NN cua dan, do dan, ban chat GCCN va tinh DT

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, v́ dân

1. Xây dựng Nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động Trong quá tŕnh đi t́m đường cứu nước, Hồ Chí Minh chú ư khảo cứu lựa chọn ra một kiểu nhà nước mới cho Việt Nam để xây dựng sau khi cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản thành công. Nhà nước đó phải đại biểu quyền lợi "cho số đông người" và Hồ Chí Minh đă chủ trương xây dựng một Nhà nước công nông binh thể hiện trong Chánh cương vắn tắt của Đảng khi thành lập Đảng đầu năm 1930. Trải qua thực tế các cao trào cách mạng ở Việt Nam, về sau, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng ở Việt Nam một nhà nước Dân chủ Cộng ḥa, một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước của dân, do dân, v́ dân. Trong bài báo Dân vận (năm 1949), Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều v́ dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xă đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xă do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Quan điểm về nhà nước của dân, do dân, v́ dân, chúng ta thấy trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây: a) Nhà nước của dân Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xă hội đều thuộc về nhân dân. Trong 24 năm làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đă lănh đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Quan điểm trên của Người được thể hiện trong các bản Hiến pháp đó. Chẳng hạn, Hiến pháp năm 1946 nêu rơ: tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt ṇi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết. Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước th́ dẫn đến một hệ quả là nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp. Quyền làm chủ và đồng thời cũng là quyền kiểm soát củ

nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền băi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Hồ Chí Minh đă nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, c̣n dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của dân. Trong nhà nước của dân, với ư nghĩa đó, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của ḿnh trong hệ thống quyền lực của xă hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ư nghĩa thực tế nhắc nhở những người lănh đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của ḿnh, không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, "cậy thế" với dân, "quên rằng dân bầu ḿnh ra là để làm việc cho dân". Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2-9-1945 chính là Nhà nước tiến bộ chưa từng có trong lịch sử hàng ngh́n năm của dân tộc Việt Nam bởi v́ Nhà nước đó là nhà nước của dân, nhân dân có vai tṛ quyết định mọi công việc của đất nước. b) Nhà nước do dân Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính v́ vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ư thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của ḿnh. Hồ Chí Minh khẳng định: việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm "ghé vai gánh vác một phần". Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ. c) Nhà nước v́ dân Nhà nước v́ dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều v́ lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào. Trên tinh thần đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh: mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân; việc ǵ có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc ǵ có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước. Hồ Chí Minh luôn luôn tâm niệm: phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành. Cả cuộc đời Người "chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân". Hồ Chí Minh viết: "khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là v́ mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng v́ mục đích đó"1. Một Nhà nước v́ dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ chủ tịch nước đến công chức b́nh thường đều phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải "làm quan cách mạng" để "đè đầu cưỡi cổ nhân dân" như dưới thời đế quốc thực dân. Ngay như chức vụ Chủ tịch nước của ḿnh, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đày tớ cho nhân dân. Hồ Chí Minh nói: "Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quư chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là v́ đồng bào ủy thác th́ tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, th́ tôi rất vui ḷng lui... Riêng phần tôi th́ làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu ǵ với ṿng danh lợi"1.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước a) Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp và đấu tranh giai cấp xuất hiện, do đó, nhà nước là sản phẩm của một xă hội có giai cấp, nó bao giờ cũng mang bản chất một giai cấp nhất định, không có một nhà nước nào là phi giai cấp, không có nhà nước đứng trên giai cấp. Như vậy không phải lịch sử nhân loại xuất hiện là có nhà nước ngay và nhà nước không phải tồn tại măi măi. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước ta được coi là Nhà nước của dân, do dân, v́ dân nhưng bản chất giai cấp của Nhà nước ta là bản chất giai cấp công nhân. V́: Một là, Nhà nước do Đảng Cộng sản lănh đạo. Điều này được thể hiện: - Đảng Cộng sản Việt Nam lănh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân. Việc xác định bản chất giai cấp công nhân của nhà nước là một vấn đề rất cơ bản của Hiến pháp. Lời nói đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lănh đạo. Trong quan điểm cơ bản xây dựng một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, một nhà nước thể hiện tính chất nhân dân rộng răi, Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh ṇng cốt của nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lănh đạo. - Đảng lănh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp. Nói đến phương thức lănh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nói đến cách lănh đạo cho phù hợp với từng thời kỳ. Trong thời kỳ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước, đất nước ta phải vừa tiến hành kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, vừa lănh đạo nhân dân xây dựng chế độ mới. Do đó, phương thức lănh đạo của Đảng đối với Nhà nước ta thời kỳ đó không giống với những thời kỳ sau này. Song, trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn có những vấn đề cơ bản về phương thức lănh đạo của Đảng chung cho các thời kỳ. Đó là: * Đảng lănh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch. * Đảng lănh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của ḿnh trong bộ máy, cơ quan nhà nước. * Đảng lănh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra. Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xă hội chủ nghĩa của sự phát triển của đất nước. Điều này đă được thể hiện ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa mới ra đời ngày 2-9-1945 trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh. Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chú ư đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan nhà nước, nhấn mạnh đến việc phát huy cao độ dân chủ, đồng thời phát huy cao độ tập trung. Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực vào tay nhân dân. b) Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan hệ giữa các vấn đề giai cấp - dân tộc trong xây dựng Nhà nước Việt Nam mới. Hồ Chí Minh đă giải quyết hài ḥa, thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân, tính dân tộc và được biểu hiện rơ trong những quan điểm sau: - Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam từ quá tŕnh dựng nước và giữ nước hàng ngh́n năm của dân tộc. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX dân tộc Việt Nam rơi vào khủng hoảng đường lối cách mạng. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ chống thực dân Pháp của dân tộc ta, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa dưới sự lănh đạo của các nhà cách mạng tiền bối rất oanh liệt tô thắm cho truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc nhưng độc lập, tự do cho dân tộc vẫn chưa trở thành hiện thực. Từ ngày 3-2-1930 Đảng ta ra đời th́ sự lớn mạnh của giai cấp công nhân với đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam đă vượt qua được tất cả các hạn chế và đă lănh đạo thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 đấu tranh giành chính quyền, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu á. - Tính thống nhất của nó c̣n biểu hiện ở chỗ Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc là một. Nhà nước ta không những thể hiện ư chí của giai cấp công nhân mà c̣n thể hiện ư chí của nhân dân và của toàn dân tộc. - Trong thực tế, Nhà nước ta đă đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đă lănh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam ḥa b́nh, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xă hội rồi đi tới chủ nghĩa cộng sản là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đă xác định cũng là sự nghiệp của chính Nhà nước ta.

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước có hiệu lực pháp lư mạnh mẽ Hồ Chí Minh đă sớm thấy được tầm quan trọng của pháp luật trong quản lư xă hội. Điều này thể hiện trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam do Người kư tên là Nguyễn ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxây (Pháp) năm 1919. Sau này, khi trở thành người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh càng quan tâm sâu sắc hơn việc xây dựng và điều hành nhà nước một cách có hiệu quả bằng pháp quyền. Một nhà nước có hiệu lực pháp lư mạnh mẽ được Hồ Chí Minh chú ư xây dựng thể hiện trên những điểm sau đây: a) Xây dựng một Nhà nước hợp hiến Chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đă đề nghị tổ chức tổng tuyển cử càng sớm càng tốt để lập Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các cơ quan, bộ máy chính thức khác của Nhà nước mới. Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi ngày 6-1-1946 với chế độ phổ thông đầu phiếu và lần đầu tiên trong lịch sử hàng ngh́n năm của dân tộc Việt Nam cũng như lần đầu tiên ở Đông Nam châu á, tất cả mọi người dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, đảng phái, tôn giáo... đều đi bỏ phiếu bầu những đại biểu của ḿnh vào trong Quốc hội. Ngày 2 - 3 - 1946, Quốc hội Khóa I đă họp Phiên đầu tiên lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên. Đây chính là Chính phủ có đầy đủ giá trị pháp lư để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề đối nội và đối ngoại ở nước ta. b) Quản lư nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc sống Quản lư nhà nước là quản lư bằng bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác nhau nhưng quan trọng nhất là quản lư bằng hệ thống luật, trong đó quan trọng bậc nhất là Hiến pháp - đạo luật cơ bản của nước nhà. Các bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 đă để lại dấu ấn đậm nét những quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất, thiết chế và hoạt động của Nhà nước mới. Từ năm 1919, Hồ Chí Minh đă đề cập vấn đề "thần linh pháp quyền" trong đời sống xă hội hiện đại. Có Hiến pháp và pháp luật nhưng không đưa được vào trong cuộc sống th́ xă hội cũng sẽ bị rối loạn. Dân chủ đích thực bao giờ cũng đi liền với kỷ cương, phép nước, tức là đi liền với thực thi Hiến pháp và pháp luật. Suốt cả thời kỳ giữ trọng trách Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh luôn luôn chăm lo xây dựng một nền pháp chế xă hội chủ nghĩa để bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân. Chính bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Người tự giác khép ḿnh vào kỷ luật, vào việc gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Sống và làm việc theo pháp luật đă trở thành nền nếp, thành thói quen, thành lối ứng xử tự nhiên của Hồ Chí Minh. "Thần linh pháp quyền" là sức mạnh do con người và v́ con người. Do vậy, Hồ Chí Minh bao giờ cũng đ̣i hỏi mọi người phải hiểu và tuyệt đối chấp hành pháp luật, bất kể người đó giữ cương vị nào. Người cho rằng công tác giáo dục pháp luật cho mọi người, đặc biệt cho thế hệ trẻ, trở nên cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng một nhà nước pháp quyền, bảo đảm mọi quyền và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc sống. Trong việc thực thi pháp luật, có quan hệ rất lớn tới tŕnh độ dân trí của nhân dân, v́ vậy, Hồ Chí Minh chú trọng tới vấn đề nâng cao dân trí, phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân, làm cho nhân dân có ư thức chính trị trong việc tham gia công việc của chính quyền các cấp. Làm tốt nghĩa vụ công dân cũng tức là thực hiện nghĩa vụ của ḿnh đối với Nhà nước, biết thực hành dân chủ. c) Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của Nhà nước đủ đức và tài Để xây dựng một Nhà nước pháp quyền vững mạnh, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Nói một cách tổng quát nhất về yêu cầu đối với đội ngũ này là vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc; đội ngũ này phải được tổ chức hợp lư, có hiệu quả. Đi vào những mặt cụ thể, chúng ta thấy Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu sau đây về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức: Một là: Tuyệt đối trung thành với cách mạng. Đây là yêu cầu đầu tiên cần có đối với đội ngũ này. Cán bộ, công chức phải là những người kiên cường bảo vệ chế độ xă hội chủ nghĩa, bảo vệ Nhà nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh ḷng trung thành đó phải được thể hiện hàng ngày, hàng giờ, trong mọi lĩnh vực công tác. Hai là: Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ. Chỉ với ḷng nhiệt t́nh không thôi th́ chưa đủ và cùng lắm chỉ phá được cái xấu, cái cũ mà không xây được cái tốt, cái mới. Yêu cầu tối thiểu là đội ngũ này phải hiểu biết công việc của ḿnh, biết quản lư Nhà nước, do vậy, phải được đào tạo và tự ḿnh phải luôn luôn học hỏi. Hồ Chí Minh là người mạnh dạn sử dụng những công chức của chế độ cũ phục vụ cho chính quyền cách mạng và nhiều người trong số họ đă trở thành những người có công lớn đối với chế độ mới, đồng thời Người chú trọng đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ, công chức mới. Hồ Chí Minh đă kư nhiều sắc lệnh về công chức, trong đó có những quy định cụ thể về tiêu chuẩn cán bộ tư pháp. Ngay trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh đă kư Sắc lệnh số 76 ban hành Quy chế công chức nêu rơ công chức là người giữ một nhiệm vụ cụ thể trong bộ máy nhà nước dưới sự lănh đạo tối cao của Chính phủ. Sắc lệnh cũng nêu lên cách thức và nội dung thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính trong bộ máy chính quyền. Ba là: Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa đội ngũ cán bộ, công chức với nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức là những người ăn lương từ nguồn ngân sách của Nhà nước mà nguồn ngân sách này do dân đóng góp. Chính v́ vậy, Hồ Chí Minh nhắc nhở mọi cán bộ, công chức không được lăng phí của công; phải sẵn sàng phục vụ nhân dân, luôn luôn nêu cao đạo đức cách mạng, sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân ḿnh cho Tổ quốc, lấy phục vụ cho quyền lợi chính đáng của nhân dân làm mục tiêu cho hoạt động của ḿnh. Đặc biệt, phải chống bệnh tham ô, lăng phí, quan liêu, phải luôn luôn gần dân, hiểu dân và v́ dân. Cán bộ, công chức xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền...đối với nhân dân đều dẫn đến nguy cơ làm suy yếu Nhà nước, thậm chí làm biến chất Nhà nước ta. Bốn là: Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những t́nh huống khó khăn, "thắng không kiêu, bại không nản". Đó là những người có ư thức sẵn sàng làm "công bộc", làm "đày tớ" cho dân, những người cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm việc với tinh thần đầy sáng tạo. Hồ Chí Minh đ̣i hỏi cán bộ, công chức phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, luôn luôn "có chí tiến thủ", luôn luôn học tập để nâng cao tŕnh độ về mọi mặt, học ở trường, học ở trong cuộc sống, trong công tác, học ở thầy, học ở bạn; phải thường xuyên tự phê b́nh và phê b́nh.

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu quả a) Đề pḥng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, v́ dân không bao giờ tách rời với việc làm cho Nhà nước luôn luôn trong sạch, vững mạnh. Điều này luôn luôn thường trực trong tâm trí và hành động của Hồ Chí Minh. Khi nước nhà vừa giành được độc lập, chính quyền cách mạng c̣n non trẻ cũng như lúc cách mạng chuyển giai đoạn, Hồ Chí Minh càng chú ư hơn bao giờ hết đến việc bảo đảm cho sự trong sạch, vững mạnh của các cấp chính quyền, bởi v́ thường những lúc đó cách mạng đứng trước những thử thách rất gay gắt. Chỉ một tháng sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, Hồ Chí Minh gửi thư cho ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rơ sáu căn bệnh cần đề pḥng: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người nhắc nhở: "Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đă nhận biết sai lầm th́ phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, th́ nên chú ư tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đă phạm những lầm lỗi trên này, th́ phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa th́ Chính phủ sẽ không khoan dung. V́ hạnh phúc của dân tộc, v́ lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ "công b́nh, chính trực" vào ḷng"1. Trong quá tŕnh lănh đạo xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, Hồ Chí Minh thường đề cập đến những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi người đề pḥng và khắc phục: - Đặc quyền, đặc lợi. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh đ̣i hỏi phải tẩy trừ những thói cậy ḿnh là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch với dân, lạm quyền, đồng thời để vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân ḿnh, làm như thế tức là sa vào chủ nghĩa cá nhân. - Tham ô, lăng phí, quan liêu. Hồ Chí Minh coi tham ô, lăng phí, quan liêu là "giặc nội xâm", "giặc ở trong ḷng", thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người phê b́nh những người "lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức". Quan điểm của Hồ Chí Minh là: "Tham ô, lăng phí và bệnh quan liêu, dù cố ư hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến...Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám"2. Ngày 27-11-1946, Hồ Chí Minh đă kư Sắc lệnh ấn định h́nh phạt tội đưa và nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Ngày 26-1-1946, Hồ Chí Minh kư lệnh nói rơ tội tham ô, trộm cắp của công là tội tử h́nh. Lăng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt và chính bản thân Người là tấm gương sáng trong việc tích cực thực hành chống lăng phí trong cuộc sống hàng ngày và trong công việc, v́ Người biết quư từng đồng xu, bát gạo do dân đóng góp cho hoạt động của bộ máy nhà nước. Lăng phí ở đây được Hồ Chí Minh xác định là lăng phí sức lao động, lăng phí thời giờ, lăng phí tiền của. Liên quan đến bệnh tham ô, bệnh lăng phí là bệnh quan liêu, một căn bệnh không những có ở cấp Trung ương, ở cấp tỉnh, ở cấp huyện mà c̣n có ở cả cấp cơ sở. Hồ Chí Minh phê b́nh những người và các cơ quan lănh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dơi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc th́ trọng h́nh thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn... thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững...Thế là bệnh quan liêu đă ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lăng phí. V́ vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lăng phí th́ trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu. - "Tư túng", "chia rẽ", "kiêu ngạo". Những hành động này gây mất đoàn kết, gây rối cho công tác. Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu ḿnh, không tài năng ǵ cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa ḷng ḿnh th́ đẩy ra ngoài. Quên rằng việc là việc công, chứ không phải việc riêng ǵ ḍng họ của ai. Trong chính quyền, c̣n chia rẽ, không biết cách làm cho mọi người ḥa thuận với nhau, c̣n có người "bênh vực lớp này, chống lại lớp khác". Ngoài cậy thế, có người c̣n kiêu ngạo, "tưởng ḿnh ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi...Cử chỉ lúc nào cũng vác mặt quan cách mạng", làm mất uy tín của Chính phủ. b) Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh đă kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lư xă hội bằng pháp luật với phát huy những truyền thống tốt đẹp trong đời sống cộng đồng người Việt Nam được h́nh thành qua hàng ngh́n năm lịch sử. Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của ḿnh với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh bao giờ cũng thể hiện là một người sáng suốt, thống nhất hài ḥa giữa lư trí và t́nh cảm, nghiêm khắc, bao dung, nhân ái nhưng không bao che cho những sai lầm, khuyết điểm của bất cứ ai. Kỷ cương, phép nước thời nào cũng cần và đều phải được áp dụng cho bất cứ ai. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp ǵ. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh dùng sức mạnh uy tín của ḿnh để cảm hóa những người có lỗi lầm, kéo họ đi với cách mạng, giáo dục những người mắc khuyết điểm để họ tránh phạm pháp. Dưới ngọn cờ đại nghĩa, bao dung của Hồ Chí Minh, nhiều người vốn rất mặc cảm với cách mạng đă không "sẩy chân" phạm pháp hoặc không đi theo kẻ địch.

III. Xây dựng đảng vững mạnh, xây dựng nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh

1. Chú trọng hơn nữa xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng Đảng về chính trị trước hết đ̣i hỏi Đảng ta phải đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn, đồng thời tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó ở tất cả các cấp, các ngành. Một trong những nguy cơ lớn nhất đối với Đảng Cộng sản là sai lầm về đường lối. ở đây, sai một ly, đi một dặm. Cần chống nguy cơ chệch hướng xă hội chủ nghĩa không chỉ ở đường lối mà ngay cả trong quá tŕnh thực hiện đường lối đó. Đường lối của Đảng phải được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể ở từng thời kỳ. Đường lối ấy phải dựa vào thực tế, có khả năng thực thi, đáp ứng được đ̣i hỏi của sự phát triển của đất nước. Trong quá tŕnh thực hiện đường lối, Đảng phải tổng kết thực tiễn, nắm bắt xu thế của thời đại, nắm được sự biến động của t́nh h́nh trong nước và quốc tế để kịp thời bổ sung, phát triển đường lối. Sự kiên định mục tiêu xă hội chủ nghĩa là một thước đo quan trọng nhất tính đúng đắn của đường lối, đồng thời, trong bối cảnh toàn cầu hóa phải tính đến những đặc điểm mới để đưa ra những quyết sách mới nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững, biến đất nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về tư tưởng đ̣i hỏi phải giáo dục, rèn luyện đảng viên kiên định lập trường tư tưởng, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xă hội, không hoang mang, dao động trước mọi diễn biến phức tạp, luôn luôn đi theo con đường mà Hồ Chí Minh đă lựa chọn. Hồ Chí Minh luôn luôn mong muốn Đảng ta trở thành một khối thống nhất về tư tưởng và hành động. Hiện nay, đất nước đang đứng trước thử thách nghiệt ngă. Chúng ta đă rửa được nỗi nhục mất nước. Hiện nay, nỗi nhục nghèo nàn và lạc hậu cũng đang là vấn đề bức xúc cần được giải quyết. Trong cuộc chiến đấu gian khổ chống lại những ǵ cũ kỹ, hư hỏng, chống lại nghèo nàn và lạc hậu, th́ sự nhất trí về tư tưởng để đi đến nhất trí trong hành động càng có ư nghĩa quyết định. Ḷng tin vào Đảng, vào chế độ xă hội chủ nghĩa là thước đo lớn nhất đối với việc xây dựng Đảng về tư tưởng. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng Đảng về tổ chức đ̣i hỏi Đảng ta phải luôn luôn chú trọng kiện toàn các tổ chức của ḿnh, làm cho Đảng có sức mạnh vô địch. Đảng mạnh là do tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở, đến chi bộ mạnh. Các tổ chức đảng luôn luôn phải trong sạch, vững mạnh. Cán bộ, đảng viên luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh, chống chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng và các tiêu cực khác. Những điều căn dặn của Hồ Chí Minh trong Di chúc khi nói về Đảng vẫn c̣n có giá trị lớn trong công tác xây dựng Đảng thời kỳ đổi mới hiện nay.

2. Xây dựng Nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới a) Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân Quyền làm chủ thật sự của nhân dân chính là một nội dung cơ bản trong yêu cầu xây dựng Nhà nước của dân, do dân, v́ dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước đ̣i hỏi phải chú trọng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xă hội. Trong vấn đề này, việc mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xă hội chủ nghĩa có ư nghĩa quan trọng. Chính v́ vậy, quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp luật vào trong cuộc sống. Cần chú ư đến việc bảo đảm cho mọi người được b́nh đẳng trước pháp luật, xử phạt nghiêm minh mọi hành động vi phạm pháp luật, bất kể sự vi phạm đó do tập thể hoặc cá nhân nào gây ra. Có như vậy dân mới tin và mới bảo đảm được tính chất nhân dân của Nhà nước ta. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, ngoài vấn đề thực thi nghiêm chỉnh pháp luật, c̣n cần chú ư tới thực hiện những quy tắc dân chủ trong các cộng đồng dân cư, tùy theo điều kiện của từng vùng, miễn là các quy tắc đó không trái với những quy định của pháp luật. Theo đó, cần thực hiện tốt các Quy chế dân chủ ở cơ sở đă được Chính phủ ban hành. b) Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về lĩnh vực này đ̣i hỏi phải chú trọng cải cách và xây dựng, kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, bảo đảm một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh. Muốn vậy, phải đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng dân chủ, trong sạch, vững mạnh, phục vụ đắc lực và có hiệu quả đối với nhân dân. Kiên quyết khắc phục quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà, sách nhiễu, tham nhũng, bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực, một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức sa sút phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực thực hành nhiệm vụ công chức kém cỏi. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay c̣n cần chú ư cải cách các thủ tục hành chính; đề cao trách nhiệm trong việc giải quyết các khiếu kiện của công dân theo đúng những quy định của pháp luật; tiêu chuẩn hóa cũng như sắp xếp lại đội ngũ công chức, xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức, vừa có tài, tinh thông chuyên môn, nghiệp vụ. Nguồn lực đội ngũ công chức yếu th́ không thể nói đến một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, v́ dân mạnh được. Do vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải được đặt lên hàng đầu và phải được tiến hành thường xuyên, bảo đảm chất lượng. Theo đó, hệ thống các trường trong cả nước, nhất là các trường đại học, cao đẳng, các trường dạy nghề, đặc biệt là các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên ngành tư pháp phải được đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo. c) Tăng cường hơn nữa sự lănh đạo của Đảng đối với Nhà nước Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng tất yếu gắn liền với tăng cường sự lănh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đây là trách nhiệm cực kỳ quan trọng của Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền. Trong giai đoạn hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc tăng cường sự lănh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện ở những nội dung như: lănh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm sự lănh đạo của Đảng và phát huy vai tṛ quản lư của Nhà nước; đổi mới phương thức lănh đạo của Đảng đối với Nhà nước: lănh đạo bằng đường lối, bằng tổ chức, bộ máy của Đảng trong các cơ quan Nhà nước, bằng vai tṛ tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên hoạt động trong bộ máy nhà nước, bằng công tác kiểm tra, Đảng không làm thay công việc quản lư của Nhà nước. Đảng thống nhất lănh đạo công tác cán bộ trong hệ thống chính trị trên cơ sở bảo đảm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước theo luật định. Bản chất, tính chất của Nhà nước ta gắn liền với vai tṛ, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, do đó, đến lượt Đảng, một tiền đề tất yếu được đặt ra là sự trong sạch, vững mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là yếu tố quyết định cho thành công của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xă hội chủ nghĩa của dân, do dân, v́ dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#icy