Chương 11

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Khi áng chiều tà đầu tiên xuất hiện, chúng tôi cảm nhận được không khí giao thừa đã thực sự bắt đầu.

Mấy ngọn đồi đằng sau vịnh Captain’s Folly tuy đã che khuất cảnh Mặt Trời lặn, nhưng không đủ để giấu đi những tia sáng đỏ rực đang hòa lẫn cùng làn nước biển trong xanh. Chỉ cần nhìn thấy màu vàng cam đậm của những con tàu đang đi trên biển là chúng tôi có thể đoán được quả cầu lửa ấy vĩ đại đến nhường nào.

Chú Foley trở về sau khi Mặt Trời đã lặn khoảng một tiếng, kèm theo tiếng nổ chát chúa quen thuộc của cái động cơ xe máy và ánh đèn pha sáng rực như lưỡi gươm bạc, muốn khuấy tung màn trời đêm cho tới khi không khí trở nên đặc quánh. Lúc chú Foley giang tay ôm lấy cô Teresa, bỗng nhiên cái mũ bảo hiểm, cùng áo khoác da và chiếc quần hầm hố khiến chú ấy to lớn lạ thường, và cô Teresa như biến mất trong vòng tay ấy.

Vợ chồng ông bà Bandy McAnsh đã xách theo chai rượu đi tới Serenity, vì thế năm đứa bọn tôi được tự do muốn làm gì tùy thích. Cả đám chui vội vào mấy bộ quần áo ngủ rồi chuồn khỏi nhà, đi xem lễ hội về đêm.

Câu lạc bộ lướt sóng là điểm dừng chân đầu tiên. Cánh cửa câu lạc bộ mở rộng, phía bên ngoài dựng một thùng bia lớn đã được khoan lỗ. Bên trong là tiếng nhạc xập xình phát ra từ cái máy hát di động. Điện được dẫn về từ Serenity, toàn bộ mặt tiền của căn lều sáng rực rỡ nhờ một bóng đèn tròn khổng lồ, rọi sáng cả hai cồn cát bên ngoài và vùng nước cạn gần bờ. Trong khi ở viện St. Roderick, người ta thường chỉ dùng đèn hồ quang mỗi khi phải lùa đàn gia súc ra chợ bán mà thôi.

Thấp thoáng trong bóng tối nơi ánh đèn không với tới được là năm thằng tụi tôi đang nằm rạp xuống cát, hồi hộp chờ đợi cuộc vui bắt đầu. Mặc dù không đứa nào biết đêm nay sẽ có tiết mục gì, nhưng ai cũng chắc mẩm hy vọng được chứng kiến những màn thú vị.

Chú Foley vừa xuất hiện trong một chiếc áo sơ mi và quần soóc, đi bên cạnh là cô Teresa đang âu yếm khoác tay chồng.

“Chúng ta đi nào, cùng nhau tiến lên, rồi lượn vài vòng” – vừa thấy họ, Spark liền cao hứng ngân nga điệp khúc quen thuộc của mình.

Các thành viên trong câu lạc bộ lướt sóng ai cũng trẻ hơn chú Foley nhiều. Người nào người đấy đều có bạn gái đi cùng. Tất cả mọi người đều vui vẻ nhảy múa theo tiếng nhạc. Riêng chú Foley được giao nhiệm vụ phụ trách thùng bia. Ông O’Leary cũng có mặt trong buổi tối hôm nay – bên dưới vẫn mặc nguyên cái quần soóc lụng thụng hàng ngày, nhưng được cái, phía trên là áo sơ mi trắng tinh, kèm theo chiếc cà vạt to như cái mái chèo. Ông không quên cầm theo một cái cốc nhôm cũng to tướng. Và hai chân thì vẫn đi đất như mọi khi.

“Cứ đợi cho tới khi ông ấy nhảy sẽ biết” – Spark thì thầm – “Cô Teresa sẽ phải rất cẩn thận nếu không muốn bị giẫm vào chân”.

Giờ đây khi đã khá thân thiết, chúng tôi gọi cô bằng tên Teresa, chứ không gọi theo tên chồng, như mọi người vẫn gọi.

Nỗi lo lắng của tụi tôi hóa ra thành thừa bởi ông O’Leary không phải là người thích nhảy. Ông chỉ đứng một góc nhìn mọi người, mặt nhăn nhó tỏ vẻ khó chịu thấy rõ.

Một lát sau, vợ chồng ông bà McAnsh xuất hiện, cùng nhau tiến thẳng ra chỗ sàn nhảy. Họ cũng lắc cũng giật, như thể muốn lắc cho rơi hết đám cát còn bám lại trên giày và quần áo. Sau đó cả hai khoát tay gọi bia.

Tối nay lại một lần nữa chúng tôi không có cơ hội chiêm ngưỡng dung nhan của quý bà giàu có nhất vùng. Mặc dù ở đây đã gần một tuần nhưng chưa đứa nào được một lần nhìn thấy mặt bà, ngoài người quản gia và người giữ chó của gia đình. Chủ nhân của cây đàn piano khổng lồ, người được mọi người đặt biệt danh là Galore Bàn tay vàng, cũng không thấy xuất hiện. Tương tự với chủ nhân của căn nhà gắn tấm biển về công lý và người tự pha chế rượu.

Nhưng ông Porter Bụng Phệ - chuyên gia đóng tàu vào các buổi cuối tuần – thì có. Dường như ông làm điều đó chỉ để chứng minh với mọi người một điều: một người hoàn toàn có thể tự đóng tàu một mình, dù cho có bị hạn chế về vóc dáng. Ông Porter vừa béo, vừa hói, mặt lúc nào cũng đỏ au, bụng phệ ba ngẫn, mồ hôi nhễ nhại, tay luôn thường trực điếu thuốc lá và nốc bia ừng ực như hũ chìm. Theo bản danh sách các tay bia rượu khét tiếng trong vùng của bà McAnsh thì ông ấy là người đầu bảng. Ông Lão Làng O’Leary có lẽ sẽ là đối thủ ngang cơ với ông Porter Bụng Phệ về khoản này, nếu ông không ngừng huyên thuyên trò chuyện với chú Foley. Trong khi đổi đĩa hát và rót bia cho mọi người, đầu chú Foley say sưa lắc lư cùng điệu nhạc.

Đột nhiên, một đôi trai gái từ bên trong chạy ra, nói cười ầm ĩ. Họ cứ chạy, chạy mãi cho tới khi bóng tối nuốt chửng lấy cả hai.

“Họ trốn đi chơi riêng đấy!” – Spark nói oang oang. Cứ cái đà này không sớm thì muộn, tụi tôi cũng bị mọi người phát hiện ra cho coi.

“Cậu có im đi không hả!” – Maps khẽ gắt lên.

Với chúng tôi, chỉ cần được đứng từ xa quan sát mọi người hội hè cũng là thỏa mãn lắm rồi. Đêm giao thừa mọi năm, cả đám toàn phải nằm giương mắt ngắm trần nhà ở St. Roderick, dỏng tai lên nghe bên ngoài tiếng còi xe inh ỏi, tiếng mọi người hát vang bài ca truyền thống “Ngày xửa ngày xưa” để đón mừng năm mới. Còn giao thừa năm nay ở vịnh Captain’s Folly, mặc dù không biết chính xác điều gì sẽ xảy ra, nhưng chúng tôi biết nó chắc chắn nó sẽ đặc biệt hơn tất cả các năm trước cộng lại.

Đột nhiên từ đằng xa có tiếng ai đó kêu thất thanh.

“Là con Socrates” – Spark nói.

“Nó không bao giờ hét lên như thế”

“Không, là cái chị lúc nãy hét vì bị con Socrates hôn trộm. Muuaaakkkkk” – Spark vừa nói vừa chu mỏ ra bắt chước.

Cả đám lại phải quay sang ra hiệu cho cậu ta nhỏ tiếng xuống.

Và rồi chẳng ai còn thời gian để ý tới đôi bạn trẻ kia nữa, vì chú Foley vừa bước ra khỏi cửa, vung tay liệng cái đĩa hát vào trong đêm tối, giống như cái cách người ta vẫn thường làm với chiếc boomerang. Cái đĩa bay vút trong gió, vụt qua đầu tụi tôi và cuối cùng cắm phịch xuống bãi cát chỉ cách chỗ chúng tôi nằm có vài phân. Cả đám lổm ngổm bò ra lượm lại cái đĩa “Nhà trên bãi chăn thả” (cũng là một bài hát cổ), khi đó đã cong queo méo mó đến thảm hại.

Đột nhiên anh chàng vừa chạy đi lúc nãy lảo đảo quay trở về, tay khua loạn xạ trong không khí, tuyệt nhiên không thấy bóng dáng cô gái kia đâu. Tiếng nhạc đột nhiên tắt ngúm. Chú Foley cởi phăng áo sơ mi ra và hò hét ra lệnh gì đó.

Chỉ mới một giây trước họ còn đang nhảy múa vui vẻ, vậy mà trong nháy mắt các thành viên của đội cứu hộ ai về chỗ người nấy, xếp hàng ngay ngắn. Chú Foley với vội lấy cái phao treo lủng lẳng ở chân đài quan sát và lao thẳng xuống nước, những người còn lại bám sát theo sau. Ba người leo lên đài quan sát, còn chú Foley một mình lao ra biển. Sóng xô vào người chú mỗi lúc một dữ dội làm bọt nước bắn tung tóe. Ở phía đằng xa, mặt biện khẽ nhấp nhô gợn sóng, tối đen một màu. Không thấy tăm hơi cô gái bị chết đuối kia đâu.

Cả bờ biển sáng rực bởi ánh đèn pha ô tô và xe máy. Ánh sáng từ chiếc đèn ô tô đang đậu giữa hai cồn cát rọi thẳng ra biển, mở đường cho chú Foley vượt qua những con sóng lớn đang giận dữ đập tới tấp vào luồng ánh sáng trắng. Nhìn từ xa, trông chúng chẳng khác nào những con bò tót hiếu chiến với những chiếc sừng khổng lồ trắng xóa.

Ông bà McAnsh, ông O’Leary Lão Làng, ông Porter Bụng Phệ và một vài người khác có mặt tại bữa tiệc đang túm tụm lại xung quanh chân tháp quan sát. Một ánh đèn khác rọi ra từ cái xe mô tô to đùng của chú Foley, vừa được cô Teresa và hai người nữa hì hục đẩy ra. Chúng quét qua quét lại từ bên này vịnh sang bên kia vịnh, rà soát kỹ lưỡng mọi động tĩnh trên biển. Thỉnh thoảng lại có bóng mấy con chim hải âu bay vụt qua.

Tụi tôi trườn từ từ tới gần chỗ chiếc xe máy và nghe được một anh trong câu lạc bộ đang cố trấn an cô Teresa: “Anh ấy sẽ không sao đâu. Anh ấy vẫn đang ở trong vùng an toàn mà”.

“Nhưng ở đó đâu có vàng đai chống cá mập đâu”.

“Vịnh này không có cá mập”.

“Sao cậu có thể chắc chắn điều đó?”

“Trước giờ chưa có ai bị cá mập tấn công ở đây cả”.

“Tôi chưa bao giờ thấy ai lại đi bơi trong đêm tối mịt mù như thế này. Sao cô ta điên thế không biết!”

Cũng may là nãy giờ chưa hề thấy có bóng dáng cái vây cá mập nào. Duy chỉ có một điều: đây là lãnh địa của con cá mú khổng lồ Henry, mà nó là chuyên gia đi tấn công con người, nếu không nói là ăn thịt người. Lo là lo ở chỗ đó.

Chú Foley đã ngừng bơi và quay đầu nhìn về phía bờ. Cái đèn ph axe máy vẫn tiếp tục quét dọc bãi biển. Lúc này đây trông mặt biển như một cái huyệt khổng lồ, được bao quanh bởi những cột sóng trắng. Bỗng nhiên, ai đó từ trên tháp quan sát kêu ầm lên, tay chỉ về phía bắc của bãi biển. Ngay lập tức đèn pha xe máy được lia thật nhanh về phía đó.

Hình ảnh cô gái bị mất tích hiện rõ lên mồn một.

Cô ta đang cười vang khoái chí, chân vung vẩy nghịch nước, quần áo thì ướt sũng nước. Cô ấy có vẻ ngà ngà say. Anh bạn trai vội chạy thật nhanh về phía bạn gái mình và dìu cô lên bờ, đi về phía cái xe ô tô đang đậu trên cồn cát. Tiếng của ông Lão Làng, át cả tiếng sóng biển, nghe có vẻ cay độc nhưng xa quá nên tụi tôi không nghe được rõ.

Tiếp đó mọi người chạy ra dìu chú Foley lên bờ. Và cái giây phút chú vừa đặt chân lên bờ cát mịn cũng chính là lúc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, bởi từ căn lều của ông Galore Bàn tay vàng, chúng tôi nghe thấy bản nhạc “Ngày xửa ngày xưa” đang vút lên thánh thót.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro