NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP

Nhồi máu cơ tim (NMCT) cấp là một trong những nguyên

nhân hàng đầu gây tử vong ở Mỹ và các nước châu Âu. Ước tính

ở Mỹ có khoảng 1 triệu bệnh nhân nhập viện mỗi năm vì NMCT

cấp  và  khoảng  200.000  đến  300.000  bệnh  nhân  tử  vong  hàng

năm vì NMCT cấp. Ở Việt nam số bệnh nhân NMCT ngày càng

có  xu  hướng  gia  tăng  nhanh  chóng.  Nếu  như  những  năm  50,

NMCT là bệnh rất hiếm gặp thì hiện nay hầu như ngày nào cũng

gặp  những  bệnh  nhân  NMCT  cấp  nhập  viện  (tại  Viện  Tim

mạch). Những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị NMCT cấp đã

làm  giảm  đáng  kể  tỷ  lệ  tử  vong  do  NMCT  cấp.  Sự  ra  đời  của

đơn vị cấp cứu mạch vành (CCU) đầu những năm 60, tiếp đến là

các thuốc tiêu huyết khối những năm 80 và hiện nay là can thiệp

động  mạch  vành  cấp  cứu  và  những  tiến  bộ  về  các  thuốc  phối

hợp đã làm cho tỷ lệ tử vong do NMCT cấp trên thế giới hiện

nay giảm xuống chỉ còn khoảng < 7% so với trước đây là > 30%. 

I.   Sinh lý bệnh

Cơ tim được nuôi dưỡng bởi 2 động mạch vành (ĐMV) đó

là ĐMV trái và ĐMV phải. ĐMV trái xuất phát từ lá vành trái

của  ĐMC  và  ĐMV  phải  xuất  phát  từ  lá  vành  phải.  Thực  tế,

ĐMV trái lại chia ra 2 nhánh lớn là nhánh liên thất trước (LAD)

và nhánh mũ (LCx). Do vậy người ta thường gọi là 3 thân ĐMV

để nuôi cơ tim.

NMCT được hiểu là do sự tắc nghẽn hoàn toàn một hoặc

nhiều nhánh ĐMV để gây thiếu máu cơ tim đột ngột và hoại tử

vùng cơ tim  được tưới máu bởi nhánh ĐMV đó. Thủ phạm ở

đây chính là mảng xơ vữa động mạch. Nhưng vấn đề đặt ra là

trong thực tế nếu mảng xơ vữa cứ phát triển âm thầm gây hẹp

nhiều thậm chí tắc hoàn toàn ĐMV theo thời gian cũng không

gây ra triệu chứng của NMCT cấp vì đã có sự thích nghi và phát

triển của tuần hoàn bàng hệ. Cơ chế chủ  yếu của NMCT cấp là 

do sự không ổn định và nứt ra của mảng xơ vữa để hình thành

huyết  khối  gây  lấp  toàn  bộ  lòng  mạch.  Nếu  việc  nứt  ra  này

không lớn và hình thành cục máu đông chưa gây lấp kín toàn bộ

lòng mạch, thì đó là cơn đau thắt ngực không ổn định trên lâm

sàng. 

II.  Triệu chứng lâm sàng

A.  Triệu chứng cơ năng

1.   Cơn đau thắt ngực điển hình: 

a.   Đau  như bóp nghẹt phía sau xương ức hoặc hơi

lệch sang trái, lan lên vai trái và mặt trong tay trái

cho  đến  tận  ngón  đeo  nhẫn  và  ngón  út.  Nhìn

chung  cơn  đau  có  tính  chất  giống  cơn  đau  thắt

ngực nhưng kéo dài hơn 20 phút và không đỡ khi

dùng Nitroglycerin.

b.   Một  số  trường  hợp  đau  có  thể  lan  lên  cổ,  cằm,

vai, sau lưng, tay phải, hoặc vùng thượng vị.

c.   Một số trường hợp NMCT có thể xảy ra mà bệnh

nhân  không  hoặc  ít  cảm  giác  đau  (NMCT  thầm

lặng),  hay  gặp  ở  bệnh  nhân  sau  mổ,  người  già,

bệnh nhân có tiểu đường hoặc tăng huyết áp.

d.   Trong trường hợp đau lan nhiều ra phía sau lưng

phải phân biệt với tách thành động mạch chủ.

2.   Các triệu chứng khác đi kèm theo có thể gặp là: vã

mồ hôi, khó thở, hồi hộp đánh trống ngực, nôn hoặc

buồn nôn, lú lẫn... Các triệu chứng của rối loạn tiêu

hoá thường gặp trong trường hợp NMCT sau dưới.

3.   Đột  tử  cũng  là  một  trong  những  thể  hay  gặp  của

NMCT cấp.

B.  Triệu chứng thực thể

1.   Khám thực thể trong NMCT cấp nói chung ít có giá

trị  để chẩn đoán xác định nhưng cực kỳ quan trọng

để giúp chẩn đoán phân biệt với các bệnh khác, giúp

phát hiện các biến chứng, tiên lượng bệnh cũng như

là  cơ sở để theo dõi bệnh nhân.

2.   Những triệu chứng hay gặp là: nhịp tim nhanh, tiếng

tim mờ, tiếng ngựa phi, huyết áp có thể tăng hoặc tụt,

xuất hiện tiếng thổi mới ở tim, các rối loạn nhịp, ran

ẩm ở phổi, các dấu hiệu của suy tim, phù phổi cấp....

Sau  vài  ngày  có  thể  thấy  tiếng  cọ  màng  tim  (hội

chứng Dressler). 

C.  Các yếu tố lâm sàng có giá trị tiên lượng bệnh

Việc đánh giá tiên lượng bệnh nhân NMCT cấp đóng vai

trò rất quan trọng giúp thầy thuốc có thái độ xử trí, theo

dõi bệnh, cũng như giải thích cho bệnh nhân và gia đình

tốt  hơn.  Những  nghiên  cứu  lớn  trên  thế  giới  đã  chỉ  ra

những yếu tố sau (xếp theo mức độ từ cao đến thấp) có

tiên lượng xấu đối với NMCT cấp: (bảng 3-1 và 3-2) 

1.   Tuổi: càng cao tiên lượng càng xấu.

2.   Huyết áp tâm thu tụt (< 90 mmHg).

3.   Độ Killip càng cao tỷ lệ tử vong càng tăng.

4.   Nhịp tim nhanh > 100 chu kỳ /phút.

5.   Vị trí của NMCT.

Bảng  3-1.  Liên  quan  giữa  độ  Killip  và  tỷ  lệ  tử  vong trong vòng 30 ngày.

I  Không có triệu chứng của suy tim trái                                                 5,1

II  Có ran ẩm < 1/2 phổi, tĩnh  mạch  cổ                                                13,6

nổi,  có thể  có  tiếng  T3  ngựa phi

III           Phù phổi cấp                                                                          32,2

IV           Sốc tim                                                                                  57,8

III. Cận lâm sàng

A.  Điện tâm đồ (ĐTĐ): Là một trong những thăm dò rất có

giá  trị  để  chẩn  đoán  NMCT  cấp  và  định  khu  NMCT.

ĐTĐ cần được làm ngay khi bệnh nhân nhập viện và làm

nhắc  lại  nhiều  lần  sau  đó  để  giúp  chẩn  đoán  cũng  như

theo dõi. Những thay đổi trên ĐTĐ biến thiên theo thời

gian mới có nhiều giá trị. Các tiêu chuẩn của chẩn đoán

NMCT cấp trên ĐTĐ là:

1.   Xuất  hiện  sóng  Q  mới  (rộng  ít  nhất  30  ms  và  sâu

0,20 mV) ở ít nhất 2 trong số các miền chuyển đạo

sau: D2, D3 và aVF; V1 đến V6; D1 và aVL, hoặc

2.   Xuất  hiện  đoạn  ST  chênh  lên  hoặc  chênh  xuống  (>

0,10 mV) ở ít nhất 2 trong số các miền chuyển đạo

nói trên, hoặc

3.   Sự  xuất  hiện  mới  bloc  nhánh  trái  hoàn  toàn  trong

bệnh cảnh lâm sàng nói trên.

Lưu ý là: sóng Q thường xuất hiện trung bình sau 8-12

giờ, tuy nhiên trong một số trường hợp không có sóng Q

mà chỉ có biến đổi của đoạn ST (NMCT không Q - hay

NMCT dưới nội tâm mạc).

Trường hợp NMCT thất phải thì cần làm thêm các

chuyển đạo V3R đến V6R để tìm các biến đổi này.

Trong trường hợp kèm theo bloc nhánh phải hoàn

toàn,  việc  chẩn  đoán  trên  ĐTĐ  trở  nên  khó  khăn  hơn.

Nếu bệnh nhân có NMCT trước bên có thể thấy hình ảnh

sóng T chênh đồng hướng với phức bộ QRS ở V1-V4.

 B.  Các men sinh học trong huyết thanh bệnh nhân

1.   Creatine  Kinase  (CK):  3  iso-enzyme  của  men  này

là CK-MB, CK-MM, CK-BB đại diện cho cơ tim, cơ

vân  và  não  theo  thứ  tự  trên.  Bình  thường  CK-MB

chiếm  khoảng  <5%  lượng  CK  toàn  phần  (bình

thường  CK  toàn  phần  trong  huyết  thanh  từ  24-190

U/l ở 37oC và CK-MB < 24 U/l). 

a.   Men  này  bắt  đầu  tăng  3-12  giờ  sau  nhồi  máu,

đỉnh cao khoảng 24 giờ và trở về bình thường sau

48-72 giờ.

b.   Lưu ý là men này có thể tăng trong một số trường

hợp khác như viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim,

sau mổ tim, sau sốc điện. Nó cũng tăng trong một

số  bệnh  khác  như:  chấn  thương  sọ  não,  chấn

thương cơ (kể cả tiêm truyền), tiêu cơ vân, bệnh

viêm cơ, suy thận mạn, tập thể lực quá mạnh...

2.   Troponin: bao gồm Troponin I và T, là hai loại men

có giá trị chẩn đoán cao và khá đặc hiệu cho cơ tim,

hơn nữa nó còn có giá trị tiên lượng bệnh. Các men

này bắt đầu tăng khá sớm sau NMCT (3-12 giờ) đạt

đỉnh ở 24-48 giờ và tăng tương đối dài (5-14 ngày).

3.   Lactate  DeHydrogenase  (LDH):  bao  gồm  5  iso-

enzymes và gặp ở mọi mô trong cơ thể. LDH tăng từ

8-12 giờ sau nhồi máu, đạt đỉnh ở 24-48 giờ và kéo

dài  10-14  ngày.  Tỷ  lệ  LDH1/LDH2  >  1  có  ý  nghĩa

trong NMCT.

4.   Các  Transaminase  SGOT  và  SGPT:  ít  đặc  hiệu

cho  cơ  tim.  Tuy  nhiên  ở  điều  kiện  của  chúng  ta  thì

Giờ

xét  nghiệm  các  men  này  cũng  vẫn  có  giá  trị  nhất

định. Trong NMCT thì SGOT tăng nhiều hơn SGPT.

C.  Siêu  âm  tim:  cũng  rất  có  giá  trị,  đặc  biệt  trong  những

thể  NMCT  không  Q  hoặc  có  bloc  nhánh.  Thường  thấy

hình ảnh rối loạn vận động vùng liên quan đến vị trí nhồi

máu.  Mức  độ  rối  loạn  từ  giảm  vận  động,  không  vận

động, vận động nghịch thường và phình thành tim. Siêu

âm  tim  còn  giúp  đánh  giá  chức  năng  thất  trái,  các  biến

chứng cơ học của NMCT (thủng vách tim gây thông liên

thất, hở van tim do đứt dây chằng), tràn dịch màng tim,

huyết khối trong buồng tim...

D.  Thăm dò phóng xạ tưới máu cơ tim: thường không cần

dùng trong giai đoạn cấp của NMCT. Các thăm dò này

có ích ở giai đoạn sau để đánh giá mức độ tưới máu cho

từng vùng cơ tim và sự sống còn của cơ tim nhằm giúp

ích cho chỉ định can thiệp mạch vành.

IV. Chẩn đoán phân biệt

A.  Viêm màng ngoài tim: đau thường liên tục và cảm giác

rát, đau thay đổi theo tư thế và nhịp thở, thường đau tăng

khi nằm ngửa. Trong viêm màng ngoài tim cũng có thể

có  ST  chênh  lên  nhưng là chênh lên đồng hướng ở các

chuyển  đạo  trước tim và không có hình ảnh soi gương.

Siêu âm có thể giúp ích cho chẩn đoán.

B.  Viêm cơ tim cấp: là một chẩn đoán phân biệt khá khó

khăn  vì  các  triệu  chứng  lâm  sàng  cũng  như  ĐTĐ  khá

giống NMCT. Bệnh sử và khám lâm sàng cho thấy bệnh

cảnh  nhiễm  trùng  (đặc  biệt  là  virus)  và  siêu  âm  tim  có

giảm vận động đồng đều giúp thêm chẩn đoán phân biệt.

C.  Tách thành động mạch chủ: điển hình là đau dữ dội lan

phía  sau  lưng.  Nhiều  khi  tách  thành  ĐMC  cũng  gây  ra

NMCT  khi  nó  ảnh  hưởng  đến  ĐMC  lên  và  gốc  ĐMC.

Siêu âm tim có thể thấy hình ảnh tách thành ĐMC nếu ở

ĐMC  lên.  Siêu  âm  qua  thực  quản  rất  có  giá  trị  chẩn

đoán.  Chụp  cắt  lớp  vi  tính  (CT  scan)  hoặc  chụp  cộng

hưởng từ  là những thăm dò tốt giúp chẩn đoán xác định.

D.  Nhồi máu phổi: thường đột ngột khó thở, đau ngực, ho

ra máu mà không có phù phổi. ĐTĐ là hình ảnh tâm phế

cấp  với  S1  Q3  (S  sâu  ở  D1  và  Q  sâu  ở  D3).  Chụp

Xquang có thể thấy hình ảnh một đám mờ ở phổi và siêu

âm tim không thấy có rối loạn vận động vùng.

E.  Các bệnh cấp cứu bụng như thủng dạ dày, cơn đau dạ

dày cấp, viêm tuỵ cấp, viêm túi mật, giun chui ống mật...

cũng cần được phân biệt nhất là với NMCT cấp thể sau

dưới.

V.  Điều trị NMCT cấp

A.  Điều trị ban đầu

1.   Khẩn  trương  đánh  giá  tình  trạng  bệnh  nhân  và  nên

chuyển ngay đến những cơ sở có thể điều trị tái tưới

máu. Kịp thời đánh giá các biến chứng nguy hiểm để

khống  chế  (loạn  nhịp,  suy  tim...).  Bệnh  nhân  phải

được  vận  chuyển  bằng  xe  cứu  thương  và  có  nhân

viên y tế đi cùng. Đồng thời thực hiện các biện pháp

điều trị ban đầu.

2.   Các biện pháp chung, ban đầu cho mọi bệnh nhân là:

a.   Bệnh nhân phải được bất động tại giường.

b.   Thở ôxy: với liều 2-4 lít/phút qua đường mũi vì

trong  NMCT  cấp  thường  kèm  theo  thiếu  ôxy.

Một số trường hợp suy hô hấp nặng cần phải đặt

nội khí quản và cho thở máy phù hợp.

c.   Giảm   đau   đầy   đủ:   làm   giảm   sự   tăng   tiết

cathecholamin trong máu và góp phần làm giảm

nhu cầu ôxy cơ tim. 

•    Morphin sulphat là thuốc được lựa chọn hàng

đầu, liều dùng từ 2-4 mg tiêm tĩnh mạch sau

đó nhắc lại sau 5-10 phút nếu bệnh nhân vẫn

đau.  Chú  ý  nhịp  thở  của  bệnh  nhân  và  nhịp

tim.  Nếu  gây  nhịp  chậm  có  thể  cho  Atropin

0,5 mg tiêm TM.

d.   Nitroglycerin  (0,4  mg)  ngậm  dưới  lưỡi,  có  thể

nhắc lại sau mỗi 5 phút. cần chú ý huyết áp của

bệnh nhân. Nếu huyết áp tối đa còn > 90 mmHg

là  tốt.  Tiếp  sau  đó  cần  thiết  lập  ngay  đường

truyền tĩnh mạch và truyền Nitroglycerin với tốc

độ  10  mcg/phút,  có  thể  chỉnh  liều  theo  con  số

huyết áp của bệnh nhân. Nếu bệnh nhân huyết áp

tụt thì không thể dùng Nitroglycerin, khi đó cần

áp dụng ngay các biện pháp vận mạch tốt. Lưu ý

là Nitroglycerin có thể gây nhịp chậm và không

dùng khi có NMCT thất phải.

e.   Cho  ngay  thuốc  chống  ngưng  kết  tiểu  cầu:

Aspirin  cần  cho  ngay  bằng  đường  uống  dạng

không bọc với liều 160 - 325 mg hoặc có thể cho

bằng đường tiêm tĩnh mạch 500 mg. Có thể cho

bằng  dạng  gói  bột  Aspegic.  Nếu  bệnh  nhân  có

tiền sử loét dạ dày tá tràng đang tiến triển thì có

thể  thay  bằng  Ticlopidine  (Ticlid)  250  mg  x  2

viên/ngày  hoặc  Clopidogrel  (Plavix)  cho  ngay

300 mg sau đó 75 mg/ngày. Các nghiên cứu gần

đây cho thấy phối hợp giữa Aspirin và Ticlopidin

hoặc Clopidogrel làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong.

f.   Thuốc chống đông: Heparin tiêm thẳng TM liều

65-70 đv/kg sau đó duy trì liều 15-18 đv/kg/giờ.

Heparin  tự  nó  không  làm  giảm  tỷ lệ tử vong do

NMCT nhưng rất quan trọng nếu bệnh nhân được

cho  thuốc  tiêu  huyết  khối  hoặc  can  thiệp  động

mạch  vành  cấp.  Dùng  Heparin  với  thuốc  tiêu

huyết khối cần cho ngay 5000 đv tiêm TM sau đó

truyền  tĩnh  mạch  liều  khoảng  1000  đv/giờ  (trừ

trường  hợp  cho  Streptokinase  thì  không  dùng

Heparin  phối  hợp).  Khi  dùng  Heparin  cần  điều

chỉnh liều theo thời gian APTT sao cho thời gian

này gấp 1,5 thời gian chứng (50-75 giây).

g.   Thuốc  chẹn  bêta  giao  cảm:  làm  giảm  tỷ  lệ  tử

vong  và  giảm  diện  cơ  tim  bị  nhồi  máu  hoại  tử.

Thuốc hay dùng là Metoprolol tiêm TM 5 mg sau

đó  nhắc  lại  mỗi  5  phút  cho  đến  tổng  liều  là  15

mg, trong khi đó bắt đầu cho uống 25-50 mg. Các

thuốc  khác  có  thể  dùng  là  Atenolol,  Esmolol.

Không dùng các thuốc này khi bệnh nhân có dấu

hiệu suy tim nặng, nhịp tim chậm < 60, huyết áp

tâm thu < 90 mmHg, bloc nhĩ thất độ cao, bệnh

phổi tắc nghẽn, bệnh mạch ngoại vi nặng. 

B.  Điều trị tái tưới máu

Mục tiêu quan trọng nhất trong điều trị NMCT cấp

là làm tái tưới máu (tái lưu thông ĐMV bị tắc) càng sớm

càng tốt. Ba biện pháp điều trị tái tưới máu hiện nay là:

dùng  thuốc  tiêu  huyết  khối,  can  thiệp  (nong,  đặt  stent)

động mạch vành cấp, mổ bắc cầu nối chủ-vành cấp. Việc

điều trị sớm tái tưới máu đã làm giảm mức độ hoại tử cơ

tim, giảm tỷ lệ tử vong và bảo tồn chức năng thất trái.   

1.   Lựa chọn phương pháp điều trị tái tưới máu: Việc

lựa chọn phương pháp điều trị tái tưới máu ngay cho

bệnh  nhân  NMCT  cấp  phụ  thuộc  vào  nhiều  yếu  tố

như thời gian đến viện, tình trạng bệnh nhân cụ thể,

điều kiện trang thiết bị và trình độ của cơ sở y tế.

2.   Thời điểm điều trị tái tưới máu: Các nghiên cứu đã

chứng  minh  được  là  lợi  ích  càng  lớn  nếu  tiến  hành

được tái tưới máu càng sớm. Nếu thời gian được tái

tưới máu trong vòng 1 giờ đầu (kể từ khi đau) thì lợi

ích là lớn nhất. Hiện nay, khi can thiệp ĐMV thì đầu

được áp dụng ở nhiều trung tâm, thì thời gian để có

được hiệu quả tốt nhất là trước 120 phút. Nói chung

là trong vòng 12 giờ đầu thì vẫn còn chỉ định điều trị

tái tưới máu. Nếu sau 12 giờ, mà vẫn còn tồn tại các

triệu  chứng thì vẫn có thể có lợi ích khi điều trị tái

tưới máu (không phải là thuốc tiêu huyết khối).

3.   Điều  trị  tái  tưới  máu  mạch  vành  bằng  các  thuốc

tiêu huyết khối:

a.   Là phương pháp đơn giản và nên được lựa chọn

hàng đầu. Các thử nghiệm lớn đã chứng minh các

thuốc  này  làm  giảm  đáng  kể  tỷ  lệ  tử  vong  do

NMCT  cấp,    giải  quyết  được  60  -  90  %  các

trường  hợp.  Nó  chính  là  kỷ  nguyên  mới  thứ  hai

trong  điều  trị  NMCT  cấp  sau  sự  ra  đời  của  các

CCU.

b.   Chỉ định thuốc tiêu huyết khối càng sớm càng tốt

và tốt nhất trong vòng 6 giờ đầu, nếu bệnh nhân

đến muộn hơn và trong vòng 12 giờ mà vẫn còn

tồn  tại  dấu  hiệu  của  hoại  tử  cơ  tim  lan  rộng  thì

vẫn có thể dùng thuốc tiêu huyết khối .

c.   Các  thuốc  này  có  một  số  chống  chỉ  định  tương

đối và tuyệt đối (Bảng 3-3).

Bảng 3-3. Chống chỉ định của thuốc tiêu huyết khối.

Chống chỉ định tuyệt đối

•    Đang có bệnh hoặc thủ thuật gây chảy máu nặng.

•    Thiếu hụt các yếu tố đông máu (rối loạn).

•    Mới bị các chấn thương nặng.

•    Mới phẫu thuật (<10 ngày).

•    Các thủ thuật xâm lấn (< 10 ngày).

•    Phẫu thuật thần kinh trong vòng 2 tháng.

•    Chảy máu đường tiêu hoá trong 10 ngày.

•    TBMN trong vòng 1 năm.

•    Tiền sử u não, phình mạch não.

•    Viêm màng ngoài tim cấp.

•    Nghi ngờ tách thành động mạch chủ.

•    Loét đường tiêu hoá đang tiến triển.

•    Bệnh màng phổi cấp tính.

•    Đang có thai.

Chống chỉ định tương đối:

•    Huyết áp tối đa > 180 mmHg.

•    Huyết áp tối thiểu > 110 mmHg.

•    Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn.

•    Xuất huyết võng mạc do bệnh lý đái tháo đường.

•    TBMN > 12 tháng.

•    Có hồi sinh tim phổi trong vòng 10 phút.

•    Đang dùng chống đông kháng Vitamin K lâu dài.

•    Suy thận hoặc gan nặng.

•    Rong kinh rong huyết nặng.

4.    Các loại thuốc tiêu huyết khối:

a.   Việc lựa chọn các thuốc tiêu huyết khối phải cân

nhắc  dựa  vào  hoàn  cảnh  thực  tế  và  giá  thành.

Trong  các  thuốc  trên,  rt-PA  được  các  tác  giả

nước  ngoài  ưa  dùng  nhưng  giá  thành  khá  cao.

Streptokinase là thuốc cũng được dùng rộng rãi,

giá thành rẻ hơn và tương đối ít tai biến.

Bảng 3-4. Các loại thuốc tiêu huyết khối và liều dùng.

Các thuốc đặc hiệu với fibrin

•    Alteplase  (rt-PA):  Tiêm  thẳng  TM  15  mg  sau  đó

truyền TM 0,75 mg/kg (cho tới 50 mg) trong vòng 30

phút, tiếp theo 0,5 mg/kg (cho tới 35 mg) truyền TM

trong 60 phút tiếp. Liều tối đa 100 mg trong 90 phút.

•    Reteplase  (r-PA):  tiêm  thẳng  TM  10  đơn  vị  trong  2

phút, sau đó 30 phút lại tiêm như vậy (10 đơn vị). 

Các thuốc không đặc hiệu với fibrin

•    Streptokinase (SK): Truyền TM 1,5 triệu đơn vị trong

vòng 60 phút.

•    Anistreplase  (APSAC):  tiêm  thẳng  TM  30  đơn  vị

trong vòng 2 phút.

•    Urokinase (UK): truyền TM 3 triệu đơn vị trong vòng

60 phút.

b.   Khi dùng các thuốc tiêu huyết khối bắt buộc phải

phối hợp với Heparin vì các nghiên cứu đã chứng

minh  là  làm  giảm  nguy  cơ  bị  tắc  lại  mạch  sau

dùng  thuốc  tiêu  huyết  khối.  Heparin  được  dùng

trước và sau khi dùng thuốc tiêu huyết khối 4 giờ

thì truyền tiếp Heparin với liều 1000 đv/giờ trong

vòng    48    -    72    giờ    tiếp.    Riêng    đối    với

Streptokinase  thì  không  cần  dùng  Heparin  phối

hợp vì thuốc này tác động không đặc hiệu với hệ

fibrin  nên  có  thể  gây  chảy  máu  nhiều  nếu  phối

hợp Heparin.

c.   Biến  chứng  của  các  thuốc  tiêu  huyết  khối:  quan

trọng nhất là chảy máu. Chảy máu nội sọ là biến

chứng  nguy  hiểm  nhất  (gặp  ở  khoảng  0,5%  đối

với Streptokinase và 0,7% đối với tPA) , ngoài ra

có  thể  gây  chảy  máu  nhiều  bất  kể  nơi  nào.  Cần

theo  dõi  thời  gian  aPTT.  Nếu  bị  mất  máu  nhiều

phải truyền máu, huyết tương tươi.

5.   Can  thiệp  động  mạch  vành  trong  giai  đoạn  cấp

cứu (nong, đặt Stent): Mặc dù thuốc tiêu huyết khối

là tiến bộ đáng kể, nhưng do nhiều chống chỉ định và

số bệnh nhân đến viện khá muộn nên tỷ lệ bệnh nhân

được  dùng  thuốc  tiêu  huyết  khối  không  cao.  Hiện

nay đã có nhiều nghiên cứu chứng minh tính ưu việt

của  phương  pháp  can  thiệp  động  mạch  vành  trong

giai  đoạn  cấp.  Tuy  nhiên,  nó  tuỳ  thuộc  nhiều  vào

trang  thiết  bị  và  kinh  nghiệm  của  thầy  thuốc  can

thiệp. 

a.   Chỉ định: Can thiệp ĐMV cấp chỉ nên chỉ định ở

những  bệnh  nhân  có  chống  chỉ  định  của  thuốc

tiêu  huyết  khối  hoặc  có  tình  trạng  huyết  động

không  ổn  định  (sốc  tim)  hoặc  có  rối  loạn  nhịp

tim. Hiện nay, đối với một số trung tâm có kinh

nghiệm và có trang thiết bị tốt, người ta thường

có  xu  hướng  can  thiệp  ĐMV  thì  đầu  (primary

intervention)  (tức  là  can  thiệp  ngay  lập  tức  khi

bệnh nhân đến viện và chưa dùng thuốc tiêu sợi

huyết). Các khuyến cáo gần đây đã có xu hướng

ủng hộ cho việc can thiệp này.

b.   Can thiệp khi dùng thuốc tiêu huyết khối thất

bại: tức là sau khi dùng thuốc tiêu huyết khối mà

bệnh nhân vẫn còn đau ngực, lâm sàng không ổn,

ST  vẫn  chênh  lên  trên  ĐTĐ  thì  có  chỉ  định  can

thiệp ĐMV.

c.   Khi can thiệp động mạch vành cấp cần dùng phối

hợp với  các thuốc:

•    Aspirin  325  mg/ngày  kéo  dài  mãi,  phối  hợp

Ticlopidin (Ticlid) 250 mg x 2 lần ngày trong

nửa   tháng   hoặc   Clopidogrel   (Plavix)   75

mg/ngày.  Vai  trò  của Clopidogrel ngày càng

được  nhấn  mạnh  vì  tính  hiệu  quả  và  khá  an

toàn của nó. Những nghiên cứu gần đây cho

thấy lợi ích của Plavix càng được khẳng định

khi dùng kéo dài đến 9 tháng.

•    Các thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa (ReoPro,

Aggrastat...) là những thuốc chống ngưng kết

tiểu cầu triệt để. Khi dùng cùng với can thiệp

ĐMV cấp làm giảm đáng kể tỷ lệ tai biến do

can thiệp và tỷ lệ tắc mạch sau can thiệp. Tuy

nhiên các thuốc này khá đắt tiền.

•    Heparin là cần thiết trong khi can thiệp. Nếu

can thiệp kết quả thành công có thể xét dừng

Heparin sau can thiệp.

6.   Mổ làm cầu nối chủ - vành cấp cứu:

Chỉ được chỉ định khi bệnh nhân đau ngực tái

phát sau dùng tiêu huyết khối hoặc động mạch vành

không  thích  hợp  cho  can  thiệp  (tổn  thương  nhiều

thân, tổn thương thân chung, tổn thương phức tạp...),

hoặc  can  thiệp  thất  bại,  hoặc  bệnh  nhân  có  những

biến chứng cơ học.v.v... 

C.  Điều trị tiếp theo

1.   Các biện pháp chung:

a.   Chế  độ  vận  động:  Với  những  bệnh  nhân  trong

giai đoạn cấp hoặc chưa ổn định cần bất động tại

giường.  Tuy  nhiên  nếu  những  bệnh  nhân  được

điều trị tái tưới máu tốt mà không còn đau ngực

thì  sau  đó  12  giờ  có  thể  cho  cử  động  nhẹ  tại

giường và ngồi dậy nhẹ nhàng tại giường. Sau 24

giờ có thể cho vận động nhẹ nhàng và sau 48 giờ

có thể cho đi bộ nhẹ tại phòng rồi tăng dần mức

vận động để trở về bình thường. 

b.   Chế  độ  dinh  dưỡng:  Trong  giai  đoạn  cấp  (đau

nhiều) thì không nên cho ăn mà nên dinh dưỡng

bằng đường truyền tĩnh mạch. Khi bệnh nhân đỡ

cần chú ý chế độ ăn đủ năng lượng (1200 - 1800

calorie/ngày)  ít  cholesterol  và  muối.  Bệnh  nhân

NMCT  cần  tránh  táo  bón  và  nên  cho  thêm  các

nhuận tràng.

c.   An thần: nên tránh thăm hỏi nhiều của người nhà

trong  giai  đoạn  cấp.  Nếu  bệnh  nhân  lo  lắng quá

có thể cho thêm một chút an thần.

2.   Các thuốc: 

a.   Các  thuốc  chống  ngưng  kết  tiểu  cầu  (Aspirin,

Ticlopidin, Clopidogrel): đặc biệt quan trọng.

•    Liều  Aspirin  từ  75-325  mg/ngày  nhưng  nên

dùng > 160 mg/ngày.

b.   Các thuốc chống đông: Heparin cần thiết khi có

dùng  thuốc  tiêu  huyết  khối  và  khi  can  thiệp

ĐMV. Heparin không nên dùng kéo dài > 5 ngày.

Các thuốc kháng vitamin K đường uống chỉ dùng

khi có kèm theo rung nhĩ hoặc có phình vách thất

gây cục máu đông.

c.   Các  Nitrates:  mặc  dù  không  làm  giảm  tỷ  lệ  tử

vong nhưng chúng cải thiện tình trạng thiếu máu

cục bộ, cải thiện triệu chứng và suy tim nếu có.

d.   Các thuốc chẹn beta giao cảm: nên tiếp tục kéo

dài (nếu không có các chống chỉ định).

e.   Các  thuốc  ức  chế  men  chuyển  (ƯCMC):  Nên

cho sớm và bắt đầu liều nhỏ (trong vòng 24 giờ

đầu).  Chú  ý  huyết  áp  của  bệnh  nhân.  Thuốc

ƯCMC  làm  giảm  tỷ  lệ  tử  vong,  bảo  tồn  chức

năng  thất  trái.  Nên  dùng  bắt  đầu  bằng  thuốc  có

tác  dụng  ngắn  như  Captopril  6,25  mg  trong  24

giờ đầu sau đó đánh giá tình trạng và điều chỉnh

liều  hoặc  thay  các  thuốc  ƯCMC  khác  có  thời

gian tác dụng kéo dài hơn.

f.   Điều trị tích cực các yếu tố nguy cơ trong đó chú

ý  điều  trị  tốt  đái  tháo  đường,  rối  loạn  mỡ  máu

(nếu có) kèm theo.

D.  Phục hồi chức năng sau NMCT

1.   Giai đoạn ở tại bệnh viện:

Đối  với  những  bệnh  nhân  ổn  định  cần  sớm

phục  hồi  chức  năng  bằng  cách  cho  bệnh  nhân  sớm

vận động nhẹ. Ngày thứ ba có thể cho bệnh nhân đi

lại  nhẹ  nhàng  trong  phòng.  Trước  khi  ra  viện  cần

giáo dục bệnh nhân về chế độ tập luyện, loại bỏ yếu

tố  nguy  cơ,  điều  chỉnh  chế  độ  ăn  và  chế  độ  thuốc

men hàng ngày cho bệnh nhân.

2.   Giai đoạn ở nhà:

Bệnh nhân cần đi bộ sớm tối thiểu mỗi ngày 2-

3 lần, mỗi lần 20-30 phút và duy trì nhịp tim không

tăng quá 20 nhịp so với nhịp tim lúc nghỉ. Để khẳng

định  bệnh  nhân  có  thể  trở  về  cuộc  sống  sinh  hoạt

bình thường, bệnh nhân cần được làm nghiệm pháp

gắng sức để đánh giá. Việc giáo dục bệnh nhân vẫn

đặc  biệt  quan  trọng  trong  giai  đoạn  này  về  chế  độ

sinh hoạt và thuốc men.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro