Những xác chết hồi sinh

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Những xác chết hồi sinh

Mở đầu:Giờ hành động

Đoàn tàu lắc lư di chuyển xuyên qua cánh rừng Raccoon, âm thanh rầm rập của bánh xe bị át đi bởi một tiếng sấm vang rền giữa bầu trời chập tối.

Bill Nyberg đang lục lọi hồ sơ về vụ Hardy, chiếc cặp đựng tài liệu của gã nằm sát dưới chân. Một ngày dài dằng dặc đã trôi qua, và nhịp điệu lúc lắc êm ái của con tàu làm gã có cảm giác như được vỗ về ôm ấp. Đã khá muộn, tám giờ rồi, nhưng hầu hết những chuyến tàu của Ecliptic Express đều đầy nghẹt người, nên lúc này mới là giờ ăn. Đây là loại tàu phục vụ cho giới doanh nhân, và kể từ lúc được nâng cấp - Umbrella đã chi bộn tiền để trang hoàng nó theo kiểu cổ điển, từ những chỗ ngồi bọc nhung đến những chúc đèn treo trong toa ăn - nhiều nhân viên đã dẫn theo người thân hoặc bạn bè để cùng thưởng lãm không khí ở đây. Thông thường cũng có một số người ở thị trấn đi cùng để đón chuyến tàu rời Latham, nhưng Nyberg cá là chín phần mười trong số đó cũng làm việc cho Umbrella. Không có sự hỗ trợ của tập đoàn dược phẩm khổng lồ này, thành phố Raccoon còn lâu mới trở thành một đô thị sầm uất.

Một người phục vụ toa đi ngang, gật đầu chào Nyberg khi thấy chiếc kim gút Umbrella mà gã đang đeo trên ve áo. Chiếc kim gút này là dấu hiệu của một hành khách thường trực.

Nyberg gật đầu đáp lễ. Một tia chớp lóe lên bên ngoài, nối tiếp bởi tiếng sấm vang rền; xem ra lại có một cơn bão mùa thu nữa đây. Bất chấp những tiện nghi xa hoa trong toa tàu, không khí vẫn đầy vẻ ngột ngạt bức bối của cơn mưa sắp ập tới.

Áo khoác của mình... ở trong va li thì phải? Quá hay. Toa của gã ở tít đầu bên kia. Thế nào gã cũng ướt mẹt trước khi đi được nửa đường cho mà xem.

Nyberg thở dài rồi ngồi thụp xuống ghế, hướng sự chú ý của mình vào tập hồ sơ. Gã đã duyệt qua tài liệu vài lần rồi, nhưng vẫn muốn coi lại để nắm cho thật vững. Một bé gái mười tuổi tên Teresa Hardy đã gặp rắc rối khi dùng một loại dược phẩm tim mạch dành cho trẻ em trong ca điều trị thử nghiệm, Valifin. Chất thuốc đã hoạt động theo đúng chức năng - nhưng lại có hiệu ứng phụ lên thận, và trong trường hợp của Teresa Hardy, đã gây nên tổn thương nghiêm trọng. Cô bé vẫn sống, nhưng phải sử dụng bộ lọc thận nhân tạo trong suốt phần đời còn lại, và các luật sư của gia đình cô bé đang đòi một khoản bồi thường kếch xù.

Cần phải giải quyết vụ việc nhanh gọn, cần bịt miệng nhà Hardy lại trước khi họ lôi đứa bé ngây ngô đau khổ kia ra trước tòa... đó là nhiệm vụ của Nyberg và các cộng sự của gã. Biện pháp là đưa ra một con số đủ để họ hài lòng, nhưng không nhiều đến độ khiến bọn luật sư bên kia được nước làm tới - một trong những chiến lược cơ bản, đó là "chúng tôi chỉ nhượng bộ trừ khi các anh nhượng bộ". Nyberg có đủ mánh khóe trong những vụ đòi bồi thường kiểu này, gã phải giải quyết ổn thỏa mọi chuyện trước khi Teresa bé bỏng hoàn tất đợt điều trị. Đó cũng là lý do khiến Umbrella thuê gã.

Mưa đã rơi rào rào trên cửa sổ, nghe giống như ai đó vừa dội nguyên cả xô nước lên mặt cửa kính. Nyberg giật mình quay nhìn ra ngoài, trong lúc nhiều tiếng nện thùm thụp vang lên trên nóc toa tàu. Kinh khủng. Có lẽ là mưa đá hoặc thứ gì đó...

Một tia chớp rạch ngang màn đêm tối tăm, rọi sáng ngọn đồi nhỏ dốc đứng trong khu rừng sâu thẳm. Nyberg nhìn lên, và thấy một hình dáng cao lớn in bóng lên những cái cây mọc trên đỉnh đồi, ai đó mặc áo khoác dài hoặc váy thì phải, những sợi vải lay động trong gió. Cái bóng giơ cao cánh tay dài ngoằng dưới bầu trời cuồng nộ -

- và ánh chớp tắt ngấm, toàn bộ cảnh tượng kỳ quái đó chìm trong bóng tối.

"Cái gì..." Nyberg vừa thốt lên thì lại thấy nước tiếp tục lõm bõm rơi trên mặt kính - có điều không phải nước, nước đâu có dính thành từng cụm đen lớn như vậy; nước không thể rỉ ra rồi tách thành nhiều mảng, để lộ những cái răng lởm chởm sáng loáng. Nyberg chớp mắt, không biết mình vừa thấy cái gì thì có tiếng thét ở đầu toa bên kia, tiếng kêu gào trỗi dậy khắp nơi, trong lúc có thêm nhiều sinh vật đen thui đập mạnh vào cửa sổ, mỗi con đều có kích thước bằng người thường. Tiếng mưa đá trên nóc đã chuyển từ lộp độp thành ầm ầm, và bị chìm lấp đi giữa những tiếng gào thét của vô số người.

Không phải mưa đá!

Nỗi khiếp đảm tràn ngập khắp người Nyberg, nhắc gã nhớ đến việc bỏ chạy. Gã vừa ra đến lối đi giữa hai hàng ghế thì lớp kính sau lưng vỡ toang, tất cả những cửa kính trên đoàn tàu đều vỡ toang, hòa lẫn với những tiếng thét kinh hoàng, rồi bị át đi trong đợt tấn công sấm sét. Lúc ánh sáng vụt tắt, có thứ gì đó lạnh ngắt, ướt át, còn sống hẳn hoi đáp xuống gáy gã, và bắt đầu đánh chén.

Chiếc trực thăng lượn vòng trong bóng tối phía trên cánh rừng Raccoon.

Rebecca Chambers ngồi thẳng lưng lên, ước gì mình có thể tỏ ra bình tĩnh như những anh chàng xung quanh. Một không khí nghiêm trọng bao trùm lên mọi người, trong lúc bầu trời tối sầm lao đi vùn vụt bên ngoài. Đây không phải là một buổi luyện tập. Đã có thêm ba người đi bộ nữa mất tích trong cánh rừng bạt ngàn bao quanh Raccoon - nhưng với sự xuất hiện của những kẻ sát nhân man rợ làm cả thành phố khiếp sợ trong những tuần qua, "mất tích" còn nghĩa khác. Người ta tìm thấy nạn nhân thứ chín bị tấn công và xé xác cách đây chỉ vài ngày, trông cứ như bị nhét vào một cái cối xay thịt. Các cư dân bị giết, bị tấn công dã man bởi ai hoặc thứ gì đó quanh ngoại ô thành phố, và cảnh sát Raccoon vẫn không sao tìm ra manh mối. Rốt cuộc đội S.T.A.R.S. đã được gọi đến để tham gia cuộc điều tra.

Rebecca khẽ nâng cằm lên, cảm thấy một chút kiêu hãnh rạo rực trong người bất chấp trạng thái bồn chồn. Mặc dù tốt nghiệp chuyên ngành hóa sinh, nhưng cô lại được chọn vào vị trí y tá tác chiến cho đội Bravo, được gia nhập nhóm chỉ sau không đầy một tháng.

Nhiệm vụ đầu tiên của mình. Tốt hơn là đừng làm hỏng nó. Cô hít một hơi thật sâu rồi thở ra nhè nhẹ, tỏ vẻ thản nhiên như thường.

Adward ném cho cô một nụ cười khích lệ, còn Sully thì cúi người qua cái khoang chật chội, vỗ nhẹ lên chân cô ra chiều trấn an. Không thể mong chờ gì hơn. Cho dù cô có thông minh bao nhiêu, có chuẩn bị đầy đủ thế nào để vào nghề đi nữa, cũng không thể vượt qua giới hạn tuổi tác, mà thật sự trông cô còn trẻ hơn thế nhiều. Ở tuổi mười tám, cô là người trẻ nhất được gia nhập S.T.A.R.S. kể từ khi nó thành lập năm 1967... và là phụ nữ duy nhất trong đội Bravo, nên mọi người đều xem cô như một đứa em gái bé bỏng.

Cô thở dài, rồi cười đáp lại Edward và gật đầu với Sully. Chẳng có gì để phàn nàn khi được quan tâm bởi các đàn anh cứng cựa - tới chừng nào họ đoan chắc rằng cô đã có thể tự xoay xở lo liệu khi gặp chuyện.

Theo mình nghĩ, cô ngầm chỉnh lại. Nó cho cùng thì đây là lần đầu tiên, và dù cô đang có một thể trạng hoàn hảo thì kinh nghiệm chiến đấu vẫn là điểm yếu, bởi nó chỉ giới hạn trong các cuộn phim giả lập và những nhiệm vụ ngày cuối tuần. Đội đặc nhiệm cứu hộ và tác chiến tuyển mộ cô là để làm việc trong phòng thí nghiệm, nhưng hành quân là điều không thể tránh khỏi và cô cần thu thập thêm kinh nghiệm. Dù gì thì cả nhóm cũng đang di chuyển trong rừng, nên nếu có lỡ chạm trán người hoặc loài vật đã tấn công các cư dân Raccoon, cô sẽ được hỗ trợ.

Một tia sét lóe lên ở hướng bắc, khá gần, tiếng sấm nối tiếp bị át đi giữa âm thanh o o của trực thăng. Rebecca khẽ rướn tới trước để quan sát bóng tối. Sau một ngày trời quang mây tạnh, bây giờ đã có những đám mây vần vũ lúc chập tối; xem ra họ sẽ bị ướt lúc quay về. Ít nhất cũng là một cơn mưa dịu mát; cô cho là vậy -

Bùm!

Cô mãi chú ý vào cơn bão đang tới, đến nỗi trong một khắc ngắn ngủi, cô nghĩ đó là tiếng sấm, ngay cả khi trực thăng bị lệch hướng và mất độ cao, tiếng la hoảng hốt vang khắp buồng lái, mặt sàn rung chuyển dưới chân. Mùi kim loại và không khí cháy khét xộc vào mũi.

Sét?

"Chuyện gì vậy?" ai đó hét lên. Chính là Enrico, đang đặt tay lên súng.

"Động cơ hỏng rồi!" Phi công Kevin Dooley hét trả lời. "Hạ cánh khẩn cấp!"

Rebecca chộp lấy thanh giằng và ghì chặt, ráng nhìn những người khác để khỏi chứng kiến cảnh cây cối trôi tuột lên trên. Cô thấy quai hàm Sully bạnh ra đầy vẻ cương quyết, Edward nghiến chặt răng, thấy Richard và Forest nhìn nhau lo lắng trong lúc nắm lấy tay vịn và thanh giằng trên vách. Đằng trước, Enrico thét lên điều gì đó mà cô không thể nghe được giữa tiếng động cơ ầm ĩ. Rebecca nhắm mắt lại trong một nhịp, nghĩ đến cha mẹ - và cú rơi quá dữ dội khiến cô không nghĩ được gì cả, tiếng cành cây va chạm và gãy ngang khi đụng phải trực thăng vang đầy bên tai, khiến cô không thể làm gì hơn ngoài việc hy vọng. Trực thăng bị mất phương hướng, đang xoay vòng theo một quỹ đạo lắc lư tròng trành kinh khủng.

Mọi chuyện chấm dứt sau vài giây, xung quanh thình lình tĩnh lặng đến nỗi cô tưởng mình bị điếc, mọi chuyển động đều ngừng lại. Rồi có tiếng kim loại kêu tanh tách, nghe nghèn nghẹn như một nhịp thở cuối cùng của động cơ, và tim cô đập rộn lên khi nhận ra họ đã hạ cánh. Kevin đã làm được mà không có chút dằn xóc nào.

"Mọi người ổn chứ?" Đội trưởng Enrico Marini nghểnh cổ nhìn quanh từ chỗ ngồi.

Rebecca gật đầu giữa tiếng xác nhận đồng thanh của mọi người.

"Lái tốt lắm, Kevin," Forest nói, và có thêm những lời đồng tình khác. Rebecca cũng không biết nói gì hay hơn.

"Điện đài còn xài được không?" Enrico hỏi anh phi công, người đang gõ gõ lên bảng điều khiển và rà soát công tắc.

"Có vẻ mọi thiết bị điện đều bị cháy," Kevin đáp. "Có lẽ do sét. Chúng ta không bị nó đánh trúng trực tiếp, nhưng như vậy cũng đã quá gần. Đèn hiệu cũng hỏng."

"Sửa chữa được không?"

Enrico đặt một câu hỏi để ngỏ trong lúc nhìn Richard, người phụ trách liên lạc. Richard nhìn lại Edward, thấy anh ta nhún vai. Edward là thợ máy của đội Bravo.

"Để tôi xem," Edward lên tiếng, "nhưng nếu Kevin nói nó bị cháy, thì nó cháy thật rồi."

Đội trưởng của họ khẽ gật đầu, lo đễnh vân vê bộ ria trong lúc cân nhắc tình hình. Vài giây sau, anh thở dài. "Tôi đã gọi báo động lúc nãy, nhưng không biết có tác dụng không," anh nói. "Dù sao họ cũng đã biết được tọa độ cuối của chúng ta. Nếu chúng ta không sớm báo lại, họ sẽ đi tìm thôi."

"Họ" đây chính là đội S.T.A.R.S. Alpha. Rebecca và mọi người gật đầu phụ họa, không biết mình có nên thất vọng không nữa. Nhiệm vụ đầu tiên thế là đi tong ngay cả khi còn chưa bắt đầu.

Enrico lại mân mê bộ ria, ngón cái và ngón trỏ vuốt dọc xuống hai bên khóe miệng. "Tất cả ra ngoài thôi. Để xem chúng ta đang ở đâu."

Họ rời khoang trực thăng, Rebecca nhận định tình huống hiện tại lúc mọi người tập họp trong bóng tối. Họ đã may mắn không thể tả khi vẫn sống sót.

Bị sét đánh. Ngay lúc đang trên đường tìm kiếm những kẻ sát nhân điên cuồng, cô nghĩ thầm, thấy ngạc nhiên vì điều đó. Coi bộ đây là thứ hay ho nhất mà cô từng gặp, cho dù nhiệm vụ lần này có thất bại.

Không khí ấm áp và nặng nề bởi bóng tối dày đặc, và cơn mưa sắp ập đến. Nhũng động vật nhỏ gây ra tiếng động sột soạt trong các bụi cây. Vài ánh đèn pin xuất hiện, luồng sáng rọi xuyên qua bóng tối khi Enrico và Edward rảo quanh trực thăng, đánh giá mức độ thiệt hại. Rebecca lôi cây đèn của mình ra khói ba lô, thấy mừng là đã không quên mang nó theo.

"Em tính xoay sở thế nào đây?"

Rebecca quay lại, thấy Ken "Sully" Sullivan đang cười với mình. Anh ta đã lấy vũ khí ra, họng súng 9 ly chĩa lên bầu trời u ám, như muốn nhắc nhở cái lý do đã khiến họ đứng ở đây.

"Bọn các anh thật sự biết cách mở đường chứ?" cô cười đáp lại anh ta.

Anh chàng cao lêu nghêu mỉm cười, hàm răng trắng nhỡn phản chiếu lại làn da đen thui. "Thật ra, bọn anh luôn làm trò này để đón chào các tân binh. Hơi phí trực thăng thiệt, nhưng mà bọn anh có đủ danh tiếng để được tài trợ mà."

Rebecca định hỏi xem ông sếp cảnh sát cảm thấy thế nào về những phí tổn - cô là người mới đến, nhưng cũng đã nghe qua rằng sếp Irons là một kẻ khét tiếng keo kiệt - thì Enrico đã quay lại, vũ khí sẵn sàng và nói lớn cho mọi người cùng nghe.

"Được rồi, mọi người. Đội hình cánh quạt, khám phá khu vực xung quanh. Kevin ở lại trực thăng. Những người khác bám sát nhau, tôi muốn bảo đảm nơi đây tuyệt đối an toàn. Đội Alpha có thể đến đây không đầy một giờ nữa."

Anh đã không nói hết suy nghĩ của mình, rằng có thể sẽ còn lâu hơn thế nhiều. Dẫu sao, họ cũng đang sát cánh bên nhau trong lúc này.

Rebecca rút khẩu 9 lý khỏi bao, cẩn thận kiểm tra ổ đạn như đã được dạy, nòng súng chĩa lên để tránh cướp cò trúng người khác. Những người kia cũng đang di chuyển sang phía khác. Kiểm tra vũ khí và bật đèn pin. Cô hít sâu một hơi rồi tiến thẳng tới trước, ánh đèn đảo qua đảo lại khu vực trước mặt. Enrico cách đó chừng vài mét, di chuyển song song với cô. Một màn sương đang xuất hiện dưới mặt đất, thấp thoáng trong những bụi cây như bóng ma. Có một ngã rẽ trong rừng khoảng mười hai mét phía trước, lối đi rộng cỡ một con đường hẹp, mặc dù khó mà đoán chính xác trong màn sương. Không gian im lìm trừ tiếng sấm ầm ì, nghe gần hơn cô tưởng, xem ra cơn giông sắp chụp xuống đầu bọn họ. Cô quét đèn qua những lùm cây, bóng tối, rồi lại lùm cây, và thấy tia phản chiếu của một thứ giống như -

"Đội trưởng, xem kìa!"

Enrico bước tới bên cạnh Rebecca, và trong phút chốc, năm luồng sáng chụm lại chiếu về phía cô vừa nhìn thấy, rọi sáng con đường hẹp té bẩn thỉu - và một chiếc xe jeep ngả chỏng gọng. Rebecca nhận ra ký hiệu MP (Military police - Quân cảnh) trên sườn xe trong lúc cả đội tiến đến gần. Cô thấy một mớ quần áo lòi ra dưới kính chắn gió và nhăn mặt lại, trước khi đến gần để nhìn kỹ hơn. Rebecca đút súng vào bao, lôi túi cứu thương ra, rồi chạy nhanh đến bên chiếc xe và khụyu xuống, để rồi nhận thấy mình chẳng thể làm được gì hơn. Quá nhiều máu.

Hai người đàn ông. Một bị ném hẳn ra xa, nằm sóng xoài cách đó vài mét. Người còn lại trước mắt cô có mái tóc vàng hoe, nằm vắt vẻo nửa trong nửa ngoài dưới gầm xe jeep. Cả hai đều mặc quân phục. Khuôn mặt và nửa thân trên của họ bị cắt xẻo điên cuồng. Những vết cứa sâu hoắm hằn trên làn da và cơ bắp, cắt sâu vào cả cổ họng. Một vụ tai nạn xe không thể nào gây ra những chuyện này được.

Rebecca rờ tay xuống để dò mạch đập, nhận thấy da thịt đã lạnh ngắt. Cô đứng lên và tiến tới người nằm đằng kia, tìm xem có dấu hiệu nào của sự sống hay không, nhưng anh ta cũng đã lạnh cứng như người đầu.

"Cậu có nghĩ họ tới từ Ragithon không?" ai đó lên tiếng. Là Richard. Rebecca thấy một chiếc cặp táp nằm bên cạnh bàn tay tái nhợt duỗi thẳng của thi thể thứ hai, và khom người đi tới đó, đồng thời lắng nghe Enrico trả lời trong lúc loay hoay mở nó ra.

"Đó là căn cứ gần đây nhất, nhưng theo phù hiệu thì họ thuộc binh chủng lính thủy đánh bộ. Có lẽ đến từ Donnell thì đúng hơn."

Có một cái bìa nằm trên cùng, kẹp trong nó là một tài liệu dạng chính quy. Trên góc trái là hình chụp một gã điển trai với đôi mắt đen láy, đang mặc thường phục - hoàn toàn không giống loại mà các thi thể đang mặc. Rebecca nhấc nó lên rồi lặng lẽ đọc, cảm thấy miệng khô khốc lại.

"Đội trưởng!" cô kìm lại và đứng dậy.

Enrico ngước lên trong tư thế khom người bên cạnh xe jeep. "Hmm? Chuyện gì?"

Cô đọc to lên phần chính yếu. "Lệnh áp giải của thẩm phán... tù nhân William Coen, cựu trung úy, hai mươi sáu tuổi. Bị tuyên tử hình tại toà án quân sự, ngày 22 tháng Bảy. Tù nhân bị áp giải đến căn cứ Ragithon để hành quyết." Tay trung úy này đã bị kết tội giết người ở cấp độ một.

Edward giật lấy cái bìa kẹp hồ sơ từ tay cô, miệng thốt lên những từ mà Rebecca đã hình dung sẵn trong đầu, với ngữ điệu nặng nề và tức giận. "Mấy cậu lính đáng thương. Họ chỉ làm nhiệm vụ của mình, và thằng cặn bã ấy giết họ để bỏ trốn."

Enrico đón lấy tập hồ sơ, đọc lướt qua. "Được rồi, mọi người. Kế hoạch thay đổi. Chúng ta có một tên giết người cần truy bắt. Hãy chia nhau lục soát khu vực lân cận, tìm tung tích Trung úy Billy. Nhớ đề cao cảnh giác, và dù có thấy gì hay không cũng phải báo cáo lại sau mười lăm phút."

Mọi người xung quanh gật đầu. Rebecca hít một hơi sâu và xem lại đồng hồ khi những người khác tản ra, tự nhủ sẽ cố hành xử một cách nhà nghề như các đồng đội. Một mình trong mười lăm phút, có gì ghê gớm lắm đâu. Chuyện gì sẽ xảy đến trong mười lăm phút? Cô độc. Trong khu rừng tối tăm.

"Có coi lại bộ đàm chưa?"

Rebecca nhảy nhổm lên và quay lại phía phát ra tiếng Edward, anh chàng to con đang đứng ngay đằng sau cô. Anh thợ máy vỗ lên vai cô, cười cười.

"Thoải mái đi, cô nhóc."

Rebecca cười đáp lại, mặc dù chẳng ưa gì khi bị gọi là "cô nhóc." Edward mới có hai mươi sáu tuổi chứ bao nhiêu. Cô vỗ vỗ vào thắt lưng.

"Đã kiểm tra."

Edward gật đầu và rảo bước. Thông điệp của anh ta khá rõ ràng và mang tính khích lệ. Cô không hề đơn độc chừng nào còn mang theo bộ đàm. Cô nhìn quanh và thấy những người khác đã biến khỏi tầm nhìn. Kevin vẫn đang ngồi trong ghế phi công, đang lục lọi mớ hồ sơ cô tìm thấy. Anh nhìn thấy cô và hóm hỉnh ra dấu chào. Rebecca chĩa ngón tay cái lên để đáp lễ, rồi rút vũ khí ra và tiến vào bóng đêm. Trên đầu, tiếng sấm nổ vang rền.

*

* *

Albert Wesker đang ở trong khu truyền thông của khu vực xử lý. Căn phòng tối tăm không có ánh đèn, chỉ có ánh sáng nhấp nháy phát ra từ dãy màn hình giám sát. Có sáu cái tất cả, mỗi cái có thể đổi góc nhìn trong vòng năm giây. Chúng ghi nhận hình ảnh ở mọi tầng trong khu vực huấn luyện, tầng trên và tầng dưới của nhà máy và khu xử lý nước, cùng với đường hầm nối liền giữa chúng. Hắn dán mắt vào cái màn hình đen trắng tĩnh lặng, nhìn mà như không nhìn; bởi lẽ mọi sự chú ý của hắn giờ đang tập trung vào việc chờ đợi tín hiệu của đội dọn dẹp. Nhóm ba người đàn ông - chính xác là hai người và một phi công - đang trên đường di chuyển bằng trực thăng, và hầu như im lìm; nói cho cùng thì họ là những tay chuyên nghiệp và không có cái thói đùa cợt như bọn thanh niên, thế nên những gì Wesker nghe được chỉ là sự im lặng tuyệt đối. Sẽ ổn thôi; những âm thanh đơn điệu, những khuôn mặt đen nhẻm vô hồn trên màn hình, những cái thây nằm lăn lóc trong góc, những kẻ bị lây nhiễm đang kéo lê thân xác trong hành lang trống trải. Giống như biệt thự Arklay và phòng thí nghiệm cách đó vài mét, khu vực huấn luyện bí mật của White Umbrella cùng với khu thí nghiệm liền kề đã bị virus tấn công.

"Dự tính đến nơi trong ba mươi phút nữa," viên phi công cất tiếng, giọng nói rắn rỏi vang lên trong căn phòng tối lờ mờ.

Wesker nghiêng người. "Nghe rõ."

Lại im lặng. Chẳng cần phải nói gì về những chuyện sắp xảy ra khi họ tiếp cận đoàn tàu... và mặc dù kênh liên lạc này có tần số riêng, nhưng dẫu sao cũng chỉ nên mở miệng khi cần thiết. Umbrella đã được tạo dựng trên một nền tảng bí mật, với dáng dấp của một tập đoàn dược phẩm khổng lồ được kính nể bởi mọi nhân vật đứng đầu chính phủ. Cho dù đang làm một nhiệm vụ hợp pháp thì nói ít vẫn tốt hơn.

Nó đang tụt dốc, Weaker nghĩ bâng quơ trong lúc quan sát màn hình. Biệt thự Spencer và những phòng thí nghiệm xung quanh đã bị đóng cửa vào giữa tháng năm. Sự tiếp quản của White Umbrella trở thành "tai nạn," tất cả bị cô lập cho tới khi các nhân viên và các nhà nghiên cứu nhiễm khuẩn bị "vô hiệu hóa." Rốt cuộc thì sơ suất đã xảy ra. Cơn ác mộng hãy còn tàn dư đó đã kéo dài cho đến một tháng sau... và mới vài giờ đồng hồ trước đây thôi, viên kỹ sư trên chuyến tàu riêng của Umbrella, Ecliptic Express, đã nhất nút báo động tai nạn sinh học.

Việc cô lập đã thất bại, virus đã rò rỉ và lan tràn. Đơn giản mà... phải không?

Có vô số tiếng rên rỉ trong phòng ăn của khu huấn luyện, một trong số chúng đang đi lòng vòng quanh chiếc bàn đã-từng-đẹp-đẽ. Một thứ chất lỏng sền sệt rỉ ra từ vết thương trên đầu trong lúc nó đang lê lết, hoàn toàn vô thức về nơi nó đang đứng, về nỗi đau đớn, về mọi thứ. Wesker rà tay lên bảng điều khiển dưới màn hình, tiếp tục quan sát nó di chuyển sang khung hình kế bên. Hắn ngồi bệt xuống ghế, dõi theo con zombie khốn khổ vẫn đang đi quanh cái bàn.

"Phá hoại, có lẽ vậy," hắn khẽ lầm bầm, không chắc điều đó lắm. Mọi chuyện nhìn có vẻ tự nhiên - vụ rò rỉ ở phòng thí nghiệm Arklay, vành đai phong tỏa chưa hoàn tất. Vài tuần sau, có mấy người khách bộ hành bị mất tích, có vẻ là kết quả của một hoặc hai đối tượng lẩn trốn, rồi sau vài tuần nữa, lây lan xuất hiện ở khu nghiên cứu thứ hai của White Umbrella. Rất khó để một trong những vật chủ virus ngẫu nhiên xâm nhập phòng thí nghiệm ở Raccoon, nhưng đấy vẫn là một khả năng... tuy nhiên, vấn đề cần giải quyết lúc này là đoàn tàu. Và chuyện này lại không giống một tai nạn. Có vẻ nó... đã được sắp xếp.

Khốn thật, mình cũng phải tự trù liệu lấy nếu nghĩ tới nó. Hiện tại, hắn đang tính chuyện thoát ly vào một lúc nào đó, vì đã quá mệt mỏi khi làm việc cho những kẻ không cùng đẳng cấp... bỏ thời gian ra để lãnh lương của Umbrella chỉ tổ hại thân. Bây giờ họ muốn hắn dẫn đội S.T.A.R.S. vào chỗ phòng thí nghiệm và biệt thự Arklay, chỉ để tìm hiểu xem những vật nuôi của chúng đối đầu với những quân nhân vũ trang như thế nào. Không biết bọn nó có áy náy nếu hắn lỡ đi đời ngang xương chăng? Chắc là không nếu hắn kịp ghi nhận dữ liệu trước khi chết.

Các nhà nghiên cứu, bác sĩ, kỹ thuật viên,... bất cứ ai làm việc cho White Umbrella được một hoặc hai thập niên đều có cái kết cuộc mất tích hoặc đi đời. George Trevor và gia đình, tiến sĩ Marcus, Dees, tiến sĩ Darius, Alexander Ashford... đấy mới chỉ là mấy cái tên cỡ bự thôi. Có Chúa mới biết còn bao nhiêu người khác đã qua đời trong những mộ phần vất vưởng đâu đó... hoặc biến thành đối tượng thí nghiệm A, B, và C.

Khóe miệng Wesker co giật. Hắn hiểu rất rõ ý nghĩa của từ "bao lâu" khi đề cập tới những việc này. Hắn đã làm việc cho "White Umbrella" từ cuối những năm 70, hầu hết ở khu vực Raccoon, và đã chứng kiến bọn bác sĩ thực hành trên những đối tượng thí nghiệm ít ỏi do chính tay hắn kiếm được. Giờ là thời điểm tốt nhất cho hắn thoát ly... và nếu có thể chộp lấy những dữ kiện mà bọn chóp bu cần, hắn sẽ có thể mang nó ra bán đấu giá để kiếm một món hời trước khi giải nghệ. White Umbrella đâu phải là tổ chức duy nhất quan tâm tới vũ khí sinh học.

Nhưng trước hết phải dọn dẹp đoàn tàu đã. Và khu vực này, hắn nghĩ thầm khi quan sát tên lính mang vết thương ở đầu, lúc này đang vấp vào cái chân ghế và ngã xuống một cách khó nhọc. Khu huấn luyện được kết nối với khu xử lý nước "bí mật" bởi một đường hầm dưới lòng đất. Tất nhiên là tên lính đó chẳng chú ý tới. Cũng giống như những gì đã diễn ra ở Arklay, Wesker tin chắc vậy; vài cuộc gọi sau cùng từ phòng thí nghiệm bị cách ly đã dệt nên một bức tranh đầy màu sắc về hiệu ứng của T-Virus. Nó cũng phải được dọn dẹp... nhưng phải đợi sau khi hắn đã đưa đội S.T.A.R.S. đến để làm một bài tập huấn nhỏ.

Sẽ là một cuộc chạm trán thú vị đây. Đội S.T.A.R.S. đều là những tay ưu tú - có đến một nửa là do đích thân hắn lựa chọn - nhưng họ chưa từng thấy thứ gì giống như T-Virus. Tên lính đang giãy chết trên màn hình là một minh chứng hùng hồn - chịu ảnh hưởng bởi những tổ hợp virus, thực hiện một chuyến đi bất tận trong phòng ăn, trong trạng thái chậm chạp và mất trí. Gã cũng không còn biết đau nữa - và sẽ tấn công bất cứ ai hay cái gì chắn đường mà không hề lưỡng lự, để rồi virus tiếp tục tìm đến những vật chủ mới để lây nhiễm. Mặc dù sự rò rỉ ban đầu diễn ra trong không khí, nhưng sau một thời gian, virus sẽ chỉ còn chuyển tiếp qua những chất dịch trong cơ thể. Qua máu, hoặc khi cắn... và lính thì cũng chỉ là một con người thôi; T-Virus hoạt động được trên mọi cá thể sống, và còn một số sinh vật khác... đang chờ đón, từ phòng thí nghiệm cho tới khu vực hoang dã bên trong.

Lúc này chắc Enrico đã dẫn đội Bravo lên đường tìm kiếm những khách bộ hành bị mất tích, nhưng xem ra họ khó mà tìm được gì ở cái nơi hắn đang nhòm ngó. Không lâu sau đó, Wesker sẽ đảm nhận việc phối hợp hai đội Alpha-Bravo trong biệt thự "bỏ hoang" Spencer. Rồi hắn sẽ tẩy sạch mọi chứng cớ trước khi cao chạy xa bay, biến khỏi bàn tay của White Umbrella, từ bỏ kiếp sống điệp viên hai mặt, để vui thú trong cuộc sống mới với những con người mà hắn chẳng cần biết họ là ai.

Gã đàn ông đang giãy chết trên màn hình lại sụm xuống lần nữa, hai chân lê lết, rồi lại cứ thế tiếp tục.

"Tìm vàng đi nhé, nhóc," Wesker vừa nói vừa cười thầm, giọng nói vang đi giữa căn phòng trống trải.

*

* *

Có thứ gì đó di chuyển trong bụi rậm. Thứ gì đó lớn hơn một con sóc.

Rebecca xoay người về phía phát ra âm thanh, chĩa cây đèn pin và khẩu 9 ly vào bụi cây. Ánh đèn chỉ bắt gặp những gì còn lại của cái đã chuyển động, lá hãy còn đang rung rinh, luồng sáng trên tay cô cũng rung theo nó. Cô tiến gần thêm một bước, cổ họng khô khốc nuốt ực một cái, đếm lùi đến mười. Dù có là gì thì nó cũng đi rồi.

Chắc là gấu trúc. Hay là chó nhà ai đó bị lạc.

Cô nhìn xuống đồng hồ, nghĩ có lẽ mình nên quay lui, và thấy là đã đi một mình mới hơn năm phút. Cô đã không nhìn thấy hay nghe thấy một ai kể từ lúc rời trực thăng, cứ như là mọi người đều chui hết xuống dưới mặt đất vậy.

Mình cũng vậy, Rebecca ủ rũ nghĩ thầm, từ từ hạ thấp họng súng, quay nhìn xung quanh để nhận định vị trí. Cô đang ở hướng tây nam tính từ điểm hạ cánh; cô sẽ tiếp tục thêm vài phút nữa, sau đó -

Rebecca chớp mắt, ngạc nhiên khi thấy một vách tường kim loại hiện ra dưới luồng ánh sáng, cách đó không tới mười bước. Cô quét đèn ngang qua bề mặt, thấy một cửa sổ, cửa lên xuống -

"Một đoàn tàu," cô thở ra và khẽ nhíu mày, chợt nhớ đến điều gì đó về đường ray ở đây... Chẳng phải Umbrella, tập đoàn dược phẩm, có một chuyến tàu riêng từ Latham đến Racoon đấy sao? Lịch sử không phải là sở trường của Rebecca - bởi cô không phải người ở đây - nhưng cô có thể đoan chắc về cái công ty có nền móng đặt tại Raccoon. Tổng hành dinh Umbrella đã được chuyển tới châu Âu ít lâu trước, nhưng trên thực tế họ vẫn đang sở hữu toàn bộ thành phố.

Vậy nó làm gì mà nằm ì ra đó, tính chờ chết trong rừng vào đêm hôm thế này à? Cô rà đèn lên xuống đoàn tàu, nhận thấy có năm toa khá cao, mỗi cái có hai tầng. Chữ ECLIPTIC EXPRESS in đậm dưới nóc toa tàu đằng trước. Có vài ngọn đèn còn sáng le lói, chỉ đủ rọi qua cửa sổ... nhiều cái khác thì đã vỡ vụn. Cô nghĩ là mình đã trông thấy bóng người gần đó, nhưng không thấy nhúc nhích gì hết. Chắc là đang ngủ.

Hoặc bị thương, bị giết. Có thể nó bị dừng bởi vì Billy Coen đã leo lên đường ray.

Lạy Chúa, biết đâu đấy. Hắn có thể đang ở bên trong với những con tin. Nên gọi hỗ trợ thì hơn. Cô rờ tay xuống máy bộ đàm, và ngừng lại.

Cũng có thể đoàn tàu đã bị hỏng từ hai tuần trước và nằm đây từ đó đến giờ, và bên trong lúc này chỉ toàn là chuột. Cả đội chắc sẽ cười phá lên mất. Cho dù họ có tế nhị đi nữa, cô cũng sẽ phải chịu đựng hàng tuần, thậm chí hàng tháng cho những trò trêu chọc, vì đã gọi hỗ trợ khi gặp một đoàn tàu bỏ hoang.

Cô xem lại đồng hồ, thấy thêm hai phút nữa đã trôi qua... và bị một giọt chất lỏng lạnh ngắt rơi trúng mũi. Rồi rơi xuống tay. Kế đến là hàng trăm tiếng lộp độp ẩm ướt rơi trên lá cây và mặt đất, rồi hàng ngàn tiếng trong lúc bầu trời hé lộ, cơn giông rốt cuộc đã bắt đầu.

Cơn mưa đã giúp cô ra quyết định; cô sẽ nhìn nhanh qua bên trong trước khi quay lại, chỉ để bảo đảm là mọi thứ vẫn còn nguyên như cũ. Nếu Billy không ở quanh đây, ít nhất cô cũng có thể báo cáo lại là đoàn tàu không có vấn đề gì. Còn nếu hắn có...

"Mày sẽ phải chạm trán với ta," cô khẽ lầm bầm, tiếng nói bị át đi giữa cơn giông đang mạnh dần trong lúc cô tiếp cận đoàn tàu im ắng.

--------------------------------------------------------------------------------

Billy ngồi bệt dưới sàn giữa hai hàng ghế, loay hoay mở còng tay bằng cái kẹp giấy vừa tìm được. Khóa tay bên phải đã mở khi chiếc xe jeep bị lật, nhưng anh phải tháo nốt cái còn lại nếu không muốn mang theo một thứ vòng trang sức của tội phạm.

Tháo nó ra rồi biến khỏi chỗ này, anh nghĩ thầm, ấn mạnh vào cái lỗ khóa trên lá thép mỏng. Anh không hề nhìn lên, không muốn tìm hiểu xem mình đang ở đâu; không cần thiết. Không khí ngập ngụa mùi của máu bắn tung tóe khắp nơi, và mặc dù toa xe anh đang ở không có cái xác nào, nhưng anh đoan chắc những toa khác phải đầy những tử thi.

Lũ chó, nhất định là vậy... có điều ai đã thả chúng?

Ắt là cái gã họ đã thấy trong rừng. Cái gã đã chận ngang đường xe jeep, làm nó mất phương hướng. Billy bị hất văng đi nhưng không có chút tổn thương nào ngoài vài vết bầm. Những người áp giải anh ta, Dickson và Elder, bị mắc kẹt dưới chiếc xe lật ngã. Họ vẫn còn sống. Cái tên chặn ngang đường chẳng thấy tăm hơi đâu nữa.

Một hoặc hai phút phân vân trôi qua. Anh đứng trong bóng tối nhá nhem, mùi ga nồng nặc phả vào mặt, toàn thân đau nhức, cố gắng cân nhắc - nên bỏ chạy, hay gọi trợ giúp qua bộ đàm? Anh không muốn chết, không đáng phải chết chút nào, trừ khi tin tưởng và ngu ngốc cũng là một tội chết. Nhưng dù thế nào anh cũng không thể bỏ mặc họ, bỏ mặc hai người đàn ông kẹt dưới một tấn kim loại méo mó, bị thương gần như bất tỉnh. Họ đã chọn con đường mòn trong rừng để đến căn cứ, dẫn đến việc sẽ mất không ít thời gian trước khi có người đến trợ giúp. Phải, họ áp giải anh đến nơi hành quyết, nhưng đó chỉ là theo mệnh lệnh; không có chuyện tư lợi gì ở đây, và họ cũng không đáng phải chết hơn anh chút nào.

Anh quyết định chọn cả hai, nghĩa là gọi điện xin trợ giúp, rồi cao chạy xa bay... thế nhưng lũ chó đã đến. Những sinh vật to lớn, ướt át và quái đản; ba con tất cả, và anh đã chạy bán sống bán chết, bởi lẽ có điều gì đó hết sức khác thường về bọn chúng; anh biết vậy trước cả khi chúng tấn công Dickson, giật đứt cổ họng trong lúc lôi anh ta ra khỏi gầm xe.

Billy nghĩ mình vừa nghe một tiếng click và thử lắc còng tay, miệng rít lên khi thấy cái khóa kim loại vẫn không chịu nhúc nhích. Đồ quỷ. Thật may mắn khi tìm được cái kẹp giấy, khi mà có vô khối thứ vung vãi khắp nơi - giấy, túi, áo khoác, đồ dùng cá nhân - và máu dính khắp mọi chỗ. Có thể anh đã tìm được thứ gì đó hữu ích hơn nếu lùng sục kỹ một chút... mặc dù như vậy tức là phải lưu lại trên toa tàu, một điều nghe chẳng hay ho gì mấy. Theo anh đoán, đây chắc là nơi bọn chó cư ngụ, chúng chờ sẵn ở đây để đón tiếp bất cứ kẻ xấu số nào xuất hiện gần đoàn tàu. Anh vốn chỉ muốn vào đây tránh lũ chó, để lấy lại bình tĩnh trước khi tính bước tiếp theo.

Và xem ra đây là một Chuyến Xe Giết Người, anh vừa nghĩ vừa lắc đầu. Cứ như một cái chảo rán trên lửa. Cho dù chuyện gì đang xảy ra trong rừng đi nữa, anh cũng không muốn dính líu vào đó. Anh phải tháo còng, tìm cho mình thứ vũ khí nào đó, có lẽ phải lục lấy một hai cái ví trong đống hành lý đầy máu kia - chủ nhân của chúng chắc hẳn đã đi vào quên lãng rồi - và cuốn xéo trở về thế giới văn minh. Có lẽ đến Canada hoặc Mexico. Truớc giờ anh chưa từng ăn trộm, chưa từng tính chuyện vượt biên, nhưng đã đến lúc phải suy nghĩ như một tên tội phạm, nếu anh còn muốn sống sót.

Anh nghe tiếng sấm, rồi tiếng mưa rơi lộp độp trên khung cửa sổ vỡ toang. Tiếng lộp độp dồn dập hơn, không khí ngập mùi máu loãng ra đôi chút bởi một làn gió thổi qua khung cửa. Thật đúng lúc. Có vẻ như anh sẽ được che giấu trong cơn mưa bão.

"Sao cũng được," anh lầm bầm, và ném cái kẹp giấy vô dụng lên băng ghế đằng trước. Tình hình lúc này là nghiêm trọng không thể tả nổi, và anh ngờ là nó sẽ còn tệ hơn -

Billy cứng người, nín thở lại. Cửa lên xuống tàu đang mở ra. Anh có thể nghe thấy tiếng kim loại trượt đi, cơn mưa nặng hạt hơn, và lại im ắng như cũ. Ai đó đã lên tàu.

Khốn kiếp! Có phải là cái gã điên với lũ chó?

Hay ai đó đã tìm thấy chiếc xe jeep?

Anh cảm thấy bao tử quặn thắt lại. Có thể lắm. Có thể ai đó từ căn cứ đã đi đường tắt vào tối nay, có thể đã gọi thông báo khi phát hiện vụ tai nạn - và nhận ra còn một hành khách thứ ba nữa, một kẻ đi bộ nhất định phải chết.

Có lẽ anh đang bị săn lùng.

Anh không nhúc nhích, tai căng ra lắng nghe âm thanh di chuyển của người vừa tiến vào từ màn mưa. Trong vài giây, không có gì cả - rồi anh nghe thấy bước chân khe khẽ, một tiếng, lại một tiếng nữa. Người đó dịch chuyển ra xa chỗ anh, về phía đầu toa.

Billy rướn người tới trước, cẩn thận chuồi cái còng xuống dưới cổ áo để nó đừng kêu leng keng, di động chầm chậm đến khi có thể thấy được phần rìa của dãy ghế. Ai đó đang bước qua cánh cửa tiếp giáp giữa hai toa, vóc dáng mảnh khảnh thấp bé - có lẽ một cô gái, hoặc một thanh niên trẻ, mặc áo chống đạn Kevlar màu xanh của quân đội. Anh chỉ có thể nhận ra vài ký tự trên lưng áo, một chữ S, một chữ T, một chữ A - trước khi người đó khuất dạng.

S.T.A.R.S. Chẳng lẽ họ đã gởi một đội đến để tìm anh sao? Không thể nào, không thể nhanh như vậy - xe jeep mới lật chừng một giờ trước, và S.T.A.R.S. đâu phải đơn vị trực thuộc quân đội, họ là một cơ quan bên cảnh sát, không lý nào người ta lại gọi đến họ vào cuộc. Chắc là có liên quan đến mấy con chó anh thấy lúc nãy, một bầy thú hoang đột biến; S.T.A.R.S. thường chịu trách nhiệm giải quyết những vấn đề nan giải mà cảnh sát địa phương đã bó tay. Hoặc có thể họ đến để xem cái gì đã làm đoàn tàu bị dừng.

Việc gì phải bận tâm đến lý do chứ? Họ có súng mà, và nếu họ mà phát hiện ra mày là ai thì đừng hòng được tự do nữa. Chuồn khỏi đây ngay.

Với những con chó ăn thịt người chờ trong rừng ư? Còn lâu nếu chưa có vũ khí, không đời nào. Chắc phải có bảo vệ trên tàu, một ai đó được thuê để cầm súng; anh chỉ việc tìm là thế nào cũng gặp. Coi bộ hơi mạo hiểm, nhất là khi một thành viên S.T.A.R.S. đang ở trên tàu - nhưng dù sao cũng có một người thôi. Nếu cần...

Billy lắc lắc đầu. Anh chẳng muốn dính vào mấy vụ chết chóc của Đội Đặc Nhiệm. Nếu lâm vào trường hợp bất khả kháng, tại đây và vào lúc này, anh sẽ chống trả hoặc bỏ chạy. Anh không thể giết người, không một lần nào nữa. Nhất là người tốt.

Billy khom người xuống, cái còng lủng lẳng trên cổ tay. Anh nhìn qua những vật dụng trong toa tàu một lượt, rồi di chuyển ngược hướng với kẻ vừa xâm nhập, quan sát xem có gì hữu dụng không. Tránh được thì cứ tránh. Anh chỉ -

Đoàng! Đoàng! Đoàng!

Ba phát súng vang lên từ toa tàu đằng trước. Ngừng một chốc, rồi ba, bốn phát nữa... và im lặng.

Có vẻ không phải toa nào cũng trống trải. Bao tử anh quặn lên, nhưng anh tuyệt đối không cho phép mình do dự trong lúc chộp lấy cái cặp táp đầu tiên, và bắt đầu lục soát.

*

* *

Toa đầu tiên không có dấu hiệu nào của sự sống cả - nhưng có chuyện gì đó rất tồi tệ đã xảy ra, không nghi ngờ gì nữa.

Va chạm chăng? Không phải, phần khung đâu có vẻ gì bị hư hại... nhưng máu thì rất nhiều!

Rebecca khép cánh cửa sau lưng, bỏ lại cơn mưa nặng hạt bên ngoài, và quan sát đống hỗn độn xung quanh. Phần nội thất khá là bắt mắt, toàn một màu đen tuyền của gỗ và những tấm thảm đắt tiền, đèn được bố trí theo kiểu cổ điển, giấy dán tường rắc bột vải. Có nhiều tờ báo, cặp táp, áo khoác, túi xách, chúng mở toang vung vãi khắp dưới sàn - có vẻ đã có một vụ va chạm, khung cảnh càng được tô điểm thêm bởi những giọt máu lấm tấm nhỏ giọt khắp các vách buồng. Có điều các hành khách đâu hết rồi?

Cô bước vào trong toa tàu, quét súng lên xuống dọc lối đi giữa. Một vài ngọn đèn còn sáng, đủ để quan sát, nhưng bóng tối vẫn khá dày đặc. Không có thứ gì chuyển động cả.

Phần lưng dãy ghế bên trái của cô lấm tấm vết máu. Cô đưa tay ra sờ vào một vệt lớn, rồi cọ cọ vào quần, mặt nhăn nhó. Nó còn ướt.

Đèn còn sáng, máu còn mới. Dù có chuyện gì thì nó cũng mới vừa xảy ra thôi. Có thể là Trung uý Billy? Hắn ta đang bị truy nã vì tội giết người... tuy nhiên việc này có vẻ không hợp lý lắm, trừ khi hắn có cả một băng đảng; tình trạng có phần quá nghiêm trọng, giống như một thảm họa thiên nhiên hơn là một tai nạn con tin.

Hoặc giống như những vụ án mạng trong rừng.

Cô khẽ gật đầu, hít một hơi thật sâu. Những kẻ giết người ắt đã lại ra tay lần nữa. Những thi thể tìm thấy bị xâu xé, bị cắt xẻo, và hiện trường vụ án có thể nói giống y như đoàn tàu đẫm máu này. Cô nên ra khỏi đây ngay, báo cho đội trưởng và các đồng đội. Nhưng khi dợm quay gót ra cửa thì cô lưỡng lự.

Mình có thể lục soát đoàn tàu trước.

Thật buồn cười. Họa có là điên mới ở lại đây có một mình, quá ngu ngốc và nguy hiểm. Chẳng ai lại muốn cô phải lục soát hiện trường án mạng một mình - ấy là trong trường hợp có ai đó bị giết. Biết đâu đã có chạm súng hoặc xảy ra chuyện gì đó, và cả đoàn tàu đã di tản.

Không đâu. Thật là ngu ngốc. Nếu vậy thì đã phải có cảnh sát ở khắp mọi nơi chứ, rồi bộ phận cứu thương khẩn cấp, trực thăng, phóng viên đưa tin. Dù có chuyện gì đi nữa, chắc chắn mình là người đầu tiên có mặt tại hiện trường.. và bảo vệ hiện trường là ưu tiên số một.

Rebecca không khỏi tự hỏi, liệu các đàn anh sẽ nói gì khi thấy cô xoay sở một mình. Một điều chắc chắn là họ sẽ thôi không gọi cô là "nhóc" nữa. Ít ra cái mác tân binh sẽ sớm bị bỏ lại đằng sau. Chỉ nhìn quanh một lượt thôi, có gì nghiêm trọng lắm đâu, và nếu đánh hơi thấy mùi nguy hiểm, cô sẽ gọi ngay cho các đồng đội.

Cô gật gù. Đúng vậy. Gì chứ nhìn qua một cái thì cô làm được, không thành vấn đề. Hít sâu một cái, cô bắt đầu ở toa trước, cẩn thận bước qua những túi hành lý rải rác. Lúc tiến đến cánh cửa nối liền hai toa, Rebecca tự trấn tĩnh mình rồi nhanh chóng lướt tới, và dũng khí của cô vụt biến mất tiêu khi mở cái thứ hai. Ôi, không.

Toa vừa rồi hết sức lộn xộn nhưng cũng không tệ bằng ở đây. Từ vị trí đang đứng có thể thấy được ba, bốn - năm người, tất cả dường như đã chết, khuôn mặt bị xé nát bởi những vết cắt không rõ nguyên do, toàn thân ướt sũng trong một thứ chất lỏng đen đúa. Vài cái xác thụt sâu trong ghế, chắc là đã bị giết khi đang ngồi. Mùi tử khí phảng phất trong không gian, gần như mùi đồng và mùi phân, hoặc mùi trái cây thối giữa một ngày nóng bức.

Cánh cửa tự động đóng sập lại sau lưng. Rebecca thấy tim đập loạn lên khi nhận ra mình đang bị tách rời khỏi nhóm, có lẽ nên gọi hỗ trợ ngay - và rồi cô phát giác thấy mình không hề đơn độc khi nghe có tiếng làu bàu cất lên.

Cô chĩa súng về lối đi giữa toa, không biết âm thanh đó phát ra từ đâu, tim đập nhanh gấp bội.

"Bước ra ngay!" cô quát lớn, ngữ điệu rắn rỏi và thị uy ngoài mong đợi. Tiếng làu bàu vẫn tiếp tục, trong cái toa tàu vắng vẻ này nghe nó nghèn nghẹn và tắc tị một cách quái đản làm sao, khiến cô tưởng tượng ra cái cảnh một tên giết người điên cuồng đang ngồi đâu đó, lầm thầm tự nhủ sau khi gây án.

Cô định lặp lại mệnh lệnh lần nữa thì phát giác ra, âm thanh đó xuất phát từ sàn tàu phía nửa trên của lối đi. Có một cái radio xách tay cỡ nhỏ, đang phát tin tức trên kênh AM. Cô bước lại gần, không khỏi ngạc nhiên khi cảm thấy thoái mái hẳn ra; rốt cuộc thì cô chỉ có một mình.

Cô đứng trước cái radio, mũi súng hạ thấp. Có một cái xác cạnh cửa sổ bên trái, Rebecca nhìn lướt qua nó rồi quay đi ngay; cổ họng người đó đã bị chém đứt, tròng mắt thụt hẳn vào trong. Khuôn mặt xám ngoét và bộ đồ tả tơi sáng lóng lánh bởi một chất lỏng sền sệt, trông nó y như một con zombie trong phim kinh dị.

Cô cúi xuống nhấc cái radio lên, tự cười thầm vì sự hoảng hốt khi nãy. Cái tên "giết người điên cuồng" của cô chẳng qua là một giọng nữ đang đọc bản tin. Chất lượng thu âm thật là tệ quá cỡ, tiếng rin rít cứ kêu xè xè sau từng đoạn.

Thôi được, cứ coi như cô là con ngốc vậy. Dù thế nào đi nữa, giờ cũng là lúc nên gọi Enrico. Rebecca quay lại, định ra ngoài để tín hiệu cuộc gọi được tốt hơn, thì có một chuyển động chậm chạp ở hàng ghế chỗ cửa sổ. Nó chỉ thoáng qua trong một chốc, đến nỗi cô nghĩ rằng mình vừa nhìn thấy mưa rơi. Rồi cái di động đó rên lên, phát ra một thứ tiếng thấp trầm đầy khổ sở, và cô hiểu ngay đây không phải là tiếng mưa.

Cái xác trên ghế đang ngóc dậy và di chuyển về phía cô. Cái đầu méo mó của gã ta hầu như lệch sang một bên, để lộ những thớ thịt nơi cổ họng, và tiếng rên kéo dài ra đầy thèm khát, trong lúc gã dang rộng hai tay ra phía trước, bộ mặt hư hại nhễu đầy máu và một thứ chất lỏng ươn ướt.

Cô thả rơi cái radio xuống và lùi lại một bước trong khiếp đảm. Cô đã nhầm, anh ta chưa chết, nhưng hiển nhiên đã mất hẳn lý trí bởi sự đau đớn. Cô cần giúp anh ta. Không có đủ dụng cụ trong túi cứu thương, nhưng cũng có thuốc giảm đau, cần phải đặt anh ta nằm xuống, ôi, Chúa ơi, cái gì xảy ra vậy -

Người đàn ông đã tiến tới gần hơn, đang vói tay về phía cô, hốc mắt toàn một màu trắng bệch, chất lỏng màu đen tuôn ra từ cái miệng tả tơi - và bất chấp những gì đang tự nhủ về trách nhiệm của mình, về những việc cần làm để xoa dịu sự khổ sở cho anh ta, cô vẫn phải lùi thêm một bước nữa theo quán tính. Trách nhiệm là một chuyện, còn bản năng đang thúc giục cô hãy chạy cho mau, chạy thật xa, rằng hắn ta đang muốn tấn công cô.

Cô quay lại, không biết phải làm gì nữa - và có thêm hai người khác đứng giữa lối đi sau lưng cô, cả hai có bộ mặt đờ đẫn và hư hại giống như gã mắt trắng đó. Chúng đang di chuyển đến gần cô một cách đều đều như những con quái vật trong phim kinh dị. Gã đi trước mặc đồng phục, có lẽ người phục vụ trên tàu, bộ mặt hốc hác xương xẩu của hắn phủ một màu xám ngoét. Tên đằng sau có bộ mặt bị toạc mất một phần, để lộ những cái răng ở khóe miệng bên phải.

Rebecca lắc đầu, vũ khí gương cao. Có lẽ là một bệnh dịch hay một vụ nhiễm độc hóa học gì đó. Trông bọn chúng hết sức bệnh hoạn, nhất định là vậy - ngoại trừ một điều, cả ba đang tiến đến cô càng lúc càng gần, giơ ra những ngón tay xương xẩu màu xám, cất tiếng rên rỉ đói khát. Có thể chúng đang bệnh, nhưng chúng cũng đang tấn công cô. Cô chắc chắn điều đó cũng như chắc chắn biết rõ tên mình vậy.

Bắn! Bắn ngay đi!

"Đứng lại!" Cô quát lớn, quay lại gã đàn ông mắt trắng dã. Hắn ta là kẻ đứng gần hơn, rất gần, và không có dấu hiệu gì cho thấy là hắn quan tâm tới khẩu súng đang chĩa thẳng vào người. "Nếu không tôi bắn!"

"Aaaahh," con quái vật tru lên và vồ lấy cô, mấy cái răng đen sì nhe ra, và Rebecca nổ súng.

Hai, ba phát, đạn xoáy sâu vào lớp thịt đã đổi màu. Hai phát đầu ghim trúng ngực nó, viên thứ ba khoét thủng một lỗ ngay phía trên mắt phải. Con quái vật rú lên sau phát thứ ba, âm thanh nghe thất vọng nhiều hơn là đau đớn, trước khi đổ sụm xuống sàn.

Cô xoay lại, cầu mong tiếng súng sẽ làm chùn chân hai tên còn lại, và thấy bọn chúng đang sắp sửa chộp lên mình, những con mắt đờ đẫn, những tiếng rên thèm khát. Phát súng thứ nhất của cô găm thẳng vào cổ họng tên mặc đồng phục, khiến hắn ngã lăn quay, rồi cô ngắm vào chân của tên thứ hai. Có lẽ chỉ nên bắn bị thương thôi, làm hắn ngã -

Gã mặc đồng phục đã lại nhào tới trước, máu tuôn trào từ cổ họng.

"Chúa ơi," cô cất tiếng thì thào trong choáng váng, nhưng chúng lại đã đến, cô không có thời gian để tự hỏi hay suy nghĩ gì nữa. Cô nhấc súng lên, bắn thêm hai, ba phát nữa, tất cả đều nhắm vào đầu. Máu thịt văng tung tóe. Cả hai đã gục xuống.

Một sự yên tĩnh bao trùm xung quanh, Rebecca quét mắt nhìn khắp toa tàu, toàn thân run lẩy bẩy vì kích động. Còn hai, ba "cái xác" nữa, nhưng chúng không hề nhúc nhích.

Chuyện gì thế này? Mình tưởng họ chết rồi chứ.

Họ đã chết. Họ là những con zombie.

Không, thật vô nghĩa. Rebecca kiểm tra lại băng đạn trong lúc vắt óc ra tìm hiểu. Họ không phải là zombie, đây đâu phải là phim ảnh. Nếu họ thật sự đã chết, đạn không thể nào làm máu văng ra như vậy; máu không thể chảy nếu tim đã ngừng đập.

Nhưng chúng chỉ ngã gục khi bị bắn vào đầu. Đúng vậy. Nhưng điều đó có thể là do một thứ bệnh dịch, một thứ gì đó làm tê liệt cảm giác đau đớn...

Những tên giết người trong rừng. Rebecca tròn xoe hai mắt, xâu chuỗi những sự kiện lại với nhau. Nếu đã có một vụ nhiễm độc hóa học hoặc bệnh dịch, nó ắt sẽ tác động lên một số người trong rừng, khiến họ tấn công người khác. Còn các báo cáo về những con chó hoang man rợ - phải chăng căn bệnh lây lan trên nhiều loài khác nhau? Một số những nạn nhân bị ăn thịt, có ít nhất hai thi thể xuất hiện những vết cắn xé gây ra bởi vết răng của người và động vật.

Cô gần như ngừng thở khi nghe tiếng chuyển động khe khẽ. Đằng sau cánh cửa cô vừa bước qua, hình như một cái thây vừa thụp xuống dưới ghế. Cô dõi theo nó trong chờ đợi, cái gì phải đến rồi sẽ đến thôi, nhưng không có thêm chuyển động nào nữa, âm thanh duy nhất còn lại là tiếng mưa rơi. Chúng là những thây ma, hay nạn nhân của một tấn thảm kịch? Dù thế nào thì cô cũng chẳng muốn tìm hiểu thêm nữa.

Rebecca quay gót, bước qua gã đàn ông mắt trắng dã lúc này đã chết thật sự, quyết định hướng tới cánh cửa trước toa. Cô phải rời khỏi đoàn tàu này để báo cho các đồng đội những gì vừa chứng kiến. Đầu cô quay cuồng với những chuyện sẽ đến sau đó - công chúng sẽ được báo động, việc cách ly được tiến hành ngay lập tức. Chính quyền liên bang cũng sẽ nhúng tay vào, các tổ chức như CDC, USAMRID, thậm chí cả EPA, một cơ quan có đủ quyền hành để phong tỏa mọi thứ, sẽ tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra. Sẽ có cả núi công việc, nhưng cô thực sự có thể đóng góp sức lực vào đó, thực sự tạo nên một -

Cái thây đằng cuối toa lại đã nhúc nhích, cái đầu của nó gập xuống ngực, và tất cả những suy tưởng giải cứu Raccoon biến mất tiêu khỏi đầu óc cô. Rebecca quay lưng mà chạy tới cửa nối tiếp, sợ đến hết hồn. Lúc này cô chỉ muốn biến khỏi đây thôi.

*

* *

Không mất quá lâu để tìm thấy vũ khí. Billy vừa cảm thấy may mắn khi có được nó, vừa cảm nhận một sự thân thiết với khẩu súng lục MP tìm được trong một cái túi xách lèn dưới ghế. Nó cùng một kiểu với thứ mà những người áp tải anh ta sử dụng. Còn có một băng đạn dự phòng và nửa hộp đạn hiệu Parabellum cỡ 9x19mm, cùng với một chiếc bật lửa, khá thuận tiện để mang theo bên mình; ai mà biết được lúc nào cần tới lửa.

Anh nạp đạn, nhét băng đạn dự phòng vào thắt lưng, mấy viên nằm ngoài thì cho vào túi trước, ước gì mình đang mặc quân phục dã chiến thay vì thường phục. Quần jean xanh không phải là thứ thích hợp để nhồi nhét đủ thứ hổ lốn thế này. Anh bắt đầu nhìn quanh để kiếm một chiếc áo khoác, và rồi quyết định bỏ ý nghĩ đó đi; tối nay khá oi bức cho dù trời có mưa, và ì ạch vác theo một mớ vải bông ướt sũng sẽ là tệ hết chỗ nói. Một cái túi nhỏ thì thích hợp hơn.

Anh đứng trước cánh cửa hướng ra khu rừng, vũ khí trong tay, tự nhủ rằng đã tới lúc phải đi - nhưng vẫn chưa cất bước. Anh đã không nghe thấy một tiếng động nào nữa từ tên nhóc S.T.A.R.S., sau bảy phát súng khi nãy. Vài phút đã trôi qua; nếu kẻ đó có gặp rắc rối thì cũng đã quá trễ để anh kịp can thiệp -

Mày điên sao? lý trí của anh đang làm việc. Chuồn mau, đồ ngu!

Đúng vậy, đương nhiên là vậy. Anh phải biến khỏi đây. Nhưng Billy không sao rũ bỏ được những phát súng ấy ra khỏi đầu, và cứ chần chừ đó trong một lúc lâu, đủ lâu để một người tốt quyết định không quay lưng lại khi có kẻ cần giúp đỡ. Với lại, nếu tên nhóc đã chết, anh sẽ kiếm thêm được vũ khí.

"Đúng rồi," anh lầm bầm, thấy hết sức thoải mái khi kiếm ra được một lý do đúng-kiểu-tội-phạm để thỏa mãn mục tiêu của mình. Chẳng cần giúp ai hết, chỉ ngó qua một cái thôi.

Billy vừa ậm ừ trong họng vừa tránh xa cánh cửa, tránh xa sự tự do, thay vào đó di chuyển đến toa trước. Anh bước qua cửa thứ nhất, ngập ngừng một chốc ở điểm nối hai toa trước khi chạm vào tay cầm của cái thứ hai, mở lối vào toa kế. Âm thanh duy nhất lúc này là tiếng mưa rơi, đang mạnh dần lên trong một cơn giông thực sự. Anh lướt qua cánh cửa thứ hai một cách rón rén hết mức có thể, và tiến vào trong.

Xộc vào mũi anh là một cái mùi nồng nặc. Hàm răng anh nghiến chặt lại trong lúc quan sát toa tàu, đếm số đầu người. Có ba người ở chỗ hàng ghế. Hai trong số đó ở góc xa bên phải, một còn lại ngay bên trái anh, đều ngồi thụp dưới ghế. Tất cả đã chết.

Gã đàn ông trên đường...

Billy nhăn mặt, nhận ra rằng bất cứ ai trong số này cũng đều có thể là cái tên điên khùng đã chắn đường xe jeep, làm nó gặp tai nạn. Anh chỉ nhìn thoáng thấy bóng dáng kẻ đó, nhưng vẫn nhớ là hình như trông hắn có vẻ bệnh hoạn. Có lẽ là một trong số những người này - nhưng mà không đúng, họ đã chết nhiều ngày nay rồi mà?

Vậy tên nhóc kia đã bắn cái gì?

Billy tiến đến cái xác gần nhất, ngồi xổm xuống kế bên, nghiên cứu vết thương bằng con mắt nhà nghề trong lúc miệng đang thở gấp. Người này đã chết được một lúc; một phần má đã biến mất, khiến nó trông như đang cười toe toét với anh, quanh rìa vết thương đang thối rữa thành một màu đen kịt. Còn có một, hai vết đạn ghim trên chân mày, cùng với một vũng máu đỏ lòm còn mới đang loang ra quanh đầu và nửa thân trên. Billy càng thêm lo lắng khi chạm tay vào vũng máu. Nó hãy còn ấm. Cái thây gần đó nhất, của một phục vụ tàu, trông cũng chẳng khác gì, ngoại trừ vết thương nằm trên cổ.

Anh không phải là Enstein, nhưng cũng chưa đến nỗi mất khả năng suy luận. Máu còn tươi chứng tỏ rằng những người này chỉ trông có vẻ đã chết. Việc bị ăn vài viên đạn có nghĩa là họ đã cố tấn công tay S.T.A.R.S. đơn độc đó.

Có nghĩa là mình phải hết sức cẩn thận, anh vừa nghĩ vừa nhổm dậy, ngoái nhìn cái xác trên ghế phía sau lưng, đôi mắt nhíu lại. Hình như gã đó vừa động đậy, hay chỉ là ảo giác do ánh đèn tạo ra? Dù thế nào đi nữa, anh cũng nên đi sang chỗ khác thôi.

Anh di chuyển dọc theo lối đi, bước qua những cái xác, cố gắng quan sát tất cả họ cùng lúc trong lúc nguyền rủa mình vì đã đi tìm tên nhóc S.T.A.R.S.. Phải chi mà vứt béng được cái lương tâm chết bầm đi, thì giờ này anh đã thoát thân rồi.

Anh tiến qua hai cánh cửa, vũ khí sẵn sàng khi bước vào toa kế. Căn cứ theo cách bài trí hoa lệ thì đây không phải là toa cho hành khách; từ vị trí lối vào, anh chỉ có thể thấy được một hành lang ngắn chạy dọc tới trước, với hai cánh cửa đóng kín bên tay phải, vài cái cửa sổ ở phía đối diện. Anh cân nhắc đến việc kiểm tra qua các phòng, tin chắc là nó sẽ nhanh thôi - bởi lẽ sẽ rất mạo hiểm nếu đi quay lưng lại một khu vực không an toàn - có điều lúc này anh bắt đầu cho rằng mình đang bị lương tâm chơi khăm. Billy không có ý định đi rà quét hết cả đoàn tàu, anh chỉ tính xem coi tên nhóc có ổn không trước khi cao chạy xa bay.

Và nếu không thấy tên nhóc đó trong vài phút nữa, mình nhất định sẽ chuồn ngay. Quỷ tha ma bắt.

"Quỷ tha ma bắt" không phải là một từ thích hợp để diễn tả nỗi ghê sợ đang ngấm ngầm bộc phát trong anh - nhưng anh đã không ít lần chứng kiến những người mạnh mẽ bị nỗi sợ hạ gục, nên tốt hơn là phải dừng ngay những tưởng tượng về lũ quái vật hay về bóng tối hắc ám. Cứ coi như chỉ là một giấc mơ tồi tệ và hãy làm tất cả những gì có thể.

Anh len vào hành lang, di chuyển một cách lặng lẽ giữa vách tường và căn phòng lởm chởm vết cắt bên phải. Anh đi qua một cánh cửa mở đang bị chắn bởi những thùng giấy các tông ngổn ngang. Có lẽ là nhà kho. Không có cái xác nào, nhưng mùi thối thì nồng nặc trong không khí. Vài cái cửa sổ còn nguyên vẹn đang phản chiếu bộ dạng tái nhợt của anh, bên ngoài lúc này chỉ có bóng tối và mưa. Anh hoang mang nhận ra một điều, rằng những mảnh thủy tinh văng ra từ các khung cửa vỡ đều nằm dưới sàn gỗ... Có nghĩa là ai đó đã vào đây, chứ không phải đi ra khỏi đây. Đến sởn cả gai ốc.

Dường như cái hành lang lởm chởm này có lối rẽ trái ngay đằng trước, đi ngang qua một cánh cửa có tấm biển "PHÒNG TRƯỞNG TÀU." Anh gần sắp sửa đến chỗ đầu tàu rồi -

- và thấy có một cái bóng nhợt nhạt khác ngay đằng trước, đang phản chiếu trên cửa sổ, ngay chỗ cua quẹo. Anh dừng bước, giữ im lặng tuyệt đối, quan sát người đó ngồi xổm xuống, lưng quay ra hành lang, hiển nhiên là một mục tiêu ngon ơ cho một đòn tấn công từ phía sau. Nếu đây là một thành viên S.T.A.R.S., anh ta hoặc cô ta coi bộ phải luyện tập thêm.

Billy rón rén tiến tới vài bước và nâng súng lên, di chuyển đằng sau bóng người. Anh nghĩ mình cần tránh đụng độ trực tiếp - tên nhóc hiển nhiên đã an toàn và còn nguyên vẹn, mà anh thì cần biến đi càng nhanh càng tốt - nhưng anh lại cũng muốn tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra, và đây có thể là đầu mối cung cấp thông tin duy nhất cho anh.

Thành viên S.T.A.R.S. đó quay lại, trông thấy Billy, và từ từ, từ từ đúng lên, đối mặt với anh.

Gọi là "nhóc" cũng không quá phóng đại so với vóc dáng, anh nghĩ thầm trong lúc nhìn xuống cặp mắt mở to ngây thơ của cô thiếu nữ. Lạy Chúa, bộ họ tuyển quân ngay trong trường trung học hay sao vậy? Cô ta khá nhỏ con, thấp hơn anh đến nửa foot, và còn xinh xắn nữa - tóc màu nâu đỏ, vóc dáng thon thả khỏe mạnh, khuôn mặt thanh tú. Anh sẽ rất ngạc nhiên nếu cô ta năng được hơn một trăm pound.

Cô đang ngồi xổm trước một thi thể ghê rợn của đàn ông, nằm lăn lóc trong góc phòng kế bên của ra vào. Không biết cô ta có che dấu không, nhưng rõ ràng là trông cô chẳng hề ngạc nhiên khi thấy anh.

"Billy," cô lên tiếng, ngữ điệu trong trẻo và du dương, nhưng ngôn từ đã khiến anh phải mím môi lại. "Trung úy Coen."

Khốn kiếp. Rốt cuộc thì người ta tìm thấy chiếc xe jeep.

Anh nâng súng lên, chĩa thằng vào mắt phải của cô ta, ra vẻ lãnh đạm. "Xem ra cô có biết tôi. Chắc là đang nghĩ vẩn vơ đến tôi chứ gì?"

"Anh là tù nhân bị áp giải đến nơi hành quyết," cô tiếp tục, giọng nói sắc gọn. "Anh đã đi cùng với những người lính ngoài kia."

Cô ta nghĩ mình là thủ phạm, rằng mình đã giết họ, anh nghĩ thầm. Điều đó thể hiện rõ mồn một trên khuôn mặt của cô. Nếu cô ta đã không thấy mối liên hệ giữa mấy cái thây biết đi với chiếc xe jeep gặp nạn, thì ắt là cũng chẳng biết gì về những chuyện đang xảy ra. Và anh không có lý do gì để làm cô nàng vỡ mộng cả. Cô ta cố ra vẻ cứng cỏi, nhưng anh thì thấy rõ rằng mình đang khiến cô thấy bị đe dọa. Và anh sẽ dựa vào đó để thoát thân.

"Huh, theo tôi thấy," anh nói. "Cô là thành viên S.T.A.R.S. Tôi không có ý làm phiền, nhưng xem ra cô chẳng thích thấy tôi xuất hiện ở đây đâu. Có lẽ nên chấm dứt cuộc trò chuyện ngắn ngủi này được rồi."

Billy hạ súng xuống rồi quay lưng đi thẳng, điệu bộ thoải mái và thong thả. Không phải anh có ý coi thường, nhưng vì cô ta khá non kinh nghiệm và lại đang e ngại anh, nên anh tin chắc rằng cô sẽ không dám hành động. Việc này khá mạo hiểm, nhưng anh nghĩ nó sẽ hiệu nghiệm.

Anh nhét súng vào thắt lưng và đã đi được nửa hành lang thì nghe thấy tiếng chân cô ta bám theo. Chết tiệt thật.

"Đứng yên! Anh đã bị bắt!" cô cất tiếng rắn rỏi.

Anh quay lại phía cô ta, mặt đối mặt, và thấy cô thậm chí còn chưa rút súng ra khỏi bao. Cô đang cố làm ra vẻ khắc nghiệt, nhưng coi bộ không đạt cho lắm.

Tình thế đã bớt phần nghiêm trọng, và anh đã có thể cười.

"Thôi khỏi đi cô bé. Tôi đã mang còng tay sẵn rồi," anh vừa nói vừa giơ tay trái lên và lắc lắc cho cái còng kêu lanh canh. Rồi lại quay lưng và đi thẳng một mạch.

"Anh nên biết là tôi có thể bắn đấy!" cô gọi với theo, nhưng giọng nói lúc này đã có phần tuyệt vọng; và anh không hề dừng bước. Cô ta không đuổi theo, và vài giây sau, anh đã lách qua cánh cửa đầu tiên tiếp nối hai toa tàu.

Anh mở cánh cửa dẫn vào toa có những hành khách đã chết, miệng cười toe toét khoan khoái. Mọi chuyện đều tiến triển tốt đẹp -

- và anh thấy cái xác ngồi thụp trong ghế giờ đã đứng dậy, lắc lư, con mắt duy nhất còn lại nhìn đăm đăm về phía anh. Với một tiếng rên thèm thuồng, nó lết tới trước, những ngón tay duỗi ra quơ quào như thể muốn dò dẫm tìm đường đi đến chỗ anh đứng.

Rebecca dõi theo Billy rảo bước ra khỏi toa tàu, cảm thấy mình bất lực và non tay quá sức. Thậm chí gã ta còn chẳng thèm quay đầu lại, và lẽ ra cô không nên bận tâm về điều đó mới phải.

Đúng vậy, cô nghĩ thầm, buông lỏng hai vai. Bộ muốn gã này trở nên vô hại và run sợ hay sao chứ. Với một thân hình cơ bắp lực lưỡng, đôi mắt sắc lạnh, chưa kể một hình xăm vằn vện phủ khắp tay phải, cả hai cánh tay lộ ra dưới lớp áo mỏng manh, trông hắn không dễ bị chế ngự chút nào. Và sau cuộc giáp mặt kinh hoàng với những cái xác-gần-chết biết đi, cô không nghĩ mình đủ sẵn sàng để bắt giữ gã này.

Chưa kể đến việc hắn chẳng coi mình vào đâu. Lúc nãy cô đã tìm thấy một cái xác nằm đằng trước toa, một trong số nhân viên trên tàu, và nhận ra một thứ giống như chìa khóa được giữ chặt trong bàn tay lạnh giá. Trong trường hợp cánh cửa duy nhất còn lại dẫn ra khỏi toa tàu bị khóa, cô sẽ phải thử dùng đến nó - và nếu nó không khớp thì chỉ có nước quay lui lại khoang hành khách. Cô đã quá chú tâm vào việc thu hồi cái chìa mà không làm gãy mấy ngón tay khô khốc, đến nỗi không nghe thấy động tĩnh của tên tử tù, lúc phát hiện ra thì đã quá muộn. Giờ đây, khi hắn ta đã quay lại toa tàu trước, cô mới thấy rằng cần một tấm thẻ đọc mới mở được cánh cửa khóa kín. Hay thật. Vậy là những gì cô làm nãy giờ đều là công dã tràng cả.

Cô xoay người vói lấy điện đàm, chấp nhận thua cuộc. Nếu có thể gọi các đồng đội đến kịp, họ sẽ giải quyết Billy. Quan trọng hơn, là cô thật khó mà chịu được cái thông tin rằng có một thứ dịch bệnh đang xâm nhập Raccoon. Thiệt hết nói nổi, việc bắt giữ một tên tử tội mà lại được xếp vào hàng thứ yếu...

Bam! Bam!

Rebecca chưa kịp chạm tay vào nút mở thì có hai phát súng vang lên ở toa kế, theo hướng Billy vừa đi. Cô do dự, không biết mình nên làm gì - thì cửa sổ đằng sau vỡ tung ra.

Cô quay phắt người lại giữa những mảnh kính tung bay, thấy một một bóng người đổ ập xuống sàn.

"Edward!"

Anh thợ máy không hề đáp lời. Rebecca lao đến bên người đồng đội, nhanh chóng kiểm tra tình trạng của anh.

Có một vết thương sâu hoắm ở vai phải, khuôn mặt xám ngoét đầy vẻ kích động, ánh mắt đờ đẫn vật vờ. Hầu như mọi chỗ có thể thấy được trên người anh đều bị bầm dập và trầy xước.

"Anh thấy sao rồi?" Rebecca vừa hỏi vừa mở túi cứu thương để lấy miếng gạc. Cô giật mạnh cái gói ra rồi áp lên vai Edward, cảm nhận rằng nó chẳng giúp gì được nhiều; có lẽ phần dưới xương đòn đã bị chấn thương nặng nên máu tuôn ướt đẫm khắp cả áo. Thật khó tin là anh ta vẫn còn sống, lại còn đủ sức nhảy qua cửa sổ nữa. "Chuyện gì xảy ra vậy?"

Edward nhìn cô, chầm chậm chớp mắt. Giọng nói của anh đầy vẻ đau đớn. "Còn tệ hơn... Chúng ta không thể..."

Cô giữ chặt miếng gạc, nhưng nó cũng đã ướt đẫm luôn rồi. Phải đưa anh ấy đến bệnh viện càng nhanh càng tốt trước khi quá muộn.

Giọng Edward yếu dần đi. "Cẩn thận, Rebecca," anh lắp bắp. "...khắp khu rừng toàn là zombie... và quái vật..."

Cô toan bảo anh đừng nói nữa để tránh mất sức - thì lại có tiếng kính vỡ vang lên, những mảnh vụn rơi rào rào như mưa xuống cả hai, cái cửa sổ bên trái họ bị phá tung. Một, hai cái bóng đen to đùng nhảy vọt qua khung cửa gãy, một cái biến mất đâu đó chỗ góc khuất hành lang, cái còn lại hướng về phía họ.

Zombie và quái vật.

Chó, một con chó lớn, không giống bất cứ con chó nào cô đã từng thấy. Có vẻ nó đã từng là giống chó Doberman - nhưng khi nó nhe hàm răng về phía cô, và khi thấy những mảng da lẫn thịt lủng lẳng bên hông, cô nhận ra nó ắt đã bị nhiễm cùng một loại với cái thứ đã gặp ở khoang hành khách. Với đôi mắt phủ một lớp màn đỏ, còn phần thân chẳng khác gì một tấm mền vá víu ướt nhẹp những máu và lông, trông nó không giống như đã chết, mà là bị hủy hoại.

Edward không thể tự bảo vệ mình được. Rebecca từ từ nhổm dậy và bước lùi về phía anh thợ máy, súng trong tay, cô cũng không nhớ mình rút nó ra từ hồi nào nữa. Cô có thể nghe thấy tiếng hổn hển của con chó thứ hai đâu đó dọc hành lang, khuất ngoài tầm nhìn.

Rebecca ngắm vào mắt trái của con vật, giờ đây cô mới thật sự cảm nhận thấy dịch bệnh này ghê rợn đến thế nào. Cuộc chạm trán với những hành khách gần-chết vốn đã kinh khủng, nhưng cô vẫn có đủ thời gian để chấp nhận nó một cách khó khăn. Còn lúc này, nhìn vào sinh vật quái dị phía trước, với tiếng gầm gừ đói khát đầy ghê tởm, cô chợt nhớ tới con vật nuôi thời thơ ấu của mình, một chú chó lông xù đen tên Donner, nhớ lại mình đã yêu mến nó đến thế nào - và hiểu rằng cái đang đứng trước mặt mình cũng đã từng là vật nuôi của một ai đó. Giống như những kẻ cô vừa bắn, họ cũng đã từng là người, đã cười, đã khóc và có một gia đình không bao giờ còn gặp lại, một gia đình không còn nguyên vẹn với sự mất mát của họ. Dịch bệnh, rò rỉ sinh học, hay tập kích, dù là nguyên nhân nào đi nữa thì cũng đều đáng nguyền rủa hết sức.

Tất cả lướt qua đầu cô như một ánh chớp rồi tan biến. Con chó đã vươn người ra, chuẩn bị nhảy bổ vào cô, và Rebecca siết cò, khẩu súng nảy giật lên giữa những ngón tay, âm thanh vang rển trong không gian nhỏ hẹp. Con chó ngã vật xuống.

Rebecca quay qua phía kia, ngắm vào góc hành lang lộ ra, chờ con thứ hai xuất hiện. Cô không phải đợi lâu.

Con vật lao qua góc trong tiếng gầm gừ, hàm răng há lớn. Rebecca nổ súng, viên đạn găm thẳng vào ngực con chó, làm nó khựng lại với một tiếng rên đau đớn - nhưng vẫn đứng vững. Nó lắc người như thể đang rũ nước, chồm dậy, chuẩn bị lao vào cô lần nữa, bất chấp những giọt máu đen kịt tuôn ra từ vết thương.

Đáng lẽ nó đã chết, chết ngay đơ mới phải!

Cũng như những người ở toa hành khách, xem ra chỉ có bắn vào đầu mới kết liễu được. Cô nâng súng lên và bắn tiếp, lần này nhắm ngay giữa trán của cái đầu hình viên đạn. Con chó đổ xuống, co giật một phát rồi bất động.

Có thể còn nhiều nữa. Cô hơi hạ thấp nòng súng, bước về phía cửa sổ bị vỡ để nhìn ra màn đêm đang mưa, tai căng ra để nghe bất cứ tiếng động nào khác lạ trong cơn bão. Sau một chốc nín thở, cô thôi không nghe ngóng nữa và cúi xuống chỗ Edward, tay thọc vào túi để tìm băng gạc mới -

- và khựng lại, nhìn đăm đăm vào người đồng đội. Máu đã không còn tuôn ra từ vai nữa. Cô nhanh chóng kiểm tra mạch đập bên dưới tai trái, và chẳng còn thấy gì cả. Edward nhìn lên trần với đôi mắt nửa mở, đã chết.

"Em xin lỗi," cô thì thào và ngồi bệt xuống. Không tài nào chấp nhận nổi sự thật rằng anh đã chết, chết trong khoảng khắc ngắn ngủi cô bắn hạ lũ chó, và cô cảm giác như mình có tội. Nếu cô nhanh hơn, nếu cô băng bó cho anh tốt hơn...

...Nhưng mày đã không làm được, và càng ngồi đây sám hối thì mày càng có nguy cơ cùng chung số phận như anh ấy. Đi thôi.

Rebecca cảm thấy thêm phần tội lỗi với suy nghĩ ấy, nhưng cái cửa sổ mở tung kia đã khiến cô bật dậy. Chuyện ăn năn hãy để sau, chừng nào an toàn rồi tính.

Điện đàm của cô phát ra tiếng bíp. Cô cầm nó lên, bước lùi ra xa cửa sổ, rời xa anh chàng Edward xấu số.

Tín hiệu rất yếu, nhưng Rebecca có thể nhận ra là Enrico. Cô áp tai nghe vào lỗ tai, thấy nhẹ nhõm hẳn đi khi nghe giọng nói mạnh mẽ của đội trưởng lẫn trong tiếng tín hiệu bị nhiễu sóng.

"... nghe rõ không? ... có thêm thông tin về... Coen..."

Rebecca bắt đắc dĩ tiến lại gần cửa sổ, hy vọng nghe thấy rõ hơn, nhưng tiếng nhiễu lại càng lớn.

"... bị áp giải ... giết ít nhất hai mươi người... cẩn thận..."

Cái gì? Rebecca ấn nút truyền tin. "Enrico, đây là Rebecca! Anh nghe rõ không? Over."

Chỉ toàn tiếng nhiễu sóng.

"Đội trưởng! Đội S.T.A.R.S. Bravo, có ai nghe không?

Thêm một lúc trôi qua. Cô đã mất tín hiệu. Rebecca nhét điện đàm trở vào túi. Cô phải quay lại trực thăng, báo cho mọi người biết về Edward, về Billy, về chuyến tàu và mối nguy hiểm họ đang đối mặt. Cô thay băng đạn mới, nạp đầy lại băng đạn đã xài hết một nửa. Su khi đau đớn nhìn lại người đồng đội đã ngã xuống, cô bước qua xác con chó, cố gắng tránh chạm vào vũng máu chung quanh, rồi quay về khoang hành khách.

Mặc dù biết là phải tìm cách chế ngự tên tù, nhưng cô thật không mong thấy lại gã Billy đó. Cái chết của Edward, lũ chó,... Cô cảm thấy mình hoàn toàn mất thăng bằng, không còn khả năng gánh vác công việc nào nữa. Còn hai mươi người? Cô rùn mình, thật không tin nổi là hắn lại không giết cô khi đã có cơ hội.

Trong khoang hành khách, cô trông thấy kết quả của hai phát súng đã nghe vừa rồi. Có vẻ như cái người khi nãy còn là nạn nhân của bệnh dịch đã có di chuyển, nhưng cô không chắc lắm... Hình như nó rốt cuộc đã sống lại. Chắc là định tấn công Billy, theo cái cách của những kẻ đã tấn công cô. Cô dừng lại trước cánh cửa dẫn về toa tàu mà cô đã bước lên, nhìn quanh những thi thể mình đã bắn. Nếu Edward đúng, nếu khu rừng đầy những thứ như thế này, cô sẽ phải đi cho nhanh -

- và có lẽ Billy không giết mấy người lính.

Rebecca chớp mắt. Cô đã không nghĩ tới chuyện này. Sự thật là xe jeep đã bị tấn công, tạo cơ hội cho Billy buộc-phải-chạy-trốn. Có thể lắm. Hai cái xác đã bị cấu xé chứ không bị bắn, hẳn là tác phẩm của lũ chó.

Cô lắc đầu. Vậy thì đã sao. Dù thế nào thì hắn vẫn là một tên giết người, và nếu cô không đủ sức đảm đương nhiêm vụ bắt giữ hắn, cô nên tìm người thích hợp. Dù cho thảm họa không rõ nguyên do này có nghiêm trọng đến đâu, thì cũng không thể để sổng Billy.

Cô bỏ qua khoang hành khách, tiến nhanh vào cái toa trống có cửa bên hông, lòng hy vọng mọi người đã an toàn trở về chỗ trực thăng. Cô nắm lấy tay vịn, ẩy nó lên. Không biết phải báo tin về Edward như thế nào nữa, chuyện này thật quá đỗi thương tâm -

Rebecca cau mày, kéo mạnh cửa trượt, hiện tại nó không chịu trượt nữa. Cô thử bóp tay cầm lần nữa, rồi lần nữa... sau cùng đá cho nó một cái, lầm bầm nguyền rủa. Nó bị kẹt rồi - hoặc có thể Billy đã khóa lại, chắc để ngăn không cho cô rượt theo hắn.

"Khốn kiếp." Cô làu bàu trong miệng, nhớ lại cái chìa khóa trong tay xác chết khi nãy. Cô vẫn chưa thu hồi được nó, và đã quên béng đi sau khi chạm trán Billy, chưa kể đến Edward và lũ chó... Với lại, việc gì phải cần đến chìa khóa chứ? Cô có thể dễ dàng leo qua một trong số các cửa sổ bị vỡ -

Chợt có tiếng động vang lên, tiếng cửa đóng, Rebecca nhìn sang bên trái, về phía đằng sau toa tàu. Ai đó đang di chuyển ở toa kế bên. Chắc lại một hành khách nhiễm bệnh nữa. Hay biết đâu Billy vẫn còn trong này. Mặc kệ, bây giờ phải chuồn cho nhanh, và cô đã chọn lối cửa sổ để thoát ra ngoài.

Trừ khi... còn có người ở đây. Ai đó cần giúp đỡ.

Thậm chí có thể là một thành viên S.T.A.R.S. khác, và khi nghĩ tới điều đó, cô thấy dù sao mình cũng nên ngó qua một cái. Cô bước nhanh tới cuối toa, sẵn sàng chờ đợi bất cứ chuyện gì kế tiếp. Còn có thể gặp chuyện gì quái gở hơn nữa chứ - nhưng dù sao, những thứ xảy ra tối nay toàn là không thể tin nổi, nên cô phải chuẩn bị sẵn tư thế.

Rebecca mở cửa sang toa kế, rà súng quanh một vòng, thấy nhẹ nhõm hẳn khi toa tàu trống trài và không có dấu hiệu gì của máu. Có cầu thang đi lên phía tay trái, một cánh cửa ngay phía trước. Chắc tiếng đóng cửa phát ra từ đó...

...Và nó mở ra, Billy Coen xuất hiện.

Billy khựng lại, nhìn chăm chăm vào cô gái và khẩu súng trên tay. Cô ta vẫn còn sống, cô ta có súng và có vẻ biết phải làm gì với nó. Sau những gì đã trải qua, xem ra cơ may sống sót duy nhất của anh là phải tìm một cộng sự.

"Quá tệ," anh nói, và thấy cô ta biết là anh không đề cập đến khẩu súng. Cô không trả lời mà chỉ thản nhiên nhìn anh, súng hờm chắc trong tay, và anh giơ hai tay lên, biết là trò chơi đã chấm dứt. Cái còng lủng lẳng đập vào cổ tay.

"Mấy người này - những người mà cô đã giết - họ bị nhiễm," anh nói. "Một trong số chúng muốn cắn tôi. Tôi đã bắn, và tìm thấy một cuốn sổ trong túi nó. Tôi có thể - ?"

Anh bắt đầu hạ tay xuống để cho vào túi.

"Không! Giơ tay lên!" cô vừa nói chĩa mạnh khẩu súng. Trông cô vẫn còn vẻ sợ sệt, nhưng xem ra đã đủ sẵn sàng để bắt giữ anh rồi.

"Được, tốt thôi," anh nói. "Cô tự lấy đi. Nó trong túi phải của tôi."

"Anh đùa à? Đừng mong tôi lại gần."

Billy thở ra. "Nó là một cuốn nhật ký khá quan trọng. Không có gì nhiều lắm, chỉ là vài thứ về một cuộc điều tra phòng thí nghiệm bị bỏ phế và tiêu hủy - nhưng nó nói đến hàng loạt vụ án mạng xảy ra quanh ở đây, và dường như có một thứ virus đã bị phóng thích. Thứ gì đó được gọi là T-Virus."

Có vẻ cô có quan tâm, nhưng vẫn dè dặt. "Tôi sẽ đọc sau khi anh tự còng tay lại."

Anh lắc đầu. "Dù chuyện gì đã xảy ra đi nữa thì cũng rất nguy hiểm. Cô không thấy có người đã khóa hết lối thoát sao? Sao hai ta không hợp tác với nhau cho đến khi rời khỏi đây?"

"Hợp tác?" cô nhướng mày. "Với anh?"

Anh tiến lại gần, bỏ tay xuống bất chấp mũi súng đang chĩa vào mặt. "Nghe đây cô bé - nếu cô không nhận ra thì để tôi nhắc, là có những thứ quái đản ở trên đoàn tàu này. Ưu tiên số một của tôi là biến khỏi đây, và hai ta đừng hòng có cơ may nếu đi một mình."

Cô không hề hạ súng. "Anh muốn tôi tin anh à? Tôi không cần anh giúp. Tôi có thể tự xoay sở lấy. Và đừng có gọi tôi là cô bé."

Cô đang chuẩn bị phản ứng lại, nhưng anh đã thôi không tiến tới nữa. Không cần coi cô ta như kẻ thù. "Được thôi, quý cô Tự-Xoay-Sở," anh nói. "Tôi gọi cô bằng gì đây?"

"Rebecca Chambers," cô đáp. "Đối với anh thì là Officer Chambers."

"Vậy, Rebecca, sao cô không nói cho tôi nghe thử kế hoạch hành động?" anh nói. "Cô muốn bắt tôi? Hay lắm, làm đi. Gọi cả lực lượng tới, nhớ kêu họ vác theo trọng pháo nữa. Chúng ta có thể ngồi chờ họ."

Lần đầu tiên Rebecca thấy mình nao núng. "Điện đàm không hoạt động," cô nói.

Chết tiệt. "Cô tới đây bằng cách nào?" anh hỏi. "Đường không hay đường bộ? Phương tiện chuyên chở cách đây bao xa?"

"Bọn tôi đi trực thăng, nhưng... có hỏng hóc," cô đáp. "Không phải chuyện của anh. Mang còng tay vào. Nhóm của tôi đang chờ bên ngoài."

Billy từ từ bỏ tay xuống. "Cách bao xa? Cô có chắc họ còn ở quanh đây không?"

Cô gái cau có. "Hỏi nhiều quá, Trung úy. Tôi sẽ mang anh đi khỏi đây. Quay lại và áp mặt vào vách."

"Không." Billy khoanh tay lại. "Cứ bắn tôi nếu muốn, nhưng đừng mong tôi giao nộp vũ khí hay để cho cô còng tay."

Hai má cô ửng đỏ. "Làm như tôi nói, nếu không -"

Xoảng!

Tiếng cửa sổ vỡ toang ở tầng trên. Billy và Rebecca ngó lên, rồi nhìn nhau. Sau vài giây, họ nghe tiếng bước chân nặng nề trên đầu, chậm chạp và khoan thai... Rồi im bặt.

"Phòng ăn," Billy nói. "Vài phút trước nó còn trống không."

Rebecca quan sát anh ta một chốc, rồi từ từ hạ súng xuống. Cô tiến đến chân cầu thang và ngó lên, khuôn mặt trẻ trung lộ vẻ quả quyết. "Chờ đó," cô nói. "Tôi sẽ kiểm tra."

Billy suýt bật cười. Anh đã ở trong Đội Đặc Nhiệm suốt bảy năm, đã nắm vững cách dùng súng trước cả khi cô ta ra trường - và cô ta đòi bảo vệ anh?

"Tưởng cô không tin tôi chứ," anh nói. "Không sợ tôi leo qua cửa sổ và bỏ trốn à?"

Cô gái cười nhạt. "Ở đây nguy hiểm mà, nhớ chứ? Anh không có hy vọng nào nếu bỏ đi một mình đâu."

Trước khi anh chàng kịp phản ứng, cô đã quay lưng và bước lên cầu thang một cách dứt khoát, như thể muốn chứng minh cho anh thấy uy quyền của mình. Thật trẻ con, với tất cả những chuyện đã xảy ra, điều ưu tiên bây giờ không phải là tự lên gân. Anh biết mình cần bám theo cô ta, tránh cho cô ta khỏi bị mất mạng, nhưng anh cần một phút suy nghĩ đã. Anh dõi theo cô gái lên đến đỉnh cầu thang, rồi biến mất sau góc khuất mà không thèm ngó lại.

Nhại theo lời một bài hát, bây giờ mình nên đi hay ở? Rebecca muốn bắt giữ anh, nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc cô ta sẽ bảo vệ anh sống sót. Và dù nói gì đi nữa, cô ta vẫn cần anh trợ giúp; cô quá non kinh nghiệm để có thể tự xoay sở.

Bộ có ai chết và để lại cho mày nhiệm vụ bảo hộ cô ta à? Chừng nào mày mới sáng mắt ra đây? Mày đâu còn là người tốt nữa, nhớ chưa?

Bỏ chạy không phải là không thể, nhưng anh thật không dám chắc về cơ hội của mình. Nếu muốn tìm bằng chứng cho thấy khu rừng đầy rẫy nguy hiểm, thì cuốn nhật ký bỏ túi của gã đàn ông tấn công anh cũng đã quá đủ. Anh lôi nó ra, lật đến vài mục gần nhất mà mình bắt gặp.

14 tháng Bảy. Hôm nay bọn tôi nghe tin về phòng thí nghiệm Arklay... và chúng tôi sẽ được gởi tới đó vào tuần tới để kiểm tra. Một số tỏ ra lo ngại về điều kiện làm việc, về những gì còn bỏ lại, nhưng theo cách nói của sếp thì phải có ai đó làm việc này. Chắc chúng tôi sẽ ổn thôi...

Tác giả chuyển sang nói về cô bạn gái, người đã tỏ ra tức giận khi gã ta rời thành phố. Billy lướt qua đến chỗ mình đang đọc dở.

16 tháng Bảy... Vẫn còn quá nhiều thứ chúng tôi không rõ về T-Virus. Tùy theo loài và môi trường, chỉ cần vài liều T sau một lát là sẽ dẫn đến những biến đổi khác thường về kích thước, hành xử hung hăng, và phát triển não bộ... tất nhiên là với động vật. Không có miễn nhiễm, Nhưng một khi các hiệu ứng còn chưa được kiểm soát chặt chẽ, có thể nói công ty đang đùa với lửa.

Billy lật sang trang kế.

19 tháng Bảy. Cuối cùng ngày này cũng đến... Tôi thấy lo âu hơn đã tưởng. Báo chí và truyền hình ở Raccoon đang báo tin về những vụ giết người kỳ lạ ở ngoại ô. Không thể nào là virus. Có thể không nhỉ? Nếu là nó... Không. Mình không dám nghĩ nữa. Mình phải tập trung làm cho việc điều tra tiến triển trôi chảy.

Thay đổi kích thước, hành xử hung hăng, phát triển não. Giống như ở chó? Và còn "tất nhiên ở động vật." Vậy T-Virus tác động thế nào đến người? Billy cá là mình đã chứng kiến kết quả.

"Biến họ thành zombie," anh thì thào. Hoặc tương tự như zombie. Cái kẻ anh đã bắn hạ lúc nãy, trông nó hệt như đang lùng sục bữa trưa. Những kẻ ăn thịt đồng loại gọi người ta là gì nhỉ? Thịt tươi, đúng vậy. Cái khối biết đi ấy chỉ muốn kiếm thịt tươi mà thôi, không nghi ngờ gì nữa.

Khu rừng đầy rẫy bọn ăn thịt người và quái vật... anh sẽ phải nhập bọn với cô gái. Cô ta đã cầm cự được đến giờ này, đã hạ ít nhất ba đứa, và đã lấy lại bình tĩnh sáng suốt. Anh sẽ đi cùng cô ta đến khi thoát khỏi đây - rồi sẽ bỏ trốn trước khi nhóm của cô ta xuất hiện, ấy là nếu trong nhóm đó còn có người sống sót -

Có tiếng cô gái hét lên trên đầu, tràn đầy khiếp đảm. Billy chộp lấy vũ khí và lao lên cầu thang như chớp, hy vọng mình đã không suy tưởng quá lâu.

oOo

Trên đỉnh cầu thang là một góc quẹo nhỏ, rồi đến một cánh cửa. Rebecca cẩn thận khẽ mở nó bằng mũi súng trước khi bước vào trong.

Một làn khói mờ đục cay xè xộc vào mũi cô, còn những đốm lửa lập lòe thì đang nhảy múa trên tường. Đây là toa ăn, như Billy đã nói, nó đã từng rất lộng lẫy, với những cái bàn che phủ bằng vải mịn, cửa sổ treo rèm màu kem. Bây giờ nó như một đống rác, chén dĩa và miểng kính văng khắp nơi, bàn đổ chỏng gọng, khăn trải bàn lấm lem đồ uống lẫn máu... Và gần phía cuối, có một bóng người lẻ loi ngồi gục trên bàn, mép khăn trải bàn đã bốc cháy, ngọn lửa liếm dần lên trên. Rebecca nhìn thấy một ngọn đèn dầu vỡ toang đằng trước bàn, chính nó gây ra đám cháy. Ngọn lửa vẫn nhỏ, nhưng chắc không bao lâu nữa.

Người đó vẫn bất động - và khi Rebecca tiến lại gần, cô thấy ông ta không giống những hành khách bên dưới, không giống người bị nhiễm cái thứ mà Billy gọi là T-Virus. Trông ông ta khá lớn tuổi và có vẻ đứng đắn với bộ vét nâu, mái tóc trắng chải ngược ra sau, đầu gục xuống ngực như thể ngủ gật giữa bữa tối.

Bị đau tim chăng? Hay là bất tỉnh? Trông ông ta không giống như vừa phá vỡ cửa sổ tầng hai và leo vào trong, nhưng theo cô quan sát, trong phòng này chẳng còn ai khác, không ai có thể gây ra tiếng chân nặng nề nghe thấy ban nãy.

Rebecca lấy giọng và tiến lại chỗ ông ta. "Xin lỗi," cô lên tiếng khi dừng cạnh cái bàn, chú ý thấy mặt và tay ông ta bị ướt, có phần bóng loáng dưới ánh lửa. "Ông ơi?"

Không có tiếng trả lời - nhưng ông ta đang thở, cô có thể thấy phần ngực đang nhấp nhô. Cô nghiêng người đặt tay lên vai ông ta. "Ông ơi?"

Ông ta ngẩng đầu lên, quay mặt về phía cô - và một tiếng động ươn uớt như nôn mửa, giống như tiếng môi nhấp vào thứ gì đó nhầy nhụa, rồi cái đầu ông ta trượt khỏi thân mình và rớt bịch xuống sàn.

Tiếng ươn uớt lớn dần, cái thây không đầu đang giãy giụa và co giật, như thể bị lấp đầy bởi những vật sống. Rebecca lảo đảo lui lại, thét lên kinh hoàng khi cái xác tách ra thành nhiều khối, nhiều mảng lớn rơi tọt xuống sàn. Khi chạm nền, chúng rã ra, vải áo vét chuyển màu thành đen kịt, biến thành hàng loạt vật thể có kích thước bằng nắm tay.

Ốc sên, trông bọn nó y như ốc sên-

Ốc sên với bộ răng nhỏ xíu, chính xác là những con đỉa to mập tròn quây, và biết cách ngụy trang thành người, thậm chí cả quần áo... Không thể nào, chuyện này không thể xảy ra được.

Cô loạng choạng lùi xa thêm, tràn ngập khiếp đảm khi những sinh vật riêng lẻ đó nhập lại lần nữa, biến thành một vật thể khác, những khối phì nộn khác thường vươn dần lên thành một cái tháp đen kịt. Chúng tái định hình, thay đổi hình dáng và màu sắc - và lại trở thành gã đàn ông cô thấy ngồi cạnh bàn. Rebecca đờ đẫn quan sát một cách hoài nghi. Thậm chí, dù đã biết ông ta được tạo thành bởi hàng trăm hàng ngàn thực thể ghê rợn, cô vẫn không sao nhìn ra một kẽ hở nào giữa chúng, nếu không tận mắt chứng kiến cách chúng biến hình thì cô không thể nào ngờ đó không phải là một con người. Màu sắc bộ vét, bóng dáng và màu da đều y như thật - thứ duy nhất cho thấy nó không giống người, đó là vẻ bóng loáng khác thường của da và quần áo.

Nó hất cánh tay trái lên như thể tung bóng, rồi chộp tới trước. Cánh tay kéo dãn ra đến mức khó tin. Rebecca cách đó ít nhất năm mét, nhưng bàn tay ướt sáng lóng lánh đã vụt vào không khí chỉ cách mặt cô vài cen-ti-mét. Cô sảy chân trong lúc né tránh thật nhanh và ngã nhào xuống sàn, trong lúc cánh tay đó thu về chỗ cũ - rồi lại vươn lên, chuẩn bị tấn công tiếp.

Súng, đồ ngu, bắn!

Cô chĩa vũ khí lên và siết cò, hai phát đầu bay trượt, phát thứ ba và bốn cắm thẳng vào cái thây lắc lư. Những mảng không-phải-thịt bong ra từ chỗ trúng đạn, bộ đồ và cơ thể bên dưới gợn nhẹ, nhìn giống như hơi nóng bốc lên khỏi nhựa đường trong những ngày thu. Sinh vật đó khựng lại một chốc trước khi vung tay về phía cô lần nữa. Cô né tránh, nhưng bàn tay của nó đã tát trúng má trái. Cô hét lên lần nữa, do cảm giác tiếp xúc của bàn tay hơn là bởi sức mạnh cú đánh - nó lạnh ngắt, nhầy nhụa và nhớp nháp, giống như da cá mập nhúng trong nước ao tù - và trước khi thu về, nó quật vào cô thêm cái nữa, lần này nhắm vào vũ khí trên tay. Khẩu súng văng trên sàn, chui tọt xuống một cái bàn khác. Sinh vật giống người đó khập khiễng bước tới, đủ gần để khó lòng tránh khỏi cú đấm kế tiếp, và Rebecca nghĩ chắc mình khó sống -

- và bam-bam-bam, nó đang lùi lại, ai đó đang tiếp tục nổ súng, âm thanh không mong đợi đó khiến cô co người lại trong lúc hai chân lảo đảo. Vài phát đạn đầu biến mất vào trong cơ thể nó y như trước, nhưng tay súng kia vẫn bắn, nhắm vào bộ mặt già nua sáng bóng của con quái vật, vào đôi mắt lấp lánh. Chất lỏng màu đen phụt ra từ những lỗ hổng trong khối tập hợp, những con đỉa đang bi thổi tung thành mảnh, và sau sáu bảy phát súng, cái thứ giống như người đó biến đổi trở lại thành từng phần riêng lẻ, thành những sinh vật nhỏ bé đen kịt, chúng trượt về phía cửa sổ ngay khi chạm xuống sàn.

Rebecca ngoảnh lại phía cửa, thấy Billy Coen đứng đó với tư thế của một tay súng kiểu mẫu, hai tay cầm chắc vũ khí, ánh mắt đóng đinh lên vật kỳ quái phía trước, chứng kiến nó chấm dứt quá trình tan rã và biến thành nhiều phần. Những con đỉa tiếp tục chuồn về phía cửa sổ, để lại những vệt nhớt trên cái sàn đầy rác rến và trên bức vách ố màu, dễ dàng trườn qua mép cửa lởm chởm những kính và biến vào bóng đêm. Có vẻ chúng đã ngừng công kích.

Một tiếng rít cao vút kỳ lạ vang lên, át đi tiếng mưa rơi. Vẫn còn chưa hoàn hồn, Rebecca tiến đến cửa sổ, cẩn thận tránh xa những con đỉa còn lại khi chúng trườn khỏi toa xe, thu hồi vũ khí trước khi ngó ra để tìm nguồn gốc tiếng rít. Billy theo sau, đạp lên những vật thể lạ đó không chút ngần ngại, nhiều tiếng nổ bụp ướt át vang lên dưới giày anh ta.

Giữa tia chớp lóe sáng, họ thấy hắn. Đứng trên ngọn đồi nhỏ phía tây đoàn tàu là một cái bóng lẻ loi - có lẽ đàn ông, căn cứ vào chiều cao và bờ vai rộng - đang giơ cao cánh tay dài như thể chào đón, và hát một giai điệu ngọt ngào đến kinh ngạc, giọng hắn trẻ trung, mạnh mẽ và ấm áp. Giống như tiếng La-tinh thường nghe ở nhà thờ. Và để thêm phần kỳ quặc, trông hắn giống như đang đứng trên một cái hồ thấp cạn, bề mặt lay động nhẹ quanh hắn. Quá tối để nhìn rõ hơn, chỉ có bóng đêm sâu thẳm tô điểm thêm cho gã ca sĩ cô độc.

"Ôi lạy Chúa," Billy nói. "Coi kìa."

Rebecca cảm thấy muốn dựng tóc gáy, miệng há hốc kinh tởm. Chẳng có cái hồ nào cả. Bề mặt tiếp xúc được bao phủ bởi những con đỉa, hàng ngàn con, tất cả di chuyển về phía gã ca sĩ trẻ trung. Cô có thể thấy đường viền áo khoác dài của hắn bay phần phật khi những vật thể đó trườn lên trên, biến mất bên dưới.

"Thằng cha đó là ai không biết?" Billy hỏi, và Rebecca lắc đầu. Có lẽ cũng là một kẻ được tạo thành từ những sinh vật, giống như người hồi nãy -

Đoàn tàu thình lình lắc lư. Có tiếng máy móc nặng nề vang khắp toa xe, sàn tàu chuyển động dưới chân họ - và nó di chuyển, ban đầu chậm chạp, rồi nhanh chóng tăng tốc.

Cô nhìn Billy, thấy anh ta cũng ngạc nhiên bối rối y như mình, và lần đầu tiên cảm thấy có gì đó ẩn giấu bên dưới bộ mặt cau có đáng khinh bỉ của một kẻ tội phạm. Anh ta cũng đang mắc kẹt - trong cùng một cơn ác mộng với cô. Và đã cứu mạng mình.

"Còn muốn tự xoay sở nữa thôi?" anh ta vừa hỏi vừa cười tự mãn, và cảm giác khắng khít mơ hồ cô vừa cảm thấy vụt biến mất. Mặc dù vậy, trước khi cô kịp đáp lời, có vẻ anh ta đã nhận ra cái cách giả bộ hài hước trái ngược với vẻ dữ tợn của mình không mang lại tác dụng như mong muốn.

"Tôi nghĩ chúng ta cần giúp đỡ lẫn nhau," anh ta nói. "Thế nào? Chỉ tới khi thoát đây thôi, được chứ?"

Rebecca nghĩ tới những nạn nhân nhiễm virus đã gặp, những người cô đã giết, về những gì Edward nói, rằng khu rừng đầy những zombie và quái vật. Cô nghĩ tới gã đàn ông tạo thành từ những con đỉa, và người chủ nhân kỳ quái biết hát đứng trong mưa, cuối cùng về việc ai đó, hoặc cái gì đó đã khởi động đoàn tàu. Thậm chí nếu Enrico và những người còn lại có còn sống, họ cũng đang tụt lại xa dần từng phút một.

"Thôi được," cô đáp lời, và mặc dù thái độ kiêu ngạo dữ tợn của anh ta không hề thay đổi, nhưng cô nghĩ Billy đáng tin. Và cô biết mình đã tin.

--------------------------------------------------------------------------------

Bóng người cô độc trên ngọn đồi quan sát đoàn tàu tăng tốc và biến mất trong cơn bão, trái tim hòa nhịp theo âm điệu phát ra từ môi, tiếng ngân nga vang vọng không trung, ra lệnh cho lũ tay chân quay về. Chúng đã làm mọi thứ rất tốt, từ việc chuẩn bị một cuộc thanh lọc đám nhân viên lúc mặt trời ngả bóng, cho đến việc dẫn những vật chủ bị nhiễm đi qua khu rừng, khóa trái cửa, nạp năng lượng động cơ tàu; hắn muốn vỗ béo bầy đỉa không chỉ bằng những vật chủ virus, thành thử không một người nào của Umbrella trên tàu thoát được. Cơn mưa đã gột rửa đi nhiều thứ trong lúc chúng trườn lên đồi theo lệnh của bài hát, đúng như hắn muốn.

Hắn đón nhận chúng với một nụ cười khi đã chấm dứt bài hát. Mọi chuyện tiến triển theo đúng mong đợi. Sau khi đã mất quá lâu để chờ đợi, giờ đây sẽ không còn phải chờ lâu nữa. Hắn sẽ hoàn tất giấc mơ của mình, sẽ trở thành cơn ác mộng của Umbrella, và của cả thế giới.

oOo

"Trước tiên, chúng ta phải dừng đoàn tàu lại." Rebecca nói.

Billy gật đầu. "Bằng cách nào?"

"Phải chia ra," cô bình tĩnh đáp. Bình tĩnh đến kinh ngạc, nếu xét đến những gì đã trải qua. "Toa tàu phía trước bị khóa - cái chỗ mà chúng ta đã gặp nhau ấy. Phải mở cái cửa đó để tới khoang động cơ."

"Vậy thì cứ bắn lỗ khóa là xong," Billy nói.

Rebecca lắc đầu. "Nó có khe đọc thẻ. Chúng ta phải tìm cho ra thẻ đọc."

"Tôi có thấy phòng trưởng tàu -"

"Cũng bị khóa," Rebecca ngắt lời. "Chúng ta sẽ phải lục tung lên thôi."

"Việc đó mất không ít thời gian," Billy nói. "Chúng ta nên đi chung thì hơn."

"Làm vậy sẽ lâu gấp đôi. Mà tốt hơn thì nên rời khỏi chỗ này trước khi nó chấm dứt cuộc hành trình."

Mặc dù anh không muốn đi long nhong trên tàu một mình, không muốn cô ta đi một mình, nhưng phải thừa nhận là cô có lý.

"Tôi sẽ bắt đầu phía cuối tàu, tìm ngược lên," cô nói. "Anh tìm tầng trên. Chúng ta sẽ gặp nhau đằng trước."

Hơi hách đấy nhé? anh nghĩ thầm nhưng không nói ra miệng. Biết đâu vào một lúc nào đó trong tương lai không xa, cô ta sẽ là người duy nhất giúp anh khỏi trở thành bữa trưa của kẻ khác.

"Và tôi sẽ bắn anh đấy, nếu anh còn giở trò trêu ngươi nữa," cô đế thêm. Billy trố mắt nhìn Rebecca, và thấy mắt cô hấp háy. Cô ta không định nghiêm trọng hóa vấn đề. Không hoàn toàn.

Cô nhìn vũ khí của anh. "Anh cần thêm đạn không?"

"Tôi đủ rồi," anh nói. Còn cô?"

Thêm một cái gật đầu, và cô ta bắt đầu tiến về phía cánh cửa. Lúc đến nơi, cô quay lại.

"Cám ơn," có nói trong khi ngó bâng quơ về phía cuối toa. "Tôi nợ anh."

Trước khi anh kịp trả lời, cô ta đã biến mất. Billy nhìn chằm chằm theo một chốc, không hiểu tại sao mà cô lại có vẻ hứng thú trong việc đơn phương đối diện hiểm nguy. Không biết anh có can đảm như thế hồi bằng tuổi cô ta?

Hồi trẻ, cái đó gọi là "ngựa non háu đá" anh nghĩ vậy. Phải, anh cho là mình cũng đã từng như vậy. Bị tuyên án tử thật sự có thể khiến người ta có cách nhìn khác biệt đôi chút về mọi thứ.

Billy bỏ ra một lát để kiểm tra toa ăn, hết sức bực bội với những phần thân và chất lỏng còn sót lại của lũ đỉa trong lúc lục soát nhanh phía sau quầy bar và dưới bàn. Có một cánh cửa bị khóa ở đầu toa, nhưng sau khi tông nó ra và liếc nhanh một lượt, anh thấy đó chỉ một khoang dịch vụ trống không với một lỗ hổng trên nóc. Billy không nấn ná lại lâu, vì biết rằng lựa chọn tốt nhất lúc này là lục tìm thi thể của các nhân viên trên tàu.

Anh leo xuống cầu thang, dừng lại ở bục cuối một chút để quan sát phía ngoài rìa đoàn tàu. Rebecca Chambers có vẻ đủ sức tự xoay sở, nên tốt nhất là anh cũng tự lo lấy thân.

Tiếp tục đi qua hai cánh cửa, xuyên qua toa hành khách trống rỗng, rồi hít một hơi sâu trước khi chuyển sang toa kế tiếp. Sau khi nhìn quanh xem có ai đang lê lết bên trong không, anh leo lên cầu thang, không dám nhìn tới cái thây mà mình đã bắn. Anh đã giết nó, nhưng chuyện đó chẳng có gì đáng xem cả nếu còn lương tâm.

Một thứ mùi ập đến trước khi Billy lên hết cầu thang, anh bước đi rón rén và thở thật nhẹ. Nghe như mùi nước biển và mùi thối. Khi tới bục cuối cùng, anh nhận ra nguồn gốc của nó và thiếu điều muốn mửa.

Bây giờ thì đã rõ chúng chui từ đâu ra.

Anh đặt chân lên đỉnh cầu thang, nơi này dẫn ra một hành lang ngay bên phải, rồi lại tiếp tục rẽ phải cách đó vài mét - và từ sàn cho tới nóc, từ cái góc anh đang đặt chân kéo dài sang bên trái, giăng đầy hàng trăm cái kén rỗng, nhìn y như tổ nhện - chỉ khác ở chỗ là chúng đen, ướt, và lấp lánh dưới ánh sáng nhàn nhạt của những chỏm đèn treo tường bị phá hỏng gần hết. Chúng lắc lư nhẹ theo nhịp va đập của đoàn tàu trên đường ray, nhìn cứ như hãy còn sống. Ít nhất thì giờ chúng cũng đã trống không. Billy cầu mong cho mình không phải chạm trán với cái thứ đã tạo ra đống kén này.

Anh bước tránh ra xa cái ổ, chân đạp lên một dãy chất phát sáng trải khắp tấm thảm lót dọc hành lang, ngờ rằng vụ tai nạn xe jeep chưa chắc đã là may mắn cho mình. Chẳng ai muốn chết cả, nhưng thà bị xử bắn gọn lẹ còn hơn bị ăn ngấu nghiến bởi một lũ đỉa biết biến đổi hình dạng.

Tỉnh lại đi, anh lính. Nên nhớ mày đang ở đâu.

Anh rảo bước theo hành lang, thở phào nhẹ nhõm khi thấy nó vắng vẻ. Có hai cửa phòng nhỏ đóng kín, nằm hai bên của lối đi nhỏ hẹp, mỗi cái đều có đánh số. Căn cứ theo cách bài trí sang trọng trên này, anh đoán đây là phòng cá nhân.

Quả là không sai. Khi mở cánh cửa đầu tiên, số 102, anh thấy một cái giường ngủ tiện nghi, thật may là không có máu hay thi thể nào. Tuy nhiên, nó không có gì nhiều để lục soát, mặc dù anh cũng tìm thấy một ít đồ dùng cá nhân trong buồng vệ sinh. Có giấy, vài bức ảnh, một hộp đồ trang sức. Anh mở hộp, trông thấy một cái nhẫn có kiểu dáng khác lạ; có vẻ nó được lấy ra từ một bộ sưu tập nhẫn, dược chạm khắc và bẻ cong theo một khuôn mẫu dặc biệt... Và bởi vì không phải là nhà buôn nhẫn, nên anh bỏ nó lại đó để chuyển sang căn phòng bên kia.

Khi mở cánh cửa số 101, anh thấy có chút hy vọng. Nằm dưới sàn là một món quà từ trên trời rơi xuống, một khẩu súng săn. Billy nhặt nó lên và kiểm tra, niềm hy vọng chuyển sang đôi chút vui sướng. Đây là loại súng Western, nòng đôi, đã nạp sẵn đạn cỡ mười hai. Anh còn tìm được một ít đạn nữa sau khi lùng kiếm thêm, mặc dù chẳng có cái thẻ đọc nào hết.

Khóa kiểu gì đi nữa thì khẩu này cũng thổi bay hết, anh nghĩ thầm, cảm thấy hài lòng với trọng lượng khẩu súng trong lúc nhét đạn vào túi. Anh định tìm Rebecca ngay lập tức, nhưng dù sao cũng nên chờ xong việc ở đây đã. Còn một cánh cửa ở phía cuối toa - xong sớm thì gặp sớm thôi. Không phải anh sợ hành động một mình, hoàn toàn không, cũng không phải vì lo lắng cho Rebecca, mặc dù anh có lo thật - mà là vì sau nhiều năm phục vụ trong quân ngũ, anh hiểu rõ rằng không gì tệ hại cho bằng việc phải chiến đấu đơn độc.

Cửa không khóa, nó dẫn vào một phòng chờ vắng vẻ, một nơi cực kỳ hợp mốt. Có một quầy bar bằng gỗ láng bóng phía bên phải, chứa đủ thứ vật dụng, và những cái bàn nho nhỏ thanh mảnh kê dọc sát tường, chừa lại khoảng không rộng rãi cho mặt sàn lót thảm đắt tiền và những chúc đèn treo lủng lẳng. Giống như toa vừa rồi, không có máu hay cái xác nào cả. Billy kiểm tra quầy thu tiền, rồi hướng đến cánh cửa đằng cuối phòng, thấy hơi ơn ớn khi băng ngang khoảng không giữa phòng. Anh khẽ siết chặt lấy khẩu súng nặng nề trong tay.

Khi anh sắp băng qua hết phòng, có thứ gì đó rơi ầm xuống nóc tàu. Tiếng rơi dữ dội, vang rền như sấm, lực va chạm mạnh đến nỗi làm chúc đèn treo phía sau rớt xuống sàn, thủy tinh văng tứ phía. Đoàn tàu rung chuyển theo đà lăn bánh, khiến anh lảo đảo suýt té.

Anh gượng đứng vững lại trước khi quay đầu để ngó. Ngay chỗ chúc đèn rơi, nóc toa đã bị lõm xuống thấy rõ, lớp kim loại dày cộm hoàn toàn biến dạng - và trong khi anh đang quan sát, hai vật thể to đùng đâm xuyên qua nóc, cách nhau chừng hai mét, cái này theo sau cái kia.

Billy nhìn mà không biết mình đang nhìn cái gì. Chúng có dạng hình trụ, to lớn và sắc nhọn, mỗi cái nhìn giống như bị tách đôi từ đoạn giữa. Hình như là... càng?

Bụng anh thót lên một cái. Chính xác, chúng trông y như càng cua hoặc bò cạp, và khi mà anh còn đang quan sát, chúng đã tách ra, để lộ những mấu răng cưa. Những cái càng khổng lồ bắt đầu nhấp, bắt đầu cứa qua cứa lại nóc tàu, tiếng kim loại bị xé nghe như tiếng gào thét.

Thấy nhiêu đó đủ rồi. Billy quay gót và chạy nốt vài mét cuối cùng tới cửa ra, cảm thấy toát mồ hôi lạnh. Phía sau anh, tiếng gào rú của kim loại không ngừng gia tăng, rồi anh chộp lấy tay nắm cửa, đẩy -

- và thấy nó bị khóa trái. Đương nhiên.

Anh quay phắt người lại, vừa kịp thấy chủ nhân của bộ càng khổng lồ đang nhảy xuống cái lỗ thủng trên nóc, chặn đứng lối thoát duy nhất.

oOo

Rebecca vừa nghĩ rằng toa tàu cuối an toàn, thì bị con chó tấn công.

Sau khi chia tay Billy, cô đã rà soát qua khu vực bếp ăn ở toa cuối, nơi nhuốm đầy máu và nguyên liệu làm bếp bị đổ, nhưng ngoài chuyện đó ra thì nơi đây trống không. Cô đang bắt đầu tự hỏi, phải chăng các hành khách và nhân viên đã thoát khỏi đây khi đoàn tàu vừa mới bị tấn công. Có quá nhiều máu nhưng quá ít thi thể. Căn cứ vào tình trạng của những hành khách mà cô đụng độ, có lẽ đây là giả thiết tốt nhất có thể.

Cô bị trượt chân trên vũng dầu ăn lúc lục soát cái bếp, nhưng không tìm thấy gì đáng kể cả. Cánh cửa trong góc toa - có lẽ là một kiểu kho chứa đồ - đã bị khóa, nhưng có một lối trườn chạy dọc dưới sàn, được phủ một lớp đậy mà cô cạy ra không mấy khó khăn. Cô chẳng thích chút nào cái việc chui vào trong hốc tối, nhưng đường hầm này không dài lắm, chỉ có vài mét. Với lại cô đã nói với Billy là sẽ kiểm tra từ toa cuối lên, nên phải chui thôi. Làm trọn vẹn nhiệm vụ là điều duy nhất có thể kiểm soát được, giữa một mớ bòng bong những chuyện điên rồ. Những nạn nhân nhiễm virus đã quá đủ tệ rồi, lại còn thêm cái gã làm bằng bầy đỉa...

...Đừng nghĩ nữa. Tìm tấm thẻ đọc, dừng đoàn tàu, tìm người trợ giúp. Ai đó khác hơn là một kẻ giết người mang án tử, dù rằng phải cảm ơn anh ta. Billy là chỗ dựa duy nhất của cô trong lúc này, và đã cứu mạng cô, nhưng thật ngu ngốc nếu tin tưởng gã ta hoàn toàn.

Kết quả của việc chui vào đường hầm là cô thấy mình đang ở khoang bên cạnh. Sau khi thở phào vì chỉ phải bò một quãng ngắn, cô đứng dậy trong một kho chứa đồ, được soi sáng bởi một bóng đèn treo duy nhất. Dọc tường chất đầy những thùng và hộp, hầu hết khuất trong bóng tối. Cô rà quét xung quanh bằng khẩu súng. Không có gì dịch chuyển, ngoại trừ chính đoàn tàu đang lắc lư theo nhịp đập trên đường ray.

Phía cuối kho là một cánh cửa với cửa sổ bên trong. Rebecca đến gần, súng lăm lăm đề phòng bất cứ chuyển động nào từ phía bên kia. Tiếng tàu chạy nghe lớn hơn, và cô nhận ra mình đang ở toa cuối cùng, khi nhìn thấy đường ray. Một cảm giác nhẹ nhõm thoáng qua, vì cô biết rằng ngoài kia thế giới vẫn tồn tại - nếu mọi chuyện chuyển biến xấu hơn, chỉ việc nhảy ra ngoài là xong. Đoàn tàu đang chạy rất nhanh, nhưng không phải là không thể nhảy ra được.

Click.

Cô quay ngoắt người về phía phát ra tiếng động yếu ớt đó, tim đập thình thịch, không biết nên chĩa súng vào cái gì. Đoàn tàu vẫn lăn bánh, bóng tối nhấp nhô và lắc lư, nhưng tiếng động đó không lặp lại nữa. Sau một hồi căng thẳng, cô thở phào và buông lỏng người. Có lẽ một trong số mấy cái hộp đã dịch chuyển. Giống như phần còn lại của toa tàu - thậm chí nguyên cả tầng trệt - kho chứa đồ này có vẻ an toàn. Cô ngờ là khó mà tìm thấy tấm thẻ đọc nào quanh đây, nhưng ít nhất thì cô cũng đã kiểm tra nó -

- click. Click. Click-click-click.

Rebecca chết điếng. Tiếng động đó ngay sát bên cạnh, và cô biết nó là gì, bất cứ ai từng nuôi chó đều phải biết: Tiếng miết móng chân trên bề mặt cứng. Cô chậm rãi quay đầu sang phải, nhìn thấy vài chuồng nhốt chó, cả hai cái đều để cửa mở, nổi bật lên trong bóng tối -

Tất cả diễn ra thật nhanh. Con chó chồm lên với một tiếng gừ dữ tợn. Cô chỉ đủ thời gian để nhận ra nó cùng một loại với những con đã gặp - to lớn, bị nhiễm, bị hủy hoại - trước khi chân phải vung lên. Một cú ra chân cực mạnh, gót giày nện trúng vào bên ngực của nó. Với một âm thanh ươn ướt nghe phát ớn, phần ngực con chó bị thổi bay mất một mảng, lớp da bị lột ra khỏi phần cơ xám xịt, bám vào dưới giày của cô thành một lớp nhầy nhụa.

Thật không thể tin nổi, con chó vẫn mặc kệ vết thương và cứ tiến tới, hàm răng nhe ra nhễu đầy nước dãi. Cô biết mình sẽ bị nó vồ trước khi kịp giương súng, cô có thể cảm thấy răng của nó đang chạm vào tay mình, và chỉ cần một cú cắn thôi là cô sẽ đi đời, sẽ trở thành một trong những cái xác biết đi -

- và trước khi bị nó cắn, cái chân kia của cô, vốn đã bị dính đầy dầu ăn, trượt dài ra. Rebecca té nện hông xuống sàn, và con chó bay ngang qua đầu, một thứ mùi thối rữa lướt qua. Nó thậm chí đã đạp trúng cô, để lại trên vai trái của cô một dấu chân sau bẩn thỉu khi lao qua, đà lao đã khiến nó văng ra xa.

Cú té may mắn giúp cô có thêm thời gian. Cô lăn một vòng, cánh tay vung lên và siết cò, nhắm thẳng vào con vật khi nó quay lại chuẩn bị tấn công tiếp. Phát thứ nhất trượt mục tiêu, nhưng phát thứ hai đã đi đúng hướng, cắm thẳng vào dưới mắt trái của con vật khát máu kinh tởm.

Con chó ngã gục xuống sàn, chết ngay lập tức. Máu loang ra xung quanh chỗ nó nằm, và Rebecca nhổm tránh ra xa. Về cơ bản, vi khuẩn học không phải là chuyên môn của cô, nhưng cô đoan chắc rằng máu của nó chứa đầy nhóc virus, nên tốt nhất là đừng để bị dính vào bất cứ thứ gì. Không cần quá thông minh mới nhận ra điều đó.

Cứ coi như đó là virus, cô nghĩ thầm trong lúc nhìn chăm chú cái đống bầy hầy vốn đã từng là chó, trong đầu dậy lên những thắc mắc về T-Virus mà Billy đã đề cập. Nó lan tỏa như thế nào? Mức độ độc hại, mất bao lâu để nó thâm nhập vào cơ thể vật chủ?

Cô chùi đế giày vào cái chuồng, hy vọng có thể mau chóng quên đi thứ âm thanh nhèm nhẹp đó - và chợt thấy có một vật phát sáng trong bóng tối - Cô cúi xuống, nhặt lên một cái nhẫn vàng, được chạm khắc theo một khuôn mẫu khác lạ. Trông nó không giống vàng thật, có vẻ vô giá trị, nhưng cũng khá đẹp. Dù gì đi nữa thì cô cũng khá may mắn khi có thể đứng đây mà dòm nó.

"Coi như là một cái nhẫn may mắn," cô nói, và đeo vào ngón trỏ trái. Thật vừa vặn.

Rebecca chỉ tìm được nhiêu đó. Chẳng có tấm thẻ đọc nào cả, cũng chẳng có gì hữu dụng. Cô bước chân ra ngoài tấm bục phía đuôi tàu, và nhanh chóng bị nước mưa làm ướt sũng. Cơn bão thật dữ dội, và đoàn tàu đang chạy quá nhanh để có thể nhảy xuống. Niềm hy vọng của cô bừng lên đôi chút khi thấy một tấm biển ghi chữ DÂY PHANH KHẨN CẤP, nhưng khi cô ấn thử vài nút trên bảng điều khiển thì thấy không có điện. Cũng như không.

Rebecca quay lại vào trong, gỡ cái mũ ướt sũng xuống khỏi trán. Đã đến lúc quay trở lên, thử lục soát mấy cái xác mà cô và Billy đã bắn hạ. Thật khó chịu khi chẳng còn cách nào khác. Không biết có ai đang lái tàu chăng, hay là nó chỉ đang chạy không phanh; dù thế nào thì cũng phải tìm cách để điều khiển đoàn tàu.

Cô nhìn lại con chó một lần nữa trước khi đi - thầm nghĩ mình đã quá may mắn khi mém tí nữa đã bị cắn xé tới chết. Từ bây giờ cô phải luôn luôn đề cao cảnh giác mới được; hy vọng rằng Billy có thể may mắn hơn cô.

oOo

Lạy Chúa nhân từ.

Billy ngó trân trân, mồm há hốc, đầu óc mụ đi trước cái thứ đáng lẽ không thể tồn tại đang đứng cách mình không đầy mười mét.

Trông nó giống một con bò cạp, có điều to cỡ một cái xe thể thao. Con quái vật đã rơi xuống nóc tàu dài chừng ba mét, cặp càng khổng lồ sắc nhọn đang nhắp nhắp quanh bộ mặt phẳng lì, cái đuôi dài ngoằng uốn cong lên đằng sau lưng, phần chóp đuôi quắn lại thành một cục còn to hơn đầu của Billy. Có khá nhiều chân xung quanh, nhưng Billy chẳng rỗi hơi để đếm - nhất là khi cái thứ ấy đang di chuyển tới chỗ anh, phát ra một tiếng kêu nghe như động cơ quá tải, mấy cái cẳng đồ sộ gập khúc nện thình thình xuống sàn. Mưa đang trút xuống từ cái lỗ trên nóc, khiến cho khung cảnh chẳng khác gì dưới địa ngục, con quái vật nổi bật lên giữa làn mưa mờ ảo như một cơn ác mộng.

Không còn thời gian để nghĩ ngợi nữa. Billy nâng khẩu súng săn lên và ngắm vào cái đầu phẳng phiu thấp chủm của nó. Giữa tiếng xình xịch của đoàn tàu và tiếng cào bới sột soạt của con vật, Billy mất vài giây để ngắm cho chuẩn, chỉ vài giây thôi mà tưởng chừng như kéo dài vĩnh viễn. Con vật bò đến gần hơn, mấy cái chân lởm chởm xoi lủng lỗ trên tấm thảm đắt tiền theo từng bước tiến.

Billy siết cò, bùm, khẩu súng săn dội ngược lại, đập vào vai anh đến thâm tím. Một phát trúng đích, và con vật kêu rít lên, một thứ chất lỏng trắng đục phụt ra khỏi cái đầu bọc giáp. Anh không hề dừng lại để xem xét, mà tiếp tục lên đạn và bắn, bùm.

Nó rít lên còn lớn hơn nữa, nhưng vẫn cứ tiến tới. Billy gập súng, xóc cho vỏ đạn rơi ra trước khi lục tìm đạn mới. Giữa lúc anh đang sờ soạng và vỏ đạn rơi xuống thảm, con quái vật đã thu ngắn khoảng cách trong tiếng rít chói tai, nhanh cực kỳ.

Chỉ có một viên đạn trong túi. Anh lôi ra, nhét vào nòng và xóc súng lên ngang hông..., Cơ hội duy nhất đây.

Phát đạn ghim ngay giữa cái mặt tối thui xấu xí của con quái vật, lúc này chỉ cách Billy có một mét, gần đến nỗi anh cảm thấy hơi nóng thuốc súng phả dính vào da. Tiếng rú im bặt khi một mảng xương lớn đầy góc cạnh văng khỏi cái đầu của nó, máu lẫn não rơi lộp bộp xuống cái đuôi đang co giật. Con vật run lẩy bẩy toàn thân, cặp càng vĩ đại quơ quào tứ phía, hết khép lại đến mở ra, chóp đuôi chích loạn xạ vào không khí. Sau một tiếng kêu òng ọc, nó đổ vật xuống sàn, cả cặp càng lẫn phần thân lặng lẽ nằm bẹp xuống.

Một thứ mùi bốc lên, nghe thum thủm, nóng hổi và chua ngoét, nhưng Billy vẫn đứng yên đó cả phút đồng hồ để bảo đảm rằng nó đã chết. Có thể thấy dấu vết của hai viên đạn đầu tiên - khẩu súng săn đã nhắm hơi lệch sang trái, may mà phát đạn cuối thì trúng ngay giữa - một phần lớp giáp ngay vị trí mắt đã vỡ toác ra.

Nó là cái gì? Anh nhìn lại nỗi kinh hoàng đó, không chắc mình đã biết được điều gì. Ắt là có quan hệ tới lũ chó và mấy cái thây biết đi, và T-Virus. Cuốn nhật ký có ghi chép về việc những liều thuốc nhỏ tạo ra sự biến đổi kích thước và gia tăng tính hung hăng...

Nghĩa là con quỷ này phải hấp thụ có đến hàng lít thuốc. Tai nạn chăng? Không thể nào. Cuốn nhật ký đã nói về phòng thí nghiệm. Và việc kiểm soát hiệu ứng của virus, rằng một khi chưa kiểm soát được thì công ty đang "đùa với lửa."

Mối liên hệ là quá rõ ràng. Có lẽ T-Virus đã bị lan truyền do tai nạn, nhưng công ty này hiển nhiên biết trước virus có thể làm gì. Và đã thí nghiệm nó.

Vấn đề là tất cả đều đã chết - và anh đã xong việc tìm kiếm tấm thẻ đọc. Đi một mình vậy là đủ rồi. Nếu tên vua bò cạp này có anh em đi kèm, Billy sẽ phải cần thêm người để hỗ trợ.

Anh nhặt mấy viên đạn mình làm rớt lên, nạp vào súng. Rồi cẩn thận bước qua cái xác hôi hám khổng lồ để đi tìm Rebecca. Hy vọng cô ta may mắn hơn anh.

oOo

Lúc vừa bước tới toa trước, Rebecca nghĩ mình nghe thấy tiếng súng phát ra từ chỗ cô vừa lục soát xong. Cô đứng giữa ô cửa, vịn tay vào khung, nhìn chăm chăm xác con chó trước tầm mắt trong lúc căng tai lên nghe ngóng. Sấm nổ vang bên ngoài. Sau một lúc, cô thôi không nghe ngóng nữa và rảo bước đi tới.

Rebecca di chuyển thật chậm, tự trấn an mình khi nghĩ tới việc sắp nhìn thấy xác Edward. Cô ước gì đã nghĩ đến việc kiếm một thứ đại loại như chăn mền lúc ở khoang hành khách. Áo khoác của một cái xác nào đó chẳng hạn; khổ nỗi lúc đó cô đang rất phẫn nộ khi nghĩ tới kẻ đã phóng thích T-Virus, và lại quá căng thẳng tập trung. Không có chìa khóa, không một sự trợ giúp nào. Tuy nhiên, có lẽ cái chìa tìm thấy trong bàn tay xác chết của nhân viên tàu ở toa trước, nơi cô gặp Billy - sẽ có lúc hữu dụng.

Cô đến góc quẹo nơi hành lang, cố gắng ép mình đi ngang qua đó, tránh xa bãi chất lỏng tuôn ra từ con chó - và không thấy Edward đâu cả.

Rebecca dừng lại, nhìn đăm đăm. Con chó thứ hai vẫn nằm đó - nhưng chỗ Edward ngã xuống giờ đây chỉ còn một nắm băng gạc đỏ thẫm và vài vệt máu. Không khí lành lạnh ẩm ướt thổi qua cửa sổ, nhưng không đủ sức át đi cái mùi nặng nề.

Mọi thứ dường như quay chậm lại khi cô nhìn xuống, trông thấy vết máu kéo dài. Ánh mắt cô lần theo đó, nhìn ra phía trước, thấy những dấu chân liêu xiêu đỏ lòm, dường như người đã để lại dấu chân này đang say rượu, hoặc... đang... bệnh...

Ôi không. Rebecca thấy tim mình thót lên một cái.

Thời gian như ngừng trôi, ánh mắt cô rốt cuộc cũng rời khỏi mặt sàn. Cô thấy một phần của cánh tay trần, ai đó đang đứng khuất khỏi tầm nhìn nơi cuối hành lang. Ai đó cao lớn. Ai đó mang giày ủng.

"Không," cô nói, và Edward rời khỏi bức tường, xuất hiện trong tầm nhìn. Khi thấy cô, cặp môi ướt máu của anh ta phát ra một tiếng rên rỉ. Anh ta khật khưỡng bước tới, bộ mặt xám ngoét, tròng mắt trắng dã.

"Edward?"

Anh ta vẫn tiến tới, lảo đảo, cái vai đẫm máu lê dọc theo tường, cánh tay rũ xuống một bên, khuôn mặt vô hồn đờ đẫn. Đó là Edward, bạn đồng đội của cô, và cô nâng súng lên, lùi lại một bước, ngắm bắn.

"Đừng ép em," cô nói, trong đầu tự hỏi virus đã làm thế nào khiến cho các nạn nhân trông như đã chết. chắc là làm chậm nhịp tim-

Edward rên lên. tiếng rên đầy đói khát, và mặc dù đôi mắt của anh vẫn còn hiện ra sau một lớp màng trắng, nhưng cô biết đây không phải là Edward nữa. Anh ta lại tiến tới gần hơn.

"Xin hãy ra đi thanh thản," cô thì thầm rồi siết cò, viên đạn khoan một lỗ nơi thái dương trái. Anh ta vẫn đứng vững sau phát súng, vẫn còn nguyên vẻ đói khát uể oải, và rồi đổ ập xuống.

Rebecca đứng yên đó, súng vẫn chĩa vào cái xác của người bạn, cho đến khi Billy tìm thấy cô vài phút sau.

--------------------------------------------------------------------------------

William Birkin vội vã đi ngang khu vực xử lý nước, hướng tới phòng điều khiển B ở tầng hầm thứ nhất, tiếng bước chân dội lại trong lòng hành lang làm lão rợn tóc gáy. Chỗ này lạnh lẽo và chết chóc y như một hầm mộ - theo lẽ thì nó không hề giống chút nào, ngoại trừ việc lão biết rằng có những thứ đang đi lang thang phía sau mấy cánh cửa mà mình vừa đi qua, rằng lão đang bị bao quanh bởi đủ loại dạng thức sống. Không hiểu sao, những tiếng vọng phát ra theo mỗi bước chân làm lão có cảm giác như đang vụng trộm, giống như tiếng ai đó đang gào thét trong nhà xác.

Thật sự là vậy. Họ còn chưa chết. Đồng nghiệp mình, bạn của mình...

Tỉnh lại đi. Nên nhớ là họ đều biết chuyện này có thể xảy ra, tất cả bọn họ. Suy cho cùng, đó là điều may mắn tồi tệ nhất.

Điều may mắn tồi tệ, cho tất cả họ. Lão và Annette đã ở trong khu nghiên cứu dưới thành phố lúc xảy ra vụ rò rỉ, đang hoàn tất việc thống kê chất tổng hợp mới.

Lão đến chỗ cầu thang nằm sau lưng khu B4 và bắt đầu leo lên, tự hỏi liệu Wesker có đang chờ mình không. Hẳn nhiên rồi. Birkin đã đến muộn vì không muốn rời khỏi công việc của mình chút nào, trong khi Albert Wesker là một kẻ kỹ tính và luôn đúng giờ. Một quân nhân. Một nhà nghiên cứu. Một kẻ mắc chứng rối loạn nhân cách chống xã hội.

Và có lẽ là kẻ duy nhất. Có lẽ chính hắn đã gây ra vụ này. Hoàn toàn có thể. Lòng trung thành chẳng là cái đinh gì với Wesker, và Birkin biết hắn đang tìm cách thoát ly khỏi Umbrella, mặc dù đã làm việc cho tập đoàn này một thời gian dài. Có điều, hai mươi năm quen biết Wesker đã dạy cho Birkin một điều, rằng gã này chẳng ngu tới mức tự mình hại mình. Nếu Wesker đã gây ra vụ tai nạn, hắn nhất định không quanh quẩn ở đây để chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra kế tiếp.

Birkin leo đến đỉnh những bậc thang, quẹo cua rồi lại leo lên tiếp. Thang máy vẫn hoạt động, nhưng lão không dám liều. Ở đây đâu có ai giúp lão nếu gặp sự cố. Không ai ngoài Wesker, mà theo lão đoán, tay lãnh đạo đội S.T.A.R.S. đó đã về nhà rồi.

Trên đỉnh của dãy cầu thang thứ hai, Birkin nghe có tiếng động nhẹ phía sau cánh cửa dẫn tới tầng hầm thứ hai. Lão dừng bước, tưởng tượng ra những linh hồn khốn khổ đang nện vào cửa từ phía bên kia, không chừng đang dộng liên hồi cả thân hình vào đó một cách vô vọng, với mong muốn được giải thoát. Khi vụ lây nhiễm được phát hiện, những cách cửa bên trong tự động khóa trái, nhốt hầu hết các nhân viên bị nhiễm và các đối tượng thí nghiệm sổng chuồng. Lối đi chính khá an toàn, ít nhất là đến chỗ phòng điều khiển.

Birkin liếc qua đồng hồ, tiếp tục leo lên. Lão không muốn lỡ hẹn với Wesker, nếu như hắn vẫn còn ở đây.

Vậy nếu Wesker không làm chuyện này thì ai? Bằng cách nào? Tất cả đều cho đây là tai nạn; lão cũng vậy, cho đến cách đây vài giờ, khi Wesker gọi cho lão về đoàn tàu. Thêm một tai nạn nữa là điều khó tin. Có Chúa mới biết bao nhiêu người muốn phá hoại Umbrella, nhưng để khám phá được đường ngầm dẫn vào bất cứ một phòng thí nghiệm nào ở Raccoon đâu phải chuyện dễ.

Nếu... Wesker đã nói công ty muốn có dữ liệu thực sự về virus, không phải mô phỏng mà là thực hành đàng hoàng; biết đâu chính bọn họ đã làm rò rỉ, rồi gởi một đội quân đến để dọn dẹp những thứ chưa được dọn dẹp.

Hoặc có thể đây là kế hoạch của bọn nó để chiếm G-Virus. Gây ra hỗn loạn, rồi lẻn vào để đánh cắp.

Birkin nghiến răng. Đừng hòng. Bọn chúng còn chưa biết rằng lão đã đến rất gần, và sẽ không biết cho tới khi lão đã chuẩn bị xong xuôi. Lão đã giữ lấy những thứ bí mật để phòng ngừa, còn Annette đã hối lộ các giám sát viên để chúng lặn mất. Đã không ít lần, lão chứng kiến cảnh công ty giành lấy thành quả của một nhà khoa học chỉ vì muốn có kết quả tức thời, giao nó cho kẻ khác... và có ít nhất hai trường hợp mà tác giả của công trình nghiên cứu bị ám sát, để người đó không thể chuyển sang làm việc cho đối thủ cạnh tranh.

Không phải với ta. Không phải với G-Virus. Nó là thành quả cả đời của lão, thà lão tự tay hủy diệt nó còn hơn bị chiếm đoạt.

Lão đã đến phòng điều khiển, thực ra là một nơi dùng để giám sát, nó sử dụng chung không gian với hệ thống phát điện dự phòng của toàn khu vực, thật may là hiện tại khá yên lặng. Đèn đã tắt, nhưng khi vòng qua lối đi hẹp có mặt sàn dạng lưới, lão thấy Wesker đang ngồi trước màn hình giám sát, cái lưng nổi bật lên dưới ánh sáng màn hình. Như thường lệ, Wesker vẫn đeo kính râm, một điều luôn làm Birkin có cảm giác bị ức chế; gã vốn có thể nhìn được trong bóng tối.

Trước khi lão lên tiếng, Wesker đã vẫy tay gọi lão mà không thèm ngoảnh mặt lại.

"Nhìn này."

Giọng hắn đầy vẻ uy quyền và thúc giục. Birkin nhanh chóng đến bên cạnh, tựa người vào bảng điều khiển để xem thứ đã làm Wesker quan tâm.

Sự chú ý của lão tập trung vào một khung cảnh ở khu huấn luyện, có lẽ là nơi lưu trữ phim ở tầng hai. Một thực tập viên đang đi lang thang quanh phòng, hiển nhiên đã bị nhiễm, đồng phục của gã lấm đầy máu và những chất dịch; trông gã ướt nhẹp, nhưng Birkin không nhận thấy có gì là khác thường cả.

"Tôi đâu có thấy -" lão lên tiếng, nhưng Wesker đã ngắt lời.

"Chờ đã."

Birkin quan sát gã thanh niên - một thanh niên không bao giờ già thêm nhờ có T-Virus - đang vấp vào cái bàn nhỏ nằm dọc phòng, rồi quay mình đi trở lại phía dãy máy tính, loạng choạng chẳng khác gì những vật chủ bình thường, mọi cử động của gã đều nằm trong phạm vi máy quay. Ngay khi lão vừa tính hỏi hắn định xem cái gì, thì lão trông thấy.

"Đó," Wesker nói.

Birkin chớp mắt, không dám tin vào thứ vừa thấy. Lúc quay về phía dãy máy tính, tay của gã thanh niên kéo dãn ra, mỏng mảnh, vươn dài gần như hết chiều dài phòng, rồi thu lại như cũ. Mọi việc diễn ra chỉ trong một giây.

"Đây là lần thứ ba trong khoảng nửa giờ đồng hồ," Wesker nói khẽ.

Tay thực tập viên vẫn tiếp tục đảo quanh căn phòng nhỏ, trở lại giống y như các nạn nhân vật vờ trong những màn hình khác.

"Một thí nghiệm mà chúng ta không biết tới ư?" Birkin ngờ vực hỏi. Cả hai đã bám trụ lâu hơn bất cứ ai ngoài bộ phận đầu não, thế mà vẫn không biết gì về việc này.

"Không."

"Đột biến ư?"

"Cái này để ông trả lời mới đúng, ông là nhà khoa học mà," Wesker đáp.

Birkin nghĩ ngợi một thoáng, rồi lắc đầu. "Tôi nghĩ là có khả năng, nhưng... Không, tôi nghĩ không thể nào."

Họ lặng lẽ quan sát thêm tên lính, nhưng gã chỉ tiếp tục băng ngang căn phòng; không có gì vươn dài hay biến đổi cả. Birkin không biết chính xác họ vừa chứng kiến cái gì, nhưng lão không thích cái đó chút nào. Trong những chuỗi phương trình phức tạp đã làm nên cuộc đời của lão, giữa công việc và gia đình, giữa thảm họa ở Raccoon và giấc mơ tạo nên loại virus hoàn hảo của lão, chuyện này thật không sao hiểu nổi. Một thứ gì đó rất mới mẻ.

Có tiếng sóng vô tuyến phá vỡ sự yên tĩnh, một giọng nam không rõ của ai vang lên. "Ước tính đến nơi trong mười phút nữa. Hết."

Chắc là đội thu dọn của Umbrella, về vụ đoàn tàu. Lúc gọi cho lão, Wesker có nói họ đang lên đường. Wesker nhấn nút. "Xác nhận. Báo cáo khi nào tiếp cận mục tiêu. Hết."

Hắn nhấn nút lần nữa, rồi cả hai quay lại quan sát tên lính vô danh, người nào cũng theo đuổi những suy tưởng riêng. Lão không biết ý Wesker thế nào, nhưng lão thì bắt đầu nghĩ nên trốn khỏi Raccoon là vừa.

oOo

"Rebecca."

Cô ta không đáp lời mà cũng chẳng quay lưng, chỉ hạ vũ khí xuống. Billy ước mình có thể nói gì đó, nhưng rồi quyết định tốt hơn nên im lặng. Tình cảnh quá rõ ràng; người đàn ông nằm dưới sàn mặc quân phục S.T.A.R.S., có lẽ là bạn, và anh ta đã bị nhiễm.

Anh để cô yên tĩnh một lát, nhưng có lẽ khó mà chờ thêm nữa. Anh không chắc lắm, nhưng đoàn tàu dường như đang tăng tốc. Nếu cứ chạy như vậy, họ sẽ đối mặt với một vụ va chạm và không chừng bị mất mạng. Nếu có người đang điều khiển nó, họ cần biết đó là ai và tại sao.

"Rebecca," anh lại gọi, lần này cô quay lại, đưa tay quệt nước nước mắt không chút e dè. Cô nhìn anh và chớp mắt.

"Có phải anh vừa nổ súng vài phút trước?"

Billy gật đầu, tính nặn ra một nụ cười mà không được. "Một con bọ quái vật. Còn cô?"

"Chó," cô đáp, rồi lau nốt chút nước mắt còn vương lại. " Và... và một người tôi từng biết."

Anh cựa mình một cách khó nhọc, cả hai cùng im lặng một thoáng. Rồi cô thở dài, vén mái tóc đang phủ ngang trán. "Nói với tôi là anh tìm được thẻ đọc đi," cô nói.

"Một thứ tương tự," anh nói, tay giơ khẩu súng săn lên.

"Không được đâu," cô nói, và lại thở dài. "Nó có khóa từ tính, kiểu giống như của kho bạc ngân hàng."

"Ngay trong khoang hành khách à?" Billy hỏi.

Rebecca nhún vai. "Thì cái này thuộc sở hữu tư nhân mà. Của Umbrella."

Tập đoàn dược phẩm. Bị ám ảnh bởi phiên tòa và bản tuyên án, nên Billy đã không nghĩ đến nơi mà anh sẽ bị hành quyết, giờ thì anh đã nhớ ra - Thành phố Raccoon, nơi gần nhất trong khu vực này có thành phố chính, là nơi siêu tập đoàn đã khởi nghiệp.

"Họ có xe lửa riêng à?"

Rebecca gật đầu. "Mọi thứ quanh đây là của Umbrella. Văn phòng, nghiên cứu dược phẩm, phòng thí nghiệm..."

Hôm nay bọn tôi đã được biết về phòng thí nghiệm Arklay... và chúng tôi sẽ được gởi đến đó để kiểm tra vào tuần tới. Rừng Raccoon, Thành phố Raccoon, đều náu mình trong phạm vi núi Arklay.

Ý nghĩ của Rebecca cũng không khác mấy. "Có phải anh nghĩ- "

"Tôi không biết nữa," Billy nói. "Dù gì thì bây giờ cũng chẳng thành vấn đề. Chúng ta vẫn phải mở được cái cửa đó."

Cô quay về phía đoạn trước của đoàn tàu, dường như để suy nghĩ cho chính xác hơn, có lẽ nhờ không nhìn thấy người bạn của mình nữa. Cô nhìn xuống sàn, hạ giọng.

"Có một thi thể sau cửa, một người nam tay giữ chìa khóa." cô nói. "Không chừng nó mở được chỗ nào đó."

"Chờ đây nhé," Billy nói. Anh bước qua cạnh cô và tiến tới trước, dừng lại cuối hành lang. Cái xác hư hại của một nhân viên tàu đang nằm gục vào cánh cửa, chính là cái mà Rebecca cúi xuống lúc hai người gặp mặt lần đầu. Người đó vẫn đang nắm chặt chiếc chìa khóa bằng kim loại trong bàn tay cứng còng. Billy gỡ ra, giơ cao chìa khóa dưới ánh đèn lờ mờ. Có một cái nhãn đi kèm, ghi chữ TOA ĂN.

Cực kỳ hữu dụng, cám ơn rất nhiều. Anh ngả cái xác xuống, mất khoảng một phút để lục tìm trong áo khoát, thu được một bó thẻ và cả nắm kẹo bạc hà trong túi trước... Và túi bên kia, là vài cái chìa khóa gắn chung một chùm. Hai chiếc không đính nhãn, nhưng chiếc thứ ba có chữ TRƯỞNG TÀU được khảm vào kim loại. Billy nhét hết vào túi, rồi sau khi nghĩ ngợi một chốc, anh quỳ xuống, cẩn thận cởi bỏ áo khoác của cái xác, cảm giác tiếp xúc với lớp thịt nhớp nháp và lạnh ngắt khiến anh nhăn mặt lại. Nạn nhân khốn khổ ấy không có vẻ gì là nhiễm virus, ngoại trừ việc bị một hoặc nhiều người táp bằng răng; trông ông ta như một đống bẩn thỉu, mặt và tay bị mất nhiều mảng da lẫn thịt to tướng.

Billy quay lại chỗ Rebecca đang đứng, dùng áo khoác để phủ lên xác của người lính S.T.A.R.S.. Nó chỉ đủ che kín mặt và nửa thân trên, nhưng dù gì cũng giúp cô gái lấy lại tinh thần. Cô gật đầu tỏ vẻ biết ơn khi anh bước đến, nhưng không nói gì thêm.

"Cái chìa cô nói xài cho toa ăn, nơi mà chúng ta đã vào rồi," anh nói, và rút chùm chìa khóa ra khỏi túi. "Nhưng còn mấy cái này có thể có tác dụng."

Họ đang đứng gần cánh cửa có gắn biển cho biết là phòng trưởng tàu. Billy kéo chiếc chìa có đánh dấu ra. Cùng với cái gật đầu của Rebecca, anh cắm nó vào lỗ khóa, mở ra một cách dễ dàng. Billy nâng súng lên trước khi đẩy cửa, sẵn sàng bắn bất cứ thứ gì không thông báo danh tính một khi họ chạm trán.

Không có gì cả. Billy thở phào nhẹ nhõm rồi bước vào trong. Rebecca dừng bước nơi ngưỡng cửa, súng hờm trong tay, mắt nhìn xuống cái bàn nhỏ vung vãi giấy tờ. Cô bới nó lên trong lúc Billy lục lọi xung quanh.

"Lịch hẹn, thư từ,... Có một thứ gọi là 'Hướng dẫn thực hành đòn Hookshot,'" Rebecca nói. "Biên bản bảo trì, ghi chú về khóa nhẫn, đại loại thế, mẫu đặt hàng nhà bếp..."

Billy mở cửa căn buồng nhỏ trong lúc Rebecca tiếp tục lục tung mớ hỗn độn trên bàn. Có vài chữ ký, bưu thiếp, và biên bản được đính vào mặt sau cánh cửa, sổ cái, một cái cặp có khóa, Billy nhón lấy cái cặp, lắc mạnh. Có thứ gì đó rất nhẹ kêu lục cục bên trong; biết đâu là tấm thẻ đọc? Không giống lắm, nhưng hy vọng thì đâu có sao.

Anh kiểm tra chỗ khóa, khẽ cau mày. Không có lỗ nào để cắm chìa, ngoại trừ một khối lõm vào đằng trước, dạng hình tròn, Anh thử lắc nhẹ chốt, thấy nó đã khóa kín. Có thể bứng cái này ra, nhưng nó được làm bằng vật liệu khá bền, nên sẽ tốn nhiều thời gian hơn mức cần thiết...

"Cô vừa nói về khóa nhẫn à?" Anh hỏi.

Rebecca đẩy mớ giấy qua một bên. "Ah... Đây. Chỉ là một bản viết tay, ghi 'Cách truy cập phòng hờ (Nguyên văn - Means of access in case), khóa nhẫn được tách ra, hai mảnh.'"

Phòng hờ cái gì? Anh đang định nhún vai thì cảm thấy một cơn phấn khích chạy qua người. In case còn có nghĩa là trong cặp. Tấm thẻ đọc dứt khoát đang nằm trong cặp. Anh nhìn kỹ cái lỗ khóa, thình lình nhớ lại chiếc nhẫn bạc khác thường tìm thấy trên cầu thang, trước khi đụng độ con quái vật bò cạp. Bề mặt lỗ khóa có vết khắc y như trên mặt nhẫn.

Nhưng nó còn ghi là hai mảnh, và-

"À, tôi có tìm được một chiếc nhẫn ở chỗ đuôi tàu," Rebecca nói. Billy nhìn lên khi Rebecca kéo cái nhẫn vàng ra khỏi ngón trỏ, hiểu ngay rằng nó chính là mảnh còn lại.

"Tôi nghĩ chúng ta đã thắng," Billy vừa nói vừa nở nụ cười, một nụ cười thật sự kể từ khi... từ khi nào anh cũng chẳng nhớ nổi. Thể nào cũng có radio trong phòng máy, và bảng điều khiển, không chừng có cả bản đồ chỉ cách thoát khỏi khu rừng.

Gần như chắc chắn họ sẽ thoát được, anh tin chắc vậy.

Anh không nghĩ thêm gì nữa.

oOo

Ai đó đã khởi động cái đoàn tàu chết tiệt. Có khả năng là một nhân viên vẫn còn sống, nhưng Wesker nghiêng về giả thiết là có một vật chủ loạn óc bị té vào bảng điều khiển. Dù thế nào thì phi công của chiếc trực thăng cũng chẳng bị ảnh hưởng, chẳng qua nó chỉ làm chậm thời gian tiếp cận một chút. Thì giờ là vàng bạc; vì nếu không được dừng lại, chuyến tàu sẽ đâm thẳng vào trung tâm huấn luyện, sẽ va chạm nếu không có người điều khiển, và là thứ hay ho nhất thu hút sự chú ý của cả một khu vực bị lây nhiễm đang khoanh vùng.

"Chúng tôi đang triển khai. Hết."

Wesker chờ đợi. Hắn có thể nghe thấy tiếng trực thăng trên mặt đất, tiếng thả dây vun vút trong gió. Hắn ước gì mình cũng ở đó, đặt chân lên đoàn tàu chết tiệt khi nó đang tăng tốc lao đi trong màn đêm giông bão, vũ khí lăm lăm, với lũ nhiễm bệnh biết đi đang chờ được nằm xuống thành từng khối xương thịt tung tóe...

Birkin ngắt ngang giấc mộng đẹp của hắn, giọng lão đầy vẻ lo lắng trong lúc vươn bàn tay tái nhợt ra che microphone. "Có chắc đây là virus không? Ý tôi là, liệu chúng ta có đang đối mặt với một vụ dàn cảnh, hoặc... hoặc là lỗi kỹ thuật? Tức là, chúng ta có bảo đảm được rằng nhóm này được gởi đến để thu xếp đoàn tàu?"

Wesker ngấm ngầm thở dài. William Birkin là một kẻ thông minh, nhưng luôn bị chứng hoang tưởng ám ảnh. Cái ý tưởng của lão thật trẻ con quá sức, khi cho rằng Umbrella đang muốn cuỗm lấy thành quả của lão.

"Chúng ta chắc chắn," hắn đáp. "Còn có thể là gì khác ngoài virus?"

Birkin hất đầu về phía màn hình, nơi có gã lính với cánh tay vươn dài. "Có lẽ để làm chuyện gì đó với thứ này."

Wesker nhún vai. Hẳn là một sự đột biến. Khác thường, nhưng thật khó tin nổi. "Tôi không nghĩ vậy. Đừng lo, William. Không ai ở cấp cao biết về thứ G-Virus xuất sắc của ông đâu." Không hoàn toàn, nhưng lúc này Wesker không rảnh để đi làm cái chuyện trấn an tinh thần. "Còn vụ đoàn tàu... có lẽ T-Virus là quá đủ để giải thích cho những thắc mắc."

Trông Birkin có vẻ chưa chịu tin. Cũng chẳng có gì kinh ngạc, vì Wesker cũng vậy. Nếu vụ lây lan trên đoàn tàu mà là tai nạn, hắn sẵn sàng đi đầu xuống đất.

"Biệt thự, phòng thí nghiệm, rồi đoàn tàu... Là ai đã làm?" Birkin khẽ hỏi. "Và tại sao chứ?"

Một người trong cặp dọn dẹp lên tiếng. "Chúng tôi đang xuống. Hết." Rồi tiếng vù vù của cánh quạt trực thăng nhỏ dần, thay vào đó là tiếng rầm rập của đoàn tàu đang di chuyển.

Đến lúc rồi. "Xuất sắc," Wesker nói, rồi lấy tay che microphone lại để trả lời Brikin.

"Giờ không phải lúc để hỏi chuyện đó. Vấn đề là phải giải quyết việc này cho êm xuôi, không để nó lan rộng thêm nữa. Đoàn tàu phải bị phá hủy. Mọi bằng chứng phải bị tiêu hủy, William, chắc ông cũng hiểu điều đó. Không có vấn đề gì ở đây cả. Ông đừng gây thêm rắc rối."

Hắn thả tay khỏi microphone. "Các anh cách chi nhánh gần nhất bao xa? Hết"

"Không đầy mười phút, gần như - "

Wesker chờ, nhưng chỉ nghe thấy tiếng sóng vô tuyến . "Sao? Nghe rõ trả lời? Hết"

Có tiếng rít the thé đáp lại, nghe muốn bể màng nhĩ. Wesker giật bắn người, nhìn thấy Birkin cũng nhăn mặt trước tiếng ồn -

- và có tiếng thét, cả hai người vừa lên tàu cùng thét liên hồi.

"Lạy Chúa, cái gì - "

"Chúa ơi!"

"Lôi nó ra khỏi tôi! Lôi nó ra!"

"Không! Khônggg! Khôngg!"

Có nhiều tiếng súng tắc nghẽn vang lên, bị át đi bởi tiếng gào đau đớn kinh hoàng - rồi mọi thứ im bặt, chỉ còn lại tiếng sóng vô tuyến.

Wesker nghiến chặt hàm răng, trong lúc Birkin sợ đến nỗi đánh bò cạp. Có vẻ như rốt cuộc cũng đã có vấn đề.

oOo

Cả hai đang đứng trước cánh cửa bị khóa, Rebecca cầm tấm thẻ đọc, cảm thấy chiến thắng này không hề tương xứng với những gì đã làm. Không biết có phải cô đã bị vắt kiệt hết cảm xúc không, nhưng quả thật nó chẳng phải là rắc rối gì lớn cho lắm, họ tìm được một cặp nhẫn, mở được chiếc cặp. Dù sao, cô cũng có cảm giác như họ vừa giải được bài toán về tượng Nhân sư Ai Cập.

Billy nhắc cô mau mở cửa, trong lúc hơi nghểnh đầu lên, vẫn đang nghe ngóng. Anh ta thề là đã nghe thấy tiếng trực thăng bên ngoài lúc họ chia ra đi tìm chiếc nhẫn, và có ai đó đã gào thét ngay sau đó. Rebecca lại chẳng nghe thấy gì cả. Anh ta hẳn cũng đang khó ở y như cô, nếu xét đến vấn đề -

- vấn đề là anh ta đang trên đường bị áp giải tới pháp trường. Cho nên đừng có so sánh. Dù có làm gì để giúp mày đi nữa, anh ta vẫn là kẻ thủ ác. Quên điều đó có thể phải trả giá bằng tính mạng.

Phải. Một khi cô tìm được phương tiện liên lạc, sự hợp tác giữa họ sẽ chấm dứt. Cô quét tấm thẻ qua khe đọc, tia sáng đỏ chuyển sang màu xanh. Cánh cửa kêu đánh tách một cái, và Billy mở nó ra.

Cánh cửa mở ra một lối đi có một phần lộ thiên, giữa tiếng tàu chạy gầm thét. Gió và sương mù táp vào mặt họ khi cả hai bước ra. Bên phải là một cái rương dụng cụ bị khóa, chạy dọc suốt chiều dài toa; bên trái chỉ có mỗi cái tay vịn và màn đêm hung tợn trôi qua vùn vụt. Ngay đằng trước là một toa tàu khác, có lẽ đầu tàu, thật khó nói chính xác trong bóng tối. Rebecca nắm lấy tay vịn khi thấy đoàn tàu chạy như bay trên đường ray, và -

Ôi.

Rebecca ngập ngừng, còn Billy tiến lên trước vài bước, khuỵu xuống bên cạnh một người đang nằm, không rõ nam hay nữ. Người thứ hai nằm cách đó chừng một mét; cả hai đều mang phục trang dùng để chiến đấu, khuôn mặt của họ được che phủ bởi cặp kính nhìn ban đêm.

Đội S.W.A.T. à? Họ lên đây hồi nào? Sao chỉ có hai người? Khi lại gần, cô thấy trên người cả hai đều có chất lỏng phát sáng, giống như cái thứ nhớp nháp đậm đặc mà lũ đỉa ở toa ăn để lại... còn trang bị của họ, loại dệt thép hiệu Kevlar, không có ghi ký hiệu. Không phải Sở cảnh sát Raccoon, cũng không phải quân đội.

Billy thì đang quan sát bức tường mắt lưới bên phải. Rebecca nhìn theo, phát giác đó là một thứ trông như cái lưới khổng lồ bám chắc vào cửa, treo lủng lẳng hàng ngàn cái kén trắng nhờ nhờ.

Trứng. Của lũ đỉa.

Rebecca rùng mình trong khi Billy đứng dậy, khẽ lắc đầu. Anh ta gần như phải hét lên giữa tiếng tàu chạy ồn ào.

"Không xong! Họ chết rồi!"

Rebecca đã chuẩn bị tâm lý trước, nhưng vẫn khó mà nuốt trôi sự thật đó. Cô bước qua và tự kiểm tra các thi thể xem có còn chút dấu hiệu nào của sự sống, chợt chú ý thấy có sự xuất huyết trên lớp da xanh xao. Billy nói đúng... và có lẽ cũng đúng về việc có nghe thấy tiếng thét. Hai cái xác vẫn còn âm ấm bất chấp cơn mưa,

Rebecca đứng lên nắm lấy tay vịn, nối bước Billy đi vào toa kế. Cô đang nghĩ không biết họ sẽ phải làm gì nếu cái cửa đó khóa, thì Billy đã đẩy nó ra.

Họ tránh xa cơn mưa để vào một khoang điều khiển tương đối nhỏ, sạch sẽ và ngăn nắp, nếu không tính đến một lớp mỏng cái chất phát sáng đang bao phủ bàn điều khiển đằng trước. Tiếng ồn ào vụt im bặt khi Rebecca đóng cánh cửa sau lưng lại, nhưng cô không chú ý tới điều đó bằng những ánh đèn đỏ nhấp nháy trên cái bàn điều khiển phát sáng.

Billy bước tới để nghiên cứu cái bảng điều khiển phức tạp một hồi, rối ấn lên một phím nằm trước cái màn hình nhỏ, nhưng nó vẫn im lìm. Anh quay lại nhìn cô một cách bất lực.

"Bị khóa," anh nói.

Rebecca rút thẻ đọc ra khỏi túi. Không thấy mặt nào có ghi số cả, nên họ chẳng biết phải nhập cái gì vào. Cô đến bên cạnh anh, cố gắng phớt lờ tiếng mưa đập lên kính chắn gió và hình bóng chập choạng của khu rừng bên ngoài, rồi nhấn vài phím. Cảm giác như bàn phím bị khóa, vì chúng hoàn toàn không có vẻ gì là bị hỏng. Cô bắt đầu tìm thử coi có thứ gì ghi chữ KHẨN CẤP không.

"Nhìn này," Billy nói, vói tay lên cái cần gạt nằm bên cạnh anh ta. Khi anh kéo nó, màn hình vi tính xuất hiện một loạt chữ chạy ngang.

THẮNG KHẨN CẤP - THIẾT BỊ ĐẦU VÀ ĐUÔI PHẢI ĐƯỢC KÍCH HOẠT TRƯỚC KHI THẮNG. PHỤC HỒI NĂNG LƯỢNG CHO THIẾT BỊ ĐUÔI?

Chính là bảng điều khiển cô đã thấy ở đuôi tàu. Billy nhanh chóng nhấn YES.

NĂNG LƯỢNG Ở THIẾT BỊ THẮNG ĐUÔI ĐÃ PHỤC HỒI.

"Ơn Chúa," Rebecca nói. "Dừng nó lại đi," Đoàn tàu có vẻ đi nhanh hơn bao giờ hết, tiếng động cơ rầm rập nghe lớn hơn trước, lớn đến phát sốc.

Billy kéo cần. Nó chạy khá êm, rất êm, và thêm nhiều chữ hiện trên màn hình

PHẢI KÍCH HOẠT THẮNG ĐUÔI TRƯỚC KHI SỬ DỤNG THẮNG KHẨN CẤP.

"Chắc điên quá," Billy cong môi lên. "Không thể sử dụng thắng khẩn cấp trong phòng điều khiển sao?"

"Theo đúng thì được, chỉ là chúng ta không có quyền truy cập," Rebecca nói. "Chắc phải làm thủ công... Tôi có thấy thiết bị ở đuôi, ở phía sau toa cuối cùng. Tôi sẽ tới đó."

Billy lắc đầu và nhìn ra màn đêm trôi vùn vụt bên ngoài. "Không, để tôi. Không phải muốn coi thường cô, nhưng tôi nghĩ mình chạy nhanh hơn. Tìm xem nó có hệ thống liên lạc nào không? Tôi sẽ thông báo cho cô một khi hoàn tất."

Hai người bắt đầu dò kiếm, nhưng bảng điều khiển quá phức tạp với hàng lô công tắc và bảng mạch, nên không biết chừng nào mới mò ra. Rebecca tính bảo anh ta thôi thì cứ chạy bộ vậy - với tốc độ chuyến tàu như vầy thì chạy chắc phải nhanh hơn bình thường - thì sực nhớ tới Edward.

"Bộ đàm của Edward," cô nói. "Anh ấy giữ nó trước khi - chắc nó vẫn còn trên mình anh ấy."

Billy quay người đi về phía cửa. "Tôi sẽ lấy nó dọc đường đi."

"Cẩn thận," cô nói.

Anh gật đầu, một lần nữa đưa mắt nhìn ra cửa sổ. "Chuẩn bị sẵn sàng để thắng nhé. Tôi có cảm giác là chúng ta nhất định sẽ sớm dừng lại thôi, không kiểu này thì kiểu kia."

Anh mở cửa, tiếng tàu ầm ĩ dội vào trong, và rồi đi mất.

Từng giây trôi qua. Rebecca đã chuẩn bị sẵn bộ đàm, và tay đặt lên cần gạt, mắt nhìn ra màn đêm lao vùn vụt bên ngoài. Đoàn tàu đang chạy rất nhanh theo một đường cong và cô nhắm chặt mắt lại, cầu cho cái thứ mất kiểm soát này còn nguyên trên đường ray, trong đầu tưởng tượng ra cảnh bánh xe cất lên rồi hạ xuống đường rãnh. Billy nói đúng; thế nào rồi họ cũng sẽ dừng lại, không kiểu này thì kiểu kia.

Sao lâu quá vậy? Chỉ mới có vài phút, nhưng như vậy là đủ lâu rồi. Cô chộp lấy bộ đàm, nhấn nút.

"Billy, tôi đây. Tình hình anh sao rồi. Hết."

Không có gì cả.

"Billy?" Cô chờ, đếm từ từ đến năm, tim bắt đầu đập thình thịch. Cô có thể thấy đoạn đường cong thứ hai đang đến. "Billy, tôi đây."

Chết tiệt! Có thế anh ta không tìm được bộ đàm, hoặc đã quên bật nó lên. Hoặc có trục trặc với bộ điều khiển, anh ta không thể kích hoạt thiết bị.

Hoặc có thể anh ta đã chết. Bị một thứ gì đó chộp được.

Đoàn tàu lướt đi theo đường cong, và lần này thì khỏi phải tưởng tượng. Nó nghiêng đi một cách nặng nề, rồi lao đi còn nhanh hơn khi lấy lại thăng bằng, rồi lại nuốt lấy một đoạn đường cong nữa. Cô phải tự mình quay lại, không còn thì giờ nữa, nhưng đâu có cách nào khác -

"Rebecca, thắng đi!"

Rebecca thấy có bóng mờ vụt qua bên phải, chuyến tàu đi nhanh đến độ cô không biết nó là cái gì đến khi đã chạy qua - là một sân ga. Sân ga, tức là thứ duy nhất còn lại mà đoàn tàu này có thể vượt qua, nghĩa là có lẽ đã quá muộn.

"Giữ chắc!" cô hét vào bộ đàm, kéo mạnh cần gạt hết mức có thể, và có thứ gì đó ập tới cửa sổ trước, tối hơn cả màn đêm, một đường hầm. Hệ thống phanh đang hoạt động, kêu rít lên trong lúc đoàn tàu chồm vào bóng tối, đâm qua những rào chắn mỏng manh, gỗ bắn tung tóe ngoài kính chắn, rồi nghiêng đi lần nữa, lần này nó không lấy lại được thăng bàng.

Rebecca nghe thấy tiếng la của chính mình hòa trong tiếng tàu lật nghiêng, tiếng kim loại bị xé toạc, điện xẹt tứ phía như pháo bông dưới địa ngục. Vách tàu trở thành mặt sàn, và Rebecca té dúi vào đó trong lúc đoàn tàu đâm sầm vào một thứ rất cứng, rồi đèn đóm tắt phụt.

--------------------------------------------------------------------------------

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro