Nhug Cuoc Phieu Luu Cua Huck

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương I

Trở về nếp sống "văn minh"

Các bạn không biết rõ lắm về tôi đâu, nếu chưa đọc cuốn sách nhan đề là "Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer". Nhưng điều đó không quan trọng. Tác giả cuốn truyện ấy là Mark Twain. Phần lớn những điều ông viết trong sách là sự thật, nhưng cũng có điều ông thêm thắt vào. Như vậy cũng là chuyện thường tình, vì ai mà chẳng phải nói dối một lúc nào đó trong đời, nếu không thì đã giống như dì Polly hay là bà quả phụ, hay cũng có thể là Mary. Dì Polly, dì ruột của Tom Sawyer, Mary và bà quả phụ Douglas là những nhân vật trong cuốn sách tôi vừa kể. Nói chung, cuốn sách ấy trình bày sự thật với một vài chi tiết được thêm thắt vào, như tôi đã nói.

Cuốn sách ấy kết thúc như thế này: Tom và tôi tìm ra được một số tiền mà các tên cướp đã giấu trong hang, và sau đó, chúng tôi trở nên giàu có. Chúng tôi được tất cả sáu nghìn đôla, toàn bằng vàng, chồng lên thành một đống to trông khủng khiếp. Thế rồi ông thẩm phán Thatcher đem tất cả số vàng ấy cho để lấy lời. Chúng tôi mỗi đứa được một đôla tiền lời mỗi ngày, cứ như thế suốt cả năm. Đối với một người, đó là một số tiền quá lớn, không biết tiêu thế nào cho hết. Bà quả phụ Douglas đem tôi về nhà nuôi như con đẻ, tuyên bố rằng bà sẽ giúp tôi trỏ thành một con người "văn minh". Nhưng tôi cảm thấy rất khó chịu phải sống trong ngôi nhà này suốt ngày, suốt buổi, vì bà quả phụ có một lối sống quá ư đạo mạo và mực thước. Không thể chịu được nữa, tôi phải bỏ nhà trốn đi. Tôi phải mặc thứ quần áo cũ vào người rồi khăn gói lên đường, tối ngủ trong các thùng đựng đường, sống lại cuộc đời tự do thoải mái. Nhưng sau đó, Tom Sawyer tìm được ra tôi. Hắn nói cho biết hắn đang tổ chức một băng cướp và cho phép tôi tham gia, nếu tôi chịu trở về với bà quả phụ, sống đàng hoàng như cũ. Thế là tôi trở về.

Bà quả phụ ôm lấy tôi mà khóc, gọi tôi là con cừu non lạc bầy đáng thương, và nhiều tên khác nữa, nhưng chẳng có ý gì trách mắng cả. Bà lại cho tôi mặc những bộ quần áo mới, khiến tôi toát cả mồ hôi, chân tay lúng túng, khó cử động. Thế rồi lối sống cũ lại tiếp diễn. Bà quả phụ rung một tiếng chuông thì mọi người phải đến bàn ăn ngay. Ngồi vào bàn ăn thì vẫn chưa được ăn ngay mà phải chờ bà cúi đầu xuống, lẩm bẩm điều gì đó, như là phàn nàn về các thức ăn, mặc dầu mọi thứ xem ra chẳng có gì đáng chê trách cả - nghĩa là, mọi thứ đều đã được nấu riêng rẽ từng thứ. Trong một chiếc thùng đựng thức ăn thừa vứt đi thì lại khác: mọi thứ đều trộn lẫn với nhau, chất ngọt tiết ra xung quanh, như thế trông còn ngon lành hơn.

Sau bữa ăn tối, bà lấy sách ra, dạy cho tôi về ông thánh Moses và các bản thánh kinh. Tôi nóng lòng muốn tìm hiểu tất cả về ông ta, nhưng rồi dần dần tôi biết được ra rằng ông ấy chết đã lâu lắm rồi, nên không còn quan tâm gì đến ông nữa. Tôi vẫn thường không mấy tin tưởng vào những người đã chết.

Bỗng tôi thấy thèm thuốc hút quá, bèn xin bà cho tôi hút vài hơi. Nhưng bà không cho, bảo rằng đó là một thói quen xấu xa, bẩn thỉu mà từ nay tôi phải cố bỏ đi. Có những hạng người như thế đấy. Họ không hiểu biết về cái gì thì họ thường hay chê trách cái ấy. Bà quả phụ này cũng thế. Việc gì mà bà phải bận tâm về cái ông Moses, chết từ đời thuở nào, chẳng còn làm gì ích lợi cho ai, chẳng ruột thịt máu mủ gì với bà cả; trong khi ấy bà lại chỉ trích tôi về một cái có ích lợi thiết thực. Hơn nữa, bà đôi khi cũng dùng thứ thuốc hít. Cố nhiên, thứ thuốc ấy thì tốt, vì chính bà cũng dùng kia mà.

Em gái bà, cô Watson, một cô gái già mảnh khảnh, đeo kính, vừa đến ở chung với bà và bây giờ cô ấy tấn công tôi tới tấp với một cuốn sách tập đánh vần. Cô ấy quần tôi đến khổ sở, suốt cả tiếng đồng hồ, cho đến khi bà quả phụ bảo gượng nhẹ đôi chút cô ấy mới chịu thôi. Tôi không thể nào chịu được nữa. Giờ học kế tiếp đó thật buồn chán vô cùng. Tôi cứ cựa quậy mãi, khiến cô Watson phải luôn mồm nói: "Đừng để chân lên bàn như thế, Huck", "Đừng cong người như con tôm thế kia, Huck - Ngồi thẳng lên nào"; một lát sau cô lại bảo: "Đừng có ngáp và duỗi người thế, Huck - phải tỏ ra đứng đắn chứ". Thế rồi cô bảo cho tôi biết những nơi nào xấu xa cần phải tránh, nhưng tôi nói tôi lại thích đến những nơi ấy. Cô giận điên người lên, nhưng thực ra tôi đã nói thật tình. Tôi không mong mỏi gì hơn là được đi đến một nơi nào đó để có sự thay đổi, chứ ngoài ra chẳng có ý gì khác. Cô bảo tôi nói như thế là xấu xa lắm; cô chẳng bao giờ nói những điều như thế, dù trong bất cứ trường hợp nào; cô sẽ mãi mãi sống làm sao để được đi đến nơi vĩnh viễn tốt lành. Quả thực, tôi không màng gì đến nơi tốt lành mà cô sẽ đi tới cả, cho nên tôi nghĩ tôi sẽ chẳng phải cố gắng làm gì. Nhưng tôi chẳng muốn nói ra cho thêm rắc rối vì cũng chẳng có ích lợi gì.

Với lối mở đầu như thế, cô tiếp tục nói dông dài về cái nơi tốt lành ấy. Cô nói rằng ở nơi ấy chẳng ai phải làm lụng gì mà chỉ nhởn nhơ suốt ngày với tiếng đàn, câu hát, mãi mãi như thế cho đến vô tận. Tôi không quan tâm gì đến các thứ ấy cả, nên chẳng nói ra ý nghĩ của tôi làm gì. Tôi chỉ hỏi cô có tin rằng Tom cũng sẽ đi đến nơi ấy không, thì cô trả lời chắc chắn là không. Nghe như vậy, tôi rất mừng vì muốn rằng Tom với tôi bao giờ cũng sẽ ở bên nhau.

Thế rồi, cô Watson cứ tìm cách chê trách tôi mãi, khiến tôi cảm thấy mệt mỏi và cô đơn quá. Sau cùng, cô gọi những người đầy tớ da đen đến cùng đọc kinh, rồi ai nấy đều đi ngủ. Tôi đi lên phòng tôi với một cây đèn nến, rồi đặt nó lên bàn. Tôi ngồi xuống một chiếc ghế bên cạnh cửa sổ, cố nghĩ ra một chuyện gì đó thật vui cho khuây khoả, nhưng vô ích. Tôi cảm thấy cô đơn quá, chỉ muốn được chết. Những vì sao đang lấp lánh trên bầu trời, lá cây xào xạc trong rừng, nghe có vẻ thê lương quá. Một tiếng cú vang lên xa xa như đang kêu gọi linh hồn của kẻ nào đó đã chết, rồi tiếng chim kêu đêm, tiếng chó tru lên như than khóc một kẻ sắp từ trần. Gió như đang thì thầm vào tai tôi, nhưng tôi không hiểu nó đang muốn nhắn với tôi điều gì. một cảm giác lành lạnh, run rẩy toả ra khắp người. Từ phía khu rừng xa xa vọng lại một thứ âm thanh kì lạ, nghe như tiếng hồn ma đang muốn tâm sự một điều gì để được yên nghỉ trong mồ, nhưng vì không thể diễn tả cho ai hiểu được nên cứ mỗi đêm lại phải lang thang than khóc. Tôi vừa buồn, vừa sợ, chỉ mong muốn có ai đến làm bạn. Ngay lúc ấy, một con nhện bò lên vai, tôi vội vàng phủi đi thật mạnh. Con nhện rơi ngay vào ngọn nến. Tôi chưa kịp có một phản ứng gì thì con nhện đã bị ngọn lửa thiêu rụi. Không đợi ai bảo, tôi biết ngay rằng đó là một điềm xấu, báo hiệu một sự rủi ro nào đó sắp đến với tôi. Toàn thân tôi run lên cầm cập vì quá khiếp sợ. Tôi liền đứng dậy, đi qua đi lại ba lần, mỗi lần như thế lại làm dấu thánh giá trên ngực, rồi buộc một nhúm tóc của tôi lại bằng một sợi chỉ để cho ma quỷ phải tránh xa. Nhưng tôi vẫn chưa tin tưởng lắm. Người ta thường làm như vậy khi rủi ro đánh mất một chiếc móng ngựa đã bắt được, thay vì treo nó lên trên cửa, nhưng tôi không bao giờ nghe nói có một cách nào xả xui được khi người ta lỡ tay giết một con nhện.

Tôi run rẩy ngồi xuống, lấy ống điếu ra hút một hơi. Lúc bấy giờ cả nhà đều im lặng như tờ, dẫu tôi có hút bà quả phụ cũng không làm sao biết được. Một lát sau, tiếng chuông đồng hồ trong thị trấn gõ "boong boong" mười hai tiếng, rồi tất cả đều chìm trong im lặng trở lại. Bỗng nhiên, tôi nghe có tiếng cành cây con gãy răng rắc trong lùm cây - hình như có vật gì đó đang cựa quậy. Tôi cố giữ im lặng lắng nghe. Từ phía dưới vọng lên một tiếng kêu khe khẽ: "miao, miao". Mừng quá, tôi cũng trả lời hết sức khe khẽ: "miao, miao", rồi tắt phụt đèn, trèo qua cửa sổ, xuống mái nhà xép, rồi nhẹ nhàng tụt xuống đất. Tôi bò vào lùm cây, thì quả đúng như thế, thằng Tom đang đứng chờ tôi ở đấy.

Chương II

Băng cướp của Tom Sawyer

Chúng tôi rón rén đi dọc theo lối đi giữa các lùm cây đến cuối vườn sau của nhà bà quả phụ, cúi xuống lần từng bước cho các cành cây khỏi cứa lên đầu lên cổ. Khi đi ngang qua nhà bếp, tôi vấp phải rễ cây, phát lên một tiếng động. Cả hai chúng tôi liền nằm rạp xuống đất. Một người đầy tớ da đen của cô Watson, tên là Jim, đang ngồi ở cửa nhà bếp. Chúng tôi trông thấy hắn thật rõ nhờ ánh trăng rọi từ phía sau. Hắn đứng phắt dậy, duỗi cổ ra lắng nghe một lúc, rồi hỏi:

"Ai đó?"

Hắn đứng lắng nghe thêm một lát nữa, rồi rón rén đến giữa chúng tôi, gần đến nỗi chúng tôi có thể giơ tay ra sờ vào người hắn được. Nhiều phút trôi qua, chúng tôi vẫn đứng gần nhau như thế, không có một tiếng động nào. Ở mắt cá chân tôi, có một chỗ bắt đầu thấy ngứa ngáy, nhưng tôi không dám gãi, Rồi cơn ngứa bắt đầu lan đến tai, đến lưng, đến một chỗ giữa hai bả vai, ngứa tưởng chết đi được, nhưng tôi vẫn không thể nào gãi. Phải, tôi đã có kinh nghiệm về cảm giác này nhiều lần rồi. Nếu mình là người có địa vị quan trọng hoặc đang dự đám tang, hay cố đi ngủ khi chưa buồn ngủ - nếu mình đứng ở một nơi nào đó không tiện cho mình gãi thì cơn ngứa tức thì nổi lên ở khắp nơi trong người. Bỗng, Jim gọi to:

"Nói đi, mày là ai? Là cái gì? Rõ ràng là vừa mới nghe có tiếng động mà. Thôi được, mình cứ ngồi đây cho đến khi nào nghe lại một lần nữa".

Thế rồi hắn ngồi xuống, ngay giữa Tom và tôi, tựa lưng vào gốc cây, duỗi thẳng chân ra, khiến cho chân hắn suýt chạm phải chân tôi. Mũi tôi bắt đầu ngứa ngáy, rồi cứ ngứa thêm mãi cho đến khi nước mắt tôi trào ra. Nhưng tôi vẫn không dám gãi. Thế rồi cơn ngứa lan đến bên trong, bên dưới, không có cách nào làm cho nó yên được. Nỗi khổ sở ấy cứ kéo dài mãi đến sáu, bảy phút, nhưng thời gian có vẻ lâu hơn thế nhiều. Bây giờ thì tôi đã đếm được mười một chỗ đang bị ngứa. Tôi tưởng rằng không thể chịu đựng được thêm một phút nữa, nhưng vẫn phải cắn răng chịu đựng. Ngay lúc ấy thì Jim bắt đầu thở có vẻ nặng nề, rồi tiếp đó hắn ngáy rống lên. Chúng tôi cảm thấy nhẹ nhõm.

Tom ra hiệu cho tôi - một thứ hiệu lệnh khe khẽ bằng miệng. Chúng tôi bèn bò ra xa bằng cả hai tay, hai chân. Khi đã xa được chừng ba thước, Tom thì thầm với tôi, ngỏ ý muốn trói Jim vào gốc cây cho vui. Nhưng tôi bảo như thế sẽ gây nên tiếng động đánh thức mọi người dậy, và người ta sẽ biết rằng tôi không có ở nhà. Rồi Tom lại nói rằng hắn không có đủ nến dùng, cần phải vào trong bếp lấy vài cây. Tôi cố ngăn hắn lại, bảo rằng Jim có thể sẽ thức dậy đi vào trong nhà. Nhưng thằng Tom vẫn cứ muốn thử làm xem ra sao. Thế là chúng tôi lẻn vào bếp, lấy ba cây nến, rồi đặt năm xu trên bàn để trả tiền. Sau đó, chúng tôi đi ra khỏi nhà bếp. Riêng tôi thì nóng lòng muốn chuồn đi ngay, nhưng Tom thì không làm vậy. Hắn còn muốn bò đến cạnh Jim để trêu anh chàng da đen này một mẻ. Tôi đành phải đứng chờ hắn khá lâu trong im lặng, cô đơn.

Một lát sau, Tom trở lại. Chúng tôi liền chạy thật nhanh trên một con đường mòn dọc theo hàng rào, rồi trèo lên một ngọn đồi ở phía bên kia nhà. Tom nói với tôi hắn đã lột chiếc mũ của anh chàng Jim, treo lên một cành cây ngay trên đầu hắn. Jim có cử động một chút, nhưng vẫn không thức dậy. Về sau, Jim kể với mọi người rằng hắn bị ma làm cho mê mẩn cả người, bắt hắn cõng trên lưng đi khắp cả tiểu bang, sau đó lại đem hắn trở về dưới gốc cây, rồi treo mũ của hắn trên cành cây làm dấu hiệu. Lần sau nữa, Jim lại nói hắn cõng ma đi đến tận vùng New Orleans, rồi hắn cứ tiếp tục kể mãi như thế, cứ mỗi lần cuộc hành trình của hắn với ma lại được kéo dài thêm nữa cho đến khắp thế giới, đến nỗi hắn gần như kiệt sức, lưng hắn rộp lên từng mảng ở khắp nơi. Jim vô cùng hãnh diện về câu chuyện này, nên không cần để ý gì đến các bạn da đen khác của hắn nữa. Những người này thường đi hàng dặm đường đến nghe Jim kể về chuyện ma và tỏ ra kiêng nể hắn hơn nhiều người da đen khác. Họ há hốc mồm nghe rồi nhìn Jim từ đầu đến chân, xem hắn như là một kì quan trên đời. Những người da đen thường tụ tập xung quanh ngọn lửa bếp để kể cho nhau nghe về chuyện ma quỷ, nhưng mỗi lần có ai đang kể thao thao bất tuyệt về những chuyện này thì Jim lại xen vào hỏi "Hừ, anh làm sao biết được chuyện ma quỷ!". Thế là người kia đành phải câm như hến lùi lại ngồi phía sau. Jim lúc nào cũng đeo một cái bùa làm bằng một miếng có năm cạnh hình bán nguyệt treo ở một sợi dây buộc xung quanh cổ mà hắn nói rằng ma quỷ đã cho hắn để dùng chữa bệnh hay để gọi chúng lên khi cần, bằng cách đọc lên một câu thần chú gì đó. Jim không bao giờ nói cho ai biết câu thần chú ấy như thế nào. Những người da đen từ khắp nơi đến tặng cho Jim đủ mọi thứ, chỉ để được xem cái bùa ấy, nhưng không ai dám sờ, vì sợ ma quỷ đã đặt bàn tay chúng vào đấy rồi. Ở địa vị một người đầy tớ trong ngôi nhà này thì Jim bị coi như là loại bỏ đi rồi, vì hắn luôn luôn bị ám ảnh bởi ma quỷ, hắn đã trông thấy chúng và bị chúng cưỡi lên cổ.

Trở lại với chuyện Tom và tôi. Khi lên đến đỉnh đồi, nhìn xuống ngôi làng bên dưới, chúng tôi trông thấy ba hay bốn ngọn đèn nhấp nháy, có lẽ ở đấy đang có người bị ốm. Trên trời, nhiều ngôi sao lấp lánh trông thật là đẹp mắt. Bên dưới làng là con sông, rộng chừng một dặm, mênh mông và yên tĩnh. Chúng tôi liền đi xuống đồi để tìm thằng Joe Harper, thằng Ben Rogers và hai ba đứa khác nữa đang nấp trong xưởng thuộc da cũ kĩ. Sau đó cả bọn chúng tôi tháo một chiếc xuồng nhỏ, đẩy xuôi dòng sông chừng một dặm rưỡi đến một chỗ đất lở bên sườn đồi, rồi tất cả đều lên bờ.

Đến một chỗ lùm cây, Tom bảo mọi người thề phải giữ bí mật, sau đó hắn mới chỉ cho chúng tôi một cái hang ăn sâu vào sườn đồi, ngay giữa những bụi cây rất dày. Chúng tôi thắp nến lên, rồi bò bằng cả tay lẫn chân. Đi được chừng hai trăm thước, hang bắt đầu mở rộng ra. Tom sờ soạng xung quanh rồi chui xuống phía dưới một vách đá ở một nơi không ai có thể ngờ rằng có một hang nhỏ khác có thể chui qua lọt. Chúng tôi đi dọc theo một lối đi hẹp, tiến đến một nơi rộng như một căn phòng, ẩm ướt, lạnh lẽo. Đến đây, chúng tôi dừng lại. Tom bắt đầu lên tiếng:

"Bây giờ chúng ta khởi sự lập một băng cướp, mệnh danh là "Băng cướp của Tom Sawyer". Ai muốn gia nhập băng này đều phải thề và ghi tên mình bằng máu."

Mọi người đều ngỏ ý tán thành. Tom liền rút ra một tờ giấy có ghi sẵn lời thề, rồi đọc to lên. Lời thề ấy tuyên bố rằng mọi người phải tuyệt đối trung thành với tổ chức, không được tiết lộ bí mật. Nếu kẻ nào làm điều gì có thể nguy hại cho đồng đội mình, thì bất kì ai trong băng, được giao nhiệm vụ giết kẻ ấy và gia đình hắn, cũng phải thi hành triệt để. Người được giao trách nhiệm ấy không được ăn, không được ngủ cho đến khi nào giết được kẻ phạm tội và gia đình hắn, vạch một chữ thập trên ngực họ để ghi dấu hiệu của băng. Không một kẻ nào không thuộc về băng chúng tôi mà có quyền sử dụng dấu hiệu ấy. Nếu bất tuân thì sẽ bị truy tố, tái phạm sẽ bị giết. Còn kẻ nào đã gia nhập băng mà tiết lộ bí mật thì sẽ bị cắt cổ, xác hắn sẽ bị thiêu rụi, than tro sẽ bị đem rắc khắp nơi, tên hắn sẽ bị xoá bằng máu, không còn được ai nhắc đến nữa. Hắn sẽ bị nguyền rủa, rồi bị quên lãng hoàn toàn.

Mọi người đều khen ngợi, cho rằng lời thề ấy rất hay, rồi hỏi Tom xem có phải chính hắn đã nghĩ ra hay không. Tom nói rằng hắn chỉ nghĩ ra phần nào thôi, còn tất cả phần khác còn lại đều rút ra từ các sách viết về trộm cướp. Hắn cũng cho biết thêm rằng các băng cướp nổi danh đều có những lời thề tương tự như thế.

Có đứa đề nghị giết luôn cả gia đình của những kẻ đã tiết lộ bí mật. Tom cho rằng đó là một ý kiến rất hay, bèn lấy bút ra ghi chép thêm vào. Nhưng thằng Ben lại nêu thắc mắc:

"Thằng Huck không có gia đình, vậy sẽ giải quyết trường hợp của hắn như thế nào?"

"Nhưng nó có cha mà." Tom trả lời.

"Phải, hắn có cha, nhưng ai mà tìm ra được cha hắn. Ông ta say sưa tối ngày, rồi ngủ chung với heo trong xưởng thuộc da. Nhưng hơn một năm nay, người ta không thấy ông ta ở đâu nữa."

Chúng nó bàn cãi với nhau mãi về vấn đề này, định không cho tôi gia nhập vì lí do rằng mỗi đứa trong băng phải có gia đình hay người nào đó để mà giết chứ, nếu không thì không công bằng. Không một đứa nào tìm ra một giải pháp nào hay ho cả. Tất cả đều bối rối, ngồi im thin thít. Tôi ứa nước mắt, suýt bật khóc to lên, nhưng rồi tôi cũng nảy ra được một ý kiến là "cống hiến" cô Watson để chúng có thể giết khi cần. Tất cả đều nhao nhao lên:

"Được rồi! Cô ấy cũng đủ tư cách đấy. Huck, cho mày được kết nạp!"

Sau đó, chúng lấy một cây kim chích lấy máu ở ngón tay để kí vào, còn tôi thì quệt một cái dấu gì đó trên tờ giấy.

"Này, Tom" Ben hỏi, "công việc của băng chúng ta là thế nào?"

"Chẳng có gì nhiều. Chỉ có cướp của và giết người thôi." Tom trả lời.

"Nhưng cướp cái gì kia chứ? - nhà cửa, gia súc hay ..."

"Những thứ ấy thì kể làm gì. Lấy trâu bò hay các thứ tương tự thì chỉ là trộm thường thôi." Tom nói, "chúng ta không phải là hạng nhãi nhép ấy. Chúng ta là cướp, những kẻ cướp đường. Chúng ta sẽ đeo mặt nạ chặn các xe cộ qua lại trên đường, rồi giết người lấy đồng hồ, tiền bạc."

"Lúc nào cũng phải giết người hay sao?"

"Cố nhiên rồi. Đó là cách hay nhất. Một số chuyên gia có thẩm quyền về vấn đề này có khi nghĩ khác, nhưng đa số đều cho rằng giết là hay nhất - chỉ nên chừa ra một số người, đem về hang này giữ lại cho đến khi nào họ được chuộc..."

"Chuộc? Thế là thế nào?"

"Tao không biết, nhưng người ta vẫn làm như thế. Tao thấy sách vở đã nói như vậy thì mình cứ phải làm."

"Nhưng nếu mình không biết thì làm thế nào được?"

"Đằng nào thì chúng mình vẫn cứ phải làm. Tao đã nói là tất cả sách vở đều viết như vậy, chúng mày không nghe à. Chúng mày muốn làm khác với sách vở để rồi hỏng tất cả công chuyện hay sao?"

"Mày nói nghe hay đấy, Tom ạ. Nhưng làm thế nào mà cho chúng nó chuộc được, nếu chúng mình chẳng biết "chuộc" là cái gì cả. Ý tao muốn nói là thế đấy, thế mày nghĩ nó là cái gì nào?"

"Tao không biết. Nhưng có lẽ chuộc nghĩa là cứ giữ tiệt chúng nó lại cho chúng chết dần chết mòn đi."

"Có thế chứ. Thế thì tao hiểu ra rồi. Tại sao mày lại không nói sớm đi cho đỡ mất thì giờ. Được rồi, chúng ta sẽ giữ chúng lại cho chúng được "chuộc" đến chết thì thôi - Nhưng trong thời gian ấy, chúng sẽ quấy rầy chúng ta không ít đâu - chúng sẽ ăn hết lương thực của ta, rồi cứ lăm le bỏ trốn."

"Mày nói cái gì lạ vậy, hở Ben? Làm thế nào chúng bỏ trốn được, nếu chúng ta đặt người canh gác, sẵn sàng bắn bỏ khi nào chúng cựa quậy một ngón chân?"

"Người canh gác à? Hay đấy! Như thế là phải có người nào đó đứng canh chúng suốt đêm, không bao giờ được chợp mắt. Tao nghĩ thế là điên rồ. Khi nào chúng đến đây, ta cứ lấy một cây gậy rõ to rồi "chuộc" chúng nó một trận, như thế chẳng hay hơn sao?"

"Chẳng có sách vở nào nói như vậy cả. Ben này, mày muốn làm mọi sự theo lối "chính qui" hay không? Vấn đề là ở chỗ ấy đấy. Mày không hiểu rằng những người đã viết ra được thành sách vở thì phải biết thế nào là đúng hay sao? Mày tưởng rằng mày dạy được họ đấy hẳn. Còn khuya, ông ơi. Đằng nào thì chúng mình vẫn phải cho họ "chuộc" theo lối "chính qui"."

"Được rồi, tuỳ mày. Nhưng tao vẫn cho rằng như thế là điên rồ. Này, thế chúng mình cũng sẽ giết cả đàn bà hay sao?"

"Ben này, nếu tao cũng ngu si như mày thì tốt hơn là tao câm họng đi cho rồi. Giết đàn bà à? Không! Trong sách vở không ai nói như thế bao giờ. Mày phải đưa họ về hang, phải tỏ ra lễ phép, lịch sự với họ. Thế rồi dần dần họ thương mày, họ yêu mày, rồi chẳng bao giờ đòi về nhà nữa."

"Nói như thế thì tao đông ý, nhưng tao không tin tưởng lắm đâu. Như thế, chẳng mấy chốc cái hang này sẽ đông nghẹt cả đàn bà và những anh chàng chờ đợi được chuộc khiến cho không còn chỗ nào cho bọn cướp chúng ta nữa. Nhưng mà mày cứ tiến hành đi, tao không có gì nói thêm nữa."

Thằng bé Tommy Barnes bây giờ đã ngủ vùi. Khi mở mắt dậy, hắn khóc thét lên, cứ nằng nặc đòi về với mẹ chứ không muốn làm kẻ cướp nữa.

Mọi người đều trêu hắn, gọi hắn là thằng bé khóc nhè, làm cho hắn nổi giận đùng đùng, đòi tiết lộ tất cả mọi bí mật. Nhưng Tom cho hắn năm xu để dỗ cho hắn nín, rồi giải tán phiên họp, hẹn với nhau rằng tuần sau sẽ họp lại để khởi sự đi cướp một vài thứ và giết một vài người.

Thằng Ben nói rằng hắn không được phép ra khỏi nhà thường, nên đề nghị chúng tôi bắt đầu vào chủ nhật tuần sau. Nhưng tất cả những đứa khác đều cho rằng làm việc ấy vào ngày chủ nhật là không nên, thế là vấn đề được giải quyết xong. Chúng tôi đồng ý sẽ họp lại để ấn định một ngày nào đó, càng sớm càng tốt. Tom được bầu làm trưởng băng, thằng Joe làm phó. Sau đó, tất cả chúng tôi trở về nhà.

Tôi leo lên mái nhà xép, rồi trèo qua cửa sổ vào phòng, trước khi trời hửng sáng. Quần áo tôi dính đầy mỡ và đất sét, toàn thân mỏi như dần.

Chương III

Một cuộc phục kích

Sáng hôm sau tôi phải trải qua một "cuộc kiểm tra" rất gay gắt của cô Watson vì bộ quần áo nhớp nhúa của tôi. Bà quả phụ thì không la rầy gì nhiều, chỉ đem quần áo tôi ra giặt cho sạch những vết mỡ và đất sét. Trông vẻ mặt buồn bã của bà, tôi hơi hối hận, tự nhủ mình cần phải cư xử đàng hoàng một thời gian để làm vui lòng bà, nếu có thể được. Sau đó, cô Watson đưa tôi vào trong phòng, rồi cô đọc kinh cầu nguyện, nhưng hình như cũng không có hiệu quả gì. Cô bắt tôi đọc kinh hàng ngày và nói rằng cứ đọc kinh thì rồi muốn cầu nguyện cái gì sẽ có cái ấy. Tôi cố thử làm như vậy một đôi lần, nhưng chẳng thấy có hiệu quả gì. Một hôm, tôi có cần câu, nhưng lại thiếu móc câu. Không có những móc câu này thì không làm trò trống gì được. Tôi bèn đọc kinh cầu nguyện đến ba bốn lần để xin móc câu, nhưng không có kết quả. Cho đến một hôm, tôi yêu cầu cô Watson cố gắng cầu nguyện cho tôi có được móc câu, nhưng cô chỉ mắng tôi là điên rồ, mà không giải thích tại sao cả. Thật là không thể nào hiểu nổi.

Có một lần tôi ngồi một mình trong rừng, suy nghĩ thật lâu về vấn đề này. Nếu người ta cầu nguyện cái gì thì có được cái ấy, thì tại sao ông trợ tế Winn lại không lấy lại được số tiền ông đã mất về khoản trợ cấp của chính phủ? Tại sao bà quả phụ không tìm ra được cái hộp thuốc của bà đã bị lấy trộm? Tại sao cô Watson không thể béo lên được chút nào? Không, không thể nào có chuyện ấy được. Tôi đem vấn đề này ra hỏi bà quả phụ thì bà cho biết rằng, bằng sự tụng niệm, người ta chỉ có được những thứ "quà tặng tinh thần" thôi. Tôi nói rằng những thứ này e có quá nhiều đối với tôi chăng, nhưng bà giải thích thêm cho tôi rõ ý của bà là - tôi phải giúp đỡ những kẻ khác, phải làm hết sức mình cho họ, phải luôn luôn săn sóc họ và đừng bao giờ nghĩ về bản thân mình. Điều này, theo tôi hiểu, là có bao gồm cả cô Watson trong đó. Tôi lại vào trong rừng, ngồi suy nghĩ thật lâu về vấn đề này, cuối cùng tôi thấy chẳng có lợi gì cho tôi cả, mà chỉ lợi cho người khác thôi, nên tôi bỏ qua luôn, không còn bận tâm gì đến nó nữa. Đôi khi bà quả phụ gọi tôi đến ngồi bên cạnh, rồi kể cho tôi nghe về Thượng đế, bằng một lối nói làm cho người nghe phải thèm đến rỏ dãi. Nhưng đến ngày hôm sau, khi tôi gặp cô Watson thì tất cả những cảm tình tốt đẹp ấy bị sụp đổ tan tành. Tôi nghĩ ra rằng có lẽ có hai thứ Thượng đế, một là của bà quả phụ và một của cô Watson. Một đứa nghèo khổ như tôi có nhiều cơ may được đến gần Thượng đế của bà quả phụ hơn, còn với Thượng đế của cô Watson thì đừng có hi vọng gì. Tôi suy nghĩ mãi về chuyện này và quyết định đứng về phía Thượng đế của bà quả phụ, nếu ông ta cần đến tôi, nhưng tôi lại tự hỏi rằng không biết ông ta có được lợi lộc gì hơn không nếu có thêm một đứa bé ngu đần, hèn kém và xấu xa như tôi.

Hơn một năm nay, tôi không gặp mặt cha tôi lần nào. Điều này làm cho tôi cảm thấy dễ chịu, vì cứ mỗi lần ông không say rượu, có sức khỏe, là ông lại nện tôi một trận. Vì vậy, khi nào có mặt ông là tôi phải chạy trốn vào rừng. Mới đây, người ta tìm thấy xác ông bị chết chìm, cách thị trấn chừng mười hai dặm. Nói đúng hơn, người ta phỏng đoán rằng đó là xác cha tôi, vì người chết chìm ấy có vóc dáng to lớn, quần áo rách rưới, tóc rất dài, giống như cha tôi vậy. Nhưng họ không nhận ra được mặt, vì mặt người chết chìm đã bị ngâm nước lâu ngày nên bị rữa ra, không còn ra hình nét gì nữa. Họ nói rằng xác chết ấy nổi ngửa lên trên mặt nước, sau đó họ vớt lên, đem đi chôn ngay bên bờ sông. Tôi rất áy náy vì tôi chợt nghĩ đến một số chi tiết trong vụ này. Tôi biết khá rõ rằng một người đàn ông chết chìm không bao giờ nổi ngửa, mà thường nổi sấp, úp mặt xuống nước. Tôi cũng nghĩ rằng xác ấy không phải của cha tôi mà của một người đàn bà mặc quần áo đàn ông. Thế là tôi đâm ra lo sợ rằng cha tôi sẽ trở về một lúc nào đó, điều mà tôi không mong muốn một chút nào.

Trong khi ấy, chúng tôi vẫn tiếp tục chơi trò ăn cướp, thỉnh thoảng lại làm một vụ trong suốt một tháng, rồi tất cả chúng tôi đều "từ chức". Thật ra, chúng tôi chẳng ăn cướp của ai, chưa hề giết một người nào, mà chỉ giả vờ làm như thế thôi. Chúng tôi thường từ bên trong rừng nhảy xổ ra tấn công những người chở heo, những bà đẩy xe rau ra chợ bán, nhưng chẳng bao giờ lùa người nào vào hang cả. Tom Sawyer gọi các con lợn ấy là "thỏi vàng", rau quả là "đồ châu báu", sau đó, chúng tôi trở về hang, mở hội nghị kiểm điểm thành tích: cướp được bao nhiêu của, giết và ghi dấu được bao nhiêu người. Nhưng tôi thấy chúng tôi chẳng được lợi lộc gì thực sự trong các vụ ấy cả. Một hôm Tom sai một thằng bé chạy khắp thị trấn với một cây đuốc trong tay (đó là dấu hiệu tập họp của băng chúng tôi), sau đó hắn nói cho chúng tôi biết hắn được mật báo rằng ngày hôm sau sẽ có một toán thương nhân Tây Ban Nha và Ả Rập giàu có đến đóng tại Hang Trũng với hai trăm voi, sáu trăm lạc đà, trên một nghìn lừa, tất cả đều chất đầy kim cương, nhưng chỉ có một đội cảnh vệ chừng bốn trăm tên. Nhiệm vụ của chúng tôi là phục kích để cướp và giết toán người ấy. Hắn ra lệnh cho chúng tôi lau chùi vũ khí sẵn sàng. Ngay cả việc đuổi theo một chiếc xe chở củ cải, hắn cũng không bao giờ có thể làm, ấy thế mà mọi thứ súng, gươm phải được lau chùi cẩn thận để chuẩn bị cho cuộc phục kích này, dù đó chỉ là những thanh gỗ và cán chổi, có chùi đến hết đời cũng không khá hơn thêm được chút nào. Tôi không tin rằng chúng tôi có thể tiêu diệt cả một toán người Tây Ban Nha và Ả Rập, nhưng vì mong muốn được thấy tận mắt voi và lạc đà, nên tôi có mặt vào ngày thứ bảy hôm sau để tham dự cuộc phục kích. Vừa được hiệu lệnh, chúng tôi nhảy xổ ngay ra khỏi rừng, chạy như bay xuống đồi. Nhưng chẳng thấy Tây Ban Nha hay Ả Rập đâu cả, cũng không có lạc đà và voi, mà chỉ thấy một toán con nít của lớp truyền giáo ngày chủ nhật đi cắm trại. Chúng tôi đánh phá bọn chúng, đuổi lũ con nít này chạy tán loạn khắp thung lũng, nhưng chẳng cướp được của cải gì, ngoài mấy chiếc bánh ngọt và mứt. Thằng Ben cướp được một con búp bê bằng vải, thằng Joe thu được chiến lợi phẩm gồm một cuốn sách hát và một bài giảng kinh thánh. Sau đó, ông thầy giáo của bọn con nít trở lại tấn công chúng tôi, làm cho cả băng chúng tôi phải bỏ lại tất cả mọi thứ, cắm đầu cắm cổ chạy về. Tôi không thấy kim cương đâu cả, bèn hỏi Tom, thì hắn nói rằng có vô số. Lại có cả những người Ả Rập, voi và đủ tất cả mọi thứ nữa. Tại sao tôi không thấy nhỉ? Hắn bảo tôi quá ngu dốt, chưa hề bao giờ đọc cuốn "Đôn Kihôtê", nên mới hỏi những câu ngớ ngẩn như thế. Tất cả đều là do phù phép mà ra cả. Hắn nói rằng có hàng trăm tên lính, voi, lừa, vàng bạc châu báu, đủ tất cả mọi thứ, nhưng kẻ thù là những tay phù thuỷ cao tay nên đã biến tất cả mọi thứ thành những đứa con nít đi cắm trại ngày chủ nhật để đánh lừa chúng ta thôi. Tôi bảo, nếu như vậy thì mình cũng phải mời phù thuỷ đến chứ sợ gì. Tom liền nhiếc tôi là một thằng ngu xuẩn. Hắn nói:

"Lão phù thuỷ có thể gọi rất nhiều âm binh đến xé xác chúng mày ra từng mảnh, chết không kịp ngáp, mày hiểu không? Chúng cao bằng cả cái cây và to lớn như ngôi nhà thờ ấy."

"Thế thì mình cũng gọi âm binh lên tiêu diệt bọn chúng, không được hay sao?"

"Mày làm thế nào mà gọi âm binh được?"

"Tao không biết. Thế gọi chúng bằng cách nào?"

"Chúng sờ vào một cây đèn cũ làm bằng thiếc hay một cái vòng sắt gì đó, thế là âm binh nhảy xổ đến, với sấm, sét, chớp, khói, đủ mọi thứ. Bảo chúng nó làm cái gì là chúng làm ngay tức khắc, bất kể khó khăn như thế nào. Đối với chúng thì cái việc nhổ bật cái tháp đúc đạn chì lên rồi đập vào đầu ông giám đốc lớp truyền giáo ngày chủ nhật - hay bất cứ ai - đều dễ dàng như trở bàn tay vậy."

"Ai sai chúng nó nhảy xổ đến như thế?"

"Người sờ vào cây đèn hay vòng sắt chứ còn ai nữa. Những bọn âm binh ấy thuộc về kẻ nào sờ cây đèn hay vòng sắt. Người ấy bảo chúng nó làm cái gì thì chúng nó phải làm cái ấy. Nếu bảo chúng nó xây một toà lâu đài dài bốn mươi dặm, nhét đầy kẹo cao su hay bất cứ thứ gì mày muốn, hoặc bảo nó đi tìm nàng công chúa nước Trung Hoa đem về làm vợ, thì chúng sẽ phải thi hành ngay. Tất cả mọi thứ sẽ hoàn tất trước khi mặt trời mọc sáng hôm sau. Lại còn hơn thế nữa: nếu mày muốn chúng bê cả toà lâu đài đi khắp nơi trong xứ, đến bất cứ chỗ nào mày muốn, chúng cũng làm được, mày hiểu chưa?"

"Tao nghĩ những tên âm binh ấy ngu như bò nên không biết giữ các lâu đài ấy cho mình, lại đem vung vãi khắp nơi như thế. Nếu tao là một trong các tên âm binh ấy, tao sẽ cho cái thằng kia đi chơi chỗ khác, chứ tội gì bỏ công việc đi mà đến hầu hạ hắn chỉ vì hắn đã sờ vào một cây đèn thiếc cũ kĩ."

"Mày nói gì lạ vậy, Huck. Nếu mày là âm binh thì bắt buộc mày phải đến khi nào người ta sờ vào cây đèn, dù mày có muốn hay không cũng mặc."

"Trời! Tao cao như một cái cây, lớn bằng cái nhà thờ mà lại sợ à? Được rồi, tao sẽ đến, nhưng tao sẽ bắt thằng sờ vào cây đèn ấy phải trèo lên một ngọn cây cao nhất trong xứ."

"Mẹ kiếp! Nói chuyện với mày thì thà vạch đầu gối ra nói còn hơn Huck ạ. Dù nói bằng cách nào, mày cũng chẳng hiểu được tí tẹo nào cả. Đúng là hạng ngu xuẩn hoàn toàn."

Tôi suy nghĩ về việc này suốt hai ba ngày, cuối cùng tôi quyết định phải thử nghiệm xem sao. Tôi bèn lấy một cây đèn bằng thiếc cũ và một cái vòng sắt, rồi đi vào trong rừng, ngồi sờ đi sờ lại cho đến khi mồ hôi vã ra như tắm, trong lòng dự tính xây một toà lâu đài rồi sẽ đem bán đi lấy tiền tiêu xài. Nhưng vô ích, chẳng có âm binh nào đến cả. Tôi cho rằng đây chỉ là một trong các trò láo khoét của Tom mà thôi. Cũng có lẽ hắn tin rằng có bọn Ả Rập và voi thật chăng, nhưng đối với tôi thì hoàn toàn khác hẳn. Nhóm người chúng tôi gặp hôm ấy có đầy đủ dấu hiệu của một lớp truyền giáo ngày chủ nhật.

Chương IV

Lời tiên tri

Ba, bốn tháng đã trôi qua, thời tiết đã sang hẳn mùa đông. Tôi đã đi đến trường học và có thể đọc, viết chút đỉnh, có thể đọc bản cửu chương như là sáu lần bảy là ba mươi lăm. Đến đây thì tôi coi như là đủ rồi, không thể đi xa hơn nữa nếu còn muốn sống lâu. Tôi vốn không tin tưởng lắm vào môn toán học.

Thoạt tiên, tôi ghét đến trường, nhưng rồi dần dần thấy mình cũng có thể chịu đựng được. Khi nào mệt mỏi quá thì trốn học đi chơi, và sau những lần như thế thì ngày hôm sau lại thấy vui tươi, khoẻ khoắn hơn. Thế cho nên, càng đi học tôi lại càng thấy dễ chịu. Tôi cũng đã bắt đầu quen với lối sống của bà quả phụ, nên cảm thấy đỡ khó chịu hơn trước. Phải luôn ở trong nhà và ngủ trên giường nhiều khi cũng làm cho tôi ngột ngạt nhưng trước khi thời tiết lạnh bắt đầu, thỉnh thoảng tôi lại lén vào ngủ trong rừng, ấy là những lúc tôi cảm thấy vô cùng thoải mái. Tôi vẫn thích những lối sống cũ của tôi, nhưng dần dà cũng ưa lối sống mới, dẫu chỉ một chút ít thôi. Bà quả phụ bảo tôi đã có tiến bộ, tuy chậm chạp nhưng chắc chắn. Bà không còn phải hổ thẹn vì tôi nữa.

Một buổi sáng, tôi vô ý làm đổ lọ muối, lúc ăn sáng. Tôi vội vàng vớ lấy một nắm, ném qua vai trái để xả xui, nhưng cô Watson, lanh lẹ hơn, đã ngăn tôi lại. "Bỏ tay ra, Huck, lúc nào mày cũng làm bẩn tất cả mọi thứ". Bà quả phụ nói một vài lời nhẹ nhàng hộ cho tôi, nhưng không làm cho tôi bớt lo lắng về sự xui xẻo có thể xảy đến với tôi. Tôi biết điều này khá rõ, cho nên sau bữa ăn sáng, người tôi run lên vì lo sợ, không biết tai hoạ gì sẽ đến với tôi và ở nơi nào. Có nhiều cách để xả xui nhưng đó không phải là cách thích hợp và có hiệu quả. Nghĩ vậy, tôi không thiết làm gì nữa mà chỉ đờ đẫn lang thang đây đó để mà âu sầu chờ đợi.

Tôi đi xuống vườn trước nhà, bước lên bục gỗ để trèo qua hàng rào gỗ cao. Tuyết đã phủ một lớp dày chừng hai phân trên mặt đất cho nên tôi nhìn thấy rõ vết chân của một kẻ nào đó mới đi trên tuyết. Những vết chân ấy từ chỗ khai thác đá đi tới, dừng lại ở bục gỗ dùng để ra vào qua hàng rào, rồi lại đi dọc theo hàng rào xung quanh vườn, nhưng điều kì lạ là kẻ nào đó không vào hẳn trong nhà mà cứ quanh quẩn ở đấy. Thật không tài nào hiểu được. Kì lạ quá. Trước hết, tôi cúi xuống xem kĩ vết chân ấy. Lúc đầu thì tôi không thấy gì, nhưng xem kĩ lại thì tôi nhận ra ngay. Có một dấu chữ thập ở gót giày bên trái làm bằng đinh to để đuổi ma quỷ.

Tôi đứng thẳng dậy chỉ trong một giây đồng hồ, rồi bò bằng cả tay lẫn chân xuống đồi. Thỉnh thoảng tôi lại quay đầu lại nhìn phía sau, nhưng không thấy ai. Tôi cố đi thật nhanh đến nhà ông thẩm phán Thatcher. Trông thấy tôi, ông liền hỏi:

"Đi đâu mà thở hổn hển thế cháu. Cháu đến lấy tiền lời, phải không?"

"Dạ không. Đã có tiền lời rồi sao bác?"

"Ồ, có chứ. Người ta gửi tiền lời nửa năm đến tối hôm qua - tất cả trên một trăm năm mươi đô la. Một số tiền lớn lắm đấy. Cháu nên để cho bác đầu tư số tiền này cho cháu, cùng với sáu nghìn đô la tiền vốn, còn hơn là cháu cầm tiền tiêu phí đi."

"Không, cháu không tiêu đâu. Cháu cũng chẳng cần số tiền lời ấy, cả sáu nghìn đô la kia nữa. Cháu muốn bác cầm lấy. Cháu muốn cho bác tất cả - cả sáu nghìn đô la lẫn tiền lời."

Ông thẩm phán có vẻ ngạc nhiên, không thể nào hiểu nổi. Ông nói:

"Cháu nói như thế là ý thế nào?"

"Cháu xin bác đừng hỏi cháu câu nào nữa. Bác cầm lấy cho cháu chứ?"

"Thế này thì bác chịu thua rồi, không hiểu gì hết. Cháu có chuyện gì thế?"

"Xin bác nhận lấy cho cháu và đừng hỏi thêm câu nào nữa cả, nếu bác không buộc cháu phải nói dối."

Ông suy nghĩ một lát, rồi nói:

"Ồ, bác hiểu ra rồi. Cháu muốn bán tài sản của cháu cho bác - chứ không phải là cho không. Đúng thế chứ?"

Nói xong, ông viết gì đó trên giấy, đọc lại một lần nữa, rồi bảo:

"Giấy này có ghi thêm một dòng chữ "Sẽ trả đủ tiền". Như thế có nghĩa là bác đã mua lại của cháu và có trả tiền. Đây là một đô la trả cho cháu. Bây giờ cháu kí đi."

Tôi kí vào giấy rồi ra về.

Người nô lệ da đen của cô Watson, Jim, có một cuộn tóc to bằng nắm tay, lấy ra từ cái dạ dày thứ tư của một con bò. Hắn thường dùng cuộn tóc ấy làm phù phép. Theo lời hắn nói, trong cuộn tóc ấy có thần linh, biết trước được tất cả mọi sự. Vì vậy, tối hôm ấy, tôi đến nói với hắn rằng cha tôi đã trở lại, vì tôi thấy vết giày của ông in trên tuyết. Tôi muốn nhờ hắn hỏi xem ông ta dự định làm gì và sẽ ở đây bao lâu nữa. Jim lấy cuộn tóc ra, thì thầm điều gì trên ấy, rồi thả nó rơi xuống đất. Cuộn tóc rơi đánh chạch một cái rồi lăn đi chừng hai phân. Jim làm đi làm lại như thế mấy lần, nó vẫn rơi giống như thế. Jim quì xuống, rồi đặt tai lắng nghe. Nhưng vô ích, cuộn tóc vẫn không chịu nói. Hắn bảo nhiều khi phải có tiền nó mới chịu nói. Tôi nói tôi có một đồng hào giả, không dùng làm gì được vì lớp bạc đã tróc đi rồi, để lộ ra cái cốt bằng đồng bên dưới. Nhưng cho dù lớp bạc không bị tróc đi chăng nữa thì cũng không qua mắt ai được vì nó trơn tru như bôi mỡ, ai cũng có thể nhận ra là đồng hào giả (Tôi nghĩ rằng tôi không nên nói gì về đồng đôla ông thẩm phán mới đưa cho tôi). Tôi nói rằng, tuy thế, cái cuộn tóc có lẽ sẽ nhận vì nó không phân biệt được đâu. Jim ngửi, cắn, mân mê đồng hào giả, và nói rằng sẽ cố hết sức làm sao cho cuộn tóc tưởng lầm là đồng hào thật. Hắn sẽ xẻ một củ khoai tây, nhét đồng hào vào đấy, để đó suốt đêm, đến sáng hôm sau sẽ không còn thấy lớp đồng và sẽ không trơn như mỡ nữa. Như thế, người nào trong thị trấn cũng sẽ tưởng là đồng tiền thật, chứ không riêng gì cái cuộn tóc. Quả thực tôi đã biết công dụng của củ khoai tây như thế, nhưng đã quên khuấy mất.

Jim đặt đồng hào dưới cuộn tóc rồi quì xuống lắng nghe. Lần này thì cuộn tóc nhận lời sẽ nói cho tôi biết tương lai, nếu tôi yêu cầu. Tôi đồng ý. Thế là cuộn tóc nói riêng với Jim, rồi sau đó, Jim kể lại cho tôi như thế này:

"Cha cậu không biết ông ta sẽ làm gì. Lúc thì ông nói ông sẽ đi, lúc thì nói sẽ ở lại. Tốt nhất là cứ yên tâm, mặc kệ ông ta muốn làm gì thì làm. Hiện giờ đang có hai vị thiên thần bay nhảy xung quanh ông. Một vị thiên thần thì màu trắng và sáng sủa, vị kia thì đen đủi. Thiên thần trắng bảo ông làm điều phải được một lúc, rồi thiên thần đen lại bay đến làm hỏng tất cả mọi thứ. Chưa biết ai sẽ lôi được ông ta đi. Nhưng về phần cậu thì vẫn được an toàn. Cậu sẽ gặp nhiều khó khăn cũng như nhiều may mắn trong cuộc đời. Lúc thì cậu bị thương, lúc thì ốm đau, nhưng rồi sau đó cậu lại khoẻ mạnh trở lại. Có hai nàng con gái bay xung quanh cậu suốt cuộc đời. Một người thì trắng, người kia thì đen. Một người giàu, người kia nghèo. Trước hết cậu sẽ cưới người nghèo làm vợ, sau đó sẽ lấy người giàu. Cậu cần phải cố gắng tránh xa sông nước và đừng có liều lĩnh, nếu xảy ra trường hợp người ta đã ra yết thị nói rằng cậu sắp sửa bị treo cổ."

Khi tôi thắp đèn lên, đi vào phòng đêm hôm ấy thì đã thấy cha tôi - bằng xương bằng thịt - đang ngồi lù lù ở đấy rồi!

Chương V

Cha trở về

Tôi đã đóng kĩ cửa phòng khi đi ra. Nhưng giờ đây, khi tôi quay trở lại thì cha tôi đã ngồi đấy, ngay trong phòng tôi tự bao giờ. Xưa nay, tôi vẫn sợ cha tôi vì ông hay đánh tôi dữ lắm. Bây giờ, tôi nghĩ rằng tôi cũng vẫn còn sợ. Nhưng chỉ trong một phút sau đó, tôi thấy tôi đã lầm. Thật ra, đó chỉ là một cơn giật mình lúc ban đầu, khi hơi thở tôi bị ngưng lại phút chốc vì quá bất ngờ, nhưng ngay sau đó, tôi không còn thấy sợ ông nữa, ông không đáng làm cho tôi phải lo lắng đến như thế.

Cha tôi trạc năm mươi tuổi. Tóc ông dài, rối bù và mỡ màng, rủ xuống mặt, khiến cho đôi mắt ông giống như đang nhìn qua một bụi cây leo. Tóc ông toàn một màu đen, chứ không bạc, cùng một màu với bộ râu quai nón dài, lởm chởm. Ở nơi nào còn chừa ra da mặt thì chỗ ấy hầu như không có màu sắc. Da thì trắng, nhưng không phải là màu trắng giống như da người khác, mà là một thứ màu trắng khiến cho ai thấy cũng phải rợn người - màu trắng của bụng cóc hay bụng cá gì đó. Còn quần áo của ông thì đúng là giẻ rách. Ông ngồi vắt chân chữ ngũ, một mắt cá chân tựa lên đầu gối chân kia. Chiếc giày trên bàn chân ông bị rách, thòi ra hai ngón chân cứ ngó ngoáy liên hồi. Chiếc mũ của ông để trên sàn nhà là một thứ mũ cũ kĩ màu đen có vành bẻ cong lên và chap mũ trũng xuống trông giống như một cái nắp đậy.

Tôi đứng nhìn ông, còn ông cũng ngồi đó nhìn tôi, hơi ngả chiếc ghế về phía sau một chút. Tôi đặt cây nến xuống, để ý thấy cánh cửa sổ đã được kéo lên. Thì ra, cha tôi đã leo lên mái nhà xép, trèo qua cửa sổ để vào phòng tôi. Ông nhìn tôi từ đầu đến chân, rồi nói:

"Chà, quần là áo lượt nữa chứ! Mày tưởng mày bây giờ quan trọng lắm phải không?"

"Có thể thế, mà cũng có thể không phải thế", tôi nói.

"Câm họng mày lại, nghe chưa? Thì ra từ lúc vắng tao, mày ăn mặc đẹp đẽ như thế đấy. Tao phải làm cho mày bớt huênh hoang đi đã, rồi sẽ cho mày biết tay tao. Họ còn nói mày bây giờ đi học, lại còn biết đọc biết viết nữa chứ. Mày tưởng mày giỏi hơn cha mày rồi, bởi vì tao không biết những thứ ấy, phải không? Rồi tao sẽ moi tất cả các thứ ấy ra khỏi cái đầu của mày. Ai cho phép mày dính dáng đến các trò điên rồ, nhảm nhí ấy hở? Ai xúi giục mày?"

"Bà quả phụ bảo con thế."

"Bà quả phụ hả? Ai cho phép bà ấy chõ mũi vào công việc của người khác thế?"

"Chẳng ai bảo bà làm thế cả."

"Thế thì tao sẽ cho bà ấy một bài học. Nghe tao nói đây này. Mày phải bỏ học, nghe chưa? Tao sẽ dạy một bài học cho những kẻ nào xúi giục trẻ con lên mặt giỏi giang hơn bố nó. Từ nay tao thấy mày còn luẩn quẩn ở cái trường học ấy thì sẽ biết tay tao, hiểu chưa? Mẹ mày đâu có cần biết đọc, biết viết. Chẳng có một người nào trong gia đình mày biết những thứ ấy cả cho đến lúc họ chết. Tao cũng thế. Vậy mà mày dám ưỡn ngực ra lên mặt với tao. Tao không thể chịu đựng được như vậy đâu, nghe không? Bây giờ, mày thử đọc cho tao nghe thử."

Tôi lấy một cuốn sách, đọc lên một đoạn, hình như nói về Washington và các cuộc chiến tranh thì phải. Tôi đọc được nửa phút thì cha tôi giằng lấy cuốn sách, vứt ra xa, rồi nói:

"Mày đọc được thực. Lúc nãy mày nói thế, tao vẫn còn ngờ. Nói cho mày nghe này: từ nay mày phải bỏ những thứ rởm đời ấy, hiểu không? Tao không thích thế. Tao sẽ rình xem mày có nghe tao không. Nếu tao thấy mày còn lởn vởn quanh trường học ấy nữa, tao sẽ lột da mày ra. Hơn thế nữa, mày cũng biết rồi đây mày còn phải theo đạo nữa chứ. Tao không bao giờ muốn thấy một đứa con trai nào như vậy cả."

Ông cầm lấy một bức tranh có vẽ hình mấy con bò với một đứa trẻ, rồi hỏi:

"Cái này là cái gì?"

"Người ta cho con cái ấy để học bài cho chóng thuộc đấy."

Ông cầm lấy bức tranh, xé toạc, rồi nói:

"Tao sẽ cho mày một thứ hay hơn thế - một cái roi bằng da bò."

Sau đó, ông ngồi lẩm bẩm một hồi rồi nói:

"Mày bây giờ ăn diện, thơm tho quá nhỉ. Nào là giường nệm, gương soi mặt, thảm trải dưới chân, đủ thứ sang trọng, trong khi bố mày phải ngủ với lợn trong xưởng thuộc da. Tao chưa hề thấy đứa con nào như thế. Tao sẽ làm cho mày bỏ hết các thứ rởm đời ấy đi, rồi sẽ cho mày biết tay. À, như thế cũng chưa hết đâu - tao lại còn nghe người ta nói độ này mày giàu lắm kia mà. Đầu đuôi câu chuyện ấy thế nào, hở?"

"Họ nói láo đấy, chứ chẳng có "đầu đuôi" gì hết."

"Này, mày ăn nói với tao như thế hả? Tao chịu đựng đến thế là hết mức rồi. Đừng có nói hỗn. Tao đến cái thị trấn này hai ngày rồi, ai cũng bảo với tao rằng mày bây giờ giàu lắm. Dưới mạn sông người ta cũng nói thế. Vì thế tao mới đến đây. Ngày mai mày đưa tiền cho tao, nghe không? Tao đang cần."

"Con không có tiền."

"Láo! Ông thẩm phán Thatcher đang giữ tiền của mày. Mày đến lấy cho tao. Tao đang cần."

"Con không có tiền thật mà. Bố cứ hỏi ông Thatcher thì biết."

"Được rồi. Tao sẽ hỏi ông ấy. Bây giờ mày có bao nhiêu tiền trong túi nào?"

"Con chỉ có một đôla để ..."

"Tao không cần biết mày dùng để làm gì. Cứ lấy ra cho tao."

Ông cầm lấy đồng tiền, ghé răng cắn thử xem thật hay giả, rồi bảo sẽ đi xuống phố uống whisky, vì cả ngày hôm ấy chưa được giọt nào vào cổ. Khi ông trèo qua cửa sổ xuống nhà xép, ông còn ló đầu vào chửi tôi về những thói rởm đời muốn qua mặt cha rồi mới chịu đi. Tôi tưởng ông đã đi hẳn rồi, nhưng không phải thế. Ông lại còn quay lại lần nữa nhắc tôi về chuyện đi học, bảo rằng ông sẽ rình và sẽ cho tôi một trận nếu không chịu bỏ học.

Ngày hôm sau, cha tôi say khướt, đi đến nhà ông Thatcher hăm doạ để buộc ông phải đưa số tiền của tôi, nhưng không được. Cha tôi thề sẽ đưa ông Thatcher ra toà để lấy số tiền ấy.

Ông thẩm phán và bà quả phụ cũng làm đơn xin toà tách tôi ra khỏi cha tôi và cho phép một trong hai người được làm giám hộ cho tôi. Nhưng quan toà là một người mới đến, chưa rõ về cha tôi, nên tuyên bố rằng toà án không có quyền can thiệp để chia rẽ gia đình, không thể để cho đứa trẻ phải tách rời với cha ruột của nó. Ông thẩm phán Thatcher và bà quả phụ đành phải bỏ qua chuyện này, không còn dám đả động đến nữa.

Cha tôi rất vui mừng về chuyện này, đến nỗi ông không ở yên nổi. Ông doạ sẽ đánh đập tôi bằng roi da cho đến lúc tím bầm cả người nếu tôi không chịu làm ra tiền cho ông. Tôi phải mượn ba đôla của ông Thatcher để đưa cho ông uống rượu. Đến khi say mèm, ông đi khắp nơi, chửi rủa, la hét, rồi vác một cái xoong bằng thiếc gõ phèng phèng khắp phố xá cho đến tận nửa đêm. Người ta nhốt ông lại, sáng hôm sau đưa ra toà, rồi bỏ tù ông một tuần lễ. Nhưng ông nói ông rất hài lòng vì đã làm chủ được thằng con trai, và hắn sẽ làm cho ông được "ấm lòng".

Khi cha tôi ra khỏi tù, ông thẩm phán mới nhậm choc nói rằng ông đủ sức cải tạo được cha tôi. Ông bèn đưa cha tôi về nhà ông, cho mặc quần áo sạch sẽ, đẹp đẽ, mời ăn sáng, ăn trưa, ăn tối cùng với gia đình, đối xử như là một người bạn chí tình, nếu có thể nói như vậy. Sau bữa ăn tối, ông nói với cha tôi về tác hại của việc nghiện rượu, khuyên phải giữ gìn sự tiết độ và nhiều điều khác nữa, đại khái như thế, khiến cho cha tôi mủi lòng khóc rưng rức. Cha tôi nói rằng ông đã dại dột không biết đến những điều ấy đến nỗi làm hư hỏng cả cuộc đời, nhưng từ nay ông hứa sẽ sống một cuộc đời mới, sẽ trở thành một người tốt, không còn làm cho ai phải hổ thẹn vì mình nữa. Thế rồi cha tôi kêu gọi sự giúp đỡ của ông thẩm phán, xin ông ta đừng có khinh rẻ ông mà tội nghiệp. Ông thẩm phán nói ông chỉ muốn ôm cha tôi mà hôn vì những lời lẽ hay ho ấy, thế rồi ông thẩm phán khóc, bà thẩm phán cũng khóc. Được thể, cha tôi lại nói thêm rằng ông là một kẻ luôn luôn bị người đời hiểu lầm. Ông thẩm phán nghe như vậy tin tưởng lắm. Cha tôi nói, điều mà người ta mong mỏi nhất trên cõi đời này là sự thông cảm lẫn nhau. Ông thẩm phán cũng đồng ý. Thế rồi mọi người đều mủi lòng, khóc rưng rức. Đến giờ đi ngủ, cha tôi đứng dậy, chìa bàn tay ông ra, rồi nói:

"Xin các ông bà hãy nhìn cái bàn tay này. Hãy cầm lấy nó, hãy lay nó thật mạnh. Trước kia, đó là bàn tay của một con lợn, nhưng bây giờ thì không phải như thế nữa. Bây giờ nó là bàn tay của một kẻ đã bước vào cuộc đời mới, cho đến chết cũng không trở lại vết xe cũ nữa. Hãy ghi nhớ những lời này và xin đừng có quên là chính tôi đã nói ra những lời ấy. Bây giờ, nó là bàn tay sạch sẽ - hãy cầm lấy nó, xin đừng sợ hãi."

Thế rồi, người này kế tiếp người khác bắt tay cha tôi mà ứa nước mắt. Riêng bà thẩm phán thì cầm lấy bàn tay của cha tôi hôn lấy hôn để. Thế rồi cha tôi kí vào tờ cam đoan - cố nhiên là ông chỉ quệt một cái dấu gì đó gọi là chữ kí. Ông thẩm phán tuyên bố rằng đó là giờ phút thiêng liêng nhất đáng ghi lại trong lịch sử - hay là đại khái như thế. Sau đó, họ mời cha tôi đến nghỉ tại một căn phòng rất đẹp, dành riêng cho khách. Tối hôm ấy, cha tôi thấy thèm rượu ghê gớm. Ông bèn trèo ra ngoài, xuống mái hiên phía trước nhà, rồi tụt xuống một cây cột để đi ra phố. Ông đổi cái áo mới lấy một bình rượu rồi trèo về phòng, tha hồ nhậu nhẹt. Đến gần sáng ông say sưa bí tỉ, lại trèo ra một lần nữa, nhưng lần này thì ông lăn kềnh từ mái hiên xuống đất, gãy hai nơi trên cánh tay trái. Cho mãi đến sáng hôm sau người ta mới tìm thấy ông nằm ở ngoài hiên, suýt chết cứng vì rét. Khi mọi người vào xem căn phòng cha tôi vừa ngủ đêm qua thì ai nấy đều phải dọ dẫm từng bước mới đi được vì quá hỗn độn, bẩn thỉu.

Ông thẩm phán vô cùng thất vọng, nói rằng một người như cha tôi thì có lẽ chỉ có thể cải tạo được bằng một khẩu súng, chứ ông không thấy có biện pháp nào hay hơn được.

Chương VI

Cuộc vật lộn với thần chết

Vừa mới đứng dậy đi lại được, cha tôi liền đến các toà án tìm ông thẩm phán Thatcher để đòi số tiền ấy, sau đó lại đi tìm tôi vì tôi không bỏ học. Một đôi lần ông bắt được tôi, quất tôi rõ đau, nhưng tôi vẫn cứ đi học như thường, nhiều khi lẩn tránh hay chạy thoát được. Trước đây thì tôi chẳng thích đi học mấy, nhưng bây giờ thì tôi phải đi học để trêu ngươi cha tôi. Vụ kiện ở toà án kéo dài lê thê, dường như không bao giờ được khởi sự, cho nên thỉnh thoảng tôi cũng vay ông Thatcher được vài ba đôla để khỏi bị đánh đập. Cứ mỗi lần có tiền thì cha tôi lại nhậu nhẹt, mỗi lần nhậu nhẹt thì lại gây náo động khắp thị trấn, rồi cứ mỗi lần gây náo động lại là một lần bị nhốt. Ông thích hợp với lối sống như thế - chỉ có lối sống ấy mới đúng đường lối của ông.

Cha tôi cứ lởn vởn xung quanh nhà bà quả phụ, đến nỗi bà này phải doạ, nếu ông không chịu đi nơi khác, bà sẽ gây khó dễ cho ông. Thế là cha tôi nổi sùng lên, tuyên bố ông sẽ cho mọi người biết ai là chủ nhân thực sự của thằng Huck. Một hôm vào mùa xuân, ông rình bắt được tôi, đưa tôi đi ngược dòng sông chừng ba dặm trên một chiếc xuồng, rồi vượt sông sang đến bờ Illinois. Nơi này toàn là rừng rậm, không có nhà cửa nào, ngoài một căn chòi gỗ cũ kĩ. Nếu không biết, không ai có thể nhận ra được căn chòi ấy vì cây cối ở đây quá rậm rạp.

Ông giữ tôi ở đấy suốt ngày đêm, không còn có cơ may nào trốn thoát. Chúng tôi sống trong căn chòi cũ kĩ ấy, nhưng cha tôi luôn luôn khoá cửa ra vào, đến đêm thì đặt chiếc chìa khoá ngay dưới đầu. Cha tôi có một khẩu súng, có lẽ đã ăn trộm được của ai. Nhờ đó, chúng tôi sống qua ngày bằng cách săn bắn và câu cá. Thỉnh thoảng, cha tôi nhốt tôi lại, rồi đi xuống phố, cách đó ba dặm, để đổi cá và thịt rừng lấy rượu whisky đem về nhậu nhẹt say sưa, sau đó lại đem tôi ra mà nện. Đã có lần, bà quả phụ biết được nơi tôi ở, liền cho người đến bắt tôi về, nhưng cha tôi đã dùng súng đuổi người này đi. Nhưng chẳng bao lâu sau đó, tôi bắt đầu quen với cuộc sống ở đây, nên cũng thấy thích - chỉ không thích cái roi da của cha tôi mà thôi.

Tôi được tự do thoải mái suốt ngày, chẳng phải làm gì, chẳng lo nghĩ gì, chẳng phải học hành, đọc sách vở gì cả, chỉ hút thuốc lá và đi câu. Hơn hai tháng trời trôi qua, quần áo tôi rách rưới, bẩn thỉu hết cả. Tôi tự hỏi không hiểu vì sao mà trước đây tôi lại thích lối sống ở nhà bà quả phụ. Ở đấy, lúc nào cũng phải giặt quần áo sạch sẽ, ăn cơm bằng đĩa, chải tóc, ngủ trên giường, sáng dậy đúng giờ giấc, lúc nào cũng phải ôm lấy sách vở đến phát ngấy, lại còn bị cô Watson la rầy luôn mồm. Tôi không còn muốn trở lại nơi ấy nữa. Trước đây, tôi đã phải ngưng chửi thề, bởi vì bà quả phụ không thích thế. Bây giờ thì tôi tha hồ mà chửi thề vì cha tôi không hề phản đối. Nói chung thì cuộc sống trong rừng này cũng khá thú vị.

Nhưng rồi, ngày qua tháng lại, cha tôi đã lạm dụng cây gậy của ông quá nhiều, khiến tôi không còn chịu đựng được nữa. Người tôi toàn là những vệt roi, vệt gậy. Hơn thế nữa, ông lại đi vắng luôn, và cứ mỗi lần đi là khoá chặt cửa lại, nhốt tôi ở bên trong. Một lần, ông vắng nhà luôn ba ngày liền. Tôi cảm thấy cô đơn ghê gớm, có lúc nghĩ rằng ông đã chết chìm nơi nào rồi, như thế tôi chẳng bao giờ ra khỏi nơi này được nữa. Tôi sợ hãi quá, nên dự tính phải tìm một phương cách nào đó để thoát khỏi nơi này. Nhiều lần tôi cố thoát ra ngoài, nhưng không nghĩ ra được cách nào. Không có một cái cửa sổ nào đủ lớn cho một con chó qua lọt. Ống lò sưởi thì quá hẹp. Cánh cửa lại quá dày, làm bằng những tấm gỗ chắc nịch. Cha tôi cẩn thận không để lại một con dao hay bất cứ thứ gì có thể dùng được. Tôi sục sạo khắp nơi đến hàng trăm lần. Hầu hết thời gian tôi dành cho công việc lùng kiếm này vì ngoài ra, không có việc làm nào khác để qua thì giờ. Nhưng cuối cùng, tôi cũng tìm ra được một thứ. Đó là một cái cưa gỗ đã rỉ sét, không có tay cầm. Cái cưa ấy nằm ngay giữa xà nhà và tấm gỗ lót dưới mái. Tôi liền bôi mỡ vào cho bớt rỉ rồi bắt đầu làm việc. Ở cuối căn chòi, ngay dưới chiếc bàn con có một tấm mền cũ đóng bằng đinh vào các cây gỗ để cho gió khỏi lọt vào qua các khe hở và làm tắt đèn. Tôi liền chui xuống gầm bàn, lật tấm mền lên, rồi cưa cây gỗ dưới đáy tường để chừa ra một lỗ đủ cho tôi qua lọt. Công việc này tốn rất nhiều thời gian, nhưng tôi làm được gần xong thì nghe tiếng súng cha tôi dội lại từ phía rừng. Tôi thu dọn sạch chỗ tôi đang cưa dở để không còn dấu vết, rồi bỏ tấm mền xuống che lại, cất chiếc cưa đi. Ngay lúc ấy, cha tôi bước vào nhà.

Cha tôi có vẻ không được vui. Ông mới vừa đi xuống phố và mọi việc đều hỏng cả. Luật sư của ông bảo rằng có thể thắng kiện, nếu toà án bắt đầu đem vụ này ra xử, nhưng lúc nào người ta cũng có cách trì hoãn. Chính ông Thatcher đã sử dụng đủ mánh khoé để kéo dài việc này. Cha tôi cũng nói thêm rằng còn có một phiên toà khác nữa để quyết định về việc giao tôi cho bà quả phụ nuôi dưỡng, và người ta bảo lần này thế nào bà cũng thắng kiện. Chuyện này làm cho tôi run lên cầm cập vì tôi không muốn trở về với bà quả phụ để rồi bị bó chân bó cẳng, hay là để trở thành con người "văn minh", như người ta vẫn thường nói. Tiếp đó, cha tôi nguyền rủa tất cả mọi thứ, tất cả mọi người, chửi đi chửi lại để không sót một người nào, những người ông biết tên và cả những người không biết tên, chửi riêng từng người rồi lại chửi tổng quát.

Ông nói ông muốn chờ xem bà quả phụ đến bắt tôi như thế nào, lúc bấy giờ ông sẽ đưa tôi đi đến một nơi xa, cách đấy sáu, bảy dặm, không ai có thể tìm ra được. Họ sẽ chán nản, rồi phải bỏ cuộc. Điều này lại càng làm tôi lo lắng hơn nữa. Nhưng chỉ một phút sau, tôi trấn tĩnh lại ngay vì biết rằng tôi sẽ không ở đây cho đến lúc ấy đâu.

Ông bảo tôi ra ngoài xuồng để khiêng các thứ về nhà. Trên xuồng có một bao bột mì nặng hơn hai chục kí, một đùi thịt mỡ, thuốc súng, gần hai chục lít rượu whisky, một cuốn sách và giấy báo cũ dùng để làm đạn. Tôi vác một số về nhà, rồi trở lại ngồi ở mũi xuồng, suy nghĩ. Tôi dự tính, khi bỏ trốn tôi sẽ mang theo khẩu súng và ít cái cần câu, rồi chạy vào rừng. Tôi sẽ không ở cố định một chỗ mà sẽ đi hết nơi này đến nơi khác, phần lớn là đi ban đêm, sẽ săn bắn và bắt cá để sinh sống, rồi sẽ đi đến một nơi thật xa để làm sao cho cha tôi và cả bà quả phụ nữa không thể tìm ra được. Tôi sẽ cưa xong khúc gỗ để trốn đi ngay đêm hôm ấy, vào lúc cha tôi đã say mèm. Tôi cứ ngồi suy nghĩ như thế không biết đã bao lâu, cho đến khi nghe tiếng cha tôi gọi từ xa, bởi tôi đang ngủ hay bị chết chìm rồi sao mà chưa về.

Tôi vác xong các thứ vào chòi thì trời cũng vừa tối. Trong khi tôi nấu cơm, cha tôi uống một vài hụm rượu cho ấm cổ rồi lại bắt đầu chửi rủa. Đêm qua ông đã say mèm ở ngoài phố, rồi ngủ lăn lóc trong các cống rãnh, nên bây giờ người ông lấm đầy bùn, trông thật thảm hại. Cứ mỗi lần men rượu bắt đầu ngấm, ông lại lên tiếng chửi rủa, thường là chửi chính phủ. Lần này, ông nói:

"Thế mà gọi là chính phủ à. Xem đây kìa. Chính phủ gì mà lại ra luật tách rời con cái khỏi cha mẹ của nó, con người ta rứt ruột đẻ ra, nuôi ăn cho lớn tốn bao nhiêu tiền bạc, công lao khó nhọc. Con người ta mới lớn lên, sắp sửa làm ra được tiền nuôi bố nó cho đỡ khổ thì đùng một cái, luật pháp lôi nó đi chỗ khác. Chính phủ gì mà lại như thế, hở? Chưa hết đâu. Luật pháp lại bênh vực cho cái lão Thatcher kia để hắn cướp tất cả tài sản của tao. Luật pháp gì mà lại bắt một người đáng giá đến sáu nghìn đôla hay hơn thế nữa phải chui rúc trong một cái chòi gỗ như thế này, phải mặc những thứ quần áo đến con lợn cũng còn chê. Thế mà gọi là chính phủ à? Con người chẳng có cái quyền lợi gì hết với chính phủ này. Nhiều lúc tao muốn bỏ cái xứ này mà đi cho rảnh. Phải, tao nói như thế đấy. Tao bảo thẳng tận mặt lão Thatcher như thế đấy. Mọi người đều nghe cả, mày cứ hỏi lại mà xem. Tao chỉ cần hai xu thôi là từ bỏ luôn cái xứ chết tiệt này, không bao giờ trở lại nữa. Đó, tao nói như thế đấy. Mày xem cái mũ tao kia kìa. Có đáng gọi là cái mũ hay không? Cứ đẩy cái chóp ấy lên rồi đội vào thì nó sụp đến tận cằm, thế là chẳng ra mũ mão gì nữa cả. Cứ như là chui vào cái ống nối bếp lò ấy. Thế mà một thằng giàu nhất cái thị trấn này như tao lại phải đội cái thứ mũ ấy đấy.

Phải rồi! Chính phủ này là tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Xem đấy. Cứ xem cái thằng da đen tự do mới từ Ohio đến đấy - hắn là một thằng da đen lai trắng, trắng gần bằng người da trắng ấy. Hắn mặc một cái áo sơ mi trắng không thể tả được, lại đội cái mũ bóng loáng. Thế mà hắn ăn mặc đẹp nhất cái thị trấn này đấy, đeo cả đồng hồ vàng, giày vàng, cầm chiếc can có cán nạm bạc - đúng là một lão già cự phú sang nhất tiểu bang này. Mày có biết không? Người ta bảo hắn là giáo sư dại học, nói được đủ các thứ tiếng, biết tất cả mọi thứ trên đời. Chưa hết đâu! Họ bảo, ở tiểu bang của hắn, hắn còn được đi bầu nữa chứ. Mày cứ nghĩ mà xem, cáu đất nước này rồi sẽ đi đến đâu? Hôm đi bầu lần trước đó, tao cũng dự định đi bầu nếu hôm ấy tao không say quá, nhưng rồi người ta bảo tao rằng ở một tiểu bang nào đó chúng nó cho phép người da đen tự do cũng đi bầu, thế là tao bỏ luôn, không thèm đi bầu nữa. Từ giờ đến chết tao cũng không đi bầu. Mọi người đều nghe tao nói cả đấy. Dộu thế đất nước này cũng đến hư hỏng mất thôi. Cứ xem cái thái độ lạnh lùng của thằng da đen ấy mà tức chết đi được. Phải đẩy hắn sang một bên, hắn mới chịu nhường đường cho tao đi. Tao bảo với mọi người rằng sao không đem cái thằng da đen ấy ra mà bán đấy giá cho rảnh. Thế rồi mày biết họ trả lời ra sao không? Họ bảo rằng hắn ở đây chưa đủ sáu tháng thì không thể đem ra bán đấu giá được. Đó là một thí dụ điển hình, mày thấy không? Một chính phủ mà phải đợi đến sáu tháng mới có quyền bán một tên da đen. Thế mà gọi là chính phủ, làm ra vẻ là chính phủ và cứ tưởng mình là chính phủ thật sự. Chính phủ gì mà phải khoanh tay bất động đến sáu tháng mới chộp được một thằng da đen tự do mặc áo sơ mi trắng toát, lang thang, ăn cắp vặt, đáng ghét."

Cha tôi vừa bước vừa chửi rủa mà không biết cặp giò loạng choạng của ông đang dẫn ông đến đâu cho đến lúc ông vấp phải cái vại đựng thịt heo muối, ngã lộn nhào, trầy cả hai bắp vế. Ông vẫn cứ tiếp tục chửi rủa nặng lời những người da đen và chính phủ, rồi thỉnh thoảng lại chửi luôn cả cái vại thịt muối. Ông nhảy choi choi bằng một chân xung quanh căn chòi, đổi hết chân này lại sang chân kia, cuối cùng ông đột nhiên đưa thẳng chân trái ra đá vào vại thịt muối một phát thật mạnh. Khổ một nỗi là ông tính không kĩ vì ông đã đá bằng cái chân có chiếc giày rách thòi hai ngón chân ra ngoài. Thế là ông rú lên một tiếng nghe đến sởn gai ốc, rồi ôm ngón chân nằm lăn lộn trên đất. Ông lại tiếp tục chửi rủa, nhưng lần này thì ông chửi rủa những việc làm của ông trước đó, rồi chửi cả chính ông nữa. Cha tôi đã từng để ý đến ông già Soweberry Hagar vào thời kì khá nhất của ông ta, cho nên cha tôi nói ông chửi luôn cả ông già ấy nữa, nhưng tôi cho rằng đó chỉ là một lối nói phóng đại, có lẽ như thế.

Sau bữa ăn tối, ông vớ lấy hũ rượu, khoe rằng ông có đủ rượu cho hai người uống thật say và một người say đến bất tỉnh nhân sự. Lối nói của ông thường là như thế. Tôi tính toán rằng chỉ độ một giờ nữa thôi là cha tôi sẽ say mèm, không còn thấy trời đất là gì nữa, lúc bấy giờ tôi sẽ ăn cắp chiếc chìa khoá hoặc tôi sẽ cưa tấm gỗ rồi chạy ra ngoài, một trong hai cách ấy. Cha tôi cứ uống, uống mãi, rồi cuộn mình vào trong chăn, nằm lăn xuống đất. Nhưng dịp may chưa đến với tôi. Ông vẫn chưa ngủ say, mà cứ nằm đấy trằn trọc, rên rỉ, lúc lăn sang bên này lúc sang bên kia, như thế thật lâu. Cuối cùng, tôi cũng thấy buồn ngủ quá, không còn chống mắt lên nổi nữa, rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết, trong khi ngọn nến vẫn còn đang cháy.

Không biết tôi đã ngủ được bao lâu thì đột nhiên một tiếng thét hãi hùng làm tôi vụt đứng phắt dậy. Tôi thấy cha tôi đang điên cuồng chạy nhảy khắp nhà, miệng kêu rắn, rắn luôn mồm. Ông nói rắn đang bò lên chân ông, rồi nhảy dựng lên, la hét om sòm. Tiếp đó ông lại nói nó cắn ở má, nhưng tôi chẳng thấy rắn đâu cả. Ông lại chạy vòng quanh, miệng la hét ầm ĩ: "Vứt nó đi cho tao! Vứt nó đi! Nó đang cắn ở cổ tao đây này!" Tôi chưa hề thấy ai có cặp mắt dễ sợ như cha tôi lúc bấy giờ. Một lát sau, ông mệt lử người, ngã xuống thở dốc, rồi lại lăn qua lăn lại thật nhanh, chân đá vung lên khắp mọi phía, tay quờ quạng trong không khí, miệng kêu bị quỷ bắt. Đến khi kiệt sức, ông nằm yên một lát, rên rỉ, rồi im hẳn. Ở bên ngoài, tiếng cú kêu và tiếng chó sói rú lên, ngoài ra, tất cả đều chìm đắm trong sự im lặng hoàn toàn. Bỗng cha tôi nhỏm người dậy, nghiêng đầu sang một bên lắng nghe:

"Cộp... cộp... cộp... Đúng rồi, thần chết đang đến đấy. Cộp... cộp... cộp... Chúng đến bắt tao đấy. Chúng ở đây rồi... Đừng có sờ vào người tôi... bỏ tay ra... tay các ông lạnh quá! Thả ra! Hãy để cho kẻ khốn nạn này được yên thân!"

Thế rồi ông bò bằng cả hai tay hai chân, van xin thảm thiết, rồi cuộn mình trong chăn, lăn vào gầm bàn, miệng không ngớt van xin, khóc lóc. Qua tấm mền ấy vẫn nghe được tiếng khóc của ông.

Một lát sau, ông lại lăn ra, đứng thẳng dậy, nét mặt vô cùng dữ tợn. Ông nhìn thấy tôi, rồi đuổi tôi chạy khắp căn chòi, gọi tôi là Thần Chết, và doạ sẽ giết tôi, để tôi không còn có thể đến bắt ông nữa. Tôi liền van xin ông tha cho tôi, vì tôi chỉ là thằng Huck, chứ không phải là thần chết. Nhưng ông chỉ rít lên cười, gầm thét, chửi rủa, rồi lại rượt bắt tôi. Có lúc bí quá, tôi luồn dưới nách ông để chạy thì bị túm lấy áo, ngay giữa hai bả vai, tưởng thế là hết đời rồi, nhưng tôi giật ra được khỏi cái áo nhanh như chớp và thế là thoát. Cuối cùng, cha tôi mệt quá, ngã xuống, tựa lưng vào cánh cửa. Ông nói ông nằm nghỉ một lát rồi sẽ giết tôi. Ông đặt con dao dưới người, bảo rằng ông ngủ cho khỏe cái đã, sau đó sẽ cho biết ông là ai.

Sau khi ông đã ngủ say rồi, tôi liền đứng lên một chiếc ghế cũ thủng đáy, nhẹ nhàng lấy khẩu súng xuống không một tiếng động, lên đạn, rồi kê trên một cái thùng củ cải, hướng mũi súng về chỗ cha tôi đang nằm. Tôi ngồi ở phía sau, chờ đợi cha tôi cựa quậy. Thời gian trôi qua sao mà chậm chạp, yên tĩnh đến thế.

Chương VII

Trốn thoát

"Dậy đi! Mày định giở cái trò gì đấy?"

Tôi mở mắt ra, nhìn xung quanh, không biết mình đang ở đâu. Thì ra tôi đã ngủ thiếp đi, ngay cả lúc mặt trời đã lên cao rồi. Cha tôi đang đứng nhìn, trông giận dữ - lại có vẻ bệnh hoạn nữa. Ông nói:

"Mày định làm cái gì với khẩu súng này?"

Tôi chắc ông không biết gì về việc làm của ông vừa rồi, nên bình tĩnh trả lời:

"Có đứa muốn lẻn vào đây nên con ngồi rình hắn."

"Sao mày không đánh thức tao dậy?"

"Có chứ, nhưng bố chẳng cựa quậy gì cả."

"Được rồi. Mày còn đứng lảm nhảm gì đấy nữa. Đi ra ngoài kia xem có con cá nào mắc ở dưới dây câu đem vào đây làm bữa ăn sáng đi. Một phút nữa tao cũng sẽ ra."

Tôi mở khoá cửa rồi đi lên bờ sông. Những cành cây to và ít vỏ cây trôi lềnh bềnh trên sông, chứng tỏ rằng nước sông đã bắt đầu lên. Tôi nghĩ rằng đây là thời kì rất huy hoàng đối với tôi, nếu còn ở trên phố. Mùa nước dâng lên vào tháng sáu thường là thời kì may mắn nhất cho tôi. Lúc ấy, những khúc gỗ ngắn và những mảnh bè gỗ trôi lềnh bềnh trên sông, có khi hàng chục cây cùng một lúc. Tôi chỉ việc vớt các khúc gỗ ấy lên, đem bán cho các trại gỗ và trại cưa trên phố.

Tôi đi dọc theo bờ sông, một mắt thì canh chừng cha tôi, mắt kia nhìn xem các thứ trôi trên sông. Bỗng tôi thấy một chiếc xuồng nhỏ trôi đến, một chiếc xuồng khá đẹp, dài chừng bốn hay năm thước, trông giống như một con vịt đang bơi trên nước. Tôi để nguyên cả quần áo nhảy ùm xuống như một con nhái, rồi bơi thẳng đến chiếc xuồng. Tôi đoán chắc có người nào đang nằm trên chiếc xuồng ấy, vì người ta thường hay làm như thế để trêu người khác. Đến khi có người chèo lại gần định kéo chiếc xuồng ấy đi thì họ nhổm dậy cười chế giễu. Nhưng lần này thì không phải như thế. Đó là một chiếc xuồng bị trôi, không có chủ. Tôi liền trèo lên xuồng, chèo vào bờ. Chắc hẳn, cha tôi được cái xuồng này thì mừng lắm vì nó trị giá có lẽ đến mười đôla. Nhưng khi tôi vào đến bờ thì cha tôi vẫn chưa đến. Tôi liền đưa chiếc xuồng vào một khe nước giống như một con lạch nhỏ hẹp, chằng chịt những cây leo và cành liễu rủ xuống. Bỗng tôi nảy ra một ý kiến: tôi sẽ giấu kĩ chiếc xuồng này, rồi, thay vì chạy vào rừng, tôi sẽ chèo xuống mạn đưới sông chừng năm mươi dặm, rồi cắm trại ở đấy. Như vậy tôi sẽ đỡ phải đi bộ vất vả.

Lúc bấy giờ tôi đang ở khá gần căn chòi, nên lúc nào cũng hồi hộp sợ cha tôi bắt gặp. Nhưng cuối cùng, tôi cũng giấu kín được chiếc xuồng. Tôi ló đầu ra khỏi bụi liễu, nhìn quanh quất, thì thấy cha tôi ở phía dưới con đường mòn, đang nhả một tràng đạn vào một con chim. Như thế, chắc cha tôi đã không biết gì về công việc tôi vừa làm.

Khi cha tôi lại gần, tôi cố đi thật nhanh, nhưng dường như bước không nổi nữa. Ông lên tiếng mắng tôi về sự chậm trễ, nhưng tôi nói dối rằng tôi vừa ngã xuống sông nên mới lâu như thế. Có lẽ vì trông thấy quần áo tôi ướt mèm, nên ông không nói gì thêm nữa. Chúng tôi gỡ năm con cá mèo ra khỏi lưỡi câu rồi đem về nhà.

Sau bữa ăn sáng, chúng tôi lại đi nằm, vì cả hai đều mệt nhoài. Tôi cố nghĩ ra cách nào đó để cho cha tôi và bà quả phụ không thể theo dõi được. Đó là cách chắc chắn nhất để có thể đi rõ xa, khiến họ không thể nào bắt lại được, còn hơn là ngồi đó trông chờ sự may rủi. Mọi sự không may đều có thể xảy ra. Tôi chưa tìm ra được giải pháp nào thì cha tôi đã nhỏm dậy để uống nước. Ông nói:

"Lần sau, có người lảng vảng ở nơi này thì mày phải đánh thức tao dậy, nghe không? Hắn đến đây không phải vô cớ đâu. Chính tao đã bắn vào hắn đó. Lần sau mày phải gọi tao đấy."

Thế rồi ông ngả người xuống, thiêm thiếp ngủ. Điều ông vừa mới nói giúp tôi tìm ra một phương kế mà tôi đang cần. Tôi nghĩ tôi có thể xếp đặt nó ngay bây giờ để làm sao cho mọi người sẽ phải từ bỏ ý định theo dõi tôi.

Vào lúc mười hai giờ trưa, chúng tôi lại đi ra ngoài, bước dọc theo bờ sông. Nước sông bây giờ lên khá nhanh. Củi gỗ trôi lềnh bềnh trên mặt nước. Bỗng tôi thấy chín cây gỗ lớn buộc lại với nhau đang trôi gần đến, hình như là một phần của một chiếc bè gỗ. Chúng tôi liền dùng xuồng chèo ra giữa dòng kéo các cây gỗ vào vào bờ. Sau đó, chúng tôi ăn cơm trưa. Nếu như một người khác thì chắc hẳn sẽ chờ cho hết ngày để vớt thêm nhiều gỗ nữa, nhưng cha tôi thì không thể. Đối với ông thì chín cây gỗ luôn một lúc đã là quá đủ để ông đem xuống phố bán. Vì thế, ông nhốt tôi lại trong căn chòi, khoá chặt cửa lại, rồi lấy xuồng chèo đi, kéo theo chiếc bè gỗ. Lúc bấy giờ là vào khoảng ba giờ rưỡi chiều, tôi chắc cha tôi sẽ không về kịp tối hôm ấy. Tôi chờ cho đến lúc cha tôi đã đi khá xa rồi mới bắt đầu cưa khúc gỗ đang làm dở. Trước khi cha tôi sang đến bên kia bờ sông thì tôi đã chui qua được cái lỗ, đi ra ngoài. Chiếc xuồng của cha tôi chỉ còn là một cái chấm nhỏ trên mặt nước ở phía xa xa.

Tôi đem bao bột mì đến nơi giấu chiếc xuồng của tôi, gạt các cành cây leo sang hai bên, rồi đặt xuống xuồng. Tiếp đó, tôi đem xuống xuồng những thứ cha tôi đã chở về hôm trước: đùi thịt, bình rượu whisky, cà phê, đường, thuốc súng, giấy lộn để làm đạn, xô nước và bầu đựng nước, gáo, chén thiếc, cái cưa cũ kĩ của tôi, hai chiếc mền, chảo nấu ăn, bình cà phê, cần câu, diêm và còn nhiều thứ khác nữa dù đáng giá hay không đáng giá bao nhiêu. Tôi muốn có một cái rìu, nhưng tất cả trong nhà chỉ có một chiếc đặt ở đống củi. Tôi để lại chiếc rìu ở đấy vì đã dự tính sẽ phải dùng nó sau này. Cuối cùng, tôi lấy khẩu súng đem đi, thế là xong.

Vì bò ra bò vào và kéo lê các thứ nhiều lần qua cái lỗ nên đất chỗ ấy trơn láng, có thể bị lộ. Tôi liền lấy đất phủ lên trên chỗ ấy cho hết láng và che đi chỗ có mạt cưa còn sót lại. Sau đó, tôi đặt khúc gỗ đã bị cưa vào chỗ cũ, kê hai viên đá ở phía dưới và một viên khác chặn lại, để giữ cho chặt, vì khúc gỗ ấy bị cong, không chạm sát mặt đất. Nếu đứng trước chỗ ấy chừng một thước rưỡi, không ai nhận ra được chỗ bị cưa, cũng không ai để ý đến. Hơn thế nữa, chỗ ấy ở phía sau lưng căn chòi, ít ai đi đến đấy.

Xung quanh chỗ giấu chiếc xuồng toàn là cỏ nên không để lại dấu vết gì, tôi đi vòng xung quanh quan sát, rồi đứng trên bờ nhìn xuống sông. Tất cả đều không có gì đáng lo ngại. Tôi liền lấy khẩu súng, đi vào rừng, định bắn ít chim. Nhưng tôi lại gặp một con lợn đi hoang, có lẽ vừa mới thoát khỏi một nông trại nào gần đó. Tôi lấy súng bắn con lợn ấy đem về.

Tôi dùng cái rìu phá tan hoang cánh cửa ra vào của căn chòi, rồi vác con lợn vào, đặt trên bàn. Sau đó, tôi dùng rìu cắt cổ nó, rồi đặt xuống đất cho máu chảy loang ra. Tôi gọi là đất, chứ không phải sàn nhà, vì ở đấy chỉ toàn là đất cứng chứ không lót một tấm gỗ nào. Làm xong, tôi nhét đá đầy một cái bị cũ rồi kéo lê ra cửa, đi xuyên qua khu rừng đến bờ sông, rồi quăng xuống nước, mất dạng. Ai trông thấy như thế, chắc cũng phải nghĩ rằng có một vật gì đó bị kéo lê trên đất đến tận bờ sông. Giá như có thằng Tom Sawyer ở đây thì chắc là hắn sẽ thích cái trò này lắm và sẽ vẽ vời ra bao nhiêu những trò tưởng tượng. Có lẽ trên đời này, không ai giỏi về cái tài phóng đại bằng thằng Tom Sawyer.

Thế rồi tôi rứt một nhúm tóc của tôi, bôi máu trên cái rìu, cắm tóc tôi vào đấy, rồi vứt cái rìu vào góc nhà. Sau đó tôi ôm xác con lợn, áp vào ngực cho máu khỏi rơi xuống đất, rồi đem quăng nó xuống sông, cách căn chòi một quãng ở bên dưới. Như thế chưa hết, tôi chợt nghĩ ra một việc khác cần phải làm. Tôi liền vác bao bột mì và cái cưa ra khỏi xuồng đem về nhà, đặt cái bao vào chỗ cũ, rồi dùng cưa xẻ một lỗ nhỏ dưới đáy. Tôi phải dùng cưa vì trong nhà không cónĩa hay con dao nào - cha tôi lúc nào cũng chỉ dùng một con dao xếp để nấu nướng. Sau đó, tôi vác bao bột mì đi một quãng xa chừng một trăm thước xuyên qua bãi cỏ, giữa rừng liễu về phía đông căn chòi, đến một cái hồ cạn rộng đến năm dặm, toàn là lau sậy, và về mùa này, còn có cả vịt trời nữa. Có một con lạch chảy đến hồ cạn ấy, dài nhiều dặm, không biết dẫn đến tận nơi nào, nhưng chắc chắn không dẫn ra sông. Bột mì trong bao thủng vãi ra, làm thành một vệt nhỏ từ căn nhà đến hồ. Tôi cũng cố ý để rơi cục đá mài của cha tôi trên lối đi cho có vẻ là tình cờ đánh rớt xuống đó. Làm xong, tôi buộc bao bột mì lại bằng một sợi dây cho khỏi vương vãi thêm nữa, rồi vác bao và cưa về xuồng.

Lúc bấy giờ, trời đã gần tối. Tôi cho chiếc xuồng đậu dưới một cây liễu bên bờ sông, chờ trăng lên sẽ khởi hành. Tôi buộc chiếc xuồng vào một cây liễu rồi bắt đầu ăn cho đỡ đói. Ăn xong, tôi nằm xuống xuồng, hút thuốc và xếp đặt kế hoạch. Tôi nghĩ rằng người ta sẽ lần theo vết bị đá kéo lê trên đất rồi sẽ mò sông cố tìm ra xác tôi. Họ cũng theo vết bột mì rơi vãi, rồi đi dọc theo con lạch để đuổi theo tên trộm đã giết tôi và lấy đồ đạc đem đi. Tất nhiên họ cũng sẽ đi lùng trên sông chỉ để tìm ra xác tôi mà thôi. Cuối cùng họ sẽ chán nản, không còn quan tâm gì đến tôi nữa. Như thế, tôi sẽ ở lại bất cứ nơi nào tôi muốn. Hòn đảo Jackson sẽ là nơi trú ẩn rất tốt. Tôi biết rất rõ hòn đảo ấy. Hơn nữa ít ai đi lại nơi đây. Từ hòn đảo Jackson, tôi có thể chèo xuống phố về ban đêm, lén đi đến nơi này nơi khác để mua các thứ lặt vặt. Vậy, hòn đảo Jackson là nơi tốt nhất.

Tôi khá mệt mỏi, nên công việc đầu tiên là lăn ra ngủ cái đã. Khi thức dậy, phải hết một phút, tôi mới nhận ra mình đang ở đâu. Tôi ngồi nhỏm dậy, nhìn xung quanh, trong lòng hơi lo sợ. Trăng rất sáng, khiến tôi có thể đếm được số củi gỗ đen sì trôi một cách yên lặng giữa dòng sông, cách bờ hàng trăm thước. Tất cả cảnh vật đều yên lặng như tờ. Tôi cảm thấy và ngửi thấy hình như là đêm đã về khuya rồi. Chắc các bạn cũng hiểu được ý tôi muốn nói gì - Tôi không đủ chữ để diễn tả ý tưởng của tôi.

Tôi ngáp một cái thật khoan khoái rồi duỗi người ra, chuẩn bị tháo sợi dây buộc xuồng để lên đường. Bỗng có tiếng động dội lại từ phía sông. Tôi lắng tai nghe và nhận ra được ngay. Đó là tiếng kẽo kẹt đều đều của mái chèo nổi lên giữa đêm tối tĩnh mịch. Tôi ghé mắt nhìn qua các cành liễu thì thấy một chiếc xuồng xa xa ở phía bên kia sông. Tôi không thể biết được có bao nhiêu người trên đó. Khi chiếc xuồng đi ngang qua, tôi mới nhận ra trên ấy chỉ chở một người. Tôi nghĩ rằng đó là cha tôi, mặc dầu tôi không ngờ ông có thể về được vào lúc này. Chiếc xuồng di chuyển theo dòng sông ở phía dưới chỗ tôi đang ngồi rồi quay mũi vào bờ ở chỗ nước lặng. Người chèo xuồng ấy gần tôi đến nỗi tôi có thể giơ súng ra chạm vào người ông. Đúng là cha tôi rồi! Nhưng lần này, xem cách ông sử dụng mái chèo, tôi biết ông đang ở tình trạng tỉnh táo.

Không để lỡ một giây phút nào, tôi chèo chiếc xuồng của tôi xuôi theo dòng sông, rất nhẹ nhưng cũng rất nhanh, dưới bóng tối ven bờ sông. Tôi đi như thế độ hai dặm rưỡi, rồi chèo thêm một phần tư dặm nữa ra đến giữa sông, vì chẳng mấy chốc nữa, tôi sẽ phải đi ngang qua một bến đò, ở đó người ta có thể nhìn thấy và sẽ gọi tôi vào. Tôi cho xuồng len vào giữa các cây gỗ trôi giữa sông, rồi nằm sụp xuống lòng xuồng, mặc cho nó trôi đi. Tôi nằm ngửa lên nhìn trời, hút thuốc, trong lòng vô cùng sảng khoái. Bầu trời không một bóng mây. Nằm ngửa dưới ánh trăng nhìn lên càng thấy bầu trời sâu thăm thẳm. Trước kia, tôi không bao giờ nhận ra điều ấy. Trong những đêm tối như thế này, người ta có thể nghe những tiếng động rất xa trên mặt nước. Tôi có thể nghe cả tiếng nói chuyện trên bến đò, nghe rõ từng tiếng, từng lời. Một người trong bọn nói ngày sắp sửa dài ra và đêm thì ngắn lại. Một người khác cãi lại "cái này" đâu có ngắn. Thế là mọi người cười rộ lên. Người kia lặp lại câu nói, mọi người lại cười rần lên một lần nữa. Họ đánh thức một người bạn nữa dậy, kể lại câu chuyện, nhưng người này không cười, chỉ nói một vài câu gì đó thật nhanh, rồi bảo mọi người để cho anh ta được yên. Người nói đầu tiên lại bảo anh ta cứ về nhà nói với bà vợ già như thế, bà ta thích lắm đấy, nhưng anh này nói rằng vào thời trẻ anh ta nói nhiều cái hay hơn thế nhiều. Một người trong bọn họ nói rằng bây giờ đã ba giờ sáng rồi, chỉ trong vòng hơn một tuần nữa, trời sẽ mau sáng lắm. Sau đó họ lại quay sang nói chuyện khác, nhưng tôi không nghe rõ, chỉ thỉnh thoảng nghe có tiếng cười, mỗi lúc một xa dần.

Đi xa khỏi bến đò, tôi ngồi dậy thì đã thấy hòn đảo Jackson cách đó chừng hai dặm rưỡi ở phía dưới dòng sông. Hòn đảo có rất nhiều cây to, nổi lên sừng sững giữa dòng, to lớn và đen sì, trông giống như một chiếc tàu thuỷ không có đèn. Không thấy có bãi cát nào ở đầu hòn đảo, có lẽ nó đã chìm dưới nước rồi.

Chỉ một lát sau, tôi đã đến hòn đảo. Xuồng tôi lướt rất mau qua phía đầu hòn đảo vì ở đó dòng nước chảy nhanh. Đến một chỗ nước lặng, tôi cho xuồng ghé vào bờ đối diện với bờ Illinois, ở một chỗ đất lõm sâu vào mà tôi đã từng biết trước đây. Tôi phải rẽ các cành cây để tiến vào phía bên trong. Khi tôi đã buộc xuồng rồi thì đứng từ phía bên ngoài không ai có thể trông thấy nó đâu nữa.

Tôi trèo lên bờ, ngồi xuống một khúc gỗ, nhìn ra phía bờ sông. Những khúc củi gỗ đen sì đang trôi lềnh bềnh về phía thị trấn, cách đó ba dặm. Ở đó, có ba bốn ngọn đèn đang nhấp nháy. Phía trên dòng sông chừng một dặm, một chiếc bè gỗ thật lớn đang đi xuống, có treo một ngọn đèn ở phía giữa. Tôi nhìn nó trôi xuống từ từ. Khi nó đi ngang qua chỗ tôi đang ngồi, tôi nghe rõ cả tiếng ra lệnh cho người chèo bè ở phía đuôi "Cho mũi bè hướng về phía bên phải!" Tiếng nói nghe rõ ràng như người vừa ra lệnh ấy đang đứng ngay bên cạnh tôi vậy.

Trời lúc bấy giờ chuyển sang màu sáng đục, tôi bước vào trong rừng, nằm xuống ngủ một giấc.

Chương VIII

Cuộc gặp gỡ bất ngờ

Tôi thức dậy thì mặt trời đã lên cao. Lúc bấy giờ vào khoảng tám giờ. Tôi nằm trên cỏ, dưới bóng cây, suy nghĩ về mọi thứ, trong lòng cảm thấy khoan khoái, dễ chịu. Mặt trời ló ra qua một vài khe hở của các vòm lá, nhưng xung quanh tôi toàn là cây to, nên bóng tối lan tràn khắp nơi. Trên mặt đất lỗ chỗ những chấm sáng của tia nắng lọt qua các kẽ lá, nhưng những chấm sáng này chỉ rung động chút ít chứng tỏ rằng gió đang thổi qua rất nhẹ ở trên cao. Một vài con sóc bò lên tay chân tôi, kêu ríu rít thân mật.

Tôi nằm thảnh thơi, khoan khoái, không còn muốn đứng dậy để nấu ăn bữa sáng. Đang thiu thiu ngủ, tôi chợt nghe có tiếng nổ đánh bùm một cái từ phía xa trên sông. Tôi ngồi nhỏm dậy, chống cằm, lắng nghe. Lại thêm một tiếng nữa vang lên. Tôi vụt đứng dậy, chạy ra nhìn qua một kẽ lá. Một làn khói bốc lên ở phía xa trên mặt sông, ngang chỗ bến đò. Tiếp theo đó, một chiếc phà chở đầy người từ từ trôi xuống. Tôi đã hiểu ra chuyện gì rồi. "Bùm!". Một làn khói cuộn lên từ bên hông chiếc phà. Thì ra, họ đang bắn đại bác trên mặt sông để làm cho xác tôi nổi lên.

Tôi hơi đói bụng, nhưng vào lúc này thì không thể nào đốt lửa lên nấu thức ăn được, vì họ sẽ nhìn thấy khói. Tôi đành ngồi đấy xem khói súng và lắng nghe tiếng nổ. Khúc sông này rộng vào khoảng một dặm, trông rất đẹp vào buổi sáng mùa hè. Giá lúc này mà tôi có thứ gì để ăn rồi ngồi xem họ mò đang xác tôi thì thú vị biết mấy. Tôi chợt nghĩ rằng người ta thường thả những chiếc bánh mì có nhét thuỷ ngân trong ấy để tìm xác chết. Những chiếc bánh mì này sẽ trôi đến chỗ nào có xác người chết đuối rồi dừng ngay ở đấy. Vì vậy, tôi phải ngồi canh chừng xem có chiếc bánh mì nào trôi đến gần chỗ tôi đứng để rồi sẽ tạo cho nó cơ hội làm tròn phận sự. Tôi chuyển sang phía bờ Illinois của hòn đảo để xem có cơ may bắt gặp được chiếc bánh mì nào như thế không. Quả thực, tôi không bị thất vọng. Có một chiếc bánh thật lớn trôi đến. Tôi lấy một cái que dài khều nó, nhưng bị trượt chân, chiếc bánh trôi ra xa. Cố nhiên, tôi đứng ở chỗ có luồng nước chảy sát vào bờ nhất - tôi biết khá rõ điều này. Chẳng mấy chốc, một chiếc bánh khác trôi đến gần. Lần này thì tôi thành công. Tôi tháo cái nút chặn ra, rũ cho rơi miếng thuỷ ngân nhỏ và mềm ở bên trong, rồi ghé răng cắn. Đó là thứ bánh mì làm ở hiệu bánh mà những người sang trọng thường ăn, chứ không phải loại bánh làm bằng bột ngô rẻ tiền như của chúng ta.

Tôi ngồi trên một khúc gỗ ở một nơi thật tốt giữa vòm lá cây, vừa nhai bánh mì vừa nhìn theo chiếc phà, trong lòng vô cùng thích thú. Nhưng rồi tôi chợt nghĩ đến một điều. Tôi chắc rằng bà quả phụ, ông linh mục hay một người nào đó đã cầu nguyện sao cho chiếc bánh mì ấy tìm ra được tôi, thế là nó đã trôi đi và thực hiện được điều ấy. Như vậy, không còn ngờ gì nữa, quả có cái gì đó linh thiêng trong ấy. Điều này có nghĩa là, khi bà quả phụ hay ông linh mục cầu nguyện thì trong ấy hẳn có điều gì đó có hiệu quả không lợi cho tôi. Tôi có ý nghĩ rằng nó chỉ không phục vụ cho một cái gì đó thực sự đúng đắn.

Tôi châm ống điếu, hút một hơi dài, rồi tiếp tục đứng xem. Chiếc phà trôi theo dòng nước, nên tôi chắc sẽ có cơ hội trông thấy rõ những ai trên ấy, khi nó đi ngang qua tôi, bởi vì nó đang theo sát chỗ bánh mì trôi đến. Khi nó đến khá gần về phía tôi, tôi dụi ống điếu, đi đến chỗ tôi nhặt chiếc bánh mì hồi nãy, rồi nằm xuống sau một khúc gỗ ở một nơi hơi trống trải. Tôi ghé mắt ở chỗ hai nhánh chia đôi của khúc gỗ để nhìn ra ngoài.

Một lát sau, chiếc phà trôi tới, gần đến nỗi họ chỉ cần bắc một miếng ván là bước được lên bờ. Hầu như mọi người đều có đủ mặt trên phà: cha tôi, ông thẩm phán Thatcher và Bessie Thatcher, thằng Joe, Tom Sawyer và dì ruột của hắn, dì Polly, thằng Sid, con Mary, và nhiều người khác nữa. Mọi người đang nói chuyện với nhau về vụ án mạng. Bỗng viên thuyền trưởng la to lên: "Nhìn kĩ đi nào. Chỗ này có luồng nước chảy đến gần bờ nhất, nên xác của hắn chắc tắp vào đấy rồi kẹt ở bụi rậm ven bờ nước. Tôi hi vọng như thế."

Tôi thì không hi vọng như thế. Mọi người chen chúc kéo đến, tựa vào lan can của chiếc phà, ngay trước mặt tôi. Tất cả đều im lặng, cố hết sức nhìn chăm chú. Tôi có thể thấy họ rất rõ, nhưng chắc chắn họ không nhìn thấy tôi. Thế rồi viên thuyền trưởng ra lệnh: "Đứng ra xa!". Một tiếng nổ phát ra từ khẩu đại bác làm cho tôi ù cả tai, mờ cả mắt vì khói súng, tưởng thế là đi đời rồi. Nếu họ bỏ thêm mảnh đạn vào đó nữa thì chắc chắn họ đã tìm ra được xác tôi như họ đang mong muốn. Nhờ trời, tôi không bị thương tích gì cả. Chiếc phà lại tiếp tục đi rồi mất dạng sau hòn đảo. Thỉnh thoảng tôi chỉ nghe tiếng nổ vọng lại, mỗi lúc một xa dần, rồi độ một giờ đồng hồ sau thì mất hẳn. Hòn đảo dài chừng ba dặm. Tôi đoán rằng họ đã đi đến hòn đảo rồi bỏ đi luôn. Nhưng không phải như thế. Họ còn vòng lại ở cuối hòn đảo rồi đi ngược trở lại giữa lòng sông bên bờ Missouri, vừa tiến lên vừa bắn đại bác từng chập. Tôi chạy qua phía bên ấy để xem cho rõ. Nhưng khi tôi lên đến đầu mút hòn đảo thì thấy họ không bắn nữa, chiếc phà hướng về phía bờ Missouri rồi quay trở về thị trấn.

Thế là tôi không còn phải lo ngại bị săn đuổi nữa. Tôi lấy tất cả đồ đạc của tôi ra khỏi xuồng, rồi cắm trại giữa rừng rậm. Tôi lấy mền làm thành một chiếc lều để che đồ đạc khỏi bị mưa ướt, sau đó bắt một con cá mèo, xẻ nó ra bằng cái cưa tôi đã mang theo. Lúc mặt trời sắp lặn, tôi đốt lửa để nấu bữa cơm tối, rồi đặt cần câu để bắt ít con cá nữa cho bữa ăn sáng mai.

Lúc trời tối hẳn, tôi ngồi bên đống lửa, lấy ống điếu ra hút, trong lòng vô cùng khoan khoái. Nhưng ngồi được một lát, tôi bắt đầu cảm thấy cô đơn quá. Tôi liền đi ra ngồi bên bờ sông, lắng nghe tiếng nước vỗ vào bờ, đếm những vì sao trên bầu trời, những khúc gỗ ttrôi, những chiếc bè đang đi xuống, rồi trở về đi ngủ. Có lẽ không còn có cách nào tốt hơn thế để cho qua thời gian khi mình cảm thấy cô đơn.

Trong suốt ba đêm ba ngày, cuộc sống vẫn diễn ra như vậy, không có gì thay đổi. Nhưng đến ngày hôm sau, tôi bắt đầu mở cuộc thám hiểm suốt hòn đảo. Tôi là chủ nhân ông của hòn đảo này. Nó hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của tôi nên tôi cần phải biết tất cả trên ấy. Nhưng lí do chính yếu là tôi muốn cho qua thời gian. Tôi tìm thấy nhiều loại dâu, còn non hay đã chín, những quả nho màu xanh, những trái dâu xanh mới bắt đầu lú ra. Chẳng bao lâu nữa, tất cả đều có thể ăn được, tôi nghĩ thế.

Tôi cứ đi lang thang như thế trong các khu rừng rậm cho đến khi thấy mình đã đi đến gần cuối hòn đảo. Tôi có mang súng đi theo, nhưng chưa bắn một phát nào. Tôi chỉ dùng súng để phòng thân, nhưng dự định cũng sẽ bắn một vài con chim lúc trở về gần đến nơi cắm trại. Trong khi đi, tôi suýt dẫm phải một con rắn thật lớn, đang bò lướt trên cỏ và giữa các bụi hoa. Tôi đuổi theo, định cho nó một phát đạn. Tôi đang chạy thật nhanh, bỗng vấp phải một đống tro còn đang bốc khói.

Tim tôi đập nhanh như muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Không dám nhìn thêm nữa, tôi liền khoá cò súng, rón rén quay trở lại, rồi chạy thật nhanh. Thỉnh thoảng tôi lại dừng một vài giây, nghe ngóng, nhưng vì nghẹt thở, tôi không nghe được gì hết. Tôi lại chạy thêm một quãng nữa, rồi lại lắng nghe, và cứ tiếp tục như thế mãi. Trông thấy một gốc cây đã gãy, tôi cũng ngỡ là có người nào đó đang rình. Dẫm phải một cái que kêu đánh rắc một tiếng, tôi cũng tưởng chừng như một kẻ nào đó đã cắt hơi thở của tôi làm đôi, mà tôi chỉ được một nửa, và cái phần nửa ấy lại rất ngắn.

Về đến nơi cắm trại, tôi không hấp tấp, vội vã vì không còn bao nhiêu can đảm trong người nữa. Nhưng không có thì giờ nào mà ngồi đấy nghỉ ngơi. Tôi liền đem tất cả đồ đạc xuống xuồng để không ai có thể trông thấy, dập tắt ngọn lửa, rắc tro tàn khắp nơi làm ra vẻ như đống lửa ấy đã có từ lâu lắm rồi, sau đó tôi trèo lên một ngọn cây.

Tôi ngồi trên cây chừng ba giờ đồng hồ, nhưng chẳng thấy gì cả. Tôi có cảm tưởng như đã nghe và thấy hàng trăm nghìn thứ, nhưng đó chỉ là tưởng tượng thôi. Thế rồi, không thể ngồi mãi ở đấy, tôi trèo xuống, nhưng vẫn phải ẩn nấp trong rừng rậm để canh chừng, ăn những trái dâu rừng và phần thức ăn buổi sáng còn sót lại.

Đến lúc trời tối, tôi cảm thấy đói bụng lắm. Vì thế, khi trời đã tối mịt, trước khi trăng lên, tôi lén chèo xuồng sang phía bờ Illinois, cách đó chừng một phần tư dặm, rồi lên bờ, đi vào rừng, đốt lửa nấu bữa cơm tối. Tôi dự định sẽ ngủ lại ở đấy suốt đêm, bỗng tôi nghe tiếng lóc cóc như tiếng chân ngựa tiến lại gần. Tôi lại đem tất cả mọi thứ về xuồng thật nhanh, rồi bò xuyên qua rừng để tìm hiểu xem cái gì, Chưa tiến lên xa bao nhiêu, tôi đã nghe có tiếng một người nói:

"Chúng mình nghỉ lại đây đi. Ngựa đã có vẻ mệt rồi đấy. Ta đi tìm xung quanh xem có chỗ nào cắm trại được không?"

Không còn chờ đợi gì nữa, tôi cố chèo hết sức khẽ trở về chỗ cũ, nhưng lần này tôi ngủ hẳn trên xuồng.

Tôi không ngủ được bao nhiêu, mà chỉ nằm trằn trọc suy nghĩ. Cứ mỗi lúc tỉnh dậy, tôi lại có cảm giác như kẻ nào đó đang túm lấy cổ. Vì vậy, giấc ngủ không giúp cho tôi thấy khoẻ khoắn hơn được chút nào. Cuối cùng, tôi tự nghĩ không thể sống mãi mãi trong tâm trạng này được nữa. Tôi phải tìm cho ra kẻ nào đang cùng ở với tôi trên hòn đảo này. Phải tìm ra nếu không thì hỏng hết mọi sự. Nghĩ như vậy, tôi cảm thấy yên tâm hơn.

Tôi liền chèo xuồng ra khỏi bờ một quãng ngắn rồi thả nó trôi xuống theo những nơi có nhiều bóng tối. Trăng lúc bấy giờ thật sáng, rõ như ban ngày. Tôi cứ tiếp tục đi như vậy trong khoảng một giờ giữa cảnh vật yên lặng như tờ. Khi tôi đi đến cuối hòn đảo thì một cơn gió nhẹ và mát bắt đầu thổi, như báo hiệu đêm đã gần hết. Tôi dùng chèo xoay chiếc xuồng hướng vào bờ, rồi vác súng, trườn ra khỏi xuồng, đi vào bìa rừng. Tôi ngồi trên một khúc gỗ nhìn qua vòm lá. Trăng đã lặn, bóng tối bắt đầu che phủ cả con sông. Nhưng chỉ một lát sau, một vệt sáng mờ mờ hiện ra trên đầu ngọn cây. Trời đang rạng sáng. Tôi cầm khẩu súng, đi về phía có đống lửa tôi đã gặp hôm trước, chốc chốc dừng lại lắng nghe. Nhưng thật không may. Tìm mãi tôi vẫn chưa nhận ra được nơi ấy. Bỗng tôi bắt gặp một ánh lửa hiện ra ở xa xa xuyên qua lùm cây. Tôi tiến thẳng về phía ấy, rất chậm chạp và thận trọng. Đến gần tôi mới nhận ra một người đang nằm trên đất. Tôi cảm thấy bứt rứt khó chịu. Đầu người ấy kề bên ngọn lửa, trùm dưới một tấm chăn. Tôi ngồi xuống sau một bụi cây cách đó chừng hai thước, mắt dán chặt vào người đang nằm ở đấy. Bây giờ trời đã sáng. Đột nhiên, người ấy tung chăn, ngáp một cái rồi duỗi người ra. Trời ơi! Đó là thằng Jim, đầy tớ của cô Watson. Tôi mừng rỡ gọi: "Jim!" rồi nhảy ra ngoài.

Hắn chồm dậy, trố mắt nhìn tôi. Sau đó, hắn liền quì xuống đất, chắp hai tay van lạy:

"Xin cậu chớ làm hại tôi. Tôi chưa hề làm điều gì xúc phạm đến quỷ thần cả. Lúc nào tôi cũng kính trọng người chết, và tìm cách giúp đỡ họ. Thôi, cậu trở về dưới sống đi, đừng có trêu Jim này mà tội nghiệp. Jim này lúc nào cũng là bạn của cậu mà."

Tôi liền cho Jim biết rõ ngay rằng tôi chưa chết. Gặp hắn tôi mừng quá. Thế là từ nay, tôi không còn cô đơn nữa. Tôi bảo rằng tôi không lo sợ hắn sẽ nói cho người ta biết nơi ở của tôi. Trong khi tôi nói, hắn chỉ ngồi nhìn tôi mà không thốt ra lời nào. Sau cùng, tôi nói:

"Trời sáng rồi. Ta ăn cái gì đi. Mày đốt lửa cho to vào."

"Đốt lửa để nấu những trái dâu và các thứ lảm nhảm ấy à? Cậu có khẩu súng kia kìa. Sao không bắn ít con chim về nấu ăn có phải hơn là ăn dâu không?"

"Mày vẫn sống bằng những trái dâu và các thứ lảm nhảm ấy hả?"

"Chứ còn gì nữa."

"Thế mày sống trên đảo này bao lâu rồi?"

"Từ sau cái đêm cậu bị giết ấy."

"Suốt cả thời gian ấy à?"

"Phải - Cố nhiên rồi."

"Thế mà mày chả ăn gì cả ngoài các thứ lảm nhảm ấy hả?"

"Không. Chỉ ăn có thế thôi."

"Vậy thì bây giờ chắc mày đói lắm phải không?"

"Giá bây giờ có cho tớ ăn cả con ngựa tớ cũng chén hết. Cậu ở trên đảo này bao lâu rồi?"

"Từ cái đêm tao bị giết ấy."

"Sao? Thế thì cậu ăn cái gì? À, mà cậu có khẩu súng kia. Như vậy thì được. Bây giờ cậu cứ giết con vật nào đó đi, để tớ đốt lửa lên."

Chúng tôi đi về chỗ xuồng đậu, rồi, trong khi Jim nhen lửa ở một chỗ trống giữa lùm cây, tôi đi xuống xuồng lấy bột, thịt, cà phê, bình cà phê, xoong, chảo, đường, chén thiếc. Jim vô cùng ngạc nhiên, tưởng rằng tôi làm trò quỷ thuật. Tôi cũng bắt thêm một con cá mèo to. Jim lấy dao của hắn làm cá rồi rán lên.

Khi bữa sáng đã sẵn sàng, chúng tôi ngồi trên cỏ, ăn bữa cơm nóng hôi hổi. Thằng Jim ăn ngấu nghiến vì hắn đã đói lả. Sau khi đã ních thức ăn đầy bụng, chúng tôi nằm dài ra, nghỉ xả hơi.

Một lát sau, Jim hỏi:

"Này, Huck. Thế cái đứa bị giết trong căn chòi đó là ai vậy?"

Tôi liền kể cho Jim nghe đầu đuôi câu chuyện. Hắn khen tôi là thông minh tuyệt vời, bảo rầng thằng Tom Sawyer cũng chưa chắc đã hơn được. Đến lượt tôi hỏi lại hắn:

"Thế còn mày, tại sao lại đến đây, Jim? Mày đến bằng cách nào vậy?"

Jim có vẻ bối rối, ngồi im lặng một lúc, rồi nói:

"Có lẽ tớ không nên nói ra thì hơn."

"Tại sao, Jim?"

"Có nhiều lí do. Nhưng cậu không được tiết lộ bí mật với ai thì tớ mới nói."

"Tao thề là không bao giờ làm thế, Jim ạ."

"Tớ tin cậu... Tớ bỏ trốn."

"Trời!"

"Cậu đã thề sẽ không nói với ai mà. Cậu nhớ đấy chứ, Huck."

"Phải, tao có nói như thế, và tao sẽ giữ lời thề. Nhất định thế. Người ta có thể tố cáo tao là một tên chủ trương bãi bỏ nô lệ, tức là một kẻ hạ lưu, hèn kém, theo con mắt của họ. Họ sẽ khinh bỉ tao vì đã im tiếng chuyện này. Nhưng mà tao cóc cần. Tao sẽ không nói với ai cả. Hơn nữa, tao sẽ không bao giờ trở về lại nơi ấy kia mà. Vậy thì mày cứ kể hết cho tao nghe đi."

"Như thế này này. Cái cô gái già - tức là cô Watson ấy mà - cứ mắng mỏ, trách cứ tớ suốt ngày, đối xử với tớ quá tệ bạc, lại còn doạ sẽ đem bán tớ cho bọn ở vùng New Orleans. Tớ nhận thấy gần đây có một kẻ chuyên buôn bán nô lệ cứ lảng vảng ở đấy mãi. Tớ bắt đầu thấy lo lắng. Thế rồi một đêm nọ, tớ bò đến cánh cửa hé mở, nghe cô gái già nói với bà quả phụ rằng cô ta dự tính đem bán tớ cho New Orleans. Cô ta không muốn làm như thế, nhưng nếu bán tớ cô ta sẽ có được tám trăm đôla, một số tiền rất lớn và rất hấp dẫn. Bà quả phụ hết lời khuyên cô ta không nên làm như thế, nhưng tớ không chờ đợi nghe hết câu chuyện, tớ liền lẻn ra ngoài ngay lập tức.

Tớ chạy xuống đồi, định bụng ăn cắp một chiếc xuồng của ai đó đang đậu dọc theo bờ sông ở trên phố. Nhưng lúc bấy giờ đang còn có đông người, nên tớ nấp ở một xưởng đóng thùng đã đổ nát, chờ đợi cho mọi người tản mác đi hết. Tớ ở đấy suốt đêm, nhưng lúc nào cũng có người qua lại. Đến vào khoảng sáu giờ sáng, bắt đầu có nhiều chiếc xuồng đi qua, cho đến lúc tám hay chín giờ, trên chiếc xuồng nào đi ngang qua, người ta cũng bàn tán về chuyện cha cậu xuống phố báo cho mọi người biết cậu đã bị giết. Những chiếc xuồng này chở đầy các cô, các cậu rủ nhau đến xem tại chỗ... Có khi họ ghé vào bờ nghỉ ngơi trước khi họ tiếp tục vượt sông, nên tớ nghe được hết tất cả chuyện cậu bị giết. Nghe tin ấy, tớ buồn lắm, Huck ạ, nhưng bây giờ thì hết rồi.

Tớ nằm dưới đống vỏ bào suốt cả ngày, tuy rất đói, nhưng chẳng lo sợ gì cả. Tớ biết rằng mụ gái già và bà quả phụ sẽ đi họp suốt cả ngày và nghĩ rằng tớ phải đi chăn bò từ sáng sớm cho đến tối mịt mới về nhà. Còn những tên đầy tớ khác thì lẻn đi chơi ngay khi chủ vắng nhà, nên không ai để ý gì đến tớ cả.

Đến lúc trời tối, tớ ra ngoài, đi dọc theo bờ sông chừng hai dặm đến một nơi không có nhà cửa gì cả. Tớ bèn nghĩ cách nào trốn đi thuận lợi nhất. Nếu cứ tiếp tục đi bộ thì thế nào lũ chó cũng đánh hơi ra được. Còn nếu ăn cắp một chiếc xuồng trốn đi thì khi biết mất xuồng người ta sẽ đổ đi tìm và đoán biết được mình sẽ lên bờ chỗ nào, rồi tìm ra vết chân của mình. Chỉ còn một cách tốt nhất là đi bè, như thế chẳng để lại dấu vết gì hết.

Thế rồi một lúc sau, tớ thấy có ánh đèn đang đi tới, vòng theo một mũi đất trên sông. Tớ bèn nhảy xuống nước, đẩy một khúc gỗ ra phía trước, cúi đầu xuống thật thấp, bơi ngược dòng sông cho đến khi chiếc bè tiến lại thật gần. Lúc bấy giờ trời đầy mây đen và rất tối. Tớ bơi đến phía sau chiếc bè, túm lấy, rồi trèo lên những tấm ván đuôi bè. Những người đi bè đang xúm nhau quanh ngọn đèn ở giữa bè nên không ai để ý. Nước sông đang lên, chảy xiết. Tớ dự trù rằng trước khi trời sáng tớ sẽ đi được hai mươi lăm dặm, lúc bấy giờ tớ sẽ bơi vào bờ, rồi chạy vào rừng ở phía Illinois.

Nhưng thật không may cho tớ. Khi mới đến đầu hòn đảo thì một người cầm chiếc đèn lồng đi lại phía sau. Không còn có thể chờ đợi lâu hơn nữa, tớ đành phải lén rời chiếc bè, bơi vào hòn đảo. Tớ cứ nghĩ rằng mình có thể lên bờ ở bất cứ chỗ nào, nhưng thật ra không phải thế. Bờ toàn là vách đá rất dốc. Bơi đến gần hết hòn đảo tớ mới tìm ra được một chỗ tốt. Tớ đi vào trong rừng, và tự nhủ rằng từ nay sẽ không chơi dại với những cái bè như thế nữa, chừng nào mà họ cứ vác cái đèn đi lên đi xuống như thế. Tớ có một ống điếu, một bánh thuốc và ít cây diêm để trong mũ nên không bị ướt, thế là tốt rồi."

"Thế rồi từ lúc ấy đến bây giờ mày chẳng có thịt, bánh gì ăn cả à? Tại sao mày không bắt rùa đất ăn?"

"Làm sao mà bắt chúng được? Mình đâu có dẫm lên chúng mà chụp lấy được? Trong đêm tối mò mò như thế thì làm thế nào mà chọi đá cho trúng được? Hơn nữa. tớ đâu có dám đi trên bờ sông về ban ngày để cho người ta thấy."

"Ừ nhỉ, mày phải ở trong rừng suốt ngày, suốt buổi là lẽ tất nhiên rồi. Mày có nghe họ bắn đại bác không?"

"Ồ, có chứ. Tớ biết họ đang lùng cậu. Họ đi ngang qua đây này. Tớ nhìn thấy họ qua các bụi cây."

Một vài con chim con bay đến, cứ bay được một hai thước, chúng lại đỗ xuống một lần. Jim bảo đó là dấu hiệu trời sắp mưa to. Hắn nói gà con thường bay kiểu như vậy nên hắn đoán chim con cũng thế. Tôi định bắt một vài con chim, nhưng Jim ngăn tôi lại. Hắn bảo làm thế thì sẽ chết. Hắn kể, có lần cha hắn ốm nặng, thế rồi có người nào đó bắt một con chim con. Bà nội hắn bảo như thế thì cha hắn thế nào cũng chết, mà quả thật như thế.

Jim bảo không bao giờ nên đếm những thứ gì mình sắp sửa nấu ăn, như vậy sẽ gặp rủi ro. Hay là rũ khăn bàn sau lúc mặt trời lặn thì cũng vậy. Rồi hắn lại bảo rằng, nếu người nuôi ong chết thì phải báo tin ấy cho bầy ong trước khi mặt trời mọc sáng hôm sau, nếu không thì tất cả bầy ong sẽ yếu dần đi, bỏ cả công việc rồi chết cả. Jim bảo ong không thích chích những kẻ ngu dốt. Tôi không tin điều này, vì chính tôi đã thử nhiều lần mà chẳng thấy con nào đốt tôi cả.

Tôi đã nghe một số những điều mà Jim vừa kể từ lâu rồi, tuy không phải tất cả. Jim biết hết tất cả mọi thứ. Tôi nói với Jim rằng hầu như tất cả những điềm hắn biết đều là những điềm xấu cả, vậy thì có những điềm nào là điềm tốt hay không. Jim nói:

"Rất ít, vì chẳng có lợi bao nhiêu. Cậu cần gì phải biết trước khi nào điều may mắn sẽ đến với cậu. Biết trước để mà tránh à?" Rồi hắn lại nói tiếp: "Nếu cậu có lông mọc ở cánh tay và ở ngực đó là điềm sắp giàu có. Những cái điềm như thế cũng có ích lợi bởi vì nó còn lâu mới xảy đến. Chẳng hạn như, nếu bây giờ cậu nghèo khổ, cậu sẽ không thất vọng đến nỗi phải tự tử, vì biết rằng một ngày kia thế nào mình cũng trở nên giàu có."

"Mày cũng có lông tay và lông ngực, hở Jim?"

"Cần gì mà cậu phải hỏi câu ấy. Không nhìn thấy sao?"

"Thế ra mày giàu hả?"

"Không. Trước kia tớ đã giàu rồi, và sau này tớ cũng sẽ giàu trở lại. Đã có lần tớ có những mười bốn đôla kia, nhưng rồi tớ đi buôn cho nên mới vỡ nợ."

"Mày buôn gì, hở Jim?"

"Thoạt tiên tớ buôn gia súc."

"Gia súc gì?"

"Tớ bỏ ra mười đôla mua một con bò cái. Nhưng từ nay tớ không có dại bỏ tiền ra buôn gia súc nữa. Con bò cái ấy chết ngay trên tay tớ."

"Thế là mày mất toi cả mười đôla, hả?"

"Không, không mất tất cả. Chỉ mất khoảng chín đôla thôi, tớ bán da nó đi, được một đôla và mười xu."

"Như thế mày còn tất cả là năm đôla và mười xu. Mày có còn buôn gì nữa không?"

"Có chứ. Cậu có biết thằng da đen thọt một chân làm đầy tớ cho ông Bradish không? Hắn mở một ngân hàng, rồi bảo với mọi người rằng cứ bỏ một đôla vào ngân hàng của hắn thì cuối năm được thêm bốn đôla. Bọn da đen đều bỏ tiền vào, nhưng chẳng đứa nào có nhiều tiền như thế. Chỉ có tớ là bỏ được một đôla thôi. Tớ đòi hắn phải trả cho tớ hơn bốn đôla vào cuối năm, và bảo rằng nếu hắn không đưa, tớ sẽ mở riêng một ngân hàng của tớ. Cố nhiên thằng ấy không muốn tớ mở một ngân hàng cạnh tranh với hắn. Hắn bảo rằng một ngân hàng kinh doanh là quá đủ rồi, rồi khuyên tớ cứ bỏ cả năm đôla ấy vào ngân hàng của hắn, rồi cuối năm sẽ được đến ba mươi lăm đôla.

Tớ nghe lời hắn. Thế là tớ yên chí đã đầu tư được ba mươi lăm đôla rồi, nên bàn tính chuyện kinh doanh với số tiền ấy. Tớ quen một thằng da đen khác tên là Bob. Hắn vừa mới bắt được một chiếc xuồng đáy bằng mà chủ hắn không hề biết. Tớ mua lại chiếc xuồng ấy và bảo hắn cứ lấy ba mươi lăm đôla của tớ trong ngân hàng vào cuối năm. Nhưng rồi ngay tối hôm ấy, chiếc xuồng bị mất trộm, rồi ngày hôm sau thằng da đen thọt một chân bảo rằng ngân hàng sập tiệm rồi. Thế là không đứa nào trong bọn tớ lấy lại được một xu nhỏ nào."

"Mày định làm gì với mười xu còn lại?"

"Tớ định tiêu nó đi, nhưng rồi tớ nằm mộng, nghe ai đó bảo tớ đưa cho một thằng da đen tên là Balum cả mười xu ấy - người ta vẫn gọi tắt tên hắn là thằng Ngốc ấy. Thằng Balum ấy là một thằng ngu ngốc, cậu biết không? Nhưng hắn xưa nay vẫn là người may mắn, còn tớ thì ít may hơn. Giấc mộng bảo tớ để cho thằng Balum đầu tư hộ mười xu ấy, rồi tớ sẽ có một số tiền lớn. Thằng Balum cầm lấy số tiền ấy. Khi đến nhà thờ, hắn nghe ông mục sư giảng đạo, bảo rằng ai mà cho kẻ nghèo mười xu thì Chúa sẽ cho lại gấp trăm lần số tiền ấy. Thế là hắn cho luôn cả mười xu của tớ, rồi về nằm khoèo chờ được Chúa bù lại."

"Thế rồi kết quả ra sao, hở Jim?"

"Chẳng có cóc gì hết. Tớ chẳng có cách nào đòi lại mười xu ấy. Còn thằng Balum cũng thế. Từ nay tớ chẳng bao giờ cho ai mượn tiền mà không có gì bảo đảm. Thế mà ông mục sư bảo mình sẽ được lại một số tiền lớn hơn một trăm lần nữa chứ! Bây giờ giá có lấy lại được mười xu thôi, tớ cũng cho thế là sòng phẳng và cảm thấy sung sướng lắm rồi."

"Dẫu sao cũng chẳng hề gì. Một lúc nào đó mày sẽ giàu có trở lại kia mà."

"Đúng thế. Cậu xem, bây giờ tớ có giàu không. Tớ làm chủ được cả bản thân của tớ. Nó đáng giá tám trăm đôla kia. Giá mà tớ có tiền thì tớ không còn mơ ước gì hơn nữa."

Chương IX

Căn nhà trôi sông

Tôi muốn đi tới xem một nơi ở giữa hòn đảo mà tôi đã trông thấy trong cuộc thám hiểm hôm trước. Cả hai đứa tôi lên đường, chẳng mấy chốc thì đến nơi ngay, vì hòn đảo chỉ dài khoảng ba dặm và rộng một phần tư dặm.

Đó là một ngọn đồi khá dài và dốc, cao chừng mười ba thước. Sườn đồi dốc và nhiều bụi rậm nên chúng tôi phải khá vất vả mới lên được đến đỉnh. Chúng tôi trèo khắp nơi xung quanh đó mới tìm ra được một cái hang rộng sâu trong đá, gần trên đỉnh, hướng về phía bờ Illinois. Cái hang ấy to bằng hai, ba căn buồng ghép lại với nhau, và cao đến nỗi thằng Jim có thể đứng thẳng người trong đó được. Bên trong hang rất mát. Jim định để hành lí của tôi trong hang, nhưng tôi bảo hắn rằng tôi không muốn trèo lên trèo xuống nhiều lần.

Jim đề nghị tôi đậu chiếc xuồng ở một nơi gần đấy, rồi đưa tất cả đồ đạc lên cất trong hang, để khi nào có ai đến thì chúng tôi có thể chạy ngay đến xuồng chèo đi. Trừ phi họ có mang chó đi theo, ngoài ra họ không có cách nào tìm ra chúng tôi được. Hơn thế nữa. mấy con chim nhỏ vừa mới báo hiệu sẽ có cơn mưa, cho nên cần phải đem đồ đạc vào hang để khỏi ướt.

Thế là chúng tôi trở lại chỗ xuồng đậu, chèo đến một chỗ ngang với cửa hang, rồi chở tất cả đồ đạc lên để trong đó. Sau đó, chúng tôi tìm một chỗ giấu kín chiếc xuồng trong bụi liễu rậm rạp. Chúng tôi gỡ một vài con cá ra khỏi lưỡi câu rồi thả cần câu xuống, sửa soạn nấu bữa cơm chiều.

Cửa hang khá rộng, đủ để lăn một cái thùng lớn vào trong ấy. Gần đó, có một khoảng đất nhỏ bằng phẳng hơi nhô ra phía ngoài, có thể dùng làm nơi đốt lửa rất tốt. Chúng tôi liền nhen bếp để nấu bữa cơm chiều.

Bên trong hang, chúng tôi trải mền ra làm tấm thảm để ăn cơm trên ấy. Mọi thứ khác thì để vào một nơi thuận tiện ở cuối hang. Một lát sau, trời bắt đầu tối sầm lại, rồi sấm chớp nổi lên ầm ầm. Như vậy những con chim đã báo hiệu đúng. Cơn mưa bắt đầu đổ xuống như xối nước, gió thổi mạnh chưa từng thấy. Đó là một trong các cơn dông mùa hạ. Trời tối đến nỗi ở bên ngoài toàn là một màu xanh đậm, trông rất đẹp mắt. Từng làn mưa tạt qua dày đặc trùm lên cây cối xa xa, trông lờ mờ như phủ dưới một lớp màng nhện to lớn. Chốc chốc, một cơn gió thổi đến, làm cây cối cúi rạp xuống, và lật ngửa mặt dưới trắng đục của các ngọn lá lên, rồi một đợt khác lại tiếp đến bật bung các cành cây trông giống như những cánh tay giơ lên cuồng loạn. Khi toàn bầu trời nhuộm một màu xanh đậm nhất thì - xoẹt một cái - một tia chớp loé lên, khiến cho ta có thể nhìn thấy, chỉ trong chớp mắt, những ngọn cây ở cách đó hàng trăm thước, chưa hề thấy trước đó. Sau đó, tất cả đều tối sầm lại, rồi một tiếng sét khủng khiếp nổ vang, tiếp theo là tiếng rầm rầm, gầm thét từ không trung dội đến, nghe như tiếng thùng rỗng từ trên đỉnh cầu thang dài vừa lăn xuống vừa tung lên tung xuống nhiều lần.

"Thật là tuyệt, Jim nhỉ!", tôi nói, "tao chỉ thích ở mãi nơi này thôi. Mày đưa tao một miếng cá và mẩu bánh mì nóng đi!"

"Phải, nếu không có thằng Jim này thì cậu đâu có ở đây. Cậu nằm trong rừng kia, chẳng có gì bỏ vào miệng, lại còn ướt như chuột lột nữa. Chắc chắn thế, anh bạn ạ. Nhớ đấy nhé, chum nó cũng biết khi nào sắp mưa, giống như gà con ấy."

Nước vẫn tiếp tục dâng lên mãi trong suốt mười hay mười hai ngày, cho đến khi lên ngập cả bờ. Trên đảo, ở những nơi thấp, nước dâng cao đến hơn một thước. Ở phía Illinois thì con sông rộng ra nhiều dặm, nhưng ở phía bờ Missouri thì chiều rộng của con sông vẫn gần như cũ - nửa dặm thôi - vì bờ Missouri toàn là những vách đá cao.

Ban ngày, chúng tôi chèo xuồng đi khắp hòn đảo. Trong rừng sâu, khí hậu lúc nào cũng mát mẻ, dù cho mặt trời có cháy bỏng ở bên ngoài. Chúng tôi đi len lỏi giữa các lùm cây, đôi khi gặp phải những bụi cây leo dày đặc, chúng tôi phải lùi xuồng lại đi theo con đường khác. Trên các thân cây già đổ xuống, có rất nhiều thỏ, rắn và các con vật khác. Khi đảo ngập nước được hai ba ngày, những con vật ấy, ngoại trừ rắn và rùa, đói quá nên trở thành thuần thục. Chúng tôi có thể chèo thẳng đến, đặt tay lên người chúng, nếu muốn. Trên nóc hang chúng tôi, không thiếu gì các con vật ấy. Nếu muốn, chúng tôi cũng có thể đem chúng về nuôi được.

Một đêm, chúng tôi bắt được một phần của một chiếc bè gỗ, gồm năm tấm rất tốt, rộng khoảng bốn thước và dài chừng năm, sáu thước, nổi lên trên mặt nước chừng mười lăm, mười sáu phân, làm thành một cái sàn bằng phẳng, vững chắc.

Một đêm khác, trước khi trời sáng, chúng tôi đứng ở đầu hòn đảo nhìn ra bờ phía tây thì thấy một căn nhà gỗ trôi dạt đến. Đó là một ngôi nhà hai tầng bằng gỗ, nghiêng hẳn sang một bên, đang trôi theo dòng nước. Chúng tôi chèo ra, trèo lên qua chiếc cửa sổ tầng trên. Nhưng vì tối quá, không thấy gì, chúng tôi buộc xuồng vào đó, ngồi chờ cho đến lúc trời sáng.

Bình minh vừa ló dạng thì căn nhà đã trôi đến cuối hòn đảo. Nhìn qua cửa sổ, chúng tôi thấy một chiếc giường, một cái bàn, hai cái ghế và nhiều thứ khác ngổn ngang trên sàn, quần áo treo trên vách. Có một vật gì đó ở tận góc phòng, hình dáng như một người đàn ông đang nằm. Jim nói:

"Này, ông!"

Vật ấy vẫn không động đậy. Tôi lại gọi một lần nữa. Jim nói:

"Không phải đang ngủ đâu. Người này chết rồi. Cậu đứng yên ở đấy để tớ xem."

Hắn bước vào, cúi xuống nhìn một lúc rồi nói:

"Người chết! Lại trần truồng nữa. Bị bắn ở sau lưng. Chắc người này chết đã hai ba ngày rồi. Vào đây, Huck, nhưng cậu chớ nhìn tận mặt, trông ghê lắm."

Tôi không dám nhìn. Jim vứt một ít quần áo rách phủ lên xác chết. Thật ra, hắn chẳng cần làm như thế, vì tôi chẳng muốn nhìn xác chết ấy một chút nào. Trên sàn nhà ngổn ngang những lá bài tây dính đầy mỡ, những vỏ chai rượu whisky cũ kĩ, vài cái mặt nạ bằng vải. Trên vách có những hình vẽ và chữ viết lảm nhảm bằng than. Ngoài ra còn có một số áo dài, mũ, quần áo đàn bà, đàn ông treo trên vách. Chúng tôi đem các thứ ấy xuống xuồng để dùng về sau này. Tôi cũng lấy luôn chiếc mũ rơm cũ của con trai tìm thấy trên sàn nhà. Ở đó. Tôi còn thấy một cái chai còn đựng chút sữa, với một cái nút đậy làm bằng giẻ cho trẻ con bú. Tôi định lấy, nhưng thấy nó đã vỡ nên vứt lại đấy. Trên sàn còn có một cái tủ quần áo, một cái rương khác đựng tóc giả đã gãy cả bản lề, bị mở toang ra, nhưng không có gì đáng kể trong đó cả. Có lẽ những người chủ ngôi nhà này đã phải chạy đi vội vã, không kịp đem theo thứ gì cả, nên mọi thứ còn ngổn ngang khắp nơi.

Chúng tôi lấy một cây đèn lồng bằng thiếc, một con dao không có cán, một con dao mới tinh đáng giá hai mươi lăm xu ở cửa hàng, một số nến làm bằng mỡ bò, một cây đèn, một cái bầu đựng nước, một chén thiếc, một tấm chăn cũ, một túi đựng kim, chỉ, khuy áo, sáp ong và các thứ lặt vặt, một chiếc rìu và đinh, một cái cần câu to bằng ngón tay út của tôi với ít lưỡi câu to còn mắc vào đó, một cuộn da dê, một sợi dây da buộc cổ chó, một móng ngựa bằng sắt, và nhiều lọ con đựng thuốc không có nhãn. Sắp sửa ra về thì Jim lại bắ gặp một cái lược sắt chải lông ngựa, một cái ác-sê đàn vĩ cầm và một chiếc chân gỗ. Các sợi dây buộc đã đứt tung, nhưng chân vẫn còn tốt. So với chân tôi thì nó quá dài, nhưng so với Jim thì lại quá ngắn. Ngoài ra, chúng tôi không tìm thấy chân gỗ khác.

Kể chung tất cả mọi thứ thì chúng tôi đã thu về được một mẻ lớn. Đi về phía dưới đảo chừng một phần tư dặm thì trời đã sáng tỏ, tôi bảo Jim nằm xuống, trùm chiếc chăn lên người, bởi vì từ xa người ta có thể nhận thấy rõ hắn là một tên da đen. Sau đó, tôi chèo về phía bờ Illnois, rồi thả trôi chừng nửa dặm. Tôi men theo bờ sông chèo lên, trở về hòn đảo an toàn, không xảy ra chuyện gì và cũng chẳng nhìn thấy ai.

Chương X

Rủi ro vì sờ phải da rắn

Sau bữa ăn sáng, tôi muốn bàn về chuyện người nằm chết trong căn nhà gỗ, rồi phỏng đoán về cái chết của ông ta. Nhưng Jim không muốn nhắc đến chuyện ấy nữa. Hắn nói rằng bàn chuyện ấy thì xúi quẩy. Hồn ma của người chết có thể về quấy rầy. Hắn bảo những người chết mà không được chôn thì thường đi lang thang đây đó, không giống như những người đã được chôn cất đàng hoàng. Nghe như vậy có vẻ hợp lí nên tôi không hỏi gì thêm nữa, nhưng trong lòng vẫn cứ thắc mắc không hiểu ông ta đã làm gì mà bị bắn như thế, và ai đã bắn ông ta.

Chúng tôi lục các quần áo cũ và tìm ra được tám đôla trong lớp đệm của một áo khoác cũ. Jim đoán rằng những kẻ trong nhà ấy đã ăn cắp chiếc áo, bởi vì nếu biết có tiền chúng không để lại đấy. Tôi cho rằng chính họ đã giết người đàn ông ấy, nhưng Jim không muốn bàn về chuyện này nữa. Tôi nói:

"Mày bảo thế là xúi quẩy hả? Thế hôm trước tao tìm thấy cái da rắn ở trên nóc hang thì mày bảo sao? Mày nói rằng sờ vào da rắn là xúi quẩy nhất trên đời này. Xúi quẩy à? Tao lục lọi các thứ lảm nhảm kia, tìm ra được đến tám đôla đấy. Tao cứ mong ngày nào cũng gặp xúi quẩy theo cái kiểu như thế."

"Chưa đâu. Đừng có mừng vội. Rồi nó sẽ đến mà! Cứ nhớ lời tao nói đấy."

Quả nó đến thực. Chúng tôi nói về chuyện ấy vào ngày thứ ba, thì đến ngày thứ sáu, tôi đang nằm trên cỏ ở đỉnh đồi để hút thuốc, nhưng thấy thiếu thuốc hút, tôi liền đi về hang để lấy thêm, thì gặp một con rắn chuông ở đấy. Tôi liền giết con rắn, rồi đặt xác nó dưới chân mền của thằng Jim, định bụng trêu nó cho vui. Tối hôm ấy, tôi quên hẳn con rắn, quẹt diêm để châm đèn. Jim vừa ngả xuống mền nằm, thì một con rắn khác, đang ở đấy, mổ vào người hắn ngay lúc ấy.

Hắn nhảy dựng lên, la hét om xòm. Ánh sáng vừa chiếu đến, tôi thấy con rắn cuộn mình lại, định chồm lại một lần nữa. Tôi liền lấy gậy đánh chết con rắn, còn Jim thì vớ ngay lấy bình rượu whisky của cha tôi, tu ừng ực. Hắn đi chân đất, nên con rắn cắn ngay vào gót chân. Tất cả đều do tôi quá ngu đần, không nhớ rằng cứ để xác rắn nơi nào thì một con khác, bạn nó, thế nào cũng cuộn mình bên cạnh đó. Jim bảo tôi chặt đầu con rắn ném đi, rồi lột da đem nướng phần còn lại. Tôi làm xong, hắn liền ăn hết, nói rằng như thế sẽ chữa khỏi. Hắn cũng bảo tôi chặt đuôi rắn để hắn đeo vào cổ tay, như thế cũng là một cách chữa rắn cắn. Tôi lẻn ra ngoài ném xác hai con rắn để cho Jim không biết được chính tôi đã gây nên tất cả chuyện ấy, nếu tôi có thể giấu hắn được.

Jim cứ tu mãi bình rượu whisky, thỉnh thoảng lại lăn lộn, la hét điên cuồng. Nhưng cứ khi nào tỉnh lại, hắn lại cầm lấy bình rượu mà nốc. Bàn chân hắn sưng lên khá to, cả cái đùi hắn cũng thế, nhưng khi rượu bắt đầu ngấm, hắn mới yên được một chút. Thật sự, tôi thà bị rắn cắn còn hơn phải nốc thứ rượu whisky của cha tôi.

Jim nằm liệt giường chừng bốn ngày đêm. Khi chân đã hết sưng, hắn bắt đầu đi lại được. Sau khi chứng kiến cái cảnh vừa rồi, tôi thề chẳng bao giờ dám sờ vào da rắn một lần nữa. Hắn bảo từ nay, hắn và tôi phải tin những điều hắn nói mới được. Hắn còn nói rằng đã sờ da rắn thì rất xui nên chưa hết xúi quẩy đâu. Thà hắn nhìn mặt trăng qua vai trái một nghìn lần còn hơn là một lần cầm da rắn trong tay. Bây giờ, tôi cũng phải tin như vậy. Tôi biết rằng nhìn mặt trăng qua vai trái là điều bất cẩn và ngu dại nhất. Ông già Hank đã có lần làm thế rồi đi khoe với tất cả mọi người. Thế rồi hai năm sau, ông ta uống rượu ngã từ trên cao xuống, chết dẹp lép. Người ta phải luồn ông ta giữa hai cánh cửa để làm hòm rồi cứ như thế mà đem đi chôn. Tôi chỉ nghe nói như vậy, chứ không nhìn thấy. Cha tôi cũng nói thế. Nhìn mặt trăng qua vai trái, tai hại đến như vậy đó.

Ít ngày sau, nước sông rút xuống. Việc đầu tiên của chúng tôi là dùng một con thỏ lột da làm mồi, móc vào một cái lưỡi câu thật to, thả xuống sông. Lần ấy, chúng tôi bắt được một con cá mèo to, to gần bằng người, dài gần hai thước, cân nặng chừng một trăm kí. Tất nhiên là chúng tôi không dám cầm lấy nó, vì nó có thể hất chúng tôi đến tận Illinois. Chúng tôi phải để nó ở đó, mặc nó vùng vẫy cho đến khi chìm nghỉm. Khi mổ ra, trong bụng nó có một cái khuy đồng, một cái cục hình tròn như quả bóng và nhiều thứ lặt vặt khác. Chúng tôi lấy rìu đập quả bóng ấy ra thì thấy bên trong có một cái lõi để cuốn chỉ, như thế cái lõi này chắc đã ở trong bụng cá lâu lắm nên mới đóng thành một lớp vỏ cứng như thế. Chưa hề có một con cá nào lớn như vậy ở trên sông Mississippi. Jim nói chưa hề thấy con cá nào lớn hơn thế. Giá đem bán ở dưới phố thì hẳn được một số tiền lớn. Ở chợ người ta thường bán từng nửa ki lô một, Ai cũng thích mua, vì thịt nó trắng như tuyết, rán lên ăn rất ngon.

Sáng hôm sau, tôi cảm thấy trong người lừ đừ, cần phải cựa quậy đôi chút cho đỡ buồn chán. Tôi bàn với Jim rằng tôi muốn lẻn qua bên kia sông để dò la mọi việc xem sao. Jim tán thành ý kiến của tôi, nhưng hắn nói rằng tôi chỉ nên đi vào ban đêm và phải hết sức cẩn thận. Sau khi suy nghĩ một lát, hắn đề nghị tôi mặc quần áo cũ vào người để hoá trang thành một đứa con gái. Đó là một ý kiến thật hay. Tôi liền cắt ngắn các áo cũ, cuộn các ống quần lên đến đầu gối, rồi mặc vào người. Jim lấy móc câu buộc lại ở phía sau, thành ra mặc cũng vừa vặn. Tôi lấy cái mũ chụp bằng vải đội lên đầu, rồi buộc dây lại ở dưới cằm, khiến cho người nào đó nhìn vào, trông thấy mặt tôi, sẽ có cảm tưởng như nhìn xuống một khúc nối của ống lò đốt vậy. Jim bảo rằng dù giữa ban ngày cũng không ai nhận ra được tôi đâu. Tôi phải tập dượt suốt ngày nên cũng quen dần, chỉ phải tội, theo lời Jim, là tôi không đi đứng giống con gái lắm. Hắn bảo tôi phải bỏ cái thói quen kéo áo lên để thọc tay vào túi quần. Tôi ghi nhớ điều này, nên làm cũng khá hơn.

Sau khi trời tối, tôi chèo lên dọc theo bờ Illinois, rồi từ phía dưới bến đò tôi đi ngang qua đến thị trấn và thả cho trôi xuống cuối phố. Tôi buộc xuồng lại, trèo lên bờ. Có một ngọn đèn leo lét trong một căn chòi đã bỏ không từ lâu, không biết hiện nay ai đang ở. Tôi rón rén đến nhìn qua khung cửa sổ. Bên trong có một bà chừng bốn mươi tuổi đang ngồi khâu vá dưới một ngọn nến đặt trên bàn. Tôi không biết mặt bà ta. Bà hẳn phải là một người lạ mặt, vì trong vùng này không có ai mà tôi không biết mặt. Thật là may, vì tôi đang cảm thấy lo lắng, sợ rằng người ta sẽ nhận ra tiếng nói của tôi. Nhưng bà này có lẽ mới đến thị trấn này chừng hai ngày nên có thể nói cho tôi những điều tôi đang cần biết. Tôi gõ cửa, thầm nhủ rằng tôi không bao giờ được quên tôi là một đứa con gái.

Chương XI

Bị lùng bắt

"Vào trong này, cháu", bà nói. Tôi bước vào nhà. "Cháu cứ tự nhiên, đừng sợ gì."

Bà nhìn tôi từ đầu đến chân với đôi mắt nhỏ và sáng, rồi hỏi:

"Tên cháu là gì?"

"Cháu tên là Sarah Williams."

"Cháu từ đâu đến hay ở ngay trong vùng này?"

"Dạ, cháu từ Hookerville đến, cách đây bảy dặm, ở mạn dưới. Cháu đi bộ đến đây nên mệt mỏi quá."

"Lại còn đói nữa, phải không? Để bác lấy thứ gì cho cháu ăn tạm nhé."

"Cháu không đói ạ. Cháu đã ăn ở một nông trại cách đây hai dặm rồi. Bây giờ thì không đói nữa. Cháu đến đây trễ là vì thế. Mẹ cháu bị ốm nặng, không có tiền, lại thiếu tất cả mọi thứ, nên cháu phải đi tìm chú Abner của cháu để tin cho ông ấy biết. Mẹ cháu bảo chú Abner ở mãi đầu phố. Cháu chưa đến đây lần nào cả. Bà có biết ông Abner không?"

"Không. Bác chưa quen nhiều người lắm ở đây. Chỉ mới ở đây được hai tuần thôi. Từ đây đến đầu phố trên còn xa lắm. Cháu cứ nghỉ lại đây tối nay. Cởi mũ ra, cháu."

"Dạ, thôi ạ. Cháu xin ngồi nghỉ một lát rồi đi. Cháu sợ trời tối lắm."

Bà nói không muốn để tôi đi một mình. Trong một giờ rưỡi nữa, chồng bà trở về rồi sẽ cùng đi với tôi. Sau đó bà kể một thôi một hồi về chồng bà, về họ hàng ở mạn dưới sông, về cuộc sống sung túc của vợ chồng bà trước kia, về sự lầm lẫn của vợ chồng bà đã chọn đến ở nơi này, vân vân, cho đến lúc tôi đâm ra ngại rằng có lẽ tôi đã lầm chọn nơi này để dò la tin tức trong thị trấn. Nhưng rồi dần dà, vui câu chuyện, bà kể đến việc cha tôi và vụ án mạng. Đến chỗ này thì tôi sẵn lòng lắng nghe bà nói chuyện dông dài. Bà nói về vụ tôi và Tom Sawyer tìm ra được mười hai nghìn đôla (nhưng bà đã tăng lên đến hai chục nghìn đôla), về cha tôi và tính điên cuồng, hung dữ của ông ta, rồi cuối cùng bà đề cập đến chuyện tôi bị giết. Tôi nói:

"Ai giết thế ạ? Ở Hookerville, cháu nghe người ta nói đến chuyện này nhiều lắm, nhưng không biết ai giết cả."

"Mọi người ở đây ai cũng muốn biết ai giết thằng Huck. Một số người cho rằng chính cha hắn giết hắn."

"Không... à mà thật thế sao?"

"Thoạt tiên thì người ta nghĩ thế. Suýt nữa thì lão bị đem ra hỏi tội đấy. Nhưng rồi đến chiều thì người ta lại đổi ý kiến, cho rằng một thằng da đen bỏ trốn đã giết thằng Huck."

"Nhưng mà hắn..."

Tôi ngừng phắt lại. Tốt hơn hết là không nói gì cả. Bà cứ tiếp tục nói, không để ý đến câu tôi vừa thốt lên:

"Thằng da đen ấy bỏ trốn ngay đêm thằng Huck bị giết. Cho nên người ta treo giải thưởng ba trăm đôla cho ai bắt được thằng da đen ấy, hai trăm đôla cho ai bắt được bố thằng Huck nữa. Cháu biết không, sáng hôm sau xảy ra vụ giết người ấy, lão ta đi xuống phố, tin cho mọi người biết, sau đó lão cùng đi với họ trên thuyền đi mò xác, rồi biến mất ngay sau đó. Người ta định đem lão đi quần hình 1 thì lão đã biến mất rồi. Thế rồi hôm sau đó, thằng da đen cũng trốn luôn. Người ta điều tra thì biết rằng thằng da đen vắng mặt lúc mười giờ đêm hôm xảy ra án mạng. Thế là người ta buộc tội hắn. Giữa lúc ấy thì lão già bố thằng Huck trở về, khóc lóc ầm ĩ, đòi ông thẩm phán Thatcher đưa cho lão tiền để lão đi tìm tên da đen khắp cả vùng Illinois. Ông thẩm phán cho lão một ít tiền, thế là đêm ấy lão uống rượu bí tỉ với một số người lạ mặt có vẻ dữ dằn, sau đó cùng ra đi với họ. Người ta không thấy lão trở về, và cũng không ai đi tìm lão, chờ đến khi nào vụ này sáng tỏ thêm đôi chút nữa. Bây giờ thì người ta lại xoay sang nghĩ rằng lão già này đã giết con, rồi xếp đặt mọi thứ cho ra vẻ như là bọn cướp đến giết thằng Huck mà chẳng cần phải kiện tụng gì. Họ bảo rằng còn khuya lão ta mới lấy được số tiền ấy. Nhưng bác cho rằng lão ấy khôn lắm. Nếu lão cứ đi vắng độ một năm là yên chuyện hết. Lúc bấy giờ người ta chẳng còn bằng chứng nào buộc tội lão. Khi mọi sự đều êm cả rồi, lão chỉ việc đến lấy tiền của thằng Huck dễ dàng như thọc tay vào túi."

"Cháu cũng nghĩ như thế đấy. Chẳng có gì cản trở ông ta làm như vậy cả. Như thế, mọi người đã thôi buộc tội thằng da đen chưa, hở bác?"

"Chưa. Còn khối người vẫn tin rằng thằng da đen ấy giết người đấy. Nhưng rồi thế nào, họ cũng bắt được hắn, rồi làm cho hắn phải sợ để khai rõ sự thật."

"Thế họ đã đi lùng bắt chưa?"

"Cháu ngây thơ quá. Dễ thường ba trăm đôla cứ nằm ì ở đấy ngày này qua ngày khác để chờ cho người ta đến nhặt à? Nhiều người cho rằng thằng da đen vẫn còn quanh quất đâu đây. Bác cũng nghĩ thế, nhưng chưa nói với ai. Cách đây mấy ngày, bác nói chuyện với vợ chồng ông già bên cạnh nhà, tình cờ họ bảo rằng chưa có ai đặt chân lên hòn đảo Jackson ở bên kia bao giờ. Bác hỏi lại thì họ nói thêm rằng chẳng có ai sống ở đấy cả. Bác chẳng nói gì, cứ lẳng lặng suy nghĩ. Bác chắc chắn đã thấy có khói ở đầu hòn đảo, trước đó một hai ngày. Chắc thằng da đen đang trốn ở đó, cần phải sang bên ấy mà lùng thì mới bõ công tìm. Bác nghĩ thế. Nhưng rồi sau đó, lại không thấy khói nữa. Chắc nó đã trốn đi chỗ khác rồi. Dộu sao thì chồng bác thế nào cũng đi đến đấy xem, cùng với một người nữa. Ông ấy đi xuống mạn dưới mới về hôm nay. Bác mới nói cho ông ấy hay, cách đây hai giờ."

Tôi thấy sốt ruột quá, không thể ngồi yên được, phải làm một cái gì đó cho tay bớt ngứa ngáy. Tôi bèn nhặt cây kim trên bàn để xâu chỉ. Tay tôi run quá nên xâu mãi không được. Bà chủ nhà ngưng nói chuyện. Tôi ngước mắt nhìn lên thấy bà cứ ngó tôi chằm chằm rồi tủm tỉm cười một cách khó hiểu. Tôi đặt kim chỉ xuống, làm ra vẻ đang chú ý đến câu chuyện của bà, rồi hỏi:

"Ba trăm đôla là một số tiền quá lớn, bác nhỉ. Giá mẹ cháu mà có số tiền ấy thì sướng biết mấy. Thế bác trai sẽ đi đến đấy ngay tối nay, hở bác?"

"Phải. Ông ấy đang xuống phố cùng với một người khác để mượn một chiếc thuyền, và nếu có thể, thêm một khẩu súng nữa. Khuya nay, họ sẽ đi."

"Sao họ không chờ đến sáng có hay hơn không?"

"Phải. Thằng da đen mới cho thế là hay, chứ họ đâu có dại. Đến khuya, lợi dụng lúc thằng da đen đang ngủ, họ sẽ lẻn vào trong rừng, tìm ra chỗ nào có đốt lửa thì đến. Ban đêm mới trông thấy rõ, nếu nó đốt lửa, cháu hiểu không?"

"Thật cháu không nghĩ đến điều ấy."

Bà chủ nhà lại tiếp tục nhìn tôi một cách khó hiểu, làm tôi áy náy vô cùng. Bỗng bà hỏi tôi:

"Lúc nãy cháu nói với bác tên cháu là gì nhỉ?"

"Dạ, Mary Williams."

Nói xong tôi mới chợt nghĩ lại rằng lúc nãy hình như tôi không nói tên tôi là Mary, cho nên tôi không dám ngẩng đầu lên. Hình như tôi đã nói là Sarah thì phải. Tôi cảm thấy như bị dồn vào chỗ bí, sợ lộ ra sự bối rối làm cho bà ta nghi ngờ, nên cứ mong cho bà nói thêm câu gì đó nữa. Bà càng ngồi yên, tôi càng thấy khó chịu. Nhưng rồi bà nói tiếp:

"Hình như lúc cháu mới đến, cháu nói tên cháu là Sarah kia mà."

"Vâng, đúng thế ạ. Cháu tên là Sarah Mary Williams. Sarah là tên riêng của cháu. Cho nên có người gọi cháu là Sarah, có người lại gọi là Mary, tên nào cũng được."

"Thế kia à?"

"Vâng ạ."

Tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn một chút, nhưng chỉ muốn ra khỏi nơi này ngay lập tức. Tôi vẫn chưa dám ngẩng mặt lên.

Thế rồi bà chủ nhà nói sang chuyện của vợ chồng bà. Nào là chuyện họ phải sống vất vả như thế nào, họ nghèo khổ như thế nào, nào chuyện chuột phá phách xem như là nhà của chúng vậy, vân vân. Tôi lại thấy yên tâm trở lại. Về chuyện chuột, quả bà nói đúng. Ngay lúc bấy giờ tôi thấy một chú chuột đang ló đầu ra khỏi một cái hang ở góc nhà. Bà nói lúc nào cũng để sẵn một vật gì đó bên cạnh để ném chúng, khi nào bà ngồi một mình, nếu không chúng phá phách không chịu được. Bà cho tôi xem một khúc chì bẻ cong lại thành một cục, rồi khoe rằng bà thường ném rất trúng, nhưng mới đây bà ném bị sái cả cánh tay nên không biết bây giờ còn ném trúng được không. Nhưng bà cứ chờ đợi có dịp làm thử xem sao. Nói xong, bà ném thẳng vào một con chuột, nhưng chệch một quãng rất xa, rồi bà kêu oái lên một tiếng vì bị đau cánh tay. Bà bảo tôi ném thử con chuột khác. Tôi đang mong muốn chạy đi nơi khác trước khi chồng bà trở về, nhưng cố nhiên tôi không dám để lộ ra điều ấy. Tôi cầm lấy cục chì, ném ngay vào con chuột đầu tiên vừa mới ló ra. Nếu con chuột không chạy đi nơi khác thì hẳn đã bị tôi ném trọng thương rồi. Bà khen tôi là ném giỏi số một, và tin chắc rằng thế nào tôi cũng hạ được con chuột kế tiếp. Bà đi nhặt lại cục chì, rồi đem lại một cuộn len, bảo tôi giúp bà cuộn lại. Tôi đưa hai tay lên đỡ cuộn len, rồi bà lại tiếp tục nói về chuyện vợ chồng bà. Bỗng bà thay đổi câu chuyện:

"Coi chừng mấy con chuột nhé. Cháu để cục chì này sẵn sàng ở trên đùi."

Nói xong bà ném cục chì lên đùi tôi. Tôi vội vàng khép hai chân lại đỡ lấy cục chì, rồi bà lại tiếp tục nói chuyện. Nhưng chỉ một phút sau, bà lấy cuộn len lại, nhìn thẳng vào mặt tôi, có vẻ tươi tỉnh:

"Bây giờ cháu nói thật đi. Tên cháu là gì?"

"Sao ạ?"

"Tên của cháu là gì? Bill, Tom hay Bob hay cái gì gì nào?"

Người tôi run lên như cầy sấy, không còn biết phải xoay xở ra sao nữa. Nhưng tôi vẫn cố nói:

"Xin bà đừng trêu một đứa bé gái tội nghiệp. Nếu cháu ở đây phiền bà quá nhiều thì ..."

"Không, chẳng phiền gì cả. Cháu cứ ngồi yên đấy. Bác không làm hại gì cháu đâu, bác sẽ chẳng bao giờ nói với ai về cháu cả đâu. Cháu phải nói tất cả sự thật cho bác biết, bác sẽ giúp cho. Chồng bác cũng thế. Cháu biết không, cháu là đứa bé chạy trốn chưa lành nghề, thế thôi. Chuyện ấy chẳng có gì nguy hại cả. Cháu bị bạc đãi, thế rồi cháu bỏ nhà ra đi, chỉ có thế thôi. Tội nghiệp cho cháu. Đời nào bác lại đi nói với người ta về chuyện cháu. Cháu cứ nói thật đi, cháu trai của bác ạ."

Thế rồi tôi nói rằng không còn cách nào đánh lừa được bà nữa, mà cũng chẳng cần giấu bà làm gì, như thế tôi càng đỡ áy náy, khó chịu hơn, nhưng bà phải giữ lời hứa. Tôi nói cha mẹ tôi đều chết cả rồi, nên luật pháp buộc tôi phải ở với một người nông dân keo bẩn, ở cách xa sông đến ba mươi dặm. Ông đã đối xử với tôi tàn nhẫn quá khiến tôi không còn chịu được nữa. Nhân lúc ông vắng nhà hai ba ngày, tôi liền ăn cắp quần áo của con gái ông ta rồi chạy trốn. Tôi đi ba mươi dặm hết ba đêm, ngày nghỉ, đêm đi, với một cái bị đựng thức ăn đầy đủ trong suốt thời gian ấy. Tôi nghĩ rằng chú Abner của tôi sẽ nuôi tôi, cho nên tôi mới lần mò đến vùng Goshen này.

"Goshen à? Đây không phải là thị trấn Goshen mà là Petersburg. Goshen còn ở xa, mười dặm đường nữa, ngược dòng sông đi lên kia. Ai bảo cháu đây là Goshen?"

"Sáng nay cháu gặp một ông bảo cháu thế, khi cháu sắp sửa rẽ vào rừng để ngủ. Ông ấy bảo cháu đi đến chỗ có con đường chẻ ra làm hai thì cứ rẽ sang đường bên phải mà đi thêm năm dặm nữa thì đến Goshen."

"Ông ấy say rượu đấy. Điều ông ấy nói hoàn toàn là sai."

"Ông ấy chẳng tỏ vẻ gì là say rượu cả. Nhưng bây giờ cháu chẳng còn phải lo nữa. Cháu cứ tiếp tục đi, sáng mai thì đến Goshen."

"Khoan đã. Để bác bới cho cháu thức ăn để đi đường."

Bà liền soạn thức ăn cho tôi đem theo, rồi nói:

"Khi con bò cái nằm thì nó nhổm dậy ở đâu nào trước? Cháu trả lời ngay đi, đừng có suy nghĩ. Ở đầu nào trước?"

"Ở phía đuôi trước."

"Thế còn con ngựa?"

"Ở phía đầu trước."

"Rêu thường bám trên cây ở về phía nào?"

"Phía bắc."

"Nếu mười lăm con bò cái đang gặm cỏ trên đồi thì bao nhiêu con cùng hướng đầu về một phía?"

"Tất cả mười lăm con."

"Thế thì bác biết cháu đã sống ở miền quê. Lần này thì không đánh lừa bác nữa chứ. Tên thật của cháu là gì nào?"

"George Peters ạ."

"Nhớ đấy nhé George. Đừng có quên đi để rồi lại nói tên là Alexander trước khi đi, sau đó lại nói là George Alexander, lúc bị bác bắt nọn. Lần sau thì đừng chơi cái trò con gái với cái áo vải cũ kĩ ấy nữa nhé. Cháu đóng cái vai con gái ấy tồi lắm đấy, chỉ may ra đánh lừa được đàn ông thôi. Khi xâu sợi chỉ thì đừng có giữ chặt sợi chỉ rồi đẩy lỗ kim lại gần nhé. Phải giữ yên cây kim rồi mới xỏ sợi chỉ vào lỗ. Đàn bà thì làm như thế, còn đàn ông thì ngược lại. Khi nào ném một con chuột hay bất cứ thứ gì thì phải nhón đầu ngón chân lên, rồi giơ bàn tay lên quá đầu, càng vụng về càng hay, ròi ném chệch đi chừng hai ba thước nhé. Khi ném thì giơ thẳng cách tay cứng đờ, dùng bả vai làm trụ xoay cả cánh tay như con gái ấy, chứ đừng giơ thẳng cánh tay về phía trước rồi ném bằng cổ tay và cùi chỏ như con trai nhé. Cháu cũng cần phải biết rằng khi người con gái muốn chụp vật gì trên đùi thì họ dang hai đầu gối ra, chứ không khép hai đùi lại như cháu bắt cục chì lúc nãy ấy. Khi thấy cháu xâu chỉ, bác nghĩ ngay cháu là con trai, cho nên bác mới bày thêm ít trò nữa cho chắc chắn hơn. Thôi cháu Sarah Mary Williams George Alexander Peters ạ, cháu đi tìm chú cháu đi. Nếu có gặp khó khăn gì thì cứ nhắn cho bà Loftus, tức là bác đây, bác sẽ tìm cách giúp cháu. Cứ đi dọc theo bờ sông và lần sau nhớ đi tất và giày vào. Đường nhiều đá lắm, đến Goshen cháu sẽ bị đau chân lắm đấy."

Tôi lên bờ sông đi chừng năm mươi thước, rồi quay trở lại, lẻn xuống nơi tôi đậu xuồng, cách ngôi nhà một quãng xa về phía dưới. Tôi vội vã chèo xuồng đi, ngược dòng sông đủ xa để có thể vượt qua sông chèo về phía đầu hòn đảo. Tôi tháo mũ vải ra vì không muốn có vật gì che hai bên mắt. Đến giữa dòng sông, có tiếng chuông đồng hồ báo giờ từ đằng xa văng vẳng trên sông. Tôi dừng lại lắng nghe, đếm rõ mười một tiếng. Lên đến đầu hòn đảo, tôi không còn nán lại để mà thở nữa, mặc dù lúc ấy tôi đã gần như kiệt sức. Tôi chạy thẳng vào rừng, đến nơi tôi cắm trại lần đầu tiên, đốt lên một ngọn lửa ở một nơi cao và khô.

Xong rồi, tôi lại nhảy xuống xuồng chèo đến nơi chúng tôi ở, chừng một dặm rưỡi ở phía dưới đó. Tôi liền lên bờ, lội qua lùm cây, chạy lên đỉnh đồi, rồi vào trong hang. Thằng Jim đang nằm ngủ say trên đất. Tôi đánh thức nó dậy, nói:

"Dậy vận động đi, Jim! Không được phí một giây phút nào nữa. Họ đang đi lùng chúng mình đấy."

Jim không hỏi thêm một lời nào, nhưng cứ xem cách hắn làm việc trong nửa giờ đồng hồ kế tiếp đó. Thì biết hắn đang sợ hãi đến thế nào rồi. Tất cả mọi đồ đạc của chúng tôi đều được chuyển xuống bè, sẵn sàng rời khỏi nơi ẩn giấu dưới bụi liễu. Chúng tôi dập tắt lửa trong hang, và không để ló ngọn nến ra khỏi cửa hang sau đó.

Tôi chèo xuồng ra khỏi bờ một quãng ngắn để nhìn xem động tĩnh thế nào. Nhưng nếu có chiếc thuyền nào đi ngang qua thì tôi cũng không thể nào nhận ra được vì trời chỉ có sao và bóng tối mờ mịt. Sau đó, chúng tôi đẩy chiếc bè ra, trườn theo dòng sông trong bóng tối ven bờ, chèo ngang qua chân hòn đảo yên lặng như tờ, không ai nói với ai một lời nào.

Chương XII

"Hãy để cho tội lỗi ngủ yên"

Vào khoảng gần một giờ sáng, chúng tôi đã đi xa ở bên dưới hòn đảo, nhưng chiếc bè có vẻ chậm chạp quá. Giá như lúc bấy giờ có chiếc thuyền nào đi tới, chúng tôi chắc phải xuống chiếc xuồng, chèo về phía bờ Illinois, nhưng thật là may mắn, chẳng có chiếc thuyền nào xuất hiện cả. Chúng tôi chưa hề nghĩ đến việc đặt khẩu súng, cần câu hay các thức ăn xuống xuồng, vì đầu óc đang rối bù với bao nhiêu vấn đề. Để nguyên mọi thứ trên bè thì thật chẳng khôn ngoan chút nào.

Tôi nghĩ, nếu lúc bấy giờ có người đi lên hòn đảo để lùng chúng tôi thì chắc họ tìm thấy đống lửa tôi đã đốt lên, rồi sẽ ngồi rình ở gần đấy để chờ Jim trở về. Dù thế nào chăn nữa, họ cũng đã bị tôi đánh lạc hướng. Nếu đống lửa ấy không đánh lừa được họ chăng nữa thì đó cũng không phải do lỗi ở tôi. Tôi đã chơi với họ một canh bạc bằng một số vốn bỏ ra ít ỏi nhất.

Khi vệt sáng ban ngày đầu tiên bắt đầu ló ra, chúng tôi buộc bè vào một cồn cát ở khúc quanh của bờ Illinois, lấy rìu chặt những cành cây bạch dương phủ lên bè, cho nó trông giống như một khoảng đất bị xói mòn bên bờ sông. Cồn cát này là một dải đất có nhiều cây bạch dương dày đặc giống như răng của một chiếc bừa.

Bên phía bờ Missouri là núi, còn trên bờ Illinois toàn là cây to, lòng nước sâu thì ở phía bờ Missouri nên chúng tôi không còn phải lo sợ bị ai bắt gặp. Chúng tôi nằm tại đó suốt ngày, xem các tàu bè đi xuống ở phía bờ Missouri và những chiếc tàu khác đi lên ngay ở giữa lòng sông. Tôi kể cho Jim nghe về cuộc đối thoại giữa tôi và bà Loftus. Jim khen bà ta là một người rất thông minh. Giá như bà ấy tự mình đi lùng chúng tôi thì chắc hẳn bà sẽ không ngồi rình bên đống lửa, mà sẽ dùng chó săn. Tôi lại hỏi Jim, nếu như vậy, sao bà ta lại không bảo chồng đem chó theo. Jim nói hắn tin chắc thế nào bà ấy cũng bảo đem chó theo lúc họ sắp sửa lên đường, hay cũng có thể là ông chồng bà ta đã xuống phố để mượn một con chó nên mới mất nhiều thì giờ. Nếu ông ấy không đi xuống phố vì chuyện ấy thì bây giờ chúng tôi đâu có được ngồi ở đây, cách xa thị trấn ấy mười sáu, mười bảy dặm, mà đã phải trở lại thị trấn cũ ấy từ lâu rồi. Tôi nói tôi không cần biết lí do nào họ không bắt được chúng tôi, miễn là chúng tôi thoát khỏi tay họ là tốt rồi.

Khi trời bắt đầu tối, chúng tôi ló đầu ra khỏi lùm cây bạch dương, nhìn quanh quất. Không một bóng người nào xung quanh đó. Jim nậy một ít tấm ván trên sàn bè, dựng một cái lều để che mưa gió và giữ cho đồ đạc được khô ráo. Jim làm một cái sàn cho căn lều, nâng nó lên cao hơn mặt bè chừng ba mươi phân để cho chăn mền và đồ đạc của chúng tôi khỏi bị sóng của các tàu thuyền xô lên, làm cho ướt. Ngay giữa chòi, chúng tôi đắp một lớp đất dày chừng mười lăm phân, có đóng khung gỗ xung quanh, để đốt lửa khi trời mưa lạnh. Cái chòi sẽ che ngọn lửa cho người ta không trông thấy. Chúng tôi cũng làm thêm một cái chèo dự trữ phòng khi một chiếc bị gãy vì va phải một chướng ngại vật nào đó. Chúng tôi cũng gắn một chiếc nạng ngắn, treo chiếc đèn lồng cũ kĩ vào đấy làm hiệu cho những chiếc tàu thuỷ chạy xuôi dòng để khỏi bị đụng. Nhưng chúng tôi không cần phải làm hiệu cho những chiếc tàu chạy ngược dòng trừ phi chúng tôi đi vào một luồng nước chảy ngang qua sông, vì lúc bấy giờ, mực nước sông còn khá cao, các bờ thấp còn đang bị ngập nước, nên các tàu thuyền đi ngược dòng thường tránh không đi giữa lòng nước sâu cho dễ đi hơn.

Đêm thứ hai, chúng tôi đi liền bảy, tám tiếng đồng hồ trôi theo dòng nước với tốc độ trên bốn dặm một giờ. Chúng tôi bắt cá, nói chuyện với nhau, thỉnh thoảng lại nhảy xuống tắm cho đỡ buồn ngủ. Để mặc cho chiếc bè trôi trên sông rộng lớn, yên tĩnh, chúng tôi nằm ngửa, ngắm các vì sao, không muốn cười to hay nói to với nhau, chỉ thỉnh thoảng khúc khích cười se sẽ. Nói chung, thời tiết thật là tốt. Không có chuyện gì xảu ra đêm hôm ấy, hôm sau và cả hôm sau nữa.

Mỗi đêm, chúng tôi đi ngang qua các thị trấn, trên sười đồi tối om, không trông thấy nhà cửa mà chỉ có những mảng ánh sáng lốm đốm ánh đèn. Đêm thứ năm, chúng tôi đi ngang qua thành phố St. Louis có đến hai mươi hay ba mươi nghìn người, tôi vẫn không tin được điều ấy cho đến đêm hôm nay, vào lúc hai giờ sáng, tôi mới thấy thành phố ấy hiện ra như một dải ánh sáng rực rỡ trải dài ra ở phía xa xa. Không có một tiếng động nào vì mọi người còn đang yên giấc.

Bây giờ, cứ mỗi đêm, tôi lại chèo xuồng lẻn lên bờ vào lúc mười giờ đêm để đi xuống các làng nhỏ, mua mười hay mười lăm xu bột, thịt mỡ hay các thức ăn lặt vặt. Đôi khi tôi "nẫng nhẹ" một con gà không chịu nằm im trong chuồng, rồi vác đi theo. Cha tôi thường nói rằng khi nào có cơ hội thì nên đem theo một con gà vì lúc nào mình không cần có thể nhường cho người khác cần hơn. Đó là một cử chỉ tốt mà không bao giờ ai quên, nhưng thực ra chưa bao giờ tôi thấy cha tôi không cần gà cả.

Nhiều lúc, khi trời chưa sáng hẳn, tôi lên xuống các ruộng bắp, "mượn" một quả dưa hấu, một quả bí, quả bầu, bắp ngô hay các thứ đại loại như thế. Cha tôi vẫn thường nói mượn như thế không hại gì cả miễn là mình có ý định sẽ trả tiền lại cho người ta một lúc nào đó. Nhưng bà quả phụ thì cho đó là một lối ăn cắp trá hình, không người nào có tư cách lại làm như thế. Riêng thằng Jim thì cho rằng cả cha tôi lẫn bà quả phụ, mỗi người đều có một phần nào đúng trong đó. Vậy thì tốt hơn hết là cứ lập một danh sách các thứ mình cần mượn, rồi lựa ra vài ba thứ mà mình nói sẽ không lấy, phần còn lại thì mình cứ mượn, như thế chẳng có hại gì cả. Chúng tôi bàn cãi suốt đêm, mặc cho chiếc bè cứ trôi theo dòng nước, tính toán mãi không biết nên bỏ thứ nào, dưa hấu, bí ngô hay cái gì. Đến lúc trời sáng thì chúng tôi đã quyết định xong xuôi. Kết luận là chúng tôi sẽ bỏ đi món táo chua và món bí ngô. Trước đó thì tôi nghĩ như thế là không phải nhưng bây giờ thì tôi thấy đễ chịu rồi. Tôi rất mừng đã đi đến kết luận như vậy, vì thứ táo chua không ngon, và món bí ngô thì phải hai ba tháng nữa mới chín.

Thỉnh thoảng chúng tôi bắn một vài con chim đã thức dậy quá sớm hay đi ngủ quá trễ. Nói chung thì cuộc sống lúc bấy giờ khá thoải mái.

Đêm thứ năm, chúng tôi đã đi quá thành phố St. Louis. Một cơn dông lớn, cùng với sấm chớp ầm ầm nổi lên vào lúc nửa đêm. Một trận mưa rào đổ ập xuống như trút nước. Chúng tôi thu mình trong chòi, mặc cho chiếc bè lướt trôi đi. Một tia chớp loé lên cho thấy trước mắt một con sông lớn thẳng tắp với những vách đá cao hai bên bờ.

"Nhìn đằng kia kìa", tôi la lên.

Trước mắt chúng tôi là xác một chiếc tàu thuỷ bị đâm vào một mỏm đá. Bè chúng tôi đang trôi về phía chiếc tàu ấy. Tia chớp loé lên cho thấy chiếc tàu rất rõ. Nó bị nghiêng hẳn sang một bên, một phần boong tàu còn nổi trên mặt nước, qua mỗi tia chớp, tôi trông thấy rõ ràng từng sợi dây cột ống khói, một chiếc ghế bên cạnh cái chuông, cả một chiếc mũ sụp vành đang treo trên lưng ghế.

Giữa đêm tối tăm, dông bão, trong một khung cảnh kì ảo như thế, bất cứ ai chắc cũng phải có cảm giác ghê rợn như tôi lúc bấy giờ trước cảnh tượng một chiếc tàu bị đắm nằm phơi xác một cách cô đơn, ảm đạm giữa dòng sông. Tôi muốn trèo lêm chiếc tàu ấy, để dọ dẫm khắp nơi, xem có gì trên đó chăng. Tôi liền nói với Jim:

"Chúng ta trèo lên trên ấy đi, Jim!"

Nhưng thoạt tiên Jim ngăn tôi lại. Hắn nói:

"Tớ không còn muốn lục lọi các xác tàu, xác nhà hay bất cứ thứ gì trôi trên sông nữa. Chúng mình đã tội lỗi rồi, "hãy để cho tội lỗi được ngủ yên", kinh thánh đã nói thế. Không chừng trên ấy lại có người canh gác nữa đấy."

"Canh cái con khỉ gì", tôi nói, "chẳng có gì phải canh cả ngoài cái phòng sĩ quan và phòng lái thôi. Ai có dại gì mà liều mạng ngồi canh phòng sĩ quan và phòng lái giữa đêm tối như thế này, trong khi cả chiếc tàu có thể vỡ toang ra rồi trôi đi bất cứ giờ phút nào."

Jim không thể cãi lại lời nào, nên hắn ngồi im. Tôi nói tiếp:

"Hơn thế nữa, mình còn có thể mượn ít thứ trong cabin của thuyền trưởng nữa. Xì gà, tao cam đoan với mày thế nào cũng có - mỗi điếu đáng giá năm xu, tiền thật ấy. Các thuyền trưởng tàu thuỷ bao giờ cũng giàu, lương đến sáu mươi đôla một tháng, cho nên họ tiêu bất kể giá đắt bao nhiêu, miễn là họ thích là phải có. Bỏ một cây nến vào túi mày đi, Jim. Chưa lục lọi cái xác tàu ấy, tao chưa yên được. Mày nghĩ mà xem, thằng Tom Sawyer đời nào chịu bỏ qua cơ hội như thế này? Không bao giờ đâu. Hắn sẽ gọi đó là cuộc phiêu lưu mạo hiểm - hắn vẫn nói như thế đấy. Chắc chắn hắn sẽ leo lên cái tàu ấy, rồi bày vẽ ra lắm trò cho màu mè thêm. Tha hồ mà hắn khoác lác chứ đâu có chịu ngồi yên."

Jim cằn nhằn một chút, nhưng rồi cũng chịu nhượng bộ. Hắn bảo tôi hạn chế nói chuyện cho đến tối đa, rồi thì thầm rất nhỏ. Một tia chớp loé lên vừa đúng lúc. Chúng tôi tìm đến cái cần cẩu ở bên phải chiếc tàu, rồi bám chặt vào đấy.

Boong tàu ở chỗ đấy rất cao. Chúng tôi trườn xuống đường dốc sang phía bên trái, mò mẫm trong bóng tối tiến đến phòng sĩ quan, dùng chân để mò từng bước đi chậm chạp và tay để gạt sang một bên các sợi dây thừng. Một lát sau, chúng tôi chạm phải đầu phía trước của cửa sổ trên nóc, trèo lên đó, rồi tiến thêm một bước nữa đến ngay trước cánh cửa đang mở của cabin thuyền trưởng. Nhìn qua hành lang của phòng sĩ quan, trời ơi! Tôi thấy có một ngọn đèn đang cháy, cùng lúc ấy có tiếng nói nho nhỏ từ xa vọng lại.

Jim thì thầm với tôi rằng hắn cảm thấy "lên ruột" quá, và bàn nên quay về đi thôi. Tôi đồng ý, định quay trở lại bè. Bỗng tôi nghe có tiếng rên rỉ:

"Tao van xin chúng mày tha cho tao. Tao sẽ không bao giờ tố cáo đâu."

Một giọng khác vang lên, khá to:

"Láo! Mày nói láo, Jim Turner! Mày đã làm thế trước đây một lần rồi. Mày bao giờ cũng muốn được nhiều hơn là phần mày đáng được hưởng, và lần nào chúng tao cũng thoả mãn cho mày, bởi vì mày nóinếu không được mày sẽ tố cáo. Nhưng lần này, mày lại nói một lần thế là quá nhiều rồi. Mày là con chó săn đê tiện, phản trắc nhất cái xứ này."

Vào lúc ấy, Jim đã lần ra ngoài để tìm bè. Còn tôi thì sôi sục lên vì tò mò muốn tìm hiểu rõ thêm câu chuyện. Giá như có thằng Tom Sawyer ở đấy lúc bấy giờ, chắc hắn cũng chưa chịu rút lui ngay. Vậy thì tôi cũng thế. Tôi cần phải hiểu rõ chuyện gì xảy ra trên cái xác tàu này. Tôi bò bằng cả tay lẫn chân qua lối đi chật hẹp, hướng về phía đuôi tàu, mò mẫm trong bóng tối cho đến khi giữa tôi và hành lang của phòng sĩ quan chỉ ngăn cách bởi một cái cabin của thuyền trưởng. Ở đó, tôi thấy một người đang nằm dài trên sàn, tay chân bị trói gô lại, và hai người khác đứng nhìn, một người cầm cây đèn, còn người kia thì cầm khẩu súng lục. Người này chĩa súng vào đầu tên đang bị trói và nói:

"Tao muốn giết mày... tao bắt buộc phải làm thế... đồ khốn kiếp đê tiện."

Người nằm trên sàn co rúm người lại, van lạy:

"Bill, mày tha cho tao. Tao sẽ không bao giờ tố cáo đâu."

Mỗi lúc hắn nói như thế thì người cầm đèn lại cười ha hả, rồi nói:

" Phải, mày sẽ không tố cáo. Tao chắc mày chưa hề bao giờ nói thật như thế." Rồi có một lúc người ấy lại nói: "Nghe hắn van xin kia kìa. Ấy thế mà nếu mình không quật ngã và trói hắn lại thì hắn đã giết cả hai đứa mình rồi đấy. Chúng tao làm thế là để bảo vệ quyền lợi của chúng tao, mày hiểu không? Nhưng mà thôi, Turner, tao chắc mày chẳng còn hăm doạ ai nữa đâu. Bỏ súng đi, Bill!"

Bill nói:

"Tao không muốn làm thế, Jake Packard ạ. Tao nhất định phải giết thằng này. Chính hắn đã giết lão Hatfield bằng cách ấy mà. Hắn đáng tội chết."

"Tao không muốn hắn bị giết. Tao có lí lẽ riêng của tao."

"Cảm ơn mày, Jake Packard, tao còn sống ngày nào, tao sẽ không quên ơn mày đâu." Người nằm trên sàn vừa khóc vừa nói.

Packard không để ý đến câu nói ấy. Hắn treo cây đèn lên một cái đinh, nhìn vào bóng tối, chỗ tôi đứng, rồi ra hiệu cho Bill cùng ra đi. Tôi cố bò ra xa chừng hai thước, nhưng vì chiếc tàu bị nghiêng, nên không mất bao nhiêu thì giờ. Để khỏi bị chúng dẫm lên người và bị tóm, tôi bò hẳn vào một cabin ở phía trên. Tên Packard mò mẫm trong bóng tối, đi vào cabin, chỗ tôi đang núp, rồi nói:

"Vào đây, Bill."

Bill theo hắn vào bên trong. Nhưng trước khi chúng đi vào, tôi đã trèo lên một cái giường ở phía trên cùng, nằm thu mình ở đấy, trong lòng hối hận sao lại vào ngay trong phòng này. Chúng đứng ở cạnh đấy, tay đặt lên thành giường, nói chuyện với nhau. Tôi không thấy rõ chúng trong bóng tối, nhưng có thể biết được chúng ở đâu nhờ mùi rượu whisky chúng vừa uống xong. Cũng may mà tôi không uống được rượu whisky. Nhưng điều đó cũng không giúp ích được bao nhiêu, vì chúng có thể dẫm lên người tôi bất cứ lúc nào. Tôi khiếp hãi quá, không dám thở. Không thể nào vừa thở vừa nghe câu chuyện chúng đang nói nhỏ với nhau đến như vậy. Bill muốn giết Turner. Hắn nói:

"Hắn bảo hắn tố cáo, thì thế nào hắn cũng làm. Dù chúng mình có cho nó hết cả phần của mình đi nữa, hắn cũng không quên chuyện cãi cọ và nhất là việc chúng mình hành hạ hắn vừa rồi. Chắc chắn hắn sẽ đưa bằng chứng ra trước toà. Mày nghe tao đi. Tao chủ trương phải giết hắn cho đỡ mối lo."

"Tao cũng thế." Packard nói.

"Con khỉ! Thế mà tao tưởng mày phản đối. Thế thì được rồi. Chúng mình ra tay đi."

"Khoan đã. Tao chưa nói hết mà. Nghe đây này. Giết nó bằng súng thì được, nhưng còn có cách êm thấm hơn thế. Nghe tao nói đây này: cần gì phải chạy đi lùng dây treo cổ để giết người trong khi còn có cách khác cũng đạt đến cùng một mục đích, nhưng tốt mà lại ít rủi ro hơn. Phải thế không nào?"

"Tao chắc là phải. Nhưng bây giờ thì mày định làm thế nào?"

"Có gì đâu. Mình cứ lặng lẽ thu dọn tất cả những thứ gì còn sót lại trong cabin này, rồi chèo sang bên kia bờ, cất các thứ lặt vặt vào một nơi. Sau đó cứ ngồi mà chờ. Tao chắc chắn rằng chỉ một hai giờ nữa thôi, chiếc tàu này sẽ tan ra từng mảnh, rồi trôi xuống phía dưới sông. Hiểu không? Thằng ấy sẽ chết đuối. Không thể buộc tội cho ai nữa cả. Tao nghĩ rằng đó là cách giết hắn tốt nhất. Tao không muốn tự tay mình giết người, nếu còn có thể nghĩ ra được cách khác. Giết như thế không hay, không hợp với luân thường đạo lí. Tao nói có phải không?"

"Đồng ý là mày nói phải. Nhưng lỡ chiếc tàu này nó không vỡ ra và trôi đi thì sao?"

"Thì cứ chờ hết hai giờ đã hẵng hay."

"Được rồi. Thôi mình đi nào."

Chúng ra khỏi phòng. Tôi cũng lẻn ra ngoài, rồi bò ra phía trước, mồ hôi vã ra như tắm. Trời tối đen như mực. Tôi gọi khe khẽ "Jim!". Có tiếng trả lời, ngay bên khuỷu tay tôi, nghe như tiếng rên rỉ. Tôi liền nói:

"Đi nhanh, Jim. Không còn thì giờ nào để lởn vởn hay rên rỉ ở đây nữa. Có một bọn giết người đang ở đằng kia. Nếu mình không tìm cho ra thuyền của chúng, rồi thả trôi sông, để chúng hết cách trốn thoát thì một đứa trong bọn chúng sẽ bị nguy khốn ở trong đấy. Nhưng nếu ta lấy được thuyền của chúng thì tất cả bọn sẽ bị khốn đốn. Cảnh sát trưởng sẽ đến bắt chúng. Nhanh đi. Tao sẽ lùng ở phía trái, mày lùng phía bên phải. Mày chuẩn bị chiếc bè rồi ..."

"Trời! Bè à? Chẳng còn chiếc bè nào cả. Nó bị tuột dây, trôi đi rồi. Chỉ còn chúng mình ở đây thôi."

Chương XIII

Những món đồ lấy trộm chính đáng

Tôi thở hổn hển, tưởng chừng như ngất xỉu. Thế là chúng tôi bị kẹt trên xác tàu này cùng với bọn cướp! Nhưng không còn thì giờ để mà than vãn nữa. Chúng tôi nhất định phải tìm ra chiếc thuyền của chúng để dùng riêng cho hai đứa tôi. Nghĩ vậy, chúng tôi run rẩy đi xuống về phía bên phải của xác tàu. Công việc này chậm chạp, tưởng chừng như vô tận. Một lúc lâu, chúng tôi mới lần đến phía sau xác tàu. Không thấy bóng dáng một chiếc thuyền nào cả. Jim bảo rằng không có cách nào tiến xa hơn nữa vì hắn quá sợ hãi nên kiệt sức rồi. Nhưng tôi vẫn giục hắn cứ tiếp tục vì nếu ở lại trên tàu này thì thế nào cũng nguy. Thế là chúng tôi dọ dẫm tiến lên. Chúng tôi tìm đến phòng sĩ quan, rồi bám cheo leo vào các cánh cửa, lò dò tiến về phía trước vì bờ cữa sổ trên nóc chìm dưới nước. Khi đến gần cửa hành lang tôi chợt thoáng thấy có một chiếc xuồng nhỏ neo ở đấy. Tôi mừng rỡ quá. Chỉ một giây đồng hồ nữa thôi là tôi có thể nhảy xuống xuồng. Nhưng ngay lúc ấy cánh cửa mở ra. Một cái đầu ló ra, cách tôi không đầy một thước. Tôi tưởng thế là hết đời rồi. Nhưng cái đầu ấy lại thụt vào. Có tiếng nói:

"Đừng ló cái đèn ấy ra, Bill."

Hắn ném một cái bị gì đó xuống xuồng, rồi nhảy xuống. Đó là Packard. Tiếp theo đó là Bill. Packard nói khe khẽ:

"Xong rồi, chèo đi."

Tay tôi lúc bấy giờ yếu quá, tưởng như không còn bám vững vào cánh cửa nữa. Nhưng Bill nói:

"Khoan đã... mày lục lọi kĩ trong người nó chưa?"

"Chưa. Thế còn mày?"

"Chưa. Hắn vẫn còn số tiền đã chia phần cho nó đấy."

"Thế thì mày đi lấy đi. Lấy các thứ vặt vãnh rồi để tiền lại thì thật là uổng công."

"Nhưng mà hắn nghi ngờ thì làm sao?"

"Có lẽ không đâu. Nhưng dù sao, chúng mình cũng phải lấy số tiền ấy. Đi ngay đi."

Thế là cả hai đứa ra khỏi xuồng, đi vào trong xác tàu.

Cánh cửa tự động đóng lại đến rầm một tiếng, vì chiếc tàu đã bị nghiêng sang một bên. Chỉ trong không đầy một giây đồng hồ, chúng tôi nhảy xuống xuồng, rút dao ra cắt tung sợi dây buộc, rồi đẩy xuồng đi.

Chúng tôi không dám dùng chèo, không nói hay thì thầm với nhau điều gì, và không dám thở nữa. Chiếc xuồng lướt nhanh và yên lặng ngang qua bánh chân vịt rồi ra khỏi đuôi tàu. Ít giây sau, chúng tôi đã đi xa xác tàu chừng một trăm thước. Bóng tối che phủ cả chiếc tàu, không còn trông thấy gì nữa. Thế là chúng tôi thoát nạn.

Khi đã xuôi theo dòng sông chừng ba, bốn trăm thước, chúng tôi thấy ánh đèn hiện ra như một cái chấm nhỏ ở cửa phòng sĩ quan, thoáng một lúc rồi tắt ngay. Chắc rằng lúc bấy giờ các tên lưu manh ấy biết rằng chúng đã mất chiếc thuyền và đang bị lâm vào tình trạnh bi đát chẳng kém gì lão Turner.

Lúc bấy giờ Jim đẩy mạnh mái chèo, chúng tôi cố đuổi theo chiếc bè đã trôi đi mất dạng. Đến lúc bấy giờ tôi mới lo lắng hộ cho bọn ăn cướp, vì trước đó, tôi không có thì giờ nghĩ đến họ. Tôi nghĩ không biết họ sẽ kinh hãi đến mức nào trong hoàn cảnh như thế, cho dù họ là những tên giết người chăng nữa. Tôi tự hỏi không biết chính tôi có thể nào trở thành một tên giết người hay không. Và nếu như vậy, tôi sẽ cảm thấy như thế nào. Nghĩ vậy, tôi nói với Jim:

"Khi nào thấy ánh đèn đầu tiên, chúng ta sẽ lên bờ phía trên hay phía dưới đó độ một trăm thước, ở chỗ nào kín đáo nhất cho cả mày lẫn chiếc xuồng. Còn tao sẽ đi ra, bịa ra một câu chuyện gì đó để giục người ta đi đến chỗ mấy tên cướp, cứu chúng nó ra khỏi hoàn cảnh bi đát này cái đã, như thế chúng có thể bị treo cổ khi nào đến lúc."

Nhưng ý kiến ấy không thực hiện được. Chỉ một lát sau đó, một cơn giông tố nổi lên, dữ dội hơn bao giờ hết. Mưa đổ xuống như trút nước, chẳng có ngọn đèn nào xuất hiện. Xuồng chúng tôi lướt thật nhanh theo dòng nước. Chúng tôi nhìn xung quanh, cố tìm ra ánh đèn và bè của chúng tôi. Một hồi lâu, cơn mưa đã ngớt, nhưng trời đối vớiẫn đầy mây, sấm chớp ì ầm. Thỉnh thoảng một tia chớp loé lên làm hiện ra một vật đen sì nổi lên ở phía trước. Chúng tôi cố sức chèo đến đó.

Đó là chiếc bè của chúng tôi. Thật không có gì sung sướng bằng lúc chúng tôi trèo lên lại chiếc bè ấy. Cùng lúc ấy, chúng tôi thấy một ánh đèn trên bờ bên phải ở mãi dưới xa. Tôi nói với Jim rằng tôi sẽ đi đến nơi có ngọn đèn ấy. Xuồng chúng tôi lúc bấy giờ chở đầy đồ đạc mà bọn cướp đã lấy được trên tàu. Chúng tôi chuyển các đồ đạc từ xuồng lên bè, xếp thành một đống. Sau đó, tôi bảo Jim cứ tiếp tục cho bè trôi xuống, rồi khi nào đi được chừng hai dặm thì treo đèn lên, cứ để thắp sáng cho đến khi tôi trở lại. Dặn xong, tôi xuống xuồng, chèo đến nơi có ánh đèn. Khi lại gần, tôi thấy ba, bốn ánh đèn nữa hiện ra trên một sườn đồi. Có lẽ đó là một ngôi làng. Tôi cho xuồng sát vào bờ phía trên chỗ có ngọn đèn một quãng ngắn, đẩy mạnh mái chèo, rồi để cho nó từ từ trôi xuống. Lúc đi ngang qua đấy, tôi nhận ra một ngọn đèn treo ở đỉnh cột cờ của một chiếc thuyền chở khách lớn có hai lớp vỏ. Tôi nhẹ nhàng đi vòng xung quanh tìm người gác thuyền, không biết họ đang ngủ ở chỗ nào. Sau cùng, tôi cũng tìm ra được một người đang ngủ trên các trụ cuốn dây thừng ở đầu mũi thuyền, gục đầu xuống giữa hai đầu gối. Tôi lấy tay lay vai người ấy vài ba cái, rồi bắt đầu lên tiếng khóc.

Ông ta giật mình tỉnh dậy, nhưng khi trông thấy tôi thì ông ngáp dài một cái, duỗi chân tay rồi nói:

"Có chuyện gì thế, bé con? Đừng có khóc thế!"

Tôi nói:

"Bố cháu, mẹ cháu, em cháu và ..."

Thế là tôi khóc oà lên. Ông nói:

"Thôi nín đi nào. Đừng có làm thế. Ai cũng phải gặp lúc khó khăn cả, rồi mọi chuyện sẽ êm đẹp thôi. Họ gặp chuyện gì thế?"

"Họ bị... nhưng bác có phải là người gác thuyền này không ạ?"

"Phải", ông trả lời, có vẻ hãnh diện, "Bác là thuyền trưởng, vừa là chủ nhân, phụ tá, hoa tiêu, vừa là người canh gác chiếc thuyền này đấy. Có khi bác cũng lại là hành khách, hàng hoá nữa kia. Bác không giàu như lão già Hornback ở đằng kia, nên không thể vung tiền ra làm phước cho người ta, như lão ấy được. Nhưng bác đã nói nhiều lần là bác không bao giờ chịu đổi cái nghề của bác để sống ru rú ở một nơi tẻ ngắt xa thị trấn như lão ấy đâu. Dù có đem tất cả tiền bạc của cải của lão ra đánh đổi, bác cũng chẳng thèm. Bác là thuỷ thủ, và suốt đời chỉ sống bằng nghề ấy thôi."

Tôi ngắt lời ông và nói:

"Bác ơi! Họ đang gặp vô cùng khó khăn. Xin bác..."

"Họ là ai?"

"Bố cháu, mẹ cháu, em cháu và cô Hooker. Xin bác cho thuyền đến đó để..."

"Đến đó là nơi nào? Họ đang ở đâu?"

"Chỗ chiếc tàu bị đắm ấy."

"Tàu nào bị đắm?"

"Chỉ có một chiếc tàu bị đắm thôi mà."

"À, chiếc Walter Scott ấy à?"

"Vâng ạ."

"Trời ơi! Họ đến đấy để làm gì?"

"Họ không có chủ đích đến đấy để làm gì cả ạ."

"Cố nhiên rồi. Lạy chúa! Nếu họ không rời đi ngay thì chẳng còn có cơ may nào sống được đâu. Tại sao lại lâm vào cảnh rắc rối như thế chứ?"

"Có gì đâu ạ. Cô Hooker đi đến cái làng gì ở phía trên sông..."

"Biết rồi, bến đò Booth chứ gì ."

"Cô ấy đến thăm ai đó ở bến đò Booth, rồi đến gần chiều tối, cô ấy cùng với bà đầy tớ da đen đi thuyền định đến nhà cô gì đó, cháu quên mất tên rồi, để nghỉ lại đêm... thế rồi họ mất cái chèo lái, thuyền xoay tròn, rồi trôi xuống chừng hai dặm, đuôi thuyền quay về phía trước, cuối cùng đâm sầm vào xác chiếc tàu. Người chèo thuyền, bà da đen và ngựa chìm nghỉm luôn. Nhưng cô Hooker bám được vào xác tàu, rồi trèo lên. Thế rồi một giờ sau khi trời tối hẳn, gia đình cháu đi xuống trên một chiếc thuyền chở cát đã, gặp lúc trời tối quá không trông thấy xác chiếc tàu nên cũng đâm sầm vào đó luôn. Tất cả đều thoát, chỉ riêng có ông Bill Whipple... tội nghiệp quá, ông ta là một người tốt... giá cháu được chết thay cho ông ấy."

"Trời! Thật là rắc rối chưa từng thấy. Thế rồi tất cả mọi người ấy làm thế nào?"

"Chúng cháu kêu la nhưng sông rộng quá, chẳng ai nghe cả. Thế rồi bố cháu bảo cần phải có một người bơi vào bờ để kêu cứu. Cháu là người duy nhất biết bơi, nên cháu nhảy xuống. Cô Hooker cũng dặn cháu rằng, nếu không tìm được ai đến cứu sớm hơn thì cứ đến đây tìm chú cô ta, ông ta sẽ lo liệu mọi thứ cho. Cháu bơi vào bờ ở phía dưới đây chừng một dặm, rồi đi hết nơi này nơi khác tìm người đến cứu. Nhưng ai cũng bảo: "Nước lớn và đêm tối tăm như thế này, thì cứu thế nào được. Hãy đi tìm một chiếc thuyền máy ấy." Bác ơi! Nếu bác đi giúp cho thì..."

"Bác cũng muốn giúp lắm chứ. Nhưng mà biết làm thế nào bây giờ. Ai chịu trả cho mọi phí tổn trong công việc này kia chứ. Thế cha cháu có..."

"Tưởng gì chứ chuyện ấy thì được, bác ạ. Cô Hooker có nói riêng với cháu là chú cô ấy, ông Hornback sẽ..."

"Thế hả? Ông Hornback là chú cô ấy à? Bây giờ như thế này nhé: cháu cứ chạy thẳng đến cái ngọn đèn ở đằng xa kia kìa, đến đấy thì rẽ về phía tây, đi thêm độ một phần tư dặm nữa đến một cái quán trọ, rồi nhờ người ta đưa ngay đến nhà ông Hornback. Ông ấy sẽ trả tất cả mọi chi phí. Đừng có chậm trễ. Chắc ông ấy muốn biết tin tức lắm đấy. Nói rõ cho ông ta biết rằng bác sẽ đưa cô về nhà an toàn. Cháu phải chạy ba chân, bốn cẳng ngay đến nhà ông ấy đi. Bác còn phải đến góc kia đánh thức lão thợ máy dậy."

Tôi đi thẳng về phía ngọn, nhưng khi ông ta vừa quay lưng đi đến cái góc ở gần đó thì tôi liền quay trở lại, nhảy xuống xuồng, tát nước ra rồi chèo ngược lên, dọc theo vùng nước lặng bên bờ sông, chừng sáu trăm thước, rồi nấp ở sau một số thuyền gỗ đậu ở đấy. Chừng nào tôi chưa thấy chiếc thuyền của ông ta khởi hành, tôi vẫn chưa yên tâm. Nhưng nói chung, tôi cảm thấy hơi dễ chịu trong lòng vì tôi đã cố gắng giúp cho bọn cướp ấy. Ít người chịu làm như thế. Tôi ước ao rằng bà quả phụ biết được điều này, vì chắc bà sẽ hãnh diện vì tôi đã giúp đỡ cho những tên lưu manh. Những kẻ bất lương, ăn hại, lười biếng là những loại người mà bà quả phụ và những nhà đạo đức như bà thường hay quan tâm đến nhiều nhất.

Một lát sau, tôi thấy xác con tàu lờ mờ, tối tăm đang trôi xuống dòng sông. Toàn thân tôi cảm thấy ớn lạnh, run lên cầm cập. Tôi cố chèo ra chỗ con tàu. Xác tàu bây giờ đã ngập rất sâu trong nước. Chỉ nhìn sơ qua, tôi cũng biết không có hi vọng tìm thấy ai còn sống sót trên ấy cả. Tôi chèo xung quanh, gọi to lên một lúc, nhưng không có tiếng trả lời. Tất cả đều im lặng như tờ. Tôi cảm thấy thương hại cho bọn cướp, nhưng chỉ phần nào thôi, vì nếu chúng phải chịu cảnh ngộ ấy thì tôi cũng có thể phải chịu giống như vậy.

Ngay lúc bấy giờ chiếc thuyền chở khách bắt đầu đi tới. Tôi liền cho xuồng ra giữa sông vào chỗ dòng nước chảy xuôi rất nhanh. Khi đi được một quãng xa khỏi tầm nhìn của mọi người, lúc bấy giờ tôi mới chèo thật mạnh rồi quay nhìn trở lại. Tôi thấy chiếc thuyền ấy đang đi lòng vòng xung quanh chiếc tàu để tìm xác cô Hooker, vì ông Hornback đang mong lắm. Chỉ một lát sau, chiếc thuyền ấy đành bỏ cuộc rồi quay vào bờ. Tôi tiếp tục chèo thật nhanh xuôi theo dòng nước.

Một khoảng thời gian có vẻ rất lâu sau đó, tôi mới thấy chiếc đèn của Jim hiện ra, nhưng cứ mỗi lần nó xuất hiện thì tôi có cảm tưởng như nó ở xa tôi đến hàng nghìn dặm. Khi tôi đuổi kịp chiếc bè thì trời đã bắt đầu sáng lờ mờ ở phương đông. Chúng tôi đi vào một hòn đảo, giấu chiếc bè, thả chìm chiếc xuồng, rồi chui vào bên trong ngủ lăn ra như chết.

Chương XIV

Solomon có khôn ngoan hay không?

Đến khi tỉnh dậy, chúng tôi lôi các đồ vật của bọn cướp ra kiểm điểm. Những thứ đồ lặt vặt này gồm có giày ống, mền, quần áo và nhiều thứ khác đủ loại, rất nhiều sách, một cặp ống nhòm và ba hộp xì gà. Thật chưa bao giờ chúng tôi giàu có như lúc này. Trong số ấy, xì gà là thứ quan trọng bậc nhất. Chúng tôi nghỉ ngơi suốt cả buổi chiều trong rừng, lúc thì nói chuyện với nhau, lúc thì đọc sách. Nói chung, chúng tôi đã trải qua một buổi chiều hết sức vui vẻ. Tôi kể lại cho Jim nghe những chuyện xảy ra trong chiếc tàu bị đắm và trên thuyền chở khách. Tôi gọi đó là những cuộc phiêu lưu mạo hiểm. Nhưng Jim bảo rằng hắn không muốn thấy những cuộc phiêu lưu mạo hiểm như thế nữa. Hắn nói rằng, trong khi tôi đi vào phòng sĩ quan thì hắn bò ra ngoài để trở về bè, nhưng không thấy chiếc bè đâu cả. Lúc bấy giờ hắn chết lặng người đi vì nghĩ rằng dù xoay xở thế nào chăng nữa hắn cũng "tiêu" rồi. Nếu không có người đến cứu thì hắn phải chết đuối, còn nếu được cứu thì người ta sẽ đưa hắn về nhà để lĩnh thưởng, cô Watson chắc chắn sẽ bán hắn cho một nơi nào đó ở miền Nam. Thật vậy, thằng Jim đã nói đúng. Hầu như hắn chẳng bao giờ nói điểu gì sai cả. Hắn có những suy nghĩ ngay thẳng khác thường, không giống như những người da đen khác.

Tôi đọc cho nó nghe rất nhiều chuyện về các vua, chúa, quận công, bá tước..., họ ăn mặc sang trọng như thế nào, kiểu cách của họ ra sao, họ gọi nhau là "tâu hoàng thượng", "ngài quận công", thay vì là "thưa ông", vân vân. Jim trố mắt lên nghe, có vẻ chú ý lắm. Hắn nói:

"Tớ không ngờ có nhiều vua, chúa như thế đấy. Tớ chẳng biết tí gì về họ cả, nhưng chỉ nghe nói đến vua Solomon thôi, ấy là không kể các ông vua trong cỗ bài tây đấy. Thế một ông vua lĩnh được bao nhiêu tiền nào?"

"Lĩnh à?", tôi nói, "Nếu muốn, họ có thể được một nghìn đôla một tháng. Nghĩa là họ cần bao nhiêu thì có bấy nhiêu. Tất cả mọi thứ đều thuộc về họ cả."

"Thích quá nhỉ. Thế họ phải làm những công việc gì, Huck?"

"Chẳng phải làm cái gì hết. Mày hỏi gì mà kì vậy? Họ chỉ ăn không ngồi rồi thôi."

"Đâu có được. À mà thật thế hả?"

"Cố nhiên là thật rồi. Họ chỉ việc ngồi chơi, trừ ra khi nào có chiến tranh thì cũng có khi họ ra trận. Nhưng những lúc khác thì họ nằm khểnh hay đi đây đi đó - đi chơi thôi mà. Suỵt! Hình như có tiếng động, mày có nghe thấy không?"

Chúng tôi nhảy ra ngoài xem xét. Chẳng có gì cả ngoài tiếng chân vịt của chiếc tàu đi qua. Chúng tôi trở lại chỗ cũ.

"Phải", tôi nói tiếp, "khi nào chán ngấy thì họ lại sinh sự với quốc hội. Ai không ăn ý thì họ ngắt cái đầu. Nhưng phần lớn thì giờ họ la cà ở các cung thất."

"Ở cái gì?"

"Ở các cung thất ấy mà."

"Cung thất là cái gì?"

"Là nơi ở của những bà vợ vua ấy. Mày chưa nghe nói đến cung thất bao giờ à? Vua Solomon cũng có khối ra đấy. Ông ta có đến hàng triệu bà vợ."

"Ừ nhỉ. Thế mà tớ không nhớ ra đấy. Một cung thất là một cái quán trọ ấy. Có lẽ các bà vợ vua cãi nhau chí choé suốt ngày trong cái nhà nuôi trẻ ở đấy. Ấy thế mà người ta cứ bảo Solomon là người khôn ngoan nhất đời. Tớ không tin. Khôn ngoan gì mà lại sống với các bà vợ chí choé với nhau suốt ngày như thế? Không! Không bao giờ! Một người khôn ngoan thì đã cho xây một xưởng làm nồi súp-de để khi nào cần nghỉ ngơi, hắn có thể đóng cửa nhà máy lại chứ!"

"Ấy thế mà ông ta là người khôn ngoan nhất đấy. Bà quả phụ bảo thế mà."

"Mặc kệ cái bà quả phụ ấy. Tớ chỉ biết ông ta có những cái ngu xuẩn chưa từng thấy. Cậu có biết chuyện thằng bé sắp sửa bị ông ta chặt ra làm đôi không?"

"Có, tớ có nghe bà quả phụ nói chuyện ấy."

"Cậu nghĩ xem, đó có phải là cái điều kì cục nhất thế gian không? Cứ nghĩ mà xem. Thí dụ như cái gốc cây kia là một trong hai người đàn bà ấy, cậu là người đàn bà thứ hai, tớ là Solomon, còn tờ giấy đôla này là đứa trẻ. Cả cậu lẫn cái gốc cây kia đều bảo đứa trẻ là con của mình. Tớ phải giải quyết thế nào? Đáng lẽ tớ phải đi hỏi han láng giềng, hàng xóm xem tờ đôla này thực sự là của ai, rồi đem trả cho chủ nó, trả tờ giấy bạc nguyên vẹn. Đó là lối giải quyết của người khôn ngoan. Nhưng không, tớ lại không làm thế. Tớ xé toạc tờ đôla làm đôi, cho cậu một nửa, còn người đàn bà kia một nửa khác. Cách giải quyết của Solomon về thằng bé con cũng thế đó. Bây giờ tớ hỏi cậu: lấy một nửa tờ đôla thì để làm gì? Có mua được cái cóc gì đâu. Vậy thì một nửa đứa bé làm cái gì được? Cho tớ một triệu cái nửa ấy tớ cũng không thèm."

"Khoan đã, Jim. Mày hiểu sai hoàn toàn rồi."

"Ai? Tớ mà sai à? Thôi đừng đem cái chuyện đúng hay sai của cậu mà nói với tớ nữa! Tớ biết thế nào là đúng thế nào là sai, còn cái lối giải quyết của Solomon là ngu dốt. Mấy người đàn bà ấy tranh nhau cả đứa bé ấy, chứ đâu có phải giành nhau một nửa. Ấy thế mà cái ông Solomon ấy lại giải quyết bằng cách chia đôi đứa bé ra, như thế là ông ta chẳng biết gì cả. Thôi đừng nói đến cái lão Solomon ấy nữa. Tớ biết tỏng tòng tong rồi."

"Nhưng mà, Jim ạ, mày chưa hiểu ý nghĩa của câu chuyện."

"Vứt mẹ cái ý nghĩa ấy đi. Tớ hiểu rõ điều gì tớ nói. Ý nghĩa của nó còn sâu xa hơn thế nữa kia. Nó nằm ngay trong cách sống của Solomon ấy. Cậu thử nghĩ xem. Một người chỉ có một hai con có bao giờ phung phí trẻ con đi như vậy không? Không bao giờ. Hắn phải biết trẻ con là quý như thế nào. Nhưng mà một kẻ đã có ngót năm triệu đứa con chạy lăng quăng khắp nhà thì khác hẳn. Hắn sẽ chặt một đứa trẻ ra làm hai, như chặt một con mèo vậy. Hắn còn lại vô số kia mà. Thêm hay bớt một vài đứa có nghĩa lí gì đối với Solomon. Hắn lại còn thích thế là đằng khác."

Tôi chưa thấy người da đen nào như thằng Jim. Khi hắn đã có ý nghĩ gì trong đầu thì không cách nào mà dứt ra được. Hắn oán ghét Solomon hơn bất cứ người da đen nào khác. Tôi gạt chuyện Solomon sang một bên, quay sang nói về các ông vua khác. Tôi kể cho hắn nghe chuyện vua Louis thứ mười sáu bị chém đầu ở Pháp cách đây đã lâu, và về chuyện hoàng thái tử, con ông, đáng lẽ lên làm vua nhưng lại bị giam cầm, và có người nói rằng ông này đã chết trong ngục.

"Tội nghiệp anh chàng ấy nhỉ", Jim nói.

"Nhưng mà có người lại nói rằng ông ấy trốn được, rồi bỏ chạy sang Mĩ."

"Thế thì tốt... nhưng chắc là anh ta bị cô đơn lắm. Ở đấy không có vua mà, phải không, Huck?"

"Không."

"Thế thì anh ta chẳng làm ăn gì được. Anh ta làm gì hở Huck?"

"Tao cũng chẳng biết. Có thể là đi làm cảnh sát hay là dạy người ta nói tiếng Pháp."

"Này, Huck. Thế người Pháp không nói tiếng giống như mình à?"

"Không. Mày không hiểu tiếng họ nói đâu... không hiểu một chút nào hết."

"Cậu làm tớ điên cái đầu! Cái tiếng ấy như thế nào nào?"

"Tao không biết. Tao chỉ đọc được một vài câu nói chuyện của họ trong sách thôi. Giả thử bây giờ có người đến nói với mày: "Po li vu phờ ren xi (1)" thì mày nghĩ thế nào?"

"Tớ chẳng nghĩ gì cả. Tớ sẽ nện lên đầu hắn... nếu hắn không phải là da trắng. Tớ không cho phép bất cứ đứa da đen nào chửi tớ như thế."

"Mẹ kiếp! Câu ấy chẳng có gì là chửi rủa cả đâu. Nó chỉ có nghĩa là anh có nói được tiếng Pháp không?"

"Thế tại sao lại nói như thế?"

"Đó là cách nói của người Pháp mà."

"Thật là cách nói lố bịch. Tớ không muốn nghe nữa. Nó chẳng có nghĩa gì cả."

"Này, Jim. Thế con mèo có nói giống như mình không?"

"Không. Con mèo thì không."

"Thế con bò?"

"Con bò cũng không."

"Thế con mèo và con bò có nói giống nhau không?"

"Không."

"Chúng nói khác nhau là lẽ đương nhiên, có phải không?"

"Tất nhiên rồi."

"Thế mèo và bò nói khác chúng ta cũng là lẽ tự nhiên, phải không?"

"Chắc chắn là như thế."

"Vậy thì người Pháp nói khác chúng mình có phải là lẽ tự nhiên, hay không? Mày cứ trả lời tao đi!"

"Con mèo có phải là người không, Huck?"

"Không."

"Vậy thì không có lí gì mà con mèo nói giống như người. Con bò có phải là người không? Hay, con bò có phải là con mèo không?"

"Không. Con mèo chẳng phải là người hay là bò."

"Thế thì chẳng có lí gì mà nó nói như người hay như bò cả. Thế người Pháp có phải là người không nào?"

"Phải."

"Vậy thì, mẹ kiếp, tại sao hắn lại không nói giống như người. Cậu cứ trả lời cho tớ đi."

Tôi thấy không có ích lợi gì mà cãi cọ với hắn - không ai có thể dạy người da đen lí luận gì được. Vì thế, tôi bỏ cuộc.

(1) Đọc sai câu " Parlez vous francais ? ", có nghĩa là : " Anh có biết nói tiếng Pháp không ? "

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#kiet