Những truyện ngắn ngắn(cach mang)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tiêu đề: Những truyện ngắn ngắn

Chuyện một người đào ngũ

Người viết: Trần Kỳ Trung

23/04/2008

Truyện ngắn của Trần Kỳ Trung

Chiều ấy, đoàn địa chất của tôi nghỉ tạm ở một buôn heo hút của người dân tộc.

Tôi ngồi trên một tảng đá, cạnh con suối khoả nước kỳ cọ đôi chân, cốt lấy thư dãn sau một ngày trèo núi mệt nhọc.Từ bên kia có một đoàn người Thượng gùi bắp lội suối đi sang rất gần chỗ tôi ngồi, tiếng cười, tiếng nói râm ran. Bỗng !...có một người đàn ông tách khỏi đoàn người Thượng ấy, lội ào đến chỗ tôi, bất chấp nước bắn tung toé. Người đàn ông dân tộc nhìn tôi, reo to:

- Có phải anh Cường đấy không ?

Tôi ngẩn lên nhìn người đàn ông dân tộc vừa gọi tên mình, ngỡ ngàng, chưa biết tính sao ?Tại sao ở đây, một nơi heo hút tận cùng thế này, lại có một người dân tộc biết tên tôi? Hay là mình nghe nhầm? Nguời đàn ông dân tộc đó cứ nhìn chăm chăm vào tôi, ánh mắt lộ vẻ vui mừng, miệng không ngừng lắp bắp:

- Đúng anh Cường rồi! Anh có nhận ra tôi không ?

Tôi vẫn không trả lời, nhìn người đó nghi hoặc,Tôi không quen người đàn ông dân tộc này, người ở Buôn heo hút này tôi lại càng không quen vì nơi đây là lần đầu tiên đơn vị địa chất của tôi đặt chân đến. Nhưng sao người đàn ông dân tộc này biết tên tôi? Anh ta gần như không để ý đến sự ngạc nhiên của tôi, mà cứ cầm tay tôi lắc lắc :

- Anh không nhận ra tôi sao ? Tôi là y tá Phước, bên quân đội Việt nam Cộng Hoà, đã ra hàng bên anh ở núi Tà Lích đây. Lúc tôi bị các anh đem đi bắn, nghe lời anh Hảo, anh không bắn tôi, cho tôi trốn cùng anh Hảo.

- Trời! - Tôi thốt lên một tiếng, rồi lấy tay ôm chầm người đó. Cuộc gặp gỡ thật không ngờ.Trong sâu thẳm tâm khảm của tôi oội lên hình ảnh người anh thân thương, cho đến tận bây giờ, hơn hai chục năm tôi không biết tin, ngoài mấy chữ " Mất tích vì đào ngũ".

Chuyện " đào ngũ " của anh Hảo còn liên quan đến ông Tư Mẹo, trung đoàn trưởng, sau đó đến Phước, người hàng binh xưa kia, hiện đang đứng trước mặt tôi.

...Vào B(1), "Xuống đường" (2), tôi được phân công về trung đoàn hai linh tư, trung đoàn tăng cường của Miền. Tôi làm phòng địch vận kiêm luôn công việc ghi chép lời khai của tù, hàng binh cho Ban chỉ huy Trung đoàn. Người phụ trách tôi là anh Hảo. Trước khi đi bộ đội, anh Hảo là giáo viên dạy văn cấp ba, còn tôi mới là sinh viên năm thứ nhất, trường Đại học Mỏ - địa chất. Vì thế, hai anh em tôi chơi với nhau rất thân, anh Hảo hay chỉ bảo cho tôi điều hơn, lẽ thiệt trong cuộc sống. Những đêm hai anh em nằm mắc võng trong rừng tâm sự. Nhớ quê hương, lớp học, nhớ những lứa học sinh đã dạy dỗ...giọng anh Hảo buồn man mác." Không biết bao giờ mới được trở lại khung cảnh ấy ?"- Anh Hảo nói với tôi như thế. Còn tôi đăm đăm một nỗi nhớ giảng đường, bạn bè, những trang giáo trình và những con đường hào chằng chịt nơi sơ tán...

Chiến trường ngày càng lan rộng, ngày càng khốc liệt, người chết của hai bên mỗi ngày một nhiều hơn.Tù binh bên phía đối phương, kẻ ra hàng, kẻ bị chúng tôi bắt sống trong mỗi trận chiến đấu cũng thêm nhiều. Đối xử với tù binh, anh Hảo thường dùng tình người để cảm hoá. Có những lúc tôi với anh Hảo giải tù binh về trại.Trong đám tù binh có người đói, anh Hảo nhường cả nắm cơm ít ỏi của mình cho họ. Người tù binh nhận nắm cơm đó của anh Hảo, nét mặt cảm động lắm.

Tinh cách của anh Hảo như vậy, ngược hoàn toàn với tính cách của ông Tư Mẹo, Trung đoàn trưởng.Ông Tư Meo đánh giặc đến độ gần như cộc cằn.Trong ánh mắt của ông, khi nhìn đối phương, lúc nào cũng như có lửa, đỏ ngầu. Có lần ông nói với tôi: " Tau căm thù chúng nó đến tận xương tuỷ. Không bắt được tau, bọn lính nguỵ bắt vợ tau rồi chúng hãm hiếp cô ấy đến chết, còn con tau chúng mổ bụng lấy gan ăn...Với bọn tù binh, không cần phải nhân đạo với mấy thằng dã thú đó.".

Một lần chúng tôi bắt sống được một tù binh, khi tra hỏi, anh ta khai cũng là một sinh viên Văn khoa. Anh ta đã rất nhiêù lần trốn lính, nhưng không thoát. Bị bắt lại, cho vào quân trường và anh ta bị đẩy ra chiến trường, đánh nhau với chúng tôi. Giữa người tù binh này với anh Hảo, điều tôi ngạc nhiên là những cuộc trò chuyện của họ, mới đầu có sự e dè, nhưng càng về sau giữa hai người, gần như có một sự đồng điệu. Té ra người tù binh vốn là sinh viên Văn khoa thuộc rất nhiều thơ, kể cả thơ của Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận...

Qua những lần nói chuyện với nguời tù binh này, nét mặt anh Hảo hay đăm chiêu, suy nghĩ, rồi anh nằm trên võng thở dài... Những điều đó không qua được mắt ông Tư Mẹo, ông gọi tôi ra một chỗ nói nhỏ" " Dạo này tao thấy hình như tư tưởng thằng Hảo có vấn đề. Mày chú ý theo dõi, có gì báo cáo ngay cho tao biết để xử lý...".

Một thời gian sau,Trung đoàn của chúng tôi phải tham gia vào một trận đánh lớn.Trận đánh này, phải đảm bảo bí mật tuyệt đối. Qua hai ngày hành quân rất mệt nhọc, tôi và anh Hảo cùng đơn vị được nghỉ một ngày dưới chân núi Tà Lích, để ngày mai có sức hành quân tiếp, thì ở dưới tiểu đoàn đưa lên một hàng binh. Dáng anh ta tiều tuỵ, có lẽ do trốn trong rừng đã lâu. Bộ quần áo rằn ri khoác trên người anh ta rách nát, bẩn thỉu. Người lính hàng binh đó nói với tôi và anh Hảo :

-Em xin hàng mấy anh giải phóng Bắc Việt. Em tên là Phước, thuộc đơn vị KBC 1925, làm y tá...đánh nhau giữa hai bên thế này, em sợ quá đã đào ngũ. Mấy cấp chỉ huy cho lính lùng bắt em. Em đã trốn trong rừng gần một tuần rồi, em xin hàng các anh.

Chuyện Phước xin hàng với dáng người thế kia, rồi sau đó với kinh nghiệm tra hỏi tù binh của anh Hảo, chúng tôi khẳng định Phước sang bên tôi để đầu hàng không có ý định xấu. Nhưng đối với ông Tư Mẹo không thể có chuyện như vậy.Trong cuộc họp khẩn của ban chỉ huy Trung Đoàn ngay trưa hôm đó, dưới chân núi Tà Lích, ông Tư Mẹo có nhận xét :" Bây giờ bọn Nguỵ thả biệt kích, thám báo đầy rừng. Ai dám khẳng định với tôi, thằng hàng binh kia không phải là thám báo, biệt kích.?Còn chuyện này nữa, cuộc hành quân của chúng ta phải giữ bí mật tuyệt đối, chúng ta không có người áp giải tên hàng binh này về lại cứ...Chúng ta phải quyết định chuyện này ngay, không làm ảnh hưởng đến kế hoạch hành quân".

Thế là số phận của Phước đã được định đoạn, rất nhanh, rất gọn. Người thực hiện công việc ấy, ông Tư Mẹo lại giao cho tôi. Sau cuộc họp, buổi chiều, Ông Tư Mẹo gọi riêng tôi ra, nói nhỏ:" Ban chỉ huy trung đoàn đã nhất trí, tôi giao nhiệm vụ cho anh, anh dẫn ra tên hàng binh ra sau vách núi kia...anh xử lý ngay, phải giữ hết sức bí mật, không cho ai biết...".Tôi nghe lệnh của ông Tư Mẹo mà phát hoảng, sợ hãi thực sự.Tôi không đủ cam đảm để làm một chuyện như vậy.Cả một ngày tôi và Phước nói chuyện, tuy chưa nhiều nhưng cũng đã hiểu được nhau. Phước còn nói với tôi" " Sau này đất nước hoà bình, không đánh nhau nữa.Em mời anh giải phóng Cường về quê em chơi. Nhà em cạnh sông Thu Bồn, cảnh đẹp lắm...". Tôi đã nhận lời. Thế mà bây giờ lại phải làm một cái việc qúa " khủng khiếp". Thà đánh nhau giữa chiến trường, mọi việc dễ giải quyết, lúc đó việc giết nhau đâu có thể tính toán.Thấy tôi có vẻ chần chừ, ông Tư Mẹo nghiêm nét mặt:" Nếu đồng chí không làm việc này, chúng tôi sẽ kỷ luật." .Tôi hiểu, đã là mệnh lệnh của Ban chỉ huy Trung đoàn, dù mình không muốn, cũng phải chấp hành.

Tôi đến chỗ Phước ngồi mà trong đầu cố tìm ra một lối thoát cho tôi, cho Phước.Thực hiện lệnh của Ban chỉ huy Trung đoàn, tôi bí mật dẫn Phước đi ra sau một tảng đá to, cách chỗ đóng quân của đơn vị khá xa. Cố kếo dài thời gian, tôi lục trong túi xách của mình một phong lương khô Trung Quốc.Tôi đưa phong lương khô Trung Quốc cho Phước:

- Anh ăn đi !

Cầm phong lương khô Trung Quốc tôi đưa, ánh mắt Phước lộ vẻ cảm động, nói run run:

-Em cảm ơn anh giải phóng Cường! Em ăn xong, các anh dẫn em đi đâu ?

Tôi không dám nhìn Phước ăn bánh lương khô mà quay mặt đi chỗ khác, nói nhỏ:

- Ạn cứ ăn hết bánh luơng khô ấy, rồi tính sau.

Nghe tôi nói thế, tự nhiên Phước không ăn nữa, mắt nhìn vào khẩu AK tôi đang đeo trên người đựơc hạ nấc an toàn, rồi Phước ngồi thụp xuống lạy tôi như tế sao:

-Em lạy các anh! Các anh đừng bắn em...Em đã trốn trong rừng, nhịn đói, nhịn khát cả tuần nay rồi.Các anh cho em sống! Em van các anh.

Tôi nhìn Phước, thấy thương anh ta vô cùng:

- Anh bình tĩnh, tôi không bắn anh !

Phước vẫn khóc lóc thảm thiết:

-Các anh đưa em ra chỗ vắng như thế này là để bắn em thôi. Các anh cho em sống, em còn má và các em... Em có muốn đánh nhau đâu.

Nước mắt ràn rụa, cả người Phước run lẩy bẩy.

Chẳng lẽ để cho Phước chạy thoát rồi tôi bắn mấy phát súng giả như đã thực hiện xong nhiệm vụ!?? Không được, biết đâu ông Tư Mẹo cho người đi kiểm tra thì sao ? Kỷ luật chiến trường rất nghiêm khắc, chuyện ấy lộ ra, rất dễ tôi là người thế mạng...

Đang trong tình trạng " tiến thoái, lưỡng nan ", chợt nghe thấy tiếng động mạnh ở phía sau, tôi giật mình quay lại. Anh Hảo tay lăm lăm khẩu AK, anh bí mật đi theo tôi và Phước từ lúc nào, tôi không hay. Anh Hảo đến gần, nói với tôi:

- Anh đã biết quyết định của Ban chỉ huy Trung đoàn. Bây giờ em về lại chỗ đóng quân đi! Để anh ở lại với người hàng binh này.

- Chẳng lẽ anh ...-Tôi ngạc nhiên, làm sao anh Hảo có thể làm việc này thay tôi.

- Em cứ về - Giọng anh Hảo dứt khoát - Anh sẽ đi với người hàng binh.

- Anh nói sao ?- Gần như tôi không tin vào tai mình. Anh Hảo có ý định đào ngũ. Tôi định nói anh Hảo không nên làm một việc như vậy thì anh đã quay hẳn khẩu AK vào người tôi, nói rõ từng tiếng một:

- Cường không quay về, không nghe lời tôi.Tôi bắn !

Thấy thái độ anh Hảo như vậy, tôi sợ thực sự.Ngón trỏ của anh Hảo đã để vào cò súng. nấc an toàn đã hạ.Thái độ và giọng nói cương quyết của anh Hảo, tôi hiểu, chỉ cần tôi tiến thêm một bước, anh Hảo sẽ hành động.Tôi vội lùi lại, nhìn ra sau. Bốn bề vẫn yên tĩnh.Tôi quay lại nói vội với anh Hảo :

-Anh với người hàng binh phải đi thật nhanh. Nhanh lên! Em sợ bên mình phát hiện, sẽ đuổi theo...

Nghe vậy, ánh mắt anh Hảo dịu lại, hạ khẩu súng xuống.Tôi quay người toan chạy đi thì anh Hảo gọi giật lại:

- Em không thể trở về như thế này được đâu. Họ sẽ nghi ngờ. Phải làm thế này...

Anh Hảo kéo tôi vào một gốc cây, lấy một sợi dây dù anh hay mang theo, trói tôi lại. Sau đó anh lấy một chiếc khăn nhét vào miệng tôi.Anh nói giọng thương cảm:

- Anh không muốn làm thế này với em, nhưng cũng chẳng còn cách nào khác. Em phải chịu khó chờ đợi một chút. Ông Tư Mẹo và Ban chỉ huy Trung đoàn không thấy em về sẽ cho người đi tìm.Nếu họ hỏi em, em cứ trả lời:" Anh Hảo giải thoát cho hàng binh, bắt tôi trói lại...".Họ thấy có lý, không làm gì em đâu.

Tôi gật đầu, hiểu ý anh. Ánh mắt thương cảm của anh Hảo nhìn tôi một lúc lâu rồi anh kéo tay Phước, người hàng binh, ra hiệu cả hai cùng chạy trốn. Bóng hai người chỉ trong một chốc, đã khuất nhanh vào rừng sâu.

Tin anh Hảo đào ngũ cùng người hàng binh quả thực lúc ấy đã gây chấn động trong Ban chỉ huy Trung đoàn. Đầu tiên là tôi bị điều ngay xuống đơn vị trực tiếp chiến đấu.Ông Tư Mẹo cùng toàn bộ Ban chỉ huy Trung Đoàn nhận kỷ luật cảnh cáo của cấp trên.

Ngay lúc đó, trung đoàn của tôi phải thay đổi hướng hành quân, phương án tác chiến cũng định thay đổi.Nhưng trái với thông lệ, cuộc hành quân của trung đoàn chúng tôi đến vị trí tập kết vẫn an toàn. Phương án tác chiến, cấp trên yêu cầu Ban chỉ huy Trung đoàn vẫn giữ phương án cũ vì chưa có dấu hiệu bị lộ.

Như vậy anh Hảo và người hàng binh không chạy sang phía bên kia.Họ đi đâu ? Hay là cả hai người đã chết?

Những câu hỏi cứ ám ảnh mãi trong suy nghĩ của tôi.

Sau năm một chín bảy lăm, tôi được giải ngũ, trở về với đời thường, tiếp tục học nốt chương trình đại học đang dang dở.Những ngày sống trong không khí hoà bình, đoàn tụ với gia đình, tôi vẫn không nguôi ngoai nhớ đến anh Hảo, nhất là cuộc trốn chạy của anh với người hàng binh.

Tôi về thăm gia đình anh ở một miền quê trung du.Căn nhà lá xiêu vẹo nằm khuất trong một xóm nhỏ.Mẹ của anh Hảo lưng đã còng bởi sức nặng của thời gian, tóc bạc trắng hết, giọng nói có phần yếu ớt. Biết tôi cùng đơn vị với anh Hảo trước đây, mẹ khóc:

- Khổ lắm con ơi! Vì nhà có người đào ngũ theo địch nên bà con làng xóm có thương, họ cũng không dám đến thăm ban ngày, cứ lén lén, lút lút vì ai cũng sợ chính quyền nghi kỵ...Mẹ một thân, một mình, nó có thằng em lại bị chết bom ...Bây giờ không biết trông cậy vào ai...

Nhu vậy chuyện anh Hảo " đào ngũ " rồi mất tích, tin ấy đã về tới xóm nhỏ này.Tôi chỉ biết an ủi mẹ mà không vợi đi nỗi buồn. Biếu mẹ một gói quà nhỏ, tôi chào mẹ rồi đi ra .Mẹ tiễn tôi ra tận đầu xóm.Trước lúc chia tay với tôi, mẹ nói nghẹn ngào :

-Kể từ ngày giải phóng miền Nam đến giờ, chỉ có một mình con ở đơn vị thằng Hảo đến thăm mẹ.Thôi, phận mẹ khổ như thế này cũng cam chịu, mẹ chỉ thương cho thằng Hảo.Chẳng hiểu sao mẹ vẫn chưa tin nó chết. Đêm nào mẹ cũng mơ thấy nó về thôi. Nếu con vào được miền nam, cố tìm nó hộ mẹ...

Tôi cầm tay mẹ, gật đầu hứa sẽ tìm anh Hảo cho mẹ. Hứa với mẹ như thế nhưng thực tế cả đất nước rộng mênh mông đến tìm mộ liệt sỹ có khi còn khó huống hồ lại tìm một người " đào ngũ" rồi "mất tích".

Có ai ngờ !

...Tối ấy, cạnh một đống lửa lớn ở nhà Rông của đồng bào dân tộc, tôi được Phước giới thiệu với mọi người, tôi là bạn cũ của anh Hảo. Nghe vậy mọi người ngồi quanh đều lộ vẻ vui mừng. Tình cảm đó làm tôi ngỡ ngàng, không hiểu sao biết tôi quen anh Hảo mọi người lại lộ vẻ cảm động như vậy? Phước đã có gia đình, vợ là người dân tộc của Buôn này. Phước cùng mọi người kể tiếp cho tôi nghe câu chuyện về anh Hảo cùng Phước trốn dạo ấy:

"...Sau khi trói anh vào cây, anh Hảo dẫn tôi chạy.Chúng tôi chỉ lo mọi người giải thoát cho anh rồi đuổi theo hai chúng tôi, nên hai chúng tôi cố chạy thật nhanh, chạy quên cả mệt ,cả đói. Mới đầu tôi cũng hơi nghi ngại, chẳng gì đã ra hàng các anh mà các anh vẫn tìm cách bắn tôi. Dường như anh Hảo hiểu suy nghĩ đó của tôi: " Anh đừng sợ ! Tôi muốn cứu sống anh ...".Chạy càng xa, cũng những lúc vượt suối, lách cây, băng rừng mọi nỗi nghi ngờ trong tôi dần tan đi.Và tôi khẳng định: Anh Hảo là người tốt, muốn cứu sống tôi thật.

Tuy nhiên, thoát khỏi các anh nhưng tôi và anh Hảo chưa biết nên về đâu? Về phía tôi thì không được, tôi đã quá sợ sự tàn ác cùa bên tôi đối xử với mấy thằng đào ngũ. Hơn nữa, anh Hảo nói với tôi:" Tôi không phải là thằng phản bội anh em mình ".

Nói thế nhưng ai hiểu cho chúng tôi, ở bên nào cũng là " đào ngũ " cả. Chúng tôi lại tiếp tục len lỏi trong rừng, tìm hướng đi bằng những vết chân thú. Có lần qua một con suối lớn, chính anh Hảo cứu tôi khỏi chết đuối. Một lần anh Hảo bị sốt rét, tôi lại cứu anh ấy bằng lá thuốc của rừng.Chúng tôi sống khổ gần như cuộc sống của người rừng, quần áo rách hết phải lấy vỏ cây rừng che tạm.Tình thương của hai anh em khoả lấp tất cả , lúc đó không còn phân biệt kẻ nam hay người bắc mà chỉ còn tình người. Tôi ao ước đất nước hoà bình sẽ trở về quê, đưa cả anh Hảo về, hai chúng tôi sống mãi bên nhau. Anh Hảo cũng có một ước mong như thế.

Cứ đi trong rừng như thế chúng tôi gặp một nhóm người Thượng, họ cũng giống bọn tôi, chạy trốn bom đạn. chém giết vào đến tận nơi heo hút này .Gần như cuộc sống của họ cách ly với cuộc sống bên ngoài.Họ nhìn chúng tôi có phần lạ lẫm, có lẽ họ đoán chúng tôi là người của một Buôn nào đó, giống như họ, chạy vào đây tránh chỗ bom rơi, đạn lạc đang ác liệt .Hôm đó hai anh em xin ngủ lại và xin cơm ăn, nước uống.Tối đó trong nhóm người Thượng này có một đứa trẻ lên cơn sốt nóng, tôi là y tá, sẵn có một chút kinh nghiệm chữa bệnh theo kiểu dân gian, tôi cứu được đứa bé.Vì việc làm đó, tôi và anh Hảo được mọi người ở đây cảm kích, họ muốn giữ tôi và anh Hảo ở lại. Hai anh em chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, xung quanh là rừng núi, cây cối đan dày như không có chỗ chui ra, bom và đạn nổ nghe ỳ ầm bốn mặt. Chẳng còn con đường nào khác, tôi với anh Hảo gật đầu, đồng ý.

Gần như cuộc sống của nhóm người Thượng này phải tổ chức lại.Tôi làm nhiệm vụ chữa bệnh cho người già, trẻ nhỏ, thậm chí cả việc đỡ đẻ nữa. Còn anh Hảo cùng mọi người sản xuất lương thực, làm rẫy, chống đói, chống lũ, chống thú rừng, dạy học cho các em nhỏ...Cuộc sống của chúng tôi cứ như thế gần như cách ly với xã hội bên ngoài. Chúng tôi đã xây dựng được một Buôn mới. Mọi người trong Buôn, từ em nhỏ đến người già đều quý mến anh Hảo. Cả Buôn coi hai anh em tôi là người của Buôn. Chúng tôi cũng tự nhận điều đó. Tôi và anh Hảo biết với hành động trốn chạy" đào ngũ", bên nào chiến thắng cũng không chấp nhận.Tốt nhất đến đây cứ ở lại đây.Tuỳ tình hình hãy tính sau.

Một lần anh Hảo cùng đoàn người trong Buôn đi làm rẫy, đường đi phải qua một con suối to.Đến giữa dòng suối, bất chợt có một cơn lũ nóng(3) đổ về. Tất cả đều bất ngờ, trong đoàn người ấy chỉ có một mình anh Hảo biết bơi. Anh Hảo phải chống chọi với dòng nước cuồn cuộn cứu từng người. Cứu được người cuối cùng, anh Hảo đuối sức.Dòng nứơc lũ ác nghiệt đã nhấn chìm anh. Đến khi con nước rút, không hiểu sao xác anh Hảo lại mắc vào một cành cây to, trên cao. Đối với mọi người trong Buôn, chết như vậy là thiêng lắm.Làm ma cho anh, dân trong Buôn làm to như làm ma cho già làng.Còn đối với tôi, cái chết của anh Hảo, không có từ ngữ nào diễn tả hết được sự đau đớn.

Tôi quyết định, không về quê nữa. Anh Hảo nằm đây, tôi phải ở lại...".

Phước ngừng kể, lấy tay lau nước mắt.

Xung quanh tôi, mọi người im lặng.

Ngọn lửa giữa nhà Rông về đêm hình như nó cháy to hơn, ấm hơn.

HẾT

Tiếng khóc

Người viết: Nguyễn Văn Thọ

15/04/2008

TIẾNG KHÓC

Truyện ngắn của Nguyễn Văn Thọ

Căn hầm ven bờ sông. Hầm trong vườn chuối nhà Thắm, đầy những lá khô từ năm cũ. Nắp hầm kín đáo. Làm từ thời Pháp, khi còn chở che cho du kích, bộ đội - Đơn vị mật tập sân bay Gia Lâm cũng từng nằm ở đó. Cái nắp tốt. Khung gỗ lim. Nghe nói, gia chủ tháo cả xà ngang nhà thờ họ để tạo nên nắp hầm này. Chẳng thế mà hơn chục năm, sau 1954, hầm hoang phế, nóc hầm cỏ dại ken nhau mọc xanh um, nắp hầm vẫn khít ôm chặt khung, bất chấp thời gian, mưa gió.

Trong hầm, rễ cỏ xuyên xuống rủ trắng, như những chùm râu bạc. Đêm hầm chập choạng dầu đèn, y như có vài bô lão đứng quanh. Vách hầm toàn tre đực, chắc đã ngâm bùn, gia cố dày như nêm. Hầm có cái lỗ thông hơi đâm ngang ra hướng bờ sông, tuy bị vạt cỏ che đi, nhưng người bên trong vẫn quan sát được mặt sông Hồng. Góc nhìn đủ rộng, thấy cả mặt nước phù sa như pha máu lênh loang mùa hạ, trong lợ lại khi thu về. Cũng ở cái cửa sổ duy nhất ấy, nhìn rõ máy bay sát mặt nước. Nước cuộn lên trắng xoá. Có dăm lần, trong hai tháng, anh nom rõ chiếc máy bay F. 4.H, đầu nhọn hoắt, cánh đầy gai, loang lổ, vằn vện màu cứt ngựa, to hơn cánh buồm, trườn chệnh choạng giữa sông, phun khói đen sì. Một lần, anh còn nhìn rõ chiếc đò ngang, xoay như chong chóng và, hút chìm ngỉm khi chiếc máy bay trắng toát, rõ dòng chữ NAVY-U.S.ARMY(1) đen sì trên thân bất ngờ sạt qua, rít chói tai.

Anh quan sát cảnh trí ấy bàng quan.

Sông thì quen thuộc từ thơ ấu. Máy bay thì lạ một lúc. Và, cái chính là khi anh tự tách khỏi cộng đồng, rơi thỏm vào trạng thái bàng quan.

Hai tháng trốn hầm, anh ngày ngủ, đêm thức.

Nhưng ngày ngủ mãi được à? Thế là, khi tự tách biệt với làng, với xóm quen thuộc, trốn bỏ nó, lúc quá yên tĩnh, anh lại quay ra day dứt, nôn nao nhớ làng, nhớ tiếng chó, gà, nhớ mùi phân trâu và cả bụi tre sau nhà, cũng như nhớ bố mẹ và cô em gái út bé bỏng. Nhưng cồn cào nhất, vẫn là nhớ Thắm. Dù ngày nào cô cũng rời làng, tới căn hầm, khi đêm đêm, chập choạng.

Anh trốn nghĩa vụ, chỉ vì anh đang say đắm Thắm. Không muốn xa nhau mà liều thân trốn phứa. Đúng ra, anh cũng không muốn như vậy. Anh chưa hề là kẻ hèn nhát, sợ khổ hay sợ chết. Bằng chứng là ở lò vật cụ Nguyện, anh được đánh giá là môn sinh lì đòn nhất. Còn việc đồng áng giúp cha mẹ, từ xưa chẳng một ai chê anh. Đơn giản, anh không muốn xa người yêu. Ở Làng, chỉ có hai người biết anh trốn ở đây, Thắm và mẹ anh. Bố anh mà biết, chắc chắn ông tìm tới, lật hầm, lôi anh về, như lôi một con chó chạy rông, lấy bắp cày nện cho chí tử! "Đánh chết thì chôn!"

Mỹ đánh phá khắp nơi. Ngày nào Hà Nội cũng sôi lên, vọng về tiếng đạn, bom, khỏi lửa ngun ngún, cuồn cuộn. Bầu trời đầy chớp nhằng vạch tên lửa. Có ngày đánh rơi tới bẩy chiếc máy bay. Cả nước đánh Mỹ mà con ông lại trốn đánh Mỹ. Có cái nhục nào bằng nỗi nhục con ông.

Khổ, đã ba tháng, ông ru rú trong nhà, không dám đi đâu, gặp ai. Việc đồng áng phải làm thin thít. Câm họng mà đi. Có làm ruộng Hợp tác xã cũng chọn chỗ khuẩt hẻo, một mình. Mẹ anh không nói gì, dù anh biết, từ ngày anh của anh biệt mất ở chiến trường, mẹ thực lòng chẳng muốn con trai út đi...

Chín giờ tối ruột đã cồn cào lắm. Bật nắp hầm lên. Tiếng côn trùng cứ râm ran buồn, đâm nhói vào lòng. Tai hóng như tai chó vểnh lên, đón tiếng lá khô lay động quen thuộc. Bước chân của Thắm? Mười giờ đêm. Sương xuống ướt, những tàu chuối lấp lánh. Đợi mãi, mới nghe tiếng lá lay rổn rảng. Thắm hiện ra giữa hai bụi chuối.

"Em đấy à?" Lần nào cũng vậy, sau câu chào ấy, anh nhao tới, ôm ghì lấy người yêu. "Gượm nào! Mẹ lo lắm đấy !" "Nói gì? Mẹ lo gì? " Anh gặng. "Trốn mãi được thế à? Mấy hôm nay có nghe thấy tiếng bom không? Long Biên sập ba nhịp rồi. Trạm tên lửa bên làng Hữu Giang, chiều qua phụt lên bốn quả, bọn em ở khu Đồng Nóc cứ bắn bừa lên. Súng làng mình nhỏ quá, như gãi ghẻ con trâu mộng." Thắm nhỏ nhẹ kể . "Sao em ra muộn thế?- Anh ngồi bệt xuống nóc hầm, cầm miếng cơm nắm Thắm đưa, nhai trệu trạo. "Muối vừng này! Ruốc mẹ làm sớm nay đấy. Mẹ anh không dám giã, sợ làng xóm biết, chỉ xước nhỏ thịt, rang khô...Sao ăn cơm không thế?" Cô nhúm cho anh một ít ruốc thịt, đưa vào miệng anh. "Mẹ em cũng biết rồi đấy. Cứ thì thụt thế này!" Anh nuốt vội miếng cơm. Xoa tay vào quần. Kéo thắm ngồi xuống. Quay mặt sát mặt Thắm.

-Anh nhớ em lắm!

-Nhớ thế nào?

-Nằm đây nhiều thời gian. Nhớ đủ thứ. Cả khi còn bé. Nhớ khi em dỗi. Nhớ cả thời tụi mình tắm trên sông con. Và anh đỡ em tập bơi thế nào...

-Thế á?

-Đêm qua anh còn mơ, thấy anh gội đầu cho em và tắm với em trên sông con như thủa còn bé.

-Thế cơ á! Mơ nhiều thế, lâu không?

-lâu. Anh cứ tiếc mãi , đang mơ tắm cho em thì tỉnh dậy!

-Ừ, giá không có đánh nhau. Vài năm nữa, mình sẽ cưới. Là vợ chồng rồi, anh còn gội đầu, còn muốn tắm cho em không?

-Có

-Thật không?

-Thật chứ! Anh có bao giờ nói dối em đâu!

-Ừ, em biết mà- Thắm ngước lên nhìn anh. Đôi mắt cô ánh lên niềm hạnh phúc ngắn ngủi của một ngày biết bao nhiêu bận rộn và mệt mỏi.

Giọng cô nhỏ, đủ cho anh nghe: "Em rất yêu anh! Chỉ yêu anh"

Trăng chênh chếch mé trời. Trăng mặt sông loang loáng chấp chới. Khuôn mặt Thắm ngời lên, đầy trăng. Đôi mắt yêu quá! "Ừ, có khi phải về làng. Nhưng có lẽ anh không chịu được. Anh xa em là chết!" Anh ngả Thắm vào lòng. Cúi xuống hôn rối rít, như chim gõ kiến mổ kiến, y như là họ phải sắp biệt li. Bao nhiêu đêm như vậy rồi! Cô gái nhắm mắt, đê mê trong anh. Anh giật cúc áo Thắm. Lộ ra đôi vú thanh tân, cương lên mây mẩy, trắng ngần trong trăng. Úp mặt vào đấy, hít cuống quýt, tựa con chó con khát sữa sục ti mẹ. Anh lần nào cũng hừng hực lửa đốt. Lát sau, luồn tay xuống dưới. "Đừng anh! Khi nào đi em cho." Anh van vỉ: "Anh không chịu được. Anh yêu em lắm!" "Em đã bảo, nói mãi. Bao giờ trước khi anh đi, em cho. Nhịn mấy năm rồi còn được. Anh!" Anh đẩy Thắm ra, mắt anh tha thiết. Nhìn vào mắt ấy, Thắm cảm giác vừa lửa, vừa nước: "Anh ở đây thêm tuần nữa với em, rồi anh đi!" Cô gái ôm đầu anh áp vào ngực: "Khổ, em thương anh. Thôi!..Em..." Anh ngửng mặt lên, trong ánh đêm, khuôn mặt bệch bạc: "Em nói gì? Thôi, là thế nào?" "Mai em cho, hôm nay em mệt. Chiều ở trận địa 37 ly. Khuân đạn. Đắp cỏ công sự, tới giờ em vẫn đau rã cả vai và tay. Anh ở hầm hết tuần này thôi, rồi lên đường nhé. Trốn mãi được sao?" Thắm nhỏm dậy, ngồi vào lòng anh. "Tay nào đau?" "Cả hai!" "Đưa tay đây!" Anh níu tay Thắm vào lòng, bóp cánh tay, bả vai cho người yêu.

Tay Thắm rất nhỏ. Cổ tay không đeo được đồng hồ Liên Xô hôm nào anh tặng. Cỡ giây nhỏ nhất vẫn cứ lỏng hoét, trôi ra. Anh bóp tay cho cô mà nước mắt cũng trôi ra. Tay mềm thế và bao vết sẹo đồng áng còn đây. Người khoẻ, trai làng đi hết. Làng màu, lúa và nhãn, giờ đây con gái đi cầy , bừa, gặt... đến vụ thu hoạch nhãn, cũng leo trèo như khỉ. Anh nghĩ.

Bàn tay anh lần sờ tới đâu, không cần nhìn, hình dung ra từng chỗ. Anh thuộc từng vết sẹo nhỏ trên tay Thắm. Cha Thắm, du kích trong chống Pháp đào hầm này, hy sinh trước hoà bình 1954 có dăm ngày. Nhà Thắm có ba chị em. Hai chị đi lấy chồng cả. Anh biết mọi điều đó, cả căn hầm do Thắm chỉ cho, khi cùng chơi trò trốn bắt, từ ngày hai đứa còn học từ trường làng, tồng ngồng tắm với nhau ở bãi sông con. Có lẽ không thể để cô lo lắng mãi. Mà cứ trốn lủi, bố anh buồn chết mất thôi. Nhưng anh yêu, yêu lắm. Anh nói: "Em!" "Gì cơ?" "Mai cho anh nhé. Anh mà về là bố giải ngay lên huyện đấy. Chẳng có thể yêu em, hoặc lại biền biệt như ông anh."

Thắm ngửa mắt nhìn lên đôi mắt thiết tha, chân thành của người yêu và cô bất thần ghì đầu anh, hôn nhẹ vào môi anh. Rồi cũng không kìm được, cô mút chặt môi anh như sợ anh biến đi. Anh vừa hạnh phúc vừa buồn. Cứ nấn ná yêu nhau như vậy bao đêm rồi.

Phải đến hai giờ sáng Thắm mới về làng.

Sợ giờ phút chia tay, nhưng không thể để Thắm ở lại nữa. Đàn ông đàn ang trong làng đi hết, nhìn đâu cũng toàn người già và đám choai choai. Thanh nữ như Thắm, trăm công ngàn việc, cầy bừa thay lũ đàn ông, sao nỡ để em không được ngủ ba bốn tiếng một ngày?

***

Sáng từ lúc nào không rõ. Anh giật mình, bừng mắt. Bật dậy, lao tới cửa sổ thông hơi. Tiếng máy bay ầm ầm xé tai ngay ở đâu. Rất gần. Hình như trên đầu, lại cả dưới mạn sông vọng lên. Những chiếc siêu thanh Mỹ bay với tốc độ tiếng động, như muốn phá vỡ không gian một vùng đất toàn lúa là lúa, chẳng một nhà máy ống khói nhô lên. Chói và gắt, tiếng rú gào lướt cả gió, ào ào như muốn xô ngã vạn vật.

Anh đẩy nắp hầm trồi lên. Ngay sau đó, nghe rõ tiếng bom, tiếng vỡ đanh, tiếng súng liên thanh rất gần. Ngẳng mặt, trời đầy bông trắng, lục bục nổ. Đạn cao xạ! Nền trời xanh, khói trắng tên lửa run rảy, như những con rồng lượn, nhằng nhịt. Phía Hà Nội, đạn bay lên dầy đặc. Chằng chịt các vệt lửa. Nom xa, hệt cảnh tàn lửa bay lên trong hỏa lò, khi dụi một thanh củi dầu đang hừng hực cháy. Dăm cột khói đen, trắng lơ lửng như hình nấm.

Không gian cứ rộn lên một chặp như vậy rồi lại yên ắng, rồi lại sôi ào ào trở lại, với tiếng động xé gió. Cuộc đọ sức giữa mặt đất và bầu trời quyết liệt hơn.

Đánh nhau to rồi! Anh tụt xuống hầm.

Lát sau yên tĩnh như chưa xảy ra điều gì. Phải ngủ một lát cho quên thời gian đi. Anh tự nhủ. Không ngủ được! Anh lo âu và nóng lòng chờ thời gian trôi nhanh để đêm nay gặp Thắm. Từ sớm tới trưa, bẩy tám lần anh bật dậy lao ra cái lỗ thông hơi. Tới quá trưa, yên ắng trở lại. Dưới sông nước đẫm phù sa như máu vẫn lênh loang.

Mệt mỏi. Nửa giờ sau, anh chìm vào giấc ngủ vì căng thẳng. Suy tính và lo nghĩ.

* *

Anh bật dậy. Có tiếng ầm ầm, mơ hay tỉnh? Giấc mơ với Thắm đang đẹp quá bị phá vỡ. Mồ hôi vẫn còn đầm đìa trên thân xác. Nếu mặt đất không rung lên tiếp nữa và anh không nhìn thấy bụi bay lả tả từ những chùm rễ cỏ rủ trắng tựa râu bô lão, có lẽ anh tưởng đang mơ.

Bom đánh đâu gần? Lại im ngay. Không nghe thấy tiếng máy bay. Rõ ràng, bom đánh quá gần. Thúc nắp hầm, anh nhoi lên.

Trời đang sập chiều. Sông miên man hồng, vẫn cứ trôi, lặng chẩy. Mặt trời to bằng cái nong lớn, đỏ bầm như chậu tiết khổng lồ chìm dần ở chân trời. Quay phắt lại phía làng. Trước mắt anh, bùng lên góc sáng, ánh lửa chập chờn qua rặng cây trước mắt. Quầng bụi đỏ ôi ối bốc cao dần, loang ra, trong chùm nắng sập soạng. Anh thoẳng thốt. Làng bị ném bom! Chạy. Chạy như điên, về phía làng, nơi bắt đầu rộ lên tiếng thanh la, mõ và tiếng trống ngũ liên, tù và; những ứng hiệu mỗi khi vùng quê có biến. Cổ tục từ ngàn năm giặc giã, dồn dập vang lên từ làng này lan ra làng khác.

Nhẩy đại qua con mương, qua cây cối ngổn ngang đổ. Mùi lá hăng hắc dập nát lẫn mùi phân trâu, lợn, gà quen thuộc. Xác chó gà, vịt khắp nơi. Và, dăm ngôi nhà sát xóm Chùa bốc lên đầy khói. Thi thoảng lửa đỏ phừng phực bùng lên như tưới dầu. Đến cả dãy tre xanh trái đường tươi thế, cháy hừng hực như có ai đang quạt lửa, thốc tro rát cả mặt mà anh vẫn lao qua, vọt tới vườn chè nhà. Vệ ao,ven lối cỏ đầy xác xúc vật chết. Có con trâu mộng bị thương, máu đỏ lòm ròng ròng chảy đầy thân, cứ dúi mãi đầu xuống khoảnh muống nước sâm sấp, thở phì phì, rãy rụa.

Khựng lại. Trời ơi. Nhà anh đâu rồi? Anh không tin ở mắt mình. Con đường lát gách nghiêng, cong lên như miếng bánh đa, đứt gãy, cụt ngắt ở đoạn chẽ vào nhà anh. Bốn hố bom lớn, sâu hoắm, mùi khét lẹt và những sợi khói từ đáy hố vẫn đang ngun ngún bốc lên. Xen nhau, các vòng bom vạch dài, khoét đất từ nhà anh tới ba ngôi nhà kế nữa. Anh nhận ra vị trí cũ bởi cây nhãn cổ thụ của nhà anh bị bom phạt gãy gục.

Đứng bên hố bom. Giờ này là giờ mọi nhà đều đã từ đồng trở về làng. Anh gọi em gái, gọi bố và mẹ lạc giọng. Anh cào cấu mặt đất, đấm ngực. Anh như thằng điên quanh quẩn chạy bên miệng hố bom. Chân trần trên đất gạch lổn nhổn, mà không hề thấy đau. Tịnh không có ai thưa và, giá mà anh khóc được. Bỗng nhiên, anh sực nhớ ra điều gì và đứng dậy.

Làng bắt đầu rộn lên. Người các làng bên kéo sang. Nhớn nhác, tiếng chân thình thịch. Vài chiếc cáng tre, cáng người bị thương thoáng qua rặng râm bụt. Nhãn rụng nâu cả đường làng. Có ai đó, hình như đứa bạn xóm Thượng gọi: "An, mày trốn ở đâu về đấy?" Không trả lời, anh không còn tâm trí trả lời. Đau thắt lòng, vọt qua mấy nơi cây đổ. Chi chít các hố bom bi. Sặc mùi thuốc nổ bom. Anh chỉ còn ý nghĩ: "Thắm, em có sao không?" Ngược chiều anh chạy, năm sáu người tất tưởi đi. Họ kêu lên, nói gì, anh không nghe rõ. Hình như có ai đó nhổ thẳng nước miếng vào mặt anh. Nước miếng thối và hôi. Mặc, anh quyệt tay chùi vào áo và chạy.

Anh bàng hoàng. Trên nền ngôi nhà Thắm, một hố bom sâu hoắm. Bom liếm mất nửa nhà, nửa còn lại đổ nát, toang hoang, đang cháy nham nhở. Những mảnh lá gồi bén lửa bị khí nóng hút, tung tàn lên cao.

Thắm! Thắm! Anh gào lên lạc giọng. Lại chạy quanh hố bom. Bên góc vườn, nơi trồng đám rau đay, mùng tơi, có mảnh áo màu hoa lí quen thuộc phật phờ bay. Anh chạy lại, nhặt mảnh vải tơ tướp. Áo Thắm! Anh tìm quanh. Những gốc cau đầy rêu xanh mát. Bể nước, nơi bao nhiêu lần, Thắm múc nước mưa cho anh, mỗi khi họ giữa trưa hè đi học về, có quầy tắm tan hoang. Giữa quầy tắm dựng bằng bốn cây tre, đã tung đâu mái che, Thắm trần truồng nằm.

Anh quỳ xuống.

Thân hình thanh xuân lõa lồ, trắng xanh nằm nghiêng trên đất lạnh. Mớ tóc đen như mun đổ xoãi trên mặt đất. Đôi mắt em trân trân nhìn vào vô định. Trái bom dội xuống, phát nổ và thổi bay hết áo quần trên dây phơi. Tay em còn cầm chặt chiếc chặt gáo dừa. Máu đỏ tươi bắn đầy trên thành chum nước tắm. Từ đỉnh đầu, máu chảy đỏ lòm qua chỗ hõm bầu vú. Đôi vú xuân thì, xưa luôn căng mẩy. Núm vú hồng giờ thâm lại. Vệt máu chảy xuống bụng, nhuộm đỏ đôi chân. Anh nhìn rõ, dóng tre cột nhà tắm, vệt tay máu còn kia. Thắm ơi! Em ơi! Anh gọi thầm, Sau này nhớ lại, trong đầu hiện ra cảnh Thắm của anh chới với và đổ gục xuống đất làng, để lại dưới chân em máu đọng thành vũng trên nền si măng chám trắng.

Em ơi! Trời ơi! Thắm! Anh cúi xuống, xốc em lên. Ngẳng mặt nhìn trời, thét lên. Tiếng anh vỡ vào hư không!

Người ta, có ai kể lại, thấy trong chập choạng đêm, khi trăng mười Tư mọc ngang ngọn tre phật phờ, chiếu ánh sáng lạnh trên sông, ruộng và làng, một người trai trẻ không khóc, gương mặt như thép nguội, bế xác người con gái lõa lồ, nhuộm đỏ toàn thân chính bằng máu của em. Anh ta đi dọc con đường làng nhỏ, lát gạch nghiêng, giữa ngổn ngang cây đổ, giữa tan hoang làng đất bãi. Làng trù phú, vùng lúa nhãn Vân Giang, nơi nửa tiếng trước, vừa bị tám chiếc máy bay siêu thanh, hiện đại nhất thế giới thập kỉ bẩy mươi. Máy bay có dòng chữ U.S.A, kẻ đen sẫm, nét đanh, ngang sườn, dội xuống tám đợt bom và rốc két. Mười sáu quả bom 500 Bảng, mười sáu quả bom bi mẹ với bốn ngàn tám trăm quả bi con, giết trong tích tắc, hơn một trăm sinh mạng nông dân, trẻ con, người già và, thiếu nữ.

***

Anh bế Thắm từng bước nặng về phía bờ sông. Tai anh văng vẳng lời Thắm đêm qua: "Là vợ chồng rồi, anh còn gội đầu, còn muốn tắm cho em không?" Anh bước đi như mê sảng. Thắm ơi. Bây giờ anh tắm cho em lần đầu và lần cuối đây!

Đồng bãi ngô có trăm ngàn hàng lính xanh, vạn gươm xanh múa ánh trăng đêm.

Rẽ ngô, anh bế Thắm bước trên cát mịn, lội dần ra vùng nước ngập tới nửa thân người. Đây nguyên xưa, sông mẹ chảy qua, sâu lắm. Rồi đổi dòng, bồi lên bãi, đã bao năm thành bãi và còn nhánh sông con. Bãi thoai thoải. Nơi đây bao năm là nơi tắm, vui chơi của đám trẻ. Anh thả em xuống nước. Nước duềnh lên đón Thắm. Và, trong ánh trăng vằng vặc lạnh, nhìn rõ vệt sậm của máu Thắm loang trong nước, tan hoà với sa bồi. Nước vốn đã sắc hồng, thêm sậm, trôi đi.

Anh không khóc. Bàn tay lướt trên thân thể trắng, mịn, mát như thạch của em giữa nước. Sông bao nhiêu năm bồi đắp nên bãi mầu tươi tốt làng anh. Tóc Thắm đen tuyền, dài như dải lụa, trôi chập chờn theo dòng nước. Tóc này, bao lần anh dội nước, gội đầu cho em. Anh đau. Sự đau đớn của một đàn ông, của một con người, sinh ra ở đất bãi, yêu một thiếu nữ đất bãi, chung bao nhiêu kỉ niệm, từ khi họ còn tắm truồng ở bãi này. Người đất bãi vốn hiền lành và mịn màng như đất bãi phù xa, giờ đây mặt nguội đanh, sắt lại.

Sống ý nghĩa gì nữa?

Anh còn ai để mà yêu và thương anh?

An đưa trở lại gian hầm nơi anh đã trốn. "Nơi anh hai tháng qua yêu em và, chờ đêm nay, em sẽ cho anh tất cả, trước khi lên đường. Không còn gì nữa. Cả nhà anh, nhà em và, Thắm ơi! Anh sẽ chết nơi đây với em!" Anh suy nghĩ miên man.

Đặt em lên cái chõng tre đã nằm bao đêm chờ em. Anh lấy chiếc chăn chiên cũ phủ lên nàng Ngồi bên như tượng đá trong đêm tối. Hai chiếc đèn dầu, tự tạo bằng cóng sữa bò, thắp hai bên. Gió sông qua cửa hầm, lỗ thông khí, làm lửa đèn đong đưa.

Những chùm rễ cỏ trắng, bao năm rủ xuống âm thầm lòng đất, kết trên nóc hầm. Đêm đêm trước, nom như râu bạc bô lão. Trong ánh đèn chập chờn đêm nay, nom tựa những khăn xô, bóng rung rinh qua lại trên vách hầm, quanh xác cô.

Đêm khuya. Anh cứ ngồi yên lặng. An bỗng nghe từ đâu vọng về âm i tiếng khóc. Lắng tai nữa. Tiếng khóc suốt đêm dài vọng tới anh. Ai oán, não nùng giữa hầm lắng, im, nơi chỉ có anh và xác người yêu.

Đêm sau nữa, anh gục xuống. Tỉnh dậy, lại nghe tiếng khóc quái đản từ đâu vọng về. Anh nhớ khuôn mặt mẹ anh, cha anh và em gái anh, rồi mẹ Thắm.

Đêm thứ ba tiếp tục hoá đá, mệt lả gục xuống thiếp đi bao lần và, tỉnh dậy, vẫn có tiếng khóc như từ lòng đất dội lên.

Anh lảo đảo đứng dậy leo ra khỏi hầm.

Trên cao, trong gió lắng nghe. Anh nghe rõ ràng tiếng khóc, tiếng gào khê, khàn, tiếng kêu cha, gọi mẹ, tiếng gọi tên người thân của rất nhiều người từ phía làng anh nương gió tới. Như có một ma lực xui khiến, anh đóng cửa hầm, ấn mạnh nắp và chệnh choạng về làng. Tới đầu làng trước mắt anh: Một rừng hương nghi ngún cháy đỏ khắp làng đất bãi và, tiếng khóc...

Suốt đêm An âm thầm hất đất, đắp cỏ lên nóc căn hầm, biến nơi anh đã từng lẩn trốn thành mộ phần Thắm. Anh cố gắng xoá hết mọi dấu vết cửa hầm với một tâm niệm đầy đau khổ và cay đắng.

Trời chợt sáng, cũng là khi mọi công việc hoàn tất. Những chùm sáng tươi vàng đầu tiên của một ngày chiếu lên mái đầu còn rất xanh của An. Anh đốt hương, quỳ xuống, trầm lặng. Không khóc! Môi anh run run, mím lại. Gió vẫn đưa về ai oán của cả làng hơn trăm sinh linh giỗ cùng giờ và ngày. Tiếng khóc...

***

Mùa hè năm ấy, Đại đội bộ binh X, sư đoàn 320, tiếp nhận một chiến sĩ tình nguyện trẻ. Đó là anh.

Ai trong đại đội cũng công nhận An ít nói, hiền, có tật hay mím môi, nhưng rất chăm chỉ rèn luyện, không bao giờ kêu ca trong cả quá trình ba tháng huấn luyện đầy gian khổ. Đại đội trưởng sau hai tháng theo dõi luyện quân, lấy An làm liên lạc.

Ba tháng sau, cuối mùa mưa, An nhận súng, nhận đạn và cùng đoàn lên đường.

Đường Trường Sơn cuối mùa mưa, còn có những trận mưa dai dẳng. Không thể tưởng tượng là anh lại có thể theo kịp bước chân những người lính cựu. Không có kinh nghiệm, mưa, đất nhoét và dính, anh để dép dâu tụt hết quai trong đêm. Chân trần theo đơn vị trên đường núi lẫn đá tai mèo. Máu đầy chân, An vẫn nghiến răng. Ba lô nặng, đung đưa, cọ vào lưng cứ mỗi khi lên lên, xuống xuống. Hai tuần, có vết toét bằng bàn tay, đỏ hỏn ngang lưng. Ngủ phải nằm con tôm sấp trên võng. Đại đội trưởng thương thằng nhóc gan, không kêu ca, tụt tạt, lấy lá đắp, đỡ cho bao gạo. Vết toét mãi ba tuần sau thành sẹo.

Đại đội trưởng cũng lạ, vì thấy anh luôn tò mò hỏi bao chuyện, khi biết ông đã đánh nhau qua vài chiến dịch, mà vẫn nguyên lành. Xem ra, anh có vẻ rất có chí tiến thủ? Ông ta nghĩ, thằng bé này chưa bò duới đạn nên chưa biết sợ. Không biết cu cậu có đái ra quần không? Cái vẻ mặt đôi khi trầm tư của An, một thanh niên tóc rất xanh, làm ông nhớ thời trai của mình và thương An thêm. Chính vì điều đó, An được ông dạy dỗ và kể nhiều kinh nghiệm cho cu cậu, hình dung là ra trận, phải tường tận những ngõ ngách của trận mạc và muốn giữ được cái mạng mình phải như thế nào. Ông chỉ cho anh cách tìm củi nào tươi, săng lẻ, có thể tước ra, nấu cơm được ngay dưới trời mưa, ẩm vẫn cháy. Cách đặt câu đêm, ở những con suối cạn nào? Suối đất hay cát, hoặc đá? Những con suối chỉ gang nước, ban ngày không hề trông thấy cá, nhưng đêm tối, phải hiểu chúng từ hốc đất và dưới đám lá mục chòi lên đi kiếm ăn. Ông dạy cho anh, kinh nghiệm tìm hướng ở rừng bằng. Những mẹo vặt để tồn tại khi lạc rừng; tỉ như việc lấy lửa bằng cách gõ nhẹ cát-tút cho đầu đạn long ra. Bít giấy viên đạn không đầu, chỉ còn ít thuốc cháy, bắn vào những sơ cây đã sước, dập nhỏ như sợi bông, khi rắc lên số thuốc trong viên đạn v.v...Tất nhiên, cả những kinh nghiệm như cách đón gió, đánh hơi mùi lạ; nghe tiếng chim liếu điếu, quạ, ngói bay lên, bổng thấp thế nào, mà có thể đoán, cảm thấy nguy hiểm, có phục kích. Đại loại, những kĩ năng mà người lính cần hiểu sâu sắc, để tồn tại, để đánh nhau với một kẻ thù mạnh hơn nhiều lần. Có một lần ông nói đại ý, người lính đứng trước đối phương, chỉ run sợ tích tắc là mạng sống có thể đi tiêu luôn.. An thấy có lí cũng nhớ lại, thầy dậy vật anh từng nói, trước kình địch mà cảm thấy run sợ, tức là đã nắm chín chục phần thua, còn khi dù nó to hơn, mà ta quyết đấu, làm nó run sợ thì ta đã nắm tới chín phần thắng, chỉ mưu trí là thắng trọn nó rồi.

Anh lắng nghe ông, không chỉ là tò mò và khâm phục. Mãi về sau này, anh cảm thấy đó là may mắn. Anh cũng lơ mơ cho là, anh có linh hồn Thắm đưa đường chỉ lối.

Nhưng một điều quan trọng là, nhiều đêm, thiếp đi trên võng, đôi khi anh vẫn mơ. Giấc mơ dẫn anh về căn hầm và làng với tiếng khóc văng vẳng! Những khi vậy, anh không sao ngủ tiếp. Anh nhỏm dậy trong đêm, nghiến răng, nắm tay chặt như muốn vỡ ra.

Cứ như vậy tám năm chiến tranh trôi qua.

1975, tháng tư. Đại đội do An chỉ huy đánh Đồng Dù, Củ Chi. Cứ điểm gồm một sư đoàn trấn cửa ngõ Sài Gòn. Ngày ba mươi chiến cuộc chấm dứt.

Hơn tháng trời liên miên hành quân. Những người lính, sau ngày cuối cùng của chiến tranh, mê mệt ngủ bù trong cách rừng cao su, gần nơi đêm trước trận cận chiến. Không hiểu sao, An lại buồn. Chiến tranh thực sự chấm dứt rồi. Anh uống say và bây giờ lại là lúc An ngồi nhớ đất bãi làng anh. Anh nhớ Thắm. Mười giờ đêm, anh gục xuống chìm vào giấc ngủ.

Quá nửa đêm, trăng mười chín khuyết, long lanh lên sáng góc rừng. Anh choàng tỉnh. Có tiếng khóc nức nở, ai oán văng vẳng của làng đất bãi năm xưa. Tiếng khóc, suốt tám năm qua, anh vẫn chỉ nghe thấy trong các giấc mơ, trước những trận chiến khốc liệt một mất một còn! Anh dụi mắt, bứt tai. Không, anh đã tỉnh.

Vô lí! Chưa bao giờ tiếng khóc vọng về khi anh tỉnh. Hay mình đang mơ? Anh lại bứt tai. Rõ ràng là anh tỉnh. Không tỉnh, sao anh nhìn rõ người lính gác đi lại bên kia rặng cây. Dậy! Anh lay tay lính liên lạc trẻ. "Em, có nghe thấy gì không?" Người lính liên lạc ngơ ngác ngồi dậy. Anh nhắc lại câu hỏi: "Em có nghe thấy gì không?" "Không! Em không nghe thấy gì!" Chiến sĩ liên lạc lại đổ vật xuống lớp lá trải võng trên nền đất. Lập tức ngáy.

Quái nhỉ, hay là anh mơ. Nhưng rõ ràng, vẫn có tiếng ai oán âm i tới tai anh. Anh tự véo đùi lần nữa và cầm lấy khẩu súng ngắn đứng dậy.

Theo gió, hướng tiếng khóc. Anh qua khoảnh rừng non. Qua mảnh trống, đầy vết xích, bãi tập xe tăng. Tiếng khóc rõ ràng hơn và rất gần. Anh vượt qua hơn trăm mét đường tuần tra quanh căn cứ và dừng lại.

An nhận ra, khu rừng đã diễn ra trận huyết chiến đêm trước, đêm cuối cùng căn cứ Đồng Dù. Đêm ấy, tại nơi đây, đại đội lính rằn ri biệt động đã đánh tập hậu đơn vị cối của sư đoàn. Và đại đội An chỉ huy được lệnh xuất kích, giải cứu cho đơn vị cối. Họ cận chiến giữa rừng cao su với lê , dao găm và bắn gần. Trong vòng hơn hai chục phút, tiêu diệt hoàn toàn đơn vị địch.

Trăng mười chín đủ sáng để anh nhìn thấy hàng trăm chiếc xe Honda Sài Gòn đậu khắp nơi, ở mép rừng và bên đường. Một rừng hương như đêm nào ở làng anh và, tiếng khóc của những người miền Nam dâm dứt khắp mảnh rừng cách đây không lâu, nơi có bao người lính đối phương mù quáng tuân lệnh cấp trên, đã trở thành kẻ xấu số cuối cùng của chiến tranh.

Anh lặng người. Buồn vô hạn! Tiếng khóc rõ ràng hơn.

Trời ơi! Chiến tranh thì bên thua bên thắng. An đi dọc suốt bao năm rửa hờn cho Thắm cho tiếng khóc làng anh. Điều đó anh chẳng bao giờ ân hận.

Nhưng Tiếng khóc của con người đêm nay anh nhận ra thì ở đâu cũng thương đau, giống nhau tới thế. An suy nghĩ miên man.

An quay về. Mắt đập vào tấm biển cũ chềnh ềnh cắm bên mé con đường tuần quanh căn cứ.

Trăng lạnh và bềnh bệch soi tấm biển. Tấm biển báo hiệu khu quân sự cấm thường dân của lực lượng Anh cả đỏ, Sư đoàn cũ của quân lực Hoa Kỳ đã nhường cứ điểm này lại cho những người lính đối phương cuối cùng của chiến cuộc, hoang phí tuổi xanh nằm kia.

U.S. Army.

Dòng chữ trên tấm biển rất đen và nét đanh, y như dòng chữ ngang thân máy bay năm xưa anh đã nhìn rất rõ, khi anh nằm ở gian hầm bí mật đã quàn Thắm, bên con sông quê hương đẫm đỏ lênh loang phù sa mùa hạ...An nắm chặt bàn tay.Môi anh mím lại. Còn bao nhiêu việc nữa cho ngày mai. Ngày mai của anh?

Thế mà đã tám năm! Tám năm, bao nhiêu là bao nhiêu cơn ác mộng của một đời người là anh!

Nước Đức, 4-2008-Tháng bao thương nhớ và yêu thương

N.V.T

1-Máy bay hải quân Hợp chủng quốc Hoa Kỳ

Kẻ chuyên lỡ chuyến

Truyện ngắn của Nguyễn văn Thọ

Kết thúc cuộc chiến, hắn trở về nguyên vẹn.

Mười hai năm cuộc chiến, như một giấc mộng dài, biến hắn từ một cậu học trò tơ non, thành một cựu chiến binh, dầy dạn kinh nghiệm chiến tranh, thiện chiến. Hắn chợt nhận ra ngay, ở ngày hòa bình đầu tiên, tất cả những sự tích tụ giúp hắn tồn tại, vượt qua cái chết, vụt hoá thành vô dụng trong tích tắc đầu tiên của ngày hoà bình. Hắn, kể từ phút đó, với thời bình, là một tay ngốc ngếch. Một kẻ chỉ biết tuân lệnh và ra lệnh, phải bắt đầu từ con số không, làm quen với tất cả đời sống bình thường của con người. Đúng là khó khăn!

Hắn tự an ủi, trong những ngày đầu ở Hà Nội, khi trở về không một xu dính túi: "Thôi! Ta còn sống để trở về ngôi nhà nhỏ thân thuộc. Bao bạn ta mãi mãi chẳng trở về!" Nghĩ vậy mà vẫn ứa nứớc mắt! Trở về Ngôi nhà ấy, nay đã vắng bóng người mẹ của hắn, người mà có thể chở che và đùm bọc hắn với tấm lòng bao la, yêu thương nhất. Hắn thất nghiệp, lang thang trong thành phố đi xin việc hàng ngày. Và, buổi tối trèo lên gác thượng, gẩy cây đàn ghi ta rè cũ, hát những bài ca cũ. Đôi khí hắn đọc thơ cho cô cháu gái nghe. Cực hình nhất, là khi cô cháu lại thích bài Đợi anh về của lão Simonop với cái giọng chùng buồn ấm áp của hắn. Sau này, có lần hắn nói với cháu: Này, bài đó đọc trong rừng thấy ấm áp. Đọc khi trở về chẳng có người yêu chán và lạnh. Hắn vẫn giữ tính chân thành và thật như đếm.

Nơi hắn ở, gọi là phố mà như xóm, như làng. Đối diện nhà hắn, cách con phố ngang năm mét, có nếp nhà dựng lên trong khi hắn còn ở rừng. Lưng dãy phố tạm ấy, dựa vào khu tường nghĩa địa Tây. Nghe nói dãy dài nhà đối diện, là cửa hàng mậu dịch bán rau và thịt. Chái bán rau, được chia cho một gia đình cán bộ tập kết dọn tới trước khi chiến tranh kết thúc. Bà má của gia đình ở đó, nói giọng miền trung ấm áp. Bà có nụ cười rất tươi, mắt nhân hậu. Có một lần, bà nói với hắn bùi ngùi: "Mẹ cậu là một người rất tốt bụng. Hồi bà còn, cô vẫn hay sang chơi." Qua cô cháu gái, hắn biết được, ngôi nhà ấy có một cô gái bằng tuổi cháu hắn. "Nó mê tiếng hát của cậu lắm. Những tối cậu hát, nó chạy hẳn sang nhà, rủ cháu lên cầu thang nghe trộm". Hắn cười.

Cuộc sống thời bình thật khốn nạn với một kẻ lương thiện, đã hai ba tháng lang thang vẫn không thể tìm một công việc ở Hà Nội, khi mà đi xin việc, đâu cũng nhan nhản lính trở về.

Một buổi sáng đầu hè oi, nóng, hắn cởi trần, bổ củi trên vỉa hè, chợt bắt gặp ánh mắt của cô gái bên kia đường nhìn sang.

Cô gái thật đẹp. Cái vẻ đẹp của một thiếu nữ vừa lớn làm hắn sững sờ vài giây. Mơn mởn như đoá hồng vừa hé nụ vào một sớm xuân. Hắn hơi ngượng, quay vào nhà mặc áo may ô. Tối đó hắn buột miệng kể lại với cô cháu gái. Cô cháu bảo: "Cậu ngượng gì, nó là Hương bạn cháu."

Một tuần sau, những buổi tối mát trời, hắn và cô gái tên Hương ấy, cùng cô cháu gái trèo lên sân thượng. Trên gác có giàn nho xanh mướt phủ rộng tầng thượng chống nóng. Chớm hè, nho bắt đầu có những trái non, vùn vụt sinh ra từng chùm lúc lỉu xanh trong như ngọc, rồi thoắt căng nõn trái. Hắn hái nho chấm muối ớt, cùng cô gái trẻ nhăn mặt. Cô gái ngồi bên hắn. Tóc xõa bờ vai, nắng chiều soi lên mái tóc đen như mun, sóng sánh như lụa và xông lên mùi con gái. Đôi mắt đen thăm thẳm. Cái miệng luôn tươi với đôi môi mọng như trái nhót, hồng thắm trong ráng chiều. Lần đầu tiên, ở chiều ấy, khi cô bứt một trái nho đưa lên miệng hắn, hắn chợt thấy cô hàng xóm rất đẹp. Thực ra có sức mạnh nào đó xui bẩy hắn làm điều gì đó, nhưng hắn chần chừ. "Nho còn xanh quá!" Hắn bất giác nói!

Cô gái rất nhanh thân thiết thân với hắn. Nhiều tối hè, mạnh bạo đề nghị hắn đàn, hát những bài ca cũ, mà hôm nào cô nghe lén ở bên kia đường. Mắt cô mở to, nhìn hắn đăm đắm, nghe hắn kể về các câu chuyện của chiến tranh đằng đẵng mà hắn trải qua. Một tối, cô cháu bắt hắn đọc lại bài thơ của gã Simonop. Hắn đọc, tự dưng lâu lắm lại xúc động trào lên. Cảm giác hình như đôi mắt của cô rơm rớm trong đêm tối nhập nhoè. Sao lại khóc? Đâu, em chả khóc, có anh khóc! Cô gái bướng bỉnh!

Chuyện của hắn vẫn tiếp tục vào những đêm rảnh rang. Miên man các trận đánh. Không có một mối tình nào trong suốt cả mười một năm hắn sống còn với chiến tranh. Thế giới của hắn toàn đàn ông và bắn giết, đâm, chém, đồng đội hy sinh, những trận chiến thua, thắng. Phục kích, mật tập, đánh mìn và đạn, bom. Hắn thật lắm chuyện. Hắn kể rất sinh động, tỉ mỉ cho cô về cánh rừng khooc, lá giòn, rộng nổ lộp bộp dưới chân. Ở Hà Nội, có giầu tưởng tượng thế nào cũng không thể hình dung được. Hắn nói về con sông ào ào, hun hút chảy giữa lòng núi đá trên đỉnh Trường Sơn và những đêm săn bắn, bẫy tất cả các loại thú, khi cơn đói thắt ruột hành hạ. Những đêm mưa triền miên, nằm trong hang lạnh, nhóm lửa bằng zippo, châm thẳng vào mảnh thuốc bom, rồi nghe lửa phì phì reo, cồn cào bụng rỗng hoang, nhớ về Hà Nội v.v...Cũng đôi khi, trong câu chuyện liên miên, có một bóng hồng lướt qua, nhưng chỉ là tiếng hát của đám thanh niên xung phong vọng lên, rồi mất hút cuối con đường đi qua; đó là các cô gái Lào, Thượng, Pacô lưng đeo gùi, miệng tươi như hoa, tay cầm dao phăm phăm đi trước đoàn quân. Một cô gái lưng trần, rám nắng đã cho hắn và bạn hắn dăm bắp ngô nếp dẻo, cứu hắn qua cơn đói lả xuýt toi mạng, trong một lần lạc rừng. Những câu chuyện chẳng đầu đuôi lạ hoắc với hai đứa con gái liên miên không dứt tới hai mùa trăng.

Cô gái cũng kể chuyện khi hắn hỏi vọc vạch. Theo hắn, những câu chuyện của cô kể, toàn chuyện trẻ con. Nhưng hắn vẫn lắng nghe và đôi khi tủm tỉm cười.

Hắn bắt đầu thỉnh thoảng sang nhà cô chơi.

Gian nhà hai chục mét vuông cho năm mạng người. Không có cả toa let. Góc nhà quây thành nơi nấu nướng, cạnh đó có một cái lỗ đậy hờ bằng một cái nắp chĩnh cũ. Hôm đầu tiên ngồi đối diện với cô chủ nhà, hắn nhận ra ngay, thoang thoáng mùi khó chịu. Mùi khai nồng, thu thủm, hôi rình như xông lên từ phía có cái lỗ đậy hờ kia. Cô gái cũng thật thà kể, nơi đây xưa kia là chỗ rửa ráy của quầy bán rau. Người ta đục nó thông thẳng vào cống thành phố, nên những ngày nóng, cả nhà em khó ngủ, vì mùi hôi nồng nặc. Nhưng không có nó thì thoát nước thải vào đâu? Hắn định bảo, ừ đêm đêm buồn đái, thì đái vào đấy cũng tiện, nhưng hắn không nói ra câu nói ấy.

Ngôi nhà như thế! Sự mong muốn gặp nhau bắt đầu nhen lên ngày một nhiều hơn và đã xoá đi sự khó chịu khi ngồi trong cái mùi chẳng thơm tho tí nào. Cô gái cũng biết ý, mỗi khi hắn sang, chèn chặt nắp cống lại bằng một miếng giẻ cũ. Có lần cô còn dội một thùng nước ào ào vào cái lỗ quỷ quái ấy.

Hắn có những khi chán mà không thể chia xẻ với cô. Tỉ như, trong chiến tranh ao ước trở về, khi trở về quả là chẳng dễ dàng với một kẻ không tiền, không việc làm. Cũng đôi khi hắn phụ giúp ai đó, không nề hà công việc gì, như dọn gạch vỡ, quét vôi nhà, phá một bức tường sắp đổ, phụ thợ nề v.v...toàn các công việc cơ bắp và nhận được vài đồng tiêu vặt. Nhưng không phải lúc nào cũng có công việc mà hắn lại nghiện thuốc nặng. Hắn bắt đầu bán đi những kỉ vật chiến tranh và tất cả cái gì gọi là gia tài của một người lính.

Đi bán đồ của chính mình mà như bán đồ ăn cắp. Hắn ngượng. Chỉ sợ, ai quen hắn, bắt gặp. Hắn bán vật đầu tiên là cái tăng mới tinh còn phấn trắng. Rồi bán chiếc áo mưa sĩ quan cũng mới. Vài chục dụng cụ điện tử hắn tháo trên một chiếc xe M113 bị hỏng máy trong căn cứ chiếm được. Cả mấy cái công tắc điện đẹp lắm, hắn định khi nào rảnh thay thế những công tắc sứ cũ mòn, chập chờn ở sân nhà. Ngày bán cái võng là hắn đắn đo mãi. Cái võng cũ, có dăm vết thủng lỗ chỗ. Đó là vệt bom bi xuyên qua, trong trận đánh Boloven năm nào. Trận ấy, người bạn thân nhất của hắn, cùng tiểu đội, đã chết. Hắn may mắn thoát hiểm, nhờ cái ba lô bên cạnh, nhờ thân thể người bạn che cho những viên bi, những mũi tên thép nhỏ xíu, cứng, sắc ghê người, có thể xuyên qua bất kì vật gì. Nhưng vẫn phải bán sạch. Đói và thèm thuốc. Sau vài lần bán đồ, hắn không ngượng nữa khi gặp mấy bà chè chai đồng nát, kể cả lần hắn bán con dao găm Mỹ có rãnh thoát máu sâu hoắm và đen sì, khắc chìm dòng chữ U. S. A- Army. Dao găm này, hơn tám năm vẫn là vật bất li thân trong rừng. Bán! Rồi cũng chẳng còn gì để bán nữa, lại đúng vào tuần Hà Nội mưa. Đói, lại thèm thuốc cồn cào. Nằm khèo trên gác xép, nhìn ra trời miên man mưa trắng xoá. Cay đắng cười!

Buổi sớm sau, hắn dậy thật sớm, ra đầu phố, tới tất cả các nơi ban ngày là quán nước. Len lén nhặt ở đó những đầu mẩu thuốc lá.

Sớm đó mưa ngừng và nhạt nắng. Hắn leo lên sân thượng, dưới những đám quả nho xanh như ngọc. Cẩn thận rũ sợi thuốc vụn từ những đầu mẩu cong queo, hôi hám, dính cả cát và đất. Rồi cũng quấn được hơn chục điếu sâu kèn cho bớt cơn nghiền. Sớm hôm sau nữa, đúng vào lúc hắn đang chế tác thuốc lá như vậy, cô cháu gái và cô bạn gái hàng xóm xuất hiện sau lưng khi nào chẳng rõ. Cô cháu hỏi: "Cậu đang làm cái gì đấy?" Hắn ngẩng mặt lên. Bàn tay hôi, khai nồng mùi thuốc cháy dở gặp ẩm. Hắn chạm ngay ánh mắt của cô gái nhìn không chớp. Hắn muốn chui vào lỗ nẻ. Đứng dậy, đá phăng dúm thuốc đi. Mặc hai cô gái sững sờ, không hiểu điều gì làm hắn tức giận? Hắn chạy xuống gác như ma làm.

Ba ngày, hắn tránh mặt cô. Ba ngày, hắn lang thang khắp nơi và đau khổ nhận ra, sự tìm việc ngày càng khó khăn hơn, khi tới đâu cũng thấy áo Tô Châu và dép đúc. Hắn có thể đầy khả năng, sức khỏe để làm rất tốt vai trò gác cổng ở bất kì nhà máy nào! Không có cái chân ấy cho hắn! Một lần hắn thất vọng ê chề khi một lão thương binh nói, nhà tao, năm thằng vào mặt trận. Ba đứa trở về toàn ăn bám mẹ. Nghe nói, số bộ đội giải ngũ ở thành phố hơn ba vạn nữa! Hắn nhớ mẹ ghê gớm, suýt bật khóc trong đêm ấy!

Một tối mệt mỏi trở về, hắn hơi bất ngờ nghe cô cháu bảo, cái Hương nó gửi cho cậu gói gì ở đầu giường ấy! Trên táp-đờ-luy của hắn, gói giấy bọc ba gói thuốc Trường Sơn. Hắn bàng hoàng. Bên trong, có tờ giấy học trò, dòng chữ nắn nót mềm: "Anh bộ đội hút ít thôi. Hại lắm đấy nhé! Rồi lại thi thoảng ho sù sụ như ba em đấy!"

Hắn lên sân thượng. Bóc gói thuốc và rít thật mạnh hơi thuốc vào lồng ngực. Lòng hắn thực khó tả. Vui, buồn, hạnh phúc và cay đắng.

Vài hôm sau, cô gái từ bên kia đường chạy sang khi thấy bóng hắn vừa đi về: "Anh rảnh không? Hộ em bài hình không gian khó quá!" Hắn nhận lời ngay. Cô hàng xóm cười, khoe cái răng khểnh ánh lên. Má lúm đồng tiền.

Họ ngồi bên nhau ngay sau cửa sổ sát tường nom ra đường. Cô gái lấy vở có bài tập đưa cho hắn. Một bài tập không khó quá, dù đã bỏ hơn mười năm học tập. Chỉ dăm phút sau hắn đã có lời giải. Cô gái ngồi sát lại. Hắn cảm thấy hơi nóng của da thịt. Mùi tóc. Hơi thở. Hắn quay sang. Đôi mắt cô gái trong. Mi dài đen, thăm thẳm nhìn lên. Trong người hắn bỗng có một sức mạnh ghê gớm thúc dục. Hắn nắm vội lấy bàn tay cô đang cầm bút. Tay trái quàng lấy eo cô. Rất nhẹ! "Kìa anh!" Cô gái nói ấp úng, nhưng bàn tay cầm bút vẫn trong tay hắn. Im lặng quá. Hắn run lên. Cô gái chợt nói lí nhí: "Kìa anh bộ đội!" Thế thôi mà hắn sợ. Hắn buông tay cô ra. Khi đó, hắn mới thấy khuôn mặt cô chợt hồng rực. Không thể ngờ, một thằng đàn ông như hắn, vượt qua bao nhiêu lần trước gian nguy và cái chết lại hèn nhát như thế, tim đập loạn và rất sợ ai nhìn thấy hắn và cô trong trạng thái như vậy.

-Anh về đây.- Hắn bước vội về nhà, không ngoái đầu trở lại.

Tối đó hắn lên dàn nho. Đàn ghi ta cũ, rè rè lại cất lên những nhịp chậm. Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh. Soi sáng đường chiến sĩ dưới ngàn cây....Giọng hắn ấm, nên càng buồn. Hắn suy nghĩ miên man. Em mới 16 tuổi. Sao hắn làm như vậy. Hắn yêu cô ư? Nhớ cô ư? Hắn đã bao giờ yêu, hoàn toàn không biết tình yêu là cái gì. Hắn không được phép như vậy. Không việc làm, không tiền, không tương lai. Còn cô gái tốt bụng, đẹp, trẻ, trong văn vắt ấy! Tất cả ở phía trước. Tháng tới cô sẽ thi. Nếu có việc gì xảy ra, cô gái trượt. Không, không nên thế! Dù là nhắm mắt lại, hình ảnh khuôn mặt cô đỏ lựng, môi mọng như trái nhót, cứ chói chang hiện lên.

Hắn tránh mặt cô gái.

Ba ngày sau, hắn vô cùng vui mừng kiếm được một công việc rất tầm thường ở một công ty buôn bán ngoại thành. Việc ấy do chị hắn cậy cục, nhờ vả năm sáu người mới xong. Phải sống đã! Hắn nhận đi làm ngay, lầm lũi tới cơ quan nọ, chạy giấy, đun nuớc cho công nhân và dọn ba cái hố xí không cửa đầy giấy báo bay tứ tán mỗi khi con gió thốc thổi.

Ngày đầu tiên có lương, hắn mua dăm thứ lặt vặt cho hắn. Một gói ô mai. Bọc ổi thơm nức, tươi roi rói. Một cái cặp nhựa Sài gòn trông như ngọc bích. Gọi là lời cám ơn hôm nào và cũng báo cho cô hàng xóm biết, hắn đã có việc làm. "Em sắp tạm biệt anh!" Cô gái cười cười nói khi hắn sang, ngồi chưa ấm chỗ! "Đi đâu?" Hắn hơi bất ngờ. "Cả nhà em vào Đà Nẵng. Ba em nhận công tác trong đó. Chủ nhật này, em đi". Hắn muốn nắm lấy tay cô, nhưng má cô gái xuất hiện. Bà tươi cười nói, khi nào cháu vào trong nớ, tới nhà cô nhé! "Dạ." Bà má quay ra cửa. Em nhìn vào mắt hắn. Hình như em chờ hắn một câu gì đó mà hắn không sao nói được. Hắn và cô im lặng tới cả chục phút. Buồn thế! Hắn về.

Đó là một đêm hắn trằn trọc. Hắn dự tính, tuần này sẽ đi mua cái gì đó có giá trị và thứ Tư tới sẽ nghỉ việc tiễn cô đi.

Thứ hai đi làm, hắn đột ngột được lệnh phải xuống ngay Hải Phòng, xung vào đội tiếp nhận chuyến tầu biển, nhập hàng Hải sản cấp cứu cho thị trường Hà Nội từ phía Nam ra. Mới đi làm, không thể từ chối công việc đột xuất. Hắn về nhà vơ vội ba lô, chạy sang nhà cô gái mà chẳng thấy ai có nhà. Hắn lên tầu xuôi Hải Phòng, lần đầu trong đời hắn thấy buồn thậm tệ, vô cớ.

Cuối tuần hắn trở về. Ngôi nhà bên, hắn thấy cửa được khoá ngoài. Và, chỉ dăm hôm sau đã có chủ mới. Hắn như kẻ ngơ ngẩn mới mất một vật gì rất quý giá. Mỗi khi lên sân thượng, hay khi nhìn sang bên kia đường, hắn vẫn thấy hình ảnh cô bé tên Hương hiện ra chấp chới, như ảo như thật, cười và phô cái răng khểnh duyên dáng làm sao.

Suốt cả thời gian dài sau đó, hắn không hề có thông tin cô gái. Hắn thường tự an ủi là cô đang bận học thi. Cũng có khi hắn nghi ngờ, hay chính hắn cũng chẳng có một sức mạnh để tìm cách liên lạc với cô.

Nhưng mãi sau này nghĩ lại, hắn cho rằng, khi người ta bị sự thúc ép bởi đời sống cần tồn tại thì nó sẽ đè bẹp cả nỗi nhớ váng vất trong hắn, làm hắn tự nhiên dần sao nhãng bóng hình cô.

Một năm sau, không chịu nổi cảnh ăn cơm tập thể với những miếng thịt mỏng như tờ giấy và bát canh cá tanh lợm trong các bữa cơm tập thể, dành cho kẻ độc thân, hắn quyết định phải có gia đình. Hắn lấy vợ. Vợ hắn là người thiếu nữ cùng cơ quan. Cứ cặp kè với nhau ngày này sang ngày khác, lại nấu cơm rất ngon, làm hắn như cây bị đốn ngã. Hắn bảo với thiếu nữ, trợn trạo và thẳng tuột: "Này, em lấy anh nhé!" Cô gái đồng ý. Khốn nạn, họ, chưa một lần nói được câu: Anh yêu em và ngược lại dù trong thăm thẳm ánh mắt.

Hôm đón dâu, chiếc xe Hải Âu vòng qua phố, chuẩn bị đỗ trước nhà. Hắn bỗng nóng gáy. Linh cảm mách, có ai đó đang nhìn hắn chăm chú. Hắn ngoảnh lại. Hắn gật thót người, nhận ra cô đứng ngay ở bên đường. Áo em trắng tinh. Tay em cầm túi xách mầu đỏ. Mắt em nhìn không chớp vào mắt hắn. Em không cười như bao lần xưa cười với hắn.

Bao nhiêu năm, hắn không bao giờ quên được cái nhìn ấy. Cái nhìn như đầy ăm ắp lời trách móc, như vấn hỏi con người anh. Đâu rồi mắt ánh nét cười, đôi mắt tinh nghịch, biết nói khi cầm từng quả nho...Ôi tình, kẻ bạc bẽo là hắn. Mắt em nhìn anh và hỏi: "Sao anh không yêu em mà vội vã đi lấy ai?" Không còn là đôi mắt tươi rói xanh chấm muối, nhét thêm mẩu ớt, đưa lên tận miệng hắn. Lần đầu tiên hắn nhận ra, hắn chẳng phải là hắn nữa.

Sau này nghĩ lại hắn mới hiểu ra sự thúc ép của đời sống vật chất tầm thường, cơm, áo, gạo, tiền, đôi khi lại mạnh hơn, làm lu mờ cả những ước mơ tốt đẹp, đáng yêu và có khi rất thiêng liêng. Khốn nạn nhất là khi hắn nhận ra cái nhìn ấy thì đã muộn, bởi vì sau này nhớ lại, chính gây khắc ấy hắn biết hắn yêu ai. Không yêu, thực dụng, đó là một sai lầm khởi đầu của thời bình, không bao giờ hắn tự tha thứ.

Ba ngày sau, qua cô cháu, hắn mới biết, cô hàng xóm ở Hà Nội một ngày rồi trở về Đà Nẵng ngay. "Nó bảo dự định ra đây chơi hai tuần. Định rủ cậu cháu mình đi Đồ Sơn như năm nào mong muốn tắm biển một lần... thế mà nó lại trở vào ngay!" Cô cháu kể. Hắn im lặng. Thì ra cô hàng xóm đã đỗ vào Trường đại học khoa văn. Như vậy, đường cô đã tới đích đầu tiên, đúng như dự kiến mà cô từng nói với hắn. Chỉ có bây giờ, hắn đã xa cô quá rồi!

* * *

Sáu năm sau, hắn cũng học xong một khoá kinh tế và dần thăng tiến. Duy có đời sống vợ chồng của hắn, chẳng ra gì, rạn vỡ chỉ vì những lí do cũng chả ra gì. Cái đời sống vợ chồng sau chiến cuộc, khi khởi nguồn từ cơm áo, lại bị chính sự vật vã của áo cơm, nhất là với hạng người chỉ quen với chiến cuộc, hoàn toàn thiếu kĩ năng sống bình thường, đã giết mòn con người hắn. Và điều đó làm hắn bế tắc, đau khổ.

Nhiều khi hắn chán ở nhà, muốn đi thật xa, tới một nơi nào đó để chạy trốn sự bất lực, yếu kém, dù hắn tự hiểu, chính hắn chứ không ai khác phải tự chịu trách nhiệm với những đổ vỡ.

Hắn buồn và tập tọng làm thơ, viết truyện, cho quên đi những nỗi niềm mà chỉ mình hắn biết. Thơ và truyện hắn đều tầm tầm. Tuy nhiên, dù còn vụng dại về ngôn từ, nhưng khi những điều hắn viết cất lên từ tấm lòng chân thật, báo chí cũng đón nhận và việc ấy giúp hắn ít nhiều vợi đi phiền muộn.

Tháng hè năm đó, cơ quan hắn có vài chiếc xe tải mới được phân cấp, lại ở tận thương cảng Đã Nẵng. Giám đốc quyết định, hắn sẽ đi vào đó, thay mặt cơ quan đưa lái xe vào tiếp nhận những chiếc xe ấy.

Đứa cháu gái thấy cậu vào Đà Nẵng đã viết thư cho cô gái và gửi chút quà Hà Nội. Hắn mỉm cười và thoáng nhớ lại những ngày đầu trở về "Ừ cậu sẽ tìm tới tận nơi!" Hắn ra phố, mua ít mứt sen, bánh đậu, cân chè Thái Nguyên dậy mùi thơm ngậy. Một vài túi ô mai và bánh cốm. Hắn mỉm cười khi xếp tất cả vào chiếc cặp da đen to.

Không khó lắm khi tìm ra nhà của cô. Cô không có nhà. Má cô mời hắn ở lại "cho có dịp gặp cả nhà vào bữa tối". Bà kể, em nó đi dạy. Tối mới về. Hắn được má cô dẫn đi xem ngôi nhà rộng rãi. Hắn chợt nhớ lại chái nhà xưa và tự nhiên bao nhiêu hình ảnh cũ rõ mồn một ập về khi nhìn thấy chiếc ảnh, em cười tươi vô cùng, treo bên trên chiếc bàn đầy sách vở. Hắn nhìn thấy dăm tờ báo Văn Nghệ đã đăng truyện của hắn. Cái tên tác giả được gạch bút chì đỏ và một dấu hỏi khá đậm bên cạnh? Có lẽ nào, cô đã nhận ra đó là hắn? Lòng hắn trào lên nhói đau vừa thấy khuôn mặt với bàn tay cầm bút năm nào như trong tay hắn. Hắn mong cô bạn trở về nôn nao. Nhẩm tính sẽ cùng em đi dạo và nắm lấy đôi bàn tay năm xưa! Không mình sẽ hôn em! Nhất định đêm nay phải hôn em!Hắn nghĩ.

Hai tiếng chờ đợi trôi qua. Rồi cô gái trở về. Em lại đẹp rực rỡ hơn cả ngày xưa. Cái vẻ đẹp của tuổi mười sáu giờ đây được thay thế, tràn đầy, bởi sự mãn khai, như một đoá hồng nhung nở đúng vào mùa xuân sắc. Cô cũng bất ngờ, mắt ánh lên niềm vui gặp lại.

Bữa cơm tôi thật vui. Bao nhiêu câu chuyện về cái phố của hắn và gia đình ba má cô, được râm ran tái dựng lại trong bữa cơm.

Bẩy giờ tối. Hắn xin phép má cô để hai anh em ra sông Hàn đi dạo.

Cô gái cất lời trước. Hỏi hắn bao chuyện. Cô bầy tỏ ái ngại khi thấy hắn có vẻ hơi gầy. Giọng cô trùng xuống "Em nhớ anh, khi đó vẫn bổ củi bên đường. Nom rắn chắc, không như hôm nay. Anh có ăn được nhiều không? Anh lại hút thuốc? Anh bỏ thuốc đi!". Lòng hắn càng vui khi được biết rằng, cô nhận ra hắn ngay khi đọc xong truyện ngắn đầu tay hắn viết. "Em không thể quên những câu chuyện anh đã kể cho em trên sân thượng. Chỉ có thể là anh mới viết và suy nghĩ như thế!" Cô khẳng định. "Thế còn giàn nho không hả anh?" Cô gái chợt hỏi. "Giàn nho không còn nữa!" "Tiếc nhỉ. Cái dạo ấy, bao nhiêu là nho". "Ừ, giàn nho xanh!" Hắn vô tư nói không ẩn ý. Cô gái im lặng. Họ không nói, tận tới khi gửi xe và đi dạo bên bờ sông Hàn. Hắn im lặng nghĩ: "Phải hôn em. Nhất định phải hôn em!"

Bờ sông đầy gió. Mênh mang nước rào rào chảy. Sóng đánh oàm oạp vào vách bờ xi măng. Họ dừng lại và hắn nhìn sang cô. Trong ánh đèn phản lên từ mặt nước, mắt cô gái như có trăm ngàn ánh sao. "Anh nói gì đi chứ!" Cô nhìn hắn. Hắn nhắc lại ngôi nhà có mùi cống. Cái lỗ bí mật. Sân thượng. Những đêm trăng và những quả nho, cái bàn học. Cả gói thuốc. Hắn kể, cái bức chân dung của cô gái treo trên phòng tranh năm nào cha hắn họa, vẫn treo trên tường. Hắn vẫn lên đó khi buồn và hỏi tranh: giờ cô sống thế nào. Cô gái im lặng nghe. Mắt cô xa xăm và hắn nôn nao. Có một dòng điện bất thần xung mãn chạy trong hắn, làm bàn tay hắn run lên, khi muốn ôm lấy bờ vai cô và muốn hôn cô như đã định từ chiều.

Không biết ma xui quỷ hờn thế nào tự dưng hắn lại bật ra câu hỏi: "Em có người yêu chưa?" Cô gái cười: "Em có rồi!" Hắn nhìn vào mắt cô: "Anh ấy ở đâu, làm gì?"

Cô gái nói, giọng rất tự nhiên: "Anh ấy cũng bộ đội như anh, nhưng không khoẻ mạnh như anh. Anh ấy bên Campuchia" "Sao mà không khoẻ mạnh?" "Anh ấy hay sốt rét. Cũng đang đau dạ dầy!"

Hắn chợt buông thõng hai tay xuống. Đôi bàn tay ấm rời bỏ bờ vai cô. Trong lòng hắn thoáng thấy cảnh hành quân vội vã của chính hắn. Những trận sốt miên man, người đau như có trăm ngàn kim chích, đã từng kể với cô năm nào. Hành tá tràng quặn lên khi quá đói. Cả tuần toàn húp cháo sắn. Nam Lào năm ấy chớp hiện lên. Tự dưng hắn chẳng có một ham muốn nào nữa và thấy buồn vô cùng. Thôi ta về đi, kẻo má em mong. Muộn rồi! Hắn nói. Thực ra khi đó mới chín giờ đêm. Trăng chênh chếch lên. Ánh trăng đôi khi buồn tênh, y như người đầy tâm sự muốn say rượu làm quên; tỉnh rượu, bỗng gặp trăng lên sáng trưng góc rừng quạnh, khi không một ai bên mình.

Họ thong thả đi về nhà. Hắn im lặng nghe cô kể về học đường, về nhiều chuyện khác của thành phố, mà tai cứ ong ong, chẳng thể biết cô đang nói gì với hắn.

Hôm sau hắn trở về Hà Nội. Thành phố xa dần, xa dần. Hắn không tự lí giải được thành phố chẳng quen thuộc gì mà sao hắn chợt thấy lòng tê tái khi con tầu chui vào đường hầm và thành phố mất hẳn!

***

Tình yêu là gì? Nó sinh ra từ đâu? Đã bao lần hắn tự hỏi mà không có câu trả lời, dù hắn cứ cố trồi lên khỏi dòng chảy đời sống mà vẫn bị cuốn trôi đi. Năm bốn mươi tuổi, hắn rơi vào dòng thác của cơn lũ xuất khẩu lao động. Và cơn lũ cuối cùng này, phá vỡ cái gia đình nhỏ bé của hắn, trong xa cách và bởi nhịp sống có những khác biệt không thể hàn vá những vết nứt.

Hắn có gần hai chục năm lang bạt nhiều nơi trên thế giới, trải thêm biết bao biến động thế giới và của cả cá nhân hắn. Khi lên voi, lúc xuống chó, chỉ để có tiền mà tiền quan trọng thế nhưng không làm cho hắn thấy hạnh phúc. Bởi sự khốn nạn nhất là hắn chưa bao giờ thoát khỏi cảm giác ở trọ, ngay cả trong ngôi nhà đầy tiện nghi sang trọng của hản nơi nước người. Cả khi, hắn tới những nơi tuyệt đẹp, trong lòng hắn lại nhớ về ngôi nhà cũ có giàn nho và những mảnh trần lở lói, về cái lỗ khỉ gió đầy mùi thối của nhà em.

Mùa xuân, khi qua cái tuổi tri thiên mệnh đã nửa thập kỉ, hắn com cóp ít tiền, mua một mảnh đất và xây một ngôi nhà nhỏ. Hắn nghĩ, rồi người ta cũng sẽ phải trở về với những điều quen thuộc của máu thịt; người như hắn thường phải ăn cơm và nhớ rau muống; hắn không thể quen với ngày tết noel, và phải nghỉ năm mới theo Tết âm lịch.

Một buổi sớm Hà Nội, hắn nhận được tin nhắn. Hắn bàng hoàng nhận ra cái tên quen thuộc hiện ra trong dòng tin:

-Em ra Hà Nội một tuần. Sẽ tới thăm anh. Hàng xóm- Hương!

Quá khứ dội về như một đợt sóng. Hắn gọi điện. Nhắn tin và ba ngày sau tới khách sạn gặp lại em.

Nhân viên khách sạn nói với hắn rằng, đoàn khách đi ăn sáng ở đâu đó bên kia đường. Hắn đoán vị trí nơi bên kia đường rồi vòng xe lên quán Bát Đàn. Từ quán ca-fê, hắn nhìn sang

Gần hai mươi năm. Thế mà hắn vẫn nhận ra cô ngồi bên chiếc bàn giữa những người đồng hành của cô. Thời gian chẳng thể níu lại những nét xuân phơi phới của một ai. Cô đã sấp sỉ tuổi bốn mươi, trở thành người đàn bà. Nhưng, đúng là cô chứ không thể ai khác với khuôn mặt, nụ cười, chiếc răng khểnh, đôi lúm đồng tiền ấy, đôi môi ấy và, cái cử chỉ kia... Hắn châm một điếu thuốc và chờ đợi.

Hắn chờ cho đoàn khách ăn xong và đứng dậy. Khi cô bước ra vỉa hè, hắn chạy vội sang rồi tiến tới. "Hương! Xin lỗi. Có phải là Hương không?" Cô gái quay lại. Mắt cô gái mở to, thoảng thốt giây khắc và bừng lên ánh mắt, nụ cười tinh nghịch tươi rói năm nào.

Họ ngồi bên quán cà-fê ngay xế bên kia quán ăn. Quán cà-fê sớm còn vắng khách. Nghe rõ tiếng nước lóc róc ở quầy bar.

Những người đàn bà, dù trượt qua thời xuân sắc, vẫn giữ được thân hình thon thả, dường như lại có sức quyến rũ đàn ông hơn cả thời thiếu nữ. Trong mắt hắn. Rõ ràng là Hương là típ người đàn bà như vậy, nhất là khi cô yên lặng, đôi mắt đen thăm thẳm cứ tươi mãi nhìn hắn. Hắn nói gấp gáp rằng nếu không nhớ nơi đây là Việt Nam, hắn đã ôm chầm lấy cô giữa phố.

Họ đi về ngôi nhà của hắn. Hắn đưa cô thăm nhà, cho cô xem mảnh vườn nhỏ. Xem bức tranh chân dung cô, chất liệu lụa, của cha hắn để lại cho, treo trong phòng khách.

Họ lên sân thượng nhìn ra bốn phía Hà Nội.

-Ở đây sao anh không trồng một giàn nho nhỉ? Cô nói. Trồng nho bây giờ còn ai lên hái nho nữa! "Em! Bây giờ có nho em sẽ hái" Em quay sang cười. Mắt em sáng lên, tinh nghịch. Hắn nôn nao và đặt tay lên vai em. Em nhìn xuống. Hắn kéo nhẹ em vào sát người hắn. Và bắt đầu thấy râm ran. "Đừng anh. Em không muốn!" Cô vẫn mềm người không chống lại vòng ôm của hắn. Cái ôm xiết nhẹ đủ cho hắn cảm giác ngực em sát vào ngực hắn. Hắn ngửi thấy hương của tóc đàn bà, hương của miệng có đôi môi thắm đỏ xưa giờ tuy đã phai mầu son, nhưng vẫn mọng làm sao. Và, đặc biệt hắn nhận ra hơi thở không bình thường phả lên đê mê. Không, anh không thể. Anh phải hôn em. "Đừng anh!" Em nói rất bé. "Ngày ấy nhẽ ra anh phải nói. Anh chưa khi nào quên em. Anh nhớ em. Luôn nhớ. Đôi khi gặp ở trong giấc mơ. Em có tin không?" Hắn nói gấp gáp. "Em tin!" Giọng cô như chìm trong hơi thở. Hắn cúi xuống, chỉ tích tắc sẽ là môi chạm môi, và ở cái khoảng khắc ấy, không hiểu vì sao hắn lại chợt nghĩ tới bên bờ sống Hàn năm ấy. Mắt hắn hơi nhoè đi, khi gần cận vào đôi mắt có đôi hàng mi rất đen. Có thể hắn ghen và, yêu. Hắn đột ngột hỏi: "Anh ấy vẫn là anh bộ đội năm xưa?"

Em như tỉnh giấc. Ngửa mặt lên, không đẩy hắn ra, mở to mắt:

-Anh bộ đội nào?

-Anh bộ đội ở Campuchia hay sốt rét và đau dạ dầy em kể với anh bên sông Hàn ấy?

Cô gái hiếng mắt sang bên rất nhanh ngạc nhiên và vài gây sau chợt nhớ ra chuyện xưa, tủm tỉm cười. Em nhìn vào mắt hắn. Mắt dịu dàng:

-Trời ơi! Anh vẫn thật ngốc nghếch. Làm gì có anh bộ đội nào. ....

***

Hắn choáng váng. Tự buông em ra.

Thì ra ngày ấy cô chưa hề yêu ai. Thì ra cái anh bộ đội Campuchia ấy sót rét và đau dạ dầy là hình ảnh của hắn mà hắn ấu trì không nhận ra. Hắn là kẻ nhỡ tầu vì quen một nếp nghĩ của thời chiến tranh trận mạc. Trời ơi! Gần ba mươi năm trôi qua...mang tiếng trải đời tới thế mà hắn không hề biết ngõ ngách của tình yêu. Con người như hắn rõ ràng là ngớ ngẩn, khờ khạo.

Tự đâu, tràn ngập nỗi buồn mà không thể kìm lại, dù cô đang trước mắt hắn. Cô, một con người cụ thể bằng da thịt. Bao nhiêu năm gặp lại, trải qua bao biến động, tới cái tuổi hai bên không còn son trẻ nữa, hắn mới chợt nhận ra, đây chính là người đàn bà đẹp, theo đúng quan niệm của hắn, cái đẹp chính là cái làm hắn xúc động. Nhưng hắn là kẻ chuyên nhỡ chuyến, đã để truột mất những giây khắc mà nếu hắn tinh tế và có vốn sống để nhận ra, hắn có thể định nghĩa đầy đủ rằng, tình yêu là cái gì và nó như thế nào...

Hôm sau, tiễn cô quay về Đà Nẵng. Khi tầu vừa chuyển bánh. Hắn thấy nhạc ngắn reo báo có tin. Bật. Có dòng chữ đen vẻn vẹn:

Em thương anh!

Nước Đức-2008

Tôi với ông có họ mà !

Truyện ngắn của Nghiêm Lương Thành

Phúc Cụt. Bạn bè vẫn gọi hắn như vậy.

Cái tên, đơn giản, được được đặt ra để phân biệt người này với người kia, tiện cho việc giao tiếp và thông tin trong quan hệ cộng đồng. Cái tên của một người, nhiều khi, cũng phản ảnh một hy vọng tốt đẹp nào đó mà những bậc cha mẹ muốn gửi gắm vào đứa con của mình.

Trong cái tên Phúc Cụt: Phúc là tên cúng cơm, là một trong những chữ có ý nghĩa tốt đẹp nhất mà người phương Đông đã từng nghĩ ra; Cụt là biệt hiệu mà bạn bè, đồng đội đặt cho hắn. Cụt, đối với Phúc, nghĩa là chẳng còn cái chân nào. Thoạt nghe, thấy cách gọi ấy ác quá, thậm chí là độc ác. Nhưng thế đấy. Ngẩng mặt lên cành mít, cái ta nom thấy là quả chứ không phải là múi.

*

Chiến tranh đã kéo Phúc vào vòng xoắy khốc liệt và vô tình của nó khi hắn đang học năm thứ ba bậc đại học. Và, cũng chính chiến tranh, đã dửng dưng lấy mất của hắn đôi chân; một đôi chân bình thường như muôn vàn những đôi chân khác; nghĩa là chúng có thể giúp hắn đem lại hạnh phúc cho những người thân yêu và chính mình, bình dị và tự nhiên như mỗi buổi sớm ta thức dậy giữa muôn vàn tiếng chim hót bên ngoài cửa sổ. Tuy vậy, sau khi chữa trị vết thương, với đôi chân gỗ có những chiếc nẹp sắt, Phúc quay trở lại học tiếp và, không cần phải cố gắng gì nhiều, hắn đã lấy được tấm bằng cử nhân như mong muốn. Khi nhận việc tại một sở của nhà nước, hắn đã tự hứa và hạ quyết tâm với chính mình là phải làm việc thật tốt, phải vẫn là người hữu dụng như bất cứ một người bình thường nào.

Thời gian ở chiến trường và sau đó là những năm chữa trị và học tập, xã hội đã có nhiều biến đổi; có nhiều cái không giống như những gì hắn đã từng biết, cũng có nhiều cái lạ lùng trái khoắy hắn không hề thấy trước đấy. Mặc, Phúc vẫn hăm hở lao vào công việc, cặm cụi học thêm ngoại ngữ, tranh thủ thời gian đọc thêm để nâng cao kiến thức chuyên môn và sống thật chan hoà, thành thực với các đồng nghiệp. Nhưng, thật oái oăm, mọi cố gắng suy nghĩ phát hiện, phân tích và đề xuất trong công việc hầu như đều không được đón nhận; khi thì từ phía các phòng chức năng, lúc thì từ phía đảng uỷ, lần khác lại từ phía ban giám đốc. Tuy không nói thẳng ra, nhưng khá nhiều những cặp mắt - những cái cửa sổ tâm hồn - cho thấy họ đã, không hẹn mà gặp, không bàn bạc mà đã khá nhất trí với nhau rằng tất cả những cố gắng, nỗ lực của Phúc đều bắt nguồn từ một động cơ không trong sáng. Một lần, một đồng nghiệp vui tính vỗ vai hắn, bảo: "Này anh bạn, cống-hiến ư ? Mỏi lắm ! Phải tách từ đó ra làm đôi và chọn lấy một chữ hợp với giới tính thì mới có cơ khá được".

Trong một thời gian dài, cảm thấy bị xúc phạm, lại thấy nhân tình ngày càng thiếu ngay ngắn; người người nói dối như cuội, ngành ngành nói dối như ranh; cộng với cuộc sống mà đồng lương không đủ ăn của những năm tám mươi đã đẩy hắn đến bước phải lắc đầu cay đắng, làm đơn xin thôi việc. Bà giám đốc xinh đẹp có đôi mắt ướt và cặp má nóng hầm hập ấy, tay cầm tờ đơn của Phúc, miệng thỏn thẻn:

- Đồng chí nà người có đào tạo, nà thương binh ở chiến trường ra, tôi yêu cầu đồng chí nên cân nhắc kỹ về việc lày.

- Đồng chí ... ?

Hắn trố mắt, phô ra một cái cười ngô nghê của kẻ thiểu trí, không nói gì và uể oải xoay người đi ra. Được mấy bước, không hiểu thế nào, hắn dừng chân, quay lại, thủng thẳng và bình thản:

- Còn điều này, nói để chị yên tâm: Tôi chưa bao giờ là đồng chí của những người như chị ! Và, nếu đời tôi có một cái gì đấy, rất nhỏ mọn, nhưng có thể tạm coi là đáng tự hào, thì chính là điều đó.

Sau việc này, trong lúc trà dư tửu hậu, trong sở có người nói: "Ôi dào ! Tính tình thế nào thì số phận bày ra thế ấy ! Ngẫm mà xem, cái tên thường cứ ngược lại với cuộc đời thực của con người ta. Chẳng trách, các cụ trước thường tìm những chữ không hay đặt tên cho con cháu của mình. Ngày xưa, kẻ vô phúc là kẻ không có gang có thép trong mồm; ngày nay được hiểu là kẻ không tiến bộ. Hai chữ tiến bộ này, dĩ nhiên, không hề chứa đựng chút nghĩa lý triết học nào, nhưng bây giờ nghe nó cứ ... tùng tục thế nào ấy !". Nhưng những người bà con cư trú ở cùng xóm với Phúc lại không cho là như vậy.

*

Một người không còn cái chân nào thì cũng kể như là phế nhân. Phế nhân thì tất sống theo cuộc đời của phế nhân và, đương nhiên, đấy không phải là nơi để các cô gái chín chắn có thể gửi gắm cả cái cuộc đời quý giá và dài dằng dặc của mình vào đó. Ấy là cái lý của đời sống. Nhưng trong muôn vàn những cái lý, vẫn có một cái lý nữa là Nồi nào vung ấy. Vậy thì tất phải có một cô gái đã phải lòng hắn. Cô gái đó chính là người bán sách ở hiệu sách Nhân Dân của thị xã. Nhưng tại sao lại phải lòng thì, chính Liên (tên của cô gái) cũng không biết được. Đơn giản, chẳng hiểu sao, cô chỉ muốn được gần gũi hắn, về ở hẳn với hắn, chăm sóc hắn, chăm sóc cả cây ghi ta cũ kỹ đã sờn nước véc ni của hắn; chăm sóc luôn cái tủ sách có những cuốn đã nhầu nhĩ, vàng ố mà hắn đã mua ở cửa hàng nơi cô bán và kỳ cục tích cóp giữ gìn trong nhiều năm cùng với những vật dụng trong nhà có cho cũng không ai muốn lấy; và cuối cùng, chiều chiều được ngồi trên bãi cát, cùng nhìn ra vịnh, lắng nghe tiếng đàn của hắn trong lao xao sóng biển, trong mênh mông vời vợi của hoàng hôn dịu lành, thảnh thơi và yên ả.

Cuối cùng, cô gái đó đã được toại nguyện. Và, dưới cái mái căn nhà cấp bốn thấp tè, trông ra một mảnh vườn ấy, đã có thêm một quả tim vừa vẩn vơ, vừa thiếu ý chí vươn lên.

Để có thể sống, dù là trái tim vàng hay không vàng, đều cần phải có thực phẩm. Thực phẩm giúp cho sự sống của hai quả tim to và, đến lượt chúng, nuôi dưỡng và phát triển những quả tim bé bỏng - thế hệ tiếp theo - của chúng. Nghe theo lời khuyên của một người bạn bên Hòn Gai và với sự hỗ trợ đắc lực của anh cùng những người bạn đã đặt cho hắn cái tên Phúc Cụt, vợ chồng hắn đã chính thức nhập nghệ trồng hoa. Người ta bảo hoa là tinh tuý của thảo mộc, là hồn vía của tự nhiên; chẳng biết có đúng không, nhưng, cái tạng hắn xem ra hợp với giống này. Cứ xem cái cung cách của hắn: trên đôi chân gỗ, suốt ngày lọc cọc di chuyển ngoài vườn, mê mải vun sới, tưới tắm, chăm bẵm, nâng niu từng nụ hoa thì thấy. Các tay chơi hoa, một khi đã trông thấy giàn phong lan của hắn, không ai không sinh lòng quyến luyến, chẳng người nào muốn về nữa.

Tuy không thể trở nên giàu có, nhưng cuộc sống của gia đình hắn cũng có thể nói là được đảm bảo và ổn định. Hai quả tim bé bỏng ngày trước nay đã trở thành hai quả tim nhỡ và, bằng cái lối thi cử nghênh ngang đáng ghét (Đúng là bố nào con ấy), chúng đều đã vào được đại học. Riêng thằng em, chơi ghi ta còn tuyệt hơn cả bố, vừa tốt nghiệp đại học và được giữ lại làm giảng viên của trường.

Hai con đều ở xa, nhà chỉ còn lại hai kẻ "son rỗi". Ngày ngày, Phúc đảm nhiệm phần vườn tược, cây trồng. Còn Liên, chở hoa ra chợ, thực hiện khâu cuối cùng của quá trình sản xuất.

*

Liên là người mau miệng. Chiều nào ở chợ về cô cũng kể cho hắn nghe một chuyện nào đó. Hắn thường lắng nghe và thỉnh thoảng lại mỉm cười. Hắn nghe cốt để Liên vui, cũng để biết thêm được cái xã hội ngoài kia nó đang chuyển động thế nào. Một buổi chiều, vừa về đến nhà, Liên đã thông báo:

- Mình này, chúng mình vất vả đã đành, nhưng cũng còn có chỗ chui ra chui vào, còn có mảnh vườn mà bới lấy cái ăn; thế mà vẫn còn có những người ... đúng là vô sản. Sao lại khổ đến thế cơ chứ, khổ quá chừng cơ !

- Khổ thế nào ?

- Chân đi khập khiễng, người ngợm hom hem, áo quần tiều tuỵ, lang thang kiếm sống, không vợ không con, không nhà không cửa ...

- Chuyện đó có gì mới !

- Nhưng mà ở tít tận những miền nam lang bạt ra đây cơ ...

- Sao mình biết ?

- Em nghe giọng nói mà.

- Người đó làm nghề gì ?

- Em không biết ... chỉ thấy ai thuê gì, làm nấy. Lúc có người thuê đã đành, lúc không có việc ... chắc là đói lắm. Tối ngủ trong lều chợ, trên mình có độc manh áo cũ, trời thì rét căm căm thế này ...

Phúc khẽ thở dài, ngoảnh nhìn ra vườn. Lúc sau bảo vợ:

- Ngày mai mình lấy cái chăn chiên, cái áo khoác với mấy bộ quần áo cũ của tôi, đem đỡ cho người ta. Nhớ đem thêm cả đồ ăn nữa ...

Liên bật cười. Hắn cau mặt:

- Mình cười cái gì ?

- Lắm lúc trông mình cũng hổ phù hổ pháp ra phết, em cũng thấy sợ sợ là. Thế mà ... không ngờ mình cũng dễ ... cảm động nhỉ !

Phúc trợn mắt, vớ lấy cái chổi phất trần, dướn thẳng lưng, đập đánh đét xuống mặt bàn, lập nghiêm:

- Cảm cảm cái gì ? Có đi nấu cơm không thì bảo !

Liên, miệng vẫn cười, né mình và bước vội xuống bếp. Lát sau, lẫn với tiếng bát đĩa xoong nồi va vào nhau, Phúc nghe bập bõm tiếng vợ khe khẽ hát: Tôi vui chơi giữa đời ối a biết đâu nguồn cội ...; giọng hát không đẹp nhưng các bạn hắn vẫn khen là có tình.

*

Những kẻ lang thang cơ nhỡ, những hạt bụi dân sinh lớn bé, đủ màu, đủ vẻ, phiêu bạt trong giang hồ, đời nào mà chẳng có; chuyện này vẫn thế và Phúc đâu có lạ. Điều khiến hắn băn khoăn là không hiểu vì đâu, họ luôn như một thứ người thiên cổ, luôn hiện hữu sống động giữa cuộc đời nhưng cũng luôn, dứt khoát, được quy là tàn tích của chế độ cũ. Cái anh chàng người phương nam sống vất vưởng ngoài chợ ấy, Phúc đâu có biết mồm ngang mũi dọc thế nào; vậy mà hình ảnh một người đàn ông hom hem, tiều tuỵ, buồn thảm, chân đi khập khễnh cứ vương vất, ám ảnh hắn mãi từ cái buổi chiều hôm ấy. Nhận thấy điều ấy, có lúc hắn bật cười tự giễu: Hẳn đây là mối "tương liên" của những kẻ "đồng bệnh" ?

Độ này, trong những mẩu đối thoại buổi chiều với Liên, không giống trước đây, hắn luôn là người bắt đầu: "Này mình, cái anh chàng ngoài chợ hôm nay có việc làm không ?" hoặc: "Những người ngoài chợ họ đối xử với anh chàng ấy thế nào ?" hay: "Đêm qua chắc hắn rét lắm nhỉ ?" ...

Một lần, thấy Liên ngồi tước chuối xanh ở đầu hè, hắn hỏi:

- Chiều nay nhà mình ăn món ốc nấu om hả mình ?

- Vâng, mình không thích à ?

- Thích, nhưng ... nấu kha khá vào; ngày mai mang ra cho cậu chàng một ít. Chậc, vô gia cư thì có bao giờ được ăn miếng ngon.

Liên dừng tay, nhìn chồng:

- Này mình, hôm nay em hỏi quê quán ở đâu, anh ta ngần ngừ một lúc rồi bảo: Sài Gòn. Dân Sài Gòn sao lại ra nông nỗi thế cơ chứ ! Nhìn anh ta ngơ ngác trông theo những cành đào trên tay những người đi sắm tết, em đoán chắc anh ta buồn và nhớ nhà lắm, nhưng chắc không có tiền về. Tiện có tiền bán hàng, cộng với một ít có sẵn trong người, em đưa cả cho anh ta, bảo tết nhất đến nơi rồi, anh cầm lấy mà về quê.

- Ôi ! - Phúc nhìn Liên, đôi mắt mở to, thán phục rồi cứ thế ôm chầm lấy vợ mà hét lên - Vợ tôi muôn năm !

- Nhẹ thôi - Liên khẽ nhắc - gớm, làm em nghẹt cả thở. Nhưng anh ta đâu có chịu nhận. Anh ta nhìn em chăm chăm, lắc đầu, chắp tay cảm ơn rồi vội bỏ đi; hai con mắt nom thảm lắm. Mà xem cái cách cảm ơn, em cảm thấy anh ta là người đã từng được giáo dục cẩn thận. Lạ thật đấy, không thể hiểu được !

Mấy hôm sau, Phúc có việc sang Hòn Gai, vừa thăm bạn vừa muốn thỉnh giáo người ấy về kỹ thuật trồng một loài hoa mới nhập nội. Tối mịt hắn mới về đến nhà.

Cửa nhà mở toang; ánh đèn hắt ra ngoài làm thành một vệt sáng đến tận cuối vườn, nhìn rõ cả những bông hoa trắng muốt đang khẽ xao nhẹ trong thoang thoảng mặn chát của hơi gió biển. Mới được gặp bạn, trong tâm trạng phấn khích vui vẻ, vừa vào đến sân hắn đã gọi: "Mình ơi, anh về rồi !".

Không thấy Liên chạy ra như mọi lần. Bước vào nhà, hắn thấy có người đang nằm trên chiếc giường kê ở góc buồng ngoài; chiếc giường này vẫn dùng cho bạn bè ở xa đến chơi. Hắn mừng rỡ, tiến lại gần giường, toan lật chăn, nhưng ... không phải là một người bạn như hắn nghĩ; đó là một người đàn ông lạ hoắc với khuôn mặt hốc hác, nước da xạm tái của người bị sốt rét rừng và đôi chỗ bị bầm dập, xước sát do va vập hoặc một tai nạn gì đó. Người ấy đang thiêm thiếp, đầu hơi nghiêng ra phía ngoài. Nhìn kỹ ... khuôn mặt hơi vuông, cặp lông mày rậm như hai con tằm nằm vắt ngang trán, vuông góc với cái sống mũi thẳng, thanh tú ... Lập tức, trong vô thức, có cái gì đấy, mơ hồ, rất lạ đang kéo về khiến Phúc lặng người. Cái đó, không gọi ra được, đang rần rần lan toả trong người hắn, vừa hư vừa thực, vừa gần vừa xa ... quả đạn cối, tảng đá ... cái nòng súng đen ngòm ...

Không có nhẽ ... là người ấy ? Cặp lông mày chữ nhất ấy, cái sống mũi thẳng thanh tú ấy. Phát đạn oan nghiệt ... anh ta gục xuống ... bên một gốc cây trơ cành trụi lá ... ngoái lại, cái nhìn oán hận ... đã chết rồi mà ! Hồi ức từ ba mươi năm trước thức dậy, ùa về, bùng lên trong tâm khảm hắn như một thứ hoà khí trong buồng nén gặp tia lửa điện, mọi cái hiển hiện rõ ràng như có thể đưa tay ra là sờ thấy được ...

Trận đánh trên điểm 613 ấy đã diễn ra thật tàn khốc. Cả hai bên đều thiệt hại nặng. Phúc lồm cồm bò dậy, nhưng không sao gượng được, lại đổ xuống, cặp đùi nhũn nhẽo và đau buốt kinh khủng; cái buốt ấy như một luồng điện, truyền và xoắy đến tận óc. Hắn đưa tay lần xuống chỗ đau, chạm phải cái gì nhơn nhớt, lành lạnh. Đưa lên xem, thấy bàn tay nhầy nhụa máu tươi ... Trông xuống sườn đồi, qua làn khói đạn cối vẫn chưa tan hẳn, đó đây ngổn ngang thây xác; những cái xác mặc đồ rằn ri và những cái xác mặc đồ xanh lá cây nằm ngồi đủ kiểu. Một cái bi đông rách toác, thớ nhôm bị xé, hắt ra cái ánh kim trắng nhợt đến quái gở. Một khẩu AR15 ngoẹo nòng, nằm gếch lên một hòn đá. Một mảng thịt đỏ thẫm như thịt trâu, còn dính một mẩu vải, đè vắt lên một nhành mua vàng úa. Ngay bên hắn, trên mặt đất héo rụi nồng nặc mùi thuốc súng, nằm chếch một tấm ảnh thiếu nữ chụp nghiêng đang mỉm cười e thẹn. Cô là ai ? Người Sài Gòn, Quảng Đà ... ? hay Hà Nội, Thái Bình ... ? Chắc giờ này cô đang tựa cửa ngóng trông một người anh hoặc một anh chàng điển trai nào đó. Rất có thể anh ta đang nằm đâu đó, trên cái sườn đồi nhầy khét này. Có cánh tay ai đó giơ lên phía sau bụi cây, rồi sau tiếng gọi chới với "Mẹ ơi !", cánh tay đó đổ vật xuống ... Phúc gắng lết người, dựa lưng vào một tảng đá độc loang lổ địa y và cảm thấy trời đất bỗng nhiên đổi sang một màu tía sẫm và độ sẫm ấy cứ tăng dần, tăng dần đến đen kịt; hắn lịm đi. Không biết khoảng thời gian ấy là bao lâu, chỉ biết lúc thần kinh đã làm việc trở lại thì hắn nghe có tiếng chân người lạo xạo trên mặt đất. Cứu thương đến rồi ! Được cứu rồi ! Phúc thầm reo lên và cố mở mắt, nhưng ... trước mặt hắn là một thằng sỹ quan trẻ măng để ria con kiến, mặc bộ quân trang loang lổ những mảng nâu và xanh. Nhận ra Phúc còn sống, thằng đó, nhanh như cắt, quay phắt cái nòng súng ngắn về phía Phúc. Gần như đồng thời, Phúc cũng đưa nòng khẩu AK về phía nó. Bốn mắt nhìn nhau chằm chặp; hai ngón tay trỏ đều đã kéo hết nấc thứ nhất; cả hai đều như bị đông cứng lại; cả hai đều nhận ra mình đang đứng ở làn ranh giữa cái sống và cái chết và chưa biết mình sẽ thoát khỏi cái tình cảnh oái oăm ây như thế nào. Khoảnh khắc định mệnh ấy đã diễn ra thật lạ: Thằng râu con kiến từ từ hạ súng xuống và liệng khẩu súng sang bên, nói như thì thào:

- Bắn tao đi ! Trước sau gì rồi cũng chết. Tao ngán lắm rồi !...

Phúc, đầu óc trống rỗng, cũng hạ nòng súng của mình xuống ... Thằng đó ngớ mặt, đứng đực ra hồi lâu. Dường như, có điều gì đó, thậm vô lý và không sao hiểu được, đang diễn ra trong cái đầu rối bù vương dính mấy mảnh lá khô và những hạt đất đỏ của hắn. Lúc sau, khẽ giơ bàn tay, một cử chỉ như chào, hắn quay người, thất thểu bước về phía chân đồi. Phúc thở phào. Nhưng, đột nhiên, thằng đó quay lại. Phúc lại giương nòng súng lên.

- Mèn đét ơi ! Mày sợ cả cái thằng đã hạ súng trước và bây giờ không có lấy một tấc sắt trong tay sao ?

Phúc phì cười, hạ súng xuống.

- Ờ - Thằng "ria con kiến" mỉm cười, cái đầu gật gật - Chơi vậy mới ngon chớ !

- Mày quay lại làm gì ?

- Mày bị thương nặng rồi. Tao thấy máu chảy ướt sũng cả hai cái ống quần kia.

Dứt lời, thằng đó cởi phăng cái áo ngoài, cởi tiếp cái áo lót, xé chiếc áo lót đó ra thành nhiều dải nhỏ rồi, mình trần trùng trục, cầm mớ vải đó tiến lại bên Phúc.

- Đứng im. Lại gần tao bắn ! - Phúc quát, tay lăm lăm khẩu súng.

"Ria con kiến" dừng lại, đắn đo rồi bảo:

- Tao muốn cầm máu cho mày. Mày đề phòng vậy cũng có lý. Thôi, để đôi bên thoải mái, tao đề nghị: Trong khi tao cầm máu cho mày, mày cứ việc gí nòng súng vào mạng sườn tao. OK ?

Phúc, mất quá nhiều máu, đau đến lả người, không thể không đề phòng một thằng trước đấy nửa giờ đã xả đạn vào đồng đội của m ình từ bên kia chiến tuyến.

"Ria con kiến" ngồi thụp xuống, đưa tay sờ mó, nắp bóp tìm vị trí đặt ga rô. Đoạn, hắn lượm một mảnh đạn pháo lam nham như lưỡi dao mẻ nằm gần đó, cứa cứa vào quần của Phúc, xé cụt phăng cả hai ống và bắt đầu băng bó. Máu đã cầm, băng bó đã xong. Thằng đó ngồi phệt xuống đất, đối diện với Phúc, mặt mũi bơ phờ:

- Tao hỏi thiệt nè, trả lời cho lương thiện nghen: Nếu đổi mày làm tao, mày có quay trở lại không ?

Phúc cảm thấy lúng túng. Đang chưa biết thoát ra khỏi cái mớ đang bùng nhùng trong đầu bằng cách nào thì thằng đó phá lên cười:

- Mày đúng là một thằng lương thiện thứ thiệt đó !

- Tao đã trả lời đâu ?

- Khỏi ! Coi cái bộ lúng túng của mày, tao chắc mày là thằng ngon lành, nhưng ..., cha nội ơi, nói thế nào nhỉ - hắn đưa tay lên đầu, nhăn mặt gãi gãi - trong cái đầu của mày vẫn còn mắc mớ ba cái thứ hệ luỵ nhăng nhít nào đó.

Phúc nhăn mặt, dồn lại:

- Hệ luỵ gì ? ... Mày đã thoát được khỏi cái vòng đó rồi sao ?

Môi mím chặt, "ria con kiến" cúi xuống, rầu rĩ. Lát sau, ngẩng lên nhìn Phúc, lắc đầu:

- Không ... không đâu ! Cái đó đâu có dễ ... ngay cả khi đã xuống tóc vào chùa rồi, cũng hiếm người thoát được.

Im lặng.

- Mà cái con người ta kể ra cũng nhảm nhí thật - Đột nhiên, chẳng hiểu thế nào, "ria con kiến" hăng lên như kẻ nhập đồng, vào mạch - tự mình bày đặt, tự tác ra hông biết bao nhiêu thứ, rồi lại tự mình nhốt chặt cái thằng mình vào trong đó. Có những thứ sằng bậy như phù thuỷ ma vương, cũng có những thứ cao cả bác ái như tôn giáo; nhưng rồi chính sự tối tăm ngu muội đã dựa trên những cái cao cả đó, tạo ra những cuộc thánh chiến, lấy đi, chẳng chút thương tiếc, không biết bao nhiêu những sinh mạng của những thằng ngon lành như mày và tao. Có lẽ ... cái ngu dại nhất của người đời là choảng nhau. Má ơi ! Đúng ra, tao với mày phải gặp nhau bên bàn nhậu chớ ! Rồi, biết đâu, mày lại phải kêu tao là anh nhạc nữa cũng nên ! Mà nè, tửu lượng của mày có khá hông ?

Hai cái đùi bị dập nát của Phúc đang tấy lên rần rần, đỉnh đầu buốt tái, cặp môi khô khát. Phúc gắng cười, lắc đầu:

- Tao không biết uống rượu. Nhưng bây giờ, thú thật, tao đang khát nước lắm.

Nhìn đôi môi nhợt nhạt, héo quắt của Phúc, "Ria con kiến" đứng dậy, nhặt cái bi đông rách toác lên, bảo:

- Rồi ! Chờ chút, tao đi kiếm thử. Nhưng bị thương mà uống nhiều thì coi chừng thấy cụ nội năm đời đó nghe.

Trời đã về cuối chiều. Mấy con chim ăn đêm đã bắt đầu rời tổ, đập cánh lạch phạch, bay qua khu chiến địa vẫn còn sặc mùi tử thần. Đầu nóng hầm hập, hai hàm răng đã bắt đầu gõ vào nhau cầm cập, Phúc vẫn ngồi dựa lưng vào tảng đá, mắt dõi theo cái lưng trẻ trung của thằng "ria con kiến" kia mà lòng vẫn chưa hết băn khoăn, xao động.

"Ria con kiến" thận trọng dò dẫm, tìm đường xuống chân đồi, nơi có con suối nhỏ đã gần như cạn mặc dù lúc ấy mới chỉ đầu mùa khô. Đi qua một cây xăng lẻ trụi lá nữa là hắn đến bờ suối. Đúng lúc đó, đột nhiên, hai phát AK chắc đanh từ một góc nào đó dội lên và, trời ơi ... "Ria con kiến" bỗng xững lại, người hơi dướn lên, dáng chừng đang gắng xoay người về phía Phúc. Phúc thấy "Ria con kiến" nhìn mình, một cánh tay giơ lên ... rồi ngã nhào xuống đất, tay vẫn nắm khư khư cái bi đông rách toác. Toàn bộ cảnh đó đã diễn ra trước mặt Phúc. Cùng lúc ấy, rất nhanh, Phúc thấy mặt mày xây xẩm, đầu óc quay đảo và không biết gì nữa.

*

Người đàn ông khẽ cựa mình, mở mắt. Bốn mắt gặp nhau. Người ấy lộ vẻ bồn chồn, thảng thốt làm một động tác như muốn ngồi dậy. Phúc vội đưa tay ra đỡ và nhẹ nhàng đặt anh ta nằm lại gường. Có lẽ đúng ! Trong cái khoảnh khắc giữa cái sống cái chết khi đó, đôi mắt đen này, đôi mày này, cái sống mũi này, đã khắc đậm vào tâm trí hắn.

- Ông tha lỗi, tôi bị chúng nó đánh té xỉu, chị Liên và mấy người đưa tôi về đây.

- Làm sao chúng nó đánh ông ?

- Chúng rạch túi của người đi chợ. Tôi cản. Chúng không lấy được gì, tức giận, hè nhau quây vào đánh tôi.

- Bây giờ ông thấy trong người thế nào ?

- Dạ, tốt. Chỉ còn ê ẩm chút xíu à.

- Thế thì được. Mà ... ông là người Sài Gòn ? - Phúc hấp tấp hỏi.

- Dạ, phải. Sao ông biết ?

- Thời gian gần đây, bà xã tôi hay nói chuyện về ông mỗi khi ở chợ về. Còn điều này, hy vọng là tôi không nhầm: Ông là một sỹ quan quân đội Sài Gòn, đã đánh nhau với chúng tôi trên điểm 631 thuộc địa phận Kon Tum ?

- Dạ, phải. Trận giáp lá cà đó đại đội tôi chỉ huy coi như bị xoá sổ. Tôi cũng nhận ngay ra ông từ hồi nãy, lúc ông đứng bên giường.

- Tôi cũng vậy. Nhân tiện nói luôn: Tôi tên là Phúc, Phạm Phúc, biệt hiệu là Phúc cụt.

- Cảm ơn, tôi tên Thiện, Nguyễn Duy Thiện, biệt hiệu là Thiện cà nhắc.

- Vậy mà tôi cứ ngỡ ông đã chết bên gốc cây xăng rồi. Sau hai phát súng, tôi đã thấy tất cả. Hình như ông vẫn oán tôi ?

- Dạ, đâu có ! Tôi biết hai tiếng nổ đó phát ra từ hướng nào chớ ! Có điều, tôi bị dính một phát vào chân và không còn cách nào khác, buộc phải vờ chết. Cái người đã bắn tôi, sau đó đã tìm thấy ông và cõng đi.

- Cảm ơn, không có ông cầm máu cho thì tôi cũng đứt rồi.

- Khỏi cần nhắc lại. Chúng ta đã hiểu nhau trước khi tôi đi kiếm nước cho ông rồi mà. Ông không nhớ ông đã lúng túng thế nào khi tôi hỏi sao ?

- Nhớ, nhớ ...Ấn tượng lắm, quên sao được.

Vừa lúc ấy, Liên bước vào nhà, một tay xách con cá thu, tay kia là nắm lá láng mới hái. Thoáng nhận ra thái độ thân thiết giữa hai người đàn ông, cô đùa:

- Này, hai người biết nhau từ trước rồi à ?

Phúc quay lại, miệng cười rộng ngoác:

- Phải, đây chính là anh chàng sỹ quan Việt Nam Cộng Hoà trên điểm 631 tôi đã kể cho mình nghe từ hồi chúng mình còn chưa cưới đấy.

- Trời ! - Liên ngẩn ra, kinh ngạc - Cuộc đời đến là hay. Trời xui đất khiến đấy. Em sẽ làm món gì đấy để hai cố nhân uống với nhau một chút chứ nhỉ ?

Dứt lời, Liên quầy quà bước ra. Phúc ngăn lại và đem hai chiếc ghế nhựa lại bên giường:

- Mình ngồi xuống đây với anh em tôi. Lát nữa cũng được.

Rồi anh quay sang phía Thiện:

- Còn điều này, tôi hỏi, nhưng ông không trả lời cũng được: Làm sao mà ông ra nông nỗi này ?

Thiện nhìn Phúc hồi lâu, rồi chậm rãi:

- Sau trận đó, tôi được người ta đưa về chữa trị và được đánh giá là mất khả năng chiến đấu. Tôi trở vô Sài Gòn với cái chân đi cà nhắc. Rồi hoà bình vãn hồi, người ta đưa tôi đi học tập cải tạo một thời gian. Tuy vậy, mấy năm sau tôi cũng lấy được vợ. Vợ tôi sinh con cho tôi được hai lần, nhưng chẳng đậu được đứa nào. Có thể tôi cũng đã bị nhiễm cái chất dioxin oan nghiệt ấy. Đường con cái thì như vầy. Thêm nữa, điều này quá nặng nề với vợ chồng tôi, đi đâu cũng thấy người ta xầm xì: Thẳng trước là sỹ quan Nguỵ quyền đó ! Vợ tôi bả cũng bị cực lây, vợ Nguỵ mà. Thú thực, chân cẳng tôi như vầy, lại thêm cái nhãn mác cắc cớ đó trên người, nên hổng có xin được việc ở đâu; nói cho đúng: chỗ phù hợp với sức lực thì người ta không nhận, chỗ thông cảm nhận cho thì sức mình không kham nổi. Ở nhà cũng hổng làm được gì nhiều. Bả còn trẻ, nhỏ hơn tôi cả chục tuổi, đẹp người, tên là Sứ mà tánh nết cũng thiệt hiền như bông sứ vậy thôi.

- Còn họ hàng thân thích ?

Thiện thở dài, lắc đầu:

- Họ cũng vậy thôi, ở bầu mà. Còn vợ tôi, ngày ngày lụi cụi với gánh hủ tíu, kiếm ăn, thuốc thang cho chồng ... Thương bả quá, chịu không nổi, tôi biểu ly dị để giải phóng cho bả, nhưng bả hổng có chịu, cứ khóc hoài à. Nói nhẹ hổng được, nói khùng cũng hổng nghe, tôi để lại đơn ly dị và lời nhắn rằng tôi không muốn sống nữa, đừng tìm mất công, rồi trốn bả, lang thang ra Bắc ... không ngờ lại còn cuộc tái ngộ hôm nay.

*

Sớm hôm sau, khi trời hãy còn chưa sáng hẳn, Phúc lôi Thiện dậy, bảo:

- Vợ chồng tôi đã quyết rồi, dứt khoát là mời ông ở lại hẳn đây. Các con tôi chúng sẽ rất mừng. Tôi còn mảnh vườn này, chúng ta sẽ sống ngon lành. Rồi tôi gọi đám bạn lính tới. Họ sẽ xây cho ông một căn nhà nhỏ - Phúc trỏ tay về mé vườn đối diện - ở chỗ kia. Sau tết, tôi sẽ vào Sài Gòn; nếu bà ấy vẫn còn đợi ông, tôi đón luôn ra.

Thiện ngẩn mặt. Lát sau mới nói được:

- Sao ông lại tốt với tôi đến vậy ?

- Đừng nói thế ... tôi không chịu nổi.

- Thôi, ông để tôi đi.

Thiện lảo đảo, đứng dậy. Phúc đặt tay lên đôi vai gầy guộc của Thiện, nghiêm mặt:

- Một cách lương thiện, trả lời tôi đi: Vua Hùng là gì với ông ?

Thiện há hốc mồm ...

- Là gì nào ? - Phúc gặng.

- Cụ Tổ ... chớ sao ?!

Phúc cả cười:

- Đấy, tôi với ông có họ mà !

Tháng 12 năm 2007

Chuyện tình ngày ấy

truyện ngắn của Trần Nhương

Đêm. Mùa đông. Con đường vắng hoe vào lúc 3 giờ sáng. Một chiếc xe ô tô tải lầm lũi đi. Hình như nó đã vượt một cung đường rất dài. Xe phủ bạt. Người lái xe rất trẻ, đôi mắt thâm quầng vì mất ngủ. Anh đã về gần Hà Nội. Anh đang vui vì sau mấy năm vào chiến trường bây giờ được gặp thành phố nơi anh sinh ra.

Xe qua Ngọc Hồi rồi vào thị trấn Văn Điển. Phố nghèo lại chiến tranh nên trông tiều tụy, xộc xệch như một phố đồng rừng. Người lái xe cho xe chạy chậm để có dịp quan sát dễ hơn. Bỗng phía trước có một bóng người chạy vụt từ phía đường rẽ vào nghĩa trang Văn Điển qua đường tàu sang bên phải đường. Hình như là một cô gái. Đang chiến tranh lại mùa đông sao cô mặc đồ trắng như một nữ sinh Hà Nội ngày xưa. Cô vẫy, có ý xin đi nhờ xe. Chàng lái xe đạp phanh. Chà chà về đến thành phố rồi mà được gặp một cô gái thì thật tuyệt. Mấy năm ở chiến trường anh khao khát nhìn thấy một dáng hồng Hà Nội.

- Em về đâu?

- Cho em về Hà Nội.

- Lên xe đi - Anh lái xe ngả người sang bên phải mở cánh cửa.

Cô gái nhẹ nhàng bước lên, một bàn tay giơ cao có ý nhờ anh lái xe kéo hộ. Bàn tay họ trong nhau. Người lái xe như có một luồng điện chạy rân rân trong người. Cái cảm giác mà từ khi lớn lên anh chưa hề gặp. Nó như bị đoản mạch, nó như nam châm hút kim loại. Người nóng ran hưng phấn đến tột độ.

Xe chạy chậm. Cô gái thẹn thùng nhìn người lái xe. Thi thoảng ánh mắt họ gặp nhau. Rồi cô gái rét run lên. Anh lái xe ép xe vào vệ đường. Anh cởi áo trấn thủ của mình đưa cho cô gái.

- Sao mùa đông mà em ăn mặc thế?

- Em đi vội quá không kịp lấy áo rét.

Hai người trẻ tuổi phút chốc trở nên thân mật. Chàng lái xe trong tâm trạng ngây ngất. Một mùi hương thơm kỳ lạ, vừa nồng nã vừa thanh khiết như vây lấy anh. Hình như anh chưa gặp cái mùi hương kỳ lạ ấy bao giờ.

- Nhà em ở phố nào? À mà em tên gì nhỉ?

- Em tên Trang, ở Khâm Thiên, còn anh?

- Anh ở Yên Phụ gần hàng cây cơm nguội, em biết không?

- Bọn bạn hay lên bơi hồ Quảng Bá qua đấy luôn.

- Mà em ở số mấy Khâm Thiên?

- 300G

- Sao lại 300G? Nhiều số 300 thế kia à?

- Vâng, vốn là một cái nhà rồi chia ra nhiều gian mà anh.

- Hôm nào anh xong việc đến thăm em được không?

- Nhưng chỉ sợ lại vào ngày em đi học.

- Em đang học phổ thông à?

- Em trẻ con lắm hay sao. Em học năm thứ nhất đại học Y.

- Bác sỹ kia đấy. Ở chiến trường khó kiếm được bác sỹ lắm. Em mà ở đơn vị anh thì thành bà hoàng.

- Học xong em xin vào đơn vị anh...

Con đường như ngắn hơn quãng đường nó có. Công viên Thống Nhất đã hiện ra. Chàng trai nuối tiếc càng cho xe chạy chậm lại.

Đến ngã tư Nam Bộ (nay là đường Lê Duẩn) - Khâm Thiên, cô gái xin xuống.

- Anh đưa em đến tận nhà cho đỡ đi bộ.

- Cám ơn anh, em còn có việc phải đến nhà bạn.

Nói rồi cô gái nhảy xuống xe biến vào đường phố. Lúc này trời đã sáng, Hà Nội tấp nập dòng người vội vã...

Một tuần trôi đi. Chàng lái xe đã nhận đủ hàng. Anh được nghỉ một ngày để ngày mai trở lại chiến trường. Như lời hẹn anh đạp xe xuống Khâm Thiên, tìm đến số nhà 300G.

Hai ông bà già khoảng ngoài 60 tuổi ngỡ ngàng đón anh vào nhà:

- Anh bộ đội hỏi ai nhỉ?

Chàng lái xe lúng túng một chút:

- Cháu hỏi em Trang ạ.

Hai ông bà già sững người, lặng đi:

- Trang nào hay cháu nhầm.

- Không nhầm được, số nhà này mà, em Trang đang học đại học Y.

Im lặng hồi lâu. Bà già bỗng đi vào nhà trong. Ông già hỏi:

- Anh quen Trang lâu chưa?

- Mới tuần trước bác ạ. Trang đi nhờ xe cháu từ Văn Điển về...

Ông già ngân ngấn nước mắt, gặng hỏi:

- Không thể như thế được. Hay anh nhớ nhầm Trang nào.

Chàng trai quả quyết:

- Không thể nhầm được. Em rét quá cháu còn cởi áo trấn thủ cho em mặc kia mà..

Giọng ông già nghèn nghẹn:

- Trang nhà bác chết hai năm nay rồi. Bị bom B52 hồi nó đánh Khâm Thiên.

Đến lượt chàng lái xe bối rối. Anh ngồi như chết lặng. Chả nhẽ hôm đó là ma hiện hình. Cô gái xinh đẹp, vui vẻ thế sao có thể là ma? Chàng lái xe không còn tin vào tai mình nữa, anh cũng không tin cả ông già đang ngồi trước mặt.

- Hay là bác không muốn cho cháu gặp Trang. Chúng cháu vừa quen nhau, là bạn bè thôi mà bác.

Ông già nhìn chàng trai vẻ ái ngại, thông cảm. Khi nghe chàng trai nói thế ông sợ anh lính này nghĩ xấu về gia đình. Ông dẫn chàng trai vào gian trong. Đến trước bàn thờ, trên đó có tấm ảnh một cô gái đang mỉm cười có miếng băng đen dán chéo.

- Có phải Trang này không cháu?

Anh lính suýt nữa thì đổ gục xuống. Đúng là em đây rồi. Trang hiện hình lên ư? Sao em lại nỡ trêu anh như thế. Biết rõ sự việc rồi chàng thắp ba nén hương lên bàn thờ Trang và òa khóc. Ông già cũng khóc. Bà già trong bếp cũng khóc.

Trở ra bàn uống nước, chàng trai nói:

- Hai bác cho cháu được đi thăm mộ Trang.

- Để em ở Văn Điển. Thôi bác cho con em gái nó đưa anh đi.

Tiếng khóc thảm thiết của bà già trong bếp vọng ra: "Con ơi, có điều gì con chưa nói với mẹ thì con cho mẹ biết đi. Con có thiếu thốn gì không? Con đừng trêu ghẹo người trần nữa nhé. Con có thương bố mẹ không con???".

Cô em gái của Trang tên Nhã. Cô gái vừa 18 tuổi, đẹp không kém Trang nhưng vẻ đẹp chất phác hơn. Có thể lấy hình ảnh nàng Kiều, nàng Vân để liên hệ đến chị em Trang. Chàng lính trẻ đèo Nhã xuống Văn Điển. Cũng không biết vì sao tình cảm của anh đã coi nhà Trang như gia đình mình. Anh tự nhiên như một anh trai của Nhã. Khi qua chợ Văn Điển, chàng lính trẻ rẽ vào mua chín bông hồng trắng.

Nghĩa trang Văn Điển với đường ngang lối dọc. Hàng ngàn ngôi mộ xếp hàng theo lô. Đất mới đất cũ xen nhau. Một không khí lành lạnh ớn người. Chàng lính đã từng dạn dĩ bom đạn mà bây giờ cũng thấy gai người. Lòng vòng qua nhiều ngã tư, Nhã hướng dẫn chàng lính đến khu mộ của Trang. Mùa khô, cỏ trên mộ áy đỏ, xác xơ. Mộ của Trang nằm lọt vào giữa dãy. Hai anh em dựng xe bên lối đi. Vừa bước đến, chàng lính chết lặng, đánh rơi bó hoa xuống đất. Nhã thấy vậy vội vàng cúi xuống nhặt hoa. Cô lại nắm tay anh lắc lắc có ý cho anh tỉnh lại.

- Nhã ơi, em nhìn trên mộ kìa. Tấm áo trấn thủ của anh, hôm nọ Trang rét quá nên anh cởi cho Trang mặc.

Nhã kêu lên một tiếng gì không rõ. Chàng lính đặt bó hoa trắng xuống, thắp hương và lầm rầm khấn vái... Rồi chàng cầm tấm áo trấn thủ nhìn lại xem có đúng tấm áo của mình không. Chàng ôm ghì lấy tấm áo. Áo vẫn còn hơi ấm. Hương thơm thanh khiết và nồng nàn tỏa ra vây cuốn lấy anh... Đúng là Trang hiện hình lên đi cùng anh một quãng đường rồi quay về mộ phần và để lại chiếc áo trên mộ. Sao em lại không mang đi? Hay là em trả lại anh? Và em đoan chắc thế nào anh cũng đến đây?.

Chàng lính trẻ băn khoăn không biết có nên mang tấm áo này vào chiến trường hay không. Tấm áo đã ướp hương da thịt của nàng, ta mang theo kỷ vật này sẽ luôn luôn có nàng bên cạnh. Nhưng như thế ta lại nhận lại tấm áo để nàng chịu lạnh hay sao. Cuối cùng thì chàng quyết định hóa tấm áo gửi cho Trang. Nhã không biết nên khuyên anh lính thế nào. Cô đứng bên anh và bất ngờ nắm chặt bàn tay người lính trẻ. Hình như có thêm một sức mạnh nào đó, chàng lính bật lửa. Tấm áo trấn thủ ẩm sương đêm, lại đắp trên mộ không biết từ khi nào nên rất khó bắt lửa. Chàng lính đi vơ một số lá cây quanh đó nhóm lửa. Ngọn lửa lém dần tấm áo và trong phút chốc chiếc áo cháy đùng đùng. Chàng lính trẻ nhìn ngọn lửa và thật kỳ lạ ở nơi ấy khuôn mặt Trang rờ rỡ hiện lên. Nàng tươi cười nhìn chàng và nhìn Nhã. Anh nói khe khẽ: "Em Trang ơi, hôm nay anh đến đây, anh gửi em tấm áo của anh để em đỡ lạnh. Em nhận lấy tấm lòng chân thành của anh. Giá như em không bị bom thì anh...". Giữa lúc đó thì chín bông hoa hồng trắng trên nấm mộ cũng bốc cháy mà không cần có lửa. Chàng lính trẻ và Nhã lạnh toát người. Thế là Trang đã nhận áo và cả hoa nữa. Một làn khói xanh lơ uốn lượn, nhảy múa trước mắt hai người. Chàng lính nhìn vào đó lại thấy khuôn mặt Trang cười mỉm nhìn anh.

- Nhã có nhìn thấy chị Trang không?

- Em sợ quá. Em không nhìn thấy gì. Chị ơi, chị phù hộ cho bố mẹ và em nhé.

Hai người ngôi bên nấm mộ cho đến khi đám tro nguội lạnh. Trời hoàng hôn, ráng đỏ rực. Những hàng mộ như viền bằng mầu đỏ lớp nọ sát lớp kia. Ngôi mộ của Trang trông xa như đang bốc cháy...

Một mình một xe ngày này qua ngày khác, chàng lái xe rong ruổi trở lại chiến trường. Hơn một tuần ở Hà Nội để lại lòng chàng nặng trĩu ưu tư. Chàng không thể lý giải được vì sao lại có cuộc gặp gỡ hồn ma kỳ lạ giữa những ngày chiến tranh như thế. Có một cõi âm thật không. Chắc mọi người khi nghe chuyện này đều cho rằng anh bịa ra. Làm gì có ma, chúng ta theo chủ nghĩa duy vật kia mà!

Khi xe anh sắp vào cầu phao Đò Lèn thì bỗng dưng chết máy. Hết xăng ư, không; mất điện, không. Chàng nhảy xuống mở nắp cabô xem bộ chế hoà khí, bộ chia điện. Tất cả đều tốt. Vừa lúc ấy thi cầu phao bị đứt. Mấy chiếc xà lan rời nhau ra trôi về phía hạ lưu. Một chiếc ô tô đang trên cầu phao kịp thời lùi lại. Rất may không có xe nào bị rơi xuống sông. Hú vía. Bộ phận quản lý giao thông kịp thời chỉ đường cho các xe đi lối vòng qua sông. Kỳ lạ khi anh vừa nhấn nút đề thì xe nổ máy giòn tan.

Khi xe anh vào gần đến đập tràn Khe Ve thì trời mưa như trút nước. Những cơn mưa vùng núi dữ dằn và táo tợn. Nước chảy như xé đất, đỏ ngầu, gầm lên như thác réo. Chiếc xe lại đột ngột chết máy. Chàng lính trẻ lại kiểm tra, mở đi mở lại khóa điện, lại đề mà chiếc xe vẫn im lặng. Nhìn xuống ngầm Khe Ve nước đã tràn trắng xóa, dâng cao. Một chiếc xe đi trước đã bị nước cuốn. Rất may phía dưới có một cây to nên chiếc xe mắc lại. Một lúc người lái xe từ trong buồng lái chui ra. Anh em cùng đoàn đã kịp ném dây để người lái xe lên bờ.

Chàng lái xe trẻ đành đóng kín buồng lái và ngả lưng ngủ thiếp. Anh mơ mơ màng màng và Trang hiện ra. Nàng vẫn mặc quần áo trắng, bên ngoài mặc chiếc áo trấn thủ của anh đã hóa hôm nào. Nàng ve vuốt anh, nằm sát bên anh, nàng hôn lên môi anh. Rồi đến một lúc anh thấy mình ôm ghì một người con gái nuột nà, da dẻ trắng hồng. Cặp vú của nàng nây nây ấm rực trong tay. Chàng đặt môi trên núm vú. Một mùi thơm thanh cao và ngây ngây tỏa ra. Nàng đưa bàn tay mịn màng suốt tấm lưng cường tráng của anh. Và cứ thế sự tinh khôn truyền kiếp của giống nòi đã mách bảo anh khám phá điều kỳ diệu nhất của tình yêu. Họ cuốn lấy nhau, vồ vập, đam mê. Như một cơn hồng thủy dâng cao, như một đỉnh núi vun vút lên trời, chàng lính trẻ phiêu diêu lên miền cực lạc. Lần đầu tiên anh biết thế nào là hạnh phúc, là ân ái. Anh không biết mệt, anh muốn siết chặt để thịt da thơm tho của nàng tan biến trong anh. Và đỉnh cao vờâi vợi của đam mê đã đến. Anh kêu to không rõ tiếng gì, một luồng điện lan tỏa toàn thân. Tiếng anh nhòe vào màn mưa giữa núi. Rùng mình dữ dội. Một hơi thở bật ra thật sảng khoái. Chàng bừng tỉnh. Anh ngơ ngác quan sát, thì ra anh vẫn nằm trong cabin ô tô, ngoài trời vẫn mưa như trút nước. Một bóng người trăng trắng vút bay qua cửa kính.

Chàng lính trẻ định thần. Anh vừa có một cơn mơ sung sướng nhất trần đời. Sao lại là mơ nhỉ. Sao không là sự thật...

Cho đến tận bây giờ không ai biết chàng lính trẻ hồi ấy ra sao. Người ta chỉ truyền nhau bao nhiêu chuyện huyền diệu về chàng. Rằng chàng có một người con gái vô hình đã hộ mệnh nên chàng thoát chết hàng trăm lần. Chàng có trở về sau ngày chiến thắng hay không? Chàng có cùng ai gắn bó hay chỉ sống với kỷ niệm, sống với bóng dáng kiều diễm của Trang...

Bức xạ

Truyện ngắn Vương Tâm

Trong đời người, tôi đoan chắc rằng, ai cũng có những kỷ niệm khó quên.Và rất có thể, tôi cũng như ai đó hẳn đã có không dưới một lần hành động bất thường vì tâm trạng xúc động bất ngờ, hay đắn đo trong một quyết định có phần day dứt lương tâm. Đúng vậy, đã có chuyện đến với tôi thật ngoài sức tưởng tượng. Dễ đã hơn mười năm...Ngày ấy, không hiểu sao, tôi lại dễ mủi lòng đến vậy và đã nhận đóng vai chú rể để cùng Loan về quê. Hay nói cho đúng hơn Loan "mượn" tôi một ngày về trình diện với bố mẹ để cốt tránh cái tiếng không chồng mà lại có con. Cái chính là để an ủi ông bố già bị bệnh nặng sắp về cõi. Loan nghĩ chắc đận này bố mình khó qua khỏi, mà cả làng biết Loan đã cưới hơn một năm rồi mà chàng rể vẫn chưa có dịp về quê thăm bố mẹ vợ. Hơn nữa, để dẹp những lời đồn thổi không hay ở làng xóm, lần này Loan muốn đi cùng chồng về thăm bố mẹ.

Ngày ấy, Loan phải giải thích rất chi tiết với mọi người, nào là muốn giản tiện nên chỉ đăng ký thôi, nào là chú rể cũng nghèo mà sống ở trên thành phố cao nguyên nhiều thứ phải lo lắng nên để dành tiền làm việc khác. Quê thì xa nhất là ông bố ốm nặng, mẹ già yếu, anh em thì tản mát ở nơi xa, tổ chức linh đình tốn kém lắm. Tiền đâu mà lo cơ chứ. Xong xuôi mọi việc hai vợ chồng thu xếp về quê trình mặt sau cũng được.

Đọc thư Loan gửi về, ai cũng cho là phải. Đường sá xa xôi, đi lại tốn kém, ngay ông cô bà chú cũng ngại. ừ thế thôi! - Họ tặc lưỡi - Thế lại hay. Cái chính là hai đứa hạnh phúc, chứ còn theo cái lệ làng xưa thì kích rích khó khăn mọi bề.

Nhưng thực tình năm trước Loan lại bị người chồng sắp cưới bỏ rơi. Trót có thai với nhau đã bốn tháng, bỏ đi cũng khó, mà Loan thì lại thề sống thề chết đòi giữ con lại. Thằng cha Sở Khanh thấy mọi việc trở nên rắc rối, thế là chuồn thẳng đem theo những lời hứa dối trá lừa đảo đã gây tai họa cho Loan.

Hồi đầu năm gặp tôi, Loan còn giấu nỗi bất hạnh của mình, vẫn tươi tỉnh kể chuyện về những dự định trong tương lai của hai vợ chồng. Tôi rất vui, vì Loan là em gái của Bản, một đồng đội của tôi thời kỳ tham gia chiến trường phía Nam. Bản đã bị sức ép của bom nên bị điếc, sau đó trở về quê sinh sống. Nghe Loan nói, vài năm sau Bản còn bị trầm uất, chẳng nói chẳng rằng, nghe chừng bị lẩn thẩn và bị mất trí nhớ. Suốt ngày Bản hùng hục làm mọi việc từ trong nhà ra ngoài đồng chẳng cần ai sai bảo.

Khi anh trai về làng thì cũng là lúc Loan lên thành phố học nghề, rồi trở thành công nhân dệt. Hoàn cảnh gia đình Loan như vậy nên khi biết chuyện tôi càng căm ghét thằng cha Sở Khanh kia. Bỗng nhiên nghĩ tới Bản, tôi thấy aý náy vì chẳng khi nào có dịp về thăm gia đình. Mãi mấy năm gần đây có dịp gặp Loan tôi mới hay mọi chuyện về Bản. Và giờ đây Loan trở thành nạn nhân đã phải nhờ cậy tôi giúp đỡ. Chợt nghĩ nhân dịp này về thăm Bản cũng hay và biết đâu tôi có thể giúp đỡ được điều gì chăng. Trong lòng tôi xáo trộn bao điều về cuộc sống về đời người... Tất nhiên, tôi suy nghĩ đến vài đêm, rồi mới quyết định nhận lời làm cái việc gọi là "rửa mặt" cho Loan với làng xóm, gia đình. Sau đó Loan sẽ sống thế nào nữa. Tất cả chỉ còn nhờ trời. Loan vừa khóc vừa van xin tôi nhận lời. Cô chỉ còn biết trông cậy và rất tin tôi nên mới nhờ việc này. Cứ ngẫm nghĩ tình cảnh của Loan mà thấy thương. Còn thương hơn nữa là tình cảm của bố mẹ Loan và Bản ở nhà, nên tôi đành nhận lời vì biết đây chỉ là việc cực chẳng đã mà Loan cần phải làm.

Ngay sau hôm tôi đồng ý, Loan viết thư về trước cho gia đình, rồi chúng tôi đi mua quà sắm lễ. Bởi lẽ lần này chàng rể ấy là tôi, mang tên Đắc Sở Khanh kia, sẽ đi gặp gỡ những người ruột thịt ở quê Loan. Phòng trường hợp mọi người sẽ hỏi han về hoàn cảnh gia đình nhà trai, tôi đã phải tìm hiểu sơ lược những chích ngang lý lịch cơ bản nhất của Đắc, nhưng Loan lại không đồng ý và nói rằng tôi cứ nói về gia đình của mình là đơn giản nhất và không muốn nhắc đến tên Đắc khốn nạn kia nữa. Mặc dù trong lòng tôi vẫn còn có những lấn cấn nhưng để làm cho đẹp mặt của Loan và gia đình Bản nên tôi vui vẻ lên đường.

*

* *

Dọc đường làng trở về nhà Loan, tôi vui vẻ chào hỏi tất cả mọi người, còn Loan bế thằng cu bên cạnh cùng đon đả cười nói với bất cứ ai gật đầu chào. Nhiều người săn đón nựng đứa bé. Ai cũng vui vẻ hỏi thăm:

- Ôi! Vợ chồng Loan về đấy, hả con?

- Hạnh phúc quá nhỉ.

- Chà! Thằng cu bụ ghê.

- Cháu tên là gì? Ra bà bế tí nào.

- Nhớ sang nhà em chơi, chị Loan nhé...

Mọi người tíu tít chào hỏi làm Loan rất vui. Thỉnh thoảng Loan lại nhìn tôi sung sướng cười. Tôi chợt nghĩ thấy mình thật hạnh phúc như đang sống trở lại những ngày vui sướng nhất trong đời. Đám trẻ con họ hàng láu táu chạy theo tôi nhận kẹo. Chúng cười nói đi theo về đến tận nhà Loan.

Ngay tối hôm đó, cả thôn truyền tin cho nhau nên nhiều người kéo đến uống nước hút thuốc theo lời mời của gia đình từ mấy hôm trước. Tôi cùng Loan đi từng bàn mời bà con cô bác uống nước ăn trầu và hút thuốc. Vui nhất là các bạn gái của Loan thuở ấu thơ đã đến từ sớm để giúp việc. Mấy cô cứ xì xào cấu chí nhau. Họ vừa cười vừa trêu chọc nhau:

- Người yêu cái Thoa còn đẹp trai hơn.

- Không anh Đắc đẹp trai hơn.

- Sao ngày trước thư cái Loan gửi về bảo anh Đắc xấu trai lắm cơ mà?

- Thế còn mày, con chết tiệt ạ, thằng Khuê của mày hẳn đẹp lắm đấy mà còn chê.

- Thấy anh Đắc đẹp trai, con nỡm này ghen với cái Loan đấy mà...

Thế là các cô cứ đấm nhau thùm thụp, rồi cười nói rúc rích ở dưới bếp. Tôi vừa tiếp khách vừa nghe lõm bõm câu được câu chăng, nhưng rất vui. Nhìn mấy cô mang ấm nước từ dưới bếp lên. Mặt cô nào cô ấy đỏ hồng vì lửa. Dưới ánh đèn sáng trưng, nụ cười xinh đẹp của các cô như tranh vẽ vậy. Tôi chủ động cầm tay Loan đi khắp các bàn cảm ơn bà con. Nhưng thật bất ngờ có ai đó lên tiếng:

- Còn anh Bản đâu nhẩy, không thấy anh ra mừng cho em gái à?

- Từ chiều còn thấy nó vừa ở đây mà.

- Chắc lại ra đồng rồi. Tối thế này có khi lại đi bắt ếch không biết chừng.

Tôi đứng lặng người một lúc vì nhớ đến Bản, Loan kéo khẽ tay tôi nhắc nhở chớ có sao nhãng việc cảm ơn mọi người. Cũng may tất cả lục đục đứng dậy vì đã đến giờ bà con gọi nhau về nhà để xem phim. Tôi thấy nhẹ nhõm trong người vì từ lúc về đến giờ mọi chuyện đều suôn sẻ.

Trò chuyện với ông bố, bà mẹ của Loan không khó như tôi tưởng. Ông bố thì nằm liệt trên giường chỉ thỉnh thoảng bắt mọi người bế thằng cu vào cho ông xem mặt. Bà mẹ vui ra mặt, hể hả cười nói với mọi người trong gia tộc. Bà thấy khỏe hẳn ra, đi lại tất tả đây đó. Loan luôn luôn đi bên cạnh để nói đỡ lời cho tôi mỗi khi có ai hỏi chuyện. Lúc bà con ra về hết, tôi mới trấn tĩnh trở lại vì dù sao tôi vẫn phải gắng gỏi bày tỏ niềm vui sướng trong mọi tình huống mặc dù đã xác định đây là một việc làm rất cần thiết cho gia đình Loan.

Nửa đêm. Tôi và Loan thu xếp rất nhanh mọi việc để sáng mai đi sớm. Hai mẹ con Loan vào buồng ngủ với bà mẹ. Còn tôi nằm ghé cùng giường với Bản. Không biết Bản về nhà lúc nào và đã lên giường ngủ. Đã nghe Loan kể về anh trai của mình, nhưng tôi không thể tưởng tượng được Bản lại ở tình trạng tâm thần như vậy. Bản hầu như không có cảm giác gì về sự trở về của Loan với tôi. Lúc đầu gặp mặt, Bản chỉ ngước mắt nhìn Loan và tôi rồi loe miệng cười hề hề và đi thẳng. Suốt ngày, đi đâu không rõ. Khi ghé lưng nằm xuống tôi mới thấy Bản trở mình và nằm lui vào phía trong. Tôi nhẹ nhàng kéo chăn chiên đắp lên người. Phải nói là một ngày căng thẳng, tuy vậy thấy vui, nên tôi tưởng mình sẽ ngủ ngon giấc ngay sau đó. Nhưng không hiểu sao trong lúc đang chập chờn trôi vào giấc ngủ... thì thấy Bản thở dài, rồi nhìn thẳng lên trần nhà. Nghĩ bụng, tôi đánh liều khẽ gọi:

- Bản ơi!

Ngọn đèn dầu trên bàn thờ nhẹ nhàng lay động. Không gian im lặng đến mức làm tôi hồi hộp sau khi gọi tên Bản. Lát sau, tôi trấn tĩnh, lay vai Bản:

- Bản ơi!

Bất ngờ Bản ngoái nhanh lại mở to mắt nhìn tôi. Cả hai không ai bảo ai đều ngồi bật dậy. Bản chăm chú nhìn tôi với ánh mắt thân quen ngày nào ở chiến trường. Cũng trong đêm hôm ấy, khi Bản bị thương ngất đi bên chiến hào, tôi lay gọi mãi tên Bản. Thấy đồng đội vừa chớp chớp mắt, tôi vội hỏi:

- Mày có nhận ra tao không, Bản ơi!

Và lúc này, trong ánh sáng mờ ảo của đêm thanh vắng, tôi thấy trái tim mình rạo rực những kỷ niệm chiến đấu bên hơi thở mạnh mẽ của Bản. Tôi đặt hai tay lên vai Bản hỏi:

- Mày có nhận ra tao không?

Bản chau mày rồi chăm chú nhìn tôi. Hắn nghiêng đầu rồi nói to:

- Dũng hả?

Tôi vội "xuỵt" bảo hắn nói khẽ thôi. Hắn trố mắt hỏi:

- Mày về đây làm gì? Tưởng mày hy sinh ngày ấy rồi cơ mà.

Tôi đánh mạnh vào cánh tay hắn:

- Chết làm sao được, chính ngày ấy mày chả ôm tao lăn xuống hào để tránh đạn à?

Bản đột ngột tươi tỉnh. Đôi mắt sáng lên như hồi nào. Hắn cũng cười nói:

- Thế mà tao cũng không chết, hay thật đấy. Bọn giặc chó má tưởng giết chúng tao dễ lắm đấy. Nhỉ ờ. ờ...

Tự nhiên đâm phấn khích, hắn vung tay làm khẩu súng giơ cao. Mồm la lên:

- Pằng, Pằng! Pằng!...

Tôi vội lấy tay che miệng hắn lại:

- Khẽ chứ!

- Sao lại khẽ? Mày bênh bọn giặc xâm lược à?

- Không!

Tôi ghé tai Bản nói khẽ:

- Mày biết tao đang làm gì không?

- Làm gì?

Tôi ngó chung quanh thấy vẫn yên tĩnh bèn nói khẽ:

- Làm em rể mày.

- Thế à? Cái Loan không báo cáo tao...

Tôi cười khì khì:

- Rõ khỉ. Thì bây giờ tao báo cáo.

Nhưng chợt hắn nghiêm mặt nhìn tôi:

- Không được! Không được.

- Sao thế?

Hắn quay lại nhìn như xoáy vào mặt tôi:

- Mày có vợ con rồi cơ mà?

Lần này thì tôi phải ôm ghì lấy Bản nói ghé vào tai hắn:

- Mày không hiểu gì à? Loan nó bị lừa...

Bất ngờ Bản đẩy tôi ngã ngửa, rồi hét lên:

- Không để kẻ địch lừa. Đồng chí Dũng hãy can đảm lên theo tôi truy kích kẻ địch. Xung phong.

Tôi hoảng quá ôm lấy đầu. Mồ hôi đầm đìa trên trán. Tôi cố vùng khỏi tay Bản, nhưng không được... Bỗng có tiếng Loan gọi:

- Anh Dũng ơi! Anh Dũng ơi...

*

* *

Tôi cố vùng dậy, mồ hôi vã ra như tắm. Tỉnh ra, tôi mới biết mình vừa trải qua một giấc mơ. Tôi vội vàng ngoái lại nhìn thấy Bản vẫn còn nằm co mình im lặng như khúc gỗ. Loan đứng ở gần đó, ghé tai tôi nói khẽ:

- Anh nói mê to quá. Sáng rồi, anh dậy chuẩn bị cùng mẹ con em để ra thành phố chứ. Phải đi sớm mới kịp ô-tô, anh ạ.

Nhưng không hiểu sao, tôi vừa đứng lên thì Bản cũng ngồi phắt ngay dậy. Tôi bất ngờ kéo tay Bản lại. Những ký ức bên chiến hào ngày nào dội về làm lòng tôi xốn xang. Tôi nhìn vào mắt Bản rồi ôm chầm lấy thân hình thân quen ấy. Bản ngước mắt nhìn tôi chằm chằm như muốn nói điều gì đó mà không cất lời được. Đôi môi Bản mím lại và đôi vai run lên. Đột nhiên Bản gỡ tay tôi rồi đi thẳng xuống bếp. Nắng ban mai vừa loé lên, Loan đã sắp sẵn mọi thứ. Tôi cúi đầu chào bố Loan, rồi dắt tay bà mẹ ra ngoài sân. Bà chậm chạp đi theo, dặn dò tôi:

- Thỉnh thoảng hai vợ chồng về thăm gia đình, bố mày cũng chẳng còn sống được bao lâu.

Loan níu lấy mẹ rồi nựng thằng con trai dậy cười với bà:

- Cún con, dậy chào bà đi nào! Chào bà...

Bỗng nhiên tôi thấy như có người đang nhìn tôi. Ngoái lại thấy Bản đang đứng tựa cửa. Tôi chậm chạp bước tới nhìn thẳng vào đôi mắt lờ đờ của Bản như thầm hỏi:

- Mày có nhận ra thằng Dũng này không, hả Bản?

Bản chỉ im lặng nhìn tôi với đôi mắt trầm đục như đang ẩn ức một điều gì. Tôi chợt nhớ đến giấc mơ đêm qua và hơi ấm của Bản đã truyền sang tôi như thuở nào cùng nằm chung trong chiếc vải dù trên cánh rừng Trường Sơn. Tôi bồi hồi chào:

- Chào anh Bản nhé, bọn em đi đây!

Bản giật mình động đậy đứng thẳng người, nhìn tôi như muốn đặt ra muôn ngàn câu nói mà không nói được. Tôi thần người vì thấy từ khoé mắt buồn vời vợi ấy, những giọt nước mắt ứa ra chảy dài xuống gò má. Bản cứ đứng như thế nhìn theo tôi. Loan cũng ôm con đi nhanh ra khỏi cửa, vừa đi, vừa nén tiếng khóc đang nghẹn trong lồng ngực.

Tôi vội bế lấy thằng bé để đỡ cho Loan. Đi mải miết trên đường lên bến ô-tô ở trên huyện, trong lòng tôi thầm mong mỏi mẹ con Loan một ngày mai sẽ gặp được một người đàn ông tốt bụng tìm đến. Mẹ con Loan xứng đáng được như vậy. Hừng đông chói chang. Dọc cánh đồng lúa vàng rộm ngào ngạt hương thơm. Tôi hít một hơi thật dài và bất chợt ngỡ như thấy ánh mắt của Bản hiện ra ở đâu đó làm bước chân tôi chậm lại. Tôi ngoái nhìn về phía làng và cảm thấy như có dấu vết bàn chân của Bản đi theo. ánh mắt ấy ẩn chứa bao điều làm day dứt lòng tôi. Chắc có thể một ngày nào đó, ngôi làng nhỏ bé này sẽ nhắc nhở tôi những điều tự sâu thẳm trong tâm trí về một thân phận người bạn đang cô đơn ở một phương trời xa. Và tôi nghĩ sẽ có ngày mình sẽ quay lại về chốn này. Để làm gì? Chẳng để làm gì cả mà chỉ cần ngồi cùng Bản trên bậu cửa và nhìn về cuối đường làng ngồn ngộn rơm vàng...

Những người gặp may

Truyện ngắn của Nguyễn Quốc Hùng

-Cái cân làng xuống! Xuống nữa!

-Chín cái chẵn rồi, chẳng nhẽ... đánh lẻ.

-Bán chẵn!

-Mở bát!

-Chẵn! Mười cái chẵn! Cờ bạc như bịp!

Gần hai chục con bạc sát phạt nhau. Gần hai chục con bạc "cò con", tiền bạc là những đồng lương còm. Chẳng ai xa lạ, công nhân cùng tổ với nhau cả. Tất cả xúm quanh cái đĩa nhỏ, trên úp cái chén và bên trong là bốn mảnh vỏ hạt dưa. Đang trong giờ nghỉ trưa. Trời nóng quá. Cái nắng nung chảy nhựa trên đường, sắt thép tưởng chừng cũng phải oằn lại, hầm hập nóng. Gần hai mươi con người tự nguyện giam mình trong căn phòng mười năm mét vuông, cửa đóng kín vì sợ bảo vệ, quạt không dám bật vì bay tiền. Người vòng trong thì ngồi xổm nhấp nhổm, kẻ vòng ngoài thì cúi lom khom cắm đầu vào. Mồ hôi người đứng trên nhỏ giọt xuống người ngồi dưới, mồ hôi người ngồi dưới nhỏ giọt xuống những tờ giấy bạc nhàu nát. Cả đàn bà cũng tham gia, tóc bết mồ hôi. Đàn ông thì trần trùng trục, người gầy khô, da sạm nắng. Tất cả đều dán mắt vào vận may nằm bên trong cái chén con con. Tất cả đều muốn thành tiên tri để đoán được những mảnh vỏ hạt dưa kia úp theo chiều nào. Những mảnh vỏ hạt dưa đã được thổi linh hồn vào!

Còn tôi, cái nóng trong gian phòng đang dần hút hết sinh khí trong người.

Tôi năm nay ba mươi lăm tuổi, chưa vợ. Không một người con gái nào dám đặt số phận mình vào gia cảnh tôi. Gia đình tôi sống trong gian hầm của toà nhà Tây, thế mà vẫn bị dột, mẹ thì già lại có cô em gái dở người. Không biết tôi có duyên với cờ bạc hay không, chưa một lần dám thử xem đỏ hay đen, thậm chí chưa lần nào đánh bài cho vui. Tôi tìm lời giải thích xem người ta máu mê bài bạc là do nguyên nhân nào. Chẳng lẽ là thú vui, để giải buồn trong những lúc nghỉ ngơi? Nếu bị thua sẽ còn buồn nhiều hơn. Hay là trong máu của họ có chất gây nghiện cờ bạc như thông tin trên một tờ báo đã đưa? Tôi không thể kiểm chứng được. Phiêu lưu. Tội lỗi. Họ tin vào sự may rủi. Nếu gặp may, thắng bạc, thì phải khao, phải rủ nhau đi ăn uống cũng hết. Chẳng ai nên người về cờ bạc cả. Tôi ngẫm cái câu: "của thiên trả địa" trong những trường hợp ở tổ tôi thấy đúng. Tôi không dám thả công sức của mình vào cuộc may rủi này, còn nhiều việc khác phải lo.

Không rượu, không trà, không cờ bạc, làm tốt trách nhiệm của mình, tôi tròn trĩnh như một quả bóng. Ở phân xưởng này bọn họ gọi tôi là quan hoạn.

Mồ hôi trên người tôi chảy thành dòng, ướt đẫm cả cạp quần. Nóng quá! Căn phòng nghỉ đã nhỏ bé, mái tôn sắt, tường quây cũng bằng sắt, đến cái ghế ngồi cũng bằng sắt, khác nào cho thêm củi vào bếp lò trời. Tôi biết đi đâu để tránh cái nóng lúc này được đây. Giờ nghỉ trưa, về nhà thì quá xa, dưới nhà xưởng tuy bằng sắt, có thoáng hơn nhưng bừa bộn dầu mỡ không có chỗ ngả lưng. Quanh phân xưởng duy nhất có một bóng cây nhưng chẳng lẽ lại lăn ra đất. Tôi phải chui vào cái "hoả lò" này để mặc cho cái nóng hành hạ. Tôi thầm nhủ, rồi hôm nào phải mua cái võng mắc lên chỗ cái cây để nghỉ ngơi cho khoẻ.

Đầu óc tôi căng ra như có lửa đốt trong đó, hơi thở nặng nhọc. Tôi cố tạo cho mình ảo giác để đánh lừa cái nóng bằng cách cố tình nghĩ rằng, bây giờ đang là mùa đông trên biên giới phía Bắc nơi tôi đã là người lính giữ chốt, từng phải đắp ba cái chăn chấn thủ, mặc áo bông, mũ bông mà vẫn còn thấy rét. Tiếng người cầm cái bạc cũng khô lạnh, đều đều ma quái như ngọn gió mùa đông bắc: "Cái cân làng xuống nữa!". Bọn họ đâu có thấy nóng như tôi.

Cảm giác có một luồng khí lạnh từ trong xương tuỷ lan toả ra ngoài khiến tôi rùng mình. Lên cơn sốt rét rồi, kinh nghiệm của người đã từng trải qua nhiều trận sốt rét rừng mách bảo tôi. Một bên mông lại bắt đầu buốt nhói. Cái mảnh pháo bằng hạt ngô còn nằm lại trong mông bên phải nay lại cựa quậy. Tôi muốn ngả lưng cho đỡ mệt mỏi, nhức nhối nhưng chẳng còn chỗ nào có thể, đám cờ bạc đã chiếm hết. Tôi cố ghé nhờ bên mông lành lặn lên đầu ghế.

Cái mảnh pháo cỏn con nằm lại trong cơ thể là điều không may cuối cùng trong quãng đời người lính giữ chốt của tôi. Lần thứ ba tôi cùng đại đội hành quân lên thay chốt. Lính tráng chúng tôi tư trang gọn nhẹ, ba lô rỗng tuếch, đến cái áo mưa cũng chẳng còn. Chỉ có những anh liên lạc cho sĩ quan là vất vả, phải mang vác cho cấp trên nhiều quá. Chính thằng liên lạc đại đội gây nên hậu quả cho tôi. Cái phích trên lưng nó cứ lấp la lấp loá trong nắng chiều, làm mục tiêu cho pháo địch giã giò. Chúng tôi nằm bẹp xuống, đất đá thi nhau trùm lên người. Địch không hề tiếc đạn khi phát hiện trong đội hình có sĩ quan. Cái phích lăn lóc giữa đường, mặc cho đất đá cứ tung lên nó vẫn ngang nhiên phản chiếu nắng chiều. Tôi nằm cách cái phích gần chục mét, phán đoán ý đồ của pháo địch muốn dập tắt cái ánh sáng kia. Đợi cho một đợt pháo vừa ngớt, tôi cởi áo lao lên trùm vào cái phích. Một loạt pháo tiếp theo dội xuống. Rủi thay, mông của tôi nằm đúng vào mô đất cao để cho một loạt mảnh văng vào. Pháo địch thôi bắn khi không còn thấy mục tiêu. Tôi phải nằm điều trị tại trạm quân y ba tháng để lấy những mảnh pháo ra. Chỉ bị ở phần mềm, bác sĩ lấy ra được ba mảnh, còn một mảnh con con không lấy ra được. Phải mổ dọc mông đến ba mươi phân nhưng mảnh pháo cứ lẩn sang vị trí khác không khớp với phim chụp. Bác sĩ khâu vết mổ lại, cho biết rồi sau này nó sẽ tự đùn ra.

Có thằng nào đó tôi chẳng nhận ra, mua được tiếng bạc to, sướng qua nhao người vào vơ tiền, chân đạp cả vào đầu tôi đau điếng. Tôi không nói gì chỉ gạt chân nó ra. Có lẽ bọn người đang đam mê bài bạc kia thích tôi vì tính đó, sẵn sàng bỏ qua sai sót của người khác nếu chỉ là vô tình. Tôi biết, con người ai cũng ích kỷ cá nhân, nhất là trong thời buổi khó khăn này, cho nên không bao giờ tôi tranh chấp, đụng chạm đến quyền lợi riêng tư của ai. Thậm chí tôi còn thường xuyên giúp đỡ trong công việc đối với mọi người một cách vô tư và thông minh. Phân xưởng của chúng tôi có hơn một trăm người thì duy nhất có mình tôi trải qua chiến trận. Những câu chuyện về chiến tranh của tôi là đề tài hấp dẫn, phiêu lưu đối với mọi người vào những ngày cuối kì lương. Có những cô gái trẻ đam mê với bài bạc, với tiểu thuyết tình ái, khi nghe chuyện chiến tranh, chuyện đời sống của người dân tộc, chuyện chợ tình cũng say sưa không kém gì khi ngồi vào chiếu bạc. Họ thương hại tôi thực lòng. Nhưng sự thương hại và tình yêu là gianh giới được xác định rõ ràng trong ý nghĩ của các cô gái. Tôi cũng giữ đúng khoảng cách giữa thương hại và tình yêu ấy, chưa một lần nào thử nhích lại gần. Cũng bởi tôi mặc cảm với thân phận của tôi.

Còn bây giờ, chỉ vô tình thôi, đám người cờ bạc, trong đó có cả các cô gái thực sự thương hại tôi đang đẩy dần tôi ra khỏi ghế. Tôi cố ghé người đang đau ê ẩm dựa vào một thân hình gầy còm, nhớp nháp mồ hôi của kẻ ngồi trên cho đỡ mệt. Thỉnh thoảng đứa nào lại vẩy mồ hôi bắn cả vào người tôi. Giọt mồ hôi lầy nhầy, lạnh buốt khiến tôi rùng mình.

Bỗng nhiên cánh cửa phòng bị giật một cách thô bạo, tung hết tất cả các chốt bên trong. Đám cờ bạc giật mình, tất cả các cái đầu đều đồng loạt quay ra phía cửa, ánh mắt sững sờ chưa hiểu nguyên nhân vì sao. Năm nhân viên bảo vệ bước nhanh vào đẩy vẹt đám người trần trục, nhớp nháp mồ hôi ra rồi vơ lấy vật chứng. Các con bạc nhận ra mối nguy hiểm thì đã muộn. Tôi để ý thấy mấy người lỉnh ra ngoài cửa dễ dàng, còn lại đều bị nhân viên bảo vệ đứng chặn lại. Không có tội gì, chẳng phải sợ ai cả, cái ghế lúc này không còn ai ngồi, tôi nằm xoài xuống cho đỡ mỏi mệt. Ý nghĩ trong đầu tôi bị tê dại đi rồi lúc sau thiêm thiếp trong tình trạng cơ thể ê ẩm đau, một bên mông vẫn còn nhức nhối.

Không biết tôi thiếp đi bao lâu thì bỗng dưng bị dựng ngược dậy bởi một nhân viên bảo vệ nắm tóc tôi giật mạnh, giống như cái giật cửa thô bạo khi nãy của anh ta. Tôi bị tê dại hết cả mảng da đầu. Không kiềm chế nổi, tôi vung tay đấm thẳng vào mặt anh ta, không hề nghĩ tới hậu quả sẽ ra sao. Mấy nhân viên bảo vệ đứng xung quanh lao vào tôi để bênh người của họ. Tôi không thể phân biệt được họ đã làm thế nào với tôi bởi sau đó tôi không còn đủ tỉnh táo để nhận biết sự việc. Đến khi cái nắng gay gắt giữa trưa trùm lên người, tôi mới nhận ra cánh tay phải đang bị vặn ngược ra phía sau, đau buốt bả vai. Tôi không chịu đựng nổi khuỵ xuống. Họ kéo tôi đứng dậy, siết chặt hơn cánh tay tôi rồi dẫn đi. Tôi nhận ra Hưng còm cầm thanh sắt đứng giữa đường chặn tất cả lại:

-Bỏ anh ấy ra, anh ấy không có tội gì cả!

-Bọn cờ bạc chúng mày còn thích gây chuyện hả! Lên mà chọc bố mày ngồi trên phòng giám đốc kia kìa!

Nhân viên đẩy Hưng còm dạt ra lại tiếp tục lôi tôi đi.

-Đừng có động chạm đến bố tao. Bỏ tay ra để anh ấy đi tử tế!

Mấy nhân viên bảo vệ một phần cũng thấy cái sai, một phần phải lép vế trước thằng con giám đốc ngỗ ngược nên buông tôi ra. Tôi lảo đảo gần ngã do mất thăng bằng nhưng rồi cố gượng được bằng những bước đi chập chững, khó nhọc. Thấy vậy mấy thanh niên xúm vào đỡ tôi. Hưng còm ghé lưng bắt tôi bám vào để nó cõng. Chắc là chúng biết, khi bị sốt rét tôi sẽ mệt mỏi thế nào. Theo sau chúng tôi là đoàn người của phân xưởng. Không biết họ đi theo tôi làm nhân chứng bảo vệ tôi hay vì hiếu kỳ.

Nằm trên lưng Hưng, tôi nhận thấy hơi thở của nó gấp gáp. Hưng bước đi không còn vững. Tôi nặng hơn nó đến mười lăm cân. Đã một lần tôi được nghe hơi thở thế này, suốt đời không thể nào quên được.

...Trận sốt rét rừng hành hạ suốt một tuần liền khiến sức lực của tôi kiệt quệ. Chiều hôm đó nhiệt độ cơ thể tôi lên tới bốn mốt độ, cần phải đi cấp cứu ngay. Từ điểm chốt của chúng tôi xuống trạm quân y trung đoàn xa gần chục cây số. Bốn chiến sĩ trong đơn vị võng tôi đi. Được chừng non đường thì bỗng nhiên chiếc võng bị rách xoạc khiến tôi đập người xuống đá đau điếng. Tôi yếu quá không thể tự ngồi dậy nổi, mọi người buộc túm võng lại đặt tôi lên tiếp tục khiêng. Vừa nhấc tôi lên đòn khênh bị gãy đôi.

-Điềm xấu đây! - Mọi người thì thào với nhau. Tôi biết họ ám chỉ tôi.

Không có dao để chặt cây làm đòn khênh, mọi người phải thay nhau cõng tôi đi tiếp. Bước chân của mọi người muốn quỵ xuống bởi đường dốc lại mang tôi trên lưng, hơi thở dồn dập nhiều khi nghẹn nấc lên. Tôi thương anh em quá đòi xuống tự đi. Nhưng dù có hai người xốc nách hai bên tôi cũng không thể đứng vững, đôi chân mềm nhũn, các cơ bắp không còn khả năng hoạt động. Anh em phải cõng tôi đi tiếp.

Một loạt pháo lao tới, tiếng rít rùng rợn. Chúng tôi lăn xuống vệ đường. Khi pháo thôi bắn, tôi cố chống tay ngồi dậy. Thằng Đạo đã hy sinh cạnh tôi, người nó đẫm máu. Thằng Trường ôm đùi, thằng Phượng, thằng Cư đang băng lại cho nó....

Trong phòng phó giám đốc nội chính, tôi đã tỉnh táo lại hẳn sau mấy ngụm nước lạnh. Phó giám đốc Doanh nhìn tôi như thể nhìn một vật lạ, chậm rãi nói:

-Ông mà cũng cờ bạc cơ à? Còn chống lại bảo vệ nữa chứ, tôi hơi ngạc nhiên đấy!

-Sao lại gán cho tôi lắm tội thế. Thế cái tội để cho công nhân tự do cờ bạc, để cho bảo vệ có thói hách dịch là do ai.

Tôi xưng hô ngang hàng phải lứa với Doanh bởi trước đây học cùng khoá và lúc này chỉ có hai người trong phòng.

-Tội chứng quá rõ ràng ông còn cãi gì nữa nào!

Doanh đứng bật dậy to tiếng, mặt đỏ dựng. Có lẽ anh ta không chờ đợi câu trả lời như vậy của tôi.

Tôi thấy mình bị tự ái bởi thái độ trịch thượng của Doanh, nói mỉa lại:

-Liệu ông có ép tội tôi như ngày xưa ông làm với thằng Toàn không đấy?

Doanh nhếch miệng cười, tiếng cười giật cục rất hợp với khuôn mặt mỏng và gãy. Anh ta đi đi lại lại trong phòng tỏ vẻ bề trên, dáng đi cố tạo vẻ nghiêm nghị bằng cách ưỡn ngực trịnh trọng nhưng không giấu được mỗi bước chân khi bước đi nhấp nhổm như thăm dò xem đất nơi ấy có bị lún hay không.

Tôi nhắc lại vụ lật đổ lớp trưởng Toàn vì đến nay chỉ có tôi và Doanh biết. Hồi ấy tôi và Doanh học cùng một khoá trong trường dạy nghề. Toàn là lớp trưởng còn Doanh là lớp phó. Quy định của trường là lớp trưởng không phải tham gia một số kỳ thi để bù lại cho công tác chung của lớp. Một dịp, lớp chúng tôi được nhà máy tổ chức xuống lao động thực tế dưới các phân xưởng. Sau khi kết thúc đợt lao động, các phân xưởng trích một khoản tiền nhỏ trả công cho chúng tôi. Không ai quan tâm mình được bao nhiêu tiền bởi chúng tôi còn trẻ, chưa phải lo toan tới thu nhập hàng ngày. Còn Doanh thì biết rất rõ. Sau khi phát tiền cho cả lớp xong, Doanh gọi Toàn và tôi ra chỗ kín đáo gặp riêng. Anh ta đưa ra những chứng cứ buộc tội Toàn bớt xén tiền của anh em, mặc dù số tiền đó chỉ đủ thuốc nước lặt vặt. Toàn lý giải đó là đã biếu lại cho công nhân phân xưởng ít chè thuốc để cám ơn họ đã giúp đỡ trong thời gian lao động nhưng quên chưa nói với lớp. Doanh bắt Toàn phải đi xin xác nhận của những người đã nhận số tiền đó. Toàn không đồng ý bởi làm thế mất mặt người nhận. Doanh kéo tôi vào cuộc, lập biên bản với nội dung Toàn bớt xén tiền công của lớp. Khi ấy tôi đã quá khờ dại vào hùa với Doanh. Biên bản được gửi lên nhà trường. Cả lớp làm bản kiến nghị có đầy đủ chữ kí, trừ tôi và Doang gửi lên nhà trường xin cho Toàn không bị đuổi học. Bản kiến nghị ấy bị Doanh ỉm đi. Mấy hôm sau Doanh lại đưa bản kiến nghị ấy cho tôi để gửi lên nhà trường. Nhưng đã quá muộn, Toàn vẫn bị đuổi học. Sau này tôi mới nhận ra, Doanh muốn đổ trách nhiệm cho tôi. Doanh nghiễm nhiên thay lớp trưởng và không phải tham gia một số kỳ thi cùng lớp...

Doanh ngồi xuống cạnh, vỗ vai tôi tạo vẻ thân tình. Không biết anh ta suy tính điều gì. Vừa khi ấy, quản đốc phân xưởng Cương, cũng là bạn học cùng khoá, sầm sập bước vào. Chưa để cho Cương lên tiếng, Doanh đã gắt gỏng:

-Này, ông nhận lại công nhân của ông đi, cả phân xưởng đang phản đối tôi ngoài kia. Ông ấy có dính dáng đến cờ bạc đâu, mà ông cũng phải biết tận dụng một người thợ giỏi, một người có đạo đức tốt cho phân xưởng chứ!

Cương đỏ mặt, giận giữ trút hết nỗi bực dọc lên tôi:

-Tôi biết, anh ta là thợ giỏi, là người có đạo đức nhưng bây giờ tôi không muốn nhận! Giỏi nhưng không biết phát huy cái giỏi, chỉ kể chuyện đánh nhau là không ai bằng!

Tôi không ngạc nhiên về những câu xỉ vả của Cương với tôi. Cương lại sầm sập đi ra. Doanh đổi giọng nhẹ nhàng với tôi:

-Một con chó được chủ cưng chiều. Nó có nể nang gì bạn bè đâu. Gậy của nó cứng lắm cho nên vênh vác. Không cùng hội cờ bạc với nó phải không? Ông dại lắm, thừa cơ hội để tiến thân, thành tích chiến đấu có ai sánh kịp, sao không biết tận dụng?

-Chính ông mới chậm hiểu thời cuộc, bây giờ làm gì còn có chuyện đặt thành tích của người khác lên bàn để cân nhắc!

Doanh lớn tiếng cười, mỉa mai sự kém cỏi của tôi. Doanh bảo tôi về làm, cuối giờ lên gặp lại.

Cuối giờ chiều tôi lên gặp Doanh.

-Ngồi xuống đây, tôi gọi mấy tay bảo vệ lên đánh bài cho vui.

-Đánh đùa hay đánh tiền đấy? Tôi làm gì có tiền để chơi.

-Cờ bạc không có tiền chán bỏ mẹ, cầm lấy tiền của tôi chơi.

Tôi ngạc nhiên:

-Ông là người kí quyết định ngăn cấm cờ bạc lại còn thế thì nói được ai!

-Đánh bạc trong giờ sản xuất thì cấm, ngoài ra thoải mái đi. Không hiểu sao cứ lúc có chuyện buồn phiền tôi lại ham muốn được cầm quân bài. Nó làm cho tôi khuây khoả đi rất nhiều. Cuộc đời cứ trôi đi bình bình như ông thì buồn lắm. Hãy đặt mình vào chiếu bạc đi, ông sẽ có những phút lo lắng đến cháy lòng nhưng rồi có những lúc sẽ được hưởng niềm vui đến tột cùng. Hãy tính toán cho từng bước đi của mình, thà nằm xuống còn hơn cuộc đời chẳng có nghĩa lý gì.

-Có phải vợ ông ngoại tình với chính người đã đưa ông lên địa vị này, ông chán rủ tôi đánh bạc là vậy, tôi không thích nước bài này của ông!

Doanh thở dài:

-Thôi, không cờ bạc nữa, ngồi nói chuyện với nhau một lúc, tôi chán về nhà lắm rồi. Cái giá phải trả của tôi là thế. Tôi chấp nhận nhưng cũng đau lòng lắm. Tôi đã dâng vợ cho nó để rồi chúng nó công khai ôm ấp, về nhà còn xỉ vả tôi là đê tiện. Nhục lắm! Thôi đành vậy, mà tôi đâu có thực sự yêu cô ta. Ông có biết tình yêu của tôi dành cho ai không? Cho Tâm! Người mà tôi với ông thầm yêu từ thuở học sinh ấy. Cô ấy đẹp lắm, đôi mắt tròn đen, sâu thẳm, chứa đựng tình cảm mãnh liệt. Nếu ông không phải đi bộ đội chắc đã giành được cô ta. Sao ông dại thế, viết thư về từ chối tình cảm của cô ấy. Hãy giúp tôi đi, ông bây giờ vẫn là trai tân, thiếu gì những em trẻ đẹp, còn cô ấy goá chồng ba năm nay rồi, không xứng với ông. Chỉ cần ông khuyên cô ấy từ bỏ cái phân xưởng nóng bức ấy và công việc nặng nhọc lên đây làm việc, tôi sẽ giúp cô ấy.

-Tưởng rằng mời tôi lên là tình cảm bạn bè chân thành, thế ra đều nằm trong sự tính toán. Thiếu gì những em trẻ đẹp tình nguyện lên đây mà cứ phải cô ấy. Tôi xin ông hãy buông tha cô ấy ra, cô ấy thừa biết ý đồ của ông. - Tôi nổi nóng.

Doanh vẫn điềm nhiên, giọng nói xít lại ma giáo:

-Ông ngu lắm, gái một con trông mòn con mắt, ông chưa vợ chưa biết được cái thú vui của gái một con. Nói vậy thôi, tôi muốn cứu cô ấy ra khỏi cái miệng sói của thằng Cương. Cái thằng đồ tể! May cho nó vụ đánh bạc trưa nay không tham gia. Ông với Tâm còn sống với nó ngày nào thì nó sẽ "đì" chết ngày ấy. Ai cho ông giỏi hơn nó. Đừng khoe cái tài hơn người khác. Đời là vậy, con người cứ chấp nhặt, ganh ghé nhau từng tí một, không ai công nhận mình ngu hơn người khác. Ông giúp tôi đi, thế nào thằng Cương cũng bộc lộ điểm sai với ông. Này, chân quản đốc giành cho ông đấy. Tin tôi đi, tôi với ông hiểu nhau quá rõ dễ làm việc.

Với Doanh chẳng có gì để tôi có thể tin tưởng được và tất nhiên câu chuyện giữa hai người Tâm cũng sẽ không bao giờ được biết. Chẳng lẽ tôi lại trở thành tên ma cô hạng nhất hay sao. Còn tình cảm với cô ấy nữa, suốt đời chẳng thể nào quên. Tôi không dám nói ra tình cảm của mình với cô ấy, cho dù điều ấy lúc này là rất thuận tiện, ý tứ của cô ấy vẫn giành cho tôi. Tôi là kẻ nhút nhát chăng? Không phải, tôi không muốn cô ấy phải chịu hoàn cảnh khắc khổ của tôi và tôi vẫn còn tôn trọng tình cảm của cô ấy với người chồng quá cố.

Tôi vào phòng làm việc của Cương để báo cho anh ta tôi vẫn được tiếp tục trở về phân xưởng làm việc. Cương tỏ vẻ không được vui, chỉ gật đầu rồi sầm sập đi ra đê tôi lại mọt mình trong phòng. Vừa lúc ấy Tâm đi vào. Tôi ngượng ngùng nhìn cô ấy. Tâm đưa cho tôi xem tờ giấy mời:

-Em có giấy mời lên phòng phó giám đốc, anh biết có việc gì không?

Tôi nói giấu:

-Anh biết, Doanh muốn em giúp thống kê vài việc gì đó.

-Không phải đâu anh, em biết anh ấy muốn gì rồi. Theo anh em có nên lên trên ấy làm hay không?

-Em lên đấy sẽ có nhiều điều tiếng không hay nhưng không sao đâu, mình thế nào mọi người biết cả. - Tôi nói tin tưởng khiến Tâm yên lòng.

-Vâng, em nghe anh. Em mua cho anh cái võng, buổi trưa anh ra gốc cây mà nghỉ, đỡ nóng bức và tránh được phiền toái.

Tôi trở về bên cỗ máy tiện quen thuộc, lòng không khỏi day dứt khi không có Tâm làm việc bên cạnh. Tại sao khi nãy mình không nói được câu nào thật tình cảm với Tâm, để rồi không biết đến bao giờ có được dịp gần gũi nữa. Tôi ghen tức với Doanh, lo lắng cho từng hành động của Tâm.

Buồn phiền. Mệt mỏi. Nóng bức. Tôi ngủ thiếp trên võng trong giờ nghỉ trưa. Chợp mắt không được bao lâu, tôi trở người thấy các bắp thịt bắt đầu nhức mỏi, đầu váng vất đau. Cơn sốt rét ập đến đúng như dự đoán, tôi nằm co quắp, hai bàn chân lạnh buốt, cơ thể run lên bần bật. Không gian xung quanh mỏng mảnh và khô ròn. Tôi chỉ muốn nhao ra nắng để đốt nóng cái lạnh bên trong xương tủy đang bò ra. Nếu cứ nằm yên tĩnh thế này chỉ lát nữa cơn sốt rét sẽ qua thôi để rồi ngày mai cũng giờ này sẽ gặp lại, kinh nghiệm cho tôi biết thế. Tôi cắn răng chịu đựng để cho cơn sốt hành hạ.

Tôi đâu có được nằm yên, có nhân viên bảo vệ gọi tôi lên phòng quản đốc. Rất nhiều người đang chờ tôi đến.

-Anh có biết chuyện gì xảy ra trong phân xưởng không? - Đội trưởng bảo vệ hỏi tôi.

Tôi ngạc nhiên hỏi lại, giọng run run:

-Có chuỵên gì thế!

-Đừng giả bộ nữa. Phân xưởng mất hai mươi mét cáp điện, ông có biết không? Có người mách, chính ông nằm gác cho bọn trộm ném qua tường. Bây giờ lên ông Doanh mà chối!

Mặt tôi xám ngắt, môi thâm lại, không phải vì sợ mà cơn sốt rét bị sốc thêm. Họ dong tôi đi như dong tội phạm. Mọi người ùa ra nhìn tôi thương hại.

Lần thứ hai tôi bị dong đi, hai bên áp tải là những khẩu súng đầy sát khí.

... Khi ấy, tôi là khẩu đội trưởng cối tám mươi hai ly, phòng ngự trên điểm cao nghìn mốt. Quân dịch tiến lên ngày càng đông, quyết tâm chiếm được điểm cao. Lần thứ ba tôi gọi điện cho tiểu đoàn bổ xung quân. Bốn đồng đội nằm bất động xung quanh khẩu pháo, còn tôi thì vẫn trơ trơ không mảy may sứt sát. Hai người khác vừa bổ xung lên cũng ngã xuống. Chỉ còn mình tôi xoay xở, vừa chuyển đạn vừa lấy tọa độ vừa bắn. Tôi là khẩu đội trưởng có tài cho nên những quả đạn rót rất đúng mục tiêu. Địch không ngừng tiến, tôi gọi bổ xung quân. Một quả đạn pháo nổ gần hất tôi văng ra xa, lửa táp vào mặt rát rạt. Tôi ngất đi không biết trong bao lâu. Khi tỉnh dậy, không gian xung quanh yên ắng như chưa từng có trận đánh nào xảy ra. Không biết trận địa thế nào rồi! Tôi cố lách mình qua khe đá có lẽ bị văng vào khi nãy. Vừa chui ra khỏi, người đầu tiên tôi gặp là trung đoàn trưởng. Tôi bị kết tội sợ chết trốn tránh trong khe đá. Ai có thể thanh minh được cho tôi? Sáu chiến sĩ nằm đó không thể nói được, đại đội trưởng là người chứng kiến những đường đạn chính xác của tôi, tiểu đoàn trưởng là người nhận được yêu cầu tăng quân của tôi, tất cả đã hy sinh cả. Tại sao không mảnh đạn nào văng vào tôi để tôi được nằm xuống, khi ấy tôi sẽ được ca ngợi, sẽ được phong anh hùng. Vì thế cho nên tôi phải chịu đi giữa hai vệ binh áp tải về trung đoàn chịu kỷ luật.

Hai người bảo vệ đẩy tôi vào phòng Doanh như đẩy phạm nhân. Tâm đang viết bên bàn thấy vậy hốt hoảng chạy lại đỡ tôi.

-Sao thế này? Xảy ra chuyện gì nữa đây? Anh bị sốt rét rồi, tái thâm mặt mũi lại rồi đây này! Anh nóng quá, để em đi gọi y tá.

Tôi ngồi xuống ghế, chưa kịp nghe hết người bảo vệ trình bày với Doanh cảm thấy các cơ tay, chân và bụng co thắt lại. Tôi xoài người trên ghế, cổ tắc nghẹn lại, rít lên vì không thở được. Tâm gọi xe cấp cứu. Không biết ai đưa tôi lên xe.

Nhiệt độ cơ thể tôi lên đến bốn hai độ. Mấy người giữ chặt tôi cho khỏi vật vã để bác sĩ tiêm canxi vào cơ thể tôi.

-Đã thấy nóng đít chưa? - Bác sĩ hỏi khi thấy tôi đã tỉnh trở lại.

Tôi gật đầu. Tôi cảm nhận được hơi nóng chuyển dần từ hậu môn lan tỏa khắp cơ thể rồi bốc lên đỉnh đầu. Tôi dễ thở hơn, tình trạng co thắt đã giảm bớt nhưng người vẫn chưa hết run. Xung quanh tôi rất đông người. Tiếng Tâm gắt gỏng:

-Tại chúng mày, chính chúng mày khiến anh ấy bị thế này. Nhận tội đi, đừng để tao tố cáo, tao biết cả rồi. Chúng mày hãy thôi ngay cờ bạc, thôi ngay đi!

-Được rồi, lúc này không phải lúc nói chuyện ấy, lo cho anh ấy khỏe hẳn đã.

Yên lặng. Có ai đó nằm đè lên người tôi. Bị sốt rét mà được người khác đè lên mình thấy dễ chịu lắm. Tôi ngủ thiếp đi.

Tôi tỉnh dậy, cơ thể rệu rã. Người nằm đè lên tôi là Tâm. Tại sao cô ấy biết được người bị sốt rét được như vậy sẽ dễ chịu nhỉ? Mọi người vẫn đứng xung quanh tôi. Mấy người đưa tay quyệt nước mắt, có cả mấy cô gái trẻ hay cờ bạc. Có lẽ họ thương hại cho tình cảnh của tôi. Hạnh phúc cho tôi lắm rồi, tôi chỉ cần có thế.

-Mảnh pháo ở mông anh rơi ra rồi. - Tâm vừa khóc vừa nói với tôi.

Một giọt nước mắt rơi xuống môi tôi. Mằn mặn hay ngọt ngào, tôi không biết dùng từ nào đây. Lần đầu tiên tôi cảm nhận được hương vị cơ thể người phụ nữ truyền sang mình.

N. Q. H.

Cành mai sẻ

http://www.nld.com.vn

Đã qua giao thừa được nửa tiếng. Chỉ còn chưa đầy hai mươi phút nữa là hết ca trực, Bắc định chuyển sang chơi games thì trên màn hình xuất hiện dòng chữ:"Gửi Bình Dương, Phú Giáo thân thương...".

Thật lạ, tất cả các thư trong chương trình trực tuyến "Thức giao thừa cùng bè bạn bốn phương" của tờ báo N điện tử mà anh đang đọc, đều có địa chỉ cụ thể, riêng thư này lại không. Và lời thư như năn nỉ, nhờ vả: "Tôi không biết gửi cho ai, nhưng mong quý báo cho tôi được tâm tình với đất miền Đông - nơi tôi đã chiến đấu và suốt đời thương nhớ...". Mặc dầu chỉ là những dòng thư điện tử, nhưng Bắc như cảm nhận được trạng thái tình cảm của người viết: gấp gáp, hồi hộp, sợ lỡ chuyến tàu internet dịp giao thừa.

" Chúng tôi những người lính của một thời chiến tranh. Quãng đời cầm súng luôn đầy ắp kỷ niệm, nhưng đất miền Đông Nam Bộ luôn nặng trĩu hồi ức. Nơi đây, chúng tôi đã được nhân dân ngày đêm chăm sóc, đùm bọc yêu thương; đã cho cơm ăn, nước uống, cho sức lực và... tình yêu để chiến đấu. Ba mươi năm rồi, đêm giao thừa nào tôi cũng nhớ đến miền Đông. Ở đó, chúng tôi đã khóc vì nhớ nhà và đã cười khi các cô gái trêu "anh Hai lớn đầu mà còn nhớ mẹ". Hoàng ơi, Thắng ơi, còn nhớ đúng giờ này năm 1972 chúng mình đang nằm kẹt ở Phú Hưng vì bị trung đội biệt kích Mỹ chặn đường, đến khi thoát ra mới tiếc hùi hụi vì đã bỏ quên cành mai sẻ không... Giờ này, các cậu đang ở đâu. Có nhớ Bình Dương - nơi có cây cầu Phước Bình tụi mình đánh hoài không được, cuối cùng đặc công nước "hớt" tay trên không; có nhớ mảnh đất với những người con gái xinh đẹp hiền lành - mà chúng ta đã từng thề, ngày hòa bình nếu còn sống sẽ về đây lấy vợ không..."

Thư như bị kết lửng ở giữa chừng. Có lẽ vì quy định của bản báo nên đã được biên tập, cắt ngắn. Cuối thư, không có địa chỉ người viết, chỉ có dòng Email [email protected]. Liền sau đó, chương trình lại tiếp tục được cập nhật; song những thư từ Cali, Boston, từ Bratitslava, Berlin với mẫu số chung than thở: xứ lạ - thiếu vắng hương vị quê nhà - đất Việt ơi, quê mẹ ơi, mong sớm có ngày về thăm không còn hấp dẫn Bắc nữa. Bức thư gửi Bình Dương đã choán kín dòng suy nghĩ của anh. Đúng là thư không gửi cho ai, nhưng lời gọi da diết "Bình Dương, Phú Giáo" nghe như rất riêng tư. Còn cái cầu beton cốt thép Phước Bình gãy nhịp giữa, trắng phớ, hoang phế - một chứng tích chiến tranh duy nhất của tỉnh còn lại sau 30 năm - thì lại chính là địa điểm chỉ cách quê ngoại anh chừng hai cây số.... Mẹ anh đã chả đã có lần kể một tổ đặc công bộ đội miền Bắc đã được bà ngoại nuôi dấu trong nhà, vốn ngày đó là vùng "xôi đỗ" xen kẽ ta địch đấy ư. Vậy là người viết thư này chắc chắn đã từng chiến đấu ở quê anh... Bắc đẩy "con chỏ" chậm rãi đến từng con chữ, đọc đi, đọc lại bức thư. Cuối cùng, anh đưa về chế độ in lại.

Cầm bức thư ngắn được in trên khổ giấy A4, Bắc đọc thêm một lần nữa, rồi gấp làm tư, bỏ túi ngực, tắt máy, đóng cửa văn phòng ra về. Ở nhà, mẹ và vợ anh vẫn thức. Bắc chúc tết mẹ. Trước lúc đi ngủ, anh đưa mẹ bức thư với lời giải thích đơn giản: thấy nó là lạ, người trong thư chắc đã chiến đấu ở quê ngoại mình.

- Trời ơi. Tần đây ư - Trang thảng thốt kêu lên thành tiếng. Bức thư, ban đầu Trang cũng chỉ đọc để biết như lời giải thích của con trai, không ngờ lại là của một người mà suốt hơn ba mươi năm qua chị khắc khoải ngóng chờ. Cái khoảng thời gian đầy ắp những trạng thái, từ yêu thương, hy vọng, khắc khoải, oán trách, tuyệt vọng, đến sẵn sàng chấp nhận mọi sự thật phũ phàng, chỉ cần một lời giải thích minh bạch. Ngần nấy giằng xé trăn trở mà nay lại kết cục đơn giản như thế này ư. "Hoàng ơi, Thắng ơi. Còn nhớ đúng giờ này năm 1972..." Trang đọc lại hàng chục lần dòng chữ này và lần nào chị cũng như nghe được tiếng gọi của Tần. Tần đây chứ ai. Và quá khứ trào về, choán ngợp trong đầu óc Trang. Tất cả hiện lên rõ mồn một, như chỉ vừa mới xảy ra ngày hôm qua.

Năm 1972, Trang vừa tròn mười tám tuổi...

Cái đêm ấy, sau hàng loạt tiếng nổ từ phía thị trấn, Tần, Hoàng và Thắng trở về. Má Tư, mẹ của Trang vừa cắt bánh tét vừa trách "đánh giặc còn dài dài; giao thừa sao không ở nhà ăn tết, vội vàng chi cho cực"... Khi còn hai người trên gác đựng đồ ở nhà kho, Trang cũng trách Tần y chang cái câu của má. Tần cười hiền lành. Anh bảo, tranh thủ đi kiếm cành mai về cho má chưng tết. Nghe vậy, Trang trách, giọng pha chút hờn dỗi:

- Mai đầy ngoài vườn, anh hai đi kiếm làm chi. Nhỡ... Giật mình vì lỡ lời, Trang bịt miệng, giụt cổ, hai mắt mở to, chớp chớp lo sợ.

- Út Trang đừng lo. Hoa mai này khác - Tần gỡ tay Trang xuống khỏi miệng. Anh nghiêng đầu, ngắm khóe môi của cô, say sưa giảng giải - Nó là mai sẻ, mọc ở rừng, bông nhỏ, cánh đơn, giống hệt hoa chi mai ở miền Bắc. Nói rồi Tần lục túi áo lấy ra bông mai.

- Đây, nó đây. Ở Hà Nội, thứ mai này rất hiếm. Ngày tết nhà nào cũng có một cành đào. Nhưng nếu có thêm được cành chi mai này thì gian nhà sẽ như có được tiếng cười của cô thôn nữ - Tần gượng nhẹ đặt bông mai sẻ màu trắng mát dịu vào lòng bàn tay đỏ hồng của Trang. Bàn tay cô nhỏ nhắn, run run, nằm gọn trong đôi tay to rộng, chai sạn của Tần. Như sợ cánh hoa bất chợt bay đi, Trang khum khum đôi tay giữ bông hoa mỏng mảnh, óng ánh sương đêm

"Hoàng ơi, Thắng ơi. Còn nhớ cái cây cầu Phước Bình..." - Trong sâu thẳm, Trang lại nghe Tần gọi. Cây cầu Phước Bình bị phá sập hôm trước thì đêm sau Tần cùng nhóm đặc công rời khỏi ấp Hưng Phú. Tần đi khuất, má Tư thì thầm: "Chắc mấy anh hai mày đánh xong cầu, hoàn thành nhiệm vụ rồi, giờ chuyển địa điểm khác". Nhưng Trang thì biết rõ không phải như vậy. Lúc Tần gói ghém ba lô, cô đã nghe anh nói với Hoàng và Thắng, giọng ấm ức: "Vậy là cánh đặc công nước hớt tay trên cái cầu của tụi mình rồi". Tần đây. Tần ơi, anh đang ở đâu. Trang lại kêu lên thảng thốt.

... Sóng đã thôi không chồm qua mỏm đá để hết đợt này đến đợt khác ào ạt xô bờ. Bầu trời, mặt đất đã trở lại lắng dịu, hiền hòa, nhưng sóng lừng mãi tít ngoài khơi và dòng hải lưu sâu thẳm dưới đáy bể vẫn sung sức, ầm ào... Sợ bến bờ mệt mỏi, sóng êm ả, trào qua mỏm đá, nhẹ nhàng lướt trên dải cát vàng lóng lánh. Sóng biển và bến bờ hòa nhập, lanh canh reo vui tạo nên âm thanh pha lê trong trẻo... Trang mở mắt. Nàng ngây ngất. Bàn tay của Tần êm ái, chiều chuộng, đang xoa nhẹ lên bầu vú căng tròn, mịm như bột lọc của cô. Trang nhắm mắt, mặc cho bàn tay ấy lặp đi, lặp lại điệp khúc vô tận: lấp chấp, dặt dìu theo đường tròn bầu ngực rồi vuốt dài, vuốt dài xuống tít tắp thật xa, thật xa...

Mãi sau, Trang ôm cổ Tần thủ thỉ "Ôi... Anh... Em có bầu thì má sẽ nguyền rủa anh". Nói rồi, nàng úp mặt xuống gối khóc. Nỗi thảng thốt, lo sợ ập đến. Cô sợ cho mình, không bằng sợ cho Tần. Hai tháng nay, kể từ hôm tổ đặc công tới đây, Tần được má cô quý như con đẻ. Nhà có hai chị em, Trang là út. Má gọi Tần là thằng hai, Tần gọi cô là út Trang. Bây giờ... Ôi, Trang không hình dung được, cũng như không thể chịu đựng được nếu có lúc má cô nguyền rủa Tần.

Trang bừng tỉnh dậy. Nghe rõ tiếng tim đập lùng bùng trong tai. Giấc mơ tan biến, song cái cảm giác ngất ngây, say đắm dục tình không còn phù hợp với tuổi tác đã khiến chị lả người, nghẹt thở, đầu óc váng vất. Trang bải hoải, lần từng bước ra sân hít thở. Trời hừng đông, cái tiết xuân trong lành, se se lạnh giống mùa thu miền Bắc (ngày trước Tần đã từng nói thế) làm tan biến ảo giác, nhường chỗ cho quá khứ cắt khúc, cấp tập hiện về.

Và rồi nỗi lo sợ đó đã đến. Chỉ có điều không có sự nguyền rủa của má dành cho Tần (hoặc giả có, nhưng má không nỡ nói ra lời). Chỉ khi biết sự việc đã quá muộn, lúc thắp xong nén nhang trên bàn thờ cha, má quay ra nói với Trang, giọng bời bời đau khổ: "Nếu là ngày xưa thì mày bị lột quần cuốn cổ đấy Út à". Rồi má đưa Trang vào thị xã ở với dì Ba... rồi Bắc ra đời; rồi những ngày hy vọng, nhớ nhung, chờ đợi khắc khoải liền kề với vô vọng, với oán giận; rồi Bắc khôn lớn, càng lớn càng giống Tần (cái tên Bắc là do bà ngoại đặt để đón điều lành cho con gái). Cái hình bóng con luôn gợi về một quá khứ say đắm yêu thương lẫn hiện tại cô quạnh, chứa chất hàng trăm câu hỏi trong đầu Trang. Ngần đó năm như thế đã đằng đẵng trôi qua. Sự chịu đựng vất vả, ê chề không phải là những lời đàm tiếu của thiên hạ (nó chỉ thoảng qua và bị hút vào những biến cố vang dội của thời cuộc). Sự chịu đựng sượng sùng, bẽ bàng cũng không phải từ phía họ hàng, bởi cô bác đều biết rõ Bắc là giọt máu của một người anh hùng. Nỗi chịu đựng khắc khoải, đau đớn bao năm tháng dằng dặc với Trang lại chính ở sự mất tích của Tần. Tần đã hy sinh, hay đã nhẫn tâm bội ước.

Kể từ hôm mẹ anh báo tin lành - Bắc nghĩ - gia đình anh như được tắm trong một làn gió mới. Suốt ngày họ bàn bạc. Lúc thì tràn trề hy vọng với "vậy là, chắc thế", lúc lại thắc mắc, hồ nghi với "hay là, có thể". Mọi người như quan tâm đến nhau hơn, xích lại gần nhau hơn, (mặc dù xưa nay cái gia đình nhỏ bé này vẫn luôn thân thiết, gắn bó). Có cái gì đó giống như một thông điệp nguyện cùng kề vai sát cánh; một lần nữa sẵn sàng chờ đón, đương đầu với biến cố dù đó là tin vui hay tin buồn. Mỗi khi Bắc đi làm về, mẹ anh lại nhìn anh với ánh mắt đau đáu, thật tội nghiệp. Trong khi khuôn mặt mẹ cố che đi sự chứa chan hy vọng, thì ánh mắt lại không dấu được nỗi hồ nghi, cam chịu. Riêng Hương - vợ Bắc - thì ngược lại. Cô không phải kiềm chế, không phải dằn lòng dấu kín cảm xúc. Gần như suốt ngày từ chỗ làm, cô liên tục gọi điện cho chồng hỏi thăm tin tức. Hương cứ làm như chỉ một vài ngày nữa, niềm vui nhất định sẽ đến. Cô làm Bắc phát sốt lên, có lúc còn chỉ vẽ cho anh cả cách lục tìm thông tin trên mạng, một công việc mà trình độ của cô chỉ là i tờ so với anh. Nhưng anh vẫn giả bộ lắng nghe. Anh không muốn làm phật ý vợ trước cái cảm giác sung sướng, chồng mình sắp tìm được cha. Cha mình là một chiến sĩ đặc công.

Bắc là nhân viên quản trị mạng nội bộ của một công ty một trăm phần trăm vốn nước ngoài, chuyên sản xuất phần mền ở khu công nghiệp tỉnh. Mối "quan hệ" mạng là công việc anh rành rẽ, thuần thục. Đã hơn mười ngày nay, anh đã liên tục mail đến địa chỉ của bức thư "Bình Dương ơi" nhưng không có hồi âm. Không nhận được hồi âm, cũng không tìm được địa chỉ hộp thư, nhưng Bắc đã xác định được tên miền của Email. Đó là...

Trại thương binh nằm ở huyện miền trung du yên ả. Chuyến đi không có gì vất vả. Sáng nay còn ở Bình Dương, sau bốn tiếng đồng hồ vừa bay ra Hà Nội vừa bám xe khách chất lượng cao, bây giờ đã đến đây, khiến Bắc như chưa kịp có cảm giác đổi vùng. Miền đất này giống hệt như quê anh. Cũng địa tầng cao thấp uyển chuyển, cũng những sườn đồi lúp súp uốn lượn chạy theo khe hợp thủy xuống thung lũng cây cối um tùm, thấp thoáng những mái nhà...

Không lẽ cuộc tìm kiếm suốt 30 năm vô vọng nay lại đơn giản đến thế ư. Trò ú tim của tạo hóa trớ trêu đến thế ư - Bắc cố nghĩ sự việc theo hướng thi vị hóa, để tạo sẵn cho mình một sự bình tĩnh cần thiết; để át đi sự hồi hộp khiến anh gần như ngạt thở. Chưa bao giờ anh như bây giờ. Ngay cả lúc thuyết trình một phương án sáng tác phần mềm ở trường đại học Singapore, trước các bậc giáo sự danh tiếng, anh cũng không hồi hộp như bây giờ. Cha anh sẽ là ai. Cha sẽ như thế nào trong cái trại thương binh này.

Là người có tác phong làm việc khoa học, thận trọng vốn được rèn luyện trong môi trường quản lý, điều hành của doanh nghiệp nước ngoài, Bắc đã khôn khéo ngụy trang cho sự xuất hiện của mình. Không có gì phải khuất tất, song xác suất của cuộc tìm kiếm này vẫn rất lớn. Nhỡ người viết thư không phải là bố Tần thì sao (bắt đầu từ hơn tháng nay, Bắc được mẹ truyền cho cách gọi ấy). Nhỡ lại là sự trêu đùa của số phận thì sao. Chẳng phải ai khác, chính anh, anh cũng sẽ không chịu nổi. Vì vậy, tốt nhất anh chỉ nên ở một vị trí tiếp cận tầm trung bình. Sẽ dễ chịu đựng hơn nhiều, nếu...

Mọi việc diễn ra trôi chảy quá mức tưởng tượng của Bắc. Trong vai một sinh viên làm luận văn sau đại học chuyên đề về sự hy sinh mất mát của người lính trong chiến tranh, Bắc được ban giám đốc trại tiếp đón niềm nở, sẵn sàng tạo mọi điều kiện. Và rồi những diễn biến tiếp theo hệt như một cuộn tơ đã được gỡ nút rối, tuồn tuột bung ra, trơn tru đến chóng mặt.

Trong phòng truyền thống, ở gian trưng bày sản phẩm do thương binh làm ra, Bắc bị hút vào những bức tranh được vẽ rất đẹp, treo kín mít trên tường. Phần lớn là tranh phong cảnh được vẽ theo lối thủy mạc pha phong cách hiện đại, ánh lên chất liệu của chì sáp mượt mà như lụa. Cảnh vật nhiều nhất là Hà Nội với những Tháp Rùa, Chùa Một Cột, Hồ Tây có những cành phượng đỏ, ngọn cau in bóng xuống mặt nước lăn tăn gợn sóng. Kế đến là cảnh đồi núi yên ả, có vòm trời xanh ngát, được nhấn bởi những mái ngói xinh xinh, những cụm công nghiệp khỏe khoắn. Ở góc gian trưng bày, có một bức tranh tĩnh vật khổ to cỡ 90x120 đã khiến Bắc dừng lại khá lâu. Tranh vẽ đôi bàn tay thon thả, mềm mại đang nâng niu một bông mai nhỏ. Nền của bức tranh mầu xám (gam mầu họa sĩ Kramskôi hay dùng), tạo độ tương phản làm nổi bật đôi bàn tay mầu hồng nhạt và bông hoa trắng óng ánh, thánh thiện. Dù đã được linh tính mách bảo, nhưng tai Bắc vẫn ù lên khi nghe cán bộ phong trào của trại giới thiệu, vẻ tự hào: "Đây là tranh của đồng chí Tần. Anh là một họa sĩ tài hoa của trại chúng tôi". Trong trạng thái hồi hộp, lâng lâng như mộng du, Bắc bước vào phòng hồ sơ, kỷ yếu. Cầm trong tay quyển sổ trích ngang danh sách thương binh trong trại, Bắc không nén nổi hồi hộp. Phải vất vả lắm, anh mới kiềm chế được mình, lật giở từ tốn từng trang với động tác thận trọng, gượng nhẹ. Anh chỉ sợ lỡ mình vô ý làm một cử động mạnh, lập tức quyển sách sẽ tan biến. Các trang sách gần như giống nhau, đều chỉ là những dòng chữ khô khan, nhưng đằng sau đó là những người anh hùng. Họ đã hy sinh phần lớn cơ thể và sức lực, để đến bây giờ, mọi động thái sinh hoạt đơn giản cho sự sống, đều phải cần đến người phục vụ. Đây rồi, toàn thân Bắc run lên, tim như muốn bật ra ngoài: Vũ Đăng Tần - sinh ngày... tháng... năm 1950. Quê quán... đơn vị.... Bị thương ngày... tháng 3 năm 1972 - cụt 2 chân và tay phải - Thương binh hạng 2/4... Nhập trại ngày... tháng 12 năm 1974. Phấn đấu tự phục vụ từ tháng 5-1975. Trên góc phải trang trích ngang là ảnh một người đàn ông mắt sáng, mặt vuông vức đầy nghị lực ngồi xe lăn, cười, giơ tay vẫy. Ảnh được chụp dưới gốc cây bàng. Bóng nắng dọi qua kẽ lá, in xuống nền đất như một tấm vải dù lớn... Ba Tần đây. Ba Tần vẫy con đây.

Bắc sắp được gặp ba Tần rồi. Nghĩ đến phút giây ấy, lòng anh hân hoan khôn tả. Sẽ là một tình huống như thế nào nhỉ. Sẽ gọi, sẽ dẫn giải, sẽ chứng minh, rồi kể lể lẫn lộn trước sau.. rồi, sẽ ôm ba Tần, khóc... mặc cho ba Tần ngỡ ngàng, vui sướng. Và sẽ... sẽ gì gì nữa nhỉ!

Nhưng đúng vào lúc Bắc đang hân hoan tận hưởng các tình huống ào ạt của buổi gặp gỡ sắp tới ấy thì đột nhiên trong anh lóe lên một tia chớp. Không phải tia chớp với tiếng nổ kinh hoàng mà là tia chớp với hào quang ngũ sắc và những hợp âm đầy đặn, tươi vui. Không. Không - Bắc gần như reo lên - Niềm vui vĩ đại này, cuộc hội ngộ tuyệt vời này phải - là - của - mẹ, phải được dành cho mẹ. Sẽ không có một lời dẫn giải, không cần những lời kiểm chứng dài dòng. Chỉ cần một tiếng gọi... một tiếng gọi của trầm tích quá khứ và thênh thang hiện tại, là tất cả sẽ vỡ oà, hạnh phúc sẽ tràn ngập, nỗi khắc khoải sẽ tan biến. Anh khỏe hơn mẹ, anh sẽ đủ sức chờ đợi.

Bắc giữ kín mọi chuyện (tất nhiên), chia tay với ban giám đốc trại thương binh ra thị trấn thuê nhà trọ. Anh điện thoại cho mẹ kể lại sự việc, đồng thời sắp xếp lịch trình, chỉ dẫn đường đi cho Hương. Hương sẽ tháp tùng mẹ trong chuyến bay sáng sớm mai.

Má Trang ơi, ba Tần ơi!

Chỉ bằng giờ này ngày mai thôi, dòng sông với bao năm len lỏi, bao năm trầm lắng khổ đau, gào thét thác gềnh sẽ đổ ào ra biển, thỏa thuê và reo vui bất tận...

Truyện ngắn An Bình Minh

Chuyện ở đồng tràm

Đặng Hoàng Thám

Trời tháng tư, nắng như thiêu đốt đồng bưng. Chúng tôi đi trên cánh đồng tràm chỉ còn trơ những chồi cây tái sinh èo uột. Cánh đồng này mấy mươi năm trước là vùng chiến địa. Chúng tôi đã đi qua và bây giờ trở lại...

Tư Sứt "bụp" nhát cuốc xuống nền đất khô nẻ và cứng như xi măng. Những vết phèn ám đỏ như rỉ sắt dính vào lưỡi cuốc của anh, gặp không khí, cái màu đỏ ấy đổi thành vàng sẫm, nhờn nhợn như những vết máu mới khô...

- Đây mà! Chỗ này chứ không đâu hết. Hồi đó tôi đã đứng nhiều chỗ... Chỉ có chỗ này là nhìn thấy cái lỗ mũi ló ra từ vách núi đá tai bèo độ gang tay. Cái núi gì mà buổi chiều nhìn xiên giống hình mặt quỷ, buổi sáng thì giống như cô gái đang cười trêu ai! Vậy mà người ta đã ở trên đó, ở cái chỗ tưởng chừng như chỉ có thú rừng, cỏ cây và ma quỷ!

Nhẫn nhìn lên ngọn núi mà Tư Sứt vừa mô tả. Quả thật, cái chỗ đá le ra từ trong hẻm núi nó giống như cái mũi của người ta, thế mà tại sao hồi đó, mình và Phấn không thấy! Chắc mình và cô ấy vô tình không để ý đó thôi!

- Gặp rồi! - có tiếng la gọn, giọng phấn khích.

- Gặp gì? Gặp cái gì? - mọi người nhau nhảu hỏi dồn.

- Vải dù. Vải dù - Tôi bó xác cô ấy bằng vải dù! Mà cái khăn choàng vải dù này là của tôi. Chỉ trừ tôi bị "khùng" thôi, thì tôi mới không nhận ra nó. Tôi choàng nó đi đánh giặc cả chục năm, nên tôi và nó như linh thiêng với nhau, nhìn mặt là biết ngay!

Đặng Hoàng Thám sinh năm 1955 tại Bến Tre, hiện công tác tại Hội VHNT TP Cần Thơ. Chuyện ở đồng tràm của ông đã đoạt giải nhì cuộc thi viết truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long lần thứ II-2005.

Nhẫn vẹt những người đang xúm xít bên miệng hố mà Tư Sứt và bạn anh ta mới vừa đào, còn nham nhở sình đất dèo dẻo. Hố sâu độ khoảng trên mét rưỡi. "Hà! Lạ thật. Hồi đó, tôi chôn cô ấy đâu có sâu dữ vậy! À! Mà chắc tại bùn vùi lấp. Vùng này mỗi năm mỗi ngập nước mà. Chỉ có tràm, chỉ có tràm là mới sống nổi thôi!"- Tư Sứt lẩm bẩm. Một vật gì như bằng kim loại ánh lên dưới ánh nắng gay gắt của buổi trưa hè. "Một cái lược bằng nhôm máy bay!". Nó vẫn còn sáng màu khi Tư Sứt đã rửa lớp bùn đất phủ quanh nó hơn 30 năm! "Đúng là cái lược của mình đã dày công mài cắt từ cái yếm của chiếc máy bay đầm già bị thanh niên xung phong đường 1-C dạo đó, bắn rơi trên cánh đồng tràm này đây! Những ngày bị giặc vây trong hang núi Mo So, mình đã tranh thủ những lúc giặc ngưng đánh để mài cái lược nhôm cứng này cho Phấn. Bây giờ nó vẫn còn! Mình nhận ra nó ngay, giống như anh Tư Sứt đã nhận ra chiếc khăn choàng vải dù của anh ta. Nhưng Phấn! Người con gái xinh đẹp, tuổi mới đôi mươi không còn nữa! Cô ấy đã nằm dưới cánh đồng tràm này lâu lắm rồi! Thịt da mơn mởn ngày ấy, bây giờ chỉ là nắm đất nhão sền sệt với vài sợi tóc hiếm hoi còn sót lại..."- Nhẫn nghe lòng bùi ngùi, xót xa vô hạn!

Mở gói ấy ra luôn đi! - đồng chí trưởng đoàn ra lệnh.

Tấm vải mủ khá dày, lem luốc bùn đất, cột bằng dây đèn trái sáng được Tư Sứt mở bung ra: Một cái sọ người bị mẻ bên trán trái với hai hố mắt sâu thẳm và hai cái gò má cao; một ít xương lóng của các chi... Chỉ còn nhiêu đó! Phấn ngày xưa của Nhẫn đó sao? Thật khó hình dung nổi cái sọ không lành lặn kia với hai hố mắt to buồn như muốn khóc, đã có thời là khuôn mặt ngây thơ, trắng trẻo, sáng đẹp của một người con gái có mái tóc đen dài, óng mượt ngang lưng! Những giọt nước mắt của người đàn ông có khuôn mặt buồn, khắc khổ, dày dạn gió sương rớt xuống nền đất phèn khô quéo. Những cây nhang gầy đét được đốt lên. Gió đưa hương ngan ngát. Mùi của khói nhang. Mùi của quá khứ. Mùi của bom đạn. Mùi của gió biển có vị mặn mồ hôi người. Mùi của phèn chát xì lên từ những lỗ nẻ có dấu chân trâu. Mùi của hương hoa tràm đúng là như còn phảng phất đâu đây... "Cô Phấn! Cô đã trở về với anh em rồi đó!" - giọng Tư Sứt cảm thán ngậm ngùi. Trong phút giây hư ảo của ký ức. Nhẫn lờ mờ, rồi nhớ rõ hẳn cái đêm hôm ấy trên núi, trăng sáng vằng vặc, trăng treo trên cánh rừng tràm bạt ngàn, đen sầm sậm phía dưới đồng bằng xa xa mờ ảo...

Hồi ấy, đang là mùa nước nổi của vùng Tây cận Nam tứ giác Long Xuyên, giáp Hà Tiên, Ba Hòn...

- Ngày mai, anh theo đoàn qua "K", rồi lên miền Đông nhận hàng. Chắc lâu lắm mới gặp lại em!

- Anh đi đường cố bảo trọng. Lúc này, em nghe nói giặc nó "ghim" đường dây mình dữ lắm! - cô gái ngây thơ và lo lắng nói.

- Thì phải đi tới nơi tới chốn thôi! Như những lần trước vậy.

Họ là những chiến sĩ thanh niên xung phong của đường dây 1-C đang làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí từ các kho ở miền Đông về miền Tây Nam Bộ để phục vụ cho các chiến dịch và các hoạt động vũ trang của ta ở đồng bằng sông Cửu Long trong những thời điểm ác liệt nhất!

- Em có nhớ Cần Thơ mình không?

- Anh có nhớ không mà hỏi em! - cô gái gục đầu vô vai Nhẫn thổn thức. Họ là đôi nam nữ học sinh thoát ly theo cách mạng. Quê Phấn ở Phụng Hiệp, còn quê của Nhẫn ở Châu Thành. Họ ra đi phơi phới trong lòng theo tiếng gọi của quê hương. Những thanh niên, nam nữ thời ấy nhiệt tình và đơn giản lắm trong cách nghĩ, cách sống! Chỉ mong hết giặc, thanh bình, về lại quê hương với mảnh vườn, miếng ruộng và một mái ấm gia đình. Đêm ấy họ yêu nhau và thật hạnh phúc như một cặp vợ chồng giữa núi rừng hoang sơ. Chỉ có ánh trăng làm chứng!

Sau chuyến đi dài ngày, Nhẫn trở lại. Nhưng anh không vào trong núi được. Thiết giáp và lính sư 21 Sài Gòn đã vây núi mấy ngày qua. Một cánh quân của ta trong núi được lệnh mở đường phá vây, bắt liên lạc, nhận tiếp tế và vũ khí để chiến đấu bảo vệ kho hàng. Phấn gặp lại Nhẫn giữa mặt trận. Mừng mừng tủi tủi chẳng nói nên lời. Họ nằm lại một chốt chiến đấu để bảo vệ các đồng chí thanh niên xung phong gấp rút chuyển một số ít hàng vào trong hang.

Buổi sáng, bình minh châu thổ đẹp lạ lùng với những ngọn núi còn mờ sương đứng hiên ngang, hùng vĩ giữa đồng bằng và biển cả. Nắng mai vàng rực rỡ. Những tảng đá lớn nhỏ rơi vãi ngổn ngang qua hàng trăm trận bom bừa và pháo bầy của giặc. Có tiếng rì rì, quần đảo của máy bay đầm già trên không.

- Nó bắt đầu lên kìa! Các đồng chí cảnh giác cao, sẵn sàng đánh trả kẻ thù để bảo vệ kho hàng - đồng chí Bảy Thanh chỉ huy đoàn ra lệnh.

Sau những loạt pháo lớn nổ rền trời kéo dài nhiều phút, bọn lính bắt đầu tấn công lên núi. Khói cháy rừng khét lèn lẹt nhưng lại có mùi thơm dìu dịu, phảng phất của tinh dầu cây cỏ bị đốt! Quân ta chống trả anh dũng nhưng vì yếu thế hơn chúng, phải rút vào hang. Bọn địch dùng máy bay thả những phuy xăng, dầu đốt hang. Lửa cháy luồn vào hang, khói mù mịt không thấy mặt người. Nhưng lạ lùng thay! Sau vài phút ngột ngạt, ngọn lửa lại phù phù cháy ngược trở ra. Đó là vì khi cháy, không khí ở đó bị nóng lên và ít đi đột ngột, gió từ các ngách hang trên núi bị hút, thổi luồn xuống, phía dưới chân núi bao giờ cũng thấp hơn trên, nên xăng dầu chảy ngược ra cũng là điều dễ hiểu! Bọn địch bị thất bại bất ngờ khi định dùng "hỏa công" thiêu rụi núi! Bọn chúng vốn nhát gan, nên khi có mấy tên liều mạng chun vào hang bị ta tiêu diệt, những tên còn lại hoảng sợ thối lui không dám bén mảng lại gần nữa. Núi đã che chở cho quân ta. Núi trở thành máu thịt của ta...

Phấn cột khăn rằn ngang bụng, cô vác khẩu "trường bá đỏ" trên vai bước những bước xiêu vẹo và mệt mỏi. Đơn vị cô bị ngăn cách bởi bọn lính ở lưng chừng núi. Đường trở vào hang bị chúng chốt chặn và canh gác nghiêm nhặt. Tổ chiến đấu của Phấn đã hy sinh và bị thương gần hết. Người này dìu người kia luồn qua những con đường hiểm trở để tránh giặc. Họ đã kiệt sức. Một tiếng nổ lớn. Phấn thấy mình phiêu diêu chập chờn, mơ mơ, màng màng trong một vùng tối sáng mờ ảo, cô không còn biết gì hết...

Ngày chiến sự thứ ba. Lối gần sẩm tối. Người ta đưa về trạm quân y một thương binh nữ bị dập xương sống, với cái đầu quấn băng trắng chỉ còn đôi mắt nhắm nghiền và hơi thở hoi hóp. Các đồng đội của cô đã gặp được cô bên một dòng suối cạn trong rừng khi quân địch vừa rút đi. Có một anh bộ đội quần áo bê bết bụi đất, ôm cô khóc. Cặp mắt anh đỏ hoe trên gương mặt bơ phờ, tiều tụy: "Đồng chí bác sĩ. Chú Chín! Ông cố cứu cô ấy, cô ấy là một chiến sĩ gái dũng cảm và tội nghiệp". Chín Thành vỗ vai anh bộ đội: "Anh bình tĩnh. Tôi sẽ làm hết sức, để cứu đồng chí mình!". Chín Thành chích thuốc, ghim kim truyền dịch. Anh mở băng ra và rửa ráy vết thương của người chiến sĩ kia. Chín Thành thoáng trầm ngâm. Anh hỏi: "Cô ấy quê ở đâu? Tên gì? Là sao với anh?" - "Cô ấy tên là Hồng Phấn, người Phụng Hiệp Cần Thơ. Phấn là... là người yêu của tôi. Chúng tôi cùng ra vùng giải phóng một lượt! Chúng tôi ở đoàn thanh niên xung phong Tây Đô...".

Mặc dù Chín Thành và các nhân viên của anh đã hết sức cố gắng để mong cứu Phấn, nhưng cô ấy không qua khỏi vì vết thương quá nặng. Trạm sửa soạn an táng cho Phấn thì giặc đánh tới. Chín Thành phân công cho Tư Sứt gấp rút di chuyển thi hài các liệt sĩ đến một chỗ khác để chôn cất và dặn Tư Sứt nhớ làm dấu tích để mai này hòa bình có thể trở về tìm hài cốt, quy tập họ về quê quán. Phần anh, anh chịu trách nhiệm di dời các thương binh qua biên giới để tiếp tục điều trị. Nhẫn còn sức khỏe, anh phải theo Chín Thành để cứu những thương binh còn sống. Lúc này, hơn lúc nào hết, họ và tổ chức cần anh.

Một người phụ nữ, có gương mặt sáng đẹp, trên trán đã hằn mấy nếp nhăn, mắt mũi đỏ hoe, tóc tai lòa xòa trên đôi vai thấm đẫm mồ hôi. Chị ôm cái quách nhỏ bằng sành da lươn, vuốt ve, khóc rưng rức: "Chị ơi! Chị ơi... Chị đi đã hơn ba mươi năm... Bây giờ mới về! Chị ơi.. Chị Phấn ơi!". Mọi người ai nấy cũng mủi lòng, ngại ngần nhìn vào cái quách! Ba Nhẫn dìu vợ đứng lên: "Tại số phần chị ấy vắn! Tại chiến tranh mà. Thôi! Đừng khóc nữa! Đừng để Hồng Phấn tủi thân!". Ngày hòa bình, Nhẫn tìm về gia đình Phấn. Hoa khi đó, tuổi chớm đôi mươi và đẹp dịu dàng như Phấn ngày xưa. Phấn đi trước Mậu Thân. Lúc Phấn đi, Hoa còn bé lắm, chỉ mới mười hai, mười ba tuổi đầu, tóc tai vàng hoe, vàng hoét. Cô bé Hoa - hôm chị lên đường đi thanh niên xung phong - mặc chiếc áo bà ba xùng xình, nhăn quéo của Phấn cho, chân đất, đầu trần chạy vấp lên, vấp xuống dọc theo bờ kênh tiễn chị. Cô vừa vẫy tay, vừa khóc nức nở, gọi chị đến lạc giọng! Phấn vịn cột chèo, rươm rướm nước mắt, huơ huơ chiếc mũ tai bèo từ giã mẹ và em. Cha cô đã lên miền Đông từ sau Đồng Khởi... Ngày giải phóng, Hoa tham gia công tác ở huyện đoàn, rồi yêu ông anh rể hụt của mình. Chín Thành quen thân với gia đình Phấn. Anh mai mối, tác hợp cho Ba Nhẫn và Hoa. Ba Nhẫn trở thành chồng của Hoa và là em rể của Phấn.

Hơn ba mươi năm trôi qua. Chín Thành, Ba Nhẫn, Tư Sứt trở lại cánh đồng tràm thủa trước để tìm mộ và hài cốt các liệt sĩ ngày ấy. Họ đã tìm gặp Phấn. Xương cốt của người con gái Tây Đô được đặt vào cái quách nhỏ, trên có phủ lá cờ Tổ quốc. Chín Thành vặn ống kính chụp mấy "bô" hình. Tư Sứt bắn một tràng A.K giòn giã lên trời...

Nắng chiều đã xế trên cánh đồng tràm mênh mông xa tít tắp. Lưa thưa mấy cánh cò chấp chới bay về cụm núi lam xa phía biển. Phía Hòn Đất. Chín Thành vỗ vai Ba Nhẫn:

- Thôi đừng buồn! Ngày mai chúng ta sẽ đưa Hồng Phấn về quê hương "gạo trắng nước trong" của cô ấy...

Truyện ngắn của Đặng Hoàng Thám

Tiêu đề: Đồng hoang

1.Chiếc "Đầm già" lượn một vòng chữ C rồi phóng vút lên trời như con chim bồ cắt. Khi ở một khoảng khá cao, nó rì rào, đằm đẳm, lưng tưng như cánh diều no gió .

Sơn và Chiến ghìm hai khẩu tiểu liên AK trên một chảng ba cây, đạn đầy ắp trong băng đã lên nòng, mắt đăm đăm theo dõi chiếc máy bay trinh sát của địch đang chờn vờn trên bầu trời của cánh đồng hoang đầy lau sậy.

- Mẹ! Mày lạng xuống một cái nữa sẽ biết tay tao!- Sơn bực dọc.

- Bắn tan xác nó đi! Trả thù cho thằng Tâm...

Có một bàn tay vỗ nhẹ lên vai Sơn, giọng ấm trầm nhưng nghiêm khắc:

- Ai lệnh cho các đồng chí bắn "đầm già"? Bắn chắc gì đã trúng nó! Chỉ hại cho anh em... Chúng ta đang trụ ở một nơi khá an toàn Làm "hôi ổ" khó mà kiếm được chỗ nào tốt hơn !

- Dạ... dạ thưa chú Ba! Tụi tui muốn trả thù cho thằng Tâm. Ông nhìn kìa! Nó lạng lách trông nhức mắt quá... Chú cho tụi tui "mần" nó nghen?

- Không được! Các chú nghe lệnh tôi - không được bắn - Ba Tấn dứt khoát,rồi anh nhẹ giọng trở lại: Nếu còn sống, còn đi theo cách mạng, chúng ta đâu thiếu cơ hội để trả thù cho đồng chí, đồng bào mình. Không được nóng vội. Hãy bình tĩnh, nhất là trong lúc này. Tôi hiểu tấm lòng các chú... Nhưng phải bảo toàn lực lượng, giữ bí mật nơi đóng quân! Chiến trận tiến thoái, thắng thua là lẽ thường. Hy sinh là chuyện phải chấp nhận. Cái quan trọng là thắng lợi cuối cùng. Tôi cũng thương thằng Tâm lắm chứ!

- Dạ!... Dạ, tụi cháu nghe chú. Tụi cháu chấp hành lệnh của chú! - Sơn và Chiến hình như đã hiểu được những lời của Ba Tấn, nhưng trong lòng họ vẫn còn ấm ức, bực dọc...

Ba Tấn vấn một điếu thuốc, bật lửa, rít một hơi dài. Anh thoáng mơ màng nhìn ra con đường mòn mịt mùng lau sậy. Sơn và Chiến quảy súng lên vai, mắt nhìn lên bầu trời, trong lòng còn hậm hực. Cả ba người, hình như nhớ về cái đêm ấy.

2. - Chú Ba ! Ở đây cá mắm không thiếu. Nhưng gạo chỉ còn đủ ăn hai ngày nữa thôi!...

Ba Tấn thoáng trầm ngâm, anh nói :

- Tôi cũng đã nghĩ đến chuyện này rồi. Phải đi một chuyến ra vùng "meo" vận động bà con ủng hộ lương thực và liên lạc với mấy cơ sở mình ngoài ấy...

Ba Tấn nói với các chiến sĩ của anh:

- Đêm nay, tôi sẽ đích thân chỉ huy các đồng chí đi công tác.Tất cả chấp hành theo lệnh của tổ chức, làm theo nhiệm vụ được phân công ...

Màn đêm buông xuống cánh đồng hoang. Ánh trăng thượng tuần xanh xanh, le lói như chiếc xuồng con neo trên một bến sông đầy lau sậy. Gió xạc xào thổi qua những rừng lá tối đen như mực. Đom đóm lập lòe trên những cành cây như đèn chớp... Đoàn chiến sĩ lặng lẽ, đạn lên nòng, đi theo lối mòn trong bóng đêm, lần hướng về cái vầng sáng mơ hồ ở xa xa phía bắc cánh đồng gần vùng ven thị xã. Họ ra đi xuyên qua vùng địch tạm chiếm .

- Mở cửa ! mở cửa... anh Tư. Ba Tấn đây !

Ánh đèn dầu leo lét trong nhà được vặn ra hơi sáng. Có tiếng ho khan và tiếng dép nhẹ. Cánh cửa hé ra, dội chút ánh sáng lên chiếc mũ tai bèo của Ba Tấn:

- Trời! Ba Tấn... sao chú mày về đây được? Đồn bót giăng giăng . Tụi lính đêm nào cũng đi phục... nguy hiểm quá! Thôi vô... vô nhà nhanh đi !

Ba Tấn lách mình vào cửa. Tư Cầu đánh thức vợ dậy: " Ba Tấn và anh em về... Bà nấu cơm lẹ cho mấy chú ấy ăn đi . Chắc đói bụng hả Ba Tấn? Ăn cơm nghen... Bắt đại con gà mái trong ổ làm thịt đi cho dễ... Anh em mình trong ấy ra sao? Có khỏe không? Thằng Tâm con tôi có về với chú không? Ở trỏng, hầm hố có chắc chắn không? Mỗi lần tụi nó bắn "ô bích" tôi lo quá!

Ba Tấn thân mật vỗ vai Tư Cầu :

- Anh yên chí đi. Chỉ lo gạo... Còn mọi thứ đều ổn. Đường đi nguy hiểm quá nên tôi cho thằng Tâm ở nhà. Thằng con anh nó muốn giận tôi!

Tư Cầu gật gật đầu:

- Chú tính cũng phải. Nó là lính mới. Chú nói với nó, để má nó vô thăm, hay hơn!

- Hôm rồi, chắc anh nhận được thư tôi?

- Có. Tôi đã vận động được một số bà con ủng hộ mình một ít gạo tiền. Đang tìm cách chuyển vô cho mấy chú. Lúc này nó kiểm soát gắt lắm... Nhưng giá nào cũng phải đem vào thôi!

- Chúng tôi sắp hết lương thực nên phải mạo hiểm ra đây!

- Tôi biết. Chú xem! - Tư Cầu dẫn Ba Tấn vô buồng ngủ và giở lu ra: những bọc ni lông dày đựng đầy gạo được cột cẩn thận từng túi nhỏ.

- Anh kỹ lưỡng quá! - Ba Tấn nắm tay Tư Cầu siết chặt.

Ba Tấn và các chiến sĩ trở về, mỗi người mang trên mình gần hai mươi kí gạo, họ len lỏi qua một quãng đường khá dài, nguy hiểm luôn rình rập. Có lúc họ đi sát đồn giặc gần hai mươi mét, nghe rõ cả tiếng nói chuyện của bọn lính trong đồn.

Gần đến bìa cánh đồng để vào cứ. Có tiếng kêu như chim quốc: "quốc ... quốc... quốc...". Có người đón. Tâm và hai chiến sĩ thổi ống tre giả tiếng chim làm mật hiệu.

- Chú Ba và mấy anh về trỏng trước, để tụi tôi gác đường chận hậu cho an toàn. Chú Ba thấy ba má tôi ở ngoải có khỏe không? - Tâm hỏi.

- Khỏe cả. Anh chị Tư gom gạo của bà con ủng hộ và cho tụi mình một con gà mái đẻ...

Sau ít phút sắp xếp, Ba Tấn để Tâm và Sơn ở lại, ông và các chiến sĩ tải gạo về cứ. "Mấy đứa bây cẩn thận nghen!" - Ba Tấn ngoái lại dặn dò...

Ba Tấn về đến cứ. Anh bỏ cái bòng gạo xuống đất, thở phào nhẹ nhõm. Các chiến sĩ ở nhà bu quanh Ba Tấn. "Có thuốc ruby và một can rượu nếp ngon đây... " - Ba Tấn vui vẻ - "Một con gà mái đẻ nữa. Bà con mình ủng hộ hết mình đấy! Kêu mấy đứa bắt nước nấu cháo... Tụi thằng Tâm về, mình lai rai chút đỉnh. Gà mái đẻ của chị Tư má thằng Tâm cho đó! Tội nghiệp ảnh chỉ. Từ chối thế nào cũng không được. Con gà đang ấp...".

Bỗng có tiếng súng nổ dồn phía ven cánh đồng. Ba Tấn lặng người lo lắng. Mọi người ai nấy đều bồn chồn...

Trời hửng sáng, chưa rõ mặt người. Sơn mình mẩy bê bết bùn đất và máu, quảy hai khẩu súng trở về.

- Thằng Tâm đâu?... Nó đâu? Mầy có sao không? - Ba Tấn nóng ruột như thiêu hỏi.

- Con không sao!... Thằng Tâm nó chết rồi chú Ba ơi! - Sơn khóc òa.

- Sao... Sao chết vậy? - Ba Tấn nắm vai Sơn lắc lắc. Mắt anh đỏ như tôm luộc.

- Tụi tui sửa soạn rút. Tụi lính đi phục kích về, chạm mặt tụi tui ở ngã ba cây Trâm. Trời tối, tụi tui và tụi nó bắn nhau loạn xạ. Tụi lính nó chạy, tụi tôi cũng chạy... Chừng vài mươi bước, thằng Tâm trúng đạn ngã cái bịch xuống đất, nhưng chưa chết liền! Nó đưa cây súng thều thào bảo tui chạy đi. Nó còn ráng rút nhíp trái lựu đạn, đút cánh tay vào ngực, nằm sấp xuống, đè lên... Nó "hướt" mấy cái rồi ngoẹo đầu nằm im. Bọn lính mò trở lại... Tui nghe nổ "Ùm!" một tiếng thật lớn, ngay chỗ cái xác của thằng Tâm!... Tui "xổ" một băng về hướng ấy, rồi bò xuống đồng, vạch lau sậy, lần về đây!

Mọi người ai nấy hốt nhiên trầm ngâm. Ba Tấn co nắm đấm lại rồi thừ người đốt thuốc. Điếu thuốc cháy đến gần tận kẽ tay, anh mới hay.

- Có nấu cháo, mần gà không chú Ba? Nước sôi lâu lắm rồi !

Ba Tấn khoát tay:

- Thôi ! Bảo tụi nó nấu cơm, kiếm gì ăn đỡ... Còn con gà, để mở cửa mả, cúng thằng Tâm rồi nhậu luôn với nó. Đêm nay dò đường cẩn thận, coi có lấy được xác nó về không!

Hai ngày, sau khi Tâm hy sinh, người của Ba Tấn vẫn chưa bắt liên lạc được với gia đình ông Tư Cầu. Ba Tấn và các chiến sĩ của anh truy điệu cho Tâm xong, họ ngồi nhậu lai rai dưới rặng trâm bầu. Con gà mái đẻ vẫn chưa bị làm thịt, họ đã thay bằng một con gà trống tơ cho đúng với lệ mở cửa mả. Ba Tấn uống một hơi ba ly rượu nếp mà vẫn chẳng thấy gì. Lòng anh nằng nặng. Ba Tấn hình dung đến vợ chồng Tư Cầu: "Thằng Tâm nó là con trai độc nhất của anh chị Tư Cầu... Ảnh chỉ gởi cho mình. Không ngờ nó "đi" sớm quá vậy!"... Và còn "một người" nữa! - Ba Tấn nói khẽ với Sơn :

- Sơn này! Con Thắm ở bên cánh Quân y huyện, không biết sẽ ra sao khi hay thằng Tâm chết? Thằng Tâm coi tao như ba nó. Hôm nọ, nó tiết lộ bí mật với tao rằng: nó và con Thắm có ăn ở với nhau rồi! Hai đứa hẹn sẽ thành chồng vợ... Bây giờ. Mày biết không? Tao cầu mong... cầu mong cho con Thắm đừng có bầu, để nó khỏi dở dang đời con gái. Tội nghiệp!

Có tiếng "đầm già" sè sè, quần đảo trên bầu trời của cánh đồng...

3. Sau ngày hòa bình lập lại. Nhiều năm sau,vào khoảng tháng mười âm lịch, khi gió chướng về, đồng hoang còn lau sậy trổ bông phơ phất, trắng xóa. Người ta thấy có một phụ nữ khá đẹp, ăn vận lịch sự, dẫn một bé trai, mặt mũi khôi ngô đến bày đồ cúng và đặt hoa ở mộ của Tâm. Mấy năm về sau nầy, mộ của Tâm được quy tập về nghĩa trang Liệt sĩ huyện. Cánh đồng hoang vu thuở ấy, một thời chở che cho cán bộ, chiến sĩ ta sau năm Mậu Thân ác liệt, bây giờ đã thành vườn ruộng phì nhiêu, sum sê cây trái. Chuyện về cánh đồng máu lửa ấy chỉ còn trong ký ức của những người đã đi qua một thời chiến tranh nơi mảnh đất vùng ven nhiều ác liệt...

Người kể cho tôi nghe câu chuyện này, bây giờ tóc đã bạc trắng, đôi mắt ông thoáng ánh lên chút xa xôi: "Cô Thắm đến giờ vẫn không có chồng... Thằng bé, con của cô ấy làm bí thư hay chủ tịch xã gì ở đó... May mà còn có đứa con, không thì đồng hoang mãi hoang vu...".

ĐẶNG HOÀNG THÁM

CHỊ NHUNG

Chờ khi trời sẩm tối, xuồng của chúng tôi mới tách bến và rặng lá hai bên bờ sông vàm Cỏ Đông như cũng chờ đến lúc trời tắt nắng mới rì rào chuyển động, khiến cho ta có cảm tưởng như gió chiều không phải từ xa thổi tới mà dậy lên từ trong những ngọn lá lao xao.

Tiếng bom pháo, tiếng gầm rú của máy bay, tiếng cánh quạt rầm rộ và nặng nề của các loại trực thăng trong suốt một ngày nắng gắt như phải tắt lặng đi, khi trên nền trời vừa bật lên những vì sao đầu tiên. Chỉ còn có những tiếng pháo nổ cầm canh vẳng lại từ những nơi xa.

Nhân lúc yên tĩnh và rỗi rãi, anh Tám Sơn, chánh trị viên tiểu đoàn, rủ tôi đi thăm một chị trong đơn vị biệt động quân của Sài Gòn, Chợ Lớn- chị Nhung. Trong trận đánh vừa qua, chị được trên phái xuống để đưa đơn vị anh đến vị trí chiến đấu; chị vốn là người quen cũ của anh. Còn tôi, tôi chưa quen cũng như chưa biết chị. Nhưng tôi cũng muốn gặp chị và nghe nói chị có dự trận đêm tết, tôi được nghe loáng thoáng một vài chuyện của trận đánh ấy. Người ta kể cho nhau nghe chuyện của một anh hùng B.40. Súng B.40, theo tôi được biết, với sức khỏe bình thường của con người, và theo sách vở đã dạy, mỗi chiến sĩ chỉ có thể bắn đến viên đạn thứ sáu là nhiều nhất. Nhưng với lòng dũng cảm của quân đội ta, có nhiều chiến sĩ đã bắn vượt mức quy định. Như trong trận đánh đoàn tầu giặc trên sông của tỉnh Long Châu Sa, có một chiến sĩ đã bắn đến viên đạn thứ chín diệt chín ổ đề kháng của địch. Tôi chưa được nghe ai bắn đến viên đạn thứ mười. Nhưng trong trận đánh vào Bộ tổng tham mưu của Mỹ- Ngụy, lúc đánh trả lại các đợt phản kích của xe tăng địch, có một chiến sĩ bắn B.40 thọc họng súng qua các cửa sổ bắn đến viên đạn thứ mười sáu. Thấy hai bên tai anh rỉ máu, một chị chạy đến không cho anh bắn nữa. Chị giật súng trên tay anh và bắn tiếp. Nghe nói chị ấy cũng tên Nhung. Tôi muốn gặp chị để hỏi lại những chuyện ấy cho rõ hơn và do tính tò mò, tôi muốn gặp tận mắt một cô gái người Sài Gòn.

Đêm tuy yên tĩnh, tôi vẫn dè dặt không dám cho xuồng bung ra giữa dòng, tôi chèo cặp theo rặng lá. Dòng sông cuồn cuộn và chảy xiết nữa, nước theo bóng đêm và ngọn gió đã lên đầy. Dòng sông trở nên mênh mang lấp lánh ánh sao, gợn lên từng đợt sóng nhẹ ộp oạp vỗ vào bờ.

Anh Tám Sơn ngồi trước mũi xuồng đối mặt với tôi, anh khoảng hơn bốn mươi tuổi, mặt xương, người gầy nhỏ trong bộ quân phục màu cỏ úa.

Đêm sáng mà tôi không nhìn rõ mặt anh, qua cái dáng lặng lẽ của anh, tôi đoán chắc anh cũng như tôi đang muốn ngồi yên lặng nghe tiếng gió, tiếng sóng và đeo đuổi những ý nghĩ riêng. Tôi không hỏi gì cũng không gợi chuyện. Nhưng sau đó một lúc, anh lại kể cho tôi nghe câu chuyện của chị Nhung.

Tôi quen cô Nhung từ năm một ngàn chín trăm sáu mươi. Cái ngày đầu tôi quen cũng là ngày tôi chia tay với cô, đã tám năm. Suốt trong tám năm không phải lúc nào tôi cũng nhớ, nhưng cũng có thể nói chẳng lúc nào tôi quên cô ấy. Trong những chuyến công tác, hễ gặp ai quen tôi cũng hỏi thăm cô. Tôi thường mong ngày gặp lại, nhưng khi tôi gặp lại cô thì tôi không nhận ra cô nữa. Đó là một buổi chiều tháng năm giữa trận đánh trên đường Trần Quốc Toản, cánh quân của chúng tôi thọc mạnh vào Sài Gòn, trụ lại quãng đường ấy từ mờ sáng. Bọn giặc dùng " chiến thuật ruồi bu" có phi pháo, có trực thăng, có cơ giới yểm hộ, chúng tấn công ta bằng nhiều mũi, chẳng khác gì những mũi tên lao vào một điểm. Mãi đến xế chiều chúng tôi mới đánh bật tất cả các đợt phản kích của địch. Tiếng súng nhỏ chỉ nổ thưa thớt trên các góc phố và trên những tầng nhà cao. Nhân lúc ngưng tiếng súng, chúng tôi phân công cho một đơn vị chia nhau giúp dân ra khỏi tầm súng. Chúng tôi đoán biết sau lúc im lặng, trận đánh sẽ xảy ra ác liệt hơn. Người trong khu phố lần lượt đổ ra đường, người đi xe hơi, người đi xe Honda, xe Suzuki, người đi bộ.

Đứng trong một góc phố, nhìn những đoàn người đang nối nhau, dắt díu nhau đi trong làn khói của những nơi nhà bị pháo giặc bắn cháy, tôi thấy có một cô gái cỡi xe Honda màu đỏ chạy ngược lại dòng người, lao thẳng vào trận địa. Chiếc xe bị đội tự vệ đường phố đưa tay chận lại. Mãi lúc sau, không lâu lắm, tôi nhớ khoảng chừng năm hay ba phút gì đó, anh đội trưởng tự vệ báo cho tôi biết có người lạ muốn gặp ban chỉ huy. Lúc đó tôi đã trở vào nhà, xem lại bản đồ của đường phố. Trong chỉ huy sở có một mình tôi với ba đồng chí trinh sát trẻ. Chỉ huy trưởng và chỉ huy phó đang ở trên đài quan sát, tôi mời vào. Người muốn gặp ban chỉ huy là cô gái cỡi xe Honda lúc nãy. Cô khoảng hai mươi hai, hai mươi ba tuổi, ăn mặc theo thời trang của người Sài Gòn, quần ống hẹp, áo bà ba màu hột gà bó sát lấy thân, người thon thả với dáng nhanh nhẹn, tôi không nhìn rõ được mặt cô. Tóc uốn cao, nhưng mái tóc lại rủ xuống che mất cả vầng trán và cô lại mang kính mắt đen. Tôi đoán là cô cố ý diện như vậy để người khác không nhận ra mình. Cô khẽ cúi đầu chào tôi với vẻ lịch sự và kính cẩn, rồi đặt chiếc giỏ mây bên bàn cạnh chiếc bản đồ quân sự, lấy ra chiếc bánh mì, bẻ làm đôi, đưa cho tôi một tờ giấy nhỏ. Đó là thư của ban chỉ huy trung đoàn lệnh cho các cánh quân của chúng tôi phải chuyển đến vị trí X, vào giờ G để hợp đồng chiến đấu với đơn vị bạn và cô là người dẫn đường.

- Cô thứ mấy ? - Tôi hỏi.

- Dạ thưa út!

Sau khi xem xong thư, ngước nhìn cô giao liên, tôi thấy cô đã gỡ kính mắt đen và không hiểu sao cô lại nhìn tôi với cặp mắt mở to, vẻ kinh ngạc và như có gì xúc động đến xao xuyến. Sao cô lại nhìn mình quá đỗi lạ lùng như vậy? Tôi thầm hỏi.

Có lẽ đây là lần đầu tiên cô gặp một người chỉ huy giải phóng quân. Tôi thầm nghĩ như vậy, chẳng hiểu sao tôi muốn tránh cái nhìn lại tôi, xem cách ăn mặc của mình có đúng với tư thế của người chỉ huy quân giải phóng hay không. Tôi cảm thấy ngượng mà tự hào với bộ quân phục đầy bụi. Tuy thế, tôi vẫn đưa tay phủi nhẹ. Tôi muốn hỏi cô nhiều điều, nhưng lúc đó một đàn trực thăng đang kéo tới. Tôi chỉ còn thì giờ ra lệnh cho tổ trinh sát phải bảo vệ cô. Có lẽ vì giọng ra lệnh của tôi quá nghiêm trang, một đồng chí trinh sát trẻ liền bước vào đưa cô xuống hầm trú ẩn. Cô cầm chiếc giỏ mây đi theo anh trinh sát mà vẫn quay mặt lại nhìn tôi, tôi không còn thì giờ để xét đoán những cử chỉ lạ lùng của cô nữa. Tôi vụt chạy thẳng lên đài quan sát. Đài quan sát của chúng tôi là tầng thứ tám của một cao ốc. Nhìn qua những ô vuông cửa sổ của tòa nhà ấy, chúng tôi có thể nhìn thấy những mái nhà chen khít nhau của khu phố, có thể phát hiện được những ụ súng của địch và những đoạn đường xa.

Tôi báo cáo lại ban chỉ huy mệnh lệnh của cấp trên và bàn kế hoạch chiến đấu, kế hoạch tiến quân.

Một bầy trực thăng chín chiếc xếp thành ba tầng quần đảo qua khu phố. Tôi thấy rõ những tên lính Mỹ ngồi trong trực thăng, tay cầm súng, nhìn xuống khu phố qua cửa mở, đầu của nó như cái gáo dừa. Chúng bắn hỏa tiễn xuống từng mái ngói, chẳng mấy chốc mà chúng đã tạo thành một vòng lửa lớn vây lấy chúng tôi. Những mũi quân ở xa mỗi lúc mỗi thu gần lại, gần như gom dần về một điểm. Muốn bảo toàn được lực lượng, đó là điều phải tránh. Hỏa lực phòng không của ta đã bắn rơi hai chiếc, chúng bay rạt đi một lúc, rồi một bầy khác lại kéo tới. Vòng vây của ngọn lửa mỗi lúc một cao ngọn và thu nhỏ lại. Có lúc tôi có cảm tưởng như mình đang đứng giữa ngọn lửa. Không khí như cũng bị cháy. Gió thổi hơi lửa táp vào người nóng hầm hập. Không thể nhìn thấy được gì rõ ràng nữa. Những mái ngói đỏ, những bờ tường màu sữa, những vuông cửa xanh, những con đường và cả khu phố đã bị vùi sâu trong đám khói. Một vài chiến thương đang bị ngộp vì khói.

Phải phá vây! Chúng tôi quyết định, nhưng không thể điều quân vượt qua vòng lửa đang bốc cháy. Phải điều quân tiến thẳng trên con đường lớn, đánh vỗ mặt vào quân địch, rồi từ đó, sẽ chuyển quân vào vị trí đã định. Có thể nói đó là cánh cửa mở của vòng lửa. Thế nhưng thằng Mỹ đã đóng cánh cửa ấy bằng một chiếc xe M.41, chiếc xe đang cắm ngay ngã ba, bắn dọc theo đường. Chúng tôi tập trung hỏa lực cho các đội đánh tăng. Vì vòng lửa đang xiết chặt, muốn đánh chiếc xe tăng ấy, chẳng còn con đường nào khác hơn là tiến men theo con đường lớn. Mấy tổ đánh tăng- mỗi tổ ba người- đều không vượt lên được. Chiếc xe ấy ở quá xa tầm súng. Chúng tôi không hề nghi ngờ gì lòng dũng cảm của các chiến sĩ. Quả là chúng ta không thể nào tiến gần nó được. Nếu chiến đấu tại một vị trí có thể chiếm được, sau khi diệt được nó mà phải hy sinh, tôi tin chắc trong đơn vị của tôi sẽ có hàng trăm chiến sĩ sẵn sàng ra đi. Cái khó khăn không thể vượt được là các chiến sĩ ta đã phải hy sinh ở những vị trí hãy còn xa nó quá. Nhưng cũng không thể vì thế mà chịu bó tay. Bằng mọi cách phải diệt cho được chiếc xe tăng ấy. Ban chỉ huy chúng tôi hạ quyết tâm. Trong khi chúng tôi đang họp bàn kế hoạch, cô giao liên ấy đứng cạnh bên chúng tôi lúc nào không biết.

- Em sẽ đưa các anh đến chỗ đó, không cần phải men theo đường lớn.

Cả ban chỉ huy chúng tôi như giật mình nhìn lại cô. Căn nhà đầy khói, tôi không nhìn rõ mặt cô. Qua làn khói lảng vảng tôi chỉ nhìn thấy đôi mắt mở tròn của cô.

- Đồng chí đi bằng đường nào? - Tôi hỏi.

- Tôi... - Cô lắp bắp rồi xưng cháu -... Cháu sẽ đưa các anh luồn theo các ngõ trong khu phố.

- Chúng tôi sẽ đi! - Một chiến sĩ đã đánh tăng nhiều lần liền chạy tới nói với tôi và nhìn cô gái giao liên với đôi mắt dò hỏi:

- Chắc chớ đồng chí?

- Chắc ! Tôi biết đường - Cô giao liên đáp.

- Vậy thì ta đi thôi!- Anh chiến sĩ đánh tăng giục chúng tôi hạ mệnh lệnh. Chúng tôi tổ chức ngay một tổ ba người, cô giao liên hỏi xin một trái pháo dù, cô để vào giỏ mây.

Ba chiến sĩ đánh tăng ôm súng, đeo đạn, lao ra cửa. Còn cô giao liên có vẻ như trù trừ. Cô cầm chiếc giỏ mây đựng trái pháo dù, đứng lặng môt lúc rồi bất thần quay nhìn tôi:

- Chú Tám, chú không nhớ cháu sao? Cháu là Nhung!

- Sao? - Tôi kinh ngạc và buột miệng kêu lên như vậy. Tôi chưa kịp hỏi gì thì Nhung đã lao đi rồi. Trong khoảnh khắc đó, tôi đứng ngây người, nhìn theo cháu qua làn khói và nói thầm với mình: " Nhung à"?

Anh Tám Sơn kể đến đây thì phải dừng lại vì một đoàn xuồng máy đuôi tôm đang chạy ngược qua xuồng chúng tôi. Anh Tám Sơn dù có say chuyện, nếu anh có muốn kể tiếp, tôi cũng không thể nào nghe. Tiếng máy đuôi tôm nổ vang, chiếc này nối theo chiếc kia quẫy lên từng đợt sóng lớn. Đó là đoàn xuồng dân công chở lương thực và đạn dược cho các chiến trường. Những người chèo thuyền chở khẳm vừa la ó vừa bấm đèn pin làm hiệu cho những chiếc xuồng đuôi tôm nhỏ máy lại. Đoàn xuồng đuôi tôm vừa dứt, tiếng máy nổ mỗi lúc mỗi xa, tiếng la ó của người đi trên sông im đi, những đợt sóng đuối sức lặng an dần, dòng sông vừa trở lai yên tĩnh, anh Tám Sơn vừa định kể tiếp câu chuyện thì tiếng hát của một chiếc xuồng nào đó lại vang tới:

ở tận sông Hồng em có biết

Quê hương anh cũng có dòng sông

Anh mãi gọi với lòng tha thiết

Vàm Cỏ Đông ơi Vàm Cỏ Đông (1)

Bài hát mang theo một âm điệu tha thiết của dân ca, đúng ra người ta phải đơn ca, nhưng người trên xuồng đi giữa dòng sông ngược qua chúng tôi lại đồng ca. Tôi không biết rõ trên chiếc xuồng ấy có mấy người, nhưng nghe qua những giọng trầm đục và khàn khàn tôi đoán là bốn, năm người đàn ông đang hát. Tôi bật cười vì bản đồng ca ồ ồ ấy, bài hát với những giọng trầm đục như đang là là trên mặt nước, bỗng có một giọng nữ cất cao lên: " Ơi Vàm Cỏ Đông, ơi hỡi dòng sông".

Bài hát bỗng như khác hẳn đi khiến tôi phải dừng chèo lắng nghe. Những giọng trầm đục của những người đàn ông đã trở thành cái bè trầm, làm nền cho giọng nữ cao đang bay chơi vơi trên dòng sông:

Nước xanh biêng biếc chẳng đổi thay dòng

Đuổi Pháp đi rồi, nay đuổi Mỹ xâm lăng

Giặc đi đời giặc, sông càng xanh trong

Ơ Vàm Cỏ Đông, ơi hỡi dòng sông...

Giọng nữ cao ngân dài như rung trong không gian. Đi xuồng trên Vàm Cỏ Đông trong đêm sao, nghe tiếng hát "Vàm Cỏ Đông" của một cô gái, tôi bỗng thấy bâng khuâng.

Khi cháu đi rồi, tôi vẫn cứ ân hận sao mình lại có thể vô tình quá mức đến như vậy.

Anh Tám Sơn kể tiếp câu chuyện khi tiếng hát trên chiếc xuồng đã trôi xa. Anh tiếp : Nhưng lúc đó, tiếng súng của trận đánh không cho tôi được nghĩ ngợi nhiều. Tôi phải lao vào trận đánh. Thật là đáng trách !

Hồi đó, trong những ngày "điều lắng", tôi từ tỉnh nhà lên Sài Gòn vừa dạy học vừa hoạt động. Tôi ở trên một cái lầu tồi tàn của một người công chức nhỏ có bà con xa. Cạnh bên nhà là tiệm bán thuốc. Cái lầu tồi tàn và trống trải ấy chỉ có một mình tôi thôi.

Cả gia đình của chủ nhà đều ở tầng dưới. Trên lầu chỉ có một cái giường ngủ, một cái tủ nhỏ vừa đựng sách vừa để quần áo. Tài liệu mật tôi thường nhét dưới mái ngói. Hôm ấy, tôi được lệnh trên điều về chiến khu để nhận công tác mới. Ơở nhà trường trở về, sau khi cơm trưa xong, tôi bắt đầu thu xếp đồ đạc. Tôi thò tay vào mái ngói thì tôi giật mình, xấp tài liệu của tôi đã biến mất rồi. Tôi cho tay vào những mái ngói khác cũng không tìm thấy. Lúc tôi mới bước vào cửa, người chú cho tôi biết sáng nay có một lũ cảnh sát vây lấy khu phố, lục xét một số nhà, và bắt đi một người. Bọn cảnh sát không leo lên lầu nhà tôi, thế thì sao tài liệu lại biến mất ? Tôi toát mồ hôi, tôi tưởng bọn cảnh sát đang đứng chật dưới đường, đang ùa vào nhà. Tôi chạy ra cửa sổ, nhìn xuống, không thấy gì đáng nghi ngờ, tôi lại cho tay vào mái ngói khác... Đầu ngón tay tôi rớm máu. Mất thật rồi, tôi nhớ chắc là tôi không giấu chỗ nào khác hơn. Biết vậy, nhưng tôi vẫn cứ giũ chiếu, mở tủ, lôi tất cả quần áo, sách vở ra lục soát lại từng món. Tôi đang bối rối thì bỗng có tiếng cười tinh nghịch cất vang lên. Tôi ngước mắt nhìn quanh quất, tiếng cười lại tắt, tôi chẳng thấy ai. Tôi lại giũ chiếu, giũ từng chiếc áo, sờ bóp và thò tay vào từng cái túi. Tiếng cười lại cất lên như trêu chọc tôi, ngó quanh quẩn, nhìn lên những lỗ thông hơi trên tường, ở phía bên kia, gần bên lỗ thông hơi hiện ra một đôi mắt lung linh, đôi mắt đang nhìn xoáy vào tôi. Khi thấy cái nhìn của tôi, đôi mắt ấy bỗng biến đi nhanh như cắt. Rồi đôi mắt ấy lại hiện ra và nhấp nháy.

Tôi định hỏi thì một giọng nói từ bên ấy hỏi vọng qua :

- Chú tìm cái gì đó ?

Tôi nhận ra giọng nói trong trẻo của cô bé giúp việc nhà bên. Tôi chưa kịp trả lời, đôi mắt nhỏ ấy lại biến mất. Trong lúc đó, cháu luồn theo máng xối, leo sang phòng tôi. Một cô bé độ mười bốn mười lăm tuổi, tóc cắt ngang vai, gầy yếu trong bộ bà ba đen quá cỡ, mặt xanh xao, tay cầm gói tài liệu, vừa mỉm cười, vừa bước đến gần tôi. Nhìn thấy gói tài liệu trong tay cháu, tôi nhẹ cả người, chợt hiểu, tôi vừa ngạc nhiên vừa cảm động.

- Sao cháu biết ?

Tôi hỏi và tò mò nhìn những cử chỉ nhỏ của cháu.

Cháu bé vẫn ranh mãnh mỉm cười và khe khẽ lắc đầu. Cháu dừng lại, ngước mắt nhìn tôi:

- Chú không giống người ta ở đây. Cháu để ý, cháu thấy cháu biết.

- Chú không giống người ta cái gì ? Tôi hỏi lại trong lúc hãy còn đang ngạc nhiên.

- Mấy đứa bạn của cháu nói, chú làm thầy giáo mà chú không đánh - Cô bé lại nhìn tôi và toét cái miệng sún cười với vẻ ngây thơ.

- Thôi, đưa lại cho chú ! - Tôi dịu giọng nói với cháu.

Cô bé như giật mình, rụt tay, và lùi lại một bước mặt nghiêm lại:

- Cháu sẽ trả lại cho chú nhưng chú phải hứa với cháu một điều.

- Cháu muốn gì cũng được ! - Tôi nói cho qua chuyện. Vẻ mặt xanh xao của cháu rạng rỡ hẳn lên:

- Thiệt nghen chú, chú phải hứa là chú sẽ giao cho cháu một công tác !

Tôi tưởng cháu bé muốn đòi tôi một món quà gì, thật không ngờ. Tôi đứng ngây ra, nhìn cô gái nhỏ với đôi mắt dò hỏi. Cháu cũng đứng lặng nhìn tôi, chờ đợi, có lẽ cháu thất vọng qua thái độ thờ ơ lạnh nhạt của tôi, những nét rạng rỡ trên vẻ mặt xanh xao của cháu lặn mất dần, đôi mắt lung linh của cháu bỗng đầy nước mắt, cháu cắn chặt răng cố ghìm tiếng khóc nhưng ngực lại phập phồng, cháu nói trong nước mắt nghẹn ngào:

- Ba cháu cũng như chú vậy, ba cháu đi tập kết rồi, còn má cháu thì...

Cháu bỗng quay lưng, đưa tay ôm mặt, đôi vai gầy nhỏ của cháu rung lên, cháu khóc nức nở. Tôi xúc động đến xốn xang. Bây giờ tôi thấy mình như một người cha đứng trước một đứa con. Tôi bước gần lại cháu, đưa tay vỗ nhẹ vai cháu:

- Cháu đừng khóc nữa, chú sẽ nói chuyện nhiều với cháu. Còn má cháu thì sao? Cháu vừa tức tưởi khóc vừa nói:

- Má cháu thì... Cháu không phải là người ở đây, cháu là người Tân Phú Đông tỉnh Long Châu Sa, má cháu là Hai Trâm, trong làng ai cũng biết, bây giờ cháu phải đi ở để nuôi má, em...

Phía bên kia nhà bỗng có tiếng kêu. Cháu giật mình, vội vàng lấy vạt áo lau nước mắt, để gói tài liệu lên giường tôi, vụt chạy đi.

Ngay buổi chiều hôm đó, tôi rời khỏi Sài Gòn. Trước khi đi, tôi gởi gắm cháu cho một đồng chí còn ở lại.

Trở về chiến khu, trong một cuộc họp đại biểu phong trào dân quân toàn miền, tôi tìm các đồng chí ở Long Châu Sa để hỏi thăm chị Hai Trâm, má của cháu. Các đồng chí ấy cho tôi biết:

... Chị là cơ sở mật của xã. Bọn địch phát hiện được trong nhà chị có một hầm bí mật. Chúng bắt chị tra hỏi, chị không khai. Nửa đêm, chúng đưa chị ra bờ sông, lũ khát máu ấy, chúng dùng dao chém xả qua ót chị, rồi thả chị trôi theo sông. Chị nhờ cái mái tóc dày, lưỡi dao của kẻ thù không phạt qua cổ chị được. Chị nương theo lục bình, lộn trở về. Chị vẫn còn sống và vẫn đang hoạt động. Cũng từ đó, tôi không có dịp trở lại Sài Gòn. Tám năm qua, tám năm, cái tuổi trưởng thành của cháu đã xóa hết những gì quen thuộc của cháu trong trí nhớ của tôi. Cái nét quen thuộc, tôi có thể nhớ và từ đó mà lần ra hình ảnh ngày xưa của cháu là cái ánh lung linh trong đôi mắt.

Gặp lại và nhận ra cô bé láng giềng ấy rồi, nhưng như anh biết, lúc đó tôi không thể gợi lại, cũng không thể hỏi han gì thêm. Tôi cố nén xúc động bất ngờ đó và quay lại công việc.

Ban chỉ huy chúng tôi quyết định mở thêm nhiều mũi quân. Cả ban chỉ huy tiểu đoàn, các ban chỉ huy đại đội đều phân tán trực tiếp chỉ huy từng mũi để yểm trợ và đề phòng khó khăn, chúng tôi cho thêm một mũi quân cùng đi với cô giao liên dẫn đường. Nhung đi đầu và mở đường. Nhung dẫn mũi quân của tôi luồn trong cái hẻm ngợp khói đến sặc sụa phải thối ngược lại tìm một chỗ khoảng khoát để thở rồi mới đuổi theo. Đến những hẻm cùng, phải thay nhau kê lưng lên vượt qua tường. Có lúc phải bò trên mái ngói nhà này chuyền qua mái ngói nhà khác, rồi từ trên cao, ôm ống nước tụt dần xuống. Nhờ theo các con đường đặc khói, quanh co, lên xuống mà cả mũi quân của ta đều tránh được đạn của trực thăng.

Đến nơi, cái khu nhà và những góc phố mà Nhung định lấy làm vị trí chiến đấu lại bị sụp đổ. Rõ ràng là bọn giặc cố ý san bằng khu phố để tạo thành một bãi trống cho chiếc xe tăng. Đứng trong một ngôi nhà chúng tôi nhìn thấy chiếc xe tăng đang lù lù án giữa đường. Vẫn còn quá xa tầm súng, chưa đánh được, nhưng không thể quay về nếu chưa diệt được nó. Các chiến sĩ đang phân tán và đang tìm cách chiến đấu. Còn tôi, mọi ý nghĩ của tôi đều tập trng vào một câu hỏi gay gắt: Có nên tổ chức một đợt xung phong để yểm trợ cho tổ đánh tăng không? Trong óc tôi nảy ra nhiều câu trả lời, và dự kiến nhiều tình huống khó khăn.

Trên trời, trực thăng vẫn lượn qua bãi trống ấy.

Tôi đứng trong căn nhà nhỏ mù mịt khói, hé cánh cửa màu gụ nhìn chiếc xe. Chiếc xe vẫn nổ súng, lúc dồn dập, lúc thưa thớt. Lúc ấy, Nhung đứng bên cạnh tôi, cũng ghé mắt nhìn qua khe hở của cánh cửa.

- Làm sao bây giờ chú - Với giọng lo âu, Nhung cứ lặp đi lặp lại câu hỏi ấy, nhưng tôi không đáp. Đầu óc tôi đang căng thẳng.

- Hồi nãy, lúc cháu đi ngang qua đây, khu nhà này vẫn còn nguyên, còn người đông. Nó ác quá ! - Nhung tắc lưỡi.

- Nếu như lúc nãy thì cháu sẽ đưa chú đứng sát bên nó rồi. Nó ác quá ! Làm sao bây giờ chú ? - Nhung cứ thì thầm hỏi tôi. Nhung bỗng nói như reo lên :

- Trời ! Nếu mình đứng được trên đó mình bắn xuống ! - Nhung chỉ cho tôi ngôi nhà ba tầng phía bên kia đường sát bên chiếc xe. Nhìn kỹ, tôi thấy trên những tầng nhà màu sữa đục ấy loáng thoáng có mấy tên lính. Sau một lúc quan sát, tôi khẳng định đó không phải là một cái đồn một cái bót cảnh sát, đó là ngôi nhà của thường dân mà chúng đang chiếm. Biết vậy, nhưng đâu có thể bỗng dưng mà đứng trên những nhà tầng đó được.

Nhung đưa tay khẽ đẩy cánh cửa, nhìn ra xa. Nhung bỗng kêu lên:

- Chú nhìn kìa! Chú có thấy không ? - Nhung như phát hiện được điều gì, giọng mừng rỡ.

Tôi cúi nhìn theo hướng mắt của Nhung. Tôi thấy sau chiếc xe là con đường bắc ngang, dãy phố bên đường hãy còn đông người, chỗ ngã ba đường người vẫn tới lui và xe cộ vẫn qua lại. Người Sài Gòn sống dũng cảm như vậy đó anh ạ ! Ơở bên cạnh bom đạn, khói lửa, cuộc sống của con người và dãy phố ấy vẫn giữ được vẻ nhộn nhịp bình thường. Tôi đã nhìn thấy cảnh sống của con đường sau tuyến lửa, nhưng không đoán được ý nghĩ của Nhung. Nhung ngước nhìn tôi rồi như buột miệng mà nói:

- Chú hứa với cháu một điều mà chú quên. Tôi hỏi lại Nhung bằng một cái nhìn dò hỏi ngạc nhiên.

- Chú hứa... giao công tác cho cháu. Bây giờ chú giao chiếc xe đó cho cháu đi!.

- Sao ? Cháu nói sao? - Câu hỏi của tôi như một phản ứng tự nhiên.

Tôi thấy rõ những ý nghĩ táo bạo đang cháy lên trong đôi mắt của Nhung. Đôi mày đen mịn của Nhung như dựng lên. Và những đường nét trên vẻ mặt của Nhung như khắc sâu thêm, đậm thêm, bén và sắc sảo lạ thường.

- Cháu định bắn bằng cách nào?

- Chú coi chừng cho cháu mấy thằng lính ở trên lầu đó, cháu đi được !

Tôi muốn hỏi kỹ ý định của Nhung để trao đổi và quyết định, nhưng tôi chưa kịp hỏi Nhung đã cầm cái giỏ mây đựng chiếc pháo dù vụt ra cửa sau. Tôi kêu theo, không kịp. Nhung chạy băng qua đám gạch đổ nát, xông thẳng vào đám khói mù rồi như tan mất trong đám khói. Tôi đoán là Nhung sẽ tìm đường đến dãy phố bên đường dẫn đến ngã ba sau chiếc xe. Tôi liền ra lệnh cho tất cả chiến sĩ hướng mũi súng vào những tầng lầu có quân giặc, chuẩn bị xung phong.

Tôi hé cửa, nhìn mãi vào ngã ba đường, nơi có người và xe cộ đang qua lại.

Trong đời có lẽ chưa có giờ phút nào nặng nề bằng lúc ấy, tôi cứ đưa tay, liếc nhìn đồng hồ. Đồng hồ vẫn chạy bình thường nhưng tôi lại lên dây. Lúc bấy giờ, trên trời trực thăng vẫn bay lượn trong khói, bắn đại liên, bắn hỏa tiễn, vòng lửa bốc cao ngọn. Tám năm mới gặp lại cháu, gặp nhau như vậy chẳng hỏi han được gì, trong người như có gì lấn cấn không yên.

Qua làn khói mỏng lảng vảng trên bãi trống của khu nhà đổ nát, tôi chợt thấy có một bóng người nho nhỏ. Đúng là Nhung. Nhung đã đến ngã ba sau chiếc xe tăng khổng lồ ấy rồi ! Tôi sung sướng, tôi phập phồng, người tôi như run lên. Bóng Nhung đang đi lẫn trong một nhóm người áo hồng, áo trắng, áo đen, bóng của Nhung bỗng lao tới thẳng vào chiếc xe. Một tiếng nổ lớn. Rồi một bựng khói bốc lên, phủ mờ cả chiếc xe, tiếng súng hùng hổ của nó bị tắt.

Tôi đạp tung cửa, vọt ra, tay cầm súng ngắn bắn vào những tầng nhà có bọn lính. Mũi quân của tôi hơn ba mươi tay súng liền vọt qua bãi gạch đổ, hét dậy lên.

Như đang sống lại cảnh ấy, anh Tám Sơn vừa kể vừa ra bộ móc súng, người chồm dậy. Còn tôi thì dang tay đập mạnh vào mái chèo, mũi xuồng cất lên, lướt tới như con thoi.

Anh Tám Sơn bỗng kêu to:

- Quá rồi, quay lại !

Tôi vừa rà một mái chèo cho mũi xuồng quay lại vừa hỏi:

- Còn chị Nhung thì sao anh?

- Hãy khoan ! Để cho tôi tìm cái bến vô đã.

Anh nắm be xuồng, ngồi hơn nghiêng một bên, nhìn vào rặng lá.

- Quẹo vô ! Tới rồi !

Tôi cho xuồng rẽ vào một bến nhỏ, mũi xuồng vừa cỡi lên bãi đất lài, anh bước lên bờ, bảo tôi :

- Ở đây chờ tôi nhé ! Tôi sẽ gọi cháu xuống. Cô ấy kể cho anh nghe rõ hơn.Tôi vẫn đứng trên lái xuồng, nhìn theo ánh đèn pin sáng xanh của anh xa dần vào những ngôi nhà trong khu vườn.

Thấy ánh đèn pin xanh quay trở lại, tôi bỗng hồi hộp khi nghĩ đến lúc gặp mặt chị Nhung. Sắp gặp chị rồi mà tôi vẫn cố hình dung hình dáng và con người của chị. Nhìn theo ánh đèn, tôi cố lắng nghe bước chân của anh Tám, tôi sốt ruột hỏi :

- Sao anh ?

- Rủi quá !

- Sao ? - Tôi hỏi lại.

- Cô ấy đi rồi !

- Đi rồi à? Đi đâu, đi lúc nào?

Anh Tám Sơn bước xuống xuồng, đáp lại với giọng uể oải:

- Cô ấy được phái về đơn vị khác rồi. Đi trên chiếc xuồng hò hát hồi nãy đó.

Tiếc thật ! Chẳng biết đến lúc nào mới gặp được chị. Chưa quen biết gì với chị mà chẳng hiểu sao tôi thấy buồn như thất vọng. Nhớ lại giọng hát tha thiết và diệu vợi của cô gái đi trên chiếc xuồng giữa dòng sông, tôi thẫn thờ và nhìn trời. Gió vẫn lao xao, vẫn rì rào qua rặng lá. Đêm mênh mông và đầy sao, những vì sao nhấp nháy như những con mắt sáng lung linh.

NQS

Tiêu đề: Những đứa con của hai người lính

Nguyễn Thế Duyên

Thành đứng nghiêm, dập mạnh gót giầy, đưa tay lên vành mũ

-Báo cáo sư trưởng, tôi , thiếu tá Nguyễn Thành có mặt theo mệnh lệnh

Sư trưởng, một người nửa đời chinh chiến, mái tóc đã bạc gần hết,ngẩng đầu lên vui vẻ

-Thành đấy à, ngồi đi -Ông chỉ tay vào chiếc ghế. Thành rụt rè ngồi xuống. Sư trưởng chỉ tay sang người đang ngồi nói chuyện với mình giới thiệu- Giới thiệu với cậu, đây là thượng tá Hân, người của vụ đối ngoại của bộ . Đồng chí ấy có việc muốn làm việc với cậu

Người ngồi cùng với sư trưởng chìa tay ra bắt tay Thành. Ông ta đưa mắt nhìn Thành từ đầu đến chân với một ánh mắt dò xét khiến Thành cảm thấy gai hết cả người. Từ tốn, ông lấy trong cặp ra một tấm ảnh chìa cho Thành

-Cậu có quen biết người này không?

Thành cầm lấy tấm ảnh ngắm nghía. Ảnh một phụ nữ gần ba mươi. Đẹp gái nhưng lạ hoắc

-Báo cáo thủ trưởng tôi không biết người này

-Lạ nhỉ !Ông Hân lẩm bẩm- Cậu xem kỹ lại đi và cố nhớ xem đã gặp cô ta bao giờ chưa

Thành ngắm kỹ bức ảnh một lần nữa rồi kiên quyết lắc đầu

-Chắc chắn là tôi không biết người này. Nhưng có việc gì đấy ạ?

-Vấn đề là thế này đồng chí thiếu tá ạ -Ông vừa cất tấm ảnh vào cặp vừa nói -Cô gái này là một tiến sĩ sử học của Mỹ sang đây nghiên cứu về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam theo một hiệp định trao đổi văn hóa giữa hai chính phủ. Về phía chúng ta, chúng ta phải cử một người đi theo cô ta để thuyết trình cho cô ta biết về cuộc chiến tranh và liên hệ với các cơ quan hữu quan của ta giúp đỡ cô ta trong quá trình làm đề tài nghiên cứu của mình. Văn phòng bộ đã cử người nhưng cô ta không chấp nhận mà lại chỉ đích danh cậu

-Chỉ đích danh tôi?-Thành kêu lên kinh ngạc- Nhưng tôi có quen biết gì cô ta đâu?

- Đấy mới là vấn đề.- Thượng tá Hân trầm ngâm một lúc rồi nói tiếp- Hiện tại chúng ta không biết tại sao cô ta lại biết cậu và cô ta làm thế có mục đích gì.Tôi chỉ dặn cậu mấy điểm

Thứ nhất- Phải hết sức cảnh giác

Thứ hai - Cô ta là một học giả có uy tín ở Mỹ. Bộ ngoại giao lưu ý chúng ta là hiện nay chủ trương của Đảng và nhà nước ta là khép lại quá khứ. Cố gắng tạo dựng một hình ảnh tốt đẹp, thân thiện với nhân dân Mỹ và nhất là với cộng đồng người việt nam tại Mỹ. Nhiệm vụ của cậu lần này là hết sức nặng nề. Cô ta không những là một học giả có uy tín mà còn là người Mỹ gốc việt vì vậy tình cảm của cô ta với đất nước trong lần về nước này có ảnh hưởng rất sâu rộng trong cộng đồng người Việt. Chúng tôi hi vọng đồng chí làm được điều này

*

* *

Đón Hà ở sân bay là một chàng thiếu tá. Chững chạc trong bộ quân phục, Thành lịch sự mở cửa , mời cô gái lên xe. Xe từ từ lăn bánh ra khỏi khu vực sân bay. Thành tranh thủ giới thiệu

-Trước đây, thời chiến tranh phá hoại,nơi này là một sân bay quân sự. Chính từ sân bay này, những chiếc Mic của chúng tôi đã bay lên bắn rơi pháo đài bay B52 của không quân Mỹ

Mặt Hà hơi cau lại. "Sặc mùi cộng sản" cô thầm nghĩ. Nhưng cô đã nhanh chóng lấy lại được vẻ thản nhiên

-Thế chỗ đấu tố địa chủ đầu tiên trong cải cách ruộng đất có gần đây không hả anh?

Cô giả vờ hỏi một cách bâng quơ. Thành giật mình. "Con mẹ này ghê gớm thật" Thành nghĩ nhanh.

-Xin lỗi chị.

Hà thích thú nhìn bộ mặt đỏ rực vì ngượng nghịu của anh chàng thiếu tá. Một niềm vui hiếu thắng rất thơ trẻ bỗng xâm chiếm tâm hồn cô. "Một không nhé, anh bạn" cô mỉm cười

Tám giờ tối, anh chàng thiếu tá lại sang bên phòng cô, mời cô đi thăm Hà nội vào ban đêm. Cô vui vẻ nhận lời. Thành dắt xe máy ra sân. Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của cô gái, Anh giải thích

-Đi chơi đêm ở Hà nội không nên đi bằng ô tô. Tốt nhất là đi bộ. Có như thế mới tận hưởng được vẻ đẹp và hương vị của thành phố Hà nội vào ban đêm

-Thế tại sao chúng ta không đi bộ?

Thành đưa cô gái lên Hồ Tây, vào một nhà vườn kín đáo và yên tĩnh. Chọn một góc khuất nhìn thẳng ra ngoài hồ, anh gọi hai tách cà phê phin, một ít hoa quả và bánh ngọt. Tiếng nhạc cổ điển du dương nhè nhẹ vang lên trong một không gian yên tĩnh mà ấm cúng làm con người như thoát khỏi cuộc sống náo nhiệt hiện tại lơ lửng bay giữa chốn thiên đường.Trăng sáng vằng vặc. Mặt hồ như trải rộng mênh mông dưới ánh trăng vàng.

- Ngày xưa thời còn đi học, khi đọc hai câu thơ

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

Của Hàn mặc Tử ,tôi không thể cảm nhận được hai câu thơ đó. Câu thơ hư hư,thực thực, mờ mờ, ảo ảo chẳng biết ông định nói cái gì. Đêm nay, ngồi đây, tôi mới thấy câu thơ thật đẹp. Chị nhìn xem, nếu đây là một dòng sông đang chảy thì có khác gì một dòng ánh trăng đâu. Ông dùng hai từ sông trăng mới chính xác và thơ mộng biết bao.-Thành tựa vào khung cửa, ánh mắt mơ màng. Hà hết sức ngạc nhiên. Trước mặt cô ,không còn là một anh chàng quân nhân khô cứng trong bộ quân phục chỉnh tề mà là một nhà thơ đang đắm mình trong vẻ đẹp mĩ lệ của đất trời. Cô có cảm giác anh có thể nhảy xuống dòng sông trăng mênh mông kia để ôm lấy vầng trăng đang sáng ngời giữa lòng hồ sâu thẳm. Từ lâu lắm rồi, Lâu đến mức cô không thể nhớ nổi trong đời mình,đã có bao giờ mình được thả mình phiêu diêu trong mây trời, trăng nước như thế này chưa. Cuộc sống tất bật của một nền văn hóa tất bật nước Mỹ làm cô quên mất cuộc đời còn có những phút tĩnh lặng thiên thần.-Cả một dòng sông trăng như thế mà Hàn mặc Tử vẫn thấy chưa đủ-Thành mơ màng nói tiếp- Ông vẫn muốn nhiều trăng hơn nữa. Ông muốn những con thuyền kia-Thành dơ tay chỉ ra phía xa xa ngoài hồ, có một vài con thuyền nhỏ đang lững lờ trôi trên sóng nước- Chở thêm nữa ánh trăng huyền diệu về để đổ thêm vào dòng sông trăng vốn đã mênh mông . Một tứ thơ tuyệt vời có phải không chị?

-Anh Thành có làm thơ không? Hà hỏi , trong lòng đầy ngạc nhiên về sức cảm thụ thơ đầy tinh tế của anh chàng đang ngồi trước mặt mình.-Tôi không nghĩ rằng các anh là những người như thế này

-Thế chị nghĩ chúng tôi như thế nào?- Thành cười hỏi lại- Chắc là những con người khô cứng, quằn quại trong đói nghèo. Hằn học trong thù hận và nụ cười thì đã biến mất trên những bộ mặt khắc khổ. Có đúng vậy không?- Thành nhìn cô gái, trong mắt ánh lên một nét giễu cợt không hề che dấu- Đói nghèo thì đúng nhưng làm gì đến mức quằn quại phải không chị?Còn nụ cười?- Thành cười. Một nụ cười rất tươi- Thì ở đâu cũng có. Chị có thể bắt gặp nó ở tất cả những khuôn mặt nào mà chị gặp

Cách nói chuyện thẳng thắn và trực diện của anh làm cô gái lúng túng. Nhưng cô công nhận là anh đúng . Từ hôm về nước đến nay, ở đâu cô cũng gặp những nụ cười thân thiện, tươi rói và tràn trề sức sống. Là một sử gia, cô đã đi nhiều nơi, đã gặp gỡ bao nhiêu khuôn mặt, đã nghiên cứu về lịch sử của bao nhiêu dân tộc và cô biết trên trái đất này có biết bao dân tộc nụ cười đã bị biến dạng vì chiến tranh, vì đói nghèo và vì thù hận nên khi đặt chân xuống sân bay, cái đầu tiên làm cho cô ngỡ ngàng lại chính là nụ cười. Cô không thể ngờ được trên mảnh đất đầy đau thương, bom đạn, máu, nước mắt và nghèo khổ này nụ cười vẫn nở trên môi mọi người như một minh chứng hùng hồn về sức sống mãnh liệt của một dân tộc

-Vâng! Anh nói đúng. -Giọng cô gái bỗng trầm xuống xa xót-Tôi chưa hiểu mảnh đất này. Lúc còn ở bên Mỹ, thú thật với anh tôi hiểu về mảnh đất này đúng như anh nói đấy. Tôi sinh ra và lớn lên trên đất Mỹ, nhiều lúc tôi đã quên đi mất mình là người Việt nam- Môi cô nở một nụ cười cay đắng-Thật không thể tin nổi, một sử gia như tôi, hiểu thấu đáo lịch sử của bao nhiêu dân tộc thế mà lại không hiểu chính dân tộc của mình.- Đột nhiên, cô gái bỗng thở hắt ra một cái, cô nhìn thành tươi cười- Nhưng tôi vẫn còn một cái may hơn hẳn những người cùng lứa với tôi trên đất Mỹ đó là ba mẹ tôi luôn luôn kể về Việt nam cho chúng tôi nghe và không bao giờ ông cho phép chúng tôi nói tiếng Anh khi về đến nhà. Ơn trời! Tôi vẫn còn nói được tiếng Việt

-Thế nghĩa là nhiều người vào lứa tuổi chị ở Mỹ không biết nói tiếng Việt? -Thành ngạc nhiên hỏi lại

-Vâng ! ở Mỹ cuộc sống quá bận rộn ,không phải ai cũng có thời gian để làm việc này

-Tôi muốn hỏi chị- Thành trầm ngâm- Với tư cách là một sử gia thì theo chị một dân tộc bị mất đi tiếng nói của mình thì dân tộc đó còn tồn tại nữa không?

Câu hỏi của anh khiến cô gái rùng mình. Trời ơi! Cô thầm kêu lên thoảng thốt. Một dân tộc hơn một nghìn năm Bắc thuộc với chính sách đồng hóa của người Tàu dân tộc ấy vẫn không mất đi tiếng nói của mình. Thế mà thế hệ của cô chỉ mới ba mươi năm tiếng nói của dân tộc ấy đang dần dần biến mất. Ý nghĩ ấy làm cô gái ớn lạnh.

Rất muộn họ mới trở về nhà khách của bộ quốc phòng. Hà không ngủ được. Buổi đi chơi đã để lại trong cô quá nhiều những cảm tưởng mới lạ. Cô mở ngăn kéo,lấy ra từ trong một cuốn sổ tay một tấm ảnh nhỏ đã ố vàng theo năm tháng. Cô chăm chú nhìn bức ảnh, một người lính giải phóng đội mũ tai bèo với một khẩu AK khoác trên vai và một nụ cười tươi thắm. Cô lặng lẽ thở dài

*

* *

Gần hai tháng trời,Thành đưa cô gái đi khắp nơi cùng chốn . Anh không thể không khâm phục sức làm việc một cách kinh khủng của cô gái nhìn rất mảnh mai này. "Đúng là phong cách làm việc của người Mỹ" anh thầm nghĩ. Cô sục sạo mọi nơi, lôi về hàng đống tài liệu,rồi suốt đêm đọc phân loại và đưa vào máy tính.

Một buổi sáng, Thành gõ cửa phòng. Không có tiếng trả lời, anh đẩy cửa bước vào. Cô gái đang ngủ gục trên bàn. Nhẹ nhàng, anh lấy chiếc chăn mỏng khoác nhẹ lên mình cô gái. Máy tính vẫn đang mở, tò mò, anh đọc lướt qua xem cô gái ghi chép những gì. Một loạt những bảng, biểu thống kê những viện trợ quân sự của Liên Xô và Trunh quốc. Song song với những bảng đó là những bảng thống kê trang bị của quân đội Mỹ ở chiến trường Việt nam. Đang mải mê đọc những tài liệu đó, đột nhiên Thành nghe thấy tiếng hỏi ngay đằng sau lưng mình

-Anh có suy nghĩ gì trước những bảng so sánh này?

Thành giật mình quay lại. Cô gái đã dậy từ lúc nào mà anh không biết

-Tôi chẳng có suy nghĩ gì cả

-Chẳng có suy nghĩ gì cả? Cô gái trầm tư hỏi lại- Lạ nhỉ! Còn tôi , khi nhìn bảng so sánh này, tôi luôn tự hỏi làm sao các anh có thể thắng được người Mỹ trong cuộc chiến ấy?- Cô cười nhìn Thành- Mà anh đừng trả lời tôi theo cái giọng cũ rích của báo Nhân Dân các anh đấy nhé-Môi cô gái chẩu ra, bai giọng-Chúng tôi thắng vì có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, vì tinh thần....

Thành bật cười, cắt ngang lời cô gái

-Thế chị đã tìm ra câu trả lời chưa? Chưa chứ gì? Cứ nhìn vào cách chị lập bảng so sánh tiềm lực quân sự của hai bên là tôi biết ngay chị không thể tìm được câu trả lời rồi

Mắt cô gái sáng lên

-Anh có ý gì khác à? Anh nói đi

-Tôi cho rằng chị phải tìm câu trả lời trong truyền thống văn hóa của dân tộc Việt và tôi nghĩ nghệ thuật quân sự cũng là một phần trong nền văn hóa đó. Theo tôi được biết-Thành nhìn cô gái ngập ngừng-Không biết có đúng không? Vì tôi không biết nhiều về lịch sử thì trên mảnh đất này vốn có một trăm bộ lạc Việt sinh sống nên còn gọi là bách Việt nhưng cuối cùng chỉ còn lại hai bộ lạc là Âu việt và lạc Việt còn tồn tại trên mảnh đất này. Hai bộ lạc đó kết hợp hợp lại thành chúng ta ngày nay. Mà sao chị có thể nghĩ về chúng tôi xấu như vậy được nhỉ?-Thành thở dài-Chị cũng là một thành viên trong đại gia đình ấy. Chưa bao giờ chúng tôi coi chị là người Mỹ. Với tôi ,chị luôn là người Việt-Thành nói một cách chân thành,làm cô gái súc động. Cô định nói thì anh dơ tay ngăn lại-Vấn đề giữa chị và chúng tôi, tôi cho rằng không phải là cộng sản hay không cộng sản.-Giọng Thành bỗng sôi nổi hẳn lên-Đúng là đảng cộng sản đã lãnh đạo cuộc kháng chiến này thành công. Nhưng nếu không có đảng cộng sản thì chúng ta vẫn chiến thắng. Đấy là một quy luật tất yếu của lịch sử dân tộc

Hà không tin nổi vào đôi tai mình nữa. Cô kinh ngạc nhìn Thành. Một người cộng sản chính tông vừa nói một câu không cộng sản. Quá lạ. Cô chăm chú nhìn Thành

-Anh cho tôi hỏi một câu nhé. Anh có phải là Đảng viên cộng sản không?

-Vâng, Tôi là một đảng viên. Thì sao? Thành gật đầu công nhận

-Thế mà anh lại cho rằng không có Đảng của anh lãnh đạo thì các anh vẫn chiến thắng?

-Trước tiên tôi là người Việt chị ạ. - Anh nhấn mạnh - Là người Việt tôi tự hào về dân tộc mình. Thời nhà Trần ,theo tôi được biết dân số chúng ta chỉ khoảng mười triệu người chống lại một đội quân năm mươi vạn . Nếu so sánh về tương quan lực lượng thì cuộc chống Mỹ vừa qua không thể so sánh được với cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông hồi ấy.Lúc ấy lấy đâu ra Đảng cộng sản thế mà dân tộc ta vẫn chiến thắng đấy thôi. Đúng là đảng cộng sản lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ thật nhưng không thể nói do có đảng lãnh đạo. Nói thế là cướp công lao của cả một dân tộc....

Thành định nói tiếp ,bỗng nhiên anh dừng lại vì anh thấy mặt cô gái dần dần đỏ lên. Anh vội vàng hỏi

-Chị làm sao vậy? tôi nói gì xúc phạm đến chị à?

- Không! Không! -Hà vội nói - Em cảm thấy xấu hổ vì trong mình không có được một niềm tự hào dân tộc như anh.

Tiếng "Em" thốt ra một cách vô thức nhưng đầy rung cảm

*

* *

Lại một nửa tháng nữa trôi qua. Một buổi sáng, Hà bỗng đến gặp Thành

-Hôm nay anh bố trí cho em xe đi Thái nguyên nhé.

-Đi Thái nguyên? Làm gì Thành hỏi. Cô gái trả lời một cách bí hiểm.

-Anh cứ đi khắc biết.

Lúc ra xe, cô gái khuân từ phòng mình ra một lô vàng mã,hương, rượu, bánh kẹo mà Thành cũng không biết cô ta chuẩn bị từ bao giờ. Tuy rất ngạc nhiên nhưng anh vẫn im lặng không hỏi.Xe bon trên đường . Ra khỏi địa phận Hà nội , thì cô gái nói

-Hôm nay chúng ta về thăm nhà anh.

-Thăm nhà tôi? -Thành kinh ngạc phanh khựng xe lại làm cả hai dúi về phía trước

-Vâng, anh chẳng khuyên em tìm câu trả lời trong truyền thống văn hóa của dân tộc là gì. Hôm nay em bắt đầu tìm hiểu truyền thống văn hóa đó và bắt đầu từ gia đình anh. Anh không đồng ý sao?

-Không phải thế.- Thành ngần ngừ- Có điều.....

-Có điều hôm nay là ngày giõ của bác trai. Đúng không? Chính vì vậy mà em mới phải về nhà anh trong hôm nay.

Cô gái nói một cách cương quyết. Thành không nói gì. Anh nhả phanh. Chiếc xe lao vút đi. Lòng anh rối bời. Anh linh cảm thấy có một điều gì đó rất hệ trọng sắp xảy ra. Tại sao cô ta lại biết hôm nay là ngày giỗ bố mình nhỉ? Anh tự hỏi nhưng không sao trả lời được. Trong suốt quãng thời gian vừa qua, Thành luôn có cảm giác cô gái hiểu rất rõ về mình. Anh chợt hiểu vì sao có đám vàng hương cô gái mang theo

Hơn mười giờ , xe về đến nhà Thành. Nhà đang rất đông người. Khi Hà bước xuống xe, mọi con mắt đều đổ dồn vào cô.Cô nghe thấy những tiếng xì xào "Xinh quá, chắc là người yêu của cậu Thành". Một ai đó cất tiếng hỏi

-Hôm nay thằng Thành làm lễ ra mắt đấy hả?

Nhiều tiếng cười bật ra. Một lũ ba bốn đứa con gái trạc hai ba hai bốn, xúm vào cô ríu rít

-Chị mặc kệ bọn họ,chị để em sách túi giúp cho

-Chị với anh Thành từ Hà nội về à?

-Chị ơi....

Hà cảm thấy ngỡ ngàng trước những tình cảm thân thiết, cởi mở mà mọi người dành cho cô. Mẹ Thành từ trong nhà đi ra. Anh vội vàng giới thiệu Hà với mọi người để dập tắt những lời nói đùa vô ý

-Giới thiệu với chị đây là mẹ tôi- Thành quay sang nói với mẹ -Thưa mẹ - Anh cố ý nói to cho mọi người nghe thấy- Đây là chị Hà một tiến sĩ ở Mỹ sang Việt nam để nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ ngày trước. Chị ấy muốn về thăm nhà ta để tìm hiểu về truyền thống văn hóa dân tộc.

Bà mẹ Thành chưng hửng

-Thế à, Bố anh , thế mà tôi cứ tưởng.

Mọi người cười ầm lên. Mặt Thành đỏ lựng. Bà quay sang Hà sởi lởi.

-Mời chị vào trong nhà sơi chén nước. Gớm quý hóa quá. Ngày giỗ mà cũng được chị lại thăm.

Mọi người vào cả trong nhà. Hà cẩn thận đặt đồ lễ mang theo lên bàn thờ. Cô quay ra thưa với mẹ Thành và mọi người

-Thưa bác và tất cả mọi người .Hôm nay là ngày giỗ bác trai. Trước tiên xin phép bác cho cháu thắp nén nhang trước bàn thờ bác trai và sau đó cháu có một câu chuyện muốn được thưa lại với bác và tất cả mọi người.

Mọi người kinh ngạc nhìn nhau. Tất cả đều im lặng. Cô gái kính cẩn châm ba cây nhang, cắm vào bát hương. Lùi lại một bước, cô kính cẩn chắp hai tay trước ngực, nhìn trân trân vào bức ảnh một người chiến sĩ giải phóng đặt trên ban thờ. Đột nhiên, ngoài sự tiên liệu của tất cả mọi người, cô gái bỗng quỳ sụp xuống, lạy mấy lạy và nói to

-Bác ơi hôm nay cháu thay mặt ba cháu đến đây để tạ tội với bác. Ba cháu rất ân hận vì đã cướp đi tính mạng của bác, người đã tha chết cho ba cháu. Cháu về Việt nam lần này là để thực hiện di vọng cuối cùng của ba cháu là được tạ lỗi với bác và gia đình.

Lời của cô gái như một tiếng sét. Tất cả đều bàng hoàng. Một khoảng im lặng khá dài.Người lấy lại được bình tĩnh đầu tiên lại chính là mẹ Thành. Bà đi lại , nâng cô gái dậy

-Thôi nào cháu. Đứng lên đi ,có gì từ từ ta sẽ nói chuyện

Cô gái đứng dậy, ôm chặt lấy bà nghẹn ngào

-Bác ơi, bác tha thứ cho ba cháu bác nhé

-Bác tha thứ - bà nói khẽ, tay khe khẽ vỗ về cô gái

*

* *

Đấy là mùa mưa năm 1974,tại đồi 601 chiến trường Tây Nguyên.Đại đội biệt động của Toàn (Bố của Hà) được trực thăng thả xuống đỉnh đồi vào buổi trưa.Chưa kịp đào xong công sự thì mới chập tối đại đội biệt động bị quân giải phóng tiến đánh.Anh lính trẻ lần đầu ra trận Toàn, một sinh viên văn khoa bị bắt lính ngay trên đường phố Sài Gòn,co dúm người lại, đạn pháo Việt cộng trùm kín đỉnh đồi. Một quả pháo nổ gần hất toàn ngã dúi vào một góc công sự. Đến lúc Toàn hoàn hồn ngẩng đầu lên thì một họng súng AK đen ngòm đang chĩa vào giữa mặt. Nhìn người lính đang chĩa súng vào mình Toàn biết ,anh ta sắp bóp cò. Người Toàn nhũn ra, anh nhắm mắt đợi một tiếng nổ. Đột nhiên có tiếng quát

-Không được bắn!

Toàn mở mắt. Một bóng đen từ phía dưới băng lên gạt mạnh người lính sang một bên. Một tiếng nổ chát chúa. Viên đạn sượt qua má Toàn bỏng rát

-Báo cáo đại trưởng có mỗi một tên này để làm gì cho vướng

Bóng đen vừa cứu Toàn khoát tay

-Đưa tên này đi. Tất cả rút ngay pháo địch sắp bắn vào đây bây giờ.

Đúng như lời người vừa cứu Toàn nói. Đoàn người vừa rút ra được vài trăm thước thì đạn pháo từ Playcu đã tới tấp nã vào trận địa. Người đại đội trưởng hét to trong tiếng pháo gầm

-Tản ra ! Chạy nhanh lên !Pháo địch sắp chuyển làn đấy- Hét xong anh ta túm cổ áo Toàn quát lớn- Còn mày cố mà chạy nhanh cho kịp nếu không tao có muốn cứu mày một lần nữa cũng không cứu được đâu. Hiểu chưa?

Toàn líu ríu gật đầu. Pháo bắt đầu chuyển làn rơi trúng vào đội hình hành quân. Người đại đội trưởng hét to

-Nằm xuống! tản ra.

Nằm giữa bãi pháo bầy, nghe tiếng hú của những quả đạn pháo ngay trên đầu quả thật là kinh sợ. Không giữ nổi , Toàn vùng bỏ chạy. Người đại đội trưởng lao theo quật một báng súng như trời giáng vào lưng Toàn khiến anh ngã dúi về phía trước.

-Đồ ngu ! muốn chết à?-Quát xong,nhìn vào đôi mắt đã dại đi vì sợ hãi của Toàn, anh ta nhổ một bãi nước bọt-Lính với chả tráng, đánh trận lần đầu hả?

-Vâng, vâng- Toàn líu ríu.

-Nghe đây, mày có nhìn thấy gốc cây cụt kia không? - vừa nói người lính việt cộng vừa chỉ về phía trước. Toàn gật đầu- Lúc nào tao hô chạy thì cố mà chạy thật nhanh về đấy và nằm im ở đấy. Rõ chưa?

Toàn gật đầu. Một lúc sau pháo ngớt, người lính Việt cộng hô " Chạy". Toàn vọt lên, lăn vào gốc cây. Ngoái đầu nhìn lại, Toàn thấy người lính Việt cộng thu chân phải lại, cả người anh ta chồm lên phía trước. Đúng lúc đó, một quả đạn pháo nổ phía sau lưng anh ta,hất khẩu AK bay đến chỗ Toàn đang nằm. Hoảng sợ đến mức mất hết ý thức, Toàn vớ lấy khẩu súng,xả cả một băng đạn về phía người lính việt cộng rồi cắm cổ bỏ chạy giữa những tiếng hú điên loạn và tiếng nổ long trời của một trận pháo bầy.

Hà ngừng kể nhìn mọi người đang im lặng ngồi quanh cô.Giọng cô nghẹn lại

-Bác ơi-Cô nói với mẹ Thành- Đúng là ba con đã có lỗi với bác và gia đình nhưng con mong mọi người hiểu cho ba con,Không phải là ba con độc ác ,bất nhân đâu mà đó là vì ba con sợ hãi quá mà hành động một cách vô thức. Sau này, cho đến tận lúc ba con mất, ổng luôn luôn bị giày vò vì điều đó

-Thôi mà con, bác không trách ba con đâu- Mẹ Thành nói nhẹ, bà đưa cho cô gái chiếc khăn tay-Lau nước mắt đi con, chuyện xảy ra đã quá lâu rồi nhắc lại cũng chẳng để làm gì. Con về đây với bác là bác đã vui rồi.Mà sao con lại biết gia đình bác mà đến?

-Chính ba con cũng không hiểu vì sao mà ổng lại sống sót trong lúc cắm cổ chạy như thế. Đến lúc mọi việc đã yên trở lại, ba con quay lại lối cũ thì thấy bác trai đã chết. Không thể làm gì khác được

Ba con liền tháo lấy túi gùi bác trai đeo trên người và chôn ông bên cạnh dòng suối bên một tảng đá rất to.Ổng nói với con :Để cho khỏi quên ổng đã nhét vào hai túi áo ngực của bác trai hai vỏ đạn AK và bắn vào tảng đá cạnh mộ bác trai năm phát đạn.Chính nhờ túi gùi lấy được của bác trai mà ba con mới biết địa chỉ gia đình bác. Ba con đã giữ túi gùi mấy chục năm nay. Trước khi mất, Ổng có dặn con phải bằng mọi cách mang những di vật của bác trai giao lại cho gia đình và nói lại với bác mộ của bác trai để gia đình tìm kiếm.

Nói xong , Hà mở túi xách du lịch lấy ra một chiếc gùi may bằng vải dù hai tay đưa cho mẹ Thành. Trong túi gùi là một bộ quần áo bộ đội đã bạc mầu vì mưa nắng và năm tháng, một cuốn nhật kí và một tấm ảnh khổ nhỏ giống hệt bức ảnh đặt trên ban thờ. Gia tài của một người cả đời trận mạc chỉ có vậy. Mẹ Thành đỡ lấy túi gùi, ôm nó vào ngực, hai dòng nước mắt từ từ lăn trên đôi má nhăn nheo.

*

* *

Khuya lắm rồi, Hà trằn trọc không sao ngủ được . Cô ngồi dậy, không bật đèn ngồi im lặng trong phòng .Mọi việc xảy ra không như cô dự đoán. Cô đã chuẩn bị tinh thần để nghe những tiếng chửi rủa, để nhìn thấy những cặp mắt phẫn nộ, oán hờn. Thậm chí cô đã đặt ra cả những tình huống xấu nhất : Cô bị đánh đập, trả thù. Cô đã tự đặt mình vào hoàn cảnh của gia đình Thành và cô hiểu :Không có gì có thể bào chữa cho ba mình. Giá mà mọi việc xảy ra như cô dự đoán thì tốt biết bao. Cô thầm nghĩ. Cô sẽ thấy nhẹ lòng, sẽ thấy mình được thanh thản. Sự việc không xảy ra như vậy .Không một lời chửi rủa, không một ánh mắt thù hận, chỉ có những giọt nước mắt. Điều đó làm tâm hồn cô trĩu nặng.Cô có cảm giác thêm một lần nữa mình mắc nợ gia đình này

Không thể ngủ được, cô mở cửa bươc ra ngoài sân. Giật mình, cô thấy Thành đang ngồi bên bờ ao nhìn xuống vườn chè. Điếu thuốc trên môi anh rực đỏ. Cô gái bước lại phía anh. Không quay lại , Thành hỏi

-Chị cũng không ngủ được à?

-Em không ngủ được

Cô ngồi xuống bên cạnh Thành. Cả hai đều im lặng . Đêm yên tĩnh, tiếng côn trùng rả rích càng làm cho đêm trở nên sâu thẳm. Cô gái cắn môi. Cô không thể chịu đựng nổi sự im lặng nặng nề này

-Sao anh lại cứ im lặng thế? Thà anh cứ mắng chửi em , hay tát cho em mấy cái em còn thấy dễ chịu hơn phải nhìn thấy anh im lặng như thế này- Đột nhiên cô túm chặt lấy vai Thành lắc mạnh- Anh! Anh đánh em đi, anh mắng chửi em đi. Em xin anh

Giọng cô tắc nghẹn. Dưới ánh trăng Thành nhìn thấy mắt cô ướt đẫm

-Em đã đọc Dubopsky của Puskin chưa?-Thành hỏi ,rồi không đợi cô gái trả lời anh nói tiếp-Tâm trạng của anh bây giờ cũng giống như của Dubopsky ấy. Khi anh ta nâng khẩu súng lên nhằm vào kẻ thù của mình thì người con gái của kẻ thù xuất hiện và anh ta đã không thể bóp cò. Còn anh, anh không còn kẻ thù để nhằm vào. Anh biết bắn vào đâu đây? Vào em chăng?-Thành rít một hơi thuốc dài rồi ném mẩu thuốc xuống đất lấy mũi giày di cho nó tắt ngấm- Ngọn lửa thù hận đã đến lúc phải tắt rồi em ạ. Anh tự hỏi " Lấy gì đây để lấp đi cái vực sâu thù hận giữa hai đứa chúng mình?"

Anh lấy tay nhẹ nâng mặt Hà lên, nhìn vào mắt cô.Hà ôm lấy anh thì thầm

-Tình yêu !Chúng ta hãy lấy tình yêu để lấp đi cái vực sâu thù hận ấy

Trăng trong quá. Đêm yên tĩnh quá và tình yêu đẹp quá

Hà Nội 6-1 -2009

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro