Lời khuyên dành cho ma quỷ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bố tôi đang bươi trong đống rác: Pete ca cẩm:

- Thật là ngượng chết người! May là ở đây không có ai trông thấy chúng ta. Tôi đảo mắt nhìn quanh khu bãi rác. Pete nói đúng. Không có ai ngoài chúng tôi đang bưới rác ở đây. Chỉ có bố, tôi và Pete, Pete là anh em sinh đôi của tôi, đang ở đây. Tất nhiên tôi không kể đến ông lái xe ủi. Ông ấy thì đã quá quen với những người đến đây đổ rác cũng như khui rác để khuân kìn kìn về nhà.

Bãi rác ở đây thật lớn và bẩn thỉu, chính giữa bãi lõm hẳn xuống trông như một cái phiễu khổng lồ. Một cái đầu bò cắm vào cây cọc đứng sừng sững giữa vũng nước. Ruồi nhặng bay hàng đàn kêu vo ve. Chim hải âu theo sau chiếc xe tải và bổ nhào vào đống thức ăn hôi thối. Bố nói rõ to:

- Các bãi rác ở quê nhà thật tuyệt vời. Nào, các con lại đây giúp bố một tay.

Bố vất vả lôi một chiếc xe nôi cũ kỹ. Tôi nhìn quanh và thở dài. Một chiếc Mercedes sang trọng hiện ra.

Gia đình tôi mới chuyển về Allansford ngày hôm qua. Đây là một thị trấn nhỏ nằm ở ngoại ô và mọi người đều quen biết nhau. Pete và tôi sáng mai bắt đầu đến trường mới. Điều cầu mong lớn nhất của tôi là không ai biết chúng tôi phải đi moi rác.

Một người đàn ông và một thằng bé bước ra khỏi chiếc Mercedes, họ xách theo một bao tải rác nho nhỏ. Ông ta quẳng cái bao xuống đất làm cho ruồi bay tung lên như một đám mây rồi giục thằng bé:

- Nhanh lên, ở đây thối quá.

Thằng con trai trạc tuổi tôi nhưng to gấp đôi tôi. Hắn có mái tóc màu hung và trông rất gấu. Hắn cười toe tóe, và nhìn chằm chằm vào xe ô-tô của cha con chúng tôi. Phía sau "quả tên lửa" của nhà tôi chất đầy những của quý mà bố moi được ở đây. Một cái máy chữ hỏng, một cây gậy bóng chày, hai cái ghế gãy, một cái khung xe đạp và bức ảnh một người đàn bà màu xanh đã bị rách. Tôi ngượng đỏ cả mặt. Bố tôi không bao giờ tới bãi rác mà không khuân ít ra là một nửa tá những thứ lẩm cẩm ấy về nhà.
     Tôi lại nhìn thằng tóc hung. Nó chỉ tay về phía bố và không nín được cười. Pete thở dài não nuột:
- Ôi trởi đất ơi, trông kìa, bố lại tha cái gì nữa thế này!

Bố chạy theo chiếc xe ủi, ông giơ tay ra hiệu cho người lái xe dừng lại. Bây giờ ông đào ở ngay phía trước chiếc xe ủi. Ông đã phát hiện một cánh tay thò ra từ đống rác. Trông như một cánh tay người thực nhưng không phải. Đó chính là cánh tay của loại búp bê chuyên làm người mẫu quần áo đứng trong các cửa hàng. Bố thở hồng hộc, ông cố kéo, nhổ bằng được con búp bê đó. Cuối cùng ông nhấc bổng con búp bê trần truồng lên như muốn khoe với cả thế giới.
Nó chỉ có mỗi một bộ tóc giả, còn mình trần như nhộng. Cánh tay phải giơ lên trởi. Thoạt trông tưởng như bố đang đứng cạnh một người đàn bà ở truồng vậy. Bây giờ thì hai bố con thằng bé tóc hung đều cùng cười. Thằng con cúi xuống nhấc một cái gì đó từ mặt đất lên. Sau đó họ chui ngay vào chiếc xe Mercedes rồi đi thẳng. Pete và tôi đứng ngây mặt ra vì ngượng. Cả hai chúng tôi đều không chịu nổi cảnh bố tôi vác con búp bê người mẫu ra xe. Tôi thầm mong thằng tóc hung không học ở thị trấn Allansford. Bố tôi ngấm nghía con búp bê người mẫu và tấm tắc khen:

- Tuyệt vời thật, mẹ các con thể nào cũng mừng lắm, mẹ có thể cần nó để cắt quần áo. Pete nói với bố:

- Bố đừng nói như thế. Bố đã hứa với mẹ không th chổi cùn phế rách từ bãi rác về nhà kia mà.

Bố có vẻ hơi ngượng:

- Nhưng các con trông mà xem, đây đâu là đồ bỏ đi? Toàn những thứ có giá trị. Nào, lại đây giúp bố một tay khuân nó ra ô-tô!

- Ứ vào, con không làm đâu. Pete cũng hùa theo:

- Con không đụng vào nó đâu, chẳng có quần áo gì cả, ai lại thế bao giờ.

2

Phía sau ô-tô không còn chỗ để búp-bê nữa, thế là bố thượng nó lên ghế phía trước. Bố quàng dây bảo hiểm qua người để nó không bị đổ ra phía trước, một cánh tay của nó thò qua chỗ vòm xe bị gỉ, thủng một lỗ to tướng và chĩa lên trời.

- Thế chúng con ngồi ở đâu? Phía sau làm gì còn chỗ?

- Hai đứa chúng mày mỗi đứa ngồi một bên, thiếu gì chỗ.

Cứ như thế chúng tôi đi về nhà. Ôi thật là nhục nhã làm sao! Xe chạy qua đường làng. Hai đứa chúng tôi ngồi hai bên ở giữa là mụ cởi truồng, thật dị hợm hết chỗ nói! Cứ mỗi khi xe đi qua chỗ có người là hai đứa chúng tôi cúi rạp hẳn xuống để tránh mặt mọi người.

Bố cười khoái trá. Ông coi đầy là chuyện hoàn toàn bình thưởng. Tất nhiên ông đâu có phải đi đến trường mới vào sáng ngày mai kia chứ?

Thế là có chuyện xảy ra. Một chiếc xe cảnh sát rú còi inh ỏi, đèn xanh nhấp nháy đuổi theo xe chúng tôi. Có tiếng người nói qua loa phóng thanh:

- Yêu cầu lái xe vào mép đường bên phải!

Một người mặc quân phục từ từ đi về phía chiếc xe ô tô của chúng tôi. Ông ta tháo găng tay, đeo lại cặp mắt kính cho chỉnh tề. Sau đó ông cảnh sát cúi xuống nhìn vào trong xe nói giọng hách dịch:

- Thế là thế nào, sao lại có phụ nữ cởi truồng trong xe?

Nhưng ngay sau đó ông ta cười sằng sặc, bò lăn ra mà cười. Ông ta đứng bên cạnh xe và nói:

- Chúng tôi vừa nhận được tin trong xe của ông có một phụ nữ không mặc quần áo. - Nói xong ông ta lại ôm bụng cười rũ rượi - Nhưng té ra là con búp bê làm người mẫu.

Tôi cứ tưởng ông ta không thể thôi cười, nhưng rồi ông nói:

- Các người lôi ở đâu ra những thứ này? Bố trả lời:

- Tôi nhặt ở bãi rác Allansford. Viên cảnh sát nói luôn:

- Dân bản xứ gọi đây là "bãi ma quỷ"

Hình như ông này thích tán gẫu. Cũng có thể ông muốn xem bố có hâm không cũng nên. Pete và tôi ngồi im thin thít, cố gắng không để ông ta chú ý tới. Ông cảnh sát kể rằng:

- Mỗi khi chiều tà là không ai dám bén mảng tới đây. Người ta kể rằng không đêm nào con ma ông Chompers không lang thang trên bãi rác.

Bố hỏi:

- Ông Chompers là ai?

- À, ông ta trước đây là người trông coi bãi rác này. Họ kể rằng một hôm ông đến đây với hai đứa cháu và cả hai đứa bị mất tích. Hồi đó ở đây óc một trận lỡ đất. Cả núi rác bỗng nhiên tụt hẳn xuống thành một cái giếng sâu hoắm. Mọi người cho rằng có lẽ hai đứa bé đã bị núi rác đè lấp lên, ngay đến xác của chúng cũng không tìm thấy, vì đáy hố toàn nước là nước và tạo thành một cái hồ. Sau đó ít lâu thì ông Chompers chết. Người ta nói rằng họ thấy đêm đêm ông đi lang thang, đào bới lung tung ở đó để tìm hai đứa cháu mất tích. Họ còn nghe thấy tiếng gọi và cả tiếng thở dài đau khổ của ông vì không tìm thấy hai "báu vật thương yêu" của mình.

Tôi cảm thấy rùng mình đưa mắt nhìn Pete và nói:

- Từ nay cạch, không bao giờ tới đây nữa! Ông cảnh sát bảo:

- Thế là đúng. Đây không phải là chõ của trẻ con. Người ta bảo là ông già Chompers không thể rời khỏi bãi rác chừng nào chưa tìm được hai đứa cháu. Ông phải ở đó và đêm đêm lại tiếp tục tìm kiếm. Biết đâu ông ấy lại tưởng các cháu là cháu của ông ấy, và ông tóm được một hoặc cả hai đứa.

Ông ta còn nói thêm một điều nữa mà khi nghe xong tôi bủn rủn cả người.

- Hai thằng đó là trẻ sinh đôi. Ông của chúng lại bị cận thị nặng cho nên ông ấy rất dễ nhầm các cháu với hai đứa cháu của ông ấy - Ông cảnh sát nhìn thẳng vào tôi tủm tỉm cười rồi quay đi.

3

Ngày hôm sau Pete và tôi lần đầu tiên đi tới trường ở Allansford. Mọi chuyện còn tệ hại hơn là chúng tôi tưởng. Thằng tóc hung và một số đứa bạn ngổ ngáo của nó đang đứng đợi hai anh em tôi ngay ở cổng trưởng. Nó nói to đầy vẻ mỉ mai châm chọc:

- Đấy, hai thằng sinh đôi trên bãi rác kia kìa!

- Sau đó nó kể bô bô cho lũ bạn tôi nghe về bố chúng tôi và con búp bê người mẫu. Pete và tôi đứng ngẩn ra không thể cãi lại nổi. Chuyện nó kể là sự thật. Nước mắt tôi muốn trào ra. Tôi nháy liên tục cố kìm dòng nước mắt. Pete cũng khốn khổ như tôi. Cho dù có những điều kiện tốt nhất nhưng phải đi đến một trường mới cũng đã đủ khổ lắm rồi. Thế là hai đứa chúng tôi lại còn phải dính đến cái chuyện ở bãi rác nữa chứ. Cũng may là sau đó ít phút chuông reo và tất cả đi vào lớp.

Nhưng đến giờ giải lao mới thật là khốn khổ. Thằng tó chung vỗ ngực nói:

- Tao là thủ lĩnh ở đây. Tao tên là James Gribble - Nó tống vào ngực Pete và hỏi - Nhóc con, mày tên gì?

- Pete.

Thằng Gribble cười méo xệch cả mồm:

- Thằng này là Pete, thì thằng kia hẳn là Pete 2 - và nó chỉ tay vào mặt tôi - Pete 1 và Pete 2, hai thằng sinh đôi khốn khổ ở bãi rác - Cả bọn cười ầm ĩ khoái trá. Nhưng cũng có vài đứa không theo đuôi chúng. Tôi có cảm giác mấy đứa này không ưa nhưng sợ thằng Gribble và không dám làm trái ý hắn.

Sau khi tiếng cười đã lắng xuống thằng Gribble lấy cái hộp các-tông đựng giầy mà ở phía cuối có một cái lỗ to, nó nói:

- Tao là thủ lĩnh ở đây. Những đứa nào mới đến đều phải thử thách về lòng dũng cảm. Nếu chúng mày hoàn thành thì ổn, nếu chúng mày không thực hiện thì ngày nào tao cũng cho ăn đòn cho tới khi chúng mày hoàn thành cuộc thử thách này thì thôi.

Hắn giơ nấm đấm lên, cả bọn vội vàng kéo đến đứng bu lấy hắn, không đứa nào muốn để buột khỏi mắt mình những điều sẽ diễn ra ở đây.

Cái hộp giầy có nắp và buộc chặt bằng một sợi dây. Thằng Gribble đưa cái hộp cho tôi, hắn nói đầy vẻ châm chọc:

- Pete 2, tao biết hai đứa chúng mày thích ra chỗ bãi rác. Vì thế tao đã mang về một cái thật đặc biệt. Một trong hai đứa chúng mày phải can đảm thò tay vào cái hộp này và lôi ra cái đầy bí ẩn mà tao đã khuân từ bãi rác về ra đây cho tao.

Pete và tôi đưa mắt nhìn cái lỗ trên nắp hộp các-tông. Thằng Gribble ra lệnh:

- Nào làm đi hoặc tao cho chúng mày nếm trận đòn đầu tiên.

Thành thực mà nói, tôi thấy sợ. Trong hộp là một cái gì đó lấy ở bãi rác. Cái đó có thể là một xác chuột, hoặc kinh khủng hơn nữa là một con chuột còn sống nhăn răng cũng có khi là một chiếc bẫy chuột đã ging sn. Tôi nghĩ đến đủ thứ chuyện ghê rợn nhất. Tôi quả thật không muốn làm. Nhưng tôi trông thấy một đứa gật đầu với tôi. Thằng này người bé nhỏ có khuôn mặt dễ mến. Có lẽ nó muốn ra hiệu cho tôi biết trong hộp chẳng có gì đáng sợ cả.

Tôi nhin thằng Gribble và lượng sức mình. Tôi đã từng nghe nhiều lần, đối với loại người tàn bạo thì phải quyết tâm kháng cự nếu như chúng muốn dở trò. Phải đánh trả, phải cho chúng nếm đòn thì chúng mới chịu để yên. Và người ta sẽ được tôn trọng khi mọi sự qua đi cho dù có bị thất bại trong cuộc chiến đấu đó. Tôi thở dài. Thằng Gribble to lớn gấp đôi tôi vá có lẽ khỏe bằng cả tôi và Pete cộng lại. Mà mấy đứa bạn của nó trông cũng

lừng lững không khác gì nó. Bọn chúng sẽ tẩn chúng tôi nhừ đòn và biến chúng tôi thành giẻ lau. Chọ bọn này một bài học, có lẽ biệc đó chỉ có trên màn ảnh truyền hình.

Tôi từ từ thò tay vào hộp. Đầu tiên tôi chẳng thấy gì. Sau đó tôi đụng phải một cái gì đó cưng cứng, nhớt nhát có hình dáng như cái móng ngựa. Tôi cảm thấy rùng mình, ghê ghê. Tôi đụng phải một loạt những vật bé nhỏ, nhòn nhọn. Tôi sờ thấy hai cái giống nhau. Cái này hình như bằng nhựa với những cái gì đó cáu bẩn. Tôi hoàn toàn không biết trong tay mình là cái gì nữa.

Tôi từ từ rút tay ra và trông thấy một bộ răng giả cũ kỹ đã bị vỡ và có màu nâu đen bẩn thỉu. Thật là gớm guốc nhưng tôi vẫn cười với những đứa đứng xung quanh. Pete cũng cười. Tôi nghĩ rằng mình đã vượt qua được thử thách về lòng dũng cảm.

Thằng Gribble phán:

- Tốt, bây giờ đến lượt thằng Pete 2 - Nó nói đầy vẻ giễu cợt - Mày đã hoàn thành giai đoạn một.

Mọi hy vọng của tôi tan biến, Pete cũng có cảm giácnhư tôi. Chúng tôi hoàn toàn không nghĩ rằng phải thử thách nhiều đến như thế.

Thằng Gribble gí sát mặt nó vào mặt tôi. Mồm nó hôi đến khó chịu. Nó làu bàu:

- Bây giờ hai đứa chúng mày phải đưa cái hàm răng giả về chỗ cũ, tức là bãi rác - Nó dừng một lát và nói thêm - Làm vào ban đêm.

Tôi và Pete nhìn nhau, tôi nổi da gà. Bọn tôi chưa kịp nói gì thì thằng Gribble tiếp tục:

- Để chắc chắn là chúng mày có ra bãi rác chứ không phải giả bộ, chúng mày phải cầm về đây cho tao một thứ để làm bàng, đó là cái đầu bò cắm trên một cái cọc ở giữa vũng nước. Sáng sớm mai chúng mày mang cái đầu bò về đây làm bằng, rõ chưa?

Suốt buổi học hôm ấy cả Pete và tôi chỉ bận tâm về cái việc bị thử thách, không còn đầu óc đâu để mà học. Tôi chỉ làm được hai trong số hai mươi bài toán còn Pete thì làm được bốn trong số hai mươi bài.

Đến chiều cái cậu mà đã gật đầu với tôi buổi sáng ở trên sân trường nhét vào túi tôi mảnh giấy ghi mấy câu:

"Tốt nhất các cậu hãy đi lấy cái đầu bò về. Thằng Gribble cực đểu.

Mình đã bị nó đánh một tháng liền cho đến khi thực hiện được cuộc thử thách bẩn thỉu của nó.

Bạn của các cậu Troy."

Tôi đưa cho Pete thông tin đó. Nó không nói gì nhưng trông không có vẻ gì là phấn khởi cả. Sau buổi học bọn tôi đi về nhà trong tâm trạng chán nản. Thằng Gribble hét sau lưng bọn tôi:

- Chúc các cậu đêm nay ngủ ngon.

Hai anh em tôi chiều tối hôm đó không thể nuốt được một tí gì vào bụng. Mẹ nhìn chúng tôi rất lạ nhưng không nói gì. Có lẽ bà nghĩ sau ngày học đầu tiên ở lớp mới bọn tôi thần kinh căng thẳng lắm. Kể ra bà phần nào cũng có lý. Bọn tôi nghĩ tới hồn ma ông già Chompers đêm đêm một mình đi tìm hai đứa cháu sinh đôi.

Sau khi uống trà tôi bảo Pete:

- Sáng mai chúng ta làm ra bộ bị ốm. Pete bảo:

- Không ăn thua. Không bao giờ mẹ bị lừa đâu. Hơn nữa sớm hay muộn chúng ta vẫn phải đi đến trường cơ mà.

- Chúng ta nói với bố để...

- Phải đấy - Pete cắt lời tôi - Bố sẽ mách với thầy giáo và tất cả học sinh ở trường sẽ gọi chúng mình là những đứa hèn.

Tôi nói một cách tuyệt vọng:

- Hay là chúng mình quăng bừa bộ răng hàm giả đi đâu đó và nhặt một cái đầu bò ở chỗ khác về. Thằng Gribble làm sao biết là chúng mình không ra bãi rác kia chứ?

- Mày thừa biết chúng ta không thể nhặt bất kỳ một cái đầu bò nào mà phải là cái đầu với hai cái sừng màu trắng với những cái răng khủng khiếp. Không, phải làm thôi, chúng ta sẽ mang cái hàm răng giả ra bãi rác và mang cái đầu bò về. Thực ra có điều gì đáng sợ đâu?

Còn chuyện ma là nhảm nhí. Làm gì có ma. Người ta cho rằng có ma chính vì họ sợ. Tôi có cảm giác Pete có lý. Chúng tôi phải đi, không còn cách nào khác cả.

4

Đêm, khi bố mẹ đi ngủ thì Pete và tôi trèo qua cửa sổ rồi đi ra bãi rác. Chúng tôi vừa đi vừa chạy trên con đường nhỏ đầy bụi với hai rặng liễu ở ven đường. Pete mang theo một cái móc và cuộn dây, tôi định dùng những thứ đó để lôi cái đầu bò ở giữa vũng nước vào. Còn tôi một tay cầm đèn pin, một tay cầm hàm răng giả. Tôi luôn cảm thấy tởm và ghê ghê. Tất nhiên tôi rất mừng khi tống khứ được nó đi.

Không hề có một bóng người, dế kêu inh tai và thỉnh thoảng có cả tiếng cú kêu. Bên kia hàng rào kẽm gai những con bò nằm yên trên bãi cỏ khô. Thực tình tôi rất sợ, nhưng không hiểu vì lý do gì khi trông thấy mấy con bò tôi lại rất yên tâm. Quả thật không hiểu vì sao, tất nhiên mấy con bò ấy không thể giúp gì chúng tôi nếu như có chuyện gì xảy ra. Dù sao đi nữa thì chúng chỉ là những con bò.

Càng đi xa nhà bao nhiêu chân tôi lại càng run hơn bấy nhiêu. Tự nhiên tôi cảm thấy sau mỗi cái bóng đều có ác quỷ. Tôi có cảm giác bụng quặn đau. Khi bọn tôi đến trước bãi rác thì xuất hiện khó khăn đầu tiên. Bao quanh bãi rác là hàng rào dây thép và trên cùng là kẽm gai. Cổng vào bãi rác bị khóa. Gió thổi nhè nhẹ làm cho tờ giấy treo ở hàng rào phát ra tiếng động lao xao như có tiếng ai đó thở dài não nuột.

Tôi hỏi Pete:

- Chúng ta làm sao vào được bây giờ? Trong thâm tâm tôi mong sẽ phải quay trở về. Pete nói gọn lởn:

- Trèo qua.

Bọn tôi quẳng cuộn dây vào cái móc sang bên kia hàng rào đồng thời leo lên. Dây thép không được căng cho lắm nên dưới trọng lượng của chúng tôi cuộn dây đung đưa xiêu vẹo. Cuối cùng chúng tôi cũng đã leo tít lên cao chỉ còn việc nhấc chân qua sợi kẽm gai để leo sang phía bên kia. Đúng lúc đó cả hàng rào ngã về phía trong và hai đứa chúng tôi nhảy vọt về phía bãi rác. Hàng rào quật trở lại và quăng theo cả cuộn dây.

Tôi kêu tướng lên:

- Trời ơi, đau quá - Rồi lấy tay xoa trán. Pete suỵt:

- Khẽ mồm thôi, mày định đánh thức cả hồn ma đấy à? Vừa nghe đến ma tôi bủn rủn cả người. Tôi vặc lại se sẽ:

- Đừng có nói như thế.

Pete ngước mắt nhìn hàng rào. Bọn tôi bị nhốt ở giữa. Nó bảo:

- Thế là đừng hòng mà ra nữa.

Có lẽ Pete cũng nghĩ như tôi, tại sao chúng tôi lại ngốc đến thế. Mắc mớ gì mà đang đêm hôm lại mò tới cái bãi rác ở nơi hẻo lánh này? Không ai có thể giúp chúng tôi, bốn bề tịnh không một bóng người, có phải thế không nhỉ?

Từ nơi không xa lắm, sau xác mấy chiếc ô-tô gỉ tôi nghe thấy có tiếng động. Pete cũng giương mắt lên nhìn về hướng đó. Tôi sợ đến nỗi toàn thân như bị tê liệt, muốn chạy

nhưng hai chân không phục tùng ý muốn của tôi, tôi muốn hét lên nhưng không thể há nổi mồm. Pete thì đứng sừng sững như trời trồng.

Rõ ràng là có tiếng lạo xạo, lạch cạch như có ai đó đang bới ở đống rác. Cái tiếng đó hình như đang nhích về phía chúng tôi. Tôi đứng đó và tưởng tượng mình là cái cây bị chết hoặc một cái cột. Ôi, giá như không có ánh trăng chiếu vào khuôn mặt trắng bệch của tôi! Tiếng lạo xạo, lạch cạch ngày càng tới gần hơn và to hơn.

Thế là chúng tôi thấy người đó. Một ông già với cái mũ méo mó. Ông dò dẫm từng bước, chọ cây gậy vào đống rác. Ông đi cà nhắc chậm chạp, một tay giữ chặt cái quần cũ kỹ bẩn thỉ. Ông lê bước đi về phía chúng tôi.

Pete và tôi nhìn thấy ông trong cùng một lúc. Chân ông không đụng tới mặt đất mà lướt là là khoảng 30 cm trên đống rác.

Rõ ràng đó là bóng ma ông già Chompers. Cùng một lúc cả hai đứa chúng tôi gào lên:

- Chạy thôi!

Thế là bọn tôi chạy, leo lên, lội xuống, ngã xoạc cả người, la hét ầm ĩ. Rác ngập cho đến tận bẹn. Bọn chúng tôi không hề để ý đến lũ chuột hốt hoảng chạy tán loạn. Những vết xước vì đụng phải những đồ vật nằm ngổn ngang trên bãi rác cũng không làm chúng tôi bận tâm. Chúng tôi không dám ngoái đầu lại để nhìn cái bóng hãi hùng kia đang thất thiểu cà nhắc đuổi theo mình.

Cuối cùng, bọn tôi thở như muốn vỡ phổi, và chui tọt vào trong một chiếc ô-tô cũ. Nó không có cửa ra vào, cũng không có cửa sổ. Bọn tôi nằm mọp xuống sàn, không dám thở, không dám nhúc nhích, không dám nhìn lên và cũng chẳng còn trông chờ một điều gì.

Tại sao chúng tôi lại đưa nhau đến cái nơi kinh khủng thế này? Thật là rồ dại. Bỗng nhiên tôi nghĩ đến thằng Gribble, đến cái đầu bò và cái hàm răng giả mà thấy buồn cười. Tôi thà phải đánh nhau với một nghìn thằng Gribble còn hơn phải đến chốn này.

Bị nhốt với một con ma trên bãi rác!

Tôi cảm thấy thằng Pete run bần bật. Và tôi nghe thấy một giọng nói lạ, một tiếng gọi run rẩy, thều thào.

- Chúng nó đâu rồi, hỡi báu vật của ta... Chúng nó đâu rồi...

5

Tôi đã đoán như thế. Tôi đã biết như thế. Hồn ma ông già Chompers đã trông thấy chúng tôi. Ông tưởng chúng tôi là những đứa cháu bị mất tích của ông. Mấy đứa cháu của

ông đã chết. Ông đành đóng chúng tôi. Chỉ khi đó ông mới óc thể rời bãi rác.

Tôi bỗng nghĩ tới mẹ và bố. Tôi nghĩ tới cái ging ấm áp dễ chịu của mình ở nhà. Sẽ không bao giờ bố mẹ biết được điều gì đã xảy ra với chúng tôi. Không bao giờ bố mẹ biết rằng chúng tôi đã kết thúc cuộc đời của mình trong cái bãi rác khủng khiếp ở Allansford.

Tiếng than vãn đã gần lắm:

- Cuối cùng... cuối cùng... ôi các báu vật yêu quý... cuối cùng thì...

Như thế là hồn ma đã biết chúng tôi ở đây. Không nói một lời cả hai đứa chúng tôi bổ nhào ra khỏi chiếc ô-tô và chạy một mạch cho tới vũng nước với đủ thứ bẩn thỉu nổi lền bền. Phía sau chúng tôi là hồn ma ông già Chompers, ông khấp khểnh đi tới, mỗi lúc một gần hơn. Chúng tôi bị kẹt ở giữa, một bên là vũng nước, một bên là hồn ma.

Trong nỗi sợ hãi cuống cuồng chúng tôi hớt hải tìm nơi ẩn náu. Bên phải, bên trái chúng tôi là những đống rác to như núi. Trước mặt chúng tôi là vũng nước ngợp ngụa còn sau lưng... ôi chúng tôi không dám quay đầu nhìn ra phía sau.

Pete kêu thất thanh:

- Nhanh lên, lại đây giúp tao một tay - Nó đang lôi xềnh xệch một cái bồn tắm gỉ ra phía vũng nước.

Tôi thở không ra hơi và nói:

- Không được đâu, nó sẽ không nổi được. Trông cái lỗ ki kìa. Không có nút, nước sẽ tràn vào.

Pete cúi người xuống bốc một nắm bùn ven bờ và đắp vào cái lỗ xả ở bồn nước. Nó hét lên:

- Nhanh tay lên, nhanh tay lên!

Cái bồn thật nặng, nhưng nỗi sợ hãi làm cho chúng tôi có sức khỏe phi thường. Hai đứa chúng tôi đẩy cái bồn xuống vũng nước bẩn thỉu. Sau đó leo lên. Cái bồn nghiêng bên này, ngả bên kia và cứ thế từ từ trôi ra xa bỏ hồn ma đang nhích dần từng bước.

Bọn tôi dùng tay khỏa lấy khỏa để và chiếc bồn nước đã ra đến giữa vũng. Đến đây chúng tôi ngừng tay và trông về phái hồn ma ông già Chompers. Ông ta đang khập khiễng tới ven vũng nước, lướt tiếp về phía chúng tôi, ông đi trên mặt nước. Ông dang rộng hai tay và luôn mồm gọi:

- Các báu vật thương yêu của ta... Các của quý bị mất tích của ta... Pete và tôi bám chặt những ngón tay buốt giá vào thành bồn tắm. Ánh trăng mờ dần và đêm tối như mực.

Bỗng nhiên có tiếng "ục", nắm đất nhão hút lỗ xả nước bật ra, dòng nước bẩn tràn vào bồn. Chúng tôi bị đắm. Trong khoảng khắc hai đứa chìm trong nước và vội vàng vung tay lia lịa bơi về phía bờ, mồm không ngừng la hét om sòm. Pete bơi khá hơn tôi, nó biến đi trong đêm đen.

Chiếc áo len của tôi ngấm nước và mỗi lúc một nặng hơn. Tôi bị chìm rồi lại nổi lên, mồm phun phì phì những ngụm nước đen kịt. Nếu tôi không nhanh nhanh tìm một cái gì để bám thì tôi sẽ bị chìm nghỉm và chết đuối. Chiếc bồn tắm đã biến mất.

Bỗng tay tôi chạm phải một cái gì đó. Một cái cọc. Tôi túm láy nó và đẩy mình vào bờ. Khi đã chạm đất bỗng tôi thấy cái cọc của mình có sừng. Sau đó tôi thấy cả khuôn mặt. Một khuôn mặt đông cứng với những cái răng nhọn hoắc. Đó chính là cái đầu bò ghê tởm trông như đang cười mỉa mai.

Tôi hét lên và đi vào bờ. Pete cũng đang nằm ở đó. Chúng tôi ướt sũng, run cầm cập, người mệt mỏi rã rời, trông như hai cái bao tải sũng nước lù lù trên mặt đất thì đúng hơn.

Hồn ma ông già Chompers dang hai tay và lướt nhẹ trên mặt nước. Mặt ông nhăn nhúm, mồm ông như một cái lỗ đen sì, sâu hoắm. Ông ta nhìn tôi cười sằng sặc.

Tay trái tôi vẫn giữ cái hàm răng giả. Suốt từ nãy tới giờ trong khi chạy tôi vẫn ôm nó khư khư. Tôi không có một thứ vũ khí nào khác vì thế tôi chìa cái hàm răng giả ra. Tay tôi run bần bật làm cho hàm răng đập vào nhau lập cập.

Khi hồn ma ông già Chompers bổ nhào vào tôi thì tôi hết tướng lên như bị chọc tiết. Tôi chìa hàm răng giả ra như muốn xua đuổi ông ta. Hồn ma giật lấy cái răng và cho tọt vào mồm.

- Ôi cuối cùng thì ta đã tìm được chúng mày. Hồn ma sung sướng hết há miệng ra rồi lại ngậm miệng và nghiến răng kèn kẹt.

Một lúc sau hồn ma lấy từ trong túi ra một quả táo ma và cho vào mồm nhai rau ráu.

- Tuyệt, thật tuyệt vời. Ôi, các người không thể hiểu nổi không có của báu này ta khổ như thế nào đâu. Ta sẵn sàng tạ ơn các người đã trả lại cho ta báu vật mà ta mòn mỏi tìm kiếm bấy lâu.

Hai đứa chúng tôi nằm trên nền đất và ngây mặt nhìn hồn ma. Nó trông không có vẻ gì là đáng sợ nữa. Thằng Pete đã có vẻ bình tĩnh trở lại. Nó hỏi:

- Ông muốn nói rằng báu vật của ông là hàm răng giả, chứ không phải là hai đứa cháu mất tích của ông ư?

- Ta cần gì mấy đứa khó bảo ấy? Ta đã nói với chúng nó không biết bao nhiêu lần không được chơi ở đây. Ta đã nói với chúng chỗ này nguy hiểm. Không, không, ta tìm là tìm cái này - Ông ta lại nhe răng, lấy lưỡi đẩy cái hàm răng mày nâu nhờ nhờ - Không có

cái này thì ta không thể rời khỏi đây. Ta đã cất công tìm nó mấy năm trời nay. Giờ thì ta có thể đi được rồi. Giờ thì ta có thể đi khỏi cái bãi rác bẩn thỉu này để đến với những người bạn khác.

Trong khi ông ta nói cái bóng của ông cứ mờ dần. Tôi cảm thấy chúng tôi sẽ không bao giờ gặp lại ông ta nữa.

Pete lên tiếng:

- Khoan đã, ông đừng đi vội, quay trở lại một tí đã nào!

Ông Chompers dừng chân và nhìn Pete chằm chằm. Ông ta hỏi:

- Có chuyện gì, các ngươi cần gì? - Tôi thấy rõ ông ta đang vội. Ông ấy không muốn ở lại trên bãi rác này thêm một phút nào nữa.

Pete nhìn thẳng vào mặt hồn ma và nói:

- Ông bảo rằng ông chịu ơn chúng tôi và muốn đáp lại vì chúng tôi đã tìm ra bộ răng giả của ông. Vậy thì chúng tôi muốn ông thanh toán đi. Trước khi ông đi chúng tôi muốn ông đáp ứng mong muốn của chúng tôi.

Hồn ma toe toét cười nhe mấy cái răng sứt:

- Được, thế mong muốn của các ngươi là gì?

6

Hồn ma ông già Chompers không phải là kẻ duy nhất muốn biến khỏi bãi rác càng nhanh càng tốt. Ông ta chỉ cho bọn tôi một lỗ hổng của cái hàng rào bằng dây thép. Bọn tôi chui tọt qua cái lỗ đó và chạy một mạch qua quãng đường cấp phối. Khi về tới Allansford bọn này trèo lên một cái cây nhất định và nhìn qua một cái cửa sổ nhất định.

Thằng Gribble vùi đầu trong chăn và ngủ rất ngon lành. Hắn toét miệng cười. Hắn đã thiếp đi với ý nghĩ thật thông minh vì đã xua hai thằng ngốc giữa đêm hôm mò ra bãi rác.

Một tiếng động đã làm hắn tỉnh giấc. Có ai đó chống gậy đi lộc cộc đi đến gần cửa sổ nơi nó nằm. Sau đó thằng Gribble nghe rõ tiếng cười:

- Cuối cùng thì ta đã tìm lại được vật quý của ta.

Thằng Gribble giật bắn mình, nó muốn hét to lên nhưng không thốt ra lời. Một cái bóng xấu xí đi qua tường, khuôn mặt cái bóng đó hiện ra, đó là một bộ mặt rúm ró với cái miệng sâu hoắm đen sì. Và trong cái lỗ sâu hoắm đó có cái hàm răng giả bị sứt.

Hồn ma cười sằng sặc, khoái trá, nó giương cái đầu bò lên trước mặt thằng Gribble và nói:

- Mày muốn có cái này, đúng không? - Và cái đầu bò bị quẳng ngay trước mặt thằng Gribble.

Cái bóng nói:

- Đó là của Pete 1 - ông ta nhấc cao cái đầu bò một lần nữa rồi lại quẳng trước mặt Gribble - Còn đây là của Pete 2.

Lần thứ hai thằng Gribble hoàn toàn không nhìn thấy cái đầu bò, nó không nhìn thấy bóng ma tan biến như thế nào. Nó đã bị ngất xỉu.

Những ngày hôm sau thằng Gribble tỏ ra rất niềm nở, hồ hởi với tôi và Pete. Tôi chưa từng gặp thằng bạn nào lịch sự hơn nó. À, còn một điều nữa tôi cần thông báo với các bạn, nó không bao giờ gọi mình là thủ lĩnh nữa.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro