Những chặng đường vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hội nghị thành lập Đảng - Chấm dứt khủng hoảng về đường lối cứu nước
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam cuối những năm 20 của thế kỷ XX đòi hỏi phải có một Đảng Cộng sản đảm nhiệm vai trò lãnh đạo cách mạng thay cho Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Tháng 3/1929, những người tích cực nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên Bắc Kỳ đã thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên tại nhà số 5D phố Hàm Long (Hà Nội) và thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng ngày 17-6-1929. Tổng bộ thanh niên và Kỳ bộ Nam Kỳ cũng cải tổ thành An Nam Cộng sản Đảng vào tháng 8/1929. Ngày 1/1/1930, những đại biểu Tân Việt cách mạng Đảng đã ra “Tuyên đạt” chính thức lập ra Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.


Nguyễn Ái Quốc đầu những năm 1930


Ngày 27/10/1929, Quốc tế Cộng sản gửi thư cho những người cộng sản Đông Dương yêu cầu các tổ chức cộng sản chấm dứt chia rẽ, công kích lẫn nhau, đồng thời xúc tiến việc hợp nhất thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở Đông Dương. Từ ngày 6/1 đến 7/2 năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời triệu tập và chủ trì Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Hội nghị họp tại bán đảo Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc) gồm đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh) và An Nam Cộng sản Đảng (Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm), lãnh thụ Nguyễn ái Quốc là đại diện của Quốc tế cộng sản. Lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đã phân tích về vai trò, trách nhiệm của những người cộng sản trước vận mệnh dân tộc, về đòi hỏi của sự đoàn kết nhất trí của những người cộng sản Việt Nam.
Các đại biểu đã nhất trí hợp nhất hai tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng đã nêu những vấn đề cơ bản về đường lối của cách mạng Việt Nam, là  tuyên bố về sự lựa chọn con đường phát triển cách mạng Việt Nam của Đảng ta khi mới ra đời. Cương lĩnh xác định chiến lược cách mạng của Đảng là tiến hành cuộc “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là cuộc cách mạng vô sản do giai cấp công nhân lãnh đạo và là cuộc cách mạng không ngừng. Luận điểm cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Ngày 24/2/1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đề nghị Ban chấp hành lâm thời kết hợp tổ chức này vào Đảng, việc hợp nhất ba tổ chức cộng sản đã được hoàn thành trên thực tế.
Sự kiện thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam, chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam hàng thế kỷ. Từ đây, cách mạng Việt Nam chuyển sang một thời kỳ phát triển mới.
Sôi sục cao trào cách mạng những năm 1930 - 1931
Ngay sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh tạo nên những cao trào cách mạng rộng lớn trong những năm 1930 - 1931. Quần chúng công nông và các tầng lớp xã hội khác đã tập hợp dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng. Đỉnh cao của phong trào cách mạng những năm 1930 - 1931 là Xô-viết Nghệ - Tĩnh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng cách mạng đã vùng lên, trừng trị bọn cường hào, phản động, tay sai thực dân Pháp, thành lập chính quyền cách mạng ở một số nơi theo hình thức Xô-viết, thực hiện chính sách tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Xô-viết Nghệ - Tĩnh là cuộc tổng diễn tập cách mạng đầu tiên.


Lược đồ phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh


Cao trào cách mạng 1930 - 1931 tuy bị thực dân Pháp đàn áp khốc liệt nhưng nó đã khẳng định trên thực tế đường lối cách mạng Việt Nam do Đảng đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công-nông, về xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền. Trong lúc cao trào cách mạng diễn ra sôi sục ở trong nước thì Hội nghị lần thứ nhất BCH T.Ư Đảng được triệu tập tại Hương Cảng (Trung Quốc) từ ngày 14 đến 31/10/1930 do đồng chí Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã thông qua Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, dự thảo Luận cương Chính trị của Đảng do đồng chí Trần Phú khởi thảo, thông qua Điều lệ Đảng và Điều lệ các tổ chức quần chúng. Theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương; bầu BCH Trung ương chính thức của Đảng. Đồng chí Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư.


Đồng chí Trần Phú (1904-1931)


Luận cương Chính trị được Hội nghị BCH T.Ư Đảng thông qua đã phân tích sâu sắc tình hình thế giới, trong nước và nhận định chủ nghĩa tư bản đã chấm dứt thời kỳ tạm ổn định và chuyển sang thời kỳ tổng khủng hoảng. Cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa đã phát triển tới trình độ cao. Phong trào cách mạng thế giới ảnh hưởng rất mạnh đến phong trào Đông Dương. Vì vậy, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Đông Dương phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng thế giới.
Luận cương Chính trị của Đảng khẳng định: “Điều cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chính trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lê-nin làm gốc”.
Với việc thông qua Luận cương Chính trị, Hội nghị T.Ư Đảng lần thứ nhất đã khẳng định những vấn đề căn bản về chiến lược cách mạng Việt Nam.
Đại hội lần thứ I của Đảng - Củng cố và phát triển Đảng
Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố, đàn áp cao trào cách mạng những năm 1930 - 1931.
Vượt qua cuộc khủng bố trắng khốc liệt, Đảng ta và phong trào cách mạng không những không bị tiêu diệt  mà cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng vẫn tồn tại và phát triển từ Trung ương đến địa phương. Đồng chí Lê Hồng Phong, Uỷ viên Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản, cùng các đồng chí lãnh đạo trong nước tổ chức khôi phục phong trào, tổ chức đảng, tiến hành chuẩn bị Đại hội Đảng.
Trên cơ sở phong trào cách mạng được phục hồi và sự chuẩn bị từ trước, từ ngày 27 đến 31/3/1935, Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng được họp tại Ma Cao (Trung Quốc) với sự tham dự của 13 đồng chí đại biểu thay mặt 6000 đảng viên đang hoạt động ở trong nước. Trên cơ sở phân tích tình hình trong nước và quốc tế, Đại hội đã đề ra ba nhiệm vụ chủ chốt của toàn Đảng trong thời gian trước mắt là: Củng cố và phát triển Đảng, tranh thủ quần chúng rộng rãi, chống chiến tranh đế quốc; thông qua Nghị quyết chính trị và điều lệ Đảng, các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính…
Đại hội bầu BCH T.Ư Đảng gồm 13 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc được cử làm đại diện của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản. Đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Tháng 7/1936, đồng chí Hà Huy Tập được cử làm Tổng Bí thư của Đảng. Và sau đó, tháng 3/1938 đồng chí Nguyễn Văn Cừ được làm Tổng Bí thư.
Đại hội lần thứ I của Đảng đánh dấu sự khôi phục tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước ra ngoài nước, thống nhất các phong trào đấu tranh cách mạng của các giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của BCH Trung ương…
Đại hội lần thứ II của Đảng - Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa ra đời, đã phải đối mặt với những thử thách hiểm nghèo, thù trong, giặc ngoài và hậu quả chính sách của phát xít Nhật làm hai triệu đồng bào bị chết đói. ở miền Nam, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nấp sau lưng quân đồng minh Anh, huy động lực lượng mạnh đánh chiếm TP Sài Gòn. Chỉ được hưởng nền độc lập, tự do 21 ngày kể từ ngày 2/9, đồng bào, đồng chí Sài Gòn - Gia Định cùng đồng bào Nam Bộ đã tiến hành cuộc kháng chiến cứu nước. Hàng nghìn, hàng vạn thanh niên miền Bắc hưởng ứng phong trào tòng quân giết giặc, chi viện sức người, sức của cho miền Nam - Thành đồng Tổ quốc.


Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (2/1951)


Ở miền Bắc, thực hiện âm mưu của đế quốc Mỹ, 200 nghìn quân Tưởng tràn vào lãnh thổ, bọn tay sai phản động nhân cơ hội này dựng lên những đảng phái phản động Việt quốc, Việt cách… Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện chủ trương chính sách cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 với Pháp để đuổi quân Tưởng ra khỏi đất nước. Đảng và Bác Hồ lãnh đạo củng cố chính quyền cách mạng non trẻ, tiến hành Tổng tuyển cử, bầu Quốc hội khoá I, thành lập Chính phủ, ban hành Hiến pháp năm 1946. Cách mạng nước ta dần thoát khỏi thế hiểm nghèo chuyển sang củng cố thực lực vững chắc, sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược ở quy mô lớn. Dã tâm cướp nước ta một lần nữa, ngày 19/12/1946, chỉ huy Pháp gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta đòi tước vũ khí của lực lượng tự vệ, giành quyền kiểm soát Thủ đô Hà Nội. Ban Thường vụ T.Ư Đảng họp mở rộng từ ngày 18 đến 19/12/1946 tại làng Vạn Phúc, Hà Đông nêu quyết tâm tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Cùng ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người nói: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Ngày 22/12/1946, Ban Thường vụ T.Ư Đảng ra “Chỉ thị toàn dân kháng chiến”, xác định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính. Đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng đã nhanh chóng tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân. Chiến thắng Việt Bắc (thu đông 1947) làm phá sản chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp. Cuộc kháng chiến được đẩy tới cao trào trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự, ngoại giao. Chính quyền nhân dân tiếp tục được củng cố.
Sau chiến thắng vang dội của chiến dịch Biên giới (thu đông 1950), toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chào đón sự kiện lịch sử quan trọng: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng. Từ 11 đến 19/2/1951, Đại hội họp tại Chiêm Hoá, Tuyên Quang. Đại hội đã tổng kết quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp và hoàn thiện đường lối cách mạng dân chủ nhân dân. Đại hội bầu đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư.
Từ Đại hội lần thứ II, Đảng của những người cộng sản Việt Nam mang tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, các Hội nghị T.Ư tiếp theo đã quyết định nhiều vấn đề cụ thể để thúc đẩy cuộc kháng chiến. Với các chiến thắng ở Tây Bắc, Thượng Lào, đồng bằng Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, Liên khu V, Nam Bộ, thế trận chiến tranh nhân dân phát triển, thế chủ động trên chiến trường của ta được giữ vững. Các mặt trận chính trị, kinh tế, ngoại giao tiếp tục phát triển và giành nhiều thắng lợi quan trọng. Tháng 9/1953, Bộ Chiính trị T.Ư Đảng quyết định thông qua kế hoạch tác chiến đông xuân 1953 - 1954, giữ vững quyền chủ động đánh địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng, phối hợp trên phạm vi cả nước và phối hợp trên toàn lãnh thổ Đông Dương nhằm phá tan kế hoạch Na-va của địch. Nắm vững quyền chủ động chiến lược, Bộ Chính trị T.Ư Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Qua 56 ngày đêm anh dũng chiến đấu, ngày 7/5/1954, quân và dân ta đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ đã buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương, chấm dứt chiến tranh, tạo ra bước ngoặt quan trọng cho cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên…
Đại hội lần thứ III của Đảng - Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam còn tạm thời nằm dưới quyền kiểm soát của Mỹ- nguỵ. Vì vậy, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH ở miền Bắc và tiến hành đấu tranh để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Ở miền Bắc, Đảng lãnh đạo hoàn thành cải cách ruộng đất, tiến hành khôi phục kinh tế bằng kế hoạch ba năm (1954 - 1957); cải tạo XHCN (1958 - 1960); tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang để bảo vệ miền Bắc, chi viện cho miền Nam. Những tiến bộ về kinh tế - xã hội tạo điều kiện cho văn hoá, giáo dục, y tế phát triển. Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được công bố ngày 01/01/1960 là thắng lợi lớn của chế độ mới. Chủ trương của Đảng đưa miền Bắc đi lên theo con đường CHXN là một thắng lợi to lớn trong chiến lược cách mạng Việt Nam. Đó là cơ sở vững chắc, là hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam, nhân tố quyết định cho sự nghiệp hoàn thành thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên CNXH.


Đoàn Chủ tịch Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960)


Ở miền Nam, thời kỳ đầu so sánh lực lượng bất lợi cho ta, Đảng chủ trương bảo toàn lực lượng, sử dụng các hình thức đấu tranh chính trị hoà bình, tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Tháng 1/1959, Hội nghị lần thứ 15 (mở rộng) BCH T.Ư Đảng thông qua Nghị quyết về đường lối cách mạng miền Nam, chủ trương dùng bạo lực cách mạng để giải phóng miền Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 (khoá II) là một nghị quyết lịch sử, rất quan trọng, tạo nên bước chuyển biến lớn lao đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân cả nước, thúc đẩy phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam tiến lên. Từ cuộc nổi dậy ở Bác Ái (2/1959), Trà Bồng (8/1959) đã lan rộng ra khắp miền Nam thành phong trào “Đồng khởi” ở Bến Tre (1/1960) phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ. Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời chủ trương đoàn kết quân dân, đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai.
Giữa lúc cách mạng miền Nam giành nhiều thắng lợi trong phong trào “Đồng khởi” từ đầu năm 1960 và công cuộc cải tạo XHCN, phát triển kinh tế ở miền Bắc thu được kết quả to lớn, Đảng ta tiến hành Đại hội. Đại hội lần thứ III của Đảng họp từ ngày 5/9 đến 10/9/1960 tại Thủ Đô Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minih nói: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình, thống nhất nước nhà. Đại hội lần thứ III của Đảng đã xác định nhiệm vụ chung của cả nước, nhiệm vụ của hai miền và mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thông qua kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961 - 1965). Đại hội bầu BCH T.Ư Đảng. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất BCH T.Ư Đảng.
Đại hội lần thứ IV của Đảng - Đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội

Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm nên chiến thắng vĩ đại; giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới.
Ngày 25/4/1976, nhân dân cả nước nô nức tham gia cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trên một đất nước hoà bình, độc lập, thống nhất. Kỳ họp thứ  nhất của Quốc hội khóa VI tại Hà Nội đã ra quyết định lịch sử, đặt tên nước là: Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đây, đất nước ta có nhiều thuận lợi để xây dựng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, như điều Bác Hồ hằng mong muốn.
Trong không khí phấn khởi tràn ngập trên khắp cả nước, Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến 20/12/1976, tại Hà Nội, với sự tham dự của 1.008 đảng viên thay mặt hơn 1,55 triệu đảng viên trong cả nước. Dự Đại hội có 29 đoàn đại biểu quốc tế. Đại hội nghe Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành T.Ư Đảng; báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch năm năm (1976 - 1980); Báo cáo tổng kết về công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng. Đại hội đã tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi của nhân dân ta, nêu những bài học kinh nghiệm lớn với nhiều nội dung phong phú và sâu sắc. Đại hội IV của Đảng là Đại hội thống nhất Tổ quốc, khẳng định con đường cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối chủ trương xuyên suốt giai đoạn này là thực hiện chính sách hoà hợp dân tộc, cải tạo xã hội chủ nghĩa, hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước khôi phục, phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, xã hội; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời tăng cường công tác xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ mới. Đại hội quyết định lấy lại tên ban đầu của Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam; bầu Ban chấp hành TƯ, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Sau Đại hội, cả nước sôi nổi khí thế thi đua, không quản ngại khó khăn, gian khổ lao vào công cuộc xây dựng đất nước, đồng thời sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, phá thế bao vây cô lập của các thế lực thù địch…
Đại hội lần thứ V của Đảng - Đề ra nhiệm vụ về kinh tế - xã hội 1981-1985
Từ Đại hội lần thứ IV đến Đại hội lần thứ V của Đảng là những năm đầu cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, đất nước thống nhất bước vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã ra sức khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, giành thắng lợi trên nhiều lĩnh vực. Song nền kinh tế - xã hội của đất nước gặp nhiều khó khăn, thách thức mới. Đảng,  Nhà nước ban hành một số chủ trương, chính sách mới về kinh tế. Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành T.Ư Đảng khoá IV (tháng 8 - 1979) bàn về phát triển sản xuất, tạo động lực mới cho nền kinh tế, phương hướng, nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương. Chỉ thị 100 tháng 10/1981 của Ban Bí thư T.Ư Đảng về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã đã bước đầu tạo khí thế mới trong sản xuất. Nông nghiệp có chiều hướng phát triển tốt, công nghiệp quốc doanh xuất hiện một số điển hình đạt hiệu quả kinh tế cao, tiểu thủ công nghiệp phát triển khá. Công tác quản lý kinh tế bắt đầu chuyển đúng hướng. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn không ít khó khăn, như chưa thu hẹp được những mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân; thu nhập quốc dân chưa bảo đảm cho tiêu dùng xã hội, nền kinh tế chưa tạo được tích luỹ.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã họp từ ngày 27/2 đến 31/3/1982 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.033 đai biểu thay mặt hơn 1,72 triệu đảng viên trong cả nước. Có 47 đoàn đại biểu quốc tế đến dự. Đại hội nghe Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành T.Ư Đảng và nhiều báo cáo quan trọng khác. Chỉ ra nguyên nhân khách quan của yếu kém, Đại hội đã thẳng thắn nêu lên nguyên nhân chủ quan, đó là những sai lầm về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Việc nắm và hiểu tình hình thực tế, việc cụ thể hoá đường lối và chấp hành đường lối của Đảng có những khuyến điểm, sai lầm. Chưa thấy hết khó khăn phức tạp của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn phổ biến, lại trì trệ, bảo thủ, duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính, quan liêu bao cấp, chậm thay đổi các chính sách. Trên cơ sở đó, Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội từ năm 1981 đến năm 1985; khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội lần thứ IV của Đảng đã vạch ra. Đại hội bầu Ban chấp hành TƯ và đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng. Sau Đại hội, tình hình kinh tế, nhất là thị trường giá cả tiếp tục diễn biến xấu, tiền lương thực tế liên tục bị giảm sút. Hội nghị Ban chấp hành T.Ư lần thứ 8 (khoá V) đã bàn về vấn đề giá, lương, tiền và quyết định xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sản xuất và kinh doanh có hiệu quả.
Ngày 10/7/1986, Tổng Bí thư Lê Duẩn từ trần. Ban chấp hành TƯ họp phiên đặc biệt vào ngày 14/7/1986, bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội lần thứ VI của Đảng - Bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước

Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 15 đến 18/12/1986 tại  Hà Nội. Dự đại hội, có 1.129 đại biểu thay mặt gần 1,9 triệu đảng viên. Có 32 đoàn đại biểu quốc tế đến dự. Đại hội bầu BCH T.Ư, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Các đồng chí: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ được giao trách nhiệm là Cố vấn Ban chấp hành TƯ Đảng.
Đại hội đã tổng kết những bài học lớn, đề ra đường lối đổi mới để ổn định tình hình và đưa sự nghiệp cách mạng tiếp tục đi lên. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội khẳng định những thành tựu đã đạt được, đồng thời chỉ rõ: Tình hình kinh tế - xã hội nước ta đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng; nhiều chỉ tiêu của kế hoạch năm năm 1981 - 1985 không đạt; chưa thực hiện được mục tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống của nhân dân. Đại hội đã đánh giá tình hình của đất nước, nghiêm khắc tự phê bình tư tưởng giáo điều, chủ quan, duy ý chí. Từ thực tiễn cách mạng, Đại hội đã nêu lên nhiều bài học kinh nghiệm quan trọng.


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1988)


Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng đắn tình hình của đất nước, tự phê bình về những sai lầm, khuyết điểm; đổi mới tư duy, nhận thức rõ hơn về những quy luật khách quan của thời kỳ quá độ, kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và những năm đầu khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội đề ra đường lối đổi mới. Đại hội xác định: đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực, trọng tâm trước mắt là đổi mới chính sách kinh tế, giữ vững ổn định chính trị là tiền đề để bảo đảm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới cơ cấu kinh tế giữa các ngành, thực hiện ba chương trình kinh tế: Chương trình lương thực, thực phẩm; Chương trình hàng tiêu dùng; Chương trình hàng xuất khẩu. Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Đại hội quyết định bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể trong Điều lệ Đảng cho phù hợp tình hình mới.
Đổi mới toàn diện thật sự là ý Đảng, lòng dân. Trên khắp mọi miền Tổ quốc và trong các ngành kinh tế, quan hệ sản xuất được xác lập lại và củng cố, sức sản xuất được giải phóng, phát triển mạnh. Đất nước dần dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Đại hội lần thứ VII của Đảng - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội

Thực hiện nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Tình hình chính trị đất nước ổn định, nền kinh tế có những chuyển biến tích cực; đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy, đời sống nhân dân ổn định, quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được đảm bảo, mở rộng quan hệ quốc tế… Tuy nhiên nền kinh tế vẫn còn nhiều yếu kém và khó khăn; nhiều vấn đề kinh tế, xã hội nóng bỏng chưa được giải quyết. Tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, nhất là những biến động xảy ra trong các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu…
Để đáp ứng tình hình, yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng, Đảng quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Đại hội họp từ ngày 24 đến 27/6/1991 tại Hà Nội. Đại hội đã tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và quyết định thông qua: Cương lĩnh “Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”; Chiến lược “ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”; Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng. Cương lĩnh chính trị nêu rõ những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, những phương hướng cơ bản để xây dựng thành công CNXH ở nước ta.
Đại hội khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí  Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đại hội nhận định: Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, nhưng nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Bởi vậy phải phấn đấu quyết liệt tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng.
Dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, có 1.176 đại biểu thay mặt cho 2,155 triệu đảng viên trong cả nước. Hơn 30 đoàn đại biểu quốc tế đến dự. Đại hội bầu BCH T.Ư, đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công được giao trách nhiệm là Cố vấn Ban chấp hành T.Ư Đảng.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng - Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Đại hội VIII của Đảng họp từ ngày 28/6 đến 1/7/1996 tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội tổng kết 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, đề ra mục tiêu, phương hướng, giải pháp thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng. Đại hội đánh giá tổng quát: công cuộc đổi mới trong 10 năm (1986 - 1996) đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra đã được hoàn thành cơ bản. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc.  Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Con đường đi lên CNXH ở nước  ta ngày càng được xác định rõ hơn. Đại hội đã rút ra một số bài học chủ yếu. Nhận định đặc điểm tình hình thế giới, thời cơ và thách thức, Đại hội xác định mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại; cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Ra sức phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội đã xây dựng định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu: phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH; chính sách đối với các thành phần kinh tế, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; chính sách giải quyết một số vấn đề xã hội; giữ vững quốc phòng an ninh; thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân… Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ.
Đại hội bầu BCH TƯ; đồng chí Đỗ Mười được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công làm Cố vấn BCH TƯ.
Tại Hội nghị lần thứ tư, tháng 12 - 1997, BCH TƯ chấp thuận đề nghị của đồng chí Đỗ Mười thôi giữ chức vụ Tổng Bí thư, bầu đồng chí Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư của Đảng. BCH TƯ suy tôn các đồng chí Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt làm cố vấn BCH TƯ Đảng.

Đại hội lần thứ IX của Đảng -
Xây dựng Việt Nam thành nước công nghiệp
Với khẩu hiệu hành động: “Trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới”, Đại hội lần thứ IX của Đảng họp từ ngày 19/4 đến 22/4/2001, tại Hà Nội. Đại hội có nhiệm vụ lịch sử nhìn lại chặng đường 71 năm cách mạng Việt Nam; tổng kết năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII; 15 năm đổi mới đất nước, mười năm thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội; rút ra bài học kinh nghiệm sâu sắc, từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thâp kỷ đầu của thế kỷ 21; hoạch định phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng ta ngang tầm đòi hỏi của dân tộc trong thời kỳ mới; sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng. Đại hội khẳng định trong thế kỷ 20, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thắng lợi của các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên CNXH là những thắng lợi vĩ đại. Thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991 - 2000) và thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Kinh tế tăng trưởng khá, tổng sản phẩm trong nước năm 2000 tăng gấp đôi so với năm 1990; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và của nền kinh tế. Từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Văn hoá, xã hội có những tiến bộ. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị được củng cố. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt… Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm cần khắc phục, sửa chữa. Đại hội đã thông qua Báo cáo Chính trị với tiêu đề “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa". Về con đường đi lên CNXH ở nước ta, Đại hội khẳng định: Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Về đường lối phát triển kinh tế - xã hội, Đại hội IX của Đảng nêu rõ: Đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001  - 2010 nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng  hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Đại hội đã bầu BCH TƯ; đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội lần thứ X của Đảng – Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp từ ngày 18 đến 25/4/2006 tại Thủ đô Hà Nội.
Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện thành tựu và những yếu kém, khuyết điểm, đồng thời rút ra được những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm năm (2001 - 2005), chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010) và nhìn lại 20 năm đổi mới; từ đó tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối, quan điểm, định ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 05 năm tiếp theo (2006 - 2010); phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng; bổ sung, sửa đổi một số điểm trong Điều lệ Đảng; bầu BCH TƯ Đảng khoá X. Đại hội đã thông qua Báo cáo Chính trị với tiêu đề: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Đại hội khẳng định: Hai mươi năm qua, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Đại hội đã thông qua mục tiêu và phương hướng tổng quát của giai đoạn năm năm 2006 - 2010 là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho CNH, HĐH đất nước, phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội đã bầu BCH Trung ương gồm 160 đồng chí Uỷ viên chính thức và 21 đồng chí Uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Nông Đức Mạnh đã được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng. Hội nghị TƯ 9 (khoá X) họp từ ngày 5 đến 13/1/2009, kiểm điểm nửa đầu nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã đánh giá sự nghiệp đổi mới tiếp tục được đẩy mạnh trên mọi lĩnh vực. Chính trị - xã hội ổn định. Cơ bản ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. An sinh xã hội được chăm lo nhiều hơn. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh. Quốc phòng - an ninh được tăng cường. Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Nhiều chỉ tiêu đã đạt hoặc gần đạt so với Nghị quyết Đại hội đề ra. ứng phó với tác động xấu của cuộc khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế toàn cầu, và những mặt yếu kém của nền kinh tế quốc dân bộc lộ trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, thiên tai, dịch bệnh xảy ra, Đảng và Nhà nước đã kịp thời đề ra và đến nay đã thực hiện thành công bước đầu chủ trương và giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế, chủ động phòng ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, nâng cao chất lượng toàn diện nền kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội; đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn, thách thức.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro