NHỊP ĐẬP CỦA TUYỆT ĐỐI

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

OSHO
NHỊP ĐẬP CỦA TUYỆT ĐỐI
Bài nói về Ishavasya Upanishad

HEARTBEAT OF THE ABSOLUTE
Discourse on the Ishavasya Upanishad

Mục lục
Giới thiệu
1. Tất cả là phép màu
2. Không của tôi không của bạn
3. Hình dáng của nước
4. Ham muốn thực sự
5. Cột mốc số không
6. Chân lí là ngớ ngẩn
7. Trở thành tấm gương
8. Cái bóng của bản ngã.
9. Bên ngoài khoa học
10. Dốt nát sẽ chỉ cho bạn con đường
11. Tôi cũng lắng nghe
12. Tôi không là thân thể
13. Con vật, cây cỏ hay Thượng đế?
14. Hạt mầm và cái cây
15. Chúng ta chết đi
16. Chỉ việc biết còn lại
17. Cái nhảy tối thượng
18. Tại cánh cửa của samadhi
19. Biến đổi là phép thử
20. Sự tồn tại là một
Về Osho

Bài nói ngẫu hứng cho các đệ tử và bạn bè tại Mount Abu, Rajasthan, Ấn Độ

*********************************************************************************************************

Giới thiệu
Tất cả đều là Thượng đế! Điều này, tôi được bảo, chính là ý
nghĩa của Ishavasya. Nhưng điều tất cả đều là Thượng đế có
nghĩa gì? Có một câu chuyện mà Osho đã có lần kể , về một
người đã cống hiến nhiều năm để đi tìm ý nghĩa cuộc đời. Cuộc
truy tìm của người đó đã dẫn người đó đi khắp thế giới nghiên
cứu đại học và thực hành bí truyền, qua các loại thuốc ảo giác và
trị liệu tâm lí, nhưng câu trả lời vẫn cứ lảng tránh anh ta. Thế rồi
một hôm, khi người đó gần như từ bỏ hi vọng, người đó được
nghe nói về một hiền nhân sống trong một vùng xa xôi và gần
như không tới được của Himalayas, người biết ý nghĩa của cuộc
đời. Bị thuyết phục sau rất nhiều điều tra rằng hiền nhân này thực
sự có giữ câu trả lời đó, người này kết thúc công việc của mình,
khăn gói tề chỉnh, cất bước lên đường tìm hiền nhân đó.
Cuộc hành trình thật gian truân - hết máy bay đến tầu hoả, ô
tô cũng đều trở nên ngày một ọp ẹp và cổ lỗ hơn khi con đường
trở nên gồ ghề hơn và mấp mô hơn dưới chúng, rồi còn lối trèo
chênh vênh và chót vót trên con đường đi vào lãnh địa cấm, chưa
khai hoá của Himalayas. Sau nhiều tuần lễ người này cuối cùng
cũng đã đạt tới đích. Không còn nghi ngờ gì nữa, có một làng
nhỏ tí xíu, và ngay sau nó là chính cái lều mà trong đó, như
người đó đã được kể , hiền nhân đó đang sống. Chính với một
cảm giác thúc đẩy mênh mông mà người này đã bước vào trong
lều, vì người đó thấy mình phải trút hết mọi năng lực trong công
việc của cuộc đời vào một khoảnh khắc này.
Hiền nhân ngồi đó, và một vẻ chân thành tràn ngập mọi thứ
quanh ông ấy đã nói lên về trí huệ lớn lao của ông. Trong sự cực
kì xúc động, sau khi đã được mời ngồi cùng hiền nhân, người này
đưa ra câu hỏi nóng bỏng của mình: “Xin nói cho tôi,” người đó
nói, “ý nghĩa của cuộc đời này là gì?”
Hiền nhân ngồi im lặng vài phút, trong khi vị khách chờ đợi
với trái tim phập phồng và hơi thở hồi hộp. Thế rồi hiền nhân
nói. “Cuộc đời,” ông ta nói, “là một dòng sông tuôn chảy.”
Sau mười lăm phút im lặng sững sờ, vị khách cuối cùng
bùng ra, nổ tung với cơn cuồng nộ: “Ông nói rằng tôi đã quấy rối
toàn bộ sự tồn tại của tôi, vật lộn với con đường của tôi sau bao
nhiêu năm lục vấn thành kính, đối diện với những gian khổ và
nguy hiểm trên đường, và mọi lúc, không có gì hơn ngoài niềm
tin của tôi vào trí huệ của ông, đã giữ tôi đi tiếp, thế mà chỉ được
bảo rằng cuộc đời là dòng sông chảy thôi ư?”
Hiền nhân nhìn người đó với vẻ mặt biểu lộ ngạc nhiên hết
sức: “Anh cho rằng không phải thế à?”
Ishavasya cũng vậy - tất cả đều là Thượng đế! Và cũng như
vậy lời kinh mà này Ishavasya Upanishad bắt đầu và kết thúc.
Giữa câu kinh đầu và cuối đó chỉ có một từ thay đổi - từ ‘hoàn
hảo’ được thay thế cho từ ‘toàn bộ’, và có gì khác biệt giữa cái là
hoàn hảo và cái là toàn bộ không? Trong phần mở đầu Osho nói
rằng với những người đã hoàn toàn hiểu câu kinh này, chẳng cần
gì thêm nữa. Giống như “Tất cả đều là Thượng đế” và “Cuộc đời
là một dòng sông chảy,” lời kinh này nói tất cả những gì cần phải
nói. “Với những người đã đến tới đỉnh hiểu biết, đây là điểm cuối
của Ishavasya; nhưng với những người vẫn còn đang trèo lên,
đấy chỉ là sự bắt đầu.” Và trong khi nói cho chúng ta qua những

lời kinh này giữa điểm bắt đầu và điểm kết thúc mà đấy cũng là
sự bắt đầu, Osho đưa chúng ta đi trên một cuộc hành trình phi
thường.
Điều tôi thích thú về câu chuyện người đàn ông này đi tìm
kiếm ý nghĩa cuộc đời là cuộc hành trình của anh ta. Cuộc hành
trình này phải thật xứng đáng biết bao! Và đây là điều làm cho
tôi kính nể khi đọc và đi tới biết về những bài nói sâu sắc này của
Osho về Ishavasya. Cuộc hành trình qua những chương này tới
đích từ cái chúng ta bắt đầu khởi hành thật ngoạn mục. Đấy là
một cuộc hành trình đi vào trong và đi lên, cuộc hành trình của
mọi người qua mọi tầng của sự tồn tại, cuộc hành trình của đàn
ông và đàn bà qua tất cả những điều mà việc là một con người có
thể nghĩa là gì - qua sự hồn nhiên, dốt nát, tri thức, tình yêu, cái
chết, địa ngục, thiên đường, gắn bó, sầu não, dục, buông xuôi,
chân lí, ham muốn, tự do, thiền, bất lực, cầu nguyện, phúc lạc -
qua tất cả, không phải một cách tuần tự như tôi phải viết chúng
ra, mà như sự sáng suốt được hàm chứa bên sự sáng suốt.
Điều Osho để lộ cho chúng ta là trí huệ nội tâm. Giống như
cuộc hành trình đi vào lãnh địa Himalayas, khung cảnh trở nên
thậm chí còn hùng vĩ hơn, bầu không khí thậm chí còn loãng ra
hơn. Nhưng điều kì diệu đối với tôi nằm ở phía bên trong của
cuộc hành trình; chân lí lộ ra trong cái đẹp đơn giản thật say
đắm. Nhưng tiếng nói Osho vẫn thì thào, “Bạn nhìn vào trong nó
đi! Bạn thấy nơi bạn đang đi. nhìn xem! nhìn xem!” và, khi
nhìn qua trí huệ của người, chân lí mà chúng ta đang nhìn vào
mở ra, và chúng ta được hướng dẫn đi vào trong chân lí đang
nằm ẩn khuất bên trong nó - một viên ngọc trai bên trong viên
ngọc trai, và chứa viên ngọc trai ẩn kín của riêng nó. Cứ đi vào
mãi, chúng ta thấy chúng ta đang đi lên nữa. Đây là cuộc hành
trình đi vào trong tâm thức!
Nhịp đập của Tuyệt đối là bản ghi của một cuộc hành trình
tương tự. Nhưng đấy không chỉ đơn thuần là một bản ghi; đấy
còn là một công trình giả kim, một bài ca mà có thể biến con
đường của bạn thành đi vào trong và đi lên, nếu bạn để cho âm
nhạc đi vào!
Như người nói trong bài nói cuối cùng, “Bất kì cái gì tôi kể
cho bạn cũng chỉ với một mục đích làm ván nhảy cho bạn thôi.
Mục đích chính là việc nhảy. Đây là lí do tại sao chúng ta đã đi
vào trong thiền tại cuối mỗi lời kinh, để cho bạn có thể kinh
nghiệm được ý nghĩa của nó bằng việc nhảy vào nó.”
Swami Anand Rajen

*************************************************************************************************

1 Tất cả là phép màu
**Om,
Cái đó là toàn thể, và cái này cũng là toàn thể.
Vì chỉ cái toàn thể được sinh ra từ toàn thể;
và khi cái toàn thể được lấy ra từ cái toàn thể,
Chú ý, phần còn lại là toàn thể.
Om. An bình, an bình, an bình.**

Ishavasya Upanishad bắt đầu và kết thúc với lời kinh này, và
trong nó là tuyên bố về tất cả những gì có thể được nói tới. Nó
hoàn toàn là duy nhất. Với những người hiểu nó đầy đủ, không
cần thêm gì nữa; phần còn lại của Upanishad chỉ dành cho những
ai không hiểu. Do vậy lời cầu nguyện an bình, thường đưa
Upanishad tới việc kết thúc của nó, ở đây được gợi ra tại chỗ
cuối của chính lời kinh đầu tiên. Và với những người đã đi lên
đến đỉnh của hiểu biết, đây là chỗ kết thúc của Ishavasya; nhưng
với những người vẫn còn đang trèo lên, nó chỉ là bắt đầu.
Phần về tính duy nhất của nó nằm trong sự sáng tỏ mà với nó
có phân biệt giữa các phương pháp tư duy và lập luận của
phương Đông và phương Tây. Hai trường phái lập luận đã nở hoa
trên thế giới - một trường phái ở Hi Lạp, và trường phái kia ở Ấn
Độ. Hệ thống logic của Hi Lạp đã cho sinh thành ra toàn thể khoa
học phương Tây, trong khi từ hệ thống Ấn Độ nổi lên tôn giáo.
Khác biệt nền tảng nhất và đầu tiên giữa hai trường phái này nằm
ở phương Tây - Hi Lạp - phương pháp tiến dần tới kết luận. Bất
kì khi nào chúng ta tìm kiếm chân lí về vật chất, câu hỏi đầu tiên
sẽ dẫn qua việc nghiên cứu tới kết luận cuối cùng; đầu tiên, ý
nghĩ và câu hỏi, thế rồi kết luận.
Cách thức Ấn Độ đích xác là cái đối lập. Ấn Độ khẳng định
rằng cái chúng ta định nghiên cứu bao giờ cũng có đó. Nó không
lấy hình dạng như kết quả của việc hỏi của chúng ta, nhưng nó đã
hiện diện thậm chí trước cả khi việc nghiên cứu của chúng ta bắt
đầu. Chân lí mà sẽ trở nên biểu hiện đã có đó trước khi chúng ta
ở trong sự tồn tại. Nó đã có đó trước khi chúng ta khám phá ra nó
hệt như nó có đó khi chúng ta đã làm như vậy. Chân lí không
được hình thành hay được xây dựng qua nghiên cứu của chúng
ta; điều nghiên cứu làm là đem nó vào trong thực tại của kinh
nghiệm chúng ta. Chân lí bao giờ cũng hiện diện. Đó là lí do tại
sao cách thức Ấn Độ về lập luận tuyên bố kết luận ngay từ đầu,

và sau đó thảo luận tới phương pháp và thủ tục; trước hết kết
luận, thế rồi đến phương pháp. Cách thức phương Tây đặt
phương pháp lên trước, rồi điều tra, và cuối cùng kết luận.
Một điểm quan trọng nên lưu tâm: phương pháp phương Tây
rất thích hợp cho những người tìm kiếm chân lí bằng việc suy
nghĩ về nó. Phương pháp lập luận này giống như việc cố tìm ra
điều gì đó trong đêm tối với sự giúp đỡ của chiếc đèn nhỏ. Đêm
tối như mực, và ánh sáng toả ra mờ nhạt trong khoảng một mét
dưới đất. Chỉ thấy được một miếng nhỏ, phần lớn vẫn còn không
thấy được; và kết luận được đưa tới về cái được thấy sẽ là không
dứt khoát. Sau một chốc, khi người ta tiếp tục với chiếc đèn,
thêm một chút ít nữa trở thành thấy được, và cần sửa lại hay thay
đổi kết luận. Khi người ta tiến xa thêm chút nữa, những điều mới
liên tục trở thành thấy được và do vậy kết luận lại bị thay đổi lặp
đi lặp lại.
Đi theo như người ta làm với trường phái logic Hi lạp, khoa
học Phương Tây không bao giờ đạt tới kết luận cuối cùng. Mọi
kết luận của nó do đó đều không dứt khoát, tạm thời, và dựa trên
tri thức thu nhận được cho đến thời hiện tại. Nếu cái gì đó mới
được phát hiện ra ngày mai, sẽ có thay đổi trong kết luận. Đó là lí
do tại sao không chân lí nào được đạt tới bởi phương Tây là tuyệt
đối. Nó là không toàn bộ. Mọi chân lí và kết luận của nó đều bất
toàn. Nhưng chân lí không bao giờ là bất toàn hay không đầy đủ
cả, và bất kì cái gì bất toàn đều sẽ là phi chân lí. Cái kết luận mà
chúng ta cần sửa đổi vào ngày mai thực ra không phải là chân lí
thậm chí cho cả hôm nay! Nó đơn giản có vẻ là chân lí thôi. Cái
một mình nó có thể là chân lí, chúng ta không bao giờ cần thay
đổi. Cho nên các kết luận đã được phương Tây công bố là chân lí
thực sự là phi chân lí dựa trên tri thức thu được cho tới lúc đó và
cần thay đổi theo tri thức thu được vào ngày mai.
Hệ thống lập luận Ấn Độ không giống việc nghiên cứu chân
lí với sự giúp đỡ của chiếc đèn. Nó giống như việc nghiên cứu
đêm tối trong ánh sáng chói lọi của tia chớp, khi mọi thứ đều trở
thành thấy được đồng thời. Không phải là cái gì đó - một phần -
được thấy bây giờ, thỉnh thoảng về sau phần khác, lại cái gì đó
thêm về sau, và cứ như thế; không, cách thức Ấn Độ không giống
điều đó. Trong hệ thống Ấn Độ về nghiên cứu, khải lộ của chân lí
xảy ra ngay một lúc; mọi thứ đều được khám phá ngay lập tức và
đồng thời. Mọi con đường trải rộng đến chân trời, và tất cả - dù là
bất kì cái gì - đều được thấy đồng thời trong chớp loé của tia sét.
Không có phạm vi nào cho thay đổi trong tương lai vì cái toàn
thể đã được thấy.
Phương pháp phương Tây có tên logic nghiên cứu chân lí
bằng quá trình suy nghĩ. Cách thức Ấn Độ, điều chúng ta gọi là
kinh nghiệm hay trí huệ, phơi bầy tất cả mọi thứ ngay một lúc
giống như ánh chớp loé, với kết quả là chân lí hiện ra như nó vậy,
trong tính toàn bộ của nó, không để lại chỗ nào cho thay đổi hay
sửa đổi. Xem như kết quả, không có tiềm năng nào cho việc thay
đổi điều mà Phật hay Mahavira hay Krishna đã nói. Nhưng các
nhà tư tưởng phương Tây - nghiêng về hoài nghi và lo nghĩ - hỏi
liệu điều Mahavira nói hai nghìn năm trăm năm trước đây có thể
vẫn còn đúng cho ngày nay không. Điều hợp lí đối với họ là nêu
ra nghi ngờ như vậy; qua suốt một thời kì như thế chúng tôi phải
đã trông đợi tới hai mươi nhăm nghìn thay đổi nếu chúng tôi đi
tìm chân lí bằng một ngọn đuốc! Những sự kiện mới sẽ xuất hiện
mọi ngày, và chúng tôi buộc phải thay đổi hay biến đổi các sự
kiện cũ. Nhưng chân lí do Mahavira, Krishna hay Phật tuyên bố
là những khải lộ. Chúng không phải là chân lí được tìm ra nhờ
ánh sáng đèn; chúng đã được thấy và được biết và được khải lộ
trong ánh chớp loé chói lọi của tâm trí tĩnh lặng - tâm trí trống
rỗng ý nghĩ. Chân lí mà Mahavira biết đã không được ông ấy
khám phá ra dần từng bước; bằng không ông ấy không thể nào

biết được chân lí toàn bộ ấy. Ông ấy biết nó với tính toàn bộ của
nó trong một khoảnh khắc.
Điều tôi muốn nói với bạn là ở chỗ mọi thứ được khải lộ
trong tính toàn bộ của nó thông qua trí huệ của phương Đông là
được bao hàm trong lời kinh ngắn gọn này. Nó có đấy trong tính
toàn bộ của nó. Đây là lí do tại sao chúng ta ở Ấn Độ vẫn công
bố rằng kết luận là trước nhất và rồi việc hỏi theo sau. Công bố
về chân lí được thực hiện lúc ban đầu, thế rồi chúng ta thảo luận
về cách chân lí có thể được biết, cách thức nó đã được biết tới, và
cách thức điều đó có thể được giải thích. Kinh này là lời công bố
- bản tuyên ngôn. Phần còn lại của cuốn sách này là không bản
chất cho những ai có thể hiểu ý nghĩa đầy đủ từ lời công bố này.
Không cái gì mới sẽ được phát biểu trong toàn bộ Upanishad:
chân lí sẽ được kể đi kể lại mãi theo nhiều cách khác nhau. Phần
còn lại của cuốn sách này là dành cho những người mù loà trước
tia chớp chói lọi của sét, và bướng bỉnh đi tìm kiếm chân lí với sự
trợ giúp của chiếc đèn. Với ánh sáng của chiếc đèn này, chân lí
có thể được nhặt ra từng dòng một trong lời kinh Ishavasya;
nhưng trước hết chủ đề này được trình bày trong tính toàn thể của
nó trong lời kinh vĩ đại này. Đấy là lí do tại sao tôi nói cho bạn
kinh này là duy nhất thế: nó nói mọi điều. Bây giờ chúng ta sẽ cố
gắng hiểu nó.
Nó tuyên bố rằng cái toàn thể được sinh ra từ cái toàn thể, và
vậy mà cái còn lại đằng sau bao giờ cũng là cái toàn thể; đến cuối
cùng cái toàn thể được hấp thu vào trong cái toàn thể; và thậm
chí thế thì cái toàn thể không tăng thêm chút nào, nó vẫn còn như
nó trước đây. Đây là một phát biểu phản toán học rất vĩ đại. P.D.
Ouspensky đã viết một cuốn sách tên là Tertium Organum. Ông
ấy là một nhà toán học có tiếng của Nga, người trong những năm
cuối đời, như một đệ tử của một thầy phương tây xuất sắc,
Gurdjieff, tự mình đã trở thành nhà huyền học. Ông ấy là một
thiên tài toán học, thông minh của ông ấy thấm suốt độ cao và
chiều sâu của đề tài của ông ấy.
Phát biểu đầu tiên ông nêu ra trong cuốn sách tuyệt diệu này
là ở chỗ chỉ có ba tác phẩm vĩ đại về tư tưởng trên thế giới. Tác
phẩm thứ nhất, mang tựa đề Organum, của Aristotle, cha đẻ của
khoa học logic phương Tây. Organum nghĩa là nguyên lí về tri
thức. Cuốn sách thứ hai là của Francis Bacon và có tên là Novum
Organum - nguyên lí mới về tri thức. Và cuốn sách thứ ba là
cuốn của riêng ông ấy, được mang tên Tertium Organum -
nguyên lí thứ ba về tri thức. Ông còn viết tiếp sau phát biểu này
một câu ngắn mà đã từng thách đố cho nhiều người: “Trước khi
cuốn thứ nhất tồn tại, đã có cuốn thứ ba rồi.” Tức là, nguyên lí
thứ ba đã có trên thế giới này trước khi nguyên lí thứ nhất được
phát hiện ra. Cuốn sách thứ nhất do Aristotle viết ra hai nghìn
năm trước đây, cuốn thứ hai do Bacon viết ba trăm năm trước
đây, và cuốn thứ ba mới được viết ra quãng bốn mươi năm trước
đây. Nhưng Ouspensky nói cuốn thứ ba đã tồn tại trên thế giới
này trước khi cuốn thứ nhất được viết ra, mặc dầu ông ấy đã viết
cuốn sách thứ ba này chỉ bốn mươi năm trước đây. Khi bất kì ai
hỏi ông ấy ý nghĩa của phát biểu kì dị, phi logic này, ông ấy trả
lời, “Bất kì cái gì tôi đã viết ra đều không được viết ra bởi tôi. Nó
đã tồn tại trong sự tồn tại rồi; tôi đã đơn giản tuyên bố nó thôi.”
Trái đất này đã dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn từ trước khi
Newton được sinh ra. Trái đất hấp dẫn hòn đá từ trước sự ra đời
của ông ấy theo hệt như cách nó đã tiến hành từ trước tới nay.
Newton đã không phát minh ra nguyên lí hấp dẫn, ông ấy chỉ làm
lộ nó ra. Ông ấy đã mở ra cái bị giấu kín, ông ấy làm cho mọi
người biết tới cái còn chưa được biết. Nhưng lực hấp dẫn đã có
đấy từ trước Newton; bằng không bản thân Newton đã không thể
có đó được. Newton không thể đã được sinh ra mà không có lực
hấp dẫn. Lực hấp dẫn có thể tồn tại không có ông ấy, nhưng ông

ấy không thể tồn tại không có lực hấp dẫn của trái đất. Nó đã tồn
tại nhưng còn chưa được biết tới trên thế giới thôi.
Ouspensky nói nguyên lí thứ ba của ông ấy tồn tại từ trước
khi nguyên lí thứ nhất đã được biết tới. Nó không được biết tới là
vấn đề hoàn toàn khác; và có lẽ nói nó không được biết cũng là
sai, vì điều Ouspensky đã nói qua cuốn sách của ông ấy đã được
hàm chứa trong lời kinh nhỏ bé này. Cuốn Tertium Organum của
ông ấy là một cuốn sách rất có giá trị. Ông ấy nói rằng chỉ có ba
cuốn sách vĩ đại như thế trên thế giới thôi - và cuốn thứ ba của
ông ấy - cũng không phải là sai. Ông ấy không nói vậy từ điều
hão huyền đâu, đấy là sự kiện. Cuốn sách của ông ấy quan trọng
như thế. Nếu ông ấy không nói như vậy, im lặng của ông ấy sẽ
chỉ là khiêm tốn giả. Nó là sự kiện, cuốn sách của ông ấy là quan
trọng. Nhưng mọi điều ông ấy nói trong đó đều có trong lời kinh
nhỏ bé này của Ishavasya Upanishad.
Trong toàn bộ cuốn sách của mình ông ấy đã cố gắng để
chứng minh rằng có hai loại số học trên thế giới. Một là ở chỗ nói
hai cộng với hai là bốn. Đây là số học đơn giản tất cả chúng ta
đều biết, một tính toán đơn giản kiểm chứng rằng nếu chúng ta
cộng tất cả các bộ phận của một vật, chúng không bao giờ có thể
lớn hơn cái toàn thể của nó. Số học đơn giản nói rằng nếu chúng
ta bẻ một vật thành nhiều mảnh thế rồi cộng các mảnh đó lại,
tổng của chúng không bao giờ có thể vượt quá cái toàn thể. Đây
là một sự kiện đơn giản, trực tiếp. Nếu chúng ta đổi một ru pi
thành một trăm xu, tổng của một trăm xu này không bao giờ có
thể lớn hơn một ru pi được. Nó có thể lớn hơn được không?
Chính số học đơn giản là việc cộng các bộ phận không bao giờ có
thể lớn hơn cái toàn thể. Nhưng Ouspensky nói còn có một toán
học khác, cao hơn, và đó là toán học của cuộc sống. Trong toán
học này, không nhất thiết là hai cộng với hai phải bằng bốn. Lúc
thì hai cộng với hai có thể là năm - hay ba. Trong cuộc sống, ông
ấy bảo chúng ta, tổng của các bộ phận đôi khi vượt quá cái toàn
thể. Chúng ta sẽ phải hiểu điều này rõ ràng hơn chút ít, vì nếu
chúng ta không thể hiểu được nó chúng ta sẽ không có khả năng
hiểu được đầy đủ ý nghĩa của lời kinh đầu tiên và cuối cùng của
Ishavasya.
Một hoạ sĩ vẽ một bức tranh. Giả sử chúng ta ước lượng về
giá vật liệu của anh ta. Mầu giá bao nhiêu? Chẳng nhiều mấy,
chắc chắn. Còn vải vẽ? Cũng không mấy. Nhưng không công
trình nghệ thuật lớn nào, không một bức tranh đẹp nào, đơn thuần
là pha trộn mầu sắc được thêm lên vải vẽ: nó là cái gì đó nhiều
hơn.
Một nhà thơ soạn ra một bài thơ, một bài ca. Tất cả các từ
được dùng trong đó đều hoàn toàn là những từ bình thường
chúng ta vẫn dùng hàng ngày. Có lẽ bạn có thể gặp một hay hai
từ trong đó ít được dùng thường xuyên hơn; dù vậy, chúng ta vẫn
biết chúng. Vậy mà không bài thơ nào đơn giản là tuyển tập các
từ. Nó là cái gì đó nhiều hơn tuyển tập và bố trí từ ngữ. Một
người chơi đàn sitar; hiệu quả được tạo ra trong tim ta khi nghe
những nốt nhạc này của đàn sitar không chỉ đơn thuần là tác động
của âm thanh. Cái gì đó hơn nữa làm chúng ta xúc động.
Chúng ta hiểu hiện tượng đó theo cách này. Trong khi nhắm
mắt, một người chạm vào tay bạn một cách yêu mến. Lần nữa,
cũng người đó chạm vào tay bạn với thất vọng lớn lao. Cái chạm
trong cả hai trường hợp là như nhau. Khi có liên quan tới cái
chạm thể chất, chạm thân thể không có khác biệt căn bản giữa hai
cái chạm này. Vậy mà chắc chắn có một phần tử phân biệt nào đó
trong cảm giác về một ai đó chạm vào chúng ta một cách yêu
mến: cái chạm của người giận dữ là hoàn toàn khác với cái chạm
yêu mến. Và lần nữa, khi ai đó chạm vào chúng ta hoàn toàn
dửng dưng chúng ta chẳng cảm thấy gì trong cái chạm đó. Vậy
mà hành động chạm là như nhau trong tất cả những trường hợp
này. Nếu chúng ta hỏi nhà vật lí, ông ta sẽ đáp rằng mức độ sức

ép được sử dụng trên tay chúng ta từ cái chạm của người khác có
thể đo được - thậm chí cả lượng nhiệt truyền từ tay nọ sang tay
kia cũng có thể đo được. Tuy vậy, tất cả nhiệt, tất cả sức ép, đều
không thể bằng bất kì cách nào phơi bầy ra được liệu một người
chạm vào chúng ta đã làm như vậy từ yêu hay giận. Vậy mà
chúng ta kinh nghiệm khác biệt giữa những cái chạm có khác biệt
về chất. Cho nên chắc chắn cái chạm không đơn thuần là tổng
của nhiệt, sức ép và điện tích được chuyển vận trong tay: nó là
cái gì đó hơn nữa.
Cuộc sống phụ thuộc vào toán học cao hơn. Cái gì đó hoàn
toàn mới, và đầy ý nghĩa, được sinh ra từ tổng của các bộ phận.
Cái gì đó tốt hơn tổng của các bộ phận được tạo ra. Cái gì đó
quan trọng được sinh ra ngay từ những cái thấp nhất. Cuộc sống
không chỉ là số học đơn giản - nó là số học tinh tế và sâu sắc hơn
nhiều. Nó là số học nơi con số trở thành vô nghĩa, nơi qui tắc
cộng và trừ trở thành vô dụng. Người không biết tới cái bí mật
này của cuộc sống, cái nằm bên ngoài số học thông thường của
cuộc sống, sẽ không hiểu ý nghĩa và mục đích của cuộc sống.
Có nhiều điều ngạc nhiên cho lời kinh vĩ đại này. Nó nói
rằng:

**Khi cái toàn thể được lấy ra từ cái toàn thể,
chú ý, phần còn lại là toàn thể**

Theo quan điểm của số học thông thường điều này tuyệt đối
không đúng. Nếu chúng ta loại bỏ một phần nào đó của một vật,
phần còn lại không thể cùng như nó lúc đầu. Cái gì đó ít hơn sẽ
còn lại. Nếu tôi lấy mười đồng khỏi sổ tiết kiệm có một triệu
đồng, tổng số sẽ là cái gì đó ít hơn. Nó sẽ ít hơn thậm chí nếu
mười xu được lấy ra. Phần còn lại không thể bằng với số tiền như
nguyên gốc ban đầu. Một của cải lớn đến đâu cũng có thể - ngay
cả như kho châu báu của Solomon hay Kubla - bị rút bớt nếu chỉ
mười xu bị loại bớt khỏi nó; nó không thể như nó trước đây nữa.
Tương tự, dù một của cải lớn đến đâu, cứ thêm mười xu vào, nó
vẫn lớn ra. Nhưng theo lời kinh này cái toàn thể có thể bị lấy ra
từ cái toàn thể - không chỉ mười xu mà toàn bộ của cải - và phần
còn lại vẫn cứ là toàn thể.
Điều này dường như giống việc lảm nhảm của người điên có
tri thức số học bằng không. Ngay cả người mới bắt đầu cũng biết
rằng một vật sẽ ít đi nếu cái gì đó được lấy ra khỏi nó, không
thành vấn đề lấy ra ít đến đâu; và nếu cái toàn thể được lấy ra; sẽ
không có gì còn lại cả. Nhưng lời kinh này tuyên bố rằng không
chỉ cái gì đó, mà cái toàn thể, vẫn cứ còn lại. Những người chỉ
biết đến logic của hộp tiền tiết kiệm chắc chắn sẽ không hiểu
được hiện tượng này. Hiểu biết dường như từ một chiều hướng
hoàn toàn mới.
Tình yêu của bạn có giảm bớt đi khi bạn đem nó cho ai đó
không? Bạn có kinh nghiệm thấy bất kì sự khan hiếm tình yêu
nào khi bạn cho nó toàn bộ không? Không! ‘yêu’ là từ mà chúng
ta cần để đi tới để hiểu lời kinh này; đây là từ chúng ta sẽ phải
dùng. Dù bạn cho đi biết bao nhiêu tình yêu của mình, cái còn lại
với bạn vẫn nhiều như nó tự nguyên thuỷ. Hành động cho nó đi
không tạo ra thiếu hụt. Ngược lại, nó tăng trưởng, tăng thêm khi
bạn cho nó đi, nó đi vào bạn càng sâu hơn khi bạn phân phát nó
càng nhiều hơn. Khi bạn cho nó một cách tự do, sự giàu có tình
yêu bên trong bạn bắt đầu phát triển. Người đem cho toàn bộ tình
yêu, một cách tự do và không điều kiện, trở thành người sở hữu
tình yêu vô tận.
Số học đơn giản không bao giờ có thể hiểu được rằng khi cái
toàn thể được lấy ra từ cái toàn thể, phần còn lại là toàn thể. Chỉ
tình yêu có thể tìm thấy nghĩa này trong phát biểu này. Einstein
không thể giúp gì được. Tìm kiếm loại trợ giúp đó sẽ là vô dụng.
Thay vì vậy tới Meera hay Chaitanya đi; qua họ có lẽ bạn có thể

tìm ra cách thức của mình để hiểu, vì đây là một chủ đề liên quan
tới cái khác nào đó, chiều hướng không biết, trong đó không cái
gì giảm đi khi bị đem cho. Kinh nghiệm duy nhất bạn có mà có
khả năng làm cho bạn hiểu được điều này trong tia chớp bất thần
của sáng suốt là tình yêu - và trong số một trăm người, chín mươi
chín người trong các bạn là mù với kinh nghiệm này. Nếu, trong
khi cho đi tình yêu của bạn, bạn kinh nghiệm cảm giác về mất
mát, thế thì biết rằng bạn không có kinh nghiệm gì về tình yêu
chút nào. Khi bạn trao tình yêu cho ai đó, và cảm thấy bên trong
bạn rằng cái gì đó đã biến mất, thế thì biết rằng điều bạn đã cho
đi phải là cái gì đó khác. Nó không thể là tình yêu được. Nó phải
là cái gì đó thuộc vào thế giới của đô la và đồng bảng. Nó phải là
thứ đo đếm được điều có thể được định giá theo con số, cân đong
theo số dư và ước lượng theo mét. Nhớ lấy, bất kì cái gì đo đếm
được đều là chủ thể cho luật giảm thiểu. Chỉ cái không đo đếm
được và không dò được sẽ còn như cũ bất kể bao nhiêu thứ bị
lấy ra khỏi nó.
Bạn đã kinh nghiệm rằng tình yêu, khi được trao đi, giảm đi
không? Gần như mọi người đều quen thuộc với nó. Nếu ai đó yêu
tôi, tôi muốn rằng cô ấy không yêu ai khác nữa, vì lập luận của
tôi nói rằng tình yêu bị phân chia là tình yêu bị giảm sút. Cho nên
tôi tìm kiếm trở thành người chủ duy nhất và sở hữu tình yêu của
cô ấy. Yêu cầu của tôi là ở chỗ người yêu tôi phải không trao dù
chỉ một thoáng nhìn yêu đương cho bất kì ai khác; một thoáng
nhìn như vậy là chất độc đối với tôi, vì “tôi biết” rằng bây giờ
tình yêu của cô ấy với tôi sẽ bắt đầu giảm sút đi. Nếu tôi níu bám
vào khái niệm giảm sút tình yêu này, tôi cần phải chấp nhận rằng
tôi không có ý tưởng gì về tình yêu là gì. Nếu tôi có bất kì đánh
giá cao nào về tình yêu đúng đắn, tôi cũng sẽ muốn người yêu
của tôi đi ra và đem tình yêu đó cho toàn thế giới một cách tự do,
bởi vì qua việc cho như thế cô ấy sẽ đi tới hiểu ra bí mật của nó
và điều bí ẩn của nó, và khi cô ấy rơi ngày càng đi sâu hơn vào
trong tình yêu, tình yêu của cô ấy với tôi nữa, cũng sẽ tràn ngập.
Nhưng không, chúng ta dốt nát về toán học cao hơn này.
Chúng ta sống trong thế giới của toán học rất đơn giản nơi mọi
thứ đều giảm sút đi qua phân phát; cho nên điều hoàn toàn tự
nhiên là mọi người sẽ sợ về hành động cho. Vợ sợ chồng cho tình
yêu của anh ấy cho ai đó khác, và chồng sợ rằng vợ mình có thể
yêu người đàn ông khác. Thực tại, nói về chồng hay vợ có thể rơi
vào tình yêu với ai đó khác là bên ngoài vấn đề, vì cái thế khó xử
đó đã tồn tại bên trong gia đình rồi. Khi người mẹ biểu lộ tình
yêu với con trai, chồng cô ấy ghen; và khi bố biểu lộ tình yêu với
con gái, vợ người đó ghen. Căng thẳng phát sinh trong những
hoàn cảnh như thế, vì tình yêu thực vắng bóng. Cái cảm giác mà
chúng ta vẫn gọi là yêu không phải là tình yêu thực.
Kiểm thử thực sự về tình yêu nằm ở chỗ liệu nó có vượt ra
ngoài luật số lượng không. Tình yêu là không đo đếm được. Vứt
bỏ ảo tưởng của bạn rằng tình yêu thực suy giảm khi nó được
chia sẻ. Chướng ngại là ở sự kiện rằng tất cả những kinh nghiệm
khác có sẵn cho chúng ta đều là đo đếm được. Bất kì cái gì chúng
ta có đều có thể đo đếm được; giận của chúng ta, ghét của chúng
ta, và tất cả những tình cảm khác đều có thể đo đếm được.
Kinh nghiệm duy nhất vượt ra ngoài đo đếm là yêu; và yêu
là không được biết với bạn. Đây là lí do tại sao bạn thấy khó hiểu
thế về Thượng đế là gì. Người hiểu tình yêu thực là gì không lo
nghĩ về việc hiểu Thượng đế, vì nếu bạn biết yêu bạn biết
Thượng đế - chúng là một phần và một mảnh của cùng một số
học, chúng thuộc về cùng chiều. Người đã hiểu tình yêu thực sẽ
nói, “Cũng được cho dù tôi không biết đến Thượng đế. Tôi đã
biết tình yêu, thế là đủ. Mục đích của tôi đã được đáp ứng - tôi đã
biết! Tôi đã được điểm đạo vào thế giới cao hơn đó, thế giới mà

việc chia sẻ không đem tới suy giảm, nơi mọi thứ đều được trao
một cách tự do và dư dả, vẫn cứ còn lại với người cho.”
Và nhớ lấy, khi bạn cảm thấy bên trong mình một loại tình
yêu vẫn còn là toàn thể ngay cả sau khi nó đã được trao đi trong
tính toàn bộ của nó, thế thì nhu cầu của bạn về tình yêu của người
khác sẽ biến mất, vì tình yêu của riêng bạn không thể tăng lên dù
bạn có nhận được tình yêu nhiều đến đâu. Tâm niệm rằng cái
không thể bị giảm qua việc đem cho nó đi cũng không thể được
tăng thêm lên qua việc nhận nó. Những hiện tượng này xảy ra
đồng thời. Cho nên cũng nhận biết rằng bạn không có kinh
nghiệm gì về tình yêu chừng nào mà bạn còn cần đòi hỏi nó từ
người khác.
Điều đó không chỉ ở trẻ con mà cả người lớn nữa đấy! - tất
cả chúng ta đều đòi hỏi tình yêu, và cứ thế mà đòi hỏi về nó. Qua
các kiếp sống chúng ta cầu xin tình yêu. Các nhà tâm lí nói rằng
chỉ có một vấn đề trong các kiếp của chúng ta, và đó là nỗi lo âu
của chúng ta về cách nhận được tình yêu từ người khác. Tất cả
mọi căng thẳng của chúng ta, tất cả mọi lo lắng của chúng ta, nỗi
lo sợ và ưu tư đều có thể qui cho duy nhất điều khó xử này; và
khi chúng ta không thể tìm thấy được tình yêu, chúng ta tìm kiếm
cái thay thế. Qua các kiếp sống của mình chúng ta cố gắng để đạt
tới tình yêu; chúng ta ngưỡng mộ mùi thơm của nó, và trong theo
đuổi thường xuyên. Tại sao? Trong hi vọng rằng kho dự trữ tình
yêu của chúng ta sẽ tăng lên nếu chúng ta nhận nó. Và tất cả
những điều này có nghĩa là chúng ta vẫn chưa biết tới tình yêu, vì
cái mà tăng lên trong khi nhận thì không phải là tình yêu. Dù
khối lượng tình yêu mà chúng ta nhận được nhiều đến đâu không
thành vấn đề, tình yêu vẫn cứ còn như nó vậy.
Cho nên người hiểu lời kinh này về tình yêu một cách đầy đủ
cũng hiểu hai sự kiện này. Thứ nhất, dù tôi đem cho nó đi nhiều
đến đâu, tình yêu của tôi sẽ không giảm đi; và thứ hai, dù tôi
nhận được tình yêu nhiều đến đâu, tình yêu trong tôi sẽ không
tăng lên. Cho dù toàn thể đại dương tình yêu xô vào trong tôi,
tình yêu của tôi sẽ không tăng thêm lấy một giọt, không giảm đi
một giọt nếu tôi đem tất cả nó cho đi.

**Và khi cái toàn thể được lấy ra từ cái toàn thể,
chú ý, phần còn lại là toàn thể**

Toàn bộ vũ trụ này bắt nguồn từ Thượng đế. Nó không nhỏ
đâu - nó là vô tận, vô giới hạn, không biên giới. Nó không có
chiều hướng, vô thuỷ, vô chung. Thượng đế vẫn còn là toàn thể
mặc dầu cái mênh mông như thế đã được sinh ra từ ngài. Và
ngay cả khi tất cả vũ trụ bao la này trở về trong cái toàn bộ cao
nhất đó - sự tồn tại - và một lần nữa lại được nhận chìm vào trong
nó, Thượng đế vẫn còn là toàn thể. Sẽ không có tăng lên không
giảm đi trong nó.
Chúng ta cố hiểu hiện tượng này từ tầm hướng khác. Chúng
ta biết đại dương: nó là một kinh nghiệm được các giác quan
chúng ta thấy và cảm nhận. Nó có thể giảm đi, nó có thể tăng lên.
Bao la như nó, nó không phải là vô giới hạn. Sông chảy vào
trong nó liên tục, và không bao giờ nổi ra. Mây trên trời cứ lấy
nước của nó và mưa rào xuống đất. Không bao giờ có thiếu hụt
nước trong biển. Và cho dù nó có giảm đi, vì nó mênh mông thế,
nó không là vô tận, không vô giới hạn. Hàng nghìn dòng sông
chảy vào trong nó khó làm sai biệt dù chỉ một li nước trong khối
lượng của nó; nó bao la thế. Nó thách thức trí tưởng tượng để
quan niệm cho nổi và khối lượng nước đã được ném vào trong
biển cả mọi khoảnh khắc bởi những con sông như Brahmaputtra,
sông Hằng, sông Amazon. Vậy mà với mọi dáng vẻ biển vẫn còn
là vậy. Ngày tiếp ngày tia nắng mặt trời làm khô nước của nó, và
mây trên trời được sinh ra từ nó. Mặc cho tất cả những thao tác
này biển dường như vẫn còn là hằng số về khối lượng, nhưng

điều đó thực ra không là sự kiện cho hoàn cảnh không tăng hay
giảm. Nó giảm đi và nó tăng lên, nhưng nó bao la đến mức chúng
ta không biết gì về những thay đổi này.
Nếu chúng ta ngẩng mặt lên trời và tìm trong không gian,
chúng ta gặp một kinh nghiệm thuộc loại khác. Mọi thứ đang tồn
tại, tồn tại trong không gian. Chính ý nghĩa của không gian là
một phần tử mà trong đó mọi thứ được hàm chứa. Không gian là
cái mà trong đó tất cả mọi thứ đều được hàm chứa. Cho nên ghi
chép lại, rằng không gian không thể tồn tại bên trong bất kì phần
tử nào. Nếu chúng ta bắt đầu suy nghĩ rằng không gian bản thân
nó phải được chứa bên trong một phần tử nào khác, chúng ta phải
quan niệm về ý tưởng của một không gian lớn hơn nào đó. Tình
huống này trở nên khó khăn, và chúng ta bị buộc vào trong nguỵ
biện mà các nhà logic gọi là hồi qui vô hạn. Điều này là việc lao
vào ngu xuẩn bất tận, trong đó bây giờ chúng ta phải xác định
bản chất của không gian lớn hơn mà trong đó không gian này
được hàm chứa. Câu hỏi trở thành bất tận, vì bây giờ chúng ta cứ
phải hỏi mãi, “Và cái gì là bản chất của phần tử bao quanh?”
Không, chúng ta phải chấp nhận rằng mọi thứ đều được hàm
chứa bên trong không gian, và không gian không bị chứa. Không
gian bao quanh tất cả và không bị bao quanh. Do đó mọi thứ xảy
ra bên trong không gian, nhưng nó không được thêm vào bởi sự
xảy ra; và mặc dầu mọi thứ bên trong nó đều đi đến kết thúc,
không gian không bị giảm đi. Không gian là như nó vậy. Nó vẫn
còn trong cái như thế của nó; nó vẫn còn trong hoàn cảnh riêng
của nó. Bạn xây toà nhà, một lâu đài tráng lệ; sau một thời gian,
lâu đài của bạn sẽ sụp đổ thành đống đổ nát. Cho nên các lâu đài
vươn lên trời xanh sẽ bị thu về mặt đất lần nữa. Không gian sẽ
không bị ảnh hưởng gì; nó không bị bớt đi khi bạn xây lâu đài
của mình, và nó sẽ không tăng lên khi lâu đài của bạn sụp đổ.
Lâu đài được xây dựng bên trong không gian, và tương tự sẽ sụp
đổ bên trong không gian. Những biến cố này không gây khác biệt
gì trong không gian. Có lẽ, thế thì, không gian đem chúng ta tới
gần sự tồn tại hơn: điều này tôi định giải thích cho bạn.
Không gian ở bên ngoài tầm với của chúng ta, nó là không
có chất liệu: và vậy mà, trong khi xây nên một toà nhà hay làm
bất kì vật gì khác, chúng ta có cảm giác về không gian tăng lên
hay giảm đi. Bạn không thể chiếm chỗ tôi đang ngồi, vì tôi đã
chiếm không gian này. Có không gian ở đây mà bạn có thể dùng
nếu tôi không lấp kín nó. Ở một chỗ chúng ta chỉ có thể xây dựng
một toà nhà; chúng ta không thể dựng lên một toà nhà khác tại
cùng chỗ ấy. Tại sao? - vì toà nhà được chúng ta xây dựng đã
dùng không gian đó. Bây giờ nếu toà nhà này đã dùng không
gian đó, có một cảm giác trong không gian đó có thể được nói là
đã bị giảm đi. Chúng ta bị bắt buộc phải xây dựng các toà nhà
chọc trời chính xác bởi vì không gian bề mặt đất bị giảm đi từng
ngày. Khi giá đất tăng lên, các toà nhà được xây dựng cao hơn và
cao hơn và đất trở nên đắt hơn vì ngày càng nhiều đất bị chiếm
giữ. Cho nên, khi không gian có sẵn bị giảm đi, các toà nhà leo
lên cao hơn và cao hơn. Chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ bắt đầu
xây dựng những toà nhà dưới đất, vì có giới hạn chiều cao cho
điều chúng ta có thể xây dựng.
Chúng ta bận bịu lấp đầy không gian bầu trời của mình, bầu
khí quyển của mình. Càng ngày chúng ta càng lấn lên trời, ngấu
nghiến ngày càng nhiều không gian hơn. Biết bao nhiêu không
gian trống đã giảm đi... Đúng là không gian vô tận trải rộng vào
trong cái trống rỗng về mọi phía. Thực sự không thiếu hụt không
gian chút nào. Nhưng không không gian nào khác có thể được
tạo ra trên đất mà chúng ta đang ngồi. Bất kì chỗ nào các toà nhà
đứng, không gian bị dùng. Không gian đất có sẵn cho chúng ta
còn lại ít hơn nhiều.
Thượng đế là không giới hạn. Thượng đế không giảm đi. Đại
dương, bao la thế với chúng ta, là một giọt tí xíu thế của điều

Thượng đế là gì. Vâng, nó là khổng lồ so với những con sông lớn
như sông Hằng và Brahmaputtra. Tất cả mọi việc chảy của chúng
vào đại dương không tạo ra khác biệt thấy được nào đối với nó;
và vậy mà có khác biệt, mặc dầu nó không thể cân đong hay đo
đếm được. Lớn hơn biển cả và đại dương rất nhiều là bầu trời;
vậy mà đối với chúng ta, điều này nữa cũng có giới hạn. Việc đạt
tới khái niệm về Thượng đế cần thêm một bước nhảy nữa, trong
đó mọi logic, ý tưởng và tưởng tượng sẽ phải bị vứt bỏ.
Thượng đế có nghĩa là sự tồn tại, hiện hữu - điều đơn giản là:
tính đang đấy là thuộc tính của Thượng đế. Bất kì cái gì chúng ta
có thể làm, nó không tạo ra khác biệt gì cho tính đang đấy của
ngài. Các nhà khoa học có một cách khác để phát biểu chân lí
này. Họ nói, “Không cái gì có thể bị phá huỷ.” Điều này có nghĩa
là chúng ta không thể loại bỏ được bất kì điều gì khỏi tính đang
đấy của nó. Nếu chúng ta muốn phá huỷ một mẩu than, chúng ta
có thể biến nó thành tro, nhưng tro đó sẽ tồn tại. Chúng ta thậm
chí có thể vứt nó xuống biển; nó sẽ trộn lẫn vào trong nước và sẽ
không còn thấy được nữa, nhưng dù hình dạng của nó bây giờ thế
nào, nó vẫn sẽ tồn tại. Chúng ta có thể phá huỷ hình dạng của nó,
nhưng chúng ta không thể phá huỷ tính đang đấy của nó. Tính
đang đấy của nó sẽ vẫn còn mãi mãi. Bất kì cái gì chúng ta cứ
làm với nó, sẽ không tạo ra khác biệt gì cho tính đang đấy của nó.
Tính đang đấy sẽ vẫn còn. Tất nhiên, chúng ta có thể thay đổi
hình và dạng của nó; chúng ta có thể cho nó hàng nghìn hình
dạng khác nhau - chúng ta có thể biến đổi nó lặp đi lặp lại -
nhưng chúng ta không thể thay đổi cái ở bên trong nó. Cái đó sẽ
còn lại. Nó đã là gỗ hôm qua, nó là tro hôm nay. Nó là đất sét
hôm qua, hôm nay nó là than. Hôm qua nó là than, hôm nay nó là
kim cương. Bao giờ cũng thế, nó vẫn đấy. Không cái gì tạo ra bất
kì khác biệt gì cho nó: nó vẫn còn.
Thượng đế là tính đang đấy trong mọi thứ - hiện hữu của
chúng, sự tồn tại của chúng. Mọi thứ có thể được tạo ra theo bất
kì số lượng nào, nhưng sẽ không có việc bổ sung thêm nào cho
tính đang đấy; chúng có thể bị phá huỷ theo bất kì số nào mà dầu
vậy sẽ không có việc rút bớt trong tính đang đấy. Nó sẽ vẫn còn
như cũ - không hoen ố, không gắn bó và không bị đụng chạm tới.
Khi chúng ta vẽ một đường trên mặt nước, cho dù nó tan
biến ngay khi được vẽ ra, cái gì đó đã xảy ra. Thậm chí không
một đường tạm thời như thế này có thể được vẽ vào trong sự tồn
tại - thậm chí ngần này là không có thể. Lời kinh này nói rằng cái
toàn thể này đã đi ra từ cái toàn thể kia. Cái kia là không biết; cái
này đã biết. Cái này mà thấy được đã đi ra từ cái kia, cái không
thấy được. Cái này mà chúng ta biết được đã đi ra từ cái kia mà
chúng ta không biết. Điều này mà chúng ta kinh nghiệm qua đã
đi ra từ điều kia mà nằm bên ngoài kinh nghiệm của ta.
Hiểu hiện tượng này cho đúng. Bất kì cái gì rơi vào bên
trong kinh nghiệm của chúng ta bao giờ cũng đến từ cái nằm bên
ngoài kinh nghiệm của chúng ta. Bất kì cái gì được chúng ta thấy
đều nổi lên từ cái không thấy được. Điều chúng ta biết đến từ cái
không biết; và bất kì cái gì quen thuộc với chúng ta đều dẫn ra từ
cái không quen biết. Nếu chúng ta gieo một hạt mầm, cây mọc
lên từ nó. Nếu chúng ta đập hạt mầm và nghiền vụn nó thành
từng mảnh, sẽ không có cây. Sẽ không có dấu vết gì của hoa mà
đáng ra sẽ nở. Sẽ không có dấu vết gì của những cái lá mà đáng
ra sẽ xuất hiện. Chúng tới từ đâu?
Chúng tới từ cái vô hình. Chúng được tạo ra bởi cái vô hình.
Mọi khoảnh khắc cái vô hình đang được biến đổi thành cái hữu
hình, và cái hữu hình đang mất đi vào cái vô hình. Mọi khoảnh
khắc cái vô hạn đi vào trong cái hữu hạn và mọi khoảnh khắc trở
lại từ nó. Cũng hệt như qua trình thở của chúng ta - hít vào và thở
ra. Cái toàn thể của sự tồn tại liên tục hít vào và thở ra. Những
người biết đến bí mật của quá trình thở của sự tồn tại gọi nó là
sáng tạo và triệt tiêu. Họ nói sáng tạo xảy ra khi sự tồn tại hít

vào, và triệt tiêu xảy ra khi sự tồn tại thở ra, và giữa hai hơi thở
này chúng ta trải qua vô hạn kiếp sống. Khi sự tồn tại thở vào rồi
thở ra, chúng ta trải qua vô hạn lần sinh thành, không thể đếm
được số lần chúng ta tới và đi.
Lời kinh này nói lên hai điều. Thứ nhất, đó là cái toàn thể tới
từ cái toàn thể và cái còn lại là cái toàn thể. Thứ hai, đó là khi cái
toàn thể bị hấp thu vào trong cái toàn thể, nó vẫn là cái toàn thể.
Cái toàn thể đó bao giờ cũng vẫn còn trinh bạch, bao giờ cũng
chưa bị động tới. Không cái gì ảnh hưởng tới trinh bạch của nó.
Đây là vấn đề rất khó hiểu. Nó giống như thế này: một đứa trẻ
được sinh ra, nhưng người mẹ vẫn còn trinh. Câu chuyện như thế
đã được kể về Jesus và mẹ của ông ấy, Mary. Sau khi sinh ra
Jesus, Mary được gọi là đức mẹ đồng trinh đầy ân huệ. Câu
chuyện này lan truyền trong những người biết và hiểu về Jesus và
Mary, và nó đích xác giống như sinh thành của sự tồn tại; cái
toàn thể tới từ cái toàn thể.
Ki tô giáo không có khả năng giải thích biến cố này. Người
Ki tô giáo đã bị trở ngại bởi khái niệm về sinh thành đồng trinh.
Họ dốt nát về số học mà có thể để cho người mẹ còn đồng trinh
sau khi đã sinh con. Họ không biết chút nào về số học đó; họ
hoàn toàn dốt nát về toán học cao hơn. Ki tô giáo bị thách đố lớn.
Người Ki tô giáo hỏi, “Làm sao chúng ta có thể giải thích hiện
tượng này được? Điều ấy không thể được - đấy là phép màu!
Điều ấy tuyệt đối không thể được nhưng nó đã xảy ra, Thượng đế
đã cho chúng ta thấy phép màu.”
Bất kì phép màu nào được sự tồn tại trưng ra trong thế giới
này đều được trưng ra bởi mọi khoảnh khắc của nó. Không có
phép màu nào xảy ra trong thế giới này - hay, để thấy nó theo
cách khác, việc xảy ra của mọi khoảnh khắc đều là phép màu. Tất
cả đều là phép màu. Khi cây lớn lên từ hạt mầm, đấy là phép
màu; và khi đứa trẻ được sinh ra từ bụng mẹ, đấy là phép màu.
Không, không có gì lạ ở đây cả: vũ trụ bao la này được sinh ra từ
cái toàn thể, vậy mà cái mà nó tới từ đó không bị động chạm.
Nếu người mẹ đi sâu đến mức bà ấy bị cuốn hút - theo ý nghĩa
của lời kinh này - vào trong cái toàn thể, thế thì đâu là khó khăn
trong việc vẫn còn trinh bạch sau khi sinh con? Nếu người mẹ
hội nhập vào trong lời kinh này, trở thành một với nó, cô ấy có
thể trở thành người mẹ và vẫn còn trinh bạch.
Nhưng người tìm kiếm phải hiểu lời kinh này cho đúng - và
tôi đang nói điều này bởi vì tôi thấy ham muốn của bạn để đạt
tới. Bạn muốn đạt được cái gì đó. Người tìm kiếm thực sự không
nói về tất cả những điều này: sau hết, cái gì có thể xảy ra chỉ bởi
việc nói? Người đó biết rằng người đó không biết; và trong bất kì
hoàn cảnh nào điều gì có thể xảy ra chỉ qua việc biết? Người đó
sống nó. Người đó có ý thức. Có lẽ bạn sẽ hiểu dễ dàng thông
qua thực nghiệm cá nhân hơn là bạn sẽ hiểu qua lời tôi. Cho nên
thực nghiệm đi. Tự tham dự vào trong một hành động thường lệ,
nhỏ bé, và có ý thức vào mọi lúc: Nó đang xảy ra - tôi không làm
nó. Thử nó đi. Thấy nó, trong khi làm bất kì cái gì. Thấy nó trong
khi ăn, thấy nó trong khi bước dọc đường, thấy nó khi bạn đang
giận ai đó. Và nhận biết rằng sự việc đang xảy ra. Đứng đằng sau
và là nhân chứng cho điều đang xảy ra - thế thì bạn sẽ phát hiện
ra bí mật của lời kinh này. Bạn sẽ giữ chìa khoá bí mật trong tay
bạn. Bạn sẽ hiểu rằng cái gì đó đang xảy ra bên ngoài và bạn
đang đứng đằng sau, không động chạm và không liên quan. Như
bạn đã vậy trước khi làm nó, cho nên bạn vẫn còn lại sau đó, và
sự kiện xảy ra ở giữa đến như giấc mơ, và qua đi như giấc mơ.
Với sự tồn tại, luân hồi samsara - bánh xe cuộc sống - không
nhiều hơn mơ. Nếu nó trở thành mơ với bạn nữa, thế thì bạn trở
thành không tách biệt khỏi sự tồn tại. Tôi nhắc : với sự tồn tại,
luân hồi không gì nhiều hơn mơ; và chừng nào luân hồi còn hơn
là mơ đối với bạn, bạn sẽ kém hơn sự tồn tại. Cái ngày luân hồi
trở thành như mơ với bạn, bạn là sự tồn tại. Thế thì bạn có thể
nói, “Ta là Brahman.”

Đây là lời kinh sâu sắc thế. Không ai biết được bao nhiêu bí
mật được hàm chứa bên trong nó. Phần còn lại là toàn bộ ngay cả
khi cái toàn thể được lấy ra khỏi nó. Tâm niệm cả hai điều này -
cái toàn thể còn lại, và cái toàn thể được lấy ra: nó đi toàn bộ, nó
còn lại toàn bộ! Điều này nghĩa là gì? Nó có nghĩa là mọi cá nhân
cũng là sự tồn tại, trong sự toàn bộ. Mỗi và mọi cá nhân, và mỗi
và mọi nguyên tử, là sự tồn tại toàn bộ. Không phải là một
nguyên tử là sự tồn tại bộ phận - không, nó là sự tồn tại trong
toàn bộ. Bởi điều này không được biết tới trong số học thông
thường của chúng ta, có hơi chút khó hiểu.
Nếu bạn đã hiểu rằng cái toàn thể đến từ cái toàn thể, và cái
còn lại là cái toàn thể, thế thì tôi có thể nói thêm cho bạn. Cái
toàn thể vô tận đến từ cái toàn thể, và dầu vậy cái còn lại là toàn
thể. Nếu sau khi một cái toàn thể nổi lên, không có khả năng nào
cho cái toàn thể khác xuất hiện, điều đó có nghĩa là một khiếm
khuyết nào đó được gây ra bởi việc sinh thành nên cái toàn thể
thứ nhất. Nhưng nếu, sau khi cái toàn thể thứ nhất nổi lên, cái
toàn thể thứ hai xuất hiện, cũng nhiều như cái toàn thể này, và
cái thứ ba cũng thế - nếu những cái toàn thể liên tiếp cứ nổi lên
và dầu vậy bao giờ cũng có nhiều tiềm năng cho việc nổi lên của
các cái toàn thể - thế thì cái còn lại quả thực là cái toàn thể.
Do đó không phải bạn là một phần của sự tồn tại; nói điều
này là sai lầm. Bất kì ai nói bạn là một phần của sự tồn tại đều
sai. Người đó nói về toán học thấp hơn. Người đó đang nói về cái
thế giới mà hai cộng với hai là bốn. Người đó đang nói về thế
giới của cân đong và đo đếm. Tôi bảo bạn, và Upanishad bảo
bạn, và những người đã từng biết tới chân lí bảo bạn, rằng bạn là
sự tồn tại trong toàn bộ. Điều này không có nghĩa là người hàng
xóm của bạn không phải là sự tồn tại trong toàn bộ.
Không, sự kiện này không thể thay đổi được. Một bông hồng
nở trên bụi cây - và việc nở hoa tới độ cao nhất; nhưng tính toàn
bộ của việc nở hoa của nó không ngăn cản việc nở hoa của nụ
hoa bên cạnh nó. Giúp đỡ và hợp tác trở thành có thể, nhưng
chắc chắn không có cản trở. Một nghìn bông hồng có thể nở tới
độ tròn trịa nhất: tính toàn bộ của sự tồn tại là tính toàn bộ vô tận.
Từ tính toàn bộ vô tận này, các cái toàn thể vô tận có thể được
sinh ra. Từng cá nhân đều là sự tồn tại trong toàn bộ. Từng
nguyên tử đều là vũ trụ bao la này trong toàn bộ; không một chút
xíu khác biệt nào giữa nó và cái toàn thể. Nếu có bất kì khác biệt
nào thế thì nó không bao giờ có thể là cái toàn thể được, thế thì
không có cách nào để làm nó thành cái toàn thể; và nếu nó sẽ trở
thành cái toàn thể, thế thì nó là toàn thể ngay lúc này - chúng ta
dốt nát về sự kiện đó. Khiếm khuyết này đơn giản là trong tri
thức của chúng ta.
Lưu tâm tới lời kinh này trong những ngày sadhana của
chúng ta - công việc chúng ta cùng nhau. Lặp lại cho bản thân
bạn, “Cái toàn thể đến từ cái toàn thể, và cái còn lại là toàn thể.
Khi cái toàn thể được hấp thu vào trong cái toàn thể, cái toàn thể
vẫn còn là cái toàn thể.” Tất cả nó đều không tạo ra khác biệt
nào! Nhớ điều này trong tâm trí, và cứ lẩm bẩm nó bên trong bạn
với từng hơi thở của bạn. Mỗi ngày nhiều việc diễn giải của nó sẽ
được khải lộ ra dưới nhiều dạng khác nhau và trong nhiều cách
khác nhau. Giữ lời kinh này trong tâm trí, và khi chúng ta tiếp tục
khám phá nó, cứ để đi sâu hơn mãi vào trong ý nghĩa của nó, và
vào trong ghi nhớ của bạn về nó. Để những quá trình này cứ làm
việc bên trong bạn. Trong bẩy ngày này có thể là vào bất kì lúc
nào cái gì đó có thể xảy ra - bất thình lình lời kinh này có thể bật
ra từ môi bạn, và bạn sẽ cảm thấy cái toàn thể đến từ cái toàn thể,
và cái toàn thể còn lại. Cái toàn thể mất đi trong cái toàn thể và
vậy mà cái toàn thể vẫn còn là cái toàn thể. Không có gì khác biệt
gì cả. Tất cả những điều này xảy ra tựa một giấc mơ và thế mà
chẳng cái gì thực sự xảy ra cả. Tất cả những điều này xảy ra tựa
như mơ và vậy mà không cái gì thực sự xảy ra. Tất cả những điều

này giống như đóng kịch, vậy mà cái toàn thể vẫn còn không bị
quấy rối và không bị động chạm tới như bao giờ.
Nhớ lời kinh này nhiều nhất có thể được có thể sẽ có ích cho
bạn. Cố sống theo tinh thần của nó hai mươi bốn giờ một ngày.
Bản chất của Upanishad không thể được hiểu thông qua một
mình tâm trí; nó phải được lĩnh hội bằng việc sống nó. Kinh này
không tuyên bố về lí thuyết; nó trình bầy sadhanas nào đó, những
thực hành nào đó. Nó không chỉ bao gồm những kết luận tới
được với sự giúp đỡ của tri thức; nó tuyên bố kinh nghiệm. Khi
bạn sống với những kinh nghiệm này bên trong bản thân bạn -
cho chúng sinh ra trong bản thân bạn, cho phép chúng đi vào
máu, xương, thịt và các mô của bạn, cho phép chúng hội nhập
vào trong hơi thở của bạn; khi bạn sống trong lắng nghe, nhớ và
lẩm nhẩm về chúng trong lúc trải qua các việc thường ngày của
bạn như thức, đứng, ngồi và ngủ - thế thì, và chỉ thế thì bí mật
của chúng, những cánh cửa của chúng, bắt đầu mở ra cho bạn.
Bạn chỉ được trao cho lời công bố đầu tiên trong lời kinh
này. Họ phải là những người rất xuất sắc đã nói, như họ đã làm,
tất cả những cái có đó để được nói chỉ trong một lời kinh này. Nó
đi tới đầu kết thúc tuyên bố sự lắng xuống của ba dạng đau đớn:

**Om. Shanti, shanti, shanti.**

Lời kinh này có thể có quan hệ gì với việc làm lắng xuống
của nỗi đau ba lần này? Liệu khổ sở của bất kì ai có kết thúc
được bằng cách tụng niệm công thức nào đó không? Không,
nhưng hiền nhân này nói, “Om!” và điều đó kết thúc vấn đề. Liệu
tất cả mọi khổ sở của bạn có hết không, liệu bạn có trở nên thoát
khỏi chúng bằng việc tụng niệm lời kinh này không?
Nếu nó được tụng niệm trong tất cả sự chân thành, với đầy
hiểu biết, điều ấy là có thể đấy. Nếu nó đơn thuần được đọc ra từ
sách, điều ấy chẳng bao giờ có thể. Điều này là nói rằng nếu nó
được tụng niệm với thái độ, “Mình đã đọc điều này rồi - Mình đã
nghe điều này rồi,” thế thì không cái gì là có thể. Nhưng với
những người đã nói, “Om!” bằng tất cả dũng cảm và bạo dạn của
họ, mọi vấn đề xong rồi. Tất cả mọi khổ của người đã hiểu chân
lí đều được chấm dứt. Tất cả ưu phiền của thân thể, tâm trí và
linh hồn họ đều biến mất. Người như thế vượt ra ngoài ưu phiền.
Bạn nghĩ, “Phải có ý nghĩa nào đó khi ông ấy nói điều này
với sự dễ dàng thế, tin tưởng thế.” Ý nghĩa là thế này: bất kì ai
sống lời kinh này, bất kì ai cho sinh thành ra nó bên trong bản
thân mình, sẽ kinh nghiệm bản thân mình thoát khỏi mọi ưu
phiền, bởi vì chỉ có một loại ưu phiền, chỉ có một nỗi đau - dù đó
là ở mức độ tâm trí, thể chất hay tâm linh; chỉ có một loại thôi, và
đó là bản ngã. “Tôi đang làm điều này - điều này do tôi làm đấy,”
là ưu phiền duy nhất, chướng ngại duy nhất. “Xúc phạm này
nhằm vào tôi - tôi bị lăng mạ vậy ...” Tất cả những sự xảy ra này
tích luỹ quanh cái tôi này. Nhưng khi một vũ trụ bao la như thế
không tạo ra khác biệt gì với sự tồn tại, và để nó không bị động
chạm tới, tôi có phải cho phép những điều tầm thường như vậy
ảnh hưởng tới tôi không? Chẳng lẽ tôi không thể vẫn còn không
bị đụng chạm được sao? Chẳng lẽ tôi không thể đứng sang bên
và nói, “Xúc phạm này đã không được trao cho tôi” sao; và, “Bất
kì điều gì tôi đã làm đều đã được làm rồi. Tôi đã không làm nó.”
Nếu tôi trở thành nhân chứng cho những hành động xảy đến với
tôi và tiến hành từ tôi - nếu tôi dừng là người làm - thế thì những
bí mật kì diệu bắt đầu lộ ra.
Cho nên thử sống lời kinh này trong bẩy ngày này đi. Trong
khi tôi đang nói về Ishavasya Upanishad bạn sẽ nghe kinh này
được diễn giải từ nhiều góc độ khác nhau. Nếu bạn cố sống theo

diễn giải tôi đã nêu ra hôm nay, hiều biết chắc chắn sẽ tới với
bạn; không có điều ngược .
Đây là đủ về lời kinh. Bây giờ tôi sẽ nêu ra một số hướng
dẫn liên quan tới thiền, vì sáng mai chúng ta sẽ bắt đầu thực hành
thiền. Điều đầu tiên phải lưu tâm là trong cả ngày thở thật toàn
bộ hết mức và, bất kì khi nào bạn nhớ ra, hít vào thật sâu hết
mức. Thật nhiều ô xi! Năng lượng bạn giải phóng ra cho công
việc của bạn sẽ tỉ lệ trực tiếp với việc lấy vào hơi thở của bạn.
Rất nhiều năng lượng nằm ẩn trong thân thể bạn. Nó phải được
khuấy động và kích hoạt hướng tới thiền; nó phải được chuyển
kênh vào thiền. Cho nên lời kinh thiền đầu tiên tôi trao cho bạn là
để kích hoạt năng lượng đó. Phương tiện gần nhất và dễ nhất có
sẵn cho bạn là hoạt động thở của bạn.
Ngay khi bạn thức dậy vào buổi sáng và trở lại với ý thức,
bắt đầu thở sâu, vẫn ngồi trên giường. Khi bạn bước đi dọc con
đường, thở sâu nhất có thể được. Làm điều đó chậm rãi, đừng
quá gắng sức mình, thoải mái và vui vẻ - nhưng nhớ, hơi thở của
bạn phải sâu. Nhớ trong tâm vào mọi lúc rằng bạn sẽ dễ dàng đi
vào trong thiền nếu bạn hít thật nhiều ô xi có thể được. Bạn càng
có nhiều ô xi trong máu, trong tim, bạn sẽ thấy việc thiền của
mình càng dễ hơn. Bạn càng tống ra nhiều các bô níc, thiền càng
dễ dàng hơn cho bạn. Cái không thuần khiết giảm đi khi bạn làm
tăng khối lượng ô xi trong thân thể mình. Điều thú vị là biết rằng
tâm trí thấy nó khó vận hành nếu cơ sở của sự không thuần khiết
của thân thể bị loại bỏ. Cơ hội cho ý nghĩ nảy nở trong tâm trí
bạn sẽ ít đi khi bạn hấp thu nhiều không khí tươi mát; và như tôi
đã bảo bạn, điều này sẽ làm tăng thêm tiềm năng cho lời kinh
giống thế này nở bung và đâm hoa bên trong bạn.
Cho nên điều thứ nhất là: thật nhiều ô xi. Để có thừa thãi ô xi
trong bạn đi. Nhớ điều này trong suốt bẩy ngày này. Hai hay ba
điều sẽ xảy ra nếu bạn làm điều này, nhưng đừng sợ chúng. Khi
bạn bắt đầu thở sâu, giấc ngủ của bạn sẽ ngắn hơn. Điều này
không phải là cái gì đó phải lo âu. Khi giấc ngủ sâu và say, việc
kéo dài của nó giảm đi, và khi bạn bắt đầu thở sâu hơn, chiều sâu
của giấc ngủ của bạn cũng sẽ tăng lên. Đây là lí do tại sao những
người làm việc vất vả về thể lực ngủ say thế trong đêm. Chiều
sâu của giấc ngủ của bạn sẽ tăng lên tỉ lệ với chiều sâu của hơi
thở của bạn, và khi chiều sâu giấc ngủ của bạn tăng lên, việc kéo
dài của nó cũng sẽ giảm đi. Đừng lo lắng về điều này. Nếu bây
giờ bạn ngủ bẩy tiếng, nó sẽ trở thành bốn hay năm tiếng. Đừng
lo lắng về điều đó - bạn sẽ tỉnh dậy vào buổi sáng sảng khoái
hơn, vui vẻ hơn và mạnh khoẻ hơn từ giấc ngủ năm tiếng này so
với bạn vẫn thường tỉnh dậy sau khi ngủ tám tiếng. Cho nên khi
giấc ngủ của bạn tới điểm kết thúc vào buổi sáng - và điều này sẽ
bắt đầu xảy ra sớm hơn nếu bạn đã thở sâu - bạn nên dậy ngay
lập tức. Đừng bỏ lỡ khoảnh khắc phúc lạc ấy của buổi sáng; dùng
nó cho thiền.
Điểm thứ hai cần nhớ là ở chỗ bạn càng ăn ít thức ăn, và bữa
ăn càng nhẹ, càng tốt hơn cho bạn. Giảm số lượng thật nhiều cho
thoải mái nhất có thể được. Nhịp độ thiền của bạn sẽ càng nhanh
chóng và dễ dàng hơn nếu bạn ăn càng ít đi. Tại sao có điều này?
Có một số lí do có căn cứ cho nó đấy. Thân thể chúng ta có một
số thói quen đã lắng đọng. Thiền không nằm trong số đó; nó là
công việc mới cho thân thể. Thân thể có những liên kết cố định.
Nếu thói quen đã thành hình của thân thể bị ngắt tại bất kì điểm
nào, thế thì thân thể và tâm trí chúng ta có thể hình thành thói
quen mới một cách dễ dàng. Giả sử bạn là người lo âu, và bắt đầu
gãi đầu theo thói quen. Bây giờ nếu tay bạn bị buộc xuống vào
lúc đó để cho bạn không thể gãi đầu được, thế thì bạn không thể
còn bị lo âu. Điều này rất thách đố. Bạn có thể hỏi, “Cái gì là mối
quan hệ giữa lo âu và gãi?” Câu trả lời là thói quen. Thân thể giữ
thói quen của nó một cách bền vững và vận hành qua chúng.

Ăn là thói quen được bắt rễ sâu nhất của thân thể; nó là sâu
nhất bởi vì không thể có cuộc sống nếu không có nó. Nhớ điều
đó trong tâm trí, nó mạnh mẽ hơn và có uy lực hơn dục. Trong
mọi thói quen bắt rễ sâu của cuộc sống, thói quen ăn uống là sâu
nhất. Nó bắt đầu từ ngày đầu của cuộc đời và tiếp diễn cho đến
ngày cuối cùng. Chính sự tồn tại của cuộc sống, bản thân thân
thể, phụ thuộc vào nó.
Cho nên, nếu bạn muốn thay đổi thói quen của tâm trí và
thân thể bạn, thế thì làm yếu đi cái thói quen sâu xa nhất này
ngay lập tức. Ngay khi bạn làm điều này, mọi lề thói và cách bố
trí thể chất cố định của thân thể bạn sẽ bị khuấy động, và bạn sẽ
thấy dễ dàng hơn để đi vào những miền mới, và đi vào những
tầm hướng mới với thân thể bạn trong hoàn cảnh đã khuấy động
này; bằng không bạn sẽ thấy càng khó khăn hơn. Cho nên tự bản
thân bạn cam kết nhiều nhất có thể được theo chiều hướng này
đi. Bạn có thể chọn nhịn ăn, hay có lẽ ăn một bữa một ngày. Làm
như bạn chọn; không cần qui tắc. Một cách yên tĩnh, và với nhịp
độ của bạn, đi theo con đường dễ dàng nhất cho bạn.
Điểm thứ ba là tập trung. Bạn phải thở sâu hai mươi bốn giờ
một ngày, và đồng thời nhận biết về việc thở của bạn. Chú ý tới
việc thở của bạn, và tập trung sẽ dễ dàng xảy ra. Khi bước đi,
đem nhận biết vào việc bước, đem nhận biết vào khi tắm. Tập
trung có thể dễ dàng được đạt tới - ngay cả khi bước đi trên
đường. Theo cách này: hít vào, bạn quan sát rằng hơi thở từ bên
ngoài đi vào bên trong - chăm chú! Giữ việc quan sát hít vào
cũng quan sát cả việc thở ra của mình. Nếu bạn chăm chú bạn
cũng sẽ có thể thở sâu. Nếu bạn không chăm chú bạn sẽ quên
quan sát, và quá trình thở của bạn sẽ trở thành nông. Nếu bạn cứ
thở sâu bạn sẽ có khả năng vẫn còn chăm chú vì bạn sẽ phải
chăm chú để làm việc thở sâu. Cho nên kết hợp thiền với thở. Khi
bạn đang làm việc gì đấy, nếu bạn cảm thấy việc ấy không thể
giữ được chú ý của bạn vào việc thở, thế thì giữ tập trung của bạn
vào nhiệm vụ của bạn. Chẳng hạn, khi bạn đang ăn thức ăn, tập
trung đầy đủ vào hành động ăn. Lấy mọi miếng nhai với tập
trung đầy đủ. Khi bạn đang tắm, tập trung vào nước đang phun
lên người bạn. Khi bước trên đường, tập trung vào từng bước bạn
đi.
Chìm ngập bản thân bạn vào tập trung trong hai mươi bốn
giờ một ngày trong bẩy ngày này. Việc thiền chúng ta sẽ thực
hiện ở đây là hoàn toàn tách biệt, nhưng tôi đang giải thích cho
bạn về nền tảng của điều bạn cần phải làm trong thời gian còn lại.
Cho nên thực hành ba điểm này: thật chăm chú, thật tập trung -
và đặc biệt vào việc thở của bạn, vì việc thở là quá trình không
dừng, hai mươi bốn tiếng một ngày. Không ai có thể cứ ăn hay
bơi hay bước liên tục hai mươi bốn tiếng, nhưng thở tiếp diễn
không dừng, cho nên việc tập trung có thể được thực hành trên
nó vào mọi lúc. Tập trung vào nó! Quên đi rằng có cái khác đang
diễn ra trên thế giới. Sống dường như chỉ một điều đang xảy ra
trên toàn bộ thế giới này, và đó là việc thở vào và việc thở ra.
Thế là đủ; đi theo quá trình thở đi vào và ra giống như chuỗi hạt.
Bạn tập trung chỉ vào điều này.
Điểm thứ tư là tước đi cảm giác. Ba điều cần phải được làm.
Nếu bạn cảm thấy có khả năng giữ im lặng trong cả ngày, thế thì
bắt đầu ngay đi; và nếu bạn thấy điều này là khó, thế thì thật vắn
tắt trong việc nói của bạn. Hiểu rằng bạn đang phải trả giá cho
từng lời bạn nói. Cho nên đừng nói quá hai mươi từ trong cả
ngày. Chỉ nói khi tuyệt đối cần thiết, khi không thể tránh được -
giống như vấn đề sống và chết! Bạn không thể tưởng tượng nổi
sẽ ích lợi thế nào cho bạn để giữ im lặng toàn bộ - giá trị của nó
không thể tính nổi.
Cho nên để cho bản thân bạn là im lặng toàn bộ; bạn sẽ
không thấy điều ấy là khó. Để một tờ giấy và bút chì cạnh mình
và nếu bạn thấy tuyệt đối bản chất, viết ra thông điệp của bạn rồi

chỉ nó cho ai đó. Vẫn còn hoàn toàn im lặng. Năng lượng này sẽ
giúp bạn đi sâu hơn vào thiền. Quá nửa năng lượng của con
người bị tiêu tốn bởi lời nói. Cho nên dừng việc dùng lời hoàn
toàn đi. Với năng lực cao nhất của bạn, gìn giữ im lặng; và hết
sức chú ý đừng làm tan vỡ im lặng của người khác. Nếu im lặng
của bạn bị tan vỡ, đấy là điều không may của bạn, đấy là trách
nhiệm riêng của bạn; nhưng thấy rằng bạn không làm tan vỡ im
lặng của bất kì ai. Đừng hỏi bất kì ai những câu hỏi vô dụng,
đừng đưa ra những yêu cầu không cần thiết, đừng nêu ra những
câu hỏi vô dụng, đừng cố kéo bất kì ai vào đối thoại. Hợp tác và
giúp đỡ người khác giữ im lặng. Nếu ai đó hỏi một câu hỏi, ra
hiệu cho người đó giữ im lặng. Người đó cần được nhắc nhở.
Gạt việc nói sang bên tuyệt đối trong bẩy ngày. Bạn đã nói
quá nhiều cho tới hôm nay, và bạn sẽ làm như thế trong thời gian
bẩy ngày. Nhưng trong một tuần này, bỏ việc nói hoàn toàn đi.
Mọi người phải cố gắng hết sức. Nếu bạn có thể duy trì im lặng
trong cả bẩy ngày điều đó sẽ giúp bạn cực kì lớn, và bạn sẽ chẳng
cần phải xin lỗi, “Tôi không thể thiền được.” Nếu bạn tuân theo
năm hướng dẫn tôi đang trao cho bạn, bạn sẽ chẳng có lí do nào
để phàn nàn. Nếu bạn tạo ra vấn đề bởi việc bỏ qua những điểm
này, chỉ bạn chịu trách nhiệm. Cho nên giữ im lặng toàn bộ, và
nếu bạn không thể làm được điều này - nếu bạn yếu đuối, nếu
bạn thiếu quyết tâm, nếu thông minh của bạn không đủ mạnh -
thế thì ít nói đến mức có thể được đi. Nếu bạn còn có thông minh
nào đó, sức mạnh ý chí nào đó, sức mạnh nào đó, tự tin nào đó,
thế thì giữ im lặng toàn bộ.
Im lặng là điều bản chất đầu tiên của chương trình loại bỏ
giác quan. Điều thứ hai là bịt mắt . Bạn làm một khăn bịt mắt và
bắt đầu dùng nó từ sáng mai. Mắt bạn phải hoàn toàn bị che kín.
Mắt là cánh cửa qua đó bạn đi ra. Bạn càng giữ cho chúng đóng
điều đó càng tốt hơn cho bạn. Ngay cả khi bạn chỉ ngồi đấy, đeo
cái che mắt lên, vì thế thì bạn sẽ không thấy người khác, và cơ
hội cho đối thoại sẽ không nảy sinh; và khi thấy bạn bị che mắt,
người khác sẽ không thử quấy rối bạn một cách không cần thiết.
Cho nên che mắt đi. Bạn đã nghe nói về giữ im lặng; bây giờ tôi
yêu cầu bạn phải bịt mù nữa.
Im lặng là một loại giải thoát và bịt mù là giải thoát lớn hơn
và sâu hơn, vì chính mắt làm cho chúng ta chạy ra ngoài cả ngày.
Bằng việc nhắm mắt, bạn sẽ có ít phạm vi đi ra ngoài nhiều hơn,
và năng lượng sẽ bắt đầu luân chuyển bên trong. Cho nên bạn
giữ cho mắt được bịt kín. Trong khi bước đi nâng nó lên một
chút, đủ để nhìn xuống, đủ để thấy mặt đường quãng một mét hai
phía trước bạn. Để cái bịt mắt trong cả ngày. Nếu bạn có thể ngủ
mà vẫn đeo nó trong đêm, cứ đeo. Chỉ cởi nó ra nếu bạn thấy bất
tiện. Nếu bạn ngủ vẫn đeo nó, sẽ có khác biệt trong việc ngủ
ngon giấc của bạn. Bạn cứ giữ nó trong thời gian bạn còn lại ở
đây. Khi chúng ta gặp nhau ở đây cho buổi thiền sáng, miếng che
mắt phải vẫn còn đeo. Cởi nó ra cho buổi thiền chiều, nhưng vẫn
giữ nó cho tới khi bạn tới được nền tảng của thiền. Vào đêm bạn
cũng phải đeo khăn che mắt đó. Một lần ở đây, bỏ nó ra trong
thời gian thiền đêm.
Cho nên, khi tôi bắt đầu nói vào buổi sáng, bỏ khăn che mắt
của bạn ra, và bỏ cả trong buổi thiền chiều và đêm. Tôi đang trao
cho bạn những cơ hội này để dùng mắt bạn vì có cơ hội nào đó
để thấy thế giới bên ngoài có thể giúp cho mắt bạn quay vào bên
trong; bằng không giữ mắt bạn nhắm lại. Bạn sẽ ngạc nhiên biết
bao nhiêu căng thẳng tâm trí biến mất khi mắt bạn được giữ
nhắm lại. Rất nhiều căng thẳng tâm trí đi vào qua mắt, và chính
căng thẳng mắt gây ra căng thẳng trong mô não. Nếu mắt vẫn còn
không bị quấy rối, bình thản và thảnh thơi, chín mươi chín phần
trăm bệnh tật tâm trí sẽ biến mất. Cho nên có ý thức và dùng đầy
đủ phương tiện này.

Không có vấn đề về bất kì ai được miễn thứ hay miễn trừ;
nếu bạn cố gắng tránh nó, tôi không phải là người mất mà bạn là
người mất. Nhớ trong tâm rằng bạn phải vẫn còn mù trong phần
lớn thời gian. Bạn phải cho mắt bạn kì nghỉ một tuần; tưởng
tượng rằng bạn không có mắt chút nào. Sau bẩy ngày bạn sẽ nhận
ra mắt bạn có thể được thảnh thơi và bình lặng đến đâu. Bạn sẽ
không bao giờ tưởng tượng được rằng nhiều vui đến thế có thể
tuôn chảy ra từ thảnh thơi của chúng này. Nhưng nếu trong
những ngày này bạn chọn tự lừa dối mình, thế thì tôi không chịu
trách nhiệm. Tất cả đều phụ thuộc vào bạn. Không ai có trách
nhiệm cho bất kì ai khác ở đây cả. Bạn có thể tự lừa dối mình hay
không, tuỳ bạn thôi.
Cũng như vải che mắt, lấy miếng bông nút vào lỗ tai. Chúng
ta muốn cho tai nghỉ ngơi nữa. Nếu mắt, tai và miệng đều đóng
và được nghỉ ngơi, kết quả là một hoàn cảnh cho việc mất giác
quan. Nút bông vào tai, thế rồi buộc chặt khăn che vào mắt.
Theo cách đó những người khác, nếu muốn, không thể quấy rầy
bạn trong im lặng của bạn. Nếu tai bạn để mở ai đó có thể định
nói với bạn. Sẽ không có cám dỗ nào nếu tai bạn bị nút kín. Bạn
để mở tai chỉ khi tôi nói ở đây vào buổi sáng, và ban đêm khi bạn
đi ngủ. Giữ mắt mở và tai nút kín trong các buổi thiền chiều và
đêm.
Hướng dẫn thứ năm và cuối cùng là điều kiện quan trọng
nhất và bản chất nhất của tất cả. Nó là thế này: chỉ những người
nào đang nhảy múa và cười trong đầy vui và phấn khởi mới vào
ngôi đền của sự tồn tại. Không người khóc nào đến được lối vào
ở đó. Cho nên vứt bỏ ưu tư và phiền muộn của bạn trong bẩy
ngày này. Phúc lạc đi! Cười, nhảy múa và vẫn còn vui vẻ. Để
phúc lạc có với bạn trong mọi lúc. Vẫn còn phấn khởi và vui vẻ
ngay trong việc thường lệ của bạn. Phúc lạc trong khi ngồi hay
bước - say sưa với âm nhạc, điên lên với vui! Khi bạn đang
bước, đừng bước như mọi người vẫn thường bước; bước như
người tìm kiếm, như một sadhu bước, với vũ điệu trong bước
chân bạn. Đừng lo nghĩ về điều người khác có thể nói. Chúng ta
tới đây là để được tự do với mọi phê phán của người khác. Tệ
nhất người khác có thể cho là bạn gàn dở, người trên cung trăng.
Vậy chấp nhận tình huống ấy ngay từ đầu đi; đây là điều xấu nhất
có thể xảy ra. Cố tạo ra bầu không khí phúc lạc và vui vẻ cho
toàn bộ trại.
Giữ im lặng - im lặng rạng ngời với vui mừng và khoan
khoái, im lặng nhảy múa trong nô giỡn và hớn hở; im lặng ở bên
ngoài, và năng lượng nhảy múa bên trong. Trong vui mừng của
bạn, nhảy múa và cười đùa. Nếu bạn cảm thấy phải nhảy múa
thậm chí trong phiên thiền im lặng buổi chiều, bạn có thể làm
như vậy. Tràn đầy vui vẻ và hạnh phúc ngay cả trong phiên thiền
buổi sáng ở đây. Nếu bạn muốn, nếu bạn cảm thấy thích nó, thậm
chí trong thiền cũng có thể nhảy, múa và cười được. Nếu bạn
khóc, để cho việc khóc đó là kết quả của vui vẻ của bạn. Để cho
nước mắt bạn giúp cho phúc lạc của bạn tuôn chảy. Nhớ tất cả
những điều này trong tâm trí. Nếu bạn muốn đung đưa, thế thì
đung đưa. Nếu bạn muốn nhảy múa trong buổi thiền đêm, thế thì
nhảy múa. Nếu bạn muốn nhún nhảy ra trước ra sau, làm điều đó.
Nếu bạn muốn cười, thế thì cười. Rung động của vui vẻ bao giờ
cũng nên có cùng với bạn.
Năm điều này là để thực hành từ sáng mai. Cho nên thu xếp
từ bây giờ để có khăn bịt mắt và bông nút tai. Đến lúc mặt trời
lên sáng mai bạn sẽ không là cùng con người đã đến đây hôm
nay nữa. Đây là trông đợi của tôi. Làm điều tôi đã nói, và nếu bạn
hoàn thành trông đợi của tôi, chẳng cái gì có thể ngăn cản bạn có
khả năng nói, “Om. Shanti, shanti, shanti! - an bình, an bình, an
bình!” khi bạn khởi hành từ đây. Nếu, khi bạn rời khỏi đây, trái
tim bạn có thể thốt ra những lời này, thế thì không có khó khăn gì
với bạn cả.

***********************************************************************************************

2 Không của tôi không của bạn

**Tất cả mọi thứ trong thế giới này, hữu cơ và vô cơ,
đều tràn ngập với Thượng đế.
tận hưởng chúng qua việc từ bỏ chúng.
được tách rời;
đừng thèm muốn giầu có của người khác.**

Lời tuyên bố bản chất của Ishavasya Upanishad, chính nghĩa
của tiêu đề của nó, Ishavasya, là: Mọi thứ đều là của Thượng đế.
Tất cả mọi thứ đều thuộc về Thượng đế. Nhưng tâm trí con người
cố gắng biện minh rằng tất cả đều là của chúng ta, và chúng ta
sống trong ảo tưởng này qua bao nhiêu kiếp sống. Cái gì đó là
của tôi. Cái ý tưởng về quyền làm chủ và sự sở hữu - nó là của
tôi!
Khi mọi thứ là của sự tồn tại, không chỗ nào còn lại cho cái
‘tôi’ này của tôi đứng đấy. Nhớ lấy, để biểu lộ cho nó ngay cả
bản ngã cũng cần một cơ sở. Để tồn tại, ngay cả cái ‘tôi’ cần sự
hỗ trợ của cái ‘của tôi’. Nếu hỗ trợ của cái ‘của tôi’ không có đó,
sẽ không thể tiến tới được cái ‘tôi’. Từ một quan sát nhân quả
dường như là cái ‘tôi’ tới trước rồi cái ‘của tôi’ theo sau nó.
Nhưng sự kiện là hoàn toàn đảo ngược lại. Trước hết, cái ‘của
tôi’ được đặt nền móng, và thế rồi cấu trúc của cái ‘tôi’ được xây
dựng lên trên nó. Nếu bất kì cái gì bạn có mà bạn gọi là ‘của tôi’
đều được lôi ra toàn bộ từ hiểu thấu của bạn, thế thì cái ‘tôi’ của
bạn sẽ không được cần tới. Nó sẽ biến mất. Cái ‘tôi’ không là gì
ngoài một tuyển tập những cái ‘của tôi’. Cái ‘tôi’ được tạo ra từ
cơ cấu của cái ‘của tôi’ - của cải của tôi, nhà của tôi, tôn giáo của
tôi, đền thờ của tôi, vị trí của tôi, tên tôi, gia đình tôi, và vân vân.
Khi chúng ta cứ ném đi dần từng cái ‘của tôi’ thì cơ sở của
cái ‘tôi’ đồng thời cũng bị xói mòn dần đi. Nếu không một cái
‘của tôi’ nào được giữ lại, thế thì không có nền tảng nào để nâng
đỡ cho cái ‘tôi’ cả. Cái ‘tôi’ cần chỗ dựa, chỗ trú ẩn, một toà nhà
bằng cái ‘của tôi’. Cái ‘tôi’ đòi hỏi hòn đá nền tảng là cái ‘của
tôi’, bằng không toàn bộ cấu trúc của cái ‘tôi’ sẽ đổ nhào. Tuyên
bố đầu tiên của Ishavasya dự định làm đổ sập toàn bộ cấu trúc
này. Hiền nhân này nói, “Mọi thứ là của Thượng đế.” Không có
chỗ cho cái ‘của tôi’. Không có cơ hội chút nào để cho cái ‘tôi’
nói với chính nó về cái ‘của tôi’. Nếu nó có thể nói ‘tôi đây’, điều
đó là sai. Nếu nó cứ khăng khăng nói ‘tôi đây’, thế thì nó là một
cái ‘tôi’ bị bối rối. Cần phải hiểu điều này từ hai hay ba quan
điểm.

Điều thứ nhất là thế này: bạn được sinh ra, tôi được sinh ra.
Nhưng không ai hỏi tôi liệu tôi có muốn được sinh ra hay không;
không rắc rối nào đã được tính tới để tìm ra ước muốn của tôi.
Việc sinh ra tôi không phụ thuộc vào ham muốn của tôi hay chấp
thuận của tôi. Khi tôi biết về bản thân mình, tôi biết bản thân
mình đã được sinh ra. Không cái gì giống như bản thể tôi trước
việc sinh của tôi. Chúng ta xem xét điều đó theo cách này: bạn
đang xây một toà nhà; bạn chưa bao giờ hỏi toà nhà liệu nó có
muốn được xây dựng ra hay không. Toà nhà không có ý chí riêng
của nó. Bạn đang xây dựng ra nó, và nó được dựng lên.
Bạn đã bao giờ nghĩ rằng bạn cũng chưa lần nào được tư vấn
trước việc sinh của bạn không? Sự tồn tại làm cho bạn được sinh
ra, và bạn được sinh ra. Sự tồn tại tạo ra bạn, và bạn được tạo ra.
Nếu toà nhà trở thành có ý thức, nó sẽ nói, ‘tôi’. Nếu nó trở thành
có ý thức, nó sẽ từ chối coi người làm ra nó là người chủ của nó,
là người thầy nó. Toà nhà sẽ nói, “Người xây là người hầu của ta;
người đó đã xây dựng ra ta. Vật liệu là của ta; nó đã phục vụ ta.
Ta sẵn lòng được tạo ra, cho nên người đó đã làm ra ta.”
Nhưng toà nhà không có tâm thức. Con người có. Và thực ra,
ai biết được liệu toà nhà có tâm thức hay không? Điều đó là có
thể; điều đó có thể là vậy. Có hàng nghìn mức độ tâm thức. Tâm
thức của con người là một loại đặc biệt, không nhất thiết mọi vật
có cùng loại tâm thức. Toà nhà có thể có tâm thức thuộc loại
khác, đá có thể có loại khác nữa, cây loại khác nữa. Có thể là
chúng nữa sống trong cái ‘tôi’ riêng của chúng. Khi người làm
vườn tưới cây, có thể cây không nghĩ, “Người làm vườn này
đang cho ta cuộc sống,” mà thay vì thế, “Ta đang biểu lộ quí mến
với người làm vườn này bằng việc chấp nhận phục vụ của người
đó. Qua ân huệ của ta, ta chấp nhận phục vụ của người đó.”
Không ai đã bao giờ lại gần cây cối để hỏi về ham muốn của nó
được sinh ra.
Điều tuyệt đối ngớ ngẩn là gọi điều đó là việc sinh của tôi
khi nó được gây ra không có ham muốn của tôi. Đâu là nghĩa
trong việc nói là sinh thành của tôi, mà về nó tôi chưa bao giờ
được hỏi đến trước sự sinh thành của tôi? Khi cái chết tới, nó
không hỏi sự cho phép của chúng ta. Cái chết sẽ không hỏi chúng
ta, “Anh muốn gì? Anh có đi cùng tôi hay không?” Không, khi
nó tới, nó tới theo cách riêng của nó, giống như việc sinh tới mà
không có việc biết của chúng ta về nó. Cái chết tới không gõ cửa,
không cần sự cho phép của chúng ta, không lời hướng dẫn,
không báo trước, và đứng yên tĩnh trước chúng ta; và nó không
cho chúng ta phương án khác, không chọn lựa. Nó không do dự
thậm chí đến một giây, dù chúng ta ước muốn gì. Thật là ngu si
hết mức để mà nói cái chết của tôi cho cái mà tôi không ham
muốn hay sẵn lòng ít nhất.
Việc sinh thành đó không phải là sinh thành của tôi mà trong
đó không có chọn lựa về phần tôi. Cái chết mà với nó sự sẵn lòng
của tôi là không có liên quan, không phải là cái chết của tôi. Cho
nên làm sao cuộc sống nằm giữa hai đầu này có thể là của tôi
được? Làm sao khoảng thời gian ở giữa đó là của tôi được, khi cả
hai đầu không tránh khỏi của nó - mà không có chúng tôi không
thể tồn tại được - không phải của tôi? Đấy là lừa dối - lừa dối mà
chúng ta cứ làm mạnh thêm, quên đi hoàn toàn sinh và tử. Nhưng
nếu chúng ta tư vấn nhà tâm lí về vấn đề này, người đó sẽ nói,
“Ông cố tình quên chúng đi, vì chúng là những kí ức buồn thế.”
Khi việc sinh ra không phải là của tôi, tôi trở thành tội nghiệp và
đáng thương làm sao. Khi cái chết không phải là của tôi, mọi thứ
bị giằng khỏi tôi, không cái gì được giữ. Tay tôi vẫn còn trống
rỗng. Chỉ có tro tàn còn lại.
Chúng ta dựng lên cây cầu cuộc sống dài giữa hai đầu này,
giống như chiếc cầu bắc qua con sông; nhưng không bờ sông nào
là của chúng ta cả. Mố cầu tại cả hai đầu không phải là của chúng
ta. Cho nên nghĩ một chút: Làm sao cây cầu trải rộng từ bờ nọ

sang bờ bên kia ngang qua con sông đó có thể là của chúng ta
trong khi nền tảng của nó không phải là của chúng ta? Do đó
chúng ta cố gắng quên đi việc sinh và tử - những nền tảng của
chúng ta.
Nhiều người quên nhiều việc một cách cố ý. Người đó cố
gắng không nhớ, vì việc nhớ có thể phá tan tất cả bản ngã của
người đó và làm nó nát vụn. “Thế thì cái gì sẽ là của tôi đây?”
Cho nên chúng ta kìm việc suy nghĩ về sự sinh và tử, và điều này
tạo ra khả năng hiểu lầm lớn rằng tất cả những cái chúng ta thấy
trong cuộc sống là của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta để cho bản
thân mình khám phá và xem xét điều ta thấy, chúng ta chắc chắn
phát hiện ra rằng nó không phải là của chúng ta.
Bạn nói, “Tôi đã rơi vào tình yêu với ai đó,” không xem xét
liệu chuyện tình đó có là quyết định của bạn hay không. Nghe
điều những người yêu nhau nói: “Chúng mình không biết khi nào
nó xảy ra. Chúng mình đã không làm cho nó xảy ra.” Thế thì làm
sao cái là của chúng ta nhưng đã xảy ra theo ý riêng của nó
được? Nếu nó xảy ra, nó xảy ra. Nếu nó không xảy ra, nó không
xảy ra.
Chúng ta bị phụ thuộc thế, bị điều chỉnh thế, dường như đâu
đó mọi thứ bị cố định và tất định. Hoàn cảnh của chúng ta là
tương tự như hoàn cảnh của một con vật bị buộc vào cọc qua
chiếc dây thừng. Con vật sẽ đi vòng tròn quanh chiếc cọc và sẽ
sống trong việc hiểu sai rằng nó đang tự do vì nó đang tự do đi
vòng tròn. Nó sẽ quên mất chiếc dây thừng, vì việc nhớ tới điều
đó là đau đớn; chiếc dây thừng buộc vào cọc làm cho chúng ta
đau đớn vì nó nhắc nhở chúng ta về sự phụ thuộc của mình. Chân
lí là ở chỗ nó bảo chúng ta rằng chúng ta không là cái ta thực của
mình.
Chúng ta không đáng để bị phụ thuộc, ta hãy một mình xem
xét vấn đề trở nên tự do. Phụ thuộc vào người ta - tức là cảm thấy
sự dày vò của chiếc dây thừng - là cần thiết để nhận biết về bản
thể người ta; và nhận biết rằng chúng ta không có đó. Con vật đi
lang thang quanh chiếc cọc cố định, lúc sang trái, lúc sang phải
và nghĩ, “Tôi tự do,” và khi nó nghĩ, “Tôi tự do”, cái “tôi’ có đấy.
Thế rồi, dần dần, nó phải bắt đầu tự thuyết phục mình rằng, “Đấy
cũng là do ý muốn của tôi mà tôi bị buộc vào cột. Tôi có thể cắt
dây ra bất kì khi nào tôi muốn, nhưng tôi đang nghĩ về hạnh phúc
của mình.”
Chúng ta tạo ra biết bao nhiêu ảo tưởng trong các kiếp sống
của mình. Chúng ta nói, “Tôi trở nên giận dữ, tôi làm tình, tôi
không thích, tôi ghét, tôi làm bạn, tôi trở thành kẻ thù...” nhưng
không điều nào trong những việc làm này là quyết định của
chúng ta. Bạn đã bao giờ trở nên giận dữ và là người làm ra giận
dữ đó không? Bạn chưa bao giờ làm như vậy cả. Khi có giận dữ,
bạn không có đó. Bạn đã bao giờ làm tình mà việc làm tình do
bạn làm không? Nếu bạn có thể làm tình, thế thì bạn có thể làm
tình với bất kì ai; nhưng sự kiện là ở chỗ bạn có thể yêu ai đó và
bạn không thể yêu người nào đó khác. Bạn có thể làm tình với ai
đó thậm chí khi bạn không muốn làm, và bạn không thể làm tình
với ai đó thậm chí khi bạn muốn làm như vậy.
Tất cả mọi cảm giác và xúc động của cuộc đời đều đến từ
một góc không biết nào đó - chúng tới như việc sinh của bạn tới.
Bạn xâm lấn bừa vào việc xảy ra này và trở thành người chủ,
người làm ra nó. Vậy mà bạn đã làm cái gì? Cái gì có đó do bạn
làm ra? Cảm giác đói đến; giấc ngủ đến; buổi sáng việc thức kéo
đến; và buổi tối mắt bạn bắt đầu nhắm lại lần nữa. Tuổi thơ đến.
Khi nào nó đi qua? Nó trôi qua như thế nào? Nó không hỏi chúng
ta, nó không đi vào tư vấn và thảo luận với chúng ta, và nó không
chậm trễ trong việc trôi qua một khoảnh khắc, ngay cả liệu chúng
ta có yêu cầu nó làm như vậy hay không. Thế rồi tuổi thanh xuân
trôi qua, và tuổi già bước vào. Bạn đang ở đâu? - nhưng bạn cứ
nói, “Tôi là thanh niên, tôi là người già,” cứ như tuổi thanh niên

phụ thuộc vào bạn. Tuổi thanh niên của bạn có hoa riêng của nó.
Tuổi già có hoa riêng của nó nữa; và chúng nở như hoa nở trên
cây. Bụi hồng không thể nói, “Tôi làm cho hoa hồng nở.” Nó chỉ
có thể nói như thế nếu nó có khả năng làm cho hoa hướng dương
nở!
Đừng tính công trạng nào về mọi điều xảy ra này. Nếu có
hồn nhiên trong tuổi thơ, nó có đó mà không có nỗ lực nào về
phần bạn. Và khi dục và những ham muốn khác bắt giữ bạn trong
tuổi thanh niên, chúng làm như vậy hệt như hồn nhiên bắt giữ
bạn trong tuổi thơ. Bạn không là người chủ của hồn nhiên tuổi
thơ của mình, không là người chủ của ham muốn dục của tuổi
thanh niên của bạn, và đừng coi nó là thành tựu của bạn khi tâm
trí bạn bắt đầu nghiêng về phía vô dục trong tuổi già. Nó giống
như thế này: dục bắt giữ bạn trong tuổi thanh niên, và dửng dưng
bắt giữ bạn trong tuổi già. Những người chưa bao giờ là nô lệ cho
dục không có kiểm soát gì trên sự kiện đó. Cho nên bản thân
đừng tự hào về sự kiện là bạn không phải là nô lệ cho dục.
Xem xét mọi nguyên tử nhỏ bé của cuộc sống và bạn sẽ nhận
ra rằng không có chỗ đứng cho cái tôi - bản ngã. Thế thì tại sao
chúng ta đang tạo ra ảo tưởng này? Nó xảy đến như thế nào? Lừa
dối này đến từ đâu? Nó tới bởi vì chúng ta bao giờ cũng cảm thấy
rằng có một phương án. Chẳng hạn, bạn xúc phạm tôi. Bây giờ
tôi có hai phương án: tôi có thể xúc phạm trả lại bạn; hay tôi có
thể bỏ qua nó, cho rằng việc xúc phạm là không có đó chút nào.
Tức là, tôi có thể chọn đáp lại nếu tôi muốn, và nếu tôi không
muốn, tôi có thể chọn không đáp lại. Nhưng thực có phương án
nào không? Bạn có cho rằng người đáp lại xúc phạm cũng có thể
đã chọn không xúc phạm, nếu người đó muốn không? Bạn sẽ nói:
Nếu người đó không muốn làm như vậy, người đó không cần
phải đáp lại xúc phạm ấy. Nhưng bạn sẽ phải đi sâu thêm chút ít
để hiểu điều này. Phải chăng ham muốn đã có trong người đó,
hay người đó đem nó ra từ đâu đó? Phải chăng ham muốn xúc
phạm hay không xúc phạm nằm dưới kiểm soát của người đó?
Những người tìm kiếm bên trong nói rằng điều mà các chiều
sâu lộ ra chỉ là ở chỗ những việc xảy ra đi ra ngoài kiểm soát của
chúng ta. Người nghĩ tới xúc phạm, và người đó xúc phạm.
Người khác quyết định không xúc phạm, và người đó không xúc
phạm. Nhưng từ đâu ý tưởng này về việc đưa ra hay không đưa
ra xúc phạm lại tới? Nó có phải là ý tưởng của bạn không?
Không, nó tới từ nơi việc sinh tới. Nó tới từ nơi tình yêu hiện
hữu. Nó tới từ nơi tâm thức hiện hữu. Nó trở về từ nơi cái chết
hiện hữu. Nó được hấp thu nơi hơi thở đi qua.
Dễ dàng tự lừa dối mình bằng việc nói, “Đây là tay tôi, nó
đang dưới sự kiểm soát của tôi. Nếu tôi muốn, tôi sẽ không xúc
phạm.” Nhưng ai đã bảo bạn, ai đã yêu cầu bạn, xúc phạm?
Người như Phật và Mahavira sẽ không đưa ra xúc phạm. Bạn có
cho rằng họ đơn giản chọn việc cảm thấy xúc phạm không?
Không; cũng như bạn kinh nghiệm một tình huống cố định và
không tránh khỏi trong việc phải xúc phạm, Phật và Mahavira
cũng kinh nghiệm một tình huống không thay đổi được tương tự
về không cảm thấy xúc phạm. Họ không thể chọn, cho dù họ
muốn, để cảm thấy xúc phạm. Bản thân ham muốn đó không
được tạo ra.
Một người tới gặp một thiền sư vào sáng sớm và bắt đầu hỏi
thiền sư tại sao ông ấy là bình thản và yên tĩnh thế, trong khi bản
thân người đó khuấy động và rối loạn thế. Thiền sư trả lời, “Ta
bình thản và ông khuấy động, có vậy thôi. Vấn đề qua rồi. Không
cái gì cần nói thêm .”
Người này cứ nài nỉ, “Không tôi muốn biết làm sao thầy trở
nên bình thản thế.”

Thiền sư trả lời, “Ta muốn biết làm sao ông trở nên khuấy
động thế.”
Người này trả lời, “Khuấy động đến theo ý của nó chứ.”
Thiền sư nói, “Điều đó đích xác đã xảy ra với ta. Bình thản
tới với ta theo ý riêng của nó, và ta không tính công nào cho nó.
Khi khuấy động tới, nó tới. Ta không thể làm gì để dừng nó lại,
và bây giờ, khi bình thản tới với ta, ta không thể làm bất kì điều
gì để đem khuấy động tới dù ta muốn đem nó tới, cho nên ta bị
giới hạn bởi tình huống.”
Người này nói, “Không, xin thầy chỉ cho tôi cách bình thản
và yên tĩnh.”
Thế là thiền sư nói, “Ta chỉ biết có một cách, và đó là thế
này: vứt bỏ ảo tưởng của ông rằng ông có khả năng làm bất kì
cái gì về nó. Nếu ông trở nên bị khuấy động, vẫn còn bị khuấy
động. Biết rằng ông đang bị rối loạn và rằng ông không thể làm
được gì về nó. Nó ở ngoài kiểm soát của ông. Đừng làm nỗ lực
để bình thản. Ngay cả những người làm nỗ lực để bình thản đều
trở nên bị khuấy động và rối loạn. Họ trở nên bị khuấy động, và
trong nỗ lực của họ để trở nên bình thản họ tạo ra sự không thoải
mái mới trong bản thân mình.”
Nhưng người này khăng khăng, “Lời khuyên của thầy không
định được tâm tôi; tôi muốn bình thản.”
Thiền sư nói, “Thế thì ông nhất định vẫn còn bị khuấy động
bởi vì ông muốn cái gì đó. Ông từ chối để vấn đề này cho
Thượng đế, trong khi sự kiện là ở chỗ mọi thứ đều phụ thuộc vào
ngài; không cái gì ở trong điều khiển của ông. Ta trở nên bình
thản từ ngày ta bắt đầu sẵn lòng chấp nhận bất kì cái gì xảy ra,
bất kì cái gì đến với ta. Ta có thể không bình thản khi ta ham
muốn và cố trở thành cái gì đó.”
Nhưng người này không chấp nhận điều thiền sư đã nói,
“Tôi ghen tị với bình thản của thầy,” người đó nói. “Tôi không
thể vẫn còn thoả mãn với giải thích của thầy.”
Thế là thiền sư yêu cầu người đó đợi và đặt câu hỏi cho
người đó khi không có ai trong lều của mình, vì ông ấy có nhiều
khách thăm. Người này đồng ý, và khi không còn ai trong lều
người đó yêu cầu thầy chỉ cho người đó cách thức. Thế rồi thầy,
đưa ngón tay lên môi anh ta, nói, “Tĩnh lặng.”
Người này thấy rất phân vân. Người đó nói, “Khi có người ở
đây và tôi xin thầy trả lời, thầy bảo tôi hỏi khi không có ai ở đây;
và khi không có ai ở đây và tôi hỏi thầy câu trả lời thầy bảo tôi
giữ tĩnh lặng. Làm sao vấn đề của tôi sẽ được giải quyết?”
Trời tối, mặt trời đã lặn, và mọi người đã đi hết. Túp lều
trống rỗng, và người này lại tìm câu trả lời. Thiền sư yêu cầu
người đó đi ra ngoài. Trăng tròn toả sáng. Thiền sư hỏi, “Ông có
thấy những cây này không?” Nhưng cây nhỏ đang mọc ở phía
trước túp lều.
Người này đáp, “Tôi thấy chúng.”
Lần nữa thầy hỏi, “Ông có thấy những cây xa xa kia không,
vươn cao lên trời ấy?”
Người này nói, “Tôi thấy chúng.”
Thế rồi thiền sư nói, “Những cây kia to cao. Những cây này
nhỏ thấp. Không có xung đột gì giữa chúng. Ta chưa bao giờ
nghe nói tới bất kì tranh cãi nào giữa chúng về vấn đề này.
Những cây nhỏ này không bao giờ hỏi những cây cao tại sao
chúng cao; chúng thoả mãn với cái nhỏ bé của chúng. Cây cao
cũng không bao giờ hỏi những cây nhỏ tại sao chúng nhỏ. Cây
cao có khó khăn riêng của chúng, như chúng phát hiện ra khi có
bão. Cây nhỏ cũng có vấn đề của chúng nữa, nhưng chúng bằng

lòng với cái nhỏ bé của mình, cũng như cây cao bằng lòng với
cái cao của mình. Ta chưa từng nghe nói gì về tranh cãi giữa hai
loại cây này; ta bao giờ cũng thấy chúng tĩnh lặng. Cho nên xin
rời khỏi ta. Ta là cái ta đang vậy, và ông là cái ông đang vậy.”
Nhưng làm sao người đó thoả mãn được với ví von đó? Và
làm sao chúng ta được thuyết phục? Tâm trí bao giờ cũng ham
muốn là cái gì đó. Tại sao nó hành xử như vậy? Đấy là vì chúng
ta bao giờ cũng coi là đương nhiên chúng ta có thể làm điều gì
đó. “Không,” Ishavasya nói, “bạn không thể làm được điều gì cả.
Bạn không thể là người làm.” Điều này là bí mật của một ý tưởng
lớn được gọi là định mệnh. Định mệnh không có nghĩa là bạn
không nên làm gì. Điều đó sẽ là ngồi tĩnh lặng - và định mệnh nói
rằng bạn thậm chí không thể ngồi theo ý chí riêng của mình. Nếu
định mệnh đặt bạn ngồi, chỉ thế thì bạn có thể ngồi. Định mệnh
làm cho việc “tôi sẽ không làm gì cả” trở thành không thể được
đối với bạn. Nếu định mệnh muốn bất kì việc không làm nào, thế
thì việc không làm sẽ xảy ra.
Xin nhớ trong tâm trí, không có một người theo thuyết định
mệnh nào trong số những người dường như theo định mệnh. Họ
nói, “Mọi thứ đều trong tay của định mệnh. Chúng ta có thể làm
được gì nào? Cho nên chúng ta không làm gì.” Chính sự tồn tại
của ý tưởng là chúng ta không làm gì cả có nghĩa là cảm giác về
việc làm vẫn còn hiện hữu. Khái niệm về định mệnh toàn bộ có
nghĩa là chúng ta không có. Không có cách nào để làm bất kì cái
gì. Nó là sự tồn tại.
Khi chúng ta không thể làm được bất kì cái gì, khi chúng ta
không thể là người làm, thế thì liệu sẽ có 'cái của tôi', cái gì của
tôi không? Chúng ta sẽ nói, “Nó là của tôi” cho ai? Chúng ta có
thể nói, “Đây là con tôi” không? Trông có vẻ như vậy, vì dường
như là, “Tôi đã cho nó sinh thành.” Ảo tưởng như thế xảy ra mặc
dầu không ai đã bao giờ cho ra đời bất kì đứa con nào. Con được
sinh ra, chúng tìm đường của chúng qua bạn. Bạn bắt đầu yêu
một người đàn bà. Tình yêu đó không đến từ bạn, tình yêu tìm
đường của nó qua bạn. Ham muốn dục, tình yêu, khao khát của
thân thể bạn để gặp lẫn nhau - khao khát đó không phải là của
bạn. Nó bị giấu kín trong từng hạt của thân thể bạn, trong từng
sợi lông nhỏ bé nhất trên thân thể bạn. Nó được nén vào trong
từng hạt và nó chèn ép bạn, nó thôi thúc bạn. Cuối cùng, đứa trẻ
được thụ thai, ai đó trở thành mẹ và ai đó trở thành bố của nó. Có
vẻ là họ đã mang đứa trẻ vào hiện hữu. Số phận cười bạn! Nó
cười khoái trá vào bạn. Bạn đã bị làm thành công cụ của việc
sinh: bạn đã không cho nó. Bạn chỉ là bước chuyển. Người mẹ
chỉ là bước chuyển cho cuộc hành trình của ai đó đi vào cuộc
sống. Qua cô ấy, định mệnh cho việc sinh. Bạn đã không làm gì .
Bạn xây ra một toà nhà và nói, “Nó là của tôi.” Nhưng bạn
có quan sát chim cũng làm tổ cho chúng không? Trên thế giới
này ngay cả con vật nhỏ nhất cũng xây dựng chỗ trú ẩn của nó.
Có những loài chim mà mẹ của chúng bay đi sau khi đẻ trứng.
Khi trứng nở, chim con bước ra. Chúng không nhận huấn luyện
của mẹ không có bảo vệ của bố, chúng không tới trường. Và
phép màu là ở chỗ những con chim đó làm tổ đích xác như mẹ
chúng làm, bà chúng làm trước chúng. Tổ ấy không phải là tổ
bình thường; nó bao gồm kĩ năng kiến trúc lớn lao. Nó đẹp đến
mức nếu con người muốn làm một cái tổ như thế thì người đó sẽ
phải học cách làm nó, và ngay cả sau khi học, vẫn khó cho người
đó để xây dựng nó một cách khéo léo đến thế.
Tổ như thế được làm như thế nào? Các nhà khoa học gọi đấy
là chương trình định sẵn. Họ nói có một chương trình định sẵn
trong từng tế bào nhỏ của thân thể con chim. Toàn bộ quá trình
xây dựng tổ được giấu kín trong xương, thịt và mô của chim.
Điều con chim này có thể làm tổ của mình là điều chắc chắn. Nó
sẽ tìm ra đích xác loại cỏ và lá mà mẹ nó đã tìm. Không ai dạy

nó; chim mẹ thậm chí không nhìn tới chim con, và chim con đã
không tới trường. Vậy mà nó sẽ nhặt những cái lá đó và những
cọng cỏ đó và làm nên cái tổ hệt như trước đây mẹ nó và bà nó
làm. Con người cũng xây dựng; mọi loài sinh vật đều xây dựng.
Không có lí do gì để nói, “Nó là của tôi” - tuyệt đối không lí do
nào.
Chúng ta có thể nói về cái gì qua “Nó là của tôi”? Chúng ta
có thể làm đòi hỏi như vậy về của cải không? Mọi con vật đều
tích trữ: chúng làm như thế theo nhiều cách khác nhau, và con
người chắc chắn không phải là kẻ thông minh nhất về điều đó.
Có những con vật khéo léo vượt xa hơn con người trong nghệ
thuật tích trữ. Tại Siberia có gấu trắng: tuyết khắp sáu tháng
trong năm, và con người có khó khăn sống sót trong sáu tháng
đó, nhưng gấu tự bảo vệ nó. Phương pháp tích luỹ của nó thật kì
diệu. Nó không thu thập các thứ, nó thu thập mỡ - đủ để kéo dài
trong sáu tháng. Nó chỉ cứ tích trữ thật nhiều mỡ trong thân thể.
Nó cất giữ nhiều mỡ trong thân thể đến mức nó có thể sống nhờ
số mỡ đó trong sáu tháng này mà trong lúc đó nó ngủ dưới tuyết.
Kho báu của bạn không ở sâu như thế bên trong bạn. Kẻ cắp
có thể đánh cắp nó từ bạn; và để hữu dụng cho bạn, của cải của
bạn phụ thuộc vào nhiều hoàn cảnh. Bạn có thể có của cải, nhưng
nó sẽ không dùng gì được cho bạn nếu thị trường chứng khoán
sụp đổ. Con gấu trắng kia thông minh hơn bạn. Nó tích trữ thức
ăn của mình ngay bên trong người nó, và bởi vì - nằm dưới tấm
chăn tuyết nặng nề - thật bất tiện cho con gấu để nhai, nuốt và
tiêu hoá rồi tạo ra thịt và mô mới, nó cất giữ thức ăn của nó dưới
dạng mỡ mà có thể hấp thu một cách an bình.
Cả thế giới tích trữ. Đừng nghĩ rằng chỉ có bạn làm như thế.
Nó là quá trình tự nhiên. Khi người mẹ cho con bú vú, tự hào cô
ấy cảm thấy là vô căn cứ nào. Không sớm hơn khi đứa con được
sinh ra là vú mẹ bắt đầu đầy sữa, thân thể cô ấy bắt đầu tạo ra
sữa. Nếu đứa trẻ không chịu bú, người mẹ sẽ khó khăn và cảm
thấy rất khó chịu. Chính phúc lành là đứa trẻ bú sữa. Người mẹ
không chủ định chuẩn bị sữa. Việc sinh ra đứa con là một quá
trình tự phát, và như một phần của quá trình này, sữa được tạo ra
trong người mẹ. Khi đứa trẻ lớn lên, dòng dữa mẹ bắt đầu giảm
đi, và khi nhu cầu của nó hết, sữa biến mất.
Tất cả những việc xảy ra này là tự nhiên. Ham muốn tích luỹ
là tự nhiên. Đó là lí do tại sao lời kinh này của Ishavasya nói,
“Prakriti” - Ishavasya gọi điều đó là Thượng đế: mọi thứ là của
Thượng đế. Tự nhiên, số phận, prakriti, tất cả đều là từ mang tính
máy móc; và ngài khổng lồ, tràn đầy bí ẩn, tràn đầy cuộc sống và
tâm thức đến mức ngài không thể có tính máy móc được.
Khoa học cũng xác nhận rằng tự nhiên làm mọi thứ, nhưng
khi chúng ta nói về Thượng đế theo ngôn ngữ của khoa học,
chúng ta trở nên đáng thương; chúng ta trở thành vô giá trị và
máy móc. Khi Ishavasya nói, “Thượng đế làm mọi thứ,” một mặt
bản ngã của chúng ta rơi xuống, và mặt khác chúng ta trở thành
Thượng đế. Điều này là quan trọng; nó đáng được hiểu. Khi khoa
học tiến triển, nó nhấn mạnh rằng con người phải vứt bỏ ảo
tưởng là tôi đang làm. Mọi thứ đều đang xảy ra. Nhưng việc nhấn
mạnh của khoa học là vào mọi thứ đang xảy ra một cách máy
móc. Mọi thứ đang xảy ra như trong một cái máy. Toàn bộ thế
giới hành xử một cách máy móc. Và khi mọi thứ đang xảy ra một
cách máy móc, vị trí con người là đáng thương. Bản ngã của con
người chắc chắn bị đập vỡ, nhưng không cái gì được lộ ra để cho
con người bất kì ý nghĩa hay giá trị nào.
Thật sự, lòng tự hào của con người, bản ngã của con người,
là một hiện tượng rất không có ý nghĩa và nhỏ mọn, hệt như ngọn
lửa cháy từ dầu trong một chiếc đèn đất nhỏ. Nó bị khoa học dập
tắt, và có bóng tối sâu xa bao quanh tất cả; nhưng không có mặt
trời mọc lên xảy ra ở chỗ đó. Đó là lí do tại sao lời tuyên bố của

Ishavasya là có giá trị hơn nhiều lời tuyên bố của khoa học. Một
mặt nó dập tắt ánh sáng cháy lờ mờ của bạn và vồ lấy bản ngã
nhỏ bé của bạn, bằng việc nói, “Tắt đi! Bạn không có, và sợ của
bạn là không cần thiết!” và mặt khác nó cho sinh thành một siêu
mặt trời. Trong một khoảnh khắc, từ một phía nó nói, “Bạn
không có,” và lập tức, từ phía bên kia, nó đặt cho bạn ở vị trí của
Thượng đế. Từ một mặt nó vồ lấy bạn và tẩy sạch bạn hoàn toàn,
và từ mặt khác nó tặng cho bạn cái toàn thể. Nó dập tắt ngọn đèn
đất của bản ngã, ngọn lửa lờ mờ nặng mùi, mùi dầu lửa đầy khói,
nhưng thay vào đó nó cho bạn ánh sáng rực rỡ, chói lọi của mặt
trời. Nó tẩy sạch cái tôi, bản ngã, nhưng đặt chúng ta ở cái ta cao
nhất - Thượng đế!
Đây là khác biệt giữa chiều hướng của tôn giáo và của khoa
học. Khoa học xác nhận cùng những sự kiện mà tôn giáo xác
nhận, nhưng nhấn mạnh của khoa học và vào máy móc. Tôn giáo,
trong khi thảo luận về cùng thứ, đặt nhấn mạnh vào tâm thức,
vào trí huệ, vào việc sống; và nhấn mạnh này là quan trọng. Nếu
khoa học phương Tây thành công, con người chung cuộc sẽ trở
thành cái máy; và nếu tôn giáo ở phương Đông thành công, con
người cuối cùng sẽ trở thành Thượng đế. Cả hai đều phá huỷ bản
ngã, nhưng khoa học làm giảm cấp con người trong quá trình
này.
Quãng trăm rưởi hay hai trăm năm trước đây, khoa học bắt
đầu tuyên bố lần đầu tiên rằng con người là loài vật bất lực. Khi
Darwin nói với loài người, “Quên rằng bạn đã được Thượng đế
tạo ra đi; bạn đã tiến hoá từ loài vật, từ loài thú,” bản ngã của con
người bị đập mạnh lần đầu tiên - với một cú bùm! Con người đã
từng tin rằng mình là con của Thượng đế, là sự sáng tạo của
Thượng đế, mặc dầu người đó không có bằng chứng nào về điều
đó. Thế rồi bất thần lại hoá ra là người bố không phải là Thượng
đế, mà là con vượn! Đấy hẳn phải là một cú sốc lớn lắm. Một cú
sụp đổ tan tành! Khoảnh khắc trước đã có Thượng đế, ngồi trên
ngai vàng cao nhất, và chúng ta là con của ngài, và khoảnh khắc
tiếp chúng ta được chứng minh là con cháu của khỉ. Điều này thật
rất đau đớn cho con người; nó tác động tới con người nhiều lắm.
Cho nên khoa học đã tuyên bố lần đầu tiên rằng con người nên
quên tất cả về việc là người và nên tự coi mình như con vật, con
thú đi. Tất cả mọi nỗ lực của con người để nuôi dưỡng bản ngã
của mình đều bị đập tan tành.
Nhưng một cuộc hành trình một khi đã bắt đầu, dù theo
chiều hướng nào, cũng không kết thúc trước khi nó được hoàn
tất; nó tìm kiếm cái kết thúc của nó. Thật khó để dừng lại ở mức
con vật. Ban đầu khoa học tuyên bố rằng con người là một loại
thú; thế rồi, sau khi nghiên cứu thêm về bản chất của loài vật,
khoa học thấy rằng con vật là máy.
Bạn quan sát con rùa bò. Bạn sẽ thấy rằng khi cái nhiệt tăng
lên, rùa bò vào bóng râm. Bạn sẽ nói nó bò đến đó bởi vì nó cảm
thấy nóng quá. Khoa học bác bỏ điều này. Khoa học chế tạo ra
rùa máy. Chúng được đặt dưới ánh mặt trời, và chúng cứ ở đấy
chừng nào mà nhiệt còn không lớn lắm; nhưng ngay khi nhiệt
tăng lên, chúng bắt đầu bò. Chúng bò vào trong bụi cây, chỗ
bóng râm. Những con rùa này chỉ là những thứ máy móc - điều gì
đã xảy ra cho chúng? Khoa học gọi nó là điều kiện tự cân bằng -
cách thức mà theo đó thông báo được đưa ra cho bất kì thay đổi
có ý nghĩa nào về nhiệt độ. Không có tâm thức tham dự vào đó
chút nào. Bạn thấy bướm đêm bay vào ngọn lửa đèn. Nhà thơ mô
tả nó là một kẻ yêu đương mù quáng, điên cuồng với ngọn lửa, hi
sinh cả mạng sống của mình cho tình yêu của nó. Nhà khoa học
sẽ không chấp nhận điều này; với ông ta không cái gì giống như
tính điên khùng trong sự kiện này. Tất cả chỉ là máy móc. Ngay
khi con bướm nhìn thấy ngọn lửa thì cánh của nó bắt đầu nghiêng
về ngọn lửa. Họ tạo ra các con bướm máy, và để chúng bừa bãi
trong bóng tối. Thế rồi họ bật đèn lên, và lập tức các con bướm
này xô về cái đèn.

Cho nên khoa học đã xác minh rằng các con vật đều là máy;
và kết luận cuối cùng về chúng là đáng ngạc nhiên. Trước hết các
nhà khoa học đã xác minh rằng con người bị hạ xuống loài vật;
rồi họ xác minh rằng con vật giống như máy: phán xét cuối cùng
của họ là ở chỗ con người là máy. Một cách tự nhiên, có chân lí
nào đó trong biện luận này. Điều tốt là họ đã đập tan bản ngã của
con người, nhưng khi làm như vậy, họ thu con người về trạng
thái của cái máy - con người thoái hoá thành cái máy. Với con
người việc nghĩ theo cách này là nguy hiểm, và đã chứng tỏ là có
hại. Những người như Stalin và Hitler có thể đẩy hàng triệu
người vào chỗ chết bởi vì họ coi con người như cái máy và do
vậy trái tim của họ không xúc động bởi việc tàn sát.
Bây giờ xét tình huống đáng quan tâm này. Krishna đã nói
trong Gita rằng linh hồn con người là bất tử, nó không chết, cho
nên giết kẻ thù của bạn không tạo ra khác biệt gì. Stalin cũng có
thể nói rằng vì con người là máy, không linh hồn, nên cũng
không hại gì trong việc giết anh ta. Khi Krishna nói với Arjuna
rằng linh hồn là bất tử và sẽ không chết dù bạn cố gắng đến đâu,
tác động lên Arjuna là ở chỗ người đó trở nên dịu đi khi giết kẻ
thù của mình. Nhưng kết quả của hai hành động này hoàn toàn
khác nhau. Khi tính bất tử của linh hồn được chấp nhận, câu hỏi
về cái chết trở thành vô nghĩa. Stalin hài lòng đẩy hàng triệu
người vào cái chết; nhưng với ông ấy thì không có cái gì như linh
hồn chút nào, không cái gì sai được thực hiện vì con người chỉ là
cái máy.
Có thể không có phản đối việc phá huỷ cái máy. Nếu bạn
đập cái máy bằng chiếc gậy, ngay cả người bất bạo hành cũng
không thể buộc tội gì bạn về việc phạm bạo hành. Bên ngoài, kết
quả dường như tương tự, nhưng chúng không như nhau, vì ý
nghĩa thực sự của những kết quả này là rất khác và thay đổi toàn
bộ nghĩa trong mỗi trường hợp. Khoa học cho rằng tự nhiên làm
mọi việc. Khoa học không chỉ đập tan bản ngã con người, mà còn
làm thoái hoá con người; khi tôn giáo đập tan bản ngã con người,
nó nâng con người lên một mức cao hơn và đưa tiễn con người
trên cuộc hành trình đi lên.
Lời kinh này nói bản ngã bạn sẽ biến mất nếu bạn dừng việc
gọi mọi thứ là của bạn. Coi nó tất cả đều là của sự tồn tại đi.
Đừng nuôi dưỡng ham muốn về của cải của bất kì ai. Sau rốt, tại
sao? Khi không còn cái gì là của tôi, thế thì cũng không có cái gì
là của bạn. Cẩn thận, bởi vì lời kinh này, “Đừng thèm muốn;
đừng ham muốn giầu có của người khác,” đã bị hiểu sai nhiều
lắm: nó đã bị diễn giải không đúng đến mức người ta có thể trở
nên bị lúng túng sâu sắc.
Phần lớn những người bình luận đã giải thích nó là: “Ham
muốn của cải của người khác là tội lỗi, cho nên đừng nuôi dưỡng
ham muốn như thế.” Nhưng họ có vẻ ngu, vì phần đầu của lời
kinh nói rằng của cải không thuộc vào ai cả; nó là của sự tồn tại.
Phần thứ nhất của lời kinh này nói, “Khi nó không phải là của
tôi, làm sao nó có thể là của bạn được?”
Không. Không, nghĩa đúng đắn của nó là thế này - rằng bạn
không nên ước ao của cải của người khác bởi vì của cải không
phải là của tôi cũng không phải là của bạn. Cơ hội cho ham muốn
tồn tại chỉ khi, vì nó có thể là của bạn, nó cũng có thể là của tôi;
bằng không ham muốn không có nền tảng nào để đứng . Các
chuyên gia trong khoa học về luân lí đã giải thích điều ấy như có
nghĩa là ngay cả việc nghĩ đến của cải của người khác cũng là tội
lỗi; nhưng vì nó không thể là của tôi thì làm sao nó có thể là của
người khác được?
Không chuyên gia về đạo đức nào có thể nắm được nghĩa
thực của lời kinh này. Nó là tinh tế và sâu sắc. Nhà đạo đức học
lo lắng khi thấy rằng không ai ăn cắp tài sản của người khác; khi
không ai coi là của mình cái thuộc về người khác. Nhưng nhấn
mạnh của ông ta vào tài sản của người khác chỉ là mặt trái của

nhấn mạnh cuả ông ta vào cái của riêng ông ta. Nhớ lấy, người
nói, “Đây là của bạn,” chưa thoát khỏi khái niệm, “Đây là của
tôi,” vì hai khái niệm này là hai mặt khác nhau của cùng một
đồng tiền. Chừng nào cảm giác này vẫn cứ còn, “Toà nhà này là
của tôi,” phần tương ứng của nó, “Toà nhà này là của bạn,” sẽ
vẫn tiếp tục: và khi cảm giác về toà nhà ‘của tôi’ biến mất, làm
sao cảm giác tương ứng về toà nhà ‘của bạn’ còn lại được?
Không ao ước tới của cải hay tài sản của người khác không có
nghĩa là tài sản thuộc về người khác, cho nên ham muốn nó là tội
lỗi; nghĩa thực của nó là ở chỗ tài sản và của cải không thuộc vào
ai cả - của cải thuộc vào một mình sự tồn tại: chính bởi vì điều
này mà việc ham muốn là tội lỗi. Đừng coi cái gì là của tôi hay
của bạn, đừng xem bản thân mình là người chủ, và đừng cố đánh
cắp từ người khác - vì đó là coi cái gì đó như của anh ta. Chúng
ta không thể đánh cắp mà cũng không thể giữ được cái gì. Tất cả
nó đều là của sự tồn tại, và cái là của sự tồn tại chúng ta không
thể thu được cũng không tích trữ được.
Ý tưởng sở hữu nhộn làm sao! Tôi đặt một tấm biển lên một
mảnh đất nói rằng nó là của tôi. Mảnh đất đó đã có ở đó từ trước
khi tôi được sinh ra. Nhìn vào hành động này của tôi, mảnh đất
đó phải cười phá lên, vì nhiều người trước tôi cũng đã từng dựng
lên những tấm biển như thế mà nói nó là ‘của tôi’ - và mảnh đất
chôn vùi tất cả họ. Họ được chôn vùi nơi bạn đang ngồi bây giờ
đây! Có ít nhất là mười nấm mồ ở chỗ mỗi chúng ta đang ngồi.
Khó mà còn tấc đất nào trên mảnh đất này mà có thể không chứa
mồ của mười người. Biết bao nhiêu người đã được sinh ra và đã
chết đi trên thế giới này mà có thể ít nhất mười người đã được
chôn vùi dưới từng tấc đất. Mảnh đất đó biết hoàn toàn rõ rằng
người yêu sách khác đó cũng đã dựng lên những tấm biển như
thế trên nó. Nhưng không cái gì dừng con người lại; như người
đó vậy, người đó sẽ vẫn cứ cắm biển của mình lên, và người đó
không muốn thấy rằng người đó đang thêm tên mình vào một cái
biển cũ, được sơn vẽ đè lên. Người đó không muốn thấy rằng ai
đó khác sẽ phải nhận cùng rắc rối ngày mai. Thực ra, tất cả
những công sức này không là gì cả. Mảnh đất đó phải cười to!
Cho nên đừng ước ao của cải của người khác, vì nó không
thuộc vào người nào. Tôi không đơn giản ngụ ý rằng việc chiếm
của cải của người khác là có tội với cách xem xét làm cho nó
thành của bạn. Điều là tội lỗi ở ngay chỗ đầu tiên khi xét nó là
của người đó hay của bạn. Nó là tội lỗi khi coi nó là của bất kì ai.
Nó chắc chắn là tội lỗi nếu lấy cớ quyền sở hữu của bất kì ai trừ
của sự tồn tại. Nếu bạn có thể hiểu cách diễn giải này, thế thì và
chỉ thế thì bạn mới có khả năng hiểu thấu nghĩa sâu xa và tinh tế
của Ishavasya. Bằng không nghĩa rõ ràng của những lời kinh này
là ở chỗ mỗi người phải sở hữu vững chắc của cải của riêng mình
và, để bảo vệ quyền lợi của riêng mình, phải quảng bá đi mọi
phương rằng không ai được ước ao của cải của người khác.
Đây là lí do tại sao Marx và những người khác theo cách
nghĩ của ông ấy đã không sai khi họ cảm thấy rằng mọi tôn giáo
đều đưa ra bảo vệ cho người giầu có, phong lưu, bởi vì những
diễn giải của lời kinh này đã bị sai lạc và không đúng. Từ những
giải thích này dường như là bạn không nên cố gắng chiếm lấy
của người khác những cái mà người đó là chủ sở hữu. Điều này
rõ ràng xác định ra rằng người chủ có thể nhận được sự giúp đỡ
của cảnh sát để bảo vệ của cải của mình. Cho nên ý định của nó
là để duy trì luật pháp và trật tự, nguyên trạng và ý tưởng về
quyền sở hữu. Nhưng lời kinh này không dự định điều này; chính
lời tuyên bố đầu tiên của Ishavasya là ở chỗ mọi thứ đều thuộc về
sự tồn tại. Một mình sự tồn tại là người chủ. Cả tôi lẫn bạn không
là người chủ, và ý tưởng của chúng ta về quyền sở hữu là ảo
tưởng. Một mình nó là người chủ, người chưa bao giờ tuyên bố,
“Ta là người chủ.” Nó tuyên bố trước ai? Với ai mà nó nói, “Đất
này là của ta?” Để nói như thế ít nhất cần phải có người khác - và
tất cả đều là của sự tồn tại!

Nhớ lấy điều này khi bạn ghi tên mình lên một mảnh đất.
Bạn làm như thế là để cho người khác, để cho người đó có thể
biết rằng đấy là của bạn. Bạn không đặt tấm biển trong rừng rậm.
Và giả sử bạn sống một mình trên trái đất này, tôi cho là bạn
không điên khùng đến mức phải đi dựng biển ở các chỗ khác
nhau. Nếu bạn là người duy nhất sống trên trái đất này, toàn bộ
đất đai là của bạn. Không còn mục đích chút nào trong việc bận
tâm nói như vậy.
Sự tồn tại không đưa ra những công bố như thế vì nó là
người chủ. Tâm niệm điều này nữa; nó là một nghĩa nữa được
hàm chứa trong lời kinh này của Ishavasya: những người đưa ra
lời công bố này không thể là người chủ. Không cần người chủ
phải công bố. Người chủ là người chủ, mặc dầu không có công
bố nào. Chỉ người hầu đưa ra công bố. Nếu một người đưa ra
một đòi hỏi mạnh mẽ về cái gì đó, điều ấy có thể tạo ra một hoài
nghi mạnh tương đương trong tâm trí của người nghe. Khi một ai
đó tuyên bố mãnh liệt rằng của cải là của mình, thế thì đương
nhiên điều đó không thể là của người đó được. Tại sao đòi hỏi
này được đưa ra hùng hồn thế? Chúng ta bao giờ cũng lớn tiếng
trình bầy đòi hỏi về một vật để chứng tỏ rằng nó là của chúng ta
khi thực ra nó không vậy.
Sự tồn tại không đưa ra lời công bố nào. Nó phải làm như
vậy cho ai? Tại sao nó phải công bố? Lời tuyên bố sẽ là vô nghĩa.
Lời tuyên bố, ngược lại, sẽ chứng tỏ rằng điều ấy không phải là
của nó. Tất cả những điều này đều thuộc về nó, kẻ chưa bao giờ
đưa ra lời đòi hỏi nào về nó. Nó không thuộc về bất kì ai đã từng
lên tiếng đòi hỏi về nó. Đừng ao ước của cải của người khác, vì
nó không thuộc vào ai cả - nó tất cả là của sự tồn tại. Đừng coi nó
là của bạn hay của người khác, coi nó là của sự tồn tại: và nhận
biết rằng người khác này, và cả bạn nữa, tất cả đều là của sự tồn
tại - tất cả chúng ta đều là của nó. Cho nên đánh cắp hay tống
tiền là vô dụng, vô nghĩa và không liên quan. Không có kĩ năng
hay nghệ thuật gì trong đó. Nó cũng gần như là lao động bị mất.
Nó là nỗ lực giống như vẽ đường trên nước.
Vẫn còn có một điểm nữa: tận hưởng chúng thông qua từ bỏ
chúng. Người ta nói rằng nếu bạn từ bỏ một vật, bạn có thể tận
hưởng điều đó. Nhưng không, điều đó không phải là tin của
chúng ta. Ngược lại, chúng ta tin rằng chúng ta có thể tận hưởng
chỉ cái chúng ta ôm giữ thật chặt. Nhưng hiền nhân này chỉ dẫn
chúng ta làm điều hoàn toàn ngược. Ông ấy nói rằng chỉ họ có
thể tận hưởng các thứ mà họ từ bỏ chúng. Phát biểu này rất đối
chọi với niềm tin của chúng ta. Chỉ những người từ chối làm
người chủ trở thành người chủ thật. Mọi thứ đều rơi vào trong tay
những người không ham muốn ôm giữ thứ gì.
Một ví von hay là cố giữ không khí trong tay bạn. Bạn có thể
lĩnh hội ý nghĩa thực của lời kinh này - từ bỏ để hưởng thú - nếu
bạn đơn giản cố gắng giữ không khí trong tay mình. Ngay khi
bạn nắm chặt nắm tay, không khí thoát ra ngoài hết. Bạn càng
siết chặt nắm tay bạn càng giữ ít không khí, cho đến cuối cùng
không còn lại không khí nào nữa. Để lỏng nắm tay và không khí
sẽ xô bàn tay để mở của bạn. Bao giờ cũng có không khí trong
bàn tay để mở, nhưng trong nắm tay chặt thì chúng trốn biệt. Một
người để tay mình mở ra bao giờ cũng có đầy không khí; nó
không bao giờ trống rỗng, mọi khoảnh khắc không khí đều tươi
mát. Bạn đã bao giờ quan sát điều này chưa? Bàn tay để mở
không bao giờ trống rỗng, và bàn tay nắm bao giờ cũng trống
rỗng; và nếu một chút ít không khí vẫn còn lại trong nắm tay, nó
là cũ rích và suy tàn. Riêng những người từ bỏ mới có khả năng
tận hưởng.
Trong thế giới này, trong cuộc sống này, con người nhận
được nhiều khi người đó sẵn sàng cho đi và buông bỏ. Đây là
ngược đời - nhưng mọi qui tắc của cuộc sống đều ngược đời.
Chúng không đối lập; chúng là ngược đời. Chỉ dường như chúng

là đối lập. Người ao ước được tôn vinh và kính trọng trên thế giới
này chắc chắn tìm thấy hổ thẹn và bất kính. Người ham muốn
được giầu có, nhưng khi người đó bắt đầu tích luỹ của cải, người
đó trở thành nghèo nàn và hèn hạ bên trong, khi người đó có vẻ
giầu có bên ngoài. Người nghĩ hay mơ về tính bất tử lo âu về sợ
chết cả hai mươi bốn tiếng một ngày. Cái chết không bao giờ tới
viếng thăm nhà của người luôn sẵn lòng đón chào nó: người sẵn
lòng gặp gỡ cái chết nếm những giọt cam lồ, trong khi người sợ
hãi cái chết chết đi từng giờ mỗi ngày. Người ấy chết đi mọi lúc
bởi vì người ấy không biết chút nào về cuộc sống là gì. Người
nói, “Ta sẽ trở thành người chủ,” sẽ sớm trở thành kẻ nô lệ; và
người nói, “Ta sẵn lòng là kẻ nô lệ,” sẽ là người chủ vô hạn.
Nhưng đấy là những phát biểu mâu thuẫn cho nên rất khó để hiểu
chúng, và khi chúng ta cố gắng diễn giải chúng, chúng ta làm
điều ấy theo cách để chúng ta được cứu giúp trong cái ngược đời
trong chúng - và do đó chúng ta bỏ lỡ vấn đề.
Do vậy mọi người đã hiểu nhầm những lời kinh này. “Tận
hưởng qua từ bỏ” đã đi tới ngụ ý là nếu bạn làm việc từ thiện,
bạn sẽ được thưởng ở cõi trời. Cho người ăn mày ngồi bên bờ
sông Hằng một vài xu và bạn sẽ được thưởng hàng nghìn lần
hơn. Không có cái gì khác trên thế giới này bị đối xử tệ bạc như
những lời kinh này, và tương tự, không ai bị đối xử bất công như
những hiền nhân này - bởi vì khó hiểu được họ theo đúng tinh
thần của họ. Thay vì vậy, chúng ta diễn giải họ theo cảnh quan
của chúng ta. Chúng ta nghĩ chúng ta hiểu lời kinh này: nếu bạn
đem cái gì đó đi làm việc từ thiện, bạn sẽ được lên cõi trời sau
khi chết. Nhưng chú ý: lời kinh này nói, “Người từ bỏ, nhận
được.” Nó không nói: “Người từ bỏ với quan điểm để nhận được,
sẽ nhận được.” Thực ra, người từ bỏ với quan điểm để nhận
được, là không từ bỏ, vì người đó chỉ tìm cách để nhận được
phần thưởng.
Người làm điều từ thiện ở đây trên thế giới này là để cho
người đó có thể nhận được phần thưởng trên cõi trời không từ bỏ
cái gì cả. Người đó đơn giản siết chặt nắm tay của mình cho
tương lai. Nếu được hiểu đúng, hành động của người đó không
chỉ là siết chặt nắm tay trên thế giới này, mà còn siết chặt nó cả
trong thế giới tiếp nữa. Người đó đang nói với người khác bằng
hành động của mình, “Hành động này là không quan trọng lắm ở
đây, nó hoàn toàn thông thường, nhưng nó rất quan trọng ở kia,
trong thế giới tiếp.” Nếu người đó hoàn toàn chắc chắn, nếu
người đó một trăm phần trăm chắc chắn rằng người đó sẽ được
thưởng trong thế giới tiếp vì hành động tốt của mình trên thế giới
này, thế thì người đó được chuẩn bị để làm việc đầu tư nào đó.
Người đó được chuẩn bị để chịu rủi ro một số tài sản của mình
nếu người đó được đảm bảo đầy đủ về phần thưởng của người đó
trong thế giới tiếp.
Không, người như vậy đã không hiểu thấu được nghĩa này
chút nào. Đấy không phải là điều lời kinh này đang nói. Nó đơn
giản nói, “Người từ bỏ, nhận được.” Nó không nói, “Từ bỏ để
cho bạn có thể nhận được trong tương lai.” Một người có con mắt
chỉ chăm chăm vào đầu nhận được cái gì đó không bao giờ có thể
nghĩ dưới dạng từ bỏ được. Khi người đó dường như là từ bỏ,
đấy không phải là từ bỏ mà là đầu tư. Người đó đơn giản thay
đổi vấn đề tài chính để thu được nhiều hơn. Nếu một người đầu
tư một triệu vào một nhà máy, đấy có thể được gọi là làm điều từ
thiện không? Chắc chắn không. Người đó đang đầu tư với ham
muốn để kiếm được một triệu rưởi. Rồi người đó có thể đầu tư
một triệu rưởi. Đấy là từ thiện chăng? Vậy là người đó cứ tiếp
tục, cứ đầu tư ngày một nhiều để cho người đó có thể có một cái
nắm chặt hơn vào tài sản của mình. Người đó muốn ngày càng
nhiều hơn. Người thực hành từ thiện với quan điểm để thu lại
được cái gì là không hiểu nghĩa của từ thiện.

Lời kinh này đưa ra một tuyên bố đơn giản, trực tiếp rằng
người từ bỏ, tận hưởng. Nó không nói, “Từ bỏ nếu bạn muốn tận
hưởng.” Nó công bố rằng nếu bạn có thể từ bỏ, thế thì bạn có thể
tận hưởng; nhưng nếu bạn đang nuôi dưỡng ý tưởng về tận
hưởng, bạn có thể không bao giờ từ bỏ.
Đây là lời kinh tuyệt diệu. Nó tuyên bố ngay từ đầu rằng mọi
thứ là của sự tồn tại: điều này bao hàm việc từ bỏ. Cái gì còn lại
đó để sở hữu và nắm giữ đối với người đã hiểu rằng mọi thứ đều
thuộc về sự tồn tại? Không cái gì còn lại để mà sở hữu. Từ bỏ là
đầy đủ - và người đã nhận ra điều này, người đã từ bỏ mọi thứ và
có bản ngã đã tan biến, là bản thân sự tồn tại; và việc trở thành sự
tồn tại là bắt đầu tận hưởng. Người đó được hội nhập vào trong
tận hưởng tối cao, được hấp thu vào trong phúc lạc tối cao.
Người đó bắt đầu kinh nghiệm tận hưởng tối cao đó từ khoảnh
khắc nọ sang khoảnh khắc kia. Mọi hạt nhỏ bé nhất trong cuộc
sống người đó bắt đầu nhảy múa. Cái gì còn lại để được tận
hưởng đối với một người đã trở thành bản thân sự tồn tại? Người
đó bắt đầu tận hưởng mọi thứ. Mọi thứ! Bầu trời bao la, hoa nở,
mặt trời mọc, sao đêm, nụ cười và tiếng cười - tất cả đều trở
thành đối tượng phúc lạc của người đó. Tận hưởng tối cao đó bây
giờ tự nó trải rộng về mọi phía cho người đó. Người đó bây giờ
là người chủ và người sở hữu của không cái gì, nhưng theo mọi
chiều hướng đều có sự trải rộng của tận hưởng, và từ khắp xung
quanh, người đó uống nước cam lồ thiêng liêng.
Tôn giáo là tận hưởng. Khi tôi nói điều này - rằng tôn giáo là
tận hưởng - nhiều người trở nên bất ổn bởi vì khái niệm của họ
về tôn giáo là ở chỗ nó là từ bỏ. Nhớ trong tâm trí, người nghĩ tôn
giáo là từ bỏ sẽ phạm phải sai lầm về đầu tư. Vậy mà bản chất
của cuộc sống là từ bỏ. Cuộc sống là từ bỏ. Điều cực kì ngu xuẩn
là ôm giữ bất kì cái gì trong cuộc sống. Sai lầm lớn là nắm giữ
chặt; trong khi làm như vậy người ta mất đi cái mà người ta đáng
thu được. Trong khi nói rằng, “Đó là của tôi,” con người đánh
mất cái người đó đã là.
Mọi thứ rơi rụng đi theo ý của nó từ người đã nhận ra rằng
mọi thứ đều là của sự tồn tại. Thế thì không còn lại gì cho người
đó để từ bỏ. Nhớ lấy, hành động từ bỏ là không thể được với
người nói, “Đó là của tôi.” Nếu một người nói, “Tôi đang từ bỏ
điều này,” điều đó chứa niềm tin rằng vật ấy là của anh ta. Chân
lí là ở chỗ anh ta, người nói như vậy không thể từ bỏ được, vì các
khái niệm của người đó về của tôi và cái của tôi vẫn còn dai
dẳng. Người duy nhất có thể từ bỏ được là người có thể nói,
“Không cái gì là của tôi; tôi có thể từ bỏ cái gì?”
Trước khi từ bỏ cái gì đó, người ta phải có cái đó. Nếu tôi
nói, “Tôi cho bạn bầu trời,” bạn sẽ cười vào tôi và nói, “Trước
hết phải quyết định rằng bầu trời mà thầy đem cho đó là của thầy
đi đã.” Tương tự tôi có thể nói, “Tôi làm điều từ thiện cho bạn
hành tinh Sao Hoả đấy.” Điều này tương đương với điều vô
nghĩa; nó phải là của tôi trước khi tôi có thể làm điều từ thiện với
nó. Ảo tưởng về từ bỏ này xảy ra cho người đang ấp ủ các khái
niệm về cái của tôi. Không, từ bỏ không xảy ra chỉ bởi hành động
bỏ đi cái gì đó. Nó xảy ra chỉ trong việc nhận ra chân lí rằng mọi
thứ thuộc về sự tồn tại. Thế thì việc từ bỏ xảy ra - nó không phải
được thực hành.
Từ bỏ là kinh nghiệm, là việc nhận ra sự kiện rằng tất cả đều
là của sự tồn tại. Bây giờ không cái gì còn lại để được từ bỏ. Bây
giờ ngay cả bản thân bạn, người tranh đấu để từ bỏ, cũng không
được dự trữ lại. Bây giờ không còn lời đòi hỏi về bất kì cái gì có
thể quan niệm được về từ bỏ. Toàn bộ phúc lạc tới với người có
việc từ bỏ mang bản chất này. Tất cả cái tinh tuý, tất cả cái đẹp
đẽ, tất cả nước cam lồ của cuộc sống bây giờ là của người đó. Do
đó lời kinh này nói rằng người đó, người từ bỏ, đạt được mọi thứ.
Người đó, người làm trống rỗng bản thân mình, người buông

xuôi ngay cả cái tôi của mình, trở thành người chủ của tài sản vô
tận.
Đủ cho lời kinh này. Chúng ta sẽ nói thêm nữa vào tối nay.
Xin lưu ý tới một vài điều hướng dẫn về thiền sáng trước khi
chúng ta bắt đầu. Điểm thứ nhất là thế này: Bất kì cái gì tôi đã
nói tất cả đều là thiền. Để bàn tay mở và bạn sẽ được đầy không
khí. Khi bạn kinh nghiệm, khi bạn nhận ra, rằng mọi thứ đều
thuộc về sự tồn tại, bạn sẽ xúc động với phúc lạc bên trong bạn.
Việc thiền này sẽ trong vòng bốn mươi phút. nhắm mắt và
bịt tai hoàn toàn để cho không ánh sáng, không âm thanh nào có
thể đi vào. Trong mười phút đầu thở sâu. Cố gắng hết mức, để
cho tất cả năng lượng của kundalini có thể được khuấy động. Nếu
thân thể bạn bắt đầu nhảy múa, nhún nhảy, quay vòng, cứ để nó
làm như vậy. Đừng lo lắng về nó chút nào. Trong mười phút tiếp,
với vui vẻ bên trong, thảnh thơi thân thể bạn đầy đủ. Thân thể
bạn sẽ muốn nhảy nhót, múa may, cười nói, la hét, kêu khóc, hát
hò. Cho phép nó làm bất kì cái gì nó muốn; hợp tác với nó hoàn
toàn và đầy đủ. Trong mười phút tiếp nữa, tiếp tục hợp tác với
thân thể bạn và đồng thời tự hỏi mình, “Ta là ai?” Cứ hỏi, “Ta là
ai?” cứ như là bạn đang tụng mật chú vậy. Làm điều này với sự
hài lòng, với vui vẻ. Thế rồi, trong bốn mươi phút, một số trong
các bạn sẽ muốn đứng dậy, một số sẽ muốn nằm ra, và số khác sẽ
muốn lăn tròn. Làm bất kì cái gì bạn thích! Cuối cùng, trong
mười phút cuối, vẫn còn im lặng, đợi việc đi vào sự tồn tại bên
trong. Giữ bản thân bạn thật hoàn toàn thảnh thơi và không có
kháng cự gì để cho nó có thể đi vào bạn. Bạn sẽ phải đợi cho điều
đó.
Trước khi chúng ta bắt đầu thực nghiệm của mình, đặt hai
tay lên nhau, và trước sự tồn tại trịnh trọng đưa ra lời nguyện.
Nhắm mắt, đặt hai tay lên nhau, nghĩ về sự tồn tại như nhân
chứng của bạn, và lặp lại lời nguyện này ba lần: “Trong sự hiện
diện của sự tồn tại, tôi nguyện rằng tôi sẽ cố gắng hết sức trong
thiền.”

******************************************************************************************************

3 Hình dáng của nước

**Với người như ông,
người muốn sống một trăm năm
tham dự vào các hoạt động trên thế giới
và tin rằng “Ta là người làm,”
không có con đường nào khác hơn con đường này -
con đường của việc sống mà không bị hoen ố
bởi việc làm của ông.**

hưởng trong khi làm mọi việc bạn phải làm trong thế giới này.
Con đường được Ishavasya thảo luận tới chính là con đường này:
sống bằng việc buông xuôi cho sự tồn tại, trao cho nó tất cả, để
mọi thứ dưới chân nó. Buông xuôi mọi thứ cho nó. Khi vứt bỏ
khái niệm về bản thân bạn như người làm, bạn có thể sống cuộc
sống của mình và vẫn còn không bị ảnh hưởng bởi việc thực hiện
các nghĩa vụ trần gian của mình. Đây là con đường duy nhất;
không có con đường khác.
Sẽ có ích để hiểu hai hay ba điểm trong mối liên hệ này. Số
một: sống trong thế giới này mà không bị ảnh hưởng bởi nghiệp,
bởi việc làm của bạn, là thuật giả kim vĩ đại, và là vấn đề có giá
trị và trí huệ lớn. Nó cũng gần như việc tưởng tượng một người
tới từ hầm than mà không có dấu vết gì của bụi than trên người
đó. Hơn nữa, đây không phải là vấn đề sống trong hầm than trong
một hay hai giờ. Nếu chúng ta xem xét thời hạn toàn bộ cuộc đời
chúng ta, chúng ta đang nói về thời kì một trăm năm; và nếu
chúng ta xét tới nhiều kiếp sống quá khứ, cuộc hành trình của
chúng ta sẽ đi qua nhiều nghìn năm. Bây giờ, nó sẽ là vấn đề của
trí huệ lớn, hay bằng không cũng là cực kì may mắn, nếu một
người sống trong hầm than như vậy, trong một trăm năm khi vẫn
thực hiện công việc thường ngày của mình - thức dậy, đi ngủ,
ngồi, đứng vân vân - vậy mà có thể không bị dính bởi bụi than
trong hầm. Điều hoàn toàn hiển nhiên và tự nhiên là người đó sẽ
bị bôi bẩn bằng nhọ than. Rất dễ hình dung rằng người tiếp xúc
với bụi than trong hầm chứa không chỉ nhọ nhem mà thực tế rất
có thể còn biến thành bụi than nữa. Người đó có lẽ trông giống
như hoá thân của bụi than! Dường như khó mà tin được - khi
sống trong hầm than ấy một trăm năm - mà một người sẽ không
trở thành bản thân bụi than.
Làm sao chúng ta đi qua một vật mà không chạm vào nó?
Ngay khi chúng ta đi qua nó chúng ta bị gắn với nó. Khi chúng ta

giận dữ, chúng ta trở nên bị hợp nhất với giận dữ của mình. Khi
chúng ta yêu ai đó, chúng ta được thống nhất với anh ấy hay cô
ấy. Bất kì khi nào chúng ta đánh nhau hay bỏ chạy hay tận hưởng
một điều, chúng ta được hợp nhất với hành động của mình. Ngay
cả khi chúng ta làm việc từ bỏ, chúng ta được hợp nhất với nó; và
nếu chúng ta bị dính với sự từ bỏ của mình, chúng ta làm nhơ bẩn
tay mình bằng vết nhọ. Chúng ta trở nên vấy bẩn. Việc hãnh diện
có biết bao nhiêu của cải nảy sinh trong tâm trí một người khi
người đó tận hưởng kết quả của nó. Tương tự, việc từ bỏ đem
vào trong tâm trí người đó hãnh diện về việc đã từ bỏ nhiều thế.
Hãnh diện đó là bụi than với chúng ta; kiêu ngạo đó bản thân nó
là vết nhơ.
Không thành vấn đề một người trải qua cuộc đời một trăm
năm của mình như thế nào, người đó sẽ làm cái gì đó, và nếu
điều ấy được làm với sự hãnh diện, nó sẽ bôi đen người đó.
Nhưng lời kinh này của Ishavasya bảo chúng ta rằng có một con
đường tạo khả năng cho người ta không bị mất đi sự thuần khiết
của mình, và nơi mà người đó không bị ảnh hưởng bởi hành động
của mình, mặc dù sống trong hầm than. Điều này dường như
không thể được, nhưng nó không phải là không thể được nếu
chúng ta hiểu đúng nghĩa của lời kinh này. Người ta có thể làm
bất kì cái gì, nó nói, nhưng chừng nào mà người ấy còn là người
làm, người ấy còn bị bôi đen. Chỉ một phương án khác là có sẵn:
dừng hoàn toàn việc là người làm.
Người ta không thể tránh hành động. Hành động chắc chắn
sẽ có đấy chừng nào chúng ta còn sống. Sẽ là sai lầm mà nói, “Từ
bỏ làm mọi thứ để cho chúng không có cơ hội nào bôi bẩn bạn.”
Hành động sẽ có đó cho đến tận cái chết. Thở vào là hành động.
Không chỉ có người quản lí cửa hàng được tham dự vào hành
động; người ăn mày cũng đang làm. Không chỉ người nội trợ
được tham dự vào việc làm; người bỏ nhà cửa chạy vào rừng rậm
cũng là đang làm. Hành động của họ có thể khác nhau, nhưng
điều này không có nghĩa là người này hành động còn người kia
không hành động: cả hai đều là hành động cho nên không ích gì
mà tin chúng ta có thể tự bảo vệ mình khỏi bụi than, khi bỏ tất cả
cũng là hành động như sống nó tất cảt. Bằng suy nghĩ như vậy,
chúng ta sẽ không đi đến đâu cả. Bằng việc từ bỏ hành động,
người ta chạy trốn, nhưng thế thì việc chạy trốn trở thành hành
động của người ta. Hành động gắn chặt vào chúng ta.
Chỉ có mỗi một cách thoát ra khỏi tình thế khó xử này, và đó
là tìm ra cách thoát khỏi việc là người làm, cho dù chúng ta
không thể giải phóng bản thân mình khỏi việc làm. Nhưng làm
sao chúng ta có thể giải thoát bản thân mình khỏi việc làm trong
khi việc làm tiếp diễn? Liệu tôi có không trở thành người làm khi
tôi đang làm hành động không?
Ishavasya bảo chúng ta rằng ngay cả khi làm, chúng ta vẫn
có thể thoát khỏi việc là người làm. Thông thường dường như đối
với chúng ta là có lẽ chúng ta thoát khỏi việc trở thành người làm
chỉ nếu chúng ta từ bỏ các hành động. “Tôi sẽ không làm gì cả,
do đó tôi sẽ không trở thành người làm.” Nhưng Ishavasya bảo
chúng ta một cách hoàn toàn dứt khoát rằng điều này là không
thể được. Ngược lại, điều có thể là ở chỗ bạn cứ làm mọi việc,
nhưng bạn vẫn còn tách bạch với việc trở thành người làm của
chúng.
Đừng là người làm! Làm sao điều này có thể có được?
Chúng ta đã quen thuộc chút ít với hành động như thế. Đóng vai
trên sân khấu là trải qua khả năng về làm mà không là người làm.
Rama khóc to trong rừng khi Sita bị lạc. Anh ta chạy từ cây nọ
sang cây kia, bám vào thân cây và kêu, “Sita đâu rồi?” Khi kêu la
với cây, người diễn viên có thể kêu gào thống thiết hơn bản thân
Rama, và có thể còn khéo léo và tài giỏi hơn nữa, vì Rama không
có cơ hội nào để diễn tập. Người diễn viên này có rất nhiều lần
thực hành. Người đó biểu diễn cùng những hành động mà Rama

đã thực hiện, nhưng không có người làm đằng sau chúng; chỉ có
diễn viên thôi.
Nhớ lấy, hành động có thể có hai loại: một loại trong đó có
người làm, và loại kia trong đó có diễn viên. Nếu diễn viên thay
thế cho người làm, hành động sẽ tiếp diễn trên bề mặt, nhưng sẽ
có biến đổi toàn bộ bên trong. Việc diễn tập không gắn bạn vào
hành động, nó không ảnh hưởng đến bạn. Nó vẫn còn hoàn toàn
ở bên ngoài, nó không đi vào bên trong. Nó không đi sâu vào bên
trong, nó rung động trên bề mặt và thế rồi biến mất. Diễn viên
đóng vai Rama có thể khóc than và thương tiếc đến đâu cũng
không thành vấn đề, những giọt nước mắt đó không đi vào cái ta
bên trong của người đó. Thông thường người đó phải bôi bụi
than để làm cho nước mắt trào ra, và nếu người đó không dùng
bụi than thì đấy là vì người đó đã học cách làm chảy nước mắt
qua thực hành. Chúng không tới từ chiều sâu mà từ bề mặt.
Người đó kêu la, người đó làm ầm ĩ, nhưng nó tới từ cổ họng
người đó và không từ trái tim. Cái ta bên trong vẫn còn tuyệt đối
không bị động chạm tới và không bị ảnh hưởng tới. Người đó đi
qua hầm than, nhưng không như người làm; người đó vẫn còn là
diễn viên.
Nhớ lấy, chính người làm bị bao phủ bởi bụi than, không
phải là hành động. Nếu như hành động gây ra bụi than, thế thì
điều Ishavasya nói không thể xảy ra được, điều Gita nói không
thể xảy ra được. Thế thì sẽ không có cách nào tự do khỏi hành
động khi người ta còn sống. Thế thì người ta có thể tự do khỏi
hành động chỉ sau khi chết. Thế thì dường như là sẽ không có
giải thoát chừng nào mà cuộc sống vẫn còn dai dẳng. Nhưng làm
sao người ta có thể được tự do sau khi chết khi mà người ta
không thể được tự do trong khi còn sống? Nếu người ta không
thể được tự do trong khi còn sống chắc chắn không có cơ hội nào
tìm được tự do sau cái chết .
Nếu bản thân hành động có thể làm vấy bẩn cuộc sống, thế
thì giải thoát là không thể có được. Nhưng những người tìm kiếm
sâu bên trong nói rằng bụi than bám vào người làm và không
bám vào việc làm. Tức là, nó chỉ bám khi người ta nói, “Tôi là
người làm,” khi việc nhấn mạnh là vào hành động và khi tôi và
hành động là bị đồng nhất lẫn nhau. Chỉ khi việc làm nhơ xảy ra -
khi cái tôi trở thành một với hành động, và nói “Tôi là người
làm” - chỉ trong tình huống như vậy bụi than mới bao phủ người
làm; và thế thì cuộc sống bị tràn đầy với bóng tối và bóng đen.
Nếu không có người nào bên trong nói, “Tôi là người làm,”
và đồng thời có người biết, người hiểu rằng hành động đang tiếp
diễn - rằng các diễn viên đã lên sân khấu để diễn kịch - thế thì
sân khấu có lớn đến đâu cũng không khác biệt gì; để cho nó rộng
lớn như toàn thể thế giới này! Không khác biệt gì việc bức màn
trong vở kịch được kéo lên chỉ một lần lúc sinh, và được hạ
xuống chỉ vào lúc chết. Không thành vấn đề vở kịch kéo dài rất
lâu giữa lúc mở màn và hạ màn. Tất cả những điều này không tạo
ra khác biệt; nó không ảnh hưởng tới bạn chút nào nếu bạn nhìn
nó từ bên trong như việc biểu diễn. Nếu bạn mang hiểu biết này
bên trong, thế thì toàn thể thế giới là một leela - một vở kịch, một
vở diễn, một sân khấu cho bạn - và cuộc sống bản thân nó giống
như một câu chuyện. Thế thì chúng ta là diễn viên, và không cái
gì ảnh hưởng tới diễn viên.
Lời kinh này của Ishavasya nói chỉ có một cách duy nhất cho
con người không bị ảnh hưởng trong khi thực hiện các nghĩa vụ
trong cuộc sống, và đó là biến cuộc sống thành việc đóng kịch.
Nhưng chúng ta là những người phi thường. Chúng ta biến việc
đóng kịch thành cuộc sống, nhưng chúng ta không biến cuộc
sống thành việc đóng kịch. Chúng ta cố gắng nhiều lần để trình
bầy việc đóng kịch của chúng ta như cuộc sống thực của mình,
và những hành động lặp của chúng ta thực tế trở thành các lực
hướng dẫn cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta tới hỏi nhà tâm lí,

họ nói rằng hành vi hiển nhiên của con người tất cả đều là hành
động được trau dồi. Nó tất cả đều là việc ước định.
Chúng ta gọi điều này là bản tính của con người, nhưng các
nhà tâm lí tuyên bố rằng không cái gì giống như bản tính của con
người . Nếu có cái gì giống như bản tính của con người, nó là
tính hay thay đổi vô tận. Bản tính của con người giống như nước.
Nếu chúng ta rót nước vào cốc, nó lấy hình dạng của cốc, còn
nếu nó được rót vào chén, nó sẽ lấy hình dạng của chén; nếu nó
được rót vào vò, nó sẽ lấy hình dạng của vò. Nước bao giờ cũng
lấy hình dạng của bình mà nó được rót vào. Thế thì hình dạng tự
nhiên của nước là gì? Nó không có hình dạng tự nhiên. Bản tính
của nó có thể được mô tả như khả năng lấy vô tận hình dạng.
Nước không ương bướng, nó không ngang ngạnh. Nó không quả
quyết, “Tôi sẽ vẫn còn trong hình dạng đặc biệt này.” Nó nói,
“Tôi sẵn lòng sống theo bất kì hình dạng nào, dù nó có thể là bất
kì cái gì.”
Con người không có bản tính nào của riêng mình. Hiện
tượng mà chúng ta gọi là bản tính chỉ là những mẫu hình hành vi
thường xuyên được thực hành. Đấy là những hành động được
thực hiện theo khuôn khổ văn hoá trong những hoàn cảnh thường
lặp lại. Cho nên, một người được sinh ra trong một gia đình
không ăn chay sẽ ăn thịt. Không phải bản tính của người đó là
chọn điều đó; nếu người đó được nuôi lớn lên trong gia đình ăn
chay, người đó sẽ ăn thức ăn chay. Thế thì người đó có thể trở
nên buồn nôn hay nổi giận khi thoáng thấy thịt. Nhưng đây
không phải là bằng chứng cho một bản tính đức hạnh, mà ăn thịt
không có ý nghĩa là bản chất ác độc. Các đặc trưng như thế
không phải là những chỉ dẫn về tính cao thượng.
Hình dạng của một hành động là một việc được thực hành,
cái mà chúng ta đang dạy cho mọi người từ ngay thời thơ ấu của
họ. Nếu chúng ta hiểu đúng điều sự huấn luyện đó là gì, đấy chỉ
là sự chuẩn bị cho việc biểu diễn mà một người được trông đợi
trong cuộc sống của người đó. Các thể chế giáo dục đều là các
phòng tập diễn. Chúng là các phòng huấn luyện nơi chúng ta
chuẩn bị cho bản thân mình cho việc trình diễn của cuộc sống
của chúng ta. Chúng ta huấn luyện một người sắm vai theo một
kiểu cách đặc biệt trong gia đình chúng ta, xã hội, trường phổ
thông và đại học. Chúng ta huấn luyện người này là Hindu, người
kia là người Mĩ, người nọ là người Trung quốc, và người khác là
người Ki tô giáo. Khi họ được huấn luyện và khuôn khổ tâm trí
của họ trở thành mạnh mẽ và vững chắc, có vẻ như cái khuôn
khổ tâm trí đó là bản tính của họ. Không, tất cả những cái đó chỉ
là những trình diễn được lặp lại nhiều lần, cuối cùng được ấn
định chắc chắn trong tâm trí con người đến mức ngay cả người
đó đơn giản diễn xuất về phần mình mà không biết.
Bạn đã bao giờ nghĩ bạn thuộc về tôn giáo nào không?
Hindu giáo, Jaina giáo, Mô ha mét giáo, Ki tô giáo và các tôn
giáo khác tất cả đều là những việc trình diễn được dạy cho bạn.
Nếu bạn chưa được huấn luyện trong chúng bạn sẽ không bao giờ
biết được về chúng. Nhưng khi bạn nói, “Tôi là người Hindu
giáo,” bạn trở thành người làm. Thế thì bạn có thể cầm thanh
gươm trong tay để bảo vệ tôn giáo của bạn. Thế thì mạng người
có thể bị hi sinh và việc giết người có thể được thực hiện. Tranh
cãi có thể tình cờ nổ ra với bất kì ai nói bạn không phải là Hindu.
Các nhà tâm lí hay nói rằng thói quen là bản tính thứ hai.
Điều này đã là quan điểm của các nhà tâm lí quá khứ. Nhưng
thay vì thế, các nhà tâm lí hiện đại nói rằng bản tính là thói quen
thứ nhất. Càng nhiều nghiên cứu được tiến hành về bản tính con
người, điều được biết càng được thuyết phục hơn rằng bản tính là
thói quen thứ nhất - một thói quen ăn sâu đã trở thành được cố
định chắc chắn đến mức con người quên mất rằng người đó đang
biểu diễn. Nếu bạn có thể nhớ trong tâm trí rằng bạn đang biểu
diễn thì sẽ không còn việc giết lẫn nhau. Ngược lại, bạn sẽ nói,

“Điên làm sao! Tôi đang đóng vai người Hindu và bạn đang đóng
vai người Mô ha mét giáo; tại sao phải có bất kì cãi nhau nào ở
đó?” Không, chỉ khi hiện tượng này không được xem như vở
kịch, như diễn kịch, cãi nhau và đánh nhau mới bùng ra. Thế thì
mọi người trở nên nghiêm chỉnh, và họ dừng vui đùa.
Eric Berne đã viết một cuốn sách tên là Mọi người chơi điền
kinh. Ông ta không chỉ đơn thuần giải quyết các môn điền kinh
như bóng đá, khúc côn cầu, chơi bài và chơi cờ, mà giải quyết cả
với người Hindu, Mô ha mét giáo và Ki tô giáo. Đấy cũng là
những môn điền kinh mọi người chơi thôi, đôi khi với giá rất cao
và với nhiều tác hại. Những người chơi cờ đã được biết là đã
từng rút gươm ra đánh nhau chỉ vì vấn đề thắng hay thua ván cờ,
cho nên chỉ vừa mới động tới mối quan tâm lớn là họ đã giết lẫn
nhau với vấn đề khác biệt về tôn giáo của họ.
Dường như là khi trò chơi bị coi là nghiêm chỉnh chúng trở
thành một phần của cuộc sống; và với bất kì cái gì được dạy đều
được bám vào đó. Trên khắp thế giới đàn bà đã được dạy rằng họ
là thua kém đàn ông, và họ đã tin vào điều đó. Nhưng cũng có
những xã hội mẫu hệ, nơi mà đàn ông được dạy là người đó thấp
kém hơn đàn bà; và người trong một trật tự xã hội như thế sẽ bám
vào niềm tin này. Có những gia đình mà đàn bà cao siêu hơn đàn
ông. Điều đáng quan tâm về tình huống này là ở chỗ trong trường
hợp đàn bà cao siêu hơn đàn ông, đàn bà trở nên thông minh hơn
đàn ông. Và nơi mà đàn bà được dạy cô ấy thấp kém hơn đàn
ông, đàn ông trở nên thông minh hơn.
Chúng ta định hình con người giống như nước trong bình
chứa. Thế thì việc đóng kịch giữ bản ngã chặt đến mức nó không
nói, “Tôi đang đóng kịch”; nó nói, “Tôi đây!” Thế thì là người
Hindu không còn là vở kịch nữa: nó là điều tôi đang là. Và bụi
than bắt đầu tác động vào bạn ngay khi bạn nói, “Tôi đây.” Nó
cũng có thể được xem là ít quan trọng hơn nếu nó chỉ ảnh hưởng
tới bạn: nhưng một người bị vấy bẩn với bụi than chẳng mấy
chốc sẽ bắt đầu ném nó lung tung vào người khác. Bụi than trên
tay chúng ta được bôi lên người khác. Bản thân chúng ta bị lấm
đen và chúng ta bôi đen cả người khác. Chúng ta bắt đầu biến
đổi việc đóng kịch thành một vai do người làm thực hiện.
Khi hai đứa trẻ làm lễ cưới cho hai con búp bê, chúng ta nói
chúng đang chơi. Nhưng bạn đã bao giờ nhận ra rằng đám cưới
của đàn ông và đàn bà, ở một mức nào đó, không là gì nhiều hơn
đám cưới của hai con búp bê không? Trong cả hai đám cưới, mọi
hình dạng, mọi xem xét, mọi sắp đặt, mọi âm nhạc, mọi phô
trương và tất cả những cái bẫy khác đều như nhau. Khác biệt duy
nhất là ở chỗ một đám do trẻ nhỏ chơi và đám kia do trẻ đã lớn
chơi. Trẻ nhỏ chóng quên trò chơi; buổi tối chúng không nhớ
rằng đám cưới đã được cử hành vào buổi sáng. Nhưng trẻ đã lớn
thậm chí đưa nhau ra toà án để tranh giành quyền hôn nhân. Họ
không quên sự kiện ấy, nhưng bám lấy nó rất chặt.
Không ai được chuẩn bị để coi hôn nhân của họ như vở kịch.
Khó làm như vậy, bởi vì nếu hôn nhân được xem như vở kịch,
thế thì gia đình cái là kết quả của đám cưới không tránh khỏi bị
xem như vở kịch. Thế thì cộng đồng được tạo nên từ các gia đình
cũng là vở kịch. Vậy cái vòng này mở rộng dần, cho tới khi toàn
bộ thế giới loài người bao quanh cộng đồng này trở thành vở
kịch. Đó là lí do tại sao chúng ta phải bám chắc vào mọi chi tiết
về vị trí chúng ta và nói, “Không, thể chế hôn nhân không phải là
vở kịch, đấy là vấn đề nghiêm chỉnh; đấy là vấn đề sống-vàchết.”
Gia đình không phải là vở kịch, cộng đồng không phải là
vở kịch. Thế thì mọi bước, mọi hành động, trở thành cứng nhắc
và khó uốn như tảng đá.
Toàn bộ cấu trúc trở thành ngày càng cứng nhắc; và chúng
ta, xã hội, sẽ phá huỷ bất kì người nào coi các dàn xếp nhân tạo
này chỉ là vở kịch, bởi vì người như thế đe doạ phá hoại mọi cách

dàn xếp nghiêm chỉnh của chúng ta. Người đó từ chối tuân theo
các qui tắc của trò chơi của chúng ta, cho nên chúng ta trả thù
anh ta. Cuộc sống của chúng ta là việc diễn xuất liên tục, dài lâu;
nhưng chúng ta đã cấu trúc việc diễn xuất đến mức chúng ta có
thể nói nó là việc làm của mình - chúng ta là người làm.
Ishavasya khẳng định điều ngược lại. Nó nói, “Ít nhất biết
việc diễn xuất là diễn xuất; không có gì trong thế giới này để bạn
phải đủ rồ để là người làm của nó. Nếu bạn trở thành người làm,
bạn mất trí chắc chắn. Để sự tồn tại là người làm đi. Để mọi thứ
cho nó điều bao giờ cũng có đó, đã có đó rồi khi bạn còn chưa
sinh ra, sẽ có đó khi bạn đã dừng sự sống. Để tất cả việc làm của
bạn cho sự tồn tại. Đừng nhận tải trọng của việc làm lên bản thân
bạn. Tải trọng đó sẽ quá nhiều với bạn; nó sẽ lớn hơn sức bạn có
thể mang. Việc mang gánh nặng đó nằm ngoài năng lực của bạn.
Bạn sẽ bị nghiền nát dưới sức nặng của nó và bạn sẽ chết. Không
cái gì có thể cứu bạn được khỏi nó.”
Nhưng bản ngã của chúng ta thấy khó nuốt trôi điều này.
Ngược lại, nó thấy thích thú với sức nặng của tảng đá đè lên ngực
nó. Nó nói, “Tôi đang nâng một hòn đá nặng thế, và cái bạn đang
nâng không là gì nếu so với gánh nặng của tôi! Ta đang mang
một tải trọng nặng thế!” Tổng thống, thủ tướng, đều là những
người thấy thích thú trong việc mang những tảng đá nặng. Để
nâng những tảng đá như thế họ nhận hàng nghìn sự xúc phạm và
thấy bản thân họ gặp hàng nghìn khó khăn. Nhưng họ có thể nói,
“Nhìn vào hòn đá nhỏ bé tầm thường mà anh đang mang trên
lưng kia: anh cũng không hơn gì ông chủ tịch xã - đâu là so sánh
giữa anh và tôi? Tôi là chủ tịch nước và anh là chủ tịch xã!” Ham
muốn trở thành chủ tịch xã là ở qui mô nhỏ; trở thành chủ tịch
nước đòi hỏi sự mất trí trên qui mô lớn hơn. Nhưng mối bận tâm
thường xuyên của ông chủ tịch xã là với vấn đề khi nào ông ta có
thể mang được những hòn đá lớn hơn. Trong nhiều kiếp sống
chúng ta định giá một người tỉ lệ theo trọng lượng của hòn đá -
tải trọng càng lớn trên lưng người đó, người đó càng vĩ đại.
Chân lí đích xác đi ngược lại niềm tin này. Những người biết
thì tìm kiếm người không có tải trọng nào trên lưng người đó;
người đó không mang gánh nặng nào và nhẹ như hoa. Nhưng khó
mà tìm được người như thế, vì mọi người đều bám vào tải trọng
nào đó này khác; dù nhỏ đến đâu cũng không thành vấn đề, tải
trọng có có. Nếu người đó không phải là chủ tịch xã, người đó ít
nhất là chủ gia đình - và không phải bao giờ cũng chỉ có người
bố là người chủ gia đình. Nếu người bố vắng nhà một chốc, đứa
con cả sẽ nắm vai trò người đứng đầu với các em trai em gái. Nó
lập tức bắt đầu chi phối họ. Nó bắt đầu đóng vai trò của người bố
nó. Chẳng hạn, đứa con cả của bạn đang cãi nhau với đứa em trai
trong sự hiện diện của bạn, nhưng nếu bạn rời khỏi chỗ đó, bỗng
nhiên bạn sẽ thấy rằng đứa con cả bắt đầu chi phối. Nó bắt đầu
giữ vai trò mà bạn đã giữ vai. Qui mô của nó có thể nhỏ, trạng
thái của nó có thể nhỏ, nhưng vở kịch là một. Bạn có thể đóng
vai trong vở kịch này trước hai hay ba trăm người, trong khi con
bạn diễn hệt vở kịch đó trước hai hay ba đứa trẻ. Không có gì
khác biệt trong vở kịch cả, chỉ có tỉ lệ là khác đi. Trẻ nhỏ sẽ đóng
vở kịch nhỏ, trẻ đã lớn sẽ đóng vở kịch lớn, còn bậc huynh
trưởng sẽ đóng vở kịch thật lớn.
Con người cảm thấy khó chịu khi người đó không thể chỉ ra
rằng người đó đang mang một tải trọng lớn trên lưng mình, cho
nên một nét đặc biệt thú vị khác nổi lên: người đó nói chung
khoe khoang một tải trọng lớn hơn cái người đó thực sự đang
mang. Có một bà giáo sư cùng làm việc với tôi ở trường đại học
nơi tôi đã làm việc. Tôi phát chán việc nghe về các loại tật bệnh
của bà ta. Liệu một người có thể có nhiều bệnh tật đến thế được
không? Bất kì khi nào bà ấy gặp tôi là bà ấy phàn nàn về một
bệnh nặng nào đó; bà ấy đã bao giờ phải chịu một bệnh nhỏ nào
đâu. Thế rồi tôi hỏi chồng bà ấy về nỗi đau đớn của bà ấy do biết

bao nhiêu bệnh tật, và nói thêm rằng, thông thường, một người
vợ bản thân bà ấy đã là đủ bệnh tật cho ông chồng rồi, “nhưng
trong trường hợp của ông tất cả những bệnh tật đó được được
thêm vào nó. Làm sao mà ông chịu đựng được tất cả những bệnh
đó?”
Ông ta trả lời, “Xin ông chớ tin vào các câu chuyện của bà
ấy. Bà ấy không bao giờ bị một bệnh tật tí xíu nào. Ngay cả đến
một cơn cảm lạnh nhỏ bà ấy cũng không bao giờ nói gì ít hơn
bệnh lao!”
Tôi phân vân và bắt đầu tự hỏi bí mật gì nằm sau nhu cầu
khuếch đại bệnh tật của người ta. Đây là bí mật ấy: nếu bạn có
một bệnh trầm trọng, bạn có một gánh nặng lớn; bạn sẽ được coi
là quan trọng. Nhưng nếu bạn bị một bệnh nhẹ, bạn trở thành
người vô giá trị, vì bệnh tật của bạn có bản chất lặt vặt. Nó không
mang giá trị là bao, không cần để người khác phải lo lắng về bạn.
Cho nên bệnh trầm trọng được gọi là bệnh vương giả - bệnh lao
được xem như bệnh vương giả. Người nghèo không phải chịu
bệnh đó, chỉ có vua bị bệnh đó!
Gần đây tôi vừa đọc về một người đàn bà, người tới một bác
sĩ và yêu cầu ông ta cắt bỏ ruột thừa cho mình. Ông bác sĩ hỏi,
“Ruột thừa của bà gây rắc rối cho bà sao?”
Người đàn bà nói, “Không, nhưng điều đó không thành vấn
đề. Tất cả đàn bà trong câu lạc bộ mà tôi là thành viên đều đã trải
qua ca mổ - một số người đã cắt ruột thừa, số khác có cái gì đó
khác để bị cắt bỏ, nhưng không có cái gì đã bị bỏ khỏi thân thể
tôi. Tôi không cái gì để nói cả!”
Con người quí trọng gánh nặng trên lưng mình, cho nên thật
khó để phát hiện ra người nhẹ như hoa, người có thể nói, “Tôi
không mang tải trọng nào.” Chỉ người đã giao phó tất cả tải trọng
của mình cho sự tồn tại mới có thể nói như thế, và điều đáng
quan tâm về việc này là ở chỗ toàn thể tải trọng là một mình của
sự tồn tại trong bất kì trường hợp nào. Chúng ta cứ chõ mũi mình
vào một cách không cần thiết. Hoàn cảnh của chúng ta giống như
hoàn cảnh của hành khách đang đi trên tầu hoả với tải trọng của
mình để trên đầu mình. Hành khách khác khuyên người đó đặt nó
lên sàn, và thế rồi nói, “Sao anh làm nặng bản thân mình một
cách không cần thiết thế?”
Người đó trả lời, “Tôi chỉ mua có mỗi một vé cho bản thân
tôi thôi.” Người đó đơn giản và ngây thơ làm sao. Người đó nói,
“Tôi đã không mua vé cho hành lí của tôi. Làm sao tôi có thể đặt
cái va li này và đồ trải giường lên sàn được? Như thế là đánh lừa
chính phủ. Cho nên tôi đặt nó lên đầu.”
Bởi vì con người đơn giản ấy không có ý tưởng gì về việc
đặt tải trọng trên đầu mình thì đâu có gì khác biệt với toàn bộ tải
trọng của con tầu. Tải trọng toàn bộ của vũ trụ này do sự tồn tại
mang. Toàn bộ việc thực hiện quản lí vấn đề của vũ trụ này được
thực hiện bởi một mình sự tồn tại. Nhưng chúng ta là những hành
khách rất kì lạ. Chúng ta nhận được hạnh phúc lớn do việc đặt
hành lí lên đầu mình trong suốt cuộc hành trình trong con tầu của
sự tồn tại. Chúng ta thậm chí nói với những người đang mang
những gánh nhỏ, “Anh đã làm lãng phí đời mình rồi đấy. Anh
nên tăng gánh nặng lên.” Và tại sao? Để cho đến lúc người ấy
chết tải trọng của người đó trông lớn đến mức mọi người sẽ bình
luận người đó đã để sau nhiều điều thế! Đây là lí do tại sao, khi
một ai đó chết, chúng ta bàn tán ngay cả về những tải trọng mà
họ không bao giờ mang. Chúng ta giúp làm cho tải trọng đó có vẻ
lớn hơn.
Tôi đã từng nghe: một người chết, và ông linh mục của làng,
đứng gần nấm mồ anh ta, bắt đầu nói về người đó trong khi cỗ
quan tài đang được hạ dần xuống huyệt. Ông ấy ca ngợi về đức
hạnh của người quá cố, những hành vi tốt của người đó, và việc

phục vụ của người đó với người khác. Nghe thấy điều này, vợ
của người quá cố trở nên hơi lo âu. Bà ta bảo đứa con mình cúi
mình thêm chút nữa để nhìn vào trong quan tài và để chắc chắn
rằng nó có chứa thi hài người cha, vì bà ấy chưa bao giờ nghe nói
về tất cả những hành vi tốt này mà ông linh mục nói là đã làm.
Đến đêm bà ấy tới ông linh mục và hỏi ông ta, “Ông đã nói gì về
chồng tôi vậy? Theo chỗ tôi được biết, chồng tôi chưa bao giờ
làm bất kì điều gì mà ông đã nói .”
Ông linh mục đáp, “Bà đừng lo. Ông ấy có thể đã không làm
bất kì những hành vi tốt đó, nhưng người ta sẽ nói gì về ông
chồng bà nếu những hành động như vậy không được nhắc tới?”
Voltaire có một người bạn. Ông ta đã xúc phạm Voltaire
trong cả đời. Ông ta thường chỉ trích Voltaire theo mọi cách thức
có thể. Ông ta thường đối lập với Voltaire trên mọi vấn đề. Ông
ấy không phải là một người tốt. Khi ông ấy chết, một ai đó tới
Voltaire và nói, “Bây giờ giữa các ông có hoà bình rồi; sau rốt,
ông ta là bạn của ông. Cứ cho là ông ta đã xúc phạm ông nhiều
lắm, đã điểm tên ông, phê phán ông chua cay, và cố gắng phá
hoại ông. Nhưng bây giờ ông ta chết rồi, xin ông viết đôi lời ca
ngợi ông ta.” Cho nên Voltaire đã viết, “Ông ấy là người tốt và là
một người vĩ đại - với điều kiện là ông ấy thực sự chết.” Nếu một
người đang sống thì chúng ta không thể ca ngợi người đó được.
Khi người đó chết rồi chúng ta phải ca ngợi người đó, và gánh
nặng mà người đó chưa hề mang được gán cho anh ta.
Nhưng Ishavasya đang nói tới một người mà với người đó
không còn lại gì để ca ngợi sau cái chết của anh ta. Nó nói về
người đã dồn tất cả quyền tác giả cho sự tồn tại. Một người nói,
“Tôi không có chút nào, một mình nó có đấy. Nếu có người làm,
đấy chỉ là sự tồn tại. Nhiều nhất tôi chỉ là quân tốt đen trong trò
chơi của nó. Tôi sẵn lòng đi tới bất kì đâu nó hướng tôi tới; tôi
sẵn lòng là bất kì cái gì nó muốn, tôi sẵn lòng làm bất kì cái gì nó
chỉ thị. Nếu nó muốn làm tôi thất bại, tôi sẵn lòng bị thất bại; nếu
nó làm tôi thành người thắng, tôi sẵn lòng thắng. Không thành
công không thất bại là của tôi. Thất bại là của sự tồn tại, thắng lợi
cũng là của sự tồn tại.”
Việc buông xuôi của người như thế là toàn bộ. Người đó qui
mọi thứ cho sự tồn tại: “Tôi nữa - cũng như tất cả mọi việc làm -
đều là của sự tồn tại.” Người như vậy sẽ làm tất cả những gì cần
thiết trong cuộc sống - sống, thở, đi, đứng, ngồi, làm nghĩa vụ
của mình, ăn thức ăn và ngủ ban đêm. Mọi hoạt động này sẽ có
đó, nhưng sẽ không có người làm bên trong.
Đây là con đường duy nhất. Để tôi nhắc lại, hiền nhân của
Ishavasya hoàn toàn đúng khi ông ta tuyên bố rằng đây là con
đường duy nhất. Và người đã thực sự sống không bị ảnh hưởng
bởi thế giới này - không bị đụng chạm, bao giờ cũng tươi tắn và
mới tinh, hồn nhiên như khi họ được sinh ra - là những người
chưa bao giờ tích luỹ, chưa bao giờ nuôi dưỡng bất kì loại bản
ngã nào trong cuộc hành trình của họ qua cuộc sống; người đã
sống trong một trạng thái vô ngã. Bản ngã nghĩa là tôi là người
làm, vô ngã nghĩa là buông xuôi - buông xuôi mọi thứ dưới chân
sự tồn tại.

***********************************************************************************************

4 Ham muốn thực sự

**Asura -
ma quỉ -
là những người bị vây bọc
trong bóng tối của không hiểu biết mình.
Những người là kẻ giết cái ta
đi tới thế giới của Asura sau cái chết.**

Upanishad chia con người ra làm hai loại. Loại thứ nhất là
những người giết chết atman - cái ta; họ là những người tự tử vì
họ giết cái ta riêng của họ. Và có những người biết cái ta; họ
thuộc vào loại thứ hai. Người biết cái ta và người giết cái ta.
Chúng ta có một từ, atmahatya, nghĩa là giết cái ta, nhưng chúng
ta không dùng nó theo đúng nghĩa của nó. Upanishad đã dùng nó
theo đúng nghĩa của nó. Khi một người phá huỷ thân thể mình,
chúng ta nói người đó tự tử - đã giết chết atman. Điều này không
đúng, vì giết chết thân thể không có nghĩa là giết chết atman.
Giết thân thể riêng của bạn chắc chắn là tự tử. Nó chắc chắn có
nghĩa là cái chết riêng của riêng bạn, và vậy mà, đồng thời, nó
không phải là của riêng bạn. Nó đơn thuần là thay đổi cái vỏ,
thay đổi thân thể. Nó là việc giết chết thân thể, không phải là giết
cái ta - không phải là giết chết atman.
Upanishad gọi người ấy là kẻ giết chết - kẻ phá huỷ cái ta -
người cứ sống mà không biết đến bản thân mình, người bị bao
phủ trong dốt nát. Người như thế là người đang giết chết atman
của mình. Sống mà không biết đến bản thân mình là việc tự tử
thực sự. Và tất cả chúng ta đều sống mà không biết đến chính bản
thân mình. Chúng ta sống nhưng chúng ta không biết chút nào về
chúng ta là ai, chúng ta từ đâu đến, tại sao chúng ta có, chúng ta
có với mục đích gì, chúng ta đi đâu, ý nghĩa cuộc sống này là gì.
Không, về tất cả những câu hỏi này, chúng ta không có ý tưởng
mờ nhạt nào. Chúng ta không biết gì về bản thân mình. Chúng ta
có thể biết về nhiều thứ khác, nhưng chúng ta hoàn toàn dốt nát
về một điều; chúng ta không biết gì về bản thân mình .
Upanishad sẽ qui chúng ta là kẻ giết cái ta, là asura - là ma
quỉ. Cố ý hay không cố ý chúng ta làm tổn thương bản thân mình
chừng nào mà chúng ta còn chưa biết tới bản thân mình. Trước
hết dốt nát của chúng ta gây rắc rối cho chúng ta, thế rồi nó gây
rắc rối cho người khác. Nhớ trong tâm, người dốt nát tấn công

bản thân mình trước và tấn công người khác sau. Thực ra chừng
nào mà chúng ta còn chưa tấn công mình trước, không thể tấn
công người khác được. Không thể gây đau cho người khác trước
khi chúng ta làm như thế cho bản thân mình. Người chưa bao giờ
bị gai đâm vào chân mình không rải gai trên đường của người
khác. Và người còn chưa làm cho mình phải khóc không bao giờ
tạo ra kế hoạch gây rắc rối cho người khác. Sự kiện là trước hết
chúng ta tạo ra rắc rối cho chính mình, và khi nó đã trở thành rắn
chắc và tập trung và bắt đầu biểu lộ qua chúng ta, thế thì chúng ta
bắt đầu phân phát nó. Duy nhất khổ làm cho người khác bất
hạnh. Điều này dường như là phải vì chúng ta đang chia sẻ cái
chúng ta có. Nhưng việc cho này là cái đến sau, cái thứ yếu;
trước hết chúng ta gây ra đau đớn và khổ sở cho bản thân mình.
Không phải tất cả chúng ta đều đang gây ra đau khổ cho bản
thân mình đấy sao? Chúng ta đang làm thế đấy! Chúng ta có thể
cố gắng để đem vui vẻ và thích thú đến cho người khác nhưng
đến cuối cùng chúng ta chỉ đem cho đau khổ. Con đường tới địa
ngục được lát bằng thiện ý, và nó được làm bằng những nỗ lực
của mong muốn tốt lành mà chúng ta nuôi dưỡng cho bản thân
mình. Ham muốn của chúng ta là gì không phải là vấn đề gốc rễ.
Tất cả chúng ta đều ham muốn đem vui vẻ đến cho bản thân
mình, nhưng không ai có thể đem cho mình vui vẻ mà không biết
đến bản thân mình. Làm sao một người không biết “Tôi là ai?”
có được bất kì ý tưởng nào về “Vui vẻ của tôi là gì? Tôi có thể
biết được vui vẻ của mình là gì chỉ khi tôi biết bản tính của tôi,
bản thể của riêng tôi, cái ta của tôi.”
Chừng nào mà tôi còn chưa biết gì về loại gốc rễ ăn sâu
trong tôi, làm sao tôi có cảm giác nào về hoa gì có thể nở trong
tôi? Tôi có thể hi vọng vào loại hoa nào khi tôi dốt nát đến thế về
loại hạt mầm nằm bên trong tôi? Tôi nên ao ước là loại hoa nào?
Nếu tôi không có một ý tưởng tối thiểu nào về bản thân hạt mầm,
kết quả chỉ có thể là bất hạnh cho tôi, dù tôi có thể cố gắng bất kì
cái gì, vì tôi không thể là cái tôi cố là được, và hậu quả tôi trở
thành khổ, đau buồn, lo âu. Tôi sẽ chết trong căng thẳng và lo âu.
Toàn thể cuộc đời tôi sẽ là cuộc chạy đua điên cuồng của thèm
khát, nhưng tôi sẽ không đạt tới đâu cả. Mặc dầu cuộc hành trình
rất dài, tôi sẽ không tìm ra nơi đến, vì nó bị giấu kín trong bản
tính của tôi, trong cái ta của tôi.
Trước hết tôi phải biết tôi là ai. Tôi phải chắc chắn liệu tôi
đang cố gắng phát hiện ra tôi là gì, hay liệu tôi đang cố gắng phát
hiện ra tôi không là gì. Nếu tôi không phát hiện được tôi không là
gì, tôi sẽ chắc chắn bị khổ. Điều đáng quan tâm hơn là ở sự kiện
rằng nếu tôi thực sự thành công trong việc phát hiện ra tôi không
là gì, tôi vẫn sẽ khổ. Những người không thành công trong cuộc
sống chắc chắn trở nên khổ, nhưng không có sự chấm dứt khổ sở
cho cả những người thành công. Những người không thành công
đó trở thành khổ là có thể hiểu được. Nhưng những người thành
công cũng trở nên bất hạnh. Đi và tìm ra điều ấy từ người thành
công mà xem.
Thế thì dường như là cuộc sống là một trò đùa lớn, sự diễu
cợt. Trong thế giới này người không thành công trở thành bất
hạnh, điều dường như hoàn toàn logic; điều ấy dường như công
bằng và đúng đắn. Nhưng những người thành công trong cuộc
sống cũng bất hạnh. Trong những hoàn cảnh như thế, thế giới này
dường như là rất quái dị và không cân bằng. Khi cả người thành
công và người không thành công đều phải bất hạnh, thế thì dường
như không có cách nào để hạnh phúc. Cho nên trước hết chúng ta
hỏi những người thành công tại sao họ bất hạnh, vì không cái gì
đáng ngạc nhiên về người không thành công bị bất hạnh. Chúng
ta hỏi những người như Alexander Đại đế và Stalin; chúng ta hỏi
các nhà triệu phú như Carnegie và Ford. hỏi những người đã thu
được cái họ muốn. Hỏi họ, “Ông có tìm thấy hạnh phúc không?”
và bạn sẽ rất phân vân khi nghe họ trả lời. Họ nói, “Chúng tôi đã
thành công, nhưng thành công trong trong việc tìm ra bất hạnh.

Những người không thành công cũng nói, “Chúng tôi không đạt
tới hạnh phúc; thay vì thế chúng tôi tìm thấy bất hạnh.” Những
người đã đạt tới thành công nói, “Chúng tôi thành công trong
việc trở nên bất hạnh; chúng tôi chỉ tìm thấy bất hạnh trong tay.”
Những người chạy nhanh nhất trong cuộc đua của cuộc sống
đạt tới đích của họ chỉ qua bất hạnh; và những người không đạt
tới đâu và cứ lang thang đây đó nơi hoang vu cũng vẩn vơ trong
khổ sở. Khi như vậy là trường hợp, cái gì là khác biệt giữa đích
đến và con đường? Cái gì là khác biệt giữa đi lang thang và đạt
tới đích? Dường như không cái gì khác biệt cả. Khác biệt không
thể được thấy, vì người không biết mình là ai sẽ bị làm cho khổ
sở ngay cả bởi thành công của người đó. Cái ngày mà người đó
trở nên thành công người đó sẽ nhận ra rằng toà nhà mà người đó
đã xây dựng - thành tựu lớn của người đó - đã không hoàn thành
nhu cầu của người đó. Nó không cho bản tính của người đó sự
nuôi dưỡng nào. Toà nhà đã được xây dựng, người đó đã tích luỹ
của cải, người đó đã tìm thấy danh vọng và tài sản; nhưng những
thành đạt này không nuôi dưỡng gì cho bất kì phần nào của cuộc
sống nội tâm của người đó cả, chúng không đem đến mãn
nguyện. Người đó đã phải thăm dò để phát hiện, “Cái gì là ham
muốn thực sự của mình, cái gì là khát khao của mình? Mình thực
sự ước muốn cái gì?” Không biết được ham muốn thực sự của
mình bạn sẽ đơn giản cứ tiếp tục ham muốn, nhảy hết từ ham
muốn nọ sang ham muốn kia.
Vài ngày trước khi chết, Freud đã viết trong một bức thư gửi
cho một người bạn: “Sau khi nghe nói về khổ sở của hàng nghìn
người trong cả cuộc đời tôi, tôi đã đi đến kết luận rằng loài người
mang định mệnh là bao giờ cũng còn trong bất hạnh, lí do là ở
chỗ con người không biết mình muốn gì.” Khi một người như
Freud nói một điều như vậy, vấn đề này cũng đáng để suy nghĩ
tới. Ông ấy nói, “Tôi đã đi đến kết luận rằng con người không
biết mình muốn gì, sau khi đã nghiên cứu những đau khổ, lo âu,
khắc khoải và những xung đột tinh thần của hàng nghìn người bất
hạnh.”
Con người sẽ không bao giờ biết điều mình muốn bởi vì,
ngay ở chỗ đầu tiên, người đó không biết mình là ai. Giả sử tôi ra
phố mua quần áo may sẵn cho bản thân mình. Tôi không biết gì
về thân thể tôi cả, tôi không biết gì về số đo của mình cả, tôi
không biết gì về các yêu cầu thân thể của tôi; nói tóm lại, tôi
không có bất kì ý tưởng nào về bản thân mình vậy mà tôi ra phố
mua quần áo may sẵn. Khi chúng có đầy ra đấy tôi thấy rằng
chúng không vừa với tôi. Có cái gì sai ở đâu đó; chúng không
khớp với việc sử dụng của tôi. Bằng đủ mọi cách đi và kiếm quần
áo may sẵn đi, nhưng trước khi đi ra, tìm xem bạn là ai, tìm xem
quần áo của ai đang được chuẩn bị, nhà của ai đang được xây
dựng, hạnh phúc của ai đang cần được tìm.
Điều rất đáng quan tâm là quan sát rằng một người biết mình
là ai không sớm hơn cuộc hành trình, và mọi thu xếp cùng chuẩn
bị cho toàn bộ cuộc đời anh ta, được biến đổi. Người đó không
còn tìm kiếm những cái mà chúng ta tìm kiếm nữa. Người đó
không biểu lộ sự sẵn lòng mỉm cười và vẻ hài lòng bởi ai đó chào
giá hời - hay không phải mất gì - để có được cái mà vì nó chúng
ta phải lao động vất vả. Nếu ai đó sẵn lòng cho không người đó
cái gì đó, người đó sẽ quay mặt đi với người này trong trường
hợp cái đó bị tống vào anh ta. Người đó quyết tâm đạt tới cái gì
đó hoàn toàn khác, cái gì đó bất thường; và cũng rất đáng quan
tâm mà thấy rằng những người đã biết bản thân mình không bao
giờ thất bại . Cho đến giờ họ chưa bao giờ không thành công. Họ
thành công cũng nhiều như những người không biết bản thân
mình vẫn không thành công. Người đã biết tới bản thân mình trở
nên thành công bởi vì, khi biết về cái ta, người đó mở ra cho bản
thân mình cái bí mật đó và cái cửa đó nơi phúc lạc có đấy. Phúc
lạc đó bị ẩn giấu bên trong cái ta.

Cho nên, Upanishad tuyên bố có hai kiểu người: những
người biết tới chính bản thân họ, và những người dốt nát về bản
thân họ. Những người không biết tới bản thân mình theo đuổi con
đường của họ đi vào dốt nát, và mọi thứ họ làm đều được tiến
hành trong dốt nát. Họ cứ thu nhận trong dốt nát, họ ra quyết
định trong dốt nát, và trong cái dốt nát của họ, cuộc đua của họ
càng trở nên ngày một nhanh hơn. Cách nhìn nhận thông thường
là: “Mình đã không đạt được điều mình muốn trong cuộc sống
bởi vì mình chạy chưa nhanh như mình đáng phải chạy. Để mình
chạy nhanh hơn một chút, nhanh hơn, rồi nhanh hơn nữa, để cho
mình có thể đạt tới mục đích của mình. Có lẽ mình chưa đạt được
nó bởi vì mình đã không đặt cược tất cả. Nếu mình đặt cược tất
cả, mình có thể đạt được.”
Chúng ta không bao giờ dừng việc xem xét liệu điều ta đang
cố gắng đạt tới có bất kì hài hoà nội tâm nào với chúng ta hay
không. Cho dù một điều được đạt tới, nó sẽ thành vô dụng, và
nếu nó không được đạt tới, nó không thể hữu dụng gì; và thời
gian dành ra để thu được nó hay để không thể thu được nó bị mất
đi. Tới mức độ này chúng ta trở thành kẻ ám sát của mình. Chúng
ta đã trở thành asura, ma quỉ, kẻ giết atman - cái ta. Từ asur
nghĩa là những người sống trong bóng tối. Nó có nghĩa là những
người sống tại một nơi mà ánh sáng mặt trời không đạt tới, một
nơi mà không có bừng sáng. Họ dò dẫm trong bóng tối, họ vẩn
vơ trong bóng tối, giống như mầm mống của bóng tối. Những
người không biết tới bản thân mình đang sống trong bóng tối
này.
Biết tới bản thân mình là trở thành mặt trời. Cuộc hành trình
của một cá nhân như vậy là đi vào trong thế giới của ánh sáng;
nhưng có những người mà ánh sáng bên trong của họ không
cháy, bị tắt ngấm; họ chìm sâu trong bóng tối. Những người vẫn
còn đang chạy, dò dẫm, khao khát, đi theo kẻ mù, đều giống như
kẻ mù theo sau kẻ mù. Và còn có một số người trong số họ là
những kẻ nói lớn; những người như thế có những người theo sau
ít nói hơn, và cứ thế cuộc đua tiếp diễn. Kẻ mù với chút ít dũng
cảm tập hợp quanh mình những kẻ mù ít dũng cảm hơn.
Kahlil Gibran đã viết rằng ông ấy đi lang thang từ làng nọ
sang làng kia, hứa hẹn cho mọi người thấy Thượng đế nếu họ
theo ông ấy. Không ai đã bao giờ theo ông ấy cho nên không rắc
rối nào nảy sinh. Dân làng bảo ông ấy tới lần nữa vì họ đang rất
bận với những việc khác. Mùa màng đang chín rộ và phải gặt
ngay, cho nên ông ấy nên tới sau một thời gian nữa. Khi ông ấy
lại tới thăm họ, họ nói, “Năm nay mùa màng không được tốt; có
khan hiếm lương thực và chúng tôi đang khó khăn. Xin phiền
ông tới sang năm vậy.” Ông ấy vẫn tiếp tục tới thăm làng ấy. Ông
ấy không vội vàng gì để thuyết phục bất kì ai theo ông ấy, nhưng
một người hăng hái trong làng đó quyết định đi theo ông ấy. Khi
Gibran nói, “Theo ta nếu ông muốn gặp Thượng đế,” thì người
đó quẳng chiếc rìu của mình đi và nói, “Tôi xin theo ông!”
Gibran trở nên nóng nẩy. Thế rồi ông ấy nghĩ, “Không biết
thằng cha này theo mình bao lâu? Trong một hay hai tuần nó sẽ
mệt mỏi và sẽ rời bỏ ta.” Nhưng người dân làng này vẫn tiếp tục
theo ông ấy.
Một năm trôi qua. Người này nói, “Tôi sẽ theo ông đến bất
kì đâu ông đưa tôi tới.” Hai năm trôi qua và Gibram trở nên ngày
một nóng nẩy hơn. Ông ấy cố tránh người theo mình, nhưng
người này bao giờ cũng đứng sau ông, nói, “Tôi được chuẩn bị
để theo ông tới bất kì đâu ông đưa tôi đến. Tôi sẽ tuân theo bất kì
điều gì ông bảo tôi làm.”
Sáu năm trôi qua theo kiểu này. Thế rồi một hôm người này
tóm lấy cổ Gibran và nói, “Ông đã lấy thời gian khá lâu rồi, bây
giờ chỉ cho tôi Thượng đế. Ông muốn đi đâu bây giờ nào?”

Thầy nói, “Ta xin lỗi; ta thậm chí đã lạc đường trong việc đi
cùng với ông. Bản thân ta đã lạc đường vì ông đã theo ta. Trước
khi ông bắt đầu theo ta, con đường của ta hoàn toàn rõ ràng cho
ta. Mọi thứ đều rõ ràng thấy được. Ta đã gần tới đích, Thượng đế
đã ở trước mặt ta. Tai hoạ làm sao mà ta để ông đi cùng ta! Bây
giờ ta đã lạc mất đường rồi. Cho nên xin ông rời bỏ ta và đi theo
đường của ông đi.”
Người dân làng đó cảnh cáo ông, “Đừng tới làng tôi lần nữa
đấy!”
Gibran nói, “Này người anh em, tôi xin ông thứ lỗi. Tôi sẽ
không bao giờ tới thăm làng ông nữa đâu, nhưng tôi có thể sang
làng khác, vì không có những người như ông trong các thôn làng
này. Họ chỉ đơn giản nghe tôi và tôi cứ đi một mình trên con
đường của mình.”
Con người, bản thân người đó sống trong dốt nát, thường
được cho là đi nói cho người khác về ánh sáng của tri thức đúng
đắn; để làm cho người đó thoải mái và giúp người đó quên đi
bóng tối của riêng người đó. Điều quan trọng là nhận biết về
những người như thế. Khi bạn bắt đầu nói về những vấn đề mà
bạn không biết gì về nó, thật khó ước lượng được bạn làm hại
người khác đến mức độ nào. Nhưng thật khó mà tìm ra một
người tuân theo qui tắc chỉ nói những điều mình biết, và người
giữ im lặng về điều người đó không biết. Không, có hấp dẫn lớn
để chỉ cho người khác, để bảo người khác, nếu cơ hội nảy sinh.
Hấp dẫn này cực kì lớn. Nếu chúng ta gặp ai đó mà dường như
chút ít yếu về chủ đề Thượng đế và linh hồn, và người mà có thể
bị tràn ngập và kính cẩn bởi việc nói của chúng ta, thế thì chắc
chắn chúng ta sẽ tống tri thức của chúng ta cho người đó. Thế thì
chúng ta sẽ chỉ cho người đó con đường đạt tới Thượng đế và chỉ
dẫn người đó cách tiến hành.
Công việc chỉ ra con đường cho người khác là thích thú và
hài lòng bởi vì nó tạo ra ảo tưởng trong chúng ta rằng chúng ta đã
biết con đường: và trong việc chỉ nó cho người khác qua một thời
gian dài, dần dần chúng ta quên mất rằng bản thân chúng ta
không biết đến chân lí. Có rất ít người thực sự biết, nhưng có rất
nhiều người bao giờ cũng sẵn sàng cố vấn cho người khác. Sẽ có
lợi rất nhiều cho thế giới nếu những người không biết mà cứ đi
nói cho người khác sẽ giữ im lặng về chủ đề tri thức tâm linh.
Nhưng rất khó để họ giữ yên tĩnh, và cũng khó tương đương cho
người khác để làm im lặng họ. Nếu bạn cố gắng làm họ im lặng,
họ sẽ bắt đầu hét to nhiều hơn, vì trong việc hét to lên họ có thể
tự lừa dối mình. Âm thanh riêng của họ rơi vào tai họ tạo ra niềm
tin trong họ: “Tất cả đều ổn thoả, tôi biết chân lí rồi!”
Upanishad tuyên bố rằng có hai kiểu người. Cân nhắc và
xem xét cẩn thận xem bạn thuộc vào kiểu nào trong hai kiểu này,
bạn thuộc vào phân loại nào. Cần phải ra quyết định một cách
chân thành và đúng đắn về bản thân mình để cho bước tiếp có thể
được lấy đúng đắn và theo đúng hướng. Bạn là ai? Người tự giết
mình hay người tự biết mình?
Nếu bạn là người tự biết mình thế thì không vấn đề gì nảy
sinh, vấn đề xong rồi. Thế thì không có hành trình nào cho bạn.
Nếu bạn là người tự giết mình thế thì bạn phải làm cuộc hành
trình. Nó còn chưa bắt đầu, để một mình câu hỏi về sự tồn tại của
nó qua đi. Nhưng thật dễ để coi bản thân mình là người biết về
cái ta, vì tất cả chúng ta đều đã đọc Upanishad, Gita, Kinh thánh,
Koran và những điều Mahavira và Phật đã nói. Thật khó tưởng
tượng được điều này đắt giá và tai hại đến đâu cho nhân loại.
Những cuốn sách ‘tôn giáo’ này ở ngay đầu lưỡi mọi người; tất
cả họ đều biết đầy đủ. Sự kiện là, không ai biết gì về họ nhưng tất
cả đều trong ảo tưởng rằng họ biết mọi điều, vì toàn bộ sách vở
đều được ghi nhớ.

Ngừoi ta viết thư cho tôi nói rằng, “Thầy nói điều gì đó về
vấn đề nào đó, nhưng nó dường như không đúng vì có điều gì đó
khác đã được viết về nó trong sách như vậy và như vậy.” Bây
giờ, nếu bạn biết cái gì là đúng thế thì không cần bạn phải nghe
điều tôi nói. Và nếu bạn không biết cái gì là đúng thế thì làm sao
bạn có thể quyết định được cái như thế và như thế mà sách đã
viết là đúng? Vấn đề này không thể được quyết định đơn giản chỉ
bởi việc suy nghĩ và cân nhắc về nó. Người ta phải làm điều gì đó
trong vấn đề này, đơn giản nghĩ và cân nhắc không có tác dụng.
Hôm qua khi tôi rời khỏi chỗ này, một người bạn đã tiến tới
chiếc xe và nói, “Điều thầy vừa nói trong bài giảng hôm nay đã
được nói tới trong Yogasara rồi.” Bây giờ, người này đã đọc
Yogasara. Cho nên tôi nói, “Chú ý làm như tôi vừa bảo bạn - vì
nếu bạn đã hành động theo điều mà Yogasara phải nói, bạn sẽ
không cần đi đến tôi nữa. Bạn đã bày tỏ tôn kính lớn lao với
Yogasara; nhưng bạn đã không làm gì cả. Xin đừng tôn kính tôi
theo cùng cách đó. Và bây giờ bạn hỏi liệu điều này đã không
được nói trong Yogasara không. Nó có tạo ra khác biệt nào? Bạn
đã đọc Yoagasara và bây giờ bạn đã nghe tôi. Câu hỏi là: khi nào
bạn sẽ đưa vào thực hành điều bạn đã nghe thấy?”
Người hỏi không phải là trẻ con, trẻ con không bao giờ hỏi
những câu hỏi ngu xuẩn như vậy. Người đó là một ông già. Nếu
bạn muốn thu thập những câu chuyện rất ngu xuẩn, bạn nên tới
với ông già ấy, vì cái ngu xuẩn của họ đã chín muồi và đúng vụ.
Họ đã kinh nghiệm dốt nát theo tất cả sức mạnh và sức nặng của
chúng. Họ quen thuộc với mọi kinh sách. Họ biết tất cả những
điều đã được nói. Họ đã trở thành ‘người biết về cái ta.’ Không
có hại gì khi trở thành như vậy. Điều ấy là rất tốt, rất đáng ca
ngợi. Nếu ai đó trở thành người biết về cái ta, đấy là lí do để mở
hội. Nhưng thế thì người ấy không có nhu cầu đến với tôi làm gì
cả, và từ khi người ấy tới, tôi biết rằng việc đọc Yogasara của
ông ấy là vô dụng và rằng bất kì cái gì ông ấy đã đọc cho đến nay
đều không ích lợi gì.
Điều rất có thể là những người như vậy sẽ làm cho tôi thành
vô dụng khi họ đã thực hiện mọi việc đọc của họ. Họ quá bận rộn
với hoạt động này. Nếu tôi nói rằng điều Yogasara đã nói là
đúng, thế thì - tôi biết điều đó - vấn đề sẽ xong rồi. Nhưng nếu tôi
nói, “Nó không được nói theo cách này trong Yogasara,” họ sẽ
nắm ngay lấy cơ hội để bắt đầu tranh cãi. Bạn có thể tranh biện
trong cả đời mình.
Tôi không hào hứng với bất kì cuộc tranh cãi nào, tôi không
lo lắng gì mấy tới bất kì chủ nghĩa nào. Tôi hào hứng với mỗi
việc cỏn con này - rằng bạn có thể có khả năng quyết định được
rõ ràng liệu bạn là người giết cái ta hay là người biết cái ta. Nếu
bạn là người biết cái ta, bạn ở bên ngoài việc xem xét. Thế thì tôi
không bận tâm với bạn. Vấn đề xong rồi! Nếu bạn là người giết
cái ta thế thì cái gì đó có thể được thực hiện, và tôi đang bảo bạn
điều có thể được làm. Nhớ lấy lấy điều này: không phải là việc
tôi bảo bạn làm cho nó thành đúng, không cái gì trở thành đúng
bởi vì lời nói của tôi là vậy. Bạn sẽ không biết nó theo bất kì cách
nào chừng nào mà bạn còn chưa dịch nó thành hành động. Biết
nó sau khi đưa nó vào thực hành đi - sau việc thực hiện của nó.
Tôn giáo là thực nghiệm, không phải là ý nghĩ. Tôn giáo là
phương pháp hành động, không phải là phương pháp suy nghĩ.
Tôn giáo là khoa học, không phải triết học. Nó chắc chắn là
phòng thí nghiệm, nhưng không phải là phòng thí nghiệm phức
tạp nơi chúng ta tới và thu thập chất liệu và công cụ, và bắt đầu
thực hiện thực nghiệm. Bản thân bạn là phòng thí nghiệm. Toàn
bộ thực nghiệm được tiến hành bên trong bản thân bạn.
Đủ cho hôm nay. Chúng ta sẽ nói về lời kinh khác vào ngày
mai. Bây giờ tôi sẽ nói vài lời về thực nghiệm của chúng ta ở đây
và thế rồi chúng ta sẽ bắt đầu làm nó. Tôi bắt đầu với niềm tin

rằng bạn là người giết cái ta. Bạn có thể bị xúc phạm bởi lời tôi.
Điều tốt là bạn bị xúc phạm. Điều tốt là bạn bị tổn thương một
chút. Đôi khi tôi thấy mọi người bị chết về xúc động đến mức họ
thậm chí không còn bị ảnh hưởng bởi những lời như vậy. Nếu
bạn dán cho họ cái nhãn là người giết cái ta, họ sẽ nói, “Anh
đúng đấy, chúng tôi chấp nhận cái nhãn của anh.” Tôi bảo bạn
rằng bạn đang sống cho đến tận bây giờ mà không biết gì về bản
thân mình. Tôi muốn bạn đi vào bên trong cái ta của bạn, và có
khả năng nói với cái ta của bạn, “Tôi đang sống mà không biết về
cái ta của mình”; vì đau xót của việc không biết tới cái ta là sắc
buốt đến mức nó sẽ hướng dẫn bạn trong thực nghiệm của bạn.
Bằng không không thể làm được điều đó.
Nhớ lấy trong đầu, thực nghiệm này là tới mức bạn sẽ biết
nó chỉ nếu bạn làm nó. Bạn sẽ không có khả năng biết bởi vì
người bên cạnh bạn làm nó. Trong buổi thiền chiều nay tôi thấy
khoảng chục người tuyệt đối ngây thơ ngồi nhìn quanh đây đó để
xem người khác đang làm gì. Họ sẽ thấy gì? Ai đó chạy, ai đó
múa, ai đó khác hét to. Bạn nhìn cái gì vậy? Có thể bạn đang
nghĩ rằng những người ấy điên. Tôi đang bảo bạn nghĩ lại - bạn
là người điên đấy! Người kia đang làm điều gì đó. Bạn đã tới để
quan sát người điên sao? Tại sao tất cả các bạn đã lên đường tới
đây? Chỉ để quan sát ai đó nhảy múa sao? Công sức bạn tới đây
bị phí hoài rồi. Cuộc hành trình dài thế và vô ích đến thế. Nếu
bạn muốn thấy người điên bạn có thể làm điều đó ở thành phố
riêng của bạn. Bạn không cần phải làm cuộc hành trình dài đến
thế và leo lên ngọn núi này.
Bạn sẽ không bao giờ có khả năng biết cái gì đang xảy ra
bên trong thân thể người khác. Nếu người đó đang cười to bạn sẽ
có khả năng nghe thấy âm thanh của tiếng cười, nhưng bạn sẽ
không bao giờ biết được giấc mơ người đó đang mơ bên trong
bản thân người đó. Nếu người đó đang khóc bạn sẽ có khả năng
thấy nước mắt của người đó, nhưng bạn sẽ không bao giờ biết cái
đã bị kích động bên trong người đó và cái trào ra qua nước mắt
người đó. Nếu người đó nhảy múa bạn sẽ thấy tay người đó đưa
lên đưa xuống, hay bạn sẽ thấy người đó nhún nhảy, nhưng bạn
sẽ không bao giờ biết âm thanh nào bắt đầu chơi bên trong người
đó, sợi dây nào bắt đầu âm vang bên trong anh ta: bạn sẽ không
có khả năng nghe thấy âm thanh không biết đó của cây sáo bên
trong người đó, dù bạn có để tai mình sát gần ngực người đó đến
đâu. Do đó tôi bảo bạn quên hoàn toàn người khác đi, gạt sang
bên mọi bận tâm về người khác.
Cho nên tôi muốn nói rằng từ mai bạn đeo khăn bịt mắt ngay
cả trong buổi thiền trưa. Không ai được ngồi đây mà không bịt
mắt; và nút tai bạn bằng miếng bông. Gạt sang bên tính tò mò
của bạn để nghe và nhìn; bạn sẽ không đến đâu cả qua những
hành động như thế. Bạn phải để mắt mở trong chương trình đêm;
những người giữ mắt nhắm tối đa trong ngày sẽ có khả năng đi
sâu hết mức. Những người chưa làm như thế hôm nay phải nhớ
điều này và giữ mắt nhắm nhiều nhất có thể được. Chương trình
đêm sẽ thực hiện với mắt mở.
Nhớ lấy điều này: khi mắt bạn mở, năng lượng của bạn tiếp
tục chảy ra mọi lúc. Nếu bạn muốn làm thực nghiệm này với
năng lượng tối đa của mình, thế thì giữ mắt nhắm nhiều nhất có
thể được trong ngày để cho năng lượng đó có thể được tích luỹ .
Mắt bạn có thể dùng năng lượng này trong chương trình đêm;
bằng không nó không thể được dùng. Cho nên thật cẩn thận về
điều này sáng mai. Giữ cho mắt, tai và mồm khép kín tới hết
mức khả năng bạn. Chương trình sáng và việc im lặng buổi trưa
sẽ được trải qua với việc bịt mắt, và mắt bạn sẽ còn để mở cho
bốn mươi phút trong chương trình đêm.
Bây giờ chúng ta sẽ ngồi đây trong bốn mươi phút và bạn
đơn giản giữ cái nhìn thẳng vào tôi; thậm chí đừng chớp mắt. Để
mắt mở trong bốn mươi phút. Bạn sẽ bắt đầu có nhiều kinh

nghiệm, và những người đã tiến hành kinh nghiệm này vào ban
ngày - và nhiều bạn đã làm điều đó rất có ý thức - sẽ phát hiện ra
một số kết quả rất quan trọng. Những người thích làm điều đó khi
đứng nên đi ra vòng ngoài ở các phía và đứng đó, vì họ thích
nhảy nhót và múa may mãnh liệt. Những người ngồi ở trung tâm
quanh tôi về mọi phía trong góc này nên vẫn còn ở chỗ mình.
Bây giờ những người đang đứng nên tản ra mọi hướng. Những
người có ý tưởng ít nhất rằng việc đứng sẽ là tư thế thích hợp hơn
cho họ nên đi ra xa bây giờ, để cho họ sẽ không cần phải đứng
dậy vào giữa chương trình, vì một khi chúng ta bắt đầu bạn sẽ
không được phép đứng dậy và quấy rối người xung quanh.
Giữ im lặng hoàn toàn - không ai được nói. Tôi theo dõi và
nhìn các bạn trong bốn mươi phút. Tôi sẽ ngồi trong im lặng
hoàn toàn. Thế rồi để cho bất kì cái gì xảy ra, cứ xảy ra với bạn.
Nếu bạn muốn thở sâu, làm nó; nếu bạn muốn nhảy múa, thì
nhảy múa; nhưng chú ý của bạn phải dồn vào tôi, mắt bạn phải
nhìn thẳng vào tôi. Nếu bạn có ý hò hét, hay nhảy múa, hay khóc
lóc hay cười nói, làm điều đó. Làm bất kì cái gì bạn muốn làm,
nhưng giữ mắt hướng về tôi.
Tôi có thể cho bạn vài hướng dẫn. Khi tôi cảm thấy rằng bạn
bây giờ đều theo nhịp độ riêng của bạn, tôi sẽ giơ cả hai tay lên.
Đồng thời bạn tự thực hiện đầy đủ. Đó sẽ là dấu hiệu của tôi rằng
kundalini bên trong của bạn đang dâng lên - đang thức tỉnh. Bây
giờ đặt tất cả năng lượng của bạn vào hoạt động của bạn. Và khi
tôi cảm thấy rằng bạn đã tràn đầy năng lượng đến mức tính
thượng đế có thể giáng xuống bạn, tôi sẽ hạ tay xuống. Thế thì
đặt tất cả năng lượng của bạn, không giữ lại một chút nào, vào
trong hoạt động của bạn - và nhiều điều sẽ xảy ra!

*************************************************************************************************

5 Cột mốc số không

**Yếu tố tâm linh cao nhất đó,
atman, có bản chất không đổi thay,
và có chuyển động nhanh hơn tâm trí.
Các giác quan không thể với tới nó,
vì nó đứng trước tất cả chúng.
Trong sự tĩnh lặng của nó,
nó vượt qua mọi thứ chuyển động.
Chỉ trong sự hiện diện của nó mà
khí sắc cai quản mọi hoạt động
của mọi sinh linh.**

Trong tĩnh lặng của mình, atman - yếu tố tâm linh cao nhất -
là cái nhanh nhất trong các cái nhanh. Nó vượt qua sự chuyển
động của các giác quan và của tâm trí bởi vì nó cao hơn cả hai.
Nó có đấy trước khi cả hai thứ này được tạo ra. Nó ở bên ngoài
cả hai.
Rất cần thiết và hữu dụng cho người tìm kiếm để hiểu lời
kinh này. Điều thứ nhất là ở chỗ chúng ta dốt nát về yếu tố tâm
linh cao nhất này; chúng ta không có bất kì tri thức nào về nó. Nó
là chúng ta, vậy mà chúng ta không biết gì về nó chút nào. Nó là
chiều sâu tối thượng của tâm thức chúng ta, từ nơi con người
chúng ta được sinh ra và phát triển.
Nếu bạn tưởng tượng bản thân mình như một cây, việc hiểu
biết sẽ được làm thành dễ dàng. Lá trên cây lan rộng trên bầu
trời; sau lá là cành nằm lẩn khuất, và tận cùng của cành là phần
chóp của cây. Cây cũng có rễ ăn phía dưới, ẩn trong đất sâu.
Không quá khó cho cây để tin rằng nó chỉ là lá, vì rễ là không
thấy được; chúng bị ẩn sâu trong đất. Cho nên có thể là cây sẽ
nghĩ, “Ta là một chùm lá,” quên mất rằng rễ cũng có đó. Nhưng
việc nó quên rễ không tạo ra khác biệt gì. Rễ vẫn cứ làm bổn
phận của chúng mặc cho việc quên lãng đó. Lá không thể sống
lâu được nếu không có rễ của chúng. Điều đáng quan tâm là để ý
rằng lá không thể sống nếu không có rễ, nhưng rễ có thể sống mà
không có lá. Cho dù nếu chúng ta có chặt cả cây đi, rễ vẫn cứ làm
công việc của chúng và một cây mới sẽ mọc ra và nở hoa. Nhưng
nếu chúng ta cắt hết rễ lá sẽ đơn giản héo đi, khô đi và chết.
Chúng không thể cho sinh thành ra lá được. Rễ ẩn sâu bên dưới
trong bóng tối là cuộc sống thực.
Nếu chúng ta xem người như cây, những điều chúng ta gọi là
ý nghĩ không gì khác hơn lá của cây - và chúng ta coi tổng toàn
bộ những ý nghĩ này là ‘tôi đây’. Rễ nằm ở chiều sâu là cái thực,
chúng là yếu tố tâm linh cao nhất. Nhưng cũng như rễ của cây bị

che giấu dưới đất sâu và trong bóng tối, yếu tố tâm linh cao nhất
của chúng ta, atman, bị che giấu ở chiều sâu nguyên thuỷ, trong
sự tồn tại. Từ đó chúng ta nhận được điều tinh tuý của cuộc sống,
từ đó bản thân cuộc sống tới. Từ đó tuôn chảy dòng suối năng
lượng-cuộc sống, chảy mãi lên tới lá của chúng ta. Nếu những rễ
này không có đó, lá của chúng ta không thể có được. Cho nên
vào ngày mà những cái rễ này quăn lại, lá của chúng ta héo đi,
cành của chúng ta sẽ khô , mọi người nói về chúng ta, “Người
này đã chết.”
Chừng nào mà những chiếc rễ này vẫn còn bú và uống nước
nguồn năng lượng cuộc sống, yếu tố tâm linh cao nhất này vẫn
còn tiếp tục mở rộng, và chúng ta cảm thấy mình đang sống. Suy
nghĩ của chúng ta cũng giống như lá của chúng ta, ham muốn của
chúng ta giống như cành của chúng ta, và bản ngã chúng ta được
sinh ra từ sự hợp nhất của lá và cành này. Đây là một phần rất
nhỏ của sự tồn tại của chúng ta. Phần quan trọng nhất của chúng
ta, cái tinh tuý cơ bản của chúng ta, bị dấu ngầm dưới đất; nó
được Upanishad gọi là atman, nghĩa là yếu tố tâm linh cao nhất.
Nó là cái mà chúng ta có thể quên mất, nhưng không có nó chúng
ta không thể sống được. Nó là cái mà không có nó chúng ta
không thể đạt được cái gì cả. Nhưng nó ở sâu dưới đất, ở độ sâu
của sự tồn tại đến mức chúng ta có thể quên mất nó. Yếu tố tâm
linh cao nhất ấy bị lãng quên; chúng ta mất cái nhìn về nó.
Điều đáng quan tâm là quan sát rằng cái mà không có nó
chúng ta vẫn có thể tồn tại không ở rất sâu, nó ở ngay trên bề mặt
thôi, thấy được, và có thể dễ dàng nắm giữ, cho nên khi chúng ta
cố gắng nắm giữ bản thân mình, chính do dồi dào suy nghĩ của
chúng ta mà chúng ta nghĩ là ‘tôi’. Chúng ta nghĩ rằng tâm trí là
‘tôi’. Nhưng tâm trí - yếu tố trí tuệ - chỉ là đám lá của chúng ta
thôi. Yếu tố tâm linh cao nhất là gốc rễ của chúng ta. Và nhớ
trong tâm trí, người có hiểu biết chưa đạt tới chính gốc rễ không
bao giờ có thể biết đến cái nguồn mà từ đó rễ hút nước. Rễ là
atman, còn người đạt tới gốc rễ của mình sẽ sớm sẽ phát hiện ra
đất cái nuôi dưỡng rễ.
Người đã đi tới hiểu ra yếu tố tâm linh cao nhất cũng sẽ có
khả năng biết đến yếu tố tối cao - Paramatman - Thượng đế.
Nhưng chúng ta sống ở lá và nghĩ rằng đám lá đó là ‘tôi’. Cho
nên khi một cái lá nhỏ héo đi và rụng xuống, chúng ta nghĩ là
chúng ta chết, chúng ta đã qua đời, chúng ta đã mất. Và khi tất cả
lá đều héo đi, chúng ta nghĩ bản thân cuộc sống đã tắt. Chúng ta
không biết cuộc sống là gì. Chúng ta sống trong niềm tin rằng cái
vỏ bên ngoài của cuộc sống là ‘tôi’.
Upanishad nói rằng một người sống trong cái vỏ ngoài này là
kẻ giết cái ta. Người biết cái ta là người đi sâu vào bên trong lớp
vỏ, đi xuống tận rễ, tới nơi sự tồn tại làm nên ngọn nguồn nguyên
thuỷ của nó; tại đó người đó phát hiện ra cội nguồn của cuộc
sống. Người biết điều này là người biết cái ta. Chỉ người biết
điều này mới tìm ra ánh sáng; người đó đạt tới sự sống. Người đó
đạt tới bản chất của sự sống.
Ba điều được nhắc tới về yếu tố tâm linh cao nhất này. Điều
thứ nhất là ở chỗ nó bao giờ cũng tĩnh lặng, trong khi tất cả
quanh nó một mạng lưới biến đổi vĩ đại đang tiếp diễn. Điều có
tầm quan trọng lớn là biết về bí mật của cái tĩnh lặng tại trung
tâm. Bất kì chỗ nào biến đổi xảy ra, trung tâm sẽ không tránh
khỏi tĩnh lặng, cũng như cái trục vẫn còn tĩnh tại khi bánh xe
chuyển động. Bánh xe có thể chuyển động được bởi vì cái trục
đứng yên. Bí mật của cái bánh xe chuyển động là ở cái tĩnh lặng
của trục xe. Nếu trục bắt đầu di chuyển, bánh xe sẽ không di
chuyển. Thế thì chiếc xe sẽ bị lật nhào và bị phá huỷ. Việc quay
của bánh xe phụ thuộc vào sự bất động của trục xe.
Trục xe đi được bao nhiêu dặm khi bánh xe quay được một
trăm dặm? Trục xe vẫn còn đứng yên tại chỗ của nó. Điều rất
đáng quan tâm là thấy rằng bánh xe chuyển động cần sự trợ giúp

của trục xe bất động. Bánh xe của thay đổi chuyển động trên cái
không thay đổi. Cho nên điều đầu tiên cần phải nhớ là ở chỗ mọi
thứ trong cuộc sống đều thay đổi; lá sẽ tới và đi chừng nào biến
đổi có đó. Chúng sẽ mọc ra trong mùa xuân này và sẽ rụng đi vào
mùa thu tới. Không cái gì còn tĩnh tại cho dù trong một giây.
Nhưng có một yếu tố không biết nào đó ở sâu, sâu đâu đó bên
trong, cai quản qua trung tâm của mọi vật và mang sự biến đổi
quanh cái tĩnh lặng của riêng nó.
Bạn đã bao giờ thấy cơn xoáy lốc mùa hè di chuyển rất
nhanh trong bầu khí quyển chưa? Nâng cả một đám mây bụi
cùng nó, cơn xoáy lốc xoay tròn lôi mọi thứ lên trời. Bạn sẽ rất
ngạc nhiên mà thấy những dấu vết bị nó bỏ lại trong cát bụi trên
mặt đất. Nó di chuyển mọi thứ đi nhanh làm sao! Nhiều lần nó
cuốn cả người lớn đi nữa. Bạn sẽ rất kinh ngạc nếu bạn quan sát
các dấu vết do nó tạo ra. Có một khoảng không cỡ như một cái
thùng nhỏ, giống như trục của bánh xe, ở trung tâm cơn xoáy lốc.
Không gian này vẫn còn tuyệt đối không bị động chạm. Cho dù
cơn xoáy lốc chuyển động mãnh liệt thế vẫn còn lại ở trung tâm
nó một vị trí mà không bị động chạm tới và không bị xáo trộn.
Một cái trục được tạo ra ở đấy, và toàn bộ cơn xoáy lốc xoay tròn
quanh cái trục vững chắc đó. Thực tế là không cái gì có thể xoay
tròn được nếu không có một trung tâm tĩnh lặng cho nó.
Cuộc sống chuyển động rất nhanh; ý nghĩ xoay tròn rất
nhanh, ham muốn lơ lửng quanh chúng ta theo sự kế tiếp nhanh
chóng, và đam mê cuộn xoáy với lực lớn. Cuộc sống là bánh xe
chuyển động thật nhanh. Upanishad nói có một yếu tố bất động ở
trung tâm của nó. Chúng ta phải tìm kiếm nó. Cơn xoáy lốc mạnh
mẽ như cuộc sống không thể tiếp diễn được nếu không có sự hỗ
trợ của yếu tố đó. Yếu tố vững chắc đó là atman. Nó bao giờ
cũng tĩnh lặng, nó là bất động. Nó chưa bao giờ đi đâu. Nó chưa
bao giờ thay đổi. Nhớ lấy rằng chúng ta chưa biết cuộc sống là gì
chừng nào chúng ta còn chưa gặp cái yếu tố không bị thay đổi và
không thể thay đổi đó. Hiện tại chúng ta chỉ biết tới những thay
đổi xuất hiện ở phạm vi bên ngoài; chúng ta chưa được giới thiệu
với yếu tố tâm linh cao nhất đó. Cho tới giờ chúng ta chỉ quen
thuộc với nan hoa của bánh xe; chúng ta còn chưa thấy cái trục
mà trên đó mọi thứ đều phụ thuộc vào.
Cụm từ ‘trong cái tĩnh lặng của nó’ có nghĩa gì? Dù chúng ta
cho nó bất kì cách diễn giải nào, có toàn bộ khả năng phạm sai
lầm. Phân lớn những người bình chú về Upanishad đều phạm
phải sai lầm này. Cụm từ này này không có nghĩa trì trệ; nó
không có nghĩa rằng nó giống như chiếc ao có nước không chảy
đi đâu. Khi chúng ta nói yếu tố tâm linh cao nhất này là tĩnh lặng,
điều đó không ngụ ý nó là trì trệ. Nó là một yếu tố hoàn hảo thế,
nó là đầy đủ về mọi phương diện đến mức không còn phạm vi
nào trong nó cho bất kì biến đổi nào. Nó chan chứa, lớn lao, vô tư
đến mức tuyệt đối không có tiềm năng nào cho bất kì thay đổi
khác xảy ra trong nó.
Cái đó thay đổi mà trong nó có sự không đầy đủ - nó còn
thiếu cái gì đó. Biến đổi xảy ra tại nơi có phạm vi nào đó cho
việc thích nghi thêm, nơi có tiềm năng nào đó, cơ hội nào đó, để
là cái gì đó khác. Đứa trẻ lớn lên là thanh niên, thanh niên lớn lên
là cụ già, bởi vì còn chỗ nào đó để chừa lại cho thay đổi; cho nên
thay đổi liên tục xảy ra. Lá mọc ra, hoa nở, chúng héo đi và rụng,
và lá mới, tươi lại tới nữa. Yếu tố tâm linh cao nhất là tĩnh lặng.
Điều này có nghĩa là nó là hoàn hảo, đầy đủ về mọi phương diện.
Làm sao bạn có thể thay đổi cái hoàn hảo được? Biến đổi
cho cái hoàn hảo sẽ xảy ra ở phần nào? Không còn chỗ nữa cho
biến đổi. Không còn phạm vi thêm cho thay đổi. ‘Trong cái tĩnh
lặng của nó’ nghĩa là nó được nở rộ hoàn toàn. Không còn chỗ
nào cho việc nở rộ thêm. Nhớ trong tâm trí nó không giống như
ao tù, nó giống như hoa sen đã nở trọn vẹn. Nó đã nở đến mức
không còn nụ nào nữa để nở. Cho nên ở đây cái tĩnh tại, cái tĩnh

lặng, có nghĩa là cái hoàn hảo. Cánh hoa sẽ nở ở đâu, cho dù
chúng muốn nở? - bởi vì yếu tố tâm linh cao nhất là hoàn hảo tới
mức tối đa, tới mức độ cao nhất có thể được. Nó hoàn hảo đến
mức bây giờ không còn chỗ nào cho cánh hoa mở thêm ra nữa,
cho dù chúng muốn làm như vậy. Ở đây, cái tĩnh lặng nghĩa là
tiềm năng toàn bộ đã trở thành thực tại. Bất kì cái gì được che
giấu trong hạt mầm đều được biểu hiện ra toàn bộ - không còn
cái gì vô hình bị bỏ sau nữa. Cho nên, tĩnh lặng ở đây không kéo
theo sức ì hay trì trệ; nó có nghĩa hoàn hảo toàn bộ. Cho nên
nghĩ về đoá hoa nở tròn trịa chứ không phải là cái ao, và thế thì
bạn sẽ hiểu nghĩa của nó.
Điểm tiếp mà lời kinh này của Ishavasya bảo chúng ta là ở
chỗ các giác quan không thể đạt tới atman được, ‘vì nó đứng
trước tất cả chúng.’ Khi bạn ở trước mắt tôi, tự nhiên tôi có thể
thấy được bạn. Nhưng tôi không thể thấy được bản thân tôi bằng
mắt mình vì tôi ở đằng sau đôi mắt. Tôi thấy bạn bởi vì bạn ở
trước mắt tôi. Tôi không thể thấy được bản thân mình bằng mắt
riêng của mình vì tôi ở đằng sau đôi mắt. Nếu tôi mất mắt, nếu
tôi bị mù, thế thì tôi sẽ không có khả năng thấy được bạn chút
nào; nhưng điều đó cũng không khác biệt gì cho năng lực của tôi
thấy bản thân mình. Nếu tôi mất thị giác, tôi sẽ không có khả
năng thấy được bằng mắt của mình. Nhưng tôi chưa bao giờ thấy
được bản thân mình bằng mắt mình, cho nên mặc dầu trở nên bị
mù tôi sẽ vẫn có khả năng thấy bản thân mình. Về vấn đề này,
hai điểm cần được hiểu thấu cho đúng.
Các giác quan trở thành phương tiện để nhìn, để biết về
những đối tượng ở trước chúng. Chúng không trở thành phương
tiện để thấy những đối tượng ở sau chúng. Từ ‘ở sau’ tại đây
cũng có hai nghĩa. Nó không chỉ có nghĩa là ở sau - đằng sau
lưng - nó cũng còn có nghĩa đứng trước. Khi bào thai bám vào tử
cung để sinh ra đứa trẻ, sự sống tới trước rồi giác quan theo sau
nó. Điều đó hoàn toàn đúng bởi vì, nếu sự sống không tới trước,
ai sẽ tạo ra các cơ quan? Cho nên sự sống tới trước. Linh hồn đi
vào bụng mẹ trước; toàn thể linh hồn đi vào và rồi các giác quan
bắt đầu tiến hoá bộ phận nọ tiếp bộ phận kia khi thân thể bắt đầu
tiến hoá. Các giác quan phát triển chậm qua bẩy tháng trong bụng
mẹ, và chúng có được hình dạng hoàn chỉnh của chúng trong
chín tháng. Nhưng dẫu thế vẫn có cái gì đó không được hoàn
chỉnh. Chẳng hạn, cơ quan dục không phát triển đầy đủ. Nó còn
cần thêm mười bốn năm nữa để tới phát triển đầy đủ của nó,
ngay cả sau khi đã hình thành từ trong tử cung. Có một số phần
của bộ óc phát triển dần dần, và liên tục phát triển trong toàn bộ
cuộc sống. Ngay cả người chết cũng vẫn còn phát triển, ngay cả
thế. Nhưng sự sống tới trước, các giác quan theo sau, và các tính
năng khác xuất hiện sau.
Người chủ tới trước rồi người phục vụ được gọi tới sau đó.
Ai thường gọi tới người phục vụ? Ai sử dụng họ? Người chủ có
thể biết người phục vụ, nhưng ngược lại, người phục vụ không
thể biết được người chủ. Linh hồn có thể biết các giác quan,
nhưng các giác quan, về phần chúng, không thể biết được linh
hồn, vì nó đã tồn tại trước chúng, trước khi chúng thành hình, và
nó tồn tại ở chiều sâu mà các giác quan không thâm nhập tới.
Chúng ở trên bề mặt. Chúng cũng bao phủ cuộc sống. Cho nên
không ai có thể biết linh hồn bằng trợ giúp của giác quan, dù
chúng vận hành nhanh đến đâu cũng không thành vấn đề.
Tâm trí thì cũng là giác quan. Nó chạy nhanh làm sao! Cho
nên, có một phát biểu mâu thuẫn trong lời kinh này; cho dù tâm
trí có chạy nhanh thế, nó không có khả năng đạt tới linh hồn, cái
là tĩnh lặng. Tâm trí chạy nhanh như thế không đạt tới nó. Đây là
cuộc đua rất đáng để ý. Cuộc đua là rất thách đố: tâm trí đua
tranh này không thể đạt tới linh hồn bất động này! Nhưng đây là
điều vẫn thường xảy ra trong cuộc sống. Những thứ bất động chỉ
có thể có được bằng việc duy trì tĩnh lặng, không phải bằng việc
đuổi theo chúng.

Bạn đang bước trên đường... có hoa nở bên vệ đường. Chúng
là tĩnh lặng, bắt rễ tại chỗ. Bạn càng bước chậm, bạn càng thấy
chúng nhiều hơn và nếu bạn đứng tĩnh lặng bạn sẽ có khả năng
thấy tất cả mọi thứ ở đó để nhìn chúng. Nếu bạn đang trong xe
chạy nhanh qua chúng với tốc độ một trăm năm mươi ki lô mét
một giờ, bạn sẽ không thể có được lấy một thoáng nhìn về chúng,
và nếu bạn đang bay trong máy bay qua chúng bạn sẽ không biết
gì về chúng. Giả sử, nếu trong tương lai một phương tiện còn
nhanh hơn được phát minh ra, thế thì bạn sẽ không bao giờ biết
liệu hoa có đó hay không. Một chiếc máy bay bay với tốc độ
mười sáu nghìn ki lô mét một giờ sẽ bỏ lỡ hoa đang mọc bên
đường. Mặc dầu chúng vẫn đang đứng tĩnh lặng, bạn sẽ lỡ chúng
bởi vì tốc độ lớn của bạn.
Tâm trí chạy với tốc độ cực lớn. Cho tới nay chúng ta không
có máy bay hay phương tiện nào có thể sánh được với tốc độ của
tâm trí. Cứ thử dành ra một phương tiện như thế, hay một
phương tiện chạy nhanh hơn tâm trí, để cho tâm trí chúng ta bị bỏ
sau khi chúng ta theo cuộc đua mà xem! Sẽ có không thoải mái
lớn, và rất khó khăn; con người sẽ thấy bản thân mình trong rắc
rối lớn. Không, chắc chắn sẽ không xảy ra chuyện có chiếc máy
bay bay nhanh hơn tâm trí chúng ta. Lúc mà máy bay tới được
mặt trăng tâm trí chúng ta đã hoàn thành cuộc hành trình của nó
tới sao Hoả rồi. Và khi máy bay tới sao Hoả thì tâm trí lúc đó đã
đi vào một hệ mặt trời khác. Tâm trí luôn chạy trước mọi máy
bay, dù tốc độ của máy bay có thể nhanh đến đâu.
Vậy mà tâm trí, với khả năng tốc độ nhanh thế, không bao
giờ có thể đạt tới được atman bất động. Cho nên điều mà
Upanishad nói là hoàn toàn đúng. Cái tuyệt đối tĩnh lặng không
thể được đạt tới được bằng việc chạy đuổi theo; nó chỉ có thể đạt
tới được bằng việc đứng tĩnh lặng. Nếu tâm trí trở thành yên tĩnh
toàn bộ - tuyệt đối tĩnh lặng - thế thì, và chỉ thế thì, nó sẽ có khả
năng biết cái là tĩnh lặng. Bạn cũng biết điều này - rằng khi tâm
trí tuyệt đối yên tĩnh, nó dừng hiện hữu. Nó chỉ có đấy chừng nào
nó đang chạy. Nói thực, chạy là cái tên khác của tâm trí. Nói tâm
trí đang chạy là việc thừa. Khi chúng ta nói tâm trí đang chạy,
chúng ta lỡ lời, cũng hệt như ta lỡ lời khi nói rằng tia sét đang loé
lên. Trong sự kiện thật, việc loé sáng đó là tia sét. Không cần
phải nêu ra hai phát biểu: “Tia sét đang loé lên.” Bạn đã bao giờ
thấy tia sét mà không loé sáng không? Thế thì sao bận tâm nói
như vậy? Chính việc dùng từ tạo nên khó khăn đó. Chúng ta tách
bạch tia sét với việc loé sáng khi ta diễn đạt hiện tượng đó bằng
lời. Thế rồi chúng ta nói, “Nhìn kìa, tia sét đang loé lên!” trong
khi việc loé sáng và tia sét thực sự là hai tên cho một hiện tượng.
Chúng ta cũng phạm phải cùng sai lầm khi chúng ta nói tâm
trí đang chạy. Thực ra, cái được gọi là tâm trí bao giờ cũng đang
chạy. Chạy là tâm trí! Thế thì một tâm trí tĩnh lặng không có
nghĩa, cũng như một tia sét không loé sáng không có nghĩa. Nếu
ai đó nói, “Tia sét không loé sáng lần này,” bạn sẽ nói ngay, “Thế
thì nó không có đó chút nào,” bởi vì phát biểu, “Tia sét không loé
sáng,” không có nghĩa. Khi nó loé sáng, nó có đấy. Nếu tâm trí
tĩnh lặng, nó dừng hiện hữu. Tâm trí tĩnh lặng trở thành vô trí.
Kabir gọi trạng thái này của vô trí là trạng thái của lặng lẽ.
Khi nó tĩnh lặng, nó dừng tồn tại. Tâm trí chỉ hiện diện khi nó
đang chạy. Đây là lí do tại sao bạn sẽ không bao giờ có khả năng
giữ cho nó tĩnh lặng được. Nếu bạn trở nên tĩnh lặng, bạn sẽ thấy
rằng tâm trí không có. Tâm trí không bao giờ có thể biết được
linh hồn, vì linh hồn không bao giờ có thể được biết tới qua việc
chạy, và tâm trí là từ khác cho việc chạy. Do đó atman chỉ được
biết tới vào ngày không có tâm trí. Chúng ta có thể biết toàn thể
thế giới qua tâm trí; chỉ yếu tố tâm linh cao nhất là vẫn còn
không được biết. Chúng ta có khả năng biết yếu tố tâm linh cao
nhất đó chỉ khi tâm trí không có đó.

Tâm trí có toàn bộ công nghệ bất ổn riêng của nó. Bởi vì
việc chạy không mục đích là không thể được, tâm trí tạo ra
nguyên nhân hay mục đích cho việc chạy của nó. Những điều này
được gọi là ham muốn. Tâm trí nói, “Mình ham muốn điều đó,
cho nên mình sẽ đuổi theo nó.” Làm sao bạn có thể chạy đuổi
được nếu bạn không có ham muốn đạt tới cái gì đó trong tương
lai, hay nếu không có mục đích nào để đạt tới? Do đó hàng ngày
tâm trí đều quyết định hoàn thành một mục tiêu đặc biệt trong
tương lai. Thế thì việc chạy đuổi bắt đầu, nhưng vào lúc mà mục
đích được đạt tới, người ta phát hiện ra nó là vô dụng vì nó chỉ
đơn thuần là cái cớ cho tâm trí chạy đuổi. Mục đích được đạt tới
trở thành vô giá trị khi được hoàn thành. Thế thì tâm trí tìm kiếm
cái cớ khác, mục đích khác để được đạt tới. Sau khi đạt tới mục
đích đó nó sẽ nói, “Chẳng có gì thực chất trong cái này. Bây giờ
mình phải cố gắng cho mục tiêu kia...” Cho nên nó tiếp tục chạy
đuổi, thêm nữa thêm nữa.
Đây là lí do tại sao tâm trí bao giờ cũng ở tương lai. Nó
không bao giờ có thể trong hiện tại. Người muốn chạy sẽ phải
sống trong tương lai. Tâm trí bao giờ cũng ở phía trước bạn. Nó
sẽ không còn ở đây nơi bạn đang có đấy. Để ở đây, nơi bạn đang
có đấy, việc chạy phải dừng lại. Linh hồn - atman - là ở đây nơi
bạn có đấy, và tâm trí có đấy nơi bạn không có - nơi bạn chưa
bao giờ có đấy. Nó bao giờ cũng ở trước bạn, và bất kì nơi nào
tâm trí đạt tới nó đều nói, “Cái này vô dụng, vô giá trị. Đi tiếp
đi!” Nó giống như cột mốc có mũi tên bao giờ cũng báo bạn đi
tiếp. Nhưng trong những cột mốc này mọi lần chúng ta đều bắt
gặp một cột mốc đánh số không, thay vì mũi tên.
Hôm qua trong khi đi dạo tôi đã thấy một cột mốc với dấu số
không trên đó. Không có mũi tên chỉ lối này hay lối nọ, vì số
không nghĩa là điểm đích. Không đâu nữa mà đi; bạn đã đạt tới
đích của mình. Nhưng tâm trí bịa ra mũi tên nói, “Đi tiếp.” Cột
mốc với số không không bao giờ được thấy trên cuộc hành trình
của tâm trí. Và nếu vào bất kì lúc nào, bất kì ngày nào, bạn bắt
gặp một cột mốc như thế, biết rằng bạn đã đến một nơi được biết
như thiền. Khi bạn tình cờ thấy cột mốc đó trên cuộc hành trình
của mình, biết rằng đấy là việc nhận ra atman. Linh hồn có đấy
nơi có số không. Cho nên những người đã biết tới điều tối thượng
đều tuyên bố rằng bạn sẽ không thể biết được nó thông qua tâm
trí; bạn sẽ biết nó bởi số không. Nhớ lấy, cái mà người chứng ngộ
gọi là số không chính là vô trí.
Tôi đã bảo bạn tâm trí luôn tạo ra cớ để săn đuổi mọi thứ.
Khi nó bắt đầu chán ngán với mọi thứ trần thế, chúng bị dẹp sang
một bên. Tâm trí nói, “Mình thu được giầu sang lớn lao, mình đã
xây dựng nhiều toà nhà, mình đã mua bao nhiêu thân thể cho việc
tận hưởng nhưng không thu được bản chất gì từ những thứ này.”
Thế rồi nó chơi trò mẹo cuối cùng để giữ việc chạy đuổi của nó:
nó bắt đầu tạo ra mũi tên trỏ tới thế giới tiếp, tới cõi trời, tới cứu
rỗi và Thượng đế. Cho dù thế, nó không yêu cầu chúng ta dừng
tạo ra mũi tên và quay trở về số không. Không, bây giờ nó nói,
“Thử đạt tới giầu có tâm linh xem sao. Giầu có trần thế mình đã
đạt tới rồi và thấy nó vô dụng, cho nên thử tiếp xem sao! Bây
giờ mình phải cố gắng đạt tới tôn giáo. Mình biết mình có thể
làm được điều đó. Bằng cách này hay cách khác, mình sẽ làm
điều đó!”
Thôi thúc trở thành dai dẳng. Nếu nỗ lực để có được cái gì
đó vẫn tiếp tục, thế thì tâm trí cũng sẽ tiếp tục. Nhớ lấy điều này:
người không phải là người tôn giáo thực là người ước ao đạt tới
điều gì đó. Người tôn giáo là người đã nhận ra chân lí rằng mọi
hoạt động nhằm thu được đều chỉ là tâm trí; người đó từ bỏ cố
gắng đạt tới bất kì cái gì. “Bây giờ tôi không còn cố gắng đạt tới
bất kì cái gì. Bây giờ, chung cuộc, tôi sẵn sàng cho tĩnh lặng. Bây
giờ, cho dù Thượng đế có yêu cầu tôi tới chỗ ngài, chỉ bước hai
bước tới chỗ ngài, tôi sẽ vẫn còn tĩnh lặng. Bây giờ tôi đang đứng
ở cột mốc số không. Tôi không còn cuộc hành trình nào cần tiến

hành bây giờ nữa.” Nhận biết đi, người đứng tĩnh lặng, trong cái
tĩnh lặng ấy của người đó, người đó tìm thấy Thượng đế. Người
chạy theo Thượng đế không bao giờ đạt tới ngài bởi vì việc chạy
là của tâm trí, và yếu tố tâm linh cao nhất đó không bao giờ được
đạt tới bởi tâm trí.
Khi bạn phát chán với việc tìm kiếm theo các đồ vật trần
gian bởi tâm trí, bạn sẽ bịa ra những cái cớ mới cho tâm trí -
atman, Thượng đế, chứng ngộ. Phật đi xa khi chối bỏ sự tồn tại
của atman, vì bằng không bạn sẽ dồn mọi nỗ lực vào việc cố
gắng tìm ra nó. Tâm trí láu cá thế, nó sẽ nói, “Được thôi, nếu
không có cái gì khác, ít nhất có atman, cho nên ta sẽ theo đuổi cái
đó! Ta sẽ cống hiến năng lực của mình để đạt tới điều đó!” Nếu
nó không chạy về nhà nó sẽ chạy hướng tới đền thờ. Nó phải
chạy - nếu không hướng tới đối tượng vật chất thế thì hướng tới
Thượng đế; trong bất kì trường hợp nào, tâm trí phải chạy.
Nhưng chỉ những người đứng tĩnh lặng mới tìm thấy nó. Đây
là tuyên bố của lời kinh này. Nó ở sau các giác quan và bên ngoài
tâm trí. Cả hai không thể giúp cho bạn đạt tới atman. Thế thì
chúng ta phải làm gì? Vì nó ở sau giác quan, vứt bỏ mọi khái
niệm rằng chúng có thể giúp bạn. Vì nó ở bên ngoài tầm với của
tâm trí, dừng việc tuỳ thuộc vào tốc độ tâm trí của bạn.
Tôi đang nói cho bạn để không đặt tin tưởng nào vào cả tâm
trí lẫn giác quan. Khi tôi yêu cầu bạn nhắm mắt, thực ra đấy là
yêu cầu bạn phá vỡ thói quen phụ thuộc vào một giác quan đặc
biệt. Tôi đang bảo bạn, bạn đã từng thấy quá đủ bằng mắt bạn,
vậy mà điều đó vẫn không được thấy. Mắt đã hoạt động trong
nhiều kiếp rồi, nhưng điều đó không thể được thấy. Bây giờ
chúng ta thấy bằng mắt nhắm.
Chúng ta đã cố gắng vất vả để nghe tiếng nói của điều đó,
nhưng điều đó không thể được nghe thấy. Chúng ta đã mong mỏi
đam mê để nghe thấy âm nhạc của nó, nhưng tai chúng ta không
bắt được nó. Bây giờ, chúng ta nút tai lại. Chúng ta đã suy nghĩ
và suy tư vô tận, nhưng không bao giờ có thể phát minh ra lời
kinh đưa chúng ta tới đó. Chúng ta đã cố gắng vất vả với tâm trí,
chúng ta đã chịu đựng nhiều lo âu và buồn phiền, chúng ta đã lập
luận và cân nhắc, và đã nhìn vào nhiều triết học, nhiều tôn giáo
và nhiều kinh sách. Chúng ta đã tạo ra nhiều cuốn sách và lập ra
nhiều lí thuyết và nguyên lí, nhưng không tìm được bất kì dấu vết
nào của điều đó. Bây giờ gạt sang bên tất cả những điều này đi.
Chúng ta từ bỏ suy nghĩ. Bây giờ chúng ta đi vào vùng vô suy
nghĩ. Có lẽ ở đây điều đó có thể được tìm ra.
Tôi dùng từ có lẽ cho bạn. Nó chắc chắn được đạt tới ở đây.
Nhưng trong khi nó vẫn còn chưa được đạt tới, ngay cả với tin
tưởng chân thành rằng trong vùng vô trí nó chắc chắn sẽ được
tìm thấy, là nguy hiểm. Cho nên tôi dùng từ có lẽ cho bạn: thông
thường, việc giữ niềm tin như thế trở thành chướng ngại cho tiến
bộ của chúng ta. Người ta khuyên chúng ta rằng điều đó là được -
rằng bây giờ chúng ta sẽ có nó, rằng bây giờ chúng ta đã tìm thấy
cách thức để chắc chắn! Cho nên các lí thuyết đi tới trông có vẻ
như những thành tựu. Đấy là lí do tại sao tôi dùng từ có lẽ, để cho
bạn có thể được thuyết phục đi vào trong thực nghiệm.
Đấy là điều chắc chắn đạt tới được, nhưng phải từ bỏ sự hỗ
trợ của các giác quan. Tâm trí, chạy và đua, phải bị loại bỏ. Đấy
là bản tính của yếu tố tâm linh cao nhất, cái đã và bao giờ cũng
hiện hữu bên trong chúng ta, nhưng cái mà chúng ta liên tục bỏ
lỡ qua những phương sách và kế hoạch của riêng chúng ta cho
cuộc sống. Nó chưa bao giờ bị chúng ta đánh mất, nó đơn giản bị
quên lãng. Chúng ta đơn giản quên nó. Nhưng trong khi quên nó,
toàn thể cuộc sống của chúng ta trở thành vô giá trị, trở thành địa
ngục. Trong khi quên nó, không hoa nào phát triển trong cuộc
sống, chỉ gai. Trong khi quên nó, cuộc sống trở thành sa mạc
không có sông, không luồng nước ngọt. Mọi hạnh phúc biến mất.
Cuộc sống của chúng ta trở thành sa mạc nơi mà, dù chúng ta tìm

kiếm nhiều đến đâu, không dòng nước nào được tìm thấy, và chỉ
có cát tuột qua đôi tay chúng ta. Chúng ta bước đi bao lâu không
thành vấn đề, không bóng râm nào được thấy, không đâu là nơi
trú ngụ, không đâu là chỗ nghỉ ngơi.
Hiểu điều này: không có chỗ trú ngụ nào, không có ốc đảo
nào trong cuộc sống, nếu không có yếu tố tâm linh cao nhất đó,
atman. Không cực lạc nào từng tuôn chảy mà không có yếu tố
tâm linh cao nhất đó. Nó là tất cả nói chung. Nó là tinh hoa thực.
Nhưng những người bị vướng vào lá cây không có khả năng tụt
xuống rễ. Lá có thể công nhận việc mọc ra của chúng là từ rễ,
nhưng những người vẫn còn vướng trong lá không bao giờ phát
hiện ra rễ. Từ bỏ lá đi. Đi sâu xuống vào bên trong, vượt ra ngoài
cảm giác, vượt ra ngoài giác quan, vượt ra ngoài ý nghĩ. Đi vào
bên trong và ra sau chúng, dần dần, cho tới khi bạn đi tới điểm số
không. Nó là ở bên trong mọi người. Xoay xung quanh nó, chúng
ta vẩn vơ đây đó, nhưng không có nó không thể có việc lang
thang được. Không có điểm số không bên trong đó, không có yếu
tố tĩnh lặng hoàn hảo đó tại trung tâm, toàn thể quá trình biến đổi
này, mạng lưới tuần hoàn khổng lồ này, không thể tiếp diễn
được. Việc chạy đuổi này của bạn giống như cơn bão, việc xoay
tròn này giống như cơn xoáy lốc, tất cả những điều này phụ thuộc
vào sự hiện diện của số không đó.
Để tôi làm rõ một điều cuối cùng về vấn đề này. Có hai cách
mô tả cho một điều đó: như số không và như sự hoàn hảo.
Upanishad thích thuật ngữ hoàn hảo; họ ưa chuộng dùng từ hoàn
hảo. Khi Upanishad đã đi vào sự tồn tại, khi những lời kinh này
lần đầu tiên được đọc ra, con người chỉ có khả năng hiểu nghĩa
này là hoàn hảo. Từ này diễn tả nghĩa này trong ngôn ngữ khẳng
định. Việc dùng từ số không là để diễn tả nghĩa theo ngôn ngữ
phủ định. Để hiểu thuật ngữ hoàn hảo người ta phải có trái tim
hồn nhiên của trẻ thơ. Người già không có khả năng hiểu ngôn
ngữ này, người đang đi xa hơn mỗi ngày khỏi trạng thái trẻ thơ.
Những người, giống như trẻ thơ, đã hiểu ngôn ngữ của hoàn
hảo trong những ngày khi lời kinh này được soạn ra. Bạn sẽ hiểu
tình huống này nếu bạn đã từng nghiên cứu trẻ con, nếu bạn đã
theo cách thức và hành vi của chúng. Bước đi trên đường đứa trẻ
hỏi đủ mọi loại câu hỏi; tất cả trẻ con đều làm điều này. Thỉnh
thoảng câu hỏi khá thách đố, nhưng bạn đưa ra cho chúng những
câu trả lời dễ dàng đơn giản, và chúng hài lòng và trở nên yên
tĩnh.
Những câu hỏi đó đôi khi khó đến mức người già hơn không
có câu trả lời cho chúng. Khi một em bé mới được sinh ra trong
nhà, trẻ nhỏ sẽ hỏi, “Em bé mới này từ đâu đến thế?” Câu hỏi này
thật khó. Bây giờ, người lớn không có câu trả lời đúng cho câu
hỏi này; cả những người biết - các nhà sinh học - cũng không có
câu trả lời đúng. Họ nói, “Chúng tôi vẫn còn đang nghiên cứu.
Chúng tôi chưa biết dứt khoát em bé đến từ đâu. Chúng tôi có thể
nói cho các anh những điều chúng tôi có khả năng phát hiện ra,
nhưng cuộc sống đến từ cõi bên kia xa xăm; chúng tôi không biết
điều gì một cách dứt khoát.”
Cho nên ngay cả các nhà nghiên cứu, người đã dành nhiều
kiếp sống cho vấn đề này cũng không biết. Và những người cho
sinh ra trẻ con không biết gì hết cả về điều đó, vì không cần phải
biết gì về điều đó để sinh ra trẻ con. Nhưng ý tưởng sai lầm này
được tạo ra rằng người bố của bẩy đứa con nên biết đứa trẻ từ
đâu đến, và vì người đó cũng đã sống trong ảo tưởng này nên
người đó sẽ đưa ra lời đáp, người đó sẽ tìm ra câu trả lời. Nhưng
quan sát thật kĩ lưỡng phản ứng của đứa trẻ mà xem. Nó hỏi
những câu hỏi khó thế - trẻ con từ đâu tới? - điều đó ngay cả
khoa học vẫn còn chưa phát hiện ra câu trả lời đúng; và như tôi
thấy, khoa học không bao giờ có được câu trả đúng. Nhưng bạn
ngay lập tức đáp rằng bạn đã thấy con cò đem em bé tới. Đứa trẻ
tin vào bạn, và chạy đi chơi. Với nó vấn đề thế là xong.

Nó đã tin vào bạn. Tâm trí của nó là tâm trí khẳng định,
không phản đối, không hoài nghi cho đến lúc đó. Nó sẽ không
hỏi để phản đối, “Làm sao cò đem em bé tới được? Nó lấy em bé
từ đâu?” Bây giờ nó không nêu ra chút hoài nghi nào. Về sau nó
sẽ hoài nghi. Rồi một ngày sẽ tới khi câu trả lời, “Cò đem em bé
tới,” không còn tác dụng nữa. Thế thì nó sẽ hỏi nhiều câu hỏi và
bày tỏ nhiều hoài nghi. Thế thì bạn sẽ biết rằng tâm trí phủ định
đã đi vào sự tồn tại.
Có một thời đại khi toàn thể thế giới, toàn thể loài người đã
từng hồn nhiên như trẻ nhỏ; người ta tin vào điều họ được nói
cho. Cho nên kinh sách càng cổ bạn sẽ càng ngạc nhiên và bối rối
nhiều. Bạn sẽ bị lẫn lộn bởi thiếu logic, và bởi vắng bóng lập
luận khéo. Chỉ có những phát biểu trực tiếp. Ai đó đến một hiền
nhân và bảo ông ta, “Tôi rất không thoải mái và lo âu. Tôi phải
làm gì để có được an bình tâm trí?” Hiền nhân nói, “Niệm tên
Rama đi.” Người hỏi được thoả mãn và nói, “Được rồi, tôi sẽ
niệm,” và ra đi. Người đó thậm chí không hỏi điều gì sẽ xảy ra
hay hỏi làm sao người đó có thể được trợ giúp chỉ bởi việc niệm
tên Rama. Người đó không hỏi bất kì câu hỏi nào. Nhớ trong tâm
trí, không cái gì sẽ xảy ra bởi việc niệm tên của Rama, nhưng
hoàn cảnh của tâm trí con người là tới mức ngay cả nếu hiền
nhân yêu cầu người đó lẩm nhẩm “Hòn đá, hòn đá!” người đó sẽ
được lợi.
Không cái gì xảy ra bởi việc niệm hoặc từ Rama hoặc từ hòn
đá. Nhưng chính hoàn cảnh khẳng định của tâm trí, tâm trạng hồn
nhiên của việc chấp nhận, không biết tới chối bỏ hay không vâng
lời, không phát sinh hoài nghi, làm cho nó có kết quả. Đó là lí do
tại sao người ta hay nói, “Đi và niệm tên Rama rồi mọi thứ sẽ ổn
thoả .” Người này về nhà, niệm tên Rama, và mọi sự ổn thoả.
Nhớ lấy, không cái gì xảy ra bởi việc niệm tên Rama. Nó xảy ra
là bởi vì thái độ khẳng định của tâm trí. Nếu như hiền nhân đã
nói, “Cầm lấy bùa hộ mệnh này,” hay nếu ông ta đưa cho người
đó một thứ nước nào đó và bảo người đó uống, người này chắc
chắn sẽ uống nước bùa đó và nó sẽ có kết quả. Bất kì cái gì cũng
đều sẽ có hiệu quả. Không cái gì khác biệt khi phương thuốc là
thế này hay thế nọ. Điều quan trọng là tâm trí khẳng định đằng
sau toàn thể sự việc. Nếu điều đó có đấy, kết quả là thành công
chắc chắn.
Nhưng bây giờ thái độ khẳng định của tâm trí đã mất rồi. Nó
đã hoàn toàn biến mất ngay vào thời của Mahavira và Phật. Cho
nên cả Mahavira và Phật đều phải dùng ngôn ngữ phủ định.
Mahavira đã dùng nó chút ít và tuyên bố, “Không có Thượng
đế!” - không phải bởi vì đã không có Thượng đế, mà bởi vì bây
giờ không còn người nào sẽ nhảy múa vui vẻ khi được bảo rằng
có Thượng đế. Một người như vậy sẽ không hỏi, “Ngài ở đâu?”
Người đó đơn giản nhảy múa theo cách của mình để đi vào cực
lạc. Người đó sẽ nói, “Nếu có Thượng đế, tôi sẽ tới gặp ngài, và
cửa cõi trời sẽ được mở cho tôi.” Và nhớ lấy, không có cánh cửa
nào không mở cho một tâm trí tin cậy và hồn nhiên như thế.
Không có những người như thế ngồi cùng Mahavira. Khi
ông ấy bảo ai đó, “Thượng đế có đấy,” người đó lập tức đối chất
với Mahavira với hàng loạt câu hỏi về chủ đề này. Thế thì
Mahavira nói, “Không có Thượng đế đâu.” Thực ra, câu trả lời
thứ nhất của ông ấy là đúng, nhưng khi một ai đó bắt đầu đưa ra
hoài nghi, toàn bộ tình huống trở thành ngớ ngẩn và vô ích.
Không có ý nghĩa gì trong câu trả lời này nếu hoài nghi được nó
gợi ra. Đó là câu trả lời của các hiền nhân cổ đại. Nhưng mọi
người trong thời của Mahavira bắt đầu hỏi, “Thượng đế là ai?
Ngài ở đâu? Ngài có bao nhiêu đầu? Ngài có bao nhiêu tay? Ngài
được sinh ra thế nào? Ngài từ đâu tới? Chúng ta có thể gặp ngài ở
đâu?” Cho nên Mahavira nói, “Ngài không có đó chút nào.”
Câu trả lời cũ không còn hữu dụng nữa. Câu trả lời mà từ đó
câu hỏi bắt đầu nảy ra là không có giá trị nào. Mục đích của câu

trả lời là để cho câu hỏi được tập trung vào trong nó. Đó là câu
trả lời hàm chứa câu hỏi, cho nên câu hỏi rơi đi. “Có Thượng
đế!” là câu trả lời lớn nhất, nhưng Mahavira bị buộc phải từ bỏ
nó đi. Và Phật đã phải đi thêm một bước nữa.
Mahavira chấp nhận sự tồn tại của linh hồn, atman, với sứ
mệnh của ông ấy. Khác trong quan điểm của Mahavira và Phật
đã nảy sinh nhanh chóng thế. Không có khác biệt gì lớn giữa thời
đại của Mahavira và Phật, thực ra chỉ ba mươi năm. Vậy mà Phật
đã buộc phải nói, “Không có điều như linh hồn.” Mahavira đã
nói, “Không có Thượng đế, có linh hồn.” Phật phải nói, “Thậm
chí không có cả linh hồn,” vì vào thời của Phật người ta bắt đầu
hỏi, “Atman có nghĩa gì?”
Không có câu trả lời cho điều đó. Phật nói, “Nó là số không;
nó là cái không.” Nhớ lấy, câu hỏi không thể nảy sinh đối với số
không, vì nó có nghĩa là cái không có đấy. Câu hỏi nào có thể
được nêu ra về nó? Câu hỏi không thể được đưa ra cho số không.
Và nếu bạn đưa ra bất kì câu hỏi nào, điều đó nghĩa là bạn đã
không hiểu. Nghĩa của số không là ở chỗ nó không có. Bây giờ,
bạn có thể hỏi câu hỏi nào thêm nữa về nó? Bản thân chúng ta
nói, “Nó không có.” Phật nói, “Số không. Cái không!” và hướng
dẫn mọi người trở thành được hợp nhất với nó. Toàn thể ngôn
ngữ bị thay đổi. Nhưng tôi bảo bạn rằng số không và sự hoàn hảo
là một và là cùng một thứ. Từ hoàn hảo là câu trả lời của tâm trí
khẳng định, và từ số không là câu trả lời của tâm trí phủ định.
Điều đáng quan tâm là quan sát rằng chúng ta, trong thế giới
này, không có kinh nghiệm gì về sự hoàn hảo, khác với kinh
nghiệm về số không. Đó là lí do tại sao vòng tròn được chúng ta
tạo ra và chấp nhận như biểu tượng về số không. Nó là hình vẽ
hoàn hảo nhất được con người vẽ ra. Không một hình nào khác là
hoàn hảo. Điều cũng đáng quan tâm để biết là, trong mọi nước
trên thế giới, hình số không lần đầu tiên đã được phát minh ra ở
Ấn Độ; và nó được phát minh ra không phải bởi các lí do toán
học mà bởi các lí do của Veda, với mục đích để hiểu biết.
Số một tới chín cũng đã được hình thành nên ở Ấn Độ,
nhưng điều rất đáng quan tâm là tất cả những con số này từ một
tới chín đều không hoàn hảo. Cái gì đó có thể được thêm vào
chúng. Với số một, một khác có thể được cộng vào, và cái mà với
nó cái gì đó có thể được thêm vào là không hoàn hảo, vì giá trị
của nó tăng lên theo phép cộng. Cái gì đó có thể được lấy đi, bớt
từ nó đi, và cái mà từ đó cái gì đó có thể được lấy bớt đi, do vậy
làm bé nó đi, là không hoàn hảo. Bạn không thể thêm cái gì vào
số không cũng không bớt cái gì đi từ nó được. Nó là hoàn hảo.
Bạn không thể bớt cái gì từ số không - làm sao bạn có thể bớt cái
gì từ cái không? - bạn cũng không thể thêm gì vào số không
được. Bạn có thể làm thế nào?
Số không là biểu tượng, là hình ảnh cho sự hoàn hảo. Nó là
hình ảnh hình học của sự hoàn hảo. Chúng ta mang số không
này, hình ảnh của sự hoàn hảo, bên trong chúng ta. Nếu bạn có
thể đi tới hiểu Thượng đế thông qua sự hoàn hảo, điều đó là tốt.
Và nếu bạn không thể hiểu được qua sự hoàn hảo, thế thì tới qua
số không. Sẽ không khác biệt gì về kết quả cuối cùng.
Qua thay đổi thái độ tâm trí hai con đường đã đi vào hiện
hữu, dẫn tới cùng đích. Nếu tâm trí bạn có tính khẳng định và
bạn cảm thấy bạn sẽ không nhận ra nó qua số không, bạn nên lấy
con đường của nhảy múa, ca hát và hiện hữu trong cực lạc. Và
nếu bạn cảm thấy tâm trí bạn có tính phủ định và hoài nghi, thế
thì cứ duy trì im lặng, yên tĩnh, là số không, và mất hút trong số
không. Nếu bạn nghĩ tâm trí bạn có cách tiếp cận phủ định, thế
thì trở nên được thống nhất với số không. Kết quả cuối cùng là
như nhau.
Nhảy múa đó, cực lạc đó, sẽ tới qua cả số không nữa, nhưng
nó sẽ tới bởi việc là số không, và số không sẽ tới qua nhảy múa,

bởi việc trở thành một với việc nhảy múa. Người có hoàn cảnh
tâm trí thiên về sự hoàn hảo sẽ nhảy múa, ca hát và tụng niệm lời
cầu nguyện ngay từ đầu và do vậy biến mất trong số không. Khi
việc nhảy múa trở thành nhanh và hoang dại, chỉ thế thì việc
nhảy múa của người đó còn lại, và khi nó trở thành điên cuồng
như một cơn xoáy lốc, người đó bắt đầu kinh nghiệm số không
bên trong. Người đó sẽ cảm thấy ai đó đang đứng đằng sau. Thân
thể sẽ tiếp tục nhảy múa và số không, atman, sẽ đứng lại, sẽ được
thức tỉnh bên trong. Điểm tĩnh lặng sẽ bắt đầu xuất hiện cùng với
bánh xe xoay tròn.
Nhớ trong tâm trí rằng nếu bánh xe bất động, sẽ khó biết tới
điểm tĩnh lặng bởi vì cả hai sẽ tĩnh lặng. Sẽ khó phân biệt nổi đâu
là trục xe và đâu là bánh xe nếu bánh xe bất động. Nếu bánh xe
đang chuyển động, sẽ dễ dàng biết được trục vì nó sẽ không
chuyển động khi bánh xe đang chuyển động. Được nhấn chìm
trong cực lạc bởi việc trở thành một với sự hoàn hảo, một
Chaitanya hay một Meera nào đó đang nhảy múa. Khi điệu nhảy
tiếp tục, bánh xe quay càng ngày càng nhanh, và điểm trung tâm
xuất hiện như sự tách biệt trong cái tĩnh lặng của nó.
Nếu bạn bắt đầu với số không thì bạn bắt đầu cảm thấy trống
rỗng bên trong. Khi mọi thứ bên trong trở thành trống rỗng, bánh
xe bên ngoài bắt đầu được thấy đang quay; ý nghĩ tới và đi,
samsara, thế giới, đang tiếp diễn.
Cuộc hành trình tới điều tối thượng có thể bắt đầu từ trục xe
hay từ bánh xe. Cả hai sẽ đem chúng ta tới điểm cuối cuộc hành
trình. Yếu tố tâm linh cao nhất có thể được biết tới hoặc bởi việc
trở thành sự hoàn hảo hoặc bởi việc trở thành số không; nhưng
các giác quan không thể đưa chúng ta hoặc tới sự hoàn hảo hoặc
tới số không được - mà tâm trí thì cũng không thể đưa ta tới đó
được.

***************************************************************************************************

6 Chân lí là ngớ ngẩn

**Yếu tố tâm linh cao nhất
đang chuyển động
và nó cũng không chuyển động.
Nó đi xa mà ở gần.
Nó bị che giấu trong mọi vật
và nó cũng ở ngoài mọi vật.**

Yếu tố tâm linh cao nhất, atman, không chuyển động, vậy
mà nó đang chuyển động. Nó là cái ở gần nhất với chúng ta, vậy
mà nó là xa xăm. Yếu tố tâm linh cao nhất ở bên trong chúng ta.
Nó là linh hồn bên trong, và vậy mà nó là thấy được ở bên ngoài.
Đây là một trong những lời kinh vĩ đại nhất đã từng được thốt ra
trong lịch sử nhân loại. Nó rất dễ dàng và đồng thời rất sâu sắc
và sâu lắng nữa. Không có chân lí nào sâu sắc hơn và sâu lắng
hơn tất cả những chân lí đơn giản của cuộc sống. Chúng dường
như khong mơ hồ thế, nhưng chúng hàm chứa những bí ẩn, và
những lời ngược đời phải được dùng để làm lộ chúng ra. Nếu nhà
logic định nghiên cứu về chúng, ông ta sẽ nói chúng hoàn toàn
không đúng.
Arthur Koestler, một nhà tư tưởng lớn của phương Tây, đã
chế nhạo rất nhiều về cách thức phương Đông nhìn vào mọi vật.
Ông ấy kết án cách nhìn ấy là ngớ ngẩn. Còn cái gì có thể là lời
phát biểu ngớ ngẩn hơn điều này - rằng yếu tố tâm linh cao nhất
ở gần hơn cái ở gần và ở xa hơn cái ở xa? Bạn có còn minh mẫn
không? Bất kì cái gì ở gần phải ở gần; làm sao nó có thể ở xa
được? Yếu tố tâm linh cao nhất này là bất động và cũng là đang
chuyển động! Bạn nói điều vô nghĩa gì thế? Không có nghĩa chút
nào trong điều bạn nói. Nó ở sâu bên trong và tràn khắp ra ngoài
nữa sao? Nếu nó là vậy, thế thì có khác biệt gì giữa bên trong và
bên ngoài? Nếu nó là ở bên trong, làm sao nó có thể ở bên ngoài
được? Hay nếu nó ở bên ngoài, làm sao nó có thể ở bên trong
được? Nếu nó ở nơi xa xăm xin cứ nói như thế, đừng nói nó ở
gần. Và nếu bạn nói nó ở gần, thế thì xin chấm dứt việc nói nó
đang ở xa xôi đi.
Đấy là cách thức Koestler biện luận. Nếu bạn thành thật với
thái độ của riêng mình bạn sẽ tán thưởng ý kiến của Koestler.
Ông ấy là một con người rất chân thật, và tôi ưa thích tính thật
thà của ông ấy với các phương án, bởi vì cách thức có thể được

tìm thấy người như vậy. Koestler nói, “Tôi coi những phát biểu
như thế là phi logic. Chúng chỉ tới từ người mất trí, nhưng người
mất trí, nếu người đó nói giống như thế này, có thể tha thứ
được.” Nhưng Koestler không biết rằng ngay cả khoa học cũng
đã đi tới vị trí này trong những năm qua, và đã nêu ra những phát
biểu tương tự. Ngay cả Einstein cũng nói ngôn ngữ như thế.
Cứ để chúng một mình đấy! Các hiền nhân rất có thể là
những người lập dị. Họ chắc chắn không tuyên bố rằng họ không
lành mạnh, vì không ai trên thế giới này, ngoại trừ người điên,
nói rằng mình không lành mạnh. Các hiền nhân thông minh đến
mức họ hoàn toàn được chuẩn bị để điên. Những người đạt tới trí
huệ cao nhất đều bằng lòng được coi là kẻ ngu.
Hôm qua tôi đã bảo ai đó rằng tự nhận trí huệ là ngu xuẩn.
Không ai ngoài kẻ ngu đã tự nhận là khôn ngoan và thông minh.
Tất cả những người khôn ngoan được sinh vào thế giới này đều
nói, “Chúng ta là những kẻ khờ vĩ đại, chúng ta không biết gì.
Chúng ta biết mỗi điều này: rằng chúng ta biết cái không. Khi
chúng ta bắt đầu biết, chúng ta cũng bắt đầu hiểu rằng chúng ta là
kẻ dốt nát sâu sắc.”
Ngay cả Koestler cũng không thể nói rằng Einstein là lập dị.
Nhưng khó khăn đã nảy sinh trong mười năm qua - khó khăn như
Upanishad đã phải đối diện. Khó khăn như thế nảy sinh khi một ý
nghĩ nào đó, tìm kiếm nào đó động chạm tới bí ẩn cao nhất. Khi
hiền nhân của Upanishad đạt tới bí ẩn cao nhất này - atman tối
thượng - ông ấy đã phải dùng ngôn ngữ ngược đời. Ông ấy đã nói
một hơi rằng nó là xa xăm và nó cũng là gần gũi; và ông ấy nói
một điều này tiếp ngay sau điều kia nhanh chóng và tức khắc đến
mức bạn không thể nghĩ nó là xa xôi được. Ông ấy nói nó là gần
gũi, rồi lập tức nói tiếp theo đó rằng nó cũng xa xôi nữa, cho nên
bạn không thể phạm sai lầm mà nghĩ rằng nó là gần gũi. Điều
được nói lần đầu ngay lập tức bị nói ngược lại trong mệnh đề
tiếp. Bây giờ các khám phá của khoa học cũng đang tiếp cận rất
gần với yếu tố tâm linh cao nhất đó.
Các nhà khoa học rất phân vân khi điện tử được phát hiện ra.
Họ không có từ ngữ nào để mô tả nó. Con người đặt từ cho mọi
thứ, nhưng các nhà khoa học bị lẫn lộn khi họ phải dùng từ nào
cho điện tử. Họ nên gọi nó là nguyên tử hay là sóng? Nguyên tử
và sóng là những thứ tách bạch và mâu thuẫn nhau. Nguyên tử
không thể là sóng được. Nguyên tử có nghĩa là hạt ở một chỗ.
Sóng nghĩa là một thứ đang chuyển động. Nếu nó dừng chuyển
động, nó cũng dừng là sóng. Sóng có nghĩa là một thứ đang trôi
nổi, đang tuôn chảy, liên tục trở thành, liên tục thay đổi hình
dạng - quá trình. Sóng là quá trình.
Và điện tử, tình trạng của nó là gì? Hai nhà khoa học đang
nghiên cứu nó; một người nói, “Với tôi nó dường như là sóng.”
Người kia nói, “Với tôi nó có vẻ như nguyên tử.” Cả hai đều nói
như thế vào một lúc. Nhà khoa học kia nói, “Nó trông giống như
nguyên tử vào khoảnh khắc này và ngay khoảnh khắc tiếp nó
trông giống như sóng. Nó là cả hai vào cùng một lúc.” Cho nên
có khó khăn lớn để đặt tên nó. Không có từ nào trong bất kì ngôn
ngữ nào trên thế giới mang nghĩa đồng thời là nguyên tử và sóng
- điều có thể có nghĩa đồng thời cả hai. Cho nên họ đã phát minh
ra một từ cho nó, lượng tử. Lượng tử có nghĩa là cả sóng và
nguyên tử.
Koestler sẽ gọi Einstein, Planck và những người khác như họ
là người điên. Ông ấy sẽ coi họ là người dở hơi. Ai đó hỏi
Einstein, “Ông nói gì về điều này? Làm sao nó có thể là cả
nguyên tử và sóng được?”
Ông ta đáp , “Làm sao tôi có thể quyết định rằng điều đó là
có thể hay không có thể? Tôi chỉ có thể nói, nó là vậy.”

Người hỏi nói, “Phát biểu này của ông bác bẻ mọi luật và
nguyên lí của logic. Tất cả lí thuyết logic do Aristotle đề xuất đều
bị lật nhào.”
Thế rồi Einstein đáp, “Làm sao tôi có thể đừng được điều
đó? Nếu logic bị bác bẻ khi phải đương đầu với sự kiện thì nó
phải bị bác bẻ chứ. Sự kiện không thể bị vứt bỏ. Ông đổi cách lập
luận logic của ông đi.”
Sự kiện là như vậy. Aristotle là không đúng. Điện tử đơn
giản không sẵn sàng để chứng minh Aristotle là đúng. Bạn sẽ
phải thay đổi cách lập luận của mình, vì sự kiện là như nó vậy.
Cứ để Aristotle sai đi. Điện tử không định trở thành nguyên tử
chỉ để tuân theo Aristotle; nó cũng không sẵn sàng đơn giản là
sóng để chứng minh Aristotle đúng. Nó là cả hai. Nó không băn
khoăn về Aristotle. Logic của ông ấy nói những điều đối lập
không thể cùng tồn tại như một thứ. Điều ông ấy nói là đúng.
Làm sao một người đồng thời vừa sống và chết? Nhưng những
người biết tới bí mật sâu sắc của cuộc sống đều nói rằng sống và
chết là hai chân, trái và phải, của một và cùng một người. Khi
bạn đang sống, bạn đồng thời cũng đang chết. Bạn không chết
vào một ngày; bạn đang chết từ ngày bạn được sinh ra. Tại một
đầu cuộc sống tiếp diễn, và từ đầu kia cái chết đang tiến tới. Và
bạn đang đi tới chỗ cuối trong bẩy mươi năm.
Đây là điều đáng quan tâm để suy ngẫm: một người chết có
thể chết được không? Để chết, cần phải có người sống. Tức là
phải nói, tuyệt đối cần thiết, không thể tránh được là phải sống để
chết. Điều kiện này không thể bàn cãi. Nếu một người không
sống, người đó không thể chết. Bây giờ điều này trở thành một
phát biểu mâu thuẫn toàn bộ. Một điều kiện không thể tránh khỏi
là sống để mà chết. Thế thì điều này có nghĩa một điều kiện
không thể tránh khỏi nữa là chết đi để mà sống. Người không
chết đi trong khoảnh khắc này, cũng không sống. Chết và sống là
những cái tên của cùng một quá trình. Chúng ta đang chết và
đang sống vào cùng lúc. Chúng ta đang bị xoá đi và đang trở
thành, đồng thời.
Aristotle nói bóng tối là bóng tối và ánh sáng là ánh sáng;
chúng không thể thống nhất thành một. Thông thường, điều này
dường như đúng đắn. Có bóng tối nơi không có ánh sáng, và có
ánh sáng nơi không có bóng tối. Nhưng khoa học cho ta biết ánh
sáng không đủ được gọi là bóng tối, và bóng tối không đủ được
gọi là ánh sáng. Khác biệt là ở mức độ. Tương tự, nóng và lạnh
không phải là hai điều tách biệt.
Lời kinh này của Upanishad sẽ rất dễ hiểu nếu bạn tiến hành
thực nghiệm này. Hơ nóng một tay bạn chút ít trên lửa và để một
mẩu nước đá trên tay kia đồng thời. Rồi nhúng sâu cả hai tay vào
trong một thùng đầy nước, rồi bạn tự hỏi mình xem nước ấm hay
lạnh. Một tay sẽ bảo bạn nước lạnh còn tay kia sẽ bảo bạn nước
ấm. Thế thì bạn sẽ phải nói nước là lạnh và ấm nếu bạn không
muốn đưa ra một phát biểu sai lầm; bạn sẽ phải đưa ra những
phát biểu mâu thuẫn. Theo Koestler điều này sẽ là ngớ ngẩn.
Nhưng nước là không lạnh không ấm. Đơn giản có khác biệt về
nhiệt độ giữa nước và tay bạn, như bạn thấy khi chúng tiếp xúc
với nước.
Upanishad nói atman là gần gũi và cả xa xôi nữa. Nó nói như
vậy bởi vì dù lá có thể trải rộng bao xa, chúng bao giờ cũng vẫn
gần rễ. Chúng được nối với rễ, nếu không chúng không thể tồn
tại được. Nhựa cây tới từ rễ. Nếu chúng ta nhìn đúng, lá không là
gì ngoài những cánh tay trải rộng của rễ. Nó là sự kéo dài - rễ
được kéo dài và biến thành lá. Không có gián đoạn ở bất kì đâu ở
giữa. Không có chỗ ở giữa nơi bạn có thể nói rằng tại đây rễ bị
gián đoạn và từ đó lá bắt đầu xuất hiện. Toàn thể cây được thống
nhất cùng nhau. Lá là ở trên cực điểm kia còn rễ ở trên cực điểm
này. Ngón chân ở chân bạn và tóc trên đầu bạn không gián đoạn

với nhau. Chúng được nối với nhau, chúng là một. Chúng là hai
đầu của cùng một vật.
Xem rễ gần với lá biết bao nhiêu! Chúng đem cho lá mọi
nhựa cây, mọi sinh lực. Làm sao chúng có thể xa xôi được? Và
vậy mà chúng xa nhau đấy, rất xa xôi, và nếu lá muốn biết tới rễ,
chúng sẽ phải lấy cuộc hành trình dài.
Tại sao tôi nói rễ là xa xôi? Chúng xa lắm theo nghĩa là lá
thậm chí không biết rằng rễ có tồn tại. Mặt trời dường như gần lá,
mặc dầu nó ở rất xa, mười triệu dặm. Nhưng lá có thể cảm thấy
mặt trời ở rất gần. Chúng bắt đầu rung rinh trong sớm mai khi
mặt trời lên. Chúng nhận biết về sự hiện diện của mặt trời hàng
ngày, nhưng chúng bao giờ cũng dốt nát về rễ ẩn kín dưới chúng
và là một phần và một mảnh của chúng. Theo nghĩa này, mặt trời
là rất gần, trong khi rễ ở rất xa.
Yếu tố tâm linh cao nhất - at man - là rất gần chúng ta bởi vì
chúng ta không thể tồn tại mà không có nó, và nó cũng ở rất xa
bởi vì chúng ta hoàn toàn không nhận biết gì về nó mặc dù việc
tìm kiếm chúng ta về nó đã qua vô lượng kiếp. Người ta nói rằng
nó là tuyệt đối tĩnh lặng, vậy mà tất cả mọi chuyển vận của cuộc
sống phụ thuộc vào nó. Cái trục không di chuyển; bánh xe
chuyển động, vậy mà cái trục cũng thực hiện cùng hành trình như
bánh xe thực hiện.
Giả sử bạn bắt đầu cuộc hành trình trên chiếc xe ngựa. Trục
xe sẽ không di chuyển một li; chỉ bánh xe là lăn đi. Nhưng khi
bạn dừng lại sau khi đi mười dặm, cái trục xe cũng đã làm cuộc
hành trình mười dặm đường ấy, không di chuyển một li. Koestler
sẽ gọi phát biểu này là phát biểu ngu xuẩn. Nhưng biến cố này -
cuộc hành trình - đã xảy ra. Làm sao người ta có thể tranh cãi về
sự kiện này được? Nếu Aristotle bị chứng minh là sai, cứ để ông
ấy sai đi; sự kiện không thể sai được. Cái trục xe không di
chuyển chút nào vậy mà cuộc hành trình mười dặm đường đã
được thực hiện.
Atman chưa bao giờ bước đi, cho dù một khoảnh khắc, và
chưa bao giờ di chuyển; và vậy mà nó đã tạo ra một cuộc hành
trình qua vô lượng lần sinh thành, dừng ở vô lượng trại và chỗ
nghỉ, và du hành xa thế. Đấy là lí do tại sao hiền nhân của
Upanishad nói nó không di chuyển và vậy mà cũng di chuyển.
Ông ấy nói nó ở bên trong và đồng thời ở bên ngoài. Thực ra, bên
trong và bên ngoài chỉ là phân biệt tạm thời. Khi bạn hít vào bạn
nói hơi thở đi vào, nhưng trước khi bạn hoàn tất câu phát biểu
của mình nó đi ra.
Bạn đã từng bao giờ nghĩ về điều này chưa? Bạn nói, “Hơi
thở đi vào - nó ở bên trong.” Trước khi bạn có thể hoàn tất phát
biểu của mình, trước khi bạn có thời gian để nói như thế, nó đã ở
ngoài; và khi bạn nói nó ở ngoài, bạn lập tức thấy rằng nó đã bắt
đầu đi vào lần nữa. Cái gì là khác biệt giữa bên trong và bên
ngoài trong trường hợp này? Đấy đơn thuần chỉ là chiều hướng,
không có cái gì khác.
Liệu có một chút xíu khác biệt nào giữa bầu trời bên ngoài
nhà bạn và bầu trời bên trong nhà bạn không? Không khác biệt gì
cả. Bạn xây các bức tường và do vậy bao bọc một phần của bầu
trời. Nó là một phần của cái bầu trời trải rộng bên ngoài nhà. Bầu
trời bên trong nhà là một với bầu trời bên ngoài, vậy mà vẫn có
khác biệt nào đó. Khi mặt trời nóng gắt, chúng ta biết bầu trời
bên ngoài là khác với bầu trời bên trong. Có thoải mái bên trong,
trong khi có không thoải mái bên ngoài. Bầu trời bên trong và
bên ngoài là một và như nhau, vậy mà chúng khác nhau, tách
biệt. Khi chúng ta ngủ dưới bầu trời bên trong ban đêm chúng ta
cảm thấy dễ chịu hơn, thoải mái hơn nếu chúng ta ngủ bên ngoài.
Do đó, Upanishad nói, cùng cái một là ở bên trong như ở bên
ngoài. Và vậy mà bạn sẽ phải bắt đầu từ bên trong nếu bạn muốn

biết nó. Chỉ sau khi biết nó bên trong, bạn mới có thể nói rằng nó
là một với bên ngoài. Trước khi biết điều này, không thể nói
được rằng nó là bên ngoài, bởi vì nếu bạn không biết bên trong
của mình bạn sẽ không có ý tưởng nào về bên ngoài là gì.
Làm sao những người thậm chí không biết tới bầu trời nhỏ
bé của nhà của riêng họ biết được bầu trời bên ngoài khổng lồ, vô
hạn ấy? Làm quen trước hết với bầu trời nhỏ bé này đi và thế rồi
bạn sẽ làm quen được với bầu trời vô hạn bên ngoài đó. Những
người muốn biết nó sẽ phải bắt đầu từ bên trong. Và những người
đạt tới giai đoạn cuối cùng của việc biết, sẽ hoàn tất cuộc hành
trình bên ngoài của họ. Bước đầu tiên, tự biết, xảy ra bên trong
và bước cuối cùng, biết cái tối thượng, xảy ra bên ngoài. Cuộc
hành trình bắt đầu với atman và kết thúc với tâm linh tối cao - với
Paramatman.
Phát biểu dường như rất ngớ ngẩn, tuyệt đối phi logic và
không liên quan này là một phát biểu rất sâu lắng - một chân lí vĩ
đại và tràn đầy thực tế. Nhưng những người dừng ở lập luận logic
không bao giờ có thể đạt tới được sự kiện đó. Chỉ những người
đủ bạo dạn vứt bỏ ngay cả lập luận mới có khả năng đạt tới sự
kiện đó, bởi vì chân lí - sự kiện đó - không tôn trọng lập luận của
bạn. Tất cả mọi lập luận đều nhân tạo, và các sự kiện không bao
giờ lo nghĩ về điều đó. Lập luận của bạn có thể biện minh theo
bất kì cách nào nó thích, nhưng sự kiện, không xáo trộn, sẽ tiếp
tục xử lí theo cách riêng của chúng.
Sự kiện cứ nói cho bản thân chúng, không mảy may trăn trở
về cách lập luận của bạn. Đó là lí do tại sao lập luận phải bị đập
vỡ ra từng mảnh khi có tranh cãi giữa sự kiện và lập luận. Đó là
lí do tại sao, khi người trí huệ của phương Đông đạt tới chân lí
của cuộc sống, họ vứt bỏ lập luận logic. Họ tuyên bố, “Lập luận
không thể có ích gì.” Đấy là lí do tại sao những người đã trở
thành rất thành thạo trong lập luận thấy khó biết chân lí. Họ kẹt
cứng vào trong lập luận của mình. Họ cứ nói, “Làm sao nước
đồng thời vừa nóng vừa lạnh được? Lạnh là một phẩm chất, nóng
là một phẩm chất khác và đối lập!” Nhưng chúng là một và cùng
một. Họ cứ nói mãi, “Làm sao sinh và chết có thể là một được?”
Nhưng chúng là một đấy!
Người tìm kiếm chân lí phải đủ táo bạo để vứt bỏ lập luận,
ngay cả đấy là táo bạo lớn nhất. Lời kinh này nằm ngoài logic và
do đó là vĩ đại. Như tôi đã bảo bạn, nó là một trong những lời
kinh vĩ đại nhất đã được thốt ra trong lịch sử nhân loại. Bây giờ
chúng ta đi vào chân lí vĩ đại đó cái nằm ngoài logic. Đừng cố
gắng lập luận về cách nhảy múa hay hò hét hay khóc lóc hay cười
to sẽ có ích cho chúng ta. Đừng nghĩ ngợi. Gạt logic sang một
bên và lấy cú nhảy!

************************************************************************************************

7 Trở thành tấm gương

**Người thấy toàn bộ thế giới
các đối tượng hữu tình và vô tình
Ở bên trong mình
và cũng thấy bản thân mình
trong mọi đối tượng hữu tình và vô tình,
bởi điều này,
không còn căm ghét ai nữa.**

Không thích hay căm ghét người khác là cơ sở của những
phức tạp sâu xa của loài người. Có thể nói rằng chất độc căm
ghét trở nên biểu hiện trong mọi phô bầy độc địa của anh ta. Từ
căm ghét có nghĩa là ham muốn phá huỷ người khác. Yêu có
nghĩa là sẵn lòng hi sinh bản thân mình cho người khác, nếu cần.
Căm ghét có nghĩa là sẵn lòng phá huỷ người khác vì bản thân
mình ngay cả khi điều đó là không cần thiết. Theo cách tất cả
chúng ta sống có dư thừa căm ghét và không có âm nhạc của tình
yêu.
Cảm giác chúng ta gọi là tình yêu, thực ra, chỉ là một dạng
của căm ghét. Trong làm tình chúng ta làm cho người kia trở
thành phương tiện của chúng ta để có hạnh phúc; và ngay khi
người ta làm cho người kia thành phương tiện, căm ghét bắt đầu.
Trong khi làm tình chúng ta sống chỉ vì cái ta riêng của mình.
Chúng ta muốn phục vụ cho mục đích ích kỉ của riêng mình. Đôi
khi chúng ta dường như làm điều gì đó cho người khác, nhưng
đấy đơn giản bởi vì chúng ta định để nhận được cái gì đó được
đền đáp từ người ấy mà thôi. Chúng ta làm điều gì đó cho người
khác chỉ khi chúng ta có hi vọng nào đó về việc nhận được cái gì
đó từ người ấy - chúng ta ham muốn kết quả; bằng không chúng
ta không làm gì. Đó là lí do tại sao tình yêu của chúng ta có thể
biến thành căm ghét vào bất kì khoảnh khắc nào. Điều ấy vẫn
thường xảy ra: tình yêu được biểu lộ cho ai đó vài phút trước đây
có thể biến thành sự khinh thị người ấy ngay sau đó. Nếu một cản
trở nhỏ bất ngờ nảy ra len vào con đường thoả mãn ham muốn
của ta, tình yêu của chúng ta sẽ biến thành căm ghét. Tình yêu có
thể biến thành căm ghét và khinh thị chỉ là căm ghét bị che giấu.
Chỉ có căm ghét bên trong, và bao bọc bên ngoài là cái vẻ của
tình yêu.
Ishavasya trình bầy ở đây một lời kinh rất quan trọng làm
cho tình yêu thành có thể; bằng không không thể có. Không có

hiểu biết và hành động theo lời kinh này, không có khả năng nào
cho hoa của tình yêu mở ra. Lời kinh này nói rằng căm ghét sẽ
tới chỗ cuối chỉ khi chấm dứt khi một người bắt đầu thấy bản
thân mình trong mọi đối tượng hữu tình và vô tình, và bắt đầu
thấy mọi đối tượng hữu tình và vô tình - toàn thể sự tồn tại - bên
trong bản thân mình. Nhớ lấy, Ishavasya không nói rằng thế thì
tình yêu sẽ được sinh ra mà nói, “Thế thì căm ghét sẽ đi tới chấm
dứt.”
Có một lí do được cân nhắc rất kĩ lưỡng để nói như vậy.
Không có vật cản nào trên con đường của tình yêu ngoại trừ sự
hiện diện của căm ghét. Nếu không có căm ghét, tình yêu nở rộ
theo cách của nó - tự phát, tự nhiên. Không cái gì khác cần được
thực hiện cho nó nở rộ. Điều đó giống như vứt bỏ tảng đá chẹn
dòng suối nhỏ: một khi được bỏ ra, dòng suối tuôn chảy theo
cách riêng của nó. Theo cùng cách đó hòn đá của căm ghét đè
nặng lên chúng ta. Bởi hòn đá căm ghét này chúng ta không có
khả năng thấy được khuôn mặt mình được phản xạ trong tấm
gương của mọi đối tượng hữu tình và vô tình; chúng ta không trở
thành tấm gương phản chiếu tất cả những đối tượng trong chúng
ta.
Cả hai hiện tượng này xảy ra đồng thời: người có thể thấy
bản thân mình trong mọi đối tượng hữu tình và vô tình - mọi con
vật, toàn thể sự tồn tại - không tránh khỏi sẽ có khả năng thấy
được tất cả trong bản thân người đó. Người mà từ người đó toàn
thể thế giới trở thành tấm gương, bản thân người đó trở thành tấm
gương cho toàn thể thế giới. Chúng xảy ra đồng thời. Chúng là
hai mặt của một và chỉ một sự xuất hiện. Upanishad nói rằng khi
điều này xảy ra, căm ghét biến mất.
Thế thì cái gì được sinh ra? Upanishad đã không nói rằng thế
thì tình yêu sẽ được sinh ra, vì tình yêu là vĩnh hằng, nó là bản
tính của chúng ta. Nó không được sinh ra, nó không chết đi.
Chẳng hạn, khi mùa mưa tới và bầu trời bị bao phủ bởi mây, mặt
trời bị che khuất. Bây giờ, chúng ta có thể nói rằng mặt trời sẽ
được sinh ra khi mây biến mất không? Không, chúng ta chỉ có
thể nói rằng mặt trời, cái bao giờ cũng có đấy, sẽ thành thấy
được. Khi mây tới mặt trời không bị phá huỷ, nó chỉ bị che khuất.
Nó không còn thấy được nữa, bị che khuất sau mây. Mây sẽ biến
mất và mặt trời sẽ lại chiếu sáng. Mây được sinh ra và mây chết
đi, nhưng mặt trời thì bao giờ cũng có đó.
Tình yêu là bản tính của cuộc sống, cho nên nó không sinh
không chết. Mây căm ghét được sinh ra và chết đi. Tình yêu bị
che phủ khi những đám mây này được sinh ra; nó tự lộ ra khi
mây biến mất, khi mây không còn nữa. Nhưng tình yêu là vĩnh
hằng, cho nên Upanishad không nói về việc sinh ra của tình yêu,
nó chỉ nói ngần này: căm ghét chết và biến mất.
Nhưng bằng cách nào? Lời kinh này không dễ dàng như nó
có vẻ thế. Nhiều lần việc xảy ra là mọi thứ trông có vẻ khó là
không khó vậy, và tương tự, những việc có vẻ như dễ dàng là
không dễ dàng. Phần lớn các trường hợp, có một chiều sâu lớn và
điều phức tạp bị ẩn giấu bên trong các vấn đề dễ dàng. Lời kinh
này dường như là trực tiếp và dễ dàng. Toàn thể phát biểu này
được hoàn tất chỉ trong hai dòng. Nó nói, người thấy bản thân
mình trong mọi đối tượng - hữu tình hay vô tình - và bắt đầu thấy
mọi đối tượng trong bản thân mình, sẽ có căm ghét của mình bị
phá huỷ. Nhưng để làm cho tất cả mọi thứ đều thành tấm gương
của người đó, hay để thành tấm gương cho tất cả, là thuật giả kim
và nghệ thuật vĩ đại nhất. Không có nghệ thuật nào vĩ đại hơn
nữa.
Tôi đã từng nghe: Một người Trung quốc có lần tới triều
đình của hoàng đế Iran và nói, “Tôi tới từ Trung quốc, và tôi là

một nghệ sĩ rất vĩ đại. Tôi có thể làm ra những bức tranh mà ngài
chưa từng bao giờ thấy trước đó.”
Nhà vua nói, “Thế thì làm chúng ở đây đi. Nhưng nhớ lấy, ở
triều đình của ta không thiếu hoạ sĩ đâu và ta đã từng thấy những
bức tranh rất tuyệt diệu.”
Người hoạ sĩ Trung quốc nói, “Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi
thách thức.”
Hoạ sĩ giỏi nhất của triều đình được chọn ra để đua tài. Rồi
nhà vua cảnh báo trước cho hoạ sĩ này, “Dùng mọi tài năng của
ngươi, làm cho tốt nhất vào. Bây giờ đây là vấn đề danh dự
vương quốc. Coi chừng rằng ngươi phải không bị thua người
ngoại quốc này.”
Họ được sáu tháng để hoàn thành công trình của mình.
Người hoạ sĩ Iran bắt đầu công việc của mình một cách rất trang
trọng. Với sự giúp đỡ của mười cho tới hai mươi công nhân, ông
ta đã vẽ lên toàn bộ bức tường với những bức tranh tuyệt đẹp.
Tin tức về bức tranh của ông ta lan tới những vùng xa xôi, và mọi
người từ xa đổ đến để xem công trình của ông ta. Nhưng một
điều kì diệu lớn hơn việc này đã xảy ra. Người nghệ sĩ Trung
quốc nói, “Tôi không cần dụng cụ hay chất liệu nào cho công
việc của mình, cũng không cần sơn vẽ nào cả. Tôi chỉ đòi một
điều kiện thôi - đó là bức màn che phủ bức tường của tôi không
được bỏ ra chừng nào bức tranh còn chưa xong.”
Mỗi sáng ông ta chui vào sau tấm màn, và trở ra lúc tối, kiệt
sức, với những giọt mồ hôi trên trán. Nhưng một vấn đề phức
tạp, bí ẩn và kì lạ lớn là ở chỗ ông ta không mang bút vẽ hay sơn
theo mình khi ông ấy biến mất đằng sau tấm màn. Mà cũng
không thấy có dấu vết gì về mầu sắc lẫn vết sơn trên quần áo ông
ta, và ông ta không cầm chổi vẽ nào trong tay. Hoàng đế bắt đầu
tự hỏi liệu ông ta có quái dị không. Làm sao có thể có bất kì đua
tài nào trong hoàn cảnh như thế? Nhưng cần phải đợi cho đủ sáu
tháng để đáp ứng điều kiện.
Với sự bồn chồn lớn lao mọi người đều chờ đợi cho sáu
tháng trôi qua. Tin tức về các bức tranh của hoạ sĩ Iran ngày một
lan xa và rộng, và cùng với tin này, lời bàn tán cũng lan truyền về
đối thủ đua tài kì dị của ông ta, người đã đi vào cuộc đua tài mà
không có sơn vẽ gì. Bạn không thể hình dung được mọi người
nóng lòng chờ đợi sáu tháng trôi qua như thế nào.
Sau sáu tháng hoàng đế tới xem các bức tranh. Ông ta say
mê xem các bức tranh do hoạ sĩ Iran vẽ. Ông đã từng xem nhiều
bức tranh trong đời mình, nhưng ông ta chưa từng bao giờ thấy
những bức tranh với tài năng không thể khen hết lời này được.
Thế rồi ông ta yêu cầu người hoạ sĩ Trung quốc trình bầy tác
phẩm của mình. Ông này cởi bỏ bức màn che phủ bức tường của
mình. Khi nhìn vào đó nhà vua rất phân vân. Nó là cùng bức
tranh của hoạ sĩ Iran. Người hoạ sĩ Trung quốc đã tạo ra cùng
bức tranh như của hoạ sĩ Iran, nhưng với một nét phụ thêm: nó
không được vẽ trên tường, nhưng nó nổi lên từ sâu hơn một mét
hai phía trong bức tường. Nhà vua hỏi, “Người đã làm điều này
như thế nào? Đây là trò ảo thuật gì vậy?”
Người hoạ sĩ thưa, “Tôi không làm trò ảo thuật nào cả.
Nhưng tôi là chuyên gia trong việc làm gương, cho nên ta đã biến
bức tường thành một tấm gương chỉ bằng việc mài cọ nó liên tục
trong sáu tháng. Bức tranh ngài đang nhìn vào chính là bức tranh
của người hoạ sĩ Iran trên bức tường đối diện. Ta đơn giản chỉ
biến tường thành tấm gương.”
Ông ta đã thắng trong cuộc đua tài, bởi vì lung linh trong
gương bức tranh của người hoạ sĩ Iran trở nên sâu thêm vô hạn
hơn là bản gốc. Bức tranh của hoạ sĩ Iran có độ sâu lớn khi được
nhìn qua tấm gương. Nó trở thành bức tranh ba chiều. Bức tranh
của hoạ sĩ Iran chỉ hai chiều; nó không có chiều sâu. Bức tranh

của người hoạ sĩ Trung quốc có được chiều sâu ba chiều. Hoàng
đế hỏi ông ta, “Tại sao ngươi không nói cho chúng ta ngay từ đầu
rằng ngươi chỉ biết cách làm gương thôi?”
Người hoạ sĩ Trung quốc đáp, “Tôi không phải là hoạ sĩ, tôi
là thánh nhân, sư.”
Nhà vua nói, “Điều này càng trở nên đáng quan tâm hơn,
Trước tiên ngươi đã không nói cho chúng ta rằng ngươi làm
gương, còn bây giờ ngươi bảo chúng ta rằng ngươi là thánh
nhân. Tại sao thánh nhân làm gương?”
Người hoạ sĩ Trung quốc đáp, “Tôi đã chỉ làm gương từ khi
tôi làm cho bản thân mình thành tấm gương và thấy thế giới
trong đó. Như tôi biến bức tường này thành tấm gương rõ bằng
việc liên tục mài cọ và lau sạch nó, cho nên tôi đã biến bản thân
tôi thành tấm gương, thuần khiết như pha lê, bằng cách giữ việc
quán xét mình thường xuyên. Và một hình ảnh đẹp thế của thế
giới này như tôi đã thấy ở bên trong không bao giờ được thấy ở
bên ngoài. Cái ngày mà tôi thấy và nhận ra thế giới bên trong tôi,
tôi trở thành giống như tấm gương. Mọi đối tượng hữu tình và vô
tình của thế giới đã thầm nhuần bên trong tôi.”
Chúng ta sẽ có khả năng thấy được Thượng đế vào ngày trái
tim chúng ta trở thành giống như tấm gương. Thế thì tất cả thế
giới đi vào trong chúng ta, và toàn thể thế giới trở thành tấm
gương cho chúng ta nữa. Thế thì chúng ta có khả năng thấy bản
thân mình vào mọi khoảnh khắc, ở mọi nơi. Nhưng toàn bộ thế
giới không thể biến thành tấm gương được; chỉ cái ta của riêng
chúng ta là có thể được biến thành tấm gương thôi. Đó là lí do tại
sao người tìm kiếm chân lí bắt đầu bằng việc làm ra tấm gương
của bản thân mình.
Để biết tới thuật giả kim và nghệ thuật làm bản thân mình
thành tấm gương, ba điểm cần phải được hiểu. Thứ nhất, có lẽ là
không đúng mà nói về việc làm ra tấm gương của cái ta, vì chúng
ta tất cả đều đã là những tấm gương rồi, nhưng bị bụi bặm che
phủ. Công việc của chúng ta là lau sạch và chùi kĩ tấm gương đó
và làm cho nó sáng bóng và rõ nét. Tấm gương không phải là tấm
gương nếu bụi được phép lắng đọng lên nó; thế thì nó không
phản xạ được gì cả. Năng lực phản xạ của nó bị phá huỷ khi nó bị
bụi che phủ. Chúng ta là những tấm gương như thế - bụi đã tích
tụ lên chúng ta. Cũng hệt như bụi bám vào gương khi đi qua phố
xá tấp nập, bụi cũng bám vào khi chúng ta trải qua vô lượng kiếp
sống. Nó được tích tụ từ nhiều, rất nhiều cách thức, từ ham muốn
của chúng ta, từ vô lượng hành động của chúng ta, và từ việc
thường xuyên trở thành người làm của chúng ta. Không ai biết
đống bụi đã tích tụ lớn đến đâu - bụi của hành động, của việc trở
thành người làm ra các hành động, của bản ngã, của ý nghĩ, của
ham muốn và cảm xúc. Cho nên có một tầng bụi bặm rất sâu trên
chúng ta.
Vấn đề quan trọng là loại bỏ nó đi. Nếu nó được quét sạch,
chúng ta lại là tấm gương. Và mọi thứ giống như tấm gương đối
với người mà bản thân người đó là tấm gương. Tại sao? - vì bất
kì cái gì chúng ta đang là đều được chúng ta nhìn thấy về mọi
phía. Để hiểu điều này, nhớ lời kinh quan trọng này trong trí:
“Chúng ta chỉ thấy cái chúng ta đang là, chúng ta chưa bao giờ
thấy bất kì cái gì khác ngoài cái này.” Bất kì cái gì được chúng ta
thấy bao giờ cũng là phóng chiếu của chúng ta. Bao giờ chúng ta
cũng là cái đó. Đấy là khuôn mặt duy nhất của chúng ta mà
chúng ta thấy. Nếu không điều gì tốt được chúng ta thấy trong
thế giới bên ngoài, thế thì đấy là bởi vì hạt mầm của cái nhìn như
vậy là ở bên trong chúng ta. Nếu cái xấu xí được thấy trong thế
giới bên ngoài, chúng ta nên biết rằng cái xấu đó đã bắt rễ vững
chắc bên trong chúng ta. Nếu chúng ta thấy bất tín ở mọi nơi bên

ngoài, chúng ta nên biết rằng bất tín là ở bên trong ta. Máy chiếu
ở bên trong, chỉ màn ảnh là ở bên ngoài, và chúng ta cứ liên tục
phóng chiếu lên nó. Chúng ta cứ mở rộng bất kì cái gì bên trong
ta lên màn hình đó.
Nếu Thượng đế không được thấy trong thế giới bên ngoài
điều đó đơn giản nghĩa là chúng ta không kinh nghiệm điều
thiêng liêng bên trong chúng ta. Người nhận ra Thượng đế ở bên
trong bắt đầu thấy Thượng đế thường xuyên trong mọi sự vật.
Thế thì không có cách khác. Thế thì người ấy sẽ thấy Thượng đế
ngay cả trong tảng đá. Nhưng chỉ vào khoảnh khắc đó tảng đá
mới được thấy trong Thượng đế. Với tôi không có nghĩa nào
khác cho từ người duy vật ngoài nghĩa này: người duy vật là
người có trái tim tâm linh đã biến thành đá. Người có trái tim bên
trong giống như đá thấy đá ở mọi nơi. Với tôi, người duy linh là
người có trái tim tâm linh không giống như đá mà rộn ràng, sống
động, rung động
Nhà khoa học sẽ nói rằng không cái gì tâm linh trong cái đập
rộn ràng của trái tim chúng ta. Nó là một loại hệ thống, không gì
nhiều hơn. Nhà khoa học sẽ nói rằng bất kì trái tim nào chúng ta
nói tới đều có thể được thấy bằng cách giải phẫu nó; và cái mà ta
sẽ thấy chỉ là cái bơm đẩy máu tuần hoàn, bằng việc ép không
khí, trong toàn bộ thân thể. Không có gì nhiều hơn điều đó. Và
nếu đây là cách thức nhà khoa học nhìn trái tim của riêng mình
và ngọn nguồn của cuộc sống, thế thì người đó có thể không có
kinh nghiệm gì về cuộc sống cả, và không có ý thức gì về thế
giới bên ngoài. Nếu trái tim đối với con người chỉ có nghĩa là cái
máy để đẩy máu đi vòng bên trong, thế thì người đó sẽ chỉ thấy
sự mở rộng máy móc trong thế giới bên ngoài: thế thì toàn thể hệ
thống là hoàn chỉnh. Thế giới đơn thuần là một thứ máy móc.
Thế giới bên ngoài chỉ là đá.
Không, còn có những cách khác để đi vào bên trong. Nếu
cách thức của khoa học là cách thức duy nhất để đi vào bên trong
điều đó sẽ có nghĩa là khó khăn lớn. Thế thì nhà khoa học sẽ
thắng. Nhưng ông ta không thể thắng được, thất bại của ông ta là
chắc chắn. Có thể sẽ có chậm trễ nào đó trong việc tìm ra những
cách thức để đi vào bên trong, vì có nhiều khả năng. Chẳng hạn,
ai đó muốn học chơi đàn veena. Bây giờ, có thể tìm ra đàn veena
là gì bởi việc đập vỡ nó mở ra và nhìn vào trong nó. Người ta có
thể dứt tất cả những sợi dây của nó, đập vỡ nó thành từng mảnh,
xem xét từng mẩu, và cuối cùng tuyên bố, “Không có nhạc nhã gì
trong đó cả. Ai nói đây là nhạc cụ? Ở đây, nó đang ở trước tôi đã
được tách thành từng mẩu, và không có nhạc nhã gì trong nó cả.”
Nếu đây là cách duy nhất để biết đàn veena là gì thế thì nhạc
sĩ đã thua rồi. Nhưng còn có cách khác để tìm ra đàn veena là gì.
Chắc chắn đấy là cách khó khăn; phá nó ra thì dễ, nhưng để biết
nó thực sự là gì, là rất gian nan. Chỉ bằng cách chơi nó người ta
có thể biết được cái đang được giấu kín trong tim của đàn veena.
Nó tinh tế đến mức khó mà hiểu thấu, chắc chắn vậy, và nếu bạn
điếc bạn sẽ không hiểu thấu nó được chút nào. Nếu bạn chỉ có
hiệu quả về mặt trí tuệ, nhưng khiếm khuyết về nhạy cảm, khiếm
khuyết về tình cảm, thế thì bạn sẽ không hiểu cho dù bạn nghe
nó. Khi người ta nghe nhạc, người ta chỉ nghe thấy âm thanh -
dồi dào âm thanh. Nhưng âm nhạc mang nghĩa cái gì đó còn
nhiều hơn là chỉ việc nghe. Trong khi nghe nó, cái gì đó khác
được thêm vào. Chúng ta phải dồn cả trái tim mình vào nó; thế và
chỉ có thế thì âm thanh biến thành âm nhạc. Ngoài ra chỉ có âm
thanh lẫn lộn, chỉ có tiếng ồn mà thôi.
Nếu chỉ có một cách duy nhất để biết trái tim - cách của nhà
giải phẫu tiến hành mổ nó ra trên bàn mổ - điều đó sẽ không tốt;
nhưng cũng có nhiều cách khác nữa. Người tâm linh biết điều đó,
thánh nhân biết điều đó. Người đó đã đi tới việc biết nó bởi việc
chơi theo trái tim, không phải bởi việc tháo nó rời ra từng phần.

Người đó đã biết nó bởi việc tạo ra âm nhạc từ trái tim. Cho nên
người đó hỏi, “Bạn đang nói tới trái tim bên trong nào vậy? Bạn
cũng điên khùng và gàn dở như người đập vỡ bóng điện, lấy từng
mảnh thuỷ tinh vỡ về nhà và nói, ‘Đây là ánh sáng.’” Đúng là
ánh sáng đã được tạo ra qua nó, nhưng mảnh thuỷ tinh mà bạn
đem về nhà không là và đã không là ánh sáng. Điều ánh sáng đó
tan biến khi bóng đèn bị đập vỡ là sự kiện. Cho nên lập luận
logic đằng sau sự kiện này dường như đúng - rằng khi bóng đèn
bị đập vỡ ánh sáng đi mất, cho nên bóng đèn là ánh sáng; bằng
không ánh sáng phải không mất đi khi bóng đèn bị đập vỡ.
Những mẩu vụn ta đem về nhà đã tạo nên ánh sáng toàn bộ. Điều
này là đúng, rằng khi bóng đèn bị đập vỡ ánh sáng biến mất; nó
không bị mất đi hay bị phá huỷ, nó đơn giản biến mất, trở thành
không thấy được. Cái môi giới làm cho nó thấy được đã bị đập
vỡ.
Nếu chúng ta phá huỷ trái tim, môi giới cho tâm linh biểu
hiện bị phá vỡ. Bóng đèn bị đập vỡ. Thế thì trái tim tâm linh
không thể chiếu sáng ra, cũng hệt như ánh sáng không thể chiếu
sáng ra từ việc đập vỡ bóng đèn. Tâm linh do vậy bị che giấu.
Trái tim chỉ giúp cho tâm linh biểu hiện. Nhưng có rất ít người
trong số chúng ta đã biết tới trái tim tâm linh. Chúng ta chỉ biết
tới trái tim vật lí, qua đó mà máu được tuần hoàn và cuộc sống
được động viên. Chúng ta chỉ biết cách bố trí máy móc này, cho
nên chúng ta thấy nó được khuếch đại trong thế giới bên ngoài
nữa.
Cái ngày chúng ta đi tới biết về tâm thức tối cao bên trong
mình, thế thì thế giới bên ngoài cũng sẽ xuất hiện với chúng ta
như sự mở rộng của tâm thức tối thượng. Cái toàn thể sẽ là tấm
gương cho chúng ta khi chúng ta trở thành tấm gương bên trong.
Nếu chúng ta đứng gần một tảng đá, thế thì chúng ta sẽ có khả
năng thấy bản thân mình ngay cả trong tảng đá đó. Thế thì chúng
ta sẽ không nhìn vào tảng đá đó với cái cứng rắn mà chúng ta
đang nhìn vào con người bây giờ. Thế thì chúng ta sẽ chạm vào
hòn đá cứ như là chúng ta đang chạm vào người yêu, bởi vì thế
thì tảng đá không còn là tảng đá nữa, nó là Thượng đế. Thế thì
chúng ta sẽ bước đi trên mặt đất với chăm chú, nhạy cảm và nhận
biết lớn, vì cũng có sự sống ẩn trong đó, cũng có sự mở rộng của
sự tồn tại, và ở đó cuộc sống cũng đang đập rộn ràng; cũng có ai
đó đang nhảy múa. Sự tồn tại đang nhảy múa theo những chiều
hướng khác nhau, trong những hình dạng khác nhau, và trong
những cách thức khác nhau. Chúng ta không chỉ là người chủ của
cuộc sống. Các hình thái của nó là vô tận, và chúng ta là một
trong chúng. Hình thái của chúng ta là một cách thức rất nhỏ bé.
Và vậy mà chúng ta không có tri thức nào về con đường vào
trong của mình.
Làm sao chúng ta có thể trở thành tấm gương được? Để trở
thành tấm gương chúng ta sẽ phải chùi sạch bụi bặm đã lắng
đọng lên mình. Chúng ta không chỉ phải loại bỏ nó mà chúng ta
còn phải dừng việc thu thập bụi mới. Nếu chúng ta cứ chùi bụi tại
đầu phía này và đồng thời chúng ta tiếp tục cách sống thu thập
nó, thế thì không có khả năng nào trở thành tấm gương được.
Chúng ta phải tấn công trên hai mặt. Bụi bặm cũ, bụi đã tích luỹ,
sẽ phải được loại bỏ và đồng thời chúng ta phải dừng việc thu
thập bụi . Bụi cũ được tích luỹ dưới dạng kí ức còn bụi mới được
thu thập qua ham muốn. Bụi cũ được tích trữ trong kí ức còn bụi
mới đến qua ham muốn.
Cả hai nỗ lực này đều phải được tiến hành đồng thời. Chúng
ta sẽ phải giải phóng bản thân mình khỏi kí ức và khỏi ham
muốn. Chúng ta phải nói với các ham muốn của mình rằng chúng
ta không muốn có bất kì cái gì bây giờ, bây giờ không còn hành
trình thêm nữa, và chúng ta phải bảo kí ức của mình rằng điều đã
xảy ra trong quá khứ bây giờ chỉ là giấc mơ mà thôi. Không cần
phải cứ mang tải trọng này một cách vô dụng. Nhưng tất cả
chúng ta đều đang mang tải trọng kí ức của mình. Chúng ta

không quên cái gì cả; ngược lại, chúng ta nuôi dưỡng kí ức cũ và
ôm giữ chúng. Chúng ta thu thập đồ phế thải này và cõng nó trên
vai. Từ lúc sinh tới lúc chết chúng ta thu thập đồ phế thải của
mình. Cho nên chúng ta phải bỏ qua kí ức. Chúng ta phải nói,
“Điều đã xảy ra đã xảy ra rồi, bây giờ mình không phải là cái ta
cũ nữa.” Chúng ta phải tự mình tách hẳn khỏi ngày hôm qua.
Chúng ta phải giải phóng bản thân mình khỏi quá khứ và khỏi cả
tương lai nữa. Khi chúng ta được tự do khỏi hai điều này, thế thì
tâm trí chúng ta sẽ trở thành tấm gương.
Với tôi, sannyasin là người nói, “Tôi tách mình khỏi quá
khứ. Bây giờ tôi không phải là cái tôi đã là ngày hôm qua - tôi
chấm dứt đồng nhất đó.” Đó là lí do tại sao cái tên được thay đổi.
Việc đổi tên là tượng trưng. Nó có nghĩa: “Tôi sẽ không là cái tôi
cũ mà đã được gắn với cái tên cũ. Bây giờ tôi giải phóng mình
khỏi cái đó. Bây giờ tôi chôn vùi những kỉ niệm cũ đó, cái đống
cũ lộn xộn toàn những thứ quá khứ đó, cùng với cái tên cũ của
tôi. Bây giờ tôi là một người mới và bắt đầu cuộc hành trình của
mình từ đầu.” Trong quyết tâm kiên định trở thành con người
mới từ hôm nay, từ nay, từ bây giờ, tính chất sannyas thật được
tìm thấy.
Nhớ điều này: tự do khỏi quá khứ là điều có thể được; nhưng
nếu chúng ta vẫn tiếp tục thói quen cũ của mình thế thì quá khứ
của chúng ta sẽ vẫn còn là quá khứ của chúng ta. Hiệu quả của
việc đổi tên kéo dài được bao lâu? Nó sẽ không còn lại mới cho
dù chỉ một khoảnh khắc. Sau khi cắt đứt với quá khứ, nếu chúng
ta tiếp tục những thói quen cũ, thế thì chúng ta sẽ thu thập những
kỉ niệm cũ quanh cái tên mới, và cùng gánh nặng cũ sẽ có đấy, và
tấm gương sẽ vẫn cứ còn bị che giấu.
Cho nên sannyas là giải pháp hai mặt. Cắt đứt khỏi quá khứ -
tức là, “Tôi bây giờ không là cái tôi đã là ngày hôm qua; tôi phá
vỡ sự liên tục. Tôi là nhận biết. Bây giờ tôi là con người mới. Cái
tên cũ không còn là tên của tôi. Ông ấy không phải là bố tôi, đấy
không phải là gia đình tôi. Không, cái quá khứ đó không có liên
quan gì tới tôi. Tôi được tái sinh từ hôm nay.”
Một người tên là Nicodamus có lần tới gặp Jesus và hỏi,
“Tôi phải làm gì để đạt tới cực lạc mà ông đang nói tới?”
Jesus nói, “Ông sẽ phải được sinh ra lần nữa.”
Người này hỏi, “Làm sao điều ấy có thể được? Ông đang nói
gì vậy? Làm sao điều ấy là có thể được? Tôi đã được sinh ra rồi,
tôi đã từng là đứa trẻ. Bây giờ làm sao tôi có thể được sinh ra
nữa?”
Jesus nói, “Ông đã không hiểu tôi. Ông chưa bao giờ sinh ra,
cho nên tôi bảo ông, ông sẽ phải được sinh ra lần nữa. Ông sẽ
phải được sinh ra là một người mới. Ông sẽ phải được sinh ra tự
do với cái đống lộn xộn quá khứ những kỉ niệm và mối quan hệ
của ông.”
Trong nước ta, chúng ta quen gọi một người như vậy là được
sinh ra hai lần. Được sinh ra hai lần không có nghĩa là người ta
phải trải qua nghi lễ điểm đạo của người brahmin trong việc đặt
sợi dây thiêng liêng. Nó có nghĩa là một người có lần sinh thứ hai
đã xảy ra. Không ai có thể được sinh ra hai lần trước khi trở
thành sannyasin. Không ai có thể được sinh ra hai lần chỉ bởi
việc đặt sợi dây thiêng liêng. Không ai có thể được sinh ra hai lần
bởi việc được sinh ra trong một gia đình brahmin. Từ dwija có
nghĩa là một người đã lấy lần sinh thứ hai. Lần sinh thứ nhất do
cha mẹ trao cho và lần thứ hai là kết quả của sự cố gắng của
riêng của người ta.
Nó là quá trình kép. “Tôi đang cắt đứt bản thân mình với quá
khứ và cả với hình mẫu sống cũ mà qua đó tôi đã trở nên ngày
càng gắn bó hơn với quá khứ. Bây giờ tôi được sinh ra mới mẻ
hàng ngày. Bây giờ sẽ không có bụi bặm đọng vào tấm gương

của tôi. Bây giờ cái tên này sẽ vẫn còn tươi tắn mãi mãi. Bây giờ
sẽ không có kí ức gắn với nó. Bây giờ tôi sẽ không bao giờ nói
tôi đã làm điều này và tôi đã không làm điều kia. Bây giờ tôi sẽ
không bao giờ tuyên bố rằng tôi là người làm. Bây giờ tôi sẽ
không bao giờ nói rằng toà nhà là của tôi, hay của cải là của tôi,
hay tài sản là của tôi.”
Nhớ điều này: sannyasin không phải là người bỏ gia đình
mình và bắt đầu nói, “Đạo tràng là của tôi.” Sannyasin là người
đã chấm dứt việc dùng từ ‘của tôi’. Người ấy sống ở đâu không
thành vấn đề nữa. Người ấy có thể ngồi đấy cai quản cửa hàng,
miễn là cửa hàng không trở thành ‘của tôi’. Thế thì toàn thể vấn
đề chấm dứt. Nhưng chúng ta có thói quen rời bỏ cửa hàng, bỏ
nó, và thế rồi tái xác nhận thói quen cũ của chúng ta bằng việc đi
vào đạo tràng và bắt đầu nói về đạo tràng của tôi. Thế thì đâu có
khác biệt gì dù cho chúng ta sống ở nhà hay sống trong đạo tràng.
Thế thì đổi tên là vô dụng. Việc ấy vô dụng như việc voi tắm
trong sông hay ao, rồi đi ra và tung bụi đất lên thân nó. Việc tắm
không phục vụ cho mục đích nào. Toàn bộ lao động bị phí hoài.
Lời kinh này của Upanishad đang yêu cầu chúng ta là tấm
gương. Tâm trí đúng là tấm gương. Người có thể nói, “Tôi không
có quá khứ không tương lai, tôi đang sống tại đây và bây giờ;
chính khoảnh khắc này là tất cả,” người ấy trở thành một tấm
gương ngay lập tức.
Làm sao có thể có bất kì căm ghét nào trong trái tim phản
ánh mọi đối tượng hữu tình và vô tình trong tấm gương riêng của
nó? Và làm sao có thể có bất kì cảm giác căm ghét nào khi phản
xạ riêng của người ấy được thấy trong mọi đối tượng hữu tình và
vô tình? Cảm giác căm ghét mất đi; khói của nó tan biến. Đám
mây khói biến mất, và cái trở nên thấy được là mặt trời, mặt trời
của tình yêu. Nhớ lấy, chừng nào vẫn còn có căm ghét trong tim
bạn, tình yêu bạn làm ra và cứ làm ra chỉ có thể là một dạng của
căm ghét. Khi căm ghét tan biến tại chính gốc rễ của nó - tức là,
khi nó biến mất hoàn toàn và chung cuộc - cái được sinh ra là
tình yêu.
Chỉ sannyasin mới có thể làm ra tình yêu. Chính là từ cái ta -
linh hồn - dòng suối tình yêu đó chảy ra. Không cái gì ngoài căm
ghét sẽ chảy ra từ thân thể và tâm trí. Chỉ căm ghét sẽ chảy ra từ
những ý tưởng ích kỉ - ý tưởng về của tôi và của bạn. Người tìm
kiếm phải hiểu đúng nghệ thuật tự mình trở thành tấm gương.
Ngay khi người ấy có thể, người ấy phải học để làm khoảnh khắc
hiện tại thành sự tồn tại của người đó, và bắt đầu sống từ khoảnh
khắc sang khoảnh khắc. Người ấy phải tách hẳn bản thân mình
với quá khứ cũng như tương lai. Người ấy phải tìm ra tự do khỏi
kí ức và ham muốn. Thế thì bụi bặm tích luỹ sẽ phai đi và sẽ
không có khả năng nào cho bụi mới lắng đọng .

****************************************************************************************************

8 Cái bóng của bản ngã

**Sầu não hay gắn bó nào
có thể còn có đấy cho linh hồn đã chứng ngộ -
người trí huệ -
khi mọi đối tượng hữu tình và vô tình
của thế giới
đã trở thành cái ta của người ấy,
khi người ấy thấy cái một ở mọi nơi?**

Sầu não nào hay gắn bó nào có thể có đó cho người đã nhận
ra - người trí huệ - người đã biết bản thân mình trong mọi đối
tượng hữu tình và vô tình, hay đã biết mọi đối tượng hữu tình và
vô tình trong bản thân người ấy?
Có ba hay bốn điểm quan trọng cần phải hiểu trong lời kinh
này. Thứ nhất, Upanishad gọi ai là người trí huệ? Từ gốc mà từ
này được dẫn ra là ved. Từ ved nghĩa là biết. Ý nghĩa của từ
‘người trí huệ’ là người biết. Người ấy biết cái gì? Ai đó biết về
toán học, ai đó biết về hoá học, ai đó biết về vật lí. Có cả nghìn
thứ để biết. Ai đó biết kinh sách. Một số biết tất cả những vấn đề
về bí ẩn sâu sắc do các vị thánh nói lại. Nhưng Upanishad không
coi họ là trí huệ.
Đây là một điều rất kì lạ và đáng quan tâm. Tích luỹ thông
tin không phải là tri thức theo Upanishad. Họ gọi người trí huệ là
người biết chỉ một yếu tố vĩ đại - chân lí: tức là người biết bản
thân mình, vì người biết bản thân mình, biết tất cả. Khi người ấy
biết bản thân mình, người ấy trở thành tấm gương mà trong đó
hình ảnh được phản xạ của tất cả mọi thứ bắt đầu xuất hiện.
Nhưng sự kiện là người ấy biết tất cả không có nghĩa là người ấy
phải là một nhà toán học lớn hay một nhà hoá học nổi danh hay
một nhà khoa học vĩ đại. Không, đấy không phải là nghĩa. Nghĩa
duy nhất của câu này - “Bởi việc biết bản thân mình người ấy
biết tất cả” - là ở chỗ qua việc biết bản thân mình người ấy đi tới
biết rằng cái tối cao đó, cái thuần khiết nhất đó, yếu tố huyền bí
đó đang bị che giấu bên trong tất cả. Người ấy biết công thức, cái
bản chất có vai trò là tất cả điều này. Người ấy biết rằng luật tối
cao có thẩm quyền ngự trị tại mọi nơi. Người ấy biết rằng vị chúa
tể tối cao có trong mọi con người. Người ấy biết rằng ông bầu tối
cao đó giữ trong tay mình sợi dây để điểu khiển mọi con rối nhảy
múa.

Người ấy không phải là chuyên gia - người ấy không phải là
chuyên gia chút nào. Nếu bạn hỏi người ấy về một điều đặc biệt
người ấy có thể không biết câu trả lời. Người ấy biết điều bản
chất ẩn kín trong toàn thể vũ trụ. Người ấy không biết từng cái lá,
nhưng người ấy cầm chiếc rễ trong tay. Người ấy biết sinh lực
sâu sắc và vĩ đại, bí ẩn; và ngay khi người ấy biết điều đó, người
ấy trở thành tự do khỏi sầu não và gắn bó.
Đây là đặc trưng của người trí huệ, và nó là đặc trưng kì lạ.
Nó không phải là năng lực của ông ấy để đáp lại các câu hỏi của
bạn, không phải là ông ấy sẽ có khả năng giải quyết các vấn đề
của bạn. Đấy chỉ là việc ông ấy trở nên tự do khỏi ảnh hưởng của
sầu não và gắn bó. Một nhà toán học, dù là một chuyên gia lớn
đến đâu, sẽ không thể thoát khỏi sầu não và gắn bó. Cứ cho là
ông ấy là một nhà tâm lí vĩ đại như Freud - và có rất ít nhà tâm lí
như Freud trên thế giới này - tâm trí của ông ấy vẫn sẽ là tâm trí
của người thường, ngay cả sau khi biết rất nhiều về tâm trí. Đâu
có khác biệt gì, không có một biến đổi nhỏ nhất nào trong tâm trí
ông ấy. Ông ấy vẫn trở nên lo lắng, sợ sệt, bùng lên với giận dữ
và ghen tức, và vẫn sầu não và gắn bó như bất kì người thường
nào. Và điều ngược đời là ở chỗ ông ấy có nhiều tri thức lí thuyết
về sợ hãi, về ghen tức, có lẽ là hơn bất kì người nào khác trên thế
giới. Ông ấy có đầy tri thức về dục tính, nhưng ngay cả trong tuổi
già nó vẫn khuấy động tâm trí ông ấy nhiều như nó khuấy động
tâm trí của bất kì ai khác.
Upanishad không coi người như thế là có học. Upanishad
thậm chí không coi tri thức của ông ấy là tri thức đúng. Họ gọi nó
là kho thông tin. Người như thế là chuyên gia. Bất kì điều gì
được biết về sợ đều được ông ấy biết tới. Ông ấy biết về sợ,
nhưng không phải là bản thân nỗi sợ. Nếu ông ấy đã biết thực sự
về sợ, ông ấy sẽ được tự do khỏi nó. Một chuyên gia về kinh sách
tôn giáo biết mọi điều về tôn giáo, nhưng không biết đến tôn
giáo. Ông ấy biết điều Veda nói, điều Upanishad nói, điều Gita
nói, điều Koran nói, điều Kinh thánh nói - ông ấy biết tất cả
những điều này. Ông ấy biết điều được nói, nhưng ông ấy không
biết về người nói ra điều này, cách thức nào điều này được nói ra,
với kinh nghiệm nào điều này được nói ra.
Khác biệt tựa như thế này - rằng một người biết mọi điều về
việc bơi nhưng không biết cách bơi. Không khó để biết việc bơi
về mặt lí thuyết; có thể nghiên cứu qua một cuốn sách về bơi. Tất
cả tài liệu về bơi lội đều có thể được ghi nhớ. Một người có thể là
một chuyên gia về bơi lội và có thể trả lời bất kì câu hỏi nào
được hỏi về việc bơi. Và vậy mà, đừng sai lầm đẩy người ấy
xuống sông, vì biết bơi là vấn đề hoàn toàn khác.
Không cần phải biết mọi điều về việc bơi đối với một người
biết bơi. Có thể là người ấy chỉ biết bơi nhưng dốt nát về bất kì
tri thức lí thuyết nào. Nhưng toàn bộ tri thức lí thuyết của một
người sẽ không hữu dụng gì cho người ấy nếu thuyền của người
ấy bị chìm và cuộc sống của người ấy bị lâm nguy. Vào lúc như
vậy, người không biết gì về tri thức bơi lội nhưng biết chính việc
bơi sẽ có khả năng bơi và cứu mạng mình. Đây là lí do tại sao
hiền nhân của Upanishad chỉ đúng những đặc trưng nền tảng của
người có học thực sự. Ông ấy nói họ là người có học, người trí
huệ, người thấy mọi đối tượng hữu tình và vô tình trong bản thân
họ và thấy bản thân họ trong mọi đối tượng hữu tình và vô tình.
Những người như thế trở thành tự do khỏi mọi sầu não và gắn bó.
Tại sao ông ấy đã gộp nhóm hai điều này - sầu não và gắn bó
- với nhau? Chúng được gộp nhóm với nhau bởi vì hai điều này
là một; chúng là những bộ phận cùng xảy ra, không tránh khỏi
của cùng một hoàn cảnh tâm trí. Trong hai điều này, một điều
không bao giờ đứng một mình. Cho nên hiểu chúng cho đúng.
Tâm trí bị gắn bó thì sẽ buồn rầu và sầu não nữa; và nơi không có
gắn bó sầu não không thể có đó được. Thực ra, sầu não xảy ra khi
đối tượng của gắn bó bị phá huỷ. Không có lí do nào khác cho

buồn rầu. Giả sử tôi có gắn bó với ai đó: nếu người ấy chết, tôi bị
đắm chìm trong buồn rầu. Buồn rầu tựa như cái bóng đi theo gắn
bó. Nếu tôi không có gắn bó với bất kì ai, không thể buồn được,
cho dù tôi muốn thế.
Có một ngôi nhà mà tôi gắn bó. Nếu nó bị cháy tôi cảm thấy
sầu não. Có sầu não ngay khi gắn bó bị dứt đoạn và đứt gẫy - bất
kì đâu nó gặp khó khăn, bất kì đâu nó bị tan vỡ, bất kì đâu nó bị
chống đối. Và nhớ lấy, khi sầu não tới thì bạn sẽ phải tạo ra gắn
bó để cứu lấy bản thân mình khỏi sầu não. Khi sầu não tới bạn sẽ
phải tìm ra một đối tượng mới cho gắn bó của bạn, để cứu bản
thân bạn khỏi sầu não, để tránh xa nó. Nếu một người bạn yêu
chết đi, bạn không có khả năng quên được người đó chừng nào
bạn còn chưa tìm thấy cái thay thế để yêu. Khó quên gắn bó cũ
chừng nào bạn còn chưa ném nó đi và thay thế nó bởi việc bầy tỏ
tình yêu của bạn cho cái thay thế mới.
Cho nên sầu não tới khi gắn bó bị tan vỡ, và để trốn chạy
khỏi sầu não đó chúng ta phải tạo ra những đối tượng mới cho
gắn bó của mình. Vậy cái vòng luẩn quẩn này cứ tiếp diễn. Mọi
gắn bó đều đem tới sầu não và mọi sầu não bị kìm nén bởi những
đối tượng mới của gắn bó. Bệnh tật tới; thuốc phải được cho, và
nó gây ra các kiểu bệnh tật khác. Thế rồi thuốc mới được đưa ra
cho bệnh mới và những bệnh mới này làm phát sinh những bệnh
mới nữa. Vậy là cái vòng này cứ tiếp diễn. Cho nên đó là một
quyết định trí huệ gộp nhóm hai điều này với nhau.
Đây là lí do tại sao người ta nói rằng người biết trở nên tự do
khỏi sầu não và gắn bó. Làm sao những ý tưởng về của tôi và của
anh có thể tới được với người thấy bản thân mình trong mọi đối
tượng hữu tình và vô tình và thấy tất cả chúng trong bản thân
người ấy? Thế thì làm sao gắn bó được tạo ra? Nó được tạo ra chỉ
khi bạn gắn bản thân mình với ai đó, và nói, “Cái này là của tôi,
phần còn lại không phải của tôi,” hay khi bạn nói, “Toà nhà này
là của tôi, phần còn lại không phải là của tôi.”
Khi tôi tới đây, một bà nào đó tới gặp tôi. Bà ấy nói, “Do ân
huệ lớn của thầy cửa hàng của con trai tôi được cứu khỏi bị bắt
cháy. Toà nhà kế bên bị bắt cháy, và lửa sắp lan sang cửa hàng
chúng tôi. Nhưng cửa hàng của chúng tôi đã được cứu.” Bà ấy
mang đồ ngọt tới biếu tôi. Bà ấy vui mừng rằng cửa hàng của con
bà ấy đã được cứu. Không, bà ấy không tiếc gì cho toà nhà đã bị
lửa tàn phá cả, vì bà ấy không có gắn bó với chúng. Ngược lại, bà
ấy hài lòng vì toà nhà mà bà ấy gắn bó đã được cứu thoát.
Gắn bó bao giờ cũng mang tính loại trừ; nó bám vào cái này
và bỏ ra phần còn lại. Nó nói, “Đây là vợ tôi, đây là chồng tôi,
đây là con tôi, đây là nhà tôi, đây là cửa hàng của tôi” - có cái tôi
trong tất cả những thứ này - “và tôi không quan tâm tới những cái
còn lại!” Nếu bất kì điều gì xảy ra cho phần còn lại, nó không
ảnh hưởng tới bạn theo bất kì cách nào, nó không tạo ra khác biệt
gì cho bạn. Bạn hài lòng rằng cái của riêng bạn được cứu thoát.
Mức độ gắn bó giảm đi khi trường gắn bó trải rộng ra. Cái
gắn bó lớn lao nhất là cho bản thân mình, vì không cái gì dường
như là ‘của tôi’ nhiều hơn bản thân người ta. Cho nên, chẳng hạn,
dường như là con thuyền đang chìm, có một người chồng và một
người vợ đang trong nó, và tình huống là tới mức chỉ một trong
hai người có thể được cứu, thế thì cả hai đều sẽ muốn được cứu.
Nếu lửa bùng lên trong toà nhà, người chủ sẽ nhảy ra trước hết và
rồi hỏi han về các thành viên khác trong gia đình. Một người biết
tới đám cháy không sớm hơn bản thân người đó chạy ra. Cho
nên, gắn bó được tập trung phần lớn quanh cái tôi; nó là liên kết
mạnh nhất với cái tôi. Thế rồi nó giảm dần đi khi trường của cái
‘của tôi’ mở rộng ra. Nó sẽ ít hơn khi hướng tới gia đình, ít nữa
khi hướng tới thành phố, càng ít nữa khi hướng tới quốc gia, và
thậm chí còn ít hơn nữa khi hướng tới toàn thể nhân loại. Và nếu

mọi người đang sống trên hành tinh khác nào đó, sẽ không có
gắn bó nào hướng tới họ.
Các nhà khoa học tuyên bố rằng có sự sống trên ít nhất năm
mươi nghìn hành tinh khác. Chúng ta không biểu lộ sự gắn bó gì
với họ cả. Ngay cả hướng tới nhân loại cũng dường như tối thiểu.
Chúng ta vẫn còn không quan tâm và không bị ảnh hưởng khi
bẩy trăm nghìn người chết ở Pakistan. Nếu một người chết trong
gia đình chúng ta, chúng ta còn bị tác động sầu não hơn là khi
biết bao nhiêu người chết ở Pakistan, và nếu một ngón tay chúng
ta bị đứt, chúng ta kinh nghiệm còn đau hơn là chúng ta cảm thấy
khi bẩy trăm nghìn người kia chết. Khi chúng ta tiến dần tới cái
‘tôi’, gắn bó trở nên tập trung hơn, và khi chúng ta đi xa khỏi cái
‘của tôi’, bóng dáng của nó trở nên mảnh mai và hiếm hơn.
Gắn bó là cái bóng của bản ngã. Gắn bó lập tức được tạo ra
bất kì chỗ nào bạn thấy ‘tôi đây’. Nhưng như tôi đã nói, gắn bó
mang tính loại trừ; để làm gắn bó thành có thể, cái gì đó hay ai đó
phải bị bỏ ra. Do đó, hiền nhân này nói, người đã thấy mọi đối
tượng hữu tình và vô tình trong bản thân mình, trở thành không
loại trừ; cảm giác trong người ấy bây giờ là, “Tất cả đều là của
ta.” Người ấy trở thành người bao hàm tất cả. Thế thì gắn bó
không xảy ra, bởi vì bây giờ không có nền tảng cho nó.
Khi tất cả đều là ‘của tôi’, không có mục đích nào trong việc
gọi bất kì ai là của tôi. Đã có một mục đích cho việc nói ‘của tôi’
chừng nào còn có một mục đích cho việc nói ‘của bạn’ - có ai đó
không phải là ‘của tôi’. Cho nên bạn tạo ra biên giới, bạn vẽ ra
đường bao để chỉ ra giới hạn của cái ‘của tôi’. Bạn tạo ra bức
tường, biên giới. Bên ngoài giới hạn này, một thế giới khác bắt
đầu mà với nó bạn không quan tâm chút nào. “Dù nó chết hay bị
tàn phá là không liên quan tới cái của tôi.” Phía bên này của biên
giới là thế giới của bạn, vì cái đó mà bạn mong muốn rằng không
có khổ, không có tai hoạ, không có đau buồn, vì bạn bị sầu não
khi nó gặp rắc rối.
Upanishad nói gắn bó của một người tan biến đi khi người
ấy thấy bản thân mình không chỉ trong mọi loài vật, không chỉ
trong mọi vật sống, mà trong mọi đối tượng hữu tình và vô tình,
thậm chí trong từng hạt cát - tức là nói trong bất kì sự tồn tại nào
trong thế giới này. Thế thì không có gắn bó nào còn lại. Gắn bó
có đó trong khi biên giới có đó. Gắn bó không thể vô giới hạn
được. Nhớ lấy, gắn bó vô giới hạn là không thể được. Nó sống
bên trong các giới hạn. Khi biên giới mở rộng dần ra, gắn bó yếu
đi; và khi các giới hạn hẹp lại, gắn bó trở nên mạnh thêm. Trong
cái vô giới hạn, gắn bó biến mất.
Và thế thì làm sao sầu não có thể có được khi gắn bó đã biến
mất? Nó không tồn tại mà không có gắn bó. Nếu không có gắn
bó, không có sầu não. Cho nên Upanishad gọi người ấy là người
trí huệ, người đứng ngoài cả gắn bó và sầu não. Và làm sao
người ấy đứng ngoài? Người ấy đứng ngoài bởi việc thấy bản
thân mình trong toàn bộ sự tồn tại, cái có đó lan toả bao quanh tất
cả chúng ta nhưng không thấy được đối với chúng ta bởi vì
chúng ta cũng có đó trong nó.
Sự kiện sau đây xảy ra trong cuộc sống của Rabindranath
Tagore. Cũng đáng để ý đến. Ông ấy đã viết lời cầu nguyện về
Thượng đế trong Gitanjali, bởi điều đó ông ấy đã nhận được giải
thưởng Nobel và trở nên nổi tiếng trên thế giới. Nhưng còn có
một cụ già sống gần nhà ông, người bắt đầu thường xuyên gây
phiền nhiễu cho ông. Bất kì khi nào cụ già gặp Rabindranath, cụ
đều giữ ông tấy lại và hỏi, “Xin nói cho tôi sự thực: ông đã biết
Thượng đế chưa?”
Cụ già thật bướng bỉnh còn Rabindranath, là một người
lương thiện, không thể nói dối được. Cụ già nhìn thẳng và sâu
vào mắt Rabindranath đến mức tay và chân ông ấy run lên. Đây

là người đã được giải thưởng Nobel đấy. Bất kì khi nào ông ấy đi
ra ngoài ông ấy đều được nhiều người tôn kính. Người ta hay nói,
“Đây là tấm gương sống về một người mà Upanishad gọi là
Maharishi.” Vậy mà ông ấy ở đây, bị một cụ già hàng xóm làm
cho bối rối. Và việc gây phiền nhiễu này không chỉ có một ngày
hay một sáng hay một tối, mà liên tục mọi ngày, vì cụ già, không
có gì làm, để toàn bộ thời gian ngồi trên ghế cạnh cửa nhà ông ấy
cho nên Rabindranath thấy khó mà tránh được cụ.
Rabindranath đã viết trong nhật kí rằng ông thấy rất khó rời
khỏi nhà: ‘Trước khi đi ra ngoài, tôi sẽ hỏi liệu cụ già này có
đang ngồi đó hay không. Bằng không cụ ấy sẽ túm lấy tôi và hỏi,
“Ông đã thấy Thượng đế chưa? Ông có biết ngài không?” Tôi
thường bị run lên khi nghe những câu hỏi này bởi vì tôi không
biết gì về ngài cả. Khi nghe câu trả lời của tôi, cụ già sẽ cười to
và toàn tâm. Cái cười của cụ theo cách đó làm hỏng giấc ngủ của
tôi, nó bắt đầu ám ảnh tôi; tôi bắt đầu sợ ông cụ ấy. Một lần tôi
nghĩ, ‘Mình thực sự tạo ra rắc rối cho bản thân mình khi viết
cuốn Gitanjali này.’ Tôi nghĩ, ‘Cụ già đó phải đã có thoáng nhìn
nào đó về Thượng đế, bằng không cụ không thể ám ảnh mình đến
thế.’” Từ mắt cụ ấy dường như là cụ đã biết điều gì đó, bởi vì
Rabindranath không thể trốn tránh cái nhìn đó được khi nhìn vào
cụ và lặp lại một hay hai dòng Gitanjali để trả lời cho câu hỏi của
cụ.
Rồi nhiều năm trôi qua, và cụ già vẫn cứ tiếp tục là nỗi ám
ảnh của ông ấy. Rabindranath đã nói: “Một tải trọng lớn được
nhấc ra khỏi tâm trí tôi vào cái ngày mà tôi có thể nói cho cụ,
‘Tôi đã biết Thượng đế.’” Đó là vào đầu mùa mưa, và những cơn
mưa để bùn nhão nhoét ở mọi nơi. Vũng chứa nước và những hố
nhỏ trên đường tràn đầy nước. Ếch kêu ồm ộp. Hôm đó là buổi
sáng và Rabindranath bị lôi cuốn đi ra ngoài bởi những thay đổi
đó trong tự nhiên - tiếng ếch kêu oàm oạp, tiếng rào rào của mưa
rơi, hương mới của đất. Ông ấy thấy cụ già ấy không ngồi ở vị trí
thường lệ. Có lẽ cụ già còn chưa dậy.
Rabindranath chạy ra khỏi nhà. Mặt trời đã lên trên biển.
Ông dừng trên bãi biển. Mặt trời lung linh trên sóng. Ông nhìn
vào mặt trời và sự phản xạ của nó, và rồi bắt đầu trở về nhà. Mặt
trời được phản xạ trong từng vũng nước, trong từng ao nhỏ, trong
từng rãnh nước bẩn bên vệ đường. Nó lấp lánh khắp xung quanh
- trong những vũng nước bẩn, trên biển khơi, trên dòng suối nhỏ
sạch sẽ, trong mọi phía. Thấy tất cả điều này, một điệu nhạc nào
đó, một cái chưa biết nào đó, một âm thanh vô định bên trong bắt
đầu ngân lên trong tim Rabindranath.
Khi ông ấy quay trở về, ông ấy nhảy múa. Ông ấy nhảy múa
vì ông đã thấy rằng sự phản xạ của mặt trời không bao giờ bị mờ
xỉn . Ông ấy nhảy múa bởi vì ông ấy đã thấy rằng sự phản xạ của
mặt trời tươi tắn và sạch sẽ trong nước bùn bẩn cứ như là trong
nước sạch nhất. Sự phản xạ không bao giờ bẩn cả. Làm sao nó có
thể bẩn được? Chỉ nước có thể bùn và bẩn thôi. Nhưng mặt trời
mà nhìn trong đó, sự phản xạ của mặt trời trong đó, là không bẩn.
Nó tuyệt đối tươi tắn và sạch sẽ. Không nước nào có thể làm hư
hỏng nó được. Đây là một kinh nghiệm cách mạng, rất lớn lao
cho ông ấy. Điều đó có nghĩa là Thượng đế, người ở bên trong
ngay cả cái tồi tệ nhất của con người, không thể bị làm bẩn. Sự
phản xạ của Thượng đế trong con người tội lỗi nhất là thuần khiết
như nó có trong những người ngoan đạo nhất. Cho nên ông ấy đã
trở về trong nhảy múa. Cánh cửa đã mở ra bên trong.
Cụ già kia đã ngồi gần cánh cửa. Đây là lần đầu tiên ông ấy
không còn sợ cụ già, và lần đầu tiên cụ già nói, “Được rồi, dường
như là anh đã biết ngài.” Cụ già lại gần Rabindranath ôm choàng
lấy ông ấy và nói, “Cực lạc của anh, điệu nhảy của anh hôm nay
đã nói cho ta rằng anh đã biết ngài. Bây giờ ta có thể kính trọng
anh!”

Thế rồi trong ba ngày Rabindranath vẫn còn trong trạng thái
cực lạc - trong trạng thái điên khùng. Mọi người trong gia đình
đều lo sợ khi thấy điều này. Chỉ cụ già ấy thường tới và bảo họ,
“Vui mừng đi! Vui vẻ đi!” và bắt đầu thông báo cho láng giềng
rằng ông ấy đã biết Thượng đế. Nhưng mọi người trong nhà đều
rất sợ vì Rabindranath hành xử một cách rất kì cục. Nếu ông ấy
thấy một cột trụ, ông sẽ ôm chầm lấy nó. Nếu một con bò đi
ngang qua trên đường ông ấy sẽ ôm lấy con bò nữa. Nếu ông ấy
thấy một cái cây ông ấy sẽ ôm chầm lấy nó. Mọi người trong nhà
nghĩ ông ấy đã mất trí: “Ông ấy đã phát điên rồi!” Nhưng cụ già
này vẫn tiếp tục nói, “Đừng lo. Ông ấy điên khùng từ trước cho
tới nay, và bây giờ ông ấy lành mạnh. Bây giờ ông ấy bắt đầu
thấy, trong tất cả sự tồn tại, cái mà không có nó bài hát ông ấy
vẫn hát mọi lần đều vô dụng. Đấy chỉ là nhịp điệu, một cái cớ
nghèo nàn cho nhà thơ. Chỉ bây giờ, âm nhạc thực sự được sinh
ra trong cuộc đời ông ấy.”
Rabindranath đã viết: “Tôi có thể, dần dần, kiểm soát bản
thân mình và đem cực lạc của mình vào sự kiểm soát, với nỗ lực
rất lớn. Bằng không tôi mong mỏi ôm choàng mọi người và mọi
thứ tôi gặp. Cho tới nay tôi đã mong mỏi và cầu nguyện, ‘Cầu
Trời, cánh cửa của ngài ở đâu?’ Bây giờ Thượng đế là cánh cửa
của tôi, và bây giờ bất kì khi nào tôi nhìn tôi đều thấy cánh cửa
của ngài. Từ trước tới nay tôi vẫn cứ tìm ngài và hỏi, ‘Ngài trốn
ở đâu vậy?’ Nhưng bây giờ tôi ngạc nhiên bởi vì ngài đã có đó
trong tôi; không cái gì khác ngoài ngài.”
Người thấy sự hiện diện của mình trong tất cả sự tồn tại hay
thấy toàn bộ sự tồn tại trong bản thân mình thực sự là người trí
huệ; và người như vậy ở ngoài gắn bó và sầu não. Nhớ lấy,
không có hạnh phúc không có bất hạnh trong cuộc đời người đó,
chỉ có cực lạc. Cái thuần khiết của sự tồn tại nhảy múa trong
cuộc đời người ấy. Người ấy là bản thân cuộc sống; nhảy múa và
ca hát ngợi ca sự tồn tại. Bản thân cuộc đời người ấy là âm nhạc;
và tất cả những cái đem đến sầu não, tất cả những cái trói buộc,
tất cả những cái trở thành gắn bó, tất cả những cái dường như là
đem lại hạnh phúc hôm nay nhưng là nguyên nhân của bất hạnh
ngày mai - tất cả những cái này không còn chỗ trong cuộc sống
người ấy. Người ấy bây giờ là tấm gương.
Khi bạn đứng trước một tấm gương bạn được phản chiếu vào
trong nó, và khi bạn đi xa khỏi nó, nó lập tức rời bỏ bạn. Nó
không nắm giữ bạn. Ngay khi bạn đi ra khỏi nó, nó trở thành
trống rỗng, không phản xạ. Tấm gương không mang gắn bó nào
với bạn. Đó là lí do tại sao, khi bạn đứng dẹp sang bên, thay vì
đứng trước nó, nó không bị tan thành từng mảnh vì buồn rầu với
bạn. Trái tim nó không tan nát. Nó không nói, “Làm sao tôi có
thể sống được mà không có bạn?” Thay vì thế nó nói, “Khi bạn
đứng trước tôi bạn rất đẹp, rất tốt, và bạn đã biểu lộ ân huệ lớn
cho tôi; và khi bạn rời bỏ tôi, tôi không cảm thấy khó chịu.”
Không cái gì thay đổi. Tấm gương vui vẻ khi nó rỗng không và
không phản xạ cũng như khi nó tràn đầy với phản xạ.
Do vậy người có học sống tựa tấm gương trong thế giới.
Người ấy hài lòng với bất kì cái gì tới trước mình. Người ấy hạnh
phúc nếu thấy hoa và trở thành phản xạ của hoa, dội sự phản xạ
của nó lại, thấy tính thượng đế trong nó. Nếu không có ai ở trước
người ấy - khi tất cả là trống rỗng - người ấy thấy tính thượng đế
trong cái trống rỗng. Chính cái trống rỗng là tính thượng đế. Thế
thì người ấy nhảy múa trong cái trống rỗng đó, và người ấy là
trong cực lạc ngay cả trong cái trống rỗng.
Đủ cho hôm nay. Bây giờ tự chúng ta thử trở thành những
tấm gương.

************************************************************************************************

9 Bên ngoài khoa học

**Nó lan toả khắp nơi,
nó là cái thuần khiết nhất,
nó vô thân thể, nó không thể bị phá huỷ,
nó không có gân cốt, nó không tì vết,
nó vô tội, nó thấy hết,
nó biết hết,
nó là cái tốt nhất trong những cái tốt,
và nó là tự sáng tạo**

Lời kinh này cho chúng ta một số chỉ dẫn về bản tính của
atman - trên hết, rằng nó được tạo ra từ bản thân nó. Atman, sự
tồn tại, một mình nó là tự sáng tạo. Từ swayambhoo có nghĩa là
tự khởi nguồn. Điều đó có nghĩa là cái không được tạo ra bởi bất
kì cái gì khác, cái mà tự nó được tạo ra. Sự tồn tại của nó là từ
bản thân nó. Sự tồn tại của nó không ở trong tay ai cả; nó phụ
thuộc vào bản thân nó.
Cho nên điểm đầu tiên này, rằng atman là tự khởi nguồn, cần
phải được hiểu cho đầy đủ. Mọi thứ chúng ta thấy đều có thể
được tạo ra. Bất kì cái gì được tạo ra, bất kì cái gì có thể được
làm ra, sẽ không là atman. Chúng ta xây nhà; nhà không phải là
tự khởi nguồn, nó được làm ra. Chúng ta chế tạo ra máy; nó
không phải là tự tạo ra, nó do chúng ta chế tạo ra. Tìm yếu tố đó,
cái bản chất đó, cái không do ai chế tạo ra. Bản chất không được
tạo ra này là atman. Trong nỗ lực của chúng ta để tìm kiếm sự
tồn tại của vũ trụ, nếu chúng ta đạt tới đó, nếu chúng ta có thể
hiểu thấu được cái bản chất tối cao đó của vũ trụ, cái không do
bất kì ai tạo ra, cái là vĩnh hằng, vô thuỷ, bản thân cái ta, thế thì
chúng ta sẽ đạt tới tính thượng đế.
Atman và atman tối cao không phải là hai; chúng là những
cái tên của cùng một điều được thấy từ hai quan điểm. Nếu bạn
tìm nó bên trong bản thân mình, thế thì cái yếu tố không được
chế tạo, không được sinh, được tự tạo ra đó được gọi là atman.
Còn nếu bạn tìm kiếm và thấy nó ở chỗ khác, thế thì yếu tố đó
được gọi là atman tối cao, vĩ đại. Atman đơn giản là atman tối
cao được biết tới từ bên trong. Atman tối cao đơn giản là atman
được biết tới từ bên ngoài.
Nếu bạn xem xét bản thân mình bạn sẽ thấy rằng thân thể
này là thứ được tạo ra. Nó không thể được tạo ra mà không có sự
hợp tác của bố mẹ bạn. Cho dù vậy, trong tương lai, nó được tạo
ra trong ống nghiệm, nó vẫn còn là thứ được chế tạo. Các nhà

khoa học và sinh học của phương Tây có thể có khả năng, nếu
không phải hôm nay thì trong tương lai, hoàn thành được công bố
của họ về việc tạo ra đứa trẻ trong ống nghiệm. Họ sẽ thành công
trong việc chế tạo ra một thân thể trong ống nghiệm, và do đó hi
vọng chung cuộc đánh bại tôn giáo. Nhưng họ sai lầm trong cách
nhìn của họ, vì con người tâm linh chưa bao giờ coi thân thể là
atman .
Con người tâm linh nói, “Cái mà không được sinh ra, không
được tạo ra, là atman.” Bằng việc chế tạo ra thân thể trong ống
nghiệm, các nhà khoa học sẽ đơn giản chứng minh rằng thân thể
không phải là linh hồn - atman. Dường như là thân thể sẽ được
chế tạo ra trong tương lai; tôi không thấy bất kì lí do gì tại sao nó
không như vậy. Nhiều người tâm linh e sợ về điều này: “Điều gì
sẽ xảy ra cho atman khi thân thể được tạo ra trong ống nghiệm
trong phòng thí nghiệm? Điều đó sẽ chứng minh rằng atman
không tồn tại nếu chúng ta có thể tạo ra một đứa trẻ mà không có
sự hợp tác của bố mẹ và chỉ với sự trợ giúp của hoá chất?”
Nhưng những người tâm linh đó không biết rằng thân thể không
phải là atman. Nếu nhà khoa học thành công trong thực nghiệm
của ông ấy thì đích thực lời kinh của Upanishad sẽ được chứng
minh là đúng - rằng thân thể này không phải là atman. Chỉ ngần
ấy thôi, và không gì hơn nữa, là được chứng minh.
Ngay cả bây giờ chúng ta biết rằng thân thể không phải là
linh hồn. Sự kiện này được khoa học vật lí chứng minh. Trong
tương lai thân thể sẽ được tạo ra bằng các quá trình hoá học và
nhân tạo. Hiện tại, khi các chất hoá học của bố mẹ tổ hợp và tạo
ra tế bào, chính là tế bào đầu tiên của thân thể, thế rồi linh hồn đi
vào nó. Nếu trong tương lai tế bào đó được tạo ra trong phòng thí
nghiệm, và nếu tình huống gen đó được tạo ra, điều mà từ trước
tới nay vẫn do bố mẹ tạo ra, thế thì linh hồn cũng sẽ đi vào cả
trong đó nữa.
Nhưng tế bào đó, cái tế bào đầu tiên của thân thể, không phải
là atman. Nó là một thứ được chế tạo ra, nó không phải là tự sinh
ra. Nó được tạo ra bởi ai đó. Sự tồn tại của nó, sự sinh thành của
nó, tuỳ thuộc vào cái gì đó, do vậy những người biết tới atman
không sẵn lòng gọi nó là atman. Nó không phải là atman. Biết
điều đó, chúng ta sẽ phải làm việc theo cách lùi lại hơn; chúng ta
sẽ phải đi ngày một sâu xuống hơn.
Cho nên bản thân tôi hài lòng và hi vọng rằng khoa học
thành công trong việc làm ra đứa trẻ trong ống nghiệm sớm nhất
có thể được, bởi vì thế thì chúng ta sẽ được các nghiên cứu khoa
học giúp đỡ để phá vỡ sự đồng nhất của chúng ta với thân thể.
Thế thì chúng ta sẽ biết chắc chắn rằng thân thể là một loại máy,
và rằng việc tin vào nó như cái ta là điều ngu xuẩn. Ngay cả bây
giờ nó cũng là điều ngu xuẩn, nhưng hiện tại chúng ta không sẵn
lòng thừa nhận rằng thân thể là một cái máy. Dầu vậy nó vẫn cứ
là một cái máy. Nó được tạo ra bởi các lực tự nhiên, cho nên
bằng việc hiểu các bí mật này của tự nhiên chúng ta sẽ có khả
năng tạo ra nó, và thế thì chúng ta sẽ có được sự hợp tác của các
lực tự nhiên để bẻ vỡ việc đồng nhất mình với thân thể.
Khi đi sâu vào bên trong bản thân mình, chúng ta phải đạt tới
chỗ đó, cái bản chất đó, cái không thể được tạo ra; và chừng nào
mà việc chế tạo nó còn là điều có thể, biết rằng nó không thể là
atman. Cho nên bằng việc đi ngày càng sâu hơn vào trong việc
chế tạo, khoa học giúp đỡ cho tôn giáo, bởi vì bất kì cái gì khoa
học có thể tạo ra, cái đó không phải là atman. Atman còn xa hơn
điều đó. Atman bao giờ cũng vượt ra ngoài cái có thể được làm
ra.
Cho nên chúng ta biết ơn khoa học rất nhiều về việc nó cứ
làm ra hết thứ nọ đến thứ kia, đẩy xa giới hạn về cái có thể được
chế tạo và do đó xác định cái không phải là atman; bởi vì chúng
ta gọi một yếu tố là atman khi nó tự khởi nguồn, không được sinh

ra, khi nó không thể được tạo ra. Điều đó nghĩa là cái nguyên
thuỷ.
Không hoài nghi gì nữa, phải có cái tối thượng, yếu tố nền
tảng cho vũ trụ này được tạo ra, và yếu tố tối thượng này phải là
không được tạo ra. Nếu một cơ sở được cần cho việc sáng tạo của
mọi thứ, thế thì việc sáng tạo là không thể được. Nếu bạn nói,
“Thượng đế được cần tới để tạo ra thế giới,” thế thì bạn sẽ phải
nói một Thượng đế tối cao khác là cần có để tạo ra Thượng đế.
Không có điểm cuối cho loại logic này. Thế thì chúng ta sẽ
không bao giờ đạt tới được chỗ chúng ta có thể nói, “Được rồi,
đây là chỗ có sự sáng tạo mà không cần tới người sáng tạo khác.”
Sẽ tốt hơn và khoa học hơn nếu chúng ta hiểu điều đó thế
này: rằng cái tự khởi nguồn là atman. Điều này khoa học hơn
việc nói rằng atman là tự khởi nguồn. Nếu chúng ta nói, “Chúng
ta gọi ngài là atman tối cao - Thượng đế - người không được tạo
ra, người không được bất kì ai tạo ra,” sẽ khoa học hơn là nói,
“Không ai đã tạo ra Thượng đế.”
Khoa học cũng kinh nghiệm điều này. Trong những nghiên
cứu của mình, các nhà khoa học đạt tới giới hạn nào đó và thế rồi
họ cảm thấy rằng có cái gì đó còn nằm ngoài những giới hạn này,
cái bên ngoài sự sáng tạo. Khi điều này xảy ra, khoa học bao giờ
cũng làm các nghiên cứu về các yếu tố, và các nhà khoa học cổ
đại đã tuyên bố rằng có năm yếu tố. Người tâm linh cổ đại -
người tôn giáo - không nói điều này bởi vì họ không quan tâm tới
những yếu tố như vậy. Họ quan tâm tới chỉ cái một, yếu tố tự
khởi nguồn.
Tư duy khoa học cổ đại của gần bốn đến năm nghìn năm
trước đây đã xác nhận rằng mọi thứ được tạo ra từ năm yếu tố.
Bây giờ sai lầm đã xảy ra bởi vì đã không tồn tại những cuốn
sách khoa học tách biệt; mọi chủ đề đều được đưa vào trong các
sách tôn giáo. Sách tôn giáo là tuyển tập của tất cả tri thức của
những ngày đó, và do vậy niềm tin rằng mọi thứ đã được tạo ra
từ năm yếu tố đều có sẵn trong các sách tôn giáo. Nhưng vấn đề
này liên quan tới khoa học chứ không phải tới tôn giáo. Tôn giáo
chỉ tìm kiếm một yếu tố - yếu tố tự khởi nguồn.
Khoa học đã tiếp tục nghiên cứu của nó, và nó đã thấy rằng
nguyên lí về năm yếu tố là không đúng. Khi điều này được chỉ ra
là ngu xuẩn thì cái gọi là những người tôn giáo rất lo nghĩ. Họ
nghĩ mọi thứ bây giờ bị lẫn lộn hết, bởi vì họ đã tin vào năm yếu
tố. Nhưng khoa học vẫn tiến vững chắc với nghiên cứu của nó.
Bây giờ các nhà khoa học đã phát hiện ra một trăm lẻ tám yếu tố.
Nhưng tôi muốn làm điều này rõ ràng rằng các nghiên cứu mới
của khoa học chỉ bác bỏ khoa học cũ.
Không khám phá nào của khoa học có thể bác bỏ được tôn
giáo, bởi vì chiều hướng của tôn giáo và khoa học là hoàn toàn
tách biệt. Ai đó có thể soạn một bài thơ rất hay, nhưng điều đó
không thể bác bỏ nguyên lí của toán học được. Không có quan hệ
gì giữa thơ ca và toán học. Tương tự ai đó có thể phát triển một lí
thuyết toán học sâu sắc và khó, nhưng điều đó sẽ không làm mất
phẩm chất của bài thơ hay, vì chiều hướng của chúng là tách biệt;
chúng không huỷ lẫn nhau. Chúng thậm chí không chạm vào
nhau. Những chiều hướng này chạy song song tựa như đường ray
xe hoả. Nếu chúng dường như gặp nhau ở đâu đấy, đó là ảo giác
của chúng ta. Nếu bạn đi tới điểm gặp gỡ, bạn sẽ thấy rằng chúng
chạy song song nhau. Chỉ ảo giác về sự gặp gỡ lẫn nhau của
chúng là có thể nảy sinh ra, như trường hợp của đường ray xe
hoả.
Khi khoa học bác bỏ điều gì đó, nó bác bỏ sự kiện hay niềm
tin cũ. Toàn bộ giới Ki tô giáo trở nên rất bồn chồn khi khoa học
tuyên bố rằng đất không phẳng mà tròn, vì trong Kinh thánh có
nói rằng đất là phẳng. Nhưng điều được viết trong Kinh thánh về
hình dạng của trái đất là sự khẳng định của các nhà khoa học vào

thời đó; đấy không phải là khẳng định tôn giáo. Cho nên khi khoa
học thấy rằng trái đất là tròn, nó bác bỏ niềm tin cũ. Nhưng khám
phá mới này đã chỉ ra rằng khoa học cổ đại là sai. Khoa học
không bao giờ có thể làm cho tôn giáo không đúng được, tôn
giáo không bao giờ làm cho khoa học sai được. Chúng không có
quan hệ chút nào với nhau, không có kết nối giữa chúng. Thậm
chí không có trao đổi giữa chúng; chiều hướng của chúng là khác
nhau. Chiều hướng của chúng tuyệt đối tách biệt.
Bắt đầu với năm yếu tố khoa học đã tìm ra nhiều yếu tố khác
và số các yếu tố này là một trăm linh tám ngày nay, do vậy chứng
minh rằng năm yếu tố cổ đại đã bị hiểu không đúng như các yếu
tố. Chúng chắc chắn không phải là các yếu tố. Thực ra, những cái
đã được biết như các yếu tố lúc ban đầu không phải là các yếu tố;
chúng là hợp chất. Chẳng hạn, đất. Bây giờ có nhiều chất trong
đất - không chỉ có một chất trong bất kì loại đất nào. Một thí dụ
khác là nước. Khoa học nói có hai chất, hidro và oxi trong nước.
Nước không phải là yếu tố, nó là trộn lẫn của hai chất. Tổ hợp
không phải là yếu tố; theo khoa học, nó được gọi là hợp chất.
Cho nên nước không thể được xem như một yếu tố. Oxi và hidro
là các yếu tố.
Cho nên khoa học đã phát hiện ra một trăm linh tám yếu tố.
Nhưng khi khoa học đi sâu hơn vào trong nghiên cứu của nó, các
nhà khoa học dần dần bắt đầu nhận ra rằng tất cả một trăm lẻ tám
yếu tố này đều có một trung gian chung. Nó có thể là hidro hay
nó có thể là oxi, nhưng cả hai đều được tạo ra bởi các hạt điện.
Cho nên dường như là hidro và oxi cũng không là các yếu tố.
Điện bây giờ đã trở thành yếu tố. Việc hợp nhất một số hạt điện
tạo ra hidro và việc hợp nhất một số hạt điện khác tạo ra oxi, và
một trăm lẻ tám yếu tố này đơn giản là tổ hợp của các hạt điện.
Nếu ba hạt có đó, chúng tạo ra một yếu tố; nếu có hai hạt, một
yếu tố khác được tạo ra. Nếu có bốn hạt, một yếu tố khác được
tạo ra. Nhưng dù chúng là ba hay bốn hay hai, chúng tất cả đều là
các hạt điện.
Do đó khoa học đã có kinh nghiệm mới - rằng chỉ có một
yếu tố, và đó là điện. Tất cả một trăm linh tám cái gọi là yếu tố
đó, trong phân tích cuối cùng, là hợp chất. Chúng là các tổ hợp.
Chúng không phải là các yếu tố, chúng không phải là các chất cơ
sở.
Thế của khoa học hiện tại là ở chỗ nó được chuẩn bị để tin
rằng điện là không được tạo ra, rằng nó là tự khởi nguồn, và rằng
tất cả sự phát triển bao la này, sự mở rộng này, là sự mở rộng của
một yếu tố duy nhất - điện. Điện, khoa học nói, không phải là
chất được tạo ra bởi việc tổ hợp hai chất, nó là không được tạo ra.
Khoa học gọi chất đó là yếu tố, cái tự khởi nguồn. Cho nên bây
giờ khoa học gọi điện là yếu tố tự khởi nguồn. Nó không thể
được tạo ra, vì chỉ chất mà có thể được tạo ra bằng cách tổ hợp
mới có thể được chế tạo ra. Nếu bạn tổ hợp hai thứ, cái thứ ba sẽ
được tạo ra. Nếu bạn tổ hợp ba thứ, kết quả sẽ là làm ra cái thứ
tư. Nhưng làm sao bạn có thể tạo ra phân tử nguyên thuỷ mà
không có bất kì tổ hợp nào? Bạn không thể làm ra nó không thể
phá huỷ nó. Nếu chúng ta muốn phá huỷ nước, chúng ta có thể
làm như vậy bằng việc phân li hidro và oxi, vì nước được tạo nên
bằng việc tổ hợp. Nếu chúng ta muốn phá huỷ hidro, chúng ta có
thể làm như vậy. Nếu chúng ta phân li các hạt điện của nó - cái
chúng ta gọi là năng lượng nguyên tử - thế thì hidro sẽ không còn
có nữa. Chỉ năng lượng điện là sẽ còn lại. Nhưng chúng ta không
thể phá huỷ được năng lượng đó bởi vì không có việc tổ hợp của
hai chất mà chúng ta có thể phân li. Chúng ta có thể đơn giản làm
chừng này thôi - chúng ta hoặc có thể tổ hợp hoặc phân lí các vật.
Chúng ta không thể tạo ra. Cái mà không được tạo ra là yếu tố.
Hiện tại khoa học gọi điện, năng lượng điện, là yếu tố tự
khởi nguồn. Nhưng tôn giáo gọi atman là yếu tố tự khởi nguồn.

Điều đó sẽ trở thành có thể, nếu không phải bây giờ thế thì trong
tương lai, vì việc khảo cứu khoa học để phá vỡ, phân li cả điện
nữa; và thế thì chúng ta sẽ có khả năng thấy rằng ngay cả điện
cũng không tự khởi nguồn. Nhiều năm trước chúng ta đã biết
nước như một yếu tố; thế rồi chúng ta đã có thể phân tích nó và
thấy rằng oxi và hidro là những yếu tố, nước thì không. Thế rồi
chúng ta phân tích hidro và có thể thấy rằng nó cũng không phải
là yếu tố; điện là yếu tố.
Có hai khả năng: hoặc có thể thiết lập rằng điện và atman là
một và như nhau, hoặc có thể là điện cũng sẽ bị chia nhỏ ra và
chúng ta sẽ phát hiện ra là nó cũng không phải là yếu tố. Như chỗ
tôi hiểu, điện cũng có thể bị chia nhỏ ra, và khi nó bị chia ra
chúng ta sẽ thấy rằng chỉ tâm thức là còn .
Bây giờ, điều đáng quan tâm để xem xét rằng không ai coi
đá là năng lượng. Nó là chất - vật chất. Phân biệt cũ của chúng ta
phân chia mọi vật thành vật chất và năng lượng. Đá là vật chất.
Nhưng khi đem đá ra phân tích, và trong phân tích cuối cùng
nguyên tử được tìm thấy, thế thì vật chất đã mất đi và năng lượng
còn lại; và khoa học phải bỏ khái niệm cũ của nó về nhị nguyên -
nhị nguyên của vật chất và năng lượng. Vật chất mà cứ được
phân tích, phân tích thêm mãi người ta thấy rằng nó không tồn
tại; chỉ còn có năng lượng. Vật chất là năng lượng. Bây giờ
không có chất nào như vật chất cả; vị trí nhất của khoa học là ở
chỗ không có cái gì giống vật chất. Bây giờ các nhà duy vật phải
rất cẩn thận khi nói bất kì cái gì hỗ trợ cho vật chất vì không có
cái gì giống như vật chất tồn tại cả; chỉ có năng lượng.
Chừng nào chúng ta còn chưa đi tới việc phân tích cuối cùng
về vật chất, hai chất liệu đã được các nhà khoa học chấp nhận -
vật chất và năng lượng. Bạn dứt khoát sẽ thấy phân biệt này nếu
bạn cầm một hòn đá trong một tay và chạm vào dây điện bằng
tay kia. Bạn sẽ biết rằng hòn đá là hòn đá còn cái chạy qua dây là
năng lượng. Có khác biệt rất lớn giữa hai thứ này. Nhưng bây giờ
khoa học nói nếu bạn cứ phá vỡ và phân tích hòn đá, bạn sẽ chấm
dứt với năng lượng mà có thể chạy qua dây điện. Bằng cách đập
vỡ thêm nó, chúng ta đã giết một trăm nghìn người ở Hiroshima.
Đó là cơn sốc điện! Bằng cách đập vỡ vật chất, bằng sự bùng nổ
của một nguyên tử nhỏ, nhiều năng lượng đã được tạo ra đến
mức chúng ta có thể giết một trăm nghìn người ở Hiroshima và
một trăm hai mươi nghìn người ở Nagasaki. Nhiều người sẽ
không chết bởi việc chạm vào ngay cả dòng điện mạnh nhất.
Một nguyên tử nhỏ tạo ra một khối lượng điện cực kì lớn, và
bằng việc biến đổi nó thành điện, nguyên tử bị phá huỷ - nó
không còn nữa. Cho nên khoa học bây giờ nói rằng khái niệm cũ
về nhị nguyên - vật chất và năng lượng - đã mất rồi. Bây giờ chỉ
còn lại năng lượng. Nhưng tôi bảo bạn, vẫn còn một phân biệt
nữa, và đó là sự phân biệt giữa năng lượng và tâm thức.
Khi chúng ta chạm vào điện chúng ta biết nó là năng lượng,
nhưng khi chúng ta nói với một người, chúng ta không cảm thấy
rằng người đó đơn giản là năng lượng, chúng ta cảm thấy cả tâm
thức của người đó nữa. Nếu dòng điện bật lên, máy ghi âm ở đây
sẽ làm việc, nó sẽ nói. Nhưng nó sẽ chỉ lặp lại điều tôi đang nói.
Cho nên khi nó nói, đấy chỉ là năng lượng. Nhưng khi tôi nói đấy
không chỉ là năng lượng; cũng có cả tâm thức nữa. Máy ghi băng
không thể tạo ra bất kì thay đổi nào, nó sẽ báo cáo điều tôi đã
nói; nhưng ngay cả nếu tôi muốn, ngày mai tôi cũng không thể
lặp lại được điều tôi đang nói hôm nay, bởi vì tôi không phải là
cái máy. Bản thân tôi không biết câu nào sẽ tiếp sau câu này. Khi
bạn nghe tôi, tôi cũng đang nghe nó.
Phân biệt giữa tâm thức và năng lượng vẫn tồn tại. Phải nói
rằng thế giới cũ không phải là nhị nguyên, nó là thế giới tam
nguyên của vật chất, năng lượng và tâm thức. Từ ba thứ này, vật
chất bị loại bỏ ra. Bây giờ có hai - năng lượng và tâm thức.

Những nghiên cứu sâu vào vật chất đã chứng tỏ nó không tồn tại;
nó đã biến mất bởi vì chúng ta biết rằng nó là năng lượng. Và tôi
bảo bạn năng lượng cũng sẽ biến mất trong những nghiên cứu
thêm nữa và sâu nữa, và chúng ta sẽ thấy rằng chỉ còn mỗi tâm
thức. Tâm thức đó là atman. Thế thì sẽ không có vật chất, và
không có năng lượng; mọi thứ sẽ biến mất và chỉ tâm thức sẽ còn
lại.
Đó là lí do tại sao chúng ta đã gọi tên yếu tố tối cao đó là
satchitanand. Để chuyển tải ý nghĩa đúng của từ ‘atman’, người
ta phải dùng ba từ. Từ sat nghĩa là sự tồn tại - cái đang đấy, cái
bao giờ cũng đang tồn tại, cái chưa bao giờ không tồn tại. Sat có
nghĩa là cái bao giờ cũng có đấy. Nó không bao giờ trong trạng
thái mà bạn có thể nói về nó là ‘Nó đấy’. Mọi thứ đều thay đổi và
cứ thay đổi; vậy mà nó có đấy, không thay đổi.
Từ chit nghĩa là tâm thức. Không phải là nó đơn giản tồn tại,
nhưng nó biết rằng ‘tôi đây’. Nó biết sự hiện diện của nó. Một
thứ có thể tồn tại; chẳng hạn, một hòn đá đang nằm trên đất,
nhưng nó đơn thuần tồn tại. Nếu hòn đá đó biết rằng nó tồn tại,
thế thì và chỉ thế thì nó cũng là tâm thức nữa.
Từ thứ ba là anand - phúc lạc. Nó là atman vẫn chưa đủ, nó
là tâm thức vẫn chưa đủ, nó tồn tại và nó nhận biết về sự tồn tại
vẫn chưa đủ. Cũng như nó là nhận biết về sự tồn tại của mình, nó
cũng biết rằng ‘tôi là anand’ - cực lạc cao nhất!
Atman được nói trong lời kinh này là tự khởi nguồn bởi vì
nó không được tạo ra không bị phá huỷ bởi bất kì ai. Nhớ lấy, vì
nó là tự khởi nguồn nên nó là không thể phá huỷ nổi; nó là bất tử.
Cái có thể được làm ra sẽ chết; cái có thể được chế tạo ra sẽ bị
phá huỷ. Không sản xuất nào có thể kéo dài mãi, không cấu trúc
nào có thể mang bản tính thường hằng. Mọi vật được xây dựng
đều được tạo ra vào một thời điểm thích hợp và biến mất vào thời
điểm định mệnh của nó. Thực ra, cái được sinh ra sẽ chết đi. Dù
nó có thể được làm mạnh mẽ đến đâu, nó chắc chắn chết mặc dầu
nó có thể kéo dài hơn chút ít. Các lâu đài, dù được làm bằng giấy
hay đá granit, chắc chắn sẽ sụp đổ. Hàng triệu cơn gió tàn phá
cuối cùng sẽ xô đổ các bức tường đá của lâu đài. Nếu chúng được
làm bằng thép thì chúng sẽ đứng lâu hơn chút ít, nhưng cuối cùng
chúng chắc chắn sẽ sụp đổ. Lâu đài bằng bìa sẽ sụp đổ dù chỉ một
ngọn gió nhỏ thoảng qua. Khác biệt nhau ở mức độ mà thôi.
Khác biệt giữa việc sụp đổ của ngôi nhà làm bằng bìa và
ngôi nhà làm bằng đá chỉ đơn giản là vấn đề khác biệt về tốc độ
gió. Không có khác biệt cơ bản trong ngôi nhà; lâu đài bằng bìa
là một thứ được xây dựng ra, cho nên nó phải sụp đổ, và lâu đài
bằng đá cũng là một thứ được xây dựng ra, cho nên nó nữa cũng
phải sụp đổ. Nơi mà có việc tạo ra ở đầu này, chắc chắn sẽ có
việc phá huỷ ở đầu kia. Vì nó là tự khởi nguồn, atman là không
thể bị phá huỷ. Vì nó chưa bao giờ được làm ra tại đầu này, nên
nó sẽ không bao giờ bị phá huỷ tại đầu khia.
Cái tự khởi nguồn có hai đặc trưng: nó không được tạo ra và
nó không thể bị phá huỷ. Để tôi nói nữa cho bạn là khoa học hỗ
trợ cho quan điểm này, rằng bất kì cái gì được làm ra bởi việc tổ
hợp của hai thứ đều sẽ chết; trong khi yếu tố được tạo nên từ một
thứ không thể bị phá huỷ, không thể chết. Không có cách nào cho
nó hoặc bị phá huỷ hoặc được tạo ra. Để tạo ra cái gì đó những
cái khác phải được tổ hợp lại, và để phá huỷ một thứ, những thứ
khác phải bị tách ra. Làm tức là nối lại, và phá huỷ là tách ra.
Nhưng yếu tố mà riêng lẻ, không có yếu tố nào khác trong nó,
không thể bị phá huỷ. Làm sao nó có thể bị phá huỷ được? Nó
không thể bị đập vỡ. Nếu như nó được làm bằng hai thứ nó có
thể bị đập vỡ. Nhưng nó là riêng một thứ, nó bao giờ cũng thế.
Yếu tố có nguồn gốc trong bản thân nó là không thể bị phá huỷ,
và yếu tố đó được Upanishad gọi là atman.

Một số trong các tính năng khác của nó, đặc trưng không
tránh khỏi của nó, cũng được mô tả. Người ta nói rằng atman tự
tạo là biết tất cả. Biết tất cả nghĩa là gì? Nó có thể có hai nghĩa,
và nghĩa sai trong hai nghĩa này là mốt. Việc thường xảy ra là cái
theo mốt là sai. Tri thức đúng là sâu sắc và bí ẩn đến mức nó
không bao giờ có thể là mốt. Một vấn đề mà không có chiều sâu
cho lắm thì ai cũng có thể hiểu được và rất có thể là đúng mốt.
Một nghĩa nữa của từ biết tất là có tri thức về mọi thứ; đây là
ý nghĩa đúng mốt. Chẳng hạn, người Jaina gọi Mahavira là biết
tất, bởi vì khi một người biết atman, người ấy trở thành toàn
năng, thấy tất cả; như thế là bản tính của atman. Bản thân
Mahavira đã nói rằng người biết đến cái một, biết tất cả. Theo
nghĩa này nói Mahavira biết tất cả là đúng. Thế thì điều thường
xảy ra là ở chỗ những tín đồ diễn giải điều này nghĩa là Mahavira
biết cách chữa châm kim xe đạp! Nhưng Mahavira đã không biết
đến xe đạp là gì. Hay như là Mahavira phải biết cách máy bay
được xây dựng ra... Nếu thuật ngữ biết tất được hiểu theo cách
này, nó sẽ làm phát sinh ra ảo tưởng lớn và khó khăn; và người
Jaina cũng đã trong khó khăn lớn khi bọ bắt đầu coi Mahavira là
biết tất theo nghĩa này.
Phật thường chế nhạo niềm tin này của người Jaina. Điều
ông ấy thực sự cười là cái ngớ ngẩn của tín đồ Mahavira khi diễn
giải chứng ngộ của ông ấy theo cách này, vì họ thực tại bắt đầu
nói rằng Mahavira biết mọi thứ. Cho nên Phật nhiều lần đã đùa,
“Tôi có nghe ai đó nói rằng một cá nhân nào đó là biết tất thảy,
nhưng tôi thấy rằng cá nhân đó đi ăn xin trước một ngôi nhà
không có ai cả. Sau đó người ấy nhận ra rằng ngôi nhà không
người ở. Tôi đã thấy người ấy bước đi trong ánh sáng nhập
nhoạng buổi sớm; liệu người ấy có biết con chó đang nằm trên
đường đi của mình không khi người ấy dẫm vào đuôi của nó?”
Vậy Phật cười vào cách diễn giải ngu xuẩn cho thuật ngữ
biết tất đó. Ông ấy sẽ nói, “Tôi đã nghe nói về cá nhân biết tất
này đang đứng ở ngoại ô một thành phố mà hỏi mọi người về con
đường tới thành phố đó.” Nhưng chuyện cười này không nhắm
vào Mahavira. Mahavira chưa bao giờ đưa ra những lời như vậy.
Những người nêu ra lời đó là các tín đồ của ông ấy. Họ nói,
“Mahavira là người biết tất; ông ấy biết con đường nào dẫn tới
lâu đài nào.”
Biết tất còn có một nghĩa khác - nghĩa phủ định. Nghĩa
khẳng định này của “ông ấy biết tất” là không đúng. Nghĩa phủ
định là ở chỗ bây giờ không cái gì còn lại để mà biết; không cái
gì còn lại đáng để biết nữa. Có đáng biết con đường đặc biệt dẫn
tới đâu, hay liệu có ai trong ngôi nhà? Thành vấn đề gì nếu
những điều như thế không được biết? Liệu có đáng biết một con
chó đang ngủ hay không ngủ trên đường không? Có hại gì nếu
không biết điều ấy?
Như tôi thấy điều ấy, từ biết tất nghĩa là sau khi biết atman,
không cái gì bị bỏ lại không được biết mà đáng biết. Tất cả
những cái đáng biết đều được biết. Trong thế giới buồn tẻ này
nhiều thứ dường như đáng để biết, nhưng có khác biệt gì để nà
biết chúng? Cho nên với tôi nghĩa của nó là ở chỗ không cái gì bị
bỏ lại mà đáng biết. Không một điều nhỏ nhặt nhất bị bỏ đi khỏi
việc biết của chúng ta, cái có thể đem lại ngay cả sự giảm thiểu tí
hon nhất trong cực lạc của cuộc đời chúng ta. Không cái gì bị bỏ
mà việc thiếu nó có thể gây ra cản trở cho việc trở thành
satchitanand của chúng ta.
Nếu một con đường đặc biệt đi về bên trái nó sẽ dẫn người ta
tới một chỗ nào đó và nếu nó đi về bên phải nó sẽ dẫn người ta
tới một chỗ khác, nhưng điều này không tạo ra khác biệt gì về
phẩm chất của satchitanand. Nếu Mahavira lỡ con đường mình và
đến sai địa chỉ điều đó sẽ không tạo ra khác biệt gì với ông ấy cả,

vì có khác biệt nào cho một người đã đạt tới mục đích của mình,
người đã đạt tới đích đến cuối cùng, khi có lỡ đường trong lúc
lang thang ở thế giới này? Có gì khác biệt cho một người đã đạt
tới đích đến của mình, còn vẩn vơ đây đó? Cái gì có tác động tới
chúng ta khi chúng ta còn chưa đạt tới đích tìm ra đúng thôn
làng? Và có gì khác biệt với chúng ta nếu chúng ta biết mọi con
đường chính xác dường như chúng ta có bản đồ địa lí?
Bởi việc các tín đồ diễn giải sai cho từ biết tất mà Mahavira
đã trở thành chủ đề không cần thiết cho hàng đống chuyện lố
bịch, bởi vì những lời tuyên bố họ đưa ra là ngu xuẩn; và bây giờ,
lần nữa, những người nêu ra điều đó rất phân vân. Chẳng hạn,
gần đây họ thấy khó khăn khi các phi hành gia đặt chân lên mặt
trăng lần đầu tiên, bởi vì mô tả về mặt trăng của các phi hành gia
không tương ứng với mặt trăng như nó đã từng được mô tả trong
kinh sách của họ: và trong kinh sách của họ nói rằng những sự
kiện đã được ‘người biết tất’ tuyên bố là không thể sai được. Cho
nên những người sùng kính Jaina đã đi tới mức độ nói rằng
nhưng người du hành không gian đã bị ảo tưởng là họ đã đặt
chân lên mặt trăng. Họ đã không đặt chân lên mặt trăng, nhưng
đã du hành tới phía xa của mặt trăng nơi các xe cộ - chiếc xe
ngựa của các thần - vẫn còn đang chờ đợi. Tại đó họ đã bước
xuống và từ đó họ đã trở về! Họ chắc chắn đã không đặt chân lên
mặt trăng.
Một tín đồ Jaina thậm chí bắt đầu lập ra một quĩ, và quản lí
việc thu thập hàng trăm nghìn đồng ru pi từ những người ngu,
đơn giản để chứng minh trong phòng thí nghiệm rằng các phi
hành gia vẫn chưa đặt chân lên mặt trăng, mà bước lên chiếc xe
của vị thần nào đó. “Và nếu họ mà đạt tới mặt trăng, họ sẽ thấy
mặt trăng như được mô tả trong kinh sách của chúng ta, bởi vì
bất kì cái gì được nói trong những kinh sách đó đều là nhân
chứng của một người biết tất.”
Việc dùng kinh sách của ai đó để níu bám lấy những luận cứ
ngu xuẩn như thế làm cho kinh sách thành vô giá trị. Khi được
nói đến trong kinh sách của bạn rằng mặt trăng là thế nọ thế kia,
và phát biểu này về sau được chứng tỏ là không đúng, nhớ rằng
phát biểu đó trong kinh sách là phát biểu của nhà khoa học của
ngày xưa ấy, không phải của người biết tới atman. Người biết tới
atman có mối bận tâm gì với việc mô tả loại đá nào có và không
có trên mặt trăng? Và nếu một phát biểu như thế do ông ta nêu ra,
nó không được thực hiện trong năng lực của ông ta như người
biết về atman.
Lập trường như thế tạo ra khó khăn lớn. Ta xem xét trường
hợp một nhà tư tưởng lớn như Einstein - một nhà toán học lớn.
Là nhà toán học lớn cũng không xác định ra mọi tính cách của cá
tính ông ta; còn có nhiều thứ khác trong cuộc đời ông. Ông ta
không phải là nhà toán học khi ông ấy chơi bài. Và ông ấy sẽ bận
tâm gì tới toán học khi ông ấy đang yêu một người đàn bà? Ông
ấy không đưa ra phát biểu toán học nào khi ông ấy nói với cô ấy
rằng không có người đàn bà nào khác đẹp hơn cô ấy. Nhưng
trong tương lai nếu ai đó nói rằng một nhà toán học lớn như
Einstein phải nói như thế chỉ sau khi đã đo và so sánh cái đẹp của
tất cả phụ nữ trên thế giới, lời tuyên bố đó chắc chắn là ngây thơ.
Không, những phát biểu như thế được đưa ra bởi bất kì ai và mọi
người trên thế gian này. Mọi đàn bà gặp một đàn ông nào đó,
người đó nói với cô ấy điều như vậy. Không cần phải là nhà toán
học để nói như vậy. Một phát biểu như vậy được đưa ra, không
phải với năng lực của nhà toán học, mà là của người đang yêu.
Cho nên từ biết tất có nghĩa là bây giờ không cái gì còn lại
đáng để biết nữa, không cái gì làm tăng thêm cực lạc của người
này. Cực lạc của người đó là toàn diện. Và không cái gì còn lại
có thể cảm trở điều đó. Tất cả dốt nát của người đó, tất cả cái
điên rồ của người đó, đều bị phá huỷ. Giận dữ của người đó, gắn
bó của người đó, tham lam của người đó, tất cả đều đã mất đi,

đều đã bị phá huỷ. Người đó đang trong trạng thái cực lạc tối cao.
Biết tất có nghĩa là một người đang sống trong cực lạc tối cao.
Người đó biết rằng tri thức đúng đắn đưa người đó vào cực lạc và
loại bỏ đi mọi khả năng của bất hạnh.
Atman là biết tất theo nghĩa này, và không theo nghĩa người
biết của ba thời - quá khứ, hiện tại và tương lai. Người đó không
biết điều gì sẽ xảy ra ngày mai hay ngày kia. Người đó không
biết ai sẽ thắng cuộc bầu cử này hay sẽ thua; không có lí do hay
sự cần thiết nào để biết những việc như thế. Tất cả những biến cố
xảy ra bên trong giới hạn thời gian đối với người đó đều giống
như những đường vẽ trên nước. Người đó không đoái hoài tới
chúng, người đó không lo nghĩ về chúng. Ai thắng hay ai thua là
chất liệu mơ đối với người đó; những việc như thế thuộc về thế
giới trẻ con, người đó đã quá chín chắn với chúng rồi. Người đó
không bận tâm với những việc như vậy.
Trong việc biết tới yếu tố tối cao người đó trở thành biết tất -
tức là, dốt nát của người đó sụp đổ. Hám lợi, gắn bó và giận dữ
được tạo ra trong dốt nát sụp đổ. Thay thế vào chỗ chúng là cực
lạc tới, được sinh ra từ việc biết đúng. Ánh sáng của việc biết bắt
đầu chiếu sáng, và sống trong chói sáng của nó là sống trong cực
lạc tối cao - không dừng và vĩnh hằng.
Đặc trưng thứ ba của atman này là thuần khiết - bao giờ cũng
tinh khiết, bao giờ cũng trong sạch, và bao giờ cũng hồn nhiên.
Khi chúng ta trở thành không thuần khiết nó không trở thành
không thuần khiết. Toàn thể không thuần khiết của chúng ta là ảo
tưởng của chúng ta. Như tôi đã nói đêm qua, phản xạ của mặt trời
là thuần khiết trong vũng nước bẩn cũng như trong hồ pha lê.
Không có một khác biệt nhỏ nhặt nhất trong thuần khiết của nó.
Thuần khiết của nó không phải là đặc trưng ngẫu nhiên; nó là bản
chất, bẩm sinh. Cho nên vấn đề này sẽ dễ dàng được hiểu nếu bạn
hiểu khác biệt giữa điều ngẫu nhiên và điều bẩm sinh.
Đặc trưng ngẫu nhiên là ngoại lai; nó được gắn vào bạn
nhưng không tới từ bên trong bạn. Chẳng hạn, một người là
không trung thực; cái không trung thực của người đó là ngẫu
nhiên, không phải là cố hữu. Nó đã được thực hành, nó đã được
thu nhận. Đây là lí do tại sao không người nào có thể như vậy
mọi giờ một ngày, bởi vì cái được thu nhận là gánh nặng đôi khi
phải bị gạt sang bên. Đôi khi người này cần phải được nhẹ gánh
về nó. Nó không phải là bản tính của người đó, cho nên người đó
phải trung thực với ai đó trong giao thiệp của mình. Và đôi khi
điều xảy ra là người không trung thực là trung thực trong số họ
tới mức ngay cả người trung thực cũng không được như thế. Lí
do là ở chỗ điều chúng ta gọi là trung thực cũng là một thứ được
thu nhận mà từ đó đôi khi chúng ta phải tìm kiếm giảm nhẹ.
Bạn không thể sống liên miên với thứ được thu nhận, với cái
ngẫu nhiên. Nhiều lúc bạn sẽ phải nghỉ ngơi khỏi điều đó. Bạn sẽ
phải làm như vậy, bằng không căng thẳng sẽ tăng lên và gánh
nặng sẽ trở thành lớn. Do đó một người với tâm trí nghiêm chỉnh
phải tìm kiếm việc giải trí nào đó ở những lúc tạm ngưng, bằng
không cái nghiêm chỉnh của người đó sẽ trở thành gánh nặng cho
người đó. Mahavira và Phật không cần giải trí vì họ không mang
tải trọng nghiêm chỉnh nào. Nhớ lấy điều này trong đầu. Chúng
ta có khuynh hướng nghĩ điều này là bởi vì họ mang tâm trí
nghiêm chỉnh đến mức họ sẽ không đi xem phim hay xem kịch.
Nếu họ nghiêm chỉnh họ sẽ phải đi xem kịch. Không, họ chắc
chắn không mang tâm trí nghiêm chỉnh.
Điều này không có nghĩa là họ không nghiêm chỉnh. Nghiêm
chỉnh và không nghiêm chỉnh, cả hai đều giả. Mahavira, Phật là
bản thân họ; họ là cái ta bản chất của họ. Họ không thu nhận cái
gì từ bên ngoài, cho nên không cái gì từ đó mà họ cần phải nghỉ
ngơi. Nếu một người thực hành tính thánh thiện và làm nó thành
thói quen, thế thì người đó đôi khi sẽ phải có ngày nghỉ. Trong ba
hay bốn ngày mỗi tháng hay nửa tháng người đó sẽ phải có ngày

nghỉ. Và người đó sẽ không có khả năng duy trì vai trò thánh
thiện của mình trong ngày nếu người đó không đi vào thế giới
không thánh thiện trong một hay hai giờ trong thời gian đó. Điều
đó sẽ khó khăn cho người đó.
Các thuộc tính ngẫu hiên là những thuộc tính mà chúng ta
học, chúng ta thu nhận. Chúng tới với chúng ta từ bên ngoài,
chúng không tới từ bên trong. Chúng tất cả đều là những thứ do
chúng ta học hỏi. Chẳng hạn, ngôn ngữ là một thuộc tính ngẫu
nhiên, được thu nhận. Bất kì ai cũng đều có thể học tiếng Hindu
hay Marathi hay tiếng Anh hay tiếng Đức. Có hàng nghìn ngôn
ngữ và cũng có thể còn có nhiều nữa, không khó khăn gì. Mọi
ngôn ngữ chúng ta phát minh ra cũng đều là ngẫu nhiên.
Nhưng im lặng thì sao? Nó không phải là ngẫu nhiên. Cho
nên trong khi sẽ có khác biệt nếu hai người nói chuyện, nếu họ
tôn trọng im lặng hoàn toàn sẽ không có khác biệt gì trong cái im
lặng đó. Có thể có thảo luận trong lời nói: không thể có bất kì
thảo luận nào trong im lặng.
Sẽ không có phân biệt nào trong thuộc tính bên trong của hai
người khi họ đang trong im lặng hoàn toàn. Khác biệt gì sẽ có
đấy trong hai cái im lặng? Nhưng sẽ có khác biệt nếu im lặng
được áp từ bên ngoài, bởi vì lời nói sẽ tiếp tục bên trong. Sẽ có
khác biệt nếu hai người giữ im lặng chỉ để trưng bầy. Tôi đang
ngồi im lặng, bạn đang ngồi im lặng bên cạnh tôi. Tôi tiếp tục
suy nghĩ của tôi, bạn tiếp tục suy nghĩ của bạn. Cho nên mặc dầu
môi khép, hành động suy nghĩ vẫn tiếp tiễn, và sẽ có khác biệt
bao la giữa chúng ta trong hoàn cảnh như vậy. Chúng ta sẽ xa
nhau hàng nghìn dặm bên trong. Không ai có thể nói bạn sẽ ở đâu
và tôi sẽ ở đâu.
Nhưng nếu im lặng thực sự được đạt tới, không phải bị áp
đặt từ bên ngoài mà là nở hoa từ bên trong, mở ra từ bên trong,
thế thì và chỉ thế thì chúng ta thực sự trong im lặng hoàn toàn.
Thế thì khác biệt gì sẽ có đó giữa tôi và bạn, khi lời tan biến từ
bên trong, khi lời nói đã tan biến từ bên trong? Sẽ không có khác
biệt chút nào. Chúng ta sẽ đứng ở cùng chỗ. Chúng ta sẽ dường
như chúng ta là một. Dần dần, khi im lặng tiến triển, hai ngọn lửa
của chúng ta sẽ hoà trộn thành một ngọn lửa. Chúng không thể
còn là hai vật tách biệt được, bởi vì đường biên đánh dấu sự phân
biệt giữa hai vật đã biến mất. Phân biệt tạo ra biên giới; trong cái
im lặng của nó, biên giới biến mất.
Cho nên im lặng - im lặng ẩn trú, im lặng bên trong - là tự
nhiên, trong khi nói là ngẫu nhiên; và bất kì cái gì là ngẫu nhiên
đều không kéo dài lâu. Đây là lí do tại sao bạn không thể duy trì
được giận dữ trong hai mươi bốn giờ, mặc dầu bạn có thể sống
trong khoan hoà hai mươi bốn giờ. Nghĩ về điều này đi. Bạn
không thể sống trong giận dữ cả ngày được. Bạn sẽ giận dữ, rồi
sau một chốc bạn sẽ không giận nữa. Sẽ có một loại đến và đi của
giận dữ. Nhưng sẽ không có chướng ngại nào để sống trong
khoan hoà trong hai mươi bốn giờ. Bạn vẫn còn có thể khoan hoà
trong cả ngày. Tương tự, nếu bạn muốn sống trong căm ghét hai
mươi bốn giờ một ngày điều đó là điều không thể được; bạn sẽ
tạo ra địa ngục cho bản thân mình. Nhưng ngược lại nếu bạn
muốn sống vĩnh viễn trong tình yêu, điều ấy có thể.
Nhưng không thể vẫn còn trong cảm giác mà hiện thời chúng
ta gọi là tình yêu, bởi vì nó không phải là tình yêu thực, nó là một
thứ bề ngoài. Bạn có thể đầy tình yêu trong có thể là mười phút
trong hai mươi bốn giờ; phần thời gian còn lại điều đó là không
thể được. Và nếu ai đó làm nỗ lực để trong tình yêu trong một
thời kì dài, sẽ khó khăn cho người đó để yêu ngay cả trong mười
phút thôi. Tại sao? - bởi vì chúng ta chỉ có thể ở mãi với cái là
bản tính của chúng ta, và chúng ta không thể ở mãi với cái ngoại
lai đối với ta và cái được nhập khẩu từ bên ngoài. Cái đó sẽ phải
bị loại bỏ, tải trọng đó sẽ phải bị quẳng đi.

Atman là thuần khiết, không tì vết. Nó không bị làm hỏng,
nó không thỉnh thoảng trở nên không thuần khiết và thế thì cần
chúng ta uốn nắn nó, làm cho nó thuần khiết trở lại. Nếu atman
có thể không thuần khiết, chúng ta sẽ không có khả năng làm cho
nó thuần khiết được. Thế thì ai sẽ làm cho nó thuần khiết? Người
có thể làm cho nó thuần khiết thì bản thân người đó bây giờ là
không thuần khiết. Bất kì cái gì mà atman không thuần khiết làm
bây giờ đều sẽ không thuần khiết.
Không, đấy không phải vấn đề atman trở nên không thuần
khiết và chúng ta cần làm cho nó thuần khiết. Nó đã thuần khiết
rồi. Chỉ chúng ta tích luỹ cái không thuần khiết và không thánh
thiện ở đủ mọi phía quanh ta, cũng hệt như chúng ta treo tấm
màn đen tứ phía quanh ngọn đèn. Ánh sáng đèn không thay đổi
trong bóng tối vì màn đen. Đèn vẫn đang cháy trong sự toả sáng
của riêng nó, nhưng tấm màn đen bao quanh ngăn cản ánh sáng
của nó toả ra mọi hướng. Và nếu đèn điên khùng như chúng ta,
và quên mất rằng “Ta là ánh sáng,” nó sẽ đối diện với cùng
những khó khăn mà chúng ta đang trải qua.
Mối quan hệ của chúng ta với bản tính của cái ta hoàn toàn
bị phá vỡ và chúng ta bị đồng nhất với cái mạng nhện làm bằng
thân thể, tâm trí, suy nghĩ, cảm giác, đam mê và ham muốn của
chúng ta, bao quanh chúng ta tứ phía. Chúng ta bắt đầu nói, “Đây
là tôi!” Người ở bên trong chúng ta tự đồng nhất bản thân mình
với bất kì cái gì và bắt đầu nói, “Đây là tôi!” Và yếu tố đó ở bên
trong là thuần khiết, không tì vết và trong trẻo đến mức bất kì cái
gì được phản xạ trong nó đều được phản xạ đầy đặn; chúng ta
nắm giữ cái phản xạ đó và bắt đầu nói, “Đây là tôi!”
Sai lầm ấy giống như thế này. Giả sử tấm gương đang đứng
phía trước bạn trở nên có ý thức và nhìn vào trong bản thân nó và
thấy hình ảnh bạn đang đứng trước nó, và thế rồi nói, “Đây là
tôi!” Việc xảy ra không may như thế chỉ xuất hiện bởi vì sự thuần
khiết của tấm gương. Atman là thuần khiết và không tì vết, và
bởi vì sự thuần khiết trong như pha lê của nó, bất kì cái gì tiếp
cận tới nó đều được phản xạ trong nó như một tấm gương - bất kì
cái gì có thể có. Nếu thân thể tiến tới nó, thân thể sẽ được phản
xạ như trong tấm gương và atman nói, “Tôi là thân thể.”
Bạn không có ý tưởng nào về thay đổi liên tục trong thân thể
mình và về cách bạn đồng nhất bản thân mình với chúng. Nếu tế
bào đầu tiên được tạo ra trong bụng mẹ bạn được lấy ra và đặt
trước bạn rồi bạn được bảo là “Bạn đã có thời là cái này đây,”
bạn lập tức sẽ chối phắt và nói, “Làm sao cái này có thể là tôi
được? Điều ấy không thể được.” Nếu năm đến mười bức ảnh
được chụp hàng ngày về cuộc sống của bạn thì sẽ có một chuỗi
dài những tấm ảnh bạn. Mỗi tấm ảnh đều có thời đã từng được
bạn nói là bản thân mình. Nhưng thật khác biệt làm sao giữa tấm
ảnh thời trẻ thơ của bạn và tấm ảnh tuổi già của bạn! Khác biệt
bao la làm sao giữa đứa trẻ mới sinh và cái thân tàn sắp xuống
mồ. Trong tất cả những thay đổi này bạn có đấy. Bất kì cái gì
được phản xạ trong tấm gương của bạn, bạn đều nói, “Đây là
tôi.”
Bạn đã bao giờ thấy bất kì tương tự nào giữa tấm ảnh thời trẻ
thơ của mình và tấm ảnh người lớn của mình không? Có sự giống
nhau nào không? Bạn có phải là đứa trẻ đó không? Không, một
thời bạn đã làm chủ nhân nó, và lời tuyên bố đó đã ăn vào trong
kí ức bạn; và chỉ có lời tuyên bố đó là vẫn còn đến hôm nay -
rằng đây là bạn. Thân thể thay đổi hàng ngày.
Các nhà khoa học cho chúng ta biết rằng mọi tế bào trong
thân thể đều hoàn toàn bị thay đổi sau một thời kì bẩy năm;
không một tế bào cũ nào còn lại. Nhưng đồng nhất của chúng ta
tiếp tục. Đồng nhất tiếp diễn. Trong thời gian bẩy năm xương,
thịt, máu và mọi tế bào khác của chúng ta đều được thay đổi. Nếu

một người sống bẩy mươi năm thì thân thể đã thay đổi toàn bộ
mười lần. Toàn bộ thân thể đã trải qua thay đổi mười lần.
Thân thể thay đổi trong mọi khoảnh khắc, nhưng có một tấm
gương không tì vết ở bên trong. Bất kì phản xạ nào được thực
hiện trong nó, bất kì bức tranh nào được tạo nên trong nó đều bảo
cho chúng ta, “Đây là tôi.” Nếu đồng nhất này bị phá vỡ, nếu dốt
nát này bị loại bỏ, nếu chúng ta dừng việc nói, “Đây là tôi,” thế
thì chúng ta sẽ có khả năng nói, “Tôi là người biết tới tất cả
những thay đổi này, tôi là nhân chứng cho tất cả những điều này.
Tôi biết tuổi thơ của mình, và tôi không phải là cái đó; tôi biết
tuổi thanh niên của mình và nó không phải là tôi. Tôi sẽ biết tuổi
già của tôi nữa, nhưng nó sẽ không phải là tôi. Tôi đã biết việc
sinh; đây không phải là tôi. Tôi sẽ biết việc chết nữa, và tôi cũng
không phải là nó. Tôi là cái biết tới tất cả những pha khác nhau
này. Tôi là cái biết tới chuỗi dài này, đoạn phim dài này. Tôi là
người biết, tôi không phải là cái được biết tới. Tôi không phải là
cái được phản xạ. Tôi là cái trong đó việc phản xạ được tạo ra.”
Thế thì atman là tấm gương trong trẻo, thuần khiết và không tì
vết, cái ao không bẩn, nơi chưa từng có gợn sóng nào của không
thuần khiết.
Khi Upanishad nói nó là thuần khiết, họ nói về sự thuần
khiết toàn bộ. Không chút không thuần khiết nào đã bao giờ đi
vào trong atman. Cho nên Upanishad khẳng định, bằng việc phá
vỡ đồng nhất này chúng ta cũng trở nên thuần khiết. Thực ra
không ai đã bao giờ trở thành không thuần khiết; điều đó không
có thể có, điều đó là không thể được. Không thuần khiết là trong
đồng nhất. Việc đồng nhất làm cho người ta thành tội nhân hay
thánh nhân. Nhớ lấy, thánh nhân cũng không thuần khiết bởi vì
ông ta bị đồng nhất với tính chất thần thánh. Tội nhân mang
xiềng sắt, thánh nhân mang xiềng vàng. Nhưng điều đó tạo ra
khác biệt gì? Giá trị thị trường của sắt và vàng có thể là khác
nhau, nhưng đồng nhất, nô lệ vẫn tiếp tục.
Ai đó nói, “Tôi là tội nhân,” ai khác nói, “Tôi là người đức
hạnh.” Chừng nào mà chúng ta còn tiếp tục nói, “Đây là tôi,”
chúng ta đang làm cho bản thân mình thành không thuần khiết
một cách không cần thiết. Mặc dầu chúng ta về bản chất là thuần
khiết, chúng ta cứ chấp nhận cái không thuần khiết. Cái ngày mà
bạn có khả năng nói, “Tôi không là cái này, tôi không là cái nọ,”
bạn sẽ có khả năng nói, “Tôi là cái mà trong đó mọi thứ được
phản xạ. Tôi là tấm gương trong đó mọi hình bóng đến rồi đi. Tôi
là cái trống rỗng mà trong đó mọi thứ đều sáng long lanh và biến
mất.”
Không ai biết bao nhiêu lần sinh thành, bao nhiêu thân thể,
bao nhiêu hình dạng, bao nhiêu thuộc tính ngẫu nhiên, bao nhiêu
sự kính trọng, bao nhiêu địa vị và bao nhiêu biến thiên đã long
lanh trong nó. Những cuộc hành trình là vô tận nhưng cái hồ là
một; và nó bao giờ cũng sạch sẽ và không tì vết. Lữ khách cứ đi
trên bờ hồ và hồ thì cứ giả thiết, “Đây là tôi, đây là tôi.” Vào lúc
kẻ cắp đi qua trên con đường đó và hồ nói, “Tôi là kẻ cắp”; đôi
khi một thánh Hindu đi qua con đường đó và hồ nói, “Tôi là
thánh Hindu.” Đôi khi một vị thánh đi qua con đường đó và hồ
nói, “Tôi là thánh nhân,” và đôi khi một tội nhân đi qua con
đường đó và hồ nói, “Tôi là tội nhân.”
Vậy hồ cứ tuyên bố khi đoàn lữ hành của sự phản xạ diễu
qua con đường đó. Và họ đi qua nhanh đến độ ngay khi phản xạ
này vừa tan biến phản xạ khác lại xuất hiện trong nó. Chúng ta
thậm chí không tính đến khoảnh khắc đó - cái khoảng giữa hai
ccieeuf xảy ra - để cho chúng ta có thể nhìn vào hồ trong đó
không có phản xạ chút nào.
Thiền là việc thực hành với hội tụ vào khoảng giữa đó.
Trong khoảnh khắc đó khi không cái gì đang phản xạ, chúng ta
có thể thoáng nhìn vào bản thân hồ; chúng ta có thể biết, “Tôi là
hồ, tôi không phải là đoàn lữ hành đang đi trên bờ hồ. Tôi không

phải là những sự phản xạ đó cái hình thành trên tôi. Tôi là cái mà
trên đó mọi hình dạng được tạo ra, vậy mà bản thân nó không
được tạo ra. Tôi vẫn còn không được tạo ra, không được làm ra.”
Nhớ lấy trong đầu ba điều này. Tất cả những thứ khác được
hàm chứa trong Ishavasya Upanishad đều chỉ là những khía cạnh
khác biệt của ba điều này.

******************************************************************************************************

10 Dốt nát sẽ chỉ cho bạn con đường

**Những người đi theo
con đường của dốt nát
sẽ đi vào trong bóng tối;
và những người đã bị cuốn hút vào
trong hiểu biết
đi vào bóng tối còn lớn hơn.**

Lời kinh này đưa ra một tuyên bố sâu xa về chân lí - một
tuyên bố rất táo bạo. Lời công bố như thế chỉ có thể được đưa ra
bởi hiền nhân. Nó tuyên bố rằng những người bước đi trên con
đường của dốt nát sẽ lạc đường và lang thang đây đó trong thế
giới này; nhưng những người bước đi trên con đường của tri thức
- tức là, con đường của “tôi biết” - lạc lối trong bóng tối lớn hơn.
Khó mà tìm ra một phát biểu khác mạnh bạo như thế này trong
toàn bộ lịch sử loài người - tìm ra một sự song hành với một phát
biểu mà dám nói rằng người dốt nát dò dẫm trong bóng tối,
nhưng những người tuyên bố, “tôi biết,” còn dò dẫm trong bóng
tối lớn hơn. Bất kì ai nói điều này đều đã đạt tới nó qua suy nghĩ
rất sâu sắc.
Điều người dốt nát lang thang trong bóng tối chúng ta dễ
hiểu được, không có gì khó khăn trong nó. Lời phát biểu này là
trực tiếp và rõ ràng. Người dốt nát tự làm cho mình lạc đường.
Nhưng hiền nhân này nói họ làm mình lạc trong bóng tối - không
phải trong bóng tối sâu và lớn. Người dốt nát lang thang chỉ trong
bóng tối thôi. Thế thì tại sao cái gọi là người có học lang thang
trong bóng tối lớn hơn? Và đâu là phương thuốc để được tự do
khỏi bóng tối khi người dốt nát lang thang trong bóng tối còn cái
gọi là người có học lang thang trong bóng tối lớn hơn?
Người dốt nát chỉ lang thang trong bóng tối thôi, không sâu
lắm, vì dù là dốt nát có thể gây ra lang thang nhiều đến đâu, nó
cũng không thể rất sâu được. Điều dẫn tới bóng tối lớn hơn
không phải là dốt nát mà là bản ngã. Sai lầm có thể xuất hiện qua
dốt nát, nhưng dốt nát bao giờ cũng dọn đường cho việc sửa chữa
sai lầm, cho nên có ít khả năng bị lạc xa. Dốt nát bao giờ cũng có
thể gây ra sai lầm, nhưng nó bao giờ cũng sẵn sàng sửa chữa
chúng. Dốt nát có khiêm tốn của riêng nó. Đây là lí do tại sao trẻ
nhỏ có thể học nhanh chóng còn người già không học nhanh
được. Trẻ nhỏ là dốt nát và sẵn sàng trau cải tiến. Khi sai lầm

được chỉ ra cho chúng, chúng sẽ sửa chữa nó; nhưng khi người
già được chỉ cho sai lầm của mình, họ không bằng lòng và từ
chối sửa chúng. Ngược lại, họ trước hết sẽ cố gắng chứng minh
rằng đấy không phải là sai lầm chút nào. Khi trẻ nhỏ được chỉ
cho sai lầm, chúng sẵn sàng thừa nhận sai lầm và sẽ mau chóng
sửa sai lầm đó; do đó chúng học nhanh thế.
Người già không thể học trong nhiều năm điều mà trẻ nhỏ có
thể học trong vài ngày. Năng lực học tập của họ giảm đi. Nguyên
nhân là gì? Năng lực học tập của người già đáng phải tăng lên,
nhưng không, nó không phải như vậy. Người già thường trong ảo
tưởng rằng họ biết. Trẻ nhỏ chỉ trong bóng tối, người già đã rơi
vào trong bóng tối sâu hơn và rộng hơn. Ảo tưởng được thiết lập
trong ông ta rằng ông ta biết điều gì đó. Trẻ nhỏ biết là nó không
biết gì, cho nên nó sẵn lòng học hỏi. Nó hạnh phúc để học bất kì
cái gì bạn dạy cho nó. Do vậy trẻ nhỏ có thể lang thang trong
bóng tối, trong khi người già lang thang trong bóng tối lớn hơn.
Người dốt nát, nếu người đó trở nên ý thức về dốt nát của
mình, trở nên rất khiêm nhường. Nếu chúng ta nhớ tới dốt nát
của mình, nếu chúng ta có thể nhớ, “Tôi không biết, tôi dốt nát,”
thế thì không có nền tảng nào cho bản ngã có thể trụ được. Bản
ngã có thể xây dựng cấu trúc của nó ở đâu khi nó không có nền
tảng? Điều đáng quan tâm là thấy rằng nếu người dốt nát trở nên
có ý thức về cái dốt nát của mình, thế thì lang thang của người đó
mất đà, người đó tự tìm cho mình tĩnh lặng, và sai lầm của người
đó sẽ thôi xảy ra; người đó bắt đầu đi trên đường đúng. Còn
người có học, người chắc chắn trong niềm tin rằng người đó là
người có học đã bắt đầu cuộc hành trình của mình trong bóng tối
lớn hơn. Khi người dốt nát trở nên có ý thức về sự kiện là “Tôi là
người dốt nát,” thế thì cuộc hành trình của người đó hướng tới trí
huệ bắt đầu. Ý thức về cái dốt nát của người ta dẫn tới khiêm tốn,
trong khi ảo tưởng về tri thức, lời tuyên bố về tri thức, dẫn người
ta tới bản ngã - và cái cản trở thực là bản ngã.
Dốt nát không phải là bóng tối sâu lắm, nó tựa như chiều tối.
Bây giờ không có mặt trời nữa, bây giờ không có ánh sáng của
hiểu biết, nhưng đồng thời không có đêm tối của bản ngã. Đấy
chỉ là chiều tối. Dốt nát đứng ở ngưỡng mà từ đó nó cũng có thể
đi ra ánh sáng. Nhưng khi khoác lác của người có học trở nên
ngày một mạnh hơn và khái niệm của ông ta, “tôi biết, tôi biết,
tôi biết,” trở thành ngày một vững chắc hơn, đêm của ông ta trở
nên tối hơn, chiều tối của ông ta biến mất, và ông ta chìm sâu vào
trong bóng tối. Và khi khoác lác của ông ta phát triển mạnh thêm,
đêm của ông ta sẽ trở thành tối như đêm không trăng.
Bản ngã đưa con người vào trong bóng tối lớn, và điều
ngược đời đáng quan tâm nổi lên trong thế giới con người; người
trí huệ thấy bản thân họ là người dốt nát - không biết - còn người
dốt nát khẳng định tuyên bố của họ, “Chúng tôi biết!” Thế thì
chúng ta phải đi đâu để tìm tri thức đúng đắn? Chúng ta phải làm
gì? Đâu là con đường?
Hai điều cần được nhớ. Chúng ta bao giờ cũng cần tiếp tục
nâng cao nhận thức về cái dốt nát của mình. Nhớ tới dốt nát là
phá huỷ dốt nát. Trở nên nhận biết về dốt nát của chúng ta là làm
tan biến dốt nát của chúng ta. Cái nhận biết “tôi là người dốt nát”
cũng giống như một người đã thắp lên ngọn đèn và đã đem nó
vào trong phòng để tìm bóng tối ở đó. Người đó đã nói, “Để tôi
thắp lên ngọn đèn sao cho tôi có thể thấy bóng tối ở đâu,” và
người đó bắt đầu tìm kiếm nó với ngọn đèn thắp sáng trong tay.
Tất nhiên, bất kì chỗ nào người đó nhìn đều không tìm thấy bóng
tối . Khi có nhận biết bên trong để biết dốt nát ở đâu, có ham
muốn đi tới nơi dốt nát đang ở và ham muốn biết nó, thế thì việc
biết, việc hiểu, có thể xảy ra. Bất kì nơi đâu bạn tới với cây đèn
của nhận biết này, dốt nát sẽ tan biến từ đó.
Cho nên điều đầu tiên là việc nhớ tới cái dốt nát - rằng “tôi là
người dốt nát.” Nếu bạn muốn đi vào thế giới của ánh sáng, của

trí huệ, của tri thức đúng đắn, bạn phải hoàn toàn nhận biết về cái
dốt nát của mình và vẫn còn thường xuyên trong việc tìm kiếm
cái dốt nát của bạn nằm ở đâu. Bất kì chỗ nào bạn tìm thấy nó,
thừa nhận nó ngay lập tức, đừng chần chừ dù chỉ một khoảnh
khắc. Và cúi mình dưới chân của bất kì người nào chỉ cho bạn cái
dốt nát của bạn - người đó là thầy giáo của bạn, là thầy của bạn.
Và đừng cố gắng chứng minh rằng cái dốt nát của bạn là tri thức,
vì tâm trí bạn sẽ thúc giục bạn làm. Bản ngã bạn sẽ nói, “Đừng
tin nó.” Bản ngã bạn sẽ tán tỉnh bạn nói, “Anh nói gì vậy? Tôi mà
là người dốt sao? Không thể được!” Đây là cách thức tất cả
chúng ta nhớ mãi cái dốt nát của mình. Tất cả chúng ta đều khăng
khăng bảo vệ ý kiến và thái độ riêng của mình.
Những người không biết gì chút nào đều đưa ra những tuyên
bố lớn lao rằng họ là đúng. Những người không biết gì ngay cả
đến một tảng đá nằm bên vệ đường, vẫn cứ nói về Thượng đế và
khẳng định rằng Thượng đế của họ là Thượng đế thực duy nhất.
Không có điểm cuối cho luận điệu của những người không biết
chút nào. Dốt nát là kẻ ủng hộ lớn cho luận điệu của nó và nó cứ
thế mà rêu rao. Tránh cho bản thân bạn khỏi những luận điệu như
thế đi. Nếu bạn muốn đưa ra bất kì lời công bố nào, thế thì chỉ
làm công bố về việc là người dốt nát. Nói một cách mạnh dạn,
“Tôi không biết.” Bất kì cái gì ngẫu nhiên phát sinh, bất kì thay
đổi nào bạn gặp, và bất kì hoàn cảnh nào bạn gặp phải tại nơi mà
cái dốt nát của bạn lộ ra, dừng lại, và biết rằng, “Mình là người
dốt nát.” Thừa nhận làm thầy của bạn bất kì ai chỉ ra cho bạn về
cái dốt nát của bạn, người đã kéo chú ý của bạn vào cái dốt nát
của bạn.
Nhưng thực ra chúng ta tạo ra ông thầy từ người nâng đỡ cho
bản ngã ta. Chúng ta tới ông ta, nhặt lấy một vài mẩu trí huệ lạc
lõng, và trở về nhà với đầy những cái rỗng tuếch và đạo đức giả -
và thế rồi nói rằng chúng ta cũng biết. Cái người thổi phồng lời
khoe khoang tri thức của chúng ta, chúng ta gọi là thầy của chúng
ta. Nhưng guru thực sự, thầy thực, là người mà trong tiếp xúc với
người đó chúng ta nhận ra rằng không có ai là người dốt nát như
chúng ta. Thầy thực sự là người tước đi tri thức của chúng ta,
người phá huỷ lời khoe khoang của chúng ta về tri thức, người
chà nát cấu trúc bản ngã của chúng ta dưới đất, người ném chúng
ta xuống đất và nói, “Bạn không là cái gì cả, bạn không ở đâu cả,
bạn không biết gì cả!” Người như thế là thầy; không phải là
người mà chúng ta thu lấy tri thức, mà là người qua đó chúng ta
được nhắc nhở về cái dốt nát của mình.
Nhớ lấy rằng việc nhớ tới cái dốt nát sẽ dẫn người ta tới việc
hiểu biết còn việc tích luỹ tri thức dẫn người ta vào trong bóng
tối lớn hơn. Cho nên điều đầu tiên là tỉnh táo về mặt tinh thần với
cái dốt nát, hoàn toàn có ý thức, biết cái dốt nát và nhìn vào trong
nó. Biết bản thân bạn như một người dốt nát sâu sắc.
Điều nữa cần phải nhớ là ở chỗ bất kì khi nào bạn nghĩ, “tôi
biết,” dừng lại một chốc, và xem xét lại ý nghĩ của bạn; tự hỏi
mình, “Mình có biết thật không?” Thế sẽ đủ nếu bạn xem xét lại
một lần. Trung thực trong nỗ lực của bạn. Nhận biết và đầy đủ và
xem xét lại ý nghĩ của bạn trước khi nói, “Tôi biết.” Tỉnh táo về
mặt tinh thần để khám phá ra cái dốt nát của bạn, cũng như với tri
thức; và khi bạn bắt đầu kiểm tra bản thân mình, bạn sẽ biết rằng
bạn biết lời, bạn biết các nguyên lí, bạn biết kinh sách, nhưng bạn
không có ý tưởng chút nào về chân lí. Những người được gọi là
bác học, người có tâm trí chất đầy với kinh sách và lời nói, người
đã bị nặng gánh với lời và người đã nêu ra công bố giả về tri
thức, đã trở thành nhân vật trò cười cho hiền nhân, người nói
những người như vậy dò dẫm trong bóng tối lớn lao.
Tôi đã từng nghe: một linh mục Ki tô giáo thường tiến hành
buổi giảng đạo tối trong nhà thờ vào mọi chủ nhật. Ông ấy nổi
tiếng là người có học. Một hôm, ông ấy bỏ quên mất kính ở nhà.
Một nửa tri thức của ông ấy bị lâm nguy vì bài thuyết pháp đã

được viết ra và bây giờ ông ấy không thể đọc được nó. Nhưng
ông ấy nghĩ thật là không phải phép mà nói với giáo đoàn rằng
ông ấy đã quên mất kính - họ đang háo hức nghe ông ấy giảng -
cho nên ông ấy quyết định cứ giảng đạo mà không cần kính, và
bắt đầu nói, nhìn thoáng qua bài viết. Làm việc như ông ấy đã
làm từ trí nhớ, sai lầm nhất định xuất hiện, vì ông ấy đã bỏ sự trợ
giúp cho trí nhớ của mình đằng sau rồi. Không điều gì ông nói là
việc truyền đạt tri thức đúng đắn cả; người trí huệ có thể nói mà
không cần sự trợ giúp của mắt, không cần kính. Tất cả những
điều ông ấy nói đều đã được rút ra từ trí nhớ nhồi nhét của ông
ấy. Nhưng hôm nay phương tiện để nhìn vào trong trí nhớ của
ông ấy bị bỏ quên ở nhà mất rồi.
Nói một hồi về phép màu của Jesus ông đã phạm phải một
sai lầm. Jesus đang trong rừng với bốn nghìn đệ tử, và ông ấy chỉ
mang theo mình bẩy ổ bánh mì. Với những ổ bánh mì này, ông
ấy không chỉ cho tất cả mọi người ăn, mà bẩy ổ bánh mì này đã
không bị ăn. Có bốn nghìn tín đồ nhưng ông linh mục lỡ lời kể
chi tiết rằng có bẩy tín đồ và bốn nghìn ổ bánh mì, và rằng sau
khi Jesus đã cho tất cả ăn, bánh mì vẫn cứ còn. Điều này, ông
nói, là một phép màu.
Vì thông thường sự kiện trong đền thờ hay nhà thờ là phần
lớn mọi người đều ngủ gà ngủ gật và không chú ý gì tới sai sót
cả; chỉ những người thức mới nghe điều đó. Mà ngay cả thế, sau
đã bỏ những khả năng lập luận ở nhà, như những người đến nhà
thờ vẫn làm, họ đều không đáp ứng. Họ đơn thuần chỉ nghe lời
nói. Chỉ một người trở nên tỉnh táo và nghĩ, “Loại phép màu nào
mà lạ thế này nhỉ? - chỉ bẩy người mà những bốn nghìn ổ bánh
mì?” Ông ta đứng dậy và hỏi, “Thưa cha, đây mà là phép màu
sao? Bất kì ai cũng có thể làm được điều đó!”
Nghe thấy thế, ông linh mục phát rồ. Ông ấy không có ý
tưởng gì là mình đã phạm sai lầm, cho nên ông ấy giận dữ và
điên tiết. Ông ấy hỏi, “Anh ngụ ý gì vậy, ai cũng làm được điều
ấy sao? Anh đang báng bổ Jesus đấy.”
Người này đáp, “Sao vậy, bản thân tôi cũng có thể làm được
điều đó!”
Linh mục phân vân và hỏi giáo đoàn về điều mình vừa nói.
Ai đó đáp , “Cha đã phạm sai lầm. Cha nói ngược lại điều cha
ngụ ý; cha nói có bốn nghìn ổ bánh mì và bẩy tín đồ. Kì công này
bất kì ai cũng có thể làm được, không có phép màu gì trong đó .”
Ông linh mục rất bối rối bởi sự cố này. Ông ấy đã nổi tiếng
là người khôn ngoan, cho nên ông ấy bị rất xáo động và kiên
quyết đưa ra thách thức tại chỗ mình. Chủ nhật tiếp ông ấy tới
với sự chuẩn bị đầy đủ. Trong buổi giảng đạo ông ấy nêu vấn đề
về phép màu lần nữa. “Có lần Jesus đi vào rừng,” ông nói, “Xin
chú ý nghe! Ông ấy có bốn nghìn tín đồ và chỉ có bẩy ổ bánh mì
mang theo, và ông ấy cho mọi người ăn no nê. Tất cả đều được
ăn cho thật thoả mãn ấy thế mà bánh mì vẫn không hết.” Thế rồi
ông nhìn vào người đã đẩy ông vào thế khó khăn chủ nhật trước,
và hỏi ông ta, “Anh bạn thân mến, bây giờ anh có thể thực hiện
được phép màu như thế không?”
Người này đứng dậy và đáp , “Có, tôi có thể làm được.”
Ông mục sư rất bồn chồn và hỏi, “Anh làm việc ấy thế nào?”
Người này đáp, “Tôi có thể làm điều đó với cái kho còn lại
từ lần trước ấy!”
Xê dịch lời nói đây đó, chơi chữ, ghi nhớ lời nói - mọi kinh
sách đều là trò đùa lớn. Không có mấy nghĩa trong những thứ
như thế. Thật là hết sức dại dột mà cố đi sửa chữa cho người
khác, và điều cực kì hão huyền là cố gắng không bao giờ thừa
nhận sai lầm của chúng ta. Ông linh mục tội nghiệp kia thậm chí

không thể nói được, “Có sai sót trong phát biểu của tôi.” Đấy là
chuyện vặt, và ông ấy có thể đơn giản xin tha lỗi. Nhưng bản ngã
của chúng ta không bao giờ cho phép chúng ta thừa nhận sai lầm
của mình, mặc dầu chúng ta nôn nóng và hài lòng làm cho người
khác thừa nhận sai lầm của họ.
Cho nên một điểm khác cần phải nhớ là thế này: xem xét lại
liệu bạn có biết chút nào hay không. Tự hỏi bản thân mình xem
liệu bạn có thực biết hay không, hay liệu tất cả những điều này
chỉ là rừng lời, kinh sách, nguyên tắc và kí ức. Tự hỏi bản thân
bạn: “Mình có biết cái gì không? Mình đã sống với nó chưa?
Mình đã thực hành điều gì về nó chưa? Mình đã nếm trải nó từ
kinh nghiệm sống của mình chưa? Mình đã nhảy múa trong kinh
nghiệm tối cao đó về tính thượng đế chưa? Mình đã trải nghiệm
rung động đó chưa? Hay mình chỉ đơn thuần đốt dầu giữa đêm để
giao phó cho trí nhớ lời của kinh sách?” Cái mùi lợm giọng của
dầu đốt thường phát ra từ những người đã nhồi nhét kinh sách
vào trong trí nhớ của họ. Dầu lửa cháy toả ra lớp khói dầy đặc.
Rất khó tìm được người nào dốt nát hơn là người có học.
Do đó, lời kinh này nói, người dốt nát dò dẫm loanh quanh,
nhưng người có học dò dẫm loanh quanh trong bóng tối dầy đặc.
Là người dốt nát còn tốt hơn là người có học. Cái dốt nát sẽ chỉ
cho bạn con đường. Đừng thử đi vào bóng tối lớn; còn trong
bóng tối đơn giản là tốt hơn nhiều. Từ bóng tối này thật dễ dàng
đi vào ánh sáng, nhưng cuộc hành trình từ bóng tối lớn sẽ dài và
gian khó.
Đủ cho hôm nay. Bây giờ chúng ta đi vào thiền. Chúng ta
tiến vài bước từ bóng tối ra sánh sáng.

**************************************************************************************************************

11 Tôi cũng lắng nghe

**Một kết quả, họ nói,
thu được từ vidya,
và kết quả khác, họ nói,
cũng thu được từ avidya;
do vậy chúng ta đã nghe
từ người trí huệ
người đó giải thích điều đó cho chúng ta.**

Người có học thực sự, người trí huệ, bảo chúng ta rằng kết
quả của tri thức thực, của trí huệ, của hiểu biết - điều Upanishad
gọi là vidya - là hoàn toàn phân biệt với kết quả của sách vở,
thông tin, tri thức được thu thập; điều này Upanishad gọi là
avidya.
Avidya cũng có nghĩa là dốt nát - thiếu vắng của vidya.
Nghĩa được dự định của nó trong Upanishad là tri thức sách vở -
tri thức khoa học, vật lí giống như tri thức thực nhưng để cho
người ta thành người dốt nát. Qua avidya chúng ta có thể biết
mọi chủ đề của việc học nhưng vẫn còn là người dốt nát về chúng
ta là ai. Việc học như thế, điều tạo ra ảo tưởng về tri thức, được
Upanishad gọi là avidya, dốt nát. Nó có thể được diễn giải để
mang nghĩa khoa học, mặc dầu diễn giải này có thể dường như
rất kì lạ. Từ avidya, thế thì, có nghĩa là tri thức về khoa học vật lí,
tri thức về những thứ khác; và từ vidya - theo đúng nghĩa từ là tri
thức, học tập - có nghĩa là tri thức về cái ta.
Tri thức đơn thuần không được ngụ ý trong từ vidya. Từ
vidya bao hàm sự biến đổi. Upanishad sẽ không gọi là vidya cho
những cái không làm biến đổi bản thể của người ta. Nếu tôi biết
điều gì đó, và vậy mà tôi vẫn còn như tôi trước khi biết, thế thì
cái biết như thế không phải là vidya theo Upanishad. Cái học đó
sẽ được gọi là vidya, cái biến đổi bạn ngay lập tức một khi biết
tới nó. Ngay khi tôi biết, tôi được biến đổi. Tôi trở thành người
khác khi biết nó.
Nếu tôi vẫn còn như tôi trước khi biết, thế thì việc biết là
avidya - dốt nát; và nếu tôi được biến đổi, nó là vidya - tri thức
thực. Việc học như thế thì không đơn thuần là việc bổ sung thêm
vào quĩ thông tin của bạn mà là việc biến đổi. Qua nó bạn thay
đổi, bạn trở thành một người hoàn toàn khác. Cái được
Upanishad gọi là vidya, tri thức, cho bạn việc sinh mới.

Socrates đã cho chúng ta một lời kinh rất ngắn tương tự về
nghĩa với diễn giải này của Upanishad. Ông ấy nói, “Tri thức là
đức hạnh.” Điều này đã được thảo luận và tranh luận hàng trăm
năm nay ở Hi lạp, vì mối quan hệ giữa tri thức và đức hạnh là
không hiển nhiên. Một người biết giận dữ là xấu, vậy mà giận dữ
không tan biến. Người kia biết ăn cắp là xấu, nhưng người đó
tiếp tục ăn cắp. Người khác biết rằng tham lam là xấu, ấy thế mà
cái tham lam của người đó không dừng. Nhưng Socrates đang
nói rằng cái tham lam của bạn mất đi một khi bạn biết rằng nó là
xấu.
Nếu một người biết rằng tham lam là xấu mà vẫn còn tham
lam, thế thì cái biết của người đó là avidya. Nó đơn thuần là ảo
tưởng về việc biết, nó là tri thức giả. Việc kiểm tra về tri thức
đúng là ở chỗ nó lập tức trở thành một phần của hành vi bạn; nó
thậm chí không đòi hỏi thực hành. Nếu ai đó nghĩ, “Để tôi biết nó
trước đã rồi tôi sẽ đưa nó vào thực hành,” thế thì cái biết đó của
người đó không phải là tri thức mà là dốt nát.
Giả sử một đồ uống được đặt lên trước bạn và ngay khi bạn
vừa định uống bạn phát hiện ra rằng có chất độc trong cốc; thế thì
tay bạn, đang đưa ra nhấc cốc nước, sẽ lập tức rụt lại không làm
như vậy nữa. Tức là, ngay khi bạn biết rằng đấy là chất độc,
chiếc cốc vẫn còn không bị động đến chiếc cốc nữa. Do đó, khi
việc biết trở thành hành động, nó được gọi là tri thức đúng đắn.
Và nếu bạn phải nỗ lực để làm thay đổi hành vi của mình sau
việc biết, thế thì hành vi đó là bị áp đặt, nó xô đẩy vào bạn. Điều
ấy không thể được gọi là kết quả của tri thức.
Tri thức đã bị áp đặt để tạo ra một hành động nào đó, cái
không trở thành hành động theo cách của riêng nó, được
Upanishad gọi là avidya - dốt nát. Chính vidya - tri thức thực -
cái làm thay đổi cuộc đời người ta một cách vô nỗ lực, dường
như người ta không biết rằng bất kì thay đổi nào đã xảy ra. Một
mặt dốt nát bị thiêu cháy, và mặt khác bóng tối tan biến. Cả hai
xảy ra đồng thời. Liệu có thể tạo ra một ngọn đèn mà, khi được
thắp lên, không xoá bỏ bóng tối đi không? Và chúng ta sẽ cần
phải có một nỗ lực đặc biệt để loại bỏ bóng tối sau khi thắp đèn
không? Nếu nó là như vậy thế thì ngọn đèn ấy sẽ là biểu tượng
cho avidya được - biểu tượng cho bóng tối. Nhưng bóng tối
không tồn tại khi đèn được thắp sáng. Thắp sáng đèn có nghĩa là
dập tắt bóng tối. Đèn như vậy là vidya.
Có hai điểm cần phải nhớ trong mối liên quan này. Tại sao
xảy ra chuyện, ngay cả sau việc biết của chúng ta, biến đổi không
xảy ra? Rất nhiều người tới tôi và nói, “Chúng tôi biết giận dữ là
xấu; nó là chất độc, nó đốt cháy, nó là lửa, nó là địa ngục, và vậy
mà chúng tôi vẫn không thoát khỏi nó.”
Thế rồi tôi bảo họ, “Sai lầm về phần bạn là nghĩ rằng bạn
biết nó. Bạn nghĩ bạn đã biết và bạn tự hỏi bản thân mình, 'Mình
phải làm gì để cho giận dữ mất đi?' Đây là sai lầm của bạn. Thực
ra bạn không biết rằng giận dữ là địa ngục.”
Liệu có thể là một người sẽ không nhảy ra khỏi giận dữ một
khi người đó biết nó là địa ngục hay không?
Phật đã nói điều này ở đâu đó. Một người có cuộc sống đầy
những điều khó chịu và đau khổ đã tới ông ấy để xin lời khuyên,
tìm ra cách thoát khỏi khổ của mình. Không có gì ngoài buồn rầu
và ưu phiền trong cuộc đời người đó. Phật bảo người đó vứt bỏ
điều lo và khổ đi, thoát ra khỏi chúng ngay lập tức: “Ta sẽ chỉ
cho ông cách thoát khỏi chúng,” ông ấy nói.
Người này nói, “Chỉ ngay cho tôi cách thức bây giờ đi, và
thế rồi tôi sẽ cố gắng, dần dần, để đi theo cách thức của thầy.”
Thế rồi Phật nói, “Ông đang giống như một người có nhà bị
cháy và nói, “Cám ơn thầy lắm về lời khuyên của thầy; bây giờ
tôi sẽ dần dần cố gắng để làm cho bản thân tôi thoát ra khỏi ngôi

nhà.” Phật tiếp tục nói rằng sẽ tốt hơn nếu như người đó nói,
“Thầy đang nói dối - tôi không thấy đám cháy nào cả.” Nhưng
người này không nói như thế; người đó nói, “Tôi tin thầy, tôi tin
có đám cháy, và dần dần tôi sẽ cố gắng để thoát ra.”
Liệu có ai sẽ thoát ra dần dần, khi chuông báo cháy đang reo
không? Người đó sẽ thoát ra ngay lập tức. Người đó sẽ không
dừng lại cho dù người báo tin còn ở phía sau. Người biết có cháy
sẽ nhảy ra trước rồi nghĩ sau, khi người đó ở ngoài nhà. Cho nên
Phật nói, “Ông tin có cháy, nhưng ông từ chối nhìn nó cho nên
ông đau khổ không cần thiết. Một người như ông không nên tự
gây rắc rối cho mình để tìm lối ra. Thậm chí ông không nên thử
kiểm nghiệm lời khuyên của ta. Ông thậm chí đã không mở mắt
để nhìn lửa đang có đấy quanh ông. Ông đã thừa nhận ông đang
khó khăn và bây giờ ông nghĩ, ‘Lửa đang có đó, bây giờ mình sẽ
thoát ra khỏi nó, dần dần thôi - và ông yêu cầu ta chỉ ra cho ông
thoát ra!”
Khi ai đó bảo tôi, “Tôi biết giận dữ là xấu vậy mà tôi không
thể thoát khỏi nó,” tôi nói, “Sẽ là tốt nếu bạn có thể nói, ‘Tôi
không biết rằng giận dữ là xấu.’ Điều bạn thực sự biết là : ‘Giận
dữ là tốt, và mình đang làm điều tốt. Nhưng mình đã nghe từ
người khác nói rằng giận dữ là xấu.’ Chính điều bạn đã nghe bạn
coi là tri thức.”
Thế thì tri thức thực là gì? Bạn sẽ phải biết bên trong bản
thân bạn rằng giận dữ là xấu. Cho nên bạn sẽ phải đi qua nó, bạn
sẽ phải chịu đựng khó khăn của ngọn lửa giận dữ, bạn sẽ phải
mang đau khổ và đau đớn do giận dữ gây ra. Khi mọi giới hạn
của bạn đã bị thiêu cháy bởi ngọn lửa giận dữ và khi cuộc sống
của bạn đã trở thành mớ hỗn độn lớn đầy khói, thế thì sẽ không
cần thiết phải đi tới bất kì ai để hỏi liệu giận dữ la xấu hay không.
Thế thì sẽ không cần tìm kiếm bất kì phương pháp nào, bất kì lễ
nghi nào, bất kì phương thuốc nào để thoát khỏi giận dữ của bạn.
Khi biết rằng giận dữ là lửa, bạn sẽ lập tức thoát khỏi nó. Việc
biết như thế là vidya - tri thức thực.
Việc biết đó mà được Upanishad gọi là tri thức thực mang tự
do bên trong bản thân nó và giải phóng người biết ngay lập tức;
và việc biết thiếu thuộc tính này không phải là tri thức thực. Tất
cả chúng ta đều có nhiều thông tin, tất cả chúng ta đều biết nhiều
điều. Nếu như chúng ta tham khảo tới Upanishad về phẩm chất
của việc học của chúng ta họ sẽ công bố nó là avidya - dốt nát -
vì cái biết của chúng ta thậm chí không động chạm tới chúng ta,
nó không biến đổi chúng ta; mặc dầu tri thức của chúng ta tăng
lên, chúng ta vẫn cứ còn ở nơi chúng ta đang ở. Tri thức trở
thành nhà kho thông tin, và chúng ta đứng xa khỏi nó. Kho báu
của chúng ta cứ ngày một lớn hơn, nhưng nó đơn thuần là tích trữ
mặc dầu chúng ta tuyên bố nó là tri thức. Và bất kì ai coi điều
này là tri thức sẽ sớm phải lang thang trong hoàn cảnh vô hi
vọng. Đây là dốt nát.
Chấp nhận tri thức thực không phải là cái thêm vào cho bạn
mà là cái làm biến đổi bạn. Cái là tri thức thực không đòi hỏi bất
kì việc ghi nhớ nào mà là cái trở thành bản thân cuộc sống của
bạn; cái mà là tri thức thực thì không biến thành trí nhớ mà là cái
được hấp thu vào trong bản thân cuộc sống của bạn. Đấy không
phải là vấn đề về việc biết một cách trí tuệ rằng giận dữ là xấu,
mà là hành vi của bạn phản xạ khám phá của bạn rằng giận dữ là
xấu. Không phải là bạn treo biển nói rằng “Tham lam là tội lỗi!”
trên tường nhà mình, mà là mắt bạn, tay bạn và mặt bạn phản xạ
hiểu biết của bạn rằng tham lam là tội lỗi. Nó trở thành tri thức
thực chỉ khi toàn bộ cá tính của bạn biểu lộ ra rằng tham lam là
tội lỗi.
Upanishad đã ca ngợi vidya thật nhiều. Nó được đánh giá
cao. Nó được coi như thuật giả kim để biến đổi cuộc sống. Điều
chúng ta hiểu như tri thức đơn giản chỉ là việc thu xếp để kiếm kế

sinh nhai. Người này là bác sĩ, người kia là kĩ sư, người nọ là chủ
cửa hàng. Tất cả chúng ta đều có tri thức của riêng mình, nhưng
nó không làm biến đổi cuộc sống, nó đơn giản giúp chúng ta
mang cuộc sống của mình. Các nhánh tri thức đặc biệt khác nhau
này không đem bước ngoặt mới cho cuộc sống, chúng đơn giản
làm cho cuộc sống được an toàn. Không hoa nào nở ra bởi chúng,
chúng đơn giản ngăn cản gốc rễ của cuộc sống khỏi khô héo.
Không cực lạc nào đi vào trong cuộc sống bởi vì chúng, chỉ có
việc bảo vệ, lập kế hoạch và thu xếp để tránh những vất vả và bất
tiện trong cuộc sống. Điều chúng ta gọi là tri thức đơn giản là
phương tiện để kiếm sống theo một cách hiệu quả và thuận tiện.
Upanishad gọi điều này là avidya.
Cái là vidya, theo Upanishad, là cái không đơn giản kéo lê
cuộc sống ra thêm chút nữa, nhưng nâng cuộc sống lên mức cao
hơn. Nhớ lấy, avidya là theo chiều ngang. Vidya là theo chiều
đứng - nó hướng lên trời. Avidya tựa như chiếc xe bò kéo lăn
bánh trên mặt đất. Không có việc cất cánh trong nó, như có trong
máy bay. Nó không thể cất cánh và bay cao trong bầu trời. Trong
cuộc hành trình của nó từ sinh tới tử, nó không bao giờ rời khỏi
mức mặt đất, và chúng ta chết đi tại chính mức chúng ta đã được
sinh ra. Nói chung, cái nôi là nấm mồ. Khó có được bất kì khác
biệt nào giữa các mức sinh và tử. Liên tục bước đi theo chiều
ngang tất cả chúng ta chung cuộc đều tìm thấy nấm mồ mình bởi
vì chúng cũng không xa xôi gì mấy với chiếc nôi: và cho dù nếu
như chúng có xa, mức độ vẫn còn như nhau.
Vidya là chiều đứng, đi lên. Mức độ được thay đổi. Bạn
không là cái bạn đã là trước đây. Ngay khi bạn đạt tới tri thức
thực thì bạn đã là con người khác rồi. Phật hay Mahavira hay
Krishna đều đang đứng rất gần chúng ta, trong nhà hàng xóm,
chạm vai ta, vậy mà họ không cùng chúng ta - họ không ở đâu
gần chúng ta. Họ xa tít trên đỉnh nào đó. Thân thể họ dường như
gần chúng ta, nhưng tâm linh của họ không cùng chúng ta. Họ đã
đi qua vidya. Họ đã học theo nghĩa thực của từ này.
Lời kinh này của Upanishad bảo chúng ta rằng avidya có giá
trị riêng của nó cũng như vidya có phẩm chất riêng của nó.
Avidya có cái vô dụng riêng của nó. Upanishad không nói rằng,
“Giết avidya”; nó chỉ nói, “Đừng coi avidya như vidya.” Nó
không ngụ ý rằng bạn không nên sống với chân đặt trên mảnh đất
của thế giới này mà chỉ nên nổi lên cao hơn cao hơn nữa trên bầu
trời. Thực sự, người mà muốn đi lên cao hướng tới bầu trời phải
giữ chân vững chãi trên mặt đất.
Nietzshe đã nói ở đâu đó rằng cây muốn chạm tới bầu trời
phải cắm rễ sâu vào trong đất phía dưới. Cây càng phải đi sâu
xuống khi nó càng vươn cao thêm. Cây mà đạt tới các vì sao trên
trời phải có rễ cắm sâu trong lòng đất. Cây chỉ có thể vươn cao
khi rễ của nó cắm sâu.
Upanishad không đối lập với avidya. Niềm tin rằng chúng
đối lập, đã làm nảy sinh ảo tưởng lớn. Tôi sẽ giải thích điều đó
cho bạn, bởi vì không ai có thể biết tới bao nhiêu khổ và đau đớn
mà phương Đông đã phải chịu bởi niềm tin sai lầm này.
Upanishad đã không được hiểu đúng. Chúng ta phạm sai lầm về
việc nghĩ avidya là vidya. Upanishad đối lập với điều này. Họ
bảo chúng ta avidya không phải là vidya và phân biệt này nên
được hiểu cho đúng. Thế rồi chúng ta tạo ra sai lầm khác. Chân lí
đơn giản là ở chỗ chúng ta bướng bỉnh cố chấp vào việc bị sai
lầm, vì chúng ta làm ra hết sai lầm này đến sai lầm khác.
Theo Upanishad, các đại học ngày nay của chúng ta nên
được gọi là các trung tâm avidya, bởi vì chúng không bận tâm gì
tới, và không có quan hệ gì với bất kì cái gì là vidya. Các đại học
của chúng ta là những trung tâm về avidya, và những hiệu trưởng
của chúng là hiệu trưởng về avidya. Chỉ avidya là lan rộng ra từ
những trung tâm này. Nhưng Upanishad không chống avidya. Họ

đơn giản nói, “Đừng nghĩ avidya này là vidya; đừng phạm sai
lầm này.”
Hiểu phân biệt giữa chúng cho rõ ràng. Avidya có cái tiện
dụng riêng của nó. Không phải bác sĩ là không cần thiết, không
phải cuộc sống sẽ tốt hơn khi không có chủ cửa hàng. Không,
chủ cửa hàng, bác sĩ, kĩ sư, ngưòi quét rác và người lao động - tất
cả họ đều cần thiết, họ có ích cho xã hội. Nhưng sai lầm là coi
việc giáo dục này để kiếm sống là giáo dục cho cuộc sống. Một
người như thế sẽ chỉ kiếm cơm và chết.
Jesus nói, “Ông không thể sống chỉ bằng bánh mì.” Điều này
không có nghĩa là bạn có thể sống mà không có bánh mì; nhưng
một mình bánh mì có thể là cuộc sống được không? Bánh mì là
cần thiết cho cuộc sống, nhưng nó không phải là bản thân cuộc
sống. Không ai có thể sống sót và hay làm tiến bộ mà không có
bánh mì, và vậy mà nó không phải là cuộc sống. Chúng ta trút đá
vào móng của toà nhà, và toà nhà không thể được dựng lên mà
thiếu chúng, nhưng nhớ lấy, những hòn đá đó trong móng không
phải là toà nhà. Đừng sống trong ảo tưởng rằng toà nhà được xây
dựng khi nền móng đã được lấp đầy. Không phải là toà nhà có
thể được xây dựng nếu không đặt móng. Phải đặt móng đã: đó là
điều cần phải chấp nhận. Upanishad nói avidya có cái tiện dụng
của nó - có nghĩa là nó cung cấp phương tiện để kiếm sống. Nó là
thuộc tính bên ngoài cho cuộc sống; nó liên quan tới cuộc sống
vật lí, nó là sự thu xếp để duy trì cuộc sống. Nhưng đừng coi nó
là mọi thứ. Nó là cần thiết nhưng chưa đủ. Mọi thứ sẽ không
được hoàn thành bởi riêng một mình nó.
Các nước phương Đông, đặc biệt là Ấn Độ, đã phạm phải sai
lầm thứ hai. Họ nói, “Khi các hiền nhân của Upanishad - những
người trí huệ và có học - nói điều gì đó là avidya, chúng ta nên
dửng dưng với nó. Chúng ta chỉ nên bám vào vidya.” Cho nên
khoa học không thể có tiến triển nào ở phương Đông được.
Chúng ta bỏ qua bất kì cái gì chúng ta coi là avidya. Do đó
phương Đông trở thành không tự lo liệu được, nghèo nàn và bị
nô lệ. Giá mà chúng ta đã say mê theo đuổi avidya chúng ta sẽ
trở thành vô linh hồn, nhưng chúng ta trở nên nôn nóng bỏ qua
nó đến mức chúng ta trở thành không tự lo liệu được và nghèo
nàn trong cuộc sống vật lí.
Upanisad nói cả hai đều hữu dụng. Cả hai đều hữu dụng theo
các chiều hướng khác nhau. Avidya có vị trí của nó. Nó không
phải là để bỏ đi. Điều duy nhất cần phải nhớ là ở chỗ nó không
phải là mọi thứ. Nó không phải là cái tối thượng. Vidya cũng có
vị trí của nó nữa.
Hiền nhân này đã nói một điều nữa trong lời kinh này:
“Chúng ta đã nghe điều này từ những người biết.” Cần phải đi
vào trong phát biểu này thêm một chút nữa để hiểu nó. Nó được
nói là: Vậy chúng ta đã nghe từ người trí huệ, người đã giải thích
nó cho chúng ta. Hiền nhân này, người đã nói điều này, bản thân
ông ấy không biết nó sao? Ông ấy có nói cho chúng ta điều ông
ấy đã nghe không? Bản thân ông ấy không biết nó sao? Ông ấy
có lặp lại cho chúng ta tri thức nghe lại ấy không? Không, điểm
này cần được hiểu cho đúng, bởi vì rất nhiều lẫn lộn đã được tạo
ra bởi nó. Cần phải hiểu hình thức diễn đạt trong những ngày xa
xưa ấy khi Upanishad được viết ra.
Không ai đã từng nói “tôi biết.” Có lí do cho điều đó. Lí do
không phải là ở chỗ ông ấy đã không biết. Lí do là ở chỗ bản ngã
- cái tôi - biến mất sau việc biết. Nếu hiền nhân của Upanishad đã
nói, “Tôi nói điều này sau việc biết,” thế thì những người thời ấy
sẽ cười và nói, “Thế thì đừng nói như thế! Ông không thể biết
được, vì cái ‘tôi’ của ông vẫn còn đó.” Do đó nhớ lấy điều này:
hiền nhân biết điều ấy rõ lắm, nhưng nói, “Tôi đã nghe điều đó từ
những người đã biết.” Điều đáng quan tâm là ở chỗ những người
mà ông ấy đã nghe nói cũng đã nói, "Chúng tôi đã nghe điều này

từ những người biết." Có bí mật nào đó đằng sau điều này.
Không có cá nhân nào tuyên bố, không có bản ngã nào tuyên bố
đằng sau điều đó, bởi vì tìm đâu ra cái ‘tôi’ của người biết ấy?
Do đó họ nói, “Chúng tôi đã nghe từ người đã giải thích nó cho
chúng tôi.” Và tôi muốn kể cho bạn biết một điều đáng quan tâm
khác về điều này: rằng bản thân cá nhân đó cũng được bao hàm
trong ‘chúng tôi’ đó, những người đã nghe.” Phát biểu này có hơi
chút khó hiểu thấu.
Như tôi đã nói với các bạn sáng nay, khi tôi nói điều gì đó
cho bạn, tôi nghe nó như bạn nghe nó. Chúng ta nghe nó đồng
thời. Người nói đó không biết gì về ai không phải là người nghe
điều mà người đó nói. Chân lí là không được làm sẵn; chúng
không được làm trước. Chúng được tạo ra, được biểu lộ, chúng
được sinh ra một cách tự nhiên, chúng là tự phát. Chúng xuất
hiện như hoa xuất hiện - nở bung ra từ cây cối và tràn đầy hương
thơm. Khi tôi muốn nói điều gì đó cho bạn, điều đó có thể được
làm theo hai cách. Cách thứ nhất là nghĩ về nó rồi chuẩn bị để
trao nó cho bạn. Điều bạn cuối cùng nhận được sẽ là cái cũ rích
và cổ lỗ; nó sẽ không tươi tắn và sống động, nó sẽ chết. Nhưng
khi tôi bắt đầu thốt ra điều tới từ bên trong tôi, thế thì tôi nghe
nó, như bạn nghe nó, lần đầu tiên. Thế thì tôi nữa cũng là người
nghe. Các bạn không phải là người nghe duy nhất; tôi cũng là
người nghe.
Cho nên hiền nhân này nói, “Chúng tôi đã nghe từ những
người đã giải thích nó cho chúng tôi.” Ông ấy đã nghe, ông ấy
nói, từ những người đã biết; nhưng nó là từ bản thân ông ta người
đang nghe nó - ông ấy nữa cũng lắng nghe việc giải thích đến từ
bản thân ông ấy. Do đó hiền nhân này gọi mình là người nghe.
Còn có lí do khác nữa. Khi một người đạt tới chân lí cao
nhất, điều đó không xuất hiện cho người đó như là người đó đã
đạt tới. Nó xuất hiện cứ như là nó đã giáng xuống người đó.
Chân lí tối cao không xuất hiện dường như đó là sự sáng tạo của
tôi, thành tựu của tôi; nó xuất hiện như là sự khải lộ trước tôi,
như sự mở ra, như một hứng khởi. Nếu ai đó có tới hỏi
Mohammed, “Có phải ông đã viết Koran không?”, Mohammed
sẽ trả lời, “Xin đừng nói những điều tội lỗi như thế với tôi. Tôi đã
nghe thấy Koran, tôi đã thấy Koran, và khi nghe nó tôi đã đặt nó
vào việc viết ra. Tôi đã không viết nó - tôi không phải là tác giả
của nó.”
Đây là lí do tại sao Mohammed là sứ giả của Thượng đế -
người đã chuyển giao thông điệp được trao cho ông ấy. Chân lí
được khải lộ trước ông ấy, và ông ấy đến trước bạn và nói điều
như thế là chân lí. Chân lí đó không phải là sáng tạo của ông ấy.
Đây là lí do tại sao chúng ta gọi các hiền nhân là ‘người thấy’ -
và không phải là tác giả hay người sáng tạo. Chúng ta không nói
họ đã tạo ra chân lí, mà nói rằng họ đã thấy chân lí. Đó là lí do tại
sao chúng ta gọi điều họ đã thấy là darshan - linh ảnh, cái được
thấy. Chúng ta có thể gọi nó là bất kì cái gì chúng ta muốn gọi
nó, dù là darshan hay shruti - cái được nghe thấy. Hiền nhân này
thực ra đang cho ta biết rằng chân lí là hoàn toàn tách rời và phân
tách khỏi chúng ta. Chúng ta không tạo ra nó. Chúng ta chỉ nghe
nó, biết nó, thấy nó. Chúng ta đơn giản là nhân chứng. Bạn có thể
gọi ông ấy là nhân chứng, người thấy hay người nghe - nhưng
nhớ ý tưởng thụ động đằng sau nó.
Hiền nhân này nói, “Chúng tôi thụ động, không tích cực.”
Khi bạn xây dựng cái gì đó, bạn là tích cực. Khi một nghệ sĩ đang
vẽ hoa, người đó là một tác nhân tích cực. Nhưng khi người đó
đứng gần một bông hồng và nhìn vào nó, người đó là một tác
nhân thụ động. Vào lúc đó người đó không làm gì cả, người đó
chỉ tiếp nhận. Người đó đơn giản đã mở cánh cửa và cửa sổ của
bản thể mình. Người đó mời hoa vào, người đó dâng hiến trái tim
mình cho hoa, người đó đón chào nó, và đứng tĩnh lặng. Người
đó có tính tiếp nhận. Thế thì hoa đi vào tim người đó và chạm

cánh hoa vào nó. Hương thơm của hoa dội trong toàn bộ bản thể
của người đó; và bởi vì người đó đã cho phép nó vào bên trong
bản thân mình như một nhân chứng, như một tác nhân cảm nhận,
nên nó sẽ nở bung trong mọi góc bản thể người đó. Nhưng bản
thân người nhận là thụ động, người đó đơn thuần nhận.
Hiền nhân này của Upanishad nói, “Tôi đã nghe vậy.” Trong
khi nói như thế, ông ấy muốn cho chúng ta biết rằng chỉ người
thụ động đạt tới chân lí. Thụ động là cánh cửa.
Mặt trời chiếu sáng trong bầu trời. Chúng ta không thể đem
được ánh sáng của nó vào trong nhà, nhưng chúng ta chỉ phải mở
cửa ra và ánh mặt trời sẽ đi vào. Những tia sáng của nó sẽ dần
dần nhảy múa trong mọi góc nhà. Nhưng chúng ta không thể nói
rằng chúng ta đã mang mặt trời vào trong nhà mình được. Nói
“Chúng tôi đem nó vào” là quá nhiều rồi. Đấy là khoác lác.
Chúng ta có thể nói nhiều nhất cũng chỉ thế này, rằng chúng ta
không dựng bất kì chướng ngại nào để ngăn cản mặt trời tới.
Chúng ta đã để cửa mở. Việc mặt trời lên không cần chúng ta
phải có cửa để mở, nhưng chính sự kiện là mặt trời sẽ không bao
giờ có khả năng đi vào trong nhà nếu cửa bị đóng. Và nếu cửa
được mở ra và nếu mặt trời không lên, chúng ta không làm được
gì, chúng ta bất lực.
Bạn có hiểu điều tôi định nói không? Mặt trời không bị buộc
phải tới bởi vì cánh cửa của bạn mở ra. Chính tự do của nó là tới
hay không. Nhưng hoàn toàn dứt khoát rằng mặt trời không thể
vào được nếu cánh cửa bị đóng kín. Cho dù nếu mặt trời có muốn
tới, nó không thể vào được. Điều này có nghĩa là nếu chúng ta
muốn thì chúng ta có thể vẫn còn mù với chân lí, thế thì chân lí
không thể làm gì được. Nếu chúng ta muốn thì ta có thể mở rộng
sự thức tỉnh với chân lí; nhưng thế thì chúng ta không tạo ra chân
lí, chúng ta đơn giản cởi mở cho sự khải lộ của nó.
Bất kì cái gì có giá trị, bất kì cái gì đẹp đẽ, bất kì cái gì tốt
nhất, bất kì cái gì đúng đắn, bất kì cái gì tốt lành cho cuộc sống,
đều được tìm thấy chỉ bởi tâm trí cảm nhận. Người để cho cánh
cửa mở tìm thấy nó. Do đó hiền nhân này không nói, “Tôi có
điều đó,” mà nói, “Tôi đã nghe điều đó từ những người biết. Tôi
đã nghe thấy nó, tôi đã nhận nó từ nơi có trí huệ.” Trong phát
biểu này có một ham muốn thiết tha để thủ tiêu cái ‘tôi’. Đó là lí
do tại sao không Upanishad nào mang chữ kí của tác giả của nó.
Chúng ta không biết ai nói ra điều này, ai kể điều này, đây là lời
của ai. Ai đó tuyên bố những chân lí vô giá như thế mà không
làm lộ ra tác quyền của mình.
Thực ra, những chân lí vĩ đại phải được công bố mà không
có lời đòi về tác quyền, bởi vì tác giả chết trước khi sinh thành ra
chân lí vĩ đại. Những hiền nhân này đã loại bỏ hoàn toàn bản thân
mình ra khỏi lời yêu cầu về tác quyền. Không ai biết ai đang nói
những câu này, không ai hay liệu những câu này là do một hay
nhiều người viết ra. Trong Upanishad có thể là những lời kinh
khác nhau là những khải lộ của các hiền nhân khác nhau, và vậy
mà vẫn có một quan sát thú vị được thực hiện. Những lời này có
thể là lời của những người khác nhau, như có một sự hài hoà, một
âm nhạc trong chúng. Có thể có một số người, có thể có các tác
giả khác nhau cho từng lời kinh, nhưng họ phải tuyệt đối giống
như một người ở đâu đó sâu bên trong bản thân họ.
Nếu bạn đã có lần tới đền thờ Jaina thì bạn sẽ thấy hai mươi
bốn thần tượng của các tirthankara - những bậc thầy chứng ngộ
của đạo Jaina. Không có phân biệt gì giữa các bức tượng này,
ngoại trừ một dấu hiệu rất nhỏ tại bàn chân làm phân biệt họ với
nhau. Những dấu hiệu này đã được giữ để chúng ta nhận ra, bằng
không sẽ rất khó để biết được tượng nào là Mahavira, tượng nào
là Parshvanath, tượng nào là Neminath. Nếu những dấu hiệu đó
bị xoá đi, mọi tượng đều giống hệt nhau. Ngay cả khuôn mặt
cũng đồng nhất. Điều này không thể là sự kiện lịch sử được.

Khuôn mặt của Mahavira không thể giống hệt khuôn mặt của
Parshvanath. Thật khó mà tin rằng tất cả hai mươi bốn tirthankara
giống hệt nhau về hình dạng và nét mặt. Ngay cả hai người giống
nhau về hình dạng và nét mặt cũng không thể tìm được nữa là.
Tưởng tượng khó khăn làm sao để tìm ra hai mươi bốn người
như thế!
Có thể là những người đã làm ra các tượng đó không có ý
tưởng nào về một ngày nào đó một ai đó sẽ cười khi nhìn tất cả
những hình ảnh giống nhau này và nói, “Điều này không thể là
sự kiện lịch sử sao?” Không, họ đã khắc hoạ bằng trí huệ đấy.
Không để ý đến sự đồng nhất bên ngoài, họ đã tạo ra hình ảnh về
các hình dạng bên trong. Có thiếu vắng khác biệt bên trong. Phải
có nhiều khác biệt thể chất giữa Mahavira và Parshvanath, nhưng
họ đã đến một giai đoạn trong cuộc sống nơi cái ‘tôi’ tan biến.
Thế thì không có phân biệt bên trong; thế thì họ đi tới một loại
người không có mặt. Người ta được tự do với khuôn mặt bên
ngoài, cá tính. Thế thì khuôn mặt bên ngoài không có giá trị nào.
Do đó chúng ta đã không làm ra các thần tượng cho thân thể bên
ngoài.
Những thần tượng này biểu hiện sự giống nhau có ở bên
trong, cái giống nhau ở bên trong. Đấy là lí do tại sao họ tất cả
giống nhau. Những lời kinh này củaUpanishad đã được những
người khác nhau soạn ra, và sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi
tìm ra rằng dòng này của cặp câu do hiền nhân này soạn còn
dòng kia do hiền nhân khác soạn. Điều như vậy đã xảy ra.
Bốn mươi nghìn bài thơ không đầy đủ đã được tìm ra trong
ngôi nhà của Coleridge, nhà thơ Anh vĩ đại, sau cái chết của ông
ấy. Trước khi ông ấy chết, bạn bè ông ấy thường hay hỏi tại sao
những vần thơ tuyệt diệu như vậy bị bỏ lại không đầy đủ. Họ
thúc giục ông ấy hoàn chỉnh chúng. Họ nói, “Sẽ không có nhà
thơ nào vĩ đại hơn ông trong thế giới này. Ông đã để bốn mươi
nghìn bài thơ không đầy đủ. Xin ông suy nghĩ và hoàn chỉnh
chúng. Một số bài có ba dòng thôi, dòng thứ tư không có đấy.
Một số bài có bẩy dòng, dòng thứ tám không có đấy. Một số bài
có mười một dòng, dòng thứ mười hai không có đấy. Chúng
không hoàn chỉnh chỉ bởi mỗi một dòng. Sao ông không hoàn
thành tiếp chúng?”
Coleridge trả lời, “Mười một dòng đã tới, và tôi đang chờ đợi
dòng thứ mười hai. Mười năm đã trôi qua, vậy mà nó vẫn chưa
tới. Thế thì làm sao tôi hoàn thành được nó? Nếu ai đó tìm thấy
dòng này, người đó có thể hoàn thành nó. Nó còn chưa tới với
tôi. Nếu tôi muốn, tôi có thể soạn ra một dòng, nhưng thế thì nó
sẽ giống như giả tạo. Nó sẽ giống như một chân gỗ. Nó sẽ giống
như một chân gỗ trên một người hoàn chỉnh khác về thể chất.
Mười một dòng này đang sống: chúng đã giáng xuống tôi, chúng
không do tôi soạn ra. Chúng đã tới tôi trong khoảnh khắc tiếp
nhận, trong tâm trạng tiếp nhận, và tôi đã viết chúng ra. Dòng thứ
mười hai còn chưa giáng xuống. Cho nên tôi vẫn đang đợi nó.
Nếu nó tới trong cuộc đời tôi, tôi sẽ thêm nó vào; nếu không, tôi
sẽ để cho bài thơ không đầy đủ. Những dòng này có thể tới trong
cuộc đời của ai đó khác. Có thể là một ai đó khác sẽ tới cánh cửa
của dòng thứ mười hai, thế thì người đó sẽ hoàn chỉnh bài thơ
này.”
Điều không bản chất là các câu đôi của Upanishad có do một
cá nhân làm ra không. Chúng là những thơ của những người mà
bản thân họ không soạn ra chúng, nhưng họ đã đã ghi ra điều
giáng xuống họ. Cho nên phát biểu đó của các hiền nhân rằng họ
đã nghe thấy nó từ những người biết đơn giản là việc thừa nhận
tính vô ngã của họ. Đó là một tuyên bố rằng tôi không có đó, tôi
chỉ là cánh cửa.

************************************************************************************************************

12 Tôi không là thân thể

**Người biết
cả vidya và avidya
vượt qua cái chết qua avidya
và kinh nghiệm cái bất tử
qua vidya.**

Người biết cả avidya và vidya, khi vượt qua cái chết, sẽ biết
cái bất tử. Đây là đôi câu thơ rất hãn hữu. Nó nói với bạn rằng
Upanishad là không đối lập với avidya. Họ thiên về vidya nhưng
không đối lập chút nào với avidya. Nó được nói, “Người biết
avidya sẽ vượt qua cái chết.” Toàn thể xung đột của avidya là
chống lại cái chết. Bác sĩ đang tranh đấu với cái chết, các kĩ sư
đang tranh đấu với cái chết. Toàn bộ nỗ lực của khoa học, mọi
hoạt động của nó, đều hướng vào việc chống lại cái chết - chống
lại bệnh tật, chống lại bất an, chống lại những nguy hiểm tương
lai. Việc bảo đảm rằng cuộc sống không kết thúc, việc bảo đảm
cho nó được bảo toàn, là toàn bộ nỗ lực của avidya - của tri thức
khoa học. Toàn thể avidya là cuộc tranh đấu thường xuyên với
cái chết. Cho nên người thành thạo trong avidya thành công dồn
cái chết vào đường cùng. Tức là, người đó sống một cách thoải
mái. Theo nghĩa này, qua avidya người đó vượt qua cái chết -
nhưng người đó không thể đạt tới cái bất tử. Người đó đơn giản
kiểm soát cái chết hoàn toàn thoải mái.
Với sự trợ giúp của avidya chúng ta có thể tồn tại, nhưng
chúng ta không thể nếm trải thực chất của cuộc sống. Chúng ta
có thể đơn thuần tồn tại. Điều này nên được gọi là sống vô vị.
Chúng ta sẽ chạy theo quá trình của cuộc sống. Mọi thứ - thức
ăn, nhà cửa, thuốc thang và vân vân - sẽ có sẵn cho chúng ta.
Chúng ta sẽ có tất cả nó, và cuộc sống sẽ trôi qua dễ chịu, thoải
mái. Nhưng cái bất tử sẽ không có sẵn cho chúng ta. Và cho dù
avidya có thành công trong việc ngăn cản cái chết, cái bất tử vẫn
sẽ không sẵn có.
Khoa học hiện đại bận rộn tìm kiếm các cách thức và
phương tiện để chinh phục cái chết. Toàn thể nỗ lực của khoa học
thực sự để cứu con người khỏi cái chết. Đó là lí do tại sao khoa
học sính tìm ra cách thức để cái chết có thể được tránh, cách thức
nó có thể được tránh mãi mãi. Tình huống này có thể nảy sinh

trong tương lai xa khi chúng ta có thể, nếu chúng ta muốn, tránh
cái chết mãi mãi. Nếu chúng ta hiểu đúng tiến bộ của khoa học
trong ba nghìn năm qua chúng ta sẽ thấy rằng điều này đã là toàn
bộ hoạt động của nó. Toàn bộ xung đột của nó là chống lại cái
chết, và nó đã thành công tới một mức độ lớn.
Một nghìn năm trước đây, chín trong mười đứa trẻ mới sinh
thường chết, còn ngày nay, trong những nước mà khoa học có
tiến bộ nổi bật, thậm chí không đến một trong mười đứa trẻ mới
sinh ra bị chết. Trong những cái xương mà các nhà khoa học tìm
ra về những người sống mười nghìn năm trước đây, không mấy
người được coi như đã sống quá hai mươi nhăm tuổi. Không
người nào sống lâu hơn bốn mươi nhăm tuổi. Không một bộ
xương nào được tìm thấy vào thời ấy trên trái đất này của người
mười nghìn năm trước đây chỉ ra rằng người đó sống lâu hơn bốn
mươi nhăm tuổi.
Vậy mà ngày nay có hơn một nghìn người trên một trăm
năm mươi tuổi ở nước Nga Xô viết. Việc sống một trăm tuổi bây
giờ trở thành chuyện bình thường. Bạn có thể ngạc nhiên mà đọc
trong báo rằng một ông già chín mươi tuổi người Nga mới lấy
vợ. Chúng ta nghĩ người già phải lú lẫn lắm. Nhưng nhớ rằng ông
già đó vẫn chưa là già đâu, và rằng ông ấy không làm bất kì cái gì
không thông thường. Khi ông già chín mươi tuổi lấy vợ ở Nga,
đừng so sánh ông ấy với người già ở nước chúng ta. Người già ở
nước chúng ta sẽ chết hai mươi năm trước khi đạt tới độ tuổi ấy.
Ông già chín mươi tuổi đó thuộc vào một cộng đồng nơi độ tuổi
tối đa là một trăm năm mươi tuổi. Đến độ tuổi nào một người vẫn
còn là trẻ khi khoảng đời của người đó mở tới một trăm năm
mươi tuổi? Bạn sẽ không ấn định độ tuổi đó là ít nhất ở một trăm
chứ?
Bất kì khi nào khoa học thành công, cái chết lại bị đẩy lùi xa
thêm một chút, và trong những thời gần đây khoa học đã thực
hiện thêm nhiều tiến bộ nữa. Rất có cơ may là dường như đến
cuối thế kỉ này chúng ta sẽ có thể giữ cho con người sống vô hạn
định nếu chúng ta muốn làm điều đó. Sẽ không có chướng ngại
còn lại để ngăn cản khoa học hoàn thành điều đó. Con người có
thể được làm cho sống vô tận. Đó là lí do tại sao một số nhà tư
tưởng phương Tây, và đặc biệt là Mĩ, đã bắt đầu phản đối kịch
liệt rằng trước khi khoa học thành công trong việc kéo dài cuộc
sống của con người, chúng ta phải bổ sung thêm qui tắc này vào
hiến pháp của đất nước - rằng mọi người được sinh ra đều có
quyền được chết. Bằng không một tình huống rất khó khăn sẽ
nảy sinh; bởi vì nếu chính phủ không cho phép một người được
chết, người đó sẽ không có quyền được làm như vậy.
Cho tới tận bây giờ chúng ta đã đặt ra các qui tắc trên toàn
thế giới rằng không ai có quyền được giết người khác. Nhưng
bây giờ, trên toàn thế giới - đặc biệt là ở các nước như Thuỵ sĩ,
Thuỵ điển và Na uy, nơi khoa học đã thành công trong việc kéo
dài cuộc sống con người - mọi người bắt đầu khuấy lên việc kết
thúc cuộc sống. Những người thông minh đã khởi xướng những
chiến dịch tuyên truyền xác nhận rằng không bác sĩ nào được
quyền cứu mạng cho người muốn được chết, và nếu bác sĩ cứu
mạng cho người như thế, phải coi đó là sự lạm dụng chống
quyền cơ bản của người đó, quyền cơ bản của người đó đối với
cuộc sống của riêng mình.
Chúng ta đang trong một vị thế nguy hiểm. Giả sử một người
đã một trăm năm mươi tuổi. Bây giờ, người đó sẽ là ngớ ngẩn
nếu người đó muốn sống lâu hơn, người đó muốn có nghỉ ngơi
mãi mãi, được chết. Nhưng các bác sĩ phải giữ người đó ở bệnh
viện để chữa chạy và cố gắng giữ người đó sống, bởi vì hiện tại
các bác sĩ không có quyền giúp cho người ta chết. Cho nên họ sẽ
cố gắng tối đa để cứu người này. Nếu mặc cho những cố gắng
của bác sĩ, người bệnh vẫn chết, đấy là vấn đề khác. Cho nên sự

khuấy động cứ tiếp tục để đòi cho con người cái quyền được chết
nếu người đó chọn lựa cái chết.
Vấn đề này không mấy chốc đang trở thành rất có ý nghĩa,
bởi vì không một cơ chế nào đã tìm ra trong thân thể con người
mà thực tế có thể xua đuổi được cái chết. Lí do duy nhất cho cái
chết xảy ra là ở chỗ cho tới nay vẫn không thể thay thế được các
cơ quan vật lí của thân thể. Chúng ta không có khả năng thay thế
được những bộ phận nào đó của thân thể, và đó là khó khăn. Khi
chúng ta tiếp tục đạt tiến bộ trong việc thay thế các bộ phận con
người, cái chết sẽ không còn là một hiện tượng không thể tránh
khỏi cho con người nữa. Nó sẽ trở thành một hành động của ý chí
riêng của người ta. Nhớ trong tâm trí, không bao lâu nữa điều sẽ
xảy ra là việc không người nào, ngoại trừ bị tai nạn, sẽ chết trong
tiến trình thời gian. Cho nên sẽ có ngày càng ít cái chết tự nhiên
và nhiều tự tử hơn trên thế giới. Chắc chắn đấy sẽ là tự tử nếu
một người yêu cầu bác sĩ chấm dứt cuộc đời hộ mình. Thế thì tự
tử sẽ là một phương tiện chết thông thường.
Ngay từ thời rất cổ đại, con người đã tuyên bố rằng cái chết
có thể vượt qua được nhờ có avidya. Điều mà y học của phương
Tây nói ngày nay, được tuyên bố trong Upanishad. Họ nói cái
chết có thể bị hạn chế nhiều đến mức nó thực sự bị avidya vượt
qua. Cái bên trong vĩnh hằng không bao giờ có thể chết. Cái chết
chỉ là của thân thể; thế thì cái bên trong vĩnh hằng của chúng ta
chấp nhận một thân thể mới.
Tuy nhiên, nếu chúng ta có thể giữ thân thể cũ mạnh khoẻ và
tích cực, thế thì không có nhu cầu chấp nhận thân thể mới, và
việc chấp nhận thân thể mới dường như tuyệt đối không kinh tế.
Dường như là tự nhiên không có kinh nghiệm về bất kì cái gì của
khoa học kinh tế. Nó cho ra đời trẻ con và giết chết người già.
Người già của chúng ta đều được huấn luyện và có kinh nghiệm,
rất nhiều nỗ lực đã đổ vào việc huấn luyện cho họ, trong khi trẻ
con, những người thay thế họ chưa được huấn luyện gì, vô dụng
toàn bộ. Tự nhiên chấm dứt cuộc sống của những người đã lao
động bẩy mươi năm và cho sinh ra những đứa trẻ không có tri
thức gì, cho nên chúng phải được nuôi nấng dạy dỗ. Điều này rất
không kinh tế.
Nền kinh tế sẽ không cho phép người bẩy mươi tuổi, với tất
cả kinh nghiệm của mình, được chết. Một người bẩy mươi tuổi
hay cho rằng sẽ có cuộc sống mới sau cái chết của người đó - và
sẽ phải mất từ hai mươi cho tới hai mươi nhăm năm trong giáo
dục và đào tạo bản thân mình, chỉ để thu lại một cách khó khăn vị
trí mà người đó đã có vào lúc chết. Điều này thật là vô giá trị.
Cho nên khoa học bận rộn theo chiều hướng này, và làm mọi nỗ
lực để chấm dứt phí hoài này. Nếu chúng ta có thể tiết kiệm cuộc
sống của Einstein, phí hoài lớn lao được tránh khỏi. Nếu ông ấy
lấy ba lần sinh, sự tăng trưởng về tri thức gây ra bởi điều này sẽ
không lớn như ông ấy sống liền ba trăm năm, bởi vì điều này sẽ
là trưởng thành liên tục. Sẽ không có gián đoạn thường xuyên ở
giữa. Sẽ không có những lỗ hổng hai mươi nhăm hay ba mươi
năm để giới hạn trưởng thành đó. Cho nên nếu chúng ta giữ cho
Einstein sống được ba trăm năm, chúng ta không thể hình dung
nổi ông ấy sẽ cống hiến thêm bao nhiêu nữa cho toàn bộ kho tri
thức. Và tri thức là vô tận.
Có vô số triệu tế bào trong bộ não nhỏ bé của con người, và
các nhà khoa học nói rằng mỗi tế bào đều có khả năng lưu giữ tri
thức đến mức thông tin chứa trong mọi thư viện của thế giới có
thể được cất giữ trong bộ não con người. Có nhiều triệu tế bào là
một tiềm năng bao la đến mức từng cá nhân có thể là người chủ
của mọi tri thức hiện có trên thế giới ngày nay. Điều chúng ta
chưa xây dựng ra được thiết bị mà qua đó chúng ta có thể rót
nhiều tri thức vào bộ não con người là vấn đề khác. Cách thức
truyền đạt tri thức của chúng ta còn rất sơ cấp. Một đứa trẻ chắc
chắn sẽ học được điều gì đó sau khi đã được dạy trong hai mươi

năm - nhưng không cái gì thực sự được đạt tới. Sau khi cho ai đó
hai mươi năm giáo dục, phần lớn điều chúng ta có thể nói là ở
chỗ người đó không được giáo dục. Chỉ ngần này là có thể.
Không điều gì đặt biệt là được đạt tới. Cho dù chúng ta có cung
cấp việc giáo dục cho cả bẩy mươi năm, không mấy điều được
đạt tới. Kho tri thức là khổng lồ và chúng ta không có thiết bị lẫn
hệ thống chúng ta sẽ cần để rót tri thức vào trong bộ não con
người. Do đó nhiều cách thức và phương pháp đang được thăm
dò sau khi liên tục phát triển các kĩ thuật tiên tiến về giáo dục.
Công trình lớn về việc dạy học trong khi ngủ hiện đang được
tiến hành tại nước Nga. Trẻ con thường đã được dạy học trong
ngày, và dành ban đêm cho việc ngủ; mười hai giờ ban đêm bị
phí hoài. Cho nên ở Nga người ta cho bật băng ghi âm vào tai trẻ
nhỏ khi chúng đang ngủ để cho chúng nhận được việc dạy học
trong cả thời gian đêm nữa. Vậy những nỗ lực lớn đang được tiến
hành để làm giấc ngủ thành trung gian, công cụ, của việc truyền
đạt dạy dỗ, và họ đã thành công trong việc này ở mức độ lớn. Hi
vọng của họ là trong tương lai gần họ có khả năng truyền đạt việc
nhiều việc dạy trong bẩy năm như bây giờ được dạy trong mười
lăm năm, thông qua cả việc dùng thời gian ban đêm nữa.
Cũng còn có một thuận tiện khác cho thực nghiệm mới này.
Khi giáo viên đang dạy cho trẻ con trong những giờ thức của
chúng, có phát sinh xung đột giữa bản ngã của thầy và bản ngã
của trẻ em, và điều này tạo ra cản trở lớn cho tiến bộ của đứa trẻ.
Không có xung đột khi trẻ đang ngủ và việc dạy được hấp thu
trực tiếp. Giáo viên không có đấy và trẻ con cũng không có đấy.
Học sinh đang ngủ, thầy không hiện diện, chỉ có băng ghi âm là
chạy. Băng chầm chậm đưa lời dạy vào não trẻ nhỏ trong cả đêm,
và chúng nhận được lời dạy đó một cách trực tiếp.
Tuyên bố của Upanishad rằng cái chết có thể bị vượt qua
nhờ có avidya, khoa học, nên được chuyển thành bài viết cho mọi
đại học. Hiền nhân của Upanishad nói điều này là như vậy bởi vì
cái chết chỉ đơn thuần là thảm kịch thể chất, điều ngẫu nhiên.
Nếu chúng ta có thể phát triển những công cụ và công nghệ thích
hợp, cái chết có thể bị đẩy lùi ra xa thêm chút ít. Không có khó
khăn gì về việc này .
Cho tới nay khoa học đã thiếu các phương tiện để phục hồi
người chết về cuộc sống, nhưng các nhà khoa học hi vọng có khả
năng đem cuộc sống mới cho người đã chết vào cuối thế kỉ này.
Một người chết mười lăm năm trước đây đã làm một chúc thư
mười triệu đô la dành cho mục đích gìn giữ thân thể chết của ông
ấy theo cách an toàn nhất ít nhất tới lúc ông ấy có thể được làm
sống lại. Một số tiền quãng hàng trăm nghìn ru pi mỗi ngày đang
được tiêu ra để gìn giữ cái xác chết của ông ấy theo cách tốt nhất
để cho thậm chí không có chút xíu phân huỷ trong nó. Ý định là
bản quản cái xác chết của ông ấy trong cùng một điều kiện như
nó thế, khi ông ấy chết, để cho nếu chúng ta có thể phát hiện ra
chìa khoá khoa học cho vấn đề này thì chúng ta có thể làm sống
lại xác của ông ấy và cho ông ấy một cuộc sống được làm mới.
Những người duy linh rất sợ hãi về những nghiên cứu này.
Họ nói, “Nếu những thực nghiệm đó thành công, cái gì sẽ là vị trí
của linh hồn?” Xác chết của người này có thể được đem tới sống
lại chỉ với một điều kiện - rằng khoa học có khả năng bảo tồn xác
của người đó trong điều kiện tốt. Đây là phần cần của thực
nghiệm này, nhưng nó không phải là tất cả. Nếu linh hồn của
người đó đang lang thang và còn chưa đi vào một thân thể khác,
thế thì nó sẽ đi vào thân thể chết này; và tôi cảm thấy rằng linh
hồn của người này sẽ vẫn còn lang thang và chờ đợi. Người này
đã từ giã cõi đời sau khi làm một bản di chúc rất có giá trị. Mười
triệu đô la không phải là số tiền nhỏ. Người đó chắc chắn sẽ chờ
đợi. Người đó sẽ chờ đợi thêm mười năm nữa, và nếu thân thể
người đó có thể được làm sống, người đó sẽ vào lại nó. Điều ấy

sẽ giống như việc vào lại ngôi nhà đã được xây dựng lại sau khi
đã sụp đổ.
Cái chết có thể bị vượt qua bởi avidya - khoa học - nhưng cái
bất tử thì không thể được kinh nghiệm qua nó. Phần thứ hai của
lời kinh này là quan trọng hơn, và là điều kiện cần. Có thể là
khoa học có khả năng đánh bại cái chết, và có thể làm cho con
người gần như bất tử, nhưng thế thì làm sao con người được ích
lợi bởi thay đổi này? Ngay cả sau khi trở thành gần như bất tử
người đó không thể có kinh nghiệm về bất tử. Ngay cả như thế
chúng ta sẽ không biết tới cái là bất tử trong chúng ta. Chúng ta
có thể có bẩy mươi năm tri thức, hay bẩy trăm năm tri thức;
chúng ta thậm chí có thể sống tới bẩy nghìn năm. Nhưng chúng
ta không có kinh nghiệm chút nào về cái đã có đó trước cuộc
sống chúng ta, cái đã tồn tại trước việc sinh của chúng ta và cũng
sẽ tồn tại sau cái chết của chúng ta. Nếu chúng ta muốn biết -
kinh nghiệm - cái bất tử, chỉ vidya, tri thức thực, là có ích.
Upanishad rất kính trọng avidya, khoa học. Đó là cách thức
tranh đấu chống cái chết, mặc dầu nó bất lực để đạt tới cái bất tử.
Xung đột với cái chết là nỗ lực tiêu cực; kinh nghiệm cái bất tử là
thành tựu tích cực. Cố gắng kinh nghiệm cái bất tử là nỗ lực để
biết cái đã tồn tại trước việc sinh ra của chúng ta và cũng sẽ tồn
tại sau cái chết của chúng ta; cái đang trong hiện tại, cái đã có
trong quá khứ và cái sẽ có trong tương lai nữa. Nó có trước khi
thân thể này tồn tại, và nó sẽ vẫn còn tồn tại khi thân thể này đã
tàn lụi.
Biết điều này là đạt tới cái bất tử. Cứ kéo dài cuộc sống của
thân thể này đơn thuần là trong xung đột với cái chết. Nó là cuộc
vật lộn để mở rộng khoảng cách giữa sinh và tử, trong khi đi sâu
vào kinh nghiệm này về cái vượt ra bên ngoài sinh và tử là khám
phá ra cái bất tử. Upanishad tuyên bố rằng cái bất tử sẽ được kinh
nghiệm thông qua vidya - tri thức thực. Giáo huấn nào về vidya
có thể hướng dẫn chúng ta bây giờ hướng tới cái bất tử?
Điểm đầu tiên là ở chỗ người nghĩ mình là thân thể không có
khả năng hướng tới cái bất tử. Cho nên lời kinh đầu tiên là để lột
bỏ sự đồng nhất với thân thể người ta. Bao giờ cũng biết tới điều
đó, nhớ tới nó hàng ngày. Nhận biết về nó thường xuyên, nghĩ
đến nó thường xuyên - rằng, “Mình không là thân thể.” Khi bạn
hiểu sâu và thiết lập lời kinh này ngay bên trong bạn, ngần ấy sẽ
đưa bạn tới cái bất tử. Ngược lại, chừng nào tin tưởng vững chắc
rằng “Mình là thân thể này” còn bắt rễ trong bạn, ngần ấy sẽ đưa
bạn tới avidya, hướng tới xung đột với cái chết. Và cuộc sống là
ở mức chúng ta thường xuyên được nhắc nhở hai mươi bốn tiếng
một ngày rằng “Mình là thân thể.”
Nếu chân chúng ta bị thương một chút, chúng ta lập tức nhớ
ngay, “Mình là thân thể.” Nếu chúng ta đói, chúng ta nhớ, “Mình
là thân thể.” Nếu có một chút đau đầu là chúng ta nhớ, “Mình là
thân thể.” Nếu có cơn sốt chúng ta liền nhớ, “Mình là thân thể.”
Khi tuổi thanh xuân tới chúng ta nhớ, “Mình là thân thể.” Khi
tuổi già tới chúng ta nhớ, "Mình là thân thể." Cuộc sống thường
xuyên nhắc nhở chúng ta từ mọi phía rằng, “Mình là thân thể,”
trong khi đó chúng ta không nhận được chỉ dẫn nào từ bất kì đâu
rằng, “Mình không phải là thân thể.” Và một điểm đáng để ý là
chính với chân lí không có sẵn chỉ dẫn, trong khi với điều phi
chân lí hướng dẫn có đầy rẫy hàng ngày.
Nhưng chúng ta phạm phải một sai lầm nền tảng trong diễn
giải của mình về những chỉ dẫn đang hiện diện. Khi một điều
được chỉ ra, chúng ta xét nó theo ánh sáng hoàn toàn khác, và
hiểu lầm lớn xảy ra. Toàn thể cuộc sống do vậy trở thành việc
hiểu lầm lớn. Những chỉ dẫn ngụ ý điều này, nhưng chúng ta thấy
chúng theo ánh sáng khác. Khi bụng cần thức ăn, chúng ta nói,
“Tôi đói.” Điều này là không đúng. Chúng ta đã hiểu lầm gợi ý

này. Gợi ý chỉ là thế này - rằng tôi đã đi tới biết rằng bụng đang
đói. Nhưng chúng ta nói, “Tôi đói.” Không ai chỉ ra cách thức
chúng ta đi tới kết luận này. Mối móc nối ở giữa biến mất như
thế nào - rằng tôi đã nhận ra là bụng đang đói? ‘Tôi’ không bao
giờ có thể cảm thấy bụng đói cả, và vậy mà chúng ta vẫn nói,
“Tôi đói.”
Khi có đau đầu, tôi đi tới biết rằng có cái đau trên đầu.
Nhưng tôi nói rằng đầu tôi đau. Tôi bảo với người khác rằng tôi
bị đau đầu, còn tôi tự nhủ mình rằng có cái đau bên trong tôi.
Không có sai lầm gì trong những chỉ dẫn của thân thể cả, nhưng
chúng ta phạm phải sai lầm khi chúng ta cố gắng giải mã chúng.
Sai lầm là ở trong điều chúng ta làm với chúng.
Swami Ram bao giờ cũng nói điều đúng. Ông ấy bao giờ
cũng tự diễn đạt mình một cách đúng đắn. Kết quả là ở chỗ mọi
người coi ông ấy như người cung trăng. Thế giới này đầy người
điên - và không khó khăn gì trong việc phán người trí huệ là
người điên. Ram chưa bao giờ nói, “Tôi đói.” Đôi khi ông ấy sẽ
nói, “Nghe này, người anh em, có cơn đói ở đây.” Khi nghe ông
ấy, mọi người đều tự hỏi liệu ông ấy có tâm trí lành mạnh không,
và rồi đủ loại khó khăn sẽ nảy sinh.
Ram tội nghiệp đã diễn đạt bản thân mình một cách đúng
đắn, nhưng mọi người quen nghi ngờ về sự lành mạnh của ông
ấy. Đôi khi, trở về nhà, ông ấy sẽ nói, “Hôm nay vui quá. Khi
Ram bước đi trên đường mọi người bắt đầu xúc phạm ông ta.”
Ông ấy không bao giờ nói, “Họ bắt đầu xúc phạm tôi.” Ông ấy
không nói, “Khi tôi đi qua, người ta bắt đầu xúc phạm tôi.” Ông
ấy hay nói, “Hôm nay vui quá: một số người trên đường chế giễu
Ram. Ram cũng thấy cả họ nữa. Tôi nói, “Nhìm Ram kìa, họ
đang chế giễu cậu đấy.”
Điều đó đã gây ra khó khăn lớn khi ông ấy tới Mĩ lần đầu
tiên và bắt đầu gọi bản thân mình theo ngôi thứ ba. ở Ấn Độ, bạn
bè ông ấy đã biết rõ ông, họ biết rằng ông ấy có hơi chút quái dị.
Nhưng ở Mĩ thì khó khăn lớn nảy sinh vì mọi người không thể
đoán được điều ông ấy đang nói. Nhưng ông ấy hoàn toàn đúng
trong phát biểu của mình.
Bụng trở nên đói, nhưng bạn không bao giờ đói. Điều đó
chưa bao giờ xảy ra cho tới nay. Điều đó là không thể được, bởi
vì cái đói là bất lực trước linh hồn, trước cái ta. Linh hồn không
có cơ chế để cảm thấy đói, nó không có phương tiện để cảm thấy
cái dầy vò của cái đói. Không cái gì giảm đi hay được tăng lên
trong linh hồn; không cái gì rời bỏ linh hồn; không cái gì bị mất
đi từ nó để sinh ra sự giằn vặt của cái đói. Cái gì đó bao giờ cũng
giảm đi trong thân thể bởi vì nó chết đi hàng ngày, và bởi quá
trình chết này mà bạn cảm thấy cái đói.
Bạn có thể ngạc nhiên mà biết rằng cái gì đó bên trong bạn
chết đi hàng ngày; cho nên cái phần chết đi đó phải được thay thế
bởi thức ăn. Không có lí do khác. Một số phần nào đó bên trong
bạn chết đi, cho nên bạn phải thay thế những phần chết đó bằng
những phần đang sống sao cho bạn vẫn có thể còn sống. Do đó
bạn mất một nửa cân trọng lượng khi bạn nhịn ăn trong một
ngày. Lí do là gì? Một nửa cân đó đã chết và bạn đã không thay
thế nó. Bạn sẽ lại phải thay thế nó. Các nhà khoa học nói một
người có thể nhịn đói trong chín mươi ngày. Đến cuối cùng điều
này sẽ gây ra khó khăn lớn bởi vì người đó vẫn cứ sống trong
chín mươi ngày này bằng việc tiêu thụ mỡ tích luỹ trong thân thể;
nhưng ngày qua ngày, khi vét kiệt kho mỡ dự trữ của mình,
người đó chết dần. Người đó sẽ ngày một yếu đi hơn, mất trọng
lượng và cảm thấy kiệt sức, nhưng người đó vẫn tiếp tục sống.
Chúng ta thay thế những yếu tố chết của mình bằng thức ăn;
cái thiếu hụt được làm đủ lên. Nhưng linh hồn không chết.
Không yếu tố nào của nó bị kém đi, cho nên không có lí do cho
linh hồn cảm thấy đói. Có một điều đáng quan tâm nên biết về sự

kiện này. Linh hồn không cảm thấy đói; thân thể không biết cơn
đói. Thân thể cảm thấy đói nhưng linh hồn biết cơn đói. Toàn thể
hiện tượng này là cái gì đó giống như câu chuyện mà bạn có thể
đã nghe.
Ngày xưa một khu rừng bốc cháy. Một người mù và một
người què đi ngang qua khu rừng này. Người mù không thể thấy
được, nhưng người đó có thể bước; người đó có chân khoẻ. Thật
là nguy hiểm mà tiến bước. May mắn là lửa còn chưa lan tới nơi
họ đang đứng. Người què thì không thể bước đi nhưng có thể
thấy lửa đang lan tới. Hai người này phải là những người khôn
ngoan, mặc dầu bình thường những người như thế không được
như vậy. Làm sao bạn có thể trông đợi người mù khôn ngoan khi
người đủ mắt còn không khôn ngoan? Làm sao người què có thể
khôn ngoan khi người đủ chân không khôn ngoan? Nhưng hai
người này quả là khôn ngoan và họ đi tới hiểu biết. Người què
nói, “Nếu chúng ta muốn cứu mạng mình chỉ còn mỗi một cách.
Để tôi ngồi lên vai bác. Chúng ta sẽ dùng mắt của tôi và chân của
bác. Tôi sẽ hướng dẫn và bác sẽ bước theo.” Do đó họ cứu được
tính mạng mình.
Hành trình cuộc sống cũng là một loại hiểu biết sâu sắc giữa
thân thể và linh hồn vậy. Đó là cuộc hành trình của người mù và
người què. Linh hồn có kinh nghiệm - nó kinh nghiệm - nhưng
không cái gì xảy ra cả; việc xảy ra là trong thân thể, nhưng thân
thể không kinh nghiệm. Tất cả mọi kinh nghiệm đều do linh hồn
cảm nhận; và mọi điều xảy ra đều diễn ra trong thân thể, nhưng
thân thể không kinh nghiệm chúng. Do đó tất cả những điều này
là rắc rối!
Ngày đó cũng rắc rối nào đó phải đã nảy sinh, nhưng Aesop,
người đã viết ra câu chuyện người mù và người què này, đã
không nhắc gì đến điều đó. Điều cần đối với hai người này là vội
vã, cho nên khi người mù chạy thật nhanh còn người què nhìn
thật chóng, rất có thể là người mù cảm thấy, “Tôi có thể thấy,”
còn người què cảm thấy, “Tôi đang chạy.”
Điều này đích xác là điều xảy ra với chúng ta. Chính điều
xảy ra này cần phải bị phá vỡ. Cả hai nên được phân biệt cho rõ
ràng. Cả hai nên tách bạch ra, bằng không dây dợ của chúng ta sẽ
bị bắt chéo. Mọi việc xảy ra đều diễn ra trong thân thể, và linh
hồn kinh nghiệm chúng. Bạn sẽ bắt đầu hiểu thấu lời kinh về
vidya khi bạn tách bạch hai phần này ra. Thế thì cuộc hành trình
của bạn hướng tới điều bất tử sẽ bắt đầu.
Đủ cho hôm nay. Chúng ta sẽ lại nói vào sáng mai. Bây giờ
chúng ta bắt đầu cuộc hành trình hướng tới điều bất tử.

**************************************************************************************************************

13 Con vật, cây cỏ hay Thượng đế?

**Những người bị cuốn hút vào sự hoàn thành
của prakriti - tạo hoá biểu hiện -
thì đi vào bóng tối,
còn những người bị hấp thu vào sự hoàn thành
của prakriti giấu kín - tạo hoá không biểu hiện -
thì đi vào bóng tối còn lớn hơn**

Cái biểu hiện ra ngoài của sự tồn tại được gọi là prakriti -
bản tính vật chất của vũ trụ - thấy được bằng mắt, chạm được
bằng tay, biết được qua các giác quan; tất cả những cái mà giác
quan của chúng ta trở nên thông thạo. Có thể nói rằng Thượng đế
thấy được là prakriti; nhưng đây là kinh nghiệm của những người
biết Thượng đế. Họ có thể xác nhận rằng prakriti là thân thể của
Thượng đế. Nhưng chúng ta chỉ biết có thân thể, chúng ta không
biết rằng nó là thân thể của Thượng đế. Prakriti là hình dạng của
tâm thức vô hình, ẩn kín đó, nó là dạng thấy được của cái đó. Sự
kiện này chỉ được biết tới bởi những người biết tới cả cái vô hình
nữa. Bằng không chúng ta chỉ biết ngần này thôi - đó là cái thấy
được tất cả là cái có đó.
Upanishad nói rằng những người bị cuốn hút vào tôn thờ
prakriti - thiên nhiên thấy được - đi vào bóng tối. Tất cả chúng ta
đều bị cuốn hút vào theo cách này. Một mình những người ít bị
cuốn hút là những người đưa ra lời cầu nguyện và tôn thờ trong
các đền đài. Nhưng chúng ta, những người bị cuốn hút vào trong
prakriti, đưa ra lời cầu nguyện trong các ngôi đền của giác quan.
Upasana - tôn thờ - cũng có nghĩa là ngồi gần. Khi bạn bị cuốn
hút vào việc nếm một thứ, tức là bạn đang ngồi gần với vị giác.
Khi bạn đang bị cuốn hút vào trong ham muốn dục, tức là bạn
đang ngồi gần cơ quan sinh dục; việc tôn thờ cơ quan sinh dục
tiếp diễn vào lúc đó. Những người tự gọi mình là vô thần cũng bị
cuốn hút, không phải vào việc tôn thờ Thượng đế, mà là vào việc
tôn thờ thiên nhiên biểu hiện.
Rất khó giữ cho bản thân mình khỏi ‘ngồi gần’. Chúng ta
phải ngồi gần cái gì đó - chúng ta không thể tránh được điều đó.
Nếu chúng ta không ngồi gần Thượng đế chúng ta sẽ ngồi gần
thiên nhiên biểu hiện. Nếu chúng ta không ngồi gần linh hồn
chúng ta sẽ ngồi gần thân thể. Nếu chúng ta không ngồi gần tâm
linh và điều siêu việt thì chúng ta sẽ ngồi gần thế gian và điều

trần tục. Chắc chắn chúng ta sẽ ngồi ở đâu đó. Hành động ngồi
gần sẽ tiếp diễn trong mọi hoàn cảnh chỉ với một ngoại lệ. Tôi sẽ
nói về điều này về sau.
Lời kinh này của Upanishad nói rằng người đi vào bóng tối
là những người bị cuốn hút vào tôn thờ thiên nhiên biểu hiện. Họ
đi vào bóng tối bởi vì họ có thể không thiết lập mối liên hệ nào
với ánh sáng. Tôn thờ và ngưỡng mộ thiên nhiên biểu hiện chủ
yếu là do bóng tối, do dốt nát. Nói thực, bóng tối là cơ sở trên đó
việc bị cuốn hút vào thiên nhiên biểu hiện lệ thuộc vào. Nếu bạn
muốn đáp ứng cho bất kì ham muốn hay đam mê nào, sẽ rất dễ
dàng chỉ chính xác mức độ mà tâm trí bạn được rót đầy với bóng
tối và dốt nát. Sẽ khó ngồi gần ham muốn nếu có ánh sáng - tri
thức thực - trong tâm trí. Việc chạy đuổi, tìm theo ham muốn, sẽ
đích xác nhịp nhàng khi tâm trí được chất đầy với không nhạy
cảm. Ham muốn liên quan tới mọi giác quan dẫn chúng ta vào
giấc ngủ sâu. Nếu bạn tỉnh thức bạn sẽ vượt qua các giác quan;
và nếu bạn ngủ và không nhạy cảm bạn sẽ thấy bản thân mình
ngồi gần các giác quan.
Vô ý thức càng lớn bạn sẽ càng ngồi gần hơn với giác quan.
Do đó người tôn thờ thiên nhiên biểu hiện sẽ cần trong vô ý thức.
Những người sudng kính giác quan sẽ phải khám phá ra nhiều
cách thức và phương tiện để vẫn còn trong vô ý thức. Do đó họ
bao giờ cũng phải, dần dần, tìm ra những chất say mới. Không có
gì đang ngạc nhiên là họ phải la cà các quán rượu mạnh hay nhẹ.
Thực tại, người sùng kính các giác quan không thể xa rời khỏi
chất say trong thời gian lâu được. Và bất kì khi nào số những
người tôn thờ như thế tăng lên, càng nhiều cách thức và phương
tiện mới sẽ được khám phá để duy trì vô ý thức. Để được cuốn
hút trong tận hưởng của giác quan, để ngồi gần hơn với giác
quan, điều tốt là giữ cho tâm trí vô ý thức và thiếu suy xét sáng
suốt. Cần phải giữ cho tâm trí trong trạng thái đê mê, trong
không nhạy cảm, nếu bạn muốn trở nên giận dữ hay tham lam
hay tràn đầy ham muốn dục. Chỉ trong trạng thái vô ý thức như
vậy của tâm trí bạn có thể ngồi gần và tôn thờ, thiên nhiên biểu
hiện.
Cho nên bạn thấy lời kinh này của Upanishad là rất có ý
nghĩa. Nó nói, những người đi vào bóng tối là những người bị
cuốn hút trong sự tôn thờ cái biểu hiện, cái thấy được. Nó cũng
nói điều gì đó khác nữa - rằng những người đi vào bóng tối lớn
hơn là những người bị cuốn hút vào tôn thờ bản ngã. Việc tôn thờ
giác quan là tự nhiên. Nó là một loại tôn thờ được ngay cả loài
vật thực hành, nhưng không con vật nào bị cuốn hút vào tôn thờ
karma upasana - tức là, trong việc thoả mãn cho bản ngã. Cần
hiểu điều này thêm một chút. Việc tôn thờ karma upasana là duy
nhất cho con người.
Giả sử một người đang tìm kiếm danh vọng. Không có khả
năng trực tiếp nào để thoả mãn cho bất kì giác quan đặc biệt nào
bởi việc thu được một địa vị chuyên nghiệp nào đó. Bởi việc thu
được một địa vị nào đó người ta có thể làm dễ dàng cho bản thân
mình để thoả mãn gián tiếp những giác quan nào đó, nhưng
không có khả năng trực tiếp nào cho việc thoả mãn. Các giác
quan này không có mối liên hệ trực tiếp nào với địa vị. Mối quan
tâm hay ham muốn tìm kiếm địa vị không thuộc vào các giác
quan, nó đi đôi với bản ngã - với “Tôi là ai đó.” Đúng là việc là
một ai đó sẽ đem những tiện nghi lớn để thoả mãn các giác quan
hơn một người là không ai cả, nhưng “Tôi là ai đó” có sự cuốn
hút và thích thú riêng của nó. Chính mối quan tâm này - việc thoả
mãn cho bản ngã người ta - được ngụ ý bởi karma upasana.
Upanishad nói một người như vậy đi vào trong bóng tối lớn
hơn. Người đó đi vào trong bóng tối lớn hơn bóng tối của loài vật
bởi vì mối quan tâm mà loài vật có là tự nhiên và vật lí. Một
người quan tâm vào ăn uống: đấy là tựa loài vật. Theo một nghĩa
nào đó, người đó là một con vật. Nhưng giả sử một người quan

tâm tới chính trị và cứ đi tìm kiếm hết địa vị nọ đến địa vị kia;
một người như thế là tồi hơn con vật. Mối quan tâm của người đó
không tự nhiên chút nào, nó bị hư hỏng. Mối quan tâm được dẫn
từ việc nắm giữ một vị trí đặc biệt không thoả mãn cho bất kì
giác quan nào, bất kì cơ quan tự nhiên nào. Nó là phát triển rất
phi tự nhiên. Cái nút, khối u, của bản ngã bên trong cứ tăng dần
và cho người đó sự thích thú của cảm giác, “Mình là ai đó và
người khác là không là ai cả.” Đấy là mối quan tâm về việc chi
phối, thích thú về quyền lực trên người khác. Đấy là mối quan
tâm về việc chà nát người khác dưới chân mình. Đấy là thích thú
của việc chẹn họng người khác.
Do đó nghĩa của việc tôn thờ karma prakriti nằm ở nhiều
cách thức và phương tiện khác nhau được bầy đặt ra để thoả mãn
bản ngã. Chúng có thể được hướng trực tiếp tới danh vọng, tới
địa vị, tới của cải. Đúng, người ta thu được nhiều tiện nghi hơn
để thoả mãn những ham muốn trần tục của mình nếu người đó có
tiền. Nếu người đó không có tiền, người đó phải đương đầu với
nhiều khó khăn; nhưng có một số người tôn thờ tiền bạc chỉ vì
tiền bạc. Họ không tôn thờ nó bởi vì với tiền bạc họ có thể mua
được gái đẹp hay đồ ăn ngon. Họ tôn thờ nó chỉ với một ý tưởng
rằng họ sẽ là ai đó nếu họ có tiền. Vấn đề về việc có khả năng
mua cái gì đó không làm họ băn khoăn. Đấy không phải là vấn đề
đối với họ.
Trong khi theo đuổi việc tích luỹ của cải điều thường xảy ra
là người ta mất năng lực tận hưởng những vui thú của giác quan.
Thế thì tất cả những điều còn lại để người đó làm chỉ là cất vào
kho cái giầu có của mình - để thấy và kiểm tra số dư ngân hàng
của mình, chung cuộc điều này trở thành mối quan tâm duy nhất
của người đó. Người như vậy vẫn còn bị cuốn hút và trong hoạt
động này từ sáng tới tối. Người đó không ngủ yên trong đêm
cũng không tỉnh thực trong ngày. Người đó đuổi theo tiền và chất
nó thành đốn. Người khác đuổi theo danh vọng và cứ theo đuổi
nó ngày càng nhiều. Người khác đuổi theo cái gọi là tri thức, tự
để mình thu thập thật nhiều thông tin nhất có thể được. Mọi
mạng lưới to lớn các hoạt động của chúng ta bắt đầu từ ham
muốn của chúng ta để thoả mãn cho bản ngã của mình - cảm giác
của chúng là ai đó.
Nhận biết về ít rối loạn hay hỗn loạn biết bao có trong cuộc
sống của loài vật so với thế giới con người, bởi vì các con vật đều
là kẻ tôn thờ nồng nhiệt về thiên nhiên biểu hiện. Chúng là những
kẻ sùng kính chắc chắn và không thể bị lôi kéo sang bất kì dạng
tôn thờ nào khác. Chúng muốn thức ăn, chúng muốn bảo vệ,
chúng muốn thoả mãn ham muốn dục của chúng, chúng muốn
ngủ, và thế rồi cuộc hành trình cuộc đời của chúng qua đi. Con
vật không muốn gì nhiều hơn những điều này. Theo một nghĩa
nào đó thì nhu cầu của chúng là ít và có giới hạn. Theo một nghĩa
nào đó chúng là rất có chừng mực - ham muốn của chúng là rất
ít. Chúng không bao giờ lo nghĩ về bất kì cái gì khác khi nhu cầu
của các giác quan của chúng được thoả mãn.
Con vật không có ham muốn làm tổng thống. Nó cứ nghỉ
ngơi sau khi ăn thức ăn, và ngay cả nhu cầu hoan lạc dục của nó
cũng rất hạn chế và bị kiểm soát. Ngoại trừ trong thế giới loài
người, nhu cầu về tận hưởng dục trong toàn thể thế giới loài vật
là theo chu kì. Có thời kì khi con vật đòi hỏi tận hưởng dục, và
sau khoảng chu kì đó nó mất mọi thôi thúc thoả mãn dục. Con
người là con vật duy nhất trên trái đất mà nỗ lực dục bao giờ
cũng tích cực, hai mươi bốn giờ một ngày và ba trăm sáu mươi
nhăm ngày một năm. Không có giới hạn nào cho thôi thúc tận
hưởng dục của con người; con người vẫn còn hăng hái mọi lúc.
Thèm khát hoan lạc dục tràn đầy cả đời con người. Không có con
vật nào khác hăng hái đến thế về dục. Nếu nó kiếm được thức ăn,
vấn đề chấm dứt ở đó - không có nhu cầu thêm nữa. Con vật
không có ham muốn lớn ngay cả để thu thập thức ăn cho ngày
mai, hay cho ngày kia, hay cho một hay hai năm tới. Nếu con vật

lo lắng kiếm ăn, nhiều nhất đấy cũng chỉ là cho một năm - mà
loại con vật như thế hiếm thôi. Con người là loài vật duy nhất
không chỉ lao động để tích trữ trong cả đời, mà còn lao động để
tích trữ cho sự tồn tại sau cái chết, nếu như có một sự tồn tại như
thế.
Ở Ai cập cổ đại, khi một người chết đi, người Ai cập hay để
tất cả những thứ cần thiết trong cuộc sống vào trong nấm mồ
cùng với cái xác ướp. Các thứ đều được để theo tỉ lệ với mức độ
vĩ đại của người chết. Nếu một hoàng đế chết, mọi hoàng hậu của
ông ấy đều phải bị chôn theo cùng với ông ấy vì ông ấy có thể
cần đến họ sau khi chết. Tất cả của cải, lương thực và rất nhiều
vật dụng khác của ông ấy cũng được giữ ở đấy. Những người vợ
còn sống bị chôn sống cùng người chồng chết bởi vì họ có thể có
ích sau cái chết! Không con vật nào lo lắng về bản thân nó sau
cái chết. Nó thậm chí không lo lắng gì về cái chết của nó. Trông
đợi thời gian của nó rất hạn chế. Con người làm các thu xếp theo
rất nhiều hình dạng và cách thức khác nhau cho thế giới tiếp theo,
thế giới bên kia. Người đó xây dựng đền đài và làm việc từ thiện
để cho người đó có thể tìm được hạnh phúc ở thế giới bên kia.
Người đó muốn được ghi lại ở thế giới bên kia rằng “Tôi đã cho
đi biết bao thứ để làm từ thiện, ở đây tôi trông đợi được phần
thưởng.”
Tôn thờ một mình các giác quan là kém tinh tế và phức tạp;
mạng lưới ham muốn và tôn thờ karma prakriti là kém tinh vi ở
những người nguyên thuỷ, cho nên không có nhiều căng thẳng
trong cuộc sống của họ. Tới một mức độ nào đó, trong các xã hội
nguyên thuỷ chỉ có các nhu cầu của giác quan, như có trong các
con vật. Tôn thờ karma prakriti không tồn tại. Khi con người cứ
ngày càng trở nên văn minh hơn, thoả mãn cho bản ngã thay vì
cho các giác quan trở nên có giá trị cao. Chúng ta coi trọng rất
nhiều về người biết hi sinh các nhu cầu giác quan của người đó
để thoả mãn bản ngã của người đó. Chúng ta gọi người đó là
người vĩ đại và quên mình, người vứt bỏ lo nghĩ về thức ăn, vợ
con giống nòi, chỉ vì địa vị. Người đó đang theo đuổi địa vị,
người đó đang theo đuổi danh vọng, và chúng ta nói, “Trông
người này! - người đó dửng dưng biết bao với thức ăn, quần áo,
với việc gia đình!” Nhưng khi bạn nhìn vào đằng sau các hoạt
động của người đó, bạn sẽ thấy rằng người đó đang hi sinh các
nhu cầu của các giác quan để thoả mãn cho bản ngã của mình.
Upanishad nói một cá nhân như thế đi vào bóng tối lớn.
Người bị cuốn hút chỉ theo các giác quan ở tình huống tốt hơn cá
nhân đó. Mạng nhện, mạng lưới của người đó không thật sâu và
tinh tế cho lắm bởi vì nhu cầu của các giác quan không có nhiều.
Đòi hỏi của bản ngã là vô tận. Cái đẹp về nhu cầu của giác quan
là ở chỗ tất cả chúng đều có ít, rất ít các nhu cầu, chúng bị giới
hạn. Chúng là lặp lại, nhưng chúng không phải là vô giới hạn.
Nhớ khác biệt này trong trí và hiểu nó. Những nhu cầu đó là
lặp lại nhưng không vô giới hạn. Không nhu cầu của bất kì giác
quan nào là vô giới hạn. Chưa bao giờ xảy ra chuyện bạn cứ ăn
mãi mà mà cái đói của bạn vẫn không được thoả mãn. Khi bạn đã
thoả mãn ham muốn dục của mình hôm nay, nó sẽ xuất hiện lại
vào ngày mai - nhưng cũng khi ham muốn hoan lạc dục của bạn
được thoả mãn hôm nay, bỗng nhiên bạn hoàn toàn được tự do
khỏi ham muốn đó. Ham muốn dục cũng không phải là vô giới
hạn. Nó chắc chắn là lặp lại, nhưng nó cũng bị giới hạn.
Bản ngã là vô giới hạn. Nó không yêu cầu lặp lại; nó yêu cầu
ngày càng nhiều hơn nữa. Dù bạn có thể trút đầy nó nhiều đến
đâu và thoả mãn nó, nó không bao giờ được đầy, nó không bao
giờ được thoả mãn. Bản ngã là tham lam vô độ, nó không thể
được thoả mãn. Nếu nó thu được vị trí này, nó lập tức bắt đầu
một chiến dịch để có vị trí khác tốt hơn. Ngay khi nó chiếm được
một địa vị này nó liền chuẩn bị cho địa vị cao hơn. Nếu bạn bảo
một người, “Anh đã là thứ trưởng,” thế thì người đó lập tức -

ngay đêm đó - bắt đầu mơ trở thành bộ trưởng. Người đó nói,
“Thế là được, một ham muốn đã được hoàn thành.” Thế rồi bản
ngã của người đó lập tức bắt đầu cho cuộc hành trình tiếp của nó.
Bản ngã là không lặp lại. Ham muốn, đam mê là lặp lại,
nhưng bởi vì các nhu cầu của chúng có giới hạn, chúng trở nên
tĩnh lặng khi chúng được thoả mãn. Khi chúng thức tỉnh lần nữa,
chúng lặp lại các nhu cầu. Đấy là lí do tại sao các con vật không
có khuynh hướng lo lắng và do vậy không bao giờ trở nên thần
kinh. Chúng không tự tử. Chúng chưa bao giờ cần được khám
bệnh tinh thần, chúng không cần bất kì nhà phân tâm nào. Chúng
không cần đến Freud, không cần Jung, không cần Adler; đây là
những người vô nghĩa đối với con vật. Nếu bạn chú ý đến cách
thức con vật như thế nào thì bạn sẽ thấy chúng rất tĩnh lặng.
Ngay cả những con vật dữ tợn nhất là tĩnh lặng. Nếu bạn đã thấy
một con hổ sau bữa ăn của nó, bạn sẽ thấy nó rất tĩnh lặng, không
một chút khó chịu nào. Nó là kẻ giết hại, con vật ăn thịt hoàn
toàn, nhưng bản tính giết hại của nó có đó chỉ chừng nào nó chưa
kiếm được thức ăn. Ngay khi ăn xong nó trở thành tuyệt đối bất
bạo hành - nó trở thành người Gandhi trung thành. Thế thì nó vẫn
còn dửng dưng với thức ăn bầy ra trước nó. Khi con sư tử nghỉ
ngơi sau bữa ăn, các con vật nhỏ hơn mà rất có thể trở thành bữa
ăn cho nó, tụ tập quanh nó và ăn những thức ăn còn lại của nó.
Nhưng thế thì nó không sẵn sàng giết chúng. Khi nó trở nên đói
vào ngày hôm sau nó sẽ sẵn sàng săn mồi và giết hại, nhưng
trước khi tới lúc đó việc giết hại đã chấm dứt. Cái đói của bản
ngã con người không bao giờ chấm dứt cả; ngược lại, nó cứ tăng
lên khi bạn thoả mãn nó.
Hiểu phân biệt này giữa các giác quan và bản ngã. Thoả mãn
các giác quan và chúng mau chóng đầy. Chúng sẽ thành trống
rỗng lần nữa và thế rồi có thể được làm đầy lần nữa. Nhưng bản
ngã không bao giờ đầy, nó không bao giờ được thoả mãn. Khi
bạn cứ rót đầy nó, nó cứ tăng lên thêm. Khi bạn ném mỡ vào lửa
để dập tắt nó, lửa càng cháy to hơn thay vì bị dập tắt đi; tương tự
như thế tất cả mọi thứ được ném vào để thoả mãn bản ngã đều
giúp làm tăng thêm nó. Nó bỗng nhiên thổi bùng lên ngọn lửa và
ngọn lửa cứ lên cao mãi. Cho nên bất kì cái gì được cúng tiến cho
bản ngã chỉ giúp cho nó phát triển thêm. Do đó, từ khoảnh khắc
người ta bị mắc vào trong sự kìm kẹp của bản ngã, người đó bị
vướng víu còn hơn cả con vật có thể bị trong khó chịu, lo âu,
căng thẳng và phiền nhiễu.
Một phong trào lớn để quay trở lại với tự nhiên đang diễn ra
ngày nay ở phương Tây. Các nam và nữ thanh niên mà chúng ta
gọi là hippy hay lập dị hay bọn bỏ học, hiện nay đang tiến hành
phong trào rộng lớn này. Nó đang hướng về việc quay trở về với
các giác quan. Họ nói, “Chúng tôi không cần giáo dục của các vị,
bằng cấp của các vị, địa vị, của cải, ô tô, nhà lầu. Chúng tôi chỉ
cần thức ăn, tình yêu và dục, thế là đủ. Chúng tôi không muốn tất
cả những thứ này của các vị.” Và tôi tin đây là một sự kiện rất
lớn xảy ra. Một phong trào như thế với qui mô rộng lớn như thế
chưa từng bao giờ xảy ra trong lịch sử loài người, khi người ta đã
nói, “Chúng tôi sẵn lòng vứt bỏ karma prakriti để quay trở lại với
cái tự nhiên được sinh ra từ các giác quan, thiên nhiên biểu hiện
của các giác quan, ham muốn và đam mê. Thế là đủ cho chúng
tôi, chúng tôi không ao ước điều nhiều hơn thế.”
Điều này chứng tỏ rằng mạng lưới các hoạt động do bản ngã
kích động đã trở thành nguy hiểm đến mức con người muốn thoát
ra khỏi nó và sẵn lòng giống như con vật. Ngay cả thế, con người
cũng không thể thoát khỏi bản ngã bởi việc trở thành giống như
con vật. Người đó có thể thoát khỏi bản ngã chỉ bởi việc trở
thành điều thiêng liêng. Bằng cách cuốn hút mình trong việc theo
đuổi những hưởng thú của giác quan, người đó sẽ thu được giảm
nhẹ nào đó, nhưng mạng lưới các hoạt động đó sẽ lại xuất hiện ra
lần nữa. Con người đã sống trong các giác quan của mình hai
nghìn năm trước đây, nhưng bản ngã đã nảy sinh từ những hoàn

cảnh đó. Nếu chúng ta quay ngày nay, bản ngã chắc chắn sẽ trở
ngày mai.
Lời kinh này nói những người bị cuốn hút vào trong sự tôn
thờ thiên nhiên biểu hiện vẩn vơ trong bóng tối, còn những người
đi lang thang trong bóng tối lớn hơn là những người bị cuốn hút
vào việc thoả mãn bản ngã của họ. Thế thì ai có thể vượt ra ngoài
bóng tối? Họ là ai?
Hai kiểu tôn thờ được tiến hành. Có những người tôn thờ
giác quan, và người tôn thờ bản ngã, và nói chung người tôn thờ
bản ngã chống lại việc tôn thờ các giác quan. Giả sử một người
đang trong từ bỏ. Bây giờ nếu chúng ta có thể thám hiểm hoàn
cảnh tâm trí người đó một cách kĩ lưỡng, nếu chúng ta có thể
thực hiện một chiến dịch thám hiểm tâm trí người đó, chúng ta sẽ
thấy rằng bí mật của từ bỏ của người đó là ở chỗ nó thoả mãn cho
bản ngã người đó. Người đó đã tiến hành nhịn ăn ba mươi ngày,
cho nên người đó được kính trọng với sự tôn vinh lớn của những
người trong thành phố; một cuộc đón tiếp lớn lao được bố trí cho
người đó. Người đó đã có khả năng kéo dài được việc nhịn ăn
trong ba mươi ngày.
Chúng ta tuyên bố điều đó là một hành động quên mình lớn
lao; việc vẫn cứ đói trong ba mươi ngày đâu có là việc nhỏ!
Không, đấy không phải là việc nhỏ đâu. Nhưng chắc chắn nó sẽ
là việc nhỏ nếu bản ngã đã được thoả mãn. Nếu bản ngã của
người đó nhận được sự thoả mãn từ việc đó con người sẽ vẫn còn
đói không chỉ ba mươi ngày mà ba mươi năm! Bản ngã sẽ thuyết
phục bất kì giác quan nào đi vào quên mình. Chúng ta từ lâu đã
biết bí mật này - thủ đoạn này - cho nên nếu chúng ta muốn việc
từ bỏ từ ai đó, chúng ta bắt đầu đánh vào bản ngã người đó.
Loài người rất quen thuộc với phương sách này. Đó là lí do
tại sao chúng ta đã kính trọng những người quên mình. Không ai
sẵn sàng quên mình nếu người đó không được kính trọng. Người
quên mình thực sự không trông đợi vào bất kì kính trọng và tôn
kính nào về từ bỏ của mình. Nếu bạn rút bỏ việc kính trọng của
mình, nếu bạn dừng việc kính trọng, bạn sẽ thấy: chín mươi chín
trong số một trăm người quên mình sẽ rút khỏi việc quên mình.
Nếu bạn muốn biết chân lí về thực hành này, chỉ cần rút bỏ sự
kính trọng của bạn khỏi những người như vậy.
Xem điều xảy ra. Một người chỉ ăn một bữa mỗi ngày, cho
nên mọi người tới chạm chân người đó và cúi lạy người đó. Họ
đã đem nhiều thức ăn cho bản ngã người đó, và điều đó là đủ cho
người đó. Người đó có thể dễ dàng bỏ bữa ăn thứ hai. Người đó
sẽ chịu khổ trong thân thể nhưng sẽ béo ra trong bản ngã. Vậy
mọi người có thể bị thuyết phục làm bất kì cái gì vì mục đích tôn
thờ bản ngã, và gần như mọi thứ đều đã được thử để thuyết phục
mọi người từ bỏ để thoả mãn bản ngã của họ. Trong lịch sử lâu
dài của nhân loại chúng ta thấy hàng nghìn phương sách thuyết
phục con người làm bất kì cái gì vì mục đích thoả mãn cho bản
ngã của họ.
Trong thời Trung cổ ở Châu Âu đã có một phong trào lớn
của những người sùng đạo, người tự quất roi vào mình. Những
người này được kính trọng tỉ lệ theo số lần họ tự quất mình, bởi
vì họ đoạ đầy thân thể mình nhiều đến thế. Một số trong họ là
những người phi thường. Công đức duy nhất của họ là ở chỗ họ
đã làm chảy máu và xé rách da thịt mình bằng việc quất roi vào
mình. Danh tiếng của họ lan rộng từ thành phố này sang thành
phố khác. Mọi người tuyên bố, “Người này tự trừng phạt mình
bằng việc đánh năm mươi roi vào thân thể mình; người kia đánh
một trăm roi,” và cứ thế. Điều này là công bố duy nhất của họ để
có danh tiếng; họ không có công đức nào khác, nhưng với một
mình điều này họ có đủ tư cách để được kính trọng lớn. Một số
người trở thành các chuyên gia lớn trong việc tự hành hạ mình.

Bây giờ, bạn sẽ ngạc nhiên và nói, “Đây là điên khùng gì thế
này? Cái gì là lí do để kính trọng một người không có công đức
nào khác hơn việc tự đánh mình?” Nhưng nếu bạn nghĩ thêm một
chút về những người sùng đạo riêng của mình, bạn sẽ biết lí do.
Một số vị thánh đi bộ hết chỗ này đến chỗ nọ - ông ấy không bao
giờ dùng xe cộ nào - và đấy là phân biệt của ông ấy, dấu hiệu của
ông ấy về sự kính trọng. Vị thánh khác lấy lời nguyện chỉ ăn một
bữa mỗi ngày; người khác lấy lời nguyện không bao giờ chạm tới
đàn bà, người khác vẫn còn ở trần.
Liệu những phẩm chất phân biệt này có đáng công đức
không? Chẳng có gì đặc biệt về chúng. Thế thì bí mật là gì? Bạn
có thể đi bộ bằng chân nhiều tuỳ thích: xét cho cùng, con vật nào
mà chả đi bằng chân! Không, nhưng người kính trọng một thánh
nhân bởi việc đi bộ chính là những người không còn có thể làm
được cái gì đó tự nhiên thế. Người chủ ô tô phải cúi đầu trước
người đi bộ này. Ông ta cảm thấy bản thân mình tầm thường khi
phải đương đầu với con người này, người đi bộ tới mọi nơi,
người này phá huỷ quyền làm chủ xe của anh ta, phá huỷ bản ngã
lái xe hoàn toàn. Bạn có thể lái xe, nhưng bạn phải chạm vào
chân người này, người bao giờ cũng đi bộ!
Ông thánh đi bộ này có thể không có khả năng mua được xe,
có được xe là hoàn toàn khó khăn với ông ta; nhưng ông ta có thể
bước đi. Có hai cách mở ra cho ông ta ra để đánh vào bản ngã
của bạn. Ông ta hoặc có thể mua một chiếc xe đắt tiền hơn xe của
bạn, điều này ở ngoài vấn đề cho ông ta, hoặc ông ta có thể đi bộ,
điều dễ dàng làm sao. Cho nên ông ta đánh vào bản ngã của bạn
bằng việc bước đi bộ. Theo cách này ông ấy nêu cao bản ngã của
ông ấy. Nhưng công đức gì có đó trong việc bước đi? Biến đổi
nào đã xảy ra trong người này, người ưa thích bước đi? Dù sao đi
chăng nữa, chúng ta ca tụng ông ta. Chúng ta kính trọng ông ta
bởi vì chúng ta cảm thấy ông ta đang làm điều gì đó chúng ta
thấy quá khó không làm nổi. Cho nên chúng ta nghĩ ông ấy đang
thực hiện một hành động quên mình, vĩ đại và chúng ta tôn kính
ông ta.
Theo đuổi việc tôn kính, người ta được chuẩn bị để đi khắp
thế giới bằng chân. Tại sao đi bằng chân? Mọi người có thể đi
khắp thế giới bằng việc lăn tròn mình trên đất để được kính trọng
và tôn kính. Có những người làm điều ấy đấy! Họ cứ lăn tròn
trên đất trên con đường hành hương tới Kashi, và hàng trăm
người đích xác đi bộ theo họ bởi vì họ đã trở nên nổi tiếng thế
qua việc lăn tròn trên đất. Không cần phải hỏi liệu có giá trị nào
khác bên cạnh điều này không. Nói chung, những người quên
mình cứ bổ sung thêm vào bản ngã của họ bởi việc hi sinh sự
thoải mái thể chất của các giác quan của họ.
Tôi gọi người quên mình là người giải thoát bản thân mình
khỏi gắn bó với các giác quan của người đó và không còn quan
tâm tới việc thoả mãn bản ngã của người đó. Đó là từ bỏ thật;
bằng không không có ý nghĩa gì trong tất cả những hành động
phô diễn đó. Upanishad đang nói về những người từ bỏ cả hai
điều này. Người như vậy không bị cuốn hút vào trong việc tôn
thờ thiên nhiên biểu hiện không bị cuốn hút vào bản ngã.
Upanishad đang nói về người không quan tâm tới cả hai.
Nhớ trong tâm trí, việc tôn thờ giác quan là hoàn toàn hiển
nhiên, nhưng việc tôn thờ bản ngã là rất tinh vi cho nên thường
khó phát hiện ra việc tôn thờ bản ngã. Khi một người quan tâm
rất nhiều đến thức ăn, điều đó là hiển nhiên. Nhưng cái gì là mối
quan tâm của người mặc quần áo đẹp đi lượn vòng quanh thành
phố? Không phải ham muốn của người đó là mọi người trong
thành phố sẽ thấy bộ quần áo đẹp của người đó, sẽ biết rằng
người đó có bộ quần áo như thế, và sẽ coi người đó là một ai đó
sao? Cái gì là ham muốn của người đàn bà cứ đi chơi mặc cái áo
choàng đáng giá vài nghìn đô la? Không cần phải dùng cái áo
choàng đắt như thế. Số tiền hai nghìn đô la không mang bất kì

mối quan hệ gì với cái áo choàng. Cái áo choàng đáng giá bốn
mươi hay năm mươi đô la chắc sẽ cũng được rồi. Nhưng việc
mặc cái áo choàng đáng giá hai nghìn đô la có thể có nghĩa gì?
Hiển nhiên là không có ý nghĩa gì trong nó khác hơn việc tạo
ra ngọn lửa ghen tị trong con mắt những người đàn bà khác. Sự
bất lực và sự kém cỏi của người đàn bà khác trở nên rõ ràng
trước chiếc áo đó. Đó là mối quan tâm thực sự, và nó có thể
được phát hiện ra mà không khó khăn gì mấy. Chúng ta lập tức
hiểu ra đó là cái gì khi một người mặc chiếc áo choàng đáng giá
hai nghìn đô la. Nhưng cái gì là ý định của người đứng trần trong
bãi chợ? Không phải mối quan tâm của người đó cũng là ở chỗ
mọi người phải thấy rằng người đó là một ai đó đáng để ý sao?
Thế thì không có khác biệt gì giữa cái áo choàng lông chồn và
việc ở trần. Hay, chúng ta có thể nói, để mua chiếc áo choàng
lông chồn người ta sẽ phải làm việc vất vả trong một thời gian
dài để kiếm hai nghìn đô la, trong khi đứng trần sẽ đem đến cùng
sự hài lòng tự thoả mãn do chiếc áo lông chồn đem lại, và còn dễ
dàng hơn nhiều - không cần kiếm ra vài nghìn đô la.
Việc tôn thờ giác quan là đơn giản, không tinh vi, cho nên nó
là thấy được và hiển nhiên, trong khi tôn thờ bản ngã cứ trở nên
ngày một tinh vi hơn. Nhưng chắc chắn về bản thân bạn đi. Đừng
lo nghĩ về điều người khác làm, hay tại sao người đó làm như
vậy. Nếu một người đang đứng trần bạn sẽ không có khả năng
biết được tại sao người đó làm như thế. Toàn bộ vấn đề là tinh vi
đến mức nó phải nên được coi là ổn thoả nếu bản thân người làm
hiểu hành động của mình. Có khả năng việc ở trần của người đó
có thể là hồn nhiên thực.
Nếu Mahavira đứng trần, chắc chắn ông ấy không dùng việc
ở trần của mình như cách người đàn bà dùng chiếc áo choàng
lông chồn, bởi vì ông ấy có nhiều áo như vậy lắm. Mahavira có
những chiếc áo choàng rất giá trị. Ông ấy có phương tiện vật chất
để là ai đó. Cho nên gần như không có khả năng một người như
Mahavira làm vừa lòng bản ngã mình bằng việc đứng trần.
Nhưng chúng ta không thể phán xét ngay cả hành động này của
Mahavira bởi dáng vẻ bên ngoài; tốt nhất là để cho Mahavira
quyết định. Nếu hàng xóm của bạn đứng trần, bạn không thể biết
tại sao người đó đứng trần. Nên để cho người đó tìm ra. Để cho
người đó tìm kiếm nguyên nhân, bởi vì đây là hiện tượng rất tinh
tế và sâu sắc.
Chúng ta phải đi ra ngoài nếu chúng ta muốn thoả mãn
những đòi hỏi của các giác quan. Không cần phải đi ra ngoài nếu
chúng ta muốn thoả mãn bản ngã của mình. Nó cũng có thể được
thoả mãn từ bên trong nữa.
Tôi đã từng nghe rằng một nhà tu khổ hạnh đang sống một
mình trong một khu rừng ở rất xa xôi. Ông ấy không điểm đạo
cho ai cả. Một sư lữ hành đi qua chỗ cư ngụ của ông ấy, nhìn
thấy ông ấy và nói, “Ông là một người rất khiêm tốn và giản dị.
Ông không làm ai thành đệ tử của ông mặc dù ông là người trí
huệ và vĩ đại thế. Ông là thầy cho không ai cả. Tôi đang trên
đường đi tới một vị thánh khác có hàng nghìn đệ tử.”
Người linh thiêng này mỉm cười và nói, “Làm sao ông có thể
so sánh ông ấy với tôi được? Tôi là một người hoàn toàn ẩn dật.
Tôi không có gắn bó thuộc bất kì loại nào. Tôi không có ham
muốn ngay cả để làm ai đó thành đệ tử của tôi. Tôi không muốn
nuôi dưỡng bất kì loại bản ngã nào, cho nên tôi không nuôi
dưỡng bản ngã của việc trở thành thầy. Tôi là tuyệt đối vô ngã.”
Lữ khách nói với ông ấy, “Tôi đã từng thấy một sư khác vô
ngã như ông vậy.” Khi nghe thấy điều này, khuôn mặt sư này liền
thay đổi và nụ cười của ông ta lập tức tan biến. Ông ta đã thấy
một kẻ cạnh tranh ngay trước mình và bản ngã ông ta bắt đầu làm
cho ông ta khó chịu. Ban đầu ông ta còn hài lòng bởi vì bản ngã
ông ta còn chưa bị thách thức bởi nhà sư đầu mà người lữ hành

đã kể. Ngược lại, bản ngã của ông ta phổng lên với sự thoả mãn.
Nhưng lời phát biểu, “Tôi đã từng thấy một sư khác vô ngã như
ông vậy,” làm cho ông ta không thoải mái; ông ta khó chịu. Tâm
trí trở nên rất không vui khi nghe thấy, “Ai đó khác như ông cũng
tồn tại.” Người tu khổ hạnh đó đã nuôi dưỡng bản ngã mình ngay
cả ở nơi cô đơn đến thế, nuôi dưỡng nó bằng cảm giác rằng, “Ta
sống một cuộc sống ẩn dật và không chấp nhận bất kì ai làm đệ
tử của ta.”
Người này nuôi dưỡng bản ngã của mình với cảm giác, “Ta
có nhiều đệ tử,” trong khi người khác nuôi dưỡng nó qua tự hào
không có đệ tử nào. Người này nói, “Không ai vĩ đại hơn ta,” và
người kia nói, “Ta là người khiên tốn, nghèo hèn, chỉ như hạt bụi
dưới chân ông.” Điều ông ấy ngụ ý là, “Không có hạt bụi nào lớn
hơn ta đâu! Đừng có nói về bụi lớn hơn ta - ta là cái cuối cùng và
là cái tốt nhất!” Không có khác biệt gì trong cách bạn chọn để
nuôi dưỡng bản ngã. Nhưng để hiểu những cách làm việc này của
tâm trí, bạn sẽ phải đi sâu vào bên trong bản thân bạn.
Vậy, hiền nhân này tuyên bố, một mình ông ấy đi vào ánh
sáng, cái giải thoát bản thân ông ấy khỏi cả hai loại tôn thờ - giác
quan và bản ngã. Ông ấy phải giải thoát bản thân mình khỏi tôn
thờ thiên nhiên biểu hiện cũng như tôn thờ bản ngã tinh tế.
Upanishad nói về một vấn đề rất sâu sắc khi họ nói rằng việc
tôn thờ giác quan không dẫn bạn đi vào bóng tối sâu sắc, bởi vì
sự kiện tối hậu là ở chỗ các giác quan được trao cho bạn. Chúng
là tự nhiên, bạn không tạo ra chúng. Nhưng bản ngã là bịa đặt
của bạn, bản ngã là thứ được chế tạo ra. Bạn mang các giác quan
theo mình khi bạn được sinh ra.
Rồi một ngày bạn có thể mất quan tâm tới hương và vị,
nhưng bạn sẽ không bao giờ thoát khỏi cái đói; điều đó sẽ còn
mãi với bạn cho tới lúc bạn chết. Đói là sự cần thiết. Bạn đến thế
giới này với các giác quan và dù bản thân bạn có tự do khỏi các
giác quan đến đâu, bạn vẫn không thể tự do khỏi nhu cầu của các
giác quan. Bạn có thể được giải thoát khỏi ham muốn của chúng
nhưng bạn không thể tự do khỏi nhu cầu của chúng. Bạn có thể
trở nên tự do khỏi cái điên khùng của các giác quan nhưng không
tự do khỏi nhu cầu của chúng. Cả Mahavira lẫn Phật lẫn bất kì ai
khác không thể tự do khỏi chúng. Bạn phải ăn thức ăn, đấy là
một phần không tránh khỏi của cuộc sống.
Tất nhiên, chừng này là có thể cho người tự do khỏi việc tôn
thờ các giác quan - rằng người đó dừng bị ám ảnh bởi chúng.
Ngần này xảy ra - rằng người đó không làm tăng ham muốn của
mình, người đó giữ chúng ở tối thiểu; tức là, người đó dừng khi
nhu cầu được đáp ứng. Nếu thân thể người đó cần hai lát bánh
mì, người đó chỉ ăn hai. Người đó không tăng thêm nhu cầu của
mình. Nếu thân thể người đó có thể được che phủ bằng một mảnh
vải người đó sẽ mặc một mảnh vải thôi. Người đó không có ham
muốn tô điểm cho bản thân mình. Nếu túp lều tranh cung cấp cho
người đó chỗ nghỉ ngơi và chỗ trú ngụ mà người đó cần, thế là đủ
cho người đó; người đó sẽ không đòi hỏi lâu đài.
Mọi người phải quyết định cho bản thân mình về bản tính
của nhu cầu cơ bản của mình; điều đó là khác nhau với mỗi
người. Người này cần hai lát bánh mì, người kia cần năm lát. Với
người trước, năm lát sẽ là đam mê. Cho nên đừng tìm cách bắt
chước mẫu hình của người khác. Mọi người phải tìm bên trong
bản thân mình, và một hướng dẫn đơn giản để tuân theo là ở chỗ
việc đáp ứng cho nhu cầu cơ bản của các giác quan không bao
giờ tạo ra lo nghĩ trong người ta. Nhưng ngay khi người ta vượt
quá nhu cầu cơ sở của thân thể mình và đưa ra những yêu cầu
quá đáng thì lo nghĩ bắt đầu.
Cho nên xem xét lo âu như một đơn vị đo của bạn. Ngay khi
lo âu bắt đầu làm cho bạn không thoải mái thế thì lập tức lưu ý
rằng bạn đang đòi hỏi nhiều hơn là sự cần thiết - bởi vì chính

ham muốn về cái không thực chất tạo ra lo âu. Cái cần thiết
không tạo ra lo âu chút nào. Cái không thực chất - mà không có
nó chúng ta vẫn có thể tiến hành được nhưng không sẵn lòng làm
như thế - chính là nguyên nhân cho lo lắng và lo âu của chúng ta.
Cho nên khi tâm trí trở nên lo nghĩ, quan sát cách thức bạn bận
bịu thoả mãn những đòi hỏi vượt ra ngoài nhu cầu của các giác
quan.
Lo nghĩ là triệu chứng; nó là người báo tin. Chẳng hạn, bạn
đói và bạn bắt đầu ăn thức ăn. Khi nào bạn sẽ biết rằng bạn ăn
quá mức? Ngay khi bạn cảm thấy dạ dầy trở nên nặng nề, không
cho cảm giác thoả mãn nữa, mà ngược lại, còn gây rắc rối, thế thì
bạn nên nhận ra rằng bạn đã vượt ra ngoài nhu cầu của thân thể.
Dạ dầy đã trở nên bị quấy rầy.
Tôi đã nói với bạn điều này như một minh hoạ. Tương tự
từng giác quan bị rối loạn khi nó được cung cấp cho quá mức cần
thiết. Nó vẫn còn không bị rối loạn, tĩnh lặng và thoả mãn nếu nó
được cung cấp theo nhu cầu của nó. Ngay khi nó nhận được
nhiều hơn mức cần thiết nó trở nên bị rối loạn, ốm đau, bệnh tật
và phiền nhiễu. Chúng ta trở nên rất hài lòng khi cơn đói của
chúng ta được thoả mãn, nhưng ăn nhiều hơn mức cần thiết là
mời tật bệnh và ốm yếu tới. Như ai đó có lần đã nói, một nửa
thức ăn chúng ta ăn làm đầy bụng chúng ta; còn nửa kia là để cho
vào bụng bác sĩ của chúng ta. Một nửa là cần thiết cho chúng ta
và nửa kia mời đau ốm. Người ta vẫn còn tỉnh táo và tích cực nếu
biết giữ cho bản thân mình hơi đói một chút, nhưng ăn quá mức
tạo ra uể oải; một loại bóng tối trùm lên kẻ háu ăn này.
Mỗi người đều phải tự quyết định cho bản thân mình cái gì
là cần thiết, tương ứng với cấu trúc tổ chức riêng của mình. Các
giác quan rất nhanh chóng đưa ra cảnh báo về những rắc rối và
bệnh tật sắp xảy đến. Các giác quan rất nhạy cảm và sẽ nhanh
chóng cảnh báo cho bạn rằng bạn đang vượt quá nhu cầu của
mình. Loại bỏ cái không cần thiết đi; loại bỏ cái không bản chất
đi.
Thế thì các giác quan là đồng hành với bạn tới cuối đời bạn;
cuộc sống của bạn chạy trên những bánh xe của giác quan.
Nhưng bản ngã không phải là thứ bản chất. Nó là bịa đặt của
chúng ta, và không hoài nghi gì chúng ta có thể sống mà không
có nó - vô ngã. Bản ngã dẫn chúng ta đi vào bóng tối lớn hơn bởi
vì nó do con người tạo ra. Nó là tuyệt đối không bản chất. Có cái
gì đó cần thiết trong các giác quan mà với nó chúng ta bổ sung
thêm cái không bản chất, và cái đó là cái rắc rối của chúng ta.
Các giác quan dẫn chúng ta đi vào trong bóng tối do hiệu ứng của
phần không bản chất, trong khi bản ngã là không bản chất toàn
bộ cho nên nó dẫn chúng ta vào trong bóng tối lớn hơn. Chân lí là
ở chỗ càng ít bản ngã người ta càng sống sâu sắc hơn, bản ngã
càng lớn người ta càng sống cuộc sống một cách đáng thương và
hời hợt hơn, bởi vì bản ngã không cho phép người ta đi sâu vào
bên trong. Nó giữ bạn trên bề mặt. Tại sao? Điều này cần được
hiểu cho đúng.
Sự kiện đơn giản là ở chỗ bản ngã lấy hài lòng từ con mắt
của người khác. Nếu bạn bị bỏ lại một mình trong rừng sâu, bản
ngã của bạn sẽ mất tất cả hài lòng của nó. Thế thì việc đeo vòng
cổ kim cương sẽ thành vô nghĩa: và nếu bạn cứ đeo nó vào, các
con vật sẽ cười bạn! Cho dù nó có là kim cương đi chăng nữa bạn
sẽ cảm thấy nó như một vật nặng quanh cổ mà bạn sẽ vui sướng
bỏ nó đi. Bạn có thể làm gì cho bản ngã của mình trong rừng
rậm? Không, toàn bộ quan tâm của bản ngã là trong những phản
xạ được tạo ra trong con mắt của người khác, và giống như mọi
phản xạ khác, chúng xảy ra trên bề mặt. Những phản xạ này bao
quanh chúng ta đủ mọi phía. Bản ngã giống như hàng rào trang
trí quanh toà nhà. Nó có thể thú vị, nó có thể đẹp, nhưng nó được
tạo ra bởi con mắt của người khác.

Bản ngã không bao giờ có thể được tạo ra mà không có sự
hiện diện của người khác - nó tuỳ thuộc vào người khác. Đó là lí
do tại sao chúng ta bao giờ cũng vẫn còn sợ về người khác, bởi vì
việc thoả mãn cho bản ngã chúng ta là ở trong tay của người khác
và người đó có thể rút tay mình vào bất kì lúc nào. Giả sử A chúc
mừng B sáng nay, rồi không làm như thế vào sáng ngày hôm sau.
Bức tường bản ngã của B sụp đổ, bản ngã của người đó bị tổn
thương. Tâm trí người đó trở nên bị khuấy động và người đó bận
tâm với điều người đó phải làm bây giờ. Giả sử hiểu biết của
người đó quyết định là quên B đi. Người đó ra ngoài đi dạo và họ
không nhận ra người đó; họ không chú ý gì đến sự hiện diện của
người đó. Thế thì B sẽ hầu như là chết rồi. Mối quan tâm và sự
hài lòng của bản ngã là ở trong mắt của người khác, và mắt của
người khác đã dời khỏi người đó rồi.
Người có sự hài lòng ở trong những con mắt này không thể
đi sâu vào bên trong bản thân mình được. Người đó không thể
sống ở bình diện sâu sắc hơn. Người đó sống chỉ ở lớp vỏ và cái
bọc bề ngoài. Người một mình có thể đi vào chiều sâu của cuộc
sống là người đi vào linh hồn, và người một mình có thể đi vào
linh hồn là người quên đi bản ngã. Người đó phải quên đi con
mắt của người khác và bắt đầu bước vào bên trong con mắt riêng
của mình. Để người đó thấy bản thân người đó. Người đó phải
dừng lo nghĩ về cách thức người khác nhìn vào người đó. Để
người đó từ bỏ suy nghĩ về ý kiến của người khác có đối với
người đó và điều họ nói về người đó. Người đó phải luôn ghi nhớ
trong tâm khảm chỉ điều này - “Ta là ai?” Câu hỏi, “Người khác
nói gì về mình?” là tuyệt đối vô nghĩa. Bạn có bận tâm gì với
người khác? Sự chấp thuận của người khác sẽ không hữu dụng
gì. Trong cuộc sống không hữu dụng gì để có sự chấp thuận của
người khác.
Tôi đã nghe: Một vị thánh Do thái tên là Josiah đang trên
giường chết, và viên giáo sĩ Do thái của thành phố đã tới để đọc
lời cầu nguyện cuối cùng cho ông ta. Ông này yêu cầu vị thánh
nhớ tới Moses, nhà tiên tri, khi đang trên đường tới Thượng đế.
Vị thánh đang hấp hối mở mắt ra và nói, “Đừng yêu cầu ta
phải nhớ đến Moses, vì khi ta đứng trước Thượng đế ngài sẽ
không hỏi ta tại sao ta đã không trở thành giống Moses; ngài sẽ
hỏi ta tại sao ta không trở thành Josiah. Ngài chắc chắn sẽ không
hỏi ta về Moses đâu. Ngài sẽ hỏi ta tại sao ta đã không trở thành
‘cái mà vì nó ta đã gửi con vào thế giới này.’ Ngài sẽ hỏi ta, ‘Tại
sao con không trở thành đoá hoa của hạt mầm tiềm năng mà qua
nó ta đã gửi con vào thế giới này?’ Cho nên xin đừng yêu cầu ta
nhớ tới Moses vào khoảnh khắc này. Vấn đề là về ta bây giờ.”
Nghe thấy điều này giáo sĩ nói, “Xin ông đừng làm hại thanh
danh của ông trên giường chết. Mọi người đang đứng khắp xung
quanh, và họ có thể nghe thấy điều ông nói về Moses.”
Vị thánh lại mở mắt ra và nói, “Ta đã sống trong cái điên
khùng này trong toàn bộ cuộc đời ta; để ta được tự do khỏi nó
vào những hơi thở cuối cùng. Ta đang vứt bỏ cái thanh danh đó
bây giờ. Để cho ta được tự do khỏi cái thanh danh giả này vào
lúc chết. Đừng có lo nghĩ về những người đang đứng quanh ta.
Ta sẽ tự do khỏi họ trong khoảnh khắc. Họ không là nhân chứng
của ta. Thượng đế sẽ không hỏi họ về ý kiến của họ đối với ta.
Thượng đế sẽ thấy ta là cái ta đang là, cho nên để ta lo nghĩ về
bản thân ta.”

Thực ra, bản ngã bao giờ cũng lo nghĩ về điều người khác
nói về bạn. Nó lo âu thế về đánh giá của người khác. Và linh hồn
là kinh nghiệm về ‘cái ta đang là’. Nó không bận tâm gì tới điều

người khác nói. Người khác có thể sai hay có thể đúng - đấy là
việc của họ.
Từ bỏ việc tôn thờ giác quan là chấm dứt tại điểm của sự cần
thiết, và từ bỏ việc tôn thờ bản ngã là tới điểm số không. Nếu hai
điều kiện này được hoàn thành, thế thì cá nhân này không ngồi
gần các giác quan không gần bản ngã. Người đó ngồi gần linh
hồn - atman. Thế thì việc ngồi gần mới bắt đầu - ngồi gần
Thượng đế. Thực sự nói ở gần Thượng đế là không đúng, bởi vì
ở gần Thượng đế ngụ ý là một với Thượng đế. Thế thì chúng ta
mất căn cước của mình. Chúng ta không thể là ‘người khác’ với
Thượng đế. Chừng nào mà chúng ta còn bị cuốn hút vào tôn thờ
hai điều này - giác quan và bản ngã - chúng ta còn xa xôi với
Thượng đế. Không cái gì khác cần làm để được ở gần ngài, để
được là một với ngài. Ngay khi bạn vứt bỏ hai tôn giáo này thì
bạn là một với ngài.
Điều ấy giống thế này: nếu một người, trước khi nhảy, hỏi,
“Tôi định nhảy xuống đất, nhưng tôi phải làm gì để đạt tới đất?”
thế thì tôi sẽ bảo anh ta, “Bạn đơn giản nhảy! Phần còn lại sẽ
được mặt đất làm - bạn không phải làm cái gì khác.” Người ta
nhảy khỏi gốc rễ của giác quan và bản ngã là đủ; phần còn lại
Thượng đế sẽ làm. Thế thì bạn không ở gần ngài; bạn đang đi
vào ngài. Lực hấp dẫn của ngài là rất mạnh.
Ở nước ta, chúng ta đặt tên Krishana cho hoá thân hoàn hảo
của Thượng đế. Từ krishna có nghĩa là hấp dẫn - người thu hút,
người kéo người khác về phía bản thân mình. Lực hút hấp dẫn
của trái đất là rất lớn, nhưng bạn có thể tự dừng mình khỏi bị hút
về phía trái đất. Ngay cả một nhành cỏ nhỏ cũng có thể giữ bản
thân nó chống lại lực hút mạnh mẽ này của trái đất. Nó có thể
chống cự lại.
Nếu bạn bám chắc vào cái gì đó, thế thì lực hấp dẫn của trái
đất sẽ không có khả năng hấp dẫn được bạn. Nếu bạn dừng níu
bám, nếu tay bạn thả ra, không bám vào vật gì, thế thì trái đất sẽ
lập tức kéo bạn về phía nó. Dù có xa bao nhiêu cũng không thành
vấn đề, bạn sẽ bị nó kéo lại. Nhưng miễn là bạn bám vào cái gì
đó, bạn sẽ không bị hút về phía nó, cho dù bạn ở rất gần nó.
Thượng đế đang hút về phía ngài những người đã buông bỏ
hai điều này - giác quan và bản ngã. Người như thế đi vào ánh
sáng.
Đủ cho hôm nay.

************************************************************************************************************

14 Hạt mầm và cái cây

**Người ta đã chỉ ra rằng
kết quả thu được
bởi việc tôn thờ Brahman biểu hiện
là khác với kết quả thu được
từ việc tôn thờ Brahman không biểu hiện.
Chúng tôi đã nghe điều này từ những người trí huệ
người biết và giải thích điều đó cho chúng tôi.**

Upanishad nói về hai dạng của Brahman, yếu tố tối cao.
Hình dạng là hai, yếu tố là một. Nhưng sẽ tốt hơn là nói có hai
loại người biết, trong khi yếu tố là một. Một là hình dạng nguyên
thuỷ không biểu hiện của Brahman; dạng kia là dạng biểu hiện
của Brahman. Hạt mầm là nguyên nhân, cây là hành động, hiệu
quả. Mọi thứ bị che giấu trong hạt mầm, mọi thứ được biểu lộ
trong cây cối. Cho nên có một hạt mầm-Brahman, mà chúng ta
không thấy ở đâu cả. Cái thấy được là cây-Brahman, không phải
hạt mầm-Brahman. Cái đã trở thành biểu hiện là thấy được với
chúng ta, cái bị ẩn kín, không biểu hiện, là vô hình với chúng ta.
Việc tôn thờ có thể được thực hiện cho cả Brahman không biểu
hiện và biểu hiện, theo nhiều cách đa dạng. Kết quả của hai loại
tôn thờ này là hoàn toàn phân biệt nhau.
Tôn thờ thượng đế đã rất được hâm mộ khi người ta ca ngợi
Upanishad. Cần phải hiểu thấu rõ nghĩa của ‘thượng đế’. Trong
thượng đế có biểu hiện rõ ràng nhất về tác động của Thượng đế,
của Brahman không biểu hiện. Do vậy ngay cả hòn đá cũng là
một biểu hiện. Chúng ta gọi ai đó là thượng đế nếu trong người
đó cái không biểu hiện toả sáng, mặc dầu bản thân người đó là sự
biểu hiện. Chúng ta gọi những người như thế là hoá thân của
Thượng đế, hay tirthankara, hay con của Thượng đế; chẳng hạn,
Jesus, Mohammed, Mahavira, Krishna và Rama. Những cá nhân
như thế đang đứng trong khung cửa. Họ là sự biểu hiện và được
chúng ta thấy từ bên ngoài cánh cửa. Khuôn mặt của họ từ phía
trước là rõ ràng thấy được. Chúng rất giống khuôn mặt chúng ta,
và vậy mà chúng không giống khuôn mặt chúng ta. Tia lửa nào
đó của cái không biểu hiện, tia sáng le lói của hạt mầm-Brahman
được ẩn kín, cũng là trong họ. Từ mọi hoạt động trần gian của họ
trong cuộc sống, sự toả sáng nào đó của cái không biểu hiện sáng
lên và chỉ báo về điều thiêng liêng cho chúng ta. Tất cả những
linh hồn như vậy đều thiêng liêng. Nghĩa của từ điều thiêng liêng
là ở chỗ nó là cái thấy được và cũng toả ra cái không biểu hiện.

Upanishad xác nhận rằng việc tôn thờ, cầu nguyện và sùng
kính với các linh hồn thiêng liêng đem đến kết quả, bởi vì có cái
gì đó trong họ vượt ra ngoài cái thấy được. Với một người nhìn
chăm chú vào họ trong thiền sâu, dạng thấy được sẽ biến mất và
cái không biểu hiện sẽ còn lại. Xem như kết quả của việc này,
một khó khăn nảy sinh. Giả sử Rama đang đứng trước đệ tử của
mình; đệ tử này sẽ không thấy Rama như một người bởi vì ông
ấy trở thành một với cái không biểu biện nhiều đến mức hình hài
thấy được biến đi. Nét mặt Rama biến mất, và chỉ Brahman, điều
tối cao, còn lại. Cho nên khi một đệ tử của Rama lẩm nhẩm tên
ông ấy như một câu mật chú - Rama-japa - người đó không còn
bận tâm chút nào với người là con của vua Dasharath nữa. Thế
thì người đó đang suy tư chỉ về Brahman - hạt mầm.
Nhưng một người không phải là đệ tử của Rama không thấy
phần của Rama mà là không biểu hiện. Hạt mầm-Brahman đó là
không thấy được; chỉ có phần được coi như thân thể vật lí là thấy
được bởi người đó. Chỉ con trai của Dasharath, hoặc chồng của
Sita, hay kẻ thù của Ravana là thấy được. Người bạn của ai đó,
hay kẻ thù của ai đó - phần biểu hiện duy nhất là thấy được. Cho
nên khi một đệ tử thực nói về Rama và cái gọi là một đệ tử khác
cũng nói về Rama, họ đang nói về hai người khác nhau. Không
có nhịp nhàng hay hài hoà gì trong việc nói của họ. Không thể có
bất kì giao cảm nào giữa họ. Họ không hiểu lẫn nhau bởi vì họ
đang nói về hai phần tách biệt của cùng một cá nhân.
Lời kinh này của Upanishad nói rằng việc tôn thờ - ngồi gần
- dạng biểu hiện của Brahman nơi sự toả sáng nào đó của dạng
không biểu hiện cũng được thấy, đem lại kết quả riêng của nó.
Họ sẽ thích thú và hài lòng, hay tốt hơn là nên nói họ sẽ thấy như
trên trời. Họ sẽ rất phởn phơ, nhưng họ sẽ không chứng ngộ. Đó
là lí do tại sao chúng ta dùng ba từ cho quả: một từ là địa ngục, từ
nữa là cõi trời và từ thứ ba là chứng ngộ. Người ta có thể đi xa
như cõi trời bởi việc ngồi gần - tức là, tôn thờ - thượng đế. Người
ta có thể kinh nghiệm những vui thú và hạnh phúc tuyệt vời,
nhưng người ta không thể vươn tới chứng ngộ; người ta không
thể vươn tới phúc lạc.
Cái gì là khác biệt giữa hạnh phúc và phúc lạc? Dù hạnh
phúc sâu sắc và lớn lao đến đâu, nó chắc chắn sẽ trôi qua. Dù nó
kéo dài đến đâu không thành vấn đề, nó chắc chắn đi tới kết thúc.
Cho nên hiểu phân biệt này cho hoàn hảo. Chứng ngộ - phúc lạc -
bắt đầu, nhưng không có kết thúc. Cõi trời - hạnh phúc - bắt đầu,
và cũng kết thúc. Địa ngục không bắt đầu; nó chỉ có kết thúc. Để
tôi nhắc lại điều này sao cho nó có thể được hoàn toàn hiểu thấu.
Địa ngục không có bắt đầu - khổ không có bắt đầu. Có thể không
có hạnh phúc, nhưng nó có thể được bắt đầu.
Địa ngục không có bắt đầu nhưng nó có thể được kết thúc.
Cõi trời có bắt đầu và cũng có kết thúc. Nó sẽ bắt đầu và
cũng sẽ kết thúc.
Chứng ngộ chỉ có bắt đầu và không kết thúc. Một khi đã
được bắt đầu, nó là vô tận.
Bất kì khi nào ngọn lửa thiêng liêng xuất hiện dưới dạng
thấy được, Brahman biểu hiện, việc tôn thờ và cầu nguyện của nó
có thể đưa người ta lên cõi trời, tới hạnh phúc. Do đó những
người có ham muốn hạnh phúc đang chiếm hết trong việc tôn thờ
thượng đế. Những người khát khao chứng ngộ không bị cuốn hút
đến thế vào trong việc tôn thờ thượng đế; họ quay mặt khỏi
thượng đế. Họ không cầu nguyện hạnh phúc bởi vì hạnh phúc
không bao giờ xảy ra nơi chứng ngộ. Hạnh phúc, mặc dầu là
thích thú, bao giờ cũng sẽ là nô lệ, và những người khao khát
chứng ngộ ước ao đạt tới hình thái cao nhất của giải thoát. Họ
khao khát về phúc lạc cao nhất không có giới hạn, họ ham muốn
rằng nước cam lồ là vô hạn, họ mong ước đạt tới điểm mà là

điểm không quay lại, chỗ vượt ra ngoài không còn gì để tìm kiến
nữa.
Nhưng người khát khao điểm vượt ra ngoài này, nơi không
còn chỗ nào để đi nữa, sẽ phải đi tìm hạt mầm-Brahman. Họ sẽ
phải đi tìm Brahman không biểu hiện và không đi tìm Brahman
biểu hiện. Họ sẽ được chứng ngộ bởi sự sùng kính của họ; đạt tới
Brahman họ sẽ đạt tới giải thoát cao nhất.
Có những kết quả khác nhau phân biệt đối với hai loại tôn
thờ này, và cái đẹp vĩ đại của Upanishad là ở chỗ họ không bác
bỏ loại nào. Kết quả, quả, của cả hai loại được qui định rõ rệt. Họ
không bác bỏ loại nào nhưng họ nói những người muốn tôn thờ
thượng đế nên làm điều đó với hiểu biết rằng đó là cuộc hành
trình tới hạnh phúc, và không vượt ra ngoài điều đó.
Trong phần cuối của lời kinh này có tuyên bố rằng “Chúng
tôi có được những điều này từ những người đã biết.” Có một
điểm quan trọng cần nhớ trong trí tại đây. Tri thức là vô tận. Dù
bạn có thu thập tri thức nhiều đến đâu, nó bao giờ cũng không
đầy đủ. Vấn đề tựa thế này: từ một bến bờ này bạn xuống sâu
trong đại dương, nhưng cho dù bạn thăm dò được chiều sâu của
nó, bạn không bao giờ biết được toàn thể đại dương. Có thể là đại
dương đã biết bạn tường tận, nhưng bạn không thể biết được toàn
bộ đại dương. Cũng còn có các bến bờ khác nữa, và trên chúng
có vô số và vô tận lữ khách. Vô số người hành hương đã đi vào
trong đại dương từ vô số nơi, và cũng là một điều tốt nếu tri thức
của bạn và tri thức của họ được thu thập và trộn lẫn với nhau
trong một phạm vi lớn nhất có thể được.
Đó là lí do tại sao các hiền nhân của Upanishad bao giờ cũng
tuyên bố rằng điều họ nói họ đã thu thập từ những người đã biết.
Họ trộn lẫn tri thức của họ với kho tri thức vô giới hạn đó. Họ
nói, “Chúng tôi đã nghe được điều này từ những người biết. Tại
sao chúng tôi phải nói về tri thức bé nhỏ của mình? Chúng tôi
đóng góp tri thức nhỏ bé của mình vào trong kho tri thức bao la,
vô tận đã được vô số người thu thập .” Tại sao họ phải nói một
cách tách biệt về tri thức của họ? Họ sẽ cảm thấy ngượng khi nói
về nó. Họ thậm chí không tham chiếu tới nó. Họ nói điều này cứ
dường như bản thân họ chưa thu được nó. Trong một thái độ
khiêm tốn họ nói, “Chúng tôi đã nghe từ những người đã biết.”
Có vô số người, vô số hoá thân, và họ tới từ vô số bến bờ.
Tirtha có nghĩa là bến bờ. Cho nên, người Jaina gọi những người
như thế là tirthankara. Từ tirthankara có nghĩa là người làm việc
trên bờ, giúp thuỷ thủ quăng neo xuống biển. Nhưng bởi vì đại
dương là vô hạn, đường bờ biển là vô tận. Bởi vì đại dương là vô
tận, có vô số tirthankara. Chúng ta không biết tất cả về họ. Nếu
chúng ta nhìn lại quá khứ, chúng ta không biết gì về những hiền
nhân đã nở hoa trước thời Veda. Các tham chiếu chỉ nói tới các
hiền nhân thời Veda và hậu Veda.
Không phải là chân lí đã không được biết tới bởi những
người đã sống trước các hiền nhân Veda, bởi vì bản thân các hiền
nhân Veda thường nói, “Chúng tôi đã nghe được từ những người
biết.” Upanishad là kinh sách cổ đại nhất của chúng ta đã được
viết ra và được biên soạn bởi những người biết. Nhưng
Upanishad liên tục tuyên bố, “Chúng tôi đã nghe nó từ những
người đã biết.” Nội dung của tuyên bố này là ở chỗ chân lí bao
giờ cũng đã được biết tới kể từ thời còn chưa được ghi nhớ, và nó
đã được biết tới bởi biết bao nhiêu người, theo số lượng nhiều
thế, và trong vô hạn cách thức thay đổi đến mức mà “Tôi không
thể nói được về tri thức nhỏ bé của tôi! Tôi thêm điều gì đó vào
cái kho bao la này.” Cho nên người đó nói, “Tôi đang nói cái đã
được nói bởi những người đã biết nó.”
Có một điểm khác cần ghi nhớ trong vấn đề này - rằng
những người trí huệ cổ đại ấy, người biết ấy, chưa bao giờ háo
hức về cội nguồn. Họ không khát khao được là cội nguồn. Không

ai nói, “Điều tôi đang nói là chân lí nguyên thuỷ; tôi nói điều đó
lần đầu tiên, và chưa hề có ai đã nói điều đó trước tôi.” Có khác
biệt rất lớn trong thái độ ở thời hiện đại của chúng ta. Ngày nay
mọi người đều muốn tuyên bố rằng điều người đó nói chưa từng
được nói ra trước đây - rằng người đó là nguyên gốc.
Điều này có nghĩa là gì? Liệu nó có nghĩa là các hiền nhân
cổ đại không phải là nguyên gốc chăng? Con người ngày nay là
nguyên gốc chăng? Không, sự kiện là hoàn toàn đối lập. Những
người cổ đại đã không hoài nghi, đã chắc chắn đến mức họ không
cần phải công bố về sự chắc chắn của mình, trong khi ngày nay
mọi người hoài nghi về tính nguyên gốc, không thoải mái về nó
đến mức họ không thể đừng được việc phải tạo ra tuyên bố về nó.
Con người hiện đại bao giờ cũng sợ rằng ai đó có thể nói, “Anh
cho rằng anh đang nói điều gì đó mới mẻ sao? Điều anh đang nói
không có gì mới với mọi người.” Điều này đơn giản chỉ ra rằng
con người hiện đại không hiểu nghĩa thực của nguyên gốc.
Nghĩa thực của từ nguyên gốc không phải là cái gì mới mà là
‘từ ngọn nguồn’. Nguyên gốc không có nghĩa là chưa từng xảy
ra, từ này nghĩa là ‘từ ngọn nguồn’. Người biết đến gốc rễ là
nguyên gốc, và nhiều người đã biết nó, cho nên từ này không nói
tới bất kì cái gì mới. Nhưng ngày nay mọi người trên toàn thế
giới đều đang tìm kiếm cái gì đó mới. Mọi người đều khẳng định:
“Điều tôi đang nói là mới,” bởi vì có nỗi sợ là không cái gì đặc
biệt về cái biết của người đó nếu người khác đã biết tới nó. Sự
kiện đáng quan tâm là ở chỗ chỉ có một đặc tính đặc biệt trong
thế giới này. Liên hệ tới điều này tôi nhớ tới dòng truyền thừa từ
nhà huyền môn Jakob Boehme: “Điều duy nhất phi thường là
thành bình thường.”
Những hiền nhân này, thay vì công bố rằng họ biết, lại tuyên
bố rằng họ đã nghe thấy từ những người biết, là những người phi
thường. Họ phải là những người rất không thông thường bởi vì
họ sẵn lòng là bình thường đến thế. Thực ra, một người là người
bình thường nếu người đó ấp ủ dù chỉ một khái niệm rất nhỏ rằng
mình là bất thường. Mọi người bình thường đều có khái niệm
này. Ngay cả người bình thường nhất cũng tin rằng mình là phi
thường. Đây là niềm tin rất thông thường. Thế thì chúng ta có thể
gọi ai là phi thường? Chúng ta có thể gọi một người là phi
thường nếu người đó thậm chí không biết rằng mình là phi
thường. Người khiên tốn như thế là phi thường.
Phát biểu này của hiền nhân ấy chắc chắn là phi thường. Khi
người biết nhiều thế và biết điều đó sâu sắc thế, nói, “Chúng tôi
đã nghe nó...” thế thì người như thế phải đáng để ý - phải là phi
thường. Họ phải giống như các số không, giống như cái không.
Họ phải hoàn toàn khiêm tốn. Họ không đưa ra tuyên bố chút
nào, dù về chân lí hay con đường, và vẫn có sức nặng và bản chất
trong phát biểu của những người đưa ra lời công bố về cái không.
Đó là lí do tại sao họ thường lặp đi lặp lại rằng họ đã nghe được
từ những người đã biết.
Thái độ tâm trí này của việc xoá bỏ bản thân mình, của việc
phá huỷ bản thân người ta hoàn toàn, của việc chùi sạch sự hiện
diện của người ta, của việc làm cho bản thân người ta dường như
là không có, có liên quan tới ngọn nguồn gốc rễ sâu xa nhất của
cuộc sống - tới sự tồn tại thuần khiết. Nó vượt ra ngoài tâm trí, ra
ngoài sự tưởng tượng hay tình cảm. Nó là siêu việt.
Đủ cho hôm nay.
Chúng ta sẽ gặp lại vào buổi tối.
Bây giờ chúng ta đi về gốc rễ, chúng ta đi hướng tới sự siêu
việt... Tôi sẽ nói cho các bạn đôi điều mà tôi nhớ ngay bây giờ về
thiền.

Về chín mươi phần trăm trong số các bạn đang thiền tốt và
tiến bộ đến mức tôi thấy hài lòng mênh mông với các bạn. Nhưng
tôi cảm thấy tiếc cho mười phần trăm kia. Đừng cứ ru rú trong
hoàn cảnh bất hạnh của bạn; đừng là người trong nhóm mười
phần trăm đó. Đừng vứt đi những món quà có giá trị đó với giá rẻ
của bạn.
Một hướng dẫn nữa về thiền chiều. Một số trong các bạn
ngồi ở đây mà không đeo khăn bịt mắt. Bạn sẽ không được lợi
lộc chút nào đâu. Không ai nên ngồi đây mà không có khăn che
mắt. Điểm nữa cần phải nhớ là thế này: chăm nom về bản thân
bạn, đừng lo nghĩ về người khác. Những người không làm gì sẽ
bắt đầu lo nghĩ về người khác, bởi vì họ nhàn rỗi. Cho nên đừng
ngồi yên đó, cứ vui vẻ, nhảy múa và cười đi!
Hôm qua tôi rất là hạnh phúc - đã có nhẹ nhàng lớn lao, các
bạn rất giống trẻ con. Một ông già hét lên như đứa trẻ. Ông ấy đã
rất hồn nhiên. Ông ấy kêu lên, “Mẹ, Mẹ, Mẹ!” Nhẹ nhàng hệt
đứa trẻ. Đã có lễ hội lớn. Nó nên tiếp tục tăng tiến. Nó sẽ tiếp tục
tăng tiến khi thiền trở nên ngày một sâu hơn. Nếu một ông già trở
thành hệt như đứa trẻ, điều đó có nghĩa là ông ấy đã đạt tới thiền.
Ngần này là cho thiền chiều. Tôi hoàn toàn hạnh phúc với thiền
sáng - nó diễn tiến tốt.
Bây giờ tôi phải cho một hướng dẫn đối với thiền tối. Có hai
hay ba người bạn đang tổ chức phiên thiền này và họ là đủ.
Nhưng những người còn lại, người đã tới để đưa bản thân họ vào
việc tổ chức đã tạo ra nhiều lẫn lộn. Không một ai trong các bạn
nên tự bổ nhiệm ở đây. Các bạn ở đây để thiền, không phải để tổ
chức các thứ. Thực ra chính những người ngồi rảnh rỗi vơ việc
này vào cho bản thân họ. Họ nghĩ, “Chúng ta đi vào việc quản
lí.” Hai hay ba người đó được quyền làm việc quản lí này sẽ làm
công việc của họ - người còn lại không phải bận tâm về điều đó.
Tôi rất buồn về những người đang ngồi đằng sau bục khi họ
không thể thiền đúng được. Họ bị quấy nhiễu bởi những người
lăng xăng khác. Có khác biệt gì nếu ai đó ngã vào tôi? Điều đó
không tạo ra khác biệt gì! Và những người trong thiền đã không
mất ý thức của họ, họ hoàn toàn tỉnh táo. Họ không định ngã
xuống. Đừng bắt đầu nghĩ rằng ai đó có thể xô vào tôi hay tấn
công tôi. Tất cả họ đều đầy ý thức. Họ yêu tôi như người quản lí
yêu. Cho nên đừng lo nghĩ về tất cả điều này.
Họ bị khuấy động nhiều khi họ không thể thấy được tôi. Đó
là khi rắc rối bắt đầu, bởi vì việc thiền này hoàn toàn phụ thuộc
vào việc con người tôi được thấy. Cho nên ý tưởng của tôi cho
việc thiền tối nay là ở chỗ tất cả những người đang đứng nên ở
trong phòng, và những người thực hành thiền trong tư thế ngồi
nên ngồi đằng sau họ. Đây chỉ là cách bố trí cần thiết.
Một sự cố không mong muốn nữa đã xảy ra hôm qua. Nhiều
người bên ngoài bị buộc phải vào nơi họp này. Điều này tạo ra
rối loạn lớn. Việc hài hoà hoàn toàn mà có thể được tạo ra trong
cuộc họp như thế, không thể được tạo ra khi người ngoài vào.
Ngay cả nếu chỉ có một người sai trong phòng, người đó sẽ tạo ra
các loại rung động khác. Cho nên không người nào như vậy
được phép đi vào. Những người trong trại, người chỉ muốn nghe
và không muốn tham gia thiền nên lập tức đi ra khỏi phòng khi
bài nói kết thúc. Họ sẽ đóng góp rất lớn cho chúng ta bởi việc
làm như vậy. Họ không nên làm hại chúng ta.
Chúng tôi không muốn dù chỉ một người trong phòng mà
đơn thuần chỉ là người xem. Người đó tạo ra chướng ngại, lỗ
hổng. Khi biết bao nhiêu tâm thức đang tuôn chảy trong cùng
một kinh nghiệm, toàn thể bầu không khí trở nên được tích điện,
và thế thì, nếu một người không được tích điện như thế ở trong
nhóm này, người đó tạo ra gián đoạn trong bầu không khí. Một
phần nào đó bị người đó xé ra. Có thể không có việc rót năng

lượng tâm linh qua phần đó. Bởi điều này, những rung động mà
có thể thấm từ góc này sang góc khác sẽ không có khả năng làm
được như vậy. Đây là lí do tại sao hiện tại tôi không hạnh phúc
với phiên thiền đêm của chúng ta.
Việc thiền đêm nay là quan trọng nhất và có giá trị, và hai
phiên thiền khác được ngụ ý để chuẩn bị cho các bạn vào việc
thiền đêm nay. Khi các bạn đã được chuẩn bị sau hai phiên thiền
này có thể có bùng nổ trong phiên thiền đêm, nhưng một số
chướng ngại đang tới trong chương trình. Nó vẫn còn chưa được
hoàn tất. Một số người ngoài đã vào chỗ này ngày hôm kia và do
vậy việc thiền không thể được thực hiện đúng đắn. Có tốt hơn
trước đây chút ít. Chúng ta có thể đã đạt tới kết quả tốt ngày hôm
qua, nhưng một số người không được phép đã tới chỗ bục này và
bắt đầu học đòi làm quản lí. Các bạn phải không tới đây để quản
lí.
Và đừng lo nghĩ về tôi, lo nghĩ về bản thân bạn đi. Tôi mãn
nguyện ngay cả nếu tôi chết trong việc giúp đỡ ai đó, cho dù chỉ
một người, để thành công trong thiền.

************************************************************************************************************

15 Chúng ta chết đi

**Người biết tới Brahman không biểu hiện
và đồng thời biết cả Brahman biểu hiện,
đã vượt qua cái chết
bởi việc tôn thờ Brahman biểu hiện,
đạt tới cái bất tử
bởi việc tôn thờ Brahman không biểu hiện**

Chúng ta không thể vẽ ra được hình tròn mà không có tâm.
Đường tròn được vẽ ra tất cả xung quanh tâm. Khi đường tròn
càng ra xa khỏi trung tâm thì nó trở nên ngày càng lớn hơn. Nếu
chúng ta đánh dấu hai điểm trên đường tròn, sẽ có khoảng cách
nào đó giữa chúng, và nếu chúng ta vẽ hai đường thẳng từ các
điểm trên hình tròn nối với tâm, khoảng cách giữa hai đường này
sẽ cứ giảm dần khi chúng tiến tới tâm. Khoảng cách giữa các
đường này sẽ biến mất ngay khi chúng đạt tới tâm. Có thể có
khoảng cách nào đó giữa hai đường thẳng này ở đường tròn,
nhưng khi những đường này tiến về tâm thì chúng cứ tới gần
nhau hơn, và khi đạt tới tâm khoảng cách biến mất. Tại tâm
chúng là một. Nếu chúng ta tiếp tục vẽ những đường này đi ra
ngoài đường tròn, khoảng cách giữa chúng sẽ cứ tăng lên khi
đường tròn tăng lên.
Qua việc đưa ra minh hoạ hình học này, tôi muốn nói cho
bạn hai hay ba điều để giải thích lời kinh này. Điểm thứ nhất là
thế này; cái yếu tố vẫn được gọi là Brahman không biểu hiện là
Brahman trung tâm. Toàn thể sự mở rộng của sự tồn tại đi ra từ
nó: và cuộc sống - đường tròn - cứ mở rộng ra mãi từ tâm này.
Sau điều tra sâu sắc trong vài năm qua, khoa học đã đi tới
một lí thuyết mới - lí thuyết về vũ trụ dãn nở. Người ta bao giờ
cũng tin rằng vũ trụ là cái đang có đấy, không cái gì được thêm
vào, không bớt đi cái gì. Nhưng khoa học hiện đại nói vũ trụ
không chỉ đơn giản là cái bây giờ đang là, mà nó cứ mở rộng
hàng ngày, hệt như quả bóng cứ phình mãi ra khi ai đó bơm khí
vào trong nó. Sự mở rộng của vũ trụ này là như vậy. Nhưng nó
không giống hệt như nó đã là ngày hôm qua. Nó mở rộng hàng
triệu dặm trong mỗi hai mươi bốn giờ. Nó liên tục mở rộng. Các
ngôi sao chúng ta thấy ban đêm đang du hành ra xa khỏi lẫn nhau
vào mọi khoảnh khắc.

Điều này đáng quan tâm: phải có một khoảnh khắc khi vũ trụ
này đã co lại bên trong bản thân nó đến mức nó phải ở tại tâm số
không. Khi bạn đi ngược lại thời gian, vũ trụ này được thấy ngày
càng nhỏ đi, trở thành ngày càng co nhỏ lại. Nhất định phải đến
một khoảnh khắc khi toàn bộ vũ trụ này bị co lại vào trong chính
tâm của nó. Thế rồi dãn nở của nó bắt đầu, và quá trình đó vẫn cứ
diễn ra kể từ đó. Đường tròn cứ lớn dần hàng ngày. Các nhà khoa
học nói chúng ta không thể tiên đoán được nó sẽ còn tiếp tục mở
rộng bao lâu nữa. Đây là sự dãn nở vô tận. Nó sẽ cứ lớn mãi lên.
Cần phải nhớ trong trí một điểm nữa. Khoa học đã bắt đầu
dùng thuật ngữ ‘vũ trụ dãn nở’ mới gần đây thôi, nhưng cái - cái
yếu tố - được Upanishad gọi là Brahman, có nghĩa là sự mở rộng.
Đó là nghĩa của từ Brahman. Nghĩa của Brahman là không phải
Thượng đế, mà là yếu tố thường xuyên mở rộng. Từ Brahman và
vistala - mở rộng - được suy dẫn từ cùng một gốc. Chúng là các
biến thể của cùng một từ. Cho nên, nghĩa của Brahman là cái cứ
tiếp tục mở rộng. Không phải là nó đã dãn nở hay trải rộng; nó
không phải là một điều kiện tĩnh, nhưng nó là cái thường xuyên
mở rộng. Hoạt động đang diễn ra. Điều xảy ra là thường xuyên
mở rộng.
Ngay cả từ quan điểm khoa học, Brahaman cũng có hai dạng
- một dạng là không biểu hiện, cái được hiền nhân của Upanishad
gọi là asambhuti. Brahman không biểu hiện có nghĩa là Brahman
số không, hạt mầm-Brahman. Chúng ta tưởng tượng thời gian khi
còn chưa bắt đầu việc mở rộng, khi hạt mầm còn chưa bị vỡ ra.
Thế rồi tưởng tượng khoảnh khắc tuyệt đối đầu tiên của việc mở
rộng - và sau đó là sự mọc mầm, tiếp tục mở rộng, việc lớn lên
của cây. Từ một hạt mầm tí xíu như thế, cái cây xum xuê sẽ phát
triển ra mà hàng nghìn xe bò kéo có thể nghỉ ngơi dưới bóng của
nó. Và từ cây đó sẽ rụng xuống vô số hạt mầm; và từ mỗi hạt
mầm đó sẽ lại mọc ra cái cây bao la; và lần nữa mỗi cây sẽ phát
tán vô số hạt mầm, và từ mỗi hạt mầm ra cây, và hạt mầm và cây
và hạt mầm và cây vô tận. Vậy một hạt mầm nhỏ bé, qua quá
trình phát triển của nó, cho sinh thành ra vô tận hạt mầm.
Brahman không biểu hiện là hạt mầm-Brahman, Brahman-số
không, điểm trung tâm. Chúng ta chỉ có thể tưởng tượng được
điều này, bởi vì điểm trung tâm chỉ có thể được tưởng tượng ra.
Nếu chúng ta hỏi Euclid, nhà hình học vĩ đại, ông ấy sẽ nói
điểm trung tâm là cái không có chiều dài không có chiều rộng.
Bạn không thể thấy được một điểm như thế. Đây là định nghĩa
của nó - nó không có chiều rộng không có chiều dài; và nó không
thể là một điểm nếu nó có chiều rộng và chiều dài, vì thế thì nó
trở thành một hình khác, và sẽ phải có sự mở rộng. Nơi đâu có bề
dài và bề rộng, nơi đó có sự mở rộng. Điểm là cái còn chưa được
mở rộng, nhưng sắp sửa mở rộng. Do đó, Euclid nói, điểm chỉ có
thể được định nghĩa, nó không thể được vẽ ra.
Khi bạn đặt một chấm nhỏ nhất trên giấy bằng đầu nhọn của
cây bút chì, ngay lập tức có chiều dài và chiều rộng; điểm không
bao giờ có thể được vẽ lên giấy. Cho nên điểm thấy được đã mở
rộng. Điểm không thấy được, nhưng chỉ được định nghĩa, là điểm
thật. Cái mà được Euclid gọi là điểm ấy là vô hình - nó chưa bắt
đầu tồn tại; việc tạo ra nó chưa được biểu hiện. Nó là không biểu
hiện. Cuộc sống chưa nổi lên từ nó, nhưng nó có tiềm năng cho
cuộc sống; cuộc sống vẫn còn ẩn kín. Cho nên Brahman không
biểu hiện này là tựa như điểm trong định nghĩa.
Đây là một hình dạng của Brahman. Nhưng chúng ta không
biết nó. Chúng ta chỉ biết Brahman biểu hiện - cái ở ngoài.
Chúng ta biết cây-Brahman, cái đã lộ ra. Cái biểu hiện là chưa
hoàn chỉnh, nó đang trở thành và trở thành; nó đang trong quá
trình trở thành, nó thường xuyên mở rộng. Vũ trụ của chúng ta
đang trở nên ngày một lớn hơn vào mọi khoảnh khắc. Mô tả việc
tăng lên của nó theo ngày là quá nhiều - đấy là điều không thể
quan niệm nổi. Cho nên tôi nói nó đang dãn nở từng giây. Các

ngôi sao đang di chuyển ra xa khỏi trung tâm với tốc độ ánh
sáng. Tốc độ ánh sáng là ba trăm nghìn ki lô mét một giây. Cho
nên trong một phút vũ trụ dãn nở sáu mươi lần khoảng cách đó;
và trong một giờ gấp sáu mươi lần nữa lên. Và nhân số nhân này
với hai mươi bốn giờ ta biết nó đã dãn nở bao nhiêu ki lô mét vào
cuối mỗi ngày.
Đường tròn đang di chuyển với tốc độ cực kì lớn như thế xa
khỏi trung tâm, và hoạt động này vẫn cứ diễn ra từ thời vô tận.
Hơn nữa, các nhà khoa học không thể xác định được khoảnh
khắc thời gian khi cuộc hành trình này phải bắt đầu, khi hạt mầm
phải nhú chồi ra lần đầu tiên trong quá trình trở thành cái cây.
Chúng ta cũng không thể nói bất kì điều gì về kết thúc của cuộc
hành trình này. Khoa học đang gặp thế khó xử lớn ngày nay, vì
nó không thể quan niệm được ở đâu và tại sao mà hiện tượng vũ
trụ dãn nở này sẽ kết thúc. Không có khả năng nào cho việc dừng
của nó, bởi vì điều đó sẽ đòi hỏi một sự cản trở khác cho sự tiến
triển của nó. Giả sử tôi ném một hòn đá; nếu nó không gặp bất kì
chướng ngại nào nó sẽ không dừng ở đâu cả. Nhưng một cản trở
nào đó tới - nó có thể va vào cây. Nếu nó không va vào cây nó
va vào không khí, và lực hút của trái đất hấp dẫn nó vào mọi lúc.
Khi đà do tay tôi trao cho bị yếu đi, lực hấp dẫn kéo nó xuống.
Nhưng nếu không có lực hút hấp dẫn và không có cản trở nào
trên đường, hòn đá do tay tôi ném đi, hay ngay cả bởi một đứa
nhỏ ném đi, sẽ không dừng ở đâu cả, bởi vì không cái gì dừng nó
lại.
Vũ trụ này của chúng ta - Brahman biểu hiện này - cái
thường xuyên mở rộng, sẽ dừng lại ở đâu? Nhất định phải có cản
trở nào đó, trở ngại nào đó, để dừng nó lại. Nhưng trở ngại ấy
đến từ đâu? Mọi thứ đều bên trong nó, không cái gì ở bên ngoài
nó. Cái gì đang có, là một phần hay một gói của Brahman biểu
hiện? Cho nên có thể không có trở ngại. Nó có thể dừng lại ở
đâu? Làm sao nó có thể dừng lại? Nó có tiếp tục mở rộng không?
Cả Einstein lẫn Planck, những người đã làm rất nhiều công trình
nghiên cứu quanh lí thuyết này, đều bị nó cản trở. Vô phương kế,
họ chung cuộc phải bỏ lại điều đó như một bí ẩn. Không nguyên
nhân, không cản trở nào là có thể quan niệm được mà có thể
dừng nó lại, và vậy mà việc không dừng lại của nó dường như
không thể nào quan niệm nổi. Nếu nó cứ mở rộng mãi theo cách
này, một ngày nào đó có thể tới khi các ngôi sao sẽ quá xa nhau
đến mức ngôi sao nọ không thể thấy được từ ngôi sao kia.
Nhưng Upanishad nói về hiện tượng này từ một cảnh quan
hoàn toàn khác biệt và kì lạ, và điều đó nên được hiểu cho đúng.
Nếu không phải hôm nay, thế thì trong tương lai, các nhà khoa
học sẽ phải làm việc từ cảnh quan đó. Nhưng mãi cho tới nay
điều ấy vẫn chưa từng là cách thức lập luận ở phương Tây, và có
lí do cho điều này: toàn thể khoa học phương Tây đã phát triển từ
triết học Hi lạp. Nó đứng trên nền tảng của triết học Hi lạp, và
một trong những niềm tin cơ sở của triết học Hi lạp là ở chỗ thời
gian đi theo đường thẳng. Niềm tin này đã dẫn khoa học phương
Tây vào khó khăn lớn. Triết học Ấn Độ nghĩ về điều này theo
cách khắc hẳn.
Triết học Ấn Độ nói tất cả mọi chuyển động đều theo vòng
tròn. Không chuyển động nào có thể theo đường thẳng được.
Hiểu điều này theo một minh hoạ. Đứa trẻ được sinh ra, lớn lên
rồi già đi. Nếu chúng ta yêu cầu nhà triết học Hi lạp giải thích
điều này, ông ấy sẽ đáp rằng đường thẳng có thể được vẽ ra giữa
đứa trẻ và ông già để giải thích việc xảy ra này. Nhà triết học Ấn
Độ sẽ bác bỏ điều này và nói vòng tròn phải được vẽ ra giữa đứa
trẻ và ông già bởi vì trong những ngày cuối của mình ông già đạt
tới điều kiện mà trong đó ông ấy bắt đầu như một đứa trẻ. Đấy là
một vòng tròn. Do đó không cái gì đáng ngạc nhiên nếu người
già được thấy hành xử như trẻ thơ. Không phải là đường thẳng
mà là đường tròn nối tuổi thơ và tuổi già. Tuổi thanh niên là điểm
giữa của vòng tròn đó, nó là thiên đỉnh. Khi tuổi thanh niên qua

đi, hành trình cuộc sống bắt đầu rẽ sang điểm bắt đầu của nó.
Điều đó giống như xoay vòng của các mùa. Khái niệm Ấn Độ về
thời gian là vòng tròn, giống như xoay vòng của các mùa. Mùa
hè, mùa mưa và mùa đông, mùa nọ theo sau mùa kia trong vòng
tròn. Theo cùng cách này buổi sáng có tiếp sau là buổi chiều, và
buổi chiều có tiếp theo buổi sáng. Nó là vòng tròn.
Những người trí huệ của phương Đông tin rằng tất cả mọi
chuyển động đều vòng tròn. Trái đất xoay vòng, mùa vụ xoay
vòng, mặt trời, mặt trăng và các vì sao chuyển động vòng tròn.
Mọi chuyển động đều vòng tròn, không chuyển động nào đi
thẳng. Cuộc sống chuyển động theo vòng tròn. Và vũ trụ mở
rộng nữa, cũng chuyển động theo vòng tròn. Giả sử một đứa trẻ
vẫn cứ trẻ mãi; thế thì khó khăn sẽ phát sinh. Tuổi thanh niên của
nó sẽ kết thúc ở đâu? Cuộc sống sẽ dừng ở đâu nếu nó cứ mở
rộng mãi và không trở về điểm chết?
Cho nên tư duy Ấn Độ nói rằng Brahman biểu hiện này,
trong quá trình mở rộng của nó, sẽ đi qua tuổi thơ, tuổi thanh
niên và tuổi già rồi lại trở về rơi vào trong Brahman không biểu
hiện. Nó sẽ lại là số không và trống rỗng. Nó sẽ trở lại với ngọn
nguồn nguyên thuỷ mà từ đó đó nó đã bắt đầu cuộc hành trình
của nó. Vòng tròn của nó sẽ là vòng tròn khổng lồ. Khoảng đời
của chúng ta sẽ là bẩy mươi năm. Có những kiếp sống chỉ xoay
qua những vòng tròn nhỏ. Con bướm được sinh ra buổi sáng và
vòng đời của nó được hoàn tất vào buổi tối. Và còn có những
vòng tròn nhỏ hơn thế này nữa. Có những con vật chỉ sống có vài
khoảnh khắc. Chúng được sinh ra lúc bắt đầu khoảnh khắc này và
chết đi vào cuối khoảnh khắc đó. Nhưng đừng bị ấn tượng rằng
con vật này với một cuộc sống chỉ một khoảnh khắc như thế
sống một cuộc đời kém hơn một người sống trong bẩy mươi năm.
Đừng nghĩ cuộc sống của nó là kém bởi vì nó hoàn tất vòng đời
của nó trong một khoảnh khắc, trong khi cuộc sống của bạn kéo
dài bẩy mươi năm. Nó có tuổi thơ của nó, tuổi thanh niên của nó,
nó làm tình, sinh đẻ con cái, nó có tuổi già của nó và nó chết.
Trong một vòng tròn kéo dài một khoảnh khắc nó hoàn tất bẩy
mươi năm của nó một cách mãnh liệt.
Nhưng cái vòng bẩy mươi năm ấy không thể được gọi là cái
vòng lớn được. Các nhà khoa học nói rằng trái đất chúng ta đã
được sinh ra quãng bốn nghìn triệu năm trước đây. Chúng ta
không có phương tiện nào để tìm ra xem trái đất chúng ta bây giờ
đang ở trong giai đoạn nào của cuộc sống của nó, nhưng từ
những xem xét nào đó dường như là nó đang trong tuổi già. Việc
sản xuất lương thực đang giảm đi, và dân số thế giới đang tăng
lên. Cái chết dường như ở gần. Mọi thứ cần cho cuộc sống đều
trong thiếu hụt. Than, chất đốt và lương thực đều không đủ cung
cấp, mọi hoá chất của trái đất đều không đủ cung cấp. Trái đất
đang già đi, cho nên không bao lâu nó có thể chết.
‘Không bao lâu’ nghĩa là gì? Từ không bao lâu không được
hiểu theo quan điểm cá nhân chúng ta; nếu trái đất mất bốn nghìn
triệu năm để già đi, bốn nghìn triệu năm nữa là gì? Nhưng chúng
ta không thể làm bất kì ước lượng nào về trái đất được. Có
khoảng bẩy mươi triệu tế bào trong mỗi thân thể con người.
Những tế bào đó không có ý tưởng chút nào rằng bạn cũng có
đấy, và mặc dầu bẩy mươi triệu tế bào vi mô này sống trong thân
thể bạn, bạn không biết gì về chúng. Bên trong thân thể bạn
chúng được sinh ra, trưởng thành, trở nên già, để lại con cháu sau
chúng, và chết, tạo ra nấm mồ của chúng trong thân thể bạn - và
vậy mà bạn sẽ không biết gì về chúng. Trong bẩy mươi năm cuộc
sống bạn, hàng triệu cơ quan này sẽ được sinh ra và sẽ chết đi.
Theo một cách tương tự, trái đất không biết gì về chúng ta và
chúng ta không biết gì về cuộc sống của trái đất. Cuộc sống của
hàng triệu năm của nó là trên vòng tròn.
Thật khó để xác định tuổi của toàn bộ vũ trụ, toàn bộ
Brahman biểu hiện, nhưng một điều là chắc chắn - không có việc

vi phạm vào luật trong thế giới này. Chẳng chóng thì chầy, luật
này được hoàn thành. Do đó, hiền nhân này nói trong lời kinh
này rằng có hai pha của Brahman - giai đoạn biểu hiện, và giai
đoạn không biểu hiện mà từ đó toàn thể vũ trụ đã được tạo ra, và
trong đó nó sẽ lại bị hấp thu vào: Brahman trung tâm và Brahman
mở rộng.
“Người biết tới Brahman mở rộng chinh phục cả hai - người
đó vượt ra ngoài nó. Và người biết tới Brahman trung tâm đạt tới
cái bất tử.” Nhưng Brahman mở rộng là hàng rào chứa cái chết.
Cái chết nhất định xảy ra trong nó. Vòng tròn sẽ phải làm đầy đủ
bản thân nó. Nếu có sinh, tử chắc chắn sẽ theo sau nó. Thế thì tại
sao hiền nhân này nói rằng một người như vậy chinh phục được
cái chết?
Vượt qua cái chết nghĩa là gì? Hiền nhân ấy không chết chứ?
Mọi hiền nhân đều chết. Mọi người chứng ngộ đều chết. Chắc
chắn, vượt qua cái chết không có nghĩa là không chết. Hiền nhân,
người đã ca rằng người nào biết tới Brahman biểu hiện vượt qua
cái chết, không còn nữa. Cho nên hoặc ông ấy đã nói điều này
một cách không chủ ý hoặc là giả - nếu phát biểu ấy là đúng thì
ông ấy phải không chết chứ!
Không, vượt qua cái chết ngụ ý cái gì đó khác. Người biết và
kinh nghiệm sâu sắc rằng cái chết là đã được móc nối với sinh
thành và là điều không thể tránh được, trở nên thoát khỏi nỗi sợ
cái chết. Người đó biết rằng sinh là bắt đầu của vòng tròn và tử là
kết thúc của nó. Cho nên người đó, người biết sâu sắc, sâu lắng
tới mức cái chết là một định mệnh không tránh khỏi, trở nên tự
do khỏi nỗi sợ chết. Tại sao người ta phải sợ điều không tránh
khỏi? Tại sao người ta phải lo nghĩ về điều chắc chắn sẽ xảy ra?
Lo nghĩ chỉ dành cho cái có thể bị thay đổi hay biến đổi.
Cho nên điều đáng quan tâm là quan sát rằng chưa bao giờ
có nhiều lo nghĩ về cái ở phương Đông như ở phương Tây, và có
lí do xác đáng cho điều này. Phương Tây cảm thấy rằng nó có
phương thuốc để chinh phục cái chết; phương Đông chưa bao giờ
cảm thấy nó có phương thuốc để chinh phục cái chết. Nếu nó
cảm thấy rằng cái chết có thể bị thay đổi, thế thì lo nghĩ nhất định
tới. Bao giờ cũng có lo âu và lo nghĩ về cái mà có thể bị thay đổi.
Không có nguyên nhân cho lo lắng khi một điều không thể bị
biến đổi. Tại sao lo nghĩ? Nếu chết là chắc chắn, nếu nó được
móc với sinh, thế thì tuyệt đối không có lí do nào để lo nghĩ về
nó.
Khi người lính đang trên đường ra chiến trường, và chừng
nào họ còn chưa tới chiến trường, họ vẫn còn lo nghĩ và sợ sệt,
nhưng một khi trên chiến trường rồi mọi lo nghĩ đều mất đi trong
một hay hai ngày. Sau khi tới chiến trường, ngay cả người lính
nhút nhát nhất cũng trở thành người bạo dạn. Lí do là gì? Các
nhà tâm lí đang cân nhắc về hiện tượng này. Người này đã sợ hãi
đến mức người đó không thể ngủ được trong đêm khi nghĩ đến
việc đi vào chiến trận vào buổi sáng. Người đó run rẩy và hành
xử như người điên; dường như là người đó sẽ chạy trốn khỏi
chiến trường. Nhưng khi đã vào trận, chính con người này lại ngủ
ngon lành.
Lí do là gì? Chừng nào mà người đó còn chưa tới chiến
trường người đó còn nghĩ việc trốn chạy là có thể - người đó có
thể tự cứu mình, cách thức có thể được tìm ra, cái gì đó có thể
được thay đổi. “Ai đó khác có thể được cử đi thay mình.” Nhưng
khi người đó thấy bản thân mình trên chiến trường, thấy bom rơi
tứ phía, toàn thể lo nghĩ bay biến mất. Bây giờ không có cách
nào thoát ra, và khi không có cách nào thoát nữa, lo nghĩ biến
mất. Khi khả năng thay đổi qua rồi, hi vọng về thay đổi cũng tan
biến. Chính ham muốn về thay đổi tạo ra lo âu và lo nghĩ. Khi
hiền nhân này nói, “Sau khi biết Brahman biểu hiện, người trí
huệ chinh phục cái chết,” điều đó nghĩa là người đó không còn sợ

hãi cái chết. Nếu cái chết gần người đó, người đó sẽ không sợ
hãi.
Có một câu chuyện nhỏ hay về Panini. Ông ấy là một trong
số những hiền nhân đã soạn ra những lời kinh này. Ông ấy đang
dạy văn phạm cho học trò trong đạo tràng trong rừng của mình
một hôm sư tử gầm gừ nhảy vào. Panini bảo học trò nghe tiếng
sư tử gầm, và cố gắng viết điều đó ra dưới dạng văn phạm. Con
sư tử đang ở tư thế sẵn sàng vồ bất kì ai, lũ học trò run rẩy, còn
Panini giải thích về dạng văn phạm cho tiếng gầm của sư tử!
Tương truyền rằng ngay cả khi con sư tử vồ ông ấy, ông ấy vẫn
tiếp tục giải thích về dạng văn phạm của tiếng gầm của nó. Và
khi con sư tử cắn xé ông ấy, ông ấy vẫn dẫn giải về dạng văn
phạm của, “Con sử tử giết người.”
Suy nghĩ tức khắc của chúng ta là ở chỗ Panini có thể đã
chạy xa để cứu bản thân mình. Cái gì đó có thể đã được làm,
nhưng người như Panini nghĩ - rằng cái chết là chắc chắn, dù nó
tới hôm nay hay ngày mai; thế thì có gì khác biệt nếu đấy là hôm
nay hay ngày mai? Người như thế chấp nhận cái chết không nao
núng bởi vì nó là một điều chắc chắn - dù nó tới hôm nay hay
ngày mai hay ngày kia.
Đây là thắng lợi. Trong chấp nhận này chúng ta đã chấp
nhận tử cùng với sinh. Chúng ta đã chấp nhận khô héo cùng với
ra hoa, mở rộng. Vào lúc nở hoa của chúng ta chúng ta đã biết
rằng ngày nào đó chúng ta sẽ khô héo. Vào ngày phát lộ của
chúng ta, việc sinh của chúng ta, chúng ta đã biết rằng một ngày
nào đó chúng ta sẽ lại bị ẩn khuất đi. Vòng tròn nhất định sẽ hoàn
tất. Trong chấp nhận như thế có tự do khỏi cái chết. Thế thì cái
chết ở đâu? Người như vậy đã vượt qua cái chết. Người đó tự do
khỏi sức hút của sinh cũng như từ nỗi sợ chết. Người đó ở ngoài
cả hai.
Nhớ trong tâm trí, với phần còn lại trong chúng ta tử và sinh
là hai đầu trong cuộc đời chúng ta, và chúng ở ngoài cuộc sống.
Sinh là ở ngoài cuộc sống chúng ta, bởi vì trước khi sinh chúng ta
không có. Chết là bên ngoài cuộc sống chúng ta, bởi vì sau cái
chết chúng ta sẽ không có. Chết là đường biên. Nhưng nó không
phải là đường biên cho người biết. Với người đó, chết và sinh là
hai việc xảy ra xuất hiện ở giữa, trong quá trình cuộc đời. Người
đó sẽ hỏi, “Sinh của ai? Ta đã có trước đó, do đó ta có thể được
sinh ra; bằng không làm sao việc sinh có thể xảy ra được? Ta đã
là không biểu hiện, do đó ta có thể là biểu hiện; bằng không làm
sao ta có thể biểu hiện được? Nếu cây không bị ẩn trong hạt
mầm, không có cách nào cho nó mọc ra - được sinh ra. Nếu ta
chết, ta phải sống trước đã; bằng không nó sẽ là cái chết của ai?
Việc sinh của ta có thể xảy ra bởi vì ta đã có đó trước cái sinh. Ta
cũng sẽ có đó sau cái chết; thế thì và chỉ thế thì cái chết mới có
thể xảy ra, bằng không nó sẽ là cái chết của ai?”
Chết không phải là kết thúc cho người biết. Nó chỉ là việc
xảy ra xuất hiện trong cuộc đời người đó. Sinh cũng là việc xảy
ra xuất hiện trong cuộc đời của người đó, nó không phải là bắt
đầu. Cuộc sống ở bên ngoài vòng tròn này là cái không biểu hiện.
Nó bị giấu kín, không diễn đạt. Cuộc sống không biểu hiện đó -
sự tồn tại - trở thành biểu hiện trong sinh và lần nữa lại trở thành
không biểu hiện trong chết. Cho nên người biết tới chu trình này
của thế giới biểu hiện không rối loạn bởi nó; hình mẫu này không
gây cho người đó bất kì bất hạnh nào.
Giả sử bạn đang trong nhà. Bạn biết đây là bức tường, đây là
cánh cửa. Thế thì bạn có đâm đầu vào tường để cố đi ra qua nó
không? Bạn sẽ không thử đi ra qua bức tường. Nếu bạn muốn đi
ra ngoài bạn sẽ dùng cánh cửa. Bạn sẽ không ngồi xuống và tiếc
nuối và đặt câu hỏi tại sao tường không là cánh cửa. Nhưng
người không biết cánh cửa sẽ đâm đầu mình vào tường, và anh
chàng tội nghiệp đó sẽ thường xuyên than thân trách phận về việc

là tường không phải là cửa. Nếu bạn biết cửa, thế thì tường là
tường còn cửa là cửa đối với bạn. Vậy người biết đầy đủ cách bố
trí và động thái trở nên tự do khỏi động thái đó. Người đó biết
rằng nơi có sinh, ở đó tử cũng sẽ được tìm thấy. Nhưng người
biết nó một cách không đầy đủ - không theo ý nghĩa đầy đủ của
nó - đi vào xung đột và khó khăn. Tri thức này rõ ràng dứt khoát,
tối thượng đến mức không còn câu hỏi nào về bất kì thay đổi nào
trong nó. Điều này được gọi là định mệnh - định mệnh của cái
biểu hiện.
Nhưng chúng ta đã không diễn giải đúng ý nghĩa của định
mệnh. Thực ra, bởi vì chúng ta không rõ ràng bên trong bản thân
mình, chúng ta diễn giải mọi thứ theo cách sai. Người rõ ràng
bên trong bản thân mình diễn giải đúng, và người không rõ ràng
diễn giải sai. Bạn đã không hiểu nghĩa thực của định mệnh nếu
bạn coi nó như thất vọng.
Nếu một người ngồi khoanh tay trong thất vọng và chán nản
và kêu khóc, “Tất cả đều là số mệnh!” thế thì người như thế đã
không hiểu nghĩa đúng của định mệnh. Định mệnh nghĩa là lạc
quan lớn, hi vọng lớn. Bạn thấy rất khó hiểu thấu cách diễn giải
này. Nghĩa đúng của số mệnh là ở chỗ bây giờ không có nguyên
nhân cho bất kì khổ nào. Bây giờ không có chỗ cho thất vọng.
Cái chết có đấy; nó là không tránh khỏi. Thế thì khổ có thể có ở
đâu trong nó được? Đâu là đau khổ trong điều đó? Khổ và đau
khổ có đó chỉ chừng nào không có chấp nhận.
Phật thường nói, “Cái được làm ra sẽ bị phá huỷ, cái có sẽ bị
mất.” Nhận biết đi! - trong khoảnh khắc gặp gỡ với người yêu
của mình, chúng ta tạo ra phân tách từ chúng; điều ấy nhất định
theo sau. Chúng ta không muốn nghe nói về phân tách. Khi
chúng ta được nhắc nhở về phân tách vào lúc gặp gỡ với người
yêu, chúng ta trở nên bất hạnh. Khi chúng ta nghĩ về phân tách
cái theo sau rất sát, vui vẻ của gặp gỡ cũng bị phá huỷ. Ảo tưởng
rằng có vui trong gặp gỡ với người yêu ngay lập tức bị mất đi
vào ý nghĩ về phân tách.
Đứa trẻ được sinh ra: có hân hoan trong ngôi nhà và nếu ai
đó nói, “Với sinh này chết đã vào,” chúng ta bị sốc sâu sắc và
bảo người đó đừng nói những điều gở như thế vào lúc hân hoan
này. Nhưng khi Phật nói đã có khoảnh khắc phân tách trong gặp
gỡ người thương yêu, ông ấy không phá huỷ hạnh phúc của gặp
gỡ; ông ấy chỉ phá huỷ nỗi đau của phân tách.
Cố hiểu khác biệt giữa hai tình huống này. Người ngu sẽ phá
huỷ hạnh phúc của gặp gỡ, và người trí huệ sẽ cắt bỏ cái đau của
phân tách. Người trí huệ sẽ nghĩ, “Làm sao có thể có đau của
phân tách khi nó đã hiện diện trong bản thân gặp gỡ rồi? Khi gặp
gỡ được khát khao trông đợi, thế thì phân tách cũng đã được ham
muốn rồi. Khi chết hiện diện trong sinh, thế thì làm sao có thể có
buồn nào về chết được? Khi việc sinh ra của đứa trẻ được mong
ước, cái chết cũng đã được bao hàm trong ước mong đó.” Người
ngu sẽ phá huỷ hạnh phúc của việc sinh, và người trí huệ thì sẽ
phá huỷ nỗi đau của việc chết.
Khi biết tới Brahman biểu hiện, Brahman mở rộng, cá nhân
vượt qua cái chết. Người đó vẫn còn không bị ảnh hưởng bởi
khổ, đau đớn và đau khổ do cái chết gây ra. Nhớ trong tâm trí,
khổ, đau và lo nghĩ là cái bóng của cái chết. Vậy người đã tự
mình được tự do khỏi cái chết không có khổ, không lo nghĩ và
không đau đớn.
Bạn có lẽ còn chưa xem xét điều này - rằng khi bạn trở nên
lo nghĩ, thế thì cái chết đang đứng đâu đó gần bạn. Giả sử nhà
của một người bốc cháy; người đó sẽ lập tức lo nghĩ và khổ.
Ngay khi một người thấy mình bị phá sản, người đó trở nên lo âu
và lo nghĩ. Tại sao? - bởi vì bây giờ, bị phá sản, cuộc sống người
đó trở nên đầy khó khăn, và cái chết đã tiến đến gần hơn một
chút. Khi ngôi nhà bị phá huỷ bởi ngọn lửa, cuộc sống người đó

trở nên bất an và không được bảo vệ - và cái chết đến gần hơn
một chút. Đây là cách thức tâm trí con người vận hành trong
những hoàn cảnh như thế, và do vậy người đó trở nên buồn bã và
âu lo. Người đứng một mình trong bóng tối hoảng sợ và lo nghĩ
bởi vì không cái gì thấy được trong bóng tối đó, và nếu cái chết
tấn công người đó, người đó sẽ không có khả năng thấy được nó.
Cho nên bất kì khi nào bạn trở nên lo nghĩ, tỉnh táo ngay lập tức
đi; bạn sẽ thấy cái chết đứng đâu đó gần bạn. Lo nghĩ, lo âu là cái
bóng của cái chết.
Bất kì khi nào và bất kì ở đâu tâm trí bạn bị cuốn vào trong
khổ và đau đớn, nhận ngay ra rằng có ngu xuẩn nào đó về phần
bạn trong diễn giải Brahman biểu hiện. Bạn tin điều không tránh
được là tránh được; khổ của bạn bắt đầu từ chính điểm này của
niềm tin. Bạn hi vọng rằng cái được định mệnh xảy ra có thể
không xảy ra, và tại điểm này lo nghĩ của bạn bắt đầu; đau khổ và
không thoải mái được tạo ra. Không, cái gì phải xảy ra sẽ xảy ra.
Không có lối thoát khỏi nó, không cái gì khác có thể xảy ra. Khi
bạn chấp nhận mật chú này, khi bạn chấp nhận thu xếp này về
Brahman biểu hiện một cách toàn bộ, mọi thứ bên trong bạn sẽ
trở thành bình tĩnh và yên tĩnh. Thế thì không cái gì để bạn lo
nghĩ .
Do đó hiền nhân này đã nói rằng có giải thoát khỏi cái chết
sau khi biết về Brahman biểu hiện. Nhưng đây là một nửa câu
chuyện; lời kinh này vẫn còn chưa đầy đủ, chỉ một nửa thôi. Vẫn
còn một điều nữa để chúng ta biết mà chưa được nói trong nửa
đầu, và là phần rất tinh tế và sâu sắc. Chừng nào mà chúng ta
chưa thể thấy được nó, chúng ta vẫn còn phân vân và ưu phiền,
và trong dốt nát của mình chúng ta loạng choạng, đâm đầu vào
tường và cố gắng đi qua nơi không có cửa. Chúng ta cứ xây nhà
bằng bìa và vẽ đường trên nước, và chúng ta cứ than khóc khi
chúng ta thấy chúng bị xoá sạch và phá huỷ.
Bạn biết rằng ngay khi những đường được vẽ trên nước thì
chúng bắt đầu biến mất. Khi bạn vẽ một đường trên nước và cố
gắng làm cho nó thành vĩnh cửu, đấy là lỗi của nước, hay của
đường này của bạn, mà bạn không làm được theo nỗ lực của
mình? Bạn sẽ đổ lỗi cho ai? Cho nước hay cho đường vẽ? Người
thấy lỗi ở nước hay ở đường vẽ sẽ khổ; người hiểu được cái ngu
xuẩn của riêng mình sẽ cười. Người đó sẽ biết rằng đường được
vẽ trên nước nhất định sẽ bị xoá sạch. Nó phải bị xoá sạch. Nếu
đường vẽ mà còn lại đó thế thì chúng ta thực sự trong khó khăn
đấy!
Làm sao chúng ta có thể hiểu được Brahman không biểu
hiện khi chúng ta thậm chí không có khả năng hiểu Brahman biểu
hiện này? Nó tuyệt đối không biểu hiện trước chúng ta: có cái gì
biểu hiện nhiều hơn cái chết không? Vậy mà chúng ta liên tục tự
lừa dối mình. Khi ai đó chết đi, chúng ta nói một cách thông cảm,
“Anh bạn đáng thương đã chết.” Điều đó không làm loé lên cho
chúng ta cái nhìn về cái chết đó như lời nhắc nhở về cái chết
riêng của chúng ta.
Tôi nhớ tới một dòng thơ do một nhà thơ Anh làm ra. Khi ai
đó chết, chuông nhà thờ điểm. Nhà thơ đã nói, “Đừng hỏi chuông
điểm cho ai; nó điểm cho ba người.” Tức là, không cần hỏi gì,
biết rằng đấy là chuông cho bạn.
Bằng việc giấu diếm một hiện tượng lớn như cái chết, chúng
ta hành xử theo một cách thức mà nếu một lữ khách từ sao Hoả
tới và làm khách của chúng ta trong hai hay ba ngày, có hai điều
mà người đó sẽ không phát hiện ra được về chúng ta, và hai điều
này được gắn với nhau. Lữ khách đó sẽ không biết rằng có chết
và dục trên hành tinh này, bởi vì chúng ta giữ hai điều này trong
giấu diếm. Nhớ trong tâm trí, dục là cái khởi thuỷ cho sinh, nó là
bước đầu tiên; và chết là bước cuối cùng của Brahman biểu hiện.

Kìm nén dục, bước đầu tiên, bắt đầu với sợ chết, bước cuối
cùng. Nếu chúng ta muốn kìm nén cái chết, chúng ta sẽ phải làm
cho bản thân mình quên mất quá trình sinh, bởi vì chết được móc
nối với sinh. Do đó chúng ta che giấu quá trình sinh trong bóng
tối. Quá trình sinh được thực hiện sau tấm màn. Và chúng ta đẩy
cái chết ra ngoài giới hạn của thôn làng chúng ta. Tại đó chúng ta
dành ra một chỗ làm nghĩa địa, bởi vì chúng ta rất sợ chết. Chúng
ta rải hoa lên những nấm mồ để cho bất kì ai tình cờ đi ngang qua
những nấm mồ đó có thể không nhìn thấy chúng. Khi cái xác
chết được mang ra nghĩa địa, chúng ta phủ trên nó bằng hoa, để
cho cái xác có thể dường như không chết mà là việc nở hoa. Bạn
có thể phủ lên xác bằng hoa nhiều tuỳ thích, bạn có thể xây dựng
lăng tẩm đẹp bao nhiêu tuỳ thích, và khắc chạm tên lên những
phiến đá cứng nữa - nhưng người đã chết là chết vĩnh viễn. Khi
người nằm trong mồ không thể được gìn giữ, những cái tên khắc
trên đá đó kéo dài được bao lâu? Và cũng không thành vấn đề
việc chúng ta đẩy các nấm mồ ra xa thành phố bao nhiêu, cái chết
sẽ xảy ra trong thành phố chứ không trong nghĩa địa.
Chúng ta kìm nén dục và che giấu nó bởi vì nó là cội nguồn
của sinh. Lí do vô ý thức của chúng ta để giữ nó bị kìm nén và bị
che giấu là ở chỗ nó là bước đầu tiên. Nếu nó bị để lộ ra và đưa
ra công khai, thế thì cái chết cũng sẽ bị lộ ra; sẽ không còn có thể
giấu diếm cái chết. Cho nên cũng thú vị mà chú ý rằng những xã
hội mà dục không bị kìm nén thì trở nên bận tâm và lo nghĩ về
cái chết, còn những xã hội nào mà kìm nén dục hoàn toàn, không
hiểu biết về nó cứ như là nó không tồn tại, cũng kìm nén cả cái
chết.
Tôi đã nghe câu chuyện này. Một cậu bé Do Thái một hôm
từ trường về nhà sau khi đã học ở trường về cách thức trẻ con
được sinh ra. Nó rất hài lòng với thông tin mới này và rất háo hức
để phô bầy tri thức của mình. Ngay khi nó về nhà nó liền hỏi mẹ:
nó được sinh ra như thế nào. Mẹ nó nói, “Thượng đế phái con
xuống.”
Thế là nó hỏi, “Thế bố con được sinh ra như thế nào?”
Mẹ nó nói, “Bố con cũng do Thượng đế phái xuống.”
Đứa trẻ hỏi, “Thế ông con được sinh ra như thế nào?”
Mẹ nó bây giờ đôi chút băn khoăn nhưng nói rằng ông ấy
cũng do Thượng đế phái xuống. Thằng bé tiếp tục hỏi cho tới khi
nó tới đời thứ bẩy, và bà mẹ tức điên lên nói, “Nhìn đây, mày
không thấy chỉ có một câu trả lời cho câu hỏi của mày sao?”
Thế là thằng bé kêu lên, “Cái gì! Mẹ nói rằng cho suốt đến
tận bẩy đời mà không có dục trong gia đình ta sao?”
Không, có một nhu cầu vô ý thức lớn để kìm nén dục. Nó là
bước đầu tiên của sinh. Nếu nó được công khai ra và được biểu
lộ ra thế thì cái chết cũng sẽ được biểu lộ ra. Chừng nào đứa trẻ
không biết cách thức con người được sinh ra, chúng cứ hỏi mãi
câu hỏi này. Nhưng khi chúng có thông tin này chắc chắn chúng
sẽ hỏi con người chết như thế nào. Cho nên bạn giấu diếm bước
đầu tiên này, về việc sinh, che giấu với trẻ con, và chúng bao giờ
cũng hỏi câu hỏi này; chúng chưa bao có cơ hội để hỏi con người
chết như thế nào!
Nhớ trong tâm trí, nếu việc xảy ra của sinh được hiểu rõ, thế
thì câu hỏi tiếp không thể là gì khác hơn điều liên quan tới cái
chết. Cho nên tại đầu này dục bị kìm nén, và tại đầu kia chết bị
kìm nén: tìm ở nghĩa địa bên ngoài giới hạn thôn làng. Do vậy
chúng ta sống trong bóng tối giữa hai đầu, và chúng ta sống trong
sợ hãi lớn lao. Phải có sợ, bởi vì chúng ta không biết sinh là gì,
không biết chết là gì. Khi chúng ta cố gắng làm giả dối ngay cả

Brahman biểu hiện cái công khai và rõ ràng thế, thế thì nói gì về
Brahman không biểu hiện mà bị giấu kín và không lộ ra? Làm
sao chúng ta có thể đi vào trong điều đó được?
Hiểu hai việc xảy ra này - sinh và tử - cho đúng. Chúng là
hai đầu của một hiện tượng. Sinh là bắt đầu và tử là chỗ kết của
một và cùng một vòng tròn. Chết xảy ra tại chỗ sinh xảy ra. Việc
xảy ra của tử và việc xảy ra của sinh là bộ phận của một việc xảy
ra.
Cái gì xảy ra trong sinh? Thân thể được tạo ra. Tế bào đực
và tế bào cái tổ hợp lại và cho sinh ra một thân thể hợp thành . Cả
hai đều có một nửa vật chất bên trong chúng, do đó có sự hấp dẫn
mạnh mẽ của chúng lẫn nhau. Các nửa này kéo lẫn nhau vào mọi
lúc. Chúng muốn là cái toàn thể, cho nên có hấp dẫn cực lớn giữa
chúng. Đây là lí do tại sao trẻ con được sinh ra vào mọi thời mặc
cho tất cả những huấn thị tôn giáo, mọi qui tắc, nguyên lí và giáo
dục chống lại dục. Những người thuyết giảng về vô dục tới và đi,
nhưng họ bao giờ cũng thuyết giảng mà không tác dụng gì. Sức
hấp dẫn mạnh đến mức tất cả những thuyết giảng và giáo lí đều
không thể động chạm tới nó được. Đây là hấp dẫn của hai nửa
của một và cùng một yếu tố. Điều ấy cũng tựa như là bẻ một vật
ra làm hai phần và các phần này muốn gặp lại nhau lần nữa. Khi
chúng gặp nhau một thân thể mới được tạo ra. Nửa này của các tế
bào do đàn bà trao cho còn nửa kia do đàn ông trao cho.
Cho nên sinh nghĩa là tạo ra một thân thể từ sự gặp gỡ của
các nửa tế bào của đàn ông và đàn bà. Ngay khi một thân thể
được tạo ra, một linh hồn đi vào thân thể đó - một linh hồn có
ham muốn sẽ được thoả mãn bởi thân thể đó, và việc đi vào của
nó trong thân thể là tự nhiên và tự định hướng như nước mưa trút
đầy lỗ và tạo thành vũng vậy. Trật tự các thứ là sao cho linh hồn
đi vào bụng mẹ thuận tiện cho bản thân nó.
Điều gì xảy ra trong chết? Hai phần đã hợp nhất đó của yếu
tố ấy bắt đầu tan ra và vỡ ra. Không cái gì khác ngoài điều này
xảy ra. Móc nối bên trong bắt đầu yếu đi và lỏng ra. Tuổi già có
nghĩa là yếu dần mối nối. Thân thể hợp thành này bắt đầu phân
rã. Cách thức mà theo đó móc nối rạn nứt đã được đặt vào
khoảnh khắc thai nghén. Điều này không được xác định bởi
chiêm tinh học mà bởi khoa học. Thực ra, khi các tế bào của
người đàn ông và đàn bà gặp nhau, tất cả điều này đều được xác
định.
Hiện tại tri thức khoa học của chúng ta về những vấn đề này
là không thích hợp, mặc dầu nó vẫn đang tăng tiến ngày nọ qua
ngày kia. Nếu không phải hôm nay, chắc chắn trong tương lai
chúng ta sẽ có khả năng dự đoán được quá trình thân thể cố hữu
của một đứa trẻ sẽ kéo dài bao lâu - liệu đó là bẩy mươi năm hay
tám mươi năm, hay một trăm năm. Nó sẽ giống như đưa ra bảo
hành mười năm cho một cái đồng hồ, bởi vì việc kiểm nghiệm
những phần khác nhau của bộ máy của nó sẽ cho ta biết rằng
chiếc đồng hồ này sẽ có khả năng chống lại hao mòn và tàn phá
do không khí, nhiệt độ, tốc độ và những thứ khác trong mười
năm. Thế rồi sức mạnh của nó để chống việc hao mòn và tàn phá
sẽ mất đi.
Vào ngày đứa trẻ được thụ thai, các tế bào của đàn ông và
đàn bà hội nhập lại với nhau và xác định ra đứa trẻ sẽ có khả
năng chịu đựng được bao lâu căng thẳng của không khí, nước,
nhiệt độ, mưa, khổ, đau, xung đột, gặp gỡ, phân tách, bạn bè, kẻ
thù, hi vọng và thất vọng, ngày và đêm và mọi thứ như thế. Vậy
chúng xác định khi nào thì mối nối sẽ nao núng trong quá trình
chịu đựng và chống lại căng thẳng, và khi nào thì những tế bào
đã thống nhất này sẽ tan đi. Vào lúc phân tách của chúng linh
hồn sẽ phải rời bỏ thân thể đó. Chết và dục là hai đầu của một và
cùng một điều. Mọi thứ được nối qua dục là bị tách ra qua chết.

Dục là tổng hợp, chết là phân tích. Dục nối vào, chết tách ra.
Việc xảy ra là như nhau, không có khác biệt trong nó.
Người biết đầy đủ Brahman biểu hiện này thành công trong
việc chấp nhận nó. Chấp nhận là thắng lợi. Bạn trở thành người
chủ của một thứ khi bạn đã chấp nhận nó. Thậm chí nếu bạn chấp
nhận cảnh nô lệ, thế thì trở thành người chủ và không còn là nô lệ
nữa. Bạn sẽ không có khả năng làm tôi thành nô lệ được nếu tôi
vẫn còn hạnh phúc ngay cả qua việc bạn còng tay tôi, hay nếu tôi
vẫn cứ nhảy múa ngay cả khi bạn nhốt tôi sau chấn song. Khi
thậm chí không có một ý nghĩ tạm thời rằng “Mình có thể vẫn
còn tự do nếu...” nhưng thay vào đó là chấp nhận đơn giản về cái
đã xảy ra, thế thì bạn thất bại. Bạn đã không làm cho tôi thành tù
nhân được. Tôi vẫn cứ là người chủ riêng của mình. Ngược lại,
bạn sẽ là nô lệ của tôi, bởi vì bạn sẽ phải khoá tôi và để lính gác
ở cổng. Nếu tôi chấp nhận điều kiện này một cách vui vẻ, nếu tôi
có thể hát trong tù trong khi bạn phải đứng đó và theo dõi với
khuôn mặt nhìn thẳng và khẩu súng trong tay, thế thì ai là bị tù?
Chấp nhận toàn bộ, bạn vẫn còn là người chủ ngay cả trong cảnh
nô lệ; và bạn trong cảnh nô lệ nếu bạn không làm chủ toàn bộ
bản thân mình. Chấp nhận toàn bộ là giải thoát. Chấp nhận toàn
bộ bất kì sự kiện nào là tự do. Khi một người biết đúng đắn
Brahman biểu hiện, người đó đạt tới chấp nhận toàn bộ, và do
vậy được giải thoát khỏi cái chết.
Bây giờ chúng ta xem xét điểm thứ hai, mặc dầu nó là khó
hiểu thấu. Sẽ là đủ nếu điểm thứ nhất được hiểu thấu đúng. Biết
Brahman không biểu hiện là vấn đề của kinh nghiệm còn sâu sắc
hơn và tinh tế hơn. Để biết nó, người ta phải hoặc đi ra trước việc
sinh của mình hoặc đi ra bên ngoài cái chết của mình. Không có
cách nào khác ngoại trừ điều này. Đó là lí do tại sao thiền sư ở
Nhật yêu cầu người tìm kiếm, những người tới ông ấy, phải thiền
và tìm ra khuôn mặt của mình là gì trước khi sinh - tìm ra khuôn
mặt nguyên thuỷ của mình - bản lai diện mục của mình.
Khuôn mặt bạn có bây giờ không khác khuôn mặt nguyên
thuỷ của bạn hơn là khuôn mặt bạn đang mang hôm qua. Khuôn
mặt được thấy bây giờ không phải là của bạn; nó đã được nhận từ
bố mẹ bạn. Cái mũi này và những nét mặt khác, cái phức hợp
này, được nhận từ bố mẹ bạn; chúng không phải là của bạn. Nếu
bạn có bố mẹ da đen, bạn thừa hưởng mầu da đen, nếu họ là
người Anh thì mầu sẽ là xam xám. Những chất mầu này của thân
thể bạn là từ bố mẹ bạn, chúng không phải là của bạn; cho nên đi
và phát hiện ra mầu riêng của bạn đi. Khuôn mặt này của bạn là
được bố mẹ bạn trao cho bạn, cho nên thử tìm khuôn mặt
nguyên thuỷ của bạn. Những khuôn mặt được vay mượn sẽ bị lấy
đi. Chúng không là cái gì nhiều hơn mặt nạ - những khuôn mặt
giả. Nhưng bởi vì chúng kéo dài bẩy mươi năm, chúng ta nghĩ
chúng là khuôn mặt thật của chúng ta. Nếu một người được trao
cho chiếc mặt nạ cố định, lắp chắc chắn đến mức nó không thể
tháo ra được, trong vài ngày người đó sẽ bắt đầu coi nó như
khuôn mặt của riêng mình, bởi vì bất kì khi nào người đó đứng
trước gương người đó sẽ thấy cái mặt nạ này.
Một thực nghiệm rất kì lạ đã được thực hiện gần đây ở Mĩ
bởi một người Mĩ da trắng. Người này quyết định trở thành
người da đen bằng việc thay đổi mầu da của mình thành mầu đen.
Sống ở Mĩ, người này muốn tự mình thấy, kinh nghiệm thực sự,
người da đen phải sống trong nước mình vất vả như thế nào.
Người da trắng này có thể không có ý tưởng gì về việc người da
đen phải chịu đựng vất vả thế nào. Làm sao họ có thể nhận ra
được mà không thực tế là người da đen? Bất kì cái gì được biết
khác đi sẽ chỉ là tri thức của người da trắng.
Đây là một thực nghiệm đòi hỏi lòng dũng cảm rất lớn. Lúc
ban đầu, các nhà khoa học từ chối giúp người này bởi vì đấy là
công việc nguy hiểm. Nhưng người này rất cứng rắn, cho nên dần
dần người đó thuyết phục được ba nhà khoa học giúp mình tiến
hành thực nghiệm. Sau một sự xử lí lâu dài sáu tháng trong đó

việc tiêm một chất sắc tố mới vào cho anh ta, mầu da người đó đã
chuyển thành mầu da của người da đen. Lớp da của người đó bây
giờ đen, và tóc xoăn cũng được cấy nhân tạo.
Người đó đã viết trong hồi kí của mình: “Khi các nhà khoa
học bảo tôi lần đầu tiên rằng hiệu quả vật lí đã thành công, và bây
giờ tôi có thể bắt đầu thực nghiệm của mình, tôi đã nghĩ tới việc
tới buồng tắm để xem khuôn mặt mình. Nhưng tôi không đủ liều
lĩnh để bật đèn lên. Tôi không chắc về điều tôi sẽ thấy. Với một
tay run run tôi bật đèn lên. Tôi đã trông đợi rằng tôi vẫn còn như
tôi vẫn thế - tức là, nét mặt sẽ không thay đổi, chỉ mầu da là khác
đi. Nhưng khi tôi nhìn vào gương, tôi thấy rằng không chỉ mầu
da đã thay đổi mà tôi nữa cũng đã thay đổi. Tôi không thể đoán
được điều gì đã xảy ra, không thể đoán được ai đang đứng trước
gương. Mọi thứ đều thay đổi.
“Tôi đã nghĩ, khi trở nên giống người da đen, rằng tôi sẽ
sống giữa những người da đen trong sáu tháng để kinh nghiệm
một cách cá nhân điều họ đã phải chịu đựng; tôi biết rằng tôi sẽ
không là người da đen mãi mãi - tôi sẽ vẫn còn như tôi thực sự
vẫn là.” Nhưng người đó đã viết trong hồi kí của mình rằng “Sau
khi sống giữa những người da đen trong bốn hay năm ngày, tôi
bắt đầu quên mất rằng mình là người Mĩ da trắng. Tôi bắt đầu
quên mất rằng mình là người da trắng. Hàng ngày tôi thấy khuôn
mặt mới của mình trong gương. Tôi đã thấy ảnh chụp mình như
một người da đen. Những người da đen khác bắt đầu đối xử với
tôi cứ như tôi là người da đen vậy. Bước đi trên đường, những
người Mĩ da trắng, người vẫn quen chào đón tôi, đi qua tôi mà
không để ý gì đến tôi. Một hôm tôi tới nhà của vợ tôi và đứng
dưới cửa. Vợ tôi nhìn tôi và bỏ qua tôi.”
Người nào để ý đến một người da đen? Bạn có để ý tới người
phục vụ, hay người quét rác đang đứng ở cửa nhà bạn không? Ai
chú ý tới họ? Ai nhìn vào họ một cách chăm chú? Họ đơn thuần
được nhìn; không ai nhìn họ chăm chú. Có lần người đó tới thợ
chữa giầy, người vẫn thường làm giầy và cũng đánh bóng giầy
cho anh ta. Người đó đặt đôi giầy ở chỗ để đánh bóng. Người thợ
giầy ngẩng lên nhìn và hỏi, “Ông không có mắt hay sao? Bỏ chân
ông ra khỏi chỗ của tôi!”
Người đó đã viết, “Thế là tôi đã không cảm thấy rằng vì tôi
thực sự là người da trắng tôi phải buồn cười về thái độ của người
đó - rằng đây đơn giản là cách người đó đối xử với người da đen.
Không, tôi đã cảm thấy rằng cách đối xử đó là dành cho tôi,
người da trắng, và tôi cảm thấy bị xúc phạm.” Khi việc điều trị
nhạt dần đi sau sáu tháng và làn da người đó trở lại mầu trắng,
người đó đã viết trong hồi kí, “Khi tôi nhớ lại sáu tháng đó, tôi
không cảm thấy tôi thực sự đã trải qua cuộc sống như thế. Tôi
cảm thấy dường như tôi đã thấy giấc mơ nào đó. Người da đen
đó là một người nào đó khác, một người khác; tôi là một người
khác với anh ta. Chúng ta liên kết quá nhiều với khuôn mặt
mình.”
Khuôn mặt đó không phải là của người đó. Người đó mang
khuôn mặt đó chỉ sáu tháng. Nhưng điều đáng quan tâm là thế
này: người đó tin khuôn mặt mà người đó đã mang trong sáu
tháng không phải là của người đó, mà tin rằng khuôn mặt người
đó đã mang trước đó và sau đó sáu tháng mới là của người đó.
Khuôn mặt đó cũng không phải là của người đó nốt. Khuôn mặt
sáu tháng đã do các nhà khoa học trao cho anh ta, còn khuôn mặt
‘nguyên gốc’ này mà người đó có từ bố mẹ cũng không phải là
của người đó. Nó không phải là của riêng người đó.
Khuôn mặt của riêng người ta chỉ có thể được bắt gặp hoặc
trước sinh hoặc sau chết. Tìm kiếm trước sinh là rất gian nan; rất
khó để biết Brahman không biểu hiện trước sinh. Tôi đã bảo các
bạn trước đây rằng so sánh với Brahman biểu hiện, rất khó biết
Brahman không biểu hiện. Bây giờ tôi lại bảo bạn, có hai cách.

Đi lùi lại trước khi sinh; đi sâu vào trong thiền đến mức bạn có
thể quay lùi lại trước khi sinh, để cho bạn sẽ có thể biết Brahman
không biểu hiện. Cách khác là đi xa hơn và xa hơn trong thiền để
cho bạn có thể chết và đi ra ngoài cái chết; thế nữa bạn sẽ kinh
nghiệm Brahman không biểu hiện.
Trong hai cách này, thực nghiệm với việc chết là dễ dàng,
bởi vì nó có liên quan tới sự kiện tương lai. Đi lùi là rất khó, tiến
lên là dễ dàng. Bạn có thể nhảy về phía trước. Đi lùi là rất khó.
Mặc lại quần áo trẻ con là rất khó. Trở lại bụng mẹ là gian nan
phi thường, bởi vì con đường trở nên ngày càng chật hẹp hơn.
Nhưng bộ quần áo chùng của cái chết là dễ mặc vào. Con đường
trở nên ngày càng rộng hơn. Nhớ lấy, cánh cửa tới việc sinh là rất
nhỏ; cánh cửa tới cái chết là rất rộng. Đi ra ngoài cái chết là dễ
dàng.
Có thể đi lùi lại ra ngoài việc sinh. Có những quá trình và kĩ
thuật để làm điều đó, nhưng chúng rất khó thực hành và theo
đuổi. Việc thiền mà tôi đang nói tới là thực nghiệm với cái chết.
Nó là việc nhảy vào trong cái chết. Qua việc đi vào trong cái chết
một cách có chủ ý, đấy là một bài tập trong việc thấy. Đấy là việc
thực hành tồn tại dường như chết. Nếu điều này xảy ra và bạn đi
vào cái chết một cách có ý thức và trở thành dường như bạn
không có, thế thì khuôn mặt của Brahman không biểu hiện sẽ
thành thấy được. Khuôn mặt đó sẽ được thấy chính là khuôn mặt
trước sinh và cũng là sau chết.
Các quá trình có thể là hai, nhưng trung tâm đó là một và
cùng một. Bạn có thể thấy trung tâm đó hoặc bằng cách đi lùi về
sau hoặc bằng cách tiến lên trước. Nhưng con đường đi lên là dễ
dàng, cho nên tôi nhấn mạnh vào con đường của cái chết. Tôi
không khuyên bạn đi lùi lại trước khi sinh để thấy khuôn mặt đó;
tôi khuyên bạn đi lên trước vượt ra ngoài cái chết để thấy khuôn
mặt đó. Một ý chí như thế và cái chết được chấp nhận trở thành
thiền. Và nếu một cá nhân muốn sống trong một cái chết như thế
không phải chỉ trong vài giây mà cho toàn bộ cuộc đời mình,
người đó trở thành một sannyasin. Tính chất sanyas có nghĩa là
sống theo cách dường như đã chết.
Có một thiền sư tên là Bokoju. Ông ấy đã đi vào trong tính
chất sannyas. Có lần khi ông ấy đi qua một làng, một ai đó bắt
đầu văng lời chửi rủa ông. Ông ấy chỉ đứng đó, nghe chửi.
Một chủ cửa hàng thấy điều này nói, “Sao ông cứ đứng như
trời trồng ra thế? Nó đang chửi ông đấy.”
Bokoju đáp, “Tôi là người chết. Làm sao bây giờ tôi trả đũa
được?”
Viên chủ cửa hàng ngạc nhiên và nói, “Ông mà là người chết
à? Ông trông tuyệt đối sống.”
Thế rồi Bokoju nói, “Có giá trị gì trong cái chết vật lí của
tôi? Khi tôi chết, tôi sẽ chết như tất cả mọi người chết; nhưng bây
giờ tôi là chết khi còn sống: điều này có giá trị nào đó.”
Sinh xảy ra một cách vô ý thức, và bây giờ không có cách
nào để đi vào trong nó. Nhưng chết vẫn còn ở phía trước trong
tương lai, và bạn có thể đi qua nó một cách có chủ ý. Cơ hội để
biết khuôn mặt nguyên thuỷ của bạn qua sinh nay đã mất rồi,
nhưng cơ hội vẫn còn tồn tại để biết nó qua chết. Nhưng nhớ
trong tâm trí rằng bạn có thể bỏ lỡ cơ hội này nữa. Nếu chết tới
như như cái sinh tới cho bạn một cách ngẫu nhiên, thế thì bạn sẽ
bỏ lỡ cơ hội này để biết. Nhưng nếu bạn tự chuẩn bị để đón chào
chết, nếu bạn cứ chết đi thường xuyên, thế thì bạn sẽ biết.
Đây là nghĩa của tính chất sannyas - chết tự nguyện. Tiếp tục
chết, tiếp tục trở thành dường như là chết. Nếu ai đó chửi bạn,
nghĩ rằng bạn đã chết. Bạn sẽ làm gì nếu bạn chết về mặt vật lí và
ai đó đứng trên nấm mồ của bạn và chửi bạn? Bắt đầu bây giờ đi.

Bắt đầu làm cái mà bạn sẽ làm khi sọ bạn đang nằm đâu đó và ai
đó đá vào nó. Đây là ý nghĩa đúng đắn của sannyas. Do vậy bạn
sẽ có thể đi vào Brahman không biểu hiện.
Bằng không bạn cũng sẽ bỏ lỡ cơ hội chết này. Và không
phải là bạn đang bỏ lỡ nó lần đầu đâu; bạn đã bỏ lỡ nó nhiều lần
rồi. Tương tự, bạn đã bỏ lỡ cơ hội sinh nhiều lần. Cơ hội này bây
giờ bị mất đối với bạn, và trước nó nhiều cơ hội sinh và chết
cũng đã bị mất.
Bạn đã quen thuộc với quá trình này đến mức bạn đâm
nghiện nó. Bạn đã đi qua một quá trình này lặp đi lặp lại. Bây giờ
bạn cần ra quyết định về việc liệu có đi thêm nữa với quá trình
này hay không, vì tất cả chúng ta đều có cơ hội làm lợi cho bản
thân mình về cơ hội chết lần nữa. Tại sao không nhân cơ hội này
để đi vào cái không biểu hiện!
Hiền nhân này tuyên bố, “Người đi vào cái không biểu hiện
đạt tới cái bất tử. Người biết tới cái biểu hiện chinh phục được
cái chết, và người đi vào cái không biểu hiện thì đạt tới cái bất
tử.”
Nhớ lấy, cái bất tử chỉ có thể được biết chỉ bởi việc đi vào
cái chết, bởi vì khi chúng ta đi vào cái chết một cách toàn bộ, khi
chúng ta chết theo mọi cách thức và vậy mà vẫn thấy chúng ta đã
không chết, thế thì tính bất tử được đạt tới. Cho nên khi ai đó
chửi bạn và bạn hành xử hệt như xác chết và vẫn còn có ý thức
về bản thân mình, thế thì bạn sẽ không phản ứng với lời chửi đó.
Nếu ai đó chặt tay bạn, hay thậm chí chặt cổ bạn, và trong khi bị
chặt, bạn vẫn còn ý thức tới bản thân mình, thế thì cánh cửa của
cái bất tử là mở ra cho bạn. Người mà cố gắng cứu bản thân mình
khỏi chết thì sẽ không đạt tới cái bất tử, còn người đi vào cái chết
sẽ nếm cam lồ của cái bất tử.
Biết Brahman không biểu hiện là tìm ra cái bất tử, bởi vì cái
không biểu hiện là cái bất tử. Tồn tại trước sinh và sau chết, đó là
cái bất tử. Nó chưa hề sinh nên nó không hề diệt. Chúng ta cũng
là cùng cái đó. Chỉ thân thể lấy việc sinh; nó là cái hợp thành,
được nhận từ bố mẹ. Chúng ta tới từ thời rất, rất cổ đại. Chúng ta
đã có khi thân thể còn chưa có. Khi đi vào thân thể, sự đồng nhất
với nó xảy ra, và khi thân thể chết dường như là, “Tôi chết.”
Khi cái chết tới một cách bất thình lình - và nói chung nó tới
một cách bất thình lình, không báo trước - nó bầy tỏ cho bạn lòng
tốt. Nếu nó định báo trước việc tới của nó bạn sẽ gặp khó khăn
lớn; chính hành động khoan dung về phần cái chết là ở chỗ nó
không báo trước cho bạn. Giả sử cái chết định thông báo cho bạn,
hai mươi bốn giờ trước, về việc tới của nó: điều gì sẽ xảy ra? Bất
kì cái gì sắp xảy ra trong hai mươi bốn giờ chắc chắn sẽ xảy ra,
nhưng khó mà hình dung ra được bạn sẽ khổ như thế nào trong
thời kì đó. Bạn sẽ khổ và không thoải mái khi chờ đợi cuộc hẹn
hò, mặc dầu thực ra bây giờ bạn có cơ hội để đi qua cái chết một
cách có ý thức. Bạn sẽ thấy việc sống hết giây nọ sang giây kia là
rất khó khăn. Bạn có thể trải qua, bạn có thể mất cảm giác của
mình. Cũng có thể xảy ra là - có khả năng ấy - bạn trải qua thời
điểm này mà không mất ý thức. Nhưng khả năng lớn hơn là ở
chỗ bạn sẽ trải qua thời gian trong cơn mê, và chung cuộc chết
trong hoàn cảnh đó. Cho nên vấn đề có lẽ trở thành hoàn toàn vô
ích đối với bạn để nhận được sự báo trước về thời điểm chết của
bạn.
Sannyas có nghĩa là tự thông báo cho mình, tự hiểu và tự nhủ
với mình rằng, “Chuông điểm cho ta đấy. Cái xác đang được đưa
tới nghĩa địa là thân thể ta. Thân thể đang cháy trên dàn thiêu là
thân thể ta.” Đây là lí do tại sao đầu của sannyasin thường được
cạo trọc, như được làm cho cái đầu của người chết. Trước đây đã
có một số nghi lễ và tuân thủ tôn giáo đã được qui định cho việc
điểm đạo cho một người thành sannyasin. Đầu người đó phải

được cạo trọc, và họ hàng người đó thường khóc lóc và tắm lần
cuối cho người đó, hệt như họ vẫn làm cho người khác sau cái
chết của họ.
Ngay cả bây giờ một số trong những nghi lễ này vẫn còn
được duy trì, bởi vì người đi vào tính chất sannyas là đang làm
chết đi những mối quan hệ và mối nối trần gian của mình. Việc
khóc lóc của người thân sẽ dừng lại trong một hay hai ngày, vì họ
thấy rằng mặc dầu con người này đã quyết định làm chết đi mối
quan hệ trần thế, người đó vẫn sống. Điều này là tốt theo một
cách nào đó. Sannyasin cho phép người thân của mình trải qua
đau đớn và khổ của cái chết của người đó trong sự hiện diện của
người đó; khi người đó thực sự chết thì người đó sẽ không có đó
để an ủi họ trong nỗi khổ của họ.
Trong những ngày cổ xưa ấy người ta quen đặt một người
mới điểm đạo lên dàn thiêu. Những ngày ấy là những ngày rất
hồn nhiên. Sau khi đặt người đó lên dàn thiêu họ châm lửa dàn
thiêu. Thế rồi thầy sẽ hô lên, “Ông đã chết! Nhớ lấy, ông đã
chết!” Thế rồi người đó được nâng ra khỏi dàn thiêu đang cháy
và được cho một cái tên mới, và nghi lễ này đã tuyên bố rằng con
người cũ và cái tên cũ của người đó đã trôi qua vĩnh viễn. Đấy là
những ngày rất hồn nhiên, cho nên người trải qua buổi lễ nhỏ này
đã tin rằng cái ta cũ của mình đã chết và người đó bây giờ là một
người mới.
Ngày nay hồn nhiên đó không có đó. Nếu bạn bị đặt lên dàn
thiêu, bạn sẽ lập tức trèo xuống ngay. Nếu đầu bạn được cạo trọc,
bạn sẽ để cho bản thân mình được chụp ảnh rồi giữ chiếc ảnh đó
trong an bum cùng với các ảnh khác. Bạn sẽ duy trì tính liên tục.
Ngày nay con người đã trở nên rất láu lỉnh và tinh ranh, cho nên
từ bỏ thực đã trở thành hiếm. Nhưng không có cách nào khác hơn
tính chất sannyas để biết tới Brahman không biểu hiện. Ngay cả
một người trần tục cũng có thể biết tới Brahman biểu hiện, nhưng
chỉ sannyasin mới có thể biết Brahman không biểu hiện.
Đủ cho hôm nay. Chúng ta sẽ gặp lại vào đêm nay.
Bây giờ chúng ta bắt đầu cuộc hành trình của mình tới cái
không biểu hiện. Để chúng ta chết đi.

*************************************************************************************************************

16 Chỉ việc biết còn lại

**Khuôn mặt của Brahman đó,
ngồi ở giữa sự tràn trề ánh sáng,
bị che phủ bởi tấm màn vàng.
Xin Thượng đế cởi bỏ tấm màn đó ra
để cho con, người tìm kiếm chân lí,
có thể đạt tới điều tối cao.**

Lời kinh này hơi khó hiểu, nhưng nó có ý nghĩa phi thường
bởi nhiều lí do. Trước hết, chúng ta nói chung vẫn tin rằng nếu
chân lí bị che phủ, nó phải bị che phủ bởi bóng tối, nhưng lời
kinh này nói nó bị che phủ bởi ánh sáng; do đó có lời cầu nguyện
rằng Thượng đế sẽ cởi bỏ tấm màn ánh sáng.
Đây là kinh nghiệm của người đã tiến hành tìm kiếm sâu sắc
về chân lí. Những người chỉ suy nghĩ bao giờ cũng sẽ nói rằng
chân lí bị bao phủ trong bóng tối, nhưng những người đã biết qua
kinh nghiệm sâu sắc sẽ nói nó bị che phủ trong ánh sáng; và nếu
nó trông có vẻ tối, đấy là vì cái chói của ánh sáng này. Chúng ta
bị loá mắt khi ánh sáng quá mạnh; thế thì ánh sáng trông như
bóng tối bởi vì nhược điểm của mắt chúng ta, chúng không thể
chịu đựng được quá nhiều ánh sáng.
Nhìn vào mặt trời với mắt mở to, và trong một vài giây bạn
sẽ trong bóng tối. Mặt trời chói lọi đến mức mắt không thể chịu
đựng nổi nó. Cho nên những người đã biết từ một khoảng cách
và không trực tiếp - người chỉ nghĩ về nó - sẽ nói rằng ngôi đền
của Thượng đế bị giấu trong bóng tối. Nhưng những người đã
biết đến kinh nghiệm về nó sẽ nói nó bị giấu trong ánh sáng, và
họ sẽ cầu nguyện Thượng đế bỏ tấm màn đó. Ảo tưởng được tạo
ra bởi vì mắt chúng ta quá yếu không trụ nổi trước dư thừa ánh
sáng. Con người chúng ta không thích hợp để đón nhận nó.
Khi người ta tiến tới chân lí, ánh sáng bắt đầu tăng lên, trở
nên ngày càng chói lọi hơn. Những người đang đi xa thêm vào
trong thiền dần dần đi tới biết việc toả sáng tăng lên khi việc
thiền của họ trở nên ngày càng sâu hơn. Một sannyasin người
Italia tên là Veet Sandeh hôm nay bảo tôi rằng có quá nhiều ánh
sáng bên trong cô ấy đến mức cô ấy kinh nghiệm các tia sáng loé
ra từ cô ấy, và toàn bộ thân thể cô ấy bùng cháy cứ như mặt trời
đang chiếu sáng bên trong cô ấy. Sức nóng không đến từ bên
ngoài mà từ bên trong, và ánh sáng đó chói lọi đến mức cô ấy

khó ngủ được trong đêm. “Khi tôi lơ mơ,” cô ấy nói, “toàn ánh
sáng là ánh sáng khắp xung quanh.”
Khi người ta đi ngày càng sâu hơn vào thiền, ánh sáng này
trở nên càng mạnh, tập trung và xuyên thấu, và một khoảnh khắc
sẽ tới khi cường độ ánh sáng lớn đến mức người đó kinh nghiệm
bóng tối sâu sắc. Chỉ các vị thánh Ki tô giáo đặt tên đúng cho
khoảnh khắc này. Họ gọi nó là, “Đêm tối của linh hồn.” Nhưng
đêm tối như hắc ín này là do ánh sáng quá mức, sự tràn trề ánh
sáng. Chính trong khoảnh khắc này mà con người cầu nguyện
Thượng đế bỏ đi tấm màn ánh sáng, “Để cho con có thể thấy
khuôn mặt của chân lí ẩn đằng sau nó.”
Điều duy nhất được trông đợi là sẽ có quá nhiều ánh sáng
bao quanh chân lí đến mức nó làm mù mắt chúng ta. Điều khớp
và tốt là chân lí được che giấu bên trong vòng tròn ánh sáng đó.
Chỉ ảo tưởng của chúng ta là chân lí bị che giấu trong bóng tối.
Làm sao có thể có bóng tối bao quanh chân lí được? Nếu bóng
tối bao quanh chân lí, thế thì chúng ta sẽ tìm ra ánh sáng ở đâu
trong thế giới này? Làm sao bóng tối có thể bao quanh chân lí
được? Không có khả năng nào, không cách nào, để bóng tối tồn
tại gần ánh sáng được. Nơi có chân lí chắc chắn sẽ có ánh sáng;
nó chỉ trông như bóng tối đối với chúng ta. Nếu chúng ta hỏi nhà
huyền môn Sufi, họ sẽ bảo chúng ta rằng khi chúng ta đi sâu vào
thiền không chỉ có một mặt trời, có cả nghìn mặt trời. Cho nên
việc tràn trề ánh sáng thì dường như là có vô số mặt trời đang
chiếu sáng đồng thời bên trong. Một cách tự nhiên, chúng ta sẽ bị
loá mắt như mù.
Chân lí được ẩn trong ánh sáng. Và bạn có để ý không? - thật
dễ dàng cho chúng ta mở mắt trong bóng tối, nhưng rất khó để
mở mắt trong sự tràn trề ánh sáng. Có gì khó khăn trong việc để
mắt mở, hay trong việc mở chúng, vào đêm không trăng? Nhưng
nếu mặt trời chiếu vào mắt chúng ta thấy rất khó mở mắt ra.
Xung đột cuối cùng của những người tiến tới chân lí là với ánh
sáng, không phải với bóng tối.
Lời kinh này nói về thời kì đó của xung đột. Trong khoảnh
khắc đó người tìm kiếm cầu nguyện, “Xin Thượng đế bỏ tấm
màn đó ra để cho con có thể thấy được khuôn mặt nguyên thuỷ,
thực sự của ngài.” Có vẻ hoàn toàn tự nhiên nếu ai đó cầu
nguyện, “Xin đưa chúng con ra xa khỏi bóng tối; xin dẫn dắt
chúng con ra khỏi bóng tối,” nhưng, “Xin bỏ ánh sáng này”... là
sao? Và một điểm đáng quan tâm nữa là từ vàng được dùng để
mô tả ánh sáng - đấy là một từ rất dễ chịu. Ánh sáng này giống
như vàng. Nó là ánh sáng mà chúng ta sẽ không có ước ao nào bỏ
nó đi. Rất khó để yêu cầu nó được bỏ đi, nhưng chân lí không thể
được thấy cho tới khi ánh sáng đó được loại bỏ. Cho nên để
chúng ta hiểu điểm này.
Rất dễ dàng từ bỏ cái xấu, nhưng khó khăn thực nảy sinh khi
thời điểm tới để từ bỏ cái tốt. Đâu là khó khăn khi từ bỏ xiềng
xích sắt? Khó khăn nảy sinh khi xiềng xích vàng bị từ bỏ, bởi vì
khó mà coi xiềng xích vàng là xiềng xích. Chúng trông như đồ
trang sức. Rất dễ dàng vứt bỏ cái không thánh thiện, nhưng ngay
cả cái thánh thiện cũng trở thành cảnh nô lệ trong giai đoạn cuối
cùng. Khi điều ấy nữa cũng phải từ bỏ, khó khăn lớn nảy sinh.
Trong giai đoạn cuối cùng đó cái tốt cũng phải bị từ bỏ, bởi vì
ngay cả gắn bó ngần ấy trở thành cảnh nô lệ, và ngay cả cảnh nô
lệ ngầy ấy là rào chắn trong việc tìm kiếm chân lí. Chỉ tuyệt đối
không gắn bó, tuyệt đối tự do mới có tác dụng. Cho nên người
tìm kiếm này, người đã phải tranh đấu với bóng tối và đã chinh
phục được nó, bây giờ cầu nguyện Thượng đế rút bỏ tấm màn
vàng. Không khó khăn để tranh đấu chống lại bóng tối, nhưng sẽ
có nhiều khó khăn khi khoảnh khắc tới để tranh đấu chống lại
ánh sáng.

Ánh sáng - và tranh đấu chống lại nó sao? Điều này thật
đáng ngạc nhiên. Ánh sáng dễ chịu thế, tuyệt trần thế, đem lại an
bình thế, hăng hái, đầy nước cam lồ của cuộc sống đến mức thật
đau đớn phải nói tới việc loại bỏ nó. Và do đó hiền nhân này cầu
nguyện Thượng đế rút bỏ nó: “Tự con không thể làm được điều
đó. Tâm trí con sẽ thuyết phục con rằng hội nhập vào với nó là
hơn,” Nhớ lấy, bạn sẽ phải tự cứu bản thân mình ngay cả với ánh
sáng khi thiền của bạn đem bạn tới sự chói lọi tối thượng của nó.
Cuộc hành trình của bạn phải đi ra ngoài cả điều đó. Bạn phải
vượt qua nó, bạn phải siêu việt lên nó. Bạn phải vượt ra ngoài
bóng tối, và vượt ra ngoài ánh sáng nữa. Khi tâm thức đi ra ngoài
bóng tối và ánh sáng, nhị nguyên chấm dứt và bất nhị bắt đầu.
Thế thì cái một đó được thấy, cái không ánh sáng không bóng tối,
không đêm không ngày, không sống không chết, cái bao giờ cũng
có đó, và vượt ra ngoài tất cả mọi nhị nguyên. Bạn đối diện với
xung đột cuối cùng với ánh sáng trước khi cái bất nhị đó được đạt
tới.
Cách khác để hiểu điều ấy là thế này: bao giờ cũng dễ dàng
từ bỏ bất hạnh; cái mà chúng ta có thể tranh đấu chống lại.
Nhưng nếu hạnh phúc tới trên con đường của chúng ta, rất khó để
tranh đấu chống lại nó - gần như không thể được. Làm sao chúng
ta có thể tranh đấu chống lại nó được? Nhưng giải thoát là không
thể có được nếu chúng ta bị mắc và bị gắn vào hạnh phúc. Như
tôi đã nói với các bạn sáng nay, hạnh phúc sẽ tạo ra cõi trời cho
bạn, và trong cõi trời đó bạn sẽ thấy mình lại trong cảnh nô lệ, bị
cám dỗ vào trong hoan lạc và tình yêu; không có giải thoát ở đây.
Lời cầu nguyện này, ham muốn này của hiền nhân để rút bỏ
tấm màn ánh sáng và thấy khuôn mặt của Brahman bị bao phủ
bởi ánh sáng loá mắt đó, làm lộ ra cái bất lực cuối cùng của tâm
trí con người. Tâm trí con người không có ao ước được tự do
khỏi ánh sáng hay hạnh phúc hay cõi trời. Nhưng người ta phải
tự do khỏi chúng. Hiền nhân này đang đứng ở ngưỡng cửa. Một
bên là bản tính con người của ông ấy, cái thúc giục ông ấy nhảy
múa với vui thú trong ánh sáng đó, để đồng nhất bản thân mình
với ánh sáng đó và được hấp thu vào trong nó; trong khi bên kia
là khao khát sâu xa bên trong về chân lí, cái thôi thúc ông ấy vượt
ra ngoài. Chính trong khoảnh khắc khó khăn và quyết định đó mà
ông ấy thốt ra lời kinh này, lời cầu nguyện này, “Xin Thượng đế
cởi bỏ tấm màn ánh sáng quá mức đó ra. “ Ông ấy cầu nguyện,
“Xin cởi bỏ vui thích này, dạng tuyệt trần này để cho con có thể
thấy chân lí hoàn toàn, trần trụi, mà chính là ngài!”
Những người sống trong khổ không biết rằng hạnh phúc có
cái khổ của nó. Những người sống giữa kẻ thù không biết rằng
bạn bè cũng có những xung đột riêng của họ. Những người sống
trong địa ngục không biết rằng cõi trời có những rắc rối của riêng
nó. Làm sao những người sống trong bóng tối hình dung được
rằng ánh sáng trở thành nhà tù?
Chừng nào có nhị nguyên không có giải thoát, có cảnh nô lệ.
Thế thì cái gì sẽ còn lại khi ánh sáng bị loại bỏ đi, khi bóng tối bị
loại bỏ đi? Cái gì là khuôn mặt của chân lí? Cái gì được thấy?
Hiện tại, như trí tuởng tượng của chúng ta có thể vươn tới, cái xa
nhất ý nghĩ của chúng ta có thể bay tới, cái xa nhất tâm trí chúng
ta có thể đạt tới, cực điểm chúng ta có thể hình dung ra là ở chỗ
nếu chân lí có khuôn mặt nó sẽ là ánh sáng - ánh sáng chói lọi.
Tại sao chúng ta nghĩ như vậy?
Hiểu một hay hai điểm. Chúng ta vẫn chưa thấy ánh sáng
đâu. Bạn có thể đáp, “Thầy ngụ ý gì, chúng tôi không thấy ánh
sáng sao? Chúng tôi có thấy ánh sáng đấy. Chúng tôi thấy ánh
sáng khi mặt trời lên vào buổi sáng. Chúng tôi thấy ánh sáng vào
ban đêm khi trăng chiếu sáng và có ánh trăng mọi nơi.” Không,
tôi nhắc lại, bạn chưa thấy ánh sáng đâu. Bạn chỉ thấy các vật
được chiếu sáng. Khi mặt trời lên bạn thấy mọi vật được chiếu
sáng - núi, sông, suối, cây, người. Bóng điện bây giờ đang cho

bạn ánh sáng. Bạn sẽ nói, “Chúng tôi thấy ánh sáng.” Nhưng
không, bạn không thấy ánh sáng. Bạn thấy bóng điện chiếu sáng.
Bạn thấy mọi người đang đứng trong ánh sáng của nó. Bạn thấy
các đối tượng, không phải là ánh sáng. Không thể có bất kì kinh
nghiệm nào về ánh sáng trong thế giới bên ngoài. Chỉ những đối
tượng phát sáng được thấy, và khi chúng không được thấy chúng
ta nói đó là bóng tối. Khi nào có bóng tối trong phòng này? Khi
không gì có thể được thấy trong phòng này chúng ta nói có bóng
tối, và khi các đối tượng là thấy được thì chúng ta nói có ánh
sáng.
Chúng ta không thấy ánh sáng trực tiếp. Nếu không có vật
nào trong phòng này bạn sẽ không có khả năng thấy được ánh
sáng. Ánh sáng chạm vào một vật; hình dạng của vật này được
bạn thấy và bạn nghĩ bạn đang thấy ánh sáng. Nếu vật này được
thấy rất rõ ràng bạn nói có nhiều ánh sáng, nếu nó không được rõ
ràng lắm bạn nói ánh sáng không đủ, và nếu nó không được thấy
chút nào bạn nói có bóng tối. Nếu bạn không thể biết được cái gì
về hình dạng và đối tượng bạn nói trời tối đen như hắc ín. Nhưng
bạn dã không thấy ánh sáng lẫn bóng tối. Chính sự phỏng đoán
của chúng ta là có ánh sáng bất kì khi nào ta có thể thấy các đối
tượng. Thực ra, bản thân ánh sáng là một năng lượng chốc lát đến
mức nó không thể được thấy từ bên ngoài.
Ánh sáng là thấy được ở bên trong bởi vì không có đối tượng
nào bên trong mà có thể được chiếu sáng. Không có các đối
tượng bên trong mà có thể phát sáng và chúng ta có thể thấy
được, cho nên khi chúng ta kinh nghiệm ánh sáng bên trong, đấy
là ánh sáng thuần tuý, nó là trực tiếp, nó không có bất kì trung
gian nào. Chúng ta thấy hai thứ bên ngoài - đối tượng được chiếu
sáng và nguồn ánh sáng; và ánh sáng ở giữa hai điều này chúng
ta không bao giờ thấy được. Mặt trời là thấy được hay bóng điện
là thấy được, và các vật được chiếu sáng ở đây là thấy được;
nhưng ánh sáng ở giữa cả hai là không thấy được.
Khi ánh sáng được thấy ở bên trong không có các đối tượng,
không có nguồn nào cả - nó là ánh sáng vô nguồn. Không có mặt
trời mà từ đó ánh sáng toả ra. Không có đèn phát ra ánh sáng. Chỉ
có ánh sáng vô nguồn. Khi ánh sáng được thấy lần đầu tiên trong
thế giới vô vật ấy, thế thì Kabir, Mohammed, các nhà huyền môn
Sufi, các nhà huyền môn Baul, các nhà huyền môn Jaina, bắt đầu
nhảy múa, tuyên bố điều chúng ta gọi là ánh sáng thì chỉ là bóng
tối.
Aurobindo đã viết, “Một lần tôi đã thấy bên trong, vấn đề trở
nên rõ ràng rằng cái mà tôi vẫn hiểu là ánh sáng đã là bóng tối.
Khi tôi nhìn vào bên trong tôi đã thấy rằng cái mà tôi đã coi là
sống thực tế là chết.” Quả thực rất khó để nhận ra và chịu đựng
ánh sáng, vô nguồn, vô vật và vô hình dạng được sinh ra bên
trong. Khó khăn lớn nhất là ở chỗ tâm trí chúng ta có khuynh
hướng nghĩ, “Mình đã đạt tới chỗ kết thúc của cuộc hành trình
của mình, mình đã đạt tới đích đến của mình.”
Giác quan không phải là chướng ngại lớn trên con đường của
người tìm kiếm chân lí; người đó vượt qua chúng. Ý nghĩ cũng
không phải là cản trở lớn; người đó vượt ra ngoài chúng. Nhưng
chân chúng ta từ chối di chuyển khi đoá hoa của vui mừng và vui
vẻ của thành đạt bắt đầu hiển lộ bên trong. Chúng ta cảm thấy
không thích từ bỏ chúng và loại bỏ chúng. Chúng ta thấy thiếu
dũng cảm và bạo dạn trong mình để vượt ra ngoài chúng, và
chúng ta nghĩ chúng ta đã đạt tới đích. Đây là khoảnh khắc hiền
nhân này đã cầu nguyện, “Xin Thượng đế cởi bỏ ánh sáng chói
lọi này nữa. Con ước ao biết cái nằm ngoài ánh sáng ấy. Con đã
đi qua bóng tối - bây giờ xin đưa con vượt ra ngoài ánh sáng.”
Nhớ lấy điều này. Ý chí và quyết tâm có thể giúp chúng ta
vượt ra ngoài bóng tối, nhưng chỉ buông xuôi giúp chúng ta vượt
ra ngoài ánh sáng. Chúng ta phải đi vào trong xung đột để vượt ra
ngoài bóng tối; chúng ta phải vật lộn và tranh đấu vất vả. Và con

người tìm thấy đủ sức mạnh trong tranh đấu với bóng tối, nhưng
con người tuyệt đối yếu đuối khi cơ hội nảy sinh để tranh đấu
chống lại ánh sáng. Con người gần như là không có. Quyết tâm
và ý chí mạnh mẽ sẽ không có tác dụng ở đây; chúng là vô hiệu
quả. Chỉ buông xuôi có hiệu lực.
Lời kinh này nói cho chúng ta về buông xuôi. Hiền nhân này
đã tới chỗ ánh sáng được sinh ra. Bây giờ ông ấy bị thất bại. Cho
tới lúc này ông ấy đã không cầu nguyện để được giúp đỡ. Cho tới
lúc này ông ấy đã không yêu cầu Thượng đế làm bất kì điều gì
cho mình. Với tự tin trong bản thân mình, ông ấy đã làm ra con
đường của mình cho tới điểm này. Con người có thể đi xa tới
điểm này, nhưng những người phụ thuộc vào quyết tâm không
bao giờ có thể vượt ra ngoài điều này. Chỉ những người được
chuẩn bị để buông xuôi toàn bộ mới có thể vượt qua biên giới
này.
Điều này sẽ dễ hiểu nếu chúng ta diễn tả nó theo cách này:
thiền đưa chúng ta tới kinh nghiệm lớn về ánh sáng. Sau điều
này, thiền không còn hữu dụng. Cho nên những người chưa bao
giờ thực hành thiền mà chỉ cúng dường lời cầu nguyện là ngu
xuẩn - không có nhu cầu về lời cầu nguyện nơi họ đang ở. Và
những người đã thực hành thiền và coi lời cầu nguyện là không
cần thiết cũng là ngu xuẩn, bởi vì thiền sẽ đem chúng ta tới cánh
cửa ánh sáng, nhưng một khi ở đấy rồi, chỉ lời cầu nguyện chân
thành sâu sắc mới có thể có ích.
Đến cuối bạn sẽ phải cầu nguyện, “Con đang trong tay ngài,
xin dẫn con đi! Con đã tới điểm này, bây giờ xin dẫn con vượt ra
ngoài điều này.” Và nhớ lấy, người đã du hành tới những giới
hạn của thiền giành được quyền yêu cầu Thượng đế dẫn mình
vượt ra ngoài. Bây giờ, khi ân huệ của Thượng đế bắt đầu giáng
xuống người đó, người đó được chuẩn bị. Người đó đã đạt tới nơi
xa nhất con người có thể tới, và ngay cả Thượng đế cũng không
thể trông đợi nhiều hơn điều này từ người đó. Đây là giới hạn tột
bậc của khả năng con người. Nếu bây giờ Thượng đế cũng đòi
hỏi thêm từ con người, đấy là bạo chúa, đấy là quá đáng.
Không còn vấn đề nào hơn vấn đề này nảy sinh. Bây giờ, chỉ
lời cầu nguyện có thể giúp ích, và lời cầu nguyện là, “Con buông
xuôi theo tay ngài: Xin Thượng đế cởi bỏ tấm màn này.” Lời cầu
nguyện là bước đưa thiền tới sự hoàn tất của nó, và buông xuôi
toàn bộ là bước cuối cùng trên con đường của ý chí và quyết tâm.
Bạn phải nỗ lực nhiều nhất có thể được, nhưng khoảnh khắc bạn
cảm thấy, “Mình không thể đi xa hơn thế này,” phải viện tới lời
cầu nguyện. Vào khoảnh khắc đó, kêu to xin ân huệ của Thượng
đế đi; nói với ngài, “Con đã đi xa nhất có thể được trên đôi chân
yếu đuối của mình, nhưng điều đó nằm ngoài khả năng con đi xa
hơn. Bây giờ xin ngài chăm nom cho con!” Đây là khoảnh khắc
khi hiền nhân cầu nguyện rằng tấm màn có thể được cởi bỏ và
khuôn mặt thật được lộ ra.
Chân lí sẽ giống cái gì? Nó sẽ giống cái gì khi ánh sáng cũng
bị bỏ đi? Cần phải hiểu thấu điều này. Sẽ rất khó, rất tinh tế và
sâu sắc, nhưng cần phải hiểu nó một chút sao cho nó có thể hữu
dụng cho chúng ta. Tôi đã bảo các bạn rằng trong thế giới bên
ngoài có các đối tượng được chiếu sáng và có nguồn sáng. Không
có kinh nghiệm về bản thân ánh sáng trong thế giới bên ngoài.
Nó chỉ được kinh nghiệm ở bên trong, nơi không có đối tượng
lẫn nguồn sáng. Và thế thì, chung cuộc, ánh sáng cũng biến mất.
Chúng ta nghĩ sẽ có bóng tối khi ánh sáng biến mất, đó là
kinh nghiệm của chúng ta; và chúng ta có thể coi lời cầu nguyện
của hiền nhân này là ngu xuẩn, bởi vì làm sao ông ấy có thể thấy
khuôn mặt của Thượng đế trong bóng tối mà sẽ có đó khi tấm
màn ánh sáng được cởi bỏ ra? Nhớ lấy, ông ấy đã chinh phục
bóng tối; bây giờ, khi ánh sáng biến mất, sẽ không có bóng tối.

Bóng tối đã biến mất từ lâu trước đó rồi. Đối mặt với ông ấy bây
giờ là tấm màn ánh sáng. Cái gì sẽ còn lại khi ánh sáng biến mất?
Khi mặt trời lặn đấy là buổi tối; đêm còn chưa tới. Đó là thời
kì mà nguồn sáng đã biến mất và bóng tối chưa trùm xuống.
Khoảnh khắc chúng ta đang tìm kiếm để mô tả là lúc chạng vạng
nằm giữa ngày và đêm. Đó là lí do tại sao lời cầu nguyện và lúc
chạng vạng được mô tả bởi cùng một từ Hindu - sandhya - chúng
là đồng nghĩa. Người ta bắt đầu gọi lời cầu nguyện là sandhya, và
lấy lúc mặt trời lặn làm thời gian cầu nguyện. Có hai sandhya -
một trước khi mặt trời mọc và một sau khi mặt trời lặn. Chúng là
các điểm giữa; ngày qua rồi nhưng đêm còn chưa tới, hoặc đêm
qua rồi và ngày còn chưa tới. Lỗ hổng nhỏ đó giữa cả hai được
biết là sandhya, và chúng ta đã lấy thời kì đó làm thời gian tôn
thờ và cầu nguyện. Nhưng sự kiện thực là khác.
Sandhya đơn thuần là biểu tượng cho khoảnh khắc đó của
sandhya bên trong, khi cả hai bóng tối và ánh sáng đã biến mất.
Sandhya tới khi không có bóng tối không ánh sáng, chỉ có một
loại ánh sáng đặc biệt được biết là alok. Ý nghĩa từ điển của từ
này là ánh sáng. Điều ấy là không đúng. Alok có nghĩa là khoảnh
khắc không bóng tối không ánh sáng. Vào lúc bình minh mặt trời
còn chưa lên nhưng đêm đã trôi qua rồi. Khoảnh khắc đó của
alok là bình minh. Tôi tham chiếu điều này như một minh hoạ để
cho bạn có thể hiểu thấu ý tưởng, bởi vì không có cách nào khác
để cho bạn một ý tưởng về việc xảy ra đó ở bên trong. Không có
bóng tối không có ánh sáng. Chỉ có alok.
Như tôi đã nói với bạn, cả đối tượng và nguồn sáng biến mất
khi bạn quay vào trong và chỉ có ánh sáng còn lại. Một khi ánh
sáng đó, và cả bóng tối nữa, mất đi thì chỉ còn lại alok, thế thì cả
hai người biết và cái được biết cũng biến mất. Người thấy và cái
được thấy cả hai đều mất. Thế thì không phải là hiền nhân này
đang đứng đó nhìn vào chân lí, không; thế thì bản thân hiền nhân
trở thành chân lí. Thế thì chân lí trở thành hiền nhân. Thế thì
không có người biết không có cái được biết - cả hai biến mất.
Trong alok, bóng tối và ánh sáng, người biết và cái được biết
không còn nữa. Không có người kinh nghiệm không có kinh
nghiệm, chỉ có việc kinh nghiệm. Nơi có kinh nghiệm, kinh
nghiệm có đấy và cái được kinh nghiệm có đấy. Không, ở đây
không có người kinh nghiệm không có cái được kinh nghiệm.
Chỉ việc kinh nghiệm còn lại. Hiền nhân đang kinh nghiệm
không còn nữa, Thượng đế không còn nữa. Khác biệt, phân biệt
biến mất. Người yêu và đối tượng của tình yêu không còn nữa.
Đó là khoảnh khắc của giải thoát tối cao.
Không phải là trong khoảnh khắc này chúng ta đi tới biết cái
gì đó. Ngược lại, chúng ta biết rằng chúng ta không có; và chúng
ta cũng biết rằng không cái gì còn lại để biết. Chỉ có việc biết còn
lại. Cho nên thuật ngữ này được Mahavira dùng là thật tuyệt
diệu. Ông ấy đã gọi nó chỉ là việc biết. Người biết không có, cái
được biết không có - chỉ có việc biết. Cả hai đầu đã mất.
Nó cũng giống như thế này: mặt trời, cội nguồn nguyên thuỷ,
mất đi và các đối tượng nhận ánh sáng cũng mất đi. Tương tự
người biết - nguồn gốc - mất đi, và các đối tượng được biết cũng
mất đi; chỉ việc biết còn lại.
Trong cuộc hành trình hướng tới việc biết này, như tôi đã
bảo các bạn, bước đầu tiên là quyết tâm - ý chí mạnh mẽ - và
bước thứ hai là buông xuôi. Bước thứ nhất là về thiền, bước thứ
hai là về lời cầu nguyện.
Với người đã đi cả hai bước không cái gì còn lại để được biết
hay được đạt tới hay được kinh nghiệm.
Đủ cho hôm nay.

**************************************************************************************************************

17 Cái nhảy tối thượng

**Hỡi mặt trời,
người nuôi dưỡng và người hỗ trợ cho thế giới,
Hỡi lữ khách đơn độc trên bầu trời,
Hỡi Yama, hỡi mặt trời, hỡi mặt trời của Brahman,
Con xin cầu khẩn ngài rút lại các tia sáng.
Con thấy hình ngài, tràn đầy ân huệ và hào hiệp.
Con là người đang ngồi trong
vòng tròn của các mặt trời.**

Chúng ta quen thuộc với một mặt trời chúng ta vẫn thấy trên
bầu trời, nhưng có vô số mặt trời như mặt trời của chúng ta. Khi
đêm tới bầu trời đầy sao. Mặc dầu chúng ta gọi chúng là sao
nhưng chúng tất cả đều là mặt trời, nhưng bởi vì ở quá xa chúng
trông nhỏ bé. Mặt trời của chúng ta không lớn lắm đâu. Trong vô
số mặt trời nó có kích cỡ trung bình. Có những mặt trời lớn hơn
nhiều trong vũ trụ. Một tính toán của các nhà khoa học ước lượng
rằng có quãng bốn mươi triệu mặt trời. Kinh nghiệm của các hiền
nhân là ở chỗ có vô số mặt trời, nhưng mặt trời được tham chiếu
tới trong lời kinh này là mặt trời tối cao mà từ đó mọi mặt trời
khác nhận ánh sáng. Tham chiếu này là tới mặt trời tối cao mà là
gốc rễ và là nguồn ánh sáng nguyên thuỷ - và từ đó toả ra tất cả
những tia sáng hoà trộn vào nhau trong vũ trụ. Toàn thể sự tồn tại
là việc biểu lộ của mặt trời này.
Nhớ lấy, cuộc sống, sự tồn tại, không tránh khỏi được móc
nối với các tia sáng của mặt trời này. Hiện tại các nhà khoa học
đang rất lo nghĩ bởi vì họ sợ rằng mặt trời của chúng ta sẽ lạnh
dần đi trong ba hay bốn triệu năm nữa. Nó đã phóng ra các tia
sáng của nó đủ lâu rồi và đang mất việc phát sáng của nó. Nó bây
giờ là một ngôi sao vàng vọt có các tia sáng đang giảm bớt mọi
ngày. Nhiều nhất, họ nói, nó sẽ toả sáng trong bốn triệu năm nữa,
và rồi một ngày nào đó nó sẽ hoàn toàn lạnh đi và cuộc sống trên
trái đất sẽ trở nên tắt ngấm, bởi vì toàn thể sự tồn tại phụ thuộc
vào các tia sáng của mặt trời. Toàn thể sự tồn tại - hoa nở, chim
hót, sự rộn ràng của cuộc sống con người - đều phụ thuộc vào tia
sáng mặt trời.
Trong lời kinh này đã mô tả về mặt trời vĩ đại mà với nó sự
tồn tại của mọi mặt trời khác đều được nối lại. Mặt trời vĩ đại này
không bao giờ có thể được đạt tới bởi cuộc hành trình và tìm
kiếm bên ngoài của chúng ta. Như tôi đã nói với các bạn sáng
nay, mặt trời của chúng ta là Brahman biểu hiện. Mặt trời vĩ đại

được mô tả ở đây là Brahman không biểu hiện. Nó là hạt mầm-
Brahman. Toàn thể sự tồn tại này là sự mở rộng của cội nguồn
không biểu hiện đó. Từ nó toàn thể vũ trụ này với các phẩm chất
và hình dạng đang mở rộng và được tạo ra.
Hiền nhân này cầu nguyện ở đây, “Hỡi mặt trời, xin rút về
mạng lưới các tia sáng của ngài.” Nhiều điều được hàm ý trong
việc thu về các tia sáng của mặt trời, bởi vì toàn thể sự mở rộng
của sự tồn tại được móc nối với chúng. Hiền nhân này nói ở đây,
“Con đã vượt qua cái chết, hỡi mặt trời; bây giờ xin ngài thu về
chính sự trải rộng của sự tồn tại của ngài.” Cũng hệt như tôi đã
bảo các bạn: “Tôi đã vượt qua bóng tối, bây giờ xin thu ánh sáng
nữa!” Trong lời kinh này, hiền nhân đó cầu nguyện mặt trời vĩ
đại đó rút về tất cả sự mở rộng của cuộc sống vào trong bản thân
nó. “Con đã siêu việt lên trên cái chết, bây giờ con ước ao siêu
việt lên trên sự sống nữa.”
Đây thực sự là khao khát siêu việt lên mọi nhị nguyên, bởi vì
chừng nào nhị nguyên còn dai dẳng cái khác bao giờ cũng hiện
diện, dù chúng ta đạt được bất kì cái gì. Dù chúng ta có thể tìm
thấy sống nhiều đến đâu, chết bao giờ cũng sẽ đi kèm nó. Đấy là
nhị nguyên, đấy là phía bên kia của cùng một đồng tiền. Không
thể giữ mặt này của đồng tiền và vứt đi mặt kia. Mọi điều chúng
ta có thể làm là giữ cho mặt này úp xuống và mặt kia lộ ra.
Nhưng mặt bị ẩn kín đấy vẫn đang đợi để lật lên, chỉ bởi vì nó có
đấy - nó không đi đâu mất .
Không ai có thể vứt mặt này và giữ mặt kia đồng thời, nhưng
qua cuộc đời mình con người hành xử ngốc nghếch dường như
điều này có thể được. Người đó cầu nguyện, “Xin Thượng đế
cứu con khỏi khổ và cho con hạnh phúc.” Chúng là hai mặt của
cùng một đồng tiền. Người đó muốn giữ lại hạnh phúc nhưng
không hiểu rõ rằng bất hạnh chắc chắn sẽ theo sau nó. Người đó
cầu nguyện được tôn kính và trọng vọng, không thấy rằng bất
kính có theo sau. Người đó cầu nguyện, “Con không muốn chết,
con muốn sống,” và trong cầu nguyện cho sống, người đó quên
mất rằng chết chắc chắn theo sau nó. Trong thế giới này khi một
người đòi hỏi cái này, người đó nhận được cái khác mà không
hỏi xin về nó.
Bạn phải sẵn lòng chấp nhận cả hai hoặc không cái nào. Bất
kì ai sẵn lòng chấp nhận cả hai đều trở nên tự do với cả hai; và
bất kì ai được chuẩn bị để bỏ cả hai cũng trở thành tự do với cả
hai. Sẵn sàng chấp nhận cả sống và chết là không nắm giữ ưa
thích sống và không ghét chết. Không nắm giữ ưa thích sống,
người ta được giải thoát. Sướng nào có đó trong sướng và khổ
nào có đó trong khổ đối với người đã chấp nhận cả sướng và
khổ? Cả hai phủ định lẫn nhau khi cả hai được sẵn lòng chấp
nhận và cái trống rỗng được tạo ra.
Người nói, “Tôi sẵn lòng từ bỏ cả hạnh phúc và bất hạnh,”
cũng vượt ra ngoài chúng. Nhưng tâm trí thuyết phục chúng ta bỏ
bất hạnh và giữ hạnh phúc. Có nhiều cách để phá vỡ hình mẫu
này của tâm trí: hoặc là được chuẩn bị để chấp nhận cả hai, hoặc
trở nên dửng dưng với cả hai. Tính phân cực của chúng, sự đối
lập lẫn nhau của chúng là đồng thời; chúng là các khía cạnh của
một và cùng một sự tồn tại. Cho nên hiền nhân này nói, “Xin rút
các tia sáng của ngài lại, hỡi mặt trời, để cho tất cả cuộc sống có
thể được kéo vào và co vào trong.”
Mọi thứ đi ra từ mặt trời vĩ đại này. Cho nên nếu chúng ta
hiểu đúng khát khao của hiền nhân này, nó là thế này: “Con khát
khao thấy cái mà từ đó mọi thứ đi ra, và cái mà mọi thứ bị kéo
vào. Con ham muốn thấy cái gốc rễ, cái nguyên thuỷ. Con khao
khát thấy cái mà từ đó toàn thể vũ trụ này được tạo ra và cái mà
vũ trụ này, trong triệt tiêu tối hậu của nó, bị hấp thu vào; cái mà
từ đó sự mở rộng mênh mông của sự tồn tại này trải ra và cái mà
việc huỷ diệt vĩ đại kéo tất cả nó lại.”

Chính bởi lí do này mà mặt trời cũng còn được coi là Yama -
thần chết. Nhớ điều này trong trí: Yama là thần của chết và mặt
trời là thần của sống. Nhưng nhớ lấy, chết đến từ cùng chỗ mà
sống tới. Chết không đến từ bất kì chỗ nào khác, bởi vì hai điều
này không thể bị tách rời. Không phải là sống tới từ chỗ này và
chết đến từ chỗ khác. Nếu mà như thế chúng ta sẽ giữ sống và bỏ
chết. Cho nên mặt trời cũng được gọi là Yama nữa. Từ yama là
hữu dụng theo các nghĩa khác nữa. Những người đặt tên cái chết
là Yama đều là những người xuất sắc. Từ yama có nghĩa là người
kiểm soát. Họ đã gọi cái chết là người kiểm soát sự sống. Nếu cái
chết không phải là để kiểm soát sự sống, thế thì sẽ có hỗn loạn và
lẫn lộn lớn. Cái chết tới và làm yên tĩnh mọi mối bất hoà. Chết là
nghỉ ngơi. Hệt như một người ngủ và nghỉ ban đêm sau lao động
ban ngày vất vả, cho nên chết cho chúng ta nghỉ ngơi.
Sẽ có hỗn độn lớn trong cuộc sống của bạn nếu bạn không
ngủ năm hay mười ngày. Bộ não bạn sẽ bị bối rối, khuấy động,
mất trật tự. Ngủ ban đêm cứu bạn khỏi đau khổ và khuấy động
này. Nó cho bạn trật tự và làm bạn tươi tỉnh vào buổi sáng. Khi
nhìn sâu hơn vào cái chết, người ta thấy rằng nó giống như việc
nghỉ ban đêm vào cuối cuộc đời lộn xộn và bất ổn - việc giải lao
từ cuộc sống lao động vất vả làm bạn tươi tắn cho việc bừng lên
một cuộc sống mới. Do đó thần chết được gọi là Yama. Thần
kiểm soát và đem trật tự cho cuộc sống. Nếu thần không có đó,
cuộc sống sẽ là điều thách đố và lẫn lộn. Chết không phải là kẻ
thù của sống. Yama tuyên bố chết là bạn của sống. Nếu chết
không có đó, cuộc sống của chúng ta sẽ điên khùng và hỗn độn.
Bạn sẽ rất ngạc nhiên nếu bạn nhìn vào hiện tượng này từ
những cảnh quan khác, bởi vì ngụ ý lớn hơn của nó nhiều hoa nở
ra - nhiều hướng dẫn có giá trị. Nếu một người thấy thừa thãi
sướng và không có khổ chút nào, người đó sẽ phát điên. Phát
biểu này có vẻ kì lạ, khó hiểu thấu điều ấy. Nếu bạn có sướng
không trộn lẫn với khổ, thế thì sướng sẽ hướng bạn thành mất trí.
Điều đáng quan tâm là quan sát rằng có vài người trên cung trăng
trong các xã hội nghèo và khổ. Có nhiều người trên cung trăng
hơn trong các xã hội sung sướng và giầu có. Hiện tại, nước Mĩ có
số lượng người trên cung trăng lớn nhất trên trái đất. Điều gì đã
xảy ra?
Khổ là tác động giữ cân bằng, một bộ điều chỉnh. Chúng ta
cảm thấy gai nhọn trong hoa hồng như kẻ thù, nhưng chúng chỉ
là để bảo vệ hoa hồng, chúng là một loại bộ điều chỉnh. Cuộc
sống kiểm soát, điều chỉnh bản thân nó thông qua các cái đối lập;
qua các cái đối lập cân bằng được duy trì. Nếu bạn quan sát một
người đi trên dây, bạn có thể thấy sự kiện siêu hình trong thủ
thuật của anh ta. Chúng ta theo dõi, nhưng chúng ta không thấy.
Khi người đó đi trên dây, bạn sẽ thấy người đó giữ cân bằng bản
thân mình bằng một cây sào dài trong tay. Khi người đó đung
đưa cây sào về bên trái, đấy là để tránh ngã về bên phải, và khi
người đó có thể bị ngã về bên phải, người đó đung đưa cây sào
về bên trái. Do vậy người đó giữ cân bằng, ngăn mình khỏi bị
ngã bằng việc đung đưa sang phía đối diện. Đê duy trì cân bằng
người đó phải đung đưa sang phía đối diện.
Chết là nhân tố cân bằng của sống. Bất hạnh là nhân tố cân
bằng của hạnh phúc. Bóng tối là nhân tố cân bằng của ánh sáng.
Các đối tượng vật chất là nhân tố cân bằng của tâm thức. Đây là
điều làm cho những người đã gọi cái chết là Yama thành phi
thường. Chắc chắn là họ không có thù địch gì với chết. Họ biết
cái thực chất, chân lí của cái chết. Họ nói, “Chúng con biết rằng
ngài, cái chết, là người kiểm soát sống; nếu ngài không tồn tại sẽ
có hỗn loạn lớn.” Nghĩ một chút mà xem. Giả sử không ai chết
trong một ngôi nhà trong vài trăm năm; sẽ không cần đưa ai vào
nhà thương điên, bởi vì bản thân ngôi nhà ấy sẽ trở thành nhà
điên rồi. Một đằng người già qua đời và đằng kia trẻ con được
sinh ra; việc cân bằng giống như người đi trên dây đang tiếp diễn,
và sẽ tiếp tục vào mọi thời.

Do đó hiền nhân này nói, “Hỡi mặt trời vĩ đại, hỡi Yama,
ngài là người đem cho cuộc sống, ngài là người kiểm soát cân
bằng của sống và chết. Xin ngài rút lại mọi tia sáng của ngài. Xin
rút lại cuộc sống của ngài. Xin rút lại cả cái chết của ngài nữa.
Con muốn biết yếu tố nằm ngoài cả sống và chết, cái chưa bao
giờ sinh, chưa bao giờ chết. Con khao khát biết cội nguồn nguyên
thuỷ đó. Con khao khát biết khoảnh khắc đầu tiên đó khi không
có gì - khi đã có cái trống rỗng toàn bộ, từ cái không của nó mà
mọi thứ được tạo ra. Con khao khát biết khoảnh khắc tối thượng
khi mọi thứ sẽ lại bị hấp thu và cái không sẽ còn lại. Con khao
khát biết cái trống rỗng mà từ đó mọi thứ được sinh ra. Con khao
khát biết cái trống rỗng mà trong đó mọi thứ được hấp thu vào.
Con cầu nguyện ngài, xin rút tất cả sự thừa thãi tia sáng của
ngài.”
Chắc chắn đây không phải là lời cầu nguyện gửi tới bất kì
mặt trời nào được thấy bên ngoài. Đây là lời cầu nguyện được
đưa ra sau khi đạt tới chỗ đó bên trong, bên ngoài cái nằm ở đích
cuối cùng mà từ đó cần phải tiến hành cái nhảy vào vô thuỷ và vô
chung. Lời cầu nguyện này, “Hỡi mặt trời, xin rút lại mọi thứ
của ngài,” thuộc về khoảnh khắc này. Dũng cảm lớn lao, một sự
táo bạo cuối cùng được cần tới để làm ra lời cầu nguyện như thế,
bởi vì người ta có thể nghĩ, “Liệu mình có thể được cứu không, ở
nơi sống và chết bị co lại và mọi tia sáng của mặt trời vĩ đại đó
đã bị rút hết? Mình cũng sẽ bị diệt vong.”
Nhưng khát khao của hiền nhân là thế này: “Mình có thể
được cứu hay mình có thể bị diệt vong; điều này không còn là
vấn đề. Vấn đề chỉ là khao khát của mình để biết người bao giờ
cũng có đó. Mình khao khát biết người đang có đấy, ngay cả khi
mọi thứ đều bị mất đi và bị huỷ diệt. Mình cũng sẽ bị mất đi,
nhưng mình muốn biết cái không mất đi.”
Vô số người trong vô số thời đại đã đi tìm chân lí trong thế
giới này, nhưng không đâu trong thế giới này việc tìm kiếm như
thế đã được tiến hành như người ta đã làm qua mảnh đất bên
trong này. Không có thí dụ song song ở bất kì đâu trong thế giới
này về việc tìm kiếm tối hậu như thế và việc kiểm tra cuối cùng
như thế về lòng dũng cảm như một số nhà thám hiểm mảnh đất
bên trong này đã dám làm.
Ngay cả sau khi tiến hành việc điều tra lâu dài tôi đã không
có khả năng tìm ra những người sẵn lòng trở nên bị triệt tiêu
trong cuộc truy tìm chân lí của họ. Đã có nhiều người tìm kiếm
chân lí trên thế giới này nêu ra một điều kiện, “Bằng việc cứu
bản thân mình, tôi muốn biết chân lí.” Nhưng chừng nào “tôi’
còn được cứu, bạn sẽ chỉ biết thế giới này - luân hồi - vì ‘tôi’ là
một phần và một gói của thế giới. Nếu ai đó bảo những người tìm
kiếm như Aristotle, Hegel và Kant, “Ông sẽ có khả năng biết
chân lí nếu ông tìm bên trong bản thân ông,” những người như
thế sẽ đáp, “Mục đích gì có đó trong việc biết chân lí như thế?
Đâu là cái dụng của việc biết chân lí mà triệt tiêu chúng ta?” Tìm
kiếm của họ là với một điều kiện này: “Chúng tôi muốn cứu bản
thân chúng tôi và biết chân lí.”
Những người, khi đi tìm chân lí, cũng thăm dò bảo toàn bản
thân họ, không bao giờ biết chân lí; thay vì thế họ bịa đặt ra nó.
Họ chế tạo ra chân lí. Đó là lí do tại sao Hegel viết những cuốn
sách dài còn Kant đề nghị những lí thuyết và nguyên lí sâu sắc và
tinh vi về chân lí. Nhưng tuyệt đối không có giá trị gì, không
quan trọng gì, trong bài viết và các nguyên tắc đó của những
người không được chuẩn bị để tìm kiếm cái ta. Nếu bạn hỏi Kant
hay Hegel về ý kiến của họ đối với hiền nhân này của Upanishad,
họ sẽ nói, “Ông ta là người cung trăng. Giá trị nào có đó nếu ông
mất bản thân mình khi đạt tới chân lí?”

Nhưng hiểu biết của hiền nhân này là sâu lắng và sâu sắc.
Ông ấy nói, “‘Tôi’ là một phần và một mảnh của cái phi chân lí,
một phần của thế giới, của luân hồi. Nếu con ham muốn rằng sự
tồn tại trần tục này mất đi, rằng chân lí tới với con, và rằng cái
‘tôi’ của con ở bên trong vẫn còn không bị động chạm tới, thế thì
con đang cố gắng làm điều không thể được. Nếu sự tồn tại trần
tục này mà mất đi, nó phải đi mất hoàn toàn - từ bên trong cũng
như từ bên ngoài. Một mặt, các đối tượng bên ngoài phải biến
mất, và mặt khác, cái ‘tôi’ bên trong phải biến mất. Hình dạng
bên ngoài và hình dạng bên trong phải trôi mất, để lại cái trống
rỗng bên trong và bên ngoài. Do đó nếu chân lí được tìm thấy,
điều kiện không tránh khỏi cho việc đó là làm mất bản thân
người ta. Con cầu nguyện ngài, hỡi mặt trời vĩ đại, thiêu đốt mọi
thứ của ngài một cách vô điều kiện. Xin rút lai toàn thể sự mở
rộng của ngài. Trở về hạt mầm nguyên thuỷ của ngài. Trở về chỗ
không có gì, để cho con có thể có khả năng biết được cái mà từ
đó mọi thứ tiến triển!”
Đây là bước nhảy tối thượng. Khi một người thu được dũng
cảm cho bước nhảy này, người đó trở thành một với chân lí tối
cao. Không thể trở thành một với chân lí tối cao mà không làm
mất bản thân mình. Do đó các nhà triết học phương Tây, trong nỗ
lực của họ để tìm kiếm chân lí, đã không có khả năng vượt ra
ngoài chân lí vật chất, con người. Chân lí của họ là việc tìm kiếm
về con người; đấy không phải là về sự tồn tại, nó chỉ nói đến con
người. Việc tìm kiếm của hiền nhân phương Đông không phải về
chân lí con người, vật chất mà là về chân lí mang tính tồn tại.
Người đó nói, “Ông có bao giờ biết được về đại dương chỉ bằng
việc đứng trên bờ của nó không? Tôi sẽ biết nó bằng việc chìm
vào trong nó.” Nhưng ngay cả khi chìm vào trong nó chúng ta
cũng không hội nhập vào trong nó hoàn toàn - chúng ta và đại
dương vẫn còn tách biệt.
Cho nên hiền nhân này nói, “Vì đây là trường hợp, nên tôi sẽ
trở thành một hình nộm làm bằng muối để cho tôi có thể tan biến
vào trong nó. Tôi sẽ biết đại dương bằng cách hội nhập vào trong
nó - bởi việc là bản thân đại dương. Tôi sẽ là một với đại dương.
Tôi sẽ mặn như nó mặn. Tôi sẽ là nước như nó là nước. Tôi sẽ là
một con sóng trong những con sóng của nó. Tôi sẽ là chiều sâu
vô tận trong các chiều sâu vô tận của nó. Thế thì và chỉ thế thì tôi
sẽ có khả năng biết nó.”
Không thể biết được nó trước tất cả những điều này. Trước
điều này, chúng ta có thể có quen biết nào đó với nó nhưng
không phải là tri thức mang tính tồn tại. Đứng trên bờ, chúng ta
chỉ trở nên quen biết với đại dương. Để biết nó, chúng ta phải tan
biến vào trong nó.
Đủ cho hôm nay.
Bây giờ chúng ta tự chuẩn bị để tan biến.

************************************************************************************************************

18 Tại cánh cửa của samadhi

**Bây giờ xin để tâm hồn ta gặp cái tuyệt đối
đang tràn ngập tất cả qua sinh khí,
và để cho thân thể ta được thu thành tro.
Này tâm trí đầy bản ngã và ham muốn,
bây giờ nhớ hành động quá khứ của mi đi,
nhớ hành vi quá khứ của mi đi.**

Để cho cuộc sống hội nhập vào trong cái mà từ đó nó đã
được sinh ra. Để cho hình dạng tự mất đi trong cái vô hình dạng
mà từ đó nó đã được tạo ra. Để cho chúng là một trong tâm thức
thuần khiết của con người. Để thân thể được trộn lẫn với cát bụi,
để cho nó được hội nhập trong đất. Trong khoảnh khắc như thế -
và có hai khoảnh khắc như vậy - hiền nhân này đề cập tới tâm trí
bản ngã của mình đầy những ham muốn: “Này tâm trí ta đầy bản
ngã và ham muốn, tự nhớ về hành vi quá khứ của mi.”
Có hai khoảnh khắc khi lời cầu nguyện này có thể thực sự
được nêu ra. Một là khoảnh khắc của cái chết và khoảnh khắc kia
là khoảnh khắc của samadhi, đại định, thiền sâu. Một khoảnh
khắc là khi một người đang trên ngưỡng cửa cái chết, và khoảnh
khắc kia là khi người đó đang ở tại cái chết lớn hơn - samadhi -
sẵn sàng hội nhập bản thân mình tựa như một giọt nước vào
trong đại dương. Phần lớn mọi người đã giải thích lời kinh này
đều đã diễn giải nó theo khoảnh khắc thứ nhất - khoảnh khắc của
cái chết vật lí. Họ đã giả sử rằng hiền nhân đang nói điều này tại
khoảnh khắc chết, khi toàn thể kinh nghiệm của người đó sắp
được hội nhập vào trong cái mà từ đó người đó đã tới. Nhưng
như tôi thấy điều đó, việc nhớ này không được thực hiện chút
nào vào khoảnh khắc chết, mà vào khoảnh khắc của đại định. Nó
là không thích hợp với khoảnh khắc chết, bởi vì không có nhận
biết trước về cái chết. Bạn chưa bao giờ biết vào khoảnh khắc
nào cái chết sẽ tới. Bạn biết về nó khi nó tới, nhưng vào lúc đó
bạn đã chết. Chừng nào cái chết chưa tới người ta không biết về
nó; và khi nó tới, người phải biết đã qua đời rồi.
Khi Socrates sắp chết, bạn bè ông ấy đã hỏi ông ấy lí do tại
sao ông ấy dường như không sợ, khổ hay lo nghĩ. Thế rồi
Socrates nói, “Tôi nghĩ theo cách này: chừng nào mà cái chết còn
chưa tới, tôi vẫn còn sống; khi tôi còn sống, tại sao tôi phải lo
nghĩ về cái chết? Và ai sẽ còn lại để lo nghĩ về cái chết khi nó

thực tới và tôi không còn nữa? Tôi sẽ hoàn toàn mất đi trong cái
chết, không cái gì sẽ được để lại sau, và nếu không cái gì của tôi
còn lại sau cái chết, thế thì không có lí do gì để mà sợ bất kì cái
gì. Mặt khác, nếu, như ai đó nói, tôi sẽ không chết ngay cả sau
cái chết, thế thì không có chút lí do nào để lo nghĩ về cái chết.”
Như tôi đã nói, lời kinh này là có nghĩa trong hai khoảnh
khắc, hoặc vào khoảnh khắc chết hoặc vào khoảnh khắc của
samadhi đại định. Nhưng chúng ta không có ý tưởng chút nào về
khoảnh khắc chết - nó là không dự đoán trước được, nó không
thể nói trước được. Nó tới bất thình lình, vào bất kì khoảnh khắc
nào. Nó có thể xảy ra vào bất kì khoảnh khắc nào, không có tri
thức biết trước về khoảnh khắc đó, và lời cầu nguyện này chỉ có
thể đưa ra khi có tri thức biết trước; tức là, khi hiền nhân này
biết, “Tôi sắp chết, tôi đang ở ngưỡng cửa cái chết.”
Không, đây không phải là lời cầu nguyện đưa ra vào khoảnh
khắc chết. Nó được đưa ra vào thời điêm của cái chết lớn -
samadhi có nghĩa là cái chết lớn. Tôi coi cái chết của con người
là cái chết bình thường bởi vì thế thì chỉ có thân thể chết thôi;
tâm trí không chết. Tôi coi thiền, samadhi, là cái chết vĩ đại bởi
vì không có ý tưởng, không có nhớ về thân thể chút nào trong
hoàn cảnh đó; tâm trí cũng chết. Do đó tôi nói rằng lời cầu
nguyện này được đưa ra vào lúc của samadhi, bởi vì hiền nhân
này đang yêu cầu tâm trí bản ngã và ham muốn của mình nhớ
những hành động quá khứ của nó.
Phần thứ hai của lời kinh này đã bị hiểu sai nhiều. Sự kiện là
ở chỗ những điều như thế này thường được diễn giải cho chúng
ta qua các kẻ sĩ - bởi những người khôn ngoan tự nhận. Dù diễn
giải và giải thích của họ có thể thông minh đến đâu, họ vẫn phạm
phải một lỗi lầm nền tảng. Họ hiểu chữ nghĩa và các nguyên lí
của kinh sách đúng đắn, nhưng họ không hiểu chút nào về cái
được ẩn kín không được nói tới đằng sau chữ nghĩa và nguyên lí.
Cái tinh tuý ẩn kín đó chưa bao giờ được chứa trong lời thực tại
của các tôn giáo. Nó là để được hiểu qua lỗ hổng giữa từng lời.
Nghĩa không có trong từng dòng mà là ở khoảng trống giữa các
dòng. Cho nên những người không có khả năng hiểu được
khoảng trống, nhưng người chỉ đọc được chữ in, không thể diễn
giải đúng đắn lời kinh vĩ đại này.
Có một phong trào được gọi là Tâm thức Krishna ở phương
Tây. Tôi vừa đọc một cuốn sách về Ishavanya Upanishad do
Swami Bhakti Vedant Prabhupad viết - người lãnh đạo phong
trào này. Tôi rất ngạc nhiên khi đọc diễn giải của ông ấy về bản
kinh này. Cách thức ông ấy giải thích nó là: “Con đã tới điểm
chết, con đang đứng tại cánh cửa cái chết. Do đó, xin Thượng đế
vui lòng chấp nhận sự hi sinh và từ bỏ mà con đã làm cho ngài:
xin nhớ lấy những hành động con đã thực hiện cho ngài.”
Ông ấy không chỉ không có khả năng đọc được khoảng cách
giữa các chữ mà dường như là ông ấy không thể hiểu được ngay
cả bản thân các từ, tìm ra các từ khác thế vào. Hiền nhân này
đang đề cập tới tâm trí bản ngã và ham muốn của mình - không
có vấn đề chút nào ở đây để đem Thượng đế vào. Hiền nhân này
không nói, “Xin nhớ những hành động con đã thực hiện cho ngài,
xin nhớ những hi sinh con đã làm cho ngài.” Nhưng tâm trí kinh
doanh của chúng ta thích diễn giải điều đó theo cách này. Nó sẽ
nói vào khoảnh khắc chết, “Hỡi Thượng đế, xin nhớ cho, con đã
đem rất nhiều tiền bạc đi làm từ thiện, con đã xây dựng đền đài
cho ngài, con đã xây đập cho thôn làng và vân vân. Hỡi Thượng
đế, thời gian của con đã hết, bây giờ cho con phần thưởng xứng
đáng với tất cả những hành động và sự hi sinh mà con đã làm vì
ngài.”
“Tâm trí bản ngã và ham muốn...” Ý chí là kênh dẫn cho
ham muốn của chúng ta, cho khát khao của tâm trí. Cần phải hiểu
ý chí là gì để cho việc thảo luận có thể dễ theo dõi. Ham muốn

nảy sinh trong tâm trí của tất cả chúng ta, nhưng ham muốn
không trở thành ý chí chừng nào mà bản ngã còn chưa được móc
nối với nó.
Ham muốn mang tính bản ngã trở thành ý chí. Mọi người
đều có ham muốn, nhưng những ham muốn này vẫn còn đơn
thuần là mơ ước chừng nào chúng còn chưa được móc nối với
bản ngã, chừng nào chúng còn chưa trở thành hành động. Được
chuyển thành hành động, ham muốn phải được móc nối với bản
ngã. Thế thì nó trở thành ý chí. Tự kiêu - bản ngã - được sinh ra
để thực hiện, để hiện hữu. Ham muốn là người làm nảy sinh. Bạn
trở thành người làm ngay khi bản ngã được thống nhất với ham
muốn.
Hiền nhân này nói, “Này tâm trí ta đầy bản ngã và ham
muốn, nhớ những hành động do mi làm.” Tại sao ông ấy nói
điều này, không chỉ một lần mà là hai lần? Tại sao? Nhu cầu gì
có đấy để nhớ điều này vào khoảnh khắc của samadhi hay vào
khoảnh khắc chết? Hiền nhân này đang làm trò đùa. Ông ấy đang
cười vào bản thân mình. Tại cánh cửa của samadhi mọi thứ đều
mất đi: tâm trí bay hơi, thân thể mất đi, hồn đang biến đi - mọi
thứ đều bị hấp thu hết. “Này tâm trí ta, điều gì đã xảy ra cho tất
cả những cái mi đã nghĩ tới? Ta đã làm điều này - ta đã làm điều
nọ. Đâu là tất cả những ý tưởng mà mi bị cuốn hút vào, tất cả
những đường mi vẽ trên nước? Qua hết rồi!”
Nhớ lấy, tất cả những điều bạn đã làm đều mất đi - ngay cả
bạn cũng đang mất đi. Nhìn lại quá khứ, và nhớ lại với tự hào, tự
cao làm sao bạn đã nghĩ, “Ta đã làm được điều này!” Bạn đã lập
kế hoạch để làm điều đó với ước mơ làm sao! Nhớ lại tất cả
những dấu ấn của vô số lần sinh thành và du hành của bạn.
Không dấu vết nào về chúng được thấy hôm nay, và hôm nay bạn
cũng sẽ thành cái không; không dấu vết nào của bạn sẽ còn lại.
Hôm nay mọi yếu tố sẽ bị hấp thu vào trong bản thân chúng.
Hôm nay toàn bộ cuộc hành trình của bạn sẽ kết thúc.
Cho nên có một cái nhìn hồi tưởng đi, chỉ một lần thôi, và
hiểu bạn đã sống trong ảo tưởng lớn đến đâu, bạn đã từng mơ
những giấc mơ nào trong cái điên khùng của mình, bạn đã trải
qua những nhọc nhằn nào với chúng, và làm sao, mất hút trong lo
âu, bạn đã sống vì những giấc mơ này. Và khi bất kì một giấc mơ
của bạn không được toại nguyện, nghĩ về đau khổ và thất vọng
bạn đã trải qua. Và nhớ bạn trở nên vui mừng biết bao khi mổ
giấc mơ của bạn được hoàn thành. Hôm nay mọi giấc mơ và mọi
thành tựu đã biến mất, và bạn nữa cũng sắp qua đời. Khi nhìn dĩ
vãng, nhớ lấy tất cả những điều này một lần nữa.
Trong chế nhạo và đùa cợt lớn hiền nhân này vậy đề cập tới
ý chí bản ngã riêng của mình, tâm trí hão huyền của mình. Đó là
lí do tại sao, tôi bảo các bạn, điều này không được nói vào lúc
chết mà vào lúc samadhi, bởi vì chỉ thân thể bị tàn lụi đi vào lúc
chết; tâm trí bản ngã thì không. Bạn du hành với tâm trí mình
ngay cả cả sau cái chết. Tâm trí đó là dòng sinh thành vô số của
bạn. Thân thể ngã xuống ở đây, tâm trí du hành cùng bạn. Ham
muốn đi cùng bạn. Bản ngã đi cùng bạn. Kí ức về các hành động
quá khứ đi với bạn. Ham muốn hoàn thành những điều mà bạn
không thể làm được vẫn đi cùng bạn. Toàn thể tâm trí bạn đi với
bạn. Chỉ thân thể vật lí chết. Tâm trí rời khỏi thân thể và bắt giữ
một thân thể mới - tâm trí này cái đã nắm giữ vô số thân thể
trong quá khứ và sẽ tiếp tục làm như vậy.
Đây là lí do tại sao những người biết không coi cái chết là
cái chết thật - bởi vì không cái gì tàn lụi trong nó cả, chúng ta
đơn thuần thay quần áo của mình. Hiểu điều này cho rõ: thân thể
không nhiều hơn quần áo, không nhiều hơn lớp che phủ bên
ngoài. Thông thường chúng ta nghĩ rằng thân thể được sinh ra
trước và thế rồi tâm trí được sinh ra trong nó. Điều này là sai.

Trong hai trăm năm vừa qua tư duy và niềm tin phương Tây đã
làm lan rộng ảo tưởng rằng thân thể được tạo ra trước hết, và
rằng thế rồi tâm trí được sinh ra trong nó, như một sản phẩm phụ,
một hiện tượng phụ, đơn giản như một phẩm chất, một thuộc tính
của thân thể. Điều ấy cũng tương tự như điều người Charvakas
cổ đại hay nói - rằng nếu bạn tách các chất được trộn lẫn để làm
ra rượu, và ăn hay uống chúng một cách riêng biệt, sẽ không bị
say. Chất say là một sản phẩm phụ của các nội dung được trộn
lẫn với nhau. Nó không đến từ đâu đó theo ý riêng của nó, nó
không có sự tồn tại tách bạch. Nó được tạo ra bởi việc trộn lẫn
một số thứ với nhau. Nếu các chất được tách ra nó biến mất. Cho
nên người Charvakas cổ đại hay biện minh rằng thân thể được
hợp thành từ năm yếu tố còn tâm trí thì được tạo ra bởi việc hợp
nhất năm yếu tố này. Tâm trí là sản phẩm phụ.
Khoa học phương Tây hiện tại cũng đang ở trạng thái dốt nát
trong vấn đề này, khi tin rằng tâm trí tới sau thân thể, như một cái
bóng. Nhưng ở phương Đông, những người đã tìm kiếm sâu sắc
trong chủ đề này vẫn coi tâm trí là có trước rồi thân thể tới như
cái bóng sau nó. Để chúng ta hiểu điều đó theo cách này: cái gì
tới trước nhất trong cuộc sống của bạn, hành động hay ham
muốn? Trước hết ham muốn tới trong tâm trí bạn, và thế rồi nó
được biến thành hành động - hành động theo sau. Nhưng bất kì ai
nhìn nó từ bên ngoài, người đó sẽ thấy hành động trước và sẽ
phải đoán ra ham muốn đằng sau hành động này. Giả sử giận dữ
phát sinh bên trong tôi và tôi tát bạn: giận dữ tới trước, tâm trí tới
trước, thế rồi tay được nâng lên và thân thể thực hiện hành động
này. Nhưng bạn sẽ thấy tay tôi và hành động tát trước hết. Ngay
cả như vậy, bạn sẽ không hoài nghi lí do mà tôi phải có trước khi
trở nên giận dữ. Hành động thân thể được thấy trước hết, và xem
như kết quả bạn bắt đầu đoán điều đang xảy ra trong tâm trí tôi.
Nhưng dầu vậy những công việc ấy của tâm trí tôi đến trước, và
hành động của thân thể theo sau.
Khi một đứa trẻ được sinh ra chúng ta cũng thấy thân thể
trước hết, nhưng những người biết sâu sắc nói chính tâm trí đến
trước. Chính tâm trí đó tạo ra thân thể được thụ thai và được sinh
ra. Tâm trí đó tạo ra hình dáng, hình hài của thân thể này. Đấy là
một loại bản thiết kế tổng thể, đấy là một chương trình làm sẵn.
Khi một người chết đi, tâm trí người đó tiếp tục cuộc hành trình
của nó với bản thiết kế tổng thể, và bản thiết kế tổng thể đó đặt
bản thân nó vào một bụng mẹ mới. Và bạn sẽ ngạc nhiên mà biết
điều này: chúng ta thông thường tin rằng một thân thể được tạo ra
khi một người đàn ông và một người đàn bà làm tình, và thế rồi
linh hồn đi vào trong thân thể, nhưng khi nhìn sâu vào trong hiện
tượng này vấn đề trở thành hiển nhiên là khi một linh hồn mong
muốn đi vào bụng mẹ, thế thì cả hai người đàn ông và đàn bà trở
nên háo hức hoạt động dục tính. Lần nữa, chính thân thể được
thấy trước, và chúng ta phải đoán về tâm trí. Tuy nhiên, những
người đã nhìn sâu vào vấn đề này đều nói rằng khi một linh hồn
mong muốn đi vào bụng mẹ, nó bắt đầu vẩn vơ quanh bạn, thế thì
có phát sinh khao khát hưởng lạc dục. Tâm trí bận bịu lấy một
thân thể sẵn sàng cho chính nó. Bạn có thể đã không nghĩ về sự
kiện này.
Khi bạn nằm xuống ngủ vào ban đêm - khi giấc ngủ bắt đầu
trùm xuống bạn và gần như bắt lấy bạn - đưa tâm thức của bạn về
ý nghĩ cuối cùng trong tâm trí bạn, thế rồi đi vào trong giấc ngủ;
và khi bạn thức dậy vào buổi sáng và sẵn sàng rời khỏi giường,
nhìn lại và tìm ra ý nghĩ đầu tiên của bạn khi thức dậy mà xem.
Bạn sẽ rất ngạc nhiên với kết quả. Ý nghĩ cuối cùng đêm trước
trở thành ý nghĩ đầu tiên vào buổi sáng. Theo cùng cách này,
ham muốn cuối cùng vào lúc chết trở thành ham muốn đầu tiên
vào lúc sinh.
Trong cái chết, thân thể tan rã nhưng tâm trí vẫn tiếp tục
cuộc hành trình của nó. Độ tuổi của thân thể bạn có thể là năm
mươi năm nhưng độ tuổi của tâm trí bạn có thể năm triệu năm.

Tổng số mọi tâm trí được sinh ra trong mọi lần sinh thành của
bạn vẫn có đó trong bạn ngay cả cho tới ngày nay. Phật đã đặt
một cái tên rất có ý nghĩa cho sự kiện này. Ông ấy là người đầu
tiên làm như vậy. Ông ấy đã đặt tên nó là nhà kho tâm thức (tàng
thức). Giống như một nhà kho, tâm trí bạn đã cất giữ mọi kí ức
về tất cả những sinh thành quá khứ của bạn - cho nên tâm trí bạn
rất già. Và không phải là tâm trí bạn là nhà kho chỉ cho sự sinh
thành con người: nếu bạn đã từng được sinh ra như con vật, cây
cối, vì trường hợp này cũng là chắc chắn, các kí ức của tất cả
những lần sinh thành ấy cũng hiện diện bên trong bạn.
Những người đã tiến hành các cuộc điều tra sâu sắc vào
trong quá trình của nhà kho tâm thức này đều nói rằng nếu bất
thình lình một cảm giác yêu mến tràn ngập trong tâm trí của bất
kì người nào khi ngắm bông hồng, lí do là ở chỗ có một kí ức sâu
bên trong người đó về bản thân người đó đã từng là hoa hồng
trong quá khứ, điều được nhen nhóm lại thành việc cảm thấy sự
cộng hưởng của nó trong hoa hồng. Không phải ngẫu nhiên mà
một người yêu chó lắm. Có những kí ức trong nhà kho tâm thức
của người đó làm cho người đó nhận biết về quan hệ họ hàng lớn
lao của người đó với chó. Bất kì cái gì xảy ra trong các kiếp sống
của chúng ta đều không ngẫu nhiên. Một quá trình nhân quả tinh
vi đang vận hành đằng sau những việc xảy ra này. Mặc dầu thân
thể tàn lụi trong cái chết, tâm trí vẫn tiếp tục cuộc hành trình của
nó và cứ thu thập các kí ức. Đây là lí do tại sao đôi khi bạn thấy
những hình dạng trong tâm trí mình mà về nó bạn sẽ nói, “Chúng
không phải là của tôi.” Đôi khi bạn làm những điều nào đó gây
cho bạn cảm giác kì lạ và nói, “Điều này đã được làm bất chấp
tôi.” Giả sử một người cãi nhau với ai đó và cắn người đó. Sau
đó người này nghĩ, “Thật lạ làm sao mình có thể cắn được người
đó! Không lẽ mình là con thú hoang dại sao?” Người đó không
phải là con thú ở hôm nay, nhưng có thời người đó đã là con thú;
và một khoảnh khắc có thể tới khi kí ức ẩn kín của người đó trở
nên kích hoạt đến mức người đó hành xử hệt như con thú. Tất cả
chúng ta đều hành xử giống như con vật trong nhiều trường hợp.
Hành vi đó không giáng xuống từ bầu trời, nó tới từ cái kho bên
trong tâm trí chúng ta.
Cái chết của chúng ta chỉ là cái chết của thân thể ta thôi.
Tâm trí chúng ta, tràn đầy bản ngã và ham muốn, không chết, cho
nên sẽ không có cơ hội nào cho hiền nhân nay đùa theo cách này
nếu người đó đơn giản đang đối diện với cái chết vật lí. Lời kinh
này được nói vào thời điểm của samadhi. Có một đặc điểm nổi
bật về samadhi: việc tới của nó có thể được công bố trước. Cái
chết đến bất ngờ, samadhi được mời tới. Cái chết xảy ra, samadhi
được lập kế hoạch. Tiến bộ dần từng bước trong thiền, con người
đạt tới trạng thái của samadhi.
Hiểu ý nghĩa lớn lao của từ samadhi đi. Nhiều lúc từ
samadhi cũng được dùng để chỉ nấm mồ. Nấm mồ của một hiền
nhân được gọi là samadhi. Nó được gọi đúng như vậy. Samadhi
là một loại cái chết, nhưng là một cái chết sâu sắc và nổi bật.
Thân thể vẫn còn đây sau cái chết, nhưng tâm trí bên trong bị phá
huỷ. Vào khoảnh khắc này của phá huỷ tâm trí hiền nhân này nói,
“Này tâm trí đầy bản ngã và ham muốn, nhớ về những hành động
mi đã làm trong quá khứ.” Ông ấy đang nói điều này bởi vì tâm
trí đã lừa dối ông ấy trong quá khứ lặp đi lặp lại; nhưng hôm nay
chính tâm trí này bị phá huỷ.
“Tuỳ thuộc và dựa dẫm vào tâm trí mình, ta đã sống cuộc đời
mình. Qua những thắng và thua, hạnh phúc và bất hạnh, thành
công và thất bại, hi vọng và thất vọng, ta đã tin nó bao giờ cũng ở
cùng ta; nhưng bây giờ ta thấy nó đang lừa dối ta. Học về nó để
dựa dẫm, ta đã làm cuộc hành trình dài thế, nhưng hôm nay ta
thấy rằng hỗ trợ cho ta đang tàn lụi đi - tan rã mãi mãi. Ta cứ
tưởng nó là chiếc thuyền cứng cáp, nhưng hôm nay ta thấy rằng
chính bản thân nước đang hội nhập vào trong dòng sông.”

Trong khoảnh khắc này hiền nhân đó đang đề cập tới tâm trí
của mình: “Này tâm trí bản ngã, nhớ lại những hành động mi đã
làm, những hành động mi đã ham muốn và dự định. Nhớ đến
những hứa hẹn mi đã nói, những an ủi mi đưa ra. Nhớ ta đã tin
cậy vào mi biết bao nhiêu. Nhớ điều mi đã xui khiến ta làm. Nhớ
những ảo tưởng mi đã tạo ra trong ta. Nhớ những giấc mơ mi đã
cho ta. Nhớ những điều xuẩn ngốc mi đã dẫn ta vào. Bây giờ bản
thân mi đang mất đi, còn ta đang đi vào một vùng nơi mi sẽ
không có. Mãi cho đến bây giờ mi bao giờ cũng thuyết phục ta
rằng nơi không có bản ngã, nơi không có ý chí, không có bản thể.
Nhưng ta thấy hôm nay là mi đang mất đi, và vậy mà bản thể ta
còn lại.”
Tâm trí bao giờ cũng nói, “Nếu không có ý chí mình sẽ tàn
lụi. Mình sẽ không thể đứng dậy chống lại xung đột của cuộc đời.
Nếu không có bản ngã trong mình, mình sẽ héo tàn; mình sẽ
không sống sót!” Tâm trí bao giờ cũng xúi bẩy hành động, quyết
tâm và tranh đấu. “Nếu mình không tranh đấu mình sẽ bị quét
đi.” Chắc chắn, điều tự nhiên duy nhất cho hiền nhân này vào
ngày này để đùa cợt tâm trí mình, để nói với tâm trí, “Bản thân
mi đang héo tàn hôm nay trong khi ta không hề bị động chạm. Mi
đang ra đi, ta không. Cho tới nay mi đã lừa dối ta, bảo ta rằng ta
sẽ không được cứu nếu không có mi. Nhưng hôm nay mi đang bỏ
đi và ta không.”
Hiền nhân dùng khoảnh khắc này để đùa cợt và chế nhạo với
hai lí do: một là về tâm trí riêng của mình, và hai là về tâm trí của
những người còn chưa đạt tới cánh cửa của samadhi và đang bận
rộn trong cả nghìn lẻ một hoạt động, tâm trí của họ đang xui
khiến họ làm điều này và làm điều nọ, tâm trí của họ vẫn đang
bảo họ, “Cuộc đời mình bị phí hoài nếu mình không hoàn thành
việc này, nếu mình không xây dựng lâu đài này,” tâm trí của họ
bảo họ, “Mình không đáng giá gì nếu mình không hoàn thành sứ
mệnh này, cuộc phiêu lưu này.”
Với những người như thế hiền nhân này đang nói tới việc
đùa của mình. Ông ấy cảnh báo họ phải nghĩ lại đi, bởi vì tâm trí
là kẻ lừa dối lớn nhất. Tất cả mọi lừa dối của chúng ta do tâm trí
tạo ra. Mỗi người và mọi người trong chúng ta sống trong thế
giới mơ, và tâm trí láu cá đến mức nó không cho phép chúng ta
nhìn đủ sâu để làm lộ ra lừa dối của nó. Tâm trí sẵn sàng với lừa
dối mới trước khi chúng ta có khả năng thấy lừa dối trước. Trước
khi lừa dối trước bị phá huỷ thì tâm trí bịa ra cấu trúc lừa dối
khác và cám dỗ chúng ta, nói rằng, “Lại đây đi, nghỉ ở đây này.”
Nếu một ham muốn được đáp ứng và tâm trí định cho phép
bạn một khoảng thời gian, bạn sẽ có khả năng thấy rằng không
cái gì thực sự được đạt tới qua hoàn thành ham muốn đầu tiên
của bạn, với nó bạn đã chịu đựng biết bao nhiêu rắc rối và lo âu.
Bạn thực sự thu được cái gì? Còn kém hơn cả rác rưởi! Nhưng
tâm trí không cho phép ngay cả có khoảng hở đó, cơ hội đó. Tâm
trí bắt đầu trồng hạt mầm của ham muốn tiếp của bạn trước khi
ham muốn trước đó được hoàn thành. Khi một ham muốn được
hoàn thành, nó được thấy là vô dụng và mối quan tâm bị mất,
nhưng tâm trí lập tức đưa ra mầm mống của ham muốn mới.
Cuộc đua bắt đầu: tâm trí chưa bao giờ cho bạn một cơ hội nghỉ
ngơi, dừng lại để bạn có thể thấy bạn đang trong lừa dối nào. Khi
mặt đất biến mất dưới chân bạn, tâm trí không cho phép bạn thấy
lỗ hổng tại chỗ của nó, nhưng thay vào đó đưa cho bạn một mảnh
đất để đứng.
Tôi sẽ kể cho các bạn một câu chuyện ngắn nhưng thú vị mà
Phật thường kể. Bạn có thể đã nghe nó, nhưng bạn có thể không
diễn giải nó theo cách này.
Một người đang chạy qua khu rừng. Bây giờ, người này chạy
bởi một trong hai lí do: hoặc là cái gì đó phía trước hấp dẫn
người đó, hoặc là cái gì đó khác phía sau đang thúc đẩy người đó.
Người này đang chạy bởi cả hai lí do. Người đó chạy để tìm kim

cương, bởi vì ai đó đã bảo người đó có mỏ kim cương trong khu
rừng. Nhưng người đó chạy rất nhanh vào lúc này bởi vì một con
sư tử đang đuổi theo. Người đó quên mất kim cương vào khoảnh
khắc đó và chỉ nghĩ về cách cứu mình khỏi sư tử. Người đó chạy
mà không mất hết can đảm, nhưng cuối cùng thì cũng tới chỗ lối
cụt. Không còn đường phía trước, chỉ có hố bẫy sâu và nguy
hiểm, và không có đường quay lại - không có cách nào quay lại,
dù đi qua rừng hay trên đường. Đây chính là cách thức bạn chạy,
trong khi đuổi theo kim cương hay để cứu mạng mình, và không
có đường lui! Mọi thời quá khứ đều đã trôi qua vĩnh viễn. Bạn
không thể bước lùi dù một li vào trong quá khứ.
Người này, bị sư tử đuổi theo, đã không thể quay lại, và con
đường phía trước là lối cụt. Sợ hãi và không thấy đường ra, người
đó đã làm điều mà người thất vọng sẽ làm. Bám lấy rễ cây, người
đó đung đưa mình trên bờ hố, nghĩ tới việc trèo lên khi sư tử đã
bỏ đi. Nhưng con sư tử, đứng gần ngay miệng hố, bắt đầu đợi
người đó. Con sư tử cũng có ham muốn của nó! Nó nghĩ, “Người
này cuối cùng cũng phải trèo lên.” Khi người này thấy sư tử ngồi
đợi mình, người đó nhìn xuống dưới để tìm cách thoát thân, và
phía dưới kia, vọng tiếng gào trong hố bẫy phía dưới, là một con
voi điên.
Chúng ta có thể hình dung hoàn cảnh của người này thật khổ
và đáng thương làm sao - nhưng vẫn chưa đủ đáng thương đâu.
Khổ cực và phiền phức của cuộc đời là không biết bao nhiêu.
Không một xung đột hay rối loạn nào có thể vét cạn tiềm năng
cuộc sống để tạo ra nhiều xung đột rối loạn hơn. Bỗng nhiên
người đó nhận ra rằng cái rễ cây mình đang bám vào cũng dần
dần mất đi. Người đó nhìn lên và thấy hai con chuột đang miệt
mài gặm nhấm vào cái rễ cây. Một con chuột trắng và một con
chuột đen. Phật hay so sánh chúng với ngày và đêm cứ làm ngắn
dần cuộc sống con người. Chúng ta có thể hiểu tính mạng người
này hiện nay đang trong nguy hiểm đến đâu, không có khả năng
trốn thoát. Nhưng không, ham muốn của người này thật đáng
ngạc nhiên làm sao, và thủ đoạn lừa dối của tâm trí người đó là
tuyệt vời. Vào khoảnh khắc đó người đó thấy một tổ ong phía
trên chiếc rễ, từ đó từng giọt mật rơi xuống, từng giọt một. Người
đó thè lưỡi ra, và một giọt mật rơi vào lưỡi. Người đó nhắm mắt
trong vui vẻ lớn, và tự nhủ mình, “Mình được ân huệ làm sao,
ngọt làm sao.” Vào khoảnh khắc đó không có sư tử ở trên, không
có voi điên ở dưới, không có chuột đang gặm nhấm rễ cây không
có sợ chết nào. Trong khoảnh khắc đó người đó mất hết mọi sợ
hãi, và chỉ có thể cảm thấy, “Ngọt làm sao!”
Phật thường nói rằng từng người đều trong tình thế khó khăn
này, nhưng tâm trí thì cứ thả ra từng giọt mật hết giọt nọ đến giọt
kia. Con người nhắm mắt và nói, “Ngọt làm sao!” Đây là tình
huống cho mọi thời. Có cái chết ở trên và có cái chết ở dưới. Nơi
có cuộc sống, cái chết bao quanh tất cả. Cuộc sống bị bao bọc bởi
cái chết, và gốc rễ của bản thân cuộc sống đang bị chặt đi vào
mọi khoảnh khắc. Mọi ngày, mọi khoảnh khắc, cuộc sống đang
bị làm rỗng đi. Giống như cát trong chiếc đồng hồ cát cứ trôi dần
từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc tiếp, cuộc sống của chúng
ta cũng tuột đi. Nhưng cho dù vậy, nếu một giọt mật rơi xuống
chúng ta nhắm mắt lại và bắt đầu mơ ước về hi vọng. Tâm trí
bảo chúng ta, “Nhìn này, mật ngọt làm sao!” Khi một giọt kết
thúc giọt khác sẵn sàng rơi xuống. Tâm trí tiếp tục chống đỡ
chúng ta với sự lừa dối, từng giọt một.
Cho nên hiền nhân này nói, “Này tâm trí bản ngã và ham
muốn của ta, nghĩ về những lừa dối mi đã thực hành trên ta. Bây
giờ nhớ điều này: tất cả những hành động quá khứ của mi và tất
cả những kế hoạch tương lai của mi - mi là kẻ xúi bẩy cho những
hành động đó, nhưng hôm nay mi tới số cùng của mi rồi. Mi
đang ở cánh cổng huỷ diệt, mi sẽ bị thủ tiêu.” Tại cổng của
samadhi tâm trí trở thành trống rỗng; ý nghĩ dừng tới, hoài nghi
và không chắc chắn của tâm trí biến mất, những con sóng của

tâm trí trở nên êm đềm. Tuyệt đối không có tâm trí. Khi không có
tâm trí, có samadhi.
Tôi đã kể cho các bạn rằng một nghĩa của samadhi là nấm
mồ - nấm mồ của vị thánh. Ý nghĩa thứ hai của samadhi là điều
kiện về không hoài nghi, nơi hoài nghi không tồn tại Cũng đáng
biết rằng nơi có tâm trí, có hoài nghi, hoài nghi và hoài nghi;
không bao giờ có thể không hoài nghi. Tâm trí là nhà giả kim lớn
nhất của hoài nghi. Như lá nhú ra từ cây, hoài nghi ló ra trong
tâm trí; không hoài nghi không bao giờ ló ra ở đó, nó có đó chỉ
khi tâm trí không có đó. Cho nên khi một người tới tôi với một
yêu cầu làm cho tâm trí người đó thoát khỏi hoài nghi, tôi bảo
người đó, “Đừng bận tâm về điều đó; bạn sẽ không bao giờ có
khả năng làm cho tâm trí thoát khỏi hoài nghi đâu. Gạt tâm trí
bạn sang bên và bạn sẽ có không hoài nghi.”
Một người hỏi tôi tối nay, “Làm sao tôi có thể thoát khỏi
tham?”
Tôi bảo người đó, “Bạn không bao giờ thoát được đâu, bởi vì
bản thân bạn là tham lam. Chừng nào bạn có đó, bạn không bao
giờ có thể không tham lam. Nếu bạn không có đó, tham lam sẽ
không có đó.”
Không hoài nghi trong tâm trí là không bao giờ có thể có
được; nó chỉ tới khi tâm trí không có đó. Đó là lí do tại sao vô trí
được gọi là samadhi - không có hoài nghi chút nào. Chừng nào
tâm trí có đó, nó sẽ cứ tạo ra hết hoài nghi nọ đến hoài nghi kia.
Nếu bạn giải quyết được hoài nghi này, nó sẽ phát sinh ra hoài
nghi khác, và nếu ai đó cho bạn một giải pháp, tâm trí sẽ tạo ra
mười hoài nghi từ giải pháp đó.
Một người bạn thông báo cho tôi qua thư rằng anh ấy sắp tới
dự trại thiền. Anh ấy gặp tôi hai ngày trước đây. Anh ấy đã viết
thư cho tôi rằng tâm trí anh ấy tràn đầy những bất ổn. Sau ba
ngày trong trại cái bất ổn của anh ấy biến mất. “Sau ba ngày,”
anh ấy bảo tôi, “bất ổn của tôi đã biến mất, nhưng liệu cái yên
bình tôi đang cảm thấy đây không phải là lừa dối chứ?”
Tôi bảo anh ta, “Tâm trí bạn đã bao giờ bảo bạn rằng bất ổn
là lừa dối không?”
Người đó nói, “Tâm trí chưa bao giờ nói thế.”
Tôi hỏi, “Bạn bất ổn trong bao lâu rồi?”
Người đó đáp, “Tôi bao giờ cũng bất ổn.”
Tâm trí người đó chưa bao giờ hỏi liệu bất ổn này không
phải là sự lừa dối chăng. Và bây giờ khi người đó đã trở nên yên
bình trong ba ngày qua, tâm trí lại hỏi, “Có phải là yên bình thật
không nhỉ? Nó không phải là lừa dối chứ?” Tâm trí thật đáng
ngạc nhiên! Ngay cả nếu Thượng đế gặp bạn, tâm trí sẽ đưa ra
hoài nghi: “Mình không thể nói dứt khoát liệu ngài là thực hay
nhân tạo.” Chừng nào tâm trí có đó, hoài nghi chắc chắn nảy
sinh. Cho nên chừng nào mà bạn còn giữ tâm trí mình bạn sẽ vẫn
còn trong khó khăn lớn. Ngay cả nếu phúc lạc đến, tâm trí trở
thành nghi ngờ và hoài nghi về sự hiện diện của nó. Tâm trí tạo
ra hoài nghi, đưa ra nghi ngờ và không chắc chắn, và cho sinh ra
lo nghĩ và lo âu.
Mặc cho tất cả những điều này, tại sao chúng ta ôm giữ tâm
trí chặt thế? Nếu tâm trí là gốc rễ của tất cả những ốm yếu này -
như những người biết nói cho chúng ta - thế thì cái gì là lí do cho
níu bám chặt thế vào nó? Về câu trả lời, nhìn vào lưu ý thách
thức của hiền nhân này. Lí do chúng ta níu bám vào nó chặt thế
là ở chỗ chúng ta sợ rằng nếu tâm trí không có đó thế thì chúng ta
cũng sẽ không có đó. Thực ra, dù có chủ ý hay không chủ ý,
chúng ta đã đồng nhất bản thân chúng ta với nó. Chúng ta đã đi
tới tin, “Mình là tâm trí.” Chừng nào mà đây là hiểu biết của

chúng ta thì chúng ta sẽ tiếp tục níu bám lấy tất cả những cái ốm
yếu này.
Bạn không phải là tâm trí! Bạn là cái biết đến tâm trí, cái
thấy nó và cái quen biết hoàn toàn với nó. Để nhận ra điều này
bạn sẽ phải đi xa chút ít khỏi nó, bạn sẽ phải đứng xa một chút
khỏi nó, bạn sẽ phải nâng bản thân mình lên trên nó một chút.
Bạn sẽ phải đứng trên bờ để xem luồng tâm trí và để nhận ra nó.
Làm sao bạn có thể rời bỏ nó khi mà bạn đồng nhất bản thân
mình với nó? Điều đó sẽ là tự tử. Rời bỏ tâm trí nghĩa là chết.
Cho nên bạn sẽ không có khả năng rời bỏ nó. Một mình người
nói, “Ta không phải là tâm trí,” có thể từ bỏ được nó.
Bước đầu tiên đi vào samadhi là kinh nghiệm này: “Ta
không là tâm trí.” Kinh nghiệm này trở nên ngày một sâu sắc hơn
cho tới khi nó trở thành rõ ràng và chắc chắn đến mức tâm trí
biến mất hoàn toàn. Nó biến mất tựa như ngọn lửa của chiếc đèn
hết dầu. Ngay cả khi dầu trong đèn đã hết rồi nhưng bấc vẫn còn
tiếp tục cháy lâu thêm vì còn có chút ít dầu trong bấc - nhưng bây
giờ nó không cháy lâu nữa. Hiền nhân này đang trong hoàn cảnh
tương tự. Ông ấy đã nhận ra, “Ta không phải là tâm trí,” nhưng
ngọn lửa vẫn còn tiếp tục cháy từ bây giờ từ chút ít dầu còn lại
trong bấc. Hiền nhân này đang đề cập tới ngọn lửa này trong
những khoảnh khắc cháy cuối cùng của nó, “Này tâm trí bản ngã
của ta, mi hứa hẹn với ta là bao giờ cũng cùng ta và cho ta ánh
sáng. Nhưng mi đang ở điểm sắp tắt ngấm. Bây giờ ta thấy rằng
dầu đã hết, cho nên ta hỏi mi bây giờ liệu mi còn kéo dài được
bao lâu? Mi đã hoàn toàn chấm dứt, thế mà ta còn.” Cho nên
người đó đang nói với tâm trí sắp chết của mình, “Ta bao giờ
cũng tách biệt với mi, nhưng ta bao giờ cũng bị đồng nhất với mi.
Đấy là ảo tưởng của ta - luân hồi, ảo vọng maya - ảo tưởng lớn!”
Hiền nhân này đang đề cập tới bản thân mình, và như tôi đã
nói với các bạn, ông ấy cũng đang đề cập tới bạn nữa. Có lẽ bạn
cũng có thể nhận ra điều đó. Quay lại với thời niên thiếu của bạn
và nhớ bạn đã lo âu thế nào khi đứng đầu lớp: bạn mất ngủ ban
đêm thế nào, bao nhiêu tải trọng của kì thi đè lên tâm trí bạn, bạn
đã tin như thế nào vào mọi thứ bị phụ thuộc vào chúng! Nhưng
hôm nay không còn kì thi nào, không còn lớp học. Quay lại và
kiểm tra xem: Bạn nhất lớp hay nhì hay thứ ba trong lớp - hay
ngay cả trượt - có gì khác biệt nào? Hôm nay bạn nhớ chẳng cái
gì trong những việc xảy ra đó. Cứ quay lại mà xem. Bạn kiếm
chuyện cãi nhau với ai đó: bạn nghĩ đấy là vấn đề sống chết.
Hôm nay, sau mười năm, cuộc cãi lộn đó trông tựa như những
đường vẽ trên nước. Ai đó xúc phạm bạn trên phố và bạn vật lộn
với vấn đề làm sao bảo vệ bản thân mình khỏi sự lăng mạ của
người đó. Nhìn xem: bạn đâu có bị phá huỷ. Việc lăng mạ bây
giờ không có đó. Hôm nay bạn không nhớ gì về nó cả. Quay lại
và xem bạn đã gắn cho nó tầm quan trọng đến đâu. Hôm nay nó
có quan trọng nữa không? Không, nó không còn quan trọng chút
nào bây giờ.
Nhớ lấy, cái mà bạn coi là có giá trị hôm nay sẽ thành vô giá
trị ngày mai, cho nên đừng cho nó quan trọng lắm vào hôm nay.
Học từ kinh nghiệm của bạn về ngày hôm qua, và rút ra tất cả
những giá trị mà bạn đã đặt vào những thứ bạn làm bây giờ. Hiền
nhân này đang kể lại tâm trí bản ngã của mình, về sức mạnh của
tất cả những kinh nghiệm của mình trong cuộc sống, “Ta đã coi
mi là rất quan trọng, nhưng ta nói rất dứt khoát với mi, tại khoảnh
khắc này nói cho mi lời chào vĩnh biệt, rằng mi đã tiến hành lừa
dối suốt từ đầu đến cuối. Chính cái ngu xuẩn của ta là không thấy
ra rằng ta đã và đang tách biệt với mi.”
Khi tâm trí tiêu tan mọi thứ tiêu tan, bởi vì nó là hạt nhân để
mọi thứ được móc vào. Bánh xe của toàn bộ cuộc sống chúng ta
quay quanh nó. Do đó hiền nhân này tuyên bố rằng năm yếu tố
trong thân thể sẽ hấp thu bản thân chúng vào ngọn nguồn của

chúng và mọi thứ sẽ tiêu tan, bởi vì tâm trí - hạt nhân kết nối tất
cả - hôm nay đang biến mất đi.
Khi Phật đạt tới tri thức tối thượng ông ấy nói một điều tuyệt
diệu. Khi tâm trí ông ấy bị phá huỷ lần đầu tiên và ông ấy đi vào
trạng thái trống rỗng, ông ấy nói đúng cái điều mà hiền nhân của
Upanishad đã nói. Ông ấy nói, “Này tâm trí, bây giờ ta nói lời
vĩnh biệt mi. Mãi cho đến giờ mi là được cần cho ta, vì ta đã
muốn có dạng thân người. Nhưng bây giờ ta không cần thân
người cho nên mi có thể ra đi. Mãi cho đến bây giờ, với việc cần
thân người, ta đã cần kiến trúc sư của nó, tâm trí, nữa. Không ai
có thể được tạo ra mà không có nó. Bây giờ ta có chỗ trú ngụ tối
cao của mình. Bây giờ ta đã đạt tới đích của mình. Bây giờ ta đã
đạt tới ngôi nhà không được tạo ra, nơi cư ngụ trong cái ta của ta.
Bây giờ mi có thể ra đi.”
Những lời kinh như vậy là rất quan trọng cho người tìm kiếm
chân lí. Không có lợi gì trong việc giao phó chúng cho kí ức.
Chúng có lợi chỉ nếu được giữ trong tim. Nếu chúng được ghi
nhớ và lặp lại hàng ngày chúng trở thành cũ rích. Dần dần nghĩa
của chúng bị mất đi, và chỉ có từ chết còn lại. Nhưng nếu sự kiện
này - rằng tâm trí không là cái gì ngoài sự lừa dối - được bạn hiểu
rõ ràng, thế thì cuộc cách mạng mới sẽ đi vào cuộc sống của bạn.
Tôi không nói về những lời kinh này với quan điểm để bạn ghi
nhớ điều tôi nói và trở thành kẻ sĩ. Không, bạn đã là kẻ sĩ ngay từ
trước khi nghe tôi: không cần làm tăng thêm mớ tri thức của bạn.
Tôi nói về chúng để cho bạn bức tranh đúng đắn về các thực tại
của cuộc sống. Nếu việc ghi nhớ xảy ra, để cho nó đi qua nhận
biết rằng những lời kinh này đem đến việc soi sáng trên con
đường mà bạn sống.
Trang Tử là một thầy Trung quốc. Một buổi chiều tối ông ấy
cùng đệ tử của mình đi qua một vùng nghĩa địa. Một cái sọ bị
chân ông ấy đá phải. Ông ấy nhặt nó lên, chạm đầu mình vào và
xin chiếc sọ tha thứ. Đệ tử của ông ấy hỏi, “Sao thầy làm điều
này? Chúng tôi bao giờ cũng nghĩ thầy là con người của trí huệ.
Cái gì là cái điên khùng đang diễn ra trong thầy bây giờ?”
Trang Tử đáp, “Các ông không hiểu. Vùng nghĩa địa này là
dành riêng cho những người rất quan trọng (VIP). Chỉ những
người quan trọng nhất của thành mới được mai táng ở đây.”
Họ nói, “Dù họ là ai đi chăng nữa, cao hay thấp, cái chết vẫn
là kẻ san bằng vĩ đại.”
Cái chết mang tính cộng sản lớn - nó đặt mọi người theo
cùng mức độ. Nhưng Trang Tử nói, “Không, ta phải xin tha thứ
của nó. Giả sử người này còn sống bây giờ, vị trí của ta sẽ thế
nào?”
Đệ tử nói, “Người này bây giờ không còn sống, vậy tại sao
thầy phải lo nghĩ về ông ấy?”
Nhưng Trang Tử mang chiếc sọ về nhà và để nó gần giường
mình. Bất kì ai đến gặp ông đều tự hỏi tại sao chiếc sọ được đặt ở
đấy. Trang Tử sẽ nói, “Một cách vô tình chân ta đá phải nó. Vì
người này không còn nữa, nên ta không còn cơ hội nào để xin tha
thứ, cho nên ta gặp khó khăn. Để giải quyết vấn đề này ta phải
mang chiếc sọ về nhà, và ta cứ xin tha thứ trong hi vọng rằng một
ngày nào đó lời ta có thể được nghe thấy.”
Nghe thấy điều này, mọi người thường nói với ông, “Ông
nói điều vô nghĩa làm sao!”
Thế rồi ông ấy sẽ nói, “Lí do khác ta đem nó về đây là vì nó
là lời nhắc nhở thường xuyên cho ta rằng sớm hay muộn sọ ta
cũng sẽ nằm trong mảnh đất chôn vùi và người ta sẽ đá nó đi đây
đó. Ta không bận tâm về điều đó, nhưng ta lấy làm tiếc là ta sẽ
không thể ở vị trí để tha thứ cho bất kì ai xin ta tha thứ. Cho nên

một hiểu biết lớn về sọ của ta đã tới với ta từ khi ta mang chiếc
sọ này về nhà. Nhìn vào nó ta sẽ vẫn còn bình thản và không bị
khuấy động cho dù ai đó đá vào sọ ta!”
Đây là hiểu biết mang tính tồn tại, nó không phải là trí tuệ.
Hiểu biết này đã mang lại kết quả, người này được biến đổi. Theo
cùng cách đó, nếu lời kinh này đạt tới tim bạn nó sẽ mang lại kết
quả khi bạn làm điều gì đó và tâm trí bạn thôi thúc bạn theo cách
này hay cách khác.
Chẳng hạn, lời kinh này nên trao cho những người như
Morarji Desai, người có tâm trí thường xuyên lập kế hoạch để
làm cái này làm cái nọ. Tâm trí cứ làm việc như thế này cho đến
lúc chết, mặc dầu nó không thu được cái gì từ hoạt động của nó.
Bắt đầu nghề nghiệp của mình từ trợ lí thu thuế, ông ấy đã lên
đến địa vị thứ trưởng, nhưng ông ấy chẳng đạt được cái gì. Cho
dù ông ấy có lên hơn nữa, không kết quả gì, không đáng giá gì,
sẽ thu được từ việc đó. Tâm trí bao giờ cũng giữ bạn trong khó
khăn, dù nó được hay thua. Tâm trí giống như kẻ đánh bạc. Nếu
nó thua, nó nghĩ, “Mình chơi thêm lần nữa - mình có thể thắng.”
Và nếu nó thắng, nó nghĩ, “Bây giờ vận may của mình đang tới,
mình phải không bỏ lỡ nó; mình phải chơi thêm nữa.” Nếu người
đó thắng, kẻ đánh bạc trở nên hi vọng nhiều hơn, và tiếp tục chơi.
Nếu người đó thua, tâm trí người đó ngần ngại trước viễn cảnh
sắp thua: “Chơi thêm lần nữa, mình có thể thắng. Thử lần nữa
xem sao!”
Cho nên nhớ lấy lời kinh này khi tâm trí, giống như kẻ đánh
bạc, thúc giục bạn tiếp tục, dù thắng hay thua! Và nói với nó:
“Này tâm trí đầy những bản ngã và ham muốn của ta... nhớ hành
động quá khứ của mi.” Kết quả của việc ghi nhớ này sẽ là ở chỗ
sự hấp dẫn lớn hơn của bạn vào một hành động đặc biệt sẽ yếu
đi. Cái ngu xuẩn của bạn trong việc nghĩ về bản thân mình là
người làm sẽ bị đập vỡ tan, và bạn sẽ đi tới gần samadhi hơn.
Bạn sẽ làm sâu sắc hơn tính mạnh mẽ của việc thiền của bạn.
Nhớ trong tâm trí, vô ý thức hay vô nhận biết sẽ không có tác
dụng. Nếu bạn cứ còn vô nhận biết và không nhạy cảm với cách
làm việc của tâm trí, thế thì tâm trí của bạn sẽ lặp lại điều nó đã
làm hôm qua.
Có lẽ bạn không biết điều này, nhưng tâm trí bạn chưa bao
giờ làm bất kì điều gì mới hay tươi tắn. Nó đơn giản cứ lặp lại
điều nó đã làm trước đây. Bạn đã giận dữ ngày hôm qua, bạn đã
giận dữ ngày hôm kia; và sau cơn giận dữ ngày hôm kìa bạn đã
ăn năn và thề không bao giờ giận dữ nữa. Hôm qua bạn làm hệt
như cũ, và ở đây bạn lại đang làm cùng việc đó hôm nay. Cơn
giận dữ của bạn cũ kĩ, và việc ăn năn của bạn cũng cũ kĩ. Ngày
nọ tiếp ngày kia bạn cứ lặp lại cái loại hành vi này. Nếu bạn
không có khả năng loại bỏ giận dữ, ít nhất gạt sang bên việc ăn
năn về nó; phá vỡ ít nhất một trong những thói quen cũ của bạn!
Nhưng bạn sẽ không làm điều này; cơn giận của bạn và ăn năn
của bạn cứ đi đôi với nhau.
Toàn bộ cuộc đời con người là sự lặp lại. Nó không khác gì
với sự lặp lại của con trâu kéo máy nghiền mía. Con trâu có thể
nghĩ nó đang bước một khoảng cách rất xa bởi vì mắt nó vẫn còn
nhắm khi nó tiếp tục bước vòng quanh. Nó có thể nghĩ nó đã đi
khắp trái đất và phải ở gần đích rồi. Giống như con trâu này, tâm
trí đi theo vòng tròn. Nếu một người viết nhật kí hàng ngày,
người đó sẽ phải xét xem liệu mình có là cái gì khác hơn là cái
máy không: cùng những hoạt động, cùng việc thường lệ hàng
ngày, lặp đi lặp lại. Sau hai mươi năm sống với nhau, vợ biết
chồng mình sẽ nói gì khi anh ta về nhà muộn buổi tối; cô ấy có
kinh nghiệm hai mươi năm. Chồng cũng biết vợ mình sẽ phản
ứng ra sao với cái cớ của mình. Cho dù thế, cả hai vẫn cứ trải qua
cùng câu hỏi và cùng câu trả lời.

Vậy bị cuốn hút vào quá trình máy móc của tâm trí, người
sống trong vô nhận biết bỏ lỡ mọi cơ hội mà người đó gặp trong
cuộc đời mình - và các cơ hội không ít đâu, nhưng chúng ta láu
cá thế trong việc bỏ lỡ từng cơ hội đó. Cứ mỗi ngày lại có một cơ
hội tươi tắn tới, mới mẻ vì không nhắc lại cái cũ - nhưng chúng ta
lặp lại cái cũ. Điều này xảy ra bởi vì chúng ta không nhớ trong
tâm trí lời kinh này... nhớ hành động quá khứ của mình.Trước khi
bạn giận dữ vào ngày mai, bảo với tâm trí bạn, “Này tâm trí, nhớ
tất cả những cơ hội mình đã trở nên giận dữ trước đây.” Trước
hết, dừng lại một vài phút và nhớ lại những cơ hội giận dữ trước
đây, và thế rồi hãy giận. Và tôi bảo các bạn, thế thì bạn sẽ không
có khả năng giận được đâu.
Bất kì khi nào tâm trí trở nên tràn đầy những ham muốn và
đam mê, vậy nói với tâm trí bạn: “Này tâm trí đầy những bản ngã
và ham muốn, nhớ tới những ham muốn mà mi đã ấp ủ trong quá
khứ.” Giữ các kinh nghiệm cũ của bạn trong trí trước khi bước
vào cuộc hành trình mới, thế thì bạn sẽ không bắt đầu cuộc hành
trình khác qua cách cũ nữa. Ham muốn của bạn sẽ bị ngạc nhiên
và phân vân! Nhận biết ngần này là đủ để phá vỡ cách thức làm
việc máy móc của tâm trí.
Gurdjieff đã ghi lại trong hồi ức của mình rằng lời khuyên
cuối cùng của bố ông đã làm thay đổi toàn bộ quá trình cuộc đời
ông ấy. Ông ấy đã là một cậu nhỏ, em út trong nhà. Bố ông ấy,
đang nằm trên giường chết, gọi tất cả con cái đến và nói điều gì
đó cho từng người trong họ. Khi cậu em út được gọi tới người bố
nói, “Lại gần bố và nghiêng đầu về phía bố, bố muốn nói cho con
một điều mà con phải nhớ như in trong đầu trong toàn bộ cuộc
đời con. Bố không có gì khác cho con. Bố muốn con hứa với bố
một điều - rằng bất kì khi nào một cơ hội nảy sinh để phạm vào
một hành vi xấu con sẽ đợi hai mươi bốn giờ. Tất nhiên, con có
thể làm nó, nhưng đợi hai mươi bốn giờ trước khi còn làm nó.
Con hứa với bố về điều này đi. Nếu con muốn giận dữ, cứ giận
dữ hoàn toàn; bố không cấm con, nhưng làm việc đó sau hai
mươi bốn giờ. Nếu con muốn giết ai đó, làm việc đó với toàn bộ
trái tim con, nhưng đợi hai mươi bốn giờ.”
Gurdjieff hỏi, “Mục đích của việc này là gì?”
Bố ông ấy nói, “Bằng cách tuân theo lời khuyên này con sẽ
có khả năng làm hành vi đó theo cách tốt hơn. Con sẽ có khả
năng lập kế hoạch tốt cho nó, và chính kinh nghiệm của đời bố là
ở chỗ sẽ không có sai lầm nào trong việc lập kế hoạch của con.
Món quà của bố cho con là kinh nghiệm này.”
Gurdjieff đã viết, “Một phần của lời khuyên này đã làm thay
đổi quá trình cuộc đời tôi, bởi vì không ai có thể làm hành vi ác
nếu người đó đợi ngay cả hai mươi bốn giây, chưa nói đến hai
mươi bốn giờ.”
Khi bạn trở nên giận dữ, nhìn vào đồng hồ của bạn và tự
nhủ, “Mình sẽ giận dữ sau một phút.” Khi kim giây hoàn thành
một vòng, đặt đồng hồ xuống và bắt đầu giận dữ. Bạn sẽ không
có khả năng giận dữ được bởi cái thoáng nhìn và suy nghĩ về mọi
cơ hội quá khứ sẽ trở tâm trí bạn trong khoảng sáu mươi giây.
Tất cả những ăn năn quá khứ, tất cả những lời thề bạn đã đưa ra,
tất cả những quyết định của bạn không làm lại điều đó, tất cả
những điều này sẽ xuất hiện phía trước bạn, và bạn sẽ không có
khả năng trở nên giận dữ.
Nhưng chúng ta không chờ đợi khi phạm phải hành vi ác;
chúng ta chỉ đợi trong khi làm hành vi thiện. Một người bạn hôm
nay tới và bầy tỏ ham muốn của anh ấy được điểm đạo thành
sannyas trong ngày sinh của anh ta, khoảng hai hay ba tháng nữa.
Không ai đợi cho tới ngày sinh của mình nếu người đó muốn
giận dữ! Tôi hỏi anh ta, “Có chắc không đấy? Làm sao bạn biết
bạn sẽ ở đâu vào ngày sinh của bạn? Nó thậm chí có thể là ngày
chết của bạn đấy!”

Ngay cả khoảnh khắc tiếp bạn cũng không thể tin cậy được,
nói gì đến thời gian hai hay ba tháng! Chúng ta trì hoãn hành
động tốt, nhưng hành động xấu chúng ta làm ngay lập tức nếu
chúng ta suýt có cơ hội làm nó. Không, trì hoãn cái ác, và làm cái
thiện ngay lập tức. Bạn không thể tin cậy khoảnh khắc tiếp; nó có
thể tới, nó có thể không tới. Nếu bạn bỏ lỡ khoảnh khắc làm việc
thiện, cơ hội này có thể không tới nữa, và nếu bạn đợi - cho dù
một khoảnh khắc - để làm một hành vi ác, tôi bảo bạn, bạn sẽ
không có khả năng làm nó. Một người đủ mạnh mẽ để chờ đợi
một khoảnh khắc sẽ không có khả năng làm một hành vi ác. Chờ
đợi một khoảnh khắc đòi hỏi sức mạnh lớn. Chính sức mạnh lớn
nhất trên thế giới này là chờ đợi một giây khi đôi mắt bắt đầu đỏ
máu và nắm tay bắt đầu siết lại trong giận dữ.
Hiền nhân này đã tạo ra lời kinh này để làm mình thành trò
đùa - để cười vào bản thân mình cũng như vào tất cả chúng ta.
Đủ cho hôm nay.
Cố hiểu một vài điểm về thiền trước khi chúng ta bắt đầu.
Điều thứ nhất là đừng bao giờ trì hoãn nó, thậm chí một giây.
Đừng nghĩ, “Mình sẽ bắt đầu vào ngày mai.” Nó cần phải được
thực hành bây giờ.
Tôi phải nói điều gì đó về những người đang ngồi sau tôi.
Tôi đã yêu cầu họ ngồi; dường như là họ nghĩ họ đã đơn giản
ngồi đó. Khi tôi quay và nhìn, tôi thấy rằng chỉ có tám hay mười
người đang thực hành thiền; số còn lại vẫn đang ngồi không làm
gì. Bạn sẽ không được gì bởi việc ngồi không. Tôi phân vân khi
thấy họ nhiều lúc ngồi không, không làm gì, khi biết bao nhiêu
người xung quanh họ đang toàn bộ trong thiền, hứng khởi bởi nó,
nhảy và múa. Bạn có tảng đá thay vì trái tim không, mà không
cái gì làm bạn chuyển động? Bạn không động đậy chút nào, trong
khi thấy biết bao nhiêu người đang say mê, đang trong cực lạc?
Bạn rất thông minh - bạn kiểm soát cảm giác của mình để cho
chúng không thể bị ảnh hưởng. Xin để cho bản thân bạn hoạt
động! Đừng ngồi ở đây cứng nhắc như tảng đá, nơi mà biết bao
nhiêu người đang nhảy múa với trái tim và tâm trí cởi mở và đã
trở thành hồn nhiên như trẻ con. Để cho cái cứng nhắc của bạn ra
đi; động đậy đi!
Một điểm nữa cần phải nhớ: một số trong các bạn nghĩ,
“Chúng tôi sẽ làm điều đó khi nó trở thành có thể cho chúng tôi.”
Chín mươi phần trăm làm điều đó theo ý riêng của họ, mười phần
trăm không làm. Nhưng bản thân họ sẽ phải phá vỡ rào chắn.
Cho nên tôi bảo bạn, những người nghĩ họ không thể tự mình làm
điều đó nên bắt đầu làm điều đó. Họ sẽ phải nỗ lực chỉ trong đôi
giây; nó sẽ trở thành tự phát từ khoảnh khắc thứ ba. Một khi
dòng suối nước bung ra, thế thì nước bắt đầu chảy ra theo cách tự
nhiên. Bây giờ chỉ còn lại một ngày, cho nên tôi muốn không ai
vẫn còn không bị ảnh hưởng . Tất cả chúng ta cùng tham gia!

**************************************************************************************************************

19 Biến đổi là phép thử

**Hỡi ngọn lửa,
xin dẫn chúng con theo đường đúng.
Hỡi Thượng đế,
người biết tất cả tri thức và hành động,
phá huỷ tội lỗi dối trá của chúng con.
Chúng con cúi lạy ngài vô hạn lần.**

Chúng ta đã thấy lạch và suối chảy từ núi xuống. Chúng ta
biết rằng sông chảy ra đại dương. Nước bao giờ cũng chảy về
mức càng ngày càng thấp hơn trong việc tìm tới mức thấp nhất,
và cuộc hành trình của nó kết thúc trong rãnh. Chảy xuống là con
đường của nó; bản tính của nó là đi xuống mãi. Lửa có bản tính
hoàn toàn đối lập: nó bao giờ cũng đi lên. Đi lên trên là con
đường của nó, ngày càng hướng lên trên trời. Bạn có thể đốt lên
ngọn lửa ở bất kì đâu, bạn có thể giữ nó ở mọi vị trí, bạn có thể
treo ngọn đèn lộn ngược - ngọn lửa của nó sẽ vẫn bắt đầu bốc
lên. Từ thời cổ đại các linh hồn cao hơn, các nhà huyền môn, đã
hiểu rõ ràng về bản tính đi lên, bốc lên của lửa.
Tâm thức có thể tuôn chảy theo hai cách, giống như nước
hoặc giống như lửa. Nói chung, chúng ta chảy như nước, tìm
rãnh thấp hơn. Nếu tâm thức chúng ta gặp cơ hội để trườn xuống,
chúng ta lập tức bỏ đường đi lên. Thông thường chúng ta hành xử
giống như nước; nhưng chúng ta nên hành xử giống như lửa, bỏ
mức thấp ngay khi có một cơ hội nhỏ để bốc lên cao hơn tới
trước chúng ta. Chúng ta nên sẵn sàng lấy dù chỉ cơ hội nhỏ nhất
để giang rộng đôi cánh và bay lên trời.
Với những người tìm kiếm con đường đi lên, với những
người có hi vọng đi vào chiều hướng cao hơn, lửa trở thành lí
tưởng, thành biểu tượng, thành hành vi của họ; điều đó được coi
như thiên thần. Còn có lí do khác tại sao lửa được coi như biểu
tượng và thượng đế. Khi một cá nhân bắt đầu du hành đi lên,
đồng thời người đó bắt đầu cuộc hành trình vào trong. Đây đích
xác là cái đối lập của cuộc hành trình mà đồng thời đi xuống và
đi ra ngoài. Khi nhìn vào nghĩa rộng của chúng, đi ra và đi xuống
là đồng nghĩa; và đi vào và đi lên là đồng nghĩa nưa. Bạn sẽ đi xa
lên cao khi bạn đi vào trong, và bạn sẽ đi xa xuống thấp khi bạn
đi ra ngoài. Hay, bạn đi nhiều ra ngoài khi bạn đi xuống thấp, và

bạn đi nhiều vào trong khi bạn đi lên. Theo quan điểm của sự tồn
tại, lên trên và vào trong có cùng nghĩa.
Giống thế, từ quan điểm của kinh nghiệm, mặc dầu không
theo ngữ nghĩa từ, đi ra và đi xuống có cùng nghĩa. Những người
đã quyết định tiến hành cuộc hành trình đi lên cũng phải tiến
hành cuộc hành trình vào trong nữa, và khi họ đi xa hơn vào
trong, bóng tối bắt đầu giảm đi và ánh sáng tăng lên. Cho nên lửa
trở thành biểu tượng cho cuộc hành trình bên trong.
Cũng có lí do khác tại sao lửa trở thành biểu tượng và bắt
đầu được tôn thờ. Nó có cái đẹp vĩ đại của riêng nó; nó giữ lại cái
thuần khiết và phá huỷ cái không thuần khiết. Nếu vàng được
ném vào trong lửa, các chất không thuần khiết bị thiêu cháy và
phá huỷ, và vàng thuần khiết đưa ra sáng hơn. Điều này được biết
tới như việc thử lửa - việc kiểm tra để phá huỷ cái không thuần
khiết và giữ lại cái thuần khiết. Thử lửa trở thành biểu tượng cho
sự kiện rằng lửa sẽ phá huỷ cái không thuần khiết và sẽ giữ lại và
bảo vệ cái thuần khiết. Đây là phẩm chất tự nhiên của nó. Nó
năng nổ bảo vệ cái thuần khiết và thiêu cháy cái không thuần
khiết.
Có rất nhiều cái không thuần khiết bên trong chúng ta -
nhiều đến mức không dấu vết nào của vàng được thấy, mặc dầu
nó có thể nằm ẩn kín đâu đó bên trong chúng ta. Đôi khi một hiền
nhân nào đó nói về vàng, nhưng chúng ta chỉ biết tới bụi và rác
rưởi bên trong nằm đè lên nó. Linh hồn đã hiểu ra nào đó, người
trí huệ nào đó, bảo chúng ta có vàng, vàng ròng, bên trong chúng
ta, nhưng khi chúng ta đi tìm nó chúng ta không tìm thấy gì ngoài
đá. Cho nên chúng ta phải ném ngay cả vàng vào lửa. Nghĩa của
ăn năn là ném vàng vào lửa. Từ tapa, ăn năn, được xuất phát từ
tapa - lửa. Tapa không chỉ có nghĩa là một người đứng trong
nhiệt của mặt trời mà thực hành ăn năn. Ăn năn nghĩa là người ta
nên trải qua thật nhiều lửa bên trong đến mức tất cả những cái
không thuần khiết đều có thể bị thiêu cháy, bị phá huỷ - và tất cả
những cái thuần khiết có thể còn lại.
Cần phải nhớ trong tâm trí một hay hai điểm khác về lửa để
cho sẽ dễ dàng nhớ dạng thiêng liêng của nó, tính thần thánh của
nó. Sẽ có ích để hiểu lời cầu nguyện của hiền nhân này, “Hỡi
ngọn lửa, xin dẫn con theo con đường đúng,” và nhận ra tại sao
lời cầu nguyện như vậy được dâng lên cho lửa. Bạn đã thấy lửa,
bạn cũng đã thấy nước. Dù nó có thể chìm thấp đến đâu, nước
vẫn còn lại. Chảy xuống từ núi non nó đi vào thung lũng, nhưng
nó không mất đi, nó không tan biến. Lửa bốc lên trời, nhưng tan
biến sau khi bốc lên chỉ một khoảng cách nhỏ.
Nói cho đúng, người làm cuộc hành trình đi lên sẽ tan biến.
Khi người đó đi lên và đi lên mãi người đó tan biến vào mọi
khoảnh khắc; không mấy chốc người đó sẽ mất bản ngã và dừng
hiện hữu. Người đó sẽ là một với bầu trời. Lửa vẫn còn thấy được
trong một khoảng cách ngắn và thế rồi biến mất - mất đi trong
trống rỗng, trong cái không. Nước còn lại, dù nó có thể chảy
xuống thấp đến đâu. Bản ngã chắc chắn sẽ còn dai dẳng trên cuộc
hành trình đi xuống của nó, và nếu nó đi xuống rất thấp nó sẽ
được biến đổi. Khi bản ngã chìm rất thấp nó trở thành cứng rắn,
tựa như đá. Mang điều này trong đầu; bản ngã trở thành mạnh
mẽ, đông cứng, cứng rắn và kết tinh khi bạn đi xuống ngày càng
thấp hơn, và trở thành mỏng, yếu và vô hình khi bạn lên ngày
càng cao hơn. Cứ nhìn ngọn lửa bạn sẽ thấy - trong một thoáng
chốc nó đã đi mất. Nó đã đi đâu?
Khi Phật sắp sửa đi vào giải thoát cuối cùng của mình, ông
ấy nói, “Trong vài giây nữa ta sẽ dừng hiện hữu.”
Thế rồi một ai đó hỏi, “Thế thì thầy sẽ ở đâu, khi thầy không
có đó?”

Phật đáp, “Quan sát chiếc đèn, và hỏi nó ngọn lửa của nó đã
đi đâu, khi biến mất vào trong không khí. Ta cũng sẽ biến mất
theo cách đó trong một thời gian ngắn. Khoảnh khắc đó đã tới khi
ngọn lửa của ta sẽ bị hấp thu vào trong bầu trời bao la.”
Có một bí mật nữa, một bí ẩn nữa, về lửa: nó đốt cháy mọi
thứ và cuối cùng tự phá huỷ bản thân nó nữa. Sau khi tiêu thụ
dầu, lửa không giữ lại bản thân nó. Ngay khi dầu cạn lửa cũng
tắt. Mọi thứ đều cạn kiệt, và cuối cùng không lửa nào là còn lại
sau; nó cũng tan biến. Sẽ là bạo hành nếu nó giữ lại bản thân
mình sau khi đốt cháy mọi thứ khác, nó là tình yêu là khi cái này
biến mất sau khi làm cho cái khác biến mất. Cho nên lửa không
phải là kẻ thù của dầu; nó là bạn, là người yêu của dầu. Nếu nó
không phải là như vậy, chắc chắn nó sẽ giữ lại bản thân nó sau
khi tiêu thụ dầu. Nó không tiêu thụ cái khác để gìn giữ bản thân
nó; đây không phải là bản tính của lửa. Sau khi đốt hết dầu, nó
đốt bản thân nó và trở nên yên tĩnh.
Cũng đáng để ý rằng dầu được gìn giữ dưới dạng tro sau khi
nó đã bị tiêu thụ hết, trong khi lửa không được giữ lại trong bất kì
hình dạng nào. Nó thuần khiết đến độ nó không để lại tro của
riêng nó đằng sau. Trong sự kiện thực tế, tro được tạo thành do
cái không thuần khiết. Lửa đơn giản là sự tồn tại thuần khiết
nhất. Nó không để lại bất kì dấu vết nào đằng sau nó. Chính việc
tìm kiếm rất gay go đối với người tìm kiếm là tìm ra một biểu
tượng lí tưởng về cái bên ngoài cho điều xảy ra bên trong. Biểu
tượng tốt nhất được tìm thấy cho tới nay là lửa. Dù bùng cháy
thường xuyên trong các đền Parsi hay trong các buổi tế lễ tôn
giáo hay trong các buổi tế lửa hay trong các ngọn đèn đền thờ,
lửa cho đến ngày hôm nay vẫn được giữ là biểu tượng tốt nhất,
gần gũi nhất cho điều xảy ra bên trong - những việc xảy ra siêu
việt bên trong. Đây là lí do tại sao người ta coi nó là thượng đế.
Cái gì được coi là thượng đế? Nó không đơn giản cái nào là
điều thiêng liêng, bởi vì mọi thứ và mọi người đều thiêng liêng.
Mọi thứ là thiêng liêng bởi vì mọi thứ đều tới từ điều thiêng
liêng. Nghĩa từ điển của từ devata là người là thiêng liêng, nhưng
mọi người đều thiêng liêng. Một số người biết sự kiện này và
một số người không biết, nhưng cái gì có đấy mà không phải là
thiêng liêng? Tảng đá, cây cối, dòng sông, núi non, bầu trời - tất
cả đều thiêng liêng. Từng nguyên tử là thiêng liêng. Cho nên từ
devata không có nghĩa cái là thiêng liêng. Tại sao một thứ được
mệnh danh là thượng đế theo một nghĩa phụ đặc biệt? Nó có
nghĩa là thế này: nó không chỉ là thiêng liêng, mà nó còn dẫn
người khác tới điều thiêng liêng. Một người biến người khác
thành thiêng liêng, người chỉ ra điều thiêng liêng, người biến
khao khát của chúng ta hướng tới điều thiêng liêng, là thượng đế.
Đó là lí do tại sao hiền nhân này có thể nói thầy là Thượng đế.
Khôg có lí do nào khác ngoài điều này. Nếu người ta được nhắc
nhở bởi việc nhìn lên trời của cái không hình dạng, thế thì bầu
trời là Thượng đế. Nhưng chúng ta có khó khăn trong việc hiểu
điều này.
Những người đọc Veda ngày nay thấy khó hiểu được những
khẳng định của nó rằng bầu trời là Thượng đế, Indra là Thượng
đế, mặt trời là Thượng đế, và vân vân. Họ nghĩ, “Cái gì là tất cả
những cái điên khùng này, tất cả những điều vô nghĩa này?” Khi
những người phương Tây đầu tiên đọc Veda, họ nữa cũng thấy
chúng khó hiểu. Họ nói, “Đây là chủ nghĩa đa thần - một tôn giáo
của nhiều thần. Những người này có khuynh hướng thấy Thượng
đế trong mọi thứ.” Nhưng không, nó không phải là điều đó. Bất
kì cái gì là thượng đế, qua người đó tính thiêng liêng được ghi
nhớ, bởi người đó mà người ta bị ngạc nhiên với tính thiêng
liêng, qua người đó mà dây của chiếc đàn veena của trái tim được
gây ra rung động, qua người đó mà người ta bắt đầu cuộc hành
trình hướng tới điều thiêng liêng.

Nhìn lên trời mà xem. Nếu bạn tiếp tục nhìn trong một chốc,
hình dạng sẽ tan biến và khải lộ của cái vô dạng sẽ bắt đầu. Vậy
bầu trời đang chỉ tới cái vô hình dạng. Thế thì chúng ta sẽ là vô
ơn khi không cám ơn hiện tượng đó, khi nói, “Hỡi Thượng đế,
ngài nhắc nhở con về cái vô hình dạng; con xin cám ơn”?
Cứ nhìn vào lửa - đó là mục đích và ý nghĩa của các cuộc tế
lửa tôn giáo. Bản thân việc cúng dường là không quan trọng lắm
trong tế lửa; điều quan trọng là trở thành một với cuộc hành trình
siêu việt của lửa, qua việc ngồi gần nó. Bạn thấy lửa bập bùng đi
lên, ngọn lửa của nó tan biến trong cái không lớn lao, và nếu vào
khoảnh khắc đó bạn trở thành một với ngọn lửa đó với một tâm
trí tập trung và thiền và làm mất bản thân mình trong cái trống
rỗng đó, thế thì lửa trở thành thượng đế của bạn.
Đó là Thượng đế mà qua ngài bạn nghe thấy điều thiêng
liêng, qua đó bạn có cảm hứng bên trong để đi tới điều thiêng
liêng, qua đó hạt mầm đang ngủ của bạn về điều thiêng liêng bị
đập vỡ mở ra, đưa bạn tới điều thiêng liêng. Đó là lí do tại sao
hiền nhân này nói, “Hỡi Thượng đế, hỡi ngọn lửa, xin dắt con
theo đường đúng. Con không biết con đường. Con thậm chí
không biết rằng cái nào là có nghĩa từ cái cái nào là vô nghĩa.
Con dốt nát. Xin dẫn dắt con.”
Có một điểm ở đây nên được hiểu thật sâu sắc, và nó là thế
này: người xin được dẫn dắt tới đường đúng không đưa ra lời xin
thông thường; nó là phi thường, bởi vì bản thân lời xin là cơ sở
cho sự giúp đỡ mà người ta cần để tiến lên theo đường đúng. Lời
xin này là phi thường bởi vì mọi ý định của chúng ta, mọi đam
mê của chúng ta, mọi ham muốn của chúng ta, đều dẫn chúng ta
tới đường sai - không cần phải cầu nguyện, xin về nó. Tự nhiên
đã cho chúng ta đủ phương tiện về điều đó; bản thân tự nhiên dẫn
chúng ta tới đó. Nếu bạn muốn đi xuống, hạ cấp bản thân mình,
bạn không cần lời cầu nguyện để giúp bạn. Nếu bạn muốn đi tới
bóng tối, tự nhiên đang giúp bạn rồi. Hành động riêng của bạn
dẫn bạn tới con đường đó. Thói quen riêng của bạn và các ấn
tượng quá khứ đang dẫn bạn hướng tới nó. Điều thú vị để chú ý
là không ai đã bao giờ cầu nguyện Thượng đế dẫn người đó tới
con đường bất chính. Tại đây Thượng đế không được cần tới; bản
thân con người đủ mạnh và có năng lực để đi sai đường. Không
cần sự giúp đỡ của Thượng đế trong việc làm như thế. Ngược lại,
con người có năng lực dẫn Thượng đế theo con đường bất chính.
Cái điên khùng là ở chỗ chính con đường bất chính đầy nguy
hiểm, vậy mà không ai cầu nguyện sự giúp đỡ của Thượng đế để
lấy con đường đó. Đáng phải làm như thế này: “Hỡi Thượng đế,
xin giúp con đi theo đường bất chính, vì nó đầy những hiểm
nguy!” Đi trên con đường này là đi vào trong nhiều đau khổ, khổ
sở và điên khùng. Nó là việc mời rắc rối tràn ngập lên chúng ta.
Trong những hoàn cảnh như vậy sự giúp đỡ của Thượng đế nên
được tìm kiếm, nhưng không ai tìm kiếm nó bởi vì mọi người
đều nghĩ mình có đủ khả năng để gặp gỡ với thách thức. Con
người đủ mạnh để đi theo con đường bất chính, nhưng khi câu
hỏi về việc đi theo con đường đúng tới, đột nhiên người đó thấy
mình không có khả năng làm như vậy!
Lí do cho yếu kém của con người là ở chỗ tất cả những ham
muốn và đam mê của người đó kéo người đó đi xuống, và không
có những đam mê như thế do tự nhiên ban cho để nâng người đó
lên. Nếu người đó không làm gì và đứng im, người đó sẽ tự động
trượt xuống, trườn xuống và vấp ngã trong cái dốc của mình. Lực
trọng trường của tự nhiên là đủ để kéo người đó xuống, và với
mọi bước người đó sẽ nghĩ tới việc đi xuống thấp hơn nữa. Toàn
thể lực cuộc sống sẽ thúc đẩy người đó đi xuống ngày một nhiều.
Người đó tưởng tượng có hạnh phúc ở phía dưới, và nếu người
đó gặp bất hạnh trong nỗ lực của mình, người đó biện minh,
“Đấy là vì mình còn chưa đi đủ xa.”

Khi cái gọi là người thật thà gặp tôi họ bảo tôi, “Thầy có
thấy người không thật thà trở nên hạnh phúc thế nào trong thế
giới này không?” Tôi gọi những người như vậy là cái gọi là
người thật thà bởi vì họ không thể còn thật thà lâu được, vì họ
thấy hạnh phúc trong không thật thà. Họ không thể là thật thà từ
chiều sâu trái tim họ, và nếu họ có vẻ thật thà nó là từ sợ hãi. Là
thật thà đòi hỏi dũng cảm và bạo dạn. Họ yếu đuối và hèn nhát;
họ không dám thực hành không thật thà hay phụ bạc. Nhưng
niềm tin của họ rằng kẻ phụ bạc đang trở nên hạnh phúc và thịnh
vượng để lộ ra sự thật - tiếng nói của ham muốn của họ đang
cảnh báo cho họ rằng họ đang phạm sai lầm trong việc là thật thà.
Cũng từ bên trong nữa, tự nhiên thôi thúc bạn đi xuống mãi.
Tại sao? - bởi vì trong khi đi xuống bạn ngày càng trở thành một
phần của tự nhiên. Với cùng dấu hiệu đó, khi bạn vươn lên ngày
càng cao hơn bạn vượt ra ngoài tự nhiên. Thật dễ dàng cho tự
nhiên khuyên nhủ bạn đi xuống thêm nữa bởi vì có nhiều chỗ
nghỉ ngơi ở đó, và nếu bạn trở thành giống như tảng đá có việc
nghỉ ngơi hoàn toàn. “Đi xuống đi, gạt sang bên ý thức của bạn,”
ham muốn và đam mê của bạn nói. “Từ bỏ ý thức; nó là nguyên
nhân cho bất hạnh của bạn, cho nên vẫn còn trong cơn mê đi -
trong vô ý thức.” Đó là lí do tại sao con người uống rượu, say ma
tuý và hàng nghìn thủ đoạn khác như vậy - để cho người đó có
thể đi xuống dễ dàng và vẫn còn dường như trong cơn mê. Có
toàn thể hệ thống các thu xếp để giúp cho bạn đi xuống, nhưng
không có sự giúp đỡ nào để bạn đi lên. Và không có phúc lạc,
không có yên bình, nếu không vươn lên.
Đây là thế tiến thoái lưỡng nan của con người, đây là rối
loạn của con người - cuộc đọ sức mà con người phải tranh đấu,
với đủ mọi loại phương tiện và cách thức để đi xuống nhưng
không có cách nào được vạch ra để giúp cho con người đi lên. Và
không mục đích nào được phục vụ mà không có việc đi lên;
không có cuộc hành trình đi lên không cái gì được đạt tới ngoài
việc lang thang. Trong bất lực như thế, lời cầu nguyện tới từ bên
trong. Khi con người nhận ra bất lực trong hoàn cảnh của mình,
người đó cầu nguyện Thượng đế. Cho nên hiền nhân này cầu
nguyện, “Hỡi Thượng đế, xin dắt con theo con đường đúng.”
Điều này không có nghĩa là một Thượng đế nào đó sẽ đưa
bạn tới con đường đó; loại diễn giải này đã tạo ra nhiều niềm tin
giả. Không Thượng đế nào sẽ giúp bạn đâu. Bản thân bạn sẽ phải
đi tới con đường đó; nhưng lời cầu nguyện này sẽ cho bạn sức
mạnh, sẽ động viên bạn, đi tiếp. Nếu lời cầu nguyện này trở
thành vững chãi và được tập trung trong bạn, nếu nó trở thành
niềm khao khát, tiếng kêu từ mọi thớ thịt trong con người bạn,
nếu nó trở thành bản thân hơi thở của bạn khi kêu lên, “Hỡi
Thượng đế, hỡi ngọn lửa, xin đưa con đến nơi mọi thứ đều tan
biến và chỉ còn lại cái không phải là con, và cái có đó và cái sẽ có
đó khi con không còn!” thế thì lời cầu nguyện sẽ phá vỡ mở tung
một cánh cửa bên trong bạn. Nó sẽ là phương tiện đưa bạn sang
con đường đúng, bởi vì nơi chúng ta mong mỏi sâu sắc để tới,
chúng ta đi. Chính ý nghĩ của chúng ta trở thành hành động của
chúng ta.
Eddington đã viết một câu rất tuyệt diệu, tuyệt diệu hơn nữa
bởi vì nó được viết ra bởi một người như Eddington. Ông ấy là
người được giải thưởng Nobel, và là một trong những nhà khoa
học giỏi nhất của năm mươi năm qua. Trong những ngày cuối
của cuộc đời mình ông ấy đã viết trong hồi kí: “Tôi bắt đầu
nghiên cứu khoa học từ thời thanh niên. Thế rồi tôi nghĩ về thế
giới, vũ trụ, như tuyển tập các vật. Nhưng ngày càng đi sâu hơn
vào công trình nghiên cứu của tôi và kinh nghiệm những bí ẩn
của tự nhiên, tôi đã đi tới nhận ra rằng vũ trụ giống nhiều với ý
nghĩ hơn là vật. Đây là di chúc và lời chứng nhận cuối cùng của
tôi với thế giới.”

Cùng phát biểu như thế là câu đầu tiên của Phật trong Kinh
pháp cú. “Ông sẽ là cái ông nghĩ, cho nên cho cân nhắc và suy
xét đúng đắn cho các ý nghĩ của ông, bởi vì ông không thể đổ
trách nhiệm cho bất kì ai khác về những hành động của ông; điều
ông làm hôm nay là kết quả của điều ông nghĩ hôm qua.” Cái ngu
xuẩn và những khái niệm sai lầm của chúng ta trở thành rắn chắc
và chuyển vào trong hành động. Những suy nghĩ của riêng chúng
ta trở nên cứng rắn và chỉ đạo cuộc sống của ta. Một con sóng
nhỏ của ý nghĩ, đã gợi lên, bắt đầu cuộc hành trình của nó, và nếu
không phải hôm nay, thế thì ngày mai, trở thành một thứ vững
chắc.
Mọi vật thực sự là những suy nghĩ đậm đặc. Điều chúng ta
đang là chính là kết quả của ý nghĩ của chúng ta. Cho nên nếu bất
kì lời cầu nguyện nào trở nên được tập trung đến mức nó làm xúc
động mọi hạt của cuộc sống của bạn, khuấy động trái tim bạn đập
rộn ràng, tác động đến giấc mơ của bạn trong đêm, bao bọc giấc
mơ ban ngày của bạn, thấm vào giấc ngủ của bạn và trở thành sự
ám ảnh cuộc sống của bạn, thế thì lời cầu nguyện được trả lời.
Không Thượng đế nào sẽ tới giúp bạn cả; nhưng lời cầu nguyện
tới điều thiêng liêng, dù chúng ta thấy nó ở bất kì đâu, đều tạo ra
trong chúng ta sự xúc động.
Phân biệt này nên được hiểu cho đúng. Nếu bạn nghĩ, “Cuộc
đời mình bây giờ sẽ là vô tư. Mình đã cầu nguyện Thượng đế,
bây giờ ngài sẽ chăm nom mình,” thế thì bạn lầm. Nhiều người
nghĩ giống thế này. Họ nghĩ, “Chúng con cảm tạ Thượng đế đủ
rồi bởi việc cúng dường lời cầu nguyện; chúng con đã biết ơn
ngài đủ rồi, bây giờ trách nhiệm của ngài là phải chăm nom rằng
lời cầu nguyện của chúng con được đáp ứng.” Và nếu Thượng đế
không đáp ứng họ phàn nàn về ngài và tuyên bố, “Không có
Thượng đế, tất cả là trò bịp bợm.”
Không, lời cầu nguyện không có nghĩa là dịch chuyển trách
nhiệm của chúng ta sang người khác. Lời cầu nguyện là một loại
phương cách để qua nó chúng ta đem sự xúc động vào trong toàn
bộ cuộc đời mình, chúng ta xúc động đến từng hạt của thân thể
mình. Và nhớ lấy, nó là phương cách mà có thể đi vào sâu nhất
trong trái tim và thân thể ta. Nếu bất kì ai trở nên bị hấp thu hoàn
toàn vào trong lời cầu nguyện, với tất cả trái tim người đó, thế thì
mọi hạt của thân thể người đó trở nên tích cực.
Không ý nghĩ nào đi sâu như lời cầu nguyện, không ham
muốn nào đi sâu như lời cầu nguyện, chỉ với điều kiện là người ta
phải có năng lực cầu nguyện thực sự. Không có một ham muốn
nào mà bạn không thể được tự do khỏi nó. Bạn có thể tự do ngay
cả với dục, cái vẫn được coi như ham muốn kéo dài nhất. Bạn
không bị cuốn hút toàn bộ ngay cả trong đó, bạn bị tách rời ngay
cả từ đó. Một phần tâm thức ẩn kín vẫn còn bên ngoài nó. Nhiều
nhất chính thân thể bị cuốn hút vào hoạt động dục; chỉ một phần
rất nhỏ của tâm trí của người bị khuấy động dục đi vào hành
động, nhưng tâm thức và linh hồn vẫn còn tuyệt đối ở ngoài nó.
Bạn không thể toàn bộ trong dục, và đó là lí do cho rắc rối và thất
vọng trong ham muốn dục. Tâm trí đầy dục vọng nói, “Ta sẽ
chìm vào trong nó toàn bộ và sẽ nhận được hoan lạc đầy đủ từ
nó.” Nhưng nó không bao giờ có khả năng chìm một cách toàn
bộ được. Nó bao giờ cũng thấy bản thân nó dường như đã bị
chìm hoàn toàn, nhưng thực ra không có khả năng làm được như
vậy - nó đi tới một giới hạn nào đó và thế rồi quay lại. Ngay khi
nó đạt tới khoảnh khắc chìm thì khoảnh khắc nổ đem nó trở lại.
Lời cầu nguyện là việc xảy ra duy nhất trong đó con người
chìm toàn bộ, trong đó không cái gì bị bỏ ra ngoài. Lời cầu
nguyện trở thành toàn bộ khi không cái gì của người đưa ra lời
cầu nguyện bị bỏ ra ngoài. Trong khi cầu nguyện, nếu bạn không
toàn bộ trong đó thế thì nó trở thành hành động hời hợt. Nó sẽ
không ảnh hưởng tới bạn, bạn sẽ vẫn còn không bị đụng chạm.

Nhưng lời cầu nguyện có thể sâu lắng đến mức - nó trở thành
như thế - người đưa ra nó bị mất đi và chỉ lời cầu nguyện còn lại.
Thế thì, bị mất đi trong luồng cầu nguyện toàn bộ, sự việc xảy ra,
và cuộc hành trình tới con đường đúng bắt đầu. Toàn thể hướng
thay đổi. Mặt quay một trăm tám mươi độ, từ cuộc hành trình đi
xuống thành cuộc hành trình đi lên.
Đây là lí do tại sao các hiền nhân cầu nguyện lửa - nó là hiện
tượng bốc lên, nó đốt cháy những cái không thuần khiết, nó
không có bản ngã, và nó bị hấp thu ngay vào trong bầu trời. Khi
một ai đó là toàn bộ trong lời cầu nguyện, là một với nó, người
đó trở thành ngọn lửa trong đó không có khói. Khói có đó trước
khi ai đó bắt đầu thực sự cầu nguyện. Không có lửa ngay lập tức.
Có rất nhiều khói lúc bắt đầu bởi vì chất đốt của chúng ta rất ướt.
Thực ra, chất đốt ướt vì ham muốn của chúng ta có nhiều. Nó
cũng tựa như là khói cuồn cuộn bốc lên khi chúng ta đốt chất đốt
ướt. Đừng sợ điều này. Người bắt đầu trên cuộc hành trình của
lời cầu nguyện không chứng kiến ngọn lửa lúc đầu; người đó chỉ
thấy khói dầy đặc lúc ban đầu, bởi vì chúng ta có nhiều chất đốt
ướt cùng mình. Đây là lí do tại sao hiền nhân này đã yêu cầu lửa
đốt cháy cả các hành động quá khứ của mình - vì những hành
động này là chất đốt ướt thế.
Khi nào một hành động là khô và khi nào nó là ướt? Hành
động nào có thể được coi là ướt và hành động nào có thể được
coi là khô? Nếu hành động là khô cuộc hành trình đi lên là dễ
dàng, bởi vì hành động khô là chất đốt tốt; và nếu nó ướt cuộc
hành trình đi lên trở thành gay go, bởi vì chất đốt không cháy
nhưng tạo ra nhiều khói. Khi bạn vẫn còn hoàn toàn tách rời khỏi
hành động trong khi làm nó, thế thì hành động là khô. Hành động
đó là ướt nếu bạn vẫn còn bị móc nối với nó trong khi làm nó, và
ngay cả sau khi làm nó. Nếu bạn có thể là nhân chứng trong khi
làm một hành động, thế thì hành động đó trở thành khô. Nếu bạn
không có khả năng là nhân chứng cho hành động trong khi làm
nó, nhưng trở thành người làm của nó, hành động đó sẽ là ướt.
Nếu, trong khi thực hiện một hành động, bạn đầy bản ngã và nói,
“Tôi đang làm điều đó,” thế thì hành động đó trở thành ướt. Nếu
thay vì thế bạn nói, “Thượng đế xui khiến tôi làm điều này, tự
nhiên làm điều đó được làm qua tôi, tôi đơn giản chứng kiến nó,”
và tất nhiên nếu bạn không chỉ nói điều đó mà nhận ra điều đó và
cũng sống theo tinh thần này, thế thì hành động đó trở thành khô.
Và ngọn lửa của cuộc sống của những người có nhiên liệu hành
động khô lập tức nhảy vào trong Brahman - linh hồn vĩnh hằng.
Nhưng những người có chất đốt của hành động ướt gặp khó
khăn.
Hiền nhân này biết rằng với tất cả chúng ta, phần lớn hành
động của chúng ta đều ướt. Cho nên cố làm cho hành động của
bạn thành khô đi, bởi vì một mình lời cầu nguyện, không có hành
động khô, sẽ không đạt được cái gì. Tước bỏ bản ngã của bạn ra
khỏi hành động của quá khứ và không để cho hành động hiện tại
và tương lai của bạn bị gắn với bản ngã. Nhưng bao giờ cũng nhớ
điều này trong tâm trí, rằng không ai sẽ tới để đáp ứng lời cầu
nguyện của bạn đâu; bạn sẽ được biến đổi chỉ bởi lời cầu nguyện
riêng của bạn. Lời cầu nguyện là biến đổi. Biến đổi không đi theo
lời cầu nguyện, nó xảy ra trong bản thân lời cầu nguyện. Cho nên
đừng trông đợi kết quả của nó tới trong tương lai, bởi vì bản thân
lời cầu nguyện là kết quả; và quên nó một cách yên tĩnh sau khi
bạn đã cầu nguyện, bởi vì bản thân nó là kết quả. Việc cầu
nguyện theo tâm hồn đúng là thành tựu lớn. Nhưng chúng ta có
khá niệm sai lầm, trông đợi ai đó khác sẽ đáp ứng lời cầu nguyện
của chúng ta, cứ nghĩ rằng bây giờ chúng ta đã cầu nguyện thì
chúng ta phải đợi kết quả.
Giống như lửa, lời cầu nguyện là một hiện tượng sống mạnh
mẽ. Lời cầu nguyện có ba khía cạnh mà tôi sẽ giải thích cho bạn
để cho bạn có thể hiểu thấu ý nghĩa của chúng một cách đúng
đắn. Khía cạnh thứ nhất là ở chỗ khi bạn đưa ra lời cầu nguyện

bạn đang nói lời chia tay với bản ngã của bạn; không thể có lời
cầu nguyện nếu bản ngã vẫn còn. Khi hiền nhân này nói, “Hỡi
ngọn lửa, hỡi Thượng đế, xin chỉ cho con con đường đúng, con
không biết gì,” ông ấy đã nói lời vĩnh biệt với bản ngã mình. Lời
cầu nguyện là sự chấp nhận toàn bộ về tính khiêm tốn của chúng
ta. Bạn không thể đưa ra lời cầu nguyện chừng nào bạn còn chưa
trở thành cái không.
Cho nên điểm đầu tiên là ở chỗ việc đưa ra lời cầu nguyện là
chứng tỏ việc chấp nhận của chúng ta về tính khiêm tốn, sự bất
lực hoàn toàn của chúng ta. “Tôi tuyên bố rằng tôi không thể làm
được bất kì cái gì. Tôi thừa nhận rằng bất kì cái gì tôi làm chỉ
đem tôi đi xuống, bất kì cái gì tôi đã làm chỉ làm cho tôi thêm
vướng mắc và bối rối. Hành động của tôi đã trở thành địa ngục
cho mình. Vướng mắc của hành động của tôi đã trở thành gánh
nặng, một hòn đá đè trĩu lên ngực tôi. Tôi không thể chịu đựng
lâu hơn nữa. Bây giờ tôi cầu nguyện, ‘Hỡi Thượng đế, bây giờ
ngài là người làm, bây giờ xin dẫn dắt con đi.’” Để tôi nhắc :
điều này không có nghĩa là Thượng đế sẽ dẫn dắt bạn - chính lời
cầu nguyện này sẽ dẫn dắt bạn. Nếu nó được làm với toàn bộ trái
tim, với chân thành hoàn toàn, và nếu có tính vô ngã toàn bộ, thế
thì nó chắc chắc sẽ dẫn dắt bạn.
Cho nên lời kinh đầu tiên là : Không bản ngã.
Lời kinh thứ hai: Chúng ta phụ thuộc quá nhiều vào bản thân
mình.
Một lần một người tới gặp thánh Eckhart và nói, “Tôi là một
người tự thành đạt.”
Eckhart nghe anh ta, nhìn lên trời với hai tay khoanh lại, và
nói, “Hỡi Thượng đế, ngài được tự do khỏi nhiều trách nhiệm rồi.
Cũng tốt là người này tự thành đạt, bởi vì con tự hỏi ngài xoay xở
thế nào để chăm nom mọi kiểu người khác nhau mà ngài đang
tạo ra.” Thế rồi, nhìn vào người này, ông nói, “Vì anh là người
tự thành đạt, nên anh phải biết ơn Thượng đế lắm. Ít nhất Thượng
đế được cứu khỏi phạm tội là có trách nhiệm cho anh.”
Chúng ta có tin tưởng lớn vào bản thân mình. Phần lớn trong
chúng ta nghĩ chúng ta tự thành đạt. Điều này giống như tin rằng
chúng ta là bố của riêng mình. Mọi người đều nghĩ giống thế này.
Tất cả hành vi của chúng ta phô bầy ra để chứng minh rằng
chúng ta là bố của riêng mình. Người nghĩ rằng mình là bố của
bản thân mình cố gắng kéo mình lên bằng dây giầy của riêng
mình. Tất cả chúng ta đều hành xử theo cách này, và trong khi
làm như thế chúng ta chỉ làm mình kiệt sức, làm đứt dây giầy và
làm mình bị thương.
Không ai có khả năng nâng bản thân mình lên. Từ bỏ phụ
thuộc vào bản thân mình là cầu nguyện. Cho nên từ bỏ niềm tin
vô ích rằng, “Ta sẽ tự nâng mình lên.” Từ bỏ tự tin rằng, “Ta sẽ
làm theo cách riêng của mình và tự mình đạt tới đích của cuộc
hành trình của mình.” Tôi nhắc lại, bạn sẽ phải làm cuộc hành
trình này, không ai khác có thể làm điều đó thay cho bạn được.
Nhưng cuộc hành trình chỉ bắt đầu khi việc tự tin này bị loại bỏ.
Cái gọi là tự tin này là cản trở. Ngay khi nó bị từ bỏ năng lượng
của bạn được giải thoát và trở thành được cúng dường cho
Thượng đế. Bản thân bạn trở thành thượng đế. Không có ngọn
lửa nào khác sẽ dẫn bạn; chỉ ngọn lửa bên trong bạn là có khả
năng làm điều đó.
Bạn có đủ điều thiêng liêng trong mình để bắt đầu cuộc hành
trình, nhưng điều thiêng liêng đó sẽ bị làm chật hẹp tới mức bạn
có bản ngã. Bản ngã sẽ không có khả năng tìm ra cách của nó, nó
sẽ tìm ra cánh cửa khép kín. Mặc cho những cố gắng cực kì lớn
mà điều thiêng liêng vẫn không có khả năng cất lên, bởi vì bản
ngã tựa như một hòn đá bao quanh cổ bạn sẽ nhấn bạn chết chìm

trong dòng sông. Nhưng từ bỏ tự tin đặt sai chỗ này vào bản thân
bạn đi và bạn sẽ có khả năng đi qua sông.
Bạn đã bao giờ quan sát một việc xảy ra tuyệt diệu có ở
trong sông chưa?... Nhưng chúng ta không quan sát, chúng ta mù.
Người sống bị chìm, nhưng xác chết biết bí mật nào đó của việc
bơi, của việc nổi trên nước, của việc không bị chìm, mà người
sống không biết. Không dòng sông nào, ngay cả không đại dương
lớn nào, có thể nhấn chìm một xác chết; nó lập tức nổi lên mặt
nước. Bí mật là gì? Xác chết không biết gì, nó đơn giản là một
xác chết, và đó là bí mật. Nếu người sống hành xử như xác chết,
thế thì việc chìm là không thể có được - bạn nổi. Không Thượng
đế nào giúp bạn nổi cả, bạn đơn giản trở thành vô trọng lượng.
Bạn trở thành nhẹ ngay khi bạn tảng đá bản ngã của bạn bị loại
bỏ. Thế thì, cho dù ai đó cố gắng nhấn chìm bạn xuống, làm sao
người đó có thể làm được điều đó? Chúng ta bị chìm bởi cái ta
riêng của chúng ta. Tự tin vào bản thân mình nhấn chìm chúng ta.
Níu bám lấy bản ngã nhấn chìm chúng ta. Ý nghĩ, “Ta sẽ làm mọi
thứ,” đẩy chúng ta vào cuộc hành trình tới địa ngục.
Đó là lí do tại sao những lời cầu nguyện này là tuyệt diệu
thế. Nhớ trong tâm trí, tôi có khó khăn của riêng mình khi tôi nói
lời cầu nguyện của hiền nhân này là tuyệt diệu, bởi vì tôi không
coi những lời cầu nguyện mà bạn tiến hành ở nhà bạn là tuyệt
diệu, ngay cả những lời bạn bắt đầu cầu nguyện sau khi đọc xong
Ishavanya. Chúng tuyệt đối hư huyễn. Ngồi trước ngọn lửa tế để
ném vào lửa những đồ cúng dường và tụng những bài ca tôn giáo
- tất cả những điều này là vô nghĩa nếu không có biến đổi gì
trong bạn.
Biến đổi là phép kiểm tra thực sự.
Nếu một người thực hiện các tế lễ tôn giáo trong bốn mươi
năm, trong cả đời mình, và không có biến đổi gì trong người đó,
thế thì thực ra không tế lễ nào đã được thực hiện . Nếu một người
tới thăm ngôi đền hay tu viện hàng ngày và vẫn không có biến
đổi gì trong người đó, người đó vẫn ở chỗ người đó ở - thế thì
người đó chưa bao giờ vào đền thờ hay tu viện nào. Đền đài có
thể bị hư hại chút ít bởi việc viếng thăm của người đó, nhưng
không hư hại nào được làm cho anh ta, không biến đổi nào đã
xảy ra trong anh ta. Người đó vẫn ở chỗ người đó ở. Đền thờ có
thể sợ người đó, cứ nghĩ, “Người này đã gây rắc rối cho ta trong
suốt bốn mươi năm qua, nhưng bản thân người đó không bị rắc
rối chút nào.” Không, đấy không phải là lời cầu nguyện chút nào.
Việc viếng thăm đó tới ngôi đền chỉ là một cử chỉ.
Tôi thấy lời cầu nguyện của hiền nhân này tràn đầy ý nghĩa.
Nó rất khiêm tốn, rất hồn nhiên, rất tự nhiên: ‘Hỡi ngọn lửa, xin
dẫn dắt con theo đường đúng, bởi vì con không biết gì về nó, con
dốt nát.” Nếu bạn có thể nói với tất cả sự chân thành, “Hỡi bầu
trời, xin dẫn dắt con tới cái vô dạng, bởi vì con không biết gì
cả,” bất thần bạn sẽ thấy rằng con đường mở ra cho bạn. Con
đường của tri thức mở ra cho bất kì ai nói, “Tôi không biết.”
Người như thế đã bước bước đầu tiên hướng tới tri thức thực.
Còn người nói, “Tôi biết, tôi là người có học,” bít kín nốt ngay cả
vài cái lỗ mà có thể cho phép người đó đi vào trong ngôi đền bên
trong.
Lời cầu nguyện là sự chấp nhận không chỉ cái dốt nát mà cả
sự bất lực nữa. Không bến, không thuyền nào được thấy, chỉ đại
dương vô biên là thấy được, và chiều sâu của nó là không thể dò
được. Lòng dũng cảm của chúng ta làm chúng ta thất bại. Chúng
ta nhắm mắt và tưởng tượng, cứ nghĩ mình đang trên thuyền,
nhưng thực sự mọi thuyền đều là thuyền giấy. Đấy là hoàn cảnh
của chúng ta - tuyệt đối bất lực.
Trong lời cầu nguyện đúng đắn có sự chấp nhận về cái bất
lực cũng như cái dốt nát. Và người tuyên bố, “Tôi bất lực,” tìm
thấy phương thuốc, giải pháp. Chính tuyên bố này về cái bất lực

là giải pháp. Chấp nhận toàn bộ này về cái bất lực bản thân nó là
giúp đỡ lớn nhất và duy nhất của chúng ta. Người buông xuôi
bản thân mình gặp Thượng đế. Người nói, “Từ giờ trở đi con sẽ
bước nếu ngài bảo con bước, con sẽ vươn dậy nếu ngài nâng con
lên, con sẽ đi theo ngài tới bất kì đâu ngài đi” - người này thấy
những cánh cửa của mình mở ra bên trong, bởi vì người đó đã
liên lạc với cái vô hạn một cách hồn nhiên thế và với buông xuôi
không điều kiện đến mức người đó thấy bản thân mình trước
Thượng đế.
Những lời cầu nguyện này là chìa khoá để mở cánh cửa.
Những lời cầu nguyện ngắn ngủi này là rất sâu sắc trong nghĩa và
mang chúng ta đi rất xa. Giữ những lời cầu nguyện này trong tâm
trí trong khi thực hiện công việc thường lệ hàng ngày của bạn, và
bất kì khi nào bạn có cơ hội, tự nhắc bản thân mình, “Con không
biết gì cả, con bất lực. Hỡi Thượng đế, xin dẫn dắt con.” Lần nữa
tôi nhấn mạnh sự kiện là không ai khác sẽ tới để dẫn dắt bạn đến
con đường đúng. Bản thân lời cầu nguyện này sẽ đưa bạn đi. Vậu
trong việc cầu nguyện, bạn sẽ có khả năng tự dẫn dắt mình. Lời
cầu nguyện là quyền năng, quyền năng rất lớn.
Có năng lượng cực lớn ẩn trong một nguyên tử nhỏ, nhưng
năng lượng ẩn kín trong những lời cầu nguyện nhỏ này là nhiều
lần mạnh hơn năng lượng trong vô số nguyên tử. Cầu nguyện và
xem; thử nó đi! Kết quả là tức khắc. Bạn sẽ nhẹ nhàng không mất
thời gian nào. Bạn sẽ phát triển cánh và sẵn sàng bay cao.
Gánh nặng tan biến khi bản ngã nặng trĩu của chúng ta rơi
rụng đi. Nhưng chúng ta láu cá đến mức chúng ta thậm chí chất
đầy lời cầu nguyện bằng bản ngã của mình. Nhìn người đang ra
khỏi ngôi đền sau khi đưa ra lời cầu nguyện. Người đó nhìn
quanh đầy vẻ tự mãn, dường như để công bố cho các tội nhân
khắp xung quanh người đó về lòng mộ đạo riêng của mình khi đã
đưa ra lời cầu nguyện trong ngôi đền.
Có lần Mohammed yêu cầu một thanh niên đi cùng ông ấy
để cầu nguyện. Chàng thanh niên không thể thoái thác điều đó,
bởi vì Mohammed đã yêu cầu người đó - cũng hệt như bạn không
thể tránh được điều gì đó nếu tôi yêu cầu bạn làm việc đó! Vào
buổi sáng người đó tới với Mohammed. Mohammed đứng đó và
cầu nguyện, và chàng thanh niên này cũng đứng và bắt đầu lẩm
bẩm điều gì đó. Anh ta chỉ có thể lẩm bẩm thôi.
Mohammed trở nên rất không thoải mái và nghĩ, “Ta đã sai
lầm mà đem cậu này tới đây.” Nhưng bây giờ không có cách nào
thoát khỏi điều đó. Sau khi cầu nguyện, họ ra đi. Lúc đó là buổi
sáng và mọi người vẫn còn trên giường.
Chàng thanh niên nói với Mohammed, “Thưa ngài, điều gì sẽ
xảy ra cho những người này? Mặc dầu bây giờ là lúc cầu nguyện
thế mà họ vẫn đang trên giường. Ngài nghĩ gì về họ? Họ sẽ phải
xuống địa ngục chứ?”
Mohammed đáp, “Ta không biết họ sẽ đi đâu, nhưng ta sẽ
phải quay lại nhà thờ.”
Người này hỏi, “Điều gì đã xảy ra cho ngài?”
Mohammed nói, “Lời cầu nguyện đầu tiên của ta đã trở
thành vô dụng - ta đã làm hại cậu. Trước khi đưa ra lời cầu
nguyện sáng nay ít nhất cậu cũng nên khiêm tốn; cậu đừng coi
những người đó là tội lỗi. Đây là một cái hại nữa đã được làm. Ta
xin lỗi, và đừng tới nhà thờ lần nữa. Bây giờ ta phải quay lại để
cầu nguyện, bởi vì bây giờ lời cầu nguyện thứ nhất của ta là vô
dụng. Ta đã làm hại cậu bởi việc mang cậu tới nhà thờ bởi vì bây
giờ cậu đã trở nên nhiều bản ngã và vô ích hơn. Bản ngã phải bị
phá tan bởi lời cầu nguyện, nhưng bản ngã của cậu đã trở nên
mạnh hơn!”

Bạn đã bao giờ thấy một người tự mãn bước đi với dấu hiệu
mầu vàng nghệ và quai dép dán trên trán chưa? Ông ta hành xử
cứ như Thượng đế đã trao cho ông ta giấy phép đặc biệt. Những
người như thế nghĩ họ là họ hàng của Thượng đế, gia đình của
Thượng đế, người được chọn của Thượng đế. Bây giờ họ sẽ
không còn bằng lòng chừng nào họ còn chưa kết án toàn thế giới
xuống địa ngục. Con người phải được xem như một con vật rất kì
lạ khi con người có thể trở thành đầy bản ngã ngay cả qua lời cầu
nguyện. Không có giới hạn nào cho sự xảo trá của con người.
Phẩm chất tinh tuý của lời cầu nguyện là việc buông bỏ, cái
chết của bản ngã. Một người tôn giáo thực sự thậm chí không thể
nói, “Tôi là người tôn giáo.” Người đó nhận biết về cái bất chính
của mình đến mức người đó thay vì thế sẽ nói, “Ai là người phi
tôn giáo hơn tôi?” Người đó sẽ không có khả năng công bố bản
thân mình là người đức hạnh bởi vì người đó sẽ thấy một vệt tội
lỗi trong đức hạnh; người đó sẽ thấy bản ngã đang nói như thế.
Do đó hiền nhân này nói, “Tôi không biết tôi đã phạm phải bao
nhiêu tội lỗi làm đè năng tôi trong tiến bộ của mình. Tôi hoàn
toàn không phù hợp, tôi không thể đòi quyền để đạt tới mục đích.
Tôi đơn giản có thể cầu nguyện.”
Cho nên nhớ lời kinh này nữa, rằng lời cầu nguyện không
phải là lời tuyên bố. Nó không phải là việc công bố về quyền
được phép mà là sự chấp nhận việc không phù hợp. Nếu bạn cảm
thấy một chút rằng, “Tôi là người đòi hỏi chân chính,” thế thì lời
cầu nguyện của bạn trở thành bị ô nhiễm và đầu độc. Người đưa
ra lời cầu nguyện tìm thấy cái gì đó khi người đó cầu nguyện,
“Hỡi Thượng đế, đấy là ân huệ của ngài, con không xứng đáng
với nó.” Do đó mọi người nghĩ ra từ ‘ân huệ của Thượng đế’. Đó
là ân huệ thiêng liêng. Họ nói, “Khi nào chúng tôi phù hợp? Thật
khó để tìm ra người không phù hợp hơn chúng tôi.”
Và vậy mà tôi nhắc lại, bạn đạt tới thông qua sự phù hợp của
bạn - và không phải thông qua cái không phù hợp của bạn.
Nhưng nhận biết về cái không phù hợp của bạn là lời cầu nguyện
phù hợp. Nhận biết về việc là cái không là tuyên bố về lời cầu
nguyện. Việc tuyên bố cái không là bản chất của lời cầu nguyện.
Lời cầu nguyện ban cho kết quả, nhưng nếu nó không đến chúng
ta sẽ nói, “Chúng tôi không phù hợp để nhận nó”; nếu nó tới
chúng ta nói, “Đấy là ân huệ của ngài.” Vậy mà nó không được
đạt tới được bằng ân huệ của ngài bởi vì ngài là ân huệ bình đẳng
cho tất cả! Nếu nó được đạt tới bởi ân huệ của ngài, điều đó có
nghĩa là thói gia đình trị cũng đang tràn ngập ở đây.
Một người đi tới một ngôi đền, rung chuông và cầu nguyện,
“Hỡi Thượng đế, ngài là người làm thuần khiết tội lỗi, ngài là
đấng toàn năng,” với chủ định rằng Thượng đế sẽ được hài lòng
và sẽ hoàn thành ham muốn của người đó. Điều này cũng hệt như
một người có được cái mình ham muốn bằng việc cầu nguyện
trước vua và làm hài lòng vua. Đó là lí do tại sao mọi lời cầu
nguyện của chúng ta đều là lời nói theo ngôn ngữ triều đình. Lời
cầu nguyện hoàng gia như vậy tất cả đều là tâng bốc. Từ khác
cho tâng bốc trong tiếng Phạn là stuti - cầu nguyện!
Không, bạn không phải nói, “Thượng đế vĩ đại.” Đấy chỉ là
tâng bốc. “Con là cái không” - câu này là đủ. Không phải: “Ngài
vĩ đại. Làm sao con - một người khiêm tốn - có thể đề nghị về
tính vĩ đại của ngài được? Bao nhiêu sự vĩ đại có đó trong việc
dùng từ vĩ đại của con? Làm sao con có thể đo được ngài? Làm
sao con có thể tính toán được sự vĩ đại của ngài? Không, con
không có tiêu chuẩn nào để đo được cái vĩ đại của ngài. Đo sự
khiêm tốn riêng của con là đủ. Thế là đủ nếu con có khả năng nói
trong lời cầu nguyện của con, ‘Con là cái không.’”
Tôi muốn bảo bạn lần nữa rằng cái không, cái thu được do
ân huệ của ngài, và vậy mà khi ai đó đạt tới, người đó biết nó là

ân huệ của Thượng đế. Bất kì khi nào ai đó đã đạt tới điều tối
thượng người đó đã nhảy múa trong cực lạc và tuyên bố một cách
chân thành nhất trước thế giới rằng mình đã đạt tới qua ân huệ
của Thượng đế. Và vậy mà không ai đạt được bất kì cái gì qua ân
huệ của ngài, bởi vì bạn chỉ có thể biểu lộ ân huệ và đặc ân nếu
bạn cũng có thể biểu lộ sự ghét bỏ. Nhưng ân huệ của ngài là liên
miên, nó liên tục mưa xuống.
Phật hay nói, “Nước cam lồ đang mưa xuống, nhưng một số
người để bình đựng nước chổng ngược lên.” Không phải là nước
cam lồ sẽ bắt đầu mưa xuống vào ngày bạn lật bình đựng nước
thẳng dậy. Nó vẫn mưa ngay cả khi bạn để bình úp xuống, nó vẫn
rót ra ngay cả khi không có bình đựng nước chút nào. Sẽ không
có ân huệ đặc biệt rót vào bình của bạn khi bạn giữ bình thẳng
đứng. Nước cam lồ liên tục mưa xuống: biểu lộ ân huệ là bản
tính của ngài - nước cam lồ của sự tồn tại là bản tính của ngài.
Nó vẫn liên tục mưa xuống, nhưng chúng ta đã để thùng
chứa của mình lộn ngược xuống. Bản ngã giữ thùng chứa lộn
ngược và đồng thời cố gắng làm đầy nó. Giữ cho thùng chứa
đứng thẳng dậy nghĩa là thừa nhận, “tôi là cái không.” Khi thùng
chứa được dựng thẳng cái trống rỗng của nó trở thành biểu lộ. Nó
có thể biểu lộ cái gì khác được? Khi nó lộn ngược, cái trống rỗng
của nó bị giấu giếm. Một thùng chứa để lộn ngược tạo ra một ảo
tưởng của việc tràn đầy, vì cái trống rỗng không được thấy, nó bị
kìm nén. Đó là lí do tại sao chúng ta giữ nó lộn ngược. Bằng việc
dựng thẳng dậy, thùng chứa đi tới biết rằng nó không là gì ngoài
cái trống rỗng. Có một chỗ mở mà có thể được rót đầy bằng cái
gì đó.
Cái thùng chứa của con người quay thẳng lên khi người đó
biết rằng người đó là cái không, và khi người đó giữ cho nó thẳng
lên thì người đó đi vào lời cầu nguyện. Ân huệ của Thượng đế
đang mưa xuống và nó sẽ trút đầy bình chứa của người đó, và khi
nó đầy người này sẽ nói, “Đấy là ân huệ của ngài.”
Nếu bạn không giữ cho bình chứa của mình thẳng lên, ngài
không thể bầy tỏ ân huệ được. Chính là bởi ân huệ của bạn mà
bạn giữ cho nó thẳng lên. Bầy tỏ ân huệ với bản thân mình là lời
cầu nguyện. Có từ bi với bản thân mình là lời cầu nguyện. Độc ác
với bản thân mình là bản ngã. Thành bạo chúa với bản thân mình
là bản ngã. Thành bạo hành chống lại bản thân mình là bản ngã.
Đây là đủ cho sáng nay. Bây giờ chúng ta giải tán. Và xin
giữ thùng chứa của các bạn thẳng lên.

************************************************************************************************************

20
Sự tồn tại là một

**Om.
Cái đó là hoàn hảo và cái này cũng là hoàn hảo.
Vì chỉ cái hoàn hảo được sinh ra từ cái hoàn hảo;
và khi cái hoàn hảo
được lấy đi từ cái hoàn hảo,
chú ý, cái còn lại là hoàn hảo.
Om. An bình, an bình, an bình**

Đấy là luật vĩnh hằng của sự tồn tại, rằng cái kết thúc là
được tìm thấy ở cái bắt đầu. Kết thúc là nơi bắt đầu có. Theo luật
vĩnh hằng này, Ishavanya kết thúc ở lời kinh mà nó bắt đầu.
Không có cách nào khác ngoài điều này. Mọi cuộc hành trình đều
là vòng tròn - bước đầu tiên cũng là bước cuối cùng.
Những người đã hiểu luật này - rằng bước đầu tiên cũng là
bước cuối cùng - được cứu khỏi rối loạn vô dụng và xung đột của
các xúc động của tâm trí; họ được cứu khỏi những lo nghĩ và lo
âu vô tích sự của cuộc sống. Chúng ta đạt tới chỗ mà chúng ta đã
bắt đầu. Trạm đầu tiên của cuộc hành trình của chúng ta cũng là
trạm cuối cùng. Do đó chúng ta có thể du hành ở giữa rất vui vẻ,
bởi vì không có cách khác. Chúng ta sẽ không bao giờ tới chỗ mà
chúng ta không có. Dù chúng ta có thể làm nỗ lực lớn đến đâu
cũng không thành vấn đề, chúng ta không thể đạt tới nơi chúng ta
không có.
Chúng ta hiểu điều đó theo cách này: chúng ta chỉ có thể là
cái mà chúng ta đã là. Không có phương án nào khác. Cái được
ẩn kín trong chúng ta sẽ được lộ ra, và cái được lộ ra sẽ lại được
giấu kín. Hạt mầm sẽ mọc thành cây, và cây sẽ lại trở thành hạt
mầm. Đây là luật vĩnh cửu của cuộc sống. Lo âu và lo nghĩ của
những người đã hiểu thấu luật này tiêu tan hoàn toàn. Những đau
đớn tinh thần gấp ba của họ trở thành êm ả và im lặng. Thế thì
không còn lại lí do gì cho hạnh phúc - không có nguyên nhân để
bất hạnh khi chúng ta du hành tới đích của mình, và không có
nguyên nhân để hạnh phúc bởi vì chúng ta không thu được cái gì
chút nào, cái không có cùng chúng ta từ lúc bắt đầu. Để nêu ra
một chỉ dẫn, một hướng dẫn, về luật vĩ đại này, Ishavanya kết
thúc với lời kinh mà nó bắt đầu.
Cuộc hành trình mà chúng ta đã tiến hành ở giữa hai đầu này
là những cánh cửa tách bạch khác nhau để làm cho chúng ta có
khả năng hiểu được lời kinh này, để đi tới lời kinh này. Mỗi lời

kinh đều là một hướng dẫn để khuấy động việc nhớ lại của chúng
ta về đại dương vĩ đại đó, và mỗi bến bờ và mỗi nơi thiêng liêng
là một lời mời, một lời gọi, để con thuyền ta giương buồm lên.
Nếu bạn giữ lời kinh này trong tâm trí, bạn có thể đã quan sát
rằng lời kinh này được ẩn kín sâu trong nghĩa của mọi lời kinh.
Đó là lí do tại sao nó đã được công bố ngay từ đầu và bây giờ
công bố vào lúc cuối. Tôi đã nói với bạn ý nghĩa của nó từ ngay
ngày đầu tiên. Hôm nay tôi sẽ giải thích ý nghĩa bên trong của nó
- cái bản chất của nó.
Bạn có thể hỏi, “Cái gì là khác biệt giữa nghĩa và điều bản
chất?” Nghĩa là dáng vẻ bên ngoài, dạng biểu hiện, một vật, trong
khi bản chất là thứ giấu kín. Nghĩa là thân thể bên ngoài, bản chất
là linh hồn bên trong. Nghĩa cũng có thể được hiểu bởi trí tuệ,
nhưng bản chất chỉ có thể được hiểu thấu bởi trái tim. Nói chung,
nghĩa được giải thích lúc bắt đầu và không phải là bản chất. Còn
bây giờ, tại giai đoạn này, chúng ta đã nhìn qua nhiều cánh cửa
vào trong ngôi đền mà với nó lời kinh này được ngụ ý. Không chỉ
chúng ta đã đi tới hiểu nó về mặt trí tuệ, mà chúng ta còn cố gắng
hiều thấu nghĩa của nó bằng việc cũng đi vào trong thiền.
Đây là điều xảy ra duy nhất. Nhiều lời bình luận đã được đưa
ra về Upanishad này, nhưng đây là cơ hội đầu tiên trên trái đất
này khi lời bình luận đã được đi kèm với thiền. Cho nên một tìm
kiếm sâu xa về nghĩa biểu hiện của nó và về nghĩa bên trong của
nó đã được tiến hành đồng thời. Những lời của Upanishad đã
được giải thích trước đây, nhưng đây là cơ hội lần đầu tiên mà
qua đó một nỗ lực tích cực đã được thực hiện để nhảy vào nghĩa
bên trong của nó - linh hồn của nó. Bất kì điều gì tôi đã nói cho
các bạn đều với mục đích làm thành bàn nhảy cho bạn: mục đích
là việc nhảy. Đây là lí do tại sao tôi đi vào trong thiền vào cuối
mỗi lời kinh, để cho bạn có thể kinh nghiệm ý nghĩa của nó bằng
việc lấy cái nhảy vào trong nó.
Cho nên bây giờ tôi có thể nói cho bạn ý nghĩa bên trong của
nó. Bạn còn chưa xem xét nghĩa của những lời này thật đủ;
nhưng bạn đã làm được điều gì đó khác - bạn đã đạt tới im lặng,
bình thản. Những người hiểu những lời này đều có khả năng biết
được nghĩa, nhưng chỉ những người biết im lặng là có khả năng
biết nghĩa bên trong của nó, bản chất của nó. Nếu bạn đã đạt tới
dù chỉ chút xíu hương vị của im lặng, bạn sẽ có khả năng hiểu
nghĩa bên trong mà tôi đang định đi vào.
Điều đầu tiên tôi sẽ bảo bạn về nghĩa bên trong của lời kinh
này là ở chỗ nó đã tuyên bố rằng cuộc sống là phi logic. Điều này
không được nói ở bất kì đâu trong bao nhiêu từ của kinh này, chỉ
có hướng dẫn về nó thôi. Bây giờ tôi sẽ nói cho bạn điều không
được nói ra, điều chỉ được hướng dẫn tới. Wittgenstein đã viết
một cuốn sách, Tractacus, mà có lẽ là cuốn sách quan trọng nhất
của thế kỉ này. Trong đó ông ấy đã nói, “Cái không thể được nói
ra phải không được nói ra: nó phải được bỏ lại không nói.” Ông
ấy nói thêm, “Cái không thể được nói ra có thể được chỉ ra.”
Nghĩa của ông ấy là ở chỗ một hướng dẫn, một chỉ dẫn, có thể
được đưa ra cho cái không thể được nói ra. Cái không thể được
nói ra và cái không nên được nói ra là nghĩa bên trong của kinh
này. Điều tôi đang làm bây giờ chỉ là cho bạn một số chỉ dẫn
hướng về nó.
Chỉ dẫn thứ nhất: Cuộc sống là phi lí, cho nên những người
cố gắng tìm kiếm cuộc sống là gì sẽ lang thang quanh cái chết.
Những người như thế không bao giờ có thể phát hiện ra bí mật
của cuộc sống. Làm sao bạn có được chỉ dẫn về cái phi lí từ lời
kinh này? Nó nói, “Cái hoàn hảo được lấy ra từ cái hoàn hảo.”
Điều phi lí đầu tiên là trong câu hỏi, “Làm sao cái hoàn hảo có
thể nổi lên từ cái hoàn hảo?” Vì không có không gian phụ bên
ngoài cái hoàn hảo, cái hoàn hảo có thể đi đâu được?” Purna
nghĩa là tuyệt đối, bên ngoài cái đó không có cái gì khác nữa; nếu
có bất kì cái gì khác, thế thì hoàn hảo sẽ là không hoàn hảo ngần

ấy. Chưa bao giờ có bất kì cái gì bên ngoài cái hoàn hảo, thậm
chí không có cả không gian, cho nên làm sao cái gì có thể đi ra từ
cái hoàn hảo được? Và giả sử nó có đi ra, nó sẽ đi đâu? Không có
lối ra. Nhưng lời kinh này khẳng định rằng cái hoàn hảo được lấy
ra từ cái hoàn hảo.
Không chỉ điều này, nhưng nó thêm cái phi lí nữa: “Sau khi
cái hoàn hảo được lấy ra khỏi cái hoàn hảo, cái còn lại là hoàn
hảo.” Nếu bất kì ai nhìn vào câu này theo quan điểm logic người
đó sẽ tuyên bố đó là phát biểu của người điên. Và nếu ai đó xem
xét nó theo quan điểm toán học, nó sẽ được thấy là không đúng
toàn bộ. Người đó sẽ nghĩ nó được ai đó viết ra, mà người viết
mất trí. Đây sẽ là ý kiến của bất kì ai xem xét nó theo quan điểm
logic hay toán học. Nhưng những người xem xét và suy nghĩ theo
cách này sẽ phạm phải sai lầm mà một thời đã mắc trong vườn.
Một người làm vườn nào đó mời bạn mình tới thăm hoa
hồng đẹp đã ra hoa trong vườn mình. Người bạn là thợ kim hoàn,
và người đó đến đó với một hòn đá thử. Khi thấy hoa hồng người
đó nói với bạn mình, “Tớ không tin phát biểu của cậu đơn giản
bằng việc nhìn hoa hồng. Cậu không thể lừa tớ được, tớ không
phải là trẻ con. Tớ kiểm tra vàng, cho nên việc kiểm tra hoa hồng
chỉ là trò chơi trẻ con. Tớ sẽ kiểm tra chúng.”
Người làm vườn hỏi, “Cậu kiểm tra hoa hồng thế nào?”
Anh bạn trả lời, “Tớ đã mang hòn đá thử đi theo đây.”
Người làm vườn trở nên bồn chồn và nghĩ, “Mình thật sai
lầm thì đi mời thằng cha này!”
Nhưng vào lúc đó anh thợ kim hoàn đã ngắt một đoá hoa và
kiểm tra nó bằng cách cọ xát nó vào viên đá thử. Người đó ném
đoá hoa xuống đất và nói, “Hòn đá thử đã chứng tỏ rằng không
có cái gì trong hoa này cả; nó là giả.”
Hiền nhân của lời kinh này sẽ cảm thấy hệt như người làm
vườn phải đã cảm thấy nếu ai đó cố hiểu lời kinh này theo quan
điểm logic. Hoa không được thử bằng đá thử cho vàng, và nếu ai
đó cố làm như thế, hoa không có lỗi; nó đơn thuần chứng tỏ cái
ngu xuẩn của người này. Về tất cả những lời kinh của Ishavanya,
điều này đặc biệt có hương vị của tự nhận ra. Điều này không thể
được kiểm tra bằng hòn đá thử của logic, và điều được áp dụng
hoàn toàn trong lời kinh này là không nên được thử như thế. Lời
kinh đang bảo chúng ta rằng nó sắp sửa nói một điều gì đó phi lí,
vượt ra ngoài logic, điều không thể xảy ra và vậy mà vẫn xảy ra,
điều không nên xảy ra và vậy mà vẫn cứ xảy ra, điều không có cơ
sở nào cho việc xảy ra của nó, điều không có cách nào được
chứng minh - và vậy mà nó xảy ra, và vậy mà nó hiện hữu!
Cuộc sống là phi lí: phát biểu này có nghĩa gì? Nó có nghĩa
là những người cố gắng tìm ra nghĩa, tìm ra bí mật của cuộc sống
theo quan điểm toán học, logic, công lí, qui ước, quy định và luật
lệ, sẽ vẫn tiếp tục tìm mà không biết gì về nó.
Người thợ kim hoàn đã kiểm tra hoa bằng hòn đá thử. Nếu
bạn lấy đoá hoa đó vào phòng thí nghiệm khoa học và nói, “Đây
là một đoá hoa rất đẹp,” thế thì nhà khoa học nữa sẽ mổ xẻ mọi
phần của nó và nói, “Cái đẹp ở đây đâu rồi?” Ông ấy sẽ trích rút
từng yếu tố một và để rải rác chúng ra. Mỗi hoá chất sẽ được
phân tách và rồi ông ấy sẽ hỏi, “Cái đẹp đâu rồi?” Nó có nhựa
hoa, khoáng chất, hoá chất và tất cả những thứ như thế, nhưng
không có cái đẹp trong đó ở đâu cả. Nếu cái đẹp không được tìm
thấy trong phòng thí nghiệm của nhà khoa học, đấy không phải là
lỗi của hoa; không phải lỗi của nhà khoa học, vì phòng thí
nghiệm của ông ấy không có đó để phát hiện ra cái đẹp. Chiều

hướng mà trong đó cái đẹp có thể được thăm dò và đo đạc là
hoàn toàn khác.
Cho nên những người nghĩ về cuộc sống theo quan điểm
toán học có thể không bao giờ đo được nó, bởi vì cuộc sống về
cơ bản là bí mật. Tất cả tri thức của chúng ta, dù nó có thể lớn
đến đâu, đều dựa trên dốt nát; nó đơn giản hướng dẫn vào cái vẫn
còn được biết tới. Và khi chúng ta đi đến biết ngày càng nhiều
hơn, chúng ta hiểu chiều sâu của cái dốt nát của chúng ta. Chúng
ta không có khả năng bầy tỏ cuộc sống, và nếu chúng ta cố gắng,
chúng ta trở thành ngày càng bị vướng víu.
Tất cả nỗ lực của chúng ta để làm lộ nó ra cũng giống như
những cố gắng trong câu chuyện của Aesop mà tôi đã nghe. Câu
chuyện kể về con rết đang bước đi trên đường. Một con thỏ thấy
nó và rất lấy làm phân vân. Con thỏ có lẽ đã được dạy trong một
trường phái logic. Phân vân của nó là thế này: chân nào trong
một trăm chân của con rết giơ lên trước nhất? Rồi chân nào là
chân thứ hai cất lên? Chân nào thứ ba? vân vân. Làm sao con rết
có thể nhớ được trật tự cho cả trăm chân của nó? Nó sẽ không
vấp ngã khi bước chứ? Điều này chắc chắn là phải bị lẫn lộn.
Con thỏ bảo con rết dừng lại và trả lời câu hỏi của nó. Nó
nói, “Tớ là sinh viên logic và tớ rất phân vân khi ngắm nhìn cậu.
Chúng tớ bước trên bốn chân cho nên dễ dàng nhớ trật tự giơ
từng chân lên khi bước. Nhưng làm sao cậu nhớ được trật tự giơ
cho cả trăm chân thế vậy?
Con rết đáp, “Từ trước tới nay tớ bước đi rất dễ dàng; tớ
chưa bao giờ thấy cần phải nhớ đến trật tự giơ chân, và từ trước
tới nay tớ cũng chưa bao giờ nghĩ đến cách thức đó. Nhưng bây
giờ khi cậu hỏi tớ, tớ sẽ nghĩ về nó và giải quyết vấn đề của cậu.”
Con thỏ ngồi đó nhìn. Con rết cố gắng đưa chân lên nhưng bị
loạng choạng và ngã kềnh. Nó bây giờ gặp khó khăn. Với sự
buồn bã từ trong tim nó nói với con thỏ, “Anh bạn ơi, logic của
cậu làm cho tớ gặp khó khăn lớn rồi. Xin cậu cứ giữ lấy cái logic
cho cậu đi, và đừng hỏi câu hỏi của cậu với bất kì con rết nào
khác mà ngẫu nhiên đi qua cậu trên đường. Chúng tớ sống thoải
mái và hạnh phúc. Chân tớ chưa bao giờ gây khó khăn cho chúng
tớ - chúng chưa bao giờ đặt ra những câu hỏi như thế và chưa bao
giờ tranh luận về nó. Chúng tớ chưa bao giờ nghĩ chân nào phải
nâng lên trước hết rồi chân nào thứ hai. Chúng tớ không biết.
Ngần này là chắc chắn: cho tới nay tớ vẫn có thể bước được. Chỉ
từ bây giờ, vì cậu mà tớ thấy mình gặp khó khăn!”
Thế tiến thoái lưỡng nan của con người là ở chỗ con người
luôn ở trong tình huống khó xử như tình huống của con rết. Con
người không cần con thỏ phải đặt ra câu hỏi; con người tự đặt
câu hỏi cho mình và tạo ra hoài nghi và làm mình lâm vào vướng
víu. Con người tự hỏi mình những câu hỏi và đưa ra câu trả lời
của riêng mình. Câu hỏi dứt khoát là sai, cho nên câu trả lời trở
nên càng không đúng và lạc lối hơn. Mỗi câu trả lời làm nảy sinh
thêm các câu hỏi mới. Câu hỏi và câu trả lời cứ thế nhân lên, một
đống lộn xộn lớn được tạo ra, và con người trở nên ngày càng
khó xử cho tới khi một khoảnh khắc tới, lúc con người phân vân
đến mức không còn biết cái gì là cái gì nữa. Tất cả chúng ta đều
trong trạng huống khó xử này.
Ai đó nói với Thánh Augustine, “Tôi thấy rất bối rối bởi một
câu hỏi, và nếu ông làm ơn trả lời câu hỏi đó cho tôi, điều đó sẽ
làm tâm trí tôi được thảnh thơi. Tôi nghe nói ông là người có
học.”
Thánh Augustine nói, “Anh có thể đã nghe nói về điều đó,
nhưng vì anh nói với ta cho nên ta gặp khó khăn.”

Người này nói, “Ông gặp khó khăn gì vậy? Khó khăn chỉ
dành cho những người dốt nát như tôi thôi chứ.”
Thế rồi Thánh Augustine giải thích, “Ta đang gặp khó khăn
vì lần đầu tiên ta nghe thấy nói rằng ta là người có học, bởi vì
bây giờ ta đang cố gắng tìm ra xem tri thức này là ở đâu trong ta
mà ta tìm không thấy nó. Trong sai lầm, trong dốt nát, ta đã tin
vào điều đó lúc ban đầu. Nhưng bây giờ thật khó để cho ta tin
như vậy. Nhưng thôi được, cho ta biết câu hỏi của anh. Anh đã
tới từ nơi rất xa, cho nên hỏi câu hỏi của anh đi. Cho dù ta không
có khả năng trả lời nó, ít nhất thì anh cũng được nhẹ bớt rằng câu
hỏi đó đã được hỏi. Trong trường hợp ta có khả năng trả lời câu
hỏi của anh, anh có cho rằng câu hỏi là được trả lời đúng bởi ai
đó đưa ra câu trả lời không? Nhưng hỏi câu hỏi của anh đi.”
Người này hỏi, “Thời gian là gì?”
Thánh Augustine nói, “Anh đã hỏi một câu hỏi mà ta sợ anh
có thể hỏi. Có một số câu hỏi nào đó mà chúng ta giả thiết chúng
ta biết câu trả lời, nhưng khi chúng được hỏi ra, chúng ta bị mất
hút vì câu trả lời. Ta dứt khoát biết thời gian là gì, nhưng khi anh
hỏi câu hỏi này ta gặp khó khăn.”
Chừng nào ai đó còn chưa hỏi bạn câu hỏi này, bạn vẫn biết
rất rõ thời gian là gì. Bạn đón tầu hoả đúng giờ, bạn đón xe buýt
đúng giờ, bạn tới văn phòng đúng giờ và trở về nhà đúng giờ.
Cho nên bạn biết rất rõ thời gian là gì. Nhưng ngay khi ai đó hỏi
bạn câu hỏi đó, bạn lại trong khó xử như con rết. Bạn biết ngày
tháng, bạn có đồng hồ, lịch đang treo tường, và vậy mà không ai
có khả năng đưa ra câu trả lời đúng cho câu hỏi đó. Và các câu
trả lời đã được đưa ra đều giống như việc dò dẫm trong bóng tối -
không cái gì được thiết lập .
Nếu ai đó hỏi bạn, “Linh hồn là gì?” bạn không thể trả lời
nổi, vì bạn vẫn không biết, cho dù nó đã cùng với bạn từ ngày
bạn được sinh ra. Không chỉ có điều đó, những người biết đều
nói nó đã có đó từ trước khi bạn được sinh ra. Không có khó
khăn về nó cả chừng nào chưa ai hỏi về nó.
Nếu ai đó hỏi, “Tình yêu là gì?” thế thì cùng khó khăn ấy
nảy sinh. Mọi người đều làm tình, và cho dù họ không làm tình,
họ hành động dường như họ làm. Có biết bao chuyện tình đấy!
Mọi câu chuyện đều là chuyện tình, và chúng là về tình yêu bởi
vì con người vẫn còn chưa có khả năng làm tình thực sự cho nên
người đó lừa dối tâm trí mình bằng việc viết ra chuyện về nó.
Mọi bài thơ đều là thơ tình, và người không có tình yêu trong
cuộc đời mình bắt đầu viết thơ tình. Viết thơ là rất dễ, làm tình là
rất gay go. Thơ có thể được soạn theo các dòng vần điệu, nhưng
tình yêu chỉ có thể được làm ra bằng việc xé bỏ mọi dòng. Thơ
có cách đo và qui tắc của riêng nó, tình yêu hoàn toàn không có
thước đo hay qui tắc. Thơ có thể được học và có thể được soạn.
Nhưng không có cách nào, không thủ đoạn nào để học hay làm
tình yêu. Chúng ta thường xuyên nói về tình yêu, và vậy mà nếu
ai đó hỏi chúng ta, “Tình yêu là gì?” thế là chúng ta gặp khó xử
liền.
G.E. Moore là một nhà tư tưởng vĩ đại, có lẽ là vĩ đại nhất
trong thế kỉ này. Theo suy nghĩ logic của mình, ông ấy đã gây ấn
tượng lớn nhất lên tâm trí con người trong năm mươi năm qua.
Ông ấy đã viết một cuốn sách gọi là Principa Ethica - nguyên lí
về đạo đức. Ông ấy đã rất đau đớn khi viết cuốn sách này, làm
việc cần cù chỉ trên một câu hỏi: Tốt là gì? Và ông ấy đã lao
động vất vả để chuẩn bị công trình bất hủ này mà tôi nghĩ rằng
không người nào khác trong lịch sử loài người có thể đã làm việc
vất vả đến thế về một cuốn sách. Nó đã được chuẩn bị sau nhiều
năm lao động vất vả trong đó từng từ đều được cân nhắc và viết
ra sau rất nhiều suy nghĩ. Nhà logic học của đại học Oxford này,
nhà tư tưởng vĩ đại nhất này, trong kết luận cuối cùng của mình
đã nói rằng tốt là không thể định nghĩa nổi. Đến cuối cùng, ông

ấy nói rằng việc định nghĩa tốt cũng giống như định nghĩa mầu
vàng.
Nếu ai đó hỏi tôi, “Mầu vàng là gì?” tôi sẽ nói gì? Tôi chỉ có
thể nói, “Mầu vàng là mầu vàng.” Tôi có thể nói cái khác?
Nhưng đây có phải là định nghĩa không? Mọi người đều biết rằng
mầu vàng là mầu vàng. Bạn sẽ làm gì? Bạn có thể ngắt một đoá
hoa vàng và đưa nó ra, nói rằng, “Đây là mầu vàng - đây là đoá
hoa mầu vàng.” Nhưng Moore phản đối và nói, “Nó không phải
là mầu vàng.” Nó cũng giống như một bức tường sơn vàng. Bức
tường vàng không phải là mầu vàng. Có một mẩu vải vàng -
nhưng nó là mẩu vải nhuộm vàng, nó không phải là mầu vàng.
Một câu hỏi là, “Cái gì là tính vàng được thấy trong đoá hoa
vàng, bức tường vàng hay mẩu vải vàng?” Bây giờ bạn sẽ nói gì?
Bạn có thể nói, “Nó đây này, đừng lảm nhảm thêm nữa.” Moore
cũng nói điều này. Sau khi tiến hành công trình vất vả đến thế về
chủ đề này, ông ấy nói, “Nhiều nhất chúng ta có thể nói rằng đây
là tính vàng.” Chúng ta có thể cho chỉ dẫn, hướng dẫn mà thôi;
chúng ta không thể đưa ra định nghĩa của nó. Khi mà bạn không
thể định nghĩa được mầu vàng, bạn có dám định nghĩa Thượng
đế không? Nếu ai đó tới Moore và hỏi... nhưng cái ông Moore tội
nghiệp này bây giờ không còn nữa! Nếu ông ấy còn sống, tôi
nghĩ tôi tôi sẽ hỏi ông ấy - hay nếu tôi ngẫu nhiên gặp ông ấy
trong một kiếp khác tôi sẽ hỏi ông ấy, “Thượng đế có thể được
định nghĩa không khi ông thậm chí không có khả năng định nghĩa
được mầu vàng là gì không?”
Ngay cả các sự kiện vô ý nghĩa nhất của cuộc sống cũng
không thể được định nghĩa nổi; cho nên khi tôi nói cuộc sống là
phi lí, tôi ngụ ý nó là không thể định nghĩa được. Bạn có thể sống
cuộc sống, nhưng bạn không thể định nghĩa nó được, và nếu bạn
còn cố gắng định nghĩa nó, bạn sẽ phạm phải cùng sai lầm mà
hiền nhân của lời kinh này đã phạm phải. Ông ấy nói, “Cái hoàn
hảo đến từ cái hoàn hảo và phần còn lại là hoàn hảo.”
Đây là một loại thách đố, kiểu như công án mà thiền sư
Rinzai hay tạo ra. Những thầy này rất thích phát minh ra công án,
vì có thể trao hướng dẫn qua chúng. Khi ai đó tới họ để tìm kiếm
chân lí, họ sẽ nói, “Tìm cái đó về sau đi - ngay bây giờ ta có hơi
chút khó khăn, và anh có muốn giải quyết vấn đề cho ta trước hết
không.”
Người tìm kiếm sẽ hỏi, “Vấn đề của thầy là gì ạ?” Người đã
tới trong việc tìm kiếm chân lí quên mất rằng, “Bản thân mình đã
tới để tìm kiếm chân lí, làm sao mình có thể giải quyết vấn đề
của người khác được?”
Khi Rinzai nói, “Hỏi câu hỏi của anh sau, giải quyết vấn đề
của ta trước đi,” người này lập tức sẽ hỏi, “Vấn đề của thầy là gì
ạ?”
Người tới là một học trò cố gắng thành thầy giáo. Người đó
quên mất người đó đã tới để học. Người đó đáng phải nói, “Tôi
đã tới để học từ thầy. Làm sao tôi có thể giải quyết vấn đề của
thầy được? Bản thân tôi đang trong khó khăn.”
Nhưng Rinzai đã viết, “Ta đã giở thủ đoạn này với cả nghìn
người mà lần nào người ta cũng nói, “Vấn đề của thầy là gì? Xin
nói cho tôi.”
Rinzai đã tạo ra những vấn đề như thế mà không thể được
giải. Trong sự kiện thực tế các vấn đề là ở mức chúng không thể
được giải. Không vấn đề nào sẽ được giải quyết, bởi vì nó không
phải là nhân tạo. Nó mang tính tồn tại, nó có đó trong sự tồn tại.
Nếu nó là nhân tạo chúng ta có thể giải quyết được nó. Câu đố là
nhân tạo cho nên chúng ta có thể giải chúng. Sách số học của trẻ
con có câu hỏi bên trang này và câu trả lời bên trang kia. Không
thủ đoạn nào như thế là có thể có trong cuộc sống. Chúng ta
không thể lật trang cuộc sống để tìm câu trả lời cho một trong

những vấn đề của cuộc sống. Không bản sao của cuộc sống bất kì
ai có thể hữu dụng. Bạn sẽ bắt chước ai? Và bằng cách nào?
Tuyệt đối không có cách nào lật trang cuộc sống và tìm ra câu trả
lời cho vấn đề của bạn. Chỉ có vấn đề, không có câu trả lời nào
cả.
Rinzai giữ một vấn đề đặc biệt sẵn sàng. Ông ấy hay nói,
“Nghe đây, nếu anh giải quyết được vấn đề của ta, ta sẽ giải
quyết vấn đề của anh.” Người hỏi cảm thấy hài lòng là đã có một
người sẽ giải quyết vấn đề cho mình, với điều kiện là người đó
giải quyết vấn đề của người kia trước. Rinzai sẽ nói, “Khó khăn
của ta là ở chỗ ta để quả trứng ngỗng trong một cái bình. Một con
ngỗng con phá vỡ vỏ trứng chui ra và bắt đầu lớn lên. Ta vẫn
nuôi nó qua miệng bình. Bây giờ ta muốn lấy nó ra, nhưng nó đã
lớn nhiều đến mức cổ bình thành quá hẹp với nó; mà ta không
muốn đập vỡ bình vì nó rất giá trị. Bây giờ anh chỉ cho ta cách
giải quyết. Con ngỗng bị mắc vào trong bình, cổ bình quá hẹp nó
không chui ra được. Cho nên đừng nói, ‘Đem nó ra qua miệng
bình.’ Chúng ta đã thử điều đó rồi. Nếu nó vẫn còn ở đó lâu thêm
nữa nó chắc chết - và anh sẽ phải chịu trách nhiệm cho điều đó!”
Khi nghe thấy điều này, phần lớn người hỏi đều trở nên rất
bồn chồn. Họ sẽ nói, “Điều này là không thể được. Thầy đang
định bảo chúng tôi cái gì?” Nhưng trong biến cố này một người
nói, “Tôi sẽ cố gắng, tôi đang nghĩ ra một lối thoát,” thế rồi
Rinzai sẽ nói, “Sang ngay phòng bên và thiền về nó. Đừng mất
nhiều thời gian, vì cuộc sống con ngỗng đang lâm nguy. Thiền
nhanh lên và sâu vào vì con ngỗng có thể chết vào bất kì lúc
nào.” Có một lối ra khác cho cái phòng bên đó, và khi Rinzai mở
cánh cửa sau nửa giờ, ông ấy bao giờ cũng thấy rằng người hỏi
đã chạy mất. Thế rồi Rinzai trở và bảo với bạn bè anh ta, “Cái
bình rỗng, con ngỗng ở ngoài!”
Chỉ một lần ông ấy nhận được đáp lại từ một người, nhưng
người đó không đến để hỏi điều gì từ Rinzai. Một sáng người đó
tới và ngồi gần Rinzai. Rinzai nói, “Anh muốn hỏi ta điều gì
không?”
Người này đáp, “Thầy muốn chỉ cho tôi điều gì chăng? Tôi
không muốn hỏi bất kì điều gì. Nếu ai đó háo hức phô bầy điều gì
đó, để cho người đó phô bầy điều đó!”
Rinzai sửng sốt bởi lời đáp và nghĩ, “Tay này thật nguy
hiểm. Nó hoặc sẽ giết chết con ngỗng hoặc đập vỡ cái bình!”
Nhưng bây giờ không có lối ra nào. Bởi vì điều này đã trở thành
một thực hành khá lâu, Rinzai không thể đừng mà không hỏi
người này về câu đố của mình. Ông ấy nói, “Không, ta không cái
gì để phô bầy cả. Thực ra, bản thân ta đang trong khó khăn.”
Người lạ yêu cầu Rinzai kể lại cho mình khó khăn của ông ấy.
Thế là Rinzai kể cho anh ta. Khi ông ấy vừa kết thúc, người này
đứng dậy, tóm cổ Rinzai. Rinzai phản đối, “Con ngỗng không ở
bên trong ta, nó ở trong cái lọ ấy.”
Nhưng người này nói, “Ta đang đem con ngỗng ra đây,” và
yêu cầu Rinzai nói, “Con ngỗng ở bên ngoài cái lọ!”
Rinzai nói, “Đúng, nó ở ngoài!”
Cuộc sống không phải là câu đố, và những người cố gắng
làm cho nó thành câu đố đều lâm vào khó khăn. Cuộc sống
không phải là vấn đề; những người làm nó thành vấn đề đều phải
tìm kiếm câu trả lời của nó, và mọi câu trả lời chỉ làm cho họ
phân vân nhiều hơn nữa. Cuộc sống là bí ẩn để mở - tuyệt đối để
mở trước mắt bạn và tất cả quanh chúng ta. Nó không bị che giấu
ở đâu cả, nó không bị khuất sau bất kì tấm rèm nào, và vậy mà nó
là một bí ẩn.

Có khác biệt giữa bí ẩn và câu đố. Câu đố có nghĩa là cái
không mở nhưng có thể được mở ra. Bí ẩn nghĩa là cái đã mở và
vẫn còn không mở; cái mà, qua việc mở ra, vẫn còn sâu lắng đến
mức mặc cho các cuộc hành trình vô số kiếp của bạn, bạn sẽ thấy
rằng bao giờ cũng có cái gì đó còn lại để được biết. “Cái toàn thể
đến từ cái toàn thể, và vậy mà cái toàn thể còn lại, và khi cái toàn
thể bị hấp thu vào trong cái toàn thể, nó vẫn còn nhiều như nó
trước đó.” Lời kinh này hướng dẫn vào sự kiện là người đồng ý
với nó có thể đi vào bí ẩn này. Và người không đồng ý với nó,
nói điều ấy là không thể được, sẽ vẫn còn bên ngoài cánh cửa.
Người đó không thể đi vào được. Cuộc sống là bí ẩn; nó nằm
ngoài logic và hợp lí.
Qui tắc của logic do trí tuệ con người lập ra. Chúng không
được viết ở đâu trong tự nhiên. Tự nhiên không hỗ trợ cho các
qui tắc logic. Chúng là nhân tạo và tạm thời, mặc dầu chúng ta
quên mất rằng chúng là thế. Mọi qui tắc của chúng ta đều giống
thế này, giống qui tắc của trò chơi. Chẳng hạn, trong trò chơi cờ
vua, có quân đầu ngựa và quân cờ thấp và vân vân. Có các qui
tắc qui định nước đi của chúng, và người chơi cờ chơi với sự
nghiêm chỉnh lớn. Sự kiện là, người ta dường như không nghiêm
chỉnh trong cuộc sống như họ nghiêm chỉnh khi chơi cờ. Nếu cãi
cọ nảy sinh giữa những người chơi, có khi họ còn đánh lẫn nhau,
kiếm lăm lăm trong tay. Quân cờ tất cả đều làm bằng gỗ, và vậy
mà người chơi quên mất và hành xử như trẻ con. Thực tế thì
không có quân đầu ngựa, quân cờ thấp, quân vua; toàn bộ trò
chơi chỉ là giả vờ.
Mọi qui tắc của logic trong cuộc sống đều giống như qui tắc
của cờ vua - chúng đều là giả. Không có qui tắc nào đã được
cuộc sống hay tự nhiên trao cho. Tất cả đều là việc chúng ta bắt
chúng ta phải theo. Các qui tắc của chúng ta giống như luật giao
thông. Ở Ấn Độ mọi người đi bên trái, ở Mĩ người ta đi bên phải.
Nếu bạn phá luật này hoặc ở Ấn Độ hoặc ở Mĩ, bạn sẽ bị đưa về
đồn cảnh sát. Mọi người rất kì lạ. Nhưng một điều là chắc chắn:
bạn phải lái xe hoặc bên trái hoặc bên phải, bằng không sẽ có hỗn
độn trên đường. Và trong khi lái xe ở bên trái, dần dần chúng ta
bắt đầu nghĩ rằng có một nguyên tắc nền tảng nào đó, tối thượng
nào đó trong nó. Không có cái gì thuộc loại đó. Nó đơn thuần chỉ
là sự thu xếp nhân tạo.
Mọi qui tắc logic của chúng ta đều là phương sách, cần cho
việc điều chỉnh cuộc sống chúng ta; nhưng dần dần chúng ta trở
nên bị mắc bẫy bởi chúng đến mức chúng ta cố gắng áp dụng
chúng cho toàn thể bí ẩn của cuộc sống. Chúng ta cố gắng đảm
bảo rằng cuộc sống của chúng ta tuân theo chúng. Một người trở
nên lập dị khi người đó làm cho cuộc sống của mình phải tuân
theo qui tắc của riêng mình. Đây là đặc trưng chính của người
điên. Tôi gọi một người là lành mạnh khi người đó cư xử với bản
thân mình theo điều bí ẩn của cuộc sống, và tôi gọi một người là
điên khi người đó cố gắng ép buộc các qui tắc của riêng mình lên
cuộc sống của mình. Đó là khi khó khăn đi vào cuộc sống người
đó; và chúng ta đã chất đầy các qui tắc quanh các kiếp sống của
mình.
Sẽ dễ dàng hiểu được lời kinh này nếu chúng ta hiểu một
hoặc hai qui tắc của logic. Một trong những qui tắc cơ bản của
logic là ở chỗ A là A và không thể là B. Như thế cũng được,
tuyệt đối đúng, nhưng không có cái gì trong cuộc sống mà sẽ
không đổi thành cái gì đó khác. Không có gì trong cuộc sống mà
sẽ không đổi thành cái đối lập của nó. Mọi thứ trong cuộc sống
đều là luồng, mọi thứ đều thay đổi. Đêm đổi thành ngày và ngày
đổi thành đêm. Tuổi thơ đổi sang tuổi thanh niên và tuổi thanh
niên đổi sang tuổi già. Sống đổi vào trong chết. Đôi khi chất độc
đổi thành nước cam lồ. Tất cả thuốc đều là chất độc, nhưng
chúng là nước cam lồ cho người ốm. Có tính luồng chảy trong
cuộc sống, nhưng có tính cứng nhắc trong các qui tắc bởi vì
chúng không sống.

Có biết bao nhiêu người ngồi trong phòng này. Giả sử tôi rời
đi, quay trở lại sau một giờ, và tôi trông đợi bạn vẫn cứ ngồi tại
cùng chỗ và trong cùng vị trí khi tôi rời đi; thế thì hoặc tôi là lập
dị hoặc bạn là lập dị. Nếu tôi thấy bạn vẫn là bạn như lúc tôi rời
đi, thế thì bạn hiện hữu! Chắc chắn phải có một thay đổi nào đó,
bằng không xác chết phải đang ngồi đó. Người sống chắc chắn
phải thay đổi vị trí và tư thế.
Một tình huống khó xử khá giống tình huống này đã có thời
xuất hiện trong một thị trấn nào đó. Một nhà logic - và cũng khó
mà nhớ được số những điều khó xử của nhà logic - đến một cửa
hiệu cắt tóc vào sáng sớm để cắt tóc. Ông ấy cắt tóc xong. Tiền
cắt tóc là năm mươi xu, và nhà logic đưa cho ông thợ cắt tóc một
đồng ru pi. Không có tiền trả lại, ông thợ cắt tóc bảo khách hôm
sau quay lại để lấy tiền thừa. “Làm sao mình có thể chắc chắn
được rằng cho tới mai gã này sẽ không đổi lời hứa hay đổi nghề
đây?” nhà logic nghĩ thầm.
Nói chung các nhà logic đều đòi hỏi bằng chứng. Ông ta biện
luận với bản thân mình, “Thế nhỡ gã này đổi nghề vào ngày mai
thì sao? Thế nhỡ gã đóng cửa hàng cắt tóc và mở cửa hàng kẹo
thì sao? Người ta sẽ cười mình nếu mình nói gã này đã cắt tóc
cho mình. Họ sẽ nói, ‘Nhưng ông ấy là người bán kẹo cơ mà!’
Cho nên ta phải nghĩ ra một thủ đoạn nào đó để cho gã không thể
lừa được mình.”
Ông ta nghĩ rất lâu, thế rồi ông ta thấy một con trâu đang
nằm đối diện với cửa hàng cắt tóc. Ông ta nghĩ, “Điều này thật
hoàn hảo! Rất khó để mà di chuyển được con trâu. Nó là con vật
bình thản và điềm tĩnh - giống hệt các qui tắc của logic. Nó nằm
kiên quyết trên đường, phớt lờ mọi qui tắc giao thông. Ông thợ
cắt tóc không bao giờ có thể thuyết phục được nó di chuyển. Làm
sao ông thợ cắt tóc có thể thuyết phục được nó khi mà ngay cả
nhà logic còn không làm được nữa là?”
Ông ta về nhà sau khi đã thiết lập chắc chắn rằng con trâu
vẫn nằm đối diện với cửa hàng cắt tóc này. Hôm sau ông ta trở
và thấy con trâu vẫn nằm đó. Nhìn sang phía đối diện, ông ta thấy
rằng mối phiền luỵ mà ông nghi ngờ đã diễn ra. Phía đối lập con
trâu là cửa hàng kẹo. Ông ta chạy vào, tóm cổ người bán kẹo và
nói, “Ta đã nghi ngờ điều này từ hôm qua rồi, cho nên ta đã nghĩ
ra một kế hoạch để làm thất bại cái mẹo vặt của mi. Thế này thì
quá lắm! Mi đã thay đổi cả nghề nghiệp của mình chỉ để giữ lấy
vài đồng xu!” Nhà logic tội nghiệp không biết rằng con trâu
không tuân theo qui tắc của logic. Nó không phải là con vật cố
định, đứng im; trong đêm nó đã di chuyển và nằm đối diện với
cửa hàng của người bán kẹo.
Các qui tắc của logic là phi cuộc sống. Cuộc sống là luồng
sống động, luồng chảy. Những người coi các qui tắc của logic là
có giá trị và cố gắng sống tương ứng theo chúng đều kết thúc với
việc giữ những thứ chết trong tay họ, nhưng những người thoát
khỏi mạng lưới logic và nhảy vào trong cuộc sống có khả năng
biết tới điều bí ẩn của cuộc sống. Đó là lí do tại sao lời kinh này
nói tới việc phá vỡ mọi mạng lưới logic. Tôi đang nói cho bạn về
điều hướng dẫn, điều chỉ dẫn bên trong lời kinh này, không phải
về câu chữ thực tại của nó. Tôi đã giải thích nghĩa của nó cho bạn
vào ngày đầu tiên. Đây là nghĩa bên trong của nó. Phá vỡ mọi qui
tắc của logic đi, bởi vì nếu bạn tuân theo chúng sẽ khó khăn cho
bạn đi vào cuộc sống.
Plato là một nhà logic rất vĩ đại sống ở Hi lạp hai nghìn năm
trăm năm trước. Ông ấy đáng được gọi là là cha đẻ của logic.

Ông ấy đã có một hàn lâm viện rất nổi tiếng tại đó ông ấy dạy
logic cho sinh viên. Một nhà huyền môn lang thang tên là
Diogenes có lần tới hàn lâm viện này. Ông ấy là một nhà huyền
môn tinh quái và vui đùa; có rất ít người giống ông ấy. Giống
như Mahavira, ông ấy thậm chí đã vứt bỏ quần áo của mình. Khi
ông ấy tới Plato đang dạy trong lớp, giải thích các nguyên lí của
logic. Plato được biết tới trong nước chúng ta như Afalatoon. Do
đó, nếu một ai đó làm phiền nhiễu mọi người với những biện
luận và qui tắc logic, người đó bị chế nhạo bởi cái tên Afalatoon.
Plato là một nhà logic lừng dang đến mức nếu ai đó bắt đầu tranh
luận một cách logic, cho dù trong một làng nhỏ, mọi người đều
sẽ nói, “Ông ta là một Afalatoon lớn,” cho dù người ta không biết
Afalatoon là ai.
Diogenes đã tới hàn lâm viện nơi Plato đang dạy học. Vào
khoảnh khắc đó một sinh viên đứng dậy và yêu cầu Plato định
nghĩa về con người. Plato nói, “Con người là một con vật hai
chân không có lông vũ.” Đứng sau người thầy, Diogenes lắng
nghe, và ông ấy cười to khi nghe thấy định nghĩa này. Plato nhìn
quanh, rồi hỏi ông ta, “Sao ông cười?”
Ông ấy đáp, “Tôi đang định đi tìm câu trả lời cho định nghĩa
này.” Ông ấy đi ra ngoài, bắt lấy một con gà, con gà trống, nhổ
hết lông. Ông ấy đem con gà trống vào lớp và nói, “Đây là định
nghĩa của ông về con người. Nó không có lông vũ, và có hai
chân.” Thế rồi ông ấy yêu cầu Plato đưa ra một định nghĩa khác,
“Và khi ông nêu ra định nghĩa, xin cho tôi biết, và tôi sẽ đem
cho ông câu trả lời khác!”
Tương truyền rằng Plato không bao giờ đưa ra định nghĩa
khác. Ông ta biết Diogenes là một tay chuyên gây rối. Bản thân
ông ta đã từng thấy cách thức ông này vặt lông con gà rồi đem nó
vào cho ông, và ông ta nghĩ, “Ai mà biết tay này sẽ làm cái gì
tiếp nữa đây?” Diogenes đến hàn lâm viện nhiều lần để tìm xem
liệu Plato có đưa ra định nghĩa nào khác không. Cuối cùng Plato
trở nên bồn chồn và nói, “Này ông bạn, xin lỗi ông, tôi đã phạm
phải sai lầm trong việc định nghĩa con người theo cách này. Ông
còn định quấy rối tôi bao lâu nữa?”
Diogenes đáp, “Tôi muốn nghe ông thú nhận về sai lầm của
ông. Tại sao nói về con người? Ngay cả một mẩu đá cũng không
thể được định nghĩa. Cuộc sống là không định nghĩa được, không
định nghĩa nào là có thể có cho bất kì cái gì. Tôi muốn ông thú
nhận sai lầm của ông. Bây giờ tôi sẽ đi. Tôi cũng phát chán về
cách định nghĩa của ông.”
Các qui tắc của logic là cố định, trong khi cuộc sống tuôn
chảy. Con sóng này đổi thành con sóng khác. Trong khi bạn đang
định nghĩa thứ này, cái gì đó khác đang xảy ra cho nó trong cùng
lúc. Trước khi bạn kết thúc coi một người là giận dữ, người đó đã
bắt đầu yêu cầu bạn tha thứ. Thế thì bạn sẽ làm gì? Sự kiện là ở
chỗ cơn giận dữ rất có thể đã biến mất trước khi bạn kết thúc việc
nói rằng người này đang giận dữ - cái gì kéo dài mãi trong cuộc
sống này? - cho nên định nghĩa của bạn sẽ không đúng.
Các định nghĩa bao giờ cũng là về quá khứ, trong khi cuộc
sống bao giờ cũng là hiện tại. Cuộc sống là thay đổi thường
xuyên, mọi thứ đều đang thay đổi từng khoảnh khắc, nhưng các
định nghĩa vẫn còn cố định, vẫn còn như đã thiết lập. Không có
trưởng thành, không có thay đổi trong chúng. Chúng giống như
ảnh chụp của chúng ta vậy. Giả sử ai đó chụp ảnh tôi; bây giờ nó
sẽ vẫn còn lại cố định và tĩnh tại, trong khi tôi đang trở nên già
hơn vào mọi khoảnh khắc. Cuộc sống giống như một người đang
sống; các định nghĩa là cứng nhắc và không sống. Lời kinh này
nói không có tính hợp lí, không có logic về cuộc sống. Cuộc sống
là bí ẩn.

Có một nhà huyền môn Ki tô giáo tên là Tertullian. Ai đó hỏi
ông ấy, “Tại sao ông tin vào Thượng đế? Cái gì là lí do cho niềm
tin của ông?”
Ông ấy nói, “Ông muốn biết lí do sao? Khi tôi nhìn vào cuộc
sống, tôi thấy rằng không có lí do nào cho bất kì cái gì. Thế rồi
tôi nghĩ, ‘Bây giờ chẳng hại gì trong việc tin vào Thượng đế. Khi
mà toàn thể cuộc sống bản thân nó là không có lí do gì, Thượng
đế cũng có thể được tin mà không có lí do gì.’ Và nếu ông không
tin vào Thượng đế vậy mà vẫn hỏi tôi câu hỏi ấy, tôi sẽ bảo ông,
tôi tin vào Thượng đế bởi vì ngài là ngớ ngẩn toàn bộ” - ông ấy
dùng từ ngớ ngẩn... tôi nghĩ nó là từ đúng - “bởi vì tôi đã xem xét
mọi qui tắc, đã phân tích chúng, và thấy chúng không đúng. Tôi
đã kiểm nghiệm mọi lập luận logic và thấy nó sai. Mọi định
nghĩa tôi đã kiểm thử đều bị chứng tỏ là sai. Bất kì điều gì tôi
xem xét đúng về mặt trí tuệ, tới cùng lại bị chứng tỏ là sai. Bây
giờ tôi đã bỏ sự trợ giúp của trí tuệ và lập luận và trở thành người
vô lập luận. Tôi tin vào Thượng đế.”
Đây là ý nghĩa đúng đắn của tin cậy.
Nó có nghĩa là nhảy vào trong cái không biết. Lời kinh này
giải thích tin cậy là gì. Lời kinh này là về tin cậy. Khi gạt sang
bên mọi qui tắc, mọi định nghĩa và mọi tính toán, việc nhảy vào
trong cái không đo được chính là nghĩa của tin cậy. Bỏ lập luận
để nhảy vào trong cái vô lập luận.
Bạn nên nhớ rằng các triết gia là những người cố gắng tìm
kiếm chân lí của cuộc sống với sự giúp đỡ của trí tuệ. Cho đến
giờ họ vẫn không có khả năng phát hiện ra được cái gì. Họ đã
viết hàng nghìn cuốn sách, nhưng sách của họ đơn thuần chỉ là
trò chơi chữ. Họ là người thành thạo trong diễn giải lời nói và họ
trải rộng tấm lưới lời nói của mình một cách ranh mãnh và rộng
đến mức khó mà tìm được lối ra. Nhưng họ không biết gì cả,
không biết chút nào. Những người biết tới chân lí của cuộc sống
là các nhà huyền môn và các hiền nhân. Đây là những người,
thay vì thực hành tung hứng lời, chìm vào trong sự tồn tại.
Tại sao chúng ta phải cố gắng học trong sách vở sông Hằng
là gì? Khi sông Hằng đang chảy, tại sao chúng ta không chìm
mình vào trong nó để biết nó là cái gì? Có thể người ta đã viết
trong sách vở, trong thư viện, sông Hằng là gì, nhưng chúng ta có
nên viện tới sách vở để biết nó là gì không? Tại sao chúng ta
không nên biết nó bằng cách thực tế đi vào nó? Có hai cách để
biết. Nếu tôi muốn biết về tình yêu, tôi có thể tới thư viện và đọc
sách về nó và học tất cả về nó. Cách khác là với tôi rơi một cách
cá nhân vào trong nó thật sâu sắc. Cách thứ nhất dứt khoát dễ
dàng hơn, cho nên người yếu đuối viện tới con đường đó; ngay
cả trẻ con cũng có thể đọc về nó. Nhưng thực sự biết yêu là trải
qua thử lửa lớn, qua ăn năn lớn, qua thử thách lớn bằng lửa.
Biết yêu và biết về yêu là hai điều khác nhau. Không có mối
liên hệ gì giữa chúng. Tương tự, biết chân lí và biết về nó là hai
điều khác nhau. Bất kì cái gì được biết về chân lí tất cả đều là tri
thức vay mượn, nó tất cả đều là cũ rích. Người muốn biết chân lí
sẽ phải nhảy ra khỏi trí tuệ của mình.
Một người bạn tới gặp tôi hai hôm trước đây. Người đó nói,
“Tôi nghi ngờ tất cả những gì tôi nghe thấy. Tôi nghi ngờ ngay
cả điều thầy nói, và con sẽ tiếp tục nghi ngờ điều thầy sẽ nói.
Nhưng tôi có vài câu hỏi, xin thầy trả lời chúng.”
Tôi bảo anh ta, “Bạn sẽ làm gì với câu trả lời bạn nhận được
từ tôi? Tại sao bạn muốn gây rắc rối vô dụng cho tôi khi bạn
không được chuẩn bị để di chuyển dù chỉ chút xíu từ lập trường
hoài nghi của bạn? Bạn nên sống trong hoài nghi của mình. Tại
sao bạn đã đến để hỏi tôi? Đừng hỏi bất kì ai nếu bạn quyết tâm
hoài nghi, bởi vì bất kì cái gì người đó nói đều sẽ là tri thức của
người đó, nó không thể là của bạn được, và bạn sẽ hoài nghi nó.
Sự tồn tại trải rộng mọi bề - hoa nở, chim chóc nhảy múa, mây

dời trên trời, mặt trời lên, cuộc sống rộn ràng bên trong bạn. Sự
tồn tại có việc mở rộng vô tận! Nhảy vào trong nó đi, biết từ đó!
Hỏi người khác là vô tích sự - đằng nào bạn cũng sẽ hoài nghi.
Nhưng tôi muốn hỏi bạn một điều: Khi nào thì cái ngày đó tới,
cái ngày mà bạn hoài nghi về sự hoài nghi của bạn?”
Khi một người quyết tâm hoài nghi, người đó nên hoài nghi
bản thân sự hoài nghi; theo cách đó người đó có thể đạt tới cái gì
đó qua hoài nghi của mình. Từ trước tới giờ việc hoài nghi của
bạn đã đạt được cái gì? Nếu không, đấy là bởi vì bạn đã không
hoài nghi về bản thân hoài nghi. Bạn đã không hoài nghi một
cách toàn bộ. Nhớ trong tâm trí, tin cậy tới từ hai nguồn. Hoặc
không có hoài nghi nào hết cả và lấy cú nhảy, hoặc làm cho việc
hoài nghi của bạn thành sâu sắc đến độ bạn hoài nghi bản thân sự
hoài nghi. Vậy hoài nghi của bạn sẽ huỷ bỏ việc hoài nghi thêm
nữa và bạn sẽ thành trống rỗng hoài nghi, và thoát ra khỏi ảnh
hưởng của trí tuệ. Không phải là trí tuệ bạn tạo ra hoài nghi; trí
tuệ bạn là hoài nghi của bạn.
Sau khi hiểu lời kinh này, những người hồn nhiên và trung
thực không nên hoài nghi về nó; còn những người tinh tế và phức
tạp về bản chất thì nên hoài nghi nó một cách toàn bộ. Tin cậy sẽ
được sinh ra từ cả hai điều kiện này và bạn sẽ có khả năng thực
hiện cú nhảy.
Những người biết tin cậy là gì sẽ hiểu thấu ý nghĩa của lời
kinh này, và những người có tin cậy ở trong lập luận sẽ không có
khả năng hiểu thấu nghĩa của nó, bởi vì lập luận không có chỗ
trong nó. Logic sẽ không đồng ý với phát biểu rằng cái hoàn hảo
đi ra từ cái hoàn hảo, và cái còn lại cũng là hoàn hảo. Nhưng tin
cậy sẽ đồng ý với nó, bởi vì điều đó là rất hồn nhiên và trung
thực. Đó là tin cậy - niềm tin - trong sự tồn tại. Nó nói, “Không lẽ
mình không có niềm tin nào đó vào sự tồn tại này, cái đã cho
mình năng lực suy nghĩ, cái cho mình tình yêu, cái cho mình trái
tim sao? Không lẽ mình không thể trao một chút ít tin cậy bạn bè
cho sự tồn tại này, cái đã cho mình cuộc sống, nhận biết và tâm
thức sao? Nếu mình không thể làm được, đấy thực sự là vô ơn
lắm.” Lời kinh này đòi hỏi sự tin cậy và đức tin từ chúng ta. Nó
hướng dẫn rằng duy nhất tin cậy sẽ mở ra cánh cửa cuộc sống,
một mình tin cậy sẽ giúp bạn đạt tới đỉnh của cuộc sống. Đây là
nghĩa giấu kín của nó.
Cuối cùng bạn nên hiểu đầy đủ điều nó đang nói về cái toàn
thể, tại cuối cũng như tại đầu. Mọi thứ trong cuộc sống đều
dường như không hoàn hảo. Có thể Ishavasya nên nói về cái
không hoàn hảo, bởi vì thế thì nó sẽ nói về các sự kiện. Không cá
nhân nào dường như hoàn hảo, không tình yêu nào dường như
hoàn hảo; không quyền năng nào không hình dạng nào dường
như hoàn hảo. Mọi thứ trong cuộc sống đều không hoàn hảo. Thế
thì tại sao hiền nhân này của Ishavasya nghĩ về bắt đầu và kết
thúc trong thảo luận của ông ấy về cái toàn thể? Những người tin
vào chủ nghĩa hiện thực sẽ lên án điều này là phi hiện thực. Họ sẽ
chỉ trích nó như sự giả vờ đồng bóng của những tay mơ. Bất kì
cái gì toàn thể hay hoàn hảo trong thế giới này ở đâu? Điều lời
kinh này chỉ dẫn là sự kiện rằng bất kì chỗ nào cái không hoàn
hảo được bạn thấy, đấy là do cái không hoàn hảo của năng lực
của bạn để thấy, bởi vì bằng không, không có sự không hoàn hảo
ở bất kì đâu cả. Thực tại cái không hoàn hảo nằm ở cách nhìn của
chúng ta.
Hoàn cảnh của chúng ta giống như một người nhìn lên trời từ
cửa sổ nhà mình. Tất cả chúng ta đều làm điều đó. Một cách tự
nhiên người đó sẽ thấy bầu trời bị cắt theo hình cửa sổ. Đường
biên của cửa sổ cũng sẽ là đường biên của bầu trời. Liệu có phải
là sai lầm không nếu một người, chưa bao giờ thấy bầu trời rộng
mở từ bên ngoài toà nhà mình, nói rằng bầu trời là hình chữ nhật?
Không, không có sai lầm gì cả, bởi vì bầu trời bao giờ trông cũng

như thế nếu được nhìn từ cửa sổ. Sẽ khó khăn cho người như thế
để quan niệm rằng không có cái khung như thế trên bầu trời.
Cái khung này là cửa sổ của riêng bạn, không có khung nào
quanh bầu trời. Nó được bạn dựng lên. Bầu trời tuyệt đối không
có khung và không có dạng. Nhưng không ở đâu nó dường như
vô dạng cả, ngay cả khi chúng ta đi ra ngoài nhà. Cái khung trở
thành lớn hơn một chút, nó giả định có dạng trái đất. Bầu trời
dường như bao quanh toàn bộ quả đất, giống như mái vòm - vòm
của các ngôi đền cũng được xây dựng theo mô hình này. Ngay cả
giữa ngoài trời bạn vẫn đang đứng bên trong cửa sổ - trái đất là
cửa sổ - cho nên nó không tạo ra khác biệt gì. Tiến xa thêm nữa,
đi vòng quanh cả trái đất. Bạn sẽ thấy rằng bầu trời không chạm
vào đất ở đâu cả: không có đường chân trời, nó là giả như khung
cửa sổ bao quanh bầu trời vậy. Nhưng ngay cả khi bạn bay trong
một con tầu không gian bạn sẽ thấy bầu trời theo một quan điểm
đặc biệt, và điều đó sẽ dường như là biên giới của nó. Dù nó mở
rộng đến mức nào cũng không thành vấn đề, nó vẫn là biên giới
của nó.
Thế thì chúng ta có thể đi đâu nơi chúng ta sẽ có khả năng
thấy được cái vô dạng? Các hiền nhân của Upanishad nói, “Chỉ
có một chỗ, và đó là bên trong ông, nơi không có cửa sổ chút
nào.” Gạt sang bên việc dùng các giác quan bởi vì chúng tạo ra
các khung. Các giác quan của chúng ta là những cửa sổ. Nếu
chúng ta nhìn bất kì đâu với sự giúp đỡ của các cửa sổ này, hình
dạng sẽ được tạo ra. Nhắm mắt lại và đi vào bên trong; không có
mắt, không có tai, không có tay và chân, không có thân thể, và
chìm ngày càng sâu hơn vào bên trong nơi mọi thứ đều vô dạng.
Tại đó bạn sẽ kinh nghiệm cái toàn thể.
Sau khi đã kinh nghiệm cái toàn thể bên trong, hiền nhân này
đã khẳng định rằng nó là như vậy, và rằng người đã biết đến cái
toàn thể bao giờ cũng sẽ thấy cái toàn thể, dù người đó đi đâu
cũng không thành vấn đề, dù người đó có nhìn qua cửa sổ nào
cũng không thành vấn đề. Cho dù người đó nhìn lên bầu trời khi
đứng sau một khung cửa sổ rất nhỏ, người đó vẫn biết rõ rằng cái
khung đó là cái khung cửa sổ của mình và không phải là của bầu
trời. Bất kì ai đã có lần thấy cái toàn thể bên trong cũng đều sẽ
bắt đầu thấy nó ở mọi nơi. Người đó có thể bị bao bọc quanh
mình bởi bất kì cửa sổ nào, người đó có thể bị nhốt trong bao
nhiêu nhà tù, vậy mà người đó biết rằng các nhà tù đó bị áp đặt
bên ngoài; cái vô dạng vẫn ngồi tĩnh lặng bên trong.
Do đó hiền nhân này bắt đầu và kết thúc bài nói của mình
bằng cái toàn thể. Sẽ không có hài hoà, không đồng điệu giữa lời
kinh này và bản thân chúng ta nếu chúng ta đứng quay lưng lại
nó. Chúng ta và hiền nhân của Upanishad đang đứng quay lưng
nhau. Chúng ta nghe thấy lời của ông ấy, nhớ chúng vào kí ức,
lặp lại chúng mọi sáng; nhưng nếu chỉ lưng chúng ta chạm tới,
thế thì nghĩa mà chúng ta nhận được từ chúng trở thành vô dụng.
Điều cuối cùng tôi muốn nói với các bạn là ở chỗ cái toàn
thể này là chân lí duy nhất. Nó ở mọi phía; mọi thứ đều là cái
toàn thể. Không có vấn đề chút nào về cái không hoàn hảo. Làm
sao có thể có cái không hoàn hảo? Ai sẽ tạo ra nó? Một mình
Thượng đế hiện hữu; không có ai khác có thể làm ra cái không
hoàn hảo. Một mình Thượng đế hiện hữu, cho nên ai sẽ vẽ ra
biên giới? Biên giới bao giờ cũng được tạo nên bởi sự hiện diện
của cái khác. Nếu bạn nghĩ biên giới của nhà bạn được làm bằng
nhà bạn, thế thì bạn sai lầm. Nó được làm bằng nhà của hàng
xóm đấy. Nó không được làm bằng nhà của bạn theo ý riêng của
nó đâu, nó bao giờ cũng được làm bằng sự hiện diện của nhà
khác.
Thượng đế bao giờ cũng một mình, sự tồn tại bao giờ cũng là
một, luồng chảy của sự tồn tại bao giờ cũng là một. Không có cái
khác chút nào. Ai sẽ làm ra biên giới? Ai sẽ làm ra cái không

hoàn hảo? Không, điều đó là không thể được; sự tồn tại là vô giới
hạn, sự tồn tại là tuyệt đối. Nhưng chúng ta sẽ chỉ biết nó khi
chúng ta có khả năng bắt được thoáng nhìn về nó ở bên trong.
Người đã nếm dù chỉ một giọt của đại dương bên trong là có
khả năng biết đến cái bí ẩn của đại dương vô biên. Cái toàn thể
đến từ cái toàn thể, và cũng bị hấp thu vào trong cái toàn thể; và
ở giữa cái không hoàn hảo đến, cái được tạo ra bởi khuôn khổ
của trí tuệ chúng ta, bởi giác quan chúng ta. Từ bỏ các khuôn khổ
này, đi chút ít ra ngoài chúng đi. Thế thì bạn sẽ được thiết lập
trong cái toàn thể, và người đã được thiết lập như vậy trong cái
toàn thể sẽ có khả năng hiểu được nghĩa ẩn kín của Ishavasya.
Bây giờ, ở chỗ cuối, chúng ta bắt đầu cuộc hành trình của
chúng ta vào bên trong. Vì đây là ngày cuối cùng, tôi muốn nói
với các bạn hai hay ba điều. Thứ nhất, trong thực nghiệm sáu
ngày này tôi đã đưa các bạn tới điểm mà bây giờ tôi yêu cầu bạn
bổ sung thêm một việc nhỏ vào nó. Sẽ có bùng nổ lớn nếu điều
đó được thêm vào, cho nên được chuẩn bị về nó đi.
Khi bạn nhìn vào tôi, nhìn chăm chú cố định, đừng nháy mắt,
và đồng thời, với từng hơi thở ra làm ra âm thanh Hu, Hu! Âm
thanh này của Hu, Hu sẽ đập mạnh vào kundalini đang ngủ của
bạn. Người Sufi đã nghiên cứu sâu vào trong âm thanh Allah Hu!
Họ bắt đầu với âm Allah Hu, rồi dần dần từ Allah bị bỏ đi và chỉ
còn lại Hu. Hô âm Hu thật mạnh, và khi bạn làm như vậy, rốn
bạn sẽ co lại. Để cho Hu của bạn đập mạnh vào phía dưới rốn.
Điều này sẽ làm cho rốn bạn co lại hoàn toàn và đập vào
kundalini. Đấy là chỗ kundalini đang ở. Nó sẽ bị đập mạnh vào.
Chín mươi phần trăm trong chúng ta bây giờ đang trong điều
kiện khi âm Hu đập vào mạnh đến mức năng lượng bên trong sẽ
bắt đầu dâng lên giống như ngọn lửa. Khi nó dâng lên tôi sẽ đưa
ra một dấu hiệu bằng tay với bạn. Rồi hãy phát rồ lên! Khi tôi
nâng tay đưa lên bạn sẽ kinh nghiệm năng lượng bên trong dâng
lên - dâng lên như ngọn lửa. Bạn sẽ cảm thấy rằng tất cả sinh lực
của bạn đang dâng lên; bạn sẽ cảm thấy siêu việt. Thế rồi bắt đầu
hò hét to, nhảy, múa, với tất cả khả năng của bạn.

END

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro