NHỮNG NỘI DUNG1920 ĐẾN 1930

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Phần II – NHỮNG NỘI DUNG TƯ TUỞNG HỒ CHÍ MINH HÌNH THÀNH TRONG GIAI ĐOẠN TỪ 1920 ĐẾN 1930

“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”. Những luận điểm về cách mạng Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển suốt đời cùng sự biến đổi của thực tiễn cách mạng và quá trình nhận thức của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, giai đoạn từ 1920 đến 1930 đáng được ghi nhận là  một trong những giai đoạn quan trọng bậc nhất trong quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí với sự hình thành tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc, về đảng cộng sản, về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng quốc tế…

Những nội dung tư tưởng hình thành trong giai đoạn này thể hiện ở những hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và chủ yếu ở các tác phẩm: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường kách mệnh (1927), và các tác phẩm tập hợp trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930).

I – Giai đoạn từ 1920 đến 1930 đã hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

Trong đó, Hồ Chí Minh đã xác định rõ mục tiêu, bản chất của cách mạng giải phóng dân tộc, từ đó có cái nhìn đúng đắn về phương pháp đấu tranh và phương pháp tập hợp lực lượng.

Về Mục tiêu của cách mạng: cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân, phải kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

Như chúng ta đã biết, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước với một xuất phát điểm duy nhất là long yêu nước thương nòi. Người muốn ra nước ngoài, “xem nước Pháp và các nước khác làm thế nào rồi sẽ về giúp đồng bào mình”. Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp vì đó là tổ chức duy nhất bênh vực quyền lợi của các thuộc địa mà chưa hề có nhận thức rõ ràng về Chủ nghĩa Mác – Lênin, về Chủ nghĩa xã hội. Đúng như sau này, Người đã thổ lộ: “Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó. Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình; trước đó, tôi chưa hề đọc một quyển sách nào của Lênin viết.

Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các “ông bà” ấy- (hồi đó tôi gọi các đồng chí của tôi như thế) – đã tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu.” (Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin – Bài viết cho tạp chí Các vấn đề phương Đông (Liên Xô) nhân dịp kỷ niệm lần thứ 90 ngày sinh của V.I.Lênin, năm 1960.)

Tháng 7 năm 1920, một sự kiện có tính chất bước ngoặt xảy ra với Hồ Chí Minh, khi lần đầu tiên Người đọc trên báo Nhân đạo của Đảng xã hội Pháp “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Theo Người thì tuy bài báo có những khái niệm chính trị khó hiểu nhưng “cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao? Tôi vui mừng đến phát khóc lên”. Từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lênin, ủng hộ Quốc tế III.

Đó cũng là cơ sở cho quyết định lịch sử của Hồ Chí Minh 5 tháng sau đó, tháng 12 năm 1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua, Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Người trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Người đã đi từ Chủ nghĩa yêu nước đến với Chủ nghĩa Mác Lênin.

Hồ Chí Minh khẳng định: bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin. Người viết: muốn giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đừơng cách mạng vô sản. “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.

Từ đó, Hồ Chí Minh ra sức tuyên truyền Chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước, thành lập Đảng cộng sản để lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thành công.

Về Bản chất của cách mạng: các mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mệnh”, đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc lập tự do.

Đây là một cách nhìn nhận, đánh giá hết sức đúng đắn của Hồ Chí Minh. Người đã nhìn ra mâu thuẫn cơ bản của một xã hội thuộc địa, đó là mâu thuẫn dân tộc. Khát vọng lớn lao nhất của người dân là được độc lập, tự do. Vì thế, trước hết phải thực hiện cuộc dân tộc cách mệnh để đánh đuổi ngoại xâm, thành lập chính quyền do nhân dân làm chủ. Đó là tiền đề, cũng là điều kiện tiên quyết để tiến hành đấu tranh giai cấp, xây dựng kinh tế xã hội…v.v.v..

Về Xác định và tập hợp lực lượng: giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng, phải tập hợp lực lượng dân tộc thành một sức mạnh lớn để chống đế quốc và tay sai. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh viết: “Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo”. Đồng thời lại “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức trung nông… để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nữa là làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách  mạng thì phải đánh đổ”.

Có thể đánh giá đây là quan điểm thể hiện tầm cao của tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã vượt qua được những hạn chế của các đồng chí đương thời của mình, thường nhấn mạnh quá cao vấn đề đấu tranh giai cấp mà không chú ý tận dụng được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc để đánh đổ kẻ thù chung, đáp ứng yêu cầu khẩn thiết nhất của lịch sử.

Trong các văn kiện do mình soạn thảo, Hồ Chí Minh vừa xác định rõ đâu là bạn, đâu là thù của cách mạng. Đồng thời cũng nhìn ra đâu là những bộ phận có thể bắt tay hợp tác có điều kiện. Những thắng lợi của phong trào cách mạng tháng Tám 1945 và các cuộc kháng chiến về sau đều có sự góp mặt của một nhân tố quan trọng: chúng ta đã nhìn nhận và tập hợp lực lượng được đúng đắn, phát huy được sức mạnh “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

Về xác định Phương pháp đấu tranh: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, của cả dân tộc đại đoàn kết. Phải tổ chức quần chúng, lãnh đạo và tổ chức đấu tranh bằng các hình thức và khẩu hiệu thích hợp. Phương pháp đấu tranh để giành chính quyền, giành lại độc lập tự do là bằng bạo lực của quần chúng và có thể bằng phương thức khởi nghĩa dân tộc.

Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và rút ra kinh nghiệm lịch sử từ các vị tiền bối. Người đánh giá các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đều là những vị anh hùng dân tộc, yêu nước thương dân nhưng phương pháp đấu tranh của các cụ chưa đúng và Người không đồng tình. Trong “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, Trần Dân Tiên đã phân tích nhận định của Hồ Chí Minh trước khi ra đi tìm đường cứu nước như sau:

“Anh (Trần Dân Tiên dùng để gọi Nguyễn Tất Thành) khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào. Vì:

Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu Người Pháp thực hiện cải lương. Anh nhận điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương.

Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.

Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến.

Anh thấy rõ và quyết định chọn con đường nên đi…”.

Hồ Chí Minh thấy rằng chỉ có bằng bạo lực của quần chúng nhân dân, và phải tự dựa vào mình “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, chứ không thể ỷ lại trông chờ bên ngoài.

Đó là những nhận thức đúng đắn đem lại nền độc lập cho nước ta ngày nay.

II – Giai đoạn từ 1920 đến 1930 đã hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc, cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới

Cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ mật thiết với nhau. Cách mạng thuộc địa không lệ thuộc vào cách mạng ở chính quốc mà có tính chủ động, độc lập. Cách mạng thuộc địa có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc và giúp cho cách mạng ở chính quốc trong nhiệm vụ giải phóng hoàn thành.

Phải đoàn kết và liên minh với các lực lượng cách mạng quốc tế, song phải nêu cao tinh thần tự lực tự cường, không được ỷ lại chờ đợi sự giúp đỡ của quốc tế.

* Những cơ sở hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh

Tinh thần đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn sôi nổi của Hồ Chí Minh trong phong trào công nhân quốc tế, cũng là sự kế thừa tinh thần của Quốc tế cộng sản.

Năm 1921, Hồ Chí Minh khi ấy đang hoạt động ở Pháp đã cùng một số nhà cách mạng của Angiêri, Tuynidi, Marốc, Mađagaxca… thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa. Hội đã ra báo Người cùng khổ, rồi bí mật chuyển về các thuộc địa. Qua đó truyền bá chủ nghĩa Mác và các tư tưởng của Hội. Các nghiên cứu cho thấy Hồ Chí Minh là người hoạt động tích cực, sôi nổi nhất của Hội.

Tiếp đó, năm 1927, Hồ Chí Minh lại thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức á đông tại Trung Quốc.

Ngoài ra, trong thời kỳ hoạt động ở Pháp, ở Anh, ở Liên Xô, Trung Quốc… Hồ Chí Minh cũng thường đi sâu vào phong trào công nhân, thợ thuyền của các địa phương đó. Chính hoạt động thực tiễn đã giúp cho Hồ Chí Minh có được sự cảm thông, và Ngừơi dễ dàng tiếp nhận và hưởng ứng tinh thần của Quốc tế cộng sản “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”.

“Vô sản toàn  thế giới liên hiệp lại”, đó là câu đề dẫn cho bản in Tuyên ngôn của Đảng cộng sản do Các Mác và Ăngghen soạn thảo năm 1848. Cùng với sự phát triển của phong trào cách mạng quốc tế, nội hàm của lời kêu gọi ấy được bổ sung: “Vô sản và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới liên hiệp lại”.

Trong quá trình soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930 cũng như suốt quãng thời gian lãnh đạo về sau, Hồ Chí Minh đều khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, và Người yêu cầu phải đoàn kết chắt chẽ cùng vô sản thế giới, nhất là vô sản Pháp.

Sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nguồn lực to lớn tạo nên những thắng lợi thần kỳ của quân và dân ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

III – Giai đoạn từ 1920 đến 1930 đã hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản và cán bộ cách mạng

Cách mạng muốn thành công trước hết phải có đảng cách mạng lãnh đạo, vận động và tổ chức quần chúng đấu tranh. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy đúng hướng, tới đích. Đảng phải có lý luận làm cốt.

Đồng thời, Đảng muốn mạnh thì phải có người cán bộ cách mệnh mạnh. Vì vậy, Hồ Chí Minh rất chú trọng đến tiêu chuẩn của Người cán bộ cách mạng.

Năm 1925, Hồ Chí Minh sáng lập “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội” với tôn chỉ “trước làm cách mạng quốc gia, sau làm cách mạng quốc tế”. Cùng với đó, Người mở các lớp huấn luyện tại Quảng Châu – Trung Quốc để đào tạo cán bộ. Các bài giảng của Người được tập hợp và in thành cuốn “Đường kách mệnh” năm 1927. Đó là những bước chuẩn bị của Hồ Chí Minh cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam, cũng là quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản và tư tưởng Hồ Chí Minh về người cán bộ cách mạng.

* Bằng những nghiên cứu lý luận và tổng kết hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã chỉ ra:

Đảng cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Người viết: “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc thắng lợi” (Hồ Chí Minh toàn tập – tập 9, trang 290). Trong Đường kách mệnh, Người viết: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức quần chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”. Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng.

Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ, chí khí phải kiên quyết. Vì vậy phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền.

Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”.

Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm của Chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Điều đó lý giải vì sao năm 1925 Hồ Chí Minh chỉ thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội mà không thành lập ngay đảng cộng sản vì khi đó 3 nhân tố cho sự ra đời của Đảng cộng sản chưa chin muồi: Chủ nghĩa Mác – Lênin chưa được truyền bá sâu rộng trong nước, phong trào công nhân đang phát triển tự phát mà chưa chuyển sang tự giác, phong trào yêu nước thì manh mún, chia rẽ thành nhiều khuynh hướng khác nhau. Thông qua VN TNCMĐCH, Hồ Chí Minh đã chuẩn bị mọi mặt để thành lập Đảng.

Đây cũng là một bước phát triển mới trong Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong khi Lênin, bằng sự quan sát thực tiễn cách mạng châu Âu, cho rằng Đảng ra đời kết hợp bởi chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân thì Hồ Chí Minh, với sự hiểu biết đất nước mình – một xã hôị thuộc địa cho rằng cần cộng thêm vào đó cả phong trào yêu nước. Và Đảng cộng sản Việt Nam thực sự “là đảng của dân tộc”.

Hồ Chí Minh khẳng định rằng: Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Trong Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta là đội tiên phong của vô sản giai cấp”. Trong Chương trình vắn tắt của Đảng Người viết: Đảng là “đội tiên phong của đạo quân vô sản”. Đảng tập hợp vào hàng ngũ của mình những người “tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản, hăng hái tranh đấu và dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng”. Hồ Chí Minh khẳng định rõ mục đích của Đảng là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. “Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới”.

Để đạt mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng cộng sản Việt Nam phải lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt”, phải dựa vào lý luận cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mác Lênin. Khi huấn luyện cho cán bộ cách mạng năm 1925 – 1927, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn vững phải có Chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu  không có kim chỉ nam” và Người khẳng định “Chủ nghĩa” ấy là chủ nghĩa Mác Lênin. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn luôn coi trọng chủ nghĩa Mác Lênin, chính chủ nghĩa Mác Lênin là nguồn gốc cơ bản nhất hình thành tư tưởng của Người. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác Lênin thực sự là “mặt trời soi sáng” cho con đường cách mạng Việt Nam, là “cái cẩm nang thần kỳ” để giải quyết cá công việc cho đúng đắn… Hồ Chí Minh đã ví chủ nghĩa Mác – Lênin như trí không của con người, như bàn chỉ nam định hướng cho con tàu đi là nói lên vai trò cực kỳ quan trọng của lý luận ấy trong tất cả các thời kỳ cách mạng. Với ý nghĩa đó, theo Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa Mác Lênin trở thành “cốt”, trở thành nền tảng tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.

IV – Ngoài ra, thời kỳ 1920 đến 1930, Hồ Chí Minh cũng tiếp tục phát triển tư tưởng yêu nước mở rộng mối hiểu biết về văn hoá, thế giới

1. Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển tư tưởng yêu nước tập trung vào hai mảng chính:

Một là: tố cáo chế độ thực dân Pháp.Trong thời kỳ 1920 đến 1930, Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài đăng các báo Người cùng khổ của Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, Nhân đạo của Đảng cộng sản Pháp, Đời sống công nhân của Tổng liên đoàn lao động Pháp… qua đó Người vạch trần những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa thực dân, tố cáo những tội ác mà thực dân Pháp đã thực hiện ở Đông Dương.

Đặc biệt, năm 1927, Người xuất bản “Bản án chế độ thực dân Pháp” là một lời buộc tội  rất mạnh mẽ. Người đưa ra luận điểm nổi tiếng: Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có hai vòi, “một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa”. Vậy nên, “nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”. Từ đó Người vạch rõ chủ nghĩa thực dân không chỉ là kẻ thù của các dân tộc bị áp bức, mà đồng thời là kẻ thù của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính quốc.

Hai là: tố cáo sự thối nát, mục rỗng, ăn hại của chính quyền nhà Nguyễn. Thời kỳ này, Người đã viết những tác phẩm văn học hết sức lý thú như: Vi hành, Con người biết mùi hun khói, Những lời than vãn của bà Trưng Trắc…

Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn nêu lên nỗi thống khổ của nhân dân, đi vào nhân dân, cùng sống và vận động nhân dân. Tiêu biểu là thời kỳ ở Thái Lan.

2. Thời kỳ 1920 đến 1930, Hồ Chí Minh cũng tăng cương sự hiểu biết về văn hoá chính trị thế giới thông qua các chuyến du lịch các nước. Và Người cũng chăm chỉ rèn luyện ngoại ngữ nên đã sử dụng được nhiều thứ tiếng nói. Đó là những chìa khóa quý báu để bước vào kho tàng tri thức nhân loại.

Những hiểu biết sâu sắc và rộng lớn trên nhiều lĩnh vực là cơ sở giúp Hồ Chí Minh có những nhận định đúng đắn về phong trào cách mạng và phát triển những luận điểm tư tưởng của mình.

V – Những nội dung tư tưởng mà Người vận dụng sang tạo và phát triển CN Mác – Lênin trong thời kỳ này

Nghiên cứu quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh giai đoạn 1920 – 1930 không thể không chỉ ra những luận điểm mà Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác Lênin, bởi đó những luận điếm sáng tạo đó không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với Hồ Chí Minh mà nó còn có ý nghĩa sống còn với cách mạng Việt Nam.

Những luận điểm mà Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển trong thời kỳ này gồm có: tư tưởng về mối quan hệ cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc, mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, quan điểm về tập hợp lực lượng cách mạng, và việc vận dụng phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin.

1. Hồ Chí Minh đã nêu luận điểm đặc biệt sáng tạo: cách mạng ở các nước thuộc địa có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc. Nhân dân Việt nam hoàn toàn có thể chủ động đứng lên, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Không ỷ lại chờ đợi cách mạng chính quốc.

Hồ Chí Minh tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III nhưng vốn là người dân thuộc địa và là người cộng sản lăn lộn tỏng phong trào thuộc địa va nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa thực dân, Người đã đề ra những luận điểm về tính chủ động, tích cực của cách mạng giải phóng dân tộc, của nhân dân các nước thuộc địa, bổ sung vào những luận điểm chung lúc bấy giờ.

Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa không hoàn toàn phụ thuộc  vào cách mạng vô sản chính quốc. Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể “chủ động đứng lên, đem sức ta mà giải phóng cho ta”, giành thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc.

Trong Tuyên ngôn của Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa (1921), Người viết: Công cuộc giải phóng an hem chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân an hem”. Đến Đường kách mệnh (1927), Người lại chỉ rõ “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”, và Người dự báo: Việt Nam dân tộc cách mạng thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mạng càng dễ”. Luận điểm sáng tạo này của Hồ Chí Minh mang tính cách mạng và khoa học đúng đắn đã được Người khảo sát, chứng minh.

2. Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.

Theo Người, đối với Việt Nam không giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết được vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phát triển phương Tây. Mà ngược lại, chỉ có giải phóng được dân tộc mới giải phóng được giai cấp, giai phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp.

Ở Việt Nam, cùng với sự tồn tại của mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp trong nội bộ dân tộc, nổi lên mâu thuẫn dân tộc và đấu tranh dân tộc giữa toàn thể dân tộc với chủ nghĩa thực dân đế quốc và bè lũ tay sai. Do đó, theo Người: Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước và đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh của giai cấp công nhân với nông dân trí thức là một chiên lược cách mạng, là lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam.

“Chủ nghĩa dân tộc” theo Hồ Chí Minh, hoàn toàn không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc phong kiến, tư sản hay của Quốc tế II, mà là chủ nghĩa dân tộc chân chính theo lập trường chủ nghĩa Mác Lênin gắn dân tộc với quốc tế, dân tộc với giải phóng giai cấp, hướng tới triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

3. Từ chỗ xác định đúng đắn mối quan hệ dân tộc – dân chủ  nên Hồ Chí Minh đã đề ra phương pháp tập hợp lực lượng đúng đắn. Đó là luận điểm tư tưởng được xây dựng trên tinh thần “đại đoàn kết” của Hồ Chí Minh.

4. Hồ Chí Minh một mặt khẳng định tính chân thực của Chủ nghĩa Mác – Lênin, nhưng mặt khác trong khi tìm hiểu và vận dụng những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn xã hội Việt Nam và các dân tộc phương Đông, Người đã sớm phát hiện ở phương Đông có những đặc điểm khác với các nước phương Tây mà thời Mác chưa có điều kiện nghiên cứu. Hồ Chí Minh đã bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin bằng những luận điểm mới rất quan trọng.

Trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ gửi Quốc tế Cộng sản năm 1924, Người viết: “Cuộc đấu tranh giai cấp ở phương Đông không giống như ở phương Tây”… Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà thời Mác không thể có được.

“Mác đã xây dựng học thuyết cảu mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu âu. Mà châu âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại…” Xem xét lại chủ nghĩa Mác và cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằn dân tộc học phương Đông, đó là điều cần làm.

Từ phương pháp tiếp cận đúng đắn, mạnh dạn, khoa học trong kế thừa và phát triển học thuyết Mác – Lênin, đồng thời bám sát đặc điểm của thực tiễn Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh đã có những luận điểm sáng tạo góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác – Lênin, nhất là những vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ mới và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở một nước phương Đông, thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế lạc hậu…

Đó là những nét đóng góp cực kỳ quan trọng của Hồ Chí Minh trong thời kỳ này.

KẾT LUẬN CHUNG

Tóm lại, với 10 năm hoạt động sôi nổi, từ năm 1920 đến 1930, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào vô sản trên thế giới, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc trong nước, Hồ Chí Minh đã hoạt động rất tích cực, sôi nổi. Được sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng chí, bạn bè, Người đã nhận thức và hiểu được các quy luật vận động và phát triển của phong trào cách mạng trong nước và thế giới, từ đó Người tiếp cận với ánh sáng Chủ nghĩa Mác – Lênin, sáng lập nên Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Người đi từ người yêu nước chân chính đến người cộng sản. Trong quá trình ấy, các tư tưởng cơ bản về cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh hình thành và phát triển. Những tư tưởng ấy được chính Người vận dụng và rèn rũa, trong đó có rất nhiều điểm sáng tạo với Chủ nghĩa Mác Lênin. Và ngày nay, sau gần một thế kỷ, những tư tưởng ấy vẫn sáng chói và soi đường cho chúng ta bước tiếp. Tuy nhiên, sự phát triển biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ đồng thời bổ sung phát triển thêm những nội dung tư tưởng mới nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang thay đổi từng ngày từng giờ./.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro