Những kinh văn và bài tụng mới

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Những kinh văn và bài tụng mới



Kinh Sự Thật Ðích Thực


Kẻ nào còn ôm ấp tư kiến, xem nhận thức của mình là cao nhất thế gian, cho rằng 'kiến giải này là tối thượng' và công kích mọi nhận thức khác, kẻ ấy còn được xem là chưa thoát khỏi vòng tranh chấp.


Khi thấy, nghe hoặc cảm nhận được một điều gì rồi nghĩ rằng điều đó là cái duy nhất có thể đem lại lợi lạc và tiện nghi cho cá nhân và đoàn thể mình, người ta dễ có khuynh hướng bám víu vào điều ấy rồi cho rằng tất cả mọi kẻ khác so với mình đều là thua kém.


Bị lệ thuộc vào chủ thuyết mình đang theo và xem thường tất cả những kiến giải khác, điều này được kẻ trí nhận thức là một sự ràng buộc, là một sự đánh mất tự do. Kẻ hành giả đứng đắn không nên vội tin vào những gì mình nghe, thấy và cảm nhận, kể cả những cấm giới và lễ nghi.


Vị hành giả chân chính không có nhu yếu tạo ra một chủ thuyết mới cho thế gian, hoặc bằng kiến thức đã thu nhặt được, hoặc bằng những cấm giới và lễ lược đã được học hỏi, không tự cho mình là 'hơn người', 'thua người' hay 'bằng người'.


Bậc thức giả là kẻ đã buông bỏ ý niệm về 'ta' và không còn giữ thái độ nắm bắt. Vị ấy không bị lệ thuộc vào bất cứ một cái gì, kể cả kiến thức, không đứng về phía nào khi có một cuộc tranh chấp và không còn duy trì một tư kiến hoặc một giáo điều nào nữa cả.


Vị ấy hoàn toàn không còn tìm cầu và nắm bắt, hoặc cái này hay cái kia, hoặc trong đời này hay trong đời khác. Vị ấy đã chấm dứt mọi tư kiến và không còn đi tìm sự nương náu hoặc an ủi và vỗ về trong bất cứ một chủ thuyết nào.


Bậc thức giả chân chính là người không còn tư kiến đối với những gì mình thấy, nghe và cảm nhận. Làm sao còn có thể phê phán hoặc nắm bắt được bằng khái niệm một bậc hành giả thanh tịnh đã từ bỏ mọi tư kiến?


Bậc ấy quả không còn nhu yếu thiết lập một giáo điều hoặc chọn lựa một ý thức hệ. Mọi giáo điều và ý thức hệ đều đã bị bậc ấy buông bỏ. Kẻ cao sĩ không hề bị cấm giới và lễ nghi ràng buộc. Kẻ ấy đang đi từng bước vững chãi đến bờ giải thoát và không bao giờ còn trở lại chốn trầm luân.






Kinh Nghĩa Lý Siêu Việt về Không



Ðây là những điều tôi được nghe một thời hồi Bụt còn cư trú với những người thuộc bộ tộc Kuru trong làng Kalmasadamya. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các vị khất sĩ: "Bây giờ tôi muốn nói cho các thầy nghe về một giáo pháp mà nghĩa lý cũng như khí vị được xem như là tốt đẹp từ chặng đầu, qua chặng giữa, tới chặng cuối; một giáo pháp thuần nhất và thanh tịnh có thể giúp các thầy thực tập được cuộc sống phạm hạnh thanh tịnh của người tu. Các thầy hãy lắng tai nghe và chiêm nghiệm cho khéo léo, tôi sẽ nói.


"Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả. Như vậy con mắt phát sanh không phải như một thực thể chắc thật, và khi đã phát sanh thì phải hoại diệt sau đó. Có nghiệp, có báo mà không có tác giả. Uẩn này diệt thì nhường chỗ cho uẩn khác tiếp tục, nhìn kỹ thì các pháp chỉ là những cái giả danh mà thôi. Ðối với tai, mũi, lưỡi, thân và ý, sự thật cũng như thế. Chúng không phải là những thực tại chắc thật mà chỉ là những giả danh.


"Thế nào là giả danh. Giả danh nghĩa là vì cái này có nên cái kia có, vì cái này sanh nên cái kia sanh. Như vô minh mà có hành, do hành mà có thức, v.v..., cho đến khi cả khối khổ đau phát hiện. Giả danh cũng có nghĩa là vì cái này không nên cái kia không, vì cái này diệt nên cái kia diệt. Như do vô minh diệt mà hành diệt, do hành diệt mà thức diệt, v.v..., cho đến khi cả khối khổ đau hoại diệt.


"Này các thầy, đó gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không."


Bụt nói kinh này xong, các thầy nghe Bụt lòng rất hoan hỷ, đem áp dụng liền lời dạy của Ngài vào sự thực tập.


(Tạp A Hàm, Kinh số 335)






Kinh Bốn Loại Thức Ăn



Ðây là những điều tôi đã được nghe vào một thời mà Bụt còn đang ở tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc gần thành Xá Vệ. Hôm ấy, Bụt bảo các thầy khất sĩ: "Có bốn loại thức ăn giúp các loài sinh vật lớn lên và sống còn. Bốn loại thức ăn ấy là gì? Thứ nhất là đoàn thực, thứ hai là xúc thực, thứ ba là ý tư thực và thứ tư là thức thực.


"Này các vị khất sĩ! Vị khất sĩ phải quán chiếu về đoàn thực như thế nào? Ví dụ có một cặp vợ chồng kia có một đứa con trai nhỏ, thường chăm sóc nuôi dưỡng nó với rất nhiều thương yêu, một hôm muốn đem con (đến xứ khác sanh sống) đi qua một vùng sa mạc đầy nguy hiểm và tai nạn. Giữa đường hết lương thực, sa vào tình trạng đói khát cùng cực, không có cách nào giải quyết, họ mới bàn với nhau: "Chúng ta chỉ có một đứa con mà chúng ta thương yêu hết mực. Nếu ăn thịt nó thì ta sẽ sống sót và vượt qua khỏi cơn hiểm nạn này, còn nếu không thì cả ba người sẽ cùng chết". Bàn tánh như vậy xong, họ giết đứa con, xót thương rơi lệ và gắng gượng ăn thịt con để sống còn mà vượt qua miền sa mạc.


"Này các thầy, các thầy có nghĩ rằng cặp vợ chồng kia ăn thịt con vì muốn thưởng thức hương vị của thịt ấy hoặc vì muốn cho thân thể họ có nhiều chất bổ dưỡng mà trở thành xinh đẹp thêm?


"Các thầy khất sĩ đáp: "Bạch đức Thế Tôn, không". Bụt lại hỏi: "Có phải cặp vợ chồng ấy bị bắt buộc ăn thịt con để có thể sống sót mà vượt qua khỏi chặng đường hiểm nguy và hoang vắng?" Các thầy khất sĩ đáp: "Bạch đức Thế Tôn, đúng như vậy."


Bụt dạy: "Này các thầy, mỗi khi tiếp nhận đoàn thực, ta phải tập quán chiếu như thế. Quán chiếu như thế thì sẽ đạt tới được cái thấy và cái hiểu rạch ròi (đoạn tri) về đoàn thực. Có được cái thấy và cái hiểu rạch ròi như thế về đoàn thực rồi thì tâm vướng mắc vào ái dục sẽ được tiêu tán. Tâm vướng mắc đã được tiêu tán thì không còn một kiết sử nào về năm đối tượng ái dục mà không tiêu tán trong con người của vị thánh đệ tử có tu có học. Còn kết sử trói buộc thì mới còn phải trở lại trong cõi đời này.


"Này các thầy khất sĩ! Vị khất sĩ phải quán chiếu về xúc thực như thế nào? Ví dụ có một con bò bị lột da và đi đâu con bò ấy cũng bị các loài côn trùng sống trong đất cát, bụi bặm và cây cỏ bám vào và rúc rỉa. Nằm trên đất thì nó bị các loài côn trùng ở đất bám vào mà ăn, đi xuống dưới nước thì nó bị các loài côn trùng ở dưới nước bám vào mà ăn, đứng ở trong không nó cũng bị các loài côn trùng trong hư không bám vào mà ăn, nằm xuống hay đứng lên nó cũng cảm thấy bức xúc, đau đớn nơi thân thể. Này các thầy, khi tiếp nhận xúc thực, ta cũng phải thực tập quán chiếu như thế. Quán chiếu như thế thì sẽ đạt tới cái thấy và cái hiểu rạch ròi như thế về xúc thực. Có được cái thấy và cái hiểu rạch ròi như thế về xúc thực rồi thì ta hết còn bị vướng mắc vào ba loại cảm thọ. Không còn bị vướng mắc vào ba loại cảm thọ thì các vị thánh đệ tử có học có tu đâu còn phải dụng công gì nữa, bởi vì tất cả những gì cần làm đã được làm xong.


"Này các thầy khất sĩ! Vị khất sĩ phải quán chiếu về ý tư thực như thế nào? Ví dụ có một đô thị hay một thôn làng gần bên bốc cháy, cháy cho đến khi không còn thấy khói lửa. Lúc bấy giờ có một trang sĩ phu thông minh, có trí tuệ, không muốn đi về phía khổ đau chỉ muốn đi về phía an lạc, không muốn đi về nẻo chết, chỉ muốn hướng về nẻo sống. Người ấy nghĩ rằng: nơi chốn kia có cháy lớn, tuy không còn khói, không còn ngọn lửa nhưng nếu ta không tránh mà lại đi vào trong chốn ấy thì chắc chắn sẽ chết, không còn nghi ngờ gì nữa. Suy tư như thế, người kia quyết định bỏ đô thị hoặc thôn làng ấy mà đi. Về ý tư thực, vị khất sĩ cũng phải quán chiếu như thế. Quán chiếu như thế thì sẽ đạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi như thế về ý tư thực. Ðạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi như thế về ý tư thực rồi thì ba loại tham ái sẽ được đoạn trừ. Ba loại tham ái đoạn trừ rồi thì vị thánh đệ tử có tu có học kia đâu còn phải lao tác gì nữa, vì cái gì cần làm đã được làm xong.


"Này các thầy khất sĩ! Vị khất sĩ quán chiếu về thức thực như thế nào? Ví dụ quân lính canh tuần của vị quốc vương kia vừa bắt được một tên đạo tặc, trói người ấy lại và điệu tới nơi vua. Vì tội trộm cướp, kẻ đạo tặc bị phạt bằng cách để cho người ta đâm qua thân hình mình ba trăm mũi giáo, đau đớn khổ sở suốt cả đêm ngày. Về thức thực vị khất sĩ cũng phải quán chiếu như thế. Quán chiếu như thế thì sẽ đạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi về thức thực. Ðạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi về thức thực rồi thì cũng sẽ đạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi về danh sắc. Ðạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi về danh sắc rồi thì vị thánh đệ tử có tu có học kia đâu còn phải dụng công gì nữa, vì cái gì cần làm đã được làm xong."


Bụt nói kinh này xong, các vị khất sĩ đều hoan hỷ phụng hành.






Ái Ngữ Lắng Nghe



Con đã trở về


Quỳ dưới đài sen quý


Nhìn lên con quan chiêm và ngưỡng mộ


Nét tâm linh rạng rỡ


Tỏa chiếu trên vầng trán Thế Tôn


Thế Tôn là ánh sáng bình minh


Là không gian bao la bát ngát


Là hành tinh vững chãi


Chuyên chở chúng con


Trong cuộc hành trình


Từ thế giới u minh


Trở về cõi viên dung vô ngại. (C)


Từ vô lượng kiếp xa xưa


Chúng con đã gây lầm lỗi


Ðã tạo nhiều khổ đau


Mỗi chúng con đều ôm đầy nội kết


Có khi không nhìn được mặt nhau


Không còn khả năng lắng nghe


Không còn nói được với nhau những lời hòa ái


Sự truyền thông giữa chúng con


Ðã trở nên khó khăn vì bao chướng ngại


Khổ đau không có đường giải tỏa


Hiểu và thương càng ngày càng vắng mặt


Tình trạng nặng nề bế tắc


Làm tắt lịm mọi niềm vui


Nay con xin đem đầu lạy xuống


Với tâm dạ chí thành


Nguyện vâng lời chỉ dạy đức Thế Tôn


Bắt đầu thực tập pháp lắng nghe


Và nói lời ái ngữ


Theo pháp môn lợi hành và đồng sự


Ðể mau chóng tái lập được truyền thông. (C)


Xin chuyên cần thực tập


Hộ trì thân tâm


Bằng hơi thở chánh niệm


Bằng bước chân ý thức


Ðể có khả năng nhận diện


Ðể có khả năng ôm ấp


Những giận hờn và bực bội trong tâm


Ðể có thể ngồi lắng nghe


Với tất cả tâm từ bi


Và để người kia có dịp nói ra


Những khổ đau uất ức


Xin tập ngồi lắng nghe


Với niềm cảm thương thao thức


Ðể giúp cho người kia bớt khổ


Con xin hứa với Bụt


Là dù người kia có nói


Những điều không phù hợp với sự thực


Dù lời nói người kia


Có hàm ý buộc tội và trách móc


Con cũng sẽ chăm chú ngồi nghe.


Con sẽ biết đợi chờ


Cho đến khi thuận lợi


Mới tìm ra phương cách


Ðể nói cho người kia nghe


Những gì đã thật sự xảy ra


Ðể người kia có dịp


Ðiều chỉnh nhận thức mình.


Con nguyện sẽ thực tập


Dùng ngôn từ hòa ái


Ðể giúp người đối diện


Có thể nghe và hiểu


Những gì con muốn nói


Mỗi khi trong lòng bực bội


Con sẽ chỉ tập thở


Tập đi thiền hành


Và nhất thiết tránh việc luận tranh


Con nguyện con chỉ nói


Mỗi khi con làm chủ được tâm mình. (C)


Con xin đức Thế Tôn


Ðức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Ðại Trí


Ðức Bồ Tát Phổ Hiền Ðại Hạnh


Và đức Bồ Tát Quán m Ðại Bi


Gia hộ và soi sáng cho con


Ðể con mau chóng thành công


Trên con đường thực tập.






Kệ Thỉnh Chuông Đại Hồng



Ba nghiệp lắng thanh tịnh


Gửi lòng theo tiếng chuông


Nguyện người nghe tỉnh thức


Vượt thoát nẻo đau buồn.


Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe


Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm.


Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới


Khắp nơi u tối mọi loài nghe


Siêu nhiên vượt thoát vòng sanh tử


Giác ngộ tâm tư một hướng về.


Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới


Xa xôi tăm tối cũng đều nghe


Những ai lạc bước mau dừng lại


Tỉnh giấc hôn mê thấy nẻo về.


Nghe chuông phiền não tan mây khói


Ý lặng, thân an, miệng mỉm cười


Hơi thở nương chuông về chánh niệm


Vườn tâm hoa tuệ nở xinh tươi.


Nghe tiếng chuông


Lòng nhẹ buông


Tâm tĩnh lặng


Hết sầu thương


Tập buông thả


Thôi vấn vương


Lắng nghe thấu


Tận nguồn cơn


Học nhìn lại


Hiểu và thương.


Chuông đại hồng mới vọng


Tiếng kệ xướng đã vang


Trên vọng tới thiên đường


Dưới thông về địa phủ.


1. Nam Mô Bụt Tỳ Lô Giá Na, Pháp Thân Thanh Tịnh.


2. Nam Mô Bụt Lô Xá Na, Báo Thân Viên Mãn


3. Nam Mô Bụt Thích Ca Mâu Ni, Hóa Thân ngàn muôn ức.


4. Nam Mô Bụt A Di Ðà cõi nước Tịnh Ðộ.


5. Nam Mô Bụt Di Lặc hạ sanh trong tương lai.


6. Nam Mô Bụt Dược Sư Lưu Ly.


7. Nam Mô Bụt Bất Ðộng cõi nước Diệu Hỷ.


8. Nam Mô Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi.


9. Nam Mô Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền.


10. Nam Mô Bồ Tát Đại Bi Quan Thế m.


11. Nam Mô Bồ Tát Đại Nguyện Ðịa Tạng Vương.


Nguyện ngày an lành đêm an lành


Ngày đêm sáu thời đều an lành


An lành trong mỗi giây mỗi phút


Cầu ơn Tam Bảo luôn che chở.


Bốn loài sinh lên đất Tịnh


Ba cõi thác hóa tòa Sen


Hằng sa ngạ quỷ chứng Tam Hiền


Vạn loại hữu tình lên Thập Ðịa.


Tám nạn ba đường đều thoát khỏi


Bốn ân ba cõi thấm hồng ân


Thế giới khắp nơi không chiến tranh


Gió hòa mưa thuận dân an lạc.


Ðại chúng chuyên tu càng tinh tiến


Mười địa đi lên không khó khăn


Tăng thân an lạc sống tươi vui


Mọi giới quy y thêm phước tuệ.


Nguyện chúc đạo Bụt sáng thêm


Pháp môn càng ngày càng tỏ rạng


Gió hòa mưa thuận


Ðất nước bình an.


Khắp nơi thành thị nông thôn


Mọi giới biết noi theo đường tu tập.


Thiên nhiên được bảo vệ an lành


Xã hội được tự do bình đẳng.


Xin thổi ngọn gió từ bi thanh lương vào thế gian nóng bức


Ðem mặt trời trí tuệ rạng rỡ về ngự giữa không gian âm u.


Khắp nơi đạo giải thoát được tuyên dương


Mưa pháp thấm nhuần chúng sanh đều lợi lạc.


Hiện tiền đại chúng tu tập tinh chuyên


Biết thương yêu nhau như ruột thịt


Chuyển hóa nội tâm trang nghiêm Tịnh Ðộ.


Nguyện noi gương Phổ Hiền và Quán Tự Tại


Cùng các bậc Bồ Tát Ma Ha Tát


Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.


12. Lạy đức Bồ Tát Quán Thế m, chúng con xin học theo hạnh Ngài, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ.


13. Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu. Chúng con xin tập ngồi nghe với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập ngồi nghe với tâm không thành kiến.


14. Chúng con xin tập ngồi nghe mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con nguyện tập ngồi nghe để hiểu.


15. Chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể hiểu được những điều đang nghe và cả những điều không nói.


16. Chúng con biết chỉ cần lắng nghe thôi, chúng con cũng đã làm vơi bớt rất nhiều khổ đau của kẻ khác rồi.


17. Nam Mô đức Bồ Tát Lắng Nghe Quán Thế m.


18. Nam Mô đức Bồ Tát Lắng Nghe Quán Thế m.


19. Nam Mô đức Bồ Tát Lắng Nghe Quán Thế m.


20. Lạy đức Bồ Tát Ðịa Tạng, chúng con xin học theo hạnh Ngài, tìm cách có mặt ở bất cứ nơi nào mà bóng tối, khổ đau, tuyệt vọng và áp bức còn đang trấn ngự, để có thể mang đến những nơi ấy ánh sáng, niềm tin, hy vọng và giải thoát.


21. Chúng con nguyện không bao giờ quên lãng và bỏ rơi những người còn đang bị kẹt trong những tình huống tuyệt vọng.


22. Xin nguyện cố gắng thiết lập liên lạc với những ai đang không còn lối thoát, những ai bị bưng bít không có phương tiện lên tiếng kêu gọi công bình, nhân phẩm và quyền được làm người.


23. Chúng con biết địa ngục có mặt khắp nơi trên thế giới và chúng con nguyện sẽ không bao giờ tiếp sức xây dựng thêm những địa ngục trần gian như thế.


24. Chúng con xin nguyện nỗ lực giải trừ những địa ngục còn đang có mặt.


25. Chúng con nguyện tu học để đạt được đức vững chãi và kiên trì của Ðất, để có thể trở thành trung kiên và không kỳ thị như Ðất.


26. Và cũng được như Ðất có thể làm nơi nương tựa cho tất cả những ai cần đến chúng con.


27. Nam Mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Ðịa Tạng Vương.


28. Nam Mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Ðịa Tạng Vương.


29. Nam Mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Ðịa Tạng Vương.


Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.


Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.


Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức.


Ðã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.


Ðã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.


Ðã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập.


Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Ðề.


Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.


Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài.


Nghe chuông phiền não tan mây khói


Ý lặng, thân an, miệng mỉm cười


Hơi thở nương chuông về chánh niệm


Vườn tâm hoa tuệ nở xinh tươi.


Nghe tiếng chuông


Lòng nhẹ buông


Tâm tĩnh lặng


Hết sầu thương


Tập buông thả


Thôi vấn vương


Lắng nghe thấu


Tận nguồn cơn


Học nhìn lại


Hiểu và thương.


Thỉnh chuông pháp thâm diệu


Tạo công đức vô biên


Ðệ tử xin hồi hướng


Cho chúng sanh mọi miền.


Pháp môn xin nguyện học


n nghĩa xin nguyện đền


Phiền não xin nguyện đoạn


Quả Bụt xin chứng nên.






Văn thỉnh linh



Hào quang chiếu rạng nơi tăm tối


Bụt đã phân thân xuống đạo tràng


Xin độ hương linh về cõi Tịnh


Ngồi sen chín phẩm đến Tây Phương...


Nam mô Bồ Tát Tiến Vãng Sanh.


Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh


Nhất tâm triệu thỉnh:


Chúng sanh độ hết mới chứng bồ đề


Ðịa ngục chưa không nguyền chưa dừng nghỉ


Nam mô đức Bồ Tát Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương giáo chủ cõi U Minh


Xin đừng quên lời thề nguyện năm xưa


Có mặt nơi này hướng dẫn hương linh cùng các loại cô hồn


về đây nơi chốn đàn trai tham gia pháp hội...


Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh


Nhất tâm triệu thỉnh:


Ðại sĩ Quan m thật tuyệt vời


Cánh tay cứu độ hiện ngàn nơi


Không đâu cầu thỉnh mà không ứng


Biển khổ thuyền giong cứu độ người


Nam mô đức Bồ Tát Ðại Bi Quán Thế m


bậc đại từ cứu khổ cứu nạn thường xuyên hạnh lắng nghe


Xin đừng quên lời thề nguyện năm xưa


Có mặt nơi này hướng dẫn hương linh cùng các loại cô hồn


về đây nơi chốn đàn trai tham gia pháp hội...


Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh


Nhất tâm triệu thỉnh:


Biển khổ mênh mông nghiệp đã mang


Hôn mê chưa tỉnh giấc kê vàng


Hãy mau trì niệm hồng danh Bụt


Rời bỏ bờ mê, bến giác sang.


Một nén danh hương


Một phen triệu thỉnh...


Phục vị: các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ quá cố


trong bảy đời qua


cùng với thân nhân quyến thuộc


và tất cả cô hồn nam nữ khắp nơi


nguyện nhờ ơn đức Bụt, Pháp và Tăng


nương tựa chơn Ngôn


giờ phút này đây


trở về phó hội


tham dự đàn chay


nghe kinh chuyển hóa


hưởng nguồn Cam lộ.


Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh


Nhất tâm triệu thỉnh:


Ác vàng vừa lặn


Thỏ ngọc đã lên


Dù cốt nhục cũng phân ly


Mặt mũi xưa đâu còn thấy?


Hai nén danh hương


Hai phen triệu thỉnh...


Phục vị: các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ quá cố


trong bảy đời qua


cùng với thân nhân quyến thuộc


và tất cả cô hồn nam nữ khắp nơi


nguyện nhờ ơn đức Bụt, Pháp và Tăng


nương tựa chơn Ngôn


giờ phút này đây


trở về phó hội


tham dự đàn chay


nghe kinh chuyển hóa


hưởng nguồn Cam lộ.


Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh


Nhất tâm triệu thỉnh:


Hình hài chỉ như mộng


Kiếp sống mãi vô thường


Nương sức Từ Tam Bảo


Mở được lối thanh lương.


Ba nén danh hương


Ba phen triệu thỉnh...


Phục vị: các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ quá cố


trong bảy đời qua


cùng với thân nhân quyến thuộc


và tất cả cô hồn nam nữ khắp nơi


nguyện nhờ ơn đức Bụt, Pháp và Tăng


nương tựa chơn Ngôn


giờ phút này đây


trở về phó hội


tham dự đàn chay


nghe kinh chuyển hóa


hưởng nguồn Cam lộ.


Tuyên đọc chơn Ngôn xin triệu thỉnh


Hương linh đã tỉnh và đã nghe


Sức thiêng Tam Bảo nguyện gia trì


Tất cả giờ đây về pháp hội


Hương linh nghe triệu, nghe triệu thỉnh đến ngay đây.


Triệu thỉnh, hương linh đã đến đây


Tiếp nhận hương hoa phẩm cúng dường


Hãy xin ngồi lại lắng nghe kinh


Lắng nghe kinh, Bồ Tát Ma Ha Tát.


Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (3 lần)


Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm


Cơ duyên may được thụ trì


Xin nguyện đi vào biển tuệ


tinh thông giáo nghĩa huyền vi.


Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Ða


Bồ Tát Quán Tự Tại


Khi quán chiếu thâm sâu


Bát Nhã Ba La Mật


Tức diệu pháp Trí Ðộ


Bỗng soi thấy năm uẩn


Ðều không có tự tánh.


Thực chứng điều ấy xong


Ngài vượt thoát tất cả


Mọi khổ đau ách nạn.


"Nghe đây, Xá Lợi Tử :


Sắc chẳng khác gì không


Không chẳng khác gì sắc


Sắc chính thực là không


Không chính thực là sắc


Còn lại bốn uẩn kia


Cũng đều như vậy cả.


Xá Lợi Tử, nghe đây:


Thể mọi pháp đều không


Không sanh cũng không diệt


Không nhơ cũng không sạch


Không thêm cũng không bớt.


Cho nên trong tánh không


Không có sắc, thọ, tưởng


Cũng không có hành, thức


Không có nhãn, nhĩ, tỷ


Thiệt, thân, ý - sáu căn


Không có sắc, thanh, hương


Vị, xúc, pháp - sáu trần


Không có mười tám giới


Từ nhãn đến ý thức


Không hề có vô minh


Không có hết vô minh


Cho đến không lão tử


Cũng không hết lão tử


Không khổ, tập, diệt, đạo


Không trí cũng không đắc.


Vì không có sở đắc


Nên khi vị Bồ Tát


Nương diệu pháp Trí Ðộ


Bát Nhã Ba La Mật


Thì tâm không chướng ngại


Vì tâm không chướng ngại


Nên không có sợ hãi


Xa lìa mọi mộng tưởng


Xa lìa mọi điên đảo


Ðạt Niết Bàn tuyệt đối.


Chư Bụt trong ba đời


Y diệu pháp Trí Ðộ


Bát Nhã Ba La Mật


Nên đắc vô thượng giác.


Vậy nên phải biết rằng


Bát Nhã Ba La Mật


Là linh chú đại thần


Là linh chú đại minh


Là linh chú vô thượng


Là linh chú tuyệt đỉnh


Là chân lý bất vọng


Có năng lực tiêu trừ


Tất cả mọi khổ nạn


Cho nên tôi muốn thuyết


Câu thần chú trí độ


Bát Nhã Ba La Mật".


Nói xong đức Bồ Tát


Liền đọc thần chú rằng:


Gate


Gate


Paragate


Parasamgate


Bodhi


Svaha. (3 lần)


Tổ chức đàn trai


Thầy A Nan khởi xướng


Ðại sĩ Quan m


Tiêu Diện mang hình tướng


Niệm Bụt nhất tâm


Ðọc chơn Ngôn cứu khổ


Vạn loại cô hồn


Ðều được cùng siêu độ.


Chẩn tế đàn khai


Mọi loài xin mời tới


Uổng tử vong thân


Hồn về đây đủ loại


Tám nạn ba đường


Hiểm nguy đều thoát khỏi


Nương bóng Từ Bi


Ngồi yên nghe pháp thoại.


Bụt A Di Ðà


Không quên lời thề cũ


Sanh chúng mê lầm


Ðắm chìm trong biển khổ


Duỗi cánh tay vàng


Giong thuyền Từ cứu độ


Vớt hết muôn loài


Ðưa về nơi tịnh thổ.


Nam mô Bụt và Bồ Tát trên hội Liên Trì. (3 lần)






Quán niệm trước buổi họp



(Một phép thực tập ở Làng Mai, được vị chủ tọa đọc lên trước các buổi họp chúng hay các buổi họp giáo thọ để đại chúng cùng thực tập trong suốt buổi họp)


"Lạy Bụt, lạy Tổ, chúng con xin nguyện họp buổi họp hôm nay trong tinh thần Ý Hòa Đồng Duyệt và Kiến Hòa Đồng Giải. Nguyện sử dụng ái ngữ và đế thính để buổi họp đưa lại kết quả tốt đẹp nhất làm phẩm vật cúng dường Tam Bảo. Chúng con nguyện không ngần ngại chia sẻ cái thấy và tuệ giác của chúng con, nhưng chúng con cũng nguyện sẽ không mở lời nếu chúng con nhận thấy trong tâm còn có tâm hành bực bội. Chúng con quyết tâm không để cho sự căng thẳng xảy ra trong buổi họp, và lỡ nếu trong số chúng con có người nhận thấy có sự căng thẳng, chúng con xin lập tức ngừng lại để sám hối tại chỗ và trả lại cho đại chúng không khí Ý Hòa Đồng Duyệt."






Quán niệm trước buổi soi sáng



(Một phép thực tập ở Làng Mai, được đọc lên trước mỗi buổi soi sáng để đại chúng cùng thực tập)


Lạy Bụt, lạy Tổ, hôm nay chúng con thực tập soi sáng cho các sư anh/sư chị và sư em của chúng con. Chúng con biết tất cả chúng con đều là những thành phần của cùng một tăng thân, tất cả chúng con đều là xương thịt của cùng một tăng thân. Vì vậy chúng con ý thức rằng soi sáng cho bất cứ ai trong tăng thân cũng là tự soi sáng cho chính mình. Chúng con nguyện sẽ đem hết tình thương và sự hiểu biết của chúng con để thực tập công việc soi sáng. Chúng con nguyện tất cả những gì chúng con nói ra đều phát sinh từ thiện ý muốn đi tới một cái thấy chính xác về đối tượng soi sáng và cống hiến cho đương sự những đề nghị thực tập thực tế để có thể đưa tới những chuyển hóa tốt đẹp cho đối tượng soi sáng. Chúng con nguyện cố gắng không để cho sự buồn giận và những thành kiến làm sai lệch cái thấy của chúng con. Chúng con nguyện bất cứ một lời nào của chúng con cũng đều phát xuất từ tình thương. Chúng con biết trong khi soi sáng cho một thành phần của tăng thân, chúng con cũng đang soi sáng cho bản thân chúng con, vì vậy việc thực tập soi sáng cũng đem lợi lạc cho bản thân của mỗi chúng con. Lạy Bụt và Chư Tổ gia hộ cho chúng con để buổi thực tập soi sáng này được thành công viên mãn.






Mười Bốn Bài Kệ Chỉ Quán



Như chim có hai cánh


Thiền tập có chỉ, quán


Hai cánh chim nương nhau


Chỉ và quán song hành


Chỉ là tập dừng lại


Ðể nhận diện, tiếp xúc


Nuôi dưỡng và trị liệu


Lắng dịu và chú tâm


Quán là tập nhìn sâu


Vào bản chất năm uẩn


Làm phát khởi tuệ giác


Chuyển hóa mọi sầu đau


Hơi thở và bước chân


Chế tác nguồn chánh niệm


Ðể nhận diện, tiếp xúc


Với sự sống mầu nhiệm


Làm lắng dịu thân, tâm


Nuôi dưỡng và trị liệu


Hộ trì được sáu căn


Và duy trì chánh định


Nhìn sâu vào thực tại


Thấy tự tánh các pháp


Quán giúp ta buông bỏ


Mọi tìm cầu sợ hãi


An trú trong hiện tại


Chuyển hóa các tập khí


Làm phát sanh tuệ giác


Giải thoát mọi phiền não


Vô thường là vô ngã


Vô ngã là duyên sanh


Là không, là giả danh


Là trung đạo, tương tức


Không, vô tướng, vô tác


Giải tỏa mọi sầu đau


Trong nhật dụng công phu


Không kẹt vào lý giải


Niết bàn là vô đắc


Ðốn, tiệm không phải hai


Chứng đạt sống thảnh thơi


Ngay trong giờ hiện tại


Các thiền kinh căn bản


Như An Ban, Niệm Xứ


Chỉ đường đi nước bước


Chuyển hóa thân và tâm


Các kinh luận Ðại Thừa


Mở thêm nhiều cửa lớn


Giúp ta thấy chiều sâu


Của dòng thiền Nguyên Thỉ


Như Lai và Tổ Sư


Thiền chẳng nên cách biệt


Bốn đế phải nương nhau


Làm nền tảng truyền thừa


Có tăng thân yểm trợ


Thực tập dễ thành công


Chí nguyện lớn độ sanh


Lên đường mau thành tựu.






Lời cảnh giác và khích lệ của thiền sư Quy Sơn



Ý thức Vô thường


Vì nghiệp duyên còn đó nên mới có hình hài, mà đã có hình hài thì tránh sao khỏi được hệ lụy? Tập hợp do di thể của cha mẹ, nương vào các điều kiện khác mà hình thành, thân thể này tuy được bốn yếu tố là đất, nước, không khí và sức nóng hộ trì, nhưng vì những yếu tố này lại lắm khi xung khắc với nhau cho nên trong chúng ta không ai thoát khỏi được cái vô thường, cái già và cái bệnh. Sự vật sớm còn tối mất, có thể chỉ một giây phút sau là đời này đã chuyển sang đời khác, khác gì hạt sương xuân, khác gì tia nắng sớm? Cây mọc bờ nước, giây leo miệng giếng, thân này cũng thế, đâu có thể có mặt lâu dài? Ngày tháng đi mau, mỗi giây phút chỉ ngắn như một sát na, đời trước cách đời sau chỉ là một hơi thở, vậy thì tại sao ta lại ngồi yên để cho cuộc đời trôi qua một cách oan uổng đáng tiếc như thế?






Tránh lề thói hưởng thụ



Xuống tóc, theo thầy học đạo, là đã không còn cơ hội được phụng dưỡng mẹ cha, gần gũi thân quyến, tiếp nối nghiệp nhà và góp công bình trị đất nước, thì đáng lý một mặt ta phải chuyên cần tu niệm, một mặt ta phải từ khước việc tranh đua, quyết tâm buông bỏ những thói đời phàm tục để thực hiện cho được việc xuất ly sanh tử. Vậy thì tại sao vừa được thọ giới đã vội vàng tự xưng là đại đức cao tăng? Khi tiếp nhận thức cúng dường của đàn việt và sử dụng vật liệu của thường trú, tại sao ta không quán chiếu những thức ấy từ đâu đến, mà cứ nói ngang rằng mình là thầy tu thì có quyền nhận của cúng dường? Ăn xong lại túm năm tụm ba nói chuyện ồn ào, câu chuyện lại toàn là những câu chuyện phiếm ngoài đời. Những kẻ ấy không biết rằng vui chơi cách đó chỉ là để chuốc lấy cái khổ về sau. Những người như thế có thể đã từng nhiều kiếp chạy theo trần cảnh mà chưa từng có cơ hội quán chiếu trở lại. Thời gian thấm thoát, vướng vào sự thọ hưởng tín thí, bao nhiêu năm tháng đã qua rồi mà những vị ấy vẫn chưa có khả năng từ bỏ, cứ tiếp tục chất chứa của tiền để bảo trì cái hình hài huyễn mộng mà thôi.


Đức Thế Tôn đã từng khuyên bảo các vị xuất gia là muốn đi tới trên đường đạo nghiệp và trang nghiêm pháp thân thì phải biết sống một cuộc sống tam thường bất túc, nghĩa là trong ba cái ăn, mặc và ở đừng bao giờ đầy đủ quá. Phần đông cứ bị đam mê trong lề thói hưởng thụ ấy mà không để ý đến chuyện ngày tháng qua mau, khi giật mình tỉnh dậy thì đầu mình đã bạc. Kẻ mới học chưa có cơ hội tìm thấy hướng đi thì phải hết lòng học hỏi rộng rãi với các bậc đi trước có nhiều kinh nghiệm, đừng làm như thể đi xuất gia là chỉ vì miếng cơm manh áo.






Giới là căn bản



Giới và luật đã được Bụt sáng chế để soi sáng cho tình trạng mê muội của trí óc con người. Các giới tướng và uy nghi rõ ràng và trong sạch như băng tuyết. Ta hãy ghi nhớ nguyên tắc chỉ trì tác phạm. Dừng lại được mà không làm điều sai quấy tức là trì giới. Không kềm chế được, cứ đi tới để làm gãy đổ tất cả tức là phạm giới. Cái tâm đẹp đẽ ban đầu của người xuất gia phải được trân quý giữ gìn. Những chương nói về giới tướng và uy nghi rất rõ ràng và đầy đủ chi tiết, nếu thực tập theo ta sẽ chấm dứt được mọi tình trạng bê bối. Nếu không học hỏi và hành trì giới luật thì làm sao mong hiểu được giáo nghĩa thượng thừa?






Sơ tâm cần nuôi dưỡng



Để cho đời mình trôi qua oan uổng, đó là một điều đáng tiếc, sau này có hối cũng không thể nào còn kịp. Giáo pháp chưa từng để vào lòng, thì chánh đạo nhiệm mầu do đâu mà khế ngộ được? Có nhiều vị tuổi đời đã cao, tuổi đạo cũng lớn, mà kiến giải thì rỗng không, trong khi tâm ý lại đầy tự phụ. Vì không biết nương nhờ vào các bậc thiện tri thức nên người ta cứ tưởng rằng mình là người giỏi, và từ từ sinh ra xấc láo và ngạo ngược. Trong khi đó, nếu giáo pháp không tinh tường và giới luật không rành rẽ thì những người này làm sao biết được cách thức điều phục thân và tâm của họ? Không có cơ hội tiếp xúc và cung kính các bậc cao đức, người ta chỉ thích tụ họp với nhau để ăn chơi và nói chuyện phiếm như những kẻ phàm phu tục tử ngoài đời. Khua bát lớn tiếng, ăn rồi bỏ dậy trước, các vị ấy quả không có phong thái của thầy tu. Đứng ngồi vụt chạc, họ làm động niệm những vị xuất gia khác. Phép tắc tối thiểu cũng không theo, uy nghi tối thiểu cũng không hành, thì làm sao mà họ có thể đào tạo được một thế hệ tương lai? Những kẻ mới tu sống gần họ không biết nhìn vào đâu để làm mẫu mực. Vậy mà khi được nhắc nhở thì liền trả lời: tôi là vị tăng sĩ cư trú ở núi rừng. Chưa từng thực sự được học hỏi về những pháp môn hành trì của Bụt chỉ bày nên họ vẫn còn y nguyên thô tháo. Sở dĩ những vị ấy có những cái nhìn sai lạc như thế cũng vì từ buổi ban đầu, sơ tâm của họ không được đặt vào nơi có thể nuôi dưỡng. Người xuất gia nếu cứ để cho tập khí tham nhiễm lôi kéo đi theo thói đời thì dần dà phong thái sẽ trở nên quê kệch, và cũng sẽ mau chóng trở nên già cỗi và hủ lậu. Có ai tìm tới để cầu được hướng dẫn thì mình ù ù cạc cạc như đang đối diện với một bức tường. Các thế hệ hậu lai có muốn tới tham vấn thì cũng không có khả năng tiếp dẫn họ. Nếu có mở lời đàm thuyết thì cũng không phù hợp với kinh điển giáo pháp. Và khi bị giới trẻ từ khước không nghe theo thì các vị lại lên án họ là hậu sinh vô lễ, rồi nổi giận đùng đùng mà la át người ta.






Phải nên liệu trước



Một sáng mai nào đó nằm hấp hối trên giường bệnh, trong khi đủ các thứ đau khổ xúm lại bao vây, ràng buộc và bức bách, tâm tư tràn đầy lo lắng và hoảng sợ, những kẻ ấy sẽ thấy con đường trước mặt họ hoàn toàn mờ mịt và họ không biết mình sẽ đi về đâu. Giờ đây mới biết hối hận, nhưng đến lúc chết khát mới có ý đào giếng thì làm sao cho kịp? Hận rằng mình đã không biết tu tập từ những ngày trước, tuổi đã già mà lỗi lầm trong quá khứ đã chất chứa quá nhiều, trong giờ phút lâm chung khi năm uẩn và tứ đại đang tan rã mau chóng, họ thấy trong lòng dâng đầy những nỗi khiếp sợ hãi hùng. Rồi lưới thủng chim bay, tâm thức bị nghiệp lực kéo đi, như con nợ bị những người chủ nợ tới đòi, nghiệp nào nặng thì mình bị lôi theo nghiệp ấy. Lưỡi hái vô thường không chịu trì hoãn một giây lát nào, mạng sống không thể kéo dài thêm một khoảnh khắc, thời gian nhất định không thể chờ ta. Ba cõi luân hồi chưa thoát, chẳng biết còn phải ra vào sanh tử đến bao nhiêu vạn lần.






Nổ lực tinh tiến



Nghĩ đến đây tôi cảm thấy quá thương tâm, nên không thể nín thinh mà không mở lời nhắc nhủ. Chúng ta đã không may sinh vào cuối thời tượng pháp, cách Bụt lâu đời; cái học hiểu về Phật pháp thì sơ sài mà người tu đạo phần nhiều lại lười biếng. Cũng vì thấy thế cho nên tôi không ngại cái thấy còn nhỏ bé của tôi mà can đảm lên tiếng để khuyên nhủ các thế hệ tương lai. Nếu chúng ta không bỏ được cái thói kiêu căng thì làm sao có cơ hội cho thân tâm ta chuyển hóa?


Mục đích của người xuất gia là cất bước bước lên cho được bến bờ giải thoát, vì vậy mà cả về hai phương diện tâm ý và hình dung, người xuất gia không giống với người trần tục. Người xuất gia phải nối tiếp và làm rạng rỡ cho được giòng giống của thánh tăng, nhiếp phục được quần ma, báo đền được bốn ân và cứu độ cho ba cõi. Nếu không sống được theo chí nguyện ấy thì ta chỉ là những kẻ lạm xen vào tăng đoàn, hành động và ngôn ngữ đều hoang sơ, hoàn toàn cô phụ tấm lòng của đàn na thí chủ. Nhìn lại nơi điểm khởi hành năm cũ, thì ta đã bước thêm được bước nào đâu? Nếu sống cho qua ngày thì hoảng hốt một đời, còn lấy gì để trông mong và nương tựa?


Tuy nhiên, nhìn lại, ta thấy ta vẫn còn hình tướng đẹp đẽ của người xuất gia; chắc chắn là trong quá khứ ta đã gieo rắc nhân lành cho nên hôm nay mới có được quả báo tốt đẹp ấy. Vậy thì tại sao ta còn ngồi yên khoanh tay, không biết trân quý thì giờ để cho tháng năm trôi qua như vậy? Nếu không nổ lực tinh tiến trên đường tu học thì làm sao một ngày kia đạo quả có thể viên thành? Nếu kiếp này mà trôi qua oan uổng thì kiếp sau sẽ được thừa hưởng gì?






Gần gũi bạn lành



Từ bỏ người thân, quyết lòng mặc áo tu, chủ ý của ta là vượt lên một chân trời cao rộng nào đó. Nếu biết tâm niệm điều này mỗi giây mỗi phút thì làm sao ta có thể để cho ngày tháng trôi qua? Kỳ vọng sẽ làm trụ cột cho Phật pháp, làm gương mẫu cho thế hệ mai sau, nuôi dưỡng tâm ý ấy hàng ngày mà chưa chắc đã thực hiện được một phần nào chí nguyện của mình. Nói ra lời nào thì lời ấy cũng phải phù hợp với kinh giáo, đàm luận chuyện gì cũng phải dựa vào sự nghiên cứu và kinh nghiệm của cổ nhân. Phong thái ta phải đĩnh đạc, chí khí ta phải cao siêu. Cần đi đâu xa thì phải nương tựa vào bạn hiền, để có thể luôn luôn thanh lọc những điều ta nghe, ta thấy. Khi cư trú cũng phải nương tựa vào bạn tốt để ngày nào cũng được học hỏi thêm những điều chưa được am tường. Người ta nói rằng cha mẹ tuy sinh ra ta nhưng chính bạn hữu lại là kẻ tác thành cho ta. Sống gần gũi với các bậc thiện tri thức thì cũng như đi trong sương, tuy áo không ướt nhưng cũng có nhuần thấm. Còn nếu chơi với kẻ xấu thì cái thấy càng ngày càng sai lạc, sớm chiều vì vậy cứ tiếp tục tạo ra nghiệp xấu. Kết quả có cần chờ lâu đâu. Nó đến ngay trước mắt. Sau này một khi đã mất thân người thì muôn kiếp sẽ khó mà lấy lại.






Khẩn thiết dụng tâm



Lời nói ngay thẳng thường không êm tai, sao ta không có khả năng khắc ghi vào tâm khảm? Nếu tiếp nhận được chánh kiến, ta sẽ có thể rửa tâm, vun đức, ẩn tích, mai danh, rèn luyện tinh thần, chấm dứt mọi huyên náo vô ích. Nếu có chủ tâm tham thiền học đạo để hạ thủ công phu, thì phải vượt lên khỏi những pháp môn phương tiện để tâm tư có thể khế hợp với những tông chỉ thâm huyền. Nếu muốn tham cứu những tinh yếu của thoại đầu, phăng tìm chỗ thâm áo, tỏ ngộ chỗ chân nguyên, thì phải tham học rộng rãi với các bậc đi trước nhiều kinh nghiệm, và sống gần gũi với các bậc thiện tri thức. Những tông chỉ huyền diệu của Thiền tông rất khó nắm bắt, muốn đạt cho được thì phải khẩn thiết dụng tâm. Khẩn thiết dụng tâm mới mong đốn ngộ được cốt tủy bên trong và từ từ bước lên nấc thang khai ngộ. Đây là con đường phá hủy được cả hai mươi lăm lãnh vực hiện hữu hàm chứa trong ba cõi và đưa tới cái thấy là tất cả các pháp trong ta và ngoài ta đều không có bản chất chân thực, tất cả đều là giả danh, do tâm biến hiện. Khi ấy ta sẽ không còn đem tâm chạy theo với cảnh. Tâm không theo cảnh thì cảnh làm sao có thể ràng buộc được tâm? Ta cứ để cho các pháp tự nhiên diễn biến trong tự tánh chân thực của chúng mà không còn bị kẹt vào các ý niệm thường tại và đoạn diệt. Lúc ấy tai ta tuy còn nghe, mắt ta tuy còn thấy, tuy thanh sắc vẫn xẩy ra mà đứng về cả hai phía tích môn và bản môn tâm ta vẫn thản nhiên và bình thường, ứng dụng đầy đủ. Có được cái thấy ấy rồi thì dù ngồi yên hay là hành động ta cũng thong dong. Có như thế thì mới bõ công khoác áo người tu, vì bây giờ ta đã có khả năng bắt đầu đền đáp được bốn ân và cứu độ được ba cõi. Nếu kiếp này như vậy mà kiếp khác cũng tiếp tục được như vậy, không bị thối chuyển, thì quả vị toàn giác là cái nhất định có thể mong cầu. Lúc bấy giờ ta sẽ đóng vai người khách quý lui tới trong ba cõi, khi vào khi ra đều có thể làm khuôn phép cho tất cả mọi người. Phép tu thiền rất là huyền diệu. Nếu tâm chí quyết liệt, chắc chắn ta sẽ thành công.






Trai giới tinh chuyên



Nhưng nếu căn cơ của ta chưa cho phép ta vượt thoát sinh tử theo con đường đốn ngộ như thế thì ta phải để tâm học hỏi giáo pháp, nghiên tầm kinh điển, nắm cho được tinh yếu của giáo điển để có thể giảng dạy, truyền bá cho các thế hệ tương lai mà báo đáp một phần ơn đức của Bụt. Đừng để thì giờ uổng phí, mà phải lấy công hạnh nghiên cứu và truyền dạy làm lẽ sống của đời mình. Một khi đã biết hành xử và đi đứng trong uy nghi, thì ta đã có thể xứng đáng được gọi là pháp khí của tăng thân rồi. Hãy nhìn thử những dây sắn và dây bìm quấn theo thân cây tùng, cây bách mà leo lên: có khi chúng leo lên cao được cả ngàn sải. Phải nương vào lý tưởng cao đẹp và các bậc đại nhân thì ta mới có thể trở nên người hữu dụng mà làm lợi ích cho thế gian. Phải hết lòng thực tập việc trì trai giữ giới, đừng khinh thường một chi tiết nào của giới luật và uy nghi mà phạm vào những lầm lỗi và thiếu sót. Nếu thực tập nghiêm chỉnh được phép trì trai giữ giới thì từ đời này sang đời khác nhân quả tốt lành sẽ được tiếp nối một cách nhiệm mầu.






Nuôi hoài bão lớn



Ta không có quyền để tháng ngày đi qua luống uổng: phải trân quý thời gian và phải hết lòng mong mỏi tiến lên trên con đường của sự nghiệp giác ngộ. Đừng lạm dụng của tín thí, đừng cô phụ bốn ơn, đừng tích lũy cho nhiều để cho tâm tư bị tài lợi bít lấp. Nếu không thì đời ta sẽ u trệ, và nhìn ta kẻ khác sẽ chê cười. Người xưa đã khích lệ: ''kẻ kia đã là đấng trượng phu thì tại sao ta lại không?'' Đừng nên có mặc cảm tự ti mà chùn bước và chịu thua. Nếu ta không có thái độ của bậc trượng phu thì thật uổng phí cho cuộc đời của một kẻ xuất gia, rốt cuộc một kiếp đi qua mà không có ích lợi gì cho ai cả.


Tôi rất mong các bạn phát tâm cho dũng mãnh, ôm hoài bão thật cao xa, khi hành xử thì mô phỏng các bậc cao nhân, đừng đi theo lề thói của những kẻ hư hèn. Ngay trong đời này, bạn phải tự nắm lấy vận mệnh của bạn, đừng giao phó vận mệnh của mình cho ai hết. Hãy học chấm dứt tà ý, an định tâm tư, đừng chạy theo trần cảnh. Tâm ta vốn là tự tại, đối tượng đích thực của chân tâm là niết bàn, chỉ vì lâu ngày bế tắc cho nên ta không thấy rõ được đó thôi.






Nắm quyền tự chủ



Xin các bạn hãy đọc lại kỹ những lời tôi đang nói đây để thường ngày cùng nhau nhắc nhở. Phải nắm lấy quyền tự chủ, ta đừng nên để cho tập khí kéo lôi. Đừng đợi đến lúc nghiệp lực đến lôi kéo ta đi, vì lúc ấy ta sẽ không thể trốn tránh và chống cự lại nó. m mà hòa thì thanh sẽ thuận, hình mà thẳng thì bóng sẽ ngay; nhân quả rõ ràng, ta không thể không lo xa. Kinh dạy: nghiệp đã tạo ra thì sẽ còn đó, dù trăm ngàn kiếp vẫn còn. Nếu ta không biết chuyển hóa thì đến khi nó đã chín muồi ta phải nhận lãnh quả báo. Nên nhớ rằng khổ đau trong ba cõi là những hình phạt có công dụng ràng buộc và sát hại ta, vì vậy ta phải tu tập cho siêng năng, nhất định đừng để tháng ngày trôi qua oan uổng.






Cùng đi với nhau



Các bạn ơi, chỉ vì thấy quá rõ những tai ương và hoạn nạn do hướng đi lỗi lầm đưa tới, cho nên tôi mới nói lên những lời khuyến khích hành trì này. Xin nguyện trăm kiếp ngàn đời về sau, bất cứ ở đâu tôi cũng sẽ được cùng quý vị làm người bạn đồng hành trên con đường hành trì Phật pháp. Có bài Minh sau đây để cùng nhau nhắc nhở:


Thân huyễn, nhà mộng,


hư hao bóng sắc


quá khứ không cùng


tương lai không chắc


hiện đây ẩn kia


ra vào cực nhọc


chưa khỏi ba vòng


chừng nào chấm dứt?


Tham luyến thế gian


ấm, duyên là chất


từ sinh tới chết


có gì nắm bắt?


Chỉ vì vô minh


nên bị mê hoặc


hãy quý tháng ngày


vô thường bất trắc


đời này luống qua


đời sau bế tắc


từ mê sang mê


cũng vì sáu giặc


qua lại sáu đường


ba cõi lăn lóc.


Sớm tìm minh sư


gần bậc cao đức


quán chiếu thân tâm


diệt trừ gai góc


Thế gian hư huyễn


trần lao áp bức


quán chiếu các pháp


vượt lên cho được


tâm cảnh đều quên


chẳng còn thao thức


Sáu căn an nhiên


nằm ngồi tĩnh mặc


tâm đã không sinh


muôn pháp đều dứt!






Table of Contents


Lời giới thiệu


Lời nói đầu


Những chỉ dẫn cần thiết


Công phu sáng thứ hai


Kinh Kim Cương – Gươm Báu Cắt Đứt Phiền Não




Kinh Thương Yêu




Chuyển Niệm




Đảnh Lễ




Quy Nguyện




Quay Về Nương Tựa




Công phu chiều thứ hai


Kinh Mười Nguyện Phổ Hiền




Kinh Diệt Trừ Phiền Giận




Quán Nguyện




Kệ Vô Thường




Công phu sáng thứ ba


Kinh Quán Niệm Hơi Thở




Hướng Về Kính Lạy




Quay Về Nương Tựa




Công phu chiều thứ ba


Kinh Sức Mạnh Quan m




Kinh Tám Ðiều Giác Ngộ Của Các Bậc Ðại Nhân




Bài Tụng Hạnh Phúc




Công phu sáng thứ tư


Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm




Hướng Về Tam Bảo




Công phu chiều thứ tư


Kinh Trung Ðạo Nhân Duyên




Kinh Soi Gương




Ngày Đêm An Lành




Tùy Hỷ Hồi Hướng




Công phu sáng thứ năm


Kinh Người Biết Sống Một Mình




Kinh Bát Nhã Hành




Ðiều Phục Cơn Giận




Công phu chiều thứ năm


Kinh Ba Cửa Giải Thoát




Kinh A Nậu La Độ




Khơi Suối Yêu Thương




Công phu sáng thứ sáu


Kinh Người Bắt Rắn




Thiên Long Hộ Pháp




Công phu chiều thứ sáu


Kinh A Di Ðà




Niệm Bụt và Đi Nhiễu




Phát Nguyện




Chơn Ngôn Quyết Ðịnh Vãng Sanh




Công phu sáng thứ bảy


Kinh Ðộ Người Hấp Hối




Hiện Pháp Lạc Trú




Công phu chiều thứ bảy


Kinh Phước Ðức




Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Ða




Sám Hối và Phát Nguyện




Công phu sáng chủ nhật


Kinh Tuổi Trẻ Và Hạnh Phúc




Kinh Hải Ðảo Tự Thân




Tưới Tẩm Hạt Giống Tốt




Nhận Diện Và Quán Chiếu Hạt Giống Sợ Hãi




Công phu chiều chủ nhật


Sám Nguyện




Trì Chú Diệt Tội




Kệ Sám Hối




Bốn Phép Tùy Niệm




Phòng Hộ Chuyển Hóa




Nghi thức


Nghi thức chúc tán rằm và mồng một




Nghi thức chúc tán Tổ Sư




Nghi thức cúng ngọ




Nghi thức thọ trai




Nghi thức truyền 10 Giới Sadi




Nghi thức tụng 10 Giới Sadi




Phụ lục


Kệ tán




Sám Quy Mạng




Thi kệ nhật dụng




Chỉ dẫn thực tập 3 lạy




Thực tập 3 lạy




Thực tập 5 lạy




Nguồn gốc các kinh




Những kinh văn và bài tụng mới


Kinh Sự Thật Ðích Thực




Kinh Nghĩa Lý Siêu Việt về Không




Kinh Bốn Loại Thức Ăn




Ái Ngữ Lắng Nghe




Kệ Thỉnh Chuông Đại Hồng




Văn thỉnh linh




Quán niệm trước buổi họp




Quán niệm trước buổi soi sáng




Mười Bốn Bài Kệ Chỉ Quán




Lời cảnh giác và khích lệ của thiền sư Quy Sơn


Ý thức Vô thường




Tránh lề thói hưởng thụ




Giới là căn bản




Sơ tâm cần nuôi dưỡng




Phải nên liệu trước




Nổ lực tinh tiến




Gần gũi bạn lành




Khẩn thiết dụng tâm




Trai giới tinh chuyên




Nuôi hoài bão lớn




Nắm quyền tự chủ




Cùng đi với nhau

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro