nói về tam quốc

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

    Trong lịch sử, những thời kỳ quá độ đều là thời kỳ cực trọng yếu, ảnh hưởng lớn mạnh đến động hướng của Quốc gia, Dân tộc và Xã hội. Thời kỳ Tam-quốc là một thời kỳ quá độ, cũng như Hán Sở tranh hùng là thời kỳ quá độ từ Tần qua nhà Hán, Xuân thu Chiến quốc là thời kỳ quá độ từ Chu qua Tần.

            Thời kỳ quá độ thì bao giờ tranh chấp cũng rất khốc liệt và chính trị tính thật cao. Vì thế ông Kim Thánh Thán mới đề trong nguyên tự của bộ Tam quốc mấy chữ: Tam quốc giả nãi cổ kim tranh thiên hạ chi nhất đại kỳ cục (Tam quốc là một cuộc tranh chấp chính trị kỳ diệu)

            Do tính chất điển hình văn hóa Trung quốc, do tính chất kỳ diệu của tranh chấp chính trị, thêm vào đấy bút pháp thần kỳ của nhà văn La Quán Trung, pho chuyện Tam quốc chí đã trở thành một tác phẩm văn học phổ biến nhất của Trung quốc. Các giai tầng xã hội kể từ phần tử trí thức, đến quí tộc, thường dân, nông dân, từ vị tuổi tác đến đàn bà con trẻ chẳng ai là không biết tên Lưu Bị, Tào Tháo, Khổng Minh. Không những Tam quốc chí diễn nghĩa phổ biến trong nhân dân Trung quốc, nó còn phổ biến trong dân gian các nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung quốc nữa. Thứ nhất là người Việt chúng ta, nói Tam quốc và “nhấm nháp" thú vị Tam quốc hầu như rất quen với tất cả và thuộc đủ tầng lớp. Các trẻ em ta vui chơi thường hát vè rằng:

                        “Bồ cu bồ các

                        Tha rác lên cây,

                        Gió đánh lung lay,

                        Là vua Cao tổ.

                        Những người mặt rỗ,

                        Là ông Tiêu hà,

                        Nước chảy qua đường,

                        Là dượng Tào Tháo

                        Đánh bạc cố áo,

                        Là anh Trần Bình.

            Nhà văn Nam Cao tả trong một đoản thiên tiểu thuyết của ông, hình tượng điển hình nhất để nói lên cái “thú vị chi cực” của Tam quốc đối với người Việt. Có người xem xong một đoạn Tam quốc, khoái quá anh ta đã vỗ đùi đánh đét mà chửi đổng một câu” Tiên sư cái thằng Tào Tháo!” để tỏ lòng phục tài của một chính trị gia lỗi lạc.

            Có điều đáng tiếc, đa số chúng ta chỉ đem Tam quốc để tán trà dư tửu hậu mà thôi. Phải chăng thói quen ấy đã đáp ứng với tinh thần của bài từ mở đầu qua mấy câu ca dao:

                Nhất hồ trọc tửu hỷ tương phùng

                        Cổ kim đa thiểu sự.

                        Đô phó tiếu đàm trung.

            Tạm dịch:

                        Gặp nhau hồ rượu đầy vơi,

                        Xưa nay bao nhiêu việc,

                        Phó mặc cuộc nơi cười.

            Nhưng chuyện Tam quốc chí còn mang một giá trị rất lớn về tư tưởng và quyền thuật chính trị. Người phương Đông đọc Tam quốc, bàn luận về Tam quốc cũng cần thiết như người phương Tây đọc và bàn Le Prince, l Etat et la révolution. Chúng ta có thể tỉa rút từ Tam quốc nhiều kinh nghiệm, nhiều qui luật chính trị. Sự phong phú kinh nghiệm, phong phú qui luật chính trị chứa chất trong pho Tam quốc càng làm nổi bật cái tài hoa của Đông phương, đã tan biến được ý thức về chính trị sâu sắc và rắn chắc vào một hình thức nhẹ nhàng giản dị: thông tục tiểu thuyết. Dưới hình thức thông tục tiểu thuyết, Tam quốc chí diễn nghĩa không chỉ làm cho dễ hiểu, hứng thú, còn gây cho người đọc một lực tưởng tượng dồi dào. Dễ hiểu, hứng thú, tưởng tượng dồi dào là những yêu cầu căn bản mà Tứ Thư, Ngũ kinh hoặc Nhị thập tứ sử, Thông giám, Cương giám, không có khả năng cung cấp nổi.

            Tuy nhiên, Tam quốc chí diễn nghĩa cũng không khỏi chịu sự câu thúc của tư tưởng Đạo thống chính thống cho nên vẫn thấy xuất hiện ít nhiều thiên kiến.

            Ngoài ra Tam quốc còn một đặc điểm nữa: dùng thú vị tiểu thuyết lôi cuốn độc giả vào chỗ tế nhị của tư tưởng quân sự. Trong Tam quốc, “binh pháp” Tôn Vũ tử hầu hết được đem chuyển từ sắc thái tư tưởng trừu tượng thành những bức tranh cụ thể, linh động. Cho nên phàm người nào muốn tìm hiểu Tôn Tử binh pháp mà không đọc Tam quốc, không suy tư về những chiến trận trong Tam quốc, thiết nghĩ thật là một điều khiếm khuyết vô cùng. Bởi vì nếu xét lại tự sự chiến trường Tam quốc, ai ai cũng phải công nhận, tư tưởng Tôn Vũ Tử như đã hòa vào máu đỏ để chảy trong huyết mạch nhà văn La Quán Trung.

            Tóm lại: pho Tam quốc chí diễn nghĩa xứng đáng là một tác phẩm gối đầu giường của mọi người. Tán chuyện Tam quốc là một cái khoái vô song. Bàn luận nghiêm túc chính trị, nhân vật, chiến sự Tam quốc là một nhu yếu rất thiết thực, thứ nhất đối với thời thế “Tam phân ngũ liệt” của chúng ta bây giờ.

Vũ Tài Lục

Nói Chuyện Tam Quốc

- 1 -

NHỮNG VIỆC ĐI TRƯỚC TAM QUỐC

       Truyện Tam quốc được khai đoan bằng một câu: “Phù thiên hạ đại thế, phân cửu tất hợp, hợp cửu tất phân”. (Thế lớn thiên hạ, chia lâu rồi lại hợp, hợp lâu lại rồi chia).

        Đó là một qui luật lịch sử, một đoạn nhân quả tiếp nối để thúc đẩy lịch sử chuyển mình, diễn tiến. Nếu nghĩ rằng chia hay hợp chẳng qua là tự nhiên do mệnh trời xếp đặt, thì hiện tượng phân hợp của lịch sử trở nên trống rỗng (và Tam quốc cũng mất hết ý nghĩa)

        Nhận định lịch sử bằng quan niệm “mệnh trời” không khác gì ý muốn “trói voi bỏ rọ”. Nhận định ấy tất sinh sản ra những lý luận không chính tắc, đôi khi tức cười nữa. Tỉ dụ cuốn Tân biên Ngũ đại Lương sử Bình Thoại ghi chép một chuyện cũ về Tam quốc như sau:

        “Khi Lưu Bang thắng được Hạng Vũ rồi, nhân có bụng nghi các công thần nên giết Hàn Tín, Bành Việt, Anh Bá. Cả ba liền kiện Lưu Bang trên Thiên đình. Trời bèn cho Hàn Tín thác sinh làm Tào Tháo, Bành Việt thác sinh làm Tôn Quyền, Anh Bá thác sinh làm Lưu Bị để trả thù xâu xé cướp lại cơ nghiệp của Hán cao Tổ. Bởi vậy mới thành Tam quốc”

        Mục đính cố sự trên được bịa đặt ra nhằm tác dụng đề cao thuyết ân oán báo ứng. Điểm đáng chú ý là: nó gây một ảnh hưởng không nhỏ và đã được lưu truyền rất rộng rãi trong đại chúng.

        Lịch sử là tổng hợp sinh hoạt nhân loại. Luận đoán lịch sử đương nhiên không thể đặt dưới chiều ánh sáng chân lý siêu việt ngoại tại. Lịch sử phải được phê phán dưới chiều ánh sáng chân lý nhân sinh nội tại.

        Theo chân lý nội tại nhân sinh, thì những bước đi của lịch sử không bao giờ độc lập tự tồn, mà chúng phải chịu qui luật tiếp diễn, nhân quả. Ở đây có những tính phổ biến, tính cộng đồng. Phân hay hợp mỗi giai đoạn đều mang tác dụng và nhiệm vụ riêng. Bây giờ nói về hiện tượng “chia ba chân vạc” của thời đại Tam quốc, chúng ta có thể khẳng định như sau:

- Nguyên nhân trực tiếp là: triều chính Hán mạt thối nát.

- Nguyên nhân gián tiếp là: Những vấn đề còn chưa xong của thời đại Xuân thu Chiến quốc.

- Nhiệm vụ của sự chia cắt là tiếp tục công cuộc thống nhất Hán triều bỏ dở.

- Tác dụng của “tam phân” là thống nhất từng mảnh rồi mới thống nhất toàn bộ.

Có tìm hiểu minh bạch “bối cảnh lịch sử thời đại” thì mới phát hiện được thực chất Tam quốc, mới đặt được trung tâm hướng dẫn bàn luận về những quan niệm chính trị, chiến sự và nhân vật. Dưới đây chúng tôi xin nêu ít luận cứ:

Từ tám trăm đến mười.

Xu hướng thống nhất bắt đầu dâng cao lên kể từ đời vua Trụ. Nhưng triều chính của vua Trụ quá thối nát không thể lãnh đạo được xu hướng đó. Thừa cơ, nhà Chu liền khởi nghiệp tự lập làm vua. Văn Vương mất, Vũ Vương kế vị được hai năm thì quyết định thanh toán triều đại nhà Ân mà Trụ vương làm đại biểu. Vũ Vương hội tám trăm chư hầu ở Mạnh Tân, sau trận giáp chiến tại Mục Dã, nhà Ân mất hẳn.

Để đáp ứng với nhu yếu thống nhất, nhà Tây Chu đã thôn tính rất nhiều bộ lạc lẻ tẻ rời rạc, đồng thời kiến lập nền móng một trật tự trung tâm, một cốt cách văn hóa trung tâm cho Trung quốc.

Tính đến lúc nhà Chu chuyển từ Tây sang Đông được gọi là Đông Chu, số chư hầu chỉ còn lại hai trăm. Nhưng mạnh nhất và ảnh hưởng đến cục diện vẻn vẹn có mười nước.

Giai cấp mới.

Đông Chu được lập 49 năm, tranh chấp thôn tính biến tính chất, trở nên gay go quyết liệt hơn, vì quy mô cùng lực lượng tranh chấp đã lớn lên rất nhiều. Sự cạnh tranh giữa các liệt quốc tạo thành sự hưng thịnh của học thuật. Thế hệ tư tưởng nhờ các thế lực khác nhau bảo trợ, nhờ hiện tượng mỗi ngày một phức tạp của xã hội vun tưới, đã trổ bông rườm rà, cỏ lạ hoa thơm. CÙng một lúc với sự hưng thịnh của học thuật là sự thành lập riêng biệt một giai cấp mới: giai cấp sĩ (phần tử trí thức).

Bình dân tham chính.

Bản thân thời đại Xuân thu bao quát sau 242 năm, cuối cùng chỉ còn lại bẩy nước tồn tại là: Yên, Tề, Sở, Hàn, Triệu, Ngụy, Tần. Cuộc tranh hùng giữa bẩy nước, lịch sử ghi lại dưới một tên khác: thời đại Chiến quốc.

Hai thời đại Xuân thu và Chiến quốc mang một hiện tượng đặc sắc là: Bình dân tham dự chính quyền. Về hiện tượng này ông Triệu Dực viết như sau:

Từ cổ, chư hầu tự cai quản nước mình, khanh đại phu truyền con, truyền cháu làm quan trị dân. Dưới chế độ “cường thần đại tộc”, dân chúng bị ngược đãi điêu linh, loạn ly không dứt. Tranh chấp đến Chiến quốc thì phạm vi bành trướng to rộng quá. Khanh đại phu bị chìm ngập, lãnh đạo chính trị không thể theo con đường thế khanh, thế hầu được nữa. Do đó mới xuất hiện các chính khách như: Phạm Thư, Sái Trạch, Tô Tần, Trương Nghi, các võ tướng như Tôn Tẫn, Bạch Khởi, Nhạc Nghị, Liêm Pha, Vương Tiễn. Và xa xưa nữa như: Nịnh Thích, Bá Lý Hề. Những người này hết thẩy đều áo vải chân trắng.

Kết cục tranh chấp Thất hùng: nhà Tần kiêm tính sáu nước Yên, Tề, Sở, Hàn, Triệu, Ngụy dựng nên Tần triều, chấm dứt thời đại Chiến quốc kiến lập cơ sở thống nhất đầu tiên.

Ai diệt lục quốc?

Nhà Tần sở dĩ dựng lên là vì đáp ứng với nhu yếu thống nhất, Tần kéo được về phía mình một lực lượng to tát: nhân tâm quy hướng. Ông Đỗ Mục có một lời phê rất đúng: “Không ai diệt lục quốc cả, chỉ lục quốc tự diệt mà thôi”. Bất quá vũ lực và thủ đoạn của Tần triều đã không nghĩ thế. Khi thống nhất rồi, họ liền cho vũ lực là vạn năng, thủ đoạn là vạn năng.

Tần triều không tìm đến một phương thức lãnh đạo thích hợp với tình trạng mới, mà chỉ đem phương thức “Bá” nhỏ hẹp để thống trị đại thiên hạ. Tần Thủy Hoàng hạ lệnh đốt sách, nhằm qui hết tư tưởng vào một mối. Tần chỉ đem pháp chính ra mong làm chủ lưu tư tưởng, pháp chính là một mặt rất hẹp của tư tưởng thì làm sao có thể lấp bít hết những trống rỗng trên nhiều mặt khác?

Hạng Võ đi ngược chiều lịch sử.

Phương thức bá nghiệp đã bất lực với việc thống trị đại thiên hạ. Bốn phương lại ly loạn. Lòng phục hận của con cháu Yên, Tề, Sở, Hàn, Triệu, Ngụy tạo nên nguy cơ phân xé. Tuy nhiên chẳng sức mạnh gì có thể ngăn chặn lịch sử tiến bộ được. Sí đồ phân chia chư hầu liệt quốc của dòng họ sáu nước thất bại. Diệt Tần, nhưng điều căn bản vẫn là tiếp tục hoàn thành thống nhất. Bất cứ âm mưu xé nát từng mảnh nào đều không có khả năng tồn tại. Bởi vậy, việc cướp lại thiên hạ của Tần bị thu hút vào lực lượng lớn nhất: Sở Hạng Vương, sau trận thắng lợi diệt Tần ở Cư (Cự?) lộc.

Nhưng Sở Hạng Vương đã phạm vào lỗi  lầm đưa Sở diệt vong là đi ngược chiều với xu hướng thống nhất: chia phong 18 chư hầu. Trong đó Hán Bái Công được phong làm Hán vương. Việc chia phong dẫn đến bất bình nội bộ. Hán vương liền thừa cơ lung lạc chư hầu nổi lên, đánh bại Hạng Vương ở Cai Hạ.

Thất bại chia cắt này suýt nữa chính Lưu Bang cũng mắc phải. Tây Hán thì (chí?) kể rằng:

“Một hôm Lịch Tự Cơ vào yết kiến Hán vương nói: Ngày xưa vua Thang vua Vũ đánh Kiệt, Trụ đều phong cho con cháu những nước bị đánh làm vua. Đến lúc nhà Tần thâu phục chư hầu mới hủy diệt xã tắc của họ. Nay nếu Đại vương noi gương Thang, Vũ lập con cháu sáu nước bị mất lên làm vua, thì Đức và Lượng của Đại vương sẽ rải khắp thiên hạ. Tôi chắc Hạng Vương cũng sẽ khép vạt áo về chầu Đại vương.

Hán vương thích lắm, sai thợ khắc ấn sáu nước và sai Lịch Sinh đem ấn đi tìm con cái, dòng dõi chư hầu mà phong.

Nhưng Lịch Sinh chưa đi, Trương Lương đã đến chầu.

Bấy giờ Hán vương đang ăn, thấy Trương Lương vội đem việc đó kể lại.

Trương Lương thất kinh nói:

- Ai bầy cho Đại Vương cái mưu kỳ lạ đó? Vua Thang, vua Vũ phong cho con cháu Kiệt Trụ là vì Thang Vũ đủ sức làm chủ sự sống chết của họ. Còn Đại vương có thể làm chủ được Hạng Vũ chăng? Vả lại các du sĩ trong thiên hạ theo Đại vương cốt là mong hưởng mỗi người vài mảnh đất. Nếu Đại vương lập các con cháu dòng họ cũ thì ai còn theo giúp Đại vương nữa. Hễ dùng mưu đó cơ nghiệp Đại vương tất tiêu tan.

Hán Vương nghe nói, nhả miếng cơm trong miệng ra, mắng Lịch Sinh: “Nếu tiên sinh không kịp đến, ta đã nghe lời rồ dại kia mà làm hỏng việc lớn rồi”.

Liền truyền bỏ hủy ấn sáu nước đi.

Lịch Sinh bị mắng xấu hổ lui ra.

Cách vài ngày sau, Trương Lương tìm đến nói với Lịch Sinh:

- Câu chuyện bữa trước, tôi thực tình vì nước chứ không có ý riêng. Tôi không ngờ đó là ý của tiên sinh, về sau biết được lòng tôi áy náy. Vả lại bàn việc phải xét kỹ mọi điều mới khỏi lầm lẫn. Nhà Hán tuy đã lấy được nửa đất của Sở, nhưng Hạng Vương thế lực còn mạnh lắm. Nếu ta phong cho sáu nước chư hầu, chẳng khác nào ta tự chia rẽ lực lượng của ta để mà đem trao cho địch. Tiên sinh chỉ thấy cái chỗ Hán vương với Thang, Vũ giống nhau mà không thấy cái chỗ Hán với Thang Vũ khác nhau.

Lưu Bang biết được thế lớn.

Thành công của Hán vương được các sử gia quy vào bốn chữ: Năng tri đại thể (biết được thế lớn). Bên cạnh bốn chữ năng tri đại thể còn phải kể đến yếu tố chủ yếu là Hán vương đã gắn liền được sự nghiệp ông ta với lực lượng giai cấp sĩ. Giai cấp sĩ lúc này đã chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng của Khổng phu Tử trên sinh hoạt và tư tưởng Quản Trọng trên phương pháp.

Sự ủng hộ của lực lượng giai cấp sĩ đem lại cho Hán vương khả năng lãnh đạo đại thiên hạ mà Tần và Sở đều không có. Hán vương nói một câu thật đầy đủ ý nghĩa: Đấu trí mà không đấu lực. Câu này xác định nhận thức đúng của Hán vương về cơ bản thành công trong tình thế mới là chính trị chứ không phải là vũ lực.

Nhu yếu của giai cấp sĩ gắn liền với công cuộc giành thiên hạ của Hán vương là nhằm mục đích đem tư tưởng của Khổng tử, Quản Trọng từ địa vị chủ lưu tiến quân vào Chính thống.

Lưu Bang bỏ thế lớn.

Vận hành lịch sử không bao giờ tiến theo một vạch thẳng tắp mà tiến theo đường xoáy ốc từ thấp đến cao.

Hán vương thống nhất thiên hạ rồi liền áp dụng chế độ hành chính thống nhất, đặt định Quận, Huyện, bổ nhiệm quan lại. Sự nghiệp ổn định sinh ra tâm lý tự kiêu trong lòng Hán vương. Giai cấp sĩ phản đối, Hán vương từ bỏ giai cấp sĩ. Bị đuổi, giai cấp sĩ liền hòa hẳn với dân chúng đem Nho học đi sâu vào nhân tâm, đặt chuẩn tắc cho xã hội.

Còn triều đình Hán về sau càng ngày càng sa chân xuống vũng bùn xu nịnh, nguyên nhân của nạn hoạn quan, ngoại thích sau này.

Chia lìa giữa giai cấp sĩ với triều đình nhà Hán là chia lìa giữa lực lượng thống nhất bằng văn hóa tư tưởng Và cũng là chia lìa giữa dân chúng với tập đoàn vua quan lại trị. Sự chia lìa này làm cho toàn bộ công cuộc thống nhất bạc nhược. Bạc nhược vì quyền bính chính trị thiếu sự hiệp trợ của văn hóa tư tưởng, hiệp trợ của dân chúng tất nhiên không gây dựng nổi hiệu quả chắc chắn. Còn văn hóa tư tưởng thiếu uy thế của quyền bính chính trị tất nhiên không tiến hành mau chóng được.

Văn hóa xung kích và Tam quốc.

Văn hóa phát triển tất có khu trung tâm (Center area) và khu biên duyên (Margin area). Khi khu trung tâm phát đạt, nó sẽ xung kích vào khu biên duyên, để khiến cho biên duyên khai hóa. Ngược lại khu biên duyên cũng chỉ chờ khu trung tâm hủ bại, nội loạn là xung kích vào trung tâm để đặt ảnh hưởng và thế lực của mình.

Cuối đời Hán, thế xung kích qua lại giữa khu văn hóa trung tâm với khu văn hóa biên duyên trở nên gay go. Thế lực văn hóa ở khu trung tâm, để tồn tại cần phải phát triển thành thế lực chính trị chứ không thể vẫn giữ tình trạng phân ly như cũ được nữa. Nhưng khốn nỗi, sự thối nát của triều chính Hán mạt đã làm cho quyền bính chính trị tản mạn chứ không tập trung nữa.

Nho sĩ cũng phải phân tán để kiến thiết thế lực chính trị ở các khu vực quyền bính chính trị khác nhau.

Sự trạng này tạo nên thế Tam quốc mà chúng ta sẽ bàn luận vào chi tiết ở những bài sau.

Vũ Tài Lục

Nói Chuyện Tam Quốc

- 2 -

NHỮNG GIAI ĐOẠN CHỦ YẾU CỦA TAM QUỐC

Ông Cao Nho danh sĩ đời nhà Minh phê phán Tam quốc chí diễn nghĩa có một đoạn như sau:

- Góp nhặt tài liệu chính sử, sắp xếp lại các chuyện, chứng thực bằng lời văn, hiểu rõ tâm lý quần chúng, không thô lậu quê mùa, không hoàn toàn bịa đặt, dễ xem dễ hiểu, không phải lời văn quá vắn tắt, khó khăn của các nhà viết sử cổ xưa, không có giọng khôi hài nhạt nhẽo của người mù kể truyện rong, chép chuyện trăm năm, bao quát muôn việc.

Sở dĩ có hai chữ diễn nghĩa, hình như dụng ý của nhà văn là để chống đối với chính sử, La Quán Trung muốn quảng đại quần chúng cũng có quyền hiểu lịch sử.

Toàn bộ lịch sử trải qua thời kỳ tiền Tam quốc, thời kỳ chính thức xây dựng ba nước Ngô, Ngụy, Thục cho tới ngày Tư mã Viêm thống nhất toàn quốc dựng nên nhà Tấn dài ước chừng non thế kỷ.

Loạn Khăn vàng khởi sự vào năm đầu niên hiệu Trung bình đời Đông Hán Linh Đế, tức là năm 184 công lịch. Đến năm 280 công lịch nhà Tấn diệt Ngô thống nhất. Lỗ Tấn khi bàn về cuốn Tam quốc chí diễn nghĩa cũng nói: “Gồm đầu đuôi việc 97 năm”.

Khoảng thời gian ngót một trăm năm lịch sử khả dĩ chia làm ba giai đoạn chủ yếu.

Giai đoạn tiền Tam quốc từ 184 đến 220.

Loạn Khăn vàng khởi lên vào giữa lúc thời kỳ thối nát nhất của nền chính trị cuối nhà Hán. Thanh thế Khăn vàng ban đầu mạnh như mây đùn gió nổi, nhưng vì điều kiện lịch sử hạn chế một phần, lãnh đạo lầm lỡ một phần, nên loạn Khăn vàng sau nhiều thất bại liên tiếp bị dẹp tan. Để mua sự tiêu diệt của phong trào Khăn vàng, chính quyền Đông Hán đã phải trả một giá rất đắt là: tạo nên sự lung lay và suy yếu tột độ của chính mình để cuối cùng bước tới sụp đổ. Chính quyền nhà Hán lung lay suy yếu, chế độ trung ương tập quyền tan vỡ, khiến thế lực địa phương mạnh lên, mỗi kẻ xưng hùng xưng bá một nơi.

Năm 189, Đổng Trác tiến quân vào Lạc Dương. Năm 190 liên quân miền Đông do Viên Thiệu cầm đầu, do Tào Tháo tổ chức tiến đánh Đổng Trác. Trong quá trình thành lập liên quân, Viên Thiệu, Viên Thuật lợi dụng tăng cường thế lực, Thiệu thôn tính thêm ba châu Thanh, Tinh, U. Thời kỳ loạn kiêu binh Lý Thôi - Quách Dĩ, Tào Tháo nhờ Chu Tuấn tiến cử, được cử phá giặc Sơn Đông thống nhất một địa phương rộng lớn, thành lập thế lực cho mình.

Từ 197 đến 207 là thời gian chiến tranh quyết liệt giữa hai lực lượng Viên Thiệu và Tào Tháo. Sau khi dẹp thế lực Viên Thiệu, Tào Tháo đề quân Nam tiến, định vượt qua sông Trường giang đánh đổ Tôn Quyền, thực hiện chí lớn thống nhất Nam Bắc. Nhưng mưu đồ này thất bại vì trận Xích Bích, vì sự kết hợp lực lượng Tôn Quyền với Lưu Bị.

Giai đoạn xây dựng chính thức thế chân vạc.

Nhờ chiến thắng Xích Bích, năm 209 Lưu Bị lĩnh chức Mục Kinh Châu dần dần chiếm Thành Đô, năm 219 tự xưng Vua Hán Trung.

Năm 220 Tào Tháo chết, con là Tào Phi phế bỏ vua Hán lập nước Ngụy. Năm 222 Tôn Quyền đổi niên hiệu là Hoàng Vũ, năm 229 xưng Đế ở Giang Đông đặt tên nước là Ngô.

Giai đoạn ba nước tiêu diệt lẫn nhau và nhà Tấn thống nhất.

Quan Công nhân cơ Bắc tiến đánh chiếm Phàn Thành, Kinh Tương của Ngụy. Ngụy sẽ khốn đốn to nếu không nhờ Tôn Quyền đánh thọc vào hậu phương Thục cướp Giang Lăng giết chết Quan Vũ. Hành động này gây thành mâu thuẫn một mất một còn giữa Ngô và Thục.

Năm 222 Lưu Bị cử đại binh đi đánh Ngô trả thù cho Quan Vũ. Vì sai lầm trên quân sự, Lưu Bị thảm bại trong trận Hào Đình khiến cho quá nửa lực lượng thiệt hại. Lưu Bị chạy về Vĩnh Ân ốm chết, Lưu Thiện nối ngôi, Gia Cát Lượng phụ chính, khôi phục chính sách liên hiệp Ngô, Thục đánh Ngụy. Năm 227 Gia cát Lượng mở chiến dịch Bắc phạt đầu tiên. Năm 234 là chiến dịch Bắc phạt cuối cùng của đời Gia Cát Lượng. Ông chết ngay nơi doanh trại Ngũ Trượng Nguyên.

Gia cát Lượng chết, quyền bính vào tay Khương Duy, tiếp tục đánh Ngụy từ năm 249 đến 262, ra quân đến tám lần đều bị thua. Mùa xuân 263, Tư Mã Chiêu phái Đặng Ngải, Chung Hội, Gia Cát Tự chia ba đường tấn công Thục. Lưu Thiện đầu hàng. Thục Hán diệt vong từ đó.

Năm 265, Tư Mã Chiêu chết, con là Tư mã Viêm lật Tào Hoán chiếm ngôi, xưng là nhà Tấn, Ngụy diệt vong từ đó.

Năm 279, Tư mã Viêm đem 20 vạn quân chia làm 6 đường tiến đánh Ngô, vua Ngô là Tào (Tôn?) Hạo đầu hàng. Ngô diệt vong. Thiên hạ chia ba nay quy vào một mối.

Địa lý đời Hậu Hán

Nhiều người đọc chuyện Tam Quốc thường bỏ sót, không chịu tìm hiểu vấn đề địa lý. Sót nó khiến cho ta thưởng thức kém đầy đủ và sâu sắc. Như thế, tìm hiểu địa lý đời Hậu Hán trở nên một nhu yếu của toàn thể độc giả của tác phẩm quý báu ấy. Nó mang đến cho chúng ta nhiều vũ khí tốt cho việc nhận xét, phân tích, tóm tắt chia đoạn

Hành chính Đông Hán khu hoạch ra làm 13 châu, 12 châu mỗi châu một Thích sử coi sóc, còn một châu đặt dưới chế độ Tư lệ hiệu úy. Đối chiếu với bản đồ ngày nay như sau:

* U Châu: bao quát bắc bộ Nhiệt hà và tỉnh Hà Bắc. Hai tỉnh Liêu, Ninh, bắc bộ bán đảo Triều Tiên (Triều Tiên vào đời Hán cũng là một Quận, Huyện của Trung Quốc)

* Ký Châu: thuộc nam bộ tỉnh Hà Bắc

* Tinh châu: gồm phần lớn tỉnh Sơn Tây, bắc bộ tỉnh Thiểm Tây và một bộ phận hai tỉnh Sát cáp Nhĩ, Tuy Viễn.

* Lương châu: bao quát hai tỉnh Ninh Hạ và Thiểm Tây

* Thanh Châu: ở bộ phận đông bắc tỉnh Sơn Đông

* Duyện Châu: gồm tây bộ tỉnh Sơn Đông và đông bắc bộ tỉnh Hà Nam

* Dự Châu: gồm đông nam bộ tỉnh Hà Nam và phía bắc An Huy

* Từ Châu: gồm đông nam bộ tỉnh Sơn Đông và phía Bắc Giang Tô

* Dương Châu: gồm Giang Nam ở An Huy, Giang Tô và ba tỉnh Giang Tây, Triết Giang, Phúc Kiến

* Kinh Châu: gồm tây nam bộ tỉnh Hà Nam và hai tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc

* Ích Châu: gồm nam bộ tỉnh Thiểm Tây và hai tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam

* Giao châu: gồm hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và miền Bắc nước Việt Nam bây giờ

* Tư lệ hiệu úy: gồm tây bắc bộ tỉnh Hà Nam. Tây nam bộ tỉnh Sơn Tây, trung bộ tỉnh Thiểm Tây

Cấp bậc hành chính thấp nhất dưới Hán triều là Huyện. Thấp hơn Huyện thì không còn quan trị nữa mà công việc đều đặt vào quyền điều khiển của những cơ quan tự trị. Trên Huyện đến Quận, trường hợp Quận quá lớn thì gọi là Châu. Mỗi Châu đặt một vị Thứ Sử để làm giám quan xem xét các việc của Thái Thú đứng đầu Quận

(Nên biết rằng, trước nhà Hán, đơn vị quận là một nước)

Ban đầu Thứ Sử là chức giám quan và Thái Thú là chức hành chánh quan còn phân biệt rõ ràng. Dần dần nhà Hán mỗi ngày một suy sụp, Thứ Sử và Thái thú biến thành một vị. Đến thời kỳ Đông Hán, nhân vì loạn lạc, địa vị Thứ Sử và Thái Thú được quyền tuyệt đối ở địa phương và đổi thành Châu Mục. Do đó mới phát sinh ra hiện tượng tranh quyền giữa chính phủ trung ương và địa phương. Địa phương phản kháng trung ương rồi tự ý hùng cứ một cõi. Sở dĩ chính quyền trung ương yếu thế là vì ngay Đông Hán, đời vua Hoàn Đế, Linh Đế, tình trạng thối nát đã đến cực điểm. Nhà vua công khai đem quan tước ra mua bán. Tước Tam Công giá 10 triệu tiền. Theo sử chép, hồi ấy có một tên hoạn quan là Hầu Lãm cướp hàng vạn khoảng ruộng, tên ngoại tộc Lương Ký gia sản ước đến 3 tỷ tiền. Họ hàng thân thích của toàn bộ hệ thống lại trị rải rác khắp các Châu, Quận, vòi vĩnh và vơ vét, hút máu dân chúng.

Vũ Tài Lục

Nói Chuyện Tam Quốc

- 3 -

MẦM LOẠN

        Đọc chuyện Tam Quốc, ai ai cũng hiểu mầm loạn đời Hậu Hán nẩy ra từ lúc vua Linh Đế sủng bọn Thập thường Thị. Thập thường Thị là nguyên nhân dẫn đến giặc Hoàng Cân (khăn vàng), nhân giặc Khăn Vàng mà có sự khởi binh của Lưu Bị và Tôn Kiên. Lại vì vua Linh Đế băng hà, Thiếu Đế tức vị, Hà Tiến lập mưu tiêu trừ bọn hoạn quan, mở đường cho Đổng Trác đem binh vào kinh. Đổng Trác đem binh vào kinh là đầu mối của một sự phế lập. Việc Đổng Trác bỏ một vua, tôn một vua tạo ra chuyện Viên Thiệu và Tào Tháo dấy binh. Thiên hạ điêu linh, phân sẻ từ đây.

Nói về hiện tượng hoạn quan và ngoại thích, ta không thể đổ lỗi hoàn toàn cho Linh Đế cũng như cho riêng một ông vua nào khác. Hiện tượng ấy nào phải đến Linh Đế mới có. Đời vua Tuyên Đức trước đã xuất hiện Hoắc Quang, Thạch Hiển. Vua Quang Vũ cũng rất trọng dụng ngoại thích; vậy có thể nói được rằng: hoạn quan và ngoại thích là hậu họa tất nhiên của chính trị chuyên chính lối vua quan phong kiến.

Hoạn quan và ngoại thích là cái ung độc ẩn ngay chỗ xương cụt của chính trị phong kiến, lúc nào nó cũng rình rập cơ hội để thối ra, độc khí một khi đã bung vỡ thì chỉ có mỗi ngày mỗi thêm phát tác hủy hoại, chứ khó lòng lành lặn được nữa.

Ngược lên ngày Lưu Bang nhất thống thiên hạ, ta đã thấy cái ung độc hoạn quan ngoại thích mọc ra rồi. Lưu Bang sở dĩ đánh bại được Sở Vương mà đoạt chính quyền là vì biết dựa vào lực lượng phần tử trí thức (giai cấp sĩ).

Nhưng tập đoàn của Lưu Bang lại không tôn trọng phần tử trí thức cho lắm. Cái đó cũng chẳng lấy gì làm lạ, bởi tại họ hết thảy đều là những con người phong bái giang hồ. Theo phò nghĩa lớn, họ hoàn toàn trông vào sự giải quyết trước mắt, đồng thời hòng kiến lập sự nghiệp riêng, cho bõ những ngày gian khổ. Họ không cần nhìn rộng trông xa, chẳng muốn vươn duỗi vào tương lai. Nói chung, tâm lý toàn thể tập đoàn Lưu Bang cần hưởng ngay, ăn ngay. Tâm lý đó không kết hợp với kỳ vọng của phần tử trí thức. Để kéo vây cánh, Lưu Bang một mặt xây dựng cốt cán bằng những người giang hồ phong bái, mặt khác tìm mọi cách đẩy phần tử trí thức ra ngoại vi, kìm hãm không cho phần tử trí thức lớn lên trong guồng máy thống trị, không cho phần tử trí thức có quyền bính. Lưu Bang thường cáu kỉnh mệnh danh phần tử trí thức là bọn hề nho. Ngụy Báo ghi chép: “Hán Vương nhục mạ quần thần như đầy tớ, chẳng có lễ trên dưới chi cả. Cho nên tôi không muốn gặp nữa”. Tiêu chuẩn kéo vây cánh không đặt nặng vào sự củng cố và phát triển chính quyền qua ý nghĩa “Thiên hạ vi công” mà chuyên đặt nặng vấn đề củng cố cho sự an hưởng phú quý tộc họ cá nhân. Với tiêu chuẩn ấy thì phỉnh nịnh là tư cách căn bản để được chọn lựa. Con đường nguy khốn hoạn quan, ngoại thích đã vạch sẵn, không thể bước ra ngoài được nữa.

Hoạn quan

Độc giả Tam Quốc, phần lớn đặt rất hẹp hai chữ hoạn quan. Tất cả cho rằng bọn hoạn quan chỉ là những người bị “yêm” nghĩa là đã chịu giải phẫu để tự tước bỏ bộ phận sinh dục. Tôi e không đúng hẳn, bởi vì trong Lễ ký, thiên Khúc Lễ có câu: “Hoạn học sự sư, phi lễ bất thân” (Học làm quan phải thờ thầy, phàm cái gì phi lễ thì không gần) ý tứ của chữ hoạn đây không chỉ vào người bị “cắt bỏ bộ phận sinh dục”. Vẫn hay rằng triều Hán, vua Quang Vũ trung hưng, theo sách “Hoạn giả liệt truyện” thì nói “Trung hưng chi sơ hoạn giả tất dụng yêm nhân” (đầu trung hưng, chức hoạn đều phải dùng người bị yêm). Nhưng sách liệt truyện không đưa được chứng cứ nào rõ rệt cả.

Như vậy ta có thể đặt định phạm vi hoạn quan như sau: Hoạn quan là sản phẩm của chính trị chuyên chính xây dựng trên cơ sở tộc họ, cá nhân. Là một tập đoàn chính trị có một thế lực rất lớn và một đường lối bại hoại. Phương thức đấu tranh duy nhất của tập đoàn hoạn quan là sự phỉnh nịnh, hiếu mị, xu phụng và tiếm quyền. Thành phần của tập đoàn, không phải chỉ có bọn yêm hoạn Trương Nhượng, Kiển Thạc mà còn có thể kể cả bọn trí thức gia nhập hệ thống lại trị, đã thoát tiết với quần chúng mà toa rập với Hoàng Triều để chạy theo lợi lộc.

Tại sao Hoàng Đế với Hoạn quan luôn luôn là đôi bạn tương đắc? Có ba lẽ. Một là, khi quyền lực chính trị tập trung vào tay cá nhân, thì chẳng chóng thì chầy quyền lực chính trị sẽ biến thành dụng cụ xây dựng cơ nghiệp riêng, củng cố sự tọa hưởng an lạc của ông vua. Trong hoan lạc, Hoàng đế rất nhu yếu người đồng tính, du nịnh. Bọn hoạn quan có nhiều khả năng về mặt này nhất. Hai là, Hoàng Đế thường hay nghi kỵ, không ngớt lo lắng những vụ phản bội. Sợ các triều thần chân chính cản ngăn vui thú của mình, hoặc âm mưu kết đảng, còn bọn hoạn quan chỉ cần ăn sung mặc sướng no đủ, lại ít tham vọng chính trị, đáng tin cậy hơn cả. Nhưng lịch sử đã có những dẫn chứng rõ rệt ngược lại với quan niệm của Hoàng Đế về hoạn quan như bọn Dịch Nha, Thụ Điêu đời vua Tề Hoàn Công và bọn Thập thường Thị đời vua Linh Đế. Mong dùng hoạn quan để khỏi bị phản bội thì cũng chẳng khác chi chú khờ sợ chuột ăn mất mỡ bèn đem nhốt mèo vào canh. Ba là: do cái tâm chất kiêu sa của con người nắm quyền quá lớn nên thích giao tiếp với bọn nô bộc hơn là với những cộng sự thẳng thắn.

Ngoại thích

Mầm loạn ngoại thích so với hoạn quan cũng chẳng kém phần nguy hiểm. Hơn nữa ngoại thích với hoạn quan là hai vật tương sinh, tương thành. Ngoại thích là gì? Là thân thích của Hoàng Đế. Bọn học phiệt nịnh hót thường dùng danh từ Quốc thích để chỉ các người thân thích của vua, lâu dần danh từ Quốc thích trở nên tục thoại. Thực ra Hoàng Đế là Hoàng Đế, Quốc Gia là Quốc Gia sao lại đem gộp làm một được.

Thân thích phân ra làm hai loại: nếu ăn theo dòng phụ hệ thì gọi là Tôn Thất. Nếu ăn theo dòng mẫu hệ thì gọi là ngoại thích. Tuy cùng thân thích, nhưng giữa Tôn thất và Ngoại thích bao giờ cũng âm ỷ một ngọn lửa xung đột. Ngoại thích không ngừng mưu toan lật đổ thế lực Tôn thất mà cướp thiên hạ cho tộc họ mình.

Tam Quốc phân tranh nhóm lên bằng nạn Ngoại thích trầm trọng. Vua Linh Đế có hai con là Biện tức Thiếu Đế và Hiệp. Biện do chính cung Hoàng hậu Hà thị sinh ra còn Hiệp là con của một mỹ nhân hậu cung. Linh Đế yêu Hiệp hơn Biện, muốn cho Hiệp kế vị, nhưng lại sợ làm trái tập quán, nên mới đem ý định nhắn nhủ bọn Kiển Thạc. Linh Đế chết, một bên Kiển Thạc ủng hộ Hiệp, một bên anh Hà Thái Hậu là Hà Tiến ủng hộ Biện. Tranh chấp giữa bọn Trương Nhượng, Kiển Thạc với Hà Tiến lôi kéo luôn cả Đổng Thái Hậu vào vòng chiến. Đổng thái Hậu nghe lời Nhượng, Thạc giáng chỉ phong Hiệp làm Trần Lưu Vương và định thiết lập thêm một quyền thế cài bên cạnh Thiếu Đế.

Trong hồi thứ hai, tình hình tranh chấp giữa Đổng thái Hậu và Hà thái Hậu được La quán Trung tả lại như sau:

‘Yến ẩm nửa chừng, Hà thái Hậu đứng dậy rót một chén rượu dâng Đổng Thái Hậu, vái hai vái rồi nói rằng:

Chúng ta là đàn bà, theo lẽ không nên dự vào triều chính. Xưa bà Lã Hậu chỉ vì tạm giữ trọng quyền mà đến nỗi họ hàng ngàn người đều bị tru lục, tấm gương còn đó, vậy từ nay chúng ta hãy cùng rút lui vào thâm cung để dành việc lớn triều đình cho các vị nguyên lão đại thần lo toan bàn bạc. Được thế thì Quốc gia đại hạnh. Xin nghe lời thành thực này cho.

Đổng thái Hậu nổi giận mà rằng:

Ngươi đang tâm giết hại Vương Mỹ Nhân, tâm địa ganh ghét rành rành ra đó. Nay ngươi cậy có con vua, anh ngươi có thế lực mà đâm loạn ngôn, hỗn láo với ta à? Liệu hồn ta bảo cho mà biết, ta muốn quan Phiêu Kỵ Tướng quân lấy đầu anh ngươi lúc nào cũng dễ như trở bàn tay.

Hà Thái Hậu nổi giận mà rằng:

Ta lấy lời phải chăng khuyên nhủ, đã không nghe lại trở mặt giận là lý thế nào?

Đổng Hậu mắng:

Mày là đồ con nhà hàng thịt, thì còn kiến thức gì.

Hà Thái Hậu đem chuyện nói với Hà Tiến, Tiến liền đem binh lực đuổi Đổng Thái Hậu ra khỏi cung cấm, và bao vây nhà Phiêu Kỵ Tướng Quân là Đổng Trọng. Đổng Trọng ra sau nhà tự tử. Người nhà khóc ầm lên. Trương Nhượng thấy Đổng Thái Hậu bị phế, tức tốc đem châu báu, vàng bạc liên kết với em trai Hà Tiến là Hà Miêu và mẹ Tiến, xin che chở. Bởi vậy bọn Thập thường Thị chẳng những vô sự mà còn được trọng dụng hơn.

Đại khái sự diễn biến của loạn ngoại thích đều tầm thường hài hước như thế cả. Nhưng không phải là nó không có tác dụng chính trị tiềm ẩn bên trong đâu. Tranh chấp ngoại thích chính là chiếc ngòi để làm nổ cả kho thuốc súng. Tác dụng của nó là tạo nên một sự biến chuyển cơ. Nút chuyển cơ rất cần thiết cho phát triển xã hội, phát triển chính trị. Nút chuyển cơ ấy ví như tiếng sấm báo hiệu cơn mưa trong câu ca dao Việt:

- Lúa chiêm phơ phất đầu bờ

- Hễ nghe sấm động, phất cờ lúa lên.

Xung đột giữa phần tử trí thức và hoạn quan

Phần tử trí thức phẫn nộ

Thời đại Chiến Quốc, phần tử trí thức tập trung ở Tần khiến Tần kiêm tính thiên hạ. Tần Thủy Hoàng xưng đế được tám năm, nhân áp dụng chính sách của Lý Tư, pháp lệnh quá khắt khe, đối đãi tàn ngược với dân chúng. Thậm chí nhà Tần phản bội trí thức, đốt sách chôn nho. Tần Đế chạy theo tư tưởng dị đoan cầu tiên, xin thuốc tràng sinh bất lão. Phần tử trí thức liền tan biến vào dân chúng, lãnh đạo vận động phản Tần. Đáng kể như Tiêu Hà, Trương Lương, Thúc Tôn Thông, Trương Xương, Trần Bình…. Lúc đầu họ theo phò cả Hạng Võ lẫn Lưu Bang, sau dần dần quy tụ hết lực lượng về phía Lưu Bang. Phần tử trí thức trong tay tuy không có lấy nổi một tấc sắt, sức lực cũng chẳng được bao nhiêu, nhưng sức mạnh phi thường của tri thức là mưu trí, là sự cổ súy thiên thiên vạn vạn nhân tâm. Cho nên phàm khi phần tử trí thức đã hết tin để phản đối một chính phủ nào đó thì chính phủ đó ít có khả năng tồn tại.

James BURNHAM viết: “Khoa học chính trị và khoa học lịch sử trước hết phải nghiên cứu kết cấu, cơ sở cùng liên hệ với quần chúng của phần tử trí thức”[1] Câu đó là một quy luật bất di bất dịch đối với chính trị sử vậy.

Lưu Bang dựa vào phần tử trí thức mà đắc thế. Chỉ ít lâu sau, Lưu Bang thi hành chính sách lại trị, quay lại thờ ơ, từ bỏ lực lượng trí thức. Chính sách lại trị của Lưu Bang ngày càng đi vào biện pháp phong kiến cũ, nghĩa là mầm phân liệt lại đe dọa nền thống nhất vừa mới gây dựng. Phần tử trí thức một lần nữa tản mạn vào trong dân chúng, dùng phương tiện văn hóa tư tưởng để gìn giữ thống nhất, đồng thời tạo thành mâu thuẫn giữa phần tử trí thức với hệ thống lại trị.

Đến đời vua Hoàn Đế, Linh Đế thì chính trị Hán triều ác hóa đến cực điểm bằng hiện tượng hoạn quan. Thiên hạ bấy giờ có thể nói rằng: Thiên hạ của bọn hoạn quan.

Xã hội lúc ấy một mặt thì chính trị chuyên chế trụy lạc, một mặt thì văn hóa phát triển. Một mặt thì hoạn quan tập quyền, một mặt thì khí thế của phần tử trí thức mỗi ngày một lớn. Đương nhiên cuộc xung đột không thể tránh được.

Ẩn dật và ra mặt chống đối

Thái độ của phần tử trí thức sau khi Hán Vương thi hành chính sách lại trị và biện pháp phong kiến khả dĩ chia làm hai giai đoạn: a) rút lui về thôn dã ẩn dật, b) ra mặt lãnh đạo vận động lật Hán Triều. Ông Khổng Tử nói: “ Dụng chi tắc hành, xã chi tắc tàng” (dùng thì hành động, bỏ thì ẩn dật). Hai chữ hành và tàng là hai thái độ nói trên. Nhưng sự ẩn dật của Nho sĩ thật nguy hiểm vì trong đó chứa chất chẳng những tâm lý bất hợp tác mà còn tiềm tàng âm mưu vận động xoay chuyển quật khởi để đánh đổ chính quyền thối nát nữa.

Cuộc xung đột giữa phần tử trí thức và hoạn quan bùng nổ khởi từ cung đình rồi lan rộng mãi ra như vòng sóng nước.

Hồi thứ nhất, Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể rằng: “Khi vua Hoàn Đế băng hà, Linh Đế lên ngôi, có quan Đại tướng quân Đậu Vũ và quan Thái Phó Trần Phồn cùng giúp trị việc nước. Thời bấy giờ có bè lũ hoạn quan Tào Tiết lộng quyền làm bậy. Đậu Vũ, Trần Phồn mới lập mưu tru diệt chúng để trừ vạ cho nước, nhưng vì mưu không kín đáo, hai vị này cũng bị giết hại.

Có quan Nghị Lang là Thái Ung dâng sớ tâu rằng: “Rắn sa, gà mái hóa trống là điềm đàn bà và hoạn quan làm loạn nước”. Lời dâng thống thiết, Vua xem qua thở dài, bùi ngùi một lúc rồi quay vào thay áo. Bấy giờ Tào Tiết đứng sau lưng nghe trộm bản tâu, giận lắm, liền vào bầy mưu với phe cánh của hắn. Chúng bèn bầy mưu kiếm việc gieo tội cho Thái Ung và cách chức đuổi ông về.

Rồi đến vụ Thập Thường Thị lộng hành. Hoạn quan Trương Nhượng được Linh Đế gọi bằng Á Phụ, Thập Thường Thị uy hiếp phần tử trí thức trong triều như Lư Thực, Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn….

Loạn Khăn Vàng, tranh chấp ngoại thích và hoạn quan, quân phiệt Đổng Trác vào Kinh đô gây chuyện phế lập đều là những đòn chí mạng đánh quỵ Hán Triều. Toàn dân mong mỏi biến đổi, phần tử trí thức khắp bốn phương trời hết thẩy cảm thấy có trách nhiệm phải lập lại một nền trật tự mới. Họ liền tự động đi tìm hoặc gây lực lượng ngay ở địa phương mỗi người cư ngụ.

Do đó, lần lượt người ta thấy những: Giả Hủ, Thẩm Phối, Tuân Úc, Trình Dục, Tuân Dy (Du?), My Trúc, Trịnh Huyền, Trần Cung, Trần Đăng, Trần Khuê, Ngu Phiên, Quách Gia, Cố Ung, Trương Chiêu, Chu Du, Dương Tu, Trần Lâm, Vương Xán, Tư mã Huy, Từ Thứ, Thôi Châu Bình, Bàng Thống, Gia Cát Lượng….. xuất hiện ở nhiều nơi và phò giúp những lực lượng khác nhau. Tuy phần tử trí thức phân tán vào các quyền bính chống đối, nhưng chống đối bất quá chỉ để mong chính quyền cả thiên hạ thu vào tay mình mà thôi. Tất cả đều có một khuynh hướng chung là quy tâm vào thống nhất.

Loạn Khăn Vàng

Nói đến loạn Hoàng Cân (khăn vàng), chúng ta cần phải nêu ra mấy đặc điểm của vận động này:

A) Loạn Khăn Vàng là một cuộc vận động chống bọn thống trị nhà Hán của nông dân tự phát khởi vì nông dân quá đói khổ. Bằng chứng là loạn Khăn Vàng đều nhóm lên từ những khu vực đất đai nghèo, hoang, mất mùa.

B) Do tranh chấp tư tưởng Hoàng Lão với tư tưởng chủ lưu Khổng Tử, Quản Trọng. Thời Xuân Thu, Chiến Quốc các nước phân tranh, tư tưởng tự do phồn thịnh trăm nhà lên tiếng. Sau Tần thì thiên hạ thống nhất, các học thuyết cũng chịu áp lực chính trị quy vào thống nhất. Tần triều quy vào pháp lệnh, đầu đời Hán quy vào thuyết Hoàng Lão, đến Hán Vũ Đế thì biểu chương Lục Kinh, tôn phụng Khổng Tử mà truất bãi các thuyết khác. Một ngành của học thuyết Hoàng Lão biến thành tư tưởng thần quyền vào phong tục tế tự ở nông thôn, dựa vào đầu óc chất phác của nông dân mà chống lại trí thức Nho của Khổng môn.

C) Do tranh chấp quyền bính với trung ương vì những nhân vật trọng yếu của vận động Hoàng Cân đều là quan quân thủ hạ của Ích Châu mục Lưu Yên. (Ích Châu gồm các tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên và miền nam tỉnh Thiểm Tây bây giờ)

D) Chịu ảnh hưởng chính sách ruộng đất của Vương Mãng và tổ chức Xích Mi

Loạn Hoàng Cân mở đầu bằng việc: tại núi Long Hổ tỉnh Giang Tây và tại Cự Lộc có mấy người họ Trương như Trương Lỗ, Trương Giốc tự xưng là Đại Hiền Lương sư, theo đạo Hoàng Lão, có tài phù thủy đọc chú chữa bệnh vì đã được Nam Hoa Lão Tiên trao cho bộ Thiên thư Thái Bình Yếu thuật. Nông dân vì quá đói khổ nên mê tín Thần Quyền. Bọn Trương Lỗ, Trương Giốc tổ chức hội kín lập đạo thờ Thái Thượng Lão Quân. Nông dân nô nức hùa theo Trương Lỗ, Trương Giốc. Nhờ vậy phong trào Khăn Vàng càng lên vọt. Trương Lỗ, Trương Giốc dựa vào uy thế thần quyền mà tung ra câu sấm “Sương thiên dĩ tử, Hoàng thiên đương lập” (Trời xanh đã chết, trời vàng đang lên) làm khẩu hiệu đấu tranh.

Muốn tìm sự thành công và thất bại của cuộc vận động Hoàng Cân, trước hết phải xét lại xuất xứ của nó.

Căn cứ vào Tam Quốc Chí thì gốc loạn Hoàng Cân khởi tự đạo sĩ Trương Lăng. Trương Lăng người tỉnh Tứ Xuyên, tu đạo ở núi Thước Minh và cũng truyền đạo ngay tại vùng này. Những người muốn đến học đạo của Trương Lăng đều phải làm lễ bằng năm hộc gạo. Trương Lăng chết, truyền nghiệp cho con là Trương Hành, Trương Hành chết truyền cho con là Trương Lỗ.

Căn cứ vào Hậu Hán Thư Linh Đế Ký thì vận động Hoàng Cân khởi tự tên Phù Thủy Trương Tu, dùng tà đạo phiến hoặc dân chúng nổi lên cướp Ba quận. Trương Tu thường xưng là: Ngũ Đấu Mễ Sư (ông thầy năm đấu gạo).

Nhưng quan bộ hạ căn cứ theo các thuyết của nhiều sách khác đem so sánh tổng hợp lại thì đều có nói rằng: Trương Lỗ và Trương Tu là quân dưới trướng Ích Châu mục Lưu Yên. Lưu Yên sai Lỗ và Tu vào cướp Hán Trung. Vào Hán Trung rồi Trương Lỗ liền giết Trương Tu rồi cải biến sát nhập lực lượng Trương Tu thành lực lượng của mình. Khi có thanh thế khá vững mạnh, Trương Lỗ ly khai với Lưu Yên, đem quân đánh cả vào vùng Lưu Yên cai trị là U Châu. Do đó mới có chuyện Lưu Yên treo bảng chiêu mộ nghĩa binh tạo ra cơ hội cho gặp gỡ và kết nghĩa vườn đào.

Trong ba người: Trương Giốc, Trương Lỗ và Trương Tu thì Trương Giốc là kẻ nhiều mưu đồ hơn hết. Trương Giốc hy vọng phiến động nhân dân nổi loạn để mà chiếm thiên hạ. Trương Lỗ và Trương Tu trên chính trị hoàn toàn chỉ là một lực lượng phụ trợ chứ không phải là lực lượng chỉ đạo. Căn cứ vào sách Hậu Hán, chuyện Hoàng Phủ Tung thì lực lượng Trương Giốc lan ra khắp các châu bao quát các tỉnh Giang Tô, An Huy, Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc, Sơn Đông, Hà Nam, Hà Bắc bây giờ. Đảng Trương Giốc lên tới mấy chục vạn, chia ra làm 36 phương, mỗi phương ước hơn vạn người.

Về câu sấm “trời xanh đã chết, trời vàng đang lên” người đọc Tam Quốc chí diễn nghĩa thường không để ý vì nghĩ những lời ấy chẳng qua là thuyết của bọn thảo khấu, chẳng nghĩa lý gì cả. Thật ra không phải đơn giản như thế.

Từ Hoàng Cân, hoạn quan đến quân phiệt

Một khẩu hiệu tung ra, muốn làm giao động nhân tâm thì trước hết khẩu hiệu đó có thể giải thích cho mọi người hiểu được. Người xưa còn ưa những điều huyền bí cho nên khẩu hiệu cần lồng vào cái cốt huyền bí, nhưng không phải vì vậy mà người ta bảo rằng đấy là mê hoặc nhân tâm, đấy là một lời nói vu vơ.

Mấy chữ “Sương thiên dĩ tử, hoàng thiên đương lập” chẳng những không mê hoặc mà còn có hàm súc ý nghĩa về sự biến thiên của xã hội trong quan niệm của nông dân lúc bấy giờ nữa. Dưới đây là chứng cớ:

Theo Hán thư thì lúc bắt đầu khởi nghiệp, Hán cao Tổ đang đêm đi đường hốt gặp một con rắn trắng rất lớn nằm chắn ngang đường, bèn rút gươm chém đứt làm hai đoạn. Khi Hán cao Tổ đi rồi, có người trông thấy một bà lão xõa tóc ngồi khóc ngay chỗ con rắn trắng chết. Người kia bèn lại hỏi nguyên do, bà lão đáp: con tôi là con vua Bạch Đế hiện đã bị con vua Xích Đế giết rồi. Nói xong bà lão biến mất.

Những màu sắc trắng, đỏ, vàng, đen, xanh rất quan hệ đối với tâm lý nông dân Trung Quốc. Tại sao? Bởi vì nông dân làm ruộng chỉ trông cậy vào khí hậu bốn mùa biến hóa làm cho cây cỏ sinh ra, lớn lên và chín. Trước biến hóa của tự nhiên, người nông dân tin rằng mỗi mùa đều có một vị thần linh chủ trì. Và mỗi vị thần linh đều ứng theo mỗi màu sắc trong tự nhiên. Do đó người nông dân mới thờ bốn vị thiên đế: Ông Trời Xanh chủ về mùa xuân sinh ra vạn vật cây cỏ. Ông trời Đỏ chủ về mùa hạ làm cho vạn vật lớn lên. Ông trời Trắng chỉ về mùa thu làm cho hoa lợi chín. Ông trời Đen chỉ về mùa đông, nhắc mọi người gặt hái và dự trữ thóc gạo.

Nhưng Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàn hết thẩy đều phải nương tựa vào ruộng đất, bởi vậy mới có vua vàng (đất sắc vàng) để làm chủ ruộng đất tùy thời biến hóa.

Từ đấy, lại diễn thành tư tưởng ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Lại từ ngũ hành sinh khắc chế hóa mà giải thích biến thiên xã hội, giải thích phát triển xã hội, giải thích các hiện tượng bình, loạn của xã hội.

“Trời xanh đã chết, trời vàng đang lên” chính là trỏ vào chế độ cường thần đại tộc đã chết và thời đại đại chúng bình dân tham dự chính quyền bắt đầu vậy. Vì màu xanh là mầu dẫn đầu các mầu đỏ, trắng, đen thuộc các hiện tượng trên trời chỉ vào các cường thần đại tộc. Còn màu vàng thuần thuộc về ruộng đất chỉ vào nông dân. Trương Lỗ, Trương Giốc lấy trời vàng để làm tượng trưng cho sức mạnh của nông dân.

Tuy vậy trời vàng bất quá cũng chỉ là tín ngưỡng do bọn Trương Lỗ, Trương Giốc đưa ra để quy tụ những vụ phản kháng lẻ tẻ của nông dân thành một vận động lớn lao mà thôi. Nguyên nhân chính khiến cho nông dân nổi loạn chính là do khuyết điểm của chế độ Hán Triều trên mặt kinh tế ruộng đất. Nhà Tần biến cải phép tỉnh điền thành canh điền và lực điền, vì không chịu nổi sưu cao thuế nặng nên nông dân ùa theo Hạng Võ, Lưu Bang. Lưu Bang thắng lợi liền áp dụng chánh sách giảm nhẹ tô thuế. Nhưng chánh sách này càng làm càng mất công hiệu vì bọn nhà giàu cứ xâm canh chiếm cứ thêm nhiều ruộng đất, trong khi người nghèo lại không có một tấc đất cắm dùi. Oán hận chồng chất lên. Vương Mãng lợi dụng tình thế để đánh đổ nhà Hán thi hành chánh sách ruộng đất mới, đem ruộng đất thâu quy quốc hữu. Chánh sách của Vương Mãng quá đột ngột và mới mẻ, lại không có giáo dục từ trước nên việc thi hành hỗn loạn, khiến đa số nổi lên phản đối. Hơn nữa Vương Mãng không nương cậy thực sự vào nông dân, mà chỉ nhờ thế lực ngoại thích mà tạo cuộc chính biến, bởi vậy mà sự nghiệp chẳng lâu dài được bao nhiêu. Tuy nhiên tư tưởng Vương Mãng không phải không có ảnh hưởng sâu xa vào đám nông dân nghèo khổ. Vận động Hoàng Cân cũng chịu ảnh hưởng của Vương Mãng.

Tính chất huyền bí tu tiên, luyện phép phát triển trong vận động Khăn Vàng chính là sự phản công của đạo Hoàng Lão định dựa vào tế tự phổ thông, dựa vào thần quyền để đả kích tư tưởng Nho đạo. Cuộc tranh chấp ấy chẳng phải chỉ thấy ở loạn Khăn Vàng mà thôi. Trong Tam Quốc chí diễn nghĩa còn thấy hiện tượng tranh chấp đó qua những việc:Tôn Sách giết Vu Cát, Tào Công đuổi Tả Từ, nghi ngờ Quản Lộ

Vận động Hoàng Cân mặc dầu rộng lớn, khí thế mạnh mẽ, nhưng bọn Trương Giốc, Trương Lỗ đã không biết lãnh đạo vận động chuyển vào đấu tranh chính trị; họ nhìn chỉ thấy một mặt thần quyền bùa chú, cho nên mới gặp ít trận nhỏ, Lưu Quan Trương, Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn đã đánh cho tập đoàn Khăn Vàng tan tác. Những phép lạ của bọn họ Trương bị máu chó, máu dê, phân lợn làm cho mất thiêng. Rút cục, chỉ còn độc trụi Trương Lỗ giữ được Hán Trung, sau cùng bị Thục và Ngụy thôn tính.

Vận động Hoàng Cân cũng như chính biến Vương Mãng đều mắc cùng một lỗi lầm tai hại là: manh tâm “gia thiên hạ” nghĩa là coi thiên hạ làm việc riêng nhà mình, của mấy người lãnh đạo phong trào.

Qua thảm bại của vận động Khăn Vàng, người ta tìm thấy ở tư tưởng Đạo gia những gì? Nếu nó bị rơi vào bọn lưu manh, bọn trí thức thầy bùa, thầy ngải, cá nhân chủ nghĩa, vô chính phủ chủ nghĩa, bê trễ sinh sản, thiếu kỷ luật và thích nhàn chơi với những khẩu ngữ: Tuyệt thánh khí trí, tuyệt nhân khí nghĩa. Tự do. Phóng nhiệm. Trông bề ngoài chúng mang một hình thái đại cách mạng, nhưng bề trong chỉ là một tâm lý làm loạn vô tổ chức, phá hoại vô kiến thiết. Do đó mà không chống lại được với hệ thống tư tưởng quý tộc và chủ đất bấy giờ. Tư tưởng Đạo gia không có khả năng lập thành một thế hệ phương pháp đấu tranh. Cho nên nó không giúp nổi vận động nông dân tạo thành lực lượng vững chắc.

Quân phiệt Đổng Trác

Kể từ đời Đông Hán, các châu mục đều có quyền tăng cường binh lực địa phương. Khi loạn Hoàng cân dấy lên thì những binh quyền địa phương lại càng tha hồ khoáng triển chẳng ai kiểm soát

Sau khi bọn Thập Thường Thị dụ được Hà Tiến vào cung, sai phục binh giết, Viên Thiệu, Tào Tháo theo yểm hộ Hà Tiến bèn thả quân vào hoàng cung đuổi bắt sát hại bọn hoạn quan, triều đình đại loạn. Chính trị hoạn quan tất tạo nên tình trạng nhân tâm giải thể. Nhân tâm giải thể tức là nhân tâm nghĩ đến sự loạn. Để tạm thời chấm dứt loạn lạc đương nhiên một chính quyền vũ lực mới xuất hiện. Chính quyền ấy là chính quyền quân phiệt.

Trước tình hình chưa phân trắng đen, mỗi địa phương ở xa thì cắt đoạn với mệnh lệnh trung ương, ở gần thì lăm le kéo quân về Kinh Đô, mượn tiếng phò giá, nhưng chính là để thừa cơ nắm trọn quyền bính. Trong số đó Đổng Trác được nhiều may mắn hơn hết.

Đổng Trác tên chữ là Trọng Đỉnh xuất thân từ giai cấp địa chủ. Tính tình hào hoa, phóng đạt. Truyện ký có chép rằng: "Lúc Trác ở nơi điền dã thường yến ẩm với bọn hào súy, người Khương, người Hồ. Nhờ bọn hào súy ủng hộ mà khởi giá". Khi có loạn Hoàng Cân, Đổng Trác được phái đi dẹp loạn, bị thua, sắp bị triều đình trị tội. Trác khôn khéo kết liên với bọn Thập Thường Thị, đút lót, luồn cúi bọn quyền quý. Cho nên chẳng những Trác tránh khỏi tội mà chức vị của Trác còn được thăng lên vùn vụt; từ chức Trung Lang Tướng, Trác nhảy vọt lên chức Tiền Tướng quân Ngao Hương Hầu Tây Lương Thứ Sử, trong tay thống lĩnh hai mươi vạn quân Thái Hoàng Thái hậu lập nên.

Thời cơ khiến cho Trác có dịp tranh cướp chánh quyền khởi tự Hà Tiến muốn dùng quân các trấn tiếp tay giết trừ phe cánh hoạn quan. Nhưng chính quyền vào tay Đổng Trác lại là nhờ thủ đoạn của Trác.

Đọc chuyện Tây Hán, chắc không ai quên bốn chữ mà Khoái Thông xúi Hàn Tín lật Lưu Bang: Tiệp túc tiên đăng (nhanh chân lên trước).

Đổng Trác đã ứng dụng được ý nghĩa nhanh chân của Khoái Thông vào cơ hội mình. Đổng Trác còn xử dụng nguyên tắc nhanh chân một cách linh động nữa là không vội vã. Kéo quân về trước nhất nhưng Trác biết dừng lại đợi cho bọn hoạn quan giết Hà Tiến rồi mới ra tay, chứ Trác không giúp Hà Tiến ngay.

Trước đây, Đổng Trác cũng đã tạo cho mình được một thời gian củng cố và khoáng trương binh lực bằng cách lấy cớ biến loạn Khương Hồ từ chối hai lần triệu hồi của chánh phủ trung ương. Trác cứ đồn trú binh ở ngoài mà ngồi rình cục diện biến đổi, chờ tới giờ phút trái quả chín tới, Trác vào hứng đỡ chẳng phải hao tốn công lao là mấy.

Nhưng ngàn đời đáng tiếc cho Trác, Trác chỉ có thủ đoạn chộp mau và đúng thời cơ, mà Trác lại không có thủ đoạn để bảo vệ thời cơ đã nắm được. Trác chưa từng tham dự chính trị. Cho nên lúc bước vào lãnh vực chính trị, Trác đối đãi chính trị hoàn toàn và tuyệt đối bằng bạo lực. Nắm được chính quyền rồi, Trác đảo lộn toàn bộ cương kỷ một cách vô ích. Vô ích nhất là chính sách phế lập bỏ Thiếu Đế, tôn Hiến Đế. Phế lập không phải để đáp ứng một nhu cầu chính trị nào cả. Phế lập bất quá chỉ là kết quả mối cảm tình riêng của Trác đối với Trần Lưu Vương

Những nguyên nhân thất bại

Tam Quốc Chí diễn nghĩa có nói đoạn: "Xa giá chưa đi được vài dặm, bỗng thấy tinh kỳ rợp đất, bụi bay mù trời, một đoàn binh mã sực kéo tới phía trước, bá quan đều thất sắc, vua cũng sợ hãi. Viên Thiệu vội thúc ngựa ra trước thốt hỏi: "Binh mã của ai đây?" Từ dưới bóng một ngọn cờ thêu rực rỡ, một tướng bên kia thúc ngựa ra lớn tiếng hỏi: "Thiên Tử đâu?" Vua càng sợ không dám lên tiếng. Trần Lưu Vương quất ngựa sấn ra nạt rằng: "Nhà ngươi là ai?" Tướng ấy đáp: "Thứ Sử Tây Lương Đổng Trác đây". Trần Lưu Vương vặn ngay: "Anh tới đây bảo hộ xa giá hay cướp xa giá?" Trác vội đáp: "Tới để hộ giá". Vương hạch rằng: "đã tới hộ giá, vậy Thiên tử kia sao anh không xuống ngựa?" Trác lật đật xuống ngựa, khấu đầu bên cạnh đường, miệng tung hô vạn tuế. Trần Lưu Vương lấy lời ngọt ngào phủ úy Đổng Trác. Từ đầu chí cuối lời lẽ đàng hoàng. Trác thầm lấy làm lạ, sinh lòng khâm phục vô cùng. Và ý định phế Đế nọ lập Vương này nảy ra từ đó.

Đoạn trên chứng thực Trác tính chuyện phế lập hoàn toàn vì một chút cảm tình riêng tư. Sự phế lập chính là nhát cuốc đánh bật cái rễ uy tín của Trác đang cần phải ăn sâu xuống nữa, nó biến Đổng Trác từ một kẻ mang sứ mạng dẹp loạn thành một tên đầu sỏ nhiễu loạn. Phế lập đã đem lại cho Đổng Trác một kết quả vô cùng tai hại là việc Trác buộc phải thiên đô từ Lạc Dương về Tràng An. Thiên "xét về cái thế" ông Tô Triệt viết: "Trị thiên hạ, định sở thượng" (Muốn trị thiên hạ, trước hết phải nhận biết thiên hạ ưa chuộng điều gì?). Thời đại của Đổng Trác tư tưởng tôn quân còn rất mạnh, rất phổ biến, Đổng Trác động binh với danh nghĩa phò giá, mà hốt nhiên vô cớ tính chuyện phế lập tất nhiên sẽ bị phản đối kịch liệt. Trước hết là những cá nhân lẻ tẻ như Thứ Sử Kinh châu Đinh Nguyên, Lư Thực, Đinh Quản đứng trên danh nghĩa triều thần phản đối bằng lời nói, rồi đến Ngu Phu và Tào Tháo phản đối bằng cách cho Trác ăn mũi dao sắc, rồi đến phản đối bằng sự khởi binh từ khắp các châu quận kéo về đánh Trác, do Tào Tháo khởi xướng.

Nguyên nhân thất bại thứ hai của Đổng Trác là không ước thúc được binh sĩ, để chúng thả cửa cướp bóc, hãm hiếp, đe dọa đời sống nhân dân; đôi khi chính Trác là thủ phạm nữa. Thí dụ vụ Trác sai binh sĩ bổ vây giết hết đàn ông con trai, bắt hết phụ nữ và lấy hết của cải, đem hơn ngàn đầu người chở về thành, xảy ra tại đám hội tháng hai vùng Dương Thành. Thậm chí Đổng Trác còn thích một lối thị oai phát nguyên tự tâm lý khát máu là ngay giữa đám vui sai mang tù nhân ra xẻo tai, cắt mũi, bỏ vạc dầu.

Luận về chính quyền và cái chết của Đổng Trác

Nguyên nhân thất bại thứ ba của Đổng Trác là nền kinh tế phá sản, Đổng Trác không giải quyết được nguy cơ cấp dưỡng trên tài chính. Biện pháp kinh tế, tài chính của Trác cũng đặt trên nguyên tắc quân sự, mang vũ lực đi cướp tiền dân, cướp tiền của người sống chán rồi, Trác sai đào các mồ mả, lăng tẩm để cướp của người chết. Tiền của cướp được, Trác bỏ vào túi, lại sai đúc những tiền lớn thành tiền nhỏ để mang tăng gia số lượng tiền tệ. Tiền nhỏ của Trác đúc ra bị mất giá ngay, dân chúng đua nhau chợ đen, hóa vật tăng vọt lên. Cứ theo sử chép thì muốn mua một thúng thóc phải trả đến mấy vạn tiền của Trác. Dân chúng đói khổ ai oán vô cùng

Thấy tình trạng nguy ngập, Đổng Trác ve vãn phần tử trí thức, mời các nhân sĩ ra giúp việc. Nhưng khốn nỗi đôi mắt Trác chỉ có khả năng nhận ra được bọn ngụy trí thức mà thôi, thành thử những người Trác dùng như: Thái Ung, Tuân Sảng, Hàn Phức v..v... hết thảy đều chỉ là bọn thư sinh, danh hão, đọc sách để tìm con gái đẹp, nhà vàng và ngàn hộc gạo chứ chẳng có người nào kinh quốc cả. Tờ hịch của Tào Tháo được các trấn hưởng ứng, chư hầu tụ hội chia ra làm 18 đạo kéo về Lạc Dương, Trận giao phong đầu tiên, tướng của Trác là Hoa Hùng bị Quan Vân Trường chém chết. Trận thứ hai Lã Bố bị thua ở Hổ lao quan. Thế của Trác đã trở nên hết sức nguy ngập. Để cứu vãn, Đổng Trác sai Lý Thôi sang liên kết với Tôn Kiên, ngỏ ý đem con gái mình gả cho con trai Tôn Kiên, hòng làm chia rẽ Liên quân miền đông. Nhưng kế cầu hôn của Trác bị thảm bại. Tôn Kiên nổi giận chửi mắng, Lý Thôi ôm đầu lủi thủi như con chuột trở về phục mệnh Đổng Trác

Thiên đô về Tràng An

Kế cầu hôn để phá liên quân miền đông không thành. Đổng Trác chỉ còn một đường thoát là rút về căn cứ của mình. Trác bèn theo kế của Lý Nho, rời đô từ Lạc Dương về Tràng An. Chuyện rời đô, bình thoại của Mao Tôn Cương trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa có phê: "Vô cố nhi thiên Thiên Tử tắc tỉ ư mông trần. Vô đoan nhi thiên bách tính đắc đẳng ư lưu thoán" (nghĩa là: vô cớ mà rời chuyển Thiên Tử thì thực là chuyện mờ ám, vô cớ mà rời chuyển trăm họ thì cũng chẳng khác gì trốn chạy). Mấy chữ "vô cớ", "mờ ám" và "chẳng khác gì" của ông Mao Tôn Cương không có tính chất minh bạch cần thiết cho việc phê phán một sự kiện chính trị. Thật ra chuyện thiên đô là một nhu yếu chính trị quan hệ sống chết đối với Đổng Trác lúc ấy. Lạc Dương bị liên quân miền đông uy hiếp. Mặc dù lực lượng Đổng Trác còn mạnh, nhưng đã trót đi vào con đường danh bất chính, ngôn bất thuận rồi. Hơn nữa quân đội các châu quận phía đông thanh thế cũng chẳng thua kém, địch lại khó lòng. Thiên đô về Tràng An sẽ đem lại cho Đổng Trác nhiều lợi điểm khả dĩ lọt khỏi ngõ bí mà Trác đang bị đẩy vào. Thứ nhất: Trác là người Tây Lương, những người theo Trác thì toàn thị là dân Tây Lương, Tràng An với Tây Lương gần nhau. Thứ hai: có Hàm cốc quan là nơi hiểm yếu che chở cho Tràng An, quân phía Đông không dễ gì khắc phục được. Thứ ba: tránh đụng độ để chờ chư hầu nghi kỵ bất hòa với nhau.

Quả nhiên kế hoạch thiên đô của Đổng Trác thành công. Liên quân phía Đông thấy kẻ địch đã chạy trốn, lập tức trong hàng ngũ phát sinh mâu thuẫn vì tranh chấp quyền lợi. Sức mạnh như thác đổ của Liên quân nhạt dần, đến độ phật phờ lối "hàng tổng đánh kẻ cướp".

Trong hồi thứ sáu, Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể rằng: tới Lạc Dương, Viên Thiệu hạ lệnh cho quân chư hầu đóng trại không tiến nữa. Tào Tháo thấy vậy đến hỏi ngay Viên Thiệu: "Đổng Trác đã bỏ chạy về miền Tây, nay chính là lúc nên thừa thế đánh đuổi mà bắt nó, sao Bản Sơ lại đóng quân không động là ý thế nào?" Viên Thiệu nói: "Quân mã chư hầu đã mỏi mệt, tiến nữa không ích gì". Tháo nói: "Giặc Đổng đốt rụi cung điện, hiếp bức Thiên Tử mang đi, thiên hạ náo loạn ngơ ngác không biết theo ai, bây giờ đúng là lúc chỉ cần đánh một trận nữa là bình được thiên hạ. Cớ sao chư hầu lại hồ nghi không tiến?" Chư hầu nghe Tháo nói ai cũng bàn ngang rằng: "Chưa nên kinh động". Tào Tháo giận tím người, nói một mình: "Không thể mưu việc với bọn trẻ con này được". Nói rồi Tháo tự dẫn một vạn quân cùng các bộ tướng suốt ngày đêm đuổi theo đánh Đổng Trác.

            Giả sử, nếu Liên quân phía Đông đừng có một chủ súy vô mưu như Viên Thiệu, tự ổn định được mâu thuẫn nội bộ, mang quân đánh dấn đi thì chắc chắn lực lượng vô kỷ luật của Đổng Trác không có đất mà chôn, dù Tây Lương hay cửa Hàm Cốc cũng không che chở cho Đổng Trác nổi. Trong đám người lãnh đạo Liên quân phía Đông, có độc một mình Tào Tháo là người đại lược, biết nhìn xa thấy rộng mà thôi. Rút lại cuộc tụ hội thảo phạt gian tặc thành ra chuyện đầu voi đuôi chuột. Kết thúc bằng việc Tôn Kiên đi nhặt nhạnh xương cốt và đắp mồ mả đã bị Đổng Trác đào bới.

    Cái chết của Đổng Trác

          Sau khi rút về Tràng An, Đổng Trác tự biết đã hết thế tung hoành nên tính kế hưởng thụ. Trác cho xây ở My huyện một cung điện riêng cho mình, tuyển lựa 800 thiếu nữ thanh tân nhốt vào cung, tích trữ vàng bạc gấm vóc, lại cho làm những kho chứa lương thực đủ ăn trong 20 năm. Trác vẫn thường nói: "sự thành hùng cứ thiên hạ, sự bất thành thủ thử dã túc dĩ chung thân liễu". (thành ra thì hùng cứ cả thiên hạ, không xong thì giữ chặt nơi đây cũng được hết đời). Trác tin tưởng vào thế hiểm yếu, vào lương thực tích trữ. Nhưng Trác quên rằng kẻ giết Trác chính là Trác vậy, là cái cá tính độc ác, hẹp hòi, ích kỷ của Trác. Do cá tính đó, Trác đã tự mình tạo nhận cho âm mưu Vương Doãn, Lã Bố. Trong chính sử tuy không thấy nói đến liên hoàn kế và Điêu Thuyền, nhưng Vương Doãn và Lã Bố cũng vẫn là hai vai chủ gốc trong vụ giết Đổng Trác. Sử chỉ chép: "Lã Bố tư thông với tỳ thị của Trác, sợ việc bại lộ trong lòng không yên. Tư Đồ Vương Doãn thấy Bố vũ dũng nên hết sức hậu đãi". Phải chăng nhà văn La quán Trung đã tiểu thuyết hóa tên thị tỳ thành ra Điêu Thuyền, tưởng tượng ra liên hoàn kế cho câu chuyện Trác thêm phần kỳ thú?

        Tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa đã khéo tưởng tượng ra nàng Điêu Thuyền diễm lệ.

           Một cành gió lả hoa mềm,

Mùi hương ngào ngạt đầy thềm vẻ Xuân.

         Rồi mượn hương sắc mỹ nhân mà lột hết cái chí khí hẹp hòi cùng tâm trạng độc đoán của Đổng Trác ra lời nói, như đoạn: Sau khi Đổng Trác nghe Điêu Thuyền khóc lóc phản đối việc đem mình gả cho Lã Bố theo kế hoạch của Lý Nho, Trác mủi lòng bèn thay đổi ý kiến.

       Lý Nho thấy vậy chạy vào thưa:

- Xin Thái Sư đừng để cho một người đàn bà mê hoặc như thế.

       Trác biến sắc mặt mắng Nho rằng:

- Thế vợ mày, mày có chịu đem cho thằng Lã Bố không? Thôi việc Điêu Thuyền cấm không được bàn đến nữa. Nói thêm ta chém đầu.

     Những lời đối đáp của bọn cao cấp ngoan cố vẫn thường hữu lý theo cái lối "đức ông cưỡi voi" như vậy. Nếu họ đi hành quân mà có người nhắc họ lưu ý sợ bị đánh tập hậu, họ sẽ chẳng suy nghĩ gì để trả lời ngay rằng: "bị tập hậu thì ta quay lại, địch còn đánh tập hậu vào đâu?"

* * *

          Âm mưu liên kết với Lã Bố để giết Đổng Trác của quan Tư Đồ Vương Doãn nẩy mầm từ bữa Trác thiết tiệc bá quan trong Tỉnh đài, chém quan Tư Không Trương Ôn ngay giữa bàn tiệc để khủng bố. Việc này chứng tỏ ý thức chính trị của Trác đã hoàn toàn khô cạn. Đổng Trác chỉ trông vào sự khủng bố và võ lực của Lã Bố, một tên trùm phản trắc để chống lại những âm mưu phản bội mình. César chịu nhát dao cuối cùng của Brutus, ông ta tỉnh ngộ ngay và nói với Brutus rằng: "nếu cả Brutus cũng giết ta thì ta phải chết". Đổng Trác ngu si ngoan cố cho đến chết. Chẳng thế mà hơn 100 vũ sĩ theo lời Vương Doãn hô to: "Phản tặc đã tới đó" và cầm giáo đâm như mưa vào mình Đổng Trác, thế mà y vẫn chưa tỉnh ngộ còn vội kêu lớn: "Phụng Tiên con đâu". Chính ông con quý báu đó đã tặng cho Trác một nhát kích trúng giữa yết hầu kết liễu đời Trác

Điêu Thuyền và cái chết của Đổng Trác

       Trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa, La quán Trung dành riêng ra hồi thứ tám và nửa hồi thứ chín để đặc biệt tiểu thuyết hóa cái chết của Đổng Trác, qua những câu văn vần mở đầu cho mỗi hồi: Kế liên hoàn Vương tư Đồ khéo dụng, Đình Phượng Nghi Đổng thừa tướng đâm khùng, và Trừ hung bạo, Lã Bố giúp Tư Đồ.

       Từ kế liên hoàn đến việc làm cho Đổng Trác điên khùng mắng đuổi và phóng kích định giết con nuôi, rồi nghĩa tử Lã Bố giúp Tư Đồ Vương Doãn giết Đổng Trác nhất nhất đều do Điêu Thuyền gây nên cả.

    Nhưng trong chính sử không thấy có tên Điêu Thuyền bao giờ. Các sách khác cùng bao chuyện truyền kỳ, cổ tích của đại chúng cũng chẳng nhắc đến về tung tích cũng như về thân thế nàng. Vậy thì Điêu Thuyền phải chăng chỉ là một nhân vật tiểu thuyết do tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa nặn ra.

        Nhân vật Điêu Thuyền xuất hiện là tác dụng kỳ thú hấp dẫn của văn học nhằm giải quyết mối thắc mắc bị thất lạc trong chính sử. Mối thắc mắc đó là nguyên nhân mâu thuẫn nội bộ tập đoàn quân phiệt Đổng Trác.

       Như chúng ta đã rõ, cái chết của Đổng Trác là kết quả của cuộc tranh chấp một mất một còn giữa nhóm quan lại cựu trào Hán Đại với phe cánh Đổng Trác. Nhóm quan lại cựu trào cảm thấy tính mệnh và quyền lợi của họ đã bị đe dọa cực độ sau vụ Trương Ôn.

       Một hôm, Trác ở sảnh đài, hai bên bách quan ngồi sắp hai hàng. Rượu uống được độ vài tuần thì Lã Bố đi tắt vào, ghé tai Đổng Trác nói thầm mấy câu, rồi thấy Trác cười mà nói rằng: à ra thế! Nói rồi, sai Lã Bố lôi quan Tư Không tên là Trương Ôn cũng đang ngồi ăn ở tiệc đem xuống dưới thềm. Các quan không biết đầu đuôi như thế nào đều thất sắc. Một lát thấy quân hầu bưng lên một mâm đỏ, giữa để đầu của Trương Ôn. Các quan đều sợ mất vía.

        Sự khủng bố trắng trợn báo hiệu giờ phút không thể dung thứ nhau được nữa. Đại diện phái quan lại cựu trào lúc đó là Vương Doãn, Vương Doãn hôm ấy về đến phủ, nghĩ lại những việc trông thấy trong bữa tiệc, ngồi đứng không yên. Đến đêm khuya trăng sáng vằng vặc chống gậy đi ra vườn sau, đứng bên cạnh bụi đồ mi ngửng mặt lên trời rỏ nước mắt khóc.

        Với Vương Doãn thì cái thế phải giết Đổng Trác là tất nhiên rồi, nhưng còn một điều chưa có cách gì giải quyết là Lã Bố. Ai đến gần Đổng Trác ngoài Lã Bố? Lã Bố mà phụ lực cho Đổng Trác bằng sức vóc muôn người không địch của y, thì việc giết Đổng Trác thật khó lòng mưu toan lắm. Chính vì điểm ấy Vương Doãn đứng ngồi không yên.

           Vậy, việc giết Đổng Trác phải bắt đầu bằng kế hoạch ly gián Trác với Bố. Kết quả Lã Bố đâm chết Đổng Trác. Kế ly gián Bố với Đổng Trác thế nào, nó đặt trên xung đột tư tưởng, chính sách? Hay chỉ là một kế mỹ nhân? Xét cho kỹ về tư cách Lã Bố và Đổng Trác thì mặc dầu chúng ta không có sử liệu về Điêu Thuyền, nhưng kế mỹ nhân là đắc sách nhất, hợp lý nhất. Bởi thế tên họ Điêu Thuyền có thể nói do nhà văn La Quán Trung tạo ra và cũng có thể nói liên hoàn kế là thật. Nếu ta nhận rằng: Mũi nàng Cléopâtre chỉ dài thêm chút nữa thôi, bộ mặt thế giới sẽ khác hẳn. Thì chuyện Điêu Thuyền với vẻ đẹp

Mây bay một áng điểm thềm hoa,

Mày ngài gợi khách sầu man mác,

Vẻ ngọc xui người dạ thiết tha.

         Khả dĩ phá đổ quyền thế chính trị của Đổng Trác, thiết tưởng chẳng có chi hoang đường cả.  

Chú thích:

[1] Trích Politique et Verité của James Burnham

Vũ Tài Lục

Nói Chuyện Tam Quốc

- 4 -

PHẦN TỬ TRÍ THỨC

        Từ Xuân thu, Chiến quốc đến thời đại Tam quốc, phần tử trí thức là một vấn đề hết sức trọng đại. Bởi thế, đi sâu vào vấn đề này rất cần thiết đối với nhận định chính trị Tam quốc, và việc đọc chuyện Tam quốc.

Thường thường mỗi khi nói đến lịch sử, chúng ta vẫn đặt những câu hỏi: Biến động lịch sử do hoàn cảnh quyết định hay bởi ý chí con người quyết định? Tồn tại quyết định ý thức hay ý thức quyết định tồn tại? Sinh hoạt quyết định tư tưởng hay tư tưởng quyết định sinh hoạt? Tư tưởng và sinh hoạt tự động biến hóa hay là do ngoại lực làm cho biến hóa?

Trước kia, thảo luận để tìm một giải đáp cho những câu hỏi trên, các phe phái hay đi vào con đường cực đoan, rồi đưa ra nhiều luận cứ bênh vực cho chủ trương: hoàn cảnh quyết định lịch sử, sinh hoạt quyết định tư tưởng, tồn tại quyết định ý thức, nhất thiết biến động lịch sử đều do ngoại lực tạo nên; hoặc bênh vực cho chủ trương: ý chí con người quyết định lịch sử, ý thức quyết định tồn tại, tư tưởng quyết định sinh hoạt, nhất thiết biến động lịch sử đều do ý chí con người tạo ra.

Nhưng gần đây, hầu như tất cả đã công nhận rằng: hoàn cảnh với ý chí, tồn tại với ý thức, tư tưởng với sinh hoạt, ngoại lực với nội tại đều có tác dụng qua lại mà làm ra biến động lịch sử. Chiếc cầu nối sự qua lại đó là Văn hóa. Do tác dụng qua lại giữa con người với hoàn cảnh nên Văn hóa được sản sinh. Phương hướng của Văn hóa, độ nhanh chậm của Văn hóa chịu ảnh hưởng từ kết quả của tác dụng qua lại của nhân duyên nội với ngoại.

Theo Hồ Thu Nguyên: Tổ tiên chúng ta thời thượng cổ, đương nhiên chịu chi phối của hoàn cảnh, nhưng nhân loại không như các động vật khác, đối với hoàn cảnh ngoài cố gắng thích ứng, loài người còn tìm cách chống lại, chế ngự, cải tạo và lợi dụng. Bởi thế nên loài người mới chế tạo ra công cụ. Nhưng đi đôi với sự chế tạo công cụ phải có ý, có tư tưởng, có tiếng nói. Nếu không có ý, có tư tưởng, có tiếng nói thì không thể chế tạo ra công cụ được. Vậy giữa công cụ với tư tưởng ta đừng nên đặt vấn đề công cụ có trước, tư tưởng có sau hay ngược lại. Chẳng qua ta hãy quan niệm cả hai là cùng một lúc.

Từ sử tự nhiên bước vào sử nhân loại, loài người trở nên động vật văn hóa, loài người lấy văn hóa để mở đầu lịch sử cho mình, văn hóa thành ra một năng lực mới cho sự giao thiệp của người với hoàn cảnh.

Văn hóa là nhân tố hết sức trọng yếu đối với việc giải thích lịch sử. Lịch sử thông qua văn hóa mà biến động, trí thức là quyền lực. Do đấy mà phần tử trí thức nắm phần chủ yếu trong mọi biến động lịch sử.

Lý luận Vilfredo Paréto

Nhà Xã hội học Vilfredo Paréto cho rằng:

- Trị, loạn, cách mạng, hòa bình, chiến tranh gồm nhiều nguyên nhân: địa dư, kinh tế, văn hóa, chính trị v.v.. Nhưng quyết định đều ở nơi kết quả vận chuyển của phần tử trí thức.

Phần tử trí thức Paréto chia ra làm hai loại:

a- Nắm chính quyền

b- Không nắm chính quyền.

Phần tử trí thức hay ưu tú trong xã hội không bao giờ nằm im, trái lại nó luôn luôn vận động. Vận chuyển của nó là đấu tranh thay thế nắm quyền bính để đưa vận mệnh xã hội, vận mệnh chính trị lên con đường mới.

Khi phần tử trí thức tại quyền không còn đủ khả năng, đủ lực lượng để lãnh đạo chính trị, lãnh đạo xã hội, bắt kịp nguyện vọng thời đại nữa sẽ bị đào thải, chính quyền sẽ chuyển sang tay lực lượng trí thức khác đủ khả năng hơn. Chính quyền nào không thu hút nổi các lực lượng mới, để các lực lượng ngoài tách rời mình tự trưởng, tự thành, phát triển lên được thì chính quyền đó chẳng chóng thì chầy phải bị lật đổ. Những hiện tượng tiêu diệt, trưởng thành của các lực lượng xã hội chính là những diễn biến lịch sử vậy.

Phần tử trí thức đời Xuân thu, đời Chiến quốc

Nhà Chu lúc thiên sang Đông là bắt đầu thời đại Xuân thu, Chiến quốc. Xuân thu, Chiến quốc dài 551 năm. Xuân thu, Chiến quốc là một thời đại ghi nhận sự biến hóa lớn lao của chính trị, kinh tế, văn hóa Trung quốc. Hai chữ Xuân thu xuất xứ từ sử liệu nước Lỗ. Hai chữ Chiến quốc do cuốn sử Chiến quốc mà ra.

Ông Hồ Thu Nguyên viết:

- Hình thành ra Xuân thu, Chiến quốc ngoài nguyên nhân nhân khẩu tăng gia còn là kết quả của sự xung đột giữa trào lưu văn hóa nhân văn chủ nghĩa với chế độ phong kiến nhà Chu. Lấy Quản Trọng và Khổng Tử làm đại biểu phần tử trí thức lãnh đạo cuộc chiến đấu trên.

Kể từ lúc Tề hoàn Công dùng Quản Trọng, gây dựng nghiệp Bá chư hầu, những cương giới phong kiến bị tiệt trừ, kinh tế thương nghiệp phát triển.

Chiến tranh và kinh tế thương nghiệp không những đã phá đổ lực lượng hữu hình phong kiến, còn quan trọng hơn nữa là sự sản sinh một văn hóa lực mới. Văn hóa lực mới khi biểu hiện trên những lực lượng hữu hình mới, liền thành một lực lượng quyết định chuyển động lịch sử.

Văn hóa lực mới là gì?

Học vấn được phổ cập, lực lượng của giai cấp sĩ xuất hiện. Tính chất quan trọng của giai cấp sĩ là nhờ học vấn phổ cập, do cạnh tranh của liệt quốc mà bình dân đã thông qua trí thức để nhẩy lên vũ đài chính trị. Trước kia thời Tây Chu và ngược lên nữa, chính trị đều ở tay quí tộc nắm giữ. Vận mệnh xã hội, quốc gia phải chịu bọn Vương Công đại nhân, các Công tử, Vương Tôn, Thế Khanh truyền tử truyền tôn điều khiển.

Sang Xuân thu, Chiến quốc thì tình trạng lật ngược hẳn, xã hội liên tiếp có những vận động hạ khắc thượng (dưới chống trên). Chư hầu không thừa nhận Vương Thất, Đại Phu không thừa nhận Chư hầu, Gia thần không thừa nhận Đại phu, dân chúng không thừa nhận quyền uy của đại tộc, thế khanh. Mỗi bậc, mỗi mức trong quá trình đấu tranh đều giác ngộ quyền lợi của mình. Nhu cầu trí thức chính trị lên cao. Phần tử trí thức càng hệ trọng đối với những vận động lịch sử. Phần tử trí thức càng hệ trọng thì thế lực bình dân càng lớn mạnh. Khổng Tử nắm một phần chủ yếu trong việc đào tạo phần tử trí thức mới và lực lượng bình dân.

Nếu dùng niên lịch để phân biệt Xuân thu với Chiến quốc, đại khái chúng ta có thể nhận thời Chiến quốc khai mào từ sau ngày Khổng Tử mất một năm đến lúc nhà Tần thống nhất. Chiến quốc lâu chừng 260 năm.

Mặc dầu có những điểm không giống nhau trên trình độ cũng như trên bản chất, nhưng thực sự Chiến quốc chỉ là sự phát triển của Xuân thu. Hết thẩy các vận động đều đặt trên cơ sở:

- Phá hoại thái ấp phong cương và giai tầng phong kiến.

- Phát triển quốc gia vương quyền và phát triển để thống nhất.

- Phân hóa văn hóa cổ điển để tung hợp thành xu hướng tân văn hóa.

260 năm thuộc thời đại Chiến quốc, đứng về mặt học thuật và chính trị mà nói, có thể chia ra làm ba thời kỳ lớn:

1- Thời kỳ nước Sở nước Việt thay nhau làm Bá chư hầu và nước Ngụy nước Tề tranh hùng.

2- Thời kỳ vận động liên hoành và hợp tung.

3- Thời kỳ nước Tần tiêu diệt lục quốc.

Chiến quốc có năm tiến hóa trọng đại:

a- Tiến bộ kỹ thuật.

b- Kinh tế phát triển, chế độ công điền bị triệt bỏ, đô thị mở rộng, thương nghiệp hưng thịnh, hóa tệ phát đạt.

c- Chiến tranh ác liệt hóa, quan hệ tình trạng quân quốc hóa của nước Trung hoa.

d- Chiến tranh và kinh tế tạo ra quốc gia quân chủ tập quyền.

e- Phần tử trí thức làm chủ tể chính trị.

Thời Xuân thu, bình dân quật khởi mới chỉ là thiểu số, tới Chiến quốc thì quí tộc, thế khanh lần lượt nhượng vị cho các du sĩ văn học. Phong khí tư tưởng tự do đi đôi với tình thế chiến tranh đã tạo nên những hiện tượng sử sĩ hoành nghị, và bố y khanh tướng, (áo vải lên khanh tướng).

Trước đấy, thế lực bọn thế khanh quí tộc đã bị lung lay vì những tư tưởng Khổng, Mặc. Bây giờ lại thêm tự do kinh tế khiến phần tử trí thức không còn phải sống bám quí tộc nữa, càng làm cho khí thế phần tử trí thức to lớn hơn.

Thời Chiến quốc, các ông vua vì đều có chung một chính sách đối nội: tước trừ thế lực quí tộc, đối ngoại thì hùng cường với các nước khác, cho nên phải dựa vào các lực tân hưng, bằng cách chiêu hiền nạp sĩ, chỉnh đốn học thuật. Nhờ vậy mà các học thuyết dấy lên, trăm hoa đua nở. Sinh thời, Khổng Tử thất bại với 72 ông vua, thì ở Chiến quốc các người chịu tư tưởng của ông nhất nhất đều được trọng dụng. Tỉ dụ như: thầy Tử Hạ được Ngụy Văn Hầu bái kiến. Lỗ Mục Công dùng Tử Tư và Công Nghi Thể. Hàn quốc dùng Thân Bất Hại. Tề Uy Vương trọng đãi Tôn Tẫn, Sô (Trâu?) Kỵ v.v.. Thời Chiến quốc có thể gọi là thời kỳ của phần tử trí thức bình dân.

Phần tử trí thức đời Tần

Sáu nước suy tàn hấp hối chờ Tần thôn tính. Tình hình chính trị nhu yếu một quyền lực chặt chẽ thống nhất. Dĩ nhiên, không khí “đua nhau lên tiếng” của chư tử trên lãnh vực tư tưởng trở nên một vật chướng ngại to tát cho công cuộc kiến lập quyền lực kia. Chính các học gia cũng hô hào thống nhất tư tưởng. Nhóm Lã Bất Vi mở đầu vận động này. Môn khách trí thức nhà họ Lã thảo luận và trước tác cuốn Lã thị Xuân thu. Sách Lã thị Xuân thu tung hợp nhiều phái tư tưởng khác nhau, gồm 26 thiên pha trộn nào Pháp gia, Mặc gia, Nho gia, Đạo gia v.v. Tỉ dụ: Thiên “Quý sinh” và “Vô tư” gốc ở Nho gia, thiên “Thượng hiền”, “Kiệm táng” gốc ở Mặc học v.v..

Nhưng sách Lã thị Xuân thu không được Tần Thủy Hoàng ưa. Một phần vì Lã thị Xuân thu chưa đáp ứng đúng với nhu yếu chính trị mới. Một phần vì Tần Thủy Hoàng thù hận Lã bất Vi. Về sau Tần Thủy Hoàng hưởng ứng tư tưởng Hàn Phi, bèn giải tán học phái họ Lã, đầy Lã bất Vi sang Thục, tại đây Lã bất Vi uống thuốc độc tự tử.

Hàn Phi là một nhà tư tưởng thuộc phái Pháp gia. Tư tưởng Hàn Phi chịu ảnh hưởng của pháp thuật của Thân Bất Hại, Thương Ưởng, lý luận và khí chất của Tuân Tử, hành động của Lão. Lão học kết hợp với pháp thuật liền biến chất mà thành một thứ hư vô chủ nghĩa. Hàn Phi chủ trương:

a- Không nói chuyện nhân nghĩa, không nghe lời bọn học giả.

b- Lấy pháp để răn dạy, lấy lại làm thầy, lấy chém đầu làm dũng.

c- Lấy công dụng và kinh nghiệm làm tiêu chuẩn chân lý.

d- Chống lại thuyết chuộng hiền của Nho, Mặc, coi Nho, hiệp, thương, công như bọn du thực.

e- Đốt thi thư để làm sáng pháp lệnh, đề cao nông chiến.

Chủ trương của Hàn Phi được Tần Thủy Hoàng áp dụng đã khiến cho phần tử trí thức gặp một phen khốn đốn. Mặc dầu Tần Thủy Hoàng nghe Lý Tư giết Hàn Phi, nhưng chính sách Hàn Phi vẫn tiếp tục.

Sự kiện đốt sách chôn nho chính là kết quả tất nhiên của xung đột giữa phần tử trí thức với chính sách Hàn Phi đem thi hành bằng vũ lực.

Các nhà nho bị buộc phải từ bỏ lý luận và đọc sách. Muốn học thì đến thụ huấn ở bọn lại, muốn đọc sách chỉ độc có hai loại sách bói toán. Nho phái liền ẩn lý luận Dịch vào sách bói toán để phát huy tư tưởng.

Phần tử trí thức lật đổ nhà Tần

Đối đãi với phần tử trí thức, Tần Thủy Hoàng dùng hai chính sách:

1- Tiêu diệt bằng vũ lực và

2- Tiêu diệt bằng dụ dỗ.

Tiêu diệt tư tưởng bằng vũ lực dĩ nhiên là một điều không thể làm được. Tiêu diệt phần tử trí thức bằng dụ dỗ thì chỉ đem lại hiệu quả phần nào thôi. Đa số phần tử trí thức không bị lay chuyển bởi Danh, Lợi, Uy như vua Tần vẫn lầm tưởng.

Dưới triều Tần, trí thức tản mạn vào đồng ruộng, núi rừng để truyền bá tư tưởng phản Tần. Từng nhóm, từng nhóm nổi lên như: Phạm Tăng, Hoàn Sở, Sương Hải Quân, Hoàng Thạch Công, Trương Nhĩ, Trần Dư, Điền Hoành, Khoái Thông v.v..

Những vận động tư tưởng chuyển thành đấu tranh vật chất nhóm lên bằng mũi chùy của Trương Lương, rồi đến Trần Thiệp khởi sự.

Phần tử trí thức giao thời Tần-Hán

Cuối Chiến quốc phần tử trí thức tụ tập ở nước Tần, giúp cho Tần kiêm tính thiên hạ, Tần thi hành bạo chính, trí thức thoái về dân gian vận động chống Tần.

Như vậy trí thức đời Tần chia làm hai phái:

- Phái nắm chính quyền.

- Phái dựng thế lực bên ngoài chống chính quyền.

Vận động phản Tần mạnh lên thì phần tử trí thức tại triều cũng bắt đầu tan rã. Sự tan rã này phân định làm ba loại:

- Giao động nên nghĩ cách tự tư, tự lợi như bọn phương sĩ Lư Sinh, Từ Phúc lừa tiền bỏ trốn.

- Do tranh chấp quyền thế bị đào thải như bọn Lý Tư.

- Hưởng ứng Cách mạng như nhóm Tôn thúc Thông, Trương Lương, Tiêu Hà.

Các thế lực trí thức chống chính quyền tuy rằng có sự chia rẽ giữa Nho đạo và đạo Hoàng Lão, nhưng chỉ là sự chia rẽ trên học thuật thôi, không đưa dẫn đến chia rẽ chính trị phản Tần.

Vận động phản Tần đã ghi một thành tích tuyệt đích cho lịch sử đấu tranh của phần tử trí thức bình dân là: từ khanh tướng áo vải chuyển lên Hoàng đế áo vải.

Phần tử trí thức đời Tây Hán

Lưu Bang vốn không phải là người đọc sách. Lưu Bang đoạt thủ chính quyền nhờ biết dựa vào phần tử trí thức. Phần tử trí thức nỗ lực chẳng phải vì Lưu Bang mà vì nghĩa vụ diệt bạo Tần. Bởi vậy giữa Lưu Bang và phần tử trí thức vẫn có bức tường ngăn cách khó phá thông.

Ngay sau khi nhà Tần bị tiêu diệt, Hán cao Tổ đã tỏ thái độ bất dung trí thức. Thấy thế Ngụy Báo từ khước bái yết Cao tổ, Trương Lương đi ẩn, nguyện bỏ dân gian sự để rong chơi (nguyện khứ dân gian sự, tòng xích tùng tử du).

Sở dĩ phần tử trí thức tiêu cực phản đối, là tại chính quyền Hán nhất nhất rập theo chính sách của chế độ Tần triều. Phần tử trí thức ghét chính trị Tần chứ không ghét tập đoàn giang hồ Lưu Bang….. Thêm một nguyên nhân nữa là phần tử trí thức vẫn hoài niệm phong độ Chiến quốc, phóng khoáng, lãng mạn.

Thời Tây Hán, trí thức tham gia chính trị phải tuân theo một pháp chế chặt chẽ, khuôn mức không giống thời Chiến quốc, trí thức áo lá, nón rách đến diện kiến quốc vương dùng biện thuyết mà đoạt tướng ấn Công Khanh.

Dĩ nhiên đem nhu yếu phóng túng tự do riêng tư để chống lại nhu yếu chính trị đại thể, đương nhiên phần tử trí thức không thể thắng Hán triều. Khi Hán Vũ Đế đại định thiên hạ, thì phần tử trí thức từ bỏ vận động vãn hồi tình trạng tư tưởng tự do thời Chiến quốc. Người trí thức muốn xuất chính phải bước từ huyện học lên tới Quốc lập đại học. Tốt nghiệp học viên phải trở về quê hương bản quán đảm nhiệm một tiểu chức nơi nha môn, dần dần tạo nhiều thành tích mới được đề bạt lên trung ương. Phần tử trí thức thời Tây Hán, đại bộ phận xuất hiện từ nông dân thuần phác, nên phong thái thường đơn hậu. Ở Chiến quốc học giả vẫn tự coi mình ngang với thánh nhân. Ở Tây Hán thì đại (địa?) vị học giả xuống thấp. Theo với quyền lực thống nhất pháp, thống nhất chế, học thuật cũng cần thiết một vị sư biểu. Do đó, Khổng Tử được thần thánh hóa và đưa lên độc tôn.

Phần tử trí thức thời Đông Hán

Vương Mãng tranh thiên hạ rồi Lưu Tú dựng lại Hán thất gọi là Đông Hán hay Hậu Hán.

Khoảng thời gian giữa Tây Hán, phần tử trí thức chớm khuynh hướng quần tụ. Một đại sư có tới mấy trăm môn đệ. Thái học sinh ban đầu chỉ ước chừng 50 người, dần dần tăng lên 200 rồi 3000, cuối Đông Hán con số lên gần 30.000.

Bản thân Thái học thành hẳn một xã hội riêng biệt (Vương Mãng, Lưu Tú đều thuộc nhóm Thái học sinh). Vì ở tiếp cận với trung ương chính phủ nên Thái học là tập đoàn có thế lực, tiếng nói của nhóm Thái học hướng dẫn dư luận toàn quốc, ảnh hưởng nhiều đến chính trị. Địa vị người học lại dần dần nâng cao. Nhưng thế lực tập đoàn Thái học cũng làm cho bộ mặt và tình hình của của phần tử trí thức Đông Hán khác hẳn với Tây Hán.

Thời đại Tây Hán, học vấn vốn vẫn là vũ khí nhiều khả năng nhất của bình dân muốn xuất chính. Tập đoàn Thái học thành hình thì những người bình dân thông qua học vấn để xuất chính trước đây nay đã trở nên quý tộc. Thái học biến ra xã hội con ông cháu cha, tạo thành tình trạng đảng cố môn đệ. Tập đoàn Thái học trên chính trị, xa rời quyền lợi bình dân, chuyên chú vào những âm mưu tranh chấp đảng nhóm, không biết dựa vào thế lực chính trị mà tranh thủ xã hội. Trên học thuật tư tưởng, Thái học nhân vì tập nhiễm xã hội đô thị nên mất hết phong thái đôn hậu chất phác, bỏ hẳn chủ trương lấy chí dụng làm cơ sở cho học vấn, để vùi đầu trong tư tưởng hoa mỹ, tận hưởng thú vị nghệ thuật. Tóm lại, bản chất tập đoàn Thái học sinh giống như tinh thần câu ca dao Việt:

Học trò đèn sách hôm mai,

Ngày sau thi đỗ nên trai mới hào,

Làm nên quan thấp, quan cao,

Làm nên võng tía, võng đào nghênh ngang

của hình thức thư sinh quý tộc, không còn phong độ “kiếm bạt nỗ trương” (rút kiếm, giương cung) thời Chiến Quốc nữa.

Do tính chất môn phiệt của tập đoàn trí thức Thái học mà phần tử trí thức bị phân hóa, nhiều lực lượng trí thức bình dân rộ lên và trưởng thành đòi quật đổ bọn trí thức thống trị. Đồng thời trong triều đình, thế lực hoạn quan mỗi ngày mỗi lớn chèn ép tiếng nói Thái học

Xung đột giữa tập đoàn quý tộc trí thức Thái học với hoạn quan, xung đột giữa lực lượng trí thức mới dậy với bọn trí thức tại quyền, sự tan rã của quyền lực trung ương và sự bành trướng của quyền lực địa phương - đó là tất cả cục thế loạn ly thời kỳ mở vào Tam Quốc phân tranh.

Trí thức tại triều bị hoạn quan quật ngã

Đời vua Hoàn Đế, bọn hoạn quan giết chết Lương Ký. Nhân cơ hội hoạn quan ngoại thích đánh nhau, nhóm trí thức tại triều liền được triệu tập để tiêu trừ hoạn quan. Cầm đầu vận động là các vị Đại thần Hoàng Huỳnh, Trần Phồn. Lực lượng cơ sở gồm thanh niên đô thị và tập đoàn Thái học sinh. Đường lối, chính sách là đòi hỏi thanh lọc.

Những danh sĩ thời đó phụ giúp có: Chu Mục, Lưu Hựu, Tuân Dục, Sài Diễm, Vương Hoàng, Phạm Khang. Bọn hoạn quan trước sức tấn công của nhóm trí thức triều thần, bị bắt và bị giết khá nhiều.

Nhưng chưa được bao lâu, thế lực hoạn quan phản công ngay. Nhờ vụ Lý Ưng, hoạn quan xoay chuyển hẳn tình thế, vua Hoàn Đế hạ lệnh tầm nã tập đoàn Thái Học để cho hoạn quan tha hô mà giết. Sang triều vua Linh Đế thì phe triều thần trí thức quỵ hẳn.

Vương Doãn một điển hình

Vương Doãn điển hình cho cái gì?

Cho tính chất đã thiếu khả năng lãnh đạo của nhóm trí thức tại quyền. Chúng ta đều đã biết rõ nguyên nhân loạn có hai mặt:

-Thứ nhất: Chính trị chuyên chế bị hoạn quan ngoại thích lũng đoạn.

-Thứ hai: Tệ hại ngay trên bản thân văn hóa và phần tử trí thức.

Thế lực hoạn quan và ngoại thích khi đã tràn ngập Hoàng Triều, nó liền một tay nắm trọn guồng máy chính quyền bằng cách đan kết một cái lưới bè nhóm, ân huệ, tư tình, hôn phối. Thành phần cai trị mỗi ngày thêm ác hóa. Công Khanh, Đại Thần dần dần chỉ còn là lực lượng hậu bị của hoạn quan ngoại thích. Phần tử trí thức trong triều nếu không chạy theo xu phụng hoạn quan ngoại thích tất bị loại trừ. Triều thần trí thức chống lại nhưng không nổi.

Sở dĩ phần tử trí thức tại quyền thất bại, để hoạn quan ngoại thích lăng áp là tại trí thức đã tự mình phiệt duyệt hoá, chuyên chế hóa, đem cả sinh hoạt, học vấn, quan niệm tâm lý lẫn khí chất sô vào con đường thật nguy hiểm:

a)     Thoát ly dân chúng, thoát ly xã hội.

b)     Hưởng thụ bằng đại vị ăn trên ngồi chốc.

c)      Không làm chính trị đại thể mà chỉ làm chính trị âm mưu.

Thân xác trí thức tại quyền cuối Đông Hán đầy những tệ bệnh nào là:

Bệnh chỉ khỏe nói quân tử tiểu nhân, mà căn bản không biết phải giải quyết vấn đề.

Bệnh học phiệt, tự cho mình là những người khác thường.

Bệnh hư văn, lễ nghi phiền toái.

Bệnh danh tiết, làm việc chỉ vì trung nghĩa, lối trung nghĩa của luân lý “gia thiên hạ”.

Bệnh gàn dở kiêu căng.

Bệnh danh sĩ hỗn hợp gàn dở kiêu căng với danh tiết.

Vương Doãn là một nhân vật điển hình, điển hình cho phần tử trí thức tại quyền đang hấp hối vì Ông ta mang gần đủ những thứ bệnh nói trên.

Chúng ta hãy cùng đọc lại hồi thứ chín (9) trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa để nhận xét hành động của Vương Doãn qua những sự việc:

-Kế liên hoàn, Doãn dùng cái danh lão phu để lạy hết Đổng Trác và Lã Bố. Mục đích chỉ để hoàn thành một mưu mô chẳng lấy gì làm đẹp cho lắm.

-Giết xong Đổng Trác, vào chính quyền rồi, Vương Doãn như người say rượu lóng ngóng. Vương Doãn đã phạm hai lỗi cực lớn:

1) Chém Sái Ung chỉ vì Sái Ung khóc Đổng Trác.

2) Đẩy bọn Lý Thôi, Quách Dĩ đến bước cùng, khiến cho người Khương Hồ dầy đạp, đầy đọa dân chúng. Kết quả việc làm của Vương Doãn là thay tình trạng quân phiệt bằng tình trạng kiêu binh.

Trung nghĩa hão, nên lúc thất bại Doãn lưu lại một lời kỳ thú “Hà tất đa ngôn, ngã Vương Doãn kim nhật hữu tử nhi dĩ”. Lời này cụ Phan Kế Bính dịch sang Việt ngữ còn lý thú hơn: “Tao chỉ còn cái xác tao đây, chúng bay muốn làm gì thì làm".

Ngụy trí thức cùng loại Vương Doãn

Từ Xuân Thu, Chiến Quốc nhiệm vụ của người trí thức đã được đặt định hết sức minh bạch:

Đem tâm huyết cống hiến, giáo hóa dân chúng.

Phấn đấu cho lợi ích của bình dân.

Đoàn kết dân chúng.

Phấn đấu cho đạo đức, tư chất bản thân chống với những áp đảo tiền bạc, vũ lực của bọn quý tộc, của chính quyền.

Dùng học vấn làm công cụ nâng cao hạnh phúc dân chúng.

Những nhiệm vụ ấy được nhân cách hóa và trờ thành phong độ của tất cả những người trí thức. Nó gói tròn bằng ba chữ cơ bản: Nho, Hiệp -chung đúc bởi tư tưởng Khổng, Mặc - và Ẩn của Đạo học.

Nho lấy tu dưỡng bản thân yên trăm họ (quân tử tu kỷ dĩ an bách tính) làm trách nhiệm tâm; lấy không lo, không mê hoặc, không sợ (bất ưu, bất hoặc, bất cụ) làm tự tôn tâm, lấy trang nhã, cung kính, khiêm nhường (trang cung khiêm nhượng) làm thái độ xử thế.

Hiệp là thái độ mềm nhưng không nhũn nát, cứng nhưng không giòn gẫy, không khinh mạn người thế cô, không sợ sệt kẻ cường bạo.

Ngụy trí thức là thế nào?

Ngụy trí thức có nhiều hạng. Hoặc là bọn người chỉ hấp thụ ít nhiều học vấn nhưng lại thiếu tu dưỡng nhân cách. Hoặc là bọn người chỉ chăm chú câu nệ tu dưỡng chữ nhân chữ đức mà bỏ mất học vấn hữu ích. Hoặc là bọn người chỉ biết đem học vấn bán ra nuôi miệng, nuôi dục vọng vị kỷ. Hoặc là bọn người chỉ biết văn chương phú lục mà không có tư tưởng chính trị.

Hồi tiền Tam Quốc, mặt ngụy trí thức xuất hiện rất nhiều, phần lớn đều là những kẻ tách xa đại chúng để a dua với tập đoàn thống trị, từ bỏ phong độ tu kỷ an bách tính, bám vào hàng ngũ thống trị, lại thêm tật tự coi mình là quý tộc. Trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa ghi nhận ngụy trí thức như bọn: Dương Bưu, Dương Mặc, Phàn Trù, Chu Tuấn, Cảnh Vũ, Quan Thuần, Vương Kỳ, Chu Hoán v.v… Nhưng có mấy mặt điển hình nhất là Vương Doãn, Sái Ung và Lý Túc. Vương Doãn thuộc vào hạng Nho cũng dở mà Hiệp cũng dở. Sái Ung thuộc vào hạng Hiệp mù quáng nhiều cảm tình tri kỷ nhưng thiếu quan điểm quần chúng. Lý Túc thuộc vào hạng chẳng Hiệp cũng chẳng Nho, chỉ biết biện bác vặt, xui dại, xui khôn, thầy cò. Lý Túc hết khuyên Lã Bố giết Đinh Nguyên lại dụ Đổng Trác vào Tràng An cho Vương Doãn sát hại. Nhưng lúc ra chỉ huy ba quân thì tài biện bác vẫn không đủ sức cáng đáng trách nhiệm nữa, dĩ chí để Ngưu Phụ cướp mất trại, di lụy đến thân.

Nói chung, mặc dầu mỗi giai đoạn lịch sử đều có những sắc thái riêng biệt, nhưng trên căn bản ta có thể bảo Ngụy trí thức là bọn người cắn chặt vào quyền thống trị cũ, chế độ cũ, sinh hoạt cũ, gặp tình hình biến chuyển mới hoàn toàn bị cạn ý thức, không ngoi lên được ngoài những vùng vẫy vô ích trước khi chìm nghỉm.

Văn hóa biên duyên xung kích - Loạn Khương Hồ và kiêu binh

Đổng Trác tuy bị giết hại nhưng thủ hạ vây cánh quân đội của Trác còn đông đặc tại triều đình. Bọn chúng vừa mất chủ vừa lo thân nên chúng tác loạn cướp bóc tứ tung trong khi chính quyền mới lại không có một chính lệnh nào để làm an lòng chúng, thành ra Kinh đô thiếu an ninh, dân chúng cực khổ. Chính quyền mới chỉ chú ý đến lực lượng của Ngưu Phụ đóng ở Thiểm huyện, nên sai Lã Bố tiến đánh. Sở dĩ Vương Doãn chú ý Ngưu Phụ có lẽ không vì nhu cầu chính trị hay quân sự mà chỉ vì Ngưu Phụ là con rể Đổng Trác, cái tâm lý môn phiệt tôn tộc xưa nay vẫn vậy. Thực ra lực lượng Ngưu Phụ đâu có đáng sợ bằng mối loạn ngay trong lòng ruột, xem việc Ngưu Phụ cùng Hồ xích Nhi chôn dấu vàng bạc rồi bỏ đi thì đủ biết.

Đến khi Lã Bố chống không nổi bọn Lý Thôi, Quách Dĩ, chạy về Tràng An thì quân giặc trong ngoài đông nghịt, chẳng khác mây che mưa phủ, vây kín thành trì. Số phận Vương Doãn, Lã Bố đã được quyết định.

Tràng An lọt vào tay Lý Thôi, Quách Dĩ, với những thủ đoạn kiêu binh bắt giết, hãm hiếp và bức vua phong tước cho chúng thực cao, toàn Hầu, Tướng.

Cảm nỗi cơ cực, nàng Sái văn Cơ, con Sái Ung, làm một bài thơ tả cảnh loạn ly, với nhiều câu rất xác thực như:

Trảm lục vô tiết di

Thi hài tương trưởng cự

Mã biên huyền nam đầu

Mã hậu tải phụ nữ

Can tỳ vi lạn nhục

………………….

Dục tử bất khả đắc

Dục sinh vô nhất khả.

Tạm dịch:

   Chém giết chẳng chừa ai

   Thây chất chồng chất đống

   Cổ ngựa treo đầu trai

   Lưng ngựa thân gái trói

   Ruột gan thối nhầy nhụa

   ………………………

   Muốn chết, chết chẳng được

   Muốn sống, sống không xong.

Trong bài thơ của Sái văn Cơ còn một câu:

Lai binh giai Hồ, Khương (quân lính toàn rợ Hồ, Khương)

Câu thơ đó chứng minh rằng: Quân đội Tây Lương của Đổng Trác, sau này của Thôi, Dĩ, phần lớn lẫn lộn các dị tộc nhân Trung Quốc loạn, mượn thế tràn vào.

Người Khương bây giờ hãy còn ở mức kinh tế du mục, căn cứ tại miền Đông tỉnh Cam Túc bây giờ. Thời Chiến quốc từng hỗn nhập với người nước Tần mà tràn vào bờ phía Tây sông Hoàng Hà. Thời Tây Hán người Khương bị đánh đuổi chạy ngược lên phía Tây. Cuối triều Vương Mãng, thừa cơ Trung Quốc loạn lạc, người Khương lại xâm lấn, lần này họ vượt qua sông, nhưng bị văn hóa Trung Quốc quá khỏe đồng hóa mất. Tuy thế, người Khương đã luôn luôn tham dự các vận động gây rối loạn do tâm lý ưa cướp bóc của những dân du mục chưa thuần tính với nông nghiệp.

Người Hồ nguyên là giống Hung nô, phân chia làm Đông vực Hồ và Tây vực Hồ. Cả hai đều ở phía Bắc Trung Quốc. Những cuộc tràn lấn của các người Hồ, Khương đợt này qua đợt khác tạo thành một thời kỳ đen tối cho lịch sử Trung quốc sau này: thời kỳ “Ngũ hồ loạn hoa”.

Như vậy chứng tỏ rằng việc quân Tây Lương của Đổng Trác phạm Tràng An không phải chỉ giản dị là vấn đề chính trị nội bộ. Nó còn bao hàm các vấn đề sâu rộng hơn như vấn đề Dân tộc và Văn Hóa. Văn Hóa biên duyên nhân cơ hội trung tâm rối loạn nên quật khởi xung kích.

Vũ Tài Lục

Nói Chuyện Tam Quốc

- 5 -

QUÁ TRÌNH TIÊU, TRƯỞNG CỦA CÁC LỰC LƯỢNG

Việc Lý Thôi, Quách Dĩ hoành hành ở Tràng An là nhát dao cuối cùng chém gãy gục hẳn chính quyền trung ương, Thiên tử nhà Hán bất quá chỉ còn mang giá trị như một đồ vật tượng trưng, một ấn ngọc tỉ biết nói biết đi, biết ăn biết khóc mà thôi. Chính quyền trung ương sụp đổ, đương nhiên quyền lực để mưu đồ thiên hạ chuyển qua tay các lực lượng địa phương. Cái thế “Rồng tranh hổ đấu” lúc bấy giờ kịch liệt gay go nhất tại những địa phương: U, Tinh, Ký, Thanh, Duyện, Dự, Từ cùng các châu Kinh, châu Dương phía Bắc.

Tình thế châu U

Sự tiêu diệt khuynh loát lẫn nhau giữa các lực lượng khởi từ châu U.

Cuối triều Linh Đế, châu U thuộc quyền cai trị của quan châu mục Lưu Ngu. Ngu vốn dòng tôn thất nhà Hán, tâm tính nhân hậu, trăm họ yêu mến, nhưng thiếu tài lược cần thiết cho lúc loạn. Tại đây có một vị quân quan tên gọi Công tôn Toản tay nắm binh quyền, hoài bão nhiều cao vọng, Toản từng rình rập ngôi vị Lưu Ngu. Ngặt vì chính trị trật tự chưa đảo lộn nên Toản phải gián chịu nép. Lúc Đổng Trác chuyên quyền bỏ vua này lập vua khác, Hiến Đế do Đổng Trác đưa lên, bị phe chống Đổng Trác không thừa nhận. Viên Thiệu bèn cùng Ký châu mục Hàn Phức liên hợp định suy tôn Lưu Ngu làm Hoàng Đế. Lưu Ngu phần sợ thành bù nhìn vì thiếu thực lực, phần sợ phá hoại nghĩa vua tôi nên cương quyết chối từ. Chối từ xong, Lưu Ngu mật phái người tâm phúc đến Tràng An triều kiến Hiến Đế. Tiếp xúc với bộ hạ của Lưu Ngu giữa lúc đang bị Đổng Trác làm khổ, Hiến Đế như người bệnh lâu ngày trông thấy thuốc, mừng rỡ viết chiếu chỉ, giấu đút giao cho con Ngu là Lưu Hòa hiện làm quan tại triều đem đi cầu viện. Để tránh tai mắt của Đổng Trác, Hòa không dám vượt ải Hàm Cốc, phải vòng phía đông qua Thương huyện, nên Hòa bị quân Viên Thuật bắt gặp ở Nam Dương, nơi mà Thuật vừa đoạt lại từ tay Tôn Kiên. Thấy có cơ hội làm ăn lớn, Thuật bèn giữ Lưu Hòa rồi sai người đến báo cho Lưu Ngu biết, và ước hẹn Ngu đem quân đến Tây Thượng hợp với quân Thuật ứng lời chiếu về Tràng An. Công Tôn Toản hay tin rất lo sợ cho sí đồ của mình, một mặt xui Lưu Ngu đừng gởi quân đến Tây Thượng, mặt khác thông với Thuật nói Lưu Ngu không muốn ai chia sẻ công lớn. Thuật giận giam Lưu Hòa. Khi Ngu gửi quân, Công tôn Toản chẹn đường cướp binh. Cơ hội nghênh giá của Lưu Ngu tiêu tan. Cơ hội liên kết giữa Viên Thuật với Ngu cũng lỡ chỉ vì một chút tiểu xảo của Công tôn Toản. Toàn bộ sự việc trên tuy nhỏ, nhưng có liên quan tới Đế vị cho nên ảnh hưởng không phải là không to tát vào tình thế chính trị Tam Quốc.

Hậu quả của hành động mua giây thắt cổ

Toản thực hiện được dã tâm của mình lấy làm đắc ý, liền dựa trên danh nghĩa thảo tội Đổng Trác mang quân đánh Ký Châu[1]. Ký Châu đặt trong tình trạng nguy cấp. Ai ngờ việc Toản làm lại mở đường cho Viên Thiệu xơi ngon Ký Châu. Hàn Phức thấy Ký Châu bị Toản uy hiếp, vừa lúc Đổng Trác thiên đô chạy, Thiệu kéo quân về, Phức nghe lời Thiệu thuyết phục, nhường Ký Châu cho Thiệu. Thế là Toản chiếm đất chẳng được, còn rước thêm con thú dữ về cạnh nách. Viện Thiệu sợ Toản, Thuật liên minh nên quyết tiêu diệt thế lực Toản.

Lực lượng Tào Tháo trưởng thành

Tranh chấp sơ khởi hết sức phức tạp, nên chính sách của mỗi thế lực đều mang hai mặt:

Một mặt liên hợp. Một mặt đấu tranh.

Bởi vậy ta mới thấy những hiện tượng: Tào Tháo liên kết với Viên Thiệu, Lưu Bị dung Lã Bố, Viên Thiệu hợp tác với Lưu Bị, Tào Tháo giúp Lưu Bị đánh Lã Bố, v.v. Những hiện tượng ấy hoàn toàn xuất phát từ nhu yếu chính trị, chứ không phải do cảm tình cá nhân như tinh thần Tam Quốc Chí diễn nghĩa diễn tả.

Trong tình trạng rối ren, Tào Tháo chỉ có hai bàn tay trắng với chút ít lực lượng chẳng đáng kể. Thế mà thế lực Tào Tháo lớn như thổi. Sở dĩ Tháo mạnh là nhờ những tư tưởng rất thực tiễn của Tháo. Sau thời kỳ say sưa với khủng bố, làm dũng sĩ mưu sát hại Đồng Trác không xong, kế sách cùng Liên quân Đông đánh dấn Đổng Trác không được nghe, đơn thương độc mã, một mình Tào Tháo vác quân đuổi theo quân Trác, bị phục binh Lã Bố, Từ Vinh theo kế Lý Nho đánh suýt bỏ mạng. Tào Tháo tỉnh ngộ. Áp dụng chính sách từ gần đến xa, từ nhỏ đến lớn, gần tre ẩn nắng, gần mía bẻ cây, Tháo biến tất cả mọi hoàn cảnh nghịch hay thuận thành lợi thế cho mình. Ý thức chính trị của Tháo chuyển từ lãng mạn sang thực tế thật nhanh và thật sắc bén.

Đổng Trác chết, Tào Tháo nhờ cậy Viên Thiệu tiến cử xin vua Hiến Đế phong cho mình làm Thái Thú Đông Quận. Thiệu vin cớ Tháo đã bình định được giặc giã ở Duyện Châu mà xin.

Năm Hiến Đế thứ ba, quân Khăn Vàng ở Thanh Châu đại tấn công Duyện Châu. Việc này La quán Trung tiên sinh kể như sau:

Đám giặc ở Thanh Châu nổi dậy, tụ quân vài mươi vạn khởi loạn, cướp bóc của dân. Thái bộc Chu Tuấn xin tiến cử một người đi dẹp giặc.

Thôi, Dĩ hỏi ai? Tuấn nói:

Muốn phá giặc Sơn Đông, phi Tào Tháo không xong.

Lý Thôi hỏi:

Bây giờ Tào Tháo ở đâu?

Chu Tuấn thưa:

Hiện đang làm Thái thú Đông quận, có nhiều quân sĩ, giá sai người này đi đánh giặc thì không mấy bữa giặc tan.

Lý Thôi mừng lắm, ngay đêm ấy thảo tờ chiếu cho người mang ra Đông quận sai Tào Tháo cùng với tướng Tế Bắc là Pháo Tín đi đánh giặc.

Tháo vâng chiếu, hợp với Pháo Tín, cùng tiến quân đánh giặc ở Thọ Dương.

Sở dĩ nói sai phái với phong chức vì Tam Quốc Chí diễn nghĩa vẫn chú trọng đạo đức lý luận chính thống. Thật ra lúc ấy Trung ương chẳng có chút quyền nào với địa phương hết.

Việc đi đánh dẹp Duyện Châu là chuyện riêng giữa Pháo Tín với Tào Tháo. Quân Hoàng Cân lúc tấn công Duyện Châu đã giết chết ngay viên thứ sử châu này là Lưu Đại. Pháo Tín, võ tướng đất Duyện vốn vẫn hâm mộ Tào Tháo nên tự mang quân đến liên kết với Tào Tháo, đồng thời đem Duyện Châu cho họ Tào.

Dẹp loạn ở Duyện Châu xong, nhờ chính sách cải biên, lực lượng quân sự Tào Tháo tăng lên hơn 30 vạn người. Thêm bàn đạp châu Duyện làm Tào Tháo mạnh như cơn sóng cả.

Khái quát thực trạng đấu tranh và liên hợp giữa các lực lượng

Nói về đất Kinh Châu, hồi này do Thứ sử tên Lưu Biểu nắm giữ. Kinh Châu tuy lớn, nhưng Lưu Biểu vô tài nên không mạnh. Kinh Châu lại tiếp cận với Nam Dương, địa bàn của Viên Thuật. Lúc đó lực lượng Tôn Kiên là một lực lượng không có căn cứ, tạm đóng ở huyện Lỗ Sơn tại Hà Nam. Viên Thuật vì muốn dòm ngó Kinh Châu, liên kết với Kiên bằng cách vận động cho Tôn Kiên được phong làm Thứ sử Dự Châu, để uy hiếp Kinh Châu.

Mưu đồ của Thuật đã tạo nên minh ước Viên Thiệu-Lưu Biểu.

-  Nói về đất Từ Châu, địa thế tiếp cận với Duyện Châu, nơi mà thế lực Tào Tháo đang lên như vũ bão, Duyện Châu với Từ Châu không thể không thôn tính nhau.

- Nói về đất Thanh Châu, bấy giờ thuộc Thứ sử Điền Khải cai trị. Điền Khải là người của Công Tôn Toản.

Thế đấu tranh phân ra hai điều tuyến:

- Viên Thiệu tại Ký Châu, Lưu Biểu tại Kinh Châu, Tào Tháo tại Duyện Châu đứng trên một điều tuyến.

- Công Tôn Toản (con người có thực quyền) tại U Châu, Viên Thuật tại Nam Dương, Tôn Kiên tại Dự Châu, Đào Khiêm tại Từ Châu đứng trên một điều tuyến.

- Còn Lưu Bị chưa đáng kể vào đâu, vẫn coi như gia tướng của Công Tôn Toản.

Hai tập đoàn đấu tranh. Tập đoàn Thuật, Toản thất bại. Công Tôn Toản tiến binh đánh Viên Thiệu, Toản thua. Viên Thuật đẩy Tôn Kiên công kích Lưu Biểu, tuy chiến thắng nhưng vì Tôn Kiên dùng binh quá khinh suất nên bị quân Biểu bắn chết tại trận. Thừa thế, Lưu Biểu dồn quân cắt đứt đường tiếp tế của Thuật.

Công Tôn Toản phát động Lưu Bị hợp cùng Đào Khiêm đánh vào Tây Bắc Sơn Đông để làm khốn Viên Thiệu, Viên Thiệu bèn liên kết với Tào Tháo đẩy lui được địch quân.

Mặt khác Viên Thuật cũng tự mình đem quân đến địa phương Trần Lưu hòng đánh vỗ lưng Tào Tháo, nhưng việc không thành, Viên Thuật chạy trốn lên mãi quận Cửu Giang trong đất Dương Châu (nay thuộc huyện Thọ Xuân tỉnh An Huy). Tại đây Thuật giết ông Thứ Sử Dương Châu mà chiếm lấy đất này làm căn cứ.

Chiến cục Tào Tháo và Đào Khiêm

Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể cuộc chiến tranh Đào Khiêm, Tào Tháo rằng: Tào Tháo bình định Duyện Châu xong liền cho luyện binh, thu tướng, nạp hiền, phát triển thế lực. Khi uy danh đã lừng lẫy, Tháo sai Ung Thiệu về quê đón bố là Tào Tung. Tung hay tin Tào Tháo, mới cùng Tào Đức đem theo hơn một trăm gia nhân với nhiều của cải về Duyện Châu. Dọc đường đi qua Từ Châu, Tào được quan Thái thú Từ Châu là Đào Khiêm, xưa nay vẫn muốn làm quen thân với Tào Tháo nên thân hành ra đón. Khiêm mở tiệc khoản đãi Tung mấy ngày liền. Lúc Tung đi, Khiêm sai Trương Khải đem năm trăm bộ binh hộ tống. Không ngờ Trương Khải vốn là dư đảng Khăn Vàng, thấy Tào Tung có nhiều tiền bạc, thói xưa lại nổi dậy, Khải giết sạch toàn gia Tào Tung lấy hết của cải rồi trốn về Hoài Nam.

Tháo nghe tin khóc lăn xuống đất, nghiến răng mà nói: “Đào Khiêm hỡi! Dám thả cho quân giết bố tao. Thù này mày với tao không đội trời chung được. Nay ta khởi hết đại quân sang giết sạch cả Từ Châu mới hả được giận này”.

Liền sai Tuân Úc, Trình Dục lĩnh ba vạn quân ở lại giữ Nhân Thành, Phạm Huyện, Đông A, còn bao nhiêu quân kéo cả đến Từ Châu, sai Hạ hầu Đôn, Vu Cấm, Điển Vi làm tiên phong. Tháo hạ lệnh:

“Hễ đánh được thành trì nào, bao nhiêu dân trong thành giết nhẵn để báo thù cho cha”[2]

Diễn tả hồi này bằng giọng điệu trên đây, tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa muốn cho nhân vật Tào Tháo theo ý ông càng linh hoạt, đầy đủ đức tính đáng gờm. Chẳng những Tháo đại gian mà còn đại ác nữa.

Sự thật cái chết của Tào Tung không có chứng cớ, thủ phạm rõ rệt. Chiến tranh giữa Từ và Duyện hoàn toàn thuộc chính sách ra sức phát triển lực lượng của Tào Tháo. Những trận đánh gay go quyết liệt làm cho đổ máu nhiều chứ không phải Tào Tháo ra lệnh giết nhân dân mà báo thù cho cha. Tào Tháo không phải là người kém chính trị như vậy. Nếu có chuyện báo thù chăng nữa chẳng qua cũng chỉ là thủ đoạn mượn danh nghĩa để che đậy mưu đồ phát triển của Tháo mà thôi.

Lưu Huyền Đức gặp cơ hội đầu tiên

Tào Tháo khởi đại binh đánh Đào Khiêm, mặc dù phía Đào Khiêm có Lưu Bị, Viên Thuật, nhưng cả Khiêm lẫn Lưu Bị và Viên Thuật đều không phải là những mặt đủ khả năng đối địch với Tào Tháo. Tào Tháo chắc chắn nuốt trôi Từ Châu, nếu không có Lã Bố xuất hiện ngăn trở.

Số là: “Lã Bố từ khi gặp loạn Lý Thôi, Quách Dĩ, trốn ra cửa Vũ Quan, định đi theo Viên Thuật, Thuật ghét Bố hay phản phúc không dùng. Bố lại đến với Viên Thiệu, được Thiệu dung nạp, Thiệu cùng Bố đánh tan Trương Yên ở Trường Sơn. Từ đấy, Bố lấy làm đắc chí, khinh nhờn những Tướng sĩ của Thiệu, Thiệu giận muốn giết. Bố lại bỏ sang với Trương Dương. Lý Thôi, Quách Dĩ biết, đòi Trương Dương phải giết Lã Bố. Bố liền bỏ Dương sang ở với Trương Mạc.

Giữa lúc ấy thì em Trương Mạc là Trương Siêu đưa Trần Cung đến ra mắt Trương Mạc. Cung bảo Mạc rằng:

Nay thiên hạ bị chia xé, anh hùng nổi dậy, ông có đất ngàn dặm sao lại chịu ở dưới quyền người khác, há chẳng hèn lắm sao? Nay Tào Tháo đánh mặt Đông, Duyện Châu bỏ trống. Lã Bố là dũng sĩ đời nay, giá ông cùng với Lã Bố đánh lấy Duyện Châu thì bá nghiệp có thể làm nên được.

Trương Mạc cả mừng liền sai Lã Bố ra phá Duyện Châu, rồi chiếm cả Bộc Dương. Chỉ có ba xứ Nhân Thành, Đông A, Phạm Huyện may nhờ Tuân Úc, Trình Dục lập kế cố giữ được, các xứ kia đều bị phá vỡ cả. Tào Nhân đánh nhau mãi, nhưng không đương nổi, vì thế phải đi cấp báo với Tào Tháo.

Tháo giật mình khi nghe tin và nói rằng:

- Nếu Duyện Châu mất ta sẽ không còn chỗ để về nữa. Phải kíp lo toan ngay[3].

Tổng kết chiến tranh Tào Tháo-Đào Khiêm thì chỉ riêng Lưu Bị  là có lợi, vì Tào Tháo định thôn tính Từ Châu nên Lưu Bị mới vào được đất này.

Vì Lã Bố đánh Duyện Châu, Tào Tháo phải rút nên Lưu Bị mới bỏ được cảnh ăn nhờ ở đậu, có đất Tiểu Bái làm vốn khởi nghiệp. Vốn ấy không bao lâu đã sinh số lợi khá lớn là toàn thể Từ Châu.

Về phần Táo Tháo, việc Lã Bố đánh Duyện Châu thực có quan hệ mất còn, sống chết của Tào Tháo. Giả thử đại bản doanh của Tào Tháo bị Lã Bố phá vỡ hoặc chủ lực quân Tháo về cứu bị Lã Bố đánh tan thì Tào Tháo chắc mất hẳn đất đứng. May nhờ ba huyện cố thủ nên Tào Tháo mới có căn cứ đương đầu.

Lã Bố thua

Nguyên nhân nào khiến cho Lã Bố thua Tào Tháo? Tam Quốc Chí diễn nghĩa mượn lời Tào Tháo bảo rằng: Lã Bố là đồ vô mưu. Hai chữ vô mưu ở đây mang ý nghĩa thuần túy quân sự. Câu trên đây Tam Quốc Chí đã chịu ảnh hưởng của Tam Quốc Chí Ngụy Vũ Đế ký ghi: Tào Tháo thấy Lã Bố đồn binh tại Bộc Dương mới nói: “Lã Bố một sớm chiếm lãnh hẳn một châu, thế mà không biết chặn Đông Bình, cắt đứt Thái Sơn, Khang Phụ để chẹn ta, lại đóng quân ở Bộc Dương, Lã Bố chỉ là đồ vô dụng”. Tôi không chối cãi tính chất vô mưu và vô dụng của Lã Bố. Nhưng trong trận này, kế hoạch quân sự của Lã Bố rất chính xác. Bởi vì Lã Bố vào đất mới chiếm, cơ sở chính trị chưa thể củng cố ngay, nếu chủ lực Tào Tháo tồn tại, thì Lã Bố không đủ khả năng làm cuộc chiến tranh lâu dài với Tháo. Trung tâm hoạt động của Lã Bố lúc này là bằng mọi cách tiêu diệt chủ lực quân Tào. Trần Cung mới bầy cho Bố mẹo nội gián nhà họ Điền đưa thư cho Tào Tháo hẹn đến cướp thành.

Quả nhiên Tào Tháo mắc mẹo, trận Bộc Dương thành làm cho chủ lực Tào Tháo hao tổn khá nhiều. Tháo bèn dùng chính sách lâu dài đấu tranh với Lã Bố. Hai bên giữ nhau ròng rã sáu tháng. Lã Bố bắt đầu nao núng, lại thêm nạn đói kém vì sâu bọ phá hoại, giá thóc đang từ 30 tiền một hộc vọt lên năm vạn tiền. Binh sĩ đói khát. Quân Tào Tháo nhờ có cơ sở chính trị nên phân tán tự canh, tự tác kiếm được lương ăn. Quân Lã Bố đói quá sinh loạn bỏ trốn. Lã Bố thấy tình trạng nguy ngập đưa vợ con chạy. Trương Siêu tự vận chết. Trương Mạc về đầu hàng Viên Thiệu.

Một điều tuyến nứt rạn

Giữa lúc cuộc chiến tranh Lã Bố, Tào Tháo kết thúc, thì bên Từ Châu, Đào Khiêm lâm bệnh nặng. Khiêm sai My Chúc đến Tiểu Bái mời Lưu Bị về để nhường Từ Châu cho Lưu Bị. Lưu Bị trong những ngày cai trị Tiểu Bái đã ra công kiến lập uy thế chính trị cho mình cho nên khi nhận ấn Châu mục Từ Châu, Lưu Bị không vấp trở ngại nào. Vừa kịp Lữ Bố thua chạy đến Từ Châu xin nương nhờ, Lưu Bị thu dụng Lã Bố cho ra trấn giữ Tiểu Bái.

Có địa bàn vững chắc rồi, nhưng lực lượng họ Lưu không phát triển, rút cục còn bị đánh bật khỏi Từ Châu là vì:

Thứ nhất: Lưu Bị không có một chính sách nào mới ngoài chủ trương dựa vào đám triều thần để duy trì trật tự cũ.

Thứ hai: Lưu Bị thiếu người tài giỏi điều khiển chính trị, quân sự cùng nhiều mặt khác, đồng thời Lưu Bị chỉ giỏi sử đãi cán bộ nhưng rất kém mặt trị sự.

Thứ ba: Từ Châu sang tay Lưu Bị liền bị du vào cái thế “Tứ diện thụ địch”. Trước hết là địch ở ngay trong tâm phúc. Lã Bố tại Tiểu Bái lúc nào cũng chờ cơ hội phản bội. Rồi đến hành động ngu xuẩn nóng vội của Viên Thuật mắc mưu gây mâu thuẫn nội bộ của Tào Tháo (Kế Tuân Úc).

Viên Thuật, Lưu Bị, Lã Bố mâu thuẫn, xung đột, điều tuyến chính trị do Viên Thuật gây dựng nay Viên Thuật tự tay phá hoại. Sự kiện này đã tạo cho Tào Tháo một cơ hội lớn để kiến trúc Đế nghiệp nhà Ngụy, mở đầu bằng việc chia binh nghênh giá Hiến Đế. Ví thử Viên, Lưu không chia rẽ, hỏi làm sao Tháo có thể rảnh tay mà đem binh về tranh thủ quyền chính Trung ương mà không phải trả một tổn phí nào?

Khổng Dung chế độ “danh sĩ” đã hết - Tập đoàn Thái học sinh

Đời Đông Hán các lãnh tụ tập đoàn Thái học sinh có uy quyền lớn đối với xã hội, đối với triều đình. Họ thường tự xưng tụng cũng như người thời bấy giờ xưng tụng họ làm:

Tam quân như Đậu Vũ, Lưu Thúc, Trần Phồn (những lãnh tụ tối cao)

Bát Tuấn (những vị anh hùng), Bát Cố (những người tài đức), Bát Cập (những người lãnh đạo, răn dạy dân) Bát Trù (những người nhiều tiền của cứu nhân độ thế).

Sở dĩ nhóm Thái Học Sinh được chính quyền kiêng nể là vì tư tưởng, luận đàm của họ có ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội.

Về sau, Thái Học Sinh càng ngày càng mang hình thái quý tộc, ảnh hưởng Thái Học Sinh giảm dần. Tuy vậy cái tinh thần Bát Tuấn, Bát Cập, Bát Cố, Bát Trù mà Thái Học Sinh nêu ra trong cuộc đấu tranh với hoạn  quan, ngoại thích người đương thời vẫn chưa quên hẳn.

Khổng Dung

Khổng Dung là tiêu biểu cho cái ánh sáng sắp tàn của nhóm trí thức Thái học Đông Hán. Dung không nổi tiếng hay không có uy danh bằng chức tước quan lại, mà bằng hai chữ danh sĩ. Loại danh sĩ kiểu Khổng Dung gồm những người thị tài ngạo vật, tự cao thân giá, nghị luận thanh đàm. Nhờ mánh khóe tán tụng lẫn nhau, họ đã tự biến thành một mục tiêu đức vọng truyền thống cho người đời và gây cho bản thân họ một tiềm lực trong xã hội không nhỏ.

Lúc Tào Tháo chưa kiến lập được uy thế, nhờ ông Kiều Huyền dẫn Tháo đến yết kiến danh sĩ Hứa Thiệu. Hứa Thiệu gặp Tháo có phê bình một câu: “Tháo là người bề tôi cực giỏi nếu gặp thời trị nhưng Tháo sẽ là người cực gian hùng thời loạn.” Vì lời nói từ trong miệng Hứa Thiệu nên nó đã làm cho nhiều người chú ý đến Tào Tháo.

Khi Khổng Dung bị quân Khăn Vàng bao vây, Dung sai người đến cầu cứu Lưu Bị. Lưu Bị kinh ngạc nói rằng: “Khổng Bắc Hải mà cũng thèm biết đến Lưu Bị ư?”

Xem thế đủ biết tên tuổi đám nhân sĩ mạnh nhường nào. Một khi tâm lý chuộng thanh danh ấy chưa quét sạch thì bọn người kiểu Khổng Dung vẫn bám vào nó, dùng trí thức phản động để lũng đoạn xã hội. Bọn này còn lũng đoạn thì tiến hóa còn nhiều chướng ngại, xã hội lịch sử còn khó chuyển hình. Qua Khổng Dung chúng ta hãy phân tích, mổ xẻ tâm trạng và sinh hoạt của bọn danh sĩ cuối Đông Hán.

Nói trắng ra bọn danh sĩ phần lớn chỉ hoa hòe, hoa sói mà vô thực tài, nói nhiều hơn làm. Chẳng những họ không có tài cán cứu nước cứu dân, ngay cả trên tâm lý và hoài bão cũng không sạch sẽ gì, dễ a dua phản bội.

Danh sĩ Khổng Dung, thời gian làm Thái thú Bắc Hải nổi danh bằng sinh hoạt uống rượu tán dóc “tọa thượng khách thượng mãn, tôn trung tửu bất không”, bài binh bố trận trên bàn tiệc. Một năm mất mùa Tào Tháo cấm rượu, Khổng Dung phản đối. Dung lý luận: “Đức rượu tồn tại đã lâu. Trời có sao rượu, Đất có sao rượu, người truyền tụng Đức rượu. Vua Nghiêu dùng ngàn chum rượu để lập trật tự hòa bình. Khổng Tử không rượu lấy gì làm Thánh?”

Mỗi lần phải giải quyết vấn đề thực tế, mỗi lần đối chọi với khó khăn, Khổng Văn Cử đều thất bại và đều áp dụng một chính sách đào tẩu.

Chính sách Tào Tháo sử đãi bọn danh sĩ

Thấy thế lực bọn danh sĩ vẫn còn lớn, nên Tào Tháo phải dùng chính sách chính trị giải quyết.

Chinh sách sử đãi bọn danh sĩ là: một mặt co kéo thu dụng và giáo dục, một mặt tiêu trừ. Tào Tháo đã nhìn thấu suốt tính chất và nhược điểm của bọn người này.

Trước tiên, Tào Tháo đem quan chức câu nhử. Tháo thừa biết các danh sĩ thường lợi dụng hai chữ danh sĩ để làm cầu vào quan lộ. Quả nhiên hầu hết các danh sĩ xúm xít quanh miếng mồi đó treo nơi đầu móc câu của Tào Tháo.

Người mang tật quan nặng nhất là Khổng Dung. Kết cuộc Khổng Dung cũng như Dương Tu, Biên Nhượng bị Tào Tháo chặt cổ ráo. Các danh sĩ khác nhận chịu ép một bề nên hóa thành “ngự dụng phẩm” của Tháo.

Trong tranh đấu với thế lực danh sĩ, Tào Tháo đề ra hai đường lối chính trị tài mới:

1) Tuyển lựa nhân tài, tuyệt đối bãi bỏ lề lối môn phiệt, thế gia. Bằng biện pháp này Tào Tháo đập vỡ khối cấu kết ỷ thế lẫn nhau của môn phiệt và thế gia.

2) Dùng người theo tài năng, không quá chú trọng cao danh mỹ đức. Những người có tài thực tế trị quốc, dụng binh, dù trên sinh hoạt phạm điều lầm lỗi, nhất nhất đều được lưu dụng.

Lệnh Tào Tháo ra đã chấm dứt chế độ danh sĩ môn phiệt Đông Hán, mở chân trời mới cho phần tử trí thức.

Tào Mạnh Đức cần vương

(sai chư hầu bằng uy Thiên Tử)

Ở Long Trung, Gia Cát đối đáp Lưu Bị, nhận định thế lực Tào Tháo rằng: “Nay Tào Tháo có dân hàng trăm vạn, ăn hiếp Thiêu Tử để sai chư hầu, tranh phong với Tháo bây giờ thật khó”. Tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa vì cần cho câu chuyện  kể được ly kỳ hấp dẫn, nên chỉ chú trọng đến mấy chữ: “hiếp Thiêu Tử dĩ lệnh chư hầu.” Người đọc sau này cũng bị Tam Quốc Chí diễn nghĩa lôi cuốn nên thường cho rằng: việc mượn uy Thiêu Tử là điều kiện thắng lợi lớn nhất của Tào Tháo. Tôi nghĩ phê phán như vậy là sai, là bị tư tưởng chính thống, bị tình cảm yêu ghét của tiểu thuyết chi phối.

Từ trước tới nay theo cổ truyền, với nền văn hóa nông nghiệp vĩ đại, vị Hoàng Đế ở Trung Quốc không quan hệ cho trăm họ nặng như mọi người vẫn tưởng đâu. Kinh Thi có câu:

Nhật xuất nhi tắc.

Nhật nhập nhi tức.

Tạc tỉnh nhi ẩm.

Đế lực hà hữu vu ngã tại.

Dịch:

Mặt trời lên thì làm.

Mặt trời lặn thì nghỉ

Đào giếng lấy nước uống.

Cầy ruộng lấy cơm ăn.

Oai Vua chẳng ăn thua gì đến ta.

Mạnh Tử nói:

Quốc dĩ dân vi mệnh, dân dĩ thực vi tiên”, vai trò Hoàng Đế, Thiên Tử chỉ trọng yếu khi nào dân chúng thừa nhận đấy là tượng trưng, là đại biểu của dân tộc quốc gia trong cuộc đấu tranh đối ngoại, chống xâm lược mà thôi.

Với đấu tranh nội bộ, cá nhân vị Hoàng Đế chẳng là quái gì đối với dân chúng. Dân chúng cần người nào đem lại no ấm, yên bình, tiến bộ, thế là đủ rồi. Như vậy, những danh từ Hán thất chẳng qua chỉ là phiêu ngữ của mấy người có quyền lợi nêu ra. Không thể vì đấy mà bảo: Lòng dân còn tựa nhà Hán v.v..

Nói đến nhân tâm tư Hán, sao lúc Vương Mãng thất bại lại thấy nhiều người vì Mãng mà hy sinh?

Chúng ta không thể nhận thức chính cục lịch sử bằng đôi mắt của Ban Cố xưa coi lịch sử làm của riêng một nhà được nữa. Chúng ta hãy phê phán với tinh thần nhận lịch sử là công vật của toàn quốc dân. Nếu nhận định dùng nhãn quan Ban Cố nhìn thời đại Tam quốc thì chính trị Tam quốc sẽ mất đi ý nghĩa. Tóm lại lý luận: Hiếp Thiên Tử, sai chư hầu xem như quan kiện quyết định thắng lợi của Tào Tháo là một kiến giải hoàn toàn không chính xác. Sự thành công của Tào Tháo ở nơi Tháo có một đường lối đấu tranh chính trị sát thực tiễn, ở cái tài dùng binh của Tào Tháo chứ không phải tại hiếp Thiên tử, dĩ lệnh chư hầu. Điều khó khăn mà Khổng Minh nói đây là phải đương đầu với tài trí của Tào Tháo cùng mấy vạn dân theo Tào đó.

Nội tình việc đem vua về Hứa đô.

Tuy nhiên, danh vị Hoàng Đế không phải hoàn toàn không còn chỗ nào khả dĩ lợi dụng. Hoàng Đế vẫn có thể là phương tiện tốt cho một thủ đoạn chính trị.

Tào Tháo đánh bại Lã Bố, tái bình định Duyện Châu nhằm thời gian Hiến Đế lên ngôi đủ sáu năm. Mấy tháng sau, Hiến Đế trở về Lạc Dương, lực lượng Tào Tháo ở Hoài Dương cách Lạc Dương không bao xa. Hiến Đế trong tay bọn Lý Thôi, Quách Dĩ chẳng khác gì cá nằm trên thớt. Các cận thần của Hiến Đế mới bầy mưu cho Hiến đế vời Tào Tháo đem binh về triều. Sở dĩ có mưu kế này là vì trong triều đã quá loạn lạc, các thế lực xung đột giằng co bất phân thắng bại.

Tam quốc chí Lã Bố truyện chép: “Hán Hiến Đế lúc ở Hà Đông, từng hạ chiếu gọi Lã Bố đến giúp. Chiếc thân phiêu bạt, Lã Bố nhận chiếu thư mà vô kế khả thi”. Nhu yếu cầu ngoại viện của triều đình đã lên đến cực độ. Tào Tháo bình định xong Duyện Châu, đang cần bành trướng sang phía Tây Nam chiếm nốt Dự Châu, dòm dỏ Lạc Dương, thì mưu mời Tào Tháo của các quan trong triều khác gì mâm cỗ sẵn cho họ Tào vậy. Tào Tháo cân nhắc: “Ủng hộ Hiến đế lợi hơn đánh đổ Hiến Đế”, cho nên Tháo mới chọn lộ tuyến cần vương. Nhờ danh nghĩa cần vương, Tào Tháo vừa chiếm lĩnh Lạc Dương mà không mất công chiến trận máu đổ xương rơi. Tại Lạc Dương, Tháo gặp Đổng Chiêu. Chiêu bầy kế cho Tháo thiên vua Hán Đế về Hứa Đô cho gần căn cứ, rồi sau hãy tiêu diệt các lực lượng. Ngoài việc bầy mưu, Đổng Chiêu còn tự thân viết thư thuyết phục bọn Dương Phụng đừng cản trở việc rời đô, khi Phụng tỉnh ngộ thì quá muộn.

Rước Hiến Đế về Hứa Đô rồi, Tháo lần lượt đánh phá các phe đảng vẫn có thế lực xưa nay ở khu vực trung tâm như Hàn Tiêm, tàn quân Thôi - Dĩ, Dương Phụng để thực hiện công cuộc thống nhất toàn bộ chính trị, quân sự trong khu vực này. Chính trị họ Tào bây giờ ví như dòng sông lớn cuộn chẩy, mặc dầu có những xoáy nước nhưng sông lớn vẫn xuôi theo chiều của nó. Chỗ hơn người của Tào Tháo, là tầm nhận thức chính trị rộng rãi, đại cục. Do đó Tào Tháo mới được những tay hào kiệt loại Đổng Chiêu, mặc dù không phải là mưu thần sách sĩ của Tào Tháo mà cũng ra sức giúp đỡ Tháo.  

Vụ chiếu chỉ đai áo

Ở Hứa Đô, trên danh nghĩa, Tháo làm Tể tướng nhà Hán, nhưng trên thực tế Tháo đã chiếm giữ một địa bàn quan trọng. Để ổn định Quốc gia, Tháo lập chính sách dập tắt hơi lửa tàn của hệ thống thống trị cũ là bọn bá quan triều thần. Mở đầu, Tào Tháo trục Dương Bưu và Triệu Phạm. Tào Tháo tổ chức cuộc đi săn Hứa Điền để dò xét phản ứng của từng người. Nhờ việc đi săn Hứa Điền mà Tào Tháo phát hiện được âm mưu do Đổng quốc Cữu cầm đầu. Tam quốc Chí diễn nghĩa viết nguyên nhân vụ đai áo chiếu như sau:

Về cung, nghĩ đến việc đi săn hôm ấy, vua tủi mà khóc bảo vợ là Phục Hoàng hậu rằng:

-                           Ta từ khi lên ngôi đến giờ gặp nhiều gian hùng. Trước thì Đổng Trác, sau thì Lý Thôi, Quách Dĩ. Những điều khổ ải người ta chưa từng thấy bao giờ, ta và Hoàng hậu đều đã nếm trải cả. Đến nay gặp Tào Tháo, tưởng nó là bầy tôi xã tắc, không ngờ nó lộng quyền tự làm uy làm phúc. Ta trông thấy nó bao giờ là như chông gai cắm vào lưng bấy giờ. Hôm nay, nó ra nhận lời chúc mừng của các quan thật là vô lễ. Nay mai tất có vạ, vợ chồng ta chưa biết chết chỗ nào.

Phục Hoàng hậu nói:

-                           Công khanh đầy triều, đều ăn lộc nhà Hán, chẳng lẽ lại không có ai cứu được quốc nạn sao?

Phục Hoàng hậu nói chưa dứt lời thì có một người ở ngoài bước vào tâu rằng:

-                           Xin vua và Hoàng hậu đừng lo, tôi xin cử một người có thể cứu được nạn nước.

-                           Vua trông ra thì là bố đẻ Phục Hoàng hậu là Phục Hoàn. Vua gạt nước mắt hỏi rằng:

-                           Quốc trượng cũng biết giặc Tào Tháo nó chuyên quyền à?

Hoàn nói: Xem như việc bắn hươu ở Hứa Điền thì ai chẳng biết, chỉ vì cả triều văn võ phi là họ hàng Tào Tháo thì là đầy tớ của nó. Nếu không phải quốc thích thì ai chịu hết lòng đánh giặc. Lão thần không có quyền thế gì, khó làm nổi việc ấy, nhưng có Xa kỵ Tướng quân Đổng Thừa có thể tin cậy được.

Vua nói: Đổng Quốc cữu nhiều lần liều mình với nạn nước, ta vốn đã biết, nên mời vào trong cung để bàn việc lớn.

Hoàn nói: Tả hữu ở đây đều là tâm phúc của Tào Tháo, nếu việc tiết lộ sẽ xẩy ra vạ to.

Vua hỏi: Thế thì nên làm thế nào?

Hoàn nói: Tôi có một kế, Bệ hạ nên cho may một cái áo bào và làm một cái đai ngọc, mật ban cho Đổng Thừa, ở trong đai để tờ mật chiếu. Khi về thấy tờ chiếu, Thừa sẽ ngày đêm nghĩ kế thi hành, thế thì dù quỉ thần cũng không biết được.[4]

Đổng Thừa nhận chiếu chỉ Hiến Đế, về nhà rủ bọn Vương tử Phục, Sung Tập, Ngô Thạc, Mã Đằng, Lưu huyền Đức lập kế giết Tào Tháo.

Năm Kiến An thứ 5, Đổng Thừa bệnh, vua biết tin sai quan thái y Cát Bình đến chữa. Đổng Thừa nhân cơ hội rủ Cát Bình cộng tác, rồi cùng bọn Vương Tử Phục bàn dùng Cát Bình đầu độc Tào Tháo. Chẳng may người đầy tớ nhà Đổng Thừa phản bội, đem chuyện tố cáo với Tháo. Cát Bình bị bắt quả tang, Tào Tháo sai bắt luôn bọn Vương tử Phục, Đổng Thừa giết hết cùng với Đổng Phi. Kinh dịch có câu: “Quân bất mật tất thất thần, thần bất mật tất thất thân, cơ sự bí mật tất hại thành” (nghĩa là: vua không kín đáo thì hại bề tôi, bề tôi không kín đáo thì hại đến thân, làm việc không kín đáo tất thất bại), thật rất hợp cho hoàn cảnh bọn Thừa – Phục. Giết xong nhóm quần thần đối lập, Tào Tháo truyền lệnh rằng: “Từ nay về sau, những người ngoại thích và tôn tộc nhà vua không được phép ta mà tự tiện vào cung thì cứ chém”. Vụ này duy có Lưu Huyền Đức nhanh chân “chuồn” được. Vương nghiệp Hán từ sau cái chết của Đổng Thừa kể như không còn nữa. Vụ chiếu đai áo, Tam quốc chí diễn nghĩa sao chép mấy câu thơ khen Đổng Thừa:

Chớ kể thành hay bại.

Nghìn thu trung nghĩa bền.

Xét cho cùng, Đổng Thừa không xứng đáng với lời tán dương trên đây. Đổng Thừa bất quá chỉ là một đứa con hoang bệnh hoạn của mối tình giữa quân phiệt Đổng Trác với Hán triều đã què quặt. Với cái xuất xứ chính trị tàn phế ấy, việc làm của bọn Đổng Thừa mang thuần tính cách phản động. Có lẽ Lưu Huyền Đức cũng nhận thấy như thế mà bỏ trốn trước chăng?

Lưu Huyền Đức

Nhân một lần Tào Tháo dẫn Lưu Bị tới gặp Hiến Đế, Hiến Đế hỏi Lưu Bị: Tổ ngươi là ai? Lưu Bị tâu: tôi là dòng dõi Trung Sơn Tĩnh Vương, cháu xa đức Hiếu Cảnh Hoàng Đế, cháu Lưu Hùng và con Lưu Hoằng.

Vua lấy sổ tôn tộc ra kiểm xem thấy:

Hiếu Cảnh Hoàng Đế sinh mười bốn con, con thứ bẩy là Trung Sơn Tĩnh Vương, tên Lưu Thắng, Thắng sinh ra Lưu Chinh. Chinh sinh ra Lưu Ngang, Ngang sinh ra Lưu Lộc v.v.. và trải thêm hai chục lần sinh đẻ nữa đến Lưu Bị.

Vua so trong thế phả thì Lưu huyền Đức vào hàng chú, Vua mừng lắm mời vào Thiên điện làm lễ nhận họ. Vua bấy giờ nghĩ bụng rằng:

-                           “Tào Tháo lộng quyền, việc nước không tự ta làm chủ. Nay người chú anh hùng, may ra ta có người giúp”.

Thân phận hậu duệ nhà Hán của Lưu Bị quả là mơ hồ. Sở dĩ Hiến Đế nhận ngay bằng chú và Lưu Bị cũng im lặng là vì cả hai đều có nhu yếu chính trị bên trong. Giả thử, Lã Bố bỏ họ Lã mà lấy họ Lưu, rồi cũng nói đại là con cháu Trung Sơn Tĩnh Vương thì Hiến Đế cũng chẳng ngần ngại gì gọi Bố bằng chú. Hai chữ Hoàng thúc trong đầu óc Hiến Đế không mang ý nghĩa máu mủ họ hàng nào hết.

Vậy nên luận về Lưu Bị, không thể xét trên cái lý lịch tôn thất, mà xét trên lý lịch “dệt chiếu, bán chiếu”.

Lưu Bị là một người lái buôn nơi thị tứ, gia sản trung bình. Tính tình Bị hào kiệt, từ thủa thiếu thời có nhiều bạn, phần lớn là loại thành thị buôn bán.

Nguyên nhân khiến Lưu Bị nhẩy vào vũ đài chính trị khởi từ việc hai đại thương gia Tô Song và Trương Thế Hòa (hay Trương Thế Bình) thuê Lưu Bị vũ trang hộ tống hàng hóa của họ chống lại quân Khăn Vàng. Ít lâu sau anh em Lưu Bị mới hưởng ứng việc mộ quân của Lưu Yên.

Tâm chất Lưu Bị khả dĩ thu gọn vào mấy điểm: “Không ưa đọc sách lắm, thích chó ngựa, khoái âm nhạc, ăn mặc quần áo đẹp, sính kết giao với các hào kiệt". Tóm lại Lưu Bị hoàn toàn mang tác phong một anh hùng thành thị, thương nhân tiểu tư sản.

Đem so sánh với Tào Tháo về học vấn, Tháo vượt xa Lưu Bị. Tào Tháo quyền trí, làm thơ, viết sách quân sự, Lưu Bị không. Tuy thế Lưu Bị chẳng phải người thiếu sở trường. Sở trường của ông ta là: Chịu đựng, nhẫn nại, khoan hậu, khiêm hư, biết dùng người, dùng người đúng chỗ, yêu mến cán bộ, về cái học thực tế kể ra Lưu Huyền Đức cũng chẳng kém Tào Tháo bao nhiêu.

Tào Tháo dựa vào quyền trí mà tranh thủ địa vị. Lưu Bị dựa vào cảm tình quần chúng mà tranh thủ địa vị. Vốn là người hồ hải, tang bồng, nên Bị nhận thức được tầm quan trọng của quần chúng và cán bộ quan hệ với sự nghiệp chính trị, vì vậy ngay cả lúc lưu ly, phiêu bạt, Lưu Bị không bao giờ quên săn sóc đến đội ngũ, đến dân chúng. Người dân Tân Dã có câu hát ca tụng đức tính yêu dân của Lưu Bị như sau:

Tân Dã mục

Lưu Hoàng Thúc

Từ khi đến đây

Dân được sung túc.

Ông thường nói: “Làm việc lớn, phải cần người, nay người về với ta nỡ nào lại bỏ”. Nhờ đức tính yêu người mà Lưu Bị dầu năm bẩy phen thất điên bát đảo, các cán bộ ly tán đều tìm cách trở về với ông.

Cuộc đời chính trị của Lưu Bị có hai quan niệm trọng đại đáng kể, đã làm cho ông giác ngộ thay đổi quan niệm chính trị và thay đổi hẳn thân thế sự nghiệp ông.

-                           Quan kiện thứ nhất: ông xin Tào Tháo cho đem quân đi chặn đánh Viên Thuật để tránh vạ chu diệt. Đầu đuôi là: Lưu Bị sau khi ký vào tờ chiếu đánh giặc Tháo, mấy ngày sau Tháo sai người vời đến, tiếng rằng uống rượu thưởng mai, nhưng thực ra Tào Tháo muốn dò xét hoạt động của nhóm triều thần. Đàm luận với Tào Tháo xong, về nhà, Lưu Bị biết chắc âm mưu Đổng Thừa chẳng chóng thì chầy cũng vỡ lở, ông nghĩ ngay kế thoát thân, liền thưa cùng Tào Tháo:

-                           Nếu Thuật sang với Thiệu, tất phải qua Từ Châu, tôi xin lĩnh một cánh quân đi đón đường đánh chắc bắt được.

Tào Tháo cười nói:

-                           Để ngày mai tâu vua rồi sẽ khởi binh.

Hôm sau Huyền Đức vào gặp vua, Tào Tháo sai Huyền Đức đốc suất năm vạn quân sĩ, lại sai Chu Linh, Lộ Chiêu cùng đi.

Huyền Đức về nhà trọ, nửa đêm thu xếp khí giới và ngựa chiến, đeo ấn tướng quân đốc thúc để đi cho chóng. Quan, Trương hỏi rằng: “Sao phen này anh đi vội vàng vậy”. Lưu Bị nói: “Ta ở Hứa Đô như chim lồng cá lưới, chuyến này đi như cá vào bể lớn, chim lên mây xanh, không bị giam hãm trong lồng trong lưới nữa”. Nói xong, thúc quân mã đi cho mau.

Bấy giờ ở Hứa Đô, Quách Gia và Trình Dục đi khám xét tiền lương về nghe thấy Tào Tháo sai Lưu Bị đem binh sang Từ Châu vội vàng bẩm rằng: “Sao Thừa tướng lại sai Lưu Bị đi đốc binh?” Đời sau có thơ rằng:

Gióng ngựa dục quân, lòng vội vã

Nỗi lo canh cánh, chiếu trong đai

Hổ tung cũi sắt về rừng rậm

Rồng phá then vàng ra bể khơi.

Thơ đó chẳng đúng với tâm trạng và hoàn cảnh:

Ra đi thì sự đã liều

Mưa mai không biết, nắng chiều không hay

của Lưu Bị chút nào. Chuyến đi hấp tấp này mục đích để giữ cho thủ cấp khỏi rơi chứ đâu phải tâm trạng hổ về rừng rậm, rồng về biển khơi. Từ nay Lưu Bị bỏ hẳn đường lối dựa vào các triều thần cũ mà gây uy thế chính trị, đồng thời Lưu Bị cũng kiểm soát lại khả năng của mình, ông thấy cần phải đứng về phía lực lượng trí thức bình dân đang trưởng thành.

Quan kiện thứ hai: gặp gỡ Gia Cát Khổng Minh. Trốn khỏi Hứa Đô bị Tào Tháo đuổi đánh, thua, Lưu Bị sang nương nhờ Viên Thiệu, Thiệu thất trận, Huyền Đức bỏ đi với Lưu Biểu. Sái Mạo tướng của Lưu Biểu lập kế đuổi Huyền Đức, Huyền Đức qua Nam Dương gặp Khổng Minh. Khổng Minh bày kế:

Đây là địa đồ 54 châu ở Tây Xuyên. Tướng quân muốn thành Bá nghiệp thì phải nhường thiên thời cho Tào Tháo ở phía Bắc, nhường địa lợi cho Tôn Quyền ở phía Nam, còn Tướng quân thì nắm vững lấy nhân hòa. Trước hãy chiếm Kinh Châu làm căn bản, sau đến lấy Tây Xuyên dựng cơ đồ, hình thành cái thế chân vạc, sau mới tính đến Trung nguyên được.

Lời nói trên đây mở đường vào cuộc đấu tranh Tam quốc, toàn bộ sự nghiệp, chính lược, chiến lược của Lưu Bị cũng theo cuộc đối sách ở Long Trung mà chuyển thành.

Hai người đàn bà có ảnh hưởng đến đời chính trị của Lưu Bị

Cái tài ăn nói duyên dáng của Gia Cát Khổng Minh không những chỉ ở những cuộc du thuyết hoặc trên bàn ngoại giao, nó còn được sử dụng tài tình để kéo về cho Lưu Bị hai bà vợ, ảnh hưởng đến chính cục nước Thục.

Hai người đàn bà ấy là Tôn phu nhân (Tam quốc chí diễn nghĩa có kể tỉ mỉ) và Mục Hoàng Hậu (Tam quốc chí diễn nghĩa không nhắc đến).

Tôn phu nhân là em khác mẹ của Tôn Quyền. Trong chuyện không chú ý đến nhan sắc, mà chỉ tả nàng với những cử chỉ cân quắc anh hùng.

Đặc điểm của cuộc hôn phối giữa Tôn Phu Nhân và Lưu Bị là chính trị chứ không phải là tình ái.

Tam quốc chí diễn nghĩa, La Quán Trung kể:

Qua vài hôm, quân do thám về báo:

-                           Trong thành Kinh Châu cắm nhiều cờ trắng, ngoài thành mới xây một nấm mồ mới, quân sĩ đều mặc đồ tang.

Du ngạc nhiên hỏi:

-                           Ai chết thế?

Quân do thám đáp:

-                           Cam Phu nhân mới chết, bên ấy đang sửa soạn ma chay.

Du bảo Lỗ Túc rằng:

-                           Kế ta nhất định thành công! Phen này quyết làm cho Lưu Bị phải bó tay chịu trói. Kinh Châu lấy lại dễ như trở bàn tay.

Túc hỏi: Kế ra làm sao?

Du đáp: Lưu Bị chết vợ, tất nhiên phải lấy vợ khác. Chúa công có cô em gái hùng dũng lắm, luôn có vài trăm thị tỳ cắp gươm hầu bên cạnh, trong phòng lại bầy la liệt đủ thứ vũ khí, ngay đàn ông cũng không giỏi bằng. Ta dâng thư lên Chúa công, rồi cho người sang Kinh Châu làm mối, rủ Lưu Bị sang đính hôn rồi lừa hắn đến Nam Từ, không gả người cho mà giam lại. Đoạn sai người đến đòi Kinh Châu đánh đổi Lưu Bị.

Rồi qua những hồi thứ 54, 55, 56 La Quán Trung nói đến các kế sách mà Khổng Minh dùng phá Chu Du trong công cuộc gả bán như sau: Phao tin cưới để Ngô Quốc Thái xen vào, Lưu Bị giả vờ khóc lóc, Lưu Bị nói khích Tôn phu nhân, đón vợ chồng Lưu Bị ở đầu sông. Đó chẳng qua là câu chuyện được tiểu thuyết hóa cho ly kỳ để nâng cao thú vị.

Sự thật, Lưu Bị làm rể Đông Ngô hoàn toàn do sự thỏa thuận của Tôn Quyền. Về phần Tôn phu nhân nàng cũng vui lòng nhận cuộc gả bán vì chính trị chứ không vì yêu thương. Còn phần Lưu Huyền Đức thì dĩ nhiên anh chàng bằng lòng rồi bởi vì Lưu Bị vẫn ưa lấy thêm vợ. Chính trị ở đây đã tạo nên một hỷ kịch chứ không phải một bi kịch.

Tôn phu nhân là người đàn bà cực thông minh, nàng hiểu rõ quan hệ Ngô Thục, nên hiến thân cho Lưu Bị. Cho nên khi nước Ngô cần nàng, nàng vẫn sẵn sàng về với Tổ quốc. (Xem lại hồi 61, Triệu Vân chặn sông đoạt A Đẩu).

Do chính trị, nên Tôn phu nhân tuy cùng nằm chung giường với Lưu Bị nhưng mộng hai người vẫn khác nhau. Tôn phu nhân đem thân làm dâu một nơi xa quê hàng ngàn dặm là nàng đã tự giao mình cho một sứ mạng chính trị, đem đất Thục về cho Ngô.

Khổng Minh rõ sự thế ấy lắm nên thường nói: “Mối lo sát nách là Tôn phu nhân gây biến động”. Bởi vậy ông luôn luôn căn dặn Triệu Vân, Pháp Chính và Trương Phi đề phòng.

Sau khi thất bại với mưu toan mang A Đẩu về Ngô làm con tin, Tam Quốc chí diễn nghĩa không nói gì đến cuộc đời của Tôn phu nhân nữa. Nhưng theo truyền thoại thì lúc nghe tin Lưu Huyền Đức chết ở trận Bạch Đế, Tôn phu nhân vật vã khóc mấy ngày rồi tự trầm chết cho vẹn toàn nghĩa vợ chồng. Lối xử sự của Tôn phu nhân đáng kể là một kỳ nữ.

***

Mục Hoàng hậu là con nhà họ Ngô. Họ này rời bỏ quê quán theo Lưu Yên vào Thục. Chuyện đầu cuối như sau:

Cuối Hán, thời vua Linh Đế, thiên hạ loạn ly, danh thần Hán là Lưu Yên muốn yên thân nên dâng sớ xin vua cho đi làm thái thú quận Giao Chỉ. Nhưng sau nghe thầy số nói có khí tượng Thiên Tử ở Ích Châu, nên Lưu Yên đổi ý xin chuyển sang đất Thục làm Ích Châu mục.

Đi theo Lưu Yên có toàn bộ tôn tộc nhà họ Ngô. Họ này có cô gái rất mực xinh đẹp, thông tuệ khác thường, thêm nữa được thầy tướng ca tụng không ngớt về quí tướng của nàng. Lưu Yên mới hỏi con gái họ Ngô cho con trai mình là Lưu Mạo.

Lưu Mạo tính khí điên điên khùng khùng không xứng với Ngô thị, nên dân chúng đương thời thường ví cặp vợ chồng này như phượng hoàng với quạ đen.

Ít lâu sau, âm mưu hùng cứ của Lưu Yên bị lộ, Hoàng Đế bèn sai con út của Lưu Yên là Lưu Chương về khuyên răn cha. Lưu Chương đến nơi thì vừa vặn Trung Nguyên loạn lớn, Hiến Đế lên ngôi và Đổng Trác nắm quyền. Lưu Yên bèn giữ con ở lại Ích Châu. Cùng lúc đó, con lớn của Lưu Yên là Lưu Phạm thông mưu với Mã Đằng phản Hán nên bị triều đình giết chết. Lại một việc khác xẩy đến là kinh đô Ích Châu bị trời ra tai cháy lớn, Lưu Yên buồn phiền thành bệnh mà chết. Truyền thoại nói rằng: lúc cháy, Lưu Mạo nhát sợ trốn vào góc nhà còn Ngô thị dùng kiếm lệnh của chồng đứng chỉ huy quan quân chữa cháy rất có trật tự. Sau vụ này Lưu Mạo bị mọi người chế diễu, nên mắc cỡ mà điên thật.

Chức Thứ sử vì thế mà lọt vào tay Lưu Chương.

Đến lúc Tào Tháo về Trung nguyên nắm quyền, Lưu Chương dâng biểu về và được Hán triều phong cho làm Trấn Uy tướng quân, còn Lưu Mạo làm Bình Khấu tướng quân.

Công việc trong quân phủ của Lưu Mạo đều do một tay Ngô thị quán xuyến. Nhiều lần Lưu Chương định cướp luôn chức của Lưu Mạo, nhưng e Ngô thị, Lưu Chương đành thôi.

Về sau Lưu Mạo chết, Lưu Chương tin lời đoán của thầy tướng nên tỏ ý muốn đón Ngô thị sang phủ làm vợ lẽ. Ngô thị dùng Đạo đức Khổng Mạnh để phá bỏ ý tưởng của Lưu Chương, Lưu Chương cũng sợ người đời chê cười hại cho uy tín sự nghiệp nên không dám cưỡng.

Ba năm qua, Lưu Bị vào Thục, Lưu Chương ra hàng. Lúc này Ngô thị tuổi đã trên ba mươi, nhưng nhan sắc vẫn còn lộng lẫy lắm. Lưu Bị trông thấy đã mê tít cung mây, Bị đem tâm sự trình bầy với Gia Cát Khổng Minh, nhờ Gia Cát đi hỏi. Ngô thị ban đầu từ chối, sau nhờ cái lưỡi lý luận của Khổng Minh, Ngô thị mới ưng chịu.

Lấy Ngô thị rồi, Lưu Bị xưng Đế phong Ngô thị làm Hoàng hậu. Đến đây lời thầy tướng mới nghiệm.

Ảnh hưởng của Ngô thị vào sinh hoạt chính trị của Thục là việc: Ngô thị mến Lưu Thiện nên vận động cho Lưu Thiện kế vị Lưu Bị. Nếu không có Ngô thị thì ngôi đế Thục về tay Lưu Vĩnh như ý Lưu Bị vẫn muốn từ trước, và rất có thể chính trị nước Thục đã đổi khác hẳn.

Chú thích:

[1] Trong Tam Quốc chí diễn nghĩa, việc Toản đánh Ký Châu là do chính Viên Thiệu sai, rồi lật lọng đánh Công tôn Toản

[2] Tam Quốc Chí diễn nghĩa hồi thứ mười

[3] Tam Quốc Chí diễn nghĩa hồi thứ mười một, bản dịch của Phan Kế Bính

[4] Tam quốc chí diễn nghĩa hồi thứ 20. Bản dịch: Phan kế Bính

Vũ Tài Lục

Nói Chuyện Tam Quốc

- 6 -

CHIẾN TRANH VIÊN TÀO

(Trận Quan Độ)

Sách Tam Quốc Chí Ngụy Vũ Đế bản ký chép:

Đời vua Hoàn Đế, sao Hoàng tinh mọc sáng giữa ranh giới hai nước Tống, Sở. Ân Quỳ, một nhà thiên văn ở đất Liêu Đông đoán rằng: năm mươi năm về sau tất sẽ có chân nhân khởi nghiệp tại vùng Lương Bái, sức mạnh như sấm sét. Quả nhiên đúng 50 năm, thì Tào phá Viên Thiệu, thế lớn chẳng ai bằng.

Những lời ghi chép trên đây chứng tỏ đương thời rất coi trọng cuộc chiến tranh Viên Thiệu-Tào Tháo, dân đoán đó là một trận đánh quyết định cục diện chính trị lúc bấy giờ.

Tháo cướp đoạt chính quyền Trung Ương, chiếm lãnh toàn bộ khu vực Trung nguyên, các lực lượng đối lập đều bị đè bẹp chỉ duy Viên Thiệu là kẻ địch lớn của Tháo mà thôi. Viên Thiệu chẳng những đất rộng binh cường, danh vọng trong xã hội lại rất cao nữa.

Có thể nói, trước trận Quan Độ, thiên hạ còn trong tay Viên Thiệu. Nhưng sau trận Quan Độ, thiên hạ chuyển về tay Tào Tháo.

Sự thất bại của Viên Thiệu được hậu thế nhìn nhận như thế nào? Trước đó người ta thấy nhiều luồng dư luận khác nhau, hết thẩy đều chê Thiệu, hoặc nhẹ hơn thì ngậm ngùi đổ thừa cho số phận. Đặc biệt Tam Quốc Chí diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung cũng muốn tạo tính điển hình cho một nhân vật tiểu thuyết nên Viên Thiệu đã phải chịu những phê phán cực nghiêm khắc. Qua ngọn bút La Quán Trung, Viên Thiệu không khác gì một con khỉ, càng trèo cao càng khiến cho người ta trông thấy cái đít đỏ của nó.

Viên Thiệu dưới mắt La Quán Trung

Viên Thiệu là một nhà chính trị bất tài, múa rối và ngu xuẩn. Viên Thiệu không có lấy một đức tính nào tốt cần thiết cho địa vị lãnh đạo đoạt Ký Châu, Thiệu chỉ nhằm vơ vét của cải mà không biết thu dụng những tài năng. Tuân Úc, người mưu sĩ lỗi lạc của Tào Tháo, đã từng ở bên cạnh Thiệu. Vì trông rõ tác phong thấp hèn của Thiệu nên sớm bỏ sang bên Tào Tháo. Trong một cuộc đàm thoại với Tào Tháo, Úc nhận thấy Thiệu như sau:

a)     Ngoài mặt thì bao dung nhưng lòng lại đố kỵ.

b)     Do dự không quyết đoán để hỏng việc về sau.

c)      Trị quân lỏng lẻo, chấp lệnh không nghiêm, quân nhiều mà vô dụng.

d)     Cậy là kẻ quyền uy, chuộng hư danh nên chỉ có những kẻ hẹp hòi, thấy lợi thì giúp phụng.

Đại kế chính trị của Viên Thiệu lẽ ra là phải nghênh giá Hiến Đế tại Nghiệp quận. Bằng căn cứ rộng lớn, quân số trăm vạn, nếu Thiệu biết nghe lời Thư Thụ, sớm mượn ngay danh nghĩa Thiên Tử sai khiến khắp chư hầu thì đâu đến nỗi gia phá mạng vong. Thư Thụ khuyên Thiệu: “Ví như không biết tính sớm, tất có kẻ làm trước ta, quyền chỉ đến từng cơ hội. Tướng Công cần phải làm tấn tốc”. Nhưng Thiệu cứ dùng dằng, đến lúc Tào Tháo nhanh chân Thiệu mới quyết định thì đã muộn.

Về quân sự, Viên Thiệu hoàn toàn dốt nát. Chiến dịch Quan Độ, trên tương quan lực lượng, binh Thiệu ở ưu thế tuyệt đối, quân số gấp mười binh Tào, lương thảo đầy đủ hơn Tháo bội phần. Thế mà chỉ vì 5,000 kỳ binh của Tào Tháo, khiến toàn bộ lực lượng Thiệu tan tác như hoa rơi, bình vỡ. Trước hết Tào Tháo giải quyết hai võ tướng ưu tú của Thiệu là Nhan Lương, Văn Xú sau rồi mới dẫn binh tới Quan Độ. Ở Quan Độ, Tháo phân hóa hàng ngũ Thiệu, phân thế lực Thiệu rồi đánh tấp vào chỗ yếu nhất là kho lương Ô Sào. Thiệu thua trận là tại Thiệu không biết nghe lời Điền Phong chủ trương chiến tranh lâu dài với Tháo.

Nhưng cái nguyên nhân to tát nhất tạo ra thất bại ê chề của Thiệu dưới mắt tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa là:

Thiệu không có tư cách lãnh tụ để sử dụng nhân tài và ứng phó biến chuyển.

Mưu sĩ Điền Phong ở Quan Độ nói với Thiệu rằng: “Tào Tháo tài dùng binh, quân lực Tào tuy ít ta chớ nên khinh địch, chẳng bằng hãy giữ thế lâu dài. Tướng quân hiện có bờ cõi chắc chắn, dân chúng bốn châu đông đúc, bên ngoài nên kết nạp anh hùng, bên trong nên phát động nông chiến. Kéo dài chiến tranh để làm giảm nhuệ khí quân Tào rồi ta phân kỳ binh, tìm chỗ yếu mà đánh. Tào mà cứu bên tả thì ta đánh riết bên hữu, Tào cứu phía hữu thì ta đánh riết phía tả, khiến địch quân vất vả khó nhọc. Chắc trong vòng hai năm phần thắng phải về tay ta.

Ngoài ra Viên Thiệu thêm tật kiêu. Trước thời cục nguy ngập, bao giờ Thiệu cũng cho chỉ có mình cứu nổi tình thế. Tự kiêu, tự đại, tự mãn. Thiệu trở thành con người không thèm nghĩ điều hay lẽ phải. Mỗi ngày mỗi ngu tối, Thiệu như người sa chân xuống vũng lầy.

Lật lại chiến dịch Quan Độ - Xét lại trường hợp Viên Thiệu

Đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa mọi người thường nghĩ giống nhau trên một điểm: “Chê trách Viên Thiệu đất lớn, binh mạnh mà không sớm biết giành thiên hạ, ngay khi Tào Tháo còn chưa bình định xong Hà Nam, lại ngồi nhìn Tào Tháo phá Đào Khiêm, hạ Lã Bố, thâu tóm Lưu Bị, đánh đuổi Viên Thuật, chiếm quyền Lạc Dương rồi mới phát động chiến tranh với Tháo là một đường lối chính trị “trông đợi” đại bại.

Ông Mao tôn Cương bình luận chiến tranh Viên, Tào viết:

- Lúc Tháo đang đánh Lã Bố, Thiệu có thể đánh úp Hứa Đô mà không đánh là một điều lầm lỡ. Lúc Tháo đang đánh Lưu Bị, Thiệu cũng có thể giốc lực đánh úp Hứa Đô mà Thiệu cũng không làm là hai điều lỡ. Lã Bố thua rồi, Lưu Bị chạy rồi Thiệu mới đánh Tào thì đã muộn quá lắm. Quân đội ở Quan Độ lẽ ra Thiệu phải chia hai mặt, một chống ở tiền tuyến, một đánh thẳng vào hậu phương của Tào Tháo mà Thiệu không làm là ba điều lỡ.

Sự thực, biến cố chính trị không có tính cách một chiều như những lời phê phán kể trên.

Nói đến chiến tranh thì trước hết phải ổn định được nội bộ, phải có một phương an toàn, giàu mạnh đã. Phê phán chiến tranh Viên, Tào ta đừng nên quên những mối lo nội bộ của mỗi bên. Chiếu theo niên lịch nhà Hán thì Viên Thiệu mãi tới năm Kiến An thứ 4 tháng 3 mới giải quyết xong Công tôn Toản, trong khi Tào Tháo đánh bại Lã Bố từ mùa đông năm Kiến An thứ 3. Đến mùa xuân năm Kiến An thứ 4 quan Thái Thú đất Hà Nội là Trương Dương bị bộ hạ là Trương Xú giết chết.

Trương Xú lại bị Khuê Cố hại, Cố quy thuận Viên Thiệu. Tào Tháo liền khởi binh đánh Khuê Cố, tháng tám năm ấy Tào Tháo tiến binh đến Lê Dương đồng thời chia quân phòng thủ Quan Độ, thế lực lan rộng đến Hà Bắc.

Bên Viên Thiệu, sau khi diệt Công tôn Toản, Thiệu bèn phái con trưởng là Viên Đàm giữ Thanh Châu, con thứ là Viên Hy giữ U Châu, và cháu ngoại là Cao Cán giữ Tinh Châu. Bố trí như vậy không đến nỗi chậm.

- Còn bảo Viên Thiệu ngồi chờ Tào Tháo vào Trung Ương dùng Thiên Tử sai chư hầu thì không đúng. Bởi vì, ngay khi Tào Tháo thiên Hiến Đế về Hứa Đô, Thiệu đã từng đem quân lực uy hiếp Tháo buộc phải đưa vua tới Yên Thành, thành này thuộc phạm vi thế lực Thiệu. Thiệu vốn vẫn chủ trương không nhận Hiến Đế. Hành động này chứng tỏ Thiệu không phải là con người chậm chạp xoay chuyển lập trường để ứng phó với tình hình thực tiễn. Tháo dĩ nhiên không nghe, lẽ ra chiến tranh Viên Thiệu bùng nổ ngay từ lúc ấy, nhưng nội bộ Thiệu lủng củng ở vùng Hà Bắc nên Thiệu đành bỏ qua để cho Tào Tháo thắng mình một bước. Hơn nữa nghênh giá hay không nghênh giá chẳng có liên quan chi đến sự thất bại của Viên Thiệu là mấy. Vậy không thể trách Thiệu là thất sách trên vấn đề tranh thủ “oai vua” được.

Bên Tào Tháo, thời gian đó không phải đã hoàn toàn rảnh tay, mối lo của Tào Tháo là bọn Trương Tú ở Nhương huyện. Địa thế Trương Tú mặc dầu phía Nam có thể liên kết với Lưu Biểu nhờ tiếp tế, nhưng Trương Tú nghe lời Giả Hủ đầu hàng Tào Tháo. Sở dĩ Giả Hủ khuyên Tú theo Tào vì hai lẽ:

1)                          Thế của Tú khó thắng nổi Tào, Viên Thiệu thì ở xa, Lưu Biểu thì chỉ muốn nhàn không muốn động.

2)                          Hủ cũng như các phần tử trí thức tiến bộ khác, bênh vực sự an toàn của đại cục, đấu tranh cho khuynh hướng thống nhất.

Trương Tú về với Tào Tháo tháng mưới một năm Kiến An thứ 4 thì tháng 12 Tào Tháo tiến binh tới Quan Độ. Nhưng vì Trương Tú lại nổi dậy, thành thử việc chiến tranh với Viên Thiệu đành phải dời sang một ngày khác. Giữa lúc Thiệu Tháo bắt đầu gay go, Trương Tú dấy binh, Tào Tháo tấn công Tú thì Viên Thiệu cũng ngọ nguậy. Lưu Bị nhanh chân xin Tháo cho đi đánh Viên Thuật, chẹn không cho Thuật liên minh với Thiệu.

Viên Thuật bấy giờ ở Hoài Nam, vì hoang dâm vô độ, khiến cho dân cùng tài tận, tự biết khó lòng đứng vững nên có ý đầu hàng Viên Thiệu. Tháo được tin liền phái Lưu Bị đem binh đi phá cuộc liên minh này. Lưu Bị thi hành xong sứ mạng, hiểu rằng không thể quay về với Tháo, liền đấy âm mưu chiếu chỉ bị lộ. Lưu Bị liền giết quan Thái thú Từ Châu là Xa Trụ rồi dồn quân đến Tiểu Bái, ra mặt chống Tào Tháo. Tháo sai Lưu Đại và Vương Trung đánh Bị đều bị Huyền Đức đánh bại.

Tháo sợ Lưu Huyền Đức mọc vây mọc cánh bèn quyết định động chinh diệt Lưu Bị. Việc này sách Tam Quốc Chí Ngụy Vũ Đế bản ký chép như sau:

Các Tướng nói: Người tranh thiên hạ với Ngài (chỉ Tào Tháo) là Viên Thiệu, nay Thiệu mới đến mà bỏ sang Đông, nhỡ Thiệu đánh vào phía sau thì làm thế nào? Tháo nói: Lưu Bị là nhân kiệt, Viên Thiệu tuy có đại chí nhưng xét việc chậm chắc không động ngay đâu.

Thiên Viên Thiệu truyện kể: “khi Tào Tháo đánh Lưu Bị, Điền Phong khuyên Viên Thiệu đánh úp phía sau Tháo. Thiệu nói: “Con ta mắc bệnh không lòng nào tính việc can qua”. Điền Phong ra ngoài lấy gậy đập xuống đất than rằng: “Chỉ vì đứa trẻ mà lỡ việc lớn”.

Những ghi chép trên đây chẳng qua chỉ là những lời phụ hội. Tháo giỏi dùng binh, hậu phương quyết nhiên không bỏ ngỏ, hơn nữa binh lực dồi dào, Tháo chắc đã giữ cẩn thận. Thêm nữa, căn cứ của Thiệu ở mãi tận Hà Bắc, muốn đánh úp Hứa Xương, trước phải vượt qua sông Hoàng Hà, khỏi Hoàng Hà còn phải đi hàng mấy trăm dặm nữa. Không thể chỉ trong vòng mười ngày mà có thể khắc phục nổi khoảng hành quân dài như thế. Bảo đem khinh binh mà đánh ư? Chống sao lại với lực lượng phòng thủ của Tào ở Hứa Đô. Còn lực lượng Lưu Bị thì rất có hạn, không đủ khả năng khiến chế quân Tào lâu được. Cho nên sự mong mỏi chính của Lưu Bị chỉ là chờ cho Viên Tào đánh nhau, rồi đứng đằng sau quấy rối mà thủ lợi. Cả Thiệu lẫn Tháo đều rõ điều này. Tháo sở dĩ tấn công Lưu Bị cũng là tại đã biết tinh tướng Lưu Bị. Tào Tháo không sợ chạm trán riêng với Lưu Bị, nhưng Tháo sợ Lưu Bị sẽ phá rối hậu phương giữa lúc chiến tranh với Thiệu bùng nổ.

Đụng độ, tự nhiên người thua là Lưu Bị, Lưu Bị chạy sang nương nhờ Viên Thiệu.

Ngoài ra có một yếu tố khác, nhiều người đọc Tam Quốc không lưu ý là: Tập đoàn vũ trang ở vùng núi Thái Sơn do Tang Bá cầm đầu. Bá trước kia phục tùng Lã Bố. Tháo đánh bại Lã Bố, chiêu hàng Tang Bá, rồi giao cho Tang Bá cai quản hai châu Thanh, Từ. Ở đây, Tang Bá có đủ lực để khiến chế Viên Thiệu cho nên Tào Tháo không sợ Thiệu tấn công mình từ mặt Bắc Sơn Đông, Tang Bá cũng có thể làm loạn ngay trong đất Hà Bắc của Thiệu.

Đến lúc vấn đề bình định nội bộ đã tạm xong. Thế là đã đến giờ phút tử chiến giữa Thiệu và Tào Tháo, vì tình trạng dằng co không cho kéo dài hơn được nữa, chiến tranh Viên Tào bùng nổ thực sự. Mở đầu là:

Tháng hai năm Kiến An thứ 5, Viên Thiệu phái Nhan Lương tấn công Bạch Hà thành thuộc Đông Quận của quan Thái Thú Lưu Diện còn Thiệu tự mình mang đại binh tới Lạc Dương. Tháng 4, Tào Tháo thống lĩnh binh đội đi cứu Lưu Diện, Tuân Du thấy Thiệu quân nhiều nên khuyên Tháo chuyển quân về hướng Tây thẳng đường Diên Tân giả vờ úp hậu phương của Thiệu. Quả nhiên Thiệu chia quân chống giữ mặt Tây. Tháo rút binh thật mau. Mặt khác lại sai Trương Liêu cùng Quan Công chặn đánh chém chết Nhan Lương. Tiếp luôn việc Thiệu qua sông. Lưu Bị cùng Văn Xú sang trước, Xú cũng bị Quan Công chém chết. Nhan Lương, Văn Xú hai danh tướng của Thiệu thất trận, làm cho thanh thế quân Tào vượt hẳn quân Thiệu. Tuy nhiên quân chủ lực của Viên Thiệu vẫn chưa hề hấn gì, cho nên thắng phụ còn phải đợi cuộc quyết chiến.

Tào Tháo thắng Nhan Lương, Văn Xú rồi, hồi binh về Quan Độ. Viên Thiệu tiến quân vào Dương Vũ, hai bên cầm cự nhau chẵn hai mươi tháng. Sau Viên Thiệu mới từ từ tiến binh, tựa vào các cồn cát mà đóng trại, suốt dọc từ Đông sang Tây trùng điệp ước mười mấy dặm. Tào Tháo chia quân chống giữ. Xuất binh quyết chiến thì thế của Tào Tháo hoàn toàn bất lợi. Viên Thiệu ồ ạt tấn công Quan Độ, trên đất đắp lũy, dưới sâu đào hầm. Thế trận Tào mười phần nguy cấp. Phòng thủ mặc dầu quân Tào Tháo còn đủ sức, nhưng lương thực đã cạn khó lòng giữ lâu đươc. Tào Tháo tính cách thoái về Hứa Đô, viết thư cho Tuân Úc thương nghị. Vấn đề thoái rút bây giờ thật trăm khó ngàn khó, chỉ hơi động bước là quân tình nao núng ngay và Thiệu sẽ đổ ra truy kích. Tuân Úc mới phúc đáp: “Ngài đem thế rất yếu đương đầu với thế rất mạnh, nếu không chế ngự nổi địch thì địch sẽ trùm lớp ta. Bây giờ chính là giờ phút phải dùng kỳ binh, xin đừng chậm trễ”.

Ý Tuân Úc là phải quyết chiến. Tình hình đã chống lại bất cứ một sự thoái rút nào. Không thoái rút được thì phải mạo hiểm. Mạo hiểm không có nghĩa là liều lĩnh, phiêu lưu, lao đầu vào chỗ chết mà phải tìm nhược điểm của địch mà đánh. Nhược điểm đó là vấn đề vận tải binh lương. Viên Thiệu có ước chừng hơn ngàn cỗ xe phụ trách việc này. Tào Tháo cho quân gắng sức đánh phá. Mặc dầu đốt khá nhiều, nhưng cũng không làm nổi quân Thiệu nao núng. Về sau mỗi lần đi tải lương, Thiệu đều có sai Thuần vu Quỳnh đi hộ tống, khiến cho kế hoạch đốt xe lương không thực hiện hiệu quả như trước. Tháo rất lo thì may thay:

Căn cứ sách Tam Quốc Chí thì Viên Thiệu có một mưu sĩ tên là Hứa Du, tính nết cực tham tiền, Thiệu không thỏa mãn được Du, Du chạy sang bên Tào, mang tin tức và bày mưu cho Tháo đánh Thuần vu Quỳnh ở chính kho chứa lương của quân Thiệu là Ô Sào.

Tháo, Tuấn Du, Giả Hủ tin theo bởi vì không còn đường nào khác hơn là nghe kế Hứa Du. Tháo liền tự mình dẫn năm ngàn bộ binh, người ngựa ngậm tăm đi đường tắt mà đến chỗ Thuần vu Quỳnh, Quỳnh thấy ít quân bèn xông ra bày thành trận thế tác chiến. Tháo hạ lệnh đánh gấp, giết chết Thuần vu Quỳnh. Ván bài Ô Sào đúng là ván bài cạn láng trong đời chính trị của Tào Tháo vậy.

Sách Tam Quốc Chí Ngụy Vũ Đế bản ký viết:

Trương Cáp nghe tin Tào Tháo công hãm Thuần vu Quỳnh nên chạy vào khuyên Thiệu nên đem ngay đại binh cứu Quỳnh. Nhưng mưu sĩ Quách Đồ gạt đi nói: “Cứu Quỳnh không bằng đánh thẳng vào chính doanh Tào Tháo”. Trương Cáp cãi nói: “Doanh trại Tào Tháo kiên cố, đánh chắc không xong”.

Viên Thiệu nghe lời Quách Đồ, không nghe Trương Cáp nên chỉ sai ít kỵ binh đến cứu Thuần vu Quỳnh và sai Trương Cáp, Cao Lãm lãnh đại binh tấn công doanh trại Tào Tháo. Quả nhiên doanh Tào không phá nổi, mà Thuần vu Quỳnh thì bị giết chết.

Quách Đồ thấy kế mình hỏng, xấu hổ nói với Thiệu rằng: “Trương Cáp nghe tin thất trận mừng lắm”. Cáp biết Đồ dèm mình cốt để che lỗi, lo sợ Thiệu sẽ vì lời Quách Đồ mà giết hại mình nên đem quân bản bộ tìm Tào Tháo đầu hàng.

Cũng ở trong một cuốn sách, mà chép chuyện trái ngược hẳn nhau, vậy thì những chuyện kể về Trương Cáp hàng Tháo cũng như về vụ cướp phá kho binh lương Ô Sào không có gì chứng thực là đúng cả.

Lấy lý luận mà suy, ta thấy rằng:

Nơi Thuần vu Quỳnh đóng trại, tức Ô Sào, chỉ cách xa đại doanh Viên Thiệu chừng 40 dặm. Nếu cứu mà kịp thì Viên Thiệu đâu đến nỗi quá ngu ngốc lại không cứu? Vả lại lực lượng Tào Tháo chỉ có 5.000 người, trong khi đó Thuần vu Quỳnh đã có 10.000. Lại thêm 5.000 kỵ binh mà Thiệu cho tiếp viện về sau, cộng tất cả là 15.000 người, so sánh gấp ba quân Tào. Còn một điều khác nữa là, quân Thiệu đâu phải ít, Thiệu có thừa khả năng vừa đánh doanh trại Tào, vừa cứu viện Ô Sào. Những sử liệu về trận Ô Sào rất lơ mơ nên sau này người ta không rõ sự thật Ô Sào thất thủ ra sao. Tuy nhiên, theo suy luận ta có thể quyết đoán rằng: “Ô Sào đã thua rất nhanh, nhanh hơn cả thời gian quân Thiệu vượt 40 dặm đến cứu viện. Lý do nào cho Tháo mức nhanh đó không rõ, kế Hứa Du hay một lối hành quân chớp nhoáng của Tháo? Sở dĩ Tháo chỉ dùng 5.000 quân vì dùng nhiều để (dễ?) lộ, lúc tin tức đến với Thiệu thì Ô Sào đã giải quyết xong. Việc sai Cao Lãm, Trương Cáp nhằm thẳng ngay trại Tào tấn công bất quá chỉ là đòn gỡ gượng ép mà thôi.

Lực lượng Viên Thiệu bị tiêu diệt ra sao?

Thuần vu Quỳnh bị giết rồi, Trương Cáp đầu hàng rồi. Căn cứ theo Tam Quốc Chí thì: Quân Viên Thiệu vì thế mà vỡ. Viên Thiệu và Viên Đàm bỏ quân mà chạy, Tào Tháo toàn thắng. Lý lẽ của sự bại đó đại khái là: Quân Viên Thiệu đồn trú lâu ngày nên nhuệ khí tiêu tán, lòng quân giao động nên đến nỗi chỉ vài trận nhỏ đã khiến cho Thiệu không gượng dậy nổi nữa.

Tào Tháo dùng kỳ binh đánh Thuần vu Quỳnh thật là cuộc hành quân vô cùng táo bạo. Tuy nhiên, dù sao trận Ô Sào cũng không chứng tỏ tài ba chiến lược của Tào Tháo được. Tài ba ấy chỉ nổi bật lên ở chỗ Tào Tháo dám đương đầu lâu dài với Viên Thiệu, để chờ nhuệ khí bên Thiệu nhụt đi. Tháo quả biết đến ruột gan Thiệu. Thắng bại trong chiến tranh tùy thuộc phía nào đứng vững lâu nhất.

Sách Tam Quốc Chí, chương Viên Thiệu truyện viết:

-                          “Viên Thiệu khi chưa xuất binh, Điền Phong đã khuyên rằng: chia binh làm nhiều cánh, thừa chỗ yếu, chỗ trống, đánh tả, đánh hữu, sẽ khiến cho quân đội mệt nhọc mà dân chúng chẳng an cư. Chi bằng buộc Tào Tháo phải quyết phân thắng phụ trong một trận lớn”.

Viên Thiệu không nghe. Đến khi Nhan Lương, Văn Xú bị giết, Thư Thụ lại tâu với Thiệu: “Quân Bắc nhiều nhưng không giỏi bằng quân Nam. Quân Nam thiếu lương, tài lực không sung túc bằng quân Bắc. Thế tất quân Nam có nhu cầu tốc chiến, tốc quyết, ta sẽ không cho địch thỏa mãn nhu cầu ấy bằng cách áp dụng kế hoạch chiến tranh lâu dài”.

Viên Thiệu cũng không nghe.

Đọc đoạn trên Viên Thiệu rõ ràng là một anh chẳng biết thưởng thức kế sách quân cơ bao giờ. Đáng đánh mau, không đánh. Đáng đánh lâu dài lại không lâu dài.

Điểm này thật oan cho Thiệu, vì sách đã xuyên tạc. Đành rằng kế Điền Phong, Thiệu không dùng. Nhưng còn kế Thư Thụ thì Thiệu đâu có bỏ. Bằng cớ là: Thiệu với Tháo dàn quân từ tháng tư mà mãi đến tháng tám mới thực sự đánh nhau. Có lần Tào Tháo đã muốn rút quân vì hết lương ăn, cái thư Tháo viết cho Úc chính là kết quả của chiến lược lâu dài Thiệu đã áp dụng.

Thiệu thua bởi tại Tháo kiên cố quá. Khả năng kiên cố của Tháo, Thiệu lại không biết dốc toàn lực đánh quyết liệt mà chỉ đánh “rỉa” nên thua vậy.

Viên Thiệu thua, tình thế xoay chuyển hẳn. Trước đây Bắc khỏe Nam yếu, bây giờ Bắc yếu Nam khỏe.

Nhưng Thiệu cũng chưa đến nỗi yếu đến mức để Tháo có thể quét sạch một cách dễ dàng. Bởi vì sau khi thoát khỏi Quan Độ, mặc dầu bị Tào Tháo truy đuổi ráo riết, nhiều Quận Huyện tại vùng Ký Châu hàng Tào, nhưng Thiệu chỉ ít ngày sau đã chấn chỉnh đội ngũ để giành các Châu Quận bị chiếm, khiến Tào Tháo phải chùn không dám tiến vào sâu nữa.

Tháo vốn vẫn tinh lắm về vấn đề thôn tính, nay phải chùn, đủ rõ quân Thiệu còn khỏe lắm.

Nhưng tại sao lực lượng Thiệu về sau bị hoàn toàn tiêu diệt?

Lực lượng Thiệu bị tiêu diệt không vì thất bại quân sự mà hoàn toàn do tranh chấp chính trị nội bộ gây nên.

Sự tình như kể sau đây:

“Tào Tháo không tiến sâu lên Hà Bắc nữa, bèn hồi binh về Hứa Đô. Trên đường về vòng đánh xuống để giải quyết ung nhọt Lưu Bị. Bị phải chạy nương nhờ Lưu Biểu.

Mùa xuân năm Kiến An thứ 7, Tào Tháo lại xuất binh đến Quan Độ, đến tháng 5 thì Viên Thiệu bị bạo bệnh chết. Các thủ hạ của Thiệu chia làm hai phe. Phe ủng hộ Viên Thượng, phe ủng hộ Viên Đàm. Anh em họ Viên liên tục tương tranh. Tào Tháo định lợi dụng tấn công, nhưng lần này cũng uổng công vì anh em họ Viên lại đoàn kết. Năm Kiến An thứ 8, Tào Tháo tạm gác việc đánh Hà Bắc, trở về Hứa Đô và thu xếp chinh Nam phen nữa, đánh thẳng vào căn cứ của Lưu Biểu.

Viên Đàm, Viên Thượng thấy Tháo rút rồi lại quay ra đánh nhau. Kết cục Thượng thắng Đàm. Đàm sai người cầu cứu với Tào Tháo. Tháo mới nhân cơ hội hiếm có này, quay binh trực chỉ Hà Bắc đánh Viên Thượng tại Nghiệp thành. Lúc này vào năm Kiến An thứ 9, đánh từ tháng hai đến tháng chín thì Thượng thua, bỏ thành chạy vào rừng. Viên Đàm nhờ Tháo chiếm lại Đông Quận thuộc Ký Châu làm bàn đạp tấn công Viên Thượng. Thượng lại phải chạy đến nương nhờ Viên Hy.

Năm Kiến An thứ 10, Tào Tháo tìm cớ triệt hạ Viên Đàm rồi tiến lên giải quyết nốt căn cứ của Viên Hy. Hy, Thượng thua, lên ẩn náu với bộ lạc Ô Hoàn. Đương đầu với Ô Hoàn mãi không xong, vì quân Ô Hoàn là Sơn Tặc với chiến thuật Du kích đánh rừng khiến Tào Tháo thiệt hại vô kể. Sau nhờ kế hoạch Điền Trù, quân Ô Hoàn mới chịu thua. Thượng và Hy lại đào tẩu lên Liêu Đông ở với Thái Thú Công Tôn Khang. Các mưu sĩ của Tháo khuyên Tháo đánh Liêu Đông, Tháo cười mà rằng: quân ta đã mệt mỏi phải cho nghỉ ngơi, chờ Khang với anh em họ Viên thanh toán nhau lúc đó ta ra tay chắc dễ dàng. Quả nhiên ít lâu sau, Khang cho người về gửi biếu Tháo hai chiếc thủ cấp của Viên Thượng và Viên Hy. Đến đây vấn đề họ Viên và Hà Bắc mới giải quyết hẳn.

Điền Trù

Đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa, độc giả thường lưu ý đến Hứa Chử, Điển Vi, Mã Đại, Bàng Đức chỉ vì Hứa Chử xoay trần đánh Mã Siêu, Điển Vi liều mình cứu Tào Tháo. Mã Đại vâng lệnh cẩm nang chém Ngụy Diên, Bàng Đức quyết tử chiến với Quan Vũ. Nhưng hầu hết đều quên một nhân vật: Điền Trù. Trong khi Điền Trù lại là người mang những ảnh hưởng to tát đến chính trị Tam Quốc chẳng kém gì Tào Tháo, Khổng Minh, Lưu Bị, Tư Mã Ý hay Đặng Ngải, Chung Hội.

Sở dĩ Điền Trù bị bỏ quên là tại độc giả chú trọng nhiều đến những âm mưu chính trị, những mưu mẹo chiến trận mà không ngó ngàng mấy đến những đại kế của thời đại. Đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa ai cũng nặng về tâm lý truyền kỳ hơn là tìm hiểu lịch sử.

Điền Trù tuy không đánh trận chém tướng như Quan Vũ, Triệu Vân, Mã Siêu, tuy không bỏ vua lập vua, bàn mưu tính kế như Tào Tháo, Khổng Minh, Giả Hủ, Tuân Úc. Nhưng ông vẫn đáng kể là một trong những người trọng yếu nhất của thời đại Tam Quốc.

Trù nguyên quán Bắc Bình, sinh nhằm cuối đời Hán. Ông rất chăm đọc sách, luyện kiếm. Năm đầu Bình Nguyên, Điền Trù mới 24 tuổi, Đổng Trác ăn hiếp vua Hiến Đế ở Tràng An, thiên hạ loạn lạc, ông ra giúp việc cho Lưu Ngu. Ít lâu sau Điền Trù được vời về Tràng An làm việc. Khi trở lại quê nhà thì tình trạng đã đổi thay, Công Tôn Toản làm phản, chiếm địa vị của Lưu Ngu. Trù chống lại Toản, nhất định không chịu cộng tác.  Cảm thấy khó yên thân với Toản, Điền Trù đem theo hơn trăm gia nhân chạy ẩn lên vùng núi Từ Vô. Tại đây ông lập kế hoạch khai phá đất hoang. Dân chúng quy tụ mỗi ngày mỗi đông.

Rút  kinh nghiệm cuộc khai phá này, Điền Trù phát hiện ra chính sách đồn điền để phát triển thế lực Trung Quốc ở các vùng biên duyên.

Vùng ông khai phá người đương thời gọi là tiên cảnh, ở đấy xã hội sống hoàn toàn trật tự, lễ nghĩa và sung túc.

Viên Thiệu sai người đến vời, Trù từ chối. Thiệu chết, Viên Thượng lại vời, Trù vẫn khước từ. Đến lúc Tào Tháo Bắc chinh Ô Hoàn liền cho triệu, thì ông nhận lời ngay. Môn nhân hỏi ông rằng: “Cớ sao lần trước cha con họ Viên mời ông không nhận, nay lại ra giúp Tào Tháo?” Điền Trù đáp: “Đó là điều mà có giải thích ra các ông cũng chưa ý thức ngay được”. Sau khi đàm luận với Tháo, Trù được Tháo coi như làm cố vấn. Cố vấn cho họ Tào, Điền Trù lập lại kế lớn là:

a)      Khuyên Tào Tháo đánh Ô Hoàn từ mạn Lư Long.

b)      Áp dụng chính sách đồn điền.

Tào Tháo nghe, quả nhiên thắng lợi to.

Chính sách đồn điền là gì?

Ngược dòng sử, quay về đời Tây Chu,  ta thấy Tây Chu vốn là một bộ tộc nông canh đã đánh bại Ân triều và mở  rộng bờ cõi. Tây Chu sở dĩ thắng lợi là nhờ ở một chính sách nông nghiệp tiến bộ. Tây Chu tổ chức nhiều tập đoàn vũ trang đi giồng cấy để vừa tấn công vừa chiếm đất cư ngụ, khai điền phá mương, vừa mở rộng thế lực quân sự, vừa phát triển thế lực chính trị và văn hóa. Vừa đánh nhau vừa tự cung tự cấp. Điền Trù đặt tên cho chính sách ấy là chính sách đồn điền. Kèm theo nhiều kinh nghiệm cùng hiểu biết của ông về địa lý, Điền Trù đã đem lại cho Tào Tháo một kế hoạch phá Ô Hoàn rất tinh vi.

Kế hoạch của Điền Trù đã giải quyết cho Tào Tháo hai nỗi khó khăn:

Thứ nhất: tiêu diệt lối đánh du kích của dân tộc du mục sơn dã Ô Hoàn luôn luôn làm tổn hại lớn cho lực lượng Tào Tháo. Tháo y theo kế hoạch, cũng cho tổ chức những tập đoàn võ trang khẩn thực, mang nhiệm vụ đồn trú thường kỳ, một mặt đánh giặc, một mặt vỡ hoang xây dựng kinh tế nông nghiệp tiêu diệt du mục. Đi đến đâu, các tập đoàn võ trang khẩn thực đều vượt đất thành làng, đắp hào đắp lũy án ngữ ngay các cứ điểm quân sự để dồn quân Ô Hoàn vào thế bất lợi.

Thứ hai: Giải quyết vấn đề lương thực cho quân Tào chống lại với tình trạng kinh tế nông nghiệp theo chế độ bộ khúc, sản phẩm của loạn ly liên tiếp lúc bấy giờ.

Thấy công lao Điền Trù to tát, Tào Tháo muốn phong tước cho ông, ông không nhận, xin trở về nơi “thế ngoại đào nguyên” của ông để vui thú tiêu dao. Ông mất năm 46 tuổi. Sau này nhà thơ Đào uyên Minh có nhắc đến ông trong 2 câu:

-          Văn hữu Điền tử xuân

-          Tiết nghĩa vi sĩ hùng.

Vũ Tài Lục

Nói Chuyện Tam Quốc

- 7 -

TRẬN XÍCH BÍCH

Trận Xích Bích là một quan kiện chính trị liên hệ tới vấn đề chia cắt và thống nhất. Giả sử Tào Tháo thắng hoặc không có trận này thì thiên hạ đã thống nhất ngay mà không chia ba.

Nói đến trận Xích Bích, trước hết phải tìm hiểu hình thế của ba lực lượng chủ động: Lưu Bị, Tôn Quyền, Tào Tháo.

Lưu Bị là người có chí lớn, đầu óc lãnh tụ, thà làm đầu gà còn hơn làm đít trâu. Cho nên nhiều dịp Tào Tháo muốn thu dụng Bị, Bị đều từ chối. Không những thế, Lưu Bị trải qua một thời gian lập đức, định chuyển sang giai đoạn lập công, bèn cấu kết với Đổng Thừa, định dùng âm mưu chính trị cung đình quật ngã Tào Tháo. Thua, Bị xin tá túc bên Viên Thiệu rồi Lưu Biểu. Thế của Bị sau vụ Đổng Thừa là một mất một còn với Tháo, chứ không thể dung tha nhau được nữa, dù yếu, dù mạnh, Lưu Bị cũng phải chống Tào Tháo đến cùng.

Phần Tôn Quyền ta cần phải liên hệ Quyền với Tôn Sách để nhận định.

Tôn Sách liên kết với Viên Thuật. Thấy Tôn Sách gan dạ, anh hùng, Thuật trao lại bộ hạ cũ của Kiên cho Sách. Sách nhiều lần lập công lớn cho Thuật. Nhưng Thuật là người không sáng suốt, thưởng phạt bất minh, thiếu khả năng dùng người, quên lời đã hứa cùng Tôn Sách khiến Tôn Sách thất vọng. Sách nghĩ bụng, nếu cứ ở với Thuật, rồi ra không có ngày mở mặt nên tính kế xin Thuật phái mình đi bình định Giang Đông. Căn cứ địa lý thời hậu Hán thì Giang Đông thuộc Dương Châu. Các quan thứ sử Dương Châu vẫn đồn thú tại Thọ Xuân (tức Thọ Huyện tỉnh An Huy ngày nay). Thời gian này Thọ Xuân bị Viên Thuật chiếm giữ, thứ sử Dương Châu là Lưu Giao phải rời về Khúc A. Tuy quân lực thua sút Lưu Giao vẫn cầm cự dằng dai với Thuật.

Lúc Tôn Sách vượt sông sang, tình thế chuyển ngay, Sách có thiện chí xông xáo đánh bại Lưu Giao. Toàn giải đất Giang Đông dọc theo bờ sông rơi vào tay Tôn Sách, Tôn Sách chụp cơ hội bỏ ngay Viên Thuật.

Tào Tháo bấy giờ chưa đủ lực nuốt Giang Đông, lại nhân có mâu thuẫn với Viên Thuật, Tháo mới ve vãn Tôn Sách bằng cách dâng biểu xin vua phong cho Tôn Sách làm Ngô Hầu, xưng hiệu Thảo Nghịch tường quân.

Năm Kiến An đệ ngũ, đang khi chiến tranh Viên Tào gay go, hai bên cầm cự nhau, Tôn Sách nẩy ra ý định xuất quân qua sông vượt lên miền bắc; chưa kịp chuẩn bị xong thì Sách bị bắn chết.

Đầu đuôi câu chuyện bắn lén như sau: Tôn Sách qua Giang Đông, có quan Thái thú Ngô quận tên là Hứa Cống mật biểu về trào nói: Tôn Sách kiêu dũng, không nên để y ở ngoài, sẽ thành hậu họa. Sách bản ý hằng mong muốn lập giang sơn riêng, nay nghe tin Hứa Cống muốn phá kế mình, nổi giận giết phăng Cống. Các môn khách của Cống thề phục thù, họ lẩn quất trong đám dân, gặp cơ hội Tôn Sách đi săn, mải đuổi thú, Sách đơn phương, độc mã lạc vào ngay ổ phục kích của môn khách nhà họ Hứa nên bị tên độc.

Ý định xuất binh của Sách, Tam Quốc Chí bản truyện cho rằng: Sách muốn đánh úp Hứa Đô nghênh giá Hiến Đế.

Tam Quốc Chí đã nói sai. Ta có thể tìm nhiều lý lẽ để chứng minh sự sai lầm của Tam Quốc Chí bản truyện. Trước hết, Tào Tháo tinh thông binh sự, không đời nào lại bỏ trống hậu phương. Thứ nữa, Giang Đông với Hứa Đô so với Hà Bắc xa gấp 5, 6 lần, liệu quân Tôn Sách có tới nơi không, chứ chưa nói đến thắng hay bại. Tôn Sách giỏi quân sự chắc chẳng mán xá đến thế. Ngoài ra, giành giựt một ông Thiên Tử trong tình trạng chính trị vũ trang đấu tranh lúc ấy thật quả không cần thiết cho lắm.

Vậy tại sao Tôn Sách lại có ý định xuất binh? Độc giả Tam Quốc Chí phần lớn thường bỏ sót điểm này.

Nguyên lai, Trần Khuê, một vị quan cai trị cao cấp, trước sau quy phục Trung ương, ghét bọn Lã Bố, e khó bình định, nên vội vã đến dụ thuyết Lã Bố để phá hoại sự liên kết Bố-Thuật. Mặt khác Khuê sai con là Trần Đăng yết kiến Tào Tháo, nói Lã Bố hữu dõng vô mưu, phản phúc vô thường, nên tìm cách nhử Bố vào bẫy. Gặp Trần Đăng, Tháo rất hài lòng, bèn phong cho Trần Đăng làm Thái Thú Quảng Lăng. Tháo còn nắm tay Đăng mà rằng: “Tôi giao hết cả miền Đông cho ông đó”. Ý nói Đăng hãy thâu thập bộ hạ chờ cơ làm nội ứng cho mình. Quả nhiên, cha con Khuê Đăng giúp được Tháo tiêu diệt Lã Bố. Tháo xin vua phong cho Đăng làm chức Phục Ba Tướng Quân.

Có lực lượng, danh nghĩa rồi, Trần Đăng mới dòm ngó đất Giang Đông của Tôn Sách, Tôn Sách 2, 3 lần chinh phạt Đăng đều thất bại vì chiến lược du kích của Đăng. Lần này, Tôn Sách gắng sửa soạn kỹ càng để quyết tiêu diệt địch, kẻ cứng cổ đó. Như vậy rõ ràng là Tôn Sách xuất binh đánh Trần Đăng chứ không phải đánh thẳng vào vị trí của Tháo. Việc chưa xong, Sách lâm nạn!

Đến đây, đời chính trị của Tào Tháo phạm phải một thất sách to lớn là khi Tôn Sách tử nạn, Tháo lại điều động Trần Đăng đi nhậm chức Thái thú Đông Thành, thành thử Tháo đã nhổ hộ cho Giang Đông cái răng đau nhức. Đến nỗi về sau thua trận Xích Bích, Tháo phải nói:

-          Ân hận đã không nghe lời Trần Nguyên Long!

Cái thất sách ấy là do Tào Tháo muốn, vì sợ khả năng chính trị đấu tranh khôn khéo dẻo dai của Trần Đăng có địa bàn Đông Ngô thì còn nguy hơn Tôn Quyền, hay là một thất sách thật sự, khó lòng mà đoán biết được.

Tôn Sách mất, Tôn Quyền kế vị. Công việc trước mắt của Tôn Quyền là: Chỉnh đốn các vùng Giang, Triết, Hoãn, Chương, chiếm đất của Hoàng Tổ mở mang sang các vùng Đông Nam tỉnh Hồ Bắc, miền Tây đến Hán Khẩu tiếp giáp Gia Lăng và Tương Dương. Trong lúc Tôn Quyền tiến hành mạnh mẽ công cuộc thống nhất khu vực mình thì Tào Tháo khởi binh đánh Lưu Biểu. Bản chất Lưu Biểu là một văn nhân nhu nhược, giữa thời nhiễu nhương mà Biểu chỉ muốn ngồi yên nhìn thành bại, mong làm kẻ bắt cá. Chủ trương bất động, cơ hội ăn sẵn không thể lâu dài được.

Tháng 7 năm Kiến An thứ 13, Tào Tháo chinh phạt phía nam, vây Kinh Châu, Lưu Biểu lo phiền lâm bệnh chết. Con trai lớn của Lưu Biểu là Lưu Kỳ bị âm mưu ngoại thích truất phế, tống ra trấn giữ Giang Hạ. Em Kỳ là Lưu Tông lên thay. Lưu Tông cùng bọn tay sai không có khả năng chống lại quân Tào nên đầu hàng vô điều kiện ngay khi binh Tào tới Tân Dã. Lưu Bị lúc ấy đóng binh tại Phàn Thành bên bờ sông Tương Dương, phải vượt qua sông bỏ chạy về phía Tây Nam.

Việc này sách Tam Quốc Chí Tiên Chủ truyện chép: “Lưu Bị bỏ đi, Gia Cát Lượng khuyên Lưu Bị sửa soạn công kích Lưu Tông để chiếm Kinh Châu, Lưu Bị nói “Ta không nỡ”.

Chép thế có phần tiểu thuyết hóa khó xác thực. Đành rằng đương thời Tương Dương rối loạn, khắc phục Lưu Tông có thể dễ dàng, nhưng đại binh Tào Tháo rầm rập kéo đến thì sao? Gia Cát Lượng thường cẩn thận, không lẽ lại đi làm chuyện phiêu lưu để rồi không có đất mà chôn ư?

Lâm vào cái cảnh “trời chiều, đường tận”, Lưu Bị mang theo lực lượng của mình cùng với một số dân chúng tị nạn lếch thếch chạy đến Hạ Khẩu nhờ vả Lưu Kỳ sau khi vừa thoát Đương Dương Trường Bản.

Nếu tình trạng này kéo dài, chắc Lưu Bị phải chết. Bất ngờ xuất hiện sự chuyển hướng của Giang Đông. Tôn Quyền cùng Lưu Bị liên minh, Bị như cây khô gặp nước.

So sánh tư cách chính trị giữa Tôn Quyền và Lưu Bị, Tào Tháo gờm Lưu Bị hơn Tôn Quyền. Huyền Đức tuy nhiên bao lần chiến bao lần bại, nhưng Tháo lúc nào cũng lưu ý Lưu Bị hơn bọn Viên Thiệu, Lã Bố, Tôn Sách, Tôn Quyền một bậc. La Quán Trung miêu tả tâm lý Tào Tháo đối với Lưu Bị như sau:

Tháo và Huyền Đức cùng ngồi dựa vào bao lơn ngắm mai. Tháo hỏi: “Sứ quân có biết Rồng nó biến hóa như thế nào không?”

Huyền Đức nói: “Tôi chưa được tường”

Tháo nói: “Rồng lúc thì to, lúc thì nhỏ, lúc thì bay lúc thì nấp. Lúc to thì nổi mây phun mù, lúc nhỏ thì thu hình nép cánh, khi bay ra thì liệng trong trời đất, khi ẩn thì nấp ở dưới sông. Nay đang mùa xuân, Rồng gặp thời biến hóa cũng như lúc người ta đắc chí, tung hoành bốn bể. Rồng ví như anh hùng trong đời. Huyền Đức lâu nay đã đi khắp bốn phương, bao nhiêu anh hùng đời nay hẳn đã biết cả, xin thử nói cho nghe.”

Huyền Đức thưa: “Bị này mắt thịt, biết đâu được anh hùng?”

Tháo nói: “Huyền Đức không nên nhún mình quá”

Huyền Đức nói: “Bị này được nhờ ơn Thừa tướng làm quan trong triều, anh hùng trong thiên hạ thực quả không biết”.

Tháo nói: “Đã đành không biết mặt, nhưng cũng nghe tiếng chứ.”

Huyền Đức nói: “Viên Thuật ở Hoài Nam, binh lương nhiều có thể gọi là anh hùng được.”

Tháo cười: “Xương khô trong mả, chỉ nay mai là ta bắt được”.

Huyền Đức lại nói: “Anh của Viên Thuật là Viên Thiệu ở Hà Bắc, bốn đời làm Tam Công có nhiều đầy tớ cũ, hiện nay như con hổ dữ hùng cứ ở Ký Châu, bộ hạ nhiều tay tài giỏi, có thể cho là anh hùng được.”

Tháo lại cười nói: “Viên Thiệu ngoài mặt mạnh bạo, trong bụng nhút nhát, thích mưu mẹo mà không quyết đoán, làm việc lớn lại lo đến bản thân, thấy lợi nhỏ thì quên mình thì sao gọi là anh hùng?”

Huyền Đức lại nói: “Có một người nổi tiếng trong đám kẻ tuấn kiệt, uy khắp cả chín châu là Lưu Cảnh Thăng có thể cho là anh hùng?”

Tháo lại cười: “Lưu Biểu có hư danh nhưng không có thực tài, không phải anh hùng.”

Huyền Đức lại nói: “Có một người sức lực đương khỏe, đứng đầu xứ Giang Đông là Tôn Bá Phù, hẳn là anh hùng.”

Tháo nói: “Tôn Sách nhờ có danh tiếng của bố, không phải anh hùng.”

Huyền Đức hỏi: "Lưu quý Ngọc ở Ích Châu có phải là anh hùng không?"

Tháo cười: "Lưu Chương tuy là tôn thất, nhưng chỉ là con chó giữ nhà, sao gọi là anh hùng được."

Huyền Đức lại nói: "Thế bọn Trương Tú, Trương Lỗ và Hàn Toại thì thế nào?"

Tháo vỗ tay cười to: "Lũ tiểu nhân nhung nhúc ấy thì nói lên làm gì".

Huyền Đức nói: "Ngoài những người ấy ra, Bị thực không biết ai nữa".

Tháo nói: "Anh hùng là người trong bụng có chí lớn, có mưu cao, có tài bao bọc được cả vũ trụ, có chí nuốt cả trời đất kia."

Huyền Đức mới hỏi: "Ai có thể xứng đáng được như thế?"

Tào Tháo lấy tay trỏ Huyền Đức rồi lại trỏ vào mình mà nói rằng: "Anh hùng trong thiên hạ bây giờ chỉ có sứ quân và Tháo mà thôi." Huyền Đức nghe nói giật nẩy mình, cái thìa, đôi đũa đương cầm ở tay rơi cả xuống đất.

Đánh giá Tôn Quyền quá thấp, đồng thời không dự liệu được trí mưu quyền biến thiên tài của Gia Cát Lượng nên Tào Tháo ghi lên trang sử hoạt động chính trị của Tháo một vết đen quá lớn và quá sâu vì thua quân ở Xích Bích.

Lưu Biểu chết, tin đến Giang Đông. Lỗ Túc liền nói với Tôn Quyền:

- Kinh Châu là trọng địa, xin chúa công cho tôi đi viếng tang nhân tiện dò xét tình hình. Nếu Lưu Bị và Lưu Biểu không có hiềm khích gì với nhau thì ta cùng họ liên kết, nhược bằng họ bất hoà, tôi sẽ có chủ ý khác.

Tôn Quyền bằng lòng.

Lỗ Túc liền ngược Giang Tây tới Hán khẩu thì nhận được tin Tào Tháo đang tiến quân hướng về phía Kinh châu. Lỗ Túc vội vã đi gấp ngày đêm, mới đến Nam quận đã có người phi báo  là Lưu Tông hàng Tào rồi và Lưu Bị phải chạy về Nam. Lỗ Túc liền tắt đường nghênh đón Lưu Bị ở Trường Bản. Gặp Bị, Túc khuyên Bị nên liên hợp với Tôn Quyền. Gia Cát Lượng nói: "Sự gấp, tôi xin đi cầu cứu Tôn tướng quân". Gia Cát Lượng rời Hán khẩu đi gặp Tôn Quyền tại Cửu giang.

Lúc này bên Tôn Quyền đang có cuộc tranh luận gay go để quyết định chiến hay hàng. Theo tài liệu sử thì phe chủ hàng chiếm đa số trong hội nghị. Phe chủ hàng lập luận:

I- Tào Tháo khoác danh là tướng nhà Hán, nếu kháng cự thì khác gì phản kháng Trung ương.

II- Tào Tháo nắm trọn trong tay lực lượng thuỷ binh của Kinh châu thêm bộ binh rất mạnh, thế núi sông hiểm trở của Giang đông không còn khả năng làm trở ngại binh Tào nữa.

III-   Quân Tào đông gấp mười quân Ngô.

Chủ trương chiến đấu của Lỗ Túc bị phe chủ hàng tới tấp đập vụn. Tôn Quyền chưa biết quyết định ra sao thì Gia Cát Lượng đến nơi. Ấy là: Chỉ bởi con thuyền Gia Cát chạy. Khiến cho tướng sĩ giặc Tào tan.

Sự hiện diện của Khổng Minh ở hội nghị Giang đông, La Quán Trung miêu tả linh động trong hội "Thiệt chiến quần nho" như sau:

Túc dẫn Khổng Minh đến dưới trướng, đã thấy bọn Trương Chiêu, Cố Ung toàn ban văn võ trên hai chục người, mũ cao đai rộng, y phục chỉnh tề ngồi có thứ tự rồi. Khổng Minh chào hỏi từng người, thông tính danh đâu đấy, rồi đến ngồi trên ghế tân khách.

Bọn Trương Chiêu thấy Khổng Minh hình dung sáng sủa, mặt mũi khôi ngô biết người này tất là đi thuyết khách. Trương Chiêu mới gợi trước rằng:

- Chiêu tôi là một kẻ học trò ngu hèn bên Giang đông, lâu nay vẫn được nghe tiếng tiên sinh nằm khểnh trong Long Trung, ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị, lời ấy chẳng biết thực hư?

Khổng Minh đáp:

Phải, Lượng tôi cũng có hợm mình mà ví như thế.

Chiêu lại nói:

Mới đây tôi nghe Lưu Dự châu 3 lần cầu đến tiên sinh ở trong lều tranh, may được tiên sinh như cá gặp nước, những toan thu sạch cả Kinh Tương, nay chỉ có một buổi sáng mà về tay Tào Tháo hết chẳng biết thế là ý làm sao?

Khổng Minh nghĩ thầm rằng: Trương Chiêu là một tay mưu sĩ bậc nhất của Tôn Quyền, nếu mình không áp đảo được hắn thì sao thuyết phục Tôn Quyền? Bèn đáp rằng: Kể lấy đất Hán Thượng, tôi coi dễ như trở bàn tay, hiềm vì chủ ta là Lưu Dự Châu, muốn làm điều nhân nghĩa, không nỡ cướp cơ nghiệp của người đồng tông, cho nên nhất định không lấy. Lưu Tông là một đứa trẻ thơ tin nghe lời nịnh, bí mật hàng Tào cho nên mới để cho Tào Tháo ngông cuồng. Nay chủ ta đóng quân ở Giang Hạ sẽ có kế khác, những kẻ tầm thường hiểu sao được.

Chiêu nói: Nếu thế thì tiên sinh lời nói không đi đôi với việc làm rồi. Tiên sinh đã ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị mà Quản Trọng ngày xưa giúp Hoàn Công bá được chư hầu, định được thiên hạ; Nhạc Nghị ngày xưa giúp nước Yên đương suy yếu mà hạ được hơn bẩy mươi thành nước Tề. Hai người ấy thật có tài tế thế. Tiên sinh thì trước ở trong lều tranh, chỉ cười phong cợt nguyệt, xếp gối ngồi cao, nay đã theo Lưu Dự châu thì phải nên vì dân mà mưu lợi, bỏ điều hại, dẹp trừ kẻ loạn tặc mới phải chớ. Vả tôi xem Lưu Dự Châu khi chưa được tiên sinh thì còn tung hoành đây đó, chiếm giữ thành trì, nay được tiên sinh ai cũng mong, đến đứa trẻ lên ba cũng phải cho đó là hổ sinh cánh, nhà Hán sắp sửa lại hưng, họ Tào sắp đổ. Cựu thần trong triều đình, ẩn sĩ trong rừng rú, ai cũng chờ xem, tưởng tiên sinh với Lưu Dự Châu sắp xua tan mây mù trên trời, để thiên hạ lại được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng, cứu vớt dân ra khỏi cơn nước lửa, giúp đỡ thiên hạ yên ổn làm ăn, chính là lúc này vậy. Ai ngờ từ khi tiên sinh về với Dự Châu mục, quân Tào mới đến đã quẳng giáp buông gươm, trông thấy bóng là chạy. Trên không báo được ơn Lưu Biểu để yên thứ dân, dưới lại chẳng giúp được con côi giữ lấy bờ cõi, lại bỏ Tân Dã chạy khỏi Phàn Thành, thua Đương Dương chạy ra Hạ Khẩu, chẳng có lấy chỗ dung thân. Thế chẳng hóa ra Dự Châu từ khi được tiên sinh lại không bằng trước ư? Quản Trọng, Nhạc Nghị chắc cũng như thế đó? Đó là mấy lời quê kệch xin tiên sinh đừng chấp.

Khổng Minh nghe xong cười ha hả mà rằng:

-            Cái chí khí của chim Bằng, các loài chim Sẻ há biết được sao? Ví như người bệnh nặng, trước hết phải cho uống nước cơm, nước cháo, thuốc thang, lúc nào phủ tạng điều hòa, thân thể hồi phục bấy giờ mới cho bổ bằng cá thịt. Trị bằng thuốc mạnh, thì gốc bệnh mới tiệt, còn yếu đã trị ngay bằng thuốc mạnh, bổ ngay bằng vị ngon thì khó lòng chữa khỏi được. Chủ ta, trước thua ở Nhữ Nam đến nhờ Lưu Biểu, quân không đầy một ngàn, tướng chỉ có Quan, Trương, Triệu chính là lúc đang nguy cập. Tân Dã là một huyện nhỏ, hẻo lánh, dân cư thưa thớt, lương thực ít ỏi, chủ ta chẳng qua đến nương nhờ tạm đó mà thôi, có phải muốn khư khư ngồi giữ cái xó ấy đâu? Trong hoàn cảnh quân sĩ không sẵn, thành quách không bền, quân không luyện tập, chạy ăn từng bữa, thế mà lửa cháy Bác Vọng, nước ngập Bạch Hà khiến bọn Hạ Hầu Đôn, Tào Nhân phải lòng run mật vỡ, thiết tưởng Quản Trọng, Nhạc Nghị dùng binh tất đã hơn gì. Đến như Lưu Tông hàng Tào Tháo, Dự Châu hoàn toàn không biết, vả lại không nỡ nhân lúc loạn mà cướp lấy cơ nghiệp người đồng tông. Thật là đại nhân, đại nghĩa. Còn trận thua ở Đương Dương, vì có vài vạn dân, già trẻ dìu dắt đi theo không nỡ bỏ nên mỗi ngày chỉ đi được 10 dặm, đành rằng chịu thua; không tưởng đến lấy Giang Lăng, cam chịu thất bại, ấy cũng là đại nhân đại nghĩa vậy. Còn như ít không địch được nhiều, thì được thua chỉ là việc thường thôi. Ngày xưa Cao Hoàng thua luôn với Hạng Vũ, sau chỉ một trận ở Cai Hạ là thành công, đó không phải là mẹo tài của Hàn Tín ư? Tín thờ Cao Tổ đã lâu, cũng không mấy khi thành; bởi vì kế lớn nhà nước, xã tắc an nguy đều đã có chủ trương. Không như cái lũ khoác lác hư danh, bịp bợm, ngồi một xó mà lý thuyết suông thì không ai bằng; đến lúc có việc thì trăm phần trăm chẳng được phần nào thật đáng cho thiên hạ chê cười.

Bị thuyết một hồi, Trương Chiêu không còn thở ra được câu nào nữa. Lại có một người cất tiếng hỏi rằng:

-            Nay Tào Tháo quân hàng trăm vạn, tướng ước ngàn viên, uy thế như rồng như hổ nuốt chửng Giang Đông, ông bảo sao?

Khổng Minh trông xem ai, thì là Ngu Phiên, Khổng Minh nói:

-            Tào Tháo thu quân rơm rác của Viên Thiệu, nhặt quân ô hợp của Lưu Biểu, dù có mấy trăm vạn cũng không đáng sợ gì hết.

Ngu Phiên cười mát.

Quân thua ở Đương Dương, kế cùng ở Hạ Khẩu, đi van xin cứu viện không xong còn nói không sợ, thật là khoác lác để bịp người đó thôi.

Khổng Minh đáp:

Lưu Dự Châu đem vài ngàn quân nhân nghĩa, địch sao lại được trăm vạn quân tàn bạo? Lui về giữ Hạ Khẩu là để chờ thời cơ đó. Nay Giang Đông, binh nhiều, lương đủ, lại có sông Trường Giang hiểm trở, thế mà còn xui chủ uốn gối hàng giặc, không nghĩ thiên hạ chê cười. Do đó mà suy thì Lưu Dự Châu thật không sợ gì giặc Tháo vậy.

Ngu Phiên chịu cứng.

Lại có người lên tiếng hỏi:

- Khổng Minh muốn uốn lưỡi Tô Tần, Trương Nghi, sang làm thuyết khách ở Giang đông này chăng?

Khổng Minh nhìn xem ai thì là Bộ Trắc bèn đáp rằng:

-            Bộ Tử Sơn chỉ biết Tô Tần, Trương Nghi là biện sĩ, chuyên nghề nói mép chứ chưa biết Tô Tần, Trương Nghi cũng là những trang hào kiệt. Tô Tần đeo ấn làm tướng sáu nước, Trương Nghi hai lần làm tướng nhà Tần đều có tài giúp người gây cơ nghiệp, đâu thèm so sánh với những kẻ hay sợ thế mạnh, lấn người yếu, tránh kiếm lẩn đao. Các người mới nghe thấy Tào Tháo phao tin đã vội xin hàng rồi, còn dám cười Tô Tần, Trương Nghi sao được.

       Bộ Trắc im ngay không dám nói gì nữa.

Lại có một người hỏi rằng:

- Thế Khổng Minh cho Tào Tháo là thế nào?

Khổng Minh nhìn xem ai thì là Tiết Tung, bèn đáp:

-            Tào Tháo là giặc Hán, can gì phải hỏi.

Tung nói:

-            Ông lầm rồi, nhà Hán truyền ngôi kế thế mãi đến nay số trời sắp hết. Giờ thiên hạ chia ba, Tào Tháo đã nắm 2 phần rồi, nhân tâm ai cũng qui phục. Duy có Lưu Dự Châu không biết thiên thời, muốn gượng tranh với Tào Tháo, khác nào trứng chọi với đá sao chẳng thất bại.

Khổng Minh quát lên rằng:

-            Tiết văn Kính sao dám thở ra câu vô quân vô phụ ấy? người ta sinh ra ở đời phải lấy trung hiếu làm cốt, ông đã làm tôi nhà Hán, nếu kẻ nào phản nghịch phải thề giết nó đi mới là phải đạo. Nay tổ tôn Tào Tháo đời đời ăn lộc nhà Hán. Tháo đã không nghĩ báo ơn, lại mang lòng phản nghịch, thiên hạ đều oán ghét cả, ông lại dám đổ cho số trời, thật là con người vô quân vô phụ không xứng đáng bàn luận. Chớ có nói nữa.

Tiết Tung đỏ mày xây mặt câm miệng như hến. Lại một người hỏi rằng:

Tào Tháo tuy rằng mượn tiếng thiên tử để sai khiến chư hầu nhưng cũng còn là con cháu ông Tướng Quốc Tào Tham ngày xưa. Lưu Dự Châu vẫn tự xưng là dòng dõi Trung Sơn Tĩnh Vương nhưng không có bằng cớ, hiện mắt trông thấy chỉ là một người dệt chiếu, bán giầy, so sánh với Tào Tháo sao được.

Khổng Minh nhìn xem ai thì là Lục Tích liền cười nói rằng:

-            Ông có phải là người ăn cắp quýt ở trong bữa tiệc của Viên Thiệu đó không. Xin hãy ngồi nghe ta giảng giải cho: Tào Tháo đã là con cháu Tướng Quốc họ Tào, thì là đời đời làm tôi nhà Hán, nay dám chuyên quyền ngang ngược khinh nhờn cả vua, như thế hẳn không những là vô quân mà lại là khinh cả tổ tiên mình. Không những là loạn thần nhà Hán mà còn là đứa con bất hiếu của họ Tào nữa. Lưu Dự Châu đường đường một đấng tôn thất, đương kim hoàng đế hiện đã xét gia phả và phong tước cho, sao dám bảo là không có căn cứ. Và đức Cao Tổ ngày xưa xuất thân làm đình trưởng mà sau được thiên hạ thì dệt chiếu bán giầy có gì là nhục. Kiến thức ông như trẻ con, không nên ngồi nói chuyện với cao sĩ.

Lục Tích ngồi im thin thít.

Lại có người hỏi rằng:

- Khổng Minh chỉ được cái già mồm lấn lẽ, không phải là chính luận, không cần dài dòng làm gì. Hãy xin hỏi Khổng Minh đã học những sách gì. Khổng Minh nhìn xem ai thì là Nghiêm Tuấn liền đáp:

- Tìm từng chương, dò từng câu chỉ là bọn hủ nho mà thôi, sao có thể xây dựng được nước non cơ nghiệp? Vả như ngày xưa Y Doãn cầy ở đất Sằn, Tử Nha câu trên sông Vị, Trương Lương, Trần Bình, Đặng Vũ, Cảnh Cam đều có tài giúp vua, giúp nước cả, mà cũng không cần xem xét ngày thường học những sách vở gì. Có đâu lại bắt chước bọn thư sinh, bo bo sách vở, cãi đen bàn trắng, múa văn khua bút đó ư.

Nghiêm Tuấn cúi đầu tiu nghỉu ngồi im. Lại có một người lớn tiếng nói:

Ông chỉ được việc nói khoác là giỏi, vị tất đã có thực học, tôi chỉ sợ bọn nhà nho cười cho thôi.

Khổng Minh nhìn xem ai thì là Trình Đức Khu ở Nhữ Nam liền nói:

- Nho cũng có Nho quân tử, cũng có Nho tiểu nhân. Nho Quân tử thì trung vua yêu nước, giữ chính, ghét tà, chuyên làm những điều lợi ích chung, tiếng để đời sau. Còn như loại Nho tiểu nhân thì chỉ cặm cụi văn chương miệt mài nghiên bút; còn trẻ thì làm phú, đầu bạc thì đọc kinh, dưới bút dầu có nghìn lời, trong bụng không được một mẹo. Xem như Dương Hàng, văn chương có tiếng một đời mà khuất mình đi theo Vương Mãng rồi cũng đến đâm đầu xuống lầu mà chết. Thế gọi là Nho tiểu nhân, dẫu ngày làm nghìn câu thơ cũng có ích gì đâu.

Trình Đức Khu cũng ứ cổ nốt.

Chúng thấy Khổng Minh ứng đối như nước chẩy, cũng sợ mất vía. Lúc đó còn có hai người là Trương Ôn, Lạc Thống sắp vào muốn hỏi. Bỗng bên ngoài có một người chạy vào quát to lên rằng:

- Khổng Minh là bậc anh tài đời nay, các người lấy môi mép vặn người ta, đó không phải là kính khách. Đại quân của Tào Tháo đã đến bờ cõi, tìm kế chống giặc chẳng tìm, cứ ngồi đấu khẩu như thế ích gì?

Các tướng nhìn xem ai, thì là Hoàng Cái biểu tự Công Phúc.

Sau khi Gia Cát đè bẹp phe chủ hàng, Tôn Quyền lòng đã muốn đánh nhưng vẫn chưa quyết. Quyền cho người mời Chu Du lại thương nghị. Chu Du quyết định nghênh chiến. Du đề ra 3 điểm chiến mà Đông Ngô có khả năng thắng lợi.

1- Tào Tháo cần phải thực hiện một cuộc chiến tranh tốc quyết vì Mã Siêu, Hàn Toại vẫn là mối lo sau lưng của Tào Tháo.

2- Nhân dân Kinh Châu chưa hoàn toàn qui phục họ Tào.

3- Giữa mùa đông lương thảo khan hiếm, khí hậu cũng không hợp với quân Bắc phương.

Quyền thấy Chu Du cương quyết như thế mới cầm kiếm chém xuống đất ra lệnh cấm bàn chuyện đầu hàng.

Binh lực đương thời của hai bên rất so le. Bắc quân riêng lực lượng Tào Tháo đã có ngót hai mươi vạn, cộng thêm bẩy tám vạn quân Kinh Châu.

Bên Đông Ngô, quân Lưu Bị có một vạn, quân Lưu Kỳ một vạn, quân Chu Du, Trình Phổ chừng hai vạn, Lỗ Túc thâu thập được thêm một vạn. Như vậy là một chọi sáu!

Trận đánh lớn nhất xẩy ra ở huyện Gia Ngư, khu vực Xích Bích. Kết quả Tào Tháo đại bại phải rút lui và lưu Tào Nhân chống giữ ở Giang Lăng. Chu Du thừa thắng đánh tràn. Tào Nhân phải bỏ Giang Lăng mà chay. Cả một giải lưu vực trường giang mất hẳn tung tích Bắc quân. Hình thế Nam Bắc phân lập bắt đầu từ đó.

Trận Xích Bích phá vỡ tan tành kế hoạch thống nhất toàn quốc của Tào Tháo, ổn định địa vị Tôn Quyền ở Giang Nam, đồng thời cũng tạo cho Lưu Bị cơ hội lấy bàn đạp Kinh Châu tiến vào Ích Châu, từ chỗ vẫn đi nương nhờ người khác, đến chỗ có một thế lực riêng biệt lớn mạnh. Trận Xích Bích thực là then chốt cho sự hình thành của cái thế chia ba chân vạc.

Chu Du

Độc giả Tam quốc thường nhìn Chu Du là một nhân vật tuổi trẻ tài cao, nhưng tính khí bồng bột, hẹp hòi ghen ghét.

Lối nhìn đó là bởi ảnh hưởng của Tam Quốc Chí diễn nghĩa qua câu chuyện đấu khí giữa Chu Du và Gia Cát Lượng. Du thua, tức đến nỗi thổ máu mà chết, lúc sắp chết Du có than rằng: “Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?”.

Thật ra Chu Du là con người rất có tu dưỡng, nhiều mưu trí và tính tình khiêm cung hòa nhã.

Tôn Quyền đặt ngôi vị Chu Du ở trên lão tướng Trình Phổ, Phổ không bằng lòng, thế mà Chu Du đã đem độ lượng và tài cán của mình khuất phục được Trình Phổ. Phê bình về Chu Du, Trình Phổ đã phải nói: Giao du với Chu Công Cẩn như uống rượu ngọt, say lúc nào không biết.

Nhưng chỉ có hai người thời đó đánh giá nổi Chu Công Cẩn là Tào Tháo và Khổng Minh. Cho nên ở trận Xích Bích cả Gia Cát Lượng và Tào Tháo đều ra sức tranh thủ Chu Du. Gia Cát thì vận dụng Lỗ Túc, Tào Tháo thì vận dụng Tưởng Cán.

Chu Du chết sớm, ảnh hưởng tai hại cho cục diện ba nước không nhỏ. Thiết tưởng Tôn Quyền có tiếc Chu Du mà nói: “Ta mất Chu Du thì nghiệp đế của ta cũng hỏng” thì cũng không lấy gì làm quá đáng.

Lỗ Túc

Lỗ Túc đáng kể như một nhân vật khả ái nhất Tam quốc.

Tử Kính tuy không có những biệt tài nổi bật như Cố Ung, Tưởng Uyển, Tuân Úc, nhưng ông cũng rất thông hiểu chính trị, ngoại giao, quân sự và rất cẩn trọng mỗi khi áp dụng định kiến của mình. Thêm nữa Lỗ Túc là người có phong độ, trung, dũng, trí, kiệm, có tu dưỡng nhân nghĩa lễ tín.

Căn cứ vào tình thế đương thời mà bàn thì chủ trương Ngô Thục liên minh của Lỗ Túc thật chính xác. Thâm ý trong đường lối liên minh với Thục của Lỗ Túc là: “Gây cho Tháo nhiều kẻ địch, để xây dựng thêm vây cánh cho Đông Ngô”. Bởi vì so sánh với lực lượng Ngụy và lực lượng Đông Ngô thì Ngụy thừa sức nuốt sống Đông Ngô, nếu không có những lực lượng khác khiên chế Ngụy.

Thế chia ba chân vạc do Lỗ Túc đóng góp một phần cực to tát. Ông dám khuyên Tôn Quyền cho Lưu Bị mượn Kinh Châu để làm tư bản chính trị. Giả thử Tôn Quyền không nghe Lỗ Túc, đương nhiên không có nước Thục. Giả thử Lưu Bị không kiến tạo nổi Thục thì liệu Đông Ngô có đứng vững nổi với Ngụy chăng?

Tôn Quyền phê bình Lỗ Túc nói:

- “Khuyên ta cho Huyền Đức mượn Kinh Châu là chỗ kém nhất của Tử Kính”. Nói như vậy, Quyền chỉ nghĩ đến cừu địch là Thục mà không kể chi đến Ngụy, chỉ nghĩ đến bực bội trước mắt mà không tưởng đến hiểm họa xa.

Trí lực ngắn ngủi của Tôn Quyền cũng như mấy võ tướng Quan Vũ và Lã Mông đã gây thành đường lối ngoại giao đổ máu, trái ngược với lòng mong mỏi của Tử Kính, không ngừng dàn xếp để các cuộc quyết đấu giữa Ngô – Thục không xẩy ra.

Tại Đông Ngô, duy Chu Công Cẩn mới nhận nổi giá trị của Lỗ Túc, cho nên lúc Du sắp mất, Tôn Quyền hỏi Du, ai khả dĩ thay thế. Chu Du nói: “Lỗ Túc là người trung liệt, lâm sự không cẩu thả”. Đề nghị cho Lỗ Túc thay mình, chứng tỏ Chu Du cũng là người rất nhiệt thành với đường lối ngoại giao liên kết với Thục lắm. Riêng lời ấy đủ lột hết sắc thái con người Lỗ Tử Kính.

Cố Ung

Bất cứ đường lối chính trị nào, hình thế chính trị nào đều liên hệ với một quyền lực thống trị thì mới mong lâu dài, bền vững.

Thời Tam quốc, Ngụy, Ngô, Thục do đường lối chính trị khác nhau, hình thể chính trị khác nhau, nên quyền lực thống trị cũng sai biệt.

Nước Ngụy quyền lực thống trị để bình định một tình trạng đã hỗn loạn đến cực độ nên phải áp dụng đạo hình danh của pháp gia, phải có những biện pháp mạnh, thủ đoạn nhiều trí thuật hơn từ ái nhân nghĩa.

Nước Thục vì dân tình hiểm ác, nên quyền lực thống trị tuy chủ trương nhân nghĩa nhưng cũng không thể không dùng đến đường lối mãnh liệt của pháp gia. Ở đây quyền lực thống trị mang tính chất “pháp đa nho thiểu”, “pháp nho kiêm dụng”. Nước Ngô nhờ địa lý phì nhiêu, dân tình khoan hậu, nhờ tâm lý nhất trí để chống đối với dị tộc của dân chúng, nên quyền lực thống trị ở đây chỉ cần một chính sách thi hành nhân ái, khoan hình giảm chính, tóm lại Đông Ngô thuần dụng đạo trị của nho gia để ổn định xã hội. Xã hội Đông Ngô bấy giờ so với các khu vực khác đáng gọi là thiên đường.

Công lệnh áp dụng trị đạo của nho gia ở Đông Ngô của ai?

-            Của Tôn Quyền?

-            Không đúng.

-            Của thừa tướng Cố Ung đó.

Lịch sử tuy không chú ý mấy đến ông, thậm chí còn xếp Cố Ung đừng hàng dưới Trương Chiêu một bậc. Chuyển sang diễn nghĩa thì những người như ông không có chuyện lạ gì để nhà văn miêu tả hấp dẫn thì lại càng bị lu mờ hơn.

Thực ra đối với Đông Ngô, Cố Ung là người có công lao lớn nhất. Sở dĩ ông gần như bị quên lãng là vì chức vị của ông là chức vị thủ tướng hành chính, trong khi đương thời Tam quốc chỉ trọng những tranh phong chính trị, quân sự.

Tôn Quyền tuy không có đại bản lĩnh, nhưng ở địa vị lãnh tụ. Sở trường của Quyền ở chỗ: Biết dụng người, biết tin và biết phân phối. Quyền rất nể Cố Ung, nhận thấy ở Ung một tài năng xuất chúng về nội chính nên giao phó trách nhiệm này cho Ung tới 19 năm trường.

Hoàng Vũ tứ niên, Cố Ung từ giã mẹ già đi nhận lãnh chức vụ, Quyền ra tận ngoài tiếp đón, rồi lại gọi Thái tử tới lậy chào, trong khi Trương Chiêu tuổi lớn, tiếng xa mà Chiêu không được Quyền dùng ở ngôi vị này. Tại sao?

Tại Quyền nhận thấy Chiêu khí lượng hẹp hòi hay câu nệ câu chấp, một lần Quyền và Chiêu xích mích. Trương Chiêu cáo ốm không đến chầu. Tôn Quyền hối hận đến tạ lỗi, Chiêu cũng không ra, đến nỗi Quyền phải sai người đốt nhà Chiêu mới chịu ra. Do đó nhiều lần, mọi người khuyên Quyền đặt Chiêu vào ngôi vị Thừa tướng Quyền đều lờ đi. Khi thừa tướng Tôn Thiệu chết, mọi người lại đề cập đến Trương Chiêu thì Quyền từ chối khéo: “Bây giờ đương lúc gay go, chức cao thì trách nhiệm thêm nặng, lão thần đã già không nên phiền nhiễu ông ta làm gì”.

Cố Ung đủ sở trường của Trương Chiêu, nhưng Ung hơn Chiêu ở điểm không có những sở đoản như Chiêu. Ung cương trực mà ý khí không loạn, nói thẳng, ưa điều hợp lý, mà vẫn giữ được thái độ khiêm nhượng, hòa nhã, luận đoán, kiến giải nhất nhất đều chính xác, đối xử với người rất chân thành.

Ở chức Thừa tướng, tất phải có phong độ đại thần, công bình, dung hợp, tầng trên điều chỉnh trăm quan, tầng dưới yêu mến bảo vệ trăm họ.

Những điều Trần Bình nói về trách nhiệm tể tướng, đại thần:

- “Trên thì phò thiên tử, điều hòa âm dương, thuận tứ thời, dưới thì nuôi vạn vật cho no đủ, sử dụng cho đúng mức, ngoài thì chấn áp tứ di, trong thì vỗ về trăm họ”. Cố Ung đều có cả.

Cố Ung bao giờ cũng dùng nhân chính. Lần Tôn Quyền đi khảo sát dân tình, Cố Ung đã thảo cho Quyền một tờ lệnh như sau:

- “Nạn binh đao đã lâu ngày, khiến cho dân gian bê trễ việc ruộng nương cày cấy, chồng con bố mẹ không đủ nuôi thương nhau, ta rất lấy làm buồn. Nay giặc đã tạm yên, bên ngoài không có gì lo ngại, vậy truyền cho dân chúng ai về nhà nấy mà nghỉ ngơi, tiếp tục canh nông, phụng dưỡng tôn tộc”.

Năm Xích Ô thứ ba, Cố Ung lại thay Tôn Quyền thảo chiếu lệnh:

- “Vua không có dân không lập, Dân không thóc gạo không sống. Gần đây dân bị phiền nhiễu vì binh dịch nên thóc không sinh sản nhiều. Thêm nạn quan tham lại nhũng chiếm đoạt của dân, khiến dân càng cùng khổ. Nay ra lệnh: bất cứ kẻ nào làm việc phi pháp đều gia tội nặng”.

Nhờ Cố Ung, Tôn Quyền chẳng còn phải lo gì đến hậu phương nữa.

Luận về Tôn Ngô

Cục thế Tam quốc, Tôn Ngô chiếm toàn bộ Giang đông. Địa bàn Giang đông hẹp hơn Ngụy, tốt hơn Thục. Nhân tài Giang đông không thiếu. Thế mà thanh thế Giang đông không lúc nào vượt nổi khu vực mình, suốt bao nhiêu năm chỉ đứng địa vị cố thủ là cớ sao?

Trước hết, Giang đông ngoài đường lối chính trị thu hẹp trong khu vực, không có hiệu triệu chính trị đại thể. Khác với Thục, mỗi lần xuất sư phạt Ngụy đều dùng danh nghĩa “Hán tặc bất lưỡng lập, vương nghiệp bất thiên an”.

Một lần Tôn Sách tính chuyện xuất binh phát triển thế lực quá giang lên miền Bắc, chẳng may việc chưa thu xếp xong Sách đã bị bộ hạ của Hứa Cống giết chết.

Lỡ cơ hội, từ đó về sau, chính trị Đông ngô rơi hẳn vào thế thủ. Thêm nữa thế thủ Đông Ngô phần lớn cũng tại người lãnh đạo, nó đã rõ ràng ngay lúc Tôn Sách giao phó quyền bính cho Tôn Quyền, Sách nói:

- “Vận dụng dân chúng Giang đông để quyết cơ chốn trận địa thì Quyền không bằng ta. Nhưng cử người hiền, dùng người tài khiến ai cũng tận tâm tận sức bảo vệ Giang đông thì ta không bằng Quyền”

Xét về nhà họ Tôn, riêng Tôn Sách rộng tầm mắt hơn cả. Tôn Quyền kém Tôn Sách rất xa, bản chất chính trị của con người Tôn Quyền là: “khuất thân nhẫn nhục, nhiệm tài đương kế”. Quyền chỉ biết thu vén tính toán hẹp hòi, không có cái phóng dật thiên tài của Khổng Minh và cái say sưa tàn bạo già dặn của Tào Mạnh Đức.

Đối ngoại, Tôn Quyền biết khuất thân nhẫn nhục nhưng đối với chính sự nội bộ, tâm tính Tôn Quyền lại khác hẳn, nó chỉ mang khí chất một thanh niên con nhà nuông, với tác phong bồng bột, khinh thị, kiêu căng thừa tự của Tôn Kiên, Tôn Sách. Cho nên Tôn Quyền chỉ vì nóng nẩy hờn dỗi mà bốn phen lập tự, tạo thành những rối ren phiền nhiễu không đâu.

Nguyên nhân thứ ba hãm Đông Ngô vào thế thủ là: Đông Ngô luôn luôn phải đối phó với các dân tộc biên cảnh, chiến tranh thường xuyên với các dân tộc này đã làm trở ngại cho sức phát triển của Đông Ngô ghê gớm vì biết bao nhiêu vật lực đã tiêu hao đi. Chỉ một khu vực Đan Dương thôi, Đông Ngô từng chống chọi hàng mấy trăm lần với dân tộc Sơn Việt. Sử chép rằng: dân tộc Sơn Việt rất hay việc võ, thiện chiến, sùng thượng khí lực, ở vùng hiểm trở, họ đi trong rừng như cá dưới nước, lúc đánh họ đến đông như kiến, lúc rút thì trận địa vắng teo, thật khó lòng mà chế ngự”. Xem nhận xét của Ngô Sử đủ biết dân tộc Sơn Việt là mối đại họa cho Đông Ngô. Trong Lục Tốn truyện còn cho biết: “Dân tộc Sơn Việt mỗi lần gây can qua đều mang tác dụng chính trị do âm mưu của Tào Tháo”.

Muốn bảo vệ ta thì phải tấn công địch. Đó là một quy luật chiến tranh. Tôn Quyền giỏi thế thủ, nhưng không giỏi thế công, thường thường thế thủ tuyệt đối cũng là khó khăn tuyệt đối. Trận Xích Bích chứng minh sự khó khăn tuyệt đối đó.

Tào Tháo xâm nhập Kinh Châu, Lưu Tông sợ hãi đem thuyền bè, bộ binh dâng cho Tháo. Binh Tào thừa thế uy hiếp Giang Đông, quân số ước chừng hơn ba mươi vạn. Dưới áp lực to lớn ấy, Giang Đông chỉ có hai con đường phải chọn, “đánh hay hàng”. Hàng lúc này không thể là hòa mà là tiêu diệt. Đánh thì sức lực Giang Đông so với Ngụy quân quá kém sút. Trong triều đình phái chủ hòa chiếm đại đa số. Thế thủ Tôn Quyền chủ trương bị đe dọa lung lay đến tận cội rễ.

Nhưng kết quả của chiến tranh Ngô Ngụy lại hết sức đột ngột. Tào quân thua lớn. Tại sao? Tam quốc chí và Tam quốc chí diễn nghĩa nêu ra mấy nguyên cớ chính:

a-     Ngô Thục liên kết chặt chẽ.

b-     Tào Tháo thất bại trên mặt trận gián điệp (các việc Hoàng Cái chịu khổ nhục kế, Phượng Sồ, Tưởng Cán).

c-      Binh sĩ Trung nguyên không giỏi thủy chiến.

d-     Tào Tháo chưa khắc phục trọn vẹn tâm lý của mười vạn hàng quân của Lưu Biểu.

e-     Tào Tháo còn bị hạn chế bởi lực lượng Hàn Toại, Mã Đằng phía Bắc.

Thua ở Xích Bích, nước Ngụy tìm ra một đại thắng về sau là: nhận được rõ tính cách lợi hại của liên kết Ngô Thục. Tháo liền quay về sửa sang xây dựng địa bàn rộng lớn của mình, đợi Ngô Thục mâu thuẫn sẽ ra tay.

Thắng ở Xích Bích, Tôn Ngô đi đến thất bại tương lai vì lòng kiêu hãnh nóng nẩy của những người lãnh đạo say sưa với thắng lợi nhất thời. Tôn Ngô phạm vào lỗi lầm tai hại trên chính lược đúng như Tào Tháo dự đoán là phá bỏ chính sách liên minh Ngô Thục. Mặc dầu Lã Mông đã giết được Quan Vũ, chiếm cứ toàn cõi Giang Lăng, nhưng cũng bởi thế mà Đông Ngô bị lôi cuốn vào một cuộc chiến tranh tai hại. Mặc dầu Lục Tốn đập tan vỡ lực lượng Lưu Bị, nhưng Đông Ngô vẫn còn bị hãm vào một cuộc chiến tranh du kích tiêu hao khiến Đông Ngô vướng vít. Trong khi ấy, kẻ đại địch của Giang Đông là Tào Tháo thừa thế phát triển.

Tôn Quyền bồn chồn vì thế lực Quan Vũ, uất ức vì vài lời khinh bạc và hấp tấp với mấy mối lợi do Tào Tháo nhử; nhãn quan chính trị của Tôn Quyền quả thật là quá ngắn. Tôn Quyền chỉ đụng độ với Tào Tháo một lần tại Xích Bích, trận này Tôn Quyền đại thắng. Thế mà đời sau vẫn bảo Tôn không bằng Tào. Ấy là vì cái khả năng chiến lược, khả năng nhìn thế lớn của Tôn không đáng học trò Tào vậy.

Mưu sĩ Tuân Úc

Nhân tài thời đại Tam quốc rất nhiều. Đem so sánh số nhân tài qui tụ tại ba nước Ngụy Ngô Thục thì số trí thức dưới trướng Tào Tháo cao nhất, thứ nhì Ngô, thứ ba Thục.

Trong đám mưu sĩ nước Ngụy, có Tuân Úc được Tào Tháo thưởng thức hơn cả.

Tào Tháo vốn đã là người túc trí, đa mưu, kẻ làm mưu sĩ cho Tào Tháo không phải dễ dàng gì.

Tuân Úc xuất thân từ gia đình môn phiệt. Tổ phụ Tuân Úc là Tuân Châu nổi tiếng học rộng, thày dạy các danh sĩ Lý Ưng, Vương Xướng. Tuân Châu có tám người con được đời xưng tụng làm “tám con rồng nhà họ Tuân”. Chú của Úc là Tuân Sảng làm quan đến chức Tam Công. Tuân Úc ngay từ lúc còn trẻ đã nhận thức những cái thối nát của bọn danh sĩ Thái học sinh, tự mình từ bỏ con đường từ chương hoa mỹ để đi tìm thực học.

Tuân Úc có 5 sở trường:

- Thứ nhất: giàu mưu trí, kế hoạch của ông có một tính chất đặc biệt là ẩn trọng tính xa. Lúc Đổng Trác nắm quyền, Tuân Úc đang làm một chức huyện quan, từ dịch trở về quê quán. Úc nhận thấy sắp loạn to đến nơi mới hội họp các bô lão trong làng nói rằng: “đất Dĩnh Xuyên chúng ta chẳng chóng thì chầy cũng thành chiến địa vì nó ở chính giữa chỗ binh xung, vậy phải tính chuyện rời đi không thể chậm trễ nữa. Các bô lão dùng dằng chưa quyết, Tuân Úc gặp dịp Hàn Phức mời ra giúp việc liền thu xếp cho gia tộc thân thích bỏ đất Dĩnh Xuyên ngay. Quả nhiên không bao lâu, quân Đổng Trác tới cướp bóc vùng Quang Đông, đất Dĩnh Xuyên bị tàn hại hơn cả.

- Tào Tháo khởi binh đánh Đào Khiêm, giao phó Tuân Úc cai quản hậu phương, quân còn lại rất ít. Trương Mạo, Trần Cung, Lã Bố thừa cơ tấn công, tình thế mười phần nguy cấp. Tuân Úc cùng Hạ Hầu Đôn bình tĩnh ứng phó. Giữa lúc nguy nan này, có quan Thứ sử Dự châu là Quách Cống đem mấy vạn quân đến dưới thành đòi tiếp kiến Tuân Úc. Ai cũng cho rằng Quách Cống đồng mưu với Lã Bố nên muốn giữ không để Úc ra nói chuyện. Úc nghĩ, từ chối Cống tức là đẩy Cống hùa theo Lã Bố, bất nhược nếu không thu dụng được Cống thì ít nhất cũng làm cho lực lượng Cống trung lập. Nghĩ vậy rồi Tuân Úc thản nhiên ra hội đàm với Quách Cống. Cống thấy Úc không hề có sắc mặt hoảng hốt lo âu nên bụng bảo dạ, chắc Úc đã bố trí chu đáo rồi nên kéo quân đi thẳng. Cái kế thành bỏ ngỏ chứng tỏ thủ đoạn quyền biến của Úc rất cao vậy.

Ở với Tào Tháo, Tuân Úc đã giúp cho họ Tào những kế sách lớn như:

a- Khi Tháo đánh nhau với Viên Thiệu, quân Viên Thiệu cực thịnh, quân Tào Tháo thì ít, lương lại thiếu. Hai bên cầm cự dằng dai, Tháo muốn rút quân bèn biên thư hỏi ý kiến Úc, Úc trả lời:

- Hiện tại lương tuy thiếu, nhưng kẻ thoái trước tất là gẫy nát hết, xưa kia Lưu Bang cầm cự Hạng Võ ở Hàm Dương, cả hai bên đều nhất quyết không chịu thoái quân trước. Bây giờ ta chống giữ Viên Thiệu, chẹn họng Thiệu tính ra đã quá nửa năm, tình hình sắp chín sắp biến, chính là lúc ta nên dùng kỳ binh đó.

b- Tào Tháo muốn chiếm Từ Châu của Đào Khiêm trước, trừ Lã Bố sau, Tuân Úc chủ trương ngược lại, Úc nói: “lấy lớn đổi nhỏ, lấy an đổi nguy, chỉ biết cái kế nhất thời mà quên rằng căn cứ mình còn chưa vững là không phải”. Tháo chịu.

Tào Tháo chiếm Nghiệp thành, lĩnh chức Ký Châu Mục, nhiều người khuyên nên trở lại chính chế cũ, phân định cửu châu. Tháo bằng lòng, đem ý kiến ấy hỏi Tuân Úc, Tuân Úc bàn rằng:

- “Ký Châu đất rộng người đông, ta mới chiếm đoạt, hết thẩy đều lo sợ, nếu dân chúng sinh biến mà ta chống giữ tất nhiên phải đàn áp. Đàn áp là ta mất chính nghĩa. Đã mất chính nghĩa rồi thì càng khó giữ. Chẳng bằng ngài hãy đem binh đánh dấn lên Hà Bắc, tiến xuống Kinh Châu để làm sáng tỏ chính sách to tát quang minh của ta cho thiên hạ rõ đại thể, mà biết tự an, đấy mới là kế lâu dài vậy”.

Tào Tháo tỉnh ngộ bãi bỏ việc tái lập cựu chế tại Ký Châu. Việc Tô Châu, Duyện Châu, Tuân Úc chủ trương củng cố trước, phát triển sau. Việc Ký Châu Tuân Úc lại chủ trương phát triển trước, củng cố sau. Trông bề ngoài thì trước và sau có vẻ phân cách riêng biệt, sự thật Tuân Úc chỉ là: trong phát triển đi tìm cái củng cố, trong củng cố mở đường tái phát triển. Chỗ khó là vấn đề thích đáng “sự thích thời giả kỳ công đại!” (làm việc đúng thời mới nên đúng). Đáng tiếc Tam Quốc chí diễn nghĩa không cho người đời sau đủ tư liệu cần thiết để phân tích, chứng minh rõ ràng khúc triết hai đường kế sách của mưu sĩ họ Tuân.

Thứ hai: Tuân Úc sáng suốt và rộng lượng đề cử người tài giỏi. Thông thường các mưu thần sách sĩ vẫn có lối trông người thiên hạ bằng nửa con mắt. Tuân Úc trái lại, lúc nào ông cũng tha thiết quý trọng nhân tài, tìm cách tiến cử. Tuân Du, Vương Lãng, Quách Gia, Tư Mã Ý, Hoa Hâm, Trần Quân (Quần?) hết thảy đều do một tay Tuân Úc đề bạt.

Thứ ba: Nhân phẩm thuần hậu, làm việc thẳng thắn. Sách “Điển lược" nói Tuân Úc là người khiêm nhượng, không đài các, không để cho tư dục loạn tâm ý. Úc có một tên tùy tùng tận tụy hầu hạ. Lúc ông nắm quyền lớn, có người nói: “bây giờ ông ở ngôi cao, tại sao không nhân tiện xin phong chức cho hắn? Tuân Úc cười nói: Quan chức dùng để tỏ tài hành sự của người ta, hắn tuy tận tụy với tôi nhưng không phải vì thế mà tôi dùng bậy”.

Sau khi địa vị Tào Tháo củng cố, các bạn của Tuân Úc sốt sắng, nhất là Đổng Chiêu đều chạy đua vận động tước vị. Chiêu đem ý kiến bàn với Tuân Úc. Họ Tuân trả lời: Thái Tổ vì đại nghĩa hưng binh để lập kỷ cương triều đình, ổn định nhà nước, riêng tôi, tôi muốn giữ lòng thành thực trung trinh mà yêu mến Người qua đức độ, chẳng ham như thế”.

Thứ bốn: Mỹ đức giản dị tiết kiệm. Thường thường Tuân Úc vẫn đem bổng lộc của mình phân phát cấp đỡ cho tôn tộc, họ hàng, bạn bè thân mật cũ, cho nên nhà không có của thừa. Tào Tháo đem con gái mình gả cho (con?) Tuân Úc và cấp ruộng nương tiền bạc vô kể, nhưng cha con Tuân Úc đều khiêm nhượng từ chối.

Thứ năm: dáng dấp đường bệ, dung mạo chín chắn, Tuân Úc có một nghi biểu ít thấy. Chẳng thế mà khi Nễ Hành chửi Úc cũng phải công nhận rằng: “Tuân Văn Nhược chỉ đáng đi viếng đám tang”. (Tuân Văn Nhược khả tá diện điếu tang).

Về cái chết của Tuân Văn Nhược

Tuân Úc thọ đúng 50 tuổi. Cái chết của ông, dư luận chia làm hai thuyết. Tam Quốc chí viết: “Tuân Úc không tán thành việc Tào Tháo tấn phong Quốc công, Tào Tháo e dè để bụng, Tuân Úc buồn phiền lâm bệnh nặng”. Sách Ngụy thị Xuân thu viết: “Tào Tháo sai người biếu Tuân Úc một mâm gỏi, Úc mở ra, ở trong không có gì, biết Tào Tháo muốn mình tự xử bèn uống thuốc độc chết”. Tâm sự người xưa ra sao? Thuyết nào cũng đúng, ngày nay ta chẳng có tài liệu xác thực nào để mà chứng minh cả.

Tuân Úc, Nễ Hành, Trần Cung

Phần tử trí thức bình dân thời đại Xuân Thu đặt chủ trương cho mọi hoạt động chính trị phải:

- Lấy Trung, Thứ làm lập trường.

- Lấy Nhân, Nghĩa làm nguyên tắc.

Cả ba Tuân Úc, Nễ Hành, Trần Cung đều chịu ảnh hưởng tư tưởng mà phần tử trí thức Xuân Thu đã nêu lên.

Khi thể hiện trên hành động, ba người lại khác hẳn nhau. Tuy vậy kết quả cùng quy vào một mục tiêu là đề cao Trung Thứ Nhân Nghĩa.

Mặc dầu cả ba cùng cống hiến cho mục tiêu giống nhau, nhưng nếu đem so sánh, phán đoán thì việc làm và thái độ Tuân Úc tỏ ra đáng kính trọng, đáng khâm phục hơn cả, cho nên công lao cống hiến của Tuân Úc cho thời đại cũng lớn nhất. Vì Tuân Văn Nhược là người sáng suốt, biết thỏa hiệp lý tưởng chính trị với hiện thực, tuy phải ứng phó với hiện thực mà vẫn không hề quên công tác chỉnh đốn thể hệ nhân văn.

Trần Cung thì ý thức đấu tranh quá ngắn hơi. Còn Nễ Hành chỉ là một loại trí thức không tưởng, điên cuồng. Một tâm trạng yếu ớt và nông nổi. Tâm trạng nổi loạn bằng những cơn giận cơn điên, nhắm mắt lao đầu vào chướng ngại để hòng phá nó. Tâm trạng chống đối vô ích, chỉ bàn chỉ nói, chỉ chửi mà không làm gì cho đúng mức cả.

Vũ Tài Lục

Nói Chuyện Tam Quốc

- 8 -

CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ ÍCH CHÂU VÀ KINH CHÂU

Trận Xích Bích buộc Tào Tháo Tháo phải từ bỏ luôn cả Giang Lăng. Lúc này Ích Châu còn trong tay Lưu Chương. Quân Bắc rút hết, hình thế phân lập Nam Bắc tuy đã rõ rệt, nhưng nếu gọi ngay là chia ba chân vạc thì quá sớm, bởi địa bàn của Lưu Bị hãy còn nhỏ hẹp, chưa đáng kể như một thế lực khả dĩ đương đầu với Nam Bắc. Vì vậy đi trước sự phân lập ba nước là những cuộc đấu tranh chính trị gay go của tập đoàn Lưu Bị tại Giang Đông và Trung Nguyên tại các khu vực Ích Châu và Kinh Châu.

Trọng tâm của đấu tranh chính trị ở Kinh châu và Ích châu là ngoại giao. Sách Tam Quốc chí của Trần Thọ, thiên “Lã Mông truyện” viết lời phê bình của Tôn Quyền về Lỗ Túc: “Khuyên Ngô tá Huyền Đức địa, thị kỳ nhất đoản” (khuyên ta cho Huyền Đức mượn đất, là một điểm kém của Lỗ Túc). Mượn đất ý chỉ vào tờ ký kết giữa Lưu Bị, Gia Cát Lượng và Lỗ Túc mượn Kinh châu. Hiệp ước và danh từ mượn chẳng qua chỉ là một thuật ngữ ngoại giao của Khổng Minh để giữ gìn êm đẹp mối liên hệ Đông Ngô và Lưu Bị mà thôi, chứ sự thực không phải như thế vì Kinh Châu đâu có phải là đất đai Đông Ngô.

Kinh Châu đời Hậu Hán, từ bờ vực phía Đông chạy suốt đến quận Giang Hạ mới hết. Thái thú Giang hạ vẫn là Lưu Kỳ con Lưu Biểu, Tôn Quyền nào đã có thế lực gì, mặc dầu Quyền đánh bại Hoàng Tổ rồi, nhưng chính quyền của họ Tôn vẫn chưa đặt được ở đây. Căn cứ vào tập quán thời đại thì ai có thế lực chiếm được đất, đất ấy sẽ thuộc mình, cha truyền con nối dùng sức mạnh mà bảo vệ. Chiến trận Xích Bích kết liễu, Lưu Kỳ vẫn còn thế lực để phòng giữ Kinh châu, chính quyền họ Lưu vẫn tiếp tục. Cho nên Lưu Bị mới biểu tấu xin phong cho Lưu Kỳ làm Thứ sử Kinh châu.

Lúc này Lưu Bị được đặt trước một cơ hội độc nhất để kiến lập địa bàn dựng nghiệp lớn. Phía Giang đông, Chu Du cũng nóng lòng với vấn đề phát triển thế lực Giang đông, chiếm toàn vùng Hán Giang. Tranh chấp giữa hai lực lượng Lưu Bị và Đông Ngô không thể tránh khỏi. Điểm xung yếu của cuộc tranh chấp là Nam Quận, cổ họng khống chế toàn bộ lãnh thổ Kinh châu. Nam Quận sau khi Tào Tháo thua trận Xích Bích đã lưu Tào Nhân ở đây trấn giữ. Muốn đoạt Kinh châu, điều kiện căn bản là phải quét nốt thế lực Tào Tháo tại Nam quận.

Lưu Bị chỉ có ít lực lượng.

Chu Du thì lực lượng hùng hậu vượt xa Lưu Bị.

Cả hai đều cùng muốn đánh chiếm Nam quận để tăng cường thế lực của mình. Kết cục Lưu Bị thắng, Giang đông hao quân mà xôi hỏng bỏng không. Sự thắng lợi của Lưu Bị nhờ kế hoạch dùng đòn bẩy tài tình do Khổng Minh bố trí. Tam Quốc chí diễn nghĩa kể như sau:

- Chu Du thu quân kiểm tướng, xét thưởng công lao rồi báo tin cho Ngô hầu biết. Bao nhiêu quân hàng Du đem cả sang sông, mở tiệc rất to khao thưởng ba quân rồi tiến đánh Nam quận. Tiền đội đến bờ sông, trước sau đóng năm trại, Chu Du ở trại giữa.

Du đang cùng tướng sĩ bàn kế đánh, thì có tin báo Huyền Đức sai Tôn Càn đến mừng. Du cho mời vào. Càn chào hỏi xong nói rằng:

- Chúa công sai tôi đến bái tạ đức lớn của Đô đốc, có chút lễ mọn dâng lên.

Du hỏi:

- Huyền Đức nay ở đâu?

Càn thưa:

- Hiện đã đóng quân ở cửa sông Du giang.

Du giật mình hỏi:

- Khổng Minh có ở đó không?

Càn thưa:

- Chúa công tôi và Khổng Minh cùng ở đó cả.

Du nói:

- Ông hãy về trước, tôi cũng thân đến tạ lễ.

Du nhận lễ vật và cho người tiễn Tôn Càn về.

Lỗ Túc hỏi:

- Vừa rồi đô đốc làm sao mà giật mình như thế?

Du nói:

- Lưu Bị đóng quân ở Du giang, tất có ý lấy Nam quận. Chúng ta tổn thất bao nhiêu tiền lương, quân mã, nay Nam quận chỉ trở bàn tay là lấy được. Thế mà bọn Lưu Bị mang lòng bất nhân, chực ăn cỗ sẵn. Chết thì thôi chứ ta còn đây, sao chịu cái nước thế.

Túc hỏi:

- Dùng kế gì để lui được quân bên kia đi?

Du nói:

- Ta đến chơi nói chuyện phải chăng cho họ nghe, họ biết điều thì thôi, bằng không thì ta phải sửa trước Lưu Bị đi mới được.

Túc nói:

- Tôi xin đi theo.

Thế rồi Chu Du cùng với Lỗ Túc dẫn ba nghìn quân khinh kỵ sang cửa Du giang.

Trước hết nói về Tôn Càn về ra mắt Huyền Đức, thuật chuyện Chu Du muốn lại tạ ơn. Huyền Đức hỏi Khổng Minh:

- Chu Du muốn đến đây là ý thế nào.

Khổng Minh cười nói:

- Có phải vì một chút lễ nhỏ mà đến tạ ơn đâu, chỉ vì Nam quận đấy thôi.

Huyền Đức nói:

- Họ đem quân mã đến thì làm thế nào?

Khổng Minh đáp:

- Họ đến thì Chúa công cứ nói như thế …….. như thế.

Bàn định rồi, sai dàn thuyền ra cửa Du giang, trên bờ sông cũng bố trí quân mã nghiêm chỉnh. Một lát sau có tin báo Chu Du, Lỗ Túc dẫn quân đến. Khổng Minh sai Triệu Vân dẫn vài tên lính kỵ ra tiếp. Du trông thấy quân oai hùng tráng lắm, trong bụng áy náy không yên. Đến cửa dinh, Huyền Đức, Khổng Minh cùng ra đón vào trong trướng, chào hỏi xong xuôi, mở tiệc khoản đãi.

Huyền Đức nâng chén cảm ơn Chu Du đã giúp mình đem quân đánh lui Tào Tháo. Rượu được vài tuần Chu Du hỏi rằng:

- Dự Châu dời quân đến đây có ý muốn lấy Nam quận chăng?

Huyền Đức đáp:

- Nghe tin đô đốc muốn lấy Nam quận nên tôi dẫn quân đến giúp. Nếu đô đốc không lấy thì tôi lấy vậy.

Du cười nói:

- Đông Ngô tôi muốn chiếm cả Hán Giang đã lâu. Nay Nam quận đã ở trong tay rồi, lẽ đâu lại không lấy.

Huyền Đức nói:

- Được thua cũng chưa biết đâu mà nói trước được. Khi Tào Tháo về, giao các xứ Nam quận cho Tào Nhân giữ, thế nào chẳng có kế lạ để lại. Lại thêm Tào Nhân sức khỏe vô địch, e rằng đô đốc không lấy nổi.

Du nói:

- Nếu tôi không chiếm được Nam quận, bấy giờ tùy ý Ngài muốn lấy thế nào thì lấy.

Huyền Đức nói:

- Có Tử Kính, Khổng Minh ở đây làm chứng, sau này xin đô đốc đừng có hối.

Lỗ Túc ngần ngừ chưa lên tiếng. Du nói:

-          Đại trượng phu đã hứa ra một lời, can chi mà phải hối.

Khổng Minh nói:

-          Đô Đốc nói phải lắm. Ta hãy nhường đô đốc lấy trước, nếu không xong Chúa Công sẽ lấy, có ngại gì đâu.

Du và Túc từ biệt Huyền Đức và Khổng Minh ra về.

Huyền Đức hỏi Khổng Minh:

-          Vừa rồi tiên sinh bảo tôi nói như thế, nhưng nghĩ cho kỹ thì thấy chưa hợp lý lắm. Tôi nay cô đơn, không nơi nương tựa, muốn được một xứ Nam Quận này để làm chốn dung thân. Nếu để Chu Du lấy trước thì thành trì đã thuộc về tay Đông Ngô rồi, ta ở vào đâu cho được?

Khổng Minh cả cười đáp:

-          Trước kia tôi khuyên mãi Chúa công lấy Kinh Châu, Chúa công chẳng nghe. Nay Chúa công lại còn tưởng đến Kinh Châu à?

Huyền Đức nói:

-          Trước là đất của Lưu Biểu, nên không nỡ cướp lấy. Nay về tay Tào Tháo rồi, lấy là hợp lý lắm chớ.

Khổng Minh nói:

-          Chúa công đừng ngại, cứ mặc cho Chu Du quần nhau với Tào Nhân. Nay mai sẽ rước Chúa công vào ngồi chĩnh chệ ở trong thành Nam Quận.

Huyền Đức hỏi:

-          Kế ấy thế nào?

Khổng Minh đáp:

-          Chỉ cần như thế …….. như thế.

Huyền Đức mừng lắm, cứ đóng quân ở cửa Du Giang, không động tĩnh gì nữa.

Lại nói Chu Du, Lỗ Túc về đến trại. Túc hỏi:

-          Làm sao đô đốc hứa cho Lưu Bị lấy Nam Quận?

Du nói:

-          Tôi gẩy móng tay cũng lấy nổi Nam Quận, ta nói thế chẳng qua để lấy lòng họ đấy thôi.

Và hỏi luôn các tướng:

-          Ai dám đi lấy Nam Quận trước?

Một người xin đi bước ra. Đó là Tưởng Khâm.

Du nói:

-          Người làm tiên phong, Từ Thịnh, Đinh Phụng làm phó tướng, dẫn năm nghìn quân mã tinh nhuệ sang sông trước. Ta dẫn quân theo sau tiếp ứng.

Quả như Khổng Minh đã đoán định trước, trận đầu Tưởng Khâm thua. Trận thứ hai Chu Du bị tên độc của quân mai phục trong thành Di Lăng. Trận thứ ba quân Đông Ngô toàn thắng vì Tào Nhân trúng kế Chu Du dụ Nhân vào cướp trại. Nhưng trong khi đó thì Khổng Minh đã đem quân phỗng tay trên những thành trì mà bọn Tào Nhân bỏ trống.

Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể như sau:

-          Tào Nhân ở trong thành, bàn với các tướng rằng: Chu Du cơn tức uất lên, nhọt tên bật vỡ đến nỗi mồm thổ ra huyết, ngã lăn xuống dưới ngựa chẳng mấy bữa tất chết.

Mọi người đang bàn bạc thì có vài chục tên lính kỵ bên Ngô sang hàng, trong đó có hai tên nguyên là lính cũ bị Đông Ngô bắt được. Tào Nhân vội gọi vào hỏi. Chúng bẩm rằng:

-          Chu Du hôm nay vỡ cái nhọt tên, về đến trại thì chết. Hiện các tướng đã cử ai để trở. Chúng tôi bị Trình Phổ uy hiếp quá cho nên đến hàng và báo tin ấy.

Tào Nhânmừng lắm, dự định đến đêm đi cướp trại và chém lấy đầu Chu Du đưa về Hứa Đô.

Trần Kiều nói:

-          Kế ấy phải làm ngay không nên trì hoãn.

Tào Nhân sai ngay Ngưu Kim làm tiên phong, tự mình cầm quân trung quân, Tào Hồng, Tào Thuần làm hợp hậu. Bao nhiêu quân kéo đi cả, chỉ có Trần Kiều và một ít quân ở lại giữ thành.

Đầu canh một, quân Tào trong thành kéo thẳng đến trại Chu Du nhưng không thấy một người nào, chỉ có cờ giáo cắm dàn ra đó thôi. Tào Nhân biết là mắc mẹo, vội vàng rút lui. Bỗng đâu bốn mặt pháo nổ ầm ầm. Rồi mé Đông Hàn Dương, Tưởng Khâm kéo vào. Mé Tây: Chu Thái, Phan Chương đổ lại. Mé Nam: Từ Thịnh, Đinh Phụng đánh sang. Mé Bắc: Trần Võ, Lã Mông ập tới. Quân Tào thua liểng xiểng, ba lộ quân tan vỡ, đầu đuôi không cứu được nhau. Tào Nhân dẫn vài mươi tên quân kỵ chọc thủng vòng vây, gặp ngay Tào Hồng liền cùng nhau dắt một toán quân mã linh tinh mà chạy. Mãi đến canh năm, gần tới Nam quận, bỗng lại có một hồi chiêng trống nổi lên rồi Lăng Thống dẫn quân ra chặn đường đánh giết một hồi. Tào Nhân lẻn chạy theo đường tắt, lại gặp Cam Ninh bồi luôn cho trận nữa. Tào Nhân không dám về Nam Quận nữa, trốn thẳng một mạch về Tương Dương.

Chu Du, Trình Phổ thu cả quân mã, kéo nhau đến Nam Quận. Vừa đến nơi đã thấy trên mặt thành tinh kỳ đỏ rực cả, một tướng trên địch lâu gọi to lên rằng:

-          Xin lỗi Đô Đốc, tôi phụng mệnh quân sư lấy được thành này đã lâu rồi. Tôi là Triệu Tử Long ở Thường Sơn đây.

Chu Du giận lắm, liền sai đánh thành. Trên thành tên bắn xuống rào rào. Du truyền rút quân về để thương nghị và sai Cam Ninh dẫn quân đến lấy Kinh Châu, Lăng Thống dẫn quân đến lấy Tương Dương rồi sẽ tính đến Nam Quận cũng vừa. Du đang cắt đặt mọi việc thì có thám mã lại báo rằng: Gia Cát Lượng lấy được Nam Quận liền dùng binh phù của Tào Nhân cấp tốc điều quân giữ thành Kinh Châu đến cứu rồi sai Trương Phi úp lấy Kinh Châu.

Lại có thám mã về báo rằng:

-          Hạ Hầu Đôn giữ ở Tương Dương, Gia Cát Lượng cho người đem binh phù đến nói dối rằng Tào Nhân cầu cứu, dụ cho Hạ Hầu Đôn ra khỏi thành rồi sai Vân Trường úp lấy Tương Dương. Thành trì hai nơi ấy đều rơi vào tay Huyền Đức mà Huyền Đức không hề tốn một công sức nào.

Chu Du hỏi:

-          Gia Cát Lượng làm thế nào lấy được binh phù?

Trình Phổ nói:

-          Hắn tóm được Trần Kiều thì binh phù lọt vào tay hắn chứ gì.

Chu Du nghe nói, hét lên một tiếng, nhọt đau vỡ tung ra.

Ngay lúc còn ở Long Trung chưa ra giúp Lưu Bị, chủ trương chính trị của Gia Cát Lượng vẫn có một điểm chủ yếu là: “Liên hợp với Đông Ngô, lấy địa bàn Kinh Châu làm vốn chính trị”. Cho nên sau khi dùng mẹo phỗng tay trên Kinh Châu, Khổng Minh lập tức trở về chính sách Liên Ngô, mặt khác tích cực chuẩn bị phát triển thế lực sang Ích Châu.

Trở về chính sách Liên Ngô như thế nào?

Trước hết chính sách Liên Ngô mà thành tựu phần lớn cũng nhờ quan niệm rộng rãi của Lỗ Túc. Chu Du thấy Khổng Minh lấy được Nam Quận, Kinh Châu, Tương Dương, nổi giận muốn mang quân đánh ngay, hỏi ý kiến Túc.

Túc nói:

-          Không nên. Hiện nay ta còn phải kình nhau với Tào Tháo chưa biết được thua thế nào. Vả lại Chúa công cũng chưa hạ được Hợp Phì. Ta với Huyền Đức không nên thôn tính lẫn nhau, quân Tào thừa cơ kéo tới thì nguy lắm. Huống chi Huyền Đức lại quen thân với Tào Tháo. Nếu ta làm quá, hắn tất dâng thành trì cho Tào Tháo, hợp sức lại đánh Đông Ngô thì làm thế nào.

Nhờ ở lời nói ấy mà chiến tranh Lưu-Tôn không bùng nổ. Theo Lỗ Túc, ông muốn lấy lại Kinh Châu bằng thủ đoạn ngoại giao, phía Khổng Minh, ông cũng muốn giữ Kinh Châu với đường lối ôn hòa. Do đó Khổng Minh mới hứa với Lỗ Tử Kính mượn Kinh Châu, bao giờ Lưu Kỳ chết thì sẽ hoàn về Đông Ngô. Để tranh thủ thời gian, khi Lưu Kỳ chết, Lỗ Túc sang đòi, Khổng Minh thấy lực lượng của mình đã đủ khả năng đứng (đương?) đầu rồi, bèn chuyển sang luận điệu "sẵng", nhưng cũng không để hai bên rơi vào tình trạng cừu địch chiến tranh. Khổng Minh thuyết phục Lỗ Túc ký hiệp ước cho mượn Kinh Châu đến khi Lưu Bị có địa bàn mới là Ích Châu. Giai đoạn thứ ba của đường lối ngoại giao bảo vệ Kinh Châu là Lưu Bị mạo hiểm sang làm rể bên Đông Ngô, vận dụng tình cảm để phá kế hoạch của Chu Du, Tôn Quyền.

Nói về địa bàn Kinh Châu của Lưu Bị thì từ Tương Dương trở lên phía Bắc vẫn còn ở trong tay Tào Tháo; dọc theo bờ sông thì còn nhiều địa điểm hiểm yếu vẫn do Đông Ngô kiểm soát. Kinh Châu trống trải, bốn mặt bị địch dòm dỏ, muốn sống Lưu Bị cần phải có Ích Châu. Ích Châu bấy giờ đặt dưới quyền thống trị của Lưu Chương, Chương bất tài nhưng nhờ địa thế Ích Châu hiểm hóc nên Lưu Bị khó lòng thực hiện dã tâm thôn tính.

Nhưng kết cuộc Ích Châu vẫn bị mất về tay Lưu Bị.

Tại sao?

Vì Khổng Minh đã thôn tính Ích Châu bằng chính trị mà không bằng quân sự. Muốn rõ đầu đuôi, ta phải đi ngược dòng và trở về hiệp ước ký kết giữa Lưu Bị-Lỗ Túc giải quyết vấn đề Kinh Châu lúc công tử Lưu Kỳ mất. Nội dung bản ký kết đó, biểu hiện trong cuộc đàm phán Lưu Bị-Lỗ Túc-Khổng Minh. Tam Quốc chí diễn nghĩa kể như sau:

Túc nói:

-          Khi xưa Hoàng Thúc bị khốn ở Kinh Dương, chính Túc này dẫn tiên sinh đến ra mắt chúa công tôi. Về sau Chu Công Cẩn định cất quân lấy Kinh Châu, tôi lại ngăn được. Đến việc Hoàng Thúc hứa đợi khi nào công tử Lưu Kỳ qua đời sẽ trả Kinh Châu, tôi lại gánh vác cho nốt. Nay Hoàng Thúc không giữ lời hứa, bảo tôi về ăn nói làm sao bây giờ. Chủ tôi và Công Cẩn tất nhiên bắt tội tôi, tôi có chết cũng không oán hận, chỉ sợ Đông Ngô bực tức, dấy động can qua thì Hoàng Thúc cũng chẳng ngồi yên được ở Kinh Châu, thành ra chỉ bày trò cười cho thiên hạ đó thôi.

Khổng Minh nói:

-          Tào Tháo cầm quân trăm vạn, hơi một tý cũng mượn tiếng thiên tử tôi cũng chẳng coi ra gì, huống hồ là Chu Công Cẩn. Để ông khỏi mất thể diện, tôi xin khuyên chúa công tôi lập văn tự mượn Kinh Châu làm vốn, đợi khi nào lấy được chỗ khác sẽ đem Kinh Châu trả lại Đông Ngô, ý ông thế nào?

Túc hỏi:

-          Tiên sinh đợi lấy được chỗ nào rồi mới trả Kinh Châu cho Đông Ngô tôi?

Khổng Minh đáp:

-          Trung Nguyên chưa dễ đã lấy được, chỉ có Lưu Chương ở Tây Xuyên hèn yếu lắm, chủ tôi sẽ tính. Nếu lấy được Tây Xuyên thì sẽ trả Kinh Châu cho Đông Ngô.

Túc không biết làm sao hơn được đành phải nghe vậy, ký kết và nhận lấy văn tự. Khi Lỗ Túc từ biệt ra về, Huyền Đức, Khổng Minh tiễn ra thuyền, Khổng Minh dặn rằng: Tử Kính về nói với Ngô Hầu cho khéo, đừng có nghĩ càn. Nếu không nhận văn tự đó, chúng ta trở mặt thì cả tám mươi mốt châu Giang Nam cũng bị mất nốt đó. Nay chỉ cốt hai nhà hòa thuận với nhau, chớ nên để cho giặc Tào chê cười.

Trải qua một thời gian, Tào Tháo đã ổn định xong nội bộ, lại muốn thực hành chính sách thôn tính thống nhất, ngặt vì Lưu Bị và Tôn Ngô vẫn dựa lưng nhau. Thế của Tháo là phải phá hoại sự liên kết Lưu-Tôn, bèn xin phong cho Tôn Quyền chính thức làm Châu mục Kinh Châu, dùng danh nghĩa pháp lý mà chuyển mâu thuẫn Lưu-Tôn thành chiến tranh. Đúng như Tháo dự tính, Tôn Quyền thụ phong và sai Lỗ Túc lại sang hạch hỏi Kinh Châu. Khổng Minh thấy cơ sự khó khăn, không sẵng nữa mà đáp lại Lỗ Túc bằng thái độ cực ôn hòa nhu thuận, xui Huyền Đức làm ra vẻ sầu não, còn tự mình nói chuyện quanh co:

-          Tử Kính có hiểu cớ sao mà chúa công tôi khóc thế không?

Túc nói:

-          Tôi thật không biết.

Khổng Minh nói:

-          Có gì mà không biết. Trước kia chúa công tôi mượn Kinh Châu có hẹn rằng bao giờ lấy được Tây Xuyên thì trả. Nhưng suy đi nghĩ lại, Lưu Chương ở Ích Châu là em chúa công tôi, đôi bên cùng là máu mủ nhà Hán cả. Nếu cất quân sang cướp lấy thành trì, e thiên hạ chê cười. Ích Châu đã không cướp lấy được mà lại phải trả Kinh Châu thì còn chỗ nào mà ở? Mà không trả thì e mất thân tình, việc thực khó nghĩ, bởi thế mới đau lòng mà khóc.

Khổng Minh nói động đến niềm tâm sự của Huyền Đức, Huyền Đức càng ôm bụng dậm chân khóc ầm lên. Lỗ Túc khuyên rằng:

-           Hoàng Thúc chớ nên phiền não, hãy bàn với Khổng Minh thế nào cho phải thì thôi.

Khổng Minh nói:

-          Nhờ Tử Kính về ra mắt Ngô Hầu, xin chớ tiếc lời, hãy tha thiết bày tỏ cái tình cảnh này mà cho khoan hạn ít lâu nữa.

Thấy đòi không xong, Chu Du lập kế động binh với danh nghĩa đi đánh Tây Xuyên hộ cho Lưu Bị, dự tính lấy xong Ích Châu thì cho Tôn Du điều khiển. Việc này Tam Quốc Chí diễn nghĩa với chính sử khác nhau. Theo Tam Quốc Chí thì Gia Cát Lượng giả tảng bằng lòng. Nhưng lúc Chu Du kéo quân sang thì Khổng Minh sai Triệu Vân chặn đường và Quan Vân Trường, Trương Phi, Ngụy Diên bao vây buộc Chu Du phải lui quân. Chu Du lui rồi, Gia Cát Lượng mới viết thư cho Chu Du như sau:

Quân sư Trung Lang Tướng nhà Hán là Gia Cát Lượng đưa thư này đô đốc nước Ngô là Công Cẩn được biết:

-          Tôi từ khi biệt nhau với Ngài ở Sài Trang đến giờ, vẫn còn lưu luyến chưa quên, nay nghe thấy Ngài muốn cất quân sang lấy Tây Xuyên, tôi thiết nghĩ không nên. Ích Châu dân thì mạnh, đất thì hiểm. Lưu Chương tuy rằng hèn đốn nhưng giữ cũng nổi. Nay muốn thành công mà bắt quân khó nhọc đi đánh xa, vận tải hàng muôn dặm, tôi chắc dẫu đến Ngô Khởi, Tôn Vũ ngày xưa cũng không sao làm nổi được.

Tào Tháo mới thua ở Xích Bích đâu đã quên bẵng việc báo thù. Nay Ngài cất quân đi đánh phương xa, Tào Tháo thừa cơ đến đánh thì Giang Nam ra cám mất. Tôi không nỡ ngồi nhìn mà không báo trước, xin Ngài soi xét.

Sự thật chỉ có dự định mà không có động binh, cũng không có việc Triệu Vân ngăn chặn, Vân Trường, Trương Phi, Ngụy Diên bao vây, bởi vì Khổng Minh dùng kế của một người tên là Ân Quan, thỏa thuận để cho Tôn Quyền mượn đường Kinh Châu đánh Tây Xuyên nhưng với những điều kiện:

a)      Hợp tác với quân Kinh Châu cùng đánh Tây Xuyên.

b)      Kinh Châu kiểm soát chặt chẽ số quân Giang Đông, qua Kinh Châu chỉ đến một hạn độ nào thôi.

c)      Quân Giang Đông sẽ làm tiên phong vào Tây Xuyên.

Đương nhiên với những điều kiện ấy, Tôn Quyền, Chu Du không chấp nhận được. Nhận như thế khác gì bằng lòng cho quân Lưu Bị sẽ hợp cùng Tây Xuyên mà tiêu diệt quân Ngô chứ không phải hợp với Đông Ngô mà tiêu diệt Tây Xuyên nữa.

Trong tình trạng dằng co giữa Đông Ngô và lực lượng  Lưu Bị, nếu Tây Xuyên biết lợi dụng thì chắc hẳn Tây Xuyên vững như bàn thạch.

Chẳng ngờ lại chính Lưu Chương đi mời Lưu Bị vào chiếm cứ Tây Xuyên. Tướng Tây Xuyên là Nghiêm Nhan gọi hành động này là: “ngồi một mình trong núi sâu lại thả hổ ra tự vệ” (Độc tọa cùng sơn, phóng hổ tự vệ”). Nguyên lai, từ khi Lưu Yên chiếm cứ Ích Châu, trước sau người bản địa vẫn không quy phục bởi vì Lưu Yên đã tiêu diệt một số lãnh tụ kính mến của họ, thêm nữa Lưu Yên còn mang một số dân nơi khác đến lập nền thống trị ở đây, khinh bỉ lăng nhục người bản địa.

Lưu Yên chết, Lưu Chương kế vị, Triệu Vĩ nổi loạn. Tuy Chương đàn áp nổi nhưng nội bộ chia bè, chia phái. Ngoài mặt tuy có vẻ an bình, nhưng nếu bất cứ lúc nào xẩy chuyện thì sự biến loạn cũng rất dễ dàng.

Năm Kiến An thứ 16, Tào Tháo cất quân đánh Trương Lỗ, tin này truyền đến Ích Châu, thủ hạ của Lưu Chương là Trương Tùng nói với Lưu Chương rằng: “Hán Trung là cửa ngõ của Ba Thục, nếu Tào Tháo mà chiếm cứ được Hán Trung thì Ba Thục nguy mất. Vả lại các tướng Ba Thục như bọn Lý Dị, Bàng Hi không chống nổi Tào Tháo đâu. Nay có Lưu Bị là họ hàng với chúa công, Bị giỏi dùng binh, chẳng bằng ta vời Lưu Bị đến đánh Trương Lỗ giữ Hán Trung thì không còn lo chi Tào Tháo.”

Lưu Chương cho là phải, sai Pháp Chính dẫn bốn ngàn quân đi đón Lưu Bị. Pháp Chính đưa cho Lưu Bị một bức thư của Lưu Chương viết rằng:

“Em là Lưu Chương xin có mấy lời kính gởi lên tôn huynh Huyền Đức tướng quân, lâu nay Em vẫn khâm phục uy trời, nhưng vì đường sá gập ghềnh, chưa kịp cống hiến, rất là áy náy không yên. Em thường nghe nói xấu tốt hoạn nạn cùng cứu giúp nhau, bè bạn còn thế huống chi chỗ bà con họ hàng.

Nay Trương Lỗ ở phía Bắc, thường muốn cất quân xâm phạm bờ cõi. Em chẳng được an tâm nên cho người dâng thư này xin ý kiến tôn huynh. Nếu tôn huynh nghĩ đến tình nghĩa Anh Em họ hàng thì mang quân mã, tiêu diệt giặc cướp, giúp đỡ nhau mãi mãi, sẽ xin báo đáp xứng đáng. Thư chẳng hết lời, mong tôn huynh chiếu cố.”

Trên hình thức, việc Lưu Chương mời Lưu Bị vào Tây Xuyên tiêu diệt Trương Lỗ, chiếm Hán Trung, Lưu Bị thế mạnh làm bình phong che đỡ mặt Tào Tháo cho Tây Xuyên quả là có kế hoạch tính toán hẳn hoi.

Nhưng xét sâu vào kế hoạch thì tính toán ấy chỉ có hình thức, chỉ biết nhìn hiện tượng. Lưu Chương đã bỏ quên quy luật phát triển của chính trị là nội dung và bản chất. Hơn nữa  Lưu Chương cũng không nhận thức rõ tình trạng nội bộ Tây Xuyên như thế nào. Ngay khi liên lạc được với Lưu Bị, Trương Tùng và Pháp Chính đã âm mưu với Bàng Thống giết luôn Lưu Chương giữa cuộc hội đàm giữa Chương và Bị ở Bồi Thành, việc làm của Pháp Chính và Trương Tùng đều do tranh chấp bè phái mà ra. Nhưng Lưu Bị vốn không có khả năng bạo  động, khả năng âm mưu, nên không nghe. Cơ sở lý luận trên chính sách của Lưu Bị đối phó với Tào Tháo bao giờ cũng là:

- “Ta địch với Tào Tháo khác nào nước địch với lửa. Tháo vội vàng, ta thư thả. Tháo bạc ác, ta nhân từ. Tháo dối trá, ta thực thà. Việc gì ta cũng phải khác Tháo thì mới thành công. Nếu vì một chút lợi nhỏ mà bỏ cả tín nghĩa với thiên hạ, ta không nỡ làm”.

Lưu Bị tới Bồi Thành gặp Lưu Chương, Chương cấp cho Lưu Bị rất nhiều binh mã, lương thực tiền bạc. Cho quyền Lưu Bị điều khiển quân đội ở Bạch thủy quan để đánh Trương Lỗ.

Lưu Bị thêm thế lực rồi, chẳng những không đi đánh Trương Lỗ ngay, Bị còn đồn trú quân tại huyện Hà Manh, vận dụng chính trị tranh thủ nhân tâm bằng cách thi ân bố đức.

Điểm này cho thấy rằng Lưu Bị đâu có phải là người thiếu thủ đoạn. Nếu Lưu Bị làm theo kế Trương Tùng, Pháp Chính thì đương nhiên sẽ gặp khó khăn vì quân dân Tây Xuyên phản đối kháng cự, đẩy Lưu Bị vào con đường không có lối thoát.

Trở về sự kiện Tào Tháo mang quân đánh Trương Lỗ, lúc sửa soạn vừa xong thì mặt Tây, Hàn Toại, Mã Siêu cũng rục rịch khiến Tháo phải đích thân Tây chinh. Việc đánh Trương Lỗ vì thế phải đình chỉ.

Năm Kiến An thứ 17, Tào Tháo lại khởi binh đánh Tôn Quyền. Quân Tháo ầm ầm kéo đến Nhu Tu. Hai bên cầm cự nhau chừng hai tháng, đánh mấy trận, khi được khi thua. Qua tháng giêng, mưa tầm tã, ngòi lạch đầy nước, quân sĩ ở trên đám bùn lầy vô cùng khổ sở. Tháo lo lắm, hội các tướng lại thương nghị, người thì khuyên rút quân về, kẻ thì nói rằng nên nhân lúc mùa xuân ấm áp cứ đánh. Tháo trong bụng phân vân, chợt có sứ giả Đông Ngô đưa thư đến, Tháo mở thư ra xem, đại ý viết:

-          Tôi với Thừa tướng cùng là bầy tôi nhà Hán. Thừa tướng không biết báo ân nước, trị an nhân dân mà cứ động việc binh đao, tàn hại sinh linh, người nhân đức đâu có thế. Hiện nay mưa xuân đang thịnh, ông nên quay về đi. Nếu không lại có vạ Xích Bích nữa đó. Ông nên nghĩ kỹ.

Sau thư lại phê hai câu rằng:

Ông mà không chết,

Tôi cũng khó ngồi yên.

Tào Tháo xem xong cười mà nói rằng:

-          Tôn trọng Mưu biết điều lắm.

Lập tức hậu thưởng cho Sứ giả, truyền lệnh rút quân về rồi sai quan Thái thú Lư Giang là Chu Quang trấn giữ Hoàng thành còn mình thu đại quân về Hứa Xương. Tôn Quyền cũng thu quân về Mật Lăng, bàn với các tướng rằng:

-          Tào Tháo tuy đã về Bắc, nhưng Lưu Bị còn ở Hà Manh. Sao không đem quân chống Tào đến lấy Kinh Châu?

Kết quả cuộc chiến tranh Tôn-Tào ở Nhu Tu đã rõ rệt như thế. Nhưng ở bên Tây Xuyên, để thực hiện chính sách xâm chiếm Tây Xuyên, Lưu Bị cùng Bàng Thống lại ngụy tạo một tình huống khác hẳn để lừa Lưu Chương.

Bàng Thống khuyên Lưu Bị điều đình với Lưu Chương hãy tạm gác việc chinh phạt Trương Lỗ mà cấp cho mình quân lương để đi cứu viện cho Tôn Quyền. Nhưng lần này kế hoạch không thi hành được trót lọt như các lần trước vì Lưu Chương đã bắt đầu nghi ngờ, nên chỉ cấp binh lương cho Lưu Bị một cách rất hạn chế. Thấy cơ sự này, Lưu Bị bèn vấn kế Bàng Thống, Bàng Thống bầy cho Lưu Bị ba mẹo:

-          Kén tinh binh, không kỳ ngày đêm đánh úp Thành Đô.

-          Quay binh về cửa ải Bồi Quan, giả tiếng về Kinh Châu, bắt giết tướng giữ ải, cướp lấy cửa ải rồi sẽ tiến quân vào Thành Đô.

-          Lui về Bạch Đế thành liền đem rút quân về Kinh Châu, dần dần về sau lại liệu kế khác.

Huyền Đức nói:

-          Mẹo thứ nhất táo bạo cấp bách quá, mẹo thứ ba trì trễ quá. Chỉ mẹo thứ hai có thể theo được.

Lưu Bị mới viết thư cho Lưu Chương nói thác rằng Tào Tháo sai Nhạc Tiến đem quân đến Thanh Nê, các tướng không cự nổi nên phải về cứu, lưu mấy lời tạm biệt.

Cùng lúc ấy thư của Trương Chiêu bên Giang Đông gửi cho Lưu Chương vạch vòi âm mưu của Lưu Bị vừa tới nơi, lại bị vụ Trương Túc tố cáo Trương Tùng bội phản, Lưu Chương tỉnh ngộ, sai chém Trương Tùng và ra lệnh khắp các cửa ải phải đề phòng nghiêm ngặt, cấm không cho người nào được phép vãng lai với Lưu Bị.

Nhưng mọi biện pháp chống giữ của Lưu Chương vô hiệu quả, vì thời thế đã chín rồi.

Lưu Bị bắt đầu chiếm Bồi Thành, đánh sang Lạc huyện. Quân Lưu Chương đến tiếp cứu chỗ nào cũng thua. Năm Kiến An thứ 19, Lưu Bị vây Thành đô, Lưu Chương chống giữ thêm mấy ngày rồi đầu hàng. Toàn bộ Ích Châu rơi vào tay Lưu Bị. Kế hoạch của Gia Cát Lượng đến đây có thể nói đã thực hiện được quá nửa.

Năm Kiến An thứ 17 và 18, tranh chấp Lưu Chương, Lưu Bị chưa thực sự bùng nổ ác liệt, lại thêm Mã Siêu ở Quan Trung khuấy loạn nên kế hoạch chiếm Hán Trung của Tào Tháo không sao thực hiện được. Tháo lưu Hạ hầu Uyên tại Quan Trung, ròng rã tác chiến mãi tới năm Kiến An thứ 19 mới bình định xong lực lượng Mã Siêu, luôn cả vùng Lương Châu nữa, thời gian này Lưu Bị cũng giải quyết hoàn toàn đất Tứ Xuyên.

Năm Kiến An thứ 22, tháng 3, Tào Tháo một lần nữa đề cập đến vấn đề tấn công Trương Lỗ. Bên Lưu Bị, một lần nữa, Tôn Quyền lại sai người sang đòi Kinh Châu. Bị vẫn thoái thác, tạ sự rằng quân lương hãy còn thiếu, đợi lấy nốt Lương Châu, sau sẽ trả Kinh Châu. Tôn Quyền giận lắm, hội các tướng thảo luận tuyên chiến. Lưu Bị cũng sẵn sàng chống cự, sai Quan Vũ chặn giữ vùng Ích Dương còn tự mình thống lĩnh đại quân dàn ra vùng Công An. Nhưng khi nghe tin Tào Tháo đã đánh vào Hán Trung rồi, Lưu Bị đành phải quay về chính sách mềm dẻo, đem đất Kinh Châu chia ra hai mảnh, từ Giang Hạ xuống phía Nam thuộc Tôn Quyền, từ Nam Quận xuống phía Nam thuộc Lưu Bị.

Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể đầu đuôi việc cắt Kinh Châu như sau:

- Tào Tháo lấy xong Hán Trung, quan chủ bộ là Tư Mã Ý hiến kế rằng Lưu Bị dùng mẹo lừa, cố cướp lấy Ích Châu của Lưu Chương, nhân dân Thục chưa quy phục. Nay Chúa công đánh phá được Hán Trung, chấn động cả Ích Châu, nên tiến binh đến đánh cho mau thì đất này vỡ lở. Có câu rằng “Dẫu có trí khôn không bằng thừa thế”. Dịp này chúa công chớ nên để lỡ.

Lưu Hoa nói:

- Tư Mã Trọng Đạt nói phải đấy. Nếu để chậm thì Gia Cát Lượng sáng suốt việc trị nước mà làm tướng văn, bọn Quan Trương trùm ba quân mà làm tướng võ. Dân Thục yên rồi chia ra giữ các nơi cửa ải thì không sao lay chuyển được đâu.

Tháo nói:

- Quân sĩ đi xa mệt mỏi lắm rồi, hãy nên cho nghỉ ngơi đã.

Liền đóng quân ở yên một chỗ.

Nói về nhân dân Tây Xuyên, nghe tin Tào Tháo lấy được Đông Xuyên (tức Hán Trung) rồi, trong một ngày ba lần kinh hãi. Huyền Đức đâm lo, mời Khổng Minh đến thương nghị, Khổng Minh nói:

- Tôi có một kế này, khiến cho Tào Tháo phải rút quân về.

Huyền Đức hỏi mẹo gì thì Khổng Minh đáp:

- Tào Tháo chia quân ra đóng ở Hợp Phì là có ý sợ Tôn Quyền. Nay nếu ta đem ba quận Giang Hạ, Tràng Sa, Quế Dương trả cho Đông Ngô, sai một biện sĩ sang bày tỏ lợi hại, xui Đông Ngô đánh Hợp Phì, Tào Tháo tất phải quay binh về mặt Nam.

Trương Liêu nghe tin Tôn Quyền sắp đem thêm quân đánh, sợ Hợp Phì ít quân không chống nổi, vội vã sai Tiết Đễ gấp rút về Hán Trung xin viện binh. Tháo bàn với các quan rằng:

- Bây giờ có nên đánh Tây Xuyên nữa không?

Lưu Hoa thưa:

- Chi bằng hãy đem quân về cứu Hợp Phì, nhân thể đánh lấy Giang Nam.

Sở dĩ Tháo không nghe lời Lưu Hoa và Tư Mã Ý đánh Tây Xuyên ngay, vì mưu kế của Ý và Hoa tuy đúng nhưng chỉ đúng có một mặt và vì tính chất phiến diện ấy sẽ đẩy việc làm vào cảnh phiêu lưu. Đánh Tây Xuyên có thắng chăng nữa cũng phải mất hàng năm, trong khi chưa khắc phục xong Tây Xuyên mà Tôn Quyền đánh úp mặt sau thì sao? Nhận thức chính trị lão luyện của Tào Tháo vượt xa Tư Mã Ý nhiều.

Xét lợi hại về sự chia đất Kinh Châu: bên Lưu Bị phái Quan Vân Trường đóng ở Giang Lăng; đất này trước vốn thuộc quyền Chu Du cai quản, nay chính thức thuộc Lưu Bị; bên Tôn Quyền, Lỗ Túc đóng ở Lục Khẩu, vậy bên Lưu Bị lợi hơn.

Lã Mông là người thế nào?

Lã Mông thuở nhỏ cùng khổ, phải dùng đến sức lực rất nhiều để kiếm ăn, vì sức lực cường kiện nên chuyên học võ, không hề đọc sách. Có một hôm, Tôn Quyền nói với Lã Mông và Tưởng Khâm rằng: “Hai người nay đều làm chức cao trong triều, cần phải đọc sách để tăng thêm học vấn mới được”.

Lã Mông nói:

- Thưa Chúa công, hiềm vì việc quân bề bộn nên không có thì giờ đọc sách.

Tôn Quyền nói:

- Ta bảo thế không có nghĩa là đòi hỏi ngươi trở thành một người thông kim bác cổ. Ta chỉ muốn ngươi đọc sách để hiểu biết chút ít trí thức kinh lịch tiền nhân, rồi ra sẽ có lúc phải dùng đến. Đức Khổng Tử bảo: “Hì hục quên ăn quên ngủ ích gì, hãy đi tìm sách mà đọc”. Vua Hán Quang Vũ khi còn chinh chiến sách chẳng rời tay, Tào Tháo đã già mà vẫn chăm đọc sách. Sao nhà ngươi không biết cố gắng làm vậy?”.

Nghe lời Tôn Quyền, Lã Mông khổ công đọc sách thấu đáo nghĩa lý. Ngày mà Lỗ Túc đến thay chức Chu Du, Túc cùng Lã Mông thương nghị. Những hiểu biết của Lã Mông làm Túc ngạc nhiên. Túc nói với Lã Mông rằng: “Tôi vẫn nghĩ ông chỉ biết nghề võ, ai ngờ Lã Mông bây giờ không phải Lã Mông ngày trước”. Lã Mông cười đáp: “Con người hễ cứ biệt nhau, cách ba ngày sau thì lại cần phải trông hiểu nhau bằng tầm mắt khác”. Chủ trương của Lã Mông đối với vấn đề Kinh Châu giống hệt như ý Chu Du. Mông muốn đem quân Giang Đông đóng làm ba nơi để tạo thế ỷ giốc phòng thủ. Một là Giang Lăng, hai là Bạch Đế, ba là lập một đạo quân tuần phòng suốt dọc sông. Thực hiện thế phòng thủ này, tự nhiên cần phải chiếm Kinh Châu.

Trước khi đi kế nhiệm Lỗ Túc, Tôn Quyền vời Lã Mông vào thương nghị, hỏi rằng: “Lấy Kinh Châu hơn (hay?) là lấy Từ Châu hơn?” Lã Mông trả lời: “Từ Châu khó lòng đoạt cho xong vì đất này là bình nguyên, lợi cho mã đội, mà phải có tới mười vạn quân mới giữ nổi. Chẳng bằng lấy Kinh Châu, chiếm cứ cả một con sông dài, người Giang Nam lại giỏi về thủy chiến, rất lợi cho miền Nam”.

Tôn Quyền chịu là phải.

Đông Ngô ngày đêm nghiên cứu kế hoạch chiếm đoạt Kinh Châu. Trong khi bên Lưu Bị rất sơ hở việc phòng giữ mặt này, hầu như không lưu ý gì đến quyết định cuộc hội đàm Lã Mông - Tôn Quyền về vấn đề Kinh Châu.

Năm Kiến An thứ 23, Lưu Bị theo kế Pháp Chính tấn công Hán Trung, khiến Tào Tháo phải Tây chinh, đem quân đến Tràng An.

Năm Kiến An thứ 24, Lưu Bị chém Hạ Hầu Uyên ở núi Định Quân. Tào Tháo tiến đánh, Lưu Bị phải lui đóng chẹn các nơi hiểm yếu, nhất định không chịu giao phong với quân Ngụy nữa. Tào Tháo không biết làm thế nào, ít lâu đành thoái binh. Chiếm được Hán Trung, Lưu Bị tỏ ra đắc ý, nhưng sự đắc ý ở đây đã tạo cho Lưu Bị một thất ý đau đớn ở bên Kinh Châu.

Chiếm xong Hán Trung, các tướng của Lưu Bị hội nhau suy tôn Huyền Đức lên ngôi Vua. Tào Tháo ở Nghiệp Quận nghe tin Lưu Bị làm lễ nhận Miện phục và Tỷ thụ tại Miên Dương, định lập tức truyền lệnh khởi hết quân trong nước sang hai Xuyên để quyết sống mái với Hán Trung Vương.

Tư Mã Ý can rằng:

- Tôn Quyền ở Giang Đông, gả em gái cho Lưu Bị, rồi lại thừa cơ bắt em về. Lưu Bị thì chiếm Kinh Châu, không trả Đông Ngô. Bởi thế hai bên vẫn thù oán nhau. Nay ta nên sai người đến dụ Tôn Quyền, sai hắn cất quân sang đánh Kinh Châu. Lưu Bị tất phải mang quân đến cứu. Bấy giờ ta sẽ dẫn quân đến lấy Hán Trung, Lưu Bị đầu đuôi không cứu được nhau tất nhiên phải nguy khốn.

Tháo sai Mãn Sủng đưa thư sang hẹn Tôn Quyền đánh Kinh Châu. Tôn Quyền nhân vừa bị Quan Vũ nhục mạ, ý muốn cất quân đánh ngay. Mưu thần Bộ Trắc nói: “Hiện nay Tào Nhân đóng ở Tương Dương, Phàn Thành không phải cách trở sông to, ngay đường bộ cũng lấy được Kinh Châu, làm sao không đánh chiếm lấy, lại phải xui Đông Ngô ta. Cứ lẽ ấy mà suy thì đủ biết bụng dạ Tào Tháo. Chúa công nên sai sứ sang Hứa Đô, xui Tào Tháo khởi binh mặt bộ trước đến lấy Kinh Châu. Vân Trường tất kéo quân ra đánh Phàn Thành. Nếu Vân Trường đi rồi, chúa công sai một tướng đến ngầm lấy Kinh Châu, như thế chỉ một trận là phá xong”.

Tôn Quyền nghe theo, sai người sang sông dâng thư nói với Tháo việc ấy. Tháo mừng rỡ, lập tức sai Mãn Sủng làm Tham mưu ra Phàn Thành giúp Tào Nhân bàn việc cất quân. Một mặt đưa hịch sang Đông Ngô, sai cất quân đi đường thủy tiếp ứng.

Vân Trường ở Kinh Châu phải đương đầu với hai mặt.

Người đời sau bênh vực Vân Trường đều cho rằng cả hai mặt mà Quan Vũ phải đối phó đều rất khó khăn. Thật ra, sự thất bại hoàn toàn do bởi cái tâm chất kiêu căng và kém khả năng chính trị của Vân Trường. Phê bình Vân Trường với việc Kinh Châu, một nhà học giả Trung Hoa viết tám chữ: “Dũng cảm hữu dư, Chính trị bất túc”. Chính vì thừa dũng cảm kết hợp với thiếu chính trị mà thành phiêu lưu vậy.

Tâm chất kiêu căng và kém khả năng chính trị của Vân Trường đã biểu hiện lên những sự kiện nào?

a) Cắt đoạn ngoại giao với Giang Đông.

b) Không nhận thức đúng rằng bấy giờ Tôn Quyền đáng sợ hơn Tào Tháo.

c) Không trị yên được nội bộ, bọn My Phương ở Giang Lăng và bọn Phó Sỹ Nhân ở Công An chống lại và mưu phản Vân Trường.

d) Khinh rẻ Lục Tốn.

- Coi rẻ Lục Tốn là một quan kiện quyết định Kinh Châu thất thủ. Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể như sau:

- Vân Trường hạ được thành Tương Dương, dụ yên dân chúng, khao thưởng quân sĩ.

Tùy quân Tư Mã là Vương Phủ vào bẩm rằng:

- Tướng quân đánh một trận hạ được Tương Dương, quân Tào tuy rằng mất vía, nhưng cứ ý tôi nghĩ thì Lã Mông bên Đông Ngô hiện đang đóng quân ở cửa Lục Khẩu, có ý muốn dòm ngó Kinh Châu của ta. Nếu hắn đem quân lén lấy Kinh Châu thì làm thế nào?

Vân Trường nói:

- Ta cũng đã nghĩ đến, ngươi nên về lo liệu việc ấy cho ta. Cứ men theo bờ sông, hoặc cách hai mươi dặm, hoặc cách ba mươi dặm, nên tìm chỗ nào có gò cao, xây mỗi chỗ một cái ụ đốt lửa; mỗi ụ dùng 50 tên lính canh giữ. Khi nào quân Ngô sang sông, đêm thì đốt lửa lên cho sáng, ngày thì đốt khói lên để làm hiệu, ta sẽ kéo quân về cứu.

Sau khi hội đàm với Tôn Quyền quyết định đánh úp Kinh Châu. Về đến Lục Khẩu, có tiền mã báo rằng:

- Dưới ven sông, cứ hai chục dặm hoặc ba chục dặm, trên các gò cao đều có ụ đốt lửa cả. Lại nghe quân mã Kinh Châu tề chỉnh lắm, chắc là có chuẩn bị rồi.

Lã Mông giật mình nói rằng:

- Nếu như thế thì khó đồ được mất rồi. Trước mặt Ngô Hầu ta trót khuyên lấy Kinh Châu, nay biết xử trí thế nào cho được?

Mông nghĩ ngợi mãi không có mẹo gì, mới cáo ốm và cho người về báo với Tôn Quyền. Quyền thấy vậy trong bụng buồn rầu lắm.

Lục Tốn thưa rằng:

- Tử Minh giả ốm đó, không phải ốm thiệt đâu.

Quyền nói:

- Bá Ngôn đã biết là giả thì thử đi xem sao.

Lục Tốn lĩnh mệnh, đến Lục Khẩu ra mắt Lã Mông; quả nhiên Mông không có gì đáng (dáng?) đau ốm cả. Tốn nói:

- Tôi phụng mệnh Ngô Hầu đến thăm quý thể ra làm sao.

Mông nói:

- Tôi hơi mệt một chút, đâu phiền đến hỏi thăm.

Tốn nói:

- Ngô Hầu mang trách nhiệm giao phó cho ông, ông không nhân lúc này mà làm phăng ngay đi, còn để bận bịu trong bụng làm gì?

Lã Mông giương mắt nhìn Lục Tốn, nín lặng hồi lâu. Tốn lại nói:

- Tôi có một phương thuốc trị được bệnh của Tướng quân, không biết ông có dùng không.

Mông mới đuổi tả hữu ra ngoài rồi hỏi rằng:

- Bá Ngôn có phương nào hay, xin dạy bảo ngay cho.

Tốn cười nói:

- Bệnh của Tử Minh chẳng qua chỉ vì quân Kinh Châu nghiêm chỉnh và ven sông lại có ụ khói lửa đó thôi. Tôi có một mẹo này khiến cho những quân giữ Kinh Châu không đốt được lửa lên, mà quân Kinh Châu phải bó tay chịu hàng thì thế nào?

Tốn nói thêm:

- Vân Trường cậy mình là Anh hùng, nhưng chỉ còn e có Tướng quân đó thôi. Giả thử Tướng quân giả ốm từ chức lui về, giao việc cho người khác để cho người ấy phỉnh phờ Quan Công, càng làm cho y kiêu ngạo nữa, y tất rút hết quân Kinh Châu kéo ra Phàn Thành. Nếu Kinh Châu không có phòng bị gì, ta chỉ dùng một đạo quân, tìm mưu lạ sang sông mà úp lấy, chắc chắn Kinh Châu ở trong tay rồi.

Lã Mông mừng rỡ nói rằng:

- Thế mới là mẹo giỏi.

Sau đó, Lã Mông giả vờ ốm nặng, dâng thư từ chức.

Lục Tốn về ra mắt Tôn Quyền, thuật lại kế ấy. Quyền cho triệu Lã Mông về Kiến Nghiệp dưỡng bệnh. Mông về đến nơi, Quyền hỏi rằng:

- Trách nhiệm ở Lục Khẩu, ngày xưa Chu Công Cẩn tiến Lỗ Túc để thay chân. Khi Lỗ Túc mất, lại tiến ngươi kế vào chức ấy. Nay ngươi cũng nên tiến một người nào có tài có tiếng để thay ngươi thì chẳng hay lắm ru.

Mông thưa:

- Nếu dùng người danh vọng thì Vân Trường tất nhiên phải đề phòng. Có Lục Tốn, ý tứ sâu xa mà chưa có danh tiếng gì, Vân Trường tất không coi vào đâu. Nếu dùng người ấy thay tôi thì việc ắt xong.

Quyền mừng lắm, ngay hôm ấy phong cho Lục Tốn làm Thiên tướng quân Hữu đô đốc thay Lã Mông coi giữ Lục Khẩu.

Tốn phụng mệnh nhận lĩnh ấn thụ, ra ngay Lục Khẩu. Bàn giao công việc trong ba quân mã thủy bộ đâu đấy, Tốn lập tức viết một phong thư, sai người mang ngựa quý gấm lạ, rượu ngon và đồ lễ vật khác đem đến Phàn Thành vào lễ Quan Công.

Quan Công đòi sứ giả vào bảo rằng:

- Tôn Quyền nay sao quẫn thế, sai thằng trẻ con ra làm Tướng à?

Sứ giả phục xuống đất kêu rằng:

- Lục Tướng quân tôi, có đồ lễ và thư đến đây dâng trình Quân Hầu. Một là mừng Quân Hầu, hai là cầu đôi bên được hòa hiếu với nhau, xin Quân Hầu chiếu cố đến cho.

Quan Công mở thư ra xem, thấy lời lẽ khiêm tốn lắm. Xem xong ngẩng mặt cười ầm cả lên…

Vân Trường là người thế nào?

1) Kể về phương diện tài năng: Quan Vũ là một người có bản lĩnh, nhưng chỉ bản lĩnh chinh chiến mà không có bản lĩnh chính trị.

Cứ xem như trong toàn bộ Tam Quốc Chí, mỗi lần lực lượng Lưu Bị phân binh thì bao giờ cũng chỉ có hai người lãnh đạo là Lưu Bị, và Vân Trường.

2) Người phương Bắc vốn vẫn không thiện thuỷ chiến, mà khi Vân Trường lãnh đạo Kinh Châu, thuỷ binh trong tay Vân Trường cũng không dở.

3) Kể về phương diện tâm chất, đạo đức, Vân Trường hoàn toàn là con người khí khái anh hùng đặc biệt của một võ sĩ phong kiến thời đại. Tâm chất này đã tạo thành nhiều nhược điểm của Vân Trường trên chính trị.

Thua trận Mạch Thành và cái chết của Vân Trường là một vết thương chí mạng cho lực lượng Lưu Huyền Đức. Bởi vì mất Kinh Châu thì chỉ còn có một đường phát triển vào Trung Nguyên là đường từ Ích Châu qua Hán Trung sang Quan Trung, đường này lại rất nguy hiểm, đường núi trùng điệp; còn Kinh Châu, Thục Vương có thể đánh Tào bằng lối Nam Dương, Lạc Dương. Do đó mà sau này Gia Cát Lượng mấy lần phạt Nguỵ đều thất bại.

Căn rễ của cái họa Kinh Châu ở đâu?

Xét kỹ ra, nếu Lưu Bị biết hợp cùng Lưu Chương đánh Trương Lỗ ngay khi lực lượng Mã Siêu-Hàn Toại đương hoành hành quấy nhiễu Tào Tháo, chắc tình thế đã đổi khác.

Lưu Bị đánh Lưu Chương giữa lúc Tào Tháo bình xong bọn Mã Siêu, Hàn Toại rồi chuyển quân công phá Hán Trung là một nước cờ rất thấp.

Đi nước cờ thấp ấy, Tào Tháo mới có cơ hội đoạt Hán Trung, liên lạc với các tướng tá vùng Lương Châu xâm phạm khuấy loạn Quan Trung khiến cho Lưu Bị buộc phải phái Quan Vũ ra đó chống giữ khiên chế thế lực Tào, thành ra Kinh Châu bị bỏ trống.

Kinh Châu mất, kéo thêm thất bại nặng nề là trận Hào Đình, thua trận này (Lưu Bị?) rút về thành Bạch Đế và chết ở đó.

Tam Quốc Chí diễn nghĩa nói việc Lưu Bị hưng binh phạt Ngô là để trả thù cho người Em kết nghĩa Vân Trường.

Chuyện ấy hoàn toàn bịa đặt, hoàn toàn tiểu thuyết hoá.

Có một chứng cớ rõ ràng là:

Lưu Bị cử binh đánh Ngô cách xa ngày Quan Vũ bị giết hơn một năm rưỡi. Với khoảng thời gian này, đối với con nhà Chính trị, đương nhiên lý trí phải thắng cảm tình.

Chẳng qua đánh Kinh Châu, Lưu Bị chỉ muốn cứu vãn nước cờ thấp mà thôi. Nguyên nhân xa xôi của nó vẫn là Chính sách cấp công cận lợi tại Ích Châu, đến nỗi không còn lực để bảo vệ Kinh Châu vậy. Thế mới biết: phân biệt được nổi cái Nhanh với cái Chậm, cái Tấn tiệp với cái Trầm tĩnh, đối với các Chính trị gia thật là điều cực khó.

Phùng Mộng Long nói rằng: “Thành sự đại giả, tranh bách niên bất tranh nhất tức, nhiên nhi nhất tức cố bách niên chi thuỷ dã” nghĩa là: Muốn thành công lớn phải biết tính việc một trăm năm, không tính việc một chốc một nhát, nhưng cái việc một trăm năm bao giờ cũng khởi thuỷ từ cái việc một chốc một nhát.

Thời thế biến không chờ ai, vậy phải hành động nhanh như gió bão, như sét đánh chẳng kịp bưng tai. Nhưng tất cả kỹ thuật để thực hiện một hành động sấm sét gió bão lại nằm ở nơi biết thung dung nhận rõ thời thế, nhận đúng cơ duyên.

Quan Vân Trường

Quan Vân Trường là một nhân vật trọng yếu đời Tam quốc. Trọng yếu vì những võ công oanh liệt và cũng trọng yếu vì thất bại trên chính trị của ông đã làm đảo lộn cục diện.

Quan Vân Trường lại càng trọng yếu hơn do ảnh hưởng của ông đối với hậu thế. Người đời sau ngưỡng mộ tấm lòng trung kiên của ông mà lập miếu thờ khắp nơi.

Sử gia Trần Thọ phê bình Vân Trường rằng : “Sứng vạn thế chi địch, vi thế hổ thần, nhiên Vũ cương nhi tự căng, Phi bạo nhi vô ân”. (Sức muôn người khôn địch, nhưng Quan Vũ quá cứng lại kiêu, còn Trương Phi hung bạo mà vô ân).

Tại sao một con người như thế mà được toàn dân sủng ái?

Có hai nguyên nhân:

1) Dân chúng chịu ảnh hưởng ngòi bút tài ba của nhà văn La Quán Trung đã khéo tô vẽ Vân Trường thành một tiêu chuẩn nhân cách siêu việt.

2) Nhu cầu chính trị.

Trước hết ta phải hiểu tính tôn kính đức hạnh trong quan niệm chính trị của con người Trung Quốc. Đối với một nhà chính trị, người Trung Quốc thường đặt câu hỏi: Người ấy đức hạnh ra sao trước hết? Những thắc mắc về lý luận tư tưởng đều chỉ là phụ.

ĐỨC là gì. Các cổ thư giảng rằng: Đức, đắc dã (Đức là cái điều mình được) nhưng được cái gì? Chu Mục đời Hậu Hán cắt nghĩa: Đắc kỳ thiên tính vị chi Đức (được thiên tính gọi là Đức). Cái nghĩa "được" trong chữ Đức của người Đông Phương hiểu với một tính cách tuyệt đối lý tưởng hoá. Đời sống chẳng có cái gì gọi là “Được” cả bởi vì rồi cũng dẫn đến cái chết. Tiền tài hay hết thảy mọi thứ làm thoả mãn cho dục vọng của ngũ quan, khi đã tới gần sự chết thì cũng chỉ là không.

Vậy thì ở đời thế nào gọi là mình đã được? Hãy nghe Mạnh Tử nói: “Con người đến với thế giới, mở mắt ra nhìn năm màu bảy sắc, mê loạn nên trước cần phải biết ta sẽ được cái gì mà không được cái gì? Nhiều kẻ cứ lầm tưởng rằng phải lấy ở bên ngoài mới gọi là được, và vì thế kẻ ấy sinh ra không chịu cho bao giờ. Thiên hướng về dục vọng ngũ quan nên ham lấy, càng ham lấy thì càng làm hẹp cái vòng sống của mình để rồi tiêu tan vào sự chết. Chỉ có những người biết “cho” nhiều, mở rộng cái vòng sống của mình ra vô tận thì mới mong bất diệt được”.

Quan niệm ấy đi vào chính trị, người Trung Quốc liền phân ra hai loại chính trị tiểu nhân và đại nhân. Chính trị của đại nhân là đem thân mình ra cung hiến cho xã hội. Phát huy cái chính trị của đại nhân lên cao hơn gọi là Thánh nhân. Như vậy mới thật là Đức.

Mạnh Tử đem ra ba người để chứng minh Thánh đức như các ông:

- Y Doãn chứng minh trách nhiệm của bậc thánh.

- Bá Di chứng minh đức thanh sạch của bậc thánh.

- Liễu Hạ Huệ chứng minh đức hoà của bậc thánh.

Theo ông thì Thánh là kết quả của công phu lập đức hay kiến lập một tiêu chuẩn nhân cách cá nhân. Nếu chúng ta sống vào lúc đen tối, hỗn loạn, ô trọc, tất nhiên chúng ta mong mỏi có một người nào đứng lên đảm nhận trách nhiệm tích cực vì chúng ta mà phấn đấu, vì đời mà dựng nghiệp. Thế cũng chẳng khác chi đời xưa hy vọng vào Ông Y Doãn vậy.

Nếu chúng ta sống vào lúc cuộc đời quá vẩn đục, chúng ta sẽ thèm khát một con người thanh cao liêm khiết, quang minh chính đại như đời xưa đã nhìn nhận Ông Bá Di.

Nếu chúng ta sống vào cuộc đời quá đua tranh chém giết, chúng ta sẽ hoài vọng một người như Liễu Hạ Huệ, biết ứng phó sự vật biến cố một cách hoà bình, không tranh cạnh, không hận thù.

Nói tóm lại chữ Đức là mức đòi hỏi tối cao, cao đến độ sự đòi hỏi ấy không bao giờ có thể thực hiện nổi trong chính trị.

Tại sao?

Chỉ vì nó là một tín ngưỡng hoàn toàn ảo tưởng, nó mang khả năng thoả mãn một cá nhân cô lập và không quan hệ lắm đến phong trào chính trị lớn lao nghiêm trọng, vì nó thường tách rời thực tiễn chính trị.

Ở nhân vật Quan Vân Trường đã biểu hiện rất rõ rệt sự thất bại của thứ tín ngưỡng ảo tưởng đó trên chính trị. Cái Đức khi đã trở thành một thái độ câu nệ thì chẳng những nó không mở rộng vòng sống như cổ nhân nghĩ, mà trái lại nó còn thắt vòng sống lại hẹp hơn. Và dĩ nhiên nó hoàn toàn vô ích cho chính trị.

Sau này triết gia Chu Tử thấy rõ mối nguy cơ của chữ Đức lệch lạc đến nỗi biến ra bệnh rởm, nên ông bèn xướng lên thuyết cùng lý, chủ trương biến lương tâm thành lương tri, sử dụng lương tri mà dẫn đường cho đức hạnh. Lương tri đòi hỏi con người có tầm nhận thức rộng lớn hơn, vượt ra ngoài vòng thiện ác để tìm đến lãnh vực đúng và sai. Chu Tử chứng thực rằng: Đức câu nệ đã làm hại chính trị và văn học từ trước tới giờ nhiều lắm rồi.

Để phát huy tiêu chuẩn nhân cách Quan Vân Trường, nhà văn La Quán Trung mở đầu bằng cách tiểu thuyết hoá cuộc gặp gỡ của bộ ba Lưu, Quan, Trương kết nghĩa vườn đào. Sau rồi đến cái chết của Lưu Bị ở Bạch đế Thành cho đúng với lời thề. Lấy con mắt chính trị mà xét thì những chuyện đó chẳng khác gì chuyện hai dũng sĩ ngồi quán rượu bàn luận Quốc sự, rồi vì muốn tạ lòng tri kỷ nên mỗi người tự lấy dao xẻo thịt minh, người nọ trao cho người kia làm đồ nhắm, cuối cùng cả hai cùng lăn ra chết. Mặc dầu bị Tam Quốc Chí ảnh hưởng rất mạnh, nhưng quảng đại quần chúng Trung Quốc vẫn có những nhận định tinh tế và dí dỏm, cho nên vào cuối đời Tống, trong dân gian mới được lưu truyền câu chuyện hài hước về kết nghĩa Lưu Quan Trương như sau:

Trương Phi nhà giàu, trước cửa nhà có con sư tử đá, nếu ai lay chuyển nổi con sư tử, Trương Phi gả em gái cho. Bố Quan Công rất nghèo, trồng đậu, làm đậu hũ kiếm ăn. Nhà ông ta ở cùng dãy phố với Trương Phi. Phi thường đến mua đậu hũ chịu. Lâu ngày tiền chịu tích luỹ khá nhiều. Bố Quan Công đến đòi, chẳng những không lấy được tiền, còn bị Trương Phi nện cho một trận nhừ tử. Lúc ấy Quan Công 18 tuổi, thấy Trương Phi đánh bố mình, nổi giận chạy phăng đến nhà Phi, nhìn quanh không thấy côn bổng gì cả, bèn nhấc bổng con sư tử đá dùng làm vũ khí đuổi đánh Phi. Phi vừa hãi vừa kinh ngạc vội núp vào góc tường nói: “Mày hãy bỏ sư tử đá xuống rồi tao gả em gái cho.” Quan Công nghe vậy, mặt ửng đỏ như gấc chín, quát: “Tao là Quan Vũ đây, lấy em gái mày làm gì, tao đến đòi tiền đậu hũ.” Trương Phi thấy Quan Công buông lời ngạo mạn cũng nổi nóng xông vào giằng con sư tử đá. Cuộc tranh hùng đang gay go thì hốt nhiên có một người cao lớn từ đâu đi tới, vai mang một bị đầy dép cỏ. Người đó giơ tay gạt Quan Trương ra hai bên. Quan Trương lấy làm lạ hỏi: “Mày là thằng nào vậy?” Người mang bị dép nói: “Tao là Lưu Bị cháu hai mươi đời Lưu Bang đây.” Quan Trương nghe thấy nói dòng dõi Hán Vương vội vàng quy phục ngay. Chiều hôm ấy, cả ba làm tiệc tế trời đất cùng nhau thề thốt kết nghĩa. Câu chuyện trên đây tuy cũng là câu chuyện bịa đặt, nhưng nó chất chứa một sự thật là chế giễu việc kết nghĩa quá ư tiểu thuyết của Tam Quốc Chí diễn nghĩa. Mặt khác nó cũng nói lên tâm trạng sính “chính thống” đương thời.

Tục thờ Vân Trường khởi từ thời Thanh, xướng lên bởi các tay giang hồ mãi võ Cách mạng phản Thanh phục Minh. Miếu thờ Quan Vũ chính là một hình thức hội kín nhưng mang bộ mặt hợp pháp. Nhưng kế hoạch này bị Thanh triều phá vỡ. Vua Thuận Trị nhà Thanh thấy tình hình nếu cứ để hội kín nấp dưới bóng Vân Trường thì rất nguy hiểm, mà đàn áp chắc không xong rồi, nên mới giáng chỉ cho toàn quốc lập miếu thờ, giáng chỉ này cũng áp dụng luôn cả với dân tộc Mãn Thanh nữa. Mục đích là làm chết không khí hội kín bên trong miếu thờ Vân Trường. Vua Càn Long giáng chỉ phong Quan Vũ làm Trung Nghĩa Vũ Thần Đại Đế. Quả nhiên hội Vân Trường mất hẳn hiệu lực, từ cách mạng chuyển ra mê tín cầu phúc giải tội, dần dần các miếu lọt vào tay bọn buôn Thần bán Thánh. Âm mưu phục Minh cũng tan rã.

Đó là tất cả nguyên nhân tại sao Vân Trường lại được sùng bái, phổ biến rộng lớn vậy. Nếu không có cuộc Cách Mạng phản Thanh, thì chắc việc hiển thánh của Quan Vân Trường trong Tam quốc chí diễn nghĩa đã bị bỏ quên rồi.

Bàn hẳn vào cái Đức của Quan Vân Trường

Cổ nhân nhận rằng Đức có tám thể:

1) Nhân.

2) Nghĩa.

3) Lễ.

4) Tín.

5) Thứ.

6) Nhẫn.

7) Trung.

8) Dũng.

- Về chữ “Nhân” sách Luận ngữ viết: Nhân là yêu người (nhân giả ái nhân) cho nên người có lòng nhân thì thiên hạ không ai địch nổi. (Nhân nhân vô địch ư thiên hạ). Vân Trường có thể gọi là người Nhân theo đúng nghĩa Luận ngữ chăng. Toàn bộ Tam quốc chí người đọc thường thấy Vân Trường quát mắng: “Dòng hổ mà lại lấy dòng chó à?” Lúc Khổng Minh về với Lưu Bị, hễ mỗi lần có việc sai phái đến Vân Trường thì đều bị Quan Trương hậm hực phản đối. Thế thì Vân Trường bất nhân sao? Đương nhiên không thể dùng danh từ bất nhân mà gán cho Vân Trường được, nhưng cái đức nhân của Vân Trường, nếu xét nó dưới nhãn quan chính trị, thì ta không thể nào ca tụng được.

- Về chữ “Nghĩa”, Mạnh Tử nói: Nghĩa là điều nên làm. Theo Mạnh Tử “Nghĩa” là phép ứng phó với sự vật. Hoài Nam Tử nói: Nghĩa giả tụ nhân, tụ nhân, cố bất nhẫn loạn. (Có nghĩa tất quy tụ được người, người quy tụ thì không loạn). Quan Vân Trường tuy là người nghĩa khí, nhưng cái nghĩa của Vân Trường ở mức độ thấp ứng phó giữa cá nhân với cá nhân, với sự vật trước mắt, chữ Nghĩa của Vân Trường không vươn được tới lãnh vực chính trị. Do đó Vân Trường mới bị bọn Phó Sĩ Nhân, Mi Phương làm phản ở Kinh Châu.

- Về chữ “Lễ”, cổ nhân giảng chữ lễ là thứ tự đơn giản. Cái Lễ của Vân Trường thì lại quá hoả và phức tạp. Cho nên cứ mỗi lần vấp phải việc gì xúc phạm đến tính cách phức tạp ấy là Quan Vũ nổi giận. Nếu nói rằng: “Lễ” là vào chỗ nào nên tìm biết điều cấm kỵ, vào nước nào nên hỏi phong tục, vào nhà nào nên tránh những huý kỵ thì Vân Trường không hợp được với chữ Lễ theo nghĩa đó.

- Về chữ “Tín”, Vân Trường thật là con người trung tín, nhưng trung tín của Vân Trường cũng chỉ hẹp hòi thu vào quan hệ giữa cá nhân. Tỉ dụ như việc bỏ Tào trở về với Lưu Bị, tha Hoàng Trung để trả nợ kẻ không nỡ bắn mình, thái độ đối với Tào Tháo ở Hoa Dung tiểu lộ. Đến vụ Kinh châu thì chữ Tín kia mất hẳn. Khổng Minh mặc dầu vì nhu yếu chính trị nên trên sự thật không trả Kinh Châu, nhưng trên danh nghĩa bao giờ Khổng Minh vẫn dùng chữ mượn vì sẽ trả. Trái lại Vân Trường hành động ngược hẳn với đường lối của Khổng Minh.

- Về chữ “Nhẫn”, Vân Trường hoàn toàn thua sút. Suốt đời Vân Trường, vui hay giận đều vút cao lên quá mức. Sách Luận ngữ dạy: Tiểu bất nhẫn tất loạn đại mưu (không nhẫn nổi sự việc nhỏ tất hại cho kế lớn). Thất bại Kinh Châu làm sụp đổ toàn sự nghiệp gây dựng bao năm trời của Lưu Bị do bởi tính thiếu đức nhẫn của Vân Trường mà nên. Người xưa chủ trương “Mười năm đèn sách, mười năm nuôi khí chất”. Mười năm đèn sách đem lại Trí, mười năm nuôi khí chất tạo thành đức nhẫn. Đức nhẫn quan hệ vô cùng đối với chính trị. Vân Trường gan dạ nhưng thiếu kiên nhẫn.

- Đến các chữ Trung, Thứ, Dũng, đọc Tam quốc chí diễn nghĩa ta thường thấy hiện lên nhân vật Quan Vân Trường đủ cả, có điều đáng tiếc là phần lớn chúng đều bị Vân Trường sử dụng sai chỗ.

Đọc Tam quốc chí diễn nghĩa, đến đoạn Hoa Dung tiểu lộ. Quân Tào Tháo người ngựa sau khi thất trận Xích Bích chạy đã mệt nhoài, hốt nhiên tới Hoa Dung gặp quân mai phục của Vân Trường. Quân Tào Tháo nhìn thấy ba hồn bảy vía lên mây ngơ ngác nhìn nhau. Tháo muốn liều chết đánh nhưng Trình Dục tiến lên can rằng:

- Tôi vẫn biết Vân Trường vốn kiêu ngạo với người trên, nhưng không chấp kẻ dưới, coi thường người khoẻ nhưng không nỡ hiếp kẻ yếu, ân oán phân minh, tín nghĩa rõ ràng. Thừa tướng khi xưa có ân tình với ông ấy, nay nên thân ra cầu hoà mới thoát được nạn này.

Lời Trình Dục với việc Quan Vũ tha Tào đã nói lên rõ ràng cái nghĩa khí sắp đặt sai chỗ của Quan Vân Trường vậy.

Vũ Tài Lục

Nói Chuyện Tam Quốc

- 9 -

LUẬN VỀ TÀO THÁO

Car la force est juste quand elle est nécessaire

Machiavel

Dĩ dật đạo sử dân, tuy lao bất oán

Dĩ sinh đạo sát dân, tuy tử bất oán sát giả

Mạnh Tử

       Qua sách sử Trung Hoa, đời Bắc Tống đã có người ghi lại một đoạn bút ký nói rằng: “Những trẻ em trong xóm ngõ, thường xúm lại nghe kể truyện Tam Quốc, thấy nói đến Lưu Bị thua thì cau mày không vui, có em khóc. Thấy kể Tào Tháo bại thì khoái chí reo mừng".

Đọan bút ký ấy cũng cho ta biết ngay cả trước khi tập Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung ra đời, dân chúng đã có một nhận xét riêng của họ: Yêu mến Lưu Bị và ghét sợ Tào Tháo.

Tâm lý yêu mến Lưu Bị và ghét sợ Tào Tháo gây ra bởi hai nguyên nhân:

a)     Quan niệm chính trị của người Đông Phương căn bản là sùng bái nhân nghĩa đạo đức, triệt để bài bác quyền thuật cơ mưu.

b)    Chịu ảnh hưởng của bọn học phiệt có tư tưởng chính thống và đạo thống.

Như vậy thì bộ Tam quốc chí diễn nghĩa tuy phương diện biên soạn chủ yếu là công lao của La Quán Trung, nhưng sự thực bộ tiểu thuyết này đã có một quá trình sáng tác của nhiều người. Ở Tam quốc chí diễn nghĩa ta còn thấy nhà văn La Quán Trung sử dụng đến mức tuyệt diệu nghệ thuật văn học để làm nổi bật hai bộ mặt thiện, ác tương phản của Tào và Lưu, cùng khơi sâu tâm lý yêu Bị ghét Tháo vẫn sẵn có từ trước.

Điểm này La Quán Trung có đáng trách hay không? Trả lời, bộ biên tập của nhà xuất bản Trung Quốc viết:

-         “Tam quốc chí diễn nghĩa, khác hẳn với những sách viết về khoa học xã hội. Nhiệm vụ của nó không phải là trình bày bình luận hoặc phân tích một cách khách quan trên một số vấn đề lý trí, mà là dùng nghệ thuật sáng tạo để làm cảm động người đọc, trực tiếp đánh vào tình cảm người đọc".

Đối với La Quán Trung thì tiểu thuyết viết Tào Tháo không phải là tạo ra nhân vật lịch sử Tào Tháo nguyên hình như cũ, mà là mượn nhân vật lịch sử để sáng tạo ra hình tượng nhân vật và tính cách điển hình rất phong phú phức tạp. Nói một cách khác, trong truyện viết Tào Tháo không phải chỉ là viết Tào Tháo thực trong lịch sử mà là viết ra rất nhiều Tào Tháo trong lịch sử. Chủ yếu của tiểu thuyết là sáng tạo ra một nhân vật điển hình để vạch rõ thói hung tàn nham hiểm của bọn thống trị phong kiến, để cho nhân dân quần chúng nhận thức được một cách cụ thể. Tức là đem tất cả những hình tượng tàn ác, bản chất xấu xa bỉ ổi của thống trị phong kiến tập trung lại, khái quát lên, sáng tạo ra cái nhân vật phản diện Tào Tháo. Phản ảnh như vậy so với cách trực tiếp bộc lộ càng sâu sắc hơn, so sánh với trực tiếp tố cáo, tư tưởng tính càng mạnh mẽ hơn, đó là một sự thống nhất hoàn chỉnh giữa tư tưởng và nghệ thuật tính rất cao vậy.

Về phần chúng ta bình luận về Tào Tháo, thì chúng ta bàn luận trên cơ sở nào?

Chúng ta sẽ trình bày, phân tích Tào Tháo trên một số vấn đề lý trí.

Do đó, việc cần thiết hàng đầu là một thái độ tuyệt đối khách quan, nghĩa là hãy tước bỏ đúng mức tâm lý yêu ghét bị tuyên nhiễm bởi Tam quốc chí diễn nghĩa.

Chính thống và đạo thống

Chính thống và đạo thống là bản chất chính trị và tư tưởng học thuật đạo đức của thời đại phong kiến.

-         Chính thống là uy quyền do một tập đoàn chính trị muốn kéo thành xâu, thành chuỗi quyền thống trị của mình tạo ra. Quyền ấy kế tiếp theo nguyên tắc cha truyền con nối.

-         Đạo thống là một thứ tư tưởng độc tôn, học thuật độc tôn. Khi một hệ thống tư tưởng nào đã bám được thế lực chính trị, nắm quyền thống trị, hoặc từ hệ thống tư tưởng thông qua đấu tranh mà nắm được chính quyền thì tư tưởng độc tôn, học thuật độc tôn sẽ chỉ chuyên dạy, chuyên khuyến dụ mọi người ủng hộ chính quyền chính thống.

Thời đại phong kiến, kẻ thống trị muốn củng cố địa vị của mình, chủ yếu thường dùng đến chính sách ngu dân vô cùng thâm độc. Chính sách ngu dân tuy biểu hiện ra bằng nhiều phương thức khác nhau, nhưng tóm lại chỉ là sự sử dụng, khai thác triệt để khả năng của đạo thống, khiến cho quần chúng rộng lớn không có dịp tiếp thu bất cứ một hiểu biết nào khác ngoài những điều mà bọn thống trị cho phép.

Tâm lý sùng thượng đạo đức, bài bác quyền thuật cơ mưu trong chính trị là tốt, vì nó mang tính chất tươi đẹp của tinh thần nhân văn. Nhưng nếu tinh thần nhân văn ấy bị lý luận đạo thống lợi dụng thì hóa dở.

Cho nên, muốn tước bỏ được mức tâm lý yêu ghét Lưu Tào, chúng ta không thể không chống cái nền móng của tâm lý ấy là những tư tưởng chính thống, đạo thống của bọn học phiệt tay sai chính quyền phong kiến.

Tào Tháo là con người thế nào? 

Các nhà văn học Trung Quốc thường phân tích về thân phận Tôn Quyền là con nhà quý tộc, Lưu Bị là người kẻ chợ và Tào Tháo là dòng dõi môn phiệt. Sở dĩ Tào Tháo ở trong hàng ngũ môn phiệt bởi vì cha Tào Tháo là Tào Tung làm quan đến chức Thái Úy và Tháo nhờ thế lực của cha nên hai mươi tuổi đã được cử làm Hiếu Liêm.

Hiếu Liêm là một chức quan nắm quyền cai trị ở cấp bực trung bình của chính quyền địa phương. Chức Hiếu Liêm là sản phẩm của nền hành chính Hán Triều. Đời Hán Vũ Đế đặt ra lệ bắt các trưởng quan địa phương mỗi năm phải chọn và đề cử một người thanh liêm, hay một người con hiếu ra chấp chính.

Đặt ra chức này, Hán Vũ Đế muốn lấy Đức Hạnh dùng làm nền tảng cai trị. Ban đầu do sự thi hành đúng nên Hiếu Liêm cũng gây thành phong khí tốt, dư luận hay. Nhưng lần lần, Hiếu Liêm trở thành một thứ hàng độc quyền của các đại gia, mặt khác nó làm cản bước tiến của trí thức, trở thành đầu mối của tranh chấp Bình dân và Môn phiệt. Hiếu Liêm đã biến chất không còn như ý nguyện của Hán Vũ Đế muốn dùng nó làm chiếc cầu cảm thông giữa quần chúng với chính quyền nữa.

Tào Tháo nhận chức Hiếu Liêm, tất nhiên cũng sẽ bị trí thức bình dân và quần chúng nhìn bằng con mắt hằn học và cũng bị liệt vào hàng phe phái Môn phiệt.

Biết vậy, nên lúc tại chức Tào Tháo đã ra sức chống lại bọn cường hào, đả kích chính sách hoạn quan. Do đó lúc sang nhận chức ở Tế Nam, bị bọn cường hào cùng bè lũ tay sai hoạn quan oán hận, Tháo sợ gây nên tai họa lớn, bèn từ chức.

Lúc từ chức, Tào Tháo 30 tuổi, ông nói:

-         “Cùng chức Hiếu Liêm với tôi có người 50 tuổi mà trông vẫn còn trẻ măng, tôi còn những 20 năm nữa mới bằng họ, vậy tội gì mà không tìm cách ẩn cư đợi thời”.

Tào Tháo lui về quê hương là Tiêu huyện, dựng một căn nhà thoáng đãng để đọc sách, giồng hoa, săn bắn. Thời gian này Tào Tháo đem hết tâm trí vào việc rèn luyện khả năng chính trị, quân sự.

Xem thế đủ biết, tuy xuất thân môn phiệt nhưng nhờ nhãn tuyến chính trị sắc bén, Tháo đã gột bỏ tâm chất môn phiệt để nhất định đứng vào hàng ngũ trí thức và quần chúng tiến bộ.

Về quan hệ Nam Nữ, Tam quốc chí diễn nghĩa cho rằng Tháo là một người dâm dục, bậy loạn bất cố đạo nghĩa. Tính chất đó được chứng minh bằng sự kiện Tháo ngủ với người thím Trương Tú khiến Tú nổi giận làm phản, nhờ Điển Vi hy sinh cứu Tháo và chết thay cho Tháo. Chuyện này chỉ là một câu chuyện gán ghép gượng gạo không lấy chi làm thật nhằm mục đích làm tăng giá trị điển hình cho một nhân vật tàn ác, gian hùng mà thôi.

Trong dân gian thì lưu truyền một sự tích tình ái của Tào Tháo trái hẳn với việc Trương Tú. Đó là chuyện nàng Lai Oanh Nhi. Đầu đuôi như sau:

-         “Đời Hậu Hán, những ca sĩ đất Lạc Dương nổi tiếng là đẹp là hay. Trong số ấy, có nàng Lai Oanh Nhi vượt hẳn lên cả về tài lẫn sắc.

Tài sắc đã trội hơn người, tính nết nàng còn đặc biệt hơn nữa. Oanh Nhi rất kiêu ngạo. Biết bao Vương Tôn Công Tử hoài công theo đuổi mà Lai Oanh Nhi chưa từng để mắt đến người nào.

Tào Tháo rất tinh thông âm luật, lại là một nhà thơ tài tình, gặp giọng hát cùng nhan sắc Oanh Nhi rất lấy làm xứng ý. Bấy giờ Lạc Dương đại loạn nên Lai Oanh Nhi chịu nương nhờ bàn tay che chở của Tào Tháo, theo Tháo đi đánh Đông dẹp Bắc độ nhật nơi doanh trại. Oanh Nhi thường ca hát những bài thi, bài từ của Tào Tháo và các danh sĩ để Tào Tháo uống rượu hân thưởng. Đối với sinh hoạt lưu động, nàng vốn không ưa nên Oanh Nhi lúc nào cũng buồn. Tháo tuy chịu tài năng ưa nhan sắc nàng nhưng phần vì việc quân cơ bận bịu, phần vì quý sự nghiệp chính trị hơn nên Tháo ít khi gần gũi. Lai Oanh Nhi lại càng cảm thấy cô quạnh. Chẳng  bao lâu, Oanh Nhi đem lòng yêu một chàng thị vệ, đêm đêm vẫn cùng nhau hò hẹn. Quan niệm tình ái của Tào Tháo rất rộng rãi, vả lại ca kỹ trong doanh trại nhiều nên mối tình giữa Lai Oanh Nhi với chàng thị vệ kia cũng gặp rất ít trở ngại. Nhưng một chuyện bất ngờ xảy đến, chàng thị vệ được lệnh sai đi thám thính đồn lương bên địch, chàng liền đến báo cho người yêu biết. Oanh Nhi thấy sứ mệnh có vẻ nguy hiểm nên nhất định không chịu rời tay.

Tào Tháo trị quân rất nghiêm, dĩ nhiên theo quân pháp thì bỏ trốn nhiệm vụ trong lúc tình thế nghiêm trọng, chàng thị vệ si tình bị phán quyết tử hình. Lai Oanh Nhi hay tin gào khóc và bất chấp cả mọi nguy hiểm chạy đến bên Tháo xin tha tội cho người yêu. Gặp Tào Tháo nàng cứ thực sự tâu bày mọi chuyện, khiến cho Tào Tháo hết sức ngạc nhiên. Trầm ngâm hồi lâu, Tháo nghĩ ra một biện pháp, đề nghị tha tội cho chàng thị vệ với điều kiện là Oanh Nhi phải chịu chết thay.

Không chút do dự, Oanh Nhi xin chịu, nàng còn yêu cầu một điều là hoãn ngày chết cho nàng hai tháng để nàng có đủ thì giờ huấn luyện các ca kỹ khác tất cả tài nghệ của mình để trả ơn Tháo.

Lời thỉnh cầu của Oanh Nhi cũng được chấp thuận. Nàng liền chọn bốn người xuất sắc nhất, ngày đêm tập dượt và sau cùng trong số bốn người, Oanh Nhi đã tạo hẳn ra một người khả dĩ thay thế cho mình hầu hạ Tào Tháo.

Làm xong nhiệm vụ, Oanh Nhi thản nhiên đến thụ tội.

Tào Tháo cảm thấy bâng khuâng vì không ngờ việc tình ái lại thâm sâu đến thế. Tháo bèn cho gọi chàng thị vệ, nói lại mối tình nồng nhiệt của Oanh Nhi đối với y. Tháo càng ngạc nhiên, khi thấy chính miệng tên thị vệ nói ra là y coi mối tình ấy chẳng khác nào chuyện qua đường. Nghe xong, Tào Tháo căm giận muốn chém phăng tên thị vệ cho rồi, nhưng nghĩ lại lời đã trót hứa với Oanh Nhi nên thôi. Đồng thời Tào Tháo cùng tỏ ý không muốn bắt Oanh Nhi phải chết thay nữa. Sợ Oanh Nhi biết mình bị xử tệ bạc còn đau khổ gấp bội, Tháo bèn sai đuổi tên thị vệ về quê quán. Oanh Nhi biết, nàng quyết sống thác với tình, khẩn khoản xin Tháo cho đi theo tình nhân. Cực chẳng đã Tháo đành phải chịu. Lúc tiễn đưa Oanh Nhi, Tào Tháo sụt sùi khóc.

Ít ngày sau, Tháo nhận được tin Lai Oanh Nhi tự thắt cổ chết. Sự tích Lai Oanh Nhi trong cuộc đời Tào Tháo cho chúng ta biết:

-         a) Mặt sinh lý Tào Tháo rất tùy tiện và đã sửa soạn chu đáo để không đến nỗi phải bậy bạ với người đàn bà nạ dòng trong họ nhà Trương Tú.

-         b) Mặt tình ái, tình cảm của Tào Tháo đòi hỏi đến một mức phong nhã khá cao.

Vậy mụ gái xề nhà Trương Tú không thể nào quyến rũ nổi Tháo phải hy sinh uy tín của Tháo đã tạo ra bằng bao nhiêu công phu, như thế đắt quá.  

Gian thần thoán đoạt?  

Hậu thế gán cho Tào Tháo hai chữ “gian tặc”. Lý do là Tào Tháo đã thoán đoạt ngôi nhà Hán. Dùng danh từ gian tặc để chỉ Tào Tháo hoàn toàn là lý luận của bọn chính thống đương thời và đời sau. Chống lại sự vu oan đó, chúng ta chưa cần viện dẫn nhiều mặt khác mà có thể đứng ngay trên lập trường chính thống cũng đủ biện bạch cho Tào Tháo.

Trước hết, suốt đời Tào Tháo nắm quyền thao túng quốc sự không hề có chuyện phế lập. Thế lực họ Tào không ai chối cãi là đã lấn át cả vua nhưng  không phải là thoán đoạt, bởi vì:

a)     Sau Hán Vũ Đế, Hoắc Quang làm đại thần phụ chính thì nội bộ chính quyền nhà Hán đã phân hóa giữa chính phủ và Hoàng thất, đưa dẫn tới xung đột rồi.

b)    Đời Tháo thì Hoàng thất nhà Hán đã mất khả năng và uy tín thống trị. Đương nhiên, Tháo phải tận lực xử dụng quyền lực để ổn định quốc gia.

Với Tào Tháo, vấn đề thoán đoạt vô nghĩa và ông không coi việc ấy là tham vọng hay mục đích của đời ông.

Dẹp xong ba mươi vạn quân Khăn vàng, đánh tan Viên Thiệu, bình Viên Thuật, đả bại Lưu  Biểu, Tháo nói:

-         “Giả thử quốc gia mà không có tôi, thì còn biết bao kẻ xưng vương xưng đế.”

Suy ngẫm về lực lượng của mình, Tháo thường nói:

-         “Mọi người thấy binh lực tôi mạnh, lại cho rằng tôi là người không tin thiên mệnh nên ngờ tôi có ý lật nhà Hán. Nhưng tôi nghĩ trái hẳn, tôi há không  biết rằng Tấn văn Công xưa mạnh nhường ấy mà vẫn một lòng một dạ với nhà Chu, Chu Vương chiếm hai phần ba thiên hạ mà vẫn phụng sự nhà Ân hay sao?”

Sách sử ghi chép rằng:

-         Bình nhật, Tào Tháo thường hay kể chuyện tình cố quốc của Nhạc Nghị với nước Yên, với vẻ mặt hết sức cung kính say sưa.

Tam quốc chí dựa vào quan điểm chính thống, diễn tả hành động thoán đoạt của Tào Tháo trên mấy sự việc quan trọng như:

1)     Vụ săn bắn ở Hứa Điền.

2)     Ngôn ngữ trong bài hịch kể tội của Trần Lâm.

3)     Vụ bức tử Đổng Phi.

Dưới đây chúng ta hãy bàn cãi từng sự việc một.

Như chúng ta đã được biết, kể từ sau đời Hán Vũ Đế, chính quyền đã có sự phân tách giữa chính phủ và hoàng thất nhà Hán đã kém vế rồi, triều thần thuộc tập đoàn thống trị phe chính phủ vẫn thường lấn áp quyền Hoàng đế, ngược lại Hoàng thất luôn luôn tìm cách khôi phục quyền mình. Thậm chí để gây cánh, tin dùng cả bọn hoạn quan để mong tạo thế lực. Đến loạn kiêu binh Lý Thôi Quách Dĩ, mới đầu hoàng thất bị xâm phạm, sau cả chính phủ cũng bị khinh miệt. Do đó, đứng trước tai ách chung, triều thần và hoàng thất tạm gác bỏ xung đột, liên kết với nhau, vì sức không đủ nên phải cầu viện bên ngoài. Triều thần và vua chúa thỏa thuận mời Tháo. Tháo được Triều thần chọn bởi hai lẽ:

1)     Lực lượng Tào gần Kinh đô nhất.

2)     Tào Tháo cũng dòng dõi môn phiệt, chung quyền lợi với bách quan trong  triều. Cả hoàng thất lẫn triều thần mơ hồ tưởng rằng lực lượng của Tháo là một lực lượng của chức viên thuộc hạ. Họ lầm vô cùng, lầm vì trí lực của họ không đạt tới mức Tháo. Tháo mạnh là vì ông biết gắn liền với lực lượng chính trị đang lên, chứ Tháo đâu có mạnh là vì dòng dõi môn phiệt, cho nên, việc về dẹp giặc của Tào Tháo đối tượng không chỉ riêng kiêu binh Lý Thôi Quách Dĩ; đối tượng còn khả năng đứng mũi chịu sào trong cơn đại biến động nữa. Lúc Lý Thôi Quách Dĩ thua chạy rồi triều thần mới ngã ngửa ra. Các quan muốn bảo vệ quyền lợi của mình liền thổi phồng quyền thiêng liêng của hoàng đế, để làm lập trường đấu tranh với Tào Tháo. Thổi phồng quyền thiêng liêng của hoàng đế rồi, triều thần liền phát động tâm lý căm phẫn, thương xót vua bị Tào Tháo ức chế như Tháo đã cả gan tế ngựa ra đứng trước mặt vua để nhận lời chúc mừng của Bách quan, khiến Quan Vân Trường giận, mày tầm dựng ngược mắt phượng giương to, cầm đao thúc ngựa định ra chém Tào Tháo.

Cuộc xung đột giữa triều thần với tập đoàn Tào Tháo lan rộng từ trung ương ra các địa phương. Trịnh Thượng Thư gửi thư cho Viên Thiệu khuyên Thiệu cất quân đánh Tào. Thiệu nghe và sai Trần Lâm thảo hịch đánh Tào. Lời hịch mang những lời chủ yếu như sau:

-         Thường nghe rằng Minh chúa nhân nguy để chế biến, Trung thần lo nạn để lập công.

-         Trước kia nhà Tần vua yếu, Triệu Cao lộng quyền hống hách trong triều, một tay tác oai, tác phúc.

-         Tháo, nòi giống sót của Hoạn quan, gian xảo độc ác, thích gây ra sự biến loạn, vui mừng thấy sự tai vạ.

-         Tháo vốn thân dê mà đội lốt hổ, nhưng lại thừa cơ mà bạo ác càn rỡ, tàn dân hại người lương thiện. Vì thế quan thái thú Cửu Giang là Biên Nhượng tài cán giỏi giang, thiên hạ biết tiếng, nói thẳng lòng ngay, không a xiểm ai, cũng bị nó hãm hại, đầu phải bêu, vợ con phải tàn sát. Từ đó sĩ phu ai cũng tức tối.

-         Tháo dám rông rỡ làm càn, hiếp vua thiên đô, khinh nhờn nhà vua, nát phép loạn kỷ, ngồi giữ cả việc ba đài, chuyên chế triều chính, muốn thưởng ai thì thưởng, muốn giết ai thì giết, yêu ai thì người ấy sung sướng đến cả năm ngành, ghét ai thì người ấy phải chết cả ba họ. Ai bàn tán phải trái thì trị tội công khai, ai thầm vụng chê bai thì bị giết ngấm ngầm. vì thế trăm quan buộc miệng, đường xá đưa mắt nhìn nhau.

-         Cho nên quan thái úy là Dương Bưu, từng giữ hai chức là Tư Không và Tư Đồ, nhất phẩm trong nước, Tháo nhân thế mang lòng ghen ghét vu cho tội trạng, đánh đập tàn nhẫn.

-         Quan Nghi Lang là Triệu Ngạn, lời ngay nói thẳng có thể nghe theo, vì thế Vua nghe nói động lòng, thay đổi nét mặt, tỏ ý khen thưởng. Tháo nhân thế mang lòng ghen ghét, vu cho tội trạng, đánh đập tàn nhẫn lấp đường nói năng của mọi người, tự tiện bắt Triệu Ngạn giết đi, mà không nói cho Vua biết.

Rõ ràng tinh thần bài hịch hoàn toàn đại biểu cho quyền lợi nhóm triều thần, còn quyền lợi vua, quyền lợi dân thì chỉ là phụ, phần trang trí cho bản hiệu triệu thêm chính nghĩa thôi.

Bên ngoài Viên Thiệu hiệu triệu đánh Tào, bên trong các triều thần tụ họp âm mưu lật Tào Tháo. Vì tổ chức Tháo chặt chẽ quá, nên hoạt động của đám triều thần chỉ thu hẹp vào việc giết Tháo. Sứ mệnh giết Tháo được giao phó cho danh y Cát Bình giả đến chữa bệnh, rồi tìm cách đầu độc, chuyện tính không xong, Cát Bình bị giết, bọn Vương tử Phục bị bắt cùng với cả nhà Đổng Thừa. Tháo sai đem ra chợ chém tất.

Tào Tháo giết bọn Đổng Thừa rồi đem gươm vào cung để giết Đổng quý Phi. Quý Phi là em gái của Đổng Thừa đã có mang 5 tháng. Hiến Đế xin cho Đổng Phi, nói: Đổng Phi đã có mang 5 tháng xin thừa tướng thương cho. Tháo không nghe. Đổng Phi khóc nói: Xin cho toàn vẹn thân thể mà chết, đừng để bộc lộ. Tháo sai đem tấm lụa trắng đến trước mặt Đổng Phi. Đổng Phi cứ van khóc mãi, Tháo liền quát võ sĩ lôi Đổng Phi ra thắt cổ ở cửa Cung.

Tam Quốc chí diễn nghĩa viết:

Đời sau có thơ than Đổng Phi rằng:

Ân ái đền xuân cũng uổng thôi

Trứng rồng tan vỡ đáng thương ôi

Đường đường Đế chủ sao không cứu

Tầm tã nhìn suông nước mắt trôi

Bọn chính thống dùng mọi cách bi thiết hóa để gợi tình cảm chống Tào trên vụ án chính trị Đổng Phi. Thảm cảnh ngụy tạo ấy chỉ tốt cho văn nghệ chứ không thể dùng làm căn cứ để phán xét công việc của một người có trách nhiệm với lịch sử. Bọn chính thống vì tôn phụng quyền lợi một tộc họ nên lấy cá nhân mà đại biểu cho đại cục. Đổng Phi dù có bị giết tàn nhẫn hơn thế nữa, lịch sử cũng không vì vậy mà bớt những vụ tương tự.

Chính trị không phải là một công việc êm ái, nhẹ nhàng như ta nhàn nhã hái bông hoa, vì chính trị vốn là mối mâu thuẫn xung đột ác liệt của xã hội. Làm chính trị là đối phó với những gì cường bạo, tham lam xảo quyệt. Nhà chính trị cỡ lớn phải biết ràng buộc vào sự an, nguy của thời thế, của đại cục. Giết Đổng Phi, Tào Tháo nói: “Nếu ta thất bại thì Quốc gia sẽ  bước vào cục diện cực nguy hiểm”.

Một nhà chính trị nếu có đủ thế lực, đủ uy tín để nói câu đó mà không thấy tự ngượng, mà không bị người khác chối bỏ thì thiết tưởng thân phận cá nhân kiểu Đổng Phi chẳng là nghĩa lý gì hết. Không bắt giết bọn Vương tử Phục, Đổng Thừa và Đổng Phi để bọn này liên lạc được với Viên Thiệu làm loạn thì xã hội sẽ ra sao? Bản thân Tháo sẽ ra sao?

Khi người ta, chẳng hiểu may hay là không may, phải sống vào lúc nhiễu nhương, xã hội hỗn loạn mà trách nhiệm xây dựng, bình định lại rơi vào chính tay mình thì đương nhiên không thể tránh khỏi tình trạng hành động tự do của kẻ này sẽ đe dọa đời sống của kẻ khác và tàn bạo phải nẩy sinh ra.

Thời đại và xã hội mà Tào Tháo sinh trưởng

Trải qua một thời gian khá dài, toàn bộ văn hóa Trung Quốc lấy dân tộc làm trung tâm, dựa thế lực của kinh tế và quân sự, đã phá tan những chướng ngại phong kiến, để đi sang thời đại thống nhất Trung Quốc. Ban đầu là nhà Tần, sau đến Lưu Bang giữ vai chính trên vũ đài hòa theo với các cuộc vận động của phần tử trí thức.

Thời kỳ trước Tam quốc và chính Tam quốc, công cuộc thống nhất chưa hoàn thành cho nên nhiệm vụ thống nhất càng nặng thì toàn bộ xã hội Trung Quốc đã rơi vào tình trạng cực rối loạn. Tuy nhiên, bánh xe lịch sử cũng không vì thế mà ngừng hướng về thống nhất. Chỉ có khác một điểm là: Lẽ ra chính quyền Trung ương lãnh đạo công cuộc thống nhất, nhưng vì Trung ương quá yếu nên việc thống nhất chuyển sang tay các thế lực lớn ở địa phương thôn tính những thế lực nhỏ để thống nhất từng mảnh trước, chờ đợi cuộc tranh chấp cuối cùng tiến tới thống nhất toàn bộ.

Xã hội rối loạn của Tam Quốc có thể khái quát bằng mấy điểm sau đây:

a)     Thối nát, băng hoại đến nỗi mất hết khả năng giải quyết mọi vấn đề khẩn cấp của Quốc gia và bảo đảm những điều kiện sinh hoạt thường nhật của dân chúng.

b)    Tâm lý oán ghét chế độ mỗi ngày mỗi tăng cao, quần chúng rộng lớn hầu như tuyệt vọng, họ sẵn sàng hy sinh để thay đổi số phận.

c)     Mâu thuẫn, xung đột kịch liệt ngay trong nội bộ hàng ngũ thống trị, phe thống trị mất tin tưởng cả chính mình.

d)    Xã hội khao khát một thế lực mới để dẹp loạn.

Tào Tháo sinh ra, lớn lên trong thời đại và xã hội kể trên. Tháo lại gánh trách nhiệm Quốc gia, để làm tròn trách nhiệm, tất nhiên Tào Tháo phải là hiện thân của một chính trị gia đại tài.

Từ ngàn xưa, nhân danh tư tưởng nhân văn, nhân danh văn minh loài người, nhân danh hạnh phúc hết thẩy đều đòi hỏi chính trị tuyệt đối phải là một hành động đạo đức. Danh từ đạo đức ở đây khuyên tròn trong hàm nghĩa tuyệt đối, không bạo động, không giết người, không đổ máu, không tù đày, không tranh chấp, không đàn áp. Thường thường nó biến ra tín điều mà những kể thống trị muốn nó tồn tại mãi có lợi cho họ. Đôi lúc, nó là cơ sở cho một lý thuyết không tưởng. Nhưng cũng không ai chối cãi được rằng: “Ở toàn bộ lịch sử, tranh chấp chính trị bao giờ cũng chỉ là những cuộc chiến tranh”. Phương pháp làm cho chính trị thành công với phương pháp dẫn chiến tranh đến thắng thắng lợi không khác gì nhau cả, nghĩa là phải có thế lực, có bản lĩnh để vận dụng vũ lực tiêu diệt kẻ thù, kẻ chống lại mình. Máu đổ nhiều hay ít, thanh toán nhau, tiêu diệt nhau tàn khốc hay không tàn khốc còn tùy ở những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử. Miễn là máu đổ người chết để thực hiện một con đường sống cho đa số, cho dân tộc, cho tiến bộ, cho thái bình. Đạo đức biến đổi theo sự đòi hỏi của chính  trị. Tại sao nói thế? Trả lời, chúng ta hãy đặt thêm một câu hỏi nữa. Đạo đức là gì? Người đời xưa giảng rằng: “Đạo đức thị ứng thời chi vật dã” (Đạo đức là một vật để ứng phó với thời thế), ví như mùa nóng mặc áo vải, mùa rét mặc áo lông cừu. Nếu nóng bức mà mặc áo lông cừu, rét mướt mà mặc áo vải là trái ngược với thời. Đạo đức là nguồn gốc nguyên tắc của hành động vậy.

Đời loạn có đạo đức của đời loạn, nghĩa là nhất nhất mọi hành động phải có nguyên tắc mang hiệu lực ứng phó với tình thế loạn. Cho nên Đạo đức của con người chính trị không là gì khác ngoài những hành động chính xác.

Biết vận dụng nhân nghĩa để kiến tạo lực lượng.

Thâu thập được quyền uy rộng lớn để huy động quần chúng, tiêu diệt những ác thế lực.

Đủ mưu thuật để lãnh đạo đấu tranh đến thắng lợi.

Tóm lại Đạo đức tức là phẩm chất chính trị vậy.

Sự nghiệp Tào Tháo là sự nghiệp chính trị, vậy khi phê phán Tháo chúng ta không thể không đứng ra khỏi con người chính trị được.

Trước hết Tào Tháo có nhân nghĩa để vận dụng không?

Tào Tháo hàng ngàn năm nay vẫn bị hình dung như một kẻ bất nhân bất nghĩa. Lý do của nó chúng ta đã nói ở trên, thiết tưởng chẳng cần nhắc lại dài dòng.

Lưu Bị thường nói: “Nay khác ta như nước với lửa là Tào Tháo. Tháo cấp ta khoan, Tháo bạo ta nhân, Tháo dối ta thật”. Như vậy để nêu rõ tính cách hung dữ, tàn nhẫn trá ngụy của Tào Tháo. Ở Tam Quốc chí diễn nghĩa dưới ngòi bút của nhà văn La Quán Trung, nghệ thuật vẽ nên con người tàn ác còn được biểu hiện huy hoàng hơn. Trong tiểu thuyết dù là việc lớn, hoặc những chi tiết nhỏ, chỗ nào Tào Tháo cũng tỏ cái tính cách “Thà ta phụ người chớ để người phụ ta”. Lưu Bị thì chỗ nào cũng tỏ cái tác phong “Thà chết không làm điều phụ nghĩa”, tạo thành sự đối chiếu thật rõ rệt mạnh mẽ, đến nỗi cái tên Tào Tháo được dùng để xưng danh những kẻ gian hùng xấu xa. Tình cảnh Tào Tháo giống in tình cảnh Machiavel, nhà văn chính trị Ý đại Lợi của thế kỉ thứ 16, bị người đương thời phỉ báng là: “tục tĩu khốn nạn”. Tên Machiavel biến thành hình dung từ Machiavelique để chỉ những gì hung ác, tồi tệ, giảo quyệt.

Ta đừng lẫn tiểu thuyết với lịch sử, ta cũng không nên lẫn lịch sử gian tạo với lịch sử chân thực. Đó là điều căn bản trước khi bắt tay vào việc đi tìm tòi cái nhân nghĩa của Tào Tháo. Mạnh Tử nói: “Nghĩa là làm việc đúng mực” (nghĩa giả sự chi nghị dã).

Vậy muốn tìm hiểu việc nào có nghĩa hay không, đương nhiên phải xét việc ấy cho thật thấu đáo đã. Không thể phê phán với thái độ tự cho đã nhìn thấy sự vật trước khi có ánh sáng.

Xét cho thấu đáo ta sẽ thấy rằng: Ở địa vị và hoàn cảnh Tào Tháo, nhân nghĩa không thể là đem gạo phát chẩn như kiểu mấy đại gia quy Phật, không thể như Sái Ung quỳ khóc thây Đổng Trác, không thể như Nễ Hành đánh trống chửi bậy, không thể như bọn người bất tài ôm Hiến Đế mà than thở v.v…

Phạm vi và cơ sở nhân nghĩa của Tào Tháo rộng lớn hơn rất nhiều. Đó là sinh mệnh của hàng trăm vạn người, sự an ninh cho quốc gia, sự yên bình cho Xã hội sau bao tai biến tầy trời: Hoàng Cân, Đổng Trác, Lã Bố, Quách Dĩ, Lý Thôi. Đời sau vì bọn chính thống làm lạc hướng, đã quên mất cái nhân nghĩa to tát kia mà chỉ nghĩ đến mấy cá nhân tầm thường: Triệu Ngạn, Dương Bưu, Đổng Thừa, Đổng Phi, Hiến Đế, dùng làm căn cứ kết tội Tào Tháo bất nhân, bất nghĩa.

Nhưng đáng kể nhất vẫn là con người chính trị của Tào Tháo

Jean Jacques Rousseau viết:

-         Chớ lầm tưởng rằng những nhà hiền triết đã biết rõ con người, trái lại họ còn rất mù mờ là khác, vì họ thường xét đoán con người qua những thành kiến của họ, nguy hơn nữa là không có một hạng người nào lại lắm thành kiến bằng những nhà hiền triết.

Vào thực tiễn, các hiền triết bao giờ cũng thất bại bởi vì thế giới của họ thuần những tư tưởng trừu tượng, những nguyên tắc thuần lý, những chân thiện mỹ tuyệt đối. Còn thế giới loài người, sinh hoạt xã hội thì khác hẳn.

Nước Cộng Hòa lý tưởng của Platon, Thành phố Thiên đường của Saint-Augustin và thiên quốc của Thomas Campenella đều chỉ là những giấc mộng, tương tự giấc mộng của vị lương y muốn tương lai y khoa sẽ vượt ngưỡng cửa Tử thần đến cõi bất diệt.

Thực tiễn là bản chất của chính trị.

Thực tiễn là kim chỉ nam của tất cả mọi hoạt động chính trị.

Ở chính trị chỉ có vấn đề lợi hại, thành công, thất bại, tồn tại và tiêu diệt. Muốn thành công, muốn tồn tại cần phải thủ đoạn mưu lược, biết tiến, biết thoái, phải có sức làm việc cần khổ, một nghị lực dồi dào.

Con người chính trị ví như vị kỹ sư sử dụng hết thẩy những gì cần thiết hữu ích để đạt tới kết quả.

Thời đại Tam Quốc, một mình Tào Tháo là xứng đáng đủ điều kiện cần thiết của một con người chính trị. Bên cạnh Tào Thào là Gia Cát Lượng. Nhưng ở Khổng Minh người ta vẫn thấy vơi vơi, phảng phất tựa hồ mộng tưởng thống nhất cho nước Ý của Dante mà chưa có lý luận của Machiavel bổ túc, chủ nghĩa Xã hội không tưởng của Saint-Simon, Kropotkine mà chưa có tư tưởng khoa học và tư tưởng thực tế đấu tranh. Tóm lại con người chính trị của Khổng Minh phải đứng bên cạnh con người chính trị Tào Tháo thì tính chất của chính trị thời đại Tam Quốc mới hiển hiện, mới thấy rõ chỗ kỳ diệu mà Thánh Thán đã phê phán.

Xem Tam Quốc chí diễn nghĩa, nghiên cứu Tam Quốc dù tùy theo tâm chất ta yêu hay ghét Tào Tháo, nhưng sâu kín trong lòng, chúng ta ai ai cũng thán phục Tào Tháo và công nhận Tào Tháo đã dạy được chúng ta nhiều điều hơn tất cả những nhân vật khác thuộc thời đại đó.

Tâm lý chính trị của Tào Tháo: hành động trước hết

Tam Quốc chí diễn nghĩa kể:

-         Chiều hôm ấy Doãn mở tiệc ở hậu đường. Các quan đến cả. Khi uống rượu được vài tuần, Doãn tự nhiên che mặt khóc hu hu.

Các quan giật mình hỏi rằng:

-         Nay là ngày sinh nhật của quan Tư Đồ, sao Ngài lại khóc như vậy?

Doãn thưa rằng:

-         Nay có phải là ngày sinh nhật của tôi đâu. Vì có một việc muốn nói với các vị nhưng sợ Đổng Trác sinh nghi, cho nên mượn cớ thác ra thế. Thằng Trác dối vua lộng quyền, xã tắc nay mai đổ mất. Đức Cao Hoàng ngày xưa đánh Tần diệt Sở, bao nhiêu công phu mới nên cơ đồ này, ngờ đâu nay mất vào tay thằng Đổng Trác. Tôi khóc là vì thế.

Các quan nghe nói cũng đều khóc cả.

Trong đám ngồi có một người, vỗ tay cười ầm lên mà nói rằng:

-         Các quan thử khóc từ tối đến sáng, lại khóc từ sáng đến tối, có khóc chết được thằng Đổng Trác không?

Doãn ngoảnh lại xem ai, người ấy là Kiêu Kỵ Hiệu Úy Tào Tháo. Doãn giận nói rằng:

-         Tổ tôn nhà ngươi cũng ăn lộc nhà Hán, nay người không biết nghĩ báo quốc lại nhăn răng ra mà cười à?

Tháo nói:

-         Tôi cười, có phải cười gì đâu? Cười là cười các Quan, không biết nghĩ kế gì mà trừ thằng Đổng Trác. Tháo này tuy không có tài cán gì, nhưng xin lập tức chặt đầu thằng Trác, treo ở cửa chợ để tạ thiên hạ.

Doãn liền đứng dậy hỏi rằng:

-         Mạnh Đức có kế gì tài thế?

Tháo nói:

-         Tôi lâu nay sở dĩ khuất thân nhờ Đổng Trác cũng là vì muốn thừa cơ giết nó. Nay nó đã hơi tin tôi, tôi được gần nó luôn. Nghe quan Tư Đồ có con dao Thất bảo, xin cho tôi mượn. Tôi nguyện phen này vào tận tướng phủ đâm chết thằng giặc Đổng Trác, dẫu chết cũng không oán hận gì.

Ở thời loạn, mọi người không thể cứ ngồi “ca cẩm” mà mong thay đổi tình thế. Toàn bộ trí thức Kinh Đô họp ở nhà Vương Doãn với thái độ than vãn nhù nhờ đã làm nổi bật ngôi sao chính trị Tào Tháo ngay từ lúc bấy giờ, lúc Tháo chưa có một tư bản chính trị nào.

Tào Tháo cười bọn đó, cũng như nhà văn Gorki cười bọn trí thức: “Bọn họ, số đông đều biết, đều giỏi mơ tưởng một đời sống hạnh phúc cho nhân loại thiên vạn năm, nhưng lại không người nào tự hỏi mình có dám đứng lên xây dựng nó?”

Tào Tháo là người cơ trí, lại dám hành động, đương nhiên quyền lãnh đạo sau này phải lọt về tay Tháo. Mặc dầu những bước đầu thất bại. Giết không nổi Trác, Tháo phải bỏ trốn, rồi đi theo liên quân miền Đông lại gặp sự rụt rè của Viên Thiệu, Tháo dám một mình đuổi đánh quân Đổng Trác. Tuy thất bại, nhưng Tháo cũng mở mắt cho mọi người thấy rằng:

-         Muốn cứu vãn một tình trạng thì không thể chỉ ngồi nhìn nhau bàn tán, than khóc, thề bồi, mà phải hành động rỏ máu và mồ hôi. Nói suông để tự an ủi, tự làm với nỗi bực bội sẽ làm cho người ta cứ nói suông mãi mãi. Cái cười của Tào Tháo muốn bảo cho bọn Vương Doãn, hãy quay lại tự vấn, tự xét cái thái độ ăn nhiều, uống nhiều và nói nhiều.

Không mập mờ

Một chính trị gia hay một tập đoàn chính trị phải kiến tạo lập trường rõ rệt. Nhà văn Chekow đã miêu tả sự thất bại qua nhân vật Gusev “lúc nào cũng bị dầy vò bởi ý tưởng mờ ảo mà hắn ta không định rõ là hắn muốn gì?”

Ở Tào Tháo, ngay từ khi bắt đầu hoạt động, Tào Tháo đã đặt mình vào một vị trí nhất định không chân nọ chân kia, chờ đợi như nhiều kẻ khác.

Việc mưu sát Đổng Trác hỏng, mặc dầu đã biện hộ cho khỏi bị nghi ngờ, nhưng chẳng dùng dằng, Tháo ra cửa mượn ngựa trốn thẳng một mạch. Trên sự việc là trốn để tránh họa cho thân, nhưng trên tâm lý Tháo quyết đối lập với Trác. Thoát rồi, Tháo liền thảo hịch đánh Trác, tờ hịch của Tháo được các trấn hưởng ứng, chư hầu hội tụ. Trác thua chạy về phía Tây. Viên Thiệu không đuổi, có ý muốn thỏa hiệp với Trác. Tháo nhất định phá việc đó nên mang một vạn quân cùng các bộ tướng suốt ngày đuổi theo đánh Đổng Trác.

Bình xong giặc Khăn Vàng vùng Từ, Duyện, Tháo được các triều thần gọi về dẹp loạn Lý Thôi-Quách Dĩ. Chủ kiến đã định, tới thành đô, lập tức Tháo quét sạch luôn cả bọn danh sĩ lỗi thời cùng toàn bộ tập đoàn thống trị cũ.

Với Tháo, trên phương diện thủ đoạn cơ mưu chính trị có thể mang những nét quanh co uẩn khúc, nhưng trên phương diện lập trường thì chỉ có một vạch thẳng. Bởi lẽ đó mà những người theo Tào Tháo tin ông ta hoàn toàn. Bởi đường lối chính trị minh bạch mà Tào Tháo tạo được một uy thế chính trị vững chắc.

Cứng rắn

Tào Tháo thường nói: “Thật là khôi hài nếu con người ta cũng giống như cây đàn, hễ hơi đụng tới thì nó kêu rên lên”. Chính trị với Tháo đòi hỏi sự tiêu diệt mọi tình cảm lòng thòng vô ích. Thương vay khóc mướn sẽ làm sét rỉ tâm não nhà chính trị.

Đúng  thế, kẻ nhạy cảm thường vẫn là kẻ tự phản bội chính mình, cho nên nhà văn Andreev trong tập truyện ‘Bẩy kẻ bị chết treo” đã ca tụng thái độ kiên quyết của một nhà cách mạng qua nhân vật “Kẻ tử tù”:

-         Ôi! Nếu mặt con người mà khóa được như cánh cửa lao thất, thì mặt người tù ấy tôi thấy bưng kín, lạnh lùng và bên ngoài còn cả chiếc khóa to lớn.

Bàn về công cuộc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo

Như ta đã biết, xã hội Trung Quốc đương thời Tào Tháo mang nhiều mối xung đột quyết liệt:

-         Xung đột nội bộ chính quyền trung ương.

-         Xung đột giữa các chính quyền địa phương với chính quyền Trung ương,

-         Xung đột giữa các lực lượng địa phương với nhau.

-         Xung đột giữa hai cấp lãnh đạo cũ và giai cấp lãnh đạo đang lên, hay xung đột giữa phần tử trí thức bình dân và phần tử trí thức danh gia thế tộc.

-         Xung đột giữa quần chúng rộng lớn với chế độ lại trị đang đi xuống của chính quyền triều Hán.

-         Xung đột giữa khuynh hướng thống nhất và khuynh hướng chia cắt phong kiến.

Tóm lại, Trung Quốc lúc đó đang đi vào cơn khủng hoảng lớn trên chính trị, văn hóa và sinh hoạt, nói chung là khủng hoảng của Trật tự và Tiến bộ (l’ordre et le progrès). Một đằng trật tự cũ đang ra sức phá hoại tiến bộ. Đằng khác, tiến bộ đang ra sức kiến tạo lực lượng mới để nhoi lên.

Trật tự và Tiến bộ là hai vấn đề cơ bản cho sự sinh tồn của một chế độ. Muốn giải quyết những xung đột trên thì vấn đề chủ yếu là vấn đề chính quyền, bởi vì quyền lực chính trị là chiếc chìa khóa cần thiết để khai thông các lối ngõ bị lấp bít. Quan niệm và học thuyết về chính quyền cũng là quan niệm và học thuyết của cuộc diễn tiến lịch sử. Học thuyết chính trị Đông Phương coi trọng quyền bính như thế nào?

Khổng Tử nói: “Không búa rìu làm sao đốn cây?”

Tuân Tử nói: “Tạo Phụ là người tài cưỡi xe, nay không có xe có ngựa thì lấy gì để tỏ cái tài năng của mình. Hậu Nghệ giỏi bắn, nay không có cung có tên thì lấy gì để tỏ cái giỏi của mình”.

Quỷ Cốc Tử nói: “Công việc muốn tốt là phải chế ngự được người chứ không để người chế ngự ta. Muốn chế ngự người, tất  phải nắm được quyền, cho nên mới có câu đại trượng phu lấy quyền để mà sai khiến chúng nhân vậy”.

Quyền bính đối với chính trị cần thiết như chiếc búa với người tiều phu, hay nói khác đi, chính trị và quyền bính chẳng khác chi con Lang con Bối sống dựa vào nhau, con này rời ra con kia chết, con kia rời ra con này chết, chính trị và quyền bính mang tính chất cộng sinh (Symbiose).

-         Quyền bính là gì?

Theo cổ nhân: “Quyền thị chúng lực chi yếu, cương chi cương, y chi lãnh”, nghĩa là quyền ví như đầu giềng của chiếc lưới, cổ của chiếc áo, chủ chốt của mọi lực lượng. Khi ta cầm vào cổ áo, ta sẽ mang chiếc áo dễ dàng, ta cầm được đầu giềng của lưới, ta sẽ điều khiển được chiếc lưới dễ dàng, nhẹ nhàng.

-         Làm thế nào để có quyền?

-         Đương nhiên phải tranh thủ để có chính quyền.

-         Tào Tháo đã tranh đoạt chính quyền ra sao? Tư tưởng hậu thế sau khi bị chính thống hóa cũng như bị ảnh hưởng Tam Quốc chí diễn nghĩa đã khinh ghét Tào Tháo đều chú trọng và căn cứ vào cuộc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo. Đó là tất cả vấn đề mà chúng ta sẽ bàn tới những dòng dưới đây.

-         Tranh thủ chính quyền tự cổ xưa đến nay, từ Đông sang Tây đều có hai cách thức: “cách thức bạo động và cách thức không bạo động”. Xét trong lịch sử thì cách thức bạo động hay cách thức không bạo động đều mang nhiều hiện tượng khác nhau. Tỉ dụ: Nhượng quyền như Nghiêu Thuấn, thoán đoạt như Hồ Quý Ly, mưu sát như vụ Brutus, thông qua nghị hội như các cuộc giải tán nội các ở các nước Tây phương ngày nay, dùng chiến tranh xâm lược, chiến tranh giải phóng v.v… Những hiện tượng khác nhau ấy phải tùy theo những điều kiện, tình hình và tính chất của đấu tranh cao hay thấp của lịch sử mà phát hiện.

Cổ học Trung Quốc quan niệm về cả hai cách thức bạo động và không bạo động như sau:

a)      Dùng đức.

b)    Dùng Công.

c)     Dùng Mưu.

d)    Dùng Vũ.

Nhưng cổ nhân thường trọng lối khéo léo hòa bình dành chính quyền hơn là dùng lối bạo tàn để cưỡng đoạt.

-         Dùng Đức là thế nào?

-         Như vụ ông vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn vì thấy Thuấn được dân yêu chuộng.

-         Dùng Công là thế nào?

- Như vua Vũ trị thủy để quy tụ lòng ngưỡng mộ của muôn dân.

- Dùng Mưu là thế nào?

- Như vua Thang đánh bại quân Kiệt, dùng Nữ Hoa và Khúc Nghịch làm tay sai để mê hoặc vua Kiệt mà che đậy mưu của mình.

- Dùng Vũ thì thế nào?

- Như Hán cao Tổ và Hạng Võ phát động chiến tranh chống Tần.

Chữ Vũ ở đây nên hiểu theo cái nghĩa bạo động ngược lại với bất bạo động. Còn nếu hiểu rộng lớn hơn thì trong Vũ cũng phải có đủ cả Đức, Công, Mưu thì mới quyết thắng được. Hơn nữa xét cho cùng, mọi nút chuyển trọng đại của lịch sử chưa hề có lần nào được giải quyết mà không xảy ra bạo động, như Lénine đã viết:

La violence est l accoucheuse de toute vieille societe grosse d une societe nouvelle, l instrument à l aide duquel le mouvement social se fait place et brise les formes politiques mortes et figées.

(Bạo lực là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới, là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức chính trị cứng đờ và chết.)

Bạo động hay không bạo động đều tùy thuộc những điều kiện, tình hình, tính chất lịch sử, vì vậy ta không thể kết tội bạo động cũng như nhất định không bạo động. Không bạo động từ bao giờ đến giờ vẫn chỉ là một ước mơ chứ chưa thành một quy luật. Chẳng phải bất cứ thời thế nào cũng cho phép nhà chính trị dùng Đức, dùng Công.

Phê phán Tào Tháo, có người viết:

- "Sinh hoạt chính trị của Tào Tháo gồm trước sau hơn bốn mươi năm thì đã quá 30 năm Tào Tháo ngụp lặn trong chiến tranh".

Lời phê phán trên đây cho chúng ta thấy cuộc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo là cuộc tranh đoạt bằng vũ lực, lấy chiến tranh giải quyết vấn đề.

Trở ngược lại từ loạn Khăn Vàng, Hoạn quan, Ngoại thích đến Đổng Trác, Lý Thôi, Quách Dĩ ta thấy gì?

Hết thẩy chỉ là những âm mưu tranh ngôi, đoạt vị của những thế lực chống đối nhau của cùng một "gia thuộc" của trật tự cũ. Do đó ta không thể gọi đấy là những cuộc đấu tranh giành chính quyền được, vì bản chất các tranh giành ấy không đặt trên nền tảng chính quyền. Bởi thế cho nên ta mới thấy những hiện tượng rất khôi hài mà Tam Quốc Chí diễn nghĩa thuật lại như:

Hà Hậu nói:

- "Chúng mày đừng lo, ta sẽ bảo hộ cho". Bèn giáng chỉ triệu Hà Tiến vào cung khẽ bảo rằng: "Anh em ta hàn vi từ thuở nhỏ, nếu không có bọn Trương Nhượng sao có phú quý ngày nay? Nay thằng Kiển Thạc bất nhân đã bị giết rồi, sao anh còn tin lời người ta nói mà toan giết cả bọn hoạn quan?"

Bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê thấy phe Đổng thái Hậu thất bại, bèn đem vàng ngọc đút lót em trai Hà Tiến là Hà Miên và mẹ Tiến là Vũ dương Quân nhờ vào nói khéo với Hà thái Hậu che chở cho. Bởi vậy mười tên Thường thị lại được tin dùng.

......................................................

Trác hỏi Ngu Phu rằng:

Ai xui mày làm phản?

Phu trợn mắt thét mắng:

- Mày không phải là vua tao, tao không phải là tôi mày, sao gọi là phản được. Tội mày đầy trời, ai ai là chẳng muốn giết mày. Tao tiếc rằng không xé nhỏ được xác mày ra để tạ thiên hạ.

Trác tức lắm, sai đem Ngu Phu ra mổ. Phu cứ mắng chửi Đổng Trác đến lúc chết.

Hiến Đế khóc nói:

- Trẫm bị hai thằng giặc ấy khinh nhờn đã lâu. Nếu giết được thì may lắm.

Bưu tâu rằng: "Tôi có một mẹo, trước làm cho hai đứa tự tàn hại lẫn nhau rồi sau mới vời Tào Tháo đem binh vào giết, quét sạch lũ giặc để yên triều đình".

Hiến Đế hỏi: "Kế ấy là kế gì?"

Bưu tâu: "Tôi nghe vợ Quách Dĩ rất hay ghen, sai người đi lại với vợ nó, dùng kế phản gián, hai thằng giặc tất giết lẫn nhau".

Vua liền hạ chiếu phong Lý Thôi làm Đại tư Mã. Thôi mừng nói rằng: "Phúc này thật là thần thánh giáng cho ta. Lạy thánh vạn lạy, có cầu cúng Ngài cũng có hơn".

Lý Nhạc và Hàn Tiêm lại có hơn hai trăm đầy tớ bộ hạ, nào thầy cúng nào thầy thuốc. Hai đứa tâu cho làm Hiệu úy Ngự sử cả. Khắc ấn không kịp, lấy dùi vạch gỗ ra làm ấn chẳng ra thể thống gì cả nữa.

Nền tảng chính quyền là gì?

Nhiều người vẫn quan niệm chính quyền qua những yếu tố "nổi" mà sơ sót những yếu tố "chìm", chẳng hạn như nhìn thấy ở chính quyền những yếu tố: vũ lực, tổ chức cai trị, căn cứ địa, tổ chức kỹ thuật, tiền bạc mà không nhìn thấy sự tiến bộ của xã hội, uy thế chính trị, uy thế xã hội và tư tưởng nhân sinh. Nhà triết học Aristote viết: "Người là một động vật chính trị". Sở dĩ người là một động vật chính trị là vì người biết quây quần kết tụ thành từng tập đoàn, các tập đoàn lại kết tụ lại thành xã hội và cứ phát triển rộng lớn không ngừng.

Xã hội càng rộng lớn thì tính cách kết tụ càng phức tạp, trong đó những tập đoàn kết tụ qua kinh tế, qua học thuật, qua tôn giáo v.v...

Các tập đoàn ấy do sự cần thiết của tiến bộ, phát triển và sinh tồn nên có hai bộ mặt sinh hoạt trái ngược hẳn: Một mặt liên hợp sống chung và một mặt đấu tranh lẫn nhau. Hai bộ mặt sống chung và đấu tranh cần phải có một sự điều chỉnh, nếu không xã hội sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn, cướp bóc, hà hiếp. Nhu yếu điều chỉnh chế tạo ra chính quyền. Như vậy, nhiệm vụ hàng đầu của chính quyền là phải kiến lập được trật tự vững chắc. Muốn kiến lập được trật tự vững chắc, chính quyền cần nắm đủ yếu tố: vũ lực, tổ chức cai trị, căn cứ địa, tổ chức kỹ thuật, tiền bạc v.v... Những yếu tố này kể làm những phương tiện để thực hiện trật tự. Nhưng ta không được quên rằng xã hội luôn luôn chuyển hình, tiến bộ, lẽ đương nhiên chính quyền cũng phải mang nhiệm vụ thỏa mãn nhu yếu tiến bộ của xã hội, nếu chính quyền và trật tự đi thụt lùi so với nhu yếu tiến bộ, chẳng chóng thì chày chính quyền và trật tự sẽ bị tiến bộ quật ngã để rồi chế tạo một trật tự mới hơn, tiến bộ hơn. Cho nên muốn thỏa mãn nhu yếu tiến bộ của xã hội, chính quyền tự nó có sẵn sàng uy thế chính trị, uy thế xã hội, uy thế tư tưởng, nghĩa là lãnh đạo được sự chuyển hình tiến bộ của xã hội trên các mặt. Vậy ta có thể nói gọn lại rằng: Chính quyền mang hai nhiệm vụ:

1) Giữ gìn trật tự

2) Thúc đẩy tiến bộ

Ngày nào mà trật tự và tiến bộ không đi đôi được với nhau nữa, phát sinh khủng hoảng, ngày đó xã hội rơi vào tình trạng loạn, tranh chấp.

Trung Quốc đến cuối Đông Hán thì xã hội bắt đầu một thời kỳ phân loạn dài; Trật tự, tiến bộ, kinh tế, tư tưởng v.v... hoàn toàn bị xáo trộn.

Vương quyền tập trung nay trở thành một hệ thống thế lực cho ít người. Chính quyền bị lũng đoạn, tiền bạc nhân lực bị coi là phương tiện xa xỉ, dâm dật. Liêm sỉ theo đó mà tiêu tán. Trong bức thư Lý Lăng gửi Tô Vũ, sách thế truyền có chép: Bọn quan lại phá hoại được phong làm Vạn hộ Hầu, bọn thân thích tham nịnh được phong làm Lang tể miếu.

Lúc thế lực bọn hoạn quan, ngoại thích phát triển, đạo đức càng đi xuống.

Những câu đồng dao như:

Trực như huyền, tử đạo biên

Khúc như câu, phản phong hầu

(Thẳng thắn chết đường, luồn cúi tước vị)

Cử tú tài, bất tri thư

Cử hiếu liêm, phụ biệt cư

Hàn tố thanh bạch, trọc như nê.

Cao đệ lương tướng, khiếp như kê

(Tú tài không biết chữ, hiếu liêm đánh đuổi bố, nghèo nàn thanh bạch bị khinh miệt, quan cao tướng giỏi nhát như gà). Đạo đức sa đọa không chỉ ở trên lĩnh vực kinh tế. Nguy hại hơn, nó còn hoành hành cả trên lãnh vực giáo dục, giảng học, khiến cho mọi giá trị càng điên đảo. Đó mới kể về phương diện đạo đức, còn phương diện sinh sống thế nào?

Đi đánh giặc, Tào Tháo có hai câu thơ ngũ ngôn:

Thiên lý vô kê minh

Sinh dân bách di nhất.

(Hàng vạn dặm không thấy tiếng gà gáy, dân cư lèo tèo thưa thớt)

Vương Sán cũng có hai câu:

Xuất môn vô sở kiến.

Bạch cốt tễ bình nguyên.

(Ra cửa chẳng trông thấy gì ngoài xương trắng ngổn ngang ngoài đồng) để tả thảm cảnh bấy giờ.

Bởi tại đâu mà nên nông nỗi?

Kể từ lúc Hán triều suy nhược, kinh qua ngoại thích chuyên chính, xã hội chịu nhiều tai họa, nào: nước lụt, hạn hán, đến loạn Tây Khương, đến hoạn quan loạn triều chính. Bọn hào môn ngoại thích, hoạn quan và bọn địa chủ liên kết, trong khi giai tầng trung sản bị phá sản. Giầu nghèo mỗi ngày mỗi xa cách, hận thù, số nô tỳ mỗi ngày mỗi gia tăng. Phản loạn bắt đầu. Hán triều mấy lần ban chiếu, có những đoạn nhận tội như: "Bây giờ quý thích cận thần xa xỉ phóng túng vô độ" hay "người sống mất hết tư nghiệp, người chết phơi thây giữa đường". Mấy chiếu thư xuống làm sao biến đổi được cục diện thối nát, cho nên xã hội càng ngày càng ác họa. Sử gia Trọng Trường Thống ghi nhận:

- Nhà bọn hào có hàng trăm nóc, ruộng tốt khắp nơi, nô tỳ thì ngàn người, xe ngựa chạy bốn phương, hàng hóa châu báu vô số, thê thiếp tính cả trăm. Dưới bàn tay tham ô của bọn hào môn, nguòi dân cày đói khổ, phần tử trí thức cơ cực. Trọng Trường Thống kết luận với câu: "Tám phương đê vỡ, trên dưới rữa nát như cá thối" để nói cái kết quả chính trị chuyên chính của bọn hoạn quan, ngoại thích. Xã hội hỗn loạn ấy, tất nhiên khắp thiên hạ mong mỏi một chính quyền với khả năng tái lập trật tự mà không ngăn chặn tiến bộ. Xã hội Đông Hán chẳng khác nào chuồng ngựa Augias, kẻ nào dọn nó cần có sức mạnh của Hercule. Người xung phong cáng đáng công việc là Tào Tháo cùng tập đoàn của ông, rồi đến Tôn Sách, Tôn Quyền bên Đông Ngô và sau nữa đến Khổng Minh, Tưởng Uyển, Khương Duy bên Tây Thục.

Vấn đề chiếm đoạt chính quyền có hai điều chủ yếu: Chiếm và giữ.

Hai điều chủ yếu ấy, đòi hỏi lực lượng chính trị hai khả năng:

a) Khả năng tác chiến chiếm đoạt

b) Khả năng điều khiển trật tự trên một hoàn cảnh mới, hay nói khác đi là củng cố chính quyền sau cơn đại biến động.

Ta hãy nói đến khả năng "Chiếm và phát triển chính quyền" của Tào Tháo. Trước khi đem quân về Kinh đô, sinh hoạt chính trị của Tào Tháo thiên về khuynh hướng âm mưu đầy tính chất phiêu lưu. Tam Quốc Chí diễn nghĩa cho chúng ta biết các việc:

1) Đứng về phe Hà Tiến chống thế lực hoạn quan. Hai lần bầy mưu can gián Hà Tiến đều bị Tiến mắng đuổi.

2) Liên kết với đám triều thần định hành thích Đổng Trác.

3) Dựa vào thế lực Viên Thiệu, thành lập liên quân miền Đông đánh lực lượng Tây Lương.

Tất cả các hoạt động phiêu lưu trên chỉ đem lại cho Tào Tháo sự thất bại ê chề, sự nhục nhã. Tháo tỉnh ngộ và quyết tâm đi vào con đường lớn, không chạy theo những âm mưu vặt nữa. Tháo đã hiểu rằng: Lịch sử không phải là kết quả của may rủi, làm lịch sử, làm chính trị nếu không nghiên cứu để nhận thức đúng bản chất xã hội, bản chất xung đột thì suốt đời sống bám, suốt đời không nhảy vào địa vị lãnh đạo được. Chính quyền không phải là ngôi thứ cá nhân. Chính quyền là mục tiêu cao nhất cho tất cả mọi hoạt động chuyển vận lịch sử. Muốn có chính quyền thì phải có kế hoạch, phương pháp tranh thủ đúng, bởi vì chính quyền là kết quả đường lối chính trị đúng đắn, chính xác. Quyền lực chính trị không phải là một vật mà trong một lúc, đêm này qua sáng hôm sau là có đầy đủ cả. Nó tiến từ sơ khởi đến kết cục, từ không đến có, từ vai phụ tiến lên vai chính, từ cục bộ tiến đến toàn bộ. Nghĩa là nó phải trải qua một thời kỳ sửa soạn, xây dựng bảo vệ, nuôi dưỡng, trưởng thành.

Cơ hội đầu tiên đến với Tào Tháo trên con đường lớn là việc Chu Tuấn tiến cử Tào Tháo (lúc ấy đang làm Thái thú Đông Quận) với Lý Thôi, Quách Dĩ cho đi dẹp giặc Khăn Vàng ở vùng Thanh Châu, Tháo đã biết biến cơ hội đó thành một lợi thế, tạo thành cái vốn chính to tát cho mình. Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể như sau:

"Lý Thôi mừng lắm, ngay đêm hôm ấy thảo tờ chiếu cho người mang ra Đông Quận, sai Tào Tháo cùng với tướng Tế Bắc là Pháo Tín đi đánh giặc. Tháo vâng chiếu chỉ họp với Pháo Tín, cùng tiến quân đánh giặc ở Thọ Dương. Pháo Tín đi vào đất giặc, bị giặc giết chết. Còn Tào Tháo đuổi giặc đến tận Tế Bắc, giặc quy hàng tới vài vạn người. Tháo lại dùng ngay giặc làm tiền khu, quân đi đến đâu, giặc hàng đến đấy. Mới được hơn một trăm ngày, chiêu an được hơn bốn mươi vạn quân hàng. Vừa đàn ông, đàn bà kéo lại theo Tháo hơn một triệu người. Tháo tuyển lấy những quân tinh nhuệ, đặt riêng một cánh quân gọi là binh Thanh Châu, còn bao nhiêu đuổi về cho làm ruộng. Từ đó uy danh Tào Tháo mỗi ngày mỗi lừng lẫy. Tiếng đồn về đến tận kinh, triều đình phong cho Tháo làm Chấn Đông tướng quân."

Nhưng con đường lớn mà Tào Tháo theo đuổi đâu phải là cái chức Chấn Đông tướng quân. Chẳng qua chức đó chỉ là cái bàn đạp cho Tào Tháo tiến quân về kinh đô Lạc Dương. Chủ ý Tào Tháo đã định, tuy nhiên muốn thực hiện việc nắm trọn chính quyền thì việc cần thiết là làm sao kiến tạo nhanh chóng một tổ chức lãnh đạo thay thế cho toàn bộ tổ chức lãnh đạo cũ. Kinh nghiệm Đổng Trác, Vương Doãn, Lý Thôi, Quách Dĩ còn sờ sờ ra đấy. Cho nên sau khi nhận chức Chấn Đông tướng quân, Tháo liền tiến hành gấp việc chiêu mộ các người tài năng trong thiên hạ, quy tụ đại bộ phận phần tử trí thức với phương châm: "Hiền tại vị, năng tại chức", tuy nhiên chiếu theo nhu cầu thực tiễn nên điều kiện mà Tháo chú trọng là tài năng.

- "Tào Tháo ở Duyệt Châu chiêu mộ thu dùng những người hiền sĩ. Ở làng Dĩnh Ầm châu Dĩnh, có một nhà hai chú cháu cùng đi theo Tháo. Người chú họ Tuân tên Úc, tên chữ là Văn Nhược, nguyên là con Tuân Côn. Úc trước đã theo Viên Thiệu, nay bỏ Thiệu theo Tháo. Tháo cùng Úc nói chuyện xong rồi nói rằng:" Người nầy là Tử Phòng của ta đây", rồi cho làm Hành quân Tư Mã.

Người cháu tên là Tuân Du, tên chữ là Công Đạt, trước đã làm Hoàng môn Thị Lang. Sau bỏ quan về làng, nay theo chú sang với Tào Tháo, (được?) cho làm Hành Quân Giáo thụ.

Tuân Du lại nói với Tào Tháo rằng:

- "Tôi nghe ở Duyệt châu có một người hiền sĩ vốn ở Đông An, họ Trình tên Dục, tên chữ Trọng Đức, nhưng không biết bây giờ ở đâu. Người ấy Chúa công nên dùng.

Tháo nói: "Tôi biết tiếng Trình Dục đã lâu"

Nói rồi sai ngay người về tận Đông An để hỏi cho được, thấy họ bảo rằng: "Trình Dục đang ở trong núi đọc sách, Tháo cho mời ra. Trình Dục đến bái kiến, Tháo mừng lắm.

Dục lại bảo với Tuân Úc rằng:

- "Tôi là người quê kệch học hành chưa được mấy, không xứng đáng với sự tiến cử của ông. Nay tôi biết có một người cùng làng với ông tên là Quách Gia, tên chữ là Phụng Hiếu, thực là hiền sĩ đời nay, sao ông không triệu ra".

Úc sực nhớ đến nói rằng: "Suýt nữa tôi quên người ấy".

Úc nói chuyện ngay với Tào Tháo. Tháo cho mời Quách Gia. Gia đến Duyệt châu bàn việc thiên hạ với Tào Tháo, rồi lại tiến Tháo một người nữa dòng dõi vua Quang Vũ, người ở Thành Đức họ Lưu tên Hoa chữ là Tử Dương. Tháo cho mời Hoa đến, Hoa lại tiến cử hai người nữa, một người ở Sương ấp họ Mãn tên Sủng, tên chữ là Bá Ninh, người nữa ở Vũ Thành họ Lã tên Kiền, tên chữ là Tử Khác. Tháo cũng biết tiếng hai người ấy, cho nên đặt ngay cho làm Trung Tùng Quân Sư.

Được ít bữa lại có một tướng nữa đem vài trăm quân mã lại xin theo với Tào Tháo, người ở Cự bình tên là Vu Cấm, tên chữ là Văn Tắc. Tháo thấy người ấy cung mã giỏi, võ nghệ hơn người, cho làm Điểm quân Tư Mã.

Một hôm Hạ Hầu Đôn lại dắt một người cực lớn lại ra mắt Tào Tháo. Tháo hỏi ai, Đôn thưa rằng:

- "Người này ở Trần Lưu, họ Điển tên Vi. Sức khỏe không ai địch nổi. Trước Vi đã theo Trương Mạc, sau nhân có việc bất hòa với đầy tớ Mạc, giết vài người rồi trốn vào núi ở. Tôi đi săn gặp Điển Vi đang đuổi hổ nhảy qua suối, nay tôi đem về đây dâng chúa công.

Tháo nói: Ta xem người này tướng mạo khôi ngô, tất người thực khỏe.

Đôn lại nói: "Điển Vi từng báo thù cho bạn, giết người xách đầu ra chợ, hàng mấy trăm người không dám đến gần. Y sử dụng hai ngọn kích sắt, nặng tám mươi cân cắp ngồi trên ngựa, vung múa nhẹ như bay.

Tào Tháo lập tức sai Điển Vi ra thử kích.

Vi cắp đôi kích lên ngựa đi lại nhẹ nhàng như bay.

Bỗng bấy giờ có cơn gió to, lá cờ lớn trồng dưới trướng lung lay sắp đổ. Quân sĩ xúm xít lại ôm giữ không nổi.

Điển Vi thấy vậy, từ trên ngựa nhẩy xuống quát to một tiếng đuổi quân sĩ lui ra, rồi một tay nắm chắc lấy, cột cờ đứng im phăng phắc giữa luồng gió.

Tháo thấy thế mừng lắm nói rằng:

Người này thực là Ác Lai ngày xưa đây.

Liền cho làm trướng tiền đô úy, cởi ngay áo đang mặc, thêm một con ngựa cực tốt và một bộ yên chạm đem cho Điển Vi.

Từ bấy giờ bộ hạ Tào Tháo, văn có người tài, vũ có tướng giỏi, uy danh lừng lẫy cả Sơn Đông.

Hàng mấy ngàn năm trước, Quản Trọng nói: Anh hùng giả, quốc chi cán, thứ dân giả, quốc chi bản. Đắc kỳ cán, thâu kỳ bản, tắc chính hành nhi vô oán hĩ (những anh hùng là cốt cán của một nước, dân chúng là gốc rễ của một nước. Dùng được cốt cán của một nước, thu phục được gốc rễ thì việc thi hành chính sự không bị oán hận).

Ngày nay chính trị gia Tây Phương cũng nói: Ce qu un véritable chef doit faire ce sont non des actes, mais des hommes, des hommes qui le prolongent dans l espace et dans le temps (lãnh tụ tài giỏi không phải chỉ biết hành động thôi mà còn phải biết dùng người, thu phục người bởi vì chỉ có người mới khiến cho vị lãnh tụ có mặt ở bất cứ nơi nào và bất cứ lúc nào).

Hai danh ngôn kim cổ chứng minh tài năng chính trị của Tào Tháo hành động tại Duyên Châu.

Bây giờ ta bàn đến khả năng giữ và củng cố chính quyền của Tào Tháo.

Làm chính trị có hai điều tối kỵ là ngắn hơi và dềnh dàng. Trong sự nghiệp chính trị: "Đáng kể nhất không phải là sự bắt đầu mà là sự làm đến cùng". Dẹp loạn bắt đầu xây dựng lực lượng, rồi tạo uy thế, rồi nắm quyền chính chưa đủ, còn cần củng cố vững vàng, phát triển trật tự mới, thúc đẩy tiến bộ. Triều Chính Đông Hán đổ nát, tập đoàn Khăn Vàng dấy lên, rồi Đổng Trác, Vương Doãn, Viên Thiệu, đến Lý Thôi, Quách Dĩ thay nhau nắm quyền chính, nhưng tất cả không giữ nổi chính quyền củng cố và phát triển. Tất cả đều quan niệm chính quyền như một thế lực, một phương tiện để hưởng thụ, do đó hành động của cả bọn rất ngắn hơi, nghĩa là không biết hướng nào để làm đến cùng. Riêng Viên Thiệu thường mắc phải cái bệnh dềnh dàng, kéo dài sự việc lê thê chẳng dứt khoát bề nào bao giờ. Tào Tháo trái lại, ông cưa mạch nào đứt mạch ấy, liên hợp hay đấu tranh đối với Tháo chỉ là những thủ đoạn, để thực hiện đến cùng cho một đường lối chính trị mà Tháo cùng tập đoàn của ông quyết định theo đuổi. Kéo quân về Lạc Dương dẹp loạn, Tháo không phí bao hơi sức mà đã loại ra dễ dàng lực lượng chính trị quan trọng bấy giờ là phe cánh Đổng Trác. Nhưng trước mắt Tháo đã hiểu ngay ra kẻ địch đáng sợ trên quân sự là lực lượng Viên Thiệu, và trên chính trị là các vấn đề thuộc nội bộ. Tào Thào cũng nhìn thấy ngay nhược điểm của chính mình. Tháo bèn thực hiện ngay phương châm của Tôn Tử: "Trước hãy tìm cái thế không thể bại được". Nên Tháo nghe ngay lời Đổng Chiêu, thiên Triều đình về Hứa Đô để phòng mọi bất trắc. Ở Hứa Đô, Tháo đưa công tác chỉnh đốn nội bộ lên hàng đầu về mặt kiến thiết. Xây dựng sửa sang nhà cửa, cung miếu, lập kho tàng. Về mặt văn học: lập nền tảng giáo dục mới. Về mặt hành chính: định lại các quan tước phẩm vị, tạm thời dùng đám triều thần cũ và cài răng lược những người mới để chuẩn bị thay thế dần dần. Về mặt xã hội: Tháo đề ra ba phương châm: Trừ gian- Cấm dâm- Trừng tham. Về mặt kinh tế: kiểm soát và định lại thể thức tô thuế đất ruộng.

Làm cho người sợ gọi là uy, làm cho người chịu gọi là thế. Hợp cả uy lẫn thế lại tức là lực lượng vậy. Có quyền mà không có lực thì quyền rỗng, có lực mà không có quyền thì lực hẫng. Uy với thế cũng vậy. Uy là thể mà thế là dụng. Có uy không có thế cũng vậy. Giống như hổ về bình nguyên làm kẻ thất thế, đã thất thế thì lấy gì để bồi đắp uy cho lớn rộng. Cho nên Tào Tháo lúc nào cũng lo kiến lập uy thế. Hễ cứ mỗi hành động ra uy, ông lại dựa ngay vào đấy để phát triển thế.

Đánh giặc Khăn Vàng ở Duyên Châu là lập uy. Chiêu mộ hiền sĩ là tạo thế. Rút gươm chém Trương Liêu là lập uy, nghe lời Lưu Bị, Quan Vũ tha Trương Liêu, khiến Liêu cảm phục là tạo thế.

Machiavel viết trong quyển Le Prince rằng: "Les Etats subitement formés manquent de racines profondes et le premier orage risque de les renverser" (chính quyền mới xây dựng thiếu rễ sâu sẽ rất bị lật nhào ngay khi gặp cơn giông bão đầu tiên).

Chính quyền mới lập của Tháo, nhờ phương pháp uy và thế tiến hành song đôi, đã vững như bàn thạch.

Vụ chiếu chỉ Đai áo vỡ ra, Tào Tháo thẳng tay đàn áp, bọn chính thống thường coi việc đó như một bằng chứng hiển nhiên về tính gian hùng tàn ác của Tào Tháo. Các bạn độc giả, chắc cũng có bạn muốn phán xét phân minh việc làm của Tào Tháo. Vậy xin bạn hãy đọc lại lời Machiavel: "Cruauté bénie, si elle tue dans l oeuf les désordres, gros de meurtres et de rapines, que trop de pitié eût laissé s élever? Ces désordres blessent la société tout entière, tandis que les rigueurs ordonnées par le prince ne tombent que sur des particuliers. (Hành động tàn ác đáng ban phước lành khi nào nó tiêu diệt được từ trong trứng sự hỗn loạn chứa đầy chém giết và cướp bóc. Hành động tàn ác ấy vượt xa hẳn tình thương nếu tình thương để cho hỗn loạn dấy lên. Hỗn loạn sẽ tàn phá cả xã hội, còn những biện pháp cứng rắn chỉ giết vẻn vẹn mấy cá nhân). Machiavel kết luận: protéger d abord la société, voilà où git la vraie clémence d Etat. (Bảo vệ xã hội trước hết, đây mới chính là lòng nhân từ của nhà nước).

Bọn chính thống đời sau cũng thường mang đối chiếu vụ giết Đổng Phi, Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Cát Bình với vụ tàn sát của Đổng Trác giết Trương Ôn, vụ chém giết ở Duyện Châu, Thanh Châu với vụ tàn sát ở Lạc Dương. Sự thật các vụ kể trên chẳng mang một điểm tương tự nào cả, dù ta xét chung trên quan điểm chính trị hay trên quan điểm đạo đức.

Đứng trên quan điểm chính trị, Đổng Trác thua xa Tào Tháo một trời một vực. Việc làm của Tào Tháo nhằm mục đích lập uy, còn việc làm của Trác hoàn toàn mang tính cách khủng bố. Cho nên Tào Tháo chấm dứt rất chóng bất cứ sự kiện nào có máu chảy người chết, còn Trác kéo dài ra để làm trò vui, để thỏa mãn tính khát máu thích dọa nạt. Tháo phân định dứt khoát người có tội kẻ không. Còn Trác thì miên man chẳng biết chỗ nào là bờ bến, khiến cho hết thảy mọi người ngồi đứng không yên. Machiavel gọi lối hành động loại Đổng Trác là tàn ác thú tính và tàn ác vụng về (cruautés mal pratiquees).

Đứng trên quan điểm đạo đức, vụ chém giết ở Duyên Châu, Thanh Châu là kết quả của chiến tranh. Còn vụ tàn sát ở Tràng An là kết quả của cuộc đàn áp bắt di dân. Tam Quốc chí diễn nghĩa đã viết rõ ràng tự sự như sau:

Lý Nho xui Đổng Trác:

- Nay tiền lương thiếu thốn nhiều, ở Lạc Dương nhiều nhà giầu, nên tịch thu cả lấy của phát cho quân.

Trác lập tức sai năm ngàn quân thiết kỵ đi bắt những người nhà giàu ở Lạc Dương, cả thảy mấy ngàn họ, mỗi người cầm một lá cờ lên đầu để bốn chữ: "Phản thần nghịch đảng" rồi đem ra ngoài thành chém tuốt, bao nhiêu của cải lấy sạch. Lý Thôi, Quách Dĩ bắt hết cả dân Lạc Dương, ước mấy trăm vạn, đưa sang Tràng An, cứ mỗi đoàn dân lại cho một đội quân đi áp, người chết ở dọc đường không biết bao nhiêu mà kể. Đàn bà con gái đã vừa nhọc vừa đói khát đau đớn trăm chiều, lại còn bị quân lính hãm hiếp, tiếng kêu khóc động trời chuyển đất. Người nào đi chậm, đằng sau có quân lính đốc thúc, quân lính còn chém giết người ngay giữa đường.

Lúc Trác đi, sai phóng hỏa đốt cả cửa nhà dân ở. Trác lại sai Lã Bố khai quật các mồ mả để lấy vàng bạc châu báu.

Bàn về cách sử dụng quyền uy của Tào Tháo

Quyền uy là tất cả những gì quý báu đối với chính trị. Do quyền uy mà ta có thể sinh hay sát, cho hay đoạt, phải hay trái, phúc hay họa, thao túng hay khống chế cả người lẫn vật. Tuy nhiên cũng do quyền uy mà chính trị gia hay chế độ bị oán ghét hận thù hoặc được kính nể yêu mến, không biết sử dụng thì bị oán ghét hận thù. Cổ nhân đối với việc sử dụng quyền uy đặt ra ba điều:

a) Pháp

b) Lệnh

c) Thưởng phạt

Pháp là cách thức tổ chức của chế độ, pháp cũng là kỷ cương của chế độ đặt ra để điều chỉnh sinh hoạt toàn bộ xã hội. Chữ Pháp ở đây nếu đem so với danh từ pháp luật, thì hàm nghĩa nó rộng lớn hơn, vì pháp luật chỉ là những điều lệ được ghi rõ ràng để quy định quyền hạn, vị trí, phạm vi cho mỗi hành động. Danh từ Pháp theo nghĩa triết học chánh trị phương Đông ngoài những điều lệnh rõ ràng ấy, nó còn bao gồm cả một số nguyên tắc sống mà đại đa số người trong xã hội nhìn nhận trên tâm lý. Sách cổ viết: "Pháp là công cụ để trị thiên hạ. Không có pháp tất sẽ mất nhịp độ, mất nhịp tức là hỗn loạn vậy".

Tào Tháo tiến quân về Lạc Dương, tình hình hỗn loạn tơi bời. Ông đã chế định được pháp nghiêm minh để ngăn chặn sự loạn. Lúc đánh Duyện Châu cũng như lúc đến Lạc Dương, nguyện vọng của nông dân cũng như lòng mong mỏi của phần tử trí thức đang lên đều được toại ý. Ta có thể căn cứ vào việc cải biến nhanh chóng các đám quân nổi loạn ở Thanh Châu, Duyện Châu cùng việc Đổng Chiêu ra sức giúp Tào Tháo bình định Lạc Dương để chức minh.

Lệnh là hình thức biểu thị của pháp. Lệnh ví như sấm sét, gió bão để cổ võ vạn vật cho nên lệnh phải nghiêm, không mờ ám, không bất nhất sáng thay chiều đổi.

Đức tôn trọng lệnh luật của Tháo, trong đời Tam Quốc chẳng mấy ai sánh kịp. Rất nhỏ nhặt như việc con ngựa của Tháo hoảng hốt dẫm lên ruộng lúa, Tháo cũng đã tự cắt tóc để thị chúng, ta có cho đấy là một thủ đoạn đi chăng nữa, nhưng thủ đoạn không ngoài mục đích hướng vào sự tôn trọng luật lệnh.

Trong khi Trương Phi say rượu đánh Tào Báo để Lã Bố cướp mất Từ Châu, và Quan Công nóng nảy phá tan cả một chính sách Liên Ngô, Tam Quốc chí không cho ta thấy mảy may biện pháp trừng phạt của Lưu Bị đối với hai người này dù rất ít.

Về vấn đề thưởng phạt, Hoàng Thạch Công nói:

- "Công nhỏ không thưởng, tất công lớn không có. Oán nhỏ không tha tất oán lớn nảy sinh. Thưởng không làm cho người phục, phạt không khiến cho người vui chịu, tất bị phản. Thưởng kẻ vô công, phạt kẻ vô tội, cái nguy đến sau lưng.

Sách Quân Cấm viết:

Hương nhĩ chi hạ tất hữu tử ngư

Trọng thưởng chi hạ tất hữu tử phu.

(Dưới mồi thơm chắc có cá chết. Biết trọng thưởng, người sẽ vì ta mà hy sinh). Hàn phi Tử nói: "Ái đa giả tắc pháp bất lập, uy quả giả tất hạ xâm thượng". (Nuông chiều tất Pháp khó thi hành. Uy ít tất dưới nhờn).

Độc giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa chắc đã có nhiều dịp so sánh Tào Tháo với Lưu Bị về đức tính này. Sự dung túng của Lưu Bị đối với Quan, Trương gieo mầm cho việc thất thủ Kinh Châu sau này.

Nghi án Lã Bá Sa và Lưu Phúc

Đời Tào Tháo có hai lần giết người bị đời sau coi là những hành động tội phạm:

Vụ thứ nhất: giết cả nhà Lã Bá Sa.

Vụ thứ hai: cầm giáo đâm chết Lưu Phúc.

Ngay đêm hôm ấy, Trần Cung thu xếp hành trang và lộ phí, cả hai người thay quần áo, mỗi người đeo một thanh gươm, cưỡi một con ngựa đi về quê Tào Tháo. Đi được ba hôm đến Thành Cao, trời đã xâm xẩm tối. Tháo cầm roi ngựa, trỏ vào một đám cây cối um tùm bảo Cung rằng:

- Ở trong này có Lã Bá Sa là bạn kết nghĩa với cha tôi. Tôi muốn vào chơi thăm nhà, rồi ngủ đấy một đêm, nên không?

Cung nói: Thế thì hay lắm.

Hai người đến cửa, xuống ngựa vào chào Lã Bá Sa. Sa hỏi Tháo rằng: Ta nghe triều đình tầm nã anh cấp lắm. Cha anh phải lánh sang ở Trần Lưu rồi. Sao anh đến được đây?

Tháo bèn đem chuyện đầu đuôi kể với Lã Bá Sa, rồi trỏ vào Trần Cung nói: Nếu không gặp được quan huyện đây, thì bây giờ đã thịt nát xương tan rồi.

Lã Bá Sa vái Trần Cung rồi nói:

- Cháu nó không gặp được ngài thì họ Tào còn gì? Đêm nay xin ngài hãy thong thả nghỉ lại đây. Nói xong đứng dậy vào trong nhà, một chốc trở ra bảo Trần Cung: Nhà tôi không có rượu ngon. Để tôi sang xóm Tây mua một bình rượu ngon về uống.

Nói rồi lật đật cưỡi lừa ra đi.Tháo với Cung ngồi ở nhà, chợt nghe thấy sau nhà có tiếng mài dao.

Tháo bảo Trần Cung rằng:

- Lã Bá Sa đối với tôi không thân thiết gì lắm. Chuyện này đáng nghi lắm.

Hai người sẽ rón rén bước vào sau nhà tranh, chỉ nghe thấy có tiếng người nói:

- Trói lại mà giết.

Tháo bảo cùng Trần Cung:

- Phải rồi, nếu ta không hạ thủ trước thì sẽ bị bắt.

Tháo và Cung hai người cùng rút gươm đi thẳng vào, gặp người nào trong nhà giết người ấy, giết một lúc tám mạng. Tìm đến trong bếp thì chỉ thấy một con lợn trói bốn vó sắp chọc tiết.

Cung giật mình nói:

- Mạnh Đức ơi! Đa nghi giết nhầm phải người tử tế rồi.

Hai người vội vàng trở ra lên ngựa đi. Đi được độ hai dặm gặp Lã Bá Sa cưỡi lừa về, trước yên treo hai vò rượu, tay xách một nắm rau quả. Sa hỏi hai người rằng:

- Hiền điệt với sứ quân sao lại đi?

Tháo nói:

- Tôi là người có tội không dám ở lâu.

Lã Bá sa nói:

- Ta đã dặn người nhà làm thịt con lợn rồi. Sứ quân với hiền điệt ngại gì một đêm. Xin quay ngay ngựa về cho.

Tháo cứ tế ngựa đi. Đi được vài bước, rút gươm ra quay trở lại, gọi Lã Bá Sa hỏi:

- Ai đi đằng sau ông đấy?

Sa quay đầu lại xem, Tháo chém ngay, Sa ngã xuống chết.

Cung cả sợ hỏi Tháo:

- Lúc nãy nhầm đã đành. Bây giờ sao lại đang tay như thế?

Tháo nói: Bá Sa về nhà, thấy nhiều người chết, tất nhiên không để im, nếu đem người đi đuổi thì ta bị vạ ngay.

Cung nói: Biết rằng mình nhầm rồi, lại còn cố ý giết người nữa, thực là đại bất nghĩa.

Tháo nói:

- Thà rằng ta phụ người còn hơn để người phụ ta.

Tám chữ: ninh ngã phụ nhân, vô nhân phụ ngã của Tam Quốc Chí diễn nghĩa đã gây phản cảm ghét bỏ của người đời sau đối với Tháo rất mạnh.

Tào Tháo có tội hay không? La Quán Trung đã khép tội Tào chắc nịch trên tiểu thuyết. Nhưng trên chính sử ra sao?

Tôi xin kê khảo ra đây để độc giả phân xử.

Sách Tam Quốc Chí của Trần Thọ ghi:

"Tào Tháo không chịu nhận chức úy của Đổng Trác nên cải đổi tên họ trốn về miền Đông".

Sách Ngụy Thư chép:

Thái Tổ rõ biết rằng Trác thế nào cũng đổ, không lời cáo biệt trốn về quê, tùy tùng có mấy người tìm gặp cố nhân Lã Bá Sa tại Thành Cao. Bá Sa đi vắng. Con cháu Lã Bá Sa hợp với ít gia nhân đánh Thái Tổ cướp của. Thái Tổ giết mấy người. Sách Ngụy Thư Xuân Thu do Tôn Thịnh đời Tấn chép: "Thái Tổ nghe tiếng dao liếc loẹt xoẹt, nghĩ rằng họ đánh bắt mình, nhờ bóng đêm Thái Tổ vào giết hết. Sau biết mình nhầm rồi, nói: Ninh ngã phụ nhân vô nhân phụ ngã. Rồi đi"

Cũng sách trên, Tôn Thị (Thịnh?) chép:

Tư Mã Ý giả bắt Trịnh Tiểu Đồng uống thuốc độc, nói: "Ninh ngã phụ khanh, vô khanh phụ ngã".

Như vậy tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa đã lấy tám chữ: "Thà ta phụ người, hơn người phụ ta" ở sách Ngụy Thư Xuân Thu của Tôn Thị. Nhưng ai mới là người thật nói câu đó? Tư Mã Ý hay Tào Tháo. Nếu Tư Mã Ý nói thì câu chuyện Lã Bá Sa sự thực thế nào?

Đến vụ Lưu Phúc, Tam Quốc Chí diễn nghĩa hồi thứ mười tám kể:

Bấy giờ Tháo đã quá say, cầm một ngọn giáo, đứng trên mũi thuyền, đổ một chén rượu xuống sông rồi lại uống luôn ba chén đầy nữa, cắp ngang ngọn giáo nói với các tướng:

- Từ khi ta cầm ngọn giáo này, phá Khăn Vàng, bắt Lã Bố, diệt Viên Thuật thu Viên Thiệu, thọc sâu vào Hà Bắc, duỗi thẳng đến Liêu Đông, tung hoành bốn bể, thật không phụ ý chí của kẻ đại trượng phu. Nay đứng trước cảnh này lòng ta xiết bao sảng khoái. Ta làm một bài hát, các ông đều họa chơi cho vui. Bài hát rằng:

Cuộc vui có được là mấy chốc.

Nào khác chi hạt móc sáng ngày.

Nguồn sầu lai láng vơi đầy.

Giải phiền họa có rượu này làm vui.

Chàng áo xanh ngậm ngùi lòng tỏ.

Hươu ngoài đồng hớn hở gọi nhau.

Khách ta, ta đã gặp nhau.

Gảy đàn, thổi sáo ngõ hầu thêm vui

Trăng sáng tỏ, bùi ngùi trong dạ.

Nỗi lo này biết ngỏ cùng ai.

Chuyện trò kể lể xa xôi.

Nhớ người nghĩa cũ cười vui đề huề.

Quạ đem trăng bay về nam hậu.

Quanh ba vòng biết đậu cành nao.

Nước càng sâu núi càng cao.

Châu công trọng khách xôn xao kéo về.

Tháo hát, đoạn mọi người họa theo, cười đùa vui vẻ. Bỗng một bóng người bước ra nói:

- Giữa lúc hai bên đối địch, tướng sĩ so sức, làm sao thừa tướng nói gở ra câu ấy?

Tháo nhìn xem thì là Lưu Phúc, thứ sử Dương Châu. Phúc trước làm quan ở Hợp Phì, xây đắp nhiều thành quách, tập hợp những dân phiêu tán, mở trường học, khai khẩn ruộng đất, dạy dỗ nhân dân, theo Tào Tháo đã lâu, lập được nhiều công trạng.

Khi ấy Tháo cắp ngang ngọn mâu, hỏi lại rằng:

- Ta nói gở điều gì?

Phúc thưa: Những câu trăng sáng... quạ bay quanh ba vòng... Không biết đậu vào đâu... là những câu gở.

Tháo nổi giận nói:

- Mày sao dám bẻ tao.

Nói rồi phóng ngay ngọn giáo đâm chết Lưu Phúc.

Lời bàn của Mao Tôn Cương về hồi này không hề nhắc nhở tới cái chết của Lưu Phúc, Mao Tôn Cương chỉ nhìn hẳn về tâm sự riêng tư của Tháo mà thôi. Tháo vui, Tháo yến ẩm nô đùa nhưng chính là lúc Tháo đang lo ghê gớm vậy. Hành động ấy cũng giống như cảnh Ngô Vương Phù Sai đi hái hoa sen và Hạng Vũ uống rượu với Ngu Cơ. Như vậy Tháo giết Lưu Phúc không chỉ vì riêng cái cớ Phúc làm mất hứng vui của mình. Vả lại, Phúc là người giỏi giang như Tam Quốc đã kể ở trên thì không khi nào Phúc lại có hành động cẩu thả tương tự. Trong giờ phút quyết liệt, hàng trăm ngàn con người sắp sửa lao đầu vào lửa chinh chiến, cái chết của Lưu Phúc chắc phải có một lý do chính trị nào khác mà lịch sử không cho ta rõ đó thôi.

Kết luận

Kể trong các lãnh tụ chính trị trong Tam Quốc, Tào Tháo là người nhận rõ bản chất thời đại hơn ai hết. Ông hiểu nếu ly khai chiến tranh thì mọi vấn đề không giải quyết. Ông phân biệt nổi chủ thế của chiến tranh là gì? Kẻ địch nội ngoại, trước sau khiến cho chiến tranh mang những nội dung khác hẳn nhau. Do đó mặc dầu ông luôn luôn phát động chiến tranh, nhưng chiến tranh chiến lược của ông cũng đều được lồng vào trong một nhu yếu chính trị từng lúc.

Đời sau lên tiếng công kích, coi chiến tranh của Tháo là chiến tranh vô chính nghĩa vì cho rằng: đa số những cuộc binh đao lúc bấy giờ không phải là chiến tranh đối ngoại, không phải là vấn đề ngoại tộc giết nòi Hán mà là vấn đề dân tộc Hán giết lẫn nhau. Tào Tháo phải gánh chịu tất cả những tội ác binh lửa can qua. Đổ tội như thế, có nghĩa là đã đứng trên một quan điểm chính trị thuần túy nệ vào luân lý, và nếu cứ dùng quan điểm này làm ánh sáng soi xét lịch sử thì không một nhân vật lịch sử nào tránh khỏi tội.

Nhà thơ Cao Bá Quát có câu:

Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn

Mục Dã, Minh Điền hữu Vũ Thang.

Mục Dã, Minh Điền là hai nơi vua Vũ, vua Thang giết giặc dựng nghiệp. Mục Dã, Minh Điền hay 72 trận Lưu Bang đánh nhau với Hạng Võ có thuộc vấn đề ngoại tộc xâm lược đâu. Chính nghĩa hay không chính nghĩa là ở sự trị hay loạn.

Loạn là lúc hắc ám, thoái hóa.

Trị là thời quang minh, tiến bộ.

Chiến tranh để tàn sát, để áp chế, để gây loạn, để đưa xã hội vào vòng tối ám, là chiến tranh không chính nghĩa. Chiến tranh để mở đường khai lối, chiến tranh để đem lại yên bình tiến bộ là chiến tranh chính nghĩa. Thời đại Tam Quốc, hình thức cuộc đấu tranh giữa loạn với trị chủ yếu là chiến tranh. Lúc đó kẻ nào không nắm vững quy luật chiến tranh, không hiểu nghệ thuật chiến tranh tất bị đào thải.

Hãy dẫn ra một bằng chứng của chủ thể chiến tranh lúc đó, lịch sử gọi là loạn "bộ khúc".

Cuối Đông Hán sang Tam Quốc, toàn quốc băng hoại, loạn ly. Trung ương chính phủ mất quyền, địa phương chính phủ tan rã. Thổ phỉ, lưu khấu, giặc cướp nổi như ong. Nông dân không có cách gì sinh sống, liền phân tỏa gia nhập vào các đại môn đệ hay hào tộc, biến thành tự vệ đội võ trang bảo vệ cày cấy cho các hào tộc, gọi là quân bộ khúc. Tỉ dụ: Trương Tú là hào tộc, Điển Vi tướng cầm đầu quân đội bộ khúc. Trung Quốc có hàng mấy ngàn quân đội bộ khúc, xâu xé cướp bóc lẫn nhau. Vậy thử hỏi nếu muốn thống nhất xứ sở, bình định xã hội mà không có một tổ chức chiến tranh hoàn bị và mạnh nhất thì liệu có giải quyết nổi vấn đề chăng?

Đời sau chê Tào Tháo là con người mưu mẹo, quỷ quyệt, nhưng lại tôn sùng ghi nhớ câu nói của vạn thế sư biểu Khổng Tử:

"Hiếu mưu nhi Thành"

Mưu là hành động của kẻ trí. Nếu làm chính trị mà bị chê vì mưu mẹo, quỷ quyệt thì kẻ đần độn được ca tụng sao?

Hoàng Thạch Công viết: "Phi kế sách vô dĩ quyết hiềm định nghi, phi quyệt kỳ vô phá gian tức khấu, phi dụng mưu vô dĩ thành công" (không kế sách lấy gì mà giải bế tắc, không quỷ quyệt lấy gì mà trấn áp gian khấu, không dùng mưu lấy gì mà thành công?)

Chê quỷ quyệt, chê mưu mẹo bất quá chỉ là một thái độ của kẻ yếu ớt trước người giỏi hơn mình.

Bí quyết thành công của Tào Tháo, bàn đến vấn đề này, ta hãy đem so sự thành công của Tào Tháo với sự thành công của Lưu Bang, tuy sự nghiệp lớn nhỏ không giống nhau nhưng đây là do thời thế chứ không phải do tài năng và hành động.

Lưu Bang lên ngôi Hoàng Đế, trong bữa đại yến rượu đã ngà ngà, bèn quay ra hỏi quần thần: "Các vị vương hầu, các vị tướng tá, hôm nay tôi muốn các ông phải nói cho thực: tại sao tôi thành công, tại sao Hạng Vũ thất bại?"

Có người đồng hương tên là Vương Lăng đứng dậy thưa:

"Bệ hạ thành công nhờ ở lượng lớn biết chia đều. Khi thắng khu vực nào bệ hạ biết giao phó cấp thưởng cho ai. Lợi lộc bệ hạ công khai ban phát cho thiên hạ. Còn Hạng Vũ là người bội bạc bủn xỉn, thắng không biết ghi công chiến không biết chia lợi".

Lưu Bang cười ngất, rồi nói: Đấy mới chỉ là một mặt thôi. Tôi xin thú thực, tài tôi nếu ngồi để thảo kế hoạch, bầy chiến lược tôi không bằng Trương Lương, nếu sai tôi làm thế nào cho binh lương sung túc, bảo vệ giao thông, phân phối công tác, tôi không bằng Tiêu Hà, chỉ huy trăm vạn quân, chiến vô bất thắng, tôi không bằng Hàn Tín. Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín là ba vị đại hào kiệt tôi biết dùng và dùng nổi; Hạng Võ chỉ có một Phạm Tăng cũng không dùng được. Đấy là nguyên nhân thành công của tôi vậy.

Căn cứ vào câu chuyện trên đây thì cái đức chính trị của Lưu Bang khả dĩ thu gọn vào mấy chữ:

"Hữu hiệu dụng nhân, công bình phân tặng".

(Giỏi dùng người, biết chia đều).

Mọi mặt chuyên tài Lưu Bang đều thua sút Trương Lương, Hàn Tín, Tiêu Hà nhưng Lưu Bang lại nắm quyền lãnh đạo là vì Lưu Bang biết dựa hành động của chính ông vào đại thế của thời đại rồi dùng đại thế mà kết chặt ba người kia.

Phép chia lời của Lưu Bang cũng vậy, những người theo ông nhất nhất đều được bù công lao xứng đáng. Nhưng lối chia lợi, ông biết đặt trên nền tảng thời thượng, nghĩa là làm cho bàn dân thiên hạ vui mừng chứ không phải chia lợi kiểu giặc cướp chia phần.

Tào Tháo không kém gì Hán Cao Tổ về hai điểm này.

Tóm lại, sống vào thời cực nhiễu nhương như Tam Quốc, nhà chính trị phải có sức của một con sư tử đồng thời lại phải khôn ngoan như một con cáo. Con sư tử làm người ta sợ hãi không chống đỡ nổi, con cáo làm cho người ta không biết lối nào mà lường. Sư tử hay cáo đều bị đám quần chúng ngơm ngớp và các lý thuyết gia chính trị nói dóc (théoriciens bavards) bài bác.

Tào Tháo là biểu tượng hoàn bị của hai thứ đó, đương nhiên bị ghét bỏ. Tuy nhiên, nếu ta đi sâu vào tâm sự của Tào Tháo, ta cũng tìm thấy ở ông ước nguyện một xã hội vui sướng từ thiện. Tâm sự đó, Tào Tháo đã giãi bày vào bài ca "đối tửu" tạm dịch xuôi là:

Nâng chén rượu, chúc đời thái bình, quân sự không có gì vội vã, đấng quân vương vừa hiền vừa giỏi. Tể tướng, triều thần đều trung lương, biết điều lễ. Dân không tranh giành, ba năm cấy, thóc đủ chín năm. Kho chứa đầy ắp. Người già không phải gánh đội. Súc vật nhiều, phân bón dư. Công hầu bá tử nam, biết yêu dân. Kẻ phạm tội, tùy theo nặng nhẹ mà xét xử. Ngoài đường của rơi không ai nhặt. Cửa ngõ mở ngỏ. Mùa đông, già nua không rét cóng. Ân trạch chan hòa đến cây cỏ và côn trùng.

Với tâm sự ấy chắc chắn Tào Thào không phải là con người lấy giết chóc làm vui thú. Nhưng Tào Tháo lại mang nặng trên vai nhiệm vụ to tát. Dẹp loạn tất phải giết những kẻ làm loạn. Tiến bộ tất phải tiêu trừ những kẻ thoái hóa, phản động.

Bài đối tửu ca, tỏ rõ lòng tự tin tuyệt đối vào việc làm của mình.

Sau hết đối với Tào Tháo ta chỉ có thể nói câu này: "Tất cả mọi điều khen chê đều không xứng đáng với ông" như người Ý đã ghi trên mộ Machiavel.

Vũ Tài Lục

Nói Chuyện Tam Quốc

- 10 -

LUẬN VỀ GIA CÁT LƯỢNG

Khảng khái tiên sinh bão tất thi

Mãn hoài u tư hữu thùy tri.

Vu kim nhất phiền sương đài thạch

Thắng tự Tương Dương trụy lệ bi.

Vương Việt

       Tào Tháo, Khổng Minh, Chu Du cùng xuất thân thư sinh, cùng vì đại loạn mà nhẩy lên vũ đài chính trị. Cả ba cùng ở địa vị cao nhất, nhưng riêng Khổng Minh vượt hẳn hai người kia về phong độ nho nhã thư sinh.

Cái thái độ nho nhã thư sinh ấy qua ngòi bút La Quán Trung càng trở nên tuyệt diệu, khiến người đọc Tam Quốc chí diễn nghĩa đoạn Huyền Đức tam cố thảo lư tưởng như cũng tắm gội khí chất thư sinh đó.

“Hôm sau, Huyền Đức cùng Quan Trương và bọn tùy tùng đến Long Trung, nhìn về phía xa xa đã thấy mấy người đương cầy bừa ở sườn núi miệng hát rằng:

Giời xanh như tán lọng tròn.

Đất kia trằn trặn như bàn cờ vuông

Người đi đen trắng đôi phường.

Kẻ đi người lại tranh đường nhục vinh

Kẻ vinh chỉ biết mình sung sướng

Người nhục kia vất vưởng vất vơ

Nam Dương có bậc ẩn cư

Nằm co ngủ kỹ thờ ơ việc đời.

Huyền Đức nghe hát, kìm ngựa gọi mấy người nông phu lại hỏi: Ai làm ra bài ca ấy?

Nông phu đáp: Bài ấy của Ngọa Long tiên sinh làm ra.

Huyền Đức hỏi: nhà Ngọa Long tiên sinh ở đâu?

Nông phu đáp: ở mé Nam này, có một gò cao, gọi là gò Ngọa Long. Trước gò, trong quãng rừng thưa, có một cái lều tranh, đấy là nhà Gia Cát tiên sinh.

Huyền Đức cảm ơn, giắt ngựa đi lên. Đi chưa được vài dặm, xa xa đã thấy gò Ngọa Long, quả nhiên phong cảnh khác thường.

Cách hai mươi dặm Tương dương thành.

Một dẫy gò cao, suối lượn quanh.

Nước chẩy ầm ầm phơi đá trắng.

Gò cao chót vót ngất mây xanh.

Hình như rồng cuốn trên tảng đá.

Phượng hoàng đậu dưới bóng thong thả.

Cửa phên khép kín nhà tranh.

Cao sĩ nằm khàn bền vững dạ.

Bình phong dẫy trúc um tùm lá.

Bốn mùa hoa rụng nức mùi hương.

Đầu giường chồng chất nhiều sách lạ.

Trong nhà lui tới không người thường.

Vượn kia dâng quả gõ cửa ngoài.

Hạc kia đêm thanh nghe đọc sách.

Túi đàn thêu gấm gác đầu bàn.

Thanh kiếm vẩy rồng treo trước vách

Tiên sinh trong lều rất thanh nhàn.

Khi nhàn cấy cầy cũng không can

Chỉ đợi sấm xuân tỉnh giấc mộng.

Gọi to một tiếng thiên hạ an.

Huyền Đức đến đầu nhà xuống ngựa, lại gõ cửa. Có tiểu đồng ra hỏi. Huyền Đức nói:

Tôi là Hoàng thúc Lưu Bị, Hán Tả tướng quân, Nghi Thành đình hầu, châu mục Dự Châu lại đây bái kiến tiên sinh.

Tiểu đồng nói: Tên ông dài lắm không nhớ được.

Huyền Đức nói: Em cứ vào nói có Lưu Bị lại hầu.

Tiểu đồng nói: Tiên sinh sớm hôm nay vừa đi chơi vắng.

Huyền Đức hỏi: đi chơi đâu?

Tiểu đồng đáp: tiên sinh tôi nay đây mai đó, không biết đi đâu.

Huyền Đức hỏi: bao giờ tiên sinh về?

Tiểu đồng nói: khi đi dăm ba bữa, khi thì mười hai hôm, không biết chừng.

Huyền Đức lấy làm buồn rầu, Trương Phi nói: hắn không có nhà thì về quách cho xong.

Huyền Đức nói: hãy đợi một lát nữa.

Vân Trường lại nói: Không bằng hãy về rồi sai người lại nghe tin tức.

Huyền Đức nghe theo và dặn lại chú tiểu đồng: bao giờ tiên sinh về, trình hộ rằng có Lưu Bị lại hầu nhé. Nói rồi lên ngựa đi được vài dặm, ngoảnh lại xem phong cảnh Long Trung quả nhiên núi không cao nhưng thanh nhã, nước không sâu mà trong suốt, đất chẳng lấy gì làm to tát mà rậm rạp. Vượn hạc quấn quít, thông trúc um tùm, ngắm mãi không chán.

Ba người về đến Tân Dã. Được vài ngày Huyền Đức sai người đi thăm dò xem Khổng Minh đã về nhà chưa. Một hôm, người thăm dò về báo Ngọa Long tiên sinh đã về. Huyền Đức sai người thắng ngựa. Trương Phi nói: Khổng Minh chỉ là một tên thôn phu quèn, hà tất kha kha phải thân đến. Cứ sai người đi gọi cũng được.

Huyền Đức mắng rằng: Em há không nhớ lời Mạnh Tử nói: “Muốn cầu người hiền mà không biết đạo, khác gì muốn cho người ta vào nhà mình mà lại đóng cửa lại”. Khổng Minh là bậc đại hiền thời nay, cho đi gọi sao được?

Bèn lên ngựa đến Long Trung. Quan Trương cũng theo đi.

Bấy giờ đang thời tiết mùa Đông, khí trời rét buốt, mây xám nghịt trời. Ba người chưa đi được vài dặm, bỗng nhiên trời nổi gió bấc, tuyết bay phơi phới, núi tựa ngọc gieo, rừng như bạc rắc.

Trương Phi nói: trời rét, đất đóng băng, đánh nhau còn chẳng được lại phải lận đận đi cầu người vô ích làm chi. Không bằng trở về Tân Dã, tội gì mà dầm mưa dãi tuyết thế này.

Huyền Đức nói: chính ta muốn làm cho Khổng Minh biết đến lòng nhiệt thành của ta. Các em sợ rét thì hãy về trước.

Phi nói: chết cũng chẳng ngại, ngại chi rét. Chỉ sợ kha kha uổng công vất vả thôi.

Huyền Đức nói: “em chớ nói nhiều lời. Hãy theo ta đi”. Gần đến nhà tranh, chợt nghe thấy tiếng ca trong một quán rượu bên cạnh đường, Huyền Đức dừng ngựa lại nghe, lời ca rằng:

Công danh tráng sĩ muộn thay

Than ôi lâu chẳng gặp ngày dương xuân

Người chẳng thấy lão nhân Đông hải

Lìa bụi gai theo với vua Văn

Chư hầu bát bách lai thần

Gặp điềm cá trắng Mạnh Tân sang đò

Mục nguyên một trận đánh to

Công danh lừng lẫy ai so được tầy

Cao Dương lại có thầy hay rượu

Vái Cao Hoàng theo điệu làm tôi

Bàn mưu vương bá kỳ tài

Lọt tai cũng phải mời ai lên ngồi.

Thành Tề hạ bẩy mươi hai

Thế gian há dễ mấy ai nối mình

Hai người không gặp phận hanh

Đến nay ai biết là danh phận gì

Một người hát xong, người khác lại hát tiếp luôn:

Vua ta vung lưỡi gươm dẹp loạn

Gây cơ đồ Hán bốn trăm năm

Đời Hoàn Linh vận lửa tắt ngầm

Gian thần tặc tử tay cầm quyền to

Chốn ngự tòa, rắn bò điềm gở

Nơi ngọc đường, rồng đổ yêu ma

Bốn phương trộm giặc đổ ra

Gian hùng lũ lượt theo đà múa may

Chúng ta chỉ vỗ tay nói tếu

Buồn ra hàng chén rượu cho vui

Một mình sung sướng thảnh thơi

Chẳng cần tiếng để muôn đời làm chi.

Hai người hát xong, vỗ tay cười ầm cả lên. Huyền Đức nói: Có lẽ Ngọa Long ở trong này. Liền xuống ngựa bước vào, hai người đương tựa bàn, đối nhau uống rượu, một người mặt trắng râu dài, một người mặt mũi khôi ngô. Huyền Đức vái rồi hỏi:

- Thưa hai ông, ông nào là Ngọa Long tiên sinh?

Người râu dài lại hỏi:

- Ông là ai, tìm Ngọa Long tiên sinh để làm gì?

Huyền Đức đáp: thưa tôi là Lưu Bị, muốn tìm tiên sinh để cầu mưu giúp đời, yên dân.

Người râu dài nói: Chúng tôi không phải là Ngọa Long mà là bạn của Ngọa Long đấy thôi. Tôi là Thạch quảng Nguyên ở Dĩnh Châu, ông này là Mạnh công Thành ở Nhữ Nam.

Huyền Đức nói: tôi được biết đại danh của hai tiên sinh đã lâu, nay được bái yết, thực là may quá. Nhân tôi có mang theo cả ngựa, xin mời hai tiên sinh đến nhà Ngọa Long với tôi.

Quảng Nguyên nói: chúng tôi là bọn quê mùa, chẳng biết đâu những việc trị nước yên dân, xin đừng bận lòng hỏi chúng tôi những việc nơi ấy. Mời ông cứ lên ngựa đi tìm Ngọa Long.

Huyền Đức từ giã hai người rồi lên ngựa đi thẳng đến Ngọa Long cương. Tới trước nhà, gõ cửa hỏi tiểu đồng:

- Hôm nay tiên sinh có nhà không?

Tiểu đồng đáp: Đang ngồi trên nhà xem sách.

Huyền Đức mừng lắm, theo ngay tiểu đồng đi vào. Đến giữa cửa, nhìn thấy đôi câu đối:

Đạm bạc dĩ minh chí

Ninh tĩnh dĩ chí viễn.

Huyền Đức đương xem câu đối, lại nghe có tiếng ngâm thơ, vội vàng đứng nép bên cạnh nhòm vào, thấy trên nhà tranh, có một thanh niên ôm gối ngồi cạnh hỏa lò hát rằng:

Phượng bay cao, phi ngô đồng không đỗ

Sĩ ẩn mình, phi minh chủ không thờ

Nông thôn vui thú cầy bừa

Thảnh thơi đàn sách, đợi cơ chuyển vần.

Huyền Đức đợi hát xong mới bước lên thềm vái chào nói:

- Bị lâu nay hâm mộ tiên sinh, chưa dịp nào bái kiến. Mới đây được Từ Nguyên Trực tiến cử, vội đến tiên trang, rủi phải về không, nay xông pha mưa gió đến đây, được chiêm ngưỡng tôn nhan, thật may mắn quá.

Người thanh niên vội vàng đáp lễ:

- Tướng quân có phải là Lưu Dự châu đến tìm anh tôi không?

Huyền Đức ngẩn người hỏi rằng:

- Thế tiên sinh cũng không phải là Ngọa Long sao?

Người thanh niên đáp: Tôi là Gia Cát Quân, em Ngọa Long, chúng tôi ba anh em: anh cả Gia Cát Cẩn hiện đang làm mạc tân bên Tôn Trọng Mưu ở Giang đông, Khổng Minh là anh thứ hai tôi.

Huyền Đức hỏi: Ngọa Long hôm nay có nhà không?

Quân đáp: Hôm qua vừa có Thôi Châu Bình đến rủ đi chơi rồi.

Huyền Đức hỏi đi chơi đâu. Quân nói:

- Khi thì bơi chiếc thuyền nhỏ chu du trên sông, khi thì thăm hỏi các nhà sư trên núi, khi thì tìm anh em bạn chốn hương thôn, khi thì vui gẩy đàn đánh cờ, trong hang núi. Anh tôi đi, ở bất thường không biết đâu mà tìm.

Huyền Đức nói: tôi thực là duyên mỏng, phận hèn, hai phen đi đều không gặp đại hiền.

Quân nói: Mời ngài hãy thư thả ngồi chơi xơi nước.

Trương Phi nói: tiên sinh ấy đã đi vắng, xin kha kha đi ngựa về thôi.

Huyền Đức nói: cất công đến đây, chẳng lẽ không bầy tỏ một đôi lời.

Lại hỏi Gia Cát Quân: tôi nghe nói lệnh huynh Ngọa Long tiên sinh tinh thông thao lược, mài miệt binh thư có phải không?

Quân nói: tôi không được biết.

Trương Phi nói: hỏi người ta làm gì? Mưa gió to lớn, kha kha đi về cho sớm.

Huyền Đức mắng át Phi đi. Quân nói: Anh tôi đi vắng, không dám lưu ngựa xe ở lại lâu, xin để khi khác đáp lễ.

Huyền Đức nói: tôi đâu dám mong tiên sinh hạ cố. Vài hôm nữa, Bị sẽ đến hầu. Hôm nay nhân đây xin tiên sinh cho mượn bút giấy tôi viết bức thư để lại, nhờ chuyển đến lệnh huynh, để tỏ ý ân cần của tôi. Quân đưa bút mực ra. Huyền Đức viết thư như sau:

Bị tôi lâu nay hâm mộ cao danh, đã hai lần yết kiến đều không gặp phải trở về, ân hận vô cùng.

Tôi trộm nghĩ mình là dòng dõi nhà Hán, lạm hưởng danh tước, mà nay trông thấy triều đình suy sụp, kỷ cương rối ren, gian hùng loạn nước, ác đảng dối vua thật là đau lòng xót ruột. Tuy có lòng cứu nước giúp dân, nhưng kém kinh luân, cho nên mong ngóng tiên sinh mở lòng nhân từ trung nghĩa đứng ra trổ hết tài lớn của Lã Vọng, thi thố kế lạ của Tử Phòng, thì thiên hạ may lắm, xã tắc may lắm.

Nay trước có mấy lời bày tỏ với tiên sinh. Bị xin về tắm gội ăn chay, đến bái tôn nhan một lần nữa, để giải lòng quê kệch xin tiên sinh soi xét cho.

Huyền Đức viết xong thư, đưa gửi Gia Cát Quân, rồi từ biệt ra về. Quân tiễn ra tận cửa. Huyền Đức còn ân cần dặn lại đôi ba lần.

Huyền Đức vừa lên ngựa sắp đi, thì thấy tiểu đồng đứng bên ngoài bờ rào vẫy tay nói.

Lão tiên sinh đã đến.

Lưu Bị nhìn ra thấy bên phía tây, chiếc cầu nhỏ, có một người đội mũ ấm trùm đầu, mặc áo hồ cừu cưỡi con lừa, theo sau một tiểu đồng mặc áo xanh đi hầu, tay xách một bầu rượu, đương rẽ tuyết đi lại, qua cái cầu nhỏ đang ngâm một bài thơ:

Một đêm gió lạnh lùng

Muôn dặm mây đỏ ối

Bời bời hoa tuyết bay

Nước non hình sắc đổi

Ngoảnh mặt trông lên trời

Tưởng là rồng ngọc chọi

Vây mai tua tủa bay

Một lát khắp bốn cõi

Cưỡi lừa qua cầu con

Than vì mai gầy cỗi.

Huyền Đức nghe ngâm xong nói rằng:

- Đây hẳn là Ngọa Long rồi.

Rồi nhẩy xuống ngựa bước tới chào nói:

- Tiên sinh xông pha rét mướt, mệt nhọc lắm nhỉ. Bị này đợi mãi tiên sinh.

Người ấy vội tụt xuống lừa, đáp lễ. Gia Cát Quân ở đằng sau nói: Đây là Hoàng Thừa Ngạn, ông nhạc anh tôi đó, không phải Ngọa Long đâu.

Huyền Đức (Thừa Ngạn?) nói: Nhân lão phu xem bài Lương Phủ ngâm ở nhà con rể có nhớ được một đoạn. Nay qua cầu nhỏ, chợt thấy hoa mai bên rào, nên sực nhớ lại đọc chơi, không ngờ quý khách nghe thấy.

Huyền Đức nói: Ngài đã gặp lệnh tế chưa?

Thừa Ngạn nói: Lão cũng đương đến tìm Ngọa Long đây.

Huyền Đức nghe xong từ biệt Hoàng Thừa Ngạn, rồi cưỡi ngựa về đang cơn mưa tuyết dữ dội. Huyền Đức vừa đi vừa ngoảnh lại ngắm gò Ngọa Long, buồn rầu không biết ngần nào.

Từ khi Huyền Đức về Tân Dã, ngày tháng thấm thoát đã sang xuân mới liền kén chọn ngày tốt, ăn chay ở sạch trong ba ngày tắm gội hun hương, thay quần đổi áo, rồi sang gò Ngọa Long yết kiến Khổng Minh. Quan Trương được tin cũng phát chán, kéo nhau vào can.

Quan Công nói: huynh trưởng đã hai lần thân đến nhà bái yết, lễ nghi như vậy là quá hậu rồi; có lẽ Gia Cát Lượng cũng chỉ có hư danh, không có thực tài nên mới tránh mặt không cho gặp đấy thôi. Sao huynh trưởng quá sùng bái người ấy làm vậy.

Huyền Đức nói: Không phải thế đâu. Ngày xưa Tề Hoàn Công muốn đi cầu một người quê mùa ở Đông Quách, năm lần đến mới gặp được, huống chi ta muốn cầu một đại hiền.

Trương Phi nói: kha kha nhầm đó, gã nhà quê đó sao gọi là đại hiền được. Chuyến này không cần kha kha đi nữa. Nếu hắn không đến, em sẽ lấy thừng trói điệu về đây là ổn chuyện.

Huyền Đức mắng: chú không nhớ việc vua Văn Vương ngày xưa đi cầu Khương Tử Nha, Văn Vương còn kính người hiền như thế nào à? Chú sao vô lễ quá vậy. Lần này chú đừng đi nữa, để ta đi cùng với Vân Trường thôi.

Phi nói: hai anh cùng đi cả, tiểu đệ ở nhà làm gì?

Huyền Đức nói: nếu muốn đi thì không được thất lễ.

Phi vâng theo. Nói rồi ba người cưỡi ngựa cùng bọn tùy tùng đến Long Trung. Còn cách lều tranh độ nửa dặm, Huyền Đức xuống ngựa đi bộ gặp Gia Cát Quân, Huyền Đức vội thi lễ hỏi:  Lệnh huynh hôm nay có nhà không?

Quân nói: anh tôi mới về chiều qua, tướng quân đên hôm nay thì gặp. Nói rồi ung dung đi ra.

Huyền Đức nói: phen này may được gặp tiên sinh đây.

Trương Phi nói: người này mới vô lễ chứ. Dẫn luôn bọn ta vào nhà thì mất gì, sao cứ cắm đầu đi thẳng.

Huyền Đức nói: ai có việc người nấy, bắt buộc người ta sao được. Ba người lại đi, đến trước nhà gõ cửa, tiểu đồng ra mở cửa nói:

Tiên sinh hôm nay có nhà nhưng đang ngủ.

Huyền Đức nói: đã vậy xin đừng thông báo vội.

Rồi dặn Quan Trương hãy đứng chờ ngoài ngõ. Huyền Đức rón rén đi vào. Thấy Khổng Minh đương nằm nghỉ trên ghế, Huyền Đức chắp tay đứng chực dưới thềm. Được một lúc lâu, Khổng Minh vẫn chưa dậy. Quan Trương đứng đợi ngoài ngõ mãi, chẳng thấy động tĩnh gì mới lén vào xem, thấy Huyền Đức vẫn chắp tay đứng hầu.

Trương Phi giận lắm bảo Vân Trường rằng:

Lão tiên sinh này sao kiêu kỳ lắm thế. Thấy anh ta đứng thế kia, nó càng giả vờ ngủ khì không dậy. Để em ra sau nhà cho một mồi lửa xem nó có phải dậy không?

Vân Trường can mãi Trương Phi mới thôi. Huyền Đức bắt hai người ra đứng đợi, rồi trông vào nhà thấy Khổng Minh trở mình, nhưng rồi lại quay mặt vào vách tường ngủ yên.

Tiểu đồng toan lại đánh thức, Huyền Đức bảo chớ nên đánh thức vội. Rồi lại đứng đợi một lúc nữa, Khổng Minh mới tỉnh ngâm bài thơ rằng:

Mơ màng ai tỉnh trước

Bình sinh ta biết ta

Thềm tranh giấc xuân đẫy

Ngoài song bóng ác tà.

Ngâm xong Khổng Minh mới quay ra hỏi tiểu đồng rằng: Có tục khách nào đến đấy không?

Tiểu đồng thưa: có Lưu hoàng Thúc đứng đợi đây đã lâu lắm.

Khổng Minh liền vùng dậy nói: sao không báo tin ngay, để ta dậy thay áo đã. Rồi đi vào nhà trong, một lúc mới mặc áo đội khăn chỉnh tề ra tiếp. Huyền Đức lạy thụp xuống đất nói rằng: tôi là kẻ ngu hèn, dòng dõi nhà Hán, lâu nay nghe tiếng lớn tiên sinh, như sấm bên tai, đã hai lần đến hầu, đều chưa được gặp. Tôi có viết bức thư nhờ đệ tới, không biết đã được tiên sinh xem đến chưa?

Khổng Minh nói: tôi là một người quê mùa ở Nam Dương, tính quen lười biếng. Mấy lần đội ơn tướng quân có lòng hạ cố, tự thấy hổ thẹn vô cùng.

Tuổi tiên sinh mới hai mươi bẩy.

Xếp cầm thư ra khỏi điền viên.

Gia Cát Lượng nhẩy lên vũ đài chính trị lúc còn là một thanh niên chưa đầy ba mươi tuổi, trong khi Lưu Bị đã 49 tuổi. Quá nửa đời lăn lộn xông pha, nay Lưu Bị chịu nghe theo một thư sinh mặt trắng thì quả cái đức khiểm hư của Lưu Bị đáng cho đời sau noi gương vậy.

Mặc dầu các sách lược và cửu châu xuân thu chép rằng: Lưu Bị đồn quân tại Phàn Thành, Gia Cát Lượng lên đó yết kiến. Lưu Bị thấy Lượng vốn người không quen biết bao giờ, lại trông dạng tướng còn non nớt, nên chỉ lấy lễ đối đãi với học trò mà đáp.

Chép như vậy ít phần đúng, bởi vì nếu ta đọc lại lời biểu của Khổng Minh với những câu: Tiên đế không ngại thần quê mùa, đã ba lần đến thăm thần ở mái nhà tranh; có thể chứng tỏ một cách chắc chắn Khổng Minh không tới tìm Lưu Bị trước.

Tìm đến người hay đợi người tìm đến mình có phải là một vấn đề mà phần tử trí thức đặt ra do thói xấu câu nệ chăng?

Đành rằng: Danh sĩ đương thời có cái tệ câu nệ. Nhưng đối với con người tiến bộ như Khổng Minh thì tuyệt đối không, chẳng qua đây là một tác dụng chính trị. Nhà Nho tiến bộ, vấn đề ẩn dật và xuất chính được quan niệm hết sức linh động. Hơn nữa phần tử trí thức thời Tam quốc đã có cùng chung một lý tưởng là xuất chính nắm quyền lãnh đạo vận mệnh chính trị, đánh đổ hệ thống tồi tàn lạc hậu cũ. Tất cả nguyện vọng đứng lên lãnh đạo cuộc đấu tranh đã được bầy tỏ một cách tuyệt khéo trong những lời ca Lương Phủ, Ngoạ Long ngâm v.v… văn chương tuy đầy vẻ ẩn dật, nhưng tư tưởng thì sôi réo lên ý định giúp đời cứu dân. Tưởng cũng nhắc độc giả, trước khi Lưu Bị gặp Gia Cát Lượng, Lưu Bị đã biết Tư Mã Đức Tháo, Thôi Châu Bình, Thạch Thao, Từ Thứ…. Vậy Khổng Minh không phải chỉ trơ trọi một mình mà đằng sau ông có cả một tập đoàn thanh niên trí thức khá đông đảo, lập thành một lưới tình báo đưa dần Lưu Bị từ chỗ nhu cầu người bầy mưu kế đến chỗ sợ sệt, thán phục, kính nể vị lãnh tụ của họ là Khổng Minh. Cái lối nâng cao thân giá của Khổng Minh là phương pháp lấy lùi làm tiến, lấy ẩn để tới, trước hết làm người ta biết mình, rồi làm cho người ta thành khẩn cầu mình sau mới mang hết tài năng ra đền đáp.

Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, trú quán huyện Lang Gia (nay thuộc tỉnh Sơn đông), sinh năm Quang Hòa thứ tư đời vua Linh Đế (181 Tây lịch), vốn dòng dõi nhà quan tư lệ hiệu úy Gia Cát Phong, cha tên là Khuê mất sớm. Lượng mới theo chú là Huyền. Huyền trước làm thái thú Dự Chương do Viên Thuật đề bạt. Sau Huyền bỏ Viên Thuật sang nương nhờ Lưu Biểu. Loạn bắt đầu, khu vực Lưu Biểu nhờ sự phát triển nông nghiệp nên dân cư vẫn yên ổn. Huyền ở với Biểu chăm lo nghề nông tang tại đất Tương Dương. Anh em Gia Cát Lượng là người thừa hưởng sản nghiệp đó.

Hai chữ “cung canh” trong tờ biểu, độc giả Tam quốc thương hình dung gia thế Gia Cát Lượng nghèo nàn. Sự thực nhờ quan hệ chính trị của Gia Cát Huyền với Lưu Biểu, anh em Gia Cát Lượng cũng được coi gần như thuộc vào cấp bậc công tử. Về gia sản gần đến mức phú nông.

Từ thuở 18, 19 tuổi Khổng Minh đã cùng các bạn như Từ Thứ, Mạnh Công Uy, Thạch Quảng Nguyên dứt bỏ lối học hoa hòe hoa sói thịnh hành lúc bấy giờ mà đi vào con đường “học dĩ chí dụng” “Dĩ nho vi thể, dĩ pháp vi dụng”. “Nho pháp đồng qui” “Vương bá tạp dụng”.

Khoảng từ 22 đến 23 Khổng Minh lấy vợ, tuy là thân phận công tử nhưng vợ ông rất xấu, đến nỗi ngay ca dao của Việt cũng có câu (xấu như vợ ông Gia Cát). Chuyện lấy vợ của Khổng Minh thật cực kỳ đơn giản, sách Tương Dương ký chép:

Hoàng Thừa Ngạn nói với Khổng Minh: nghe nói anh muốn lấy vợ, lão có đứa con gái xấu xí, tóc vàng da đen nhưng rất hiền thục, anh chịu chăng? Khổng Minh gật đầu. Hoàng Thừa Ngạn cho cưới ngay. Ai cũng buồn cười chế diễu. Miền Tương Dương hiện nay vẫn còn lưu truyền câu tục ngữ:

Mạc tác Khổng Minh trạch Phụ

Chỉ đắc ả Thừa sú nữ.

(Đừng bắt chước Khổng Minh chọn vợ. Chỉ lấy được mụ xấu như ma)

Thất bại Kinh châu lần thứ nhất.

Sinh hoạt chính trị của Gia Cát Lượng bắt đầu từ năm ông 27 tuổi thuộc Hán Linh Đế Lưu Hiệp đệ thập nhất niên. Ông ra phò giúp Lưu Bị giữa lúc Lưu Bị đang thất cơ lỡ vận, nương nhờ Lưu Biểu ở Tân Dã nhưng lại bị chân tay Lưu Biểu đuổi đánh.

Vì cớ gì, Lưu Bị trong tình trạng khốn cùng như vậy lại được tập đoàn thanh niên trí thức vùng Tương Dương ủng hộ?

Trả lời câu hỏi trên, ta phải nhìn vào tình hình chính trị Kinh Châu.

Kinh Châu vốn vẫn là khu vực thái bình. Mãi sau thế lực của Tào Tháo phát triển, vùng này mới bị đe dọa, ngôi Lưu Biểu như ngọn đèn trước gió. Nội bộ phát sinh xung đột, phản phúc, bè phái. Nội tôn, ngoại thích xâu xé lẫn nhau. Phe ngoại thích mạnh vây cánh hơn, nhưng vì chủ trương hàng Tào Tháo nên bị dân chúng vẫn còn mang nặng đầu óc địa phương phong kiến chống lại, và phần tử trí thức rất ghét tập đoàn ngoại thích Sái Thị (vợ Lưu Biểu) và Sái Mạo (em Sái Thị) cầm đầu, thường làm lắm điều ngang ngược. Lưu Bị đến nương nhờ Lưu Biểu, nhưng đứng về phe nội tôn, vận động cho Lưu Kỳ trong việc kế vị Lưu Biểu nên Lưu Bị bị bọn Sái Mạo lập mưu giết, Lưu Bị trốn được (xin xem lại hồi 34)

Tuy thất bại liên tiếp nhưng Lưu Bị vẫn đáng kể như một trong những lãnh tụ quan trọng lúc bấy giờ vì tính chất kiên trì bất khuất và tiếng tăm biết nghĩa, yêu dân của ông. Thêm nữa dân chúng Kinh Châu đang bất mãn với chính quyền Lưu Biểu, nên đồng tình hùa theo Lưu Bị. Nhờ thế mà sau khi nhảy qua Đàn Khê thoát chết, Lưu Bị được quần chúng che chở, trí thức giúp đỡ.

Bởi chưng phò tá một kẻ đã khánh tận, nên kế sách của Gia Cát Lượng mới lập trên việc đi tìm căn cứ địa trước hết. Kế sách ấy như thế nào, Tam quốc chí diễn nghĩa viết:

Khổng Minh nói:

- Từ khi Đổng Trác phản nghịch đến nay, hào kiệt bốn phương trỗi dậy. Như Tào Tháo kém thế Viên Thiệu mà đánh được Viên Thiệu, đó không những chỉ có thiên thời mà cũng có cả mưu người nữa. Nay Tháo đã cầm được quân trăm vạn, mượn tiếng thiên tử để khống chế chư hầu, xem đó thật không thể tranh giành với hắn được. Tôn Quyền giữ đất Giang Đông đã được ba đời, đất đai hiểm trở mà lòng dân lại quy phục, xem thế Giang Đông cũng chỉ dùng để giúp ta chứ không thôn tính được, duy chỉ có Kinh Châu, phía bắc có sông Hán, sông Miện kéo dài đến tận Nam hải, phía Đông nối liền với Ngô Hội, phía Tây thông vào Ba Thục, chỗ ấy là đất dụng võ, phải có chúa giỏi mới giữ nổi, trời để dành riêng cho tướng quân đó. Tướng quân nghĩ sao? Lại có Ích Châu, hình thế hiểm trở, ruộng đất phì nhiêu ngàn dặm, thực là một vựa thóc của trời. Cao Tổ ngày xưa cũng do nơi đó mà dựng thành nghiệp đế. Nay Lưu Chương ngu si hèn yếu, dân nhiều nước giầu mà không biết trông coi, những người hiền tài dân trí chỉ mong mỏi được vua sáng mà thờ. Tướng quân đã là dòng dõi nhà vua, tín nghĩa tỏa ra bốn bề, thu nạp anh hùng, mong người hiền như khát nước, nếu tướng quân gồm được châu Kinh, châu Ích, giữ vững nơi hiểm trở, mặt tây hòa với các tộc, mặt nam phủ dụ các nước Di Việt, ngoài thì liên kết với Tôn Quyền, trong thì sửa sang việc chính trị, đợi lúc thiên hạ có biến, sai một thượng tướng đem quân Kinh Châu tiến sang Uyển Lạc, còn tướng quân thì đem quân tiến ra Tây Xuyên, nhất định trăm họ phải đem giỏ cơm bầu nước đến đón tướng quân. Nếu được như thế, nghiệp lớn mới thành, nhà Hán mới phục hưng được. Đó là việc Lượng này định bầy với tướng quân, tướng quân thử xét xem.

Nói xong sai tiểu đồng đem bản địa đồ treo giữa nhà rồi trỏ bảo Huyền Đức rằng: đây là địa đồ 54 châu ở Tây Xuyên. Tướng quân muốn thành nghiệp bá thì phải nhường thiên thời cho Tào Tháo ở phía bắc, nhường địa lợi cho Tôn Quyền ở phía nam, còn tướng quân nắm vững lấy Tây Xuyên để dựng cơ đồ, hình thành cái thế chân vạc rồi sau mới tính đến Trung Nguyên được.

Toàn bộ kế sách Khổng Minh bầy cho Lưu Bị ngay buổi đầu gặp gỡ có thể thu gọn vào mấy điều sau đây:

a-     Cấp tốc kiến lập căn cứ địa.

b-     Đoàn kết các lực lượng để đương đầu với Tào Tháo.

c-      Củng cố căn cứ địa thật vững chãi

d-     Đợi cơ hội tấn công chính quyền Tào Tháo.

Kế sách Khổng Minh thực là vững vàng chu đáo. Nhưng rút cuộc Khổng Minh thất bại. Nguyên nhân thất bại thứ nhất là không lấy nổi địa bàn Kinh Châu sớm hơn. Nguyên nhân thứ hai anh em Lưu Quan Trương bị giao động, phá hoại chính sách Liên Ngô, thí thân vô ích.

Tại sao không lấy nổi địa bàn Kinh Châu sớm hơn?

Tam Quốc Chí diễn nghĩa nói: sở dĩ không lấy nổi Kinh Châu sớm là vì Lưu Huyền Đức không chịu làm điều phi nghĩa. Một lần Khổng Minh xui Lưu Bị đánh úp Kinh Châu giữa lúc Lưu Biểu ốm nặng. Huyền Đức nói: Thà ta chết thì thôi, chớ không chịu làm điều phi nghĩa. Lần khác Y Tịch xui Lưu Bị mượn danh nghĩa viếng tang đến Tương Dương dụ Lưu Tông ra đón, lập tức bắt lấy giết sạch những bọn tòng đảng. Huyền Đức ứa nước mắt nói rằng: Lúc anh ta sắp mất đã gửi con cho ta, nay nếu bắt lấy con, cướp lấy đất thì sau này xuống chín suối còn mặt mũi nào trông thấy anh ta nữa.

Sự thật nếu đọc kỹ mấy hồi 39, 40, 41 sẽ thấy rõ: Tào Tháo thấy Lưu Biểu sắp mất, sợ Lưu Bị sẽ toạ hưởng kỳ thành đất Kinh Châu nếu Lưu Kỳ kế vị, liền đem quân tấn công Tân Dã đánh nhau với Lưu Bị, chiến tranh Tào – Lưu đang gay go thì Lưu Biểu mất. Nhờ cuộc tấn công của Tào Tháo vào lực lượng Lưu Bị mà tập đoàn ngoại thích Sái Mạo hất cẳng Lưu Kỳ, tôn Lưu Tông lên kế vị Lưu Biểu và bí mật đầu hàng Tào Tháo. Mặc dù Khổng Minh chiến thắng Tào Tháo hai trận Tân Dã và Bác Vọng, nhưng trên đại thế vẫn là hết lực chống đỡ và buộc phải rút lui. Tháo biết tình trạng khó khăn của Lưu Bị, nên mới sai Từ Thứ đi sứ đến dụ hàng. Từ Thứ tới Phàn Thành. Huyền Đức, Khổng Minh ra đón. Từ Thứ nói Tào Tháo sai tôi đến đây dụ sứ quân, chẳng qua giả danh mua chuộc lòng người đó thôi. Nay Tháo chia quân làm tám đạo, lấp sông Bạch Hà mà tiến, tôi e Phàn Thành không giữ được, nên liệu mà đi chỗ khác. Lưu Bị bèn bỏ Phàn Thành rút về Tương Dương. Tháo đánh đến Tương Dương, Lưu Bị bỏ chạy sang Giang Hạ, ở Giang Hạ cũng không xong, may nhờ thoả ước giữa Khổng Minh và Lỗ Túc, Lưu Bị mới đến Đông Ngô tá túc.

Ngoại giao trên hết

Gỡ thế bí cho Lưu Bị là tài ngoại giao của Khổng Minh. Khổng Minh thường nói: “Đạo có ba đặc điểm: sự, thế và tình. Sự cơ đến mà không biết ứng không phải là trí. Thế cơ động mà không biết mưu đồ, không phải là giỏi. Tình cơ đến mà không biết hành động, không phải là dũng.” Tình cảnh sự việc và thế lực của Lưu Bị sau khi chạy dài ở cầu Trường Bản, nếu không có cái trí, cái giỏi và cái dũng của Khổng Minh chắc hẳn nghiệp lớn Lưu Bị đã tan tành.

Chẳng những vậy trí ấy, giỏi ấy, dũng ấy còn tạo nên một tình thế đặc biệt, kể đại cục là chia ba chân vạc, kể cá nhân Lưu Huyền Đức là tay trắng khởi nghiệp chiếm Kinh Châu, Ba Thục, nhỏ hoá lớn, không thành có.

Gia Cát Lượng vận động xoay chuyển thành thế tam phân không nhờ binh hùng, lực mạnh. Tất cả vốn liếng của ông chỉ là nước bọt biện thuyết. Sức lực biện thuyết của ông rộng lớn mãnh liệt như lời cổ nhân nói: “Khả dĩ lãnh quyền uy nhi lập quyền uy, thăng giáp binh nhi tự vi giáp binh.”

Đọc hồi thiệt chiến quần nho, trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa thật kỳ thú vô cùng. Tuy nhiên vì phải vận dụng thú vị tiểu thuyết nên Tam Quốc Chí diễn nghĩa không khỏi làm cho độc giả hiểu nhầm biện là bẻm mép. Nếu chỉ bẻm mép, Khổng Minh khó lòng thâu kết quả lớn như vậy. Con người biện thuyết của Khổng Minh còn ghê gớm đáng khâm phục hơn nhiều. Mặc Tử nói: Biện thuyết là trình bày nổi sự phải trái để thắng.

Văn Trung Tử diễn rằng: Kẻ tục cho diễn thuyết chỉ là bẻm mép, thấy ai ăn nói trơn tru hoạt bát dáng dấp tựa cuồng phong vũ bão, thì vì hiếu kỳ mà thán phục.

Biện thuyết không phải là khuất phục cái miệng người khác mà chủ yếu là khuất phục nhân tâm. Muốn khuất phục nhân tâm người biện thuyết phải đầy đủ bốn đức tính: Cơ, dũng, trí, biến.

Cơ: Xét thời, xét thế nhân lợi thừa tiện.

Dũng: Quyết đoán quả cảm, làm và tin những điều thiên hạ còn do dự sợ sệt.

Trí: Biết rõ sự lý, thông đạt nhân tình, giải quyết giỏi giang.

Biến: Thay đổi không ai liệu được.

Bàn về tư tưởng chính trị, tài cán quân sự của Gia Cát Lượng

Chính sách mà Gia Cát trình bày với Lưu Bị tại Long Trung khái quát mấy điểm chủ yếu đi theo thứ tự dưới đây:

1) Hoà hiếu với Đông Ngô.

2) Chiếm đất Thục làm căn cứ khởi nghiệp.

3) Ổn định nội bộ.

4) Chống giữ với các lực lượng bên ngoài.

5) Bình định man tộc.

6) Hưng binh đánh Ngụy.

Hơn 20 năm liền, Khổng Minh nỗ lực tận tuỵ thực hiện 6 sách lược. Chúng ta hãy kiểm điểm quá trình hơn hai mươi năm ấy. Khổng Minh đã làm được những gì? (Về vấn đề Kinh Châu đã nói ở trên rồi).

Năm Kiến An thứ 9, Lưu Chương đầu hàng Huyền Đức. Huyền Đức chiếm Thục. Đất Thục tuy bờ xôi ruộng mật, nhưng xã hội loạn vì lẽ giáp ranh các ngoại tộc, “loạn” Trung Nguyên bấy giờ mới lan tới đây, sự xung đột giữa tư tưởng mới cũ, con người mới cũ, tiến bộ và phản động còn rất mạnh. Chiếm Thục rồi, vấn đề nhân tâm hãy còn trăm đầu ngàn mối rối ren. Cho nên công việc mà Khổng Minh coi là quan trọng hàng đầu là: an bài nhân sự. Sách Chiêu Liệt truyện chép: “Những kẻ sĩ có chí, không người nào là không được khuyên giải, vỗ về, nhiêm dụng.” Các bọn có thế lực ở đất Thục như: Đổng Hoà, Hoàng Quyền, Lý Nghiêm, Bành Nghĩa, v.v… đều chịu phục cả. Nhờ tài an định nhân tâm, nên việc chiếm cứ Ba Thục không gặp những vụ phản kháng lớn. Nhờ chính sách Liên Ngô nên Tôn Quyền làm ngơ mặc cho Lưu Bị độc quyền hoành hành ở Tây Xuyên.

Kiến lập căn cứ địa xong, Khổng Minh lại xác định thêm một lần nữa chính sách Liên Ngô để rảnh tay tiến hành kiến thiết Ba Thục. Công cuộc Kiến Thiết đất Thục là một công việc hết sức vĩ đại, vì dưới chế độ Lưu Chương khu vực này đã quá ung thối. Sử nói về công tích như sau:

Ruộng nương khai phá. Kho lẫm thừa đầy. Đồ dùng tốt rẻ. Gia súc sinh sản nhiều. Đường phố không có người say rượu. Viên chức không gian tham. Mỗi người đều cố gắng. Của rơi không ai nhặt. Kẻ mạnh không hà hiếp người yếu. Phong hoá nghiêm chỉnh, vui sướng. Nhà cửa cầu cống sửa sang.

Trần Thọ phê rằng:

Ông Gia Cát Lượng làm Tướng quốc phủ dụ trăm dân, nêu cao tín nghĩa điều chỉnh quan chức đâu ra đấy, áp dụng công đạo, thể hiện tâm thành. Kẻ tận trung, khó nhọc tuy thù vẫn trọng thưởng, kẻ phạm pháp biếng lười tuy thân cũng trừng trị. Phép cai trị của ông chú dụng đến bản chất của vật lý, trọng thực hơn danh.

Kiến thiết hoàn thành, Khổng Minh chuyển sang giai đoạn bình định các man tộc. Muốn đánh Nguỵ mà không lo hậu hoạn tất nhiên phải giải quyết vấn đề các man tộc. Bảy  lần bắt bảy lần tha Mạch Hoạch, vừa bằng biện pháp quân sự, vừa chính trị, Gia Cát giải quyết tốt đẹp nỗi khó khăn biên giới. Sau đó Khổng Minh mới khởi binh đánh Nguỵ.

Tư tưởng chính trị của Gia Cát Lượng rất khoát đạt, mềm dẻo, không câu thúc hẳn trong khuôn khổ pháp gia cũng không câu nệ trong khuôn sáo nho gia. Căn cứ vào những sự việc đã được thực hiện ở Tây Xuyên thì triết học chính trị của Gia Cát Lượng có thể nói là tập hợp các sở trường của cả nho lẫn pháp, là đại thành của cả hai đạo vương, đạo bá. Nho gia chú trọng nhân trị, pháp gia chỉ trọng pháp trị. Gia Cát chú trọng pháp với nhân ngang nhau. Vương đạo quí tín nghĩa, Bá đạo quí lợi hại. Gia Cát cai trị đất Thục vừa mở rộng Tín vừa điều chỉnh lợi hại.

Đời sau Tô Đông Pha có ý chê Khổng Minh nói:

- Lấy thiên hạ bằng nhân nghĩa, giữ thiên hạ bằng nhân nghĩa là nhà Chu. Lấy thiên hạ bằng vũ lực, bằng thủ đoạn xảo quyệt, giữ thiên hạ bằng vũ lực, bằng thủ đoạn xảo quyệt là nhà Tần. Mượn cách thức nhà Tần để chiếm thiên hạ, lấy cách thức nhà Chu để giữ thiên hạ là nhà Hán.

Vừa dùng nhân nghĩa vừa dùng trá lực là lề lối của Gia Cát Lượng. Vì thế mà Gia Cát thất bại.

Nói vậy ý Tô Đông Pha cho rằng: vì Khổng Minh không dứt khoát bề nào nên hỏng. Lời phê bình của Tô Đông Pha hơi vũ đoán đối với Gia Cát Lượng và quá công thức đối với chính trị. Tô Đông Pha là một nhà văn không tưởng nên ông không hiểu rõ hiện thực chính trị. Vương An Thạch đã cho họ Tô một bài học khá sâu sắc, khi họ Tô chữa câu thơ: Hoàng khuyển ngoạ hoa tâm (con chó vàng nằm dưới bóng cây hoa). Vương An Thạch bị Đông Pha chê dốt, cười không nói gì ra lệnh đày Tô Đông Pha đến địa phương mà ông đã cư trú trước đây.  Đến nơi Tô Đông Pha mới biết rằng ở vùng này có thứ sâu mà dân chúng đặt tên là sâu “hoàng khuyển”.

Ở vào cái thế Khổng Minh tại Tây Xuyên thì mới thấy hành động của Khổng Minh không lầm. Trong khi quần chúng tranh thắng, sự nguy cấp tồn vong cho mỗi lực lượng chỉ mong manh như sợi tóc, nhân chính và vương đạo là việc lâu dài, đương nhiên không có khả năng ứng phó ngay với cục diện xoay chuyển nhanh chóng. Trị loạn trước phải dùng nghiêm hình, vậy thì lề lối pháp gia rất thích hợp. Gia Cát Lượng dùng tính cấp của pháp gia để hộ vệ cho tính khoan của nho gia là đúng vậy.

Sách Thục Ký chép:

Dưới chế độ Lưu Chương, sĩ đại phu nhiều kẻ dùng thế dùng tiền để áp bức khinh thị tiểu dân, Lượng nắm chính quyền quyết ra tay tiêu trừ tình trạng đó, các nhà đại gia oán than rầm trời.

Đại thần tên là Pháp Chính cho thế là quá nghiêm ngặt nên can Khổng Minh rằng:

“Ngày xưa vua Hán Cao Tổ vào đây, đã ra điều ước gồm 3 chương, dân Tần nhớ đức vua Cao Tổ. Nay ngài dựa vào uy lực chiếm cứ được một Châu, mới trị nước mới, chưa thi ân huệ phủ dụ, chủ với khách chưa thật đồng tình. Tôi nghĩ ngài nên nới tay để yên lòng thắc mắc, thoả mãn nguyện vọng trăm họ.”

Gia Cát Lượng nghe Pháp Chính nói, cười đáp rằng:

Ông mới chỉ biết một mà chưa biết hai. Nhà Tần vô đạo, chính sách hà khắc. Dân tâm oán vọng. Cao Tổ dựa đấy mà khoan hậu cởi mở, tháo gỡ bàn tay tàn bạo của nhà Tần. Còn như Tây Xuyên, Lưu Chương bạc nhược hôn ám, kể từ ngay các đời trước Văn với Pháp đã bỏ chểnh mảng, uy lệnh trễ nải, chính sự hỗn loạn. Đạo quân thần mất hết trật tự. Cho ngồi cao, vị cao tất lạm quyền. Thi điều ân nghĩa vặt, ân nghĩa hết thì sinh hỗn láo. Bệnh Ba Thục là do gốc loạn mà ra. Tôi không thể không nghiêm pháp để lập lại trận tự.

Sách Hoa Chương Chí ghi: Có người trách Gia Cát Lượng chỉ ham công mà tiếc thưởng. Gia Cát đáp: Trị thiên hạ theo ý tôi, cần lấy “đại đức” làm căn bản chứ không lấy “tiểu huệ” làm căn bản. Xem như Lưu Cảnh Thăng là con người trọng tiểu huệ, nay cho kẻ này cái này mai cho người kia cái khác. Rút lại tiểu huệ chỉ gây thêm mầm loạn. Đại đức là gì, chúng ta hãy kiểm điểm lại công tích Gia Cát đã nêu ra ở trên: Ruộng nương khai phá… viên chức không gian tham… Kẻ mạnh không hà hiếp người yếu… v.v.

Cơ sở tư tưởng pháp trị của Khổng Minh đặt trên nền tảng đại đức cho nên ông thường nói với thuộc hạ: Lòng tôi như chiếc cân, không vì người mà nặng nhẹ (Ngã tâm như bình, bất năng vị nhân tác khinh trọng). Câu nói đó biểu hiện minh bạch tính chất chí công vô tư của Khổng Minh mỗi lần ông thi hành quyền bính.

Trương Duệ nhận xét Khổng Minh rất đúng khi ông nói rằng:

- Gia Cát thưởng không bao giờ quên những người ở xa. Phạt không bị kẻ ở gần làm mờ ám. Ở với ông thì chức tước đổi bằng công lao. Hình tội không thể đem thế lực tiền tài mà được miễn.

Sử dụng lề lối pháp gia, để ứng với những vấn đề cấp thời, ngay sau khi chiếm cứ Tây Xuyên để đặt lại trật tự yên đâu đấy rồi, Gia Cát Lượng cho áp dụng lề lối nhân trị của nho gia, để tiếp tục kiến thiết Ba Thục.

Trước hết ông nêu lên phương châm:

Không vì người mà giao việc, phải vì việc mà chọn người.

Vũ Hầu dùng người lấy tài năng làm tiêu chuẩn. Phương pháp nhận định để biết người, Vũ Hầu ghi tất cả trong thiên Tri nhân thuộc tập “Tưởng Uyển” như sau:

- Tính người thật khó hiểu. Dung mạo bất nhất, hành động trăm ngàn lối. Kẻ trông hiền lành nhu thuận mà vô đạo. Kẻ bề ngoài cung kính mà trong lòng trí trá vô lễ. Kẻ trông rất hùng dũng nhưng lại nhát sợ. Kẻ thật tận lực mà bất trung. Tuy nhiên đạo biết người cũng có thể chia làm bẩy cách:

a) Đem điều phải lẽ trái hỏi họ để biết chí hướng.

b) Lấy lý luận dồn vào thế bí để biết biến thái.

c) Lấy mưu trí trị họ để trông thấy kiến thức.

d) Nói với họ những nỗi khó khăn để xem đức dũng.

e) Cho họ uống rượu say để dò tâm tính.

f) Đưa họ vào lợi lộc để biết tấm lòng liêm chính.

g) Hẹn công việc với họ để biết chữ Tín.

Do nhu yếu của thời thế, nên toàn bộ chính sách nhân trị của Khổng Minh đều quy vào vấn đề tiến cử người hiền. Ông viết: “Trị nước chẳng khác gì trị bản thân. Trị thân cần nuôi dưỡng thần khí, đạo trị quốc là tiến cử người hiền năng. Nước có người hiền như nhà có cột chèo vững chắc. Quốc gia nào mà dân chúng nghèo đói, quan lại giầu sang, bọn nịnh hót ở ngôi cao, người trung lương bị đầy ải, thì quốc gia đó không thể bình an được.”

Vũ Hầu chú trọng đến vấn đề nhân tài đến thế, kết cuộc ông thất bại ngay trên vấn đề này. Tại sao? Chúng ta sẽ bàn đến trong một chương khác.

***

Người đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa ai ai cũng thấy cực hứng thú, mỗi lần xem việc quân sự Gia Cát Lượng dùng binh.

Lần đầu tiên Khổng Minh ra mưu là trận đánh ở Bác Vọng. Trận này lực lượng Lưu Bị đúng như lời Hạ Hầu Đôn: Lưu Bị như lũ chuột, thế nào ta cũng bắt được. Chính Huyền Đức cũng công nhận khi Khổng Minh nói: Quân Minh Công cũng chẳng qua được vài ngàn, nếu Quân Tào kéo đến đánh lấy gì mà chống cự? Kết quả trận Bác Vọng rằng:

Bác Vọng dùng mưu đánh hoả công.

Cười cười nói nói vẫn thung dung.

Tào Man nghe tiếng hồn bay bổng.

Rời khỏi lều tranh đệ nhất công.

Trận thứ hai là trận Tân Dã với kết quả: Quân sĩ Tào chạy lửa dày xéo lẫn nhau, chết vô kể. Bọn Tào Nhân vừa thoát nạn lửa thì đằng sau đã thấy ngay Triệu Vân dẫn quân đuổi đánh giết, quân Tào tranh nhau chạy trốn, không ai dám ngoảnh cổ lại. Đang chạy bị My Phương kéo quân ra bồi cho một trận nữa. Tào Tháo thua to, cướp đường rún chạy. Chạy đến sông Bạch Hà lại bị Quan Vân Trường phục sẵn khơi nước. Quân Tào chết vô số.

Việc Gia Cát mượn 10 vạn mũi tên của Tào Tháo.

Vụ phục binh ở Hoa Dung Lộ tiêu diệt nốt tàn lực Tào.

Vụ cướp Nam Quận dùng binh phù của Tào Nhân rồi sai Trương Phi đánh úp Kinh Châu.

Vụ bẩy lần bắt Mạnh Hoạch.

Vụ gẩy đàn đuổi Trọng Đạt.

Vụ lừa Vương Song và đánh úp Trần Sương.

Vụ đấu trận làm nhục Tư Mã Ý.

Vụ chém đầu Trương Cáp.

Vụ vây khốn cha con Tư Mã Ý ở Thượng Phương Cốc.

Tất cả mọi trận, mưu trí của Khổng Minh thật là tài tình, các mặt: từ việc xét thế lực đến cách thắng địch, trọng địch khinh địch, đến vấn đề chủ động, đoạt yếu tước nhược lực lượng địch, dùng lực lượng địch làm cho địch hoang mang, lầm lỗi, đến đường lối gây thêm vây cánh đồng minh nhất nhất Khổng Minh không sơ hở bao giờ.

Tư Mã Ý cũng là một vị tướng giỏi đời Tam Quốc, nhưng không bao giờ ông dám sánh ngang với Khổng Minh. Mỗi lần bình phẩm Gia Cát Lượng, Tư Mã Ý chỉ nói: “Đấy là kỳ tài trong thiên hạ.”

***

Những trước tác về phương diện quân sự của Khổng Minh đều gom góp trong tập “Tưởng Uyển ngũ thập thiên”. Tôi xin trích dẫn ít đoạn Gia Cát nói về nghề làm tướng để bạn đọc cứu xét:

Tướng tài:

Tướng tài phân định làm tám cỡ:

- Biết lấy đức mà dẫn dắt, dùng lễ để hoà nhân, xét đến nỗi dốt, nỗi rét hiểu điều cơ cực của quân lính, là nhân tướng. (Ông tướng có lòng nhân từ).

- Làm việc không cẩu thả, không lợi nhiễu tâm tính, chết vinh sống không nhục là nghĩa tướng.

- Ở ngôi quí không kiêu, thắng không tự thị, cứng rắn nhưng biết nhẫn nhục là lễ tướng.

- Biến hoá khôn lường, hành động ứng phó giỏi, chuyển hoạ thành phúc, nhân nguy chế thắng là trí tướng.

- Tiến có thưởng, thoái trừng phạt, thưởng đúng lúc, phạt không chừa người thân quí là tín tướng.

- Linh động, đánh nhanh, rút mau, giỏi dùng đoản binh, quân sĩ kính sợ là bộ tướng.

- Đánh ào ạt, xông pha nơi hiểm yếu, lúc tiền phong lúc hậu vệ che đỡ ba quân là kỵ tướng (Kỵ binh).

- Khí chất làm phấn khởi ba quân, ham đánh trận lớn, tránh trận nhỏ là mãnh tướng.

- Thấy người hiền thì quí trọng, biết nghe, biết dùng lời hay lẽ phải, khoan hoà mà không kém phần cương dũng, giản dị nhưng nhiều mưu đó là đại tướng.

Tướng giỏi:

Làm Tướng có năm điều giỏi, bốn điều cần:

Năm điều giỏi:

Giỏi biết dùng thế của địch.

Giỏi biết đạo tiến thoái.

Giỏi biết hư thực của một nước.

Giỏi biết thiên thời nhân sự.

Giỏi biết sông núi hiểm yếu.

Bốn điều cần:

Khi bàn luận cần nhiều mưu lạ.

Khi dùng mưu cần bí mật.

Khi động binh cần yên lòng dân chúng.

Khi chiến tranh cần làm dân chúng nhất tâm.

Tư tưởng người làm tướng

Thu dụng hào kiệt để giữ nhân tâm. Khéo dùng quần chúng để có nhiều nhân lực. Hiểu đạo nhu cương. Trước nhân nghĩa sau mới trí dũng. Lúc tĩnh như cá lặn. Lúc động như voi lồng. Phân tán đồng minh của địch. Đánh chỗ yếu để đập gẫy chỗ mạnh. Rút chắc như núi chuyển. Tiến nhanh như vũ bão. Lấy lợi dụ địch. Giả hèn cho địch kiêu. Thân với người đa mưu. Xa kế trước động binh sau. Tính thắng đã rồi mới chiến.

Bàn về cái mượn của Khổng Minh

Hồi thứ 46, Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể:  Hôm sau Chu Du hội cả các tướng dưới trướng, mời Khổng Minh đến bàn việc. Khổng Minh đến, Du hỏi:

Nay sắp đánh nhau với Tào Tháo trên mặt sông, nên dùng vũ khí gì cho tiện?

Khổng Minh thưa:

Trên mặt sông lớn, cốt lấy cung tên làm đầu.

Du nói: Lời tiên sinh hợp ý tôi lắm. Hiện trong quân đang thiếu tên bắn, phiền tiên sinh trông nom giúp cho việc làm mười vạn tên. Đây là việc công, tiên sinh chớ nên từ chối.

Khổng Minh nói: Đô Đốc đã sai, tôi xin hết sức. Xin hỏi mười vạn tên khi nào dùng đến?

Du hỏi: Trong mười hôm có làm xong không?

Khổng Minh nói: Quân Tào nay mai sắp đến, nếu đợi mười ngày e việc lớn hỏng mất.

Du hỏi: Tiên sinh liệu mấy hôm thì xong?

Khổng Minh thưa: Trong nội ba ngày sẽ nộp đủ mười vạn tên.

Du nói: Việc quân không phải trò đùa đâu.

Khổng Minh nói: Đâu có dám đùa với Đô Đốc, tôi xin làm giấy cam đoan. Nếu ba ngày không xong cam đoan chịu trọng tội.

Du mừng lắm, gọi ngay quan Chính Tư, mang đồ văn phòng ra làm tờ cam kết, rồi mở tiệc khoản đãi và nói:

Khi nào xong việc xin có đền đáp.

Khổng Minh nói: Hôm nay đã không kịp rồi, ngày mai bắt đầu làm, đến ngày thứ ba, xin Đô đốc sai năm trăm quân đến bờ sông nhận tên đem về. Khổng Minh uống thêm vài chén rồi từ biệt.

Lỗ Túc hỏi Chu Du: Người này có nói khoác chăng?

Du nói: Rõ ràng hắn tự mua lấy cái chết, chớ ta cũng không bắt ép gì hắn. Hôm nay đông đủ mặt các quan, làm tờ cam kết, dù hắn có mọc cánh cũng không bay thoát. Ta dặn bọn thợ cố làm dây dưa và không cấp đủ cho đồ dùng, tất nhiên hắn lỡ hạn. Khi ấy ta trị tội, xem có kêu ca được nữa không. Tử Kính thử sang thăm dò tình hình, về báo cho ta biết.

Lỗ Túc vâng lệnh đến gặp Khổng Minh.

Khổng Minh nói: Ta đã bảo Tử Kính, đừng nói chuyện gì với Công Cẩn e Công Cẩn lại tìm kế hại ta. Không ngờ Tử Kính không biết giấu giếm hộ, hôm nay quả nhiên lại có chuyện. Trong ba ngày làm sao vót nổi mười vạn tên. Tử Kính phải cứu ta mới được.

Túc nói: Ông tự rước lấy tội, tôi biết cứu làm sao bây giờ?

Khổng Minh nói: Tử Kính cho ta mượn ba chục tay thuỷ thủ tốt. Trên thuyền căng vải xanh che chung quanh và vặn hơn nghìn hình nhân bằng rơm xếp đứng hai bên mạn thuyền. Ta sẽ có kế. Đến ngày thứ ba, ta bảo đảm được đủ mười vạn tên cho mà xem, nhưng chớ để cho Công Cẩn biết nữa, nếu hắn biết thì kế ta hỏng mất.

Túc vâng lời nhưng chưa hiểu rõ mưu mô Khổng Minh ra sao? Lúc về gặp Chu Du, quả nhiên Túc không hề đả động đến việc mượn thuyền chỉ bảo không thấy Khổng Minh dùng đến tre gỗ lông chim sơn nhựa gì cả, chỉ nói rằng sẽ có cách.

Du ngạc nhiên nói: thử đợi đến hôm thứ ba xem sao?

Lỗ Túc cắt riêng hai chục chiếc thuyền nhanh nhẹ, mỗi chiếc ba chục người bơi, đủ đồ vải căng, cỏ bó dự bị sẵn sàng cho Khổng Minh. Ngày thứ nhất không thấy gì, ngày thứ hai cũng vậy. Mãi đến hôm thứ ba độ canh tư, Khổng Minh mới lén sai người mời Lỗ Túc xuống thuyền.

Túc hỏi: lấy tên ở đâu?

Khổng Minh nói: Tử Kính không phải hỏi, cứ đi sẽ biết.

Nói rồi sai lấy thừng chạc ràng cả hai chục chiếc thuyền làm một cho bơi thẳng lên phía Bắc.

Đêm ấy sương mù phủ kín trời, trên mặt sông lại càng mờ mịt, giáp mặt không trông thấy nhau. Khổng Minh giục quân chèo thuyền đi thật gấp. Quả thật là một buổi sương mù rất đẹp, rất nên thơ.

Lỗ Túc sợ hãi hỏi: Quân Tào ùa ra thì làm thế nào?

Khổng Minh cười đáp: Tôi chắc Tào Tháo thấy sương mù thế này không dám cho quân ra. Chúng mình cứ yên chí uống rượu làm vui, đợi khi nào sương tan thì về.

Canh năm đêm ấy thuyền đến sát thuỷ trại Tháo. Khổng Minh sai đỗ thuyền quay về hướng tây, dàn thành hàng nhất, rồi đánh trống và hò reo ầm ĩ. Mao Giới, Vu Cấm vội vàng phi báo với Tào Tháo. Tháo truyền lệnh rằng: Sương mù dày đặc, quân giặc kéo đến bất thần tất có mai phục, không nên khinh động.

Tháo chỉ ra lệnh cho quân cung nỏ bắn tứ tung ra, lại sai người lên trại cạn gọi Trương Liêu, Từ Hoảng, mỗi người dẫn ba ngàn quân cung nỏ cấp tốc đến bờ sông trợ chiến. Hiệu lệnh đến nơi thì Vu Cấm, Mao Giới sợ quân Nam tràn vào thuỷ trại, đã sai quân bắn rào rào ra rồi. Một lát quân trên cạn cũng đến ước hơn vạn người, đều chĩa vào chỗ có trống bắn tới như mưa. Khổng Minh một mặt cứ việc thúc trống reo hò ầm ĩ. Khi mặt trời đã mọc, sương mù tan dần. Khổng Minh sai thu thuyền về, các bó cỏ trên hai chục chiếc thuyền, bó nào cũng chi chít những tên cắm.

Khổng Minh sai quân sĩ đồng thanh reo to lên rằng:

Tạ ơn Thừa Tướng giúp tên.

Khi quân vào báo cho Tháo biết, thì thuyền nhẹ nước xuôi đã đi xa hàng chục dặm rồi, đuổi không kịp nữa. Tào Tháo tức bực vô cùng.

Khổng Minh quay thuyền về nói với Lỗ Túc rằng:

Mỗi thuyền được ước lượng năm sáu ngàn tên mà không tốn chút công sức nào của Đông Ngô cả. Thế là đã được hơn mười vạn tên, nay mai lại đem tên ấy bắn lại quân Tào, chẳng tiện lắm ư?

Phê bình việc mượn tên, ông Mao Tôn Cương nói:

Điểm tuyệt diệu mỗi lúc Khổng Minh dùng kế là giỏi mượn. Muốn phá quân bắc, Khổng Minh mượn binh đội Giang Đông, giúp Giang Đông Khổng Minh mượn tên quân bắc. Vừa mượn Đông, vừa mượn Bắc. Lấy tên mượn thuyền của Lỗ Túc. Khiến Tào Tháo ngờ vực, Khổng Minh mượn sương mù trên sông. Đã mượn của người lại còn mượn cả của trời. Binh cũng mượn, tên cũng mượn thì sau này cớ sao Kinh Châu không mượn nốt nhỉ.

Tây Phương cũng như Đông Phương, những chính trị gia đều hết sức chú trọng đến vấn đề mượn. Bởi vì tranh thiên hạ, đoạt chính quyền bao giờ cũng bắt đầu từ không đến có, từ nhỏ đến lớn (vô sinh hữu chi lực, tiểu biểu đại chi lực) từ một tia lửa biến thành đám cháy to (de l’étincelle jaillit en flammes)

Ở lịch sử Trung Quốc, quy luật mượn được khai thác triệt để trong mọi hành động chính trị. Mượn là gì?

Mượn là lấy ở người dùng cho mình. Mượn lực người làm lực ta, mượn công người bồi đắp việc ta. Ông Quản Trọng nói: Thánh nhân thiên dụng phi kỳ hữu sử phi kỳ nhân. (Bậc thánh dùng được cả những gì mình không có, sai khiến cả những người không phải của mình). Tỉ dụ: Tử Cống mượn Ngô đánh Tề để cứu nước Lỗ, mượn nước Tấn để ngăn chặn tham vọng của nước Ngô.

Hết thảy mọi thành công đều nhờ biết lợi dụng hết mức và đúng mức các lực lượng cần thiết. Hán Bái Công chỉ là một người đình trưởng nhưng nhờ tài dụng nhân nên thành công. Lý Tư có tài, tuy nhiên nếu không nhờ Lã Bất Vi làm sao Lý Tư có thể đắc chí ở Tần? Lã Bất Vi cực giàu có nhưng cũng phải nhờ Tử Sở (còn Tử Sở?) cũng phải dựa vào Lã Bất Vi để gìn giữ cái thế của chính anh ta.

Muốn lấy ở người dùng cho ta, lấy lực người làm lực mình, mượn công sức người bồi đắp việc ta thì trước hết phải nghiên cứu để phát hiện ý muốn của sự vật (la découverte de la volonté des choses). Vị kỹ sư xây đập nước, điều kiện đầu tiên là phải biết dòng thác đổ theo chiều hướng nào đã. Nói rõ hơn, mượn và dựa chất chứa ý nghĩa: Tìm được sự cộng tác chặt chẽ (La lutte est une perpétuelle collaboration)

Trong bức thơ gửi cho anh em đảng, một lãnh tụ chính trị danh tiếng Tây Phương viết: “Tất cả nghệ thuật đấu tranh chống bạo quyền của ta là phải nghiên cứu để có thể sử dụng được mọi việc, mọi vật. Đồng thời sức tạo khả năng lãnh đạo toàn bộ phong trào”.

Tào Tháo từ Đông Quân đánh vào Duyện Châu, lúc đi Tháo mang theo sứ mạng triều đình để dẹp phong trào đó mà gây binh quyền cho mình.

Khổng Minh cùng Lưu Bị lếch thếch đến Đông Ngô sau khi bỏ trốn khỏi Kinh Châu, nhờ Khổng Minh biết nắm vững tâm lý nóng nẩy kiêu hùng của hai vị lãnh tụ trẻ tuổi Đông Ngô nên lập kế vừa khích vừa thuyết phục để rồi mượn tay Đông Ngô mà xoay chuyển lại thời thế.

Cổ nhân nói:

“Bằng tạ giả, sự bán nhi công bội, thứ trí giả chi sở lạc vi chi dã. Mượn nổi, dựa được thì việc làm có nhiều hiệu quả, cho nên người trí giả thích nghĩ ngợi về điều ấy”.

Những lời trên, đáng để cho độc giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa suy nghĩ khơi đào thêm.

Bàn về những thất bại của Gia Cát Lượng

Thi gia Vương Việt làm mười bài thơ nhan đề là Long Trung thập vịnh. Lời thơ trong Long Trung thập vịnh đều phảng phất xót thương thân thế sự nghiệp của vị anh hùng dân tộc.

Bài chiêm bái giếng Đại Giốc, Vương Việt viết:

Nhất mạch tâm tình khởi ngọa long

Độc lân vị toại tế thời công

Cổ kim đa thiểu anh hùng lệ

Tận tại tiên sinh thứ tỉnh trung

(những giọt lệ anh hùng kim cổ đều ở trong nước giếng nơi quê nhà tiên sinh. Thất bại của Gia Cát Lượng trở thành thất bại điển hình, các nhà chính trị đời sau truyền nhiễm nho giáo, mỗi lần thất bại đều cảm thấy hay miễn cưỡng cảm thấy anh linh Gia Cát hiện về với họ.)

Sinh thời Khổng Minh, ông thường hoài bão:

Sử phi thường chi thế, kiến phi thường chi nghiệp (ở đời khác thường, làm sự nghiệp khác thường)

Cùng tác độc thiện kỳ thân, đạt tắc kiêm thiện thiên hạ (cùng thì tự tốt lấy ta, đạt thì đem hạnh phúc cho thiên hạ)

Thế mà rút cục sự nghiệp phi thường hỏng, độc thiện kỳ thân không được, kiêm thiên hạ cũng hão huyền. Mặc dù ông đã gắng hết lực mình cúc cung tận tụy, tử nhi hậu dĩ (chăm chỉ tận tụy, chết mới thôi). Tam quốc chí diễn nghĩa diễn tả tâm trạng Gia Cát lúc chết thật bi ai:

Khổng Minh gượng bệnh sai tả hữu vực lên chiếc xe nhỏ, ra trại đi xem các dinh. Gió thu thổi mạnh, lạnh buốt đến xương, mới thở dài than rằng: Từ đây ta không còn được ra trận đánh giặc nữa. Trời xanh thăm thẳm, giận này biết bao giờ nguôi.

Muôn việc chẳng qua do số phận

Người sao cưỡng được lòng trời.

Trước khi đi vào những thất bại thực tiễn của Khổng Minh tưởng cũng nên bàn qua vấn đề lòng trời, mệnh vận đối với người Trung Quốc. Có hai quan niệm về vấn đề này. Một tiêu cực mê tín dị đoan coi mệnh vận là bất di bất dịch do bàn tay tạo hóa định sẵn, quan niệm mê tín dị đoan được đại đa số quần chúng và ít nhiều trí thức giả tin theo. Còn rất ít phần trí thức biết trách nhiệm của mình thì coi mệnh vận và lòng trời là sự biến đổi tranh đấu không những con người có thể thay trời mà hành đạo. Như Trương Tải nói: Vì trời đất lập tâm, vì sinh dân lập mệnh, kế túc cái học gián đoạn của bậc thánh, vì vạn đời mở thái bình. Bởi vậy người chân trí thức không tin không sợ mệnh nghĩa là luôn luôn phải có thái độ thấy cơ hội thì làm (quân tử kiến cơ nhi tác). Ta khởi đầu cho người sau tiếp tục, thành bại không do một đại biến động.

Như thế sự thất bại của Gia Cát chỉ là thất bại của một chánh trị gia trước chính quyền toàn nước Trung Quốc. Nhưng nếu về công cuộc thống nhất lớn lao của dân tộc thì phần đóng góp của Khỏng Minh không phải nhỏ. Đứng trên lập trường trách nhiệm trí thức thì Khổng Minh không thất bại chút nào. Tinh thần “Tri bất khả nhi vi” trong nho giáo là tinh thần không vụ lợi, đã được Khổng Minh tu dưỡng đến cao độ. Trên thực tiễn chính trị, Gia Cát Lượng chịu đựng hai thất bại nặng nề có tính chất quyết định quân sự cũng như nhân sự là hai sở trường của Khổng Minh, tại sao ông lại để đến nông nỗi trời thăm thẳm, giận này biết bao giờ nguôi.

Lấy được căn cứ địa Tây Xuyên rồi, Gia Cát Lượng lập hai sách lược: Bình man và phạt Ngụy.

Sách lược Bình man dẫn đến việc Nam Chinh vượt sông Lư Thủy, bẩy lần bắt bẩy lần tha Man Vương Mạnh Hoạch. Sách lược phạt Ngụy dẫn đến việc sáu lần ra Kỳ Sơn.

Sách lược thứ nhất áp dụng lề lối công tâm chiến của Mã Tắc. Khổng Minh hoàn toàn thành công, các dân tộc biên cương không còn là mối lo sau lưng cho Thục nữa. Sách lược thứ hai hoàn toàn thất bại.

Thất bại trên sách lược phạt Ngụy liên hệ đến vấn đề nhân sự. Sự thất bại không phải do Gia Cát mà ra, chủ yếu do lỗi Quan Vũ phá hoại chính sách Liên Ngô mà nên.

Gia Cát Lượng ngay từ lúc ở Long Trung đã nói đến đánh Ngụy, ông dự định đem chủ lực ra vùng Hồ Bắc chứ không lấy Tứ Xuyên làm khởi điểm. Kế hoach của ông  là lấy binh Kinh Châu đánh mạnh vào Uyển Lạc tức khu vực lòng ruột của thành Hứa Xương nhà Ngụy. Ngoài ra binh Ích Châu Tân Xuyên đánh tới chỉ có nhiệm vụ bổ trợ.

Kinh Châu mất, chủ lực do Lưu Bị cầm đem tới cứu bị thua. Sách lược phạt Ngụy đến lúc này chẳng qua chỉ còn là mớ giấy lộn. Chuyển binh quay vòng về Kỳ Sơn để đánh Trung Nguyên là một chuyện ảo tưởng. Đến việc sáu lần ra Kỳ Sơn, độc giả Tam Quốc chí diễn nghĩa sơ ý, không biết rằng sự việc xuất binh phạt bắc trước sau vỏn vẹn có năm lần. Tổng quát cả năm lần xuất binh, nói về chiến lược cơ bản đều thất bại, nói về chiến thuật quá nửa thành công. Tuy nhiên những thành công chiến thuật không cứu vãn nỗi thất bại chiến lược. Đấy là nguyên nhân khiến cho con người quân sự kỳ tài trở thành một nhân vật của vở bi kịch Tam Quốc, mà kẻ làm cho Gia Cát Lượng táng mạng không ai xa lạ, chính là Hán Thọ Đình Hầu Quan Vân Trường. Khổng Minh năm lần Bắc phạt, trên chiến thuật trừ lần thứ nhất Mã Tắc vi phạm tiết độ và lần thứ năm ông bị bệnh chết không gây được những thành tích lớn. Còn các lần khác, như lần thứ hai chém được tướng Ngụy là Vương Song, lần thứ ba thu phục hai quận Vũ Đô và Âm Bình, lần thứ tư bắn chết Trương Cáp.

Cả năm lần xuất binh Gia Cát Lượng  đều phải kiệt lực chống với kẻ thù ghê gớm của tất cả nhà quân sự là: vấn đề binh lương do đường giao thông khó khăn. Mặc dù ông đã phát minh ra trâu gỗ ngựa máy, nhưng cũng không lại. Rút hết kinh nghiệm của bốn lần trước, lần thứ năm Gia Cát Lượng giải quyết bằng phương pháp đồn điền, cho quân nhân tập cư với dân chúng vừa cày cấy giúp dân vừa tiến đánh Ngụy quân. Tuy nhiên phương pháp đồn điền cũng chỉ tạm giải quyết được một phần rất nhỏ vì ruộng đất, cày cấy ở đây thiếu. Hơn nữa bên phía Ngụy, Tư Mã Ý áp dụng chiến lược trường kỳ nhất định không chịu giáp chiến. Tam Quốc chí diễn nghĩa kể:

Khổng Minh dẫn một toán quân đóng ở gò Ngũ Trượng đã nhiều lần sai người ra khiêu chiến, Ngụy quân nhất định không ra. Khổng Minh bèn lấy một cái khăn, cái yếm và đồ trắng của đàn bà đựng vào một cái hòm rồi viết thư sai người đưa đến trại Ngụy.

Các tướng không dám giấu giếm, dẫn người đưa thư vào ra mắt Tư Mã Ý. Ý sai mở hòm ra xem thấy có yếm áo đàn bà và một phong thư. Trong thư nói rằng:

Trọng Đạt đã làm Đại Tướng, thống lĩnh quân Trung Nguyên, không dám mặc giáp cầm gươm để quyết sống mái mà chịu ngồi núp ở trong ổ trong hang để lánh lưỡi dao mũi tên, thế thì khác gì đàn bà? Nay sai người đưa khăn yếm, quần áo trắng của đàn bà đến, nếu không dám ra thì phải lạy hai lạy mà nhận lấy, nếu còn biết xấu hổ có chí khí người con trai thì  phải phê vào giấy này, y hẹn ra giao chiến.

Tư Mã Ý xem xong trong bụng căm giận, nhưng cũng gượng cười nói rằng: Khổng Minh coi ta như đàn bà ư. Liền chịu nhận đồ ấy, trọng đãi người đưa thư.

Đánh Ngụy chỉ còn một hy vọng nữa là Đông Ngô đánh úp Ngụy mà thôi. Nhưng đến lúc Phí Vĩ đến báo cho Gia Cát biết rằng: Tào Tuấn nghe Đông Ngô ba mặt tiến quân, cũng dẫn đại quân đến Hợp Phì, sai Mãn Sủng, Diễn Lự, Lưu Thiệu chia  quân làm ba mặt chống cự. Mãn Sủng bày mẹo đốt sạch chiến thuyền và lương thảo khí giới của Đông Ngô. Không làm nên chuyện gì, phải rút quân trở về.

Khổng  Minh nghe tin ấy, thở dài một tiếng, không ngờ ngất đi ngã gục xuống đất. Mấy hôm sau Khổng Minh chết. Sách lược Bắc phạt thất bại hẳn.

Nói thất bại trên vấn đề nhân sự hay nói theo hiện đại nghĩa là thất bại trên chính sách cán bộ.

Chính sách cán bộ gồm có ba phần:

a)     biết người

b)     dùng người

c)     Nuôi dưỡng, đào tạo tài năng

Thất bại trên chính sách cán bộ của Gia Cát Lượng gây nên với những nguyên nhân thuộc cả chủ quan lẫn khách quan.

Nguyên nhân khách quan là nước Thục không có nhân tài nhiều. Căn cứ vào sự kiện: Liêu Hóa làm tiên phong thì đủ rõ.

Thục trung vô đại tướng.

Liêu Hóa tác tiên phong.

Nếu ta chịu khó xem xét tỉ mỉ lý lịch các nhân vật trong pho Tam Quốc chí, sẽ thấy nhân tài phân bố ra sao? Đại khái chia làm bốn khu vực: khu Quan Trung, khu Trung Nguyên, khu Hoài Tứ và khu Kinh Tương. Riêng địa phương Tây Xuyên lại không phải là khu vực sản sinh nhân tài. Sở dĩ Tây Xuyên thiếu nhân tài vì lẽ: đây là khu vực mà nền giáo dục hãy còn lạc hậu. Trước kia do loạn ở Trung Nguyên, nhân tài di chuyển tới Tây Xuyên nhưng lúc thế chia ba đã rõ rệt, họ lại trở về Trung Nguyên hết.

Thêm vào đấy, chính sách vơ vét nhân tài của Tào Thào giỏi quá, theo Ngụy Chí bản truyện thì Tào Tháo cần người tài giỏi như người chết khát đòi uống nước, khiến cho những lãng tử đa tài về quy phục Tháo đông như kiến.

Tam Quốc chí diễn nghĩa cho ta biết tình trạng thiếu cán bộ của Thục Quốc qua những sự kiện:

Khổng Minh thu quân thắng trận về trại, sắp sửa cất quân tiến đi. Có người ở Thành Đô lại báo tin Trương Bào mất, Khổng Minh khóc ầm lên, miệng thổ huyết, ngất đi, ngã lăn xuống đất. Chúng vội vã cứu dậy, từ đó mắc bệnh. (hồi thứ chín mươi chín)

-         Tư Mã Ý gọi người về hỏi han chuyện Khổng Minh ăn ngủ cùng là công việc nhiều ít ra sao.

Sứ giả bẩm rằng:

Thừa tướng tôi thức khuya dậy sớm, hình phạt từ hai chục roi trở lên cũng phải coi xét đến mà mỗi ngày chỉ ăn được vài thưng mà thôi.

Ý quay lại bảo với các tướng rằng:

“Khổng Minh ăn ít làm nhiều, sống lâu làm sao được” (hồi 103)

Nguyên nhân chủ quan là Khổng Minh chỉ biết người, biết dùng, nhưng không biết đào tạo người, thiếu hẳn kế hoạch bồi dưỡng cán bộ. Ông chết đi không có lấy một người đủ khả năng thừa kế sự nghiệp bỏ dở dang. Vì không ai lãnh đạo, nên ngay sau khi ông mất, nội bộ văn quan có tranh chấp giữa Phí Vĩ, Tưởng Uyển. Có một mình Khương Duy thì Duy lại vô quyền, hơn nữa Duy cũng chỉ giỏi việc quân cơ nhưng kém mặt chính trị.

Cổ nhân luận về kiểu mẫu một chính trị gia lý tưởng như sau:

“Đức hạnh cao diệu, dụng chỉ khả pháp. Kỳ đức túc dĩ lệ phong tục kiến lập pháp chế; cường quốc phú dân. Kỳ pháp túc dĩ chính thiên hạ, tư thông đạo hóa. Sách mưu kỳ diệu”

Ý nói: chính trị gia lý tưởng phải là người có nhãn quan xa rộng, nhận rõ thời đại, học vấn quảng bác, tư tưởng chu đáo, có kế hoạch an bang tế thế, giỏi ứng phó với hoàn cảnh nhân sự, can đảm gánh vác trách nhiệm biết đùng đạo đức, dám nói và dám làm.

Chỉ có Vũ hầu Gia Cát Lượng Khổng Minh là nhân vật duy nhất trong Tam Quốc có thể mang so sánh với mẫu người chính trị lý tưởng của cổ nhân mà thôi. Tuy nhiên Khổng Minh vẫn kém Tháo trên ý thức thực tiễn khả dĩ ứng phó với xã hội nhiễu nhương xã hội Tam Quốc.

Đọc lại những lời tha thiết trong bài biểu cuối cùng:

“Tôi chết đi không để trong nhà có tấm lụa thừa, hay có chút của riêng để phụ lòng bệ hạ đâu.”

Người đọc đều có chung một cảm giác yêu mến kính phục mẫu người chính trị lý tưởng Gia Cát Lượng.

Thất thủ Nhai Đình

Mã Tắc không tuân lời Gia Cát Khổng Minh để mất Nhai Đình thật là một vết thương chí mạng cho Vương nghiệp nhà Thục, đồng thời cũng là một thất bại lớn trong đời chánh trị của Khổng Minh. Mã Tắc còn gây nên chia rẽ trong nội bộ nước Thục để tạo thành môi trường cho sự đổ vỡ của nước Thục.

Sự thể như dưới đây:

Lưu Bị đến Ba Thục lập vương nghiệp, chính sách quy tụ nhân tài khi đem ra thực hiện, trên hiện tượng ta thấy có người bốn phương kéo tới, nhưng sự thực chủ lực cán bộ đều chỉ trông cậy vào tập đoàn trí thức vùng Kinh Châu.

Khổng Minh là thủ lãnh tập đoàn Kinh Châu.

Sau khi Lưu Bị chết, thì nhân sự Thục liền chia làm hai phái của tiên chủ và phái của Gia Cát.

Phái tiên chủ với các người cốt cán như: Ngụy Diên, Trương Dực, Vương Bình, Hứa Từ, Tiều Chu, v.v…

Hai phái chống đối nhau.

Phái Khổng Minh giỏi hơn và nắm nhiều quyền hơn, tuy nhiên phái tiên chủ lúc nào cũng hục hặc không chịu và mưu toan giành giật quyền lại.

Các chiến tướng giỏi như Ngụy Diên và Triệu Vân không ưa tập đoàn Khổng Minh nên dùng đủ mọi cách chống đối, ngược lại Khổng Minh cũng luôn luôn thiết kế chấn áp nhóm Diên. Mã Tắc nguyên quán Tương Dương, là một trí thức có hạng của tập đoàn Kinh Châu. Nhờ Khổng Minh nâng đỡ, nên lên chức rất nhanh. Mã Tắc giỏi biện thuyết về quân kế cho nên Gia Cát dụng làm tham quân. Khổng Minh thường cùng Mã Tắc đàm luận thâu đêm.

Năm Kiến Hưng thứ ba, Gia Cát Lượng đem binh bình định phía Nam. Mã Tắc tiễn ra ngoài mười dặm, bày mưu bẩy lần tha Mạnh Hoạch để thu phục nhân tâm.

Theo các sách khác thì đại khái Mã Tắc giỏi như vậy. Nhưng ở Tam Quốc chí diễn nghĩa thì lại có câu: "Mã Tắc là người ngôn quá kỳ thực, không thể dùng làm việc lớn được" của Lưu Bị nói với Khổng Minh.

Sách nào sai, sách nào đúng, Mã Tắc giỏi hay không giỏi, bây giờ chúng ta không thể đoán được.

Nhưng việc Mã Tắc ghi trong nhiều sách đều mang những điểm giống nhau, để chứng dẫn cho ta biết rằng:

a)     Có mâu thuẫn trong nội bộ Thục giữa hai phái Tiên chủ và phái Gia Cát Lượng

b)    Mã Tắc làm mất Nhai Đình khiến cho mâu thuẫn nổ bùng thành tranh chấp trong nội bộ Thục.

c)     Gia Cát có lầm lỗi về việc dùng người, trong hành động quá thiên tư đối với tập đoàn trí thức Kinh Châu, ở đây Gia Cát đã phản lại phương châm: lòng tôi như chiếc cân, không vì người mà nặng nhẹ của ông đã nêu ra.

Năm Kiến Hưng thứ sáu, Gia Cát Lượng xuất binh Kỳ Sơn đánh Ngụy. Lần này, ai cũng nghĩ Ngụy Diên sẽ được lãnh chức tiên phong, nên ai cũng ngạc nhiên khi thấy chức này Khổng Minh lại giao phó cho Mã Tắc.

Để ứng chiến, Ngụy Đế là Tào Sảng (Tuấn?) sai Trương Cáp cầm quân. Hai bên giáp nhau ở Nhai Đình.

Kể về hình thế và lực lượng thì quân Thục chiếm ưu vị vì quân đã đông lại thêm địa hình hiểm trở. Còn quân Ngụy thì quân đã ít lại ở chỗ bất lợi.

Thế mà kết quả thật không ngờ, quân Thục tan vỡ chạy tán loạn, quân Ngụy thừa thắng chiếm Nhai Đình.

Thất bại, đương nhiên lỗi tại Mã Tắc. Theo Tam Quốc chí diễn nghĩa thì nguyên nhân thất bại là tại Mã Tắc không tuân lệnh Thừa Tướng, không nghe can gián của Vương Bình.

Mã Tắc thua rồi Khổng Minh chỉ còn một nước là lui binh. Dư luận ở Thục sôi nổi, phái tiên chủ nhân chuyện Mã Tắc cực lực công kích Gia Cát Lượng. Không thể bênh vực được Mã Tắc nữa, Gia Cát Lượng đành phải đem ra xử. Toàn thể tập đoàn Kinh Châu cũng không chịu và buộc Khổng Minh phải cứu Mã Tắc.

Nhưng tội Mã Tắc đã rành rành. Địa vị Gia Cát Lượng thật hết sức khó khăn.

Công việc chưa ngã ngũ, thì một chuyện động trời xẩy ra. Hướng Lãng, bí thư trưởng của Khổng Minh, nửa đêm giúp cho Mã Tắc vượt ngục. Cuộc vượt ngục không thành công vì bị phái Tiên chủ khám phá. Phái tiên chủ luôn luôn kết tội Mã Tắc có ý đầu hàng Ngụy.

Gia Cát Lượng đành phải gạt lệ chém Mã Tắc và cất chức Hướng Lãng rồi dâng sớ nhận tội sơ suất.

Cũng từ đây Gia Cát Lượng bị tập đoàn Kinh Châu chê bai là nhẫn tâm, đồng thời cũng bị phái tiên chủ chỉ trích là con người tư tâm, nên ông ưu uất thành bệnh nặng.

Ngụy Diên tạo phản và tình hình Ba Thục

Khổng Minh chết ở Ngũ Trượng Nguyên, tang chế chưa xong thì nội bộ đã phát sinh xung đột. Dương Nghi và Ngụy Diên đem binh đánh lẫn nhau. Kết quả Dương Nghi thắng lợi, Ngụy Diên táng mạng. Đời sau chịu ảnh hưởng Tam Quốc Chí diễn nghĩa, lên án kết tội Ngụy Diên là phản loạn. Tính chất truyền kỳ Tam Quốc Chí diễn nghĩa với nghệ thuật quá cao phổ vào các sự kiện như sau lưng Ngụy Diên có xương chồi hình tướng của phản loạn, cẩm nang Khổng Minh trao cho Dương Nghi thách Ngụy Diên, không sao cởi gỡ được.

Ở đây tôi xin nêu lên ít luận cứ, để tìm hiểu sự thực về vụ Ngụy Diên tạo phản.

Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể:

Phí Vĩ đến trại Ngụy Diên, đuổi tả hữu ra ngoài nói:

Canh ba đêm hôm qua Thừa tướng qua đời rồi. Lúc gần mất có căn dặn lại, sai tướng quân dẫn quân đi sau để chống lại quân Tư Mã Ý. Quân ta phải từ từ rút về, không được phát tang. Nay binh phù ở đây, xin tướng quân cất đi cho.

Diên hỏi: Ai coi thay việc cho thừa tướng?

Vĩ nói: Nội là công việc to tát, thừa tướng giao cho Dương Nghi, mật pháp dùng binh thì giao cho Khương Bá Ước, binh phù này là của Dương Nghi đây.

Diên nói: Thừa tướng tuy mất, còn có ta đây. Dương Nghi chẳng qua là một chức Trưởng sử, gánh nổi sao được việc to này. Hắn chỉ nên rước ma về Xuyên an táng để ta cầm quân đánh nhau với Tư Mã Ý, cố cho thành công, có đâu vì một mình thừa tướng mà bỏ mất việc to nhà nước được.

Vĩ nói: Thừa Tướng di chúc lại bảo hãy tạm rút về, không nên trái lời.

Diên nổi giận: Nếu thừa tướng nghe mẹo ta khi xưa thì lấy được Tràng An lâu rồi. Ta nay làm Chinh tây đại tướng quân Nam trịnh hầu, lại thèm đoạn hậu cho Trưởng sử à.

Vĩ nói: Tướng quân nói phải lắm, nhưng cũng không nên khinh động, quân giặc chê cười cho. Vậy để tôi đem lẽ lợi hại bảo Dương Nghi để hắn nhường binh quyền cho Tướng quân. Tướng quân nghĩ sao?

Diên y lời, Phi Vĩ từ về trại lớn, ra mắt Dương Nghi thuật lại chuyện đó.

Nghi nói: Thừa tướng lâm chung có mật bảo ta rằng Ngụy Diên tất sinh bụng kia khác. Ta cho binh phù ra sai, là muốn dò bụng hắn đấy thôi. Nay quả nhiên như lời Thừa Tướng thật, ta sai Bá Ước đoạn hậu cũng xong.

Bởi thế Dương Nghi đưa ma về trước, Khương Duy đi giữ mặt sau tuân lời Khổng Minh từ từ rút về. Ngụy Diên ngồi chờ trong trại, lâu không thấy Phi Vĩ trở lại, trong bụng nghi hoặc, liền cho Mã Đại dẫn vài tên kỵ dò xem tin tức thế nào. Mã Đại về bảo rằng: Khương Duy tổng đốc hậu quân, còn tiền quân lui về trong cửa hang cả rồi.

Diên nổi giận nói: Quân hủ nho dám lừa dối ta. Thế nào ta cũng giết được mới nghe

Diên ngoảnh lại bảo Mã Đại rằng: Ông có chịu giúp tôi không?

Đại nói: Tôi vốn cũng ghét Dương Nghi, xin vui lòng giúp Tướng quân.

Diên mừng lắm, lập tức nhổ trại, kéo quân bản bộ về phía nam.

Tam Quốc Chí diễn nghĩa cho rằng mầm loạn bắt đầu từ sau cái chết của Vũ Hầu, thật ra xung đột Ngụy, Dương âm ỷ tích oán đã từ lâu, cái chết của Vũ Hầu chẳng qua chỉ là một hoàn cảnh, một cơ hội để xung đột Ngụy, Dương bùng nổ thành tranh chiến.

Ngụy Diên vốn là một viên tướng lãnh đạo bộ khúc đi theo Lưu Bị, nhân vì lập được nhiều chiến công mà lên chức lớn. Lưu Huyền Đức chiếm xong Hán Trung quay trở về Thành Đô, nên cần tuyển lựa người trấn thủ Hán Trung. Ai ai cũng tiến cử Trương Phi và chính Trương Phi cũng tự nguyện. Nhưng vua Thục lại chọn Ngụy Diên làm cho mọi người ngạc nhiên, bởi vì sau Trương Phi còn có Triệu Tử Long là những công thần thân cận với vua Thục, đồng thời cũng là tướng tài, chứ đâu đã đến lần Ngụy Diên. Việc giao trọng trách trấn thủ Hán Trung cho Ngụy Diên chứng tỏ tài lược của người này vượt cả Trương Phi, Triệu Vân lẫn Vân Trường. Tài lược Ngụy Diên đã rõ ràng trong kế hoạch mà Diên hiến cho Gia cát Lượng lúc sửa soạn đem quân bắc phạt, xin cho mình đánh úp Tràng An. Nhưng Khổng Minh không nghe, cho rằng quá ư mạo hiểm. Nếu nghe kế Diên chắc Khổng Minh không bị vố bại sâu cay thất thủ Nhai Đình do viên tướng mà Lưu Bị xét đoán là người nói quá sự thật tên Mã Tắc.

Căn cứ vào những ghi chép sử sách khác thì lúc Vũ hầu bị trọng bệnh, bèn giao phó cho Ngụy Diên xử lý hết các việc của mình. Diên và Dương Nghi vốn vẫn hiềm thù nhau. Nghi sợ Diên nắm quyền Thừa Tướng sẽ hại mình, liền phao tin Ngụy Diên làm phản, định đầu hàng quân Bắc. Nghi được Phí Vĩ, Tưởng Uyển về hùa nên đốc quân đánh úp Diên. Diên thua chạy bị Nghi giết chết.

Tam Quốc Chí diễn nghĩa và những thuyết thấy trong các sách sử khác đều có những điểm đáng ngờ, không chắc bên nào là thực.

Gia Cát Lượng định thoái quân tất nhiên phải cho cả Ngụy Diên biết chứ sao lại chỉ báo riêng với Phí Vĩ và Dương Nghi? Nếu bảo là nghi Ngụy Diên, sao Gia Cát Lượng vẫn cho Diên đi hộ tống đoạn hậu để bảo vệ cuộc rút lui.

Gia Cát Lượng giao phó toàn quyền bính cho Ngụy Diên thì toàn bộ lực lượng sẽ nằm gọn trong tay Diên, Dương Nghi là một vị quan văn, lấy gì mà đánh giết được Ngụy Diên?

So sánh những điểm vô lý ta có thể đưa ra một giả thuyết mà tìm đến gần sự thật hơn là cái chết của Khổng Minh đột ngột quá nên ông không kịp đặt kế hoạch lui quân. Bọn Dương Nghi, Phí Vĩ âm mưu với nhau kế hoạch này.

Diên chống lại Nghi và Vĩ. Nghi, Vĩ và Diên đều cố về vận động ở Thành Đô, nhưng Diên cô lập vì Tưởng Uyển ủng hộ Nghi, Vĩ. Quân lính theo Diên thấy Diên kém thế liền bỏ Diên. Ít quân, Diên bị Nghi giết. Đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa người ta nhận thấy những đoạn:

Tưởng Uyển tâu rằng: Cứ ý tôi thì Dương Nghi tuy tính khí hẹp hòi, không dung người, nhưng đến việc trù tính lương thảo, tham tán quân cơ cũng giúp được thừa tướng nhiều lắm. Thừa tướng lâm chung phó thác cho việc lớn, quyết không phải là người làm phản. Ngụy Diên xưa nay cậy có công, khinh người, Dương Nghi không chịu nên Ngụy Diên vẫn ghét. Nay thấy Nghi được cầm binh quyền, Diên ganh tị mới đốt đường vu cáo Nghi làm phản. Tôi xin đem già trẻ cả nhà bảo cứ cho Dương Nghi không phải là người làm phản, chớ không dám nhận cho Ngụy Diên.

Hà Bình được lệnh Dương Nghi kéo quân đến núi Sà Sơn đánh Ngụy Diên. Gặp Diên, Bình quát to mắng rằng: Phản tặc Ngụy Diên.

Diên cũng mắng lại: Mày giúp Dương Nghi làm phản lại dám mắng tao à?

Bình cầm roi trỏ sang đám quân Ngụy Diên nói lớn:

-         Quân sỹ chúng mày toàn là người Tây Xuyên, có cha mẹ vợ con anh em ở trong ấy cả. Khi thừa tướng còn, không bạc đãi gì chúng mày. Nay chớ nên giúp quân phản tặc, nên về cả quê hương mà chờ đợi ơn trên ban thưởng.

Quân sỹ nghe xong reo rầm lên một tiếng rồi tản đi quá nửa.

***

Vậy có thể kết luận vụ Ngụy Diên là một vụ tư thù, một mâu thuẫn chính trị nội bộ vì tranh quyền sau cái chết quá bất ngờ của Gia Cát Khổng Minh.

Kể từ năm Thái Hòa thứ hai, Khổng Minh không ngừng xuất binh đánh Ngụy. Năm Thái Hòa thứ hai tức là năm thứ chín của Tam Quốc. Khổng Minh mất vào năm thứ mười của Tam Quốc. Nhà Thục diệt vong vào năm thứ bốn mươi bốn của Tam Quốc. Như vậy thì Thục Hán còn tồn tại thêm 29 năm sau khi Gia Cát chết. Khoảng 29 năm đó, chính quyền Thục Hán ở trong tay Tưởng Uyển 12 năm, Phí Vĩ bảy năm và 10 năm sau cùng do Khương Duy. Tưởng Uyển, Phí Vĩ không xuất binh phạt Ngụy lần nào, chỉ có Khương Duy mấy lần mưu toan, nhưng bị Phí Vĩ gàn trở. Phí Vĩ chết, Khương Duy mới thực hiện được mộng tưởng, tuy nhiên không những Duy không thành công, trái lại còn gây thêm nhiều nỗi khó khăn trong nước. Người đương thời cũng như hậu thế đều đổ lỗi cho Khương Duy đã gây can qua làm hại Thục Hán. Thật oan cho Khương Bá Ước, bởi vì binh lực Tây Thục so với nước Ngụy thua kém rất xa. Ngay lúc sinh thời Gia Cát Lượng, sở dĩ có năm lần phạt Ngụy chính là vì cần phải áp dụng chiến lược dĩ công vi thủ, muốn bảo vệ ta nên tấn công địch. Đời Tưởng Uyển, Phí Vĩ có thể yên vì nội bộ Ngụy chưa ổn định. Khi họ Tư Mã cướp quyền họ Tào rồi, điều khiển Đặng Ngải, Chung Hội tấn công Tây Thục thì với chín vạn quân Tây Thục không chống đỡ ba mặt với quân số nước Ngụy gần gấp ba. Lẽ ra Tưởng Uyển và Phí Vĩ phải theo kế hoạch Khương Duy tấn công Ngụy giữa lúc tình hình chính trị nội bộ nước Ngụy đang rối loạn mới đúng. Thục Hán mất chính là tại chính sách cầu an của Tưởng Uyển và Phí Vĩ. Giả sử Ngụy Diên chưa chết, chính sách phạt Ngụy được kiên quyết duy trì chắc tình trạng đã khác đi nhiều.

Vũ Tài Lục

Nói Chuyện Tam Quốc

- 11 -

TÀO THỰC

“Tài của trời đất có ước một hộc. Tào Tử Kiến chiếm chừng tám đấu. Ta một đấu. Còn một đấu nữa thiên hạ chia nhau.”

Đó là lời Tạ Linh Vận nói về Tào Thực.

Tào Thực khiến độc giả Tam Quốc Chí chú ý, nhân vụ bị Tào Phi trách tội, bắt làm thơ rồi mới tha. Cũng từ lúc này Tào Thực thực sự bị đẩy tới thế can dự vào chính trị nhà Ngụy. Nội bộ nhà Tào sở dĩ không rối loạn ngay chính là nhờ vào tính tình đôn hậu nhân ái của Tào Thực.

Tháo trong giờ phút lâm chung cho đòi bọn Tào Hồng, Trần Quần, Giả Hủ, Tư Mã Ý cùng đến cả trước giường nằm, dặn dò việc mai sau:

Cô tung hoành trong thiên hạ hơn ba mươi năm, bao nhiêu kẻ cường bạo trừ sạch cả rồi, chỉ còn Tôn Quyền ở Giang Đông, Lưu Bị ở Tây Thục. Nay bệnh Cô nguy cấp lắm, không bàn được nhiều nữa, chỉ đem việc nhà nhờ cậy các ngươi mà thôi. Con trưởng Cô là Tào Ngang do Lưu thị sinh ra, chẳng may mất sớm ở Uyển Thành. Biện Thị sinh được bốn con Phi, Chương, Thực, Hùng. Cô xưa nay yêu con thứ ba là Thực nhưng nó hay huênh hoang, không được thực thà, lại ngông nghênh rượu chè cho nên không lập làm thế tử. Thằng thứ hai là Chương có khỏe mà chẳng có khôn, thằng thứ tư là Hùng thì lắm bệnh khó thọ. Chỉ con trưởng là Phi có bụng thành thực, kính cẩn có thể nối nghiệp Cô. Các người nên giúp đỡ nó.

Sở dĩ Tháo bỏ hẳn ý định lập Tào Thực kế vị mình, vì những lý do: Tháo đánh giá người trên khả năng chính trị, không đánh giá trên khả năng văn chương. Tào Thực chỉ có khả năng văn chương mà không có khả năng chính trị. Riêng về phần Tào Thực, ông không hề có ý tranh chấp với Tào Phi giành giật đế vị như các sử gia đời sau vẫn lầm tưởng. Xem như vụ Tào Tháo sai Thực đi cứu Tào Nhân bị Quan Vũ vây hãm, Thực uống rượu say túy lúy quên mất, đã biết Thực chẳng thiết gì đến chính trị. Nếu có những sự rối loạn xảy ra chăng nữa thì nguyên động lực không phải ở dã tâm chính trị của Thực, mà do những người định dùng Thực để chống tập đoàn chính trị Tào Phi. Tỉ dụ: Bọn Đinh Nghi, Đinh Dị xui Thực chống Phi, Phi đem giết hết.

Ở thời đại Tam quốc con người không cầm quân, không âm mưu chính trị như Tào Thực mà vẫn được mọi người chú ý, tại sao?

Đó là vì sức mạnh tư tưởng và văn chương Tào Thực đã ảnh hưởng đến phần tử trí thức đương thời.

Quan trọng nhất là Tào Thực cực lực chống cảnh tương tàn tương sát, xâu xé phân tranh.

Cành đậu đun hạt đậu

Hạt đậu khóc hu hu

Cùng sinh từ một gốc

Thui nhau nỡ thế ru.

Thất vọng với thực tế đầy mưu mẹo quỷ quyệt, xương máu binh lửa, văn chương Tào Thực liền bỏ tính chất phác thực, nhập thế, mong xoay chuyển đổi đời mà đi vào con đường siêu việt, xuất thế.

“Trong sầu thảm, lang thang bên đường hình dung tiều tụy, gặp Huyền Linh tiên sinh hỏi: Nhà ngươi ốm đau sao đến nỗi tấm thân tàn tạ thế? Tôi đáp: Thưa tiên sinh bệnh buồn. Huyền Linh nói: “Buồn là cái gì? mà làm cho người đau ốm?” Tôi trả lời: “Sầu là một vật không gọi nó tự đến, đuổi nó không đi. Tìm không biết nó ở đâu. Cầm nó không đầy nắm tay. Đi lại chẳng ra phương hướng nào, làm náo loạn tinh thần con người. Lúc ăn nó làm nghẹn họng, chất nó độc như cường toan. Cười với nó, nó không chịu. Đem đàn ca tới, nó càng làm cho bi thương. Không thứ thuốc nào chữa khỏi. Tiên sinh chẳng hay có kế chi cứu tôi thoát tay nó chăng?”

Huyền Linh tiên sinh đổi nét mặt nói: Nhà ngươi vừa nói với ta về hình dạng cái sầu. Ta tuy không rõ ai sinh ra nó, nhưng ta biết chỗ nó ẩn.

Chẳng qua là tại nhà ngươi chìm đắm trong lưu tục, luyến hoặc với danh vị, thèm khát vinh hoa cho nên ngồi đứng không yên, ăn không ngon, lúc nào cũng vội vội vàng vàng, khiến cho chính khí điêu tàn. Nay ta cho nhà ngươi thang thuốc vô vi, lấy sự đạm bạc làm thang. Rồi ta dùng mũi kim huyền hư, bằng phương pháp thuần phác nhể nó ra. Sau đấy ta cho ngươi yên nghỉ trên chiếc giường tịch mịch. Ta đem cho nhà ngươi những bầu bạn mới, nhà ngươi sẽ cùng với Vương Kiến đi ngao du, cùng Hoành Công ca vịnh, cùng Trang Tử dưỡng thần.

Nghe xong tôi bỗng thấy mồ hôi ướt đầm mình mẩy, phút chốc sầu bi đi đâu hết cả. ”

Viết thế thôi, nhưng Tào Thực không bao giờ hết buồn, hết bất mãn với hiện thực, ông ôm mãi mối hận tới tận ngày chết mới ngoài bốn mươi tuổi. Tào Thực thèm khát cuộc sống tự do và chán ngấy những ràng buộc cấm đoán gây ra bởi tình hình chính trị khốc liệt đời Tam quốc. Ông cũng muốn vượt ra khỏi thân phận vương hầu mà không bị thác sinh vào đó. Tâm sự ấy ông gửi vào những bài thơ dưới đây.

Tạp thi (Bài thứ 2)

Cỏ bồng rời thân cây

Theo gió chuyển như bay.

Thình lình trận gió lốc,

Đưa cỏ bồng lên mây.

Vút vút lên cao mãi,

Đường lên trời dài thay.

Khác nào du khách nọ,

Ra trận quên thân này.

Mặc không ấm xác thịt,

Ăn không no dạ dày.

Đi, ai đi không ngại,

Lo hão sợ thân gầy.

Sầu cao vầng nguyệt giãi,

Luồng sáng vẩn vơ trôi.

Có một nàng trên đó,

Than phiền nức nở hoài.

Than phiền ai đó ta?

Vợ đãng tử là “tôi”

Mười mấy năm chàng vắng,

Kiếp thân thiếp lẻ loi.

Chàng như hạt bụi nhẹ,

Thiếp tựa nắm bùn hôi.

Chìm, nổi thân, hình khác,

Bao giờ lại sánh đôi

Gió tây nam muốn những

Cuốn thốc vào lòng ai.

Lòng ai không mở rộng,

Thiếp hết chỗ nương rồi.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Thêm những rắc rối chính trị, những nghi ngờ của Tào Phi càng làm cho Tào Thực khó thở khó sống. Tâm trạng của Tào Thực đối với hoàn cảnh chung quanh chẳng khác gì tâm trạng Kafka đối với gia đình.

Moi, qui ai vécu le plus souvent dans la dépendance, j ai une soif infinie d indépendance et de liberté dans tous les domaines. Mais enfin, je suis issu de mes parents, je suis lié à eux et à mes sœurs par le sang. Je les poursuive aussi de ma heine...

Mais, à d autres moments, je me rappelle qu ils sont mes parents... J ai tremblé devant eux et tremble maintenant encore. Ils me dupent, mais comme je ne peux pas m insurger contre la loi naturelle sans devenir fou, je retombe dans la haine, toujours dans la haine.

Tính chất kỳ lệ nhưng không có kênh kiệu như Đông Hán, trong văn chương, Tào Thực đã đặt ra cho phần tử trí thức vấn đề tự do giải phóng văn chương khỏi chính trị. Sau này Lý Bạch, Đỗ Phủ, Lý Thương Ẩn ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của Tào Thực cả. Nho đạo nẩy nòi vô vi, Tào Thực báo hiệu hệ thống Nho băng hoại trên chính trị, sang đời Tấn đạo Lão quật khởi đem tư tưởng Phật giáo du nhập Trung Quốc, gây nên tình trạng Nam Bắc phân tranh và loạn Ngũ Hồ.

Vũ Tài Lục

Nói Chuyện Tam Quốc

- 12 -

TƯ MÃ Ý CHIẾM NGÔI NGỤY

“Tam Quốc tận quy ư Tư Mã Ý (Tam Quốc cuối cùng thu vào tay Tư Mã Ý). Một sự kiện lịch sử biến thành một ngạn ngữ dân gian ý nói trai cò tranh nhau ngư ông đắc lợi. Khổng Minh, Khương Bá Ước xuất binh năm sáu lần hao người tốn của, hai chục năm mà không lật đổ được nhà Ngụy. Tư Mã Ý phí chẳng bao hơi sức, chỉ một buổi cũng đã cướp toàn bộ cơ nghiệp họ Tào trong tay. Đó là một quy luật lịch sử, đó là nguyên nhân tại sao lịch sử phải tiếp diễn như thế (Pourquoi les choses se sont passées ainsi et non autrement).

Tào Tháo chết chừng một năm, con là Ngụy Văn Đế liền cướp ngôi nhà Hán. Năm sau Lưu Bị tại Tây Xuyên tự xưng Hoàng Đế. Tôn Quyền trước sau vẫn xưng là Ngô Vương. Thiên hạ phân thành thế Tam Quốc. Nước Đông Ngô rộng không kém gì nước Ngụy nhưng so sánh về mặt văn hoá, kinh tế Ngô kém Ngụy xa, Tây Thục lại càng thua sút Ngô, Ngụy xa nữa.

So sánh sinh lực lượng chênh lệch như vậy, thế mà Tam quốc kéo dài tới hơn mười năm vì mỗi nước đều có những vấn đề to tát riêng tại khu vực của mình phải giải quyết trước. Ngoài ra nước Ngô nhờ sông rộng bảo vệ, Thục nhờ đầy (đồi?) núi biển cả che đỡ trong khi Ngụy không giỏi thuỷ chiến để đánh Ngô mà đánh Thục không thể thắng ngay được, lại sợ đằng sau Ngô đánh úp.

Ngụy Đế ở ngôi cao 7 năm thì mất. Con là Tào Tuấn lên kế vị đặt hiệu là Ngụy Minh Đế. Ngụy Minh Đế hoang dâm xa xỉ, chính trị trong nước huỷ hoại. Tại Liêu Đông, Công Tôn Ngôn nổi dậy làm phản. Minh Đế nhờ Tư Mã Ý đi đánh dẹp. Nhờ trận giặc Liêu Đông, toàn bộ quân đội quy phụ Tư Mã Ý. Minh Đế làm vua 13 năm bệnh nặng qua đời, ngôi tôn để lại cho Tào Phương hãy còn nhỏ tuổi.

Đến đây, chính cục nhà Ngụy chịu một biến cố rất lớn, khiến Ngụy mất quyền vị. Nội chính Ngụy quốc lúc này đã phân chia hẳn thế lực với 2 khuynh hướng chính trị đối lập nhau, phe Tào Sảng chủ trương văn trị ngồi yên hưởng thái bình, có Lý Thắng, Dĩnh Bật, Đặng Dương, Tất Phạm và Hoàn Phạm (người đời khen Hoàn Phạm là túi khôn).

Phe chủ trương võ trị có Tư Mã Ý và các tướng lãnh quân đội, đòi tiếp tục cuộc thống nhất đất nước bằng võ lực. Tào Sảng dòng họ Tôn Thất được vua và phe trung lập ủng hộ nên keo đầu, Sảng thắng thế, đẩy Tư Mã Ý lên chức Thái Phó rồi chiếm lấy binh quyền trao cho người thân của mình là Tào Hy. Tư Mã Ý phải cáo ốm về nhà. Khuynh hướng văn trị của nhóm Tào Sảng đề ra không đúng thời vì Thục, Ngô vẫn luôn luôn đe doạ chiến tranh, cho nên chẳng bao lâu khuynh hướng đó bị mọi người ngờ vực thờ ơ. Tào Hy, Tào Sảng điều khiển quân đội, quân đội bất phục thành thử phe Tư Mã Ý chống lại tập đoàn Tào Sảng. Tư Mã Ý dựa luôn vào thế lực sẵn có trong tay lật đổ luôn cả ngôi vua Ngụy.

Vụ Tư Mã Ý cướp ngôi nhà Ngụy, lật đổ chính quyền Tào Sảng là một hiện tượng chuyển đổi chính quyền bằng bạo lực (violent transfer of power). Nó khác với việc Tào Tháo ở điểm:

Việc Tào Tháo làm là một cuộc cách mạng chống quân phiệt Đổng Trác, Lý Thôi, Quách Dĩ được thực hiện bằng lực lượng quần chúng.

Việc Tư Mã Ý làm là một cuộc cách mạng cung đình (palace révolution) thực hiện bằng lực lượng quân đội do các tướng lãnh chủ mưu (Junta).

Vụ Tư Mã Ý cướp ngôi nhà Ngụy có điểm rất đáng chú ý là phần kỹ thuật rất tinh vi, và những lỗi lầm của Tào Sảng là những lỗi lầm muôn đời của các chính trị gia, thuộc bất cứ thế hệ nào, dù Đông hay Tây. Ở đây chúng ta thảo luận về kỹ thuật đoạt thủ chính quyền của họ Tư Mã. Trước hết hãy đọc kỹ những đoạn cần thiết trong hai hồi 103 và 107, Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể:

Tư Mã Ý, Tào Sảng phò Thái Tử Tào Phương lên ngôi Hoàng Đế. Sảng rất trọng vọng Tư Mã Ý, phàm việc to đều hỏi Ý trước. Sảng tên tự là Bá Chiêu, từ thuở nhỏ ra vào trong cung, Minh Đế (tức cha Tào Phương) thấy người cẩn thận đem lòng yêu mến lắm. Sảng có năm trăm khách, môn hạ đáng kể có Hoàn Phạm tự Nguyên Trực nhiều mưu trí, người đời khen là trí nang (túi khôn), Hà Yến, Đặng Dương, Lý Thắng, Đinh Bật, Tất Phạm.

Hà Yến nói với Tào Sảng rằng: Đại quyền của chủ công, chớ cho người khác can thiệp đến mà để lo về sau.

Sảng nói: Tư Mã Công cùng với ta chịu lời tiên đế thác cô, nỡ nào ta bỏ người ấy.

Yến nói: Khi xưa tiên công (Tào Chân) cùng Trọng Đạt đánh Thục vì bị hắn lấn át, nhân thế mà chết (hồi thứ 100, Tam Quốc Chí diễn nghĩa nói Tào Chân chết uất vì lá thư của Khổng Minh gửi đến nhục mạ). Chủ công sao không xét việc đó?

Sảng nghĩ ra, cùng với các quan thương nghị, rồi tâu với Ngụy chủ rằng: Tư Mã Ý công cao đức nặng, nên gia chức làm thái phó.

Phương nghe lời. Từ đó binh quyền về cả tay Tào Sảng. Sảng sai em là Tào Hy làm Trung lĩnh quân, Tào Huấn làm võ vệ tướng quân, Tào Sảng làm tản kỵ thường thị. Mỗi người dẫn ba ngàn quân ngự lâm tuỳ tiện ra vào chốn cung cấm. Lại dùng Hà Yến, Đặng Dương, Dĩnh Bật làm thượng thư, Tất Phạm làm tư lệnh hiệu uý. Lý Thành làm Hà Nam Doãn. Năm người ấy ngày đêm bàn việc với Tào Sảng. Tân khách nhà Tào Sảng mỗi ngày mỗi nhiều.

Tư Mã Ý thấy vậy, thác có bệnh không ra đến ngoài. Hai con cũng từ chức về nhà.

Tào Sảng mỗi ngày cùng với bọn Hà Yến uống rượu làm vui. Phàm các đồ dùng, áo sống, không khác gì của triều đình. Những đồ quý báu nhất lấy làm của riêng, còn thừa mới nộp vào cung. Trong phủ chứa rất nhiều con gái đẹp. Quan hoàng môn là Trương Dương xiểm nịnh Tào Sảng, kén lấy mười tám nàng hầu của tiên đế đưa vào trong phủ. Sảng lại kén ba bốn chục con gái nhà tử tế, biết hát múa lập ra một đội nữ nhạc trong phủ. Lại dựng lên lầu cao gác chạm; đúc các đồ vàng bạc; dùng hơn một trăm thợ khéo, ngày đêm chế tạo đồ dùng.

Hà Yến nghe tin Quản Lộ ở Bình Nguyên tinh nghề thuật số, cho mời đến bàn nghĩa kinh dịch. Bấy giờ Đặng Dương cũng cùng ngồi chơi đó, hỏi Lộ rằng:

Ông tự cho là giỏi Dịch, mà nói không động đến chữ nghĩa kinh Dịch là làm sao.

Lộ nói: Đã gọi là giỏi Dịch, thì không phải nói động đến Dịch.

Yến cười tán thêm vào rằng: Thế mới gọi là lời trọng yếu không cần phải nhiều!

Nhân hỏi Lộ rằng: Ông bói cho tôi một quẻ, xem có làm đến tam công được không? Tôi lại mộng thấy vài mươi con ruồi xanh đậu trên mũi, đó là điềm gì?

Lộ nói: Ngày xưa Nguyên Khải giúp vua Thuấn, Chu công giúp nhà Chu, cùng có đức tốt mà được hưởng phúc. Nay quân hầu ngôi cao quyền trọng nhưng người mến đức thì ít, mà kẻ sợ oai thì nhiều, đó không phải là lối cầu phúc. Vả lại, mũi là cái núi, núi cao mà không đổ, thì mới giữ được phú quý. Nay ruồi nhặng là giống hôi bẩn, lại đậu lên trên, thế là ngôi cao phải đổ, khá sợ lắm thay! Xin quân hầu bớt chỗ nhiều thêm chỗ ít, điều gì phi lễ chớ làm. Như thế ngôi tam công mới đến tay mà đàn nhặng xanh mới xua đi được.

Đặng Dương giận, gắt rằng:

Đó là lời lão sinh thường đàm, ra quái gì.

Lộ nói: Lão sinh đã thấy thì không sinh, thường đàm đã thấy thì không đàm!

Nói đoạn, rũ tay áo đứng dậy ra đi. Hai người rằng: Thực là đồ cuồng sĩ.

Lộ về nhà, thuật lại cho cậu nghe. Cậu giật mình nói: Hà, Đặng hai người đang quyền thế hống hách, sao mày dám trêu chọc đến họ?

Lộ nói: Tôi cùng với người chết nói chuyện có ngại gì nữa.

Cậu hỏi tại sao, thì Lộ nói: Đặng Dương, gân không bó được xương, mạch không giữ được thịt, ngồi đứng ngả nghiêng hình như không có chân tay, đó gọi là tướng quỷ tảo. Hà Yến không tươi được sắc mặt, tinh thần bất định, dáng tựa cây khô, đó là tướng quỷ u. Hai người này nay mai tất có vạ diệt, mình can gì mà sợ?

Người cậu mắng Quản Lộ nói càn, rồi đi.

Tào Sảng thường hay cùng với bọn Hà Yến, Đặng Dương ra ngoài săn bắn. Em là Tào Hy can rằng:

Uy quyền của anh to lắm, mà cứ hay đi chơi săn bắn, nếu có người mưu hại thì làm thế nào?

Tào Sảng mắng rằng:

Binh quyền trong tay ta, còn sợ gì ai nữa.

Tư Nông là Hoàn Phạm cũng can nhưng Sảng cũng không nghe.

Bấy giờ Ngụy chủ Tào Phương đổi năm Chính Thủy thứ mười là năm Gia Bình thứ nhất. Tào Sảng một mực chuyên quyền, không biết bệnh Trọng Đạt hư thực ra làm sao. Bữa ấy nhân Ngụy chủ cất Lý Thắng lên làm Thứ sử ở Kinh Châu. Sảng cho Lý Thắng đến từ biệt Trọng Đạt, nhân để dò xem ý tứ thế nào. Lý Thắng đến phủ Thái Phó, có lính canh cửa vào báo với Tư Mã Ý. Ý bảo với hai con rằng:

Đây là Tào Sảng sai đến dò xem bệnh ta thực hay giả đây.

Lập tức bỏ mũ, để tóc rũ rượi, trèo lên giường ngồi dựa vào cái chăn và sai hai nàng hầu nâng đỡ, rồi mới sai mời Lý vào phủ.

Lý Thắng đến trước giường nói rằng:

Lâu nay không được hầu Thái Phó, không ngờ ngài yếu đau thế này. Nay thiên tử sai tôi làm thứ sử Kinh Châu, xin đến lạy từ Thái Phó.

Ý giả điếc nói:

Tinh Châu gần phương Bắc, ra đó giữ gìn cho khéo.

Tôi được cử làm thứ sử ở Kinh Châu, không phải Tinh Châu.

Ý cười nói: Người ở Tinh Châu lại à?

Thắng nói: Kinh Châu ở Hán Thượng.

Ý lại cười ha hả mà rằng: Người ở Kinh Châu lại đây à?

Thắng nói: Thái Phó sao ngài yếu thế?

Tả hữu nói: Thái phó điếc đấy.

Thắng mượn bút viết mấy chữ đệ lên.

Ý xem xong cười rằng: Ta lâu nay mệt lắm, điếc tai nghe không rõ. Chuyến này có đi phải giữ gìn.

Nói đoạn lấy tay trỏ vào miệng, ra hiệu muốn uống nước. Thị tỳ dâng chén nước nóng. Ý hớp miệng vào chén nước, nước đổ ướt cả ra vạt áo. Ý hậm hực trong cổ, làm ra tiếng nghẹn rồi nói rằng:

Ta suy nhược lắm, sớm tối chưa biết chết lúc nào. Ta có hai con chẳng ra gì, nhờ cậy người dậy bảo đỡ ta. Người có về ra mắt đại tướng quân, nhờ nói với tướng quân trông nom đỡ hai con ta thì may lắm.

Nói đoạn, nằm lăn ra trên giường, thở hồng hộc một lúc.

Lý Thắng cáo từ Trọng Đạt, về ra mắt Tào Sảng, thuật lại hết cả tình hình như thế.

Sảng mừng nói: Lão này chết thì ta không còn lo gì nữa.

Tư Mã Ý thấy Lý Thắng đi rồi, đứng dậy bảo với hai con rằng:

Lý Thắng chuyến này về báo tin, Tào Sảng tất không nghi gì ta nữa, đợi khi nào y ra thành săn bắn thì mới đồ được.

Không mấy bữa, Tào Sảng mời Ngụy chủ Tào Phương ra yết lăng Cao Bình tế tự tiên đế. Quan viên lớn nhỏ theo ra cả.

Sảng dẫn ba anh em và bọn tâm phúc Hà Yến, cùng quân Ngự lâm hạ giá ra thành.

Tư Nông Hoàn Phạm can rằng:

Chủ công coi giữ cầm (cấm?) binh, không nên anh em cùng đi cả, phòng trong thành có biến thì làm thế nào?

Sảng mắng rằng: Ai dám làm loạn, chớ nói càn!

Tư Mã Ý thấy Tào Sảng ra thành rồi, mừng lắm lập tức gọi các thủ hạ cũ và mấy người gia tướng, dẫn hai con lên ngựa, đến thẳng triều đình, mưu giết Tào Sảng.

Ý vào nơi công đường, sai tư đồ là Cao Nhu lĩnh chức Đại tướng quân trước hết đến giữ dinh Tào Sảng. Lại sai thái bộc là Vương Quán quyền chức Trung lĩnh quân giữ dinh Tào Hy. Ý dẫn các quan vào hậu cung tâu với Quách Thái Hậu việc Tào Sảng bỏ lời tiên đế thác cô, gian tà loạn nước, xin trị tội.

Quách Thái Hậu thất kinh nói:

Thiên tử ra ngoài chưa về thì làm thế nào?

Ý tâu rằng: Tôi đã dâng biểu tâu với Thiên tử, có mẹo giết được gian thần, thái hậu chớ ngại.

Thái hậu sợ hãi, phải theo lời. Ý sai thái uý là Tưởng Tế, thượng thư lệnh là Tư Mã Phu cùng với mình viết biểu, phái hoàng môn quan mang ra ngoài thành tâu với Ngụy chủ.

Ý tự dẫn đại quân giữ kho khí giới.

Ý gọi Hứa Doãn, Trần Thái đến bảo rằng:

Hai người ra gặp Tào Sảng, nói Thái phó không có bụng nào hại đâu, chỉ muốn tước bớt binh quyền của anh em họ đấy thôi.

Lại đòi thêm quan Điện trung hiệu uý là Doãn Đại Mục đến, sai Tưởng Tế viết thư, cho Đại Mục cầm ra đưa cho Tào Sảng. Ý dặn rằng:

Người thân thiết với Tào Sảng, nên giúp việc này. Người có ra mắt Tào Sảng thì nói rằng ta với Tưởng Tế trỏ sông Lạc Thuỷ ăn thề, chỉ vì việc binh quyền, chớ không có bụng nào cả.

Nói về Tào Sảng, đang mải săn bắn, huýt gió thả chim. Sực có tin báo trong thành nổi loạn, thái phó có biểu văn đưa đến. Sảng giật nảy mình, suýt nữa ngã ngựa.

Ngụy chủ Tào Phương nghe xong, bảo với Tào Sảng rằng:

Thái phó nói vậy, ngươi khu xử làm sao?

Tào Sảng cuống cả người lại, bảo với hai em rằng:

Làm thế nào bây giờ?

Hy nói: Em đã can anh mãi, anh chẳng nghe cho, mới đến nỗi này. Tư Mã Ý quỷ quyệt vô cùng. Khổng Minh còn không đánh nổi, huống chi anh em chúng ta. Chi bằng tự trói mình về chịu tội, cầu khỏi cái chết là hơn.

Một lát, tham quân Tân Tệ, tư mã Lô Chi đến. Sảng hỏi chuyện.

Hai người nói: Trong thành vây kín như rào sắt, thái phó dẫn quân đóng ở trên cầu sông Lạc, không tài nào mà về được đâu. Nên định kế lớn đi!

Đang nói thì Tư Nông Hoàn Phạm tế ngựa chạy đến, Phạm nói: Thái phó đã khởi biến rồi, Tướng quân sao không rước thiên tử ra Hứa Đô, khởi binh ngoài mà đánh Tư Mã Ý?

Sảng nghe nói phân vân chưa quyết, chỉ ứa nước mắt mà khóc.

Phạm nói: Từ đây ra Hứa Đô, chẳng qua nửa đêm thì đến nơi. Lương thảo trong thành đủ chi được vài năm. Vả lại, quân mã của chủ công ở ngay Quan Nam gần đấy, gọi một tiếng là đến. Ấn Đại tư mã tôi đã mang ra đây, chủ công nên làm cho kịp, nếu chậm thì hỏng mất.

Sảng nói: Các người chớ thôi thúc lắm, để ta nghĩ kỹ xem đã.

Được một lát, thì Hứa Doãn, thượng thư lệnh Trần Thái đến. Hai người nói:

Thái phó chỉ vì việc tướng quân quyền to quá, muốn tước bớt binh quyền đi chớ không có bụng gì đâu. Tướng quân nên về ngay trong thành cho sớm.

Sảng nín lặng, chẳng nói gì. Một lát lại có Doãn Đại Mục đến nói: Thái phó trỏ sông Lạc phát lời thề, tịnh không có bụng nào. Có thư của Tưởng Thái uý ở đây. Tướng quân nên bỏ binh quyền về ngay tướng phủ cho.

Sảng tin là thực.

Hoàn Phạm lại nói: Việc đã cấp rồi, chớ nghe người nói mà đâm vào đất chết!

Đêm hôm ấy Tào Sảng vẫn không quyết bề nào, tay cầm thanh gươm thở ngắn thở dài cho đến sáng, lúc nào cũng nước mắt chạy vòng quanh mà vẫn hồ nghi không biết nghĩ ra sao.

Hoàn Phạm vào trướng giục rằng: Chủ công nghĩ suốt cả đêm mà vẫn chưa quyết ư?

Sảng vất thanh gươm xuống đất, than rằng:

- Ý ta không muốn khởi binh, ta tình nguyện bỏ quân, chỉ làm một tên phú ông là đủ.

Phạm ra khỏi trướng nói:

- Tào Tử Đan khoe mình trí mưu, nay được ba con đụt như chó lợn cả.

Kết cuộc Tào Sảng đem ấn thụ nộp cho Tư Mã Ý. Quân sĩ thấy vậy bỏ rơi Sảng. Tư Mã Ý trước hết bắt hết bọn Hà Yến, Đặng Dương, Hoàn Phạm, Lý Thắng v.v. Sau đó đem ba anh em Tào Sảng ra ngoài chợ chém sạch.

Ngón đòn trí mạng mà Tư Mã Ý đánh Tào Sảng không phải là lúc chiếm dinh thự trong kinh thành, uy hiếp Quách Thái hậu mà là ngón giả ốm khiến Tào Sảng nhầm lẫn. Ông Yết Tử nói:

“Đánh kẻ địch không cần lấy sức chế ngự, hãy dùng thuật làm cho địch nhầm, hoặc bằng mưu mẹo ta để lừa, hoặc bằng ngay điều địch vẫn nhầm lẫn làm cho u mê thêm, cho địch nhầm về thế, về lợi, về trí, về biến. Ta khơi ở chốn hư, nhưng lấy ở chỗ thực”.

Tào Sảng kể như thua ngay từ lúc Sảng nói: “Lão này chết thì ta không lo gì nữa.” Nhưng Sảng đã lầm to, vì ngay sau khi Lý Thắng về thì Tư Mã Ý “đóng cửa, bỗng nhiên vùng đứng dậy cầm quân” từ đó mới ra tay.

Ý dựng ngay một kế hoạch lật Tào Sảng rất táo bạo và khôn khéo. Kế hoạch đó, căn cứ vào tài liệu của Tam Quốc Chí diễn nghĩa, gồm mấy phần chủ yếu:

a) Nhanh chóng chiếm giữ toàn bộ cơ cấu chính quyền trong kinh đô.

b) Phân hoá Ngụy Chủ với Tào Sảng.

c) Làm tê liệt phản ứng chống đối của Tào Sảng.

Phần thứ nhất được thực hiện với kỹ thuật hết sức tinh vi. Mặc dầu Tư Mã Ý là một quân sự gia, nhưng ông có nhận thức chính trị sắc bén, không biến cuộc tranh đoạt chính quyền thành chiến tranh.

Cho nên ông sử dụng một lực lượng rất ít nhưng về phẩm thì hoàn toàn vững chãi, để chiếm đoạt chớp nhoáng những điểm chiến lược lật đổ uy thế Tào Sảng.

“Tout le peuple, c’est trop pour l’insurrection. Il faut une petite troupe froide et violente, dressée à la tactique insurrectionnelle. Avant tout il faut s’emparer des points stratégiques, reverser le gouvernement. Il est nécessaire pour celà, d’organiser l’insurrection, de former et de dresser une troupe d’assaut” (TROTZKY)

(Toàn thể dân tộc thì quá nhiều cho cuộc nổi dậy. Chỉ cần một nhóm nhỏ, bình tĩnh và táo bạo, được huấn luyện cặn kẽ về chiến thuật dấy loạn là đủ. Trước hết phải chiếm các điểm chiến lược, lật đổ chính quyền. Để đạt được mục tiêu trên, cần tổ chức cuộc dấy loạn, cần thành lập và huấn luyện một đoàn quân xung kích.)

Kỹ thuật tờ-rốt-kít đã được Tư Mã Ý áp dụng trước hàng ngàn năm. Công việc chiếm giữ các cơ cấu trọng yếu của chính quyền tiến hành im lặng, không gây ra vụ đổ máu nào, và tin tức cũng được giữ kín như bưng. Chỉ riêng có Hoàn Phạm chạy thoát ra báo với Tào Sảng.

Sợ Ngụy Vương nghe Tào Sảng, Tư Mã Ý bèn viết biểu dâng Ngụy Vương nhằm an lòng Ngụy Vương. Nội dung bài biểu là đổ riệt cho Tào Sảng rắp tâm cướp ngôi Ngụy, còn ý ông sở dĩ hành động ở kinh đô chỉ là để bảo vệ ngôi Ngụy mà thôi.

Do đó lúc Hoàn Phạm thoát khỏi tay Tư Mã Ý, khuyên Sảng rước Thiên Tử ra đón Hứa Đô khởi binh ngoài đánh Tư Mã Ý, đã không được Ngụy Chủ tán thành, nên Tào Sảng bị dồn vào thế dở dang mọi mặt.

Gây được tình trạng dở dang cho anh em Tào Sảng rồi, nhưng Tư Mã Ý vẫn sợ anh em Tào Sảng nghe kế Hoàn Phạm, đem biến cố chính trị này khơi rộng thành nội chiến, và nội chiến tất sẽ không tránh khỏi sự dòm ngó của hai kẻ thù Ngô, Thục. Bởi vậy Ý mới phái Hứa Doãn, Trần Thái, rồi lại phái thêm cả Doãn Đại Mục đến phá kế Hoàn Phạm. Lịch sử Tây Phương hàng ngàn năm sau Tam Quốc cũng xảy ra biến cố chính trị tương tự tại nước Đức. Đó là cuộc cách mạng hụt do Kapp và Luttwitz lãnh đạo chống chính phủ Bauer. Bị mất thủ đô, Bauer thoát ra ngoài quật lại khiến Kapp và Luttwitz thất bại.

Trotzky cho rằng những vụ tương tự chỉ có thể thành công khi kẻ chủ mưu tạo ra được tình trạng: “Trái đấm cực mạnh đánh trúng bụng một người tê liệt”. (Un coup de poing à un paralytique).  

Nếu Tào Sảng biết nghe lời Hoàn Phạm, rời xa giá ngay về căn cứ Hứa Đô, nghĩa là Tào Sảng không chịu bị đẩy vào tình trạng tê liệt, thì Tư Mã Ý không thể thành công.

Cổ nhân đối đãi với chính trị có đặt vấn đề: “nắm cơ hội”. Cơ là gì? Yết Tuyên Tử dạy rằng: “Chỗ giao lưu của tình thế, chỗ chuyển biến của sự việc, chỗ khẩn tấu của thời gian gọi là Cơ.”

Cuộc đấu tranh giữa Tư Mã Ý và Tào Sảng nói tóm lại chỉ quyết định bởi khả năng nắm cơ hội của hai người. Tư Mã Ý lật Tào Sảng cướp ngôi Ngụy chỉ khả dĩ thành công với điều kiện nếu kế hoạch: vi đa ư thiếu, vi đại ư tế, đồ nan ưu dị (làm ít thắng nhiều, làm nhỏ thắng lớn, làm dễ để khắc phục được việc cực nhọc, khó) hoàn thành. Lẽ ra Tào Sảng phải khoét rộng, tạo nhiều khó khăn cho Tư Mã Ý, trái lại Tào Sảng đầu hàng họ Tư Mã khiến cho Tư Mã Ý đã thắng lợi dễ dàng càng thêm dễ dàng. Cho đến lúc Hạ Hầu Bá liên lạc được với Khương Duy thì nội bộ Ngụy đã yên ổn hẳn rồi. Sở dĩ tập đoàn Tào Sảng thất bại là vì tập đoàn này thiếu nghị lực cai trị (volonté de gouverner) do sự vô tổ chức mà ra. Quản Lộ phê bình: Đặng Dương là người gân không bó được xương, mạch không giữ được thịt, ngồi đứng ngả nghiêng, hình như không có chân tay, và Hà Yến là người không tươi được sắc mặt, tinh thần bất định, dáng tựa cây khô. Cả hai nay mai tất có vạ diệt mình.

Lời phê bình ấy chính là ám chỉ vào cảnh vô tổ chức, thiếu đường lối chính sách của tập đoàn chính trị Tào Sảng.

Tào Tháo dùng bao công lao để khắc phục những khó khăn chính trị, quân sự mới lập nên triều Ngụy. Tư Mã Ý chưa đầy một tuần đã đem cơ nghiệp Ngụy chuyển sang tay mình. Đó âu cũng là cái luật anh hùng tạo thời thế và thời thế tạo anh hùng. Tào Tháo tạo ra thời thế. Thời thế tạo ra Tư Mã Ý.

Thời thế tạo nên Tư Mã Ý, do chính tại Ngụy chủ Tào Tuấn cấp cho Tư Mã Ý cơ hội cướp ngôi Ngụy. Lẽ ra Tuấn dùng Yên Vương làm Đại Tướng quân thì làm gì có chuyện. Vì Tuấn dùng dằng không quyết cuối cùng lại nghe lời bọn Tôn Tư, Lưu Phóng dùng Tào Sảng, và Tư Mã Ý.

Tài năng quân sự của Tư Mã Ý so ra thì kém xa Tào Tháo và Khổng Minh, nhưng Tư Mã Ý lại là người vô địch về quân sự và chính trị khi cả Tào Tháo lẫn Khổng Minh chết rồi.

Tư Mã Ý có một đức tính chính trị rất tốt: lòng nhẫn nại và cơ mật. Sở dĩ Ý dựa được vào thế, phần lớn cũng là nhờ tính nhẫn nại biết nhờ thời cơ. Tư Mã Ý rất sợ tài lược cùng tính nghi ngờ của Tào Tháo, nên suốt thời gian Tháo còn sống, Ý không tỏ lộ tham vọng của mình bao giờ. Tháo thường bảo mọi người thân cận, Ý có tướng “lang cố” nghĩa là quày cổ nhìn đằng sau mà thân thể không động, giống như con lang. Về sau Tháo nói rõ hẳn ý nghĩ về Ý cho Tào Phi nghe: “Ý chẳng phải là nhân thần, tất nhòm ngó nhà ta đấy.”

Bị nghi ngại như thế nhưng nhờ biết ẩn nhẫn nên Tư Mã Ý vượt được hết cả, khiến cho Tào Phi từ chỗ không đề phòng đến chỗ trọng dụng Ý. Tóm lại, sự thành công của Tư mã Ý có hai yếu tố: thời thế và nhẫn nại lực. Nhờ ở nhẫn nại lực, Tư Mã Ý đã tàng trữ được nguyên khí, trí lực, không bị kiệt quệ như Gia Cát Lượng. Ý kém Lượng về đủ mọi mặt nhưng hơn Lượng ở hai chữ ẩn nhẫn.

Vũ Tài Lục

Nói Chuyện Tam Quốc

- 13 -

KHƯƠNG DUY, ĐẶNG NGẢI VÀ CHUNG HỘI

Hạ hầu Bá thấy họ Tư Mã giết Tào Sảng bèn nổi loạn. Tư Mã Ý sai Trần Thái đem quân đến đánh, Bá thua phải chạy về Hán Trung đầu hàng Thục. Khương Duy mở tiệc thiết đãi Hạ Hầu Bá. Duy hỏi Bá rằng:

Cha con Tư Mã Ý coi giữ quyền chính, có bụng nào dòm ngó đến nước ta không?

Bá nói: Lão tặc còn toan việc mưu nghịch, chưa kịp nghĩ đến việc ngoài. Nhưng nước Ngụy mới có hai người đang trạc tuổi trẻ, nếu hai người ấy lĩnh quân mã thì là một sự lo lớn cho Ngô, Thục đó.

Duy hỏi hai người nào?

Bá nói: một người hiện làm bí thư lang, quê ở Tràng Sa Châu Dĩnh họ Chung tên Hội, tự là Sĩ Quí, con quan Thái phó Chung Do. Người ấy can đảm khôn ngoan từ nhỏ. Khi Hội lên bẩy tuổi, cùng với anh là Chung Dục đang học, có vua Văn Đế đến chơi. Dục bấy giờ mười tám tuổi, thấy vua đến run lập cập, mồ hôi toát ra mặt. Vua hỏi: “Mày sao đổ mồ hôi”, Dục thưa: Sợ hãi lắm lắm, mồ hôi ra như tắm. Hội thì điềm nhiên như không. Vua hỏi: Mày sao không có mồ hôi? Hội thưa: Kinh sợ quá nên mồ hôi không dám chảy. Vua lấy lời nói làm kỳ. Khi Hội gần lớn ham xem binh thư, tường hiểu thao lược. Tư Mã Ý và Tưởng Tế cùng khen tài của hắn. Còn một người ở Nghĩa Dương, hiện đang làm lại, họ Đặng tên Ngải tự là Sĩ Tái, cha mất sớm, từ nhỏ đã có chí lớn. Phàm trông thấy ở đâu có núi cao, đầm lớn tức thì ngắm nghía đo vẽ chỗ nào đóng binh, chỗ nào nên chứa lương, chỗ nào nên mai phục, ghi chép vào một bức địa đồ. Ai cũng chê cười, chỉ có Tư Mã Ý khen là người có chí, mới cho tham tán việc quân cơ. Đặng Ngải nói lắp, mỗi khi nói đến tên mình thường hay nói: “Ngải, Ngải”. Tư Mã Ý bỡn rằng: Ngươi nói Ngải Ngải…. thì ra bao nhiêu Ngải kia? Ngải ứng khẩu đáp: “Phượng hề, Phượng hề thì cũng một phượng chớ mấy phượng”.

Hai người này thật đáng ngại.

Đặng Ngải và Chung Hội là đại biểu cho sự vươn lên của thế hệ trẻ đầy hăng hái với mưu chước táo bạo, sẽ giúp nhà Tấn phá bỏ thế Tam phân. Cũng như trước đây thế hệ trẻ Khổng Minh, Chu Du, Tôn Quyền, Lỗ Túc đã đứng lên ngăn chặn sức tiến phi thường của Tào Tháo bằng trận Xích Bích để tạo thế Tam phân.

Tư Mã Chiêu dẹp xong Gia Cát Đản bèn quyết kế đánh Thục. Tình hình nước Thục lúc này ra sao? Binh quyền thì ở tay Khương Duy nhưng chính quyền thì thật rối bét. Phí Vĩ chết, Hậu chủ Lưu Thiện tin dùng hoạn quan Hoàng Hạo, Hoàng Hạo luôn luôn tìm cách hãm hại Duy. Khương Duy tuy là người vũ lược nhưng chính trị non kém nên không dám về Thành Đô, đem binh đồn trú ở bên ngoài.

Bởi vậy chính sách văn võ nước Thục mất liên hệ.

Tư Mã Chiêu chia quân làm ba đường tấn công Thục quốc.

a- Đặng Ngải đem ba vạn quân khiên chế chính diện Khương Duy.

b- Gia Cát Tự đem ba vạn quân chặt đứt lộ hầu của Khương Duy.

c- Chung Hội lĩnh đại quân hơn mười vạn quân chia làm hai mặt Tà Cốc và Lạc Cốc tiến vào.

Trước kia Ngụy Diên còn sống, gìn giữ Hán Trung bằng cách phân ra nhiều cứ điểm phái binh đến đóng rải rác, kẻ địch đến tấn công tất ráng sức bật ra không cho nhập nội.

Về sau, Khương Duy bãi bỏ chiến lược Ngụy Diên, không dùng các cứ điểm rải rác vì cho như thế tốn phí nhiều, tập trung tất cả vào hai thành Hán Lạc, dử địch vào nội địa, giữ chặt thành trì, đợi khi địch hết lương sẽ xổ ra đánh chắc được lớn.

Chiến lược Khương Duy so với chiến lược Ngụy Diên, tuy không sai nhưng có phần táo bạo đi đến mạo hiểm, thứ nhất là nó không phù hợp với tình thế chính trị Thục với Hậu chủ Lưu Thiện và hoạn quan Hoàng Hạo nắm quyền. Bởi tính chất mạo hiểm ấy, Chung Hội vào đất Thục dễ dàng. Một mình Khương Duy không đủ chống đỡ quá nhiều mặt trận. Đến lúc Đặng Ngải vượt được dãy núi hiểm trở vùng Âm Bình, thì triều chính Thục quốc cơ hồ mất tinh thần chiến đấu. Hậu chủ nghe theo bọn Tiêu Chu Hoàng Hạo ra lệnh cho Khương Duy bãi chiến xin hàng. Duy dò xét biết tình hình mâu thuẫn giữa Chung và Đặng Ngải, liền ra hàng Chung Hội để khỏi xung đột.

Giả thử, hậu chủ vững tâm tin hẳn kế Khương Duy quyết chống giữ Kiếm Các (trước?) đại quân Chung Hội, để quân Đặng Ngải sau khi vượt Âm Bình không có đường rút nữa bị cô lập thì đâu đến nỗi. Nhưng khổ thay toàn thể triều đình Thục đều không ý thức nổi, chịu đựng nổi chiến lược quá mạo hiểm và gian khổ của Khương Duy.

Hậu chủ đầu hàng, Thục quốc bị chiếm đóng. Trọng tâm chính trị chuyển vào nội bộ nhà Tấn. Tư Mã Chiêu lo sợ Đặng Ngải, Chung Hội làm phản. Nên gấp rút tính kế giải quyết Ngải, Hội.

Sự việc đó như thế nào?

Hãy đọc mấy đoạn cần thiết trong Tam Quốc chí diễn nghĩa:

Thiệu Đễ nói nhỏ với Tư Mã Chiêu rằng: Chúa Công sai Chung Hội lĩnh mười vạn quân sang đánh Thục. Tôi thiết tưởng Hội chí lớn bụng cao không nên cho cầm quyền to một mình.

Chiêu cười nói: ta há chẳng biết sao?

Tư Mã Chiêu bảo với Thiệu Đễ rằng: Trong triều lắm người nói không nên đánh Thục, thế là nhút nhát. Nếu cho họ ra đánh gượng thì tất thua. Chỉ có Chung Hội bầy kế đánh Thục, thế là không nhát, không nhát thì chắc phá được Thục. Thục vỡ rồi, người Thục ruột gan tan nát, dù cho Chung Hội có bụng nào, người Thục giúp làm sao được. Đến như người Ngụy đánh thắng rồi, tất mong về, không chịu theo. Chung Hội làm phản thì cũng không phải lo đến nữa. Ta chỉ nói cho mình ngươi biết thôi, chớ có để lộ ra ngoài.

Nói về Chung Hội khi cất quân, các quan tiễn ra ngoài thành, tinh kỳ rợp trời, gươm giáo sáng quắc, quân mã hùng tráng oai phong lẫm liệt lắm, ai cũng nức nở khen ngợi, chỉ có tham quân là Lưu Thực tủm tỉm cười nhạt không nói gì.

Thái Úy là Vương Tường thấy Lưu Thực cười mát, đến gần ngựa cầm tay Thực hỏi rằng:

- Chung Đặng, hai người đi chuyến này thế nào?

Thực nói: Chắc phá xong Thục, nhưng ngại không ai trở về được nhà.

Hội truyền lệnh dựng một lá cờ trắng ở trong quân, đề bốn chữ Báo Quốc An Dân. Quân đi đến đâu, cấm không được giết càn một người nào, hễ giết người phải đền mạng. Bởi thế nhân dân trong Hán Trung ra cả thành đón rước lạy hàng. Hội đều lấy lời an ủi không tơ hào phạm đến của dân.

......................................................

Gia Cát Tự thua to, rút lui ngoài mười dặm hạ trại. Quân Ngụy chết biết bao nhiêu mà kể. Quân Thục cướp được ngựa xe và khí giới rất nhiều.

Chung Hội hạ trại, cách cửa Kiếm Các hai mươi dặm. Gia Cát Tự vào lạy chịu tội. Hội nổi giận sai lôi Tự ra chém.

Vệ Quán can rằng: Tự tuy có tội, nhưng là người của Đặng Ngải tướng quân, không nên giết e thương tổn hòa khí hai bên.

Hội nói: ta phụng minh chiếu của thiên tử và tuân lệnh của Tấn Công sang đây đánh Thục, cho đến Đặng Ngải có tội ta cũng chém.

Chúng cố sức can ngăn, Hội mới bắt Gia Cát Tự bỏ vào xe cũi đưa về Lạc Dương cho Tấn Công phát lạc. Còn quân của Tự thì thu cả lấy làm bộ hạ sai khiến.

(Có người báo với Đặng Ngải. Ngải nổi giận, nói rằng:)

Ta với nó phẩm tước ngang nhau, ta trấn thủ ngoài biên thùy đã lâu, lập bao nhiêu công với nước, sao nó lại dám khinh ta quá thế.

...........................................................................

Bấy giờ trong triều nhiều người nói Đặng Ngải có ý muốn làm phản. Tư Mã Chiêu trong bụng nghi ngờ lắm. Sực có người sứ đưa thư Đặng Ngải đến, Chiêu mở ra xem. Xem xong bảo Giả Sung rằng: Đặng Ngải cậy có công sinh ra kiêu ngạo, tự ý xử việc. Tình hình làm phản đã rõ rồi, làm thế nào bây giờ?

Giả Sung nói: Chúa công sao không phong ngay cho Chung Hội để đè nén Đặng Ngải đi.

Chiêu nghe lời, sai sứ mang chiếu vua phong cho Chung Hội làm Tư Đồ, sai Vệ Quán giám đốc hai đạo quân mã, trao một phong thư cho Quán để đưa cho Hội, sai Hội dò xét Đặng Ngải, phòng có việc bất trắc gì chăng?

Chung Hội chịu phong chức đâu đấy, bàn với Khương Duy rằng:

Đặng Ngải công ở trên ta, lại được phong chức Thái úy. Nay Tư Mã Chiêu nghi Ngải có ý làm phản nên cho Vệ Quán làm giám quân, lại xuống chiếu sai ta kiềm chế bớt đi. Bá Ước có cao kiến gì chăng?

Duy nói: tôi nghe Đặng Ngải xuất thân hèn hạ, thuở nhỏ đi chăn bò. Nay cầu may từ đường tắt Âm Bình, vin cây vượt núi, lập được công to. Đó không phải là giỏi giang gì đâu, chẳng qua nhờ hồng phúc nhà nước đấy thôi. Nếu không có tướng quân giữ nhau với nhau với tôi ở cửa Kiếm Các, thì Ngải thành công sao được. Nay Ngải định phong Thục chúa làm Phù Phong Vương, là có ý muốn kết nhân tâm nước Thục, tình hình làm phản chẳng nói ai cũng rõ ràng. Tấn Công sinh nghi thật là phải.

Hội nghe lọt tai mừng lắm.

Duy lại nói: xin cho tả hữu lui hết. Duy thò tay vào trong áo lấy ra một bức địa đồ đưa cho Hội và nói rằng: Khi xưa Võ Hầu ra khỏi lều tranh đem bản đồ này dâng cho Tiên đế và thưa rằng: đất Ích Châu, đồng lầy ngàn dặm, dân nhiều nước giầu có thể làm bá nghiệp. Tiên đế nhân đó mới mở ra Thành Đô, Đặng Ngải thấy vậy, trách nào mà chẳng cuồng người lên.

Hội trỏ hình thế sông núi: Duy nói rành rọt từng tý.

Hội lại hỏi rằng: nay nên dùng chước gì mà trừ Đặng Ngải cho đặng?

Duy nói: nên nhân lúc Tấn Công đang nghi ngờ, kíp dâng biểu về mà kể cái hình tích làm phản của Đặng Ngải ra. Tấn Công tất sai tướng quân đánh hắn thì chỉ một trận là bắt được.

Hội nghe lời lập tức sai người mang biểu về Lạc Dương, nói Đặng Ngải chuyên quyền rông rỡ, kết hiếu với người Thục, nay mai tất làm phản. Bởi thế văn võ trong triều ai cũng kinh hãi. Hội lại sai người đón đường bắt lấy biểu văn của Đặng Ngải, rồi theo lối chữ của hắn mà viết lại thành các lời kiêu ngạo, để chứng thực lời mình.

Tư Mã Chiêu thấy văn biểu của Đặng Ngải bèn nổi giận sai người ra truyền cho Chung Hội phải bắt Đặng Ngải. Lại sai Giả Sung dẫn ba vạn quân vào Tà Cốc, rồi Chiêu cùng với Ngụy chủ Tào Hoán ngự giá thân chinh. Tây Tào duyên Thiệu Đễ nói:

Quân Chung Hội nhiều gấp sáu của Đặng. Sai Hội bắt Ngải cũng nổi, minh công can gì phải đi?

Chiêu cười rằng: thế ra ngươi quên mất lời ngày trước rồi à. Trước ngươi nói Chung Hội về sau làm phản. Ta đi chuyến này không phải vì Đặng Ngải đâu, thực là vì Chung Hội đó.

Đọc kỹ những đoạn văn trên ta sẽ thấy rằng: chỉ Chung Hội có ý chống lại Tư Mã Chiêu, còn Đặng Ngải thì tuyệt đối không. Sở dĩ Đặng Ngải bị nghi ngờ là Ngải nông nổi, tự đắc, nhược điểm của Ngải là cái sở đoản của tất cả những người quân nhân trong khắp lịch sử. Quả nếu Ngải định tâm làm phản Chiêu, Vệ Quán làm sao bắt trói Ngải một cách quá ư dễ dàng như vậy? (Đặng Ngải còn chưa ngủ dậy, Quán dẫn vài mươi người xông thẳng vào tận giường gọi to lên rằng: ta phụng chiếu đến bắt cha con Đặng Ngải đây. Ngải choàng dậy nhẩy xuống đất. Quán quát võ sĩ trói lại và bỏ vào xe cũi).

Nhiều người nói sở dĩ Quán bắt Ngải dễ dàng là vì trước khi thi hành sứ mạng, Quán đã khôn khéo viết hịch phủ dụ tướng sĩ. Điều này mâu thuẫn với sự việc xẩy ra về sau, lúc Chung Hội bị các tướng nổi lên giết, thì bộ hạ Đặng Ngải bàn nhau cướp lại Đặng Ngải cho nên Vệ Quán mới sai người giết phăng đi trừ hậu họa.

Phần Chung Hội thì tình thế đã đẩy Hội vào thế bước phản họ Tư Mã, bởi tại Tư Mã Chiêu mang sẵn ý định giết Chung Hội trước rồi, nghĩa là từ lúc Chung Hội sửa soạn chinh phục đất Thục (Xem lại lời Lưu Thực). Lý do Tư Mã Chiêu muốn giết Hội vì Hội con Chung Do mà Chung Do lại là trung thần của nhà Ngụy. Bỏ Chung Hội từ trước thì ai có khả năng đánh Thục bằng Hội, giải quyết xong được Thục rồi, đương nhiên sự cần thiết Chung Hội hết rồi, chỉ còn lại sự sợ hãi thế Chung Hội lớn sẽ lấn át quyền của mình. Chung Hội biết bụng Tư Mã Chiêu lắm chứ.

Tại sao Chung Hội thất bại?

Tam Quốc chí diễn nghĩa đổ tại Khương Duy đau bụng, Khương Duy đổ tại mệnh trời (mẹo ta không thành, thực là số trời vậy). Thực ra thất bại của Chung Hội là do lòng người không muốn. Cơ thống nhất đã sẵn sàng, mọi người đều không chịu cảnh phân chia tranh chiến thêm nữa, cho nên tướng sĩ của Hội nổi lên giết Hội, đúng như lời Tư Mã Chiêu đã nói với Thiệu Đễ: người Ngụy đánh thắng rồi, tất mong về, quyết không theo Chung Hội làm phản. Tư Mã Chiêu quả xứng đáng với lời phê bình của Khương Duy: “Tư Mã Chiêu gian hùng chẳng khác chi Tào Tháo”.

Đến như Khương Duy thì lại mang một tâm sự riêng. Duy đi với Hội nhưng lại chỉ muốn dùng Hội để khôi phục lại Thục quốc. Trong khi toàn bộ máy chính trị nước Thục từ vua quan đến dân chúng đã đi ngược lại hoài bão của Duy rồi. Vua quan triều đình thì ra hàng Đặng Ngải, dân chúng thì mang cơm rượu và hoa ra mừng đón quân Đặng Ngải, Khương Duy có là ông trời chăng nữa cũng chẳng sao cứu nổi một tình thế tương tự, huống hồ Khương Duy còn khờ dại bộc bạch cả mưu kế lớn lao của mình cho Lưu Thiện biết. Suốt đời Duy không thành công trên chính trị bao giờ.

Vũ Tài Lục

Nói Chuyện Tam Quốc

- 14 -

TIỀU CHU VÀ PHẦN TỬ TRÍ THỨC CUỐI TAM QUỐC

Nhà học giả lớn của Trung Quốc, ông Tiền Mục viết: chính trị Tây phương vẫn chịu ảnh hưởng của giáo đường. Chúa Ki tô phán: “Sự việc của César trả lại cho César quản nhiệm, sự việc của Thượng đế do Ta trông coi”. Lời nói ấy mang ý nghĩa: chính trị thuộc hoàng đế, đạo lý thuộc thượng đế. Khi đế quốc La Mã sụp đổ thì hoàng đế lại phải chịu sự phong chức, gia miện của Giáo hoàng.

Bởi vậy Tây phương đã trải qua một thời gian khá dài Thượng đế cai quản cả công việc của César. Do đó về sau mới phát sinh ra cách mạng tôn giáo gây thành tình trạng chính quyền và giáo quyền phân lập. Cho đến nay sinh hoạt chính trị Tây phương vẫn chưa ra khỏi vòng luẩn quẩn trên, mặc dầu hiện tượng và danh từ tuy có khác, nhưng bản chất thì không khác chút nào.

Chính trị Trung Quốc không có César cũng như không có thượng đế mà chỉ có những người đọc sách (phần tử trí thức). Bởi vậy mọi biến cố chính trị thống nhất đều do phần tử trí thức. Cho nên ở lịch sử Trung quốc người ta thường thấy những hiện tượng:

1- Khi nào chính quyền và phần tử trí thức hợp tác chặt chẽ, xã hội quốc gia sẽ hưng thịnh, yên ổn.

2- Khi nào chính quyền và phần tử trí thức xung đột, xã hội quốc gia sẽ tao loạn.

3- Khi nào phần tử trí thức tuyệt vọng với hiện thực, hoặc chuộng hư văn, xã hội quốc gia sẽ suy yếu.

4- Khi nào phần tử trí thức phấn khởi phát huy tư tưởng, say sưa trở về đồng ruộng giáo huấn đại đa số quần chúng nông dân, xã hội quốc gia sẽ phục hưng.

Thời đại Tam Quốc muốn hiểu cho xác thực thì phải lấy Gia Cát Lượng và Tào Tháo là trung tâm. Vì hai người này là đại biểu cho sự diên trường của cuộc đấu tranh giữa phần tử trí thức với bọn hoạn quan. Để chỉnh đốn hàng ngũ, Tào Tháo chủ trương tuyệt đối chống lại phong khí sĩ đại phu cuối nhà Hán. Gia Cát Lượng chủ trương “đạm bạc ninh tỉnh” để sửa lại phong khí sĩ đại phu. Nhờ chủ trương phản đối triệt để ấy mà Tào Tháo đã được những phần tử trí thức tiến bộ quy phục nhiều hơn Gia Cát Lượng.

Tiều Chu là một phần tử trí thức nhiều tiếng tăm ở Thục, đồng thời Tiều Chu cũng là điển hình của phần tử trí thức bạc nhược, hư vọng và tuyệt vọng với hiện thực của những năm cuối Tam Quốc.

Tiều Chu là người như thế nào?

Sách sử chép: “từ lý uyên thâm, vi thế thạc nho”.

Tiều Chu đã hành động ra sao?

Các nhà phê bình sử hậu thế, coi việc Tiều Chu xui Hậu chủ đầu hàng Đặng Ngải là một hành động tối vô liêm sỉ của người đọc sách.

Tam Quốc chí diễn nghĩa kể: Hậu chủ ở Thành Đô nghe tin Đặng Ngải đã lấy được Miên Trúc, mà cha con Gia Cát Chiêm đều chết trận cả rồi, sợ hãi không biết ngần nào, kíp vời văn võ vào thương nghị.

Cận thần tâu rằng: Nhân dân ở ngoại thành, già trẻ giắt díu nhau chạy loạn, tiếng khóc vang động xa gần.

Hậu chủ kinh hoảng.

Sực lại có tiểu mã chạy đến báo rằng: quân Ngụy sắp đến dưới thành rồi.

Các quan bàn rằng: Ở đây quân đơn tướng ít, địch sao nổi quân Ngụy, không bằng bỏ Thành Đô chạy sang bẩy quận xứ Nam Trung, đất đó hiểm trở có thể giữ được, nhân thể mượn quân Nam về khôi phục cũng chưa muộn.

Quang Lộc đại phu Tiều Chu nói: Không nên. Quân Man vốn là quân phản trắc, xưa nay không có ân huệ gì với ta, nếu ra nhờ đấy tất sinh vạ to.

Các quan lại tâu rằng: Thục Ngô đã đồng minh với nhau, nay việc kíp lắm, nên sang ở nhờ Đông Ngô cũng được.

Chu lại can rằng: Từ xưa đến nay, không có thiên tử nào đi nhờ nước khác bao giờ. Tôi chắc rằng Ngụy lấn được Ngô chớ Ngô không lấn được Ngụy, nay xưng thần với Ngô là nhục một lần. Ngô bị Ngụy lấn nốt lại đi xưng thần với Ngụy là nhục hai lần. Chi bằng hàng ngay Ngụy đi, Ngụy tất cắt đất phong cho bệ hạ. Như thế trên giữ được tôn miếu, dưới yên được lê dân. Xin bệ hạ nghĩ cho kỹ mà xem.

Hậu chủ phân vân chưa quyết, lui vào trong cung.

Hôm sau các quan lại hội nghị. Tiều Chu thấy việc đã cấp đến nơi lại dâng sớ cố khuyên hàng. Hậu chủ nghe dịu tai, sửa soạn ra hàng.

Sực ở sau cánh bình phong, có một người quát to lên mắng Tiều Chu rằng: Quân hủ nho sợ chết kia. Sao dám nói càn đến việc lớn của xã tắc. Từ xưa có thiên tử hàng bao giờ mà mày nói càn như vậy?

Bức thư hàng của Hậu chủ mang những câu rất văn vẻ nhưng lại cũng rất hèn hạ. Hậu thế cho là chính tại danh sĩ Tiều Chu với khả năng văn chương và với một tâm lý tham sinh úy tử mới viết được ra như thế.

Người mắng Tiều Chu là Lưu Thầm con thứ năm của Hậu chủ. Thầm mắng Chu vì tiếc cơ nghiệp của ông cha.

Tiều Chu xui Hậu chủ đầu hàng để bảo vệ mạng sống cá nhân, địa vị cá nhân. Tuy nhiên qua Tiều Chu, một con người trí thức bậc nhất nước Thục, người ta còn thấy sự sa đọa của toàn bộ trí thức nho cuối đời Tam quốc.

Lực lượng quốc gia gốc ở đâu? Ở văn hóa. Lực lượng văn hóa gốc ở đâu? ở khí chất dân tộc. Khí chất dân tộc gốc là gì? Là đạo đức, là sinh mệnh lực và tâm trí lực (morale vitality, mentality)

Thời đại Tam Quốc là thời đại mà phần tử trí thức nho nắm giữ vai trò cực quan hệ đối với công cuộc thống nhất nền chính trị, văn hóa, kinh tế, địa dư trong lịch sử Trung Quốc. Gần một trăm năm đấu tranh, phần tử trí thức nho đã tạo nên nhiều công trạng lớn lao mà sau này nhà Đường thừa hưởng.

Như chúng ta biết, lịch sử không chuyển đến theo một vạch thẳng, mà tiến hóa vận động theo một đường xoáy trôn ốc, cho nên cuối Tam Quốc phần tử trí thức nho đi từ hư nhược đến tỳ ố. Tại sao lại có tình trạng sa đọa như vậy?

Nó là kết quả của ba nguyên do:

1- Tam Quốc thời đại chịu quá nhiều cuộc chém giết, chiến tranh khiến cho nhân tâm kinh hoàng.

2- Tam Quốc thời đại loạn lạc, lưu ly khiến sinh hoạt khó khăn, dân chúng hoài nghi cả sự sống.

3- Huyền học phái hưng thịnh. Lão học quật khởi bằng chủ nghĩa thần bí, chống Nho học đã gây nên thực tiễn điêu tàn trước mắt.

4- Cuối Tam quốc là giai đoạn quá độ của tranh chấp Nho Đạo và Phật giáo tại Trung quốc. Phật giáo do đạo Lão bắc cầu đem vào Trung quốc.

Tóm lại ở cuối đời Tam Quốc các chủ nghĩa : Phá hoại, hoài nghi yếm thế phát triển mạnh, nghĩa của nho phái bị bóp méo, ẩn ngụy. Do đó từ đạo đức đến sinh mệnh lực, tâm trí lực của Nho học tại Trung Quốc mỗi ngày mỗi suy yếu. Tình trạng ấy không chỉ thai nghén ra Tiều Chu mà thôi, nó còn tạo ra loạn Ngũ Hồ phân cách Nam Bắc triều, hỗn loạn lục triều sau này.

Vũ Tài Lục

Nói Chuyện Tam Quốc

TỔNG LUẬN

Toàn bộ lịch sử Trung quốc có bảy thời đại phân liệt:

1- Xuân Thu chiến quốc.

2- Hán Sở tranh hùng.

3- Tam Quốc.

4- Nam Bắc triều.

5- Tùy Đường phân tranh.

6- Ngũ đại thập quốc.

7- Tống Kim phân lập.

Thời đại Nam Bắc triều và Nam Tống, sự tranh chấp do dân tộc phân lập, quan niệm Trung Hoa và dị tộc nặng nên không đáng kể.

Còn lại Xuân Thu chiến quốc, Hán Sở tranh hùng, Tùy Đường phân tranh, Ngũ đại thập quốc và Tam quốc, sự tranh chấp hoàn toàn nội bộ và riêng Tam quốc tính chất chính trị cao hơn hết. Vì vậy tuy Hán Sở, Tùy Đường, Ngũ Đại, Xuân Thu, đều được thành lịch sử diễn nghĩa, nhưng Tam Quốc chí diễn nghĩa vẫn được lưu truyền và yêu thích hơn hết. Các bản cổ kịch Trung hoa phần lớn rút ra từ Tam quốc nhiều hơn những sử khác. Các nhà soạn kịch danh tiếng đều rất ưa thích chuyện của Tam quốc. Tỉ dụ như Vương Hoa soạn vở Ngọa Long Cương.

Vương Thực Phủ soạn vở: Lục Tích hoài quất, Tào Thực.

Quan Hàn Khanh soạn vở : Đơn đao hội.

Thượng Trọng Hiền soạn vở: Gia Cát Luận công.

Cao Văn Tú soạn vở: Lưu tiên Chủ Tương dương hội v.v. và các vở nổi tiếng do các soạn giả vô danh như: Liên Hoàn kế, Bác Vọng thiêu đồn, Cách giang đấu trí v.v…

Đến nhà Thanh, Tam quốc coi như sách gối đầu giường của các chính trị gia. Đầu nhà Thanh còn có Tổ Vũ trước tác cuốn “Độc sử phương yếu” bàn đến những chiến trận Tam quốc căn cứ vào địa lý học rất nhiều.

Tại sao Tam quốc lại được chuộng như vậy?

Có hai lẽ:

Một là: Những sách diễn nghĩa về thời đại Xuân Thu chiến quốc quá ít tài liệu lại quá ít căn cứ, thêm nữa tình tự Xuân Thu chiến quốc rất phiền tạp, khó lòng làm cho người đọc mãn ý, thỏa thuê. Sở Hán, Tùy Đường thì ngắn quá, vả lại tranh chấp không có gì gay go. Còn Ngũ đại thập quốc thì lôi thôi, nhân tài của thời đại cũng tầm thường.

Hai là: Tam quốc chính trị tuyệt cao. Tranh chấp cực gay go kỳ diệu. Các giá trị đều va chạm nhau ở thời đại này. Cái đạo đức của Quan Vũ va chạm với cái trí mưu, lão luyện của Tào Tháo. Cái trí mưu lão luyện của Tào Tháo va chạm với cái thiên tài của Gia Cát Khổng Minh. Tam quốc là thời đại mà sự vận động của phần tử trí thức rõ rệt nhất và cũng ly kỳ nhất, và khuyết điểm của phần tử trí thức Tam quốc thật là muôn mầu muôn vẻ. Quyết đoán quân cơ như Từ Thứ, Bàng Thống; hành quân dùng binh như Chu Du, Lục Tốn, Tư Mã Ý. Liệu người liệu việc như Triệu Vân, Quan Vũ, Trương Phi, Hoàng Trung, Nghiêm Nhan. Xung phong hãm trận kiêu dũng như Mã Siêu, Hứa Chử, Điển Vi, Lã Bố, Thái Sử Từ. Hai tài tương đương đấu trí như Đặng Ngải (với Chung Hội, hay Khương Duy?). Gàn dở như Nễ Hành. Huênh hoang như Khổng Dung v.v.v.

Ngoài ra tất cả ai ai cũng yêu Tam quốc chí diễn nghĩa ở chỗ phóng khoáng của nhà văn La Quán Trung, đã phá được sự gò bó của sự thật lịch sử để mà tạo nên hứng thú nhiệt náo tình tiết ly kỳ. Mặc dầu ở đây mục đích của chúng ta là đi tìm một phương pháp khác với “Độc Tam Quốc chí Pháp” ghi trên đầu sách Tam quốc, nghĩa là chúng ta bàn luận, khơi đào kê khảo để hiểu nguyên nhân lịch sử chính trị, xã hội, tư tưởng cho mỗi sự kiện, mọi biến từng (tướng?) cục diện Tam quốc chứ không bị lôi cuốn bởi văn chương Tam quốc đến nỗi nghĩ rằng Thục Ngụy chỉ chiến không hòa hay Ngô Thục chỉ hòa nhiều hơn chiến và Ngô Ngụy chiến nhiều hơn hòa, là để chứng dẫn bút pháp tài tình của nhà văn.

Tuy nhiên sau khi đã phân tích bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết quả, căn cứ và điều kiện, khả năng và hiện thực cùng liên hoàn tính của chính cục Tam quốc rồi, chúng ta lại vẫn có thể trở về cái phóng dật của bản tính của người Đông phương đối với chính trị để mà ngâm ngợi mấy câu cổ phong:

Phân phân thế sự vô cùng tận

Thiên số mang mang bất khả đào

Tam phân đỉnh túc dĩ thành mộng

Hậu nhân bằng điếu không lao tao.

(Ngẫm thế sự bời bời ngán nổi

Cuộc tang thương biến đổi khôn lường

Tam phân một giấc mơ màng

Viếng đời gọi có mấy hàng nôm na).

***

MỤC LỤC.

LỜI NÓI ĐẦU

NHỮNG VIỆC ĐI TRƯỚC TAM QUỐC

Giai cấp mới – Bình dân tham chính – Ai diệt lục quốc – Hạng Võ đi ngược chiều lịch sử - Lưu Bang biết được thế lớn – Lưu Bang bỏ thế lớn – Văn hóa xung kích và Tam quốc.

NHỮNG GIAI ĐOẠN CHỦ YẾU CỦA TAM QUỐC.

Giai đoạn tiền Tam quốc từ 184 đến 220 – Giai đoạn xây dựng chính thức thế chân vạc – Giai đoạn ba nước tiêu diệt lẫn nhau và nhà Tấn thông nhất – Địa lý thời hậu Hán.

MẦM LOẠN.

Hoạn quan – Ngoại thích – Xung đột giữa phần tử trí thức và hoạn quan - Ẩn dật và ra mặt chống đối – Loạn Khăn vàng – từ Hoàng cân, hoạn quan đến quân phiệt  - quân phiệt Đổng Trác – Những nguyên nhân thất bại – Luận về chính quyền và cái chết của Đổng trác – Điêu Thuyền và cái chết của Đổng Trác.

PHẦN TỬ TRÍ THỨC.

Lý luận Vilfredo Pareto – Phần tử trí thức đời Xuân thu đời Chiến quốc – Phần tử trí thức giao thời Tần Hán – Phần tử trí thức đời Tây Hán – Phần tử trí thức tại triều bị hoạn quan quật ngã – Vương Doãn một điển hình Ngụy trí thức cùng loại Vương Doãn – Văn hóa xung kích – Loạn Khương Hồ và kiêu binh.

QUÁ TRÌNH TIÊU TRƯỞNG CỦA CÁC LỰC LƯỢNG

Tình thế Châu U – Hậu quả của hành động mua giây thắt cổ - Lực lượng Tào Tháo trưởng thành – Khái quát thực trạng đấu tranh và liên hợp giữa các lực lượng – Chiến cục Tào Tháo và Đào Khiêm – Lưu Huyền Đức gặp cơ hội đầu tiên – Lã Bố thua – Một điều tuyến nứt rạn – Khổng Dung, chế độ danh sĩ đã hết – Tập đoàn Thái học sinh – Chính sách Tào Tháo sử đãi bọn danh sĩ – Tào Mạnh Đức cần vương – Nội tình việc đem vua về Hứa đô – Vụ chiếu chỉ đai áo Lưu huyền Đức – Hai người đàn bà có ảnh hưởng đến đời chính trị của Lưu Bị.

CHIẾN TRANH VIÊN TÀO.

Viên Thiệu dưới mắt La Quán Trung xét lại chiến dịch Quan Độ - Xét lại trường hợp Viên Thiệu – Lực lượng Viên Thiệu tiêu diệt ra sao – Điền Trù – Chính sách đồn điền là gì?

TRẬN XÍCH BÍCH.

Châu Du – Lỗ Túc  - Cố Ung – Luận về Tôn Ngô – Mưu sĩ Tuân Úc – Luận về cái chết của Tuân văn Nhược – Tuân Úc, Nễ Hành, Trần Cung.

CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ ÍCH CHÂU VÀ KINH CHÂU

Lã Mông là người thế nào – Quan vân Trường – Bàn luận về cái đức của Quan vân Trường.

LUẬN VỀ TÀO THÁO.

Chính thống và đạo thống – Tào Tháo là con người như thế nào – Gian thần thoán đoạt – Thời đại và xã hội mà Tào Tháo sinh trưởng – Trước hết Tào Tháo có nhân nghĩa để mà vận dụng không – Nhưng đáng kể nhất vẫn là con người chính trị của Tào Tháo – Tâm lý chính trị của Tào Tháo – Bàn về công việc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo – Bàn về cách sử dụng quyền uy của Tào Tháo – Nghi án Lã Bá Xa và Lưu Phúc.

LUẬN  VỀ GIA CÁT LƯỢNG.

Tập đoàn trí thức Phương Nam – Tam cố thảo lư – Thiên tài chính trị - thất bại Kinh châu lần thứ nhất – Ngoại giao trên hết – Tư tưởng và tài cán quân sự - Cái tài mượn của Khổng Minh – Bàn về những thất bại của Khổng Minh – Thất thủ Nhai đình – Ngụy Diên tạo phản và tình hình Ba Thục.

TƯ MÃ Ý CHIẾM NGÔI NGỤY

Ngón đòn trí mạng của Tư Mã Ý – Kỹ thuật đảo chính của Trotzky đã được Tư Mã Ý thực hiện cả ngàn năm trước.

KHƯƠNG DUY, ĐẶNG NGẢI VÀ CHUNG HỘI

Thất bại của thỏa hiệp Chung Hội–Khương Duy – Nhu cầu thống nhất đã hủy diệt mưu đồ của Đặng Ngải.

TIỀU CHU VÀ PHẦN TỬ TRÍ THỨC CUỐI TAM QUỐC

Phần tử trí thức rời bỏ nhiệm vụ khiến cho chính trị thất bại – Tranh chấp Nho đạo và Phật giáo – Huyền học phái hưng thịnh do tâm lý chán ghét chiến tranh.

TỔNG LUẬN

So sánh Tam quốc với các bộ sử khác.

***

SÁCH THAM KHẢO

Tam quốc chí diễn nghĩa                            La Quán Trung (bản dịch của Bùi Kỷ)

Trung quốc thông sử                                 Chu Cốc Thành

Quốc sử tân luận                                      Tiền Mục

Trung quốc văn học sử                             Trịnh Chấn Đạt

Chuyển hình kỳ đích trí thức phần tử       Mã Bân

Gia Cát Khổng Minh toàn tập                   Khổng Minh

Trung quốc văn hóa đại nghĩa                 Trình Triệu Hùng

Đại địa nhân vật luận                               TrìnhTriệu Hùng

Tào Tháo gia thi tập                                 Tào Tháo – Tào Thực

Trung quốc cổ đại chính trị gia                 Sái Cảnh Dương

Tổ quốc lương tâm tập                            Từ Lượng Chí

Trung quốc lịch đại                                  

danh nhân dật sử                                   Nam cung Bắc

Trung quốc quân sự sử lược                  Trường Kỳ Quân

Trung quốc cổ đại trí thức                       Hồ Thu Nguyên

Trung quốc danh nhân truyện                 Từ Lương Chi

Loạn thế triết học                                    Nhiệm Tất Minh

Lục thao tam lược                                   Lã thái Công

L’âme chinoise                                        René Porak

Technique du Coup d’État                       Malaparte

Le pouvoir politique                                J.W.Lapierre

Les Machiavelians                                  James Burnam

Les grandes œuvres politique               J.Jacques Chevalier

Le Prince                                               Machiavel

Sociologie générale                               Vilfredo Pareto

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro