Những cuộc phiêu lưu của TomSawyer - Mark Twain - C1~6

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 1 Nơi chúng ta làm quen với nhân vật chính

- Tom!

Không nghe trả lời...

- To-om! Tommie! Quái! Nó lại biến đi đằng nào nhỉ?

Vẫn không có tiếng trả lời.

Bà cụ kéo trễ cặp kính xuống sống mũi và nhìn qua phía trên, xem xét kỹ gian phòng nhưng chẳng thấy thằng bé đâu cả. Bà lại đẩy kính lên trên trán và lần này, bà bắt đầu nhìn kỹ lại một lần nữa qua phía bên dưới kính. Chẳng là gì đối với một kẻ ít quan trọng như thằng cháu nhỏ của bà, thậm chí có thể nói là bà không hề bao giờ có ý nhìn thằng cháu qua cặp kính quý giá của mình. Và giá có làm như thế thì thật ra không chắc kết quả đã khá hơn, bởi vì - đáng xấu hổ và ô danh thay cái anh chàng thầy thuốc nhãn khoa hời hợt! - Rõ ràng việc chọn lựa gọng kính đã được chú trọng nhiều hơn tròng kính...

- Tom à, tao mà vớ được mày, thì tao...

Và trong khi thốt ra mấy lời đe dọa sẽ không được thực hiện như bao lời khác, bà đưa chổi khua mạnh bên dưới đồ đạc trong phòng mà thằng bé ranh mãnh có thể nấp trốn... nhưng rốt cuộc bà chỉ xua được một con mèo ra khỏi gầm giường.

Cụt hứng, bà tiu nghỉu bước đến cửa ra vào đang để mở và dán mắt nhìn kỹ các cây cà chua và cỏ dại chen nhau mọc kín cả mảnh vườn.

- Tom, lại đây ngay, ông mãnh. Còn không mày sẽ hối hận đấy!

Lời kêu gọi cương quyết này vẫn không được đáp lại như những lời kêu gọi trước. Nhưng chợt lỗ tai tinh anh của bà nhận ra một tiếng lướt qua nhẹ nhàng. Bà cụ quay gót nhanh như vụ và kịp tóm được vạt áo của kẻ chạy trốn.

- Rõ ràng là mình đã không nghĩ tới! Mày sẽ làm gì trong cái tủ ấy vậy con?

- Thưa dì, chẳng làm gì cả, cháu cam đoan.

- Vậy làm sao mà mặt mày nhoe nhoét cả thế kia?

- Thưa dì cháu không biết ạ, thật tình như vậy.

- Còn tao thì biết rõ quá mà, để tao giải thích cho mày: mày lại mó tay vào mấy lọ mứt của tao chứ gì nữa! Mày sẽ nếm thử cây roi của tao, đồ quái quỷ!

- Ối dì ơi, nhìn xem lưng dì kìa...

Bà cụ quay ngoắt người lại và chưa kịp thấy gì thì Tom đã thoát chạy, nhảy qua hàng rào của khu vườn.

Mặc dù cảm thấy thất vọng, dì Polly cũng không nén được mỉm cười :

- Chà, cái thằng nhỏ này! Lúc nào nó cũng giở trò đánh lừa mình... và lần nào mình cũng bị mắc mưu nó cả! Với nó, mình có bao giờ lường được chuyện gì sẽ xảy đến đâu! Nó chọc ghẹo mình đến tối tăm mày mặt và đến khi mình nổi giận thật sự, nó lại làm mình phát cười hết giận, không còn đánh nó được nữa. Lạy Chúa tha tội cho con, con không làm tròn bổn phận với thằng bé này! Ngạn ngữ có câu: "Thương cho roi cho vọt" lẽ nào mình phải nghiêm khắc hơn, quả là thế, nhưng đây là con trai của em gái thân yêu của mình, than ôi, tội nghiệp nó đã mất và mình không nỡ lòng nào sửa trị thằng bé. Khi mình tha thứ cho nó, lương tâm mình trách móc vì quá dễ dãi nhưng khi phạt nó lòng mình đau khổ muôn phần... cam đoan thế nào chiều nay nó cũng lại trốn học nữa chứ không đâu! Thôi thì, can đảm lên, Polly! Ngày mai là thứ bảy; để phạt nó mình sẽ bắt nó làm việc trong khi tất cả bạn bè của nó được chơi đùa.

Tom đã trốn học thật và chơi đùa thỏa thích quả không sai. Nó trở về vừa kịp lúc để rề rà uể oải giúp Jim, chú nhỏ da đen, cưa và chẻ củi, trong khi Sid, cậu em út của Tom tận tâm làm phần việc của nó là: gom củi vụn.

Trong lúc Tom vừa ăn vừa chờ cơ hội chớp vụng mấy tảng đường thì về phần mình, bà dì Polly nghĩ ra nhiều kế để hỏi dò nó. Bằng giọng mơn trớn ngọt ngào, bà bắt đầu cuộc tra vấn :

- À này Tom, ở trường hôm nay chắc bị nóng...

- Đúng vậy thưa dì! Nóng ngốt cả người lên nữa đấy.

- Thế mà cháu không muốn đi tắm sao?

- Ồ, không dì ạ. - Nó nói, lên mặt kẻ đạo hạnh. - Cháu đâu có muốn bỏ học!

- Thế thì làm sao mà tóc cháu ướt mèm thế kia!

- Thưa dì Polly, ấy là vì lúc ra khỏi trường, bọn cháu xịt nước máy bơm lên đầu nhau..

- Thế là tốt, dì cứ tưởng là cháu đã bỏ học để đi bơi. Vậy ra cháu không tệ như dì đã nghĩ. Ôm hôn dì đi cháu!

Lúc đó Sid xen vào, giả bộ ngây thơ rất khéo :

- Coi kìa dì, anh ấy khéo léo ghê, bị bơm nước mà cổ áo chả bị ướt gì cả!

Cảm thấy chiều hướng bất lợi, Tom tìm cách chuồn lẹ: nó nhỏm phắt khỏi ghế, phóng đi thật lẹ, không quên đưa ngón tay lên mũi đe dọa trả thù thằng Sid đạo đức giả. Rồi gần như chẳng nhích môi, nó nói nhỏ :

- Để đó rồi có ngày sẽ biết tay ta con ạ!

Vì chỉ trong khoảnh khắc chưa kịp nói hết câu, Tom lại đã khỏi nhà.

Trên đường đi, nó đã lấy lại được vẻ vui tươi và cất tiếng huýt sáo cố bắt chước tiếng líu lo của những loài chim khác nhau. Bất chợt, trong ánh sáng chiều hè, nó bỗng thấy một kẻ lạ mặt mà chưa một ai từng thấy trong khu làng nhỏ Saint-Petersbourg yên tĩnh này. Đó là một cậu con trai trạc tuổi nó, ăn mặc kiểu cách, chân lại đi giày vào một ngày thường trong tuần! Vẻ thanh lịch kiểu thành phố của đứa bé kia, lại thêm một cái mũ kiểu mới nhất, thật hết chỗ chê, tương phản với vẻ bên ngoài lôi thôi xộc xệch và quê mùa của Tom khiến anh bạn của chúng ta bỗng nhiên nổi tức. Ngắm nghía kẻ lạ với vẻ khinh khỉnh, cậu ta buông thõng một câu :

- Không chừng tao nện cho mày một trận bây giờ...

- Làm thử xem!

- Biết tên mày là tao sẵn sàng chơi ngay.

- Nếu người ta hỏi mày tên tao là gì, mày cứ nói là không biết!

- Này thằng đội mũ, đừng làm phách không thì liệu hồn!

- Nếu mày không thích cái mũ của tao thì cứ hất nó xuống thử xem, rồi mày sẽ biết thân!

- Mày biết thân thì có!

- Đồ nói khoác!

- Chính mày nói khoác!

- Mày có muốn tao gọi anh tao ra nện cho mày một trận không?

- Tao cũng gọi anh tao cho mà xem! Búng tay một cái là anh tao cho mày bò lăn!

Cần phải nói là chẳng đứa nào có anh cả....

- Mày nhìn cái đường tao vạch trên mặt đất này đây. Hãy nhìn cho kỹ vào. Nếu mày bước qua khỏi nó, tao sẽ nện cho mày một trận nhớ đời...

- Đấy, tao bước qua rồi này! Kìa, sao không nện đi? - Thằng bé kia nói ra vẻ thách thức.

Lần này Tom không lùi được nữa: nó nhảy bổ lên đối thủ và hai đứa nhỏ lăn lộn trong đám bụi mù trời. Trong chừng một phút, trận chiến bất phân thắng bại: những cú đấm đá, những cái cào cấu, những tiếng chửi rủa chẳng bên nào thua kém. Sau đó, dần dần Tom thắng thế, trồi lên ngồi kẹp hai chân như cưỡi ngựa trên mình đối thủ, và bây giờ hai tay thụi lấy thụi để. Cạn hơi kiệt sức, nửa như muốn ngạt thở trong đám bụi đất, thằng bé kia cuối cùng xin tha, trong lòng tức tối như điên. Tom để nó đứng lên.

- Tom Sawyer có lời khen mày! Chừng đó cũng đủ cho mày một bài học khi muốn xem thường người khác đấy nhé!

Và nó bỏ đi miệng vừa huýt sáo, đầu ngẩng cao.

Than ôi, khi nó về đến nhà, bà dì của nó chưa đi ngủ như nó đã tưởng và khi bà trông thấy bộ quần áo tả tơi của thằng cháu, bà càng quyết tâm ngày hôm sau sẽ phạt cầm chân nó một chỗ "vì lợi ích của nó".

Sáng thứ bảy. Ánh nắng mùa hạ rực rỡ và hương thơm đồng nội ngọt ngào khêu gợi niềm vui. Chỉ một mình Tom là không chia xẻ niềm hoan hỉ của mọi người. Được trang bị với một thùng nước vôi và một chổi sơn cán dài, nó nản chí ngắm dãy tường rào bằng ván chạy dài trước mặt dường như đến vô tận.

Vừa lúc đó Jim, thằng bé da đen, bước qua khỏi cổng vườn, tay xách một cái thùng, miệng hát nghêu ngao :

- Này Jim, mày quét vôi một chút được không? Trong lúc đó tao sẽ đi xách nước...

Tom vừa mới nhớ lại việc đi lấy nước ở giếng bơm trong làng không đến nỗi khó chịu là bao; nơi đây trong khi chờ đến lượt mình, người ta tha hồ nhởn nhơ kiếm chuyện cãi nhau khoái tỉ.

- Thưa cậu Tom, không được đâu. Bà chủ đã bảo tôi đi lấy nước và không được đổi nếu cậu yêu cầu. Tôi không dám...

- Úi chà, bà hò hét nhưng có bao giờ đánh đau lắm đâu! Nghe này, Jim, tao sẽ cho mày một viên bi, một viên bi to tướng, một cái mũ xếp... Còn nữa, nếu mày muốn, tao sẽ cho mày xem ngón chân bị thương của tao!

Lần này, bị quyến rũ bởi hứa hẹn ấy, Jim đặt cái thùng xuống và tiến lại gần, vô cùng thích thú nhìn dải băng ngón chân đang được tháo ra...

Nhưng bất ngờ lúc đó nó cảm thấy một bàn tay giáng mạnh vào mông: đó là bà dì Polly nhắc nhở thế giới nhỏ bé của bà trở về trật tự!

Tom đang tính chuyện tiếp tục làm lại công việc lao dịch, chịu đựng nhẫn nhục buồn chán thì bỗng trong trí óc nó lóe ra một ý thần tình làm nó trở lại hoàn toàn vui vẻ, yêu đời. Đúng là Ben Rogers đang tiến lại. Trong số tất cả bạn bè của nó, Tom sợ nhất những lời chế giễu của tên này! Vừa gặm một quả táo, Ben vừa bắt chước tiếng kêu của một chiếc tàu hơi nước cập bến, đồng thời đóng vai chiếc tàu lẫn thủy thủ đoàn và thuyền trưởng.

- Xình-xịch... xình-xịch! Mọi người hãy lên boong! Xong rồi, thuyền trưởng ạ! Bính-boong, bính-boong! Cho máy lùi qua trái! Xình-xịch... Xình-xịch! Bên trái, dừng lại! Tiến lên, qua phải! Bên phải, dừng lại! Cho tới từ từ, từ từ! Thả neo!

Tom vẫn điềm nhiên, tiếp tục quét vôi giả vờ hăng hái rất khéo.

- Này Tom, tớ lầm to hay cậu bị phạt đấy hả?

- À, Ben đấy à. Tớ không hay cậu tới. Xin lỗi nhé, nhưng không phải ngày nào tớ cũng có cơ hội quét vôi hàng rào... Dì tớ chỉ cho tớ làm một lần thôi! Xem nào, ừ đúng, tớ nghĩ phải dặm lại một chút ở đây, thế là tốt hơn rồi!

Công việc bỗng hiện ra dưới một bộ mặt mới: sao, không phải là một việc lao dịch mà là một trò chơi thú vị, một đặc ân ư?

- Ồ Tom, cho tớ làm thử một chút đi! Đừng ích kỷ!

- Không phải là tớ không muốn, cậu hiểu cho, nhưng Jim và Sid cũng đã năn nỉ dì Polly và dì từ chối thẳng thừng. Dì muốn phải làm cho khéo kia!

- Cho tớ làm đi! Tớ sẽ cho cậu nửa quả táo của tớ, nguyên quả luôn cũng được, nếu cậu muốn...

- Để cậu làm hết luôn đấy. - Tom bĩu môi nói thong thả. - Mà thôi, với cậu thì được...

Thế là, làm ra vẻ miễn cưỡng, Tom giao chổi sơn cho tên kia. Trong bụng, nó lấy làm vui sướng với tài khéo léo của mình! Nó chỉ còn chờ những nạn nhân khác, bọn này chẳng mấy chốc đến ngay. Tiền đấu giá tăng nhanh và như vậy trong khoảng chưa đầy hai tiếng đồng hồ, hàng rào được quét vôi trắng không sót chỗ nào cả, mặt trong vườn và mặt người đường, còn Tom thì thu được một số hiện vật đáng kể: một chiếc diều còn sửa lại được, một con chuột cống chết buộc vào một sợi dây, mười hai viên bi, một đầu cắm còi, một chìa khóa, một cục phấn, một nút đậy bình nước, một vòng cổ chó hơi bị sứt móc, một cán dao, một vỏ cam còn nguyên vẹn và rất nhiều món khác vô cùng đáng giá.

Qua cách đùa vui và làm giàu như thế, Tom đã phát hiện ra một trong những quy luật lớn của tâm lý con người, ấy là để làm cho một người nào thèm muốn một vật thì chỉ cần đặt vật đó xa ngoài tầm tay, làm cho kẻ ấy khó với tới.

Vậy là Tom đi tìm gặp bà dì của nó; bà đang ngủ gà ngủ gật bên món đồ đan, cạnh con mèo.

- Dì ơi, cháu đã làm xong việc, cháu có được đi chơi không hả dì?

- Thế nào, cháu làm xong rồi hả? Cháu không chế giễu dì đấy chứ?

- Không đâu dì, cháu đâu dám. Dì cứ ra mà xem đi!

Ra đến nơi, bà cụ ngạc nhiên không sao tả xiết: hàng rào đã được quét đâu vào đó, không những một lớp mà đến ba lớp vôi và cả vỉa hè cũng trắng toát!

- Ấy đấy, cháu à, khi cháu muốn, cháu làm việc cũng giỏi như ai!

Để thưởng công cho nó, bà đưa một quả táo lớn trông rất ngon lành và bà không quen tô điểm bằng một bài thuyết giáo ngẫu hứng ngắn gọn, có mục đích khuyến khích và cảm hóa đứa bé. Trong lúc bà kết thúc bài giảng đạo đức bằng một câu trích dẫn từ Kinh thánh, Tom thừa cơ ngắt trộm lẹ làng một mẩu bánh ngọt và chạy mất...

Trong lòng cảm thấy nhẹ nhàng, khoan khoái, Tom bước đi về phía chính giữa làng, tại đây nó gặp lại đạo quân của nó đang sẵn sàng giao chiến với đạo quân của Joe Harper, bạn thân nhất của nó. Trong lúc quân sĩ của hai bên sáp chiến với nhau, hai chủ soái ngồi thoải mái trên một gò cao vừa bình tâm chuyện trò vừa giám sát trận đánh. Cuối cùng, đội quân của Tom chiến thắng. Sau đó hai bên tính số tử vong, trao đổi tù binh, ấn định ngày hẹn sắp tới rồi ai về nhà nấy.

Trên đường về, Tom trông thấy trong vườn của gia đình Thatcher một cô bé duyên dáng nó chưa biết. Đôi mắt xanh dịu dàng, cặp má hồng phơn phớt và hai bím tóc vàng của cô bé làm tim nó xao xuyến phập phồng. Trước đây nó tưởng nó yêu Amy Laurence tha thiết điên cuồng nhưng kỷ niệm về cô bé ấy mới hôm nào nay đã mờ khuất trong sương mù của một thời quá khứ biền biệt trôi qua...

Làm ra vẻ như không trông thấy con bé, Tom bắt đầu biểu diễn những trò nhào lộn nguy hiểm, nghĩ thế nào cũng làm người đẹp chú ý. Than ôi! Khi liếc nhìn, cậu ta thấy cô bé đi về phía cửa vào nhà. Tom chạy vội đến cổng rào và thật không ngờ, vào lúc nó tưởng tình huống và mọi hy vọng đã tiêu tan thì cô bé mắt vẫn không nhìn, ném cho nó một bông hoa qua hàng rào.

Giả bộ uể oải, nó cúi người xuống như để xem kỹ một vật gì đó trên mặt đất rồi nhặt chiến lợi phẩm của mình lên.

Bữa cơm đã dọn sẵn. Tom ngồi vào chỗ và chẳng thèm để ý đến xấu hổ, một lần nữa nó toan chớp một ít đường. Nó liền bị khẻ vào tay.

- Dì ơi, thế là không công bình. Khi Sid lấy đường, dì đâu có nói gì?

- Vì Sid có chừng mực. Nếu ta không để ý tới cháu thì chút xíu nữa e chẳng còn tí đường nào!

Bà lại đi xuống bếp. Và muốn chế giễu ông anh của nó, Sid thọc tay vào lọ đường... và làm rơi lọ xuống đất vỡ kêu loảng xoảng. Tom khoái chí quá! Thế nào thằng em gương mẫu này cũng nhận lãnh hình phạt xứng đáng! Người ta đã nghe tiếng bước chân của bà dì Polly trở lại phòng ăn...

- Thằng ranh con, thằng vô lại, đồ quỷ quái! - Bà cụ vừa la the thé vừa dang tay giáng Tom mấy cái tát..

- Nhưng dì ơi, ái! Cháu cam đoan, ái! Không phải cháu!

- Ủa, ủa! - Dì Polly lẩm bẩm khi thấy hai má ửng đỏ đáng nghi của Sid. - Ạ hay, hóa ra không phải mày lấy trộm à?

Và bà ta quay đi, trong lòng cảm thấy ngao ngán vì đã bất công với Tom, thằng bé này quả là ranh mãnh nghịch ngợm nhưng không phải là đứa mất nết.

Về phần mình, Tom nuôi lòng hờn dỗi và nghiền ngẫm những nỗi bất hạnh. Nó tưởng tượng nó đã bệnh nặng, thậm chí sắp chết và dì nó nghiêng mình cúi xuống đầu giường van xin nó tha thứ. Hoặc nó chết đuối dưới sông thì lúc đó tiếc nuối, ăn năn cũng đã quá trễ. Sự im lặng băng giá của cái chết sẽ dìm dì Polly vào tuyệt vọng suốt đời. Miên man với nỗi buồn và những ý nghĩ đen tối bi thảm, Tom bước ra đường phố, đi lang thang không mục đích lòng trĩu nặng, tan nát bởi bao nỗi giày vò.

Ngay lúc ấy nó nghĩ đến người đẹp không quen biết đã biệt đãi và cho là nó xứng đáng với bông hoa ném ra từ bàn tay dịu dàng của cô ta.

Cuộc đời bỗng tươi sáng lên và nó bước hăng hái trở lại, đến đứng trước mặt nhà cô bé để nhìn vào. Một cửa sổ sáng đèn. Phải chăng cô ta đang ở đó? Tim đập hồi hộp, nó leo lên hàng rào, nằm dài dưới cánh cửa sổ. Nó muốn chết như vậy, dưới bầu trời thù nghịch, hoàn toàn cô đơn, bị mọi người ruồng bỏ... Bỗng cửa sổ mở ra, có tiếng léo nhéo của một bà giúp việc rồi một thùng nước lạnh buốt giội lên mình thằng bé khốn khổ. Quên hết những nỗi đau ghê gớm của phút lâm chung, cô độc, nó đứng bật lên, vừa nguyền rủa vừa nổi quạu, chạy biến vào bóng đêm. Tối đó, nó đi ngủ mà không đọc Kinh, điều này được Sid ghi nhớ kỹ...

Chương 2 Lớp học ngày chủ nhật

Nghi thức của ngày chủ nhật là bất di bất dịch. Sau bữa điểm tâm sơ sài, dì Polly đọc một đoạn trong Kinh thánh và tô điểm thêm bằng một lời bình giải rất độc đáo tự bà nghĩ ra, không chừng nhiều nhà thần học nghe cũng ngạc nhiên. Sau đó, bọn trẻ học bài trước khi sửa soạn đi dự buổi học ngày chủ nhật và lễ cầu Kinh.

Tuần này, Tom phải đọc thuộc lòng cho vị mục sư nghe năm tiết đoạn trong Kinh thánh.

Nó đã chọn "Bài thuyết giáo trên núi" vì đó là những câu ngắn nhất mà nó đã tìm ra. Nửa giờ sau, cô chị họ Mary lấy cuốn Kinh trong tay nó và đứng ra dò bài cho nó. Bằng một giọng đều đều nó bắt đầu ấp a ấp úng :

- Phúc thay cho những... những...

- Những tâm hồn chân chất, bởi chưng?

- Bởi chưng nước... ờ...

- Nước Trời dành cho họ! Sao nữa!

- ... Phúc thay, cho những kẻ khóc, bởi chưng... Chà, bởi vì sao nhỉ?

- Tom! Chăm chỉ một chút đi chứ! Chị chỉ khuyên em một lời: cầm lấy sách và học đi! Nghe này: nếu em thuộc bài, chị sẽ cho em một thứ mà em rất thích.

Không đợi năn nỉ, lần này Tom bắt đầu học lại và chỉ một lát sau, nó đọc làu làu cả năm tiết đoạn.

- Đấy, em thấy khi em chuyên chú mà học thì đâu có khó gì! Phần thưởng của em đây!

Một con dao nhíp giá mười ba xu! Tom vui sướng nhảy cẫng lên và cảm tạ chị Mary, buổi học ngày chủ nhật và ông mục sư. Nhưng phút vui tưng bừng của nó không kéo dài được lâu vì dì Polly đã cất tiếng gọi, bảo nó đi rửa ráy và đóng "bộ đồ vía" vào. Tom cầm lấy chậu nước và cục xà phòng người ta đưa cho nó bước ra vườn, ào ào đánh xà phòng vào chậu rồi bắt đầu đổ cả chậu nước xuống đất. Rồi nó trở vào, hài lòng và vẫn dơ dáy như cũ. Không nói tiếng nào, Mary lại đổ đầy chậu nước một lần nữa và đưa cho nó với vẻ mặt nghiêm khắc. Lần này Tom nhẫn nhục kỳ cọ miệng và hai má, thành ra trên cả khuôn mặt chỉ nổi rõ một vệt sáng hơn. Sau đó nó đưa tay vuốt những lọn tóc xoăn mà nó cho là không xứng với một ông tướng. Cuối cùng nó đóng bộ đồ lớn vào người và thở dài sườn sượt. Mary bèn kiểm tra lại, chải bộ quần áo, đội lên đầu nó một chiếc mũ rơm và đưa cho nó đôi giày. Nó vừa xỏ chân vào giày vừa cằn nhằn.

Ba đứa trẻ cất bước lên đường. Lớp học kéo dài từ chín đến mười giờ rưỡi, sau đó là lễ cầu Kinh. Tại trước cửa nhà thờ, Tom gặp lại các bạn bè của nó.

- Này, Billy, cậu có muốn đổi phiếu điểm vàng của cậu lấy một miếng cam thảo và một lưỡi câu không?

Việc trao đổi được thực hiện, hai bên đều thỏa mãn. Những vụ trao đổi khác tiếp tục diễn ra biến Tom thành chủ nhân một số khá nhiều điểm đủ màu. Độc giả cần biết rằng thuộc hai tiết đoạn trong Kinh thánh, được thưởng một điểm xanh; mười điểm xanh có quyền đổi lấy một điểm đỏ; mười điểm đỏ đối lấy một điểm vàng và cuối cùng được mười điểm vàng (tức là hai ngàn câu Kinh thánh) thì người trúng thưởng may mắn sẽ lãnh một cuốn Kinh thánh do ông thanh tra đích thân trao tặng, một quyền lợi đặc biệt và vinh quang! Mary nhờ thế đã chiếm được hai cuốn Kinh thánh và cô còn hy vọng giật được cuốn thứ ba.

Lúc này, bọn con gái con trai ùa vào nhà thờ, một bọn ồn ào, nghịch ngợm và vô kỷ luật: chúng chòng ghẹo nhau, cãi vã nhau, to nhỏ với nhau... Chỉ có Mary và Sid vẫn không bị cám dỗ một cách đáng phục.

Ông Walters, thanh tra của lớp học ngày chủ nhật, hôm đó bất ngờ tới dự buổi học, cùng đi với ba vị khách tai mắt, ông thẩm phán ở xã, ông Thatcher, thẩm phán của tỉnh - Ông này ngồi ghế chánh án ở tòa án tỉnh nghe nói có một cái mái bằng kẽm thật sự - và bà vợ của ông. Trước những nhân vật danh giá như thế bọn trẻ tất phải lấy làm ngưỡng mộ nên chúng cố ép mình ngồi trên ghế có phần nào yên lặng hơn mọi ngày.

Ông Walters mặt mày rạng rỡ. Ông sẽ sung sướng giá như ông có thể trưng ra được một học trò thần đồng. Than ôi, khả năng có một trong số các đứa bé này kiến thức xuất sắc lại rất mong manh, nếu không muốn nói là không có. Vào lúc mọi hy vọng dường như tiêu tan thì Tom đứng dậy, tiến lên trình cho ông Walters chín phiếu điểm vàng, chín phiếu điểm đỏ và mười phiếu điểm xanh. Tom Sawyer đòi một cuốn Kinh thánh! Dầu sét đánh trong nhà thờ cũng không làm cho ông thanh tra khả kính kinh hoảng hơn... Nhưng các phiếu ngoan rành rành đó kia, hoàn toàn hợp lệ! Thế là Tom được mời ngồi trên bục đài, bên cạnh các nhân vật quan chức và tin trọng đại đó được công bố. Trong đám con nít, các thằng bé đã đổi phiếu điểm của chúng (đổi lấy những thứ lặt vặt mà chính chúng đã cho Tom để được quét vôi hàng rào) bực tức hối tiếc đã góp phần tạo ra vinh quang cho Tom.

Ông thẩm phán tỉnh hỏi tên người anh hùng hôm đó.

- Tom, à dạ... thưa ông, Thomas Sawyer -Người được thưởng ấp úng.

- Tốt lắm, cháu ạ, ta có lời khen ngợi cháu. Sự học là một điều tốt đẹp và quan trọng: nó tạo nên những vĩ nhân và những công dân tốt. Bây giờ, Thomas, cháu hãy chứng tỏ sự hiểu biết của cháu với ta và bà đây nhé! Để xem nào, chắc chắn cháu biết tên mười hai tông đồ; cháu có thể kể cho ta tên hai vị tông đồ đầu tiên là gì nào?

Mặt nhợt nhạt như xác chết, Tom chới với đưa mắt nhìn lên trời :

- Nào, cháu nói riêng cho ta nghe thôi. - Bà phu nhân xen vào, giọng ngọt ngào. - Hai tông đồ đầu tiên là...

- David và Goliath phải không ạ? - Tom nói liều, giọng yếu ớt.

Người ta đoán biết được nỗi sửng sốt nghi ngờ của ban giám khảo uy nghiêm...

Rất may, buổi thánh lễ cho Tom cơ hội quên đi sự bất hạnh của mình. Thằng bé quả thật có một kho tàng trong túi: một con gián nhốt trong cái hộp mồi câu cá. Tom liền thả côn trùng ra.

Con gián bò đến làm quen với một con chó xù đã rời khỏi đầu gối của chủ để tìm chuyện phiêu lưu. Thế là bắt đầu một điệu múa ba lê kỳ quặc: con chó hất đầu một cái làm con gián ngã ngửa rồi nó đến gần hết sức thận trọng, đi vòng chung quanh, duỗi chân ra để nhìn cho rõ hơn.

Xét thấy con gián chẳng đáng chú ý gì cho lắm, cuối cùng nó quên đi và ngồi đè lên con vật. Thế là một tiếng kêu đau đớn làm xáo động buổi lễ yên tĩnh và người ta thấy con chó điên cuồng đau điếng quay mòng như một ngôi sao chổi trong nhà thờ cho tới khi chủ nó rứt được kẻ hành hạ. Tất cả các tín đồ đỏ mặt tía tai vì cố nhịn cười để khỏi làm xáo trộn buổi giảng Kinh tôn nghiêm. Chẳng cần phải nói là Tom trở về nhà trong tâm trạng rất vui vẻ...

Chương 3 Tom si tình

Sáng thứ hai, lúc thức dậy và cũng như mọi sáng thứ hai khác, Tom cảm thấy rất khổ tâm: một chiếc răng của nó bị lung lay. Nhưng thực tế, nếu nó nói cho bà dì biết, rất có thể bà muốn nhổ chiếc răng ra, làm vậy thì rất đau mà nó cũng không thể tránh được chuyện đi học.

Thế là Tom nghĩ đến cái chân bị thương của mình và cất tiếng rên rỉ thảm thiết. Cuối cùng, Sid đang ngủ mê bèn tỉnh dậy.

- Chuyện gì vậy anh Tom? Anh có muốn em gọi dì Polly không?

- Đừng, - Tom trả lời như sắp chết - không sao... có lẽ hết, ái... úi da!

- Anh không thể để mãi như thế được đâu. Nghe anh rên rỉ thế làm em đứt ruột; đợi em...

Nhưng Tom nói cắt ngang, cặp mắt nhăn nhó vì đau đớn :

- Anh... tha thứ cho em... tất cả... Sid thân yêu ạ... Khi... anh chết rồi...

- Dì Polly, dì Polly, lại đây mau. Anh Tom sắp chết! - Sid hoảng hốt la lên.

Bà cụ lật đật chạy đến cùng với Mary theo sau gót.

- Tom, con ơi, có chuyện gì thế? Trả lời đi cháu!

- Cháu nghĩ... vết trầy của cháu... bị làm độc, ... nhiễm trùng... lan rộng... nhiễm trùng máu...

Về phần bà dì, bà đã yên tâm, nói :

- Xem kìa Tom, ngón chân của cháu đâu có sưng!

- Vậy là chiếc răng của cháu, dì à...

- Sao thế, nó lung lay hả? Dì sẽ giải quyết ngay cái đó cho. Mary, đi lấy một sợi chỉ lụa và một que củi cháy cho mẹ!

Và thế là Tom phải cắp sách đi học, khuyết mất một chiếc răng. Dọc đường Tom gặp đứa bạn chí cốt của nó là Huckleberry Finn, con của một tay nghiện rượu kinh niên. Thằng bé này quần áo rách rưới, lêu lổng tùy thích, mùa hè ngủ ngoài trời, mùa đông ngủ trong một cái thùng phuy, ăn cá tự mình câu, khạc nhổ và chửi thề như bộng. Chẳng cần phải nói, các bà mẹ cấm con trai của họ giao du với nó và bọn này thì khó lòng vâng lời vì chúng quá mê cuộc sống tự do phóng khoáng đó.

- Chào Huck!

- Chào Tom! Cậu nghĩ sao? - Nó vừa nói vừa khoe một con mèo chết.

- Cừ lắm! Nhưng cái đó dùng để làm gì?

- Để trị mụn cóc. Vì tớ lúc nào cũng chơi với ếch nhái thế nên, cậu nghĩ xem, mụn cóc...

- Phải làm sao?

- Này nhé. Khi đêm xuống, cậu xách con mèo, cậu vào nghĩa địa vào ngày người ta đã chôn xong một kẻ hung ác. Nửa đêm, một con quỷ đi đến dưới hình thức một luồng gió, có khi hai hoặc ba con và khi chúng mang người chết đi, cậu vừa đong đưa con mèo theo hướng của chúng vừa tới: "Xác theo quỷ, mèo theo xác, mụn cóc theo mèo, không còn mụn cóc". Hình như làm thế là chữa tuyệt gốc! Chính mụ Hopkins đã bày cho tớ đấy!

- Phải rồi, người ta nói mụ ta có bùa phép gì đó, họ còn nói mụ đọc Kinh "Lạy Cha" lộn ngược nữa kìa. Này, chừng nào bọn ta thử?

- Đêm nay, nếu cậu muốn; chắc chắn "chúng" sẽ tới tìm lão Williams người ta chôn hôm thứ bảy. Chắc chắn "chúng" không làm việc vào ngày lễ vì vậy nhất định phải là đêm nay.

- Đồng ý, cậu sẽ kêu meo meo khi ngang qua trước nhà tớ. Miễn sao dì Polly đã ngủ là được! ạ kìa, cái gì thế hả?

- Con bọ hung.

- Cậu bán nó cho tớ được không?

- Không đâu, tớ giữ nó lại.

- Và nếu tớ đổi cho cậu một cái răng của tớ?

Sự quyến rũ quá mãnh liệt. Huck đút cái răng vào túi còn Tom bỏ con bọ vào chiếc hộp đã dùng để nhốt con gián trước kia. Hai đứa bạn chia tay, hai bên đều hài lòng về nhau.

Tom vào lớp trễ. Thầy giáo nhận xét gay gắt :

- Thế nào anh bạn, lại đi trễ như mọi khi là sao?

Tom sắp bịa ra một lời bào chữa thì nó nhận ra người đẹp của lòng mình ngồi một mình trên chiếc ghế băng, như trong một giấc mơ... với thái độ cả gan không kiêng nể, nó buông thõng :

- Vâng, em đã nói chuyện với Huckleberry Finn...

- Kìa, thằng nỡm, cậu giao du với tên hư đốn ấy lại còn khoe ra nữa hả? Đáng phạt lắm. Hãy tới ngồi với bọn con gái đi, có thế lần sau mới chừa!

Những tiếng nhạo báng và xầm xì cất lên trong phòng không làm giảm chút nào sự khoái trá của Tom, vì nó còn đang hoa mắt trước dịp hên của mình. Tom bắt đầu tìm cách làm thân: mới đầu nó đưa con bé một quả đào nhưng cô ta làm nghiêm từ chối; sau đó nó bắt đầu vẽ trên bảng đá của nó. Bị thúc đẩy bởi tính tò mò, con bé nghểnh cổ nhìn và thấy một ngôi nhà dị hình, vụng về mà dù sao cô ta cũng mải mê tán thưởng :

- Ồ đẹp quá! Bây giờ bạn vẽ chân dung cho tôi đi!

Tiếp đó Tom vẽ hình một chiếc đồng hồ cát phía trên có mặt trăng tròn với hai chiếc đũa làm cánh tay và hai quả chùy làm hai chân.

- Tuyệt vời! Tôi thích biết vẽ như bạn quá chừng!

- Nếu bạn muốn, tớ sẽ dạy cho. - Tom nói ra vẻ hào hiệp - Trưa nay nhé! Mà trước hết, bạn tên gì nhỉ?

- Becky Thatcher! Còn bạn?

- Tom, chỗ bạn bè gọi thế cũng được.

Nói xong, Tom viết nghệch ngoạc trên bảng đá và lấy cánh tay che lại như phải giữ tuyệt mật.

Chỉ sau một lúc khéo làm ra vẻ ghê tởm và giả vờ chống cự nó mới bằng lòng để ló từ từ cho Becky thấy câu nó viết. Nó đã viết: "Tôi yêu em"...

- Xí! Đồ quỷ sứ! - Con bé nói ra vẻ tức giận vừa phải.

Ngay lúc đó Tom thấy tai nó bị kéo lên và bị điệu về chỗ ngồi thường lệ bên cạnh thằng bạn thân Joe Harper của nó. Thế là nó nhớ đến con bọ hung bèn thả con bọ lên mặt bàn học.

Con bọ hung ngọ ngoạy muốn chạy đi, vì vậy Tom dùng cây kim găm bắt buộc nó quay lại.

Bây giờ con bọ chạy về phía Joe, thằng bé này cũng không muốn ngồi yên: nó cũng cầm một cây kim găm khác đẩy con bọ khốn khổ về phía Tom. Thế là một ván bóng bàn say sưa bắt đầu và chỉ bị gián đoạn khi có sự đích thân can thiệp của thầy giáo bằng cách gõ mỗi đối thủ một gậy.

Đâu có nhằm gì! Lớp học đã tan và Tom có cuộc hẹn!

Khi bọn trẻ đã ra về hết, Becky và Tom ngồi cạnh nhau, và bài học vẽ bắt đầu.

Con bé rụt rè đề nghị :

- Nếu bạn muốn, tôi có một cây kẹo cao su đây. Tôi có thể để bạn nhai một chút rồi trả lại cho tôi.

- Đồng ý. Bạn đã đi xem xiếc chưa? - Tom hỏi.

- Xem rồi, và bố hứa dẫn tôi đi nữa nếu tôi được điểm tốt trong sổ liên lạc.

- Còn tôi, tôi đã xem ít ra là bốn lần. Khi lớn lên tôi sẽ làm hề. Hình như người ta kiếm được nhiều tiền lắm, ít nhất mỗi ngày một đô la! Hỏi thật nhé, Becky đã đính hôn chưa?

- Nghĩa là sao?

- Thì cũng như người ta sẽ cưới nhau ấy mà.

- Ồ, không có đâu, chẳng bao giờ.

- Bạn có muốn đính hôn với tôi không?

- Tôi muốn lắm.

- Rất giản dị: người ta hứa sẽ cưới nhau, người ta xích lại gần nhau, người ta nói "Anh yêu em" rồi người ta ôm hôn nhau.

- Tại sao người ta ôm hôn nhau..

- Chuyện đó, tại sao ư? Bởi vì tất cả những người đính hôn đều làm như vậy mà.

Và thận trọng chuyển qua thế tấn công, Tom đưa tay choàng quanh người Becky. Thấy cô bé chỉ phản kháng một cách yếu ớt, nó nói nhỏ vào tai cô bé: "Anh yêu em".

- Bây giờ đến phiên Becky đó.

- Bạn sẽ không nói với ai chứ? Hứa không, thề không?

- Thánh giá gỗ, thánh giá sắt, nếu tôi nói dối, tôi sẽ xuống địa ngục!

Đến lượt mình, Becky thốt ra những lời định mệnh chấp nhận số kiếp làm vợ.

- Bây giờ chúng ta chỉ còn hôn nhau nữa thôi! - Và Tom kề môi vào má Becky.

Con bé hoảng sợ nhảy qua một bên rồi bỏ chạy. Tom nhanh nhẹn bắt con bé lại được và thuyết phục để nó hôn...

- Thế là chúng ta đã đính hôn với nhau! Bạn sẽ thấy vui lắm. Khi tôi với Amy Lawrence trước kia...

Nhìn cặp mắt xanh kia đang mở to, Tom hiểu ra nó đã vừa nói hớ một câu quá tai hại :

- Thế ra tôi không phải là người đầu tiên à?

Becky ấp úng rồi òa khóc.

Bất chấp bao nhiêu lời dỗ dành của Tom, Becky vẫn không thể nào nguôi. Tom bèn đưa cái vật đắc ý nhất của nó ra: một cái vòng bằng đồng lấy ở giá củi trong lò sưởi.

- Này Becky, tôi tặng bạn đó.

Nhưng tình cảm bị tổn thương, cô bé ném cái vòng xuống đất. Thế là Tom tất tả bước ra khỏi trường, quyết tâm chiều nay không trở lại nữa. Còn Becky ở lại, trong lòng tràn ngập ăn năn tiếc nuối...

Tom đi vào khu rừng rậm nơi nó giấu những vũ khí đánh nhau và ngồi phịch dưới một gốc sồi, trên một nệm rêu êm ái, ngẫm xét lại nỗi bất hạnh của mình: Tại sao Becky đã đối xử với nó như với một con chó vậy chứ, trong khi nó đã tặng cho cô ta tài sản quý giá nhất của nó?

Và nếu nó biến đi một cách bí mật, nếu nó đi thật xa qua muôn trùng biển cả? Nếu nó đăng lính, hoặc hay hơn nữa, đi theo làm người săn bò rừng ở miền Viễn Tây? Và nếu nó trở thành hải tặc, khuấy động đại dương trên một chiếc tàu lướt nhanh, nhẹ nhàng như gió, treo lá cờ khủng khiếp trên cột buồm. ừ, tiếng tăm của nó sẽ lan khắp thế giới và khi đã đạt đến cực điểm vinh quang, nó sẽ trở về làng cũ, thấy mọi người làm dấu thánh giá khi nó đi qua và thì thầm với giọng quả quyết: "Đó là Tom Sawyer, hiệp sĩ Hắc y Báo oán trên vùng biển Antilles..." Becky rồi sẽ hối tiếc là đã khinh bỉ nó biết dường nào!

Lúc đó vang lên một hồi kèn trẻ con chơi.

Tom lẹ làng cởi áo vét rồi lấy lên từ một cái hố bộ cung tên của nó, thanh kiếm gỗ và cây kèn.

Ngỏ lời với đoàn quân tưởng tượng hộ tống theo mình, nó ra lệnh chúng im lặng :

- Suỵt! Cứ nấp kín cho đến khi ta gọi.

Joe Harper vừa xuất hiện, mang đầy vũ khí...

- Đứng lại! - Tom quát lớn. - Ai dám xâm nhập rừng Sherwood mà không xin phép ta?

- Guy de Guisbonne không chờ ai cho phép cả! Còn ngươi là ai mà có giọng lưỡi đó?

- Ta là Robin des Bois, liệu hồn sẽ biết tay ta!

- Tên ngoài vòng pháp luật đấy hả? Tránh đường cho ta, đồ đê tiện!

- Không đời nào!

Thế là bắt đầu một trận chiến đúng theo quy phép. Chẳng mấy chốc, mồ hôi chảy ròng ròng trên trán hai đối thủ.

- Này, bây giờ cậu phải quay lưng lại chứ - Tom nói, thở hổn hển - Trong sách đã ghi: "Bấy giờ, chàng tạt một nhát kiếm, giết chết tên ngạo mạn Guy de Guisborne".

- Được, được, đồng ý.

Joe miễn cưỡng đưa lưng ra chịu một nhát kiếm và ngã xuống. Rồi nó đứng phắt dậy :

- Bây giờ, đến tớ giết chết cậu. Lần lượt mỗi người chứ anh bạn!

- Đâu được! Sách đâu có nói vậy! Nghe này, tớ có ý kiến: tớ sẽ đóng vai quận trưởng Not-tingham, còn cậu sẽ là Robin và cậu sẽ giết tớ.

Sau phần phụ diễn ấy làm Joe hài lòng, Tom trở lại thành Robin des Bois. Tuy bị thương gần chết, nó vẫn thều thào mấy tiếng :

- Mũi tên này rơi ở đâu, các ngươi sẽ chôn gã Robin đáng thương ở đó...

Gom hết sức tàn, kẻ hấp hối bắn ra một mũi tên và ngã quỵ... trên một bãi tầm ma rồi nó lật đật đứng dậy.

Tới đây, hai thằng bé mặc áo lại và mỗi đứa đi cất khí giới của mình ở một chỗ riêng.

Chương 4 Thảm kịch ở nghĩa địa

Tối hôm đó cũng như mọi hôm, Tom và Sid lên gác ngủ lúc chín giờ. Hai đứa đọc Kinh rồi chẳng mấy chốc Sid lăn ra ngủ. Tom nằm lăn qua trở lại, chờ dấu hiệu đã thỏa thuận.

Chiếc đồng hồ cũ điểm mười giờ, rồi mười một giờ. Lúc này đã nghe tiếng ngáy đều đều vọng ra từ phòng ngủ của dì Polly. Xa xa có tiếng một con chó sủa rồi tiếng một con khác đáp lại. Cuối cùng, Tom tin là nghe được tiếng mèo kêu. Nó lẹ làng ngồi nhỏm lên, lặng lẽ mặc quần áo không gây một tiếng động rồi luồn qua cửa sổ: lom khom bò đến gần bờ mái của chái nhà, nó tuột xuống đất. Huckleberry Finn đang đợi nó có đem theo con mèo chết. Hai thằng bé đi về phía nghĩa địa ở cách làng chừng hai cây rưỡi.

Đó là một nghĩa địa xưa, ít người chăm sóc, những tấm bia mộ cũ đã sụp đổ - cỏ dại mọc đầy. Không lâu sau, Tom và Huck thấy nấm mộ mới chôn mà chúng đang tìm kiếm: hai đứa nấp sau một khóm cây du gần đó và, sợ gần chết, chúng đợi bọn quỷ đến.

- Này Huck, - Tom thì thầm - cậu có tin lão Williams đang nghe chúng mình không?

- Chắc chắn là lão nghe chúng ta nói, mà ít ra là vong hồn của lão...

- Chà, lẽ ra tớ phải nói là ông Williams mới phải. Đó, có tiếng động đó, "chúng" đã đến...

- Chúng ta sẽ làm gì nào? - Huck thều thào, hốt hoảng.

- Tớ không biết nữa. Cậu tin là chúng nó thấy bọn mình không?

- Đương nhiên! Ôi dà, tớ muốn bỏ đi quá, tớ...

- Can đảm lên nào! Vả lại bọn mình có làm gì quấy đâu. Cứ yên lặng đừng nhúc nhích, mẹ kiếp! Cậu run như tàu lá ấy!

- Ối, Tom ơi, nhìn kìa: ma trơi đó! Cậu thuộc Kinh không?

Ba bóng người tiến gần đến hai đứa bé; một trong ba người cầm trên tay một cây đèn lồng..

- Này Tom, họ là những người sống: tớ nhận ra giọng nói của lão say Muff Potter, y say khướt như mọi khi...

- Còn người kia, tớ tin là Joe Da đỏ!

- Lại thằng cha lai khốn nạn ấy nữa! Thà gặp quỷ tớ còn thích hơn! Họ tới đây làm gì nhỉ?

Hai thằng bé nín lặng, điếng người vì quá kinh hoàng, bởi vì ba người đàn ông bây giờ đã dừng lại gần ngôi mộ của Williams cách chỗ nấp của chúng vài bước. Joe Da đỏ và Potter khiêng một cái cáng trên đó có để một sợi thừng và hai cái mai.

- Ngôi mộ đây - Người thứ ba nói. Ông ta giơ cao cây đèn nhờ đó hai đứa bé nhận diện được ông ta: đó là ông bác sĩ trẻ tuổi Robinson.

Hai người kia bèn bắt đầu đào đất, họ đào tới khi một lưỡi mai đụng quan tài. Sau khi khơi sạch đất, họ đưa quan tài lên và sau khi dùng dụng cụ mở nắp quan tài, họ lấy cái xác ra bỏ lên chiếc cáng. Potter dùng dây buộc xác và dùng con dao chặt đứt phần dây còn lại rồi cất tiếng :

- Bác sĩ ạ, nếu ông thực sự muốn lấy cái xác này để mổ xẻ thì phải trả thêm năm đô la nữa.

- Sao lại thế được, - Ông bác sĩ tức giận la lên - chúng ta đã dứt điểm đâu vào đấy cả rồi mà!

- Chưa xong đâu. - Joe Da đỏ bèn xen vào.

- Ông còn nhớ lần tôi đến xin ông một ít thức ăn và ông đuổi tôi ra khỏi nhà một cách khinh bỉ không? Và cha ông, khi nghe tôi hăm dọa, đã tống tôi vào tù. Ông tưởng tôi đã quên hả? Máu da đỏ chảy trong huyết quản của tôi và người da đỏ lúc nào cũng trả thù!

Nói xong, tên đàn ông đấm bác sĩ một quả.

Bác sĩ đánh trả làm tên da đỏ nằm dài. Potter buông dao, ôm ngang lưng ông bác sĩ và hai người lăn ra đất. Lúc đó Joe Da đỏ đã đứng dậy, hai mắt long lên đầy giận dữ và căm thù. Hắn ta lượm con dao của Potter và rình cơ hội xông vào can thiệp. Ngay lúc đó ông bác sĩ đập người say rượu bằng một tấm ván hòm trên mộ của Williams. Tên da đỏ bèn nhảy tới đâm con dao vào ngực ông ta. Ông bác sĩ lảo đảo rồi ngã quỵ lên người Potter, máu tuôn lênh láng...

Tom và Huck kinh hãi, lợi dụng lúc mặt trăng bị mây che, co giò bỏ chạy trối chết..

Mặt trăng lại hiện ra: Joe Da đỏ ngắm việc làm độc ác của mình, nhếch mép mỉm cười. Hắn lẩm bẩm :

- Thế là giờ đây, giữa ta với ngươi, thanh toán đã xong. Quỷ tha ma bắt mày đi!

Hắn lục túi xác chết, đặt con dao vào tay Potter và chờ tên này tỉnh lại. Một lát sau, tên say bắt đầu cựa quậy rồi rên rỉ: y thấy con dao dính máu đang nằm trong tay mình, cái thây nhầy nhụa máu của ông bác sĩ... Ngây người, y cất tiếng lè nhè hỏi :

- Đã xảy ra chuyện gì vậy?

- Chuyện bậy quá, anh bạn ạ. Nhưng mắc gì mà anh giết ông ta?

- Tôi... tôi không nhớ gì cả. - Potter nói lắp bắp, mặt trắng bệch như tờ giấy.

- Joe, kể cho tôi nghe chuyện đã xảy ra làm sao đi. Trời ơi, kinh khủng thật, một người còn trẻ và tương lai đầy hứa hẹn như thế này...

- Như vầy, các anh đánh nhau, ông bác sĩ và anh. Bác sĩ đã vớ khúc củi này và đập anh ngã.

Anh chồm dậy, lảo đảo, và lúc bác sĩ đập anh cú thứ hai, anh đã đâm vào ngực ông ta. Cả hai cùng ngã, anh bất tỉnh, ông ta... chết.

- Làm gì có chuyện tôi định tâm giết chết ông ta... Đó là rượu witky chứ đâu phải tôi. Có đời nào tôi dùng vũ khí để đánh nhau! Joe, ít nhất anh cũng đừng nói cho ai biết chứ?

Anh chàng khốn khổ quỳ trước mặt tên giết người, chắp tay cầu khẩn.

- Potter, anh không phải thuộc loại người xấu. Tôi sẽ không tố cáo anh. Nhưng bây giờ anh hãy trốn đi. Chạy mau đi!

Potter chạy như bị ma ám. Tên da đỏ nhìn theo, nhếch mép mỉm cười khinh bỉ.

- May quá, thằng cha đần độn này không nhớ lấy lại con dao của hắn...

Và chẳng bao lâu, sự yên lặng lại bao trùm lên nghĩa địa nơi đã diễn ra tấn thảm kịch.

Tom và Huck thực tế đã ra sao? Hoảng quá không nói ra tiếng, hai anh bạn của chúng ta đã bỏ chạy về hướng ngôi làng. Chúng chạy vắt giò lên cổ, không ngừng nghỉ, tim đập thình thịch.

- Chỉ cần chúng mình đủ sức... tới... cái lò thuộc da cũ. Tớ đuối sức rồi... - Tom nói hụt hơi..

Cuối cùng, hai đứa đẩy được cửa nhà kho.

Chúng nhẹ người, ngồi phịch xuống đất thở hồng hộc.

- Tom à, chúng mình không được nói gì về những gì đã thấy! Có nói, chỉ để lão say Muff Potter nói thôi...

- Huck, Muff Potter đã bị đánh gục khi tên da đỏ giết ông bác sĩ. Lão đâu có thấy gì!

- Dầu sao chúng ta cũng phải kín miệng. Bởi vì nếu chúng ta nói ra mà tên da đỏ không bị treo cổ thì chúng ta rồi đời! Hắn sẽ dìm chết bọn mình như một bầy mèo con...

- Đồng ý... Tớ sẽ lượm mảnh ván thông này và viết lên đó bằng phấn: "Huckleberry Finn và Thomas Sawyer thề giữ bí mật về điều chúng đã thấy ở nghĩa địa. Nếu chúng nói ra, chúng sẽ chết tươi và thân thể chúng sẽ mục nát ngay tức khắc". Hai kẻ đồng mưu lần lượt chích đầu ngón tay cái của mình với một cây kim ghim. Chúng lấy máu rỉ ra viết chữ cái đầu tên mình dưới lời thề. Rồi chúng long trọng chôn mảnh ván, không quên tô điểm buổi lễ bằng đủ thứ câu thần chú.

Trong lúc chúng loay hoay làm việc đó, ở đầu kia của nhà kho cũ, một bóng người lẻn vào qua một khe hở...

- Huck, nghe xem! Tiếng gì vậy?

Hai đứa bé sợ điếng người, bám chặt nhau, vểnh tai nghe ngóng... Có tiếng gừ gừ vang lên âm ỉ.

Tom nói nhỏ :

- Nói gì thì nói, nếu chuyến này tớ thoát được, tớ thề là tớ sẽ trở thành một đứa bé gương mẫu như thằng Sid. Và tớ sẽ học thuộc lòng tất cả những tiết đoạn trong Kinh thánh!

- Nhưng bên cạnh tớ thì cậu là một ông thánh nhỏ đấy Tom à. - Huck rên rỉ. - Này, hình như đó là tiếng ai ngáy.

Hai đứa bé đã lấy lại được can đảm.

- Nếu tớ đến đó xem, cậu có theo tớ không?

- Nếu đó là Joe Da đỏ thì sao? - Huck ngập ngừng.

- Chà, nếu hắn đã ngủ thì ta sợ gì?

Tom và Huck đi rón rén đến gần người đang ngáy và ngạc nhiên nhận ra đó là Muff Potter.

Không hề gây một tiếng động, chúng lặng lẽ rút lui. Chúng bèn chia tay nhau, mỗi đứa đi mỗi đường trở về nhà, miên man suy nghĩ...

Tom leo qua cửa sổ trở về phòng mình và lẹ làng chui vào giường. Nó không ngờ rằng Sid đang giả vờ ngáy, thật ra đã thức giấc từ một giờ rồi...

Sáng hôm sau, khi ngồi vào bàn ăn, ai cũng nhìn nó chòng chọc bằng cặp mắt nghiêm khắc và chê trách: thằng Sid đã nói hết! Sau bữa điểm tâm, dì nó kéo nó ra một chỗ riêng và vừa khóc vừa hỏi tại sao nó nỡ lòng gây cho bà bao nhiêu phiền muộn đến thế. Vì nó là đứa bé tốt bụng, những lời trách móc đó có tác dụng với nó hơn cả những trận đòn: nó hứa sẽ sửa mình. Nhưng nó thấy rõ là bà dì nó chỉ tin nó một nửa.

Nó buồn rầu đi đến trường. Khi ngồi xuống chỗ, cùi chỏ của nó đụng vào một vật cứng gói trong giấy: đó là chiếc vòng nó đã tặng cho Becky để chứng tỏ tình yêu của nó... Rõ ràng mọi chuyện hỏng cả.

Chương 5 Tom héo hon tiều tụy

Vào khoảng giữa trưa, cả làng đều hay biết các biến cố xảy ra đêm hôm qua: tin truyền từ người này qua người khác, nhóm này qua nhóm khác, nhà này qua nhà khác.

Bây giờ tất cả ai cũng biết người ta đã tìm thấy bên cạnh xác của bác sĩ Robinson con dao găm vấy máu của Muff Potter, thấy lão tắm rửa ở con suối, việc mà lão vốn không có thói quen thường làm... Người ta đã lục soát trong làng để tìm ra kẻ bị xem như là hung thủ nhưng chưa thể tìm ra.

Mọi người đã kéo nhau ra nghĩa địa. Trong lòng lẫn lộn nhiều cảm xúc, vừa bị lôi cuốn vừa ghê sợ, Tom và Huck trà trộn trong đám người hiếu kỳ. Đâu đâu cũng vang lên những tiếng xôn xao cảm thán :

- Tội nghiệp ông ta! Còn trẻ thế!

- Xâm phạm mả mồ là ra thế đấy!

- Đó là bàn tay Chúa trừng phạt!

- Lão Muffer Potter khốn nạn kia chứ! Rồi nó sẽ biết thân!

Bất chợt Tom ớn lạnh từ đầu tới chân: nó vừa thoáng thấy bộ mặt hung ác của Joe Da đỏ trong đám đông. Nhưng lúc đó trong nghĩa địa xảy ra một sự nhốn nháo: cảnh sát trưởng đang lôi Muffer Potter tới. Mặt mày nhợt nhạt, cặp mắt hoảng sợ trợn tròn, người hốc hác thất thần, y lắp bắp càng lúc càng trở nên tuyệt vọng.

- Không phải tôi, không, không phải tôi, xin thề...

Bỗng y nhìn thấy tên đồng bọn và đành chịu thua, y thốt lên bằng giọng than vãn :

- Ạ kìa, Joe! Anh đã hứa với tôi là không nói gì...

- Con dao này là của anh phải không? - Ông cảnh sát lạnh lùng ngắt lời y.

Bức bách quá, kẻ say đành chịu thua :

- Nói đi Joe, nói cho họ biết hết đi, bây giờ chuyện đó không còn quan trọng gì nữa...

Thế là Tom và Huck uất ức nghe tên gian ác khốn nạn kia kể câu chuyện dối trá của hắn.

Hai đứa bé nơm nớp chờ thấy tên bội thệ bị sét đánh chết cho quách nhưng sự trừng phạt của thánh thần đến quá chậm, nên chúng giữ nguyên quyết định không xen vào mặc dù chúng rất muốn cứu một người vô tội. Chắc chắn Joe đã bán linh hồn cho quỷ nên mới tránh được cơn thịnh nộ của trời như vậy... Trong thâm tâm, hai đứa trẻ tự hứa theo dõi tên da đỏ với hy vọng thấy kẻ bảo vệ mạnh mẽ và ghê gớm của hắn.

Tom không cách nào nhắm mắt ngủ được nữa, lòng bị giày xéo vì hối hận ăn năn và những lời trách cứ của lương tâm. Tức mình, Sid hỏi :

- Có chuyện gì mà anh lăn lộn và mớ ngủ như thế hả? Suốt đêm, anh cứ la: "Máu... máu... Đừng tra tấn tôi, tôi sẽ khai hết".

Tom tái mặt, hai tay bắt đầu run: người ta sắp đoán ra bí mật kinh khủng của nó chăng?

Rất may, dì Polly vô tình đã cứu nó thoát nạn :

- Cái vụ giết người khủng khiếp đó mà, dì cũng vậy, dì thấy toàn ác mộng. Tội nghiệp bác sĩ Robison!

Những đêm sau, vì sợ lỡ buột miệng mà thú nhận một điều gì đó, Tom cẩn thận băng quai hàm lại thật kỹ, lấy cớ rằng cứ bị đau nhức liên miên. Nếu Sid có chút nghi ngờ nào đó, nó cũng sẽ không để lộ ra gì cả.

Mỗi ngày, Tom đến nhà giam của Potter, một ngôi nhà nhỏ bằng gạch nằm ở bìa làng. Lợi dụng lúc lính gác vắng mặt, Tom chuyền qua cửa sổ có song sắt vài món bánh kẹo cho lão. Làm như vậy, nó tìm cách làm cho lương tâm nặng trĩu của nó được nhẹ đi đôi chút.

Tinh thần của Tom càng hoang mang khi Becky Thatcher bị bệnh không đi học nữa. Tom cứ hình dung cô bé như đang hấp hối và nó hóa ra tiều tụy sa sút vì quá lo âu phiền muộn. Chỉ còn lại nỗi buồn và hoang vắng. Cuối cùng, dì Polly đâm ra lo ngại: bà bắt nó thử dùng đủ mọi phương thuốc điều trị tự cho là thần diệu. Mà rõ ràng thật ra bà có biết gì về chúng đâu, bởi vì bà đã đặt mua dài hạn tất cả các tờ báo y học gia đình, tất cả các tạp chí có thể gặp và tưởng tượng của giới lang băm và không bao giờ có ý ngạc nhiên về những lời khuyên của báo tháng này ngược với lời khuyên của báo tháng trước.

Tháng này đang thịnh hành thủy liệu pháp. Vì vậy bà quyết định bắt Tom thức dậy từ sáng sớm, dìm nó vào nước lạnh và sau khi chà xát kỳ cọ thật mạnh bởi một cái khăn thô cứng như giấy nhám, bà bọc nó trong vải ướt và đắp bằng những tấm chăn rất kín. Cho dù được săn sóc kỹ lưỡng như thế, Tom vẫn tiếp tục tiều tụy...

Dì Polly bèn có sáng kiến bổ sung phương pháp điều trị bằng những lần tắm nước nóng, tắm ngâm lâu, tắm vòi sen nước chảy mạnh và những kiểu ngụp lặn khác, tất cả đều có kèm theo một chế độ ăn uống dựa trên nền gạo lức yến mạch. Nhưng Tom vẫn cứ xanh xao và buồn bã...

Lúc bấy giờ bà nghe nói đến một thứ thuốc rượu bổ, một thứ rượu nồng có thể làm hồi sinh một kẻ đang hấp hối. Bà lật đật đặt mua mười hai chai. Bà cho Tom uống một muỗng và quan sát tác dụng của rượu trên thằng bé khốn khổ.

Kỳ diệu quá! Chứng vô cảm bị đánh bại! Tom giãy giụa như nằm trên một đống củi đang cháy hừng hực! Nhân vật của chúng ta, phỏng cả ruột gan, thề rằng sẽ không bao giờ uống một giọt thứ thuốc rượu ấy nữa và một khe hở nào đó ở sàn nhà trong phòng khách đã hưởng được vị thuốc thần diệu này.

Một hôm Tom đang kín đáo tiến hành thao tác đó, tình cờ con mèo vàng của dì nó lại gần, có vẻ đòi phần thuốc nước của nó. Không đợi năn nỉ, Tom vạch miệng nó ra và đổ vào họng nó một liều thật già. Con mèo như phát cuồng, nhảy vọt lên cao hơn hai thước rồi bắt đầu một vũ điệu tưng bừng quanh phòng, đụng đầu vào bàn ghế, lật đổ tất cả các thứ trên đường nó đi qua, nào là các món đồ chơi trang trí, nào các bình hoa. Nghe ồn ào, dì Polly thò đầu nhìn vào.

- Chúa ôi! Tom, con vật tội nghiệp nó làm sao thế?

Tom ôm bụng cười như nắc nẻ :

- Hi, hi, hi, cháu... không biết, thưa dì... hi, hi, hi!

Bà cụ nghi ngờ, tiến lại gần, trông thấy cái muỗng xirô ở trên sàn. Bà nhặt nó lên, chĩa thẳng vào mặt thủ phạm. Vừa kéo tai nó, bà vừa nghiêm khắc hỏi :

- Mắc mớ gì mà cháu chơi cái trò tàn ác với con mèo khốn khổ này thế?

- Nhưng thưa dì, cháu đã tự nhủ rằng, nếu thứ thuốc này tốt cho cháu thì ắt nó cũng phải tốt cho con mèo...

Chỉ lúc đó dì Polly mới nhận thức ra điều mà Tom đáng thương đã chịu đựng ngày này qua ngày khác kể từ khi bắt đầu việc trị bệnh. Tiu nghỉu, hối hận, bà lẩm bẩm, giọng yếu ớt :

- Dì làm vậy là do thiện chí, Tom ạ. Dì đã không nghĩ bậy... Hơn nữa, dì chắc rằng thuốc đó đã có lợi cho cháu.

- Phần cháu, dì ạ, cháu cũng chắc là thuốc đó có lợi cho con mèo: dì thử xem nó hăng hái ghê chưa...

- Đồ vô lại! Mày không bao giờ thay đổi hả! Cút đi cho khuất mắt ta!

Tới cổng trường, Tom lẩn quẩn đợi chờ, nhìn theo từng cái áo đầm lượn lờ trong sân. Sau cùng, người mà nó chờ đợi đi tới. Becky đã khỏi bệnh! Tom lăng xăng như con vụ, mừng cẫng lên như chó vừa tháo xích: nó ca hát, la hét, xô đẩy các bạn lộn tròn như bánh xe, chổng ngược đầu đi trên hai tay, giật mũ của một đứa bạn ném lên mái trường học, tóm lại, làm đủ trò ngốc nghếch để lôi kéo sự chú ý của người đẹp. Nhưng con bé lại buông thõng một câu, tỏ vẻ khinh thị :

- Không biết chừng nào mới xong những trò hề đó? Tưởng hay lắm sao!

Hai má nóng bừng, chết điếng người vì xấu hổ và tức giận, Tom lẳng lặng đi vào lớp. Không nói một tiếng...

Chương 6 Ba tên hải tặc

Lần này, Tom đã nhất quyết: vì chẳng ai quan tâm đến nó, nó sẽ ra đi và sẽ theo nghề đạo tặc. Nó tỏ ra cao thượng, tha thứ cho những ai đã gây ra nỗi bất hạnh cho nó nhưng sẽ không đổi ý. Trên đường đi, nó gặp tên bạn cố tri Joe Harper cũng đang rầu rĩ không kém: nó vừa bị mẹ đánh đòn vì đã nuốt hết một tô kem, tô kem mà cam đoan là nó không hề đụng đến.

Chẳng nghi ngờ gì nữa, đó là một cái cớ để đuổi nó đi cho rảnh. Nó cầu mong mẹ nó hạnh phúc sung sướng khi không có nó và không hối tiếc vì sự cứng rắn của bà khi đã quá trễ... Hai kẻ không được đời hiểu thề giữ tình bạn keo sơn và quyết định gắn liền hai số phận bi đát với nhau, trong khi chờ đợi cái chết giải thoát gánh nặng của cuộc sống.

Joe sẵn sàng tính đến chuyện làm người ẩn tu, sống trong hang bằng những mẩu bánh vụn cất giữ lâu ngày cho đến khi chết vì đói, lạnh và tuyệt vọng. Nhưng Tom nêu rõ cho nó thấy những ưu điểm của cuộc đời cướp biển và nó đã không mấy ngần ngại từ bỏ các dự tính kia. Hai đứa chợt nghĩ đến chuyện mời bạn Huck chia xẻ cuộc đời mới mẻ và phiêu lưu của chúng: thằng bé lang thang không đòi hỏi gì hơn là được nhập bọn với chúng.

Cách làng mười lăm cây số về phía hạ lưu, tại một chỗ sông Mississipi đặc biệt rất rộng, có một cù lao nhiều cây cối và không có người ở, gọi là cù lao Jacson. Một bãi cát nổi cho phép đi đến đó dễ dàng. Vậy đây là một sào huyệt lý tưởng cho bọn hải tặc. Ba kẻ đồng mưu hẹn gặp lại nhau khi trời vừa tối ở phía thượng lưu của đảo, đem theo lưỡi câu, cần câu và lương thực nếu có thể. Một chiếc bè tấp gần bờ sẽ đưa chúng đến sào huyệt.

Thế là khoảng nửa đêm, Tom đến chỗ hẹn với khúc thịt muối to tướng và một vài món đồ ăn lặt vặt. Có tiếng hỏi nhỏ :

- Ai đó?

- Tom Sawyer, Hiệp sĩ Hắc y Báo oán vùng biển Antilles. Còn các ngươi?

- Finn - Bàn tay Đỏ và Joe Harper, Hung thần của Đại dương. Mật khẩu?

- Không tha mạng!

Hung thần của đại dương đã "cướp" được một khúc thịt mỡ xông khói thật to, và Finn - Bàn tay Đỏ đã đem theo một cái chảo rán, một số lá thuốc hút và lõi bắp để làm ống vố. Hiệp sĩ Hắc y Báo oán tuyên bố là chúng không thể lên tàu trước khi kiếm được đồ nhóm lửa. Thấy một lò than vừa mới tàn, ba người bạn chộp lấy một khúc củi to và vài cành nhỏ rồi nhảy lên bè. Joe chèo mũi và Huck chèo lái. Tom chỉ huy.

Trong thâm tâm, nó khoan khoái nhẩm đi nhẩm lại rất nhiều ý tưởng thú vị: Chà! Ước chi "nàng" thấy được nó đang chỉ huy con tàu, coi thường sóng gió, đương đầu với hiểm nguy, tinh thần thanh thản và quả tim gan dạ, nụ cười khinh bạc trên môi!

Khoảng hai giờ sáng, chiếc bè tấp vào trên doi cát gần mũi đất của cù lao. Ba tên hải tặc lên bờ. Trên bè chúng đã tìm thấy một mảnh buồm cũ và chúng lấy nó để che phủ lương thực quý giá chúng mang theo. Nỗi bận tâm trước nhất của chúng là nhóm lên một bếp lửa lớn ở bìa rừng và rán một miếng mỡ trên chảo. Trong niềm vui của bữa tiệc ngẫu nhiên này, xa cách nền văn minh và những trói buộc của nó, ba chàng tuổi nhỏ tự khen mình về quyết định dứt khoát đoạn tuyệt với thế giới...

- Đời đẹp quá, các bạn ơi! Không phải thức dậy lúc sáng sớm, không đi học, không phải tắm rửa, không phải nghe eo sèo ở bàn ăn, không mầu mè kiểu cách. - Tom tổng kết với vẻ ngây ngất khoái trá. - Thấy không Joe, làm hải tặc hay hơn nhiều so với làm tu sĩ ẩn dật: làm ẩn tu, cậu phải cầu nguyện suốt ngày rồi còn ăn chay nhịn đói, mặc áo quần vải gai và hành xác, đủ bao nhiêu thứ!... Còn chúng ta, khi làm hải tặc, chúng ta mặc quần áo lộng lẫy, đeo vàng đầy người và trang sức bằng đá quý. Ngoài ra hải tặc được mọi người kính nể, trong khi các vị ẩn tu, tin tớ đi, thì hơi lỗi thời rồi...

Joe sẵn sàng đồng ý. Trong khi hai đứa chuyện trò lên tinh thần như thế, Huck đã khoét một cái lõi bắp và nhồi thuốc lá rồi gắn một khúc sậy làm đầu cán và bây giờ nó rít mấy hơi dài, nhả khói thơm phức với sự khoái trá ra mặt.

Hai đứa kia thèm lác mắt trước cái tật xấu rất oai đó và tự hứa sẽ sớm có ngày thử một lần cho biết...

Sau đó ba chàng trẻ tuổi phiêu lưu bắt đầu cảm thấy mệt. Huck là người đầu tiên thiếp đi như chết. Hai đứa kia khó ngủ hơn vì trong tâm trí chúng đã bắt đầu dấy lên những điều ăn năn hối hận: biến mất đi như thế mà không báo trước chẳng phải là chúng đã làm một việc sai quấy sao? Liệu người ta không cảm thấy lo hay sao?

Còn miếng thịt mà chúng đã ăn cắp này nữa chứ, vì đó không phải là một việc ăn cắp vặt như khi người ta xoáy kẹo mứt... Hai đứa sẵn sàng bỏ qua việc tự vấn lương tâm hàng ngày cũng như việc đọc Kinh buổi tối, nhưng chúng sợ thái độ tùy tiện với ông trời như thế sẽ gây ra một tai họa ghê gớm...

Hôm sau, Tom mở mắt trước nhất. Trời đã sáng; một cảm giác yên bình và thanh thản tuyệt thú tỏa ra từ khu rừng tĩnh mịch. Rồi làn sương mù buổi sáng dần dần tan và thiên nhiên tỉnh giấc trước con mắt ngỡ ngàng, thán phục của Tom: chẳng mấy chốc, vạn vật bắt đầu rung rinh xao động.

Trên một chiếc lá còn đọng sương mai, Tom trông thấy một con sâu nhỏ màu xanh biếc. Nó có vẻ lưỡng lự chưa biết chọn hướng nào. Sau khi suy nghĩ kỹ, nó quyết định bò lên đùi Tom làm thằng bé vui mừng khôn xiết: chắc chắn đó là một điềm may, báo trước những ngày sung sướng ở lại trên đảo. Tom cũng còn tiếp một đàn kiến ghé thăm trên đường chúng đi lao động, một con bọ rùa màu vàng, một con bọ hung, một con sóc xám và sau cùng là một chú cáo con. Họa mi, gõ kiến, chim cưỡng và bướm đang làm rung rinh tàn lá chung quanh chỗ Tom.

Tom lay hai tên hải tặc kia. Chúng đứng phóc dậy hò reo sảng khoái. Cả ba đứa cởi quần áo trong nháy mắt và chạy ùa về phía bãi cát trắng. Chiếc bè của chúng đã bị dòng nước cuốn trôi nhưng điều đó chỉ làm chúng vui mừng thêm.

Tắm xong cảm thấy thèm ăn, chúng trở lại trại và khêu bếp lửa lên. Để có đồ ăn sáng, chúng quyết định thử đi câu cá và bắt được khẳm tay, chỉ trong nháy mắt chúng đã bắt nào là cá mang giổ, cá dầy, cá măng và chúng đem chiên ngon lành. Cách đó không xa, Huck khám phá ra một con suối: ba thằng bé múc nước đựng trong những chiếc lá quấn lại như loa kèn rồi yên lặng ngồi uống, rất vui với tài khéo léo của mình.

Buổi chiều là thời gian đi tìm hiểu giang sơn của chúng: đảo dài khoảng bốn hay năm cây số, rộng độ bốn trăm thước. Mãi đến chiều tối chúng mới trở về chỗ cắm trại. Tại đây, chúng thanh toán khúc thịt muối của Tom rồi ngồi thoải mái tán gẫu. Dần dần, câu chuyện hóa ra uể oải và nỗi nhớ nhà bắt đầu xâm chiếm tâm trí ba đứa bé nhưng không đứa nào dám thú nhận.

Bỗng một tiếng nổ vang lên ở đằng xa khuấy động cảnh im lặng. Tiếp theo là tiếng nổ thứ hai.

- Cái gì vậy? - Joe hỏi nhỏ.

- Tớ cũng tự hỏi như vậy. - Tom trả lời cùng một giọng.

Ba đứa bé đứng lên, đi về phía bờ sông đối diện với làng. Cách đó khoảng hai cây số, chiếc tàu hơi nước nhỏ đảm nhiệm việc qua lại trên con sông đang thả trôi theo dòng nước. Trên boong đen đặc những người. Nhiều thuyền nhỏ vây quanh con tàu, thuyền chèo có, thuyền buồm có. Liền sau đó, một chùm khói trắng bốc lên từ chiếc tàu và vang lên một tiếng nổ thứ ba.

- Phải rồi, tớ hiểu ra rồi! - Tom kêu lên - Họ đang kiếm một kẻ chết đuối...

- Ừ, đúng đó. Năm ngoái họ cũng làm như vậy khi Bill Turner chết đuối: người ta bắn một phát đại bác trên mặt nước, hình như làm thế thì cái xác sẽ nổi lên...

- Chà, nếu ở được bên kia thì tớ khoái quá! - Joe nói reo lên.

- Tớ cũng vậy. - Huck nói. - Để thấy được ai là kẻ chết đuối lần này, thì mất gì tớ cũng không tiếc.

Bỗng Tom vỗ lên trán, như được ơn trên soi sáng.

- Ồ, tớ biết rồi các cậu ơi: những kẻ chết đuối là bọn mình đấy!

- Thế thì ghê thật! - Huck bình luận, phát biểu cảm giác chung sau cùng của cả ba đứa.

Dần dần, chúng cảm thấy mình quan trọng: chúng đã mất tích, người ta đang khóc chúng như khóc những anh hùng tử trận! Chắc chắn người ta đã đổ nước mắt cho số phận bi đát, cho cuộc đời tuổi trẻ ngắn ngủi của chúng; có lẽ thậm chí một vài người còn tự trách mình đã quá nghiêm khắc với chúng... Cả làng nói về chúng, mỗi người có một giai thoại để kể, bạn bè chúng đã ghen tị đến tái mặt trước cảnh mọi người thương mến chúng như thế... Như vậy cũng tuyệt vời lắm! Sự đầy ải của chúng đã không vô ích.

Lúc màn đêm buông xuống, chiếc tàu hơi nước tiếp tục lại làm công việc đều đặn của nó và các thuyền bè giải tán. Các kẻ bị chết đuối bèn trở về trại vẫn còn mang ấn tượng sâu đậm và cảm xúc mạnh về công lao khó nhọc họ đã bỏ ra để lo cho chúng.

Chúng lẳng lặng lấy cần câu để câu cá cho bữa ăn tối: nghĩ đến nỗi đau buồn và tuyệt vọng của bà con và bằng hữu, chúng cảm thấy lòng kiêu hãnh của chúng được mơn trớn vuốt ve. Sau khi ăn xong, chúng không nói gì, nhìn ngọn lửa, mỗi đứa triền miên theo đuổi ý nghĩ riêng.

Nhưng lần này, sự háo hức ban đầu đã qua: sự giày vò, hối hận dấy lên trong lòng Tom và Joe, hai đứa dễ dàng tưởng tượng ra sự không vui của một số người mà chúng yêu mến... Bất giác chúng buông mấy tiếng thở dài. Không kìm lòng được nữa, Joe muốn thăm dò tình thế bèn gợi ra ý kiến có thể trở về với văn minh, lẽ tất nhiên không phải liền bây giờ, nhưng...

Tom nhất định không nghe và chế nhạo sự hèn nhát của bạn, gọi bạn nó là con gà ướt. Huck cũng theo ý kiến đó..

Khi Joe và Huck đã ngủ say, Tom rón rén ngồi dậy. Qua ánh than hồng, nó đưa mắt nhìn quanh và cúi xuống nhặt lên hai mảnh vỏ cây sung. Nó lấy phấn đỏ viết mấy chữ lên mỗi mảnh rồi đút mảnh thứ nhất vào túi áo vét của mình và đặt mảnh kia vào chiếc mũ của Huck. Cùng vài món vặt vãnh quý giá đối với một đứa học trò: một cục phấn, một quả bóng cao su, ba lưỡi câu và một viên bi thủy tinh. Rồi nó bỏ đi về hướng doi cát...

Vài giây lát sau, Tom đi xuống sông, lội qua chỗ cạn qua bờ đối diện. Gặp chỗ dòng sông chảy quá xiết, Tom nhào xuống nước và bắt đầu bơi mạnh. Sau đó nó thả mình trôi đến một chỗ ở đó nó có thể leo lên bờ. Vào khoảng mười giờ nó về đến làng. Theo những lối quanh để yên tâm không gặp ai cả, nó đi đến nhà bà dì nó, vượt qua hàng rào và đứng gần cửa sổ ở tầng trệt còn sáng đèn. Trong căn phòng lớn có dì Polly, Sid, Mary và bà mẹ của Joe đang ngồi nói chuyện. Tom cẩn thận tiến đến gần cửa ra vào, đẩy nhẹ cửa ra rồi bò vào phòng mà không ai thấy. Nó nấp sau một ghế bành lớn.

- Sao nến chập chờn vậy? - Dì Polly hỏi - Coi kìa, hình như cái cửa tự mở ra đấy! Sid đến đóng lại đi con.

Bấy giờ cuộc trò chuyện lại tiếp tục, nghe thật mủi lòng :

- Thằng bé chẳng phải là đứa trẻ hư hỏng đâu, hoàn toàn ngược lại. Tinh nghịch, khinh suất, ma mãnh, quả là có thực, nhưng không hề độc ác, một tấm lòng vàng... Nó không có ác ý khi chọc ghẹo tôi.

- Giống hệt như thằng Joe tội nghiệp nhà tôi. - Bà Harper ngắt lời. - Luôn luôn sẵn sàng làm những trò rồ dại nhưng độc ác thì chẳng hề có chút mảy may. Vậy mà tôi đã quất nó về tội ăn tô kem mà chính tôi đã đổ bỏ vì nó đã trở mùi chua! Không bao giờ tôi tha thứ mình chuyện đó!

Thế rồi bà òa khóc nức nở.

- Cháu cầu mong anh Tom sung sướng ở chỗ ở hiện nay, - Sid bèn nói với giọng nghiêm trang - nhưng giá mà anh đã ngoan ngoãn...

- Sid! Không được nói động một tiếng đến thằng Tom thân yêu của ta! Trong hoàn cảnh như vầy, sao cháu nói vậy được? Đừng sợ, Chúa sẽ lo cho nó vì nó xứng đáng được như thế. Ôi, bà Harper ơi, mất nó rồi biết bao giờ tôi khuây khỏa được. Quả thật nó đã nhiều lần làm tôi điên tiết nhưng nó biết hối lỗi rất chân thành....

- Chúa nhân từ đã cho rồi lấy lại, xin vinh danh Ngài. Nhưng quả thật thế này thì đau lòng quá. Nói để bà hay, chỉ mới thứ bảy vừa rồi, thằng Joe đã đốt một quả pháo dưới tai tôi. Tôi đã bớp vào đầu nó một cái nên thân. Nếu bây giờ nó làm lại chuyện đó, hẳn tôi sẽ ôm hôn nó bà ạ!

- Còn tôi, khi tôi nghĩ tôi đã đánh thằng Tommie nhà tôi, chỉ vì nó đã cho con mèo uống một muỗng thuốc rượu bé tí tẹo... Như vậy những lời nói cuối cùng nó nghe ở trần gian này lại là những lời trách cứ la rầy, tội nghiệp thằng nhỏ. Nhưng thôi, tại phương trời nó đang ở, nó không còn đau khổ nữa, thật tình phải nói như thế.

Lúc này, Tom khóc cũng không kém gì so với cả ba người, dì Polly, Mary và bà Harper họp lại, cảm tưởng cuộc đời ngắn ngủi của nó và sự thiếu cảm thông nó gánh chịu bấy lâu nay.

Phải nhận rằng nỗi buồn phiền và lòng khoan dung của bà dì tốt bụng cũng làm nó cảm động và nó phải tự kiềm chế để khỏi phóng ra khỏi chỗ nấp, ôm lấy cổ bà mà an ủi...

Tiếp tục lắng nghe, Tom còn biết thêm rằng, nếu đêm thứ bảy, các cuộc tìm kiếm vẫn không kết quả thì sáng chủ nhật người ta sẽ cử hành tang lễ... Tom cảm thấy lạnh xương sống và cổ họng như tắc nghẹn lại.

Đến đây, bà Harper đứng lên từ giã dì Polly ra về. Hai người phụ nữ ôm choàng lấy nhau.

Sid sụt sịt mấy tiếng và Mary thì khóc mùi mẫn, hai đứa lên lầu đi ngủ. Còn lại một mình, dì Polly quỳ gối cầu nguyện cho Tom được cứu rỗi, giọng già nua run run, tràn đầy âu yếm và đau khổ làm Tom cảm thấy lòng bùi ngùi vô hạn.

Thế rồi, bà đi ngủ. Tom nghe bà rên rỉ, thở dài, nằm lăn qua trở lại trên giường cho đến lúc giấc ngủ thương hại bà và ban cho bà ân huệ được lãng quên.

Bấy giờ Tom lẻn bò ra khỏi chỗ nấp và đến gần bên bà dì đang ngủ, ngắm nhìn âu yếm khuôn mặt tiều tụy, tội nghiệp của bà. Nó bèn rút trong túi ra mảnh vỏ cây mang tin tức chắc thể nào cũng làm bà yên lòng. Nhưng bỗng trong đầu óc phong phú của nó lại nảy ra một ý khác, một ý nghĩ rất tuyệt vời, vô cùng kinh ngạc! Nó vội vàng bỏ mảnh vỏ cây vào túi lại, đặt một nụ hôn âu yếm lên gò má nhăn nheo của dì nó, lặng lẽ bước ra và trở lại đảo như lúc nó bỏ đi. Đêm đã gần tàn.

Khi về lại nơi đóng trại vào lúc rạng sáng, nó nghe Joe nói :

- Không đâu, Huck ạ, Tom là đứa trung nghĩa, nó sẽ trở lại, chứ không phải nó đào ngũ đâu. Vả lại, đối với một hải tặc làm vậy thì nhục nhã quá!

- Dầu sao, những gì nó đã để lại trong mũ của cậu là của chúng ta, phải không?

- Chưa, nó viết là cái đó sẽ thuộc về chúng ta nếu nó không trở lại vào giờ ăn sáng... Hãy kiên nhẫn!

Tom chọn ngay lúc đó để xuất hiện.

- Cúc cu! Tớ trở lại rồi đây. Đố ai đoán được đêm qua tớ ở đâu?

Bị Huck và Joe thúc giục, Tom kể tỉ mỉ chuyến đi của nó. Joe rất cảm động vì được thương tiếc nhiều đến thế.

Buổi chiều, mỗi đứa trang bị một cây gậy đi tìm trứng rùa. Chỗ nào cây gậy cắm xuống đất dễ dàng là chúng quỳ xuống đào bới và thường bắt gặp khoảng năm mươi cái trứng to bằng hạt hồ đào. Khi nóng quá, chúng chạy ào ngã mình xuống nước. Chúng đầm mình khoái trá, ôm nhau cười và thả mình cho dòng nước cuốn đi một đoạn ngắn, pha trò đùa giỡn. Khi đã mệt, chúng ngã mình xuống bãi cát nóng lăn lộn thỏa thích.

Sau đó, chúng chơi bi, kể chuyện bông đùa và say sưa chơi đủ thứ trò giải trí.

Rồi đến lúc sự vui chơi nhường chỗ cho sự mơ mộng và buồn bã lúc nào không hay. Tom không thể không nghĩ đến Becky. Nó vạch tên cô bé lên cát, rồi xóa rất nhanh để viết lại liền, Joe thở dài rưng rưng nước mắt: nó thấy nhớ nhà ghê gớm và không thể có ý nghĩ xa gia đình mãi mãi. Ngay Huck cũng không vui và đâm ra tiếc cái thùng phuy hoặc vựa lúa nó dùng làm nơi trú ẩn.

Để đánh tan cảm giác chán nản và quạnh hiu thình lình tràn ngập trong lòng ba đứa, Tom cất giọng vui tươi :

- Này các cậu, nếu có một kho tàng cất giấu trên đảo, bọn mình đi tìm nó chẳng phải là một ý tuyệt vời ư?

Nhưng lời đề nghị của nó không được hưởng ứng. Cuối cùng Joe nói bằng giọng buồn rầu :

- Tớ đề nghị nên chấm dứt trò này đi. Tớ ngán rồi, tớ muốn về nhà. ở đây bọn mình lẻ loi quá, kéo dài chịu hết nổi.

- Joe à, cậu hãy nghĩ đến những buổi đi câu đang chờ chúng ta trước mắt chẳng thú vị sao?

- Tớ chẳng thiết gì đến chuyện đó nữa. Tớ muốn về nhà.

- Còn vụ đi tắm thì sao? Cậu biết chỗ nào tắm tốt hơn ở đây không hả?

- Bơi, bơi... Suốt ngày bơi lội tớ chán lắm rồi.

- Em bé muốn bám váy mẹ rồi phải không nào?

- Đúng, tớ muốn về cho mẹ tớ yên lòng. Các cậu không biết thế là thế nào đâu. Các cậu đâu còn mẹ!

- Thế thì được, em bé trở về nhà với mẹ. Thế mà cũng đòi làm hải tặc! Còn chúng ta là đàn ông, chúng ta sẽ ở lại đây, đúng không hở Huck?

Huck ừ ừ trong miệng, xem như đồng ý.

Không một tiếng giã từ, Joe đứng lên, đi về phía doi cát. Tom cảm thấy bị phản bội; lòng nó se lại. Sau vài giây, đến lượt Huck đứng lên.

- Tớ cũng vậy, tớ muốn đi. Cuộc đi trốn của bọn ta kéo dài đã đủ rồi. Ở đây vắng vẻ quá. Nếu gặp tai nạn, ta biết làm sao?

- Hai đứa bây đi đi, đồ lũ gà ướt. Còn tớ, tớ ở lại. Tớ không ngán.

- Tom ạ, tớ bảo... thật với cậu, cậu cũng nên về là hay hơn. Cậu chớ cứng đầu! Nào về đi!

- Không bao giờ!

Huck thở dài rồi đi theo Joe.

Tom tin tưởng sự cương quyết của nó sẽ làm hai đứa kia suy nghĩ và đổi ý vì quá xấu hổ.

Nhưng khi thấy không được gì, Tom quyết định đánh đòn quyết liệt và đưa ra con bài tẩy. Vừa chạy theo, nó vừa la ơi ới :

- Khoan đã, các cậu! Tớ nói chưa hết!

Hai đứa kia dừng phắt lại. Tom báo cho chúng một tin làm chúng trở lại vui vẻ và hăng hái :

- Mê ly quá! Tuyệt cú mèo! Vậy sao cậu giấu bọn tớ? Nếu vậy thì bọn tớ đâu có bỏ đi!

Ba đứa trẻ vui vẻ trở lại nơi đóng trại. Ngoài sự kích thích của cái tin bí mật, chúng còn được nhẹ lòng vì có thể chấm dứt sự bất hòa đột xuất và làm lành với nhau. Bữa ăn rất vui, gồm có trứng rùa và cá.

Sau đó, Tom tỏ ý muốn tập hút thuốc lá, dĩ nhiên là Joe cũng hùa theo. Huck khoét hai cái ống vố và nhồi thuốc. Nằm dài ra đất, ba đứa trẻ bắt đầu rít những hơi dài. Hai kẻ mới lần đầu hút thuốc không nén được ho và hơi xanh mặt.

- Gớm, hút thuốc đâu có khó gì lắm. Hít.. hà! Giá tớ biết, tớ đã hút sớm rồi, hít... hà! - Tom nói.

- Tớ cũng vậy, - Joe tiếp lời. - Từ lúc hít... hà... tớ bắt đầu muốn.

- Còn tớ, tớ đã cho cậu biết... bao nhiêu lần về cái ý thích này rồi, phải không nào?

- Tớ thấy tớ có thể hút suốt ngày - hít... hà - Tớ chẳng thấy buồn nôn chút nào cả...

- Này, tớ muốn thấy tụi bạn của mình hút xem thử sao! Tớ đoan chắc - hít... hà - bọn chúng hút một hơi đầu là quay mòng mòng ngay thôi!

- Chắc vậy rồi! Và khi bọn ta nói cho chúng biết - hít... hà - bọn ta đã tập hút thuốc khi làm hải tặc, chúng nó sẽ hối hận không đi theo bọn ta cho mà xem!

Câu chuyện về đề tài này tiếp tục được một lúc sau đó tắt nghỉm. Hai kẻ mới tập tành lúc này đã hơi xanh mặt và không ngăn được nôn ọe... Không chịu nổi được nữa, Joe đứng dậy, hai chân lảo đảo..

- Tớ nghĩ... tớ đã đánh mất con dao nhíp của tớ. Tớ đi... tìm nó mới được. - Nó cất tiếng yếu ớt.

- Chờ chút, tớ sẽ... giúp cậu. - Tom thều thào nói. - Cậu chỉ việc đi ngả kia, còn tớ... đi ngả này... Huck đừng bận tâm, ... cậu không đi cũng được!

Và hai đứa khốn khổ đi tìm chỗ riêng để giải uế.

Buổi tối, sau khi ăn xong, Huck nhồi tẩu của mình và ngỏ ý chuẩn bị hai tẩu khác. Joe và Tom lịch sự từ chối viện lý do cảm thấy đầy bụng và không được khỏe lắm.

Khoảng nửa đêm, Joe thức giấc: không khí nặng nề khó thở. Nó khẽ đánh thức hai bạn dậy.

Và tiếp theo một ánh sáng chợt lóe làm tàn lá cây hiện rõ trong giây lát; rồi ánh sáng thứ hai, ánh sáng thứ ba lóe mạnh hơn. Gió mát nhẹ nổi lên. Lần này, một ánh chớp chói lọi soi cảnh vật rõ mồn một, trong khi một tiếng sấm làm điếc tai các đứa bé đang hoảng hốt. Bây giờ gió lạnh thổi tới làm lá vàng rụng bay tơi tả và tro bếp tung tóe. Một tia chớp nữa ngoằn ngoèo xẹt qua bầu trời trong khi một tiếng động răng rắc nổi lên phía trên đầu, bọn trẻ lâm nạn chết điếng người vì kinh hoàng. Thiên nhiên nổi cơn cuồng nộ. Khi các giọt nước đầu tiên bắt đầu rơi xuống, Tom bình tĩnh lại và hét lớn :

- Nhanh lên, chạy về lều!

Bây giờ chớp lóe liên hồi, sấm vang không ngớt. Gió thổi từng cơn dữ dội, mưa như thác đổ ập xuống khu rừng đang rung chuyển tận gốc rễ. Chúng chạy vấp lên rễ cây, vướng vào dây leo, lảo đảo va vào đó, cuối cùng chúng đến được tấm vải buồm căng thành lều che đậy lương thực, đứt hết cả hơi, ướt như chuột lột và run cầm cập. Bão thổi mạnh hơn nữa. Những tiếng sấm kinh hồn xé tai nhức óc. Hòn đảo tưởng chừng như rũ ra, sắp bị chìm vào dòng sông. Gió quật tung tấm buồm và bọn trẻ hoảng sợ bám vào nhau rồi cuối cùng tìm được chỗ trú dưới một cây sồi lớn gần bên sông. Đêm ác mộng tưởng chừng như không bao giờ chấm dứt.

Sau đó, dần dần gió giảm nhẹ và chớp thưa bớt: giông bão lắng dịu và thanh bình trở lại với cảnh vật xác xơ, vẫn còn run lẩy bẩy, chân đi loạng choạng chưa kể đến những vết đứt, vết trầy và bầm tím làm chúng đau điếng, bọn trẻ gặp nạn trở về chỗ dựng trại. Cây súng to trước đó chúng ngủ vô tư dưới gốc bây giờ đã bị sét đánh, nằm sóng soài trên mặt đất... ưu tiên số một là nhóm lại bếp lửa mà nhờ nằm khuất dưới một gốc cây tán lá dày rậm vẫn còn âm ỉ dưới lớp tro. Bọn trẻ lạnh cóng, áo quần nước chảy ròng ròng. Răng đánh cầm cập, bọn chúng đi kiếm những cành nhỏ và vỏ cây ít nhiều khô ráo. Sau một giờ tìm kiếm kiên nhẫn, chúng nhóm lại được bếp lửa, khiến tinh thần sa sút của chúng vững hơn lên rất nhiều. Chúng hong khô và nướng phần thịt muối còn lại, ăn ngon lành và ngồi nói chuyện cho đến sáng, bởi vì mặt đất ướt đẫm không cách gì ngả lưng được.

Cuối cùng, tảng sáng hôm sau, khi những tia nắng đầu tiên vờn trên gò má của chúng, bọn trẻ mệt lả nằm dài trên doi cát đánh vùi một giấc.

Giữa trưa trời nắng nóng, lúc đó chúng mới thức dậy. Tê cóng, ê ẩm cả người và da thịt đau rát, chúng đờ đẫn và rũ rượi. Nỗi nhớ nhà lại bắt đầu chớm dậy. Để làm các bạn khuây khỏa, Tom nhắc chúng hạnh vận đang chờ chúng nếu chúng kiên trì cho đến ngày chủ nhật và đề nghị làm dân da đỏ thay cho hải tặc. Chúng vui vẻ với ý tưởng đó: sau khi cởi quần áo, chúng bôi bùn vằn vện khắp mình rồi đi tấn công ngay trại của người da trắng. Kể đến, đóng vai các bộ tộc thù địch, chúng xông vào nhau, la hét man dại, xẻo da cấu thịt nhau, lột đầu; giết nhau bằng thích.

Buổi chiều tàn sát đó để lại cho chúng một kỷ niệm rất đáng nhớ. Chỉ có tẩu thuốc hút chung giữa hai thủ lãnh để ký kết một nền hòa bình vững bền là thứ làm hai đứa trong bọn chúng nấn ná thấy ngại. Nhưng rồi, lần này xem ra đã quen, chúng chuyền tẩu cho nhau hút phì phèo, không quên trò chuyện khoác lác. Chúng đã trở thành những kẻ đàn ông, đàn ông thực sự! Ghê gớm thật!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro