị bắt, tự sát trên đường bị giải về phương Bắc. Dân chúng Chăm quốc phẫn nộ lùng tìm Bia-Ut, bà ta trốn đi, cuối cùng tự sát ở đây.[1]" 

Xapatan ngừng lời, hơi nghiêng đầu nhìn ngọn tháp khuất nửa bóng chiều. Chân Lạp cùng Chiêm Thành bị hủy hoại y như nhau, vì những cô công nữ họ Nguyễn - hắn hiểu ý nghĩ ấy trong câu chuyện của nàng ta. Nhưng kỳ lạ, trong ánh mắt nàng nhìn ngọn tháp không có sự giận dữ hay thù hằn, thậm chí còn thoáng buồn thương. Đôi mắt to của người phương Nam với hàng mi dày, sâu vời vợi tựa biển khơi đêm trăng. 

"Anh đi nghỉ, tắm rửa rồi đợi họ về." Xapatan chớp mắt, quay về phía hắn, dường như đã cười. Hắn lại gật đầu. Nàng ta vẫy tay gọi vài cô hầu gần đó, cáo từ hắn trở về gian nhà của mình ở phía Bắc. 

Tập tục của người Chiêm Thành rất coi trọng sự sạch sẽ, họ tắm vài lần mỗi ngày. Phòng tắm trong dinh thự rất lớn, bằng cả một gian nhà chính. Giữa gian nhà được quây màn mỏng, một hồ nước nhỏ trong vắt đã được rắc hoa, thoang thoảng hương trầm chuẩn bị sẵn. Những cô hầu giúp hắn cởi áo trước khi vào hồ. Nơi này khí hậu nóng ẩm quanh năm, nước tắm không ấm mà để mát lạnh. Bên cạnh thành hồ còn để cả các hộp hương xoa người. Quần áo của hắn được đem đi, họ cẩn thận để lại một bộ Hán phục khác thay vì áo váy của đàn ông Chiêm Thành. Nơi này có vẻ rất hay tiếp đãi khách lạ từ bên ngoài. 

Tắm xong, hắn được đưa đến gian nhà chính để ăn tối. Căn phòng dài được trải thảm dày, không có bàn ghế, chỉ được đặt những chiếc mâm gỗ nhỏ. Xapatan đã ngồi đầu phòng chờ đợi cùng vài người khác. Oc-nha Lịch-da-thi-na cùng đoàn người Chân Lạp vẫn chưa về. 

Có vẻ, nữ chúa này sẽ không cho hắn gặp đoàn sứ giả cho đến khi biết được ý định của hắn đến đây. 

Thấy hắn, Xapatan vẫy tay, ra hiệu cho hắn đến ngồi ở mâm cạnh nàng. Với một cái vỗ tay nhỏ của nữ chúa, những người hầu dọn món ăn ra cho các mâm. 

"Xin mời." Xapatan quay sang hắn, tay gỡ chiếc khăn quanh mặt. Nàng hẳn không thể ăn với chiếc khăn trùm kín như thế này. 

Làn da sáng hơn hẳn màu da thông thường của người phương Nam, có vẻ không được tiếp xúc với nắng. Môi đỏ son, tóc dài gợn sóng buông xuống vai được kết vòng bằng những chuỗi hạt trai nhỏ, đôi mắt sâu trong vắt, cô gái này khiến hắn có cảm giác quen thuộc như đã từng thấy ở đâu đó. Đường nét sắc sảo đậm đà của người phương Nam, nhưng lại có một loại khí chất là lạ mà hắn không thể cắt nghĩa được. Trong một lúc, hắn ngẩn người nhìn nàng. 

Thấy ánh mắt hắn, Xapatan cúi đầu mỉm cười. Nâng ly rượu trong tay, nàng mời mọi người quanh phòng vào tiệc. Bữa ăn không có các vũ nữ ca hát chúc tụng, chỉ nghe tiếng nhạc từ ngoài sân vẳng vào. Mọi người nói tiếng Chiêm Thành mà hắn không quen, hắn chỉ có thể cắm cúi ăn, thi thoảng trả lời vài câu hỏi của Xapatan về chuyện ở Đông Phố. Dù đã rời khỏi Đông Phố được hơn một năm, hắn vẫn có thể lấy lý do 'đi làm ăn xa' để thoái thác sự không hiểu biết về tình trạng hiện tại. 

Và điều đó thì có lợi cho hắn ở nơi đây. Sự ngây ngô cố tình mà hắn luôn tỏ ra luôn là một loại vũ khí đắc lực. 

Đến cuối bữa ăn, Xapatan trông đã có vẻ hài lòng. Nàng chào những người được mời đến dự bữa ăn, đưa họ ra về, chỉ giữ hắn lại. Khi những chiếc mâm trong phòng được dọn sạch, nữ chúa cho gọi dàn nhạc vào tấu khúc. Nhạc Chiêm Thành chuộng kèn trống hơn đàn, trong dàn nhạc chỉ có một chiếc đàn kanhi một dây cùng với kèn saranai và trống hagar, basanưng, ginăng. Xapatan chỉ tay giới thiệu các loại nhạc cụ cho hắn biết, rồi vẫy tay gọi nhạc công tấu. Ngả người dựa vào tường, nàng cầm một chiếc dùi trống nho nhỏ, vừa nhịp theo vừa hát. 

"Dom nan Xapatan Diwi 

Cauk xơp nhu hari grơp nưgar jang paxơng 

Ia di kraung đwơc mưng ngauk mai tơl 

Camauh patri cauk nan ia dawing đwơc o truh." 

"Thế rồi công chúa Xapatan khóc. Tiếng khóc thảm thiết, cả xứ sở động lòng. Và dòng sông, từ trên cao chảy lại. Nước cuộn xoáy mãi không nỡ trôi đi." Nghiêng đầu nhìn sang hắn, Xapatan cười nói, dịch lại câu hát của nàng. "Xapatan là nàng công chúa trong sử thi Akayet Deva Mưno, là em gái của Xamưlaik - kẻ địch thủ không đội trời chung của Deva Mưno, chồng nàng ta. Ở đây, Deva Mưno giết chết Xamưlaik, công chúa thương khóc người anh." 

Hóa ra đó là nguồn gốc cái tên của nàng, hắn nghĩ thầm. Một thứ nguồn gốc kỳ lạ. 

"Mẹ ta đặt cho ta cái tên này khi anh trai ta bị người An Nam giết chết. Sau đó không lâu, bà cũng mất." Nhìn thẳng vào hắn không chớp mắt, Xapatan nói. "Anh trai ta năm đó mới có mười tuổi. Dẫn quân ra trận lần đầu." 

"Còn ta, từ khi chưa được một tuổi, đã trở thành chủ nhân của vùng đất này." Vuốt lọn tóc ra sau tai, Xapatan nhẹ cười. Nụ cười làm hắn khẽ giật mình. 

Bây giờ thì hắn nhận ra nàng nữ chúa này giống ai. Như Yên. Cũng một phong thái thanh lịch ưu nhã nhưng mơ hồ phóng túng, cũng một sự nhẹ nhàng lịch duyệt nhưng ẩn giấu đầy gai nhọn, có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Và mục đích của nàng ta, bây giờ, sau những ưu đãi lấy lòng hắn, là ý muốn lôi kéo cùng thao túng - bất cứ ai lọt vào tay nàng ta. Bất cứ ai. 

Hắn quen thuộc với nụ cười như thế này đến mức nhận ngay ra được những gì ẩn chứa đằng sau nó. 

Và cái khí chất là lạ mà hắn cảm thấy - cũng chẳng gì khác ngoài một lớp mặt nạ mà người con gái này mang theo, che giấu tất cả con người thật của nàng ta sau gương mặt đẹp đẽ này. 

Cái nhìn trân trân của hắn bị hiểu thành ý nghĩa khác khi Xapatan lại yêu kiều quay đầu đi. Nàng vỗ tay theo nhịp của điệu nhạc đang được tấu trong phòng, chốc chốc lại với tay rót đầy ly rượu cho hắn. Rượu cất từ một loại lá trong khu vực này, vị đăng đắng ngòn ngọt lẫn vào nhau. Rượu được vài tuần, hắn giả say xin cáo từ. Xapatan gật đầu, gọi người đưa hắn đi. Ánh mắt nàng ta còn dán vào lưng hắn khi quay bước. 

Hắn được đưa đến một căn phòng rộng rãi khác, không có giường mà chỉ trải một tấm nệm lớn lót da dê trên đất, phủ màn trắng tinh, xông trầm hương thơm phức. Đêm đã về khuya, người hầu cận thổi tắt đèn trong phòng sau khi đưa hắn vào giường, lặng lẽ khép cửa lui ra. Yên lặng được một lúc, hắn chợt nghe tiếng cửa mở, ánh trăng lọt vào phòng chiếu theo một bóng người trượt dài qua sàn. Mùi hoa thơm nức phả vào mũi hắn khi người ấy lại gần, vén màn chui vào chăn. Bàn tay mềm mại đặt lên ngực hắn, tìm cách gỡ nút buộc trên vai. 

"Ai đấy?" Giả giọng say, hắn quay người như giật mình, nắm lấy bàn tay cô gái. Cô ta không trả lời, càng áp sát người gần lại. Hắn buộc phải nắm lấy cả hai cánh tay cô ta đẩy ra xa. 

"Ta mệt." Im lặng một lúc, hắn nói, thận trọng dịch xa cô gái, quay mặt vào tường ngáy to giả như ngủ. Cô ta nằm im một lúc, bàn tay trượt qua mái tóc, cổ hắn, lần vào ngực áo. Không thấy động tĩnh gì, chỉ có tiếng ngáy càng lúc càng to, cô gái thất vọng thở dài, đứng dậy bước ra ngoài. 

Tiếng nói khe khẽ ngoài cửa, như thể của một nữ nhân khác. Hương thơm theo gió phả vào phòng như rượu trong bữa tối hồi nãy. 

Xapatan cử cô gái này đến. Rốt cuộc thì nàng ta có ý gì? Mở mắt nhìn vào bóng tối đen đặc, hắn thấy đầu óc bưng bưng. Không hẳn là do rượu, chừng này rượu không có tác dụng gì với hắn. 

Cử nữ nhân đến hầu hạ khách âu cũng là thói quen của nhiều người phú quý tại bất cứ đâu, hắn không phải lần đầu tiên gặp trường hợp này. Nhưng hắn bây giờ chỉ là một thường nhân không rõ xuất thân, đối đãi thế này chẳng phải là quá mức? Hay nàng nữ chúa này đã biết được điều gì về hắn? Hay Oc-nha Lịch-da-thi-na đã nói cho nàng ta biết hắn là ai? Điều này thì có thể, khi ông ta đã năm ngày ở đây, rượu thịt phụ nữ không thiếu. Nhưng nếu thế thì Xapatan chẳng cần tỏ ra quá thận trọng với hắn. Em trai của lão Cửu vốn nổi danh là một tên vô dụng, không ai không biết. 

Từ khi đến đây, hắn đã có sơ sẩy nào? Miên man nghĩ, hắn đưa tay lên cổ, định gài lại nút áo mà khi nãy cô gái kia đã gỡ ra. Và giật mình. 

Chiếc túi Như Yên đeo vào cổ hắn đã mất. 

Hắn ngồi bật dậy, sờ soạng trong người rồi quanh giường, tuy biết rằng khả năng chiếc túi rơi xuống là rất nhỏ. Nút thắt được buộc rất chặt, chiếc vòng lại nằm trong hai ba lớp áo, hoàn toàn không thể rơi ra ngoài. Khi đi tắm, hắn vẫn còn cởi nó đặt bên cạnh rồi đeo vào. 

Chỉ có thể là cô gái kia. Nghĩ vậy, hắn tung chăn đứng dậy bước ra khỏi phòng. 

Ánh trăng phả vào mặt hắn cùng hương thơm như quỳnh hoa của Xapatan. Nàng ta đứng ngay trước cửa phòng, quay lưng về phía hắn. 

"Anh không có vẻ mệt." Xapatan nói mà không quay đầu. Nàng ta vẫn chưa quàng lại chiếc khăn. Nó đang bay phơ phất trong gió trên vai nàng. Giọng nói như âm thầm chế giễu. 

"Anh đi tìm cái này?" Một hồi lâu không thấy hắn trả lời, Xapatan bật cười. Nàng quay người lại, sợi dây vải nằm giữa những ngón tay giơ ra trước. Chiếc túi nhỏ đong đưa trước mặt nàng. 

"Đây là cách trả thù của các cô với người từ chối mình?" Hắn mỉm cười, khoanh tay hỏi. Xapatan nhún vai, môi nhếch nhẹ. 

"Có nhiều cô gái thích lấy một món đồ của người mình yêu thích." Nàng nói như giải thích, nhưng vẫn chẳng tỏ ý định trả chiếc túi kia cho hắn. 

"Ngay cả khi không được đồng ý?" Hắn vẫn giữ giọng bỡn cợt mà hỏi, tay đưa ra trước. Xapatan rụt tay về, đầu hơi hất lên. 

"Người đã không nhận, vật sao phải trả?" Quả thật, nàng ta càng lúc càng giống Như Yên. Ngay cả sự ngang ngược này. 

"Trả cho ta rồi muốn cử bao nhiêu người đến cũng được. Chỉ sợ ta không có gì để các cô ấy đem về." Hắn nhoẻn miệng cười. Hắn là đàn ông, nàng ta đừng tưởng bắt khoan bắt nhặt được hắn về chuyện này. 

Xapatan cau mày. Mím môi một lúc, nàng ta ném chiếc túi về lại cho hắn. Hắn ngần ngừ một lát rồi mở túi. Như Yên dặn chỉ mở khi nguy cấp, nhưng ở đây bọn họ không đóng tuồng Khổng Minh hay Tam Quốc. 

Vật trong túi làm hắn phải ngẩn người. Chỉ là hai miếng gì đó như gỗ nhỏ bằng hai đốt ngón tay, mỏng như giấy. Một miếng có màu trắng, một miếng có màu đỏ. 

"Không ngờ người như anh mà lại có thứ quý giá này." Xapatan dựa vai vào cột nhà, nói khi nhận ra vẻ ngạc nhiên của hắn. "Ai cho anh vậy?" 

"Sao cô biết có người cho ta?" Hắn nhướng mày. Xapatan bật cười. Tiếng cười của nàng rất trong. 

"Một người Hán mà lại có thứ ngãi này trong người thì chắc chắn là được cho. Không ai đem bán thứ cực quý cực hiếm này. Anh trông như còn chả biết nó là gì." Nàng bĩu môi. "Một miếng là hoa Bạch Đại ngãi, có tác dụng cải tử hoàn sinh, trị bách thương bách bệnh. Một miếng là Huyết Nhân ngãi, nghe đồn là mọc trên trái tim người bị cọp ăn thịt còn sót lại, nuốt một lát nhỏ có thể nhịn không ăn uống được cả mười ngày, trị được các chứng bệnh ngã nước kinh phong khi đi rừng. Những thứ này đều là báu vật của người đi rừng. Anh biết chuyện 'ngậm ngãi tìm trầm' của người sống trong vùng này chứ? Những kẻ đi sâu vào rừng thiêng nước độc đào bới trầm hương phải ngậm thứ ngãi này mới sống sót nổi. Nó như bùa hộ thân vậy." 

"Nên người cho anh chắc chắn phải thân thiết lắm." Xapatan nheo mắt, săm soi nhìn hắn. Hắn đeo chiếc túi vào cổ, lảng ánh mắt khỏi nàng ta. 

Như Yên chắc đã lấy thứ này từ cô gái áo vàng bị nàng vứt xuống nước trước kia. Hoặc là ông lão pháp sư trong núi đã cho nàng. Nếu biết thế này, hắn thà để nàng giữ lại mà chống bệnh còn hơn. Nàng nói mình có thuốc chính là thứ này, giờ lại đem cho hắn. 

"Một cô gái, phải không?" Tiếng Xapatan chợt vang ngay bên cạnh hắn khi nàng tiến sát tới. Ngón tay nàng nhấc chiếc túi trước cổ hắn lên, xoay nhẹ. "Túi đỏ thêu hoa, dây hồng kết hình hoa mai, rõ ràng là của nữ nhân." 

"Thì đã sao?" Hắn bỏ chiếc túi vào cổ áo trong, cài lại. Nửa đêm lấy cắp đồ vật của hắn, giờ lại đi săm soi truy xét, cô nữ chúa này còn quái dị hơn cả tiểu yêu tinh. 

"Ta chỉ đang nghĩ..." Xapatan nghiêng đầu. Một bên má nàng óng ánh trăng, đôi mắt như hồ nước trong bóng tối sâu xa không thấy đáy. Nàng đứng chỉ đến quá tai hắn, gương mặt ở khoảng cách này nhìn rõ từng sợi lông mi đen rợp. "Anh đến nơi này, bảo là đi tìm Oc-nha, thế mà đến nơi đã ngủ mất, giờ cũng chỉ chăm chăm đi ngủ. Người bình thường nhìn thấy ta đã sốt sắng làm thân làm quen. Đàn ông bình thường có cô gái vào hầu ngủ lại chẳng vui mừng nhận lấy? Rốt cuộc thì anh đến đây làm gì vậy?" 

"Tôi đến tìm Oc-nha, không có việc gì khác thì sao phải lăng xăng bối rối, đói ăn khát uống, ngủ nghỉ an thường là dĩ nhiên." Hắn thở ra, tỏ vẻ hoàn toàn vô tội. "Nữ chúa với tôi không quen không thân, sao dám vọng tưởng? Nữ nhân tuy cần, nhưng thân thiết với một cô gái còn không nhìn rõ mặt thì khó lắm thay. Nếu điều đó là thất lễ thì cho tôi xin lỗi." 

Rõ ràng cô gái này nghi ngờ hắn. Nhất cử nhất động của hắn bị nàng ta quan sát đánh giá. Hẳn đồ đạc mà hắn thay ra khi tắm cũng đã bị nàng lục soát, chỉ còn sót lại chiếc túi này nên nàng mới cho cô gái kia đến lấy. Bây giờ hắn lại tự hỏi sự thận trọng quá đáng này có nguyên do gì? 

Nghe câu trả lời của hắn, Xapatan bật cười khe khẽ. Bàn tay cô gái đặt lên vai hắn khi nàng tiến lại càng sát hơn. Hơi rượu ngọt đắng lẫn với hương hoa thoảng vào mặt hắn khi nàng thì thầm. 

"Không thể thân thiết với cô gái không rõ mặt? Vậy nếu là ta thì được chứ?" Ngón tay nàng ta nhịp trên vai hắn. "Anh đã bảo là nếu trả chiếc túi lại, ai anh cũng nhận cơ mà." 

Chú thích:  

[1] Công nữ Ngọc Khoa theo Lược sử dân tộc Chàm đã tự sát tại Ga Ta Bui Ga Tháp Chàm. 

Hồi 58: Biển xanh 

"Được." Hắn cười nói, sau một lúc suy nghĩ, quay lưng bước vào phòng ngủ. Nghe tiếng bước chân sau lưng, cô gái này quả cũng dám đi theo hắn. 

Cánh cửa đóng lại, trước khi ngọn lửa trong đèn phừng lên. Ngồi trong giường, vừa giũ giày xuống đất, hắn vừa liếc nhìn Xapatan đang chỉnh lại lửa đèn. Nghe tiếng động khi hắn kéo chăn nằm xuống, nàng quay đầu, mỉm cười. 

"Anh ngủ à?" Giọng nàng phảng phất như trêu chọc. Hắn ngáp dài. 

"Nữ chúa, tôi buồn ngủ là thật mà. Tôi chỉ bảo là nàng cứ cử người đến hay muốn làm gì thì làm, để yên cho tôi ngủ." Hắn vừa nói vừa nhắm mắt. Tiếng vải sột soạt nhè nhẹ khi mùi hương rõ dần. Xapatan ngồi xuống nệm cạnh hắn, cũng bỏ giày xuống đất. Nàng nghiêng người, thổi phù vào tai hắn một cái. 

"Ngươi làm thế này là xúc phạm ta đấy, biết không hả?" Cách xưng hô cũng đã đổi. Nàng ta thực sự có vẻ bực mình. 

Không phải buồn ngủ cũng là cái tội chứ? Hắn nghĩ thầm khi mở mắt, thấy ngay khuôn mặt diễm lệ của Xapatan sát cạnh. Hai khóe môi nàng cong lên tuy đôi mắt đầy vẻ hờn dỗi. Quả thật giống Như Yên khi nàng giả vờ giả vịt làm một cô bé con. Tuy vậy, Như Yên chỉ nói đùa, còn cô gái này thì hắn không chắc. 

Hắn đang ở trong xứ sở của một nữ chúa, nơi thờ một nữ thần có chín mươi bảy người chồng[1]. Nàng ta có coi nam nhân như một thứ giải khuây, e rằng cũng là chuyện thường tình. 

"Thế nữ chúa muốn là thế này?" Hắn cười nói, vòng tay ôm lấy eo nàng. Thân thể Xapatan mềm như bông, thơm nức mùi hoa. Hắn thổi trả vào tai nàng. "Xếp lại giày cẩn thận một chút, kẻo khi về không tìm được." 

"Ngươi..." Xapatan trừng mắt. Hắn nhún vai. 

"Thế nữ chúa nghĩ chúng ta có gì để tỉ tê tâm sự nữa?" Xong việc thì ai về phòng nấy. Một thứ giải khuây chính là như vậy. 

Xapatan đập tay vào vai hắn, ngồi thẳng người dậy. Nàng mím môi. Hẳn để ngăn câu mắng tràn ra đầu lưỡi. 

Như Yên cũng đã từng tức điên với thái độ này của hắn đến mức suýt đem hắn đi giết chết cho bõ ghét. Nhưng hắn cho rằng lúc ấy thì mình đáng tội, còn với Xapatan thì hắn chỉ thấy buồn cười. Cô gái này, nói cho cùng cũng chỉ là một cô bé. 

"Ta đã nghe chuyện đàn ông phương Bắc các người khinh bạc, quả thật không sai." Quả nhiên nàng đâm giận, dằn từng tiếng trong cổ. "Năm thê bảy thiếp, coi nữ nhân như rác." 

"Tôi cũng không chắc." Hắn ngáp, lần này thì ngáp thật. "Thứ quan trọng thì sẽ quan trọng. Nữ nhân cũng vậy. Có người bị vứt bỏ, cũng có người làm sụp đổ cả giang sơn. Người đối xử người là tùy tâm. Dù nàng có là nữ chúa cao cao tại thượng, nửa đêm chạy đến thế này mà muốn tôi thật lòng thật ý ân ân ái ái, e rằng chỉ đi chuốc bùa Mê Tâm mới được." 

Xapatan cau mày khi hắn lại nhắm mắt ngủ. Một lúc, nàng lại động đậy, giật tay áo hắn. 

"Cô gái kia đẹp lắm à?" Nàng hỏi, chỉ vào cổ hắn. Hẳn nhiên là hỏi đến chủ nhân của chiếc túi kia. Hắn thở ra. 

"Không phải." Sao nữ nhân cứ có kiểu suy nghĩ này chứ? "Chỉ là... tôi ghét rắc rối." 

"Ta rắc rối?" Mắt Xapatan mở lớn. Hắn gật đầu, quay lưng về phía nàng quyết tâm ngủ. 

Đương nhiên là nàng ta rắc rối. Bây giờ hắn lại nghi ngờ cái vẻ phóng túng mà nàng cố tình tỏ ra, khi nàng chẳng hiểu chút nào những liên can nó đem tới. Nàng là nữ chúa, làm tình nhân của nàng, dù chỉ là một trong chín mươi bảy người, cũng như vác gông trên cổ. Lỡ như tiến xa hơn, chuyện trở thành nghiêm túc thì càng tệ. Mối quan hệ giữa nam và nữ vốn không thể nói trước được điều gì, mà nàng ta lại coi như trò đùa - thật đúng là cô bé không hiểu sự. 

Xapatan khoanh chân ngồi im lặng trong khi hắn chìm dần vào giấc ngủ mệt mỏi. Mơ màng, hắn nghe thấy nàng rời đi. Khi hắn mở mắt dậy, trời đã sáng rõ, một mâm bánh trái điểm tâm đã để bên cạnh. Trong phòng không có một bóng người, chỉ cánh cửa mở he hé để gió sớm lọt vào. 

Nghe tiếng voi kêu ngoài sân, hắn ăn vội vàng bữa điểm tâm rồi chỉnh trang quần áo ra ngoài. Mưa tạnh đã lâu, sau cơn bão trời lại trong veo, xanh ngắt, nắng đã chói chang đổ xuống khoảng đất rộng. Hai con voi vừa đi đưa người về giờ đang đứng đập vòi ở một góc sân, những gia nhân đang tháo bành và lọng che trên lưng chúng xuống. Một đám người đang đứng trong hiên nhà chính, cùng với Xapatan. 

Oc-nha Lịch-da-thi-na đã về. Hắn nhìn ra người đàn ông Chân Lạp phốp pháp trong bộ quần áo vàng nghệ đứng gần Xapatan. Nàng quay đầu về phía phòng hắn, thấy hắn liền vẫy tay ra hiệu. 

"Chào ngài Oc-nha." Hắn cười nói, chắp tay chào Oc-nha Lịch-da-thi-na khi đến gần. Ông ta hơi nheo mắt khi nhìn thấy hắn, cũng gật đầu, chắp tay đáp lễ. 

"Chào." Nhìn ánh mắt Oc-nha Lịch-da-thi-na, hắn nghĩ mình biết ông ta vừa nghĩ gì. Món nợ ván bài trước, ông ta vẫn chưa trả cho hắn. 

Âu đó cũng là lý do lão Cửu đá hắn ra khỏi nhà. Một lần theo lão Cửu đến dinh thự của vị Oc-nha này bàn chuyện, được giữ lại đãi tiệc, nhân lúc ngà ngà say, hắn đã gạ ông ta chơi một ván bài. Vị Oc-nha quyền cao chức trọng, tính tình hiếu thắng liều lĩnh này quyết không dừng lại khi chưa thắng được hắn, cứ thế mà đem gần như cả tài sản của mình ra thế chấp. Tỉnh rượu, chuyện đến tai lão Cửu, anh trai hắn tức giận đùng đùng đòi nhốt hắn lại trong nhà một năm. Nhân lúc ấy nghe tung tích của Sa, hắn liền khăn gói rời khỏi Đông Phố. 

Món nợ tiền bạc thì có thể cho qua, nhưng con nợ nào gặp chủ nợ chẳng cảm thấy chột dạ? 

Oc-nha Lịch-da-thi-na vẫn giữ ánh mắt nửa e dè nửa cảnh giác ấy trong suốt cuộc trò chuyện với Xapatan cho đến khi hắn đi theo ông ta về dãy phòng khách. Một mâm cơm rượu đã được dọn sẵn làm bữa điểm tâm sáng cho ông ta trong phòng. Hắn cũng đường hoàng ngồi xuống đối diện, với tay lấy bình rượu mà uống. 

Oc-nha Lịch-da-thi-na lắc đầu khi hắn đưa rượu mời. 

"Vẫn còn nhớ chuyện trước?" Hắn cười nói, tự rót tự uống. Oc-nha Lịch-da-thi-na rời ánh mắt khỏi bình rượu trong tay hắn, cũng cười nhẹ. 

"Mạc thiếu gia mất tích cả một năm, không ngờ lại gặp ở đây." Ngữ điệu rất thận trọng, như thể ông ta đang thăm dò hắn. Người ở nơi này có sự thận trọng lạ kỳ. Nhất là Oc-nha Lịch-da-thi-na. Ông ta vốn biết hắn là ai, như thế nào, đối với hắn trước đây vẫn hào sảng thoải mái, giờ lại đi cảnh giác với hắn. 

Mạc thiếu gia, lâu ngày không nghe cách gọi này, quả thật không quen. 

"Rong chơi mãi thì cũng phải về chứ." Hắn cười, thấy Oc-nha Lịch-da-thi-na chớp mắt. 

Tất nhiên, ông ta biết kiểu rong chơi của hắn. Cùng những hậu quả kèm theo. 

Tỉ dụ như, đến Đông Phố được một năm, hắn khiến các sòng bạc trong vùng nở rộ hơn gấp đôi. 

Tỉ dụ như, ở Đông Phố được ba năm, quan trong vùng xin từ chức vì kiệt sức với những vụ gây gổ kiện tụng của đám du thủ du thực mỗi ngày kéo từng đoàn đến nha môn. 

Tỉ dụ như, đi cùng lão Cửu đến Đại Thành, hắn khiến cả bến cảng Bangkok lao vào đánh nhau sau một ván bài Tây dương. 

Tỉ dụ như, đi cùng trên một chiếc thuyền đến Vũng Long, một tên hải tặc Nam Đảo đã bị hắn lột sạch tài sản, liền đem đám đàn em gần đó đến bao vây, định bắt cả thuyền đi làm bánh bao. 

Tỉ dụ như, suýt nữa làm cho một viên quan Oc-nha như Oc-nha Lịch-da-thi-na phá sản. 

Đông Phố, Chân Lạp đất rộng dân thưa, người qua qua lại lại luôn luôn. Dù các sòng bạc quen đã cạch mặt hắn, đám người lạ luôn luôn bị vẻ ngoài ngờ nghệch của tên thanh niên này dụ dỗ. Kết quả, nhỏ thì là đánh nhau ầm ĩ, lớn thì là chúng cắm cọc ở lại hẳn, quyết ăn thua với nhau. Bản thân hắn chẳng hề có tí teo hối hận, nhảy hết từ đám rắc rối này sang đám rắc rối khác. Mỗi lần sự việc quá trầm trọng, lão Cửu phải bảo hắn khăn gói rời Đông Phố - mà mỗi lần trở về, hắn lại đem theo đủ loại phiền phức khác nhau. 

Một năm này, dưới sự quản thúc của tiểu yêu tinh, hắn không có cơ hội đi gây họa trong vùng. Mà cũng có thể, phát hiện ra mối bận tâm khác, đầu óc hắn không còn nghĩ đến chuyện tìm thứ nào đó để chơi đùa. 

Phải, chơi đùa. Hắn vốn ưa náo nhiệt. Và từng đám, từng đám người chộn rộn ùa tung ra như kiến cỏ vỡ tổ là một sự náo nhiệt đầy hứng thú. 

"Tôi đi ngang qua thấy thuyền của Oc-nha nên ghé vào." Hắn cười với thái độ của Oc-nha Lịch-da-thi-na, quyết định chưa vội nói cho ông ta. "Bão tạnh rồi, bao giờ ngài ra khơi?" 

"Có người trong đoàn đang bệnh, chưa đi được." Oc-nha Lịch-da-thi-na lắc đầu. "Mà thiếu nó thì không được." 

"Lê Diệt đang bị sốt." Ông ta nhanh chóng giải thích trước ánh mắt hắn, nhẹ nhướng mày. "Mạc thiếu gia chưa gặp nó?" 

Xapatan không hề nói gì về chuyện này. Hắn vội vã tìm cách lấp liếm với Oc-nha Lịch-da-thi-na rồi nhờ ông ta chỉ phòng đi tìm Lê Diệt. Nàng nữ chúa nói có vài người Minh Hương đi theo đoàn, không ngờ lại là cậu ta. Hắn cứ nghĩ họ đã đi theo Oc-nha Lịch-da-thi-na xuống làng, không ngờ lại ở đây. 

Nhưng sao lại là Lê Diệt? Đứng trước cửa phòng, chờ hai cô hầu đánh thức cậu thiếu niên đang nằm ngủ dậy, hắn tự hỏi. Dù Lê Diệt có biệt tài về ngôn ngữ, có thể nói cả ba bốn thứ tiếng, cậu ta mới chỉ mười tám tuổi. Hay chính là như vậy, cậu ta được chọn vì còn nhỏ tuổi, còn có thể không phải bận tâm? 

Lê Diệt nghe thấy hắn đến, chậm chạp mở mắt ngồi dậy. Nghe người xung quanh nói, cơn sốt của cậu ta đã hạ, tuy khuôn mặt vẫn đỏ bừng. Nhìn thấy hắn, cậu thiếu niên đột nhiên lại thoáng như bối rối. 

"Công tử." Cậu ta mấp máy môi gọi. Hắn lắc đầu. 

"Gọi ta là Tử Hiên." Lê Diệt đối với hắn vẫn trịnh trọng một cách không cần thiết. Hắn ngồi xuống cạnh cậu ta, chân khoanh lại, ra hiệu cho hai cô hầu lui ra ngoài. Khi cánh cửa đã đóng lại, hắn mới nhìn sang Lê Diệt, mỉm cười. "Vẫn không quen với tàu thuyền, phải không?" 

Vẻ bối rối của cậu thiếu niên rõ hẳn khi cậu ta gật đầu. Lê Diệt phát bệnh, hẳn chẳng gì khác ngoài vì chuyến đi trên biển. Cậu ta, từ cái ngày ấy, đã trở nên sợ biển cả cùng tất cả những gì liên quan đến nó. 

Từ gần mười năm trước, những ngày lênh đênh ấy. 

"Uống thuốc là đỡ thôi." Lê Diệt nói hơi giật cục, mặt càng đỏ hơn. Hắn nhẹ lắc đầu. 

"Thế này thì sao đi được?" Lại một chuyến hải hành trên biển nữa, cậu ta chắc chắn sẽ không trụ nổi. "Đã thế sao còn đi?" 

Lê Diệt tránh ánh mắt hắn, không trả lời. Hắn không có ý phiền trách cậu ta, chỉ là một câu hỏi. Và cậu ta đã không trả lời. 

"Lão Cửu sao rồi?" Hắn quyết định nói chuyện khác. Lê Diệt gật đầu. 

"Lão gia vẫn ổn. Lão gia dạo này thường cho người để ý tìm huynh về." Lê Diệt nói rất bình lặng. Nhưng trong mắt cậu ta, hắn đã thấy một ý nghĩ khác. 

Lão Cửu cho người đi tìm hắn, lần đầu tiên trong suốt mấy năm qua, hẳn không phải vì 'nhớ'. Dù đây là lần đi khỏi Đông Phố lâu nhất của hắn, lão Cửu vẫn luôn cho rằng hắn là kẻ trời đánh cũng không chết. Vấn đề nằm ở Đông Phố, không phải hắn. 

"Ồ, tìm ta có chuyện gì vậy?" Hắn nhoẻn cười, ra vẻ thản nhiên hỏi. Sự bối rối trở lại trên khuôn mặt Lê Diệt, cậu ta lúng túng một lát rồi lắc đầu. 

"Lão gia cũng không chắc, nhưng ở Đông Phố..." 

Xapatan đẩy cửa vào, cắt ngang qua lời Lê Diệt. Nàng cùng những hầu cận đem thuốc đến cho cậu thiếu niên. Lê Diệt uống phần thuốc buổi sáng rồi nằm vật xuống nệm, lại thiêm thiếp ngủ. Không còn có thể nói chuyện gì, Xapatan ra hiệu cho hắn cùng nàng ra ngoài. 

"Ta không biết cậu ấy quen với anh." Xapatan nói như giải thích cho việc nàng đã không nói gì về Lê Diệt hôm trước. "Khi đến đây, cậu ấy đã sốt mê man, hôm nay mới tỉnh táo một chút." 

"Bệnh gì thật là lạ." Nàng tiếp tục nói khi thấy hắn không lên tiếng. "Thầy thuốc bảo cứ để cậu ấy nằm nghỉ sẽ đỡ, Oc-nha cũng nói thế. Khi mê man, cậu ấy chỉ nói toàn đến chuyện xương da thịt sọ gì đó, bão rồi biển, sóng..." 

"Cậu ta sợ biển." Hắn gật đầu, cắt ngang lời Xapatan. Nàng chớp mắt, tỏ ngay vẻ tò mò. 

"Biển? Sao phải sợ?" Môi dưới nàng hơi bĩu ra, tỏ vẻ khinh thị. Hẳn nhiên, biển cả có bão tố và sóng dữ, nhưng người người trong vùng đất này đều đã làm quen với nó. Cơn bão qua đi, thiệt hại đau thương đến mức nào, họ cũng sẽ lại tiếp tục ra khơi. Sợ biển? Nghe cũng quái lạ như sợ mặt đất, rừng hay núi. 

Hắn liếc nhìn nàng, im lặng một lúc rồi trầm giọng nói. 

"Cậu ta đã mang tên Diệt từ ngày trên thuyền đi xuống. Biển đã diệt tất cả mọi thứ của cậu ta." 

Xapatan cau mày, nhưng hắn chỉ có thể nói như thế. Hắn, thực tình, cũng không biết phải giải thích với nàng ra sao. 

Phải giải thích ra sao, về những ngày tháng ấy? Phải giải thích ra sao, phải nói như thế nào, để nàng hiểu được những gì cậu ta đã trải qua? 

Phải nói thế nào về tiếng kêu gào của cậu ta khi biển cả nuốt chửng cha cậu, ném thân xác rách tướp của ông lên cột buồm trước khi sóng biển ào đến, xé tan thành ngàn mảnh? 

Phải nói như thế nào về ánh mắt hãi hùng của cậu ta trước hàng ngàn thân xác rải trên mặt biển cùng xác gỗ trôi dạt? Về tiếng khóc của Dương tướng quân trên thuyền ngày ấy, khi đội quân bị bão nhấn chìm, hai trăm thuyền chỉ còn có năm mươi? Về nỗi cô đơn khôn cùng giữa biển khơi chỉ một màu xanh ngắt? 

Phải nói như thế nào về tiếng lào khào không thể thoát ra khỏi cổ họng cậu ta khi ôm lấy thân xác kiệt cùng của người mẹ? Kiệt cùng, khi bà, mỗi đêm, âm thầm lấy dao lóc từng miếng thịt của mình nhét vào miệng cậu. Cậu bé chín tuổi ấy đã sống sót khi từng người, từng người một chết đi - giữa biển khơi khôn cùng. 

Phải nói ra sao về chuyện cậu ta đã ôm xác mẹ đến cả mười ngày sau, cố gắng giành giật để không ai đem bà ném xuống biển? Và khi cậu ta mệt lả thiếp đi, người trên thuyền không chịu nổi mùi hôi thối, đã lấy tấm thân mà xương trắng đã trơ ra qua những vết cắt, thả xuống nước sâu. 

Ngày ấy, hắn đã phải ôm cậu ta lại, để cậu ta không nhào xuống biển. Mắt cậu ta đã dại đi, xanh ngắt một màu. Phải, xanh ngắt. Xanh như biển. 

Hắn vẫn còn nhớ Giang Nam sương mù và gió tuyết mùa đông ấy, cảnh tượng cuối cùng của quê hương còn lại trong ký ức. Cuộc chinh phạt của đoàn quân hoàng đế Khang Hy đã đến những ngày cuối cùng. Thành Long Môn bị hạ, tướng quân Dương Ngạn Địch gấp rút chạy về Nam Kinh. Đường bộ đã bị bao vây, đường thủy bị chắn lối, đoàn thuyền hai trăm chiếc phải chạy ra biển, gửi tin cáo cấp xin cứu viện. 

Đó là những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Và đoàn quân cứu viện họ chờ đợi vĩnh viễn không bao giờ tới. Hai tháng ròng rã trôi dạt trên biển, một cơn bão lớn cuối cùng đã đến, đập nát đoàn thuyền. Nhìn năm chục chiến thuyền còn lại, vị tướng trải trăm trận đã khóc. "Trời không phù hộ Minh triều", ông nói. Và khóc trước định mệnh. Biển mênh mông như định mệnh. Trời mênh mông như định mệnh. 

Lương đã cạn, người sống phải nhai da giày mà ăn, hứng sương mà uống. Phải là quân sĩ mới có da giày để gặm. Binh phu, gia quyến lính chết chỉ còn cách ném xuống biển. Phải hơn một tuần trăng, đoàn thuyền mới cập được vào đất liền. Chính là xứ sở này.[2] 

Vì vậy, Dương tướng quân hàm ơn chúa Nguyễn hơn bất cứ điều gì có thể hình dung ra trên đời. Đoàn thuyền nhà Nguyễn đã có thể nhấn chìm họ, những con người kiệt quệ này. Nhưng vị chúa đã đưa họ vào. Ba ngàn người còn sót lại của một binh đoàn thất trận, ba ngàn quân sĩ dưới quyền đã được cứu, Dương tướng quân coi đó còn nặng hơn gấp ngàn lần ơn cứu mạng. 

Chỉ còn lại biển vĩnh viễn xanh ngắt trong ký ức cậu bé. Biển mênh mông sóng vỗ. Biển ngập tràn sóng cả. Biển không bến bờ. 

Chỉ còn lại nỗi cô đơn khôn cùng lạc giữa lòng biển. Họ đã bị bỏ rơi. Đồng minh đã bỏ rơi họ. Nhà vua đã bỏ rơi họ. Minh triều đã bỏ rơi họ. Định mệnh đã bỏ rơi họ. Vị tướng trung thành đã khóc. Tiếng khóc rơi giữa biển. 

Diệt. Lê Diệt. Tất cả đã diệt vong. Tất cả ảo ảnh lẫn sự sống ấy nằm ở một thế giới đã diệt vong. Vĩnh viễn. Không còn có thể sống dậy bao giờ. 

Rồi sự sống, ngay cả sự sống, cũng trở thành một giấc mộng. 

"Cả gia đình cậu ấy mất trên biển." Cuối cùng, hắn nói trước vẻ kiên quyết phải hỏi cho ra của Xapatan. Nàng chớp mắt, thả tay áo hắn. Cô gái này thực ra rất dễ xúc động. 

"Còn cha mẹ anh?" Vẫn đi theo hắn, Xapatan tiếp tục truy hỏi. Hắn vừa đưa mắt tìm nơi ở của Oc-nha Lịch-da-thi-na vừa lơ đãng trả lời. 

"Cha tôi mất rồi. Mẹ tôi ở Quảng Đông." Vị Oc-nha này không định tránh mặt hắn thật chứ, hắn nghĩ thầm, không nhận ra ánh mắt của Xapatan bên cạnh. 

"Sao lại như vậy?" Nàng hỏi. Hắn quay lại, mất một lúc mới hiểu ý nàng. 

"Đi đánh trận làm sao đưa bà đi được? Bây giờ tôi mà ló đầu về thì sẽ bị phanh thây lăng trì ngay." Mùa đông năm ấy, chuyện xảy ra quả thật quá bất ngờ. Những năm sau này, lão Cửu đã nhờ người trông nom bà, nhưng vẫn không thể về đón. Thanh triều trông chừng gia quyến của những kẻ phản loạn gắt gao, chỗ ở của bọn họ cũng không ổn định. Đông Phố này chưa yên, lão Cửu chỉ trầm mặc nói mỗi lần hắn bàn đến chuyện đón mẹ. Bà ở lại quê hương yên ổn cùng họ hàng vẫn tốt hơn lênh đênh. Lỡ gặp phải tình cảnh như chúng ta trên biển ngày trước thì quá không đành. 

Đông Phố không yên. Và bọn họ vẫn mãi chỉ là kẻ dạt trôi. Hắn thấy điều đó trong mắt anh trai, trong cái bóng in trên vách mỗi đêm. Lão Cửu ở đây, ra sức xây dựng một sản nghiệp, một thế lực, chỉ để tìm chỗ dung thân. 

"Mãn Thanh thật đáng ghét, phải không?" Xapatan chợt nói sau một lúc cúi đầu như suy nghĩ. Hắn chỉ cười, không trả lời nàng. 

Hẳn nàng lại đang nghĩ đến chuyện nơi đây, những kẻ đã cướp lấy quê hương, giết chết gia đình nàng. Hắn cũng chẳng thể bảo nàng oán hay không oán, hận hay không hận. Tất cả đều có lý và tất cả đều vô lý. 

Nàng ở nơi đây, biên giới của hai quốc gia, đỉnh của cơn sóng, có những việc vốn không thể làm theo ý muốn của mình. 

Nhưng sự đồng cảm làm Xapatan nhanh chóng cảm thấy gần gũi với hắn. Nàng cười tươi như hoa, khoác lấy tay hắn. 

"Hôm nay bão tan rồi, ta vừa mời Oc-nha vào rừng săn thú, anh đi cùng chúng ta nhé." Nữ nhân này hào sảng không khác gì nam nhi, thậm chí sự tự chủ còn có phần hơn. Nàng mời hắn đi săn cứ như rủ vào rừng hái hoa. 

Mà quả nàng có vẻ còn lưu giữ Oc-nha Lịch-da-thi-na cùng đoàn người của ông ta ở đây lâu dài. 

"Oc-nha trông nhàn nhã thật." Hắn ra vẻ lơ đãng nói. Xapatan cười, nhún vai. 

"Ở Phú Xuân kia bây giờ còn đang bận xây dựng, cải tổ, điều tra các thứ, đâu có rảnh mà quan tâm đến sứ giả Chân Lạp đến lâu hay mau. Mà ông ấy cũng nói muốn đi thăm thú các nơi, thuyền ghé vào cũng là một chuyện hay." 

Ồ, hắn thốt khe khẽ trong cổ. Oc-nha Lịch-da-thi-na muốn 'đi thăm thú các nơi'? Tính ra, bão vừa vào khoảng năm, sáu ngày trước, thuyền của đoàn sứ Chân Lạp nhanh chóng tấp vào bờ như vậy, hẳn phải ở rất gần bờ. Hắn cũng đã quan sát thuyền không có hư hại lớn, ngay cả lá cờ ướt nước trên đầu buồm cũng không chút hề hấn - như thể chỉ vừa nổi gió thì thuyền đã vào bờ. 

Hôm qua Oc-nha Lịch-da-thi-na cũng đã xuống làng ngay khi bão vừa tạnh. Ông ta muốn xem cái gì ở đây? 

Địa phận này vốn là biên giới của Nam Hà và Chiêm Thành. Vùng bờ biển phía Đông vốn đã bị quân Nguyễn chiếm cứ lập hai dinh làm nơi trông chừng Chiêm Thành. 

Oc-nha Lịch-da-thi-na đang muốn thăm dò động tĩnh quân tình của Nam Hà, phải chăng? 

Oc-nha Lịch-da-thi-na là vị quan thân cận của Nặc Thu. Có vẻ, nhà vua này không từ bỏ ý định của tiên vương Nặc Ông Chân trước kia, kết liên cùng Chiêm Thành. 

Chân Lạp và Chiêm Thành - mối liên kết đã bị chị em Ngọc Khoa, Ngọc Vạn phá vỡ. Vua Po Romê giao thiệp với các quốc gia phương Nam, với Tây Dương, nhưng hai vị hoàng thân Mã Lai đã thất bại trước đợt tấn công của Nam Hà. Công nữ Ngọc Vạn đưa người vào hạ bệ vua Nặc Ông Chân. Lần này, hẳn họ sẽ khôn ngoan hơn. 

Vua Nặc Thu kia, tiếng là liên kết với Đại Thành, nhưng thực sự Đại Thành có thể giúp được gì cho Chân Lạp khi bản thân cũng đang phải chống chọi với Miến Điện, với Nam Đảo? Và Đại Thành, quốc gia có nguồn gốc từ trong lòng Chân Lạp, sẽ chẳng bao giờ được người Chân Lạp tin tưởng hoàn toàn. Liên kết với Đại Thành - có thể chỉ là một cách tung tin đánh lạc hướng? 

Nhưng Chiêm Thành thì giúp được gì cho Chân Lạp? Có một điều mắc míu mơ hồ nào đó mà hắn không nắm bắt được, bây giờ. Oc-nha Lịch-da-thi-na dừng chân tại đây, có phải vì ngẫu nhiên do bão? Nếu như Xapatan không giữ, ông ta cũng sẽ tìm cách lưu lại. Hắn không biết gì về vùng đất này để có thể đoán được ý định của ông ta. 

"Lê Diệt bệnh còn lâu, ông ấy cũng chẳng đi đâu được." Xapatan mỉm cười, nói với vẻ quan tâm. "Lần này triều đình Nam Hà đòi phải có người Minh Hương đến, làm sao bỏ cậu ta ở đây được?" 

"Đòi có người Minh Hương?" Hắn chợt nghiêng đầu hỏi lại. Xapatan ngẩng nhìn hắn thắc mắc. Hắn nhìn ra phía đàn voi. Oc-nha Lịch-da-thi-na đã đeo tên cầm cung cùng các thuộc hạ đi về chuồng voi chuẩn bị cho cuộc săn. Khóe miệng hắn nhếch nhẹ. 

Ông bạn già, lần này ông lại không thoát được ta rồi. 

Chú thích:  

[1] Nữ thần Po Nưgar: Nữ thần sáng thế lập quốc của Chiêm Thành, có 97 người chồng. 

[2] Chuyện về đoàn người Dương Ngạn Địch được ghi lại trong Nam triều công nghiệp khai quốc diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm viết vào thời chúa Minh.  

Hồi 59: Đại Thành 

Đêm qua thì hắn đã nghĩ - bây giờ thì hắn chắc chắn - Xapatan rất bốc đồng. Nàng sôi nổi và bốc đồng đến mức gần như chẳng bao giờ nghĩ trước những việc mình làm. 

Như lúc này, nàng mời Oc-nha Lịch-da-thi-na cùng đoàn người Chân Lạp đi săn trong núi mà không hề chuẩn bị trước. Những con voi được thắng bành cùng cung tên và súng là tất cả những gì họ có. Những tùy tùng khác phải vội vội vàng vàng đem ngựa lách rừng lên trước báo cho cộng đồng người Thượng trong núi. Việc đi săn này không phải đơn giản là cưỡi thú vào rừng, cầm cung mà bắn. Núi cao rừng sâu, hang nhiều hốc lớn, thú rừng nghe động là chạy mất, họ phải dàn vòng tròn, lấy đồ vật bằng kim loại, chiêng trống ra gõ để dồn thú. Những việc ấy chỉ có thể nhờ người sống trong vùng. Những chuyến đi săn vì vậy phải được hoạch định trước ít nhất là vài ba ngày. 

Nhưng Xapatan cứ dẫn bọn hắn vào trong rừng, nhẩn nha vừa đi vừa đợi tin của đoàn tùy tùng báo về. Quả tình thì hắn nghĩ, bão vừa tạnh, người làng phải sửa sang lại nhà cửa ruộng nương, chẳng ai rảnh để đi làm việc cho nàng. May mà bà già quản gia trong dinh thự đã đoán trước được tình cảnh này, nhanh chóng đem cả đồ dựng trại, lương thực cho nhóm mang theo. 

Vùng đất Xapatan cai trị không lớn nhưng vào rất sâu về phía Tây, bao gồm cả những bản làng người Thượng. Vijaya - Quy Ninh là vùng đất trù phú nhất của Chiêm Thành, nàng nói với hắn trên đường đi. Không như Amaràvatì hay Ulick chỉ chủ yếu khai thác rừng, còn vướng phải người Man của Vạn Tượng thường xuyên sang quấy phá, Vijaya là một khối liên kết có bề dày lịch sử lâu đời của người Thượng và miền xuôi, trên có núi cao, dưới có biển rộng, đất đai cũng tốt hơn hẳn các vùng khác. Vijaya trở thành trung tâm của Chiêm Thành, chủ của các tiểu quốc khác chính vì thế. Từ khi Chiêm Thành mất Vijaya, người Thượng ở phần phía Bắc cũng tách rời, không còn ai quản lý. Người An Nam chiếm được đất nhưng khắp nơi rời rã, chẳng quản được ai. 

Người Thượng, hắn vừa gật đầu vừa nghĩ thầm, liếc nhìn Oc-nha Lịch-da-thi-na. Hóa ra đi săn là đi vào vùng của người Thượng. Quả thật, bên đường đi, hắn vẫn thấy các đền tháp Chiêm Thành rải rác trong vùng, minh chứng cho sự liên kết chặt chẽ của họ. Oc-nha Lịch-da-thi-na có vẻ trầm ngâm. Ngồi ở bành voi khác, ông ta nói chuyện khe khẽ với người hầu cận kế bên, thi thoảng đưa mắt rất nhanh về phía hắn. 

Đã xuất phát trễ lại đi chậm, đến trưa nhóm đi trước tìm người vẫn chưa về, bọn hắn đành phải dừng chân nghỉ tạm trên một ngọn đồi trống. Cây cỏ vừa kịp khô nước mưa trong ánh nắng oi ả vẫn còn vương vất một làn hơi đắng. Tiếng côn trùng vang khắp nơi. Những con bọ cánh cứng bay tứ tán ngay dưới bàn chân họ. Những hầu cận nhanh chóng phát quang một khoảng đất trống cho Xapatan và Oc-nha Lịch-da-thi-na ăn trưa. Nàng nữ chúa vẫn có vẻ hứng chí khi được đi ra ngoài, chẳng nề hà phiền muộn vì sự mệt mỏi này. Nàng chia bữa ăn trưa cho bọn hắn, cười với Oc-nha Lịch-da-thi-na. 

"Ngài Oc-nha đã bao giờ đến vùng Thượng chưa?" Nàng vừa nói vừa ngồi xuống cạnh hắn trên cỏ. Oc-nha Lịch-da-thi-na gật đầu, rồi lại lắc đầu. 

"Có một lần, lâu lắm rồi." Ngữ điệu ông ta như thể không muốn nói về chuyện này. "Làm phiền nữ chúa dẫn chúng tôi vào thật áy náy." 

"Ta cũng phải thỉnh thoảng đi xem tình hình chứ." Nụ cười của Xapatan mở rộng. Nàng đã kéo tấm khăn che mặt xuống cổ để ăn trưa. Nhưng nụ cười chợt biến thành cái cau mày. "Chẳng biết chuyện ở Đại Thành có ảnh hưởng đến chúng ta không?" 

"Đại Thành cách vùng này rất xa." Oc-nha Lịch-da-thi-na lại nhìn hắn, gần như giật mình. Sự hoang mang thoáng qua mắt ông ta. 

"Chuyện gì ở Đại Thành?" Hắn nhướng mày, vội hỏi. Xapatan quay sang hắn, nói với một cái nhún vai. 

"Chắc phương Bắc không quan tâm đến chuyện này nên anh không biết." Nàng nhè nhẹ gật đầu. "Lần này Đại Thành gặp rắc rối to rồi." 

"Tây dương đang tấn công Đại Thành, trong nước đang cực kỳ hỗn loạn." Không để ý đến ánh mắt của Oc-nha Lịch-da-thi-na, Xapatan nói. Nàng như đương nhiên cho rằng chuyện này ai nấy cũng đều biết. "Phaulkon giết chết hơn sáu mươi người Anh Cát Lợi, nước này liền đưa tàu chiến đến bao vây cảng Marit đòi tiền bồi thường, nghe đâu đến hàng chục ngàn đồng vàng. Nhà vua Đại Thành liền cầu sự giúp đỡ của Phú Lang Sa, cho nước này cảng Marit ấy. Nhưng Tây dương lòng tham khôn cùng, Phú Lang Sa cho sáu tàu chiến với năm trăm quân đến Ayutthaya, đòi có cảng Bangkok và nhà vua phải cải đạo Thiên Chúa mới chịu. Họ vẫn còn đang bàn luận điều kiện với nhau. 

"Tình hình trong nước của Đại Thành bây giờ rất tệ." Xapatan cau mày thở ra. "Nhà vua quá ưu ái Tây dương vốn đã gây nhiều thị phi, bây giờ lại khiến đất nước lâm vào tình thế này vì một tên phiêu lưu Hy Lạp. Chẳng ai muốn đất mình thành chiến trường cho bọn Tây dương đánh giết nhau, họ bắt đầu phản đối nhà vua dữ dội. Tuân thủ điều kiện này, Đại Thành trở thành thuộc địa của Phú Lang Sa mất. Mà các nhà sư cũng sợ nhà vua theo Thiên Chúa giáo. Ngoài thì tàu chiến của Tây dương bao vây, trong thì người người phản đối, tất cả các cảng từ Ayutthaya, Bangkok đến Marit đã đóng cửa. Đại Thành lần này e sẽ có loạn lớn." 

Xapatan càng nói, hắn càng thấy cơn lạnh tràn khắp cơ thể. Oc-nha Lịch-da-thi-na cúi đầu ra vẻ săm soi quan sát miếng lương khô đã ăn gần phân nửa, để mặc Xapatan tiếp tục suy luận về tình trạng có thể xảy ra với Đại Thành. Hóa ra, đây là nguồn cơn sự hoang mang của ông ta. 

Đại Thành có loạn. Ngay vào lúc này. 

Nhà vua Narai của Đại Thành vốn đã có tiếng là người yêu thích Tây dương. Với một kẻ phiêu lưu người Hy Lạp là Constantine Phaulkon ở bên làm cố vấn, ông đã mở rộng vòng tay đón người Tây dương vào đất nước mình, chống lại sự xâm lấn của Mãn Thanh tràn xuống phương Nam. Những đoàn sứ giả Đại Thành liên tiếp được cử đến Phú Lang Sa, Vatican. Thương thuyền của Tây dương, Nhật Bản, Tàu, Ả-rập, Nam Dương... đầy chật các cảng Đại Thành quốc. Cùng với sự phồn vinh ấy, phức tạp và tranh chấp cũng đã bắt đầu. Vatican muốn cử người tới, hoàng đế Suleiman I của Ả-rập cũng muốn truyền bá Hồi giáo cho quốc gia này. Anh Cát Lợi muốn bành trướng thế lực như đã làm tại Ấn Độ, Phú Lang Sa muốn xây dựng lực lượng tại biển Đông. Quyền lực vượt trội của một người ngoại quốc như Phaulkon tại triều đình. Tất cả đã trở thành một thứ ngòi nổ âm ỉ chờ đến lúc bùng phát trong lòng đất nước Đại Thành. 

Người cố vấn Hy Lạp Phaulkon được cử quản lý cảng Marit, và đã gây chiến với Anh Cát Lợi. Không cần phải hỏi, hiện tại người Đại Thành đang nghĩ gì. 

Lão Cửu cho người đi tìm tung tích của hắn, có thể vì lý do này - hay còn hơn thế. Tất cả cảng biển ở Đại Thành đã đóng. Mối quan hệ mà lão Cửu dày công xây dựng với nhà vua Narit đã tan tành. 

Đại Thành hỗn loạn, sẽ kéo theo cả Chân Lạp. 

Trước đây hắn đã nghĩ rằng Đại Thành vốn có thể giúp được rất ít cho Chân Lạp - Nhưng hiện tại, là Đại Thành không thể giúp được gì cho Chân Lạp. Dù có chuyện gì xảy ra, rối loạn đã khởi nguồn khó có thể sớm kết thúc. 

Nguồn lực của phía Tây cho Nặc Thu đã bị cắt đứt. Nếu Tây dương chiếm được Đại Thành như đã làm ở Ấn Độ, hậu quả càng không biết sẽ ra sao. Quân đội của Phú Lang Sa đã chiếm cứ hai cảng quan trọng nhất là Marit và Bangkok, việc ký kết hiệp ước đặt trước nhà vua Narit chỉ là vấn đề thời gian. Đồng nghĩa với việc Đại Thành trở thành một Ấn Độ mới - thuộc về Phú Lang Sa. 

"Phong trào chống người nước ngoài đang rất dữ dội ở Đại Thành." Oc-nha Lịch-da-thi-na hạ giọng nói với hắn khi Xapatan đi rửa tay sau khi ăn. Ông ta nhìn hắn, hơi nheo mắt. "Họ cho rằng nguyên nhân sự hỗn loạn hiện tại là do vua Narit mở cửa quá rộng cho bọn thương buôn bên ngoài. Nhỏ thì lũng đoạn thị trường, lớn thì lũng đoạn triều chính, âm mưu chiếm đoạt đất nước. Cứ nhìn cái gương của Phaulkon, trong thì ngon ngọt dụ dỗ nhà vua thân cận với Phú Lang Sa, ngoài thì đi gây chiến với Anh Cát Lợi để vua đem cảng Narit cho Phú Lang Sa phòng giữ - mới xảy ra tình trạng bây giờ. Rồi bọn cố đạo, truyền giáo cũng ồ ạt theo vào. Họ đòi đuổi tất cả người nước ngoài ra khỏi Đại Thành, bây giờ.[1]" 

Hắn im lặng gật đầu. Dù Oc-nha Lịch-da-thi-na có định thổi phồng câu chuyện để dọa, hắn cho rằng tình hình hiện tại cũng không khác xa là mấy. Nhà vua cải đạo theo Thiên Chúa giáo, yêu cầu này của Phú Lang Sa quá bằng hạ nhục đất nước Đại Thành lấy Phật làm quốc giáo, nơi người người phải vào chùa để học lúc thiếu thời. Và như vòng nước lan rộng, sự cởi mở của đức vua Narit sẽ bị đặt lên bàn cân, cùng tất cả những chính sách liên quan. Không chỉ là thù địch người Phú Lang Sa hiện tại, tinh thần ái quốc cực đoan một khi đã lên cao sẽ có xu hướng gạt bỏ tất cả những gì bên ngoài. Tất cả. 

"Vì thế mà triều đình Nam Hà đòi người Minh Hương tới?" Sau một lúc, hắn hỏi. Dĩ nhiên là vì công nương Ngọc Vạn đã mất. Nhưng Lê Diệt là thư đồng của lão Cửu, nghĩ lại, Oc-nha Lịch-da-thi-na đưa cậu ta đến Phú Xuân chẳng có điểm kỳ lạ? 

"Ta cũng chẳng biết bọn họ có quan tâm đến chuyện của Đại Thành không." Oc-nha Lịch-da-thi-na lắc đầu. Nhưng lần này thì hắn cho rằng ông ta nói thật. Nam Hà cũng đang đầy vấn đề của riêng mình. Đại Thành dù sao vẫn còn cách vùng đất này khá xa, cơ bản là rất ít liên quan. 

"Vậy Đại vương?" Hắn chợt đổi hướng. Nếu không phải triều đình Nam Hà đòi người như Lê Diệt tới, thì phải là Nặc Thu cử đi. 

Oc-nha Lịch-da-thi-na mím môi im lặng một lúc rồi thở ra, vỗ vai hắn. 

"Mạc thiếu gia biết ta vốn thân thiết với Mạc lão gia, chuyện này ngươi cũng nên biết là vừa." Ông ta tự gật đầu với bản thân, dùng giọng nửa thương hại nửa cha chú dạy dỗ mà nói với hắn. "Ở Đại Thành thì là Phaulkon, nhưng ở Chân Lạp thì là 'Minh Hương' rồi vậy." 

Kẻ ngoại quốc nằm vùng đem kẻ thù vào xâm chiếm đất nước. Gần mười năm ở Đông Phố, hai nhóm người Minh Hương đã khai khẩn, mở ra hai khu buôn bán phồn thịnh ở Cù lao Phố và Rạch Năn, đồng nghĩa với việc lấn dần đất đai thế lực của người Chân Lạp. Tuy Thủy Chân Lạp còn hoang sơ khi vương quốc Khmer tập trung chủ yếu về hướng Tây, xung quanh Vũng Long, món lợi đã bày ra trước mắt đều khiến nhiều kẻ thèm muốn. Huống hồ, quả thật sự can thiệp của Nam Hà vào Chân Lạp là không thể chối cãi. 

Các quý tộc Chân Lạp, có thể kể cả Nặc Thu, cũng nhận thức rất rõ mối đe dọa này, bây giờ. 

Oc-nha Lịch-da-thi-na thân thiết với lão Cửu nên mới đem chuyện này ra nói với hắn - cũng có thể vì ông ta cho hắn là một tên vô dụng không hề có ác ý. 

"Đại vương thật ra cũng rất khó xử." Oc-nha Lịch-da-thi-na lắc đầu khi thấy hắn không lên tiếng. "Đại Thành liền sát chúng ta, chuyện của Đại Thành cũng như chuyện của chúng ta rồi. Nhưng ta biết người Minh Hương các người khó khăn chồng chất, thực ra chỉ muốn được yên ổn làm ăn. Tuy vậy, đâu phải ai cũng nghĩ như chúng ta." 

Nên Nặc Thu cử một đại diện của thương nhân Minh Hương đến Phú Xuân. Đã mất sự ủng hộ của Đại Thành, ông vua này không thể không cầu lấy chút thời gian từ triều đình Phú Xuân. Lần này, hẳn ông ta muốn dàn xếp lại chuyện của người Minh Hương, nhân biến động từ Đại Thành. 

Lê Diệt trẻ tuổi lại ôn hòa, dù cậu ta có thông minh đến mức nào, cũng khó có thể đương đầu nổi với những quan lại cáo già từ cả hai bên. 

"Lão Cửu nói sao?" Hắn hỏi. Oc-nha Lịch-da-thi-na lại tránh ánh mắt hắn. 

"Mạc lão gia bảo tùy chúng ta thu xếp." Cách nói này quả thật giống như anh trai hắn. Cử Lê Diệt đi, cậu ta cũng coi như hình nhân đứng giữa - cho sứ thần Chân Lạp và quan lại Nam Hà mặc tình tranh đấu. 

Xapatan quay về, ra hiệu cho bọn họ tiếp tục lên đường. Rừng còn nhiều cây đổ sau bão, bọn hắn phải vừa đi vừa dọn, tốc độ chậm lại nhiều. Mãi đến xế chiều, hắn mới thấy khói bốc sau những lùm cây. Hẳn là làng của người Thượng. 

"Lạ thật." Bên cạnh hắn, Xapatan lại nhíu mày. Nàng chợt có vẻ căng thẳng, phác tay cho đoàn voi dừng lại. Người quản tượng ngồi trên cổ voi liền thổi một tiếng tù và ngắn. 

"Sao thế?" Từ con voi bên kia, Oc-nha Lịch-da-thi-na hỏi với sang. Không quay đầu lại, Xapatan vẫn chăm chú nhìn những cụm khói xám bốc cao, mỏng manh tan vào chiều. 

"Có ngửi thấy mùi gì không?" Nàng kéo khăn che mặt, hỏi mà không nhìn ai. Ngoài chút vị khói khen khét cay cay thoảng lại, hắn chẳng cảm thấy có gì lạ. Nhưng người quản tượng ngẩng nhìn trời một lúc rồi gật đầu, quay sang Xapatan nói một tràng tiếng Chiêm Thành. 

"Mùi gạo cháy." Xapatan giải thích cho hắn và Oc-nha Lịch-da-thi-na. Nàng vội gọi đoàn tùy tùng đằng sau đến, có vẻ như muốn phân phối họ đi thám thính nhưng bỗng chốc lại ngần ngừ. 

"Để tôi đi trước." Hắn nói, tuột xuống khỏi con voi. Đằng trước không biết đang xảy ra chuyện gì. Đoàn người đến làng báo tin của Xapatan từ sáng sớm vẫn không thấy quay trở lại. Nàng ngần ngừ chưa muốn đưa người đến vì thế. 

"Càng ít người càng ít đánh động." Hắn nói, chỉnh lại thanh kiếm trên vai, với lấy sợi cương của một con ngựa gần đó. "Nữ chúa và ngài Oc-nha phải giữ người lại bảo hộ chứ." 

Xapatan cắn môi. Quả thật, họ đang ở giữa rừng núi, làng Thượng gần nhất lại đang có chuyện. Nàng vốn có bốc đồng thì cũng không thể để Oc-nha Lịch-da-thi-na gặp nguy hiểm. Nàng giữ vị Oc-nha lại đây đã năm, sáu ngày, kẻ thù của ông ta đã có thể bày binh bố trận xung quanh. Lúc này chúng có thể đang tìm cách tách rời đoàn người để dễ bề hạ thủ. 

"Cầm lấy." Nàng gọi với theo, ném cho hắn một ống tre nhỏ. "Có hai thanh pháo hoa, nếu có biến thì bắn thanh đỏ, an toàn thì bắn thanh xanh." 

Hắn gật đầu, nhét ống tre vào áo, thúc ngựa chạy về phía khói vẫn không ngừng bốc cao. 

Quãng đường đến làng người Thượng hóa ra lại khá xa. Vòng qua một ngọn đồi, hắn mới thấy những mái nhà gỗ nối tiếp nhau. 

Trên vài mái nhà, lửa đang bốc rừng rực. 

Giữa khoảng sân rộng đầu làng, một đống bao lớn nhỏ đang cháy gần tàn. Hẳn mùi gạo cháy đã bốc lên từ đây. 

Trong làng, không có một bóng người. 

Thậm chí không có một bóng gà vịt hay gia súc. Buộc ngựa lại trong rừng, hắn thận trọng lần tới gần làng. Trên đất có những vệt xới kéo dài như luống cày. Tại mảnh đất cạnh bìa rừng, gần nơi hắn đang đứng, cỏ rạp xuống như có dấu giày đạp lên. 

Người Thượng không đi giày, có phải. Hắn cúi mình quan sát mặt đất. Không thể nhận ra dấu giày trên cỏ, khi đất đã có vẻ bị xới lên che giấu hầu hết các dấu vết. 

Hắn nhìn lại ngôi làng một lần nữa, tự hỏi có nên bước tới? Kẻ đã tấn công làng - nếu có - có thể còn để lại những cái bẫy trong làng. Chỉ vài ngôi nhà bị đốt - với cấu trúc riêng biệt của những ngôi nhà người Thượng, những đám cháy này không thể bốc lan ra. Như thể là lửa đốt làm hiệu cho người ở xa. 

Và những thuộc hạ mà Xapatan cử đi lúc sáng không thể tự dưng biến mất. 

Vẫn lẩn mình trong bóng râm của rừng, hắn đi vòng quanh làng, cẩn thận với từng bước chân. Lạ, không có dấu vết giao đấu, kể cả nhà canh đầu làng vẫn yên ổn, hàng rào quanh làng không đổ đến một cây cột chống. Kẻ tấn công hẳn phải tập trung quanh làng - căn cứ vào dấu vết trên cỏ - nhưng chẳng lẽ người làng đã mời chúng vào? 

Không phải không có lý. Hắn nhìn mẩu áo sặc sỡ vẫn còn phất phơ sau một ngôi nhà mà thầm nghĩ. Vào làng, và bằng cách nào đó, hoặc phục thuốc hoặc tập trung người làng ra ngoài, rồi ra tay hạ thủ. 

Nhưng những đám lửa này để ra hiệu cho ai? Tại sao phải đốt cả đống gạo trong sân? Cả một con gà con chó cũng bắt đi, lại đem gạo ra đốt? Người trong xứ này có vẻ khứu giác rất tốt - phải chăng đây là cái bẫy sắp đặt sẵn? Cho Xapatan? 

Không, nếu vậy thì cứ để yên cho nàng tới trong làng, rồi mai phục để triệt hạ là cách dễ dàng hơn. 

Hắn vòng tới mặt sau làng, ngẩng đầu nhìn lên. Gió đang thổi về hướng Tây Nam. Không phải là phía mà bọn hắn đi tới. Khói đang cuốn vào rừng sâu, nơi núi tiếp núi cao vút. 

Những dấu giày đến đây đã kết thúc. Bùn lầy trong rừng rậm sau cơn bão đã xóa hầu hết dấu vết. Trên con đường mòn từ làng vào trong núi, đất lầy lên đá, cũng có vẻ như đã được dọn dẹp sạch sẽ. 

Nghĩ một lúc, hắn đi vào rừng, theo hướng Tây Nam. 

Đường dốc lên một vách núi cao. Càng vào sâu, rừng càng rậm, cây cối tươi tốt xanh rì, thân to bằng cả vài người ôm. Vách núi thoai thoải, có thể đi thoải mái gần như đất bằng. Trong chiều, côn trùng ếch nhái nơi nơi kêu rền rĩ. Lọt dưới những tán cây dày và tiếng côn trùng như xói vào tai, có lúc hắn cảm giác như thể mình lọt xuống hố sâu. 

Chỉ bằng thính giác hơn người, hắn mới nghe được tiếng kim loại va chạm trong muôn vàn thanh âm ồn ĩ của rừng già. 

'Người ở hướng Tây Nam' có lẽ đã lộ mặt, hắn nghĩ thầm khi nhẹ nhàng lách rừng đi về phía tiếng động. Có một dòng suối lớn chắn ngang đường hắn. Men theo bờ suối, hắn dừng lại sau vách đá lớn, vạch cỏ lau nhìn ra. Đầu dòng suối, quả nhiên đang có một đám người đánh nhau. 

Một kẻ trong số đó làm hắn nhẹ giật mình. Quảng Phú. Thân hình to lớn kềnh càng của gã nổi bật trong nhóm cướp bịt khăn xám, quần áo tả tơi y hệt như đêm nào hắn đã thấy. Có chừng mười kẻ như vậy. Giao đấu với một người đàn ông cao gầy. 

Hắn cau mày, vạch rộng đám cỏ ra để nhìn kỹ hơn. Người đàn ông đang giao đấu với nhóm người Quảng Phú có điểm gì kỳ lạ mà hắn chưa cắt nghĩa được. Mặc áo của người Thượng nhưng lại có thêm quần giống như người miền xuôi buộc túm lại trên mắt cá, cùng với đôi giày cỏ như tự bện lấy. Tóc râu rậm rạp gần như che phủ hết cả mặt. Dùng đoản đao kiểu của người Chân Lạp, Đại Thành - nhưng võ công lại là của Trung Nguyên. 

Đúng là võ công Trung Nguyên, hắn nhìn kỹ, xác định được đây là võ công miền Bắc. Người Hán ở Nam Hà chủ yếu đến từ phương Nam, võ công cũng chủ yếu từ miền Nam truyền lại. Người biết dùng võ công phương Bắc, e rằng không có bao nhiêu. 

Mà lại là một cao thủ. Đối đầu với Quảng Phú đã từng làm hắn khốn đốn cùng mười mấy tên đàn em của gã, ông ta vẫn có vẻ ung dung. Đường đao tinh thuần, không gấp gáp mà kín kẽ, loang loáng như hoa quang bao bọc quanh người. Ông ta không có ý đánh gấp, thậm chí không có sát khí, chỉ như muốn đánh dạt đám người ra chứ không có ý tấn công. Mặc dù vậy, Quảng Phú vẫn chỉ có thể đánh quanh ông ta chứ không thể lại gần. Đất bên bờ suối đã bị cày lên một khoảng rộng, cho thấy cuộc chiến đã lâu. Trong đám cướp, nhiều tên mồ hôi đã ròng ròng, trong mắt tỏ ý hoang mang. 

Hắn đưa mắt tìm xung quanh. Quét sạch cả một làng như vậy, hẳn Quảng Phú không thể đi cùng chỉ với mười mấy tên đàn em. Dụ người đàn ông này ra, hẳn gã phải biết trước đôi điều về sự lợi hại của ông ta, không thể khinh suất mà chỉ đem chừng này người đến bao vây. 

Ý nghĩ vừa tới đấy, bên tai hắn đã nghe tiếng ù ù như gió thổi, cùng thanh âm lanh canh như chuông khánh. Một bóng lam chạy vọt qua rừng đầu ngọn suối, cách nơi người đàn ông kia đang giao chiến chừng hai mươi thước. Có bóng tên hay phi đao bay theo y. Bóng lam dừng lại một bước chân, bất chợt đổi hướng nhảy qua suối, nhằm ngay hướng hắn đang ẩn núp mà phóng tới. 

"Phiền quá đi!" Chân vừa đặt lên hòn đá cao trước mặt hắn, người áo lam đã lên tiếng. Giọng nữ tử thanh thanh đầy cáu kỉnh. Hắn giật mình ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy hình dáng mảnh dẻ với mái tóc thả xuống lưng tết thành hai đuôi dài. Trên tay nàng ta là hai thanh đoản đao Chân Lạp giống hệt như người đàn ông kia, chỉ có cuối chuôi đao là sợi dây dài quấn vào cổ tay. 

"Mấy chục tên các người bao vây ta không thấy xấu hổ sao?" Cô gái chống tay nói vọng về phía đầu ngọn suối. Có vài bóng người đã vạch lá chạy theo nàng. Tất cả chưa tới mười người. 

"Con chuột kia, ngươi lẩn trong rừng đã rồi chứ hả?" Một tên trong đám truy đuổi nữ tử lên tiếng, giọng gấp như hụt hơi. 

"Con chuột?" Cô gái gầm nhẹ. Nàng phất tay về trước. Thanh đao trên tay nàng bắn vọt ra, lượn một vòng cung sáng lóa bay về phía đám người truy đuổi. Như đã phòng bị trước, chúng lùi lại, vung gậy đánh mạnh vào đường đao đang tới. Đoản đao bắn ngược trở lại. Cô gái vội vàng giật dây thu nó về. 

"Ngươi lẩn trong rừng giả ma giả quỷ còn khiến anh em ta rơi rụng, đã bị xua ra đây thì còn lâu." Vẫn tên đứng đầu toán người đắc thắng nói. Lời chưa kịp dứt, gã đã phất tay. Từ những chiếc nỏ, tên bắn như mưa về phía cô gái áo lam. 

"Ối chà!" Cô gái kêu lên khi thân hình rơi ngược lại phía sau. Nàng ngã xuống sau tảng đá cùng lúc với tên bay rào rào trên đầu. 

"Ngươi..." Cô gái ho khẽ, quắc mắt nhìn lên kẻ đã túm cổ áo nàng lôi xuống, đao trên tay nàng chẳng phí một khắc bổ vào hắn. Hắn vội buông nàng nhảy ngược ra sau. 

Nhưng thanh đao cũng đã dừng lại giữa khoảng không. Cô gái chớp mắt, rồi trân trối nhìn hắn. 

"Huynh..." Nàng chỉ tay vào hắn, lắp bắp. Hắn cười khổ trước bộ dạng như gặp ma của nàng. 

"Ta đây, Tuyết Nhi." Hắn là kẻ kinh ngạc mới phải. Con bé phiền nhiễu này sao lại chạy đến đây? 

Chú thích:  

[1] Biến động tại Xiêm này thường được biết tới như Siamese revolution of 1688. Là một trong những xung đột tiêu biểu cho nỗ lực tìm kiếm sự liên kết với người Tây của các quốc gia châu Á với âm mưu thu tóm thuộc địa của các quốc gia Tây phương. Xiêm La dưới thời vua Narai được coi như cường thịnh nhất trong lịch sử, nhưng đồng thời đã đưa tới kết quả người Tây dương lũng đoạn thị trường, xã hội, chính trị rồi đưa quân đội đến uy hiếp nền độc lập của Xiêm La, dựa vào một xung đột với người bản xứ. Một phương thức rất quen thuộc khởi đầu cho hầu hết các cuộc chiến chiếm thuộc địa. 

Cùng với cuộc tấn công Miến Điện của Bồ Đào Nha, xung đột của Hà Lan rồi Anh quốc với Nam Hà... vì thế các quốc gia phương Đông đã chọn phương thức mở cửa hạn chế với người Tây dương về kinh tế, tôn giáo...  

Sau thời gian này, Pháp đã không thể quay lại phương Đông khi vướng vào cuộc chiến với liên minh Anh - Hà Lan - Tây Ba Nha.  

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro