Câu 2: làm rõ quan điểm DVBC về bản chất của ý thức.

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 2: Làm rõ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất của ý thức. 

Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng ý thức ra đời là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên và xã hội. Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội

Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con người và hoạt động của bộ óc đó cùng mối quan hệ của con người với thế giới khách quan, trong đó thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo.

Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ não người là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới sinh vật. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức con người càng phong phú và sâu sắc. Bộ não của động vật chỉ đạt đến trình độ phản xạ, bản năng, tâm lý động vật, trong khi đó bộ óc người có khả năng phản ánh thế giới bằng tư duy trừu tượng.

Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo: Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan, thông qua hoạt động của các giác quan, thế giới khách quan tác động đến bộ óc người, hình thành quá trình phản ánh.

Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại với nhau giữa chúng.

Những đặc điểm được tái tạo ở dạng vật chất nhận sự tác động bao giờ cũng mang thông tin của dạng vật chất tác động được gọi là cái phản ánh; còn dạng vật chất tác động được gọi là cái được phản ánh. Cái phản ánh và cái được phản ánh không tách rời nhau, không đồng nhất với nhau. Cái được phản ánh là những dạng cụ thể của vật chất, còn cái phản ánh chỉ là đặc điểm chứa đựng thông tin của dạng vật chất đó ở một dạng vật chất khác.

Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất và được thể hiện dưới nhiều hình thức, những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của vật chất.

Phản ánh vật lý, hóa học là hình thức phản ánh thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh được thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hóa khi có sự tác động qua lại với nhau giữa các dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.

Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích là phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng cách thay đổi chiều hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, cấu trúc…khi nhận sự tác động trong môi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh tạo ra năng lực cảm giác, được thực hiện trên cơ sở điều khiển của quá trình thần kinh qua cơ chế phản xạ không điều kiện, khi có sự tác động từ bên ngoài môi trường lên cơ thể sống.

Phản ánh tâm lý là phản ứng của động vật có hệ thần kinh trung ương được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện.

Phản ánh năng động, sáng tạo: là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất, có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra các thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh này được gọi là ý thức. Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức phản ánh của vật chất.

Nguồn gốc xã hội của ý thức: ý thức không thể tồn tại ngoài não người; tuy nhiên, ý thức không phải do não sinh ra. Não chỉ là cơ quan thực hiện chức năng phản ánh. Để có ý thức phải có não người và thế giới khách quan. Ngoài ra còn phải có những điều kiện xã hội nữa đó là: lao động, ngôn ngữ.

Lao động

Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu con người; là quá trình trong đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên.

Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, làm cho thế giới khách quan bộc lộ ra những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy thông qua hoạt động của các giác quan, tác động vào bộ óc con người, tạo ra khả năng hình thành những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.

Lao động còn là quá trình phát triển bản thân con người, biến vượn thành người. Trong lao động con người phải suy nghĩ, tính toán đề ra mục đích, tìm kiếm phương pháp và phương tiện thực hiện mục đích, đúc rút kinh nghiệm thành công và thất bại. Đó chính là phương thức phát triển của ý thức.

Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan thông qua quá trình lao động

Ngôn ngữ

Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.

Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Mối quan hệ giữa các thành viên trong quá trình lao động làm nảy sinh nhu cầu phải có phương tiện để biểu đạt, nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh.

Ngôn ngữ là công cụ của tư duy trừu tượng, là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất, nhờ ngôn ngữ con người có thể tổng kết tri thức, kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Tóm lại: ý thức ra đời do hai nguồn gốc: Nguồn gốc tự nhiên, đó là kết quả sự tiến hóa của bộ não và thuộc tínhh phản ánh của nó. Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động, ngôn ngữ. Sự tiến hóa tự nhiên là tiền đề vật chất không thể thiếu được của ý thức. Tuy nhiên, điều kiện xã hội giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự ra đời của ý thức.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro