NHỮNG BÍ ẨN CHƯA CÓ LỜI GIẢI_ Bí ẩn những sinh vật truyền thuyết _Furin_

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

NHỮNG BÍ ẨN CHƯA CÓ LỜI GIẢI

Phần I : Những loài tưởng chừng chỉ có trong truyền thuyết???

I- Ma cà rồng

II- Tiên nữ

III- Rồng

IV- Người cá

V- Người sói

VI- Người tí hon

VII- Kỳ lân (Ngựa một sừng)

VIII- Phù thủy

IX- Ma

X- Người khổng lồ

I- Ma cà rồng có thực sự tồn tại

Câu chuyện về ma cà rồng hay người sói từ lâu đã trở thành đề tài hấp dẫn trong đời sống của con người. Nó không chỉ đơn giản là những bộ phim hay những câu chuyện gây kinh hãi và ám ảnh đối với con người, mà còn là những điều bí ẩn khó lý giải đối với các nhà khoa học. Vậy truyền thuyết ma cà rồng ẩn chứa những điều bí ẩn gì? Đó là vấn đề đã được khoa học nghiên cứu tìm hiểu trong hàng thế kỷ qua.

Tại châu Âu, ma cà rồng được người ta biết đến như một câu chuyện về những xác chết sống lại và tồn tại bằng cách hút máu người. Đôi khi chúng cũng được li kì hóa, và dần trở thành những câu chuyện kể kinh dị trong nền văn hóa châu Âu.

Nghiên cứu khoa học đầu tiên về ma cà rồng chính thức được tiến hành từ những năm đầu thế kỷ 18. Bắt đầu từ một câu chuyện có thật xảy ra với một người nông dân Serbia tên là Peter Plogojewitz vào năm 1725. Theo những tài liệu được ghi chép lại từ năm 1725, người đàn ông này đã qua đời ở tuổi 62 và đã được an táng theo phong tục truyền thống của người dân địa phương đó là chôn cất dưới đất. Tuy nhiên, hai tháng sau đó, đã có rất nhiều người dân sống trong làng bị chết bởi một căn bệnh lạ. Hiện tượng này diễn ra liên tục trong 9 ngày. Điều kỳ lạ là những người bị chết đều là những người mà Peter đã đến thăm họ một vài ngày trước khi ông ta qua đời. Bà vợ góa của Peter không tin vào câu chuyện này cho đến một đêm, bà kể rằng: bà nằm mơ thấy người chồng quá cố của bà trở về nhà gõ cửa và yêu cầu bà mang cho ông ta một đôi giày. Người phụ nữ sau đó đã quá hoảng sợ. Ngay sáng hôm sau, bà đã chạy trốn khỏi ngôi làng.

Sau sự việc, dân làng đã quyết định đào mở nắp quan tài của Peter. Chính những người lính trong quân đội Serbia đã làm điều đó, và thật đáng kinh ngạc bởi xác chết của Peter vẫn còn nguyên vẹn, chưa hề bị thối rữa hay phân hủy. Thậm chí, móng tay, chân và tóc của ông ta dường như đã mọc dài thêm ra, da trắng bệch và trên mép có vương một dấu màu đỏ như máu hơi khô. Quá kinh hãi, dân làng đã đem hỏa thiêu xác chết và những lời đồn đại lần lượt được họ truyền nhau kể lại, thậm chí thổi phồng thành những câu chuyện kinh dị. Riêng những người lính tham gia việc đào mộ, sau khi trở về đơn vị đã đem báo cáo sự thật với chỉ huy của mình. Sự việc này sau đó đã được đăng tải trên hàng loạt các tờ báo khắp thế giới. Cũng từ đó, những câu chuyện về ma cà rồng ngày càng thu hút được sự tò mò tìm hiểu của con người.

Năm 1776, một nhà văn Pháp có tên là Antoine Augustine Calmet cho ra đời một tập truyện tập hợp tất cả các mẩu chuyện, sự kiện có thật về hiện tượng ma cà rồng mà ông sưu tầm được và được nghe kể lại. Liên tiếp sau đó, một loạt các hiện tượng kỳ lạ có liên quan đến ma cà rồng xuất hiện khiến các nhà khoa học buộc phải vào cuộc.

Các cuộc săn lùng, tìm kiếm ma cà rồng cũng bắt đầu diễn ra. Mở đầu là cuộc kiếm tìm mạo hiểm vào năm 1768, sau khi một bác sĩ người Áo tên là Gerhard Van cho xuất bản một tác phẩm nói rằng ma cà rồng không hề tồn tại, và những tình huống hay những hiện tượng miêu tả về ma cà rồng thực chất chỉ là những hiện tượng bình thường mà khoa học có thể giải thích. Càng về nửa cuối thế kỷ 20, các nghiên cứu về ma cà rồng ngày càng xuất hiện nhiều. Năm 1963, một bác sĩ người Anh tên là Lee Illis đã cho ra đời cuốn sách nói về những căn bệnh liên quan đến hiện tượng mà nhiều người gọi là ma cà rồng. Trong đó, ông đưa ra một loạt các phân tích dựa trên những tài liệu mà ông đã thu thập và ghi chép lại về các hiện tượng ma cà rồng do những người trực tiếp chứng kiến kể lại. Theo bác sĩ Lee, những hiện tượng này tuy còn nhiều bí ẩn nhưng có thể liên quan đến một số căn bệnh di truyền có tên gọi là porphyria và một số bệnh rối loạn hormon khác. Trung bình cứ 200.000 người, thì lại có một người bị mắc porphyria. Trong trường hợp một người bị mắc bệnh, thì con trai ông ta có nguy cơ bị di truyền căn bệnh này với tỷ lệ là 25%. Giống như hầu hết những căn bệnh liên quan tới gen khác, những đứa trẻ được sinh ra bởi những cặp vợ chồng có huyết thống gần nhau sẽ có nguy cơ mắc phải dạng bệnh này khá cao, nhất là các gia đình mang dòng máu hoàng tộc.

Người mắc chứng bệnh này thường có cảm giác sợ ánh sáng và luôn lẩn trốn trong bóng tối bởi khi tiếp xúc với ánh sáng, họ có thể sẽ phải chịu những đau đớn về thể xác do hemoglobin trong máu sẽ bị phân hủy dưới tác động của tia tử ngoại. Ngày nay, porphyria có thể được chữa trị dễ dàng hơn nhờ phương pháp biến đổi gen. Song nhiều năm về trước, nó là một trong những căn bệnh đáng sợ của con người. Khi tình trạng bệnh trở nên nghiêm trọng, người bệnh phải đối mặt với những rối loạn về hormon dẫn đến tình trạng móng tay, chân mọc dài ra và quăn lại, lông mọc ra trên toàn cơ thể, lớp da quanh môi và lợi trở nên mỏng và co hơn khiến cho răng lộ ra như những chiếc nanh sói. Cũng chính vì da và lợi bị tổn thương như vậy, nên bệnh nhân cũng rất dễ bị chảy máu ở miệng. Hình ảnh những con ma cà rồng chuyên đi hút máu trong tâm trí nhiều người cũng chính từ căn bệnh này mà ra. Tuy nhiên, những giải thích của các bác sĩ vẫn chưa thể lý giải một cách đầy đủ hết những câu chuyện về ma cà rồng và những hiện tượng kì lạ đã xảy ra trên thực tế. Và sự thật như thế nào thì vẫn còn là một câu hỏi khó mà khoa học chưa có lời giải đáp đầy đủ.

II- Tiên nữ liệu có thật???

Tiên nữ - nhân vật tưởng chừng chỉ tồn tại trong truyền thuyết - nay đã được khẳng định là có thật bằng những chứng cứ xác thực đầu tiên. Một người đàn ông (xin được giấu tên) ở Derbyshire đã phát hiện di hài huyền thoại trên con đường cổ xưa từ thời La mã, nằm giữa hai làng Duffield and Belper.

"Hôm đó như thường lệ, tôi dắt chó đi dạo qua khu mộ cổ Iron Age thì bất chợt con vật cưng cất tiếng sủa và tỏ thái độ khác thường. Nó cứ quay đầu về phía ngôi mộ mà sủa và nhất định không chịu rời bước, bất chấp tôi có lôi kéo thế nào. Thật là điều bất thường vì hàng ngày chúng tôi vẫn đi qua đây, mà nó có bao giờ hành xử khác lạ như thế. Tò mò, tôi tiến lại gần khu mộ...

Đập vào mắt tôi là cảnh tượng ngỡ như trong truyện cổ: một mô đất sạt xuống, mở ra một đường hầm đen ngòm rộng chừng nửa mét. Chắc chắn là trước đây, tôi chưa nhìn thấy hầm tối này bao giờ. Tôi quỳ gối xuống để quan sát rõ hơn, cảm nhận rõ làn gió hun hút lạnh buốt phả vào mặt - chứng tỏ, hầm rất sâu.

Tôi bấm đèn pin ở chìa khóa xe và căng mắt nhìn cho rõ. Chính lúc ấy, vật thể lọt vào tầm quan sát làm tôi giật nảy mình: cách tôi chưa đầy 3 bước chân, một thi hài nhỏ xíu còng queo nằm trơ trọi trên đất. Phản xạ đầu tiên, tôi toan chạy đi báo cảnh sát - rất có thể đó là một đứa bé chết non. Nhưng khoan, thi hài này nhỏ hơn nhiều so với 1 đứa bé sơ sinh, và quan trọng hơn cả, sau lưng nó còn một đôi cánh tiên mỏng dính. Tôi dùng que khều nó lên, như vẫn không tin nổi vào mắt mình rồi bỏ vào cái túi nylong .

Không do dự, người đàn ông rút điện thoại gọi cho vợ. Hai vợ chồng thận trọng đặt xác "tiên nữ" vào trong 1 hộp thiếc đựng bánh, sau đó giấu trong ga-ra ôtô. Ngày hôm sau, cảnh sát ngay sau khi được thông báo đã tới đem thi hài đi giám định và phân tích.

- Không chỉ một xác tiên

"Là một trong số ít những chuyên gia hiện tượng kỳ bí ở Derbyshire, tôi không bất ngờ khi cảnh sát viếng thăm nhờ giám định một thi thể lạ lùng - mặc dù lúc đó sự việc vẫn còn giấu kín nhằm tránh những rùm beng từ phía phương tiện truyền thông đại chúng.

Đích thân người đàn ông phát hiện ra khu mộ bí ẩn đã dẫn tôi trở lại nơi tìm ra thi hài. Thật bất ngờ, càng tìm kiếm chúng tôi càng phát hiện ra nhiều xác tiên nữ - tất thảy trên 2 chục xác với các mức độ khô cứng khác nhau. Không hiểu bằng cách nào mà chúng được bảo quản nguyên vẹn một cách đáng ngạc nhiên, tới mức có thể thấy rõ cả những chiếc móng tay và lông mi bé xíu. Kỳ lạ hơn nữa khi một lần tình cờ, tôi chợt nhận ra dường như có bàn tay ai đó đang cố gắng lấp lại đường hầm bí hiểm".

Những bức chụp X-quang tiết lộ những điều vô cùng thú vị: về cấu tạo sinh học, di hài tiên nữ chẳng khác gì bộ xương của một bào thai vừa mới thành hình, tuy nhiên, những đốt xương rỗng tuếch khiến trọng lượng cơ thể chúng nhẹ nhàng hơn nhiều. Đáng ngạc nhiên, "tiên nữ" cũng có rốn - điều này cho thấy những sinh vật này cũng duy trì nòi giống theo cách của con người, mặc dù chúng không có bộ phận sinh dục hoàn chỉnh.

Không dám khẳng định chính xác những xác khô này đã tồn tại bao lâu, nhưng mức độ ướp khô cho thất chúng ít nhất phải trên 400 năm tuổi.

Nhưng do đâu mà những sinh vật kỳ bí này luôn bị coi chỉ là nhân vật hoang đường trong truyền thuyết. Các chuyên gia sinh vật bí hiểm cho rằng, khả năng hòa trộn với môi trường quá tốt đã giúp chúng lọt khỏi tầm mắt con người cho đến tận ngày nay. Sắc tố đặc biệt trên cánh và da khiến chúng như "tan" vào những tán lá xanh cao chót vót - nơi chúng cư ngụ thường xuyên và hầu như không bao giờ mạo hiểm sà xuống dưới đất. Vào mùa đông lạnh giá, chúng rút lui vào hang động sâu trong lòng đất.

Những di hài phát hiện ở Derbyshire là bằng chứng hiển hiện rằng, truyền thuyết không hoàn toàn là những điều tưởng tượng.

III- Rồng liệu có thực sự tồn tại

Loài rồng liệu có thật? Nếu quay trở về nhiều năm về trước, người ta sẽ một mực lắc đầu bảo rằng :"không!" khỏi suy nghĩ làm gì cho nó mệt xác ! Nhưng bây giờ, người ta đang bắt đầu lật lại giả thiết : "liệu loài rồng có phải chỉ là một sản phẩm của trí tưởng tượng con người hay nó đã từng là một sinh vật có thật ?".

Câu hỏi khiến người ta vẫn băn khoăn rằng liệu loài rồng đã từng có thật hay không là nguồn gốc của những chuyện kể về chúng. Tại sao mọi dân tộc đều tả hình ảnh của loài rồng giống nhau ? Người Trung Quốc, người châu Âu trung cổ, người Hy Lạp cổ đại, người Ai Cập, người Aztecs....tất cả đều có một con rồng cho mình . Nhưng những câu chuyện kể về con rồng thì hoàn toàn giống nhau về hình dạng : một loài bò sát 4 chân, bay lượn trên trời cao, có cánh (riêng rồng Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên không có hay có nhưng cánh rất nhỏ ) đặc tính : phun lửa ! Điều kì lạ ở đây là nếu họ chưa từng kể cho nhau nghe về chúng thì tại sao chúng lại có mặt ở mọi nơi ? Nếu ta nói rồng Hi Lạp giống rồng Châu Âu phong kiến thì cũng dễ hiểu : có thể vì người châu Âu phong kiến đã tiếp thu hình ảnh con rồng từ người Hi Lạp cổ đại. Nhưng tại sao rồng Trung Quốc mà lại giống rồng Aztecs...??????Trung Quốc và Aztecs cách nhau cả Thái Bình Dương, muốn qua thì phải có một hạm đội cực lớn. Giả sử Trịnh Hòa có từng đi đến Trung Mĩ trước Columbus đi nữa, thì ông cũng không thể nào đã truyền lại hình ảnh con rồng cho người Aztecs bởi vì hình ảnh con rồng của họ ,thần Quetzalcoatl đã có từ rất lâu rồi...

Theo tri thức hiện đại của con người từ cuối thế kỉ XX thì sự tồn tại cùa rồng quả là một điều nực cười. Nó được giải thích như một sự tưởng tượng của người xưa khi họ tìm thấy những hóa thạch xương khủng long. Và cách giải thích đó đã tồn tại cho tới khi một nhà khoa học đã thật sự tìm ra xác đóng băng của loài rồng - loài rồng lửa phương Tây thực thụ. Loài rồng này được mô tả gần như hoàn toàn giống với rồng lửa phương Tây. Nó thuộc lớp bò sát cao cấp giống với khủng long và có họ rất gần với khủng long nhưng lại may mắn sống sót qua giai đoạn biến cố. Nó có thể bay là nhờ năng lượng Mẵt trời, cũng giống như các loài thằn lằn bay khổng lồ cổ đại khác cánh của chúng giống như những tấm pin MT. Chúng phun lửa bằng khí Hydro do chính bản thân tổng hợp nên. Điều này hoàn toàn không hư cấu vì trong hang của nó thật sự có vết nám hình người do bị thiêu đốt. Có lẽ bởi vì điều kiện thức ăn ngày càng khan hiếm nên chúng tấn công gia súc của con người và vì thế chúng bị săn giết như một con vật có hại. Vì rồng ngủ đông nên khi bị tấn công vào thời kì này nó chắc chắn sẽ chết vì không còn đủ lưu lượng Hydro để tự vệ nữa. Bằng chứng hừng hồn nhất là bên dười cái xác được băng tuyết giữ hầu như nguyên vẹn của con rồng là xác các chiến binh trung cổ. Vì thế dù muốn hay không với những bằng chứng hùng hồn đó thì giới khoa học phải chấp nhận loài rồng Lửa phương Tây là có thật. Thực ra vấn đề tồn tại khủng long trong khoảng 65 triệu năm trở lại đây đã gây đau đầu cho nhiều nhà khoa học. Trước khi phát hiện loài rồng, con người không phát hiện ra bất cứ hóa thạch khủng long nào có niên đại sau kỉ Crêta. Nhưng điều khủng kiếp là 1996 nhà khảo cổ Pháp Jean Clottes phát hiện ra bức vẽ của người Chauvet cổ có hình một con Velociraptor vẽ bằng củi cùng các sinh vật kỉ băng hà mà ta biết. Nó có lông vũ, mõm dài, răng nhọn, chân ba ngón hoàn toàn tiêu biểu cho khủng long( chưa thể là chim vì nó gần khủng long hơn chim thủy tổ). Nhưng bây giờ có vẻ nó đã sáng tỏ. Đôi cách được vẽ hoàn toàn giống với loài rồng trong thần thoại Phương tây. Khả năng phun lửa của rồng là do học hỏi từ thế hệ mẹ chứ không bẩm sinh. Loài bọ lửa ngày nay ở Amazon vần còn có khả năng bắn một chất dễ cháy để làm bỏng kẻ thù, loài tôm sống ở đáy biển Thái Bình Dương còn có thể dùng càng để tạo sóng âm làm choang con mồi, Cá chình điện còn có thể phóng điện.... thì tại sao loài rồng phun lửa không thể được tin là tồn tại chứ?.

Từ năm 1996, các nhà khảo cổ Trung Quốc đã tìm thấy bộ xương hóa thạch nguyên vẹn của một con rồng với hai sừng nhọn, lỗ mũi to và hếch y hệt mô tả trong truyện cổ dân gian.

Di vật quý giá này được tìm thấy ở huyện tự trị dân tộc Miêu Quan Lĩnh, thuộc thành phố An Thuận, tỉnh Quý Châu vào năm 1996, cho đến nay vẫn giữ được dáng hình nguyên vẹn với tổng cộng 7,6 mét chiều dài, trong đó đầu dài 76 cm, cổ dài 54 cm, thân dài 2,7 mét và rộng 68 cm, khúc đuôi còn lại chiếm 3,7 mét. Đầu rồng gần giống hình trụ tam giác, riêng khóe miệng đã kéo dài đến 43 cm, phần rộng nhất có bề ngang 32 cm. Sừng nhọn nhô lên từ đỉnh đầu, mỗi chiếc dài 27 cm và rất cân xứng với nhau. Chúng hơi cong và hơi nghiêng, trông càng giống y chang những hình ảnh được mô tả trong truyền thuyết.

IV- Bí ẩn về nàng tiên cá

Là một trong những nhân vật được yêu thích nhất trong những chuyện cổ tích của nhà văn nổi tiếng Đan Mạch- Andersen, nàng tiên cá đã đi vào tiềm thức bao nhiêu thế hệ bởi giọng ca trong vắt và một tâm hồn thánh thiện. Tưởng chừng đó chỉ là nhân vật trong câu chuyện cổ tích, nhưng những phát hiện về hóa thạch của sinh vật nửa cá nửa người gần đây lại đặt ra một câu hỏi: Liệu nàng tiên cá là có thật?

Trong khi truyền thuyết Hy Lạp ca tụng mỹ nhân ngư là những cô nàng nửa người nửa cá có sắc đẹp tuyệt thế và giọng hát mê hồn thì thực tế lại ghi nhận điều phũ phàng trái ngược: những sinh vật nhỏ thó, hình thù dị hợm và chưa bao giờ cất lên tiếng nói.

Lần đầu tiên người cá bước ra khỏi truyền thuyết hư ảo để hiện diện trước người trần mắt thịt là vào năm 1403. Nước lũ rút vội đã khiến cô mắc kẹt trên bờ biển Eton, Hà Lan, sau đó được 1 nhóm ngư dân tìm thấy. Theo cuốn sách "Speculum Mundi" xuất bản năm 1635 do đích thân Bộ trưởng nước Anh John Swan viết về sự kiện này, mỹ nhân ngư tỏ ra sớm hòa nhập với cuộc sống "trần gian", thích mặc quần áo đẹp, thích dạo chơi, nghe các quý bà tâm sự, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ nàng hé môi trò chuyện nửa lời.

Các nhà hàng hải vĩ đại như Christophe Columbo, Fernand de Magellan và Henry Hudson đều cho biết họ đã nhìn thấy nàng tiên cá.

Ngày 15/6/1608, Hudson viết trong nhật ký hải hành: "Hôm nay, hai thuỷ thủ Thomas Hill và Robert Raynor nhìn thấy một sinh vật lạ có nửa người bên trên giống hệt một cô gái nhưng thay vì hai chân thì lại là một cái đuôi to khoẻ. Sinh vật này có màu da trắng, tóc đen tuyền, phần đuôi được bao bọc bởi lớp vảy như vảy cá. Căn cứ hình dạng, đuôi của sinh vật này giống đuôi cá heo, song về màu sắc thì lại giống đuôi cá thu".

Họa sĩ Stradanus, trong thời gian tham gia chuyến hải hành vòng quanh thế giới của Magellan, cũng để lại một bức ký họa thể hiện một nàng tiên cá với cái đuôi nhọn, không rẻ quạt ở đầu chót, đang bơi bên cạnh thuyền. Trong quyển Kinh thánh xuất bản năm 1483 tại Nuremberg cũng có bức tranh minh họa vẽ hình một nàng tiên cá đang bơi bên cạnh con thuyền của Noe. Sa hoàng Pie đệ nhất từng viết thư cho linh mục người Francois Valentine, yêu cầu kể tỉ mỉ chuyện ông này cùng mấy chục người khác trong đoàn truyền giáo nhìn thấy nàng tiên cá ở gần cảng Ambon của Indonesia. Nhà văn Nga Turgheniev trong một lần tắm sông đã nhìn thấy dưới nước một sinh vật lạ giống như con khỉ cái nhưng có đuôi. Ông đã viết thư kể chuyện đó cho bạn mình là nhà văn Pháp Guy de Maupassant và sau đó Maupassant đã đưa tình tiết này vào truyện Nỗi kinh hoàng.

Nhà văn Nga nổi tiếng Alexander Beliaev, chuyên viết truyện khoa học viễn tưởng, khi viết truyện Người cá (từng được dịch ra nhiều thứ tiếng và nhiều lần dựng thành phim) cũng dựa trên những sự kiện hoàn toàn có thật. Nguyên mẫu của nhân vật Ichian là chú bé Francisco de la Vega Casar có khả năng lạ thường, sống ở nửa cuối thế kỷ 17, trong ngôi làng nhỏ Lyerganes trên bờ vịnh Beaskay. Từ năm lên 5 tuổi, Casar đã có thể lặn xuống nước suốt nửa giờ mà không cần ngoi lên để thở. Tháng 2/1674, trong một lần tắm ở sông Myera, Casar đột nhiên biến mất để rồi 5 năm sau xuất hiện trong... lưới của một ngư dân đang đánh cá ngoài khơi. Từ cổ họng đến sát cơ quan sinh dục và từ gáy đến chót xương cùng của Casar đã mọc lên lớp vảy màu nâu nhạt với hàng vây nhô lên ở giữa; giữa các ngón tay có lớp màng giống như bàn chân ếch. Casar được đưa vào bờ, gửi vào tu viện dòng thánh Francisco, ăn học bình thường như những người khác, thỉnh thoảng được phép trầm mình suốt buổi trong một hồ nước lớn. 9 năm sau, nhân sơ suất của người gác cổng, Casar trốn ra ngoài, nhảy tùm xuống biển và biến mất vĩnh viễn. Nghi ngờ tính xác thực của câu chuyện trên, năm 2004, nhà báo người Tây Ban Nha Iker Himenes Elyzary đã lục tìm trong tài liệu lưu trữ của giáo hội và đã tìm thấy một thư tịch ghi nhận sự việc này.

Năm 1738, nhật báo London đăng tải một tấm hình gây sốc: Một mỹ nhân ngư nhỏ bé được phát hiện bên bờ biển Hebrides, bị ném đá tới chết do người ta tưởng nhầm là quái thai. Sau đó cô người cá xấu số được mai táng cẩn thận, và nếu có ai tỏ ý nghi ngờ thì bất kỳ người già hay con trẻ nào trong làng cũng sẵn sàng thề độc để chứng minh câu chuyện có thật 100%.

Liên quan đến sự xuất hiện của nàng tiên cá, một tiến sĩ học viện khoa học Liên xô cũng cho biết vào năm 1962 chiếc tàu chở các nhà khoa học và chuyên gia quân sự đã bắt được ngoài khơi biển Cuba 1 đứa bé nói được, nhưng da thô có vảy và mang, đầu giống người nhưng lại là đuôi cá.

Tháng 4 năm 1990, tờ "Wenhui" của Trung Quốc đưa tin rằng một nhóm công nhân xây dựng ở thành phố Sochi, bên bờ Biển Đen đã phát hiện thấy ngôi mộ của xác ướp mỹ nhân ngư được chôn cùng với kho báu. Tin tức này được nhà khảo cổ học Liên xô - tiến sĩ Zelemi tiết lộ, ông là người đã chứng kiến tận mắt và hoàn toàn tin vào sự tồn tại của người cá, ông đã bỏ ra hơn 4 năm bên bờ biển này để nghiên cứu. Nhìn xác ướp người ta đoán rằng đó là 1 cô gái da đen xinh đẹp, nhưng điều đáng ngạc nhiên là không chỉ phần dưới là chiếc đuôi cá mà ngay trên đỉnh đầu cũng có mang, ước tính cô người cá này dài khoảng 1m7. Các nhà khoa học tin rằng xác ướp này đã có hơn 100 năm tuổi.

Ngày 02 tháng 7 năm 1991, tờ "United Daily News" của Singapore đưa tin rằng các nhà khoa học đã phát hiện ra hóa thạch hoàn chỉnh của mỹ nhân ngư đầu tiên trên thế giới, chứng minh cho sự tồn tại của mỹ nhân ngư không chỉ có trong truyền thuyết. Hóa thạch tương đối hoàn chỉnh này được tìm thấy tại bờ biển Nam Tư và được xác định có từ 1.200 năm về trước. Tiến sĩ Aughni cho biết: "Người cá bị chết vì mắc cạn, sau đó xác được cát đá bảo vệ và dần dần hóa thành hóa thạch." Người ta xác định được người cá cao 1m6, phía trên eo phát triển như người với não bộ phát triển, thể tích não tương đối lớn, tay phát triển 5 ngón có móng vuốt, bộ hàm chắc khỏe với răng sắc nhọn để xé con mồi, khuôn mặt có đầy đủ các cơ quan tuy nhiên mắt lại không có mí.

Vào năm 2006, các cư dân của vùng biển Đông nước Nga vừa phát hiện một xác chết của...nàng tiên cá! Câu truyện thần thoại về nàng tiên tóc vàng có giọng ca trong như pha lê cuối cùng đã được hé mở. Những dân chài đã thực sự ngỡ ngàng khi chứng kiến cảnh một xác người có đuôi giống cá chết, trôi dạt vào bãi biển. Các nhà khoa học ngay lập tức đã được mời đến khám nghiệm. Hiện tổ chức sinh vật lạ đại dương của Nga vẫn chưa có câu trả lời chính xác về nàng tiên cá này.

Mới đây, nhà động vật học người Mỹ Carles Banze đã cho đăng bài khảo luận "Cơ sở sinh học của người cá" trên tờ Limnology & Oceanology, một tạp chí khoa học rất có uy tín của Mỹ. Bài viết có đoạn: "Người cá, mỹ nhân ngư, những quái vật biển dạng người... xin gọi chung là người cá - trong các truyền thuyết và trong lời kể của các nhân chứng hay những hình ảnh do người xưa vẽ lại, chúng ta thấy người cá nói chung đều có hai mắt cùng nhìn về một hướng như người mà không phải nhìn về hai hướng ngược nhau như cá. Bàn tay người cá có ngón cái chĩa ngang như người, thuận tiện cho việc cầm nắm công cụ lao động. Các miêu tả đều cho thấy người cá có đầu khá to so với thân hình nói chung, chứng tỏ bộ não khá phát triển. Phần thân dưới của người cá hầu hết đều có hình dạng bơi chèo có rẻ quạt ở đầu chót tương tự đuôi cá voi. Lớp vảy trên thân thực chất là lớp da dày hoá sừng trông xù xì giống như vảy cá...". Giải thích về việc ngày nay người cá không còn hiện diện trong thiên nhiên, Banze tỏ ra hơi cực đoan khi cho rằng nguyên nhân là do sự phát triển của thế giới hiện đại gây ô nhiễm môi trường sinh thái và do sự đánh bắt thuỷ hải sản một cách vô độ đã khiến người cá tuyệt chủng.

V- Người sói liệu có phải chỉ có trong truyền thuyết

Tuy không nổi tiếng bằng ma cà rồng nhưng từ xa xưa người sói đã là một hình ảnh phổ biến trong các nền văn hóa, xuất hiện nhiều trong văn chương, điện ảnh và được khai thác dưới góc độ một hiện tượng rùng rợn, kỳ bí. Vậy dưới con mắt của giới nghiên cứu khoa học, hiện tượng này thực chất là gì? Có phải chúng chỉ là những triệu chứng lâm sàng có thể thấy ở các bệnh lý tâm thần.

Từ truyền thuyết...

Những mô tả đầu tiên về người sói được tìm thấy từ thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Triết gia Herodote đã kể về một tộc người sống ở ven bờ biển đen có khả năng biến thành sói bằng phép thuật. Còn Ovide thì khẳng định trong một tài liệu tối cổ rằng những người Arcadie có niềm tin là người có thể biến thành sói. Tác giả này đã viết về nguồn gốc người sói như sau: Lycaon vua của Arcadie có 50 người con trai, thần Zeus một hôm đến thăm nhà vua, giả dạng thành một kẻ ăn mày rách rưới. Nhà vua độc ác sai giết một đứa trẻ làm thức ăn cho thần Zeus. Thần Zeus nổi giận lôi đình phóng sấm sét giết chết cả 50 người con của vua Lycaon và biến tên vua tàn bạo này thành con sói, vương miện biến thành lông, tay biến thành chân nhưng vẫn giữ những vết tích cũ của một tên vua tàn bạo, lông màu xám, vẻ hung bạo, mắt ánh màu bạc man dại...

Vào thế kỷ thứ I sau Công nguyên, Aréteé de Cappadoce đã miêu tả những người sói như sau: Chúng có một sự thèm khát mãnh liệt buộc chúng lăn xả vào những đàn gia súc và những người nông dân để cắn xé họ và những con gia súc. Chúng thích đi kiếm ăn vào ban đêm, hú lên man dại bên những xác chết và thường xuyên lui tới những khu nghĩa địa.

Một số tài liệu khác thời trung cổ thì ghi chép rằng: Người sói có liên quan đến hiện tượng trăng tròn. Vào các đêm trăng tròn, một số người bị biến thành sói rất nhanh. Đầu tiên là nhiệt độ cơ thể tăng cao rồi chân tay mọc ra móng vuốt, lông lá. Kế đến là sự nôn mửa và những cơn co thắt dẫn đến mất trí. Nhanh chóng sau đó phần đầu mặt cũng mọc đầy lông và biến dạng thành bộ mặt của một con sói. Cũng giống như mọi con thú săn mồi khác, người sói khao khát giết người mà không thể tự kiểm soát được, nó lang thang suốt đêm, săn tìm con mồi và thường cắn vào động mạch cổ của con mồi. Khi đã no máu, nó lăn ra ngủ để rồi sáng hôm sau lại trở lại thành hình người...

Từ thế kỷ XVI, thế giới dường như bùng nổ vấn nạn người sói. Đâu đâu người ta cũng coi người sói như mối hiểm họa, như những con quái vật giết người hàng loạt. Nhiều người sói đã bị bắt, bị các tòa án dị giáo kết tội xử tử với những phán quyết khẳng định đây là những hành động của phù thủy, từ đó dẫn đến một phong trào săn lùng tiêu diệt phù thủy và người sói trong thời gian này. Chỉ tính riêng ở Pháp, từ năm 1520 - 1610 đã có khoảng 30.000 người sói bị hành quyết. Trong giai đoạn này ở châu Âu cũng có khoảng 100.000 trường hợp người sói bị đưa lên đoạn đầu đài.

Một vụ án gây dư luận lớn về người sói được ghi nhận vào năm 1603, Jean Grenier xuất hiện ở các cánh đồng với hình dạng sói chuyên hù dọa và giết hại những bé gái cùng lứa tuổi mình. Ban đầu tòa tuyên án hỏa thiêu nhưng sau đó đã nhận thấy những biểu hiện tâm thần của Jean Grenier nên thay đổi hình phạt, Jean Grenier chỉ bị giam giữ trong một tu viện. Vụ án này đánh dấu sự kết thúc của những vụ án về người sói. Tòa án cuối cùng đã thừa nhận rằng những người sói không phải là tội phạm mà là bệnh nhân tâm thần và cần thiết phải có một phương pháp điều trị.

Mặc cho các câu chuyện về người sói không ngớt được thêu dệt và lan truyền ở khắp nơi, giới khoa học, tất nhiên không dễ gì tin vào những điều này. Từ thời cổ La Mã đã có người tỏ ra ngờ vực về khả năng người biến thành sói. Pline L'ancien, tác giả của cuốn bách khoa nổi tiếng Lịch sử tự nhiên đã cho rằng, hiện tượng người sói mà dân gian lưu truyền hoàn toàn không có thật. Theo ông, từ thời xa xưa đã xuất hiện một số chứng bệnh kỳ lạ thực sự tác động lên cả một cộng đồng và biến cư dân ở đó thành thú vật hung dữ.

Đến thế kỷ thứ II sau CN, hiện tượng người sói đã được giới khoa học xác định bao gồm nhiều bệnh lý tâm thần khác nhau. BS. Marcellus de Side người Hy Lạp thời hoàng đế La Mã Hadrien đã viết một bài thơ y học gồm 42 tập trong đó có một đoạn dành nói về người sói và ông liệt hiện tượng người sói vào bệnh lý trầm uất.

Vào thế kỷ thứ X, một bác sĩ Ả rập là Avicenne đã dành nhiều tâm trí, nghiên cứu, tìm hiểu về hiện tượng người sói và đã đưa ra những giải thích khoa học về vấn đề này. Ông nêu ra những rối loạn tâm thần tập trung vào các triệu chứng như: tin tưởng mình biến thành sói, thu rút khỏi cuộc sống xã hội, hoạt động về ban đêm, các biểu hiện gây hấn, tấn công...

Những triệu chứng mô tả bởi Marcellus de Side và Avicenne càng về sau càng được giới khoa học kiểm chứng và thừa nhận. Johannes Wyer (1515 - 1588) - bác sĩ người Hà Lan cho rằng, hiện tượng người hóa sói là một hiện tượng bệnh lý tưởng tượng, một bệnh tâm thần được đặt tên là "Bệnh điên sói" (Folie Louviére). Trong một cuốn sách xuất bản 1563, De Praestiglis xem hiện tượng người sói là triệu chứng lâm sàng của bệnh trầm uất. Bác sĩ người Pháp Jean de Nynauld cũng quan tâm rất nhiều về vấn đề này trong cuốn sách của mình viết vào năm 1615 có tựa đề Điều trị người sói. Trong đó ông phân biệt ra hai loại, một loại là bệnh lý trầm uất và loại kia là do ác quỷ. Một bác sĩ người Pháp khác là Jean Fernel - người rất say mê phân loại các bệnh tâm thần đã phân biệt ra 3 loại trầm uất đều do những tổn thương não bộ gây ra đó là trầm uất, trầm uất kèm kích động và cuối cùng là trầm uất với hoang tưởng biến thành sói.

Robert Burton với cuốn sách chuyên luận nổi tiếng của mình mang tựa đề Giải phẫu bệnh trầm uất năm 1621 cũng đã làm một cuộc tổng hợp y khoa về hiện tượng người sói. Trong cuốn chuyên luận này có 3 phần. Phần thứ 1 đề cập đến vấn đề "điên sói", ông viết: "Trong hiện tượng người sói mà Avicenne gọi là điên sói, người bệnh đi dọc ngang trên những cách đồng hoặc những nghĩa địa vào ban đêm, hú lên man rợ như những con sói để thuyết phục mình đã trở thành những con sói". Theo Aetius và Paul d'Egine thì đó là một dạng trầm uất nhưng Robert Burton thì cho rằng đó là biểu hiện của trạng thái hưng cảm.

Việc xếp loại người sói vào hưng cảm cũng được BS. Franck thống nhất vào năm 1838, Điên sói được ông xếp vào một loại hưng cảm nghi bệnh (La Manie Hypocondriaque) với định nghĩa đây là một bệnh đặc trưng bởi những tri giác sai lầm nghiêm trọng đối với chính cơ thể của mình. Người bệnh nghĩ rằng cơ thể mình thay đổi thành động vật và họ bắt chước những hành vi của những con vật mà họ biến thành.

Ngày nay, y học hiện đại đã giải thích tường tận với những lý lẽ xác đáng rằng triệu chứng hoang tưởng hóa sói chỉ là một triệu chứng có trong rất nhiều bệnh lý khác nhau như tâm thần phân liệt, hội chứng hoang tưởng, trầm cảm nặng, những rối loạn tâm thần thực thể... Tuy nhiên, không vì thế mà nỗi sợ hãi hay sự kích thích tính tò mò từ người sói không còn tồn tại trong cộng đồng, bằng chứng là rất nhiều tác phẩm văn học, điện ảnh nói về người sói vẫn thu hút sự quan tâm đặc biệt của công chúng.

VI- Những câu chuyên về người tí hon

Trong truyền thuyết hay sử sách ghi chép lại, có rất nhiều câu chuyện kể về "người tí hon", họ chỉ cao khoảng 40 cm, giống như một đứa trẻ rất nhỏ, có đầy đủ cả nam nữ già trẻ. Những người nhỏ bé này thân thể rất nhẹ nhàng như chim, mỗi khi có người đến gần định bắt họ thì họ liền bỏ chạy nhanh như bay, đến mức người bình thường không sao đuổi kịp họ được... Sự thật về sự tồn tại của giống người này hiện nay vẫn đang được các nhà khoa học nghiên cứu.

-Từ những câu chuyện người tí hon trong truyền thuyết và sử sách...

Theo sử sách ghi lại, vào thời nhà Thanh ở vùng núi sâu tỉnh Yên Đài, Sơn Đông, Trung Quốc, một người đốn củi kể lại rằng, anh và những người dân quanh vùng này thường gặp một giống người rất nhỏ bé. Giống người này cao khoảng 40 cm, giống như một đứa trẻ rất nhỏ, có đầy đủ cả nam nữ già trẻ. Khi hoàng hôn, những người nhỏ bé này thường tập hợp lại thành các nhóm, mỗi nhóm khoảng từ 3 đến 5 người xuất hiện và chơi đùa, nhảy múa với nhau.

Tiếng nói của họ giống như tiếng người ta đang khóc nức nở nghẹn ngào, nghe không rõ được họ nói những gì. Những người nhỏ bé này thân thể rất nhẹ nhàng như chim, mỗi khi có người đến gần định bắt họ thì họ liền bỏ chạy nhanh như bay, đến mức người bình thường không sao đuổi kịp họ được. Không ai biết những người bé nhỏ này sống ở đâu.

Trong cuốn sách "Gu-li-vơ du ký" của nhà văn Jonathan Swift được người đọc đón nhận rất nồng nhiệt cũng có một chuyện rất thú vị kể rằng, trong một chuyến đi biển chàng thuỷ thủ Gu-li-vơ lạc vào một xứ sở kỳ lạ. Ở đó mỗi người dân cao chưa đến một gang tay, còn ngựa thì chỉ nhỉnh hơn con chuột một chút.

Ở Trung Quốc, vào triều nhà Thanh, học giả nổi tiếng Kỷ Hiểu Lam là một người rất được kính trọng. Ông làm quan tới chức Thượng thư bộ Lễ. Trong cuốn sách "Duyệt vi thảo đường bút ký" (nghĩa là "Xem qua những ghi chép trong lều cỏ của những ẩn sỹ"), ông có chép câu chuyện nói về người tí hon. Câu chuyện là miêu tả của một vị tướng quân.

Vị tướng quân này kể rằng, một hôm ông ta có đuổi theo mấy con chim trĩ tới tận vùng núi sâu, thì bỗng nhìn thấy trên vách núi cao và dốc hình như có người, ông bèn vượt qua hẻm núi tới xem xét. Ở độ cao cách mặt đất khoảng 15m - 17m, vị tướng quân này nhìn thấy một người cao khoảng 40cm, lông màu đen phủ đầy trên mặt và chân tay, trên thân khoác áo màu tía. Ngồi đối diện với người đó là một phụ nữ diện mạo xinh đẹp đang nướng thịt, dáng dấp như người Mông Cổ, khoác áo lông màu xanh lục.

Bên cạnh người phụ nữ này có 4, 5 người hầu hạ. Họ chỉ lớn bằng đứa trẻ, khi nhìn thấy người thì cười vui, nói thứ tiếng không phải là tiếng Mông Cổ mà cũng không phải là ngôn ngữ địa phương nào, mà nghe như tiếng chim hót, không ai hiểu được. Thấy họ như thế, vị tướng quân bèn tặng quà cho họ bằng một miếng thịt đùi của một con la. Nhưng cả họ đều khoát tay không nhận. Sau này, vị tướng quân cùng với đoàn người ngựa đi tìm lại chỗ đó, nhưng không tìm được.

Trong truyền thuyết cũng như sử sách của một số nước có ghi chép lại và mô tả rằng, cách đây khoảng 70.000 - 80.000 năm, trên trái đất tồn tại những người lùn chỉ cao từ 60cm tới 1m2, nặng chừng 30kg và có bộ não chỉ bằng 1/3 so với của chúng ta hiện nay. Theo sử liệu thì giống người lùn này sinh sống ở vùng núi cao âm u, có nhiều sương mù và họ thuộc giống người Hobbit. Hobbit có ba nhánh là người Harfoot, Stoor và Fallohide. Họ sống trong các hang động, có ngôn ngữ, gieo trồng thực vật, nhưng chủ yếu dựa vào việc săn bắn để sinh sống. Tới Kỷ thứ ba, một số người Hobbit đã di chuyển xuống chân núi, làm nhà đơn sơ bằng đá, gỗ và bắt đầu canh tác, chăn nuôi.

Tuổi thọ của người Hobbit rất cao, tới 130 tuổi. Sau khi xuống chân núi, họ bắt đầu hình thành quần thể và xã hội đơn giản như có dự trữ thức ăn, có lễ hội và tập tục tặng nhau quà cáp nhân dịp "lễ tết". Nhà văn chuyên viết tiểu thuyết viễn tưởng J.R.R Tolkien đã dựa vào ghi chép lịch sử để viết bộ tiểu thuyết mang tên "The Lord Of The Rings" có mô tả về người Hobbit. Ông mô tả đây là giống người tý hon có tai nhọn, mặt choắt, tóc ngắn và xoăn, da vàng, bụng to, thường sinh sống ở các vùng núi Shire, Bree giữa Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ.

... Đến những bộ xương hoá thạch nhỏ xíu

Tuy nhiên, những câu chuyện về người tí hon cũng như giống người lùn Hobbit vẫn bị xem là "giả tưởng" cho đến trước khi các nhà khảo cổ Australia phát hiện những hài cốt ở vùng đảo Flores. Đó là vào năm 2003, trên đảo Flores (Indonesia), lần đầu tiên người ta tìm thấy xương hóa thạch của giống người lùn được đặt tên Homo floresiensis. Ngày 28/10/2004, một cuộc hội thảo chuyên đề về người Hobbit đã được tổ chức tại thành phố Sydney.

Nhà khảo cổ Peter Brown thuộc Trường Đại học New England của Australia nói: "Tôi rất kinh ngạc và mừng rỡ khi biết được thông tin này, bởi vì đây là bằng chứng về những người sống cách đây khoảng 80.000 năm mà tới nay mới được chứng minh. Đây sẽ là phát hiện lớn nhất về khảo cổ trong thế kỷ 21".

Khi phát hiện ra hài cốt người Hobbit, nhiều nhà khảo cổ và nhân chủng học chưa tin, vì họ cho rằng con người khi mắc bệnh liên quan tới nội tiết tố cũng có thể bị thấp lùn như thế, mà khoa học gọi là chứng bệnh Dwarfism. Vì vậy những hài cốt ở Flores, Indonesia, khi đó vẫn chưa thể được coi là của người Hobbit vì chưa có chứng cứ khoa học thuyết phục.

Kể từ năm 2004 tới nay, các nhà khoa học đã tiến hành một loạt nghiên cứu sử dụng những thiết bị tiên tiến nhất. Cuối cùng, các nhà khoa học Australia công bố hài cốt này không thuộc bất kỳ sinh vật nào từng được phát hiện trên trái đất hay của những người mắc bệnh Dwarfism. Bởi vậy đây chính là hài cốt của người Hobbit đã từng được sử sách ghi chép.

Năm 2006, Lee Berger, nhà cổ sinh vật học tại Đại học Witwatersrand tại Johannesburg, Nam Phi, khi đang chèo thuyền quanh những hòn đảo đá cách Philippines 600km về phía đông, ông phát hiện ra những mẩu xương trong hang động ở Đảo quốc Thái Bình Dương Paula. Hang động đầy những xương đã bị sóng đánh vào và nằm chất đống như gỗ.

Những mẩu xương khác bị chôn sâu trong tầng cát và nhiều xương khác bao gồm xương sọ, nằm trong các bức vách hang. Điều đặc biệt là những xương này có tuổi thọ từ 900 đến 2.900 năm tuổi và chúng có kích cỡ rất nhỏ. Những xương nhỏ này thuộc về những người người cao khoảng 94 đến 120cm và cân nặng vào khoảng 32 đến 41 kg. Họ có tầm vóc tương tự như nhóm người được gọi là Hobbit.

-Những "người tí hon" xuất hiện trong cuộc sống ngày nay

Năm 2010, một nhóm các nhà khoa học đã phát hiện ra một tộc người có tên Pygmy hiện đang sinh sống ở châu Phi, có thể coi họ là những hậu duệ xứng đáng của người lùn Hobbit về chiều cao. Họ chỉ cao từ 1.3 đến 1.4m và tự xưng là "những đứa con của rừng", họ sống kiểu tự cung tự cấp, màu da đen nhạt và mái tóc xoăn rất ít (khác chút ít so với người châu Phi gốc).

Năm 2008, người dân ở thị trấn General Guemes thuộc Argentina bỗng xôn xao bởi sự xuất hiện của một người siêu lùn kỳ lạ, buộc cảnh sát phải mở một cuộc điều tra trên diện rộng. Cảnh sát đã tiến hành điều tra sau khi xem xét thấy các hồ sơ lưu trữ có ghi chép về những vụ trạm chán của người dân địa phương với sinh vật này trong nhiều thập kỷ qua. Đó là một sinh vật cao đến đầu gối người thường, đội một chiếc mũ nhọn và có dáng đi khệnh khạng, được một nhóm thiếu niên đi chơi đêm tình cờ quay phim được. Jose Alvarez, cậu thiếu niên đã ghi hình được sinh vật này, kể lại với tờ báo quốc gia El Tribuno: "Chúng tôi đang ngồi tán ngẫu về chuyến đi câu cá vừa rồi, lúc đó vào khoảng 1 giờ sáng. Tôi bắt đầu dùng điện thoại để quay xung quanh trong khi những người khác nói chuyện và cười đùa. Bỗng nhiên có một tiếng động kỳ lạ như tiếng ai ném đá, chúng tôi nhìn ra phía bên kia đường thì thấy cỏ đang chuyển động. Mới đầu, ai cũng nghĩ đó là một con chó nhưng khi thấy bóng dáng của một người siêu lùn nhô lên thì chúng tôi đều rùng mình. Một người bạn của tôi bị hoảng loạn khiến chúng tôi phải đưa cậu ấy đến bệnh viện".

Hàng triệu người đã đổ xô vào mạng để xem đoạn clip "lạnh xương sống" này sau khi các tờ báo đồng loạt đưa tin và đưa ra những nhận xét hoài nghi rằng đây là đoạn phim về một người lùn đang biểu diễn một trò đùa tinh nghịch. Nhưng các thám tử ở thị trấn General Guemes đã đặt cho người lùn cái tên mới "Quái vật lông lá" sau khi hàng trăm người dân kể rằng họ đã nhìn thấy nó ít nhất 1 lần trong đời.

Chỉ vài tuần trước khi người lùn lọt vào tầm ghi hình của camera, các công nhân đường sắt vô cùng hoang mang đã gọi cho cảnh sát để trình báo việc họ nhìn thấy một người lùn đi theo kiểu cua bò trên một bên đường ray xe lửa vào lúc nửa đêm. Một cuộc thăm dò ý kiến địa phương cho biết hơn 90 % trong 30.000 cư dân ở thị trấn General Guemes tin rằng những người lùn này thường đi lang thang trên phố lúc nửa đêm.

Đã có rất nhiều truyền thuyết, sử sách ghi chép về sự tồn tại của giống "người tí hon" kỳ lạ này, có người còn nói rằng đã tận mắt nhìn thấy họ. Họ có chiều cao thấp hơn rất nhiều lần so với người bình thường, nhưng họ không phải mắc chứng bệnh lùn bẩm sinh như khoa học ngày nay vẫn chẩn đoán cho các bệnh nhân có chiều cao và cân nặng khác thường. Họ có thật sự là hậu duệ của một tộc người đã từng tồn tại cách đây khoảng 5.000 năm trước. Và sự thật về sự tồn tại của giống người này hiện nay vẫn đang được các nhà khoa học nghiên cứu để tìm ra câu trả lời.

VII- Kỳ lân

Từ nhiều thập kỷ cho đến nay, lân vẫn là 1 loài huyền bí nhất trong tất cả các loài sinh vật. Nó đc tôn sùng trong những câu chuyện kể hoặc thơ phú nhưng sự thật về lân vẫn là 1 điều bí ẩn

Kỳ Lân một trong những loài vật huyền bí nhất, được ca ngợi trong truyền thuyết dân gian, trong thơ ca, và truyền miệng trong nhiều thế kỷ; và nó để lại một bí ẩn lớn mà thế giới vẫn chưa tìm ra. Mặc dù không một ai được nhìn thấy nó trong nhiều thế kỷ qua, nhưng nhiều người vẫn tin rằng nó có thật; và những hình tượng phổ biến về loài kỳ lân của Đông phương như trong truyện dân gian Trung Hoa rất khác biệt so với hình tượng quen thuộc về loài ngựa trắng này của người Tây Phương, chỉ duy nhất một điều chắc chắn rằng chúng có hình dạng như loài ngựa và có một sừng giữa trán.

Những điều bí ẩn về loài Kỳ Lân

Nhiều người tin rằng kỳ lân hoàn toàn không có thật mà tồn tại chỉ để tăng thêm không khí thần bí. Nó sống ở những những thời điểm và những vùng tương tự như khủng long, voi mamut, hoặc như những loài chưa được xác định như Bigfoot (sinh vật có chân rất lớn) và Lochness Monster (quái vật ở hồ Lochness). Những người khác nữa thì tin rằng kỳ lân vẫn tồn tại ở những miền xa xôi hẻo lánh, và chỉ có thể được tìm thấy bởi đức hạnh và sự chân thật.

Truyền thuyết kể rằng bất cứ ai nếu có cơ hội gặp được Kỳ lân đều phải kinh ngạc trước vẻ đẹp của nó, và nhân loại đã dành cho nó một sự tôn kính trọng nền văn hóa và lịch sử của thế giới.

Kỳ lân phương Đông

Kỳ lân tồn tại trong thần thoại Trung Hoa hàng ngàn năm nay. Nó xuất hiện dưới nhiều hình dạng khác nhau nhưng phổ biến nhất là một loài vật có thân thể của loài hươu, đuôi của bò, móng của ngựa, và có một chiếc sừng ngắn mọc giữa trán. Chùm lông trên lưng nó có năm màu tượng trưng cho năm màu sắc thiêng liêng "kim, mộc, thủy, hỏa, thổ" của Trung Hoa: đỏ, vàng, xanh, trắng, và đen. Phần lông ở bụng nó có màu vàng. Trong một vài bản ghi chép khác thì Kỳ lân có phần da màu xanh ngọc giống như rồng.

Kỳ lân Trung Hoa được gọi là chee-lin hay Kilin (Ki, Kỳ lân đực, và Lin, Kỳ Lân cái). Cẩn thận trong từng bước đi, Kỳ lân không bao giờ giẫm lên bất cứ sinh linh nào ngay cả những sinh vật rất nhỏ và chỉ ăn thực vật có vòng đời ngắn. Tuổi thọ của Kỳ lân khoảng 1000 năm.

Kilin mang đến mùa xuân cho trái đất, và rất được tôn kính. Nó là một trong bốn loài thú của điềm tốt lành (cùng với Long, Quy, và Phụng), nó báo trước nhựng việc ở tương lai và tượng trưng cho sự sống

Những khám phá đầu tiên về Kỳ lân

Trong thần thoại Trung Quốc, Kỳ lân là một loài thú của điều tốt lành và chỉ đến với con người trong những sứ mệnh quan trọng. Sự xuất hiện của nó được giải thích như một dấu hiệu tốt lành, đồng thời khi nó không được nhìn thấy trong nhiều thế kỷ đó là điềm báo rằng con người đang sống trong một thời kỳ "đen tối". Nó chỉ xuất hiện trở lại khi cuộc sống tươi đẹp và khi Đức Chúa Trời trị vì.

Kỳ lân lần đầu tiên được biết đến cách đây khoảng 5000 năm khi nó thực hiện một nhiệm vụ mang đến cho Hoàng đế FuHis một thông điệp bí mật. Sau đó, khoảng 4700 năm trước công nguyên, môt Kỳ lân khác đã xuất hiện tại khuôn viên cung điện hoàng đế Huang Di. Điềm tốt lành này như báo hiệu triều đại của ông ấy sẽ kéo dài và cuộc sống nhân dân sẽ ấm no, hạnh phúc. Cách đây khoảng 4000 năm, hai con Kỳ Lân đã sống suốt triều đại của hoàng đế Yao, ông là một trong năm Hoàng đế được dựng tượng trên thế giới.

Sự chào đời và ra đi của Khổng Tử được báo trước bởi Kỳ Lân

Người Trung Hoa cũng tin rằng Kỳ lân có thể báo trước sự chào đời của các anh hùng giống như Khổng Tử. Năm 551 trước Công nguyên, có một người phụ nữ mang thai đã nhìn thấy một con Kỳ Lân trong rừng. Nó đã đưa một mẩu ngọc bích trên đầu vào lòng bà ấy. Bà ấy nhận ra sự quan trọng của điềm báo và biết rằng nó là món quà mà thượng đế ban tặng.

Dòng chữ được khắc trên mẩu ngọc bích nói rằng sự sáng suốt tài giỏi của con trai bà ấy sẽ xua tan cho ma quỷ, bóng đêm, và Khổng Tử sẽ trở thành nhà hiền triết được tôn kính nhất Trung Quốc. Thậm chí cho đến ngày nay, 2500 năm sau đó, những lời tiên đoán của ông ấy vẫn được lưu danh như một tín ngưỡng. Khi đến tuổi già, theo sử sách, Khổng Tử đã thấy Kỳ Lân đứng trước mặt mình và điều đó đồng nghĩa với việc ông ấy sẽ ra đi.

Những phát hiện khác về Kỳ Lân phương Đông

Ngoài Trung Quốc, những nước Châu Á khác cũng có truyền thuyết về Kỳ Lân. Ở Nhật Bản, Kỳ Lân được biết đến với tên Kirin, có bờm dài và thân thể như loài bò. Không giống như Kỳ Lân Trung Hoa, Kỳ Lân Nhật Bản là loài thú làm người ta sợ hãi, đặc biệt là những kẻ phạm tội. Thật sự, nó có thể tìm ra những điều sai trái. Người xét xử có thể gọi Kỳ Lân đến để xác định tội phạm trong những vụ án nghiêm trọng. Sau khi nhìn tội phạm, nét sợ hãi sẽ xuất hiện trên mặt của Kỳ Lân, tiếp sau đó nó sẽ dùng chiếc sừng của mình đâm xuyên qua tim kẻ có tội.

Một loài Kỳ Lân ở Ai cập được gọi với tên karkadann, tạo ra sức lôi cuốn đặc biệt. Chiếc sừng của nó có thể chống lại nọc độc của bò cạp, và ăn thịt Kỳ Lân sẽ giải thoát linh hồn khỏi yêu ma. Dựa vào sự mô tả từ những cuốn sách cổ, những nhà chuyên môn tin rằng karkadann thực chất là loài linh dương châu Phi có sừng dài và thẳng, đó là 1 loài linh dương lớn với về ngoài chỉ có một chiếc sừng khi nhìn từ một góc độ nào đó.

Những nhân vật vĩ đại đã nhìn thấy Kỳ Lân

Adam ở cõi cực lạc, nơi bắt đầu sự sống

Hoàng đế FuHsi, ở Trung Quốc cách đây 5,000 năm

Hoàng đế Huang Di, trong khuôn viên ở cung điện hoàng đế vào năm 2697 trước Công nguyên (CN)

Hoàng đế Yao, Trung Quốc khoảng 2000 năm trước CN

Khổng Tử, Trung Quốc, 551-479 trước CN

Ctesias, Ấn độ, thế kỷ thứ IV trước CN

Alexander vĩ đại, Châu Á, vào thế kỷ thứ III trước CN

Julius Caesar, Đức, thế kỷ thứ nhất trước CN

Prester John, Châu Á giữa thế kỉ 2

Kỳ Lân phương Tây

Có lẽ Kỳ Lân được biết đến sớm nhất bởi Herodotus, là người châu Phi sống vào thế kỷ thứ III trước CN đã viết cuốn "Con lừa có sừng" (nguyên văn tiếng Anh 'horned ass'). Vào khoảng thế kỳ thứ IV trước CN, Kỳ Lân được biết đến rất nhiều ở Tây Phương và tiếp tục được đề cập vào những thế kỷ sau đó. Trong tác phẩm của một bác sĩ đồng thời là sử học gia người Hy Lạp, Ctesias, là người đã du lịch đến Ba Tư và mang về những câu chuyện kỳ quái qua lời kể của những thương gia đã đi xuyên suốt Ấn Độ. Mặc dù không nhìn thấy ai nhưng ông ấy mô tả một loài thú và gọi chúng là 'Những chú lừa hoang dã của An Độ' (nguyên văn 'Wild ass of India') có kích cỡ bằng với loài ngựa, với một thân hình màu trắng, cái đầu màu đỏ, đôi mắt màu xanh nhạt, và một chiếc sừng thẳng nằm phía trước trán, dài khoảng 45.72 cm. Ông ấy mô tả phần dưới của chiếc sừng có màu trắng, phần giữa có màu đen, và phần đỉnh có màu đỏ. Như một bác sĩ, ông ấy quan tâm đặc biệt đến chiếc sừng bởi vì ông nghe đồn rằng nó bảo vệ cơ thể chống lại thuốc độc chết người. Uống những chén nước được nấu từ chiếc sừng này sẽ có được sức mạnh làm vô hiệu hóa độc tính của độc dược và vết thương sẽ chóng lành khi tẩm chén nước vào vết thương. Ctesias miêu tả Kỳ Lân chạy nhanh phi thường, không thể thuần hóa được và hầu như khổng thể bắt giữ được nó.

Chẳng bao lâu sau, những câu chuyện của Ctesias được nhiều người biết đến, triết học gia danh tiếng người Hy Lạp Aristotle suy luận rằng KỳLân là có thật, nhưng ông ấy không tin vào các câu chuyện về sức mạnh thần kì của chiếc sừng. Một sử học gia lớn tuổi Pliny (người được sinh ra ở triều đại của đức Giáo Hoàng và qua đời vào năm 79 sau CN đã mô tả về Kỳ Lân trong bộ sách bách khoa 'Lịch sử tự nhiên' - nguyên văn "Historia Naturalis") cũng kết luận rằng Kỳ Lân đã tồn tại ở Ấn Độ. Kỳ Lân của Pliny là một loài thú hung ác, với thân hình của ngựa, đầu của hươu, chân của voi, và đuôi của loài lợn hoang dã, và một chiếc sừng màu đen có chiều dài 2 cubits (91.44 cm) đứng sừng sững trước trán. Cả hai ông đều trình bày có biện luận chặt chẽ, có sự tính toán hợp lý và khẳng định rằng loài vật này có tồn tại. Sự thật, không có lý do nào nữa để nghi ngờ về sự hiện hữu của Kỳ Lân hơn là một con voi hay hươu cao cổ chỉ bởi vì đối với tôi nếu mọi người chưa từng nhìn thấy chúng không có nghĩa là chúng không tồn tại.

Những câu chuyện về loài Kỳ Lân đã thu hút tâm trí hai nhà lãnh đạo lớn nhất thời xa xưa. Vào thế kỳ thứ III trước CN, Alexander vĩ đại, người Maxêđôni khoe khoang rằng ông ấy đã thu phục được Kỳ Lân, ông ấy đã cưỡi Kỳ Lân để chiến đấu. Vào những thế kỷ trước CN, hoàng đế La Mã Julius Caesar nói rằng đã nhìn thấy một con Kỳ Lân trong rừng sâu của miền Tây Nam nước Đức.

Một vài năm trước CN, ở Hy Lạp, Thần mặt trời Tyana, đã thỉnh cầu được nhìn thấy Kỳ Lân ở Ấn Độ. Tuy nhiên, việc đó đã không được chấp nhận cho đến một vài thế kỷ sau đó Kỳ lân mới thực sự trở thành một phần chính của nền văn hóa phương Tây bởi vì nó kết hợp kinh thánh với thiên chúa cứu thế.

Cách để đuổi bắt được Kỳ Lân

Trong thời kỳ trung đại, có một truyền thuyết kể về ngựa một sừng, khi nó cảm động trước tấm lòng của Đức Mẹ Đồng trinh và đã chạy đến thăm bà, ngoan ngoãn tựa đầu vào lòng bà.

Chủ bút của tờ Marco polo Colonel Yule khẳng định rằng ngựa một sừng bị thu hút bời vẻ đẹp tâm hồn hoặc sự trinh tiết, lòng trinh bạch, cũng có thể bởi hương thơm từ chiếc váy của Đức Mẹ. Vẫn có những đồn đại khắp Châu Âu kể rằng không thể bắt được Kỳ Lân bằng vũ lực, chỉ có cách bắt giữ một cô gái đồng trinh để cô ấy ngồi đợi một mình ở một nơi hẻo lánh và ngựa một sừng sẽ biết được và tìm đến đó. Khi nhìn thấy người trinh nữ, Kỳ lân sẽ chạy lại và tựa đầu của nó vào lòng cô gái - vì chính đặc điểm này nó có thể dễ dàng bị bắt bởi những thợ săn ẩn náu ở gần đó.

-Những câu chuyện khác có thật trong quá khứ về loài kỳ lân

Suốt thời trị vì vào thế kỉ thứ 16, hoàng đế Charles Quint nợ như chúa Chổm. Một trong những chủ nợ lớn là tổng biên trấn Bayreuth (Đức) doạ sẽ dùng bạo lực để gây rối trên phần đất của Quint nếu Quint không trả tiền. Nhưng thực lực kinh tế của Quint là con số không. Ông ta chỉ còn cách lục lọi trong mớ đồ sưu tập "thập cẩm" của mình, mong tìm được thứ gì đó đáng giá. Ông chợt thấy 2 cái sừng vừa dài vừa xoắn. Theo nhiều người ở thời Trung Cổ, đây là sừng Kỳ Lân, một kỳ trân trong thiên hạ. Thế nên chẳng ai ngạc nhiên khi Bayreuth rất hài lòng và xoá nợ hoàn toàn. Bởi vì cũng như bao nhiêu người khác ông ta tin rằng sừng Kỳ Lân tán thành bột có thể chữa bách bệnh và khử hàng ngàn loại chất độc.

Nhà thám hiểm lừng danh Marco Polo, sau một chuyến viễn du, cũng đã kể về một sinh vật kỳ lạ, trông như con ngựa, có sừng trên trán. Theo mô tả của ông thì sừng Kỳ Lân có màu đen, còn đầu con vật thì giống đầu lợn rừng. Thực đơn chủ yếu của nó là...bùn đất. Châu Âu ở tận thế kỉ 18 vẫn mơ về một con vật như vậy, có cái sừng quý giá. Những chẳng ai thấy được nó. Ngài Bayreuth cũng yên chí rằng mình có 2 cái sừng kỳ lân. Thật ra đó là 2 cái ngà của một sinh vật được người phương Bắc bán cho dân phương Nam.

VIII- phù thủy liệu có tồn tại

Người ta cho rằng buổi bình minh của văn minh nhân loại tràn ngập ma thuật của các phù thủy, lễ hiến tế, các nghi thức cầu xin trời đất. Đó là thời kỳ hoàng kim của các phù thủy.

Quyền năng phù thủy

Các trò pháp thuật phù thủy rất thịnh hành ở các nước châu Á như Ấn Độ, Trung Quốc. Trong một tài liệu cách đây hàng trăm năm của một du khách người Ả rập mô tả rất kỹ buổi hành lễ ở Trung Hoa. Trước đám đông người, một phù thủy dùng một quả cầu gỗ có buộc dây thừng và ném nó lên trời. Quả cầu bay cao và biến mất hút, chỉ còn sợi dây treo lơ lửng. Phù thủy sai một cậu bé bám vào sợi dây để leo lên trời. Chỉ ít phút sau, cậu bé cũng biến mất. Tộc trưởng suy nghĩ và nói một điều gì đó với phù thủy, lập tức phù thủy dùng dao cắt đứt dây, cắt rời từng phần cơ thể của cậu bé rơi xuống đất. Quang cảnh đẫm máu làm cho những người chứng kiến kinh hãi. Nhưng sau đó, tộc trưởng lầm rầm khấn vái một điều gì đó, các bộ phận của cậu bé dính vào nhau và cậu ta sống lại như bình thường. Buổi hành lễ kết thúc trước sự kinh ngạc của những người chứng kiến.

Kinh Mật tông Phật giáo nói đến việc các pháp sư tạo ra những đám đông và làm biến mất họ từ hàng nghìn năm trước. Những người theo môn phái tu luyện này thừa nhận sức mạnh của bùa chú, pháp thuật và cho rằng chúng góp phần tạo nên niềm tin tôn giáo. Những tài liệu hàng nghìn năm ghi nhận vua Pàla (Ấn Độ cổ) "bằng pháp thuật của mình đã tạo ra thuốc trường sinh phân phát cho mọi người để những người già 100 tuổi có thể trẻ lại". Những lễ nghi của dòng Mật tông thường được giữ kín nhưng không bao giờ thiếu việc niệm thần chú, biểu diễn màn nhảy múa tôn giáo và thiền định, trong đó các pháp sư (giống với vai trò của các phù thủy) sẽ cầm trịch các buổi hành lễ đó.

Người ta cho rằng các bài thuốc chỉ có thể mang lại tác dụng khi được các pháp sư đọc thần chú gọi là mantra. Đó là tuyệt kỹ chỉ có các phù thủy mới làm được. Người ta cho rằng, các âm thanh mantra sẽ làm ma quỷ sợ hãi, biến đi trong phút chốc. Nếu gặp nguy hiểm thì nên sử dụng các thần chú này.

Màn ảo thuật hấp dẫn

Các buổi hành lễ của phù thủy không thể thiếu được những vũ điệu được gọi là múa phù thủy. Đó là các vũ điệu nhằm kích động thần kinh của những người tham gia. Người ta dùng các động tác tay, chân, lắc lư đầu và các đạo cụ như chuông, bát hương để tạo ảo giác với những người chứng kiến.

Tại Ai Cập cổ đại người ta dùng các pháp thuật để chiếm được niềm tin của công chúng. Một pháp thuật gia nổi tiếng thời đó là westcar Papyrus (1.700 năm trước CN) đã biểu diễn màn chặt đầu và nối lại nguyên vẹn cho nạn nhân. Những thầy tu cao cấp ở Hy Lạp thời đó trong các buổi hành lễ ở đền thờ thường dùng pháp thuật mở cửa đền và đốt sáng các ngọn đuốc mà không cần đến các công cụ.

Ở châu Phi, phù thủy thường là phụ nữ già xấu xí, sống độc thân. Họ thường hoạt động bí mật vào ban đêm và cũng không ý thức được các hành động của mình. Họ bị coi là một mối đe dọa đối với cộng đồng vì người ta cho rằng các tai họa như ốm đau, đói kém, mất mùa, thiên tai là do các phù thủy gây ra theo yêu cầu của kẻ thù. Tại Gana, người ta làm một khu làng để giam giữ, cách ly những người làm nghề phù thủy nhằm tránh tai họa. Ở Nam Mỹ, các bộ tộc da đỏ thường có các phù thủy để làm phép trị bệnh. Họ tổ chức buổi nhảy múa quanh đống lửa và dùng pháp thuật lấy trong miệng người bệnh ra các bộ phận bị mắc bệnh.

Thời xa xưa, các pháp thuật phù thủy đã xuất hiện tại Việt Nam. Thầy phù thủy có nhiều quyền năng kỳ lạ: có thể gọi âm binh, luyện bùa, ngải để biến người ta thành u mê. Phù thủy có thể sai khiến âm binh đi làm việc đồng áng ban đêm như tát nước, tấn công trả thù người khác. Những thầy phù thủy mỗi khi điều khiển âm binh xong phải có lễ khao quân, nếu không âm binh sẽ phản lại. Chỉ được sai âm binh vào buổi đêm và thu lại trước khi trời sáng nếu không sẽ gặp họa. Nếu làm lộ thiên cơ, âm binh sẽ đánh trả thầy.

Ngày nay, nhờ sự phát triển của khoa học, người ta đã lý giải được nhiều pháp thuật của phù thủy chỉ là những màn ảo thuật hoặc cách tạo ra các tác động tâm lý. Nhưng dù sao, phù thủy và các pháp thuật của họ vẫn là một thế giới bí ẩn đầy hấp dẫn. Nó là chất liệu cho rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, mà điển hình nhất là thế giới phù thủy của cậu bé Harry Potter.

Trên thế giới, duy nhất có lễ hội phù thủy được tổ chức vào ngày 1/5 hằng năm tại thành phố Gossnal (Đức). Có hàng trăm phù thủy ở khắp các châu lục về đây trình diễn những màn pháp thuật do họ luyện được. Ở đây có một viện bảo tàng về các dụng cụ của phù thủy qua các thời kỳ. Hà Lan có trường dạy các pháp thuật phù thủy, sau khi tốt nghiệp các phù thủy sẽ được cấp chứng chỉ. Giá của khóa học khá đắt, hơn 2.000 euro. Một trong những yêu cầu của các phù thủy là không được dùng pháp thuật để hại người và phải tuân thủ theo pháp luật.

Một số câu chuyện khác về phù thủy:

Câu chuyện về gia đình bell witch! Gần 200 năm nay, câu chuyện về phù thuỷ Bell vẫn luôn là một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất và hấp dẫn nhất trong lịch sử Mĩ. Không giống như Harry Potter hay Sabrina, Bell Witch là câu chuyện về những nhân vật có thật, những địa danh có thật và cả những sự kiện có thật. Andrew Jackson, tổng thống thứ 7 của Mĩ, từng tuyên bố: Tôi thà chiến đấu với cả quân đội Anh còn hơn phải đối đầu với phù thuỷ Bell!

Nhưng, Bell Witch là gì? Đó là một trò lừa thế kỉ hay một câu chuyện có thật về phù thuỷ? Không có cách gì có thể khẳng định hay phủ nhận sự tồn tại của nó và có lẽ sẽ chẳng ai có thể tìm ra được câu trả lời cuối cùng, nhưng Bell Witch, rốt cuộc, vẫn là một phần lịch sử của Tennessee, và là một huyền thoại mãi mãi không phai màu theo thời gian...

Tiếng thì thầm trong đêm

Năm 1804, gia đình John Bell chuyển từ Bắc Carolina đến thị trấn Adams, phía bắc hạt Roberson, bang Tennessee, sống trong một trang trại giàu có rộng 130ha dọc theo sông. Cuộc sống của họ trôi qua bình lặng cho đến những ngày cuối mùa hè năm 1817, trong một lần đi săn gần nhà, hai cha con John và Drewry Bell nhìn thấy một con gà tây khổng lồ, nhưng ngay khi hai người định giơ súng bắn, nó đã bay đi và dường như tan vào trong không khí. John và Drewry kể với những người khác là nó có vẻ "giống như người", nhưng khuôn mặt lại không giống mặt người. Gia đình Bell và hàng xóm còn nhiều lần nhìn thấy những sinh vật kì lạ khác tại trang trại, và lần nào nó cũng đột ngột biến mất trước khi mọi người tiếp cận được.

Đồng thời, hết tối này đến tối khác, phía bên ngoài nhà Bell bắt đầu xuất hiện những âm thanh kì lạ không rõ nguồn gốc, giống như những tiếng đập, tiếng chuột gặm hay tiếng cào cửa của một con vật khổng lồ. Vài tháng sau, những tiếng lầm bầm, thì thầm yết ớt vang lên ngay trong ngôi nhà, và lũ trẻ bắt đầu nhìn thấy những chiếc bóng lượn qua lượn lại phía đầu giường. Mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn khi cô bé 12 tuổi Betsy Bell trở thành mục tiêu, bị kéo tóc, tát vào mặt, và nhiều lần bị đánh một cách bất ngờ.

Bất lực trước tất cả những sự tấn công vô hình đó, gia đình Bell chỉ biết âm thầm chịu đựng, vì hơn ai hết, họ biết những tin tức nhạy cảm như thế này sẽ lan truyền rất nhanh trong cộng đồng thị trấn Adams nhỏ hẹp, và không ai có thể lường hết được hậu quả của nó. Nhưng, sau hơn một năm bị ám ảnh, gia đình Bell đưa ra một quyết định khó khăn là chia sẻ bí mật khủng khiếp này với một người khác - Đức cha James Johnston, người hàng xóm và đồng thời cũng là bề trên tại nhà thờ nơi John làm trợ tế. Đến trang trại Bell theo lời mời của John, hai vợ chồng Johnston đã trực tiếp nghe thấy những tiếng động kì lạ và bị tấn công bởi một bàn tay vô hình nào đó. Bị xúc động mạnh trước những sự kiện theo ông là ma quái, James Johnston kiên quyết đề nghị công khai những vụ quấy nhiễu bí ẩn này với mọi người. Gia đình Bell dần bị bóng gió về việc họ có những mối liên hệ nào đó với quỷ Satan!

Không mất nhiều thời gian, Bell Witch dần trở nên nổi tiếng và quen thuộc với mọi người. Nhiều cư dân thị trấn Adams cũng có thể nghe thấy những âm thanh kì lạ. Càng ngày, những âm thanh đó càng trở nên to, rõ ràng đến mức có thể hiểu được. Nó có khi là tiếng hát, giọng đọc Kinh Thánh và nhiều khi còn là những câu nói khá thông thái. Kì lạ hơn, nó có thể trích dẫn đồng thời lời giảng của hai cha bề trên đang làm lễ tại hai nhà thờ cách nhau hơn 10 dặm, chính xác đến từng từ một.

Câu chuyện về Bell Witch vượt ra khỏi phạm vi thị trấn Adams nhỏ bé, kéo theo sự xuất hiện của không ít những vị khách không mời mà đến tò mò sục sạo quanh trang trại Bell. Thậm chí, năm 1819, Tướng Andrew Jacson, vị tổng thống tương lai của nước Mĩ, đã quyết định hành quân đến thăm người bạn cũ John Bell, mang theo trong đoàn tuỳ tùng của mình cả một pháp sư nhiều kinh nghiệm. Khi đoàn người ngựa tiến đến gần khu nhà, bàn tán và vẽ ra kế hoạch họ sẽ làm gì với phù thuỷ Bell, thì đột nhiên cỗ xe giảm tốc độ và nhanh chóng dừng lại. Bất chấp mọi nỗ lực của cả người lái xe và đoàn ngựa, thậm chí tướng Jackson phải huy động cả đoàn quân xuống để đẩy xe, cỗ xe vẫn không thể nhúc nhích dù chỉ 1cm. Bất lực, tướng Jackson nhún vai: "Đúng là trò phù thuỷ", và ngay lập tức, từ bụi rậm vọng ra một giọng nói sắc nhọn: "Cỗ xe chuyển bánh được rồi, thưa tướng quân, tôi sẽ gặp lại ngài tối nay." Không ai giải thích được tiếng nói bí ẩn đó phát ra từ đâu, nhưng ngay sau đó, cỗ xe lại di chuyển nhẹ nhàng, bon bon trên đường như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Tối hôm đó, Jackson và tuỳ tùng nghỉ lại trang trại Bell, và gần như cả đêm không ngủ vì những tiếng la hét hoảng sợ của Betsy Bell. Đến khi họ chạy đến với cô bé, thì chính họ cũng trở thành nạn nhân, bị đập, cấu và kéo tóc cho đến tận sáng, khi Jackson quyết định rời khỏi Adams.

Tất cả mọi người đều đưa ra những phỏng đoán về việc Bell Witch thực chất là ai hay là cái gì, và mặc dù có những bất đồng, nhưng đa phần đều có xu hướng chấp thuận giả thiết Bell Witch chính là phù thuỷ Kate Batts, người hàng xóm kì quặc của gia đình Bell. Kể từ đó, nhân vật huyền bí này được gọi là Kate, hay phù thuỷ nhà Bell.

Lời nguyền của phù thuỷ

Người ta đã để ý thấy rằng gần như tất cả những sự quấy nhiễu đối với gia đình Bell đều bắt đầu ít lâu sau cái chết của Kate Batts. Khi còn sống, Kate và người chồng tật nguyền Benjamin không ngần ngại khẳng định với tất cả những người dân thị trấn Adams rằng John Bell là một kẻ lừa đảo, bán nô lệ cho họ với giá quá đắt. Mâu thuẫn giữa họ trở nên sâu sắc đến độ, trong cơn hấp hối, Kate Batts đã thề sẽ trả thù, cho dù bà ta có phải đội mồ dậy đi nữa.

Trong suốt ba năm, Bell Witch hay hồn ma của Kate đã hành hạ mọi thành viên của gia đình Bell gần như hàng ngày. Không chỉ John mà cả Betsy cũng bị đối xử rất tồi tệ, bị đồ đạc, bát đĩa ném trúng, bị giật tóc, véo mũi và đánh đập thường xuyên. Khi Betsy trở thành một cô gái xinh đẹp và yêu Joshua Gardner, Betsy luôn nghe thấy giọng nói của "Kate" ngăn cấm cô không được tiếp tục quan hệ với anh ta. Gardner cũng thường xuyên trở thành mục tiêu tấn công của Bell Witch, đến độ sau cùng phải rời làng ra đi sau khi đã ngậm ngùi chia tay với Betsy. Người ta không bao giờ lí giải được tại sao Betsy lại trở thành nạn nhân của Bell Witch, nhưng, kể từ khi cô gái bị buộc phải chia tay mối tình đầu, dường như bà ta đã cảm thấy thoả mãn và hầu như không còn quan tâm đến cô nữa.

Tuy nhiên, John Bell vẫn tiếp tục bị tấn công và có vẻ như càng ngày tình hình của ông càng trở nên nghiêm trọng. Sức khỏe của ông ngày một yếu. Đầu tiên, ông bị sưng họng và thường xuyên có cảm giác bị đâm ở phía bên trong cổ họng. Tiếp đến là hàng loạt những cơn co giật dữ dội không rõ nguyên nhân, và dĩ nhiên, không tìm ra cách chữa. Cuối cùng, ngày 20 tháng 12 năm 1820, John Bell chết. Người ta thấy bên cạnh xác ông có một chai thủy tinh nhỏ chứa một chất lỏng khá lạ. Họ đã thử cho con mèo uống nốt phần còn lại trong lọ, và con mèo chết ngay lập tức. Đúng lúc đó, giọng nói của phù thủy Bell vang lên, tuyên bố chính bà ta đã đưa liều thuốc đó cho John Bell uống vào tối hôm trước. Trong suốt đám tang của Bell, tất cả những người đến dự đều nghe được rất rõ tiếng cười, tiếng hát phấn khích của Bell Witch. Dường như cái chết của John là dấu hiệu kết thúc một thời kì dài nặng nề của gia đình Bell. Phù thuỷ Bell tuyên bố ra đi, nhưng hứa sẽ trở lại vào năm 1828.

Bell Witch trở lại như đã hứa. Nhưng, lần này, không ai phải chết và cũng không có cuộc chia li nào. Bell Witch đã nói chuyện một cách hoà nhã với John Bell Con và bạn của anh là Frank Miles, tiên đoán rất nhiều điều mà sau này đã trở thành sự thật, như cuộc Nội chiến, hai cuộc CTTG và cuộc Đại khủng hoảng kinh tế. Sau mấy tuần gặp gỡ này, John Bell Con dường như có một sự nhạy cảm kinh doanh huyền bí, và nhanh chóng trở nên thành đạt. Theo cả Bell và Miles, Bell Witch đã tuyên bố sẽ quay trở lại trong 107 năm nữa, năm 1935. Kể từ đó, suốt một thời gian dài, hầu như không ai còn thấy Bell Witch xuất hiện, nhưng tất cả mọi người đều tin rằng bà ta vẫn chưa thật sự bỏ đi đâu.

Cai chuyen ve phu thuy Bell da tro thanh mot phan lich su

Huyền thoại không bao giờ cũ

Bell Witch đã dệt nên một huyền thoại của Tennessee và cả nước Mĩ, nhưng rất nhiều người vẫn nghi ngờ sự tồn tại của một sức mạnh siêu nhân. Do có quá nhiều sự "ngẫu nhiên" kì quặc, Richard Powell, giáo viên cũ của Betsy và sau này là chồng cô, đã bị cho là có một phần trách nhiệm trong cái họ gọi là màn kịch này. Người ta cho là cha của Powell, người đã xây rất nhiều nhà ở vùng Adams, trong số đó có nhà của gia đình Bell, đã làm những hành lang bí mật với những lối vào riêng biệt để chàng thanh niên Powell có thể du hành thu thập các thông tin bí mật từ gia đình Bell và hàng xóm. Với những thông tin này, Powell - người biết cả thuật thôi miên và tài nói bụng - đã giả giọng phù thuỷ. Anh ta còn sử dụng những lối vào gia đình Bell để khủng bố gia đình, chia rẽ mối tình lãng mạn của Betsy - người mà anh ta cũng đem lòng thương nhớ. Người ta cũng cho rằng chính anh ta đã đầu độc John Bell như một cách trả thù vì sự ngược đãi của ông đối với Betsy. Richard Powell và Betsy cưới nhau năm 1824, và có 8 người con. Betsy luôn khẳng định cuộc hôn nhân của cô và Powell rất hạnh phúc. Betsy chung thuỷ với chồng ngay cả khi anh ta đã mất hết tiền bạc và trở nên tật nguyền. Dù sao đi nữa, những nghi ngờ đối với Powell vẫn còn rất nhiều khe hở và cũng chưa bao giờ được coi như một lời giải thích đáng hài lòng. Ngay cả những người mạnh miệng nhất cũng không lí giải được bằng cách nào Powell Cha lại có đủ thời gian, tiền bạc và cả sự bí mật cần thiết, để làm thêm những hành lang phức tạp đó trong các ngôi nhà.

Cho đến nay, người ta vẫn không thể nào biết được điều gì đã thật sự xảy ra ở Adams vào những năm tháng huyền thoại đó. Người dân Tennessee tin rằng Bell Witch vẫn đang ám ảnh thị trấn Adams, và năm nào cũng vậy, gần như suốt tháng 10, người ta lại tổ chức cả một mùa Halloween cho tất cả những du khách đến tham quan, mỗi người đều mơ ước, dù không phải không có phần e ngại và sợ sệt, được trở thành một nhân chứng, và trở thành một phần lịch sử trong huyền thoại về Bell Witch. Một vài người khẳng định vào những đêm tối trời, nhất là có mưa, bạn có thể nhìn thấy những con ma kì quái nhảy múa trên cánh đồng. Người ta cũng tin rằng cả phù thuỷ Bell và nạn nhân của bà ta, John Bell, hiện nay đều đang cư ngụ tại hang Bell Witch ở gần trang trại Bell. Năm 1973, một nhóm lính hiếu kì, không tin vào ma quỷ đã rủ nhau đến thăm hang này. Một thành viên trong nhóm đã bị quật ngã bởi một sức mạnh vô hình khi nói rằng anh ta không tin vào phù thuỷ Bell, và các bạn anh không sao kéo anh đứng lên được. Cho đến tận khi phù thuỷ đã có vẻ chán với trò chơi, anh ta mới đứng dậy được bình thường. Tất cả bọn họ vội vã chạy khỏi hang, không bao giờ quay trở lại. Có tin đồn rằng một trong những người lính đó đã nhanh chóng chết sau sự kiện này.

Tuy nhiên, có nhiều người tin rằng Bell Witch thực chất chính là người bảo vệ cho những ngôi mộ thiêng liêng của người Châu Mĩ bản địa, được chôn giấu tại những hang động quanh trang trại Bell. Rất nhiều lần, Bell Witch khẳng định bà ta có lí do để hành hạ John và Betsy Bell, nhưng không bao giờ nói rõ đó là gì. Và Bell Witch mãi mãi vẫn là một bí ẩn, một phần lịch sử thiếu rất nhiều tính chính xác và rõ ràng, nhưng vẫn được đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà trường ở Tennessee.

Người dân ở đây, hết thế hệ này đến thế hệ khác, đều được dạy rằng, nếu bạn không tin vào Bell Witch, hãy đến nhà tắm vào lúc nửa đêm, tắt điện, cầm đèn pin chiếu vào gương và nói: "Chẳng có Bell Witch nào cả" nhiều lần với những ngữ điệu khác nhau, và rồi bạn sẽ tìm được câu trả lời!

IX- Ma?

Sinh lão bệnh tử là quy luật tất yếu của đời sống con người mà không ai tránh khỏi được. Trong nhân gian, "MA" được người xưa dùng để chỉ linh hồn người đã khuất, sống vất vưởng đâu đó mà chưa được siêu thoát.

Điều ngịch lý rằng hầu hết ai cũng rất sợ MA nhưng lại rất thích tụ tập kể chuyện MA, có thể vì họ tò mò hoặc thích cái cảm giác vừa ớn lạnh vừa an toàn, mặc dù điều đó có thể gây cho họ nỗi sợ hãi tột độ khi không còn ai bên cạnh. Có rất nhiều người không tin rằng trên đời này chẳng có MA CỎ, đơn giản vì họ chỉ tin những điều họ thấy, và MA chỉ là trí tưởng tượng phong phú của con người. Các nhà khoa học lại càng không tin, bởi vì thói quen của họ làm gì cũng cần phải có sự chứng minh, nhưng linh hồn con người lại thuộc lĩnh vực tâm linh thì họ biết chứng minh bằng cách gì, định luật nào có thể giải thích? quả táo rơi xuống mặt đất do có trọng lực hút nó xuống, nhưng khi bàn ghế di chuyển mà không có lực gì đẩy hoặc hút, họ lại bảo rằng điều đó là phi khoa học và chỉ là trò ảo thuật rẻ tiền, thế mới biết khi con người càng sợ họ lại càng phản bác những điều rất hiển nhiên mà họ thật sự không muốn chấp nhận. Dưới đây là một số câu chuyện ma có thật nổi tiếng trên thế giới! bạn hãy đọc và thử suy ngẫm nhé!

1. Bóng ma Brown Lady ám lâu đài Raynham Hall

Bóng ma của bà Brown Lady gắn liền với bức ảnh cùng tên nổi tiếng, đã từng gây nên nhiều tranh cãi về sự tồn tại của thế giới ma quỷ.

Bức ảnh cùng tên nổi tiếng

Lần đầu tiên được công bố vào năm 1936, bức ảnh quả thực đã gây nên một cơn chấn động mạnh bởi tính huyền bí của nó. Có nhiều luồng ý kiến khác nhau. Người thì cho là đây là một sản phẩm của công nghệ, người thì tin rằng đây là con ma có thật.

Ngoài bức ảnh gây tranh cãi, Brown Lady còn gắn liền với những câu chuyện bí ẩn khác. Người ta cho rằng Brown Lady là Dorothy Walpole, nữ chủ nhân trước kia của lâu đài. Do ngoại tình, bà đã phải chịu cái chết tủi nhục đến độ không thể siêu thoát và linh hồn bà vẫn còn ám ảnh toàn lâu đài này. Brown Lady là cách người ta gọi bà bởi theo lời kể thì bà luôn xuất hiện trong bộ đồ màu nâu.

Năm 1713, người ta kể rằng phu nhân Robert Walpole của toà lâu đài đã nhìn thấy bóng ma của Brown Lady. Sau đó còn có cả hoàng đế George IV, Lucia C Stone, đại tá Loftus...

Năm 1836, một nhân vật là đại uý Marryat cùng hai người khách cũng bất ngờ đối mặt với Brown Lady. Tuy vô cùng sợ hãi nhưng Marryat đã kịp dùng súng bắn vào bóng ma. Tất nhiên sau đó chỉ có những vết đạn in lại trên tường. Năm 1926, lại có 2 chú bé khẳng định mình đã thấy Brown Lady. Lời kể về Brown Lady vẫn tiếp tục nhưng tới nay cũng không ai còn thấy bà nữa.

2. Bloody Marry hoặc Mary Worth

Câu chuyện kể rằng Mary Worth là một cô gái vô cùng xinh đẹp. Nhưng số phận nghiệt ngã đã khiến cô phải chịu một tai nạn khủng khiếp. Cô đã bị một chiếc xe đâm vào dẫn đến khuôn mặt hoàn toàn bị biến dạng trông rất đang sợ. Điều này làm mọi người xa lánh Mary. Và cũng từ đó, sự hận thù đã biến Mary thành một phù thuỷ chuyên đi ám ảnh mọi người (cũng có chuyện nói rằng Mary chết và trở thành hồn ma lang thang).

Vào buổi tối, nếu bạn bước vào phòng, soi mình trong gương và gọi tên Mary Worth 100 lần thì cô ta sẽ hiện ra. Mary sẽ... cào xé khuôn mặt của bạn, làm bạn phát điên hoặc thậm chí giết chết bạn. Đó là những lời kể trong những câu chuyện về Mary. Nó đáng sợ đến nỗi người ta còn chả dám thử để xem thực hư thế nào.

Vào buổi tối, nếu bạn bước vào phòng, soi mình trong gương

và gọi tên Marry Worth 100 lần...

Có rất nhiều người tin vào Mary Worth, đặc biệt là các thiếu nữ trẻ. Câu chuyện về người phụ nữ này cũng đã được chuyển thể thành phim và thu hút nhiều sự chú ý.

3. Borley - ngôi nhà ma ám nặng nhất nước Anh

Đây được coi là ngôi nhà ma ám nặng nhất nước Anh. Trước đây trên vị trí xây dựng nó có một tu viện của những thầy tu theo dòng Benedictine. Sau đó nó trở thành vật sở hữu của dòng họ Waldergrave trong 3 thế kỷ. Cho đến khi một người cháu của dòng họ này quyết định xây dựng một ngôi nhà trên khu tu viện cũ thì hàng loạt chuyện kỳ lạ bắt đầu xảy ra.

Ngôi nhà Borley năm 1892

Người ta nói rằng trông thấy sự lảng vảng của một xe ngựa và bóng ma của một nữ tu sĩ. Rồi còn có cả hình ảnh một tu sĩ trong chiếc áo xám cứ lẩn quẩn trong nhà. Những điều đáng sợ đó đã làm mọi người nhớ tới câu chuỵện về đức cha Henry Dawson Ellis Bull - người đã từng ở đây trong quá khứ. Do quan hệ lén lút với một nữ tu sĩ và bị phát hiện nên ông đã bị xử tử. Nữ tu sĩ kia cũng chung số phận. Chính vì vậy mà linh hồn của họ vẫn cứ ám ảnh ngôi nhà, không chịu ra đi.

Những năm 1920 ngôi nhà được Lionel A. Foyster và người vợ của ông sở hữu. Và câu chuyện kỳ lạ về bóng ma của cha Henry vẫn chưa kết thúc ở đây. Đó là khi bà vợ của Lionel nói rằng có một thế lực tâm linh nào đó đã khoa cửa nhốt bà ta trong phòng, rồi đẩy bà ta ra khỏi giường của mình. Những hòn đã cứ tự động bay đập vào cửa sổ, và những dòng chữ kỳ lạ bỗng nhiên xuất hiện trên tường...

Harry Price một nhà săn ma nổi tiếng đã từng có những cuộc điều tra tại ngôi nhà Borley và từng chứng kiến bóng ma nữ tu sĩ tại đây.

Năm 1936, ngôi nhà Borley bị cháy đem theo luôn truyền thuyết ma quỷ. Nhưng rồi sau đó lại có người nói rằng dưới đám cháy người ta tìm thấy thi thể của nữ tu sĩ xấu số kia. Những câu chuyện vẫn tiếp tục, người ta vẫn tới đây để mong được nhìn thấy bóng ma của ngôi nhà Borley.

Seri đầy ám ảnh này chưa dừng lại. Hãy cùng Kênh14 tiếp tục tìm hiểu những bóng ma trong lâu đài Morris-Jumel, trong nhà hát Drury Lane và... hồn ma Hitchhiker chuyên xin đi nhờ xe...

4. Bóng ma trong nhà hát Drury Lane

Nhà hát Drury Lane là nhà hát hoàng gia nổi tiếng tại Westminster, London. Drury Lane được xây dựng và mở cửa lần đầu vào năm 1663, và là nhà hát lâu đời nhất của London hiện nay.

Trải qua bao thăng trầm lịch sử và nhiều lần xây dựng, đến nay Drury Lane vẫn đứng vững và trở thành một nơi lưu giữ và duy trì những gì tinh hoa nhất của nghệ thuật sân khấu, nhạc kịch, opera... Tuy nhiên đây cũng là nơi xuất hiện nhiều câu chuyện ma vô cùng bí ẩn.

Nổi tiếng nhất trong số đó chính là câu chuyện về bóng ma màu xám. Bóng ma này có hình dáng một người đàn ông quý tộc, với chiếc mũ Tricorne, áo choàng, đi giầy cao bốt và dắt bên mình cây kiếm. Theo lời kể thì đây chính là oan hồn của một người bị đâm chết tại nhà hát .Năm 1848, người ta mới phát hiện ra xương của ông ta trong một chỗ bị bít kín. Có lẽ do chết quá oan ức mà ông ta vẫn còn ở lại ám ảnh nhà hát.

Bên cạnh đó, bóng ma nam diễn viên Charles Macklin và diên viên hài Joe Grimaldi cũng xuất hiện ở Drury Lane. Macklin trước đó đã từng giết chêt một thành viên trong đoàn là diễn viên Thomas Hallam nên hồn ma ông ta cứ đi lang thang quanh nơi xảy ra vụ việc.

Năm 1939, một người săn ma tên J. Wentworth Day nói rằng mình đã trông thấy thứ ánh sáng xanh trong nhà hát.

5. Những hồn ma trong lâu đài Morris-Jumel

Ngày 19-1-1964, một nhóm học sinh được đến thăm viện bảo tàng của lâu đài Morris- Jumel. Do phải chờ đợi quá lâu, bọn trẻ bắt đầu tỏ ra phá phách và khó bảo. Một người phụ nữ tóc vàng trong bộ váy tím đi tới. Bà ta mắng cho lũ trẻ một trận, tống chúng ra ngoài rồi sau đó bỏ đi. Điều đáng nói là bà ta... đi xuyên qua cửa.

Khi người quản lý đến, các học sinh kể lại câu chuyện về người đàn bà áo tím thì họ nói không có bất cứ người phụ nữ nào ở đó cả. Nhưng họ cũng bắt đầu tin vào chuyện nơi này có vấn đề.

Dịp khác, một giáo viên dẫn học sinh tới tham quan một gian phòng trên đỉnh của lâu đài. Và cô ta suýt ngất khi nhìn thấy một người lính bước ra từ trong bức tranh. Một người đã chết vì nhồi máu cơ tim sau khi phải đụng độ với một bóng ma trong lâu đài. Linh hồn một cô gái trẻ cũng thường xuyên "viếng thăm" nơi đây. Theo lời kể thì cô ta đã nhảy từ một cửa sổ của lâu đài để tự tử sau cuộc tình đau khổ.

Nhiều du khách tới đây gặp mặt cả bóng ma Aaron Burr, vị phó tổng thống nước Mỹ đồng thời người chồng sau này của nữ chủ nhân lâu đài. Nhưng câu chuyện về ông chồng đầu tiên Stephen Jumel mới thật sự thú vị. Ông ta thường xuyên hiện về và kết tội vợ mình là kẻ sát nhân. Người ta tháo trộm tấm băng cầm máu khi ông ta bị thương và nhìn ông ta chảy máu cho tới chết.

6. Hồn ma Hitchhiker chuyên xin đi nhờ xe

Đó là một đêm bão tố. Một người đang điều khiển xe thì thấy có một cô gái đứng bên lề đường. Người này quyết định cho cô đi nhờ một đoạn về nhà. Tuy nhiên, khi vừa đến nơi, người lái xe quay lại thì thấy cô gái đã biến mất. Để chắc ăn, người lái xe gõ cửa để xem có ai không và chắc chắn cô gái đã vào trong. Nhưng sau đó bố mẹ cô gái bước ra và nói rằng con họ đã...mất được vài năm rồi. Hàng năm, cứ vào ngày giỗ, cô con gái lại hiện hồn và đi xe nhờ về nhà.

Đây chính là lời kể về bóng Hitchhiker. Một bóng ma lang thang trên đường vào đêm tối. Thường đóng giả một thiếu nữ bị hỏng xe và xin đi nhờ. Có rất nhiều phiên bản khác nhau của câu chuyện về Hitchhiker tại nhiều nơi thế giới. Có nơi người ta nói rằng chính Hitchhiker thường xin đi nhờ các chuyến xe đường dài và gây ra các tai nạn cho các chuyến xe đó. Một số câu chuyện rùng rợn hơn như việc một Hitchhiker ngồi sau xe và nói cho người lãi xe biết về cái chết sắp đến với anh ta hay đôi khi đưa ra một lời tiên tri. Lời khuyên cho bạn là nếu ai xin đi nhờ xe buổi tối thì cẩn thận!

Đây là phần cuối mà cũng là phần ghê rợn nhất!

7. Chuyện rùng rợn ở Amityville

Ngôi nhà "ma ám" tại Amityville.

Ngôi nhà nhỏ tại Amityville, Newyork trở nên nổi tiếng trong suốt những năm 70 của thế kỷ trước khi cặp vợ chồng chủ nhà là George and Kathleen Lutz công bố với truyền thông hàng loạt những sự kiện kinh hoàng diễn ra tại ngôi nhà của mình. Bao gồm việc họ trông thấy những con lợn bay được với đôi mắt đỏ lừ, máu từ kẽ tường tự nhiên chảy ra, đám ruồi nổi điên tàn phá gác xép...

Căn nhà này trước đó được biết tới với câu chuyện khủng khiếp vào lúc 3 h sáng ngày 13-11 năm 1974, một chàng trai tên Ronald DeFeo đã nổi điên và dùng súng bắn chết cha mẹ mình, cùng 4 người anh em của cậu. Có lẽ chính sự việc này đã làm ngôi nhà bị ám ảnh bởi những thế lực thần bí nào đó. Sau 28 ngày chuyển tới và sống tại đây, gia đình Lutz đã phải bỏ đi bởi họ không thể tiếp tục chịu đựng nổi nữa.

Thực ra ban đầu họ đã được nghe kể về câu chuyện cũ nhưng hai vợ chồng này cho rằng điều đó sẽ chẳng ảnh hưởng nhiều lắm. Quả thực thời gian đầu cuộc sống của họ diễn ra rất bình thường. Nhưng rồi một loạt chuyện kỳ lạ xảy ra:

a) George cứ thức dậy vào khoảng tầm 3h 50 mỗi buổi sáng, sau này ông mới biết đây là thời gian xảy ra vụ án mạng.

b) Ngôi nhà bị đàn ruồi tấn công cho dù lúc đó đang là mùa đông lạnh giá.

c) Kathy thường xuyên mơ thấy những giấc mơ về vụ giết người. Cách thức và nơi nó diễn ra. Cô cũng cảm thấy có mộ thế lực vô hình ôm lấy mình.

d) Họ tìm thấy một căn phòng bí mật không có trong sơ đồ và gọi là Căn phòng đỏ do màu đỏ đặc trưng trên những bức tường của nó. Con chó Harry không hiểu sao luôn gầm gừ sủa khi tới gần căn phòng.

e) Không khí quanh nhà luôn bốc lên một mùi lãnh lẽo và hôi thối dù chả có gì và cũng không có tí gió máy nào.

f) Cô con gái 5 tuổi của họ thì bắt đầu tưởng tượng thấy một người bạn tên Jodie với hình dáng một con lợn có đôi mắt đỏ sọc.

g) George thường xuyên nghe thấy những âm thanh kỳ lạ, có lúc còn bị chúng đánh thức. Tuy nhiên, mỗi lần chạy tới nơi phát ra âm thanh thì nó biến mất

h) Một buổi tối George nhìn thấy trên cửa sổ phòng cô con gái có hai đốm đỏ sáng rực. Khi chạy lên thì không phát hiện ra gì. Cô bé nói đó là Jodie.

i) Cửa nẻo và khoá trong nhà bị phá hỏng và không rõ nguyên nhân. (???)

j) Một thứ chất lỏng màu xanh rỉ ra từ các hốc tường và gác xép.

k) Cây thánh giá dài tới 12 inches trong phòng nhưng cứ quay tròn liên tục cho tới khi văng xuống đất. Từ nó bốc lên một mùi chua khó chịu...

Sau này những câu chuỵện trên đã được thu thập và viết thành sách bởi Jay Anson. Một vài bộ phim cũng được mô phỏng theo. Khi được chuyển về tay chủ mới, những sự kiện tại Amityville cũng kết thúc.

8. Hồn ma nữ trong khu rừng Bachelor, Chicago

Người phụ nữ mặc áo trắng phải chịu đựng cuộc sống đau khổ chốn trần gian hoặc sự phản bội cuả vị hôn thê mình yêu. Vì lẽ đó mà bóng ma này xuất hiện trong những đêm trăng tròn với bộ đồ trắng toát, trên tay bế theo một đứa trẻ đang khóc.

Năm 2004, một bức ảnh màu được công bố. Tuy không rõ như tấm ảnh trước nhưng nhiều người lại tin nó là thật hơn bởi dù sao nó cũng mang chút gì đó huyền ảo. Người ta còn quay cả video về chuyến đi săn lùng bóng ma áo trắng.

X- Người khổng lồ có phải chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng

Cho đến bây giờ, một số nhà Bác học vẫn tin tưởng chắc chắn rằng: Đã một thời, trên Trái Đất của chúng ta có những người khổng lồ thực sự sinh sống!

Truyền thuyết và bằng chứng về người khổng lồ

Dân tộc nào cũng có hàng kho những câu chuyện cổ tích hoặc thần thoại về người khổng lồ. Thậm chí, trong Kinh Thánh còn ghi rõ: " Có thời ở trên Trái Đất, đã có những người khổng lồ sinh sống, đặc biệt là từ khi những người đàn ông do Thượng Đế phái đến gặp những đàn bà trên Trái Đất. Chính họ đã sản sinh ra loài người...". Ở một trang khác, Kinh Thánh dẫn ra chứng cứ cụ thể: " ...Đã trông thấy những người khổng lồ. Đứng trước họ, loài người chúng ta chỉ bé như những con châu chấu !". Kinh Coran đạo Hồi còn bổ sung thêm: " Những người khổng lồ có tầm vóc cao hơn cả những cây dừa cao nhất !"...

Những nhà Bác học thiên về giả thuyết người khổng lồ còn đưa ra chứng cứ rõ ràng hơn. Đó là những công trình vĩ đại từ thời xa xưa đã được xây mà không có dấu hiệu trợ giúp của bất kỳ máy móc, thiết bị xây dựng nào. Điển hình nhất là " Vườn Trời" cách Thủ đô Beirut 100 km ở Lebanon. Móng của Vườn Trời được xây bằng những khối đá kích thước rất lớn : 21x5x4 mét và nặng hàng nghìn tấn. Người bình thường không thể lay được chứ đừng nói đến việc di chuyển những khối đá vĩ đại này. Chỉ có những người khổng lồ mới có thể làm được công việc đó. Còn ở Costa Rica( Nam Mỹ) đã phát hiện ra những viên bi đá có đường kính 2,5 mét và nặng 16 tấn trong rừng rậm được cho là trò chơi của người khổng lồ khi xưa. Tại Nam Phi, khách du lịch đang háo hức đến xem những vết chân khổng lồ còn in rõ trên vách đá...

Vào Thế kỷ thứ II, Nhà sử học Pavsaniđã phát hiện bộ xương người có tầm vóc cao 5 mét . Trong Biên niên sử của nước Nga ghi: Ở bãi chiến trường vùng Kolikov đã phát hiện thấy bộ xương người cao 4 mét được cho là đã sống cách đây 626 năm. Có thể, đây là những người khổng lồ thời tiền sử xa xưa cuối cùng phát hiện được...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro