Full

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 1

  Có lẽ các bạn sẽ không biết tôi, nếu như các bạn chưa đọc cuốn sách có tên là "Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer"; nhưng điều đó cũng chẳng sao. Tác giả cuốn sách ấy là ông Mark Twain, và trong đó phần lớn là ông ấy đã kể đúng sự thật. Cũng có những chỗ ông ấy hơi phóng đại, nhưng đại đa số là những câu chuyện có thật. Tôi chưa bao giờ thấy ai hay nói dối hết lần này đến lần khác như cái bà Polly, hay bà goá, hay có lẽ cả Mary nữa. Bà Polly tức là dì của thằng Tom, rồi Mary, rồi bà goá Douglas; tất cả những người đó đều có xuất hiện trong cuốn sách trên đây, và, như tôi đã nói, nó là một cuốn sách hầu hết đúng sự thật, chỉ trừ có vài cái nói hơi quá đáng mà thôi.

Cuốn sách ấy có nội dung như sau: Tom và tôi, hai đứa một hôm vớ được món tiền của bọn cướp giấu trong hầm kín, thế là chúng tôi bỗng trở nên giàu to. Chia ra, mỗi đứa được đến sáu nghìn đô la, toàn bằng vàng cả. Đem chất đống số tiền vàng ấy thì khiếp lắm. Thế rồi lão chánh án Thatcher lấy ngay số tiền đó của chúng tôi đem cho vay lãi: còn bọn tôi thì mấy ngày lão trả cho mỗi đứa một đồng, cứ như thế quanh năm. Còn bà goá Douglas cứ coi như tôi là đứa con đẻ, bà ta lại tự cho mình cái quyền là phải khai hoá cho tôi. Nhưng tôi nghĩ cứ sống quanh quẩn mãi trong cái nhà này thì cũng khổ, vì tôi cứ phải gò mình làm thế nào cho đúng với mọi điều khuôn phép của bà ấy. Cho nên, đến lúc không chịu đựơc nữa, tôi phải tính cách chuồn đi.

Tôi lại mặc vào người bộ quần áo cũ rách rưới, và đem theo cả cái hũ kẹo của tôi nữa, thế là tôi ra đi và lại được tự do, thoả thích. Nhưng thế nào thằng Tom Sawyer nó lại lùng được tôi, nó bảo với tôi rằng hiện nó đang sắp sửa thành lập một bọn cướp và có thể cho tôi nhập bọn, nhưng bây giờ thì nó khuyên tôi hãy nên quay về với bà góa và ăn ở ngoan ngoãn đi đã. Thế là tôi lại quay trở về.

Bà goá thấy tôi về thì oà lên khóc, bà ta bảo tôi là một con chim non lạc đàn tội nghiệp quá, rồi lại gọi tôi bằng bao nhiêu những cái tên kì quái, thật ra bà ấy chẳng có ý hại tôi đâu. Bà ta lại bắt tôi phải mặc bộ quần áo mới, cái thứ quần áo mặc vào cứ toát cả mồ hôi và người như bị trói chặt vào ấy. Thôi, thế là những cảnh cũ ở trong cái nhà này lại tái diễn. Bà goá rung chuông goi đi ăn, thì tôi phải liệu mà có mặt cho đúng giờ. Đến lúc ngồi vào bàn ăn rồi nhưng cũng chưa được ăn ngay đâu, còn phải chờ bà ta đến, lải nhải một hồi những về các món ăn, mà thực ra chẳng có gì đáng nói cả. Vì món ăn nào thì trước sau cũng vẫn như vậy, toàn những đầu thừa đuôi thẹo đem trộn lên rồi đổ vào chung quanh một thứ nước sốt.

Ăn uống xong, bà ta dạy tôi về chuyện Moses... Tôi thì nghĩ nát cả óc mà vẵn chẳng hiểu được Moses là ai; nhưng rồi dần dà tôi cũng hiểu là Moses đã chết từ lâu lắm rồi. Thế là tôi cũng bỏ mặc, chẳng hơi đâu mà bận tâm đến Moses làm gì nữa, vì tôi đâu có thiết nghe chuyện những người đã chết cơ chứ.

Lát sau tôi muốn hút thuốc, tôi mới bảo bà goá cho phép tôi được hút. Bà ta nhất định không cho. Bà ta nói rằng đó là một tật xấu mà cũng chẳng sạch sẽ gì rồi ra sức khuyên tôi phải cố mà bỏ đi đừng có hút nữa. Đấy, có những người như thế đấy, họ cứ dính đến những cái mà họ chẳng biết quái gì về những cái đó cả. Cũng như bà ta cứ đi lo lắng về chuyện Moses chẳng bà con họ hàng gì với bà và cũng chẳng ích lợi gì cho ai cả, vì Moses đã chết từ tám đời rồi. Ấy thế nhưng bà ta còn cứ cố bắt tôi phải lấy đó mà học và bà cho rằng như thế là tốt lắm. Còn chính bản thân bà thì bà cũng hút, cố nhiên bà ta cho thế là điều tốt, vì đó là bà tự hút cơ mà. Còn cô em của bà ta, cô Watson là một bà cô già, người thì khá gầy guộc, mắt thì đeo đôi kính trắng, vừa mới đến ở chung trong cái nhà này với bà góa. Bây giờ thì lại đến lượt cô Watson làm tôi khổ sở với quyển sách đọc đánh vần. Cô ấy dạy tôi thật quá vất vả nên cứ độ một giờ đồng hồ thì bà goá lại cho cô nghỉ mệt, còn tôi thì cũng không thể chịu lâu hơn được. Suốt trong một giờ ấy, tôi thật buồn đến chết và cứ nhấp nhổm đứng ngồi không yên. Cô Watson thì cứ chốc chốc lại: Huck, đừng ngồi ghếch chân lên thế, rồi lại: Huck, đừng có vặn vẹo như thế, ngồi cho ngay ngắn nào hoặc: Huck, đừng có ngáp dài với vươn vai thế, sao không chịu ngồi cho tử tế? Rồi cô ấy bảo cái ngữ tôi rồi cũng chỉ đến bị đẩy vào những nơi khổ cực mà thôi. Tôi bảo rằng tôi cũng đang muốn thế đấy, thế là cô ấy tức điên lên. Nhưng thật ra tôi cũng không định trêu chọc gì cô ấy cả. Tôi chẳng muốn gì khác hơn là cho tôi đi đến chỗ khác, tôi chỉ muốn có sự thay đổi mà thôi, chứ tôi cũng chả đòi hỏi gì đặc biệt cả. Cô ấy bảo tôi nói như thế là bậy bạ, cô ấy chỉ muốn ăn ở thế nào để được đi đến chỗ Thiên Đường tốt đẹp mà thôi. Nhưng tôi thì thấy rằng theo con đường của cô ấy cũng chẳng hay gì, cho nên tôi cũng chả thiết. Nhưng tôi không nói ra, vì sợ nói ra chỉ thêm phiền nhiễu. Cô ấy bảo lên được đến Thiên Đường thì người ta suốt ngày chỉ có việc đi nhởn nhơ đàn hát thôi. Tôi cũng chẳng thiết cái đó nữa, nhưng hơi đâu mà nói ra. Tôi hỏi cô ấy rằng xem chừng thằng Tom Sawyer nó có thể đi đến chỗ tốt đẹp ấy được không, cô ấy bảo xét kỹ ra thì không được. Nghe nói vậy tôi thích quá, vì tôi, cứ muốn rằng hai đứa cùng sống với nhau, đừng đứa nào đi đâu cả.

Cô Watson cứ bắt tôi học mãi như vậy, thật là khó chịu quá, nhưng ngay sau đó, họ gọi những người hầu da đen vào, và ai nấy cầu kinh rồi về chỗ ngủ. Tôi cũng trở về buồng riêng, mang theo một ngọn nến đặt trên bàn. Tôi ngồi phịch xuống chiếc ghế bên cửa sổ, cố nghĩ đến một cái gì vui vui, nhưng không sao nghĩ được. Lúc ấy tôi cảm thấy mình quá cô đơn và lại mong rằng giá mình chết đi thì hay nhỉ. Trên bầu trời, sao lấp lánh. Tiếng lá xào xạc trong rừng nghe vô cùng buồn thảm. Tôi nghe thấy tiếng cú rúc xa xa như đang hú gọi người nào đã qua đời, rồi tiếng một con chim rừng hay một con chó đang gào hét về một người nào sắp chết, gió thì như muốn thủ thỉ điều gì với tôi mà tôi không thể đoán ra được nó định nói gì. Nghĩ thế, đâm ra tôi rùng mình lạnh toát cả người. Rồi một lát, ở phía rừng xa lại nghe thấy một thứ tiếng gì như ma quỷ lúc nó định than vãn những điều nó đang băn khoăn nhưng không làm thế nào cho ai hiểu được; hình như nó không thể nằm yên nghỉ dưới mộ được mà đêm nào cũng phải đi lang thang ai oán như thế ấy. Tôi nghĩ vậy lại càng hoảng hốt, sợ hãi quá chừng, và lúc đó muốn có một người nào ngồi bên cạnh tôi. Bỗng một con nhện ở đâu nhảy đến, lồm cồm bò trên vai áo, tôi vội lấy tay búng nó đi, nó bắn ngay vào ngọn nến đang cháy, tôi chưa kíp kéo nó ra thì nó đã chết queo. Lúc đó, chẳng cần phải có ai bảo tôi rằng đó là một điều xấu và rồi tôi sẽ gặp phải rủi ro, tôi cũng đã hoảng sợ lắm rồi và cuồng quýt rũ mạnh quần áo trên người. Tôi chồm dậy, quay đi quay lại một chỗ đến ba bốn vòng, rồi lại làm dấu trước ngực rất nhiều lần. Rồi tôi lại lấy sợi dây buộc chặt mớ tóc trên đầu để làm cái bùa đuổi yêu quái đi. Nhưng rồi tôi lại cũng không tin. Đây là cái tục lệ giống như khi người ta đánh mất một cái gì, sau tìm thấy thì lẽ ra phải đem đóng nó ở trước cửa ra vào; nhưng tôi thật cũng chưa nghe thấy ai nói rằng làm như thế để tránh khỏi gặp phải điều xui xẻo sau khi đã làm chết một con nhện bao giờ.

Tôi lại ngồi xuống ghế, trong người bối rối không yên. Tôi lấy điếu ra hút, vì lúc này trong nhà đã im lặng như chết cả rồi còn bà goá thì bà cũng chẳng biết đấy là đâu. Rồi một lúc sau nữa, khá lâu, rồi nghe tiếng chuông đồng hồ xa xa ngoài tỉnh boong - boong - boong dần điểm mười hai tiếng, rồi đâu đấy lại yên lặng hơn lúc nào hết. Được một lát, tôi bỗng nghe thấy tiếng cành cây khô gãy ở phía lùm cây tối đen - lại hình như có vật gì đang động đậy. Tôi ngồi im lặng nghe và lập tức thấy rõ ràng có tiếng meo meo từ phía đó vang tới. Hay quá! Tôi cũng khe khẽ đáp lại meo meo rồi tắt phụt ngọn nến tôi trèo qua cửa sổ ra ngoài, hướng về phía bóng tối, tụt nhanh xuống đất rồi luồn vào đám cây. Đúng là thằng Tom Sawyer đang chờ tôi ở đó. 

Chương 2

  Hai đứa chúng tôi nhón chân đi men theo con đường nhỏ dưới lùm cây phía góc vườn của bà goá, và cứ phải cúi lom khom để đầu khỏi đụng vào cành cây. Lúc đi qua cửa bếp, tôi vấp phải cái rễ cây nên gây ra một tiếng động. Hai đứa vội vàng nằm rạp người xuống đất im thin thít. Anh da đen to lớn làm việc cho cô Watson, tên Jim, lúc đó đang ngồi ở cửa bếp. Chúng tôi có thể nhìn thấy Jim rất rõ, vì sau lưng anh có ánh đèn. Nghe thấy động, Jim choàng dậy, thò cổ ra ngoài nghe ngóng một lúc rồi lên tiếng hỏi:

- Ai đấy?

Nghe một lát không thấy gì, anh kiễng chân nhè nhẹ đi xuống đứng ngay ở giữa hai đứa chúng tôi. Chỉ cần giơ tay với là chúng tôi có thể chạm vào người anh ta. Lâu lắm, hình như qua đến mấy phút không có lấy một tiếng động nhỏ nào, mà cả ba người thì ở ngay sát cạnh nhau như thế. Lúc đó, cổ chân tôi thấy ngứa, rồi lan đến lưng, ngay ở chỗ giữa hai bả vai. Tôi tưởng như lúc đó mà không được gãi thì chết mất. Ngay lúc đó, Jim lên tiếng hỏi:

- Này, ai thế, ở chỗ nào đấy? Quái thật, rõ ràng mình nghe thấy có tiếng gì ở đây mà. Thôi được, tôi đã có cách, tôi cứ ngồi ở đây cho đến lúc nào tôi nghe thấy có tiếng động nữa mới thôi.

Nói thế rồi anh ngồi phệt ngay xuống đất, giữa chỗ tôi và thằng Tom. Anh dựa lưng vào thân cây, duỗi thẳng hai chân ra, suýt nữa thì chân đạp phải tôi. Mũi tôi lại bắt đầu thấy ngứa. Cái tội nợ ấy nó kéo dài đến sáu bảy phút và hình như còn lâu hơn thế nữa. Bây giờ thì trong người tôi ngứa ran lên cả thảy đến mười một chỗ. Tôi tính có lẽ không thể chịu được như vậy đến một phút nữa đâu, nhưng tôi vẫn cứ cắn chặt răng và cố gắng chịu đựng. Vừa lúc ấy, tiếng Jim thở hổn hển, rồi sau đó là tiếng anh ta ngáy vang lên. Người tôi lập tức trở lại dễ chịu ngay.

Thằng Tom ra hiệu cho tôi và tôi làm hiệu bằng cách khe khẽ đằng hắng lên một tiếng. Hai đứa chúng tôi lại bò đi. Ra khỏi chỗ đó độ mười bước, thằng Tom nói thầm vào tai tôi rằng nó muốn trói Jim vào thân cây, đùa một tí cho vui, nhưng tôi bảo đừng, nhỡ anh ta thức dậy làm oang lên thì lúc đó trong nhà họ sẽ biết là tôi không có mặt trong ấy. Thằng Tom lại nói là chúng ta không có đèn nến gì cả, nó muốn mò vào trong bếp kiếm mấy cây nến. Tôi không đồng ý, tôi bảo nhỡ Jim tỉnh dậy và chạy vào thì sao. Nhưng thằng Tom nhất định cứ muốn liều; thế là chúng tôi mò vào nhặt ba cây nến, rồi Tom để lại năm xu trên bàn để trả tiền nến. Rồi chúng tôi bước ra, tôi thì nóng ruột muốn chạy biến đi ngay, nhưng không hiểu tại sao thằng Tom lại bò trở lại chỗ Jim, thấy nó cúi lom khom như đang nghịch ngợm cái gì ở phía trên đầu Jim. Tôi phải chờ một lúc khá lâu. Chung quanh vẫn im vắng lặng lẽ.

Chờ thằng Tom quay lại, chúng tôi chạy theo con đường nhỏ vòng cái hàng rào ỏ quanh vườn, rồi lát sau chạy lên cái dốc ở trên đồi phía bên kia nhà. Thằng Tom nói là nó đã nhấc cái mũ ở trên đầu Jim và mắc lên cành cây ngay ở phía trên chỗ hắn ngủ, Jim có cựa quậy một tí nhưng vẫn không tỉnh dậy. Chuyện này rồi về sau chính Jim lại đi phao lên rằng có yêu quái bắt mất hồn của anh ta, dẫn anh ta đi lang thang khắp xứ, rồi một lần khác cũng kể lại chuyện này thì Jim lại nói rằng yêu quái đã dẫn anh đi xuống tận vùng New Orleans. Lần khác nữa, cứ mỗi khi kể lại chuyện này thì anh ta lại bịa thêm một ít, dần dần cho đến lúc anh ta nói rằng yêu quái đã dẫn anh đi khắp nơi cả thế giới, làm anh ta mệt gần chết, và lưng anh thì sưng vù cả lên. Jim lấy làm tự mãn về câu chuyện này lắm, thành ra cái đó làm cho anh ta rất hãnh diện với những anh em da đen khác nữa. Họ phải đi hàng năm sáu dặm đến để nghe Jim kể lại cái câu chuyện yêu quái này, dần dần ở trong vùng, Jim đâm ra được coi trọng hơn các anh em khác. Những người da đen ở xa đến thì cứ há hốc miệng ra mà nhìn Jim khắp người, coi như Jim là một cái kỳ quan vậy. Anh em da đen thường hay chờ đến đem tối ngồi bên cạnh bếp lửa nói chuyện về yêu quái, ma quỷ; hễ khi nào có ai ở đâu nói chuyện ấy và tỏ ra mình cũng biết đủ thứ về yêu quái thì bỗng thấy Jim cũng ở đâu mò đến và nói: Hừ ! Anh thì biết gì về yêu quái cơ chứ? Thế là anh kia nín thít ngay và lần về phía sau ngồi để nhường chỗ cho hắn. Jim vẫn luôn luôn có hai đồng năm xu buộc vào giây đeo ở cổ, và khoe rằng đó là cái bùa mà tự tay quỷ thần trao cho và dặn anh rằng có thể dùng nó mà chữa bệnh cho mọi người; lại có thể bất cứ lúc nào cũng gọi yêu quái đến được, chỉ việc nói nhỏ vài tiếng với đồng năm xu đó mà thôi. Nhưng chẳng bao giờ anh ta cho ai biết là anh sẽ nói với cái bùa đó như thế nào. Người da đen ở quanh vùng có cái gì cũng đem đến cho Jim và chỉ cần được trông thấy đồng năm xu ấy mà thôi. Nhưng cũng không ai dám sờ vào nó vì họ sợ rằng đã có bàn tay của quỷ thần đặt lên đó rồi. Thật quả là nguy hại cho Jim vì là kẻ đi ở như hắn mà lại giương giương tự đắc là đã được gặp quỷ thần và bị yêu quái dẫn đi khắp mọi nơi.

Khi thằng Tom với tôi đến lưng đồi, nhìn về phía đồi thấy ba bốn đống lửa lập loè, có lẽ ở đó đang có người ốm chăng. Những vì sao khuya trên đầu chúng tôi vẫn lấp lánh trông rất đẹp. Ở dưới kia, gần làng là một con sông rộng đến gần một dặm, lặng lẽ trôi một cách nguy hiểm. Chúng tôi bước xuống chân đồi đã thấy thằng Joe Harper với thằng Ben Rogers và hai đứa nữa, đang nấp trong cái nhà thuộc da cũ. Chúng tôi tháo một chiếc thuyền nhỏ, rồi kéo xuống phía dưới sông đến hơn hai dặm cho đến tận một cái mô đất lớn ở bên đồi mới lên bờ.

Bọn chúng tôi đi đến một bụi rậm cây cối chi chít, thằng Tom bắt cả bọn phải thề giữ bí mật. Rồi nó chỉ một cái hốc ở trên đồi, ngay chỗ bụi cây rậm rạp nhất. Chúng tôi thắp nến lên, rồi lại lom khom bò đi. Được gần hai trăm thước thì đến cửa hang. Thằng Tom loay hoay tìm lối, rồi thoắt một cái nó đã chui xuống dưới chân một bức tường mà chả ai ngờ rằng ở chỗ đó có một cái lỗ. Chúng tôi lách người theo một lối đi rất hẹp và đi đến một nơi trông như căn phòng, vừa ẩm ướt, vừa lạnh. Rồi tất cả dừng lại đó. Thằng Tom nói:

- Nào, chúng mình bắt đầu thành lập một bọn cướp ở đây và đặt tên là bọn Tom Sawyer. Những ai muốn nhập bọn thì phải thề, và phải ghi tên bằng máu.

Đứa nào nghe thấy cũng thích. Thằng Tom rút ra một mảnh giấy trong đó nó đã viết sẵn lời thề và đem đọc lên. Lời thề nói rằng tất cả những đứa nào đã vào bọn thì phải trung thành, không được tiết lộ bất cứ một bí mật nào; và nếu như có kẻ xâm phạm bất cứ bằng cách gì đến một đứa trong bọn thì đứa ấy sẽ được lệnh đi giết kẻ kia cùng cả nhà nó và phải thi hành lệnh ấy; mà không đựơc ăn được ngủ cho đến khi nào đã giết được chúng và vạch vào ngực chúng một cái dấu chữ thập tức là dấu hiệu riêng của bọn mà thôi. Tất cả những ai không thuộc người trong bọn thì không được dùng dấu hiệu đó. Mà nếu kẻ khác làm như vậy sẽ bị đem ra truy tố, nếu còn tái phạm sẽ bị xử tử. Còn nếu ai thuộc trong bọn mà tiết lộ bí mật thì sẽ bị chặt đầu, xác sẽ bị đem thiêu để tro tàn bay tứ tung tên tuổi sẽ bị lấy máu xoá nhoè trong danh sách và không bao giờ còn ai nhắc nhở đến nữa, người đó sẽ bị nguyền rủa và mãi mãi sẽ bị bỏ quên.

Cả bọn, đứa nào cũng nói rằng lời thề như thế thật là hay và hỏi rằng có phải là tự thằng Tom nó nghĩ ra được như thế không. Nó nói là một phần do nó nghĩ ra, còn thì rút ở trong những cuốn sách nói về trộm cướp, và bọn cướp nào nổi tiếng cũng đều làm như vậy cả.

Lại có đứa trong bọn nghĩ rằng nếu đứa nào tiết lộ bí mật thì đem giết cả gia đình nó đi có lẽ cũng tốt. Thằng Tom bảo đấy cũng là một ý kiến hay, thế là nó rút bút chì ra viết luôn cái điều đó vào. Thằng Ben Rogers hỏi:

- Thế thằng Huck Finn đây thì sao, nó không có gia đình thì làm thế nào?

- ờ thế nào hả? nó không có bố à?- Thằng Tom hỏi.

- Có, nó có bố, nhưng hiện nay không tìm thấy bố nó được đâu. Bố nó chỉ chuyên môn say khướt với đám người bẩn thỉu ở trong nhà thuộc da ấy, mà đến hơn một năm nay chẳng thấy bố nó quanh quẩn ở vùng này nữa.

Chúng nó bàn một hồi lâu rồi định đuổi tôi ra khỏi bọn. Vì chúng nó bảo rằng đứa nào cũng phải có gia đình hay phải có một người nào để mà giết, nếu không thì không được và không công bằng. Rồi chẳng đứa nào nghĩ ra cách gì khác. Đứa nào cũng bí cả, ngồi im bặt. Tôi gần phát khóc. Nhưng rồi tôi cũng nghĩ ra một cách, tôi đề nghị với chúng nó rằng có thể giết cô Watson được. Chúng nó reo lên: ồ cô Watson, giết được đấy. Hay lắm... Cho thằng Huck vào bọn được rồi.

Mỗi đứa mới lấy kim châm vào đầu ngón tay, lấy máu ra ký tên; tôi cũng vạch tên tôi lên mảnh giấy ấy.

Thằng Ben Rogers hỏi:

- Nào, bây giờ bọn ta định hành động như thế nào đây?

- Chỉ có việc cướp của giết người thôi - Thằng Tom đáp.

- Nhưng mà cướp của ai bây giờ chứ? Cướp nhà cửa, hay trâu bò, hay là...

Thằng Tom Sawyer ngắt lời:

- Lấy trâu bò với những cái như thế đâu có phải là cướp, đấy chỉ là trộm vặt. Chúng mình không phải là những tên ăn trộm. Đó không phải là cái kiểu làm của chúng mình. Đây, chúng mình là những tay cường đạo; giữa đường cái lớn, ta chận xe cộ lại, đeo mặt nạ, giết người rồi cướp đồng hồ, tiền của hành khách.

- Những có nhất thiết phải giết người không?

- Có chứ. Đó là cách tốt nhất. Có một số những tay có tiếng tăm thì nghĩ khác, nhưng hầu hết đều cho giết người là tốt hơn cả, trừ khi có những người mà mình mang họ về giam giữ trong hang này chờ đến khi nào họ được chuộc lại.

- Chuộc lại? Nghĩa là thế nào?

- Tao cũng chả biết. Nhưng thấy người ta vẫn làm như thế. Tao xem trong sách thấy nói như vậy. Và cố nhiên, chúng mình cũng phải làm như vậy chứ.

- Nhưng mình không biết nó là cái gì thì mình làm thế nào được chứ?

- Sao? Mặc kệ thôi, chúng mình nhất định phải làm thế. Tao đã bảo rằng trong sách nói thế mà lại. Chúng mày định làm khác với những điều nói trong sách à? Định làm cho mọi thứ rối mù cả lên hay sao?

- Này Tom Sawyer, tất cả những cái đó nói thì hay lắm rồi, nhưng thật chúng tao không biết rằng chuộc lại là như thế nào. Mình không biết làm như thế nào đối với họ thì gọi là chuộc? Chính đó là điều chúng tao muốn hiểu thôi. Nào, mày hiểu chuộc nghĩa là như thế nào?

- Tao không biết. Nhưng có lẽ là nếu mình giam giữ họ đến khi nào họ được chuộc lại, tức là giam cho đến lúc họ chết chứ gì?

- Đại khái nó như vậy. Thế có phải xong không. Thì tại sao mày không nói rõ từ nãy? Nghĩa là mình sẽ giam giữ họ đến lúc họ được chuộc cho đến chết; ồ nhưng này, lại còn một đống những cái phiền phức nữa cơ, nào là ăn uống đủ thứ này, nào là họ luôn tìm cách trốn đi này!

- Ben Rogers, mày nói lạ nhỉ. Họ làm thế nào mà trốn được, đã có người của mình canh gác chứ, hễ họ rục rịch là sẵn sàng bắn chết ngay.

- Có người canh gác? à, thế thì tốt. Như vậy là phải có người ngồi đó suốt đêm để canh họ và không được ngủ chứ. Tao nghĩ rằng như thế thì thật là điên rồ. Vậy thì tại sao không có người nào cầm cái gậy mà chuộc ngay cho họ một cái khi mới bắt họ về đây có được không?

- Tại sao à? Tại vì sách không có nói đến việc đó chứ tại sao nữa. Này Ben Rogers, tao hỏi mày có muốn làm mọi cái cho đúng quy cách hay là mày không muốn - chỉ có thế thôi. Thế mày tưởng rằng cái người làm ra những cuốn sách ấy không biết cái gì là đúng hay sao? Mày tưởng rằng mày dạy được người ta cái gì ư? Thôi, đừng hòng. Không đâu, ông ạ, chúng mày chỉ có việc làm như thế và chuộc họ theo đúng quy cách như vậy thôi.

- Thôi được, tao không cần. Nhưng dù sao, tao cũng vẫn bảo rằng như vậy là điên rồi. Này, thế chúng mày có giết cả đàn bà nữa không?

- Này, Ben Rogers, nếu tao cũng ngu dốt như mày thì tao sẽ không nói chuyện làm gì nữa. Giết cả đàn bà? Không, chả bao giờ tao thấy trong sách nói như thế cả. Mình đưa họ về hang, rồi luôn luôn lúc nào cũng phải đối đãi với họ rất ngọt ngào, dần dà họ sẽ đem lòng yêu mình và chẳng muốn đòi trở về nhà nữa.

- à, nếu mà như vậy thì tao đồng ý; nhưng chuyện ấy thì tao không thiết. Vì rồi chẳng bao lâu thì cái hang này của mình lại nhốn nháo đầy những đàn bà, với những người chờ đó để bị chuộc, rồi lại không còn chỗ để mà chứa bọn cướp chúng mình nữa. Nhưng thôi, mày cứ nói nốt đi, tao không hỏi gì nữa.

Thằng Tommy Barnes còn bé, từ nãy đã ngủ khì, lúc cả bọn đánh thức nó dậy thì thằng bé sợ oà lên khóc, đòi về nhà với mẹ, và nó bảo thôi, nó không muốn đi làm cướp nữa.

Cả bọn thấy thế càng trêu nó, gọi nó là thằng nhè, làm nó tức điên lên và bảo nó rằng sẽ bỏ ngay lập tức rồi đi nói toang tất cả bí mật ra. Nhưng thằng Tom cho nó năm xu để nó im đi, rồi bảo tất cả bọn hãy về nhà để đến tuần sau lại gặp nhau, sẽ đi cướp hoặc giết một người nào đó.

Thằng Ben Rogers bảo rằng nó không được ra khỏi nhà luôn đâu, chỉ có ngày chủ nhật thôi, vì thế nó muốn rằng chủ nhật sau sẽ bắt đầu khởi sự. Nhưng cả bọn nói là nếu làm vịêc đó vào ngày chủ nhật thì sẽ bị quỷ thần trừng phạt. Thế là hỏng. Rồi cả bọn lại đồng ý là thôi, để khi nào gặp nhau sẽ định ngày càng sớm càng tốt. Rồi, chúng nó bầu thằng Tom Sawyer làm chỉ huy thứ nhất của bọn, thằng Joe Harper làm chỉ huy thứ hai. Xong đâu đấy, cả bọn kéo về nhà.

Tôi trèo qua mái chuồng ngựa rồi luồn vào cửa sổ vừa lúc trời sắp sáng. Bộ quần áo mới của tôi dính đầy những đất cát bẩn thỉu, còn tôi thì mệt đứt hơi.

Chương 

Đến sáng, tôi bị cô Watson thuyết cho một hồi về chuyện quần áo bẩn thỉu; còn bà goá thì bà ta không rầy mắng gì tôi cả mà chỉ lặng lẽ lau sạch những vết bẩn đi thôi. Thấy vậy, tôi cũng đâm ra ân hận và tôi nghĩ nếu có thể thì cũng nên cố gắng ăn ở ngoan ngoãn ít lâu. Rồi cô Watson kéo tôi vào trong buồng con, cầu nguyện. Nhưng chẳng ăn thua gì. Cô ấy bảo tôi ngày nào cũng phải cầu nguyện, và làm như thế thì rồi muốn gì được nấy. Nhưng thật ra đâu có như vậy được đâu, tôi đã thử mãi rồi. Một lần tôi kiếm được cái cần câu mà không có lưỡi câu. Không có lưỡi câu thì chịu chả làm ăn gì được. Ba bốn lần tôi đã chịu khó cầu nguyện nhưng không ăn thua gì. Tôi bèn nhờ cô Watson cầu hộ thì cô ấy lại bảo tôi là thằng điên. Cô ấy không nói tại sao, còn tôi thì chả làm thế nào mà hiểu được.

Một lần, tôi ngồi ẩn tuốt trong rừng và nghĩ ngợi rất lâu về chuyện cầu nguyện ấy. Tôi tự hỏi nếu như một con người muốn cầu nguyện cái gì được cái ấy thì tại sao lão Deacon Winn lại không đòi lại được món tiền mà lão đã bị mất về đám lợn? Tại sao bà góa lại không lấy lại được cái hộp đựng thuốc bằng bạc bị mất cắp? Tại sao cô Watson lại không béo ra được? Không, chẳng làm gì có chuyện đó đâu; tôi tự nhủ như thế. Tôi bèn đi nói với bà goá cái ý nghĩa của tôi như vậy thì bà ta bảo rằng cái thứ người ta cầu nguyện để mà có đấy chỉ là những cái lộc được hưởng về tinh thần mà thôi. Điều đó đối với tôi thật là khó hiểu quá.

Nhưng rồi bà ta bảo ý của bà muốn nói là như thế này: rằng mình phải giúp đỡ người khác, làm mọi điều mình có thể làm cho người khác, luôn luôn săn sóc đến người khác và đừng bao giờ nghĩ đến mình. Nếu mà tôi hiểu đúng thì đây nên tính cả cô Watson nữa. Tôi lại đi ra phía ngoài rừng và cứ quanh quẩn bới óc nghĩ về chuyện đó rất lâu, nhưng tôi không thể nào thấy cái đó có lợi gì cho tôi mà chỉ lợi cho người khác. Cuối cùng, tôi quyết định là thôi không băn khoăn gì về chuyện đó nữa, cứ để mặc kệ nó đấy. Có đôi khi bà goá kéo tôi ra một chỗ và nói về chuyện Thượng đế ban lộc; gớm nghe mà thèm rỏ rãi. Nhưng cũng có thể hôm sau cô Watson lại vơ lấy chuyện ấy mà nói khác hẳn. Tôi nghĩ rằng tôi đã thấy ra là có hai ông Thượng đế; ai khổ sở thì đi theo cái ông Thượng đế mà bà góa nói ấy, nhưng nếu ai chẳng may gặp phải ông Thượng đế của cô Watson thì thôi thế là hết đường làm ăn. Tôi nghĩ đi nghĩ lại mãi về chuyện này và định rằng tôi sẽ đi theo cái ông Thượng đế của bà góa, nếu như ông ta bằng lòng; mặc dầu tôi chưa rõ ràng sau này ông ta có còn tốt hơn như trước nữa không, khi biết là tôi dốt nát, lại hay thích những chuyện oái oăm, nhỏ nhặt.

Bố tôi thì bỏ đi đã hơn một năm nay. Điều đó cũng làm cho tôi dễ chịu, vì tôi không muốn gặp bố tôi nữa. Lúc nào không say rượu mà vớ được tôi là ông chỉ những đánh đập; cho nên tôi luôn luôn bỏ chạy vào rừng, nhất là những khi bố tôi đi dạo quanh nhà. Hồi đó người ta thấy bố tôi chết trôi ở quãng sông phía dưới, cách tỉnh chừng khoảng hai mươi dặm. Họ bảo rằng cái người chết trôi ấy đúng là khổ người của bố tôi, quần áo rách bươm, có bộ tóc dài chẳng giống ai. Mà những cái đó thì thật đúng như bố tôi rồi. Nhưng chẳng ai nhìn thấy rõ mặt mũi, vì cái xác đã ngâm dưới nước quá lâu rồi nên mặt cũng không còn ra mặt nữa. Họ nói là bố tôi trôi ngửa trên mặt nước. Họ đã vớt lên đem chôn ở trên bãi sông ấy. Nhưng tôi yên lòng không được bao lâu thì bỗng nghĩ đến một điều. Tôi biết rõ ràng là một người đàn ông chết đuối thì không bao giờ trôi ngửa, mà trôi sấp. Nếu đúng như thế thì cái xác đó không phải là bố tôi, mà có lẽ là một người đàn bà mặc quần áo đàn ông. Nghĩ thế tôi lại đâm lo. Tôi đoán thế nào ông ấy cũng sắp quay trở về. Và tôi cứ mong là ông ấy đừng về nữa.

Thỉnh thoàng, bọn chúng tôi giả làm cướp, chơi được gần một tháng, rồi sau tôi rút lui, không chơi nữa. Cả bọn cũng thôi. Chúng tôi chưa cướp của ai bao giờ, chưa giết người nào, mà chỉ làm giả như thế thôi. Chúng tôi thường chạy ra ngoài rừng, làm bộ tấn công vào những người chăn cừu và những bà chở xe rau đi chợ. Nhưng chúng tôi chẳng bao giờ xúm vào lấy của họ cái gì. Thằng Tom Sawyer gọi những con cừu là những thoi vàng còn những củ xu hào, bắp cải là những quần áo đồ đạc. Xong đâu đấy, cả bọn chúng tôi kéo nhau về hang bàn cãi về những hành động vừa làm, xem đã giết được bao nhiêu người, đã vạch được bao nhiêu dấu hiệu trên người chết. Nhưng rồi tôi thấy cái đó chẳng ích lợi gì. Có một lần thằng Tom phái một đứa chạy lên tỉnh, tay cầm một bó đuốc sáng mà nó gọi đó là cái khẩu hiệu (tức là cái dấu hiệu của bọn tôi mỗi khi tụ tập với nhau). Rồi nó bảo rằng vừa mới nhận được tin mật báo do những tay do thám của nó đưa về; báo rằng hôm sau sẽ có một đoàn lái buôn người Tây Ban Nha và người Ả Rập rất giầu có sẽ qua đó, đóng trại nghỉ chân ở Hang Lỗ; đoàn này có hai trăm con voi, sáu trăm con lạc đà với hơn một ngàn con la, toàn chở kim cương châu báu; mà họ chỉ vẻn vẹn có bốn trăm lính gác. Vì vậy chúng tôi sẽ bố trí phục kích, thằng Tom nó nói thế, phục kích và phải giết cả đoàn người đó rồi cướp thật nhanh lấy những đồ vật ấy. Nó dặn chúng tôi phải lau chùi thật kỹ những dao kiếm, súng ống và chuẩn bị sẵn sàng. Ngữ nó thì ngay đến một cái xe chở rau cũng chẳng bao giờ làm gì được, nhưng nó cứ nhất định phải có gươm, có súng lau chùi cho sáng loáng để làm những việc đó; mặc dầu gươm súng đây chỉ là những cái que gỗ, cán chổi, có lau chùi hay đánh bóng cho đến rã cánh đi nữa thì nó cũng vẫn chẳng giá trị gì hơn một đám củi. Tôi không tin rằng bọn tôi có thể đánh nổi cả một đoàn người Tây Ban Nha và Ả Rập như thế được, nhưng bụng tôi lại muốn được xem voi và lạc đà, cho nên hôm sau tôi cũng có mặt trong trận phục kích. Hôm đó thứ bảy, sau khi nhận được lệnh, chúng tôi ra khỏi rừng và chạy băng xuống chân đồi. Nhưng chẳng thấy người Tây Ban Nha và Ả Rập đâu cả, cũng chả thấy lạc đà với voi nữa. Chỉ là đám học trò nhỏ của trường nhà Dòng đi cắm trại chiều thứ bảy. Chúng tôi nhảy ùa vào đám đó và lùa tụi trẻ con lên hang. Nhưng bọn tôi chẳng kiếm được gì khác ngoài một bánh mì ngọt với thịt muối , riêng thằng Ben Rogers vớ được một con búp bê rách, thằng Joe Harper vớ được quyển sách hát của nhà thờ và một cuốn kinh nhỏ. Lúc đó bỗng thấy ông giáo ở đây chạy ra làm chúng tôi phải vứt bỏ cả xuống mà tháo thân. Tôi chả thấy kim cương châu báu gì cả. Tôi bảo thằng Tom Sawyer thế. Nó nói chẳng có vô khối đấy à. Nó lại bảo là có cả người Ả Rập, cả voi nữa, đủ các thứ ở đấy. Tôi hỏi thế sao tôi không trông thấy? Nó bảo là sao tôi dốt thế, nếu mà tôi đã được đọc một cuốn sách tên là Đông Ki Sốt rồi thì tất là sẽ biết mà chẳng cần phải hỏi nó như thế nữa. Nó nói rằng đó là do sự phù phép nên mới như vậy. Ở đó có hàng trăm lính, rồi voi, rồi kho tàng vân vân... nhưng vì chúng tôi có nhiều kẻ thù, hay là những nhà ảo thuật đã biến tất cả những thứ đó thành đám học trò trẻ con đi cắm trại cho nên mới hại chúng tôi như vậy. Tôi nói rằng đã thế thì bây giờ đi tìm những nhà ảo thuật ấy mà đánh chứ. Thằng Tom Sawyer bảo tôi là ngốc. Nó nói:

- Như thế làm sao được? Nhà ảo thuật có thể gọi đến một lô những ông thần, họ sẽ băm mày ra từng mảnh ngay tức khắc ấy chứ. Những ông thần ấy to bằng cái cây, lớn bằng cái nhà thờ ấy.

Tôi nói:

- Giá chúng minh có vài ông thần như vây giúp một tay thì có thể đánh tan được đám khác không?

- Làm thế nào mà mình có những ông thần ấy được?

- Tao cũng không biết. Nhưng thế làm sao mà họ lại có được?- Họ lấy tay cọ sát vào cái đèn bằng thiếc hay vào cái nhẫn bằng sắt, thế là ông thần kia ầm ầm kéo đến, có sấm sét và chớp lóe hiện lên theo ở quanh mình rồi khói bay lên cuồn cuộn, rồi bất cứ sai họ việc gì là họ cũng làm ngay được chứ sao. Họ có thể không cần phải dùng đến sức lực mà cũng nhổ bật một cái pháo đài hoặc đem buộc ông giám thị của trường hay bất cứ ai lên đó rồi đội cả đi cũng được.

- Thế thì ai có thể gọi họ kéo đến ầm ầm ở chung quanh như vậy được?

- Người nào cọ sát vào chiếc đèn hay chiếc nhẫn ấy chứ còn ai nữa. Những ông thần này là thuộc quyền bất cứ ai cọ sát vào cái đèn cái nhẫn, và phải làm mọi cái theo lệnh của người đó. Nếu bảo xây một toà lâu đài bốn mươi dặm toàn bằng kim cương, và chất đầy kẹo cao su vào trong toà lâu đài ấy, hay bất cứ cái gì mình muốn, rồi dẫn về đó cho mình một cô công chúa con gái ông Hoàng đế ở Trung Hoa để cưới làm vợ, họ đều phải làm theo tất cả, mà lại phải làm xong những cái đó trước khi mặt trời mọc sáng hôm sau nữa cơ, lại còn thế này nữa: những ông thần ấy phải đêm cái toà lâu đài đi khắp nơi nào mình muốn nữa. Mày hiểu chưa?

Tôi nói:

- Nếu vậy thì tao nghĩ rằng họ chỉ là một đám ngốc không biết giữ lấy toà lâu đài ấy cho mình mà lại đi phung phí như vậy. Hơn nữa, nếu tao là một trong những ông thần ấy thì tao sẽ xin đủ thôi, chả tội gì bỏ việc của mình mà đi hầu người ta mỗi khi họ cọ sát vào cái đèn bằng thiếc như thế.

- Huck Finn, mày ngốc lắm. Khi người ta cọ sát vào cái đèn thì muốn hay không muốn đã là những ông thần kia thì tất là phải kéo đến rồi.

- Thế thì tao cũng sẽ to bằng cái này, lớn bằng cái nhà thờ à? Vậy thì hay lắm: tao sẽ đi đến chỗ đó; nhưng mà tao thì định sẽ bắt người ấy phải trèo lên một cái cây nhất ở xứ này.

- Thôi đi Huck Finn, nói chuyện với mày chán tận cổ. Trông mày cũng không đến nỗi là không biết gì cả, ấy thế mà hoàn toàn là ngu ngốc.

Tôi lại phải nghĩ ngợi về chuyện này mất vài ba ngày. Tôi tính để rồi sẽ xem trong đó có cái gì thật không. Tôi đi kiếm một cái đèn bằng thiếc đã cũ và một cái nhẫn bằng sắt đem ra ngoài rừng, lấy tay cọ sát, cọ sát mãi đến toát cả mồ hôi, trong bụng đã tính sẵn sẽ xây một toà lâu đài mà bán đi. Nhưng vô ích, chẳng thấy ông thần nào tới cả. Sau đó, tôi cho rằng tất cả những chuyện vô lý ấy chỉ là một trong bao nhiêu cái nói láo của thằng Tom Sawyer mà thôi. Tôi đoán chắc nó tin rằng có những người Ả Rập kia và có voi thật; nhưng còn tôi thì tôi nghĩ khác. Vì rõ ràng đó chỉ là đám học trò trường nhà Dòng mà thôi.

Chương 4

  Ba bốn tháng trôi qua, bây giờ đã đến giữa mùa đông. Lâu nay tôi vẫn đi học và đã có thể đánh vần được, đọc được, viết được chút ít và đã có thể thuộc bảng cửu chương đến chỗ sáu lần bảy là ba mươi lăm. Tôi không tin chắc là mình có thể giỏi được hơn thế nữa nếu mình còn sống. Dù sao thì tôi cũng không thích cái môn toán cho lắm.

Lúc đầu, tôi rất ghét đến nhà trường, nhưng dần dà đi học thì tôi thấy cũng chịu được. Lúc nào thấy trong người mệt, không bình thường, thì tôi trốn học. Và hôm sau bị trận đòn, tôi lại học hành tử tế, hăng hơn. Cứ thế, việc học đối với tôi dễ dàng dần dần. Tôi cũng đã quen với tính nết của bà goá và thấy không đến nỗi bực mình lắm. Sống trong một căn nhà, ngủ trên một chiếc giường riêng, lắm khi tôi cũng thấy nó trói buộc mình thế nào ấy. Vì thế, trước đấy lúc trời còn chưa lạnh lắm, thỉnh thoảng tôi vẫn hay lẩn ra ngủ ngoài rừng. Đối với tôi, như vậy là nghỉ ngơi được. Tôi chỉ thích nhất những cách sống cũ. Nhưng khi phải sống mới như thế này, tôi cũng hơi thích một chút. Bà goá bảo tôi rằng uốn theo những cái đó tuy có chậm chạp nhưng chắc chắn, và cũng không có chỗ nào chê trách được cả. Bà ta nói là bà ta không đến nỗi phải hổ thẹn về tôi.

Một buổi sáng trong khi đang ăn sáng thì tôi đánh đổ cái đĩa đựng muối. Tôi vội vàng lấy tay vét thật nhanh, vứt ra sau vai bên trái để tránh điều đen rủi, nhưng bỗng cô Watson ở đâu vào đứng ngay trước mặt và chặn lại. Cô ấy bảo:

- Huck, bỏ tay ra, sao lúc nào cũng nghịch bẩn thế?

Bà goá nói thêm vào một câu nhẹ thôi; nhưng cái đó cũng không thể làm cho tôi tránh khỏi cái không may được, tôi biết chắc như thế. Sau bữa ăn, tôi bước ra ngoài, trong lòng thấy lo lắng run sợ, không biết rằng cái điều không may ấy sẽ rơi vào tôi ở chỗ nào và không biết nó sẽ ra sao đây. Cũng có những cách để tránh khỏi một số điều đen đủi, nhưng trường hợp này không ở trong số đó; cho nên tôi chẳng còn biết làm thế nào, chỉ luẩn quẩn với những ý nghĩa buồn rầu sợ sệt.

Tôi xuống dưới vườn, trèo qua cái ngách hàng rào, ở bên chỗ người ta vẫn ra vào. Trên mặt đất, tuyết xuống mới được phủ vài ba phân, tôi bỗng thấy có vết chân người. Những vết chân này từ phía núi đã đi tới vết chân dừng lại ở chỗ ngách này một lúc rồi lại đi quanh hàng rào. Thật lạ quá, ai đứng quanh quẩn ở đó như vậy mà sao lại không vào. Tôi không sao đoán ra được. Dù thế nào, cái đó cũng rất kỳ lạ. Tôi đang định đi lần theo vết chân, nhưng tôi cúi xuống nhìn kỹ vết chân đã. Lúc đầu không thấy có gì, nhưng sau tôi nhận ra. Có một dấu chữ thập ở gót giầy bên trái đóng bằng đinh to, cái đó để tránh khỏi gặp phải quỷ thần.

Tôi vùng ngay dậy và mải miết chạy xuống đồi. Chốc chốc lại ngoái nhìn về đằng sau, nhưng không thấy một ai. Tôi chạy ba chân bốn cẳng đến nhà chánh án Thatcher. Lão ta thấy tôi, hỏi:

- Sao thế, làm gì mà hớt hải thế. Đến lấy tiền lãi phải không?

Tôi đáp:

- Không phải đâu ông ạ. Thế có tiền lãi cho cháu đấy ư?

- Có chứ. Đến hôm qua vừa được nửa năm. Như vậy là đi hơn một trăm năm mươi đô la. Một món kếch sù cho cậu đấy. Nhưng tốt nhất là cậu hãy cứ gửi lại để tôi góp thêm vào với món sáu nghìn đồng cũ, không thì cậu lấy về lại cũng đến tiêu hết thôi.

- Không, ông ạ, cháu chẳng muốn tiêu đâu cả sáu nghìn trước cũng thế. Cháu muốn ông cầm lấy, biếu ông đấy, cả sáu nghìn, tất cả.

Lão ta rất ngạc nhiên. Hình như lão ta không thể hiểu nổi tại sao.

Lão hỏi:

- Cậu nói như vậy nghĩa là thế nào?

- Xin ông đừng hỏi cháu một câu nào về cái đó nữa. Ông hãy giữ lấy món tiền ấy, ông có muốn thế không?

Lão ta nói:

- Tôi thật khó nghĩ quá. Có chuyện gì thế hả cậu?

Tôi đáp:

- Xin ông cứ cầm lấy cả vàng và đừng hỏi cháu làm gì nữa. Cháu không muốn nói dối đâu.

Lão ta suy nghĩ một lát rồi nói:

- Thôi tôi hiểu rồi. Tức là cậu muốn bán tất cả tài sản đó của cậu cho tôi, chứ không phải là biếu. Đúng thế chứ?

Rồi lão viết cái gì trên một mảnh giấy, đọc lên và nói:

- Cậu thấy không? Trong này nói là giao kèo. Như vậy nghĩa là tôi đã mua cả của cậu và trả tiền cho cậu. Đây nhé cậu hãy cầm lấy một đô la. Bây giờ cậu ký vào đây đi.

Tôi ký tên rồi ra về

Jim, anh da đen làm việc cho cô Watson, có một búi lông to bằng quả đấm mà hắn ta lấy ở cái ngăn dạ dày thứ tư của một con bò, và hắn vẫn dùng cái đó làm trò ảo thuật. Hắn bảo rằng trong búi lông ấy có con ma và nó biết tất cả mọi thứ. Đêm đó, tôi lò mò đến chỗ Jim và nói với hắn rằng bố tôi để lại dấu chân ở trên tuyết. Điều tôi muốn biết là bố tôi sẽ làm gì và có định ở lại đấy không? Jim lấy búi lông ra, nói lảm nhảm những gì với nó một lúc, rồi giơ lên cao, lại buông ra cho nó rơi xuống sàn nhà. Cái búi lông rơi xuống đánh bịch một cái và lăn đi vài ba tấc. Jim lại nhặt lên, lại thả cho rơi xuống một lần nữa, cái búi lông lắng nghe. Nhưng vô ích. Jim bảo là cái búi lông nó không muốn nói. Jim bảo rằng có khi không có tiền thì nó không chịu nói đâu. Tôi bảo tôi có đồng tiền hai mươi lăm xu làm giả, đã cũ rồi và cũng không thể đem tiêu được. Tôi cứ nói đi nói lại mãi như vậy (tôi đã tính sẵn trong bụng là không đả động gì đến đồng đô la mà lão chánh án Thatcher vừa đưa cho tôi). Tôi bảo đồng tiền đó xấu lắm, nhưng có thể là cái búi lông nó chịu nhận. Vì có lẽ nó không phân biệt được tốt xấu thế nào chăng. Jim cầm lấy đồng tiền, ngửi ngửi, đưa lên rằng cắn thử, rồi xoa xoa cho sạch. Rồi hắn bảo là sẽ nói khéo để cho cái búi lông tưởng là đồng tiền tốt. Hắn nói là sẽ bổ đôi một củ khoai sống rồi đem ấp đồng tiền vào giữa, để qua một đêm đến sáng hôm sau về không còn thấy nó trơ đồng ra nữa và cũng không còn vết bẩn, bất cứ ai trên tỉnh cũng có thể nhầm mà lấy chứ đừng nói cái búi lông. Trước đấy, tôi cũng đã biết lấy củ khoai làm như thế, nhưng lâu ngày rồi quên đi.

Jim để đồng tiền xuống dưới búi lông rồi lại quỳ xuống lắng nghe. Lần này hắn bảo cái búi lông đã ứng quẻ rồi. Hắn bảo cái búi lông sẽ phán cho tôi được giàu to đến như tôi muốn. Tôi bảo ừ, được, cứ làm đi xem nào. Thế là cái búi lông nói với Jim, và Jim truyền lại cho tôi rằng:

- Chưa biết là ông bố cậu sẽ làm gì đây. Có thể ông ấy sẽ đi xa, cũng có thể ông ấy định ở lại. Nhưng tốt nhất là cứ yên trí và cứ để mặc ông ấy muốn làm gì thì làm. Có hai vị thiên thần đang bay quanh người ông ấy. Thiên thần trắng và sáng lấp lánh. Còn một thiên thần thì đen. Thiên thần trắng dẫn ông ấy đi theo con đường tốt ít lâu, rồi thiên thần đen nhảy vào và phá hỏng hết. Chưa thể nói được là cuối cùng thiên thần nào sẽ bắt ông ấy đi. Nhưng còn cậu thì không hề gì. Đời cậu sẽ gặp nhiều cái rắc rối, mà cũng có nhiều cái vui mừng đấy. Có khi cậu bị đau đớn lại có khi ốm yếu, nhưng rồi lần nào cậu cũng trở lại lành lặn như thường. Có hai cô thiếu nữ bay lượn ở bên cậu trong suốt cuộc đời cậu. Một cô trắng trẻo, một cô đen đủi. Một cô giàu một cô nghèo. Cậu sẽ cưới cô nghèo trước, rồi sau đến lượt cô giàu. Cậu phải tránh xa những chỗ sông nước, xa chừng nào hay chừng đó. Và nhất là đừng có làm gì mạo hiểm, nhỡ ra người ta ghi tên tuổi cậu vào sổ thì cậu sẽ bị treo cổ.

Đêm đó, lúc tôi vừa thắp cây nến và đi lên buồng thì thấy bố tôi ngồi trong đó từ bao giờ, thôi, đích thật là bố tôi rồi!

Chương 5

Tôi vừa khép xong cánh cửa, quay lại thì đã thấy ông ấy ngồi đó. Lúc nào trông thấy ông ấy là tôi cũng khiếp sợ, vì ông ấy đánh đập tôi quá nhiều lần. Ngay lúc đó tôi cũng kinh hãi lắm, nhưng chỉ một phút sau, tôi đã thấy rằng tôi lầm - nghĩa là sau cái giật mình đầu tiên, có thể nói như vậy, khi mà hơi thở của tôi bỗng dưng bị tắc nghẹn vì chuyện quá bất ngờ thấy ông ấy ở đó, thì tôi lại không còn thấy sợ nữa, và như vậy thì chẳng có gì đáng lo ngại.

Bố tôi chạc năm mươi tuổi. Tóc dài, bù xù, rũ xuống, và cáu bẩn. Nhìn qua bộ tóc ấy có thể trông thấy đôi mắt sáng chiếu ra, khác nào như ông ấy đứng nấp sau dàn nho mà nhìn mình vậy. Bộ tóc toàn một màu đen không một sợi bạc nào, cả hai bên tóc mai dài chằng chịt vào nhau cũng vậy. Nhìn mặt ông ấy trừ những chỗ không có râu tóc thì không có màu sắc gì khác, chỉ thấy trắng, không phải cái trắng như của mọi người, nhưng là một cái trắng làm cho những thớ thịt của người ta phải co rúm lại. Một màu trắng của cây leo, một cái màu trắng của bụng con cá. Còn quần áo ông ấy thì ngoài mấy mảnh rách mướp ra, chẳng có gì. Ông ấy ngồi vắt chân chữ ngũ, chiếc giầy bên phía chân vắt lên đã há mõm, một ngón chân thò ra ngoài, chốc chốc lại ngọ nguậy. Chiếc mũ của ông ấy quăng trên sàn nhà là một chiếc mũ rộng vành, màu đen, đã cũ và trên cái quả mũ đã thủng một lỗ to tướng trông như cái khung cửa để chui xuống hầm tầu vậy.

Tôi đứng nhìn ông ấy. Ông ấy cũng ngồi nhìn tôi, lưng ghế hơi ngả về đằng sau. Tôi đặt cây nến xuống. Tôi để ý nhìn ra thấy cánh cửa sổ đã dựng lên, thì ra ông ấy đã trèo qua mái nhà kho mà vào đây. Ông ấy nhìn mãi khắp người tôi như vậy. Lát sau, ông ấy lên tiếng:

- Áo quần trông oách lắm nhỉ. Mày tưởng mày đã ra vẻ một người quan trọng lắm ư?

Tôi đáp:

- Có thể như vậy, mà cũng có thể không.

Ông ấy lại hỏi:

- Có phải mày vẫn nói xấu tao đấy không? Từ khi tao đi vắng xa, mày ở đây lên mặt lên mày lắm hả? Rồi tao sẽ kéo mày xuống trước khi tao từ bỏ mày. Nghe thấy người ta nói mày cũng có học hành, đọc được, viết được. Bây giờ mày đã tưởng là hơn bố mày, phải không; vì bố mày không biết đọc, biết viết mà. Được, rồi tao sẽ cho mày biết. Ai bảo mày lại có thể đi dính dáng đến những chuyện điên rồ như thế, hử? Ai bảo mày được quyền như thế?

- Bà goá, bà ấy bảo con thế?

- Bà goá? Thế ai bảo bà ta nhúng tay vào cái việc không phải của bà ấy?

- Chẳng ai bảo bà ấy cả.

- Được rồi, tao sẽ dạy cho bà ấy biết là đừng có mà dính dáng. Còn mày thì nghe đây: mày hãy thôi đi, không được học nữa, nghe không? Tao sẽ bảo cho họ biết rằng đừng có nuôi dạy một đứa trẻ để rồi nó lên mặt với bố nó và để cho nó tưởng rằng nó đã khá hơn được cái bản thân nó. Tao còn bắt được mày đi học nữa thì liệu hồn, nghe không? Mẹ mày trước kia không biết đọc, mà viết cũng không biết viết cho đến khi chết cũng vẫn không biết. Cái họ nhà này trước khi chết không có ai biết đọc biết viết cả. Tao cũng không biết. Thế mà bây giờ đến mày thì sao lại được quyền như vậy hử? Tao không phải là thứ người chịu nổi được cái đó, nghe không? Này, mày thử đọc lên cho tao nghe xem nào?

Tôi cầm một quyển sách lên, bắt đầu đọc một tí về đoạn Washington với chiến tranh, Tôi đọc được chừng nửa phút thì ông lấy tay hất bắn ngay quyển sách ra góc nhà và nói:

- À, mày lại đọc được nữa ư? Nghe người ta nói như vậy, nhưng tao còn ngờ, chưa tin hẳn. Này nghe đây, hãy thôi đi đừng làm cái bộ ta đây nữa, tao không thích thế. Tao bảo cho mày biết, con ơi. Tao mà bắt được mày còn lởn vởn ở cái trường học ấy nữa thì tao sẽ dần cho mày một trận nên thân. Trước hết mày hãy biết là phải nghe lời tao đã. Chưa bao giờ tao thấy có đứa con như vậy.

Ông ấy nhặt lên một tấm ảnh xanh xanh vàng vàng trong đó có mấy con bò với một đứa trẻ, hỏi tôi:

- Cái gì đây?

- Cái đó là họ thưởng cho con vì đã học thuộc bài

Ông ấy xé toang ngay bức ảnh rồi nói:

- Tao sẽ cho mày một cái hay hơn. Tao cho mày cái roi.Rồi ông ấy ngồi lẩm bẩm, làu nhàu một hồi lâu và lại nói:

- Cái kiểu công tử bột, sực nức nước hoa rồi phải không? Có giường, khăn trải giường. Lại có cả gương soi nữa. À, lại có cả tấm thảm trải trên sàn nhà nữa. Còn bố mày thì phải ngủ với lợn ở trong nhà thuộc da. Chưa khi nào tao lại thấy có đứa con như vậy. Nhất định tao phải làm cho mày bỏ hết những cái ra vẻ ta đây ấy đi đã, rồi sẽ nói chuyện với mày sau. Chà, mày còn chưa hết những điệu bộ ấy cơ à, họ đồn là mày giàu lắm, có phải không? Làm thế nào mà mày lại giàu được?

- Họ nói dối đấy, làm gì có như vậy.

- Này, ăn nói với tao thì liệu hồn. Tất cả những cái gì tao đã có thể làm được thì bao giờ tao đều dám làm cả, vậy đừng có bịp tao. Tao ở ngoài tỉnh hai ngày hôm nay rồi. Xuống tận bờ sông cũng thấy người ta nói thế. Cho nên tao mới tìm đến đây. Mai mày phải đưa số tiền đó cho tao, tao cần dùng đến tiền.

- Con làm gì có tiền

- Nói láo. Ông chánh án Thatcher cầm số tiền đó. Chính mày có. Tao cần đến số tiền ấy.

- Con nói thật đấy, con không có tiền đâu. Bố cứ đến hỏi ông chánh án Thatcher mà xem, ông ấy cũng sẽ nói với bố như thế.

- Được, rồi tao hỏi ông ấy, tao sẽ nói chuyện với ông ấy xem đầu đuôi ra sao. Này, trong túi mày hiện giờ có bao nhiêu. Hãy đưa đây tao, tao đang cần.

- Con chỉ có một đô la. Con định để...

- Định để làm gì mặc kệ mày, tao không cần biết, hãy cứ đưa đây đã.

Ông ấy cầm ngay lấy đồng tiền rồi đưa lên răng cắn thử xem có tốt không; rồi ông ấy nói đi xuống phố kiếm ít rượu whisky, bảo là cả ngày hôm nay chưa được nhấp một tí nào. Bước ra đến ngoài bóng tối rồi còn ngoái cổ lại đe tôi đừng có làm ra vẻ ta đây muốn hơn ông ấy. Khi tôi đoán là ông ấy đã đi hắn rồi thì lại thấy ông quay lại thò đầu vào nói tôi hãy coi chừng với cái trường học ấy không thì ông ấy sẽ đi bắt về đánh cho một trận nếu như tôi không chịu thôi học.

Hôm sau, ông ấy say mềm, mò đến nhà lão chánh án Thatcher sừng sộ định bắt lão ta phải đưa hết số tiền cho ông ấy. Nhưng chẳng ăn thua gì; rồi ông ấy thề là sẽ đưa lão chánh án ra trước pháp luật.

Lão chánh án và bà goá đã đi trình toà cho tôi được thoát khỏi tay bố tôi, và để toà giao cho một trong hai người đỡ đầu cho tôi. Nhưng đây lại là một ông chánh án mới ở đâu về, chẳng rõ bố tôi là người như thế nào, nói rằng toà án không có quyền nhúng tay vào việc chia rẽ gia đình người ta, mà trái lại phải đoàn tụ, càng không thể bắt đứa trẻ phải xa bố. Thế là lão chánh án Thatcher và bà goá đành phải chịu thua thôi.

Điều đó làm cho ông bố tôi khoái trí lắm, đến nỗi ông ấy đứng ngồi không yên. Ông ấy bảo sẽ đánh cho tôi thâm tím mình mẩy nếu tôi không chịu lòi tiền ra cho ông ấy. Tôi vay tạm ba đồng đô la của lão chánh án Thatcher đưa về, ông ấy lại cầm đi uống rượu say bí tỉ; rồi đi ngồi lê la khắp nơi ba hoa nhảm nhí gây chuyện khắp tỉnh; tay cầm cái chậu sắt lang thang đến tận nửa đêm. Người ta mới bắt giam ông ấy lại, cho ngồi tù một tuần lễ. Nhưng ông ấy lại bảo làm như vây là thoả mãn rồi; ông ấy hài lòng lắm, vì đã có uy tín đối với đứa con là tôi.

Khi ông ấy ra khỏi nhà tù, ông chánh án mới đổi về ấy bảo là sẽ dạy cho bố tôi thành người. Ông chánh án đưa bố tôi về nhà riêng, cho ăn mặc sạch sẽ, đẹp đẽ.. Sáng, trưa chiều cùng cho ngồi ăn chung với gia đình, đối đãi với bố tôi rất ngọt ngào. Đại khái như vậy. Ăn bữa chiều xong, ông chánh án ngồi nói chuyện cho bố tôi nghe về cách sống như thế nào cho đúng mực với những kiểu này kiểu khác, đến nỗi bố tôi nghe xong phải khóc lên, bảo rằng mình thật là điên rồ và đã làm hại cả đời mình. Bố tôi hứa từ nay sẽ sửa đổi tư cách và sẽ trở thành một con người tốt để không ai hổ thẹn về ông ấy nữa. Rồi lại còn mong rằng ông chánh án sẽ giúp đỡ cho và đừng có khinh miệt mình. Ông chánh án bảo nghe bố tôi nói những lời như vậy thật là đáng mừng. Thế là cả vợ chồng ông chánh cũng khóc nữa. Bố tôi nói rằng ông là một con người trước đây vẫn bị hiểu lầm. Ông chánh thì bảo ông cũng tin là như thế. Bố tôi lại nói rằng cái mà một người cần có ở tận đáy lòng mình ấy là cảm tình. Ông chánh nói: đúng như vậy. Thế là cả hai bên lại khóc. Lúc đến giờ đi ngủ, ông bố tôi đứng dậy, dang hai tay ra nói:

- Đây, các ông các bà nhìn tôi đây. Xin hãy cầm lấy tay tôi và cho tôi bắt tay. Đây là một bàn tay trước kia như tay con lợn; nhưng bây giờ không phải nữa; mà đây là bàn tay của một con người đã bắt đầu bước vào cuộc đời mới. Nếu còn quay lại đường cũ sẽ xin chết. Các ông các bà hãy nhớ kỹ cho những lời nói ấy, và xin đừng quên là chính tôi đã nói như vậy. Bây giờ là một bàn tay sạch sẽ rồi xin cứ bắt tay đừng sợ.

Lần lượt người này người khác đến bắt tay, rồi tất cả đều khóc. Bà vợ ông chánh án lại còn cúi xuống hôn cái bàn tay ấy. Rồi ông bố tôi làm dấu thề. Ông chánh án nói rằng đó thật là cái lúc thiêng liêng nhất, hay là cũng gần như vậy. Rồi họ đưa ông bố tôi vào một căn phòng lộng lẫy, đó là căn phòng riêng. Đến đêm, lúc bố tôi khát nước quá mới trèo qua mái cổng, bám vào cột tụt xuống đất, đem cái áo họ vừa mới cho đi đổi lấy một chai rượu bố, rồi lại vẫn chứng nào tật ấy trèo về phòng ngồi uống thoả thích cho đến lúc sáng rõ mới bò ra, say khướt, đâm cả vào cổng đến nỗi tay bên trái bị thương mấy chỗ. Sáng ngày ra, lúc có người tìm thấy ông ấy thì đã bị lạnh gần chết cứng. Khi mọi người bước vào căn phòng riêng kia thì thấy đồ đạc đã lung tung lộn xộn cả lên rồi.

Ông chánh án lấy làm buồn lắm. Ông ấy bảo có lẽ chỉ một phát súng mới giúp cho ông bố tôi sửa đổi tính nết, chứ chẳng còn cách nào khác nữa. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro