Gặp nhau là duyên số XIII

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Rảnh tay được một chút với tụi băng Trí Mẫn, Chi Lợi nghĩ ngay đến việc tìm xem Chỉ huy trưởng mặt trận khu C hiện đang bị giam ở xà lim số mấy, để có thể giúp đỡ ông. Mất hai ngày mày mò điều tra, Chi Lợi và các bạn trong đội mới phát hiện ra ông đã bị bọn chúng chuyển lúc ban đêm sang dãy ca sô âm phủ, giam ở ca sô số sáu.

Mỗi ca sô, gần sát mắt có một khuôn cửa rộng chừng sáu tấc vuông, cắm chấn song sắt to bằng bắp tay. Những người tù bị giam trong ca sô cứ chiều chiều lại trèo lên, thả qua khuôn cửa sổ đó ra bên ngoài cái ống bơ có buộc dây như kiểu thả gầu xuống giếng. Họ thả xuống như vậy để chờ những người tù bên ngoài đi làm cỏ vê về thương tình rót cho họ một ít nước trong, hoặc cho một mẩu bánh, một chút thức ăn. Nhưng mười ống bơ thòng xuống cũng chỉ vài ba ống bơ kéo lên có nước, có bánh hoặc thức ăn. Tất cả tù đều trong tình trạng đói khát ghê gớm, nên bớt ra được chút nước, chút bánh để cho là chuyện hãn hữu.
Vì khuôn cửa chiều ngang quá hẹp nên người bên trong không thấy được người ở bên ngoài cho gì vào ống bơ. Thấy ống bơ nặng nặng là họ kéo lên.

Lâu nay, bọn con nít trong băng Trí Mẫn vẫn bày trò tinh nghịch. Chúng bỏ gạch vỡ, đất, cát vào ống bơ để đánh lừa những người trong ca sô. Tệ hơn, chúng còn đánh xoáy nước, bánh trong các ống bơ trước khi họ kịp kéo lên.

Nghe con Nghệ Lâm kể chuyện, Chi Lợi nổi điên. Đứng giữa sân lao, Lợi nói to với các bạn, cho cả mấy đứa trong băng Trí Mẫn đang đứng gần đó nghe tiếng:

" Đồ chó. Từ giờ trở đi, hễ các cậu thấy bất kể thằng mô, con mô làm như thế là xông vô đập chết luôn. Đập chết. Nghe chưa?"

Tụi băng Trí Mẫn bảo nhau: " Mấy người bị giam trong nớ toàn Việt Minh hạng nặng. Việt Minh với du kích là họ bênh nhau gớm lắm. Tụi mình xớ rớ chọc vô, tụi nó sẽ xúm lại đập chết thiệt chớ không phải tụi nó nói doạ mô."

Một thằng bướng bỉnh, gân cổ nói: " Tau cứ chơi. Coi tụi nó có làm chi được cứt tau không?". Và chiều đó thằng này đã lén bỏ một vốc cát vào ống bơ, nhưng các bạn của Chi Lợi không nhìn thấy. Thằng này đắc chí vênh váo kể lại với đại ca Mẫn Sẹo để khoe gan. Hắn tưởng đại ca sẽ cười tán thưởng và khuyến khích hắn: " Cứ làm tới nữa đi."-Không ngờ Trí Mẫn quay mặt, dộng luôn cho hắn một đạp ngã sấp và chửi:

" Đồ ngu."

Trước thái độ giận dữ bất ngờ của Trí Mẫn, bọn đàn em đều sửng sốt. Chúng nhận rằng đại ca chưa lần nào tham dự vào cái trò tinh nghịch của chúng, nhưng đại ca nổi khùng, mắng nhiếc chúng là đồ ngu như lần này là lần đầu. Một ý nghĩ ngờ vực thoáng qua óc chúng: "Hay đại ca cũng bắt đầu sợ con móc cứt đó?"

______________________________

Bốn dãy ca sô chỉ có ba bốn khuôn cửa sổ là không có ống bơ thòng xuống. Trong số này có khuôn cửa ca sô số sáu, nơi giam Chỉ huy trưởng. Chi Lợi biết rằng Chỉ huy trưởng mới vào tù, ông kiếm đâu ra được ống bơ với dây. Và điều quan trọng hơn là nó không bao giờ tưởng tượng nổi một người như Chỉ huy trưởng lại thả ống bơ xin nước, xin bánh như những người bình thường khác. Ông là phải mang súng săn voi của Bảo Đại, đi lừng lững trong chiến hào với đôi ủng lấm bùn và giương súng bắn xe bọc thép của giặc. Đó là hình ảnh độc nhất về Chỉ huy trưởng mãi mãi gắn chặt vào trí tưởng tượng của nó. Nếu biết ông cũng hành động như những người bình thường khác, chắc nó sẽ vô cùng đau khổ. Đó là nỗi đau khổ lớn lao của những tâm hồn ngây thơ, cuồng nhiệt khi thấy thần tượng bị sụp đổ.

Nhưng với kinh nghiệm tù đầy mới học được, Chi Lợi biết lúc này ông đang phải nằm trần trụi trên nền xi măng lở láy, hôi hám, đang đói run người và khát cháy cổ.Nó nghĩ vậy mà ứa nước mắt. Nó đào óc nghĩ cách tìm ra nước trong, bánh mì để chuyển vào cho ông. Nước trong thì có thể kiếm được, nhưng bánh đào đâu ra? Con Nghệ Lâm thông thạo đủ mọi chuyện trong tù, nói với Chi Lợi:

" Các anh tù đi làm ở Sở Anh, họ thường ăn cắp được những ổ bánh mì rất to. Họ cắt ra bán cho những người có tiền. Nhưng chị em mình làm chi có tiền."

Nghệ Trác reo lên:

" Mình có tiền đây. Tiền bán kẹo dạo nọ vẫn còn y nguyên mà, chị Lợi."

Nó lộn cổ áo, lôi ra mấy tờ bạc cuộn tròn đưa cho Chi Lợi.

" Một lát bánh kha khá mà ngon ước độ mấy đồng?"

"Hai đồng chứ mấy."

Chi Lợi đếm tiền đưa cho Nghệ Lâm hai đồng, nói: " Em nói các anh bán rẻ vô nghe."-Rồi đưa trả số tiền còn lại cho Nghệ Trác.

" Em cất đi, lỡ khi có việc cần."

Chi Lợi và các bạn chia nhau đi kiếm dây, ống bơ, xin nước trong ở các toán tù đi làm cỏ vê về. Việc chuyển nước và bánh vào ca sô qua khuôn cửa tò vò không khó lắm. Bốn đứa đứng chụm lại, tay bá vai nhau kết thành bệ, Chi Lợi đứng lên vai, với hai tay níu chấn song sắt, đu người lên. Răng nó cắn đầu sợi dây điện thoại, một đầu dây có buộc ống bơ đầy nước và miếng bánh Nghệ Lâm vừa mua được. Nó áp mặt và giữa hai chấn song nhìn vào bên trong. Bên trong ca sô tối mò, xông lên mùi hôi ngột ngạt.

Chi Lợi nói:

" Chỉ huy trưởng. Chỉ huy trưởng."

" Ai gọi gì đấy?"- Từ bên dưới vọng lên tiếng hỏi, giọng khàn khàn, yếu ớt, nhưng nó vẫn nhận ra đúng giọng Chỉ huy trưởng. Ôi, làm sao nó có thể không nhận ra cái giọng nghiêm trầm đã nói với Đội những lời thống thiết về nghĩa vụ lớn lao của người chiến sĩ, về chiến đấu cho sự sống còn của Tổ Quốc, trên sân chùa Từ Đàm mới ngày nào...

Chi Lợi gần như chét đầu vào giữa hai chấn song sắt nhưng không sao có thể nhìn thấy Chỉ huy trưởng đang nằm hoặc ngồi ở bên dưới.

" Dạ, em là Chi Lợi ở Đội Thiếu niên trinh sát. Em chiến đấu ở mặt trận khu C. Em bị bắt sau trận Hộ Thành. Ở đây có nhiều bạn cùng tuổi em là liên lạc của du kích, bộ đội địa phương. Chúng em họp lại thành đội để bênh vực, giúp đỡ nhau ạ."

" Các em làm như thế là rất tốt."- Tiếng Chỉ huy trưởng vọng lên.

" Chúng em kiếm được ít nước trong và bánh gửi vô anh..."- Giọng Chi Lợi nghẹn lại. Nó khẽ khàng thận trọng kéo ống bơ và lát bánh mà Nghệ Trác ở bên dưới bưng hai tay đưa cao quá đầu, lên đến sát khuôn cửa. Nó đút hai thứ qua chấn song rồi thòng xuống cho đến lúc nghe tiếng đáy lon nước chạm khẽ nền xi măng.

Trong lúc đó, Trí Mẫn và bọn đàn em nó đứng ở góc sân đằng kia, chăm chăm nhìn lại. Trí mẫn áo trễ một bên vai, điếu thuốc ngậm lệch bên mép, mắt nheo nheo nhìn Chi Lợi đu người như con vượn vào chấn song. Nó gầm gừ:

" Tụi ni liều mạng thật. Tụi nó coi Một Điếu với các cha lính canh bằng nửa con mắt."

Thằng đàn em có ve mắt thì thầm với Trí Mẫn:

" Để tui chạy ra mách mấy ông lính gác, các ông vô nện tụi nó một trận báng súng cho bõ ghét nghe? Tụi nó đang dồn dồn nhau thế, chạy không kịp mô."

Thằng này co giò định chạy ra cổng, Trí Mẫn bất thần túm chặt cổ áo thằng này lôi giật lại. Nó nhổ phắt cái tàn thuốc đang ngậm, vung tay tát thằng này một tát tai ngã dúi xuống đất, rồi chửi:

" Đồ ngu."

Chi Lợi nghe tiếng huýt gió của Mẫn Đình làm nhiệm vụ cảnh giới, báo tin tụi lính gác sắp sửa đi vào. Nó hổn hển hỏi gấp:

" Chỉ huy trưởng có biết bạn Châu Hiền liên lạc hiện nay ở đâu không ạ?"

" Em Hiền cùng bị bắt với tôi. Có lẽ chúng đưa em về giam ở lao Toà Khâm."

Chi Lợi muốn hỏi thêm có phải ông bị bắt vì có đứa phản bội chỉ điểm không? Nhưng xa xa tiếng huýt gió của Mẫn Đình càng vang to, thúc bách hơn. Nó vội vàng nhảy đứng xuống vai các bạn, tụt nhanh xuống đất. Khi Mệ Lai tàn tật cùng với hai tên lính tay dùi cui, tay súng đi vào đến sân lao thì Chi Lợi và các bạn đang chơi trò nhảy cừu.

Trưa hôm sau, Chi Lợi và các bạn trong đội lại sửa soạn nước trong và bánh mì để tiếp tế cho Chỉ huy trưởng. Nhưng khi nó trèo bám lên khuôn cửa, gọi to nhiều lần, nó mới biết xà lim trống không. Chi Lợi và các bạn không ngờ lon nước và lát bánh hôm qua là bữa ăn cuối cùng của Chỉ huy trưởng mặt trận khu C Kim Hi Triệt. Mười hai giờ đêm hôm qua, bọn mật thám Pháp đã bí mật đến xích tay ông cùng với năm người tù khác bỏ lên xe bịt bùng, chở thẳng vào Đà Nẵng. Không dụ hàng khuất phục nổi, chúng đã hèn hạ bắn ông và năm người tù đó trên bãi biển bán đảo Sơn Trà, rồi ném xác xuống biển.

Việc Chỉ huy trưởng bị đưa đi mất tích trong đêm và tin Bùi Châu Hiền bị bắt cùng với Chỉ huy trưởng có thể hiện nay đang bị giam ở lao Toà Khâm làm Chi Lợi bàng hoàng, choáng váng. Hai đêm liền nó nằm mơ thấy ông... Nó thấy mình cùng với cả Đội đang tập hợp trước sân chùa Từ Đàm. Chỉ huy trưởng xuống ngựa bước nhanh lên các bậc Tam quan với đôi ủng lấm bùn đất chiến hào. Khẩu súng săn voi đeo bên vai. Cái mũ cối Tiếp Phòng Quân màu cỏ úa, quai mũ ôm vòng hai bên má và cái cằm râu mới cạo xanh biếc. Cặp mắt sâu và rất sáng, nghiêm nghị lướt nhìn cả Đội, như ông đang cân nhắc, ước lượng sức vóc và lòng can đảm của mỗi đội viên để giao nhiệm vụ...

Chi Lợi choàng tỉnh thấy hai má mình ướt đầm nước mắt.

"... Rất có thể không phải một tháng, hai tháng mà phải mất nhiều tháng nhiều năm nữa, chúng ta mới đánh đuổi được hết bọn cướp nước bán nước giải phóng được Tổ Quốc, giải phóng thành phố thân yêu của chúng ta... Nếu thế hệ chúng tôi chưa làm xong được sứ mệnh lớn lao này, thì thế hệ các em phải nối tiếp xốc tới, hoàn thành cho bằng được...".

Lời khuyên dặn hôm nào của ông trước giờ ra trận lúc này lại vang vọng trong trí nhớ Chi Lợi, với một ý nghĩa mới mẻ khác thường giúp nó bình tâm trở lại nâng đỡ nó trong cuộc chiến đấu không đồng đội, không người hướng dẫn, chỉ huy. Nó giục giã thôi thúc Chi Lợi gắng gỏi làm tốt những việc mà chính nó tự đề ra.
Việc quan trọng nhất là hàng ngày nó cùng với các bạn trong đội, kiếm nước trong đổ vào các ống bơ của các anh bị giam trong hai dãy ca sô âm phủ thòng xuống. Xe nước vừa về là bọn trẻ đã có mặt quanh hố nước để giành múc nước trong nhưng vì tranh giành quá hỗn loạn nên dù nước múc được trước cũng đục ngầu, khăng khẳng mùi bùn, mùi rác. Dù chính hàng ngày đều phải uống thứ nước đó, có khi còn đục bẩn hơn, nhưng phải rót cho các anh, Chi Lợi và các bạn đều thấy khổ tâm.

Muốn kiếm được nước trong, nhất thiết phải đi làm cỏ vê. Chi Lợi bàn với các bạn, chọn ra bốn đứa cùng với Lợi nữa là năm, sức vóc hơn cả, tìm cách chen bừa vào các toán tù đang xếp hàng trên sân lao, đợi xe các công sở đến chở đi. Nhưng lần nào Chi Lợi và các bạn cũng bị gạt lại. Các công sở không chịu nhận tù con nít đi làm cỏ vê.

_________________________

Một buổi sáng tù đi làm cỏ vê đã vãn hết, trong sân lao chỉ còn lại tù con nít, mấy người già yếu, vài anh tù mới vào hôm qua, chưa có công sở nào lấy đi làm. Không có việc gì, tù con nít, người già yếu kéo ra đứng chen chúc sau khuôn cửa sắt đóng chặt của lớp tường trong, nhìn ra cổng chính. Trên nóc cổng chính có cây cột cờ ngắn, ngã chếch ra đường.

Buổi sáng, một tiểu đội lính ngục do Viên đội hoặc tên cai điều khiển, súng vác vai, hô ắc ê đi qua hai cánh cổng chính mở rộng tập họp thành hàng ngang trên đường, làm lễ kéo cờ. Những người tù không được đi làm cỏ vê, thường đứng chực ở đây chờ bọn lính mở cổng ra kéo cờ, sẽ nhìn khúc đường phố lác đác có người qua lại, dù chỉ mươi phút. Bọn tù con nít bị giam giữ lâu ngày giữa hai lớp tường cao vòi vọi nhìn ra đường phố với ánh mắt háo hức, thèm khát trông thật tội nghiệp.

Sáng nào có Một Điếu đứng trong sân nhìn ra Viên đội, tên cai điều khiến lính làm lễ kéo cờ rất hùng dũng, oai vệ. Tiếng hô kéo cờ nghe rất dõng dạc, đứng tận sân lao bên trong cũng nghe tiếng. Nhưng sáng nào vắng mặt Một Điếu bọn lính ngục đều làm quấy quá cho xong chuyện. Chúng kéo ra chỉ bốn năm đứa như đi dạo mát, súng vác ngả nghiêng. Chúng kéo phăng cờ lên, không hô hiếc gì hết, rồi đi sang bên kia lề đường hút thuốc, ăn quà.

Sáng hôm đó Mệ Lai tàn tật điều khiển việc kéo cờ. Mệ Lai giao cho một tên kéo cờ, còn hắn và những tên kia xúm lại quanh mấy gánh hàng quà, bánh canh, xôi bắp, bún bò... nói cười toe toét.

Lá cờ tam tài vừa kéo lên lưng chừng cột, anh tù điên đứng sát bên Chi Lợi, hai tay nắm chấn song sắt cửa lay lay, rồi bất ngờ kêu toáng lên:

" Ông Một Điếu ơi là ông Một Điếu ơi. Ông ra mà coi quân lính của ông kéo cờ Đại Pháp mà như kéo tù vô xà lim. Không hô, không ứ, không có cứt chi hết a."

Tụi lính ngục hoảng hồn, đang nhai xôi phải nhổ xôi, dụi thuốc, vứt tô bún đang ăn dở, chạy vội sang đường tập họp, và kéo cờ thật nhanh lên ngọn. Mệ Lai tàn tật vừa sợ vừa cáu.

" Tổ cha thằng điên."

Hắn chửi và cúi nhặt nửa viên gạch, thẳng tay nhắm đầu anh tù điên mà ném. Viên gạch va vào chấn song kêu * coong * một tiếng và dội bật trở ra. Vừa lúc đó Một Điếu từ trong nhà đi ra, hỏi:

" Cái gì? Cái gì?"

Anh tù điên ôm đầu mếu máo, lu loa nói với Một Điếu bằng thứ tiếng Tây bồi hổ lốn quen thuộc của anh:

" Thưa ông, thằng chó kia." - Anh chỉ vào Mệ Lai - " kéo cờ Đại Pháp."- anh làm điệu bộ kéo cờ- " Như kéo bọn tù con nít vô xà lim. Không gác súng, không hô, nông ứ."- Anh chụp tay Chi Lợi làm điệu bộ kéo tù -" Nó cầm viên gạch phang vào đầu tui."

Một điếu nhăn mày khó hiểu nhìn anh tù điên đang ôm đầu khóc lóc như chính mình bị viên gạch phang vào đầu. Đột nhiên hắn nhận ra Chi Lợi, liền hỏi:

" Bé con, đúng như vậy không?"

" Thưa ông quan hai, đúng như vậy ạ."

Một Điếu quay lại nhìn Mệ Lai đang đứng chết điếng, mặt cắt không còn giọt máu.

" Đồ con lợn."- Một Điếu gầm lên. Hắn bước lại giật phắt cái lon cai trên ống tay áo Mệ Lai tàn tật, vung roi quất tới tấp lên vai, lên lưng. Vừa quất vừa chửi:

" Đồ súc vật nhơ bẩn. Đồ súc vật nhơ bẩn."

Mệ Lai cứ phải đứng kéo cờ mà chịu đòn, miệng lắp bắp van lạy:

" Xin ông. Tha cho...."

Nếu lúc đó không có một chiếc xe Jeep phanh rít đỗ xịch trước cổng lao, thì chắc viên cai ngục này sẽ bị đánh cho đến kỳ ngã gục. Chiếc xe do một tên lính da đen lái. Hai tên Pháp xuống xe, bước qua cổng lao, tên lính đeo tiểu liên mát và viên đội đeo súng lục. Chúng chào Một Điếu và đưa giấy tờ gì đó, Chi Lợi tò mò lắng nghe viên đội Tây báo cáo với Một Điếu. Nó được biết chúng ở một công sở có tên là Poste Militaire (bưu điện quân sự), cần xin ba người làm cỏ vê.

Viên quản người Việt, phó đề lao mở cánh cửa sắt bước vào chọn ba người tù lớn tuổi, dẫn ra ngoài cho viên đội Tây. Viên đội hỏi:

" Trong ba người, có người nào biết tiếng Pháp không?"

Viên quản hỏi lại, cả ba lắc đầu. Chi Lợi liên thò cánh tay qua cổng sắt, nói to:

" Thưa ông đội, tôi biết tiếng Pháp."

"Mày nói tiếng Pháp khá không?"- Viên đội bước đến gần chi Lợi hỏi.

" Tôi nói không được đúng mẹo lắm."

Viên đội nhún vai:

" Thế là mày hơn tao. Tao không biết một tiếng Việt nào."

Cánh cửa sắt mở ra. Viên đội gạt lại một trong ba người và kéo chi Lợi thay vào đó. Y quay lại hỏi viên quản phó đề lao:

" Ông đồng ý chứ?"

" Đồng ý."- Viên quản cười, bắt tay viên đội.

" Chúng ta đi thôi."- Viên đội hất đầu rất điệu với Chi Lợi và chỉ ra xe.

Sự may mắn quá bất ngờ làm cho Chi Lợi vui mừng đến nghẹn thở. Nó chỉ kịp quay lại ngoắc ngoắc tay với các bạn đứng chen chúc đằng sau cánh cửa sắt và đi gần như chạy ra chỗ chiếc xe Jeep đang đỗ. Nó thấy tim mình đập thình thịch trong lồng ngực. Nó lo sợ viên đội tây, thằng Một Điếu và cả tụi lính ngục nữa sẽ đổi ý, giữ nó lại vì chúng chợt nhớ ra đứa tù con nít này đã từng hai lần liều lĩnh vượt tù...

___________________________

Sở Poste Militaire gọi tắt là sở Pốt đóng ở dãy nhà một tầng còn sót lại trong khu vực Trung bộ phủ cũ. Hầu hết những ngôi nhà kiên cố trong khu vực đã bị quân ta đánh sập thành những đống gạch vụn trước khi rút khỏi Huế.
Đằng sau sở Pốt, cách một khu vườn rộng mọc lút cỏ dại, là ngôi nhà hai tầng rộng thênh thang của một công sở khác cũng của bọn nhà binh Pháp, có tên là Coopérative Militaire (cửa hàng nhu yếu phẩm quân đội). Sở này cũng có một toán tù lao Thừa Phủ hàng ngày đến làm cỏ vê. Toán tù gọi tắt công sở này là sở Cốp.

Ở sở Pốt chỉ có thư từ, giấy má, những gói bưu phẩm lớn nhỏ xếp thành dãy trên các giá gỗ kê dọc sát tường. Trong khi đó bên sở Cốp, các gian buồng chất cao đến trần nhà những hòm đồ hộp, bánh kẹo, rượu, thuốc lá và nhiều hàng hoá vật dụng khác trông đến ngốt cả mắt. Xe ô tô lớn nhỏ ra vào rầm rập suốt ngày, mua hàng, chở hàng đến nhập kho... Công việc chính của toán tù làm cỏ vê ở sở Cốp là xếp hàng hoá lên xe, chuyển hàng hoá trên xe xếp vào các kho. Làm cỏ vê sở Cốp hết sức nặng nhọc và thường xảy ra tai nạn. Vì các hòm hàng hoá nặng hàng tạ, hàng nửa tạ, chỉ cần sơ ý một chút là hòm rơi, lăn đè nát tay, nát chân. Nhưng đó chưa phải là điều khổ sở nhất của anh em tù.

Hôm đầu tiên bước vào sở làm cả toán tù hoa mắt vì của ngon vật lạ xếp như núi quanh mình. Anh nào cũng hí hửng, chuyến này chắc vớ bở. Họ hy vọng sẽ lấy cắp được đồ hộp, bánh kẹo. Nhưng chỉ sau một ngày họ đã biết mình lầm.

Bọn Tây làm ở sở Cốp đều là tụi ác ôn, cô hồn, đánh đập tù tàn bạo không thua gì những tụi chuyên nghề tra tấn ở các Sở mật thám An ninh. Hung dữ nhất là một tên đội Tây, anh em tù gọi là Đội lùn. Đội lùn người thấp nhưng rất to ngang nên ngó gần như vuông. Mặt hắn tròn to như cái đĩa tây, bóng loáng, râu ria cạo nhẵn thín, cặp mắt của loài thú dữ ăn thịt người. Hắn có sức khoẻ khủng khiếp của tên đô vật hoặc cử tạ hạng nặng. Một lần hắn bắt gặp một người tù ăn mấy miếng bánh bích quy rơi ra từ cái hòm vỡ. Hắn lẳng lặng túm hai cổ chân anh ta, nhấc bổng lên như nhấc con gà, dộng đầu anh vào cái hòm gỗ, máu mồm, máu mũi anh ộc ra như xối, mấy miếng bánh vừa nuốt trào ra miệng cùng với máu.

Mỗi buổi chiều, trước khi lên ô tô về lao, hắn bắt tù xếp hàng ngang, cởi hết quần áo để kiểm soát. Chỉ cần tìm thấy một miếng bánh, một cái kẹo, hắn cũng đánh cho máu chảy tràn mặt.
Đi làm cả tháng trời mà chưa người tù nào ăn cắp nổi cái kẹo. Chân giẫm xéo lên đồ hộp, bánh, kẹo, trong lúc thắt ruột thắt gan vì đói, quả là một cực hình.

Đội lùn có con chó béc giê to bằng con bê nhỡ, lông xám như lông chó sói và cũng thấp lùn như hắn. Hắn gọi con chó là Rếch. Con Rếch không rời hắn một bước và là một tên tay sai vô cùng đắc lực trong việc hành hạ, đôn đốc, kiểm soát tù nhân. Đứng từ xa, Đội lùn nhìn thấy một anh tù nào đó trốn việc, làm việc uể oải, hoặc lấy cắp một thứ gì đó, hắn chỉ cần chỉ tay huýt lên một tiếng là con Rếch lao vút, xô ngã anh ta xuống đất và cắn xé tả tơi. Có anh tù khiếp đảm con chó đến phát điên.

Sở Pốt cũng như sở Cốp, quan và lính làm việc đều là bọn Pháp, không có tên lính nguỵ nào. Nhưng bọn sở Pốt, tuy là lính tráng nhưng đều có dáng công chức bộ diện tử tế, lịch sự. Chúng không chửi mắng, đánh đập tù ngay cả tên lính gác cũng vậy, mặc dù tên này có bản mặt của tên giang hồ giải nghệ. Hắn nói với Chi Lợi:

" Tao không thích đối xử với mày như bọn kia."- Hắn hất hàm trỏ sang bọn sở Cốp -" Làm xong công việc tụi mày có thể được nghỉ ngơi. Chỉ yêu cầu tụi mày không được tìm cách chạy trốn. Nếu chúng mày chạy trốn, tao buộc cái này phải lên tiếng." - Hắn vỗ vỗ bàn tay lông lá vào báng khẩu tiểu liên mát nhún vai nói thêm - " Đừng làm cho nó phải nổi giận."

Chi Lợi phiên dịch lại cho hai người lớn tuổi cùng đi làm với nó. Tên đội đến lấy tù đi làm tên là Buy va, phụ trách văn thư của sở. Hắn giao việc hàng ngày cho ba người tù. Hai người lớn gánh nước ngoài bến sông Hương đổ đầy hai cái bể xi măng phía sau khu nhà bếp. Chi Lợi quét tước làm vệ sinh khu nhà ở, nhà làm việc và thông ngôn.

Giám đốc sở tên là I tai, đóng lon quan hai.
Quan hai I tai đã đứng tuổi, người cao, gầy, lưng gù gù, đầu hói, đeo kính cận. I tai có dáng dấp ông giáo trường làng hơn là sĩ quan quân đội viễn chinh. Y có vợ người Việt, một mụ me Tây béo phục phịch. Hai vợ chồng ở một gian phòng lớn cuối dãy nhà làm việc.

Hôm đầu tiên đến sở, quan hai I tai Chi Lợi:

" Tại sao em bị bắt?"

" Người ta tình nghi tôi là liên lạc của Việt Minh... Nhưng không phải."

I tai nhún vai:

" Nếu đúng là liên lạc của Việt Minh cũng không sao. Ở Pháp, trong trận đại chiến vừa qua cũng có nhiều thiếu niên lứa tuổi em là liên lạc của quân du kích."

Buổi trưa, y cho ba người tù một ổ mì lớn. Và cũng trong ngày hôm đó, ba người tìm được trong đống rác sau khu nhà bếp, ba cái thùng vỏ đồ hộp, đựng nước sông Hương mang về nhà lao.

Hai người tù cùng đi làm cỏ vê với Chi Lợi, một người tên Tụng, một người tên Vũ Kỳ. Tụng trạc ngoài năm mươi tuổi, Vũ Kỳ mới xấp xỉ ba mươi. Anh Kỳ là ngư dân, sinh ra và lớn lên trên mặt nước đầm Chuồn, một đầm nước mặn lớn nối liền với phá Tam Giang. Người ta gọi anh là dân thuỷ điện.

Anh có gương mặt thật thà chất phác, hiền lành. Nửa người trên của anh Kỳ vạm vỡ không chút cân xứng với nửa người dưới, nhìn giống như hai mảnh thân thể của hai người chắp vào nhau. Riêng hai bàn tay anh to lớn một cách kỳ dị, đen đúa, nứt nẻ, sần sùi những lớp chai dày cộp, các đầu ngón tay mòn vẹt như bị mài. Anh cho biết, mới bảy tám tuổi, ngày nào anh cũng phải ngâm mình dưới nước dùng mười ngón tay moi cát, rong thành rãnh dài, để bắt tôm rằn, tôm sú. Thoạt nhìn cũng đoán biết anh cả đời chỉ quen sống trên thuyền, trên mặt nước. Anh đi trên mặt đất vụng về, lạch bạch như con vịt. Cả con người anh lúc nào cũng bốc lên mùi tanh tanh, mùi tôm cá, mùi lưới ướt, mùi lòng thuyền...

" Anh có phải du kích không?"- Chi Lợi hỏi.

" Không. Tui chỉ chở thuyền cho các eng bộ đội địa phương huyện qua phá Tam Giang. Trong vùng có đứa chỉ điểm, báo cho Tây. Rứa là lính Tây đi ca nô lùng vây bắt tui đang làm nghề giữa phá. Tụi hắn quăng lựu đạn vô đò tui, rứa là cả đò, cả lưới, cả đồ nghề làm ăn chìm hết. Chừ họ có thả tui về thì cũng chết đói thôi em ạ. Còn đồ nghề mô nữa mà làm ăn..." - Anh nói, mặt buồn thiu nước mắt rơm rớm.

Nhìn anh, Chi Lợi thấy thương cũng muốn khóc theo. Nó nói:

" Cần cóc chi anh. Tụi hắn mà thả anh về, anh trốn luôn lên núi đi Vệ Quốc Đoàn, đánh chết cha tụi hắn đi. Chưa chừng anh em mình lại gặp nhau trên đó cũng nên."

" E rồi cũng phải đến nước đó thôi em ạ."- Anh nói mà mặt vẫn rầu rầu.

Chi Lợi nảy ra ý muốn được giúp đỡ, bênh vực, che chở anh như với tụi con Nghệ Trác, Mẫn Đình, Nghệ Lâm... Nó thấy anh ta tuy lớn tuổi, to xác, mà còn khờ khạo hơn cả mấy đứa đó, thân tù đi làm cỏ vê mà anh siêng năng như làm việc nhà. Đặt đòn gánh lên vai là anh chúi mặt, chúi mũi gánh hết chuyến nước này tiếp chuyến nước khác. Gánh nào hai thùng nước cũng đầy mặp. Gánh suốt buổi sáng, anh không nghỉ lấy một lần. Trong lúc đó lão Tụng chỉ gánh hai thùng lưng lẻo và anh gánh được ba chuyến, lão Tụng mới gánh được một chuyến. Nhưng anh không hề chút so bì. Thấy vậy, Chi Lợi nổi cáu:

" Sao anh dại thế? Việc chi mà anh phải nai lưng ra làm lấy một mình? Để tui nói với thằng đội Tây, chia đều công việc, mỗi người gánh một bể."

" Thôi em ạ, người ta yếu, mình mạnh đỡ đần nhau."

" Yếu?" - Chi Lợi dằn giọng, bĩu môi.

Với lão Tụng, không hiểu sao ngay hôm đầu tiên Chi Lợi đã thấy ghét cay ghét đắng. Tuy ngoài năm mươi tuổi lão Tụng còn khá lực lưỡng, nhưng lão cứ giả vờ giả vịt như ốm yếu lắm. Khuôn mặt lão choắt, hai tai như tai chuột, vành tai mỏng lét gần sát vào da đầu, cặp mắt hùm hụp hay lấm lét nhìn trộm. Toàn bộ con người lão từ vẻ mặt giọng nói, điệu bộ, dáng đi, toát ra một vẻ gì vừa ti tiện, vừa xảo quyệt.

Sau một ngày cùng đi làm với lão, Chi Lợi thấy ghét lão hơn. Hễ cứ nhìn mặt lão là Lợi thấy nổi khùng, muốn gây lộn, đập lộn. Nhưng nó biết nếu đập lộn, nó sẽ bị cho nhừ đòn. Vì đằng sau cái vẻ lụ khụ của lão là một sức khoẻ đáng sợ. Có hôm, nó bắt gặp chỉ với hai tay và đầu gối, lão đã uốn một thanh sắt to bằng ngón chân cái.

Mỗi lần tụi Tây gọi lão đến để sai lão việc gì là lão dạ một tiếng thật to, ba chân bốn cẳng chạy lại trước tiên, chắp tay, cúi đầu, hai đầu gối hơi khuỵ xuống, miệng chúm chím cười cười. " Chỉ cần chắp thêm vô chỗ xương cụt của lão ta một cái đuôi, ngúc ngoắc, ngúc ngoắc, là thành con chó chầu trước mặt chủ."- Chi Lợi vừa thông ngôn, vừa tức tối nhìn dáng bộ lão và nghĩ vậy.

Hễ tụi Tây vứt một mẩu bánh, một cái tàn thuốc lá, lão nhào tới vồ chụp vội như sợ Chi Lợi và anh Vũ Kỳ tranh mất. Chộp được, lão thổi thổi qua, đưa liền lên miệng. Chi Lợi nổi điên, quát:

" Ông làm cái chi thế? Có đói chết cũng phải giữ thể diện không Tây họ khinh cho chứ."

Lão vênh mặt lên, mắt gườm gườm nhìn Chi Lợi:

" Người mô nhanh tay thì người nớ được. Đụ mạ nó chớ."- Lão vừa tóp tép nhai vừa chửi đổng - " Đã mang cái thân thằng tù còn nói phét nói lác. Thể với chẳng diện."

Chi Lợi giận run người. Nó chỉ muốn quật cái giẻ lau nhà đang cầm trong tay vào mặt lão. Phải cố hết sức nó mới ghìm lại được. Nó nhổ một bãi nước miếng xuống đất, lấy chân chà đi chà lại, rồi quay mặt đi.

_____________________________

22:55/1/1/2022

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro