Nhung dieu chua bit

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

----------------------- Page 1-----------------------

--------------------- Page 2-----------------------

Trương Phi hóa ra là cháu rể của Tào Tháo

Giáo sư Viện Văn học, Đại học Tứ Xuyên, phó Hội trưởng thường trực Học hội “Tam quốc diễn nghĩa”

Trung Quốc Thẩm Bách Tuấn mới cho ra đời cuốn “Tam Quốc mà bạn chưa biết tới” do Nhà xuất bản Văn

hối ấn hành.

“Qua năm ải Quan Vũ chém sáu tướng” - Lộ gót chân Archilles

“Qua năm ải Quan Vũ chém sáu tướng” trong hồi 27 của “Tam quốc diễn

nghĩa” vẫn luôn là một trong những tích được lưu truyền rộng rãi nhất của

truyện. Tích này kể chuyện Quan Vũ sau khi treo ấn từ quan, cáo biệt Tào

Tháo, mang hai phu nhân Cam, Mi đi về Hà Bắc (phía Bắc Hoàng Hà) với Lưu

Bị, lần lượt phải trải qua đủ 5 ải. Vì không xin Tào Tháo văn bằng nên dọc

đường bị ngăn trở, bất đắc dĩ phải chém 6 viên Tào tướng. Chiến tích về sức

mạnh vô song dẹp tan mọi ngáng trở này đã trở thành một bộ phận tổ thành

quan trọng trong binh nghiệp lẫy lừng của Quan Vũ.

Trong lịch sử có sự kiện “Qua năm ải Quan Vũ chém sáu tướng” này thật

không? Không có, đó hoàn toàn chỉ là hư cấu nghệ thuật của La Quán Trung.

Theo ghi chép từ “Tam quốc chí, Thục thư, Tiên chủ truyện”, năm Kiến An thứ 5

(tức năm 200 SCN), “Tào Công (chỉ Tào Tháo) cùng Viên Thiệu giao chiến với

nhau ở Quan Độ, Lưu Tích (tướng Hoàng Cân cũ) ở Nhữ Nam phản lại Tào

Bìa cuốn “Tam Quốc mà bạn chưa biết tới” công mà theo Thiệu. Thiệu phái binh tướng của Tiên chủ cùng quân của Tích

(Nhà xuất bản Văn hối) của giáo sư Thẩm Bách tới đánh đất Hứa. Quan Vũ bỏ về với Tiên chủ”. Điều này có nghĩa là, trước khi

Tuấn Quan Vũ rời Tào Tháo thì Lưu Bị đã phụng mệnh Viên Thiệu đến quận Nhữ

Nam ở phía nam của Hứa Đô, cùng với bọn Lưu Tích chỉ huy đánh ra bốn phía của Hứa Đô, làm rối loạn hậu

phương của Tào Tháo. Quan Vũ được tin của Lưu Bị, theo lẽ dĩ nhiên chỉ có thể quy về cố chủ theo đường phía

Nam của Hứa Đô, không thể nào đi theo hướng bắc lên Hà Bắc để tìm Lưu Bị được. Do vậy, không hề có chuyện

ông “qua năm ải”, vì thế nên cũng chẳng có việc “chém sáu tướng” được.

Lại theo “Tam quốc chí, Nguỵ thư, Tào Nhân truyện”: “Thái tổ cùng Viên Thiệu đấu với nhau ở Quan Độ đã lâu,

Thiệu phái Lưu Bị theo Cường chư huyện”. Có thể thấy Lưu Bị lúc bấy giờ đang ở vùng Cường (nay là địa danh

gần phía đông sông Dĩnh, thuộc tỉnh Hà Nam), cách Hứa Đô không quá 200 ặm, đi 3-4 ngày đường là tới nơi.

Cho nên, Quan Vũ đi theo đường ấy không thể gọi là xa được chứ đừng nói đến “một mình rong ruổi ngàn dặm”.

Để thể hiện tiết khí trung nghĩa khẳng khái quả cảm không từ nan đi ngàn ặm tìm anh của Quan Vũ, La Quán

Trung đã hư cấu tình tiết “qua năm ải chém sáu tướng”, cho Quan Vũ khởi đầu đi Hà Bắc, rồi lại vòng về Nhữ Nam,

điều này là chấp nhận được về mặt nghệ thuật đối với một tiểu thuyết. Vấn đề là ở chỗ, o tri thức địa lý lịch sử của

La Quán Trung không đầy đủ, việc hư cấu của ông đã lộ một gót chân Archilles kha khá lớn – phương hướng địa lý

hỗn loạn. Theo tình theo lý, Quan Vũ đã phải đi Hà Bắc để về với Lưu Bị, vậy thì sau khi ông rời Hứa Đô thì phải đi

về hướng Bắc, thẳng hướng Diên Tân (nay là phía tây bắc Diên Tân – Hà Nam) hoặc Bạch Mã (nay là phía đông

huyện Hoá – Hà Nam), vượt qua Hoàng Hà thì mới đi vào vùng Dực Châu được. Ấy vậy mà, La Quán Trung lại cho

ông đi lần lượt qua ải Đông Lĩnh (một địa anh hư cấu), rồi đột ngột không duyên không cớ quành lên phía Tây Bắc,

chạy hơn một ngàn dặm để tới Lạc Dương, mất công chạy nguyên một đường vòng rõ lớn. Sau đó lại rẽ xuống

hướng Đông, qua ải Nghi Thuỷ (tức ải Hổ Lao trong hồi 5 của “diễn nghĩa”), Vĩnh Dương, sau cùng đến được Hoá

Châu (phải là Bạch Mã mới đúng), từ đó qua sông. Lộ trình như vậy giống như một chữ “chi” lớn, cho nhân vật

chạy lòng vòng, kéo hành trình giãn ra tới gần 3 ngàn dặm, không hề hợp logic chút nào. Bên cạnh đó, trong việc

thiết kế các sự kiện cụ thể, cũng có điểm bất hợp lý. Ví ụ, Hàn Phúc muốn ngăn Quan Vũ qua Lạc Dương, chỉ cần

đóng cửa thành lại là khiến Vũ lực bất tòng tâm rồi, vậy mà ông ta lại ra khỏi thành kiếm cái chết, thật quả làm

người ta thấy khó hiểu.

Nhưng ù vậy, “qua năm ải chém sáu tướng” lại vẫn phù hợp với tâm lý thẩm mỹ của quảng đại quần chúng nghe

chuyện Tam quốc mà không suy xét gì tới phương hướng địa lý. Ngày rộng tháng ài, tích truyện này không những

----------------------- Page 3-----------------------

được người đọc chấp nhận mà còn trở thành một điển cố, một thành ngữ. Có thể thấy được ảnh hưởng của truyện

“Tam quốc diễn nghĩa” rộng lớn thế nào.

Tào Tháo và Trương Phi - lộ ra quan hệ máu mủ ruột già

Xem đề mục này, ắt hẳn sẽ có độc giả bật cười: hai nhân vật không đội trời chung này làm sao có thể có quan hệ

ruột thịt được? Thế mà, thực quả đây không phải là chuyện mạn đàm chơi, mà là một sự thực lịch sử có thật.

Quan hệ ruột thịt giữa Tào Tháo và Trương Phi được hé lộ qua gia tộc Hạ Hầu Uyên.

Trước hết là Tào Tháo. Cha của Tào Tháo là Tào Tung, là con nuôi của Tào Đằng một viên cự thần vào cuối đời

Đông Hán, vốn dòng Hạ Hầu. Theo “Tam quốc chí, Nguỵ thư, Vũ Đế kỷ” chú ẫn hai cuốn “Tào Man truyện” và

“Thế ngữ”: “(Tào) Tung, con của dòng tộc Hạ Hầu, thúc phụ của Hạ Hầu Đôn. Thái tổ (chỉ Tào Tháo) là anh em

tòng phụ của Đôn”. Điều này có nghĩa là, xét về quan hệ huyết thống, Tào Tháo chính ra là đời sau của họ Hạ Hầu;

đại tướng đứng đầu trong đám thủ hạ của ông ta là Hạ Hầu Đôn chính là em họ của Tào Tháo, một viên đại tướng

khác là Hạ Hầu Uyên cũng là em họ xa. Hạ Hầu Đôn có tư cách riêng không ai bằng, “được gặp riêng Thái tổ, ra vào

phòng thất, các tướng không ai bằng” (“Tam quốc chí, Nguỵ thư, Hạ Hầu Đôn truyện). Hạ Hầu Uyên nhiều lần đem

quân đi chinh phạt cũng rất được trọng dụng, ngoài tài thao lược tự thân ra, quan hệ ruột thịt của ông ta với Tào

Tháo cũng là một nguyên nhân quan trọng. Không chỉ có vậy, Tào Tháo còn có ý thắt chặt thêm quan hệ với Hạ Hầu

Đôn, Hạ Hầu Uyên. Con của Hạ Hầu Đôn là Hạ Hầu Mậu (Theo “Tam quốc diễn nghĩa” thì Hạ Hầu Mậu vốn là con

Hạ Hầu Uyên, từ nhỏ đã được Hạ Hầu Đôn nhận về nuôi, điểm này không đúng), lấy con gái Tào Tháo là Thanh Hà

công chúa, phong làm Liệt hầu, “Lịch vị thị trung, thượng thư, An Tây, Trấn Đông tướng quân, Giả tiết” (Tam quốc

chí, Nguỵ thư, Hạ Hầu Đôn truyện), có thể coi là quyền cao chức trọng. Trưởng nam của Hạ Hầu Uyên là Hạ Hầu

Hằng, cũng “lấy con gái Hải Dương viên hầu em Thái tổ, ân sủng đặc trọng” (“Tam quốc chí, Nguỵ thư, Hạ Hầu Uyên

truyện”). Tổng kết lại là, trong tập đoàn Tào Nguỵ, gia tộc Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên thực vinh hoa tột bực. Cho

nên, Trần Thọ trong cuốn sử “Tam Quốc chí” đã dứt khoát gộp Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên cùng Tào Nhân, Tào

Hồng cùng họ hàng thân thích họ Tào thành một truyện, đặt tên là “Chư Hạ Hầu Tào truyện”.

----------------------- Page 4-----------------------

Chân dung Tào Tháo.

Về phần Trương Phi, là đại tướng tâm phúc của Lưu Bị, nói về xuất thân gia thế hay về quan điểm chính trị vốn

chẳng có ây mơ rễ má gì với gia tộc họ Hạ Hầu. Vậy nhưng, vào những năm tháng thiên hạ đại loạn, vận mệnh

con người biến ảo khôn lường khi ấy, o những cơ hội đầy ngẫu nhiên, ông lại trở thành con rể của nhà Hạ Hầu.

Theo “Tam quốc chí, Nguỵ thư, Chư Hạ Hầu Tào truyện” chú dẫn “Nguỵ lược”, sự tình là thế này: “Năm Kiến An thứ

5 (năm 200 SCN), bấy giờ (Hạ Hầu) Bá có em họ tuổi tầm 13-14, tung tú cầu kén chồng trong quận, Trương Phi bắt

được quả cầu ấy. Phi biết là con gái nhà gia giáo, lấy về làm vợ, sinh con gái, sau là hoàng hậu của Lưu Thiền”.

Điều này cho thấy, vợ của Trương Phi là “em họ” của Hạ Hầu Bá (con trai thứ của Hạ Hầu Uyên), tức là cháu họ

của Hạ Hầu Uyên. Xét về thứ bậc, Trương Phi phải được tính là cháu rể của Hạ Hầu Uyên.

Diễn giải theo cả hai hướng như trên khiến sự việc trở nên hết sức rõ ràng: Tào Tháo rõ là anh họ của Hạ Hầu Uyên

mà Tào Phi lại là cháu rể của Hạ Hầu Uyên, vậy thì Trương Phi có thể nói cũng chính là cháu rể của Tào Tháo.

Không chỉ có vậy, đến cả Hậu chủ Thục Hán là Lưu Thiền (con gái Trương Phi là Hoàng hậu của Lưu Thiền) cũng

phải tính là cháu rể xa của Tào Tháo.

Từ tháng riêng năm Kiến An thứ 5 Tào Tháo thân chinh xuất quân đi đánh Lưu Bị, sau khi chiếm lại Từ Châu, Tào –

Lưu hai tập đoàn lớn luôn ở trong trạng thái đối lập sống còn. Cho nên, Tào Tháo với Trương Phi tuy là máu mủ

ruột già vẫn không có cơ hội đi lại với nhau cho đúng tình ruột thịt. Có điều, dù hai bên chỉ giáp mặt nhau bằng

gươm giáo thì cũng không hoàn toàn quên được mối quan hệ thân thích này.

Năm Kiến An thứ 14 (tức năm 219 SCN), Lưu Bị đưa quân vào tranh chấp vùng Hán Trung, từ sau năm Kiến An

thứ 20 (năm 215 SCN) liên tục giao tranh với tướng trấn thủ Hán Trung là Hạ Hầu Uyên, rồi bộ hạ của Lưu Bị là

Hoàng Trung giết được Hạ Hầu Uyên ở núi Định Quân. Vợ Trương Phi nghe tin bèn “xin đi làm lễ táng cho ông ta”,

coi như là tận hiếu đạo đối với người chú họ. Hai mươi năm sau, những người lập ra hai triều Nguỵ, Thục đều đã tạ

thế, nhưng thế đối nghịch của hai nước vẫn y nguyên. Nhưng thế đối nghịch này cùng việc công phạt lẫn nhau của

hai bên chủ yếu là xuất phát từ đòi hỏi về chính trị, còn về phương diện tình cảm, hai bên – con cháu Tào Tháo, Hạ

Hầu Uyên cùng con cháu Lưu Bị, Trương Phi – đã phai nhạt dần đi tâm lý thù hận, quan hệ thân thích này càng trở

thành một miếng ngọc bảo đảm lúc nguy nan.

Năm Chính Thuỷ thứ 10 nước Nguỵ (năm 249 SCN), Tư Mã Ý phát động chính biến, mưu diệt tập đoàn Tào Sảng,

độc chiếm đại quyền Tào Nguỵ. Hạ Hầu Bá đương chức Tả tướng quân, “Chinh Thục Hộ quân” sợ bị liên luỵ vội

chạy sang phía Thục, trên đường Âm Bình bị lạc đường, lương thực cạn kiệt, phải giết ngựa để ăn, đi bộ tới gãy

chân, thật quả vô cùng thảm hại. Bên Thục Hán nghe tin báo, vội vã cho người đi đón. Hạ Hầu Bá tới được Thành

Đô, Lưu Thiền đích thân tiếp kiến, còn ra ý giải thích cặn kẽ: “cha ngài lâm hại bởi miệng lưỡi thị phi, không phải

bởi lưỡi dao của tiên phụ tôi”. Lưu Thiền còn trỏ con trai mình mà rằng: “con dì con già của họ Hạ Hầu đây thôi”. Từ

đó, Lưu Thiền đối với Hạ Hầu Bá “hậu đãi lại phong thêm quan tước”, một mực đưa Hạ Hầu Bá lên làm Tướng quân

quân kỵ. Cứ như vậy, Hạ Hầu Bá trở thành một trong những trọng tướng vào cuối thời Thục Hán.

Tào Tháo và Trương Phi là họ hàng thân thích, đây vốn là một tư liệu tiểu thuyết hấp ẫn. Thế nhưng, khi La Quán

Trung viết “Tam Quốc diễn nghĩa” lại hoàn toàn không đả động gì tới điểm này, ông không những không cho vợ của

Trương Phi xuất hiện bất cứ một lần nào mà còn có ý làm lơ sự thật này, có vẻ như lo rằng viết về nó sẽ làm mờ đi

khuynh hướng tư tưởng “tôn Lưu đè Tào”. Đó vẫn là một câu đố lớn khó trả lời.

Điêu Thuyền: Tiếc thay một Giai nhân không có thật!

Người từng đọc “Tam quốc diễn nghĩa”, số đa đều có ấn tượng khá sâu đậm với nhân vật Điêu Thuyền.

Người ca kỹ tài sắc song toàn trong phủ Vương Doãn này, để đền đáp ân hậu đãi dưỡng dục của Vương

Doãn đã theo “liên hoàn kế” do Vương Doãn sắp đặt. Bằng sắc đẹp và mưu trí, Điêu Thuyền đã khéo léo

xen vào giữa Đổng Trác kẻ kiêu bạc tàn bạo và Lã Bố kẻ thấy lợi bỏ nghĩa, khiến cho Lã Bố vì oán cừu mà

----------------------- Page 5-----------------------

sinh hận Đổng Trác, đến mức không đội trời chung. Kết cục là theo về phía Vương Doãn, giết Đổng Trác, từ

đó lập nên công trạng lớn tiêu diệt tập đoàn Đổng Trác đã quá hủ bại.

Đúng ra, trong lịch sử không hề có nhân vật Điêu Thuyền. Việc Vương Duãn thuyết phục được Lã Bố cùng mưu diệt

Đổng Trác là có thực nhưng ông ta không hề sử dụng tới “liên hoàn kế”. (Tam quốc chí, Nguỵ thư, Lã Bố truyện) chỉ

viết: (Đổng) Trác tính rắn nhưng hẹp hòi, khi cáu giận thì không suy xét phải trái gì hết, từng có chỗ thất ý nên ném

khiên giáo vào Bố. Bố mau lẹ né được, lạy tạ Trác, Trác cũng hết giận. Tuy vậy Bố vẫn ngầm oán Trác. Trác

thường lưu Bố lưu lại trong phủcủa mình, Bố tư thông với thị tỳ của Trác, sợ chuyện bị phát giác nên tâm luôn luôn

bất an. Trước thì Tư đồ Vương Doãn thấy Bố là bậc dũng sỹ trong Châu (tác giả dựa theo tích: Vương Doãn là

người huyện Kỳ quận Thái Nguyên, Lã Bố là người Cửu Nguyên quận Ngũ Nguyên, Thái Nguyên Ngũ Nguyên đều

thuộc Bính Châu nên Vương Doãn xem Lã Bố là “bậc ũng sỹ trong Châu) nên thu nạp khoản đãi rất hậu hĩnh. Sau

Bố theo về với Doãn, kể lại chuyện Trác mấy phen giết người. Lúc bấy giờ Dõan cùng Bộc dạ sỹ Tôn Thuỵ mật bàn

mưu hại Trác bằng cách sai Bố làm nội ứng. (…) Bố hứa làm theo, ùng đao chém chết Trác.

Điêu Thuyền.

Có thể thấy là, Lã Bố vì chuyện Đổng Trác phải lúc tức khí ném khiên giáo vào mình mà “ngầm oán Trác”, lại vì tư

thông với thị tì của Đổng Trác mà “tâm bất an”, chừng ấy uyên do nên mới bị Vương Doãn bắt trúng mạch mà

quyết cùng diệt Trác chứ chẳng hề tồn tại vai trò của vở “mỹ nhân kế” Điêu Thuyền.

Hình tượng Điêu Thuyền hoàn toàn là sản phẩm của sự hư cấu nghệ thuật quen thuộc từ đời Tống Nguyên trở lại

đây. Trong tiểu thuyết diễn xướng thể loại ài, nghệ nhân ân gian đã sửa đổi chi tiết “Bố tư thông với thị tì Trác”

trong sử liệu, sáng tạo ra hình tượng Điêu Thuyền. Vở tạp kịch “Liên hoàn kế mỹ nữ ở Cẩm Vân đường” (gọi tắt là

“liên hoàn kế”) khuyết anh vào đời Nguyên đã gán thân thế cho Điêu Thuyền bằng hình thức tự thuật rằng: Con

----------------------- Page 6-----------------------

ngươi không phải người vùng này, là người thôn Mộc Nhĩ vùng Hân Châu, con gái Nhiệm Ngang, tiểu tự là Hồng

Xương. Do Hán Linh Đế cho tuyển cung nữ, nên con gái ngươi được nhập cung, được ban mũ Điêu Thuyền nên sau

gọi là Điêu Thuyền. Linh Đế ban con ngươi cho Đinh Kiến Dương, bấy giờ Lã Bố là con nuôi Đinh Kiến Dương, Đinh

Kiến Dương lại đem con ngươi gả cho Lã Bố. Sau rồi giặc Hoàng Cân gây loạn, hai vợ chồng thất tán… Con ngươi

may mắn được nương nhờ phủ lão gia, được đối xử như với con cháu trong nhà…

Tích “Vương Doãn hiến Điêu Thuyền cho Đổng Trác” trong quyển thượng của “Tam quốc chí bình thoại” đời Nguyên,

tiết 1 cũng có viết về thân thế Điêu Thuyền:

Tiện thiếp vốn họ Nhiệm, tiểu tự Điêu Thuyền, có chồng là Lã Bố. Từ khi thất lạc nhau ở Lâm Đào phủ, đến giờ vẫn

chưa được gặp lại, thế nên mới thắp hương. So sánh ra thì giới thiệu về thân thế Điêu Thuyền trong “bình thoại” đơn

giản hơn sao với tạp kỹ. Về tổ chức tình tiết thì hai cuốn cũng có chỗ không giống nhau: “bình thoại” viết Vương

Doãn khởi đầu mời Đổng Trác ự tiệc, tỏ ý hiến Điêu Thuyền cho Đổng Trác. Sau rồi mời Lã Bố ự tiệc, cho Điêu

Thuyền gặp lại chồng rồi nhận lời với Lã Bố: “Chọn ngày lành tháng tốt, đưa Điêu Thuyền về phủ Thái sư, đoàn tụ

với Ôn hầu”. Mấy ngày sau, Vương Doãn đưa Điêu Thuyền nhập phủ Thái sư, Đổng Trác coi Điêu Thuyền là của

riêng, Lã Bố nộ khí xung thiên, thừa lúc Đổng Trác uống say, cầm kiếm chém chết. Tạp kỹ lại viết Vương Doãn trước

thì mời Lã Bố ự tiệc, gọi Điêu Thuyền vào mời rượu ca hát, cho vợ chồng nhận nhau rồi nhận lời chọn ngày lành

tháng tốt chuyển phòng, để hai người được đoàn viên. Sau đó Vương Doãn lại bày tiệc mời Đổng Trác, gọi Điêu

Thuyền vào quạt, Đổng Trác thấy sắc thì mê, Vương Doãn nhận lời hiến Điêu Thuyền cho Trác làm thiếp. Sau

chuyện ấy, Lã Bố biết Điêu Thuyền bị đưa về với Trác thì nổi giận, lén vào phủ hỏi chuyện Điêu Thuyền. Đổng Trác

cho Bố vào để ghẹo Điêu Thuyền, muốn bắt Bố. Lã Bố chạy đến phủ Vương Doãn, cùng bày mưu lừa Đổng Trác

vào triều phụng mệnh rồi nhân đó chém chết.

Hai nội dung này cũng có một chỗ tương đồng: Điêu Thuyền và Lã Bố vốn là vợ chồng, vì loạn lạc mà thất tán rồi

Điêu Thuyền lạc vào phủ Vương Doãn. Để vợ chồng đoàn tụ, Lã Bố đã tức giận mà giết chết Đổng Trác kẻ mưu

độc chiếm Điêu Thuyền. Thế nhưng, quan hệ nhân vật tương tự

nhau này cũng khiến hai nội ung này mắc một khuyết tật giống

nhau: Thứ nhất, Vương Doãn đã biết Điêu Thuyền và Lã Bố là vợ

chồng, còn cho hai người nhận nhau giữa phủ, sau lại đem Điêu

Thuyền hiến cho Đổng Trác làm thiếp, khó lòng không lộ cái cơ

mưu hạ tiện, không phù hợp với mục tiêu của ông ta là vươn tới địa

vị tột cùng trong Hán thất. Thứ hai, Điêu Thuyền sau khi nhận vợ

chồng cùng Lã Bố lại chẳng oán hận gì mà về phủ Đổng Trác làm

thiếp, thật quả chẳng hợp tình hợp lý chút nào. Thứ ba, Lã Bố để

đoạt lại vợ thì tức giận mà giết Đổng Trác, đây là điều đương nhiên

chứ chẳng liên quan gì tới bản chất thấy lợi vong nghĩa cả. Thứ tư,

theo quan hệ nhân vật này, Điêu Thuyền ở giữa Đổng Trác và Lã Bố

không có đường lùi, cũng không thể giả điên giả ại, ly gián quan hệ

hai người cũng không còn cần thiết. Nói tóm lại, theo quan hệ nhân

vật này để khai thác miêu tả, không chỉ hạ thấp hình tượng Vương

Doãn, làm lẫn lộn tính cách của Lã Bố, làm mất đi vẻ mê hoặc của

hình tượng Điêu Thuyền, hơn thế còn khiến tình tiết tổng thể thiếu đi

cơ chế nội tạ phát triển kịch tính.

La Quán Trung khi sáng tác “Tam quốc iễn nghĩa”, theo nguyên tắc

sáng tạo “dựa vào chính sử, nhặt nhạnh tiểu thuyết” đã khéo léo thu

nhận tình tiết chủ đạo cảu tạp kỹ và “bình thoại”, sửa đổi mang tính

sáng tạo đối với quan hệ nhân vật, thành ra Lã Bố và Điêu Thuyền

không thân không thích. Sự sửa đổi nho nhỏ này khiến quan hệ

nhân vật trở nên hợp lý. Nhờ đó, Vương Doãn lập ra “liên hoàn kế”,

chỉ làm người đọc cảm nhận rõ cái cơ mưu thâm thuý của ông ta.

Đổng Trác và Lã Bố vì tranh giành Điêu Thuyền mà trở mặt, tình tiết

này phù hợp với đặc trưng tính cách của hai nhân vật và có lô gíc

thống nhất với sự thực lịch sử. Điêu Thuyền không còn là người con

gái thông thường chỉ mong vợ chồng đoàn tụ mà trở thành quái kiệt

quần hồng mang sứ mạng lịch sử, tuy nhẫn nhục tuân mệnh nhưng

cũng có được sự tự o trong tâm lý, tha hồ tự tung tự tác ở giữa

Đổng – Lã. Cả tình tiết cũng nhờ đó mà rùng rùng sống động, hư

cấu nghệ thuật cùng tái hiện sự thực lịch sử hoà quyện nhuần Điêu Thuyền.

nhuyễn. Chính ở trong tình tiết lung linh muôn vẻ này, vẻ đẹp, trí

----------------------- Page 7-----------------------

thông minh, tài cơ mưu của Điêu Thuyền mới toả sáng rực rỡ, giúp Điêu Thuyền trở thành hình tượng nghệ thuật

đầy xúc động, nhân vật ai ai cũng đều thuộc nằm lòng.

Vì Điêu Thuyền được xếp vào một trong “tứ đại mỹ nữ” Trung Hoa, lại vì là nhân vật nữ gây ấn tượng sâu sắc nhất

trong “tam quốc diễn nghĩa”, từ đời Minh Thanh trở đi, người ta luôn muốn chứng thực trong lịch sử có nhân vật

này. Ví như Hồ Ứng Lân trong “Thiếu thất sơn phòng bút tùng” quyển 41 “Trang Nhạc Uỷ đàm” hạ viết: “chém Điêu

Thuyền là việc chưa từng có, chỉ là lời đàm của Uỷ Hạng. Sau “(Quan) Vũ truyện” có ghi chú: “ Vũ muốn lấy vợ của

(Lã) Bố, gọi Tào Công, Công nghi vợ Bố có sắc đẹp hiếm có, cho nên lưu lại cho mình”. Không gì là vô cớ mà ra

cả”. Lương Chương Cự đời Thanh trong “Lương tích tục đàm” quyển 6 thì viết: “Điêu Thuyền… hẳn có con người

này thật.” Những học giả nổi anh này hoặc giả định vu vơ, hoặc quả quyết khẳng định chủ yếu cũng thống nhất

với nhau ở 3 luận cứ:

Một là, dẫn theo “Tam quốc chí, Nguỵ thư, Lã Bố truyện” có đoạn “(Lã) Bố tư thông với thị tỳ của (Đổng) Trác”, “Hậu

Hán thư, Lã Bố truyện” cũng có đoạn ghi chép tương tự. Có người bèn nói “thị tỳ” này chính là Điêu Thuyền. Thế

nhưng, xét từ những ghi chép kể trên, thị tỳ này chỉ là tư thông với Lã Bố chứ không có bất cứ vai trò gì trong việc

mưu diệt Đổng Trác, làm sao sánh kịp với vai chính Điêu Thuyền đóng “mỹ nhân kế” của Doãn đây?

Hai là, có người nói biết Quan Vũ muốn lấy người thiếp của Lã Bố, Tào Tháo lại tranh trước đòi lấy làm của mình,

vậy người thiếp này chắc chắn phải rất đẹp, người mỹ nữ này chính là Điêu Thuyền. Sự thực thì, theo “Tam quốc

chí, Nguỵ thư, Quan Vũ truyện” chú ẫn “Thục ký”, người Quan Vũ muốn lấy là Đỗ thị thiếp của Tần Nghi Lộc - bộ

tướng của Lã Bố nhưng bị Tào Tháo tranh chiếm lấy. Đỗ thị này không phải là “vợ Lã Bố”, tất nhiên càng không phải

là Điêu Thuyền. Cho ù là học giả nổi tiếng cỡ như Hồ Ứng Lân cũng có khi đọc sách không cặn kẽ, hiểu lầm ghi

chép rõ ràng của sử sách mà phạm sai lầm cho Quan Vũ là “muốn lấy người thiếp của Lã Bố” rồi theo đó mà nhầm

rằng “muốn lấy Điêu Thuyền”.

Ba là, có người ẫn câu “người con gái mặt hoa da phấn dưới lá đại kỳ” trong “Lã tướng quân ca” của thi sỹ đời

Đường Lý Gia để nói “người con gái mặt hoa a phấn” ấy là Điêu Thuyền. Điều này càng hoang đường. Trong thơ

Lý Gia đa phần là tưởng tượng theo trường phái của chủ nghĩa lãng mạn, sao có thể có chút thực chứng nào?

“Người con gái mặt hoa da phấn” này với Điêu Thuyền thì có liên hệ gì?

Những chi tiết trên đều là khảo chứng học thuật không nghiêm chỉnh, không thể chứng thực quả có một Điêu Thuyền

trong lịch sử. Ngược lại, chỉ có thể nói là trong truyền thuyết diễn xướng lâu dài của nghệ nhân ân gian, đã hư cấu

chi tiết “Bố tư thông với thị tỳ Trác” có trong sử liệu để sáng tạo nên hình tượng mỹ nhân Điêu Thuyền, biến Điêu

Thuyền thành vai chính trong “mỹ nhân kế” của Vương Doãn La Quán Trung đã sửa đổi đầy sáng tạo mối quan hệ

nhân vật, làm nổi rõ hơn vẻ đẹp, trí thông minh và tài cơ mưu của Điêu Thuyền, khiến hình tượng này càng thêm mê

đắm lòng người.

Hiểu rằng Điêu Thuyền là một nhân vật hư cấu, văn hoá ân gian khi tả thuật quê quán, lịch sử nhân vật này tất sẽ

có sự tuỳ hứng phóng tác. Tiêu biểu là vở tạp kỹ đời Nguyên “Cẩm Vân đường mỹ nữ liên hoàn kế”, trong đó Điêu

Thuyền tự thuật thân thế mình là “người thôn Mộc Nhĩ Hân Châu”. Về việc này, giới học thuật trước nay không xem

là thực bởi vốn đã là hư cấu.

Ngày nay, tuy có lúc vẫn có người nêu ra những cách nói này khác nhằm kéo lại cho Điêu Thuyền một “quê nhà”.

Năm 1991, có người đã viết bài đăng trên “nhân dân nhật báo” bản hải ngoại với nội dung “Điêu Thuyền là người

Cốc Câu thuộc Điêu gia ở huyện Bảo An (nay là huyện Chí Đan) tỉnh Thiểm Tây”. Bấy giờ tôi đã viết bài phản bác

lại. Về sau, lại có người dựa theo những tích truyện ân gian, nói Điêu Thuyền và Lã Bố cùng là người Định

Nhương tỉnh Sơn Tây. Gần đây, lại có huyện X ở Tứ Xuyên tự xưng là tìm thấy mộ Điêu Thuyền thế là Điêu Thuyền

lại thành ra người Tứ Xuyên. Những cách nói này lười biếng trong àn dựng hơn nhiều so với thuyết “Hân châu” ở

trên đã đề cập. Đó chẳng qua chỉ là vô số những dị bản trong truyền thuyết dân gian mà thôi.

Bất bình thay cho Tào Tháo, tiếng oan mãi cứ ngàn

năm?

----------------------- Page 8-----------------------

Dù đã được không ít danh nhân như Lỗ Tấn, Quách Mạt Nhược… dày công giải thích thì nay quan điểm

xem Tào Tháo là hoá thân của gian thần vẫn có môi trường sống khoẻ khoắn rộng rãi. Điều này không khỏi

khiến chúng ta giật mình trước sức mạnh của văn học, sức mạnh của truyền thống. Bài viết dưới đây xuất

phát từ hai luận điểm chủ yếu là những cống hiến của Tào Tháo đối với tác phẩm “Binh pháp Tôn Tử” và

thái độ trọng đãi nhân tài của ông để bất bình thay cho Tào Tháo. Bên cạnh đó cũng phân tích bởi “ép

Thiên tử cho mình làm Chư hầu, mong hỗ trợ Hoàng đế trị vì, vì thế mà từ đời Tống về sau chẳng còn thấy

những l i bình tốt đẹp về Tào Tháo”, có thể cũng giúp giải đáp phần nào lý do vì sao Tào Tháo phải mang

trên mình án oan làm nhân vật phản diện suốt hơn 1000 năm.

Tào Tháo: Sự đối lập giữa hình tượng dân gian và diện mạo lịch sử

“Nhắc Tào Tháo, Tào Tháo đến liền” là câu tục ngữ trong ân gian Trung Quốc. Câu nói này có thể hiểu rằng ông

Tào Tháo này khắp cùng nam phụ lão ấu người Trung Quốc đều thuộc nằm lòng cả. Nhưng nhận thức dân gian đối

với Tào Tháo lại chỉ gói gọn trong một đại từ “gian hùng một thời”. Nhận thức này chủ yếu đến từ “Tam quốc diễn

nghĩa”. “Tam quốc diễn nghĩa” được xếp vào một trong bốn bộ danh tác của văn học cổ điển Trung Quốc cùng với

“Hồng Lâu Mộng”, “ Thủy Hử “ truyện”, “Tây Du ký”, trong đó có viết lại một câu bất hủ của Tào Tháo: “Thà ta phụ

người trong thiên hạ, còn hơn để người trong thiên hạ phụ ta”. Như đổ thêm dầu vào lửa, hết lượt hý kịch, bình thư,

điển nghệ suốt trong lịch sử đều dốc sức ặm mắm thêm muối, trên sân khẩu hý kịch Tào Tháo đã mang một bộ mặt

trắng toát mắt kẻ chỉ, tượng trưng cho hình ảnh tên gian thần vạn phần gian ác.

Kinh kịch là quốc tuý của Trung Quốc, có thanh thế lớn cả ở trong và ngoài nước, vô số khách nước ngoài cũng chỉ

vì kinh kịch mà tới Trung Quốc để tìm hiểu. Những vở trong Kinh kịch như “Xúc phóng Tào”, “Kích cổ giá Tào” và

“Từ mẫu giá Tào”, trong vở “Thăm nhà” có vai ông cụ bà cụ, hát giọng hào sảng sôi nổi, uyển chuyển cảm động,

làm cho người mê kịch nghe như ngây như dại, nhưng những tình tiết hư cấu này không chỉ vu hại Tào Tháo mà

còn hạ thấp Tào Tháo cả về tài trí lẫn năng lực, ựng nên một hình tượng nghệ thuật đa nghi giảo quyệt, giết người

không nương tay, ngang ngược bạo hành và tự tư một cách cực đoan.

Diện mạo chân thực của Tào Tháo trong lịch sử ra sao? Thiên đầu tiên trong “Tam quốc chí” dành hẳn làm truyện ký

cho Tào Tháo, tức “Vũ Đế kỷ”, đây là truyện ký đầu tiên viết về Tào Tháo trong lịch sử, ước dài khoảng hơn một vạn

ba ngàn chữ. Truyện ký ghi thuật lại một cách khách quan công quả của Tào Tháo trong mấy chục năm chinh

chiến. Tào Tháo sinh vào năm Đông Hán Vĩnh Thọ nguyên niên (155), mất vào năm Kiến An thứ 25 (năm 220 SCN).

Cùng năm, sau cái chết của Tào Tháo, con Tháo là Tào Phi lên kế ngôi Nguỵ Vương. Không lâu sau, Hán Hiến Đế

----------------------- Page 9-----------------------

Lưu Hiệp bị bức phải nhường ngôi, Tào Phi trở thành hoàng đế đầu tiên của vương triều Nguỵ, sử gọi là Nguỵ Văn

Đế, truy phong cha mình Tào Tháo là Nguỵ Vũ Đế chứ bản thân Tào Tháo lúc sinh thời chưa hề được làm hoàng

đế. Tác giả “Tam quốc chí” Trần Thọ gọi ông là: “con người phi thường, kiệt nhân xuất thế”.

Mao Trạch Đông lúc phê vào cuốn “Tư trị thông giám” đã viết, “Tào Tháo thống trị miền Bắc Trung Quốc, sáng lập

nước Nguỵ, ông đã cải cách nhiều hủ hoá trong triều Đông Hán, áp chế cường hào, phát triển sản xuất, thực hiện

chế độ tuân điền, còn đôn đốc khai hoang, cho thực thi pháp chế, đề xướng tằn tiện, biến một xã hội đã bị phá vỡ

nghiêm trọng bắt đầu đi vào ổn định, khôi phục, phát triển. Ngần ấy chẳng lẽ không đủ để khẳng định, chẳng lẽ

không phải là tài cán phi thường hay sao? Nói Tào Tháo là gian thần mặt trắng ấy là bản án oan mà quan niệm

chính thống của nền chính trị phong kiến đã tạo tác nên, bản án này cần phải được lật lại.” Ông còn ngợi khen khí

khái hùng tráng của thơ văn Tào Tháo, trong bài từ “Lương đào sa. Bắc Đới Hà” của mình ông đã viết “Nguỵ Vũ

quất roi, Đông lâm Kiệt thạch có áng văn lưu truyền muôn thuở”, vun đắp hình tượng nhà chính trị vĩ đại Tào Tháo.

Trong thư ông viết cho các con gái, ông cũng yêu cầu họ phải học thơ văn Tào Tháo để nâng cao tu ưỡng văn học

của mình. Trong bài thơ nổi tiếng “Quy tuy thọ” (rùa tuy thọ), Tào Tháo ùng những ngôn từ hùng tráng “tuổi cao

tráng chí càng cao, chí ngoài ngàn dặm. Kẻ ạn dày công trạng, cuối đời hùng tâm tráng chí vẫn còn nguyên” để tỏ

rõ thế thái của người dù già lão vẫn tráng kiện, câu nói ấy đã trở thành danh ngôn lưu truyền thiên cổ.

Ngày 23 tháng 3 năm 1959, tờ “Nhân ân nhật báo” đã đăng tải bài viết của Quách Mạt Nhược, viện trưởng Viện

khoa học Trung Quốc với đầu đề “thay Tào Tháo lật lại hồ sơ”, trong đó có một tiêu đề nhỏ viết rằng: Tào Tháo đã

phải làm tấm gương của kẻ phản diện hơn một ngàn năm đầy oan uổng, ngày hôm nay, phải thay ông khôi phục

danh ự. Nhà lịch sử nổi tiếng Tiễn Bách Tán cũng đã viết một bài trên tạp chí “Sử học” lúc bấy giờ với tiêu đề “Phải

khôi phục anh dự cho Tào Tháo”.

----------------------- Page 10-----------------------

Kìm kẹp Thiên tử, dùng danh nghĩa mà hạ lệnh cho kẻ dưới: bậc đế vương thời hậu thế khó xét cho xuôi

Có thể nói, tài trí của Tào Tháo vượt xa Tôn Quyền, Lưu Bị và Gia Cát Lượng, không hổ anh là nhất đại anh hùng

giữa thời loạn thế. Những thành tựu trác việt của ông trong tất cả các mặt chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế,

văn học … có công lao không thể phủ nhận. Đặc biệt trong chính sách tôn trọng trí thức và trọng dụng nhân tài,

những cống hiến của ông xứng đáng được học hỏi, mang ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa hiện thực sâu sắc. Lại nhờ

sức hút tỏa ra từ nhân vật này mới có thể khiến hàng trăm văn nhân võ tướng biết tên biết mặt của thời bấy giờ đều

tới quy tụ ưới trướng ông, chúng ta sẽ cùng phân tích cách đối nhân xử thế của ông.

Nói về việc đối nhân xử thế, đây là chủ đề phức tạp nhất, vi diệu nhất, cao viễn thâm sâu nhất và uyên áo nhất trong

xã hội loài người. Đối nhân xử thế đụng chạm tới hết thảy cổ kim trong ngoài, như quan hệ trong nước - quốc tế,

quan hệ dân tộc, quan hệ thượng cấp - thuộc hạ, quan hệ gia đình, quan hệ thày – trò, quan hệ nam nữ v..v…, nói

cho cùng cũng đều là đối nhân xử thế cả. Đối nhân xử thế có xử lý tốt thì quốc mới thái ân mới an, sự nghiệp có

thành tựu, quốc phú ân cường; xử lý không tốt thì chuyện lớn là chiến hoạ theo đó mà khởi phát, ân không còn

đường sống; chuyện nhỏ là gia đình bất hoà, láng giềng bốn bề bất an, gà chó chẳng yên.

Trong xã hội phong kiến mấy ngàn năm, đối nhân xử thế khó xử lý nhất là quan hệ quân thần. Cái lẽ làm bạn vua

như cưỡi trên lưng hổ, vua muốn bề tôi phải chết, bề tôi không thể không chết, ấy là quan niệm luân lý thời phong

kiến. Dù có công phò trợ lập quốc, một khi bị vua có ý hoài nghi hay mang hận thì chỉ nội trong một đêm, khắp nhà

đầy cảnh chém giết, thậm chí còn chu i cửu tộc. Dang tướng Ngũ Tử Tư và Hàn Tín bị chém đầu, thậm chí bị diệt

đến cả ba họ sau những công trạng hiển hách đó thôi. Vậy nên, sử sách đã viết nên câu bất hủ thế này: “tóm được

thỏ rồi chó săn cũng bị làm thịt, thiên hạ đã định xong công thần không còn đường sống; chim bay hết thì cung nỏ

cũng chẳng còn tác ụng; kẻ địch bại, mưu thần tất vong”. Ấy là lời sấm truyền cho quan hệ quân thần trong xã hội

phong kiến.

Đứng trước cảnh nước nguy nan, Tào Tháo cảm nhận rõ thiên tử là một nhân vật nguy hiểm, nhưng cũng lại là

nhân vật trọng yếu mà một quốc gia thống nhất cần phải có. Do vậy thoạt tiên ông đem vị tiểu hoàng đế mới vỏn

vẹn có 16 tuổi Lưu Hiệp (sử gọi là Hán Hiến Đế) đưa đến căn cứ địa của mình là Hứa Xương, thực hiện chính sách

“phụng mệnh Thiên tử để ra lệnh”, đây chính là điều mà hậu thế vẫn lưu truyền về cái gọi là: “kìm kẹp thiên tử, dùng

danh nghĩa mà phát lệnh cho kẻ dưới”. Cách hành xử chính trị này của ông biến Thiên tử thành biểu trưng hình

tượng của quốc gia, bản thân mình thì nắm đại quyền chính trị quân sự của triều đình, khó tránh khỏi điều tiếng mà

lịch sử gán cho. Trong khi ấy thì, một đời Lưu Hiệp sống cảnh Thiên tử an bình, sống cho tới tận 15 năm sau khi

Tào Tháo chết, chỉ năm tháng trước khi Gia Cát Lượng bệnh mà chết trong đoàn Ngũ trượng nguyên quân mới già

lão mà tạ thế. Ý ở đó nên nhà lịch sử nổi tiếng của Đài Loan – Trung Quốc là Bách Dương mới gọi ông ta là “hoàng

đế cuối triều may mắn nhất trong lịch sử Trung Quốc”.

Nhưng cách hành xử ấy của Tào Tháo đã uy hiếp nền chính trị của vương triều phong kiến. DO vậy từ triều Tống

trở về sau, các hoàng đế trong lịch sử ít khi khen ngợi Tào Tháo, ngược lại, Quan Vũ được xem là hoá thân của

con người trung nghĩa, được đưa lên tôn sùng tột bực. Vua Càn Long đời Thanh thậm chí còn phong Quan Vũ làm

Quan Đế, lập đền thờ cúng ở khắp nơi. Có thể nói, việc này mang nhiều ý tứ tuyên truyền cho cương thường luân lý

phong kiến. Đặc biệt là tới hoàng đế Càn Long triều Thanh, khi đặt cho Tào Tháo cái danh “thoán nghịch” (thoán

đoạt phản nghịch), mặt khác lại xây Miếu Quan Đế cho Quan Vũ. Cách nhận định đánh giá kiểu quan phương

chính thức này từ đó đã trở thành một giới luật chính trị vô hình của triều Thanh.

Tào Tháo: Cách xử thế của một Đại trượng phu?

Tào Tháo không chỉ có cái tài của Bách Lạc biết nhìn ra giống Thiên Lý Mã mà còn đi khắp nơi để kiếm tìm

và chiêu mộ nhân tài, quý tài như sinh mệnh. Thuộc hạ của ông có năm đại mưu sĩ, Tào Tháo hết sức tin

cậy bọn họ, coi trọng hết mức, đổi lại, những mưu sĩ này cũng đã hiến cho Tào Tháo những mưu kế kỳ tài.

----------------------- Page 11-----------------------

Lúc bấy giờ, mưu sĩ đầu phủ Tuân Húc mới 29 tuổi theo về dưới trướng Tào Tháo, Tào Tháo khi ấy còn chưa vững

chân ở Duyện Châu đầy ân tình mà nói về Tuân Húc bằng 5 chữ: “Ngô chi Tử Phòng ã” (ấy là Tử Phòng của ta

đó). Tử Phòng là tên tự của Trương Lương, mưu sĩ trọng yếu nhất phò Lưu Bang đoạt được thiên hạ, ấy là lời đánh

giá cao nhất về Tuân Húc.

Quách Gia là mưu sĩ ít hơn Tào Tháo 15 tuổi, nhưng lại được ông yêu quí và tôn trọng khác thường. Tào Tháo từng

nói: “Giúp ta thành được đại nghiệp, cần phải có người này!”, cho rằng Quách Gia có thể giúp mình hoàn thành

việc thống nhất quốc gia.

Người thứ ba là Trình Dục, văn võ song toàn. Khi Tào Tháo xuất quân đi Từ Châu, một trong những tay chân tin

cẩn là Trần Doanh làm phản, nghênh tiếp Lã Bố vào tiếp quản quyền lực Duyện Châu, tình hình hết sức cấp bách.

Trình Dục, Tuân Húc kiên trì cố thủ Tam Thành, đợi Tào Tháo quay về. Lúc Tào Tháo nhìn thấy Trình Dục, bất giác

ngấn lệ nghẹn ngào, kéo tay Trình Dục cảm kích: “Vi tử chi lực, ngô vô sở quy hĩ” (Nếu không nhờ tiên sinh tận tâm

tận lực, tôi đã không còn nơi để về rồi).

Người thứ tư là Tuân Du tự Công Đạt, cháu của Tuân Húc. Tuân Húc ít hơn Tào Tháo 8 tuổi, Tuân Du lại chỉ kém

Tào Tháo có 2 tuổi, được Tuân Húc tiến cử lên. Tào Tháo nói: “Công Đạt, là người phi thường đó, ta có được để

cùng bàn đại sự, thống nhất thiên hạ còn điều gì phải lo nữa đâu!”

Người cuối cùng là nhân tài hiếm gặp Giả Hủ, Trương Tú nhờ có sự phò trợ của ông ta mà đã vài lần Tào Tháo

nam chinh vẫn không chinh phục được. Có một lần Trương Tú đầu hàng rồi lại tạo phản, Tào Tháo không kịp

----------------------- Page 12-----------------------

chuẩn bị nên đại bại. Để cứu Tào Tháo, con cả là Tào Ngang, đại tướng là Điển Vĩ đều đã chết giữa trận chiến, hình

thành mối cừu thù sâu sắc. Tào Tháo để thu phục Trương Tú, hoá thù thành thân đã đem con mình là Tào Quân gả

cho con gái Trương Tú, cùng Trương Tú kết tình thông gia. Giả Hủ ra sức khuyên Trương Tú theo về với Tào Tháo,

đừng nên về phe Viên Thiệu là bởi thấy trước Tào Tháo là anh hùng tàỉ trí vô song. Khi Giả Hủ và Trương Tú đến

Hứa Xương, Tào Tháo đích thân tới kéo tay Giả Hủ mà rằng: "Người trong thiên hạ khiến ta tin và xem trọng, chỉ có

ngài thôi"

Một điểm đáng quý nữa trong cách đối nhân của Tào Tháo là ở chỗ, ông luôn quy chiến tích, công lao cho hạ cấp,

trong khi lại nhận trách nhiệm về mình. Khi dâng biểu tấu công lao của đại thần, ông đã ùng rất nhiều từ ca tụng.

Trong “Thỉnh tăng phong Tuân Húc biểu”, nêu rằng Tuân Húc “biến vong thành tồn, biến hoạ thành phúc, mưu cao

công lớn, thần không bì kịp”. Lại dâng biểu ca ngợi Quách Gia “mỗi khi phải có quyết sách quan trọng, có thể lâm

trận mà tuỳ cơ ứng biến, thần còn chưa biết xử trí thế nào thì Quách Gia đã vạch mưu bày trận đâu ra đấy”. Tào

Tháo theo lời bàn của Tảo Chi, thực hiện chế độ tuân điền, nhờ thế quân ân đều có lương ăn, công tích to lớn vô

cùng. Nhưng lúc bấy giờ Tảo Chi giữ chức Đô uý tuân điền chẳng may chết sớm, Tào Tháo đã viết một thiên lệnh

văn rất ài để kể công lao của ông ta, trong đó có viết rằng nhờ thực hiện chế độ tuân điền, nâng cao uy vọng của

triều đình, Tảo Chi đáng ra phải được phong tước. Kéo ài mãi tới nay thì đã muộn, ấy là lỗi lầm của ta.

Tất nhiên, Tào Tháo hậu đãi bộ hạ nhưng không hề bao biện cho bọn họ.Tào Hồng là đường đệ của Tào Tháo, lúc

đánh Trương Tú Tào Tháo bại binh, lúc bấy giờ hai người chỉ có một con ngựa mà truy binh đã đến sát sau lưng.

Khi ấy, Tào Tháo khuyên Tào Hồng mau chạy gấp, Tào Hồng nói thiên hạ có thể không có Tào Hồng này, “nhưng

không thể một ngày không có Chủ công”, đưa ngựa của mình cho Tào Tháo cưỡi. Tào Hồng có thể nói là ân nhân

cứu mạng của Tào Tháo. Về sau, có một lần người nhà Tào Hồng vì phạm pháp mà bị Hứa đô lệnh (bằng với chức

thị trưởng Thủ đô ngày nay) lúc bấy giờ là Mãn Sủng bắt được, Tào Hồng tới xin tha nhưng Mãn Sủng không thả

người. Liền đó Tào Hồng tìm tới chỗ Tào Tháo, xin Tào Tháo giúp cứu người, Tào Tháo bèn nói được rồi, chúng ta

bày rượu tiệc mời Mãn Sủng tới nói chuyện xem sao. Tiệc đã bày hồi lâu mà Mãn Sủng vẫn chưa thấy tới, Tào

Tháo liên tiếp cho người đi giục. Đến khi nhập tiệc, Tào Tháo trách Mãn Sủng sao mãi muộn mới tới? Mãn Sủng

đáp vừa rồi ông bận một vụ việc. Tào Tháo bèn hỏi việc gì mà còn quan trọng hơn tiệc rượu với ta? Mãn Sủng thưa

vừa đem phạm nhân là người nhà Tào Hồng ra xử trảm. Đột nhiên tiệc rượu hỗn loạn, Tào Hồng nộ khí ngùn ngụt,

Tào Tháo lại có lời biểu ương Mãn Sủng chấp pháp nghiêm minh, cùng mọi người kính Mãn Sủng một chén, về

sau còn thêm phần trọng dụng Mãn Sủng.

Bởi Tào Tháo tâm đắc với chính sách chỉ cần có tài là dùng được, một đoàn quân đông đảo những phần tử trí thức

và tướng lĩnh lũ lượt kéo về với triều đình. Theo thống kê chưa đầy đủ, những mưu sĩ xếp vào tầm có được chút

danh vọng nhất định đã là hơn trăm người. Đến cả người bạn thân cận của Gia Cát Lượng là Từ Thứ và Thạch

----------------------- Page 13-----------------------

Thao cũng về làm quan trong triều. Từ Thứ làm đến chức Tả Thị trung tướng và Ngự sử trung thừa, Thạch Thao

làm tới chức Điển nông hiệu uý.

Tào Tháo có rất nhiều điểm phải ngưỡng mộ trong việc xử lý những mối quan hệ xã hội. Sau khi xử chém tên phản

nghịch Trần Doanh, Tào Tháo rất khoan dung với gia tư quyến thuộc nhà Trần. Tào Tháo phụng ưỡng lão mẫu

của Trần Doanh, lại còn gả chồng cho con gái ông ta, làm Trần Doanh ở ưới cửu tuyền cũng phải cảm kích ân

đức. Tào Tháo đối với Lưu Bị cũng rất khí khái, ra ngoài thì ngồi chung xe, vào trong thì cùng ngồi dùng cơm. Hai

người gần gũi tâm tình, lễ thanh mai uống rượu luận anh hùng. Ông liên hợp cùng Lưu Bị tiêu diệt Lã Bố, mong

được vung tay giúp Lưu Bị thống nhất thiên hạ. Có người khuyên ông nên nhân cơ hội mà giết Lưu Bị, ông không

đồng tình với cách làm đó, không thể vì thế mà làm nghẽn đường đi lối về của nhân tài trong thiên hạ. Cho dù Lưu

Bị về sau có phản lại ở Từ Châu nhưng sau này khi ông bắt ược Quan Vũ, chẳng những chấp nhận cái ý không

phục, trọng dùng cái sở trường của Quan Vũ mà hi hữu hơn là để Quan Vũ ra đi, thực hiện chính sách thông

thoáng ra vào tự o, thực hiếm có.

Tào Tháo - Người đầu tiên chú giải “Binh pháp Tôn

Tử”

Ngoài tài nam chinh bắc chiến thống nhất phương Bắc cùng tài năng văn học, Tào Tháo còn có cống hiến

to lớn cho cuốn binh thư nổi tiếng nhất của Trung Quốc – “Binh pháp Tôn Tử”.

Tào Tháo đã viết lời tựa cho “Binh pháp Tôn tử”, sử gọi là “Nguỵ Vũ Đế chú Tôn tử . Tự”, cũng là người đầu tiên viết

lời chú cho cuốn sách này, giúp cuốn sách lưu truyền hậu thế. Đó chính là bản chú sớm nhất của “Binh pháp Tôn

tử” hiện đại. Tào Tháo thuộc nằm lòng cuốn sách, lại biết ứng ụng hết sức linh hoạt. Trong cuộc đời binh nghiệp

hơn ba mươi năm ròng của ông, tay không rời “Tôn tử”, lâm chiến càng không rời nó. Trong hơn một trăm trận

đánh lớn nhỏ, cứ mười trận thì ông phải thắng tới chín, đặt cơ sở vững chắc cho thế cục thượng phong thời Tam

quốc và cuối cùng thống nhất toàn quốc. Do vậy, sử sách trong lịch sử gọi Tào Tháo là nhà chính trị và nhà quân

sự kiệt xuất.

----------------------- Page 14-----------------------

Do bản cổ đại của “Tôn tử” không còn tồn tại đến ngày nay, nên có người cho rằng “Nguỵ Vũ chú Tôn tử” là do Tào

Tháo nguỵ tạo nên. Tuy nhiên, năm 1972, bản sách thẻ tre của cuốn “Tôn tử” tìm thấy trong di chỉ lăng mộ thời Tiền

Hán ở Lâm Nghi - tỉnh Sơn Đông đã chứng minh “Nguỵ Vũ chú Tôn tử” là bản thực, nhờ vậy mà rửa sạch được

tiếng hiềm Tào Tháo nguỵ tạo binh thư.

Người chú giải “Tôn tử binh pháp” rất nhiều, phải xếp hạng nhất trong những cuốn binh pháp. Sau Tào Tháo, còn

có Mạnh thị (Lương), Đỗ Hữu, Trần Hạo, Lý Thuyên, Đỗ Mục thời Đường, Vương Triết, Giả Lâm, Mai Nghiêu Thần,

Hà Diên Tích và Trương Dự thời Tống, tổng cộng có 11 nhà chú “Binh pháp Tôn tử”, trở thành trước tác quân sự trứ

danh khắp năm châu.

Lời tựa Tào Tháo viết có 197 chữ, muốn nắm được tường tận chỉ cần gói gọn trong 20 chữ trong ấy. Tào Tháo nêu

rằng khi ùng “Binh pháp Tôn tử”, người chỉ biết ụng võ thì tất diệt mà kẻ chỉ biết ụng văn cũng vong. Tào Tháo

đã thấy được văn trị cần thiết phải kết hợp với đấu tranh vũ trang mới thực hiện được mục đích thống nhất thiên hạ,

chỉ nhờ cậy vào vũ lực đơn thuần hay vào văn trị đơn thuần thì bậc quân vương đều khó tránh khỏi bị diệt vong.

Trong lời tựa, Tào Tháo chỉ ùng vỏn vẹn có 8 chữ “thẩm kế trọng cử, minh hoạ thâm đồ” làm lời tổng kết cho cao

chiêu “vẽ rồng điểm mắt”. Ông cho rằng, nội dung trung tâm của tư tưởng quân sự trong binh pháp Tôn Tử là:

nghiên cứu quân sự tường tận lập mưu cho kín kẽ (thẩm kế); thận trọng với từng hành động quân sự (trọng cử);

vạch trận đồ rõ ràng (minh hoạ); tính toán sâu xa mọi ý đồ quân sự (thâm đồ). Cuối cùng kết luận là: bất khả tương

vu. Cũng tức là không thể cố tình hiểu sai ý ấy đi được.

Tào Tháo dốc lòng nghiên cứu, viết nên bản chú văn cho “Binh pháp Tôn Tử” với gần 2 vạn chữ. Ngoài ra, các trước

tác quân sự của Tào Tháo cũng nhiều vô vàn, như “Nguỵ Vũ Đế Thái Công âm mưu giải tam quyển”, “Nguỵ Vũ Đế

Tư mã binh pháp chú” v..v…, đáng tiếc ngày nay đều đã thất truyền.

----------------------- Page 15-----------------------

“Binh pháp Tôn Tử” giúp Tào Tháo thoát hiểm nguy, lập nên nghiệp lớn

Ngoài việc chú giải “Binh pháp Tôn Tử”, Tào Tháo còn ứng dụng “Binh pháp Tôn Tử” vào cuộc đời binh nghiệp,

dùng thực tiễn quân sự của ông làm phong phú thêm cuốn sách. Những ví ụ về việc này có rất nhiều, Tào Tháo

cũng là nhà quân sự uy nhất ùng “Binh pháp Tôn Tử” để thống nhất thiên hạ trong vô số nhà chú giải kể trên.

Bạch Mã giải vây: xa tận chân trời, gần ngay trước mắt

Hồi 25, 26 trong "Tam quốc diễn nghĩa" đã phác lại cảnh Quan Vũ chém Nhan Lương giết Văn Xú: Quan Vũ tay

cầm Thanh Long đao, ngồi trên ngựa Xích Thố, phóng như bay vào oanh trại Viên Thiệu như đi vào chốn không

người. Nhan Lương trở tay không kịp, bị chém nhào xuống ngựa. Văn Xú đấu với Quan Vũ không đầy ba hiệp, bị

Quan Vũ cho một đao vào đầu, chém ưới mình ngựa. Ngần ấy uy thần thực quả làm người ta ngưỡng vọng!

Nhưng khó hiểu là ở chỗ, đã biết Quan Vũ lợi hại làm vậy, mà tại sao trong khi chiến đấu với Tào Tháo, Quan Vũ lại

thua trận mà hàng?

Đỗ Mục đời Đường đã thuật lại trận chiến ở Bạch Mã như sau: Tào Tháo cùng Viên Thiệu đụng độ nhau ở Quan

Độ, Viên Thiệu phái bọn Quách Đồ, Nhan Lương đánh vào Bạch Mã, lúc bấy giờ người cầm đầu quân Tào là Lưu

Diên không trụ được. Viên Thiệu dẫn binh vào Lê Dương (ở phía bắc Hoàng Hà), sắp qua sông. Tào Tháo chuẩn bị

phái cứu binh lên phía Bắc, Tuân Du tâu: Tướng quân có thể phái binh đến Diên Tân, làm ra vẻ ta muốn qua sông,

Viên Thiệu tất sẽ chạy theo phía Tây để phòng ngự. Lúc bấy giờ quân ta ùng khinh kỵ binh đột nhập vào Bạch Mã,

xuất kỳ bất ý là hạ được ngay Nhan Lương. Tào Tháo nghe theo kế ấy, Viên Thiệu nghe tin quân Tào chuẩn bị qua

sông thì lưu lại cố thủ bên sông, lại chia quân tới Diên Tân nghênh chiến. Tào Tháo lập tức thân chinh dẫn quân tức

tốc tới Bạch Mã, Nhan Lương hoảng kinh thất sắc, Tào Tháo phái Trương Liêu và Quan Vũ tốc chiến vào oanh

trại, chém Nhan Lương giải được vây cho Bạch Mã. Kỳ thực, đây chính là chiêu "xa tận chân trời, gần ngay trước

mắt" mà Tào Tháo ứng ụng từ "Binh pháp Tôn tử", làm vẻ đánh xa mà thực té thì tấn công vào kẻ địch ở ngay

gần.

----------------------- Page 16-----------------------

Trận Quan Độ: dùng kế hoả công trong Binh pháp Tôn tử

Trận Quan Độ là một trận kinh điển về chiến thuật lấy yếu thắng mạnh của Tào Tháo. Đỗ Hữu đã thuật lại trận ấy

như sau: Thủ hạ của Viên Thiệu là Hứu Du ra hàng, tâu với Tào Tháo, quân lương của Viên Thiệu có khoảng hơn

vạn xe, được quản lý không chặt chẽ. Nếu dùng khinh kỵ binh tập kích bất ngờ, ùng lửa đốt sạch thì trong không

quá ba ngày, Viên Thiệu tất sẽ bại. Tào Tháo cả mừng, chọn ra năm ngàn quân kỵ binh tinh nhuệ, đều dùng cờ

phướn của Viên, thổ binh ngậm thẻ gỗ, ngựa rọ mõm im lặng tiến quân, xuất binh từ đường nhỏ, trong tay ôm bó

củi buộc chặt. Khi có người hỏi thì trả lời là Viên Thiệu lo Tào Tháo chạy lối sau, phái binh đến phòng bị. Người

nghe được tin đó tưởng thật, quân Tào nhờ vậy thuận lợi tới được lương oanh của quân Viên, phóng hoả đốt,

doanh trại Viên bỗng chốc đại loạn, đại quân tan vỡ, lương thảo quân bị đều bị đốt rụi. Đây là kế hoả công thứ 3

trong thiên Hoả công của Binh pháp Tôn tử: đốt xe hòm, tức ùng lửa đốt lương thảo quân bị. Thắng lợi trong trận

Quan Độ khiến quân Viên đại bại chạy về phía Bắc Hoàng Hà, Viên Thiệu thổ huyết mà chết.

Trận Xích Bích: mười hai chữ giúp Tào Tháo thoát nguy chuyển bại thành thắng

Tất nhiên, Tào Tháo cũng có những khi chiến bại, trận Xích bích trứ anh là một ví dụ. Tào Tháo bị Hoàng Cái ùng

kế hỏa công đốt chiến thuyền liên hoàn trên sông Trường Giang, buộc phải nhanh chóng rút quân đề giảm tổn thất.

Khi lựa chọn con đường an toàn là rút quân, Tào Tháo đã quyết đoán chọn Hoa Dung đạo, con đường này nay là

Tiềm Giang Tây tỉnh Hồ Bắc. Mấy trăm năm sau khi Tào Tháo đi con đường này, từng có người tới khảo sát

----------------------- Page 17-----------------------

Tào Tháo thoát hiểm bằng Hoa Dung đạo cũng là cơ mưu từ trong binh pháp Tôn tử mà ra hay chăng? Nếu mở

"Hư thực thiên", chúng ta sẽ đọc được: "Đi ngàn dặm không mỏi mệt, là khi đi giữa chốn không người" (Tào Tháo

chú vào đoạn này rằng: xuất binh nơi trống vắng, tránh chỗ phòng thủ, đánh vào chỗ không ngờ) .

Tuân Tử cho rằng, hành quân ngàn dặm mà không mỏi mệt ấy là nhờ đi vào giữa chỗ mà kẻ địch không phòng thủ.

Tào Tháo lại chú vào để trỏ: xuất quân tới chỗ kẻ địch phòng bị không đủ, tránh chỗ kẻ địch phòng bị nghiêm cẩn,

đánh chỗ kẻ địch liệu ý không tới. Thất bại của trận Xích Bích là o Tào Tháo vốn không tính toán hết được, tuy đã

đột ngột xuất hiện hoả hoạn không lường trước được, cố gắng ứng phó thất bại để ngăn ngừa những tổn thất to

lớn hơn, ấy là nguyên nhân Táo Tháo quyết định đi vào chỗ hiểm nguy này. Mười bốn chữ trong "Binh pháp Tôn tử"

cùng 12 chữ mà Tào Tháo chú vào, có lẽ chính là chỗ cao minh hơn hẳn của ông so với Chu Du hay Gia Cát

Lượng.

Tiễn Bách Tán nói, Tào Tháo bị chủ nghĩa chính thống phong kiến biến thành điển hình của kẻ gian thần đã quá lâu

rồi. Quách Mạt Nhược thì cho rằng, Tào Tháo đã làm khuôn mẫu răn dạy cảu kẻ phản diện hơn một ngàn năm.

Cho tới tận thế kỷ 21 này, chúng ta cảm nhận được rằng, Tào Tháo có thể xuất hiện đường hoàng với tư cách của

một tấm gương chính diện. Tất nhiên, một số khuyết điểm của ông chúng ta cũng có thể lấy đó mà làm gương. So

sánh với một số danh nhân trong thời phong kiến, sức hút của Tào Tháo là ở chỗ: văn tài chí tình như Tần Hoàng

Hán Vũ, như ngân hà rực rỡ; khí chất văn học hơn cả Đường tông Tống tổ, như vút roi mà băng biển lớn; võ lược

văn đạo vượt mọi nhân tài đương thời, thực là người phi thường; chưa giành tột bực anh vọng lên làm bậc đế

vương một thời, là kiệt nhân siêu thế.

Mao Trạch Đông trong lời bình cuốn "Tư trị thông giám" có viết: "nói Tào Tháo là gian thân mặt trắng, ấy là án oan

mà quan niệm chính thống phong kiến làm ra, cái án ấy phải được lật lại".

Tích "Quan Vân Trườn trọn nghĩa bỏ Tào Mạnh Đức" tron "Tam quốc diễn nghĩa", ấy chỉ là lời của

một tiểu thuyết gia, khôn phải là sự thực lịch sử. Chu Du và Gia Cát Lượn hay nhữn bất cứ trí giả nào

khác thời bấy giờ không thể lường được Tào Tháo sẽ chọn con đường Hoa Dung ấy.

Lưu Bị cũng là kẻ nhát gan và háo sắc?

Nếu Khổng Minh là biểu tượng cho chữ Trí, Quan Vũ là biểu tượng của chữ Nghĩa thì Lưu Bị luôn được

người đời xưng tụng là con người chí Nhân, chí Thiện. Nhưng ở mặt trái của biểu tượng ấy, phải chăng

Lưu Bị vẫn là một con người theo nghĩa bình thường nhất, nghĩa là cũng nhát gan và háo sắc?

Bốn lần chạy bỏ vợ con

Lưu Hoàng Thúc là một cái tên lừng danh thiên hạ thời Tam Quốc, một đại anh hùng “chia ba thiên hạ”. Nhưng chúng

tôi lại thấy rằng, trong quá trình dựng xây đại nghiệp của mình, vị hoàng thúc này cũng gặp không ít những thất bại,

trải qua cuộc sống đầy gập ghềnh, trớ trêu. Trong những lần thất bại ấy, chúng tôi cũng thấy rằng hoàng thúc đã

bốn lần có hành động không được xứng tầm với một đại anh hùng, “vứt bỏ vợ con, chạy lấy thân mình”.

----------------------- Page 18-----------------------

Lần thứ nhất là vào năm Kiến An nguyên niên (năm thứ nhất), khi đó Lưu Bị vừa từ trong tay Đào Khiêm tiếp nhận ấn

soái Từ Châu. “Viên Thuật tới tấn công tiên chủ, tên chủ chống lại ở Hu Di, Hoài Âm,…”, Lưu Bị đành để Trương Phi

ở lại phòng thủ Hạ Phi, tự thân đem quân chống lại viên Thuật. Kết quả Tào Báo cấu kết với Lã Bố tấn công, “Bố bắt

vợ con tiên chủ làm tù binh”. Lưu Bị không còn cách nào, chỉ còn cách đồng ý giảng hòa cùng Lã Bố, hy vọng Lã Bố

giữ lời hứa, “Bố bèn thả vợ con (Lưu Bị) về”.

Có thể khẳng định là, người vợ này tuyệt không phải là Cam, Mi phu nhân thường được nhắc tới. Bởi vì căn cứ vào

Tam Quốc chí - M Trúc truyện, khi Lã Bố tập kích Hạ Phi, Lưu Bị thua chạy tới Hải Tây thì Mi Chúc mới “ âng em

gái của mình để làm vợ tiên chủ”. Do đó Mi phu nhân tuyệt đối không thể bị Lã Bố bắt làm tù binh được. Lại căn cứ

theo Tam Quốc chí – Cam hoàng hậu truyện: “Cam hoàng hậu của tiên chủ, người ở đất Bái. Khi tiên chủ đến Dự

Châu, trú ở đất Bái mới nạp làm thiếp”.

Điều này cho thấy, Cam phu nhân được gả cho Lưu Bị khi ông ở Dự Châu, thời gian đó vào khoảng năm Kiến An

thứ hai hoặc thứ ba, còn muộn hơn cả thời gian lấy Mi phu nhân. Do đó có thể thấy, trong lần thất bại này, người

vợ này chính là người vợ đầu tiên.

Nhưng trong Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung lại đem người vợ được nhắc đến trong lần thất bại này của

Lưu Bị nói thành Mi, Cam phu nhân. Tại sao như vậy? Bởi vì trong sử sách người vợ đầu này không được mảy

may nhắc tới. La Quán Trung một mặt để tránh những tình tiết gấy rối loạn cốt truyện, đồng thời cũng không muốn

trong tác phẩm của mình nói quá nhiều đến cuộc sống đời tư của Lưu Bị vì thế mới ứt khoát đem sự kiện đã được

lịch sử ghi chép này gán lên Cam, Mi phu nhân.

Tới năm Kiến An thứ ba, do cuộc tấn công của Lã Bố ở Từ Châu, Lưu Bị chỉ còn biết đóng quân ở đất Tiểu Bái.

Trong thời gian này Lưu Bị những muốn tập hợp lực lượng tìm Lã Bố trả thù. Không ngờ rằng lần tái chiến này lại

tiếp tục gặp phải thất bại đành chạy đến chỗ Tào Tháo. Tào Tháo đối đãi ông ta cũng chẳng bạc, phong ông ta làm

Dự Châu mục. Nhưng Lưu Bị không cam tâm, chuẩn bị tới huyện Bái để thu thập tàn quân, những mong rửa mối

nhục cũ. Tào Tháo cũng ủng hộ, cấp cho Lưu Bị quân lương, phái quân đội theo ông ta tìm Lã Bố phục thù.

Kết quả là Lưu Hoàng Thúc không chịu thua kém ai đã bị bại ưới tay bộ tướng của Lã Bố là Cao Thuận. Cao

Thuận “lại bắt được vợ con tiên chủ đưa về cho Lã Bố”. Cuối cùng chính Táo Tháo phải thân chinh “Tào công tự

mình thân chinh, giúp tiên chủ vây Lã Bố ở Hạ Phi, bắt sống được Bố”, lúc đó mới có thể đem vợ con về. Lần này

----------------------- Page 19-----------------------

người bị bắt làm tù binh đương nhiên là hai vị phu nhân Cam, Mi. Còn như người vợ trước có trong số đó không thì

cũng khó mà biết được. Bởi vì chúng ta không biết được tên tuổi của người này cũng không biết bà có còn sống

hay không.

Tam Quốc diễn khi viết về sự việc này đại thể là dựa trên sự thực lịch sử nhưng trong tình tiết thì có một điểm rõ

ràng bị thay đổi: Cam, Mi phu nhân hai người không bị Lã Bố bắt sau đó mới về bên Lưu Bị mà trước đó do Trần

Khuê và Mi Chúc đoạt Từ Châu, đem hai vị phu nhân về hội ngộ cùng Lưu Bị.

Sau đó hai năm, đến năm Kiến An thứ 5, Lưu Bị không cam tâm dưới trướng Tào Tháo, mượn cơ hội Viên Thuật

mâu thuẫn với Tào Tháo mà đánh chiếm Hạ Phi vốn đã thuộc về Tào Tháo. Tào Tháo không thể tha thứ bèn đem

quân đánh Bị. Hoàng thúc lần này lại thêm một lần mất mặt. Chưa giao chiến, chỉ mới thấy cờ quân Tào đã hoảng

sợ không còn con đường lựa chọn nào khác “bỏ dân mà chạy”. Kết quả là Tào Tháo lại “bắt được thê tử của tiên

chủ, đồng thời bắt sống cả Quan Vũ”.

Chúng ta biết đều biết “ba điều kiện” của Quan Vũ với Tào Tháo rồi “qua 5 cửa chém 6 tướng” chỉ là sự hư cấu của

nhà tiểu thuyết. Trong sử sách khi nói về việc Quan Vũ bỏ Tào Tháo đi tìm Lưu Bị không hề nói rõ là có mang theo

hai vị phu nhân hay không. Nhưng chúng ta đều biết rằng, Lưu Bị khi ở Kinh Châu là ở cùng gia đình, còn sinh ra A

Đẩu. Cứ xem thái độ đối đãi của Tào Tháo với Lưu Bị và Quan Vũ thì đủ rõ, Tào Tháo đã cùng thả Quan Vũ và “vợ

con tiên chủ”.

Lần cuối cùng là vào năm Kiến An thứ 13, trong chiến ịch Trường Bản, Lưu Bị “Bỏ vợ con, cùng Gia Cát Lượng,

Trương Phi, Triệu Vân,… khoảng hơn mười người ngựa bỏ chạy”. Cam phu nhân và A Đẩu may mắn được Triệu

Vân bảo vệ mới thoát khỏi kiếp nạn. Trong các sử tịch không thấy nhắc đến Mi phu nhân, rất có thể đã thiệt mạng

trong chiến ịch này.

Như vậy, Lưu Bị bốn lần li tán cùng gia đình, trong đó, Lã Bố bắt hai lần, Tào Tháo bắt hai lần. Truy nguyên nguồn

gốc của sự tình dường như đều liên quan đến Tào Tháo. Trong cả quá trình tồn tại Tam quốc, kháng Tào là hành

----------------------- Page 20-----------------------

động kiên quyết nhất của nhân vật cũng không khiến người ta thấy kì lạ. Rốt cục việc trả thù đoạt vợ, cướp con khó

ai mà có thể coi nhẹ được.

Mọi người thường ca ngợi Lưu Bị trăm lần thất bại cũng không khuất phục, chính bản thân Lưu Bị cũng xác nhận

như vậy. Nhưng mà từ thái độ đối xử với vợ con như vậy hoàn toàn có thể cho rằng đó là “bỏ cái nhỏ để lấy cái

lớn”, cũng có thể nói là chỗ khiếm khuyết trong nhân tính con người này, đúng sai cong thẳng ra sao, hoàn toàn do

bạn làm chủ.

Ham thích khoái lạc: bắt vợ khỏa thân so cùng người ngọc

Việc này phải bắt đầu từ hồi thứ 25 “Đóng Thổ sơn Quan Công giao ước ba điều Cứu Bạch Mã Tào Tháo giải trùng

vây”: Quan công dẫn binh vào Hạ Phi, thấy nhân ân yên ổn, liền đi vào phù tìm hai chị, Cam, Mi hai phu nhân khi

nghe nói Quan công tới vội vàng ra nghinh đón. Công ở dưới thềm bái vào nói: “Làm cho hai chị phải thất kinh,

thực là tội của mỗ vậy. Hai phu nhân liền hỏi: “Hoàng thúc nay ở đâu?”. Công đáp: “Hiện không rõ”. Hai phu nhân

hỏi tiếp: “Nay nhị thúc định thế nào?” Công đáp: “Quan mỗ ra thành tử chiến bị vây khốn ở Thổ sơn, Trương Liêu

khuyên tôi đầu hàng, tôi bèn đặt ra ba điều cùng ước hẹn. Tào tháo đã đồng ý, nên lui binh cho tôi vào trong thành.

Tôi chưa được biết ý của hai chị thế nào chưa ám tự quyết. Hai phu nhân liền hỏi: “Ba việc thế nào?”. Quan công

đem ba việc ở trên mà nói lại một lần. Cam Phu nhân nói: “Đêm qua quân Tào vào thành, ta nghĩ ắt sẽ chết; ai ngờ

chúng không hề động tới, một tốt cũng không bước vào cửa. Nay thúc đã quyết rồi hà tất phải hỏi hai chúng ta? Chỉ

sợ sau này Tào Tháo không dung cho thúc thúc đi tìm Hoàng thúc thôi” Công đáp: “Hai chị yên tâm, Quan mỗ đã có

cách”. Hai phu nhân nói “Thúc đã có tự quyết, phàm việc gì không phải hỏi hạng nữ lưu như chúng tôi”.

Trong Tam Quốc diễn nghĩa, thường thường Cam, Mi hai phu nhân cùng được tác giả giới thiệu đi kèm với nhau.

Những người hiểu Tam Quốc, đối với quá trình sáng nghiệp của Lưu Bị có một ấn tượng về Lưu Bị, đó là: Đánh

được thì đánh, không đánh được ắt chạy thoát thân thục mạng, tính mệnh của vợ, của con đều quên sạch. Riêng

nói về trình độ chạy trốn, tần suất và cả sự nhếch nhác thì ngay đến cả tổ tiên của mình là Lưu Bang cũng phải

chấp nhận là “hậu sinh khả úy”. Cũng chính bởi thế mà Cam, Mi phu nhân phải chịu biết bao nhiêu nỗi khổ của cảnh

lưu lạc khốn cùng. Ngay trong đoạn “một ngựa vượt ngàn dặm” của Quan Công cũng là để hộ tống hai người chị

dâu của mình.

Như đoạn nói chuyện giữa Cam, Mi phu nhân đối với Quan Công có thể thấy Cam, Mi phu nhân tuyệt đối là sảng

phẩm của tư tưởng đạo đức luân lý của Nho gia. Qua lời “phàm việc gì không phải hỏi hạng nữ lưu như chúng tôi”

và “Nay thúc đã quyết rồi hà tất phải hỏi hai chúng tôi?” có thể thấy hai người là những người nhu mì, nhưng lại

hoàn toàn thiếu chủ kiến. Trước tất cả mọi việc, thậm chí ngay cả sự sống chết của bản thân họ đều do người đàn

ông nắm giữ. Những hình tượng phụ nữ như thế là một ạng kí hiệu tồn tại trong Tam quốc d ễn nghĩa. Ý nghĩa mà

họ mang theo trong tác phẩm văn học vì thế rất nhỏ bé, rất khó để lại ấn tượng gì trong lòng người đọc.

Nhưng những nhân vật này trong chiến dịch Trường Bản lại có một sự cải thiện rất đáng kể. Đặc biệt là hình ảnh

cảm động của Mi phu nhân trong hồi thứ 41 của Tam quốc d ễn nghĩa, Lưu Huyền Đức mang dân qua sông, Triệu

Tử Long một ngựa cứu chủ.

----------------------- Page 21-----------------------

Quân Tào trùng trùng vây khốn Lưu Bị, trong thời khắc giữa sự sống và cái chết, Triệu Vân tìm thấy Mi phu nhân bị

trọng thương. Đối diện với có hội sống sót uy nhất đó, cô nhất định không chịu lên ngựa mà nói với Triệu Vân một

cách đầy nghĩa khí rằng: “Thiếp gặp được tướng quân, A Đẩu có cơ hội sống rồi. Hy vọng tướng quân có thể

thương xót phụ thân của A Đẩu nửa đời long đong chỉ có mình nó là cốt nhục. Tướng quân có thể bảo vệ đứa con

này, ẫn nó đến gặp phụ thân, thiếp có chết cũng không ân hận”.

Mi phu nhân vì bảo vệ sự sống cho đứa con không phải o minh sinh ra sẵn sàng nhảy xuống giếng mà chết. Cô

không mảy may nghĩ đến tính mệnh của bản thân khiến Triệu Vân đứng giữa vòng vây của quân Tào nỗ lực không

ngừng, cứu được tiểu chủ nhân. Vì thế mà được tiểu thuyết ca ngợi: Dùng cái chết để bảo tồn dòng g ống họ Lưu,

Đấng nam nhi còn thua ngườ phụ nữ trượng phu này. Sự đáng kính của người con gái anh hùng can đảm vì đại

nghĩa, hiền đức mạnh mẽ này khác hẳn với sự nhu nhược yếu đuối của Lưu Bị ở trên. Đọc đến đoạn này, độc giả

không khỏi cảm thấy rung động. Tinh thần vì đại nghiệp của chồng mà cam tâm tình nguyện hy sinh này khiến cho

nhiều đấng mày râu không khỏi thẹn thùng.

Nhưng tình tiết này chỉ là sự hư cấu của nhà tiểu thuyết. Trên thực tế việc Triệu Vân cứu A Đẩu cực kỳ giản đơn.

Tam Quốc chí – Triệu Vân truyện chỉ chép là: “Vân mình mang A Đẩu, bảo vệ Cam phu nhân, cùng tránh được

nạn”. Còn việc có phải Mi phu nhân cứu được A Đẩu không, chúng ta cũng khó mà biết được nhưng rất có khả

năng là cô đã chết trong chiến dịch này. Trong sự chau chuốt nghệ thuật của nhà tiểu thuyết La Quán Trung, hình

tượng của Mi phu nhân mới trở nên sinh động và giàu ý nghĩa như chúng ta đã thấy. Đối chiếu với sự thật lịch sử,

chúng ta mới thấy hết sự vi diệu của ngòi bút của La tiên sinh.

Kỳ thực khi Mi phu nhân còn sống, Mi phu nhân là thê (vợ cả) còn Cam phu nhân là thiếp (vợ bé), địa vị bao giờ

cũng thấp hơn. Nhưng trong Tam Quốc diễn nghĩa mỗi lần nhắc đến đều nói “Cam, Mi hai vị phu nhân” là vì Cam

phu nhân sinh hạ Lưu Thiện ở Kinh Châu. Điều này trở thành nguyên nhân khiến Cam phu nhân được đề cao hơn.

Cũng vì sinh được con trai kế nghiệp làm hoàng đế nên vị trí của Cam phu nhân trong lịch sử cũng vượt xa Mi phu

nhân, sách sử cũng vì thế mà ghi chép nhiều hơn.

Cam phu nhân là một mỹ nữ nổi tiếng thời kỳ Tam Quốc. Sinh ra trong một gia đình nghèo hèn, từ nhỏ Cam thị đã

được một người xem tướng nói rằng: “Cô gái này sau này sẽ phú quý vô cùng, được một vị quý nhân nâng đỡ”.

Sau khi Lưu Bị khởi binh tại Dự Châu đã nạp Cam thị làm thiếp. Sau đó mấy người vợ cả của Lưu Bị đều đều qua

đời, Cam phu nhân vì thế mà trở thành vợ cả. Sau khi Lưu Bị đến Kinh Châu nhờ cậy Lưu Biểu, sinh hạ được A

----------------------- Page 22-----------------------

Đẩu. Khi đại quân của Tào Tháo truy đuổi quân của Lưu Bị tại Trường Bản Đương Dương, Lưu Bị bèn vứt bỏ vợ

lớn lẫn vợ bé. Hoàn toàn ựa vào một tay Triệu Vân bảo vệ, Cam phu nhân mới thoát khỏi kiếp nạn. Nhưng hồng

nhan thì bạc mệnh, sau chiến dịch Xích Bích không lâu, Lưu Bị vừa mới ổn định thì cô “hương tan ngọc nát”, gặp

bạo bệnh mất ở tuổi 24. Cả đời Cam phu nhân theo Lưu Bị chạy đông chạy tây, trôi giạt nghèo khổ tương phản

hoàn toàn với dự đoán của người xem tướng thuở nhỏ. Cả đời cô ấy chưa từng được hưởng một chút hạnh phúc

nào.

Tương truyền dung mạo của Cam phu nhân khi trưởng thành không giống với những phụ nữ bình thường khác.

Mười tám tuổi đã trở thành mỹ nữ rất được Lưu Bị mê đắm. Lưu Bị thường để cô cùng ở trong trướng lụa, đứng ở

ngoài trời mà nhìn, Cam thị giống như tuyết trắng ngưng tụ ưới ánh trăng vậy.

Ở Hà Nam có người nịnh hót Lưu Bị, dâng tặng một tượng ngọc cao ba thước (khoảng 1m), Lưu Bị đem tượng

ngọc này để cạnh Cam phu nhân, thường bắt Cam phu nhân trong đêm phải bỏ hết y phục để so sánh với người

ngọc ở bên. Lưu Bị chơi đùa Cam phu nhân không khác gì pho tượng bằng ngọc, thường nói: “Điều quý của ngọc

là ở chỗ nó có thể so với cái đức của người quân tử. Hơn nữa lại có thể đẽo tạc thành nhân hình thì khó mà bỏ đi

được”. Sự thanh khiết, nồng ấm của Cam phu nhân và tượng ngọc không có sự phân biệt, mọi người nhìn không

biết đâu là người ngọc, đâu là Cam phu nhân. Vì thế Cam phu nhân rất muốn phá hủy tượng ngọc. Bà từng khuyên

Lưu Bị rằng: “Trước đây Tử Hãn không lấy ngọc làm quý, sách Xuân Thu vì thế mà khen ngợi. Hiện tại Ngô và

Ngụy đều chưa diệt được, làm sao có thể vui chơi mà quên chí của mình. Phàm là thứ gì sinh ra âm cảm đều

không nên dùng”. Lưu Bị nghe những lời đại nghĩa của Cam phu nhân mới bỏ tượng ngọc.

Những điều tạo nên hình ảnh tốt đẹp về Cam phu nhân này cũng chính là những tư liệu mà nhà tiểu thuyết muốn sử

dụng. Nhưng vì một hình ảnh Lưu Bị rất thích vui chơi hưởng lạc này lại đi ngược với mong muốn xây dựng một

hình tượng một chủ công anh minh nhân từ của La Quán Trung vì thế không được sử dụng. Điều này, có thể thấy

rõ là xuất phát từ việc phục vụ cho phong cách thống nhất của tác phẩm.

Tổng quan mà xét cuộc đời của Cam, Mi phu nhân và vận mệnh của Mi phu nhân cũng có một chút tựa hồ tốt đẹp:

từ thiếp lên địa vị một phu nhân, sau khi chết được Lưu Bị phong làm Hoàng Tư phu nhân. Đến khi hậu chủ Lưu

Thiện tức vị đã phong bà thành Chiêu Liệt hoàng hậu, để bà hợp táng cùng Lưu Bị. Nhưng mà sự tôn vinh này cũng

chỉ là nhờ có Lưu Thiện, con của bà, chẳng qua là “phú quý nhờ con” mà thôi.

Đến như Mi phu nhân thì số phận quả thực là bất hạnh. Xét cho cùng thì khi Lưu Bị gặp nạn lấy bà, bà vẫn là chính

thất nhưng khi Lưu Bị làm hoàng đế thì không còn đoái hoài gì đến bà nữa. Tam Quốc chí của Trần Thọ cũng

không lập cho bà một truyện riêng mà chỉ đề cập đến bà trong một câu của Mi Trúc truyện (Trúc dâng em gái của

mình làm phu nhân của tiên chủ). Có thể nói rằng, lúc còn sống thì gian khổ, khi chết lại im hơi lặng tiếng.

Thật ra điều này cũng không lấy gì làm lạ, ngay trong Tam Quốc diễn nghĩa Lưu Bị đã từng nói rằng: “Anh em như

tay chân, vợ con như quần áo vậy thôi” mà y phục thì hoàn toàn có thể tùy tiện vứt bỏ. Bởi vì “quần áo rách, có thể

may cái mới, chân tay bị chặt làm sao mà nối được đây?”. Điều đáng nói là đến hồi thứ 54 Tam Quốc diễn nghĩa,

sau khi Cam, Mi phu nhân đã chết có đoạn chép: “Huyền Đức từ ngày mất Mi phu nhân, ngày đêm phiền não không

thôi”. Xem thấy rõ rằng, Lưu Bị không thể không có vợ ở bên mình được. Thế mới biết khi có thì không biết trân

trọng đến khi mất rồi lại thương tiếc khôn nguôi.

Lưu Bị mới là người "thanh lý" Quan Vũ?

Trong Tam Quốc diễn nghĩa, La Quán Trung mô tả khi nghe tin Quan Vũ bị Đông Ngô bắt giết, Lưu Bị nhiều

lần khóc ngất đi và thề sẽ cử binh đánh báo thù cho Quan Vũ mặc cho nhiều tướng khuyên can. Một thủ

lĩnh, cầm trong tay binh hùng tướng mạnh như Lưu Bị, đẩy người em kết nghĩa đánh liều mạng vào nơi

nguy hiểm, khi bị vỡ trận lại không hề cắt cử quân đi cứu, cho dù trên danh nghĩa, có thể đi mà không cứu

được, để cho sự biến xảy ra rồi mới kêu khóc như đàn bà phỏng có tin được?! Việc Quan Vũ bị nguy khốn,

----------------------- Page 23-----------------------

Lưu Bị phải biết tin trước hàng tháng trời? Bỏ mặc Quan Vũ tự xoay xở sống chết với quân Ngô, quân Tào,

có đúng chỉ là dã tâm của Gia Cát Lượng như chủ kiến của Chu Tử Ngạn và một số học giả Trung Quốc

khác đã lên tiếng?

Quan Vũ. - Ảnh: Internet

Vào thời điểm đó, Gia Cát Lượng mới giữ chức Quân sư trung lang tướng, giống với công việc của “ Nhà thầu tư

vấn th ết kế” trong các ự án đầu tư thời hiện đại. Mọi quyết sách chắc chắn nằm trong tay Lưu Bị, Lưu Bị mới là

chủ đầu tư, chủ tài khoản của mọi “dự án” khởi binh của nhà Thục Hán. Vào thời điểm phát binh đánh Uyển Thành

hoàn toàn khác với giai đoạn bảy lần khởi binh ra Kỳ Sơn sau này của Gia Cát Lượng.

Khi tiến hành các chiến ịch Bắc phạt, Gia Cát Lượng đã được phân cấp, với chức anh Thừa tướng, Gia Cát

Lượng thật sự là “chủ đầu tư dự án”, còn hậu chủ Lưu Thiện chỉ sắm vai “chủ quản đầu tư”...Do đó, trách nhiệm về

thất bại trong chiến dịch đánh Uyển Thành ẫn đến Quan Vũ bị giết, không thể đổ lên đầu Gia Cát Lượng. Cũng

giống như trách nhiệm về 7 lần ra Kỳ Sơn và lần cuối chém chết Nguỵ Diên sau này thuộc về Gia Cát Lượng chứ

không thể quy cho hậu chủ Lưu Thiện. Theo chúng tôi nếu Gia Cát Lượng là kẻ “chủ mưu”, là người úm Lưu Bị

trong vụ để mất Kinh Châu thì làm sao có thể sống nổi với Lưu Bị được, sau này làm sao Lưu Bị còn phó thác con

côi?

----------------------- Page 24-----------------------

Chúng tôi đồ rằng, “Dự án đầu tư” phát binh đánh Uyển Thành cho dù o tư vấn lập nhưng đã được bàn tính kỹ,

được đích anh Lưu Bị phê uyệt cẩn thận. Khi triển khai ự án này, Lưu Bị đã tính toán kỹ hết các khả năng của cả

3 phương án: thành công mỹ mãn, hoà vốn, gặp rủi ro và thua thảm bại... Một con người già nửa đời cầm quân

không thể không so đo tính toán thiệt hơn. “ Doanh nhân” Lưu Bị cũng đã rà tính hết tất cả đáp án của các phương

án “kinh doanh” kể cả xấu nhất: nếu gặp rủi ro cháy túi thì sẽ tìm cách thu lãi ở “quả” khác, coi như một cú thăm ò

thị trường. Phát động chiến dịch quân sự đánh Uyển Thành, Lưu Bị đã có các tính toán sau đây:

1/ Về nội trị :

Khi mới khởi nghiệp, nhà Đông Hán đang ở thời kỳ loạn ly, do đó Lưu, Quan, Trương kết nghĩa với nhau, ựa vào

nhau để cùng tồn tại, cùng mưu sự nghiệp lớn. Khi Lưu Bị đã chiếm được Kinh Châu và thu thêm cả Tây Thục thì

mối quan hệ Lưu, Quan, Trương từ quan hệ “huynh đệ” chuyển qua quan hệ “vua tôi”, có trên có dưới, giữ nghĩa

nhưng phải theo lễ: khuôn phép chứ không còn xuế xoà anh anh, tôi tôi, “ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu” như thuở

hàn vi. Đây chính là nguyên nhân mà khi thành đạt nhiều hoàng đế đã chém chết đại thần, những người cũng mình

đồng cam cộng khổ trong thời nằm gai nếm mật. Không nói đâu xa, ông tổ của Lưu Bị là Hán Cao Tổ, khi thành đế

nghiệp thì diệt luôn Hàn Tín, Trần Bình và bao đại thần khác...

Qua Tam Quốc iễn nghĩa và qua nhiều sử sách cho thấy: Quan Vũ là kẻ kiêu ngạo, cuồng vọng, cậy khoẻ, không

coi ai ra gì. Khi đã trở thành hoàng đế, Lưu Bị chắc chắn không khỏi có lúc khó chịu, bị mất mặt vì cá tính giang hồ,

thảo khấu đó của Quan Vũ. Chưa nói trong trận Xích Bích, Quan Vũ không lập được công cán gì, giao cho đi đánh

chặn Tào Tháo, kẻ thù không đội trời chung của Lưu Bị, vì “ nể nang” với tình xưa nghĩa cũ mà tha cho Tào Tháo

chạy thoát. Tuy Lưu Bị không xử Quan Vũ theo quân lệnh nhưng chắc chắn trong bụng không ưa gì Quan Vũ.

Khi Lưu Bị vào Tây Thục giao cho Quan Vũ cai quản 9 quận Kinh Tương và 4 quận mới thu về, đáng lẽ được như

vậy Quan Vũ phải nhũn nhặn, biết điều, biết ơn huynh trưởng: đối đãi với mình như vậy cũng là hậu. Được ngồi

một chỗ “thơm”, chỉ việc đánh cờ, giữ nhà lại không biết thân biết phận còn “t nh tướng”, tỏ thái độ đòi hỏi, suy bì

hơn kém với Mã Siêu, Hoàng Trung, khi nghe tin họ có tên trong anh sách được phong Ngũ hổ đại tướng ngang

hàng với mình; lúc đầu Quan Vũ có ý định từ chối không nhận. Lưu Bị muốn làm nên đế nghiệp phải ựa vào nhiều

người, cho ù Quan Vũ có “ thâm niên” theo Lưu Bị hơn, nhưng thử hỏi với những gì Quan Vũ đã làm, được thêm

chức lại có quyền, hơn hẳn các tướng khác mà còn chưa chịu thì “huynh” biết xử với “đệ” và các tướng lĩnh khác

như thế nào? Theo chúng tôi đó là bất đắc ý nhứ hai của Lưu Bị đối với Quan Vũ.

----------------------- Page 25-----------------------

Quan Vũ. - Ảnh: Internet

Đã không bỏ công sức ra nhiều mà lại còn đòi được ngồi ”mâm trên” thì “huynh” cũng phải cho “đệ ” biết thế nào là

lễ độ, cho đệ thử một mình cầm quân ra đối địch với quân Tào xem sao, xem đệ có ngông nghênh được không. Cử

Quan Vũ mang 3 vạn quân đi đánh Uyển Thành là một việc làm quá sức đối với Quan Vũ. Với việc này, Lưu Bị

nhằm mục đích ạy cho Quan Vũ biết lễ độ với mình, biết điều hơn, không “gây gổ” với đám Hoàng Trung, Mã Siêu,

Triệu Vân... Đừng tưởng ông anh chú đánh được êch Châu và Hán Trung ngon xơi lắm. Nếu đệ tài, giỏi, đánh được

Uyển Thành thì hoan nghênh đệ, đệ xứng đáng đứng sau huynh và đứng trên đám tướng lĩnh khác; nếu không làm

được thì đệ phải biết lễ độ, không được tinh tướng, ra vào, nói năng phải khuôn phép, đừng có động tý lại đỏ mặt

lên, lại vuốt râu mà xưng ta đây. Bây giờ huynh là vua của thiên hạ chứ đâu có còn anh anh, tôi tôi với riêng đệ.

Huynh không bảo được đệ làm sao bảo được đám quần thần trăm người trăm bụng...

2/ Về ngoại g ao:

Sau khi thu phục được êch Châu, Hán Trung, buộc Tào Tháo phải bỏ của chạy lấy người, cộng với 13 quận Kinh

Tương, thế và lực của Bị đã trở nên cực lớn khiến cho cả Ngô, Nguỵ phải kiêng è. Bản thân Lưu Bị không thể

không ngộ nhận, choáng về khả năng và sức lực của mình. Mặt khác tham vọng lãnh thổ, bành trướng đất đai là

loại tham vọng không có điểm dừng. Đánh Uyển Thành vừa là “bà th ” Lưu Bị đưa ra để “sát hạch” Quan Vũ, ngoài

ra còn là một phản ứng thử thời vận của Lưu Bị. Một con người như Lưu Bị không bao giờ thoả mãn với những gì

có trong tay như Lưu Biểu, Lưu Chương, Trương Lỗ... Nếu quả thật “vận số” nhà Hán một “thương h ệu” mà Lưu Bị

đang “kinh doanh” đang có hiệu quả, đang “vào cầu”, còn có thể ăn nên làm ra thì biết đâu, phá xong Uyển Thành,

quân Tào Tháo nao núng, nhân cơ hội này thôn tính luôn Trung Nguyên. Thời cơ, thời vận không thử, không phiêu

lưu làm sao biết được, làm sao đến được... Bao năm Lưu Bị chỉ biết chạy ài và phòng thủ, giờ Lưu Bị chuyển

sang “lố đá Hà Lan”, tấn công và gây sức ép toàn sân, hết thảy mọi vị trí, hễ khoan thủng được chỗ nào là ào luôn

vào mũi đó...

Sau khi bình xong Tây Thục, Lưu Bị từng giao kèo với Lỗ Túc sẽ trả lại Kinh Châu cho Tôn Quyền, Lưu Bị không

muốn trả, tất nhiên Quan Vũ cũng không đời nào chịu buông cái mảnh đất béo bở mà mình đang cai quản. Quan Vũ

----------------------- Page 26-----------------------

luôn “cà khịa” với Tôn Quyền, với Lỗ Túc là bởi nếu minh ước này được tuân thủ thì Quan Vũ mất chỗ. Về phía Tôn

Quyền thì sau khi đã nhịn nhục gả em gái của mình cho Lưu Bị hơn em mình mấy chục tuổi, mong ùng gái trinh

“hố lộ” Lưu Bị mà lấy lại được thêm mấy thước đất cho bõ công cất quân ra đánh nhau với Tào Tháo trong trận

Xích Bích và khỏi mất mặt với đám quần thần. Không lấy lại

được đất, Tôn Quyền cho bắt em gái về. Mất vợ, Lưu Bị cắt luôn

tình giao hảo, minh ước liên minh Ngô Thục này coi như chỉ còn

trên giấy. Như vậy khi phái Quan Vũ đánh Uyển Thành, Lưu Bị

chắc chắn cũng đã lường trước việc khả năng Tôn Quyền trở

mặt đánh úp Kinh Châu; thế tại sao Lưu Bị vẫn cho tiến hành

chiến dịch phiêu lưu quân sự này?

Phát động chiến dịch Uyển Thành, một mũi tên Lưu Bị bắn ra

nhằm tới nhiều mục đích: Thử thời vận, nếu Tào Tháo đến thời

mạt vận thì chơi luôn Tào Tháo; nếu Quan Vũ không làm nên

công cán gì thì đây là bài học để dạy cho gã “hãnh tướng” này

biết lễ độ; nếu Tôn Quyền thừa cơ bỏ trống Kinh Châu, xông

sang “đánh trộm” thì Lưu Bị sẽ có cớ cử đại quân sang nói

chuyện phải trái với Tôn Quyền. Quân của Lưu Bị bây giờ đang

rỗi, đang sung, đang “ngứa ngáy” chân tay. Nếu không đánh

được Nguỵ thì nhất quyết Thục phải quay sang tìm cớ “chơ ”

Ngô. Chín quận tám mươi mốt châu Giang Nam cũng đáng để

Lưu Bị cử binh sang thăm hỏi lắm. Theo chúng tôi đó chính là

tính toán, là “tim đen” của Lưu Bị. Về phương iện này những Lưu ị. - Ảnh: Internet

“chí lớn” như Lưu Bị và Gia Cát Lượng ắt đã gặp nhau khi quyết định chiến dịch phiêu lưu quân sự đánh Uyển

Thành. Như vâỵ Quan Vũ là một con tốt được Lưu Bị và Gia Cát Lượng ném qua hà, một thứ “ t ền đạo cắm” của

Lưu Bị xua qua để thử phản ứng, thử thời vận và còn để nhử mồi đao binh...

Một vấn đề khi con tốt này gặp nguy nhưng sao cả Lưu Bị lẫn Gia Cát Lượng đều tịnh không có một hành động

ứng cứu tượng trưng nào? Gia Cát Lượng ngoảnh mặt đi thì đã rõ, vậy còn “tình nghĩa vườn đào” đối với Lưu Bị

chẳng lẽ đã quên? Theo chúng tôi, Lưu Bị chủ trương “thanh lý” con tốt Quan Vũ bởi lợi ích thì ít mà đãi ngộ thì

không chừng nào cho vừa. Lưu Bị thí tốt Quan Vũ để có cớ phát động một chiến ịch quân sự lớn nói chuyện phải

trái với Đông Ngô. Như vậy “dự án” này sẽ là tiền đề cho một “dự án” khác lớn hơn. Mặt khác nếu Lưu Bị có cử

binh đi cứu Quan Vũ thì khi cứu được về Lưu Bị cũng phải chặt đầu Quan Vũ. Bởi lúc này là quan hệ vua tôi chứ

không lơ mơ anh anh tôi như trước đây: quân thua chém tướng. Vào triều thì phải đi theo bước của cung phi, một

kẻ đầu nóng, tim nóng, ngông ngạo như Quan Vũ thì khó lòng bảo toàn được thủ cấp. Nếu Lưu Bị cứ tiếp tục giữ

quan hệ xuề xoà, huynh huynh đệ đệ với một ông mãnh như Quan Vũ thì làm sao sai phái các tướng khác dốc lòng

dốc sức.

Khi xưa sau trận Hoa Dung, Quan Vũ tha cho Tào Tháo, nếu là tướng khác thì khó lòng giữ được mạng sống; Lưu

Bị cho qua bởi nếu chém Quan Vũ sẽ làm tổn thương đến cái gọi là tình nghĩa anh em trong nội bộ quân mình, là

chiêu thức mà Lưu Bị đang cần giương cao để chiêu binh, mãi mã, thu phục nhân tài. Vào thời điểm đó, Lưu Bị đang

trong thế thắng và đang cần người do đó chém tướng là điều khó lòng làm công tác tư tưởng với ba quân. Sau trận

Uyển Thành, để Tôn Quyền “thịt” Quan Vũ, về chính trị thuận cho Lưu Bị và “được giá” về quân sự vì có cớ cử binh

phạt Ngô.

Tào Tháo và Tôn Quyền kẻ sớm người muộn cuối cùng đều đã nhận ra độc chiêu này của Lưu Bị. Do đọc, tính ra

nước cờ hiểm này, hiểu rõ tim đen, hiểu rõ thế, lực lẫn cuồng vọng của Lưu Bị nên để đối phó với 3 vạn quân của

Quan Vũ, Tào Tháo đã cử năm cánh quân đi cứu viện cộng thêm 10 vạn quân đi sau tiếp ứng, vừa để diễu võ

dương oai, vừa nhằm đập tan từ trong trứng cuồng vọng nhòm ngó lãnh thổ của Lưu Bị. Kết cục Quan Vũ đã bị

quân Tào đánh cho tơi tả. Do hiểu được cuồng vọng của Lưu Bị và mối quan hệ giữa Lưu Bị và Quan Vũ nên Tào

Tháo đã không cho quân truy tới cùng mà nhường chiến công truy sát Quan Vũ, anh hùng nổi tiếng một thời cho Lã

Mông, Phan Chương. Đám Trương Chiêu của Tôn Quyền cuối cùng cũng hiểu rõ nước cờ “ thí tốt” của Lưu Bị nên

mới khuyên mang thủ cấp Quan Vũ nộp Tào Tháo. Tháo biết tỏng âm mưu này nên đã cho làm đám tang cho Quan

Vũ còn hậu hơn, đình đám hơn những tướng lĩnh của mình khi chết trận...

Tóm lại cử Quan Vũ xuất binh đánh Uyển Thành là một “dự án cấp nhà nước” đã được Lưu Bị “lập trình phê duyệt”

sẵn; Tào Tháo là “nhà doanh nghiệp” lớn nên đã xúc tác, “đầu tư cổ phiếu” cho “ dự án” này sớm được triển khai...

Mối quan hệ “kết nghĩa vườn đào thề cùng sống chết” của 3 anh em Lưu, Quan, Trương được người Trung Quốc

nhắc tới nhiều suốt gần 2000 năm qua như một thứ khuôn mẫu về tình nghĩa thuỷ chung, sống chết có nhau của

----------------------- Page 27-----------------------

những con người cùng chí hướng. Qua những gì diễn ra trong mối quan hệ giữa Lưu Bị và Quan Vũ, theo chúng

tôi thứ tình nghĩa “anh anh, em em” này chỉ tinh khiết ở chốn vườn đào, hoặc khi họ còn chung với nhau mái lếu

tranh, đang cùng nhau trên đường thiên lý đỏ lửa gian truân. Mỗi khi kẻ đã là vua và người đã thành tôi thì xin chớ

có mơ hồ, ai an phận nấy; ai không biết yên chỗ của mình, lộn xộn vượt qua giới hạn thì chỉ có thể nói chuyện với

nhau bằng mạng sống... Qua thân phận của Quan Vũ, người em kết nghĩa của Lưu Bị, hậu thế thấy được cái ngọn

cờ giả nhân giả nghĩa mà Lưu Bị giương lên đó không chỉ đã che mắt, mê ụ được khối người đương thời mà còn

làm cho biết bao bậc thức giả Trung Hoa gần 2000 năm nay vẫn còn xúm vào xây đền, đúc tượng...

Qua vở “kinh” kịch Quan Vũ bị giết ở Uyển Thành, hậu thế nếu nghiên cứu kỹ sẽ có điều kiện hiểu sâu thêm các “đạ

gia” thời Tam Quốc đã kết nghĩa đồng minh, đã chơi với nhau và đánh lộn nhau như thế nào...

“Mỹ nhân kế” hay trai anh hùng gặp gái thuyền

quyên?!

Hôn nhân giữa Lưu Bị và Tôn phu nhân là một cuộc hôn nhân có thật. Đối chiếu với chính sử, Lưu Huyền

Đức kết hôn với Tôn phu nhân đúng lúc ông đã ngoài năm mươi tuổi. Tôn phu nhân, em gái Tôn Quyền là

một cô gái mới lớn xấp xỉ tuổi đôi mươi và chưa cùng ai. Vậy đây là một cuộc hôn nhân chính trị, nhằm

củng cố và thắt chặt liên minh Ngô-Thục, một cuộc đổi chác có đi có lại? Phải chăng đây là chuyện lỡ làng

xuất phát từ âm mưu dùng “mỹ nhân kế” không thành, không còn cách nào thoái thác, há miệng mắc quai

đối với một gia đình gia thế đứng đầu nước Ngô nhỡ “dọn cơm trước kẻng"? Hay cuộc hôn nhân này thật

sự là một cuộc tao ngộ giữa trai anh hùng gái thuyền quyên trong thời buổi loạn lạc vẫn thường được mô

tả trong nhiều thiên diễm tình? Để làm sáng tỏ điều này chúng ta hay cùng lần giở một vài trang tư liệu ít ỏi

mà La Quán Trung cung cấp qua đôi dòng "Tam Quốc diễn nghĩa" để cùng chú giải, suy đoán...

----------------------- Page 28-----------------------

Xuất phát điểm của cuộc hôn nhân này là âm mưu của Chu Du khi nghe tin Lưu Bị thất ngẫu (goá vợ). Cam phu

nhân vợ cả Lưu Bị chết trong trận Đương Dương - Trường Bản, Mi phu nhân vừa mới qua đời; Chu Du muốn

mượn cớ “mối lái” cho Lưu Huyền Đức kết uyên với em gái Ngô hầu Tôn Quyền là Tôn phu nhân để mời Lưu Bị hạ

cố sang Đông Ngô cùng kết uyên Tần - Tấn. Thực chất Chu Du muốn dụng kế: nhân cơ hội bắt giữ Lưu Bị, buộc

ông hoàn trả Kinh Châu cho Đông Ngô...

Âm mưu này của Chu Du đã không lọt qua mắt Gia Cát Lượng. Trong "Tam Quốc diễn nghĩa", khi mô tả đoạn Lữ

Phạm gặp Lưu Bị để trình bày việc riêng hệ trọng này, Gia Cát Lượng không tham gia mà nấp sau bình phong để

nghe trộm; nghe xong Gia Cát Lượng đã gieo quẻ thấy được quẻ đại cát nên ông đã khuyên Lưu Bị nên mượn kế

Chu Du để mưu đạt lợi ích cho mình.Theo chúng tôi, đó chỉ là một cách thêu ệt để huyền thoại hoá con người Gia

Cát Lượng. Sở dĩ Gia Cát Lượng thuyết phục Lưu Bị vui vẻ chấp nhận lời mối lái này mặc ù biết đây là âm mưu

của Chu Du, bởi các tính toán tỉnh táo sau đây:

1. Lưu Bị vào Ngô là việc nguy hiểm nhưng trước đó trong thời gian cùng cộng tác với Chu Du trong trận Xích Bích,

từng sống tại đây một thời gian dài, có điều kiện tiếp xúc, giao lưu với nhiều bậc anh tuấn Đông Ngô, Gia Cát

Lượng đã biết rõ nội tình Giang Đông. Ông biết rõ Tôn Quyền là một chủ tướng có khả năng tập hợp và sai khiến

các dũng tướng, một chủ tướng quyết đáp chuyện quân cơ nhưng lại không bao giờ làm trái ý mẹ vì chữ Hiếu. Đây

là một đặc điểm của Tôn Quyền mà Gia Cát Lượng đã “bắt thóp” được nên đã biết tận dụng và tìm cách khai thác

triệt để nhằm hoá giải độc kế của Chu Du nhằm phục vụ cho mưu cơ chính trị của mình.

2. Vào thời điểm đó, sau nửa đời người Lưu Bị mới có được mảnh đất cắm ùi đó là 9 quận Kinh Tương, trong khi

đó Tào Tháo thống lĩnh cả Trung Nguyên binh mạnh lương nhiều nhân tài nhiều như nước vẫn đang gầm ghè sau

trận Xích Bích. Ngô được tiếng là đánh bại quân Tào dựa vào cái thể hiểm trở của sông Trường Giang, sau nhiều

lần xuất binh đánh Ngụy nhưng vẫn không lân nào chiến thắng. Chu Du còn bị trúng tên của Tào Nhân rồi ốm chết;

Tôn Quyền thì suýt chết với tay Trương Liêu. Qua đó cho thấy Ngô và Thục đều yếu hơn Ngụy, chỉ có thể phòng

ngự chứ chưa thể chủ động tấn công tranh hùng sòng phẳng với Tào Tháo.

----------------------- Page 29-----------------------

Từ xuất phát điểm này, Gia Cát Lượng chủ trương phải hoà hiếu với Ngô để cự Tào là sách lược mà ông từng

vạch ra trước khi ra khỏi lều tranh. Do Gia Cát Lượng có thời sống tại Đông Ngô, ông biết rõ nội tình của Ngô. Bên

cạnh phái “d ều hâu” chủ trương dùng quân đội đánh, giành lại Kinh Tương thì cũng có phái chủ trương “ôn hoà”

trong đó Lỗ Túc là đại biểu. Trong "Tam Quốc diễn nghĩa", La Quán Trung tỏ ra vụng về khi tác giả đã tả Lỗ Túc

như một người nhẹ ạ, cả tin luôn bị Gia Cát Lượng xỏ mũi và bị Quan Vân Trường làm nhục. Theo chúng tôi

không hẳn đúng như La Quán Trung mô tả. Lỗ Túc không thể là một nhà chính trị tầm thường mà lại được Tôn

Quyền trọng dụng. Tôn Quyền không là kẻ ú ớ trong chuyện ùng người. Hiện nay lăng mộ Đại phu Lỗ Túc vẫn còn

bên bờ hồ Động Đình, chứng tỏ lúc còn sống ông là người có thế lực.

Theo chúng tôi, phái chủ hoà trong nội bộ Đông Ngô không phải là phe thiểu số, chủ trương hoà Thục để tập trung

đối phó với Tào Tháo là một cái nhìn sáng, biết hy sinh, nhịn cái lợi nhỏ trước mắt để giữ cho được sự cân bằng

đại cục. Do Gia Cát Lượng biết bên Ngô còn nhiều người ủng hộ quan điểm liên minh với Lưu Bị để cự Tào Tháo

nên ông mới đánh nước cờ mạo hiểm, mạnh dạn đánh nước cờ “xuất tướng”. Chắc chắn Gia Cát Lượng nắm được

Kiều Quốc lão, bố vợ Tôn Sách, một người có ảnh hưởng lớn tới Tôn Quyền, tới các đường lối đối nội đối ngoại

của Đông Ngô, hiểu rõ thời thế, lại là người theo chủ kiến hoà Thục cự Tào nên Gia Cát Lượng mới chấp nhận chơi

ván cờ này với Chu Du. Khi Lưu Bị sang Đông Ngô, việc đầu tiên của Gia Cát Lượng là cho tuỳ tùng mang quà đến

Kiều Quốc lão đánh tiếng là uý lạo nhưng thực chất là để thông tin và phao tin việc Lưu Bị sang để cầu việc kết

duyên với em gái Ngô hầu. Gia Cát Lượng đã đi một nước cờ sắc bén...

3. Sau nhiều năm sống cạnh Lưu Bị, Gia Cát Lượng hiểu ông không chỉ là một bậc kỳ tài lại có uy danh, phong thái

đường bệ mà còn là một đấng mày râu sáng giá. Mặc dù biết Lưu Bị đã cao tuổi nhưng ông vẫn tin Lưu Bị còn có

đủ khả năng làm xiêu lòng Tôn phu nhân. Gia Cát Lượng dám tin vào tính toán và cảm quan của mình nên mới mạo

hiểm “xuất tướng”, đây là một nước cờ “một mũ tên nhằm đạt ha đích”: vừa cưới được cho chủ tướng một cô vợ

con nhà gia thế mà còn củng cố được ý đồ chiến lược của mình: liên kết bền chặt với Đông Ngô.

Kết cục không ngoài ự tính của Gia Cát Lượng, Lưu Bị đã lấy được Tôn Phu nhân, cuộc hôn nhân này đã vượt xa

tính toán đầu cơ của Chu Du: từ mưu kế nhằm mưu cầu những lợi ích chính trị biến thành cuộc tao ngộ giữa trai

anh hùng với gái thuyền quyên. Tôn phu nhân đã đứng hẳn về phía Lưu Bị, xuất giá tòng phu lên đường về Kinh

Châu chứng tỏ Lưu Bị đã thật sự chinh phục được trái tim của Tôn phu nhân. Tôn phu nhân không hẳn là người

phụ nữ chỉ biết nghe theo tiếng gọi của trái tim mà cũng là người bị giằng co giữa chữ Tình và chữ Hiếu. Việc Tôn

phu nhân sau này rời bỏ Kinh Châu quay về Đông Ngô bí mật đem theo A Đẩu chứng tỏ Tôn phu nhân cũng thấy

trách nhiệm và vai trò của mình với sự nghiệp của anh trai. Rõ ràng Tôn phu nhân đã hiểu được các đường đi

nước bước của ván cờ chính trị này và bị cuốn vào cuộc chơi một cách tự giác, tự nguyện...

----------------------- Page 30-----------------------

Tôn ph u nhân - Ảnh: dienanh.net

Một câu hỏi đặt ra liệu Tôn phu nhân là người chấp nhận mình là một con cờ trong ván cờ do Chu Du - Gia Cát

Lượng bày ra hay từ chỗ bị động đến chỗ Tôn phu nhân chủ động can ự vào cuộc cờ này. Sử liệu tuy ít ỏi , nhưng

những gì được ghi lại trong "Tam Quốc iễn nghĩa" cho thấy rõ ràng chuyện tình éo le giữa Lưu Bị và Tôn phu nhân

là điều có thật... Kết thúc số phận của cuộc tình này, La Quán Trung ghi lại trong hồi thứ 84 của "Tam Quốc diễn

nghĩa": Nghe tin quân Thục thua trận, tiên chủ chết trong đám loạn quân, Tôn phu nhân bèn sai đẩy xe ra phía tây

khóc lóc rồi đâm đầu xuống sông tự tử. Chỗ Tôn phu nhân tuẫn tiết người đời sau lập miếu thờ gọi là đền Khiêu Cơ.

Đời sau có thơ than:

Tiên chủ thua quân tới Bạch Thành

Phu nhân nghe nạn vội quyên sinh

Bến sông nay vẫn còn bia tạc

Chói lọi nghìn thu tiếng gái trinh!

Chi tiết này chứng tỏ sự éo le của cuộc tình này là xác thực. Nó còn chứng tỏ Lưu Bị không chỉ là một chính khách

lão luyện trên sa trường mà còn là một gã đàn ông “hoành tráng” trong tình trường. Hậu thế không thể không “ngả

mũ” trước cuộc hôn nhân có máu của con tim hoà vào trong đó giữa một gã đàn ông đã ngoài năm mươi, “phẩm

chất” chính trị và tư cách đàn ông còn có nhiều điểm đáng ngờ thế mà vẫn làm xiêu lòng một cô gái trẻ đôi mươi tự

nguyện gắn bó, tự nguyện xin chết theo mình theo đúng nghĩa đen của từ này.

Phải gắn bó, phải gieo được vào lòng Tôn phu nhân những tình cảm sâu nặng như thế nào mới xô đẩy được nàng

nhảy xuống sông. Chi tiết này cho thấy: Phụ nữ xưa nay họ vẫn là phụ nữ, họ chung tình hơn cánh đàn ông mỗi khi

trái tim họ được thu phục. Họ cũng bị giằng xé bởi khối óc và con tim, giữa chữ tình và chữ hiếu, giữa trách nhiệm

và sự thôi thúc của bản năng con người nhưng họ vẫn đáng tin hơn, trong sáng hơn, đáng yêu hơn cánh đàn ông

chúng ta...

----------------------- Page 31-----------------------

Có cả Ngoạ Long lẫn Phượng Sồ, Lưu Bị tài mỏng

không đoạt được thiên hạ

Gia Cát Lượng và Bàng Thống đều là những mưu sĩ đình đám số một trong Tam Quốc diễn ngh a của La

Quán Trung, một người được coi là rồng, một được xưng là phượng. Ẩn sĩ Tư Mã Huy từng nói một cách

khoa trương rằng: “Ngọa long, phượng sồ, được một trong hai người ấy thì có thể an được thiên hạ vậy”.

Thế nhưng Lưu Bị có trong tay cùng lúc một rồng một phượng, vì sao vẫn không thể bình thiên hạ, phục

hưng cơ đồ nhà Hán, thống nhất Trung Hoa mà lại ngậm ngùi trao thiên hạ vào tay kẻ khác?

Không thể phủ nhận rằng, những mưu sĩ có một vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc định hướng chiến lược, thậm

chí quyết định cả sự tồn vong cho các tập đoàn quân phiệt thời kỳ Tam Quốc. Một cách tự nhiên, họ cũng hình thành

nên một tập đoàn những người đồng môn, những người mưu sĩ giống như anh em kết nghĩa của Lưu Bị, anh em, họ

hàng Tào Tháo, hay cha con họ Tôn, gia tộc Tư Mã. Chỉ khác với tập đoàn khác là sự hợp tác giữa họ tản mác, tiềm

ẩn và chỉ hạn chế ở việc thúc đẩy tư tưởng chính trị thời kỳ này từ Tân Pháp gia đến Tân Nho gia và cuối cùng đến

chỗ Nho Pháp kết hợp. Hướng tới mục tiêu đó, những mưu sĩ này cũng hình thành một thế lực riêng, với vô vàn

những mối quan hệ vô hình nhưng lại đóng vai trò quyết định trong việc phân định chia thiên hạ thời Tam Quốc. Làm

rõ mối quan hệ này, chúng ta sẽ hiểu vì sao, Lưu Bị được tiếng là có một rồng một phượng trong tay vẫn phải chịu

thất bại cay đắng.

1. Bốn đại quân sư và hai loại mưu sĩ

----------------------- Page 32-----------------------

Bàng Thống

Trong Tam Quốc diễn nghĩa có bốn mưu sĩ nổi tiếng, tài năng nhưng họ lại không hề giống nhau chút nào đó là:

Trình Dục, Từ Thứ, Gia Cát Lượng, Bàng Thống.

Sự khác biệt ở họ chủ yếu thể hiện ở mấy điểm: Thứ nhất là thời gian. Bậc cao nhân thường nhìn xa, có thể thâm

trầm ẩn mình, xuất đạo khi rất muộn. Trong Tam Quốc diễn nghĩa, trong bốn người vừa kể trên thì thứ tự xuất đạo là

Dục, Thứ, Lượng, Thống. Thứ hai là người tài năng có năng lực khống chế rất lớn, quản lý phạm vi rất rộng. Vì thế

mới có cách nói “tài mười dặm”, “tài trăm dặm” và “tài ngàn ặm”. Chiến công đầu tiên khi xuất đạo của bốn mưu sĩ

này cũng gia tăng theo phạm vi không gian như vậy: Trình Dục lấy huyện Đông A, Từ Thứ lấy Phàn Thành, Gia Cát

Lượng lấy Kinh Châu, Bàng Thống lấy Tứ Xuyên.

Nhưng chúng ta rất ễ nhận thấy rằng thành tựu cuối đời của Gia Cát, Trình Dục vượt xa hẳn so với Từ Thứ, Bàng

Thống, điều này là do đâu? Nguyên là giữa bốn người họ còn có một phương diện khác biệt nữa đó là sự khác biệt

về âm – ương. Trong bốn người vừa kể trên thì Thống và Thứ giỏi “dương mưu” còn Lượng và Dục thì giỏi về “âm

mưu”. Trong đó, Lượng cao hơn Dục một bậc. Chuyên về dương mưu là kẻ trung thuận, ngược lại những người

giỏi âm mưu thường là những kẻ phản loạn. Khổng Minh thuộc về loại đó.

Ở đây cần phải nói rõ rằng, “thoán nghịch” (làm phản) đối với kẻ thống trị thì gọi là mãnh thú, hồng thủy nhưng đối

với “ ân tộc” mà nói thì đó lại là sự thay đổi âm dương không thể thiếu được, tức là sự thay đổi các triều đại. Chỉ

phân biệt hợp lý hay bất hợp lý. Vả lại, việc ùng binh thì không ngại gian trá. Tôn Tử đã nói rằng những “dương

mưu” của mình thực ra cũng chỉ là quỷ kế, bởi vì âm ương cũng giống như trung hay nghịch, bản thân khó mà

phân định rạch ròi được, quan trọng vẫn là nắm bắt cân đối, vận ụng hài hòa hợp lý.

Chính xác mà nói thì âm mưu thuộc vào phạm trù tấn công tâm lý. Trong xã hội phong kiến trọng dương khinh âm,

nên âm mưu là thứ không thể học được từ thầy giáo hay sách vở, chỉ có thể tự mình tìm hiểu, tự mình nghiên cứu

và phát hiện mà thôi. Người dùng âm mưu có thể một ngày giành được thắng lợi phi thường, thay đổi vận mệnh

----------------------- Page 33-----------------------

của bản thân. Trình Dục, Gia Cát Lượng chính nhờ mưu lược toàn diện mới có thể đứng đầu “bảng xếp hạng” các

đại mưu sĩ trong thế giới Tam Quốc.

2. Nhìn rõ Lưu Bị, Bàng Thống lấy cái chết để nhường Khổng Minh

Đối với Gia Cát Lượng, người viết trong bài Phá giả kết cấu “Tam Quốc ngũ phương” trong Tam Quốc d ễn nghĩa

đã nói rất rõ việc Gia Cát Lượng ngay từ lúc xuống núi đã có ý làm phản Lưu Bị, tranh đoạt thiên hạ, đó cũng chính

là cái ẩn ý của nụ cười Khổng Minh trong đoạn văn: “Mọi người hỏi chí của Khổng Minh ra sao? Khổng Minh chỉ

cười mà không đáp”. Do vậy ở đây sẽ không nói đến việc Khổng Minh theo Lưu Bị mà có ý phản, muốn tranh đoạt

thiên hạ nữa mà chỉ bàn tới việc Bàng Thống, vị quân sư tài năng số một trong Tam Quốc cũng có tâm phản lại Lưu

Bị.

Thực tế thì ban đầu Bàng Thống hoàn toàn trung thành với Lưu Bị. Đầu tiên ông sang cư ngụ ở Đông Ngô chính là

để tranh tài cùng với Gia Cát Lượng phía Thục và Từ Thứ phía Ngụy, quyết thắng Xích Bích. Đó là đường vòng để

ông đến với Lưu Bị. Vì thế cuộc đại chiến Xích Bích kết thúc, Bàng Thống trực tiếp đến gia nhập quân của Lưu Bị.

Để không làm khó cho Lưu Bị, Bàng Thống tình nguyện làm từ chức quan thấp nhất, nhất định không chịu đưa bức

thư của Lỗ Túc và Khổng Minh giới thiệu mình với Lưu Bị. Quả nhiên, ông đã chứng tỏ chân tài thực học của mình

cho Lưu Bị thấy và Khổng Minh đã không thể không thừa nhận Bàng Thống tài cao hơn mình “mười lần”.

Gia Cát Lượng có thể giúp Lưu Bị lấy Kinh Châu, nhưng đối diện với “đất hiểm dân mạnh” ở Tứ Xuyên lại “vô kế

khả thi”. Ông ta không biết làm thế nào để thuyết phục kẻ luôn miệng nói điều nhân nghĩa như Lưu Bị cướp đất của

Lưu Chương, cũng không ám tổ chức thêm một trận Xích Bích để lấy vùng Tứ Xuyên. Vì thế, ông ta mới mượn

việc phúng viếng Chu Du để đến Đông Ngô mời Bàng Thống. Sau đó, Gia Cát Lượng giữ Kinh Châu, Bàng Thống

tấn công Tứ Xuyên, hai người trở thành hai cánh tay quan trọng của Lưu Bị. Thực ra trong việc này, Khổng Minh

còn có một dụng ý nữa là che đậy chí lớn của mình, giữ gìn hình tượng một kẻ ngu trung từ trước đến nay trong

nguyên tắc gìn giữ nghiêm ngặt về sơ thân của gia tộc họ Lưu. Nhưng điều này tạm thời không bàn đến ở đây.

Về thực lực, rõ ràng Bàng Thống tài không kém gì Khổng Minh. Thống ý thức được rằng Lưu Bị giữ Kinh Châu ,

luôn giả nhân giả nghĩa nghĩ đến tương lai của Lưu Chương nhưng đến lúc này Lưu Bị chỉ còn cách bức Lưu

Chương “thoái vị”. Về mặt lý luận, Bàng Thống chỉ dùng bốn chữ “nghịch (thì) lấy, thuận (thì) giữ” mà thuyết phục

được kẻ cố chấp như Lưu Bị một cách nhẹ nhàng. Về mưu lược, ông ta chỉ dùng Hoàng Trung, Ngụy Diên vốn chỉ

là dạng “mạt tướng” mà Khổng Minh không muốn ùng đến để hiện thực hóa mưu đồ đột phá Tứ Xuyên.

----------------------- Page 34-----------------------

Bàng Thống

Nhưng khi việc lấy Tứ Xuyên đã trở thành điều tất yếu, đại công đã sắp sửa thành thì sự tình lại có biến chuyển.

Khổng Minh gửi đến Bàng Thống một bức thư đe ọa. Và chính bức thư này đã làm thay đổi toàn bộ tình hình cũng

thay đổi luôn tâm lý trung thành tuyệt đối của Bàng Thống đối với Lưu Bị. Hành động này của Khổng Minh so với

việc Trình Dục lừa Từ Thứ cũng không khác là bao nhiêu. Trình Dục lợi dục sự hiếu thuận của Từ Thứ, đầu tiên uy

hiếp mẹ Từ Thứ bắt bà viết thư đòi gặp Từ Thứ. Gia Cát Lượng thì lợi ụng lòng trung của Bàng Thống đối với Lưu

Bị và sự ưu ái của Lưu Bị đối với Bàng Thống, đầu tiên kích động Lưu Bị, sau đó mới đe ọa Bàng Thống. Cả Trình

Dục và Khổng Minh đều có cách hành động tương tự nhau, cùng tác động vào một người ở giữa, buộc họ phải cam

chịu thất bại.

Sự tình iễn ra như sau: Bành Việt mật báo với Lưu Bị rằng phía quân địch có người muốn nhấn chìm quân của

Ngụy Diên và Hoàng Trung ở dòng Bồi Giang. Còn nói: “Sao Canh tại phía Tây, sao Thái Bạch sắp đến gần đó, chắc

chắn sẽ có việc chẳng lành xảy đến, tốt hơn là nên cẩn trọng”. Tin tức tình báo này không chỉ cứu được hàng vạn

tính mạng của quân Lưu Bị mà còn ngăn chặn âm mưu của Linh Bao, hóa hung thành cát.

Thực tế thì ai là người tạo ra sự nguy hiểm cho những người ở tiền tuyến? Đó chính là Lưu Bị. Tướng của đất Xuyên

Linh Bao trước đó vốn đã bị Ngụy Diên bắt nhưng Lưu bị lại muốn thả hắn. Ngụy Diên nói: “Người này không thể thả

về. Nếu để hắn thoát thân, sẽ không thể bắt về nữa”. Nhưng Huyền Đức nói: “Ta lấy nhân nghĩa đãi người, người sẽ

không phụ ta”. Nơi trận địa anh chết thì tôi sống, tại thời điểm khó khăn, ưu thế vẫn chưa được xác lập rõ ràng mà

vẫn bảo thủ giữ giọng điệu nhân nghĩa không biết kết hợp tình hình thực tế, Lưu Bị quả cũng có chỗ thật đáng chê

cười. Đã chắc nhân nghĩa đổi được nhân nghĩa hay rốt cuộc chỉ chuốc lấy sự phản bội, thoán nghịch? Nếu là nhân

nghĩa đổi được nhân nghĩa, thì Tào Tháo đã cho Lưu Bị một tấc đất nào chưa? Có thể thấy Lưu Bị từ sự nhu nhược

của chữ Nhân Nho giáo mà trở thành kẻ ngu muội, hàm hồ, bệnh i truyền của họ Lưu đã lại phát tác.

----------------------- Page 35-----------------------

Ngay khi hóa giải được tình thế nguy hiểm, Gia Cát Lượng đã phái Mã Lương đưa thư đến nói: “Lượng đêm tính số

Thái Ất, năm nay không tốt. Sao Canh ở phía Tây, cũng xem càn tượng thấy sao Thái Bạch tiến gần nơi đó. Chủ

tướng lành ít dữ nhiều. Mọi điều nên cẩn trọng”. Cùng một loại hình thế của các sao nhưng Gia Cát Lượng lại đề xuất

cách giải thích khác. Bàng Thống cũng cười khẩy vào “thiện ý” của Gia Cát Lượng, lại đề xuất cách giải thích thứ ba:

“Thống cũng tính sao Thái Ất, đã biết sao Canh tại phía Tây, ứng với việc chủ công lấy Tây Xuyên, chứ không phải là

việc ữ. Thống cũng bói thiên văn, thấy sao Thái Bạch chiếu ở Lạc Thành, trước đã chém Linh Bao, ứng với điềm xấu

của Tây Xuyên. Chủ công không nên nghi ngờ, nên mong chóng tiến binh”. Thực là mỗi người một cách mà chẳng ai

chịu ai.

Ý kiến của một rồng, một phượng làm cho Lưu Bị hết sức hồ nghi. Một mặt Lưu Bị rất sủng ái một mưu thần tài cao

như Bàng Thống, một mặt lại mười phần tin tưởng Gia Cát Lượng liệu việc như thần. Để đảm bảo không có sai sót

gì, Lưu Bị quyết định lui quân về giữ Kinh Châu. Ngày thứ hai, Lưu Bị còn dùng giấc mộng của mình để khuyên giải

Bàng Thống. Bị nói: “Ta đêm mộng thấy một thần nhân, tay cầm thiết trượng đâm vào cánh tay mình, tỉnh dậy vẫn

còn cảm thấy cánh tay bị đau”. Với một người quả cảm không tin điều tà ma như Bàng Thống, khi đối mặt với lời nói

lo sự được mất, yếu đuối vô năng như thế, chỉ thấy Bàng Thống đáp lại rằng: “Tráng sĩ khi ra trận, không chết cũng bị

thương, đó là lẽ thường vậy. Cớ sao lại có thể vì một giấc mơ mà o ự được?”.

Bàng Thống lại nói: “Chủ công bị Khổng Minh làm cho nghi hoặc thật rồi. Hắn không muốn cho Thống này một

mình thành đại công, nên mới viết bức thư này khiến chủ công do ự, nghi hoặc. Lòng đã nghi ngờ hẳn sẽ dẫn đến

việc nằm mộng. Thật hiểm lắm thay! Thống này gan óc có lầy đất cũng quyết giữ một lòng. Chủ công đừng nên nghe

lời xằng bậy mà mau chóng cho thi hành”. Nói rất hay, thứ nhất là ũng cảm, hai nữa là trung thành, ba là rất duy

vật, bốn là không hề giống như kiến thức của kẻ tiểu nhân tham công. Thật ra khi nghe những lời nói hùng hồn này

của Bàng Thống, trong thâm tâm của Thống đã có sự thay đổi, không muốn nỗ lực vì Lưu Bị nữa. Lưu Bị hiện đ ã trở

thành kẻ ngu nhân, ngu nghĩa (nhân nghĩa mù quáng), lại ngu tín (tin mù quáng), hoàn toàn không có điểm nào chấp

nhận được.

Một điểm đặc biệt là, trong Tam quốc d ễn nghĩa xuất hiện rất nhiều lần những nhà chiêm tinh, trong cách nhìn của tác

giả La Quán Trung đều là phương thuật hoặc công tâm thuật mê hoặc lòng người. Cổ Bành đầu tiên phân tích địa lý

của sông Bồi Giang, sợ Lưu Bị không tin mới kết hợp với những giảng giải về tượng sao. Bàng Thống lại muốn ùng

những giải thích về tượng sao để nâng cao lòng tin tất thắng trong tâm lý quân Thục. Nếu như chiêm tinh thực có khả

năng biết được tương lai, Gia Cát Lượng và Bàng Thống vì sao không dự đoán được tình thế nguy hiểm ở sông Bồi

Giang? Hay hai người tài năng còn không bằng một kẻ vô danh như Cổ Bành?

----------------------- Page 36-----------------------

Bàng Thống và Khổng Minh

Cũng như vậy, các mưu sĩ trong Tam Quốc diễn nghĩa rất ít khi đề cập đến từ “chết” hay những gì liên quan đến chữ

này, một khi đề cập đến từ này là có ý muốn đi tìm cái chết. Ví như khi Quách Gia bắc phạt nói với Tào Tháo: “Ta cảm

cái ơn của thừa tướng, chết cũng không thể báo đáp được một phần”. Ở đây, Bàng Thống và Quách Gia cũng như

nhau, cũng đều trong tâm phản chủ mà biểu hiện thành những lời rất mực trung nghĩa. Đồng thời khi phải lựa chọn

giữa chuyện sống chết của cá nhân và tiền đồ của quốc gia họ đều lựa chọn cái thứ hai.

Cho dù Quách Gia không biết rốt cục Lưu Bị là người thế nào, nhưng chí ít có thể xác định nội dung Nho giáo của

ông ta vượt hơn hẳn với Pháp gia của Tào Tháo. Bàng Thống cũng như vậy, ù ông không biết thật rõ những hành

động cụ thể sau này của Gia Cát Lượng sẽ ra sao nhưng chí ít có thể khẳng định nội dung Nho Pháp kết hợp của

ông ta cao hơn hẳn nội ung Nho giáo của Lưu Bị, trong tương lai không gian phát triển sẽ lớn hơn.

Bởi vì Bàng Thống chịu cái đức trung nghĩa, lại chưa từng nghĩ đến chuyện thoán đoạt thiên hạ nên ông ta mới muốn

nhường cho Khổng Minh. Cái chết của Bàng Thống o đó mang rất nhiều hàm ý: Một là bảo vệ sự tôn nghiêm của

đấng nam nhi và chiến sĩ, ù có da ngựa bọc thây cũng không rời bỏ hàng ngũ. Trong tình thế đó, Bàng Thống hoàn

toàn có thể lựa chọn việc thoái lui, bảo toàn tính mệnh, nhưng ông lại không làm như vậy. Đây cũng là chỗ khác biệt

lớn nhất trong tính cách của Bàng Thống và Lưu Bị.

Hai là, để không ảnh hưởng Gia Cát Lượng mà muốn lấy cái chết của bản thân để thúc đẩy Lưu Bị. Vì sao con ngựa

của Bàng Thống “cưỡi lâu chưa từng như thế”, lại đột nhiên mất móng? Lẽ nào Bàng Thống cũng bắt đầu thấy nghi

hoặc, sợ chết, tình cảm tâm lý ảnh hưởng đến con ngựa? Không thể như vậy! Ông thấy sự mê tín của Lưu Bị mới

nghĩ ra màn kịch như vậy để khiến Lưu Bị quan tâm tới ông ta mà đổi ngựa cho ông ta. Cưỡi bạch mã của Lưu Bị

không những chết sung sướng mà còn có thể cho Lưu Bị thấy rằng, thất bại là lỗi của ông ta. Nhưng đến thế mà Lưu

Bị cũng không biết trút giận sang Khổng Minh, ông nằm mộng thấy thần nhân đâm vào bắp tay rõ ràng cho thấy

trong vô thức vẫn có điểm hoài nghi Khổng Minh bởi chỉ có Khổng Minh mới là thần nhân trong lòng Lưu Bị mà thôi.

----------------------- Page 37-----------------------

Ba là, ông chọn cái chết ở gò Lạc Phượng thực tế là để an ủi Lưu Bị: Tôi thực là đã hết số, ngài cũng không cần phải

tự trách mình làm gì.

Bốn là Bàng Thống vì sao nhiều lần muốn nói rõ rằng bức thư của Khổng Minh thực ra là xuất phát từ lòng đố kỵ và

ghen ghét đối với ông ta. Vì sao trong cuộc hành quân trên một con đường nhỏ trong rừng cây rậm rạp, lại sai Ngụy

Diên sắp sẵn đội quân ở phía trước. Bản thân trói gà không chặt, giữ phía hậu quận nguy hiểm thì có tác ụng gì?.....

Vốn là, Bàng Thống muốn ùng chỗ sơ hở rất dễ nhìn thấy nói với Khổng Minh rằng: Tôi cam tâm tình nguyện

nhường công trạng này cho ông, hoàn toàn chịu chết trong tay của ông chứ không phải không biết rằng ông có lòng

hiểm độc.

Từ đó có thể thấy, Khổng Minh không phải là người chịu trách nhiệm trực tiếp về cái chết của Bàng Thống. Nếu như

cần phải nói thẳng ra mối quan hệ rất vi diệu trong đó thì phải nói rằng, đầu tiên Khổng Minh đã bắn một phát tên lửa

tầm xa tấn công vào tâm lý đối phương nhưng Bàng Thống đã ngay lập tức tạo nên bức tường chặn lại. Tác dụng

thực tế của phát đạn này khiến cho Bàng Thống phát hiện bản tính nhát gan trong sự ngu nhân ngu nghĩa và cả ngu

tín của Lưu Bị, giúp ông ta củng cố thêm lòng quyết tâm phản chủ. Vì thế mà Bàng Thống mới mượn âm thanh phát

đạn của Khổng Minh mà ngã xuống, nhường mọi công trạng lại cho Khổng Minh.

Trên thực tế, nếu như không tự sát một mưu sĩ siêu cấp có khả năng chỉ huy thiên binh vạn mã như Bàng Thống, một

người bình thường khó mà lật đổ được ông ta, ù là mưu sĩ tài năng ngang ngửa với ông ta cũng khó. Cho ù

không thể thủ thắng cũng có thể tự bảo vệ tính mệnh của mình, huống hồ một tướng vô anh như Trương Nhiệm lại

giết được ông.. Chẳng phải nghi ngờ rằng, Bàng Thống chính là người uy nhất có đủ tài mở đường vào đất Thục

nhưng ông lại kiên quyết truyền cây gậy trong tay của mình cho Khổng Minh, kẻ tài năng kém hơn một bậc song

tham vọng chí hướng lại hơn hẳn ông.

4. Noi gương Bàng Thống, Khổng Minh “nhường” thiên hạ cho họ Tư Mã

----------------------- Page 38-----------------------

Tư Mã Ý

Cách nhìn của người anh hùng thường giống nhau, Khổng Minh cũng không phải là không ghi tạc trong lòng thiện ý

của người bạn tốt. Chi thấy Khổng Minh vừa gạt nước mắt đốc thúc quân sĩ tiến vào Thục đồng thời cũng biểu lộ tính

chất phản Lưu của mình: điều đi cả Trương Phi và Triệu Vân chỉ để lại một mình Quan Vũ giữ Kinh Châu, kể từ khi

Quan Vũ cắt đứt mối liên kết chặt chẽ giữa các anh em Lưu Bị. Gia Cát Lượng cuối cùng cũng không phụ lòng kỳ

vọng của Bàng Thống. Trước sau ông ta đã diệt Lưu Chương, Lưu Bị, còn thực thi chính sách Nho Pháp kết hợp rất

tiên tiến hơn hẳn nhà Lưu Hán.

Nhưng điểm thú vị nhất là, Gia Cát Lượng sau đó khi đối diện với tình trạng tiến thoái lưỡng nan giống như Bàng

Thống ông ta cũng làm theo cách của Bàng Thống, ùng cái chết để nhường người “hiền tài”: Bề ngoài thì chết vì

Thục Hán mà thực chất là nhường thiên hạ cho Tư Mã Ý. Giống như việc trao cậy gậy cuối cùng vào tay một người

bạn đồng môn, một mưu sĩ có mưu đồ bá vương mà ông ta biết rằng, tương lai sẽ đi xa hơn mình.

Rất nhiều mưu sĩ, từ Quách Gia tới Trình Dục, từ Từ Thứ đến Gia Cát Lượng, rồi đến Bàng Thống, sở trường và giá

trị có thể khác nhau, nhưng họ để là những đấng nam nhi vào loại nhất tuyệt, không thoái lui, không khoe tài, chỉ cầu

cuộc sống không oán không hận, sống cuộc sống phóng khoáng vui vẻ, giữa họ lại có một mối liên hệ vô hình song

vô cùng chặt chẽ.

Trong một thời gian ài, mọi người đều cảm thấy nghi ngờ, Lưu Bị có trong tay một rồng một phượng mà vẫn không

bình được thiên hạ là cớ làm sao? Những gì phân tích đã cho thấy, thực tế Lưu Bị chỉ sờ được vào lông phượng và

sừng rồng mà thôi chứ chưa bao giờ có được họ một cách thực sự. Duy chỉ có Tư Mã Chiêu là người có năng lực

cưỡi rồng khiển phượng. Hẳn bạn đọc còn nhớ lời nói lắp của Đặng Ngải rằng: “Phượng hề phượng hề, đó là một

con phượng”? còn nhớ Chung Hội tại núi Định Quân cảm ứng được Gia Cát Lượng hiển thánh. Những điều này như

muốn nói rằng Đặng Ngải chính là phượng theo kiểu Bàng Thống còn Chung Hội là rồng theo kiểu Khổng Minh,

----------------------- Page 39-----------------------

cũng là dạng vừa trung vừa phản, trong phản mà ngoài trung. Có thể nói: Rồng phượng dễ có nhưng người lãnh tụ

có thể cưỡi rồng khiển phượng, an định thiên hạ thì thật hiếm thấy vậy.

Ngụy Diên có thực là kẻ phản chủ?

Chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Ngh a, bao lâu nay người ta đều cho rằng Ngụy Diên có

xương phản chủ, là một nhân vật phản chủ. Bởi mưu phản cho nên bị Gia Cát Lượng giết, dường như là

cái tội đáng chết. Tuy đã có người vì Ngụy Diên mà lật lại bản án đó, nhưng hình tượng phản tặc Ngụy Diên

được khắc họa trong Tam Quốc Diễn Nghĩa thực sự sâu đậm, khó có thể xóa bỏ nó ra khỏi tâm lý của

người đọc.

Tôi gần đây có tới Thành Đô họp, nhân tiện tới miếu Vũ Hầu thăm thú, thấy hai bên hành lang Thục Hán văn thần

vũ tướng biết bao nhiêu người, nhưng uy nhất không có tượng của Ngụy Văn Trường (Ngụy Diên). Hỏi nguyên o

vì sao, người hướng ẫn viên nói: Bởi Ngụy Diên là phản thần, nên không có tượng. Tôi đang muốn tìm những

người quản lí miếu Vũ Hầu để nói chuyện chân tướng của lịch sử, sau đó có người nói với tôi: Đồng chí Đặng Tiểu

Bình năm 1963 đã đến thăm miếu. Trước hành lang văn thần vũ tướng, ông có nói như sau: “Những tượng đặt ở

đây, đáng có thì không có, không đáng có thì lại có, như Ngụy Diên nên có thì lại không có” (xem trong Tứ Xuyên

nhật báo ngày 27 tháng 2 năm 1997 “Đồng chí Tiểu Bình, công nhân Vũ Hầu từ nhớ người”). Tôi nghe xong lời đó

đành thở dài mà bỏ ý định đi tìm người quản lý của miếu Vũ Hầu. Sau khi về Thượng Hải, không cam lòng, quyết

lấy bài văn này để giải án oan cho Ngụy Diên!

1. Quân sự kỳ tài Ngụy Diên

----------------------- Page 40-----------------------

Ngụy Diên - Ảnh: Internet

Xuất thân và lí lịch không rõ ràng “Tam Quốc Chí – Ngụy Diên truyện” nói về Ngụy Diên như sau “Người Nghĩa

Dương, dẫn bộ khúc cùng với tiên chủ vào Thục” Nghĩa Dương huyện (nay ở phía tây bắc thành phố Tín Dương Hà

Nam) thuộc Quận Nam Dương Kinh Châu. Bộ khúc theo “Hậu Hán thư. Bách quan nhất” nói “Phàm lĩnh quân đều

có bộ khúc, đại tướng quân oanh gồm có ngũ bộ, bộ hiệu úy một người, sánh hai nghìn thạch, quân tư mã một

người, sánh nghìn thạch. Dưới bộ có khúc, trong khúc có quân hầu một người, những tướng quân khác, xếp vào

việc chinh phạt, không có viên chức, cũng có bộ khúc, tư mã, quân hầu làm lĩnh binh”. Có thể thấy bộ khúc chính là

biên chế ba cấp ở trong quân đội của nhà Hán. Những năm cuối thời Đông Hán, hình thành việc cát cứ của thế gia

hào tộc, địa chủ là chính. Những tập đoàn quân phiệt lấy việc kiến lập bộ khúc để tổ chức quân đội của mình, bộ

khúc trở thành lực lượng vũ trang của các tập đoàn cát cứ.

Ngụy Diên lấy bộ khúc cùng Lưu Bị nhập Xuyên, địa vị tuy không cao, nhưng vẫn hoàn toàn là dòng chính trong

quân đội của Lưu Bị, chứ tuyệt đối không phải là hạng hàng tướng. (Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa có nói Ngụy Diên

là bộ tướng của Lưu Biểu, sau đó giết Hàn Huyền, hiến Trường Sa cho Lưu Bị, hoàn toàn là chuyện bịa đặt). Vì

“Có được chiến công, thăng làm Nha môn tướng quân” Tam Quốc chí quyển 40 “Ngụy Diên truyện”

Kiến An năm thứ 22 đến năm thứ 24, Lưu Bị ùng Pháp Chính làm mưu thần, Sau một thời gian đoạt được một địa

khu rất quan trọng từ tay Tào Tháo là Hán Trung. Từ đó, thế Tam quốc đỉnh lập mới chính thức hình thành. Lưu Bị

tự xưng làm Hán Trung Vương, biểu thị cùng đối chọi với triều đình của Tào Tháo. Không lâu sau, Lưu Bị trở về

Thành Đô, trước khi đi “Phải có tướng giỏi đến trấn Hán Xuyên”… Vì sao Lưu Bị lại coi trọng việc tuyển tướng trấn

thủ Hán Trung như thế?

Địa khu nắm giữ cơ bản của Thục Hán là bồn địa Tứ Xuyên, lấy bình nguyên Thành Đô làm trung tâm. Hán Trung

nằm giữa Quan Trung và Ba Thục. Nằm trong khu vực giáp ranh giữ hai địa khu lớn, Thục quốc nhằm đảm bảo an

toàn căn cứ địa của mình, phải có trọng binh nắm giữ nơi hiểm yếu tiếp giáp giữa ta và địch.

----------------------- Page 41-----------------------

Về tầm quan trọng của Hán Trung, người đời sau cũng có nhiều luận thuật. Dương Hồng từng nói với Gia Cát

Lượng : “Hán Trung là yết hầu của êch Châu, việc tồn vong vốn nằm ở đó, nếu không có Hán Trung ắt không có

Thục, đấy cũng chính là cái họa từ cửa vào vậy (Tam quốc chí quyển 4, Dương Hồng truyện). Hoàng Quyền cũng

nói :”Nếu mất Hán Trung tức Tam Ba dao động, đây cũng chính là hại tay của mình vậy” (Tam quốc chí quyển 43

Hoàng Quyền truyện). Thanh nhân Cố Tổ Vũ có nói “Hán Trung phủ phía bắc nhìn Quan Trung, Nam che Ba Thục,

Đông tới Tương Đặng, Tây khống chế Tần Lũng, hình thế quan trọng bậc nhật” Cố Tổ Vũ (Độc sử phương và kỷ

yếu quyển 56) . Tào Ngụy nếu chiếm lĩnh được Hán Trung, ắt hẳn sẽ làm uy hiếp tới Ba Thục. Năm Kiến An thử 20,

Tào Tháo bình Trương Lỗ “Phá Hán Trung, khiến người Thục kinh hoảng” “Trong Thục một ngày kinh sợ tới mười

lần, Bị tuy ở xa nhưng cũng không được yên”. (Tam Quốc chi,í quyển 14 “Lưu Diệp truyện” dẫn chú “Phó tử”)

Thục quốc nếu như chiếm cứ đất này, không những bảo vệ được Kiếm Các, Thành Đô an toàn, càng có thể làm

căn cứ địa để Bắc phạt. Đối với Thục Hán mà nói, sự quan trọng của Hán Trung hoàn toàn không hề kém gì Kinh

Châu. Cho nên Lưu Bị không thể nào không tính toán cho kỹ càng được. Những vị tướng có tiếng dưới trướng của

Lưu Bị có Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu, Triệu Vân, Hoàng Trung. Lưu Bị coi trọng nhất là Quan Vũ, nhưng Quan

Vũ hiện đang trấn thủ Kinh Châu không thể rời khỏi phòng khu cũ. Chức trách chính của Triệu Vân là quản Nội sự.

chủ quản các việc ở trung cung của Lưu Bị. (Tam Quốc chí quyển 36 “Triệu Vân truyện” dẫn chú “Vân b ệt truyện”).

Hoàng Trung tuy ũng mãnh hơn người nhưng dẫu sao thì tuổi cũng đã cao. Mã Siêu tuy uy anh hiển hách, lại

thêm một điều Mã Siêu là tướng quy hàng. (Tam Quốc chí quyển 40 Bành Dương truyện). Lưu Bị không thể tín

nhiệm được. Trước tình hình đó, dường như người trấn thủ Hán Trung không ai khác ngoài Trương Phi. “Mọi người

ai cũng cho là tất ở trong tay Trương Phi, Trong lòng Phi cũng nghĩ rằng thế”. Nhưng ra ngoài dự đoán của mọi

người “Tiên chủ đề bạt Diên trấn thủ Hán Trung, Trấn Viễn tướng quân, Hán Trung thái thú”.

Lưu Bị không để ý tới tình cảm của Trương Phi và nghị luận của Toàn quân mà lại phá cách tuyển dụng Ngụy Diên.

Điều đó không những phản ánh tài năng chỉ huy quân sự kiệt xuất của Ngụy Diên mà còn phản ánh tới việc Ngụy

----------------------- Page 42-----------------------

Diên được Lưu Bị tín nhiệm. Nếu như Ngụy Diên “Sau não có xương phản chủ” thì có nhận được trọng chức như

thế này không ?

Học theo việc Lưu Bang đăng đàn bái Hàn Tín làm tướng. Lưu Bị trong cuộc đại hội quần thần để phong Ngụy Diên

làm Hán Trung đốc, lại cố ý trên yến tiệc hỏi Ngụy Diên “Nay đã giao cho khanh trọng nhậm, ý khanh định thế nào ?”

Diên đáp rằng “Nếu Tào Tháo kéo cả thiên hạ tới, thì mời đại vương tới địch lại, nếu đem mười vạn quân tới, thần

xin vì đại vương mà diệt sạch” Tiên chủ khen hay, “(Tam Quốc chí Ngụy Diên truyện). Đương nhiên truyện nói những

lời khoa trương thì ai cũng nói được, thế nhưng Ngụy Diên trấn thủ Hán Trung đã có được những công tích như thế

nào?

Tam Quốc chí Khương Duy truyện nói: “Tiên chủ lưu Ngụy Diên trấn thủ Hán Trung, đều là lấy binh ở vòng ngoài mà

ngự địch, nếu như địch tới tấn công, tất không được thể xâm nhập, làm công cho việc hưng thịnh thế nước, Vương

Bình kháng cự lại Tào Tháo cũng là dựa trên chế độ này” Sau này Khương Duy trấn thủ Hán Trung, thì cho rằng bộ

hạ của Ngụy Diên tuy hợp với Chu Dịch là có thể nắm giữ cửa trọng yếu nhưng chỉ có thể bảo đảm việc không mất

đất mà không thể giết địch được, bèn thay đổi chiến sách của Ngụy Diên là phòng thủ bên ngoài, bỏ những cứ điểm

ngoài Hán Trung, lui quân trấn thủ Hán, Lạc hai thành mà thôi. Lấy phương châm giấu kín tinh lực, ẫn dụ địch vào

sâu trong nội địa, còn cho rằng đây chính là thuật “diệt địch tận gốc”

Hầu như tất cả các sử gia đều cho rằng việc Khương Duy điều chỉnh chiến thuật quân sự là một sai lầm

nghiêm trọng, là mầm hoa cho việc sau này Hán Trung thất thủ, Thục quốc diệt vong. Quách Doãn Đạo

trong “Thục giám” đã nhận xét về điều này cực kỳ chính xác. “Cửa của Thục, chỉ mình Hán Trung. Khương

Duy thoái binh đồn trú ở Hán Thọ, mà triệt hết binh ở Hán Trung, thế hiểm tự mình nhổ đi. Về sau, Chung

Hội thẳng đường mà tiến tới (...) Hỡi ôi, vì Khương Duy mà Thục mất vậy!"

Từ đó có thể thấy rằng người được tuyển chọn của Gia Cát Lương tài năng thực là kém xa Ngụy Diên. Ngụy Diên

trấn thủ Hán Trung 15 năm, thế nhưng Hán Trung vẫn vững như bàn thạch, không để một binh một tốt nào của địch

xâm nhập. Người tiếp nhận là Vương Bình hoàn toàn làm theo những phương lược đã được sắp đặt từ trước của

Ngụy Diên, cũng là lấy ít thắng nhiều, đánh bại được Tào Sảng khi mang tới hơn mười vạn quân. Khương Duy

nhanh chóng thay đổi quyết sách và bộ hạ của Ngụy Diên, trực tiếp dẫn tới sự diệt vong của Thục Hán. Tài của

Ngụy và Khương ai hơn ai kém thực chỉ cần nhìn qua cũng đủ thấy! Càng thêm thấy rằng việc biết người và ùng

người của Lưu Bị thực là cao hơn Gia Cát Lượng rất nhiều.

Ngụy Diên dũng lược hơn người, tung hoành chốn sa trường, tới đâu là địch tan tác tới đó, có thể xưng là thiện

chiến vô địch. Phía Tào Ngụy, trừ Tư Mã Ý ra thì không có ai là đối thủ với Ngụy Diên. Thục Hán Kiến Hưng năm

thứ 8 (Công nguyên năm 230) Ngụy Diên xuất binh “Tây vào Khương Trung, Ngụy Hậu tướng quân Phí Dao, Ung

Châu thích sử Quách Hoài cùng đánh nhau ở Dương Khê, Diên đại phá quân của Hoài” (Tam Quốc chí quyển 40

“Ngụy Diên truyện”). Lần chiến dịch này, tuy không có Gia Cát Lượng chỉ huy, chỉ có mình Ngụy Diên đơn độc lĩnh

quân tác chiến. Đối thủ của Ngụy Diên là Quách Hoài, một trọng tướng ở Quan Tây trong chính quyền Tào Ngụy

được xưng là “Tinh tường vạn sách”. Quách Hoài từng đánh bại Mã Tốc “Đập tan Liêu Hóa, bắt giữ Cú An” (Tam

Quốc chí quyển 26 Quách Hoà truyện)... Cho ù có là Gia Cát Lượng cũng phải nể sợ vài phần, nhưng Ngụy Diên

một tay cũng có thể đại phá được quân của Hoài.

----------------------- Page 43-----------------------

Ngoài ra, trong vài lần Bắc phạt của Gia Cát Lượng, Ngụy Diên cũng lập được không ít những chiến công hiển hách

(Tam Quốc chí Gia Cát Lượng truyện). “Hán Tấn Xuân Thu” có chép: “Tuyên vương (chỉ Tư Mã Ý) trên đương Án

Trung gặp Lượng, Lượng sai Ngụy Diên, Cao Tường, Ngô Ban chống cự, phá tan địch, lấy được giáp hơn 3000 bộ,

khôi đen hơn 5000, cung giáp hơn 3100 cây” trong sử có nói Tư Mã Ý sợ Thục hơn sợ cọp, cái chữ Thục này e

rằng không chỉ đơn thuần là Gia Cát Lượng mà có thể còn có cả Ngụy Diên nữa.

Nếu lấy việc trị quân mà luận thì Ngụy Diên cũng đối đãi rất tốt với quân sĩ, trong khi Trương Dực Đức chuyên lạm

dụng hình phạt, không thể so với Diên được. Về việc này, Diên giống với Quan Vũ hơn nhiều (Tam Quốc chí quyển

36 - Trương Phi truyện). Từ đó có thể thấy Ngụy Diên thống lĩnh đại quân, giết địch chém tướng, trị quân có sách

lược hơn người, không thua kém gì Quan Vũ, Trương Phi, những đại tướng hàng đầu của Thục Hán.

Gia Cát Lượng lần đầu Bắc phạt, Ngụy Diên đề xuất chủ kiến đi từ Tí Ngọ Cốc bất ngờ đánh úp Trường An: “Nghe

Hạ Hầu Mậu chưa từng xuất trận. Thừa tướng hãy cho tôi năm nghìn tinh binh tới Bao Tượng, theo đường Tí Ngọ

Cốc mà qua phía Bắc, rồi tới Trường An. Nghe tin tôi tới nhanh, ắt Mậu sẽ lên thuyền mà bỏ chạy. Khi đó, tôi từ

phương Ðông Bắc tới, còn Thừa tướng theo đường Tà Cốc kéo tới từ Hàm Dương thẳng qua phía Tây thì chỉ một

trận là xong hết. Khổng Minh cười: “Kế tuy hay song rất nguy, chẳng thà đi đường lớn, có thể lấy được lấy được

Lũng Hữu, ấy mới là kế sách vạn toàn” (Tam Quốc chí quyển 40 Ngụy Diên truyện dẫn chú - Ngụy lược) và không

nghe theo ý kiến của Ngụy Diên.

Việc tranh luận giữa chiến lược Bắc phạt của Gia Cát Lượng với Ngụy Diên làm cho rất nhiều sử gia đời sau nảy

sinh hứng thú, và tranh luận không ít. Một số học giả cho rằng, Ngụy Diên hiến kế chính mình xuất lĩnh năm nghìn

tinh binh từ Bao Tượng, Tí Ngọ Cốc mà đánh về Trường An, Gia Cát Lượng xuất lĩnh đại quân ra Tà Cốc, cùng gặp

nhau tại Trường An, thực là “kỳ mưu”. Như thế từ Hàm Dương thẳng qua phía tây chỉ một trận là xong hết.

----------------------- Page 44-----------------------

Giá như Gia Cát Lượng ùng kế đó rất có khả năng cuộc Bắc phạt đã thành công, chỉ tiếc rằng Gia Cát Lượng cẩn

thận tới mức gần như nhát gan. Một số sử gia khác thì ủng hộ mưu lược của Gia Cát Lượng cho rằng “Chẳng thà

đi bằng đường lớn, có thể lấy được Lũng Hữu”, cho là Tí Ngọ Cốc tuy là đường tắt, nhưng khả năng thành công là

cực nhỏ. Lý o phản đối gồm có bốn điều: Một là, Tí Ngọ Cốc đường xá hiểm trở, tính rủi ro là cực lớn, nếu như

quân Ngụy chặn giữ được cốc khẩu. Nhẹ tất mất công mà không được việc, nặng tất toàn quân bị diệt. Hai là, Hạ

Hầu Mậu chưa chắc đã rời thành chạy trốn, Ba là, cho dù có tấn công được Trường An chưa chắc đã giữ được,

Bốn là, nếu như thất bại thì lại là một tổn thất lớn cho binh lực của Thục quân (vốn đã không đủ).

Rốt cuộc bốn điểm nghi vấn ở trên có đủ sức để đứng vững hay không? Tôi cho rằng kể cả từ góc độ chiến lược

chiến tranh lâu ài giữa Thục và Ngụy, hay là từ bản thân chiến dịch này mà xem xét, thì đều không thể đứng vững

được.

Đầu tiên, đường Tí Ngọ tuy hiểm trở khó đi, nhưng thực tế rất ít người đi kiểm tra thực địa đó. Cho ù có đi kiểm tra

thực địa cũng không thể bảo đảm rằng con đường đó ngày nay giống với đường thời Tam Quốc được. Ngụy Diên

dù sao đi chăng nữa vẫn là một vị đại tướng, một thời gian ài đã trấn thủ ở Hán Trung, đối với một dải Hán Trung

tất nhiên phải rất rõ, cho nên phán đoán của Ngụy Diên tất nhiên sẽ là chính xác. Đối với việc quân Ngụy có đặt sẵn

phục binh hay không, chúng ta cũng có thể xem xét một số sử liệu trong Tam Quốc chí. Tam quốc chí Gia Cát

Lượng truyện viết : “Ban đầu, quốc gia (ở đây chỉ Tào Ngụy) cho rằng trong Thục chỉ có Lưu Bị, Bị nay đã chết, ắt

vài năm không có tiếng, nên không hề có ự phòng, nay nghe Lượng xuất binh, triều đình đều lo lắng”. Điều này có

thể nói lên rất rõ rằng, lần Bắc phạt đầu tiên của Gia Cát Lượng này có đầy đủ tính bất ngờ và cả sự bí mật, Ngụy

quốc về mặt quân sự, vật lực, thậm chí đến cả tinh thần để chuẩn bị cũng đều không có, làm sao có thể đặt phục

binh ở một nơi hoang sơn ã địa không người qua lại như thế?

Điểm thứ hai: Hạ Hầu Mậu chưa chắc đã bỏ thành mà chạy đi. Đây lại cũng là một điểm phỏng đoán không hợp

tình lý. Hạ Hầu Mậu là hạng người như thế nào? Tam Quốc chí - Hạ Hầu Đôn truyện chú dẫn Ngụy Lược chép rất

rõ: Người này là con trai của danh tướng nước Ngụy là Hạ Hầu Đôn, Tào Tháo đem con gái là Thanh Hà công

chúa gả cho. “Văn đế từ nhỏ cùng với Mậu thân thiết, khi kế vị liền phong làm An Tây tướng quân, Trì tiết, Đô đốc

Quan Trung. Mậu vốn không có vũ lược, Khi ở Tây, thường nuôi ca kỹ, nạp thiếp, công chúa từ đó mà không hợp

với Mậu”. Có thể thấy Hạ Hầu Mậu chỉ biết nuôi kỹ nữ và nạp thiếp, thu thập tiền tài. Mượn cái váy là con rể mà

----------------------- Page 45-----------------------

làm được tới chức Đô đốc Quan Trung, hoàn toàn là loại điển hình cho những kẻ ăn bám, vô năng. Ngụy Diên biết

rõ điều này, cho nên mới khẳng định: “Mậu nghe Diên tới, ắt lên thuyền mà bỏ chạy”, điều này là hoàn toàn có lý.

Điểm thứ ba là Thục quân “Cho ù có công được Trường An, chưa chắc đã giữ được”. Đây là vấn đề đáng quan

tâm nhất. Tôi cho rằng Hạ Hầu Mậu ham sống sợ chết, vốn không biết dụng binh, bằng khả năng lão luyện của

Ngụy Diên, biết địch biết ta, có thể nói là đã nắm chắc phần thắng trong tay. Huống hồ Gia Cát Lượng lần đầu tiên

Bắc phạt, mang theo hơn mười vạn đại quan, binh lực “nhiều hơn giặc (chỉ quân Ngụy). Tam Quốc chí quyển 35

Gia Cát Lượng truyện, chú dẫn Hán Tấn xuân thu. Viên tử viết: ...Khi đó Triệu Vân, Ngô Nhất, Mã Đại, các danh

tướng vẫn còn, rợ Hồ, Khương ở Quan Tây đều đã được chiêu phục trở thành một cánh tay hỗ trợ. Gia Cát Lượng,

Ngụy Diên thay nhau xuất lĩnh chủ lực quân hội sư ở Đồng Quan. Sau đó Ngụy Diên cùng phối hợp với Gia Cát

Lượng chiếm lấy Lũng Hữu, như thế tám trăm dặm Tần Xuyên, Hàm Dương về phía tây đích thực là chỉ cần một

trận mà định được.

Kỳ thực mưu lược của Ngụy Diên cũng đã có người từng làm rồi. Trong chiến tranh Sở Hán, Hàn Tín làm đại tướng

quân “Minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương” sau đó chủ lực đánh về Đồng Quan, tách quân vượt Lũng sơn, từ Hán

Trung hướng tới Kỳ sơn phối hợp tạo thành thế gọng kìm mà tấn công Lũng Hữu. Cao Tổ (Lưu Bang) còn định

được Tam Tần, một lần mà định được Quan Trung. Hàn Tín ụng binh tuy mới nhìn tưởng là nguy hiểm nhưng

thực chất là diệu kế vô cùng. Kế của Ngụy Diên vốn biến hóa từ kế sách mà Hàn Tín định Hán Trung, nhưng thế

dũng mãnh thì hơn hẳn Hoài Âm Hầu (Hàn Tín). Tướng giỏi mưu lược như thế mà Gia Cát Lượng không dùng, trái

lời di mệnh của tiên chủ mà dùng kẻ bất tài như Mã Tốc, thực đáng làm cho người ta phải tiếc nuối!

Còn điểm thứ tư: “Nếu như thất bại thì lại là một tổn thất lớn cho binh lực của Thục quân (vốn đã không đủ)". Đây

quả thực là một lý do hoang đường vô cùng. Thử hỏi xưa nay, làm gì có ai ùng binh mà không hề không mang

tính mạo hiểm đây? Viên, Tào quyết chiến ở Quan Độ, Tào Tháo không thèm chú ý tới đại doanh của mình, ẫn

khinh kị hỏa thiêu kho lương ở Ô Sào. Hoàn toàn là đặt vào chỗ chết mà sống vậy. Đặng Ngải vượt qua Âm Bình,

so với kế hoạch của Ngụy Diên còn nguy hiểm hơn gấp trăm lần. Kết quả cuối cùng cũng thắng lợi, lại còn chỉ một

lần mà tiêu diệt được chính quyền Thục Hán, càng quan trọng hơn khi đó Thục Hán thế lại đang yếu, về quân lực

hay tiền tài đều không thể nào bằng được Tào Ngụy, Lấy Thục yếu mà đi đánh dài lâu với Ngụy, sử dụng chiến

lược tiêu hao chiến, trận địa chiến hoàn toàn không phải là thượng sách. Gia Cát Lượng lần thứ nhất Bắc phạt nên

đánh địch ở chỗ không phòng bị, xuất kỳ chế thắng, một lần mà công hạ Trường An. Lấy ít mà địch nhiều chẳng

xuất kỳ chế thắng lại còn định ựa vào việc thận trọng mà đánh địch thì từ xưa tới nay chắc không có một tiền lệ

nào.

Kỳ thực, mưu lược quan trọng ở chỗ kỳ chính tương hợp với nhau, Gia Cát Lượng dụng binh chỉ thấy chính mà

không thấy kỳ. Gia Cát Lượng cho rằng “Nên từ đường lớn” “thẳng lấy Lũng Hữu” thực ra đó chỉ là việc thận trọng

để đánh chiếm. Nhưng việc thận trọng này của Gia Cát Lượng cũng là tự mình đánh mất thời cơ chiến lược để

thắng địch, hình thành thế Thục yếu đánh với Ngụy mạnh ở Lũng Hữu sóng đôi mà đánh trận, là trúng phải mẹo

của Ngụy.

Việc “thẳng lấy Lũng Hữu” tức là việc bỏ yết hầu mà đánh vào chỗ không hề đau nhức gì. Nếu như một lần không

thắng nổi ắt sẽ đánh cỏ động rắn. Đợi tới lần thứ hai Gia Cát Lượng Bắc phạt thì quân Tào Ngụy đã sai trọng binh

trấn thủ ở Trần Thương, Quan Trung rồi. Quan Trung tuyệt đối không thể lấy được nữa, mưu kế của Ngụy Diên

cũng coi như là tiêu tan.

Điều này chẳng trách được Ngụy Diên “thư ng cho Lượng là hèn nhát, hận tài của mình không được dùng

hết” Tam quốc chí quyển 40 Ngụy Diên truyện… Tôi mỗi lần đọc tới đây, không tránh khỏi gấp sách lại mà

cảm khái. Tôi cho rằng việc nói “sách lược của Ngụy Diên tuy là mạo hiểm, một khi gặp bất lợi, quân Thục

sẽ gặp tổn thấy lớn,chỉ sợ hơn 10 vạn quân Thục đều rơi vào đất chết”…. (Trần Ngọc Bình “Luận tướng

lược của Gia Cát Lượng” theo Học báo của Đại học sư phạm Quý Châu) 1992. Đó hoàn toàn là việc quái

ngôn đàm luận mà không hiểu gì tới binh lược. Cho dù Ngụy Diên có bị trúng mai phục ở Tí Ngọ cốc đi

chăng nữa tổn thất cũng chẳng qua chỉ có vài ngàn người mà thôi, thế mà Khổng Minh tấn công Kỳ Sơn,

mất Nhai Đình, đại bại dưới tay Trương Hợp, thử hỏi xem người chết liệu có dưới vạn người không đây?

----------------------- Page 46-----------------------

Ngụy Diên tài kiêm văn võ, dũng mãnh hơn người. Sau khi Quan Vũ,

Trương Phi, Mã Siêu mất đi. Ngụy Diên là một viên đại tướng siêu

quần tuyệt luân trong đám tướng lĩnh của Thục quân. Khi Gia Cát

Lượng Bắc phạt “Thục binh lương tướng tinh nhuệ ít” Tam Quốc chí

quyển 35 Gia Cát Lượng truyện. chú dẫn Hán Tấn xuân thu, “Viên

Tử” …. Thế mà đối với một vị tướng tài như Ngụy Diên, Gia Cát

Lượng từ đầu tới cuối đều không chịu giao cho trọng trách. “Diên

mỗi lần cùng Lượng xuất quân, đều xin cho binh vạn người, cùng

với Lượng đi khác đường mà gặp nhau ở Đồng Quan, như việc của

Hàn Tín, Lượng đều không chịu” Tam Quốc chí quyển 40 Ngụy Diên

truyện. Kỳ thực đối với tài năng quân sự của Ngụy Diên Gia Cát

Lượng không phải là không hay, nhưng tại sao lại không tận ụng

kỳ tài như thế ? Những nguyên nhân sâu xa trong đó thật đáng để

quan tâm. Gia Cát Lượng từ khi rời khỏi Long Trung tới giờ có thể

coi là thuận buồm xuôi gió, từ một kẻ “chỉ mong bảo toàn tính mạng

thời loạn, không cầu vang tiếng nơi chư hầu” . Một bước nhảy vọt

lên nắm được chức Thừa tướng thống lĩnh đại quyền của Thục

quân.

Khi Lưu Bị “Nếu đứa con này có thể phù, thì phù, nếu như bất tài,

quân hãy thay nó” Tam quốc chí quyển 35 G a Cát Lượng truyện.

Trước lời hứa này với Lưu Bị. Gia Cát Lượng chỉ còn cách đế vị trong gang tấc. Gia Cát Lượng nếu muốn lên ngôi,

tấy phải lập được quyền uy và lòng tin vô cùng cao ở trong triều đình Thục Hán, mà nếu muốn đạt được mục đích

đó trước hết phải kiến lập được công lao hiểu hách. Nếu như việc Bắc phạt thành công, Gia Cát Lượng công cao

cái thế không ai có thể sánh bằng, cũng không ai có đủ khả năng để ngăn cản việc thay nhà Hán mà xưng đế. Việc

Bắc phạt chính là vốn liếng để cho Gia Cát Lượng có thể đăng cơ, nên việc chỉ huy quân Bắc phạt nhất định phải

nắm chắc ở trong tay của mình. Ngụy Diên nếu lập được chiến công thì nhất định phải nằm ưới quyền chỉ huy của

mình, phải là kết quả của sự thần cơ iệu toán của Gia Cát Lượng. Nhưng Ngụy Diên tính kiêu căng lại muốn “noi

gương Hàn Tín”: một mình thống lĩnh quân đội, một mình một hướng, điều này trong mắt của Gia Cát Lượng xem

ra đó chính là việc thoát khỏi sự “lãnh đạo” của mình. Cùng tranh đoạt công lao Bắc phạt. Điều đó đương nhiên

không được sự đồng ý của Gia Cát Lượng rồi

Trần Thọ đối với Gia Cát Lượng rất sùng bái, đánh giá về Gia Cát Lượng cực cao. Nhưng lại nói tới chuyện Gia

Cát Lượng Bắc phạt chưa giành được thắng là “Các tướng thời nay, không có ai như Thành Phụ,(tướng tài của

nước Tề thời Xuân Thu) Hàn Tín, cho nên công nghiệp suy bại, đại nghĩa chẳng tới nơi vậy!” Đối với lời nói này của

Trần Thọ tôi không dám tán đồng. Mọi người đều nói Tiêu Hà phù tá Lưu Bang mà thành được nghiệp đế, là nhờ có

Hàn Tín làm tướng. Nhưng Hàn Tín vốn chỉ là một kẻ tầm thường bên phía Hạng Vũ, chẳng qua chỉ là chức Chấp

kích lang trung, Bởi Tiêu Hà có tuệ nhãn hiểu thấu được anh tài, tiến cử với Lưu Bang, mới làm cho Hàn Tín được

đăng đàn bái tướng, có cơ hội thi triển tài năng của mình trên vũ đài chính trị. Tài năng quân sự của Ngụy Diên hoàn

toàn không kém gì Hàn Tín cả, Lưu Bị cũng là một vị đế vương vô cùng giỏi dùng người, tuyển chọn Ngụy Diên làm

Hán Trung đô đốc, giao cho trọng trách, thực có ý muốn bồi ưỡng Ngụy Diên thành một đại tướng quân, nhưng

Gia Cát Lượng đối với Ngụy Diên lúc nào cũng có ý cản trở, không dùng vào việc lớn.

“Kiến Hưng năm thứ sáu Lượng xuất quân ra Kỳ Sơn, có danh tướng như Ngụy Diên, Ngô Nhất. Chúng luận đều

cho rằng ắt sẽ làm tiên phong. Nhưng Lượng lại đề bạt Mã Tốc thống lĩnh đại quân phía trước, đánh nhau với

Trương Hợp ở Nhai Đình, bị Hợp đánh tan, Sĩ tốt li tán Lượng tiến lên không có đường đành lui về Hán Trung Tam

Quốc chí quyển 39 Mã Lương phụ đệ Tốc truyện. Có thể thấy Thục Hán hoàn toàn không phải không có tướng tài,

thậm chí cũng không ít tướng có tài quân sự như Hàn Tín, thế nhưng Gia Cát Lượng không thích hạng người như

Ngụy Diên, từ đầu tới cuối thường nghi ngờ mà không sử ụng. đây cũng chính là Gia Cát Lượng tự đánh mất cái

lòng độ lượng lớn của một nhà chính trị. Với lòng ạ hẹp hòi như thế liệu sự nghiệp Bắc phạt của Gia Cát Lượng

có thể thành công được hay không ? Cho nên lời của Trần Thọ là “thời nay không có danh tướng như Hàn Tín…” là

lời nói hoang đường mà thôi

1. Án oan thiên cổ _ Cái chết của Ngụy Diên

Tam Quốc chí Ngụy Diên truyện có chép năm Kiến Hưng thứ 12 “Mùa thu, Lượng mắc bệnh, bí mật cùng với

trưởng sử Dương Nghi, Tư Mã Phí Vĩ, Hộ quân Khương Duy bàn việc lui quân sau hậu sự , sai Ngụy Diên đi đoạn

hâu, tiếp tới Khương Duy, nếu Diên có ý không vâng mệnh thì tùy nghi mà xử lý”. Đây là lần hội nghị quân sự cấp cao

cuối cùng trước khi Gia Cát Lượng lâm chung, nhưng hội nghị này chính đã dẫn đến một hậu quả vô cùng nghiêm

----------------------- Page 47-----------------------

trọng.

Trước tiên là việc chủ soái bị bệ nh nguy kịch, vì sợ lòng quân dao động, chỉ cùng với một số người thương lượng việc

hậu sự. Điều này có thể hiểu được, Nhưng với số ít người này nên bao gồm những thân tín của mình, càng nên có cả

những tướng lĩnh cấp cao trong quân đội. Ngụy Diên khi đó làm Tiền quân sư, Chinh Tây đại tướng quân, Giả tiết,

lĩnh chức Hán Trung thái thú, Nam Trịnh hầu. Gia Cát Lượng là Thừa tướng, thượng thư giả tiết, lĩnh chức Tư lệ hiệu

úy, Ích Châu mục, Vũ hương hầu. Hai người cùng đều giữ chức giả tiết, còn phong hầu. Có thể thấy chức vụ của

Ngụy Diên trong triều đình nhà Hán hoàn toàn không hề thua kém gì Gia Cát Lượng. Mà Dương Nghi khi đó chỉ giữ

chức trưởng sử trong phủ thừa tướng, Phí Vĩ giữ chức Thừa tướng tư mã, Khương Duy giữ chức Trung giám quân

Chinh Tây tướng quân. Nếu lấy chức quan mà luận, thì quan vị của Dương, Phí, Khương ba người hoàn toàn chẳng

thể so sánh được với Ngụy Diên. Thế mà Gia Cát Lượng mở một hội nghị quân sự cấp cao như thế lại loại bỏ Ngụy

Diện ở ngoài. Đây chẳng phải là một sự cố ý sao ?

Thứ hai. Gia Cát Lượng tuy “bàn việc lui quân sau hậu sự”, nhưng cũng không hề sắp xếp ai sẽ là chủ soái của toàn

quân. Chỉ sai “Ngụy Diên đoạn hậu” “tiếp tới Khương Duy”. Dương Nghi giữ chức gì đây ? Không biết. Trên thực tế

Dương Nghi hoàn toàn không được sự giao nhiệm vụ chính thức của Gia Cát Lượng hay chính quyền Thục Hán.

Dương Nghi thống lĩnh toàn quân anh bất chính, ngôn bất thuận. Đây cũng chính là mầm họa của việc tranh chấp

nội bộ giữa Ngụy và Dương.

Thứ 3 mật lệnh của Gia Cát Lượng là “Nếu Diên có ý không vâng mệnh thì tùy ngh mà xử lý”. Điều này như đã định

việc Ngụy Diên nhất định sẽ làm phản. Việc vì sao Gia Cát Lượng lại sắp xếp như thế, trong sử hoàn toàn không hề có

chép.

Theo ý tôi, nguyên nhân có 3 điều. Thứ nhất, Gia Cát Lượng một đời ùng binh quá ư cẩn thận, nguyên nhân chính

là thiếu kinh nghiệm thực chiến, như Trần Thọ từng đánh giá “Sở trường trị nhung, sở đoản ở kỳ mưu, có tài trị ân,

kém dùng sách lược”. Tam quốc chí quyển 35 - Gia Cát Lượng truyện….viết: Ngụy Diên ùng binh luôn lấy chủ

trương là xuất kỳ chiến thắng, đây là điểm cố kỵ lớn nhất của Gia Cát Lượng, nếu như quyền chỉ huy quân sự được

----------------------- Page 48-----------------------

giao cho Ngụy Diên, ắt hẳn Ngụy Diên sẽ làm thay đổi hoàn toàn chiến lược quân sự đã được định sẵn của mình,

việc làm theo ý mình để tiến hành tác chiến, là điều mà Gia Cát Lượng hoàn toàn không chấp nhận được.

Thứ hai, Gia Cát Lượng tuyển chọn quan lại, sử dụng nhân tài thường lấy việc “Phụng chức, theo lý” làm tiêu chuẩn,

điều này có thể thấy được qua Tiền xuất sư biểu. Những người được Gia Cát Lượng xưng tụng hay tiến cử và trọng

dụng như Quách Du Chi, Phí Vĩ, Đỗng Doãn, Tưởng Uyển, Khương Duy, Hướng Sủng… không một ai không phải là

người làm việc theo quy củ, phù hợp với chức vụ . Ngụy Diên lại là một vị đại tướng thường làm theo những kiến giải

của mình, “Tính cao ngạo” “Không a ua trên”, lại còn lấy Hàn Tín để tự ví với mình, cho rằng Gia Cát Lượng là kẻ

nhát gan, thường tự than rằng mình là kẻ có tài mà không gặp được thời cơ. Sau khi Lưu Bị chết, Gia Cát Lượng

nắm giữ đại quyền trong triều “Chính sự không kể lớn nhỏ, đều do Lượng quyết” … Đến như Hậu chủ Lưu Thiền còn

nói rằng “Chính sự do Gia Cát thị, việc tế kị thì do quả nhân” Tam Quốc Chí Quyển 33 – Hậu chủ truyện, chú dẫn :

Ngụy Diên thường không theo Gia Cát Lượng nên đương nhiên ẫn tới việc đố kỵ của Gia Cát.

Thứ ba, Gia Cát Lượng loại bỏ Ngụy Diên còn phần vì những người của mình như Tưởng Uyển, Phí Vĩ, Khương

Duy. Tam quốc chí – Tưởng Uyển truyện chép “Lượng mỗi lần nói “Công Viêm (tên tự của Tưởng Uyển) một lòng

trung lương, là người cùng ta trợ giúp vương nghiệp vậy”. Lượng còn mật biểu cho hậu chủ rằng “Nếu thần bất hạnh,

việc sau nên giao cho Uyển”. Trước khi Gia Cát Lượng lâm chung, Hậu chủ sai thượng thư bộc xạ Lý Phúc tới hỏi

Gia Cát Lượng “Nếu công trăm năm rồi, ai là người có thể gánh được việc lớn ?” Gia Cát Lượng đáp “Sau Tưởng

Uyển, Văn Vĩ (tên tự của Phí Vĩ) có thể kế tiếp” Tam quốc chí quyển 45 Dương Hý truyện, chú dẫn “Ích Châu kỳ cựu

tạp ký” .

Năm 228, Khương Duy quy hàng Thục Hán. Gia Cát Lượng đối đãi với Khương Duy như người thân tín từ

lâu, thường xưng tán rằng “Trung cần vào việc, suy nghĩ thấu đáo, mẫn tiệp trong quân sự, lại có can đảm,

hiểu sâu đạo dụng binh, có lòng với nhà Hán, tài kiêm trong mình”, rất nhanh chóng được đề bạt lên thành

Trung giám quân Chinh tây tướng quân.

Gia Cát Lượng hiểu rõ nếu như Tưởng Uyển, Phí Vĩ, Khương Duy chấp chính thì Ngụy Diên là một chướng ngại lớn,

bởi Ngụy Diên không những ở trong quân đội mà ngay cả trong triều đình cũng có danh vọng rất cao. “Đương thời

bàn luận tất là người thay Lượng” Tam Quốc Chí quyển 40 “Ngụy Diên truyện”… Vì việc bài xích kẻ không cùng

hướng với mình, Gia Cát Lượng đã không tiếc thủ đoạn để hủy đi cả một tay đống lương của nhà Thục Hán, ồn

Ngụy Diên vào chỗ chết.

----------------------- Page 49-----------------------

Nguyên nhân đầu của việc bị hại của Ngụy Diên có quan hệ m ật thiết với Gia Cát Lượng, nhưng rốt cục cũng không

phải đó là i mệnh lúc lâm chung của Gia Cát Lượng. Sát hại Ngụy Diên thì kẻ đứng đầu phải kể đến là Dương Nghi,

đương nhiên Phí Vĩ, Tưởng Uyển, Đổng Doãn cũng có một phần ở trong đó. Ngụy Diên và Dương Nghi mâu thuẫn

đã rất lâu. Ngụy Diên kiêu ngạo, Dương Nghi tự phụ, hai người thế như nước với lửa. “Quân sư Ngụy Diên và trưởng

sử Dương Nghi vốn căm hận nhau, mỗi lần cùng ngồi tranh luận, thường nảy sinh mâu thuẫn" (G a Cát Lượng

quyển 44 Phí Vĩ truyện”). Gia Cát Lượng đã có thái độ như thế nào đối với việc xung đột giữa Ngụy Diên và Dương

Nghị? Theo sử chép “Lượng tiếc cái tài cán của Nghi, sự kiêu ũng của Ngụy Diên, thường giận ở chỗ thiếu của hai

người mà không thể thiên lệch ai cả” (Tam quốc chí quyển 40 Dương Ngh truyện). Từ biểu hiện trên có thể thấy rằng

Gia Cát Lượng đã khoác lên mình một bộ mặt không thiên lệch về phía bên nào hết. Nhưng khi ở trên Ngũ Trượng

Nguyên, rõ ràng cái cân tình cảm và quyền lực đó nghiêng về phía Dương Nghi rồi. Ngụy Diên không được tham ự

vào hội nghị bàn quyết sách trước lúc lâm chung của Gia Cát Lượng. Lại còn được sắp xếp là tướng quân đoạn

hậu, đây cũng con như là đưa quyền chỉ huy tối cao cho Dương Nghi rồi.

Sau khi Gia Cát Lượng chết, Dương Nghi “Bí mật không phát tang”, lại mện h lệnh cho Phí Vĩ t hử thăm ò ý đồ và tính

toán của Ngụy Diên, Ngụy Diên nói với Phí Vĩ rằng: "Thừa tướng tuy mất, nhưng ta còn đó, các quan lại thân cận có

thể phát tang để chôn cất, ta tự lĩnh quân tấn công giặc, đâu có thể vì cái chết của một người mà bỏ thiên hạ được

sao? Huống hồ Ngụy Diên là ai? Sao có thể là bộ thuộc của Dương Nghi mà làm tướng đoạn hậu!”. Lời nói này của

Ngụy Diên nếu lấy quan vị mà luận thì không coi là loạn, nếu như lấy việc công tư mà luận cũng không có gì là không

hợp lý. Đối với Thục Hán mà nói phạt Ngụy là việc lớn của thiên hạ. Vì một cái chết của Gia Cát Lượng mà khi mà

binh đã tới Vị Thủy, gần mười vạn đại quân phải thoái lui, bỏ việc Bắc phạt, đó chẳng phải là bỏ việc công, mà lo việc

tư là gì. Thêm nữa sau khi Gia Cát Lượng chết Khương Duy cũng đã từng chín lần Bắc phạt, tài năng quân sự của

Ngụy Diên hoàn toàn hơn hẳn Khương Duy, thế mà sao không được tiếp nhiệm của Vũ Hầu, gánh vác trọng trách

phạt Ngụy đây?

Ngoài ra, chức quan của Ngụy Diên hơn hẳn Dương Nghi, hoàn toàn không có lí gì phải phục tùng quyền chỉ huy

của Dương Nghi cả. Chính bởi như thế Ngụy Diên mới “cùng Phí Vĩ tính việc đi ở, sau Vĩ viết và cùng ký tên với

mình, để thông cáo cho chư tướng”. Điều này cũng chính là Ngụy Diên đã cùng với Phí Vĩ thương lượng từng bước

việc tang vụ: Ai hộ tống linh cữu của Gia Cát Lượng về Thục, ai lĩnh binh tiếp tục Bắc phạt, hai người cùng đã ký tên

với nhau, chuẩn bị thông cáo trong quân đội. Nhưng Phí Vĩ lại là kẻ khẩu thị tâm phi, tìm kế để thoát thân, khi Ngụy

Diên vừa cưỡi ngựa ra đi, thì lập tức bội tín, giúp đỡ Dương Nghi điều quân lui về Thục. Đợi tới lúc Ngụy Diên điều

binh đi xem xét tình hình của Nghi mới phát hiện ra rằng mình đã bị lừa, đại quân đã “theo quy củ của Lượng, mọi

doanh trại đều đã lần lượt trở về”. Ngụy Diên đương nhiên vô cùng tức tối, lợi dụng cơ hội quân của Dương Nghi

hành quân chậm chạp, đi trước một bước “lĩnh binh đi đường tắt về Nam”. Ý đồ của Ngụy Diên rất rõ ràng, bởi

Dương Nghi đã nắm được đại quân trong tay, càng không thể cùng thương lượng được, chỉ có thể nhanh chóng

trở về Thành Đô, tâu với hậu chủ. Dương Nghi cũng không chịu kém, hai người cũng lúc dâng tấu cho Lưu Thiên,

trong biểu cả hai đều gọi đối phương là kẻ phản nghịch, trong một ngày cả hai biểu cùng tới. Lưu Thiện là kẻ không

có chủ kiến, không định rõ được thị phi. Liền mời “Thị trung Đổng Doãn, Lưu phủ trưởng sử Tưởng Uyển”. Tưởng

Uyển, Đổng Doãn đều là tâm phúc của Gia Cát Lượng, thêm một điều nữa là mối quan hệ đồng liêu trong triểu của

hai ngươi với Ngụy Diên đều không tốt… Tưởng Uyển và Đổng Doãn cùng bảo vệ Dương Nghi mà nghi kị Ngụy

Diên. Chính thế mà Lưu Thiiện đã ra lệnh cho “Tưởng Uyển lĩnh các oanh lên phía bắc” chuẩn bị để thảo phạt

Ngụy Diên. Nhưng không đợi Tưởng Uyển tới nơi thì Ngụy Diên đã bị Dương Nghi giết rồi.

----------------------- Page 50-----------------------

Nguyên nhân chính là o Ngụy Diên “Tại Nam Cốc khẩu, sai binh đánh lại quân của Nghi, Nghi lệnh cho Hà Bình ở

phía trước đánh Diên” ( Hà Bình tức Vương Bình, vốn là con nuôi nhà họ Hà, sau đổi lại họ thành Vương )

Ngụy Diên tại sao không trực tiếp trở về Thành Đô, mà lại ở Nam Cốc khẩu lấy binh ít mà đánh lại với quân của

Dương Nghi đây ?

Theo suy đoán có thể chính là bởi nguyên nhân khi nắm được tin Lưu Thiện phái Tưởng Uyển tới thảo phạt mình,

Ngụy Diên đã không còn cơ hội để tới Thành Đô để biện minh với Hậu chủ được nữa. Trước tình huống này đối với

Ngụy Diên là hoàn toàn bất lợi, bị Vương Bình khi lâm trận đã mắng rằng: “Công mất (chỉ Gia Cát Lượng) thân còn

chưa lạnh, thế mà các người sao đã như thế ?” Quân lính đưới trướng của Ngụy Diên đều dao động “Binh lính đều

biết lỗi ở Diên, không nghe lời dụng mệnh, nhân thế đều tan”. Kỳ thực cái gọi là “lỗi ở Diên” chỉ là bề nổi, binh lính

đâu hiểu được những tranh chấp trong tầng lớp trên. Bọn họ chỉ biết phục tùng Lưu Thiện và Gia Cát Lượng, nay

Hoàng đế và Thừa tướng đều đã đứng về phía Dương Nghi mà cho rằng Ngụy Diên làm phản, không muốn theo

Diên đó thì cũng là chuyện thường tình.

Trước tình thế quân sĩ tan tác, Ngụy Diên bất đắc dĩ chỉ có thể “Cùng một số người lưu vong, chạy vào Hán Trung,

Nghi sai Mã Đại tới giết, âng thủ cấp cho Nghi”. Dương Nghi lấy được thủ cấp của Ngụy Diên liền lấy chân đạp lên

đầu cười mà rằng: “Đồ nô tài vô dụng, còn có thể làm ác không ?” sau đó Dương Nghi còn ra lệnh “Diệt ba họ nhà

Diên” Tam Quốc chí quyển 40 – Ngụy Diên truyện.

----------------------- Page 51-----------------------

Chính bởi thế mà danh tướng một đời Ngụy Diên thân bị diệt, lại bỉ tru di ba họ. Không thể không nói đó là một bi

kịch.

Cuộc tranh chấp nội bộ giữa Ngụy Diên và Dương Nghi với kết cục là sự thất bại triệt để của Ngụy Diên mà chấm

dứt. Sự thất bại của Ngụy Diên có cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Về nguyên nhân khách quan, Ngụy Diên gặp phải sự bài xích và đố kị nhiều năm của Gia Cát Lượng, lại thêm

Dương Nghi, Phí Vĩ căm ghét, tình hình khó khăn, thân cô thế cô.

Về nguyên nhân chủ quan chính bản thân Ngụy Diên trong cuộc tranh chấp này đã xử lý không tốt, không nên dễ

dàng tin tưởng Phí Vĩ, không nên trên đường lui quân đốt hết đường quay lại của quân đội, cho kẻ khác lấy đó làm

cớ để khẳng định việc mưu phản của mình, càng không nên “Chặn ở Nam Cốc khẩu”, lấy vài ngàn người đi chống

lại hơn mười vạn quân của Dương Nghi. Điều này hoàn toàn là lấy trứng chọi đá, không biết lượng sức mình. Tôi

cho rằng tính cách của Ngụy Diên rất giống với Hàn Tín, chính là ở chỗ cả hai đều là những người giỏi dùng binh, là

những kỳ tài quân sự, nhưng về phương diện chính trị lại cực kỳ ấu trĩ, ít mưu.

7 năm sau khi Ngụy Diên chết, Dương Hý người Thục trong cuốn “Quý Hán phụ thần tán” đã từng viết những lời

bình sau “ Văn Trường tính tình thô lỗ lại ương ngạnh, nhận mệnh lúc khó, chế ngự giặc ngoài, giữ vững biên

cương, không hòa hợp a ua, không tận trung được tới cùng. Dương Hý khẳng định công lao của Ngụy Diên “Chế

ngự giặc ngoài, giữ vững biên cương”, than tiếc cho việc Ngụy Diên không thể tận trung tới cùng, căn nguyên cũng

chính là bởi tính cách cương nghị bướng bỉnh, không hiệp lực, không a dua. Đánh giá này cũng coi là có phần

công bằng với Ngụy Diên.

Cuối cùng phải chỉ ra, cái gọi là sự “mưu phản” của Ngụy Diên hoàn toàn là o sự bày đặt bịa chuyện của La Quán

Trung mà định thành tội danh. Trần Thọ về việc này chỉ ra kết luận “Ý Diên vốn không muốn bắc hàng Ngụy mà trở

về nam, nhưng muốn giết Nghi, ngày thường các tướng đã không có ý giống nhau, bàn luận thường lấy ý của

Lượng vốn thế, không tiện đi trái” Tam Quốc chí quyển 40 – Ngụy Diên truyện

----------------------- Page 52-----------------------

Chuyện đáng cười chính là ở chỗ, Ngụy Diên đối đầu với kẻ thù của mình là Dương Nghi thì được gán cho cái tên là

“có xương phản chủ”

Dương Nghi giết được Ngụy Diên rồi cứ tưởng mình công lao thực lớn, chức của Lượng ngoài mình ra thì không ai

có thể đảm đương . Nhưng Gia Cát Lượng lúc sinh tiền đã sắp đặt sẵn “Nghi tính nóng nẩy lại nhỏ nhen, ý muốn

Tưởng Uyển, Tưởng Uyển được giữ chức Thượng thư lệnh, êch Châu thích sử” Hậu chủ chỉ cho Dương Nghi một

chức danh hão “Bái làm Trung quân sư, không thống lĩnh quân, nhàn nhã”. Vì thế Dương Nghi mới nói lên lời oán

hận: “Lúc Thừa tướng mới mất, ta đem quân diệt trừ họ Ngụy, thế mà nay lại rơi vào cảnh này! Thực làm cho

người ta hối cũng không kịp nữa rồi”. Những lời này quả là đại nghịch bất đạo. Bị Phí Vĩ mật báo với hậu chủ, hậu

quả thì không cần nói cũng có thể biết được. Dương Nghi bị phế làm thứ ân. Cuối cùng Nghi cũng tự sát.

Cái chết của Dương Nghi chính là do tự mình gây nên, nhưng cũng thực sự đáng tiếc, bởi Dương Nghi cũng là một

nhân tài hiếm thấy. Gia Cát Lượng khi Bắc phạt thường giao cho Nghi trù bị quân lương, quản lí chế độ binh lính…

Thục quốc là nước nhỏ, nhân tài ít hơn nhiều so với Ngụy, Ngô. Gia Cát Lượng lúc sinh thời dung người không

hợp, lại không biết định ra chế độ với bộ thuộc của mình, sau khi chết lại ẫn tới những cuộc tranh đấu nội bộ của

chính quyền, càng như đổ ầu thêm vào đống lửa, việc Thục Hán suy vong chỉ là chuyện sớm muộn. Cái tội này

Gia Cát Lượng cũng không thể chối cãi được.

Hoàng đế đầu tiên của Nhật Bản là người Trung

Quốc?

Năm 1987, tôi được biết Ueno, một học giả Nhật Bản hiện đang làm việc tại trường đại học Waseda, nghiên

cứu rất sâu về Từ Phúc. Vị học giả này nói rằng, chính Từ Phúc và những người đi theo ông ta đã sinh sôi

thành ngàn vạn đời con cháu trên đất nước Nhật Bản. Chỉ cần nhìn nhãn cầu có màu vàng nâu của người

Nhật Bản có thể khẳng định họ là hậu duệ của bộ lạc Tề (nước Tề, quê hương Từ Phúc). Ở Nhật Bản có rất

nhiều người mang họ Saito, trong Hán ngữ có nghĩa là

Tề. Có thể nói, chí ít cũng có 30% người Nhật có huyết

thống Trung Hoa và họ đều là hậu duệ của những tùy

tòng của Từ Phúc.

1. Lai lịch Từ Phúc

Từ Phúc là đồ đệ của nhân vật nổi tiếng thuộc phái Binh

gia Quỷ Cốc Tử. Quỷ Cốc Tử từng làm tể tướng nước Sở,

sau đó về ở ẩn ở nước Vệ, thu nhận đồ đệ tại tỉnh Hà Nam,

huyện Kỳ, núi Vân Mộng. Bởi vì Quỷ Cốc Tử thu nhận đồ

đệ tại đây mà địa anh này trở nên nổi tiếng. Quỷ Cốc Tử

tên là Vương Thần, còn gọi là Vương Hử, người nước Vệ,

thời Chiến Quốc. Lớn lên theo thuật Tung Hoành, tinh thông

binh pháp, võ thuật, kỳ môn độn giáp. Ông nổi tiếng có

cuốn sách Quỷ Cốc Tử binh pháp còn lưu truyền đến nay.

Quỷ Cốc Tử thường ngày ẩn cư trong núi Vân Mộng dạy

đệ tử. Trong những đồ đệ của Quỷ Cốc Tử thì Từ Phúc là

đồ đệ thuộc hàng sau Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Tô Tần,

Trương Nghi, Mao Toại, những nhân vật nổi tiếng thời

Chiến Quốc.

Tượng Từ Phúc ở Nhật Bản

----------------------- Page 53-----------------------

Trong số những đồ đệ của Quỷ Cốc Tử, Tôn Tẫn, Bàng Quyên chú trọng ở binh pháp, thông hiểu cả kỳ môn bát

quái. Thời đại của họ ước chừng vào khoảng thời đại của Tần Hiếu Công. Trương Nghi, Tô Tần chủ ở thuật Tung

Hoành (du thuyết, ngoại giao). Khi họ xuất núi là thời kỳ của Tần Huệ Vương và Tần Chiêu Vương còn Hiếu Văn

Vương, ông của Tần Thủy Hoàng chỉ lên ngôi được 1 năm thì chết.

Còn Mao Toại, Từ Phúc là những đồ đệ cuối đời của Quỷ Cốc Tử. Thời đại của Mao Toại ước vào thời cha của Tần

Thủy Hoàng, Khánh Tương Vương (thời kỳ Lã Bất Vi nắm quyền). Từ Phúc là đệ tử nổi danh cuối cùng của Quỷ

Cốc Tử, học khí công, tu tiên và võ thuật. Thời điểm ông ta xuất núi chính vào khoảng thời gian Tần Thủy Hoàng

đăng cơ, cùng thời với tể tướng Lý Tư. Thời gian vị đệ tử cuối cùng này của Quỷ Cốc Tử xuống núi ước vào

khoảng từ năm 280 đến năm 230 trước CN, trước sau khoảng bốn đến năm mươi năm.

Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, Từ Phúc hiến kế cho Tần Thủy Hoàng rằng dùng 500 đồng nam,

500 đồng nữ, đi thuyền lớn tới đảo Bồng Lai để hỏi thần tiên xin thuốc trường sinh bất lão. Kết quả là vào năm 219

trước CN đi lần thứ nhất không có kết quả gì. Lần thứ hai vào năm 209 thì một đi không trở lại. Tần Thủy Hoàng

đợi một năm không thấy Từ Phúc trở lại, thân mình đã chết trước, không biết rằng, Từ Phúc đã đến Doanh Châu ở

biển Đông (tức Nhật Bản).

Sách sử còn ghi chép lại rằng, Từ Phúc tức Từ Thị, tên chữ là Quân Phòng, người Lang Nha, đất Tề (nay là Cán

Du, Giang Tô, Trung Quốc), phương sĩ nổi tiếng thời Tần. Ông học rộng, tài cao, thông hiểu y học, thiên văn, hàng

hải,… đồng tình với trăm họ, vui thú với việc giúp đỡ người khác cho nên có anh vọng rất cao trong lòng người

dân ven biển.

Năm 28 Thủy Hoàng (tức năm 219 trước CN), lần thứ nhất Tần Thủy Hoàng đi tuần phía Đông, lên núi Thái Sơn

khắc vào đá ca ngợi công đức. Sau đó qua huyện Hoàng, núi Phàn Thành, lên núi Chi Phù (nay là Yên Đài), xuống

Lang Nha ở phía Nam, lưu tại đó ba tháng. Trong thời gian đó, Tần Thủy Hoàng nhìn thấy ở ven bờ biển xuất hiện

một người con trai, cho rằng đó là tiên nhân xuất hiện bèn phái Từ Phúc dẫn đồng nam, đồng nữ đáp một số thuyền

tiến ra biển đi tìm thuốc trường sinh bất lão. Từ Phúc ra biển tìm thuốc nhiều năm mà không có kết quả gì.

9 năm sau (tức năm 210 trước CN), Tần Thủy Hoàng tuần thú phía Đông lần thứ hai, Từ Phúc sợ Tần Thủy Hoàng

trách móc mình, bèn dối trá rằng, ở ngoài biển có một con cá mập rất đáng sợ, o đó thuyền rất khó đến gần được

núi tiên để cầu thuốc, nên phái những thiện xạ cùng đi để họ giết con cá nguy hiểm này mới có khả năng lên bờ cầu

xin thuốc tiên được. Tần Thủy Hoàng lại một lần nữa phái Từ Phúc mang đồng nam, đồng nữ và thợ khéo tay, võ sĩ,

xạ thủ tổng cộng hơn 500 người, mang theo ngũ cốc, lương thực, đồ dùng, nước ngọt ra biển cầu xin thuốc tiên.

Từ Phúc ra biển Đông không cầu được “thuốc bất lão”, sau khi lên bờ tại Kumanoura, Nhật Bản, phát hiện ra một

“bình nguyên rất rộng” (tức là đảo Kyushu, Nhật Bản). Thuốc trường sinh bất lão không tìm được nếu trở về sẽ gặp

họa sát thân, Từ Phúc bèn tính kế lâu dài, định cư nơi đây, không quay trở về nữa. Từ Phúc và những người đi

cùng đã ạy cho những người ở đảo Kyushu những văn minh tiên tiến của triều Tần như kỹ thuật canh tác nông

nghiệp và đánh bắt cá, luyện kim, làm muối,… và cả kỹ thuật điều trị bệnh trong y học, thúc đẩy xã hội nơi đây phát

triển, nhờ vậy rất được nhân dân nơi đây kính trọng.

Người Nhật Bản tôn Từ Phúc làm “thần cai quản việc nông canh” và “thần y ược”. Ở Wakayama, Saga,

Hiroshima, Aichi, Akita,… đều có ấu tích của những hoạt động của Từ Phúc. Ở Saga, Shinmiya trong các đền thờ

đều lấy Từ Phúc làm thần để thờ phụng, mỗi năm đều tổ chức hoạt động tế lễ rất rầm rộ. Để phát huy mạnh mẽ

tinh thần của Từ Phúc, Trung Quốc và Nhật Bản đã phối hợp lập nên Hội Từ Phúc, mấy năm gần đây những tác

phẩm học thuật và văn nghệ liên quan đến Từ Phúc không ngừng xuất bản, những vở kịch liên quan đến Từ Phúc

cũng không ngừng được lên sân khấu.

2. Từ Phúc là Thủy Hoàng Đế của người Nhật Bản?

Người Nhật Bản thường chỉ nói thần tộc Thiên Hoàng vượt biển mà tới đất này nhưng lại không đề cập đến chuyện

từ đâu mà tới.

Vào năm 1987, tôi từng qua thăm Shinmiya bởi vì tôi rất muốn nhìn tận mắt nơi Từ Phúc lên bờ ở Nhật. Thành

Shinmiya nằm ở huyện Wakayama. Tôi cũng từng gặp qua thị trưởng của thành phố Shinmiya. Điều lý thú là ông ta

vốn cũng là người rất có hứng thú với nhân vật Từ Phúc. Ông ta mang tôi đến địa điểm Từ Phúc lên bờ. Đây là một

bờ biển rất đẹp, có một ngôi đền thờ thần màu hồng, xung quanh rất yên tĩnh. Chúng tôi cũng tìm đến địa điểm mà

theo truyền thuyết là nơi Từ Phúc đã phát hiện ra loại thuốc trường sinh bất lão. Vị thị trưởng này giải thích rằng,

loại thuốc này có tác dụng bổ thận trị bệnh, người có một quả thận khỏe, tuổi thọ đương nhiên sẽ được kéo dài!

----------------------- Page 54-----------------------

Lang Nha đài, nơi Từ Phúc xuống thuyền ra biển Đông

Thị trưởng còn dẫn tôi tham quan bia mộ của Từ Phúc được lập tại vùng ngoại ô của thành phố. Tấm bia này dùng

Hán ngữ để ghi chép từ việc Từ Phúc làm sao tìm ra thuốc trường sinh bất lão cho đến việc vì sao ông quyết định

định cư lâu ài ở Nhật. Bia mộ được lập vào năm 1834, trên bia có ghi 5 chữ “Từ Phúc chi mộ bi” do một vị thư

pháp gia có tiếng thủ bút còn lời thơ trên mặt bia là o một vị Hán học người Nhật viết ra.

Thị trưởng nơi đây còn cho biết, vào ngày 28 tháng 11 hàng năm, người Wakayama đều tập trung trước mộ Từ

Phúc để tổ chức hoạt động kỷ niệm rất trọng thể. Vào năm 1980, lễ kỷ niệm Từ Phúc của người Wakayama đã tròn

2200 năm. Từ năm 19915 trở đi, nhân dân Wakayama thành lập Hội bảo vệ di tích Từ Phúc. Năm 1931, họ còn

thành lập Hội bảo vệ di sản văn hóa Từ Phúc, tới năm 1955 cuối cùng họ đã thành lập nên Hiệp hội Từ Phúc.

Quần thể tượng miêu tả việc Từ Phúc vượt biển

Bên cạnh mộ của Từ Phúc còn có bảy ngôi mộ khác, tương truyền là bảy người thân tín bên cạnh Từ Phúc. Không

có ai nói được rõ ràng về số phận của 3000 đồng nam, đồng nữ mà Từ Phúc mang theo đến Nhật Bản.

----------------------- Page 55-----------------------

Có rất nhiều địa phương ở Nhật Bản, đặc biệt là Kyushu cũng có những di tích về Từ Phúc. Lần đầu qua Fukutomi,

tôi đã hỏi một vị quan chức cao cấp nơi đây rằng có biết về Từ Phúc hay không. Vị này cũng có một chút lúng túng,

bởi vì ông ta từ trước đến nay chưa từng nghe qua cái tên này. Vì thế tôi kể cho ông ta nghe một số chuyện về Từ

Phúc. Ngày thứ hai, ông ta đưa cho tôi một cuốn Trung tâm Kyushu tạ Trung Quốc. Trong sách có nhiều bài nói về

mối quan hệ giữa Trung Quốc, Kyushu và Từ Phúc.

Tất cả người Nhật Bản đều kính trọng Từ Phúc. Trong thôn Kinryu ở Saga, Từ Phúc trở thành một vị thần về tri

thức và y dược được mọi người sùng bái. Ngoài ra ông còn được mọi người xưng tụng như là thần nước và thần

nông nghiệp. Những người dân trong thôn gọi Từ Phúc là “Kinryu tiên sinh”. Ở đó còn có một bức tranh tường cổ

miêu tả mối quan hệ giữa Từ Phúc và Kinryu. Đây là tác phẩm của một họa sĩ sống vào thế kỷ XVII, hiện tại đã trở

thành bảo vật của chùa Kinryu.

Ở Kinryu, mỗi khi gặp hạn hán, người dân lại tới chùa Kinryu mang bức họa Từ Phúc trên kiệu, đi khắp chợ để cầu

mưa. Khi đi phía sau của kiệu người ta ùng cỏ và lá trúc kết thành một con rồng lớn nặng 2 tấn, ài 36 mét. Toàn

bộ nghi thức này được gọi là “Vũ khất hành sự” (nghi thức cầu mưa) được cử hành vào 8 tháng 8, bốn năm năm

một lần. Trong nghi thức trọng thể này, những người tham gia nỗ lực đánh trống để cầu trời cho mưa xuống.

Vào năm 1724, tại Chifu, gần Kinryu cũng bị hạn hán nghiêm trọng nhưng sau khi tiến hành nghi thức cầu mưa này

thì mưa xuống. Vì vậy, người Nhật Bản tin rằng, khi Từ Phúc tới Chifu tìm thuốc trường sinh bất lão, ông đã giúp

đỡ rất nhiều nông dân nơi đây. Thậm chí còn có thuyết nói ông đã yêu một cô gái của vùng đất Chifu này.

Tôi cũng đã tham quan vùng ven biển của Shinmiya, tới nơi có bức tường thành đổ nát cao khoảng một mét rưỡi,

dài khoảng chừng 32 km. Người Nhật Bản tin rằng Từ Phúc cũng tu sửa một đoạn trường thành. Nó là hình ảnh

thu nhỏ của Vạn Lý Trường Thành của nước Tần Trung Quốc. Vào thời kỳ Mạc Phủ E o (1600 - 1876), còn được

tu sửa vượt qua kỷ lục của toàn thành này. Một số học giả cho rằng, Từ Phúc tu sửa đoạn thành này thực tế là để

phòng chống quân của Tần Thủy Hoàng vì truy bắt ông ta mà tấn công Nhật Bản. Vào thời kỳ E o, không có một

lực lượng lao động lớn, để xây ựng một tòa thành như vậy là điều không thể tưởng tượng nổi, đây thực là một

khoản chi phí lớn.

Địa điểm Từ Phúc lên bờ cũng rất phù hợp với địa điểm mà nhân vật Thần Vũ Thiên Hoàng lên bờ. Một học giả Đài

Loan tên là Vệ Đỉnh Sinh vào năm 1970 đã viết một cuốn sách tên gọi là Từ Phúc và Nhật Bản, nói rằng vị hoàng đế

đầu tiên của Nhật Bản không phải ai khác chính là Từ Phúc. Ông dựa vào sự trùng hợp rất kỳ lạ về thời gian mà

Thiên hoàng và Từ Phúc lên bờ mà đưa ra kết luận khá mới mẻ này. Trong sách còn đề cập đến việc từ sinh hoạt

trong những mộ huyệt quan trọng của hoàng tộc Nhật Bản vào thời đại Thiên Chiếu Đại Thần, người ta phát hiện ra

một chiếc gương đồng thời Tần và một chiến đao mà người nước Tần thường dùng. Nếu như không phải là Từ

Phúc tới đây, thì Nhật Bản làm sao có được những di vật thời cổ đại này? 2000 năm trước khi Từ Phúc tới Nhật

Bản, Nhật Bản còn đang trong thời kỳ đồ đá, làm sao có thể chế tạo những thứ như vậy? Cuốn sách này còn nói

tiếp, sự thực đã chứng minh Từ Phúc chính là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản.

Tác giả còn lo lắng rằng nếu như người Nhật Bản cứ tiếp tục tin chắc vào thần thoại rằng họ là hậu uệ của thần

mà không tiếp nhận các luận điểm khoa học thì lịch sử rất có thể sẽ bị lặp lại, bởi nguyên nhân gây ra chiến tranh là

vì người Nhật Bản tin rằng mình là chủng tộc ưu tú nhất.

Lịch sử của Nhật Bản chìm ngập trong những thần thoại. Đại đa số người Nhật đến nay vẫn tin họ là hậu duệ của

những vị thần, như trong hai bộ biên niên sử sớm nhất của Nhật Bản là Cổ sự ký (Truyền thuyết cổ đại) và Nhật Bản

thư ký (Nhật Bản biên niên sử) có ghi chép. Căn cứ vào những cuốn sử này, Thần Vũ Thiên Hoàng, hoàng đế đầu

tiên của Nhật Bản lên ngôi vào năm 660 trước CN. Nhưng cho tới đầu thế kỷ thứ VIII, Nhật Bản vẫn chưa có một bộ

sử biên niên ghi chép lịch sử nào hoàn toàn đáng tin cậy. Và điều không thể tranh cãi nữa là cả hai bộ sử này đều

dùng Hán ngữ cổ đại để viết thành.

Nghiên cứu của Ueno còn đề xuất rất nhiều những kết luận khác. Ông cho rằng, Từ Phúc và những người

tùy tòng của ông đã sinh sôi thành ngàn vạn đời con cháu trên đất nước Nhật Bản. Chỉ cần xem màu mắt

vàng của người Nhật Bản thì có thể khẳng định họ là hậu duệ bộ lạc Tề (tức bộ lạc quê hương của Từ

Phúc). Những người Nhật bản này có rất nhiều người mang họ Trai Đằng, trong Hán Ngữ có nghĩa là Tề.

3. Từ Phúc là người sáng lập Thần Đạo giáo Nhật Bản?

----------------------- Page 56-----------------------

Người Nhật Bản không thích khảo cổ, bởi vì đã khảo thì nguyên hình

tất lộ. Thần Đạo giáo của Nhật Bản vốn đến từ Trung Quốc.

Vào năm 1987, tôi có quen Ueno, một học giả Nhật nghiên cứu rất

sâu về Từ Phúc, hiện đang công tác tại đại học Waseda. Sau thế

chiến thứ hai, Nhật Bản bị liên minh đánh bại, ông di dân sang sống ở

Mỹ và một số nước Mỹ Latin. Ông nói với tôi rằng, sau khi ông rời

Nhật Bản mới phát hiện tại sao ở Châu Á, phát xít Nhật Bản lại phạm

phải nhiều tội ác như vậy, tại sao Nhật Bản lại muốn chinh phục thế

giới. Vị học giả này rời Nhật Bản đã 25 năm, và 10 năm trước đây

mới quay trở lại Nhật Bản.

Ueno cho rằng, vào triều Tần, Tần Phúc nhất định là một thủ lĩnh

người nước Tề nhờ nghiên cứu cách chế tạo thuốc trường sinh mà

nổi danh. Tần Thủy Hoàng muốn trừ khử Từ Phúc vì Từ Phúc chắc

chắn sẽ là mối đe ọa với ông ta. Ông ta phái Từ Phúc đi tìm thuốc

trường sinh mà ông ta biết là nhiệm vụ không thể hoàn thành. Từ

Phúc biết rằng, nếu mình tay không trở về Trung Quốc nhất định sẽ

bị Tần Thủy Hoàng xử tử. Đó là nguyên nhân Từ Phúc không trở về

Trung Quốc.

Ueno nói, Từ Phúc mang theo những đại thành của nền trí tuệ và tri

thức của người Trung Quốc, trong đó bao gồm Đạo giáo. Ông cho

rằng, Từ Phúc mới chính là người sáng lập chân chính của Thần

Đạo giáo ở Nhật Bản. Thời Chiến Quốc, nước Tề là nước tuân thủ

tôn giáo một cách nghiêm ngặt, mỗi người đến đạo quán đều phải trai

giới, ở đó có phòng ành riêng cho mọi người thực hiện việc trai giới,

làm sạch tâm hồn. Cho đến nay trong mỗi đền thờ thần xã đều còn

giữ lại kiểu phòng như vậy ành cho những người tham bái thực

hiện việc trai giới, loại phòng này được gọi là “Tề thất”, hoặc “Tề”,

tức là quê hương nước Tề của Từ Phúc.

Từ Phúc

Tôi cũng có đôi điểm nghi ngờ trong cách lý giải của Ueno, vì thế khi tôi tới mỗi huyện tham quan đều tìm hiểu qua

các đền thờ thần xã, xem có giống như lời của Ueno nói hay không. Khi tôi đến tham quan các thần xã, đều đặt

một câu hỏi: “Ở đây có Tề thất, dành cho ngườ đến cúng bái hay không?”. Người hầu trong thần xã rất kinh ngạc

nhìn tôi, đại khái nói rằng chưa từng có ai hỏi đến vấn đề này. Họ đều trả lời rằng: “Đương nhiên là có loại tề thất

như vậy, mỗi người đến cúng bái ở đền thần xã trước hết đều phải trai giới ở phòng này”. Tôi cũng hỏi họ là có biết

nguồn gốc của loại “Tề thất” này không thì họ không biết. Nhưng rõ ràng những lý giải của Ueno không phải là

không có lý.

Nghiên cứu của Ueno còn đề xuất rất nhiều những kết luận khác. Ông cho rằng, Từ Phúc và những người tùy tòng

của ông đã sinh sôi thành ngàn vạn đời con cháu trên đất nước Nhật Bản. Chỉ cần xem màu mắt vàng của người

Nhật Bản thì có thể khẳng định họ là hậu duệ bộ lạc Tề (tức bộ lạc quê hương của Từ Phúc). Những người Nhật

bản này có rất nhiều người mang họ Trai Đằng, trong Hán Ngữ có nghĩa là Tề.

Ông còn nói Khổng Tử và Lão Tử đều có nguồn gốc sâu xa từ nước Tề. Những người tùy tòng của Từ Phúc cũng

có nhiều họ khác nhau, trong số đó cũng có rất nhiều người họ Tần, là quốc anh ưới vương triều Tần. Tại quận

Sơn Khẩu, 1300 năm trước đã từng xây dựng nên một vương quốc Tần. Từ phong tục tập quán đều như là xuất

phát từ Trung Quốc, họ đều là hậu duệ của “đặc phái viên” của triều đại nhà Tần, Từ Phúc.

Căn cứ theo thống kê của Ueno, chí ít cũng có 30% người Nhật có huyết thống Trung Hoa và họ đều là hậu duệ của

những tùy tòng của Từ Phúc.

Ueno nói: “Nếu như người Nhật Bản biết rằng mình vớ ngườ Trung Quốc là như đồng bào, có cùng huyết thống thì

trong chiến tranh thế giới thứ hai họ đã không phạm phải những hành động tàn ác như vậy đối vớ ngườ Trung

Quốc. Chúng ta rất có thể cũng sẽ không tiến hành xâm lược người Trung Quốc”. Ông còn nói: “Trước khi tô sang

Trung Quốc, bởi vì những tội ác chúng ta gây ra với Trung Quốc trong chiến tranh thế giới thứ hai mà tôi luôn cảm

----------------------- Page 57-----------------------

thấy day dứt. Nên trước khi sang Trung Quốc tôi phải cố gắng khắc phục cảm g ác này”.

Tượng Từ Phúc ở Nhật Bản

Ueno nói rằng cách nói rằng mình con cháu của thần của người Nhật Bản hiện nay là rất nguy hiểm. Nếu như

người Nhật tiếp tục tin vào những thần thoại này, lịch sử sẽ lại tiếp iễn. Vì thế, ông đã tính tới việc viết một cuốn

sách để người Nhật Bản triệt để nhìn rõ nguồn gốc khởi nguyên của họ.

Ở Nhật Bản, điều được giữ tuyệt đối bí mật là phần mộ của tổ tiên. Nếu chưa được hoàng tộc cho phép không có ai

được đụng chạm đến những phần mộ này chứ đừng nói đến vì mục đích nghiên cứu mà khai quật các phần mộ

này. Nếu như người Nhật Bản cho phép khai quật các phần một tổ tiên để nghiên cứu, thì chắc chắn lịch sử của

Nhật Bản sẽ phải được viết lại. Nếu như họ phát hiện ra rằng tổ tiên của mình là người Trung Quốc hay người Cao

Ly, họ sẽ giải thích ra sao? Tôi nghĩ so với việc không quan tâm đến sự thực mà chỉ chìm đắm trong tưởng tượng

và thần thoại thì tốt hơn nhiều.

4. Hata Tsutomu, thủ tướng của Nhật Bản đã công khai thừa nhận mình là hậu duệ của Tần Thủy Hoàng

Trên thực tế thì có rất nhiều người Nhật Bản mang họ Trung Quốc, ở Hàn Quốc cũng như vậy.

Vào năm 1994, ứng cử viên thủ tướng Hata Tsutomu trước khi nhận chức đã công khai thừa nhận mình là hậu uệ

của hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc Tần Thủy Hoàng. Điều này khiến cho nhiều người Nhật Bản ngỡ ngàng.

Ông nói rằng tổ tiên của mình họ Tần, mãi đến 200 năm trước đây mới đổi thành họ Vũ Điền, bởi trong tiếng Nhật,

chữ Tần và chữ Vũ Điền phát âm gần giống nhau. Ông tự cho mình là người đời sau của tùy tòng gồm 3000 đồng

nam đồng nữ o Từ Phúc dẫn đầu tới Nhật Bản. Nói cách khác, vị thủ tướng này đã thừa nhận trong mình có òng

máu Trung Quốc.

----------------------- Page 58-----------------------

“Mộ của con cháu Từ Phúc được đặt trong chùa Miếu Th ện của huyện Thần Nãi, kh tôi phát h ện ra, tôi đã tin rằng

2200 năm trước, Từ Phúc đã vượt biến đến Nhật Bản”, nữ sĩ Tajima Yuuko, thuộc Hiệp hội hữu nghị Nhật Trung

huyện Kanagawa, hiệp hội hữu nghị Từ Phúc của Kanagawa đã nói như vậy khi bà ở cảng Liên Vân, Giang Tô.

Có rất nhiều người người thuộc hiệp hội hữu nghị Nhật Trung huyện Kanagawa, hiệp hội hữu nghị Từ Phúc của

Kanagawa đã đến cảng Liên Vân để thống báo những phát hiện mới nhất về mộ phần con cháu của Từ Phúc, nằm

trong chùa Miếu Thiện ở Kanagawa, bên trái mộ của họ Fukutomi. Đại ý những ghi chép trong mộ được các chuyên

gia khảo chứng, nói rằng tổ tiên của họ là Từ Phúc của triều Tần, sở dĩ họ lấy họ Fukutomi là vì lấy chữ Phúc trong

tên Từ Phúc để con cháu không quên nguồn gốc tổ tiên.

Trong truyền thuyết, Từ Phúc sinh ra ở thị xã cảng Liên Vân, huyện Cán Du, trấn Kim Sơn được sử sách ghi chép là

người đầu tiên của Trung Quốc vượt biển đến đất Phù Tang (Nhật Bản). Tại hơn 2200 năm trước, Từ Phúc phụng

mệnh Tần Thủy Hoàng, ẫn đầu 3000 đồng nam đồng nữ vượt biển. Mọi người đều cho rằng: Từ Phúc đã đem văn

minh thời Tiên Tần như kỹ thuật canh tác, luyện kim, ệt vải, văn tự,… truyền bá ở đảo quốc Nhật Bản.

Nguyên thủ tướng của Nhật Hata Tsutomu vào năm 2000 đã về vùng quê của Từ Phúc ở Cán Du. Ông từng nhiều

lần phát biểu rằng, gốc gác của òng họ Vũ Điền là ở Trung Quốc, tổ tiên của ông chính là Từ Phúc.

----------------------- Page 59-----------------------

THE END

-------------------------------------------- Ebook Created By Nguyễn Đức Dũng

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro