Những trận Hải chiến nổi tiếng lịch sử trong Đại chiến thế giới lần thứ hai 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trận Taranto

Ngày diễn ra trận đánh: Ngày 12 tháng 11 năm 1940

Địa điểm: Taranto, Italia

Kết quả: Anh chiến thắng

Các bên tham chiến:Vương quốc Anh

Chỉ huy :Lumley Lyster

Lực lượng: 21 máy bay phóng ngư lôi,1 tàu sân bay ,2 tàu tuần dương hạng nặng, 2 tuần dương hạm hạng nhẹ, 5 tàu khu trục ,

Thương vong:2 bị giết ,2 bị bắt ,2 máy bay bị bắn hạ

Italia

Chỉ huy:Inigo Campioni

Lực lượng :6 tàu thiết giáp hạm,9 tàu tuần dương hạng nặng, 7 tàu tuần dương hạng nhẹ, 13 tàu khu trục

Thương vong :59 bị giết, 600 bị thương, 1 thiết giáp hạm bị phá hủy, 2 thiết giáp hạm bị hư hại

Trận chiến hải quân Taranto đã diễn ra vào đêm ngày 11-> đến ngày12 tháng 11 năm 1940 trong thời gian của cuộc Chiến thế giới II.Hải quân Hoàng gia đã phát động cuộc tấn công bằng máy bay hải quân đầu tiên trong lịch sử các trận hải chiến hạm đối hạm,một số lượng nhỏ máy bay phóng ngư lôi từ một tàu sân bay trong biển Địa trung hải đã tấn công 1 hạm đội của Hải quân Ý đang neo đậu tại cảng Taranto, người Anh sử dụng chiến thuật phóng ngư lôi từ trên không(aerial torpedo)bất chấp trở ngại về mặt địa hình là cảng này có mực nước rất nông. Sức tàn phá của các máy bay được phóng từ tàu sân bay của Anh vào những tàu thiết giáp lớn của Ý là sự khởi đầu của việc gia tăng về sức mạnh của Lực lượng không quân của hải quân và lực lượng này là khắc tinh của các tàu thiết giáp hạm với những khẩu súng lớn.Một khoảng thời gian dài trước khi nổ ra Thế chiến lần thứ nhất Hải đội đầu tiên của Hải quân Hoàng gia Ý đã thả neo tại Taranto. Trong giai đoạn này Hải quân Hoàng gia Anh bắt đầu lên kế hoạch cho việc làm suy yếu sức mạnh của hạm đội Ý . Việc làm suy yếu sức mạnh của bất kỳ kẻ thù nào ở biển Địa Trung Hải là một bài tập thường xuyên của Hải quân Anh. Kế hoạch tiêu diệt các tầu chiến Ý ở cảng Taranto được coi là sự trả lời sớm nhất của người Anh cho cuộc xâm lược của người Ý vào quốc gia Abyssinie vào năm 1935.Trong thời gian năm 1940-1941 Quân đội Ý đang hoạt động tại Bắc Phi có tổng hành dinh tại Libya, yêu cầu một đường dây tiếp tế từ Italy.Quân đội Anh cũng đang đóng tại Bắc Phi có tổng hành dinh tại Ai Cập, cũng đang gặp những khó khăn còn lớn hơn nhiều về mặt tiếp tế. Các đoàn công voa chở đồ tiếp tế cho Ai Cập phải hoặc là băng qua biển Địa Trung Hải ngang qua Gibraltar và Malta và sau đó đến gần bờ biển Sicily, hoặc là đi vòng qua Mũi Hảo Vọng tức là phải hành trình vượt qua toàn bộ bờ biển phía đông của châu Phi, và sau đó vượt qua Kênh đào Suez để đến Alexandria. Tuyến đường thứ 2 là một tuyến đường rất dài và mất nhiều thời gian, cấu tạo về mặt Địa lý đã đưa hạm đội Ý vào một vị trí tuyệt vời để ngăn chặn nguồn tiếp tế và gửi quân tiếp viện của người Anh.Người Anh đã giành chiến thắng trong một số trận đánh và xáo trộn đáng kể cán cân sức mạnh tại vùng biển Địa Trung Hải . Theo học thuyết Fleet in being ( một học thuyết về Hải quân được phát kiến bởi Sir Arthur Herbert - Bá tước đầu tiên của Torrington trong năn 1690), người Ý thường cất giữ tàu chiến của mình ở trong cảng . Hạm đội Ý ở Taranto là một hạm đội mạnh bao gồm: sáu tàu thiết giáp (năm chiếc có thể tham chiến tức thì),bảy tàu tuần dương hạng nặng, Hai tuần dương hạm hạng nhẹ, và tám tàu khu trục, tạo nên một sự đe dọa nghiêm trọng vào tuyến đường vận tải của người Anh cho Bắc Phi.Trong khoảng thời gian xảy ra cuộc khủng hoảng Munich vào năm 1938 , Sir Dudley Pound Đô đốc chỉ huy Hạm đội Địa Trung Hải của Anh đã có nhiều quan tâm về sự sống còn của chiếc tàu sân bay HMS Glorious để chống lại đối thủ là Hạm đội Ý tại Địa Trung Hải. Pound đã ra lệnh cho các nhân viên của ông ta phải xem xét thật kỹ cảng tất cả các kế hoạch tấn công Taranto . Ông nhận được lời tư vấn từ thuyền trưởng của chiếc Glorious, Arthur Lyster, rằng các máy bay Fairey TSR Swordfish của nó có khả năng tung ra một cuộc tấn công bằng ngư lôi lắp trên máy bay vào ban đêm. Thực vậy phi đội máy bay này là lực lượng không quân duy nhất có khả năng làm được việc đó. Pound đã chấp nhận lời tư vấn của Lyster và ông ra lệnh khẩn trương để để bắt đầu tiến hành đào tạo. An ninh được đảm bảo chặt chẽ đến mức không có bản ghi nào được lưu lại Chỉ một tháng trước khi cuộc chiến bắt đầu,Pound đã chú ý tư vấn lại cho người thay thế ông,Đô đốc Andrew Cunningham, rằng hãy xem xét khả năng này. Vì vậy sau này kế hoạch tấn công Hạm đội Ý tại Taranto được gọi là "Operation Judgement".Sự sụp đổ của nước Pháp và những tổn thất hậu quả của hạm đội Pháp tại Địa Trung Hải ( ngay cả trước " Chiến dịch Catapult ") đòi hỏi phải có sự khắc phục cần thiết.Chiếc tàu sân bay cũ hơn - HMS Eagle trong thành phần lực lượng của Cunningham đang có một Fairey TSR Swordfish rất giàu kinh nghiệm.Ba chiếc máy bay Sea Gladiator cũng được tăng cường cho chiến dịch. Kế hoạch bắt đầu được tiến hành sau khi quân đội Ý bị cầm chân tại Sidi Barrani và điều này đã làm rảnh tay Hạm đội Địa Trung Hải của Anh."Operation Judgement" chỉ là một phần nhỏ của kế hoạch "Operation MB8".Ban đầu nó được dự kiến diễn ra vào ngày 21 tháng 10 năm 1940 , ngày kỷ niệm trận đánh Trafalgar, Nhưng một đám cháy đã bùng lên từ một thùng nhiên liệu phụ 60 Imperial gallon ( 270 lít) của một trong số các chiếc Swordfish, chiếc thùng nhiên liệu phụ được thêm vào để mở rộng tầm bay đến được Taranto và đám cháy lại càng chở nên trầm trọng hơn sau khi tiêu hủy thêm hai chiếc Swordfish nữa. Sau đó chiếc HMS Eagle gặp vấn đề ở hệ thống tiếp nhiên liệu của nó vì vậy nó bị loại khỏi chiến dịch.Chiếc tàu sân bay mới HMS Illustrious trở thành chiếc duy nhất phải đi làm nhiệm vụ tại Địa Trung Hải, lúc này nó đang thả neo tại Alexandria.( Thủy thủ đoàn của nó đã từng nằm dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Lyster người đã lập nên kế hoạch tấn công Taranto).Chiếc HMS Illustrious lấy thêm năm chiếc Swordfish từ chiếc tàu HMS Eagle và nó sẽ là chiếc tầu sân bay duy nhất để phát động các cuộc không kích.Người Anh nhanh chóng thành lập lực lượng hải quân đặc biệt bao gồm chiếc HMS Illustrious, hai tàu tuần dương hạng nặng, hai tầu tuần dương hạng nhẹ, và bốn tàu khu trục.24 chiếc Swordfish tấn công được lấy từ các phi đội Không quân của Hải quân số 813/ 815/ 819 và 824.Chỉ một số lượng nhỏ máy bay tham gia tấn công gây nên những lo ngại rằng "Operation Judgement" sẽ chỉ có tác dụng cảnh báo và làm Hải quân Ý đề cao cảnh giác chứ không đạt được kết quả quan trọng nào. Chiếc HMS Illustrious cũng có phi đội máy bay tiêm kích số 806 ở trên tàu để tạo sự yểm trợ trên không cho lực lượng đặc nhiệm này.Một nửa số chiếc Swordfish được trang bị ngư lôi tạo thành lực lượng máy bay tấn công chủ lực, một nửa số khác mang bom và pháo sáng để thực hiện các cuộc tấn công bổ nhào. Những quả ngư lôi được nạp loại thuốc nổ Duplex có khả năng từ tính và vô cùng nhạy cảm với các biển có sóng mạnh như các cuộc tấn công sau đó vào chiếc tàu chiến Bismarck của Hải quân Đức sau đó đã cho thấy.Lúc đó cũng có những lo ngại rằng các quả ngư lôi phóng từ trên không sẽ rơi ra ngoài sau khi được thả xuống. Tỷ lệ mất mát của các máy bay ném bom tham gia trận đánh được dự kiến lên đến 50%.Một số các chuyến bay trinh sát được tiến hành bởi các máy bay ném bom Martin Maryland(phi đội số 431 của Không quân Hoàng gia ) cất cánh từ Malta để xác định lại vị trí của Hạm đội Ý.Những chuyến bay này đã chụp được ảnh mà qua đó sĩ quan tình báo của chiếc Illustrious đã bất ngờ phát hiện được được một chiếc kinh khí cầu và kế hoạch tấn công lại phải được thay đổi cho phù hợp với tình hình mới (có khinh khí cầu thì người Ý sẽ phát hiện ra lực lượng tấn công và kịp thời chuẩn bị tác chiến). Để chắc chắn rằng các tàu chiến của Ý đã không đi ra khỏi cảng, người Anh cũng tung ra một chuyến bay trinh sát bằng máy bay Short Sunderland vào đêm ngày 11 tháng 11, cùng với việc lực lượng tàu sân bay đặc nhiệm được tập hợp ở khoảng 170 dặm ( 315 km ) từ cảng Taranto, ngoài khơi hòn đảo Cephalonia của Hy Lạp.Chuyến bay trinh sát đã cảnh báo lực lượng Ý ở miền nam nước Ý nhưng vào lúc này họ không có bất kỳ hệ thống radar và điều mà người Ý có thể làm là ngồi mà chờ xem điều gì sẽ xảy ra.Hải quân Ý trong lúc này hoàn toàn có thể được tung ra biển để tìm kiếm bất kỳ tầu chiến nào của lực lượng hải quân Anh, nhưng ý tưởng này rõ rệt là đi ngược lại với triết lý của hải quân Ý trong giai đoạn tháng 1 năm 1940 -> tháng 9 năm 1943, khi nước Ý đã đầu hàng Đồng Minh và tuyên chiến với nước Đức.Sự phức tạp của chiến dịch "Operation MB8" với các lực lượng và các đoàn công voa khác nhau của nó đã thành công trong việc đánh lừa người Ý rằng đội tầu đặc nhiệm này cũng chỉ là một đoàn công voa bình thường, qua đó nó góp phần vào thành công của chiến dịch "Operation Judgement".

Cuộc tấn công

Đợt đầu tiên của 12 chiếc máy bay Fairey Swordfish cất cánh từ chiếc HMS Illustrious ngay trước 21:00, tiếp theo là đợt thứ hai gồm chín máy bay ném bom cất cánh khoảng một giờ rưỡi sau đó. Đợt máy bay đầu tiên đó bao gồm một hỗn hợp của sáu máy bay mang ngư lôi, và sáu chiếc khác mang bom từ trên không, được chia thành hai đội khi ba chiếc máy bay ném bom và một chiếc máy bay phóng ngư lôi đi lạc khỏi lực lượng chính khi bay qua các đám mây nhỏ.Nhóm máy bay nhỏ hơn tiếp tục bay đến Taranto một cách độc lập. Nhóm máy bay chính tiếp cận bến cảng vào khoảng 22:58 .Một quả pháo sáng được thả ở phía đông của bến cảng và chiếc máy bay thả quả pháo sáng này cùng một chiếc nữa đã tiến hành một đợt tấn công ném bom bổ nhào để đốt cháy chiếc tầu chở dầu. Ba máy bay tiếp theo do Thiếu tá K. Williamson thuộc phi đội 815 Hải quân Hoàng gia chỉ huy bay qua đảo San Pietro và đánh chìm chiếc thiết giáp hạm Conte di Cavour bằng một quả ngư lôi, quả ngư lôi này nổ tung tạo một lỗ rộng 27ft ở phần bên dưới mực nước của con tầu. Chiếc máy bay của Williamson bị bắn hạ bởi pháo phòng không từ các chiến hạm Ý. Hai chiếc máy bay còn lại trong đội bay này tiếp tục bay một cách lắt léo để tránh quả khinh khí cầu và chúng phải nhận những loạt đạn phòng không hạng nặng làm chúng phải quay về khi triển khai một cuộc tấn công không thành công vào chiếc thiết giáp hạm Andrea Doria. Một nhóm nhỏ máy bay tiếp theo gồm ba chiếc tấn công từ hướng bắc, tốp này tấn công vào chiếc thiết giáp hạm Littorio và bắn vào nó hai quả ngư lôi, quả ngư lôi còn lại được nhằm vào chiếc kỳ hạm Vittorio Veneto nhưng lại không trúng mục tiêu. Đội máy bay ném bom do đại úy O. Patch chỉ huy triển khai đợt tấn công tiếp theo. Các phi công của đội bay này thấy rằng rất khó để xác định mục tiêu (các thiết giáp hạm được ưu tiên) nên họ đã quay ra tấn công hai tàu tuần dương từ độ cao 1.500 ft , theo sau là một chiếc máy bay khác nữa và chiếc này thả quả bom của nó cắt chéo qua bốn chiếc tàu khu trục.Đợt tấn công thứ hai gồm chín chiếc máy bay bây giờ mới xuất hiện, hai trong bốn chiếc máy bay ném bom có mang theo pháo sáng và năm chiếc còn lại mang ngư lôi. Một chiếc phải quay trở về vì có vấn đề xẩy ra với thùng nhiên liệu phụ của nó và một chiếc máy bay cất cánh 20 phút sau những chiếc khác sau khi được sửa chữa khẩn cấp các thiệt hại từ một tai nạn nhỏ khi cất cánh. Pháo sáng đã được thả xuống ngay trước nửa đêm. Hai máy bay phóng ngư lôi của chúng vào chiếc Littorio và một quả trong số đó đã trúng mục tiêu.Một chiếc máy bay khác mặc dù đã hai lần trúng đạn phòng không nhưng vẫn cố phóng một quả ngư lôi vào chiếc kỳ hạm Vittorio Veneto nhưng phóng ngư lôi này cũng bị trượt mục tiêu. Một chiếc máy bay phóng vào chiếc thiết giáp hạm Caio Duilio một quả ngư lôi tạo một lỗ lớn ở thân con tầu và làm ngập ở cả hai kho đạn ở phía trước của nó.Chiếc máy bay của Trung úy Bayly bị bắn hạ bởi chiếc tàu tuần dương hạng nặng Gorizia khi nó tiếp tục tấn công vào chiếc Littorio, chiếc máy bay này là chiếc duy nhất bị mất trong đợt tấn công thứ hai.Chiếc máy bay cuối cùng đến mục tiêu 15 phút sau những chiếc khác và thực hiện một cú ném bom bổ nhào tấn công vào một chiếc tàu tuần dương Ý mặc dù hỏa lực phòng không bắn lên dày đặc và nó quay trở về sàn bay của chiếc HMS Illustrious một cách an toàn vào lúc 02:39.Trong số hai chiếc máy bay hai bị bắn hạ, hai thành viên phi hành đoàn của chiếc máy bay đầu tiên bị bắt làm tù binh, nhưng hai người khác đã bị giết chết.

Hậu quả

Hạm đội Ý đã phải chịu rất nhiều thiệt hại và ngày hôm sau Regia Marina (Hải quân Ý) phải chuyển những tàu không bị hư hại của nó từ Taranto đến Naples để bảo vệ chúng khỏi các đợt tấn công tương tự.Việc sửa chữa chiếc Littorio mất khoảng năm tháng và chiếc Caio Duilio mất chừng sáu tháng, nhưng việc sửa chữa chiếc Conte di Cavour đòi hỏi phải mở rộng công việc cứu hộ và công việc sửa chữa nó đã không được tiến hành một cách đầy đủ khi Italia đầu hàng Đồng minh vào năm 1943 và tuyên bố chiến tranh chống lại Đức Quốc xã. Hạm đội thiết giáp hạm của Ý mất khoảng một nửa sức mạnh của mình trong chỉ trong một đêm.Học thuyết "fleet-in-being" cũng bị giảm bớt tầm quan trọng và Hải quân Hoàng gia tăng kiểm soát hầu hết các vùng trong biển Địa Trung Hải. Mục tiêu là kiểm soát vùng biển này, với sự giúp đỡ của Hải quân Hoa kỳ và Hải quân Hoàng gia Canada trong thời gian từ năm 1943-> 1944, đã trở thành thiện thực.Mặc dù trận này đã gây ra những trở ngại nghiêm trọng cho Regia Marina nhưng người Ý vẫn có đủ các nguồn lực đầy để tổ chức trận trận Cape Spartivento ngày 27 tháng 11 năm 1940 ( trận này Ý thắng).Tuy nhiên người Anh lại đánh bại hạm đội Ý một vài tháng sau đó trong trận Cape Matapan ở gần Hy Lạp vào tháng 3 năm 1941.Các chuyên gia về ngư lôi trên không trong tất cả các lực lượng hải quân hiện đại trước đó đều cho rằng các cuộc tấn công phóng ngư lôi diệt hạm phải được tiến hành ở vùng nước sâu, ít nhất là sâu đến 30 m ( 100 ft). Cảng Taranto có mực nước chỉ sâu khoảng 12 m ( 40 ft). Tuy nhiên Hải quân Hoàng gia sử dụng ngư lôi có cải tiến và thả chúng từ độ cao rất thấp.Các sỹ quan của Hải quân Đế quốc Nhật Bản nghiên cứu kỹ lưỡng cuộc không kích vào Taranto khi họ lập kế hoạch phóng ngư lôi trong trận không kích vào Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941.Trận không kích Trân Châu Cảng là một trận đánh lớn hơn một cách đáng kể khi so với trận Taranto, sáu chiếc tàu sân bay hạm đội của Đế quốc Nhật Bản, mỗi chiếc mang một số lượng máy bay lớn hơn gấp đôi những chiếc máy bay mà một tàu sân bay của Anh có thể mang được. Do đó dẫn đến khả năng tàn phá lớn hơn rất nhiều lần,Người Nhật đã đánh chìm hoặc làm vô hiệu hóa bảy thiết giáp hạm của Mỹ và làm hư hại nghiêm trọng nhiều tàu chiến khác.Tuy nhiên người ta lại có thể lập luận rằng cuộc không kích này vào Hạm đội Hoa Kỳ không làm thay đổi cán cân quyền lực ở Thái Bình Dương theo cùng một cách mà cuộc tấn công vào Taranto đã làm được ở biển Địa Trung Hải (vì đương nhiên là Hoa kỳ mạnh hơn nước Ý nhiều lần).Các thiết giáp hạm cũ và chậm chạp của Hoa kỳ trở nên ít hữu dụng trong vùng lãnh thổ rộng lớn của Thái Bình Dương khi so với hiệu quả của thiết giáp hạm trong giới hạn hẹp của biển Địa Trung Hải. Ngoài ra các nhà lãnh đạo của Hải quân Mỹ đã buộc phải hiện đại hóa suy nghĩ của mình: sự thống trị của các tầu hải quân chủ lực đã chuyển sang thành sự thống trị của tàu sân bay trong cuộc chiến. Hải quân Mỹ có sáu tàu sân bay Hạm đội hiện đại, tốc độ cao có sẵn để tiến hành cuộc chiến chống lại Hải quân Nhật, và cả sáu chiếc trong số này đều gia nhập cuộc chiến - bốn chiếc trong số này bị đánh chìm. Một điều quan trọng là Hải quân Mỹ có nhiều tầu sân bay mới được thiết kế tốt như lớp tàu sân bay Essex đã được chế tạo và họ đã bắt đầu giành được những chiến thắng trong cuộc chiến chống lại Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943.Các tàu sân bay mới và mạnh mẽ của Hải quân Mỹ đã trở thành những công cụ chủ yếu trong công cuộc phản công chống lại Đế quốc Nhật Bản.

Trận chiến eo biển Đan Mạch

Ngày diễn ra trận đánh: ngày 24 tháng 5 năm 1941

Nơi xảy ra trận đánh: Eo biển Đan Mạch

Kết quả: Hải quân Đức hoàn toàn chiến thắng ( còn có nhiều tranh luận về chiến thắng của người Đức, nhưng theo thiển ý bản thân thì em thấy người Đức phải 2 chọi 4 mà đánh chìm chiếc HMS Hood, loại khỏi vòng chiến chiếc HMS Prince of Wales, đây lại là những chiến hạm mạnh nhất của Hải quân Anh, thì đó phải là một chiến thắng quá rực rỡ chứ ko chỉ có ý nghĩa về mặt chiến thuật)

Các bên tham chiến:Hải quân Đế chế Đức - Kriegsmarine

Chỉ huy:Günther Lütjens

Sức mạnh:1 thiết giáp hạm,1 tàu tuần dương hạng nặng

Thương vong:1 thiết giáp hạm bị thiệt hại,thương vong nhẹ về mặt nhân sự

Hạm đội chính - Home Fleet của Hải quân Hoàng gia

Chỉ huy: Lancelot Holland,John Leach

Sức mạnh:1 thiết giáp hạm,1 tàu tuần dương chủ lực,2 tầu tuần dương hạng nặng

Thương vong:1 tàu tuần dương chủ lực bị chìm,1 thiết giáp hạm bị thiệt hại nặng nề và bỏ chạy,1.428 người chết,9 người bị thương

Trận eo biển Đan Mạch là một trận hải chiến ở Chiến tranh thế giới II giữa các tàu chiến của Hải quân Hoàng gia và Hải quân Đức Kriegsmarine.Chiếc thiết giáp hạm Prince of Wales và tuần dương hạm chủ lực Hood của Anh đã giao chiến với chiếc thiết giáp hạm Bismarck và tuần dương hạm hạng nặng Prinz Eugen của Đức, Cả hai chiếc tầu của Đức đều đang cố gắng để thoát vào biển Bắc Đại Tây Dương để tiêu diệt tàu chở hàng của Đồng Minh.Chưa đầy mười phút sau khi tầu Anh nổ súng mở đầu cuộc chiến một được bắn từ chiếc Bismarck đã bắn trúng kho đạn dược ở phía sau của nó. Ngay sau đó chiếc Hood đã phát nổ và chìm trong vòng ba phút với tổn thất của gần như tất cả thủy thủ đoàn, chỉ còn 3 người trong số họ còn sống sót.Chiếc Prince of Wales tiếp tục bắn qua bắn lại với Bismarck nhưng có những trục trặc nghiêm trọng trong hệ thống vũ khí chính của nó vì chiếc thiết giáp hạm đã không được cải tiến một cách hoàn chỉnh sau khi quá trình này hoàn tất vào cuối tháng 3 năm 1941. Sự việc này kết hợp với ảnh hưởng của trận đánh khiến nó phải thoát ra ngoài trận đánh.Chiếc Bismarck tuy bị hỏng hóc nhưng vẫn còn hoạt động tốt đã không đuổi theo chiếc Prince of Wales và thay vào đó nó hướng đến Đại Tây Dương cùng với chiếc Prinz Eugen.

Bối cảnh trước khi xảy ra trận đánh

Ngày 18 tháng 5 năm 1941 chiếc thiết giáp hạm mới của hải quân Đức - Bismarck đã sẵn sàng, sau khi được thử nghiệm rộng rãi, cho các chuyến đi đầu tiên của nó để tấn công các tuyến đường vận tải của đối phương trong chiến dịch "Operation Rheinübung".Nó đi kèm với chiếc Prinz Eugen, một chiếc tàu tuần dương mới cũng lần đầu tiên làm sứ mệnh của nó. Đô đốc Lütjens chỉ huy hạm đội Đức dự định phá vỡ phong tỏa để tiến ra biển Đại Tây Dương thông qua Eo biển Đan Mạch đoạn ở giữa Greenland và Iceland để tấn công các đoàn công voa của Đồng minh ở Bắc Đại Tây Dương. Trước đó các cuộc tấn công của tầu chủ lực của Đức như các thiết giáp hạm Scharnhorst và Gneisenau đã gây đủ thiệt hại để khiến người Anh phải sử dụng một số chiến hạm cũ của họ như các tầu lớp Revenge làm tầu hộ tống. Mặc dù đã cũ và chậm chạp các tàu này được trang bị súng 15-inch (381 mm), mạnh hơn hầu hết các khẩu súng trên tàu tuần dương hạng nặng và chiếc thiết giáp hạm bỏ túi của Đức. Mặc dù vậy các chiếc Bismarck và Prinz Eugen vẫn có thể liều lĩnh tấn công một đoàn công voa được hộ tống bởi một trong những thiết giáp hạm đã kể trên: chiếc Bismarck có thể tham gia tấn công và cố gắng tiêu diệt các tàu chiến hộ tống để chiếc Prinz Eugen đuổi theo và đánh chìm các tàu hàng đang bỏ chạy.

Chiếc SMS Bismarck, dưới đây là một số thông số chi tiết:Đặt tên theo tên vị tể tướng lừng danh của Đê quốc Phổ (tiền thân của nước Đức hiện đại) Otto von Bismarck

Đặt hàng sản xuất : Ngày 16 tháng 11 năm 1935

Nhà sản xuất : Blohm & Voss, Hamburg

Đặt khung xườn: Ngày 01 tháng 7 1936

Hạ thủy : Ngày 14 tháng hai năm 1939

Đi vào hạt động: 24 Tháng Tám 1940

Kết cục :Bị đánh chìm vào ngày 27 tháng 5 năm 1941 tại Bắc Đại Tây Dương, tại 48 ° 10''N 16 ° 12'''W / 48.167°N 16.2°W / 48.167; -16.2

Đặc điểm riêng:Thứ hạng : Lớp thiết giáp hạm Bismarck

Trọng tải: 41.700t tiêu chuẩn,50.900 tấn đầy tải

Chiều dài: 251 m ( 823,5 ft) tổng thể, 241,5 m ( 792,3 ft) khi ngập nước.Chiều rộng : 36,0 m ( 118,1 ft) mực nước.Độ mớm nước : 9,3 m ( 30,5 ft) tiêu chuẩn, 10,2 m ( 33,5 ft) đầy tải

Động cơ đẩy :12 nồi hơi cao áp Wagner;3 trục turbine Blohm & Voss 150.170 mã lực ( 111,98 MW);3 ba chân vịt cánh quạt đường kính 4,70 m ( 15,42 ft)

Tốc độ: 30,1 hải lý / h ( 34,6 dặm / giờ ; 55,7 km / h) trong thời gian thử nghiệm

Phạm vi hoạt động : 8.525 hải lý ( 9.810 dặm , 15.788 km tại tốc độ 19 hải lý ( 22 mph , 35 km / h)Thủy thủ đoàn : 2,092 người gồm 1,989 thủy thủ và 103 sĩ quan ( năm 1941 )

Vũ khí : 8 súng × 380 mm/L52 SK C/34 ( 15 in) ( 4 × 2 )12 súng × 150 mm/L55 SK-C/28 ( 5,9 in) ( 6 × 2 )16 súng × 105 mm/L65 SK-C/37 / SK-C/33 ( 4,1 in) ( 8 x 2 )16 súng × 37 mm/L83 SK-C/30 ( 1,5 in)12 súng × 20 mm/L65 MG C/30 (0.79 in)8 súng × 20 mm/L65 MG C/32 (8×4) (0.79 in)

Giáp vành đai : 145-320 mm ( 5,7-13 in)Giáp sàn : 110-120 mm ( 4,3-4,7 in) Vách ngăn : 220 mm ( 8,7 in)Giáp tháp pháo : 130-360 mm ( 5,1-14 in)Giáp các ổ súng : 342 mm ( 13,5 in)Giáp tháp chỉ huy : 360 mm ( 14 in)

Máy bay: 4 máy bay Arado Ar 196 A-3,với hai máy phóng

Hai chiếc tàu này được dự kiến sẽ cố gắng để phá vỡ vòng phong tỏa và đi về phía tây qua khoảng hở giữa Greenland-Iceland-Vương quốc Anh (GIUK). Tàu của Hải quân Hoàng gia dường như có khả năng đang canh trừng tuyến đường của họ. Máy bay cũng được lên kế hoạch để hỗ trợ nếu các hoạt động tìm kiếm không thể có kết quả vào thời điểm các tàu của Đức tiến hành cố gắng đột phá của họ, và vì các đám mây và mưa. Tối ngày 23 tháng 5, mặc dù lợi thế về thời tiết xấu đã ngụy trang sự hiện diện của họ, người Đức vẫn bị phát hiện khi chạy ở 27 knot (50 km / h) bởi các tàu tuần dương hạng nặng Norfolk và Suffolk. Những con tàu này đang tiến hành tuần tra Eo biển Đan Mạch dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Frederic Wake-Walker. Với sự trợ giúp của hệ thống radar vừa được cài đặt của chiếc Suffolk, các tàu tuần dương đã theo dõi các tàu Đức xuốt qua đêm, và chúng liên tục báo cáo về hành trình của họ.

Prinz Eugen

Đặt khung sườn: Ngày 23 tháng tư 1936

Hạ thủy : Ngày 22 Tháng Tám năm 1938

Đi vào hoạt động: 01 tháng tám năm 1940

Kết cục : Bị kéo đến Kwajalein Atoll để thử nghiệm vũ khí hạt nhân, bị lật úp tháng 12 năm 1946

Đặc điểm riêng:Thứ hạng:loại tàu tuần dương hạng nặng, lớp Đô đốc Hipper mở rộng

Trọng tải: 15.000 longton ( 15.000t) (trống) 18.400 longton ( 18.700 tấn) (max)Chiều dài: 212,5 m(697 ft)Rộng : 21,8 m ( 72 ft)Ngập nước : 7,2 m ( 24 ft)

Động cơ điện: 136.000shp ( 101,000kW)

Tốc độ: 33,5kn ( 62,0km / h; 38,6mph)

Phạm vi hoạt động: 7.200hải lý ( 13.300km; 8.300mi) tại tốc độ 20 knot ( 37 km / h ; 23 mph)

Thủy thủ đoàn:1.600

Vũ khí trang bị :8 súng × 20,3 cm SK C/34,12 súng × 10,5 cm L/65 C/33,17 súng x 4 cm pháo phòng không,8 súng x 3,7 cm L/83, 28 súng x 2 cm MG L/64, 12 ống phóng ngư lôi × 53,3 cm

Giáp vành đai 80 mm, phía trên boong 30 mm, vỏ giáp sàn tàu 30 mm, vách ngăn chống ngư lội 20 mm, tháp pháo chính 160-70 mm,tháp chỉ huy 150 mm

Máy bay: 3 thủy phi cơ Arado Ar 196 với nhiệm vụ trinh sát

Sáng hôm sau tàu Đức bị chặn lại ở eo biển giữa Iceland và Greenland bởi một lực lượng tàu của Anh.Đây là chiếc thiết giáp hạm Prince of Wales và chiếc tuần dương hạm chủ lực Hood, cùng với một tàu khu trục Monitor dưới sự chỉ huy của Phó Đô đốc Lancelot Holland trên chiếc Hood.Chiếc Prince of Wales là một thiết giáp hạm lớp King George V vừa mới bước vào làm nhiệm vụ, lớp này có kích thước và hỏa lực tương tự như chiếc Bismarck. Nó chưa được trải qua thử nghiệm cuối cùng một cách đúng nghĩa và thủy thủ đoàn của nó thì hoàn toàn thiếu kinh nghiệm.Nó vẫn còn có vấn đề về mặt máy móc cơ khí đặc biệt là ở trong hệ thống vũ khí chính của mình, và nó phải khởi hành cùng với công nhân của nhà máy đóng tàu những người vẫn tiếp tục hoàn thành công việc của họ trong thời gian trận chiến. Chiếc Hood được hạ thủy vào năm 1918 và trong 20 năm nó giữ kỷ lục là chiếc tàu chiến bề mặt lớn nhất thế giới. Giữa các cuộc chiến tranh, hơn bất cứ con tàu nào khác, nó là biểu tượng của lực lượng hải quân Anh trong mắt của người Anh và thế giới. Nhưng lớp giáp của nó yếu hơn một cách toàn diện hơn so với một thiết giáp hạm và chiếc sàn bọc thép của nó lại quá nhẹ để đủ sức chống lại đạn tầm xa.Thật không may là sự kiện Thế chiến II bùng nổ đã ngăn ngừa hiện đại hóa nó một cách đầy đủ, cụ thể là tăng độ giáp dày ở tầng thấp hơn từ 3 in đến 5 in hoặc 6in. Mặc dù vậy chiếc Hood có hỏa lực chính là các súng 15-inch (381 mm) tương đương với hỏa lực của bất kỳ thiết giáp hạm nào của Anh (và hơn hẳn hỏa lực của tầu Đức).Khi tiến xa về phía đông - nam, cấp trên Đô đốc Holland,Đô đốc Sir John Tovey có một băn khoăn rằng liệu có nên ra lệnh cho Đô đốc Holland để cho phép chiếc Prince of Wales tiến lên trước chiếc Hood hay không?. Trong vị trí này thì chiếc Prince of Wales vốn được bảo vệ tốt hơn sẽ thu hút hỏa lực của đối phương. Ông quyết định không đưa ra cho lệnh này và sau đó tuyên bố rằng "Tôi không cảm thấy sự can thiệp như vậy vào công việc của một viên chức cấp cao là hợp lý"

Kế hoạch chặn đầu

Kế hoạch chiến đấu của Holland là sử dụng các chiếc Hood và Prince of Wales để tấn công chiếc Bismarck trong khi các chiếc Suffolk và Norfolk tấn công chiếc Prinz Eugen ( lúc này Holland cho rằng chiếc Prinz Eugen vẫn chạy phía sau chiếc Bismarck chứ không phải là ở phía trước).Ông đánh tín hiệu này cho thuyền trưởng Leach nhưng không chỉ thị qua sóng radio cho Wake-Walker vì sợ tiết lộ vị trí của mình. Thay vào đó, ông quan sát sự im lặng của các máy vô tuyến điện. Holland hy vọng sẽ chặn được đối phương ở khoảng thời gian 02:00. Mặt trời lặn ở vĩ độ này là vào khoảng 01:51. Chiếc Bismarck và Prinz Eugen sẽ bị rọi chiếu trong bóng hoàng hôn của mặt trời trong khi các chiếc Hood và Prince of Wales lại có thể tiếp cận một cách nhanh chóng mà không bị nhìn thấy trong bóng tối tới một tầm đủ gần để không gây nguy hiểm cho chiếc Hood từ hỏa lực của chiếc Bismarck.Người Đức không mong chờ một cuộc tấn công từ khoảng thời gian này, và điều này đã tạo ra lợi thế bất ngờ cho người Anh.Thành công của kế hoạch này phụ thuộc vào radar của chiếc Suffolk có theo dõi một cách liên tục không gián đoạn các tàu của Đức hay không. Tuy nhiên chiếc Suffolk bị mất dấu tích bắt đầu từ khoảng 00:28.Trong vòng khoảng một giờ rưỡi Holland chẵng những không nhìn thấy kẻ thù mà còn không nhận được bất kỳ tin tức bổ sung nào từ các chiếc Norfolk hoặc Suffolk. Một cách miễn cưỡng ông ra lệnh cho các chiếc Hood và Prince of Wales di chuyển về phía tây nam, trong khi các tàu khu trục tiếp tục tìm kiếm ở phía bắc.Trước khi công việc theo dõi được tái lập, hai đội tầu bị lạc nhau chỉ trong một đường chân tơ kẽ tóc. Các tàu của Đức đã không chọn hướng đi về phía tây tại 01:41 để theo dòng nước lạnh của Greenland, người Anh đã có thể chặn được đội tầu Đức sớm hơn nhiều so với những gì họ đã làm. Các tàu khu trục của Anh chỉ đi được 10 dặm (16 km) về phía nam đông khi người Đức thực hiện việc đổi hướng này. Nếu tầm nhìn không bị giảm xuống từ ba đến năm dặm (8 km) thì nhiều khả năng rằng các tàu của Đức đã sớm phát hiện.

Lấy theo tên : Vị Đô đốc Samuel Hood - bác này cũng đen đủi hy sinh mất dạng trong trận Jutland

Đặt hàng : 07 tháng tư 1916

Nhà sản xuất : John Brown & Company

Đặt khung sườn: Ngày 01 Tháng Chín 1916

Hạ thủy : Ngày 22 tháng 8 năm 1918

Đi vào hoạt động: Ngày 15 tháng 5 năm 1920

Thời gian làm nhiệm vụ: 1920-1941

Khẩu hiệu: Ventis Secundis ( tiếng Latin: "Với sức gió thuận lợi ")Biệt danh : Mighty Hood

Số phận : Bị đánh chìm 24 tháng 5 năm 1941

Đặc điểm riêng:Thứ hạng : tàu tuần dương chủ lực lớp Admiral

Trọng tải: 46.680 tấn longton ( 47.430 tấn thường) khi đầy tải

Chiều dài: 860 ft 7 in ( 262,3 m) Chiều rộng: 104 ft 2 in ( 31,8 m) Độ ngập nước: 32 ft 0 in ( 9,8 m)

Động cơ điện: 144.000 trục mã lực ( 107,000kW)

Động cơ đẩy : 4 trục tua bin hơi nước Brown - Curtis 24 nồi hơi nước Yarrow

Tốc độ: Năm 1920 : 31 knots ( 57km / h; 36mph)

Năm 1941 : 28 knots ( 52 km / h ; 32 mph)

Phạm vi hoạt động :Năm 1931 : 5.332 hải lý ( 9.870km; 6.140mi)Tại tốc độ 20 knots ( 37 km / h ; 23 mph)

Thủy thủ đoàn

Năm 1921 :1.169 người.Năm 1941 :1.418 người

Hệ thống thiết bị cảm ứng và cảnh báo:Radar Type 279 cảnh báo đường không Radar Type 284 dẫn bắn

Vũ khí trang bị :( Khi đang được chế tạo ):4 súng × 2 - BL 15 - inch Mk I,12súng × 1 - BL 5,5 -inch Mk I,4 súng phòng không × 1 - QF 4 - inch Mark V,6 ống ngư lôi × 21 - inch ( 533 mm)Trang bị vào năm 1941 khi bị đánh chìm: 4 súng × 2-15 - inch ( 381 mm),7 súng x 2 - QF 4 - inch Mk XVI AA,3 súng " pom pom " × 8 - QF 2 - AA,5 súng máy Vickers× 4 - 0,5 -inch, 5 × 20 thùng "Unrotated Projectile" săn ngầm,2 ống phóng ngư lôi trên mặt nước × 2-21 - inch

Armour : Vành đai: 12-6 tại ( 305-152 mm)Giáp sàn: 0,75-3 trong ( 19-76 mm)Ổ súng: 12-5 tại ( 305-127 mm)Tháp pháo: 15-11 năm ( 381-279 mm)Tháp chỉ huy: 11-9 tại ( 279-229 mm)Vách ngăn: 4-5 năm ( 102-127 mm)

Máy bay: được trang bị 01 chiếc năm 1931-1932 ,1 máy phóng

Phải đến trước 03:00 chiếc Suffolk mới lấy lại được dấu vết của chiếc Bismarck.Chiếc Hood và Prince of Wales đã đi được 35 dặm (56 km) hơi vượt trước người Đức. Holland đã đánh tín hiệu là theo sát người Đức và tăng tốc độ lên 28 knot (52 km / h). Việc chiếc Suffolk bị mất dấu vết đã đặt người Anh vào một bất lợi. Thay vì nhanh chóng áp sát vào gần thì Holland lại tiếp cận một cách mơ hồ, ông sẽ phải gặp đối thủ ở một góc rộng hơn, và chậm hơn nhiều. Việc này làm cho chiếc Hood chở nên dễ bị tổn thương bởi đạn của chiếc Bismarck trong một khoảng thời gian kéo dài hơn nữa. Tình hình trở nên tồi tệ hơn nữa khi vào lúc 03:20 chiếc Suffolk báo cáo rằng tầu Đức đã thực hiện một thay đổi hướng đi một lần nữa về phía tây, và nó tạo ra tình huống gần như là các đội tầu Đức và Anh sẽ đâm vào ngang sườn nhau.Tại 05:35, bộ phận cảnh giới trên chiếc Prince of Wales phát hiện ra tàu Đức khi họ chạy với tốc độ 28 km (17 dặm). Người Đức đã được cảnh báo về sự hiện diện của tầu Anh thông qua thiết bị nghe dưới nước hydrophonic của họ, cũng như nhìn thấy ống khói và cột buồm của tàu Anh 10 phút sau đó. Holland vào thời điểm này có cấc lựa chọn là hoặc cùng chiếc Suffolk đeo bám chiếc Bismarck và chờ đợi chiếc King George V của Tovey và các tàu khác đến để tham gia tấn công hoặc ra lệnh cho hải đội của mình hành động như ông đã làm tại 05:37. Biển dữ dội tại eo biển này làm cho vai trò của các khu trục hạm chỉ ở mức tối thiểu. Các tàu tuần dương Norfolk và Suffolk đã ở quá xa phía sau lực lượng Đức để tiếp cận với trận đánh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro