Những xác chết hồi sinh(phần tiếp theo)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Những xác chết hồi sinh

Giờ hành động(tiếp theo)

Billy đau điếng tỉnh dậy giữa mùi khét lẹt. Anh nhướng mắt lên, chớp chớp, quan sát một vòng xung quanh ngay khi lấy lại được ý thức, phải nói là không được nhanh cho lắm. Anh đang nằm ngửa, mắt nhìn lên một cái trần tối thui trên cao. Xung quanh anh có ánh lửa cháy bập bùng, đá và gạch vụn nằm chất đống ngổn ngang bên tay trái. Không biết làm thế nào mà anh lại lọt vào trong này.

Thắng, đoàn tàu... Rebecca?

Ý nghĩ đó đánh thức anh dậy. Anh ngồi nhổm lên, thấy ngạc nhiên và nhẹ nhõm khi nhận ra mình chỉ bị căng ở vai cùng vài vết trầy, ngoài ra không bị gì khác.

"Rebecca?" anh gọi lớn và ho sù sụ. Bất kể nơi đây là đâu thì khói cũng đã bắt đấu tuôn ra từ cái đống hỗn độn. Anh, chính xác là cả hai người, phải rời khỏi chỗ này.

Anh đứng lên, co duỗi cánh tay phải trong lúc nhìn quanh quẩn. Dường như đoàn tàu đã đâm vào một nhà kho, kiểu như vậy - một khu vực trống trải rộng lớn xây bằng bê tông, một bên còn đang bắc giàn giáo, đằng trước có vài tia sáng bị che chắn. Không sáng mấy, nhưng khi nhìn xuống, anh vẫn thấy được lằn rãnh của đường ray ngay dưới chân, và nhận ra họ chắc đã đâm vào trạm bảo trì xe điện. Đại loại thế.

"Rebecca?" Anh gọi lần nữa trong lúc nhìn quanh đống đổ nát. Nhiều cây trụ bê tông đang cháy lách tách, và hàng loạt vũng dầu cũng bốc lửa chung quanh. Đầu tàu nằm lật nghiêng, còn những toa khác dồn thành một đống đằng sau, nằm chắn ngang một cái lỗ to khủng bố trên tường. Anh chẳng biết tìm cô ta ở đâu nữa. Lúc kích hoạt thắng đuôi xong, anh đã lao nhanh về phía đầu tàu; và dường như đã bị quăng tới chỗ phía sau toa hành khách...

"Uunh." Có tiếng phát ra từ một cái bóng ngồi thụp bên cạnh cột khói.

"Rebecca?" Billy lảo đảo tiến tới, hy vọng cô ta vẫn ổn. Cô đã hét lên hoảng hốt lúc gọi lại mà không thấy ai trả lời, lúc đó anh đang quá bận rộn với mấy cái nút bấm. Bây giờ anh thấy mình thật có lỗi; cô ta dẫu sao vẫn còn quá non, và rất dễ sợ sệt những chuyện không đâu. Đáng lẽ mình phải trấn an cô ta -

Anh đến bên cạnh cái bóng đang ngồi bẹp dưới đất và khuỵu chân xuống. Cô ta đang cúi mặt, còn bộ đồ thì tơi tả.

"Billy?"

Billy quay phắt lại, thấy Rebecca đang tiến đến gần mình, súng hờm trên tay. Có vài vệt máu chảy dài dưới mái tóc, nhưng nhìn bề ngoài thi có vẻ vẫn ổn -

- và cái bóng ngồi ngay trước mặt anh chồm dậy, cất tiếng rên rỉ, bàn tay nhuốm đầy máu chộp lên mặt anh. Mấy ngón tay thối rữa kéo lê bên má.

"Gah!" Anh thốt lên một tiếng la kinh tởm không thành lời và bật ra sau, ngã nhào xuống đất. Không rõ nó là nam hay nữ, bởi lẽ cả khuôn mặt lẫn thân hình nó đều đã bị hủy hoại, không biết do bị nhiễm hay do vụ va chạm. Nó trườn tới bằng đầu gối, cái mặt biến dạng ngoảnh về phía Billy. Nó há hốc miệng, nước miếng trộn lẫn máu nhễu ra từ hàm răng đã gãy trong lúc cố chạm vào anh.

"Tránh ra, để tôi," Rebecca lên tiếng, và anh chỉ còn biết vui lòng tuân theo, hai tay chỏi trên mặt đất, cái còng tay lủng lẳng nghiến vào thịt đau điếng, hai chân đẩy mạnh để lùi lại. Cô ngắm rồi siết cò hai lần, cả hai phát ghim thẳng vào cái sọ vốn đã hư hại, kết liễu nốt sự sống còn lại của nó. Nó sụm xuống cạnh đống bê tông với một âm thanh nghe như tiếng thở dài.

Billy đứng dậy, cả hai mất thêm vài giây để tìm kiếm quanh đống đổ nát, xem có còn cái thây nào khác chăng. Nếu có thì hẳn chúng đã trốn rất kỹ.

"Cám ơn," anh nói trong lúc nhìn lại cái xác thảm hại đó. Ít nhất thì cô ta cũng đã giúp nó giảm thiểu nỗi đau đớn - bằng hai phát ngay đầu. Anh đã ngạc nhiên và khá ấn tượng với kỹ năng bắn của cô. "Cô không sao chứ?"

"Vâng. Có bị đau đầu gần chết, nhưng chỉ có vậy. Lần va đập thứ hai trong ngày."

"Thật à?" Billy hỏi. "Lần thứ nhất là gì vậy?"

Cô mỉm cười và chuẩn bị trả lời - rồi thình lình ngưng bặt, dáng vẻ trở nên lạnh lùng, và Billy cảm thấy một nỗi đau thật sự; cô hiển nhiên đã nhớ ra mình đang nói chuyện với ai. Bất chấp tất cả, cô vẫn tin rằng anh là một tên giết người không gớm tay.

"Không quan trọng," cô nói. "Đi thôi. Chúng ta phải rời khỏi đây trước khi đám khói trở nên tồi tệ hơn."

Cả hai vẫn giữ máy bộ đàm, và mất thêm một lúc để tìm vũ khí của anh, nó bị khuất một nửa duới khối bê tông vỡ nát, cách nơi anh tỉnh dậy không xa lắm. Khẩu súng săn coi như đã mất. Không có thời gian để đi tìm nó; những đốm lửa nhỏ đang tắt dần, nhưng lớp khói đen dày đặc bay lượn trên trần thì ngày càng nhiều.

Họ rảo quanh khoảng không rộng lớn, tìm thấy một cánh cửa duy nhất cách cái đầu tàu hư hại chừng hơn hai mươi mét. Billy hy vọng nó dẫn ra một chỗ ngoài trời, như thế anh sẽ được tự do còn cô gái được an toàn. Trước khi mở cửa, anh nhìn lại cái đống lộn xộn đang cháy âm ĩ, nhếch mép.

"Ha, ít nhất chúng ta cũng đã làm được cái việc dừng nó," anh nói.

Rebecca gật đầu, nở nụ cười yếu ớt nhưng quả quyết. "Chúng ta đã làm được," cô phụ họa.

Cả hai quay lại đối diện với cánh cửa. Billy hít một hơi thật sâu rồi vịn lấy tay nắm, đẩy nó ra.

oOo

Mọi thứ thật quái đản. Chứng kiến đoàn tàu đâm sầm vào tầng hầm trong khu huấn luyện, lắng nghe tiếng va chạm vang dội ngay tiếp theo sau. Cả hai cùng cảm thấy một tiếng ầm ì lan tỏa khắp những bức tường xung quanh. Sau vài giây, máy quay đã bị khói đen phủ kín.

"Chúng ta phải rời khỏi đây ngay thôi," Birkin vừa nói vừa đi tới đi lui sau lưng Wesker. Lão không lo về chuyện lửa, vì cái trạm dừng cũ kỹ đó hầu như được xây bằng xi măng - nhưng vụ va chạm nhất định sẽ gây chú ý, mà đâu phải mọi viên cảnh sát và lính cứu hỏa trong vùng đều là người của Umbrella. Khu nghiên cứu này biệt lập, nhưng chỉ cần một cú điện thoại của một công dân có liên quan là những vũ khí sinh học của Umbrella sẽ bị lộ ngay.

Wesker hình như không nghe thấy . Hắn nhấn nhấn trên nút điều khiển màn hình, chuyển cảnh sang các máy quay ở những khu vực khác, có vẻ đang tìm kiếm gì đó. Hắn đã không thèm mở miệng kể từ sau cuộc liên lạc cuối cùng với đội dọn dẹp.

"Anh có nghe tôi nói gì không đó?" Birkin hỏi, không phải là lần đầu từ nãy đến giờ. Lão đang căng thẳng, và thái độ bình thản của Wesker chỉ khiến lão thêm bối rối.

"Tôi có nghe, William," Wesker đáp, vẫn đang nhìn màn hình. "Nếu ông muốn đi thì cứ đi đi."

"Sao? Anh không đi à?"

"Ồ, lát nữa đã," hắn trả lời, giọng nói điềm đạm thản nhiên. "Tôi chỉ muốn xem xét lại vài thứ."

"Thứ gì? Đoàn tàu đã được dọn dẹp rồi. Chẳng phải chúng ta tới đây vì việc đó thôi sao?"

Wesker không trả lời mà chỉ tiếp tục quan sát màn hình. Birkin nắm chặt hai tay lại. Không thể chịu nổi thằng cha này nữa! Đúng là cái đồ rối loạn nhân cách. Lúc nào cũng tự coi mình là cái rốn của vũ trụ.

Mình còn có việc phải làm, Birkin nghĩ thầm, đưa mắt nhìn ra cửa. Công việc, gia đình... lão đâu có rảnh mà chờ đợi một thằng dở hơi, cứ cắm cúi lục lọi xem tại sao lại có zombie đi lang thang xung quanh một vụ va chạm...

"Bọn chúng kìa," Wesker lên tiếng, tay nhấn một phím bên dưới màn hình. Đó là tiền sảnh chính của trung tâm, nơi được xây dựng để đón các quan chức cao cấp và đội bảo an đến với thế giới bán-hợp-pháp của tổ chức White Umbrella.

Trước sự chứng kiến của cả hai, một bàn tay nhô khỏi sàn, đẩy bật lên một nắp đậy hình vuông.

Đó là đuờng hầm thâm nhập cũ, dẫn đến từ trạm. Birkin rướn người tới, thấy tò mò hết sức.

Một gã đàn ông với hình xăm khá tỉ mỉ trên cánh tay đang trườn ra khỏi ô vuông ở góc tây bắc căn phòng, theo sau là một phụ nữ nhỏ nhắn mặc quân phục S.T.A.R.S., một cô gái hẳn hoi. Cả hai đều cầm súng ngắn, và đang nhìn quanh cái tiền sảnh trang trí tinh xảo bằng vẻ mặt mà Birkin không thể xác định được qua màn ảnh nhỏ.

"Đám nào thế này?" lão hỏi.

"Con bé là tân binh S.T.A.R.S., nhóm B," Wesker đáp. "Không phải là một nhân vật tài ba gì. Gã kia thì tôi không nhận ra."

"Anh có nghĩ - bọn họ đã ở trên đoàn tàu?"

"Hiển nhiên rồi," Wesker đáp.

Birkin cảm thấy nỗi sợ trào lên. "Chúng ta làm gì bây giờ?"

Wesker liếc nhìn lão, cau mày. "Ý ông là sao?"

"Bọn họ - cô ta thuộc đội S.T.A.R.S., và ai mà biết cô ta đang tính làm gì. Nếu bọn họ thoát được thì sao?"

"Đừng có ngốc, William. Bọn nó không thoát được đâu. Ngay cả khi khu nghiên cứu này không bị cô lập, thì vẫn còn đầy rẫy những vật chủ. Chỉ cần mở một hoặc hai cánh cửa là bọn nó không còn có cơ hội gây thêm rắc rối nữa."

Cái giọng ôn tồn của Wesker nghe ớn lạnh, nhưng hắn nói đúng. Không một ai có khả năng thoát khỏi chỗ này.

Dướ sự quan sát của họ, hai kẻ xâm nhập đang di chuyển thận trọng quanh căn phòng lớn, một trong số ít ỏi các phòng ở đây vắng bóng những vật chủ bị nhiễm, cả hai rà soát từ bên này sang bên kia. Sau khi đã kiểm tra kỹ lưỡng, cô gái bước lên cầu thang lớn, dừng lại trước cái tầng lửng. Có một bức chân dung lớn của Tiến sĩ Marcus - và cô ta có vẻ ngạc nhiên, dường như là nhận ra nó. Gã có hình xăm đến bên cô ta, và Birkin có thể thấy gã đang đọc lớn tấm thẻ bài đính dưới chân dung.

TIẾN SĨ JAMES MARCUS, TỔNG GIÁM ĐỐC ĐẦU TIÊN.

Birkin cựa mình một cách khó chịu. Lão ghét cái hình đó. Nó gợi lại ký ức về việc lão đã bắt đầu làm việc thực thụ cho Umbrella như thế nào, một điều lão không muốn nghĩ tới -

"Chú ý. Đây là Tiến sĩ Marcus."

Birkin nhảy nhổm lên, hai mắt trợn tròn nhìn quanh, tim đập thình thình. Wesker không hề nao núng, mà còn vặn to nút âm thanh trên bảng điều khiển của hệ thống truyền âm cũ kỹ, trong lúc giọng nói của kẻ đã chết mười năm trước vang khắp khoảng không trống trải, lan khắp các hành lang của khu liên hợp.

"Vui lòng yên lặng trong khi cùng duyệt lại qui cách ứng xử của công ty chúng ta. Vâng lời sinh ra kỷ luật. Kỷ luật sinh ra đoàn kết. Đoàn kết làm nên sức mạnh. Sức mạnh là cuộc sống."

Cặp nam nữ trên màn hình cũng đang nhìn quanh quất, nhưng Birkin không mấy chú tâm đến họ. Lão vịn vai Wesker một cách căng thẳng. Đây là giọng ghi âm, giọng nói mà lão đã không nghe thấy nữa từ hồi lão và Wesker còn học việc ở khu nghiên cứu. Ở đâu? Ai?

Wesker gạt tay lão ra, hất đầu về phía màn hình, nơi hình ảnh đang mờ dần. Hình như nó đang nhấp nháy - và rồi họ thấy một thanh niên trẻ xuất hiện trong một khung cảnh khác. Birkin không nhận ra căn phòng, nhưng gã thanh niên đang nhìn họ thì trông rất quen. Hắn có mái tóc dài và đôi mắt đen láy, ước chừng hai mươi tuổi - và có một nụ cười sắc lạnh tàn khốc, một nụ cười bén ngót như lưỡi dao.

"Mày là ai?" Wesker hỏi, hiển nhiên không mong được phản hồi, vì chẳng có thiết bị âm thanh nào được gắn ở đó cả -

Gã thanh niên mỉm cười, từng lời nói ngọt ngào như được rót ra từ hệ thống truyền thanh. Thật khó tin - hắn không có đeo tai nghe, cũng không có thiết bị nghe nào gần đó - nhưng cả hai vẫn nghe được tiếng hắn rõ ràng.

"Ta chính là kẻ đã thả T-Virus ở biệt thự," hắn lạnh lùng cất tiếng. Nụ cười còn bén nhọn hơn trước. "Chắc không cần phải nói thêm, rằng cũng chính ta đã tàn sát đoàn tàu."

"Cái gì?" Birkin buộc miệng. "Tại sao?"

Giọng nói lãnh đạm của gã thanh niên trầm hẳn xuống. "Để báo thù. Umbrella."

Hắn di chuyển ra ngoài tầm máy quay, tay giơ về phía bóng tối. Birkin và Wesker chồm lên, cố gắng nhìn xem hắn làm gì, nhưng chỉ thấy có chuyển động trong bóng tối, rồi có tiếng nước -

Gã thanh niên trở lại nhìn họ, nụ cười càng thêm sắc bén - và từ bóng tối sau lưng hắn bước ra một người cao dong dỏng, có học thức, mặc đồ vét và thắt cà vạt, mái tóc trắng chải ngược ra sau, vẻ mặt luống tuổi nhưng mạnh mẽ, đầy uy quyền. Giống y như khuôn mặt trên bức chân dung của tiền sảnh.

"Tiến sĩ Marcus?" Birkin thở dốc.

"Mười năm trước, Tiến sĩ Marcus đã bị Umbrella sát hại," gã thanh niên cất tiếng gầm gừ. "Và các người đã giúp bọn chúng, đúng không?"

Hắn lại cười, một nụ cười ngọt xớt và tăm tối, nụ cười hứa hẹn không chút khoan nhượng. Birkin và Wesker nhìn sững sờ, choáng váng đến độ im bặt trước sự hiện diện sống động của người mà chúng thấy đã chết hồi mười năm trước.

Gã thanh niên cất tiếng hát, và nhiều thực thể, những đứa con của hắn, dịch chuyển máy quay đi, thay đổi nút điều khiển để giọng của hắn vang xa hơn. Hắn nói tất cả những dự định của mình vào lúc này; có nhiều chuyện để làm, nhiều chọn lựa để cân nhắc. Mọi việc đều đã tiến triển, tiến triển theo những chiều hướng mới.

Hắn chuyển sang tông thấp, và hình ảnh Marcus tan biến đi, thay thế bằng lũ con. Chúng bu quanh chân hắn, đua nhau trèo lên người hắn, vuốt ve trìu mến. Chờ đợi hắn quyết định bước hành động tiếp theo.

Không có kế hoạch nào khác, ngoài việc tiêu diệt Umbrella. Hắn đã và sẽ tiếp tục tận dụng tất cả những gì có trong tay - virus, những thực thể, những người giả mà chúng có thể tạo thành, Marcus chẳng hạn; hắn đang nhắm vào những thứ mang lại lợi ích cho Albert và William, và chắc chắn đã khiến bọn chúng phải hoảng hốt, lúng túng.

Gã thanh niên mỉm cười. Thật ngẫu nhiên làm sao, khi có người làm nhân chứng cho sự sụp đổ. Nếu may mắn, hắn sẽ có cơ hội chứng kiến bọn chúng giãy chết, sẽ dửng dưng đứng nhìn như chúng cũng đã từng làm với ông thầy thông thái lúc hấp hối... Mặc dù cái chết của bọn chúng chẳng là gì trong bối cảnh toàn cục. Cái tên Umbrella rồi sẽ sớm lùi vào dĩ vãng.

Hắn cân nhắc về cặp nam nữ, nghĩ xem nên sử dụng họ như thế nào trong khu liên hợp này. Ý nghĩ đầu tiên là giết luôn bọn họ, cho khỏi thêm phiền phức, nhưng như vậy thì phí công quá; suy cho cùng, Umbrella chẳng phải cũng là kẻ thù của họ đó sao? Họ sẽ chiến đấu vì sinh tồn, vì tự do - và nếu thành công, họ sẽ lập tức thu hút sự chú ý về vụ thảm họa, sẽ đóng dấu thập giá lên mộ phần của Umbrella. Phá hoại phòng thí nghiệm, giết nhân viên - bọn chúng rồi cũng xây thêm phòng thí nghiệm mới, tuyển mộ người mới. Nhưng nếu giới truyền thông quốc tế chĩa mũi dùi về phía Umbrella, bọn chúng sẽ hoàn toàn lụn bại... Và cả thế giới sẽ biết tới tên hắn.

Khu nghiên cứu đã bị khóa kín, dĩ nhiên rồi. Hầu hết được thiết kế với những cảnh cửa chỉ mở được bằng cách giải đố, và những lối đi giấu kín giống như biệt thự Trevor, được xây cách đây một thập niên. Oswell Spencer, một trong các nhà đồng sáng lập của Umbrella, luôn bị ám ảnh bởi tiểu thuyết lẫn phim ảnh trinh thám, cộng thêm chứng hoang tưởng mà những kẻ lắm tiền nhiều của hay có, nên đã tạo dựng một hệ thống khóa cực kỳ bảo mật. Có những chìa khóa bị dấu, những cánh cửa không thể mở nếu thiếu các thành phần cần thiết, thậm chí có vài nơi được thiết kế để bẫy những kẻ xâm nhập sơ ý. Thoát khỏi đây là một việc không dễ dàng cho bất cứ ai.

Nhưng vẫn còn những người giả có thể xâm nhập vào bất cứ đâu trong khu liên hợp, những kẻ được tạo thành từ các thực thể, sẵn sàng truyền nhiễm cho bất kỳ ai đến gần; chính chúng đã góp phần đắc lực trong việc lây lan virus ở nơi ban đầu. Hắn có thể sử dụng chúng để mở toang khu huấn luyện, để thu thập các khóa và mở các cửa, để bảo đảm rằng cặp nam nữ kia có cơ may sống sót. Chỉ là chuyện vặt - những người giả không phải chỉ biết gieo rắc virus - chúng còn có khả năng co dãn đàn hồi hơn bất kỳ thứ gì.

Gã thanh niên mỉm cười, nghĩ tới Albert và William, tự hỏi không biết bọn chúng nghĩ gì; ôi những sinh viên xuất sắc của James Marcus, đang làm cái việc khắc phục hậu quả cho Umbrella. Sau ngần ấy năm. Thật mỉa mai không để đâu cho hết.

Lũ con đang thủ thỉ với hắn, che chở hắn, hân hoan theo nụ cười của hắn, và chúng cùng cất cao giọng hát ngọt ngào, một bài hát hợp xướng hỗn loạn, trong lúc những cơ thể bóng mượt lạnh ngắt nhờ đã uống no máu kẻ thù kết hợp lại, bao bọc lấy hắn.

oOo

"...làm nên sức mạnh. Sức mạnh là sự sống." Giọng nói mạnh mẽ dần dần biến mất, tiền sảnh rộng lớn lại chìm vào yên lặng. Có lẽ là giọng ghi băng, vì nghe nó không giống như phát âm trực tiếp, tuy nhiên có người đã bật lên - và cô nghĩ mình biết đó là ai. Cô nhìn lại tấm chân dung tiến sĩ Marcus, cảm thấy gai ốc chạy dọc xương sống.

"Thật kinh tởm," Billy nói.

"Còn chưa tởm bằng lúc thấy hắn trên tàu," Rebecca nói, hất đầu về phía bức tranh. "Được làm bằng những con vật nhớp nháp."

"Có lẽ là một dạng thức khác khi bị nhiễm virus," Billy nói.

Rebecca gật đầu, mặc dù vẫn nghi ngờ điều đó. Những con zombie trên tàu và gã đàn ông trong toa ăn - kẻ đã từng là James Marcus - trông không giống như có cùng một căn bệnh.

"Hoặc lũ đỉa đã xâm nhập cơ thể người, và... tôi không biết nói sao nữa, chiếm hữu người đó," cô nói.

"Có thể lắm," Billy nói. Anh đưa tay vén tóc và cười với cô, một nụ cười thân thiện đáng kinh ngạc. "Dù sao đi nữa, cô cũng nên tìm điện thoại hay thứ gì đó để gọi đồng đội tới."

Ngữ điệu anh ta nghe có phần thô bạo. Rebecca bóp chặt lấy khẩu súng. "Còn anh sẽ làm gì?"

Billy quay lưng bước nhẹ nhàng xuống cầu thang. "Chắc là cuốc bộ một chuyến," anh nói với lại.

Cô đi theo anh đến cổng trước, không biết mình nên làm gì, nên nói gì. Cô không nghĩ mình đủ gan bắn anh ta, nhất là sau khi anh đã cứu mạng cô, nhưng cũng không thể cứ để anh ta ra đi. "Tôi không nghĩ như vậy là xong," cô nói.

Anh mở cổng. Không khí ban đêm mát lạnh ập vào, cơn mưa đã chuyển sang lất phất. "Phải nói là tôi đánh giá cao sự quan tâm của cô, nhưng có vẻ tôi đang nắm quyền chủ động thì phải? Cho nên chỉ việc -"

Anh đứng sững lại, bỏ dở câu nói, nhìn qua làn mưa đằng trước. Có vẻ đây là một căn cứ được xây trên sườn đồi. Trước mặt họ là một lối đi lớn cỡ một con đường, rộng khoảng mười mét - và chấm dứt đột ngột bởi một khoảng không bất tận.

Cả hai cùng rảo bước đến mép lối đi. Có ánh sáng phát ra từ trụ đèn hai bên cổng; chỉ còn một cái hoạt động, nhưng cũng đủ để thấy rằng họ đừng hòng đi đâu mà không có dây thừng. Cuối lối đi là một dãy gạch vụn lởm chởm, nằm trên một sườn dốc sâu ít nhất năm mét, có thể hơn. Trời quá tối để có thể phán đoán.

"Hồi nãy anh định nói gì?" Rebecca hỏi.

"Cho nên tôi sẽ tìm cửa khác," Billy đáp, quay trở lại tòa nhà. Trông nó giống một biệt thự, được trang trí theo kiểu nhà nghỉ cuối tuần của bọn tỉ phú lắm trò, và rồi cả hai thấy chữ CĂN CỨ HUẤN LUYỆN UMBRELLA nổi bật trên cánh cửa lát đá trang trọng. Rebecca có cảm giác như mình vừa bị ra lệnh hành quyết. Ban đầu cứ tưởng nơi này bị bỏ hoang, nhưng nó vẫn có điện, ánh sáng... Tất nhiên rồi, vì tất cả những gì họ đã thấy chỉ gói gọn ở nơi đụng tàu, cái tiền sảnh xa hoa, và đường hầm nối liền hai nơi. Quá ít để nhận xét.

"Đến giờ thì đã thấy có ít nhất hai cánh cửa, chưa tính tới trên đỉnh cầu thang," anh nói tiếp. "Và nếu không có đường nào đi, chắc tôi sẽ bò trở lại chỗ đoàn tàu."

"Trừ khi đồng đội của tôi không xuất hiện trước," Rebecca nói. Cô lùi lại, nhấc bộ đàm lên và nhất nút truyền tin. Bộ đàm của Billy kêu bíp một cái, nhưng chỉ có vậy. Sau một hồi chờ đợi, không có âm thanh nào khác ngoài tiếng mưa nhỏ giọt trên những nhánh cây, Billy cười chế nhạo.

"Trừ khi cô tìm được điện thoại."

Anh ta lại giở trò chơi khăm. Cô quay phắt trở lại ngôi nhà, thấy hơi ngạc nhiên lúc đến bên cửa, không hiểu sao mình có thể an tâm khi quay lưng phía anh ta... Dù sao, nếu muốn cô chết thì anh đã có hàng tá cơ hội rồi. Bất chấp những ý nghĩ trái ngược, cô vẫn khó mà nhận thấy anh ta có gì nguy hiểm. Bản năng đang mách cho cô điều ngược lại, và đó là một trong những bài học đầu tiên được dạy ở S.T.A.R.S. - chỉ có hiểu lầm trực giác, chứ bản thân trực giác không bao giờ lầm.

Anh bám sát phía sau khi cô bước vào trong - cả hai cùng dừng lại, nhìn chăm chú. Bức chân dung của Marcus đã biến mất. Thay vào đó là một ô cửa, tạo nên một lỗ hổng trên tường; với góc nhìn của họ từ phía dưới cầu thang, không thể biết được cái gì đằng sau lỗ trống đó.

Cô đang tính bảo Billy lùi lại thì anh ta đã tiến lên trước, súng lăm lăm trong tay. Trong lúc anh rà soát chung quanh với dáng vẻ và ánh mắt cảnh giác cao độ, cô một lần nữa có cảm giác mạnh mẽ, rằng thực chất anh ta không giống như vẻ bề ngoài.

Tôi đâu có cần được bảo vệ. Cô di chuyển tới bên anh ta, cũng kiểm tra căn phòng theo cách đã được huấn luyện, cả hai cùng leo lên cầu thang, dừng chân trên đỉnh. Cái ô cửa mới xuất hiện mở ra một cầu thang hướng xuống, dưới cùng là một hành lang trống rỗng.

"Có ý kiến gì không?" Billy hỏi trong lúc ngó xuống.

"Ai đó muốn chúng leo xuống thì phải," cô đáp.

"Tôi cũng nghĩ vậy. Và tôi cũng nghĩ đây là một giải pháp không hay chút nào."

Rebecca gật đầu. Cô quay lưng lại, nhìn quanh xem có còn đường nào khác. Dưới cầu thang có hai cánh cửa, một bên trái, một bên phải. Trên tầng hai, cô thấy thêm bốn cái nữa tính từ vị trí đang đứng - và trong khi đang ngó tới ngó lui, một tiếng thùm phát ra đâu đó sau lưng họ, chính là từ cái hành lang tối tăm trống trải bên duới. Nghe như tiếng rơi của một vật rất nặng và rất mềm. Không nói một lời, cả hai cùng lảng ra xa cái ô cửa đó.

"Tôi nghĩ chúng ta nên gia hạn thời gian đình chiến?" Billy hỏi một cách nhẹ nhàng, nhưng không hề cười.

Rebecca gật đầu. "Được," cô đáp, lòng tự hỏi không biết họ đang đối phó với cái gì, và phải trả cái giá nào nếu muốn thoát ra.

--------------------------------------------------------------------------------

Last edited by Lioncoeur; 14-02-2008 at 22:29.

Hai người trở xuống dưới tiền sảnh. Billy mừng thầm khi cô đồng ý tiếp tục hợp tác. Dù đây là đâu đi nữa thì cũng không tốt lành gì. Cô ta non kinh nghiệm, nhưng ít ra cũng không ấm đầu.

"Chúng ta nên chia ra," Rebecca nói.

Billy nặn ra một nụ cười chẳng có chút xíu gì là hài hước. "Cô bị ấm đầu hả? Cô có coi phim kinh dị bao giờ chưa? Thêm nữa, thử nhớ lại xem chuyện gì đã xảy ra lần trước?"

"Chúng ta đã tìm được khóa mở cái cặp, nếu tôi nhớ không lầm. Và điều chúng ta cần lúc này là tìm đường thoát khỏi đây."

"Phải, nhưng cô còn sống," Billy nói. "Nhìn qua cũng biết chỗ này đầy rẫy cạm bẫy. Lúc trên tàu tôi đề nghị đình chiến, bởi vì tôi không muốn chết, được chưa?"

"Anh đã tự xoay sở rất tốt đó thôi," cô đáp. "Tôi đâu có nói là chúng ta nên đâm đầu vào rắc rối. Chỉ là mở vài cánh cửa. Với lại chúng ta có bộ đàm mà."

Billy thở dài. "S.T.A.R.S. không dạy cô cách hành động theo nhóm à?"

"Thực ra, đây là nhiệm vụ đầu tiên của tôi," Rebecca nói. "Coi nào, chúng ta chỉ việc nhìn quanh, và gọi cho nhau nếu tìm được gì đó. Tôi sẽ lên cầu thang, anh kiểm tra dưới này. Trường hợp bộ đàm hỏng, gặp lại tại đây sau hai mươi phút nữa."

"Tôi không ưa chút nào."

"Anh không cần ưa, chỉ cần làm thôi."

"Sir, yes, sir," Billy đứng nghiêm. Cô ta có khuynh hướng muốn lãnh đạo, vậy thì cứ cho cô ta làm vậy - mặc dù có lẽ không quá khó khăn để ra lệnh cho một tên tử tù, trên cương vị một người nhân danh luật pháp. "Cho hỏi cô bao nhiêu tuổi? Tôi muốn biết chắc rằng mình đang nhận lệnh từ một người trưởng thành hơn tuổi của một hướng đạo sinh."

Rebecca quắc mắt nhìn anh chàng, rồi quay lưng leo trở lên cầu thang. Vài giây sau, anh nghe tiếng đóng cửa.

Vậy đó. Billy ngó quanh tiền sảnh. Phải, trái, phải,...

"Trái," Billy buộc miệng, và đi về bên trái. Anh chẳng muốn đi một mình chút nào, dù gì có hỗ trợ vẫn hơn, nhưng có lẽ theo cách này cũng tốt; nếu tìm được lối ra, anh sẽ chuồn một mình, sau đó gọi cho cô ta nói lời tạm biệt trên đường đi. Để cô gái lại phía sau khiến anh thấy bứt rứt, nhưng cũng ổn thôi, cô ta hoàn toàn có thể nấp đâu đó và chờ cứu viện. Anh phải lo cho thân mình trước; rủi mà xuất hiện thêm các thành viên S.T.A.R.S., hoặc Cảnh sát Raccoon hay quân cảnh, anh chỉ có nước ngoan ngoãn trở về Ragithon.

Billy dẹp hết những ý nghĩ đó khi đến bên cửa. Anh đã ích kỷ hơn trước nhiều kể từ lúc bị kết án, đã không ngừng bị dằn vặt bởi nỗi đau đớn xen lẫn phẫn nộ. Anh đã thoát được bàn tay tử thần sau vụ tai nạn xe jeep, nên nếu nghĩ kỹ thì cảm xúc đó cũng là đương nhiên. Anh nhất định phải giữ nguyên nó.

"Để coi có gì sau cửa số một," anh lầm bầm, tay đẩy cửa - và lập tức nâng súng, chỉnh tầm ngắm. Đây là phòng ăn, một nơi đã từng hoàn toàn tao nhã. Còn hiện tại, có hai ba kẻ bị nhiễm đang lê lết quanh cái bàn bẩn thỉu giữa phòng, và cả ba quay mặt về phía anh. Trông chúng giống y như zombie, với làn da xám xịt và thủng lỗ chỗ, tròng mắt trắng dã. Một đứa còn dính lủng lẳng cái nĩa một bên vai.

Billy nhanh chóng đóng sập cửa, bước lùi lại, chờ xem có sinh vật nào biết xài tay nắm cửa không, tiền sảnh vắng ngắt khiến anh có có cảm giác như bị ai nhìn sau lưng. Sau một thoáng, anh nghe thấy tiếng bước chân cạ sát cửa, rồi tiếng rên khe khẽ thất vọng, thứ âm thanh duy nhất mà bọn zombie có.

Thế đấy. Ngôi nhà, căn cứ huấn luyện, dù là cái gì đi nữa, cũng đã bị lây nhiễm như trên tàu. Đấy là câu trả lời thích đáng nhất. Anh cầm lấy bộ đàm, nhấn nút.

"Rebecca, tôi đây. Chúng ta có bọn zombie ở đây. Hết." Anh bắt đầu nghĩ tới con quái vật bò cạp và rùng mình, hy vọng ở đây chỉ có zombie thôi.

Yên lặng một chốc, rồi giọng cô gái cất lên. "Nghe rõ. Anh cần trợ giúp không? Hết."

"Không cần." Billy cáu tiết. "Nhưng cô không nghĩ là cần thay đổi kế hoạch à? Hết"

"Chẳng thay đổi gì cả," có nói. "Chúng ta vẫn phải tìm cho được đường ra. Tiếp tục kiểm tra đi, thấy gì khác thì hãy gọi tôi. Hết"

Tuyệt. Cô gái phi thường vẫn khư khư giữ nguyên kế hoạch. Vậy thì cửa số hai thôi, trừ khi anh muốn thử vận may với ba con zombie. Billy quay lại và băng ngang phòng, tự nhủ như thế chỉ tổ phí đạn vô ích. Sự thật là anh chẳng muốn bắn vào những kẻ bị nhiễm bệnh, dù có loạn trí đến đâu đi nữa... Và vì zombie là những thứ hết sức quái gỡ, nên nếu tránh được thì cứ tránh.

Anh đẩy cửa số hai, lấy tay vịn nó, cảnh giác cao độ. Nó mở ra một hành lang trải thảm nhung chạy dọc về bên phải, có góc rẽ không xa phía trước. Không có tiếng động hay sự di chuyển nào, cộng thêm mùi bụi ẩm thấp, ngoài ra không có vẻ gì là nguy hiểm. Anh chờ một lúc rồi bước vào, thả cho cánh cửa đóng lại phía sau.

Billy rón rén đi dọc hành lang, chân đạp nhẹ trên tấm thảm dày cộp, tiến dần đến góc rẽ với vũ khí trên tay, và thở phào khi thấy nó an toàn. Không quá tệ. Hành lang tiếp tục kéo dài và có một lối rẽ nữa, nhưng trước tiên anh phải thử cánh cửa nằm ngay bên trái.

Billy đẩy cửa - và mỉm cười với cái nhà vệ sinh trống không, với dãy bồn rửa mặt nhìn thấy từ vị trí đang đứng.

"Làm mình sực nhớ," anh nói rồi bước vào trong, nhanh chóng kiểm tra xung quanh; mấy cái bồn rửa mặt nằm dọc hai bên vách tường của căn phòng hình chữ U, bốn ngăn toa lét nằm chiếm hết một phần ba, khuất khỏi tầm nhìn từ ngoài cửa. Cũng y như phần còn lại của tòa nhà, trông nó có vẻ bị bỏ hoang; một trong số các cửa toa lét treo lủng lẳng trên bản lề, bồn cầu thì nứt gãy, một ít phần còn lại văng rải rác dưới sàn, còn có chai lọ rỗng, chậu cây, những thứ rác vụn khác thường với một nhà vệ sinh. Thậm chí có cả bình ga plastic bên cạnh một vách ngăn. Điều trái ngược là vẫn có nước sạch trong bồn... Quá tốt cho một cuộc viếng thăm cấp tốc.

Anh mới vừa kéo khóa quần lên chừng một phút thì nghe có tiếng chân bước vào nhà vệ sinh. Một bước, dừng lại một hồi... rồi bước thứ hai.

Không biết lúc nãy có đóng cửa chưa? Anh không nhớ nữa, và thầm nguyền rủa cái quần lót. Anh kéo vũ khí ra và nhón chân, khẽ mở cửa toa lét. Từ chỗ này không thể thấy được cửa ra vào, nhưng vẫn quan sát được phần còn lại phản chiếu qua tấm gương dài gắn trên bồn rửa mặt. Anh nâng súng lên rồi chờ đợi.

Bước chân thứ ba, và lại tiếp tục im lặng. Dù là ai thì họ cũng đang bị ướt chân, vì anh có thể nghe được tiếng đạp nước phát ra khi đế giày nhấc lên khỏi sàn - rồi đến bước thứ tư, Billy đã thấy được người đó qua gương, anh bước ra khỏi buồng, cảm giác vừa ghê tởm vừa nhẹ nhõm khi đã sẵn sàng nhả đạn. Đó là một con zombie, đàn ông, khuôn mặt đen bóng, hai mắt đờ đẫn trong lúc toàn thân lắc lư, cố gắng giữ thăng bằng. Trông chúng thật tởm - nhưng ít nhất tương đối chậm chạp. Cho dù anh không thích làm việc này, nhưng giết nó dẫu sao cũng là một điều ân huệ.

Con zombie tiến thêm một bước, rơi vào tầm bắn của Billy. Billy ngắm thật cẩn thận, hướng thẳng vào phía trên tai phải của nó, anh không muốn phí một viên đạn nào -

- và con zombie thình lình quay người thật nhanh, nhanh ngoài tưởng tượng. Nó khẽ cúi mình, nhìn chằm chặp Billy bằng một con mắt nhuộm máu, con mắt kia nhìn lên tường, rồi giơ tay về phía anh, vẫn còn cách xa hai mét -

- bỗng cánh tay nó duỗi dài ra, mỏng dẹp lại, quật về phía anh như thể làm bằng cao su, cái áo thun nhợt nhạt và ươn ướt cũng kéo dãn theo.

Billy thụp xuống. Cánh tay của nó lướt ngang đầu anh và đập vào tường đánh bẹt một cái, rồi rút lại, quay trở về cơ thể không phải người của cái thứ trông như một con zombie.

Trên chuyến tàu, giống như Marcus -

Khoảng cách đủ gần để anh thấy được chuyển động trên quần áo của những sinh vật, chúng tạo nên một hiệu ứng rách toạc rất kỳ quái khi cánh tay thu về chỗ cũ. Lũ đỉa, sinh vật đó được làm bằng những con đỉa, và khi nó tiến lại gần hơn, Billy loạng choạng lui trở lại vào trong vách, nã súng vào khuôn mặt ươn ướt của nó.

Nó khựng lại, một vệt đen chảy xuống từ vết thương ngay dưới mắt trái - và rồi vết thương biến mất, lớp da giả trượt đi nhẹ nhàng, những con đỉa tự động hoán chuyển vị trí. Tự cứu chữa.

Nó lại tiến thêm một bước nữa, Billy đá vào cửa toa lét và đóng sầm lại, giữ chặt nó bằng một chân, đầu óc lướt qua hàng loạt giải pháp và nhanh chóng bác bỏ hết .

Gọi Rebecca, không đủ thì giờ, tiếp tục bắn, không đủ đạn, chạy, nó chặn đường rồi -

Billy rít lên bất lực - và ánh mắt điên cuồng của anh rơi trúng cái bình ga plastic đỏ trên sàn. Anh chồm tới, lấy vai tỳ lên cửa và lục lọi trong túi trước. Đây rồi, nằm dưới viên đạn súng săn -

Anh lấy ra cái bật lửa mà mình nhặt được trên tàu, thầm tạ ơn Chúa, rồi cúi xuống nhấc bình ga lên, cái còng lủng lẳng cạ vào lớp plastic. Nó còn chưa đầy một nửa. Lạy Chúa, hy vọng ga -

Cửa toa lét bị tông mạnh như thể có ai dộng bằng gỗ. Billy bị hất ra, rồi lại nhào tới trước lần nữa, bàn tay run rẩy tháo nắp bình, bờ vai đau nhói. Sinh vật đó im lặng một cách kỳ lạ khi nện tiếp vào cửa, mạnh đến nỗi làm biến dạng lớp kim loại.

Mùi ga choáng váng tuôn khắp toa lét. Billy vói tay chộp lấy cuộn giấy trên vách, giật ra - và cánh cửa bật tung, văng khỏi bản lề bởi một cú đấm dữ tợn. Nó đứng ngay đó, lắc lư thân hình, con mắt kỳ quái lùng kiếm Billy, định vị anh.

Billy dựng đứng bình ga lên, đồng thời bật dậy, giũ sạch hơi ga quanh người. Anh ấn cái bình tới trước, trút vào ngực nó.

Phản ứng xảy ra tức thì. Cơ thể nó bắt đầu quằn quại, run rẩy, và một tiếng rú điếc tai vang khắp phòng, không phải một mà hàng ngàn sinh vật nhỏ cùng cất tiếng. Chất lỏng đen thui đậm đặc tuôn ra khắp mọi chỗ trên cơ thể và mặt của nó.

Billy vung mạnh chân, tống nó lui lại, lúc này vẫn còn kết dính nguyên khối và gào rú, âm thanh lan khắp căn phòng nhỏ. Anh không biết một bình ga đã đủ chưa, mà cũng không muốn chờ xem kết quả. Anh mở nắp, đánh lửa, rà cuộn giấy trên ngọn lửa đang phun. Một giây sau, nó bốc cháy.

Billy nhảy vọt ra cửa và né tránh con quái vật đang gào rú. Ngay khi vừa chạy qua, anh quay người ném cuộn giấy bốc lửa, trúng vào ngay dưới chỗ xương ức - và tiếng gào trở nên dữ dội hơn khi ngọn lửa trùm lên, bao bọc lấy nó, rồi nó gục xuống thành hàng ngàn mảnh vụn. Một vũng nước đen kịt bốc cháy đang biến dạng trên sàn, tiếng gào nhỏ dần rồi tắt ngấm sau đó vài giây.

Vài con đỉa lẻ tẻ trườn khỏi ngọn lửa, nhưng chúng không còn tái kết hợp được nữa, chỉ có thể trườn đi lung tung lên tường hoặc dưới chân anh. Billy tránh xa chúng, tránh xa ngọn lửa đang tàn dần, rồi đút bật lửa trở vào túi khi đến bên cửa.

Billy thở phào một cái khi trở ra hành lang, và lục tìm bộ đàm. Bây giờ không cần biết kế hoạch gì của Rebecca nữa hết; họ phải nhập bọn càng nhanh càng tốt, và dông khỏi chỗ này ngay tức khắc, dù cho có phải dùng tay không mà đào xuyên qua tường.

oOo

4 tháng 12

Hồi mới bắt đầu, mình còn nghi ngại - nhưng tối nay chúng tôi đã ăn mừng. Cuối cùng cũng đã làm được sau ngần ấy thời gian. Chúng tôi gọi tên kiến trúc virus mới là Progenitor, theo đề nghị của Ashford, mình thích cái tên này. Sẽ bắt đầu thử nghiệm chúng ngay lập tức.

23 tháng 3

Spencer nói rằng ông ta sẽ thành lập một công ty chuyên nghiên cứu dược phẩm, có lẽ kiêm thêm sản xuất thuốc. Ông ta vẫn là nhà kinh doanh cho cả nhóm như thường lệ. Có vẻ mối quan tâm ưu tiên của ông ta với Progenitor là lợi nhuận, nhưng mình sẽ không phàn nàn. Ông ta muốn chúng tôi thành công, thì dĩ nhiên cũng sẽ cung cấp tài chính đầy đủ; chừng nào còn ký được séc, chừng đó ông ta muốn làm gì thì làm.

19 tháng 8

Progenitor thật là kỳ diệu, nhưng vẫn chưa biết ứng dụng nó để làm gì. Ngay khi chúng tôi nghĩ đã có thể lên tài liệu về tỷ lệ khuếch đại, khi đã có hàng tá thử nghiệm mang lại cùng một kết quả, thì mọi thứ đổ vỡ. Ashford vẫn đang làm việc với những chỉ số phân bào, hệ quả phát sinh từ bước lùi này, nhưng ông ta đang hy vọng. Chúng tôi phải tiếp tục tìm hiểu.

Spencer tiếp tục đề nghị mình làm giám đốc của căn cứ huấn luyện mới. Có thể là vì lợi nhuận, nên ông ta ngày càng hống hách quá quắt. Dù sao mình cũng đang cân nhắc. Mình cần một nơi để tìm hiểu ra trò về khả năng mới của loài virus này, một nơi không bị làm phiền.

30 tháng 11

Thằng cha đáng ghét. "Cùng ăn trưa nhé, James," lão nói, những người đồng sự cũ và những ký ức êm đềm. Thật vớ vẩn. Lão muốn Progenitor sẵn sàng ngay bây giờ. "Bạn" của lão ở trụ sở White Umbrella, với những trò chơi do thám lố bịch đem lại của cải lẫn sự buồn tẻ - chúng muốn có gì đó hay ho để đùa cợt, để bán đấu giá, và không muốn chờ nữa. Đồ ngu. Spencer nghĩ có tiền mua tiên cũng được, nhưng lão lầm to. Không có thứ gì ở đây quy ra tiền được; đã và sẽ không có. Mình phải duy trì cục diện này, phải bảo vệ quân hậu, hoặc là bị chiếu bí.

19 tháng 9

Rốt cuộc, rốt cuộc mình đã phát minh ra dạng DNA cặp xoắn với tính năng hấp thu và kết hợp nó với Progenitor - nó ổn định. Một kết quả mà mình luôn đặt niềm tin. Spencer sẽ hài lòng, khốn kiếp lão, mặc dù mình sẽ chỉ tiết lộ rằng vài tiến trình đã được hoàn tất, không thêm gì nữa, không cho biết làm thế nào. Mình đã tự đặt tên cho nó mà không hỏi ý lão, một vố chơi khăm. Mình sẽ gọi nó là T, lấy từ chữ Tyrant.

23 tháng 10

Mình không thể coi bọn họ là người được. Họ là những đối tượng thử nghiệm, vậy thôi, vậy thôi. Mình biết cuộc nghiên cứu ắt sẽ dẫn đến tình thế này một ngày nào đó. Mình biết và - và không biết rằng sẽ diễn tiến theo chiếu hướng này.

Mình phải giữ tập trung. T-Virus thật là phi thường; chúng, những đối tượng đáng lẽ phải được tôn vinh vì những trải nghiệm vô cùng hoàn hảo. Sự tồn tại của chúng mở ra một con đường dẫn đến những mối quan tâm lớn hơn.

Đối tượng thử nghiệm. Vậy thôi. Những con tốt. Đôi khi, phải thí tốt để tranh tiên.

13 tháng 1

Vật nuôi của mình đang lớn dần. Với DNA của chúng kết hợp với virus, mỉnh nghĩ có thể đoán được cái cách chúng biến đổi khi bị nhiễm, thế nhưng mình lầm. Chúng bắt đầu hợp thành bầy đàn, giống như kiến hoặc ong. Không một cá thể nào nổi trội hơn cả; chúng cùng làm việc theo cơ cấu quần thể, cùng tiến triển cho một mục tiêu chung. Mục tiêu của mình. Mình đã không thấy điều đó trước đây. Mình đã mù quáng, nhưng đã nhận được phần thưởng lớn lao hơn cả khi làm việc với người. Mình phải tiếp tục những thử nghiệm này, tuy nhiên - không thể để lộ ra rằng mình đã khám phá được ý nghĩa thật sự về giá trị của T và những gì nó đại diện. Mình biết Spencer thế nào cũng thử và chiếm nó. Quân vua đang lộ mặt.

11 tháng 2

Bọn chúng đang theo dõi mình. Mình vào phòng thí nghiệm, thấy nhiều thứ bị di chuyển. Chúng đã lục lọi và xóa dấu vết, mọi thứ trông y như cũ, nhưng mình biết. Chính là Spencer, quỷ tha ma bắt lão, lão biết về bầy đỉa của mình, quần thể đẹp đẽ của mình, và sự khủng bố này sẽ không chấm dứt chừng nào một trong số bọn tôi chưa chết. Mình không tin ai nữa... Albert và William có lẽ là chỗ dựa còn lại của mình, họ tin vào công việc, nhưng mình phải thủ tiêu một số thứ khác. Cuộc cờ đã đến hồi tàn. Lão lăm le quân hậu của ta, nhưng chính ta mới là người chiến thắng. Chiếu tướng lão nè, Oswell.

Đó là mục ghi chép cuối cùng. Rebecca đóng quyển nhật ký lại và đặt sang một bên, cạnh bộ cờ nằm ngay giữa bàn. Lúc khám phá ra cái ngăn dấu kín, cô đã nghĩ mấy tấm bản đồ thật sự đáng giá. Có hai tấm, một cái là sơ đồ ba tầng hầm của tòa nhà, bao gồm cả vài chỗ không được đánh dấu, có lẽ dẫn ra ngoài. Cái kia dường như là khu vực trên cầu thang, với một phòng ghi chữ QUAN SÁT, nằm cạnh một khu khá rộng có chữ HỒ NUÔI. Thế nhưng, quyển nhật ký bọc da lấm lem bụi và nhăn nhúm theo thời gian - cô không biết nó đã tồn tại bao lâu, chỉ thấy một trong số những mục ghi chép về bầy đỉa có số "1988" ở góc trên - mới chính là khám phá đáng giá nhất. Có lẽ nó là sở hữu của James Marcus, người sáng tạo ra T-Virus, loại virus đã biến con người thành zombie, đã lây lan khắp đoàn tàu và gần một nửa rừng Raccoon, mà manh mối là những vụ sát nhân gần đây.

Rebecca ngây người quan sát cách bài trí lạ lẫm của căn phòng, nhận ra toàn bộ mặt sàn là một bàn cờ khổng lồ. Hẳn ông ta đã hóa điên trong những ngày cuối cùng, khi cứ lải nhải về cờ, về "ý nghĩa thật sự" của virus. Có lẽ những cuộc thí nghiệm trên người đã đẩy ông ta đến tận cùng giới hạn.

Bộ đàm của cô nhấp nháy. Cô vừa nhấn nút NHẬN TÍN HIỆU thỉ đã nghe tiếng thở hổn hển của Billy sát bên tai.

"Cô đang ở đâu? Chúng ta cần nhập bọn ngay, cô nghe rõ không? Hết"

"Có chuyện gì? Hết"

"Chuyện là tôi vừa đụng độ với một kẻ cấu tạo bằng đỉa trong cầu tiêu, suýt nữa là đi đời với nó. Zombie thì dễ xử, chứ còn thứ này - nó nuốt được đạn, Rebecca. Chúng ta không có đủ đạn để giữ chân chúng đâu. Hết"

Chúng bắt đầu hợp thành bầy đàn, như kiến hoặc ong.

Là ai điều khiển chúng? Marcus? Hay chúng tự hình thành cá thể lãnh đạo, một con chúa?

"Được rồi," Rebecca nói. Cô nhặt bản tóm lược về đài quan sát và tầng hầm, nhét chúng vào trong áo rồi đứng dậy. Cô ngần ngừ một thoáng rồi nhặt luôn quyển nhật ký, chuồi vào túi. "Gặp anh ở đầu cầu thang, chỗ có bức chân dung Marcus. Có thể tôi biết lối ra, hết."

"May quá. Coi chừng nhé, hết."

Rebecca dông ra khỏi phòng và lao xuống hành lang thật nhanh. Cô vẫn chưa lục soát được chỗ nào khác, ngoài cái phòng chờ vắng vẻ và văn phòng có bộ cờ; thật may mắn khi không phải chạm trán với bất cứ kẻ địch nào. Billy nói đúng về những người-đỉa, họ không có cách gì giải quyết được chúng. Thật sự, nguyên nhân duy nhất khiến tổ hợp đỉa trên đoàn tàu ngừng tấn công họ, là vì chúng được triệu hồi. Cô đã có ý định ở lại trong ngôi nhà xinh xắn an toàn này trong khi chờ tiếp viện, nhưng sau khi đọc quyển nhật ký của Marcus, biết rằng nơi đây đã bị lây nhiễm - thì cô biết mình phải biến đi càng nhanh càng tốt.

Sau khi điểm lại tất cả những biến cố tối nay - trực thăng hạ cánh ngoài ý muốn, đoàn tàu, Billy, vụ va chạm, giờ đến cái này - cô chỉ muốn có ngay một đội quân được gởi đến để tiếp quản, để đưa cô về nhà với bữa tối nóng sốt và chiếc giường êm ái chờ sẵn, để ngày mai cô lại thức dậy và bắt đầu một ngày bình thường như trước. Thế nhưng, thay vào đó là cô đang bị lún sâu vào những bí mật của Marcus và các tạo vật của lão, của Umbrella và các thí nghiệm ma quỷ của chúng.

oOo

Gã thanh niên di chuyển đến nơi mà quần thể dễ dàng tập họp, một nơi rộng rãi, ấm áp, ẩm thấp, và tránh xa ánh nắng mặt trời. Bầy đàn đang vây quanh hắn, hát vang bài ca lạc điệu của nước và bóng tối, nhưng hắn vẫn chưa nguôi cơn giận. Hắn đã theo dõi một cách giận dữ khi cô gái - Rebecca, theo như tên sát thủ gọi, còn cái thằng nguyền rủa ấy tên Billy - cuỗm đi cuốn nhật ký của Marcus, nhét nó vào túi trước khi rời khỏi. Hắn đã mở cái bàn ra đâu phải để con nhãi ấy lấy thứ đó. Bản đồ của đài quan sát, đáng lẽ con nhãi chỉ được lấy bản đồ thôi.

Hai đứa bây giờ đang gặp nhau trước ô cửa chỗ bức chân dung, đang thảo luận, hiển nhiên là về những thứ thu thập được, về sự cả gan giết chóc của chúng nó. Hắn có thể thấy tên trộm và tên sát thủ qua màn hình nằm trong góc nơi trú ẩn - chỗ này là tầng dưới của nhà máy xử lý - nhưng hắn còn có thể quan sát chúng rõ ràng hơn nhiều, thông qua hàng tá đôi mắt thô sơ của những đứa con đang săm soi bọn chúng từ trong bóng tối. Ý thức của bầy đàn rất mạnh, có thể truyền tải hình ảnh từ cá thể này sang cá thể kia, truyền đến cho hắn; đó là phương pháp để chúng cùng hoạt động một cách hữu hiệu. Rebecca và Billy đã không hiểu rằng bọn nó yếu đuối đến thế nào, rằng hắn có thể tiếp cận và lấy mạng chúng như trở bàn tay. Bọn chúng sống được chẳng qua là nhờ sự khoan hồng của hắn.

Tên trộm và thằng bạn hiếu sát của nó; cái thằng Billy đã giết cả một tổ hợp. Bằng cách đốt cháy. Vài thực thể sống sót vật vã tìm đường về với ông chủ của chúng, cơ thể cháy sém của chúng đã mách cho hắn biết, rằng phần còn lại đã chết bởi sự đứt đoạn liên kết. Sao thằng đó dám, cái thằng vô giá trị, đồ nhãi nhép?

Rebecca lôi ra tấm bản đồ và cả hai cùng nghiên cứu, thật là lũ đần độn, nếu bọn bây biết cái gì đang chờ phía trước. Đài quan sát là điểm then chốt để thoát ra ngoài, nhưng thế nào bọn nó cũng thử tầng hầm trước. Cũng chả sao. Hắn không còn chắc chắn với việc muốn cho bọn chúng trốn thoát nữa.

Cả hai đang xuống cầu thang, biến mất khỏi máy quay và tầm mắt của bầy đàn, nhưng chỉ trong phút chốc. Ngay khi bộ đôi xuất hiện trở lại trong một máy quay khác, chúng dừng lại, nhìn chăm chú vào mấy cái xác nhện vương vãi, đã chết cong queo trên sàn. Có bốn con nhện khổng lồ, tất cả đều mới bị giết, bị trừ khử để Rebecca và thằng bạn của nó khỏi bị chích nọc độc. Lũ nhện đó là một thí nghiệm khác, một thất bại thảm hại, chúng quá chậm chạp, quá khó khăn để điều khiển, nhưng dư sức làm chết người, thành thử hắn phải nhúng tay vào. Bây giờ hắn lại cảm thấy hối tiếc; được chứng kiến tên trộm và tên sát thủ giãy chết hẳn là rất thú vị, bất chấp vai trò của bọn nó trong cái kế hoạch dành cho Umbrella. Cả hai đang đi tiếp, không biết rằng chúng bị theo dõi bởi những sinh vật đã giết đám nhện, lúc này đang náu mình trong những cái xác trương phình đứt đoạn.

Làm gì đây? Giết bọn chúng sẽ làm hắn nguôi ngoai, sẽ báo được thù cho sinh mệnh của những đứa con, và xác nhận uy quyền của hắn. Nhưng vạch mặt Umbrella mới là ưu tiên số một, đưa tập đoàn đó đến sự hủy diệt bằng cách phơi bày trái tim thối tha của chúng... điều mà Billy và Rebecca chắc chắn sẽ làm, nếu chúng sống sót.

Hai đứa nó đi đến cuối hành lang, xuyên qua cửa một căn phòng đã bỏ phế từ lâu. Sau khi xem lại nhanh bản đồ, chúng tiếp tục đi vào một phòng không có lối ra, nơi có những mẫu vật sống từng được nhốt. Lồng nhốt trống rỗng, cả phòng cũng trống rỗng. Hắn không hiểu sao bọn nó lại đi vào đây - tới khi hắn thấy chúng đi tới góc đông bắc, cả hai cùng nhìn lên một ô vuông tối tăm gần sát trần.

Lỗ thông gió. Nó không được ghi trên bản đồ; có lẽ chúng tin rằng đây là đường ra. Thật sự thì đường đó dẫn tới -

Hắn lắc đầu. Phòng riêng của Tiến sĩ Marcus, căn phòng hắn đã từng dùng để "giải trí" với những đối tượng thử nghiệm. Sao bọn nó không chịu xéo đi chỗ khác cho rồi? Có gì trong đó đâu mà tìm, không có gì -

- trừ khi.

Lỗ thông gió dẫn đến một khu chứa mẫu vật còn sống, một nơi không yên ả chút nào. Những sinh vật đó đã lâu không được cho ăn. Lúc này chúng đang rất, rất đói. Hắn chỉ việc ra lệnh cho bầy đàn mở chốt một hoặc hai cánh cổng...

Đúng ra nên xem hai đứa nó như một phần trong toàn bộ kế hoạch của hắn, có lẽ hắn nên coi Billy và Rebecca như những đối tượng thử nghiệm. Bọn nó có thể chết - nếu thật vậy, thì cũng chỉ làm chậm trễ việc phơi bày Umbrella thêm ít lâu; tuy hắn thiếu kiên nhẫn, nhưng cũng nên cân nhắc đến khía cạnh tiêu khiển nữa. Hoặc bọn nó có thể sống sót. Dù bằng cách nào, chúng cũng sẽ có nhiều chuyện hay ho để tường thuật.

Hắn nở một nụ cười bén ngót như dao, trong lúc Billy kê chân cho Rebecca leo lên lỗ thông gió. Con bé trườn vào trong, biến khỏi tầm nhìn. Liệu bọn nó có ngạc nhiên chăng, nếu một vài thành viên còn lại của lớp động vật bậc cao xuất hiện để đùa bỡn?

Xung quanh hắn, lũ con đang thủ thỉ, vách tường, trần nhà đang nhễu đầy những chất lỏng trơn ướt của chúng. Với bầy đàn bao quanh, xem như số mệnh của Umbrella đang nằm gọn trong tay hắn - và bây giờ có thêm hai tên lính nhỏ bé để thử nghiệm, để thưởng thức cảnh chúng dốc hết khả năng ra, chống trả những vũ khí sinh học còn sót lại của Umbrella - thật thỏa mãn. Bọn nó nên sống hay nên chết? Dù kiểu nào thì hắn cũng đều hài lòng.

"Mở lồng ra đi, các con yêu quý của ta," hắn thì thào, và bắt đầu cất tiếng hát.

--------------------------------------------------------------------------------

Rebecca trườn trong lỗ thông gió, không để ý tới hàng lớp bụi bặm và mạng nhện bám đầy tóc và quần áo, cũng như cảm giác ngột ngạt của những tấm vách hẹp làm bằng kim loại mỏng. Tấm bản đồ chỉ thể hiện đường thông nhau giữa hai căn phòng dưới tầng hầm thứ nhất, nhưng có những khoảng trống ở phòng thứ hai, phần nền dưới nó dường như cũng là một phần của hệ thống. Rất có thể một trong số các ống thông có lối ra ngoài. Billy không mặn mà lắm với giả thiết này - rất có thể không có nghĩa là chắc chắn, anh nói vậy - nhưng cả hai đồng ý là nên thử xem sao.

Ít nhất nó cũng không quá dài, cô nghĩ thầm, chuyển mình về phía ô vuông có ánh đèn đằng trước. Có một tấm lưới kim loại mỏng đậy lên trên, nhưng nó đã văng ra sau vài cú dộng, kêu loảng xoảng lúc rơi xuống dưới.

Cô liếc sơ qua căn phòng lớn, ẩm ướt và vắng vẻ trong ánh sáng lập lòe của những ngọn đèn gần tắt, rồi chui ra, hai tay vịn lấy bên thành lỗ thông và lộn mình xuống. Cô đứng lên, phủi sạch người và quan sát căn phòng.

Ồ. Trông nó giống như một hầm ngục thời Trung cổ, rộng lớn, ảm đạm, một kiểu hang đá. Bức tường đá giăng đầy dây xích, dây xích gắn liền với cùm tay. Có nhiều thiết bị nằm rải rác mà cô không biết tên, nhưng công dụng của nó hiển nhiên là để tra tấn. Kế bên một cái giếng bị bể vách nổi đầy váng là một thùng đứng khá rộng, trông giống máy chém. Có những vệt màu tối nhạt trong mấy đường nứt của vách tường đẽo gọt thô sơ, mà cô tin chắc đó là máu.

"Mọi chuyện ổn chứ? Hết"

Cô nhấc bộ đàm lên. "Tôi không nghĩ có thể dùng từ 'ổn' ở chỗ này," cô nói. "Nhưng tôi không sao, hết"

"Có cái lỗ thông gió nào khác không, hết?"

Cô quay người, tìm một lỗ trống trên vách - và thấy nó, cách hai mươi feet trên đầu.

"Có, nhưng nó nằm trên trần," cô nói. Cho dù có thang thì họ cũng không thể leo thẳng lên. Rebecca chợt phát hiện thấy có một cánh cửa phía tây nam. "Cái cửa ở đây dẫn đi đâu thế?"

Yên lặng một lát. "Có vẻ nó dẫn tới một phòng nhỏ rồi quay lại hành lang mà chúng ta đã đi qua," anh nói. "Có cần tôi quay lại hành lang đón cô không? Hết"

Rebecca nhìn cánh cửa. "E là vậy. Chúng ta có thể thử -"

Trước khi cô nói hết câu, một âm thanh khủng khiếp tràn ngập căn phòng, nó vừa không giống bất cứ thứ gì cô đã từng nghe, lại vừa có cảm giác quen thuộc. Giống như tiếng hú của loài khỉ -

- chính là nó. Chỗ nhốt động vật. Trong sở thú.

- tiếng hú vang dội khắp cả hang động, phát ra từ mọi chỗ cùng lúc. Rebecca nhìn lên, vừa lúc trông thấy một sinh vật xám nhạt có tay dài nhìn cô săm soi từ cái lỗ trên trần. Nó nhe hàm răng sắc nhọn và bự chảng, mấy ngón tay quơ quào vào khoảng không trước bộ ngực lực lưỡng, rít lên một tiếng kinh khủng.

Trước khi cô kịp nhấc chân, nó đã tuột khỏi lỗ trống, chân đạp lên vách đá trước khi buông mình ngồi xổm xuống đất, ngay bên trên mấy tấm ván mỏng vung vãi giữa phòng. Nó nhìn cô chằm chằm, cặp môi thu sát miệng để lộ mấy cái răng vàng khè. Có vẻ nó thuộc giống khỉ đầu chó với bộ lông ngắn màu trắng, có điều trên bộ lông ấy xuất hiện những vệt rách to tướng, để lộ những thớ thịt đỏ ối bên trong. Những vệt rách đó không giống như dấu tích bị tấn công, mà giống như cơ bắp của nó lớn nhanh tới mức làm da toạc ra. Hai bàn tay nó to vĩ đại, móng vuốt mọc rất dài, chúng kéo lê trên mặt đá khi nó nhổm dậy khỏi đống ván, đi về phía cô với một nụ cười đểu cáng.

Chậm thôi... Rebecca khẽ lôi súng ra từ bên hông, thấy sợ hãi chẳng khác gì những lần trước. Một con khỉ đầu chó bình thường đã có thể xé toạc một người rồi, huống gì một con bị nhiễm độc.

Con khỉ đầu chó lại gần hơn - và trên đầu cô vang lên tiếng hú khác, có ít nhất hai con nữa đang hú, âm thanh nghe lớn dần, hiển nhiên là có thêm nhìều sinh vật nữa đang đến. Nó sấn tới đủ gần để cô ngửi thấy mùi, thứ mùi hăng nồng của nước tiểu, của phân, của sự man rợ, của sự nhiễm độc rành rành.

"Rebecca! Có chuyện gì vậy?"

Rebecca vẫn đang cầm bộ đàm trên tay trái. Cô thả nút nhấn, không dám lên tiếng nhưng lại sợ tiếng la của Billy sẽ kích động con vật, làm nó tấn công.

"Suỵt," cô nói khẽ, đủ để không đánh động con vật và nhắc Billy im lặng. Cô lùi lại một bước, cài bộ đàm vào cổ áo rồi nâng súng lên. Con khỉ đầu chó rùn mình xuống, choãi chân ra -

- và nhảy tới, cùng lúc cô nổ súng, đồng thời có thêm hai thân hình uyển chuyển phóng qua lỗ thông gió, miệng kêu the thé, một con quạt thẳng vào đầu cô lúc nó phóng qua, móng vuốt tơi tả cào rách cả tóc. Cú đánh đã đẩy cô ra khỏi tầm nhảy của con đầu tiên, nhưng cũng khiến cô mất thăng bằng, phát đạn chệch hướng thẳng vào tường, rồi tất cả cùng rơi xuống chồng ván -

- và nguyên cả sàn nhà sập xuống.

oOo

Mọi thứ vẫn giậm chân tại chỗ. Gã thanh niên, không biết gã là ai - mà Wesker có một mối nghi ngờ giữ riêng trong lòng - đã không xuất hiện trở lại, hình bóng James Marcus cũng không thấy đâu nữa. Nhất định máy quay đã gặp trục trặc, khi cho lên hình toàn những thứ gì đó giống như một mớ bòng bong. Các thực thể chuyển hết sang một màu đen, khiến cả hai chẳng thấy được gì, chẳng biết phải làm gì.

Sau một hồi ngán ngẩm lắng nghe Birkin nói về loại virus mới của lão, Wesker quay trở lại dãy màn hình và đứng dậy, vươn vai. Thật nực cười - nếu là vài năm trước, hắn nhất định sẽ rất quan tâm đến công việc của ông bạn già. Còn bây giờ, dưới cái bóng che chắn của Umbrella, hắn thậm chí còn không buồn che dấu thái độ của mình nữa.

"Vậy là xong một ngày," Wesker chen ngang bài độc thoại của William, nhân lúc lão lấy hơi. "Đi thôi."

Brikin ngó hắn trân trân, khuôn mặt xanh xao hốc hác của lão nhìn như ma quỷ dưới ánh sáng trắng phát ra từ màn hình. "Sao? Anh tính đi đâu?"

"Về nhà. Ở đây chẳng còn gì cho chúng ta làm nữa."

"Nhưng mà - anh đã nói - còn chuyện dọn dẹp thì sao?"

Wesker nhún vai. "Thể nào Umbrella cũng sẽ gởi tới một đội khác."

"Tôi tưởng điều quan trọng nhất là phải bưng bít thông tin. Không phải anh đã nói đó là vấn đề sống còn hay sao?"

"Tôi có nói à?"

"Có!" Birkin nổi cáu. "Tôi không muốn ai khác trong Umbrella vào đây. Bọn họ sẽ đặt vấn đề về công việc của tôi. Tôi cần thêm thời gian."

Wesker lại nhún vai. "Nếu vậy, chỉ việc phát động hệ thống tự hủy là xong, và báo cáo với người liên lạc của chúng ta là mọi thứ đã được giải quyết."

Birkin gật gù, mặc dù Wesker thấy có chút khó chịu thoáng qua trong mắt lão. Hắn cười thầm. Birkin rất e sợ người liên lạc mới đây, người giữ mối liên kết giữa bọn họ với mấy ông lớn ở Tổng hành dinh, và luôn tránh tiếp xúc nếu có thể. Wesker không trách được lão. Có điều gì đó ở Trent, một kẻ luôn bình tĩnh trong mọi tình huống -

"Vậy còn - gã đó?" Birkin hất đầu về phía màn hình. Wesker cảm thấy rất băn khoăn, nhưng vẫn tỏ vẻ bình thản.

"Chỉ là một tên cuồng tín nuôi chí báo thù. Một đoạn phim bịp bợm ra trò, nhưng tôi cá là hắn cũng sẽ chết cháy như bất kỳ ai." Wesker không thực sự tin tưởng lắm, nhưng hắn không mấy hứng thú với việc khám phá bí mật. Hắn đâu phải là một thám tử như trong mấy cuốn tiểu thuyết trinh thám rẻ tiền, sẵn sàng đào sâu tận gốc rễ chỉ vì ý thích. Theo kinh nghiệm bản thân hắn, thứ gì bí mật cũng đều có khuynh hướng tự nó bật mí, không cách này thì cách khác.

"Rủi mà những chuyện thật sự xảy ra với Tiến sĩ Marcus lọt ra ngoài -"

"Không bao giờ," Wesker ngắt lời.

Birkin vẫn chưa chịu thua. "Còn khu nghiên cứu ở biệt thự Spencer thì sao?"

Wesker đi ra cửa, đôi giày ủng nện rầm rầm lên tấm sàn lưới. Birkin lẽo đẽo theo sau như một con chó bất trị.

"Để tôi lo," hắn nói. "Umbrella muốn có dữ liệu cận chiến, tôi sẽ cho họ thấy. Chỉ việc đưa đội S.T.A.R.S. vào, chứng kiến họ đương đầu với những vũ khí sinh học." Hắn mỉm cười, nghĩ đến năng lực của nhóm Alpha. Barry mạnh mẽ, Chris thiện xạ, Jill phóng khoáng, con gái của một tay trộm vô song... một cuộc chiến vô cùng hấp dẫn. Với việc Rebecca Chambers bé nhỏ vào đây, hiển nhiên đã có chuyện không hay xảy đến với nhóm của Enrico; Wesker có thể dựa vào đó để yêu cầu đội Alpha "tìm kiếm" những người còn lại.

Cho dù nhóm Bravo có đưa được họ trở lại, thì vẫn phải đi tìm thêm một Rebecca mất tích. Cô bé này rất thông minh, nhưng chỉ đầu óc không thì chưa đủ để chiến đấu. Thật sự là con bé xem như chết chắc.

Cả hai rời phòng, Wesker sải bước dọc hành lang, Birkin lóc cóc chạy theo. Họ đến bên thang máy, vẫn còn mở đó từ lúc Wesker đến, và hắn bước vào trong. Birkin đứng đối diện với hắn, và dưới ánh đèn sáng sủa trong thang máy, Wesker thấy vẻ điên loạn hiện rõ trên khuôn mặt nhà khoa học. Hai mắt lão có quầng thâm, còn khóe miệng thì giật giật không ngừng. Wesker bâng quơ nghĩ thầm, không rõ Annette có chú ý thấy ông chồng của mình đang lún sâu vào chứng hoang tưởng, chắc là không rồi. Bà ta chẳng thấy bất cứ cái gì khác ngoài công việc "vĩ đại" của ông chồng. Khổ thân cho đứa bé gái của bọn họ, có cha mẹ thế này cũng như không.

"Tôi sẽ thiết lập chuỗi tự hủy," Birkin nói.

"Hẹn giờ tới sáng nhé," Wesker nói, miệng cười toe toét. "Bình minh cho một ngày mới."

Của thang máy đóng lại với vẻ quả quyết của Birkin, kiểu vẻ mặt thỏa mãn của một con cừu, và Wesker toét miệng cười, thấy hào hứng khi nghĩ tới những việc sắp đến. Mọi thứ sẽ thay đổi, với tất cả bọn họ.

oOo

"Billy, cứu với!"

Billy chạy ào đi ngay khi nghe tiếng hú của con vật, rồi đến tiếng va chạm, lúc đến hành lang thì tiếng thét kinh hãi của Rebecca vang lên trong bộ đàm. Anh chạy nhanh hơn nữa, bản đồ nhét trong túi sau, súng cầm trên tay, tự nguyền rủa mình vì đã để cô chui vào lỗ thông gió.

Cánh cửa đã xuất hiện ngay trước mặt, cách mấy cái xác nhện khổng lồ một khoảng không xa. Anh lao thẳng tới, dộng vai vào cửa đồng thời kéo chốt. Cánh cửa bật tung ra, anh xông vào. Ngọn đèn huỳnh quang gần hỏng nhấp nháy trên đầu, tạo cho căn phòng một không khí hư ảo, nhìn giống như trong phòng thí nghiệm, ngoại trừ việc có một cái cũi mốc trong góc phòng. Thây kệ nó, mau!

Billy vọt ngang căn phòng tới cửa kế tiếp. Tiếng Rebecca lại thét lên khiến anh càng thêm khẩn trương và cảnh giác. Ngay khi đẩy chốt, anh phát hiện có chuyển động ở gần bên, liền quay người và thấy một con zombie thối rữa đứng trong góc. Ngọn đèn cứ bật rồi lại tắt, trong lúc kẻ đã chết ấy lặng lẽ nhìn anh, hình thù tàn tạ của nó biến mất trong bóng tối sau mỗi lần chớp đèn. Nó bắt đầu mon men tới chỗ anh.

Để mày sau. Billy đẩy cửa, lao vào trong.

Một thứ gì đó nhảy xổ vào anh gần như lập tức, kêu the thé. Anh cúi rạp xuống, nhận ra một cái bóng mờ màu đỏ trắng mang theo mùi hôi động vật, rồi sinh vật đó - một con khỉ, không biết thuộc giống nào - lao qua anh, kêu rít không ngừng. Nó nhập bọn với hai con nữa, cả ba nhanh chóng bao vây theo hình vòng cung, mười hai cái chân lực lưỡng dài ngoẵng không ngừng đung đua, quơ quào về phía anh, cơ thể rách rưới của chúng áp lại gần anh rồi lại lùi ra. Billy lùi lại, lách vào trong góc, nơi cánh cửa tỳ sát vách tường đá. Không phải anh muốn lui vào ngõ cụt, mà là vì ngán cái cảm giác trống trải sau lưng. Mấy con khỉ tiếp tục xáp vào rồi lui ra, miệng kêu the thé.

"Rebecca!" anh la lớn.

"Dưới này!"

Cô la lên đâu đó xa xa. Rồi anh nhìn thấy cái hố cách đó vài mét. Từng mảnh ván gãy nằm rải rác quanh sàn. Anh không thấy bóng dáng cô đâu cả.

"Tôi tới đây," anh đáp lại và hướng sự chú ý đến bầy khỉ, cùng lúc một con tiến đến đủ gần để tấn công.

Nó quật cái chân to bè vào anh, móng vuốt cào ngang trên bắp đùi. Tuy chưa phạm vào da, nhưng nếu nó cào lần nữa thì thế nào cũng trúng. Billy không kịp ngắm nữa, chỉ chĩa súng và bắn-

- con khỉ lui lại, tru lên dữ tợn, một tia máu đen vọt ra từ ngực nó, nhưng nó vẫn chưa chết. Nó lắc lắc đầu rồi lại sấn tới, và Billy nghĩ chắc mình tiêu quá, bọn khỉ rất khỏe, rất có tổ chức. Anh không thể hạ được con nào mà không bị hở sườn -

- bỗng hai con kia chồm lên con bị thương, cấu xé nó bằng những cánh tay tham lam. Con vật bị thương rú lên, giãy giụa, nhưng máu của nó đã khiến mấy con kia phát cuồng, chúng xé xác nó ra chỉ trong có vài giây, nhồi từng mảng thịt to tướng đẫm máu vào miệng.

Billy giờ có đủ thời gian để ngắm và siết cò. Một, hai, ba phát, và lũ khỉ ngã xuống, chết hoặc hấp hối.

Anh lao tới cái hố, khụyu gối xuống và cúi rạp mình bên mép, tim đập mạnh - và điếng người khi thấy Rebecca cách khá xa. Cô đang bám cả hai tay vào một mảnh ống dẫn bằng kim loại, cách chỗ anh đứng cả một tầng hầm. Phía dưới là bóng tối sâu thẳm. Khó nói được là cô ta sẽ rơi bao xa nếu buông tay.

"Billy," Rebecca thở dốc, nhìn anh bằng đôi mắt hoảng sợ.

"Đừng có buông tay," anh la lớn và lôi bản đồ trong túi ra, tìm vị trí của cô, tìm con đường nhanh nhất để đến đó. Không có đường tắt nào từ đây dẫn đến tầng hầm thứ hai cả. Anh phải quay lại tiền sảnh, thông qua phòng ăn nơi có mấy con zombie. Cầu thang xuống tầng hầm nằm phía đông của tòa nhà.

"Tôi không biết giữ được bao lâu nữa," cô thở hổn hển. Giọng cô khuyếch đại lên qua máy bộ đàm của cả hai người. Cô đã để ngỏ một kênh liên lạc hồi nào không biết.

"Cô không được phép buông," anh nói. "Đây là lệnh khẩn, cô bé, hiểu chưa?"

Cô không đáp, nhưng anh thấy hàm răng cô nghiến lại. Tốt, có lẽ kích động một chút sẽ khiến cô ta mạnh mẽ hơn. Anh đứng bật dậy.

"Tôi đến đây," anh nói, rồi quay người chạy thật nhanh, xuyên qua cánh cửa vào phòng thí nghiệm có đèn nhấp nháy. Con zombie ở đó đã di chuyển, đứng chắn giữa anh và lối ra hành lang, nhưng Billy không tính sử dụng vũ khí, vì e là Rebecca không giữ được đủ lâu. Anh cung tay lên giống như động tác của tiền vệ trong trò chơi điện tử, tông thẳng vào nó, xô mạnh hết mức có thể, rồi chạy tiếp mặc cho con zombie té đổ kềnh dưới sàn. Billy thoát qua và chạy mất trước cả khi tiếng rên đói khát của nó vang lên bên tai.

Billy vòng ra hành lang, bỏ lại sau lưng những con nhện không tưởng, leo lên cầu thang. Anh nhả băng đạn ra, lấy cái mới lắp vào trong lúc đâm bổ đến tiền sảnh. Cố lên, cố lên...

Anh mở tung cửa phòng ăn không chút do dự, lao thẳng vào trong. Hai con zombie đang ở ngoài đường đi của anh, bị chắn bởi cái bàn ăn. Con thứ ba đứng gần cánh cửa mà anh nghĩ nó dẫn tới chỗ Rebecca, chính là tên lính với cái nĩa còn cắm trên vai. Billy dừng lại một thoáng để ngắm bắn, hai phát đạn nối đuôi nhau nhắm vào cái đầu vốn đã ri rỉ nước. Viên thứ nhất đi chệch, nhưng viên thứ hai đã lấy đi một mẩu xương sau đầu của nó, ghim luôn vào tường thành một vệt xám bốc mùi thối. Cái thây lảo đảo một hồi và ngã nhào xuống sàn, sau khi Billy vừa chạy vượt qua.

Anh lao qua cửa, đến một hành lang ngắn. Trái hay phải? Anh không biết vì không có bản đồ tầng hầm thứ nhất, nhưng căn cứ vào vị trí cầu thang của dãy tầng hầm thì chắc là bên trái. Không đủ thì giờ để cân nhắc nữa, anh tiến nhanh theo hướng đó, súng lăm lăm trong tay, đi qua vài bậc thềm và một cái nồi hơi rất lớn đang kêu rin rít. Hơi nước tỏa mù mịt khắp phòng bảo trì, nhưng anh đã thấy được đường đi ở chỗ mấy cái cầu thang kim loại rỉ sét.

Phía dưới cùng là một cánh cửa. Anh xông vào đồng thời nhớ lại vị trí của nó trên bản đồ, một căn phòng rộng có thứ gì đó giống như đài phun nước ở giữa, hoặc đại loại là một thứ lớn và tròn. Có hai căn phòng nhỏ nữa phía tây, nằm trong nhánh rẽ của một hành lang ngắn khác, tin chắc một trong số đó có Rebecca bên trong, có lẽ là cái mà không có lối đi nào khác -

Căn phòng lớn vừa lạnh lẽo vừa ẩm thấp, vách tường và sàn nhà làm bằng đá.Anh chạy ngang qua, liếc nhìn cái tượng đài bên trái, thứ mà khi xem bản đồ anh đã nghĩ là đài phun nước. Ánh mắt chết trân của con vật được tạc tượng đang nhìn anh chằm chặp, dõi theo bước chạy của anh

- và một tiếng tru vang lên từ cái góc khuất của hành lang trước mặt, thứ âm thanh mà anh đã nghe chỉ một phút trước: Còn một con khỉ nữa. Khốn kiếp! Anh phải dụ nó ra chứ không thể liều mạng quay lưng về phía nó được.

"Billy - làm ơn -"

Giọng nói qua máy bộ đàm đầy vẻ tuyệt vọng. Billy tăng tốc, mặc kệ phần ý thức trong mình đang ra lệnh phải dừng lại, phải chờ con vật hiện thân để giải quyết nó trong cự ly an toàn. Anh lao tới trước, vòng qua góc, và trông thấy con khỉ đang kêu the thé, hình dáng tơi tả đến ghê rợn -

- và Billy, vốn quen với trò rượt đuổi hồi còn đi học, nhảy chồm lên. Anh vọt qua nó và hạ xuống cách một cánh cửa chừng hai bước, là cánh cửa đó, con khỉ rít lên giận dữ ngay sát sau lưng. Nếu cửa mà khóa thì anh gặp rắc rối to, nhưng may là không. Billy nhảy bổ qua, đóng sầm nó lại, cúi người và quỵ gối xuống cái hố trên sàn.

Rebecca vẫn còn đó, lúc này chỉ còn giữ bằng một tay, và anh thấy cô đang tuột dần. Anh liệng khẩu súng đi và vươn dài cánh tay, chụp được cổ tay Rebecca ngay khi mấy ngón tay trắng bệch của cô buông ra.

"Được rồi," anh thở hổn hển. "Túm đuợc cô rồi."

Rebecca bắt đầu khóc trong lúc anh tỳ chân xuống, kéo cô lên khỏi cái hố, cảm thấy một sự hài lòng mà anh hầu như đã quên hẳn sau nhiều tháng trong tù - rốt cuộc thì anh cũng đã làm một điều tốt, và làm được trọn vẹn.

oOo

Billy kéo cô ra khỏi cái hố, lấy thân mình làm đòn bẩy, rồi ôm chặt lấy cô và đẩy cô lên trên. Cô không đẩy ra mà để mặc cho anh ôm lấy, đồng thời bám chặt vào anh, nước mắt không ngừng tuôn rơi vì biết ơn, vì nhẹ nhõm. Anh dường như cũng hiểu điều đó nên giữ cô thật chặt. Cô đã tưởng mình sẽ rơi, sẽ chết, bị mất tích và bỏ quên trong căn hầm khủng khiếp, bị xé xác bởi những con vật nhiễm bệnh...

Sau một lúc, cô buông anh ra, quệt nước mắt bằng bàn tay còn run rẩy. Cả hai ngồi bệt dưới sàn, Billy đang nhìn quanh vách tường đá ảm đạm của gian phòng, còn Rebecca đang nhìn Billy. Sau một hồi im lặng khá lâu, cô đưa tay ra vịn vào anh.

"Cám ơn anh," cô nói. "Anh lại cứu mạng tôi lần nữa."

Anh nhìn thoáng qua cô, rồi lại nhìn đi chỗ khác. "Phải. Vì chúng ta có hiệp ước đình chiến mà, cô chưa quên đó chứ?"

"Tôi biết," cô đáp. "Và tôi cũng biết anh không phải là kẻ giết người, Billy à. Tại sao anh lại bị đưa tới Ragithon? Có phải - có thật là anh dính líu tới những vụ án mạng?"

Anh nhìn thẳng vào mắt cô. "Có thể nói vậy," anh nói. "Dù sao đi nữa, tôi đã ở đó."

Tôi đã ở đó... Điều này không có nghĩa là đã giết ai đó. "Tôi đã nghĩ rằng anh không hề giết những người lính áp tải hồi lúc tối; tôi cho là những sinh vật này đã gây ra vụ tai nạn, và anh bỏ chạy," cô nói. "Và mặc dù biết anh chưa được bao lâu, nhưng tôi không tin rằng anh đã giết hai mươi người."

"Chẳng có tác dụng gì," Billy nói, mắt nhìn xuống đôi giày. "Người ta chỉ tin vào thứ muốn tin."

"Với tôi thì có tác dụng," Rebecca nhẹ nhàng nói. "Tôi không phải là quan tòa. Tôi chỉ muốn biết chuyện gì đã xảy ra?"

Anh vẫn nhìn xuống đôi giày, nhưng đôi mắt bỗng trở nên xa xăm, như thể đang nhìn về một thời điểm khác, với những người khác. "Năm ngoái, đơn vị của tôi được cử tới châu Phi, để can thiệp vào một cuộc nội chiến," anh nói. "Tối mật, kiểu như không dính líu tới nước Mỹ, cô biết đó. Chúng tôi được chỉ định đánh úp vào sào huyệt một nhóm du kích. Lúc đó là mùa hè, thời điểm nóng nhất trong mùa, tất cả chúng tôi đổ bộ an toàn ngoài vùng tấn công, nằm giữa một khu rừng rậm. Chúng tôi phải hành quân theo đường bộ..."

Anh ngưng một lát trong lúc lục tìm cái thẻ bài và nắm chặt trong tay. Khi nói tiếp, giọng anh thậm chí còn nhỏ hơn. "Trời nóng đã tiêu diệt một nửa số chúng tôi. Đối phương tiêu diệt phần lớn số còn lại, hạ gục chúng tôi từng người một. Lúc đến được nơi ấn náu, chúng tôi chỉ còn bốn người. Tất cả kiệt sức, gần như phát điên, bị đổ bệnh bởi sức nóng, bởi - chán nản, theo tôi đoán, vì phải chứng kiến đồng đội lần lượt ra đi.

"Nên khi tiếp cận mục tiêu, chúng tôi chỉ muốn thổi bay tất cả bọn họ. Phải có ai đó trả giá chứ, cô hiểu không? Cho tất cả những mất mát. Chỉ là, chẳng có sào huyệt nào cả. Tin tức chỉ điểm đã sai lầm. Nơi đó là một ngôi làng nhỏ buồn tẻ, với một nhúm nông dân. Những gia đình. Người già và phụ nữ. Trẻ em."

Rebecca gật đầu khích lệ anh, nhưng ruột gan đã bắt đầu cồn lên. Câu chuyện hướng tới một kết cuộc mà cô có thể thấy trước, một kết cuộc bi thảm.

"Trưởng nhóm ra lệnh cho chúng tôi bao vây họ lại, và chúng tôi đã làm," Billy nói. "Rồi anh ta bảo bọn tôi -"

Giọng anh nghẹn lại. Anh đưa tay nhặt khẩu súng đang nằm dưới đất, nhét nó vào thắt lưng, cơn giận bùng lên khi anh đứng dậy quay ra chỗ khác. Rebecca cũng đứng dậy.

"Có phải anh?" cô hỏi. "Anh có giết họ không?"

Billy quay lại nhìn cô, môi cong lên. "Nếu tôi nói với cô rằng tôi đã làm thì sao? Cô sẽ thực thi công lý với tôi chứ?"

"Anh có làm không?" cô hỏi lại, đồng thời quan sát khuôn mặt anh, đôi mắt của anh, cố gắng đoán ra câu trả lời từ đó. Anh cũng có thể thấy điều đó trong mắt cô, thấy được cô đang khát khao muốn biết sự thật. Billy nhìn cô một chặp rồi lắc đầu.

"Tôi đã cố ngăn cản," anh nói. "Nhưng họ đánh tôi. Tôi gần như bất tỉnh, nhưng đã thấy điều đó, thấy tất cả... và chẳng làm được gì." Anh nhìn ra chỗ khác trước khi tiếp tục. "Khi đã xong chuyện, được trở về, có những lời buộc tội chống lại tôi. Rồi phiên tòa, lời tuyên án, và - đến lượt những chuyện này."

Anh dang rộng hai tay, biểu thị tình hình của họ. "Nên nếu chúng ta thoát khỏi đây, tôi thế nào cũng chết. Chết hoặc chạy trốn, chạy trốn không ngừng."

Sự thật là vậy. Phải trao giải Oscar cho anh ta nếu những lời này là dối trá... Mà cô không nghĩ vậy. Cô cố nghĩ xem nên nói gì đó để trấn an, để làm tình hình sáng sủa hơn, nhưng chẳng nghĩ được gì cả. Anh ta nói đúng về tình thế của họ.

"Này," anh nói, mắt nhìn về phía sau vai cô. "Kiểm tra nó xem."

Cô quay lại trong lúc anh tiến tới, thấy một chồng kim loại phế liệu xếp dựa vào vách tường - và có một thứ giấu hờ ngoài tầm mắt của họ, hình như khẩu súng săn.

"Có phải thứ mà tôi đang nghĩ không nhỉ?" cô hỏi.

Billy nhặt nó lên, cười toe toét trong khi kiểm tra. "Vâng, thưa sếp, chính nó."

"Nó có sẵn đạn chứ?"

"Không có, nhưng tôi còn vài viên lấy được trên tàu đây. Cỡ đạn mười hai." Anh lại cười. "Mọi việc coi bộ có tiến triển. Không phải chúng ta muốn, nhưng mà có một con khỉ ngoài hành lang đang van nài được nếm thử món này đây."

"Thật ra, tôi nghĩ nó là khỉ đầu chó," cô chỉnh lại, và ngạc nhiên thấy mình đang cười. Rồi cả hai cùng cười khi thấy điều cô vừa nói chẳng có ý nghĩa gì cả. Họ đang mắc kẹt trong một tầng hầm cô lập, bị săn đuổi bởi cơ man nào là quái vật, vậy mà vẫn còn dư hơi để biết con vật ngoài hành lang là khỉ đầu chó. Chuyện này khiến họ cười càng lớn hơn.

Cô nhìn anh cười, thấy tất cả những vẻ ngạo nghễ và cộc cằn trước đây đều đã biến mất, lần đầu tiên cảm nhận được anh ta là Billy Coen thật sự. Giờ đây, cô nghĩ có lẽ nhiệm vụ đầu tiên của mình đã thất bại. Anh ta không còn là tù nhân của cô nữa. Giả sử họ sống sót, thì cô sẽ không thể buộc mình ngăn anh chạy trốn.

Trong khi chức nghiệp của mình là thực thi luật pháp.

Nghĩ đến đó, cô lại cười càng lớn hơn.

Con khỉ đầu chó lao tới ngay khi họ trở ra hành lang - và ra đi một cách hoành tráng, khẩu súng săn hai nòng bắn nó vỡ sọ với một tiếng nổ đinh tai. Billy nạp lại đạn mới với viên còn lại duy nhất. Anh nhớ là mình còn nhiều, nhưng có lẽ đã bị rớt mất đâu đó dọc đường. Dù sao cũng chẳng có gì khác chặn đường họ nữa, và cả hai quay lại căn phòng lớn. Billy có một cảm giác nhẹ nhõm mà đã lâu anh không có. Bên cạnh trận cười hết mức, như để thư giãn giữa những sự kiện hỗn độn mà họ dính vào, đây còn là lần đầu anh thổ lộ tâm sự với một người thật lòng muốn nghe, một người tin rằng anh nói sự thật. Họ dừng chân chỗ cái tượng đài lớn bằng đá giữa căn phòng thênh thang, nhìn quanh quất. Quanh bệ là sáu con vật tạc tượng, mặt hướng ra ngoài, mỗi con có một tấm thẻ bài gắn phía trước, bên cạnh mỗi tấm là một ngọn đèn dầu nhỏ. Những con vật được chạm khắc cực kỳ điêu luyện, nhưng chỉ càng làm nổi bật thêm tính chất kỳ quái, nếu không muốn nói là thật sự chướng mắt.

Sinh vật trước mặt anh là một con đại bàng đang bay, dưới móng vuốt quắp chặt một con rắn. Anh đọc lớn tấm thẻ. "TA TỰ DO BAY LƯỢN GIỮA KHÔNG TRUNG, SĂN BẮT CON MỒI KHÔNG CHÂN." Anh cau mày, chuyển sang đọc tấm thẻ kế bên, của một con hươu. "TA ĐỨNG CHỄM CHỆ TRÊN MẶT ĐẤT VỚI CẶP SỪNG NGẠO NGHỄ PHÔ BÀY."

Rebecca rảo bước quanh những mẫu vật nghệ thuật không đúng chỗ, chợt thấy một cánh cổng thép bắt chặt vào vách tường phía sau. Cánh cổng chắn lối vào một hành lang ngắn, có hai ô cửa nằm dọc theo vách. "Ở đây có ký hiệu, nó nói" cô quay lại nhìn chăm chú những con vật. "đại để là dùng mấy ngọn đèn để đánh dấu từ con yếu nhất đến con mạnh nhất. Một bài toán đố." Cô nắm lấy một thanh thép của cánh cổng, lắc mạnh. "Chắc để mở cái cửa này."

"Tức là phải thắp sáng mấy ngọn đèn theo thứ tự, bắt đầu từ con yếu nhất,"Billy nói. Thật ngu ngốc. Sao lại phải đâm đầu vào mấy cái rắc rối này cơ chứ... Anh lôi bàn đồ ra khỏi túi, nghiên cứu nó. "Dường như có vài căn phòng chỗ đó. Tôi không thấy lối ra."

Rebecca nhún vai. "Ừ, nhưng có thể chúng ta tìm được gì đó. Liệu nó có gây tổn hại gì không nhỉ?"

"Tôi không biết," anh thật thà trả lời. "Biết đâu đấy."

Cô cười cười rồi quay sang bức tượng gần nhất, một con cọp, đọc tấm thẻ bên cạnh. "TA LÀ VUA CỦA VẠN VẬT: KHÔNG AI THOÁT ĐƯỢC KHI TA MUỐN BẮT."

Billy đi sang trái, tới một con rắn đang cuộn quanh nhánh cây. "Cái này nói, TA LẶNG LẼ TRƯỜN QUA NẠN NHÂN BẰNG CƠ THỂ KHÔNG CHÂN, KHUẤT PHỤC NHỮNG VỊ VUA MẠNH MẼ NHẤT BẰNG CHẤT ĐỘC."

Rebecca đọc to lên hai cái cuối - bên dưới một con sói có dòng chữ, TRÍ TUỆ SẮC SẢO CỦA TA CÓ THỂ HẠ GỤC NGAY CẢ NHỮNG SÚC VẬT CÓ SỪNG VĨ ĐẠI NHẤT.

Tượng cuối cùng là một con ngựa, đang trong tư thế chồm lên. Chữ khắc bên dưới nó ghi là, BAO NHIÊU TRÒ GIAN TRÁ CŨNG KHÔNG NHANH BẰNG VÓ NGỰA THẦN TỐC CỦA TA.

Súc vật có sừng. Billy quay lại con hươu, đọc lại phần "cặp sừng ngạo nghễ phô bày."

"Nghĩa là sói mạnh hơn hươu," anh nói.

"Và nếu gian lận cũng không đuổi kịp ngựa, thì ngựa tất phải mạnh hơn sói," cô nói. "Thứ gì mạnh hơn rắn nhỉ?"

"Hẳn là đại bàng, nó quắp được rắn."

Họ rảo bước quanh tượng đài, đọc lên những gì ghi trên đó, cân nhắc bài toán. Sau khi đã đồng ý về thứ tự, Billy bước đến từng con vật, lần lượt thắp sáng những ngọn đèn dầu - từ yếu nhất đến mạnh nhất, dĩ nhiên chỉ là với những bức tượng này thôi, con kém nhất là hươu, rồi sói, ngựa, hổ, rắn, và đại bàng.

Ngay lúc anh thắp xong ngọn đèn của đại bàng, một âm thanh nặng nề của máy móc phát ra đâu đó bên trong những bức tượng - và cánh cổng thép phía sau nhẹ nhàng kéo lên, trượt vào trong cái rãnh phía trên mái vòm.

Hai người dấn bước vào hành lang. Căn phòng đầu tiên bên tay phải, khi nhìn sơ qua thì thấy nó chẳng có gì đáng giá. Chỉ có một chồng thùng gói hàng trống không, vài cái kệ xếp lộn xộn. Billy chuẩn bị bỏ qua thì Rebecca bước về phía đống thùng. Có một cái quay lại phía cửa nên họ không thể thấy được có gì trong đó - và khi bước vòng qua, cô bật cười hào hứng, đồng thời cúi xuống bên cạnh cái thùng, xoay nó lại cho Billy thấy. Anh bước nhanh tới cạnh cô, cảm giác giống như một đứa trẻ được nhận quà Giáng sinh. Câu đố chết tiệt ấy cũng đáng giá quá chứ.

Có hai hộp rưỡi loại đạn cỡ chín ly. Còn lại nửa hộp, loại hộp hai mươi hai viên, cỡ .50, thì không mấy hữu ích với loại súng nạp băng đạn - nó được thiết kế cho súng lục ổ quay. Nhưng một hộp mười bốn viên đạn súng săn thì quá tuyệt. Billy không thể không nghĩ tới một khẩu bazooka, nhưng với những gì thu thập được thì họ không thể mong chờ gì hơn.

Cả hai mất vài phút để nạp lại đạn. Rebecca tìm được trên kệ một cái ba lô đã hỏng khóa kéo, rồi tống hết mọi thứ vào đó và vào đai lưng của cô; họ đồng ý là nên mang nó theo, để có đủ chỗ chứa trong trường hợp tìm được thêm vũ khí. Billy nhặt một cái ghim băng dưới sàn để thay thế dây kéo cho ba lô, cảm thấy an tâm với sức nặng của mớ đạn.

"Tôi đến phải hôn cô mất," anh vừa nói vừa bồng khẩu súng săn lên - và khi thấy im lặng, anh quay lại nhìn, thấy cô hơi đỏ mặt. Cô quay đi chỗ khác, xốc lại đai lưng.

"Tôi không định nói theo nghĩa đen," anh chữa lại. "Ý tôi là, không phải cô không hấp dẫn, nhưng cô - Tôi - Ý tôi là - "

"Thôi đừng ấp úng nữa," cô nói mát mẻ. "Tôi biết anh định nói gì mà."

Billy gật đầu nhẹ nhõm. Họ đã kết hợp với nhau đủ nhiều để không nghĩ tới cái chuyện nam nữ. Mặc dù cô ta cũng khá xinh.

Anh dẹp ý nghĩ đó đi, tự nhắc nhở là mình chỉ mới đoạn tuyệt với đàn bà có một năm - lúc này chưa tới mức phải nghĩ tới chuyện đó.

Hai người chuyển sang ô cửa thứ hai, thấy nó không khóa. Đây là một phòng ngủ tồi tàn và bẩn thỉu, mấy cái giường làm bằng gỗ dán nằm xếp lớp, vài cái mền rải rác xung quanh trông xơ xác và cáu bẩn. Với những tiện nghi tồi tàn thế này, cùng với cánh cổng thép khóa kín ngoài hành lang, Billy có thể đoan chắc rằng những người ở đây không hề tình nguyện. Rebecca có nói với anh về quyển nhật ký, về những đối tượng thử nghiệm vốn là người...

Cả căn cứ này làm anh thấy sởn gai ốc. Họ phải thoát ra ngoài càng nhanh càng tốt.

"Chúng ta đi lên hay xuống bây giờ?" Rebecca hỏi khi họ quay trở ra hành lang.

"Có một đài quan sát trên lầu à?" Billy hỏi . Rebecca gật đầu. "Vậy đi quan sát thử xem. Biết đâu có thể phát tín hiệu cầu cứu không chừng."

Billy chợt nhận ra mình vừa gợi ý gọi hỗ trợ, nhưng anh không hề đổi ý, cho dù biết cái gì đang chờ mình nếu điều đó xảy ra. Anh thà chết trong cuộc chiến sống còn chứ không muốn bị hành quyết... Nhưng Rebecca thì khác. Cô ấy là người tốt, lương thiện và chân thật, nên anh muốn làm mọi cách để giúp cô sống sót rời khỏi đây.

Họ ra ngoài, Billy tự hỏi không biết bản tính tàn nhẫn của mình đã đi đâu mất, và nhanh chóng quyết định rằng mình không cần nó nữa. Lần đầu tiên sau biến cố kinh khủng ở ngôi làng trong rừng rậm, anh lại thấy mình là chính mình.

oOo

Hắn chứng kiến cả hai thu nhặt đạn, vừa ấn tượng vừa thất vọng bởi sự kiên cường của chúng. Sau khi xem lại bản đồ, chúng lên cầu thang, hẳn là tới đài quan sát; mặc dù lũ con nghe được giọng bọn chúng, nhưng lại không thể lên tiếng.

Hắn đã cho đám con lùng kiếm những phiến đá cần thiết, đặt cạnh cánh cửa dẫn tới đài quan sát. Trừ khi Billy và Rebecca quá đỗi ngu ngốc - mà với những gì đã làm thì chúng không ngu chút nào - còn thì chúng nhất định sẽ tìm được cách khởi động trụ xoay của khối kiến trúc, đến gần lối ra. Từ đó sẽ dẫn tới phòng thí nghiệm, nằm ẩn sau một nhà nguyện...

Hắn tự hỏi liệu bọn chúng sẽ tìm thấy cái gì trong đó, trong phòng thí nghiệm của Marcus, hay lại cuỗm thêm món đồ nào khác. Hắn muốn họ khám phá mọi thứ về bản chất thật sự của Umbrella, nhưng lại không muốn thấy bọn họ thu thập những tàn dư đáng buồn về công việc vĩ đại của Marcus.

Hắn nghĩ ngợi về phòng thí nghiệm, về Marcus, mặc dù Marcus đã qua đời một thập niên. Toàn khu vực đã bị đóng cửa sau "sự mất tích" của giám đốc, nhưng gần đây, Umbrella đã tái khởi động mọi thứ - phòng thí nghiệm, nhà máy xử lý, trung tâm huấn luyện. Chưa có nơi nào hoàn tất lúc virus phát tán; toàn bộ được vận hành bởi đội ngũ các nhân viên bảo trì, được giám sát bởi một ban quản lý đầy triển vọng; thế nhưng, Umbrella đã mất mát không ít những nhân viên trung thành.

Billy và Rebecca đã soát qua những căn phòng phía đông tầng một và quay ra tiền sảnh, tiếp tục tiến lên tầng hai. Chúng tìm thấy cánh cửa dẫn đến tầng ba, rồi tiến đến chỗ cầu thang với súng trong tay, những khuôn mặt trẻ trung lộ vẻ kiên quyết không chút sợ hãi. Hắn quan sát cả hai leo lên, những cảm xúc trái ngược trào dâng trong đầu. Hắn muốn thấy chúng thành công, và muốn thấy chúng chết. Có cách nào thấy được cả hai không nhỉ? Chúng đã dễ dàng xử lý bọn Eliminator, mặc dù bọn này đã yếu đi bởi đói khát và bị bỏ bê. Nếu gặp lũ Hunter thì sao? Hoặc với nguyên mẫu Tyrant?

Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu chúng đến được nơi hắn và lũ con đang chờ và quan sát? Chúng sẽ làm gì?

Hắn cau mày, thấy khó chịu với suy nghĩ đó. Bầy đàn, vốn nhạy cảm với tính khí của hắn, bắt đầu trườn lên chân hắn, lên ngực, ra dáng ôm ấp hắn. Hắn nựng chúng, bàn tay rờ rẫm vỗ về chúng. Nếu hai kẻ mạo hiểm đó thật sự đến được tổ - một giả thiết khó tin - hắn sẽ để chúng đi, dĩ nhiên rồi, để chúng có thể công bố những tội ác của Umbrella.

"Hoặc có thể ta sẽ giết chúng," hắn nhún vai. Hắn sẽ quyết định sau, nếu chuyện đó xảy ra. Hoàn toàn sai nếu nói hắn thờ ơ với số phận của bọn chúng; trong lúc chờ đợi cái chết đến gần của Umbrella, thì quan sát Billy và Rebecca là một niềm khoái lạc của hắn, hắn thật sự hứng thú chờ xem bọn chúng gặp chuyện gì tiếp theo. Nhưng hắn sẽ giết chúng, trước khi chúng có cơ hội làm tổn thương bầy con lần nữa.

Cả hai đã lên đến đỉnh cầu thang, cảnh giác nhìn quanh tay vịn xem có bất cứ động tĩnh nào. Hắn chợt nhớ đến bọn Centurion, đang ẩn trong những bức vách chỗ hồ nuôi, tự hỏi liệu chúng có ra mặt để xem kẻ nào đã dám cả gan xâm phạm lãnh thổ. Billy và Rebecca khó có hy vọng với bọn này. Nếu lũ Eliminator là quân tốt trên bàn cờ, thì lũ Centurion chính là quân mã. Hắn hăm hở chồm tới để quan sát.

oOo

Quãng đường lên tầng ba hoàn toàn yên ổn, ngoại trừ việc họ phải chạy nhanh qua phòng ăn; mặc dù hai con zombie quanh bàn đủ chậm để ăn đạn, nhưng cô vẫn không sao cảm thấy thoải mái khi phải lướt qua những sinh vật đã chết. Billy đang chạy trước ba bước chắc cũng suy nghĩ giống như cô.

Lúc này, trên đỉnh cầu thang, Rebecca thở phào nhẹ nhõm. Tầng ba - chính xác là một phần tầng ba - là một gian phòng rộng rãi độc nhất, không có góc khuất nào nên đỡ phài lo lắng. Cửa lên đài quan sát nằm bên phải họ. Thẳng phía trước là hồ nuôi, một cái hố rỗng không lõm xuống, trải rộng suốt chiều dài phòng. Bên trái là một cánh cửa, mà theo bản đồ, nó dẫn ra mái hiên ngoài trời.

"Cô nghĩ cái này để nuôi thứ gì?" Billy hỏi, hạ giọng xuống. Nhưng âm thanh vẫn lan đi khắp căn phòng mênh mông.

"Chẳng biết nữa. Đỉa chắc?" Rebecca đáp. Cô đang nghĩ tới cái bóng lẻ loi họ thấy lúc còn trên tàu, hát gọi lũ đỉa, và bất giác rùng mình. "Vậy đài quan sát hay mái hiên đây?"

Billy nhìn trước ngó sau, rồi nhún vai. "Có vẻ an toàn. Chúng ta có thể chia ra đi từng cửa - chỉ mở và ngó qua thôi, không được đi lẻ đâu nhé?"

Rebecca gật đầu. Cô đã cảm thấy an toàn hơn nhờ số đạn dồi dào mới kiếm được, nhưng đề nghị này khiến cô phải cẩn trọng lại một chút. Phải nói là cô không mấy sốt sắng khi xé lẻ ra. "Tôi sẽ xem mái hiên."

Hai người cất bước, tiếng chân dội lại quanh căn phòng rộng lớn. Cửa lên đài quan sát ở gần hơn; nên chỉ còn tiếng chân Rebecca vang lên khi cô đi tiếp đến vách tường phía nam.

"Nhìn này," Billy gọi to khi cô đến bên cửa. Anh đang cầm lên một thứ giống như quyển sách, tay kia còn hai cuốn nữa. Rebecca nheo mắt nhìn ngang qua gian phòng rộng, thấy chúng được làm bằng đá, cái nào cũng có một cạnh bo tròn. "Nó ở ngay trước cửa."

"Cái gì thế?" cô hỏi. Mặc dù cô đã thấp giọng, nhưng tiếng nói vẫn dễ dàng truyền qua khoảng không vắng lặng.

"Vật trang trí, có lẽ thế," anh đáp. "Mỗi cái có khắc chữ ngoài bìa." Anh nhìn xuống mấy tấm biển, đọc lướt qua. "À... chúng ta có đoàn kết, kỷ luật, vâng lời."

Giống đoạn ghi âm mà họ đã nghe, lời kể lể của Tiến sĩ Marcus về quy tắc ứng xử của công ty - chính là ba từ này. "Nên giữ lấy chúng," Rebecca nói. "Chắc là một phần của câu đố, giống như mấy con vật."

"Tôi cũng nghĩ vậy," Billy nói, và hạ giọng. "căn nhà điên rồ."

Cô quay lại cánh cửa, giương súng lên trong lúc đẩy chốt - và thấy nó bị khóa. Cô thở phào, buông lỏng hai vai, nhận ra mình đã quá tập trung để đón đợi một cuộc tập kích.

"Bị khóa," cô lên tiếng.

Billy đã mở cánh cửa vào đài quan sát và đang nhìn dáo dác bên trong. Anh thò đầu trở ra, tay giữ cửa mở. "Chỗ này hay đây. Không biết để làm gì, nhưng có cả đống thiết bị trong này; không chừng là radio."

Radio. Cô cảm thấy hy vọng bùng lên. "Tôi đến -"

Chữ đây bị bị cắt ngang bởi một âm thanh giống như tiếng va đập mạnh vào đá, như thể có con gì đang gõ móng thép xuống mặt bàn, tiếng động phát ra rất to. Dù là giống gì đi nữa, nó cũng có kích thước khá lớn - và càng lúc càng đến gần với tiếng động to dần. Thật khó phán đoán nó đến từ hướng nào; bởi tiếng dội vang khắp mọi hướng.

"Hồ nuôi," Billy hét lớn, vẫy tay gọi cô. "Qua đây mau!"

Rebecca đâm đầu chạy tới, tim đập thình thịch, thấy sợ khi nhìn vào cái hồ, không biết có qua kịp không. Cô cảm thấy có sự chuyển động của một thứ gì đó long lỏng và tối thui, và chạy vắt giò lên cổ, cuối cùng đánh liều liếc nhìn khi chạy ngang nó.

Hình dáng của nó đủ sức dập tắt bất cứ một ý nghĩ tỉnh táo nào. Là một con rết, hoặc một loại động vật nhiều chân nào đó, lớn đến nỗi mấy con nhện to lúc trước mà thấy chắc cũng phải khép nép. Những con mắt vàng ệch trồi ra từ hai bên cái đầu đen thui bóng loáng, mấy cọng râu đo đỏ dài ngoằng đang co duỗi và rung động trên đầu. Cái thân uốn khúc dài lê thê nằm gần sát sàn, chia làm nhiều đốt và óng ánh sắc kim loại, được chống chỏi bởi mười hai cặp chân đỏ ối nhọn hoắc. Chiều dài của nó dễ phải đến bốn mét hoặc hơn, to cỡ cái thùng rượu - và đang rượt theo cô, mấy cái cẳng vung vẩy hết tốc lực giúp nó băng ngang cái hồ trống không.

"Chạy đi!" Billy thét, và Rebecca chạy bán sống bán chết, ngửi thấy mùi hôi thối của con vật ngập trong không khí, một thứ mùi ôi kinh khủng đủ sức làm cô nôn mửa, ấy là nếu có thời gian. Billy đang dùng chân để chặn cửa vào đài quan sát, khẩu súng săn nhắm thẳng vào phía sau cô, và Rebecca cảm thấy nó đang rất gần mình, như thể bóng tối đang sắp sửa chụp xuống.

Ngay khi cô vừa đến chỗ Billy, anh nổ súng, giật nòng rồi bắn tiếp phát nữa khi cô lướt qua bên cạnh, đâm bổ qua cánh cửa. Trong khoảnh khắc cô vừa vào trong, anh cũng nhảy qua, đóng sầm cánh cửa sau lưng - và không đầy nửa giây sau, có tiếng con vật dộng mình vào cửa, tiếng va chạm của phần cơ thể bọc thép với gỗ dày. Cả hai chờ đợi thấp thỏm, mắt nhìn đăm đăm ra cửa - nhưng rồi âm thanh đó ngưng bặt sau vài giây, rồi có tiếng chân lóc cóc biến đi xa dần.

"Ơn Chúa," Billy nói. Rebecca gật đầu. Anh đưa tay ra kéo cô đứng dậy, cả hai thở hổn hển.

"Tốt nhất là không đi ngả này nữa," Rebecca nói, cầu mong họ sẽ không phải quay lại đó.

"Có lý lắm," Billy đồng ý.

Họ im lặng một lát, đưa mắt nhìn quanh chỗ ẩn náu. Đây là một căn phòng tròn khá lớn, có hai tầng. Họ đang đứng trên một lối đi hẹp tạo thành hình bán nguyệt ôm lấy căn phòng; góc phía bắc có vài cánh cửa khác. Gần đó là một cầu thang ngắn tách khỏi lối đi, dẫn xuống một cái sàn bằng lưới kim loại, xếp đầy trang thiết bị. Dưới cái sàn toàn là bóng tối.

Hai người cùng rảo quanh lối đi, dừng lại trước mấy cánh cửa một chút. Tất cả đã khóa. Họ trao đổi ánh mắt với nhau nhưng không nói gì, và tiếp tục đi đến cái thang. Rebecca xuống trước, dừng lại bên một cỗ máy khá lớn nằm chình ình chính giữa sàn, có lẽ là kính thiên văn. Có một cánh tay đòn, nhưng nó cao ngoài tầm với. Billy đứng đằng sau cô, đang quan sát những thiết bị còn lại, gồm một dàn máy tính và những máy móc mà cô không biết chúng là gì. Cô quay lại kính thiên văn, nhìn xuống bảng điều khiển - và nín thở. Có ba khối lõm xuống trên đó, khuôn dạng giống như tấm bia mộ, một cạnh dẹt, cạnh kia tròn.

"Tôi không thấy có radio, nhưng -" Billy cất tiếng, nhưng cô đã ngắt lời.

"Anh vẫn giữ mấy phiến đá chứ?" cô nói.

Billy quay lại nhìn bảng điều khiển trong lúc mở túi. Anh lấy mấy phiến đá ra, cả ba có kích thước cỡ một cuốn sách bìa mềm nhưng mỏng hơn. Rebecca cầm lấy, nhớ lại cái phương châm rối rắm của Umbrella trong lúc đặt chúng vào vị trí. "Vâng lời tạo thành kỷ luật. Kỷ luật tạo thành đoàn kết. Đoàn kết làm nên sức mạnh..."

"Và sức mạnh là sự sống," Billy kết câu.

Ngay khi phiến thứ ba vào chỗ, một âm thanh cực lớn vang khắp căn phòng hai tầng, tiếng máy móc hoạt động - và họ nhận ra cả phòng bắt đầu đi xuống như một cái thang máy. Không phải cái sàn, mà là cả phòng, cả tường, tất cả. Dưới chân họ, bóng tối đang trôi dần lên, lộ rõ là một hồ nước, bọt khí bị khuấy động lên theo đà đi xuống của căn phòng. Trong một thoáng, Rebecca tự hỏi liệu nó có dừng lại chăng, thật hãi hùng nếu bị dìm chết ngộp - và rồi tiếng máy móc nhỏ dần, căn phòng đứng yên trở lại. Giữa âm thanh nhỏ dần của cỗ máy, họ nghe một tiếng click phát ra từ mấy cánh cửa ở góc phía bắc trên đầu.

Cả hai nhìn nhau, Rebecca thấy anh cũng lộ vẻ kinh ngạc chẳng khác gì mình.

"Xem ra chúng ta đã biết phải đi đâu tiếp rồi," Billy nói, cố gắng nở nụ cười không chút thuyết phục. Rebecca thậm chí còn không định cười. Họ đang bị dẫn dắt - nhưng không biết để được tự do, hay để làm những con cừu giết thịt?

Phải thử thôi. Cả hai không nói gì nữa, mà cùng quay lại và leo lên thang.

--------------------------------------------------------------------------------

Sau cánh cửa phía bắc là một bầu trời đêm mát mẻ, Billy thấy thật sự nhẹ nhõm và hít thở thật sâu. Anh không nhận ra là mình đã hoảng sợ đến thế nào, khi nghĩ có thể sẽ không bao giờ thoát được nơi này. Thật không may, anh nhanh chóng thấy là họ vẫn chưa thoát; cánh cửa trong đài quan sát mở ra một lối đi dài và hẹp, hướng thẳng tới một toà nhà khác, cách chừng năm mươi mét. Hai bên mép lối đi đều là nước, một kiểu hồ nhân tạo tiếp giáp mặt đông của khu nghiên cứu.

Họ rời khỏi đài quan sát, rồi quay lại nhìn để xem cái nơi mình vừa đi qua, mất khoảng vài phút để nhận định xem họ đang ở hướng nào so với tiền sảnh, so với những căn phòng bên trong. Hoàn toàn thất bại. Cảm giác về phương hướng của Billy không mấy tốt, Rebecca cũng chẳng khá hơn bao nhiêu. Sau cùng họ từ bỏ mọi nỗ lực, và quay lại với tòa nhà cao sừng sững cuối con đường.

Hai người cùng sải bước, Billy vẫn đang ra sức hít đầy vào phổi bầu không khí ngọt ngào đượm đầy sương mù. Có lẽ đã qua nửa đêm về sáng. Khó nói chính xác vì không nhìn thấy được bầu trời, chỉ có vài đám mây xám lớn sau cơn mưa trôi lửng lơ trên đầu.

"Cô nghĩ coi chúng ta đang ở đâu," anh hỏi.

"Làm sao mà biết được," Rebecca trả lời. "Hy vọng là một nơi có điện thoại."

"Và nhà bếp," Billy nối thêm. Anh ta đang đói meo.

"Phải," cô đồng ý, giọng nói pha chút thèm thuồng. "Cất đầy bánh pizza và kem."

"Loại thịt bò và heo có rắc tiêu?"

"Loại Hawaiian," cô nói. "Và kem pistachio."

"Gaah," Billy làm điệu bộ khoái trá với mẩu đối thoại. Họ không có nhiều thì giờ để tìm hiểu nhau, mặc dù anh cảm thấy có một mối liên kết giữa hai người, kiểu anh thường gặp trong chiến đấu. "Tin chắc cô cũng sẽ thích đồ ăn kiểu cam."

"Đồ ăn kiểu cam?"

"Ừ, cô biết đó. Màu cam không tự nhiên. Người ta trộn phô mai và mì ống, thêm chút hương vị nuớc cam, bánh snack, phô mai chiên..."

Rebecca nhoẻn miệng cười. "Nghe hay đấy. Tôi thích món này."

Billy tròn mắt. "Thiếu niên... Có phải cô đang tuổi thiếu niên không vậy?"

"Vừa đủ đi bầu cử," cô nói, ngữ điệu có phần hơi thủ thế. Trước khi anh kịp hỏi làm sao mà cô vào được S.T.A.R.S. ở tuổi này, cô đã tiếp lời. "Tôi là một trong những thần đồng xuất chúng, đã tốt nghiệp cao đẳng và có đủ loại bằng. Còn anh thì bao nhiêu tuổi, ông cụ? Ba mươi?"

Đến lượt Billy giở giọng thủ thế. "Hai mươi sáu."

Cô cười. "Wow, già quá rồi. Để cháu kiếm cho cụ một cái xe lăn."

"Nín mau," anh vừa nói vừa cười lớn.

"Cháu nói rồi, để cháu kiếm cho cụ một cái xe lăn!" cô la còn lớn hơn, không chút nể nang. Họ vừa cười vừa đi qua một chòi canh trống trải nhỏ bé, nằm phía bên phải con đường, và thấy một thi thể nằm dưới đất.

Chỉ là phần còn lại, Billy nghĩ thầm, tâm trạng đang vui bỗng chùn hẳn xuống khi cả hai dừng bước, không thể không quan sát nó. Đôi chân và một cánh tay đã biến mất, khiến cái xác đang nằm úp mặt - quá xa để biết nam hay nữ - trông có vẻ như bị chết chìm trong vũng máu đậm đặc bao quanh.

Không ai nói thêm gì khi tiếp tục cất bước, cả hai đều tự trấn tĩnh lại trước tấn thảm kịch vừa xảy ra. Không thể để nó ám ảnh mãi trong đầu được; cứ mãi kinh tởm với những tai nạn rò rỉ virus chỉ tổ ảnh hưởng đến hành động, đôi lúc cười được một trận cũng rất quan trọng, thậm chí còn cần thiết, để giải tỏa phần nào gánh nặng tâm lý. Tuy nhiên, nếu nhìn một cái xác mà còn cười được, thì tình trạng tâm thần chắc là có vấn đề mất rồi.

Họ từ từ đi quanh khu kiến trúc chưa biết, nghiên cứu cách bố trí. Có vài nhánh rẽ nằm dọc hai bên con đường chính phía trước tòa nhà, bị bao bọc bởi cây cối và hoa lá nảy mầm từ khá lâu, khiến cho lối đi bị che khuất sau những bờ giậu rậm rạp. Có vài ngọn đèn bên ngoài chưa hư hỏng, nhưng chỉ đủ khiến cho bóng đêm trông có vẻ như tối hơn. Môi trường có phần không mấy hiếu khách, nhưng Billy không thấy bóng dáng một con zombie hay người đỉa nào, nên dù sao cũng đỡ hơn tòa nhà vừa rồi một chút.

Có vài bậc thềm đá dẫn lên cánh cửa đôi. Billy canh chừng mấy lối đi tối lờ mờ, trong lúc Rebecca đi lên những bậc thềm, đẩy cửa.

"Bị khóa," cô nói.

"Đáng ghét thật," Billy nói, và cũng leo lên theo. Anh thử lại tay nắm cửa, nhận thấy mặc dù lớp gỗ khá dày, nhưng ổ khóa thì không mấy chắc chắn. Ít nhất là với một lực tông đủ mạnh. "Lùi lại."

Anh quay ngang người, xuống tấn, đạp một cái thật mạnh vào ổ khóa, rồi cái nữa. Đến cú thứ ba, anh nghe tiếng gỗ nứt, rồi nó vỡ toác sau cú thứ năm, cái ổ kim loại rẻ tiền văng long lóc.

Hai người bước lên khung cửa, nhìn xung quanh. Sau những thứ đã gặp qua, anh nghĩ nơi này sẽ làm mình kinh ngạc, nhưng anh lầm. Đây là một nhà thờ được trang trí công phu như vẫn thường thấy, từ lớp kính màu trên vách tường cao sau bàn thờ, đến những chiếc ghế dài bằng gỗ sáng sủa. Nó cũng đã hư hại; chí ít một nửa số ghế bị lật nhào, và họ chỉ nhìn thấy được mọi vật nhờ cái lỗ thủng to tướng trên trần, cách nơi đang đứng không xa lắm.

"Coi cái bàn thờ kìa," Rebecca thì thào.

Billy gật đầu. Thực ra không phải nhìn bản thân bàn thờ, mà là nhìn những những thứ xung quanh nó. Ngay trên mặt đất chỗ gần cửa trước là hằng trăm cây nến đã cháy hết, những bức tượng biểu trưng tôn giáo bị mất đầu, hầu hết bị hư hại hoặc bị trây trét bằng tro, còn có một bó hoa héo khổng lồ. Chỉ có thể miêu tả bằng một từ, ghê rợn.

"Tôi sẽ thấy nhẹ nhõm hơn nếu được rời khỏi chỗ này," Billy nói, hạ giọng thấp đến độ nhận ra chính mình đang thì thào. "Chúng ta nên kiểm tra xem có lối đi nào không."

Rebecca gật đầu, đang lui lại - thì từ trên cái trần nhà cao hình vòm, có thứ gì đó vừa lớn vừa đen thui nhào xuống chỗ họ, kêu ré lên khủng khiếp, đôi cánh bụi bặm khổng lồ vỗ phần phật. Tất cả diễn ra một cách chậm chạp, đủ lâu để Billy nhìn rõ con vật. Nó là một loài dơi rất lớn, lớn hơn bất cứ loại nào anh từng biết, có sải cánh rộng cỡ chim đại bàng.

Nó bay vụt lên trước khi chạm đất, lui trở vào bóng tối trên đầu, nhưng cũng đã kịp quạt một luồng không khí đậm mùi thịt thối trùm lên họ. Billy kéo Rebecca lại bằng một tay, tay kia chộp lấy nắm cửa đã hỏng. Anh dập cửa lại, ước gì mình đã không phá tung nó, nhưng rồi nhận thấy là chuyện đó chẳng thay đổi được gì. Họ nghe tiếng con dơi khổng lồ bay vụt qua lỗ hổng trên nóc, nghe tiếng bộ móng vuốt ngoại cỡ cào sột soạt trên lớp ván.

"Chạy!" Billy la lớn.

Cả hai lao xuống những bậc thềm, Rebecca dẫn đường sang phải. Ở đó có nhiều thứ che chắn hơn, với một con đường mòn men dọc theo tòa nhà. Nó rẽ ngoặt rất gắt, một lần, hai lần, lối rẽ ẩn trong những cây cối và bụi rậm mọc tràn lan. Rebecca chạy rất nhanh, nhưng Billy vẫn theo kịp, phần nào bị thúc đẩy bởi hình ảnh đôi cánh rung động phủ chụp lên mình, bị cấu xé bởi những móng vuốt-

"Đằng kia!" Rebecca chậm lại, tay chỉ tới trước.

Bên phải con đường trước mặt là một thứ giống như thang máy, nằm chơi vơi bên hông nhà thờ. Billy không biết đây có phải là một lựa chọn sáng suốt hay không, nhưng tiếng vỗ cánh đã vang lên đâu đó trên đầu, cùng với tiếng ré đinh tai của con dơi đang săn mồi. Anh theo Rebecca đến cửa thang máy, lòng thầm tạ ơn Chúa khi thấy nó trượt ra theo đà kéo của cô. Không gian bên trong tương đối chật cho hai người; họ phải ép sát vào nhau, và thấy cái này chỉ đi xuống. Vậy cũng tốt; Billy chẳng màng tới chuyện viếng thăm tháp chuông nhà thờ, kẻo lại gặp lũ chị em con dơi thì toi.

Rebecca nhấn công tắc đóng cửa. Ngay khi nó sắp đóng, một con zombie lắc lư sấn tới chỗ họ như từ trên trời rơi xuống, một phụ nữ, mấy ngón tay lòi xương quơ quào về phía hai người. Nó rên lên, để lộ hàm răng đen sì, và rồi cánh cửa đóng sập lại, ngăn cách con zombie bên ngoài, ngăn cách tiếng rít the thé của con dơi bị lây nhiễm.

Hai người cùng ngồi thụp xuống, tựa vào vách thang. Họ vẫn có thể nghe thấy tiếng rên đói khát của con zombie cái ngoài cửa, nghe tiếng mấy ngón tay lòi xương cào sột soạt lên khung cửa sắt. Vài giây sau, tiếng rên của nó được phụ họa bởi một tiếng nữa, rồi tiếng thứ ba, tất cả lộ vẻ tiếc nuối thất vọng.

Chỉ có hai lựa chọn, tầng B1 hoặc B2. Billy nhìn Rebecca, cô khẽ lắc đầu, da mặt nhợt nhạt. Lũ zombie bên ngoài vẫn tiếp tục cào cào cánh cửa, và Billy nhấn nút B1. Thang máy không hề nhúc nhích.

"Vậy thì, B2," Billy nói, cầu mong là họ đã không tự đút đầu vô rọ. Anh nhấn nút. Thang máy khẽ tròng trành rồi hạ xuống êm ả. Billy hơi sấn lên trước Rebecca, hờm sẵn khẩu súng, hy vọng nó sẽ không mở ra giữa một bầy sinh vật bị nhiễm, đang háo hức chờ xơi bữa khuya.

Cửa thang máy trượt ra không một tiếng động, để lộ một hành lang đầy gạch vụn nhưng vắng ngắt. Anh nhấn lại nút B1, hy vọng nó hoạt động, nhưng thang máy cứ nằm ì đó. Xem ra, họ chỉ có thể quay lại với con dơi và lũ zombie, hoặc thám hiểm tầng hầm thứ hai. Đương nhiên là Billy chọn giải pháp thứ hai.

Anh thận trọng bước ra, Rebecca theo sát phía sau. Tương tự ngôi biệt thự vừa rồi, cách trang trí cũng như kiểu kiến trúc chỗ này khá tao nhã và xa hoa. Mặt sàn lát đá hoa cương, tuy đã sứt mẻ nhưng vẫn toát lên vẻ lịch sự sang trọng, nằm dọc hành lang là những cây trụ tinh xảo, phía trên lối vào được uốn cong thành hình mái vòm. Bên trái họ có một cầu thang đi lên, bị lấp kín bởi đá vụn và vữa tường. Nằm cùng phía còn một cánh cửa nữa, ngay trước lối rẽ sang phải của hành lang.

Họ dừng trước cầu thang, nhưng nó hoàn toàn không sử dụng được nữa, đá và vữa đã bịt kín từ sàn lên tới trần. Nếu muốn trở lên chỉ có cách dùng thang máy... tuy nhiên Billy không muốn chút nào. Sau khi đã liên tiếp chạm trán đủ thứ quái vật kinh khủng, nguy hiểm, kinh tởm, anh thật sự muốn nghĩ ngơi một lát.

"Cái đống này đảm bảo cho ta tránh được bọn quái vật," anh khẽ nói.

"Nhất trí," Rebecca nhẹ nhàng đáp lại. Cô nhoẻn miệng cười với anh, có điều không được tự nhiên. Họ cùng dấn bước, tiếng giày nện lộp cộp trên mặt đá.

Rebecca dừng lại ở cửa đầu tiên, trong khi Billy kiểm tra nhanh phần còn lại hành lang. Có một ô cửa thứ hai bị khóa bằng loại khóa két sắt - và cửa thứ ba, Billy không chắc lắm, nhìn có vẻ như hành lang kết thúc bởi một vách tường màu xanh, nhưng ngay đó lại xuất hiện một điện thờ rất công phu - với hai bức tượng làm giá đỡ cho một khuôn mặt đắp nổi dựng nghiêng, giống Marcus như tạc. Không thấy lỗ khóa, nhưng dưới bức tượng là một dấu lõm có kích cỡ bằng nắm tay con nít, trông cứ như bị mất một mảng.

Hấp dẫn làm sao. Lại thêm hai câu đố mở khóa nữa, Billy ngán ngẩm, quay lại chỗ Rebecca. Bọn người này muốn gì cơ chứ? Nếu bọn nó nghĩ mình thông minh xuất chúng, sao không đi giải đố ô chữ cho rồi?

May mắn thay, cánh cửa đầu tiên không khóa. Hai người tiến vào một căn phòng tao nhã đã hư hỏng, chất đầy những kệ. Nằm ngay đầu phòng là một tấm thảm phương Đông đã ố màu. Nơi này có hình dáng gần như chữ U, sáng rực rỡ trong đêm dưới nhiều ngọn đèn. Bên cạnh mấy cái kệ có nhiều bàn thấp và bàn giấy loại nhỏ, với một máy đánh chữ cổ lỗ. Billy bước tới cái bàn gần nhất, nhặt lên một mảnh giấy.

"'Không có vẻ gì là rắc rối, nhưng tôi vẫn phải đề phòng,'" anh đọc lên. "Để giấu chiếc lá, hãy đặt nó trong rừng. Để giấu chìa khóa, hãy làm nó giống như chiếc lá,'"

"Rõ như ban ngày ấy," Rebecca nói, Billy gật đầu. Lại nữa - bọn này muốn gì cơ chứ?

Rebecca nhìn lên kệ, còn Billy đi quanh phòng, chú ý thấy một cái lỗ hổng lớn trên trần, nằm trong góc gần phía cửa. Nó khá cao, nhưng nếu có một cái bàn...

"Tất cả đều nói về sinh vật học," Rebecca nói. "Động vật có vú, côn trùng, động vật lưỡng cư,..."

"Nhìn này," Billy gọi lại, Trong lúc cô đi quanh lỗ hổng, Billy lôi một cái bàn gần nhất kê bên dưới nó. Anh vẫn không thể với tới...

"Tôi có thể lên đó được," Rebecca nói. "Anh tìm thử xem có dây hay thứ gì giúp leo lên không."

Billy nhăn mặt. "Tôi không biết. Lần gần nhất khi cô tìm kiếm..."

"Được mà," cô nói với vẻ mặt cương quyết. Cô đang tình nguyện làm, nếu không muốn nói là hăm hở - mà họ thì phải làm gì đó thôi.

Billy bước lên bàn, bắt chéo tay lại để nâng Rebecca. Cô leo lên, đạp chân phải lên tay anh, một tay vịn vai. Thật sự thì cô nhẹ hẫng, đến nỗi Billy có thể nâng hai người như cô cũng được. Anh dể dàng đẩy cô lên cao, và Rebecca biến mất khỏi tầm nhìn khi trườn vào trong. Một giây sau, cô thò đầu ra ngoài lỗ hổng.

"Có vẻ an toàn, nhưng tối quá," cô nói. "Dường như là một phòng thí nghiệm, có nhiều kệ, vài cái bàn... Để tôi xem có thể tìm được gì."

Cô lại biến mất kần nữa. Billy nhìn chăm chăm lên đó chờ đợi, không ngừng tự nhắc mình rằng cô ta biết cách tự xoay sở. Rebecca đã chứng minh rằng cô mạnh mẽ và tháo vát còn hơn khối quân nhân từng trải mà anh biết - nếu gặp rắc rối, cô chỉ việc nhảy xuống là xong, không có gì phải lo ngại -

Rebecca thốt lên một tiếng hét ngắn ngủi sắc gọn, và Billy lạnh toát cả người

"Rebecca!" anh la lớn, bất lực nhìn lên lỗ đen trên đầu.

oOo

Có vẻ là một phòng thí nghiệm, một nơi được sử dụng liên tục hồi thập niên trước, và tới giờ vẫn chưa được dọn dẹp hết. Có một lớp bụi dày trên sàn và trên kệ, nhưng đâu đó có dấu hiệu bị dịch chuyển và để lại dấu tích - những lằn vết dưới ghế, dấu tay trên những cái chai mẫu vật, Rebecca liếc nhanh xung quanh, rồi quay xuống lỗ trống. Phía dưới, Billy đang căng thẳng chờ đợi.

"Có vẻ an toàn, nhưng tối quá. Dường như là một phòng thí nghiệm, có nhiều kệ, vài cái bàn... Để tôi xem có thể tìm được gì."

Cô quay lại, quan sát căn phòng nhỏ lần nữa - và nhận ra nó lớn hơn cô tưởng, có một phần bị ẩn đi dưới một mặt thềm rộng chia đôi gian phòng. Cô chỉ thấy được nó, nhờ ánh sáng màu xanh nhạt yếu ớt phát ra từ khu vực ẩn. Nắm chặt súng trong tay, cô vòng qua góc -

- và hét lớn, suýt nữa bắn vào con quái vật lay động phía trước, để rồi nhận ra nó không phải là vật sống.

"Rebecca!"

"Tôi không sao!" cô gọi xuống, vẫn nhìn vào sinh vật kỳ quái đó. "Chỉ bị hú hồn thôi. Không sao."

Cô tiến lại gần một ống trụ mẫu vật có kích cỡ bằng người thường, bên trong chứa đầy chất lỏng trong suốt, đang phát ra ánh sáng nhàn nhạt. Có tất cả bốn ống dàn thành một hàng, cái sau nhìn ghê rợn hơn cái trước. Thứ bên trong đã từng là người, nhưng đã bị biến đổi qua phẫu thuật, tin chắc cũng bị tiêm T-Virus. Cô cố gắng nghĩ cách mô tả cho Billy, nhưng thật sự là không tài nào tả nổi; các chi vạm vỡ của chúng đang nổi lơ lửng, trông méo mó hết sức kỳ quặc, phần thân vá víu khắp chỗ, bộ mặt biến dạng thể hiện một nỗi thống khổ và hung tợn. Tóm lại là hết sức kinh tởm.

Phía sau hàng sinh vật kỳ quái giống người đó, có một cái hộp đựng mẫu vật khác, chứa toàn những ống nhỏ hơn. Rebecca nghiêng người, thấy trong mỗi ống có một con đỉa chết. Cô nhăn mặt, tính quay đi chỗ khác - thì nhận ra có một ống hơi khác biệt. Con đỉa bên trong... không thật là một con đỉa.

Cô đẩy ô cửa kính lấm bụi sang bên, kéo cái ống khác thường đó ra, đưa lên dưới ánh sáng lờ mờ. Nắp ống được dán keo hoặc hàn kín, và thứ bên trong có hình một con đỉa, nhưng là một vật được chạm trổ hoặc điêu khắc, nhuộm màu xanh thẫm.

Tại sao lại làm một con đỉa giả và đặt nó -

Cô chớp mắt, nhớ lại mảnh giấy Billy đã đọc - để giấu chiếc lá, hãy đặt nó trong rừng. Để giấu chìa khóa...

Rebecca quay lại lỗ hổng, đưa cái ống ra cho Billy thấy. "Tôi nghĩ mình đã tìm thấy chìa khóa chiếc lá," cô nói, và thả nó xuống. "Nói cho đúng phải là chìa khóa con đỉa."

Billy bắt gọn lấy nó, nhìn săm soi. "Cá là nó khớp với một trong mấy cánh cửa," anh nói. "Leo xuống đi thôi, chúng ta sẽ cùng thử."

"Cái nắp không mở được," cô lên tiếng, và ngưng lại khi thấy Billy thả nó xuống dưới sàn bên cạnh bàn. Anh chàng cười nhe răng với cô, rồi nhảy lên, giậm gót giày xuống cái lọ. Thủy tinh bể nát, và một giây sau, anh lượm vật chạm khắc đó lên.

"Chuyện nhỏ," anh nói. "Đi thôi."

Cô cắn môi, nhìn xung quanh gian phòng thí nghiệm. Có nhiều tủ hồ sơ và giấy tờ khắp nơi...

"Anh đi trước đi. Để tôi xem có thể tìm được tấm bản đồ nào không."

Billy cau mày. "Cô chắc chứ?"

"Sợ đi một mình à?" cô đáp lại, khẽ cười cười.

"Thú thực là có," anh vừa cười vừa đáp. "Được thôi. Tôi sẽ trở lại ngay. Đừng có đi đâu xa quá đấy nhé? Nếu có gì nhớ gọi tôi."

Rebecca vỗ lên bộ đàm. "Dễ mà."

Anh nhìn cô một thoáng, rồi quay lưng đi thẳng. Rebecca ngó quanh phòng thí nghiệm lần nữa, chú ý đến hai cái bàn lớn nhất. "Nào, Marcus, để coi ông có để lại cho bọn tôi thứ gì hữu dụng không," cô nói và đi đến cái bàn, không hề biết rằng mình đang bị quan sát từ khoảng cách rất, rất gần, trong lúc nhặt một cuộn giấy lên và bắt đầu đọc.

oOo

Mày tới số rồi.

Hắn nắm chặt bàn tay lại, điên tiết. Lũ con cố gắng xoa dịu hắn, trườn qua vai hắn, nhưng hắn phủi chúng thẳng tay, mặc kệ mọi nỗ lực của chúng.

Rebecca, đang đọc những bản ghi chép riêng tư của Tiến sĩ Marcus. Tìm được lá bùa dẫn tới phòng riêng của tiến sĩ Marcus, đưa cho Billy. Rồi tất cả những gì còn lại chúng cần làm chỉ là leo lên xe cáp treo, có lẽ mở thêm vài cái khóa, thế là sẽ ra đi yên ổn... Nhưng xem ra bọn chúng không chịu bỏ lại ký ức về Tiến sĩ Marcus lại đằng sau, chúng cả gan xâm phạm đến những điều riêng tư ít ỏi mà ông ta để lại.

"Còn lâu, nếu chúng ta ngăn cản bọn chúng," hắn nói với lũ con, trong lúc quan sát Billy dùng cái hình khắc để mở cửa phòng Tiến sĩ Marcus, còn Rebecca đang nghiên cứu cẩn thận những giấy tờ của Marcus. Theo dõi hai đứa nó thật là một thú tiêu khiển ra trò, nhưng nhiêu đó đủ rồi. Thế giới này sẽ biết đến sự thật về Umbrella mà không có chúng.

Đã đến lúc những đứa con của hắn gia nhập cuộc chơi.

Đúng như anh nghi ngờ, cái điện thờ trong ngõ cụt chính là cánh cửa, và con đỉa gỗ Rebecca tìm được lắp vừa khít vào "lỗ khóa" của cửa. Sau một tiếng click khẽ, ô cửa đã được mở khóa.

Billy quan sát phía ngoài một hồi trước khi bước vào, quả quyết rằng vật đắp nổi đó thật sự là của Tiến sĩ James Marcus. Anh tự hỏi, không biết sao gã người đỉa trên toa tàu lại có thể giống như Marcus; khi mà chúng được điếu khiển bởi một gã thanh niên, kẻ cất tiếng hát ngoài đoàn tàu. Phải chăng thật sự Marcus vẫn còn đâu đây? Không hợp lý lắm. Quyển nhật ký Rebecca tìm được cho thấy Marcus đã gần như mất trí, bị ám ảnh rằng Spencer đang chơi lão, muốn hạ bệ lão, và cũng đã mười năm rồi. Một người lẩn thẩn sao có thể kiểm soát được công việc.

Rebecca đang đợi. Billy dẹp những mối nghi vấn sang một bên, dùng nòng súng đẩy cánh cửa. Anh quan sát nhanh xem bên trong có chuyển động nào không - không có gì cả - và hạ thấp súng, sải bước vào trong.

"Wow," anh không nói nên lời khi nhìn xung quanh. Đây là một văn phòng lớn, sang trọng, một bên xếp hàng loạt những kệ và tủ âm tường, toàn bộ bằng gỗ mun bóng loáng với cửa kính, đối diện là một lò sưởi trang trí công phu. Nội thất được làm bằng gỗ xưa - gồm một cái bàn thấp. nhiều ghế, một bàn làm việc lớn - nhìn thật tuyệt mỹ, dưới sàn lót thảm nhung, khiến cho anh bước rất êm. Anh thấy một cánh cửa phía cuối phòng, đằng sau bàn làm việc, và bắt chéo hai ngón tay để cầu nguyện rằng nó chính là lối thoát cho họ.

Hầu như toàn bộ ánh sáng trong phòng đều phát ra từ cái bể cá lớn, chiếm cứ một góc phía đông bắc tính từ chỗ anh đang đứng, và dệt lên mọi thứ một màu xanh nhạt của nước, mặc dù thực tế nó trống rỗng -

- Billy cau mày, tiến lại gần. Không hoàn toàn rỗng. Không cá, không đá sỏi, không thực vật, nhưng lại có những vật thể dao động trên bề mặt - thứ gì đó rất kinh nhưng cũng không kém phần kỳ quặc. Trông giống những mảng thịt người, có điều không ra hình thù gì, không có xương, kiểu như các phần cơ thể bị cắt bỏ, bị làm biến dạng. Billy nhanh chóng đến gần, thấy bối rối với những vật thể nhợt nhạt dao động đó.

Một trong số mấy cái tủ âm tường mở sẵn, Billy lại gần nó, ngó qua mấy cuốn sách bên trong. Có một cuốn album hình khá cũ nằm trên kệ, và anh nhấc nó ra. Anh biết mình phải quay lại chỗ Rebecca, nhưng lại đang rất tò mò, muốn biết phải chăng cái tượng đắp nổi ngoài cửa chính là dấu hiệu cho thấy mình đang ở trong văn phòng của Marcus.

Tập hình đã khá cũ, bị ố vàng và quăn queo. Billy lật qua vài trang, thấy thật mất thì giờ. Anh tính để nó lại như cũ thì một tấm hình rớt ra. Anh nhặt lên, giơ nó ra dưới ánh sáng xanh nhạt.

Bản thân tấm hình không có gì đáng chú ý, chỉ là ba người đàn ông có tuổi từ ba mươi đến năm mươi, trông sạch sẽ và bảnh bao, đang cười với người chụp hình. Phía sau hình có dòng chữ viết tay của ai đó, "Gởi James, nhân dịp lễ tốt nghiệp, 1939."

Billy nhìn tấm ảnh cẩn thận, tin chắc người đứng giữa là James Marcus. Nhưng có điều gì đó về hình dáng cái đầu... Không hiểu sao thấy quen quen...

"Chính hắn," anh nói và khẽ gật đầu. Gã ca sĩ lúc trên tàu. Họ không thấy rõ hắn, nhưng xem ra hắn có cùng vóc dáng, cùng bờ vai rộng... "Có thể con của Marcus. Hoặc cháu."

Có một vấn đề nan giải ở đây, và anh nghĩ mình đã tìm được mảnh ghép còn thiếu. Nếu Spencer đã hạ bệ Marcus, cướp đoạt công việc của ông ta, liệu con Marcus, hoặc cháu, có định báo thù chăng? Biết đâu vụ phát tán virus không phải là tai nạn. Biết đâu gã đàn ông với lũ đỉa đã làm chuyện đó.

Billy thở dài, nhét tấm hình lên trên cùng cuốn album. Nghe có vẻ hay ho, nhưng có ý nghĩa gì đâu chứ? Cái anh cần là tìm đường thoát ra.

Billy kiểm tra cái bàn để tìm chìa khóa hay bản đồ gì đó, không thấy, và chuyển sang cánh cửa trong phòng, thật may mắn nó không khóa. Anh đẩy cửa, cảm thấy hy vọng lịm dần; chẳng có cái đường hầm lớn nào với dấu hiệu lối thoát hiểm cả. Có vẻ chỉ là một cái kho nằm trong ngạch tường, với vài bức tượng được che đậy quần áo xộc xệch. Có một bức không có lấy một mảnh che thân, làm bằng đá hoa cương trắng, nhìn giống như một trong các vị thần thời Rome, đang ngồi tựa vào tường, ánh mắt vô hồn nhìn thẳng lên, một tay khum gần dưới bụng -

- và cầm một vật gì đó. Màu xanh.

Billy bước qua, nhặt lấy vật thể nhỏ bé trong mấy ngón tay xanh xao của bức tượng, nở nụ cười nhợt nhạt khi nhận ra nó. Lại một con đỉa được chạm khắc, lần này màu xanh lá chứ không phải xanh lam.

Thêm một chìa khóa nữa, chắc là dành cho một cửa bí mật đâu đó. Và tin chắc nó sẽ dẫn họ ra ngoài.

oOo

Ngày Một

T được thử nghiệm với bốn con đỉa. Cấu trúc đơn bào khiến chúng trở thành những ứng viên hoàn hảo cho cuộc nghiên cứu, nhưng lại quá đơn giản để thích nghi. Kết quả quan sát cho thấy chưa có gì biến đổi.

Từ bốn được gạch dưới. Bên lề giấy, ai đó viết nguệch ngoạc mấy chữ ngoằn ngoèo "thay đổi thứ tự," và khoanh tròn lại.

Đây là một phần nhật ký phòng thí nghiệm, hầu hết được ghi ngày và đánh số thứ tự. Rebecca tính trả nó về chỗ cũ, thì bỗng thấy có nhiều chữ và cụm từ được gạch dưới trong mấy trang cuối. Cô bèn đọc tiếp, chú ý tới những chỗ đánh dấu.

Ngày Tám

Một tuần rồi. Chúng tăng trưởng nhanh tới mức gấp đôi kích cỡ, chứng tỏ đã có sự chuyển biến. Quá trình sinh sản thành công giúp nhân đôi lượng cá thể, nhưng thói quen ăn thịt cũng đã xuất hiện, có lẽ là hệ quả của sự tăng cường tính thèm ăn. Phải gấp rút tăng thêm lượng thức ăn, nhhưng cũng đã mất hai.

Từ nhân đôi và hai được gạch dưới.

Ngày 12

Đã cung cấp thịt sống, nhưng lại mất tới một nửa vì chúng ăn lẫn nhau. Tuy nhiên, chúng đang biết rút kinh nghiệm, biết tập họp thành nhóm để săn mổi. Tiến triển ngoài mong đợi.

Một nửa được gạch dưới.

Có hai mục ghi không đánh dấu, Rebecca lướt qua, thấy bối rối với thành công của cuộc thí nghiệm kỳ quặc.

Ngày 23, bầy đỉa không tập họp theo kiểu cá thể nữa, mà thành một khối thống nhất. Ngày 31, tốc độ nuôi tăng kinh khủng, bây giờ chúng ăn mọi thứ...

Mục ghi cuối phác họa cho cô thấy, rằng Tiến sĩ Marcus đã rơi vào điên loạn đến cùng cực.

Ngày 46

Một ngày đáng nhớ. Hôm nay, chúng bắt đầu bắt chước mình. Mình tin là chúng nhận ra cha của chúng. Có cảm giác rằng mình ảnh hưởng rất mạnh đến chúng, và ngược lại. Chúng có yêu mến mình không nhỉ? Hẳn là có. Bây giờ chỉ có chúng ta mà thôi, chỉ mình ta với những đứa con xuất chúng. Không ai có thể tách rời chúng khỏi ta.

Bằng vào những gì đã thu thập, bọn nó đừng hòng thách thức ta.

"Này!"

Tiếng Billy gọi từ dưới lên. Rebecca bỏ tập giấy xuống và quay lại lỗ trống, quỳ gối xuống.

"Anh tìm được gì à?" cô nói trong lúc nhìn xuống anh.

"Có lẽ. Chộp được," anh nói, tay đưa vật gì đó lên trên. Rebecca nhận lấy. Lại một chìa khóa con đỉa nữa, cái này màu xanh lá.

"Trên đó có cánh cửa nào với bức tượng bán thân của Marcus đằng trước không?" Billy hỏi.

Rebecca lắc đầu. "Không biết nữa. Nếu có thì cũng không ở trong này. Tôi đang đọc về mấy cái thí nghiệm điên loạn. Để tôi lục thử xung quanh xem sao."

Billy do dự. "Hay để tôi leo lên, chúng ta sẽ cùng tìm. Chỉ việc kiếm thêm một cái bàn nữa hoặc..."

"Tôi sẽ cẩn thận mà," Rebecca nói. "Anh nói có một cánh cửa nữa ở dưới đó thì phải? Thử xem mở được nó không, trong lúc tôi tìm coi có lỗ khóa nào khớp với cái này."

"Cái dưới đó là loại khóa két sắt," Billy nói. "Trừ khi cô có đồ nghề mở khóa, còn không thì bó tay."

Rebecca thở dài. Thật xui xẻo khi không có Jill Valentine ở đây. Cô ấy ở đội Alpha, và giống như Barry, cô có thể phá vỡ bất cứ thứ gì... "thay đổi thứ tự."

"Chờ đã. Khóa két sắt à?"

Billy gật, và Rebecca biến mất khỏi lỗ trống, trở lại chỗ bàn có bản ghi chép của Marcus. Cô đọc nhanh những đoạn đánh dấu, nhẩm tính trong lúc quay lại. "Bốn con đỉa... Gấp đôi... Mất hai... Mất một nửa...

"Thử xem... bốn-tám-sáu-ba," cô nói.

"Tính đại à?" Billy hỏi.

Rebecca cười yếu ớt. "E là vậy. Cứ thử xem," Cô giơ cái vật chạm khắc con đỉa màu xanh. "Để tôi xem có tìm được chỗ nào đút nó vào không."

Billy miễn cưỡng gật đầu, và Rebecca đứng dậy, đi tới chỗ cửa phòng, không biết mình can đảm hay ngu ngốc nữa. Cô thật sự không muốn làm mọi thứ một mình, kể từ sau cuộc chạm trán với đám động vật bậc cao, nhưng chừng nào còn ở trên tầng này, chừng đó cô nên ngó qua mọi thứ.

Cửa phòng thí nghiệm mở ra một hành lang ngắn, có ba cửa khác ngoài cái cô vừa mở. Cửa thứ nhất, bên phải, bị khóa trái. Cửa thứ hai, vòng qua góc và cũng bên phải, đang mở, nhưng khi nhìn sơ qua bên trong thì thấy chỉ là một phòng lớn trống rỗng, với một phòng làm việc nhỏ bên hông. Quá tối để nhìn được gì khác. Rebecca đóng nó lại, thở phào ra vì đã hoàn tất hai phần ba chặng đường tìm kiếm, rồi đi đến cửa thứ ba ở cuối hành lang.

Cũng không khóa. Rebecca đẩy vào, thấy có thêm một cửa khác chỉ cách mình một mét về bên trái. Căn phòng này dẫn vào một nơi có vẻ giống như phòng thí nghiệm mà cô vừa từ đó ra... không hẳn vậy, nhưng từ hướng quay suy ra một điều là nó có nối với phòng thí nghiệm thứ nhất. Có lẽ người ta đã ngăn ra ở đâu đó -

- Có chuyển động. Kia rồi, gần cái bàn nằm cạnh vách tường tiếp nối, là một kẻ đã bị nhiễm, một người đàn ông xanh xao hốc hác, hai mắt tối sầm, cái miệng mở ra đầy vẻ đói khát. Nó lảo đảo bước tới, cổ họng phát ra một tiếng òng ọc khe khẽ.

Nó chậm, rất chậm. Rebecca ước lượng khoảng cách giữa nó và cánh cửa trước mặt, chiếc chìa hình con đỉa nắm chặt trong tay. Cô đánh liều bước tới và đẩy mạnh cửa, luồn qua, rồi đóng sập lại trước khi con zombie ốm tong teo bước thêm bước nữa.

Cô thấy mình đang ở trong một phòng phẫu thuật, khá cũ kỹ và dơ bẩn, sàn nhà bị phủ một lớp váng mỏng, vài cái cáng đẩy nằm chỏng chơ trên những bánh xe vặn vẹo. Từ vị trí này, băng ngang qua phòng về bên trái, là một cánh cửa màu lục với bức tượng Marcus bên ngoài.

"Thấy rồi," cô nói và rảo bước tới, quyết định lờ đi không nhìn kỹ cái bàn phẫu thuật trong góc xa căn phòng, sau khi thoáng thấy những đoạn dây buộc đính kèm trên đó. Cô có thể đoán được Marcus muốn làm gì với cái đó, và chẳng cần phải coi cụ thể.

Chìa khóa vừa khớp với khối lõm vào bên dưới bức tượng Tiến sĩ Marcus, rồi cô nghe tiếng chốt cửa bật đánh tách. Cửa mở ra -

- và cô bật lùi lại một bước, choáng váng bởi cái mùi xộc vào mũi, thứ mùi cô đã quá quen thuộc.

Căn phòng hẹp này xếp đầy những ngăn đựng xác ở hai bên, nhiều cái vẫn để dựng đứng. Có hai cái xác nằm dưới sàn, không hề nhúc nhích, nhưng cô vẫn chĩa súng vào cái gần nhất không chút chút do dự. Rối vừa thở nhẹ, vừa đi vào trong.

Chúa ơi, hy vọng trong này có thứ gì đó đáng để mở khóa, cô thầm nghĩ, bước ngang qua một ngăn lật úp. Và thứ đó làm ơn nằm trong tầm mắt, chứ đừng có đánh đố nữa. Cô chẳng dám nghĩ tới chuyện lục lọi trong mấy cái ngăn.

Cuối phòng là một lối rẽ nhỏ sang phải. Rebecca bước qua cái xác thứ hai, quẹo vào, cố gắng không ói trước cái mùi kinh khủng. Có một ngăn tủ áp sát bên tường - và trên đó là một chìa khóa bằng kim loại.

Cô nhặt nó lên, cảm xúc lẫn lộn. Quá tốt, rốt cuộc cũng tìm được thứ cần tìm - nhưng mà lại thêm một cái chìa nữa. Nó có thể dẫn đi bất cứ đâu, không chừng đến nhà nghỉ mùa hè của Marcus.

Có thể là cửa đầu tiên ngoài hành lang...

"Rebecca?"

Cô nhét chìa khóa vào túi và cầm lấy bộ đàm, vừa trả lời vừa đi ra cửa.

"Tôi đây. Có chuyện gì, hết." Rebecca đi ngang phòng phẫu thuật, dừng lại trước cánh cửa dẫn ra ngoài cái phòng thí nghiệm bị ngăn đôi. Cô tính chạy thẳng tới ngưỡng hành lang, nếu được thì khỏi mất công bắn con zombie...

"Không có ổ quay trong lỗ khóa," Billy nói, nghe tức tối. "Tôi đã quay lại kiểm tra văn phòng Marcus, nhưng không thấy gì cả. Cô tìm được gì hay ho chứ, hết?"

"Có lẽ," cô nói. "Để tôi xem lại một thứ. Gặp lại anh chỗ thư viện, hết."

"Cẩn thận nhé. Hết."

Cẩn thận. Rebecca khẽ lắc đầu trong lúc nhét bộ đàm trở vào thắt lưng, ngạc nhiên khi thấy mối liên hệ giữa hai người đã thay đổi một cách chóng vánh, nhờ đó kéo theo những tình huống có lợi - hoặc có hại không chừng. Mới vài giờ trước, cô đã hăm bắn anh, đã tin rằng anh sẵn sàng bắn cô. Còn bây giờ... Từ "bạn" chưa hẳn là đúng, nhưng sẽ hết sức vô lý nếu họ quay ra giết nhau.

Lần đầu tiên, cô tự hỏi không biết các đồng đội của mình đang làm gì. Vẫn đang săn lùng Billy chăng? Họ có đang tìm cô, tìm Edward chăng? Hay là cũng gặp phải rắc rối, phải chạm trán với những hậu quả tạo ra bởi sự lây lan T-Virus?...

...đó mới là vấn đề. Rebecca áp sát vào cửa một hồi, nhưng không nghe thấy gì cả. Cô hít một hơi rồi đẩy nó ra, nhanh chóng chạy ngang quãng đường ngắn ngủi tới cửa phòng thí nghiệm, thậm chí không hề quay đầu lại. Ngay khi sập cửa, Rebecca nghe thấy một tiếng rên rỉ đầy thất vọng, khiến cô không khỏi chạnh lòng cho con zombie có đôi mắt trũng sâu. Hẳn nó đã chờ sẵn đó, và mặc dù bắn nó chẳng có gì là khó khăn, nhưng một con zombie yếu ớt không phải là kẻ thù lớn nhất của cô lúc này.

Rebecca đi đến cái cửa mà cô đã thử lúc đầu, hy vọng đây là chìa khóa cho nó, nhưng cũng nghi ngại không kém. Cô cho là họ phải mất nhiều công sức để sục sạo cho ra chỗ mở khóa, hay tìm cho được thứ gì đó khác, bản đồ, hoặc chìa khóa khác nữa chẳng hạn, hay một cái lỗ hổng đâu đó trên trần; nói ra thấy mà nản. Trường hợp thất bại, họ đành quay lại thang máy để tìm cơ hội trên mặt đất -

Cô cắm chìa vào lỗ khóa cửa, vặn nó, nghe ngóng, và cảm thấy nó trượt đi.

"Vừa y," cô thì thào trong lúc bật cười, rồi mở cửa.

Một thứ gì đó to lớn và tối thui chồm lên cô, nó tru lên.

oOo

Billy chờ đợi dưới cái lỗ hổng nối liền tầng một và hai, vẩn vơ tự hỏi, không biết có thể thổi bay cái lỗ khóa két sắt bằng đạn Magnum chăng - thì nghe một tiếng tru kinh khủng dội tới từ tầng một, tiếp theo là một, hai phát súng.

Anh không kịp nghĩ tới chiếc bộ đàm, mà nhảy vọt lên cái bàn kê dưới lỗ hổng, hất khẩu súng săn lên rồi nhảy theo, hai tay bám vào bên mép lỗ hổng. Trước đây anh luôn nghi ngờ khả năng của mình, nhưng bây giờ trong đầu anh không có chỗ để suy tính tới chuyện leo lên được hay không nữa. Bằng một tiếng hự đầy nỗ lực, anh nâng mình lên khỏi lỗ hổng, trước tiên bằng cùi chỏ, rồi đến đầu gối.

Billy nhặt súng và nhổm dậy, vừa lúc tiếng tru lại cất lên, âm thanh nghe quái gở và lạ lẫm, giống như tiếng con chim bị xé xác làm nhiều mảnh. Anh mất nửa giây để xác định phương hướng, tìm cánh cửa, và lao đi thật nhanh.

Anh bổ nhào ra hành lang - thấy Rebecca đang tựa lưng vào vách tường đối diện, một ống tay áo đã rách, bị bốn vết xước trên cánh tay, đang chĩa súng về phía -

- cái quái gì thế này -

- một con quái vật, một giống bò sát khổng lồ. Trông nó gần giống người, với cơ bắp nở nang, bộ da lấp lánh màu xanh lục tối, nhìn cứ như cẩn đá. Cánh tay nó rất dài, dài đến nỗi bàn tay đầy vuốt gần chạm xuống sàn. Khi trông thấy Billy, nó trề bộ răng ra và gào lên lần nữa, đôi mắt ti hí trên cái đầu phẳng phiu lộ rõ ác ý. Một tia máu đen kịt đang phún ra từ trên ngực, kết quả phát đạn của Rebecca, nhưng nhìn nó chẳng có vẻ gì là bị ảnh hưởng bởi vết thương.

Thử cái này coi, Billy nghĩ thầm, giương súng lên trong khi Rebecca tiếp tục bắn. Anh bắn thủng một lỗ trên mặt nó, giật súng và bắn tiếp phát nữa, không để ý đến uy lực của phát đầu tiên-

- và nguyên cả khuôn mặt nó bị bay mất, bị bắn văng tung tóe lên tường lẫn sàn nhà dưới chân, cái cơ thể nặng nề run lẩy bẩy. Máu phun ra như suối từ những mảnh vụn trên cổ, những gì còn lại của cái đầu khi nãy - gồm vài mảnh xương hàm, răng, vài mảng thịt đen thui.

Billy không nhúc nhích có đến mấy giây, tai dỏng lên nghe ngóng xem có âm thanh nào khác, chuyển động nào khác, nhưng hoàn toàn yên ắng. Anh nhìn sang Rebecca, đang lấy tay phải bụm lấy vết thương bên vai trái. Máu rỉ ra dưới kẽ ngón tay của cô.

"Trong túi đeo ở đai lưng của tôi," cô nói. "Có lọ thuốc khử trùng, gạc và băng dính... Nó mới cào trúng tôi chứ chưa cắn."

Mặt Rebecca tái nhợt đi, cô bậm môi lại khi Billy rửa vết thương và băng bó, nhưng tỏ ra không hề khuất phục, chịu đựng cơn đau vẫn hơn là đầu hàng nó. Tình trạng vết thương khá xấu, có thể phải khâu lại, nhưng như vậy cũng có thể làm nó nặng hơn. Khi anh băng xong, cô hất đầu về phía cánh cửa đã mở một nửa.

"Nó bị khóa trong đó. Ý tôi là con quái vật."

Giọng cô vẫn chưa hết bàng hoàng. Billy đến gần cửa, sẵn sàng chờ đón bất cứ thứ gì muốn nhảy xổ ra ngoài. Anh dừng bước cạnh con vật không đầu, mắt nhìn xuống.

"Trông nó giống sinh vật trong phim Creature from the Black Lagoon," Billy nói và nhìn lên, hy vọng có người sẽ cười. Đáp lại anh là một nụ cười, tuy run run nhưng rất thật, và một lần nữa anh bị ấn tượng trước sự kiên cường của cô. Hiếm ai có thể phục hồi nhanh như vậy sau khi bị tấn công bất ngờ, nhất là bởi một con quái vật như thế này. Phần lớn mọi người sẽ run như cầy sấy suốt hàng giờ đồng hồ.

Rebecca đã đến bên cạnh anh. Cô lấy giày khều cái cẳng đồ sộ của con vật. "Thật kinh ngạc," cô nói. "Về những thứ mà bọn họ tạo ra ở đây. Nghiên cứu di truyền, tổng hợp virus..."

"Tôi nghĩ từ 'tâm thần' là chính xác nhất." Billy nói.

Cô gật đầu. "Không sai chút nào. Để xem nó có bảo vệ thứ gì đáng giá hay không."

Họ bước qua xác con vật, Rebecca kể lại những gì cô đã tìm được trên tầng một trong lúc cả hai vào phòng. Nơi này gần như một loại chuồng nhốt, và Billy không chút nghi ngờ rằng nó đã từng được sử dụng để nhốt lũ chó; có hàng đống cũi với chấn song bằng thép, nhiều cái quấn đầy dây lòi tói, chưa kể cái mùi hôi thối của động vật hoang dã nồng nặc trong không khí.

"...là nơi tôi tìm thấy chìa khóa vào phòng này," cô đang nói. "Tôi hy vọng tìm được thứ gì đó hữu ích ở đây."

Căn phòng có dạng chữ U, khắp nơi ngổn ngang những kệ. Họ đi vòng quanh chúng, và Rebecca thốt lên một tiếng lộ vẻ kinh tởm. Xếp đầy trong góc là một đống lông rách bươm và những khúc xương gặm nham nhở, hiển nhiên là những gì còn lại của loài động vật bậc cao. Còn có nhiều bãi phân rải rác, nhiều đống gì đó vừa đen vừa dày, bốc mùi như thể - như thể mùi phân. Có vẻ con quái vật đã bị nhốt khá lâu.

Có một cái bàn gỗ chen giữa hai cái cũi, vài tờ giấy vương vãi trên đó. Billy thận trọng bước sang, và cầm lấy tờ trên cùng trong lúc Rebecca ngó qua vài cái cũi rỗng. Dường như đây là một phần của bản báo cáo.

...những nghiên cứu đến lúc này cho thấy, sức mạnh của Progenitor chính là kiểm soát được lối sống theo dạng quần thể, biến đổi mãnh liệt những tế bào khiến cho các hệ chính bị tàn phá, nhất là hệ thần kinh trung ương. Hơn nữa, chưa có biện pháp khả dĩ nào để điều khiển quần thể này như một vũ khí. Rõ ràng, sự kết hợp các tế bào ở cấp độ cao là cần thiết cho sự tăng trưởng không ngừng.

Những thí nghiệm trên côn trùng, động vật lưỡng cư, động vật bậc cao đều thất bại như đã dự tính. Có vẻ khó có thêm tiến triển nào nếu không sử dụng người làm quần thề chủ. Gợi ý của chúng tôi vào lúc này, là các sinh vật thí nghiệm nên được nuôi sống để nghiên cứu, và để làm mồi cho những vật lai thế hệ sau, trong khi chờ dòng Tyrant ra đời.

Chúa ơi. Billy lục lọi những trang giấy, tìm phần còn lại của báo cáo, nhưng chỉ thấy một mớ lịch làm việc lấm lem cà phê.

Dòng Tyrant. Tất cả những sinh vật chúng ta đã gặp... Và bọn họ đang nghiên cứu thứ gì đó dư sức làm gỏi hết tất cả các sinh vật đó.

"Ha!"

Billy ngó lên, thấy Rebecca vẫy vẫy một vật, nụ cười đắc thắng hiện trên khuôn mặt.

"Có ai muốn quay số không?"

Anh buông bản báo cáo xuống bàn. "Đừng lừa phỉnh tôi chứ."

"Không hề. Nó nằm trong một cái cũi." Cô đưa vật đó cho Billy. Anh cầm lấy, cảm thấy mình cũng đang cười toe toét. Chính xác là thứ anh muốn tìm, một tay nắm tròn vừa vặn với lỗ khóa két sắt dưới tầng hai.

"Bốn tám sáu ba?" Billy hỏi, và Rebecca gật đầu.

"Bốn tám sáu ba," cô lặp lại, bắt chéo ngón tay ra dấu chiến thắng. Billy cũng vậy. Chỉ là một động tác của lũ trẻ con, nhưng lúc này anh chẳng thèm dè chừng hành vi của mình nữa. Anh sẵn sàng tung hô bất cứ cái gì giúp được mình lúc này.

"Đi thôi," anh nói, cảm thấy hy vọng tràn trề khi hai người rời khỏi căn phòng có con quái vật, hào hứng với những cảm xúc đang dâng trào. Có một câu ngạn ngữ, rằng hễ còn sống thì còn hy vọng. Billy đã từng nghe nó trong thời gian bị xét xử, lúc đó anh nghĩ nó thật hiển nhiên và ngu ngốc. Thật kỳ diệu và kinh ngạc làm sao, khi anh có thể chiêm nghiệm chân lý của nó qua cuộc chiến đấu sinh tồn trong bối cảnh hoàn toàn khác biệt.

Cả hai cùng quay lại phòng thí nghiệm. Ngón tay Billy vẫn còn bắt chéo.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#zombi