Những trận Hải chiến nổi tiếng lịch sử trong Đại chiến thế giới lần thứ hai

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Những trận Hải chiến nổi tiếng lịch sử trong Đại chiến thế giới lần thứ hai

Những trận Hải chiến ở mặt trận phía Tây

Trận chiến Đại Tây Dương (1939-1945)

Thời gian: Từ ngày 03 tháng 9 năm 1939 -> 07 tháng 5 năm 1945

Địa điểm: Đại Tây Dương, Bắc hải, biển Ailen, biển Labrador, Vịnh St Lawrence, Caribbean Sea, Vịnh Mexico, Outer Banks, Biển Bắc Băng Dương

Kết quả: Lực lượng Đồng Minh chiến thắng

Các bên tham chiến

Phe Đồng minh :Vương quốc Anh, Newfoundland, Canada ,Na Uy, Ba Lan, Lực lượng kháng chiến Pháp, Bỉ, Hà Lan ,Hoa Kỳ (1941-1945) Pháp (1939-1940)

Chỉ huy:Sir Percy Noble, Sir Max K. Horton, Percy W. Nelles, Leonard W. Murray, Ernest J. King

Thương vong :30.264 thủy thủ tầu buôn,3.500 tàu buôn, 175 tàu chiến, 119 máy bay ( Không thấy đề cập đến thương vong của các thủy đoàn thuộc các tầu quân sự)

Phe Trục :Đức,Italy (1940-1943) Vichy Pháp

Chỉ huy :Erich Raeder,Karl Dönitz, Martin Harlinghausen (Fliegerführer Atlantik)

Thương vong:28.000 thủy thủ,783 tàu ngầm

Trận chiến Đại Tây Dương là một chiến dịch quân sự liên tục kéo dài nhất trong Chiến tranh thế giới II, (Mặc dù một số người nói rằng đó là một loạt các chiến dịch tấn công của hải quân) từ năm 1939 cho tới sự thất bại của Đức Quốc xã năm 1945, và đỉnh cao của nó là từ giữa năm 1940 tới cuối năm 1943. Trận chiến Đại Tây Dương là những trận đánh của các tầu U-Boad và tàu chiến khác của Hải quân Đức (Kriegsmarine) chống lại các đoàn tầu của Đồng minh. Các đoàn tàu buôn của Đồng minh, chủ yếu xuất phát từ Bắc Mỹ và Nam Đại Tây Dương để đến Vương quốc Anh và Liên Xô, phần lớn các đoàn tầu này được hộ tống bởi lực lượng hải quân và không quân Anh và Canada. Các lực lượng này được hỗ trợ bởi các tàu chiến và máy bay của Hoa Kỳ từ ngày 13 tháng 09 năm 1941. Người Đức cũng được tăng viện bởi tàu ngầm của Hải quân Hoàng gia Italya (Regia Marina) sau khi Italy gia nhập vào cuộc chiến ngày 10 tháng 6 năm 1940.Cái tên "Trận chiến Đại Tây Dương " được đặt bởi Winston Churchill trong năm 1941, cho một chiến dịch bắt đầu vào ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh ở châu Âu và kéo dài sáu năm, nó có sự tham gia của hàng ngàn con tàu và kéo dài qua hàng trăm dặm trên đại dương và vùng biển rộng lớn trong một loạt các trận đánh của hơn 100 đoàn tầu công voa và có lẽ đến 1.000 chiếc tầu chiến đơn lẻ. Những lợi thế chiến thuật trong hơn sáu năm của cuộc chiến là những vũ khí mới, chiến thuật mới và các biện pháp chống trả được phát triển bởi cả hai bên. Người Anh và các đồng minh của họ dần dần giành được thế thượng phong, họ đã đánh bại được các tầu tấn công trên bề mặt của Đức ở đại dương vào cuối năm 1942 và họ cũng quyết tâm đánh bại đội tầu U-Boat trong một loạt các trận đánh của các đoàn công voa vào giữa tháng 3 và tháng 5 năm 1943. Một loại tầu ngầm mới của Đức được hoàn thành vào năm 1945 nhưng chúng đã là quá trễ để tạo được ảnh hưởng đến kết quả của cuộc chiến.Là một quốc gia kiêm một Đế chế ở Hải ngoại ( vốn dĩ nước Anh là một tên kẻ cướp bỉ ổi chứ cũng chẳng là hạng tốt lành gì ),Vương quốc Anh phụ thuộc rất nhiều vào các nguồn hàng nhập khẩu, bình thường nước Anh cần có hơn một triệu tấn nguyên liệu nhập khẩu mỗi tuần để có thể tồn tại và chiến đấu. Về bản chất, trận chiến Đại Tây Dương là một cuộc chiến về lĩnh vực vận tải đường biển: Cuộc chiến để bảo vệ đường cung cấp của người Anh và quân đồng minh, và cuộc chiến của khối Axis nhằm cắt đứt các tuyến đường vận tải tới nước Anh nhằm loại bỏ quốc gia này khỏi cuộc chiến. Từ năm 1942 trở đi, người Đức cũng tìm cách ngăn chặn việc tập trung các thiết bị chiến tranh của Lực lượng Đồng minh tại các quần đảo thuộc Anh để chuẩn bị cho một cuộc xâm lược vào châu Âu(trận đổ bộ vào bờ biển Normandy ). Sự thất bại của các mối đe dọa từ đội tầu U-boat là một điều kiện tiên quyết để đẩy lùi quân Đức.Kết quả của trận đánh là một chiến thắng chiến lược của Đồng Minh và cuộc phong tỏa của Đức vào nước Anh đã thất bại nhưng cả hai bên đều phải chịu những thiệt hại rất lớn: Lực lượng Đồng minh mất 3.500 tàu buôn và 175 tàu chiến bị đánh chìm để đổi lấy 783 tàu U-Boat của Đức.

Các cuộc đụng độ đầu tiên ( tháng 9 năm 1939 -> tháng 5 năm 1940)

Vào năm 1939, Kriegsmarine (Hải quân Đức) không đủ sức mạnh để thách thức một lực lượng kết hợp giữa Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Pháp (Marine Nationale) trên biển. Thay vào đó chiến lược hải quân của người Đức là dựa vào các tàu chiến chủ lực, tuần dương hạm hoán đổi từ tầu buôn, tàu ngầm và máy bay để tấn công các tuyến vận tải đường biển của nước Anh.Nhiều tàu chiến Đức đã ra khơi khi lời tuyên chiến được tuyên bố, chúng bao gồm hầu hết các tầu U-Boat đang sẵn có và các thiết giáp hạm bỏ túi (Hoặc còn gọi là Panzerschiff) như các chiếc Deutschland và Admiral Graf Spee..., chúng đã ra khơi và tiến vào Biển Đại Tây Dương trong tháng 8 năm 1939. Những con tàu này đã bắt đầu những cuộc tấn công ngay lập tức vào các tầu của tàu Anh và Pháp, như chiếc U-30 đánh chìm chiếc tầu thủy chở khách SS Athenia trong vòng vài giờ sau khi lời tuyên chiến được công bố và nó cũng vi phạm mệnh lệnh là không được đánh chìm tàu chở khách. Hạm đội tầu U-boat đã chiếm ưu thế trong một khoảng thời gian dài trong trận Đại Tây Dương có một số lượng ban đầu tương đối nhỏ bé ở giai đoạn đầu của cuộc chiến, chỉ có khoảng 57 đầu tầu U-Boat là sẵn sàng chiến đấu, trong số đó có cả một số tầu nhỏ và hoạt động tầm ngắn như U-Boat Type II, loại chỉ hữu ích để rải thủy lôi và hoạt động trong các vùng nước ven biển nước Anh. Nhiều hoạt động ban đầu nhằm để tấn công các đoàn tầu vận tải của Đồng minh được tham gia bởi các tầu rải thủy lôi và tàu khu trục, máy bay và tàu U-Boat ở ngoài khơi các cảng của Anh.Với sự bùng nổ của cuộc chiến tranh, người Anh và người Pháp ngay lập tức bắt đầu một cuộc phong tỏa vào nước Đức, mặc dù việc này có ít hiệu lực tức thì vào các ngành công nghiệp của người Đức. Hải quân Hoàng gia nhanh chóng đưa vào một hệ thống hộ tống đoàn công voa để bảo vệ công tác vận chuyển đường biển, hệ thống này dần dần được mở rộng ra từ quần đảo Anh, cuối cùng đã vươn đến tận Panama, Bombay và Singapore. Các đoàn Công voa cho phép Hải quân Hoàng gia tập trung các tàu hộ tống của nó ở gần một nơi mà chắc chắn các tầu U-Boat của Đức sẽ xuất hiện - các đoàn Công voa ( như vậy là tầu ngầm U-Boat săn các tầu hàng, các tầu chiến Đồng minh lại bám theo tầu hàng để săn tầu ngầm - đúng là cá ăn kiến - người đi câu lại ăn cá).Một số sĩ quan hải quân Anh, và đặc biệt là First Lord of Admiralty (tạm dịch là Bộ trưởng Hải quân), Winston Churchill, tìm kiếm một chiến thuật mới khó chịu "hơn", đó là Hải quân Hoàng gia thành lập các nhóm săn bắt chống tàu ngầm dựa trên các tàu sân bay để tuần tra các tuyến đường vận chuyển theo Phương pháp tiếp cận từ hướng Tây (the Western Approaches) để săn cho được tầu U-Boat của Đức. Nhưng chiến thuật này có một thiếu sót lớn vì một tầu U- Boat với hình hài nhỏ bé của nó, luôn luôn có khả năng lẩn trốn các chiến hạm nổi bằng cách lặn sâu trong nước và bất động tại chỗ trong một khoảng thời gian dài trước khi nó bị phát hiện. Công dụng của các tàu sân bay là rất ít ỏi, mặc dù chúng có thể phát hiện các tàu ngầm khi các tầu này nổi lên bề mặt nước, ở giai đoạn này của cuộc chiến tranh các tầu chiến của Đồng minh không có đầy đủ các khí tài để tấn công các tầu U-Boat. Bất cứ chiếc tàu ngầm nào bị phát hiện bởi một chiếc máy bay sẽ kịp thời chuồn đi trong một khoảng thời gian khá dài trước các tàu chiến bề mặt xuất hiện. Chiến thuật nhóm săn bắt trở thành một thảm họa vào ngày 14 tháng 9 năm 1939, khi tàu sân bay hiện đại nhất của Anh, chiếc HMS Ark Royal, suýt bị đánh chìm khi ba quả ngư lôi được phóng từ chiếc U-39 đã phát nổ quá sớm.Chiếc U-39 đã kịp thời bị đánh chìm bởi các tàu khu trục hộ tống và nó trở thành chiếc U-boat đầu tiên bị tiêu diệt trong cuộc chiến(một kỷ lục đáng buồn cho thủy thủ đoàn của con tầu này). Chẳng tiếp thu được tí gì từ bài học này nên ngay sau đó người Anh đã mất một chiếc tàu sân bay, đó là chiếc HMS Courageous, bị đánh chìm ba ngày sau đó bởi chiếc U-29.Việc sử dụng các tàu khu trục hộ tống để săn bắt các tầu U-Boat tiếp tục là một chiến thuật đúng đắn, nhưng chiến thuật này vẫn ẩn chứa một sai lầm đó là ( các hạn chế trong) tính năng của chiến thuật chống ngầm của Anh trong năm đầu tiên của cuộc chiến. Các tầu U-Boat gần như luôn luôn kịp tẩu thoát và các đoàn công voa trở nên không có bảo vệ, điều này đã dẫn đến những nguy cơ lớn hơn.Người Đức đã gặt hái được thành công trong việc đánh chìm chiếc HMS Courageous và sau đó chỉ khoảng một tháng thuyền trưởng Günther Prien cùng chiếc U-47 thâm nhập vào căn cứ Hải quân của Anh tại Scapa Flow và đánh chìm chiếc thiết giáp hạm cao tuổi HMS Royal Oak lúc nó đang neo. Prien ngay lập tức trở thành một anh hùng thời chiến ở Đức.Tại vùng biển Nam Đại Tây Dương, người Anh bị gây căng thẳng thần kinh bởi hành trình của chiếc "thiết giáp hạm bỏ túi" Admiral Graf Spee, chiếc này đã đánh chìm 9 tàu buôn với tổng trọng tải lên đến 50.000 tấn biển Nam Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương trong ba tháng đầu của cuộc chiến. Anh và Pháp đã thành lập một loạt các nhóm săn lùng bao gồm 3 tàu tuần dương chủ lực, 3 tàu sân bay và 15 tàu tuần dương để tìm kiếm chiếc thiết giáp hạm bỏ túi này và chiếc chị em của nó - chiếc Deutschland lúc này đang hoạt động tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương.Những nhóm săn bắt liên tục tung ra các hoạt động trinh sát, tìm kiếm trên các đại dương trong nhiều tháng trời nhưng không thu được sự thành công nào cho đến khi chiếc Graf Spee bị chặn đánh ở cửa sông River Plate bởi một lực lượng nhỏ tầu của Anh. Sau khi bị thiệt hại trong các trận đánh tiếp theo, nó (chiếc "thiết giáp hạm bỏ túi" Admiral Graf Spee) đã phải trú ẩn trong cảng Montevideo trung lập và con tàu đã bị đánh đắm ngay trong tháng 12 năm 1939.Sau khi một loạt các nỗ lực ban đầu, chiến dịch Đại Tây Dương lắng xuống. Karl Dönitz ( Đô đốc tư lệnh lực lượng tầu ngầm của Đức) đã có kế hoạch một nỗ lực nhằm tối đa hóa năng lực của các đội tàu ngầm trong tháng đầu tiên của cuộc chiến, với việc tung ra gần như ra tất cả các U-Boat vào chiến đấu trong tháng 9. Đó là một mức độ hoạt động không thể được duy trì trong một khoảng thời gian dài bởi vì các tàu U-Boat cần phải quay trở lại bến cảng để tiếp nhiên liệu, thực phẩm và sửa chữa. Mùa đông khắc nghiệt năm 1939-1940 đã làm đóng băng nhiều cảng ở biển Baltic, đã làm ảnh hưởng ghiêm trọng đến các cuộc tấn công của người Đức vì chúng tạo ra những chiếc bẫy cho các U-Boat mới trong băng. Cuối cùng thì kế hoạch xâm lược Na Uy và Đan Mạch của Hitler vào mùa xuân năm 1940 đã dẫn tới việc rút các chiến hạm nổi của hạm đội Đức và hầu hết các tầu U-Boat đang hoạt động tại đại dương về để chuẩn bị cho các hoạt động hải quân tại Chiến dịch Weserübung.Kết quả chiến dịch Na Uy đã bộc lộ lỗ hổng nghiêm trọng trong loại vũ khí chủ yếu của các tầu U-Boat đó chính là tính năng của ngư lôi. Mặc dù độ hẹp của vịnh biển đã làm giới hạn sự cơ động của tầu U-Boat, nhưng mật độ dày đặc của tàu chiến, tầu chở quân và tàu cung cấp của Anh đã tạo ra vô số cơ hội cho tấn công cho tầu U-Boat. Lại một lần nữa, các thuyền trưởng của các tầu U-Boat lại theo dõi các mục tiêu là tầu Anh và bắn chỉ để nhìn xem những con tàu mục tiêu này không hề hấn gì vì những quả ngư lôi phát nổ quá sớm hay không phát nổ, hoặc chạy thẳng xuống bên dưới mục tiêu. Không có một tàu chiến Anh đơn lẻ nào bị đánh chìm bởi một tầu U-Boat trongg hơn 20 cuộc tấn công. Khi tin này lan truyền qua các đội tầu U-boat khác, nó đã bắt đầu suy yếu tinh thần của các thủy thủ đoàn. Tuy nhiên, tay giám đốc phụ trách phát triển về mặt kỹ thuật của ngư lôi lại tiếp tục đổ lỗi cho đó là " lỗi của các thủy thủ đoàn của các tầu U-Boad" khi vận hành ngư lôi. Phải đến đầu năm 1942 vấn đề này mới được xác định là vấn đề của sức từ tính mạnh ở vùng vĩ độ cao (to be magnetic problems from the high latitude) và sự rò rỉ từ từ của áp suất không khí cao từ tàu ngầm vào bánh răng điều chỉnh độ sâu của ngư lôi (nguyên văn a slow leakage of high-pressure air from the submarine into the torpedo"s depth regulation gear).Cuối cùng, Kriegsmarine quyết định sao chép theo mẫu thiết kế của một số quả ngư lôi chiến lợi phẩm của Anh và đã tạo được nhiều tin cậy hơn. Eo biển Gibraltar là một pháo đài mạnh mẽ của người Anh kể từ đầu thế kỷ 18 và nó đã đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược quân sự của người Anh. Ngoài vị trí chiến lược của nó, Gibraltar cung cấp sự bảo vệ chặt chẽ cho các bến cảng mà các con tàu từ đó có thể hoạt động trong cả hai vùng biển Đại Tây Dương và Địa trung hải.

Chiến tranh tầu ngầm

Ngày mùng 1 tháng 9 năm 1939, cái ngày mà nước Đức nổ súng tấn công Ba Lan, viên thuyền trưởng kỳ cựu Karl Dönitz, chỉ huy đội tầu U-Boat đã trình lên bàn của Đô đốc Erich Raeder một bản ghi nhớ về tầm nhìn của ông cho một cuộc chiến tương lai trên biển: với 300 tầu U-Boat thì nước Đức có thể làm cho nước Anh phải quỳ gối bằng cuộc chiến tổng lực chống lại các tuyến đường vận tải có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trên biển từ nước ngoài vào quốc đảo này (như đã nói ở trên lúc này Hải quân Đức chỉ có 57 đầu tầu U-Boat, đây quả thực là một ý tưởng tuyệt vời của Sói biển số I Karl Dönitz). Dönitz đã ủng hộ một chiến thuật được gọi là Rudeltaktik trong tiếng Đức ( hoặc wolf pack theo tiếng Ăng lê và là Sói Bầy theo tiếng Dzit ngan của ta), trong đó các nhóm tầu U-Boat sẽ tấn công thành từng đợt lớn ở giữa đại dương giữa và tiêu diệt bất kỳ chiếc tàu chiến hộ tống nào. Trong khi các tàu chiến hộ tống mải tham gia vào một cuộc chơi mèo vờn chuột với các tàu ngầm đơn lẻ, thì phần còn lại của các tàu ngầm trong các Bầy sói sẽ không bị canh chừng và có thể thoải mái tấn công các tàu hàng không bị cản trở. Để đạt được hiệu quả, Dönitz tính toán rằng ông cần phải có đến 300 chiếc tầu ngầm loại mới nhất hoạt động ở Đại Tây Dương (tầu Type VII), đây là một lực lượng đủ để tạo ra sức mạnh tàn phá các tuyến vận chuyển của người Anh và làm cho nước Anh phải đi bằng... để ra khỏi cuộc chiến (đây là điều hoàn toàn có thể trong 1, 2 năm đầu của cuộc chiến - lúc mà năng lực chống ngầm của người Anh còn nghèo nàn). Quan điểm này trái ngược với quan điểm truyền thống của việc triển khai tàu ngầm cho đến thời điểm đó, (theo quan điểm truyền thống thì) tàu ngầm thường tiến hành những cuộc mai phục đơn độc, chờ đợi ở bên ngoài cảng của đối phương để tấn công các tàu vào - ra. Đây là một chiến thuật được sử dụng rất thành công bởi tàu ngầm Anh tại các vùng biển Baltic và Bosporus trong Thế chiến I, nhưng nó không thể thành công khi phải tiếp cận các cảng được tuần tra, phòng bị kỹ lưỡng. Hiện cũng có những nhà lý luận về hải quân cho rằng hoạt động của tàu ngầm phải gắn liền với hoạt động của hạm đội chính và chúng nên được sử dụng theo cách tương tự như một tàu khu trục- Chiến thuật này đã cố gắng được triển khai bởi người Đức tại trận Jutland và đã thu được những kết quả nghèo nàn vì sự phát triển của mạng thông tin liên lạc ở dưới nước còn đang trứng nước (ý là rất sơ khai). Người Nhật Bản cũng đề cao ý tưởng về một hạm đội tàu ngầm và tàu ngầm của họ (NB) không bao giờ được sử dụng hoặc như là các phương tiện để phong tỏa bến cảng hoặc để ngăn chặn các đoàn tầu hàng. Tuy nhiên, tàu ngầm lúc này vẫn còn được nhìn nhận bởi phần lớn các cường quốc trên thế giới như là một loại vũ khí hải quân quá ư " đê tiện - đánh lén rồi chạy tẹt ga", so với uy tín gắn liền với tàu chiến. Điều này cũng hoàn toàn đúng trong Kriegsmarine và Đô đốc Hạm đội Đức - Erich Raeder, đã thành công trong việc vận động để chi nhiều tiền cho việc đóng nhiều hơn nữa các tầu chủ lực (mà tầu nổi của Đức thì không thể đối chọi với tầu nổi của Anh về mặt số lượng và hỏa lực).Vũ khí chính để chống tàu ngầm của Hải quân Hoàng gia trước khi nổ ra chiến tranh thế giới II là các tầu nhỏ tuần tra ven bờ biển, các tầu này thường trang bị các ống nghe dưới nước(hydrophone), một khẩu súng nhỏ và bom chìm (depth charge). Lực lượng Hải quân Hoàng gia cũng như hầu hết các lực lượng hải quân trên thế giới đã không coi chiến tranh chống tàu ngầm như là một chiến thuật quan trọng trong các thập niên 1920 và thập niên 1930. Chiến tranh tàu ngầm không hạn chế bị cấm bởi Hiệp ước Versailles; Chiến tranh chống tàu ngầm được coi là một chiến thuật "phòng thủ" hơn là tấn công, và nhiều sĩ quan hải quân tin rằng công tác chống tàu ngầm chỉ đơn thuần tương tự như là một cuộc sống trâu ngựa và buồn tẻ với công việc thả thủy lôi. Mặc dù các khu trục hạm cao tốc cũng được trang bị bom chìm, người ta lại chỉ dự kiến chỉ sử dụng các tầu này trong hoạt động hạm đội hơn là để tuần tra ven biển, do đó chúng không được đào tạo một cách rộng rãi để chống lại tầu ngầm.

" Khoảng thời gian gặt hái" ( từ tháng 6 1940 -> tháng 2 năm 1941)

Việc Đức chiếm đóng Na Uy vào tháng tư và các cuộc chinh phục nhanh chóng vào vùng đất thấp (Hà Lan) và Pháp trong tháng năm và tháng sáu năm 1940, cũng như sự tham gia của Ý vào cuộc chiến ở bên phe Axis trong tháng sáu đã chuyển cuộc chiến trên biển nói chung và chiến dịch Đại Tây Dương nói riêng thành 3 giai đoạn chính: Nước Anh bị mất đồng minh lớn nhất của nó ( lúc này người Mỹ chưa tham chiến). Năm 1940, Hải quân Pháp lúc này đang là lực lượng Hải quân lớn thứ tư trên thế giới. Chỉ có một số tàu Pháp gia nhập lực lượng Pháp tự do và chiến đấu chống lại người Đức, mặc dù sau này có được sự tham gia cùng một vài tầu hộ tống do người Canada đóng, thực chất thì những tầu này đóng một vai trò nhỏ bé nhưng cũng khá quan trọng trong giai đoạn đầu của chiến dịch. Với việc hạm đội Pháp bị loại ra khỏi cuộc chiến thì Hải quân Hoàng gia bị kéo căng hơn nữa. Và khi người Italy tuyên bố tham chiến vào tháng Sáu thì điều này có nghĩa là nước Anh cũng phải tăng cường Hạm đội Địa Trung Hải của nó và thiết lập một Hải đội tầu chiến mới tại Gibraltar, chúng được gọi là Lực lượng H, để thay thế cho hạm đội Pháp ở Tây Địa Trung Hải (Rất nực cười một điều là kể từ trước Chiến tranh thế giới I, hay nói đúng hơn là trước chiến tranh Pháp - Phổ thì phải đến hàng trăm năm Hạm đội Anh và Pháp là hai kẻ thù không đội trời chung, nhưng với sự xuất hiện của cường quốc mới nổi- nước Đức, người Pháp quay ra bắt tay với kẻ thù cũ của mình- người Anh để mưu toan giữ lại được các thuộc địa của mình, nhưng mệnh trời khó cưỡng người Pháp cứ hết thua sấp lại thua ngửa trước người Đức hê hê, rồi thậm chí lại phải quỳ gối mà lậy sống trước cả chú lùn Nhật bản ở Đông Dương nữa ).Các đội tầu U-Boat có được khả năng truy cập trực tiếp đến vùng biển Đại Tây Dương. Kể từ khi English Channel chở nên tương đối cạn và bị phong tỏa với các bãi thủy lôi vào giữa năm 1940, các tầu U-Boat nhận được lệnh không đi qua nó nữa và thay vào đó là đi vòng quanh khắp quần đảo Anh để tiếp cận các căn cứ của đối phương và đồng thời tối đa hóa thành quả của nó. Các căn cứ tại Pháp như Brest, Lorient, La Pallice và La Rochelle có khoảng 450 dặm (720 km) để đến vùng biển Đại Tây Dương, tạo nhiều lợi thế hơn các căn cứ Đức trên biển Bắc hải. Điều này giúp mở rộng phạm vi hoạt động của U-Boat ở Đại Tây Dương, cho phép chúng tiếp tục tấn công đoàn công voa phía tây và đồng thời cũng tạo cho chúng thời gian đi tuần lâu hơn, làm tăng gấp đôi hiệu quả của lực lượng tầu U-boat. Người Đức sau này đã cho xây dựng những Boongke rất lớn bằng bê tông làm nơi trú ẩn cho các tầu U-Boat và chúng được gọi là Hầm chứa U-Boat (U-Boat pen) trong các căn cứ cũ của người Pháp ở Đại Tây Dương, các hầm này được cải tiến để chịu được các đợt ném bom của Đồng Minh cho đến khi Barnes Wallis phát triển loại bom tallboy bomb (loại bom thông thường khủng nhất WWII với trọng lượng khoảng trên 5 tấn/ quả). Từ đầu tháng bảy, U-Boat bắt đầu trở về các căn cứ mới ở Pháp khi họ hoàn thành các cuộc tuần tra vùng biển Đại Tây Dương của mình.Các tàu khu trục của Anh phải chuyển hướng đi từ Đại Tây Dương khi chúng kết thúc chuyến tuần tra của mình.Các Chiến dịch Na Uy và xâm lược vùng đất thấp - Hà Lan cũng như chiếm đóng nước Pháp tạo ra một sự căng cứng vào các đội tàu khu trục của Hải quân Hoàng gia Anh. Hải quân Hoàng gia đã phải rút nhiều tàu khu trục của nó từ các tuyến đường vận tải để hỗ trợ các chiến dịch ở Na Uy vào tháng Tư và tháng Năm và sau đó chuyển hướng chúng vào English Channel để hỗ trợ việc hàng trăm nghìn quân Đồng minh tháo chạy từ Dunkirk. Vào mùa hè năm 1940 nước Anh phải đối mặt với một mối đe dọa nghiêm trọng từ nguy cơ của một cuộc xâm lược.Các tàu khu trục đã được tổ chức trong các con kênh mà từ đó chúng sẵn sàng để đẩy lùi một hạm đội Đức xâm lược. Các tàu khu trục này bị nặng nề trong các chiến dich này khi chúng bị không kích bởi Không quân Đức Fliegerführer Atlantik. Bảy tàu khu trục đã bị mất trong chiến dịch Na Uy, một lố sáu chiếc bị mất tại trận Dunkirk và thêm 10 chiếc nữa bị mất trong English Channel và biển Bắc vào giữa tháng Năm và tháng Bảy, nhiều chiếc trong số chúng bị tiêu diệt bởi không quân Đức vì chúng thiếu trang bị vũ khí phòng không một cách đầy đủ. Hàng chục chiếc tầu khu trục khác bị hư hại.Việc hoàn tất các chiến dịch của Hitler ở Tây Âu có nghĩa là các đội tầu U-Boat được thu hồi từ các chiến dịch ở Na Uy từ bây giờ lại được tung ra cho các hoạt động của hạm đội và lại trở về cuộc chiến đánh phá các tuyến đường vận chuyển. Vì vậy, tại thời điểm này số lượng các U-Boat đi tuần tra tại Đại Tây Dương bắt đầu tăng lên đột ngột, số lượng các tầu hộ tống cho các đoàn công voa, trong đó có từ 30 đến 70 tàu hàng chủ yếu là tầu không vũ trang bị giảm đáng kể. Điều an ủi duy nhất cho người Anh là các hạm đội tầu hàng lớn của các nước bị chiếm đóng như Na Uy và Hà Lan đã nằm dưới sự kiểm soát của Anh. Người Anh vẫn chiếm đóng các quần đảo Iceland và Faeroe để có được các căn cứ để tự bảo vệ bản thân và ngăn chặn các quốc gia này rơi vào tay kẻ thù sau sự chiếm đóng của Đức ở Đan Mạch và Na Uy.Đây có thể nói là một trong những lý do mà Winston Churchill, người đã trở thành Thủ tướng Anh vào ngày 10 tháng 5 năm 1940, lần đầu tiên phải viết thư cho Franklin Roosevelt - Tổng thống Hoa Kỳ để yêu cầu xin vay (nguyên văn loan - hợp với tín dụng hơn ) 50 tàu khu trục lỗi thời của Hoa kỳ (lúc này Hoa kỳ đang ở vị trí trung lập - như vậy ta cũng phải đánh dấu hỏi về sự trung lập của Hoa kỳ chứ nhỉ). Điều này dẫn đến các khoản cho vay (thực chất đây là những khoản bán hàng nhưng được tô vẽ như là một khoản vay vì lý do chính trị) gồm 50 khu trục hạm cũ theo hiệp định về Tầu khu trục (nguyên văn Destroyers for Bases Agreement ) để đổi lấy hợp đồng Hoa kỳ thuê 99 năm các căn cứ của Anh tại Newfoundland, Bermuda và West Indies, một sự mặc cả mang lại mối hời về tài chính cho Hoa Kỳ, trong khi đại đa số dân chúng Hoa kỳ phản đối việc tham gia của nước này vào cuộc chiến nhưng các chính trị gia thì lại coi nước Anh là đồng minh và nó thực sự có thể bị thất thủ(đây cũng là điều mà người Đức ấm ức vì cứ diệt được 1 tầu Anh thì người Mỹ lại tiếp viện 2 chiếc --> đến bao giờ thì người Đức mới chiến thắng nhỉ? chẳng bao giờ cả he he).Nhưng cũng phải đến tháng chín những tàu khu trục đầu tiên trong lố tầu này mới được sử dụng bởi các thủy thủ đoàn người Anh và Canada và tất cả các con tầu này phải cần được trang bị lại hệ thống vũ khí cũng như thiết bị ASDIC (thiết bị Sonar). Phải mất nhiều tháng trước khi các tàu khu trục tương đối lạc hậu này bắt đầu có thể đóng góp vào chiến dịch.Các tầu U-boat đầu tiên hoạt động từ các căn cứ ở Pháp đã gặt hái các thành công ngoạn mục.Đây là thời kỳ hoàng kim của các "Ách" U-boat lớn như Günther Prien của chiếc U-47, Otto Kretschmer của chiếc U-99, Joachim Schepke của chiếc U-100, Engelbert Endrass của chiếc U-46, Viktor Oehrn của chiếc U-37 và Heinrich Bleichrodt của chiếc U-48, các đội tầu U-boat trở thành anh hùng tại Đức. Từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1940, hơn 270 tàu Đồng Minh bị đánh chìm: thời kỳ này được gọi bởi các đội U-boat như là "Die Zeit Glückliche", " Happy Time - thời gian gặt hái, thời gian Hạnh phúc hay chi mô đó he he".Thách thức lớn nhất cho các đội tầu U-Boat là làm sao để tìm thấy đoàn tầu công voa trong sự mênh mông của đại dương.Người Đức đã có một số ít rất máy bay tầm xa Condor Focke-Wulf 200 tại căn cứ Bordeaux và Stavanger để được sử dụng với mục đích trinh sát, thực chất đây là máy bay chuyển đổi từ máy bay chở khách dân sự (cũng có nguồn tin là để lách sự kiểm soát của Hiệp ước Versailles, người Đức chế tạo loại này như máy bay dân dụng nhưng có thể hoán cải thành máy bay oanh tạc trong thời chiến - kỹ thuật của người Đức là tuyệt vời he he), đây là một giải pháp có tính chất tạm thời.Do có sự ganh ghét ngầm nhưng liên tục giữa Không quân Đức ( Luftwaffe) và Hải quân Đức (Kriegsmarine) mà ban đầu các tầu U-Boat phải tự trinh sát và tìm ra nguồn chính của đoàn công voa. Kể từ khi đài chỉ huy của một chiếc tàu ngầm trở nên sát với mặt nước thì phạm vi quan sát phát hiện của nó trở nên khá hạn chế.Để đáp lại người Anh cố gắng áp dụng các kỹ thuật gọi là Operational Research (áp dụng những phương pháp tiên tiến như là: mô hình toán, phân tích thống kê, thuật toán tối ưu hóa ... để lập giải pháp chống trả chiến tranh tầu ngầm của đối phương nguồn http://en.wikipedia.org/wiki/Operational_Research) để giải quyết vấn đề và đưa ra hàng loạt các giải pháp chống trả bằng trực quan cho vấn đề về các cuộc đụng độ của các đoàn Công voa. Người Anh đã nhận ra rằng diện tích của một đoàn tầu công voa tăng theo cấp số nhân của chu vi của nó và rằng trong việc định vị thì một đoàn công voa lớn sẽ gặp khó khăn hơn để định vị so với một đoàn nhỏ ( cái này em chịu không hiểu một đoàn công voa lớn lại khó bị xác định vị trí hơn một đoàn nhỏ?).Một đoàn công voa lớn với một lực lượng hộ tống yếu ( tạo ra sự khó khăn hơn trong việc định vị chúng) như vậy chở nên an toàn hơn so với một đoàn công voa nhỏ có hộ tống mạnh.Thay vì tấn công các đoàn công voa của quân Đồng minh một cách đơn lẻ, tầu U-Boat của Đức được khuyến khích để hoạt động theo bầy (Rudels) sự phối hợp được tiến hành từ Trung tâm chỉ huy qua sóng Radio. Các nỗ lực hóa giải mật mã của Đức ở B-Dienst đã thành công trong việc giải mã mật mã Cypher số 3 Hải quân Anh, điều này cho phép người Đức ước tính tại đâu và khi nào có thể tìm ra đoàn Công voa mà họ mong đợi. Các tàu U-Boat trải ra thành một dòng tầu dài tuần tra và chia cắt các tuyến đường mà các đoàn Công voa của quân Đồng minh phải đi qua. Một khi đã vào vị trí, các thủy thủ đoàn của các tầu U-Boat thay nhau quét đường chân trời bằng ống nhòm để tìm kiếm cột buồm hay khói của các con tàu, hay sử dụng các ống nghe dưới nước ( hydrophone ) để dò những tiếng động từ chân vịt cánh quạt của các đoàn Công voa. Khi một chiếc U-Boat trông thấy một đoàn Công voa, nó ngay lập tức báo cáo những gì đã nhìn thấy về trung tâm chỉ huy U-boat trước khi tiếp tục theo dõi và đợi các tàu U-Boat khác gia nhập vào nhóm để tiến hành tấn công, các cuộc tấn công thường diễn ra vào ban đêm. Thay vì phải đối mặt với 01 tàu ngầm duy nhất, đoàn tầu hộ tống sau đó phải đối phó với các nhóm có khi lên đến nửa tá tầu U-Boat tham gia tấn công cùng một lúc. Các chỉ huy táo bạo nhất, giống như thuyền trưởng Otto Kretschmer, thâm nhập qua đội hình của đoàn tầu hộ tống và tấn công từ bên trong đội hình các cột tầu buôn trong đoàn Công voa.Các tàu hộ tống có quá ít về số lượng và thường thiếu kiên nhẫn, không tìm ra câu trả lời liệu có bao nhiêu tàu ngầm tham gia tấn công trên bề mặt vào ban đêm? cũng như các máy phát hiện ASDIC của họ chỉ làm việc tốt để chống lại các mục tiêu dưới nước. Các radar Hàng hải đời đầu của Anh làm việc theo nguyên lý metric band, thiếu khả năng phân biệt và xác định mục tiêu.Chiến thuật Sói bầy lần đầu tiên được sử dụng thành công trong tháng 9 và tháng 10 năm 1940, chúng có tác dụng tàn phá trong một loạt các trận tấn công các đoàn Công voa. Ngày 21 tháng 9, đoàn HX 72 gồm 42 tầu buôn bị tấn công bởi một bầy gồm bốn tầu U-Boat, kết quả 11 tàu bị đánh chìm và hai chiếc bị hư hại trong hơn hai đêm. Trong tháng 10, đoàn Công voa tốc độ chậm SC 7, với một đội hộ tống yếu gồm hai chiếc sloop và hai tàu hộ tống, đã bị áp đảo và mất tới 59% số tàu của nó. Trận đánh đoàn Công voa số HX 79 trong những ngày sau đó nói theo nhiều cách còn tồi tệ hơn nhiều cho các tàu hộ tống hơn so với những gì xảy ra với đoàn SC 7. Việc mất tới một phần tư đoàn tầu mà không gây được mảy may tổn thất cho tàu U-Boat mặc dù nó có một đội hộ tống mạnh mẽ gồm hai khu trục hạm, bốn tàu hộ tống, ba tàu quét mìn đánh cá và đây là một chứng minh cho sự hiệu quả của chiến thuật Sói bầy của Đức đối với công nghệ chống tàu ngầm khập khiễng của Anh trong thời gian này. Cuối cùng, ngày 01 tháng 12, bảy tầu U-Boat Đức và ba tàu ngầm Ý vây bắt đoàn Công voa HX 90, đánh chìm 10 tàu hàng và làm hư hại ba chiếc khác. Sự thành công của chiến thuật Sói bầy trong việc tấn công các đoàn Công Voa đã làm Đô đốc Dönitz chuẩn y nó ( chiến thuật wolf pack) là chiến thuật chính của mình (các đội tầu U-Boat dưới sự chỉ huy của ông ta).Cũng không phải chỉ những chiếc U-Boat mới là những mối đe dọa duy nhất với các đoàn Công voa. Sau một số kinh nghiệm trong việc hỗ trợ trong giai đoạn đầu của cuộc chiến trên biển trong thời gian của chiến dịch Weserübung, không quân Đức đóng góp một phần nhỏ số lượng máy bay trong trận chiến Đại Tây Dương kể từ năm 1940. Đây chủ yếu là những máy bay trinh sát tầm xa, đầu tiên là với loại Focke-Wulf 200, và sau này là loại Junkers 290 - máy bay tuần tra hàng hải. Lúc đầu, chiếc máy bay Focke-Wulf đã rất thành công, ( không quân Đức) tuyên bố đánh chìm 365.000 tấn tầu hàng vào đầu năm 1941.Những chiếc máy bay này có rất ít về số lượng, chúng trực thuộc sự quản lý của Không quân Đức (Đức không có lực lượng không quân thuộc hải quân), các phi công ít được đào tạo về chuyên môn trong kỹ năng tấn công vào các đoàn tầu vận chuyển ( lúc này có lẽ các phi công giỏi nhất và máy bay tốt nhất đang được chuẩn bị để tham chiến ở mặt trận phía Đông chăng?).

Hoạt động của tàu ngầm Ytalia tại Đại Tây Dương

Người Đức cũng nhận được sự giúp đỡ từ đồng minh của họ. Từ tháng 8 năm 1940, một đội tàu nhỏ gồm 27 tàu ngầm của Ytalia được đặt tại căn cứ BETASOM ở Bordeaux để tham gia tấn công tàu Đồng minh ở Đại Tây Dương. Các tàu ngầm của Hải quân Hoàng gia Ytalia (Regia Marina) được thiết kế cho các hoạt động của hạm đội tại Địa Trung Hải, không thích hợp với các hoạt động tấn công các đoàn Công voa Đại Tây Dương vì nhỏ hơn tầu U-Boat của Đức. Mặc dù vậy chỉ trong vài năm, 32 chiếc tàu ngầm Ytalia hoạt động ở Đại Tây Dương đã đánh chìm 109 tàu với trọng tải lên tới 593.864 tấn. Ytalia cũng thành công với việc sử dụng " ngư lôi người " ở dưới nước, chiến thuật này đã vô hiệu hóa một số tàu của Anh tại Gibraltar. Mặc dù đã có những thành công như vậy nhưng sự can thiệp của Ytalia đã không được công nhận bởi Dönitz, người luôn có ấn tượng rằng đặc điểm người Ytalia là "không thật sự có đủ sự kỷ luật" và "không thể giữ bình tĩnh khi đối mặt với kẻ thù". Họ đã không thể hợp tác trong chiến thuật sói bầy hoặc thậm chí không đáng tin cậy để báo cáo địa chỉ liên lạc hoặc điều kiện thời tiết và vùng họ hoạt động thì người Đức đã chuyển đi mà không cùng tham gia chiến đấu (he he các cỗ máy Đức tỏ không hề tin cậy đồng mình Ytalia của họ - những người rất tiểu xảo trong bóng đã, ưa nghệ thuật, thời trang, khai sinh ra công nghệ Mafia ... nhưng oánh nhau thì dở ẹc).

Thiết bị chống ngầm ASDIC

Sự phát triển của thiết bị ASDIC, bây giờ được gọi là thiết bị sonar, đây là phần rất quan trọng trong trận chiến Đại Tây Dương cũng như sự phát triển của radar trong trận chiến Anh Quốc ( đây là trận chiến của Không quân, nhờ có cải tiến về radar mà KQ Hoàng gia Anh - RAF đã chiến thắng trong trận chiến này trước KQ Đức - Luftwaffe), và trong cả hai trường hợp người Anh đã đưa ra những đột phá quan trọng. Thực tế là âm thanh được truyền đi một cách hiệu quả bởi nước đã trở nên nổi tiếng trong Thế chiến thứ nhất, và micro được đặt trong nước (hydrophone) đã được sử dụng để nghe tiếng động của tàu ngầm tại thời điểm đó (WWI). Tiếng ồn và tiếng vang tự nhiên cũng được phát hiện bằng cách sử dụng kỹ thuật này, nhưng người Anh là những người đầu tiên phát triển một " đèn rọi theo hướng âm thanh - sound searchlight ". Một sự phát triển quan trọng là sự hội nhập của ASDIC với một bảng vẽ và vũ khí chống ngầm vào thành một hệ thống chống ngầm hoàn chỉnh. ASDIC từ viết tắt thường được cho là xuất phát từ viết tắt Ủy ban điều tra và phát hiện tàu ngầm của Đồng Minh (Allied Submarine Detection Investigation Committee), điều này được đưa ra như là lời giải thích chính thức khi hệ thống này trở thành kiến thức rộng rãi, nhưng bây giờ lại xuất hiện ý kiến rằng đây là một lời giải thích sau sự kiện - không thể tìm thấy dấu vết của Ủy ban này để chứng tỏ nó đã tồn tại. Thay vào đó người ta giải thích rằng vì để giữ bí mật trong việc phát triển loại vũ khí này mà các nhà khoa học đã được khuyến khích để giữ chúng ở dạng mã hoá để tránh gián điệp Đức lượm lặt thông tin, ít nhất là các kiến thức cơ bản. Vì vậy việc truyền âm thanh (Ultrasonic) đã được đổi thành ASD-ic (phát hiện và chống tàu ngầm) ASDIC bao gồm một đầu dò được đặt trong một cái chụp bên dưới con tàu, nó tung ra một chùm hẹp âm thanh trong một loạt các xung có thể sẽ phản ánh quay trở lại từ một đối tượng đang chìm trong nước trong phạm vi tối đa khoảng 3.000 yard (2.700 m).Những cái chụp này được mở về phía biển và phải được bảo đảm rằng nước ở xung quanh đầu dò vẫn còn tương đối là nước chuyển động nhanh và chúng sẽ không tiêu hủy bất kỳ tín hiệu nào. Các tiếng vang - echo tạo ra một phạm vi chính xác để xác định mục tiêu. Nhưng sự khác biệt trong nhiệt độ ở độ sâu khác nhau của nước có thể tạo ra các tiếng vang giả, như thể dòng nước, xoáy nước và các đoàn cá lớn, vì vậy cần có kinh nghiệm để sử dụng thiết bị ASDIC một cách có hiệu quả. Thiết bị ASDIC chỉ có hiệu quả ở tốc độ thấp. Ở tốc độ trên 15 knot (28 km/ h) hoặc tương tự như vậy, tiếng ồn của tàu biển khi đi qua vùng nước có thể sẽ làm át đi những tiếng vọng (có thể phát ra từ đối tượng bị truy tìm).Các bước tiến hành trong thời đầu chiến tranh của Hải quân Hoàng gia Anh là quét ASDIC theo một vòng cung từ một phía của một con tàu cho tới một chiếc khác, dừng các đầu dò lại ở mỗi vài độ để tung ra một tín hiệu. Một số tàu cùng tìm kiếm với nhau được sử dụng ở một khoảng cách một dòng, một dặm hoặc một dặm rưỡi. Nếu một tiếng vang được phát hiện, và nếu người điều hành xác định nó dường như là của tàu ngầm, các con tàu sẽ được chỉ hướng tới mục tiêu và chúng sẽ tiến đến gần với tốc độ vừa phải, phạm vi và hướng của chiếc tàu ngầm sẽ được vẽ lên đồ thị (plotted) theo tiếng vang trong khoảng thời gian truy tìm để xác định hướng đi cũng như tốc độ (của chiếc tầu ngầm) trong lúc các con tầu săn ngầm tiến lại gần trong vòng 1.000 yards (910 m). Một khi người ta quyết định tấn công con tàu sẽ vào gần với tốc độ nhanh hơn, bằng cách sử dụng các dữ liệu thu thập được để tính toán về hướng đi và tốc độ của mục tiêu.Mục đích là để cho con tàu vượt qua phía trước chiếc tàu ngầm một khoảng cách nhỏ, sau đó các quả bom chìm sẽ được lăn từ các máng ở phía đuôi tầu và những nhân viên thả bom chìm sẽ khai hỏa một số quả bom ở khoảng cách khoảng bốn mươi mét ở hai bên. Mục đích là để tạo ra một "mẫu" được đánh bom chìm theo hình một viên kim cương thuôn dài (elongated diamond), với hy vọng rằng chiếc tàu ngầm sẽ nằm ở đâu đó bên trong chiếc mẫu này. Nhưng để có hiệu quả trong việc vô hiệu hóa một chiếc tàu ngầm, một quả bom chìm sẽ phải nổ gần mục tiêu trong vòng khoảng sáu mét, bất kể là nó được thả từ tầu chiến cũng như từ máy bay.Lúc đầu cuộc chiến thiết bị ASDIC rất nghèo nàn trong việc xác định chiều sâu nên thường là người ta phải lập một biễn thiên đo độ sâu khác nhau như một phần của mẫu này.Có những bất lợi trong các phiên bản đầu của hệ thống này. Các bài tập trong cuộc chiến chống ngầm chỉ được hạn chế từ một tới hai khu trục hạm để săn bắt chỉ một chiếc tàu ngầm duy nhất mà vị trí của nó thường bắt đầu được biết đến vào ban ngày và vào thời tiết tĩnh chứ không phải là trong điều kiện bão. U-Boat của Đức có thể lặn sâu xa hơn so với tàu ngầm của Anh hay Mỹ, thậm chí độ lặn sâu nhất của tầu ngầm Đức còn vượt qua cả độ sâu của bom chìm Anh (độ lặn sâu hơn 700 feet (210 m) so với việc lập độ sâu tối đa của bom chìm là 350 feet). Quan trọng hơn, bộ đầu dò ASDIC đời đầu không thể trực tiếp dò xuống, vì vậy người điều hành ASDIC thường mất "dạng " của chiếc U-Boat trong các giai đoạn cuối cùng của cuộc tấn công, khoảng thời gian mà chiếc tàu ngầm chắc chắn sẽ vận động nhanh. Tiếng nổ của một quả bom chìm cũng làm ảnh hưởng đến vùng nước đã tạo ra rất nhiều khó khăn cho người điều hành ASDIC để dò lại mục tiêu nếu cuộc tấn công đầu tiên thất bại.Với niềm tin ngây thơ rằng thiết bị ASDIC đã giải quyết vấn đề về tàu ngầm, áp lực với ngân sách của thời Đại khủng hoảng và các nhu cầu bức xúc cho nhiều loại vũ khí khác có nghĩa là rất ít tiền được chi cho các tàu hoặc vũ khí chống ngầm. Hầu hết các chi tiêu hải quân và nhiều sĩ quan tốt nhất của Anh được dành cho Hạm đội. Và nghiêm trọng hơn lãnh đạo Hải quân Anh dự kiến rằng giống như ở Thế chiến thứ nhất, tàu ngầm Đức sẽ chỉ hoạt động loanh quanh ở các vùng ven biển và họ chỉ có cách tiếp cận để đe dọa các bến cảng. Kết quả là, Hải quân Hoàng gia bước vào Thế chiến thứ hai trong năm 1939 mà không đủ lực để bảo vệ áp tải các chuyến vận chuyển đường dài trên biển, và không có các sỹ quan có kinh nghiệm trong cuộc chiến chống ngầm tầm xa. Tình hình trong Lực lượng Không quân Tuần duyên Hoàng gia thậm chí còn thảm khốc hơn, nơi mà máy bay có thể tuần tra thông thường thì họ chỉ có súng máy (lắp trên máy bay) khi nhìn thấy một tàu ngầm đang lặn xuống.

Những tầu chiến lớn tấn công bề mặt

Mặc dù gặt hái được những thành công này, tầu U-boat vẫn không được công nhận như là một mối đe dọa chính cho các đoàn Công voa Bắc Đại Tây Dương. Với ngoại lệ như Dönitz, các sĩ quan hải quân cao cấp nhất ở cả hai phía đều coi các tàu chiến bề mặt mới là các vũ khí tối thượng để gây nguy hiểm cho thương đoàn.Trong nửa đầu của năm 1940, không có tầu tấn công bề mặt nào của Đức tại vùng biển Đại Tây Dương vì Hạm đội Đức được tập trung cho cuộc xâm lược vào Na Uy, chỉ có chiếc tầu chiến bề mặt duy nhất - Đô đốc Graf Spee, đã bị tiêu diệt trong trận cửa sông River Plate bởi một hải đội tầu Anh gồm những tầu yếu hơn và súng nhỏ hơn. Nhưng từ mùa hè năm 1940 một đội hình nhỏ và ổn định gồm các tàu chiến và tầu buôn vũ trang của Đức được thành lập để tấn công các đoàn tầu hàng bắt đầu tiến vào Đại Tây Dương.Sức mạnh của một tàu chiến khi tấn công vào một đoàn tầu hàng đã được chứng minh bởi số phận của đoàn Công voa HX 84, họ đã bị phát hiện bởi chiếc thiết giáp hạm bỏ túi Đức -Đô đốc Scheer vào ngày 05 tháng 11 năm 1940. Chiếc Đô đốc Scheer nhanh chóng nhấn chìm năm chiếc tàu và nhiều chiếc khác bị đánh hỏng nằm rải rác trong đoàn công voa. Chỉ có sự hy sinh của chiếc tầu tuần dương hộ tống HMS Jervis Bay (đây là một chiếc tầu buôn vũ trang) và bóng tối buông xuống mới cho phép phần còn lại của đoàn công voa kịp tẩu thoát. Người Anh lúc bấy giờ phải đình chỉ các đoàn Công voa vượt Bắc Đại Tây Dương và tung hải đoàn Home Fleet ra biển cả để cố gắng đánh chặn chiếc Scheer. Việc tìm kiếm không thành công vì chiếc Scheer đã biến mất vào Nam Đại Tây Dương. Nó lại xuất hiện trở lại ở Ấn Độ Dương tháng sau đó.Các tầu tấn công bề mặt khác của Đức lúc nay bắt đầu cho người ta thấy sự hiện diện của họ. Vào ngày Giáng sinh, năm 1940, tàu tuần dương Đô đốc Hipper tấn công đoàn công voa chở quân số WS 5A nhưng nó bị đẩy ra bởi các tàu tuần dương hộ tống. chiếc Hipper đã gặt hái được thành công lớn hơn trong hai tháng sau đó, vào ngày 12 tháng 2 năm 1941, khi nó tìm thấy đoàn 64 SLS không được hộ tống gồm 19 tàu và đánh chìm bảy chiếc trong số họ. Vào tháng Giêng năm 1941, các tàu chiến ghê gớm (và cao tốc) của Đức - các chiếc Scharnhorst và Gneisenau - có vũ khí khủng hơn bất kỳ tàu Đồng minh có thể đuổi kịp họ, đã được tung vào vùng biển từ nước Đức để tham gia vào các cuộc tấn công các làn đường vận chuyển trong Chiến dịch Berlin. Bởi vì có sự xuất hiện nhiều các tầu tấn công lớn của Đức tại Đại Tây Dương cho nên người Anh cũng buộc phải tung ra nhiều tàu chiến hơn nữa đến mức có thể để hộ tống các đoàn công voa. Việc tăng gấp đôi các tầu hộ tống đã cứu được các đoàn công voa khỏi bị tiêu diệt bởi các tàu chiến Đức. Trong tháng hai, sự hiện diện của chiếc tàu thiết giáp cao tuổi HMS Ramillies đã ngăn cản được một cuộc tấn công vào đoàn công voa HX 106. Một tháng sau, Đoàn công voa SL 67 được cứu sống bởi sự hiện diện của tàu thiết giáp từ thời WWI - chiếc HMS Malaya.Vào tháng Năm, người Đức tiến hành gắn kết một loạt các cuộc tấn công đầy tham vọng nhất của họ: Chiến dịch Rheinübung. Chiếc tàu thiết giáp hạm mới toanh Bismarck và chiếc tàu tuần dương Prinz Eugen được tung ra biển Đại Tây Dương để tấn công các đoàn công voa chở hàng. Được cảnh báo trước bởi thông tin tình báo, một phân đội tầu chiến Anh tìm cách ngăn chặn các tầu tấn công của Đức ở ngoài khơi bờ biển Iceland. Kết quả đã tạo ra - Trận eo biển Đan Mạch, đây lại chính là một thảm họa cho người Anh với sự tổn thất của chiếc tàu tuần dương chủ lực HMS Hood, trong số 1.418 thành viên thủy thủ đoàn chỉ còn có ba người sống sót. Nhưng may mắn nhờ vào một quả ngư lôi phóng từ một chiếc Fairey Swordfish đã vô hiệu hóa bánh lái của chiếc Bismarck nên Hạm đội Anh đã kịp thời truy kích và đánh chìm chiếc tầu này trong ba ngày sau đó, trong tổng số thủy thủ đoàn của chiếc Bismarck gồm 2.300 người chỉ còn 110 người được cứu sống. Việc con tầu này bị đánh chìm đã đánh dấu sự kết thúc của các cuộc tấn công tàu thương mại bằng tầu chiến (Sự kiện về chiếc Bismarck sẽ được mô tả chi tiết trong hai bàiTrận eo biển Đan Mạch và truy tìm Bismarck ở phần sau, mời các bác đón xem ).Tại Channel Dash mặc dù sự trở lại của các chiếc Scharnhorst, Gneisenau và Prinz Eugen của Đức vào tháng 2 năm 1942 đã tạo ra nhiều bối rối cho người Anh, nhưng nó cũng đánh dấu sự kết thúc của mối đe dọa từ các tầu chiến bề mặt của Đức tại Đại Tây Dương. Sự mất mát của chiếc Bismarck, và sự kiện Đoàn công voa Bắc cực và mối đe dọa về các đợt tấn công của Đồng minh vào Na Uy đã có là lý do để thuyết phục Hitler rút lui.Chiến tranh đã nổ ra quá sớm cho việc hoàn thành kế hoạch mở rộng hải quân tên là Plan Z của người Đức. Đây là kế hoạch đóng những chiến hạm đủ mạnh để tiêu diệt bất kỳ tầu hộ tống đoàn hộ tống, những con tầu này sẽ đi kèm với những tàu có khả năng tiêu diệt các đoàn công voa nhưng dự án này không bao giờ được hoàn thành (chuyên nghiệp hóa trong việc tầu chuyên tấn công tầu hộ tống với tầu tấn công tầu buôn). Mặc dù số lượng tàu các tàu chiến tấn công tuyến đường thương mại bị tiêu diệt được cho tương đối nhỏ khi so sánh với các thiệt hại tầu U-Boat, mìn và không quân, các cuộc tấn công của họ đã thực sự phá vỡ tính hệ thống của đoàn công voa của quân đồng minh, nói một cách nghiêm túc chúng đã thực sự làm giảm khối lượng nhập khẩu của người Anh.

Sự chống trả của các tầu hộ tống (tháng 3 năm 1941 - tháng 5 năm 1941)

Các trận chặn đánh tai hại nhằm vào các đoàn công voa trong tháng 10 năm 1940 buộc người Anh phải thay đổi chiến thuật. Sự thay đổi quan trọng nhất trong số đó việc đưa vào áp dụng các nhóm tầu hộ tống thường trực để nâng cao khả năng điều phối và hiệu quả của tàu chiến và thủy thủ trong cuộc chiến. Người Anh được trợ giúp một cách nỗ lực sự bởi tăng dần về số lượng các tàu hộ tống có sẵn cũng như các tàu khu trục cũ của người Mỹ và số đóng mới của Anh và Canada. Các tàu hộ tống lớp Hoa (Flower class corvettes) lúc này đã tham gia vào làm nhiệm vụ với số lượng. Nhiều tàu đã trở thành một phần của lực lượng tăng cường của Hải quân Hoàng gia Canada, rất nhiều chiếc trong số này đã trưởng thành từ những tàu khu trục đã tham chiến và nhận trách nhiệm ngày càng nặng nề bởi nhiệm vụ hộ tống đoàn công voa. Những con tàu mới được sử dụng bởi những người Pháp tự do hoặc các đội Na Uy và Hà Lan, nhưng đó chỉ là một thiểu số nhỏ bé trong một số lượng rất lớn các tầu khu trục được trực tiếp chỉ huy và điều hành bởi người Anh. Đến năm 1941 công chúng Hoa kỳ bắt đầu có tư tưởng chống lại người Đức nhưng cuộc chiến trên biển vẫn chủ yếu vẫn được tiến hành bởi nước Anh và các thuộc địa của nó để chống lại Đức.Ban đầu, các nhóm tầu hộ tống mới bao gồm hai hoặc ba tàu khu trục và độ một nửa tá tàu hộ tống loại nhỏ. Khi mà hai hoặc ba chiếc trong mỗi nhóm thường phải được sửa chữa trong các ụ tầu do thời tiết hoặc thiệt hại trong chiến đấu, thì các nhóm này thường chỉ còn vào khoảng sáu chiếc. Việc đào tạo (thủy thủ đoàn của) các tàu hộ tống cũng được cải thiện vì những thực tế của cuộc chiến trở ngày càng trở nên rõ ràng. Một căn cứ mới được thành lập tại Tobermory để thao luyện cho các tàu hộ tống và các thành viên thủy thủ đoàn của chúng tính huống của các trận đánh theo chế độ nghiêm ngặt của Phó Đô đốc O. Gilbert Stephenson.Trong tháng 2 năm 1941,Bộ Hải quân đã chuyển Chỉ huy sở của Western Approaches Command từ Plymouth đến Liverpool, Nơi mà họ có nhiều liên hệ gần gũi hơn và dễ dàng hơn trong việc kiểm soát các đoàn công voa vượt Đại Tây Dương. Những hợp tác chặt chẽ hơn với sự hộ trợ tốt hơn của Không quân cũng đã bắt đầu được phát huy. Trong tháng tư, Bộ Hải quân đã nắm quyền kiểm soát hoạt động của Lực lượng Không quân Tuần duyên (Coastal Command aircraft). Ở cấp độ chiến thuật, người Anh cho lắp đặt các trạm radar sóng ngắn để có thể phát hiện khi nào các tầu U-Boat và loại radar này được thu nhỏ để đặt được trên cả các tàu nhỏ và máy bay vào đầu năm 1941.Tác động của những thay đổi đầu tiên bắt đầu được cảm thấy trong những trận đánh các đoàn công voa trong suốt mùa xuân năm 1941. Trong đầu tháng Ba, thuyền trưởng Prien cùng chiếc U-47 không quay trở về sau 01 chuyến tuần tra. Hai tuần sau, trong trận đánh đoàn công voa HX 112, nhóm tầu hộ tống mới số 3 được thành lập gồm năm tàu khu trục và hai tàu hộ tống để chống trả chiến thuật Sói bày của tầu U-boat. Chiếc U-100 đã bị phát hiện bởi chiếc radar thô sơ trên chiếc tàu khu trục Vanoc sau đó nó bị đâm và đánh chìm. Ngay sau đó chiếc U-99 cũng bị truy đuổi và bị đánh chìm, thành viên thủy thủ đoàn của nó bị bắt sống.Phó Đô đốc Dönitz đã mất ba ace hàng đầu của mình: đó là các thuyền trưởng Kretschmer, Prien và Schepke.Dönitz lúc này cho chuyển các bầy sói của ông ra xa hơn về phía tây để chặn đón các đoàn công voa trước khi các tầu hộ tống chống ngầm tham gia. Chiến lược mới này có thưởng ngay vào đầu tháng tư khi Sói bầy tấn công Đoàn công voa số SC 26 trước khi các tầu hộ tống chống ngầm của nó kịp tiếp ứng. Mười tàu tầu hàng bị đánh chìm nhưng một tàu U-Boat cũng bị tiêu diệt.Ngày 09 Tháng Năm, chiếc tàu khu trục HMS Bulldog của Anh đã bắt sống được chiếc U-110 và thu được một Máy Enigma còn hoàn toàn nguyên vẹn. Cùng với một vài vụ bắt giữ khác, đây là một bước đột phá quan trọng cho những nỗ lực của Đồng Minh giải phá mã Enigma.Chiếc máy này được đưa tới Bletchley Park nơi nó được sử dụng để giúp giải phá các mật mã của Đức. Sự kiện này cùng với sự thành công của những chuyên gia có tên là Flowers và Turing của Anh đã tạo ra khả năng đọc được được mật mã của hải quân Đức trong nhiều phần còn lại của chiến dịch và cũng rất tình cờ công việc này lại cung cấp động lực cho việc phát triển thiết bị điện tử đầu tiên có lập trình - máy tính Colossus.

Mở rộng khu vực ( về mặt Địa lý) của cuộc chiến (tháng 6 -> tháng 12 năm 1941)

Các hoạt động ngày càng gia tăng của người Mỹ

Trong tháng 6 năm 1941, người Anh quyết định cung cấp hộ tống một cách đầy đủ cho các đoàn công voa vượt Bắc Đại Tây Dương. Để làm được điều này ngày 23 tháng 5 Bộ Hải quân Anh đã yêu cầu Hải quân Hoàng gia Canada chủ trì bảo vệ đoàn công voa tại khu vực phía tây và thiết lập các căn cứ của lực lượng hộ tống của các thương đoàn tại St Johns, Newfoundland. Ngày 13 tháng 6 năm 1941 thiếu tướng L.W. Murray của Hải quân Hoàng gia Canada tới nhận nhiệm vụ của mình tại sở chỉ huy lực lượng hộ tống Newfoundland, dưới sự điều hành của Chỉ huy của đơn vị Western Approaches, có Trụ sở tại Liverpool. Sáu tàu khu trục của Canada và 17 tàu hộ tống, được tăng cường bởi bảy tàu khu trục, ba tầu sloop và năm tàu hộ tống của Hải quân hoàng gia đã được tập hợp để làm các nhiệm vụ trong đó có việc hộ tống các đoàn công voa từ các bến cảng đến Newfoundland Canada và sau đó đến một địa điểm phía nam Iceland, nơi mà các nhóm tầu hộ tống của Anh sẽ thay thế họ để làm nhiệm vụ hộ tống.Đến năm 1941 Hoa Kỳ có vai trò ngày càng tăng trong chiến tranh mặc dù trên danh nghĩa đây là quốc gia trung lập. Trong tháng 4 năm 1941 Tổng thống Roosevelt mở rộng Khu vực an toàn Pan-American về phía đông ra xa tới gần Iceland. Lực lượng Anh đã chiếm đóng Iceland khi Đan Mạch rơi vào tay người Đức trong năm 1940, người Mỹ đã được thuyết phục để cung cấp lực lượng hỗ trợ cho quân đội Anh trên quốc đảo này. Tàu chiến Mỹ bắt đầu hộ tống đoàn công voa của quân Đồng minh ở phía tây Đại Tây Dương ở những vùng xa như Iceland và đã có nhiều cuộc va chạm thù địch với tầu U-Boat. Một đội tầu hộ tống hỗn hợp gồm các tàu khu trục và tàu hộ tống Mỹ, Anh và Canada đã được thành lập sau lời tuyên chiến của Hoa Kỳ.Trong tháng 6 năm 1941 Hoa Kỳ nhận thấy rằng vùng biển nóng của Đại Tây Dương cũng trở nên nguy hiểm cho các tầu buôn của người Mỹ nếu không được hộ tống. Ngày 21 tháng 5 chiếc SS Robin Moor một tàu chở hàng của Mỹ không mang theo các đồ cung cấp quân sự đã bị chặn lại bởi chiếc U-69 ở khoảng cách 750 dặm (1.210 km) phía tây của Freetown, Sierra Leone. Sau khi hành khách và thủy thủ đoàn của nó có ba mươi phút để xuống xuồng cứu hộ, sau đó chiếc U-69 phóng ngư lôi và đánh chìm con tàu này. Những người sống sót sau đó đã trôi dạt mà không cứu nạn hoặc phát hiện tới tận mười tám ngày. Khi tin tức về vụ chìm tầu này đến được Mỹ, các công ty vận tải thực sự cảm thấy chẳng nơi nào là an toàn cả. Như tạp chí Times đã đăng trong tháng 6 năm 1941, "nếu như tiếp tục có những vụ đánh chìm tầu như thế này, tàu Mỹ sẽ phải di chuyển tới những nơi xa vùng chiến sự, những vùng dễ gặp nguy hiểm. Từ nay trở đi Hoa Kỳ hoặc là có thể phải thu hồi các tàu của mình từ các đại dương về hoặc phải thực thi quyền của mình trong việc sử dụng một cách tự do các vùng biển ".Đồng thời trong lúc này người Anh cũng cố gắng làm việc để phát triển một loạt các kỹ thuật để có thể phá các ưu thế trên tàu ngầm Đức. Rất thú vị rằng mặc dù chúng được phát minh bởi người Anh, các công nghệ quan trọng lại được cung cấp một cách tự do vào Mỹ, tại đây sau đó chúng lại được đặt tên và sản xuất đại trà. Trong nhiều trường hợp việc này đã dẫn đến quan niệm sai lầm rằng chúng được phát triển ở Mỹ.Thứ nhất, các loại bom chìm mới được phát triển để bắn qua từ bên trong tầu khu trục thay vì chỉ đơn giản là thả chúng xuống từ phần đuôi của các tàu khu trục nay xuống những vùng nước chúng đã đi qua. Thiết bị ASDIC thường bị mất liên lạc ở thẳng phía dưới chiếc tầu và tầu U-Boat thường sử dụng điểm yếu này để trốn thoát. Ngoài ra, bom chìm cũng được bắn theo mẫu để " để đóng hộp" mục tiêu trong các vụ nổ. Sóng từ các đợt sốc sau đó sẽ phá hủy các tầu U-boat bằng cách nghiền nó ra bởi các vụ nổ.

Chiến dịch tiếng trống (Tháng 1 năm 1942 - tháng 6 năm 1942)

Sự kiện Cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng và sau đó lời là tuyên chiến của Đức với nước Mỹ đã có hiệu lực ngay lập tức. Đô đốc Dönitz kịp thời lên kế hoạch tấn công các đoàn vận tải ở ngoài khơi bờ biển phía Đông của Hoa kỳ. Dönitz chỉ có 12 tàu U-Boat loại Type IX, đây là loại có khả năng tiến hành các chuyến hành trình dài ngày về phía bờ biển Đông của Hoa Kỳ nhưng một nửa trong số chúng đã bị chuyển sang theo lệnh của Hitler để chống lực lượng Anh tại Địa Trung Hải. Một trong những chiếc của phần còn lại cần được theo sửa chữa, nên chỉ còn có năm chiếc U-Boat là có thể tiến được đến Hoa Kỳ để tiến hành cái gọi là Chiến dịch tiếng trống(Paukenschlag). Người Mỹ không có kinh nghiệm trực tiếp về những trận chiến hải quân hiện đại trên bờ biển riêng của họ. Các tầu U-Boat chỉ đơn giản là đứng ngoài khơi bờ biển của vùng duyên hải phía đông và chọn ra tàu mà chúng in bóng dưới ánh sáng của thành phố. Viên chỉ huy trưởng của Hạm đội Hoa Kỳ, Đô đốc King Ernest là người không ưa thích gì người Anh nên ban đầu đã bác bỏ lời kêu gọi của Hải quân Hoàng gia Anh về việc tắt hệ thống đèn ven biển, và thành hệ thống hộ tống đoàn công voa. King bị chỉ trích vì quyết định này nhưng những người bảo vệ ông tranh luận rằng hạm đội khu trục Hoa Kỳ đã bị hạn chế (một phần do việc bán 50 tàu khu trục cũ sang nước Anh ở giai đoạn trước đó của cuộc chiến) và King cũng tuyên bố rằng dùng các tàu khu trục để bảo vệ các tàu chở quân của Đồng minh là quan trọng hơn so với hộ tống đường vận chuyển. Tàu của ông cũng rất bận rộn để hộ tống những hàng hóa theo dạng Lend-Lease cho người Nga, cũng như phải chiến đấu với người Nhật Bản tại Thái Bình Dương.Điều này không giải thích việc từ chối yêu cầu tắt đèn ven biển, hoặc đáp ứng bất kỳ lời khuyên nào mà Hải quân Hoàng gia Anh đưa ra. Không có tầu chở quân nào bị mất, nhưng nhưng có nhiều tầu chở hàng trong vùng biển của Mỹ đã bị bỏ mặc và phải chịu nhiều rủi ro.Người Anh cuối cùng lập một đội tầu hộ tống ven biển và chuyển các đội tàu hộ tống này một cách miễn phí sang nước Mỹ đây có thể gọi là một " Lend Lease ngược chiều", vì Đô đốc Kinh không muốn (hoặc không thể) làm bất kỳ điều gì tương tự.Chiếc tàu đầu tiên bắt đầu nổ súng vào ngày 13 Tháng 1 1942, và tính tới thời gian họ quay trở về bờ biển nước Pháp vào ngày 06 tháng 2 họ đã đánh chìm 156.939 tấn vận tải mà không mất chiếc tầu nào. Những chiếc đầu tiên của tầu U-Boat IX Type được thay thế bởi những chiếc Type VII và IX có khả năng tiếp nhiên liệu trên biển từ tầu ngầm tiếp liệu Type XIV Milk Cows và chúng đã đánh chìm hơn 397 tàu với tổng cộng 2.000.000 tấn (như đã đề cập trước đây toàn là tầu hàng, không hề có một tầu chở quân nào bị đánh chìm). Năm 1943, Hoa Kỳ đưa vào khai thác trên 11.000.000 tấn tàu chở hàng; con số đó giảm xuống trong những năm chiến tranh sau này, cũng như ưu tiên chuyển sang làm nhiệm vụ khác.Vào tháng Năm, Đô đốc King (trong thời gian này đang đảm đương cả hai chức vụ chỉ huy trưởng Hải quân Hoa Kỳ và chỉ huy trưởng các chiến dịch của Hải quân Hoa Kỳ) cuối cùng cũng đã tập hợp đủ tàu bè để thành lập một hệ thống đoàn tầu hộ tống. Sự kiện này đã nhanh chóng dẫn đến sự mất mát của bảy chiếc U-Boat. Tuy nhiên người Mỹ cũng không có đủ tàu để bù lại tất cả các tầu bị mất, và tầu U-Boat vẫn tiếp tục được hoạt động tự do trong như trong Trận vùng biển Caribbê và trong suốt vùng Vịnh Mexico(Nơi thậm chí họ có tác dụng phong tỏa một số cảng của Mỹ) cho đến tháng bảy, khi các tàu hộ tống cho mượn của Anh bắt đầu đến được Hoa kỳ. Anh và Hoa kỳ tổ chức một hệ thống đoàn công voa hỗn hợp trên bờ biển của Hoa kỳ và trong vùng biển Caribbean vào giữa năm 1942 dẫn đến một sự thuyên giảm ngay lập tức các vụ tấn công ở những vùng đó. Kết quả của việc tăng cường hệ thống hộ tống đoàn công voa ven biển là các U-Boat chuyển lại sự chú ý tới các đoàn công voa vượt Đại Tây Dương. Đối với các nước Đồng Minh, tình hình trở nên nghiêm trọng nhưng không quá quan trọng trong suốt năm 1942.Chiến dịch Tiếng trống còn có một hiệu lực khác. Nó thành công đến nỗi Chính sách kinh tế thời chiến của Dönitz đã được nhìn nhận ngay cả bởi Hitler và ông này cũng cho rằng sử dụng các tầu U-Boat-U là có hiệu quả nhất, và ông (Đô đốc Dönitz) được lệnh tiếp tục hoàn thiện để sử dụng chúng nếu như ông thấy là phù hợp.Trong khi đó Đô đốc tư lệnh Raeder đã bị sa thải vì kết quả của một thảm họa Trận chiến Biển Barents trong đó hai tàu tuần dương hạng nặng của Đức bị đánh tơi bời bởi nửa tá tàu khu trục của Hải quân Hoàng gia. Dönitz cuối cùng đã được tấn phong làm Đại Đô đốc của hạm đội và ông tập trung tất cả các nguồn lực để chuyển sang ưu tiên chế tạo đội tầu U-Boat.

Trận chiến giữa biển Đại Tây Dương (tháng 7 năm 1942 - tháng 2 năm 1943)

Cuối cùng cùng thì người Mỹ cũng đã thu xếp ổn thỏa cho các đoàn toàn hộ tống, tổn thất của tàu bè từ tàu Boat-U nhanh chóng giảm xuống, và Dönitz nhận ra rằng các tầu U-Boat của ông nên được sử dụng tốt hơn ở những nơi khác. Ngày 19 tháng 7 năm 1942, ông ra lệnh cho chiếc U-Boat cuối cùng để rút ra khỏi bờ biển Đại Tây Dương - Hoa Kỳ, và vào cuối tháng 7 năm 1942 ông chuyển sự chú ý của mình trở lại Bắc Đại Tây Dương. đoàn công voa SC 94 là đánh dấu chú ý sự trở lại của U-Boat tới các đoàn tầu hàng từ Canada đến quần đảo Anh.Có đủ tầu U-Boat lan tỏa ra khắp Đại Tây Dương và cho phép một số Bầy sói tấn công các tuyến đường vận chuyển khác nhau. Thường thì một Bầy sói U-Boat có từ 10-15 chiếc sẽ tấn công trong một hoặc hai đợt vào các đoàn công voa như đoàn SC 104 và đoàn SC 107, họ có thể tấn công vào cả ban ngày lẫn ban đêm. Thiệt hại nhanh chóng tăng lên và trong tháng 10 năm 1942 khoảng hơn 56 tàu với trọng tải 258.000 tấn bị chìm chỉ trong khoảng khoảng cách giữa " Greenland và Iceland" mà đây vẫn còn khu vực tuần tra trên không ngày càng tăng của quân Đồng minh.Ngày 19 tháng 11 năm 1942, Đô đốc Noble đã được thay thế bởi Đô đốc Sir Max Horton như là chỉ huy Trưởng của Western Approaches Command. Horton sử dụng số lượng ngày càng tăng của các tàu hộ tống có sẵn cho Western Approaches Command để tổ chức các "nhóm hỗ trợ" các nhóm này được sử dụng để củng cố đoàn công voa bị tấn công. Không giống như các nhóm hộ tống thường xuyên, các nhóm hỗ trợ không trực tiếp chịu trách nhiệm về sự an toàn của bất cứ đoàn công voa riêng biệt nào. Việc giảm bớt trách nhiệm này cho phép họ có tính linh hoạtchiến thuật cao hơn, cho phép các nhóm hỗ trợ có thể tản ra để săn ngầm khi chúng bị phát hiện bởi máy bay trinh sát hoặc khi chỉ đạo việc tìm kiếm qua tần số cao (HF / DF). Trong tình huống mà các tàu hộ tống thường xuyên phải trở về với các đoàn công voa của họ, thì các nhóm hỗ trợ có thể tiến hành săn ngầm trong nhiều giờ. Một chiến thuật nữa được áp dụng bởi thuyền trưởng Walker là bám bên trên một chiếc U-Boat và đợi cho đến khi dưỡng khí của nó bị hết và nó bị buộc phải nổi trên bề mặt. ( Chiếc U-Boat lặn xuống và bất động he he giống như bịt mũi mà hụp xuống nước vậy, nếu di chuyển sẽ bị tầu săn ngầm dùng Sonar phát hiện, nhưng thằng săn ngầm cũng quái cứ vật vờ ở đó để tầu ngầm bịt mũi không nổi phải nổi lên)

Con nhím ( Hedgehog)

Vào cuối năm 1942, người Anh phát triển một loại vũ khí mới, và tàu chiến được trang bị với loại đạn cối chống ngầm Con nhím - Hedgehog loại này có thể bắn 24 quả liên tiếp, bắn trực tiếp về phía trước của con tàu tấn công. Không giống như bom chìm chỉ phát nổ ở một độ sâu nhất định được đặt ở phía sau chiếc tàu chiến tấn công, gây rối loạn vùng nước và làm cho bị nó khó khăn trong việc theo dõi các mục tiêu, Hedgehog chỉ phát nổ khi gặp phải tác động. Điều này có nghĩa rằng một U-Boat có thể bị theo dõi và tấn công liên tục cho đến khi nó bị đánh chìm. Hedgehog là một vũ khí có hiệu quả đặc biệt, nâng cao tỷ lệ tiêu diệt của các cuộc tấn công từ 7% đến gần 25%. Khi một trong những quả đạn Hedgehog phát nổ, nó làm cho những quả khác cũng phát nổ làm tăng hiệu quả của loại vũ khí này.

Đèn rọi săn ngầm - Leigh Light

Các thiết bị phát hiện tầu ngầm gồm radar được lắp trên máy bay có thể phát hiện các hoạt động của U-Boat trên một diện tích rộng, nhưng một đợt tấn công bằng máy bay chỉ thành công khi có tầm nhìn tốt. U-Boat thường khá an toàn khi thoát khỏi máy bay vào ban đêm, kể từ khi người Anh triển khai một hệ thống đèn chiếu sáng thì họ đã có được sự quan sát đầy đủ để chuẩn bị cho cuộc tấn công. Ứng dụng này của người Anh chính là đèn Leigh Light trong tháng 6 năm 1942, đây chính là một nhân tố quan trọng trong cuộc chiến ở Bắc Đại Tây Dương. Nó là một đèn rọi cực mạnh được kết nối tự động với radar của máy bay để chiếu sáng mục tiêu một cách đột ngột ở trong giai đoạn cuối của một cuộc tấn công. Công nghệ mới này của Anh cho phép máy bay tấn công tàu U-Boat khi họ nổi lên để sạc pin trên bề mặt vào ban đêm và nó buộc tàu ngầm Đức phải chuyển sang sạc pin vào ban ngày. ( thế này có khác nào lúc đêm khuya chạy ra đồng mà ngồi ... lại có thằng đểu nó chiếu đèn pin rồi ném đá phải ko các bác)Các chỉ huy tầu U-boat - những người còn sống sót đã báo cáo về một sự ghê gớm đặc biệt của hệ thống vũ khí này vì tiếng động của một chiếc máy bay thường không được phát hiện vào ban đêm bởi những tiếng ồn của con tàu. Chiếc máy bay thực hiện việc tìm kiếm những chiếc tàu ngầm bằng cách sử dụng radar centimetric, đây là loại radar mà các U-boat điển hình của Đức không thể phát hiện được với những thiết bị hiện có, và sau đó là máy bay sẽ tấn công theo đội hình. Khi mà radar metric được sử dụng, các thiết bị của nó sẽ tự động làm giảm sức mạnh của radar khi tiếp cận đến các tàu ngầm làm cho chúng không phát hiện ra được mình đang bị theo dõi. Với khoảng cách một dặm hoặc xa hơn nữa những chiếc đèn rọi sẽ tự động được bật lên, rất kịp thời và chính xác nó sẽ làm các mục tiêu bị phát sáng từ trên trời, sau đó chiếc tầu ngầm chỉ có khoảng năm giây cảnh báo trước khi nó nhận được một loạt bom chìm. Sự sụt giảm về số lượng thiệt hại trong công tác vận tải hàng hóa của Đồng Minh từ 600.000 tấn đến 200.000 tấn mỗi tháng được quy cho thiết bị khéo léo này.

Metox receiver ( Đầu thu Metox)

Vào tháng 8 năm 1942, các tầu U-Boat đã được trang bị các thiết bị dò radar để giúp họ tránh những cuộc phục kích bất ngờ có thể được tiến hành bởi các máy bay được trang bị radar hoặc các tàu hộ tống. Thiết bị đầu thu đầu tiên này được đặt tên là Metox sau khi nhà sản xuất người Pháp có năng lực để bắt được các tần số của metric radar được sử dụng bởi các radar đời đầu.Phát minh này không chỉ làm cho tàu U-Boat có thể tránh bị phát hiện bởi các tầu hộ tống của Canada và Hoa Kỳ khi chúng chỉ được trang bị những bộ radar lỗi thời, mà còn cho phép họ(Bầy sói) theo dõi được các đoàn công voa có sử dụng các thiết bị này.

Đỉnh cao của chiến dịch (tháng 3 năm 1943 - tháng 5 năm 1943) hay còn gọi là "tháng đen tối"

Sau đoàn công voa số 154, thời tiết của mùa đông đã tạo ra một khoảng thời gian nghỉ ngơi ngắn của cuộc chiến bắt đầu từ tháng Giêng trước khi các đoàn số SC 118 và ON 166 xuất phát trong tháng 2 năm 1943, nhưng vào mùa xuân năm 1943 trận đánh của các đoàn công voa lại bắt đầu một lần nữa với cùng một mức độ tàn bạo. Đến mùa xuân năm 1943, có rất nhiều tầu U-Boat tuần tra ngang dọc vùng biển Bắc Đại Tây Dương làm cho các đoàn công voa khó mà tránh khỏi bị phát hiện, điều này dẫn đến một loạt các trận đánh đoàn công voa. Trong tháng này các tàu hộ tống bị đánh bại một cách nặng nề trong những trận đánh của các đoàn số UGS 6, HX 228, SC 121, SC 122 và HX 229. Một trăm hai mươi tàu hàng bị đánh chìm trên toàn thế giới, trong đó 82 tàu với trọng tải 476.000 tấn bị đánh chìm tại Đại Tây Dương và 12 tàu U-Boat bị phá hủy.Tình hình cung cấp ở Anh được như vậy mà có nói chuyện của bị không thể tiếp tục các nỗ lực chiến tranh, với nguồn cung cấp nhiên liệu đang được đặc biệt thấp. Nó xuất hiện rằng Dönitz được chiến thắng trong chiến tranh. Và nào được nêu ra trong hai tháng tiếp theo sẽ thấy một sự đảo ngược hoàn toàn của tài sản.Trong tháng tư, thiệt hại của tầu U-Boat lại tăng lên trong khi số lượng các tàu bị đánh đắm lại giảm đi đáng kể. Ba mươi chín tàu với trọng tải 235.000 tấn bị chìm ở Đại Tây Dương nhưng lại chỉ có 15 tàu U-Boat bị phá hủy.Bởi vào tháng này sói bầy không còn chiếm được ưu thế và tháng đó đã được biết đến như tháng 5 đen tối của lực lượng tầu U-Boat (U-Boot Waffe). Bước ngoặt là trận đánh tập trung vào đoàn tầu công voa tốc độ chậm số ONS 5 (Tháng 4 -> tháng 5 năm 1943) khi một đoàn 43 tầu buôn được hộ tống bởi 16 tàu chiến bị tấn công bởi một bầy sói gồm 30 tầu U-Boat. Mặc dù 13 tàu buôn bị đánh chìm, sáu tầu U-Boat đã bị đánh chìm bởi những tầu hộ tống hoặc máy bay Đồng Minh. Mặc dù có một cơn bão làm phân tán các tầu buôn ra khỏi sự bảo vệ của không lực trên đất liền, Đô đốc Dönitz đã phải cho ngừng cuộc tấn công.Hai tuần sau, trong trận đánh của đoàn công voa số SC 130 năm tầu U-Boat bị phá hủy mà không gây được thiệt hại nào. Vì phải đối mặt với thiên tai Dönitz đã phải cho ngừng các hoạt động tại Bắc Đại Tây Dương. Tổng số có 43 tàu U-Boat bị phá hủy trong tháng 5, có 34 chiếc bị phá hủy tại Đại Tây Dương. Thiệt hại này đã làm giảm 25% sức mạnh tổng thể của lực lượng. Đồng minh mất 58 tàu hàng vào tháng 5, 34 chiếc tàu (tổng cộng 134.000 tấn) trong số này bị đánh chìm ở Đại Tây Dương.

Sự hội tụ của Công nghệ

Lực lượng Đồng Minh đã giành được chiến thắng trong Trận chiến Đại Tây Dương trong vòng hai tháng. Không có lý do duy nhất cho chiến thắng này, nhưng những gì tạo ra sự thay đổi đột ngột chính là một sự hội tụ của công nghệ, kết hợp với sự gia tăng nguồn lực của Đồng Minh.Khoảng cách giữa Đại Tây Dương đã được kết nối bởi các máy bay tầm xa như máy bay B-24 Liberator. Hiệu quả của việc của việc sử dụng những chiếc máy bay này là việc đổi quyền kiểm soát chiến dịch từ lực lượng không quân chống ngầm của Lục quân Hoa kỳ (Army Air Forces Antisubmarine Command ) cho Hải quân Hoa Kỳ. Tại hội nghị Tam cường tháng 5 năm 1943, Đô đốc King yêu cầu tướng Henry H. Arnold gửi một phi đội máy bay B-24 trang bị cấu hình ASW đến Newfoundland để tăng cường cho lực lượng không quân hộ tống đoàn công voa tại Bắc Đại Tây Dương. Tướng Arnold ra lệnh cho chỉ huy phi đội của mình tham gia vào nhiệm vụ "tìm kiếm" và tấn công chứ không phải là nhiệm vụ hộ tống đoàn công voa. Trong tháng 6, tướng Arnold đề nghị Hải quân chịu trách nhiệm về các hoạt động chống tàu ngầm. Đô đốc King yêu cầu có được một số lượng máy bay B-24 trang bị cấu hình ASW của Lục quân để đổi lấy một số lượng ngang bằng máy bay B-24 của Hải quân chưa sửa đổi. Thỏa thuận đã đạt được trong tháng 7 và việc trao đổi đã được hoàn thành vào tháng 9 năm 1943.Vào mùa xuân năm 1943 người Anh đã phát triển một radar có hiệu quả có khả năng quét đến centimet (Centimetric radar) và đủ nhỏ để được mang được trên máy bay tuần tra vũ trang với bom chìm trên không. Centimetric radar tăng cường rất nhiều khả năng phát hiện và không thể bị phát hiện bởi các thiết bị cảnh báo radar Metox của người Đức. Hơn nữa việc bảo vệ từ trên không được tăng cường bởi việc đưa vào sử dụng tàu sân bay thương gia hoặc tầu MAC và sau đó là số lượng ngày càng tăng các tàu sân bay hộ tống do Hoa kỳ chế tạo (mời các bác ngó lại mục sự phát triển của TSB). Các máy bay thì chủ yếu là các loại Grumman F4F/FM Wildcats và Grumman TBF / TBM Avenger, các TSB này khởi hành cùng với các đoàn công voa và cung cấp rất nhiều sự bảo vệ cần thiết từ trên không và tuần tra tất cả các nhánh trên Đại Tây Dương.Những con số lớn hơn các tàu hộ tống đã sẵn sàng, cả hai dường như là kết quả của các chương trình đóng tầu của Mỹ và việc tung ra các tàu hộ tống đã tạo ra các thành công trong cuộc đổ bộ lên bờ biển Bắc Phi trong tháng 11 và tháng 12 năm 1942. Đặc biệt, tàu khu trục hộ tống ( theo thuật ngữ của Mỹ là destroyer escorts tương tự thuật ngữ frigate của Anh) được thiết kế và chế tạo có tính chất kinh tế hơn nhiều so với hạm đội tàu khu trục đắt tiền và cũng có chất lượng hơn nhiều so với tàu hộ tống (corvette). Các tầu khu trục hộ tống được sản xuất nhiều không chỉ đủ để hộ tống an toàn cho các đoàn công voa, chúng còn đủ để có thể lập những nhóm săn lùng (thường tập trung xung quanh các tàu sân bay hộ tống) để tích cực săn tầu U-Boat (Hunt the hunter).Việc liên tục giải mã được mật mã Enigma của hải quân Đức cho phép các đoàn công voa của Đồng minh để né tránh các Bầy sói trong khi các nhóm hỗ trợ của Anh và các nhóm săn ngầm của Mỹ đã có thể săn được các tầu U-Boat, những chiếc đang cố tình tiếp cận các đoàn công voa hoặc ở những vị trí bị tiết lộ bởi giải mã Enigma.Các chiến thuật được phát triển bởi lực lượng không quân Đồng minh và các công nghệ mới đã làm cho Vịnh Biscay, tuyến đường chính của các đội tầu U-Boat có căn cứ tại Pháp trở nên cực kỳ nguy hiểm. Việc đưa vào sử dụng loại đèn Leigh Light đã kích hoạt các cuộc tấn công chính xác vào tầu U-Boat lúc họ đang sạc lại pin của mình trên bề mặt nước vào ban đêm. Không quân Đức phản ứng bằng cách tung ra các máy bay chiến đấu để bảo vệ cho các tầu U-Boat lúc chúng ra khơi và quay trở về từ Đại Tây Dương và đồng thời phá phong tỏa.Tuy nhiên do các điệp viên là kháng chiến quân người Pháp hoạt động như các nhân viên tại các cảng chính làm cho những dặm cuối cùng để đến và đi từ các cảng lại tỏ ra vô cùng nguy hại cho nhiều tàu U-Boat.

Những năm cuối cùng (tháng 6 năm 1943 -> tháng 5 năm 1945)

Trong những nỗ lực tuyệt vọng để quay trở lại trận chiến, người Đức đã cố gắng rất nhiều để tăng cường sử dụng lực lượng U-boat một lần nữa trong khi chờ đợi các thế hệ tiếp theo của các thiết kế U-boat (các loại Walter và Elektroboot).Đáng chú ý là những nỗ lực này là hàng loạt những cải tiến nhằm tăng cường hệ thống phòng thủ chống máy bay, thiết bị dò radar, ngư lôi, và cuối cùng là sự bổ sung của thiết bị Ống thở ( Schnorchel) để cho phép tàu U-Boat ngưng động cơ diesel khi chạy dưới nước (nguyên văn - to run underwater off their diesel engines) để tránh radar.Vào tháng 9 năm 1943 Dönitz đã sẵn sàng khởi động lại các cuộc tấn công trên tuyến đường Bắc Đại Tây Dương. Việc tấn công trở lại vào Bắc Đại Tây Dương đã chứng kiến những thành công ban đầu, với những cuộc tấn công vào các đoàn công voa số ONS 18 và ON 202, nhưng một loạt các trận đánh sau đó đã cho thấy ít thành công hơn và thiệt hại tăng nhiều hơn cho U-Boat. Sau 4 tháng U-Boat lại phải hủy bỏ các cuộc tấn công; 8 tàu với trọng tải 56.000 tấn, và 6 tàu chiến đã bị chìm ở Bắc Đại Tây Dương để đánh đổi lấy sự mất mát của 39 tầu U-Boat, một tỷ lệ tổn thất cực kỳ thảm khốc cho các đội sói biển.Không quân Đức cũng đưa vào máy bay ném bom tầm xa He 177, và và loại bom điều khiển từ xa qua sóng radio Henschel Hs 293, các loại này đã tạo ra được một số thành công, nhưng ưu thế trên không của Đng minh đã ngăn cản chúng chở thành một mối đe dọa lớn cho Hải quân Hoàng gia.

Các cải tiến về mặt chiến thuật và kỹ thuật của các bên tham chiến

Để chống trả sự tấn công của không lực Đồng Minh người Đức lại phải tăng cường trang bị vũ khí phòng không cho đội tầu U-Boat, và họ đưa vào sử dụng loại súng phòng không lắp trên tàu ngầm (Flak Boat) để chúng có thể chống trả các cuộc không kích khi nổi lên bề mặt. Đồng thời người Đức cũng cải tiến khả năng phát hiện của radar, chẳng hạn như hệ thống Wanze cũng được đưa vào sử dụng. Không số nào trong số những cải tiến thực sự phát huy được hiệu quả bởi vì vào năm 1943 Không lực của Đồng minh quá mạnh và tầu U-Boat thường bị tấn công ngay trong Vịnh Biscay khi họ vừa rời cảng.Công nghệ chế tạo ngư lôi cũng được cải thiện với FAT, đây là việc lập trình trước cho quả ngư lôi chạy chéo cắt ngang đoàn công voa (pre-programmed course criss-crossing the convoy path) và ngư lôi Acoustic của Hải quân Đức(GNAT),loại có thể định hướng bằng tiếng ồn từ cánh quạt chân vịt của mục tiêu. Phát minh này ban đầu rất có hiệu quả, nhưng Đồng Minh nhanh chóng phát triển các biện pháp chống trả đó là chiến thuật (Step-Aside) và kỹ thuật "Foxer" CAT.Người Đức đã bị thua trong cuộc chạy đua về mặt công nghệ. Đây là một điều hiển nhiên được nhận thức rõ ràng ngay cả với người Đức,bây giờ bầy sói chỉ hoạt động một cách hạn chế ở duy nhất vùng nước ven biển của Anh và chuẩn bị để chống lại cuộc đổ bộ vào nước Pháp đang được chuẩn bị bởi Đồng minh. Trong hai năm tiếp theo rất nhiều tầu U-Boat đã bị đánh chìm.Với chiến thắng của Lực lượng Đồng Minh trong trận chiến Đại Tây Dương,vật tư phục vụ chiến tranh bắt đầu được đổ vào nước Anh và Bắc Phi để cho chiến dịch cuối cùng giải phóng châu Âu(đúng hơn là Tây Âu).

Những hành động cuối cùng của tầu U-Boat (tháng 5 năm 1945)

Vào cuối cuộc chiến, người Đức đã đưa vào sử dụng "Type Elektroboot" đó là loại tầu ngầm U-boat Type XXI và loại U-boat Type XXIII có phạm vi hoạt động ngắn. Type XXI có thể chạy được dưới nước với tốc 17 knots (31 km / h) nhanh hơn loại Type VII, nó có khả năng chạy nhanh gần tương đương với các tàu săn đuổi nó. Thiết kế được hoàn thành trong tháng 1 năm 1943 nhưng việc sản xuất đại trà các loại tầu mới đã không được bắt đầu cho đến tận năm 1944 vì vậy chỉ có 5 chiếc Type XXIII và 1 chiếc Type XXI được đưa vào hoạt động trong năm 1945. Những chiếc U-Boat này thực hiện 9 chuyến tuần tra và đánh chìm năm tàu Đồng minh trong 5 tháng đầu năm 1945; chỉ có một tuần tra chiến đấu được tiến hành bởi một chiếc Type XXI trước khi chiến tranh kết thúc nhưng nó không phát hiện ra kẻ thù nào.Khi quân Đồng Minh khóa chặt các căn cứ U-boat ở miền Bắc nước Đức, hơn 200 tàu U-Boat bị đánh đắm để tránh bị bắt làm tù binh, những chiếc có giá trị nhất đã cố gắng chạy trốn đến Na Uy. Trong tuần đầu tiên của tháng 5 khoảng 23 chiếc tàu U-Boat bị đánh chìm tại biển Baltic trong khi đang cố gắng thực hiện cuộc hành trình này.Những hành động cuối cùng của U-Boat trong vùng biển Hoa kỳ diễn ra vào các ngày 5/ 6 tháng 5 năm 1945 với việc chiếc SSBlack Point bị đánh chìm và các chiếc U-853 và U-881 bị tiêu diệt trong những sự cố riêng biệt.Các hành động cuối của trận chiến Đại Tây Dương diễn ra vào các ngày 7/ 8 tháng 5 năm 1945.Chiếc U-320 là chiếc U-boat cuối bị đánh chìm trong chiến đấu bởi một chiếc máy bay Catalina của Không quân Hoàng gia, trong khi tàu quét mìn số NYMS 382 và các tàu vận tải Sneland và Avondale Park của Đồng Minh đã bị trúng ngư lôi trong những sự cố riêng biệt chỉ vài giờ trước khi Đức đầu hàng.Những chiếc U-Boat còn lại gồm 174 chiếc đã đầu hàng Đồng Minh trên biển hoặc tại cảng. Hầu hết các con tầu này đã bị phá hủy trong chiến dịch Operation Deadlight sau chiến tranh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro