Những trận hải chiến nổi tiếng thời cận đại - Châu Mỹ thế kỷ 19

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trận hải chiến Hamptom Roads

Ngày 08 -- > 09 tháng 3 năm 1862

Vị trí Ngoài khơi Sewell Point, Gần cửa sông Hampton Roads, bang Virginia

Kết quả Không có chiến thắng quyết định, cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng

Các bên tham chiến

Liên bang Hoa Kỳ USS (Miền Bắc)

Chỉ huy

Louis M. Goldsborough (không xuất hiện)

John Marston (sĩ quan cao cấp nhất lúc đó)

Sức mạnh

1 tầu thiết giáp - ironclad

5 tàu khu trục gỗ

Thương vong và thiệt hại

261 thiệt mạng

108 người bị thương

1 tàu khu trục nhỏ chìm

1 thông báo hạm chìm

1 tàu khu trục nhỏ bị hư hỏng

Hợp bang ly khai CSA (Miền Nam)

Chỉ huy

Franklin Buchanan

Catesby ap Roger Jones

Sức mạnh

1 tầu thiết giáp - ironclad

2 tàu chiến gỗ

1 pháo hạm

2 tầu vận tải

Thương vong và thiệt hại

7 bị giết

17 bị thương

1 tầu ironclad bị hư hỏng

Khái quát về bối cảnh lịch sử của cuộc nội chiến Hoa Kỳ năm 1861 - > 1865

Năm 1861 Abraham Lincoln đắc cử tổng thống và muốn thay đổi dự luật để xóa bỏ thể chế nô lệ. Trước ngày ông nhậm chức, bảy tiểu bang miền nam Hoa Kỳ phản đối chính sách cởi mở này và tuyên bố ly khai chính phủ liên bang, thành lập chính phủ riêng do Jefferson Davis làm tổng thống. Chính quyền Abraham Lincoln không công nhận chính phủ Hợp bang miền Nam này. Khi quân miền Nam tấn công đồn Sumter, Nội chiến Hoa Kỳ bùng nổ và thêm 4 tiểu bang khác gia nhập phe miền nam chống lại lực lượng Liên bang miền Bắc.Cuộc phân tranh Nam-Bắc kéo dài 4 năm và chấm dứt khi quân miền Nam đầu hàng năm 1865.Trong năm đầu của cuộc chiến, quân Liên bang miền Bắc chiếm đóng và kiểm soát dọc biên giới các tiểu bang, đồng thời phong tỏa mặt biển. Hai bên thi nhau tăng cường quân lực. Những cuộc đụng độ đẫm máu bắt đầu từ năm 1862. Sau trận đánh tại Antietam vào tháng 9 năm 1862, Lincoln đọc bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ, coi việc trả tự do cho nô lệ là mục tiêu chính yếu. Mặc dù lúc đó có nhiều phe phái bên trong chính phủ vẫn còn ủng hộ thể chế nô lệ, họ phải đồng ý với tuyên cáo này vì an ninh của chính phủ liên bang. Bản Tuyên ngôn đã làm cho Anh và Pháp khó lấy cớ ủng hộ quân miền Nam. Cũng nhờ tuyên cáo giải phóng nô lệ mà quân miền Bắc chiêu mộ được một lực lượng khá đông đảo là binh lính Mỹ gốc Phi. Trong khi đó miền Nam không muốn quân đội của họ có sắc dân gốc Phi.Trong các trận đánh dọc sông Potomac, tướng miền Nam Robert Edward Lee đạt nhiều thắng lợi ở Mặt trận miền Đông. Viên tướng giỏi của ông là Stonewall Jackson bị thiệt mạng trong trận Chancellorsville vào tháng 5 năm 1863. Lee tiến quân lên miền Bắc nhưng bị đánh bại trong trận chiến trứ danh tại Gettysburg - suýt chút nữa Lee bị bắt nhưng may mắn lắm mới chạy thoát về Virginia.Về Tây, quân miền Bắc chiếm được cảng New Orleans năm 1862. Tướng miền Bắc là Ulysses S. Grant đem quân chiếm Vicksburg, khống chế sông Mississippi vào tháng 7 năm 1863 - cắt đôi lực lượng miền Nam.Đến năm 1864, quân miền Bắc với nhiều lợi thế về địa hình, quân lực, kỹ nghệ, tài chánh, kế hoạch chính trị và tiếp vận bắt đầu chiếm ưu thế đối với quân miền Nam. Hai tướng Grant và Lee đánh nhau nhiều trận khốc liệt tại vùng Virginia trong mùa hè 1864. Tuy chiến thắng về mặt chiến thuật, Tướng Lee lại thua về mặt chiến lược vì quá hao binh tổn khí - do đó phải rút về Richmond đóng giữ trong các tuyến chiến hào. Trong lúc đó, tướng miền Bắc William Tecumseh Sherman chiếm được Atlanta thuộc tiểu bang Georgia và tiến thẳng ra bờ biển, phá vỡ vòng đai cố thủ của Georgia.Năm 1865, Tướng Lee ký văn kiện đầu hàng tại tòa án địa phương của Appomattox, Virginia- đây là thời điểm chấm dứt cuộc chiến tương tàn giữa hai miền Nam Bắc nước Mỹ và cũng là thời điểm khởi đầu công cuộc giải phóng nô lệ tại đất nước này.Thời kỳ hậu chiến là những năm hồi phục khó khăn. Hậu quả của cuộc phân tranh là 970.000 người chết, trong đó 620.000 là binh lính, gần hai phần ba do bệnh tật. Cho đến nay nhiều người Mỹ vẫn còn tiếp tục tranh cãi về những khía cạnh của cuộc chiến tàn khốc này.

Bối cảnh chung của trận đánh Hampton Roads

Trận Hampton Roads, còn được gọi là Trận Monitor hoặc Merrimack, là trận hải chiến đáng chú ý nhất và quan trọng nhất trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ theo quan điểm về sự phát triển của hải quân. Trận đánh diễn ra trong hai ngày, Ngày 08-09 Tháng Ba, 1862, tại Hampton Roads, một vũng sông tại Virginia, nơi các con sông Elizabeth và Nansemond gặp con sông James ngay trước khi nó đổ vào Vịnh Chesapeake. Trận đánh là một phần của nỗ lực của lực lượng Hợp bang Miền Nam nhằm để phá bỏ phong tỏa của Liên Bang Miền Bắc, mà cuộc phong tỏa này vốn đã cô lập các thành phố lớn nhất của bang Virginia, như Norfolk và Richmond, với thương mại quốc tế.Ý nghĩa chính của trận đánh là trận đụng độ đầu tiên của các tàu chiến lớp ironclad. Hạm đội của Hợp bang gồm tầu lớp ironclad CSS Virginia (Merrimack) có trang bị Ram, và một số tàu hỗ trợ. Vào ngày đầu tiên của trận đánh, họ đã bị tấn công bởi một số tàu vỏ gỗ quy ước (loại được sử dụng bởi lực lượng chính quy) của Hải quân Liên bang. Vào ngày này, Virginia đã phá hủy hai tàu của Hạm đội Liên bang và đe dọa chiếc thứ ba, làm chiếc USS Minnesota phải bỏ chạy và bị mắc cạn. Cuộc tấn công này bị tạm dừng bởi bóng tối và thủy triều xuống, do đó, chiếc Virginia đã quay về nghỉ để chăm sóc những người bị thương của nó bao gồm cả viên thuyền trưởng, Sỹ quan Franklin Buchanan và sửa chữa hư hỏng tối thiểu của nó trong trận đánh.Quyết định để hoàn tất việc tiêu diệt chiếc Minnesota, Catesby ap Roger Jones, với vai trò thay thế thuyền trưởng vắng mặt Buchanan, đã cho con tàu quay trở lại vào sáng hôm sau, 09 tháng 3. Tuy nhiên, trong buổi đêm hôm đó chiếc ironclad USS Mornitor đã đến và chiếm một vị trí để bảo vệ chiếc USS Minnesota. Khi chiếc Virginia tiếp cận, chiếc Monitor ra chặn nó lại. Hai chiếc tầu lớp ironclad chiến đấu với nhau trong khoảng ba giờ đồng hồ mà không thể gây được thiệt hại đáng kể nào khác cả. Trận đánh đã kết thúc mà không có thắng lợi quyết định thuộc về bên nào, chiếc CSS Virginia quay về căn cứ của mình ở ụ tầu Hải quân Gosport Yard để sửa chữa và tăng cường, và chiếc USS Monitor cũng quay về để bảo vệ chiếc Minnesota. Cả hai chiếc tàu đã không tấn công nhau thêm một lần nào nữa, và cuộc phong tỏa vẫn tiếp diễn.Trận đánh đã nhận được sự quan tâm của toàn thế giới, và nó có tác dụng ngay lập tức đến lực lượng hải quân của tất cả các quốc gia. Các cường quốc về hải quân như Anh và Pháp ngừng ngay việc đóng thêm các tàu vỏ gỗ, và họ lại bị bắt chiếc bởi tất cả những nước khác. Họ sản xuất một loại tàu chiến mới, chiếc Monitor, Dựa trên thiết kế của bản gốc. Việc sử dụng ít súng nhưng súng phải cực lớn, có khung giá súng và có thể nổ súng về tất cả các hướng, lần đầu tiên đã chứng minh bởi chiếc Monitor, sớm trở thành chuẩn của tất cả các loại tàu chiến. Các công ty đóng tàu cũng kết hợp cả Ram vào trong thiết kế của vỏ tàu chiến ở phần còn lại của thế kỷ này ( cuối TK19).

Chuẩn bị phong tỏa Norfolk

Ngày 19 tháng 4 năm 1861, ngay sau khi các hành động thù địch nổ ra tại Charleston Harbor, tổng thống Abraham Lincoln tuyên bố tién hành một cuộc phong tỏa nhắm tới tất cả các cảng của các bang ly khai. Ngày 27 tháng 4, sau khi Virginia và Bắc Carolina cũng đã thông qua pháp lệnh ly khai, phong tỏa được mở rộng để bao vây các cảng của họ. Ngay cả trước khi có sự mở rộng của cuộc phong tỏa, quân địa phương (quân Hợp bang li khai) đã chiếm Norfolk và đe dọa Công xưởng Hải quân Gosport Yard. Chỉ huy trưởng đó, Thuyền trưởng Charles S. McCauley, Mặc dù trung thành với Liên bang, đã không thể nhúc nhích được bởi ông nhận được lời khuyên từ nhân viên cấp dưới của mình, mà hầu hết trong số họ có cảm tình với phe ly khai. Mặc dù ông nhận được mệnh lệnh từ Bộ trưởng Hải quân Gideon Welles (phe Liên Bang) là phải di chuyển số tàu của ông đến cảng phía Bắc, ông đã từ chối để làm việc này cho đến ngày 20 tháng 4, khi ông lệnh đánh đắm các tàu trong Công xưởng và phá hủy các cơ sở của nó. Chín tàu bị đốt cháy, trong đó có chiếc frigate USS Merrimack. Một chiếc ( trong số các tàu khu trục nhỏ, chiếc Cumberland) được kéo đi thành công. Chiếc Merrimack bị đốt chỉ đến mực nước, tuy nhiên động cơ của nó còn ít nhiều còn nguyên vẹn. Việc tiêu hủy Công xưởng hải quân chủ yếu là không có hiệu quả, đặc biệt là ụ tầu lớn trên cạn tương đối không bị hư hại gì cả và sớm có thể được phục hồi. Không cần phải bắn một súng, phe chủ trương ly khai đã thu được một công xưởng hải quân lớn nhất cho họ, cũng như các thân tàu và động cơ và những gì sẽ tạo ra được chiếc tàu chiến nổi tiếng nhất trong thời gian này. Họ cũng đã bắt giữ hơn một nghìn khẩu súng hạng nặng, cộng thêm các toa chở súng và một lượng lớn thuốc súng.Với Norfolk và Công xưởng hải quân của mình, Hợp bang kiểm soát phía nam của Hampton Roads. Để ngăn chặn đoàn tàu chiến của Liên bang tấn công vào công xưởng, họ thiết lập các khẩu đội pháo tại cứ điểm Sewell và đảo Craney, điểm nối của sông Elizabeth với sông James. (Xem bản đồ.) Liên bang duy trì sở hữu pháo đài Fort Monroe, ở cứ điểm Old Point Comfort trên bán đảo Virginia. Họ cũng đã xây một hòn đảo nhân tạo nhỏ được gọi là Raps Rip, về cạnh phía xa của kênh đối diện với pháo đài Fort Monroe, và trên hòn đảo này họ xây dựng một pháo đài, được đặt tên là Fort Wool. Với pháo đài Fort Monroe phe Liên bang đã đi kiểm soát phần thấp của bán đảo cũng như vùng Newport News.

Bản đồ vùng Hampton Roads

Pháo đài Monroe và Fort Wool tạo cho Liên bang sức mạnh để kiểm soát lối vào Hampton Roads. Việc phong tỏa này bắt đầu ngày 30 Tháng Tư 1861, cô lập Norfolk và Richmond gần như hoàn toàn. Để phong tỏa chặt chẽ hơn nữa, Hải đoàn đồn trú có một số tàu chiến mạnh nhất của nó trong các vũng sông. Ở đó, chúng đậu sát bờ dựa vào sự bảo vệ từ súng của pháp đài Fort Monroe và các khẩu đội pháo ở Hampton và Newport News và ở ngoài phạm vi của các khẩu đội súng tại điểm Sewell và đảo Craney. Hầu hết những năm đầu tiên của cuộc chiến, Hợp bang không thể làm được gì nhiều để chống lại chúng (Hạm đội của Liên Bang).

Sự khai sinh của tầu bọc thép lớp ironclads

Khi hơi nước đẩy bắt đầu được áp dụng cho tàu chiến, nhà thầu hải quân mới quan tâm của họ trong áo giáp cho tàu của họ. Thí nghiệm đã được thử với thiết giáp trong chiến tranh Crimean, ngay trước khi Nội chiến Hoa Kỳ nổ ra, và các hải quân Anh và Pháp đã từng chế tạo tàu bọc thép và đã được quy hoạch để đóng ở những nước khác. Năm 1860, Chiếc tầu Hải quân Pháp La Gloire, chiếc tàu chiến lớp ironclad có khả năng vượt Đại dương đầu tiên trên thế giới ra đời. Tại Anh một năm sau đó cho ra đời HMSWarrior. Việc sử dụng thiết giáp vẫn gây nhiều tranh cãi, tuy nhiên Hải quân Hoa Kỳ nói chung miễn cưỡng chào đón công nghệ mới.

CSS Virginia

Khi nội chiến nổ ra, Liên minh miền Nam Bộ trưởng Hải quân Stephen R. Mallory là một người sớm có đam mê cho những lợi thế của tầu bọc thép (thiết giáp hạm). Vì ông ta thấy rằng Hợp bang không thể tranh đua với các Bang công nghiệp ở miền Bắc về số lượng tàu thuyền trên biển, do đó, họ phải cạnh tranh bằng cách đóng các tầu mà những chiếc tầu này phải có ưu thế áp đảo về tính năng cá nhân so với tầu của Liên Bang. Các thành tầu sẽ được bao bọc bởi các lớp giáp. Mallory thu thập về phía mình một nhóm những người có thể nhìn thẳng vào thực tế, trong số đó có John M. Brooke, John L. Porter, và William P. Williamson.Khi người của Mallory tìm kiếm khắp phía Nam để tìm các nhà máy có thể đóng được các công cụ để lái tàu lớn mà ông muốn, họ không tìm thấy nơi để làm điều đó ngay lập tức. Tại cơ sở tốt nhất, Tredegar Iron Works ở Richmond, việc đóng các động cơ từ A -- > Z sẽ phải tốn ít nhất một năm. Sau khi biết việc này, Williamson đề nghị lấy các động cơ từ thân của chiếc Merrimack, dựng nó ( chiếc động cơ) lên từ giường của nó, tức là con sông Elizabeth. Đồng nghiệp của ông nhanh chóng chấp nhận đề nghị này và mở rộng nó, đề xuất rằng thiết kế của dự án ironclad của họ phải có điều chỉnh ở phần thân. Porter làm một dự án thiết kế sửa đổi khác, và dự án đó đã được gửi lên cho Mallory phê duyệt. Ngày 11 Tháng 7 Năm 1861, thiết kế mới đã được chấp nhận, và công việc bắt đầu gần như ngay lập tức. Phần thân tàu bị đốt cháy (của chiếc Merrimack) được kéo vào trong ụ tầu ở trên cạn mà Hải quân Liên Bang đã không phá hủy. Trong quá trình chuyển đổi tiếp theo, các kế hoạch đã được sửa đổi để kết hợp thêm một ram sắt trang bị cho phần mũi của con tàu này. Khả năng tấn công của nó ngoài chiếc ram (mũi nhọn bằng kim loại để húc, đâm thủng thành tầu đối phương) còn bao gồm 10 súng: sáu súng nòng trơn Dahlgrens 9in (230mm), và hai súng 6,4in (160mm) và hai súng Brooke 7in (180mm). Các thiết giáp mạ, ban đầu dày 1in (25mm), sau được thay thế bằng tấm kép, mỗi tấm dày 2in (51mm), giáp phía sau dày 2.4in (61mm) bằng sắt và gỗ thông. Phần thân giáp được tạo 14 cửa súng, bốn chiếc ở mỗi bên mạn tầu, ba chiếc ở phía trước, và ba ở phía sau. Công việc sửa chữa cùng với những vấn đề liên đến hệ thống giao thông của miền Nam, dẫn đến sự chậm trễ đã đẩy lùi ngày hạ thủy con tầu đến tận ngày 03 tháng hai năm 1862, và nó đã không được đưa vào hoạt động cho đến ngày 17 tháng 2, và được mang tên CSS Virginia.

USS Monitor

Bộ trưởng Hải quân của Liên Bang (Miền Bắc) Gideon Welle chờ đợi câu trả lời của Quốc hội cho đến khi ông yêu cầu họ cho phép xem xét việc đóng tàu bọc thép; Quốc hội đã thông qua sự cho phép mà ông đòi hỏi vào ngày 03 tháng 8 năm 1861. Welles bổ nhiệm một ủy ban mà họ được biết đến như là Ủy ban thiết giáp hạm ( ironclad Board), Ba sĩ quan hải quân cấp cao lựa chọn một vài trong số các mẫu thiết kế được đệ trình để xem xét. Ba người đó là các thuyền trưởng Joseph Smith, Hiram Paulding, và chỉ huy Charles Henry Davis. Ủy ban xem 17 mẫu thiết kế thiết giáp hạm, và đã chọn ra ba. Thiết kế xuất sắc nhất trong ba mẫu đã được chọn, mặc dù nó là mẫu thiết kế cấp tiến nhất trong các thiết kế của nhà phát minh kiêm kỹ sư người Thụy Điển John Ericsson, chiếc USS Monitor.Chiếc Monitor của Ericsson, được đóng tại xưởng Ericsson trên sông Đông thuộc Greenpoint, Brooklyn, kết hợp nhiều tính năng thiết kế mới và nổi bật, quan trọng nhất trong số đó là thiết giáp và trang bị vũ khí của nó. Thay vì phải mang một số lượng lớn súng cỡ nòng nhỏ của các lớp tàu chiến đặc trưng trong quá khứ, Ericsson chỉ sử dụng hai khẩu súng có cỡ nòng lớn; ông muốn sử dụng loại súng 12in (300mm), nhưng đã phải chấp nhận loại súng 11in (280 mm) vì kích thước lớn hơn thì không sẵn có. Chúng được đặt trong một tháp hình trụ có đường kính 20 ft (6,1 m), cao ft 9 (2,7 m), được che phủ bằng sắt dày 8in ( 200mm) dày. Toàn bộ con tầu vận chuyển trên một trục trung tâm, và cơ động bằng một động cơ hơi nước mà nó có thể được điều khiển bởi chỉ một người. Một lỗ hổng nghiêm trọng trong thiết kế là chỗ của hoa tiêu mà từ đó con tàu sẽ được điều khiển, là một khoang nhỏ ở phía trước của tháp pháo trên sàn chính. Sự hiện diện của nó có nghĩa rằng là những khẩu súng không thể bắn trực tiếp phía trước, và nó bị cô lập với các hoạt động khác trên ở tàu. Mặc dù bắt đầu muộn và hoàn toàn đóng mới, chiếc Monitor đã thực sự được hoàn thành một vài ngày trước đối thủ của nó, chiếc Virginia, nhưng chiếc Virginia đã tham chiến trước tiên.

Trận đánh

Chỉ huy

Các chuỗi mệnh lệnh của phía Hợp bang là bất thường. Trung úy Catesby ap Roger Jones đã bỏ nhiều công sức trong việc chuyển đổi chiếc Merrimack thành chiếc Virginia, và ông ta đã rất thất vọng khi ông không được trở thành thuyền trưởng của nó. Jones vẫn được giữ lại trên chiếc tàu Virginia, Nhưng chỉ như là một sỹ quan quản trị nó. Thường thì con tàu sẽ được chỉ huy bởi một thuyền trưởng của Hải quân Hợp bang, được xác định qua hệ thống thâm niên cứng nhắc. Bộ trưởng Mallory muốn bổ nhiệm thuyền trưởng Franklin Buchanan, con người đầy nhiệt huyết, nhưng ít nhất có hai thuyền trưởng khác có thâm niên hơn và được cử vào vị trí này. Mallory cứ lờ họ đi và tiếp tục bổ nhiệm Franklin, người đứng đầu của Office of Orders & Detail (Chúa biết được đây là gì), sỹ quan phụ trách việc phòng thủ Norfolk và sông James. Như vậy, ông có thể kiểm soát các hoạt động của chiếc Virginia. Về mặt kỹ thuật mà nói do đó con tàu đã đi vào cuộc chiến mà không có một thuyền trưởng (thực thụ).Về phía Liên Bang, quyền chỉ huy của Hải đội phong tỏa Bắc Đại Tây Dương được nắm giữ bởi sỹ quan Louis M. Goldsborough. Ông đã nghĩ ra một kế hoạch cho các tàu khu trục của mình để bẫy chiếc Virginia, Hy vọng cài bẫy nó vào hỏa lực bắn chéo cánh sẻ CrossFire của họ. Trong thực tế, kế hoạch của ông bị đổ vỡ hoàn toàn khi bốn trong số các tàu đang hoạt động bị mắc cạn (một trong số chúng là do cố ý) trong vùng nước cạn của vũng sông. Ngày xảy ra trận đánh, Goldsborough đã vắng mặt với các tàu tham gia vào trận đánh Burnside ở Bắc Carolina. Vì sự vắng mặt của ông, quyền chỉ huy rơi vào tay viên thuyền trưởng thứ hai, John Marston của chiếc USSRoanoke. Nhưng chiếc Roanoke lại là một trong những chiếc tàu chạy bị mắc cạn, Marston đã không thể có nhiều ảnh hưởng vào trận chiến, và sự chỉ huy của ông thường không được tuân phục. Hầu hết các tài liệu đều nhấn mạnh đến sự đóng góp của thuyền trưởng của chiếc Monitor, John L. Worden, mà bỏ bê những người khác.

Ngày 08 tháng 3: chiếc Virginia trút giận lên những chiếc tàu chiến gỗ của Liên bang

Trận đánh bắt đầu khi chiếc CSS Virginia to lớn và cồng kềnh bơi vào Hampton Roads trong buổi sáng ngày 08 Tháng Ba năm 1862. Thuyền trưởng Buchanan đã cố gắng để chỉ huy tất cả mọi người nhưng một số ít tin rằng đây chỉ là một sự thử nghiệm đơn thuần , nhưng hầu hết các thủy thủ đoàn nhận thức được rằng ông dự định tấn công nếu có cơ hội. Chiếc Virginia được hộ tống bởi chiếc Raleigh và Beaufort trên sông Elizabeth, và cùng tham gia vào Hampton Roads bởi Hải đội sông James gồm các chiếc Patrick Henry, Jamestown, và Teaser. Khi họ đi qua các khẩu đội pháo của Liên Bang tại Newport News, chiếc Patrick Henry đã tạm thời bị vô hiệu hoá bởi một loạt súng bắn vào nồi hơi của nó và đã giết chết bốn người trong thuỷ thủ đoàn của nó. Sau khi sửa chữa, nó quay trở lại và tái gia nhập những chiếc khác.Vào thời gian này, Hải quân Liên Bang có năm tàu chiến trong vũng sông (xem bản đồ), ngoài một số tàu hỗ trợ. Chiếc thông báo hạm USS Cumberland và tàu khu trục nhỏ Congress được neo tại chiếc kênh gần Newport News. Chiếc Frigate St Lawrence và tàu khu trục hơi nước Roanoke và Minnesota neo gần Fort Monroe. Ba chiếc sau cùng đã theo ngay vào khi họ thấy chiếc Virginia tiến đến gần, nhưng cả ba sớm bị mắc cạn. Các chiếc St Lawrence và Roanoke đã không thể đóng góp thêm được một phần quan trọng nào cho trận đánh.Chiếc Virginia hướng trực tiếp về phía đội tàu của Liên Bang. Trận đánh mở màn khi chiếc tàu kéo Zouave bắn vào đối phương đang tiến lên, và Beaufort trả lời. Các phát súng lẻ tẻ này không gây được nhiều thiệt hại. Chiếc Virginia không nổ súng cho đến khi nó đến được phạm vi tầm bắn hiệu quả để diệt chiếc Cumberland. Những phát đạn bắn trả từ chiếc Cumberland và Congress nảy vào các mảng giáp sắt mà không thể xuyên qua được. Chiếc Virginia đâm vào chiếc Cumberland ở dưới mực nước và nó (chiếc Cumberland) nhanh chóng bị chìm, " Họ vẫn dũng cảm chiến đấu miễn là họ vẫn ở trên mực nước," Buchanan nói (về chiếc Cumberland). Nó (vẫn chiếc Cumberland ) đã chìm xuống kéo theo 121 thuỷ thủ cùng với nó, những người bị thương trong sự kiện trên đưa tổng số nạn nhân lên gần 150 người.Đâm chìm chiếc Cumberland kết quả cũng làm cho chiếc Virginia chìm theo. Chiếc mũi nhọn ( ram) trên mũi của nó đã bị mắc kẹt trong thân tàu của đối phương, và khi chiếc Cumberland tê liệt và bắt đầu chìm xuống, nó gần như kéo cả chiếc Virginia xuống với nó. Chiếc Virginia tự bị gãy (phần Ram để đâm đối phương), tuy nhiên, khi chiếc ram bị gãy ra thì nó lấy lại thăng bằng.Buchanan chuyển mục tiêu của chiếc Virginia sang chiếc USS Congress. Thấy những gì đã xảy ra với chiếc Cumberland, trung úy Joseph B. Smith, thuyền trưởng của chiếc USS Congress, ra lệnh cho tàu của ông chạy vào chỗ nước nông. vào thời điếm này, Hải đội Sông James, dưới sự chỉ huy của John Randolph Tucker, đã đến và tham gia cùng với chiếc Virginia trong cuộc tấn công chiếc USS Congress. Sau một giờ chiến đấu không cân sức, bị hư hỏng nặng chiếc USS Congress đầu hàng. Trong khi những người còn sống sót của thủy thủ đoàn của chiếc Congress đã xuống các xuồng cứu sinh và rời khỏi con tàu, một khẩu đội pháo của Liên Bang trên bờ biển phía bắc nổ súng vào chiếc Virginia. Để trả đũa, Buchanan ra lệnh tiếp tục bắn vào chiếc Congress bằng đạn lửa. Chiếc Congress bốc cháy và bị đốt cháy trong suốt phần còn lại trong ngày. Gần nửa đêm, ngọn lửa đã bén vào kho đạn của nó và nó đã đã phát nổ rồi chìm. Thiệt hại về nhân mạng bao gồm 110 người chết hoặc mất tích và coi là chết đuối. 26 người khác bị thương, 10 trong đó đã chết trong vòng vài ngày.Mặc dù nó đã không phải chịu bất cứ thiệt hại gì giống như nó đã gây ra cho các chiếc tầu của Liên Bang, chiếc Virginia đã không còn hoàn toàn nguyên vẹn. Các phát đạn từ chiếc Cumberland, Congress, và pháo của quân Liên Bang trên bờ làm thủng ống khói của nó, nó đã phải giảm tốc độ xuống thấp. Hai trong số súng của nó đã bị vô hiệu hoá và một số tấm giáp đã bị nới lỏng. Hai trong số thuỷ đoàn của nó đã bị giết hại, và nhiều người khác bị thương. Một trong những người bị thương là thuyền trưởng Buchanan, đùi trái của ông bị xuyên thủng bởi một phát đạn súng trường.Trong khi đó, Hải đội sông James đã chuyển sự chú ý của họ đến chiếc USS Minnesota, chiếc này đã rời cánh trái Fort Monroe để tham gia trận đánh sau đó nó đã bỏ chạy và bị mắc cạn. Sau khi chiếc Virginia đã xử lý xong chiếc Congress đã đầu hàng, nó đã gia nhập vào Hải đội Sông James (để tiếp tục thịt nốt chiếc USS Minnesota) bất chấp những thiệt hại của nó. Bởi vì được thiết kế một cách to lớn và thủy triều lại xuống cho nên chiếc Virginia không thể vào đủ gần để có thể tấn công một cách có hiệu quả, và bóng tối ngăn cản phần còn lại của Hải đội trong việc nhằm súng của họ một cách chính xác. Cuộc tấn công này được do đó bị trì hoãn tạm thời. Chiếc Virginia bỏ đi với kỳ vọng ngày hôm sau nó sẽ trở lại và hoàn thành nốt nhiệm vụ. Nó rút lui vào vùng biển an toàn do Hợp Bang kiểm soát ở ngoài khơi cứ điểm Sewell Point vào ban đêm.

Ngày 9 tháng 3: Monitor tấn công Virginia

Cả hai bên đều sử dụng thời gian nghỉ ngơi để chuẩn bị cho ngày hôm sau. Chiếc Virginia đưa thân thể bị thương của nó lên bờ và trải qua 1 cuộc sửa chữa tạm thời. Thuyền trưởng Buchanan là một trong những người chỉ huy bị thương và như vậy, vào ngày thứ hai quyền chỉ huy rơi vào tay sỹ quan quản trị của nó, trung úy Catesby ap Roger Jones. Jones được chứng minh là ít hung hăng hơn người ông ta thay thế. Trong khi chiếc Virginia được chuẩn bị cho phần việc mới của trận đánh, và trong khi chiếc Congress vẫn đang bốc cháy, chiếc USS Monitor, chỉ huy bởi trung úy John L. Worden đã đến Hampton Roads. Tầu bọc thép lớp ironclad đã lao đến Hampton Roads với hy vọng bảo vệ hạm đội của Liên Bang và ngăn ngừa chiếc Virginia đe dọa các thành phố của Liên Bang. Thuyền trưởng Worden đã được thông báo nhiệm vụ chính của ông là phải bảo vệ chiếc Minnesota, như vậy chiếc Monitor tiến đến một vị trí gần nơi chiếc Minnesota bị mắc cạn và chờ đợi.Sáng hôm sau, vào lúc bình minh ngày 09 Tháng ba năm 1862, chiếc Virginia rời nơi neo đậu của nó tại cứ điểm Sewell Point và di chuyển để tấn công chiếc Minnesota lúc này vẫn còn bị mắc cạn. Nó đã được hộ tống bởi ba tàu của Hải đội sông James. Họ thấy chuyến đi của họ bị phong toả, tuy nhiên, do chiếc Monitor mới đến. Lúc đầu, Jones tin rằng đối thủ lạ là một tầu hơi nước được điều đến để kéo chiếc Minnesota, Ông không nhận ra ngay thực chất của đối thủ của mìmh. Tuy nhiên ngay sau đó, ông đã hiểu rõ ràng rằng không còn sự lựa chọn ngoài cách nổ súng chiến đấu với nó.Sau khi chiến đấu khoảng 1 giờ, chủ yếu là ở cự ly gần, chiếc này không thể thắng nổi chiếc kia. Các lớp thiết giáp của cả hai tàu đã chứng minh đầy đủ. Một phần, bởi vì mỗi chiếc được chế tạo theo một cách tấn công riêng của nó. Buchanan, trong chiếc Virginia, Có thể sẽ không ngờ rằng mình sẽ phải đánh nhau với một tàu bọc thép, do đó, súng của ông chỉ được cung cấp đạn thường hơn là loại đạn xuyên giáp. Súng chiếc Monitor đã được sử dụng với đạn tiêu chuẩn chỉ có 15pound (6,8 kg) bột thuốc súng, mà không tạo đủ đà phóng để xuyên qua giáp của đối thủ của mình. Tiến hành các thí nghiệm sau trận đánh cho thấy súng Dahlgren có thể hoạt động một cách an toàn và hiệu quả với lượng thuốc súng tăng lên nhiều đến 30 pound (13,6 kg).Trận chiến cuối cùng đã ngừng lại khi một phát đạn bắn từ chiếc Virginia trúng vào khoang hoa tiêu của chiếc Monitor và phát nổ, các mảnh vỡ lọt qua khe quan sát nhìn vào mắt Worden và tạm thời làm ông ta bị mù . Vì không ai khác có thể nhìn thấy để lái con tàu, chiếc Monitor đã bị buộc phải rút lui ra xa. Sỹ quan quản trị, trung úy Samuel Dana Greene đã thay thế viên hoa tiêu và chiếc Monitor quay trở lại để tiếp tục trận chiến . Trong giai đoạn này có sự nhầm lẫn về mệnh lệnh, tuy nhiên các thành viên thuỷ thủ đoàn của chiếc Virginia tin rằng đối thủ của họ đã tháo chạy . Mặc dù chiếc Minnesota vẫn còn bị mắc cạn, thuỷ triều xuống có nghĩa là nó (chiếc Minnesota) ở ngoài tầm với. Hơn nữa, chiếc Virginia đã phải chịu một số thiệt hại mà có thể n ó sẽ yêu cầu sửa chữa lớn . Tin tưởng rằng tàu của ông đã thắng trong trận này , Jones đã ra lệnh cho nó (chiếc Virginia) trở lại Norfolk. Vào thời gian này chiếc Monitor đã quay trở lại, chỉ để phát hiện ra rằng đối thủ của nó dường như đã từ bỏ cuộc chiến. Tin tưởng rằng chiếc Virginia đã bỏ đi và với mệnh lệnh là phải bảo vệ chiếc Minnesota và không muốn tạo nguy hiểm cho tàu của mình một cách không cần thiết, Greene đã không đuổi theo. Như vậy, mỗi bên hiểu sai sự di chuyển của bên kia, và như vậy kết quả là cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng.

Mùa xuân 1862 - một trạng thái cân bằng tại Hampton Roads

Chiếc Virginia vẫn ở trong ụ tầu trên cạn tới gần một tháng, để sửa chữa các thiệt hại trong trận chiến cũng như một số thay đổi nhỏ để cải thiện hiệu suất chiến đấu của mình. Ngày 04 tháng 4, nó đã có thể rời khỏi ụ tầu trên cạn. Buchanan, vẫn còn đang phải phục hồi từ vết thương của mình,mọi người đã hy vọng rằng Catesby Jones sẽ được chọn để thay thế ông ta, và hầu hết các nhà quan sát đều tin rằng những hành động của Jones trong trận chiến là xuất sắc. Hệ thống thâm niên cho sự thăng tiến tại Hải quân đã làm mất cơ hội của ông ta, tuy nhiên, người thực sự trở thành thuyền trưởng lại là Commodore Josiah Tattnall 67 tuổi. Chiếc Monitor không bị hỏng nặng vẫn làm nhiệm vụ. Giống như Jones đối thủ của ông, Greene được coi là quá nhỏ bé để được giữ chức như là một thuyền trưởng, do đó ông đã bị thay thế. Ngày hôm sau trận đánh, ông được thuyên chuyển và thay thế bởi trung úy Thomas O. Selfridge; Hai ngày sau đó, Selfridge lại lần lượt bị thuyên chuyển và thay thế bởi trung úy William Nicholson Jeffers.Mỗi bên tự cho là có cách tốt nhất để loại trừ các mối đe dọa bởi đối thủ của nó, và sau khi chiếc Virginia quay trở lại mỗi bên đã cố gắng để kích thích để đối phương phải tấn công trong những hoàn cảnh bất lợi. Cả hai thuyền trưởng đã từ chối những cơ hội phải tấn công trong những vùng nước không phải do họ lựa chọn, Jeffers đặc biệt nhận được mệnh lệnh là không để mạo hiểm xảy ra với tàu của ông. Do đó, mỗi tàu tốn cả tháng trời tiếp theo để rình rập lẫn nhau. Không chỉ là hai chiếc tàu không thể tấn công lẫn nhau, mà không bao giờ chúng còn có thể quay trở lại để chiến đấu với nhau sau ngày đó.Kết thúc xảy ra đầu tiên tới chiếc Virginia. Vì phong tỏa không bị phá vỡ, Norfolk đã trở nên ít được sử dụng trong chiến lược của Hợp Bang, và kế hoạch sơ bộ đã được đặt để di chuyển các con tầu ngược lên sông James đến vùng lân cận của Richmond. Trước khi sự chuẩn bị đầy đủ có thể được tiến hành, quân đội miền Nam do Thiếu tướng Benjamin Huger chỉ huy đã rời bỏ thành phố vào ngày 09 tháng 5, mà không tư vấn bất cứ ai từ Hải quân. Thiết kế của chiếc Virginia là quá lớn để cho phép nó đi ngược lên để vượt qua con sông, trong đó có độ sâu chỉ 18 feet (5,5 m), và không ở trong những hoàn cảnh thuận lợi. Nó đã bị mắc kẹt và chỉ có thể bị bắt hoặc đánh chìm bởi Hải quân Liên Bang. Thay vì chọn một trong hai, Tatnall quyết định dốt bỏ chiếc tàu của riêng mình. Ông ra lệnh kéo nó xuống đến đảo Craney, nơi thuỷ thủ đoàn của nó được đưa lên bờ, và sau đó nó bị đốt cháy. Nó bốc cháy trong suốt phần còn lại trong ngày và hầu hết đêm hôm sau, ngay trước khi bình minh, ngọn lửa đã bén tới kho thuốc, và nổ tung lên.Chiếc Monitor cũng như vậy, không tồn tại nổi qua năm. Nó được lệnh phải đi Beaufort, North Carolina trong ngày Giáng sinh, để tham gia các cuộc phong tỏa ở đó. Trong khi được kéo xuống bờ biển (dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng thứ tư của mình, chỉ huy John P. Bankhead), vùng biển bắt đầu có nước lên và nó đã ngập nước. Nước biển lọt vào tầu làm ngập máy bơm một cách nhanh chóng, và sau đó làm tắt động cơ của nó (đây là động cơ hơi nước đốt bằng lò than - củi). Mệnh lệnh được đưa ra là phải rời bỏ con tàu; hầu hết các thuỷ thủ được cứu bởi chiếc USSRhode Island, Nhưng mười sáu thuỷ thủ đã chìm theo nó khi con tàu bị chìm trong những giờ đầu của ngày 31 Tháng 12 năm 1862.

Ai đã thắng?

Chiến thắng được tuyên bố bởi cả hai bên sau Trận Hampton Roads, bởi cả hai đều đều căn cứ một cách sai lầm về hành vi của đối thủ, và chúng đã bị bác bỏ bởi các nhà sử học ngày nay. Họ đều đồng ý rằng kết quả của trận đánh giữa chiếc Monitor-Merrimack không phải là một chiến thắng cho bên nào. Khi trận chiến giữa các tầu bọc thép ironclads có ý nghĩa chính cho toàn bộ trận Hampton Roads, đánh giá chung về kết quả tổng thể thì đây là một trận hoà. Tất cả mọi người đều thừa nhận rằng hạm đội miền Nam gây ra thiệt hại hơn rất nhiều so với những gì nó phải chịu, điều này ngụ ý rằng họ đã có được một chiến thắng chiến thuật. So với các trận chiến trong Nội chiến, sự mất mát về người và tàu của Hải quân Liên Bang sẽ được coi là một thất bại rõ ràng. Mặt khác, cuộc phong tỏa này không bị đe dọa nghiêm trọng, do đó, toàn bộ trận chiến có thể được coi là một cuộc tấn công mà cuối cùng đã thất bại (về mục đích).Đánh giá trên phương diện chiến lược vẫn còn đang là những tranh chấp. Cuộc phong tỏa này vẫn được duy trì, thậm chí còn được tăng cường, và chiếc Virginia đã bị giam chân ở Hampton Roads. Bởi vì đây là một vũ khí quyết định của phe Hợp Bang, và nó đã bị khống chế, nên một số người có kết luận rằng phe Liên Bang có thể có một thắng lợi về mặt chiến lược. Tuy nhiên những người ủng hộ phe Hợp Bang lại lập luận rằng chiếc Virginia đã có một ý nghĩa quân sự lớn hơn cuộc phong tỏa, nó chỉ là một phần nhỏ của cuộc chiến tranh ở Tidewater Virginia. Sự hiện diện của nó chỉ đủ để đóng cửa sông James khỏi sự xâm nhập của Hải quân Liên bang. Nó cũng đã áp đặt những hạn chế khác vào Chiến dịch bán đảo sau đó mà chiến dịch này là sự kết hợp các lưc lượng Liên Bang của tướng George B. McClellan, người luôn lo lắng rằng chiếc Virginia có thể tấn công vào các vị trí của mình trên sông York. Mặc dù nỗi sợ hãi của ông là vô căn cứ, điều này vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến các chiến dịch của ông ta (có lẽ tướng McClellan luôn sợ chiếc Virginia đánh thọc sườn nên không thể tung hết lực lượng vào chiến dich bán đảo ) cho đến khi chiếc Virginia bị phá hủy.Ý kiến cá nhân, đối đầu với miền Bắc có nền công nghiệp phát triển, lại thừa thãi tài chính để thuê mẫu thiết kế đóng tầu tiên tiến của nước ngoài như chiếc Monitor mà những người miền Nam, vùng nông nghiệp trồng bông là chính, đã cải tạo vá víu cái xác cháy dở của chiếc Merrimack thành chiếc CSS Virginia lừng danh và gây tổn thất không nhỏ cho quân miền Bắc là một thắng lợi lớn rồi.

Tác động sau khi chiến tranh hải quân

Cả hai ngày diễn ra trận đánh đã thu hút sự chú ý từ tất cả các cường quốc hải quân trên thế giới. USS Monitor trở thành nguyên mẫu cho tàu chiến lớp Monitor. Rất nhiều tầu lớp này được đóng bao gồm cả lớp tầu Monitor chạy trên sông, và chúng đã đóng vai trò then chốt trong chiến trận chiến trên sông Mississippi và sông James. Liên Bang Hoa Kỳ ngay lập tức bắt đầu đóng thêm mười chiếc lớp Monitor dựa trên bản thiết kế gốc lớn hơn của Ericsson, và chúng được gọi là Passaic lớp Monitor. Tuy nhiên, trong khi thiết kế này tỏ ra đặc biệt phù hợp cho các trận chiến trên sông, nhưng với kết cấu thân hình thấp và tháp pháo hạng nặng tạo ra sự yếu kém trong việc đi biển ở vùng nước lớn. Nước Nga lo sợ bị hút vào những cuộc chiến giống như Nội chiến Hoa Kỳ (cuộc chiến sử dụng thiết giáp hạm), đã hạ thuỷ mười tàu chị em với chiếc Monitor, ngay sau khi thiết kế của Ericsson đến được St Petersburg. Những gì xảy ra sau đó đã được người ta mô tả như là " chứng cuồng Monitor" chiếc tháp pháo quay vòng sau này được lấy màn cảm hứng để thiết kế tương tự cho các tàu chiến trong tương lai, mà cuối cùng chúng đã trở thành thiết giáp hạm hiện đại.Sự yếu kém của tầu thân vỏ gỗ trước tàu bọc thép đã được lưu ý đặc biệt tại Anh và Pháp, nơi mà việc quy hoạch chuyển đổi các hạm đội tàu chiến sang tầu thiết giáp đã đưa ra một minh chứng mạnh mẽ. Một tính năng mô phỏng như vậy đã không thành công. Ấn tượng bởi sự dễ dàng khi chiếc CSS Virginia đánh chìm chiếc USS Cumberland, các kiến trúc sư hải quân đã bắt đầu để cố kết hợp ram vào thiết kế thân của họ. Chiếc tầu đầu tiên có ram được đóng trong thời hiện đại của Pháp là chiếc tầu bọc thép Taureau (1863), và súng của nó được cho rằng có "chức năng duy nhất là dọn đường cho đòn đánh ram" Việc bao gồm ram trong thiết kế thân tàu chiến tiếp tục tồn tại gần như đến tận sự bùng nổ của Thế chiến thứ nhất, dù cho sự cải thiện trong thuật bắn pháo hải quân làm cho hành động xích lại gần tàu chiến đối phương để đánh đòn ram là một hành động tự sát, nếu không thì cũng là không thể.

Giới thiệu một vài chiếc tầu chiến nổi tiếng của Hợp Bang miền Nam Hoa Kỳ ( Confederate States of America)

Chiếc tầu ngầm Hunley

Tên: H. L. Hunley

Builder: Horace L. Hunley

Hạ thủy: đầu năm 1863

Ra mắt: Tháng 7 năm 1863

Phục vụ: Tháng 2 17, 1864

Hy sinh: Tháng 2 17, 1864

Số phận: chìm 1864

Tình trạng: đang chờ bảo tồn

Đặc điểm chung

Tải trọng: 7,5 tấn (6,8 mét tấn)

Chiều dài: 39,5 feet (12,0 mét)

Beam: 3,83 feet (1,17 m)

Lực đẩy: tay quay cánh quạt

Tốc độ: 4 hải lý (7,4 km / giờ) (bề mặt)

Bổ sung: 1 sỹ quan, 7 thủy thủ

Vũ khí: 1 × spar ngư lôi

H. L. Hunley là một Tàu ngầm của Hợp Bang miền Nam nó đóng một phần nhỏ trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ, nhưng lại có một vai trò lớn trong hải chiến. con tầu của Hợp Bang miền Nam CSS Hunley đã chứng tỏ những lợi thế và sự nguy hiểm của chiến tranh dưới đáy biển. CSS Hunley là chiếc tàu ngầm đầu tiên đánh chìm một tàu chiến của đối phương, mặc dù nó cũng bị mất sau cuộc tấn công thành công. Quân miền Nam bị mất 32 thủy thủ đoàn trong sự nghiệp của chiếc CSS Hunley. Chiếc tàu ngầm này được đổi tên sau cái chết của nhà phát minh ra nó, Horace Lawson Hunley, và một thời gian sau khi nó được đưa vào lực lượng Hải quân của Hợp Bang miền Nam tại Charleston, Nam Carolina.H. L. Hunley dài gần 40 feet (12 mét), được đóng tại Mobile, Alabama, Khai trương vào tháng bảy năm 1863, và được vận chuyển bằng đường sắt đến Charleston, South Carolina ngày 12 tháng tám năm 1863. Vào ngày 17 Tháng Hai 1864, Hunley tấn công và đánh chìm chiếc thông báo hạm USS Housatonic 1124 tấn tại cảng Charleston, nhưng ngay sau đó, Hunley cũng bị chìm, tất cả tám thủy thủ đoàn đều chết đuối. Hơn 136 năm sau, ngày 8 tháng 8 2000, xác của chiếc Hunley đã được trục vớt, và vào ngày 17 Tháng Tư 2004, sau khi xác định DNA hài cốt của tám Hunley thủy thủ đoàn được chuyển vào an táng tại Nghĩa trang Magnolia thuộc Charleston với đầy đủ nghi thức quân sự.

Lịch sử

Hunley và hai tàu ngầm trước đó đã được phát triển phát tiển bởi tư nhân và được trả tiền bởi Horace Lawson Hunley, James McClintock, và Baxter Watson.

Tiền nhiệm của chiếc Hunley

Hunley, McClintock, và Watson là những người đầu tiên chế tạo một chiếc tàu ngầm nhỏ có tên là Pioneer tại New Orleans, Louisiana. Chiếc Pioneer đã được kiểm tra trong tháng hai năm 1862 trên Sông Mississippi và sau đó được kéo đến Hồ Pontchartrain để thử nghiệm thêm, nhưng quân đội Liên Bang đang tiến về phía New Orleans làm họ phải từ bỏ kế hoạch phát triển và đánh chìm chiếc Pioneer vào tháng tiếp theo. tàu ngầm Bayou St John của Hiệp Bang có thể cũng được đóng vào thời gian đó cùng với chiếc Pioneer.Ba nhà phát minh chuyển tới Mobile và tham gia với các nhà chế tạo máy móc Thomas Park và Thomas Lyon. Họ nhanh chóng bắt đầu phát triển của một chiếc tàu ngầm thứ hai, Chiếc American Diver. Những nỗ lực của họ đã được hỗ trợ bởi sỹ quan của quân đội Hợp Bang miền Nam, Trung úy William Alexander của Trung đoàn 21 Bộ binh Alabama với nhiệm vụ được giao là giám sát dự án. Mọi người đã thử nghiệm với động cơ chạy điện và đẩy hơi nước cho tàu ngầm mới, trước khi quay trở lại một động cơ đơn giản, hệ thống đẩy quay tay. Chiếc American Diver đã sẵn sàng cho những thử nghiệm ở cảng vào tháng 1 năm 1863, nhưng nó tỏ ra quá chậm để được thực hiện vụ. Một trong những cố gắng của nó nhằm tấn công vào phong tỏa của Liên Bang đã được thực hiện trong tháng 2 năm 1863 nhưng đã không thành công. Chiếc tàu ngầm bị chìm trong cửa Vịnh Mobile trong một cơn bão sau cùng tháng đó và không được phục hồi.

Đóng và thử nghiệm chiếc Hunley

Việc đóng chiếc Hunley bắt đầu ngay sau khi họ bị mất chiếc Diver. Ở giai đoạn này, chiếc Hunley thường được gọi là " thuyền cá " tầu ngư lôi " hoặc "cá heo ". Truyền thuyết thường mô tả chiếc Hunley là một tầu động cơ hơi nước có nồi hơi Có thể vì một bản vẽ không thực tế của William Alexander, người đã mô tả một chiếc tầu một động cơ ngắn và mập. Trong thực tế, Hunley mục đích thiết kế và đóng với nhiệm vụ của nó, với kiểu dáng đẹp hiện đại được hiển thị trong bức vẽ RG 1902 Skerrett là một ví dụ chính xác. Hunley được thiết kế cho một thủy thủ đoàn gồm tám người: bảy người để quay động cơ tay quay và một người để lái và chỉ huy con tầu. Mỗi khi kết thúc con tầu được trang bị các thùng dằn mà các thùng này có thể được làm ngập nước do van hoặc bơm cạn bằng bơm tay. Các dằn phụ đã được thêm vào qua việc sử dụng sắt có trọng lượng lớn cài vào phần thân của con tầu. Trong trường hợp chiếc tàu ngầm cần nổi lên trong trường hợp khẩn cấp, lượng sắt làm dằn có thể được gỡ bỏ bởi việc tháo vít các chốt từ bên trong tàu.Hunley được trang bị hai cửa hầm kín nước, một ở phía trước và một ở phía sau, trên đỉnh hai tháp điều khiển với các ô cửa nhỏ. Các cửa hầm rất nhỏ, đường kính khoảng 14 -- > 15 ¾ inch (36 -- > 40 cm), làm cho lối vào và ra từ thân tàu rất khó khăn. Chiều cao của thân tàu là khoảng 4 feet 3 inch (1,2 mét).Chiếc Hunley đã sẵn sàng cho một cuộc tấn công vào tháng 7 năm 1863. Được giám sát bởi Đô đốc Franklin Buchanan ( bác này là cựu thuyền trưởng của chiếc CSS Virginia) của Hợp Bang miền Nam, chiếc Hunley đã tấn công thành công một chiếc thuyền đáy bằng chở than tại Vịnh Mobile. Sau cuộc tấn công này, chiếc tàu ngầm đã được chở đến Charleston, Nam Carolina, bằng đường sắt, ngày 12 tháng 8 năm 1863.

Hình dạng bên ngoài của chiếc tầu ngầm Hunley

Quân đội Hợp Bang đã trưng dụng con tàu này từ những nhà đóng tàu tư nhân và chủ nhân của nó ngay khi họ đến Charleston và biên chế họ vào quân đội của Hợp Bang. Từ lúc này chiếc Hunley hoạt động như là một tàu của quân quân đội Hợp Bang, mặc dù Horace Hunley và các đối tác của ông vẫn tiếp tục tham gia vào thử nghiệm các hoạt động của tàu ngầm.Trung úy John A. Payne của Hải quân Hợp Bang miền Nam từ chiếc tầu thiết giáp hạm CSS Chicora tình nguyện để được làm chỉ huy của chiếc Hunley, và một thủy thủ đoàn gồm bảy tình nguyện viên từ chiếc CSS Chicora và CSS Palmetto State được tập hợp để vận hành tàu ngầm. Ngày 29 tháng 8 năm 1863, thủy thủ đoàn của chiếc Hunley được chuẩn bị để thực hiện một thử nghiệm lặn sâu để tìm hiểu các hoạt động của tàu ngầm khi Trung úy Payne tình cờ bước vào kích hoạt kiểm soát mức độ lặn sâu của chiếc tầu ngầm trong khi các thủy thủ đoàn khởi động con tầu và nó đã hoạt động. Việc này làm cho chiếc Hunley lặn xuống nước là nắp của nó vẫn còn mở, làm nó bị ngập nước. Payne và hai người khá thoát kịp, nhưng năm thủy thủ đoàn còn bị chết đuối.Vào ngày 15 tháng mười năm 1863 chiếc Hunley không nổi lên khỏi mặt trong một cuộc tấn công vào mục tiêu giả, giết chết nhà phát minh của nó (Horace L. Hunley ) và bảy thủy thủ đoàn khác. Trong cả hai trường hợp, Hải quân của Hợp bang đều vớt được con tàu và đưa nó quay trở lại phục vụ chiến đấu.

Vũ khí

Chiếc Hunley ban đầu được dự định để tấn công bằng vũ khí làm từ một số vật liệu nổ có thể nổi được kết nối với một chiếc cầu chì (thuật ngữ về một quả ngư lôi trong Nội chiến) được kéo phía sau nó (chiếc Hunley) bằng một sợi dây thừng dài. Chiếc Hunley sẽ tiếp cận một tàu địch, lặn dưới nó và cắt đứt dây. Sau đó nó tiếp tục di chuyển ra xa khỏi mục tiêu, quả ngư lôi đã được kéo đến bên cạnh mục tiêu và phát nổ. Tuy nhiên, kế hoạch này đã bị bỏ đi vì như là không thực tế do sự nguy hiểm của sợi dây sẽ chặn không cho chiếc Hunley lặn xuống hoặc luồng nước làm quả ngư lôi trôi dạt vào chính nó.Vật liệu nổ nổi được thay thế bằng một loại ngư lôi spar, đây là một thùng chứa £ 90 (41 kg) thuốc súng gắn liền với một cây gỗ dài 22-foot (6,7 mét) như trong hình minh họa của tàu ngầm được vẽ lại vào này. Chiếc Spar này được đặt trên mũi của chiếc Hunley và được thiết kế để sử dụng khi tàu ngầm ở một sâu khoảng 6 feet (1,8 m) hoặc nhiều hơn bên dưới mặt nước. Chiếc ngư lôi spar có một điểm kẽm gai, và nó sẽ bị mắc kẹt vào bên trong tàu mục tiêu bằng cách ramming. Chiếc ngư lôi spar như thiết kế ban đầu sử dụng một kích hoạt cơ khí để gắn vào các tàu bị tấn công bằng một sợi dây, do đó là kẻ tấn công sẽ quay lại và chạy xa khỏi nạn nhân của nó và quả ngư lôi sẽ phát nổ. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu ngày nay khi tìm kiếm trên chiếc Hunley đã phát hiện ra bằng chứng, bao gồm một cuộn dây đồng và các thành phần của một bộ pin (battery), mà chúng có thể được dùng để kích nổ bằng điện. Sau cái chết của Horace Hunley, tướng Beauregard đã ban hành một mệnh lệnh rằng con tàu ngầm không còn được dùng để tấn công mục tiêu dưới nước nữa. Để trả lời mệnh lệnh này, một ống sắt được gắn vào mũi của chiếc tàu ngầm và có góc chúc xuống dưới như vậy vật liệu nổ vẫn sẽ được đặt ở vị trí dưới mực nước đủ sâu để làm cho nó có hiệu quả. Đây là phương pháp tương tự kiểu thủ công "David" đã được phát triển lúc trước đó và thành công khi tấn công trên mặt nước và đã tiêu diệt chiếc USS New Ironsides. Cuốn The Confederate Veteran năm 1902 về một hồi tưởng của một kỹ sư làm việc tại Battery Marshall với một kỹ sư khác nữa, người đã thực hiện điều chỉnh cơ chế ống sắt trước khi chiếc Hunley rời đi để thực hiện sứ mệnh cuối cùng của mình vào đêm ngày 17 Tháng Hai 1864. Một bản vẽ của ống sắt spar, xác nhận "cấu hình kiểu David " của nó, được xuất bản nhân dịp kỷ niệm lịch sử một vài năm đầu của chiến tranh tàu ngầm.

Tấn công chiếc USS Housatonic

Chiếc Hunley thực hiện cuộc tấn công đầu tiên và duy nhất của nó đối với một mục tiêu sống vào đêm ngày 17 tháng hai 1864. Nó (mục tiêu) là con tàu USS Housatonic 1,100 tấn thông báo hạm Sloop-of-war động cơ hơi nước vũ trang 12 pháo lớn, đang đóng ở cửa sông Charleston, South Carolina, cách bến cảng khoảng 5 dặm (8 km) phía ngoài khơi. Trong một nỗ lực nhằm phá vỡ cuộc phong tỏa hải quân vào thành phố, Trung úy George E. Dixon và một thủy thủ đoàn gồm bảy tình nguyện viên tham gia tấn công chiếc Housatonic, đã thành công trong việc gắn kẽm gai của chiếc spar ngư lôi vào thân chiếc tầu mục tiêu. Quả ngư lôi đã phát nổ khi chiếc tàu ngầm đang cố gắng chạy ra xa, Nhấn chìm chiếc USS Housatonic và năm thành viên thủy thủ đoàn của nó xuống đáy biển ngay lặp tức trong năm phút, mặc dù nhiều người đã sống sót bằng cách leo lên hai chiếc xuồng cứu sinh hoặc bằng cách bám vào cột buồm cho đến khi được cứu thoát.

Cái chết của chiếc Hunley

Sau khi tấn công, chiếc Hunley không trở lại một cách an toàn. Không có bằng chứng thuyết phục rằng chiếc Hunley còn sống sót được khoảng một giờ sau cuộc tấn công, diễn ra lúc khoảng 8:45. Chỉ huy của Battery Marshall tường trình trong báo cáo hàng ngày, rằng sau cuộc tấn công diễn ông ta đã nhận được "tín hiệu damn" từ chiếc tàu ngầm cho biết nó đang quay về căn cứ của nó. Tín hiệu từ một chiếc lồng đèn màu xanh khí cacbua, được nhận thấy vào khoảng lúc 09:00 tại pháo đài Fort Moultrie trên đảo Sullivan. Tín hiệu cũng được nhìn thấy bởi các thành viên thủy thủ đoàn của chiếc USS Housatonic những người đang bám vào các cột buồm của con tầu đắm để chờ được cứu hộ. Các báo cáo được trích dẫn trong các thắc mắc chính thức của cả Chính phủ Liên bang miền Bắc và Chính phủ Hợp Bang miền Nam và trong Bản ghi nhớ chính thức của cuộc chiến. Loại lồng đèn này không thể nhìn thấy được ở khoảng cách ngoài một dặm rưỡi, điều đó chỉ ra rằng chiếc tàu ngầm đã đến khá gần được tới bờ biển sau khi tấn công vào chiếc USS Housatonic.Sau khi báo hiệu, Dixon đã có thể cố gắng điều khiển con tầu đi ngầm dưới bề mặt nước để đưa nó trở lại đảo Sullivan. Điều gì đã xảy ra tiếp theo sau đó là không rõ ràng.Một khả năng là ngư lôi đã không nổ theo đúng chỉ thị, tạo ra những trục trặc cho chiếc Hunley sau cuộc tấn công. Người ts đã dự định rằng quả ngư lôi được kích nổ ở khoảng 150-175 feet (46-53 m) từ mục tiêu, để giảm thiểu thiệt hại cho chiếc tầu ngầm. Tuy nhiên, các nhân chứng trên tàu Housatonic đều thống nhất nói rằng quả ngư lôi phát nổ lúc chiếc Hunley ở không xa hơn khoảng 100 feet (31 mét), và có thể gần hơn nữa là vào khoảng 75 feet (23 mét) kể từ mục tiêu. Nếu ngư lôi đã không nổ như kế hoạch, sau đó những thiệt hại từ những chấn động từ vụ nổ ngư lôi và từ kho thuốc súng của chiếc USS Housatonic có thể đã làm mở các mạch nối của con tầu, và làm nước từ từ ngập vào. Thủy thủ đoàn của nó có thể đã không nhận ra rằng chiếc tàu ngầm đã chậm lại. Bị chìm dần một lần nữa làm cho nước ngập vào khoang đủ để thủ thủ đoàn trên con tàu hiểu rằng họ phải lái con tầu hướng trực tiếp về phía bờ nước nông, ngăn chặn các cửa hút chấn lưu và làm cho họ không thể bơm ngược nước trở ra ngoài. Cái lạnh và bị ngâm trong nước đã có thể làm chết các thủy thủ đoàn một cách tương đối nhanh chóng.Trong Tháng Mười 2008, các nhà khoa học thông báo rằng họ đã tìm ra rằng thủy thủ đoàn của chiếc Hunley đã không đặt máy bơm để loại bỏ nước đã lọt vào khoang của họ, điều này có thể chỉ ra rằng nó không bị ngập nước. " Bây giờ người ta mới thực sự bắt đầu nghĩ rằng một tình trạng thiếu oxy làm thủy thủ đoàn bất tỉnh" Chủ tịch của Ủy ban Hunley ở South Carolina nói. "Họ có thể đã bị bẻ tay lái và di chuyển và họ đã tính toán sai lầm trong việc dự trữ bao nhiêu oxy mà họ cần phải có."Tuy thủy thủ đoàn của nó đã chết, nhưng chiếc H. L. Hunley đã kiếm được một chỗ trong lịch sử của chiến tranh như là chiếc tàu ngầm đầu tiên đánh chìm một tàu nổi trong thời chiến.

Trục vớt tầu Hunley

Sự phát hiện con tầu Hunley được mô tả bởi Tiến sĩ William Dudley, Giám đốc Lịch sử Hải quân của Trung tâm lịch sử Hải quân rằng "có lẽ đây là sự kiện quan trọng nhất của ngành khảo cổ học nước Mỹ tại thế kỷ 20." Các phần nhỏ của con tầu cùng với các trang bị của nó có giá trị hơn 40 triệu USD, việc phát hiện ra nó và các tài trợ sau đó là một trong những đóng góp quan trọng nhất và có giá trị nhất đến South Carolina.Thợ lặn Ralph Wilbanks tìm thấy xác chiếc tầu vào tháng 4 năm 1995, trong khi dẫn đầu một đội ngũ thợ lặn NUMA (National Underwater and Marine Agency) được tài trợ bởi tiểu thuyết gia Clive Cussler, người đã công bố rằng tìm thấy một khám phá mới và cho rằng nó (chiéc Hunley) nằm ở trong khoảng 18 feet (5 m) tại các nước ven biển cách xác chiếc USS Housatonic khoảng 1 dặm. Wilbanks định vị nơi tàu ngầm bị chôn vùi có nhiều phù sa, chúng vốn đã che dấu và bảo vệ con tàu trong hơn một trăm năm. Các thợ lặn đã tiếp xúc với những cửa hầm và ô thông gió (hộp không khí đi kèm của một ống thở) để nhận dạng nó. Chiếc tàu ngầm được an nghỉ bên mạn phải của nó tạo về một góc 45 độ và được bao phủ trong một ¼ - đển ¾ inch (0,6-đến 1,9 centimet) các han gỉ bên ngoài đã kết thành vỏ cứng với cát và các hạt Seashell. Các nhà khảo cổ tiếp xúc với một phần của phía sau của con tàu và phát hiện thiết bị đo độ sâu . Các thăm dò tiếp theo tiết lộ một thân tầu dài khoảng 40 feet (12 mét) và tất cả đang được bảo quản dưới một lớp trầm tích.Công việc điều tra và khai quật khảo cổ lên đến đỉnh điểm với việc trục được chiếc Hunley lên vào ngày 08 tháng tám năm 2000. Một nhóm lớn các chuyên gia từ Khảo cổ học dưới nước thuộc Trung tâm lịch sử Hải quân Chi nhánh, National Park Service, Viện Khảo cổ học thuộc South Carolina và Nhân chủng học, và các cá nhân khác nhau cùng phối hợp nghiên cứu, đo đạc con tầu và ghi chép lại trước khi nó bị gỡ ra. Sau khi công việc điều tra đã hoàn tất, vào ngày 08 tháng tám năm 2000, lúc 8:37, chiếc tầu ngầm bị dỡ bỏ lớp bề mặt lần đầu tiên trong hơn 136 năm, việc này được chào đón bởi một đám đông hoan hô trên bờ và ở khu vực xung quanh. Khi được đặt lên một cách an toàn trên chiếc sà lan vận chuyển, Hunley đã được chuyển trở lại Charleston. Công việc vận chuyển kết thúc khi chiếc tàu ngầm được bảo quản bên trong Trung tâm Bảo tồn Warren Lasch , tại xưởng đóng tầu Hải quân Charleston Navy Yard trước đây, trong một bồn chứa nước ngọt được thiết kế đặc biệt để chờ bảo tồn.

Lễ an táng thủy thủ đoàn của chiếc Hunley

Thủy thủ đoàn được thành lập từ Trung úy George E. Dixon (Commander), Frank Collins, Joseph F. Ridgaway, James A. Wicks, Arnold Becker, Corporal JF Carlsen, C. Lumpkin, và Miller, tên đầu tiên người ta vẫn còn chưa chắc chắn.Ngoài sỹ quan chỉ huy của chiếc tàu ngầm, Trung úy George E. Dixon, công việc nhận dạng các thủy thủ đoàn tình nguyện của chiếc Hunley từ lâu vẫn là một bí ẩn. Douglas Owsley, một nhà nhân chủng học làm việc cho Bảo tàng quốc gia về lịch sử tự nhiên thuộc về Viện Smithsonian, đã xem xét và xác định rằng có bốn trong số những người đàn ông sinh ra là người Mỹ, trong khi bốn người khác được sinh ra tại châu Âu, dựa vào ký hiệu hóa chất còn lại trên răng và xương của người đàn ông theo những thành phần chủ yếu từ chế độ ăn uống của họ. Bốn trong số những người đàn ông đã ăn nhiều ngô, một chế độ ăn uống của Mỹ, trong khi phần còn lại ăn chủ yếu là lúa mì và lúa mạch đen, một thực phẩm chủ yếu ở châu Âu. Bằng cách kiểm tra các hồ sơ của cuộc Nội chiến và tiến hành thử nghiệm ADN với các hài cốt còn lại, nhà phân tích gia phả học Linda Abrams đã có thể xác định các bộ xương của Dixon và ba người Mỹ khác: Frank Collins, Joseph Ridgaway, và James A. Wicks. Việc xác định các thủy thủ đoàn người châu Âu đòi hỏi nhiều vấn đề hơn, nhưng cuối cùng đã được giải quyết vào cuối năm 2004. Tư thế của các bộ xương chỉ ra rằng những thủy thủ qua đời tại vị trí của họ và không cố gắng trốn thoát từ chiếc tàu ngầm đang chìm (thế mới có giả thuyết rằng họ đã bất tỉnh).Ngày 17 Tháng Tư 2004 hài cốt của các thủy thủ đoàn của chiếc H. L. Hunley được an táng tại Nghĩa trang Magnolia thuộc thành phố Charleston với đầy đủ nghi thức quân sự. Một đám đông ước tính khoảng 35.000 và 50.000 người, trong đó có 10.000 người đang làm nghĩa vụ quân sự và các cổ động đã hiện diện cho một dịp mà một số người gọi là "Ngày Tang lễ của Hợp bang Ly khai miền Nam."Chiếc Hunley vẫn còn tại Trung tâm Bảo tồn Lasch để phục vụ cho nghiên cứu và bảo tồn. Việc tiếp tục nghiên cứu đã dẫn đến những khám phá bất ngờ, bao gồm cả sự phức tạp của hệ thống chấn lưu của chiếc tầu ngầm và hệ thống bơm, chỉ huy và máy lặn, và công đoạn lắp ráp cuối cùng.Một bất ngờ xảy ra vào năm 2002, khi một nhà nghiên cứu kiểm tra những khu vực gần vị trí của trung úy Dixon, ông đã tìm thấy một mẩu đồng xu vàng méo mó $ 20, đúc năm 1860, với những dòng chữ "Shiloh 06 tháng 4 năm 1862 cuộc sống của tôi đã được bảo vệ G. E. D." và một nhà nhân chủng học pháp y tìm thấy một vết thương đã lành bệnh để xương hông của trung úy Dixon. Những phát hiện kết hợp một huyền thoại, truyền thuyết trong gia đình người yêu của Dixon, người tên là Queenie Bennett, đã cho ông đồng xu này như là vật may mắn để bảo vệ ông. Dixon giữ đồng xu với ông tại Trận Shiloh, Nơi ông bị thương ở đùi vào trận 6 Tháng Tư năm 1862. Viên đạn trúng vào đồng xu trong túi của ông, cứu được chiếc chân và có thể là cả cuộc sống của ông. Ông đã mang đồng xu vàng đi khắc chữ và mang nó theo như một vật may mắn.

Chiếc CSS Alabama - Robinhood của Đại Dương

Sự nghiệp

Tên: CSS Alabama

Hạ thuỷ: 1862

Ra mắt: 29 tháng 7 năm 1862

Hoạt động: 24 tháng 8 năm 1862

Ngừng hoạt động: Ngày 19 tháng 6 năm 1864

Số phận: Chìm trong trận chiến với chiếc USS Kearsarge

Đặc điểm chung

Trọng tải: 1.050 tấn

Chiều dài: 220 ft (67 m)

Rộng: 31 ft 8 (9,65 m)

Đáy: 17 ft 8 ( 5,38 m)

Công suất: 300 mã lực

Lực đẩy: Động cơ hơi nước

Tốc độ: 13 knots (24 km / h)

Thuỷ thủ đoàn: 145 sỹ quan và thuỷ thủ

Vũ khí: 6 pháo x 32 £ (15 kg), lb 1 pháo x 110 (50 kg), lb 1 pháo x 68 (31 kg)

Chiếc CSS Alabama là một chiếc thông báo hạm được đóng cho Hải quân Hợp Bang miền Nam tại Birkenhead, Vương quốc Anh, trong năm 1862 bởi John Laird Sons and Company. Chiếc Alabama phục vụ như một tầu chuyên tấu công các tầu buôn, tấn công các tầu buôn và tầu hải quân của Liên Bang miền Bắc trong hai năm sự nghiệp của mình, trong thời gian này nó không bao giờ thả neo tại một cảng nào ở phía Nam nước Mỹ.Chiếc Alabama được đóng một cách bí mật vào năm 1862 bởi Công ty đóng tàu của Anh, John Laird Sons & the Company, tại xưởng đóng tàu của họ tại Birkenhead, Merseyside ở phía Tây Bắc nước Anh. Việc này được dàn xếp bởi điệp viên của Hợp Bang James Dunwoody Bulloch, người lên kế hoạch mua sắm tàu vô cùng cần thiết cho lực lượng Hải quân non trẻ của Hợp Bang miền Nam. Ông đã sắp xếp hợp đồng thông qua Fraser, công ty Trenholm, một nhà môi giới bông ở Liverpool có quan hệ chặt chẽ với Hợp Bang.Ban đầu được biết đến như thân tầu số 290, con tàu được hạ thuỷ một cách không phô trương vào ngày 29 tháng 7 1862 với cái tên Enrica. Điệp viên Bulloch sắp xếp cho một thuỷ thủ đoàn dân sự và thuyền trưởng cùng chiếc Enrica tới Đảo Terceira thuộc Azores. Bulloch cũng ở trên tàu để chứng kiến việc đổi tên nó, thuyền trưởng của con tàu mới, Raphael Semmes, rời Liverpool vào ngày 05 Tháng Tám năm 1862 trên chiếc tàu hơi nước Bahama để nắm quyền chỉ huy con tầu tuần dương mới. Semmes đến đảo Terceira vào Ngày 20 tháng 8 năm 1862 và bắt đầu giám sát việc trang bị lại con tàu mới với các các khoản mục khác, bao gồm vũ khí, và 350 tấn than, những thứ này được vận chuyển bởi chiếc Agrippina, con tàu chở đồ cung cấp cho con tầu mới của ông. Sau ba ngày làm việc đến gãy sống lưng của thuỷ thủ đoàn của ba con tầu ( chiếc Alabama, Bahama, Agrippina), con tàu mới đã được hoán chuyển thành một tầu tuần dương hải quân, được thiết kế để chuyên tấn công các tầu buôn , và thuộc biên chế của Hợp Bang miền Nam .Chiếc Alabama được đóng theo kiểu thuần Anh bao gồm sáu pháo hải quân 32 pounder nòng trơn ở các mạn tầu, và hai khẩu pháo xoay quanh trục lớn hơn và mạnh hơn. Cả hai khẩu trục pháo được định vị khoảng giữa con tầu theo đường trung tâm của boong, ở phía trước và phía sau của cột buồm chính. Khẩu pivot ở phía trước là một khẩu Blakely hạng nặng có tầm bắn xa cỡ 100 pound 7 inch (178 mm), Khẩu trục pháo ở phía sau cũng là một khẩu hạng nặng, cỡ 8-inch (203 mm) nòng trơn.Con tầu tuần dương mới của Hợp Bang được trang bị hai cánh buồm và một động cơ hơi nước 300 mã lực (220 kW) của John Laird Sons và Công ty, điều khiển một chân vịt đôi bằng đồng kiểu Griffiths,. Chiếc chân vịt có thể co vào duỗi ra bằng việc sử dụng cơ chế hộp số bằng đồng để nâng hạ, chiếc Alabama có thể nâng tốc độ đến mười knots chỉ bằng các cánh buồm và 13,25 knot (24,54 km / h) khi cả buồm lẫn động cơ hơi nước của nó cùng được sử dụng.

Sứ mạng và chuyến đi

Con tàu đã được đổi tên một cách có mục đích khoảng một dặm ngoài khơi đảo Terceira trong vùng biển quốc tế ngày 24 Tháng 8 năm 1862: Tất cả các thuỷ thủ từ chiếc Agripinna và Bahama đã chuyển sang bong sỹ quan của chiếc Enrica, nơi 24 sĩ quan của nó, một số người trong số họ là người miền Nam, vận đầy đủ đồng phục và đứng nghiêm. Thuyền trưởng Raphael Semmes cho đặt một khẩu súng có giá và đọc thư bổ nhiệm từ Tổng thống Jefferson Davis, cho phép ông ta nắm quyền chỉ huy chiếc chiến hạm mới. Sau khi hoàn thành công vi ệc này , các nhạc công được tập hợp từ các thủy thủ của ba tàu bắt đầu chơi giai điệu "Dixie" cùng lúc đó một sỹ quan kéo lá cờ Anh của chiếc Enrica xuống . Một phát pháo lệnh nổ vang và các đoạn chão của các dây leo tại đỉnh của cột buồn lái và buồm giữa đã bị hỏng và phù hiệu mới của con tầu được móc lên từ từ một chách tự do ở trên khoang. Với tín hiệu này con tàu tuần dương đã trở thành chiếc tầu chạy bằng hơi nước Alabama của Hải quân Hợp Bang miền Nam.Thuyền trưởng Semmes sau đó đã có một bài phát biểu về nguyên nhân Miền Nam muốn tập hợp thuỷ thủ đoàn ( cho chiếc Alabama), yêu cầu họ đăng ký gia nhập vào một chuyến đi mà không ai được rõ về khoảng cách và điểm đến cuối cùng . Semmes chỉ có sự gia nhập của 24 sĩ quan nhưng không có thuỷ thủ nào ra nhập thuỷ đoàn của ông. Khi việc này không thành công, Semmes thay đổi chiến thuật của ông. Semmes sau đó đề nghị ký hợp đồng với lương gấp đôi, thanh toán bằng vàng, và tiền thưởng thêm được trả từ Quốc hội của Hợp Bang cho tất cả các tàu bị phá hủy. Lúc này tất cả mọi người bắt đầu kêu lên "Hear! Hear!" Semmes được biết ông sẽ có 83 thuỷ thủ , trong số đó có nhiều người Anh, ký kết phục vụ cho hải quân của Hợp Bang. Điệp viên của Hợp Bang miền Nam Bulloch và các thuỷ thủ còn lại sau đó trở về tàu của họ cho chuyến đi trở về Anh. Semmes vẫn cần khoảng 20 người hoặc hơn nữa cho một thuỷ thủ đoàn đầy đủ, nhưng với số thuỷ thủ đã ký vào lúc đó ít nhất cũng đủ để chặn bắt các tầu buôn . Phần còn lại sẽ tuyển chọn từ các thủy thủ của các tàu bị bắt giữ hoặc từ các cảng thân thiện. Trong số 83 thủy thủ đoàn đã đăng ký ngay từ đầu trong ngày hôm đó, nhiều người hoàn thành toàn bộ chuyến đi biển.Theo thuyền trưởng Semmes, Alabama dành hai tháng đầu tiên của mình ở Đại Tây Dương Đông, về phía tây nam Azores và sau đó đi về phía đông, thu giữ và đốt cháy tàu buôn miền bắc. Sau một số khó khăn, sau đó nó tiếp tục sứ mạng của mình hủy diệt và phá hoại trong một khu vực lớn hơn cả New England. Sau đó nó khởi hành về phía nam, đến West Indies nơi nó gây ra những tàn phá lớn trước khi rời đi phía tây vào Vịnh Mexico. Xuất hiện trong tháng 01 năm 1863, Alabama đã tham gia trận đánh đầu tiên của nó. Khi đó nó nhanh chóng đánh chìm chiếc tầu hơi nước có bánh xe USS Hatteras ở ngay ngoài khơi bờ biển Texas, gần Galveston, bắt tù binh thuỷ thủ đoàn của chiếc tàu chiến này. Sau đó, nó vẫn tiếp tục xa hơn về phía nam, cuối cùng băng qua đường xích đạo, nơi nơi nó đã đoạt được phần lớn các thành công trong sự nghiệp là một con tầu chuyên tấn công các tầu buôn ở ngoài khơi bờ biển Brazil. Sau lần thứ hai băng qua Đại Tây Dương, Alabama đi thuyền xuống bờ biển tây nam châu Phi, nơi nó tiếp tục cuộc chiến chống lại các tầu buôn của miền Bắc. Sau khi dừng lại ở vịnh Saldanha ngày 29 tháng 7 Năm 1863 sau khi xác minh rằng không có tàu địch ở Table, cuối cùng họ thấy rằng rất cần thiết để sửa chữa và tái dự trữ đầy đủ cho nó khi ghé thăm Cape Town, Nam Phi. Sau đó nó khởi hành đi Đông Ấn, nơi chiếc Alabama đã mất sáu tháng trời để săn lùng phá hủy hơn bảy chiếc tầu của miền Bắc cuối cùng trước khi được tăng cường tại Mũi Hảo Vọng trên đường đến Pháp. Các tàu chiến của Liên Bang miền Bắc đang săn lùng nó thường xuyên cảm thấy rất khó để vây bắt và bây giờ con tầu tấn công nổi tiếng của Hợp Bang đã xuất hiện, nhưng chỉ một vài lần Alabama bị phát hiện, nó nhanh chóng đánh lừa đối thủ của mình và biến mất ngoài đường chân trời.Tổng số chiếc Alabama đã đốt cháy 65 chiếc tàu các loại của Liên bang miền Bắc, hầu hết trong số chúng là tàu buôn. Trong tất cả các tầu mà chiếc Alabama tấn công, hành khách và các thuỷ thủ đoàn không bao giờ bị sát hại, họ chỉ bị giam cho đến khi họ có thể được gửi lên một tàu trung lập hoặc được gửi lên bờ biển tại một cảng thân thiện hoặc trung lập.

Các chuyến tấn công viễn chinh của CSS Alabama

Con tầu CSS Alabama tiến hành tổng cộng bảy chuyến tấn công viễn chinh, trải rộng toàn cầu, trước khi quay trở lại Pháp để refit và sửa chữa và là một ngày cuối với số phận của nó:Chiếc CSS Alabama trong chuyến tấn công viễn chinh phía Đông Đại Tây Dương ( Tháng 8 - > 9 năm1862) bắt đầu ngay sau khi nó được ủy nhiệm. Nó ngay lập tức giưng buồm tiến vào con đường vận chuyển ở phía tây nam và phía đông của Azores, nơi nó chặn bắt và đốt cháy mười tầu của đối phương, chủ yếu là tàu săn cá voi.Chiếc CSS Alabama trong chuyến tấn công viễn chinh phía New England (Tháng 10 - > 11 năm 1862) bắt đầu sau khi Thuyền trưởng Semmes và thuỷ thủ đoàn của ông rời khỏi vùng duyên hải phía đông bắc của Bắc Mỹ, đi dọc theo bờ biển của Newfoundland và New England, và nó tiến xa về phía nam tới tận Bermuda và bờ biển Virginia, đốt cháy thêm mười tầu của đối phương trong khi bắt giữ và thả tự do ba chiếc khác.Chiếc CSS Alabama trong chuyến tấn công viễn chinh về phía Vịnh Mexico (Tháng 12 năm 1862 - th áng 1 năm 1863) nó tập trung vào một sự kết hợp cần thiết với tầu cung cấp của mình, chiếc CSS Agrippina. Sau đó, nó đã chi viện cho tiểu bang Texas trong cuộc xâm lược Major General Banks gần Galveston, Texas. Khi xuất hiện, nó nhanh chóng đánh chìm chiếc tầu chiến động cơ bánh xe hơi nước USS Hatteras.Chiếc CSS Alabama trong chuyến tấn công viễn chinh phía Nam Đại Tây Dương (Tháng hai - > tháng Bảy năm 1863) đây là chuyến viễn chinh thành công nhất của nó, hạ 29 tầu của Liên Bang miền Bắc trong khi phục kích ngoài khơi bờ biển Brazil. Ở đây, nó đã đổi tên chiếc tầu kiểu bark Conrad (bị bắt bởi chiếc Alabama ) thành chiếc CSS Tuscaloosa.Chiếc CSS Alabama trong chuyến tấn công viễn chinh ở Nam Phi (Tháng 8 - > 9 năm 1863) diễn ra chủ yếu là ở ngoài khơi bờ biển của Nam Phi, và nó cùng tiến hành tấn công với chiếc CSS Tuscaloosa.Chiếc CSS Alabama trong chuyến tấn công viễn chinh về phía Ấn Độ Dương ( Tháng 9 - > 11 năm 1863) là bao gồm một đoạn đường dài qua Ấn Độ Dương. Vài tầu của Liên bang bị nó thu thập chặn bắt ở Đông Ấn.Chiếc CSS Alabama trong chuyến tấn công viễn chinh về phía Nam Thái Bình Dương (Tháng 12 năm 1863) là chuyến tấn công viễn chinh cuối cùng của nó. Nó bắt đ ược vài tàu trong Eo biển Malacca cuối cùng trước khi quay trở lại về phía Pháp cho một tái trang cần thiết và sửa chữa dài hạn.Khi hoàn thành bảy cuộc tấn viễn chinh của mình, Alabama đã ở trên biển khoảng 534 ngày trong số 657 ngày, không bao giờ nó ghé thăm vào một cảng nào của Hợp Bang. Nó đã tấn công và phục kích khoảng 450 tàu, bắt giữ hoặc đốt cháy 65 tầu buôn của Liên Bang , và đã cầm tù hơn 2.000 tù nhân mà không bị mất hoặc bị bắt tù binh một người trong thuỷ thủ đoàn của nó.

Chuyến hành trình cuối cùng

Ngày 11 Tháng Sáu 1864, Alabama đến cảng Cherbourg, Pháp. Thuyền trưởng Semmes xin phép để được lên một ụ tầu cạn và đại tu tàu của mình, đây là một việc rất cần thiết sau một thời gian dài trên biển và tham gia vào quá nhiều các hoạt động hải quân. Theo đuổi con tầu này, chiếc thông báo hạm Mỹ USS Kearsarge, dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng John Winslow, đến nơi ba ngày sau đó và đã chốt ngay bên ngoài cảng. Trong khi đang chốt ở cửa cảng, Winslow đã gửi điện tín đến Gibraltar nơi chiếc chiến hạm lớp man-o-war USS St Louis đang cập bến với yêu cầu cung cấp sự trợ giúp cho việc phong toả. Chiếc Kearsarge bây giờ đã giam chân chiếc Alabama vào một nơi mà nó không thể bỏ chạy.Không muốn nhìn thấy con tàu của mình mục nát tại một ụ tầu Pháp trong chiến dich săn lùng của các tàu chiến của Liên Bang, và với bản năng hiếu chiến của mình cũng như mong muốn tổ chức lâu dài để một lần nữa thu hút đối phương của mình, thuyền trưởng Semmes đã chọn để ứng chiến. Sau khi chuẩn bị tàu của mình và khoan thuỷ thủ đoàn cho trận đánh trong vài ngày tới, Semmes tung tin, thông qua các kênh ngoại giao, một thách thức nặng nề đển chỉ huy của chiếc USS Kearsarge, "ý định của tôi là chống lại chiếc Kearsarge ngay sau khi tôi có thể thực hiện những sắp xếp cần thiết. Tôi hy vọng rằng ngài (John Winslow thuyền trưởng chiếc USS Kearsarge) sẽ không ngăn cản tôi nhiều hơn cho đến mai hoặc buổi sáng mai hoặc lâu hơn nữa. tôi xin ngài đừng bỏ đi cho đến khi tôi sẵn sàng để tiến ra ngoài. Tôi vinh dự được đầy tớ biết vâng lời của ngài, R. SEMMES, Thuyền trưởng. "Trong ngày 19 tháng 6, chiếc Alabama giương buồn ra khơi để đối mặt với chiếc tàu tuần dương của Liên bang. Chiếc Kearsarge cũng quay lại để đ ối mặt với đối thủ của nó, chiếc Alabama nổ súng. Chiếc Kearsarge kiên nhẫn chờ cho đến khi phạm vi gần đến dưới 1.000 yards (900 m). Theo những người sống sót, hai tàu cơ động theo hai hướng đối diện trong bảy vòng xoắn trôn ốc, di chuyển về phía tây nam với tốc độ hiện hành 3-knot, mỗi vị chỉ huy cố gắng vượt qua mũi tầu của đối thủ để nổ một loạt súng raking hạng nặng. Trận đánh nhanh chóng quay lưng lại với chiếc Alabama do sự chiếm ưu thế về thuật súng biểu hiện bằng việc chiếc Kearsarge và trạng thái xấu đi của bột thuốc súng và ngòi đạn của chiếc Alabama bị hỏng. Phát đạn quan trọng nhất của nó, bắn từ khẩu súng dài Blakely pivot phía trước 7-inch (178 mm), bắn ở khoảng cách gần dễ làm tổn thương phần cột trụ của chiếc Kearsarge, và làm ảnh hưởng nặng nề đến bánh lái của con tàu. Tuy nhiên phát đạn của khẩu súng dài lại không phát nổ. Nếu nó phát nổ , nó sẽ gây nên một vết thương nghiêm trọng cho chiếc Kearsarge, thậm chí có thể chìm chiếc tàu chiến này, và kết thúc trận đánh. Ngoài ra, tốc độ bắn quá nhanh chóng của chiếc Alabama trong trường hợp thuật bắn thường xuyên nghèo nàn, làm những phát đạn của nó bay quá cao, do đó đóng dấu vào số phận của con tầu đột kích của Hợp bang . Kết quả, chiếc Kearsarge được hưởng lợi ít nhiều ngay từ các chuỗi giáp bảo vệ sườn phía dưới của nó, những thuỷ thủ của Semmes có tham gia trận đánh, sau đó đã nói rằng họ không biết về điều này tại thời điểm quyết định đến việc thách thức cho trận đánh . Thực tế, trong những năm tiếp sau đó, Semmes tuyên bố chắc như đinh đóng cột rằng ông sẽ không bao giờ chiến đấu với chiếc Kearsarge nếu ông được biết nó là loại thiết giáp.Phần giáp thân này được lắp đặt chỉ trong ba ngày, cách đó hơn một năm, khi chiếc Kearsarge đỗ tại cảng tại Azores. Các tấm bọc thép được làm bằng cách sử dụng 120 fathom sắt dài (720 feet) và dầy 1,7inch (43 mm) liên kết thành một chuỗi duy nhất để bảo vệ chiếc thân tàu dài 49 feet (15 m), dày 6inch (152 mm) và cao 6foot, 2inch . Nó đã được bắt bu lông và được bảo vệ bằng với các móng ngoạm bằng sắt (Iron dogs). Nó (lớp thiết giáp) đã được giấu phía sau 1-inch, được sơn màu đen để phù hợp với màu của thân tầu. Lớp bọc thép này đã được đặt dọc theo mạn trái và phần giữa mạn phải xuống đến mực nước của chiếc Kearsarge, để bổ sung sự bảo vệ cho bộ phận động cơ và nồi hơi của con tầu trong khi phần phía trên khoang chứa than đá lại không được bảo vệ. Điều này làm vỏ đai giáp bị trúng đạn hai lần trong thời gian chiến đấu, phát đạn đầu tiên ở mạn phải từ một trong các khẩu 32 pound của chiếc Alabama, đã cắt lớp giáp chuỗi, xuyên qua phần thân xườn bên dưới, sau đó lại một phát 32 pound thứ hai nổ và đã phá vỡ liên kết của chuỗi áo giáp, phá đi một phần bên ngoài của deal-board. Nếu những phát đạn bắn từ khẩu súng trục quay Blakely 100 pound của chiếc Alabama, kết quả có khả năng sẽ không quá nghiêm trọng như vậy, cả hai phát đạn đều đập vào các giáp chuỗi ở chỗ cao hơn năm feet so với mực nước. Thậm chí nếu cả hai phát đạn xuyên được vào cạnh sườn của chiếc Kearsarge, nó sẽ hoàn toàn làm hỏng máy móc thiết yếu của con tầu.Chỉ hơn một giờ sau khi bắn phát súng đầu tiên, chiếc Alabama đã bị đánh chìm bởi khẩu pháo đầy uy lực 11-inch (280 mm) của chiếc Kearsarge, buộc thuyền trưởng Semmes phải vẫy cờ xin đầu hàng và gửi một trong hai chiếc xuồng cứu sinh còn sống sót đến chỗ chiếc Kearsarge để xin trợ giúp. Theo các nhân chứng, chiếc Alabama bắn 370 viên đạn vào kẻ thù của mình, trung bình một phát / phút / khẩu, trong khi khẩu đội của chiếc Kearsarge chỉ bắn cùng lắm là bằng một nửa, nhưng họ ngắm mục tiêu cẩn thận hơn. Trong một sự nhầm lẫn của trận đánh, năm phát đạn tiếp tục được bắn vào chiếc Alabama sau khi nó đã giương cờ xin đầu hàng. Sau đó một lá cờ trắng được phất lên từ phần đuôi của chiếc Alabama, cuối cùng đã chấm dứt được trận đánh. Trước đó, bánh lái của nó đã bị hỏng bởi đạn pháo, nhưng phát đạn chết người lại đến sau đó, khi một trong các phát đạn của khẩu 11inch (280 mm) của chiếc Kearsarge làm vỡ toang phần giữa của mạn phải dưới mực nước của chiếc Alabama. Nước nhanh chóng ùa vào chiếc tuần dương bị bại trận, và cuối cùng dìm chết nồi hơi của nó và làm nó bị chìm phần đuôi xuống phía dưới. Chiếc Kearsarge đã cứu được đa số những người sống sót, nhưng 41 sỹ quan và thủy thủ đoàn của chiếc Alabama, gồm cả Semmes, đã được cứu bởi chiếc Deerhound, Một du thuyền tư nhân, trong khi chiếc Kearsarge lảng ra xa để phục hồi chiếc xuồng cứu hộ của mình và chờ đợi chiếc Alabama chìm. Thuyền trưởng Winslow buộc phải đứng ngoài và giương mắt nhìn chiếc Deerhound chạy đến Anh và mang đi rất nhiều kẻ thù của mình, gồm cả thuyền trưởng Semmes và các thủy thủ còn sống sót.

Huy chương và vinh dự được trao cho lòng dũng cảm

Có lẽ hầu hết các hành động dũng cảm và vị tha trong giây phút cuối cùng của chiếc Alabama là các hành động của bác sĩ trợ lý phẫu thuật của con tàu, tiến sĩ David Herbert Llewellyn. Tiến sĩ Llewellyn, một người Briton, đã nhận được nhiều sự yêu mến và kính trọng của toàn bộ phi hành đoàn. Trong trận chiến, ông vẫn tiếp tục làm việc của mình ở những nơi có chiến sự để chăm sóc những người bị thương cho đến khi mệnh lệnh rời bỏ con tàu cuối cùng được ban bố. Ông đã cố gắng giúp để đưa những người bị thương lên hai chiếc lifeboat của chiếc Alabama, khi một thủy thủ cố gắng leo vào một chiếc lifeboat đã chật ních. Llewellyn hiểu rằng người kia có thể làm lật thuyền, ông nắm lấy anh ta kéo trở lại, và nói rằng "Hãy xem, tôi cũng muốn cứu cuộc sống của tôi cũng như bạn, nhưng hãy để cho những người bị thương được xuống đầu tiên." Một sỹ quan trên chiếc xuồng cứu sinh nhìn thấy rằng Llewellyn bị để còn lại trên tàu đắm liền hét lên "Bác sĩ, chúng tôi có thể chừa được chỗ dành cho ngài." Llewellyn lắc đầu và trả lời, "Tôi không muốn làm nguy hiểm những người bị thương." Llewellyn chưa bao giờ được học bơi, và ông đã chết đuối khi con tàu chìm hẳn.Sự hy sinh của ông không thể không được công nhận. Hợp bang miền Nam Hoa kỳ đã trao truy ông huân chương Southern Cross of Honor. Tại bản quán của mình ở Wiltshire, một tấm bảng lưu niệm được đặt ở nhà thờ Hoàng gia Easton . Một tấm bảng khác đã được đặt trong Bệnh viện Charing Cross, nơi ông học từng theo học nghề y.

Ảnh hưởng của chiếc Alabama

Trong thời gian của hai năm sự nghiệp hoạt động một tầu chuyên phục kích các tầu buôn, Alabama gây ra rối loạn và tàn phá trên toàn cầu công việc buôn bán và vận chuyển thương mại của Liên bang miền Bắc. Chiếc tuần dương hạm của Hợp bang tuyên bố đã chiếm được 65 tầu chiến lợi phẩm có giá trị xấp xỉ $ 6.000.000 (khoảng $ 123.000.000 ngày nay). Trong theo sự phát triển quan trọng của luật pháp quốc tế, Chính phủ Mỹ theo đuổi vụ " Cáo kiện Alabama "Chống lại Chính phủ Anh vì sự tàn phá gây ra bởi chiếc Alabama

Thăm dò khoa học xác con tầu Alabama

Trong tháng Mười Một 1984, chiếc tầu vớt mìn Circé của Hải quân Pháp phát hiện một xác tầu dài gần 60 m (200 ft) ở gần cảng Cherbourg.Vị trí của xác con tàu đắm là (WGS84) 49 ° 45M147N / 001 ° 41S708W. Thuyền trưởng Max Guerout sau đó xác nhận rằng đó chính là xác con tầu Alabama.Trong năm 1988, một tổ chức phi lợi nhuận có tên Hiệp hội CSS Alabama được thành lập để tiến hành thăm dò khoa học con tàu đắm. Mặc dù nó nằm trong lãnh thổ nước Pháp, chính phủ Mỹ với tư cách là kế thừa của Hợp bang miền Nam, là chủ sở hữu, Ngày 03 Tháng 10 Năm 1989, Hoa Kỳ và Pháp ký kết thỏa thuận công nhận rằng xác con tầu là một di sản quan trọng của cả hai quốc gia và thiết lập một Uỷ ban khoa học liên hợp Pháp- Mỹ về thăm dò khảo cổ học. Thỏa thuận này lập một tiền lệ cho các hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khảo cổ học và trong việc bảo vệ của một con tàu đắm duy nhất trong lịch sử. Thỏa thuận này có hiệu lực trong năm năm và được tái hiệu lực bởi sự đồng thuận bởi cả hai bên.Hiệp hội CSS Alabama và Trung tâm lịch sử Hải quân/ Hải quân Hoa kỳ đã ký một thoả thuận ngày 23 Tháng Ba 1995 công nhận chính thức rằng Hiệp hội CSS Alabama là nhà điều hành của các điều tra khảo cổ của xác con tàu. Hiệp hội CSS Alabama, chỉ được tài trợ từ các khoản đóng góp tư nhân, đang tiếp tục thực hiện dự án quốc tế này qua các quỹ đóng góp ở Pháp và Hoa Kỳ.Trong 2002, một đoàn thám hiểm đã đưa lên được chiếc chuông của con tầu cùng với hơn 300 hiện vật khác, bao gồm các khẩu pháo, mẫu cấu trúc, đồ ăn, bô tiểu tiện, và nhiều đồ dùng khác mà chúng có khả năng hé lộ nhiều điều về cuộc sống trên chiếc tàu chiến của Hợp bang Ly khai miền Nam Hoa kỳ.

Chiếc pháo hạm bọc thép CSS Albemarle - con quái vật trên sông Roanoke

Sự nghiệp

Tên: CSS Albemarle

Ra lệnh: Ngày 16 Tháng 4 1862

Đặt lườn: Tháng 1 1863

Hoạt động: 17 Tháng 4 năm 1864

Số phận: Bị đánh chìm bởi ngư lôi Spar

Đặc điểm chung

Trọng lượng rẽ nước: 376 tấn

Chiều dài: 158 ft (48 m)

Beam: 35,4 ft (10,8 m)

Tầm nước: 9 ft (2,7 m)

Tốc độ: 4 knot

Bổ sung: 150 sỹ quan và thủy thủ

Vũ khí: hai súng Brooke 6,4 inch (160 mm)

CSS Albemarle là một chiếc tầu lớp ironclad ram của Hải quân Hợp bang miền Nam (và sau này là chiếc Albemarle của Hải quân Hoa Kỳ), nó được đặt tên cho một thị trấn, một eo biển ở Bắc Carolina và một quận ở Virginia. Tất cả ba địa điểm đã được đặt tên cho Tướng George Monck, người đầu tiên trở thành Công tước của Albemarle và một trong những chúa đất có gốc gác từ Carolina.

Đóng tầu

Vào ngày 16 tháng 4 năm 1862, Cục Hải quân của Hợp bang, đang tràn trề hy vọng về tiềm năng tấn công kích của tầu bọc thép có ram sau chiến thắng của chiếc ironclad CSS Virginia (đóng trên nền tảng chiếc USS Merrimack) với tầu vỏ gỗ của Liên Bang miền Bắc trong cuộc phong toả Hampton Roads, Virginia, (Cục HQ ) đã ký hợp đồng với Trung úy Gilbert Elliott của Hợp bang từ Elizabeth City, Bắc Carolina, để giám sát việc đóng pháo hạm này để dọn sạch các tàu chiến Liên Bang tại eo biển Bắc Carolina. Những tầu chiến lớp man-of-war đã cho phép Liên bang giữ các vị trí chiến lược trong việc kiểm soát phía Đông Bắc Carolina.Kể từ khi nhận được các điều khoản của thỏa thuận này Elliott tự do chọn lựa một nơi thích hợp để đóng chiếc tầu ram ( có phần mũi nhọn ở dưới mặt nước để húc tầu đối phương), ông thành lập một nhà máy đóng tàu thô sơ, với sự hỗ trợ của một chủ đồn điền trồng rừng tên là Peter Smith, trong một khúc sông Roanoke tại một nơi được gọi là Ferry Edward, gần thành phố hiện nay là Scotland Neck, Bắc Carolina. Smith đã được bổ nhiệm làm giám đốc xây dựng. Hiện lúc đó, mực nước đã quá cạn để cho phép Liên bang dùng pháo hạm để tiếp cận và không thể phá hủy chiếc tầu lớp ironclad đang được đóng dở của Hợp bang . Sử dụng kiến trúc phác thảo cung cấp bởi Elliott, kiến trúc sư trưởng của Hải quân Hợp bang miền Nam John L. Porter đã hoàn thiện thiết kế của chiếc pháo hạm, với một mũi ram và các ổ súng bọc giáp ở tám bên cạnh. Con tầu thực chất là một bunker dày với hai khẩu súng trường Brooke pivot 6,4-inch (160 mm), một khẩu ở phía trước, một khẩu khác ở phía sau, mỗi khẩu có khả năng bắn súng từ ba cổng súng cố định. Cả hai khẩu pháo được bảo vệ từ tất cả các phía bởi sáu cửa chớp bọc sắt nặng mở ra phía ngoài. Con tầu này được đẩy bởi hai động cơ, 3-cánh quạt chân vịt bằng đồng và được cung cấp năng lượng bởi hai động cơ hơi nước, mỗi chiếc có 200 hp mã lực (150 kW), và được đóng bởi Elliott.Việc đóng con tàu lớp ironclad bắt đầu vào tháng 1 năm 1863 và tiếp tục trong năm tiếp theo. Thông tin v ề chiếc pháo hạm đến được tai c ủa các sĩ quan hải quân Liên bang đóng trong khu vực, và nâng cao mức báo động. Họ kêu gọi Cục Chiến tranh tổ chức một chiến dịch tấn công bằng đường bộ để tiêu diệt con tàu thiết giáp, trước khi người ta làm lễ rửa tội và hạ thủy chiếc Albemarle, nhưng quân đội Liên bang quân không bao giờ nghĩ rằng họ có đủ quân dự trữ cần thiết để thực hiện một chiến dịch như vậy. Đó là một quyết định mà sau này có thể được chứng minh là có tầm nhìn rất ngắn.

Các trận chiến trên sông Roanoke

Tháng tư năm 1864, , con tầu vừa mới được đặt tên USS Albemarle, dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng James W. Cooke, đang tiến xuống hạ lưu con sông về hướng phía Plymouth, North Carolina. Nhiệm vụ của nó là dọn dẹp tất cả các tầu chiến của Liên bang đang đóng trong con sông để quân của t ướng Robert F. Hoke có thể tấn công các pháo đài nằm ở đó. Nó thả neo khoảng ba dặm (5 km) phía trên thành phố (Plymouth), và viên hoa tiêu, John Lock, cùng với hai thỷ thủ dùng một chiếc thuyền nhỏ để dò độ sâu. Con sông đủ sâu và họ phát hiện mực nước ở trên mười feet so với các vật cản mà các lực lượng Liên bang đã đặt trong Gap Thoroughfare. Thuyền trưởng Cooke ngay lập tức ra lệnh tiến lên bằng cách đi vào giữa con kênh, họ đã đi qua các vật cản một cách an toàn. Các tấm giáp ironclad bảo vệ họ từ súng của Liên bang tại pháo đài cổ Warren và Boyles Mill.Tuy nhiên, hai tầu bánh xe hơi nước chiếc USS Miami và USS Southfield, được buộc dây cùng với ngư lôi và các chuỗi xích, tiếp cận từ phía thượng nguồn con sông, cố gắng vượt qua từ hai bên chiếc Albemarle để bẫy nó vào giữa chúng. Thuyền trưởng Cooke quay sang mạn phải chạy gần với bờ biển phía nam một cách liều lĩnh, và đã đi ra ngoài tầm chiếc USS Southfield. Quay trở lại vào con sông này, nó đâm vào cạnh có bánh xe của con tầu của Liên bang, dìm nó (chiếc USS Southfield) xuống. Ram của chiếc Albemarle trở nên bị mắc kẹt trong thân của chiếc Southfield và mũi tầu của nó (chiếc Albemarle) cũng bị kéo theo. Khi chiếc Southfield chìm, nó lộn một vòng trước khi chìm hẳn xuống dưới lòng sông. Hành động này đã thả lỏng sự lôi quấn chết người và tạo điều kiện giải thoát cho con tầu mới của Hợp bang.Chiếc Miami bắn một phát đạn vào chiếc Albemarle tại điểm trống tầm xa khi nó (chiếc Albemarle) bị mắc kẹt vào xác của chiếc Southfield, Nhưng phát đạn bị văng đi do độ dốc của giáp của chiếc Albemarles và phát nổ ngược vào chiếc Miami, giết chết viên chỉ huy của nó, thuyền trưởng Charles W. Flusser. Thuỷ thủ đoàn của chiếc Miami đã cố gắng đổ bộ lên boong của chiếc Albemarle để bắt sống nó nhưng nhanh chóng phải chạy ngược trở lại bởi hoả lực súng hỏa mai bắn quá rát. Chiếc Miami sau đó quay đầu bỏ chạy khỏi trận đánh với chiếc ironclad và chạy thoát vào Albemarle Sound.Với dòng sông bây giờ đã được don sạch bóng các tàu của Liên bang, và với sự trợ giúp của khẩu pháo nòng dài của chiếc Albemarle, tướng Hoke tấn công và chiếm được Plymouth cùng các pháo đài ở gần đó.Vào ngày 5 tháng 5, chiếc CSS Albemarle và CSS Bombshell, một tàu hơi bị bắt và được tái sử dụng, đã hộ tống chiếc tầu chở quân CSS Cotton Plant xuống hạ nguồn sông Roanoke. Họ gặp bốn chiếc tàu chiến của Liên Bang, đó là tàu USS Miami, bây giờ được hỗ trợ bởi các chiếc USS Mattabesett, USS Sassacus, và USS Wyalusing. Tất cả bốn tàu kết hợp lại có hơn 60 đại bác.Albemarle nổ phát súng đầu tiên, làm bị thương sáu pháo thủ của một trong hai khẩu súng Parrott 100 pounds của chiếc Mattabesett, và sau đó cố gắng ram nó, nhưng bánh xe ở mạn tầu ( của chiếc Mattabesett) lại làm cản trở mũi của chiếc bọc thép lớp ironclad. Nó (chiếc Albemarle) đã bị theo sau với tầm rất gần bởi chiếc Sassacus, và sau đó ( chiếc USS Sassacus) bắn một loạt pháo mạn loại 9inch (229 mm) và với đạn loại 100 pound, tất cả đều bị văng đi bởi giáp của chiếc Albemarle. Tuy nhiên, chiếc CSS Bombshell lại là một mục tiêu nhẹ ký, và thân của con tầu này bị chúng nhiều loạt pháo mạn hạng nặng từ chiếc USS Sassucus và nhanh chóng bị chiếm bởi lực lượng Liên bang, sau khi nó (chiếc CSS Bombshell ) đầu hàng.Trung úy chỉ huy Francis Asbury Roe của chiếc USS Sassucus, Thấy chiếc CSS Albemarle ở một phạm vi khoảng 400 yards (370 m), đã quyết định ram. Chiếc tàu của Liên bang tấn công vào chiếc ironclad (chiếc Albemarle) của miền Nam với đầy đủ góc vuông, nổ pháo mạn, làm vỡ chiếc mũi tầu bằng gỗ của nó, làm cho mũi ram bọc đồng của nó bị xoắn lại, và làm kẹt hai con tàu lại với nhau. Thân của chiếc USS Sassucus gần như chạm vào cuối khẩu súng trường Brooke của chiếc CSS Albemarle, nó nhanh chóng bắn hai phát đạn, một trong số đó làm thủng nồi hơi của Sassucus. Tuy vậy động cơ hơi nước vẫn còn hoạt động, nó vẫn có thể phá ra và trôi dạt ra xa. Chiếc Miami đầu tiên đã cố gắng sử dụng ngư lôi spar và sau đó cố gắng làm rối chiếc bánh lái bằng đồng của con tầu của Hợp bang với một chiếc lưới đánh cá, nhưng mưu mẹo này đã không thành công. Hơn 500 phát đạn đã bắn vào chiếc CSS Albemarle trong trận chiến, nhưng nó vẫn bơi ngược sông Roanoke và thả neo ngay tại Plymouth ( đọc đến đây mới thấu hiểu sự lúng túng của các cụ nhà ta thời Pháp xâm lược Đà Nẵng, bắn hàng trăm phát đạn đại bác vào tầu quân giặc mà nó không chìm).

Bị đánh chìm

Chiếc CSS Albemarle thành công trong việc chiếm ưu thế tại sông Roanoke và thoải mái ra vào thành phố Plymouth qua mùa hè năm 1864. Vào mùa thu, chính phủ Hoa Kỳ đã quyết định rằng tình trạng này cần được nghiên cứu để xác định xem có thể làm được cái gì (để ngăn chặn con quái vật bọc thép của miền Nam). Hải quân Liên bang xem xét nhiều cách khác nhau để tiêu diệt chiếc CSS Albemarle, bao gồm cả hai phương án được gửi bởi Trung William B. Cushing. Họ cuối cùng đã chấp thuận một kế hoạch của ông, cho phép ông ta để định vị hai con tầu hơi nước nhỏ có thể dùng để trang bị spar ngư lôi. Cushing tìm thấy hai con tầu picket 30-foot (9,1 m) này tại New York và mua chúng cho sứ mệnh của mình (một số ghi chép có nói chúng dài từ 45 feet (14 m) đến 47-feet). Trên mỗi chiếc ông gắn kết một quả Dahlgren howitzer 12-pound và một spar 14-foot (4,3 m) hướng vào trong nước từ mũi tầu của nó. Một trong những chiếc thuyền này đã bị mất khi đi trên biển trong chuyến đi từ New York đến Norfolk, Virginia, Nhưng chiếc khác với thuỷ thủ đoàn gồm bảy sỹ quan và thuỷ thủ đã đến sửa sông Roanoke an toàn. Như vậy ông ta có một tầu hơi nước nhỏ mang ngư lôi spar được trang bị một dây nổ kích ngư lôi.Vào đêm ngày 27 tháng 10 và 28, 1864, Cushing và nhóm của ông bắt đầu làm việc theo cách của họ. Một canô nhỏ đi hộ tống họ, Thuỷ thủ đoàn của nó có nhiệm vụ ngăn chặn sự can thiệp của lính gác của Hợp bang đóng trên một chiếc schooner neo vào cái xác bị đắm của chiếc "Southfield." Cả hai chiếc thuyền, dưới sự che phủ của bóng tối, trượt qua chiếc schooner mà không bị phát hiện. Vì vậy, Cushing quyết định sử dụng tất cả 22 của người của mình và các yếu tố bất ngờ để tiêu diệt chiếc CSS Albemarle.Khi họ tiếp cận các bến cảng của Liên minh, may mắn đã quay lại với họ khi họ bị phát hiện trong bóng tối. Họ đã bị bắn bằng pháo hạng nặng từ bờ biển và cả từ chiếc Albemarle. Khi họ đóng cửa với Albemarle, Họ nhanh chóng phát hiện ra nó được bảo vệ chống sự tiếp cận của đối phương bằng các hàng rào gỗ nổi. Tuy nhiên các khúc gỗ đã bị ngâm trong nước nhiều tháng và bị che phủ bằng những chất nhờn nặng. Không mấy khó khăn cho chiếc tầu ngư lôi hơi nước vượt qua nó. Khi quả ngư lôi spar của nó (chiếc tầu ngư lôi) đã hoàn toàn đâm vào thân của chiếc tầu ironclad (chiếc CSS Albemarle), Cushing đứng lên trong mũi tầu và kích nổ khối thuốc nổ của ngư lôi.Vụ nổ đã ném tất cả mọi người vào trong nước. Cushing cởi áo quân phục của ông ta ra và bơi vào bờ, nơi ông trốn cho đến khi có ánh sáng ban ngày. Vào buổi chiều, ông lấy trộm một chiếc thuyền skiff nhỏ và chèo xuống hạ lưu con sông để tái gia nhập lực lượng Liên bang tại cửa sông. Trong số những người khác trong thuyền của Cushing, một chạy thoát, hai bị chết đuối, và mười một bị bắt.Cuộc đột kích táo bạo của Cushing đã tạo một lỗ ở thân của chiếc Albemarle ở dưới mực nước "đủ lớn để cho một chiếc xe goòng vào trong" nó bị chìm ngay lập tức trong sáu feet nước dưới đáy của nó, và ngập ngụa trong bùn lầy chỉ còn để lại phần khô chủ yếu là những ô súng ở phía trên và bảng hiệu lớn Stainless Banner của con tàu vẫn còn lá cờ bay trên cán của nó. Chỉ huy Alexander F. Warley, người đã được bổ nhiệm làm thuyền trưởng của nó vào khoảng một tháng trước đó, sau đó cho vớt súng Brooke và đạn của chiếc Albemarle và sử dụng chúng để bảo vệ Plymouth chống lại các cuộc tấn công của Liên bang khi nó xảy ra.Nỗ lực thành công của Trung úy Cushing trong việc loại khỏi vòng chiến chiếc CSS Albemarle đã nhận được huy chương vinh dự Battle star của Hải quân Liên bang cho chiến dịch streamer trong thời kỳ nội chiến.

Trục vớt và tham gia phục vụ lần cuối cùng

Sau sự thất thủ của thành phố Plymouth ( của Hợp bang miền Nam), Hải quân Hoa Kỳ sau đó đã tìm cách trục vớt con tầu này. Vào cuối cuộc chiến, chiếc pháo hạm của Liên bang USS Ceres đã kéo chiếc Albemarle đến Công xưởng Hải quân Norfolk Yard nơi nó nằm đến ngày 27 tháng tư năm 1865. Ngày 07 Tháng 6, lệnh sửa chữa thân của nó được ban hành, và nó đã được đưa vào ụ tàu ngay sau đó. Công việc này hoàn thành vào ngày 14 tháng 8 1865, nhưng một hai tuần sau đó, con tàu bị tịch thu bởi do Washington, D.C Prize Court. Bởi nếu Hải quân mua nó, nó sẽ có ít tác dụng nếu tiếp tục các hoạt động phục vụ quân sự tại Norfolk (có lẽ do chiến tranh đã sắp chấm dứt), nơi nó ở lại cho đến khi được bán tại cuộc bán đấu giá công khai ngày 15 Tháng 10 1867 cho J. Leonard N. và Công ty. Không có hồ sơ về sự nghiệp sau này của nó được tìm thấy, vì vậy đã có khả năng nó bị loại bỏ khỏi chiến đấu để tham gia các hoạt động cứu hộ. Một trong những khẩu pháo Brooke 6,4-inch (160 mm) của nó được trưng bày tại Tổng hành dinh của Chỉ huy Trưởng - Bộ tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ ở Đại Tây Dương tại căn cứ hải quân ở Norfolk, Virginia. Ống khói của nó cũng được trưng bày tại Bảo tàng Albemarle ở Elizabeth City, Bắc Carolina.

Chiếc tầu bọc thép CSS Arkansas

Sự nghiệp

Tên: CSS Arkansas

Bắt đầu đóng: 24 Tháng Tám 1861

Đặt lườn: Tháng 10 năm 1861

Ra mắt: Ngày 24 tháng 4 năm 1862

Số phận: Bị đánh chìm bởi thủy thủ đoàn của nó vào ngày 06 tháng tám 1862

Đặc điểm chung

Độ dãn nước: khoảng 800 tấn

Chiều dài: 165 ft (50 m)

Beam: 35 ft (11 m)

Draft: 11,5 ft (3,5 m)

Tốc độ: 8 knots

Thủy thủ đoàn: 232 sỹ quan và thủy thủ

Vũ khí:Tổng cộng là 10 khẩu súng (3 khẩu ở mỗi bên mạn, và 2 phía trước và 2 phía sau). Ram bằng thép tại mũi tầu

2 x 8 inc ( 203 mm) súng Columbiad tại cổng súng ở mũi tầu

2 x 6,4 inc (163 mm) súng Brooke Rifle tại cổng súng ở đuôi tầu

2 x 6,4 inc ( 163 mm) súng Brooke Rifle, 2 x 8 inc ( 203 mm) súng Dahlgren nòng trơn và 2 x 32 lb (15 kg) súng nòng trơn tại cổng súng ở các mạn tầu.

Thiết giáp:

Ổ súng: Bọc bằng sắt đường ray tầu hỏa trên các lớp gỗ.

Phòng hoa tiêu: bọc sắt dày 2 inc (51 mm).

Nóc tầu: Bọc sắt dày 1 inch (25 mm).

đuôi tầu: chỉ có nồi hơi bằng sắt

Chiếc CSS Arkansas là một tàu chiến lớp Ironclad của Hải quân miền Nam trong Nội chiến Hoa Kỳ. Phục vụ tại chiến trường miền Tây, con tàu chạy qua cả một hạm đội của Hải quân Liên bang tại thành phố Vicksburg, Mississippi, vào ngày 15 tháng bảy năm 1862, trong một trận đánh nổi tiếng, trong trận này nó đã gây thiệt hại cho đối phương nhiều hơn những gì nó phải nhận.

Đóng tầu

Khung sườn của con tầu được lắp đặt tại Memphis Tennessee, bởi J.T. Shirley trong tháng 10 năm 1861. Trong tháng 4 năm 1862, chiếc CSS Arkansas được tháo gỡ để sơ tán đến Greenwood, Mississippi trên sông Yazoo để ngăn chặn việc nó bị bắt giữ khi Memphis rơi vào tay Hải quân Liên bang. Con tàu chị em của nó, chiếc CSS Tennessee, đã phải bị đốt cháy trong xưởng đóng tầu vì nó đã không ở tình trạng gần hoàn thành đến mức để được đưa đi.Trong tháng 5 năm 1862 Thuyền trưởng (hoặc Đại úy) Isaac N. Brown của Hải quân Hợp bang miền Nam đã nhận được mệnh lệnh của Bộ Hải quân tại Vicksburg từ thành phố Richmond, Virginia, để đến Greenwood để đảm đương việc quản lý con tầu Arkansas. Mệnh lệnh tới ông là phải hoàn thành và trang bị cho con tàu. Khi thuyền trưởng Brown đến, ông chỉ thấy một lớp vỏ gỗ mà không có lớp thiết giáp, động cơ thì rời từng chi tiết, và súng thì chẳng có giá. Nguồn cung cấp sắt đường tầu, dự định để làm thiết giáp cho tàu, lại nằm ở phía dưới sông. Một nhiệm vụ phục hồi được ra lệnh, và lớp thiết giáp đã được kéo lên từ các đống bùn. Sau đó Thuyền trưởng Brown đã ra lệnh kéo chiếc Arkansas đến Yazoo City, nơi ông thúc ép thợ thủ công địa phương vào làm việc, và cũng nhận được sự hỗ trợ của 200 binh sĩ từ Lực lượng bộ binh của Hợp bang miền Nam như đội thợ đóng tầu. Sau năm tuần vất vả lao động dưới ánh mặt trời của mùa hè nóng nực, con tàu đã được hạ thủy xuống dòng sông (Yazoo). Cô đã có đầy đủ đồ trang bị, ngoại trừ giáp cong dự định bao quanh phần đuôi và phòng hoa tiêu. Nồi hơi plate đã bị mắc kẹt tại đoạn này (vì chắc không có đủ sắt để làm giáp)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro