NHỮNG CÂU CHUYỆN KỲ LẠ CỦA DARREN SHAN(tap4)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Núi Ma-Cà-Rồng

VAMPIRE MOUNTAIN

Mở Đầu Một đêm khuya, vừa đi về chiếc quan tài, ông Crepsley vừa bảo tôi:

- Thu dọn hành lý đi. Ngaỳ mai chúng ta lên đường tới Núi-ma-cà-rồng.

Dù đã quen với những tuyên bố đầy bất ngờ của ông ma-cà-rồng này - chắng bao giờ tôi được hỏi han khi ông ta ra một quyết định - nhưng lần này, ngay cả với ông ta, ngay cả với ông ta, quả là một việc quá khác thường. tôi chạy theo ông, la lớn:

- Núi Ma-cà-rổng? Sao lại phải đến đó?

- Để cháu trình diện Hội đồng. Tới thời điểm rồi.

- Hội đồng Tướng quân Ma-cà-rồng? Vì sao? Vì sao lại là lúc này?

- Vì đó là việc phải làm. Còn vì sao phải đi lúc này? Là vì Hội đồng chỉ nhóm họp mười hai năm một lần thôi. Nếu bỏ qua lần này, chúng ta sẽ phải chờ mười hai năm nữa.

Chỉ nói có bấy nhiêu, rồi ông ta như điếc đặc trước những câu hỏi sau đó của tôi, chui tọt vào quan tài trước khi mặt trời mọc.

Tên tôi là Darren Shan, là một ma-cà-rồng nửa mùa. Tôi từng là một con người bình thường cho đến khi số phận phải gắn liền với ông Crepsley và miễn cưỡng trở thành một phụ tá của ông khỏang tám năm trước. Phải mất một thời gian thật khó khăn tôi mới thích hợp với lão ma-cà-rồng này và cung cách của ông ta - nhất là màn uống máu người. Nhưng sau cùng tôi đành cam chịu chấp nhận số phận mình, tiếp tục với những công việc để sống còn.

Tôi và ông Crepsley từng là thành viên trong một gánh xiếc rong kì lạ, được điều khiển bởi một người tên là Hibernius Cao-kều. Chúng tôi đi khắp nơi, trình diễn những màn khác thường cho những khán giả sẵn sàng hoan nghênh tài năng lạ lùng và đầy ma thuật của chúng tôi.

Sáu năm đã trôi qua kể từ lần cuối cùng ông Crepsley và tôi rời khỏi Gánh Xiếc Qúai Dị. Chúng tôi ra đi để ngăn chặn một tên mà-cà-chớp điên khùng tên là Murlough. Vì Murlough âm mưu khủng bố thành phố quê hương của ông ma-cà-rống Crepsley. Ma-cà-chớp là một nhóm ly khai khỏi bộ tộc ma-cà-rồng. Khi cần nuôi sống mạng mình, chúng sẵn sàng giết chết những người chúng hút máu. Trái lại, ma-cà-rồng chỉ xin con người một chút máu. Trái lại, ma-cà-rồng chỉ xin con người một chút máu, không gây thương tổn gì cho họ. Hầu hết những truyền thuyết các bạn đọc trong sách hoặc xem qua phim ảnh về ma-cà-rồng đều bắt nguồn từ những chuyện do ma-cà-chớp gây ra.

Sáu năm trong gánh xiếc với tôi thật êm ả. Tôi đã trở thành một diễn một diễn viên thực thụ. Cùng qúy bà Octa - con nhện độc của ông Crepsley, hằng đêm chúng tôi đã làm khán giả vừa say mê vừa khiếp đảm. Tôi cũng đã học với tất cả thành viên trong gánh xiếc, quen dần và thích với cuộc sống rày đây mai đó.

Bây giờ, sau sáu năm ổn định, chúng tôi lại phải lên đường để đến một nơi mù mịt. Tôi chẳng biết gì nhiều thóang hiểu, ma-cà-rồng được chỉ huy bởi những chiến binh - được gọi là những tướng quân. Họ là những người bảo đảm sao cho quy luật được vững vàng, giết những ma-cà- rồng điên lọan, tội lỗi và giữ sao cho tòan bộ ma-cà-rồng sống theo quy cũ. Ông Crepsley từng là một tướng quân ma-cà-rồng, nhưng đã rút lui từ lâu, lí do vì sao thì anh không hề tiết lộ.

Thỉnh thỏang - bây giờ thì tôi biết là mỗi mười hai năm - các tướng quân họp tại một thành lũy bí mật, để thảo luận về bất cứ điều gì mà sinh vậy của đêm tối, sống bằng máu,.chỉ cần bàn bạc mỗi khi gặp mặt. Cuộc họp này không chỉ dành riêng cho các tường quân, vì theo tôi nghe được, những ma-cà-rồng bình thường cũng có thể tham dự. Không biết thành lũy này ở đâu, chúng tôi sẽ đến đó bằng cách nào và vì sao tôi lại phải trình diện trước Hội đồng... Nhưng tôi sắp khám phá ra tất cả những điều đó rồi.

CHƯƠNG 1

Vừa háo hức vừa lo lắng, vì tôi sắp mạo hiểm vào một nơi mình chẳng biết gì. Tôi có cảm giác chuyến đi này chẳng êm ả chút nào, nên để thời gian qua nhanh, tôi bận rộn thu dọn hành trang cho mình và ông Crepsley. Ma-cà-rồng trăm phần trăm như ông Crepsley chỉ phơi mình ra nắng vài tiếng đồng hồ là chết đứ đừ, nhưng một tên ma-cà-rồng nửa mùa như tôi lại không bị ảnh hưởng gì. Vì không biết sẽ phải đi đâu, tôi chẳng biết phải đem theo những gì. Nếu Núi Ma-cà-rồng là nơi lộng gió, lạnh căm căm thì cần phải có ủng và quần áo dầy; nhưng nếu là một vùng nhiệt đới nóng bức, áo thun và quần ngắn là quá đủ.Hỏi những người trong gánh xiếc, họ cũng ngọng luôn. Trừ ông Cao - dường như chuyện gì ông ta cũng biết một chút. Ông bảo tôi nên đem theo những gì cần thiết cho một nơi có tuyết.Evra cũng đồng ý với ông Cao. Cậu ấy lý luận:- Mình chắc ma-cà-rồng là loài sợ ánh mặt trời, họ sẽ chẳng bao giờ lập căn cứ tại những vùng chan hòa ánh nắng như vùng Caribê đâu.Evra là một cậu bé rắn, thay vì lớp da bình thường là lớp vẩy. Đúng ra, bây giờ cậu ấy không còn bé nữa, mà là một thanh niên rắn. Sáu năm qua, Evra đã cao to hơn và già hơn trước. Tôi thì không. Có nửa máu ma-cà-rồng, tôi chỉ già đi bằng một phần năm người bình thường. Vì vậy, kể từ khi ông Crepsley truyền máu cho tôi, trông tôi chỉ già hơn chừng... một tuổi!Tôi rất ghét cái vụ không lớn lên một cách bình thường này. Vì trước kia, Evra và tôi rất bồ bịch với nhau, nhưng bây giờ không được như vậy nữa. Dù hai đứa vẫn thân thiết và cùng chung một lều, nhưng anh ta đã là một người lớn, được nhiều người cùng lứa chú ý (nhất là phụ nữ). Thật ra, tôi chỉ nhỏ hơn Evra vài tuổi, nhưng trông như một đứa trẻ ranh, rất khó cho anh ta cư xử với tôi như một người ngang hàng được.Là một ma-cà-rồng nửa mùa cũng có nhiều cái lợi. Tôi mạnh hơn, nhanh hơn và sống lâu hơn bất kỳ một con người nào. Nhưng tôi sẵn sàng đánh đổi tất cả những điều đó để được có một ngoại hình đúng với tuổi mình và được sống một cuộc sống bình thường. Dù hai đứa không còn gắn bó như xưa, nhưng Evra vẫn là một người bạn tốt, vẫn tỏ ra lo lắng cho chuyến đi lên Núi Ma-cà-rồng của tôi. Với chất giọng ồ ồ bị vỡ tiếng từ mấy năm trước, Evra bảo:- Theo mình, chuyến đi này không phải chuyện đùa đâu. Có lẽ mình nên đi với cậu.Đáng lẽ tôi phải nhảy lên vì mừng, nhưng lại nghĩ, Evra còn có đời sống riêng của anh. Kéo anh ra khỏi Gánh Xiếc Quái Dị là không công bằng. Tôi bảo:- Đừng. Anh phải ở lại, giữ cho võng nằm của tôi được ấm. Tôi không sao đâu. Hơn nữa, rắn không ưa lạnh lẽo, đúng không?Evra cười lớn:- Quá đúng. Mình khoái ngủ đông cho tới mùa xuân.Dù không đi, Evra giúp tôi thu xếp hành lý. Cũng chẳng có gì nhiều: mấy bộ đồ, một đôi ủng, mấy cái soong nồi đặc biệt (có thể xếp lại gọn gàng, rất tiện lợi khi đi xa) và cuốn nhật ký, vật bất ly thân của tôi, cùng vài thứ lặt vặt.Evra khuyên tôi nên đem theo một sợi dây thừng, phòng khi phải leo núi. Tôi nhắc anh ta:- Anh quên ma-cà-rồng là chuyên gia leo trèo sao?- Biết. Nhưng cậu thật sự muốn chỉ dùng mấy đầu ngón tay để bám vào vách núi à?- Tất nhiên là cậu ta rất khoái trò đó. Ma-cà-rồng lớn mạnh nhờ những trò nguy hiểm mà.Một tiếng nói oang oang sau lưng hai chúng tôi. Quay phắt lại, tôi chạm mặt với một gã rất khả ố. Lão Tí-nị. Ruột gan tôi đóng băng vì khiếp đảm.Tí-nị là một gã nhỏ con nhưng tròn trùng trục, với mái tóc trắng toát, kính dày cộm, đôi ủng xanh lè cao tới gối. Lúc nào lão cũng táy máy nghịch ngợm một cái đồng hồ hình trái tim. Trông lão như một ông bác già, nhưng sự thật lão là một kẻ tàn nhẫn, hắc ám vô cùng. Một kẻ có thể vừa thơn thớt chào hỏi bạn, vừa cắt phăng ngay lưỡi bạn. Chẳng ai biết nhiều về lão, nhưng ai cũng sợ lão. Rút ngắn và ghép tên họ lão - Desmond Tiny - bạn sẽ có từ destiny(*).Sau một thời gian ngắn, sau khi gia nhập Gánh Xiếc Quái Dị, tôi mới gặp lão, nhưng đã được nghe nhiều chuyện về lão: nào là lão ăn điểm tâm bằng thịt trẻ con ra sao, lão đốt cả thành phố chỉ để sưởi ấm chân như thế nào... nhìn lão đứng lù lù cách chưa đến một mét, mắt long lanh, tay chắp sau lưng, dỏng tai nghe chuyện của tôi và Evra làm tim tôi co thắt lại.Lão tỉnh bơ tiến bước lại gần hai đứa, tiếp tục nói:- Ma-cà-rồng là một sinh vật dị thường, khoái trò thách thức. Đã có lần ta thấy một tên đi dưới ánh nắng cho tới chết, chỉ vì có kẻ mỉa mai chúng là loài chỉ dám ló mặt ra ngoài khi đêm xuống.Lão đưa tay ra. Tôi sợ đến nỗi, vội vàng đưa tay bắt. Trái lại, khi lão đưa tay cho anh chàng người rắn, Evra đứng im, run lên vì tức giận, lắc đầu từ chối. Lão Tí-nị chỉ nhếch mép cười, rụt tay về. Lão nhấc ba-lô của tôi lên, liếc nhìn vào trong, nói:- Vậy là cậu sắp lên Núi Ma-cà-rồng? Nên đem theo quẹt diêm, Shan à. Đường xa và lạnh lắm. Dù thịt da rắn chắc của một chàng trai trẻ như cậu, cũng sẽ bị những cơn gió lồng lộng quanh Núi Ma-cà-rồng cắt thấu xương đấy.- Cám ơn ông đã có lời chỉ dẫn.Tôi nói. Đó là điều khó hiểu của Tí-nị: lão luôn tỏ ra lịch sự và tốt bụng. Vì vậy mà dù biết lão là loại người không hề chớp mắt khi gây tội ác tầy đình, đôi khi người ta không khỏi mến lão.Lão Tí-nị lại hỏi:- Đám Tí-hon của ta có loanh quanh gần đây không?Đám Tí-hon là những sinh vật thấp nhỏ, luôn kín mít trong bộ áo xanh và mũ trùm đầu. Chúng không bao giờ cất tiếng nói và ăn bất cứ con gì nhúc nhích (kể cả con người!). Nhóm sinh vật kỳ bí này hầu như luôn đi cùng Gánh Xiếc Quái Dị. Thời gian này nhóm chúng có tám tên.Tôi trả lời lão:- Chắc chúng đang ở trong lều. Khoảng một tiếng trước tôi đã đem đồ ăn vào cho chúng. Có lẽ chúng đang ăn.Một trong những công việc của tôi là săn mồi ăn cho đám Tí-hon. Evra từng làm việc này với tôi, nhưng từ khi lớn lên, anh đề nghị được chuyển qua những việc ít dơ bẩn hơn. Từ đó tôi được một số trẻ con trong gánh xiếc phụ giúp trong việc này.- Tốt lắm.Lão nói rồi dợm bước đi, nhưng bỗng ngừng lại:- À, còn chuyện này nữa. Bảo Larten trước khi đi hãy gặp ta. Ta có vài điều muốn nói.- Chúng tôi vội lắm, chắc không đủ thời gian...- Cứ bảo lão là ta muốn nói vài lời. Chắc chắn lão sẽ dành cho ta chút thời gian.Nói xong, lão phẩy tay chào, rồi bước đi. Tôi nhìn Evra lo lắng, chạy tìm mấy hộp diêm, rồi vội vàng đến đánh thức ông Crepsley.Chương 2

Ông Crepsley rất ghét phải thức dậy trước khi mặt trời lặn. Vì vậy ông càu nhàu khi bị tôi đánh thức, nhưng sau khi tôi cắt nghĩa lý do, ông im lặng gãi gãi vết thẹo dài bên má trái, rồi lẩm bẩm:

- Chẳng hiểu hắn muốn gì đây.

- Cháu không biết, nhưng lão bảo có chuyện muốn nói trước khi chúng ta đi khỏi đây.

Tôi thấp giọng, thì thầm:

- Nếu gấp rút lên, chúng ta có thể chuồn mà không ai trông thấy. Trời sắp chạng vạng tối rồi, ông có thể né trong bóng râm cho tới khi trời tối hẳn. Được không?

- Được chứ. Nhưng ta phải chạy trốn như một con chó cúp đuôi sao? Không đâu. Ta sẽ gặp lão Desmond Tí-nị. Đem cho ta cái áo choàng bảnh nhất. Tiếp khách phải cho thật... hoành tráng chứ.

Đó gần giống như một câu nói đùa của lão ma-cà-rồng này. Ông ta thường ít có tinh thần hài hước.

Một tiếng sau, khi mặt trời lặn, chúng tôi tiến đến xe của ông Cao. Lão Tí-nị đang làm chủ nhân của Gánh Xiếc Quái Dị mê tơi bằng những chuyện động trời lão mới được chứng kiến.

Lão oang oang:

- A, chào Larten. Giờ giấc luôn chính xác hả.

Ông Crepsley khô khan lên tiếng:

- Chào Desmond.

- Ngồi xuống đã.

- Cám ơn, nhưng tôi muốn đứng.

Chẳng ai thích ngồi khi có mặt lão Tí-nị, phòng khi cần gấp rút chuồn. Lão lên tiếng:

- Nghe nói ông định lên Núi Ma-cà-rồng...

- Chúng tôi sắp đi ngay bây giờ.

- Gần năm mươi năm rồi, đây là lần đầu tiên ông lại dự họp Hội đồng đấy nhỉ?

- Thông tin của ông khá tốt.

- Tôi đặt một tai dưới lòng đất mà.

Có tiếng gõ cửa. Ông Cao đưa vào hai tên Tí-hon. Một tên bước đi với một chân hơi tập tễnh. Hắn ở với gánh xiếc gần như cùng thời gian với tôi. Tôi gọi hắn là Chân-trái. Chỉ là một bí danh thôi, vì trong đám Tí-hon chẳng ai có một cái tên thật sự.

Lão Tí-nị hỏi:

- Sẵn sàng chưa các con?

Hai tên Tí-hon gật.

- Tuyệt.

Lão nói, rồi quay qua ông Crepsley tủm tỉm cười:

- Đường lên Núi Ma-cà-rồng vẫn hiểm nghèo như xưa, phải không?

Ông Crepsley miễn cưỡng đồng ý:

- Phải, không dễ dàng chút nào.

- Ý ông là khó khăn cho một thiếu niên như cậu Shan đây?

- Darren có thể tự lo.

Nghe ông Crepsley nói, tôi cười hãnh diện. Nhưng lão Tí-nị lên tiếng ngay:

- Vẫn biết thế, nhưng để một tay quá non nớt gia nhập chuyến đi này là một điều không bình thường, đúng không?

- Đúng.

- Đó là lý do tôi cho hai đứa này đi cùng để canh gác...

- Canh gác? Chúng tôi không cần. Tôi đã đi nhiều lần rồi. Tôi có thể tự lo cho Darren.

- Quả vậy. Ông có thể tự lo. Nhưng thêm chút giúp đỡ, có bao giờ là chuyện vô ích đâu. Phải không nào?

- Có chúng chỉ thêm quẩn chân. Tôi không muốn.

- Những tên Tí-hon của tôi làm quẩn chân? Chúng sống chỉ để phục vụ. Chúng sẽ như những gã chăn cừu, ngồi canh cho hai người ngủ...

- Dù sao tôi cũng không muốn...

Lão Tí-nị cắt ngang:

- Đây không phải là một đề nghị.

Giọng lão nhẹ nhàng, nhưng rõ ràng ẩn chứa sự đe dọa:

- Chúng sẽ đi với hai người. Chấm dứt. Không bàn bạc gì thêm nữa. Chúng sẽ tự săn mồi, tự lo chỗ ngủ. Những gì hai người cần phải làm là đừng để "mất" chúng trên đường đi, trong vùng đất hoang vu đầy tuyết.

- Rồi khi tới đó, ông tưởng tôi có thể đưa chúng vào trong được sao? Điều này không được phép. Các Ông Hoàng sẽ không đời nào chấp thuận.

- Có đấy. Họ sẽ chấp thuận. Đừng quên bàn tay ai đã góp sức xây dựng Lâu đài Ông Hoàng. Paris Skyle và tất cả bọn họ đều biết máu họ phải đổ về đâu. Họ sẽ không phản đối.

Ông Crepsley tức giận - không, phải nói là thịnh nộ đến run người - nhưng sự tức giận tan biến ngay khi ông nhìn vào đôi mắt lão Tí-nị và nhận ra: không thể đôi co được với lão già thấp nhỏ này. Sau cùng ông gật đầu, nhìn lảng sang chỗ khác, ngượng ngùng vì phải chấp nhận đề nghị của lão phá bĩnh này.

Lão Tí-nị tươi tỉnh nói:

- Tôi biết là ông hiểu ý tôi.

Lão quay lại tôi:

- Mi đã lớn rồi. Ý ta là mi đã trưởng thành từ bên trong. Đó mới là điều quan trọng. Cuộc chiến của mi với người-sói và Murlough đã làm mi trưởng thành.

- Sao ông biết chuyện đó?

Ông Crepsley kinh ngạc hỏi lão. Vì chuyện đụng độ giữa tôi và người-sói có nhiều người biết, nhưng vụ quần nhau giữa chúng tôi và Murlough hoàn toàn không ai được biết. Nếu đám Ma-cà-chớp khám phá ra chuyện này, chúng sẽ truy lùng chúng tôi cùng trời cuối đất để giết bằng được, trả thù cho đồng loại.

Lão cười sằng sặc:

- Ta biết tất cả mọi chuyện. Thế giới này chẳng giữ được điều bí mật nào đối với ta.

Lão lại quay sang tôi nói:

- Mi đã vượt qua được một chặng đường dài. Nhưng vẫn còn con đường dài hơn nữa để vượt qua. Con đường trước mắt không dễ dàng đâu. Ta không chỉ nói đến đường lên Núi Ma-cà-rồng. Mi phải mạnh mẽ, tự tin vào chính bản thân mình. Đừng bao giờ chấp nhận đầu hàng, kể cả khi tưởng như không thể nào vượt qua nổi.

Chẳng bao giờ tôi ngờ lão thốt ra những lời này với mình. Tôi thẫn thờ lắng nghe và tự hỏi, vì sao lão lại ân cần dặn dò như vậy.

Lão Tí-nị đứng lên, xoa xoa cái đồng hồ hình trái tim, nói:

- Đó là tất cả những gì ta muốn nói. Thời gian có hạn. Chúng ta đều phải đến những nơi đúng hẹn. Ta cũng phải lên đường bây giờ. Chào Hibernius, Larten, Darren. Chắc chắn chúng ta sẽ còn gặp lại.

Lão nhẹ cúi đầu trước mỗi chúng tôi, tiến lại cửa, thoáng nhìn hai tên Tí-hon, rồi bước hẳn ra ngoài. Trong im lặng, chẳng ai nói năng gì, mọi người nhìn nhau, hoang mang không hiểu tất cả những chuyện vừa xảy ra có ý nghĩa gì.

Ông Crepsley không vui, nhưng không thể trì hoãn chuyến đi. Ông bảo, tới cuộc họp Hội đồng đúng giờ là điều quan trọng hơn bất cứ chuyện gì khác. Vì vậy trong khi hai tên Tí-hon chờ ngoài xe, tôi giúp ông đóng hành lý.

Chỉ bộ quần áo hải tặc sặc sỡ của tôi, sau nhiều năm vẫn mặc vừa, ông Crepsley bảo:

- Bộ này không hạp. Nơi chúng ta sắp đến, cháu sẽ nổi bật như một con công phùng xòe mất. Này.

Ông dúi cho tôi một bó quần áo. Đó là một cái mũ len và bộ đồ màu xám nhạt. Tôi hỏi:

- Ông sửa soạn những thứ này bao lâu rồi?

- Mới đây thôi.

Ông thú thật và thay vì bộ đồ trang trọng màu đỏ như thường khi, ông lấy ra một bộ màu sắc như của tôi.

- Ông không thể cho cháu biết chuyện này sớm hơn được sao?

Ông trả lời theo cái kiểu chỉ làm người nghe thêm tức:

- Có thể chứ.

Tròng lên người bộ đồ mới, tôi nhìn quanh tìm giày và vớ. Ông Crepsley lắc đầu:

- Không có gì đâu. Chúng ta để chân trần.

- Hả? Đi chân không trên băng tuyết sao?

- Chân ma-cà-rồng cứng rắn hơn con người. Cháu hầu như không cảm thấy lạnh đâu, nhất là khi đi bộ.

- Nhưng còn... gai góc, sỏi đá?

- Những thứ đó sẽ làm bàn chân cháu rắn chắc hơn.

Ông cười cười cởi bỏ giày, tiếp:

- Tất cả ma-cà-rồng đều phải làm như vậy. Đường lên Núi Ma-cà-rồng không chỉ là một cuộc du hành. Đó là một thử thách. Giày, ủng, áo khoác, dây thừng... đều không được phép mang theo.

- Điên!

Tôi chỉ biết vừa thở dài nói vừa bỏ lại cuộn dây và mấy bộ áo ấm. Xong xuôi, ông Crepsley hỏi ngay quý bà Octa đâu. Tôi làu bàu:

- Ông không có ý định đem mụ ta theo chứ?

Tôi biết tha theo con nhện độc đó, ai sẽ phải là người săn sóc nó. Kẻ đó chắc chắn không phải là ông ta. Ông Crepsley bảo:

- Ta muốn khoe nó cho một người.

- Mong sao đó là một người thích ăn thịt nhện.

Lần ra sau quan tài của ông, nơi tôi đặt lồng nhện sau mỗi buổi diễn. Ả bò quanh khi tôi nhấc lồng lên, nhưng nằm êm ru ngay, khi được trở lại bóng tối trong ba-lô của tôi.

Rồi cũng tới lúc lên đường. Trước đó, tôi đã chào tạm biệt Evra - anh đang phải sửa soạn cho buổi trình diễn đêm nay. Ông Crepsley cũng đã nói lời tạm biệt với ông Cao. Ngoài hai người đó, chẳng còn ai khác nhớ chúng tôi.

Ông hỏi tôi:

- Sẵn sàng chưa?

- Rồi.

Tôi thở dài nói. Bỏ lại sự an toàn lại trong xe, chúng tôi ra khỏi trại, hai tên Tí-hon lặng lẽ theo sau, để tiến vào một cuộc phiêu lưu bất trắc, trên vùng đất lạnh lẽo, xa lạ và ngập chìm trong máu

Chương 3

Tôi thức giấc trước khi trời tối hẳn, vươn vai cho xương cốt bớt tê nhức - vì làm gì có giường hay võng mà nằm. Ra khỏi cái hang chật hẹp, để có thể quan sát vùng đất cằn cỗi chúng tôi mới vượt qua. Di chuyển vào ban đêm, nên tôi chẳng thấy gì nhiều. Chỉ những lúc như thế này, tôi mới có thể ngừng lại để ngắm nhìn chung quanh.

Chưa tới vùng tuyết đổ, nhưng chúng tôi cũng đã bỏ lại đời sống văn minh lại phía sau. Nơi đất đai cằn cỗi toàn đá này, loài người đã quá xa xôi. Thậm chí thú rừng cũng hiếm. Những con đủ khỏe để lần mò vất vả kiếm ăn thì cũng chỉ là vài con nai, gấu hay chó sói.

Chúng tôi đã đi được mấy tuần, có lẽ là một tháng rồi. Chỉ sau vài đêm, tôi chẳng còn biết thời gian là gì nữa. Mỗi khi hỏi ông Crepsley còn bao nhiêu cây số nữa, ông chỉ cười bảo:

- Chúng ta đi được kha khá rồi.

Chân tôi rách nát vì phải đi trên đất cứng. Ông Crepsley dùng nhựa dược thảo hái dọc đường để đắp lên bàn chân tôi, cõng tôi vài đêm cho đến khi da chân tôi lành lặn (vết thương của tôi mau lành hơn người bình thường nhiều).

Một đêm tôi bảo, thật không may là vướng bận hai tên Tí-hon, nếu không có chúng, ông đã có thể cõng tôi mà phi hành (ma-cà-rồng có khả năng chạy nhanh vượt mọi tốc độ, một kiểu chạy siêu phàm, trôi tuột qua không gian cứ như con lươn trườn qua lưới vậy. Họ gọi phương pháp đó là phi hành). Nhưng ông Crepsley bảo, việc đi chậm của chúng tôi chẳng dính dáng gì tới mấy tên Tí-hon, vì:

- Đường lên Núi Ma-cà-rồng không được phép sử dụng thuật phi hành. Cuộc hành trình này là một cách nhằm loại bỏ sự yếu mềm. Trong một vài phương diện, ma-cà-rồng cứng rắn đến tàn nhẫn. Chúng ta không tin vào chuyện nâng đỡ những kẻ không đủ khả năng tự nâng đỡ mình.

- Chuyện đó chẳng hay ho gì. Thế những người già cả hay bị thương thì sao?

Ông Crepsley nhún vai:

- Một là phải gắng sức, hai là đành chịu chết.

- Ngốc. Nếu cháu biết phi hành, cháu sẽ phi hành ngay. Ai mà biết được.

Ông thở dài bảo:

- Cháu vẫn chẳng hiểu gì đường lối của chúng ta cả. Lừa dối nhằm qua mắt bạn bè là không cao thượng. Darren à, chúng ta là những sinh vật kiêu hãnh. Chúng ta sống bằng những quy ước đòi hỏi nhiều nỗ lực. Quan điểm của chúng ta là thà mất mạng chứ không để mất danh dự.

Ông Crepsley luôn nói về danh dự, sự cao thượng và sự trung thực với chính mình. Ông bảo, ma-cà-rồng là một trách nhiệm nghiêm khắc, phải cố gắng sống gần gũi với thiên nhiên. Đời sống của họ hiếm khi dễ dàng, thư thả, nhưng họ thích thú cuộc đời đó. Một lần ông nói với tôi:

- Đời là một sự thách thức. Chỉ những kẻ lớn lên trong thử thách mới thật sự hiểu ý nghĩa của cuộc đời.

Rồi tôi cũng quen dần với hai tên Tí-hon. Trong đêm tối, chúng âm thầm theo sau, giữ một khoảng cách rất chính xác. Ban ngày, khi chúng tôi ngủ, chúng tự săn mồi. Khi chúng tôi thức giấc, chúng ăn và tranh thủ ngủ vài tiếng, rồi lại tiếp tục lên đường. Bước chân chúng không hề thay đổi, đi sau chúng tôi chừng vài mét, như hai người máy. Tưởng đâu tên chân cà thọt sẽ vất vả lắm, nhưng tôi thấy hắn chưa tỏ chút dấu hiệu bị căng thẳng nào.

Gần như tôi và ông Crepsley sống nhờ máu nai. Máu nai nóng, mằn mặn và ngon. Chúng tôi cũng có mấy chai máu người để dùng cầm chừng, vì ma-cà-rồng cần một lượng máu người đều đặn mới bảo tồn được sức lực. Dù họ thích uống trực tiếp qua mạch máu hơn, họ vẫn lưu giữ máu trong chai. Tuy nhiên chúng tôi sử dụng thật dè xẻn, để dành khi gặp trường hợp khẩn cấp.

Ông Crepsley không cho tôi nhóm lửa ngoài trời - sợ gây chú ý - nhưng tôi được nhóm lửa trong những trạm nghỉ chân. Trạm nghỉ chân là những hang đá hoặc những động ngầm dưới đất. Tại đó luôn có sẵn nhưng chai máu và những cỗ quan tài để các ma-cà-rồng nghỉ ngơi, trú ẩn trong một vài ngày. Cả tuần mới gặp được một trạm nghỉ chân, tuy nhiên có trạm đã bị thú rừng xâm chiếm hay phá hủy.

Một hôm, vừa sưởi chân vừa nướng thịt hươu bên đống lửa, tôi hỏi:

- Vì sao họ cho phép thiết lập trạm nghỉ chân, nhưng lại không được đi giày và mang theo dây?

- Trạm nghỉ chân được thành lập từ sau cuộc chiến giữa chúng ta và ma-cà-chớp bảy trăm năm trước. Chúng ta đã bị mất nhiều bộ tộc trong cuộc chiến đó, nhưng loài người còn sát hại chúng ta nhiều hơn nữa. Dân số của chúng ta suy giảm khủng khiếp. Những trạm nghỉ chân được thành lập để đường lên Núi Ma-cà-rồng được dễ dàng hơn. Một số ma-cà-rồng phản đối và không bao giờ thèm ghé trạm nghỉ chân, nhưng đa số đều chấp nhận.

- Hiện nay có bao nhiêu ma-cà-rồng?

- Khoảng từ hai tới ba ngàn.

Tôi huýt sáo rồi bật kêu lên:

- Nhiều quá chứ!

- Ba ngàn chẳng là gì nếu so với mấy tỉ con người.

- Nhưng vẫn nhiều hơn cháu tưởng.

- Đã có lần, dân số chúng ta lên tới hơn một trăm ngàn. Nhưng con số khổng lồ đó là chuyện quá khứ rất xa rồi.

- Chuyện gì đã xảy ra với họ?

- Bị giết. Những cọc nhọn của loài người; rồi bệnh tật; rồi đánh nhau... Ma-cà-rồng là loài rất khoái choảng nhau. Trong nhiều thế kỷ, trước khi ma-cà-chớp ly khai và trở thành cừu địch của chúng ta, chúng ta quần thảo lẫn nhau. Nhiều kẻ đã chết trong những cuộc thách đấu. Chúng ta đi đến tình trạng gần tuyệt chủng, nhưng vẫn cố gắng sống còn.

Tôi tò mò hỏi:

- Có bao nhiêu Tướng quân Ma-cà-rồng?

- Chừng ba bốn trăm.

- Còn ma-cà-chớp?

- Có thể là khoảng hai trăm rưởi. Ta không thể nói chắc được...

Tôi đang ngồi nhớ lại cuộc chuyện trò đó, thì ông Crepsley từ trong hang ra, đứng nhìn mặt trời đang lặn. Mặt trời cũng màu cam vàng khè như mái tóc ngắn của ông.

Đêm càng trở nên dài hơn, chúng tôi càng đến gần Núi Ma-cà-rồng, vì vậy ông Crepsley càng có khả năng di chuyển nhiều hơn bình thường.

Hướng về phía mặt trời, ông nói:

- Nhìn mặt trời lặn luôn luôn là một điều thú vị.

- Cháu tưởng như vậy tuyết sẽ có sớm hơn.

- Tuyết sẽ sớm dày đặc. Chúng ta sẽ gặp những khối băng tuyết trong tuần này.

Ông nhìn xuống bàn chân tôi hỏi:

- Cháu nhắm qua khỏi cái giá lạnh khắc nghiệt này không?

- Cho đến lúc này cháu đã vượt qua được mà, đúng không?

- Chỉ là một phần đường dễ dàng thôi.

Thấy tôi nhăn mặt mất tinh thần, ông vỗ lưng tôi, cười nói:

- Đừng lo, cháu sẽ ổn thôi. Nhưng nếu chân bị rách lại, nhớ cho ta biết ngay. Dọc đường đi có vài bụi cây. Nhựa của chúng làm lành nhưng chỗ da bị rộp rất tốt.

Hai tên Tí-hon từ trong hang ra. Tên không bị thọt vác một con chồn chết.

Ông Crepsley hỏi tôi:

- Sẵn sàng chưa?

Tôi gật đầu, khoác ba-lô lên vai. Nhìn địa hình toàn đá trước mặt, tôi hỏi một câu như thường lệ:

- Còn xa lắm không?

Ông ma-cà-rồng vừa bước đi vừa nói:

- Chúng ta đi được kha khá rồi.

Ngoái nhìn lại cái hang ấm cúng, tôi lèm bèm rủa, rồi dấn bước theo ông. Hai tên Tí-hon tò tò phía sau. Chỉ một lát sau đó, tôi nghe tiếng nhai ròn tan. Chúng đang rau ráu nhai xương chồn.

Bốn đêm sau, chúng tôi gặp một trận tuyết đổ nặng nề. Trong mấy đêm liền chúng tôi đã phải vượt qua một vùng tuyết trắng phủ mênh mông, không chút gì của sự sống, nhưng sau đó, cây cối, thú vật lại xuất hiện.

Lê từng bước trên tuyết, tôi cảm thấy chân mình như hai tảng băng, nhưng cố nghiến răng vượt qua giá lạnh. Khốn khổ nhất là lúc thức dậy vào lúc chạng vạng tối, phải mất một vài tiếng bước đi trong trạng thái rất khó chịu của những ngón chân. Cảm giác như mười ngón chân sắp rụng rời hết ráo. Rồi máu huyết tuần hoàn bình thường và mọi chuyện đều ổn định lại... cho tới đêm sau.

Ngủ ngoài trời khó chịu vô cùng. Ông Crepsley và tôi nằm bên nhau, vẫn mặc nguyên quần áo (bộ đồ mặc suốt từ hôm bước vào vùng có tuyết), và kéo mấy tấm chăn cứng ngắc bằng da hươu phủ lên mình. Dù hơi người hai chúng tôi sưởi ấm cho nhau, nhưng vẫn lạnh thấu xương. Vậy mà quý bà Octa tỉnh bơ, ả ngủ ngon lành trong cái lồng an toàn, chỉ vài ngày mới thức dậy một lần, ních đầy bụng, lại ngủ tiếp. Ước gì tôi có thể đổi địa vị với con nhện độc này.

Nếu lạnh, hai tên Tí-hon cũng không để lộ ra một biểu hiệu gì. Khi muốn ngủ, chúng rúc vào một bụi cây, hay dựa vào một tảng đá là xong.

Gần ba tuần kể từ trạm nghỉ chân trước, chúng tôi mới lại gặp một trạm khác. Không còn có thể chờ được ngồi bên lửa, ăn thịt nấu chín nổi nữa; tôi chỉ mong được ngủ trong một chiếc quan tài hay bất kỳ thứ gì không cứng rắn và lạnh lẽo như mặt đất. Trạm nghỉ chân này ẩn mình trên một sườn dốc thấp, ngoài bìa rừng và bên một dòng suối lớn. Tôi và ông Crepsley nhắm thẳng tới đó, nhờ ánh trăng vằng vặc dẫn đường. Trong khi đó hai tên Tí-hon đi săn mồi. Chỉ mất mười phút là lên tới sườn dốc. Tôi vượt lên đi trước ông Crepsley để tiến vào cửa hang, háo hức nhóm một ngọn lửa. Ông bỗng níu vai tôi, nói nhỏ:

- Khoan.

- Sao vậy.

Tôi gắt gỏng. Sau mấy tuần ê ẩm vì ngủ trên mặt đất cứng còng làm tôi hay cáu kỉnh.

- Ta ngửi thấy mùi máu.

Tôi dừng lại, đánh hơi. Vài giây sau tôi cũng ngửi thấy mùi tanh tưởi.

Ông Crepsley thì thầm:

- Đứng sát sau ta. Chạy ngay khi ta ra lệnh.

Tôi ngoan ngoãn gật đầu, rồi theo ông rón rén vào hang.

Trong hang tối thui, nhất là vừa từ ngoài ánh trăng vào, vì vậy chúng tôi phải lần từng bước để mắt quen dần với bóng tối. Cái hang này sâu và lượn về bên trái, kéo dài chừng hơn hai mươi mét. Ngay giữa hang là ba cỗ quan tài đặt sẵn trên kệ, nhưng một cỗ đặt trên mặt đất, nắp bật sang một bên, và sát vách hang bên phải chúng tôi là những mảnh vụn của một chiếc quan tài khác.

Nền và vách hang, quanh chiếc quan tài tan nát, thẫm đen toàn máu. Không còn tươi, nhưng mùi máu cho biết nó chỉ cách nay chừng hai ba đêm trước. Ông Crespley kiểm tra khắp hang xem có kẻ nào khác nữa không, rồi lại gần, nhúng ngón tay vào vũng máu khô, đưa lên nếm thử.

Nhìn ông vê vê hai ngón tay, tôi hỏi:

- Sao?

- Máu của một ma-cà-rồng.

Ruột gan tôi lộn tùng phèo cả lên, vì tôi đã mong đó là máu của một con thú. Vừa định hỏi thêm, một âm thanh bất ngờ từ phía sau, một cánh tay mạnh mẽ cuốn quanh người tôi, và một bàn tay to lớn nắm lấy cổ họng tôi, và ngay khi ông Crepsley phóng tới, kẻ tấn công tôi bật lên tiếng kêu đắc thắng: "Ha!"

Chương 4

Trong khi tôi đờ người tuyệt vọng, vì mạng sống nằm trong tay kẻ đang ghì chặt mình, thì ông Crepsley nhảy vọt lên, mấy ngón tay phải xòe ra như mũi dao. Ông chẻ bàn tay qua đỉnh đầu tôi. Kẻ tấn công vội buông tôi ra, né tránh và nặng nề gieo mình xuống đất, khi ông Crepsley phóng qua. Ông Crepsley xoay mình, để ra đòn lần hai. Kẻ kia bỗng la lớn:

- Ngừng tay, Larten! Tôi đây. Gavner đây.

Ông Crepsley khựng lại. Tôi đứng dậy bật ho vì hoảng hốt nhưng không còn sợ nữa. Quay lại, tôi thấy một người vạm vỡ, mặt lằng nhằng sẹo, hai gọng kính đen thui quanh hai mắt. Ông ta mặc quần áo giống như chúng tôi, cái mũ vải kéo phủ hai tai. Tôi nhận ra ngay ông Gavner Purl - một Tướng quân Ma-cà-rồng - vì đã được gặp ông trước khi tôi đụng độ với Murlough.

- Anh ngốc kinh khủng, Gavner. Tôi suýt giết chết anh rồi. Lén lút theo chúng tôi chi vậy?

- Chỉ muốn làm anh bị bất ngờ thôi mà. Tôi đã theo anh gần suốt đêm, lúc này có vẻ đúng thời điểm để tiếp cận anh nhất.

Chỉ những vết máu trên nền và vách hang, ông Crepsley bảo:

- Đáng lẽ anh nên quan tâm đến những gì quanh đây hơn là theo dõi tôi và Darren.

- Quan tâm đến máu của ma-cà-chớp.

- Thật ra đó là máu của một ma-cà-rồng.

- Có biết là máu ai không?

- Không.

Gavner đi quanh hang quan sát vũng máu và chiếc quan tài vỡ nát. Không phát hiện được gì hơn, ông trở lại chỗ chúng tôi, gãi cằm, trầm ngâm nói:

- Có thể bị thú rừng tấn công. Một con gấu, cũng có thể nhiều hơn, bắt gặp anh ta đang ngủ ban ngày.

Ông Crepsley không đồng ý:

- Tôi không tin vậy. Gấu thì đã làm tung cái hang và những gì ở đây. Nhưng chỉ có một quan tài bị phá thôi.

Gavner nhìn những thứ khác vẫn còn ngăn nắp, gật đầu:

- Anh nghĩ chuyện gì đã xảy ra?

- Một cuộc chiến... giữa hai ma-cà-rồng, hoặc cuộc chiến giữa ma-cà-rồng đã chết kia với kẻ nào đó.

Tôi bật hỏi:

- Kẻ nào đến nơi khỉ ho cò gáy này?

Hai ông ma-cà-rồng nhìn nhau lo lắng. Gavner lẩm bẩm:

- Có thể là... những kẻ săn ma-cà-rồng.

Tôi nghẹn thở. Đã quá quen với đời sống của ma-cà-rồng, tôi suýt quên là, còn những con người trên đời này tin chúng tôi là quái vật, và họ có bổn phận truy lùng để giết chúng tôi.

Ông Crepsley nói:

- Cũng có thể, tình cờ con người bắt gặp anh ta và phát hoảng. Vì chuyện những kẻ săn ma-cà-rồng truy sát chúng ta là quá khứ xa xưa rồi. Đây có thể chỉ là một rủi ro thôi.

- Dù sao cũng không nên quanh quẩn tại đây chờ chuyện đó tái diễn nữa. Tôi đang tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng tốt nhất là đừng tự giam chúng mình trong hang này.

- Đồng ý.

Ông Crepsley trả lời. Nhìn khắp hang lần cuối, chúng tôi rút lui với tinh thần đầy cảnh giác trước từng dấu vết nhỏ nhất, phòng xa bị tấn công.

Chúng tôi trú đêm giữa một vành đai cây cối rậm rạp và nhóm một đống lửa nhỏ, vì cả ba đều lạnh buốt thấu xương. Khi đang bàn bạc về ma-cà-rồng mới chết và có nên tìm kiếm xác ông ta không, thì hai tên Tí-hon, ôm xác một con nai nhỏ, trở lại. Chúng trừng trừng nghi ngại nhìn ông Gavner. Ánh mắt ông nhìn lại chúng cũng không kém nghi ngờ. Ông ta rít lên hỏi ông Crepsley:

- Chúng dính dáng sao với anh vậy?

- Lão Tí-nị khăng khăng bảo tôi phải đưa chúng theo.

Gavner vừa định hỏi thêm. Ông Crepsley phẩy tay:

- Khoan. Ăn trước đã, rồi còn bàn về cái chết của người bạn chúng ta.

Nhờ cây cối phủ bóng râm, nên dù rạng đông đã lâu, chúng tôi vẫn ngồi bàn bạc về cái chết của ma-cà-rồng, nhưng vì hai ông quyết định không tìm kiếm xác quanh vùng nữa, vì sợ bị làm chậm chuyến đi, nên dần dần chuyển qua đề tài khác. Gavner lại hỏi về hai tên Tí-hon. Ông Crepsley kể lại vụ xuất hiện của lão Tí-nị và việc lão nhất quyết gửi hai tên đó đi cùng. Sau đó ông Crepesley hỏi lý do Gavner theo dõi chúng tôi.

Ông Gavner nói:

- Tôi biết việc anh sẽ trình diện Darren với các Ông Hoàng, vì vậy tôi tìm kiếm anh qua tâm trí. (Ma-cà-rồng có khả năng liên kết tâm trí với nhau). Dù có thể đi tắt theo hướng nam, rút ngắn cả trăm dặm, nhưng đi một mình chán ngắt, chẳng có ai chuyện trò.

Tôi chợt chú ý và hỏi vì sao bàn chân trái của ông Gavner bị mất mấy ngón

Ông hí hởn khoe:

- Phỏng lạnh đấy.

Ngó ngoáy mấy ngón còn lại, ông tiếp:

- Trong một kỳ Hội đồng trước, khi lên đây ta bị gãy chân, bò suốt năm đêm mới tới được một trạm nghỉ. Cũng may, nhờ là ma-cà-rồng nên không bị rụng ráo mấy ngón chân này luôn.

Hai ông bắt đầu nói chuyện quá khứ, bạn bè cũ và những kỳ Hội đồng trước kia. Tôi tưởng họ sẽ nhắc đến vụ Murlough - vì Gavner báo cho ông Crepsley biết sào huyệt của ma-cà-chớp - nhưng họ đã không đả động gì tới Murlough.

Gavner hỏi tôi:

- Cháu sao rồi?

- Dạ... cũng ổn.

- Sống với con ác là quạu cọ này mà không mệt mỏi sao?

Biết ông ám chỉ ông Crpesley, tôi cười nói:

- Cho đến bây giờ cháu vẫn đương đầu nổi mà.

- Có ý định hoàn tất không?

- Là sao? Cháu không hiểu?

Ông đưa cao tay để tôi nhìn thấy mười thẹo nhỏ trên mười đầu ngón tay - dấu hiệu quen thuộc của ma-cà-rồng - hỏi:

- Nghĩa là cháu có định trở thành một ma-cà-rồng trăm phần trăm không?

Tôi vội nói ngay:

- Không.

Liếc qua ông Crepsley, tôi nghi ngại hỏi:

- Cháu không phải làm điều đó, đúng không?

Ông Crepsley mỉm cười:

- Không đâu. Phải chờ khi cháu trưởng thành như tuổi người thường. Nếu chúng ta làm cháu hoàn toàn thành một ma-cà-rồng từ bây giờ, thì sáu bảy chục năm nữa cháu mới hoàn toàn trưởng thành.

Tôi thở dài:

- Đúng vậy.

- Với thời gian, mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn.

- Chắc phải ba mươi năm nữa cháu mới hoàn toàn lớn lên nổi.

Tôi phát oải, đứng dậy, lắc đầu. Cứ nghĩ đến cả mấy thập kỷ phải vượt qua mới trưởng thành là tôi không thể nào chịu nổi.

Nhìn tôi ra khỏi lùm cây, ông Crepsley hỏi:

- Cháu đi đâu vậy?

- Ra suối lấy nước.

Gavner bảo:

- Tôi hoặc anh nên đi với nó thì tốt hơn.

- Không sao đâu. Darren đâu phải là một đứa trẻ con.

Tôi nở nụ cười, vì lão ma-cà-rồng này hiếm khi ban cho tôi một lời khen. Xuống suối, nước lạnh buốt rầm rầm chảy xiết, đập mạnh vào cổ bình-tong và những ngón tay tôi. Nếu là một người thường, chắc chắn tôi đã bị phỏng lạnh, nhưng sức đề kháng của ma-cà-rồng cực mạnh.

Đang mở nắp bình tông thú hai, một làn hơi nước nhỏ từ bờ bên kia phả sang. Tôi ngước nhìn, kinh ngạc vì một con thú hoang dã đã tiến gần đến thế. Tôi nhìn trừng trừng vào đôi mắt hung dữ, đói khát của một con sói với những cái nanh nhọn hoắt.

Chương 5

Con sói lặng lẽ quan sát tôi, mũi nó chun lại trên hàm răng lởm chởm, đánh hơi. Không biết phải làm gì, tôi nhè nhẹ đặt bình nước xuống một bên. Nếu kêu cứu, con sói có thể hỏang sợ mà bỏ chạy, nhưng cũng có thể nó sẽ tấn công ngay. Nếu đứng im, có thể nó sẽ không chủ ý nữa mà sẽ bỏ đi; nhưng cũng lại có thể nó coi đó là dấu hiệu yếu kém của đối phương, và sẽ lao vào giết tôi đứ đừ.

Trong khi đang cố suy tính một cách tuyệt vọng, tôi thấy con sói nhúng hai chân sau, hạ thấp đầu, và chỉ với một cú nhảy, nó phóng qua suối. Nó nhào lên ngực tôi, xô ngả tôi xuống đất. Tôi cố vùng vẫy, nhưng không thể nào thóat khỏi con vật quá nặng đè trên người. Tôi quờ quạng hai tay, cố tìm một hòn đá, một cái cây, bất kỳ thứ gì có thể phang cho con qúai này một phát. Nhưng chẳng có gì ngoài tuyết.

Hình ảnh khủng khiếp của con sói sát mặt tôi. Lông mặt xám sịt, mõm đen thui, răng dài đến cả sáu phân, nhe ra trắng nhởn. Lưỡi thè lè, no hồng hộc thở, tòan mùi tanh tưởi của máu và thịt tươi.

Tôi chẳng có chút hiểu biết nào về lòai sói, trừ một điều: ma-cà-rồng không được uống máu sói. Vì vậy không biết phản ứng thế nào. Thụi ngay mặt hay đấm vào thân nó? Nằm im cho đến khi nó bỏ đi, hay la làng cho nó hoảng? Gĩưa lúc đầu óc tôi đang rối tung lên, con sói cúi đầu, thè lưỡi cái lưỡi ướt nhẹp mà... liếm mặt tôi.

Chết sững, tôi chỉ còn biết nằm đờ ra đó, trừng trừng nhìn cái hàm của con vậy khủng khiếp. Con sói liếm mặt tôi lần nữa, rồi bỏ đi. Nó đi ra suối, vục mõm xuống nước. Nằm thêm một lúc, tôi ngồi dậy nhìn con sói uống nước và nhận ra đó là một con sói đực.

Uống nước no nê, con sói đứng ngẩng cao đầu và tru lên. Từ sau những bụi cây bên kia suối, ba con sói khác xuất hiện. Chúng rón rén xống bờ suối, uống nước. Hai sói cái và một sói con, nhỏ hơn và sậm màu hơn.

Sói đực nhìn những con kia uống, rồi lại ngồi bên tôi. Nó rúc vào long tôi như một con chó. Trước khi kịp nhận ra mình làm gì, tôi vòng tay, gãi sau tai nó. Nó rên lên thích thú, rồi nghiêng đầu để tôi gãi tai kia.

Một sói cái uống nước xong, nhảy qua suối, chạy đến đánh hơi chân tôi, rồi cùng ngồi xuống vươn đầu cho tôi gãi. Con sói đực gầm gừ ganh tỵ, nhưng ả làm lơ.

Hai con sói còn lại cùng nhảy ua suối nhập bầy. Nhưng sói cái tới sau tỏ ra e thẹn hơn, cô ả loanh quanh cách tôi mấy mét. Sói con chẳng sợ sệt gì, tỉnh bơ leo lên đùi, lên bụng tôi, đánh hơi như một chú chó săn. Vừa định vươn chân bôi lem nhem lên đùi tôi, cu cậu bị sói đục ngọam cổ quăng xuống đất. Chú nhóc ấm ức kêu ăng ẳng, rồi mon men lại, leo lên đùi tôi. Rất may là lần này nó không bôi lem nhem lên tôi để đánh dấu lãnh thổ của nó nữa.

Tôi ngồi đó thật lâu, chơi đùa với sói con và hai sói lớn. Sói đực nằm ngửa để tôi gãi bụng. Lông bụng nó nhạt màu hơn, chỉ trừ một sọc đen chạy dọc than. "Sọc" có vẻ thích hợp để đặt tên cho anh sói này, vì vậy tôi gọi nó là Sọc.

Thử xem chúng có biết làm trò gì không, tôi tìm một cái que, ném ra xa, la lớn:

- Bắt đi, Sọc, bắt đi.

Nhưng anh chàng ngẩn ra, không nhúc nhích. Tôi ngồi xổm, ra lệnh:

- Sọc, ngồi.

Nó nhìn tôi lom khom.

- Sọc, ngồi thế này này.

Con Sọc giật lùi, như sợ tôi sắp nổi cáu. Con sói nhóc khóai chí, hí hởn nhảy phóc lên tôi, làm tôi bật cười ha hả, chấm dứt màn huấn luyện.

Sau đó tôi trờ lại nơi cắm trại, để khoe bạn mới với hai ma-cà-rồng. Chỉ mình con Sọc đi sát bên tôi. Ba con kia đi phía sau.

Hai ông Crepsley và Gavner vẫn ngủ khò dưới lớp chăn da nai. Ông Gavner ngáy rầm rầm. Hai cái đầu ló ra ngòai lớp chăn, trông như hai em bé xấu xí nhất trên đời. Ước gì có máy chụp hình có thể chụp được ma-cà-rồng, tôi sẽ bấm ngay một pô.

Vừa định chui tọt vào chăn, tôi chợt nảy ra một ý. Tôi dỗ dành mấy con sói đang ngầm ngừ đứng bên hàng cây cùng chỗ chúng tôi ngủ. Con Sọc vào trước. Nó đánh hơi hai lão ma-cà-rồng, cảm thấy yên tâm, nó gừ gừ nho nhỏ, ba con sói kia cũng vào nhưng né xa Crepsley và Gavner.

Nằm một bên đống lửa, tôi nâng cao tấm chăn, mời mấy con sói vào ngủ chung. Chúng không chui vào chăn. Chỉ mỗi chú nhóc lon ton định chạy vào, lập tức bị mẹ nó ngoặm cổ kéo ra. Nhưng khi tôi vừa phủ chăn, nằm xuống, chúng- kể cả con sói e tẹn - bò lên mình tôi mà nằm. Vừa nặng vừa hôi long rinh rich, nhưng hơi ấm của chúng thật tuyệt. Nhờ vậy, dù nằm gần cái hang có một ma-cà-rồng vừa mới bị giết chết, tôi vẫn ngủ thỏai mái, ngon lành.

Tôi thức giấc vì một tiếng gầm gừ giận dữ. Ngồi bật dậy, tôi thấy ba con sói lớn quây quần thành một nửa vòng tròn trước mặt, con đục đứng giữa. Chú sói nhóc lúp ló sau tôi. Vòng ngòai là hai tên Tí-hon. Tay chúng khùynh khùynh đang tiến lại bầy sói.

Đứng phắt dậy, tôi gào lên:

- Ngừng lại.

Bên kia đống lửa - đã tắt ngấm trong khi tôi ngủ - hai ông Crepsley và Gavner chòang tỉnh, lăn ra khỏi chăn. Tôi nhảy tới, đứng chặn trước con Sọc, quát tháo hai tên Tí-hon. Chúng trừng trừng nhìn tôi qua lớp vãi mũ trùm đầu. Lờ mờ dưới lớp vải, tôi thóang thấy đôi mắt to xanh lè của tên đứng gần hơn.

Ông Gavner kèm nhèm hỏi:

- Chuyện gì vậy?

Tên Tí-hon đứng gần tôi, chỉ mấy con sói rồi xoa xoa bụng. Đó là dấu hiệu n1o đang đói. Tôi lắc đầu:

- Không được. Không được đụng tới mấy con sói. Chúng là bạn của ta.

Tên Tí-hon vẫn tiến lên, nhưng tên đứng sau - Chân-trái - níu tay nó lại. Nó nhìn Chân-trái, đứng lặng một lúc rối lê bước trở lại mấy con chuột mới săn được. Đôi mắt xanh sau lớp vải của Chân-trái ngập ngừng nhìn tôi, trước khi nó đi theo người an hem của nó ( tôi luôn cho rằng đó là hai anh em).

- Ta thấy cháu vừa gặp mấy họ hàng của chúng ta?

Vừa nói, ông Crepsley vừa tiến gần đống lửa đã tàn, hai bàn tay ngử ra, để bày sói khỏi cảnh giác. Chúng gầm gừ, nhưng ngày khi đánh hơi ông, chúng lặng lẽ ngồi xuống, dù mắt vẫn dè chừng về phía hai tên Tí-hon đang nhóp nhép nhai.

Tôi hỏi lại ông Crepsley:

- Họ hang nào?

- Sói và ma-cà-rồng là bà con của nhau. Theo truyền thuyết, ngày cưa chúng ta và sói từng là một lòai, như con người và khỉ vậy. Một số trong chúng ra tập đi hai chân và trờ thành ma-cà-rồng, số còn lại vẫn mang kiếp sói.

- Có đúng thế không?

- Đó là truyền thuyết. Làm sao ta biết là đúng hay không.

Ông khom mình, lặng lẽ quan sát con Sọc. Nó xù long đầu, bờm và hau tai dựng ngược lên. Ông Crepsley vuốt ve cái mõm dài của nó, lẩm bẩm:

- Một kiểu mẫu hàon hảo. Đúng là một lãnh đạo bẩm sinh.

Tôi bảo:

- Cháu gọi nó là Sọc, vì dưới bụng nó có một sọc đen.

- Sói đâu có tên. Chúng đâu phải là chó.

Gavner đến gần bạn:

- Thôi nào đừng cố chấp chứ. Nếu Darren thích, cứ để nó đặt tên, có hại gì đâu.

Ông Crepsley đồng ý, rồi đưa tay cho ai sói cái. Cả hai, kể cả cô nàng e thẹn, tiến lại liếm tay ông.

Ông Crepsley nói không giấu được vẻ hãnh diện:

- Ta luôn biết cách cư xử với lòai sói.

Tôi hỏi:

- Sao chúng tỏ ra thân mật quá vậy. Cháu tưởng, sói gặp người là trốn chạy liền.

- Đối với người thôi, còn với ma-cà-rồng lại khác. Mùi của chúng ta giống chúng. Chúng nhận ra quan hệ họ hàng mà. Những con sói này chắc đã từng gặp lòai chúng ta, vì không phải con sói nào cũng thân thiện đâu. Tuy nhiên, không có con sói nào tấn công một ma-cà-rồng, dù đang bị đói.

- Ngòai bốn con này, cháu có thấy con nào nữa không?

Ông Gavner hỏi. Tôi lắc đầu. Ông lại nói:

- Vậy là, chắc chúng đã lên Núi Ma-cà-rồng, nhập với những bầy kia.

- Chúng lên Núi ma-cà-rồng làm gì?

- Mỗi khi có cuộc họp Hội đồng, sói đều lên núi. Vì chúng bảo biết sẽ kiếm được cả đống đồ ăn thừa. Những tay bảo vệ trên Núi Ma-cà-rồng đã tích trữ đồ ăn cả năm dành cho Hội nghị. Đồ ăn thừa rất nhiều. Họ đổ ra ngòai cho đám thú rừng dọn dẹp.

Tôi bình phẩm:

- Vượt đường xa vất vả thế, chỉ để có được một tí đồ ăn thừa.

Ông Crepsley bảo:

- Không phải chỉ vì tí đồ ăn thôi đâu. Chúng họp bầy để chào bạn cũ, kết bạn và chia sẽ kỷ niệm.

- Sói có thể trao đổi thông tin với nhau sao?

- Chúng có khả năng truyền những ý nghĩ đơn giản cho nhau. Chúng không thể nói một cách thực sự, vì lòai sói không có ngôn ngữn nhưng có thể chia sẽ cho nhau hình ảnh, bản đồ những nơi có thể săn mồi được nhiều hay ít.

Gavner lên tiếng:

- Nói đến mồi mới nhớ, chúng ta đã cạn đồ ăn. Mặt trời đang lặn, tới giờ lên đường rồi. Larten, anh chọn đường vòng xa quá, không gấp rút là bị trễ cuộc họp mất.

Tôi hỏi:

- Còn những lối đi khác nữa sao?

- Tất nhiên. Cả chục lối đi. Vì vậy mà ngòai ma-cà-rồng bị giết, chúng ta chẳng gặp ma-cà-rồng nào khác nữa. Mỗi chúng ta đi một ngả khác nhau.

Chúng tôi cuốn chăn, rồi khởi hành. Dọc đường, hai ông chăm chú quan sát cố tìm kiến dấu vết của kẻ giết ma-cà-rồng trong hang. Mấy con sói đi sát bên chúng tôi suốt mấy tiếng, né xa hai tên Tí-hon, rồi tiến lên, biến dạng vào đêm tối.

Tôi hỏi:

- Chúng đi đâu vậy?

Ông Crepsley trả lời:

- Đi săn.

- Liệu chúng có trở lại không?

- Trở lại là cái chắc.

Chạng vạng sáng, khi chúng tôi nghĩ chân, bốn con sói trở lại, dọn chỗ ngủ bên cạnh và trên mình chúng tôi. Tôi ngủ ngon lành, chỉ hơi khó chịu vào lúc buổi trưa. Vì cái mũi lạnh ngắt của con sói nhóc dụi vào tôi, khi nó rúc vào chăn, nằm sát bên mình.

Chương 6

Mấy đêm đầu, sau khi phát hiện những vết máu trong hang, chúng tôi rất cảnh giác trên đường. Nhưng không bắt gặp dấu hiệu nào của thủ phạm nữa, chúng tôi tạm quên mọi lo âu, cố vui với những vất vả dọc đường.

Đi cùng bầy sói thật thú vị. Ngắm nhìn chúng và hỏi han thêm ông Crepsley, tôi học được rất nhiều. Ông tự cho mình là chuyên gia về sói.

Sói không nhanh nhẹn, nhưng chúng không hề mệt mỏi. Đôi khi chúng lang thang đến sáu bảy chục cây số một ngày. Thường săn thú nhỏ, nhưng thỉng thỏang chúng kết bầy để truy đuổi nạn nhân to lớn hơn. Gíac quan của chúng - nghe,nhìn,đánh hơi - rất nhạy. Mỗi bầy có một con đầu đàn, và chúng phân chia lương thực rất đồng đều. Chúng là những nhà leo núi đại tài, bất chấp mọi địa hình.

Chúng tôi thường cùng nhau săn bắt. Dưới trời đêm đầy sao, trên mặt đất đầy tuyết trắng lấp lành sáng ngời, cuộc tranh đua cùng bầy sói - rượt đuổi theo một con nai, hay một con chồn - diễn ra đầy sôi nổi hào hứng. Có bầy sói, thời gian trôi thật nhanh, đường xa rút ngắn lại đến không ngờ.

Một đêm trời lạnh nhưng trong vắt, chúng tôi tới một thung lũng, giữa hai ngọn núi cao, phủ tòan cây tầm xuân. Gai của giống cây này tại đây vừa to vừa sắc bén khác thường - cho dù là da của ma-cà-rồng thứ thiệt, chúng đâm qua ngọt sớt! Chúng tôi ngừng lại trước thung lung để hai ma-cà-rồng tính tóan.

Ông Crepsley trầm ngâm nói:

- Có thể leo lên sườn núi, nhưng Darren không thể leo được như chúng ta, nếu trượt chân chắc chắn nó sẽ bị thương.

Gavner đề nghị:

- Sao không đi đường vòng?

- Qúa xa.

- Hay là đào đường ngầm?

- Cũng vậy thôi, mất quá nhiều thời giờ. Chỉ có cách vượt qua rất thận trọng.

Ông Crepsley vừa nói vừa cởi quần áo. Gavner làm theo. Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Sao lại cởi đồ hết vậy?

- Quần áo có thể bảo vệ chúng ta chút đỉnh, nhưng ra khỏi đây là te tua. Đây là cách tốt nhất giữ cho y phục lành lặn.

Khi Gavner cởi quần dài, chúng tôi thấy quần đùi của ông có thêu mấy con vui nhỏ màu hồng. Ông Crepsley nhìn cái quần đùi đầy nghi hoặc. Gavner đỏ mặt, lung búng nói:

- Đây là một quà tặng.

- Từ một phụ nữ thuộc lòai người mà anh đã từng có một mối tình lãng mạng, phải không?

Ông Crepsley hỏi. Khóe miệng luôn khắc khở, nhếch lên thành nụ cười hiếm hoi.

Gavner thở dài, vuốt ve một con voi:

- Đó là một người đàn bà đáng yêu, nhưng... rất nghèo thẩm mỹ về... quần lót...

- Và bạn trai.

Nghe tôi láu lỉnh đế thêm, ông Cepsley bật cười sằng sặc, cười gập cả mình, nước mắt chảy tùm lum. Chưa bao giờ tôi thấy lão ma-cà-rồng này cười khiếp thế. Thậm chí chưa bao giờ tôi nghĩ là ông ta biết cười. Gavner cũng thô lố mắt, kinh ngạc nhìn bạn.

Một lúc lâu sau, ông Crepsley mới nín nổi cười. Khi lau nước mắt và trở lại vẻ u ám bình thường, ông nói lời xin lỗi (cứ làm như cười là cái tội vậy). Sau đó ông xoa lên da tôi một chất hôi rình, để làm liền các lỗ chân long, cho da cứng cáp hơn. Không chút chần chừ thêm nữa, chúng tôi tiến tới. Chuyến đi vừa chậm chạp vừa đầy đau đớn. Dù vô cùng thận trọng, cứ vài bước là tôi lại bị gai đâm, cây quào. Tôi cố gắng bảo vệ mặt, nhưng mới được nửa đường, mặt tôi đã đầy vạch vết rạch sâu đỏ hoe.

Dù áo quần tơi tả, hai tên Tí-hon vẫn sùm sụp kín mít trong bộ đồ xanh. Một hồi sau, ông Creapsley bảo chúng đi lên phía trước, vậy là chúng phải chịu đựng gai cào khốn khổ để mở đường cho chúng tôi. Chúng vẫn lặng lẽ, không hề phàn nàn. Tội nghiệp quá!

Mấy con sói thì rất thỏai mái. Chúng sinh ra cho những địa hình như thế này mà. Len lỏi, luồn lách qua những bụi gai tầm xuân ngon ơ. Nhưng chúng có vẻ không vui. Suốt đêm, đi bên chúng tôi, chúng luôn nghi ngờ đánh hơi. Cảm thấy là chúng tôi rất bồn chồn, nhưng chúng tôi không hiểu vì sao.

Chăm chú nhìn xuống, thận trọng né từng bụi gai, tôi bỗng đụng phai ông Crepsley vừa thình lình đứng khựng lại. Nhìn qua vai ông, tôi hỏi:

- Chuyện gì vậy?

Không trả lời tôi, ông gọi:

- Gavner!

Ông Gavner vượt qua tôi, thở hồng hộc (chúng tôi vẫn thường chọc ghẹo ông ta về hơi thở nặng nề này). Tôi nghe ông hự một tiếng khi tới gần ông Crepsley. Tôi lại hỏi:

-Cái gì vậy? Cho cháu xem với.

Hai người tách ra, và tôi thấy một mảnh vải nhỏ xíu mắc trên bụi tầm xuân. Mấy giọt máu khô còn dính trên đầu ngọn gai.

Hai ông ma-cà-rồng lo lằng nhìn quanh, y như thái độ của bầy sói trong mấy đêm nay. Gavner hỏi tôi:

- Cháu không ngửi thấy gì sao?

- Mùi gì?

- Máu.

Tôi đánh hơi. Chỉ thoang thỏang mùi máu khô. Tôi lại hỏi:

- Mùi máu khô, có gì đâu?

Ông Crepsley nhặt mảnh vải - bầy sói bỗng tri lớn hẳn lên - dí gần mũi tôi, ông bảo:

- Hãy nghĩ lại sáu năm trước. Hít thật sâu vào. Có nhớ gì không?

Tôi không nhớ ran gay - giác quan tôi không nhay như ma-cà-rồng chính hiệu - nhưng rồi tôi nhớ lại cái đêm dài dằng dặc trong phòng ngủ của Debbie Hemlock, nhớ lại mùi máu của Murlough điên lọan, khi hắn nằm hấp hối trên sàn. Mặt tôi trắng nhợt khi nhận ra... đậy là máu của một ma-cà-chớp!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#tellme